Chương 11


Hình ảnh Haili và Êmê chia nhau nằm hai bên con Pig một cách hòa bình lẽ ra làm tôi vui lại khiến tôi ứa nước mắt. Trong lòng tôi nảy mầm một cảm giác gì đó rất khó tả. Có lẽ đó là cảm giác mất mát. Là nỗi buồn thương. Chỉ nỗi buồn vô hạn mới có thể khiến tim ta như thắt lại.

Bạn đã bao giờ buồn chưa?

Có phải trên đời này có hàng trăm lí do dẫn dắt ta đến nỗi buồn?

Có phải cuộc đời của một con người cũng giống như của một con chó có hàng trăm lần bị nỗi buồn ném đá?

Nhưng không nỗi buồn nào có thể so sánh với nỗi buồn khi sắp mất mất một người thân. Đó là loại nỗi buồn không thể đem đóng gói rồi giấu vào một góc nào đó trong vỏ não. Nó luôn tan chảy ra và len lỏi vào mọi khe hở trong tâm hồn bạn. Nó khiến bạn không làm gì cũng thấy kiệt sức từng giờ từng phít từng giây.

Suốt đêm hôm đó bọn tôi không ngủ.

Chị Ni cũng không ngủ. Chị bắc chiếc ghế xếp ngồi thao thức bên cạnh Pig., thấp thỏm trông chừng nó. Lần đầu tiên tôi thấy chị Ni cầu nguyện. Khóe mắt ầng ậng nước, chốc chốc chị lại sờ tay lên đầu Pig, đặt tay trước mũi nó như để xem những hơi thở mỏng như tơ kia bao giờ sẽ đứt.

Pig nằm như một kẻ bất tỉnh từ chiều. Dường như nó không hay biết Êmê đã rời khỏi tầng hai để xuống nằm cạnh nó.

Pig vẫn yếu ớt thở và tuy nó không mở mắt nhưng tôi có cảm giác nó đang nhìn bọn tôi, thì thầm "Tao chỉ có thể cầm cự đến rạng  sáng mai thôi, sau đó bọn mình chia tay nhau. Chúc tụi mày ở lại mạnh khỏe."

Những người trong nhà chắc cũng có linh cảm như thế, mặt ai nấy như đưa tang. Chị Ni muốn là người ở cạnh Pig khi nó nấc lên tiếng nấc cuối cùng để từ giã thế giới.

Trong bọn tôi, con Pig thương chị nhất và chị cũng thương con Pig nhất. Anh Nghé hay nói đùa con Pig là đệ tử của chị Ni. Những lần đi xa, chị hay gọi điện về nhà. Sau khi nói chuyện với ba mẹ, chị kêu thật to trong ống kêu từng đứa trong bọn tôi. Trong bốn đứa khác không kịp nhận ra đó là âm thanh gì thì con Pig cuốn quýt đi tìm. Nó là đứa duy nhất nhận ra tiếng chị Ni. Nó sục sạo khắp các ngóc ngách trong nhà, không thấy chị Ni đâu, lại chạy lại chỗ điện thoại, bồn chồn nghển cổ lên ngóng. 

Chị Ni về, nghe mẹ kể lại chuyện đó, chị ôm con Pig vào lòng, giọng áy náy:

- Tội nghiệp em quá! Mai mốt chị không gọi nữa để em phải khỏi vất vả đi tìm chị!

Khi tôi nhớ lại câu chuyện này thì chị Ni đã mệt mỏi thiếp đi trên ghế xếp. Dáng ngủ nửa nằm nữa ngồi của chị trông thật âu sầu.

Đến rạng sáng thì chị Ni giật mình choàng tỉnh. Trông chị hốt hoảng như kẻ phát hiện mình ngủ quên trong khi chung quanh đang động đất. Chị thảng thốt bật lên khỏi ghế, chuẩn bị cho mình gương mặt của người sắp đón một ngày tồi tệ.

Chị nhớn nhác nhìn quanh. Lá bên sân hàng sớm bay qua vẫn rơi lả tả trước hiên nhà, ngọn đèn trước bàn thờ ông địa vẫn leo lét cháy, chiếc tủ lạnh kế bàn ăn vẫn phát ra những tiếng ro ro vì bị kê lệch. Tất cả vẫn như trước đây thôi, chỉ có con Pig biến mất khỏi chỗ nằm.

"Hay Pig đã chết và mẹ đã đem nó đi?", tôi đoán chị Ni nghĩ thế khi thấy mặt chị se lại, những cơ mặt đột ngột cứng như gỗ.

Nhưng những biểu hiện trên gương mặt chị nhanh chóng biến đổi. Thoạt đầu là phảng phất nhưng sau đó rõ rệt hơn những chuyển động diễn ra trên trán và trên hai gò má chị khi chị bắt gặp con Pig đang nằm cách chỗ cũ một quãng, gần tủ chứa thức ăn.

- Pig em vẫn còn đó hả Pig?

Chị Ni hét lên và gần như nhảy xổ lại chỗ con Pig.

Con Pig khẽ ngúc ngoắc đầu, chưa ngẩng lên được những cử chỉ đó cho biết nó vẫn còn ở lại với trần gian tươi đẹp này.

- Lạy trời! - Chị Ni bò xuống sàn nhà, ôm con Pig trong vòng tay, thút thít nói - Em tôi giỏi quá!

Bốn đứa bọn tôi vẫn còn chầu quanh con Pig. Điều chị Ni thấy, tụi tôi thấy lúc nửa đêm về sáng. Lúc đó bốn đứa bọn tôi đều há hốc mõm khi phát hiện con Pig đang mê man như kẻ bị đánh thuốc mê đột nhiên cựa quậy. Nó cố đứng lên trên các cẳng chân nhưng không đủ sức. Thế là nó nằm xuống và bắt đầu bò đi - như một hiệp sĩ cố bò khỏi bóng đêm.

Tim đập rộn ràng, bọn tôi trố mắt dõi theo nó như dõi theo một chiếc máy bay hỏng tuy chưa thể cất cánh được nhưng đã lăn được trên đường băng. Chiếc máy bay đó vừa được sửa chữa, ý tôi muốn nói con Pig cận kề cái chết đó đã hồi sinh - có lẽ bằng thứ bản năng sinh tồn đáng kinh ngạc của giống chó săn mồi, thứ bản năng kì diệu mà những đứa như bọn tôi mãi mãi không bao giờ biết được.

Cho tới lúc đó, ba chị Ni chưa biết là ông nói đúng. Câu "Ba nghĩ nó là con chó có sức đề kháng tốt" lúc ông thốt ra giống một thông điệp về đức tin hơn là một khẳng định về thực tế.

Bạn đã đeo lên mình một chiếc vỏ ốc bao giờ chưa?

 Bọn tôi đã đeo lên mình một thứ tựa tựa như vậy trong những ngày con Pig nằm liệt. Thật là một gánh nặng quá sức.

Nhưng bây giờ thì bọn tôi đã trút được chiếc vỏ ốc đó rồi.

Có nhiều thứ thay đổi sau trận ốm thập tử nhất sinh của con Pig.

Và thay đổi lớn nhất là chúa trùm Haili bây giờ đã không còn bị ám ảnh bởi quyền lực nữa. Hoặc là sau trận chiến với bọn chó hoang dữ tợn, nó đã hiểu ra kẻ mạnh nhất trong bầy là con Pig chứ không phải nó, hoặc khi chứng kiến trong cảnh buồn rầu cảnh con Pig suýt vĩnh viễn chia tay cả bọn, nó cảm thấy quyền lực chỉ là thứ phù phiếm so với sự bất trắc của cuộc sống, đặc biệt là so với tình bạn giữa năm đứa tôi.

Khi quyết định từ bỏ quyền lực, Haili đã thôi nhào nặng cuộc sống như ý mình. Đã không còn những cảnh đánh nhau nảy lửa giữa nó và Êmê. 

Cả bọn tôi nữa: khi con Haili nằm cạnh cục xương hay mấy mẩu tôm khô, tôi không còn nhận thấy dấu hiệu đe dọa toát ra từ dáng nằm của nó như trước đây. Thậm chí nó còn bị con Êmê đẩy vào cảnh oan ức.

Ba chị Ni có thói quen vào buổi sáng pha một ly cà phê, uống một ngụm rồi cầm tờ báo đi vào toa lét, sau đó trở ra bàn ngồi uống tiếp. Nhưng những ngày gần đây, khi ông từ toa lét quay ra thì ly cà phê trên bàn đã cạn tới đáy.

- Này em. - Ông cằn nhằn vợ - Sao em không pha ly cà phê khác mà uống ly cà phê của anh?

- Em đâu có uống.

Ba chị Ni chỉ tay vào ly cà phê:

- Thế sao trong ly không còn giọt nào?

- Làm sao em biết được.

- Chẳng lẽ nhà này có ma?

Ông hừ mũi:

- Ngày mai anh sẽ gắn camera ngay tại bàn ăn...

Mẹ chị Ni phì cười:

- Người ta chỉ gắn camera đề phòng trộm thôi, chẳng ai gắn camera để xem vợ mình có uống cà phê của mình hay không.

- Thôi được, anh sẽ quay phim bằng điện thoại di động.

Tôi tưởng ba chị Ni nói chơi. Hóa ra ông làm thật.

Sáng hôm sau, trước khi rời khỏi bàn ăn, ông để điện thoại di động ở chế độ quay phim, loay hoay canh góc máy rồi chèn chiếc điện thoại  giữa các hộp trà trên đầu tủ chén, hướng ống kính về phía ly cà phê uống dở.

Một lát ông quay ra, ly cà phê đã không còn một giọt.

- Em bắt được thủ phạm rồi. - Mẹ chị Ni hớn hở nói, bà đang ngồi xổm dưới nền nhà, tay giữ chặt con Haili.

- Nó à?

Ba chị Ni ngạc nhiên bước ra.

- Nó chứ ai.

Mẹ chị Ni đáp, bà chỉ tay vào mõm Haili:

- Dấu vết còn sờ sờ đây nè.

Ba chị Ni quan sát vệt màu nâu trên mõm Haili, nhún vai:

- Cái này người ta gọi là ăn vụng mà không biết chùi mép.

Ông nhíu mày:

- Nó uống sạch ly cà phê nhưng không làm ngã chiếc ly thì quá tài.

Sực nhớ đến chiếc điện thoại trên đầu tủ, ông vội bước lại mở phim ra xem.

Ối, con Haili bị oan rồi. - Ông dán mắt vào màn hình, sửng sốt - Nó không phải là thủ phạm. 

- Chứ đứa nào?

- Con Êmê.

Cả hai vợ chồng lúc này chụm đầu vào chiếc điện thoại. Những thước phim vừa quay đã tố cáo tội phạm: Khi ba chị Ni vừa quay lưng, con Êmê lập tức phóng lên ghế rồi từ ghế nhảy phóc lên bàn, rón rén bước tới chỗ chiếc ly, dáng đi mềm mại như một con mèo. Nó thò mõm vào ly một cách thận trọng, rồi dùng chiếc lưỡi dài của mình nhẹ nhàng quét sạch cà phê tới tận đáy mà không làm chiếc ly xê dịch.

Ba chị Ni quay đầu tìm thủ phạm: 

- Êmê, ra đây!

Nhưng Êmê đã trốn mất. Ngay từ khi mẹ chị Ni ôm con Haili hét toáng, Êmê đã biết chuyện gì sắp xảy ra, liền vội vã chui tọt vào sau  kẹt cửa ngồi thu lu trong đó.

Bọn tôi dĩ nhiên biết Êmê là thủ phạm ngay từ đầu. Trong bọn chỉ có nó thèm cà phê sữa. Hôm nào ba chị Ni chuyển qua uống cà phê đen, Êmê không màng đụng tới.

Nhưng bọn tôi không có cách nào báo cho mọi người biết được hành vi bất hảo của Êmê. Ngay cả khi nghĩ ra cách thông báo, không chắc bọn tôi đã làm chuyện đó. Cho dù Êmê có tật uống trộm cà phê, bọn tôi vẫn tôn trọng nó. Trong bọn, nó là đứa duy nhất dám chống lại Haili. Riêng chuyện đó thôi, nó là người hùng trong mắt bọn tôi. Hôm đụng độ con chó hoang, nếu có Êmê cục diện có thể khác và con Pig không đến nỗi bị thương nặng đến thế. Một khi Êmê cắn được tai đối thủ rồi, nó sẽ đeo cho đến chết.

Thực ra ba chị Ni chỉ vờ quát thế thôi. Trong bọn, Êmê chính là đứa được ông cưng chiều nhất.

Mỗi tối sau khi chén thù chén tác vói bạn bè ở ngoài phố trở về, ba chị Ni không đi nghỉ ngay. Ông có thói quen ngồi vào bàn, uống chén trà, hát ư ử vài câu rồi mới đi vào phòng tắm.

Những lúc như vậy, bao giờ Êmê cũng mon men lại gần, ngóc cổ nghe ông hát. Lúc đó đôi mắt nó long lanh, chăm chú, chẳng khác nào một khán giả trung thành đang ngồi trong nhà hát. Ba chị Ni hát chẳng lấy gì làm hay (tôi, Haili và con Pig đều đồng ý như vậy) nhưng nhìn thái độ thưởng thức nghiêm trang của Êmê, tôi cứ tưởng ông là một ngôi sao ca nhạc lừng danh.

Những lúc đó bọn tôi đừng hòng lại gần Êmê. Đứa nào mon men lại rủ nó đùa nghịch thế nào cũng bị nó gầm gừ đuổi đi. Mọi khán giả chân chính đều như thế: không muốn bị ai quấy rầy trong lúc đang thưởng thức âm nhạc.

Mỗi khi ba chị Ni hát dứt một bài , Êmê lập tức chạy lại chỗ ông ngồi, chồm hai chân lên ghế, đuôi ngoáy tít. Chỉ thiếu nhành hoa ngậm ngang mõm thôi là nó giống hệt một fan cuồng bước lên sân khấu tặng hoa cho ca sĩ mến mộ.

Ba chị Ni sung sướng gặp ai cũng khoe:

- Con Êmê có máu nghệ sĩ!

Chú William biết chuyện, thích lắm. Tối, chú xách ghi ta về nhà, ngồi trịnh trọng trên ghế vừa đệm đàn vừa hát cho Êmê nghe, chỉ mong nhìn thấy nó nghe là thỏa mãn lắm rồi.

Như mọi khi, Êmê nghển cổ ngồi nghe say sưa. Chú William khoái chí, tiếng đàn càng bay bướm.

Anh Nghé ngồi bên cạnh, không biết kiếm ở đâu ra giỏ hoa hồng cầm sẵn trên tay. À, tôi nhớ rồi, đó là giỏ hoa hồng nhựa bé bằng quả bưởi chị Ni vẫn đặt trên bàn học. Khi chú William vừa hát xong, thấy Êmê nhỏm mình dậy, anh Nghé nhanh nhét quai giỏ vô mõm nó.

Êmê ngậm giỏ hoa, chạy thẳng lại chỗ ba chị Ni ngồi, chồm lên ghế vẫy đuôi lia lịa.

Sau thoáng bất ngờ, mọi người ôm bụng cười lăn. Chỉ có chú William là xịu mặt:

- Mắt nó bị lé hả anh?

Ba chị Ni rút giỏ hoa trong mõm Êmê đưa cho chú William:

- Chắc nó ngượng, không dám tặng hoa trực tiếp cho em. Nên nó nhờ anh đưa giùm.

Chị Ni cười hihi:

- Chắc nó tưởng ba là MC của chương trình ca nhạc tối nay.

Đọc tới đây có lẽ bạn đã phần nào hình dung được thế giới của bọn tôi.

Nhìn chung, xã hội loài chó cũng không khác lắm xã hội loài người. Bọn tôi hiếp đáp, có phản kháng, có chiến tranh, có vui đùa, có sầu bi, có tranh giành, có manh động, có sám hối. Rất nhiều máu, và cũng rất nhiều nước mắt thấm ước cuộc đời năm đứa tôi.

So với con người, bọn tôi tốt những cái tốt của họ và khi xấu bọn tôi giống như bản sao của bọn họ- như thể cả hai cùng nhiễm một thứ virus. Nhưng khác với con người, bọn tôi bao giờ cũng kịp giải quyết những vấn đề của mình trước khi nó mưng mủ và trở thành bất trị.

Haili, khi tham vọng quyền lực nguội lạnh, lập tức trở thành con chó hoàn hảo trong mắt mọi người. Bây giờ suốt ngày nó dành thời gian và tâm trí vào việc săn lũ chuột cống thỉnh thoảng vẫn trồi lên từ các cống rãnh.

Trong bọn, nó là con chó duy nhất thích bắt chuột và có khả năng bắt được chuột.

Dĩ nhiên gia đình chị Ni rất tán thưởng hành vi này của nó.

Chỉ có một rắc rối: Mỗi khi bắt được chú chuột nào, Haili luôn tự khen mình bằng cách nhảy lên đùi bất cứ ai ngồi gần nó...thè lưỡi liếm vào môi họ.

Mẹ chị Ni phun phì phì:

- Gớm cái con nhóc này!

Ba chị Ni phun phèo phèo:

- Ối trời, mày tưởng tao thích thịt chuột hả Haili?

Chị Ni đưa tay quẹt miệng và xoay Haili lại:

- Lần sau muốn được cho lên chơi em phải ngồi như thế này này.

Haili tiếp thu rất nhanh. Từ đó, phóng lên đùi ai, hành động của nó là xoay lưng lại, mặt quay ra ngoài và cố kềm chế để không lè lưỡi liếm lung tung nữa.

Haili chán trò bắt nạt, dĩ nhiên Êmê cũng thôi đánh nhau. Khi những trận chiến đẫm máu lùi về quá khứ, lịch sử đi bằng những bước chân thanh bình và cuộc sống của bọn tôi từ hôm đó được nhúng vào một thứ chất lỏng ngọt ngào có tên là yêu thương.

Đứa nào cũng được yêu.

Haili được yêu vì tính cách hồn nhiên.

Pig được yêu vì tính cách hiền lành.

Êmê được yêu vì tính anh hùng lẫn tính nghệ sĩ bùng cháy trong huyết quản.

Suku được yêu vì vẻ thiên thần ngơ ngác, mặc dù gần đây do tiếp tục cao hứng cắn người nó suýt bị ba chị Ni cho "đi lính". Cô Hà khoe có quen một vị cảnh sát đường sông đóng gần nhà. Ở đó, người ta huấn luyện chó để đánh hơi vũ khí và ma túy.

Cô Hà bảo:

- Người ta huấn luyện nghiêm khắc. Vào đó một thời gian Suku chắc chắn bỏ được tật cắn người vô cớ.

Ba chị Ni hào hứng:

- Biết đâu khi trở về, nó đã được gắn quân hàm làm đại úy.

Nhưng chị Ni và mẹ chị Ni phản đối kịch liệt.

Mẹ chị Ni lắc đầu:

- Nó mập ú thế kia, đi còn không nổi mà huấn luyện cái gì!

Còn chị Ni ôm chặt Suku, âu yếm:

- Em không đi đâu hết, Suku há.

Cuối cùng là tôi - con chó Batô.

So với bốn đứa kia, tôi không có gì đặc biệt.

Tôi, Êmê và Haili sinh ra cùng một mẹ nhưng so với tụi nó, tôi xấu xí hơn nhiều. Hình như khi sinh tôi, mẹ tôi chỉ đẽo gọt sơ sài. Thân hình tôi tròn lẳn, ục ịch - cô Thảo bán trái cây bảo tôi giống một con heo hơn là một con  chó. Tôi có một hàm răng không đều, chiếc trồi chiếc sụt giống như những cây cọc rào sau một trận bão. Đã thế, thỉnh thoảng tôi lại đi cà nhắc vì cứ vài ngày tôi lại bị đau chân một lần dù không va phải thứ gì.

Khách đến chơi nhà rất ít người có ý định vuốt ve tôi. Nếu thỉnh thoảng có người nựng tôi thì họ cũng không làm điều đó lần thứ hai. Vì tôi xấu là một lẽ,. Lẽ khác là do tôi vụng về. Tôi đáp lại tình cảm những người nựng tôi bằng cách nhảy chồm chồm lên người họ và những mont1 chân của tôi luôn làm họ đau.

Đúng ra tôi cũng có một ưu điểm nho nhỏ. Đó là tôi luôn ị ngay ngắn trên những tấm thảm mẹ chị Ni đặt ở góc nhà trong khi những đứa khác là chúa ị bậy.

Nhưng ưu điểm nho nhỏ đó đôi lúc lại biến thành những khuyết điểm to to. Khi vào phòng chị Ni hoặc mẹ chị Ni chơi, tôi không cưỡng được ước muốn nhảy lên giường nệm của họ. Cứ thấy thảm, nệm, mền, gối là tôi buồn ị, chẳng hiểu tại sao.

Nói chung tôi là con chó đáng chán. Tự tôi cũng thấy như thế.

Những người trong nhà có lẽ cũng thấy giống như tôi nên ai nấy đều yêu tôi - như yêu một con chó bị thiệt thòi.

Nhưng cũng nhờ sống thu mình lại, ánh mắt tôi được trải rộng hơn. Tôi để ý quan sát những con chó khác, thấy tụi nó thật thú vị, đặc biệt hình ảnh Êmê ngậm giỏ hoa chạy đến chỗ ba chị Ni ngồi mới đây đối với tôi giống như một biểu tượng sinh động của lòng biết ơn về cuộc sống tươi đẹp mà con người đã mang lại cho chúng tôi một cách hào phóng và tràn đầy yêu thương, tất cả khiến tôi bỗng nảy ra ý định kể lại những gì tôi chứng kiến (và còn nhớ được) từ bé đến giờ.

Đó là lí do câu chuyện này ra đời.





Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: