Quyển 3: Chương 56-60
Hậu Cung Chân Hoàn Truyện
Y là bậc đế vương, sao tôi có thể không hiểu cảnh ngộ của y, chỉ là nơi đáy lòng dẫu sao cũng có một chút mong chờ, rằng giữa ba ngàn giai lệ chốn hậu cung, tôi có được địa vị hơi đặc biệt một chút trong lòng y. Ấy thực là một mong mỏi nhỏ nhoi biết mấy, nhưng giờ đây, rốt cuộc đã trở thành hoa trong gương, trăng dưới nước, si tâm vọng tưởng. Còn sự yên ổn, nó cũng ngắn ngủi và hư ảo như tình yêu trong chốn hậu cung này. Tôi không còn con đường nào khác để đi, cũng không còn cách nào khác, chỉ có thể dùng tâm cơ, chỉ có thể tranh đấu, tranh đấu không ngừng, vậy mới có thể đổi lại sự bình yên trong khoảnh khắc.
Chương 56: Nghe tiếng đắng lòng
Gió lạnh tháng Chín làm nồng thêm hương quế, làm đỏ thêm phiến lá phong, cũng thổi cho nỗi ưu thương nồng đậm trong lòng tôi tan đi đôi chút, thân thể tôi cũng vì thế mà dần khỏe lại. Đôi lúc rảnh rỗi, tôi nghĩ mình cũng nên đi thăm Huyền Lăng. Mất đi đứa bé, chắc hẳn y cũng chẳng vui vẻ gì, huống chi người giờ đang đắc sủng kia dù sao cũng là tỷ muội của tôi.
Thế là tôi bèn sai Lưu Chu đi xem thử xem Huyền Lăng có đang ở Nghi Nguyên điện không. Lưu Chu quay về bẩm báo: "Lý công công nói Hoàng thượng đang xem tấu chương trong ngự thư phòng. Nô tì đã sai đầu bếp chuẩn bị xong đồ điểm tâm, nương nương mang đến cho Hoàng thượng như trước đây đi."
Không biết tại sao, khi Lưu Chu chuẩn bị bẩm báo, trong lòng tôi bỗng dâng trào đôi chút căng thẳng, chỉ mong Lưu Chu nói Huyền Lăng không thể gặp tôi. Hình như là vì cảm giác sợ hãi khi phải trở về chốn cũ, thành ra tôi không muốn gặp y nữa. Bây giờ, nghe Lưu Chu nói như vậy, tôi bất giác thở phào một hơi, thầm nghĩ nếu cứ thế này mà đi, gặp mặt rồi lại có chút lúng túng, thậm chí còn có thể nhìn thấy hoặc ngửi thấy thứ gì đó thuộc về một nữ tử khác ở chỗ y. Nếu thực sự như vậy, thà chẳng gặp còn hơn.
Thế là tôi nói: "Chuẩn bị đồ điểm tâm rồi cũng tốt, bảo Tinh Thanh đưa tới cho My Trang tiểu chủ đi!"
Lưu Chu nôn nóng hỏi: "Nương nương không đi thăm Hoàng thượng nữa sao?"
Tôi hờ hững đáp: "Hoàng thượng đang bận rộn việc nước, ta sao dám làm phiền."
Lưu Chu nói: "Nhưng trước đây... nương nương có thể thoải mái ra vào ngự thư phòng mà."
Tôi xót xa cõi lòng, cất tiếng ngắt lời nàng ta: "Bây giờ còn giống như trước nữa sao?"
Lưu Chu ngây ra, sắc mặt cũng trở nên ảm đạm, không nói thêm gì nữa.
Ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy trời thu thật đẹp, tôi bèn dẫn Cận Tịch cùng đi tản bộ. Thượng Lâm uyển đang độ đầu thu, trên mặt hồ Thái Dịch luôn ngưng tụ một lớp sương mù mờ mịt, ngay gần đó là một cánh rừng phong đỏ rực như màu máu, chỉ còn sót lại vài nét màu xanh thấp thoáng. Muôn hoa trong Thượng Lâm uyển đều đang đua sắc, dường như để xua đi cảm giác lạnh lẽo, tiêu điều của ngày thu. Cả khu vườn ngập tràn các giống hoa cúc đang nở rộ, nào là Kim thược dược, Hoàng hạc linh, Ngọc linh lung, Nhất đoàn tuyết, Yên chi hương, Cẩm lệ chi, Tây Thi phấn, Ngọc lâu xuân, loại nào cũng quý báu vô cùng, vẻ rực rỡ lúc này như thể đong đầy nét đẹp của mùa xuân, thậm chí còn hơn hẳn sắc xuân.
Tôi khẽ mỉm cười, hoa cúc được trồng trong cung dù trân quý đến mấy, diễm lệ đến mấy nhưng chung quy cũng chẳng còn khí cốt lạnh lùng, cao ngạo của loài hoa cúc mà Đào Uyên Minh đã trồng. Trong khi đó, vẻ đẹp của hoa cúc đa phần là ở cái khí chất của nó, chứ chẳng phải sắc hoa. Nói tới cúc thì phải kể tới cúc trắng đầu tiên, tiếp đó là cúc vàng, những hạng màu mè như tím, đỏ kỳ thực đều chẳng còn lưu lại cốt cách gì.
Tôi cứ thế dạo bước men theo bờ hồ Thái Dịch, vì mải ngắm sắc thu tươi đẹp mà dần đi xa lúc nào không hay. Bốn phía xung quanh, cỏ cây bắt đầu thưa thớt, tịch mịch vô cùng, chỉ còn lại vài tiếng côn trùng rả rích, càng khiến người ta cảm nhận được khí thu nồng đượm. Chợt thấy phía xa có một tòa cung điện quạnh hiu, tách biệt hẳn với nơi ở của các sủng phi bên bờ hồ Thái Dịch, nhưng lại c tường đỏ mái vàng, ngợp đầy khí thế, hẳn không phải là nơi các phi tần bình thường có thể vào ở. Tôi cảm thấy tò mò, bèn hỏi Cận Tịch: "Đó là nơi nào vậy?"
Cận Tịch đáp: "Đó là Phi Hương điện, nơi ở của Đoan Phi nương nương."
Tôi lẳng lặng gật đầu. Tôi và Đoan Phi tuy cũng có chút qua lại nhưng trước giờ, tôi chưa từng đến cung của nàng ta, thứ nhất là để tránh mối hiềm nghi, thứ hai là nàng ta cũng có vẻ không thích.
Khi tôi mang thai, nàng ta hết sức nhiệt tình, thậm chí còn không để ý tới việc mình đang bị bệnh mà cố gắng làm cho đứa con chưa ra đời của tôi hai đôi giày nhỏ. Tôi rất cảm kích tâm ý của nàng ta, nhưng Đoan Phi lại không thích tôi tới thăm. Trước khi tôi sảy thai, nàng ta lại bị bệnh, nghe nói không nhẹ, thế nhưng vẫn không quên nhắc tôi phải chú ý nghỉ ngơi cho tốt. Về sau, vì tôi gặp phải quá nhiều vấn đề khó khăn nên cũng không có thời gian để tâm đến nàng ta nữa.
Bây giờ đã đi ngang qua đây, nàng ta lại đang mang bệnh, tôi tất nhiên không thể cứ thế mà bỏ đi, bèn nói với Cận Tịch: "Ngươi tới gõ cửa đi!" Đang là giữa trưa, cửa cung đóng chặt, trên cánh cửa còn in những dấu vết loang lổ. Sau khi Cận Tịch gõ cửa hồi lâu, cánh cửa phát ra một tiếng "kẽo kẹt", nặng nề mở ra. Cát Tường bước ra, nhìn thấy tôi, nàng ta cũng hơi kinh ngạc, nói: "Nô tỳ bái kiến nương nương!"
Tôi cảm thấy có chút hồ nghi, Cát Tường và Như Ý là hai cung nữ hầu cận bên cạnh Đoan Phi, xưa nay luôn một bước không rời, sao lần này lại là nàng ta ra mở cửa? Thế là tôi bèn hỏi: "Nương nương nhà ngươi đâu?"
Vành mắt Cát Tường đỏ hoe, rơm rớm nước mắt, nói: "Nương nương tới rồi thì tốt quá!"
Tôi thầm kinh hãi, vội vàng đi theo Cát Tường rảo bước vào trong. Tòa cung điện này rất rộng rãi, nhưng lại lạnh lẽo vô cùng, chẳng có bóng dáng cung nữ hay thái giám nào khác. Tôi không kìm được tò mò hỏi: "Người đâu cả rồi?"
Cát Tường lại không trả lời vào câu hỏi: "Mấy năm trước, nương nương nhà nô tỳ mắc bệnh, Hoàng hậu nương nương vì muốn nương nương có thể yên tâm dưỡng bệnh, liền bảo mấy vị tiểu chủ vốn cùng ở đây dọn ra ngoài, vì thế ở đây không còn ai nữa."
Tôi chăm chú nhìn nàng ta. "Vậy các cung nhân chuyên việc hầu hạ thì sao, chẳng lẽ cũng dọn ra ngoài cả rồi?"
Cát Tường thoáng do dự. "Nương nương đuổi bọn họ đi rồi, ở đây chỉ còn Như Ý đang sắc thuốc ngoài điện nữa thôi."
Tôi không tiện hỏi thêm, bèn cất bước đi thẳng vào trong điện, lập tức ngửi thấy mùi thuốc chát nồng còn chưa kịp tan hết. Trên bức tường ngoài điện, dây thường xuân chằng chịt, che khuất ánh mặt trời. Trong điện, màn chăng lớp lớp, càng thêm u ám, toát lên một vẻ tịch mịch tột cùng. Đoan Phi nằm trên giường, dường như đã ngủ rất say. Một cung nữ lớn tuổi đang ngồi sắc thuốc ở bên ngoài, chính là Như Ý. Như Ý nhìn thấy tôi thì vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng, khẽ gọi một tiếng: "Nương nương!" rồi rơi lệ.
Tôi thấy Đoan Phi đang ngủ mê man, sắc mặt trắng bệch như giấy, bèn hỏi: "Nương nương nhà các ngươi trông yếu quá, thái y nói thế nào?" Như Ý nghẹn ngào nói: "Nương nương nói cứ uống mấy loại thuốc như trước là được rồi, trong cung có nhiều chuyện thị phi, không được đi mời thái y về, kẻo lại sinh rắc rối."
Tôi thở dài một tiếng, nói: "Đoan Phi nương nương cẩn thận quá, mời thái y tới xem bệnh là việc nên làm mà!", rồi lại tiếp: "Ta thấy cứ như thế này thì không ổn đâu. Như Ý cứ sắc thuốc tiếp, Cát Tường tới Thái y viện mời Ôn thái y tới đây, không chữa trị thì làm sao khỏi được. Đoan Phi nương nương đã đuổi hết người trong cung của mình, bên cạnh không có ai hầu hạ cũng không ổn. Cận Tịch, ngươi về cung của chúng ta, chọn vài người được việc đến đây."
Cát Tường, Như Ý nghe tôi nói vậy thì đều mừng rỡ ra mặt. Tôi bảo bọn họ mau ra ngoài làm việc rồi một mình ở lại bầu bạn với Đoan Phi, nhân tiện đi hái mấy nhành hoa cúc cắm vào bình, trong điện lập tức có thêm mấy phần sức sống. Lát sau, Đoan Phi rên rỉ một tiếng rồi tỉnh dậy, thấy tôi đang ngồi bên giường bèn nói: "Muội đến rồi!"
Tôi kê một chiếc gối mềm xuống dưới gáy nàng ta. "Thần thiếp ngẫu nhiên đi qua nơi ở của nương nương, nghe nói thân thể nương nương không được khỏe lắm."
Nàng ta cười gượng, nói: "Bệnh cũ thôi, cứ đến độ thu đông là lại phát tác, không việc gì đâu."
Tôi nói: "Bệnh cũng phải chữa khi còn chưa nặng, nương nương nên chú ý đến sức khỏe của bản thân."
Nàng ta hơi hé mắt. "Lâu ngày không gặp, muội cũng gầy đến thế này rồi. Thân thể đã khỏe hơn chút nào chưa?"
Nghe nàng ta nói vậy, thoạt tiên tôi rất ngạc nhiên, sau lại nghĩ tới việc nàng ta ở trong cung chẳng có người nào hầu hạ, rất nhanh đã hiểu ra, bèn nói: "Nương nương tai thính mắt tinh, không cần ra ngoài cửa mà cũng biết hết việc trong cung."
Nàng ta mỉm cười, nói: "Thứ có thể biết chỉ là chuyện bề ngoài, còn những sự biến hóa trong lòng người thì ai mà biết nổi. Mấy trò vặt vãnh này có tính là gì."
Nghe thấy hai chữ "lòng người", tim tôi không khỏi máy động, bèn im lặng. Đoan Phi đang ốm nên nói chuyện có chút khó khăn, chậm rãi cất tiếng: "Đứa bé gần như là tính mạng của người mẹ, dù chưa chào đời nhưng cũng chẳng khác gì khúc ruột trong lòng. Muội đột nhiên mất con như vậy, đương nhiên lại càng thương tâm."
Khi nói những lời này, dường như Đoan Phi rất thương cảm. Mà lời của nàng ta rõ ràng đã nhấn mạnh vào hai chữ "đột nhiên".
Tôi đương nhiên hiểu ý của nàng ta nhưng việc "Hoan Nghi hương" có mối liên quan rất lớn, tôi sao có thể nói ra khỏi miệng được, đành nói: "Hồi nhỏ thần thiếp từng uống nhầm thuốc hỏng, e là đã làm ảnh hưởng đến thân thể."
Đoan Phi khẽ gật đầu. "Thì ra là vậy!" Nàng ta cố gắng hít sâu một hơi. "Nhưng chỉ sợ muội lại càng thương tâm hơn vì lối xử trí của Hoàng thượng đối với Mộ Dung Thế Lan."
Nghĩ tới việc này, thù cũ hận mới trong lòng lập tức trào dâng, tôi không khỏi vừa buồn thương, vừa giận dữ, ngoảnh đầu qua một bên, không nói gì. Đoan Phi lạnh lùng cười, nói: "Ta thấy nàng ta đang muốn học theo cách mà tiên Hoàng hậu đã trừng trị Hiền Phi đấy! Cái số nàng ta đúng là không phải chỉ tốt bình thường, ta vốn tưởng Hoàng thượng sẽ vì muội mà giết chết nàng ta, ít nhất cũng phải phế bỏ ngôi vị của nàng ta rồi đày vào lãnh cung mới phải."
Lại một lần nữ nghe nói tới chuyện của Hiền Phi, tôi không kìm được, hỏi: "Trước đây, Hiền Phi cũng vì quỳ lâu nên mới sảy thai sao?"
Đoan Phi khẽ "ừm" một tiếng, nói: "Khi tiên Hoàng hậu còn tại thế, Hiền Phi thường tỏ ra bất kính, có một hôm không biết vì cớ gì mà xúc phạm tiên Hoàng hậu, lúc đó tiên Hoàng hậu đang mang thai nên tính tình có chút nóng nảy, liền bắt Hiền Phi quỳ bên ngoài Vị Ương điện, ai ngờ sau khi quỳ được hai canh giờ thì Hiền Phi chảy máu. Tới lúc này mọi người mới biết Hiền Phi đã mang thai được gần hai tháng, chỉ đáng tiếc bản thân Hiền Phi cũng không rõ việc này cho nên mới quỳ. Tiên Hoàng hậu đức hạnh xuất chúng, trong hậu cung ít ai không phục, vì chuyện này mà trong lòng áy náy rất lâu." Nàng ta thoáng dừng một chút rồi nói tiếp: "Việc này cũng khó trách tiên Hoàng hậu, bản thân Hiền Phi sơ suất, người ngoài làm sao mà biết được, cái thai hai tháng vốn chưa ổn định, há có thể chịu nổi hai canh giờ quỳ dưới đất?" Đoan Phi nhớ lại việc xưa, trong giọng nói mang đầy vẻ xuýt xoa, cảm thán.
Một thoáng sau đó, Đoan Phi đã bình tĩnh trở lại. "Có điều, theo ta thấy, Mộ Dung Thế Lan không ngốc đến mức để muội xảy ra chuyện khi mình đang chấp chưởng hậu cung. Với cái tính kiêu ngạo của nàng ta, chẳng qua muốn đè nén muội để lập uy mà thôi!" Nàng ta khẽ "hừ" một tiếng. "E là sau khi biết muội sẩy thai, nàng ta sợ hãi hơn bất cứ người nào, biết rằng lần này bản thân khéo quá hóa vụng."
Tôi mang theo cơn giận ngập lòng, chậm rãi nói: "Khéo quá hóa vụng cũng được, cố ý làm vậy cũng được, mối thù mất con của thần thiếp tạm thời không thể báo được rồi!"
Trò chuyện một lát, thấy Cát Tường dẫn Ôn Thục Sơ đi vào, tôi bèn đưa mắt nhìn Đoan Phi, đứng dậy cáo từ. Đoan Phi vừa nói chuyện với tôi một lúc, sớm đã thấm mệt, chỉ khẽ gật đầu một cái rồi tiếp tục nhắm mắt dưỡng thần.
Chậm rãi bước ra ngoài Phi Hương điện, tôi tìm một chiếc ghế đá vuông ngồi xuống, hồi tưởng lại những lời Đoan Phi vừa nói. Tôi đột ngột mất con, trước giờ vẫn luôn cho rằng là vì tác dụng của Hoan Nghi hương nên mới quỳ có nửa canh giờ đã bị sẩy thai. Mà vật này dùng quá nhiều xạ hương để chế tạo, nhất định cũng gây hại cho thân thể của tôi. Nhưng tôi chỉ ở trong cung của Mộ Dung Thế Lan có ba, bốn canh giờ, sức thuốc có thể mạnh đến vậy sao?
Tỉ mỉ ngẫm lại, mấy ngày trước khi tới cung của nàng ta, tôi đã cảm thấy mình có chút không khỏe, việc này phải giải thích thế nào đây? Chẳng lẽ thực sự là vì tôi kiêng dè nàng ta quá nên tâm sức kiệt quệ? Trong lúc ăn uống, tôi đều dùng đồ bạc, đương nhiên không thể sảy ra sai sót gì về phương diện này, vậy cảm giác khó chịu kia của tôi rốt cuộc từ đâu mà ra?
Không lâu sau, Ôn Thục Sơ đã đi ra, tôi cũng không trò chuyện gì với hắn, hỏi thẳng vào việc chính: "Đoan Phi mắc bệnh nặng thế này là vì nguyên cớ gì?"
Hắn không trả lời, chỉ hỏi: "Nương nương có từng nghe nói tới vị thuốc hồng hoa chưa?"
Tôi không khỏi cả kinh, buột miệng nói: "Đó chẳng phải là thuốc dùng để phá thai sao?"
Hắn gật đầu, nói: "Phải! Hồng hoa có công dụng hoạt huyết, giải trừ tắc nghẽn, dùng để trị các chứng tắc kinh, thống kinh, sản dịch sau khi sinh không xuống được, sưng tấy đau nhức, ứ đau do chấn thương. Thai phụ nếu uống vào quả thực sẽ bị sẩy thai." Hắn ngẩng lên, hai mắt lóe sáng, thoáng qua một tia thương xót. "Nhưng nếu người không có thai cũng không bị đau bệnh mà uống một lượng lớn thứ thuốc này thì sẽ bị tổn thương huyết mạch, thậm chí không thể sinh đẻ."
Tôi nghe mà trong lòng chấn động, trên mặt tràn ngập vẻ kinh ngạc đến khó tin, hồi lâu sau mới khẽ hỏi: "Vậy ngài có thể chữa khỏi hoàn toàn bệnh của Đoan Phi nương nương không?"
Hắn cúi đầu, nhìn mũi giày của mình, nói: "E là không, vi thần chỉ có thể đảm bảo giữ được mạng sống cho Đoan Phi nương nương mà thôi." Thoáng dừng một chút, hắn nói tiếp: "Cho dù có bậc quốc thủ ở đây, e rằng Đoan Phi nương nương cũng không thể sinh đẻ được nữa."
Chẳng trách nàng ta lại thích trẻ con như vậy! Ôn Thực Sơ được tôi nhờ cậy tất nhiên sẽ tận tâm tận lực cứu chữa cho Đoan Phi nương nương, mà hắn đã nói như vậy, đủ thấy thân thể Đoan Phi bị tổn hại nặng nề đến mức nào, hiển nhiên đã nằm ngoài phạm vi năng lực của hắn.
Tôi không thể biết rõ những nguyên nhân khiến thân thể Đoan Phi bị tổn hại đến vậy, vì cảm kích những lời nhắc nhở thân tình của nàng ta, tôi chỉ có thể gắng sức giúp được đến vậy mà thôi, vì vậy bèn nói: "Bản cung chỉ mong nàng ta có thể sống tiếp, không bị bệnh tật giày vò quá nhiều."
Hắn khẽ gật đầu. "Vi thần sẽ dốc hết sức mình."
Tôi nghĩ tới sự nghi hoặc của mình, bèn hỏi: "Năm xưa, bản cung vì muốn tránh phải thị tẩm nên đã uống thuốc ngài đưa, liệu có gây hại gì cho thân thể không?" Do dự một chút, tôi nói thẳng: "Chẳng hạn như, khiến thân thể yếu ớt, dễ bị sẩy thai."
Hắn thoáng chút kinh hãi, sau ngẫm nghĩ hồi lâu bèn nói: "Khi đó, vi thần đã khống chế lượng thuốc hết sức cẩn thận, sau khi nương nương uống thuốc cũng không có chỗ nào lạ thường. Còn về việc sẩy thai, có lẽ là không thể. Có điều... thể chất mỗi người mỗi khác, thế nên cũng khó mà khẳng định."
Lòng tôi lạnh lẽo, bất kể thế nào, đứa bé ấy cũng không còn nữa, dây dưa thêm nhiều chuyện quá khứ liệu có ích gì? Phụ hoàng của nó, chắc cũng quên nó từ lâu rồi.
Ôn Thực Sơ nhìn tôi chăm chú, khiến tôi bất giác cảm thấy mất tự nhiên, liền không nói nhiều với hắn nữa, đứng dậy, rời đi.
Cận Tịch vẫn chưa quay lại, trở về cung cũng buồn chán, chẳng có việc gì làm, tôi liền đi dạo, muốn nhân đó xua bớt những khổ não trong lòng. Tôi đi giữa một vùng đầy hoa và đá, lại rẽ qua ngọn giả sơn đến bên một khe suối nhỏ, nghe thấy tiếng chim chóc hót ca, suối chảy róc rách, sau khi lòng vòng mấy vòng liền giật mình phát hiện mình đã đến khu rừng phía sau Nghi Nguyên điện.
Huyền Lăng trước giờ vẫn thường phê duyệt tấu chương, suy xét việc nước trong ngự thư phòng ở Nghi Nguyên điện, nhưng ngày ngày phải đọc một đống tấu chương cao như núi với những lời lẽ khô khan khiến y đau đầu, mà y lại rất thích không khí trong lành, mộc mạc với tiếng chim hót véo von, bèn ra lệnh trồng một khu rừng sau Nghi Nguyên điện. Mười mấy năm trôi qua, cây cối đã rậm rạp, um tùm, khi có gió còn phát ra tiếng xào xạc như sóng vỗ bờ, chim muông ríu rít vang trời.
Tôi từng bầu bạn bên y khi y phê duyệt tấu chương, có lúc tâm trạng hai người đều tốt, y sẽ cùng tôi thả bộ giữa rừng, sánh vai bên tôi, dắt tay tôi, nói những lời rất đỗi ngọt ngào. Trong thời khắc đẹp đẽ ấy, các cung nữ và thái giám đều không bao giờ tới quấy rầy, giữa trời đất bao la dường như chỉ có y và tôi, chứ không phải là quân và thần, chồng và thiếp.
Đã bao lâu rồi tôi không đặt chân vào Nghi Nguyên điện? Y cũng gần như không đặt chân vào Đường Lê cung của tôi nữa. Lần gặp mặt cuối cùng giữa chúng tôi là khi nào nhỉ?
Hình như là một buổi hoàng hôn... Không, hình như là một dịp sáng sớm, khi đó, tinh thần tôi còn khá tốt, đang soi gương, phát hiện mình vì thương tâm mà đã tiều tụy và gầy guộc đi nhiều.
Y từ bên ngoài bước vào, ngồi xuống uống trà, lặng lẽ ngắm nhìn dung nhan trong gương của tôi, rồi lại đứng dậy, xoa nhẹ bờ má tôi, nói: "Vết sẹo trên má nàng đã không còn thấy nữa rồi. May mà không bị thương nặng lắm!" Tôi vốn đang thương tâm vì sự tiều tụy của mình, cũng nhớ đến nguyên nhân khiến mình tiều tụy, bất giác cảm thấy khó chịu. Y lại nói tiếp: "Nếu thực sự để lại sẹo thì biết làm sao đây, sẽ là tì vết trên viên ngọc bích mất."
Tôi bỗng có chút buồn bực, ngẩng đầu qua, cười nói: "Hoàng thượng đúng là yêu quý dung nhan của thần thiếp."
Huyền Lăng khẽ cười. "Sao trẫm có thể không yêu vẻ đẹp của Hoàn Hoàn được chứ?"
Tôi thầm cười lạnh, thì ra y để ý đến dung mạo của tôi đến vậy, bèn gạt tay y ra, sau đó đứng dậy, đi tới bên giường, nằm xuống, quay mặt vào tường, không để ý tới y nữa.
Y không dỗ dành tôi như thường ngày, hình như còn khá giận dữ, nói: "Quý tần, tính nàng cũng ương bướng quá rồi đấy! Trẫm niệm tình nàng vừa mới mất con nên không tính toán với nàng, nàng hãy cố nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho tốt đi." Nói xong, y liền phất tay áo rời đi, không trở lại thêm lần nào nữa.
Sau việc đó, tôi hỏi Cận Tịch: "Có phải Hoàng thượng chỉ yêu dung mạo của ta không?"
Cận Tịch dè dặt trả lời: "Dung mạo của nương nương khiến người nhìn say đắm, chẳng ai có thể lờ đi như không thấy được."
Hoán Bích đứng bên cạnh cười gượng, nói: "Thì ra nam nhân thực sự yêu thích dung mạo của nữ tử hơn tâm tính, qua đó đủ thấy nam nhân nào cũng đều yêu mỹ sắc."
Tôi khẽ lắc đầu. "Thực ra cũng không hẳn vậy. Dung mạo ở bên ngoài, tâm tính ở bên trong, cho nên tất nhiên dung mạo dễ thấy hơn rất nhiều so với tâm tính. Không có dung mạo, e rằng sẽ có rất ít nam tử chịu đi tìm hiểu tâm tính của ngươi. Nhưng nếu tâm tính không tốt thì sao có thể vui vẻ ở bên người khác lâu dài được. Trong thiên hạ quả thực có rất nhiều nam nhân ham mê mỹ sắc nhưng cũng có hạng người như Gia Cát Khổng Minh sống hạnh phúc bên người vợ xấu xí họ Hoàng, không thể đánh đồng tất cả được."
Hoán Bích nói: "Nhưng trên đời này có được bao nhiêu Gia Cát Khổng Minh đây?"
Lần này thì đến lượt tôi cười gượng, quả đúng thế, trên đời này, hạng nam tử chỉ nhìn người qua dung mạo vẫn chiếm đa số. Còn nữ tử, dùng sắc đẹp mà lấy lòng người khác, liệu có thể lâu dài? Tôi vẫn luôn cho rằng y quả có chút tình ý với tôi, cũng tán thưởng tôi, nhưng trong lần ngẫu nhiên tới thăm ấy, y lại chỉ để tâm xem dung mạo của tôi có còn được như xưa hay không.
Suy nghĩ như vậy, nơi đáy lòng tôi không khỏi có chút thê lương, huống chi bây giờ lại đang đứng giữa cảnh sắc ngày xưa, những niềm vui như hiện ra ngay trước mắt, thế là tôi không muốn ở lại thêm chút nào, xoay người định đi.
Nhưng đúng lúc ấy, tôi chợt nghe thấy có tiếng người nói chuyện, bèn vô thức nấp vào sau một gốc cây gần đó. Hai người đi tới từ phía trước không phải là Huyền Lăng và Lăng Dung đó sao? Lăng Dung tuy giữ khoảng cách một bước chân với y nhưng lại tươi cười ngọt ngào, hết sức thân mật. Tình cảnh này thật giống với tôi khi xưa, điều duy nhất khác biệt là người đứng bên cạnh Huyền Lăng khi đó là tôi chứ không phải Lăng Dung.
Lăng Dung lúc nào cũng có vẻ nhún nhường. Cũng chính bởi vẻ nhún nhường đó mà người ta mới càng sinh lòng yêu thương.
Lúc này, Lăng Dung mặc một chiếc áo dài gấm màu vàng nhạt thêu hoa văn hình hoa đào, phía dưới là chiếc quần lụa màu trắng bạc, trên đầu cài một cây trâm vàng có tua ngọc rất dài, trong sự thẹn thùng lại ẩn chứa nét tinh tế, e lệ, khiến người ta nhìn mà si mê. Nàng ta cất giọng dịu dàng: "Hoàng thượng đã rất lâu chưa đi thăm Chân tỷ tỷ rồi, đêm nay có định tới chỗ tỷ tỷ không?"
Trên mặt thoáng qua mấy tia ngập ngừng, Huyền Lăng cảm khái nói: "Không phải là trẫm không muốn đi thăm nàng ta. Nàng ta mất con, trẫm cũng rất thương tâm, nhưng tính cách nàng ta thực bướng bỉnh quá. Nữ tử tính tình bướng bỉnh như vậy dù sao cũng không phải việc hay." Nói đoạn, y khẽ cười một tiếng: "Nếu nàng ta có được một nửa sự dịu dàng của nàng thì tốt rồi!"
Lời này lọt vào tai, tôi gần như ngây ra tại chỗ, đôi mắt như bị thứ gì đó đâm mạnh vào, cay đến mức khó chịu, cảnh vật trước mắt theo đó mà trở nên mơ hồ, đến nhánh cây thẳng tắp cũng trở nên cong queo. Không ngờ y lại chê tính tôi bướng bỉnh, không được dịu dàng như Lăng Dung. Đột nhiên nghe y nói ra sự bất mãn với tôi vốn đã chẳng ải việc dễ chịu gì, hơn nữa, những lời chỉ trích này còn được y nói ra ngay trước mặt sủng phi của y.
Lăng Dung thoáng suy nghĩ rồi thấp giọng nói: "Nếu tỷ tỷ có chỗ nào khiến Hoàng thượng bất mãn, xin Hoàng thượng hãy niệm tình tỷ ấy vừa mới mất con. Tỷ tỷ kỳ thực rất đau khổ."
Huyền Lăng có chút bất mãn. "Nàng ta đau khổ, trẫm cũng đau khổ. Sao nàng ta không chịu suy nghĩ cho trẫm? Trẫm đã mất liền hai đứa con, trong cung lại có nhiều chuyện thị phi như vậy, đến nhìn thấy một nụ cười của nàng ta cũng khó. Trước đây, trẫm quả thực đã nuông chiều nàng ta quá."
Tôi cười lặng lẽ, nỗi đau mất con của tôi không ngờ lại trở thành cái lỗi của y khi đã quá nuông chiều tôi.
Lăng Dung tỏ ra hoang mang, vội nói: "Thần thiếp không có ý đó."
Huyền Lăng thổn thức: "Thực ra Hoàn Hoàn cười trông rất đẹp." Thế nhưng khi nghe thấy Lăng Dung tự trách mình, y bèn an ủi: "Không liên quan gì tới nàng. Thực ra trẫm cũng hơi nhớ nàng ta, lúc nào có thời gian rảnh rỗi, trẫm nhất định sẽ đi thăm nàng ta." Suy nghĩ một lát, y lại nói tiếp: "Nàng và Hoàn Hoàn tình như tỷ muội, tính cách của nàng ta, nàng hẳn cũng biết rõ. Bây giờ nàng ta đang thương tâm, trẫm thực sự rất khó xử, cũng không đành lòng đi gặp nàng ta."
Lăng Dung khẽ thưa: "Dạ! Tỷ tỷ gia thế tốt, lại có tài học vấn, thần thiếp trước giờ rất ngưỡng mộ tỷ tỷ, cũng mong Hoàng thượng vẫn thích tỷ tỷ như trước đây. Nhưng thần thiếp lại nghĩ, tỷ tỷ bây giờ còn chưa suy nghĩ được thông tỏ, do đó vẫn luôn thương tâm, không thể hầu hạ Hoàng thượng cho tốt được. Sau này nếu tỷ tỷ nghĩ thông rồi, tất nhiên sẽ hồi tâm chuyển ý. Chi bằng tạm thời Hoàng thượng đừng đi thăm tỷ tỷ vội, kẻo khi trò chuyện lại xảy ra mâu thuẫn thì không hay. Đợi sau khi thần thiếp khuyên nhủ tỷ tỷ hiểu ra rồi Hoàng thượng hãy tới gặp mặt, như vậy há chẳng phải mọi người đều được vui sao?" Dứt lời, nàng ta lại dè dặt liếc nhìn thần sắc của Huyền Lăng, nói tiếp: "Đây chỉ là chút ngu kiến của thần thiếp, Hoàng thượng đừng chê thần thiếp nhiều lời."
Huyền Lăng nói: "Nàng có lòng quan tâm đến trẫm và Hoàn Quý tần như vậy, trẫm sao có thể chê trách được!"
Lăng Dung hơi cau mày, trên mặt thấp thoáng nét sầu. "Hoàng thượng quá khen rồi, thần thiếp chỉ mong Hoàng thượng có thể mãi mãi vui vẻ. Kỳ thực thần thiếp vô tài vô đức, không thể phân ưu giải nạn cho Hoàng thượng như tỷ tỷ."
Huyền Lăng nói: "Dung Nhi việc gì phải tự xem nhẹ mình như thế, nàng và Hoàn Quý tần tựa như hoa mùa xuân với trăng mùa thu, mỗi người một vẻ."
Tới lúc này, Lăng Dung mới cười tươi rạng rỡ, cất giọng yêu kiều: "Vậy Hoàng thượng thích thần thiếp nhiều hơn một chút, hay là thích tỷ tỷ nhiều hơn một chút đây?"
Huyền Lăng thoáng do dự rồi cười, nói: "Trong thời khắc này, ta đương nhiên thích Dung Nhi nàng nhiều hơn một chút rồi."
Cổ họng tôi nghẹn đắng, dường như không thể thở nổi. Những lời lẽ kia đã khiến nỗi thương tâm muốn rớt lệ của tôi biến thành một sự đau đớn và thất vọng tột cùng, muốn khóc mà không còn nước mắt. Dường như có một đôi tay đang bóp chặt trái tim tôi rồi không ngừng giày vò. Cơn gió lúc nóng lúc lạnh phả vào mặt tôi, mang tới cảm giác tê dại như có hàng trăm con côn trùng đang bò qua. Tôi cảm thấy muôn vàn sự tận tâm và tình ý trước đây đều không đáng! Không đáng một chút nào! Nhưng vẫn cứ ngẩn ngơ đứng đó, không thể cất bước trốn đi.
Huyền Lăng đang định nói tiếp, chợt ho liền mấy tiếng. Lăng Dung vội vàng bước tới xoa ngực y, cất giọng quan tâm: "Hoàng thượng bận rộn việc nước, vất vả quá, thần thiếp đã đích thân hái lá sơn trà về bảo người hầm với đường phèn, Hoàng thượng uống vào, đảm bảo sẽ khử được đờm, trị ho, hơn nữa còn không đắng chút nào."
Huyền Lăng mỉm cười, nói: "Thật không ngờ nàng lại làm những việc này, nhưng nói đi cũng phải nói lại, nếu không vì nàng, trẫm sao có thể ho được."
Lăng Dung thoáng ngạc nhiên rồi ấm ức nói: "Phải, là lỗi của thần thiếp, mong Hoàng thượng hãy nói cho thần thiếp biết thần thiếp sai ở chỗ nào."
Huyền Lăng nở nụ cười xấu xa, khẽ véo tai nàng ta. "Tối qua trẫm chỉ muốn nàng đổi tư thế một chút, nhưng nàng lại thẹn thùng không chịu. Nếu không phải vì thế, sao trẫm lại bị nhiễm phong hàn được?"
Lăng Dung cả thẹn, mặt đỏ bừng như muốn nhỏ máu, vội vàng ngó nghiêng bốn phía xung quanh, thấy không có ai mới thấp giọng hờn giận nói: "Hoàng thượng chớ nói những lời không hợp lễ nghi." Bộ dạng yêu kiều, e thẹn ấy thật động lòng người, Huyền Lăng cất tiếng cười vang, làm lũ chim trong rừng giật mình bay xớn xác, cũng làm trái tim tôi nghẹn lại, lúc này đây, trái tim tôi tê dại biết chừng nào...
Hồi lâu sau, Huyền Lăng và Lăng Dung đã đi xa. Một dải chiều tà đậu trên ngọn cây, đỏ rực như màu máu, xung quanh chỉ còn lại vẻ tịch mịch đến thê lương. Thỉnh thoảng lại có chú chim sẻ bay lên, rất nhanh đã biến thành một đốm đen nhỏ trên nền trời xa tít tắp.
Tôi lầm lũi bước đi, trong đôi mắt mơ màng đã chẳng còn nước mắt nhưng tận sâu thẳm đáy lòng, lại đau đớn tột cùng, còn ngập tràn một nỗi trống trải. Chân tay lạnh toát từng hồi, lúc này đây, kỳ thực tôi chẳng biết mình nên đi đâu. Nếu cứ thế này mà về cung thì chắc chắn đám người Cận Tịch sẽ rất lo lắng cho tôi. Nhưng nếu không về, chốn thâm cung to lớn như vậy, tôi biết nương thân ở chốn nào đây?
Đôi chân tôi dần trở nên mỏi nhừ, như thể đang bước trên một lớp bông rất dày và mềm xốp, hồi lâu sau mới đặt được chân lên nền đá xanh phẳng lì, rắn chắc trong vĩnh hạng. Cận Tịch lo lắng bước tới, nhìn thấy tôi mới thở phào một hơi, vội vàng khoác chiếc áo choàng gấm thêu lên vai tôi, nói: "Đều tại nô tỳ không tốt, đi đi về về mất quá nhiều thời gian, khiến nương nương phải đợi chờ vất vả!" Nhìn bộ dạng ngẩn ngơ như người mất hồn, lại chạm vào bàn tay lạnh ngắt đang run lẩy bẩy của tôi, nàng ta lại càng nôn nóng và sợ hãi. "Nương nương sao vậy? Vừa rồi người đã đi đâu? Làm nô tỳ lo lắng quá đi mất!"
Tôi đưa tay lau vệt nước mắt sớm đã khô, miễn cưỡng nói: "Không có gì, vừa rồi ta chỉ bị gió thổi vào mắt thôi!"
Cận Tịch sao dám chậm trễ, lo lắng nói: "E là nương nương đã bị gió lạnh ngấm vào người rồi, để nô tỳ đỡ nương nương về cung nghỉ ngơi."
Trở lại cung, Hoán Bích và Lưu Chu thấy bộ dạng của tôi như vậy cũng sợ đến giật mình, nhưng không dám hỏi nhiều, mà tôi cũng không để ai đi mời thái y, đuổi tất cả bọn họ ra ngoài. Sắc trời dần tối, trong điện còn chưa thắp đèn, bầu không khí ngập trong sự u ám nặng nề. Trái tim tôi cũng chỉ có màu sắc ấ.
Tôi lên giường trùm chăn, những giọt lệ đã kìm nén hồi lâu, tới lúc này mới ào ạt tuôn trào, thấm vào chiếc chăn bông dày và mềm mại, tạo thành một mảng ẩm ướt và ấm nóng ngay trên mặt tôi
Hậu Cung Chân Hoàn Truyện
Trong thời khắc trái tim nguội lạnh, ý chí lụi tàn, tôi rốt cuộc cũng không cầm được nữa, thân thể dần trở nên yếu đuối, thêm vào đó, bệnh cũ còn chưa khỏi hẳn, cuối cũng lại đổ bệnh lần nữa. Căn bệnh này cũng không quá nặng nhưng lại triền miên đeo bám, khiến tôi cả ngày phải nằm trên giường.
Ngoài những người gần gũi kề bên, căn bản không ai biết tôi đổ bệnh. Trong quãng thời gian ấy, Huyền Lăng không triệu tôi đến sủng hạnh lần nào, cũng không đặt chân vào Đường Lê cung một bước. Giữa chốn hậu cung ồn ã, tôi dần trở nên trầm lắng, chẳng được người nào hỏi han.
Thoạt tiên, có rất nhiều người trong cung mong thái độ thờ ơ, lạnh nhạt trước việc Lăng Dung được ân sủng. Trong suy nghĩ của bọn họ, Lăng Dung xuất thân thấp hèn, không có gia thế hiển hách, tính tình lại yếu đuối, dung mạo cũng chỉ tầm tầm, không mức diễm lệ mười phần, thứ duy nhất có thể dựa vào là giọng ca xuất chúng, so với Dư thị vì tiếng hát mà được sủng ái ngày trước, chẳng có quá nhiều điều khác biệt. Thế là bọn họ chắc mẩm rằng hứng thú của Huyền Lăng với nàng ta cùng lắm chỉ kéo dài hai tháng rồi sau đó sẽ nhạt dần. Nhưng sự thẹn thùng, yếu đuối cùng nét dịu dàng của một nữ tử thôn quê trên người Lăng Dung lại khiến Huyền Lăng ngày càng một mê đắm nàng ta. Mộ Dung Phi và tôi trầm xuống, nhất thời, Lăng Dung trở thành người duy nhất được sủng ái trong cung.
Đường Lê cung thực sự đã trở thành một nơi lạnh lẽo như "tiết thu tàn gió rét[1]", ngoại trừ Ôn Thục Sơ, không còn thái y nào khác chịu tới chữa bệnh cho tôi, đám cung nữ, thái giám ngày xưa hết mực xu nịnh cũng thấy tôi là tránh vội. Khi xưa, Mật Tú cung của Mộ Dung Thế Lan và Đường Lê cung của tôi là hai chỗ náo nhiệt nhất trong chốn hậu cung, thế mà giờ đây đều trở nên lạnh lẽo, thực có đôi chút giống với một cặp bằng hữu cùng chung hoạn nạn.
[1] Trích Vũ lâm linh – Hàn thiền thê thiết, Liễu Vĩnh. Phiên âm Hán Việt: Lãnh lạc thanh thu tiết – ND.
Đường Lê cung ngày càng trở nên tịch mịch. Giữa chốn đình viện quạnh hiu, cánh cửa đổ thẫm ngay lúc ban ngày cũng thường xuyên khép chặt, khung cảnh người đông như trẩy hội trước cửa cung bây giờ đã chuyển đến Minh Sắt cư của Lăng Dung. Trong cung của tôi lúc này chỉ có lũ chim sẻ là hay đến nhất. Còn trong số các phi tần, cũng chỉ còn Kính Phi và My Trang là vẫn thường xuyên qua lại. Các cung nhân dần quen với sự tịch mịch này, cả ngày không có việc gì liền đem gạo ra rắc ngoài sân, dụ đám chim sẻ kia xuống ăn, lấy đó làm vui. Dần dà lá gan của lũ chim sẻ kia lớn hơn, đã dám nhảy lên lòng bàn tay người ta mà mổ gạo ăn. Suốt ngày có tiếng chim sẻ kêu ríu rít, bầu không khí cũng không tịch mịch nữa.
Sau khi ngẫu nhiên nghe thấy cuộc trò chuyện giữa Lăng Dung và Huyền Lăng, trái tim tôi dần trở nên lạnh lẽo, chút nhung nhớ và chờ mong nơi đáy lòng cũng tan biến hoàn toàn. Gặp nhau chẳng bằng không gặp, vậy thì không gặp là tốt nhất. Lăng Dung đương nhiên rất bận, bận hầu hạ thánh giá, bận làm đồ ăn đêm, bận dùng tiếng ca của mình để điểm xuyết cho những buổi ca vũ thanh bình, vì thế sao có thời gian tới khuyên giải tôi như hôm đó nói với Huyền Lăng được. Chỉ thỉnh thoảng nàng ta mới sai Cúc Thanh đưa tới một ít đồ điểm tâm, tỏ ý bản thân vẫn còn nhớ tới người tỷ tỷ bị bệnh là tôi đây.
My Trang tới thăm tôi, thường chỉ lẳng lặng bầu bạn bên tôi suốt hồi lâu, nhìn tôi bằng ánh mắt kì lạ, thần sắc vô cùng phức tạp.
Cuối cùng cũng có một ngày, tôi không kìm được, hỏi: "Sao tỷ tỷ cứ nhìn muội như vậy?"
My Trang khẽ mỉm cười: "Tỷ chỉ đang nghĩ, nếu muội thực sự nguội lòng với Hoàng thượng thì sẽ có bộ dạng thế nào đây?"
Tôi hỏi ngược lại: "Lẽ nào tỷ tỷ cho rằng muội còn chưa nguội lòng với Hoàng thượng sao?"
Tỷ ấy hờ hững nói: "Muội nghĩ sao? Nếu muội đã nguội lòng với Hoàng thượng, tại sao lại còn mãi vùi mình trong cơn bệnh mà không thể tự thoát ra được?"
Tôi im lặng, lát sau mới nói: "Muội thực sự hi vọng không bao giờ gặp lại người nữa."
My Trang khẽ mĩm cười, sau một thoáng trầm mặc liền lắc đầu nói: "Muội và ta không giống nhau. Tình cảm của ta với Hoàng thượng vốn rất hời hợt, vì thế người mới cấm túc ta, không hỏi han gì tới ta, có như thế ta mới hiểu rõ sự bạc bẽo của người, do vậy, dù về sau được sủng ái trở lại, người cũng chẳng quá quan trọng đối với ta, có cũng được mà không cũng thế, ta chẳng cần quá để tâm." My Trang nhìn sâu đôi mắt tôi. "Muội và ta thực sự không giống nhau."
Tôi thấp giọng hỏi tỷ ấy, cũng là hỏi chính mình: "Là vì tình ý của muội với Hoàng thượng nhiều hơn tỷ sao?"
"Nếu muội đã chẳng còn chút tình ý nào đối với Hoàng thượng, vậy thì sẽ giống như ta bây giờ, căn bản sẽ không cảm thấy thương tâm vì những lời người nói, những việc mà người làm." Tỷ ấy hơi dừng lại một chút, khẽ nói: "Kỳ thực muội cũng biết, Hoàng thượng không phải không có chút tình ý nào với muội."
Tôi khẽ cười một tiếng, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. "Chỉ là ngoại trừ việc nước, tâm tư của người gần như đã đặt cả lên người Lăng Dung rồi!" Tôi cúi đầu, nhìn những chiếc móng tay để tự nhiên không chút tô điểm của mình, dưới ánh sáng dìu dịu, trông nó nhợt nhạt đến độ gần như trong suốt. Bên ngoài của sổ, mưa rả rích rơi, ý thu càng nồng. Mưa lạnh rơi xuống những phiến lá ngô đồng khô vàng, phát ra những tiếng lộp bộp khe khẽ mà dồn dập. Tôi nói: "Nói thế nào đi nữa thì Lăng Dung cũng từng giao hảo với chúng ta, dù lời nói và việc làm của muội ấy bất nhất, nhưng chẳng lẽ muội lại phải đi tranh sủng với muội ấy? Huống chi Hoàng thượng lại thích muội ấy hơn."
Đáy mắt My Trang gợn lên một nét cười hờ hững. "Khi được sủng ái, muội đã từng giúp đỡ Lăng Dung, nhưng khi Lăng Dung được sủng ái, muội ấy có giúp đỡ muội chút nào không? Nếu muội ấy giúp muội, muội việc gì phải đi tranh sủng. Nếu muội ấy không giúp muội, chẳng lẽ muội định lặng lẽ chết già trong chốn hậu cung này?" Tỷ ấy khẽ "hừ" một tiếng. "Huống chi Hoàng thượng hôm nay thích muội nhiều hơn, ngày mai lại thích muội ấy nhiều hơn, chưa bao giờ giữ nguyên lập trường. Thứ mà đám nữ nhân bọn ta tranh giành chẳng phải chính là chút tình cảm ít ỏi đó sao? Muội không tranh đồng nghĩa với việc tình cảm mà người dành cho muội sẽ ngày càng ít, rồi cuối cùng, người sẽ hoàn toàn quên mất sự tồn tại của muội ở nơi này."
Tôi lặng lẽ nhìn những khóm hoa cúc bên ngoài cửa sổ bị nước mưa xối vào, trở nên mục rữa, tối đến gió mạnh, khắp sân hoa vàng chất đống, tiều tụy thảm thương[2], ấy không chỉ là Lý Dị An, cũng là Chân Hoàn tôi nữa. Huống chi, Dị An còn có Triệu Minh Thành[3] để mà nhớ nhung, còn tôi, nếu nhớ tới quãng thời gian tươi đẹp ngày ấy thì phải kèm theo sự thất vọng và thương tâm tới tột cùng.
[2] Trích Thanh thanh mạn – Tầm Tầm mịch mịch, Lý Thanh Chiếu (Dị An cư sĩ). Phiên âm Hán Việt: Mãn địa hoàng hoa đôi tích, tiều tụy tốn – ND.
[3] Chồng của Lý Thanh Chiếu – ND.
Có lẽ đúng như lời My Trang nói, quả thực tôi chưa hoàn toàn nguội lòng với Huyền Lăng. Nếu đã hoàn toàn nguội lòng thì sự thất vọng và thương tâm kia cũng không thể khiến tôi đau khổ đến thế.
My Trang nói: "Muội có lòng thương Hoàng thượng, có sự khát khao với tình cảm nên mới khó chịu, mới để tâm tới việc người thích ai như thế. Nếu muội không hề yêu Hoàng thượng thì sẽ không thương tâm, mà chỉ một lòng tranh đoạt tình cảm của người. Người không có tình cảm sẽ không lãng phí thời gian vào sự khó chịu vô bổ này đâu."
Tôi khẽ cười ngơ ngẩn. "Tỷ tỷ, muội ngốc quá phải không? Lại đi mong mỏi có được tình yêu thuần túy trong chốn hậu cung này, hơn nữa còn ôm nỗi chờ mong với đấng quân vương chí cao vô thượng của chúng ta."
My Trang thoáng trầm tư, đôi môi mím chặt tạo thành một đường cong rất đẹp, hồi lâu sau mới chậm rãi nói: "Nếu ta cũng ngốc như muội thì sao?" Tỷ ấy ngoảnh đầu đi, nỗi buồn thương lan tỏa như làn nước, đoạn khẽ cười. "Có lẽ ta còn ngốc hơn muội nnữa. Trên thế gian này có một người còn ngốc hơn muội, đó chính là ta." Tôi kinh ngạc nhìn My Trang, có lẽ My Trang của lúc này đã không còn là My Trang mà tôi đã từng biết. Có lẽ trong khoảnh khắc nào đó, tỷ ấy đã có những sự thay đổi nhất định, còn tôi lại không hề phát hiện.
Tôi bước tới, nắm lấy bàn tay My Trang, khẽ gọi: "Tỷ tỷ?"
My Trang nói: "Hoàn Nhi, muội có thể thương tâm, nhưng đừng thương tâm quá lâu, người thương tâm trong chốn hậu cung này đã quá nhiều rồi, muội đừng biến mình thành một người trong số đó." Tỷ ấy đứng dậy, tà váy dài thướt tha quét trên mặt đất, tựa như đóa hoa còn đang hé nở, sau cùng, tỷ ấy ngoảnh đầu, nói: "Nếu muội cứ thương tâm như vậy thì muội mãi mãi chỉ có thể là một người thương tâm mà thôi!"
Cả ngày nằm lì trên giường, ngoài trời lại mưa dầm dề rả rích nên tôi cũng lười chẳng muốn đứng dậy, dù sao dạo này, trong cung cũng chẳng có mấy ai đoái hoài đến tôi. Hôm ấy, đang nằm buồn chán trên giường, tôi chợt nghe nói có Nhữ Nam Vương phi Hạ thị đến chơi.
Tôi thầm cảm thấy ngạc nhiên, vì giữa tôi và cô ta chẳng qua chỉ có duyên gặp mặt một lần, mà phu quân của cô ta lại là người đứng sau lưng Mộ Dung Phi. Hiện giờ tôi đã bị ghẻ lạnh như vậy, sao cô ta còn đến thăm một phi tần vừa thất sủng vừa ôm bệnh làm gì? Nhưng khi tôi đang định cho người đi thoái thác không gặp, Hạ thị đã tự mình bước vào.
Cô ta nở nụ cười hòa nhã rồi ngồi xuống ngay bên cạnh tôi, nói: "Hôm nay ta vốn vào cung để thỉnh an Thái hậu, lại vừa đi bái kiến Hoàng hậu, vô tình nghe nói thân thể nương nương không được khỏe, do đó mới đặc biệt tới đây thăm nương nương."
Tôi vuốt qua mặt một cái, trong lúc bệnh tật, không thể trang điểm, khí sắc đương nhiên rất kém, bèn không ngồi dậy nữa, quay đầu qua nói: "Đã khiến Vương phi chê cười rồi, ta đang mang bệnh trong người, vốn không thể gặp khách, chẳng ngờ Vương phi đột nhiên tới đây, thật thất lễ!"
Cô ta cũng không nói gì, chỉ thoáng liếc nhìn chiếc bụng phẳng lì bên dưới lớp chăn nhung của tôi, ngoảnh đầu qua một bên, khẽ thở dài một tiếng. Động tác tinh tế này của cô ta khiến trái tim tôi bất giác nhói đau. Cô ta nói: "Mới chỉ ba, bốn tháng không gặp Quý Tần nương nương, vậy mà..."
Tôi gượng cười một tiếng: "Đa tạ Vương phi quan tâm."
Trong lòng tôi kỳ thực khá kiêng dè cô ta, vì dù sao phu quân của cô ta cũng là người cùng phe với Mộ Dung Phi, thế nên chỉ nói với cô ta những lời khách sáo. Cô ta cũng không ngồi lâu, đoạn nói: "Xin nương nương hãy giữ gìn thân thể cho tốt." Trước lúc đi còn chỉ tay lên bàn. "Hộp nhân sâm trăm năm này là một chút tâm ý của thiếp thân, mong nương nương nhận lấy mà bồi bổ thân thể."
Tôi đưa mắt liếc qua, nói: "Đa tạ ý tốt của Vương phi!"
Hạ thị khẽ mỉm cười, quay đầu, nói: "Nếu trong lòng nương nương có điều kiêng kị, cứ vứt nó đi cũng không sao."
Nghe cô ta nói vậy, tôi cũng đành đáp lại: "Sao có thể chứ? Vương phi cả nghĩ rồi!" Thế nhưng, đợi sau khi cô ta rời đi, tôi cũng chỉ có thể đem bỏ thứ đó vào một xó mà thôi.
Lại hai ngày nữa trôi qua, cơn mưa rả rích suốt nửa tháng trời rốt cuộc đã tạnh vào độ hoàng hôn. Sau cơn mưa, những giọt nước trong veo rớt từ trên cây xuống, bầu không khí ngập tràn một sự thuần khiết và ngọt ngào mà lâu lắm rồi mới lại xuất hiện.
Vầng trăng từ từ lên cao qua ngọn liễu đằng đông, cong cong như một chiếc lưỡi liềm màu bạc, tựa như hàng lông mày mảnh mai, đẹp đẽ của một nữ tử. Tâm trạng tôi đang tốt, liền cho người lấy cây đàn Trường tương tư tới, ngồi gảy giữa sân ngay dưới ánh trăng, thực cũng là một việc hết sức thanh nhã.
Từ khi đổ bệnh đến giờ, tôi rất ít khi nổi hứng như vậy, ý niệm này vừa dấy lên, mấy người Hoán Bích, Lưu Chu lý nào lại không hiểu tôi cơ chứ. Tôi ngồi cúi đầu gảy đàn, những ngón tay lướt đi vô tâm nhưng lại để lộ mối tâm sự mà bản thân bấy lâu nay ẩn giấu.
Hoa ngậm khói sắc trời sắp tận, trăng giăng tơ lòng ngẫm sầu mang. Đàn Triệu ngừng khúc Phượng Hoàng, muốn ôm đàn Thục uyên ương góp lời. Đàn ý hay không ai lưu giữ, gửi gió xuân đến xứ Yên Nhiên. Non Yên đâu chẳng tới miền, nhớ chàng thăm thẳm đường lên tới trời. Ánh mắt xưa lả lơi làn sóng, mà nay thành suối nóng lệ tuôn. Chẳng tin lòng thiếp đậm buồn! Chàng về mà ngắm đáy gương, hỡi chàng![4]
[4] Trích bài Trường tương tư II của Lý Bạch, dịch thơ: Lại Quảng Nam. Phiên âm Hán Việt: Nhật sắc dục tẫn hoa hàm yên, nguyệt minh như tố sầu bất miên. Triệu sắt sơ đình phượng hoàng trụ, thục cầm dục tấu uyên ương huyền. Thử khúc hữu ý vô nhân truyện, nguyện tùy xuân phong ký yến nhiên. Ức quân điều điều cách thanh thiên, tích nhật hoành ba mục, kim vi lưu lệ tuyền. Bất tín thiếp tràng đoạn, quy lai khán thủ minh kính tiền – ND.
Lý Bạch nổi danh tiêu sái, phóng khoáng mà cũng có lúc tương tư da diết đến thế này ư? Nhưng thứ mà ông nhung nhớ liệu có giống tôi, cũng là một mảnh ký ức đắng chát xen lẫn mấy tia ngọt ngào? Những bông hoa hạnh ở Thượng Lâm uyển ngày đó, cuộc gặp gỡ mê ly độ nào, dù nơi đáy lòng có thương tâm tột độ, tôi cũng không thể nào quên. Dù sao hôm nhìn thấy y bước ra từ giữa khóm hoa hạnh ngập trời, đó cũng là lần đầu tiên lòng tôi biết xao động trước một đấng nam tử.
Ánh mắt xưa lả lơi làn sóng, mà nay thành suối nóng lệ tuôn, nước mắt có rơi hay không chính là điều đang làm tim tôi khó xử.
Cây đàn của Thư Quý phi có tên là Trường tương tư, tôi không kìm được thầm nghĩ, trong chốn cung đình thuở xưa, giữa độ đêm xuân sáng tỏ, hoa thắm trăng tròn, tiếng đàn của bà và tiếng tiêu Trường tương thủ của tiên đế chan hòa, ấy sẽ là một khung cảnh tươi đẹp đến nhường nào?
Nỗi tương tư ấy chắc cũng giống với nỗi tương tư của tôi bây giờ, vừa tan nát lại vừa không đành lòng nhớ lại. Chỉ đáng tiếc, trước giờ, trong cung chỉ có một vị Thư Quý phi, cũng chỉ có một vị tiên đế.
1
Lòng đang buồn bã, ngón tay tôi lướt nhẹ trên dây đàn nhưng cũng chỉ có thể gảy được nửa đầu của khúc nhạc, nửa cuối thì không sao có thể gảy tiếp.
Đang định ngưng tiếng đàn, đằng xa chợt thấp thoáng vọng lại tiếng sáo, thổi nốt nửa khúc còn lại của bài Trường tương tư.
Nhớ nhau đau đáu! Ngụ tại Trường An! Dế thu miệng giếng gáy ran, sương rơi bao lớp âm hàn chiếu tre. Đèn mờ, ruột thắt gan se, vén màn trăng ló e dè thầm than. Mỹ nhân! Hoa cách mấy ngàn tầng mây! Ngước lên trông trời tây biêng biếc, cúi xuống nhìn sóng nước mông lung. Hồn bay trời rộng hãi hùng, mộng hồn khó đến ngàn trùng quan san. Nhớ nhau đau đáu! Hiu hắt tim gan![5]
[5] Trích bài Trường tương tư I của Lý Bạch, dịch thơ: Lại Quảng Nam. Phiên âm Hán Việt: Trường tương tư, tại Trường An. Lạc vĩ thu đề kim tỉnh lan, vi sương thê thê điệm sắc hàn. Cô đăng bất minh tư dục tuyệt, quyển duy vọng nguyệt không trường thán. Mỹ nhân như hoa cách vân đoan, thượng hữu thanh minh chi trường thiên, hạ hữu lục thủy chi ba lan. Thiên trường địa viễn hồn phi khổ, mộng hồn bất đáo quan sơn nan. Trường tương tư, tồi tâm can – ND.
Ở khoảng cách khá xa, tiếng sáo ấy vang lên nhẹ nhàng mà mờ mịt, như có như không, vô cùng động lòng người. Tôi hỏi người bên cạnh xem có nghe thấy tiếng sáo đó không, nhưng bọn họ đều tỏ ra ngơ ngẩn, nói không nghe thấy gì. Tôi cơ hồ đã hoài nghi rằng mình nghe nhầm, nhưng lúc đưa mắt ngó qua bên cạnh, lại thấy vẻ mặt say mê của Hoán Bích, không kìm được cả mừng hỏi: "Ngươi cũng nghe thấy đúng không?"
Hoán Bích quả nhiên đang lắng nghe rất chăm chú, lát sau mới phản ứng lại, khẽ "a" lên một tiếng, nói: "Hình như rất giống với khúc nhạc mà nương nương vừa đàn thì phải!"
Khúc nhạc Trường tương tư mà tôi đàn rốt cuộc đã sa đà vào sự thê lương nên chẳng còn mối tương tư khắc cốt ghi tâm kia nữa. Lúc này, nghe thấy người đó thổi sáo, tình cảm bên trong rõ ràng là hơn tôi gấp bội lần.
Tôi bất giác đứng dậy, đi ra cạnh cửa, lắng nghe một hồi. Tiếng sáo đó xa thẳm, trong veo, du dương réo rắt, xoay chuyển luân hồi, giữa màn đêm tĩnh lặng hệt như một nét ôn hòa của ngày xuân, khiến tâm trạng người ta thoải mái hơn nhiều.
Tôi quay về, ngồi xuống bên cạnh cây đàn, hai tay thuần thục lướt nhẹ, những âm sắc tròn đầy trong trẻo vang lên từ dưới ngón tay, trong khúc nhạc đã có thêm ba phần nhớ nhung da diết.
Tiếng sáo bên kia dường như đã gần lại đôi chút, tôi có thể nghe thấy rõ ràng hơn. Nương theo làn điệu của tiếng sáo, tôi thay đổi tiếng đàn của mình, cố gắng làm nên một bản nhạc đàn sáo hòa tấu, tâm tư cũng vì thế mà tập trung vào việc giữ sự hài hòa, tạm quên đi những nỗi niềm không vui tích lũy trong lòng bấy lâu. Tiếng đàn triền miên uyển chuyển, tiếng sáo trong trẻo du dương, kết hợp tạo nên một khúc nhạc tuyệt vời, nhất thời, ngay đến ánh trăng cũng như ngừng chuyển động. Hai làn âm thanh chan hòa dưới áng mây mờ, vang lên giữa làn gió thu đìu hiu, dịu nhẹ, khiến lòng người xao động rung rinh.
Khúc nhạc kết thúc, Cận Tịch cười, nói: "Lâu lắm rồi nô tỳ mới được nghe lại tiếng đàn tuyệt diệu của nương nương."
Tôi hỏi: "Các ngươi vẫn không nghe thấy tiếng sáo sao?"
Cận Tịch hơi nghiêng đầu, nàng ta đáp: "Vừa rồi hình như có nghe thấy một chút, nhưng rất mơ hồ, không rõ ràng lắm."
Tôi không nghĩ ngợi nhiều, nói: "Không biết trong cung có vị nương nương, tiểu chủ nào lại thổi sáo hay như vậy?" Sau đó nhẹ nhành đứng dậy. Hoán Bích sớm đã cầm sẵn áo choàng trên tay, trong mắt đầy vẻ mong chờ. Tôi hiểu ý của nàng ta, hỏi: "Ngươi bị tiếng sáo đó làm cho rung động rồi phải không?"
Hoán Bích bất giác mỉm cười: "Nương nương có muốn ra ngoài đi dạo không?"
Phía bên ngoài, ánh trăng trải dài tới dãy hành lang quanh co, uyển chuyển. Cổ nhân đạp tuyết tầm mai, ngửi hương mà đi, còn tôi thì nghe tiếng mà đi tìm người thổi sáo, thứ có thể dựa vào cũng chỉ có một làn âm thanh trong trẻo, sâu thẳm kia. Tôi và Hoán Bích cùng cất bước dưới ánh trăng dìu dịu, càng đi càng xa.
Sâu trong dãy hành lang, một nam tử mặc đồ màu trắng, cầm một cây sáo tím trong tay, hơi ngẩng đầu ngắm trăng, khẽ thổi. Trông dáng vẻ y hết sức an nhàn, thư thái, tựa người vào hàng lan can hóng gió đêm, dường như đang đắm mình vào khúc nhạc.
Sau khi đã nhìn rõ người đó là ai, tôi bất giác sững người, biết chuyện bất ổn, liền liếc mắt nhìn qua phía Hoán Bích, thấy nàng ta cũng tỏ ra rất bất ngờ. Tôi vốn định dừng bước không đi tiếp nhưng nghĩ lại, trong lúc tôi gặp nạn, y cũng từng có ân nghĩa với tôi.
Chậm rãi bước về phía trước, tôi khẽ gật đầu, tỏ ý chào y. Hoán Bích nhìn thấy y cũng bước tới khom người hành lễ. Tôi thoáng có chút ngạc nhiên, không ngờ Hoán Bích lại chỉ hành lễ theo lối bình thường. Tôi còn chưa kịp nghĩ nhiều, Hoán Bích đã hiểu chuyện mà rảo bước rời đi.
Ánh mắt của Huyền Thanh dừng trên mặt tôi một thoáng rồi nhanh chóng rời đi, y chỉ khẽ nói: "Nàng gầy đi nhiều quá!"
Tôi khẽ mỉm cười. "Lúc này rèm cuốn gió tây, người đọ hoa vàng võ[6] cũng là lẽ thường tình."
[6] Trích Túy hoa âm – Bạc vụ nồng vân sầu vĩnh trú của Lý Thanh Chiếu. Dịch thơ: Nguyễn Chí Viễn. Phiên âm Hán Việt: Liêm quyển tây phong, nhân tỷ hoàng hoa sấu – ND.
Ánh mắt y thoáng qua chút tiếc thương nhẹ nhàng. Tôi của bây giờ thực sự không chịu nổi mà cũng không nhận nổi ánh mắt nào như thế nữa, vì thế, tôi bèn lùi lại hai bước, chỉnh sửa trang phục, nghiêm túc nói: "Ngày đó, Vương gia cao nghĩa giúp bản cung giữa lúc nguy nan, bản cung khắc cốt ghi tâm, vô cùng cảm kích!"
Y nghe tôi nói vậy thì bất giác ngẩn ra, trong mắt lóe lên vài tia sáng. "Quý tần nhất định phải vạch rõ ranh giới với Thanh như vậy hay sao? Đáng tiếc ngày đó vẫn không thể bảo vệ được đứa bé trong bụng Quý tần."
Mọi người đều biết Thanh Hà Vương xông vào Mật Tú cung cứu tôi chẳng qua vì tôi là sủng phi của Huyền Lăng, cứu tôi cũng là để xu nịnh Huyền Lăng mà thôi. Do đó, vào dịp sinh nhật tôi, y mới chịu thêu hoa trên gấm[7], về sau lại tặng than giữa trời tuyết rơi[8]. Nói cho dễ nghe một chút thì cũng chỉ là vì đứa bé trong bụng tôi mà thôi. Nhưng chỉ có tôi biết rõ nhất, y xông vào Mật Tú cung không phải chỉ vì như vậy. Nhưng dù sao đi nữa, giữa chốn hoàng cung này cũng chỉ có một mình y chịu trượng nghĩa giúp tôi.
[7] Thành ngữ, ý nói sự vật vốn đã đẹp rồi, lại tô điểm cho càng đẹp hơn – ND.
[8] Thành ngữ, ý nói cứu giúp người ta trong cơn hoạn nạn – ND.
Tôi thản nhiên cười, nói: "Tuy bây giờ bản cung đã thất sủng nhưng quyết không phải hạng người vong ân bội nghĩa. Ngày sau nếu Vương gia có việc cần, bản cung cũng sẽ toàn lực trợ giúp."
Y bật cười. "Nghe nàng tự xưng là 'bản cung' như vậy, quả thực kỳ quặc quá chừng!" Rất nhanh sau đó, y đã nghiêm túc nói: "Thanh trợ giúp Quý tần không phải là để trao đổi."
Tôi khẽ gật đầu. "Có lẽ đối với ta mà nói, trao đổi sẽ an toàn hơn một chút."
Y nói: "Chỉ mong Thanh có thể là ngoại lệ. Thanh cũng hy vọng Quý tần được bình yên, vì... Thanh coi Quý tần như người tri kỷ." Y thoáng dừng lại. "Chốn này hoang vắng, sao Quý tần lại tới đây?"
Tới lúc này, tôi mới khẽ cười, chỉ tay vào chiếc sáo tím trong tay y. "Vương gia cho rằng người gảy đàn vừa rồi là ai?"
Y mỉm cười vẻ thấu hiểu. "Thanh đoán bậy người ấy có lẽ là Quý tần."
Tôi cười, nói: "Vương gia có tin trên thế gian này có chuyện tâm ý tương thông không?" Tôi nói những lời này bằng giọng rất nhẹ nhàng nhưng bên trong lại ẩn chứa đầy sự sắc bén.
Bóng dáng cô độc của y đứng giữa ánh trăng lạnh lẽo mà thuần khiết, những đường nét tuấn tú lại càng làm tăng thêm sự dịu nhẹ, hiền hòa. Y không hề phát hiện ra dụng ý của tôi, nghiêm túc đáp: "Thanh tin!"
Thấy y nghiêm túc và thành khẩn như vậy, tôi bất giác có chút áy náy, hà cớ gì nhất định phải bắt y nói ra? Thế nhưng lời đã ra khỏi miệng, không thể không tiếp tục: "Cho nên Vương gia mới biết được việc ta bị nạn trong Mật Tú cung, mới có thể kịp thời tới cứu ta."
Lời này có chút gay gắt nhưng y vẫn thản nhiên đáp: "Kỳ thực..."
Tôi ngoảnh đầu qua, khẽ nói: "Ta biết Vương gia làm vậy là vì muốn tốt cho ta, nhưng lén lút đi lại thường xuyên với thị nữ hầu cận của ta không phải là việc hay, nếu bị đồn ra ngoài, ắt chẳng ích lợi gì cho Vương gia."
Trong mắt y thoáng qua một nét mừng vui. "Đa tạ Quý tần nhắc nhở!"
Tôi thầm cảm kích sự thấu hiểu của y, trái tim như vừa được một bàn tay rất mực dịu dàng nhẹ nhàng vuốt qua, nhưng ngoài miệng thì vẫn cất tiếng đùa: "Kỳ thực cũng không có gì, nếu lỡ bị người ngoài phát hiện, ta sẽ thuận nước dong thuyền đem tặng nàng ta cho Vương gia làm thiếp."
Y khẽ ho một tiếng, chăm chú nhìn tôi. "Nếu Quý tần chỉ đùa thôi thì không sao nhưng nếu đó là những lời thật lòng, Thanh cũng chỉ đành không hiểu phong tình thôi."
Tôi đưa tay áo lên che miệng, khẽ cười, suy nghĩ một chút rồi hỏi: "Đêm nay tại sao Vương gia lại xuất hiện ở đây?"
Y đáp: "Hoàng huynh mở tiệc đêm, các thân vương quý tộc đều có mặt."
Tôi bất giác bật cười: "Vương gia lại trốn khỏi bữa tiệc sao?"
Y cũng cười: "Đây là việc bình thường thôi mà!" Do dự một lát, y hỏi: "Hình như ta đã gặp vị An Tiểu viện ngồi cạnh Hoàng thượng hôm nay ở đâu rồi."
Tôi khẽ đáp: "Chính là An Mỹ nhân trước đây."
Bàn tay y vô thức bám lên hàng lan can loang lổ vết sơn màu đỏ. "Vậy sao? Tiếng ca của An Tiểu viện đã tiến bộ hơn nhiều, duy chỉ có điều tiếc nuối là nàng ta đã đánh mất phong thái của riêng mình."
Tôi thản nhiên nói: "Thứ Hoàng thượng thích mới là quan trọng nhất, chẳng phải sao?"
Dường như y đang nghiền ngẫm từng lời của tôi, sau một thoáng, y bèn ngẩng đầu qua nhìn tôi, nhẹ nhàng nói: "Tiếng đàn vừa rồi đã tiết lộ tâm sự của nàng."
Tôi cúi đầu, gió đêm thổi tới, khiến tà áo của tôi khẽ tung bay. Tôi quả thực gầy đi rất nhiều, ống tay áo vốn đã rộng nay càng thêm rộng, gió cứ thế lùa vào lạnh buốt. Tôi thấp giọng biện bạch: "Chẳng qua cũng chỉ là một khúc nhạc mà thôi!"
Y nói: "Nhạc tỏ lòng người, với nàng là vậy, với ta cũng vậy."
Lòng bất giác nhói đau, tôi nhớ đến ý vị trong bài Trường tương tư, hai mắt chợt cay sè. Thế nhưng tôi không muốn rơi lệ trước mặt y thêm lần nữa, bởi tôi biết một khi mình rơi lệ, người thương tâm sẽ không chỉ có mình tôi. Thế là tôi bèn ngẩng lên, cố ngẩng đầu thật cao, đẩy hết nước mắt trôi ngược, nhờ thế mới miễn cưỡng duy trì được một nụ cười nhàn nhạt.
Y chăm chú nhìn tôi, trong mắt ánh lên những tia thương cảm, bàn tay bất giác từ từ đưa tới, dường như muốn khẽ ve vuốt mái tóc của tôi. Tôi sững người, nơi đáy lòng trào dâng một nỗi sợ hãi lớn lao, cảm thấy bốn phía xung quanh thật quá tĩnh lặng. Bên cạnh là một gốc hoa quế, thỉnh thoảng lại có làn gió thổi tới, tôi gần như có thể nghe thấy rõ ràng tiếng hoa quế nhè nhẹ chạm đất. Ánh trăng hôm nay không sáng lắm, thế nhưng những tia sáng dịu dàng ấy khi đậu xuống tóc mai của tôi lại làm ánh lên những tia đen nhánh mà lạnh lẽo, ngăn cản tình cảm dịu dàng của y đối với tôi. Tôi bất chợt cả kinh, cả đời cả kiếp này của tôi, từ thân thể đến mái tóc, làn da sớm đã theo thân phận của tôi mà thuộc về Huyền Lăng mất rồi. Nghĩ đến đây, sắc mặt tôi bất chợt đờ ra.
Y cũng hiểu thế, bàn tay dừng lại cách mái tóc tôi một tấc, thân thể cứng đờ.
Tôi nhanh chóng xoay người lại, không nhìn y thêm nữa nhưng bầu không khí vẫn trở nên hết sức gượng gạo. Tôi tùy ý tìm một chủ đề: "Đây là nơi nào vậy? Không ngờ lại hoang liêu đến thế."
Y cách tôi hơi xa, giọng nói nghe có chút mơ hồ: "Đây là Phật đường của Chiêu Hiến Thái hậu khi xưa." Thoáng dừng lại một chút y nói tiếp: "Ngày trước mẫu phi của ta đã bị phạt quỳ tại đây."
Chiêu Hiến Thái hậu là mẹ cả của Tiên đế Long Khánh đế, mẹ ruột của Tiên đế là Chiêu Tuệ Thái hậu đã qua đời từ sớm, Tiên đế từ nhỏ đã được Chiêu Hiến Thái hậu nuôi dưỡng, tình cảm giữa hai bên vốn luôn tốt đẹp. Về sau, Thư Quý phi vào cung, hai mẹ con vì thế mà gần như trở mặt. Không lâu sau, Tiên đế điều tra ra cái chết của Chiêu Tuệ Thái hậu là do Chiêu Hiến Thái hậu sắp đặt, tất cả cũng chỉ muốn đoạt lấy Tiên đế nhằm giữ ngôi Thái hậu. Sau khi Chiêu Hiến Thái hậu qua đời, Tiên đế hạ lệnh chỉ cho bà dùng hiệu Thái hậu, linh vị không được đặt vào Thái miếu, quan tài không được đưa vào Hoàng Lăng, chỉ cho phép táng ở lăng phi tử, cũng không có tên thụy, hậu thế không được truy tặng tên hiệu. Nơi ở của Chiêu Hiến Thái hậu vì thế mà trở nên hoang vu, không cung nữ nào rảnh rang tới dọn dẹp.
Đêm dần về khuya, con quạ gáy xám đậu trên cây đột nhiên kêu lên một tiếng quái dị, phá tan sự tịch mịch vốn có. Cuối thu, sương nặng hạt, bất giác đã thấm ướt vạt váy và ống tay áo của tôi. Tôi xoay người rời đi, đồng thời cất tiếng: "Hoàng thượng mở tiệc, Vương gia không nên ra ngoài quá lâu, dù gì như thế cũng không hợp với lễ nghi."
Y khẽ gật đầu, chậm rãi thổi một khúc nhạc thanh thoát để tiễn chân tôi. Nhạc điệu vốn vui vẻ nhưng lọt vào tai tôi lại có cảm giác tịch mịch vô cùng, tà váy của tôi lướt đi trên mặt đất kéo theo những hạt bụi vương đầy, dường như còn mang theo một số thứ gì khác nữa. Mặt tôi bỗng có cảm giác âm ấm, rất giống cái cảm giác ấm áp và ẩm ướt ngày hôm đó, khi tôi đang hôn mê, nước mắt của y rơi xuống gò má tôi, đến bây giờ, dường như cảm giác ấy vẫn còn ẩn hiện trong đầu. Mãi đến lúc đi tới chỗ rẽ đằng xa, tôi mới liếc nhìn y, thấy y vẫn còn đứng nguyên chỗ cũ, chỉ dùng tiếng sáo để tiễn chân tôi, nơi đáy mắt dường như còn thoang thoảng nét sầu, tôi chắc chắn rằng mình không thể nhìn nhầm được.
Đường trong vĩnh hạng dài mà lạnh lẽo, có sự ngăn cản của hai bức tường cao vút hai bên nhưng tôi vẫn có thể loáng thoáng nghe thấy tiếng ca múa tưng bừng mà làn gió lạnh đưa tới từ tiền điện. Tôi và Hoán Bích chậm rãi bước đi, hai cái bóng rất dài dường như hòa làm một, in xuống con đường lát đá xanh trong vĩnh hạng, chẳng khác gì một người.
Tôi ngẫm nghĩ xem nên lựa lời thế nào mà mở miệng, cuối cùng vẫn đưa ra quyết định hỏi thẳng: "Muội và Lục Vương gia bắt đầu qua lại với nhau từ bao giờ?"
Hoán Bích cả kinh, nhất thời nghẹn lời, hoang mang định quỳ xuống. Tôi vội đỡ lấy Hoán Bích, nói: "Bây giờ là trưởng tỷ đang hỏi chuyện muội, muội bằng lòng nói thì nói, không bằng lòng thì thôi."
Nàng ta cúi đầu, thưa: "Muội không có ý dấu trưởng tỷ đâu."
Tôi nói: "Có phải bắt đầu từ hôm sinh nhật ta không?" Thấy Hoán Bích im lặng, tôi lại nói: "Chẳng trách khi đó muội nhất định không chịu để ta tới hồ Thái Dịch bơi thuyền, chắc hẳn y đã nhắc nhở muội phải để ta có được một niềm vui bất ngờ rồi." Tôi đưa mắt nhìn nàng ta, nói tiếp: "Vậy ngày đó, khi ta bị nhốt trong Mật Tú cung, chính muội đã đi cầu cứu Lục Vương gia đúng không?"
Hoán Bích khẽ gật đầu. "Cận Tịch cô cô phải ở trong Mật Tú cung với trưởng tỷ, tất nhiên không tìm được cơ hội thoát thân được rồi. Khi đó, Thái hậu đang bệnh nặng, trong cung không một ai có thể làm chủ cho trưởng tỷ, muội đành bạo gan đi tìm Vương gia!"
"Vậy sau đó, bọn muội còn qua lại với nhau mấy lần nữa?"
"Chỉ có hai lần, một lần là sau khi trưởng tỷ mang thai, còn lần nữa là hai ngày trước. Vương gia khi đó cũng không nói gì, chỉ dặn dò muội phải chăm sóc cho trưởng tỷ thật tốt."
Tôi khẽ buông tiếng thở dài. "Y cũng coi như là có lòng rồi!"
Hoán Bích nói: "Sao hôm nay đột nhiên trưởng tỷ lại hỏi tới chuyện này? Có phải Vương gia nói gì với trưởng tỷ không?"
Tôi khẽ lắc đầu. "Không phải thế. Chỉ vì ban nãy, khi nhìn thấy Lục Vương gia, muội chỉ hành lễ theo lối bình thường, nếu không phải thường ngày từng lén gặp, khi đột nhiên nhìn thấy y, đáng lẽ muội phải hành đại lễ mới đúng."
Hai má Hoán Bích đỏ bừng, nói: "Đúng là muội đã sơ suất."
Tôi thấp giọng dặn dò: "Ta bây giờ đang ở trong tình huống tiến thoái lưỡng nan, nếu muội và Vương gia qua lại quá nhiều, ắt sẽ chẳng mang lại lợi ích gì cho Vương gia và chúng ta, chớ nên lén gặp y nữa."
Hoán Bích thoáng trầm ngâm rồi thưa: "Vâng!"
Vĩnh hạng vô cùng tịch mịch, chú ý lắng tai còn có thể nghe thấy tiếng loạt soạt của tà váy quét trên mặt đất. Tiếng ca ở tiền điện được làn gió thổi tới, nghe trong trẻo mà mềm mại, đó là giọng ca của Lăng Dung. Tôi dừng chân lắng nghe một chút, khẽ cười ngơ ngẩn, cuối cùng dắt tay Hoán Bích quay về.
Giữa buổi đêm ở chốn hoàng cung vừa tịch mịch lại vừa náo nhiệt, là ai gảy đàn, thổi tan làn sương mù mờ mịt mông lung, là ai ca hát, làm nẩy lên bông tuyết giữa nơi rèm vàng màn ngọc?
Hậu Cung Chân Hoàn Truyện
Sau tiết sương giáng, bầu không khí bắt đầu trở nên lành lạnh, đặc biệt là vào lúc sáng sớm và sau buổi chiều, khi ra ngoài đã cần mặc áo gấm độn bông mỏng. Mỗi trận mưa thu lại mang tới một phần lạnh lẽo, lúc này trời đã vào độ cuối thu.
Giữa mùa thu đã tiêu điều như thế, lại kèm theo những cơn mưa rả rích, thời gian cứ lặng lẽ trôi trong những chuỗi ngày âm u dài dằng dặc.
Hôm ấy, mưa vừa tạnh và trời vừa hửng nắng, vầng thái dương rọi xuống những tia sáng lờ mờ, giống như những phiến lá vàng khô, không ngừng đậu xuống thân thể người ta. Thấy tôi tỏ vẻ lánh đời như vậy, My Trang thường tới khuyên nhủ tôi vài câu, còn tôi chỉ dùng sự im lặng để trả lời. Hôm nay, My Trang đến cung của tôi, không nói hai lời, kéo tay tôi rời đi. Tỷ ấy bước rất nhanh, kéo tôi đi như bay trên con đường lát đá trong vĩnh hạng, từng làn gió nhẹ thổi tới khiến vạt áo choàng khe khẽ tung bay, giống như một bàn tay trẻ con nghịch ngợm đang táy máy.
Tôi không biết My Trang định đưa tôi đến nơi nào, đường rất dài, đi bao lâu rồi mà vẫn chưa tới nơi tỷ ấy muốn tới. Tôi để ý quan sát cảnh vật xung quanh, thấy dường như mình đã từng đi qua nơi này từ thuở nào xa xôi lắm, tỉ mỉ ngẫm lại, bất giác hít vào một hơi khí lạnh. Con đường này chính là đường đi tới lãnh cung Khứ Cẩm. Mấy năm trước, khi ở lãnh cung, tôi đã hạ lệnh giết chết nữ tử đầu tiên uy hiếp tới tính mạng của mình trong chốn hậu cung. Đó là lần đầu tiên tôi cố ý giết người, dẫn tới việc rất nhiều đêm sau đó tôi thường mơ thấy cảnh Dự thị bị thắt cổ đến chết, khiến tôi đến tận bây giờ vẫm còn thầm kinh sợ.
Phải đi rất lâu mới tới được lãnh cung. Đẩy cửa ra, vô số hạt bụi nhỏ ập thẳng vào mặt chúng tôi, tất cả như đang nhe nanh múa vuốt dưới ánh dương lờ mờ. Trong mắt tôi, bọn chúng giống như oán khí mà vô vàn nữ tử trong chốn lãnh cung này tích lũy đã lâu, chẳng khác gì một chốn vực thẳm đen ngòm sâu không thấy đáy, khiến người ta không rét mà run. Ở nơi này, ánh dương trở nên yếu ớt đến thảm thương, dưới mái nhà cũ kĩ tí tách nhỏ xuống những giọt nước mưa còn đọng lại, trong bầu không khí thoang thoảng một thứ mùi ẩm mốc và hôi thối không cách nào có thể xua tan.
Những nữ tử từng xinh đẹp như hoa kia người thì khóc lóc, người thì kêu gào, lại có người đờ đẫn nằm cuộn tròn trên mặt đất nửa tỉnh nửa mê, thậm chí có người còn nhảy nhót cười vang như kẻ điên cuồng, còn phần lớn mọi người vẫn ham mê ánh dương đã lâu không xuất hiện, chọn nơi gần ánh nắng nhất để hưởng thụ chút ấm áp hiếm hoi này.
Bọn họ chẳng thèm để tâm đến việc tôi và My Trang tới đây, gần như là lờ chúng tôi đi, coi như không thấy. Đám cung nữ và thái giám già trông coi lãnh cung căn bản chẳng có ý muốn chăm sóc những nữ nhân bị các đời hoàng đế vứt bỏ này, hằng ngày chỉ phân phát cho bọn họ một chút thức ăn mốc meo để bọn họ có thể sống tiếp, đôi lúc thấy bọn họ quá ồn ào, bọn chúng còn thẳng tay vung roi, vung gậy đánh cho họ yên tĩnh trở lại. Mà việc những con người này làm nhiều nhất chính là chờ đến khi những nữ nhân kia không chịu nổi sự giày vò mà tự sát sẽ mặt mày hờ hững mang xác bọn họ tới bãi tha ma ở ngoài thành để hỏa thiêu.
Đa phần mọi người đều phơi mình dưới ánh thái dương. Tôi vô ý ngoảnh đầu qua, nhìn thấy ở một góc khuất nắng chỉ có hai nữ tử một ngồi một nằm trên đống rơm ẩm ướt, sau nhiều ngày mưa dầm, chỗ rơm đó đã mục nát, đen thui. Hai nữ tử kia đều áo quần tả tơi, đầu tóc bù xù, bẩn thỉu. Bên cạnh nữ tử đang ngồi có một đĩa xương cá còn đọng lại một chút nước canh, lũ ruồi nhặng không ngừng bay vo ve xung quanh. Trước mặt nàng ta là một chiếc gương bị mẻ mất một góc, nàng ta dùng chút bột mì ít ỏi cẩn thận đắp lên mặt và cổ, như thể đó là một loại phấn son thượng hạng. Sau khi đắp lên mặt, hai tay nàng ta lại lần mò một lúc trong đống rơm ẩm, lấy ra một cây gậy gỗ nhỏ từng bị lửa đốt, một đầu của cây gậy đã cháy thành than đen thui, đó chính là thứ bảo bối mà nàng ta chuẩn bị dùng để vẽ lông mày.
My Trang ghé vào tai tôi, thấp giọng nói: "Muội thử đoán xem nàng ta là ai?" Khuôn mặt của nữ tử kia vì lớp bột mì trắng bợt và đôi lông mày dài đen thui mà trở nên vô cùng rùng rợn, tôi lắc đầu, quả thực không thể nhận ra nàng ta là ai.
Nữ tử kia chăm chú vẽ lông mày cho mình, miệng làu bàu không ngớt: "Trong cuộc tuyển tú năm đó, bản cung chính là người đẹp nhất, Hoàng thượng vừa ngó qua đã để ý ngay đến bản cung, không chút nghĩ ngợi giữ thẻ của bản cung lại. Trong khắp hậu cung, dung mạo của bản cung chỉ thua kém Hoa Phi nương nương một chút xíu thôi. Khi đó Hoàng thượng thích bản cung lắm..." Nàng ta cười khúc khích, nói: "Có một đêm Hoàng thượng từng sủng hạnh bản cung tới ba lần, còn tặng chữ 'Lệ' cho bản cung làm phong hiệu, không phải cố ý nói rằng bản cung rất xinh đẹp sao?" Dường như nàng ta đang đắm chìm trong hồi ức, giọng nói toát lên vẻ mừng vui và kiêu hãnh, hoàn toàn quên mất cảnh ngộ của mình bây giờ. Nàng ta vẽ lông mày xong liền hưng phấn đẩy mạnh nữ tử đang nằm bên cạnh, liến thoắng hỏi: "Bản cung trang điểm xong rồi, nhìn có đẹp không?"
Nữ tử đó buồn bực trở mình, chẳng buồn nhìn nàng ta lấy một cái, nói với giọng khó chịu: "Đẹp, đẹp lắm! Suốt ngày làu bàu mấy chuyện cũ rích, bà đây nghe đến phát chán rồi!" Nói đoạn, chẳng thèm để ý đến sự có mặt của những người khác, cô nàng thản nhiên cởi những món đồ cũ kĩ, bẩn thỉu trên người mình ra, để lộ đôi bầu ngực khô quắt, xệ xuống, bám đầy những vết bẩn. Một bàn tay của nàng ta ung dung lần mò khắp người để gãi ngứa, bàn tay còn lại thì vừa nhanh vừa chuẩn chụp lấy những con rận trong quần áo, sau đó thản nhiên bỏ vào miệng, "rộp" một tiếng, nhai ngon lành, khuôn mặt đầy vẻ hưởng thụ. Cảm giác ghê tởm trào lên trong lồng ngực tôi, phải khó khăn lắm tôi mới không để mình nôn mửa ngay tại chỗ.
Nữ tử vẽ lông mày kia không chút tức giận vì kiểu trả lời qua quýt của đối phương, lại tiếp tục trang điểm, miệng nói: "Chỉ cần bản cung mỗi ngày đều trang điểm thật đẹp, Hoàng thượng nhất định sẽ còn thích bản cung." Vừa nói nàng ta vừa dùng mũi bàn chân đá nhẹ nữ tử bên cạnh. "Sao ngươi không đi phơi nắng, trên người toàn là mùi ẩm mốc thôi!"
Nữ tử đang nằm cất giọng thô lỗ: "Khốn kiếp, ánh nắng sẽ làm hỏng mất làn da của ta. Sao ngươi không chịu đi đi?"
Nữ tử vẽ lông mày kia cười khanh khách, nói: "Bản cung là Lệ Quý tần đẹp nhất trong cung cơ mà, sao có thể để ánh nắng chiếu vào người được." Nàng ta nở một nụ cười kỳ dị. "Hoàng thượng thích làn da trắng nõn này của bản cung lắm đấy!"
Tôi nghe vậy thì cả kinh, không ngờ nữ tử kia lại là Lệ Quý tần! Đưa mắt nhìn qua phía My Trang, không ngờ tỷ ấy lại chẳng có chút biểu cảm nào, vẫn thờ ơ đứng nhìn.
Nữ tử kia cười rất vui vẻ. Nhưng vừa cười, que gỗ trong tay vừa rơi xuống bên cạnh chân tôi. Nàng ta phát hiện mình đã đánh mất bảo bối liền xoay người lại tìm, đột nhiên nhìn thấy tôi, bất giác ngây người. Khuôn mặt nàng ta như được phủ một lớp bột mì rất dày, trắng bệch như ma quỷ, tôi không thể nhìn ra lúc này nàng ta đang có vẻ mặt thế nào. Trong mắt tràn đầy những tia sợ hãi và chấn động, nàng ta vội vàng đứng dậy, phủ phục xuống bên cạnh chân tôi mà cất tiếng gào khóc liên hồi: "Uyển nghi tiểu chủ, ngày đó là bản cung, không, là ta hồ đồ... Không, không, kì thực không biết gì nhiều đâu, tất cả đều do Hoa Phi đứng sau xúi bẩy!"Nàng ta ra sức van nài: "Uyển nghi hãy cầu xin Hoàng thượng giúp ta đi, ta tình nguyện làm nô tỳ, làm trâu, làm ngựa hầu hạ tiểu chủ, ta không muốn ở lại cái nơi quỷ quái này thêm nữa đâu."
Nàng ta vẫn gọi tôi là "Uyển nghi", Uyển nghi, đó là chuyện từ bao lâu trước đây rồi? Nàng ta vẫn luôn bị giam giữ trong lãnh cung, cách biệt với thế giới bên ngoài, do đó không hề biết rằng tôi đã không còn là uyển nghi nữa, cũng giống như việc tôi không biết đến cảnh ngộ thê thảm của nàng ta trong lãnh cung này. Có lẽ ngày đó khi vào cung trong phong cảnh phong quang vô hạn, nàng ta không hề biết rằng về sau mình sẽ rơi vào cảnh ngộ thế này.
Nữ tử bên cạnh hoàn toàn chẳng thèm để tâm tới sự van nài của nàng ta và sự tồn tại của tôi, chỉ thỉnh thoảng ngẩng đầu nhìn tôi một cái rồi sau đó lại cúi xuống, lạnh lùng ăn những con rận ngon lành của mình. Nước mắt tuôn xuống lớp bột mỳ dày cộp trên mặt Lệ Quý tần, tạo thành những đường rãnh sâu, để lộ làn da nhăn nheo và héo quắt của nàng ta. Thực ra, nàng ta chỉ lớn hơn tôi bốn, năm tuổi, bây giờ mới khoảng chừng hăm mốt, hăm hai, đang vào độ nhan sắc mặn mà. Nàng ta đã từng có lúc là mỹ nhân với nhan sắc chỉ kém Hoa Phi trong chốn hậu cung, được bậc đế vương ban biết bao nhiêu mưa móc.
Sự van nài của nàng ta như những lưỡi dao đâm vào trái tim tôi. Tôi không muốn nghe tiếp, không muốn nhìn thêm, dùng sức gạt tay Lệ Quý tần rồi chạy vội ra ngoài.
Bầu không khí bên ngoài lãnh cung lúc này mang một sự tươi mới đến khó tả, tôi cố kìm nén cảm giác buồn nôn đang cuộn trào trong dạ dày, cảm thấy mình vừa thức tỉnh khỏi một cơn ác mộng. Đây là một cảnh tưởng mà tôi chưa từng được chứng kiến ở chốn hậu cung, nó khiến tôi vừa sợ hãi lại vừa chán ghét.
My Trang đuổi theo, vỗ nhẹ vào lưng tôi, ôn tồn nói: "Muội vẫn ổn chứ?"
Tôi khẽ gật đầu. "Tỷ tỷ đưa muội đến lãnh cung không phải chỉ là để muội xem cảnh ngộ của Lệ Quý tần đấy chứ?"
My Trang khẽ mỉm cười. "Muội có để ý thấy nữ tử bên cạnh Lệ Quý tần không?"
Tôi hơi cau mày, không nói gì. My Trang biết tôi ghê tởm cảnh tượng buồn nôn đó, bèn chậm rãi nói: "Nàng ta là Phương Tần bên cạnh Hoàng thượng trước đây."
Cái tên này tôi chưa từng nghe nói. Từ sau khi tiên Hoàng hậu qua đời, Huyền Lăng từng sủng ái rất nhiều người, mà tần vốn không phải địa vị quá cao, dù là trong hậu cung bây giờ cũng có bốn vị tần là Đỗ Điềm Tần, Lưu Thận Tần, Uông Mục Tần, Triệu Vận Tần. Phương Tần là ai tôi quả thực không biết.
My Trang nhìn tôi bằng ánh mắt đầy ý vị, lát sau mới chậm rãi nói: "Phương Tần nhập cung sớm hơn chúng ta ba năm, ban đầu được phong làm tài nhân, rồi lần lượt trở thành quý nhân, lương đễ, sau khi được sủng hạnh nửa năm thì có thai, được tiến phong Phương Tần, cũng có một thời gian rất mực phong quang. Tiếc rằng nàng ta trượt chân sẩy thai, lại vì thương tâm quá độ mà mất lòng Hoàng thượng, về sau, do cất lời oán thán vu cáo Hoa Phi giết hại đứa con trong bụng mình nên bị đày vào lãnh cung."
Tôi chăm chú nhìn nàng ta, khẽ nói: "Tỷ tỷ sợ muội giẫm vào vết xe đổ của nàng ta sao?"
My Trang nói: "Nàng ta có thật sự vu cáo Hoa Phi hay không thì không hay biết, nhưng Hoàng thượng đã tin là nàng ta vu cáo. Tục ngữ có câu 'gặp mặt là có thêm ba phần tình cảm', Phương Tần một mực chìm đắm trong nỗi đau mất con của mình mà không để ý gì tới Hoàng thượng, vậy nên đến cơ hội gặp mặt biện bạch cũng không có, e là dù có bị oan thì cũng chỉ có chấp nhận mà thôi." My Trang nói xong, chợt chỉ ngón tay về phía lãnh cung, hai chiếc vòng vàng trên cổ tay va vào nhau phát ra những tiếng "leng keng" trong trẻo, nhưng trong giọng nói của tỷ ấy lại mang đầy nỗi đau với mấy phần sắc bén: "Đây chính là bài học nhãn tiền! Nếu muội cứ mãi ủ dột thế này, tình cảnh của hai người bọn họ bây giờ chính là kết cục của muội ngày sau!"
Tôi im lặng, làn gió tiêu điều rít mạnh thổi qua tai, những chiếc lá khô héo vàng queo bị gió cuốn lên, xoay tròn mấy vòng giữa không trung đầy bụi bặm. Trên bãi đất trống rộng lớn trước lãnh cung có mấy con quạ đen đang nghỉ chân, chúng lẳng lặng đứng rỉa bộ lông trên người mình, thỉnh thoảng lại kêu "kéc" một tiếng khản đặc, quả thực là ngợp nỗi thê lương.
Tôi khẽ hỏi: "Sao tỷ tỷ lại phát hiện ra Lệ Quý tần và Phương Tần trong chốn lãnh cung này?"
Thần sắc My Trang đột nhiên trở nên lạnh lẽo, trong mắt thoáng qua một tia căm hận hết sức rõ ràng: "Việc của Phương Tần, ta chẳng qua ngẫu nhiên biết được, còn về Lệ Quý tần... Trong việc đẩy ta xuống nước ngày đó, ả cũng có phần. Chỉ cần nhìn thấy ả, ta sẽ lập tức nhớ lại việc Mộ Dung tiện nhân đó được nếm thử cảm giác sống không bằng chết trong chốn lãnh cung."
Cái sự yêu và hận của My Trang xưa nay luôn rõ ràng hơn tôi rất nhiều.
Tôi đưa tay nhẹ nhàng phủi đi mấy hạt bụi vương trên vai My Trang, nói: "Ngay từ nhỏ, tỷ tỷ đã biết mình muốn thứ gì, nếu một lòng muốn có thì nhất định sẽ giành được." Thoáng dừng lại, tôi nhìn My Trang, nói tiếp: "Thứ lỗi cho muội nhiều lời, hiện giờ đối với tỷ mà nói, Hoàng thượng có cũng được mà không có cũng chẳng sao... Điều này quá nửa là vì bản thân tỷ tỷ không muốn nhận sự ân sủng nữa, đúng không?"
My Trang nghiêm túc nhìn tôi. "Điều duy nhất mà lòng ta nghĩ tới bây giờ là làm thế nào để giết được con tiện nhân đó. Sự ân sủng của Hoàng thượng cố nhiên quan trọng, nhưng không hề vững chãi, chẳng lẽ ta có thể dựa vào người để báo thù sao?"
Tôi im lặng trong giây lát, đoạn đưa tay ra, nói: "Trời lạnh rồi, chúng ta về thôi!"
Có lẽ vì mang đầy tâm sự trong lòng nên trên con đường dài dằng dặc ấy, chúng tôi đi rất chậm. My Trang không nói thêm lời nào nữa, có điều suốt dọc đường, tỷ ấy đều nắm chặt bàn tay tôi, dùng sự ấm áp nơi lòng bàn tay mình để sưởi ấm cho trái tim đang chìm trong băng giá của tôi.
Đi tới cửa ngách của Thượng Lâm uyển, My Trang nói: "Ta về cung trước đây, muội... hãy suy nghĩ cho cẩn thận!"
Tôi khẽ gật đầu, lựa con đường gần nhất đi qua vĩnh hạng về cung của mình. Giữa độ thu đông, gió lùa trong vĩnh hạng trở nên vô cùng lạnh lẽo, tràn ngập nơi nơi, không đâu là không có. Phần cổ của chiếc áo choàng gấm bị gió thổi dán sát vào mặt tôi, che mất một phần tầm nhìn.
Từ chỗ ngã rẽ trước mặt chợt có một người đi ra, tôi không kịp né tránh, va luôn vào người đó. Chỉ nghe "úi chao" một tiếng, tôi ngẩng lên nhìn, thấy chính là Lục Chiêu nghi, chủ nhân của Điềm Tần cung.
Lục Chiêu nghi vốn là phi tử nhập cung khi Huyền Lăng vừa kế vị, xét về cấp bậc, tuy chỉ cao hơn tôi một mức nhưng lại đứng đầu Cửu tần, địa vị trong cung hơn xa tôi. Tôi vội đứng qua một bên thỉnh an cáo lỗi. Lục Chiêu nghi đã thất sủng nhiều năm, ở trong cung vẫn luôn an phận thủ thường, gặp chuyện thường né tránh, rất ít khi gây điều thị phi. Cô ta thấy mình va phải người khác thì thoạt tiên lộ ra thần sắc bất an, vốn không định nói gì nhiều, nhưng sau khi nhìn rõ là tôi thì vẻ mặt đột nhiên thay đổi hẳn, xuất hiện mấy tia giận giữ và uy nghiêm.
Tôi biết là không hay, cũng không muốn sinh chuyện vào lúc này, thế là lại càng tỏ ra nhún nhường cung kính. Nhưng cơn giận của Lục Chiêu nghi không hề vì thế mà tan đi, cô ta nói: "Sao Hoàn Quý tần đi đường mà không có quy củ gì thế, mới mấy tháng không gặp Hoàng thượng mà đã quên hết lễ tiết trong cung rồi sao?"
Tôi vội nói: "Là muội không tốt, va phải Lục tỷ tỷ."
Bên cạnh cô ta chợt vang lên một tiếng cười ngạo mạn, tôi không cần nhìn cũng biết đó là Tần Phương nghi. Tần Phương nghi là em họ xa của Lục Chiêu nghi, lòng dạ rất nhỏ mọn, nhất định cô ta đã coi việc tranh chấp với tôi ở ngoài điện của Hoàng hậu lần trước là một mâu thuẫn vô cùng lớn. Nhìn thấy cô ta cũng ở đây, tôi biết thế nào cô ta cũng không bỏ lỡ thời cơ để trả thù mình, e rằng việc hôm nay phiền phức rồi đây!
Quả nhiên Tần Phương nghi chỉ làm bộ làm tịch hành lễ một cách hời hợt, đoạn che miệng cười khẽ, kéo dài giọng nói: "Tần thiếp còn tưởng là ai, thì ra là Quý Tần nương nương trước đây được Hoàng thượng yêu thích nhất. Chẳng trách, chẳng trách, quý nhân đi đường nào biết để ý đến ai..."
Cô ta cố ý nhấn mạnh vào hai từ "trước đây", giễu cợt rằng bây giờ tôi đã bị thất sủng. Lần này là tôi vô ý va vào Lục Chiêu nghi, thành ra không thể không nín nhịn. "Xin Lục tỷ tỷ thứ lỗi!"
Lục Chiêu nghi còn chưa kịp mở miệng, Tần Phương nghi đã làm ra vẻ kỳ quái nhìn tôi một lượt từ trên xuống dưới, nói: "Úi chà! Quý Tần nương nương đang gọi vị tỷ tỷ nào thế, Chiêu nghi biểu tỷ chỉ có một muội muội là tần thiếp đây thôi, từ lúc nào mà nương nương cũng chen vào vậy?" Tôi thầm tức giận, dù bây giờ tôi đang thất thế nhưng hà cớ gì cô phải áp bức quá đáng như vậy, nhớ lúc xưa, khi tôi còn đắc sủng, cũng chưa từng bới móc cô chút nào, sao bây giờ tôi vừa thất sủng, cô đã chạy tới gây gổ với tôi? Thế nhưng đang có Lục Chiêu nghi ở đây nên tôi đành phải kìm nén cơn giận dữ trong lòng.
Tần Phương nghi thấy tôi không đáp trả thì lại càng đắc ý, nói tiếp: "Chẳng phải Quý Tần nương nương luôn rất chú ý tới tôn ti quy củ sao, sao bây giờ gặp biểu tỷ của tần thiếp lại không gọi một tiếng 'nương nương', cũng không tự xưng là 'tần thiếp' thế?"
Tôi hơi ngước mắt lên, nhìn thẳng vào khuôn mặt đầy đắc ý của cô ta. Lục Chiêu nghi lúc này chỉ trầm mặt xuống, không nói một lời. Ba người bọn tôi suy cho cùng đều là những nữ tử không còn được Hoàng thượng sủng ái, cùng chung cảnh ngộ bất hạnh, hà tất phải cố tình làm khó nhau như thế?
Tần Phương nghi tất nhiên không nghĩ được nhiều như vậy, hôm nay cô ta có biểu tỷ chống lưng, lại là tôi đuối lý trước, đương nhiên đây là cơ hội ngàn năm hiếm gặp, sao chịu tùy tiện bỏ qua.
Thế là tôi bèn nghiêm túc hành lễ, hướng về phía Lục Chiêu nghi, nói: "Thần thiếp thất lễ, mong Chiêu nghi nương nương thứ tội!"
Lục Chiêu nghi khẽ gật đầu coi như tha thứ. "Thôi, ngươi đi đi!"
Tôi đang định đứng dậy, Tần Phương nghi đã vội vàng nói: "Biểu tỷ, là cô ta vô lý trước, sao có thể để cô ta đi dễ dàng như vậy được?"
Lục Chiêu nghi thoáng chút kinh ngạc, nhìn Tần Phương nghi, nói: "Thôi, bản cung làm gì có tâm tư mà dây dưa với cô ta ở nơi gió lạnh rít gào này, cứ để cô ta đi đi."
Tần Phương nghi mím môi, nôn nóng nói: "Biểu tỷ đúng là hồ đồ rồi! Hiện giờ Mộ Dung Phi không được Hoàng thượng sủng ái, Kính Phi là hạng tầm thường, Đoan Phi thì như một thùng thuốc, bên dưới ba người đó, tỷ chính là người tôn quý nhất. Nếu bây giờ biểu tỷ lấy danh người đứng đầu Cửu tần để lập uy, sau này trong hậu cung còn ai dám không nhớ đến vị Chiêu nghi nương nương tỷ chứ?" Cô ta khẽ mỉm cười, ghé đến gần Lục Chiêu nghi, nói: "Trước đây, Hoàng thượng rất thích bộ dạng mạnh mẽ, quyết đoán của Mộ Dung Phi, nói không chừng biểu tỷ lập uy như vậy Hoàng thượng sẽ lại thích tỷ đấy!" Rồi cô ta lại hậm hực bổ sung thêm một câu: "Biểu tỷ, khi cô ta đắc sủng, Hoàng thượng đã ghẻ lạnh chúng ta thế nào chứ!"
Lục Chiêu nghi hiển nhiên đã bị lời của Tần Phương nghi làm cho kích động, trên mặt thoáng lộ vẻ vui mừng, ngay sau đó lại trở nên lạnh lùng, băng giá, nói: "Biểu muội quả nhiên thông minh."
Tôi nghe vậy liền cười gượng, Huyền Lăng thích Mộ Dung Phi chưa chắc đã là vì tính tình quyết đoán của nàng ta. Lục Chiêu nghi không có thân thế và dung mạo như Mộ Dung Phi, vậy mà lại muốn học theo lối hành xử của Mộ Dung Phi, đúng là ngu xuẩn và nực cười tột độ.
Lục Chiêu nghi điệu bộ nghiêm chỉnh, đầy vẻ uy phong. "Ngươi hãy quỳ ở chỗ gió lùa này mà suy nghĩ về lỗi lầm của mình cho bổn cung." Rồi cô ta ngoảnh đầu lại, gọi một cung nữ tới: "Yến Nhi, trông chừng cô ta cho bổn cung, chờ cô ta quỳ đủ nửa canh giờ mới cho phép đứng dậy!"
Nửa canh giờ! Lại là quỳ nửa canh giờ! Trong lòng tôi sau nháy mắt đã trào dâng muôn vàn nỗi giận dữ và căm hận, cô ta thật sự coi mình như Tích Hoa phu nhân ngày đó sao?
Lục Chiêu nghi tha thướt rời đi, Tần Phương nghi đi theo được hai bước, chợt quay đầu lại, nói: "Bây giờ Quý tần nương nương không mang thai, dù có quỳ lâu chắc cũng không thể xảy ra vấn đề gì được." Lời của cô ta chẳng khác nào một cây kim đâm thẳng vào trái tim tôi, khiến tôi đột nhiên nhớ tới nỗi đớn đau khó tả trong Mật Tú cung hôm đó, sắc mặt lập tức trở nên cứng đờ. Tần Phương nghi nói xong liền khẽ cất tiếng cười, làm hành động khiến tôi vừa chấn động vừa căm hận tới tột cùng. Cô ta hơi hé môi, "phì" một tiếng, nhổ một bãi nước bọt lên mặt tôi.
Nhục nhã ê chề! Tôi lập tức nhắm chặt hai mắt, vội ngoảnh mặt qua một bên nhưng vẫn không thể tránh được bãi nước bọt nhục nhã ấy, bị nó rơi vào bên tai. Cô ta bật cười vui vẻ, cười một cách đắc ý vô cùng, vừa cười vừa nói: "Quý tần nương nương đừng tức giận nhé, tần thiếp chỉ vâng lệnh Chiêu nghi nương nương giáo huấn nương nương thôi, bãi nước bọt này mong nương nương nhận cho."
Tôi lạnh lùng ngoảnh mặt lại, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt mang theo nét cười của cô ta. Cho dù là với Lệ Quý tần khi trước, tôi cũng không cảm thấy căm ghét như vậy. Cô ta bị ánh mắt của tôi làm cho chấn động, không khỏi có chút sợ hãi, nhất thời ngây người, nhưng rất nhanh đã lại khom lưng cười giễu. "Nương nương đừng trừng mắt nhìn tần thiếp như thế mà! Chẳng lẽ... cô nghĩ cô vẫn là Hoàn Quý tần trước đây sao?"
Cô ta cười vang rồi rời đi, tiếng cười lanh lảnh giữa tiếng gió lùa trong vĩnh hạng, nghe chói tai vô cùng. Trong làn gió, bãi nước bọt ấm nóng rất nhanh đã lạnh đi, từ từ chảy xuống, dần bị gió thổi khô, cái cảm giác ấy khiến làn da bên tai tôi trở nên cứng đờ, tê dại. Thỉnh thoảng lại có vài ba cung nhân hạ đẳng đi qua, nhìn lướt qua tôi bằng ánh mắt lạnh lùng, tò mò và khinh miệt.
Cung nữ Yến Nhi trông coi tôi có chút thấp thỏm, bất an, thấp giọng nói: "Nương nương, hay là người đứng dậy đi, nô tỳ sẽ không nói cho ai biết đâu." Tôi lắc đầu, cũng không đưa tay lau bãi nước bọt bên tai, chỉ lặng lẽ quỳ trong gió, giữ nguyên bờ lưng thẳng tắp, trong đầu là một sự bình tĩnh đến mức gần như tàn khốc.
Phải, tôi là một nữ tử không có con cái, cũng chẳng được phu quân thương yêu. Tôi là một nữ tử trong chốn thâm cung, một nữ tử đã mất đi sự sủng ái của kẻ quân vương. Tôi chẳng có gì hết, thứ duy nhất còn lại chỉ là hơi thở ấm nóng trong lồng ngực và một cái đầu tỉnh táo, không có ai để nương tựa giữa chốn hậu cung mà ai cũng nơm nớp lo sợ, ai cũng sống hôm nay không biết đến ngày mai, ai cũng chỉ biết nịnh nọt người trên, ức hiếp kẻ dưới này.
Vì tôi không có sự sủng ái của kẻ quân vương, vì trên người kẻ quân vương mà tôi còn mong có được tình yêu mơ mộng từ thời thiếu nữ, vì trái tim tôi vẫn quá mềm yếu và không đủ sự đề phòng, vì tôi ngây thơ và non nớt, do đó tôi mới không thể trả thù cho đứa con và tỷ muội của mình; do đó tôi bị đè nén, thậm chí bị một nữ tử có địa vị thấp hơn tôi nhổ nước bọt vào mặt làm nhục; do đó cảnh ngộ của tôi chỉ còn cách lãnh cung có vài bước chân nữa thôi.
Đủ rồi, đã đủ lắm rồi! Tôi không thể để mình bị người ta giẫm xuống tận đáy vực sâu; cảnh tượng ở lãnh cung khiến tôi nhìn mà kinh sợ và sự thê lương, bi thảm của Phương Tần càng không thể trở thành tương lai của tôi.
Tôi dần dời ánh mắt đi hướng khác, dừng lại tại cung điện của Mộ Dung Phi ở đằng xa. Ả ta vẫn sống, sống rất tốt, nói không chừng một ngày nào đó sẽ lại trở mình và nhận được sự sủng ái. Đứa con của tôi không thể chết đi một cách oan ức như vậy được. Lãnh cung cũng không thể trở thành nơi Chân Hoàn tôi chết già. Cho dù tôi có chết thì cũng phải nhìn những kẻ tôi căm hận chết trước tôi, lấy đó mà bái tế đứa con và người tỷ muội vô tội đã qua đời quá sớm của tôi.
Nửa canh giờ trôi qua, tôi cố gắng đứng dậy bằng đôi chân đã quỳ đến mỏi nhừ, chỉnh sửa lại quần áo. Yến Nhi đỡ lấy tôi, thấp giọng áy náy nói: "Nương nương đã phải chịu khổ rồi, nương nương nhà nô tỳ thường ngày không như vậy đâu."
Khuôn mặt vẫn giữ vẻ bình tĩnh, tôi nhìn người cung nữ có tuổi tác xấp xỉ với mình, hờ hững cười, nói: "Ngươi sẽ được báo đáp vì lòng tốt của ngươi hôm nay." Yến Nhi không hiểu, trên mặt chỉ có vẻ bất an và lúng túng của một thiếu nữ ngây thơ.
Tôi một mình rời đi.
Sự thương tâm và buồn bã của tôi kéo dài đến bây giờ là đã đủ rồi. Chân Hoàn vì nín nhịn mà quỳ xuống trước mặt Lục Chiêu nghi kia đã chết, người đứng lên bây giờ là một Chân Hoàn khác.
Tôi sẽ không vì sự bội bạc của nam nhân mà khóc lóc nữa, cũng sẽ không vì sự vỡ vụn của tình yêu trong mộng mà thương tâm nữa, càng không bao giờ nín nhịn trước những kẻ mà tôi căm hận. Tôi của bây giờ đã thích ứng hơn với cuộc sống trong chốn hậu cung lạnh lùng mà tàn khốc này.
Bãi nước bọt bên tai tôi không lau đi, cứ để mặc cho nó chảy tiếp. Nó sẽ giúp tôi mãi khắc ghi cảm giác nhục nhã này và những con người kia sẽ phải trả một cái giá nặng nề cho cảm giác hả dạ sinh ra khi làm nhục tôi.
Về đến cung điện của mình, tôi bảo Cận Tịch dọn đồ ra khỏi điện chính của Đường Lê cung, quét dọn Ẩm Lục hiên bên cạnh làm nơi cư trú tạm thời.
Hoán Bích khuyên tôi: "Ẩm Lục hiên vừa nhỏ hẹp âm u lạnh lẽo, để hóng mát trong dịp hè là tốt nhất, bây giờ mà dọn vào đó ở e là không hợp thời lắm!"
Tôi dùng một miếng vải bông mềm, cẩn thận lau từng sợi dây của cây đàn Trường tương tư, đoạn khẽ mỉm cười, nói: "Ta vốn là một con người không hợp thời mà!" Hoán Bích không nói gì, cũng không dám khuyên thêm.
Mấy ngày nay, tôi sai Tiểu Doãn Tử và Tiểu Liên Tử giúp tôi đi bắt bướm, giống động vật mà vào mùa này rất ít xuất hiện. Bọn họ hơi kinh ngạc về quyết định này của tôi, bèn nói: "Nương nương, bây giờ là mùa thu, làm sao có bướm được."
Tôi khom người trước chiếc bàn trang điểm, cẩn thận vẽ đôi hàng lông mày hình núi xa. Tôi của bây giờ đã không được dùng những thứ đồ vẽ lông mày quý giá như Loa tử đại nữa, mà lông mày hình núi xa chính là kiểu mày năm ngoái Huyền Lăng đã tự tay vẽ cho tôi, thực chứa chan tình ý đến nhường nào. Kỳ thực, tôi chẳng thích lắm, lông mày của tôi thích hợp với kiểu mày lá liễu hơn. Nhưng hôm nay, từng nét bút của tôi đều hết sức nắn nót và cẩn thận, tôi vẫn cần nương nhờ vào sự sủng ái của y, đúng không nào? Tôi thầm tự giễu. Nếu không có tình yêu, vậy tôi cần có thật nhiều sự sủng ái, nhiều đến mức đủ để tôi có thể sống một cách thoải mái trong chốn hậu cung này.
Uể oải vứt cây bút vẽ lông mày qua một bên, tôi chẳng buồn ngoảnh đầu, nói với bọn họ: "Bây giờ bướm cũng là một thứ không hợp thời đúng không? Nhưng ta nhất định muốn có, hơn nữa còn phải thật đẹp." Bọn họ đương nhiên sẽ không làm trái ý tôi, dù rằng yêu cầu này của tôi có vẻ không hợp tình hợp lý lắm, như thể đó chỉ là hứng thú nhất thời thôi vậy!
Tôi khẽ mỉm cười, hãy để con người không hợp thời tôi đây diễn một vở kịch không hợp thời đi.
Ngoảnh đầu lại, bên ngoài chốn rèm vàng lầu ngọc, nơi chân trời, một vầng trăng lưỡi liềm lạnh lẽo treo cao.
Hậu Cung Chân Hoàn Truyện
[1] Tương truyền Đường Huyền Tông thường cho các nữ tử trong chốn hậu cung của mình cài hoa trước cửa, bản thân thì thả một con bướm ra rồi đi theo, con bướm đậu lại ở cửa phòng ai thì ông ta sẽ vào nghỉ đêm ở chỗ đó, việc này được gọi là điệp hạnh – ND.
Tiểu Doãn Tử và Tiểu Liên Tử dốc hết sức lực mới bắt được hai mươi mấy con bướm ít ỏi trong thời điểm mùa đông lạnh lẽo sắp đến này, đó đều là những con bướm có màu sắc vô cùng bắt mắt, con thì hồng phấn, con thì tím nhạt, con thì xanh biếc, con thì vàng cam. Tôi tất nhiên rất hài lòng, nói: "Trời lạnh rồi, hai ngày tới phủ Nội vụ sẽ đưa sang đây số than cần dùng trong mùa đông. Ngươi đi nói với Khương Trung Mẫn, tất cả những thứ tơ lụa vải vóc chúng ta đều không cần, đổi hết thành than và chậu đựng than, bảo y đưa tới đây thêm một ít hoa thủy tiên và hoa mai nữa."
May mà dạo trước tôi đã đề bạt Khương Trung Mẫn ở phủ Nội vụ, do đó tuy bây giờ hoàng ân bạc bẽo, chẳng được sủng ái nhưng không tới mức như lúc mới vào cung, bị người ta cắt xén tiêu chuẩn đáng được nhận, đến nỗi nếu không nhờ có My Trang tiếp tế thì e là phải dùng loại than đen nhiều khói hết sức khó chịu. Khương Trung Mẫn cũng là loại người biết báo ơn, trong cung của tôi cần thứ gì, chỉ cần y làm chủ được thì đều cho người đưa tới.
Tôi sai Tiểu Doãn Tử đi làm việc rồi lại dặn dò Cận Tịch: "Oánh Tâm điện bây giờ đang bỏ trống, ngươi hãy mang chỗ bướm bắt được tới thả hết vào những chiếc lồng lưu ly trong noãn các mà nuôi, nhớ phải sử dụng nhiều than cho noãn các một chút, nhất định phải khiến nơi đó ấm áp như mùa xuân. Mỗi ngày ba lần ngươi nhớ tự mình đưa hoa tươi vào trong noãn các cho lũ bướm ăn phấn hoa." Dặn dò xong xuôi, tôi lại bổ sung một câu: "Ngươi nhất định phải tự mình làm đấy, để người khác làm, ta không yên tâm."
Cận Tịch thấy tôi tỏ ra nghiêm túc như thế, lại được tôi giao cho nhiệm vụ quan trọng, tuy không hiểu rõ dụng ý của tôi nhưng nhất định sẽ dốc sức tận tâm chăm sóc lũ bướm kia.
Có một hôm My Trang đến chơi, thấy tôi đang hào hứng sai người may áo mới cho mình, trên khuôn mặt không kìm được lộ ra nét tươi cười. Bởi từ sau cơn bệnh lần trước, tôi chẳng còn tâm trạng động tới son phấn nữa, cả ngày đều để mặt mộc không trang điểm, tất cả những thứ quần áo màu mè và đồ trang sức châu ngọc đều được bỏ hết vào trong tủ. Dù gì cũng không còn người nào ngắm nhìn để tôi phải cất công trang điểm, tôi ăn mặc như vậy coi như là để tang cho đứa bé đã qua đời khi còn ở trong bụng mình, tỏ chút lòng thành của một người làm mẹ. My Trang mỉm cười, cất giọng thăm dò: "Có phải đã suy nghĩ thông suốt rồi không?"
Tôi cầm miếng gấm Vân Nhạn màu lục nhạt ướm thử lên người, khẽ mỉm cười, nói: "Đa tạ tỷ tỷ dạy dỗ, muội của hôm nay đã khác hẳn khi xưa rồi!" Hai mắt My Trang sáng rực nhìn tôi, cười tủm tỉm. "Nếu đã có lòng này, vậy việc không thể chậm trễ được nữa."
Tôi xắn tay áo lên, đích thân cầm kéo cắt phần lưng áo cho chiếc áo mới của mình, cúi đầu, nói: "Tỷ tỷ đừng nôn nóng, thời gian còn dài mà."
Tôi không hề rảnh rỗi, soi mình vào trong gương, tôi phát hiện sự u uất và cơn đau bệnh bấy lâu khiến tôi gầy rộc đi, như biến hẳn thành con người khác. Khi thay quần áo trước lúc lên giường đi ngủ, tôi ngước mắt nhìn xương quai xanh của mình trong gương. Tôi gần như có chút kinh hãi, trong lòng tràn đầy cảm giác khó tin, lại đưa tay phải lên, chiếc vòng bạc cơ hồ có thể tuột xuống tận khuỷu tay rồi. Trước đây, chiếc vòng bạc này rất nhỏ nhắn và hợp với tôi, độ vài tháng trước, khe hở giữa nó và cổ tay tôi chỉ đủ để nhét một chiếc khăn tay, vậy mà bây giờ lại biến thành thế này. Đã rất lâu rồi tôi không để ý tới bản thân, không ngờ mình lại gầy đến mức này, tựa như một bông hoa đầu cành đang run rẩy giữa làn gió thu, xơ xác thân cò. Tuy đã gầy đi, vẻ mặt cũng tiều tụy nhưng làn da tôi lại thấp thoáng ánh lên màu xanh ngọc, có chút trong suốt, chỉ là không được mịn màng bóng loáng như ngọc, tựa như bị phủ lên một lớp bụi. Cằm tôi càng trở nên nhọn hơn, đôi mắt trong veo đầy thần thái ngày xưa nay dường như chỉ còn lại chút tro tàn sau khi rực cháy, mất hẳn vẻ thông minh, lanh lợi. Tôi của bây giờ dù có bằng lòng xuất hiện trước mặt Huyền Lăng chẳng qua cũng chỉ nhận được một chút thương hại của y, mà gặp nhiều rồi thậm chí sẽ còn khiến y chán ghét, cho nên quyết không thể nôn nóng được.
Tôi tìm lại phương thuốc làm đẹp mà khi tôi mang thai, Ôn Thực Sơ đã đưa cho tôi, sau đó liền tới Thái y viện lựa chọn loại ích mẫu thảo to và lớn nhất, được hái vào đúng dịp Đoan Ngọ, hơn nữa bên trên còn phải sạch sẽ không được dính bùn đất. Sau khi phơi nắng cho khô hẳn, Ôn Thực Sơ đích thân mài chúng thành bột và sàng lọc kỹ càng, lại cho thêm một lượng nước và bột mì vừa phải, nặn thành từng viên rồi phơi khô. Sau đó, y lại chọn dùng một loại lò được làm bằng đất sét có ba tầng, tầng dưới cùng trải than, tầng giữa để những viên thuốc đã được phơi khô, tầng trên cùng lại trải thêm một lớp than nữa, kế đó thì châm lửa. Sau khi giữ cho ngọn lửa thật lớn trong gần nửa canh giờ, y liền đổi sang dùng lửa nhỏ liu riu, sau chừng một ngày một đêm thì lấy những viên thuốc đó ra để cho chúng nguội hẳn, mà chỉ có những viên thuốc thật trắng và mịn mới được coi là thượng phẩm. Sau đó, những viên thuốc lại được bỏ vào bát sứ, dùng chày ngọc giã thành bột, sau khi sàng lại giã tiếp, làm cho nó càng mịn càng tốt, cuối cùng thì đựng vào một loại bình sứ thượng hạng, lúc nào cần sẽ lấy ra dùng.
Quá trình chế tạo loại thuốc này vô cùng phức tạp, chỉ cần có một chút sơ suất là thuốc sẽ mất đi hiệu lực. Ích mẫu thảo nhất định phải chọn loại được hái vào tết Đoan Ngọ, mà phải là còn nguyên cây, không được dính chút bùn đất nào, nếu không sẽ hoàn toàn không có hiệu quả; khi đun cũng phải chú ý không được để cho sức lửa quá mạnh, bằng không viên thuốc sẽ biến thành màu vàng hoặc thậm chí là màu đen, gần như không có công hiệu gì; quá trình giã cũng không thể sơ suất, tốt nhất là dùng chày ngọc, kế đến là chày sừng hươu, vì ngọc và sừng hươu đều có công dụng bảo vệ làn da, loại bỏ nếp nhăn và sẹo, trong quá trình giã có thể hòa vào thuốc một cách tự nhiên, vừa hay có tác dụng phụ trợ. Mà loại thuốc này sau khi được mài thành bột mịn, cứ mỗi sáu mươi tiền lại phải cho thêm sáu tiền hoạt thạch, sáu tiền son phấn rồi trộn đều, sáng tối mỗi ngày dùng một lượng vừa phải để lau rửa mặt và hai tay, giúp điều trị da sạm, xóa nếp nhăn và vết nứt nẻ, khiến làn da sáng mịn như ngọc. Sau khi điều chế thuốc xong, nhìn thấy gương mặt tươi tắn của tôi, Ôn Thực Sơ khá tự đắc nói: "Tương truyền phương thuốc này là do Nữ hoàng Võ Tắc Thiên thời Đường sáng tạo ra, có tên là Thần Tiên Ngọc Nữ phấn, Nữ hoàng nhờ có nó mà khi tám mươi tuổi nhìn vẫn chỉ như mười tám, đôi mươi."
Lời này nghe có vẻ hơi khoa trương, hơn nữa việc từng được Nữ hoàng Võ Tắc Thiên sử dụng cũng chỉ là truyền thuyết, nhưng quả thực sau khi dùng, khuôn mặt tôi đã trắng mịn hơn rất nhiều.
Có một lần My Trang đến thăm tôi, vừa khéo nhìn thấy Ôn Thực Sơ đang dốc lòng dốc sức chế thuốc cho tôi, bèn ngồi xuống một bên, lặng lẽ quan sát. Tôi nói với tỷ ấy: "Thứ Thần Tiên Ngọc Nữ phấn này rất hiệu nghiệm, muội đang định sai người đem tặng tỷ tỷ một ít."
My Trang có vẻ dửng dưng, dường như đêm qua ngủ không được ngon lắm. "Không cần đâu. Vật này sẽ giúp ích rất nhiều cho tương lai của muội, còn ta có vẻ đẹp tự nhiên, không cần trang điểm gì thêm." Tỷ ấy đột nhiên tươi cười rạng rỡ nói: "Huống chi, ta có trang điểm đẹp đẽ thì cũng để ai xem đây?"
Lời của My Trang hơi giống với vẻ giận dỗi ai đó, tính cách của tỷ ấy càng ngày càng trở nên quỷ quái, có lúc tôi không hiểu nổi tỷ ấy đang nghĩ gì, mà tỷ ấy cũng không chịu nói với tôi. Có lần tôi tình cờ tới cung của tỷ ấy, nhìn thấy tỷ ấy đang nằm ngủ, mơ gì đó mà đôi hàng mày nhíu chặt, trên má còn vương đầy nước mắt.
Không biết tại sao, tôi lại ghi nhớ câu nói đó vào lòng. Nụ cười của tỷ ấy thật rạng rỡ biết bao, nhưng giọng nói lại tràn đầy nỗi buồn thương, thất vọng, như là tự hỏi, lại như là hỏi tôi: "Huống chi, ta có trang điểm đẹp đẽ thì cũng để ai xem đây?"
Cận Tịch lấy bột trân châu hòa với hoa ngọc trâm, hấp chín rồi lại trộn với nước sương để đắp mặt cho tôi. Tôi đột nhiên nhớ tới câu nói đó của My Trang, tâm trạng bỗng trở nên phiền muộn. Tự đáy lòng tôi hiểu rằng Huyền Lăng không phải là "người trong mộng" của tôi, mà "nữ tử làm đẹp vì người mình yêu", y đã lạnh lùng, tuyệt tình như vậy, lẽ nào còn là vì "người mình yêu" nữa? Tôi phí công phí sức trang điểm cho mình thêm đẹp thì có ý nghĩa gì?
Huống chi, biết rõ thứ y xem trọng là sắc đẹp bên ngoài nên tôi chỉ có thể dùng sắc đẹp để thu hút y mà thôi, thật là thê lương biết chừng nào!
Trong lúc tâm tư tôi đang thổn thức, bên ngoài chợt vang lên tiếng bước chân dồn dập. Tôi đưa mắt nhìn Tiểu Doãn Tử, hắn lập tức hiểu ý, chạy ra ngoài một lúc rồi quay về bẩm báo: "Ôi, nô tài còn tưởng là có chuyện gì quan trọng... Thì ra mấy ngày trước, An Tiểu viện nói là nhớ tới việc theo di nương trồng dâu nuôi tằm hồi nhỏ, Hoàng thượng bèn sai người xuống miền Nam lấy lá dâu tươi về cho Tiểu viện chủ, nghe nói do dùng khoái mã đi suốt ngày đêm nên khi về đến nơi, lá dâu còn chưa khô cơ đấy!"
Lưu Chu mau miệng nói chen vào: "Hoàng thượng bây giờ sủng ái An Tiểu viện quá đi!"
Hoán Bích hơi cau mày, thoáng liếc nhìn qua phía tôi rồi thấp giọng nói: "Tình hình bây giờ bỗng khiến nô tỳ nhớ tới câu chuyện Đường Minh Hoàng sai người mang vải về cho Dương Quý Phi."
Tôi mỉm cười lơ đễnh, chẳng buồn để tâm xem Huyền Lăng sủng ái Lăng Dung thế nào, cứ nghĩ mãi về mấy câu thơ trong Kinh Thi: Thuở chưa rụng cây dâu lả lướt, lá trên cành trơn mướt mỹ miều. Cưu ơi ta bảo mấy điều, trái dâu chớ có ăn nhiều mà say. Gái kia hỡi nghe đây ta dặn, chớ mê trai lòng nặng tình duyên. Trai mà mê gái đảo điên, cũng còn giải thoát cho yên mọi bề. Gái theo trai lòng mê đắm đuối, không thể nào còn lối thoát đâu[2].
[2] Trích Kinh Thi – Quốc Phong – Vệ Phong – Manh, dịch thơ: Tạ Quang Phát. Phiên âm Hán Việt: Tang chi vị lạc, kỳ diệp ốc nhược. Vu ta cưu hề, vô thực tang thậm. Vu ta nữ hề, bất khả thuyết dã – ND.
Tôi khẽ thở dài một tiếng, lời của tiền nhân thì ra cũng có nguồn gốc từ những cơn cảm khái như thế, phải là một kinh nghiệm đau thương đến nhường nào mới có thể khiến nữ tử ấy nói ra câu "chớ mê trai lòng nặng tình duyên" kia đây? Tình yêu của một nam tử bình dân mà còn chẳng thể dựa vào, huống chi là kẻ quân vương. Tôi bật cười ngơ ngẩn, những chuyện quá khứ kia chỉ là một chút ngây thơ đến khờ dại của tôi mà thôi! Tất cả đều đã kết thúc rồi!
Thế là tôi lại tiếp tục phấn chấn tinh thần, bảo nhà bếp hầm một nồi gà ác với táo đỏ để bồi bổ thân thể.
May mà tôi còn trẻ, lại mang lòng quyết chí tự cường, do đó thân thể hồi phục rất nhanh. Có điều, đến khi dung mạo tôi trở lại như xưa thì cũng đã là tiết lập đông rồi.
Nghe nói mấy ngày trước, Mộ Dung Phi đã lại một lần nữa dâng biểu thỉnh tội, ngôn từ khẩn thiết, Huyền Lăng xem xong thì khá chấn động, có điều tạm thời chưa tỏ ý kiến gì. Tôi thầm lo lắng, quyền thế của Nhữ Nam Vương dường như có dấu hiệu phục hồi trở lại, nếu cứ tiếp tục thế này, chưa biết chừng Mộ Dung Thế Lan sẽ có ngày được trở về bên kẻ quân vương, như thế thì thực không hay chút nào.
Tôi ngẩng đầu nhìn sắc trời u ám bên ngoài, hít một hơi thật sâu, cố gắng kìm nén trái tim đang hoảng loạn của mình. Mọi việc đều đã đầy đủ, chỉ thiếu một trận tuyết lớn mà thôi.
Đưa mắt liếc xéo qua bên cạnh, tôi nhìn thấy bên trong chiếc gương đồng u ám mà lạnh lẽo kia, trong đôi mắt long lanh như nước của tôi đã xuất hiện một tia sắc bén trước giờ chưa từng có.
Ngày ấy rất nhanh đã tới. Đó là ngày Mười hai tháng Mười hai, tuyết lớn vừa dừng. Suốt ba ngày ba đêm trời đổ tuyết lớn, khắp hoàng cung ngập tràn trong một màu trắng thuần khiết, mênh mang. Huyền Lăng và các phi tần đang uống rượu ngắm tuyết trong Thượng Lâm uyển, tôi sớm lấy cớ thân thể không khỏe để không phải đi.
Chiếc áo mới của tôi được may bằng gấm Vân Nhạn, mang màu lục nhạt cực kỳ thanh tao và lạnh lẽo, như được nhuộm bằng nước sương. Tôi cố ý chọn thứ màu này, lại may vừa người theo kiểu dáng đơn giản nhất, làm tôn lên vóc người gầy guộc của tôi bây giờ. Trên chiếc áo ấy có thêu hoa mai và hoa thủy tiên, hai loại hoa cánh trắng nhụy vàng, kích thước và màu sắc đều giống hệt hoa thật. Rồi tôi lại cho hấp hoa thật để xông hơi vào chiếc áo đó suốt một đêm, sau đó mới khoác lên người, lúc này tôi dường như đã trở thành một bông hoa thực sự.
Tôi vẽ cho mình đôi hàng mày hình núi xa mà y ưa thích, lại quét một lớp phấn hồng mỏng lên mặt và phủ thêm phấn trắng bên ngoài, chính là lối trang điểm Phi hà trang thanh nhã, vừa hay có thể điểm xuyến cho nỗi ưu sầu dịu nhẹ của tôi, vô cùng động lòng người.
Thế rồi tôi rời cung, mang theo tâm ý quyết liệt, vừa có bi vừa có sầu. Thế nhưng đi được nửa đường, tôi cảm thấy những sự sầu bi ấy đều không cần thiết, một khi đã quyết ý muốn làm, hà tất phải mang theo tâm trạng mà ước thúc bản thân.
Lần này, tôi quay trở lại chốn xưa, thứ nhất là để tiện hành sự, mà quan trọng hơn là khi trùng phùng tại nơi lần đầu gặp nhau, trái tim y sẽ càng dễ xao động.
Tôi đi vào Ỷ Mai viên, khung cảnh rất tĩnh lặng, bàn chân bước đi trên mặt tuyết phát ra những tiếng "lộp bộp" nhẹ nhàng, khiến trái tim tôi thầm căng thẳng.
Sự lạnh lẽo của không khí khiến những ký ức trong đầu tôi trở nên rõ ràng mà sâu sắc, cảnh cũ như vẫn đâu đây, mai đỏ phả hương khoe nhụy, nở rộ như làn ráng chiều. Tôi hít sâu một hơi, dường như ngay đến sự ngọt ngào và giá lạnh trong không khí cũng mang mùi vị của ngày xưa, chưa từng thay đổi. Tôi nhẹ nhàng cất bước, rất nhanh đã tìm được gốc mai mà mình từng treo bức hình nhỏ để cầu phúc năm xưa, đoạn bật cười ngơ ngẩn. Dường như đó là đêm Giao thừa ngay đêm đầu tiên tôi vào cung, cũng vào một ngày tuyết rơi giá lạnh thế này, trong Ỷ Mai viên tăm tối, lần đầu tiên tôi nói chuyện với y qua những bóng mai trùng trùng. Sự đeo bám của vận mệnh khiến người ta không thể nào trốn tránh, dù có Dư Canh y mận chết thay đào, nhưng đến cuối cùng tôi vẫn không thoát được.
Ba tâm nguyện mà tôi thầm ước ngày đó vẫn còn khắc trong lòng, bao nhiêu năm nay, thứ mà tôi mong cầu cũng chỉ có thế này thôi: Thứ nhất mong cha mẹ an khang, huynh muội yên bình; thứ hai mong có thể sống yên ổn trong cung suốt đời suốt kiếp; thứ ba "mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau".
Tôi đã từng hết sức "mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau", nhưng sau khi"nghe lòng chàng hai ý" lại vẫn chẳng thể "nên đành đoạn tình này[3]"... Kỳ thực tỉ mỉ ngẫm lại tôi chưa thực sự yêu cầu Huyền Lăng phải "một lòng", y là bậc đế vương, sao tôi có thể không hiểu cảnh ngộ của y, chỉ là nơi đáy lòng dẫu sao cũng có một chút mong chờ, rằng giữa ba ngàn giai lệ chốn hậu cung, tôi có được địa vị hơi đặc biệt một chút trong lòng y. Ấy thực là một mong ước nhỏ nhoi biết mấy, nhưng giờ đây rốt cuộc đã trở thành hoa trong gương, trăng dưới nước, si tâm vọng tưởng. Còn sự yên ổn, nó cũng ngắn ngủi và hư ảo như tình yêu trong chốn hậu cung này. Tôi không còn con đường nào khác để đi, cũng không có cách nào khác, chỉ có thể dùng tâm cơ, chỉ có thể tranh đấu, tranh đấu không ngừng, vậy mới có thể đổi lại sự bình yên trong khoảnh khắc. Mà đó không chỉ là sự bình yên của tôi, còn là sự bình yên của phụ mẫu và huynh muội. Huống chi kẻ thù của tôi vẫn còn sống trên đời, tôi không thể để đứa con còn chưa ra đời của mình chết một cách oan ức như vậy được!
[3] Trích từ Bạch đầu ngâm của Trác Văn Quân, dịch thơ Điệp Luyến Hoa, toàn bài: Trắng như tuyết trên núi, sáng tựa trăng giữa mây. Nghe lòng chàng hai ý, nên đành đoạn tình này. Hôm nay chén sum họp, đầu song tiễn sớm mai. Lững thững theo dòng nước, nước mãi chảy đông tây. Buồn đau lại buồn đau, vợ chồng chẳng nên than. Mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau. Chiếc cần sao lay động, đuôi cá sao cong cong. Nam nhi trọng ý khí, sao tiền bạc thay lòng – ND.
Lòng tôi sáng trong như mặt nước, hít sâu một hơi, chỉ đợi Huyền Lăng tới đây.
Khí trời dần trở lạnh, bộ quần áo mỏng manh trên người không đủ để giữ ấm, chân tay tôi đều lạnh giá, dòng không khí chui vào mũi phải qua một lát mới cảm thấy ấm.
Tôi không sợ lạnh, tôi đã từng thấy qua sự bi thảm ở lãnh cung, từng gánh chịu nỗi nhục bị nhổ nước bọt vào mặt, không thứ gì có thể khiến tôi sợ được nữa.
Phía đằng xa sau lưng vang lên tiếng bước chân giẫm trên tuyết, tôi biết là y đã tới, không chỉ có y, e là các phi tần, cung nhân tham gia bữa tiệc ngắm tuyết hôm nay đều đã đến. Lý Trường làm rất tốt, rốt cuộc đã đưa được Huyền Lăng tới, thực không uổng công tôi trước đây từng ngầm hậu đãi y.
Tiểu Liên Tử chờ phía sau vườn mai sớm đã nghe thấy động tĩnh mà mở chiếc lồng lưu ly nuôi bướm ra, chỉ sau khoảnh khắc đã thấy có cánh bướm run rẩy bay lại. Tôi lựa đúng lúc này mở chiếc lò sưởi cầm tay giấu trong áo choàng ra, hơi nóng lập tức lan tỏa, làm hương hoa trên áo tôi càng thêm nồng. Lũ bướm lần theo ngọn nguồn của hơi nóng, chậm rãi bay về phía tôi.
Tiếng bước chân càng lúc càng gần, tôi chắp hai tay lại, cất giọng chậm rãi mà dịu dàng, nói từng từ: "Tín nữ hậu cung Chân thị, vô tài vô đức không giữ được thai rồng để hầu hạ đấng quân vương, lòng thầm áy náy không có mặt mũi nào diện thánh, tại nơi đây thành tâm cầu chúc Hoàng thượng được trời cao phù hộ, phúc thọ dài lâu, muôn sự yên bình. Nếu được như ước nguyện, tín nữ nguyện cả đời ăn chay, một lòng bái phật, không còn được nhận thêm chút ân sủng nào."
Tôi không biết cảnh tượng mình được những cánh bướm diễm lệ vờn quanh giữa trời tuyết lạnh băng này bắt mắt đến chừng nào, nhưng lại biết rõ trong tình cảnh kỳ dị như vậy, những lời mình nói ra lại càng dễ khắc sâu vào lòng y.
Huống chi giữa cảnh mai đỏ, tuyết trắng này, tôi lại mặc một bộ đồ màu xanh riêng biệt.
Khi cầu khấn những lời này, tôi chẳng hề thành tâm, chỉ cố gắng dùng nốt chút tình ý còn sót lại với y mà nói ra từng từ, ít nhiều cũng có chút thật dạ.
Cảnh vật chìm vào tĩnh lặng, dường như trong Ỷ Mai viên chẳng có bóng người nào, giữa trời đất chỉ có những bông mai đỏ rực, tự nở tự rơi.
2
Tim tôi đập thình thịch, biết rõ y đang ở sau lưng, mùi long diên hương đã lâu không ngửi thấy vương vất bay vào mũi, chỉ cần ngoảnh đầu lại là sẽ nhìn thấy y.
Một tiếng thở dài vang lên, kế đó là một giọng nói vô cùng quen thuộc: "Hoàn Hoàn... Là nàng sao?"
Cách xưng hô quen thuộc và thân mật biết chừng nào, khiến người ta chỉ cần không chú ý một chút thôi là sẽ ngỡ rằng mình vẫn ở ngày xưa, đang được sủng ái ở chốn Tiêu phòng. Cổ họng tôi có chút nghẹn ngào, cánh mũi hơi run rẩy như bị thứ gì đó chặn lại, một tiếng khóc mà bản thân cũng khó kìm nén bật ra. Tôi vẫn quay lưng về phía y, nói bằng giọng rất nhỏ: "Thần thiếp thất đức, không có mặt mũi nào diện thánh."
Tiếng xì xào kinh ngạc của các phi tần đã khó có thể che giấu được nữa, y chạy đến bên tôi, ôm lấy tôi từ sau lưng. "Hoàn Hoàn, sao nàng không chịu nhìn trẫm lấy một lần, lẽ nào nàng không muốn gặp trẫm nữa sao?"
Tôi hơi giãy dụa, trong mắt đã rưng rưng ánh lệ. "Hoàng thượng đừng lại đây... Tất của thần thiếp ướt rồi..." Đây chính là câu trả lời của tôi với y trong Ỷ Mai viên năm xưa, bây giờ được nói ra lần nữa đã không còn cái tâm thái e thẹn của người thiếu nữ, tôi chẳng qua chỉ đang một lòng muốn đưa y vào tròng mà thôi.
Thân thể tôi bị y xoay ngược lại, những giọt nước mắt đã đậu trên bờ mi, chực rơi xuống bất cứ lúc nào. Tôi đã từng đứng trước gương nghiên cứu rất nhiều lần và có thể khẳng định đây chính là bộ dạng khiến người ta thương xót nhất.
Tôi vội vã cúi đầu rồi không chịu ngẩng lên. Y nắm lấy bàn tay tôi, cất giọng xót xa. "Bàn tay sao mà lạnh thế này, cẩn thận kẻo lại đổ bệnh."
Tôi khẽ nói: "Thần thiếp chỉ một lòng muốn cầu phúc cho Hoàng thượng... Khiến Hoàng thượng phải lo lắng là lỗi của thần thiếp, thần thiếp xin cáo lui." Tôi xoay người định đi nhưng lại bị y kéo vào lòng. Y vừa kéo, những cánh bướm sớm đã đông cứng bám trên người tôi lần lượt rơi xuống đất, các phi tần cung nhân xung quanh không kìm được kêu lên những tiếng kinh ngạc. Huyền Lăng vừa ngạc nhiên vừa tò mò, tỏ vẻ thích thú nói: "Hoàn Hoàn, vào lúc này mà không ngờ còn có bướm, hóa ra bướm cũng xiêu lòng vì nàng!"
Tôi thoáng lộ ra một tia bất ngờ và ngơ ngẩn, dịu dàng thưa: "Thần thiếp thực không hề hay biết..." Vừa nói hai hàm răng tôi vừa va lập cập vì lạnh, làn gió thổi tới cuốn góc áo của tôi lên tựa như cánh bướm tung bay, trong màu lục nhạt cao quý lộ ra thân hình mảnh khảnh, thật đáng thương vô cùng.
Chiếc áo choàng viền vàng may bằng da rái cá của y rộng rãi mà ấm áp, nhẹ nhàng cuộn tôi vào trong, mùi long diên hương quen thuộc lởn vởn quanh mặt rồi ập vào trong mũi. Cánh tay y hơi dùng sức khiến tôi không cách nào trốn chạy. Y khẽ gọi tôi: "Hoàn Hoàn, nếu vì cầu phúc cho trẫm mà nàng cảm lạnh, há lại chẳng khiến trẫm càng thêm đau lòng." Y vùi đầu vào áo tôi mà hít hà một chặp, bất giác ngạc nhiên rồi cười, nói: "Người nàng thơm quá, chẳng trách giữa mùa đông mà có thể thu hút được nhiều cánh bướm tới đây như vậy, ngay đến trẫm cũng say đắm rồi!"
Giọng nói của tôi hết sức nhẹ nhàng và hiền dịu: "Thần thiếp ngày đêm cầu phúc cho Hoàng thượng nên phải tắm rửa xông hương thường xuyên, không dám sơ suất chút nào."
Y bất giác rung động, cái ôm này cũng chứa chan ý vị. Hoàng Hậu mỉm cười, nói: "Vậy thì tốt quá. Hoàn Quý tần sau khi sẩy thai, thân thể vẫn luôn không được khỏe, khiến bản cung lo lắng mất mấy tháng trời."
Lăng Dung bước ra khỏi đám đông, cất giọng nhu mì: "Thần thiếp ngày đêm cầu chúc cho Hoàng thượng và tỷ tỷ, mong Hoàng thượng và tỷ tỷ có thể hòa hảo như xưa, không còn hiềm khích, nay quả nhiên đã được như ước nguyện."
Huyền Lăng cười tủm tỉm nhìn tôi, dường như có nhìn thế nào cũng không đủ, miệng nói: "Trẫm và ái khanh từng có hiềm khích sao?"
Tôi nở một nụ cười thản nhiên mà quyến rũ, dịu dàng thưa: "Chưa từng có. Là thần thiếp bị bệnh, không tiện hầu hạ Hoàng thượng mà thôi."
Sắc mặt Lăng Dung thoáng lộ vẻ lúng túng nhưng rất nhanh đã cười, nói: "Quả đúng là thế, thần thiếp nhất thời vui mừng nên hồ đồ, nói ra những lời bậy bạ."
Huyền Lăng hết sức vui vẻ. Tôi tựa đầu vào vai y, chú ý quan sát vẻ mặt của những người sau lưng y, nơi đáy lòng không kìm được cảm thán vì sự đời nóng lạnh. Bây giờ tôi sắp được sủng ái trở lại, sắc mặt mọi người trong hậu cung khi nhìn tôi không còn băng giá nữa, ai cũng tươi cười, sắc mặt ấm áp như làn gió xuân.
Thế nhưng khi ánh mắt lướt tới chỗ cuối cùng của đám đông, tôi không khỏi hơi ngẩn ra. Huyền Thanh đứng sau mọi người, ánh mắt tràn đầy vẻ thấu hiểu, trong sự dịu dàng xen lẫn một tia xót thương, cứ dừng lại mãi trên người tôi.
Sau khi dùng bữa với Huyền Lăng xong, tôi lại cùng y đi xem ca múa. Hiển nhiên lúc này, sự chú ý của Huyền Lăng không hề đặt tại giọng ca trong trẻo, cao vút của Lăng Dung và những kỹ xảo khéo léo của các nghệ nhân, mà luôn nhìn về phía tôi lúc này đang ngồi cạnh Kính Phi.
Kính Phi mỉm cười, thấp giọng nói với tôi: "Hoàng thượng vẫn luôn nhìn muội đấy!"
Tôi cũng cười, nói: "Sao tỷ tỷ biết Hoàng thượng không phải đang nhìn tỷ?"
Kính Phi cười một tiếng. "Hôm nay muội đột nhiên xuất hiện ở Ỷ Mai viên, thực ra trong lòng mọi người đều biết rõ Hoàng thượng sẽ không chịu xa lánh muội nữa." Nàng ta dừng lại một chút rồi nói tiếp: "Chỉ là kẻ làm tỷ tỷ ta đây rất tò mò, tại sao lũ bướm lại đậu trên người muội vậy? Lẽ nào thực sự như lời người ta nói, muội biết làm ảo thuật?"
Tôi bật cười. "Tỷ tỷ thật biết nói đùa, chẳng qua đây chỉ là chuyện nhỏ mà thôi!"
Kính Phi nói: "Vừa rồi ta nghe nói đám Tần Phương nghi nói là muội cố ý làm vậy đấy!"
Tôi chẳng hề để tâm, chỉ cười nhạt, nói: "Vậy sao?"
Kính Phi cũng khẽ cười, tay trái lén chỉ về phía ghế trên. "Người ngoài nói thế nào không quan trọng, chỉ cần Hoàng thượng cho rằng muội muội có lòng với người là được rồi!" Nàng ta hơi cụp mắt xuống, nói tiếp: "Kỳ thực Hoàng thượng vẫn rất để tâm tới muội đấy!"
Tôi ngước mắt lên, thấy Huyền Lăng đang vẫy tay nói với mình: "Tới ngồi bên cạnh trẫm đi!"
Tôi cung kính đứng dậy thưa: "Hoàng hậu nương nương là người đứng đầu hậu cung, lý ra nên ngồi cạnh Hoàng thượng, thần thiếp không dám vượt lễ."
Y hết cách. Khó khăn lắm mới đợi được đến lúc bữa tiệc kết thúc, y đương nhiên muốn nghỉ lại trong cung của tôi nhưng tôi lại mềm mỏng nói: "Không phải thần thiếp không muốn hầu hạ Hoàng thượng, chỉ là bây giờ cơn phong hàn còn chưa khỏi hẳn, không tiện bầu bạn bên Hoàng thượng, xin Hoàng thượng lượng thứ." Nói rồi tôi cười dịu dàng một tiếng, tiếp: "Chi bằng Hoàng thượng hãy đến cung của Tào Tiệp dư nghỉ ngơi đi, chắc Ôn Nghi công chúa cũng rất muốn gặp mặt phụ hoàng đấy!"
Lời còn chưa dứt, Tào Tiệp dư đã nhìn qua phía tôi vẻ đầy ngạc nhiên, rồi rất nhanh đã thu lại thần sắc, chỉ mỉm cười dịu dàng. Mộ Dung Phi thất sủng, Tào Cầm Mặc tất nhiên cũng bị liên lụy, lại thêm việc Lăng Dung đang được sủng ái, nghe nói Huyền Lăng đã rất lâu chưa tới cung của nàng ta rồi. Huyền Lăng không cự được lời thỉnh cầu mềm mỏng của tôi, liền dẫn Tào Tiệp dư rời đi.
Hoán Bích không hiểu ý đồ của tôi, thấp giọng nôn nóng nói: "Nương nương..." Tôi đưa tay ý bảo không cần nói nhiều, đi một mạch về cung.
Lúc về đến cung đã là đêm khuya, tôi vừa mới ăn cháo tổ yến nhưng lại không hề cảm thấy buồn ngủ. Tinh Thanh nói: "Nương nương hôm nay mệt nhọc, chi bằng hãy nghỉ ngơi sớm một chút."
Tôi xua tay nói: "Không cần!" Nói đoạn lại mỉm cười. "Chỉ sợ còn chưa thể ngủ yên được." Vừa khéo lúc ấy Tiểu Doãn Tử mặt mày mừng rỡ chạy vào, hưng phấn nói: "Nương nương, Hoàng thượng tới rồi!"
Tôi hờ hững "ừm" một tiếng, tiện miệng nói: "Đóng cửa Ẩm Lục hiên lại đi!"
Tiểu Doãn Tử lộ vẻ không thể tin nổi, ngỡ rằng mình đã nghe nhầm, vội vàng hỏi lại: "Nương nương nói gì cơ?"
Tôi đáp: "Đóng cửa lại, không cần mời Hoàng thượng vào." Tôi thấy hắn do dự không dám đi, bèn bảo: "Ngươi cứ yên tâm làm theo lời ta là được, nói với Hoàng thượng là ta đã ngủ rồi!"
Tới lúc ấy, Tiểu Doãn Tử mới chịu rời đi. Một lát sau, tôi nghe thấy có người gõ cửa, chờ một chút rồi mới nói: "Ai vậy?"
Bên ngoài Ẩm Lục hiên, giọng nói của Huyền Lăng vang lên: "Hoàn Hoàn, nàng ngủ chưa vậy?"
Tôi cố ý tỏ ra bất ngờ: "Không phải Hoàng thượng đang ở chỗ Tào Tiệp dư sao? Sao lúc này còn tới đây vậy? Thần thiếp ngủ được một lúc rồi!" Vừa nói còn vừa giả bộ ho mấy tiếng.
Trong giọng nói của y đã mang theo chút nôn nóng: "Hoàn Hoàn, nàng vẫn khỏe chứ, trẫm phải vào xem nàng thế nào mới yên tâm được."
Tôi vội nói: "Chính vì thần thiếp nhiễm phong hàn chưa khỏi hẳn nên mới không thể ra ngoài nghênh giá, cũng không thể bầu bạn bên Hoàng thượng. Nếu lúc này Hoàng thượng vào đây, lỡ như tấm thân ngàn vàng có bề gì thì thần thiếp thực không gánh nổi tội trạng. Xin Hoàng thượng hãy suy nghĩ cho thần thiếp."
Y hết cách, đành thỏa hiệp: "Vậy thế này đi Hoàn Hoàn, nàng để trẫm nhìn qua một chút thôi được không, chỉ nhìn một chút thôi, nàng phải bình yên thì trẫm mới yên tâm được."
Y đội sương đội gió đến đây vào lúc nửa đêm, hiển nhiên là cũng có chút thành ý. Nhưng tôi sao chịu, bèn nghiêm túc từ chối: "Sáng mai Hoàng thượng còn phải lên triều sớm, thực không tiện ngủ muộn. Thần thiếp bây giờ đã đi nghỉ rồi, nếu trở dậy sẽ chỉ khiến bệnh tình thêm nặng, không thể sớm ngày hầu hạ Hoàng thượng, xin Hoàng thượng lượng thứ."
Nghe tôi thoái thác như vậy, Huyền Lăng tất nhiên không tiện nói gì, đành hậm hực quay về.
Lưu Chu nôn nóng hỏi: "Khó khăn lắm Hoàng thượng mới tới đây, sao nương nương lại không chịu gặp thế?"
Tôi mỉm cười, thay quần áo, nói: "Nếu ngày mai người lại đến, ta vẫn sẽ không gặp."
Trong bữa tiệc tối hôm sau, tôi vẫn chỉ ngồi phía dưới, cách Huyền Lăng khá xa, giữ một cự ly vừa phải với y, thỉnh thoảng cũng có vài câu nói cười. Quả nhiên đêm đến y lại tới nhưng tôi vẫn đóng cửa không gặp, chỉ một mực khuyên y hãy tới chỗ của phi tần khác mà nghỉ ngơi. Nhưng y không chịu, thậm chí còn có chút giận dữ. Mọi người đều lo lắng không thôi, sợ rằng tôi cứ cự tuyệt như vậy sẽ khiến y tức giận, nói không chừng còn trách phạt tôi. Nhưng đêm đó, sau khi không gặp được tôi, Huyền Lăng cũng không đến chỗ phi tần nào khác mà một mình ngủ trong Nghi Nguyên điện.
Cứ như vậy đến ngày thứ ba tôi mới chịu gặp y qua khe cửa trong chốc lát. Giữa ánh nến lờ mờ, kỳ thực chẳng thể nhìn rõ được gì, nhưng rõ ràng y rất vui vẻ.
Ngày thứ năm, tôi giữ Huyền Lăng lại uống một chén trà rồi tiễn khách.
Ngày thứ tám, tôi đàn cho y nghe một khúc nhạc rồi tiễn khách.
Ngày thứ mười hai, tôi nắm tay y trò chuyện một phen rồi tiễn khách.
Tôi mãi vẫn chưa chịu dọn về ở trong Oánh Tâm điện, chỉ tiếp đãi Huyền Lăng một thời gian ngắn trong Ẩm Lục hiên chật hẹp. Còn Huyền Lăng đêm đêm đều không nghỉ lại chỗ tôi, nhưng trong những cuộc bàn luận tò mò của mọi người, sự sủng ái mà y dành cho tôi ngày một tăng thêm.
Hậu Cung Chân Hoàn Truyện
Tất cả những tâm tư ấy chẳng qua bắt nguồn từ mấy lời lúc lâm chung của Lý phu nhân, vị hoàng hậu có nhan sắc khuynh quốc khuynh thành được Vũ Đế rất mực sủng ái. Khi bà sắp qua đời, Vũ Đế muốn gặp bà lần cuối, nhưng bà lại dùng khăn che mặt, đến lúc chết cũng không gặp lại lần nào. Chỉ bởi vì nhan sắc suy tàn làm tình yêu nhạt phai, ấy là cơn ác mộng vĩnh viễn của tất cả nữ tử chốn hậu cung, chỉ có thứ gì mãi mãi mất đi thì mới trở nên đẹp đẽ trong ký ức.
Vào đến tay tôi thì điều này thoáng chút thay đổi, trở thành thứ gì càng khó có được mới lại càng đáng quý. Thế nên tôi mới dốc hết tâm tư ngày ngày cự tuyệt một cách mềm mỏng, tất cả chỉ bởi vì năm chữ "muốn bắt thì phải thả" mà thôi. Cái gọi là "muốn bắt thì phải thả", mục đích cuối cùng là nằm ở chữ "bắt" kia, còn "thả" chẳng qua chỉ là thủ đoạn, do đó, công phu khi "thả" phải làm cho tốt, không được quá chừng mực. Còn "bắt" lại càng phải bắt một cách khéo léo, nếu không mọi công sức trước đó coi như hỏng cả. Giống như việc đan mạng nhện, càng rộng lớn thì đến lúc cuối cùng càng phải thu về cẩn thận, vậy mới có thể đạt được mục đích bản thân mong muốn.
Rốt cuộc đã hơn nửa tháng trôi qua, trong đêm Giao thừa, vì phải chuẩn bị cho buổi lễ bái tế và cuộc họp mặt toàn cung ngày hôm sau nên y tất nhiên không thể tới. Đợi sau khi buổi lễ bái tế sáng mùng Một kết thúc, y lập tức đến Ẩm Lục hiên tìm tôi.
Ánh dương hôm nay rất đẹp, chiếu vào những bông tuyết đọng dưới đất phản chiếu vô vàn tia sáng rực rỡ, long lanh. Dưới sự đan xen của ánh dương và ánh tuyết, khung cảnh trong Ẩm Lục hiên trở nên sáng tỏ hơn nhiều. Lúc này, tôi đang ngồi tựa người bên cửa sổ thêu một chiếc túi thơm, trên người mặc một chiếc áo gấm màu tím nhạt với những đường hoa văn chìm hình dải trân châu, nhìn từ xa thì thấy như chỉ có một màu tím; phía bên dưới là chiếc váy dài xếp nếp có nền màu trắng, được tô điểm bằng những bông hoa nhỏ màu vàng đầy nét tươi vui. Vì sợ màu sắc quá tẻ nhạt, tôi còn khoác thêm một chiếc áo choàng màu đỏ tía lên người, trên mặt chỉ tô điểm son phấn rất nhạt, lại cài một cây trâm có tua làm bằng ngọc tím và được khảm minh châu lên búi tóc, thành ra vừa có vẻ tùy ý như ở nhà, lại vừa có sự trang trọng khi đãi khách, trong sự tinh tế lại mang theo nét điềm đạm, ngay đến nét cười trên mặt cũng yên ả mà rạng rỡ, khiến người ta chỉ nhìn thấy sự mềm mại chứ không có nét sắc bén nào.
Sau khi bước vào, y liền đứng một bên, không nói năng gì. Tôi biết là y đã tới nhưng lại giả bộ như không biết, chỉ chú tâm thêu chiếc túi thơm trong tay. Lát sau, y khẽ ho một tiếng, tới lúc này tôi mới chịu đứng dậy nghênh tiếp, trên mặt lộ ra ba phần vui mừng, "Hoàng thượng tới rồi!" Ngay sau đó liền hờn trách: "Người tới mà sao không chịu nói một tiếng, làm thần thiếp thất lễ quá!"
Y mỉm cười. "Đang độ tháng Giêng, chúng ta còn câu nệ lễ tiết làm gì? Trẫm thấy nàng cúi đầu chăm chú như thế, do đó mới không nỡ gọi nàng."
Tôi sai Cận Tịch rót trà dâng lên, đoạn cười, nói: "Thần thiếp bây giờ đang rảnh rỗi nên mới làm mấy thứ nho nhỏ này để giết thời gian thôi. Hoàng thượng từ đâu tới đây vậy?"
"Ta vừa ở chỗ Hoàng hậu, vừa khéo An Tiểu viện cũng có mặt thế là liền trò chuyện vài câu, sau đó thì tới đây luôn." Rồi y lại nói tiếp: "Nàng thêu cái gì vậy?"
Tôi nở nụ cười tươi tắn, cầm chiếc túi thơm lại, nói: "Vốn định thêu một chiếc túi thơm tặng Hoàng thượng, tiếc rằng thần thiếp làm chậm quá, chỉ thêu được con rồng ở bên trên thôi, còn chưa nghĩ ra xem nên thêu áng mây màu gì."
Y nói: "Màu gì cũng được, tâm ý của nàng mới là thứ đáng quý nhất."
Tôi nghiêng đầu, nói: "Mỗi đường kim sợi chỉ trên người Hoàng thượng đều không thể sơ suất, huống chi đúng như lời Hoàng thượng nói, chiếc túi thơm này là tâm ý của thần thiếp, thế nên thần thiếp lại càng không mong muốn nó có chút bất ổn nào."
Y nghe vậy liền bật cười vui vẻ, tập trung suy nghĩ một lát rồi dừng mắt trên chiếc áo của tôi, mỉm cười, nói: "Màu tím nhạt trên áo nàng đẹp lắm, thêu thành đám mây lành cũng hợp với màu sắc của rồng vàng."
Tôi khẽ "vâng" một tiếng, cất giọng giòn tan: "Tử khí đông lai, rồng vàng uốn lượn, quả là một điềm rất lành."
Trong lúc trò chuyện nhẹ nhàng, bàn tay tôi lướt đi như bay trên chiếc túi thơm, chẳng mấy chốc đã thêu xong. Huyền Lăng tấm tắc khen ngợi một hồi, nhưng lại không nhận lấy ngay mà gỡ viên minh châu trên cây trâm cài đầu của tôi ra, bỏ vào bên trong đó, nói: "Viên minh châu này nàng ngày ngày mang trên đầu, sau này trẫm sẽ ngày ngày mang túi thơm bên cạnh, một khắc không rời, vậy được không?"
Tôi khẽ phỉ phui một tiếng, mặt đỏ bừng, không để ý đến y nữa.
Huyền Lăng tỉ mỉ ngó khắp xung quanh Ẩm Lục hiên, sau đó nói: "Trẫm ngồi ở chỗ này của nàng cũng được một lúc rồi, căn phòng này đốt ba, bốn chậu than mà cũng không được ấm áp như gian chính điện trước... Trẫm đang muốn hỏi nàng, sao không ở trong Oánh Tâm điện nữa?"
Tôi hơi cúi đầu, khẽ thưa: "Thần thiếp thích sự thanh tịnh của Ẩm Lục hiên."
Y khẽ "ồ" một tiếng, nói: "Đêm đó trẫm đánh cờ với nàng, thấy phía sau Ẩm Lục hiên là một mảng rừng trúc, lúc nào cũng có tiếng trúc bị tuyết đè gãy hoặc là tiếng gió thổi lá trúc lào xào, sao có thể nói là thanh tịnh được? Như thế đêm nàng ngủ không yên, lỡ bệnh phong hàn thêm nặng thì phải làm thế nào?"
Mắt tôi rơm rớm lệ nhưng vẫn gắng gượng nói: "Thần thiếp... Thần thiếp không thể giữ được thai rồng, thực không có mặt mũi nào gặp lại Hoàng thượng nữa. Oánh Tâm điện là nơi mà Hoàng thượng từng sống chung với thần thiếp, bây giờ thần thiếp thất đức, sao còn dám ở lại đó nữa. Thần thiếp tình nguyện ở lại nơi Ẩm Lục hiên rét lạnh, ngày ngày tĩnh tâm cầu phúc cho Hoàng thượng, mong Hoàng thượng có thể rộng bề con cái." Dứt lời, lòng tôi cũng có chút xao động. Khi nói mấy câu này, tôi kỳ thực cũng chẳng phải thật tâm thật ý lắm, nhưng hai chữ "con cái" kia khiến tôi nhớ đến đứa con còn chưa ra đời của mình và những ngày tháng thê lương đau khổ sau khi mất con.
Thấy dáng vẻ tôi như vậy, y tất nhiên hết sức động lòng, đôi tay vuốt nhẹ bờ vai tôi. "Hoàn Hoàn, nàng tự làm khổ mình như vậy, há lại chẳng khiến trẫm đau lòng hơn sao?" Thần sắc y có chút thẫn thờ và đau khổ. "Bởi vì không có trẫm nên nàng không muốn sống một mình trong tòa cung điện đã từng sống chung với trẫm, Hoàn Hoàn, tâm ý của nàng với trẫm nhìn khắp chốn hậu cung này cũng không ai so được." Y giúp tôi lau đi vệt nước mắt trên gò má, dịu dàng nói: "Trẫm đã về đây rồi, sẽ lại bầu bạn với nàng trong Oánh Tâm điện, được không? Giống như trước đây vậy."
Y cố ý nhấn mạnh hai chữ "trước đây", tôi ngẩng lên, khẽ gật đầu với khuôn mặt chan hòa nước mắt và nụ cười, nơi đáy lòng thì lại đầy nỗi bi thương. Cho dù y vẫn là y của trước đây, cung điện vẫn là cung điện của trước đây nhưng trái tim tôi sớm đã không thể trở lại giống như trước đây được nữa rồi.
Đêm ấy, tôi không mềm mỏng mời y rời đi nữa. Sự nhiệt tình và mong đợi mà y tích lũy đã lâu bùng phát một cách mạnh mẽ, y của lúc này có sự nôn nóng và kích động của một chàng thiếu niên. Còn tôi thì chỉ lặng lẽ chịu đựng, chịu đựng sự mơn trớn như sóng triều cùng với những hành động nóng bỏng như lửa đốt của y.
Khi tỉnh dậy thì đã là đêm khuya. Giờ Tý vừa qua, cảnh và người đều tịch mịch.
Trong Oánh Tâm điện, rèm vàng màn đỏ giăng đầy, nguyên một vẻ xa hoa diễm lệ như ngày trước. Bên dưới ô cửa sổ đằng tây vẫn là một đôi nến đỏ, tỏa ra những tia sáng dìu dịu như ánh trăng. Đế nến được làm bằng đồng đỏ đặc chế, điêu khắc thành hình thanh loan bay lượn, do ngọn nến thắp đã lâu nên sáp nến chảy đầy xuống dưới, phủ lên đế nến một lớp màu đỏ vô cùng bắt mắt. Bên ngoài cửa sổ, đến một ngọn gió hiu hiu cũng chẳng có, đất trời chìm trong tĩnh lặng, chỉ có thể nghe thấy tuyết tan tí tách chảy xuống, trong trẻo mà nhẹ nhàng.
Bầu không khí trong điện ấm áp đến nỗi khiến người ta đổ mồ hôi. Tôi nằm lặng lẽ trên chiếc giường rộng lớn, y ngủ rất say, hai tay ôm chặt lấy tôi, khiến tôi không thể động đậy. Cơ bắp trên cánh tay y dán sát vào làn da lõa lồ trước ngực tôi, vì mồ hôi còn chưa khô nên mang tới cảm giác nhơm nhớp và ẩm ướt, khiến nơi đáy lòng tôi trào lên cảm giác lờm lợm.
Dục vọng hoàn toàn là của y, cơn hoan hảo như dòng nước chảy qua người, cả tinh thần và thể xác tôi đều mỏi mệt. Vừa rồi khi y tiến vào cơ thể tôi, tôi rõ ràng cảm nhận được một sự xa lạ và khô khan, hoàn toàn khác hẳn với độ trước. Bờ môi của y khô khốc mà nóng bỏng, hôn lên người tôi một cách dồn dập, thân thể cũng có chút nôn nóng, cứ thế tùy tiện tiến vào, khiến tôi có cảm giác đau đớn.
Ngoài mặt tôi vẫn mỉm cười nhưng trái tim thì đã bay đến tận nơi đâu.
Không biết thân xác và trái tim của nữ tử có đi liền với nhau hay không? Trái tim đã xa cách rồi, thân thể cũng trở thành một bình chứa trống rỗng, chỉ biết ngẩn ngơ chịu đựng sự nhiệt tình nóng bỏng của y, khó mà sinh ra chút mừng vui nào tự đáy lòng, như thể bản thân là một người ngoài cuộc. Tôi cứ mỉm cười mà chịu đựng như thế, chẳng hề giao hòa, cũng chẳng hề vui vẻ.
Bức màn màu đỏ tươi trước mắt rủ xuống như chiếc cánh khổng lồ, tôi bỗng dưng nhớ ra, trong đêm ngày mùng Một thế này, ngay đến ánh trăng cũng gần như không thể nhìn thấy. Gió rì rào, tuyết mông lung, giữa trời đất này, tất cả mọi thứ đều bị bao trùm trong băng tuyết.
Cuộc đời tôi, có lẽ chỉ có thể thế này mà thôi!
Trong bữa tiệc ngày mùng Hai, tôi đã tha thiết ngồi bên phải Huyền Lăng, vừa uống rượu vừa nói cười vui vẻ. Mọi người đều biết đêm qua, Huyền Lăng đã ở lại trong cung của tôi, mãi tới giờ Ngọ mới cùng tôi tới dự tiệc. Kể từ giờ, tôi đã không còn là Hoàn Quý tần bị thất sủng khi xưa. Ngồi ở vị trí tôn quý bên trái vẫn là Hoàng hậu dáng vẻ đoan trang, Kính Phi Và Mộ Dung Phi chia ra ngồi ở đầu hai bên phải trái, kế đến là người đứng đầu Cửu tần Lục Chiêu nghi và Lý Tu dung xếp ngay dưới cô ta. Vì hôm nay là tiệc gia đình để mừng sự đoàn tụ trong cung, do đó chỉ cần là người có địa vị, bất kể đang đắc sủng hay thất sủng đều có mặt đầy đủ. Trong tòa cung điện to lớn đầy ắp phi tần, tiếng nói cười lả lướt không ngớt vang lên. Tôi mỉm cười ngồi bên cạnh Huyền Lăng, nhìn những mỹ nhân yêu kiều phía dưới, đột nhiên cảm thấy chuyện đời thật khó đoán vô chừng, vừa mới mùa xuân năm trước, tôi còn được sủng ái tột cùng, nổi bật giữa chốn hoàng cung, nhưng cơn mưa mùa hạ đã mang đi mất đứa con của tôi, còn mang tới cho tôi nỗi thất vọng chán chường, giữa mùa thu dài lạnh lẽo, người trong khắp chốn cung đình đều cho rằng tôi đã hoàn toàn thất sủng, thậm chí ngay đến một ả cung tần địa vị thấp kém hơn tôi cũng dám làm nhục tôi, nhưng khi mùa đông đầy tuyết còn chưa trôi qua, tôi đã lại trở về ngồi lại bên cạnh Huyền Lăng, tươi cười rạng rỡ như trước.
Lâu ngày không gặp Mộ Dung Phi, sắc mặt ả đã trầm lắng không ít. Nghe nói ả từng rất nhiều lần dâng biểu lên Huyền Lăng biện bạch về tội lỗi của mình, ngôn từ vô cùng khẩn thiết. Huyền Lăng xem xong thì thở dài không thôi nhưng lại không hạ chiếu tha tội.
Ả không khỏi có chút sầu muộn nhưng vẫn ngồi thẳng tắp ở đó trong bộ đồ xa hoa quý phái, khí thế ngạo nghễ và vẻ đẹp diễm lệ chưa từng mất đi nửa phần. Điều này cũng khó trách, cha anh của ả hiện giờ vẫn đang nắm quyền lớn trong triều, sau lưng gia tộc của ả còn là Nhữ Nam Vương thanh danh hiển hách. Huyền Lăng tuy vẫn chưa khoan thứ cho ả nhưng cũng không hề phạt nặng, qua đó đủ thấy ả không phải là không còn cơ hội.
Tôi ngẩng đầu uống cạn chén rượu nho trong tay, dòng dịch thể mát lạnh chảy qua cổ họng ấm áp mang tới cho tôi cảm giác băng giá mà tỉnh táo. Sau việc mất con, tôi đã hiểu được một điều, ngày nào Nhữ Nam Vương và gia tộc Mộ Dung còn chưa đổ, bất kể Mộ Dung Thế Lan có phạm phải tội lỗi tày đình trong cung, Huyền Lăng cũng không thể và không dám giết ả để trút giận.
Tôi thoáng đưa mắt liếc nhìn Huyền Lăng, khi mà vương quyền lớn hơn hoàng quyền, y thân là quân vương một nước, nhất định đang phải cố sức kìm nén cơn phẫn nộ.
Tôi nhanh chóng ngoảnh đầu đi, ánh mắt liếc qua Hoàng hậu rồi lướt xuống dưới. Kính Phi xưa nay vẫn luôn cùng phe với tôi, tôi đắc sủng trở lại, nàng ta hẳn nhiên vui mừng, hai bên có thể giúp đỡ lẫn nhau; My Trang thì tất nhiên lại càng thật lòng mừng thay cho tôi. Lăng Dung một mực giữ vẻ điềm đạm nhún nhường, trên khuôn mặt mang nụ cười e thẹn. Nàng ta kéo tay tôi, đôi mắt trong veo tràn ngập vẻ vô tội. "Tỷ tỷ rốt cuộc đã khổ tận cam lai rồi, làm muội lo lắng quá đi mất!"
Tôi tươi cười, ung dung đáp lại: "An muội muội nặng lời rồi!" Nặng lời ở nỗi khổ của tôi hay là sự lo lắng của nàng ta, trong lòng tôi tất nhiên hiểu rõ. Nụ cười của nàng ta có chút gượng gạo nhưng dáng vẻ thì vẫn kính cẩn, nhún nhường.
Những lời nghe được sau Nghi Nguyên điện ngày đó hệt như một khúc xương mắc trong cổ họng, cái ý lấy lùi làm tiến đó, không phải là tôi không hiểu, cho dù nàng ta muốn tự bảo vệ mình, muốn củng cố sự sủng ái thì tôi và nàng ta, tự đáy lòng cũng trở nên xa lạ. Sự đời nóng lạnh, có ở lâu mới thấy được lòng người. Tất nhiên, có thể thấy được tới đâu thì không phải là điều mà tôi và nàng ta có thể dự liệu.
Khi ánh mắt tôi tiếp xúc với Lục Chiêu nghi, cô ta tỏ ra rất mất tự nhiên, vội vàng né tránh. Tôi thản nhiên nở một nụ cười mỉm, Tần Phương nghi lại càng căng thẳng không yên, tựa như đang ngồi trên thảm đinh vậy. Tôi mỉm cười, thu hết vẻ mất tự nhiên của cô ta vào nơi đáy mắt, không hề có ý nói với Huyền Lăng việc cô ả làm nhục tôi. Cô ả không biết sẽ bị tôi trả thù thế nào sau khi đắc thế trở lại, thành ra càng thêm bất an. Tôi không để tâm đến điều này, chỉ nhìn bộ dạng sợ hãi của cô ta mà nở một nụ cười hết sức rạng rỡ và thân thiện. Còn cô ta thì một mực cúi đầu thật thấp, e là không dám nhìn tôi thêm lần nào nữa.
Mấy ngày sau, sau khi thỉnh an ở cung của Hoàng hậu, tôi đi qua Thượng Lâm uyển để trở lại Đường Lê cung. Vì trời nhiều tuyết, đường trơn nên tôi không ngồi kiệu, chỉ ôm một chiếc lò sưởi cầm tay, cùng Cận Tịch bước đi chậm rãi. Giữa thế giới băng tuyết lạnh giá của mùa đông mà trong Thượng Lâm uyển không hề hoang vu, vắng vẻ, ngoài những gốc mai đỏ, mai trắng, lạp mai điểm xuyến cho khu vườn ra, các cung nhân khéo tay còn dùng những dải lụa màu sắc sặc sỡ chế thành hoa và lá dán vào những cành cây khô, khiến cảnh sắc nơi đây giống như mùa xuân vậy.
Tôi bước đi được mấy bước liền rẽ vào Tuế Hàn các bên đường để ngắm cảnh tuyết trên hồ Thái Dịch. Đây là con đường mà Tần Phương nghi và Tào Tiệp dư nhất định phải đi qua sau khi từ cung của Hoàng hậu trở về cung mình.
Quả nhiên hai người bọn họ lần lượt ngồi kiệu đi ngang qua, thấy tôi ở bên đường thì không thể không dừng lại, bước tới vấn an.
Tuế Hàn các ba mặt có cửa sổ, một mặt là cửa chính, bên trên là nóc để che chắn gió tuyết. Có điều không gian trong khá nhỏ hẹp, tôi và Cận Tịch đứng bên trong, lại có thêm hai người Tần, Tào đi vào, thành ra có chút chật chội.
Cung nhân của bọn họ đều ở bên ngoài các, Cận Tịch cầm một chiếc đệm lông ngỗng tới mời tôi ngồi xuống, tôi lại lệnh cho hai người bọn họ cùng ngồi. Tôi cúi đầu dùng hộ giáp khều nhẹ nắp của chiếc lò sưởi cầm tay để nó hé ra một chút, bên trong lò đang đốt một quả thông, trong không gian nhỏ hẹp lập tức lan tỏa mùi thơm thanh nhã.
Tào Tiệp dư dáng vẻ ung dung, chuyện trò với tôi về những việc thường ngày, còn Tần Phương nghi thì lại tỏ ra thấp thỏm không yên. Tôi cố ý không để ý đến cô ả, nói với Tào Tiệp dư: "Quãng thời gian trước, bản cung bị bệnh, đã lâu không gặp hai vị tỷ tỷ, chi bằng hôm nay chúng ta hãy cùng nhau thưởng tuyết được không?"
Tào Tiệp dư mỉm cười, nói: "Ta vốn định quay về chơi với công chúa, nhưng đã lâu rồi không gặp nương nương, đúng là nên ở đây chuyện trò một lát."
Tần Phương nghi hết cách, đành nói: "Nương nương có lệnh, tần thiếp không dám không theo."
Tôi hơi nhếch khóe môi, cười, nói: "Nghe câu này cứ như là bổn cung miễn cưỡng ngươi vậy." Cô ả cả kinh, định cất tiếng biện bạch nhưng tôi đã nói trước: "Kỳ thực các tỷ muội chúng ta nên gặp gỡ nhau nhiều, dù chỉ nói chuyện phiếm đôi câu thôi cũng tốt, đợi khi tình cảm sâu sắc rồi, hiềm khích tự nhiên sẽ không còn nữa."
Tào Tiệp dư thoáng nghi hoặc nhưng cũng không hỏi nhiều, Tần Phương nghi thì chỉ biết vâng vâng dạ dạ.
Từ trong các đi ra, chỉ thấy toàn bộ hậu cung đều ngợp trong màu trắng mênh mang của tuyết, khiến tùng xanh càng thêm xanh, mai đỏ càng thêm đỏ, màu sắc bắt mắt vô cùng.
Tôi đưa mắt nhìn màu trắng khắp vườn, chậm rãi nói: "Trong thời tiết này, bản cung bỗng nhớ tới một câu chuyện của mùa đông."
Tào Tiệp dư thưa: "Nương nương học rộng biết nhiều, tần thiếp xin được lắng nghe."
Tôi nói: "Hình như đó là câu chuyện về 'con người lợn' thì phải, bối cảnh cũng là một mùa đông như thế này."
Nụ cười của Tào Tiệp dư đông cứng lại, có chút mất tự nhiên, cô ta hiển nhiên cũng biết tới câu chuyện này. Tần Phương nghi thì ngẩn ra, cô ả vốn xuất thân từ một gia đình quan lại địa phương chuyên quản về lương thực, học hành không nhiều, hơn nữa chỉ ưa ca kịch, không thích sách sử, tất nhiên là không biết.
Tôi mỉm cười, nói: "Làm gì có cái gọi là học rộng biết nhiều, kỳ thực bản cung cũng không nhớ rõ lắm, chi bằng để Cận Tịch lấy sách ra đọc cho các tỷ muội chúng ta cùng nghe."
Tôi bảo Cận Tịch lấy cuốn Sử ký ra, chọn một đoạn trong thiên Lữ Hậu bản kỷ cho nàng ta đọc. Nàng ta ăn nói lưu loát, từng câu từng chữ đọc lên đều nhẹ nhàng, dễ nghe: "Lữ Thái hậu là vợ của Cao Tổ từ lúc còn hàn vi, sinh Hiếu Huệ Đế, con gái là Lỗ Nguyên Công chúa. Khi Cao Tổ làm Hán Vương, lấy Thích Cơ, người Định Đào, rất yêu quý, sinh Triệu Ẩn Vương, tên là Như Ý. Hiếu Huệ là người nhân từ, yếu đuối, Cao Tổ cho là không giống mình, thường muốn phế truất để lập Như Ý là con của Thích Cơ vì 'Như Ý giống ta'. Thích Cơ được Cao Tổ yêu, thường đi theo nhà vua đến phía đông cửa ải, ngày đêm khóc lóc muốn lập con của mình làm Thái tử. Lữ Hậu tuổi cao thường ở nhà, ít khi gặp mặt nhà vua, cho nên càng bị bỏ rơi. Như Ý được lập làm Triệu Vương, đã mấy lần suýt thay Thái tử. Nhờ có các quan đại thần can ngăn và nhờ có mưu kế của Lưu Hầu cho nên Thái tử mới không bị truất... Lữ Hậu hết sức oán giận Thích phu nhân và người con của phu nhân là Triệu Vương, bèn sai giam Thích phu nhân ở Vĩnh Hạng cung và mời Triệu Vương đến... Thái hậu bèn chặt chân tay của Thích phu nhân, móc mắt đốt tai, cho uống thuốc thành câm, cho ở trong nhà tiêu gọi đó là 'con người lợn[1]'."
[1] Trích bản dịch Sử ký của Phan Ngọc, NXB Văn hóa thông tin, 2003 – ND.
Tần Phương nghi nghe đoạn đầu thì vẫn còn bình thản, nhưng sau đó, sắc mặt dần trắng bệch, thân thể cũng không kìm được mà hơi run rẩy. Tôi chăm chú nhìn thần sắc cô ả, chậm rãi giải thích như không có chuyện gì xảy ra: "Thời Hán Cao Tổ, Lưu Bang sủng ái Thích phu nhân, ghẻ lạnh Hoàng hậu Lữ thị. Thích phu nhân nhiều lần tranh sủng, bất chấp tôn ti coi thường Hoàng hậu, lại muốn đưa con trai mình là Như Ý lên thay Thái Tử Lưu Doanh vốn là do Lữ Hậu sinh ra. Mang mối thù sâu tranh chồng đoạt vị như vậy, Lữ Hậu tất nhiên ôm hận trong lòng. Sau khi Cao Tổ qua đời, Lữ Hậu căm hận Thích Cơ và Triệu Vương Như Ý tột độ, trước tiên giam cầm Thích Cơ, phạt bà ta mặc đồ tù, ngày ngày giã gạo trong Vĩnh Hạng cung. Thích phu nhân được Cao Tổ rất mực sủng ái, nào đã từng phải chịu khổ như vậy, bèn ngày ngày hát: 'Con làm Vương, mẹ ở tù, cả ngày giã gạo đến đêm, chẳng biết khi nào thì chết! Con hỡi con, cách nhau ba ngàn dặm, ai giúp ta gửi lời này tới con?'." Tôi nói tới đây thì thoáng dừng lại, cười bảo: "Thích phu nhân đúng là ngu xuẩn, việc tới nước này, mẹ góa con côi tựa như cánh bèo trôi không nơi nương tựa, vậy mà bà ta còn hát như vậy, mong được đứa con ít tuổi của mình che chở, đâu hay rằng đã hại con mình." Kế đó lại kể tiếp: "Lữ Hậu bèn sai sứ giả gọi Triệu Vương Như Ý từ Hàm Đan về kinh thành, dù Lưu Doanh hết sức bảo vệ người em khác mẹ ấy nhưng kết quả y vẫn bị Lữ Hậu hạ độc giết chết. Còn với Thích Cơ mà bản thân coi như cái đinh trong mắt, cái gai trong thịt, Lữ Hậu cho người chặt hết tay chân của bà ta, lại móc mắt đốt tai, cho uống thuốc thành câm, bỏ vào nhà tiêu cho giãy giụa rên rỉ, gọi là 'con người lợn', thê thảm vô cùng. Thích phu nhân vốn là một mỹ nhân mà lại rơi vào cảnh ngộ như vậy, thực đáng tiếc lắm thay!"
Tôi khẽ cười yểu điệu, nói với Tần Phương nghi: "Tuy Lữ Hậu thủ đoạn tàn khốc nhưng Thích phu nhân vọng tưởng dựa vào cái thế nhất thời để tranh ngôi đoạt sủng, làm nhục bề trên, thực là mình làm mình chịu, bị như vậy cũng là đáng đời. Mà qua đó cũng có thể thấy Lữ Hậu thân là nữ tử nhớ thù sâu đến thế nào. Phương nghi, ngươi nói xem có đúng không?"
Cô ả nghe đến si ngốc, đột nhiên thấy tôi hỏi vậy thì hai tay run lẩy bẩy, thân thể không kìm được trở nên mềm nhũn, ngã lăn ra đất. Tôi ra hiệu bảo Cận Tịch tới đỡ ả ngồi trở lại ghế. Tào Tiệp dư ở bên cạnh nói: "Đang yên đang lành nghe kể chuyện, Tần tỷ tỷ làm sao vậy?"
Tôi cũng nói: "Chính thế đấy, Phương nghi đâu phải loại người vô tri phạm thượng như vậy, đang yên đang lành cả nghĩ làm gì." Nụ cười của tôi lại càng dịu dàng hơn. "Vừa rồi bản cung giải thích bừa bãi một phen, e là đã khiến Phương nghi càng khó hiểu, chi bằng hãy để Cận Tịch đọc lại một lần nữa nhé! Áng văn thiên cổ này của Tu Mã Thiên có thể nói từng lời đều là châu ngọc, đừng nên bỏ lỡ mà uổng phí." Tuy tôi nói bằng khẩu khí thương lượng nhưng cái ý ra lệnh thì lại rất rõ ràng.
Tần Phương nghi được đỡ ngồi trở lại trên ghế, thân thể không ngừng run lẩy bẩy. Trong các nhất thời chỉ còn tiếng hít thở dồn dập của ả, mà sắc mặt ả lúc này đã trắng bệch như một tờ giấy Tuyên Thành thượng hạng.
Giọng đọc của Cận Tịch du dương trầm bổng, cao thấp nhịp nhàng, khi đọc đến chỗ đáng sợ còn có chút khàn khàn u ám, như thể tấn thảm kịch "con người lợn" đang hiện sờ sờ trước mặt người ta, rùng rợn tới tột cùng. Mới nghe được mấy câu, Tần Phương nghi đã hoảng hốt van nài: "Nương nương xin thứ tội! Tần thiếp biết sai rồi, Tần thiếp không dám nữa đâu!"
Tôi hờ hững nói: "Chuyện này đúng là kỳ lạ, Tần Phương nghi xưa nay luôn đường hoàng, ngay thẳng, nào đã từng có tội gì. Hơn nữa, bản cung chẳng qua chỉ bảo Cận Tịch đọc truyện cho chúng ta nghe thôi mà." Tôi tiện tay hái bông hoa lụa đính trên cây trâm cài đầu xuống, ánh mắt hờ hững liếc nhìn cô ả, nhưng bàn tay lại tùy ý xé tan bông hoa đó ra. Tiếng xé lụa "loẹt xoẹt" vang lên không ngớt, giữa bầu không khí tịch mịch, thực chói tai vô cùng.
Khuôn mặt tràn ngập vẻ hoảng sợ, cô ả nhìn tôi, nói: "Tần thiếp... Tần thiếp chỉ nghe theo sự sai khiến của Lục Chiêu nghi mà thôi! Nương nương..."
Tôi cười tủm tỉm, chẳng buồn ngẩng lên, chỉ nói: "Vậy sao? Bất kể chuyện là như thế nào, cứ để sau này hãy nói, bây giờ bản cung chỉ muốn nghe câu chuyện về 'con người lợn' kia thôi. Có điều, tuy Tư Mã Thiên vung bút như thần nhưng bản cung vẫn chưa hình dung ra được một 'con người lợn' thật sự là như thế nào, trong lòng rất đỗi tò mò."
Tôi cố ý nhấn mạnh mấy từ "con người lợn", mắt nhìn chằm chằm vào mặt Tần Phương nghi khiến ả sợ đến nỗi thân thể trở nên mềm nhũn, phải tựa vào một cây cột trong các mới có thể ngồi vững. Tôi mặc kệ ả, đưa mắt cho Cận Tịch đọc tiếp. Mới đọc đến lần thứ hai, chợt nghe một tiếng "a" thảm thiết vang lên, thì ra Tần Phương nghi đã ngất lịm, nằm gục ra đất.
Tôi hờ hững liếc nhìn ả, nói: "Thì ra lá gan chỉ nhỏ như vậy, bản cung cứ ngỡ cô ta to gan lớn mật đến thế nào cơ, hóa ra chỉ là thứ đồ ăn hại miệng hùm gan sứa!" Tôi dùng khăn lụa khẽ lau chỗ phấn hai bên cánh mũi, lại tiện tay vứt bông hoa đã bị xé nát trong tay lên người cô ả, thản nhiên cất tiếng: "Tần Phương nghi thân thể không được khỏe bị ngất rồi, mau khiêng cô ta về đi!"
Đám cung nhân đều đứng chờ bên ngoài các, nghe thấy tiếng gọi thì không biết đã xảy ra chuyện gì, vội vàng chạy vào, đưa Tần Phương nghi rời đi. Cận Tịch cũng thừa dịp ấy cáo từ ra ngoài.
Tào Tiệp dư thấy mọi người đều đã rời đi, chỉ còn lại tôi và nàng ta, bèn nở nụ cười đầy ý vị. "Giết gà răn khỉ... Gà đã giết xong rồi, nương nương định nói gì với một người vừa đứng bên cạnh theo dõi cả quá trình như tần thiếp đây?"
Tôi hơi nhếch khóe môi. "Nói chuyện với một người thông minh như Tào tỷ tỷ đúng là dễ chịu thật, chẳng phí sức chút nào!"
Nàng ta vẫn giữ sắc mặt bình thản, điềm nhiên nói: "Nương nương không phải là người thủ đoạn tàn độc, Tần thị đã đắc tội với nương nương, nương nương hoàn toàn có thể đưa thị đến Bạo thất để trừng trị, hà tất phải rắc rối thế này? Chẳng qua là muốn dọa nạt tần thiếp mà thôi. Nương nương có lời gì xin cứ nói thẳng."
Tôi đưa tay chỉnh lại nút thắt như ý trên chiếc áo khoác của mình, mỉm cười, nói: "Tào tỷ tỷ lòng dạ quanh co, xưa nay luôn thích vòng vo tam quốc, hôm nay đột nhiên lại nói năng thẳng thắn như vậy, thật khiến bản cung cảm thấy có chút không quen." Tôi thoáng dừng lại. "Quãng thời gian trước, bản cung bị nhiễm phong hàn, mỗi ngày đều đề nghị Hoàng thượng tới cung của Tào tỷ tỷ, Tào tỷ tỷ cảm thấy thế nào?"
Nàng ta nói: "Thịnh tình của nương nương tần thiếp xin ghi khắc. Có điều, Hoàng thượng tuy thân thể ở chỗ tần thiếp nhưng trái tim thì lại luôn ở cung của nương nương, thường xuyên bần thần, ngơ ngẩn."
Tôi nói: "Tào tỷ tỷ thông minh sáng dạ, tất nhiên biết rõ Hoàng thượng có tới cung của tỷ hay không đều phải xem bản cung khuyên nhủ thế nào. Kỳ thực Tào tỷ tỷ cũng chẳng cần quá để tâm xem trong lòng Hoàng thượng nghĩ gì, tục ngữ có câu 'gặp mặt là có thêm ba phần tình cảm', chỉ cần Hoàng thượng thường xuyên ngồi ở chỗ tỷ, với sự thông minh của tỷ, Hoàng thượng tự nhiên sẽ càng vừa ý tỷ hơn." Tôi thoáng suy nghĩ rồi lại nói tiếp: "Vì chuyện của Mộ Dung Phi mà Tào tỷ tỷ đã bị liên lụy rất nhiều, còn khiến Ôn Nghi công chúa bị ghẻ lạnh. Hoàng thượng trước đó dường như đã có tới nửa năm không đến cung của tỷ rồi. Kỳ thực tỷ tỷ phải chịu chút ấm ức cũng không sao nhưng công chúa thì khác, nếu từ nhỏ đã không được phụ hoàng sủng ái, lớn lên rồi biết phải làm sao đây?"
Tào Tiệp dư biến hẳn sắc mặt, nói: "Tần thiếp ngày đó tầm nhìn hạn hẹp, không biết nên chọn cành mà đậu như giống chim khôn, thế nên mới có kết cục như bây giờ, thực chẳng dám oán trách ai."
Tôi khẽ cười, nói: "Tỷ tỷ chớ nên tự than trách mình như vậy, tiền đồ của công chúa còn phải trông chờ vào tỷ tỷ đấy. Trước đây, tỷ tỷ lựa chọn đi theo Mộ Dung nương nương cũng không phải là tầm nhìn hạn hẹp, ngày đó để có thể theo đuôi cô ta chắc cũng không dễ dàng đúng không? Nhưng bây giờ, tỷ tỷ vẫn bị mọi người trong cung coi là thuộc phe Mộ Dung, phải làm sao mới tốt đây? Có điều vẫn còn may, Hoàng thượng là người niệm tình cũ, không phải cũng chẳng làm gì Mộ Dung nương nương đó sao?"
Tào Tiệp dư hai mắt trong veo, nhìn tôi hồi lâu rồi mới nói: "Trong lòng nương nương chắc hiểu rõ hơn ai hết, Mộ Dung nương nương sớm muộn gì cũng sẽ suy bại, chẳng qua là vấn đề thời cơ mà thôi. Tần thiếp cũng đang rất sầu muộn về tương lai của mình, chỉ mong đừng bị liên lụy gì."
Tôi tỏ vẻ thấu hiểu: "Mộ Dung nương nương tính tình nóng nảy, bộp chộp, thời gian Tào tỷ tỷ đi theo cô ta chắc cũng chẳng dễ chịu lắm. Ngày đó, trong sự việc bột sắn, tỷ tỷ biết rõ là bản cung bị oan, tất nhiên cũng biết ai đã lợi dụng công chúa để sinh sự... Đáng thương thay cho công chúa, mới chừng đó tuổi mà đã phải chịu nỗi khổ như vậy, thực khiến người ta đau lòng..." Lòng tôi hơi mềm lại. "Là một người mẹ mà phải nhìn đứa con của mình chịu khổ như thế, chắc hẳn lại càng khó chịu hơn, đúng không?"
Hàng lông mày hơn máy động, Tào Tiệp dư đột nhiên biến sắc, khi ngẩng lên, trong mắt đã thấy có ánh lệ. "Nhưng nếu không có sự giúp đỡ của Mộ Dung Phi, năm đó tần thiếp sao còn tính mạng để sinh công chúa được."
Tôi khẽ gật đầu, lại nói tiếp: "Mộ Dung Phi tất nhiên có ơn với tỷ, nhưng việc về sau thế nào thì chúng ta đều rõ, nàng ta đã lợi dụng đứa con ruột thịt của tỷ để tranh sủng, thậm chí còn mang công chúa theo bên mình, không cho người mẹ thân sinh của công chúa là tỷ tỷ chăm sóc... Kỳ thực tỷ tỷ đa mưu túc trí, hoàn toàn chẳng kém gì Mộ Dung Phi, đi theo nàng ta chẳng qua là muốn tự bảo vệ mình mà thôi."
Nàng ta thở dài than: "Chỉ đáng tiếc..."
Tôi lại nói tiếp: "Tào tỷ tỷ là người thông minh rất mực, hiểu thấu sự đời. Do đó, ngay từ sớm đã biết rằng Mộ Dung Phi không phải chỗ dựa đáng tin, cũng từng ngầm giúp đỡ bản cung chút ít. Ngày đó, Mộ Dung Phi hạ lệnh lục soát Tồn Cúc đường, nếu tỷ tỷ chịu đứng ra ngăn cản, bản cung cũng không thể bày kế khiến nàng ta thất sủng được; mà trong việc Thần muội muội sẩy chân ngã xuống nước, cũng là tỷ tỷ đã có lời nhắc nhở bản cung... Bản cung không phải người không biết cảm ân."
Nàng ta nói: "Tần thiếp khi đó chỉ có thể nghe theo mệnh lệnh, đâu có sức phản kháng Mộ Dung nương nương. Có điều, Thuần Tần thì đã không thể cứu được nữa rồi."
Tôi đang muốn tìm lời giải thích cho nỗi nghi vấn tồn tại đã lâu trong lòng, bèn hỏi: "Ngày đó, rốt cuộc tại sao Thuần Tần lại sẩy chân?" Nàng ta có vẻ muốn nói lại thôi, tôi thầm nôn nóng nhưng ngoài mặt vẫn tỏ ra bình thản. "Nếu tỷ tỷ không muốn thì không nói cũng chẳng sao."
Sau khi thoáng do dự, nàng ta nói: "Mộ Dung Phi thấy Thuần Tần tuổi còn trẻ mà đã được sủng ái, lại là người cùng phe với nương nương, do đó mới muốn cắt bỏ vây cánh của nương nương!"
"Cớ gì mà nàng ta nôn nóng như vậy? Lẽ nào không sợ Hoàng thượng truy cứu?"
"Mộ Dung Phi xưa nay vốn chẳng coi ai ra gì, dù có giết chết một vài phi tần thì cũng có sao, hơn nữa, một cái chết như vậy căn bản chẳng để lại chút dấu tích!" Nàng ta dừng lại một chút, đưa mắt nhìn thần sắc của tôi, dè dặt nói: "Kỳ thực hôm đó Thuần Tần đi nhặt diều, vô tình nhìn thấy Mộ Dung Phi ngầm qua lại với người của Nhữ Nam Vương, do đó Mộ Dung Phi mới nóng lòng diệt khẩu."
Tôi hít một hơi khí lạnh, kinh hãi đến nỗi đôi hoa tai rung rinh qua lại một hồi. Mộ Dung Phi có Nhữ Nam Vương chống lưng là việc mà mọi người đều biết, nhưng không ngờ bọn họ còn ngầm liên hệ với nhau trong cung, mà kết giao với ngoại thần không phải là một tội danh nhỏ.
Tào Tiệp dư nhìn thấy tôi đang ngơ ngẩn, bèn thử thăm dò: "Nương nương?"
Tôi tỉnh táo trở lại, mỉm cười bình thản, nói: "Ngày trước Tào tỷ tỷ vì lập trường mà bất đắc dĩ phải đối nghịch với bản cung, chuyện này hoàn toàn có thể tha thứ. Tào tỷ tỷ sinh được công chúa, công lao không nhỏ, nói thế nào thì cũng nên ngồi ngang hàng với Hân Quý tần. Nhưng ở bên cạnh Mộ Dung Phi nhiều năm như vậy, ngay đến một Lệ Quý tần không biết nặng nhẹ, không có con cái, tỷ tỷ cũng không so được, thật khiến người ta tiếc nuối." Tôi dừng một chút rồi nói tiếp: "Bây giờ dù Mộ Dung Phi có chịu giúp tỷ tỷ cũng chẳng còn sức mà làm, Tào tỷ tỷ chẳng lẽ thực sự cam chịu như vậy sao? Huống chi địa vị của mẹ ruột cũng có ảnh hưởng lớn đến tiền đồ của con cái đấy!" Nói xong, tôi ngoảnh đầu ngắm cảnh tuyết, để nàng ta từ từ suy nghĩ.
Lát sau, Tào Tiệp dư trịnh trọng khom người, cất giọng rành rọt nói: "Tần thiếp nguyện làm trâu làm ngựa dốc sức vì nương nương, chỉ mong nương nương có thể bảo vệ mẹ con tần thiếp, tần thiếp cảm kích vô cùng."
Tôi nở nụ cười mỉm, thu phục được cái túi khôn hiểu rõ mọi chuyện về Mộ Dung Thế Lan này, tôi đã có đủ lòng tin chắc chắn, bèn đích thân đỡ nàng ta dậy. "Kỳ thực bản cung sớm đã có lòng tán thưởng Tào tỷ tỷ rồi, hôm nay được gần gũi tất nhiên vô cùng mừng rỡ. Chi bằng bây giờ chúng ta hãy về cung của bản cung, cùng nhau chuyện trò thỏa thích một phen?"
Tào Tiệp dư thở phào một hơi, mặt đầy nét tươi cười. "Nương nương có tấm thịnh tình, tần thiếp mong còn chẳng được."
Tôi hờ hững quay đầu, tiết trời bên ngoài Tuế Hàn các vẫn còn rét, nhưng cũng là thời điểm ý xuân sắp tràn về.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top