Common Law

COMMON LAW

1. Khái niệm:

Common Law hay còn đc gọi bằng các tên khác: luật chung, luật Anglo-Saxon hay thông luật.

Trên thế giới hiện nay có 3 cách hiểu về Common Law:

-Loại luật có nguồn gốc từ hoạt động của các Tòa Án Hoàng gia Anh, áp dụng chung cho toàn bộ nc Anh thay thế cho luật địa phương.

-Loại luật có nguồn gốc án lệ, dung để phân biệt với luật thành văn.

-Một dòng họ luật cơ bản, đc coi là lớn thứ hai trên thế giới, hiện đc áp dụng tại các nc nói tiếng Anh với một vài ngoại lệ và ảnh hưởng tới nhiều nc đã hoặc vẫn có mối liện hệ về chính trị hay kinh tế như Mỹ, Canada, Australia...

2. Lịch sử hình thành và phát triển:

a) Giai đoạn trước năm 1066: Anglo-Saxon

-Từ TK I đến TK V, đế chế La Mã thống trị nc Anh song k để lại dấu tích gì đáng kể, kể cả về mặt pháp luật.

-Thời kì này, nc Anh chia làm nhiều vương quốc nhỏ với các hệ thống pháp luật mang tính địa phương, chủ yếu là ảnh hưởng từ các quy tắc tập quán và thực tiễn của các bộ lạc ng Giecmanh.

-Khi các bên có tranh chấp thường áp dụng tập quán địa phương để phân xử. Những ng già sẽ đứng ra giải thích chính xác các tập quán địa phương áp dụng cho các tranh chấp đó.

b) Giai đoạn 1066 – 1485: Common Law ra đời

-Năm 1066 ng Norman đánh bại ng Anglo-Saxon, thống trị ng Anh. William lên ngôi vua, mở ra 1 thời kì mới trong lịch sử nc Anh và mở đầu cho giai đoạn hình thành Common Law. Ông vẫn duy trì tập quán pháp của Anh. Nhưng trên thực tế lại cố làm cho mọi ng quên đi ảnh hưởng của quá khứ và xây dựng một chế độ phong kiến tập quyền nhằm nắm độc quyền trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội kể cả lĩnh vực tư pháp.

-Thời Henry II là giai đoạn phát triển của một hệ thống Common Law có tính chất quốc gia. Ông giử các thẩm phán hoàng gia tới nắm tòa án ở các nơi. Trong nhiều thập kỉ, họ đã phaỉ cạnh tranh với các tòa án địa phương: tòa án của tỉnh, tòa án giáo hội, tòa án của lãnh chúa phong kiến... Đến cuối TK XIII, các Tòa án Hoàng gia thắng thế trong việc xét xử vì chất lượng xét xử tốt và trình độ chuyên môn cao. Dần dần, các tòa án địa phương lấy án lệ của Tòa án Hoàng gia làm khuôn mẫu. Common Law bắt đầu chiếm vị trí quan trọng và thu hút nhiều công việc pháp lí.

(tham khảo): Thời kì này cần phải nhắc đến sự ra đời và phát triển của hệ thống writ (gọi là trát hay lệnh gọi ra tòa). Một ng muốn kiện lên Tòa án Hoàng gia phải đến Ban thư kí của nhà vua, đóng phí và đc cấp writ. Writ nêu rõ cơ sở pháp lí mà bên nguyên đưa ra cho vụ việc của mình. Có thể nói hệ thống writ là trái tim của Common Law, no writ no remedy (tạm dịch là k có writ thì k có chế tài). W.S.Holdsworth, một nhà sử học nổi tiếng về Common Law đã tuyên bố về vai trò chính yếu của hệ thống writ: “Common Law đã phát triển xung quanh hệ thống writ của hoàng gia. Chúng đã tạo thành cơ sở để xây đắp nên tòa nhà của nó”. Hệ thống writ mang đặc trưng của pháp luật Common Law, chứng tỏ vai trò quan trọng của các thủ tục tố tụng. Đó cũng chính là lí do các luật gia Common Law k tìm hiểu nội dung thực định phức tạp trg luật tư của Luật La Mã (họ cho rằng luật La Mã chỉ giúp cho việc tìm kiếm giải pháp đúng đắn cho tranh chấp nhg chưa cho phép thắng kiện).

c) Giai đoạn 1485 – 1832: phát triển Equity Law

-Equity Law (luật công bằng) đc hình thành dựa trên cơ sở coi nhà vua là biểu tượng của công lý.

-Trong trường hợp Common Law k đáp ứng đc cho bên bị thiệt hại tức là k đảm bảo đc tính công bằng thì một công chức của tòa án (quan chưởng ấn) sẽ trình vụ việc lên nhà vua. Thông qua các đơn từ gửi tới nhà vua và phán quyết của các quan chưởng ấn, dẫn đến việc hình thành 1 hệ thống pháp luật thứ hai gọi là luật công bằng.

d) Giai đoạn 1832 đến nay:

-Đây là giai đoạn cải cách và phát triển pháp luật Anh với sự xuất hiện của nhiều luật, tòa án hành chính, văn bản hành chính. Đặc biệt là việc gia nhập EEC năm 1972 có tác động đến sự phát triển của hệ thống pháp luật Anh.

3. Nguồn luật:

a) Án lệ (case law):

-Án lệ là nguồn chính thức của các nc Common Law, phân biệt với các nc Civil Law coi pháp luật thành văn (status law) làm nguồn chính. Hệ thống án lệ này sẽ đc phát triển qua các vụ việc đc tòa án xét xử.

-Đặc điểm của án lệ:

+Phải đáp ứng đc điều kiện về nguyên tắc, đòi hỏi của thực tiễn đời sống và pháp luật. Nó khiến cho pháp luật gần gũi hơn với đời sống thực tế.

+Phải đảm bảo tính chắc chắn và ổn định của hệ thống pháp luật.

+Nguyên tắc stare decisis (học thuyết án lệ): tranh chấp tương tự cần đạt kết quả pháp lí tương tự. Thẩm phán phải tuân thủ các phán quyết đã đc tuyên trc đó, đặc biệt đối với n~ phán quyết của tòa án cấp cao hơn.

+Tồn tại từ lâu phù hợp với vụ án cần xét xử. Thẩm phán chính là ng tìm ra và áp dụng án lệ.

+Chỉ có n~ bản án có tính chất bắt buộc mới trở thành án lệ và có tính pháp lí. Còn các bản án khác chỉ có tính gợi ý, tham khảo.

Ưu điểm và nhược điểm của án lệ: (tham khảo để trả lời câu hỏi)

Việc sử dụng án lệ làm nguồn chính cho thấy đặc điểm tư duy pháp lí của Common Law: đó là chủ nghĩa kinh nghiệm hay lối suy luận qui nạp đi từ trường hợp cá biệt đến cái tổng quát, nguyên tắc. Hệ quả tích cực của nó là làm thành một hệ thống Common Law mở, gần gũi với đời sống thực tế, tạo nên tính chủ động sang tạo, mềm dẻo và linh hoạt trg tư duy pháp luật. Đồng thời cũng hạn chế sự phát sinh của luật (trg trường hợp nhiều vụ án tương tự nhau có thể cùng áp dụng một án lệ).

Tuy nhiên việc sử dụng án lệ là nguồn chính cũng có mặt tiêu cực. Nguyên nhân là vì án lệ là một nguồn mà cần phải liên tục thay đổi. Điều này vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật: đó là tính ổn định (dù chỉ ở mức tương đối). Có 2 lí do chính cần phải đổi mới hệ thống án lệ. Thứ nhất là do bản thân án lệ ngay từ đầu đã bất hợp lí nên thay đổi là cần thiết. Thư shai là do cuộc sống thay đổi liên tục và ngày càng phức tạp. Án lệ có thể đã tồn tại trong một khoảng tgian nhưng n~ quy phạm tiềm ẩn trg án lệ k còn phù hợp để điều chỉnh các quan hệ trg xã hội.

b) Lẽ phải:

-Lẽ phải cũng là một nguồn luật thể hiện nét đặc thù của Common Law.

-Trong trường hợp một vụ án phát sinh k có tiền lệ pháp phù hợp, k có luật thành văn hay tập quán pháp thì thẩm phán chính là ng tạo ra luật pháp bằng cách sử dụng lẽ phải thông qua việc:

+Việc dẫn các tập quán k có giá trị bắt buộc hoặc bản án k phải là án lệ.

+Việc dẫn các án lệ nc ngoài (Mỹ, Canada...), thậm chí cả án lệ của các nc Civil War.

c) Một số nguồn luật khác: học thuyết pháp luật, tập quán pháp...

HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ANH

Quá trình hình thành và phát triển với nguồn giống với phần trên rồi nên trên slide cho câu phần này tương tự như của Common Law

Hệ thống tư pháp Anh:

* Cơ cấu, tổ chức của toà án

Hệ thống toà án Anh bao gồm các cấp toà sau:

+ Toà án địa phương (County Court) là toà án có cấp độ thấp nhất trong hệ thống toà án Anh, xét xử phần lớn các vụ việc dân sự với thủ tục đơn giản, không có bồi thẩm đoàn. Các thẩm phán của toà địa phương được bổ nhiệm từ các luật sư có ít nhất 7 năm kinh nghiệm. Tên gọi của các toà án địa phương không trùng với tên các địa danh hành chính. Các phán quyết của các toà địa phương không được coi là án lệ.

+ Toà án cấp cao (High Court) được chia làm ba phân nhánh: toà Nữ Hoàng (The Queen’s Bench Division); toà Gia đình (The Family Division) và toà Công lý (The Chancery Division). Toà án cấp cao xét xử các vụ án dân sự lớn, phức tạp và quan trọng hơn toà địa phương. Và từ đây cũng có thể kháng cáo lên cấp cao hơn ở phân hệ toà hình sự của toà Thượng thẩm.

+ Toà án Hoàng gia (Crown Court), về mặt cấp độ có thể coi ngang với toà cấp cao, chủ yếu xét xử các các vụ án hình sự nghiêm trọng. Việc xét xử có sự tham gia của bồi thẩm đoàn gồm 12 người. Toà án Hoàng gia được coi trọng vì vai trò to lớn của nó dưới thời quân chủ và thể hiện truyền thống quân chủ của nhà nước Anh. Toà án này có cơ sở khắp đất nước.

+ Toà Thượng thẩm, cấp độ cao hơn toà cấp cao và toà Hoàng gia, là toà phúc thẩm xét xử trực tiếp các bản án, quyết định dân sự và hình sự của các toà án cấp dưới. Do tính chất và thẩm quyền của mình, các bản án có giá trị (khoảng 25%) được xuất bản thành các án lệ.

+ Thượng viện là cấp xét xử cuối cùng ở Anh. Quan trưởng ấn và các thượng nghị sĩ luật hoạt động như toà án cao nhất của đất nước. Tuy nhiên họ không xét xử mà đúng hơn là giải thích luật và đưa ra quan điểm của mình về các vụ xét xử.

* Vai trò của toà án

Quyền tối cao của nghị viện đề cập đến quyền không giới hạn trong việc làm luật và toà án không có khả năng bác bỏ một đạo luật, ngoài những vấn đề gắn liền với EC (European Community). Trái lại ở Đức hoặc Mỹ, cả hai nước đều có hiến pháp thành văn, toà án có vai trò quan trọng trong việc giải thích hiến pháp và đánh giá về những gì ảnh hưởng đến chính sách công. Tuy nhiên, các thẩm phán Anh không hoàn toàn thụ động. Quan điểm pháp lý về hoạt động của hành pháp cho phép các thẩm pháp quyết định các bộ trưởng và công chức của họ có hoạt động theo đúng quyền lực do luật quy định hay không. Các thẩm phán còn có quyền quyết định rằng một quan chức nào đó đã vượt quá thẩm quyền hoặc vi phạm luật. Tuy nhiên họ có những do dự khi tiến xa hơn và quyết định giá trị hoặc quan điểm hợp hiến của những đạo luật cụ thể, vì nếu làm như vậy họ có thể tự bộc lộ nỗ lực lấn chiếm chức năng lập pháp. Theo truyền thống họ tự bằng lòng với việc đọc các đạo luật để quyết định các bộ trưởng hay quan chức có hoạt động trong phạm vi quyền lực theo luật định hay không. Đây là một khía cạnh của sự phân chia chức năng chính thức của hiến pháp Anh.

* Hoạt động xét xử (phần này chỉ tham khảo thôi k cần cho vào slide)

Một số người ủng hộ tư pháp chỉ ra sự suy yếu của nghị viện trong quan hệ với hành pháp và nhìn nhận vai trò của toà án trong việc kiềm chế hành pháp. Tuy nhiên, không có hiến pháp thành văn chống lại những vi phạm mà toà án có thể phát hiện ra trong hoạt động của hành pháp, cũng như chưa có truyền thống toà án thực hiện vai trò như thế. Trong khi ở Mỹ hoạt động tư pháp của toà án tối cao đảm nhiệm vai trò này và các nhánh khác của nhà nước cũng được thiết kế để tuân thủ sự kiểm soát của nó. Tuy nhiên, những phán quyết của toà án ở một số lĩnh vực tranh chấp những năm gần đây cũng tạo ra những phản ứng về quyền chính trị chống lại sự vi phạm của chính phủ.

Trong những năm gần đây, các toà án Anh đã sẵn sàng lật tẩy những hoạt động của các bộ trưởng nếu hoạt động của họ dựa vào quyền lực được hiểu một cách quá thái. Năm 1975, Toà thượng thẩm đã ra phán quyết đối với Bộ nội vụ (Home Secretary); năm 1976 cũng như vậy đối với Bộ giáo dục; từ năm 1979 đến lượt các bộ trưởng của đảng Bảo thủ bị phán quyết trong các quyết định cuối cùng của toà án... Năm 1995 toà án Scotland phán quyết rằng, cuộc phỏng vấn toàn cảnh với thủ tướng không thể được phát hình trước cuộc bầu cử vì nó sẽ tạo sự bất cân bằng trong việc đưa tin về các đảng. Số lượng các vụ áp dụng quan điểm pháp lý đã tăng mạnh trong những năm gần đây.

Một số yếu tố khác cũng ngày càng làm tăng vai trò chính trị của toà án. Đầu tiên là sự sẵn sàng cầu viện đến toà án ngày một nhiều hơn của các nhóm lợi ích khi bất bình với lập pháp và sự mở rộng của luật pháp vào những lĩnh vực mới, đặc biệt trong lĩnh vực nghề nghiệp, phân biệt đối xử, quan hệ giữa chính quyền trung ương - địa phương. Thứ hai là sự thay đổi quan niệm về thẩm phán. Một số cuộc bổ nhiệm thẩm phán cao cấp gần đây đã ưu tiên cho việc hợp nhất Hiệp ước của cộng đồng châu Âu về quyền con người vào Luật của Anh và tin tưởng rằng thẩm phán sẽ đóng vai trò tích cực hơn trong hoạch định chính sách. Hoạt động của toà án trong mấy thập kỷ qua có nghĩa rằng “luật đã bắt kịp chính trị theo cách quyền lực được thực hiện và bị thách thức. Các luật sư sẽ là người đưa chính phủ ra toà án nhiều hơn các nghị sĩ đối lập hay phương tiện thông tin đại chúng, là người sẽ hạn chế chính sách của chính phủ.

Ảnh hưởng của Cộng đồng châu Âu: việc Anh là thành viên của EC cũng là một áp lực khác tạo cho thẩm phán một vai trò tích cực hơn nhiều. Trong trường hợp lập pháp của Anh có yếu tố của EC hoặc ở đó có sự tranh chấp về các hiệp ước của EC hoặc những vấn đề có liên quan, thì phải tham khảo Toà án châu Âu cho quyết định cuối cùng. Nếu luật của nước Anh mâu thuẫn với luật của EC, các thẩm phán Anh bắt buộc phải ưu tiên cho luật của EC.

Nếu Đạo luật về các quyền dựa trên hiệp ước châu Âu được thông qua và củng cố, sẽ cung cấp cho các thẩm phán một tài liệu khác mà họ có thể tham khảo khi quyết định tính hợp hiến của hoạt động hành pháp.

Đào tạo luật và nghề luật:

a) Thẩm phán Anh:

Luật gia trẻ k thể trở thành thẩm phán ngay sau khi học luật xong mà chỉ n~ luật sư thực hành có kinh nghiệm (ít nhất 10 năm) và đc kính trọng mới đc bổ nhiệm làm thẩm phán.

Thẩm phán Anh xuất thân từ nhà thực hành luật chứ k phải từ giáo sư luật, đc giữ chức vụ suốt đời. Theo pháp luật Anh, về nguyên tắc, việc tiến hành tố tụng là trách nhiệm của các bên (thông qua luật sư của mình), vai trò của thẩm phán là đảm bảo sự tuân thủ các thủ tục tố tụng.

Thẩm phán ở Anh có tính độc lập rất cao, chỉ bị bãi nhiệm khi cả Thượng viện và Hạ viện Anh yêu cầu lên Nữ Hoàng (quy chế năm 1700).

b) Luật sư Anh:

Ở Anh, để trở thành luật sư cần có bằng đại học nhg k nhất thiết phải là bằng đại học luật. Luật sư Anh gồm 2 loại: luật sư bào chữa (barristors) và luật sư tự vấn (solicitors).

Luật sư biện hộ:

Người muốn trở thành luật sư biện hộ phải là một khóa sinh của Inn of Court để đc đào tạo và phải thi đỗ trg kỳ thi công nhận luật sư biện hộ. Việc công nhận luật sư biện hộ do hội đồng của Inn of Court thực hiện.

Hoạt động của các luật sư biện hộ là bào chữa, bảo vệ quyền lợi của khách hang trc tòa. Hiện nay trên toàn nc Anh có 10.000 luật sư biện hộ trg đó có khoảng 1000 ng đc phong danh hiệu Cố vấn Nữ hoàng.

Luật sư tư vấn:

Để trở thành luật sư tư vấn chỉ cần thi đỗ kỳ thi chuyên môn do Hội luật sư tổ chức và trải qua hai năm tập sự.

Sự mở rộng Common Law sang các nước khác trên thế giới:

Common Law đc mở rộng ra thế giới thông qua 2 con đường. Thứ nhất là chinh phục thuộc địa (chủ yếu). Thứ hai là các nc chủ động tiếp thu, chấp nhận một cách tự nguyện với việc thiết lập và thúc đẩy quan hệ chính trị, thương mại với Anh.

a) Common Law ở Australia:

Năm 1770, triều đình Anh thiết lập quyền sở hữu của mình trên vùng đất Australia.

Năm 1828, Luật về Nghị viện (Act of Parliament) quy định: luật áp dụng ở thuộc địa Australia là Common Law và Luật thành văn (Status Law) có hiệu lực ở Anh.

Australia có 6 bang và hai vùng lãnh thổ, mỗi bang có Hiến pháp và hệ thống pháp luật riêng.

Nội dung pháp luật của các bang tương tự nhau vì đều theo khuôn mẫu của pháp luật Anh.

Án lệ của Australia có giá trị tham khảo đối với tòa án Anh.

Australia có hệ thống tư pháp tương tự như của Anh.

Tòa án tối cao của Australia là cơ quan xét xử cao nhất của đất nc.

b) Common Law ở Canada:

Hiến pháp Canada là một loạt các đạo luật ban hành từ năm 1867 đến 1882, trong đó có Luật Hiến pháp năm 1882, cho phép Canada có quyền tự sửa đổi Hiến pháp.

Canada sử dụng Common Law, theo đó bản án của các tòa án cấp trên và tòa án Anh có hiệu lực án lệ bắt buộc.

Về tổ chức tư pháp, mỗi tỉnh có một hệ thống tư pháp riêng. Tòa án tối cao Caada là tòa án cấp phúc thẩm, bao gồm 9 thẩm phán, trong đó 3 thẩm phán đến từ Quebec (trung tâm chính trị).

Ở Canada k có hệ thống tòa hành chính. Khiếu nại các quyết định hành chính đc xem ở các Tòa án chung (Tòa án tỉnh và tòa án liên bang) theo các đạo luật riêng.

c) Common Law ở Hong Kong:

Năm 1842, Hong Kong trở thành thuộc địa và ở đây hoàn toàn áp dụng pháp luật của Anh có kết hợp với n~ tập quán địa phương.

Từ 5/4/1843, Hong Kong có cơ quan lập pháp riêng, các đạo luật Anh đc thông qua trc ngày này đc tiếp nhận một cách đương nhiên ở Hong Kong với điều kiện đạo luật đó mang tính chất chung và phù hợp với điều kiện của Hong Kong.

Các đạo luật thông qua ở Anh sau 5/4/1843 sẽ k đc áp dụng ở Hong Kong trừ khi có n~ quy định riêng hoặc đc Chính quyền Hong Kong tiếp nhận.

Năm 1997 Hong Kong trở lại dưới chủ quyền của Trung Quốc như một đặc khu.

Tham khảo: Vai trò và đóng góp của Common Law đối với sự phát triển của hệ thống pháp luật Anh:

            Thứ nhất: Trong hệ thống pháp luật Anh, án lệ đc thừa nhận là nguồn luật chính thống và là nguồn luật quan trọng nhất. Các phán quyết đã tuyên của tòa cấp trên có giá trị ràng buộc tòa cấp dưới trong quá trình xét xử các vụ án hiện tại. Điều này có giá trị rất lớn trong việc giải quyết các vụ án ở các nc trg hệ thống pháp luật Anh.

            Thứ hai: Thẩm phán trg các hệ thống pháp luật Anh đóng vai trò quan trọng trg việc sang tạo và phát triển các quy phạm pháp luật. Bởi các án lệ đc hình thành thông qua các phán quyết của các thẩm phán và trong số các phán quyết của thẩm phán sẽ có n~ phán quyết trở thành cơ sở để áp dụng cho việc giải quyết các vụ việc về sau.

            Thứ ba: Hệ thống pháp luật Anh k đc pháp điển hóa như pháp luật của các nc thuộc dòng Civil Law, hệ thống pháp luật Anh k có n~ bộ luật chứa đựng toàn bộ các quy phạm pháp luật, các quy định của pháp luật đôi khi đc giải thích thông qua án lệ.

            Thứ tư: Trong 1 tgian dài k chấp nhận cách phân biệt công luật, tự luật như cách phân chia của các luật gia châu Âu lục địa.

            Thứ năm : Bắt đầu từ hệ thống trát truyền thống các luật gia Anh đã phân chia các ngành luật như luật hình sự, luật hợp đồng, luật bồi thường trách nhiệm ngoài hợp đồng, luật thương mại...

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: