Cội rễ 2 - 01229169933

TẬP II

Chương 65

"Mexừ không có muốn tin lời tui khi tui thưa chuyện với ông", Bel nói với Kunta. "Nhưng cuối cùng, ông ta biểu là ông thấy chúng mình cần phải nghĩ một thôi về chuyện này đã, ví con người ta lấy vợ lấy chồng là điều thiêng liêng dưới mắt chúa Jêxu". Tuy nhiên, riêng với Kunta thì mexừ Uolơ không hề nói một lời nào về chuyện ấy suốt trong mấy tuần sau. Thế rồi, một đêm, Bel chạy ra lều Kunta và báo tin, hổn hển như đứt hơi: "tui đã thưa với mexừ là chúng mình vẫn còn muốn lấy nhau, và ông ta biểu được, thế thì ông ta cho là cũng ổn thôi!".

Tin đó nhanh chóng truyền khắp xóm nô. Người nọ người kia chúc mừng, làm Kunta bối rối. Anh giận đến mức có thể bóp cổ Bel về cái tội đã đi kể với "mămzen" 1 An khi con bé đến thăm chú lần sau đó, vì sau khi biết chuyện, việc đầu tiên là nó chạy vòng quanh hét inh lên: "Bel sắp lấy chồng! Bel sắp lấy chồng!". Song đồng thời, trong thâm tâm, Kunta cảm thấy chả nên bực mình với một sự thông báo như vậy, bởi vì dân Manđinka vốn coi cưới xin là chuyện quan trọng nhất sau chuyện sinh nở.

Chẳng hiểu Bel xoay sở cách nào mà khiến được mexừ hứa sẽ không dùng đến xe ngựa - hoặc Kunta - trong cả ngày chủ nhật trước lễ Giáng Sinh, thời gian mà mọi người đều được nghỉ việc và, do đó, có thể dự lễ cưới. "Tui biết mình không muốn cưới trong ngôi nhà to", chị nói với Kunta, "nhưng ta có thể làm thế được, ví bằng tui hỏi ông chủ. Và tui biết mexừ thực bụng cũng không muốn thế, cho nên, chí ít cũng phải có đông đủ mọi người dự". Chị thu xếp để tổ chức ở sân trước, dọc theo vườn hoa hình bầu dục.

Tất cả mọi người trong xóm nô lệ đều có mặt, với những bộ đồ ngày lễ diện nhất, và đứng cụm lại với nhau trước mặt họ, là mexừ Uolơ, "mămzen" An cùng cha mẹ nó. Nhưng, riêng đối với Kunta thì vị khách danh dự - và, theo một nghĩa rất thực, người chịu trách nhiệm về toàn bộ sự việc này - lại là ông bạn người Gana của anh, bác ta đã đi nhờ xe ngựa suốt từ Enfin để tới đây dự cưới. Khi Kunta cùng Bel bước ra chính giữa sân, anh quay đầu về phía ông bạn chơi đàn qua-qua và họ nhìn nhau hồi lâu trước khi người hát nguyện chính cho Bel, thím Xuki lo việc giặt giũ ở đồn điền, tiến lên để điều khiển cuộc lễ. Sau khi mời tất cả mọi người có mặt đứng sát lại gần nhau hơn, thím nói: "Bi giờ, tui xin mọi người ở đây cầu cho sự kết hợp này do Chúa sắp tác thành. Tui muốn tất cả các người hãy cầu cho lứa đôi này sẽ sum họp bên nhau..." thím ngập ngừng..."và không xảy ra điều gì khiến cho chúng bị bán đi xé lẻ đôi đường và hãy cầu cho chúng sinh con đẻ cái ngoan ngoãn, khỏe mạnh". Thế rồi, rất trịnh trọng, thím Xuki đặt một chiếc cán chổi lên lớp cỏ xén bằng bặn ngay trước mặt Kunta và Bel, ra hiệu cho hai người khoác tay nhau.

Kunta cảm thấy như mình ngạt thở. Trong đầu anh, vụt hiện lên hình ảnh những cuộc hôn lễ nơi làng quê Jufurê. Anh có thể nhìn thấy những người nhảy múa, nghe thấy tiếng những người hát ngợi và cầu kinh, cùng tiếng trống nối lời nhau chuyển tiếp tin vui đến các làng khác. Anh hy vọng rằng anh sẽ được xá tội về điều đang làm, rằng cho dù họ có nói gì với ông Chúa ngoại lai của họ đi nữa. Chúa Ala vẫn cứ hiểu rằng Kunta vẫn một mực tin ở Người và chỉ tin ở Người thôi. Thế rồi, như từ một nơi xa nào, tiếng thím Xuki vọng đến tai anh: "Nào, cả hai con đều quả quyết là có muốn thành vợ thành chồng chớ?". Nhỏ nhẹ, bên cạnh anh, tiếng Bel nói: "Thưa có". Và thím Xuki quay lại đăm đăm nhìn Kunta, anh cảm thấy đôi mắt bà khoan sâu vào người mình. Rồi Bel bóp cánh tay anh rất mạnh. Anh gắng sức lôi từng chữ bật ra khỏi miệng: "Thưa có". Thế rồi thím Xuki nói: "Vậy, trước mắt Chúa Giêsu, các con hãy nhảy vào vòng hôn nhân đi".

Kunta và Bel cùng nhảy thật cao qua chiếc cán chổi, như Bel đã bắt anh tập đi tập lại ngày hôm trước. Anh cảm thấy làm như vậy thật kỳ cục, song chị đã đo trước là một cuộc hôn nhân sẽ gặp rủi ro tệ hại nhất nếu có người nào chạm chân phải cán chổi và ai bị thế sẽ chết trước. Khi họ cùng chạm chân xuống đất an toàn phía bên kia cán chổi, mọi người đứng quan sát đều vỗ tay hoan hô và khi im lặng trở lại, thím Xuki lại nói: "Cái gì Chúa đã se kết, không người nào được tách rời. Giờ đây, các con đều phải trung thành với nhau". Bà nhìn thẳng vào Kunta. "Và phài là người Cơđốc tốt". Sau đó thím Xuki quay sang nhìn mexừ Uolơ: "mexừ có cần nói gì nhân dịp này không ạ?".

Mexừ rõ ràng có vẻ không muốn, nhưng rồi ông cũng bước lên và nhẹ nhàng nói: "Nó lấy Bel là được một người phụ nữ tốt. Và Bel được một chàng trai tốt. Và gia đình tôi đây, cùng với bản thân tôi chúc chúng may mắn đến trọn đời". Tiếp theo đó là tiếng hoan hô vang rộn của toàn thể dân xóm nô, điểm thêm những tiếng hò hét vui sướng của "mămzen" An, con bé cứ nhảy lên nhảy xuống mãi cho tới khi mẹ nó phải lôi đi và tất cả gia đình nhà Uolơ trở vào đại sảnh để cho những người da đen tiếp tục cử hành hôn lễ theo cách riêng của họ.

Thím Xuki cùng các bạn bè khác cùa Bel đã giúp chị nấu nướng khá nhiều nồi thức ăn, đến mức gần như che lấp cả bề mặt một chiếc bàn dài. Và giữa cuộc liên hoan tiệc tùng rôm rả, tất cả mọi người, trừ Kunta và bác Gana đều chia sẻ phần rượu mạch và rượu vang do ông chủ cho người mang tới từ đại sảnh làm quà mừng. Bác vĩ cầm, suốt từ lúc cuộc liên hoan bắt đầu, cứ liên tục kéo đàn vang vang, Kunta không biết bác làm thế nào để uống được, nhưng cứ xem kiểu bác ta la đà khi đàn cũng đủ rõ là bác đã xoay sở nốc cạn hơn một chầu rồi. Quá quen với việc chè chén của bác vĩ cầm bao lần rồi, nên anh đành chịu vậy, nhưng khi thấy Bel bận rộn tự rót rượu vang đầy cốc, hết tuần này đến tuần khác, thì anh bắt đầu thấy mỗi lúc một lo lắng và bối rối. Anh phẫn nộ khi nghe hớt thấy chị toang toang với một người bạn gái khác là chị Mandy: "Tớ đã nhăm nhe anh í từ mười năm nay!" và sau đó không bao lâu, chị chệnh choạng đi tới, quàng tay ôm chầm lấy anh và hôn vào chính giữa miệng, ngay tại đó, trước mặt tất cả mọi người, giữa những câu đùa sống sượng, những cái huých khuỷu tay vào sườn nhau và những tiếng cười hô hố. Đến lúc số khách còn lại sau cùng bắt đầu cáo lui, thì Kunta đã căng thẳng như sợi dây cung. Cuối cùng chỉ còn có hai người với nhau ở trong sân, và Bel lảo đảo bước tới anh, khẽ nói, giọng líu lại: "Bi giờ, bò cái này mình đã mua, mình muốn vắt bao nhiêu sữa thì cứ vắt đi!". Nghe chị nói thế, anh phát kinh.

Song, chẳng bao lâu anh đã dẹp được cái nỗi ấy! Thật vậy, chỉ ít tuần sau, anh đã vỡ nhẽ thêm biết bao điều, hiểu rõ một người đàn bà to lớn, cường tráng thật sự là như thế nào. Đôi bàn tay anh đã thám hiểm trong bóng tối cho đến nay anh đã biết chắc chắn rằng cặp mông đồ sộ của Bel quả là hoàn toàn của chị, chứ tuyệt nhiên không có độn thêm tí gì, như anh thường nghe nói nhiều phụ nữ vẫn làm thế để khiến cho mông mình nom có vẻ to. Tuy chưa được thấy chị khỏa thân - bao giờ chị cũng tắt nến trước khi anh kịp chú ý - nhưng anh đã được phép ngắm đôi vú của chị anh hài lòng nhận thấy đó thuộc loại vú to khả dĩ cung cấp ê hề sữa cho một tí nhau sau này và thế là rất tốt. Nhưng Kunta phát khiếp khi nhìn thấy những vết roi hằn sâu trên lưng Bel lần đầu tiên. "Tui còn mang những sẹo này xuống mồ như mẹ tui", Bel nói, "nhưng chắc chắn là lưng tui chưa đến nỗi tệ như lưng mình đâu". Kunta lấy làm ngạc nhiên, vì anh không nhìn thấy lưng mình được. Anh hầu như đã quên tất cả những vết đòn roi cách đây đã hơn hai mươi năm.

Luôn luôn có hơi ấm của chị bên cạnh mình, Kunta rất khoái nằm ngủ trong chiếc giường cao của Bel, trên tấm nệm êm nhồi bông chứ không phải lót rơm hay vỏ ngô. Cả những chiếc gối khâu tay của chị cũng tiện lợi và ấm áp và việc nằm ngủ cuộn tròn giữa một đôi mền, đối với anh, quả là một thể nghiệm mới mẻ và sang trọng. Hầu như thú vị không kém, là những chiếc sơ mi vừa khít do chị may cho anh, rồi ngày nào cũng giặt, hồ và là phẳng phiu tinh tươm. Bel còn lấy sáp mỡ đánh đôi giày cứng, cao cổ của anh để làm mềm da, và đan thêm cho anh những đôi tất đệm lót thật dày dặn để vừa khớp với bàn chân còn có một nửa của anh.

Sau bao năm Kunta hằng ngày phải đánh xe cho ông chủ đi miết, đêm về ăn bữa tối lạnh tanh trước khi bò vào nằm sóng soài trên chiếc ổ rơm quạnh hiu, giờ đây Bel cố lo liệu sao cho mỗi khi anh về đến nhà thì bữa ăn tối, với cũng những món chị nấu cho ông chủ - tất nhiên là trừ thịt lợn vừa đến độ sôi trên bếp lửa trong lều của họ. Và anh thích ăn bằng những bát đĩa men trắng tinh cùng với dao, thìa dĩa mà hiển nhiên là chị đã lấy từ ngôi nhà lớn tự trang bị cho mình. Thậm chí, Bel còn quét vôi trắng căn lều của chị - anh cứ phải luôn luôn tự nhắc mình rằng giờ đây, nó là căn lều chung của họ - cả bên ngoài lẫn bên trong. Nói chung anh ngạc nhiên thấy mình thích hầu hết những gì liên quan đến chị và anh cảm thấy rất dễ chịu nên không để nhiều thì giờ nghĩ về những năm bỏ phí hoài, nếu không thì hẳn anh đã tự trách mình không tỉnh ra sớm hơn. Anh không tin nổi là mọi sự lại khác đi biết bao, cuộc đời lại tốt đẹp hơn biết chừng nào so với chỉ vài tháng trước, ở chỗ cách đây có mấy thước.

Chương 66

Mặc dầu đã trở nên gắn bó khăng khít từ khi cùng nhau "nhảy qua cán chổi", có những lúc Kunta vẫn cảm thấy như Bel còn chưa tin mình hoàn toàn. Đôi khi, đang nói chuyện với anh ở trong bếp hoặc trong căn lều, sắp sửa định thốt ra điều gì, đột nhiên chị lại chuyển phắt sang một đầu đề khác, làm dâng lên trong Kunta một cơn giận dữ mà chỉ do tự tôn, anh mới che dấu nổi. Và hơn một lần, có những điều chỉ có thể lượm được qua lỗ khóa cửa buồng ông chủ, mà anh phải nghe lại từ miệng bác vĩ cầm hoặc ông lão làm vườn. Chỉ kể lại những chuyện gì với họ, cái đó đối với anh không quan trọng; song điều làm anh tổn thương là chị không kể với anh, là chị giữ bí mật với chính chồng mình. Điều xúc phạm anh hơn nữa, là anh bao giờ cũng cởi mở chia sẻ với chị, với bọn họ những tin tức mà nếu anh không nói, có thể họ sẽ chẳng bao giờ hoặc chí ít cũng còn lâu mới biết được. Kunta bắt đầu lờ đi hàng tuần lễ không thèm nói cả với Bel về bất cứ chuyện gì anh đã nghe lỏm được ở trên tỉnh. Cuối cùng, khi chị nói gì đó với anh xung quanh chuyện ấy, anh bèn bảo là tình hình gần đây, theo anh đoán có vẻ yên tĩnh và có lẽ cũng chỉ vậy thôi vì tin tức xem chừng chẳng có gì hay ho. Nhưng lần sau ở tỉnh về, anh đồ chừng chị đã rút ra bài học, và anh kể với chị rằng anh nghe lỏm thấy mexừ nói với một người bạn là ông ta vừa đọc thấy một bác sĩ da trắng tên là Benjamin gần đây có viết rằng khi người da đen giúp việc lâu năm của ông, một nô lệ tên gọi Jêm Đơhơm, học ông nghề thuốc đến trình độ mà ông cảm thấy ngang tầm hiểu biết của chính mình, ông đã cho anh ta được tự do.

"Có phải cái anh chàng đã trở thành đốc-tờ và đâm ra nổi tiếng hơn cả người dạy mình không?" Bel hỏi.

"Làm sao mà mình biết chuyện í? Mexừ bỉu chính ổng cũng vừa mới đọc thôi và chưa có ai ở đây được nghe ổng nói chuyện í cả". Kunta nói, vừa bực mình vừa băn khoăn không hiểu.

"À, tui có cách của tui", Bel trả lời, vẻ bí hiểm và chuyển sang chuyện khác.

Về phần Kunta, anh quyết định đây là lần cuối cùng chị được anh thông tin và trong khoảng một tuần sau, anh không nói thêm một lời nào về chuyện ấy, hoặc hầu như chẳng nói chuyện gì nữa. Cuối cùng, Bel hiểu ý, và sau một bữa ăn ngon lành dưới ánh nến, trong căn lều, một tối chủ nhật, chị đặt tay lên vai anh và bình thản nói: "Tui có điều mang nặng trong lòng, muốn nói với mình". Đi vào buồng ngủ, lát sau chị quay ra với một số trong tập báo Vơjinia mà Kunta biết chị lưu thành chồng dưới gầm giường. Anh vẫn đồ rằng chị chỉ thích lật giở trang này qua trang khác, như anh biết nhiều người da đen vẫn làm thế, cũng như cái đám người da trắng nghèo những ngày thứ bảy thường đi dạo quanh tỉnh lỵ, giả bộ mở những tờ báo trước mặt, mặc dù Kunta cùng mọi người khác đều biết rất rõ rằng họ chẳng đọc lấy được một chữ. Nhưng giờ đây, cách nào đó, trong khi nhìn thấy vẻ bí hiểm trên mặt Bel, anh ngạc nhiên linh cảm thấy chị sắp nói gì.

"Tui có đọc được tí chút". Bel ngập ngừng nói. "Nếu mexừ biết thế, ổng sẽ bán tui đi trước khi mặt trời kịp mọc sáng mai".

Kunta không đáp lại gì cả, vì anh biết là Bel sẽ nói về bản thân mình nhiều hơn là nếu anh lục vấn chị. "Tui đã biết dăm ba chữ từ khi còn nhỏ", chị nói tiếp. "Chả là bọn con ông chủ cũ dạo trước nó dạy tui mà. Bọn nó thích chơi trò thầy giáo, bởi vì chúng nó đang đi học, còn ông chủ bà chủ thì chả buồn để ý đến chuyện í làm gì, bởi cái nhẽ người da trắng vẫn tự nhủ rằng bọn nhọ đần độn không thể học được gì hết".

Kunta nghĩ đến ông lão da đen anh thường xuyên gặp ở tòa án tỉnh Xpotxylvanya: ông cụ quét tước ở đấy đã hàng bao năm trời, mà không một ai trong đám da trắng mảy may ngờ rằng ông đã bắt chước các mẫu chữ viết trên những giấy tờ họ vứt bừa bãi quanh đó, cho đến khi đủ khéo để làm những giấy thông hành với chữ ký giả mạo đem bán cho cánh da đen.

Dõi mắt chăm chú nhìn theo đầu ngón tay trỏ đưa đi đưa lại trên trang đầu số báo, cuối cùng Bel nói: "Đây là tin Viện Dân biểu lại họp". Chị nghiên cứu những hàng chữ in thật kỹ càng. "Đã thông qua một luật mới về thuế". Kunta cứ là ngớ người ra, Bel chuyền xuống một chỗ ở mé dưới trang báo. "Ngay đoạn này, cũng có nói thêm về việc nước Anh đã gởi một số nhọ bên ấy về Châu Phi". Bel ngước mắt nhìn Kunta. "Mình có muốn tui nhặt thêm những điều họ nói về chuyện í không?" Kunta gật đầu. Bel phải mất mấy phút khoa khoa ngón tay, trong khi đôi môi lặng lẽ chắp chữ, chắp lời. Rồi chị lại nói: "Ờ, tui chưa dám chắc hoàn toàn, nhưng mà bốn trăm nhọ đã được gửi tới nơi nào đó, hình như gọi là Xiera Lêon, trên vùng đất đai mà nước Anh đã mua của một ông vua ở đấy, và mỗi nhọ được cấp ít đất riêng cùng với chút tiền trợ cấp".

Khi việc ráng sức đọc chừng như đã làm cho chị mệt, Bel bèn giở các trang bên trong, lần lượt chỉ cho Kunta thấy những hình nho nhỏ giống hệt nhau: người ta có thể nhận ra đó là những người mang những bọc ở đầu gậy vác trên vai; đặt ngón tay lên cụm chữ in dưới một trong những hình vẽ đó, chị nói: "cái mục này chuyên tả những nhọ chạy trốn - như là cái hồi mình bỏ trốn, cũng có một tin về mình đấy. Nói rành mạch, những là kẻ chạy trốn da màu gì, mặt, mũi, chân, tay hoặc lưng có những dấu vết gì do bị đánh hay bị dí sắt nung vào, những là họ mặc quần áo như thế nào khi bỏ trốn và đại loại như thế. Và lại còn nói họ thuộc về ai, và ai bắt được họ giải về sẽ được thưởng những gì. Tui đã thấy có tin treo thưởng những năm trăm, lại cũng thấy có nơi cánh nhọ chạy nhiều quá đến nỗi chủ nhà tức điên lên, rao thưởng mười đôla cho ai bắt sống tên nhọ đưa về và mười lăm đôla chỉ cần lấy đầu thôi".

Sau cùng, chị đặt tờ báo xuống với một tiếng thở dài, vẻ như mệt nhoài vì phải cố gắng đọc. "Giờ thì mình biết tui làm thế nào moi ra chuyện ông đốc-tờ nhọ rồi nhá. Cũng bằng cách như ông chủ thôi".

Kunta hỏi chị có nghĩ rằng đọc báo của ông chủ như vậy là có thể nguy hiểm không.

"Tui phải hết sức cẩn thận đấy", chị nói: "Thế nhưng nói để mình biết, có bận tui sợ hết hồn với mexừ". Bel kể thêm: "Một hôm, mexừ bước vào nhà, bắt gặp tui ở trong phòng khách, đúng lúc tui đáng ra phải quét bụi bặm ở đấy thế nhưng tui lại đang nhòm ngó vào một quyển sách trong đám sách của ông ấy. Lạy Chúa, tôi muốn như biến thành phỗng đá. Mexừ chỉ đứng đó, nhìn tui đến một phút đồng hồ. Thế nhưng ông không nói gì hết. Ông chỉ đi ra và từ hôm sau giở đi, tủ sách của ông có một cái khóa".

Khi Bel đặt tờ báo trở lại dưới gầm giường, chị ngồi yên một hồi lâu và Kunta, nay đã hiểu chị khá rõ, biết là chị còn có điều gì trong lòng chưa nói ra. Hai người sắp sửa vào giường ngủ thì chị đột nhiên ngồi vào bàn, như kiểu vừa quyết định một điều gì, và, với một vẻ vừa lén lút lại vừa hãnh diện trên nét mặt, rút từ trong túi tạp dề ra một mẩu bút chì và một tờ giấy gấp nhỏ. Giở tờ giấy ra vuốt cho phẳng phiu, chị bắt đầu vạch mấy chữ in, hết sức nắn nót thận trọng.

"Mình biết cái này là gì không?" chị hỏi và Kunta chưa kịp nói không, chị đã tự trả lời: "Phải, đây là tên tui. B-E-L". Kunta nhìn chằm chằm vào những chữ viết bằng bút chì, nhớ lại mình đã bao năm tránh né mọi tiếp xúc gần gũi với thứ chữ viết tubốp, bụng bào dạ rằng nó chứa đựng một thứ bùa phép tubốp nào đó có thể làm hại mình - song anh vẫn chưa dám chắc như thế có phải là quá gượng ép không. Lúc này, Bel lại viết thêm mấy chữ nữa. "Đây là tên mình. K-U-N-T-A". Chị ngước nhìn anh, tươi roi rói. Ngược với ý mình, Kunta không thể không cúi xuống gần hơn để xem xét tường tận những ký hiệu lạ lùng ấy. Nhưng bấy giờ, Bel liền đứng dậy vò nhàu mảnh giấy vứt vào đám than đang tàn của bếp lửa. "Không khi nào để bị bắt quả tang mang chữ viết trong người".

Mấy tuần qua đi, và cuối cùng, Kunta quyết định phải làm một cái gì đó để thanh toán cái nỗi ấm ức nó gặm nhấm anh từ buổi Bel hãnh diện phô với anh là chị biết đọc, biết viết. Giống như bọn ông chủ da trắng của họ, lớp người da đen sinh trưởng ở đồn điền dường như coi đương nhiên là những kẻ từ Châu Phi tới chẳng qua chỉ tụt từ trên cây xuống, nói chi tới chuyện học với hành.

Cho nên, một buổi tối sau khi ăn xong, rất thản nhiên, anh quỳ xuống trước lò sưởi trong lều và cời một đống tro ra khoảng nền lát phía trước lò, rồi lấy tay san cho bằng bặn, phẳng phiu. Đoạn, trước đôi mắt tò mò theo dõi của Bel, anh lấy một cái que vót mảnh ở trong túi ra và bắt đầu vạch tên mình bằng chữ Ả-rập trên lớp tro.

Bel không để cho anh viết xong đã hỏi: "Cái gì đấy". Kunta nói cho chị hay. Rồi, sau khi làm rõ ngọn ngành, anh gạt đám tro trở vào trong lò sưởi, ngồi vào ghế đu và chờ chị hỏi xem anh đã học viết như thế nào. Anh không phải đợi lâu la gì, và suốt cả phần còn lại của buổi tối, là một sự đổi vai trò: Kunta nói, Bel nghe. Bằng cách diễn đạt ngắc ngứ, vấp váp, Kunta kể cho chị nghe tất cả trẻ con trong làng anh đã được học viết như thế nào, với những chiếc bút bằng cọng cỏ khô rỗng ruột và mực bằng nước hòa với nhọ nồi, anh kể cho chị nghe về arafang, và các buổi học cả sáng lẫn tối. Hứng lên với các đề tài của mình và khoái trí với cái điều mới mẻ là được thấy Bel ngậm miệng hồi lâu, Kunta kể cho Bel nghe là học trò ở Jufurê, trước khi tốt nghiệp phải đọc thông thạo kinh Koran, thậm chí anh còn xướng cho chị nghe một số câu thơ trong kinh đó nữa. Anh dám chắc là chị thắc mắc, song điều kỳ thú đối với anh là: trong tất cả những năm tháng anh quen biết chị, đây đích thị là lần đầu tiên chị tỏ ra chút nào quan tâm đến một cái gì dính dáng đến Châu Phi.

Bel vỗ vỗ lên mặt chiếc bàn kê giữa hai người. "Thế dân Châu Phi của mình gọi "bàn" là gì?" chị hỏi.

Mặc dầu từ khi rời Châu Phi, anh không bao giờ có dịp nói tiếng Manđinka, chữ "mê-xô" vẫn bật ra khỏi miệng Kunta trước khi anh kịp ý thức, và anh thấy trào lên một niềm tự hào.

"Còn cái này?" Bel chỉ tay vào chiếc ghế mình ngồi hỏi "Xirangô". Kunta đáp. Anh cảm thấy tự bằng lòng mình đến nỗi đứng bật dậy, bắt đầu đi quanh căn lều, tay chỉ vào các đồ vật.

Gõ gõ vào chiếc nồi sắt đen kịt của Bel bên trên bếp lò, anh nói "kalêrô". Rồi một cây nến trên bàn: "kanđiô". Ngỡ ngàng, Bel cũng đứng lên khỏi ghế và theo anh đi một cái giỏ do ông lão làm vườn đan: "xinxingô". Anh dẫn quanh, Kunta thúc mũi giày vào một cái túi vải thô và nói "bôtô", chạm vào một trái bầu khô và nói "mirangô", rồi Bel đi tiếp vào buồng ngủ. "Larangô", anh nói, chỉ vào cái giường và chuyển sang cái gối: "kunglarang". Rồi lại chỉ cửa sổ: "janêrangô", chỉ lên mái: "kankarangô".

"Xin Chúa thương xót cho con!" Bel kêu lên. Điều đó còn vượt xa niềm tôn kính đối với quê hương xứ sở của anh mà Kunta hy vọng khơi lên được ở Bel.

"Bi giờ đã đến lúc ta ngã đầu lên kunglarang rồi đấy" Kunta nói, anh ngồi xuống mép giường và bắt đầu cởi quần áo. Bel nhíu mày, rồi cười vang và quàng tay ôm lấy anh. Đã lâu lắm, anh chưa hề cảm thấy khoan khoái đến thế.

Chương 67

Tuy Kunta vẫn thích đến thăm và trao đổi chuyện trò với bác vĩ cầm và ông già làm vườn, song kém thường xuyên hơn nhiều so với hồi chưa vợ. Điều đó chẳng có gì là lạ, vì bây giờ, phần lớn thời gian rảnh rỗi, anh đều ở bên Bel. Nhưng thậm chí, những bận họ tụ họp với nhau gần đây, hai người kia xem ý đối với anh có khang khác - cố nhiên không phải là không thân mật, nhưng kém tâm đắc hơn. Chính họ trên thực tế đã đẩy Kunta vào vòng tay của Bel, thế mà giờ đây khi anh đã cưới, họ lại làm như sợ nó có thể truyền nhiễm - hoặc giả như điều ấy chưa bao giờ tồn tại vậy; việc anh hiển nhiên bằng lòng với mái nhà, bếp lửa gia đình không làm cho họ cảm thấy ấm thêm chút nào những đêm đông lạnh giá. Nhưng nếu như anh cảm thấy không gần gũi họ bằng trước - trong cái tình đồng chí mà họ đã chia sẻ với nhau với tư cách là những người đàn ông sống độc thân, mặc dù gốc gác khác nhau - thì giờ đây không hiểu sao anh lại cảm thấy mình được chấp nhận rõ ràng hơn, như thể do lấy Bel, anh đã trở nên một thành viên trong bọn họ vậy. Tuy những cuộc nói chuyện với người bạn mới lấy vợ không trần tục như đôi khi trước đây - chẳng phải là Kunta khoái gì những cung cách sống sượng của bác vĩ cầm, thậm chí với riêng với bản thân anh cũng không hề thừa nhận thế - song, với lòng tin cần tăng thêm qua nhiều năm tháng bên nhau, những điều trao đổi đã trở nên sâu sắc hơn và nghiêm túc hơn.

"Hoảng rồi!" một đêm, bác vĩ cầm tuyên bố vậy. "Ấy đấy, người da trắng đâm hoảng nên cuống quít đếm đầu tất cả mọi người trong cái cuộc đều cha dân số này. Họ sợ trong đám họ, dân nhọ đã đông hơn dân da trắng", bác vĩ cầm nói.

Kunta nói Bel kể là đã đọc trong báo thấy tin ở bang Vơjinia, theo điều tra dân số, người da trắng chỉ nhiều hơn người da đen có mấy nghìn thôi.

"Người da tắng sợ cánh nhọ tự do hơn sợ bọn ta", ông già làm vườn chêm vào.

"Tui nghe nói, riêng ở Vơjinia đã có gần gần sáu vạn nhọ tự do", bác vĩ cầm nói: "còn bao nhiêu nhọ nô lệ thì không thấy nói. Dưng mà bang này chưa phải là nhều nhất đâu nhá. Phải là dững bang ở mạn dưới, đất đai màu mỡ nhất, mùa màng tốt tươi nhất, có tàu xuống chở hoa màu trên sông lạch đi các chợ, với lại...".

"Phải, dững nơi í, cứ hai nhọ mới có một da tắng!" ông lão làm vườn ngắt lời. "Ở tuốt dưới đồng bằng ban Nuizana rồi ở vùng Yazu bang Mitxixipi, nơi chuyên tồng mía í, và ở tuốt dưới cái vành đai đen ở bang Anabama, Nam Canina và Jojiơ, nơi chuyên tồng lúa và chàm í, nói cho mà biết nhá, ở dững cái đồn điền to tướng nằm khuất nẻo dưới í, có đủ các loại nhọ mà chẳng có bị đếm bao giờ hết!".

"Một số đồn điền to đến nỗi phải chia làm nhiều đồn điền nhỏ hơn giao cho xúbadăng trông coi", bác vĩ cầm nói. "Mà các mexừ chủ các đồn điền lớn í phần đông là dững chạng sư, dững nhà chính chị và doanh nghiệp to phe sống ở thành phố, và dững người giàu sang quyền quí í chẳng cần lấy phần gì ở đồn điền, có dễ chỉ trừ dững khi họ rầm rập kéo ra hàng đoàn xe ngựa xênh xang đầy dững bạn hữu về chơi nhân dịp lễ Tạ ơn hay lễ Giáng sinh, hoặc nữa là để cắm trại hè, ăn uống ngoài trời".

"Dưng mà chú biết không", ông lão làm vườn kêu lên "dững người da tắng giàu có ở thành phố í nại chính nà cái tầng nớp có nhiều người nên tiếng chống chế độ nông nô".

Bác vĩ cầm ngắt lời. "Dào! Cái í chả có nghĩa gì sất! Bao giờ cũng có một số ông lớn, da trắng mốn xóa bỏ chế độ nô lệ. Xì, chế độ nô lệ đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật ở bang Vơjinia này mười năm rồi, nhưng mà luật ví chả lệ, các người thấy đấy, chúng ta vẫn là nô lệ còn họ thì cứ đưa sang thêm hàng tàu đầy nhọ".

"Thế dững nhọ ấy bị đem đi đâu cả?" Kunta hỏi. "Một số lái xe tui quen bỉu là chủ họ đi nhiều chuyến rõ lâu mà hàng mấy ngày liền chả thấy một cái mặt da đen nào khác". «Có ối vùng cả quận không có nấy một đồn điền nhớn và cơ hồ chẳng thấy một bóng nhọ nào cả», ông già làm vườn nói. « Chỉ dặt những trại nhỏ đầy sỏi đá, bán mười năm xu một mẫu cho đám da trắng nghèo kiết nõ đít đến độ phải ăn đất, ăn cát. Và chẳng khá khấm hơn họ bao nhiêu, nà dững người có chút ruộng không tốt hơn mấy tí và một dúm nô lệ».

«Tui nghe nói có một nơi không phải chỉ có từng dúm nhọ thôi đâu, đó là miền Tây Ấn», bác vĩ cầm nói và quay sang Kunta. «Chú mày biết ở đâu không? Ở bên kia biển, giống như quê chú mày í». Kunta lắc đầu.

« Mốn sao thì sao », bác vĩ cầm nói tiếp, « tui nghe nói ở đấy một ông chủ có tới cả nghìn nhọ để trồng và chặt cái giống cây làm đường, làm rượu rum. Người ta kể mấy tui hàng đoàn tàu, giống như cái tàu chở chú mày tới đây í, thường dừng ở Tây Ấn cho bọn nhọ Châu Phi ở lại đấy một thời gian, vỗ béo chúng sau cái chặng đường dài đã làm chúng ốm o đói khát gần chết. Vỗ béo chúng, rồi mang chúng tới đây để bán với giá hời hơn dững nhọ có sức làm việc. Chí ít cũng là dững cái tui nghe nói».

Không bao giờ Kunta khỏi kinh ngạc về việc bác vĩ cầm và ông già làm vườn tỏ tường đến thế về những điều họ chưa từng thấy và những nơi họ chưa từng đến, vì anh nhớ rõ ràng là đã từng nghe cả hai nói rằng họ chẳng bao giờ ra khỏi Vơjinia và Bắc Carolina. Anh đã từng đi chu du nhiều hơn họ biết mấy - không những suốt chặng đường dài từ Châu Phi tới đây, mà cả bao lần đánh xe cho ông chủ đi tới đi lui khắp bang này - thế mà họ vẫn thông tỏ hơn anh nhiều, đến nỗi sau chừng ấy năm chuyện trò với họ, anh vẫn thấy ra nhiều điều mà trước đây anh chưa từng hay biết.

Thực tình, Kunta không băn khoăn lắm khi phát hiện thấy mình kém hiểu biết đến thế, vì đã có bác vĩ cầm và ông lão làm vườn giúp cho anh đỡ u mê đi; song anh vẫn cảm thấy bối rối sâu sắc khi vỡ lẽ ra, qua bao năm, rằng anh vẫn còn thông tỏ mọi chuyện hơn mức người nô lệ trung bình. Qua những điều anh có thể quan sát được, phần lớn người da đen thậm chí hoàn toàn không biết mình ở đâu, chưa nói gì đến mình là ai.

«Tui cược với mình là một nửa số nhọ ở Vơjinia chưa bao giờ ra khỏi đồn điền của chủ». Bel nói vậy, khi anh nêu vấn đề ấy với chị. «Và họ cũng chưa nghe nhắc đến vấn đề nào khác ngoài Richmơnd, Friđirichbơg và miền Bắc, có lẽ thế, mà cũng chả biết những vùng í ở đâu nữa. Người da trắng cốt giữ cho dân nhọ ngu tối không biết nơi mình ở là đâu, bởi vì họ rất lo dân nhọ nổi dậy hoặc chạy trốn».

Kunta chưa kịp định thần lại khỏi nỗi ngạc nhiên khi nghe thấy một điều sâu sắc như vậy thốt ra từ miệng Bel chứ không phải từ bác vĩ cầm hay ông lão làm vườn, thì chị đã nói tiếp: «Mình có tính chuyện trốn chạy lần nữa nếu gặp dịp không?».

Câu hỏi đó làm cho Kunta ngớ ra và hồi lâu, anh không trả lời gì. Rồi, cuối cùng, anh nói: «À, bao lâu nay, tui không có nghĩ gì đến chuyện í».

«Biết bao nhiêu lần, tui ngẫm đến cơ man là chuyện mà chắc chẳng ai ngờ tui màng tới», Bel nói: «Ví như đôi khi tui tưởng tượng mình được tự do, như tui nghe nói nhiều người ở miền Bắc đã được thế». Chị ướm nhìn Kunta. «Bất kể mexừ tốt đến đâu, tui cảm thấy nếu như mình với tui trẻ hơn thế này, thì dám chắc tui sẵn sàng rời bỏ đây đi ngay đêm nay». Trong khi Kunta ngồi ngây ra đó, sửng sốt, chị bình thản nói: «Xem chừng tui đâm quá lớn tuổi rồi và bi giờ sinh nhát sợ».

Như thể Bel đã đọc được ý nghĩ của anh lúc đó về bản thân mình, và điều đó giáng vào đầu anh như một trái đấm. Anh đã quá lớn tuổi, không còn sức để chạy trốn nữa và quá rã rời rồi. Và khiếp nhược nữa. Tất cả những đau đớn và hãi hùng của những ngày, đêm chạy dài khủng khiếp, bỗng trở lại đôi bàn chân phồng rộp, phổi như vỡ tung ra, đôi bàn tay rướm máu, gai góc xé toạc mình mẩy, tiếng sủa của bày chó truy đuổi, nhe nanh gầm gừ, tiếng súng nổ, nhát roi quất nhói buốt, lưỡi rìu bổ xuống. Bất giác Kunta ngụp vào một nỗi ngao ngán mù mịt. Biết rằng chính mình đã vô tình gây nên nỗi đó, đồng thời cũng biết rằng có nói thêm, thậm chí có phân trần này nọ, lại càng tổ nặng nề hơn, Bel chỉ lẳng lặng đứng dậy, về giường ngủ.

Cuối cùng, khi anh nhận ra chị đã đi khỏi, Kunta day dứt cảm thấy rằng trước đây anh đã hiểu lầm chị theo ý nghĩ chủ quan của mình. Và anh xót xa nghĩ mình đã đánh giá thấp Bel cùng những người da đen khác một cách tàn tệ biết bao.

Tuy không bao giờ để lộ ra, chỉ trừ đối với những người thân yêu - mà đôi khi, cả với những người này cũng không - nhưng, chẳng khác gì Kunta, họ vẫn cảm thấy rõ và căm ghét sự áp bức đè nặng lên cuộc đời họ. Cuối cùng, anh đã nhận ra điều đó. Anh ước gì mình có thể tìm ra cách nào để nói cho chị rõ anh ân hận biết bao, anh thông cảm biết bao nỗi đau của chị, anh xiết mấy biết ơn tình yêu của chị, anh cảm thấy mãnh liệt biết chừng nào mối ràng buộc giữa hai người đang ngày một sâu sắc thêm trong anh. Lặng lẽ, anh đứng dậy, vào buồng ngủ, cởi quần áo, lên giường ôm lấy chị và đôi bên cùng nhau ân ái một cách cuồng nhiệt đến tuyệt vọng.

Chương 68

Mấy tuần nay, Kunta cảm thấy hành vi của Bel đến lạ kỳ. Chẳng hạn, chị hầu như chẳng nói năng gì, song cũng không phải chị có điều gì phiền muộn. Và anh cảm thấy chị nhìn anh một cách quái dị, rồi thở dài sườn sượt khi anh đăm đăm nhìn lại. Mà chị sinh ra cái thói mủm mỉm cười một mình, đến là bí ẩn, trong khi lắc lư trên ghế đu, thậm chí đôi lúc còn âm a hát trong cổ nữa. Rồi một đêm, hai người vừa tắt nến và leo lên giường, chị liền nắm lấy tay Kunta, khẽ khàng đặt lên bụng mình. Một cái gì bên trong chị đụng đậy dưới bàn tay anh. Kunta bật dậy, tưởng đến vỡ tung ra vì sung sướng.

Trong những ngày sau, anh hầu như không nhận ra mình đánh xe đi những đâu. Giá như có sự thay vị đổi ngôi, ông chủ xuống kéo xe và lũ ngựa lên ngồi ghế đằng sau anh, anh cũng bất cần biết, bởi lẽ tâm trí anh đầy tràn những hình ảnh Bel chèo thuyền xuôi dòng bôlông đến ruộng lúa, với con trai anh địu gọn gàng trên lưng. Anh hầu như không nghĩ đến chuyện gì khác ngoài những ý nghĩa vô vàn của đứa con đầu lòng sắp ra đởi này, cũng như đối với Binta và Ômôrô, anh đã từng là con đầu lòng. Anh nguyện rằng cũng như bố mẹ cùng những người khác đã làm với anh ở Jufurê, anh sẽ dạy đứa con trai này thành một bậc tu mi nam tử chân chính, bất kể có thể gặp những thử thách và bất trắc như thế nào đi nữa trên mảnh đất này của bọn tubốp. Bởi vì nhiệm vụ của một người cha là phải làm sao như một cái cây khổng lồ cho con trai mình nương tựa. Bởi vì, trong khi con gái chỉ cần được nuôi ăn đến khi đủ lớn để lấy chồng và đi sang nhà khác - mà con gái là do mẹ chúng lo liệu - thì con trai chính là người nối tiếp tên tuổi và thanh danh của gia đình, rồi tới khi cha mẹ già nua, đi không vững, lại chính con trai, từng được nuôi dạy tốt, phải đặt việc phụng dưỡng hai thân lên trên hết.

Việc Bel có mang đưa tâm tưởng của Kunta trở về xa thẳm Châu Phi, thậm chí còn xa hơn cả cuộc gặp gỡ với bác nhạc công người Gana. Thực vậy, một đêm, anh hoàn toàn quên bẵng là Bel đang ở trong lều trong khi anh kiên nhẫn đếm tất cả những hòn sỏi trong chiếc vỏ bầu để ngỡ ngàng phát hiện ra là đã đúng hăm hai vụ mưa rưỡi, anh không được thấy quê hương. Nhưng phần lớn các buổi tối, chị cứ nói hầu như liên tục trong khi anh ngồi đó, nghe lơ đãng hơn mọi khi, mắt trân trân nhìn vào khoảng không. «Anh í chỉ miên man vào những cái trò vè Phi Châu nhà anh í thôi». Bel thường nói với thím Xuki như vậy. Và sau một lát, Bel thường đứng dậy khỏi ghế, không để Kunta thấy, lặng lẽ rời căn phòng, miệng lẩm bẩm một mình và lủi thủi đi ngủ.

Vào một đêm như thế, khoảng một giờ sau khi chị đi nằm, những tiếng rên từ trong buồng ngủ làm Kunta giật bắn người, trở lại thực tại của căn lều. Đã đến lúc rồi sao? Anh bổ nhào vào, thấy chị vẫn ngái ngủ, nhưng đang lăn lộn, cơ hồ sắp la thét. Khi anh cúi xuống sờ má Bel, chị ngồi thẳng dậy trong đêm tối, mình đẫm mồ hôi, hơi thở nặng nhọc.

«Lạy Chúa, tui sợ chết khiếp cho đứa bé trong bụng!» chị vừa nói vừa quàng tay ôm lấy anh. Kunta không hiểu. Mãi một lúc sau chị mới đủ trấn tĩnh lại để kể rằng chị vừa nằm mơ thấy tại một cuộc chơi liên hoan của người da trắng, họ đã thông báo giải nhất sẽ là đứa bé da đen sắp ra đời ở đồn điền của mexừ. Bel đâm hoang mang đến nỗi Kunta phải sắm cái vai trò bất thường là trấn an chị bằng cách cả quyết rằng mexừ Uolơ, như chị biết đấy, ắt chẳng bao giờ nỡ làm như vậy. Anh thuyết phục chị phải đồng ý thế, rồi trèo vào giường nằm bên chị và cuối cùng, chị lại thiếp đi.

Nhưng Kunta thì không ngủ được; anh nằm nghĩ ngợi hồi lâu, nhớ là đã nghe nói có những điều như thế từng xảy ra - những đứa bé da đen chưa đẻ đã bị nhắm đem cho làm quà, bị đưa ra đặt cược ở những canh bạc, những cuộc chọi gà. Bác vĩ cầm đã kể cho anh nghe câu chuyện lão chủ hấp hối của một cô gái da đen mười lăm tuổi có chửa tên là Meri, đã di chúc lại cho năm con gái mỗi nường được một trong năm đứa con đầu tiên của Meri để làm nô lệ. Anh đã nghe kể về những đứa bé da đen được dùng làm bảo chứng để vay mượn, về những chủ nợ nhận trước chúng từ khi còn ở trong bụng mẹ, về những con nợ bán trước chúng để lấy tiền mặt. Hồi đó, ở các cuộc bán đấu giá nô lệ tại tỉnh lỵ Xpotxylvania, theo anh biết, giá trung bình được đặt và trả cho một đứa bé da đen khỏe mạnh ngoài sáu tháng - khi người ta biết chắc là nó sẽ sống - là vào khoảng hai trăm đôla.

Tất cả những chuyện đó vẫn lởn vởn trong trí anh khi mà, vào một buổi tối sau đó khoảng ba tháng, trong căn lều Bel vừa cười vừa kể cho anh nghe là lúc ban ngày, « mămzen » An thóc mách đã hỏi tại sao bụng Bel lại to đến thế. Tui biểu « mămzen » An: Tui đang ủ một ổ bánh con con trong lò đấy, cô bé thân yêu ạ. Kunta khó khăn lắm mới giấu được Bel khỏi thấy nỗi công phẫn của anh trước sự chăm chút, yêu thương chị dành cho con nhỏ giống như búp bê được chiều chuộng rất mực ấy, mà đối với anh, nó chỉ là một đứa khác trong cái đoàn lũ tưởng như bất tận những "tiểu thư", "công tử" anh thấy ở biết bao ngôi nhà lớn. Giờ đây, khi Bel sắp sửa có một đứa bé cho riêng chị - và của riêng anh - anh nổi điên lên khi hình dung đứa con trai đầu lòng của Kunta và Bel Kintê chạy nhảy "chơi" với lũ trẻ nít tubốp mà sau này lớn lên sẽ thành các ông chủ - thực tế, nom chúng như sinh đôi vậy - vì cả hai đều cùng một bố da trắng. Kunta nguyền rằng nếu có chuyện gì như thế xảy ra với Bel, thì anh giết quách ông chủ đi còn hơn là trở thành một trong những gã đàn ông mà anh đã thấy cam phận ôm đứa hài nhi "tai tái" của vợ mình và sống với nỗi canh cánh biết rằng hễ công khai thở ra một tiếng phàn nàn thì chắc chắn sẽ bị đánh đập, nếu không phải là tệ hại hơn nữa. Kunta nghĩ đến những đứa con gái nô lệ da "tai tái" được trả giá cao ngần nào tại các cuộc bán đấu giá nô lệ ở trên tỉnh. Anh đã thấy chúng bị đem bán và đã nhiều lần nghe nói về mục đích họ mua chúng để làm gì. Và anh nghĩ đến biết bao chuyện từng được nghe về những đứa con trai da "tai tái" - mới lọt lòng đã có nguy cơ bị bí mật đem đi mất tăm không bao giờ thấy lại, bởi vì người da trắng sợ nếu không thế, lớn lên chúng có thể giống dân mình và trốn đi đến những nơi không ai biết chúng, rồi đem hòa lẫn cái chất đen trong máu chúng vào dòng máu những phụ nữ da trắng. Mỗi lần nghĩ đến bất cứ khía cạnh nào của sự pha trộn máu, Kunta lại cảm ơn Chúa Ala về việc anh và Bel có thể chia sẻ niềm an ủi là dù sao chăng nữa, con trai họ cũng sẽ có nước da đen nhánh.

Bel bắt đầu trở dạ đau vào khoảng đầu một đêm tháng 9 năm 1790. Nhưng chị không muốn để Kunta đi tìm mexừ, ông ta đã hứa đích thân đỡ cho chị và nếu cần thì chị Manđy phải sẵn sàng phụ việc ông. Mỗi lần cơn đau nổi lên, Bel nằm trên giường nghiến răng để khỏi kêu thành tiếng và càng riết chặt tay Kunta mạnh mẽ như đàn ông.

Chính trong một khoảng cách ngắn ngủi giữa hai cơn đau Bel quay bộ mặt đẫm mồ hôi về phía Kunta và nói: "Có một điều đáng ra tui phải kể với mình từ trước. Tui đã hai lần có con, lâu lắm rồi, trước khi tui đến đây, trước cả khi tui tròn mười sáu tuổi" Kunta sửng sốt đứng nhìn xuống Bel đang quằn quại. Giá anh biết chuyện này..., không, dù thế nào đi nữa, anh cũng vẫn lấy chị thôi... Song anh cảm thấy như bị phụ bạc vì nỗi chị không nói cho anh biết từ trước. Gắng thở dốc, thều thào giữa những đợt quặn đau, Bel kể cho anh nghe về hai đứa con gái mà chị đã phải xa lìa khi người ta đem bán chị đi. "Dạo ấy, chúng còn bé tí". Chị bắt đầu khóc. "Một đứa mới lẫm chẫm tập đi, còn đứa kia chưa đầy năm". Chị định kể tiếp, nhưng một cơn đau co thót khiến chị phải bặm miệng lại và bóp chặt lấy tay anh. Khi đã dìu dịu, chị vẫn không buông lỏng tay, ngước lên nhìn anh qua hàng nước mắt và như đọc được suy nghĩ xao động trong đầu anh, chị nói: "Nếu mình muốn biết, bố chúng nó chẳng phải là ông chủ cũng chẳng phải là xubadăng. Chỉ là một nhọ lực điền trạc tuổi tui thôi. Bọn tui chả biết ai hơn".

Cơn đau lại đến, sớm hơn lần trước nhiều, và móng tay chị bấm sâu vào lòng bàn tay anh trong khi miệng há hốc kêu không ra tiếng. Kunta bổ nhào từ lều mình đến lều chị Manđy, đấm cửa thình thình, cất giọng khản đặc gọi, rồi lại mở hết tốc lực chạy đến ngôi nhà lớn. Vừa gõ cửa vừa gọi, cuối cùng anh kéo được mexừ Uolơ ra, ông này chỉ liếc nhìn Kunta một cái là hiểu ngay. "Ta sẽ đến đó ngay", ông nói.

Những tiếng rên đau đớn của Bel, rít lên xé tan yên tĩnh của xóm nô, đuổi khỏi tâm trí Kunta mọi suy nghĩ về những điều Bel vừa thổ lộ cho anh biết. Mặc dầu rất muốn ở bên cạnh Bel, anh vẫn thấy mừng khi chị Manđy ra lệnh cho anh phải ở ngoài; anh ngồi bệt ngay trước cửa, cố hình dung những gì đang diễn ra bên trong lều. Hồi ở Châu Phi anh chưa từng biết gì về chuyện sinh nở, vì cái đó được coi là công việc của phụ nữ, nhưng anh đã nghe nói là người đàn bà, lúc đẻ, quỳ trên những tấm vải trải trên nền nhà, rồi ngồi vào một chảo nước để rửa sạch máu và anh băn khoăn không biết điều đang xảy ra bây giờ có đúng như thế không.

Kunta chợt nghĩ rằng ở tận Jufurê xa vời, Binta và Ômôrô giờ đây đã trở thành ông bà nội và anh buồn bã hiểu rằng chẳng những ông bà và cháu sẽ không bao giờ được trông thấy nhau, mà thậm chí hai người chắc cũng chẳng bao giờ biết là anh đã có con trai nữa kìa.

Nghe thấy những tiếng kêu choe chóe đầu tiên của một giọng khác, Kunta vùng đứng thẳng dậy. Mấy phút sau ông chủ nhô ra, coi bộ phờ phạc. "Chị ấy đẻ khó. Chị ấy bốn mươi ba tuổi rồi còn gì", ông nói với Kunta. "Nhưng trong vòng hai hôm, sẽ tốt đẹp cả thôi". Ông chủ ra hiệu về phía cửa căn lều. "Để Manđy dọn dẹp một lúc cho sạch sẽ gọn gàng, rồi hãy vào mà xem mặt con gái".

Một đứa con gái! Kunta còn đang đấu tranh để định thần lại thì chị Manđy hiện ra ở khung cửa, tươi cười vẫy anh vào. Tập tễnh đi qua gian buồng đằng trước, anh kéo tấm rèm cửa buồng ngủ sang bên và nhìn thấy hai mẹ con nằm đó. Trong khi anh rảo bước tiến đến bên chị, một tấm ván sàn kêu cót két và Bel mở mắt ra, cố gượng mỉm một nụ cười yếu ớt. Lơ đãng, anh quờ thấy bàn tay chị bóp chặt lấy mà hồ như không cảm thấy nó, vì anh đang mải nhìn chằm chặp vào bộ mặt đứa bé nằm cạnh chị, không sao rứt ra nổi. Nó đen gần như mặt anh và các nét rõ là Manđinka không lẫn được. Dù là gái - đó hẳn là ý Chúa Ala - nó vẫn là một đứa bé và anh cảm thấy một niềm tin thanh thản và tự hào sâu sắc khi biết rằng dòng máu bộ tộc Kintê từng xuôi chảy qua bao nhiêu thế kỷ như một con sông mãnh liệt, sẽ còn tiếp tục chảy thêm một thế hệ nữa.

Những ý nghĩ tiếp theo của Kunta, trong khi anh đứng đó bên cạnh giường, xoay quanh việc chọn một cái tên thích hợp cho con. Tuy hiểu rằng không thể xin ông chủ cho nghỉ việc tám ngày để suy xét quyết định chuyện này như một ông bố mới vẫn làm thế ở Châu Phi, song mặc khác, anh cũng biết rằng vấn đề đòi hỏi một sự suy nghĩ khá lâu và nghiêm túc vì anh hiểu rằng tên gọi của một đứa bé sẽ ảnh hưởng thực sự đến việc nó sẽ trở thành người như thế nào, dù nó là trai hay gái. Thế rồi một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu anh: bất kể anh đặt tên cho nó là gì, con bé cũng sẽ được gọi theo họ của ông chủ nữa; ý nghĩ ấy khiến Kunta giận dữ và anh nguyền trước Chúa Ala rằng con bé này lớn lên sẽ biết tên thật của nó là gì.

Đột nhiên chẳng nói chẳng rằng, anh quay ngoắt và bỏ đi. Trời vừa bắt đầu tang tảng rạng đông, anh đi ra ngoài và bước dọc theo hàng rào trên cái lối anh và Bel trước đây đã tình tự với nhau. Anh cần phải suy nghĩ. Nhớ lại những điều chị kể cho anh về nỗi khổ lớn nhất trong đời chị - bị bán rứt đi khỏi hai đứa con gái nhỏ - anh moi óc tìm một cái tên, một tiếng Manđinka nào đó có ý nghĩa nói lên ước muốn sâu sắc nhất của Bel là không bao giờ phải chịu một mất mát như thế nữa, một cái tên sẽ che chở cho kẻ mang nó không bao giờ phải mất mẹ. Độp một cái, anh bỗng tìm ra nó! Lật đi lật lại tiếng ấy trong đầu, cố cưỡng lại nỗi thèm muốn nói to nó lên, dù chỉ cho riêng mình nghe thôi, anh đành nén lòng vì làm như thế là trái lệ. Đúng rồi, tất phải là thế! Mừng rơn về sự may mắn đến với mình trong một khoảnh khắc ngắn như vậy, Kunta hối hả đi dọc theo hàng rào trở về căn lều.

Nhưng khi anh bảo Bel là mình đã chuẩn bị đặt tên cho con, chị liền phản đối mạnh mẽ tới mức không sao tưởng tượng nổi chị lại có thể hăng đến thế trong thể trạng lúc đó. "Vội gì mà đặt tên con sớm thế? Mà đặt tên nó là gì cơ chứ? Chúng ta chưa việc gì phải nói đến chuyện tên mới tuổi muốn sao thì sao!" Kunta thừa biết Bel có thể bướng bỉnh đến mức nào một khi chị đã nổi đóa, cho nên giọng anh có đau xót lẫn giận dữ trong khi anh tìm những lời lẽ đúng đắn để giải thích rằng có một số truyền thống cần phải được tôn trọng, một số thủ tục cần phải theo trong việc đặt tên cho một đứa trẻ, trong đó điều chủ yếu là cái tên đó phải do một mình người bố chọn, anh ta được phép giữ kín không cho ai biết kỳ đến khi bộc lộ trước nhất với đứa bé và chỉ có làm thế mới đúng. Anh tiếp tục nói rằng nhanh vội là thiết yếu, kẻo nhỡ con gái họ lại nghe thấy trước một cái tên nào đó mà mexừ có thể quyết định đặt cho nó.

"Giờ thì tui hiểu rồi!" Bel nói. "Những thói tục Phi Châu đầy rẫy trong đầu anh, nó chẳng được việc gì mà chỉ thêm nhiễu sự thôi. Và những cách thức, tên tuổi vô đạo í, tất tật cả đều không hợp với đứa bé này!"

Trong cơn giận dữ, Kunta nhào ra khỏi căn lều - và suýt đâm xầm vào thím Xuki cùng chị Manđy đang đi vào, mang hàng ôm khăn lau và những nồi nước bốc hơi.

"Chúc mừng anh Tôby bọn tui đến thăm nom Bel đây".

Nhưng Kunta chỉ hơi ậm à với họ khi đi ngang qua nhau. Một lực điền tên là Catô đi ra rung loạt chuông đầu tiên buổi sáng, báo cho mọi người ra khỏi lều lấy xô múc nước ở giếng để rửa ráy trước bữa điểm tâm. Kunta nhanh chóng quành khỏi xóm nô, rẽ vào lối đi đằng sau dẫn tới chuồng ngựa, muốn lánh thật xa cái đám người da đen vô đạo kia mà bọn tubốp đã huấn luyện đến độ đâm chùn lại sợ bất kỳ cái gì có hơi hướng Phi Châu vốn là nguồn cội của chính họ.

Trong chốn thánh đường chuồng ngựa, Kunta cáu kỉnh cho ngựa ăn, dội nước và kỳ cọ cho chúng. Khi biết rằng đã đến giờ điểm tâm của ông chủ, anh lại đi vòng quãng đường dài, tới cửa bếp ngôi nhà lớn; tại đây, anh hỏi thím Xuki, hiện tạm thay Bel, xem mexừ có cần dùng xe hay không. Chẳng buồn nói hoặc thậm chí ngoảnh lại, thím lắc đầu và rời khỏi căn bếp, không mời anh ăn chút gì. Tập tễnh trở về chuồng ngựa, Kunta tự hỏi không biết Bel đã kể với thím Xuki và chị Manđy những gì cho họ đi ngồi lê đôi mách khắp xóm nô, rồi anh tự nhủ: mặc kệ!.

Anh phải làm một cái gì với bản thân mình; anh không thể nhởn nhơ thêm hàng giờ quanh chuồng ngựa. Mang bộ đồ thắng đai cỗ xe ra ngoài, anh bắt tay vào cái công việc quen thuộc là giết thì giờ bằng cách tra dầu mỡ vào những thứ đó tuy không cần thiết, vì anh mới làm việc này cách đây có hai tuần lễ. Anh muốn quay trở về lều để nhìn mặt đứa bé - và cả Bel nữa - song cơn giận lại trào lên mỗi khi anh nghĩ đến nông nổi hiện tại: Thật nhục nhã biết bao, ai đời vợ một người trong dòng họ Kintê mà lại muốn cho con mình mang một cái tên tubốp nào đó! Đấy chỉ là bước đầu đi tới chỗ phải tự khinh bỉ mình suốt đời thôi!

Vào quãng trưa, Kunta trông thấy thím Xuki đem vào cho Bel một nồi thức ăn gì đó - có lẽ là một thứ xúp. Nghĩ đến chuyện ấy, anh bỗng thấy đói; mấy phút sau, anh ra sau chuồng ngựa, nơi khoai lang vừa rỡ được chất đống ủ dưới rơm; anh chọn lấy bốn củ nhỏ và - tự cảm thấy thương tâm vô hạn - ăn sống tất cả để làm nguôi dạ dày.

Hoàng hôn xuống rồi anh mới quyết định về nhà. Khi anh mở cửa trước và bước vào, buồng ngủ vẫn lặng tờ, không có tiếng Bel đáp lại. Có thể chị đang ngủ, anh nghĩ thầm và cúi xuống thấp một ngọn nến trên bàn.

"Mình đấy à?".

Anh không hề thấy gì đặc biệt cộc cằn trong giọng nói của Bel. Ậm ừ một cách chung chung, anh nhấc cây nến lên, kéo tấm rèm sang bên và đi vào buồng ngủ. Trong ánh sáng đỏ mờ, anh có thể thấy vẻ mặt chị cũng cương quyết chẳng kém gì anh.

"Này nhé, Kunta", chị nói, đi thẳng vào vấn đề, không phí thời gian vô ích, "có một vài điều tui hiểu ông chủ hơn mình đấy. Mình cứ giở những cái thói Phi Châu í ra, ngộ ông í nổi điên lên bán quách cả ba ta vào phiên đấu giá ngoài tỉnh sắp tới cho biết tay thì sao!"

Cố hết sức nén cơn giận trong lòng, Kunta ấp úng tìm lời lẽ để nói cho Bel hiểu rằng anh đã quyết tâm tuyệt đối, bất chấp mọi nguy cơ, không để con gái anh mang tên tubốp và hơn thế nữa, nó phải được đặt tên theo đúng phép tắc.

Mặc dầu bất đồng tình sâu sắc, Bel còn lo ngại hơn nữa về điều mà Kunta có thể sẽ làm nếu như chị từ chối không nghe anh. Cho nên, cuối cùng chị chấp thuận mà trong lòng rất áy náy, thắc thỏm. "Mình phải làm cái thứ pháp thuật gì nào?" chị hỏi, vẻ hoài nghi. Khi anh nói chỉ cần mang đứa bé ra ngoài một lát thôi, chị một mực yêu cầu anh chờ nó dậy để chị cho bú, cho nó khỏi đói, khỏi khóc, và Kunta đồng ý ngay lập tức, Bel ước tính là ít ra phải hai tiếng nữa đứa bé mới dậy, bấy giờ trong xóm nô chắc hẳn khó mà có ai còn thức để thấy bất kể trò lễ bái nhố nhăng gì mà Kunta định tiến hành. Tuy không bộc lộ ra, Bel vẫn còn tức tối về nỗi Kunta không cho chị tham gia chọn tên cho đứa con gái mà chị vừa cho ra đời, giữa những đau đớn như thế; và chị nơm nớp lo Kunta triềng ra một cái tên có âm Phi gớm ghiếc, nhưng chị tin chắc sau này có thể định liệu với tên đứa bé theo cách riêng của mình.

Đã gần nửa đêm khi Kunta nhô ra khỏi căn lều, bồng đứa con đầu lòng quấn gọn ghẽ trong một tấm mền. Anh cứ đi miết đến lúc cảm thấy xóm nô đã khá xa, không còn có thể phủ một tấm khăn liệm lên cái điều sắp sửa diễn ra.

Rồi, dưới trăng sao, Kunta nâng bổng đứa bé lên, xoay cái bọc phủ mền trong tay cho tai phải đứa bé chạm vào môi mình. Và chậm rãi và rành rọt anh thì thầm bằng tiếng Manđinka ba lần vào lỗ tai nhỏ xíu: "Tên con là Kitzi. Tên con là Kitzi. Tên con là Kitzi". Điều đó được tiến hành như xưa kia đã từng tiến hành với tất cả các tổ tiên dòng họ Kintê, như đã từng tiến hành với bản thân anh, như ắt hẳn cũng sẽ tiến hành với đứa bé này nếu nó sinh ra ở quê cha đất tổ. Nó đã trở thành người đầu tiên được nghe tên đó để biết mình là ai.

Kunta cảm thấy châu Phi rộn rã trong mạch máu mình - và chảy truyền từ anh sang đứa bé, cái phần tươi mát của anh và Bel - trong khi anh tiếp tục đi xa hơn chút nữa. Rồi anh lại dừng bước và nhấc một góc nhỏ của tấm mền để lộ khuôn mặt đen nhỏ xíu của đứa bé ngửa lên trời, và lần này anh nói với nó thật to bằng tiếng Manđinka: "Hãy nhìn xem cái duy nhất lớn hơn bản thân con!".

Khi Kunta bế đứa bé trở về lại căn lều, Bel gần như giằng nó ra, mặt rúm lại vì sợ và bực bội trong khi chị mở tấm mền xem xét nó từ đầu đến chân, không biết là mình tìm cái gì, đồng thời hy vọng sẽ không tìm thấy. Hài lòng thấy anh không làm điều gì quá quắt - ít ra cũng không có gì lộ liễu - chị đặt đứa bé vào giường, trở ra căn phòng đằng trước, ngồi xuống ghế đối diện với anh, cẩn thận khoanh tay trong lòng và hỏi:

"Thôi được, giờ thì cho tui biết đi".

"Biết cái gì?"

"Tên, cái tên tiếng Phi í, mình gọi nó là gì?".

"Kitzi".

"Kitzi! Có ai từng nghe cái tên nào như vậy chưa?".

Kunta giải thích rằng tiếng Manđinka, "Kitzi" nghĩa là "ngồi xuống" hoặc "ở nguyên đó", ý nói rằng không giống như hai đứa trước của Bel, con bé này sẽ không bao giờ bị bán đi.

Chị vẫn không chịu yên. "Chỉ khới chuyện!" chị nhấn thêm. Nhưng khi cảm thấy cơn giận dữ của Kunta bắt đầu dâng lên, chị nghĩ biết điều thì im đi. Chị nói là có nhớ đâu như mẹ chị từng nhắc đến một người bà tên là "Kipbi" nghe rất giống cái tên kia; chí ít, họ cũng có thể nói vậy với ông chủ nếu ông ta sinh nghi.

Sáng hôm sau, Bel cố hết sức giấu nỗi lo sợ của mình khi ông chủ đến thăm chị - thậm chí còn gượng cười to ra điều vui vẻ khi nói cho ông ta biết tên đứa bé. Ông ta chỉ bình luận rằng đó là cái tên kỳ cục, nhưng không tỏ ý phản đối gì cả, và Bel thở phào một tiếng như trút gánh nặng khi ông bước ra khỏi cửa. Trở về ngôi nhà lớn, trước khi sai Kunta đánh xe lên đường, bắt đầu một ngày thăm các bệnh nhân, mexừ Uolơ mở quyển kinh thánh đen to tướng cất trong một cái hòm khóa chặt trong phòng khách, giở đến một trang dành để ghi các sự kiện ở đồn điền và viết một hàng chữ đen rõ đẹp: "Kitzi Uolơ, sinh ngày 12-9-1790"

Chương 69

"Nó giống hệt một con búp bê nhọ xinh xinh" "mămzen" An reo lên, thích mê, nhảy cẫng, khoái chá vỗ tay khi nhìn thấy Kitzi lần đầu trong bếp của Bel, ba ngày sau. "Nó có thể là của em được không?".

Bel toét miệng cười, vui thích. "À, nó là của tui và của bố nó, cưng ạ, nhưng hễ nó đủ nhớn một cái là cưng có thể tha hồ chơi với nó, chắc chắn thế!".

Và chị giữ lời hứa như thế. Thường thường, cứ khi nào đến nhà bếp để hỏi xem ông chủ có cần xe hay không, hoặc chỉ là để thăm Bel, là Kunta lại thấy con bé cháu gái tóc hoe của mexừ, giờ đã lên bốn, cúi xuống nựng Kitzi nằm trong một cái giỏ. "Xinh xình xình xinh. Em bé nhớn tí nữa chúng mình chơi tha hồ là vui, em có nghe chị nói hông? Em nhanh nhanh mà nhớn lên nào!" Kunta chẳng bao giờ nói về chuyện ấy, song anh cứ thấy xót xa khi nghĩ là con bé tubốp ấy làm như thể Kitzi ra đời để làm đồ chơi cho nó, như một con búp bê kỳ lạ vậy. Thậm chí Bel không đủ ý thức tôn trọng cương vị của anh là người đàn ông trong nhà và là người bố, để hỏi xem anh cảm nghĩ thế nào về chuyện để con gái anh chơi với con gái của kẻ đã mua anh như một món hàng, Kunta cay đắng nghĩ thầm. Đôi khi anh có cảm giác như Bel không quan tâm đến tình cảm của anh bằng tình cảm của ông chủ. Anh không còn nhớ là chị đã bỏ bao nhiêu tối chỉ nói độc một chuyện "mămzen" An đến thế chỗ con gái đích thực của mexừ Uolơ chết cùng với mẹ nó ngay lúc mới đẻ, thật là đại phúc.

"Ôi, lạy Chúa, chỉ nghĩ lại chuyện í, tui cũng không muốn", một đêm, chị sụt sịt nói với anh: "Tội nghiệp bà chủ Prixilơ bé nhỏ xinh xắn, bà í chả to hơn con chim là mấy. Ngày nào cũng đi quanh quéo ở đây, khẽ hát một mình, mủm mỉm cười với tui rồi lại vỗ vỗ vào bụng, chỉ ngong ngóng chờ đến ngày sinh nở. Thế rồi cái buổi sáng hôm í, chỉ những la thét và cuối cùng là chết, cả mẹ lẫn con! Tội nghiệp mexừ, từ bấy, xem ra chả mấy khi tui thấy ông mỉm cười - chả gì cũng là suốt cho đến lúc có "mămzen" An này".

Kunta không hề thương hại cho sự cô đơn của ông chủ, nhưng anh cảm thấy có lẽ nếu lại lấy vợ, ông ta sẽ bận bịu không còn nhiều thì giờ chăm bẵm cháu gái và cách đó hầu như chắc chắn sẽ cắt bớt những cuộc đến thăm đồn điền của "mămzen" An - và do đó, khiến nó ít có cơ hội chơi với Kitzi.

"Từ bấy, tui cứ ngắm ông chủ ẵm cô bé í lên lòng, ghì sát vào người như thế nào, nói chuyện với nó, ru nó ngủ ra sao, rồi cứ ngồi nguyên thế chứ không chịu đặt nó vào giường. Cứ như thể ông không muốn rời mắt khỏi nó suốt thời gian nó ở đây í. Và tui biết đó là vì lòng ông thương cha nó".

Bel thường bảo anh: nếu "mămzen" An có bạn, năng đến nhà ông chủ hơn trước, thì chỉ càng khiến ông chủ âu yếm hơn đối với cả hai đứa, chưa kể là đối với riêng Kitzi. Còn Me-zừ Jon và bà vợ ốm yếu, thì chắc cũng chẳng lấy gì làm phật ý về việc con gái họ ngày càng đặc biệt gần gũi chú nó "bởi vì, chị lý luận một cách ranh mãnh, như vậy họ sẽ cho là họ càng nhích lại gần đồng tiền của ông chủ hơn". Chị nói dù mexừ anh ông chủ có ra điều ta đây như thế nào đi nữa, chị cũng biết tỏng là thỉnh thoảng lão vẫn vay tiền của ông và Kunta đủ sáng suốt để hiểu là nên tin lời chị - không phải là anh thực sự quan tâm đến chuyện tubốp nào giàu hơn tubốp nào, bởi vì đối với anh, bọn họ ai nấy đều như nhau cả thôi.

Giờ đây, từ khi Kitzi ra đời, những lần đánh xe đưa ông chủ đi thăm bệnh nhân và bạn bè, Kunta luôn luôn chợt thấy mình chia sẻ nỗi mong ước mà Bel thường hay thổ lộ, là ông chủ lấy vợ kế - mặc dù lý do của anh hoàn toàn khác với của chị. "Tui thấy ông í thật tội nghiệp, cứ sống thui thủi một mình trong ngôi nhà lớn í! Thật tình, tui cho rằng bởi thế cho nên ông í cứ biểu mình đánh xe hai thầy trò rong ruổi trên đường, ông chỉ muốn di động không ngừng còn hơn là ngồi quanh quẩn đấy một mình. Lạy Chúa, cả đến "mămzen" An cũng thấy thế! Lần đến chơi vừa rồi, tui đang dọn bữa trưa cho hai chú cháu ăn, bỗng dưng nó hỏi độp một cái: "chú Uyliơm, sao chú không có vợ như mọi người khác?" Và tội nghiệp, ông í chả biết nói sao cả.

Tuy anh không bao giờ kể lại cho Bel nghe vì anh biết tính chị rất thích dòm ngó vào chuyện riêng của đám tubốp. Kunta biết có ối phụ nữ hễ thấy Kunta ngoặt vào lối nhà mình là chạy ra đón xe ông chủ, gần như rón rén trên đầu ngón chân. Chị bếp da đen to béo ở nhà một bệnh nhân chữa mãi không khỏi của ông chủ, đã nói với Kunta, giọng khinh bỉ: "Cái mụ mặt trơ trán bóng đáng ghét này chẳng có bệnh gì ghê gớm mà ông chủ anh không mau chóng chữa lành được. Mụ đã đẩy một người đàn ông xuống mồ vì những thói ngang ngược, độc ác và bi giờ mụ kêu bệnh chỉ cốt kéo ông chủ anh tiếp tục trở lại đây. Tui ước gì ông í thấy mụ quát tháo, rầy la đám nhọ bầy tui ngay sau khi thầy trò anh đi khỏi, cứ như thể bọn tui là những con la hay là cái quái gì đó, và mụ chả bao giờ đụng đến các thứ thuốc men mà ông í cho mụ đâu?". Có một nữ bệnh nhân khác bao giờ cũng tiễn ông chủ ra tận cổng khi ông ra về, níu lấy một cánh tay ông như sợ ngã, mắt ngước nhìn thẳng vào mặt ông trong khi tay phe phẩy quạt một cách yếu ớt. Nhưng đối với cả hai người đàn bà này, bao giờ ông chủ cũng tỏ thái độ rất trịnh trọng và cứng nhắc, và các cuộc thăm bệnh xem ra bao giờ cũng ngắn hơn ở chỗ các bệnh nhân khác.

Cứ thế, ngày tháng cứ tiếp tục trôi qua "mămzen" An vẫn mỗi tuần độ hai lần được đưa đến thăm ông chú Uolơ và mỗi lần, đều bỏ hàng giờ chơi đùa với Kitzi. Mặc dù không thể làm gì để ngăn cản, Kunta vẫn cố tìm cách để chí ít cũng tránh khỏi để nhìn chúng cặp kè với nhau, nhưng dường như chúng ở bất kỳ chỗ nào anh hướng mắt tới và anh không tài nào trốn thoát cái cảnh đứa cháu gái ông chủ vỗ nựng, hôn hít hoặc nâng niu chầm bặp con gái nhỏ của anh. Điều đó làm anh tràn đầy kinh tởm - và nhắc anh nhớ đến một câu tục ngữ Phi từ thời tổ tiên xa xưa: "Rốt cuộc, bao giờ con mèo cũng ăn thịt con chuột cùng chơi đùa với nó".

Điều duy nhất khiến Kunta chịu đựng được là những ngày đêm giữa các cuộc đến thăm của con bé. Khi Kitzi bắt đầu biết bò thì đã vào hè, tối tối, Bel và Kunta ở trong lều riêng sung sướng ngắm nó thoăn thoắt bò quanh sàn nhà, cái đít xinh xinh quấn tã nhổm lên. Nhưng rồi "mămzen" An lại xuất hiện và hai đứa tót đi, đứa lớn nhảy cỡn vòng quanh đứa bé, hò la: "Tiến lên, Kitzi, tiến lên!" và Kitzi cố hết sức bò thật nhanh để đuổi theo, cổ họng phát ra những tiếng ừng ực đầy thích thú vì trò chơi và vì được chú ý. Những lúc ấy, Bel khoái chá, mặt tươi hơn hớn, song chị biết rằng dù Kunta đang lái xe cho ông chủ, chỉ cần anh phát hiện ra "mămzen" An đã có mặt ở đấy, là y như rằng đêm đó anh trở về với bộ mặt lì lì, đôi môi mím chặt và cho đến sáng, cứ như người mất hồn, làm cho Bel hết sức bực mình. Nhưng khi suy xét đến những điều có thể xảy ra nếu Kunta bộc lộ tình cảm bằng cách nào đó, dù chỉ là mập mờ, khiến ông chủ biết được, thì chị cũng thấy hơi sợ khi anh có thái độ như vậy.

Cho nên, Bel cố thuyết phục Kunta rằng quan hệ đó không thể gây hại gì miễn là anh có thể dằn lòng chấp nhận nó. Có nhiều trường hợp - chị nói với anh - những đứa con gái da trắng lớn lên và suốt đời một lòng một dạ chân thành và thậm chí trung thành sâu sắc với các bạn da đen cùng chơi đùa thuở ấu thơ. "Trước khi mình bắt đầu làm công việc lái xe", chị nói, "có một bà chủ da trắng ở cữ bị chết - y như bà vợ ông chủ ta - khác cái là đứa con gái lại sống sót và nó bú sữa một phụ nữ da đen cũng có một đứa con gái riêng. Hai gái con lớn lên, gần như hai chị em, thế rồi mexừ í lấy vợ kế. Nhưng bà chủ mới này rất không muốn hai con bé gần nhau, cuối cùng bà ta xúi được mexừ í bán cả hai mẹ con con bé da đen đi". Nhưng từ lúc ấy trở đi, chị kể tiếp, con bé da trắng cứ lên cơn động kinh liên tục, đến nỗi phải mời đi mời lại mexừ Uolơ luôn; mãi về sau, cuối cùng mexừ bảo người cha rằng nếu không kiếm con bé da đen mang về, con gái ông sẽ buồn phiền, ngày càng yếu đi mà chết thôi. Mexừ í suýt nữa thì lấy roi quất cho bà vợ mới một trận. Ông ta phóng ngựa đi và tiêu không biết bao nhiêu tiền để tìm lại được lão buôn người da đen đã đem hai mẹ con con bé đi và chuộc lại của ông chủ mới đã mua hai mẹ con từ tay lão buôn nô lệ. Nhưng rồi ông ta mang con bé da đen về và kiếm một tay luật sư, làm chứng thư chuyển nhượng nó thành sở hữu của con gái ông ta", và Bel nói là, đến tận bây giờ, sau bao nhiêu năm, cô gái da trắng mặc dầu đã là phụ nữ trưởng thành vẫn không bao giờ bình phục hẳn. "Cô gái da đen vẫn sống ngay bên cạnh, săn sóc cô bạn và không cô nào lấy chồng cả!".

Theo quan niệm của Kunta, ví thử Bel định đưa câu chuyện đó để bài bác tình bạn giữa người da đen và người da trắng, chứ không phải là để ủng hộ khuynh hướng ấy, thì quả chị khó có thể biện bác hùng hồn hơn.

Chương 70

Vào khoảng thời gian sinh Kitzi, cả Kunta và bác vĩ cầm thỉnh thoảng lại trở về đồn điền với những tin tức về một hòn đảo nào đó bên kia bờ nước lớn, gọi là "Haiti"; nghe đồn ở đó, có khoảng ba mươi sáu nghìn người, phần lớn là Pháp da trắng, quá ít so với độ nửa triệu người da đen bị đưa lên tàu, chở từ Châu Phi tới để làm nô lệ ở những đồn điền lớn trồng mía, cà phê, chàm và dừa. Một đêm, Bel nói là chị nghe thấy mexừ Uolơ thuật lại với các khách ăn tiệc rằng lớp người da trắng giàu có ở Haiti sống như những ông hoàng trong khi làm nhục bao nhiêu người da trắng nghèo không đủ khả năng mua được nô lệ riêng.

"Thử tưởng tượng xem! Có ai nghe thấy chuyện như thế bao giờ chưa?" bác vĩ cầm nói, giọng mỉa mai.

"Suỵt!" Bel vừa nói vừa cười và tiếp tục câu chuyện: sau đó, ông chủ kể cho các vị khách thất đảm là qua nhiều thế hệ ở Haiti, đàn ông da trắng và phụ nữ nô lệ "đi lại" với nhau nhiều đến nỗi hiện nay đã có gần hai mươi tám nghìn người lai và da ngà ngà, thường gọi là "dân da màu" mà hầu hết đã được cha đẻ và chủ người Pháp ban cho tự do. Theo một vị khách khác, Bel kể, cái đám "dân da màu" ấy đều nhất nhất tìm kiếm những bạn đời da sáng hơn, nhằm mục đích sinh con đẻ cái mang hình thức bề ngoài hoàn toàn như người da trắng, còn những người vẫn rõ rệt là lai thì đút lót các quan lại để xin những giấy tờ chứng nhận tổ tiên họ là người Anhđiên hoặc Tây Ban Nha hoặc bất cứ gì cũng được, miễn không phải là gốc Phi. Mexừ Uolơ cho biết - mặc dù ông thấy điều đó thật kỳ lạ, khó tin và rất đáng phàn nàn - rằng qua những hành động ban phát hoặc chúc thư của nhiều người da trắng, một số lớn trong đám "da màu" nọ đã đi đến chỗ sở hữu ít nhất là một phần năm toàn bộ đất đai ở Haiti - và những nô lệ kèm theo - bọn này thường đi nghỉ ở Pháp, cho con cái sang học ở bên đó y như những phú hộ da trắng và thậm chí còn sỉ nhục những người da trắng nghèo nữa. Đám khách của ông chủ bất bình bao nhiêu thì đám cử tọa của Bel khoái chá bấy nhiêu khi nghe chuyện đó. "Các người sẽ cười lệch mép bên kia cho đến méo miệng", bác vĩ cầm ngắt lời, "khi nghe thấy, dư tui, mấy mexừ nhà giàu nói chuyện gì tại một vũ hội mà hồi mới đây tui được thuê đến kéo đờn". Các mexừ, bác thuật lại, gật gù bàn luận về chuyện những người da trắng nghèo ở Haiti ghét đám lai và da ngà đến nỗi họ đã kiến nghị liên tiếp, kỳ cho đến khi nước Pháp phải ra luật cấm dân "da màu" không được đi dạo ban đêm, không được ngồi cạnh người da trắng trong nhà thờ, hoặc thậm chí không được mặc quần áo cùng một thứ với họ. Trong khi chờ đợi, bác vĩ cầm nói, cả da trắng và "da màu" cùng trút mỗi hiềm ghét lẫn nhau lên đầu nửa triệu nô lệ da đen ở Haiti. Kunta nói là theo câu chuyện anh nghe lỏm được trên tỉnh giữa đám người da trắng cười ha hả thì xem ra các nô lệ ở Haiti còn khốn khó hơn ở đây. Anh nghe nói trường hợp những người da đen bị phạt đánh đến chết hoặc chôn sống là chuyện cơm bữa và phụ nữ da đen có chửa thường bị xua đi làm việc cho đến khi sẩy thai. Vì cảm thấy có nói ra cũng chẳng đạt được mục đích gì khác ngoài việc làm cho mọi người ghê sợ, nên anh không kể lại những hành động thú vật, vô nhân đạo hơn thế nữa, tỷ như lấy đinh đóng hai bàn tay một người da đen vào tường cho đến khi anh ta buộc phải ăn đôi tai bị cắt của chính mình; một mụ tubốp sai cắt lưỡi tất cả mọi nô lệ của mình, một mụ khác nhét giẻ vào miệng một em bé da đen cho đến khi nó chết đói.

Sau những chuyện khủng khiếp như vậy trong suốt chín, mười tháng qua, trong một chuyến lên tỉnh vào mùa hè năm 1791, Kunta không lấy gì làm ngạc nhiên khi nghe tin những người nô lệ da đen ở Haiti đã vùng lên trong một cuộc nổi loạn điên cuồng, đẫm máu. Hàng nghìn nô lệ đã ào ào tràn ra khắp, tàn sát, đập phá, chặt đầu đàn ông da trắng, mổ bụng trẻ con, hãm hiếp phụ nữ và đốt mọi nhà cửa ở các đồn điền cho đến khi miền Bắc Haiti ngổn ngang đổ nát, mịt mù lửa khói và đám dân da trắng kinh hoàng trốn chạy, cố gắng phấn đấu để sống còn và trả đòn lại - tra tấn, giết, thậm chí lột da mọi người da đen mà họ bắt được. Nhưng họ chỉ là một dúm người sống sót mỗi lúc một teo nhỏ lại trước cuộc dấy loạn đang lan rộng một cách điên cuồng của người da đen, cho đến cuối tháng tám thì chỉ còn mấy nghìn người da trắng tìm nơi ẩn náu hoặc tìm cách trốn khỏi đảo.

Theo lời Kunta, anh chưa bao giờ thấy đám tubốp ở tỉnh lỵ Xpotxylvaniơ phẫn nộ và hoảng hốt đến thế. "Xem chừng họ hốt hơn cả lần nổi dậy vừa rồi ở ngay bang Vơjiniơ này", bác vĩ cầm nói. "Có dễ chỉ độ hai, ba năm sau khi chú mày đến đây, nhưng mà hồi í, chú mày còn lì lì, chả nói chả rằng mí ai, hóa nên chắc chú mày cũng chả biết vụ í. Ở ngay nẻo bang Niu Uêilz, tỉnh lỵ Hanâuvơ, trong một dịp lễ Giáng Sinh, một xúbadăng đánh một tên thanh niên nhọ ngã xuống đất và gã nhọ này vùng dậy vớ một cái rìu xông vào hắn! Cơ mà gã bổ trượt, và thế là dững nhọ khác nhảy bổ vào đánh hắn dữ dội đến nỗi gã nhọ thứ nhất phải lao tới cứu. Tên xúbadăng máu me đầy người, chạy đi cầu cứu, trong khi đó anh em nhọ ta điên đầu lên bắt thêm hai người da trắng nữa, trói lại và đang đánh thì một đám rất đông da trắng mang súng ống rùng rùng kéo đến. Cánh nhọ ta náu vào một nhà kho và bọn da trắng tìm cách dùng lời ngon ngọt dụ họ ra, dưng mà cánh nhọ ào ra vung gậy gộc, ván thùng, kết quả là hai nhọ bị bắn chết và một lô một lốc cả da trắng lẫn nhọ bị thương. Người ta cắt cử dân vệ đi tuần, ra thêm một số luật lệ nữa và cứ thế cho đến khi yên ắng dần. Cái vụ Haiti này làm bọn da trắng tỉnh trí ra, là vì, cũng dư tui đây, họ thừa biết cả một đống nhọ ngay trước mũi họ chỉ cần một tia lửa đúng thì đúng độ là bùng lên ngay tức khắc, và một khi đã loang ra thì, phải, thưa các ngài, sẽ y hệt dư Haiti tại Vơjiniơ này". Rõ ràng bác vĩ cầm rất khoái cái ý nghĩ này.

Kunta nhanh chóng thấy tận mắt nỗi kinh hoàng của người da trắng ở bất cứ nơi nào anh đánh xe tới, trong các đô thị, hoặc gần các cửa hàng ở những ngã tư, các tiệm ăn uống, tụ đường trong nhà thờ, hoặc bất kỳ nơi nào khác mà họ tới túm năm tụm ba, nháo nhác, mặt mày đỏ gay hoặc cau có mỗi khi anh hoặc bất kỳ người da đen nào khác đi qua gần đó. Cả đến ông chủ vốn họa hoằn mới nói với Kunta ngoài việc bảo đánh xe đến những nơi ông cần đến, cũng đổi giọng khiến cho những lời đó rõ ràng là lạnh lùng hơn, cộc lốc hơn. Trong một tuần lễ, dân vệ tỉnh lỵ Xpotxylvaniơ tuần tra các đường cái quan, hoạnh họe hỏi nơi đến và giấy phép đi đường của bất kỳ người da đen nào qua lại, đánh đập và bắt giam bất kỳ ai mà họ cho là có hành động, hoặc thậm chí là có vẻ khả nghi. Tại một cuộc họp của các ông chủ trong vùng, người ta quyết định bãi bỏ cuộc hội mùa lớn hàng năm sắp tới của những nô lệ cùng với mọi cuộc tụ họp dân da đen ở ngoài đồn điền mình; và thậm chí mọi cuộc tụ tập của xóm nô trong đồn điền để nhảy múa hoặc cầu nguyện cũng phải có xúbadăng hoặc một người da trắng nào khác giám sát. "Khi ông chủ biểu tui thế, tui nói với ông chủ là tui với thím Xuki và chị Manđi chủ nhật nào và bất kỳ có dịp nào cũng quỳ xuống cùng nhau cầu Chúa Jêxu, cơ mà ông chủ chả nói gì về chuyện giám sát bọn tui, cho nên bọn tui cứ việc tiếp tục cầu nguyện!" Bel nói vậy với những người khác trong xóm nô.

Trong mấy đêm sau, ở nhà một mình với Kunta và Kitzi, Bel hì hụi đánh vần tìm những tin tức mới nhất trên nhiều tờ báo loại bỏ của ông chủ. Phải mất đến gần một giờ đồng hồ dò dẫm trên một bài quan trọng, chị mới có thể kể được với anh là "một thứ Dự luật Nhân quyền đã được…" Bel ngập ngừng và hít một hơi thật sâu: "Ờ, được phê chuẩn hay gì gì nữa". Nhưng còn có nhiều tin tức hơn nữa về những sự kiện gần đây ở Haiti - mà phần lớn, họ đã được nghe qua những lời đồn đại trong xóm nô. Điều cốt lõi của đa số những tin tức ấy, chị nói, là cuộc nổi loạn của nô lệ ở Haiti có thể dễ dàng làm tràn lan những ý niệm liều lĩnh trong những người da trắng bất mãn trên đất nước này, là cần phải đặt ra những hạn chế cực kỳ ngặt nghèo và những hình phạt khắc nghiệt. Gấp những tờ báo lại và cất đi, Bel nói: "Tui thấy tuồng như họ không cách nào làm dữ tợn hơn đối với chúng ta, trừ phi là xiềng tất cả chúng ta lại, tui đồ là thế".

Tuy nhiên, trong một vài tháng sau đó tin tức về những phát triển mới ở Haiti dần dà xẹp đi và cùng với sự việc đó, tình hình bớt căng thẳng dần - và những hạn chế được nới ra - trong toàn miền Nam. Mùa gặt bắt đầu và cánh da trắng lại chúc mừng nhau về vụ thu hoạch bông dồi dào - và những giá cả kỷ lục đạt được trong việc bán bông. Bác vĩ cầm được vời đến để đàn ở nhiều cuộc vũ hội và liên hoan trong các đại sảnh đến nỗi ban ngày, khi trở về nhà, bác chỉ lăn ra ngủ, chẳng làm gì thêm mấy tí. "Tuồng dư các ông chủ bán bông được lắm tiền đến nỗi phởn lên dảy múa chí chết", bác bảo Kunta như vậy.

Song chẳng bao lâu, đám da trắng lại có điều gì bất hạnh nữa. Trong những lần đưa ông chủ lên tỉnh, Kunta bắt đầu nghe thấy người ta phẫn nộ bàn tán về con số những "hội chống nô dịch" do những "tên phản bội nòi giống da trắng" tổ chức ra, không những ở miền Bắc mà ở cả miền Nam. Nghi hoặc cao độ, anh đem những điều nghe được kể với Bel và chị nói là đã đọc thấy chuyện đó trong những tờ báo của ông chủ. Báo chí, khi nhắc đến sự tăng lên nhanh chóng của những tổ chức nọ, đổ tại cuộc dấy loạn của người da đen ở Haiti.

"Tui vẫn biểu mình là có một số người da trắng tốt mà!" chị reo lên. "Thật thế, tui đã nghe nói vô khối người trong đám í chống lại những con tàu đầu tiên chở cánh nhọ Phi nhà mình tới đây!" Kunta tự hỏi không biết Bel nghĩ ông bà tổ tiên của bản thân chị gốc gác ở đâu ra, song chị đang phấn khích quá nên anh bỏ qua. "Là vì mỗi khi có chuyện như thế đăng trên báo", chị nói tiếp, "các ông chủ bèn nổi tam bành, gầm thét chửi rủa bọn thù địch của đất nước và đại loại như vậy, cơ mà cái quan trọng là những người da trắng chống chế độ nô lệ càng nói lên những điều mình nghĩ, thì càng có thêm các ông chủ băn khoăn tự hỏi trong thâm tâm là mình đúng hay sai". Chị nhìn chằm chằm vào Kunta. "Nhất là những người tự xưng là tín đồ Cơ đốc".

Chị lại nhìn anh, một ánh ranh mãnh trong mắt. "Mình nghĩ tui với thím Xuki và chị Manđi nói chi về những hôm chủ nhật mà ông chủ tưởng bọn tui chỉ có ca hát và cầu nguyện. Tui theo dõi sát người da trắng. Chả hạn như đám Quêicơ. Họ chống nô dịch, thậm chí còn ủng hộ cách mạng tui muốn nói là ở ngay Vơjiniơ này í", chị nói tiếp. "Và ối người trong bọn họ là những ông chủ có hàng lô hàng xốc nhọ. Cơ mà các giáo sĩ bèn biểu rằng dân nhọ cũng là người, có quyền được tự do như bất kỳ ai khác và một số ông chủ hội viên Quêicơ bắt đầu thả dân nhọ, thậm chí còn giúp họ đi lên miền Bắc nữa. Bi giờ, đã tới mức là những người Quêicơ còn giữ nô lệ nhọ được những người khác giảng giải và tui nghe nói nếu họ vẫn không chịu thả nô lệ, họ sẽ bị nhà thờ rút phép thông công. Ngay bây giờ vẫn tiếp tục, chắc chắn như vậy", Bel nói như reo lên.

"Và tốt vào hạng nhì, là những người theo Hội Giám Lý, tui nhớ mươi mười một năm trước có đọc thấy những người Hội Giám Lý triệu tập một cuộc họp lớn ở Baltimo, cuối cùng họ nhất trí rằng nô dịch là trái với lệ luật của Chúa và bất cứ ai xưng là tín đồ cơ đốc đều không nên làm thế. Cho nên phần đông là những người hội Giám Lý và Quêicơ làm khuấy động giáo hội để đòi có luật lệ giải phóng nô lệ da đen. Còn những người dòng Báptít và giáo hội trưởng lão - ông chủ ta và cả họ nhà Uolơ là thuộc vào đám này - ờ, tui xem ý họ còn hững hờ không nhiệt tâm. Họ phần lớn chỉ lo cho bản thân họ được tự do thờ phụng theo ý thích của mình, với lại làm sao vừa có cả nô lệ nhọ vừa yên ổn lương tâm".

Bất luận mọi điều Bel nói về những người da trắng chống nô dịch - mặc dù chị đã đọc một số chuyện như thế ngay trong báo của ông chủ - Kunta vẫn chưa lần nào nghe thấy một ý kiến tubốp phát biểu ra miệng mà không hoàn toàn ngược lại thế! Và trong mùa xuân, và mùa hè năm 1792, ông chủ thường mời một số điền chủ chính khách, luật sư và thương gia vào loại lớn nhất trong bang đi cùng xe. Trừ phi có chuyện gì khác khẩn cấp hơn, còn thì đầu đề nói chuyện muôn thuở của họ là những vấn đề mà dân da đen gây ra cho họ.

Bao giờ cũng có một người nào đó nói như thế này: bất cứ ai muốn cai quản thành công đám nô lệ, trước hết cần biết rằng cái quá khứ sống trong rừng với thú vật ở Châu Phi của chúng đã khiến chúng thừa kế một cách tự nhiên sự ngu xuẩn, lười nhác và những thói quen bẩn thỉu, và bổn phận có tính chất cơ đốc của những người được phú cho địa vị ưu đẳng hơn là dạy cho những sinh vật ấy về một ý thức nào đó về kỷ luật, đạo lý và tôn trọng sự làm việc - tất nhiên là bằng cách nêu gương, song cũng còn bằng những luật lệ và những hình phạt cần thiết, mặc dù nhất thiết là nên động viên, khen thưởng những đứa tỏ ra xứng đáng.

Mọi lơ lỏng về phía người da trắng - cuộc trò chuyện tiếp tục, sẽ chỉ khuyến khích cái thói bất lương, các mánh khóe thủ đoạn, và tính giảo quyệt tự nhiên của một giống thấp hơn, và những tiếng be be của các hội chống nô dịch cùng những gì tương tự như vậy chỉ là của những kẻ, nhất là ở miền Bắc, chưa từng sở hữu một tên da đen nào hoặc cai quản một đồn điền có nhiều nô lệ nhọ bao giờ; những kẻ như vậy, ta đừng mong gì chúng ý thức được là những thử thách và gánh nặng của việc sở hữu nô lệ làm người ta căng thẳng sức kiên nhẫn, trái tim, tinh thần và ngay cả linh hồn đến mức muốn vỡ bung ra như thế nào.

Kunta đã nghe vẫn một thứ chuyện chửi bới vô nghĩa đó suốt một quãng thời gian dài đến nỗi nó trở thành một thứ kinh kệ ê a và anh hầu như không buồn chú ý đến nó nữa. Nhưng đôi khi, trong khi đánh xe, anh không khỏi tự hỏi tại sao các đồng bào của mình không giết béng tất cả những tên tubốp đặt chân lên đất Phi. Không bao giờ anh tự tìm thấy một câu trả lời mà anh có thể chấp nhận được.

Chương 71

Vào quãng trưa một ngày oi ả cuối tháng Tám, thím Xuki lạch bạch cố hết sức đi thật nhanh đến chỗ bác vĩ cầm đang đứng giữa đám cà chua và vừa thở hồng hộc vừa nói là thím lo về ông già làm vườn quá. Khi đầu không thấy ông cụ đến lều mình vào giờ điểm tâm, thím chả nghĩ ngợi gì - thím hổn hển nói - nhưng đến trưa cũng không thấy ông xuất hiện khiến thím đâm lo, thím đến cửa lều ông, gõ và gọi rõ to mà không thấy trả lời, thím đâm hoảng và nghĩ rằng tốt hơn hết cứ ra hỏi xem bác vĩ cầm có thấy ông cụ đâu không. Bác cũng không thấy.

"Tau biết vầy, cách này hay cách khác, ngay từ trước khi bước vào đó", đêm ấy bác vĩ cầm nói với Kunta. Và Kunta bảo là anh không tài nào cắt nghĩa nổi cảm giác kỳ lạ đến với anh trong khi đánh xe đưa ông chủ về nhà chiều hôm ấy. "Ông cụ nằm đó ngay trên giường, rất chi là bình thản", bác vĩ cầm nói "bộ mặt hơi cười cười một tí. Coi bộ dư đang ngủ, dưng mà thím Xuki thì bỉu cụ í đã thức giấc trên thiên đàng". Bác nói bác ta mang tin buồn đó ra báo cho những người làm đồng và tay lực điền chính Catô đã cùng bác trở về, giúp một tay tắm rửa cho thi hài và đặt lên một tấm ván lạnh. Rồi họ treo chiếc mũ rơm, đã nâu sạm vì mồ hôi, của ông lão làm vườn ra ngoài cửa lều để báo tang theo tục lệ cổ truyền, trước khi cánh lực điền trở về và tập hợp trước lều nghiêng mình thi lễ lần cuối, rồi Catô và một lực điền khác đi đào huyệt.

Kunta trở về lều, lòng buồn gấp đôi - không những chỉ vì ông lão làm vườn đã chết mà còn là vì từ khi sinh Kitzi, anh đã không năng tới thăm ông cụ như anh có thể làm, trước đấy thì tưởng chừng hầu như không đủ thì giờ và bây giờ thì đã quá muộn. Về tới nhà, anh thấy Bel giàn giụa nước mắt; điều đó anh đã đoán trước, nhưng lý do khiến chị khóc làm cho anh ngạc nhiên "Xưa nay tui vẫn cảm thấy ông cụ là người cha mà tui chưa bao giờ biết mặt", chị nức nở, "Không biết vì sao mà tui không thổ lộ với ông cụ điều í, nhưng từ nay về sau, ông cụ không còn đây nữa, chắc sẽ không bao giờ lại như xưa". Chị và Kunta lặng lẽ ăn bữa tối trước khi ủ Kitzi cẩn thận đề phòng đêm mùa thu lạnh, bồng theo đến cùng với những người khác "ngồi bên kẻ quá cố" cho tới khuya.

Kunta ngồi hơi tách khỏi ra những người khác, với con bé Kitzi không ngừng giãy giụa trong lòng suốt đầu giờ cầu nguyện, và hát khe khẽ, rồi chị Manđi bắt đầu rì rầm nói chuyện, hỏi có ai nhớ là có bao giờ ông cụ nhắc đến bà con họ hàng nào còn sống không. Bác vĩ cầm nói: "Một bận đã lâu, tui nhớ là cụ có nói rằng cụ không biết mặt mẹ. Tui chỉ nghe cụ kể về gia đình có vậy thôi". Vì trong bọn họ, bác vĩ cầm là người gần gũi ông cụ nhất, và nếu có ai biết gì thì đó ắt chỉ là bác, cho nên mọi người quyết định rằng có lẽ không cần phải báo tin cho ai cả.

Một đoạn kinh nguyện nữa, một bài hát nữa, rồi thím Xuki nói "Tuồng như từ bao lâu nay, ông cụ vẫn là người làm của ai đó trong họ nhà Uolơ. Tôi có nghe cụ kể là hồi còn bé, mexừ vẫn cưỡi trên vai cụ, hóa nên tui đồ rằng vì thế, sau này khi có đại sảnh riêng, mexừ mới đưa ông cụ về đây".

"Mexừ cũng rất buồn", Bel nói. "Mexừ biểu tui nói với tất cả các bác, các anh, các chị mai nghỉ làm việc nửa ngày".

"Tốt, ít ra ông cụ cũng sẽ được chôn cất tử tế", người vừa nói là Ađa, một nữ lao công làm đồng, mẹ thằng bé Nâuơ đang thản nhiên ngồi bên cạnh "Có nhiều ông chủ chỉ cho phép ngừng làm việc vừa đủ để đến ngó mặt người nhọ chết đúng một cái trước khi cái xác còn ấm bị rúi xuống ba tấc đất".

"Ờ, tất cả những người trong gia đình Uolơ đều là những người da trắng tốt bụng, cho nên chúng ta ở đây, không ai phải lo lắng vì chuyện í", Bel nói.

Thế rồi một số người khác bèn nhắc tới chuyện các điền chủ giàu có đôi khi cũng bày ra những đám tang rất tươm tất, thường là cho những đầu bếp lâu năm ở nội thất hoặc những nhũ mẫu già đã bế ẵm, cho bú và góp phần nuôi nấng hai hoặc thậm chí ba lứa trẻ trong gia đình. "Có khi họ được chôn trong khu mộ của người da trắng, có những phiến đá phẳng đánh dấu chỗ họ nằm".

Thật là một phần thưởng ấm lòng, tuy có phần muộn mằn, đối với cả một đời lam lũ vất vả, Kunta chua chát nghĩ thầm. Anh nhớ lại cụ già làm vườn có kể với anh là hồi cụ mới đến làm ở nội thất của ông chủ, cụ còn là một gã coi ngựa trẻ tráng, lực lưỡng; cụ làm công việc này trong nhiều năm cho đến khi bị một con ngựa đá rất đau. Cụ vẫn được dùng, nhưng càng ngày càng trở nên tàn phế và cuối cùng, mexừ Uolơ bảo cụ tiêu nốt những năm tháng còn lại bằng cách làm bất cứ cái gì cụ cảm thấy có thể làm. Với Kunta làm trợ thủ, cụ đã trông nom vườn rau cho đến khi quá yếu, cả đến việc đó cũng không kham nổi, và từ đó trở đi, cụ dành phần lớn thời gian lấy rác ngô đan mũ, lấy rơm đan quạt và làm đệm ghế cho tới lúc chứng viêm khớp tiến triển làm tất cả các ngón tay của cụ cũng đâm liệt. Kunta nhớ đến một ông già khác mà thi thoảng anh có gặp ở một đại sảnh giàu có ở đầu tỉnh đằng kia. Tuy đã được phép nghỉ hưu từ lâu, sáng nào ông lão cũng đòi vài người da đen trẻ hơn khiêng ra ngoài vườn, ở đó ông có thể nằm nghiêng nhổ cỏ bằng đôi bàn tay sứt sẹo lam nham, giữa những vạt hoa của bà chủ trọn đời quý mến cũng già và tàn phế như ông. Và đó là những người may mắn, Kunta biết thế. Nhiều người già, khi không còn đủ sức thực hiện công việc trước kia của mình, bắt đầu bị đánh đập và cuối cùng bị bán đi với giá khoảng hai mươi hoặc ba mươi đôla cho một nông dân "rác rưởi da trắng" nào đó có ước vọng ngoi lên hàng điền chủ, và do đó bắt họ làm chí chết.

Kunta bị rứt ra khỏi những ý nghĩ đó khi tất cả mọi người đứng dậy khỏi chỗ ngồi chung quanh anh, họ đọc một lời nguyện cuối cùng và uể oải hướng về nhà làm một giấc độ vài tiếng để lại trở dậy trước khi trời rạng sáng.

Ngay sau khi điểm tâm, bác vĩ cầm mặc cho ông cụ bộ com-lê đen rách mà cha đẻ mexừ Uolơ đã cho cụ bao nhiêu năm về trước. Số quần áo ít ỏi khác của cụ đã bị đốt, vì, Bel nói với Kunta, ai mặc quần áo người chết thì chẳng bao lâu cũng chết theo luôn. Rồi Catô buộc thi hài lên một tấm ván rộng mà anh đã dùng rìu vót nhọn ở cả hai đầu.

Một thoáng sau, mexừ Uolơ ra khỏi ngôi nhà lớn, mang theo quyển kinh thánh màu đen to đùng và đi vào hàng, nối theo những người ở xóm nô, trong khi họ bước lật đật một cách kỳ cục, chốc chốc lại dừng, đằng sau thi hài được chở trên một chiếc xe la. Họ khe khẽ hát một bài trước đây Kunta chưa từng nghe thấy bao giờ "Sớm mơi, đến đó, tôi sẽ nói với chúa Jêxu của tôi: a, vui thay/ vui thay … Sớm mơi thức dậy, tôi sẽ thưa với Chúa Jêxu của tôi: a, vui thay/ vui thay/…" Họ cứ tiếp tục hát suốt dọc đường đến nghĩa địa nô, nơi mà Kunta nhận thấy ai nấy đều tránh do nỗi sợ hãi sâu sắc đối với cái họ gọi là "êu ma" và "vong hồn", mà anh cảm thấy có phần nào giống với những quỷ thần ở châu Phi của anh. Đồng bào anh cũng tránh nghĩa trang, nhưng đó là do trân trọng, không muốn quấy rầy người quá cố chứ đâu có phải vì sợ.

Khi mexừ Uolơ dừng lại ở một mé huyệt, và các nô lệ của ông ta ở mé bên kia, bà già thường được gọi là thím Xuki bắt đầu cầu nguyện. Rồi một nữ tá điền trẻ tên là Pơl hát một bài hát buồn: "Mau về thôi, linh hồn mệt mỏi của ta… Hôm nay tôi nghe thấy tiếng từ trên trời… Mau lên, linh hồn mệt mỏi của ta… Tội lỗi của tôi được dung tha và linh hồn của tôi được giải thoát…". Rồi mexừ Uolơ cúi đầu nói: "Jôzêphox, lão đã là một nghĩa bộc tốt và trung thành. Cầu Thượng đế ban phước lành cho linh hồn lão an tĩnh. Amen". Qua nỗi buồn thương của mình, Kunta ngạc nhiên nghe thấy ông lão làm vườn được gọi là "Jôzêphox". Anh băn khoăn không biết tên thật của ông cụ là gì - cái tên truyền lại từ các tổ tiên dòng giống Phi - và tông tộc ông cụ trước kia thuộc bộ lạc nào. Anh tự hỏi không hiểu chính ông lão có biết rõ điều đó hay không. Dễ thường ông đã chết như ông đã sống - không hề biết mình thực sự là ai. Qua những con mắt nhòa lệ, Kunta cùng những người khác theo dõi Catô và người giúp việc hạ ông già xuống lòng đất mà ông đã bỏ bao nhiêu năm vun xới cho của cải mọc lên. Khi những xẻng đất bắt đầu thình thịch xuống mặt, xuống ngực thi hài, Kunta chớp chớp và nuốt nước mắt trong khi đám phụ nữ chung quanh anh bắt đầu cất tiếng khóc to và cánh đàn ông thì hắng giọng, hỉ mũi xụt xịt.

Trong khi mọi người rời nghĩa địa, lặng lẽ trở về, Kunta thầm nghĩ: ở Jufurê, khi một người chết thì gia đình và các bạn thân than hờ và lăn lộn vào đám tro than và bụi trong lều, trong khi đó, dân làng nhảy múa bên ngoài, bởi vì đa số người Phi tin rằng không thể có đau buồn mà không kèm hạnh phúc, không thể có cái chết không kèm theo sự sống trong cái vòng tuần hoàn mà chính cha anh đã giảng cho anh nghe khi bà nội Yaixa yêu dấu của anh qua đời. Anh nhớ Ômôrô đã bảo anh: "Nín ngay, Kunta", và giải thích rằng bà nội chẳng qua chỉ nhập vào một trong ba loại người thường có trong tất cả mọi làng - những người đã đi chầu Chúa Ala, những người đang sống và những người sẽ sinh ra. Trong một lúc, Kunta nghĩ bụng là phải cắt nghĩa điều đó cho Bel, song anh biết là chị sẽ không hiểu. Tim anh trĩu xuống - cho đến một lúc sau đó, anh quyết định đó sẽ là một trong nhiều điều mà một ngày kia anh sẽ kể cho Kitzi về mảnh đất quê hương mà hẳn nó sẽ không bao giờ được thấy.

Chương 72

Cái chết của ông cụ làm vườn vẫn tiếp tục đè nặng lên tâm trí của Kunta đến nỗi, cuối cùng một buổi sau khi Kitzi đã đi ngủ, Bel phải góp ý kiến đôi lời về chuyện ấy.

"Kunta này, tôi biết là mình thương cụ làm vườn í như thế nào rồi, cơ mà chả phải đã đến lúc mình nên rút ra khỏi đó mà hòa với người sống hay sao?". Anh chỉ trừng trừng nhìn chị. "Thôi tùy mình, cơ mà chủ nhật tới, đầy hai năm Kitzi mà mình cứ mang bộ mặt ỉu xìu í thì còn sinh nhật, sinh nhiếc gì nữa?"

"Tui sẽ tươi tỉnh", Kunta sững sờ nói, hy vọng Bel sẽ không đoán ra là anh đã quên tịt chuyện đó.

Anh có năm ngày để làm một món quà cho Kitzi. Đến chiều thứ năm, anh đã đẽo xong một con búp bê Manđinka rõ đẹp bằng gỗ thông, lấy dầu lanh pha muội đen xát lên, rồi đánh bóng cho đến khi nó óng ánh như những đồ chạm gỗ mun ở quê anh. Và Bel, từ lâu đã khâu xong cho con bé một cái áo váy, đang lúi húi ở trong bếp làm hai cây nến hồng bé tí xíu để cắm lên chiếc bánh kem sô-cô-la định đến tối chủ nhật sẽ mời thím Xuki và chị Manđi tới cùng ăn - thì Ruxbi, xà ích của mexừ Jon đánh xe đến.

Bel phải cắn lưỡi lại khi ông chủ hớn hở gọi chị vào báo cho biết là "mămzen" An đã gạ được bố mẹ cho ở với chú cả đợt nghỉ cuối tuần và tối mai sẽ đến. "Nhớ dọn sẵn một buồng khách nhé", ông chủ nói, "Mà sao chị không làm một chiếc bánh ngọt hoặc cái gì đó cho ngày Chủ nhật? Cháu gái tôi bảo là con bé nhà chị sắp mừng sinh nhật và nó muốn liên hoan - riêng hai đứa với nhau thôi - trên buồng của nó. An cũng hỏi là để con bé ngủ đêm với nó ở trên nhà này có được không và tôi bảo được, cho nên hãy sửa soạn một ổ nằm trên sàn ở chân giường nhé".

Khi Bel báo tin này cho Kunta - đồng thời nói thêm rằng chiếc bánh mình sắp làm sẽ phải dọn lên ở ngôi nhà lớn chứ không phải ở lều của họ, rằng Kitzi sẽ bận liên hoan với "mămzen" An nên không tổ chức liên hoan gia đình được - Kunta giận đến nỗi không nói được, thậm chí không nhìn chị nữa. Tập tễnh ra ngoài, anh đi thẳng đến nhà kho, nơi anh giấu con búp bê dưới một đống rơm và lôi nó ra.

Anh đã nguyện với Chúa Ala rằng loại chuyện như thế này sẽ không bao giờ xảy đến với Kitzi của anh - nhưng anh làm gì nổi? Anh thấy nao lên một cảm giác bị ức đoạn đến lộn mửa, tới mức anh bắt đầu hiểu ra tại sao những người da đen nọ cuối cùng đã đi đến chỗ tin rằng chống lại bọn tubốp cũng vô ích như một bông hoa cố ngóc đầu lên khỏi lớp tuyết đang rơi vậy. Nhưng rồi nhìn trân trân vào con búp bê, anh nghĩ đến câu chuyện anh đã nghe về người mẹ da đen đã đập đầu đứa con nhỏ của mình vào bục bán đấu giá đến phòi óc và thét lớn: "Ta không chịu để con gái ta chịu cái phận mà các ngươi đã gây cho ta đâu!". Và anh giơ con búp bê lên quá đầu, định ném nó vào tường, rồi lại hạ nó xuống. Không, anh không thể làm thế với Kitzi được. Nhưng còn chuyện trốn chạy thì sao? Chính bản thân Bel cũng đã từng nhắc đến chuyện ấy. Liệu chị có thực sự muốn đi khỏi không? Và nếu có, liệu họ có thể thành công được không - với tuổi của họ hiện nay, với một đứa bé mới chập chững biết đi? Trong nhiều năm, anh đã tạm gác đi ý đó, không suy tính gì nữa, nhưng giờ đây anh đã thuộc cả vùng như chính cái đồn điền này. Biết đâu…

Buông con búp bê xuống, anh đứng dậy và đi về lều. Nhưng anh chưa kịp mở miệng thì Bel đã nói: "Kunta, tôi cũng đau xót như mình, nhưng hãy nghe tui nói! Tui thà chết còn hơn để con gái mình lớn lên thành một đứa cày thuê cuốc mướn như cái thằng bé Nâuơ. Nó mới hơn Kitzi có hai tuổi mà họ đã bắt đầu đem nó ra ngoài đồng nhổ cỏ, xách nước. Bất kể mình có những cảm nghĩ khác như thế nào, nhưng xem ra mình cũng phải đồng ý như thế". Cũng như thường lệ, Kunta chẳng nói chẳng rằng, nhưng trải qua một phần tư thế kỷ làm công việc của kẻ nô lệ, anh đã thấy khá đủ để hiểu rằng cuộc đời của một cố nông là kiếp trâu ngựa, và anh thà chết còn hơn phải chịu trách nhiệm về việc khép con gái mình vào một số phận như vậy.

Rồi mấy tuần sau, vào một buổi tối, anh về tới nhà thì thấy Bel đã đợi sẵn ở cửa, tay cầm cốc sữa lạnh mà bao giờ anh cũng thèm sau một cuốc xe dài. Khi anh ngồi xuống chiếc ghế đu chờ bữa ăn tối, chị đến sau lưng anh, và không đợi anh yêu cầu, xoa bóp lưng cho anh vào đúng cái chỗ mà chị biết thể nào cũng đau rần sau một ngày cầm cương. Khi chị đặt trước mặt anh chiếc đĩa đựng món ăn ưa thích nấu theo lối Phi của anh, Kunta biết là hẳn chị đang tìm cách xoa dịu anh vì một chuyện gì đó, nhưng anh đã đủ kinh nghiệm để hiểu rằng chưa cần phải hỏi rõ đầu đuôi ra sao vội. Suốt buổi ăn tối, chị nói chuyện ríu rít hơn mọi khi về những điều vặt vãnh và anh đã bắt đầu thắc mắc không biết bao giờ chị mới đi vào vấn đề thì, khoảng một giờ sau bữa tối, khi hai người chuẩn bị đi nằm, chị bỗng ngừng nói một hồi lâu, hít một hơi thật sâu rồi đặt tay lên cánh tay anh. Anh biết đã đến lúc.

"Kunta, tôi không biết đưa đẩy chuyện này với mình ra sao, cho nên tôi đành nói toẹt ra thôi. Mexừ bảo với tôi là ông đã hứa với "mămzen" An sẽ thả Kitzi ở nhà mexừ Jon chơi với nó một ngày, khi ông đi ngang qua đó trong chuyến thăm bệnh ngày mai".

Thế này thì quá lắm. Phải ngồi yên mà nhìn Kitzi bị từ từ biến thành một con chó cưng lễ độ cũng đã đủ nhục nhã, nhưng bây giờ, khi nó đã thuần nhà, họ lại muốn anh mang con vật đến giao cho kẻ canh giữ mới. Kunta nhắm mắt lại, tự vật lộn để nén cơn cuồng nộ, rồi nhảy chồm khỏi ghế - phũ phàng giật tay khỏi Bel - rồi lao ra cửa. Trong khi chị nằm trên giường thao thức suốt đêm ấy, thì anh ngồi thức trắng trong chuồng ngựa, dưới bộ đồ trắng. Cả hai cùng khóc.

Sáng hôm sau, khi đỗ xe trước cửa nhà mexừ Jon, Kunta chưa kịp bế Kitzi đặt xuống đất thì "mămzen" An đã chạy ra đón. Thậm chí nó cũng không chào tạm biệt, Kunta cay đắng nghĩ thầm, tai nghe rộn tiếng cười khanh khách của hai bé gái đằng sau lưng trong khi anh lái ngoặt đôi ngựa vòng lại để ra đường cái.

Chiều đã muộn và anh đã đợi ông chủ mấy giờ liền bên ngoài một đại sảnh ở vào quãng hai mươi dặm mé dưới, theo đường cái, khi một người nô lệ ra bảo anh rằng mexừ Uolơ có thể phải ở lại suốt đêm trông nom bà chủ ốm của họ và nhắn Kunta ngày mai trở lại đón ông. Cau có, Kunta làm theo; đến nhà "mămzen" An, thấy nói là cô bé xin với mẹ để cho Kitzi ở lại qua đêm. Nhẹ hẳn người khi bà mẹ ốm yếu nọ trả lời là hai đứa ồn ào quá làm bà nhức đầu, Kunta vội vã rong xe lăn bánh trở về, với Kitzi nhấp nhổm nảy lên nảy xuống bên cạnh, trên chiếc ghế ngồi lái chật chội.

Trong khi rong ruổi trên đường, Kunta vụt nghĩ rằng đây là lần đầu tiên hai cha con hoàn toàn một mình với nhau, kể từ cái đêm anh nói cho con biết tên nó là gì. Anh cảm thấy một nỗi hồ hởi kỳ lạ mỗi lúc một tăng lên trong khi xe lăn bánh trong hoàng hôn sẫm dần. Song anh cũng cảm thấy mình có phần dại khờ. Tuy đã suy nghĩ rất nhiều về những dự định và trách nhiệm của mình với đứa con đầu lòng này, anh vẫn thấy phân vân không biết nên hành động ra sao. Đột nhiên, anh bế phắt Kitzi lên lòng. Một cách vụng về, anh sờ nắn chân, tay, đầu nó trong khi nó giẫy giụa và giương mắt nhìn anh, ngỡ ngàng. Anh lại nhấc bổng nó lên, thử xem nó nặng chừng nào. Rồi, rất trịnh trọng, anh đặt dây cương vào lòng bàn tay nhỏ xíu, âm ấm của nó - phút chốc, tiếng cười vui sướng của Kitzi vang lên như âm thanh tuyệt diệu nhất trước, nay anh từng nghe thấy.

"Con gái bé xinh xẻo", cuối cùng anh nói với nó. Con bé chỉ nhìn anh. "Con giống hệt em trai Mađi của bố".

Nó vẫn chỉ nhìn anh, không nói. "Fa!", anh chỉ vào mình. Con bé nhìn ngón tay anh. Đập khẽ vào ngực mình, anh nhắc lại: "Fa!" song nó lại hướng sự chú ý trở về với đôi ngựa. Tay giật cương lách tách, miệng nó hét: "Hấp!" bắt chước một tiếng hô nào đó nó đã nghe thấy anh thốt ra. Nó ngước lên, hãnh diện mỉm cười với anh, nhưng mặt anh tỏ vẻ phật ý đến nỗi nụ cười nhanh chóng tắt đi và xe chạy nốt đoạn đường còn lại trong im lặng.

Mấy tuần sau, trên đường trở về sau một cuộc viếng thăm "mămzen" An lần thứ hai, xe đang chạy, bỗng nhiên Kitzi ngả người về phía Kunta, dí ngón tay nhỏ bụ bẫm vào ngực anh và nháy mắt nói: "Fa!".

Anh sướng run cả người. "Ec tu mo Kitzi leh!". Anh vừa nói vừa cầm lấy ngón tay con bé chỉ vào nó: "Con tên Kitzi". Anh ngừng một lát: "Kitzi". Nó bắt đầu mỉm cười, ra điều công nhận tên mình. Anh chỉ vào mình: "Kunta Kintê".

Nhưng Kitzi chừng như bối rối. Nó chỉ vào bố nói: "Fa!". Lần này cả hai cha con cùng cười toét miệng.

Đến độ giữa mùa hè, Kunta rất khoái vì thấy Kitzi rất mau thuộc những chữ anh dạy nó - và xem vẻ nó rất thích những chuyến đi xe ngựa với bố. Anh bắt đầu nghĩ rằng có thể còn hy vọng ở nó. Rồi một hôm, tình cờ nó nhắc đến một đôi chữ Manđinka trong khi chỉ có một mình nó với Bel. Bel liền gửi Kitzi đến lều thím Xuki ăn tối và chờ sẵn Kunta khi anh trở về đêm hôm ấy.

"Ông mất trí rồi sao hở người đời?", chị rít lên, "ông phải biết chú ý hơn cho tui chứ - ai lại giở giói nhiễu sự ra như thế để đẩy con bé và cả bọn ta đến chỗ mang tai mang vạ! Tốt hơn, ông hãy cố nhồi vào cái đầu rắn cấc của ông rằng nó không phải người Phi!". Chưa bao giờ Kunta giận Bel đến thế, chỉ thiếu chút xíu nữa là anh đánh chị. Chẳng những chị đã phạm cái tội không thể tưởng tượng được là to tiếng với chồng mà quá quẩn hơn nữa, chị còn bác bỏ cả huyết thống và hạt giống của anh. Lẽ nào người ta lại chẳng có thể thốt lên một chữ của tiếng nói thừa kế đích thực từ tổ tiên mình mà không sợ một tên tubốp nào đó trừng phạt? Tuy nhiên, một cái gì đó báo động cho anh là đừng có trút nỗi giận dữ anh cảm thấy, vì mọi cuộc va chạm trực diện với Bel có thể bằng cách nào đó chấm dứt những chuyến đi chơi xe ngựa với Kitzi. Nhưng rồi anh lại nghĩ chị không thể làm thế mà không cho ông chủ biết vì sao, và hẳn chị không đời nào dám nói ra lý do ấy. Ngay cả như thế, anh vẫn không hiểu nổi ma quỷ nào ám anh đến nỗi hóa u mê đâm đầu đi lấy một ả đàn bà sinh trưởng trên đất của tubốp.

Ngày hôm sau, trong khi chờ ông chủ hoàn thành một cuộc thăm bệnh tại gia ở một đồn điền gần đó, một tay lái xe khác kể cho Kunta câu chuyện mới nhất anh ta nghe được về Tuxên, một nô lệ cũ đã tổ chức nên một đạo nghĩa quân da đen lớn ở Haiti và đang lãnh đạo họ chiến đấu thắng lợi, không những chống người Pháp mà cả bọn Tây Ban Nha và bọn Anh nữa. Tuxên - gã lái xe kia nói - đã học hỏi về chiến tranh qua việc đọc những cuốn sách về các chiến sĩ trứ danh ngày xưa tên là "Alêcxan Đại đế" và "Juliuyt Xêza", những sách này do chủ cũ của anh ta cho, và về sau, anh đã giúp người này trốn từ Haiti sang "Hợp Xẻng Cuốc". Trong mấy tháng qua, đối với Kunta, Tuxên đã trở nên một vị anh hùng, tầm cỡ chỉ đứng sau người chiến sĩ thần thoại Xunđiata của dân tộc Manđinka, và Kunta hầu như không đủ kiên nhẫn chờ đến lúc trở về truyền đạt câu chuyện mê ly này cho những người khác.

Anh quên khuấy không kể cho họ nghe. Bel đến gặp anh ở chuồng ngựa báo tin là Kitzi bị sốt và nổi hạch. Ông chủ gọi đó là "quai bị", và Kunta đâm lo hoài, mãi đến khi Bel bảo anh bệnh ấy là bình thường ở trẻ con. Sau đó, khi được biết "mămzen" An được lệnh phải cách ly cho đến khi Kitzi khỏi - ít nhất là hai tuần - thậm chí anh còn hơi thinh thích là đằng khác. Nhưng Kitzi mới ốm được mấy ngày, gã xà ích Ruxbi của mexừ Jon đã mang đến một con búp bê tubốp quần áo đầy đủ, quà của "mămzen" An. Kitzi đâm mê nó. Cô bé ngồi trong giường, ghì chặt con búp bê, chao qua chao lại, lim dim mắt trầm trồ "Xinh quá là xinh". Kunta chẳng nói chẳng rằng bỏ đi, và lao sầm sầm qua sân đến nhà kho. Con búp bê vẫn trên tầng gác, ở chỗ anh bỏ bẵng nó mấy tháng trước đây. Lấy tay áo lau thật sạch, anh mang nó về lều và gần như dúi nó vào người Kitzi. Con bé cười vang, thích thú khi trông thấy nó, Bel cũng phải khen. Nhưng sau mấy phút, Kunta có thể thấy là Kitzi thích con búp bê tubốp hơn, và lần đầu tiên trong đời, anh nổi giận với con gái.

Anh chẳng thấy sung sướng gì hơn khi nhận thấy hai cô bé hăm hở biết bao để bù lại những tuần lễ vắng nhau. Mặc dù đôi khi Kunta được sai đưa Kitzi đến chơi đằng nhà "mămzen" An, nhưng chẳng ai lạ gì là "mămzen" An vẫn ưng đến nhà chú hơn, bởi vì mẹ nó thường chưa chi đã kêu nhức đầu vì hai đứa làm ồn, và, theo lời chị bếp Ômêga, thậm chí còn giở đến ngón võ cuối cùng là giả vờ ngất nữa. Song, chị bếp nói, bà chủ đã gặp địch thủ là cô con gái miệng lưỡi leo lẻo. Một hôm, Ruxbi kể với Bel là có lần bà chủ gã quát con gái: "Mày ăn nói, đi đứng hệt như bọn nhọ!" và "mămzen" An liền vặc lại: "Phải, bọn nhọ vui hơn chúng ta vì họ chẳng có gì để mà lo cả!". Song, ở nhà mexừ Uolơ, hai con bé muốn làm ồn thế nào cũng được. Những lần lái xe trên lối đi dọc theo những vạt trồng hoa, dù đi ra hay đi vô, chả mấy khi Kunta không nghe thấy hai đứa hò hét đâu đó trong khi chúng chạy nhảy lung tung trong nhà, ngoài sân, ngoài vườn và - mặc dầu Bel cố hết sức ngăn chặn - thậm chí cả ở chuồng gà, chuồng lợn, kho thóc cũng như các lều bỏ ngỏ ở xóm nó.

Một buổi chiều, trong khi Kunta đi vắng với ông chủ, Kitzi dẫn "mămzen" An về lều chỉ cho xem quả bầu đựng những hòn sỏi của Kunta mà kỳ lên quai bị phải nằm nhà, nó đã khám phá ra và rất mê. Tình cờ, vừa đúng lúc Kitzi thò tay vào bên trong miệng bầu, Bel bước vào lều, nghé mắt nhìn và hét lên: "Tránh xa những viên đá của bố mày ra! Cái í là để bố biết mình bao nhiêu tuổi đấy!". Hôm sau Ruxbi mang đến cho ông chủ một bức thư của ông anh trai và năm phút sau, mexừ Uolơ gọi Bel vào phòng khách, giọng gay gắt của ông ta khiến chị lo sợ ngay cả trước khi rời khỏi bếp, "mămzen" An đã kể cho bố mẹ về một cái gì đó nó thấy ở trong lều chị. Câu chuyện bỏ đá vào quả bầu mỗi lần đầy tháng là cái thuật chiêu hồn gì của dân Phi châu vậy? ông ta hỏi.

Đầu óc loáng thoáng các ý nghĩ rất nhanh, Bel bật ra: "Đá? Đá gì, mexừ?" "Chị thừa biết ta muốn nói gì", ông chủ nói.

Bel cười gượng, thắc thỏm: "Ồ, cháu biết ông chủ nói chuyện gì rồi. Không đâu, mexừ, chả làm gì có chuyện chiêu hồn. Chả là cái lão nhọ Phi nhà cháu không biết đếm, có thế thôi mexừ ạ. Thành thử cứ sang tuần trăng mới là nó bỏ một hòn đá con vào quả bầu để xem tất cả bao nhiêu hòn mà luận ra tuổi của nó."

Mexừ Uolơ mặt vẫn cau có, ra lệnh cho Bel trở về bếp. Mười phút sau, chị sầm sầm bước vào lều, giựt phắt Kitzi ra khỏi lòng Kunta, và xòe tay phát vào mông nó - gần như thét lên: "Từ rày mà còn đưa cái con bé đó vào đây nữa là tao vặn cổ mày, nghe chưa?"

Sau khi tống cổ bé Kitzi khóc khóc mếu mếu vào giường ngủ, Bel cố trấn tĩnh lại, đủ để giải thích cho Kunta rõ chuyện. "Tui biết là sỏi với bầu thì chả có hại gì", chị nói, "cơ mà thế cũng đủ tỏ cho mình thấy như tui đã biểu là những cái trò Phi phiếc í chỉ mang tai mang họa thôi! Mà mexừ là chả bao giờ có thể quên chuyện gì đâu nhé!"

Kunta cảm thấy một nỗi phẫn uất bất lực đến nỗi anh không ăn được cơm tối. Sau hơn hai mươi vụ mưa đánh xe cho ông chủ, hầu như hằng ngày, Kunta lấy làm kinh ngạc và giận điên người về nỗi anh chỉ bỏ những hòn sỏi vào một quả bầu để ghi nhớ tuổi mà cũng thành vấn đề nghi vấn.

Phải thêm hai tuần nữa, sự căng thẳng mới dịu xuống đến mức "mămzen" An có thể tiếp tục đến chơi, nhưng một khi đã trở lại như cũ thì cứ y như là sự biến kia không hề xảy ra vậy; Kunta đâm gần như phiền não. Đang kỳ quả chín rộ, hai cô bé sục tới, sục lui những dãy hàng rào đầy dây nho, tìm ra những mảng dâu dại màu xanh thẫm và trở về nhà với những xô đầy, tay và miệng đỏ nhoe đỏ nhoét. Có những ngày khác, chúng mang về những kho báu gồm vỏ ốc sên, tổ chim hồng tước hoặc cái đầu mũi tên cáu bẩn bám đầy, vui sướng trưng tất cả ra khoe với Bel trước khi giấu vào một nơi nào đó rất bí mật, sau đó chúng xoay ra chơi nắm bùn. Đến giữa chiều, sau khi rùng rùng kéo vào nhà bếp, bùn bê bết đến tận khuỷu tay và bị xua trở ra để rửa ráy ở ngoài giếng, đôi bạn mệt phờ nhưng hớn hở ấy xà vào ăn bữa ăn qua quít mà Bel đã sắp sẵn cho chúng rồi cùng nhau nằm xuống một tấm nệm làm một giấc. Nếu "mămzen" An ở lại đêm thì sau bữa tối với ông chủ, nó rốn lại cùng chú đến giờ đi ngủ, bấy giờ ông ta bèn bảo nó ra nói với Bel là đến giờ kể chuyện. Và Bel liền đưa con bé Kitzi cũng mệt phờ như vậy, và kể tiếp cho cả hai những chuyện phiêu lưu của chú thỏ bị cáo lừa, nhưng cuối cùng lại cho cáo vào tròng.

Kunta, trước tình thân ngày càng sâu đậm giữa hai con bé, càng hậm hực hơn cả khi anh thấy nó chớm nở trong nôi Kitzi. Một phần trong tâm tưởng - anh phải công nhận như vậy - anh hài lòng thấy Kitzi được tận hưởng thời thơ ấu một cách tốt đẹp đến thế và anh đã đi đến chỗ đồng ý với Bel rằng dù là một vật cưng của đám tubốp vẫn còn hơn suốt đời làm lụng ngoài đồng. Song anh dám chắc thỉnh thoảng anh có thể cảm thấy ngay cả Bel cũng hơi khó chịu thế nào ấy khi chị nhìn thấy hai con bé nô đùa với nhau thân thiết đến thế. Anh dám nghĩ rằng, ít ra cũng có vài lần, Bel cảm thấy và lo sợ những điều giống anh. Có những đêm trong lều mình, ngắm chị vuốt ve Kitzi trong lòng và ê a một bài hát "Jêxu" của chị, anh có cảm giác rằng, trong khi nhìn xuống khuôn mặt thiêm thiếp ngủ của con bé, chị sợ cho nó, chị muốn cảnh cáo nó về việc quan tâm quá đáng đến bất cứ một tubốp nào, cho dù đôi bên có vẻ quý mến nhau đến đâu mặc lòng. Kitzi còn nhỏ quá, chưa hiểu nổi những điều đó, nhưng Bel thừa biết việc tin tưởng ở đám tubốp có thể dẫn đến những đau đớn xé gan xé ruột như thế nào; bọn chúng đã chẳng bán đi hai đứa bé sơ sinh đầu tiên của chị đấy sao? Thật không có cách nào đoán được điều gì đang chờ đợi Kitzi trong tương lai, chẳng những đối với riêng nó, mà còn đối với cả anh và Bel nữa. Song có một điều anh biết chắc: Chúa Ala sẽ báo oán khủng khiếp lên đầu bất kỳ tubốp nào làm hại Kitzi của vợ chồng anh.

Chương 73

Mỗi tháng hai chủ nhật, Kunta đánh xe chở ông chủ đến nhà thờ ở Tụ đường của gia đình Uolơ, cách đồn điền khoảng năm dặm. Bác vĩ cầm bảo với anh rằng không chỉ có dòng họ Uolơ mà còn có nhiều gia đình da trắng quan trọng khác cũng xây Tụ đường riêng ở trong tỉnh. Kunta ngạc nhiên phát hiện ra rằng đến chầu lễ, còn có một vài gia đình da trắng kém vai vế hơn ở các vùng lân cận, và thậm chí có cả một số "cùng đinh" trong vùng, mà xe của anh thường vượt qua trong khi họ đi bộ tới, mang lủng lẳng đôi giầy buộc liền vào nhau bằng một sợi dây vắt qua vai. Cả ông chủ lẫn bất kỳ ai trong đám "người thượng hảo hạng" khác - theo cách gọi của Bel - đều chẳng bao giờ dừng lại cho đám "cùng đinh" đi nhờ xe; và Kunta thấy thế là may.

Bao giờ cũng là một bài thuyết giáo dài, ê a, xen giữa một lô những lời hát và cầu nguyện cũng ẽo ợt như vậy và khi xong xuôi tất cả, ai nấy bèn nối đuôi nhau từng người một đi ra, bắt tay cha giảng đạo, và Kunta thích thú nhận thấy cả đám "cùng đinh" lẫn những kẻ thuộc giai cấp ông chủ đều mỉm cười ngả mũ chào nhau, cứ như việc họ cùng là dân da trắng khiến cho họ giống hệt nhau vậy. Nhưng rồi khi rải bữa ăn trưa ngoài trời dưới bóng cây thì bao giờ cũng phân ra làm hai hạng ở hai mé đối diện của sân nhà thờ - y như thể họ mới vừa chỉ tình cờ ngồi tách riêng ra thôi.

Một hôm chủ nhật, trong khi cùng với các lái xe khác ngồi đợi và theo dõi thể thức quan trọng ấy. Ruxbi thì thầm vừa đủ cho những người kia nghe thấy: "Tuồng như dân da trắng chẳng thấy khoái gì trong việc ăn uống cũng như lễ bái". Kunta nghĩ thầm là trong suốt những năm anh biết Bel, cứ đến giờ tụ họp cầu Chúa "Jêxu nhà chị" là bao giờ anh cũng viện cớ có việc khẩn cấp chuồn mất, nhưng suốt dọc đường từ nhà kho đổ đi, anh đã nghe thấy họ làm rộn lên như mèo gào, đến mức khiến anh thấy một trong những điều hiếm hoi đáng phục ở đám tubốp là việc họ thích lễ bái một cách lặng lẽ hơn.

Độ một tuần lễ sau, Bel mới nhắc Kunta về một cuộc "họp trại lớn" mà chị định đi dự vào cuối tháng bảy. Đó là sự kiện lớn mùa hè hàng năm của dân da đen kể từ khi anh đến đồn điền, và vì mọi năm trước anh đều kiếm cớ từ chối không đi, nên anh ngạc nhiên thấy chị vẫn kiên trì hỏi anh. Anh chẳng biết gì mấy về các điều diễn ra tại các cuộc tụ tập lớn ấy, ngoài việc là nó có dính dáng đến cái tôn giáo trần tục của Bel, và anh chẳng muốn dự phần vào đấy. Nhưng Bel lại năn nỉ một lần nữa: "Tui biết mình bao giờ cũng rất muốn đi mà", chị nói giọng đầy giễu cợt, "tui cho là nói sớm với mình để mình còn đưa vào chương trình riêng mà".

Kunta không thể nghĩ ra một câu đối đáp cho sắc sảo và dù sao cũng không muốn gây sự cãi nhau, nên anh chỉ nói: "Để tui nghĩ", trong khi anh không hề có ý định cùng đi.

Đến ngày hôm trước cuộc họp trại, khi anh dừng xe ở trước tòa đại sảnh sau một chuyến đi lên tỉnh, ông chủ bảo:

"Ngày mai ta không cần đến xe, Tôbi ạ. Nhưng ta đã cho phép Bel và các phụ nữ khác đi dự buổi họp trại ngày mai và ta có bảo anh có thể đánh xe chở họ đến đó được".

Giận sôi lên, tin chắc đây là mưu mô của Bel sắp đặt ra như vậy, Kunta buộc ngựa sau chuồng ngựa, chưa vội tháo chúng ra khỏi gióng, và đi thẳng về lều, Bel đưa mắt nhìn anh đứng ở khung cửa một cái rồi nói: "Không nghĩ ra cách nào khác để đến đây vào lúc Kitzi được rửa tội à?"

"Được gì?"

"Được rửa tội, có nghĩa là nó đã vào nhà thờ"

"Nhà thờ nào? Cái đạo "Lạy chúa" nhà các người í à?"

Thôi đừng có giở cái trò ý ra nữa. Chuyện này không dính dáng gì đến tui. "Mămzen" An đã xin với người nhà nó các chủ nhật cho mang Kitzi đến tụ đường của họ ngồi đằng sau trong khi họ cầu nguyện ở đằng trước. Cơ mà nếu nó không rửa tội thì không thể đến nhà thờ của người da trắng được".

"Thế thì nó không cần đến nhà thờ nào hết!"

"Ông vẫn chẳng hiểu gì cả, ông nội người Phi ạ. Được vời đến nhà thờ của họ là một đặt quyền đấy. Ông nói không, là liền đó, ông với tui, mời cả hai xéo ngay ra đồng hái bông".

Sáng hôm sau, khi khởi hành, Kunta ngồi ngay đuỗn trên chiếc ghế cao của xà ích, nhìn thẳng trước mặt, thậm chí không buồn ngoái lại nhìn đứa con gái phấn khởi cười khanh khách trong lòng mẹ, giữa những người phụ nữ khác với những chiếc giỏ đựng bữa ăn ngoài trời. Hồi lâu, họ chỉ líu lo nói chuyện với nhau, rồi họ bắt đầu hát: "Chu-úng ta trèo lên chiếc thang của Jacốp… 1 Chu-úng ta trèo lên chiếc thang của Jacốp…Chu-úng Chu-úng ta trèo lên chiếc thang của Jacốp…chúng ta, những người lính thập tự.. Kunta ớn đến nỗi phải ra tay quật mạnh dây cương vào mông những con la, làm cho cỗ xe chúi về đằng trước và những hành khách của anh xóc nảy người lên - song dường như vẫn chưa đủ mạnh để khiến họ im mồm. Thậm chí, anh còn có thể nghe thấy cái giọng e é của Kitzi giữa tiếng những người khác nữa. Bọn tubốp không cần phải bắt lén con anh, Kunta cay đắng nghĩ, nếu như vợ anh sẵn lòng đem cho nó đi.

Những chiếc xe cũng chật ních người như thế từ các con đường nhánh của các đồn điền đi ra và cứ thấy họ mừng rỡ, vẫy tay chào hỏi nhau, Kunta lại càng trở nên bất bình. Lúc họ đến bãi cắm trại, trong một cánh đồng cỏ rập rờn, nở hoa, thì anh đã tự khích động mình lên tới mức hầu như không buồn để ý thấy khoảng cách hơn một tá xe kéo đã đậu ở đó cùng những chiếc khác đang đến cùng khắp ngả. Cứ mỗi xe dừng lại, những người ngồi trong lại ồn ã túa ra, la hú, phút chốc đã nhập bọn với Bel và những người khác đang hôn nhau, ghì lấy nhau trong đám đông nhộn nhạo. Một ý nghĩ từ từ chớm nở trong đầu Kunta là anh chưa bao giờ thấy đông đảo người da đen đến thế tập hợp ở một điểm trên đất tubốp và anh bèn bắt đầu chú ý.

Trong khi phụ nữ tập trung các giỏ thức ăn trong một lùm cây, cánh đàn ông bắt đầu dồn về phía một mô đất ở giữa đồng cỏ. Kunta buộc la vào một cái cọc đóng xuống đất, rồi ngồi xuống đằng sau cỗ xe - nhưng làm sao vẫn trông thấy được mọi điều diễn ra. Một lát sau, tất cả bọn đàn ông đã ngồi sát nhau trên mặt đất, gần chỏm gò - trừ bốn người có vẻ lớn tuổi nhất; những người này vẫn đứng. Rồi như theo một hiệu lệnh đã quy định trước, người già nhất trong số bốn vị cao niên - ông cụ rất đen, lưng còng, gầy gò, râu bạc trắng - đột nhiên ngật đầu ra đằng sau và hô to về phía đám phụ nữ: "Ta truyền hỡi con cái của JÊXU!".

Không thể tin ở mắt mình, ở tai mình, Kunta theo dõi trân trân trong khi đám phụ nữ nhanh nhẹn quay lại, đồng thanh hô: "Dạ, lạy Chúa!" rồi vội vã chen chúc đến ngồi đằng sau người đàn ông đã tập hợp trước. Kunta ngạc nhiên thấy cảnh đó sao mà giống cái cách dân làng Jufurê ngồi dự các cuộc họp của Hội đồng Bô lão mỗi tuần trăng triệu tập một lần.

Ông già lại hô: "Ta truyền - tất cả các người có phải là con cháu JÊXU không?"

"Dạ, lạy Chúa!"

Lúc này, ba ông già kia ra đứng trước mặt cụ già nhất và lần lượt kêu lên:

"Đến một thời chúng con chỉ là tôi tớ của CHÚA"

"Dạ, lạy Chúa!", những người dưới đất hô.

"Các người hãy sẵn sàng, Jêxu BAO GIỜ CŨNG VẪN sẵn sàng!"

"Dạ, lạy Chúa!"

"Các con có biết Đức chúa Cha vừa bảo gì ta không?" Người nói: "Có ai là kẻ lạ ở đây không?"

Một tiếng hô nhập cục lại nổi lên, gần như dìm hẳn những lời cụ già nhất trong số bốn vị cao niên bắt đầu nói. Kỳ lạ thay, ngay cả Kunta cũng thấy xúc động phần nào. Cuối cùng, đám đông im lặng dần, đủ để cho anh nghe được những điều ông lão râu bạc đang nói.

"Hỡi con cái của Chúa, có một miền đất CHÚA! Đó là nơi mà mọi người tin ở Chúa thảy đều sẽ tới! Kẻ có đức tin sẽ tới đó SỐNG đ-ờ-i đ-ờ-i chẳng cùng!…"

Chẳng mấy chốc cụ già đã mồ hôi đầm đìa hai cánh tay quều quàu trong không, người run lẩy bẩy vì phải dùng sức để hô truyền quá mạnh, giọng khàn đi vì xúc động: "Kinh thánh dạy chúng ta rằng chiên non và sư tử sẽ CÙNG nằm bên nhau!" Ông lão ngật đầu ra sau, vung hai tay lên trời, "Sẽ không có ông chủ và nô lệ NỮA! Tất cả sẽ chỉ là CON CÁI CỦA CHÚA mà thôi!"

Rồi đột nhiên một người đàn bả nhảy lên, bắt đầu hát: "Ôi Jêxu! Ôi Jêxu! Ôi Jêxu! Ôi Jêxu!" Hành động đó phát động những người khác xung quanh chị ta và trong vòng mấy phút, khoảng hăm bốn, hăm nhăm phụ nữ đã xoay vòng, vừa lắc lư người vừa la hét, Kunta vụt nhớ là bác vĩ cầm đã có lần kể với anh rằng ở một số đồn điền mà ông chủ cấm nô không được lễ bái, họ thường giấu một cái thùng sắt trong khu rừng gần đấy, ai cảm thấy bị ma ám thì rúc đầu vào đó mà hô hét, cái thùng đủ sức bịt tiếng ồn để ông chủ hoặc xú-ba-dăng khỏi nghe thấy.

Chính giữa lúc đang nghĩ vậy, thì Kunta phẫn nộ và bối rối sâu sắc khi thấy Bel cũng ở trong đám phụ nữ loạng quạng la hét đó. Đúng lúc ấy, một người trong bọn hô: "Tôi là con của CHÚA!", lăn ra đất như bị một đòn quật ngã và nằm sõng sượt đó, run bần bật. Một số khác theo chị và bắt đầu quằn quại, rên rỉ trên mặt cỏ. Một phụ nữ khác, trước đó lồng lộn vòng quanh, lúc này đứng sững như một cây cột, thét lớn: "Lạy Chúa, Jêxu, chỉ có riêng người!".

Kunta có thể nói là không ai trong bọn họ định trước bất cứ điều gì họ đang làm. Nó cứ bộc phát theo cảm nghĩ của họ - theo cái cách chính dân tộc anh vẫn nhảy múa cúng bái vong hồn ở bên quê nhà, dùng hành động thể hiện ra những gì họ cảm thấy trong lòng. Trong khi cơn la hét và quằn quại bắt đầu dịu đi, Kunta chợt nghĩ rằng các cuộc nhảy múa ở Jufurê cũng chấm dứt cách ấy - dường như trong trạng thái kiệt lực. Và anh có thể cảm thấy là, cách nào đó, những người này xem vẻ cũng vừa mệt lử vừa yên ổn với chính mình.

Rồi người nọ tiếp người kia, họ bắt đầu đứng dậy khỏi mặt đất và kêu to với những người khác:

"Lưng tui đau quá là đau, mãi đến khi được nói mấy Chúa tui. Người bỉu tui: "con đứng thẳng người lên!" từ bấy tui hết đau".

"Mãi đến khi Chúa Jêxu cứu rỗi linh hồn, tui mới gặp Người, bi giờ tui kính yêu Người trên hết tất cả!"

Còn có những lời khác nữa. Rồi cuối cùng, một cụ già khởi xướng một bài cầu và khi đọc xong, tất cả mọi người kêu A-MEN! Rồi bắt đầu hát kinh to, đầy hào hứng: "Tôi có giày, bạn có giày, con cái của Chúa thảy đều có giày! Khi lên thiên đàng, tui đi giày vào, dạo khắp thiên đàng của Chúa! Thiên đàng! Không phải ai nói thiên đàng cũng sẽ được đến đó! Thiên đàng! Thiên đàng! Tôi sẽ dạo khắp Thiên đàng của Chúa."

Trong khi hát, họ đứng dậy khỏi mặt đất, từng người một và bắt đầu bước rất chậm, theo sau vị tóc bạc giảng đạo, xuống khỏi gò đất và đi ngang cánh đồng cỏ. Khi hết bài hát, họ tới bờ một con đầm mé bên kia, tại đó người giảng kinh quay lại đối diện với họ, giữa ba vị bô lão kia và giơ tay lên:

"Và bây giờ hỡi anh chị em, đã đến lúc những ai chưa sạch tội gột rửa tội lỗi trong dòng sông Jođan!"

"Ôi, xin vâng!", một người đàn bà trên bờ hô.

"Đã đến lúc dập tắt lửa địa ngục vào trong dòng nước thánh của miền ĐẤT HỨA!"

"Đúng thế!", một tiếng hô nữa vọng tới.

"Tất cả những kẻ sẵn sàng lặn xuống vì linh hồn mình và sống đời đời với CHÚA, hãy đứng nguyên. Còn lại ai đã rửa tội hoặc sẵn sàng vì Chúa Jêxu, thì ngồi xuống!"

Kunta ngỡ ngàng theo dõi; tất cả, trừ mười hai hoặc mười lăm người, đều ngồi xuống. Trong khi những người kia sắp hàng bên bờ nước, vị truyền giáo và người khỏe nhất trong số bốn bô lão bước thẳng xuống đầm, đến lúc nước ngập đến hông mới dừng và quay lại.

Nói với thiếu nữ đứng đầu hàng, vị giảng kinh hỏi: "Con đã sẵn sàng chưa?". Cô bé gật đầu. "Vậy, hãy tiến lên!"

Nắm lấy cả hai cánh tay cô, hai vị bô lão còn lại dắt thiếu nữ xuống đầm để gặp những người kia ở giữa. Đặt bàn tay phải lên trán cô gái, trong khi vị bô lão to lớn nhất, từ đằng sau, dùng cả hai tay nắm vai và hai người kia càng riết chặt hai cánh tay cô, vị truyền giáo nói: "Lạy Chúa, xin cho đứa bé này được rửa sạch", rồi đẩy cô lùi lại trong khi ông già đằng sau kéo vai xuống cho đến khi cô chìm hẳn xuống nước.

Trong khi tăm sủi lên mặt nước và cô bé bắt đầu giãy giụa chân tay, các vị ngước mắt lên trời và vẫn giữ thật chặt. Chẳng mấy chốc, cô bé đạp loạn xạ và quằn người lên dữ dội; các vị chỉ có thể giữ cô dưới nước đến thế thôi. Họ kéo cô lên khỏi mặt nước; cô bé thở hồng hộc, ọc nước và vùng vẫy điên cuồng, trong khi họ gần như khiêng vào bờ - và giao vào trong tay bà mẹ đang đứng chờ.

Rồi họ quay sang người tiếp theo trong hàng - một gã thanh niên mới ngoài hai mươi tuổi đang đứng nhìn trân trân, hãi quá không dám động đậy. Thực tế là phải kéo anh ta xuống. Miệng há hốc, Kunta theo dõi từng người - tiếp theo là người đàn ông trung niên, rồi một em gái trạc mười hai tuổi và một bà già gần như không bước nổi, lần lượt bị dẫn xuống đầm, chịu sự thử thách kỳ quái ấy. Tại sao họ lại làm thế? Cái thứ "Đức Chúa" độc ác nào lại đòi hỏi những người muốn tin ở ông ta lại chịu đau đớn như thế? Dìm một người đến gần chết đuối, thì làm sao mà rửa sạch được cái xấu ở anh ta? Đầu óc Kunta xộn rộn những câu hỏi - anh không thể trả lời được câu nào - cho đến khi người cuối cùng được kéo lên, sặc sụa khỏi mặt nước.

Chắc là xong rồi, anh thầm nghĩ. Nhưng nhà truyền giáo vẫn đứng trong đầm, lấy tay áo ròng ròng nước lau mặt và lại nói: "Và bây giờ, trong tất cả các con đây, có ai muốn hiến con mình cho đức chúa JEXU nhân ngày thánh này không?" Bốn phụ nữ đứng dậy, người đầu tiên trong số đó là Bel đang nắm tay Kitzi.

Kunta nhảy chồm dậy bên cạnh cỗ xe. Nhất định họ không thể làm thế! Nhưng rồi anh trông thấy Bel dẫn đầu đi tới bờ đầm và bắt đầu bước - thoạt tiên còn chậm chạp, ngập ngừng, rồi mỗi lúc một nhanh về phía đám đông ở rìa nước. Khi vị truyền giáo vẫy Bel, chị cúi xuống bế Kitzi lên tay và mạnh mẽ sải bước xuống nước. Lần đầu tiên trong hai mươi lăm năm, kể từ cái ngày bàn chân anh bị chặt, Kunta lao đầu chạy - nhưng khi anh tới bên đầm, chân giật thon thót, thì Bel đã ra giữa, đứng cạnh vị truyền giáo. Hổn hển lấy hơi. Kunta mở miệng định gọi thì vừa lúc đó, vị truyền giáo bắt đầu nói:

"Các con thân yêu, chúng ta họp mặt ở đây để đón mừng một con chiên nữa vào lòng! Tên đứa bé là gì?"

"Kitzi, trình cha".

"Lạy Chúa,…", ông cụ bắt đầu nguyện, bàn tay trái đặt dưới đầu Kitzi và nhắm mắt lại.

"Không!", Kunta hét lên, khản cả giọng.

Bel quay phắt đầu lại, mắt nhìn thẳng vào mắt anh, bốc lửa. Vị truyền giáo đứng sững, hết nhìn anh lại nhìn chị, Kitzi bắt đầu sụt sịt khóc, "Im, con", Bel thì thầm. Kunta cảm thấy những cái nhìn hằn học bao quanh anh. Mọi sự chững lại.

Bel phá vỡ im lặng. "Không sao, thưa cha. Đấy chỉ là cái anh chồng người Phi của con thôi. Nó không hiểu. Con sẽ giảng cho nó sau. Cha làm tới đi."

Kunta ngớ ra không nói lên lời, anh thấy vị truyền giáo nhún vai, quay trở lại phía Kitzi, nhắm mắt và bắt đầu.

"Lạy Chúa, xin hãy giỏ nước thánh ban phước lành cho đứa trẻ này… tên nó là gì nhỉ?"

"Kitzi"

"Xin ban phước cho đứa trẻ Kitzi này và mang nó an lành cùng Người đến miền đất HỨA!". Vừa nói, nhà truyền giáo vừa nhúng tay phải xuống nước, vẩy mấy giọt vào mặt Kitzi và hô: "AMEN!".

Bel quay lại, bế Kitzi vào bờ, bì bõm lội ra khỏi đầm và đứng trước mặt Kunta, ướt lướt thướt. Cảm thấy ngớ ngẩn và xấu hổ, anh nhìn xuống đôi chân lấm bùn của chị, rồi ngước mắt lên bắt gặp đôi mắt chị long lanh ướt - vì nước mắt chăng? Chị đặt Kitzi vào trong tay anh.

"Được rồi, nó chỉ ướt thôi", anh nói, bàn tay xần xùi vuốt ve mặt Kitzi.

"Chạy thế, chắc mình đói bụng rồi. Tui thì đã hẳn rồi. Ta đi ăn đi. Tui mang đi cả thịt gà rán, cả trứng nướng tiêu ớt và cả cái món trứng trộn sữa ngọt lừ mình ăn mãi không chán í".

"Nghe có vẻ ngon lành đấy", Kunta nói.

Bel khoác tay anh và họ chậm rãi quay trở lại, đi ngang cánh đồng cỏ đến chỗ giỏ thức ăn đặt trên cỏ trong bóng râm của một cây óc chó.

Chương 74

Một đêm ở trong lều, Bel nói với Kitzi: "Con đã lên bảy rồi đó! Bọn trẻ làm đồng hàng ngày đã ra ngoài kia cày cuốc - như cái thằng Nâuơ í - cho nên con cũng phải bắt đầu giúp mẹ tí ti trên đại sảnh thì vừa!". Giờ đây Kitzi đã biết bố nghĩ thế nào về những chuyện như vậy, nên nó nhìn Kunta vẻ ngập ngừng. "Con nghe thấy mẹ nói gì đấy chứ", anh nói, không lấy gì làm rắn rỏi lắm. Bel đã bàn chuyện đó với anh và anh bất đắt dĩ phải đồng ý rằng nên để Kitzi bắt đầu làm một việc gì đó cho mexừ Uolơ trông thấy, thì hơn là chỉ tiếp tục làm bạn chơi đùa với "mămzen" An. Trong thâm tâm, anh còn khoái cái ý để cho nó tự rèn luyện thành hữu ích, bởi lẽ ở Jufurê, vào tuổi nó, các bà mẹ bắt đầu dậy con gái mình các ngón nữ công khéo léo để sau này cho chúng có thể thách cưới các chàng ngấp nghé làm rể một món tươm tươm. Nhưng anh biết Bel chẳng trông mong gì anh hào hứng với bất kỳ điều gì khiến Kitzi xích lại gần bọn tubốp hơn nữa - và tách nó ra xa hơn nữa khỏi anh, khỏi cái ý thức về phẩm cách và thừa kế mà anh vẫn quyết tâm truyền vào huyết mạch nó. Một buổi sáng sau đó ít hôm, khi Bel thuật lại là Kitzi đã biết đánh bóng các đồ bằng bạc, cọ sàn, đánh suy các đồ gỗ, thậm chí còn dọn giường cho ông chủ nữa, Kunta thấy khó mà chia sẻ niềm tự hào của chị về những thành tích đó. Nhưng đến khi trông thấy con gái đi đổ và rửa cái bô tráng men trắng mà ông chủ dùng vào việc đại, tiểu tiện ban đêm thì Kunta giận đến rúm người lại, tin chắc những mối lo sợ kinh khủng nhất của mình thế là đã thành sự thật.

Anh cũng bất bình khi nghe thấy Bel bảo ban Kitzi cách thức để trở thành một cô hầu riêng của chủ. "Nào con gái, hãy lắng nghe mẹ cho kỹ! không phải tất cả dân nhọ đều may mắn được làm với những người da trắng thượng hảo hạng như ông chủ đâu. Chỉ riêng thế, tức khắc là con đứng trên những bọn trẻ khác rồi. Vậy cái cốt yếu là học cách làm sao biết được ông chủ cần cái gì mà không để ông í phải sai bảo bao giờ. Con sẽ bắt đầu tập dậy sớm đi ra ngoài í với mẹ, từ lâu trước khi ông chủ dậy. Chính thế mà mẹ mới đón đầu được ông í - bao giờ mẹ cũng tin thế. Trước hết, mẹ sẽ bày cách cho con rũ bụi ở quần áo ông í như thế nào khi đem ra phơi lên dây. Cốt nhất là làm sao chắc chắn không đứt, không xước một cái khuy nào hết,…" vân vân và vân vân, đôi khi kéo dài hàng giờ liền.

Kunta thấy hình như không tối nào là Bel không dặn dò thêm, đến tận những chi tiết kỳ cục nhất. "Khi nào đánh giày đen cho ông í," một đêm chị bảo Kitzi, "mẹ trộn nước quả hồng vàng mấy muội đèn, mấy ít dầu ngọt và đường bánh vào một cái bình, đem lắc mạnh lên. Để qua đêm, rồi lại lắc kỹ một lần nữa, đem đánh giày ông í cứ gọi là sáng như gương". Trước khi anh ớn không chịu được thêm nữa, phải rút sang lều bác vĩ cầm cho đỡ bực, Kunta còn được nghe những bí quyết nội trợ vô giá như: "nếu con cho một thìa nhỏ hạt tiêu đen và đường nâu trộn thành bột quánh với một ít kem sữa bò vào một cái đĩa tách đặt trong buồng, thì không ruồi nào dám vào!". Và cọ giấy phủ tường bị lấm bẩn thì không gì tốt bằng lớp ruột bở bục của bánh bích quy để hai ngày.

Mặc dầu Kunta tỏ ra dửng dưng nhưng xem ra Kitzi rất chú ý đến những bài học ấy vì mấy tuần sau, một hôm Bel kể lại rằng ông chủ tỏ ý hài lòng thấy các vỉ ở lò sưởi được Kitzi đánh bóng lộn.

Nhưng hễ "mămzen" An đến chơi thì đương nhiên ông chủ chả cần phải bảo Kitzi được miễn làm việc trong thời gian cô cháu ở lại đó. Rồi như mọi khi, hai bé gái lại chạy quanh, nô rỡn, nhảy dây, chơi đi trốn tìm và một số trò chơi chúng tự đặt ra. Một buổi chiều, "chơi làm nhọ", chúng bửa một trái dưa chín, vục mặt vào lớp ruột xốp và ướt nhèo, bẩn hết cả ngực áo khiến Bel điên tiết tát trái Kitzi một cái làm nó kêu rống lên và thậm chí còn quát cả "mămzen" An nữa: "Em phải biết mình là con nhà có dạy dỗ chứ! Mười tuổi đầu, đi học rồi và chẳng mấy chốc sắp thành một tiểu thư thượng lưu!"

Tuy Kunta không buồn phàn nàn về chuyện này nữa, Bel vẫn thấy hết sức khó đối xử với anh trong những lần "mămzen" An đến chơi và ít nhất là một ngày sau nữa. Nhưng hễ Kunta được sai đánh xe đưa Kitzi đến nhà mexừ Jon, là anh phải cố hết sức mới khỏi để lộ sự hăm hở muốn được một mình với con gái trong cỗ xe. Thời kỳ này, Kitzi đã hiểu rằng bất kỳ điều gì được nói trong những chuyến xe đó đều là chuyện riêng giữa hai cha con, cho nên bây giờ anh coi việc dạy cho nó biết thêm về quê cha đất tổ là an toàn hơn, không sợ Bel khám phá ra nữa.

Vừa cho xe lăn bánh theo những con đường tỉnh lỵ Xpotxylvaniơ, anh vừa nói cho con gái biết tên gọi của các vật gặp dọc đường bằng tiếng Manđinka. Chỉ vào cái cây, anh nói: "yirô", rồi chỉ xuống mặt đường: "xilô". Đi qua một con bò cái đang gặm cỏ, anh nói: "ninxêmuxô" và vượt qua một cái cầu nhỏ: "xalô". Có lần, bất chợt bị mưa rào, Kunta vừa kêu: "xanjiô" , vừa vẫy tay về phía màn mưa và khi mặt trời lại hiện ra, anh chỉ tay nói: "tilô". Trong khi anh nói mỗi chữ, Kitzi theo dõi miệng anh thật chăm chú, rồi mấp máy môi bắt chước, lặp đi lặp lại kỳ đến lúc đọc thật đúng. Chẳng bao lâu, nó bắt đầu tự mình chỉ vào các vật để hỏi anh tiếng Manđinka gọi bằng gì. Một hôm, vừa mới ra khỏi bóng râm của ngôi đại sảnh, Kitzi đã thúc vào mạng sườn anh, lấy ngón tay đập đập lên phía trên tai và thì thào: "Cái đầu con gọi bằng gì?". "Kungô", Kunta đáp khẽ. Nó giật giật tóc, anh nói: "Kantingô". Nó bóp mũi, anh bảo: "nungô"; nó beo tai, anh nói: "tulô". Cười khúc khích, Kitzi hất bàn chân lên và đập đập vào ngón cái: "Xinkumba". Kunta thốt lên. Túm lấy, và lắc lắc ngón tay trỏ tọc mạch của nó, anh nói: "bulôkônđinh". Sờ vào miệng nó, anh nói: "đa". Rồi Kitzi nắm lấy ngón tay trỏ của Kunta, chĩa vào anh: "Fa" nó kêu lên. Anh cảm thấy tràn ngập tình yêu đối với nó.

Lát sau, qua một con sông nhỏ chảy lờ đờ. Kunta chỉ tay: "Cái kia là một bôlôngô". Anh kể cho nó nghe hồi ở quê nhà, anh sống bên một dòng sông gọi là " bôlôngô Kămbi!". Tối hôm ấy, trên đường về, khi đi qua đó một lần nữa, Kitzi chỉ tay kêu lớn "Bôlôngô Kămbi!" Cố nhiên, nó không hiểu khi anh cố giảng đó là sông Matiapôni chứ không phải là sông Gămbia, nhưng việc nó nhớ được cái tên kia khiến anh khoái đến nỗi mọi chuyện đó dường như chẳng quan trọng gì. Bôlôngô Kămbi, anh nói lớn hơn, nhanh hơn và mạnh hơn cái mẫu sài đẹn này nhiều. Anh muốn nói cho nó biết con sông đem lại sự sống kia được dân tộc anh tôn kính như một biểu trưng của sự phì nhiêu, song anh không tìm ra lời lẽ thích hợp, nên anh đành kể về các thứ cá đầy rẫy trong đó - kể cả giống cá kujalô rất khỏe, ngon thịt, thỉnh thoảng vẫn nhảy tọt vào xuồng - về những bầy chim đậu đầy mặt sông như tấm thảm sống, mênh mông, trôi bập bềnh cho đến lúc một chú bé nào đó, như chính anh chẳng hạn, từ bụi cây trên bờ nhảy tùm xuống, gào rầm rĩ để xem chúng cất cánh bay lên đầy trời như một cơn bão tuyết bằng lông vũ. Điều đó khiến Kunta nhớ lại có hồi bà nội Yaxai kể cho anh nghe là có một lần Chúa Ala cho một đàn giặc châu chấu khủng khiếp xuống Gămbia, chúng làm tối đen cả mặt trời, ngốn ngấu tất cả những gì xanh tươi cho đến khi gió chuyển hướng, cuốn chúng ra biển, ở đó, cuối cùng chúng rụng xuống và bị cá ăn thịt.

"Con có bà không?", Kitzi hỏi.

"Con có hai bà - mẹ của bố mí mẹ của mẹ"

"Sao các bà không ở với chúng ta?"

"Các bà không biết chúng mình ở đâu", Kunta nói.

"Con có biết chúng mình ở đâu không?", lát sau anh hỏi nó.

"Chúng mình đang ở trong xe", Kitzi nói.

"Bố muốn nói chúng mình sống ở đâu cơ?"

"Ở nhà mexừ Uolơ"

"Thế nhà í ở đâu?"

"Lối này", nó nói, tay chỉ xuôi theo đường cái. Rất hứng thú với cái đề tài đó, nó bảo: "Bố kể nữa cho con nghe về dững thứ ở quê bố đi".

"Ờ, có giống kén đỏ to tướng bết lấy lá làm thuền qua sông, bết đi thành đội ngũ và đánh nhau dư một đạo quân, bết xây tổ để ở cao hơn đầu người nhớn".

"Kinh nhỉ. Bố có giẫm lên nó không?"

"Không, trừ phi bắt buộc. Mọi vật đều có quền ở thế gian này dư ta. Ngay cả ngọn cỏ cũng sống và có linh hồn dư người".

"Vậy thì ta không bước lên cỏ nữa. Con cứ ở nguyên trong xe".

Kunta mỉm cười, "ở quê bố chả có cái xe đâu. Đi đâu cũng đi bộ thôi. Một lần, bố đi bộ mí bố của bố suốt từ Jufurê đến làng mới của bác của bố".

"Ju-fa-rê nào?"

"Bố đã bỉu con không bết bao nhêu lần đấy là quê bố mà".

"Con tưởng bố ở châu Phi. Cái Gămbia bố vẫn nói là ở châu Phi à?"

"Gămbia là một nước ở châu Phi, còn Jufurê là một làng ở Gămbia"

"Thế nó ở đâu, bố?"

"Bên kia bờ con nước nhớn"

"Cái con nước nhớn í nhớn chừng nào?"

"Nhớn đến nỗi phải mất bốn tuần trăng mới vượt qua nổi"

"Bốn gì?"

"Tuần trăng. Dư người ta nói tháng í mà"

"Sao bố không nói tháng?"

"Vì tiếng của bố gọi là tuần trăng"

"Bố gọi một "năm" là gì?"

"Một vụ mưa"

Kitzi trầm ngâm một thoáng

"Bố làm thế nào đi qua cái con nước nhớn í được?"

"Trong một cái xuồng to tướng"

"To hơn cả cái xuồng chèo mà người ta thường dùng để đánh cá í à?"

"To đủ chứa cả trăm người"

"Thế làm sao mà nó không đắm?"

"Dạo í, bố cứ ước là giá nó đắm cho xong"

"Sao thế?"

"Là vì tất cả bọn bố đều ốm tưởng dư sắp chết đến nơi"

"Làm sao bố với các người lại ốm?"

"Ốm là vì nằm ngay trên cứt đái của mình, người nọ chồng lên người kia"

"Sao bố mí các người không đi toa-lét?"

"Bọn tubốp đã xiềng bọn bố lại"

"Tubốp là ai?"

"Người da trắng"

"Sao bố lại bị xiềng? Bố làm cái gì không phải à?"

"Bố chỉ ra rừng gần làng bố ở - Jufurê í - kiếm miếng gỗ làm trống, thế là bọn nó túm lấy bố và bắt bố đi"

"Dạo í bố mấy tuổi?"

"Mười bảy"

"Thế họ có hỏi bố mẹ bố, xin phép mang bố đi không?"

Kunta nhìn nó, vẻ không tin là nó có thể đặt câu hỏi như vậy

"Nếu có thể bọn nó còn bắt luôn cả bố mẹ bố í chứ lị. Cho đến bi giờ, gia đình bố vẫn không biết hiện nay bố ở đâu"

"Bố có anh chị em gì không?"

"Có ba em trai. Bi giờ có thể còn nhều hơn thế nữa. Dù sao, tất cả các chú í đều nhớn rồi, có lẽ đã có con dư con í".

"Hôm nào bố con mình đến thăm các chú í đi?"

"Chúng mình không thể đi đâu được"

"Chúng mình chả đang đi đây đi đó là gì đấy?"

"Chỉ được đến nhà mexừ Jon thôi. Chúng mình không được thò mặt ra, lặn mặt trời là họ thả chó canh chừng chúng ta".

"Vì họ lo cho chúng ta à?"

"Vì chúng ta thuộc về họ. Cũng dư dững con ngựa đang kéo chúng ta í".

"Cũng dư con thuộc về bố mẹ í à?"

"Con là con của bố mẹ. Cái í khác"

"Mămzen" An bỉu nó muốn con là của riêng nó".

"Con không phải là con búp bê cho nó chơi"

"Con cũng chơi nó chứ. Nó bỉu nó là bạn tốt nhất của con"

"Con không thể vừa là bạn, vừa là nô lệ của ai sất"

"Làm sao, bố?"

"Là vì bạn thì không thể là vật sở hữu của nhau".

"Mẹ mí bố chả thuộc về nhau là gì? Cả hai bố mẹ chả phải là bạn sao?"

"Cái í khác. Bố mẹ thuộc về nhau vì bố mẹ mún thế, vì bố mẹ yêu nhau".

"Ờ, thế con yêu "mămzen" An nên con muốn thuộc về nó".

"Không thành cái gì đâu".

"Bố nói thế nghĩa là thế nào?"

"Khi cả hai nhớn lên, con mí nó chả sung sướng được".

"Con cuộc là bố cũng chả sung sướng được"

"Con nói rất đúng"

"Bố, con chả bao giờ bỏ được bố mẹ đâu"

"Con ạ, bố mẹ cũng chả bao giờ để con bỏ đi đâu!"

Chương 75

Một buổi chiều tà, người đánh xe cho cha mẹ mexừ Uolơ ở Enfin mang giấy mời ông tới dự một bữa tiệc tối chiêu đãi một nhà doanh nghiệp quan trọng ở Richmond dừng lại nghỉ đêm tại đó, trên đường tới Friđirichxbơg. Khi Kunta đưa ông chủ tới sau lúc trời sẩm tối một chút, thì đã có khoảng một tá xe ngựa đậu ở bên ngoài ngôi đại sảnh Enfin.

Tuy anh đã tới đây nhiều lần trong vòng tám năm kể từ khi anh lấy Bel, nhưng mãi đến mấy tháng gần đây, chị bếp da đen béo mập Hatti, trước mê Kunta lăn lóc, mới quyết định nói chuyện trở lại với anh - kể từ hôm anh đưa Kitzi theo "mămzen" An đến thăm ông bà nó. Đêm nay, khi anh đến cửa bếp để chào - và kiếm chút gì ăn - chị mời anh vào chơi trong khi chị, người giúp việc và bốn chị phục vụ khác làm nốt công việc chuẩn bị cho bữa tiệc; Kunta nghĩ mình chưa bao giờ nhìn thấy nhiều thức ăn được đun nấu sùng sục trong nhiều nồi niêu xoong chảo đến thế.

"Cái con bé kháu như miếng dồi nhà anh có ngoan không?", Hatti vừa xì xụp nếm vừa hỏi.

"Nó khỏe", Kunta đáp, "Bây giờ Bel đã bắt nó học nấu nướng rồi. Đêm hôm nọ, nó làm tui ngạc nhên với cái bánh táo nó tự làm lấy".

"Ma quỷ, cái con nhỏ í! Chả mấy chốc, rồi tui ăn bánh của nó chứ không phải nó ăn bánh của tui nữa. Lần trước nó chén có dễ đến nửa hũ bánh quy gừng của tui đấy!"

Ngó một lần cuối vào ba, bốn loại bánh mì ngon lành đến mức làm chảy nước miếng đang ủ trong lò, Hatti quay sang người lớn tuổi nhất trong số các đầy tớ gái mặc "blu" vàng hồ cứng và bảo: "Xong rồi. Chị đi báo bà chủ đi". Trong khi người đó đi khuất sau cánh cửa xoay, chị bảo ba người kia: "Nếu các người đánh xớt một giọt xúp ra cái khăn bàn đẹp nhất của tui trong khi bưng bát đặt lên đó, tui sẽ lấy môi đập vào đầu các người đấy. Pơl, bắt tay vào việc đi", chị nói với cô giúp việc đang tuổi thiếu nữ. "Cho lá củ cải, rượu ngô và mướp tây vào dững cái liễn sứ đẹp í, trong khi tau đánh vật với cái cục thịt cừu này trên thớt".

Mấy phút sau, một chị phục vụ quay trở vào, sôi nổi thì thầm với Hatti hồi lâu rồi lại hối hả đi ra. Hatti quay sang Kunta.

"Anh có nhớ mấy tháng trước có một chiếc tàu buôn bị cái nước Pháp đánh ở một nơi nào đó trên con nước lớn không?"

Kunta gật đầu, "Bác vĩ cầm bỉu là có nghe nói Tổng thống Eđơmz tức điên lên, phái tuốt cả hải quân Hạp xẻng cuốc đi đánh bọn nó".

"Phải, rõ ràng là thế. Luvina vừa nói mí tôi là cái người ở Richmond ngồi trong kia bỉu họ đã cướp được tám mươi tàu của cái nước Pháp í. Chị ta bỉu đám da trắng ngồi trong kia làm dư thể họ sắp quớ lên múa ca, chào mừng việc cho cái nước Pháp í một bài học".

Trong khi chị nói, Kunta bắt đầu trò khoét vào cái đĩa thức ăn đầy tú ụ chị đã đặt trước mặt anh; chỉ nhìn những món thịt bò quay, giăm bông bỏ lò, gà tây, gà ri và vịt chị đang tất bật xếp trên những chiếc đĩa to tướng chờ bưng lên, anh cũng đủ ngẩn tò te. Anh vừa nuốt một miếng khoai lang phết bơ thì bốn chị hầu bàn xộn rộn trở vào bếp, lặc lè với những chồng bát, thìa không. "Món xúp ăn xong rồi!" Hatti cho Kunta biết. Một lát sau, các chị hầu bàn lại kéo ra với những chiếc khay đầy ắp và Hatti vừa lau mặt vừa nói: "Phải vào khoảng bốn mươi phút nữa, họ mới ăn tráng miệng. Lúc nãy, anh định nói gì?"

"Chỉ mún nói là đối mấy tui, tám mươi cái tàu cũng thế thôi", Kunta nói, "chừng nào đó chỉ là chuyện rắc rối giữa người da trắng mấy nhau chứ không phải mấy chúng ta. Tuồng dư họ không gây sự mấy ai thì họ không sướng được thì phải".

"Tôi thấy cũng còn tùy xem họ gây sự mấy ai", Hatti nói. "Năm ngoái có một mulattô 1 cầm đầu một cuộc nổi loạn chống cái ông Tuxên í, xít nữa thì thắng nếu Tổng thống không cho tàu đến giúp Tuxên".

"Thấy mexừ Uolơ bỉu Tuxên không đủ tài trí làm tướng, chứ chưa nói gì đến tự mình cai quản một nước", Kunta nói: "Ông í bỉu, cứ chờ xem, tất cả đám nô lệ đã giành tự do ở Haiti cuối cùng rồi sẽ khốn khổ cả lũ, còn tệ hơn hồi làm cho các ông chủ cũ nữa cơ. Là vì người da trắng đang mong thế mà. Cơ mà tui chắc họ đã khá khấm hơn rồi, vì họ tự tay làm lụng, quán xuyến lấy đồn điền cho mình".

Một trong mấy chị hầu bàn đã trở lại nhà bếp, và đang hóng chuyện, bèn lên tiếng: "Chính bi giờ ở trong kia - họ đang nói chuyện í đấy - chuyện giải phóng nhọ. Bỉu là đám này nhiều quá đi thôi, chỉ ở Vơjiniơ đây đã tới mười ba nghìn. Ông Chánh án bỉu mình rất tán thành giải phóng dững nhọ đã làm được việc gì phi thường, dư dững người đã sát cánh mấy chủ trong cuộc cách mạng nọ, hay dững người đã mách người da trắng về bất kỳ dự định nổi dậy nào của cánh nhọ, hay dư cái người nhọ đã kiếm được cái lá thuốc mà cả đến dân da trắng cũng phê là gần như trị "bách bệnh". Ông Chánh án bỉu mình cảm thấy các ông chủ có quyền giải phóng dững lão bộc nhọ trung thành. Cơ mà ông í mấy tất cả mọi người trong kia đều bỉu họ dứt quết chống đám Quêicơ mấy một số da trắng cứ vô cớ giải phóng nhọ bừa bãi". Chị hầu bàn vừa đi ra cửa vừa nói thêm: "Chánh án bỉu hãy nhớ lời ông nói: sắp sửa có dững luật mới để ngăn chặn chuện í, chả bao lâu nữa đâu".

Hatti hỏi Kunta: "Anh nghĩ sao về việc cái mexừ Eliczanđơ Hamiltơn ở trên mạn Bắc bỉu phải tống tất cả đám nhọ tự do sang châu Phi, bởi vì nhọ với da trắng quá khác nhau, chả bao giờ hòa hợp được".

"Ông í nói phải, tui cũng nghĩ thế", Kunta nói, "Dưng mà người da trắng nói mồm thế thôi, chứ vẫn lấy thêm nhọ từ châu Phi sang!"

"Anh hiểu vì sao tôi phải làm tốt", Hatti nói, "Ở Jơjiơ và hai bang Carôlinơ, họ bắt nhọ làm mùa bông từ khi nhận cái máy cán bông í vào mấy năm trước đây. Cũng vì lý do í, khối ông chủ ở quanh vùng này đem nhọ xuống miền Nam bán đắt gấp hai, gấp ba giá mua hồi trước".

"Bác vĩ cầm bỉu các ông chủ nhớn dưới miền Nam sai bọn xú-ba-dăng vừa đê tiện, vừa hung dữ thúc bách cánh nhọ dư con la, con lừa để vỡ đất thành dững cánh đồng bông mới".

"Ừ, thảo hèn báo chí gần đây đầy dững thông báo về bọn trốn chạy", Hatti nói.

Đúng lúc ấy, các chị hầu bàn bắt đầu mang bát đĩa bẩn về nhà bếp, Hatti tươi rói kiêu hãnh: "Xem chừng họ đã ăn đầy tễ. Khoảng này ông chủ đang rót riệu sâm-banh trong khi bàn được dọn sạch để bày đồ tráng miệng", chị nói với Kunta. "Tui thấy anh rất thích bánh nhân mận thì phải". Chị đặt một chiếc bánh nhân mận lên một chiếc đĩa con trước mặt anh. "Ngoài ra, ở đây họ còn có đào ngâm riệu, dưng mà tui chợt nhớ là anh không có đụng đến riệu".

Trong khi thưởng thức chiếc bánh ngon lành, Kunta chợt nhớ đến một thông báo về nô lệ chạy trốn mà mới đây Bel đã đọc ở báo Gazét cho anh nghe. "Nữ lai trắng lai đen, cao lớn", thông báo nói, "Vú rất to, vú bên phải có một sẹo sâu. Nói dối và ăn cắp một cách quỷ quyệt, có thể trình ra một giấy thông hành giả vì chủ cũ đã để cho thị học hành, biết viết chút ít, hoặc giả thị có thể tự nhận mình là nhọ tự do".

Hatti ngồi phịch xuống, ngón tay vân vê một quả đào ngâm rượu lấy ra từ một cái hũ và bỏ tọt vào mồm. Đưa mắt qua căn bếp, nhìn vào hai chiếc chậu cao chất đầy những cốc tách, bát đĩa và đồ dùng còn phải rửa sạch và cất đi, chị thở dài đánh thượt và mệt mỏi nói: "Chỉ biết có một điều chắc chắn là đêm nay, trông thấy cái giường thì thật sướng, bởi vì lạy Chúa, tui hết hơi rồi".

Chương 76

Đã nhiều năm nay, sáng nào Kunta cũng dậy trước rạng đông, sớm hơn bất kỳ ai khác trong xóm nô - sớm đến nỗi một số người đâm tin rằng các "gã châu Phi í" có thể nhìn xuyên bóng tối như mèo. Họ muốn nghĩ thế nào cũng được, miễn là họ để yên cho anh lẻn ra chỗ chuồng ngựa, ở đó anh quay mặt về phía những tia đầu tiên yếu ớt của ngày mới, phủ phục giữa hai đụn lớn cỏ khô, dâng bài kinh Xuba thường nhật lên chúa Ala. Sau đó, khi anh đã hất chút cỏ khô lên máng cho ngựa ăn, anh biết lúc này Bel và Kitzi hẳn đã rửa ráy, mặc quần áo và sẵn sàng bắt tay vào công việc trong đại sảnh, còn tay trùm lực điền Catô ắt đã dậy và ra khỏi nhà cùng với Nâuơ, con trai Ađa, thằng nhỏ này sắp rung chuông đánh thức những nô lệ khác dậy.

Hầu như sáng nào, Nâuơ cũng gật đầu nói: "Chào buổi sáng!" với một vẻ dè dặt, long trọng khiến Kunta nhớ đến người Ualôf ở Châu Phi. Tuy ít nói chuyện với nhau, song anh vẫn ưa Nâuơ vì nó khiến Kunta nhớ đến bản thân mình hồi trạc tuổi ấy - cái bộ điệu nghiêm túc, cái cách bắt tay vào việc và lo toan công chuyện của chính mình, cái kiểu nói ít nhưng nhìn ngóng theo dõi mọi sự. Anh thường hay thấy Nâuơ làm một điều giống như anh - đứng ở một chỗ nào đó, đưa mắt lặng lẽ nhìn theo Kitzi và "mămzen" An đùa nghịch quanh đồn điền. Một lần, khi Kunta từ cửa chuồng ngựa theo dõi hai đứa đánh vòng qua sân sau, vừa rúc rích cười vừa la hét, anh đã sắp đi vào thì chợt thấy Nâuơ đứng cạnh lều Catô đằng kia, cũng đang quan sát. Luồng mắt hai người giao nhau và họ nhìn nhau hồi lâu trước khi cả hai cùng quay đi. Kunta tự hỏi không biết Nâuơ nghĩ gì - và có cảm giác Nâuơ cũng đang tự hỏi là anh nghĩ gì. Cách nào đó, Kunta biết rằng cả hai đều nghĩ những điều như nhau.

Lên mười, Nâuơ hơn Kitzi hai tuổi, song sự chênh lệch đó không đủ để cắt nghĩa tại sao hai đứa thậm chí không thân nhau, chưa nói đến chuyện đánh bạn cùng chơi đùa, vì chúng là những đứa bé nô lệ duy nhất ở đồn điền. Kunta đã để ý thấy cứ mỗi lần đi qua gần nhau, đứa nọ làm như không trông thấy đứa kia, và anh không thể hình dung ra tại sao lại thế - trừ phi là vì ngay ở cái tuổi ấy, chúng đã bắt đầu cảm thấy cái tục lệ ngăn không cho gia nô hầu hạ trong nhà và nô lệ làm ngoài đồng hòa hợp với nhau.

Bất kể lý do là thế nào, thì Nâuơ ngày ngày vẫn ở ngoài đồng với các lực điền khác trong khi Kitzi quét dọn, chải bụi và đánh bóng các đồ đồng trong buồng ngủ của ông chủ đế lát sau Bel kiểm tra, với một cành hồ đào lăm lăm trong tay. Vào những ngày thứ bảy là dịp "mămzen" An thường đến chơi, không biết bằng phép màu nào, Kitzi bao giờ cũng xoay sở làm xong phần việc vặt của nó trong nửa số thời gian thường lệ và hai đứa chơi với nhau suốt phần còn lại trong ngày - trừ lúc trưa, nếu ông chủ có nhà để ăn trưa. Khi đó, ông chủ và "mămzen" An ngồi dùng bữa trong phòng ăn, còn Kitzi đứng đằng sau, phe phẩy một nhành lá để xua ruồi, trong khi Bel ra ra vào vào, bưng thức ăn, đôi mắt sắc sảo giám sát cả hai đứa bé gái mà chị đã đe trước: "Tui mà bắt được hai cô định cười trước mặt mexừ tại đây, thì tui sẽ lột da cả hai đấy!"

Bây giờ, Kunta đã khá nhẫn nhịn, cam chịu chia sẻ Kitzi của anh với mexừ Uolơ, Bel và "mămzen" An. Anh cố không nghĩ đến chuyện họ sai bảo nó làm những gì ở trong đại sảnh và tiêu đến mức tối đa thời gian ở chuồng ngựa mỗi lần có "mămzen" An đến chơi. Nhưng đó là tất cả những gì anh có thể làm để chờ đợi đến chiều chủ nhật, khi xong lễ ở nhà thờ, "mămzen" An sẽ cùng với cha mẹ trở về nhà. Những buổi chiều ấy, muộn hơn chút nữa, mexừ Uolơ thường đang nghỉ ngơi hoặc tiêu thì giờ với bạn bầu trong phòng khách, Bel thì cùng thím Xuki và chị Manđi đến cuộc "họp Jêxu" hàng tuần của họ - và thế là Kunta được tự do một mình với con gái trong khoảng hai tiếng đồng hồ quý giá nữa.

Những lúc đẹp trời, hai bố con đi dạo - thường thường là dọc theo hàng rào phủ đầy nho, nơi cách đây gần chín năm, anh đã ra tha thẩn và lần đầu tiên nghĩ đến cái tên "Kitzi" để đặt cho đứa con gái mới đẻ. Ra đến chỗ khuất mắt mọi người, Kunta thường nắm chặt bàn tay bé nhỏ, mềm mại của Kitzi trong tay mình, trong khi hai bố con lững thững đi xuống tới một con suối nhỏ, cảm thấy không cần phải nói năng gì, và ngồi sát bên nhau dưới một cây có bóng mát, họ ăn những thức Kitzi mang theo từ nhà bếp - thường thường là bánh bơ tròn nguội, nhồi đầy món mứt quả mâm xôi ưa thích của anh. Rồi hai bố con bắt đầu trò chuyện.

Phần lớn là anh nói, và nó luôn luôn ngắt lời anh bằng những câu hỏi mà đa số đều mở đầu: "Làm sao mà…". Nhưng một hôm, Kunta chưa kịp mở miệng, nó đã hăm hở nói: "Bố muốn nghe hôm qua "mămzen" An học 1 con gì hông?"

Anh chẳng thiết nghe bất cứ cái gì dính dáng đến con nhỏ hay cười như nắc nẻ ấy, song vì không muốn xúc phạm tình cảm của Kitzi, anh nói: "Bố nghe đây!"

"Pitơ, Pitơ", nó đọc. "Có vợ không biết giữ - Đem bỏ vào vỏ sò - Rất là đảm bảo…"

"Thế đấy à?", anh hỏi.

Nó gật đầu, "Bố thích hông?"

Anh nghĩ đó quả là điều anh chờ đợi ở "mămzen" An chí ngu.

"Con đọc giỏi thật!", anh trả lời thoái thác.

"Đố bố đọc hay bằng con đấy", nó nháy mắt nói.

"Bố không đọc!"

"Nào, bố đọc thử con nghe một lần thôi mà"

"Quẳng xa khỏi tui cái trò rắc rối này đi!", giọng anh có vẻ cáu hơn trong thực tế. Nhưng con bé cứ nài và rốt cuộc cảm thấy hơi ngồ ngộ là Kitzi của anh có thể vầy vò cưỡi đầu, cưỡi cổ anh dễ dàng đến thế, Kunta cố gắng ngắc ngứ nhắc lại mấy câu vè lố bịch nọ, cốt sao nó để cho mình yên thân, anh tự nhủ vậy.

Trước khi nó kịp thúc anh thử lại lần nữa, Kunta vụt nghĩ là mình có thể đọc cho nó nghe một cái gì khác - có thể là vài câu thơ trong kinh Kôran cho nó biết bộ kinh nghe hay như thế nào - thế rồi anh nhận ra rằng những câu thơ ấy đối với nó cũng chẳng có nghĩa gì hơn câu "Pitơ, Pitơ" đối với anh. Cho nên anh quyết định kể chuyện cổ tích cho nó nghe. Truyện con cá sấu và chú bé, nó nghe rồi, nên anh kể chuyện con rùa lười dỗ con báo ngu cho cưỡi lên lưng, viện cớ ốm quá không đi được. "Tất cả những truyện bố kể, bố nghe ở đâu hứ?", khi anh kể xong, Kitzi bèn hỏi vậy.

"Khi bố bằng tuổi con - từ miệng một bà già bết mọi thứ tên là Nyô Bôtô". Đột nhiên Kunta cười to khoái chá khi nhớ lại: "Đầu bà trọc lóc dư quả trứng! Răng cũng chả có, dưng mà được cái lưỡi dọn kéo lại! Vậy mà bà yêu bọn lau dau chúng tui dư con đẻ!"

"Thế bà hông có con à?"

"Hồi trẻ, bà có hai con, bao lâu trước khi đến Jufurê cơ. Dưng mà họ bị bắt đi trong một cuộc giao tranh giữa làng bà mấy một bộ lạc khác. Bố chắc là bà chả bao giờ nguôi quên chuện í".

Kunta im bặt, choáng ngợp bởi một ý nghĩ trước đó chưa từng đến trong đầu anh; điều đó cũng đã xảy đến với Bel hồi chị còn trẻ. Anh ước sao có thể kể cho Kitzi nghe về hai người chị gái cùng mẹ khác cha của nó, song anh biết làm thế chỉ khiến nó bàng hoàng - chưa nói chi đến Bel, từ cái đêm đẻ Kitzi, chị kể cho anh nghe về hai đứa con gái bị mất, chị không hề nhắc lại chuyện ấy. Nhưng chính anh - chính những người bị xiềng bên cạnh anh trên con tàu mãi nô, tất cả đã chẳng bị cướp đi khỏi mẹ mình đó sao? Tất cả muôn ngàn người khác, không sao tính xuể, đến đây trước anh và sau anh, đã chẳng bị như thế sao?

"Chúng nó mang bọn tui tới đây trần dư dộng!", anh nghe thấy mình bật ra nói. Kitzi hất đầu, nhìn chằm chằm; nhưng anh không thể ngừng lại được. "Còn xóa cả tên họ chúng ta đi nữa. Chúng nó muốn mọi người đẻ ở đây thậm chí không biết mình là ai! Tổ tiên chúng ta là dững thương khách, du khách, dững bậc thánh nhân - cả hàng mấy trăm vụ mưa trước ở cái vùng đất gọi là cổ Mali í! Con có hiểu bố đang nói gì không, hả bé?"

"Có, bố ạ", nó ngoan ngoãn nói, song anh biết nó chả hiểu nổi. Anh nảy ra một ý. Nhặt một cái que, gạt nhẵn một khoảng đất giữa hai bố con, anh vạch mấy chữ Arập lên đó.

"Đây là tên bố - Kunta Kintê", anh vừa nói vừa lấy ngón tay chậm rãi viết.

Nó nhìn trân trân, mê mẩn. "Bi giờ, bố làm tên con đi". Anh làm theo. Nó cười. "Cái này là Kitzi". Anh gật đầu. "Bố có học con viết như bố không?" Kitzi hỏi.

"Làm thế không hợp", Kunta nghiêm nghị nói.

"Sao lại không?", giọng nó có vẻ phật ý.

"Ở châu Phi, chỉ con trai mới học đọc, học vết. Con gái không cần cái í - ở đây cũng vậy".

"Vậy làm sao mẹ lại biết đọc, biết viết?"

Vẻ nghiêm khắc, anh nói: "Đừng có nói chuện í? Nghe không? Không việc gì đến ai sất! Người da trắng không thích bất cứ ai trong chúng ta bết đọc hay vết".

"Làm sao thế?"

"Là vì họ nghĩ chúng ta càng bết ít, càng đỡ gây rối"

"Con ứ gây rối gì cả", nó dẩu mỏ nói.

"Nếu chúng mình không nhanh nhanh đi về lều, thì mẹ sẽ gây rối cho cả hai bố con đấy"

Kunta đứng dậy và bắt đầu đi, rồi bỗng dừng bước quay lại vì nhận ra là Kitzi không theo sau mình. Nó vẫn ở bên bờ suối, đăm đăm nhìn vào hòn sỏi nó vừa thấy.

"Lại đây nào, đến giờ về rồi". Nó ngước mắt lên nhìn anh, anh bước lại và chìa tay ra. "Nói cho con nghe cái này nhé", anh nói "Con nhặt hòn sỏi í, mang về và giấu nó vào một chỗ nào chắc chắn, rồi nếu con giữ miệng không để lộ thì sáng hôm đầu tuần trăng sau, bố sẽ cho con bỏ nó vào quả bầu của bố".

"Ôi, bố!", nó cười tươi như hoa.

Chương 77

Khoảng một năm sau, mùa hè năm 1800, sắp đến kỳ Kitzi bỏ thêm một hòn sỏi nữa vào quả bầu của Kunta, thì ông chủ bảo Bel là ông có việc phải đi Friđiricxbơg khoảng một tuần lễ và đã thu xếp để ông anh trai đến "trông nom công việc" trong khi ông vắng nhà. Tin ấy khiến Kunta bối rối hơn cả mọi người khác trong xóm nô, vì anh ghét phải để Bel và Kitzi dưới quyền định đoạt của lão chủ cũ trước đây đã mua anh, thậm chí điều ấy còn làm anh khó chịu hơn cả cái nỗi phải xa vợ con lâu đến thế. Cố nhiên, anh không nói gì về những lo lắng đó, nhưng sáng hôm lên đường, khi rời căn lều để thắng ngựa vào xe, anh sửng sốt thấy là hình như Bel đã đọc được trong óc anh. Chị nói: "Mexừ Jon đã hẳn là không giống ông em trai, dưng mà tui biết cách đối phó với loại í. Mới lị chỉ một tuần thôi mà, cho nên mình đừng có lo gì cả. Mẹ con tui ổn thôi."

"Tui chẳng việc gì mà lo", anh nói, hy vọng chị không đoán được là mình xạo.

Quỳ xuống hôn Kitzi, anh thì thầm vào tai nó: "Chớ có quên cái hòn cuội tuần trăng mới hỉ", và nó nháy mắt, vẻ thậm thụt, trong khi Bel làm như không nghe thấy gì tuy chị thừa hiểu hai bố con làm gì trong gần chín tháng nay.

Trong hai ngày sau khi ông chủ đi, mọi sự vẫn tiếp tục bình thường, mặc dù hầu như mọi điều mexừ Jon nói hoặc làm đều khiến Bel hơi khó chịu. Chị đặc biệt ghét cái thói của ông ta đêm nào cũng ngồi thật khuya trong thư phòng, uống rượu uýtki thượng hảo hạng của em trai bằng cách tu luôn ở chai, hút những điếu xì gà gộc, hơi đen và hôi của chính mình và vảy tàn xuống thảm. Tuy nhiên, mexừ Jon không can thiệp nhiều lắm vào lề thói thông thường của Bel và chủ yếu là tách riêng một mình.

Nhưng đến giữa buổi sáng hôm thứ ba, Bel đang quét cổng trước, thì một người da trắng cưỡi một con ngựa bóng nhẫy mồ hôi phóng nước đại tới, và nhảy xuống đòi gặp mexừ.

Mười phút sau, người đó bỏ đi cũng vội vã như lúc đến. Mexừ Jon sủa ầm dọc hành lang gọi Bel đến thư phòng. Trông lão có vẻ dao động sâu sắc, và trong óc Bel lóe lên ý nghĩ là một cái gì ghê gớm đã xảy đến với Kunta và ông chủ. Chị càng tin chắc thế khi lão sai chị tập hợp tất cả nô lệ ở sân sau. Tất cả tập hợp, đứng thành một hàng, căng thẳng vì sợ hãi khi lão mở toang cánh cửa sau nhà và oai nghiêm bước về phía họ; ở thắt lưng lão, lồ lộ một khẩu súng lục.

Đưa mắt lạnh lùng soát các khuôn mặt của họ, lão nói: "Ta vừa nhận được tin một số nhọ ở Richmơnđ âm mưu bắt cóc ông thống đốc bang, tàn sát người da trắng ở Richmơnđ và đốt thành phố". Toán nô lệ sợ sệt nhìn nhau, vẻ ngỡ ngàng, trong khi lão nói tiếp: "Nhờ Chúa - và một số nhọ thông minh đã phát hiện ra và mách chủ kịp thời - âm mưu đó đã bị đè bẹp và phần lớn nhọ khởi xướng nó đã bị bắt. Các đội tuần tra vũ trang đang truy lùng một số còn lại trên các lộ, và ta phải làm sao bảo đảm để không một tên nào dừng nghỉ đêm tại đây. Trường hợp kẻ nào trong các người có ý nổi dậy, ta sẽ tuần tra suốt ngày đêm. Không ai trong các người được đặt chân ra ngoài trang trại này! Ta không muốn có sự tụ tập bất cứ loại nào; và sau khi trời tối, không ai được ra khỏi lều mình!" Vỗ vỗ vào khẩu súng lục, lão nói: Ta không kiên nhẫn và dịu dàng với nhọ như em trai ta đâu! Kẻ nào trong bọn ngươi thậm chí chỉ cần có vẻ nghĩ đến chuyện bước ra khỏi hàng thì tài cứu chữa của em ta cũng không vá víu lại được một viên đạn vào khoảng giữa hai mắt hắn đâu. Hiểu chứ?"

Mexừ Jon xử sự đúng như lời lão nói. Trong hai ngày sau, lão khiến Bel tức điên lên bằng cách nằng nặc đòi theo dõi Kitzi nếm thức ăn của lão trước khi lão ăn thực sự. Ban ngày, lão cưỡi ngựa lảng vảng khắp các cánh đồng và ban đêm, ngồi ở cổng ôm một cây súng ngắn trong lòng - sự cảnh giác của lão tuyệt đối đến mức mọi người trong xóm nô thậm chí không dám bàn đến cuộc nổi dậy nọ, nói chi đến chuyện toan tính kế hoạch dấy loạn của chính mình. Sau khi nhận được và đọc báo Gazet số tiếp đó, mexừ Jon bỏ vào lò sưởi đốt liền, và khi một ông chủ ở vùng kế cận tới thăm vào một buổi chiều, lão ta ra lệnh cho Bel ra khỏi nhà và hai lão chụm đầu nói chuyện với nhau trong thư phòng, cửa sổ đóng kín mít. Thành thử không ai mò ra được thêm chi tiết về vụ âm mưu, nhất là về hậu quả của nó, mà đó là điều khiến Bel và các người khác lo phát ốm - không phải lo cho Kunta, vì anh đi cùng ông chủ tất là phải an toàn rồi, mà cho bác vĩ cầm ra đi vào hôm trước buổi hòa nhạc tại một vũ hội lớn ở Richmơnđ. Những người ở xóm nô chỉ còn nước tưởng tượng ra điều gì có thể xảy đến với những kẻ xa lạ da đen bị rơi vào tay đám da trắng hốt hoảng, điên khùng.

Bác vĩ cầm vẫn chẳng thấy tăm hơi khi Kunta và ông chủ trở về - sớm hơn ba ngày - chuyến đi bị rút ngắn vì cuộc nổi dậy. Lát sau cùng ngày hôm đó, mexừ Jon đi khỏi, những kiềm chế do lão áp đặt được nới đôi chút, tuy nhiên không phải là hoàn toàn, và ông chủ rất lạnh lùng với tất cả mọi người. Mãi đến khi Kunta và Bel chỉ còn một mình trong lều, anh mới có thể kể cho chị nghe những điều anh nghe lỏm được ở Friđiricxbơg: những người da đen nổi loạn, sau khi bị bắt, liền bị tra tấn lấy cung để giúp các nhà chức trách quây bắt những người khác có liên can và một số đã thú nhận rằng cuộc nổi loạn được mưu tính bởi một gã thợ rèn tự do tên là Ghêbriơl Proxơ; anh ta đã chiêu mộ vào khoảng hai trăm người da đen lựa chọn kỹ càng - đầu bếp, làm vườn, gác cổng, hầu bàn, thợ sắt, bện dây thừng, thợ mỏ, chèo thuyền, thậm chí cả mục sư truyền giáo nữa - và huấn luyện họ trong hơn một năm. Proxơ vẫn ở ngoài vòng và dân cảnh vẫn đang chà đi xát lại vùng nông thôn lùng bọn khả nghi, Kunta kể vậy; bọn "tuần cha" da trắng khố rách áo ôm đang ruồng bố các lộ; và nghe đồn một số ông chủ, vô cớ hoặc vì chuyện rất nhỏ, đã đánh nô lệ đến chết.

"Xem ra hy vọng duy nhất của ta là ở chỗ họ không còn ai ngoài chúng ta", Bel nói, "Nếu họ giết mình, họ sẽ không còn nô lệ nào nữa cả".

"Bác vĩ cầm về chưa?" Kunta hỏi, anh xấu hổ vì mình quá mải mê kể những chuyện xảy ra, đến giờ mới nghĩ đến ông bạn.

Bel lắc đầu: "Bọn tôi lo hung. Dưng mà bác vĩ cầm í tinh khôn chán. Bác í sẽ về yên ổn".

Kunta không đồng ý hoàn toàn, "Bác í chưa về mà".

Ngày hôm sau, vẫn không thấy bác vĩ cầm về, ông chủ bèn viết giấy báo quận trưởng cảnh sát và bảo Kunta mang lên quận lỵ. Kunta thi hành lệnh - mắt thấy viên quận trưởng cảnh sát đọc thư và lặng lẽ lắc đầu. Rồi trên đường về, Kunta cho xe đi chậm độ ba, bốn dặm, rầu rĩ nhìn đăm đăm con đường trước mặt, đang băn khoăn không biết liệu còn được gặp lại bác vĩ cầm nữa hay không, cảm thấy hối hận về nỗi chưa bao giờ thực sự nói lên rằng mình coi bác ta là bạn tốt - mặc dù bác hay rượu chè, chửi tục và có nhiều khuyết điểm khác - thì chợt nghe thấy có tiếng bắt chước giọng lè nhè của dân "cách cơ" 1 "Ê, nhọ!".

Kunta ngỡ mình tưởng tượng: "Mi tưởng mi đến cái lỗ mô?" tiếng nói lại vọng đến, và ghìm cương ngựa. Kunta nhìn quanh quất, dọc hai bên đường, nhưng không thấy ai. Rồi bất thình lình: "Mi không có giấy thông hành, mi gặp rắc rối to đấy", - rồi kìa, leo lên khỏi một cái hố, quần áo rách tả rách tơi, mình mẩy xây xát, tím bầm, lem luốc bùn đất, tay ôm chiếc hộp đàn cũ nát và miệng cười ngoác tận mang tai, hiện ra bác vĩ cầm.

Kunta buộc kêu lên một tiếng, nhảy từ trên ghế xe xuống, và trong tích tắc, anh và bác vĩ cầm ôm ghì lấy nhau, quay tít, và cười ha hả.

"Mầy hệt dư một thằng Phi tau quen", bác vĩ cầm thốt lên, "dưng mà không phải nó - nó chẳng bao giờ lộ cho ai biết là nó mừng được gặp họ".

"Chả biết sao tui lại thế", Kunta nói, bối rối vì thái độ của chính mình.

"Hoan hỉ đón một người bạn bò lê cả tay cả đầu gối suốt từ Richmơnđ về chỉ cốt để dòm lại cái mặt xấu xí của mày".

Vẻ nghiêm nghị của Kunta biểu hiện mức độ lo lắng của anh. "Sự thể lúc í có xấu không, bác vĩ cầm?"

"Nói là xấu thì chưa thấm vào đâu. Tau đã tưởng phen này chắc sẽ song tấu với thiên thần, trước khi thoát!" Trong khi Kunta xách hộp đàn lấm bùn và cả hai leo lên xe, bác vĩ cầm tiếp tục nói liến láu không ngừng: "Cánh da trắng ở Richmơnđ sợ gần phát điên. Khắp nơi, dân cảnh ách nhọ lại, và ai không có thông hành thì sau đó tống giam rất lôi thôi. Mà thế là còn may đấy. Hàng bầy "cách cơ" lảng vảng các đường phố dư chó rừng, vồ lấy nhọ, đánh một số nhọ dừ tử đến nỗi cơ hồ không nhận ra được ai vào ai".

"Cái cuộc vũ hội tau đến đánh đờn, đang giữa chừng thì tan, khi nghe tin đầu tiên về cuộc nổi dậy, các bà các cô kêu choe chóe và chạy vòng quanh, các ông thì rút súng chĩa vào bọn nhọ chúng tau trên dàn nhạc. Giữa lúc nhốn nháo, tau lẻn vào bếp và trốn trong một thùng rác cho đến khi mọi người về hết. Rồi tau trèo qua một cái cửa sổ, chuồn ra phía sau, tránh xa đèn sáng. Tau vừa đến ven đô thì bỗng nhiên tau nghe thấy tiếng la hét đằng sau, rồi hàng loạt chân rầm rập chạy theo cùng hướng mấy tau. Có cái gì bỉu cho tau biết đó không phải là dân da đen, dưng mà tau chẳng chờ xem cho đích xác làm gì. Tau chạy tắt, rẽ luôn góc phố kế đó, rạp thấp người, dưng tau nghe thấy tiếng chúng lấn thêm một lúc một gần tau, và tau sắp sửa cầu kinh thì chợt trông thấy một cái cống thật thấp, tau bèn lăn thẳng vào dưới đó.

"Nằm dưới đó thật là kẹt và tau đang nhích lùi ra thì đúng lúc đó, bọn "cách cơ" mang đuốc chạy tới và la hét: "Bắt cái thằng nhọ í!". Tau đụng phải cái gì vừa to vừa mềm, và một bàn tay ập vào mồm tau, và một giọng nói: "Bận sau hẵng nói!". Hóa ra là một người gác đêm ở kho đã thấy một đám đông xé đôi bạn mình và anh ta chẳng hề có ý định ra khỏi cái cổng í trước mùa xuân sang năm, nếu phải mất lâu thế mới yên mọi bề.

"Thế, một lát sau, tau chúc anh ta may mắn và lại ló đầu ra và mò được tới rừng. Ấy là cách đây năm ngày. Đáng ra, tau đến đây từ trước cơ, dưng mà trên đường lắm bọn tuần cha quá, tau phải lần theo rừng, ăn trái cây, ngủ trong rừng rậm mấy thỏ. Mọi sự ổn thỏa, cho đến hôm qua, cách đây mấy dặm về phía Đông, một toán "cách-cơ" vớ được tau giữa chỗ trống.

"Đúng lúc bọn nó đang mót đánh một tên nhọ, có khi còn treo cổ là đằng khác - chúng mang theo một sợi dây thừng ngay bên mình! Chúng xô giật tau tới tới lui lui, hỏi tau là nhọ của ai và định đi đâu, dưng mà tau nói gì bọn chúng cũng chẳng thèm để ý - cho đến khi tau bỉu tau chơi vĩ cầm. Bọn nó bám lấy, bọn nó tưởng tau nói phách, và hò la: "Được, vậy thì mày hãy đờn cho bọn tau nghe nào!"

"Chàng trai Phi châu này, để tau nói mày nghe một cái. Tau mở cái hộp đàn ra và bọn mày chưa bao giờ được nghe cuộc hòa nhạc nào dư tau chơi ngay giữa đường chỗ í đâu. Chơi bản gà tây trong ổ rơm - mầy biết bọn "cách-cơ" rất thích bản í - và tau chưa thật bốc mà cả bọn nó đã hô huýt, vỗ tay, giậm chân và bọn nó nghe đã đời rồi mới tha cho tau, bỉu tau đi thẳng, chớ có chần chừ, mau mau cắp đuôi mà về nhà. Mà tau cũng chả láng cháng làm gì! Hễ thấy ngựa hoặc xe ngựa đi đến là tau nhảy đại xuống hố, cho đến khi gặp cái nầy là xe mày! Thế là tau đã ở đây!"

Vừa lăn bánh vào con đường hẹp dẫn tới đại sảnh một lát, đã nghe thấy tiếng reo hò, rồi dân xóm nô chạy ra đón xe.

"Tưởng như quanh đây đã thiếu mất một thân thể", mặc dầu bác vĩ cầm đang cười, Kunta có thể cảm thấy bác cảm động nhường nào, và anh cũng nhoẻn cười: "Xem chừng bác lại phải kể đầu đuôi câu chuện, một lần nữa đấy".

"Mầy đã bao giờ biết có cái gì hãm tau chưa?", bác vĩ cầm hỏi, "Ít ra cũng có tau đây để mà kể".

Chương 78

Trong những tháng tiếp theo, với việc bắt bớ, xử án rồi hành quyết hết người này đến người khác trong vụ âm mưu, và cuối cùng là chính Ghêbriơl Proxơ, tin tức về cuộc nổi dậy ở Richmơnđ - và về những căng thẳng do nó gây ra - dần dần xẹp đi, và một lần nữa, chính trị lại trở thành đầu đề bàn cãi chính giữa đám ông chủ và bạn bè, do đó ở cả trong xóm nô nữa. Giỏi lắm, Kunta, Bel và bác vĩ cầm cũng chỉ khớp lại những gì họ nghe ngóng bằng nhiều cách khác nhau về việc bầu Tổng thống sắp tới, về một mexừ Aorơn Bơr đã ngang phiếu với mexừ Thômax Jefơxơn trứ danh cuối cùng ông này đã giành được chức đó, rõ ràng vì ông được sự ủng hộ của mexừ Eliczanđe Hamilton đầy thế lực, còn mexừ Bơr, kình địch với mexừ Hamilton, thì được bầu làm Phó Tổng thống.

Xem ra không ai biết gì mấy về mexừ Bơr, nhưng về mexừ Jefơxơn thì Kunta được một lái xe sinh ở bang Vơjinia cách đồn điền Môntixelô của ông không bao xa cho biết rằng các nô lệ của ông tuyên bố là không thể có ông chủ nào tốt hơn thế.

"Lái xe í biểu tui là mexừ Jefơxơn không bao giờ cho phép xú-ba-dăng được đánh ai", Kunta thuật lại cho dân xóm nô cùng nghe. "Và tất cả bọn họ được ăn tốt, và ông í để cho lền bà quay sợi và may quần áo tốt cho tất cả, và ông í tin tưởng để cho họ học nhều nghề khác nhau". Sau một chuyến mexừ Jefơxơn đi xa trở về, Kunta nghe kể vậy, các nô lệ của ông ra cách đồn điền hai dặm để đón, họ tháo ngựa và vui vẻ kéo xe suốt quãng đường dài ấy về tới đại sảnh Môntixelô, tại đó họ công kênh ông lên vai đưa tới tận ngưỡng cửa.

Bác vĩ cầm cười hô hố: "Hồ dư mọi người đều bết có ói nhọ là con của mexừ Jefơxơn mấy mụ lai duôm duôm của ông tên là Xali Hêminh". Bác sắp sửa nói thêm thì Bel góp vào cái điều thú vị nhất mà chị biết: "Cứ dư lời một cô phụ bếp ở đấy", chị nói, "thì mexừ Jefơxơn không thích ăn gì hơn một con thỏ ngâm dầu, cỏ xạ hương, hương thảo mấy lại tỏi suốt đêm, rồi hôm sau ninh trong riệu vang kỳ đến lúc thịt róc khỏi xương".

"Nói dư thật", bác vĩ cầm thốt lên, giọng giễu cợt.

"Để xem chả mấy nỗi bác lại xin tui miếng bánh nhân đại hoàng!", Bel cáu kỉnh nói.

"Để xem bao giờ tau xin mày!", bác vặc lại.

Không chịu để mắc kẹt ở giữa như trước đây anh vẫn hay bị - do cố giảng hòa mỗi khi vợ anh và bác vĩ cầm cãi lộn rồi quay sang yêu cầu anh can thiệp - Kunta làm như không nghe thấy gì, mà chỉ tiếp tục câu chuyện từ chỗ anh bị họ ngắt quãng.

"Tui nghe là mexừ Jefơxơn bỉu chế độ nô lệ cũng tệ hại cho người da trắng y dư cho cánh ta đây và ông í đồng í với mexừ Hamilton rằng người da trắng với người da đen có quá nhiều dị bệt dân tộc, không thể sống hòa bình mấy nhau được. Họ bỉu mexừ Jefơxơn mún thấy chúng ta được trả tự do, dưng chớ có cố kết bám lấy đất nước này mà hứng lấy dững công việc của người da trắng nghèo - ông í ủng hộ đưa chúng ta lên tàu chở về châu Phi dần dần, không ầm ĩ, không rối loạn".

"Tốt hơn là mexừ Jefơxơn nói chuện mấy bọn buôn bán nô lệ í", bác vĩ cầm nói, "bỉ chưng xem vẻ bọn nó có dững ý kiến khác về hướng đi của các con tàu".

"Vừa rồi khi ông chủ đi các đồn điền khác, tui nghe nói có hàng lũ lỉ người bị bán", Kunta nói, "Hàng gia đình đã sống ở đây suốt đời bị chủ bán xuống miền Nam. Mới hôm qua, có một lái buôn nô lệ đi qua trên đường. Hắn ta vẫy vẫy, nhe răng cười và ngả mũ, dưng ông chủ làm dư không trông thấy".

"Hừm! Bọn lối buôn nô lệ đông như ruồi ở tỉnh", bác vĩ cầm nói, "Lần rồi, tau đến Friđiricxbơg, bọn nó vo ve bâu theo sau một lão già khọm, khô đét dư tau, cho đến khi tau rút thông hành chìa ra. Tau thấy một nhọ già khốn khổ, râu bạc bị bán lấy sáu trăm đôla. Thường thường trai trẻ khỏe mạnh được giá í. Dưng mà cái lão nhọ già í chắc chắn không yên thân đâu. Bọn họ vừa giằng lão khỏi bục đấu giá, lão liền gào lên: "Cả bọn da trắng các người đã biến trái đất của Chúa thành một ĐỊA NGỤC sống đối với đồng bào của ta! Cơ mà nhất định khi BUỔI SÁNG PHÁT XÉT sẽ đến, cái địa ngụ sẽ dội LẠI trên đầu tất cả các người đã mang nó đến! Không có sự VAN XIN nào sẽ ngăn nổi nó TIÊU DIỆT các người! Không có thứ THUỐC nào các người làm ra... không có sự TRỐN CHẠY nào... không SÚNG ỐNG nào của tất cả các người... không lời CẦU NGUYỆN nào. KHÔNG CÓ GÌ cứu giúp nổi cả lũ các người!". Bấy giờ bọn họ bèn kéo lão đi. Lão nhọ già í, xem cái cung cách lão, coi bộ dư là mục sư truyền giáo hay gì gì đó".

Kunta thấy Bel đột nhiên xúc động. "Cái ông già í..." chị hỏi, có phải ông í đen thật là đen và da bọc xương, kiểu dư còng gập xuống, râu bạc trắng có một cái sẹo to dưới cổ?".

Bác vĩ cầm có vẻ giật mình: "Phải! Chắc chắn là thế! Hẳn thế! Tất cả dững cái đó đều đúng - mầy biết lão í là ai à?".

Bel nhìn Kunta như sắp khóc. "Đấy là mục sư rửa tội cho Kitzi", chị rầu rầu nói.

Cuối ngày hôm sau, Kunta đang ở trong lều bác vĩ cầm thì Catô gõ vào cánh cửa ngỏ. "Mầy làm gì ngoài í? Vào đây!" bác vĩ cầm nói lớn.

Catô vào. Cả Kunta lẫn bác vĩ cầm đều vui mừng thấy anh ta đến. Mới gần đây, họ đã nói lên ý nghĩ chung mong muốn tay lực điền chủ chốt Catô trầm lặng và chắc chắn ấy sẽ gần gũi họ hơn, cũng như ông lão gác vườn dạo trước.

Catô có vẻ không thoải mái. "Tui chỉ muốn nói tui cho là các bác đừng nên kể dững điều đáng sợ các bác nghe được về chuyện bao nhiêu người bị bán xuống miền Nam...". Catô lưỡng lự. "Duyên do tại sao tui nói mới các bác sự thật là ngoài đồng, mọi người sợ bị đem bán đến nỗi không còn đầu óc đâu mà làm việc nữa". Anh lại ngừng một quãng ngắn. "Chí ít cũng chả ai nhận tui mới cái thằng bé Nâuơ. Tui gẫm nếu mình bị bán, ừ thì tui bị bán thôi, tui chả biết làm thế nào được. Còn cái thằng Nâuơ - ngó bộ nó chẳng sợ gì cả".

Sau mấy phút trò chuyện tay ba - trong đó Kunta cảm thấy thái độ nồng nhiệt của Catô, đáp lại sự hoan nghênh nồng nhiệt của hai người - họ nhất trí rằng có lẽ tốt nhất là chỉ nên nói riêng với nhau, thậm chí không cho cả Bel biết, những tin tức ghê gớm nhất chỉ tổ làm những người khác hoảng hốt một cách không cần thiết.

Nhưng độ một tuần sau, một đêm ở trong lều, Bel đang ngồi đan bỗng ngước nhìn lên và nói: "Xem dư mấy người ở đây quẳng ráo lưỡi đi rồi - hoặc thế, hoặc người da trắng thôi không bán nhọ đi nữa, mà tui đây còn tinh hơn các người tưởng đấy!".

Ầm ừ vì bối rối, Kunta ngạc nhiên thấy chị - và có lẽ tất cả những người khác trong xóm nô - đã đoán bằng trực giác là anh và bác vĩ cầm không kể hết cho bà con nghe những điều mình biết nữa. Cho nên anh lại bắt đầu thuật lại những chuyện bán nô lệ, chỉ bỏ những chi tiết não lòng nhất. Nhưng anh nhấn mạnh vào những tin đào tẩu trót lọt, mô tả những nô lệ tinh khôn, nhanh mồm nhanh miệng đã đánh lừa bọn cách-cơ "tuần cha" ngu dốt để trốn thoát. Một đêm, anh kể cho bà con nghe chuyện một đầu bếp người lai và một gã da đen coi ngựa đánh cắp nào xe, nào ngựa, lại kèm cả quần áo đẹp và mũ mà anh chàng lai trắng mặc luôn vào, giả làm một mexừ giàu có luôn miệng chửi rủa tên xà-ích da đen bất cứ lúc nào đến tầm tai nghe của một toán tuần tra da trắng nào họ gặp trên chuyến xe cấp tốc lên miền Bắc và đi đến tự do. Một lần khác, Kunta kể chuyện một nô lệ khác không kém táo bạo bao giờ cũng phóng la gần như lao thẳng vào mặt bọn "tuần cha" trước khi dừng lại và khoa tay giở cuộn tài liệu in chữ nhỏ mà anh ta nói trong đó có giải thích công vụ khẩn cấp anh đang chạy cho chủ - bao giờ cũng cao tay, đúng bài bản, khiến bọn cách-cơ mù chữ thà vẫy tay ra hiệu cho anh đi tiếp, còn hơn thừa nhận là mình không biết đọc. Dạo này, Kunta hay làm cho dân xóm nô cười bằng những câu chuyện thí dụ như một số người da đen chạy trốn khác đã giả mắc bệnh lắp kinh niên khéo đến nỗi bọn "tuần cha" phát ớn thà bảo họ xéo đi đằng họ còn hơn mất đứt hằng giờ hỏi han vô ích. Anh kể về những người chạy trốn cứ giả đò ngập ngừng sợ sệt mãi rồi cuối cùng mới phân trần thổ lộ rằng các ông chủ giàu có, thế lực của họ khinh rẻ cánh da trắng nghèo đến thế nào và xử sự khắc nghiệt như thế nào với mọi hành động can thiệp đến gia nhân của mình. Một đêm, Kunta khiến cả xóm nô cười rống lên vì câu chuyện một gã gia nô anh đã được nghe kể, gã này đã đến miền Bắc an toàn, chỉ một bước nhảy sớm hơn lão chủ đang truy nã ráo riết. Lão vội vàng gọi một viên cảnh sát. "Chính mày cũng biết mày là tên nhọ của tao!" Lão chủ điên cuồng tru tréo vào mặt gã nô lệ trong khi gã này cứ ngây đuỗn mặt mà kêu: "Lạy Chúa cứu giúp con, con chưa bao giờ trông thấy người da trắng này!" - thuyết phục được cả một đám đông xúm lại xem và viên cảnh sát ra lệnh cho lão da trắng dẹp cơn cuồng nộ và tếch đi, kẻo hắn buộc phải bắt lão vì tội phá rối yên tĩnh.

Đã nhiều năm nay, Kunta cố tránh không đi qua bất cứ nơi nào gần chỗ bán đấu giá nô lệ từ khi chứng kiến cảnh cô gái gào lên cầu cứu anh một cách vô hiệu. Nhưng mấy tháng sau cuộc nói chuyện với Catô và bác vĩ cầm, một bữa vào lúc sắp ngả chiều, Kunta đánh xe đưa ông chủ vào quảng trường ở tỉnh lỵ vào đúng lúc bắt đầu một cuộc bán đấu giá nô lệ.

"Chú ý, chú ý quý ngài ở Xpotxilvanya, tôi xin trình một mớ nhọ hảo hạng chưa từng thấy trong đời các vị!". Trong khi người bán đấu giá rao to với đám đông, gã phụ việc trẻ, lực lưỡng kéo giật một nữ nô lệ già lên bục. "Một mụ bếp cừ khôi", hắn mào đầu, nhưng bà già bèn la lên, vung chân vung tay lồng lộn về phía một người đàn ông da trắng trong đám đông: "Mexừ Philíp! Philíp! Ông làm dư quên rằng tui đã làm cho cụ đẻ ra ông và anh em ông từ thuở các ông còn bé tí! Tui biết tui nay đã già và chả nghĩa lý gì mấy, dưng mà lạy Chúa, xin ông hãy giữ lấy tui! Tui đã làm lụng vất vả cho ông, mexừ Philíp! Xin ông đừng để họ đánh tui đến chết ở một nơi nào đó dưới miền Nam!".

"Dừng xe lại, Tôbi!" ông chủ ra lệnh.

Máu Kunta lạnh toát đi khi anh ghìm cương ngựa cho xe dừng lại. Tại sao sau bao năm không hề tỏ ra quan tâm gì đến các cuộc bán đấu giá nô lệ, từ đây mexừ Uolo lại muốn theo dõi cuộc này? Phải chăng ông nghĩ đến chuyện mua một người nào đó, hay vì cớ gì? Vì cơn nổ bùng đau đớn đến nát lòng của người đàn bà đáng thương? Người mà bà ta kêu gọi đã hú lên đáp lại bằng một lời chế giễu và đám đông vẫn còn cười rộ lên khi một lái buôn mua bà già với giá bảy trăm đôla.

"Hãy cứu giúp con, Thượng đế, Jêxu, Chúa Trời, hãy cứu giúp con!" bà kêu lên khi gã giúp việc da đen của tay lái buôn đẩy bà rúi rụi về phía chuồng nhốt nô lệ. "Cất hai bàn tay đen của mầy khỏi người tao, đồ nhọ!" bà tru tréo và đám đông cười rung cả người. Kunta cắn môi chớp mắt ngăn dòng lệ khỏi trào ra.

"Con đực cực kỳ trong cả mớ, thưa quí vị!" Tiếp theo trên bục là một gã thanh niên da đen, rừng rực căm hờn dữ dội, bộ ngực vạm vỡ và thân hình cuồn cuộn bắp thịt hằn lên những vệt roi đỏ chằng chịt của một trận đòn phũ phàng rất gần đây. "Tên này vốn cần phải nhắc nhở tí chút thôi! Nó sẽ mau lành! Nó có thể cày lút một con la vào lòng đất! Mỗi ngày hái được hai tạ bông! Hãy nhìn nó mà xem! Một con ngựa giống tự nhiên - nếu đám tỳ nữ của các vị hàng năm không sinh sản đúng bổn phận! Món này trả giá nào cũng vẫn là hời!" Gã trai trẻ bị xiềng đó bán được ngàn tư.

Mắt Kunta lại nhòe đi khi một phụ nữ lai bụng chửa tướng, khóc sướt mướt, được dẫn lên bục. "Mua một được hai, hay là biếu không một, tùy theo cách nhìn của các vị!". Người bán đấu giá rao lớn. "Ngày nay, tí nhau da đen cứ biết thở là đáng giá trăm đôla rồi!" Chị ta được giá một nghìn.

Sự thể đến mức không thể chịu nổi khi người tiếp theo bị lôi xềnh xệch lên bằng một dây xiềng - và Kunta gần như ngã nhào khỏi ghế ngồi. Em thiếu nữ da đen khiếp đảm la thét, vóc dáng, màu da, thậm chí nét mặt nó khiến anh nghĩ đó có thể là một Kitzi nhỉnh hơn! Kunta thấy mình như bị rìu chặt vào người khi nghe tay bán đấu giá bắt đầu quảng cáo: "Một con sen được luyện thuần thục - hoặc, nếu các vị muốn, một con nái tốt giống nhất hạng!" hắn nói thêm, vừa liếc vừa nháy mắt một cách đểu cáng. Để mời khách xem xét kỹ hơn, bất thình lình hắn tháo lỏng vành cổ cái áo váy bao tải của con bé cho tụt xuống chân trong khi nó rú lên, khóc lóc, phóng tay xuống để che sự lõa lồ của mình khỏi đám đông dòm ngó, trong đó nhiều kẻ chen lên trước, với tay ra để sờ soạng nó.

"Đủ rồi! Ta ra khỏi đây thôi!" ông chủ ra lệnh - một khoảnh khắc trước khi Kunta cảm thấy dù sao anh cũng cứ phải làm thế.

Kunta chỉ hơi lơ mơ thấy con đường trước mặt trong khi đánh xe về phía đồn điền; đầu óc anh quay cuồng. Nếu như con bé thực sự là Kitzi của anh thì sao? Nếu như bà nấu bếp lại là Bel của anh thì sao? Nếu như cả hai mẹ con đều bị bán lìa khỏi anh thì sao? Hoặc nếu như anh bị bán lìa khỏi họ? Nghĩ về những cái đó, thật quá kinh khủng - song anh không thể nghĩ đến điều gì khác.

Ngay cả trước khi cỗ xe tới đại sảnh, Kunta đã linh cảm thấy có gì không ổn, có lẽ vì đó là một chiều hè nóng nực, tuy nhiên anh chẳng thấy người nào ở xóm nô đi dạo hoặc ngồi hóng mát quanh lều. Để ông chủ xuống xe, Kunta vội vã tháo ngựa dắt về chuồng, rồi hướng thẳng về nhà bếp, ở đó anh biết là Bel hẳn đang chuẩn bị bữa tối cho ông chủ. Chị không thấy anh tới, trước khi anh lên tiếng hỏi qua cửa che: "Mình yên ổn chứ?".

"Ô, Kunta". Quay phắt lại mắt mở to bàng hoàng, chị bật nói lớn: "Lái buôn nô lệ đã đến đây!" Rồi hạ giọng: "Tui nghe thấy tiếng còi tu huýt của Catô ở ngoài đồng và chạy ra cửa sổ đằng trước. Ngay khi trông thấy cái tay da trắng nom có vẻ người thành phố xuống ngựa, tui đã ngửi ra hắn là cái gì! Lạy chúa lòng lành! Tui mở cửa khi hắn bước lên bậc thềm. Hắn hỏi gặp ông chủ hoặc bà chủ. Tui biểu bà chủ ở dưới mồ, còn ông chủ là bác sĩ đi thăm nom người ốm, không nói mấy giờ đêm thì về. Thế rồi hắn gượng cười nhìn tui, đưa tui một tấm thiếp nhỏ có in chữ ở trên và biểu giao cho ông chủ, nói là hắn sẽ quay lại. Thế, tui sợ, chẳng dám không đưa ông chủ tấm thiếp - cuối cùng, rúi béng nó lên bàn giấy của ông".

"Bel!" có tiếng gọi từ phòng khách.

Suýt nữa, chị đánh rơi chiếc thìa. Chị thì thào: "Đợi nhá! Tui quay lại!" Kunta đợi - hầu như không dám thở, đón chờ điều xấu nhất - cho đến khi anh thấy Bel trở lại với vẻ nhẹ nhõm như trút được một gánh nặng lớn.

"Ông í biểu cần xong sớm bữa tối. Tấm thiếp không còn ở chỗ tui đặt nó trên bàn, dưng mà ông í chả nói gì về cái đó mà tui cũng không, dứt khoát thế!".

Sau bữa tối, Bel kể cho các lực điền nghe những diễn biến sau tiếng huýt còi báo động của Catô và thím Xuki bắt đầu khóc: "Lạy Chúa, các người có nghĩ là ông chủ sắp bán một số trong chúng ta đi không?".

Im lặng nặng nề hồi lâu. Kunta không nghĩ được ra điều gì để nói, song biết chắc là mình sẽ không đem câu chuyện bán đấu giá ra kể.

"À", cuối cùng bác vĩ cầm nói, "ông chủ không phải loại có thừa hàng loạt nhọ, mà lại là người nhiều tiền nên không phải bán nhọ để trả nợ dư một số đông đang làm".

Kunta hy vọng những người khác thấy, hơn anh, cố gắng an ủi của bác vĩ cầm là thuyết phục. Nom Bel có vẻ hy vọng một chút. "Tui hiểu ông chủ, hay dù sao tui cũng cho là mình hiểu ông í. Chừng nào cả bọn ta ở đây, ông í không bán ai đi đâu - ít nhất là thế, trừ cái anh chàng lái xe Luthơ mà đó là vì Luthơ đã vẽ bản đồ giúp cho một người tìm cách trốn". Bel ngập ngừng trước khi nói tiếp "Không!". Chị nói: "Ông chủ chắc không loại bỏ ai trong chúng ta mà không có lý do thích đáng - ai biểu là có nào?" Nhưng không ai trả lời.

Chương 79

Tai Kunta gắn chặt vào cuộc đối thoại giữa ông chủ với một người em họ ưa thích được ông đón về nhà ăn bữa chiều, trong khi họ ngồi đằng sau cỗ xe đang lăn bánh.

"Hôm nọ, tại một cuộc bán đấu giá trên quận lỵ" ông chủ nói, "tôi lấy làm lạ thấy đám lực điền thường nhật bán được giá gấp hai, gấp ba mấy năm trước đây. Và theo những quảng cáo tôi đọc trong tờ Gazét, thì thợ mộc, thợ nề, thợ rèn - thực tế là những nô lệ có kinh nghiệm thực sự về bất cứ ngành nào, - thợ da, thợ làm buồm, nhạc công, vân vân, lên tới hai nghìn rưỡi đôla một người".

"Đâu đâu cũng vậy kể từ khi có cái máy cán bông mới ấy!" người em họ ông chủ kêu lên. "Tôi nghe nói trong cả nước đã có tới hơn một triệu nô lệ, vậy mà các tàu hình như vẫn không đủ chở thêm nô lệ mới để cung cấp cho các vùng sâu tít tận cực Nam đang cố gắng đáp ứng yêu cầu của các nhà máy miền Bắc".

"Điều đang làm tôi lo lắng là quá nhiều điền chủ háo hức muốn kiếm lời nhanh chóng đâm không còn biết phải trái, có thể thuận tình để cho bang Vơjinia của chúng ta cuối cùng mất những nô lệ tinh túy nhất của mình, thậm chí là loại giống tốt nhất nữa", mexừ Uolơ nói, "và đó rõ ràng là điên rồ".

"Điên rồ? Chả phải Vơjinia có nhiều nô lệ quá mức cần thiết đó sao? Nuôi chúng tốn kém, mà phần đông chẳng đáng giá gì mấy trong công việc".

"Có thể hiện nay là thế", ông chủ nói, "nhưng làm sao ta có thể biết được nhu cầu của ta trong năm, mười năm sau? Cách đây mười năm, ai tiên đoán được là ngành bông lại phát triển rộ như thế này. Và tôi chả bao giờ đồng ý với cái luận điệu rất phổ biến của chú là việc nuôi nô lệ quá tốn kém. Tôi thấy ở bất cứ nơi nào tổ chức tốt, chỉ cần tới mức nửa vời thôi, họ đều trồng trọt, chăn nuôi và gặt hái đủ để tự nuôi miệng đấy thôi? Và họ thường sinh đẻ nhiều - mỗi đứa trẻ da đen ra đời cũng đáng tiền cho chủ chứ, nhiều người hoàn toàn có khả năng học những kỹ thuật khiến cho mình tăng thêm phần giá trị. Tôi tin rằng nô lệ và đất - theo thứ tự đó - là những đầu tư tốt nhất hiện nay. Cũng vì lý do ấy mà tôi sẽ không bao giờ bán nô lệ và đất của tôi - đó là cột sống hệ thống của chúng ta".

"Cái hệ thống đó có thể đang bắt đầu thay đổi mà không mấy ai nhận thấy", người em họ của ông chủ nói. "Hãy nhìn cái đám nhà quê mới phất đang vênh vang như thể chúng đã bước vào giai cấp điền chủ chỉ vì chúng đã mua được một, hai tên nô lệ hết hơi để bắt làm chí chết xây dựng cho chúng những vụ bông và thuốc lá nhỏ nhoi đến thảm hại. Chúng thật không đáng kể, song cái giống nhà quê dường như lại sinh sôi nảy nở nhanh hơn giống nhọ. Chỉ tính số lượng đơn thuần, chẳng bao lâu chúng có thể bắt đầu lấn trên đất đai cũng như lao động của chúng ta".

"Ấy tôi thì lại cho rằng chúng ta chả có gì phải lo ngại lắm" - ông chủ cười khúc khích, chừng như thích thú với ý nghĩ của mình - "chừng nào những người da trắng nghèo ganh đua với những người da đen tự do để mua nô lệ bị thải".

Người em họ cười theo. "Phải, đó chẳng phải là điều khó tin hay sao? Tôi nghe nói có đến nửa số nhọ tự do ở các thành phố làm ngày làm đêm để dành đủ tiền mua người đồng chủng và sau đó cho bọn này được tự do".

"Vì thế, ở miền Nam có nhiều người da đen tự do đến thế", ông chủ nói.

"Tôi cho rằng ở Vơjinia, chúng ta quá rộng rãi đối với chúng", người em họ nói. "Không phải chỉ là chuyện chúng phá hoại nguồn lao động của chúng ta bằng cách mua đồng loại của chúng và tạo thêm nhiều người da đen tự do nữa. Chúng còn là nguyên nhân của phần lớn các cuộc nổi dậy. Chúng ta không nên quên cái tên thợ rèn ở Richmơnđ.

"Đúng" mexừ Uolơ nói. "Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng với đầy đủ luật lệ tốt và triệt để nhằm giữ họ ở đúng vị trí của mình và với việc trừng trị đích đáng bọn gây rối để làm gương, phần lớn trong bọn họ sẽ có thể phục vụ cho những mục đích hữu ích - ở các thành phố. Tôi nghe nói hiện tại, họ gần như thống ngự trong hầu khắp các nghề".

"Trong khi đi chu du các nơi, tôi đã chính mắt thấy điều đó phổ biến biết mấy", người em họ nói. "Chúng làm gác kho hàng, phu bến cảng, lái buôn, thầu khoán, làm vườn. Chúng là những đầu bếp cừ nhất và cố nhiên là nhạc công nữa! Và tôi nghe nói ở khắp cả thành phố Lintsbơg, thậm chí không có lấy một người thợ cạo da trắng. Nếu thế thì tôi đến phải để râu mất thôi! Tôi sẽ không để một đứa nào trong bọn chúng kề dao cạo vào cổ họng tôi!".

Cả hai cùng cười. Nhưng rồi ông chủ trở nên nghiêm túc. "Tôi nghĩ là các thành phố có thể đang đẻ ra cho chúng ta một vấn đề xã hội lớn hơn vấn đề người da đen tự do. Tôi muốn nói đến những lái buôn nô lệ miệng lưỡi thơn thớt chuyên lường gạt ấy. Tôi nghe nói phần lớn bọn ấy trước kia là chủ quán rượu, đầu cơ, giáo học hoặc trạng sư hạng bét, mục sư vét đĩa và đại loại như thế. Ba, bốn gã đã mon men đến tôi ở quận lỵ gạ mua nô lệ của tôi với những giá chưa từng thấy và một cha còn cả gan để lại danh thiếp tại nhà ở đây nữa! Đối với tôi, chúng hoàn toàn là những kẻ tham tàn bất chấp luân thường đạo lý".

Họ đã tới nhà mexừ Uolơ và Kunta, như không hề nghe thấy họ nói chuyện gì, nhảy xuống đỡ họ ra khỏi xe. Đến lúc họ đã vào nhà, rửa ráy bụi bặm đường trường, rồi yên vị trong phòng khách và gọi Bel mang đồ uống đến, thì chị cùng mọi người khác trong đồn điền đã được Kunta cho biết sự việc cốt tử là ông chủ không hề có ý định bán họ. Và không lâu sau bữa tối, Kunta nhắc lại với đám cử tọa ngây ngất của xóm nô toàn bộ cuộc đối thoại với tất cả khả năng truyền đạt tối ưu của anh. Im lặng một lát. Rồi chị Manđi nói: "Ông chủ mấy người em họ có nói chuyện nhọ tự do dành tiền để mua tự do cho người thân thích. Tui muốn biết đám nhọ tự do làm sao để chính mình được tự do!".

"À", bác vĩ cầm nói, "vô khối chủ nô ở thành phố để cho họ học các nghề, rồi đem cho thuê lấy tiền và cho họ tí chút, dư cách ông chủ vẫn làm mới tui í. Cứ dư thế mươi mười lăm năm dành dụm, nếu thực sự may mắn, một nhọ được thuê làm ngoài có thể nộp chủ số tiền để mua tự do cho chính mình".

"Bởi thế nên bác cứ kéo đàn túi bụi dư vậy phải không?" Catô hỏi.

"Tau làm vậy đâu phải vì thích xem dân da trắng khiêu vũ", bác vĩ cầm nói.

"Bác đã kiếm đủ để mua lại mình chưa?".

"Nếu đủ thì tau đã chẳng còn đây để cho mầy hỏi câu í". Tất cả mọi người đều cười.

"Dù sao đi nữa, đã gần đủ chưa?" Catô gặng thêm.

"Mầy có thôi đi không?" bác vĩ cầm phát cáu. "Bi giờ tau gần đủ hơn tuần trước, dưng lại không gần đủ bằng tuần sau nữa".

"Thôi được, dưng mà khi được rồi, bác sẽ làm gì?".

"Cao chạy xa bay, người anh em ạ! Hướng về phía Bắc! Nghe nói một số nhọ tự do ở miền Bắc sống khá hơn với người da trắng và tau thấy cái í hay đấy. Giả sử tau dọn đến ở cạnh một người lai kênh kiệu rồi bắt đầu ăn nói kênh kiệu và mặc lụa là dư bọn họ, và bắt đầu chơi đàn hác-pờ, đi họp hành bàn luận về sách báo, trồng hoa và dững cái đại loại dư thế".

Khi tiếng cười ngớt đi, thím Xuki bèn hỏi: "Các người nghĩ sao về việc người da trắng bao giờ cũng bỉu sở dĩ dân lai làm ăn tốt là vì hàng lô máu huyết da trắng mang trong người khiến họ thông minh hơn ta?".

"Ờ, quả là người da trắng pha trộn huyết thống mình cũng khá nhiều ra khắp ba bề bốn bên!" Bel nói một cách vô thưởng vô phạt.

"Liệu giữ mồm khi nói về xúbadăng, vú em của tui nhé!" bác vĩ cầm kêu lên, cố tỏ vẻ xúc phạm. Catô cười ngặt nghẽo suýt té nhào khỏi ghế, mãi đến khi Bơla lấy mu bàn tay củng vào đầu mới thôi.

"Chỗ này phải nghiêm túc nhé!" bác vĩ cầm nói tiếp. "Thím Xuki hỏi một câu tui định trả lời! Nếu cứ bằng vào dững kẻ dư tui mà xét thì các người sẽ hiểu là dân nhọ có màu da sáng ắt phải thông minh chớ! Hoặc giả cứ xem cái tay Benjamin Bannơcơ mà người da trắng gọi là một thiên tài toán số, lại còn nghiên cứu cả trăng, sao nữa - dưng mà còn hàng lô hàng lĩ dững nhọ đen kịt dư các người cũng thông minh thì sao?".

Bel nói: "Tui nghe ông chủ nói chuyện về một bác sĩ nhọ tên là Jêmx Đơhơm ở Niu Oliânz. Ông bác sĩ da trắng dạy anh ta biểu là anh ta còn biết nhiều hơn ông í, mà anh ta cũng đen dư ta thôi".

"Tui xin kể bà con nghe về một người khác", bác vĩ cầm nói. "Cái ông Prinxơ Hol đã khai trương dòng Tam điểm da đen í! Tui đã thấy ảnh dững ông mục sư lớn khai trương dững giáo hội da đen, phần đông đều đen đến đỗi nếu họ không mở mắt thì khó lòng nhìn thấy họ. Lại còn cái tay Philix Huytli làm những bài thơ mà người da trắng bỉu là rất hay và cái tay Gơxtavơx Vaxa viết sách thì sao?" Bác vĩ cầm liếc về phía Kunta. "Cả hai đều là nhọ gốc châu Phi chính hiệu, không có lấy giọt máu da trắng nào và tui thấy họ dất khoát chả ngu bệt chút nào!" Rồi vừa cười, bác vĩ cầm vừa tiếp. "Bởi vì khốn nỗi bao giờ cũng có dững nhọ đen bệt - cứ xem dư Catô đấy...". Bác vùng lên chạy, Catô đuổi theo sau cách chừng hai bước. "Tui mà bắt được, tui sẽ bệt lên đầu bác", Catô hét.

Khi những người khác thôi cười, Kunta nói: "Các người mún cười bao nhiêu cứ cười cho thỏa đi. Đã là nhọ thì tất cả đều thế đối với người da trắng. Một giọt máu nhọ thì cũng vưỡn là nhọ, dù anh có trắng hơn cả họ đi nữa - mà tui đã thấy ói người dư vậy".

Khoảng một tháng sau, bác vĩ cầm từ một chuyến đi trở về, mang theo những tin làm cả xóm nô chìm trong buồn nản. Đến đâu, bác cũng thấy bọn người da trắng hồ hởi với tin ấy: Thủ lĩnh Pháp tên là Napôlêông đã phái qua vùng nước lớn một đạo quân khổng lồ, đạo quân này sau bao cuộc chiến đấu và đổ máu đã lấy lại Haiti từ tay người da đen và người giải phóng họ, tướng Tuxên. Được viên tướng của đạo quân Pháp chiến thắng mời đến dự tiệc, Tuxên đã sai lầm nhận lời: giữa bữa ăn, bọn hầu bàn túm lấy ông, trói giật cánh khuỷu và tống lên một con tàu về Pháp, ở đó ông bị xiềng đưa đến trước mặt Napôlêông người đã bày đặt toàn bộ âm mưu tráo trở đó.

Là người hâm mộ vị tướng da đen Tuxên nhất trong đồn điền, Kunta xúc động với tin ấy hơn bất kỳ ai khác. Anh vẫn còn ngồi buồn xỉu trong lều bác vĩ cầm khi người cuối cùng trong đám đã lặng lẽ bỏ ra.

"Tau biết mầy buồn chừng nào về ông Tuxên í" bác vĩ cầm nói, "Và muốn mày đừng nghĩ tau coi nhẹ chuyện í, dưng mà tau có một mẩu tin tau không thể giữ kín thêm phút nào nữa!"

Kunta gườm gườm nhìn bác vĩ cầm, càng phật ý hơn khi thấy bác có vẻ như sắp bùng ra vì sung sướng. Tin gì mà có thể đại cát đến mức át cả sự tôn trọng cần có đối với sự hạ nhục vị thủ lĩnh da đen lớn nhất của mọi thời đại?

"Tau đạt rồi!" Bác vĩ cầm lúc này quả là một điển hình mẫu mực về sự phấn khởi. "Một tháng trước, khi Catô hỏi tau để dành được bao nhiêu rồi, tau không nói gì, dưng mà lúc í tau chỉ còn thiếu mấy đôla nữa thôi - và bi giờ tau vừa vặn đạt nhờ chuyến đi vừa rồi! Tau phải mất hơn chín trăm lần đờn cho bọn da trắng khiêu vũ và quả tình tau không biết liệu có bao giờ đạt đến mục đích không, cho nên tau chả nói chuyện í mới ai sất - kể cả mầy nữa - trước khi tau đạt. Bạn người Phi nầy, tau đã có cái món bảy trăm đôla và ông chủ đã bỉu tau từ lâu là tau phải kiếm để mua lại tự do cho mình!".

Kunta bàng hoàng không nói nên lời.

"Nhìn nầy!" bác vĩ cầm vừa nói vừa xé toang tấm nệm và ném những thứ trong đó lên sàn; hàng trăm tờ giấy bạc đôla xoáy lộn quanh chân hai người. "Và nhìn đây nữa!" bác kéo một túi vải gai từ dưới gầm giường và đổ hết ra leng keng trên mớ giấy bạc - hàng trăm đồng tiền đủ mọi loại.

"Nào, thằng Phi, mầy nói gì đi chứ hay chỉ đứng há hốc mồm ra đấy?"

"Tui chả biết nói gì sất," Kunta nói.

"Không chúc mừng sao?"

"Tui thấy dư quá tốt đẹp nên khó lòng là thật được"

"Đúng là thật đấy. Tau đã đếm nó hàng nghìn lần. Thậm chí còn dư một món đủ để tau mua một cái vali bằng các tông nữa cơ!".

Kunta quả không sao tin nổi. Bác vĩ cầm sắp sửa được tự do thật! Không phải chỉ là một giấc mơ. Kunta cảm thấy muốn cười và khóc cùng một lúc - cho bản thân cũng như cho bạn.

Bác vĩ cầm quỳ xuống và bắt đầu vốc tiền lên. "Nầy, mầy cứ giả câm giả điếc đừng nói gì về chuyện này, cho đến sáng mai nhá, được không? Tức là đến khi tau đi gặp ông chủ và bỉu ông í giàu thêm bảy trăm đôla nữa! Mầy cũng sẽ mừng dư ông í thấy tau qua cầu chớ?".

"Mừng cho bác. Không mừng cho tui", Kunta nói.

"Nếu mày ráng làm tau ái ngại cho mầy đến nỗi phải lo mua nốt tự do cho cả mầy, thì mầy sẽ phải đợi một thôi nữa. Tau đã mất băm ba năm kéo đàn mới tới tự do đấy!".

Đến lúc trở về lều mình, anh đã bắt đầu thấy nhớ bác vĩ cầm và Bel lầm tưởng vẻ buồn của anh là do thương xót Tuxên nên anh không cần phải che giấu - hoặc giải thích - điều mình đang cảm thấy.

Sáng hôm sau, đi ngang qua lều bác vĩ cầm sau khi cho ngựa ăn, anh thấy vắng tanh, nên anh đến hỏi Bel xem bác ta có ở trong nhà với ông chủ không.

"Bác í đi khỏi được một tiếng rồi. Coi bộ dư bác í vừa gặp ma. Bác í có chuyện gì vậy và bác í muốn gì với ông chủ?"

"Bác í có nói gì khi ra khỏi nhà không?" Kunta hỏi.

"Chả nói gì sất. Đã biểu là bác í đi qua tui dư thể không có tui ở đấy mà".

Không nói thêm một lời, Kunta bước ra khỏi cửa che gió và quay trở về phía xóm nô - trong khi Bel hò theo sau lưng: "Mình đi đâu bi giờ?" và khi thấy anh không trả lời: "Được rồi! Đừng có nói gì với tui nữa nhá! Tui chỉ là vợ anh thôi mà!". Kunta đã biến mất.

Sau khi hỏi quanh, gõ cửa tất cả các lều, thậm chí ngó cả vào nhà tiêu và gào to vào chuồng ngựa: "Bác vĩ cầm!". Kunta đi xuôi xuống, dọc theo hàng rào. Đi được một quãng, anh nghe thấy tiếng nhạc - những đoạn sầu não, lê thê của một ca khúc anh đã từng nghe những người da đen hát tại một cuộc họp trại "ôi lạy Chúa"... - có điều lần này nó được chơi trên một cây đàn vĩ cầm. Tiếng đàn của bác vĩ cầm bao giờ cũng nhí nhảnh, vui tươi, tiếng nhạc này nghe như cây đàn đang nức nở, nó vật vờ bay dọc theo hàng rào.

Rảo bước, Kunta tới chỗ có thể nhìn thấy một cây sồi xòe nửa vòm lá trên một con suối chảy gần rìa khu vực sở hữu của mexừ Uolơ. Lại gần hơn nữa, anh trông thấy đôi giày của bác vĩ cầm thò ra đằng sau thân cây. Đúng lúc ấy, tiếng nhạc ngừng lại - và Kunta cũng dừng bước, đột nhiên cảm thấy như mình là một kẻ đột nhập trái phép. Anh đứng im, chờ bác vĩ cầm tiếp tục đàn, song tiếng ong vo ve và tiếng suối róc rách là những âm thanh duy nhất khuấy động im lặng. Cuối cùng, gần như rụt rè, Kunta đi vòng cây sồi đến đối mặt với bác vĩ cầm. Chỉ cần thoáng nhìn một cái, anh đã hiểu chuyện gì vừa xảy ra - mặt người bạn già của anh tối sầm: tia sáng lấp lánh trong mắt bác đã tắt ngấm.

"Mầy cần chút gì nhồi đệm nằm hả?" giọng bác vĩ cầm vỡ ra. Kunta không nói gì. Nước mắt bắt đầu chảy ròng ròng trên má bác vĩ cầm; bác giận dữ gạt đi tựa hồ đó là những giọt axít và nói dồn dập một thôi: "Tau bỉu ông í là cuối cùng tau đã có tiền để mua tự do - không thiếu lấy một xu. Ông í ầm à ầm ừ một phút và dòm lên trần nhà. Rồi ông í chúc mừng tau đã dành dụm được nhiều thế. Dưng mà sau đấy, ông í bỉu nếu tau mốn thì bảy trăm í có thể coi là trả tiền mặt thôi, bởi vì trong việc kinh doanh, ông í phải tính xem giá nô lệ đã lên ngần nào từ khi có cái máy cán bông í nhập vào. Ông í bỉu bi giờ ông í không thể nhận dưới nghìn rưởi để bán một tay vĩ cầm làm tốt tiền dư tau, thế là ít nhất, bỉu là ông í có thể được hai nghìn rưởi nếu ông í phải bán tau cho người nào khác. Ông í bỉu ông í thật tình lấy làm tiếc, dưng ông ấy hy vọng tau hiểu công việc là công việc, và ông í phải kiếm lời chính đáng trên vốn đầu tư của mình". Lúc này, bác vĩ cầm bắt đầu khóc nức nở. "Ông í bỉu là được tự do không hoàn toàn đúng dư người ta vưỡn đề cao và ông í chúc tau may mắn kiếm được nốt số còn lại nếu tau khăng khăng mốn... vì ông í biểu tau cứ tiếp tục làm việc tốt..., và khi tau đi ra, nhớ bỉu Bel mang vào cho ông í ít cà phê!"

Bác im bặt, Kunta chỉ còn biết đứng ngây ra đó.

"Đồ chó đẻ í!" đột nhiên bác vĩ cầm thét lên và vung tay ra đằng sau, bác vớ lấy cây đàn ném xuống suối.

Kunta lội ra định nhặt, nhưng chưa với tới - anh đã có thể thấy rõ là nó đã gãy nát.

Chương 80

Mấy tháng sau, một đêm, khi Kunta cùng với ông chủ trở về nhà khá muộn, Bel lo lắng hơn là bực khi thấy họ quá mệt không thiết ăn bữa tối ngon lành do chị nấu. Bởi vì một thứ bệnh sốt đã bắt đầu hoành hành khắp quận và mỗi sáng hai người ra đi một sớm hơn để mỗi đêm trở về một muộn hơn, trong cố gắng của ông chủ với cương vị là bác sĩ của quận nhằm đương đầu với dịch truyền nhiễm đang lan rộng.

Kunta ngồi phịch xuống ghế đu, lơ đãng nhìn trừng trừng vào bếp lửa như người mất hồn, lử lả đến nỗi không nhận thấy Bel đang sờ trán mình và cởi giày cho mình nữa. Và mãi nửa giờ sau anh mới đột nhiên nhận ra là Kitzi không ngồi lên lòng anh như thường lệ để khoe một thứ đồ chơi mới nào đó hoặc bi bô kể những điều nó đã làm trong ngày.

"Con bé đâu?" Cuối cùng anh hỏi.

"Đặt nó ngủ cách đây một tiếng rồi", Bel nói.

"Nó không bịnh đấy chứ?" anh ngồi thẳng dậy, hỏi.

"Không, chơi nhiều đâm mệt đấy thôi. Hôm nay, "mămzen" An đến, Kunta kiệt sức đến nỗi không cảm thấy bực bội như mọi khi, nhưng dù sao Bel cũng chuyển sang chuyện khác. "Trong khi chờ để đưa mămzen về, Ruxbi kể mấy tui là đêm nọ hắn đã nghe thấy bác vĩ cầm đàn ở một vũ hội hắn đưa mexừ Jon tới dự ở Friđiricxbơg. Hắn biểu là cơ hồ không nhận ra tiếng đàn, nghe nó không còn dư xưa nữa. Tui không nói cho hắn biết bản thân bác vĩ cầm cũng không còn dư xưa nữa từ khi bác í vỡ nhẽ ra là mình không tự do".

"Bộ dư bác í chẳng thiết gì nữa," Kunta nói.

"Xem vẻ đúng là dư thế. Bác í cứ lầm lầm lì lì, thậm chí gần dư không buồn gật đầu chào ai nữa, chỉ bằng lòng nhận Kitzi mang cơm đến và ngồi mới bác í trong khi bác í ăn. Độc chọi có mình nó là bác í còn muốn quan hệ tí chút. Thậm chí không chơi bời chuyện trò cả mấy mình nữa"

"Phần vì cái bịnh sốt tràn lan gần đây", Kunta mệt mỏi nói, "tui chả có mấy thì giờ hoặc hơi sức đâu mà thăm thú ai".

"Phải tui đã để ý thấy thế, mình đừng có ngồi đây suốt nửa đêm, mình vào giường ngủ luôn đi".

"Mặc tui, tui vuỗn khỏe mà".

"Không, mình không khỏe đâu!" Bel nói, giọng dứt khoát, cầm lấy tay anh, đỡ anh đứng dậy dẫn đến buồng ngủ và anh không kháng cự thêm nữa. Kunta ngồi ở mép giường trong khi chị cởi quần áo ngoài cho anh, rồi anh nằm xuống, thở dài.

"Xoay người đi tui xoa lưng cho".

Anh làm theo và chị bắt đầu nắn bóp lưng anh bằng những ngón tay cứng lại.

Anh nhăn mặt.

"Sao thế? Tui nắn có mạnh tay lắm đâu!".

"Không sao cả".

"Chỗ này cũng đau à?" Chị vừa hỏi vừa ấn xuống phía dưới gần thắt lưng.

"Úi".

"Cách rày, tui ngài ngại đấy", chị vừa nói vừa nương nhẹ tay như vuốt ve mơn trớn.

"Tui chỉ mệt thôi mà. Tui chỉ cần ngủ một đêm là khỏi".

"Để xem", chị tắt nến và trèo lên nằm cạnh anh.

Nhưng khi dọn bữa điểm tâm cho ông chủ sáng hôm sau. Bel phải thưa với ông là Kunta không sao nhấc mình dậy khỏi giường.

"Có thể là sốt", ông chủ nói, cố che giấu nỗi bực tức. "Chị biết phải làm gì rồi đấy. Trong khi đó có một nạn dịch đang tiếp diễn và ta cần phải có một lái xe".

"Dạ thưa ông chủ". Chị nghĩ một lát. "Thằng bé làm đồng Nâuơ ấy, ông thấy có được không? Nó nhớn mau đến nỗi giờ gần bằng người nhớn rồi. Chăn la tốt, chắc nó cũng có thể lái ngựa được".

"Hiện nó bao nhiêu tuổi?".

"À, thưa ông, Nâuơ hơn con Kitzi nhà tui độ hai tuổi, vậy là..." Chị dừng lại để đếm trên đầu ngón tay... "là nó mười ba hay mười bốn, tui chắc thế, thưa ông".

"Bé quá", ông chủ nói. "Chị đến bảo cái lão vĩ cầm thế chân vậy. Gần đây, lão chả có mấy việc phải làm trong vườn cũng như với cây đàn của lão. Bảo lão thắng ngựa và đánh xe vòng ra đằng trước ngay".

Trên đường đến lều bác vĩ cầm, Bel đoán là bác sẽ hoặc rất dửng dưng hoặc rất bàng hoàng với tin này. Bác vừa dửng dưng vừa bàng hoàng. Xem chừng bác chẳng bận tâm gì đến chuyện phải lái xe cho ông chủ, nhưng khi được biết Kunta ốm, bác vĩ cầm lo sợ đến nỗi chị phải nói mãi mới thuyết phục được bác đừng đỗ lại ngang lều họ trước khi đón ông chủ lên xe.

Từ hôm đó trở đi, bác vĩ cầm trở thành một người khác hẳn - chắc chắn không sung sướng hơn là bác làm ra vẻ thế trong mấy tháng qua, nhưng săn đón ân cần, không biết mệt, lái xe cho ông chủ ngày, đêm đi khắp quận, rồi lại về giúp Bel chăm sóc Kunta cùng những người khác trong xóm nô cũng bị sốt liệt giường.

Chẳng bao lâu, số người ốm - cả ở đồn điền lẫn nơi khác - nhiều đến nỗi ông chủ phải ép Bel làm phụ tá cho mình. Trong khi ông điều trị cho đám da trắng, thì thằng bé Nâuơ đánh chiếc xe la chở chị đi thăm nom những người da đen. "Mexừ có thuốc của mexừ, tui có thuốc của tui", chị nói riêng với bác vĩ cầm. Sau khi phát thuốc của ông chủ, chị cho bệnh nhân uống món biệt dược bí mật của mình gồm cỏ phơi khô tán thành bột trộn với nước vỏ cây hồng vàng đun sôi mà chị thề rằng hiệu nghiệm hơn, nhanh chóng hơn bất kỳ phương thuốc nào của người da trắng. Nhưng - chị tâm sự với chị Manđi và thím Xuki - điều đích thực làm họ khỏi bệnh là bao giờ chị cũng quỳ xuống bên giường người bệnh và cầu nguyện. "Bất kể nạn gì Người giáng xuống chúng sinh, Người đều cất bỏ được, nếu Người muốn", chị nói. Nhưng một số bệnh nhân của chị, cũng như của mexừ Uolơ, dù được chạy chữa mọi cách, vẫn chết.

Khi bệnh tình Kunta tiếp tục trầm trọng thêm, mặc dù Bel và ông chủ xoay đủ mọi cách có thể, những lời cầu nguyện của chị ngày càng trở nên thống thiết hơn. Chị hoàn toàn quên những cung cách kỳ quặc, lầm lì, bướng bỉnh của Kunta. Mỗi đêm chị ngồi bên giường anh, không ngủ được vì quá mệt trong khi anh nằm thượt, mồ hôi đầm đìa, trằn trọc giở mình rên rẩm hoặc đôi khi mê sảng nói lảm nhảm một hồi dưới lớp mền chị đắp chồng chất lên anh. Chị thường nắm bàn tay khô, nóng hầm hập của anh trong tay mình, nơm nớp sợ đến mức tuyệt vọng, e không đủ sức nói với anh là phải trải qua cảnh ngộ này, sau tất cả ngần ấy năm, chị mới nhận thức đầy đủ rằng: anh là một con người đầy sức mạnh, đầy cá tính tới tầm cỡ mà chị chưa từng thấy ai sánh kịp và chị yêu anh rất sâu sắc.

Anh bị hôn mê đến ngày thứ ba thì "mămzen" An đến thăm ông chủ và thấy Kitzi ở trong lều cùng với Bel, chị Manđi, thím Xuki, tất cả đều đang khóc và cầu nguyện.

Nước mắt ròng ròng, "mămzen" An quay về đại sảnh và nói với mexừ Uolơ mệt mỏi rằng nó muốn đọc một đoạn trong kinh Thánh cho bố Kitzi. Nhưng nó không biết chỗ nào tốt để đọc cho hợp, cho nên nó mong ông vui lòng chỉ giúp. Ông chủ đăm đăm nhìn vẻ sốt sắng trong đôi mắt ướt lệ của đứa cháu gái yêu dấu và đứng dậy khỏi chỗ nằm, ông mở tủ sách, lấy ra quyển Kinh Thánh to tướng. Sau một lúc trầm ngâm suy nghĩ, ông giở đến một trang và đặt ngón tay trỏ vào đúng chỗ cần bắt đầu.

Khi tin truyền đi trong xóm nô là "mămzen" An sắp đọc một cái gì đó, mọi người vội vàng tụ tập bên ngoài lều của Bel và Kunta, và nó bắt đầu đọc.

"Đức Jêhôva là đấng chăn dắt tôi; tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì. Người khiến tôi an nghỉ nơi đồng cỏ xanh. Người dẫn tôi bên dòng nước lặng. Người bổ lại linh hồn tôi. Dẫn tôi vào các lối công bình vì cớ danh người". "Mămzen" An dừng lại, cau mày với trang sách rồi đọc tiếp: "Dẫu khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào: Vì Chúa ở cùng tôi. Cây trượng và cây gậy của Chúa an ủi tôi". Nó lại ngừng, lần này để thở một hơi thật sâu, và phân vân ngước nhìn những bộ mặt đang theo dõi nó.

Xúc động sâu sắc, chị Manđi không kìm nổi, buộc kêu lên: "Lạy Chúa, hãy nghe cô bé này! Đã nhớn thế, đã biết đọc giỏi thế!".

Giữa tiếng lao xao khen ngợi của những người khác, Ađa, mẹ Nâuơ trầm trồ: "Mới đâu dư hôm qua, nó còn quấn tã mà! Bi giờ nó mấy tuổi rồi?".

"Chả mấy nữa là mười bốn đấy!" Bel nói, kiêu hãnh như đó là con đẻ mình. "Đọc bọn tui nghe thêm chút xíu nữa, cưng nào!".

Đỏ rừ mặt với những lời ca tụng đó, "Mămzen" An đọc nốt câu cuối của Thi thiên thứ 23.

Vừa chạy chữa vừa cầu nguyện, mấy ngày sau, có những dấu hiệu là Kunta bắt đầu bình phục. Bel biết là anh sắp sửa lành bệnh khi thấy anh trừng trừng nhìn chị và giựt khỏi cổ cái chân thỏ khô cùng chiếc túi đựng lá a-ngùy chị đã buộc vào đó để trừ rủi ro và bệnh tật. Và Kitzi cũng biết thế khi nó thì thầm vào tai anh rằng buổi sáng đầu tuần trăng vừa rồi, nó đã bỏ thêm một hòn sỏi xinh xinh vào quả bầu và bộ mặt dài đuỗn của anh toác ra một nụ cười. Còn Kunta thì biết rằng bác vĩ cầm sắp bình ổn trở lại, khi giật mình tỉnh dậy một buổi sáng, anh nghe thấy tiếng vĩ cầm bên giường mình.

"Chắc tui mê ngủ", Kunta mở mắt, nói.

"Không, mầy không mê nữa đâu", bác vĩ cầm nói. "Tau mệt phát ốm phải đánh xe cho ông chủ mầy khắp nơi khắp chốn. Mắt ông í cứ nhìn xoáy vào lưng tau đến cháy thủng cả áo. Đã đến lúc mày phải dậy hay di chuyển đi, nhọ ạ!"

Chương 81

Hôm sau, Kunta đang ngồi trên giường thì nghe thấy Kitzi bước vào lều, vừa cười vừa líu lô trò chuyện với "mămzen" An hiện đang được nghỉ học và anh nghe thấy chúng kéo lui ghế để ngồi vào bàn ở phòng bên.

"Kitzi, em có học bài không?" "mămzen" An đóng cô giáo, lấy giọng nghiêm nghị hỏi.

"Thưa cô, có", Kitzi cười khúc khích.

"Rất tốt, vậy thì... cái này là gì?".

Sau một quãng ngắn im lặng, Kunta chăm chú lắng tai và nghe thấy Kitzi ấp úng trả lời là không nhớ.

"Đó là chữ D" "mămzen" An nói. "Bây giờ đến cái này là gì?"

Hầu như ngay lập tức, Kitzi kêu lên đắc thắng: "Đây là cái vòng tròn í, chữ O!".

Cả hai con bé cùng cười sung sướng.

"Tốt. Em đã không quên. Bây giờ, chữ kia là gì?".

"À... ừ... ầm..." Rồi Kitzi mừng rỡ: "Đấy là chữ G!".

"Phải".

Lại một thoáng im lặng, rồi "mămzen" An nói: "Bây giờ, trông thấy cái này chứ? D_O_G. Là cái gì?

Thấy Kitzi nín thinh, anh chắc là nó không biết - như anh cũng không biết.

"Dog! 1 " "mămzen" An thốt lên "Em nghe thấy tôi nói không? Đừng quên nhé, D-O-G! Em phải học tốt tất cả các chữ cái, rồi ta sẽ học chắp nó thành từ như thế nào".

Sau khi hai đứa đi khỏi lều, Kunta nằm nghĩ rất lung. Anh không thể không cảm thấy đôi chút tự hào về năng lực học tập của Kitzi. Mặt khác, anh ấm ức không thể chịu nổi việc người ta đem nhồi nhét những thứ tubốp lằng nhằng vào đầu nó. Có lẽ vì thế mà gần đây nó hình như tỏ ra kém thích thú trong những cuộc trò chuyện của hai cha con về châu Phi. Có thể đã quá muộn, nhưng anh vẫn tự hỏi xem có nên xét lại cái quyết định không dạy cho nó đọc chữ A-rập. Nhưng rồi anh nghĩ làm thế cũng dại dột như khuyến khích nó tiếp tục các bài học với "mămzen" An. Giả dụ như mexừ Uolơ rồi đây tất phải phát hiện ra là Kitzi biết đọc - bất cứ tiếng gì! Đó sẽ là một cách rất tốt để chấm dứt trò "dạy học" của con bé da trắng và, tốt hơn nữa, thậm chí có thể chấm dứt cả quan hệ giữa hai đứa. Nhưng điều rắc rối là Kunta không dám chắc rằng ông chủ sẽ để cho vấn đề dừng lại ở đó. Thành thử "trường học" của Kitzi vẫn tiếp tục mỗi tuần ít nhất là hai, ba lần cho đến khi "mămzen" An phải trở về với việc học tập hàng ngày - vào khoảng thời gian mà Kunta, giờ đây đã bình phục hẳn, quay trở lại lái xe cho ông chủ thay thế bác vĩ cầm sung sướng vì thoát nợ.

Nhưng cả sau khi "mămzen" An đi rồi, đêm đêm, trong khi Bel khâu vá, đan lát, và Kunta đu đưa trên ghế trước bếp lửa, Kitzi vẫn cắm cúi trên bàn, cây bút chì gần chạm vào má, nắn nót chép những từ trong một quyển sách của "mămzen" An cho nó hoặc từ một mảnh báo rách vứt đi của ông chủ. Ngồi quay lưng lại hai mẹ con, đôi khi Kunta nghe thấy Kitzi lôi kéo Bel vào cuộc, mặc dầu Kitzi biết mẹ nó cũng võ vẽ biết đoc, biết viết.

"Này mẹ, đây là chữ A", Kitzi giảng, "và đây là chữ O. Nó chỉ vào một cái vòng tròn bé tí thôi, không có gì khác".

Đến lúc thích hợp, nó bắt đầu chuyển sang các từ, như "mămzen" An đã làm với nó. "Đây là "dog" (con chó) và đây là "cat" (con mèo)... và đây là "Kitzi"... và đây là tên mẹ B-E-L. Mẹ thấy nó ra sao? Bi giờ, mẹ vít đi". Và Bel bèn giả vờ đánh vật với cây bút chì nghệch ngoạc mấy chữ đó, cố tình để một vài lỗi cho Kitzi có dịp uốn nắn. "Mẹ phải làm như con bày cho mẹ thì mẹ có thể viết tốt như con", Kitzi nói, kiêu hãnh có được một cái gì để dạy mẹ cho nó khác thói thường đi một chút.

Mấy tuần sau, một đêm, sau khi Kitzi buồn ngủ rũ tại bàn sau hàng giờ liền ngồi chép bài tập viết mới nhất do "mămzen" An cho, Bel bảo con gái đi ngủ và lát sau, chị nằm xuống cạnh Kunta và bình thản nói: "Bi giờ không phải trò chơi nữa. Con bé này đã biết nhiều hơn tui rồi: Chúa thương tui chỉ mong mọi việc chu toàn".

Trong những tháng sau, Kitzi và "mămzen" An tiếp tục đến chơi với nhau, phần lớn vào cuối tuần, song không phải tất cả những ngày cuối tuần và sau một thời gian, Kunta bắt đầu phát hiện ra - hoặc khấp khởi cảm thấy là mình đã phát hiện ra - nếu không đích xác là một sự nguội lạnh giữa hai đứa thì chí ít cũng là một giảm sút từ từ, tinh tế trong tình thân của chúng, một sự tách rời dần dần khi mà "mămzen" An bắt đầu chín mảy tới độ thanh xuân trước Kitzi những bốn năm.

Cuối cùng, cái mốc đánh dấu sinh nhật lần thứ mười sáu bao lâu mong đợi của nó đã gần tới, nhưng ba ngày trước cuộc liên hoan dự định, cô "mămzen" An bướng bỉnh và nóng nảy cưỡi đại trên lưng con ngựa kéo xe giận dữ phi tới nhà mexừ Uolơ và nước mắt giàn giụa, kể với ông là bà mẹ ốm yếu của nó đang lấy cớ bị một cơn đau đầu kéo dài hàng tuần để hoãn cuộc vui lại. Và liên hồi dẩu môi dẩu mỏ, chơm chớp hàng mi và giựt giựt hoài ống tay áo ông chú, nó van xin ông cho tổ chức liên hoan tại đây. Không thể từ chối bất cứ điều gì nó yêu cầu, ông nói ừ, tất nhiên, và trong khi Ruxby hộc tốc phóng xe đi khắp quận báo cho hàng tá khách thiếu niên về việc thay đổi địa điểm thì Bel và Kitzi giúp "mămzen" An làm những công việc chuẩn bị cuống quít vào phút cuối. Những việc này hoàn thành vừa kịp để Kitzi giúp "mămzen" An mặc chiếc áo dài liên hoan và xuống nhà dưới chào khách.

Nhưng rồi - theo như Bel kể lại với Kunta sau này - từ lúc chiếc xe đầu tiên đến, "mămzen" An bỗng nhiên làm như không biết con bé Kitzi mặc đồng phục và tạp-dề hồ bột lăng xăng đi lại giữa đám khách, bưng những khay đồ uống, "cho đến khi con bé tội nghiệp nhào vô nhà bếp khóc sưng cả mắt". Đêm ấy, về lều, Kitzi vẫn còn khóc trong khi Bel cố lựa lời an ủi. "Chỉ là vì cô í đã nhớn lên thành một bà chủ trẻ đấy thôi, cưng ạ, mấy lị cô í còn mải để tâm đến nhiều việc. Chả phải cô í coi rẻ con hay thực sự có bụng ác đâu. Bất kể ai trong đám chúng ta đã nhớn lên thật gần gũi với trẻ con da trắng, thể nào cũng đến lúc mình phải đi đằng mình và họ đi đằng họ thôi".

Kunta ngồi, lòng sôi sục vẫn những xúc động mà anh đã cảm thấy khi anh lần đầu trông thấy "mămzen" An chơi với bé Kitzi nằm trong giỏ. Suốt mười hai vụ mưa kể từ buổi đó, anh đã nhiều lần xin Chúa Ala chấm dứt sự gần gũi giữa đứa con gái tubốp với Kitzi của anh - và mặc dầu cuối cùng, lời nguyện cầu của anh được đáp lại, anh vẫn thấy vừa đau đớn vừa tức giận khi thấy Kitzi bị thương tổn sâu sắc đến thế. Song cái đó là cần thiết và chắc chắn kinh nghiệm này sẽ cho nó bài học nhớ đời. Hơn nữa, bằng vào vẻ cau lại mà Kunta nhìn thấy trên mặt Bel khi chị nói với Kitzi, anh cảm thấy chút hy vọng là cả Bel cũng có thể chừa bớt chí ít là một phần lòng quý mến lớn lao đến lợm giọng mà chị dành cho "cô tiểu thư" rõ ràng là gian trá và đồng lõa kia.

"Mămzen" An vẫn tiếp tục đến chơi nhà mexừ Uolơ, tuy thưa thớt hơn trước nhiều vì - khi Ruxby nói riêng với Bel - các cậu công tử đã bắt đầu chiếm nhiều thời gian của cô ta. Những lần đến thăm, bao giờ cô cũng gặp Kitzi; và thường thường, cô hay mang theo một chiếc áo dài cũ để Bel "nới ra" cho Kitzi vốn có vóc người to hơn, mặc dầu kém mấy tuổi. Nhưng giờ đây, như theo một thỏa thuận không nói ra miệng, hai cô chỉ chơi với nhau khoảng nửa giờ, đi dạo và chuyện trò nhẹ nhàng trong sân sau, gần xóm nô rồi "mămzen" An đi khỏi.

Bao giờ Kitzi cũng đứng nhìn theo, rồi rảo bước rất nhanh về lều và vùi đầu vào học, thường khi là đọc đọc, viết viết mài miệt đến tận giờ ăn tối. Kunta vẫn chưa thích thú gì với năng lực tăng tiến của nó trong việc đọc và viết tiếng tubốp, song anh chấp nhận rằng nó cần có cái gì đó để bận bịu khi mà giờ đây nó đã mất cô bạn đời. Bản thân Kitzi của anh giờ cũng đang gần đến tuổi thanh niên - anh nghĩ điều đó sắp sửa đem lại cho cả hai cha con một loạt lo lắng phiền toái mới.

Ngay sau lễ Giáng sinh năm sau - 1803 - gió vun tuyết thành những đống dày, mượt như lông chim cho đến khi đường sá bị lấp nhiều chỗ, chỉ những xe lớn nhất mới qua được. Mỗi khi ra khỏi nhà - chỉ trong những trường hợp có người bệnh thập tử nhất sinh yêu cầu đến - ông chủ phải cưỡi ngựa đi một mình và Kunta ở lại nhà, bận rộn giúp Catô, Nâuơ và bác vĩ cầm dọn quang đường xe chạy trong đồn điền và bổ củi cung cấp cho tất cả các lò sưởi cháy liên tục.

Tuy bị cách biệt - thậm chí cả báo Gazét của mexừ Uolơ cũng ngừng bặt không thấy đến, từ khoảng một tháng trước đợt mưa tuyết lớn đầu tiên - dân xóm nô vẫn bàn tán về những mẫn tin cuối cùng lọt đến tai họ: các ông chủ da trắng rất hài lòng về cách Tổng thống Jefơxơn "điều khiển chiếng phủ", mặc dù mới đầu họ còn dè dặt với những quan điểm của Tổng thống về nô lệ. Từ khi cầm quyền, Tổng thống Jefơxơn đã giảm bớt quy mô của Lục quân và Hải quân, hạ mức công trái, thậm chí xóa bỏ thuế tài sản tư nhân, hành động này sau cùng này, theo bác vĩ cầm, đã gây ấn tượng đặc biệt về sự vĩ đại của Tổng thống đối với những người thuộc giai cấp ông chủ.

Nhưng Kunta nói rằng trong chuyến đi cuối lên quận lỵ trước khi tuyết gây nghẽn đường sá, anh thấy cánh da trắng thậm chí còn náo nức hơn nữa về chuyện Tổng thống Jefơxơn mua cái "lãnh thổ Luyzuana" to tướng với giá có ba xu một âycơ 2. "Theo chỗ tui được nghe", anh nói, "cái tui thích ở đây là mexừ Napôlêông í phải bán nó rẻ thế là vì ông í đang trong cơn nước sôi lửa bỏng ở Pháp về chuyện tốn cơ man nào là tiền, lại thêm năm chục nghìn người Pháp bị giết trong khi đánh nhau với Tuxên ở Haiti".

Một buổi chiều, họ đang tự sưởi ấm lòng bằng ánh lửa của ý nghĩ ấy thì một người da đen cưỡi ngựa tới giữa một cơn bão tuyết để mời ông chủ đến cấp cứu một bệnh nhân và mang theo một tin buồn cho xóm nô: Tướng Tuxên của Haiti, bị Napôlêông tống giam trong một hầm ngầm trên một trái núi heo hút ở Pháp, đã chết vì lạnh và đói.

Ba ngày sau, Kunta vẫn còn cảm thấy bàng hoàng và buồn bã khi chiều đến, anh lê bước về lều để kiếm bát xúp nóng; giậm chân rũ tuyết khỏi giày, rồi bước vào, tháo găng tay, anh thấy Kitzi nằm sóng sượt trên nệm rơm ở phòng ngoài, mặt chảy thượt và sợ hãi. "Con nó khó chịu" đó là lời giải thích của Bel trong khi chị lọc một cốc nước dược thảo và bảo Kitzi ngồi dậy uống. Kunta mang máng cảm thấy còn có điều gì nữa chị giấu không cho anh biết; rồi sau mấy phút nữa, ngồi đó, trong căn lều ấm sực lên, cửa đóng kín mít, vách trát bùn nứt nẻ, lỗ mũi mách anh đoán ra rằng Kitzi đang trải qua kỳ thấy tháng đầu tiên.

Anh đã theo dõi Kitzi của anh khôn lớn lên hầu như hằng ngày trong gần mười ba năm nay và gần đây anh đã đi đến chỗ chấp nhận thầm trong bụng rằng việc nó mọng chín lên thành thiếu nữ chỉ là vấn đề thời gian; tuy nhiên, cách nào đó, anh vẫn cảm thấy hoàn toàn bất ngờ với cái bằng chứng gay gắt này. Tuy nhiên, sau một ngày nữa nằm bẹp trên giường, cô bé Kitzi táo tợn lại trở dậy, đi quanh quẩn trong lều, rồi trở lại làm việc trong đại sảnh - và như thế chỉ qua một đêm, Kunta chợt lần đầu tiên thực sự nhận thấy thân hình con gái bé của mình vốn trước đây bao giờ cũng quắt queo, giờ đã nảy chồi mơn mởn. Với một thứ cảm giác kính nể bối rối, anh thấy, cách nào đó, ngực Kitzi đã bằng hai trái xoài và đôi môi đã bắt đầu nở căng, tròn trĩnh. Thậm chí dáng đi của nó cũng bớt vẻ trẻ con. Giờ đây, mỗi khi qua tấm rèm ngăn, bước vào căn phòng đằng trước, nơi Kitzi ngủ, anh liền quay mắt đi và nhỡ khi Kitzi ăn vận không kín đáo anh cảm thấy nó cũng ngượng nghịu như vậy.

Nếu ở châu Phi, anh nghĩ thầm - đôi khi châu Phi dường như xa lắc trong quá khứ - vào thời kỳ này, Bel ắt đã dạy Kitzi dùng dầu cây mỡ xoa cho bóng da và cạo nhọ nồi tán thành bột để thoa đen miệng, lòng bàn tay và gan bàn chân cho thật đẹp, thật hợp thời trang. Và ở tuổi này, Kitzi ắt đã bắt đầu thu hút những chàng đang kiếm một cô vợ trẻ trinh bạch, có gia giáo. Nếu ở quê hương anh, vào đận này, với tư cách là fa (bố) Kitzi, anh ắt đang gánh trách nhiệm đánh giá thật kỹ càng những đức tính cá nhân cũng như gia cảnh của bất cứ chàng nào ngấp nghé Kitzi - để chọn lấy phò mã lý tưởng nhất trong số đó cho cô; và ngay từ giờ, hẳn anh cũng đã quyết định phải thách cưới thế nào cho xứng hợp với cô.

Nhưng sau một hồi lâu, trong khi tiếp tục xúc tuyết cùng với bác vĩ cầm, Nâuơ và Catô, Kunta dần dần cảm thấy mỗi lúc một rõ rằng bây giờ mà vẫn còn nghĩ đến những phong tục và truyền thống Phi ấy thì thật là lố bịch; bởi vì những cái đó sẽ không bao giờ được thực hiện hoặc tôn trọng ở đây - thật vậy, chỉ cần anh nhắc tới chúng thôi, kể cả với những người da đen, cũng đủ bị la ó rồi. Và dù sao đi nữa, anh cũng không thể nhắm thấy kẻ cầu hôn nào ở tuổi thích hợp - từ ba mươi đến ba mươi lăm vụ mưa - đủ tư cách lấy Kitzi... nhưng kìa anh lại nghĩ vớ vẩn rồi! Tới đây, anh sẽ phải buộc mình suy nghĩ theo những tập tục cưới xin ở đây, trên đất nước tubốp này - nơi mà con gái thường lấy người trạc tuổi mình, lễ cưới thì gọi là "nhảy chổi".

Lập tức, Kunta bèn nghĩ đến Nâuơ. Xưa nay anh vẫn ưa thằng bé. Mười lăm tuổi, hơn Kitzi hai năm, Nâuơ xem ra chín chắn, nghiêm túc và có trách nhiệm, tương xứng với thân hình to lớn và khỏe mạnh của nó. Nghĩ đi nghĩ lại, Kunta thấy Nâuơ chỉ thiếu có điều duy nhất là, trên thực tế, nó chưa bao giờ tỏ ra mảy may quan tâm riêng tây đến Kitzi - chưa kể là bản thân Kitzi cũng làm như Nâuơ không hề tồn tại. Kunta ngẫm ngợi: Tại sao chúng nó không thích nhau hơn chút nữa, chí ít cũng đánh bạn với nhau? Nói cho cùng, Nâuơ rất giống anh hồi còn thanh niên là do đó, nó rất xứng đáng được Kitzi chú ý, nếu chưa phải là ngưỡng mộ. Anh tự hỏi: anh có thể làm gì để đẩy hai đứa lại gần nhau? Nhưng rồi Kunta cảm thấy có lẽ đó lại chính là cách chắc chắn nhất để ngăn hai đứa không bao giờ gặp nhau. Như thường lệ, anh quyết định cứ lo việc của chính mình là khôn ngoan nhất - và, như anh đã nghe thấy Bel nói, với chất "dựa đã bắt đầu dâng" trong đôi trẻ cùng sống ngay trong một xóm nô, anh sẽ bí mật nguyện cầu trong bụng xem Chúa Ala có giúp cho sự vật xuôi chảy theo dòng tự nhiên của nó chăng.

Chương 82

"Nghe đây con kia, đừng có để tau phải nghe thấy lần nữa về chuyện mầy xòe đuôi công lượn quanh cái thằng Nâuơ í! Kẻo tau lấy gậy hồ đào quất cho mầy ngay giờ!". Đang hướng về nhà, Kunta sững lại cách cửa lều chừng hai, ba bước và đứng nghe Bel nói tiếp: "Mà mầy đã tròn mười sáu đâu! Bố mầy biết mầy dở trò dư thế, thì nghĩ sao?".

Ông lặng lẽ quay lưng và đi lộn lại theo con đường dẫn đến cái yên ắng riêng tư của chuồng ngựa để suy nghĩ về những hàm ý của điều ông vừa nghe thấy. "Xòe đuôi công" quanh Nâuơ! Bel không đích thân mục kích đó là chuyện gì, nhưng ai đó đã mách bà. Chắc hẳn đó là thím Xuki hay bà chị Manđi! biết tỏng hai bà già này, ông sẽ chẳng lấy gì làm lạ nếu một trong hai hoặc cả hai đã chứng kiến một điều gì hoàn toàn hồn nhiên vô tội và chế biến đi cho có vẻ khêu gợi, chỉ cốt có đầu đề để kháo chuyện. Nhưng đó là cái gì? Suy từ những điều ông nghe lỏm được có lẽ Bel sẽ chẳng mách với ông làm gì, trừ phi cái đó được lập lại và bà cần ông ra tay ngăn chặn. Cái đó thuộc loại sự việc mà ông chẳng bao giờ muốn hỏi Bel vì nó hệt như chuyện ngồi lê đôi mách của đàn bà.

Nhưng nếu như nó không hồn nhiên như thế thì sao? Kitzi có làm duyên làm dáng trước Nâuơ không? Và nếu có thì Nâuơ đã làm gì để khuyến khích? Anh ta có vẻ là một thanh niên tốt nết, có danh dự - nhưng ai biết đâu đấy.

Kunta không biết nên cảm hay nên nghĩ thế nào. Dù sao đi nữa, như Bel nói, con gái họ mới mười lăm, tuổi ấy theo phong tục của đất tubốp, hãy còn quá nhỏ để nghĩ đến chuyện lấy chồng. Ông nhận ra rằng những cảm nghĩ của mình không còn mang sắc thái Phi mấy nữa, song cách nào đó, ông cảm thấy mình chưa sẵn sàng hình dung Kitzi với cái bụng to tướng như ông đã thấy ở biết bao thiếu nữ trạc tuổi cô, thậm chí còn trẻ hơn nữa.

Nhưng nếu nó lấy Nâuơ thật, ông nghĩ, ít nhất con chúng sẽ đen chứ không phải là một trong những đứa bé nhờ nhờ tai tái nọ; sản phẩm của những bà mẹ bị bọn chủ hoặc xúbadăng dâm dục hãm hiếp. Kunta cảm tạ Chúa Ala là Kitzi của ông cũng như mọi phụ nữ khác trong xóm nô chưa bao giờ phải đứng trước cái kinh nghiệm khủng khiếp ấy, hoặc chí ít cũng là từ khi ông ở đây, vì không biết bao nhiêu lần ông đã nghe thấy mexừ Uolơ phát biểu giữa đám bạn bè, kịch liệt chống sự pha trộn hai dòng máu da trắng và da đen.

Trong mấy tuần sau, hễ có dịp, Kunta lại bí mật theo dõi xem Kitzi có dấu hiệu ngoáy mông ngoáy đít gì không. Ông chưa bao giờ bắt được cô làm thế, nhưng một đôi lần, cả ông và Kitzi đều giật mình khi ông bắt gặp cô đang xoay tít người trong lều hết vòng này đến vòng khác, ngắc ngư đầu và mơ màng hát âm a một mình, Kunta cũng giám sát kỹ Nâuơ; ông nhận thấy là giờ đây - khác với trước kia - Nâuơ và Kitzi thường gật đầu và mỉm cười mỗi khi gặp nhau trong tầm nhìn của bất cứ người nào khác. Càng ngẫm về điều đó, ông càng suy đoán mạnh mẽ rằng hai cô cậu đang khéo léo che giấu tình cảm nồng cháy của mình. Sau một thời gian, Kunta quyết định là chẳng có gì hại trong việc Nâuơ và Kitzi dạo chơi trò chuyện công khai với nhau; trong việc anh ta theo cô đến nơi họp trại hay các cuộc nhảy múa nhộn nhạo tổ chức mỗi năm một lần vào mùa hè, ở đó kết đôi với Nâuơ chắc chắn phải hơn là với một gã lạ mặt sỗ sàng nào đó. Thật vậy, có khả năng là sau khoảng một vụ mưa nữa, Nâuơ thậm chí có thể biến Kitzi thành một cô dâu tốt cũng nên.

Trong Kunta, hé lên một nhận thức là Nâuơ đã bắt đầu quan sát ông cũng chặt chẽ như bên phía ông và giờ đây Kunta bồn chồn dự tiên rằng cu cậu đang cố thu hết sức lực thần kinh để xin cưới Kitzi. Vào một buổi chiều chủ nhật đầu tháng tư - mexừ Uolơ đã mời một gia đình khách về nhà sau buổi lễ chầu ở nhà thờ và Kunta đang đánh bóng chiếc xe của khách bên ngoài chuồng ngựa thì một thứ linh tính bảo ông ngước nhìn lên và ông thấy gã Nâuơ đen bóng và thon thả đang xuôi theo con đường từ xóm nô, quả quyết đi tới.

Đến chỗ Kunta, Nâuơ nói không chút ngập ngừng, như thể lời lẽ đã được ôn tập nhiều lần: "Bác già, chỉ có mỗn một mình bác là cháu cảm thấy tin được thôi. Cháu phải nói mới một người nào đó. Cháu không thể sống dư thế này nữa. Cháu phải chạy trốn thôi".

Kunta sửng sốt đến nỗi mới đầu ông không thể nghĩ ra điều gì để nói - ông chỉ biết đứng ngây ra đó nhìn Nâuơ trừng trừng.

Cuối cùng, Kunta thốt ra được mấy tiếng: "Mầy không được chạy đâu với Kitzi!" Đó không phải là một câu hỏi, mà là một tuyên bố!

"Không bác ạ, cháu đâu có muốn đưa cô í vào vòng rắc rối".

Kunta cảm thấy bối rối. Sau một lát, ông nói một cách lửng lơ: "Tau cho rằng ai cũng có lúc cảm thấy muốn chạy".

Nâuơ rõi nhìn vào mắt ông: "Kitzi bỉu cháu là cô Bel kể bác đã chạy trốn bốn lần".

Kunta gật đầu, mặt vẫn không lộ vẻ gì là đang nhớ lại về bản thân mình ở tuổi này, chân ướt chân ráo tới đây với nỗi ám ảnh tột cùng: chạy trốn, chạy trốn, chạy trốn, đến nỗi mỗi ngày chờ đợi, rình ngóng cơ hội sắp tới, dù chỉ được nửa phần thuận lợi, đều là một cực hình không chịu nổi. Vụt cái, một nhận thức ập đến trong đầu ông: Nếu Kitzi không biết ý đồ của Nâuơ - như câu nói vừa nãy của gã có thể diễn giải vậy - thì khi người yêu đột nhiên biến mất, chắc chắn cô sẽ sụp hoàn toàn - không mấy lâu sau nỗi buồn tan nát lòng liên quan đến đứa con gái tubốp. Ông nghĩ quả là vô phương. Ông nghĩ là, vì nhiều lý do, bất kể điều gì ông sắp nói với Nâuơ đều phải được cân nhắc cẩn thận.

Ông nghiêm nghị nói: "Tau không bỉu mầy chạy hay không chạy. Cơ mà nếu mầy chưa sẵn sàng chết, ngộ dư mầy bị bắt, là mầy còn chưa sẵn sàng".

"Cháu không có định bị bắt", Nâuơ nói. "Cháu nghe nói cái chính là mình cứ theo sao Bắc đẩu, rồi có người da trắng Quêicơ khác mấy các nhọ tự do giúp mình trốn ban ngày. Thế rồi một khi đến cái bang Ôhaiô í là mình tự do thôi".

Nó chả biết gì cả, Kunta nghĩ thầm. Làm sao việc tẩu thoát lại có thể đơn giản đến thế được? Nhưng rồi ông hiểu ra là Nâuơ còn trẻ - như ông dạo xưa, rằng cũng như phần đông nô lệ, Nâuơ ít khi đặt chân ra ngoài địa phận đồn điền. Chính vì thế mà phần lớn những kẻ chạy trốn, đặc biệt là cánh lực điền, thường bị túm sớm đến thế, sau khi bị gai góc cào tướp máu, đói gần chết và thất thểu trong rừng cùng những đầm lầy nhung nhúc rắn hổ mang và rắn chuông. Vụt cái, Kunta nhớ lại cảnh chạy trốn, bầy chó, những cây súng, những ngọn roi - cái rìu.

"Mầy chẳng biết mầy đang nói gì đâu, thằng nhỏ ạ!" ông rít lên, nói rồi lại hối luôn, gần như cùng một lúc. "Tau muốn nói là... cái đó không dễ dư thế đâu! Mầy có biết gì về dững con chó săn họ dùng để bắt mầy không?".

Bàn tay phải của Nâuơ luồn vào túi và rút ra một con dao. Gã mở ra đánh tách, lưỡi dao được mài sắc đến độ ánh lên lờ mờ. "Cháu hình dong là chó đã chết thì chả ăn thịt được ai". Catô đã nói là Nâuơ không biết sợ gì cả. "Cháu không thể để cái gì ngăn mình lại, thế thôi". Nâuơ nói, gập dao lại và bỏ vào túi.

"Ờ, nếu mầy chạy thì mầy sẽ chạy", Kunta nói.

"Cháu không biết đích xác bao giờ", Nâuơ nói. "Chỉ biết là cháu phải đi thôi".

Kunta lại nhấn mạnh lần nữa một cách vụng về: "Mầy bảo đảm sao cho Kitzi đừng có dính gì vào đấy".

Nâuơ không có vẻ gì là bất bình. Anh đàng hoàng nhìn thẳng vào mắt Kunta. "Không, bác ạ". Anh ngập ngừng: "Dưng khi đến miền Bắc cháu định làm việc và mua cho cô í tự do". Anh dừng một lát. "Bác chớ nói gì mấy cô í về chuyện này nhá!".

Bây giờ đến lượt Kunta ngập ngừng. Rồi ông nói: "Cái í là chuyện mầy mấy nó".

"Cháu sẽ nói mấy cô í vào đúng thì đúng lúc", Nâuơ nói.

Bằng một cử chỉ bồng bột, Kunta đưa cả hai tay nắm lấy tay gã trai trẻ. "Tau hy vọng mầy đạt được".

"Thôi, tạm biệt bác!" Nâuơ nói và quay mặt đi trở về xóm nô.

Đêm ấy, ngồi trong phòng ngoài căn lều, đăm đăm nhìn ngọn lửa thắp của khúc gỗ hồ đào cháy trong lò sưởi. Kunta mang một sắc diện xa vắng khiến cả Bel và Kitzi; dựa vào kinh nghiệm trước đây, đều biết là đừng có nhọc công vô ích tìm cách gợi chuyện ông. Bel lặng lẽ đan. Kitzi, như thường lệ, gò lưng trên bàn tập viết. Rạng đông, Kunta quyết định xin Chúa Ala phù hộ cho Nâuơ may mắn. Ông lại một lần nữa nghĩ rằng nếu Nâuơ bỏ đi thật, điều đó hẳn sẽ làm tan nát lòng tin của Kitzi vốn đã bị "mămzen" An làm tổn thương nặng nề. Ông ngước lên và ngắm khuôn mặt cô con gái quý Kitzi đang lặng lẽ mấp máy môi theo ngón tay lần suốt chiều ngang trang giấy. Cuộc sống của những người da đen trên đất tubốp xem ra đầy khổ đau, nhưng ông ước sao mình có thể tránh cho con gái phần nào.

Chương 83

Một tuần sau dịp sinh nhật lần thứ mười sáu của Kitzi, sáng sớm ngày thứ hai đầu tiên của tháng mười, các lực điền ở xóm nô đang tập hợp theo lệ thường để đi làm thì chợt có người tò mò hỏi: "Nâuơ đâu nhỉ? "Tình cờ lúc ấy Kunta đang đứng nói chuyện với Catô ở gần đấy, ông biết ngay là Nâuơ chuồn rồi. Ông thấy những cái đầu nghiêng nghé nhìn quanh trong đó có cả Kitzi gắng làm ra bộ kinh ngạc một cách tự nhiên. Luồng mắt hai cha con gặp nhau - cô phải nhìn đi chỗ khác.

"Tui tưởng nó ra đấy mấy anh từ sớm", Ađa, mẹ Nâuơ, nói với Catô.

"Không, tui đã định cho nó một trận vì tội ngủ trưa mà", Catô nói. Catô đến nắm tay đập thình thình vào cánh cửa đóng kín của căn lều trước đây là chỗ ở của ông lão làm vườn, mà Nâuơ mới thừa kế vào dịp sinh nhật lần thứ mười tám. Giựt toang cửa, Catô lao vào, giận dữ quát: "Nâuơ!" Anh trở ra, vẻ lo lắng. "Cái thằng lạ thật!" anh bình tĩnh nói. Rồi ra lệnh cho mọi người nhanh chóng đi lục soát các lều, nhà tắm, nhà kho, cánh đồng.

Tất cả những người khác chạy tản đi khắp phía; Kunta tình nguyện sục tìm ở chuồng ngựa. "NÂUƠ! NÂUƠ!" ông gọi to nhằm báo hiệu cho kẻ nào có thể nghe thấy, mặc dù ông biết không cần phải làm thế, trong khi những con vật trong khoang ngừng nhai mẻ cỏ khô buổi sáng, giương mắt ngỡ ngàng nhìn ông. Rồi nghé mắt qua cửa chuồng, không thấy ai tới, Kunta vội vã quay trở vào, leo nhanh lên vựa cỏ khô, ở đây ông phủ phục xuống cầu nguyện lần thứ hai xin Chúa Ala phù hộ cho Nâuơ trốn thoát.

Catô lo lắng phái số lực điền còn lại đi làm, bảo họ là chút xíu nữa anh và bác vĩ cầm sẽ ra ngay; bác vĩ cầm đã khôn ngoan tình nguyện giúp việc làm đồng từ khi mất khoản thu nhập bằng việc kéo đàn ở các cuộc khiêu vũ.

"Chắc nó chạy rồi", bác vĩ cầm thì thào với Kunta khi họ đứng ở sân sau.

Thấy Kunta hầm hừ, Bel nói: "Nó chưa bao giờ vắng mặt và nó không lủi đêm đâu".

Thế rồi Catô nói ra cái điều thiết yếu nhất trong trí tất cả mọi người. "Đến phải trình mấy ông chủ thôi, lạy Chúa lòng lành!" Sau một cuộc tham khảo ý kiến vội vàng, Bel khuyên là để mexừ Uolơ điểm tâm xong hẵng thưa, "ngộ nhỡ thằng nhỏ chỉ xả hơi ở đâu đó, rồi đâm hoảng không dám lẻn về trước khi trời tối, sợ bọn tuần cha đường bắt".

Bel bưng cho ông chủ những món điểm tâm ưa thích - đào hộp trộn kem đặc, giăm bông sấy bằng gỗ hồ đào, trứng bác, yến mạch lứt, hương táo hâm nóng và bánh bơ tròn dúng nước sữa - và chờ cho ông gọi tách cà phê thứ hai rồi mới nói.

"Thưa ông..." bà nuốt đánh ực "... thưa ông, Catô nhờ tui thưa mấy ông hình dư thằng nhỏ Nâuơ sáng nay không có đây ạ!"

Ông chủ đặt tách cà phê xuống, cau mày. "Vậy thì nó đâu? Nhà chị định nói với tôi là nó đi đâu uống rượu say mềm hoặc mò gái và chị cho rằng hôm nay nó sẽ lén về, hay là chị nghĩ nó tìm cách chạy trốn?"

"Thưa ông chủ, bọn tui chỉ nói", Bel run rẩy, "là xem dư nó không có đây và bọn tui đã lùng sục khắp nơi".

Mexừ Uolơ ngắm nghía tách cà phê. "Tôi sẽ hạn cho nó đến đêm nay - không, đến sáng mai - trước khi tôi ra tay hành động".

"Thưa ông chủ, nó là một thằng nhỏ tốt, sinh ra và được nuôi nấng ngay tại đây, trên đất của ông, cả đời nó làm việc tốt, không bao giờ gây một phút rối ren cho ông hay bất kỳ ai...".

Ông nhìn thẳng vào Bel: "Nếu nó định trốn thì nó sẽ phải hối".

"Vâng, thưa ông chủ". Bel chạy ù ra sân, kể cho những người khác những điều ông chủ vừa nói. Nhưng Catô và bác vĩ cầm vừa hối hả đi về phía cánh đồng, mexừ Uolơ đã gọi Bel trở lại và bảo cho chuẩn bị xe.

Cả ngày, trong khi đánh xe cho ông ta từ nhà bệnh nhân này sang nhà bệnh nhân khác, Kunta cứ bay bổng từ hoan hỉ - khi nghĩ đến Nâuơ chạy trốn - đến quằn quại khi nhớ lại những gai góc, bụi rậm và bày chó. Và ông cảm thấy là Kitzi đang trải qua những nỗi hy vọng và đau đớn như thế nào.

Đêm ấy, khi xúm xít lại với nhau, ai nấy đều nói rất khẽ, gần như thì thầm.

"Thằng nhỏ í đã bỏ đây đi rồi. Trước đây, tui đã nhìn thấy cơ sự này trong mắt nó", thím Xuki nói.

"Ờ, tui biết nó chả phải đồ trẻ dại chỉ tính chuyện lén đi uống rượu cho say", bà chị Manđi nói.

Ađa, mẹ Nâuơ, khóc cả ngày đã khan tiếng. "Thằng bé nhà tui rành là chả bao giờ nói mấy tui về chuyện chạy trốn cả! Lạy Chúa, các ông các bà xem liệu rồi ông chủ có bán nó đi không?" Không ai dám trả lời.

Khi trở về lều, vừa vào đến bên trong, Kitzi đã òa khóc; Kunta cảm thấy bất lực, lưỡi líu lại như bị cột chặt. Nhưng chẳng nói một câu, Bel đến gần bàn, quàng tay ôm cô con gái đang nức nở và kéo đầu cô áp vào bụng mình.

Sáng thứ ba, vẫn không thấy tăm hơi Nâuơ, và mexừ Uolơ sai Kunta đánh xe cho mình lên quận lỵ, tại đó ông đến thẳng nhà giam quận Xpotxylvania. Sau khoảng nửa tiếng, ông trở ra cùng với quận trưởng cảnh sát, đột ngột ra lệnh cho Kunta buộc ngựa của quận trưởng cảnh sát vào sau xe, rồi đưa họ về. "Ta sẽ thả ông quận trưởng cảnh sát xuống lộ thung lũng", ông chủ nói.

"Dạo này bọn nhọ chạy trốn nhiều đến nỗi khó mà đếm xuể - chúng nó thà liều náu cầu may trong rừng còn hơn là bị bán xuống miền Nam..." quận trưởng cảnh sát nói khi xe bắt đầu lăn bánh.

"Từ khi tôi có đồn điền đến nay" mexừ Uolơ nói, "Tôi chưa bao giờ bán một tên người làm nào trừ phi có kẻ phá lệ luật của tôi và chúng biết rõ điều đó".

"Nhưng thưa bác sĩ, họa hoằn lắm mới có tên nhọ biết đánh giá các ông chủ tốt, ngài biết đấy", quận trưởng cảnh sát nói: "Ngài bảo thằng ấy khoảng mười tám tuổi phải không ạ? Phải, tôi đoán nó cũng giống như phần lớn bọn lực điền cỡ tuổi nó, nhiều phần là nó định lên miền Bắc". Kunta cứng người lại. "Nếu nó là một tên nhọ hầu hạ trong nhà, thì bọn này thường thường bẻm mép, nhanh mồm nhanh miệng, chúng thích giả bộ là dân nhọ tự do hoặc giả nói dối bọn tuần tra đường là chúng đi công cán cho chủ, đánh mất giấy thông hành, tìm cách tới được Richmơnđ hoặc một thành phố nào khác, ở đó chúng có thể lẩn vào đám đông nhọ dễ dàng hơn và có khi tìm được việc làm nữa". Quận trưởng cảnh sát dừng một lát. "Ngoài mẹ nó ở chỗ ngài, cái thằng nhỏ ấy có ai thân thích khác ở đâu đó mà nó có thể tìm đến không?".

"Không có ai, theo chỗ tôi biết".

"À, thế ngài có biết liệu nó có vớ được con bé nào ở đâu đó, bởi vì cái đám hoẵng đực mới lớn ấy đang căng nhựa, dậm dà dậm dựt, thấy hơi gái là chúng bỏ mặc la lừa của ngài giữa đồng mà phới liền.

"Theo tôi biết thì không", ông chủ nói. "Nhưng ở chỗ tôi, có một con bé, con mụ nấu bếp của tôi, còn trẻ măng, khoảng mười lăm, mười sáu gì đó, nếu tôi đoán không lầm. Tôi không biết hai đứa có vụng trộm đưa nhau vào đụn rơm đụn rạ gì hay không?

Kunta gần như nghẹn thở.

"Tôi biết có những đứa mười hai tuổi đã bĩnh ra tí nhau đen", quận trưởng cảnh sát cười hềnh hệch. Bọn gái nhọ ấy, khối đứa hấp dẫn cả đàn ông da trắng, và bọn con trai nhọ sẵn sàng làm mọi sự!"

Phẫn uất sôi sục, Kunta nghe thấy giọng mexừ Uolơ đột nhiên lạnh băng. "Tôi hết sức hạn chế tiếp xúc cá nhân với các nô lệ của tôi đến mức tối thiểu và không biết cũng như không quan tâm đến chuyện riêng tư của họ!"

"Dạ, dạ, tất nhiên", quận trưởng cảnh sát vội vàng nói.

Nhưng rồi giọng ông chủ dịu đi: "Tuy nhiên, theo cách nghĩ của ông thì thằng nhỏ này có thể lẻn đi gặp một đứa con gái ở đồn điền nào khác. Tôi không biết và tất nhiên đám kia dù có biết cũng chẳng nói ra. Trên thực tế, mọi sự đều có thể xảy ra - có khi là một cuộc ẩu đả nào đó; nó có thể sống dở chết dở ở đâu đấy. Thậm chí cũng có thể là một tên nào trong số da trắng nghèo chuyên đánh cắp nô lệ đã vớ được nó cũng nên. Điều đó đang tiếp diễn ở quanh đây, như ông biết đấy; thậm chí một số lái buôn võ sĩ cũng tham gia vào chuyện này. Cả về điểm này, tôi cũng không biết chắc. Nhưng người ta nói với tôi đây là lần đầu tiên thằng nhỏ này vắng mặt".

Tác phong lúc này đã thận trọng hơn, quận trưởng cảnh sát nói: "Ngài vừa nói với tôi là nó sinh ra ở chỗ ngài và chưa hề đi đâu xa?".

"Tôi đồ rằng thậm chí nó không biết đi đường nào để đến Richmơnđ, chứ chưa nói chi đến miền Bắc", ông chủ nói.

"Tuy nhiên, bọn nhọ trao đổi với nhau vô khối thông tin", quận trưởng cảnh sát nói. "Chúng tôi đã bắt được một số và đánh đến phải khai ra rằng coi như chúng mang trong đầu những bản đồ chỉ rõ nên chạy đâu và trốn ở đâu, theo lời chúng được mách bảo. Hàng loạt chỉ dẫn như thế có thể truy nguồn gốc xuất phát từ đám da trắng yêu dân nhọ như các hội Quâycơ và Giám lý. Nhưng vì thằng này chưa bao giờ tìm cách chạy trốn và cho đến nay chưa hề gây cho ngài chuyện rắc rối nào khác, nên tôi thấy có thể cuộc là chỉ hai đêm nữa trong rừng sẽ khiến nó phải mò về, gần chết vì sợ và đói. Với một thằng nhọ, động lực mạnh mẽ là một cái bụng đói. Và như vậy, ngài sẽ đỡ phải bỏ tiền đăng bố cáo ở Gazét hoặc thuê mấy tên chuyên nghề bắt nhọ mang chó đi truy tầm nó. Theo kinh nghiệm của tôi, xem ra nó không giống cái bọn nhọ sừng sỏ ngoài vòng pháp luật hiện vẫn thậm thụt ra vào các vùng đầm lầy, rừng rú, giết gia súc và lợn của dân chúng như giết thỏ".

"Tôi hy vọng là ông nói đúng", mexừ Uolơ nói, "nhưng dù sao đi nữa, tiên chưng là nó đã phá luật lệ của tôi bằng cách bỏ đi mà không được phép, nên tôi sẽ bán nó xuống miền Nam ngay lập tức", Kunta bóp chặt dây cương đến nỗi móng tay bấm sâu vào lòng bàn tay. "Vậy là ngài đang lỏng tay để cho một khoản từ nghìn hai đến nghìn rưởi đôla chạy rông đâu đó" quận trưởng cảnh sát nói. "Ngài đã viết mô tả hình dáng, đặc điểm của nó tôi sẽ bảo đảm chuyển tới bọn tuần tra đường của quận và nếu chúng tôi bắt được nó - hoặc nghe tin gì - tôi sẽ báo cho ngài biết ngay".

Sáng thứ bảy, sau bữa điểm tâm, Kunta đang chải cho một con ngựa bên ngoài chuồng thì chợt nghe như có tiếng tu huýt của Catô. Ông nghênh nghênh đầu và lại nghe thấy hồi nữa. Ông vội vàng buộc ngựa vào một cái cọc gần đấy và tập tễnh bước rảo trên con đường về lều. Từ cửa sổ đằng trước, ông có thể nhìn thấy hầu như bao quát từ chỗ đường cái cắt ngang lối xe chạy về đại sảnh. Ông biết hiệu còi của Catô cũng đã báo động cho Bel và Kitzi trong đại sảnh.

Thế rồi ông trông thấy chiếc xe lăn bánh trên lối vào - và thất kinh nhận ra viên quận trưởng cảnh sát nắm dây cương. Lạy Chúa Ala từ bi, phải chăng Nâuơ đã bị bắt? Trong khi theo dõi quận trưởng cảnh sát xuống xe, bản năng được rèn luyện bao lâu của Kunta thúc ông mau chạy ra cho con ngựa mệt đứt hơi của khách uống nước và xoa bóp cho nó, nhưng tựa hồ ông đã bị tê liệt ở nơi ông đứng ngó trân trân qua cửa sổ lều, trong khi viên quận trưởng cảnh sát hối hả bước hai bậc một lên thềm đại sảnh.

Chỉ mấy phút sau, Kunta trông thấy Bel gần như loạng choạng lao ra cửa sau. Bà bắt đầu chạy - và một dự cảm khủng khiếp bóp lấy tim Kunta ngay trước lúc bà gần như giựt phăng cánh cửa lều khỏi bản lề.

Mặt bà rúm ró, vằn vèo vệt nước mắt. "Quận trưởng cảnh sát mấy ông chủ tra hỏi Kitzi" bà tru lên.

Câu nói làm ông tê điếng. Trong một lúc ông chỉ trừng trừng nhìn bà, vẻ không tin, nhưng rồi, túm lấy bà lắc thật mạnh, ông hỏi: "Hắn í mún gì?".

Giọng thé lên, nghẹn lại, vỡ ra, bà cố kể cho ông nghe rằng quận trưởng cảnh sát vừa vào nhà một tí, ông chủ đã hét lớn gọi Kitzi đang dọn buồng ông trên gác, xuống ngay. "Khi tui nghe thấy ông í la lối mấy nó từ nhà bếp, tôi ù té vào hành lang phòng khách, chỗ tui vẫn đứng nghe trộm, dưng tui không thể hiểu ra cái gì rõ ràng, trừ một điều là ông í đang tức điên"... Bel hào hển và nuốt khan. "Rồi lại nghe thấy ông chủ rung chuông gọi tui và tui chạy về để làm như thể từ nhà bếp tới. Dưng ông chủ lại đang đợi ở cửa ra vào, tay nắm quả đấm cửa đằng sau mình. Chưa bao giờ thấy ông í có cái vẻ giống dư ông í nhìn tui lúc bấy giờ. Ông í lạnh dư băng biểu tôi ra khỏi nhà và cứ ở ngoài đến khi nào có người gọi!" Bel đi đến khung cửa sổ nhỏ, đăm đăm nhìn ngôi đại sảnh, không thể tin rằng điều mình vừa nói đã xảy ra thật sự "Lạy Chúa, quận trưởng cảnh sát muốn gì con tui?" bà hỏi, nghi nghi hoặc hoặc.

Tâm trí Kunta đang quờ quạng tuyệt vọng, cố tìm cái gì để làm. Liệu ông có thể chạy ra đồng, ít nhất cũng là để báo động cho những người đang làm việc ở đó? Nhưng linh tính của ông bảo rằng mọi chuyện đều có thể xảy đến trong lúc ông đi khỏi.

Trong khi Bel đi qua rèm vào buồng ngủ, gào đến vỡ phổi cầu xin đức Chúa Jêxu, ông phải ráng hết sức mới kiềm chế nổi mình khỏi lồng lộn lao theo vào mà hét rằng giờ đây hẳn bà đã thấy rõ những gì ông đã ra công nói với bà trong gần bốn mươi vụ mưa về cái nỗi quá khờ khạo đi tin tưởng hão vào lòng tốt của ông chủ - hoặc bất cứ tubốp nào khác - để rồi bị lừa trắng mắt ra.

"Phải quay lại đấy!" đột nhiên Bel kêu lên. Bà lao qua rèm và ra khỏi cửa.

Kunta nhìn theo bà khuất vào trong nhà bếp. Bà định làm gì đây? Ông chạy ra đuổi theo bà và nghé nhìn qua tấm cửa che. Nhà bếp vắng tanh và cửa trong sập đóng lại. Ông vào, rón rén đi ngang qua bếp. Đứng đó, một tay đặt lên cửa, tay kia nắm chặt, ông căng tai ra ngóng từng tiếng động nhỏ nhất - nhưng chỉ nghe thấy có tiếng thở hổn hển của chính mình. Thế rồi ông nghe thấy: "Ông chủ?" Bel gọi khẽ. Không có ai trả lời. "Mexừ?", bà lại gọi, lần này to hơn, gay gắt. Ông nghe thấy cửa phòng khách mở ra.

"Kitzi của tui đâu, mexừ?"

Ông ta nói, vẻ chai đá. "Chúng ta không thể để một đứa nữa chạy trốn".

"Tui quả không hiểu nổi ông, thưa ông chủ", Bel nói nhỏ đến nỗi Kunta phải cố hết sức mới nghe rõ. "Con bé hồ dư không ra khỏi sân của ông".

Ông chủ bắt đầu nói cái gì, rồi lại ngưng bặt. "Có thể là chị thực sự không biết nó đã làm gì", ông ta nói. "Thằng nhỏ Nâuơ đã bị bắt, nhưng trước đó, nó đã đâm trọng thương hai người tuần tra đường bắt bẻ nghi vấn chiếc giấy thông hành giả nó mang theo. Sau khi bị đánh gục bằng vũ lực, cuối cùng nó đã thú nhận rằng giấy thông hành không phải do tôi mà do con gái chị viết. Kitzi đã thừa nhận như vậy với ông quận trưởng cảnh sát".

Im lặng một hồi lâu tê tái, rồi Kunta nghe thấy một tiếng thét và những tiếng chân chạy. Khi ông mở phanh cửa, Bel lao như tên bắn qua mặt ông - gạt ông sang bên với sức mạnh của một người đàn ông - và vụt ra cửa sau. Hành lang vắng tanh, cửa phòng khách đóng. Ông chạy ra theo sau bà, đến cửa lều thì đuổi kịp.

"Ông chủ sắp bán Kitzi, tui biết!" Bel bắt đầu la thét và một cái gì đứt phựt trong ông. "Phải đi giành lấy nó!" ông nghẹn ngào nói và tập tễnh lao về phía đại sảnh, vào nhà bếp, cố chạy nhanh hết sức mình, theo sau không xa là Bel. Tức điên người, ông giựt toang cửa trong và xăm xăm chạy dọc hành lang vắng ngắt.

Ông chủ và viên quận trưởng cảnh sát xoay hẳn người lại, mặt lộ vẻ nghi hoặc, khi cửa phòng khách bật mở tung. Kunta dừng phắt lại đó, đôi mắt cháy rực, đằng đằng sát khí. Bel thét lên đằng sau ông: "Con bé của bọn tui đâu? Vợ chồng tui đến đòi nó!"

Kunta thấy tay phải viên quận trưởng cảnh sát luồn tới bao súng trong khi ông chủ sôi lên: "Cút ra!"

"Đồ nhọ các ngươi điếc lòi hử?" Bàn tay viên quận trưởng cảnh sát đang rút khẩu súng lục và Kunta căng người định chồm tới giằng lấy - đúng lúc giọng Bel run lên đằng sau ông: "Dạ, thưa ông..." - và ông cảm thấy bà kéo tay ông một cách tuyệt vọng. Thế rồi chân ông chuyển động giật lùi qua cửa - và đột nhiên cánh cửa đóng sầm đằng sau họ, tiếng khóa lách cách trong ổ.

Trong khi ngồi thu lu với vợ ngoài hành lang, chìm ngợp trong nỗi nhục, họ nghe thấy ông chủ và viên quận trưởng cảnh sát rì rầm nói chuyện căng thẳng... rồi tiếng chân chuyển động, xô đẩy nhẹ... rồi tiếng Kitzi khóc và tiếng cửa trước đóng đánh sầm.

"Kitzi! Kitzi con! Lạy Đức Chúa Lời, xin đừng để họ bán Kitzi của con!" Bel đâm bổ ra lối cửa sau với Kunta theo sau lưng, những tiếng la thét của bà vọng ra đến chỗ đám lực điền khiến họ chạy tới. Catô tới vừa kịp nhìn thấy Bel điên cuồng tru tréo, chồm lên vật xuống trong khi Kunta cố ghì bà xuống đất. Mexừ Uolơ bước xuống các bậc thềm, trước viên quận trưởng cảnh sát đang kéo theo ở đầu chuỗi dây xích một Kitzi khóc sướt mướt, kéo co mình về đằng sau.

"Mẹ! Mẹẹẹẹẹẹ!" Kitzi gào lên.

Bel và Kunta từ dưới đất chồm dậy và lồng lên chạy vòng sườn nhà, lao tới như hai con sư tử. Viên quận trưởng cảnh sát rút súng, chĩa thẳng vào Bel: bà dừng phắt lại. Bà nhìn Kitzi trừng trừng. Bel rứt câu hỏi ra khỏi họng: "Con có làm cái việc họ nói không?" Họ nhìn vẻ đau đớn của Kitzi trong khi đôi mắt khóc đỏ hoe của cô trả lời một cách câm lặng - phóng tia nhìn từ Bel và Kunta sang quận trưởng cảnh sát và ông chủ - nhưng không nói gì.

"Ôi, lạy Chúa tôi!" Bel rú lên. "Ông chủ, xin hãy rủ lòng thương! Nó không chủ làm thế! Nó không có biết mình làm gì! "mămzen" An là người dạy nó viết!".

Mexừ Uolơ nói lạnh như băng: "Pháp luật là pháp luật. Nó đã phá luật lệ của tôi. Nó đã phạm một tội ác. Có thể nó đã góp phần vào một vụ giết người. Tôi nghe nói một trong những người da trắng ấy có thể chết".

"Nào con bé nó có đâm người í đâu, ông chủ, nó đã làm việc cho ông từ khi nó đủ nhớn để mang bô cho ông. Còn tui đã nấu nướng, hầu hạ tay chân cho ông hơn bốn mươi năm nay, và anh í..." khoa tay chỉ vào Kunta, bà lắp bắp, "anh í đánh xe chở ông đi khắp nơi khắp chốn, cũng gần lâu dư thế, ông chủ, tất cả những cái í chả nhẽ lại không đáng kể vào đâu hay sao?"

Mexừ Uolơ không muốn nhìn thẳng vào bà. "Các người làm công việc của mình. Còn nó sẽ bị đem bán - có thế thôi".

"Chỉ có dững người da trắng hạng rẻ mạt lớp dưới mới chia sẻ gia đình người ta!" Bel thốt lên. "Ông không phải loại í".

Giận dữ, mexừ Uolơ ra hiệu cho quận trưởng cảnh sát bắt đầu lôi xềnh xệch Kitzi một cách thô bạo về phía chiếc xe chở.

Bel chặn ngang đường họ. "Vậy thì bán cả tui và bố nó cùng với nó luôn thể! Đừng có chia cắt chúng tui!"

"Xê ra!" Quận trưởng cảnh sát miệng sủa, tay đẩy rúi bà sang bên. Gầm lên, Kunta chồm tới như một con báo, vung hai trái đấm nện viên quận trưởng cảnh sát ngã xuống đất.

"Cứu con với, Fa!" Kitzi thét lên. Ông ghì chặt quanh thân cô và bắt đầu điên cuồng giựt dây xích.

Khi báng khẩu súng lục của viên quận trưởng cảnh sát nện vào phía trên tai Kunta, đầu ông như nổ tung trong khi ông quỵ hai đầu gối xuống. Bel lao tới viên quận trưởng cảnh sát, nhưng hắn vung tay gạt bà mất thăng bằng ngã phịch xuống trong khi hắn đẩy Kitzi vào sau xe và đóng khóa đánh tách vào dây xích. Nhanh nhẹn nhảy tót lên ghế ngồi, quận trưởng cảnh sát ra roi quất ngựa và chiếc xe lắc lư chuyển bánh về phía trước trong khi Kunta lồm cồm bò dậy. Mắt hoa, đầu đập thình thình, bất chấp súng, ông loạng choạng đuổi theo chiếc xe chở đang tăng tốc độ.

"Mămzen An!... Mămzen Annnnnnnnnn! Kitzi kêu thất thanh. "Mămzen Annnnnnnn!" Những tiếng gào vọng lại hoài không dứt, như lơ lửng trên không trung đằng sau chiếc xe đang lăn bánh nhanh về phía đường cái.

Khi Kunta bắt đầu vấp rúi rụi, hồng hộc thở không ra hơi, chiếc xe đã đi cách nửa dặm; ông dừng lại, đứng nhìn theo một lúc lâu cho đến khi bụi đã lắng xuống và con đường trải ra vắng tanh đến cuối tầm mắt ông.

Ông chủ quay lưng và đầu cúi gằm, bước rất nhanh trở vào nhà, qua trước mặt Bel đang rúm người nức nở trên bậc thềm cuối cùng. Như người mộng du, Kunta chậm chạp bước tập tễnh lộn về trên đường xe chạy - chợt trong óc ông lóe lên một hồi ức và đến gần đại sảnh, ông cúi xuống bắt đầu nghiêng ngó quanh. Xác định những vết rõ nhất do đôi chân trần của Kitzi để lại trên lớp bụi, rồi vốc lấy những nốt chân đó đầy hai lòng bàn tay, ông chạy ù về lều: tổ tiên xưa bảo rằng nắm bụi quý đó cất giữ ở một nơi chắc chắn sẽ bảo đảm cho Kitzi trở về nơi cô đã in dấu chân. Ông lao qua cửa lều mở sẵn, đôi mắt lướt nhanh khắp phòng và dừng lại trên quả bầu đựng những hòn sỏi đặt trên một cái giá. Nhẩy bổ tới đó, trong cái khoảnh khắc trước khi buông rời hai bàn tay chụm lại cho bụi rơi vào trong quả bầu, ông bỗng hiểu ra sự thật: Kitzi của ông đi rồi, nó sẽ không trở lại. Ông sẽ chẳng bao giờ gặp lại Kitzi của ông nữa.

Mặt rúm lại, Kunta tung mớ bụi lên phía nóc lều. Nước mắt tóe ra, tay vớ lấy quả bầu nặng giơ lên trên đầu, miệng há rộng trong một tiếng thét câm lặng, ông dồn hết sức ném quả bầu xuống và nó vỡ tan tành trên nền đất nện, 662 hòn sỏi tượng trưng cho ngần nấy tháng của 55 vụ mưa đời ông bay tung tóe, thia lia khắp nơi.

Chương 84

Lở lả và choáng váng, Kitzi nằm trong bóng tối trên mấy chiếc bao tải trong căn lều cô đã bị đẩy vào khi chiếc xe la tới, sau lúc trời sẩm tối một chút. Cô mơ hồ tự hỏi lúc này là mấy giờ; dường như đêm kéo dài bất tận. Cô bắt đầu trằn trọc và vặn mình, cố tự ép mình nghĩ đến một cái gì - bất cứ cái gì không làm cô khiếp sợ. Cuối cùng, có dễ đến lần thứ một trăm, cô gắng tập trung tư tưởng để hình dung ra cách thức làm sao lên được miền Bắc, nơi mà người da đen có thể tìm thấy tự do nếu trốn thoát, như cô đã được nghe kể bao lần. Nếu đi lạc đường, cuối cùng khéo lại dấn sâu xuống phía Nam, ở đó, theo người ta nói, các ông chủ và xúbadăng lại còn tệ hơn cả mexừ Uolơ nữa kia. Đường nào "lên Bắc"? Cô không biết. Dù sao, mình cũng sẽ trốn, cô xót xa thề một cách quyết liệt.

Tựa hồ có một cái kim đâm vào sống lưng Kitzi, cô nghe thấy tiếng cọt kẹt đầu tiên của cửa lều. Vùng đứng thẳng dậy và giật lùi trong đêm tối, cô trông thấy bóng người lén lút vào tay khum khum che ngọn lửa của một cây nến. Bên trên đó, cô nhận ra bộ mặt của gã da trắng đã mua cô, và cô nhìn thấy tay kia của hắn lăm lăm một chiếc roi cán ngắn sẵn sàng quật xuống. Nhưng chính cái liếc mắt dâm đãng trên mặt gã da trắng mới khiến cô ớn lạnh đứng sững tại chỗ.

"Tau muốn không phải làm mày đau đớn gì," hắn nói, hơi thở nồng nặc mùi rượu làm cô gần như bị ngạt. Cô cảm thấy ý định của hắn.

"Tau không thì giờ đâu mà rỡn với mày bây giờ". Gã da trắng nói líu cả lưỡi. Mắt Kitzi đang tính xem nên vụt qua hắn như thế nào để trốn vào đêm tối - song hắn dường như đọc thấy niềm thôi thúc ấy trong cô, hắn dịch sang bên một chút, mắt không rời khỏi cô trong khi cúi người và nghiêng cây nến cho rỏ giọt xuống mặt chiếc ghế gãy trong lều; rồi ngọn lửa bùng lên thẳng đứng. Chậm chạp lùi từng tí một, Kitzi cảm thấy vai mình cọ vào vách lều. "Mày có đủ trí khôn để hiểu rằng tao là ông chủ mới của mày không?" Hắn quan sát cô, nhăn nhở hệch miệng tựa hồ như mỉm cười. "Mày là một đứa con gái nom dễ coi đấy. Thậm chí tao có thể giải phóng mày, nếu tao ưa mày kha khá...".

Khi hắn chồm tới, nắm lấy Kitzi, cô vùng ra, la hét; hắn cáu tiết chửi thề, quất ngọn roi đánh đét vào gáy cô. "Tau sẽ lột da mày!". Húc tới như hóa dại, Kitzi cào vào bộ mặt rúm ró của hắn, nhưng rồi hắn từ từ dằn mạnh cô xuống sàn. Cô đẩy lên, nhưng lại bị đè xuống. Rồi gã đàn ông quỳ xuống cạnh cô, một tay bóp nghẹt những tiếng kêu thét - "Xin đừng ông chủ, xin ông!" - tay kia tọng bao tải bẩn vào miệng cô kỳ tắc họng. Khi cô chới với hai cánh tay quằn quại đau đớn và uốn cong lưng để hất hắn khỏi mình, hắn bèn dập đầu cô xuống sàn, một lần, lần nữa, lần nữa, lần nữa...

Rạng sáng. Kitzi mở mắt chớp chớp. Cô ngượng chín người khi thấy một phụ nữ trẻ da đen cúi trên mình cô và nhẹ nhàng rấp nước xà phòng ấm lên bộ phận kín của cô bằng một miếng vải. Khi Kitzi lại hé mắt ra lần nữa, cô thấy mặt người đàn bà chẳng lộ vẻ gì hết, như thể chị ta đang giặt quần áo, như thể đó chỉ là một trong nhiều nhiệm vụ chị phải làm trong đời mình. Cuối cùng phủ một chiếc khăn sạch lên hạ bộ Kitzi, chị ta ngước nhìn lên mặt cô. "Chắc bi giờ, mi chả muốn nói chuyện gì", người đàn bà nói nhanh, thu thập những miếng vải bẩn và xô nước, chuẩn bị đi khỏi. Kẹp chặt những thứ đó trong khoeo tay, chị ta cúi xuống lần nữa và tay kia kéo một cái bao tải che gần kín mình Kitzi. "Tí nữa, ta mang cho cái gì mà ăn..." chị ta nói và ra khỏi cửa lều. Kitzi nằm đó mà cảm thấy như mình lơ lửng giữa không trung. Cô cố thuyết phục bản thân rằng cái điều không thể nói ra, không thể tưởng tượng ấy đã không xảy ra thực sự. Cô cảm thấy ô uế sâu sắc, một nỗi nhục không bao giờ xóa sạch. Cô thử thay đổi tư thế, nhưng cái đau như lan ra. Nằm yên không cựa mình, cô quắp chặt chiếc bao tải quanh người như thể chui vào một thứ tổ kén để tránh mọi xúc phạm khác nữa, nhưng lại càng đau già.

Tâm trí Kitzi lướt nhanh trở lại bốn ngày, đêm vừa qua. Cô vẫn hình dung thấy bộ mặt kinh hoàng của bố mẹ, nghe thấy tiếng kêu bất lực của hai người khi cô bị chở vội đi. Cô vẫn cảm thấy như mình đang vật lộn để thoát khỏi gã lái buôn da trắng đã nhận cô từ tay viên quận trưởng cảnh sát quận Xpotxilvania; cô đã suýt lẩn được thoát sau khi xin phép đi đại tiện. Cuối cùng, họ tới một thị xã nhỏ, ở đó, sau hồi lâu mà cả gay go, cò kè bớt một thêm hai, tên lái buôn rốt cuộc đã bán cô cho tay chủ mới này và hắn đợi đêm xuống để hiếp cô. Ơi mẹ! Ơi bố! Giá chỉ việc kêu lên là tới được - nhưng thậm chí bố mẹ giờ cũng không biết cô ở đâu. Và nào ai biết những gì có thể xảy đến với bố mẹ? Cô biết mexừ Uolơ không bao giờ bán người nào thuộc quyền sở hữu của ông "trừ phi họ phá luật lệ của ông". Nhưng bằng cách ngăn ông chủ bán cô, bố mẹ hẳn đã phá hàng loạt những luật lệ đó.

Và còn Nâuơ nữa, Nâuơ giờ ra sao? Bị đánh sống dở chết dở ở một nơi nào đó? Một lần nữa, những hình ảnh sống động lại trong trí Kitzi; Nâuơ giận dữ đòi hỏi rằng, để chứng minh tình yêu của mình, cô phải sử dụng cái tài biết viết để làm giả một cái giấy thông hành cho anh trình ra trong trường hợp bị bọn tuần tra hoặc những tên da trắng đa nghi nào khác trông thấy, ách lại và xét hỏi. Cô nhớ lại vẻ quyết tâm dữ dội hằn rõ trên mặt anh khi anh thề với cô rằng một khi tới miền Bắc, với một ít tiền dành dụm từ một việc làm mà chắc anh sẽ mau chóng kiếm được, "anh sẽ lẻn về đây và lén đưa cả em lên Bắc nữa để chúng mình bên nhau đến trọn đời". Cô lại khóc nức nở. Cô biết mình chẳng bao giờ gặp lại anh nữa. Cũng như bố mẹ. Trừ phi…

Ý nghĩ của cô giật thót lên một hy vọng đột ngột! Từ bé, "mămzen" An đã thề là khi nào cô ta lấy một ông chủ trẻ đẹp, giàu có, nhất định cô ta sẽ chỉ chọn mình Kitzi làm hầu gái riêng, rồi sau đó trông nom cả bầy trẻ trong nhà. Liệu có thể là khi biết Kitzi đã đi khỏi, cô sẽ kỳ kèo xin mexừ Uolơ không? "mămzen" An có thể lay chuyển ông ta hơn bất kỳ ai khác trên đời! Liệu có khả năng là ông chủ đã cử người đi tìm gã lái buôn nô lệ hỏi xem hắn đã bán cô đi đâu để chuộc lại hay không?

Nhưng chẳng bao lâu, một nguồn lũ buồn tủi mới lại dâng ngập Kitzi. Cô nhận ra rằng quận trưởng cảnh sát biết đích xác gã buôn nô lệ là ai, nếu họ muốn thì bây giờ họ ắt đã tìm ra cô rồi! Cô lại càng cảm thấy đời mình bỏ đi không cách gỡ, càng thấy hoàn toàn bơ vơ. Lát sau, khi đã khóc khô nước mắt, cô nằm cầu xin Chúa tiêu diệt cô đi, nếu Người thấy cô đáng tội ấy vì yêu Nâuơ. Cảm thấy chút gì trơn ướt chảy ri rỉ giữa hai bắp đùi, Kitzi biết mình vẫn tiếp tục ra máu. Nhưng cơn đau đã dịu đi chỉ còn giần giật.

Khi cửa lều lại kẽo kẹt mở, Kitzi vùng dậy và giật lùi vào sát tường rồi mới nhận ra đó là người đàn bà nọ. Chị ta mang một cái nồi nhỏ nghi ngút hơi với một cái bát và thìa. Kitzi lại phục xuống sàn đất bẩn trong khi người đàn bà đặt cái nồi lên bàn rồi múc thức ăn vào bát đặt xuống cạnh Kitzi, Kitzi làm như không trông thấy cả thức ăn lẫn người đàn bà ngồi xổm cạnh cô; người này bắt đầu thản nhiên nói chuyện như thể đã quen nhau hàng năm rồi.

"Ta là người nấu bếp ở nhà nhớn. Tên ta là Malizi. Tên mầy là gì?" Cuối cùng, Kitzi cảm thấy ngớ ngẩn nếu không trả lời: "Là Kitzi, thưa cô Malizi".

Người đàn bà ầm ừ ra ý tán thưởng: "Mầy có vẻ có giáo dục đấy". Chị ta liếc nhìn món ninh không đụng đến trong bát. "Ta chắc mầy biết thức ăn để nguội lạnh là không tốt". Cô Malizi này nói năng cũng gần giống như cô Manđi hay bà Xuki vậy.

Ngập ngừng cầm thìa lên, Kitzi nếm món ninh, rồi bắt đầu chậm rãi ăn một chút.

"Mầy mấy tuổi, em?"

"Thưa cô, em mười sáu".

"Tội ông chủ phải xuống địa ngục, chắc chắn dư ông í đã sinh ra vậy", chị Malizi thốt lên gần như thì thầm. Nhìn Kitzi, chị ta nói: "Cần phải nói cho em biết ông chủ này thuộc loại thích phụ nữ nhọ, đặc biệt là dững cô trẻ dư em í. Ông í vẫn thường lôi thôi mấy ta, ta chỉ hơn em độ chín tuổi thôi, cơ mà ông í thôi rồi từ sau khi ông í lấy bà chủ về đây và biến ta thành người nấu bếp, làm việc ngay tại ngôi nhà bà í ở, đội ơn Chúa!". Malizi nhăn mặt. "Chắc rồi mầy sẽ còn phải thấy ông í vào đây thường xuyên đều đặn".

Thấy Kitzi vội đưa tay lên miệng, Malizi nói: "Cưng ạ, em cần hiểu ra rằng em là một nhọ cái. Cái loại người da trắng dư ông chủ, hoặc là em phải chiều theo, hoặc là ông í sẽ làm em phải hối tiếc là đã không chiều theo, thế này hoặc thế kia. Và để ta nói cho em biết, cái ông chủ này là đồ bần tiện nếu trái ý ông. Thật thế, ta chưa từng thấy ai lên cơn tam bành như cách ông í. Mọi sự đang trôi chảy tốt đẹp, thế rồi có cái gì xảy đến làm ông í bực", Malizi bật tách ngón tay, "thoắt một cái dư thế này, ông í có thể đùng đùng bốc lửa làm như hóa dại!".

Kitzi nghĩ rất nhanh. Một khi bóng tối buông xuống, trước lúc hắn lại mò đến, cô phải trốn thôi. Nhưng dường như Malizi đọc được trong óc cô: "Đừng có bắt đầu nghĩ đến chuyện chạy đi đâu, cưng ạ! Ông í chỉ việc cho lũ chó săn đi lùng bắt mầy, là mầy càng đâm gay go thêm". Bình tĩnh lại thôi em ạ. Bốn, năm ngày nữa là ông í thôi không đến đây nữa đâu. Đến lúc í thì ông í mấy ông già nhọ luyện gà đã đi một cuộc thi chọi gà lớn tận nửa đường suốt đầu bang đến cuối bang rồi". Malizi ngừng một lát. "Ông chủ chả thiết gì hơn lũ gà chọi của mình".

Chị tiếp tục nói liên hồi không ngừng - kể chuyện ông chủ đến tuổi trưởng thành vẫn là một cách-cơ nghèo, do mua một vé xổ số trúng một con gà chọi hay mà bắt đầu đi vào con đường trở thành một trong những chủ gà chọi thành công nhất trong vùng như thế nào.

Cuối cùng, Kitzi ngắt lời: "Thế ông í không ngủ với vợ à?"

"Nhất định là có chứ!" Malizi nói. "Có điều là ông í thích gái. Mầy sẽ chả thấy bà í mấy đâu, bởi vì bà í sợ ông í chết khiếp và bà í cứ phải lặng ngắt, ở đâu yên đấy. Bà í trẻ hơn ông í hàng bao nhiêu tuổi; khi ông í cưới và mang bà í về đây, bà í mới mười bốn, cũng là loại cách-cơ dư ông í. Cơ mà bà í đã thấy ra là ông í không thiết mình bằng dững con gà của ông í…" Trong khi Malizi tiếp tục nói về ông chủ, vợ và gà của y, một lần nữa ý nghĩ của Kitzi lại xoay về chuyện chạy trốn.

"Gái em! Mầy có chú ý nghe ta không?"

"Thưa cô, có". Cô vội trả lời. Nếp cau mày của Malizi dãn ra: "tốt, ta mong mầy khá hơn bởi vì ta đang nói cho mầy biết mầy ở đâu!".

Chị nhìn kỹ Kitzi một lát ngắn ngủi. "Cơ mà mầy ở đâu tới nhỉ?" Kitzi nói là ở quận Xpotxilvaniơ, bang Vơjiniơ. "Ta chưa nghe nói đến nơi í bao giờ! Còn đây là quận Caxuel ở Bắc Calini". Vẻ mặt Kitzi chứng tỏ cô không có ý niệm gì về vùng này, tuy cô vẫn nghe nhắc đến bang Bắc Carôlina luôn và cô có cảm giác như nó ở đâu đó gần Vơjiniơ.

"Này, thậm chí mầy không biết cả tên của ông chủ nữa hỉ?" Malizi hỏi. Kitzi nghệt mặt ra. "Tên ông í là Tôm Liơ"… Chị suy nghĩ một lúc, "thành thử bi giờ mầy là Kitzi Liơ, chắc vậy".

"Tên tui là Kitzi Uolơ!" Kitzi kêu lên phản đối. Rồi vụt cái, cô nhớ ra rằng mọi thứ đó xảy ra với cô là do bàn tay mexừ Uolơ sắp đặt kể cả họ tên cô phải mang, và cô bắt đầu khóc "Đừng có dở thói thế nữa cưng!" Malizi thốt lên. "Em chắc biết dân nhọ phải lấy họ của các ông chủ chứ, bất kỳ họ í là gì. Tên họ dân nhọ chả nghĩa lý quái gì, có cũng dư không, cố để gọi thôi…".

Kitzi nói: "Tên thật bố tôi là Kunta Kintê. Bố là người Phi".

"Thật ư!" Malizi có vẻ sửng sốt. "Ta nghe nói cụ ta cũng là người Phi! Mẹ ta bỉu bà ngoại ta kể là ông cụ đen hơn cả hắc ín, hai bên má đều nhằng nhịt sẹo. Cơ mà mẹ không bao giờ nhắc đến tên cụ…" Malizi ngừng một lát. "Thế mầy biết cả tên mẹ nữa chứ?"

"Cố nhiên là có. Mẹ tui tên Bel. Cũng là người nấu bếp ở đại sảnh dư cô. Còn bố tui lái xe cho ông chủ - chí ít cũng đã từng làm việc í".

"Vậy là mới đây em còn ở mấy cả bố lẫn mẹ?" Malizi không thể tin là thế. "Lạy Chúa, bọn ta chả có mấy ai được biết cả bố mẹ trước khi bị bán đi!".

Cảm thấy Malizi chuẩn bị đi khỏi, đột nhiên sợ bị bỏ lại một mình lần nữa, Kitzi cố tìm cách kéo dài câu chuyện, "Cô nói chuyện hệt như mẹ em", cô tán. Malizi như giật mình, rồi lại tỏ ra rất hài lòng: "Ta chắc bà í là một phụ nữ Cơ đốc ngoan đạo dư ta!" Ngập ngừng, Kitzi hỏi một điều vừa thoáng qua trong đầu. "Họ sẽ bắt em làm thứ công việc gì ở đây, cô Malizi?".

Malizi có vẻ ngạc nhiên với câu hỏi đó. "Mầy sắp làm gì ư?" chị hỏi lại. "Ông chủ không nói cho mầy biết ở đây có mấy nhọ à?" Kitzi lắc đầu. "Nhỏ cưng này thêm mầy nữa là đúng năm! Là tính cả Mingô, ông già nhọ sống giữa lũ gà. Thế, ta làm bếp, giặt giũ, trông nom nhà cửa, còn chị Xerơ mấy bác Pompi làm việc ngoài đồng, chắc mầy cũng ra ngoài í nốt - đấy phận sự mày là thế!".

Malizi nhướn mày lên khi thấy vẻ bàng hoàng trên mặt Kitzi "Ở chỗ trước, mày làm việc gì?".

"Quét dọn, lau chùi đại sảnh và giúp mẹ em trong bếp" Kitzi trả lời, giọng ấp úng.

"Ta cũng đoán phỏng cái gì tờ tợ dư thế khi thấy hai bàn tay mềm mại của mầy. Chà, tốt hơn là mày hãy sẵn sàng cho nó chai sần lên đôi chút, khi ông chủ trở về!" Rồi Malizi dường như cảm thấy nên xoa dịu đi tí ti. "Tội nghiệp! Nghe này, em đã quen với một nơi giàu sang. Dưng đây là một cách-cơ trước đây vun vén, cào cấu đến khi nắm được một tí đất, dựng được một tí nhà, chỉ có cái mẽ ngoài để làm ra vẻ khấm khá hơn là thực. Quanh đây có ối cách-cơ dư thế. Họ có câu: "Có bốn nhọ là đủ cầy trăm mẫu". Ấy, tay này quá ke thậm chí ngần nấy cũng không chịu mua đủ. Cố nhiên, ông í chỉ có chừng tám mươi mẫu Anh gì đó và chỉ cầy cấy đủ số để xưng mình là ông chủ thôi. Cái đại sự của ông í là trên dưới trăm con gà chọi được ông già nhọ Mingô nuôi nấng tập luyện để đem đi đấu giải. Độc có một cái ông chủ bỏ tiền tiêu pha, là gà. Cứ luôn luôn thề với bà chủ là một ngày kia gà sẽ làm cho họ giàu có. Uống say mềm rồi bỉu bà í là một ngày kia, sẽ xây cho bà í một cái nhà thật to, đằng trước có sáu cái cột, cao hai tầng và còn đẹp hơn cả dững nhà của mấy ông chủ đích thực giàu quanh đây thường khinh rẻ họ cơ hồ họ vẫn là cách-cơ dư hồi xuất thân! Thực vậy, ông chủ bỉu đang dành tiền cho cái ngày xây ngôi nhà đẹp í. Hừm! Có thể thế, theo ta biết. Ta biết ông í ke đến nỗi không dám có một gã coi chuồng ngựa, chưa nói gì đến một nhọ để đánh xe chở đi nơi này nơi khác dư hầu hết các ông chủ đều có. Ông í tự tay thắng lấy cả xe chở người lẫn xe chở đồ, chuẩn bị yên cương lấy và lái lấy. Cưng ạ, lý do duy nhất khiến ta không phải làm đồng là bà chủ thậm chí nấu nước cũng không biết mà ông í thì lại thích ăn ngon. Bên cạnh đó, ông í còn thích sĩ diện có một hầu nhọ trong nhà khi khách khứa đến chơi. Đi nhậu ở đâu, ông í thích mời khách về tiệc tùng, cố mặc cho thật diện và đánh cá vào các gà của mình trong các cuộc chọi thi, đặc biệt khi nào ông í thắng hung. Cơ mà dù sao, cuối cùng, ông í cũng phải thấy chỉ mình bác Pompi mấy chị Xerơ thì không cách nào cầy cấy nhiều dư ông í muốn và ông í phải kiếm thêm người nào khác. Thế nên ông í mua mầy…" Malizi ngừng một lát. "Mầy biết mầy giá báo nhiêu không?"

Kitzi yếu ớt nói: "Không, thưa cô".

"Ờ, ta đoán là sáu, bảy trăm đôla, dựa vào giá mua bán nhọ hiện nay mà ta nghe ông í nói, mà mầy lại khỏe và trẻ, coi bộ lại tốt nái nữa, sau này sẽ mang lại cho không ông í một lũ nhọ con".

Thấy Kitzi lại ngẩn tò te, chẳng nói chẳng rằng, Malizi tiến lại gần cửa và dừng lại: "Tình thật, nếu ông chủ có nhét mầy vào với một nhọ thuộc loại ngựa giống mà một số ông chủ giàu thường nuôi để cho thuê, thì ta cũng chả lấy gì làm lạ. Cơ mà xem ra ông í tính chuyện là tự gây giống lấy với mầy đó".

Chương 85

Cuộc đối thoại thật ngắn gọn.

"Ông chủ, tui sắp có một tí nhau".

"À, mày trông chờ tao làm gì về chuyện ấy? Tao biết tỏng mày, tốt hơn là đừng có bắt đầu giả ốm, tìm cách nghỉ việc!"

Nhưng quả là y có bắt đầu hãm lại thật, ít lui tới lều Kitzi hơn khi bụng cô bắt đầu to lên. Làm việc quần quật dưới mặt trời nóng bức, Kitzi trải qua những cơn chóng mặt cũng như buồn nôn vào buổi sáng trong cả quá trình cực nhọc làm quen với công việc đồng áng. Những vết phồng rộp đau rát trên cả hai lòng bàn tay vỡ ra, lại đầy nước, rồi lại vỡ ra nữa do liên tục cọ sát với cán cuốc nặng và sần sùi. Trong khi chặt xới, cố gắng khỏi tụt lại quá xa đằng sau bác Pompi đen nhánh, ngắn ngủn, chắc mập, giàu kinh nghiệm và chị Xerơ dẻo dai, da nâu sáng, cô ráng nhớ lại tất cả những gì đã được nghe mẹ nói về việc có con. Cô cảm thấy mình sẵn sàng đổi bất cứ cái gì để bà Bel có thể ở bên cô lúc này. Bất kể nỗi nhục phải giáp mặt mẹ vào lúc chửa to tướng - bà đã nhay đi nhay lại cảnh cáo về nỗi điếm nhục có thể trút xuống đầu "Nếu mầy cứ quấn lấy cái thằng Nâuơ í" - Kitzi biết rằng bà sẽ hiểu đó không phải lỗi tại cô và sẽ bảo cho cô biết những điều cần biết.

Cô tưởng như nghe thấy giọng bà rầu rầu, như bà vẫn hay kể với cô về cái mà bà cho là nguyên nhân dẫn đến cái chết của cả vợ lẫn con mexừ Uolơ: "Tội nghiệp, chỉ tại bà í nhỏ người quá mà đứa bé lại to quá?" Liệu bản thân mình đây, khổ người có đủ to không, Kitzi phát cuồng lên tự hỏi. Liệu có cách nào biết chắc được không nhỉ? Cô nhớ lại có lần cô và mămzen An đứng trố mắt xem một con bò cái đẻ ra một con bê, rồi thì thầm với nhau rằng, mặc dầu người lớn cứ bảo trẻ sơ sinh là do cò mang đến, chắc các bà mẹ cũng phải rặn chúng ra qua bộ phận kín theo cùng một cách gớm ghiếc như thế.

Những người phụ nữ lớn tuổi hơn, Malizi và Zerơ, dường như không mấy để ý đến cái bụng - và đôi vú - không ngừng to ra của cô, thành thử Kitzi bực bội quyết định rằng có thổ lộ những nỗi lo sợ của mình với họ cũng chỉ mất thì giờ vô ích như nói với mexừ Liơ vậy thôi. Chắc chắn y chẳng mảy may bận tâm khi y phóng ngựa quanh đồn điền, hét lác dọa dẫm bất cứ ai y cho là làm việc chưa đủ nhanh.

Khi đứa bé ra đời - vào mùa đông năm 1806 - chị Xerơ sắm vai bà đỡ. Sau hồi lâu rên rẩm, la thét, tưởng như kéo dài cả một thiên thu, cảm thấy mình bị xé đôi, Kitzi nằm dài, mồ hôi ra như tắm, ngỡ ngàng nhìn chằm chằm vào đứa bé giãy giụa mà chị Xerơ tươi cười đang nhấc bổng lên. Đó là một đứa con trai - nhưng da nó gần như màu nghệ thẫm.

Thấy vẻ hoảng hốt của Kitzi, Xerơ trấn an cô: "Trẻ mới sinh ít ra phải mất một tháng mới đen lại cho thật mầu của nó, cưng ạ?". Nhưng nỗi lo của Kitzi càng sâu thêm khi cô ngày nào cũng xem xét đứa con nhỏ nhiều lần; được một tháng tròn, cô biết rằng giỏi lắm da đứa bé cũng mãi mãi chỉ là một mầu nâu gỗ bồ đào.

Cô nhớ lại lời khoe khoang hãnh diện của mẹ: "Ở chỗ ông chủ đây, thuần là nhọ đen cả". Cố gắng không nghĩ đến chữ "duôm duôm", cái tên mà người cha đen như gỗ mun của cô thường dùng để chỉ những người lai da trắng - mỗi lần gọi thế, ông lại cong miệng lên đầy vẻ khinh bỉ. Cô cảm ơn Chúa là bố mẹ không phải ở đây để thấy- và chia sẻ - nỗi nhục của mình. Song cô biết mình sẽ không bao giờ có thể cất cao đầu lên nữa, ngay cả nếu bố mẹ cô không bao giờ thấy đứa bé, bởi vì bất cứ ai, chỉ việc so sánh màu da của cô với của đứa bé, cũng đủ biết là điều gì đã xảy ra - và với ai. Cô nghĩ đến Nâuơ và càng cảm thấy xấu hổ. "Đây là dịp cuối cùng của chúng mình trước khi anh đi, em bé, làm sao mà em lại không thể?" cô lại nghe thấy anh nói vậy. Một cách tuyệt vọng, cô thầm ước: giá mà cô đã chiều anh, giá mà đây là con của Nâuơ; nếu được thế, ít ra nó cũng đen.

"Gái em, có chuyện gì mà mầy không vui, con to bự, đẹp đẽ dư thế!" một buổi sáng, Malizi nói vậy khi nhận thấy Kitzi buồn rười rượi và biết mấy vụng về xoay trở với đứa bé, gần như bế bên cạnh sườn, kiểu như, cả đến nhìn nó, cô cũng thấy khó khăn. Dạt dào thông cảm, Malizi tuôn ra một thôi: "Cưng ạ, cái chuyện mầy để nó dày vò mầy í, cần gì mầy phải băn khoăn. Đằng nào cũng thế thôi, can hệ gì, bởi vì thời buổi này, chả ai thiết, mấy lại cũng chả buồn để ý nữa cơ. Bọn mulattô nay cũng nhiều gần bằng số nhọ đen dư chúng ta. Sự thể là dư vậy, có thế thôi…" Mắt Malizi như cầu khẩn Kitzi. "Mấy lị, mầy có thể chắc chắn là ông chủ chả bao giờ đòi con đâu, dứt khoát thế. Ông í chỉ thấy một đứa bé ông í không phải bỏ tiền ra mua là khoái rồi, mà ông í lại đẩy ra làm đồng dư mầy thôi: Thế cho nên mầy chỉ cần mỗn một tình cảm, tức thị đứa bé xinh đẹp, bụ bẫm này là của mầy, cưng ạ… có thế thôi".

Cách nhìn nhận sự việc ấy giúp cho Kitzi bình tâm lại, chí ít là một phần nào. "Cơ mà liệu có chuyện gì không", cô hỏi, "nhỡ có lúc này lúc kia, bà chủ thế nào cũng nhìn thấy thằng bé, hả cô Malizi?".

"Bà í biết ông í vô tích sự! Giá cứ mỗi người đàn bà da trắng biết chồng mình có con với dân nhọ, ta lại được một xu thì ối của. Cái chính ta đoán bà chủ ghen là vì bà í hình như không thể có con được".

Đêm hôm sau, mexừ Liơ đến lều - khoảng một tháng sau khi đứa bé ra đời - y cúi mình trên giường, tay cầm cây nến ghé gần vào mặt đứa bé đang ngủ. "Hừm! không đến nỗi xấu. Lại to nữa". Y lấy ngón tay trỏ day day nắm tay nhỏ xíu và quay lại Kitzi nói: "Thôi được. Mầy nghỉ đến cuối tuần này là đủ rồi: Thứ hai, lại ra đồng làm việc".

"Cơ mà tui phải ở nhà cho nó bú, ông chủ!" cô dại dột nói. Cơn điên khùng của y nổ ra bên tai cô: "Câm mồm và làm như tao đã bảo! Mày đã hết cái thời được một quý tộc đồng bóng ở Vơjiniơ chiều chuộng rồi! Mang cái thằng lỏi đen theo mày ra đồng, kẻo tao giữ nó lại và bán mày đi ngay tắp lự cho mày choáng đầu lên!".

Sợ đến ngây độn, mới nghĩ đến chuyện bị bán đi xa con, Kitzi đã òa lên khóc. "Vâng, thưa mexừ", cô kêu khóc, lạy lục. Thấy vẻ khuất phục ê chề của cô, y mau chóng dẹp cơn thịnh nộ, nhưng rồi Kitzi bắt đầu cảm thấy - với cảm giác nghi nghi hoặc hoặc - là y đến có mục đích thực sự: "dùng" cô lần nữa, ngay lúc này đây, với đứa bé nằm ngay bên cạnh.

"Ông chủ, ông chủ, bi giờ còn quá sớm", cô van vỉ, nước mắt giàn giụa: "Tui chưa lành đâu, mexừ!" Nhưng khi y hoàn toàn bỏ ngoài tai, cô chỉ chống cự lại đủ lâu để tắt nến, sau đó cô lặng lẽ chịu đựng khổ hình, chỉ hãi đứa bé có thể thức dậy. Trong bóng tối, vừa ngoắc dây đeo quần lên vai, y vừa nói: "Ờ, phải gọi nó là gì chứ…" Kitzi nằm, hít mạnh vào, nín thở. Sau một lát, y nói: "Gọi nó là Joóc - lấy tên của thằng nhọ cần cù nhất tao từng thấy".

Chương 86

Vì bác Pompi trước nay chưa bao giờ nói với Kitzi quá hai chữ "khỏe chứ?" mỗi khi gặp cô buổi sáng, nên cô ngạc nhiên và cảm động sau sắc khi cô bế con ra tới đồng, hôm đầu tiên trở lại làm việc, bác Pompi rụt rè lại gần cô và chạm tay vào vành chiếc mũ rơm loang lổ vệt mồ hôi, chỉ về phía rặng cây ở rìa cánh đồng: "Ta nghĩ cháu có thể đặt thằng bé dưới đó", bác nói. Chưa thật rõ bác định nói gì, cô liếc mắt và trông thấy cái gì dưới một gốc cây. Thoáng sau, mắt cô long lanh lệ vì khi bước tới, cô nhận ra đó là một cái lán nhỏ một mái, lợp bằng tranh mới cắt, lẫn với lá xanh và cỏ dại dày dặn.

Đầy lòng biết ơn, Kitzi rải tấm bao tải sạch màu vàng nghệ trên nệm lá trong lán và đặt đứa bé lên. Nó khóc một tí, nhưng thấy mẹ nựng và vỗ về, nó bèn kêu ùng ục trong họng và giơ ngón tay lên ngắm. Trở lại với hai người bạn hì hụi trong ruộng thuốc lá, cô nói: "Thật quý hóa quá, bác Pompi". Bác hầm hừ, phát nhanh hơn, cố giấu nỗi bối rối. Chốc chốc, Kitzi lại vội chạy đến xem xét con, và cứ khoảng ba tiếng một, khi nó bắt đầu khóc, cô lại ngồi xuống, chìa vú căng sữa cho nó bú.

"Thằng bé nhà mầy làm tất cả bọn chúng mình vui hẳn lên, bởi vì rành là quanh đây chả có ai khác mà chăm nom", mấy hôm sau chị Xerơ nói với Kitzi nhưng lại ranh mãnh liếc bác Pompi khiến bác nhìn lại như nhìn một con muỗi dai dẳng. Bây giờ, cứ lặn mặt trời, hết ngày làm việc, chị Xerơ lại đòi bế đứa bé, còn Kitzi mang hai cái cuốc mệt nhọc đi về xóm nô toen hoẻn có bốn túp lều nhỏ như cái hộp với một cửa sổ, ở gần một cây hạt dẻ lớn. Thường thường, lúc Kitzi nhóm vội mấy que củi trong cái bếp nhỏ để nấu nướng chút gì còn lại trong khẩu phần do mexừ Liơ cấp mỗi sáng thứ bảy, thì trời cũng vừa sẩm tối. Ăn qua quít xong, cô nằm xuống chiếc nệm vỏ ngô chơi với Joóc. Nhưng đợi đến khi nó đói bắt đầu vòi mới cho bú. Rồi dỗ nó uống đầy bụng, cô bế vác nó lên vai, xoa lưng cho nó ợ ra, sau đó lại chơi với nó. Cô giữ cho nó thức thật lâu với cô, vì muốn nó ngủ dài hết mức có thể, trước khi dậy đòi ăn đêm. Chính vào cái quãng này - mỗi tuần hai ba bận - gã chủ thường tới cưỡng bức cô. Bao giờ y cũng sặc sụa hơi rượu, song, vì đứa bé cũng như vì bản thân mình, cô đã quyết định không kháng cự lại nữa. Lòng đầy ghê tởm, cô nằm yên như khúc gỗ, lạnh lùng, dạng chân ra, trong khi y ậm ạch phì phò hưởng lạc nơi cô, khi kết thúc và y đứng dậy, cô vẫn nằm thượt đấy, hai mắt nhắm nghiền - nghe tiếng đồng hào hoặc đôi khi, đồng hai mươi lăm xu mà bao giờ y cũng ném xuống bàn cô - cho đến khi y đi khỏi: Kitzi thường tự hỏi: cả bà chủ nữa, không biết mụ ta có nằm thao thức hay không trong đại sảnh, cũng đủ gần để ở trong tầm tai nghe, mụ ta nghĩ gì, cảm thấy thế nào, khi ông chủ trở về giường còn nồng mùi một người đàn bà khác?

Cuối cùng, sau khi cho Joóc bú hai lần nữa trước khi rạng sáng, cô rơi vào một giấc ngủ sâu - kịp vào lúc bác Pompi gõ cửa đánh thức cô dậy. Kitzi ăn điểm tâm và cho con bú lần nữa trước khi chị Xerơ đến bế nó ra một trong mấy cánh đồng. Có từng cánh đồng riêng trồng ngô, trồng thuốc lá và trồng bông, và hiện ở mỗi ven đồng, bác Pompi đều đã dựng một cái túp nhỏ có bóng cây che.

Chủ nhật, ăn trưa xong một lát, bao giờ ông chủ bà chủ cũng làm chuyến đi dạo hàng tuần bằng xe ngựa, và trong khi họ đi vắng, dúm người ở xóm nô họp mặt khoảng một tiếng đồng hồ quanh cây hạt dẻ, thăm hỏi nhau. Khi hai mẹ con Kitzi đến nhập bọn, Malizi và Xerơ nhanh chóng mở đầu cuộc kéo co giành nhau bế thằng bé Joóc hiếu động. Bác Pompi ngồi phì phò tẩu thuốc, xem ra thích trò chuyện với Kitzi, có lẽ vì cô chịu lắng nghe bác một cách kính trọng hơn và ít ngắt lời bác hơn hai người phụ nữ lớn tuổi kia.

"Cái hồi ông chủ kiếm được ba mươi mẫu đầu tiên mí gã nhọ đầu tiên tên Joóc, dư thằng bé của cháu í, thì nơi nầy dặt là rừng, mỗi mẫu chỉ đáng giá năm xu", một buổi chiều, bác Pompi nói. "Ông í rành là bắt gã nhọ làm việc đến chết". Thấy Kitzi há hốc miệng, bác Pompi dừng lại: "Sao thế?" bác hỏi. "Không bác ạ, không sao cả", Kitzi mau chóng trấn tĩnh lại và bác Pompi kể tiếp.

"Khi ta đến đây, ông chủ đã có gã nhọ tội nghiệp í được một năm, nào chặt cây, đào bật gốc lên, nào phát bụi đủ để cày và gieo trồng vụ thứ nhất của ông í. Rồi một hôm, ta mấy gã nhọ í đang xẻ gỗ làm ván, chính dững cái ván để dựng ngôi đại sảnh kia kìa". Bác Pompi chỉ. "Lạy Chúa, ta nghe thấy một tiếng gì lạ hoắc, và ngước mắt lên khỏi đấu cưa đằng ta. Hai mắt gã nhọ Joóc í long lên sòng sọc, anh ta níu lấy ngực mình và gục xuống chết - gọn ghẽ có thế thôi".

Kitzi chuyển sang chuyện khác. "Từ khi đến đây, cháu cứ nghe thấy mọi người nói chuyện gà chọi. Trước đây, chả mấy khi cháu nghe…"

"Ô, rành là ta nghe ông chủ nói họ chơi gà chọi với cái bang Vơjinia í", Malizi nói. "Ta đồ chừng dững cuộc í không ở gần chỗ nầy".

"Bọn ta cũng chả có ai biết gì nhiều về cái nầy", bác Pompi nói, "ngoại trừ đó là một giống gà trống đặc biệt sinh ra và được nuôi để giết lẫn nhau, và người ta đánh cá hàng đống tiền vào chúng nó".

Chị Xerơ phụ họa: "Độc có mỗi một người có thể nói cho mi biết thêm về gà chọi là cái ông già nhọ Mingô sống luôn ở đó với bọn nó".

Thấy Kitzi ngạc nhiên há hốc mồm, Malizi thốt lên: "Thì ta đã bỉu mầy từ hôm đầu mầy đến đây mà. Có điều là mầy chưa trông thấy ông í". Chị cười. "Mới lị, có thể mầy chẳng bao giờ nhìn thấy ông í cơ!".

"Ta ở đây đã mười tư năm", chị Xerơ nói, "thế mà ta chưa trông thấy cái ông nhọ í đến quá tám, mười bận! Rành ông í ưng ở mấy gà hơn mấy người!" Hứt! Chị cười to. "Tình thật, ta chắc bà mẹ ông í đã ấp trứng nở ra ông í!".

Trong khi Kitzi cười theo, Xerơ ngả người về phía Malizi, hai cánh tay dang rộng: "Này, để ta bế một lúc". Miễn cưỡng, Malizi rời thằng bé.

"Ờ", chị nói, "dù sao đi nữa, rành là dững con gà í đã đưa ông chủ bà chủ từ chỗ rách rưới đến chỗ bi giờ lên xe xuống ngựa vênh vang dư vầy". Chị làm bộ điệu khoa trương. "Đấy là ông chủ giơ tay lên khi xe họ đi ngang dững cỗ xa mã của mấy ông chủ giàu!" Ngón tay chị như một con bướm chấp chới. "Còn đây là bà chủ vẫy mùi-xoa đến độ suýt té nhào khỏi xe!"

Giữa tiếng cười rộ, Malizi phải mất một lúc mới tĩnh lại. Rồi khi chị với tay đòi lại đứa bé, Xerơ gắt: "Chờ đấy! Tui mới bế nó được có một phút!".

Kitzi sung sướng thấy hai người tranh nhau bồng con mình và quan sát bác Pompi lặng lẽ nhìn ngóng, rồi bỗng tươi rói lên nếu thằng bé tình cờ nhìn về phía mình, lúc đó bác liền nhăn mặt làm trò hoặc ngọ nguậy ngón tay để níu giữ sự chú ý của nó.

Mấy tháng sau, một hôm chủ nhật, Joóc đang bò quanh thì lên cơn khóc đòi bú. Kitzi sắp bế nó lên thì Malizi nói: "Cứ để nó chờ một tí thôi, cưng ạ. Thằng bé này bi giờ đủ nhớn để bắt đầu ăn được cái gì đấy". Chạy vội về lều mình, lát sau Malizi trở lại và tất cả chăm chăm nhìn chị dùng mặt đáy thìa nghiền chừng nửa chén bánh ngô với nước thịt thành một thứ cháo ngô. Rồi, bế Joóc đặt lên lòng, chị xúc một chút xíu bón vào miệng nó. Tất cả mọi người hớn hở khi thấy nó nuốt ực và hăm hở chép chép môi đòi ăn nữa.

Khi Joóc bắt đầu bò bốn chân xục xạo, mỗi lần ra đồng, Kitzi buộc một đoạn dây nhỏ quanh mình nó để hạn chế trong phạm vi nhất định, nhưng chẳng bao lâu, cô phát hiện ra rằng ngay cả trong tầm ấy, nó vẫn cứ bốc và ăn đất, cát cùng đám sâu bọ bò quanh đó. Mọi người nhất trí là phải làm một cái gì. "Giờ nó không phải bú nữa", Malizi gợi ý, "xem chừng nếu cứ để nó mấy tui, chắc tui có thể trông nó trong khi các người ở ngoài đồng đây". Ngay cả Xerơ cũng thấy thế là hợp lý, và mặc dù Kitzi rất không muốn, cô cũng đành phải bắt đầu đưa Joóc đến nhà bếp đại sảnh trước khi đi làm buổi sáng, để chiều về đón. Cô gần như dao động đối với quyết định của mình khi tiếng đầu tiên Joóc phát âm gẫy gọn là "Miliz", nhưng sau đó chẳng mấy tí, nó nói: "Mẹ" rất sõi, làm Kitzi sung sướng đến rợn cả tủy sống. Rồi tiếng tiếp theo của nó là "bá-pom" khiến ông già ngây ngất như nuốt cả ánh mặt trời. Và chẳng bao lâu, lại đến "Xira".

Đầy một tuổi, Joóc đã đi được, không cần đỡ. Mười lăm tháng, nó nô nghịch quanh quẩn, rõ ràng là rất khoái vì rốt cuộc đã được độc lập làm theo ý mình. Giờ đây, họa hoằn nó mới để cho ai bế, trừ những lúc nó buồn ngủ hoặc đang ốm, điều ít khi xẩy ra vì nó khỏe mạnh phây phây và lớn như thổi, một phần không nhỏ nhờ Malizi hàng ngày nhồi cho nó những món ăn ngon lành nhất mà nhà bếp có thể cung cấp. Những chiều chủ nhật, trong khi Kitzi chuyện trò với ba người lớn kia (họ đều yêu nó mê mẩn) tất cả vẫn say sưa ngắm thằng bé lẫm chẫm đi loanh quanh, sung sướng chơi tha thẩn một mình, yếm dãi chẳng mấy chốc đã ướt đẫm, lấm lem mầu đất. Nhấm nháp một nhành cây nhỏ, hay bắt được một con gián, hay đuổi theo một con chuồn chuồn, chú mèo ngoài sân hoặc lũ gà hoảng hốt vừa cục tác vừa chạy đi kiếm chỗ bới khác - tất cả đều làm Joóc thích thú như nhau. Một hôm chủ nhật, ba người đàn bà được một mẻ cười vỡ bụng khi thấy bác Pompi bình thường vốn ủ rũ, nhảy lóc cóc một cách vụng về từng quãng ngắn, cố kiếm một cơn gió nhẹ để lao chiếc diều mà bác đã làm cho thằng bé. "Ta nói cho mà biết, gái em ạ, mi không hiểu được thực sự cái gì mi đang thấy kia đâu", Xerơ nhận xét với Kitzi. "Trước chưa có thằng bé này, một khi Pompi đã chui vào lều là ở tịt trong đó, đến sáng mới thấy mặt".

"Thật đấy!" Malizi nói "Tui thậm chí không ngờ bác í cũng biết vui đùa nữa!".

"Ờ, tui rành là cảm thấy vui sướng khi bác í dựng dững cái lán nho nhỏ cho Joóc hồi đầu tui mang nó ra đồng", Kitzi nói.

"Mi cảm thấy vui sướng! Thằng bé í làm tất cả bọn ta vui sướng thì có!" Xerơ nói.

Bác Pompi càng hấp dẫn Joóc với những chuyện cổ tích bác bắt đầu kể khi nó lên hai. Ngày chủ nhật, hễ lặn mặt trời và chiều bắt đầu hơi lành lạnh là Pompi lấy củi tươi đốt lên một đống lửa nhỏ khói um để xua muỗi trong khi ba người đàn bà xếp ghế chung quanh. Rồi Joóc chiếm lĩnh vị trí thoải mái nhất để theo dõi nét mặt linh động cùng đôi bàn tay làm bộ điệu của bác Pompi trong khi bác kể chuyện "Anh Thỏ" và "Anh Gấu", khai thác cả một kho tàng cổ tích tưởng như bất tận, đến nỗi một lần chị Xerơ xúc động kêu lên: "Thật tui chưa bao giờ tưởng bác biết tất tật dững truyện í!" Bác Pompi đưa mắt nhìn chị đầy vẻ bí ẩn và nói: "Còn ói thứ về ta mà nhà chị chẳng biết đâu!" Chị Xerơ nguẩy đầu, làm ra bộ chán ngấy: "Hừm! chắc chả ai buồn tìm biết đâu!" Bác Pompi trịnh trọng rít tẩu thuốc, đôi mắt răn reo như cười.

"Cô Malizi, em nói mấy cô cái này nhé", một hôm Kitzi tuyên bố. "Chị Xerơ mấy bác Pompi lúc nào cũng làm dư người nọ chọc tức người kia. Cơ mà đôi khi em có cảm giác dư đó là cách họ tán tỉnh nhau í…"

"Em ạ, ta chả biết. Ta biết là nếu có thế cũng chả ai nói ra. Cơ mà ta đồ rằng chỉ rỡn cho qua thì giờ, thế thôi. Cái cảnh nhớn tuổi dư bọn ta mà chả kiếm được ai, thì rồi đâm quen dần, vì xem chừng có làm cách chi cũng chả ăn thua", Malizi nhìn xoáy vào Kitzi trước khi nói tiếp, "Bọn ta nhớn tuổi đã đành phận thế, dưng mà trẻ dư em mà chả có ai thì lại khác! Ta chỉ ước sao ông chủ mua một người nào đó để bọn mầy có thể sum vầy mấy nhau!"

"Vâng, cô Malizi ạ, em cũng chả cần gì phải làm bộ dư không nghĩ đến cái í, bởi vì rành là em có nghĩ đến thật". Kitzi ngừng một lát. Rồi cô nói cái điều mà cô chắc cả hai đều biết. "Cơ mà ông chủ chả làm thế đâu". Cô vụt cảm thấy đáng quý là không ai nhắc đến hoặc thậm chí nói bóng gió đến cái điều mà hẳn tất cả đều biết vẫn tiếp diễn giữa cô và ông chủ; chí ít họ cũng không bao giờ nhắc đến điều đó trước mặt cô. "Tiện thể chúng mình đang tâm sự", cô nói tiếp "anh í mấy em biết nhau ở chỗ cũ của em. Hiện em vẫn nhớ anh í rất nhiều. Chúng em đã sắp sửa lấy nhau, dưng rồi mọi sự đâm rối bét. Thực tế, chính vì thế mà em bị đến đây".

Cố gượng lấy một giọng trong sáng hơn, cảm thấy sự quan tâm đầy tình quý mến chân thành của Malizi, Kitzi kể cho chị nghe chuyện mình với Nâuơ và cuối cùng, kết luận: "Em tự nhủ anh í vẫn tiếp tục đi tìm em và một ngày kia, chúng em giáp mặt nhau chốn nào đó". Vẻ mặt Kitzi nom như đang cầu nguyện. "Nếu điều đó xảy ra, cô Malizi ạ, em nói thật mấy cô, em tin chắc chúng em chả ai nói nửa lời. Em chắc chúng em chỉ cầm lấy tay nhau và em lẻn vào đây chào từ biệt tất cả các cô bác và ẵm Joóc, rồi chúng em ra đi. Thậm chí em sẽ chả hỏi là đi đâu mà cũng bất cần nữa. Em chả bao giờ quên cái điều cuối cùng anh í nói mấy em. Anh í biểu "Chúng mình sống bên nhau đến trọn đời, bé ạ!" Giọng Kitzi vỡ ra rồi cả cô và Malizi cùng khóc, và một lát sau, Kitzi trở về lều mình.

Mấy tuần sau, một sáng chủ nhật, trong khi Joóc ở trong đại sảnh "giúp" cô Malizi sửa soạn bữa trưa, thì Xerơ mời Kitzi vào lều mình, lần đầu tiên từ khi cô đến đồn điền Liơ.

Kitzi trân trân nhìn những bức vách nứt nẻ, đầy những chùm rễ cây và cỏ khô treo ở những móc và đinh, chứng thực lời Xerơ tuyên bố là chị có thể cung cấp phương thuốc tự nhiên cho hầu hết các bệnh. Chỉ chiếc ghế độc nhất của mình, chị bảo: "Ngồi xuống, gái em". Kitzi ngồi và Xerơ nói tiếp: "Ta sẽ nói mấy em một điều không ai biết. Mẹ ta là một phụ nữ bang Luyziana đã dạy ta đoán số giỏi". Chị nhìn dõi vào bộ mặt sửng sốt của Kitzi. "Mi muốn ta bói cho mi không?".

Kitzi tức thì nhớ lại nhiều lần cả bác Pompi lẫn cô Malizi đều nói là Xerơ có tài bói toán. Kitzi nghe thấy tiếng mình nói: "Có, chị Xerơ ạ".

Ngồi xổm trên sàn nhà, Xerơ kéo từ gầm giường ra một cái tráp lớn. Lấy từ trong đó ra một chiếc hộp nhỏ hơn, chị bóc đầy hai tay những vật gì khô cứng, nom thật bí ẩn và từ từ quay về phía Kitzi. Cẩn thận sắp xếp những vật nọ thành một hình đối xứng, chị rút từ trong ngực áo ra một chiếc que mảnh giống như cái roi và bắt đầu khuấy thật mạnh những thứ ấy lên khắp xung quanh. Cúi về phía trước cho đến khi chạm hẳn trán vào các vật trên sàn, chị dường như ráng hết sức dướn thẳng người trở dậy trong khi nói bằng một giọng the thé mất tự nhiên: "Ta ghét phải nói với mi cái điều hồn phán. Mi chẳng bao giờ gặp lại bố mẹ nữa, chí ít là ở trên dương gian nầy"…

Kitzi òa lên nức nở. Hoàn toàn không đếm xỉa đến cô, Xerơ thận trọng xếp lại các đồ vật, rồi lại khuấy, lại khuấy nữa, lâu hơn lần trước nhiều, cho đến khi Kitzi hơi trấn tĩnh lại và nguôi khóc dần. Qua cặp mắt mờ lệ, cô nhìn trừng trừng sợ hãi, trong khi chiếc roi vung lên lật bật. Rồi Xerơ bắt đầu lẩm nhẩm phải chú ý lắm mới nghe rõ: "Vẻ dư không phải thời may mắn của con bé… độc có một người đàn ông nó yêu… anh ta có đường đi khó khăn dữ… dưng hồn bỉu anh ta tốt nhất là nên biết sự thật… và thôi đừng hy vọng nữa…".

Kitzi vùng thẳng người dậy, thét lên, lần này khiến Xerơ xáo động cao độ: "Ssuỵt! Ssuỵt! Ssuỵt! Đừng làm hồn kinh động em gái! SSSSSSUỴT! SSSSSSUỴT! SSSSSSUỴT!" Nhưng Kitzi tiếp tục la hét, chạy bổ ra ngoài, lao về lều mình, đóng sầm cửa, trong khi cửa lều bác Pompi bật mở và ông chủ bà chủ Liơ, Malizi và Joóc ló mặt ra đột ngột ở các cửa sổ đại sảnh và nhà bếp. Kitzi đang vật mình vật mẩy và kêu khóc trên chiếc nệm vỏ ngô thì Joóc sầm sầm chạy vào "Mẹ! Mẹ! Sao thế"? Mặt rúm ró và vằn vèo những ngấn nước mắt, cô điên cuồng thét vào mặt nó: "CÂM MỒM!"

Chương 87

Năm lên ba tuổi, Joóc đã bắt đầu chứng tỏ quyết tâm "giúp đỡ’ nhũng người lớn ở xóm nô, "Lạy Chúa chưa nhấc nổi xô mà cứ đòi mang nước cho tui!" Malizi cười nói. Và một lần khác: "Nếu nó không tha từng thanh củi kỳ đến đầy hòm, thì lại cào gio ra khỏi bếp!" Tuy Kitzi lấy thế làm tự hào, cô vẫn nén không nhắc lại những lời khen của cô Malizi với Joóc, cô cảm thấy riêng nó bây giờ đã đủ làm cô đau đầu rồi.

"Làm sao con lại không đen dư mẹ?" một đêm chỉ có hai mẹ con trong lều, nó hỏi vậy và Kitzi nghẹn ngào nói: "Người ta sinh ra ai có màu da người nấy, có thế thôi". Nhưng chỉ ít đêm sau, nó lại nêu vấn đề: "Mẹ ơi, bố là ai? Sao con ứ bao giờ thấy bố? Bố ở đâu?" Kitzi lên giọng nạt nộ: "Mầy có câm cái mồm đi không?" Nhưng mấy giờ sau, cô nằm thao thức bên cạnh con, vẫn còn thấy vẻ mặt bối rối, phật ý của nó; và sáng hôm sau, khi giao con cho Malizi, cô lúng túng thanh minh: "Chỉ tại mẹ mệt, con hỏi mẹ lắm quá".

Song cô biết cần phải nghĩ ra cái gì nghe được hơn để nói với đứa con trai thích tìm hiểu và rất linh lợi của mình, một cái gì nó vừa có thể hiểu được và sẵn sàng chấp nhận. "Người í cao, và đen dư đêm, và chả mấy khi mỉm cười", cuối cùng, cô đề xuất. "Người í là của con cũng dư của mẹ, chỉ có cái là con gọi người bằng ông thôi!" Joóc có vẻ thích thú và tò mò muốn nghe thêm nữa. Cô kể cho nó rằng một con tàu đã chở ông từ châu Phi "đến một nơi gọi là "Nơplix", là mẹ của mẹ biểu thế", rằng một người anh trai ông chủ Uolơ của cô đã mang ông đến một đồn điền ở quận Xpotxilvaniơ, nhưng ông đã tìm cách trốn. Không biết nói thế nào cho đoạn tiếp theo của câu chuyện đỡ khủng khiếp, cô quyết định rút gọn lại… "Và khi ông tiếp tục chạy trốn, họ chặt đứt nửa bàn chân của ông".

Bộ mặt nhỏ xíu của Joóc nhăn lại: "Sao họ làm thế, mẹ?"

"Tại ông suýt giết chết mấy tên đi bắt nhọ".

"Bắt nhọ làm gì?"

"Ờ, dững nhọ đã chạy trốn mà".

"Nhọ trốn ai?".

"Trốn các ông chủ da trắng".

"Các ông chủ da trắng làm gì nhọ?".

Sốt ruột, cô rít lên: "Câm cái mồm mầy đi! Tránh xa tao ra, mầy ngầy ngà tau đến chết!".

Nhưng Joóc không bao giờ chịu im lâu, chừng nào nỗi thèm khát muốn biết thêm về người ông Phi châu của nó chưa được thỏa mãn. "Cái châu Phi í ở đâu mẹ?" "Bên cái châu Phi í, có trẻ con trai không?... "Tên ông của con là gì?".

Vượt qua cả điều cô hy vọng, Joóc như đang tự hình dung ra người ông của mình, và - đến cực hạn sức chịu đựng của mình - Kitzi cố giúp cho hình ảnh đó hoàn chỉnh bằng những chuyện kể rút từ kho ký ức phong phú của cô. "Con trai ạ, mẹ ước sao con có thể nghe ông hát đôi ba bài hát Phi dư vẫn hát cho mẹ nghe khi cưỡi xe ngựa của ông chủ, hồi mẹ còn bé bằng con bi giờ í". Kitzi chợt thấy mình mỉm cười khi nhớ lại những giờ phút sung sướng cô ngồi cạnh bố trên chiếc ghế cao, hẹp của cỗ xe lăn bánh trên những con đường nóng thiêu, bụi bặm ở quận Xpotzylvaniơ; những lần khác cô cùng ông Kunta tay trong tay, bước dọc theo hàng rào dẫn đến con suối, nơi sau đó, cô lại cùng Nâuơ, tay trong tay, dạo gót. Cô nói với Joóc: "Ông con thích nói cho mẹ biết tên các thứ bằng tiếng Phi. Dư cái vĩ cầm, ông gọi là , hay con sông là Kămby Bôlôngô, hàng lô dững chữ khác hẳn, nghe ngồ ngộ dư thế". Cô nghĩ cha cô, dù ở đâu, ắt cũng sẽ vui lòng nếu cháu trai của ông cũng biết những từ Phi.

"Kô" Kitzi nói rành rẽ. "Con nói được thế không?"

"Kô" Joóc nói.

"Được, con thông minh lắm: Kămby Bôlôngô!" Joóc lặp lại hoàn toàn đúng, ngay từ lần đầu. Cảm thấy mẹ không muốn tiếp tục, nó đòi hỏi: "Nói thêm con nghe tí nữa, mẹ!" Tràn ngập yêu thương đối với con, Kitzi hứa sẽ kể thêm sau, rồi, mặc cho thằng bé phản đối, cứ đặt nó vào giường.

Chương 88

Khi Joóc lên sáu - có nghĩa là nó phải bắt đầu đi làm đồng - Malizi rầu lòng vì thiếu nó để bạn bầu trong nhà bếp, song Kitzi và Xerơ lại sung sướng vì cuối cùng đã giành lại được nó. Qua ngày làm đồng đầu tiên của Joóc, nó có vẻ thưởng thức cái đó như là một cõi phiêu lưu mới, và họ đưa mắt trìu mến nhìn theo nó chạy lăng xăng, nhặt những hòn đá có thể làm mẻ lưỡi cày của bác Pompi. Nó thoăn thoắt mang cho mỗi người một xô nước uống mát lạnh mà nó hì hụi lấy từ con suối ở đầu đằng kia cánh đồng. Nó còn "giúp" họ trồng ngô nữa. Khi ba người lớn cười vui trước những cố gắng vụng về nhưng cương quyết của nó nhằm sử dụng chiếc cuốc, cán dài hơn cả người nó, Joóc cũng toét miệng ra cười, thể hiện đặc tính hồ hởi của nó. Họ càng cười già khi Joóc nằng nặc bảo bác Pompi là nó cày được, rồi phát hiện ra mình chưa đủ cao để cầm cán cày; nhưng nó liền hét con la: "Đứng dậy!".

Cuối cùng, khi trở về lều vào lúc tối mịt, Kitzi lập tức bắt tay vào nấu ăn vì cô biết Joóc đã đói ngấu. Nhưng một tối, Joóc đề nghị thay đổi cái thông lệ ấy. "Mẹ ạ, mẹ làm vất vả suốt cả ngày rồi. Sao mẹ không nằm nghỉ một tí rồi hẵng nấu nướng". Có lúc, Kitzi thấy như con trai mình đang cố gắng sắm vai người đàn ông mà cô chắc nó cảm thấy trống thiếu trong cuộc sống của cả hai mẹ con. Đôi khi, trong lúc hai mẹ con nằm sắp ngủ, nó thường khiến Kitzi mủm mỉm cười một mình với những hoang tưởng nó tâm sự với cô trong bóng tối. "Con đang đi xuôi con đường cái to í", một đêm, nó thì thầm, "rồi con nhìn lên và con thấy cái con gấu già to tướng tường tương đang chạy… tợ dư nó cao hơn con ngựa… con mới hét ầm lên: "Ông gấu! Này, ông gấu! ông cứ liệu sẵn để tui lộn ông trong ra ngoài, bởi vì rành là ông không có làm đau mẹ tui được đâu".

Thỉnh thoảng, khi không có gì khác hấp dẫn Joóc trong lều, thằng bé sáu tuổi hiếu động ấy bèn nằm dài ra trước lò sưởi. Lấy một cái que bằng ngón tay, vót nhọn một đầu, rồi hơ vào lửa cho cháy đen thành một thứ bút chì, nó vẽ những hình người hoặc thú vật trên một tấm gỗ thông trắng. Mỗi lần nó làm thế, Kitzi gần như nín thở, sợ là sau đó Joóc lại muốn học viết hay học đọc. Nhưng xem ra ý nghĩ đó không hề đến với nó, và Kitzi rất thận trọng không bao giờ nhắc đến chuyện viết hay đọc, điều mà cô cảm thấy đã vĩnh viễn đóng sẹo trên đời mình. Trên thực tế, trong tất cả những năm Kitzi ở đồn điền Liơ, cô chưa lần nào cầm một cái bút mực hay bút chì, một quyển sách hay một tờ báo, cũng như chưa hề nói với ai rằng cô đã từng biết đọc biết viết. Mỗi lần nghĩ đến điều đó, cô lại tự hỏi liệu mình còn đọc, viết được nữa không, nếu vì lý do nào đó, cô cần đến khả năng ấy. Rồi cô lại nhẩm đánh vần trong đầu một số từ mà cô cảm thấy mình còn nhớ chính xác, và, cố gắng tập trung cao độ, cô thử hình dung những từ ấy khi viết ra sẽ như thế nào. Đôi khi cô thèm viết thử nhưng cô vẫn giữ lời nguyện ước với chính mình là sẽ không bao giờ viết nữa.

Còn da diết hơn nhiều so với nỗi nhớ thèm được viết hoặc đọc, Kitzi cảm thấy vắng thiếu tin tức về những điều xảy ra trên thế giới bên ngoài đồn điền. Cô nhớ lại bố mình thường kể những điều tai nghe mắt thấy mỗi lần trở về từ một chuyến đi cùng với mexừ Uolơ. Nhưng bất cứ tin gì bên ngoài đều hầu như là của hiếm ở cái đồn điền nhỏ và cách biệt này, ở đó ông chủ tự mình đánh xe lấy. Xóm nô chỉ phát hiện ra những gì đang diễn biến bên ngoài khi ông chủ, bà chủ Liơ mời khách đến ăn tiệc - đôi khi hàng mấy tháng mới có một lần. Trong một bữa tiệc như vậy vào một chiều chủ nhật năm 1812, Malizi từ trên đại sảnh chạy xuống: "Bi giờ họ đang ăn và tui phải mau chóng trở lại ngay, cơ mà trong í họ đang nói chuyện có cuộc chiến tranh mới đã bắt đầu mấy cái nước Anh nọ! Hình dư là nước Anh đang chở hàng tầu lính sang đây đánh ta!"

"Lính chở sang đây không để đánh tui!" Xerơ nói: "Đấy là người da trắng đánh nhau".

"Họ đánh cuộc chiến này ở đâu?" bác Pompi hỏi và Malizi đáp là chị không nghe nói "Chậc", bác tiếp lời "chừng nào là ở đâu trên miền Bắc, không ở quanh đâu đây, thì chả vấn đề gì đến tui".

Đêm ấy ở trong lều, thằng bé Joóc thính tai hỏi Kitzi "Một cuộc chín tranh là gì hả mẹ?".

Cô nghĩ một lúc trước khi trả lời: "À, chắc là hàng đống người đánh nhau".

"Đánh nhau về cái gì?"

"Đánh nhau về bất cứ cái gì họ thích"

"Thế người da trắng mấy nước Anh kia không thích nhau cái gì?"

"Nhóc con, cắt nghĩa cho mầy thì bao giờ cho cùng?"

Sau một thời gian rất dài không có tin tức gì thêm, trong một buổi tiệc khác ở đại sảnh, Malizi thuật lại: "Họ biểu bọn Anh đã lấy thành phố nào đó trên Bắc gọi là Đitroi. Rồi nữa, mấy tháng sau, chị lại nói ông chủ, bà chủ và khách khứa đang hoan hỉ bàn tán về "một cái tầu Hạp Sẻng Cuốc gọi là Thiết hạm. Họ biểu nó có bốn bốn khẩu súng đại bác bắn chìm ối tầu Anh!"

"Úi!" Bác Pomi kêu lên. "Thế thì đủ đánh chìm cả tầu của Nôê trong nạn Hồng Thủy!".

Rồi một ngày chủ nhật năm 1814, Joóc "giúp" Malizi trong nhà bếp; nửa chừng nó chạy bay về xóm nô, thở không ra hơi, để truyền đạt một tin mới: "Cô Malizi bỉu nói mấy tất cả cô bác là quân Anh đã đánh tan năm nghìn lính Hạp Sẻng Cuốc, mấy lị đã đốt cả điện Capitôl lẫn tòa Bạch Ốc nữa"

"Lạy Chúa, dững thứ í ở đâu?" Kitzi nói.

"Ở cái thủ đô Oasinhtơn í", bác Pompi nói, "Cách đây cũng xa đấy".

"Chừng nào họ tiếp tục giết lẫn nhau, đốt lẫn nhau thay vì đốt, giết chúng ta!" Xerơ thốt lên.

Thế rồi, cũng năm ấy, vào một bữa tiệc sau nữa, Malizi hối hả đến kể: "Tất cả bọn họ ở trong kia đang hát cái gì nói về dững cái tầu Anh bắn vào một cái pháo đài nhớn gần quanh Baltimo, nói sai, tui là con chó". Và Malizi nửa nói nửa hát lại những gì chị vừa nghe được. Tối muộn hôm ấy, có tiếng động là lạ ở bên ngoài, đám người lớn vội vàng mở cửa lều và đứng ngây ra, kinh ngạc: Joóc cắm một chiếc lông gà tây dài vào mái tóc, đang cao chân bước, vừa đi vừa gõ que vào một quả bầu khô, lớn tiếng hát theo biến cách riêng của mình những điều nó nghe lỏm được từ miệng Malizi: "Ồ, hay! Bạn thấy không trong ánh ban mai… đỏ lừ những vệt trái phá… ôi, cờ lấp lánh sao phất phới… ôi, đất nước của những người tự do, quê hương của những người dũng cảm…"

Một năm nữa, năng khiếu bắt chước của thằng bé trở thành trò tiêu khiển ưa thích của xóm nô và một trong những tiết mục của Joóc được cử tọa yêu cầu nhiều nhất là nhại lại mexừ Liơ. Thoạt tiên, kiểm tra thật chắc chắn là ông chủ không có ở gần đâu đây, rồi lim dim mắt và nhăn mặt, Joóc lè nhè giận dữ: "Bọn nhọ chúng bây không hái cho sạch cánh đồng bông này trước lúc mặt trời lặn thì tất tật cả, không đứa nào được phát khẩu phần mà ăn đâu!" Cười ngặt nghẽo, đám người lớn kháo với nhau: "Các người đã thấy cái gì dư thằng bé này chưa?..." "Tui thì rành là chưa!"… "Nó đúng là một của lạ!" Joóc chỉ cần quan sát bất kỳ ai một loáng là có thể nhại họ một cách hài hước cao độ - kể cả một thực khách ở đại sảnh, một mục sư da trắng mà sau đó ông chủ đã mời đến giảng đạo một buổi ngắn cho các nô lệ bên cây hạt dẻ. Và khi Joóc lần đầu tiên nhìn rõ ông già Mingô bí ẩn luyện gà chọi cho ông chủ, chẳng mấy chốc nó đã bắt chước giống hệt dáng đi cà nhắc của ông cụ. Bắt hai con gà trong sân, nắm thật chặt chân chúng, Joóc đẩy tới đẩy lui thật nhanh như thể con nọ dọa dẫm con kia, đồng thời ứng tác luôn lời đối thoại: "Đồ khốn nạn xấu xa, nom mầy dư loài ó, tau sẽ cào lòi mắt mày ra!" và con kia khinh mạn đáp lại: "Mầy chỉ là một túm lông, không đủ tau ngoạm nửa miếng!".

Sáng thứ bảy sau, theo lệ thường, mexừ Liơ phân phát xuất ăn hàng tuần cho xóm nô, Kitzi, Xerơ, Malizi và bác Pompi đang nghiêm chỉnh đứng trước cửa lều mình để nhận phần, thì xoẹt một cái, Joóc quành góc nhà rượt theo một con chuột, rồi hãm phắt lại, suýt nữa đâm sầm vào ông chủ. Mexừ Liơ buồn cười, giả giọng cọc cằn: "Mầy làm gì ở đây để đáng được chia khẩu phần, nhóc con?" Bốn người lớn thiếu nước bổ chửng khi thằng bé Joóc chín tuổi đầu, bành vai ra ngay ngắn một cách tự tin và nhìn thẳng vào mắt ông chủ, tuyên bố: "Cháu làm việc trên đồng của mexừ, mấy lị cháu giảng đạo, mexừ!" Sửng sốt, mexừ Liơ nói: "Ờ, vậy thì mầy giảng đạo nghe nào!" Với năm cặp mắt dán vào nó, Joóc lùi lại đằng sau một bước và giáo đầu: "Đây là cái ông cha cố da trắng mexừ đưa đến đây hôm nọ…" rồi bất thình lình nó đập cánh tay và dằn tiếng, dữ dội: "Nếu ngờ là bác Pompi đã lấy lợn của ông chủ, thì phải thưa ông chủ! Nếu trông thấy cô Malizi lấy bột của bà chủ thì phải thưa bà chủ! Bởi vì các con đều là loại nhọ tốt cả và làm tốt với ông chủ, bà chủ tốt của các con, nên khi chết, có thể tất cả các con sẽ được vào bếp nhà trời!"

Mexừ Liơ cười gập đôi người ngay cả trước khi Joóc nói hết - thế là, miệng lấp lánh hai hàm răng trắng khỏe, thằng bé cất giọng hát một trong những ca khúc ưa thích của cô Malizi: "Chính con, chính con, ôi lạy Chúa, chính con đây đang cần cầu nguyện! Không phải mẹ con, không phải cha con, mà là con, ôi lạy Chúa, đang cần cầu nguyện! Không phải cha truyền giáo, không phải thầy trợ tế, mà con đây, ôi lạy Chúa đang cần cầu nguyện!"

Không ai trong đám người lớn từng thấy mexừ Liơ cười tợn thế. Mê mẩn, y vỗ vai Joóc: "Lỏi con, mày muốn giảng đạo ở quanh đây lúc nào cũng được!" Bỏ cái rổ đựng khẩu phần lại cho họ chia nhau, ông chủ quay trở về đại sảnh, vai rung rung, chốc chốc ngoái lại liếc nhìn Joóc đang đứng đó nhe răng cười sung sướng.

Mấy tuần sau, mùa hè ấy, sau một chuyến đi, mexừ Liơ trở về mang theo hai cái lông công dài. Sai Malizi ra đồng gọi Joóc về, y dặn dò thằng bé thật cẩn thận, làm sao để hai chiếc lông phe phẩy qua lại đằng sau các vị khách y sẽ mời tới dự tiệc vào chiều chủ nhật sau.

"Rõ làm bộ làm tịch, cố ra vẻ ta đây là phú hộ da trắng!" Malizi mỉa mai vậy sau khi kể lại cho Kitzi nghe những lời bà chủ Liơ dặn dò thằng bé phải tắm rửa kỳ cọ thật sạch sẽ, mặc quần áo mới giặt, hồ bột và là tươm tất để lên đại sảnh. Joóc rất hồi hộp phấn khởi về vai trò mới của mình và về tất cả sự chú ý - kể cả của ông chủ bà chủ - đổ dồn vào nó, đến nỗi nó phải chật vật lắm mới tự chủ nổi.

Khách khứa còn đang ở trong đại sảnh, Malizi đã lẻn khỏi nhà bếp, chạy đến xóm nô, không nén nổi lâu hơn nữa nỗi nôn nóng muốn thuật chuyện lại cho đám cử tọa đang hồi hộp chờ. "Tui nói để tất cả các người nghe, cái thằng nhãi í thật quá lắm!" Rồi chị tả Joóc vẫy hai cái lông công, "vặn vạo cổ tay, mình cúi tới cúi lui, lại điệu bộ hơn cả ông chủ bà chủ nữa cơ! Và sau khi đế-xe, mexừ đang rót rượu vang thì tợ dư vụt nghĩ ra, bèn nói: "Ê, lỏi con, giảng đạo chúng ta nghe tí nào!" Tui xin tuyên bố tui tin là thằng bé có hành nghề thật! Là vì vụt một cái nó yêu cầu ông chủ đưa cho nó quyển sách nào đó làm Kinh Thánh và ông chủ lấy cho nó. Lạy Chúa! Thằng nhãi nhảy tót lên chiếc ghế để chân có hình thêu đẹp nhất của bà chủ! Chao, nó thuyết giáo mà sáng bừng cả phòng ăn! Rồi chẳng chờ ai yêu cầu, nó bắt đầu hát váng lên. Đúng lúc í, tôi chạy ra đây". Chị lại ù té về đại sảnh, để mặc Kitzi, Xerơ và bác Pompi vừa lắc đầu, vừa tủm tỉm cười, tự hào mà vẫn còn ngờ ngợ.

Joóc thành công đến mức mỗi chiều chủ nhật đi chơi xe ngựa với mexừ Liơ về, bà chủ lại nói với Malizi là các khách dự tiệc hôm trước, hễ gặp họ, bao giờ cũng hỏi về Joóc. Sau một thời gian cả cái bà chủ Liơ bình thường vốn trầm lặng, cũng nói lên sự mê thích của mình đối với nó, "Và Chúa biết là bà í chả bao giờ ưa nhọ!" - Malizi thốt lên. Dần dà, bà chủ Liơ kiếm những việc vặt cho Joóc làm ở trong hoặc quanh đại sảnh, cho đến khi nó mười một tuổi thì Kitzi cảm thấy có đến quá nửa thời gian, nó không ở ngoài đồng với bọn họ nữa.

Và do bữa tiệc nào cũng phải ở trong phòng ăn, phe phảy đuôi công, nghe đám người da trắng trò chuyện, nó bắt đầu lượm được nhiều tin hơn Malizi mọi khi, vì chị cứ phải chạy đi chạy lại giữa phòng ăn và nhà bếp. Lát sau khi các thực khách ra về, Joóc hãnh diện kể lại tất cả những gì nó nghe được cho những cái tai ngong ngóng ở xóm nô. Họ ngạc nhiên khi biết một vị khách nói rằng "cơ chừng ba nghìn nhọ tự do từ vô khối chỗ khác nhau đã họp mít tinh lớn ở Philađelphiơ. Ông da trắng í bỉu các nhọ đã gửi một nghị quết gì đó đến tổng thống Mađixơn nói rằng cả nhọ nô lệ lẫn nhọ tự do đều góp phần xây dựng đất nước này, cũng dư góp sức đánh mọi cuộc chiến tranh của nó, mới lị Hạp Sẻng Cuốc không phải dư nó vỗ ngực tự xưng nếu không có phần phước lành của dân nhọ". Và Joóc nói thêm: "Ông chủ bỉu bất kỳ thằng ngu nào cũng thấy là cần phải tống cổ bọn nhọ tự do ra khỏi nước!"

Joóc thuật lại trong một bữa tiệc sau, "các người da trắng tức điên lên đến nỗi hóa đỏ", trong khi bàn tán những tin tức gần đây về những cuộc nổi loạn lớn ở miền tây Inđi. "Lạy Chúa, các cô bác phải nghe họ ngồi trong í kể chuyện các thủy thủ nói là dân nhọ nô lệ ở Tây Inđi đốt mùa màng, nhà cửa, lại cả đánh đập, chặt đầu, treo cổ dững người da trắng trước là các ông chủ của họ nữa cơ!"

Một ngày chủ nhật năm 1818, Joóc thuật lại là "có cái gì mà khách khứa gọi là "Hội thục địa Mĩ" nó đang tìm cách chở nhiều tàu nhọ tự do đến một cái vùng "Libêria" ở châu Phi í. Các người da trắng cười giễu bọn nhọ tự do bị phỉnh là cái đất Libêria í có dững cây thịt lợn sấy rủ xuống từng lát từng lát dư lá, mới lị những cây rượu chỉ việc cắt là chảy ra tha hồ uống!" Joóc nói: "Ông chủ, riêng về phần mình, cam đoan rằng họ có thể đưa nhọ tự do xuống tầu khá nhanh!".

"Hùm!" Xerơ khịt một cái: "Tau dất khoát không có đi đến cái châu Phi đầy dững nhọ trên cây dư khỉ cả một lũ…"

"Chị nghe đâu ra chuyện í?" Kitzi gay gắt hỏi. "Bố tui gốc ở châu Phi mà dất khoát bố chả bao giờ ở trên cây nào cả!"

Bất bình nhưng sững sờ, Xerơ ấp úng: "Ờ, tất thảy mọi người nhớn lên đều nghe nói thế!".

"Đừng có chữa", bác Pompi nói, lừ mắt nhìn chị. "Chả có tầu nào thèm đưa nhà chị đi đâu, nhà chị nào phải nhọ tự do".

"Này, tui có là thế, tui cũng chả đi!" Xerơ sẵng giọng, lắt lư đầu và nhổ một tia bã thuốc màu hổ phách xuống lớp bụi, lúc này chị bực cả với bác Pompi lẫn Kitzi và cố tình không thèm chúc hai người ngủ ngon khi cuộc tụ họp nhỏ giải tán, ai về lều người nấy. Về phần mình, Kitzi cũng sôi máu không kém trước thái độ dè bỉu của Xerơ dính đến cả người cha thông tuệ, đầy phẩm cách cứng rắn của cô cùng quê hương châu Phi yêu dấu của ông.

Cô vừa ngạc nhiên vừa hài lòng phát hiện thấy cả đến Joóc cũng bực về cái điều nó cảm thấy như nhạo báng người ông gốc Phi của mình. Tuy xem vẻ như ngại ngùng không dám nói, nó vẫn không nhịn được. Nhưng cuối cùng khi nó phát biểu, cô thấy cái chính là nó e tỏ ra bất kính: "Mẹ à, tợ dư bác Xerơ nói cái gì í không phải thế, phải không mẹ!"

"Đúng đấy", Kitzi nhiệt liệt tán thành.

Joóc ngồi im một lúc rồi lại nói: "Mẹ" nó ngập ngừng, "hay là mẹ có thể kể thêm chút xíu về ông cho con nghe được không?"

Kitzi cảm thấy trào lên một niềm hối tiếc là trong mùa đông trước, cô đã cáu tiết vì những câu lục vấn bất tận của Joóc trong một đêm, đến nỗi cô đã cấm nó không được hỏi thêm gì về ông ngoại nữa. Giờ đây, cô dịu dàng nói: "Hàng bao nhiêu lần mẹ đã cố moi óc xem còn có gì về ông mà mẹ chưa kể cho con và xem chừng chả còn gì nữa…" Cô dừng một lát. "Mẹ biết con chả quên cái gì dưng mà nếu con biểu thế, thì mẹ sẽ kể lại bất kỳ đoạn nào".

Joóc lại im lặng một lúc, "Mẹ à", nó nói, "có một lần mẹ bỉu con là mẹ cảm thấy điều ông lưu tâm nhất là kể cho mẹ nghe các cái thứ của châu Phi…"

"Phải, hình dư đúng thế, khối lần", Kitzi đăm chiêu nói.

Sau một lát im lặng nữa, Joóc nói: "Mẹ à, con đang nghĩ. Giống dư mẹ đã làm mấy con, về sau con cũng kể cho các con con về ông". Kitzi mỉm cười, thật điển hình là thằng con trai khác thường của cô: mới mười hai tuổi đầu đã bàn đến chuyện con cái mai sau.

Do sự sủng ái không ngừng tăng lên của ông chủ, bà chủ đối với Joóc, nó ngày càng được tự do thoải mái mà không cần sự cho phép chính thức của họ. Thi thoảng đặc biệt vào những chiều chủ nhật khi họ đi chơi bằng xe ngựa, nó tự ý lang thang đây đó, đôi khi hàng tiếng đồng hồ, để mặc những người lớn trong xóm nô nói chuyện với nhau, trong khi nó tò mò thám hiểm mọi xó xỉnh của đồn điền Liơ. Một ngày chủ nhật như thế, nó trở về vào lúc sắp sẩm tối và nói với Kitzi rằng nó đã bỏ cả buổi chiều đến thăm ông lão trông nom đàn gà chọi của ông chủ.

"Con giúp ông í bắt một con trống to tướng bị xổng, rồi sau đó con mấy ông cụ í nói chuyện. Mẹ à, con thấy ông í không kỳ cục dư mọi người nói đâu. Mới lị con chưa bao giờ thấy dững con gà dư thế! Dững con thế mà ông í bỉu vuỗn chưa nhớn, nó cứ quang quác và nhảy chồm chồm trong chuồng, tìm cách xông vào nhau để chọi! Ông già để cho con nhặt ít cỏ cho bọn nó ăn, và con làm thế. Ông í bỉu ông í nuôi gà còn vất vả hơn phần đông các bà mẹ nuôi con!" Kitzi nghe vậy cũng hơi tự ái một chút song cô không phản ứng gì, cô cũng vui vui thấy con trai hào hứng thế về mấy con gà. "Ông í bày cho con cách xoa bóp lưng, cổ và chân gà cho nó chọi hay nhất!"

"Tốt hơn là con tránh xa chỗ í ra, bé ạ!" cô dè chừng. "Con biết ông chủ không cho phép ai ngoài ông già í dính dáng với lũ gà đấy!"

"Bác Mingô bỉu bác í sẽ xin ông chủ cho con đến đấy giúp bác í cho gà ăn!"

Sáng hôm sau, trên đường ra đồng, Kitzi kể cho Xerơ nghe chuyện phiêu lưu mới của Joóc. Xerơ bước tiếp, trầm ngâm rồi chị nói: "Ta biết cô chả muốn ta đoán số thêm cho cô nữa, nhưng dù sao ta cũng cứ nói chút xíu về Joóc". Chị ngừng một lát. "Nó chẳng bao giờ thành dư mọi người gọi là nhọ bình thường! Nó bao giờ cũng đi vào cái gì mới và khác thường chừng nào nó còn thở hít".

Chương 89

"Thưa ông chủ, cung cách nó tợ dư là con nhà gia giáo và xem ra nó khéo tay đấy", bác Mingô nói vậy, kết luận sự mô tả của bác về thằng bé sống ở xóm nô mà bác quên không hỏi tên.

Khi mexừ Liơ lập tức đồng ý cho thử thằng bé, bác Mingô rất hài lòng - vì từ nhiều năm, bác đã cần một người giúp việc - nhưng thực ra, không lấy gì làm ngạc nhiên. Bác biết rất rõ là ông chủ đang lo về nỗi người luyện gà của mình đã cao tuổi, sức khỏe không bảo đảm nữa; năm, sáu tháng qua bác đã bị những cơn ho tệ hại, càng ngày càng hay xảy ra. Bác cũng biết ông chủ đã hoài công tìm một nô lệ trẻ có triển vọng thành "huấn luyện viên" tập sự ở chỗ các chủ gà khác quanh vùng, tất nhiên là đám này chả có bụng nào muốn giúp y. "Nếu tôi có thằng trai trẻ nào tỏ ra có chút khả năng", ông chủ kể với bác là có người đã bảo y vậy, "ông nên biết là chả dại gì bán nó đi. Với lão già Mingô nhà ông luyện nghề cho nó, tôi thấy trước là năm, mười năm nữa, nó lại giúp ông thắng tôi!" Nhưng có lẽ lý do chính khiến mexừ Liơ nhanh chóng đồng ý - bác Mingô biết thế - là mùa chọi gà hàng năm của quận Caxuel chằng bao lâu nữa sẽ mở màn với cuộc đấu "chủ chốt" và nếu có thằng bé cho gà non ăn, chỉ cần chừng ấy thôi, bác Mingô sẽ có thể dành nhiều thì giờ hơn vào việc rèn cặp những con hai năm vừa mới trưởng thành.

Vào buổi sáng ngày đầu tiên học nghề của Joóc, bác Mingô dạy nó cách cho đám gà con ăn, gồm mấy chục con nhốt trong nhiều chuồng, mỗi chuồng chứa những con sàn sàn lứa tuổi và tầm vóc như nhau. Thấy thằng bé thực hiện nhiệm vụ thử thách ấy một cách khả quan, ông lão bèn để nó cho "gà tơ" ăn, lứa này già dặn hơn, tuy chưa đầy một năm nhưng đã tìm cách chọi nhau từ các chuồng ba góc của chúng, trong những đường dích-dắc của một hàng rào song sắt ngăn chia. Qua những ngày tiếp theo, bác Mingô thực tế ốp Joóc chạy ngược chạy xuôi, cho gà ăn ngô tấm, yến mạch lứt, vỏ sò, than, và mỗi ngày ba lần thay nước suối trong những hộp thiếc.

Joóc không bao giờ tưởng tượng mình có thể cảm thấy sợ gà - đặc biệt là những con trống nòi đang bắt đầu mọc cựa và phát triển màu lông, chúng vênh vênh đi đi lại lại, không biết sợ là gì, mắt long lanh thách thức. Những lúc không bị bác Mingô trực tiếp giám sát, Joóc thỉnh thoảng lại cười to khi thấy mấy con trống tơ đột nhiên ngật đầu ra đằng sau, cất giọng cổ ọ ẹ kêu như đang cố đua với tiếng kêu khàn khàn của những con lão tướng sáu, bảy năm; mỗi con đều mang những vết sẹo của nhiều trận giao tranh đã qua - mà bác Mingô gọi là "gà mồi" và bao giờ cũng tự tay cho ăn. Joóc hình dung mình là một con trống tơ và bác Mingô là một con thuộc loại lão tướng.

Ít nhất mỗi ngày một lần, khi mexừ Liơ phi ngựa xuôi theo con đường cát vào khu luyện gà, Joóc cố hết sức lấn né, vì nó đã mau chóng cảm thấy ông chủ đối với nó lạnh nhạt đi biết mấy. Joóc đã nghe thấy cô Malizi bảo là ông chủ thậm chí không cho phép cả bà chủ đến chỗ nuôi gà của mình, nhưng bà ta cam đoan rằng đó là việc bà kỵ nhất. Ông chủ và bác Mingô thường đi quanh kiểm tra các chuồng gà, bao giờ bác Mingô cũng giữ đúng cự ly tụt lại sau một bước đủ gần để nghe thấy và trả lời mọi điều ông chủ nói giữa những tiếng quang quác của bầy gà mồi hoảng sợ. Joóc nhận thấy ông chủ nói năng gần như thân ái với bác Mingô, trái ngược hẳn với cung cách cộc cằn và lạnh lùng của ông ta đối với bác Pompi, cô Xerơ và mẹ nó, vốn chỉ là đám lao công làm đồng. Thi thoảng, khi cuộc đi tua kiểm tra đưa họ tới khá gần chỗ Joóc đang làm, nó thường nghe hóng được những điều họ nói: "Mingô này, tôi định mùa này đưa ba mươi con ra chọi, cho nên ta phải mang từ bãi thả về nhập chuồng khoảng sáu mươi con hay hơn nữa", một hôm ông chủ nói vậy.

"Vâng, mexừ. Đến lúc ta chọn lọc thì phải có hẳn bốn chục con được luyện tốt".

Mỗi ngày, đầu Joóc lại ních thêm những câu hỏi, nhưng nó cảm thấy tốt nhất là đừng nên hỏi bác Mingô cái gì nó không có phận sự phải biết. Bác Mingô đạt được một điểm trong cảm tình của thằng bé do chỗ bác có thể giữ mồm giữ miệng không ba hoa, vì những người chơi gà chọi khôn ngoan thường giữ kín nhiều bí quyết. Đồng thời, đôi mắt nhỏ, nhanh nhẹn, lác xệch lác xẹo của bác không bỏ sót một chi tiết nào trong cách Joóc thực hiện công việc của mình. Bác dụng ý ra lệnh rất ngắn gọn, rồi mau lẹ đi khỏi để thử xem thằng bé có thể nắm và nhớ những lời căn dặn nhanh và tốt đến mức nào; bác Mingô hài lòng thấy phần lớn các công việc chỉ cần phải bảo Joóc có một lần.

Sau một thời gian, bác Mingô nói với mexừ Liơ là bác đồng tình với sự chăm nom và chú ý của Joóc đối với bầy gà - nhưng bác thận trọng dè dặt: "Chí ít trong chừng mực tui có thể "bắt biểu" trong quãng thời gian ngắn này, thưa ông chủ".

Bác Mingô hoàn toàn không ngờ đến câu trả lời của mexừ Liơ: "Tôi đã nghĩ là lão cần thằng bé ở đây suốt. Lều của lão không đủ to, nên lão hãy cùng nó dựng một cái lán đâu đó để nó luôn gần kề lão". Bác Mingô thất kinh trước cái triển vọng có một kẻ nào đó đột nhiên xâm nhập hoàn toàn nỗi riêng tư mà chỉ có bác và bầy gà chia sẻ với nhau trong hơn hai mươi năm trời, song bác không công khai nói lên ý kiến bất đồng nào.

Sau khi ông chủ đi khỏi, bác nói với Joóc bằng một giọng cáu bẳn: "Ông chủ biểu tau cần mầy ở đây suốt. Tau chắc ông í biết cái gì tau không biết".

"Dạ", Joóc nói, cố giữ vẻ mặt tỉnh bơ. "Dưng mà cháu sẽ ở đâu, bác Mingô?".

"Ta sẽ dựng cho mầy một cái lán".

Dù rất khoái bầy gà chọi và bác Mingô, Joóc biết như vậy có nghĩa là chấm dứt thời kỳ thú vị của nó ở đại sảnh phe phảy lông công và giảng đạo mua vui cho ông chủ, bà chủ cùng khách khứa. Ngay cả bà chủ Liơ cũng mới bắt đầu tỏ ra ưa nó. Và nó nghĩ đến những thức ngon lành mà nó sẽ không còn được cô Malizi cho ăn ở trong bếp nữa. Nhưng cái phần gay go nhất trong chuyện rời bỏ xóm nô, là việc báo tin này cho mẹ nó.

Kitzi đang ngâm đôi bàn chân mệt rã rời trong một chậu nước nóng thì Joóc bước vào, mặt u ám khác thường: "Mẹ, có cái con phải nói mấy mẹ".

"Chà, tau chặt phát cả ngày, mệt rũ ra thế này, chả muốn nghe gì thêm về gà qué đâu, nói để mầy biết thế!"

"À, không hằn đúng là thế". Nó hít một hơi thật sâu. "Mẹ, ông chủ bẩu con mấy bác Mingô dựng một cái lán và chuyển con xuống đấy".

Kitzi chồm dậy, làm bắn ít nước ra khỏi chậu, tưởng chừng như sắp nhảy bổ vào Joóc: "Chuyển mầy làm gì? Mầy cứ ở đây, chỗ trước nay vẫn ở, thì có việc gì?".

"Không phải việc của con, mẹ ạ! Ấy là ông chủ!" Nó bước lùi, né khỏi cơn thịnh nộ trên mặt mẹ, giọng ré lên: "Con không muốn rời mẹ đâu!"

"Mầy chưa đủ nhớn để chuyển đi đâu! Tau cuộc là tại cái lão nhọ già Mingô í xui ông chủ thế!".

"Không phải, bác í không xui đâu, mẹ! Là vì con dám chắc bác í cũng không thích thế! Bác í không thích có ai quanh bác í suốt. Bác í bẩu con bác thà ở một mình". Joóc ước sao có thể nghĩ ra điều gì để nói cho mẹ yên tâm. "Vẻ dư ông chủ đang tốt mấy con, mẹ ạ. Ông í đối xử bác Mingô mấy con tử tế, không dư mấy dững người làm đồng…" Quá muộn, nó nuốt ực một cái, chợt nhớ ra mẹ mình cũng là người làm đồng. Cô túm lấy Joóc lắc lấy lắc để như mớ giẻ, mặt rúm ró vì ghen tức và cay đắng, miệng rít lên: "Ông chủ thiết gì mầy. Ông í có thể là cha mầy, dưng mà ông í chả thiết gì ngoài lũ gà".

Cô cũng sửng sốt gần bằng nó vì những gì cô vừa nói.

"Đúng thế! Và mầy biết thế cũng tốt thôi vì mầy đang tưởng ông í cho mầy ân huệ dư vầy! Ông chủ chỉ muốn mỗi điều là mầy giúp cái lão nhọ điên rồ í chăm nom lũ gà mà ông í tưởng sắp làm giàu cho ông í!"

Joóc đứng lặng người.

Cô vung cả hai nắm đấm nện Joóc thùm thụp: "Thế mầy còn lảng vảng quanh đây làm gì?". Quay người lại, cô vớ lấy mấy thứ quần áo ít ỏi của nó, ném về phía nó. "Cút! xéo ra khỏi cái lều nầy!"

Joóc đứng đó như bị rìu bổ. Cảm thấy nước mắt dâng lên và sắp trào ra, Kitzi chạy khỏi lều và lao về phía lều Malizi.

Nước mắt Joóc chảy từng giọt trên mặt. Sau một lúc, không biết nên làm gì khác nó nhét mớ quần áo ít ỏi của mình vào một cái túi và thất thểu quay lại con đường đi xuôi về khu gà chọi. Nó ngủ cạnh một chuồng gà tơ lấy cái túi kê làm gối.

Trước lúc rạng đông, bác Mingô quen dậy sớm thấy nó ngủ ở đó và đoán được chuyện gì đã xảy ra. Suốt ngày hôm đó, bác đi trệch khỏi lệ thường, tỏ ra dịu dàng với thằng bé trong khi nó lặng lẽ thui thủi làm nhiệm vụ.

Trong hai ngày dựng cái lán nhỏ, bác Mingô bắt đầu nói với nó như thể bây giờ bác mới thực sự nhận ra sự có mặt của Joóc vậy. "Nhỏ ạ, cuộc đời này rồi phải là dững con gà nầy cho đến khi nó dư gia đình mầy vậy", một buổi sáng, bác nói độp một cái - đó là điều trước nhất bác muốn in sâu vào tâm trí nó.

Nhưng Joóc không trả lời. Nó không thể nghĩ đến cái gì khác ngoài điều mẹ nó đã nói với nó. Ông chủ nó lại là bố nó. Bố nó là ông chủ nó. Nó không thể chọn lối nào trong hai ứng xử ấy.

Khi thấy thằng bé vẫn không nói gì, Mingô lại lên tiếng. "Tau biết dững nhọ đằng kia nghĩ rằng tau kỳ cục"… Bác ngập ngừng, "Tau đồ là tau có thể"… Rồi bác im.

Joóc hiểu ra là bác Mingô chờ đợi nó trả lời. Nhưng nó không thể thừa nhận rằng đó đích xác là những điều nó đã nghe được về ông lão. Cho nên nó hỏi cái câu đã nằm trong óc nó từ hôm đầu tiên đến thăm: "Bác Mingô, sao dững con gà nầy lại không dư mọi con khác!".

"Mầy nói về dững con gà thuần, chỉ biết ăn", bác Mingô nói, vẻ khinh bỉ. "Dững con ở đây gần tợ dư trở về rừng rú mà ông chủ biểu là ngày xưa bọn nó ở đấy. Thật thế, tau tin nếu quẳng một con gà này vào rừng, nó sẽ chỉ đánh nhau đoạt lấy dững con mái và giết bất kỳ con trống nào khác, y dư thể nó chưa bao giờ ra khỏi rừng vậy".

Joóc có những câu hỏi khác nó đã tích lũy sẵn để nêu ra, song nó khó có dịp mở miệng một khi bác Mingo đang đà câu chuyện. Bất cứ con gà chọi nhép nào chưa đến giai đoạn trai tơ mà đã gáy đều phải bẻ ngoéo cổ ngay, bác nói, bởi vì gáy sớm quá là một dấu hiệu chắc chắn về sự hèn nhát sau này. "Dũng con gà nòi thật ra khỏi trứng đã mang trong máu chất chọi của cha ông. Ông chủ biểu ngày xưa một người mấy bầy gà chọi của mình cũng dư một người mấy lũ chó của mình bi giờ. Dưng mà dững con gà nầy mang trong mình nhều chất ẩu đả hơn là chó, hay bò tót, hay gấu, hay ói người lền ông ta! Ông chủ biểu đến cả vua và tổng thống cũng chơi gà chọi, vì đấy là thể thao lớn nhất!"

Bác Mingô để ý thấy Joóc đăm đăm nhìn những sẹo nhỏ, tái nhợt nhằng nhịt trên làn da đen của bàn tay, cổ tay, cánh tay bác. Đi về lều, lát sau bác trở lại với một đôi cựa thép cong cong, đầu nhọn như mũi kim. "Khi nào mầy bắt đầu xử gà, tay mầy rồi cũng dư tay tau thôi, trừ phi mày hết sức cẩn thận", bác Mingô nói và Joóc hồi hộp nghĩ rằng hình như ông lão suy tính đến chuyện một ngày kia có thể để nó lắp cựa cho gà chọi của ông chủ.

Tuy nhiên, suốt những tuần sau, có những khoảng thời gian dài bác Mingô chẳng chuyện trò gì mấy, vì đã hàng bao năm, bác không nói với ai ngoài ông chủ và lũ gà chọi. Nhưng rồi càng quen với sự có mặt của Joóc ở bên mình - và nghĩ về thằng bé như người giúp việc của mình - bác càng hay phá vỡ yên lặng của mình để bảo ban nó - hầu như bao giờ cũng đột ngột - về một điều gì mà bác cảm thấy có thể giúp Joóc hiểu được rằng chỉ có những con gà chọi được nuôi dạy vào nề nếp và huấn luyện tuyệt vời nhất mới có thể trăm trận trăm thắng và kiếm tiền về cho mexừ Liơ được.

"Ông chủ chả sợ ai trong sân chọi", một đêm, bác Mingô bảo nó. "Thật tế, ông í thích đấu mấy các ông chủ giầu sụ có thể nuôi dững bầy hàng nghìn con gà để có thể chọn ra hàng trăm con hay nhất đem chọi mỗi năm. Mầy thấy chúng ta chả có bầy to, dưng ông chủ vuỗn thắng dững tay giàu ói lần. Dững tay này không thích là vì ông í xuất thân là cánh-cơ nghèo rồi ngoi lên giới thượng lưu. Cơ mà, có kha khá gà thật hay, mấy lị kha khá may mắn, ông chủ có thể phất lên giầu xụ dư họ"… bác Mingô liết mắt nhìn Joóc. "Mầy nghe thấy tau không, nhỏ? Ói người không hiểu là có thể kiếm được bao dêu tền trong chọi gà. Tau biết chắc một điều là nếu ai cho tau chọn một cánh đồng bông hoặc thuốc lá trăm sào hay một con gà chọi thật hay, thì bao giờ tau cũng lấy con gà. Cả ông chủ cũng thế. Bởi vậy nên ông í mới không bỏ tiền mua hàng lô đất lớn hoặc làm chủ bầy lớn nhọ".

Đến năm Joóc mười bốn tuổi, nó mở đầu những ngày nghỉ chủ nhật bằng việc thăm viếng gia đình xóm nô của mình mà nó cảm thấy bao gồm cả các cô bác Malizi, Xerơ và Pompi tới mức độ không kém mẹ đẻ nó. Ngay cả sau ngần nấy thời gian, nó vẫn phải nói cho mẹ yên tâm rằng nó không hề giận về cái cách mẹ nói cho nó biết ai là bố nó. Nhưng nó vẫn nghĩ nhiều về bố nó, tuy không bao giờ bàn chuyện đó với ai, nhất là ông chủ. Mọi người ở xóm nô, giờ đây, rõ ràng là đều nể vì cương vị mới của nó, mặc dầu vẫn cố làm như không phải thế.

"Trước tau quấn tã cứt cho cái đít dơ của mầy, bi giờ tau mà bắt được mầy làm bộ làm tịch, tau vuỗn xéo mầy ngay được trong giây phút!". Một sáng chủ nhật, Xerơ thốt lên, giả bộ dữ tợn một cách đầy thương mến.

Joóc nhe răng cười: "Không đâu cô Xerơ ạ, cháu chả làm bộ làm tịch gì sất".

Nhưng tất cả bọn họ đều mỏi mòn vì tò mò muốn biết những điều bí mật xảy ra dưới khu cấm, nơi nó ở với bày gà chọi. Joóc chỉ kể cho họ nghe những điều có tính chất thông lệ. Nó bảo là nó đã thấy gà chọi giết chết một con chuột lớn, đuổi một con mèo chạy mất, thậm chí tấn công cả một con cáo. Nhưng, theo nó kể, gà mái chọi có khi còn hung hơn trống và thi thoảng cũng gáy như trống. Nó nói ông chủ rất cảnh giác với bọn xâm nhập vì ngay đến trứng của giống gà quán quân, nếu đánh cắp được, cũng cao giá ra trò, chưa nói gì đến bản thân nhũng con gà mà bọn kẻ trộm có thể dễ dàng mang sang bang khác để bán, hoặc thậm chí đem chọi kiếm lợi cho bản thân chúng. Khi Joóc nói bác Mingô kể là mexừ Juét, một tay đại phú chơi gà chọi, đã trả tới ba nghìn đôla một con gà, cô Malizi kêu trời lên: "Lạy Chúa, mua ba, bốn nhọ không đắt bằng một con gà í!"

Sau khi nói chuyện thả cửa với họ, cứ khoảng đầu giờ chiều chủ nhật, Joóc lại bắt đầu bồn chồn, rạo rực. Và thoáng chốc, nó lại hối hả trở xuôi con đường cát về với lũ gà của nó. Chậm bước lại khi đi qua những chuồng nằm dọc theo đường, nó bứt đám cỏ xanh non mơn mởn, ném vào mỗi chuồng một nắm và đôi khi đứng lại một lát, thích thú nghe những tiếng "cục, cục" thỏa mãn của những con trống tơ đang nghiến ngấu nuốt. Bọn này giờ được khoảng một năm, đang tới độ lông, cánh đầy đủ, óng ả, mắt rực lửa và bước vào giai đoạn đột ngột gáy oang lên và cay cú hục hặc tìm cách đá nhau. "Ta làm sao rèn bọn nó để đưa ra bãi thả, bắt đầu đạp mái, càng mau càng tốt", cách đây không lâu bác Mingô đã bảo thế.

Joóc biết điều đó sẽ xảy ra vào lúc bọn trống đã thả bãi đủ mức trưởng thành được đưa vào bồi dưỡng và huấn luyện chuẩn bị cho mùa chọi tới.

Sau khi thăm thú bọn gà tơ, Joóc thường dùng còn phần còn lại của buổi chiều để tha thẩn xuống quá phía cuối đường, vào đám rừng thông, nơi có những bãi thả. Thi thoảng nó nhìn thấy một con trống trưởng thành cai quản một bầy mái một cách hoàn toàn tự do phóng túng. Nó biết ở đấy có vô khối cỏ, hạt, châu chấu, cào cào và các côn trùng khác cùng với những sỏi nhỏ, tốt cho bộ diều của chúng và nước ngọt, trong mát dồi dào, muốn bao nhiêu cũng có, từ nhiều nguồn suối tự nhiên trong rừng.

Một buổi sáng rét run người đầu tháng mười một, khi mexừ Liơ đi xe la tới, bác Mingô và Joóc đang đợi cùng với những con gà tơ gáy ỏm tỏi, chí chóe mổ, đã được tập trung vào những rọ mây đậy kín. Sau khi chất lên xe, Joóc giúp bác Mingô bắt con gà mồi già mình đầy sẹo, miệng quang quác mà bác cưng nhất.

"Nó y hệt như lão, Mingô ạ", mexừ Liơ cười nói. "Nó làm hết phận sự chiến đấu và nuôi dậy trong thời trai trẻ rồi. Giờ chẳng còn thích hợp với việc gì khác ngoài ăn và gáy!".

Nhăn răng cười, bác Mingô nói: "Tui bi giờ hồ dư cũng chả gáy gì nữa, ông chủ ạ".

Bởi lẽ Joóc kính nể bác Mingô cũng ngang mức nó sợ ông chủ, nên nó vui sướng thấy cả hai ở một tâm thế hồ hởi hiếm có như vậy. Rồi bộ ba trèo trên xe la, bác Mingô ôm con gà mồi ngồi cạnh ông chủ, còn Joóc lắc lư cuối xe, đằng sau những rọ gà.

Cuối cùng mexừ Liơ dừng xe ở một quãng sâu trong rừng thông. Ông ta và bác Mingô nghiêng nghé đầu, thận trọng lắng nghe. Rồi bác Mingô nói khẽ: "Tui nghe thấy bọn nó ở đằng sau kia!" Bỗng bác đột ngột phùng má, thổi mạnh vào đầu con gà mồi già và nó vội gáy thật lực.

Mấy giây sau, từ lùm cây, vọng lên một loạt tiếng gáy to, và con mồi già lại gáy tiếp, lông cổ dựng lên. Rồi Joóc sởn da gà khắp người khi thấy con chọi tuyệt đẹp từ ven rừng nhảy bổ ra. Những mớ lông óng ánh nhiều màu giương cao trên thân hình chắc nịch của nó; lông đuôi bóng mượt cong lên. Một bầy chừng chín con mái hối hả chạy tới sợ hãi, vừa bới vừa cục tác, trong khi con trống thả bãi đập cánh hùng dũng và gáy một tiếng tiếng sấm sét, đầu ngọ nguậy nhìn quanh tìm kẻ đột nhập.

Mexừ Liơ nói nhỏ: "Mingô, cho nó thấy con lão tướng đi!" Bác Mingô giơ cao con lão tướng và con gà thả bãi hồ như bật tung lên không lao thẳng vào con mồi già. mexừ Liơ chuyển động mau lẹ, túm lấy con gà thả bãi giữa đường bay, khéo léo tránh những cái cựa tự nhiên, dài dữ dội mà Joóc thoáng thấy khi ông chủ ấn nó vào một chiếc giỏ và đậy nắp lại.

"Giương mắt lên làm gì đấy, nhỏ? Thả một con tơ ra!" bác Mingô quát, như thể trước đây, Joóc đã từng làm việc đó. Nó lóng ngóng mở cái rọ gần nhất và con gà tơ được thả bành bạch bay khỏi chiếc xe la, nhảy xuống đất. Ngập ngừng một thoáng, nó đập cánh, gáy thật to, buông một cánh xuống và lấy điệu bộ cứng quèo diễu quanh một con mái. Rồi con trống mới của bãi bắt đầu lùa tất cả con mái khác trở vào rừng thông.

Hai mươi tám con hai tuổi đến độ trưởng thảnh đã được thay thế bằng những con tơ một năm, khi chiếc xe la trở về đúng trước khi xẩm tối. Sau khi lập lại mọi động tác, bắt thêm ba mươi hai con nữa ngày hôm sau, Joóc có cảm tưởng như đã làm công việc rút gà ở bãi thả về suốt đời. Giờ đây, nó bận bịu cho sáu mươi con ăn, uống. Nó thấy là khi không ăn thì chúng gáy và tức tối mổ vào cạnh chuồng - những chuồng này được quây sao cho chúng khỏi nhìn thấy nhau, điều có thể gây thương tích cho một số con trong cơn hăng tiết muốn giao tranh. Joóc ngây ngất ngắm những con chim cuồng dại và uy nghiêm, hung dữ mà tuyệt đẹp đó. Chúng là hiện thân của tất cả những gì bác Mingô đã nói với nó về huyết thống dũng cảm lâu đời, với cả đường nét ngoại hình lẫn bản năng, khiến chúng sẵn sàng tử chiến với bất cứ con gà chọi nào khác vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu.

Ông chủ tin rằng cần phải luyện gấp đôi số gà ông dự định mang ra thi đấu trong mùa chọi. "Một số con dất khoát không hồng hào lên, không ăn, không làm dư dững con khác", bác Mingô cắt nghĩa cho Joóc, "dững con í ta sẽ loại ra". mexừ Liơ bắt đầu đến sớm hơn dạo trước để làm việc với bác Mingô, mỗi ngày bỏ nhiều giờ ra nghiên cứu từng con một trong số sáu mươi gà đó. Nghe lỏm được những mẩu đối thoại giữa hai ngươi, Joóc suy nghĩ ra rằng họ sẽ loại những con có tật trên đầu hoặc trên mình, hoặc giả mỏ, cổ, cánh, chân hay hình dạng chung xét thấy chưa được hoàn hảo. Nhưng cái lỗi tệ hại nhất trong tất cả là tỏ ra chưa đủ hiếu chiến.

Một hôm, ông chủ từ đại sảnh tới với một cái hộp bằng các-tông. Joóc quan sát bác Mingô đong ra hàng bơ bột mì và bột yến mạch, trộn lẫn với bơ, một chai bia, lòng trắng của mười hai quả trứng gà mái chọi, một ít me chua, dây thường xuân và tí ti cam thảo thành một thứ bột bánh. Bột này được nặn thành những bánh tròn mỏng, đem nướng giòn trong một cái lò nhỏ bằng đất. "Bánh này đem lại sức khỏe cho bọn nó", bác Mingô nói, chỉ bảo cho Joóc bẻ bánh thành những miếng nhỏ, hàng ngày cho mỗi con ăn ba nắm và cho ít cát vào các cóng nước mỗi khi đổ đầy lại.

"Ta muốn lão rèn cho chúng chỉ còn thuần bắp thịt và xương, Mingô ạ! Ta muốn trong cả cái sân gà này không có lấy một li leo mỡ nào!" Joóc nghe thấy ông chủ ra lệnh. "Bọn nó sắp sửa phải chạy đến rụng đuôi, ông chủ ạ!" Bắt đầu từ hôm sau, Joóc phải chạy tới chạy lui, kẹp chặt vào nách một trong những con mồi già của bác Mingô khi nó bị những con đang luyện thay nhau đuổi riết. Theo lời chỉ bảo của bác Mingô thỉnh thoảng Joóc lại để cho con đuổi rượt tiếp cận khá sát để chồm tới quai mỏ và song phi vào con mồi đang giận dữ kêu quàng quạc.

Lúc ấy, bác Mingô liền bắt lấy con tấn công còn đang thở rốc, lẹ làng cho nó nghiến ngấu mổ một cục bơ không muối to bằng quả óc chó, trộn với cỏ vò nát. Rồi bác đặt con gà đã thấm mệt lên chút rơm mềm dưới đáy một cái giỏ sâu, chất thêm rơm lên mình nó cho tới miệng giỏ và đậy nắp lại. "Bi giờ, nó sắp sửa ra mồ hôi tốt dưới í", bác giải thích. Sau khi cho con cuối cùng tập xong. Joóc bắt đầu bỏ những con đổ mồ hôi ra khỏi giỏ. Trước khi Joóc trả chúng về chuồng, bác Mingô lấy lưỡi liếm đầu và mắt từng con, đồng thời cắt nghĩa cho nó: "Làm thế để cho bọn nó quen đi, ngộ dư về sau tau phải hút dững cục máu khỏi mỏ bọn nó để giúp bọn nó vuỗn thở được khi bị thương nặng trong cuộc chọi".

Đến cuối một tuần lễ, bàn tay và cánh tay trên của Joóc bị xước nhiều vết cựa sắc, đến nỗi bác Mingô phải càu nhàu: "Người ta sắp nhằm mầy là một tay chọi gà mất, mầy không đề phòng gì cả!" Trừ buổi sáng Nôen, về thăm xóm nô qua loa, Joóc gần như không nhận thấy mùa nghỉ trôi qua. Giờ đây, gần đến lúc mở màn mùa chọi gà, những bản năng xung sát của bày gà dâng tới độ sốt cuồng đến nỗi chúng gáy và lồng lộn mổ vào bất kỳ cái gì, vỗ cánh phành phạch. Joóc nghĩ sao mà nó hay nghe thấy mẹ, các cô Malizi, Xerơ và bác Pompi than vãn về số phận của họ, mà không ngờ một cuộc sống biết mấy hào hứng đang tồn tại chỉ cách một quãng đi dạo ngắn, ở ngay cuối đường.

Hai ngày sau Tết dương lịch, Joóc lần lượt tóm từng con gà chọi, trong khi mexừ Liơ và bác Mingô xén tịt lông đầu, cắt ngắn lông cổ, cánh và mông của từng con, rồi sửa lông đuôi thành hình những chiếc quạt ngắn, cong cong. Joóc thấy khó mà tin được là việc xén tỉa lại tôn lên biết bao những thân hình thon, chắc nịch, những cái cổ như mình rắn và những cái đầu to với mỏ khỏe và mắt long lanh của bày gà. Một số con mỏ thấp cũng được sửa sang. Cuối cùng các cựa tự nhiên được cạo mượt và sạch.

Sáng tinh mơ, bác Mingô và Joóc đã đang dồn mười hai con gà được tuyển vòng cuối cùng vào những lồng lưu động hình vuông đan bằng nan gỗ hồ đào. Bác Mingô cho mỗi con ăn một thỏi bơ trộn với đường bánh nâu nghiền thành bột, cỡ bằng quả óc chó, rồi mexừ Liơ đánh xe chở đến, mang theo một thùng táo đỏ. Sau khi Joóc và bác Mingô chất mười hai lồng gà lên xe, bác Mingô trèo lên ngồi cạnh ông chủ và xe bắt đầu chuyển bánh.

Liếc nhìn lại đằng sau, bác Mingô lạu bạu: "Mầy đi hay không?" Nhảy thoăn thoắt theo sau họ, Joóc với tới cửa sau xe, tót lên và chui vào. Trước đó, không ai bảo nó đi! Sau khi lấy lại hơi, nó thu mình trong một tư thế ngồi xổm. Tiếng xe cót két hòa lẫn trong tai nó với tiếng gáy, tiếng cục cục và tiếng mổ của lũ gà. Nó cảm thấy sâu sắc biết ơn và kính trọng bác Mingô cùng mexừ Liơ. Và nó lại nghĩ - bao giờ cũng với niềm bối rối và ngạc nhiên - đến cái điều mẹ nó đã nói: ông chủ là bố nó, hoặc bố nó là ông chủ, đằng nào cũng vậy.

Dọc đường, Joóc bắt đầu thấy ở phía trước, hoặc nhô ra từ những đường nhánh, nhiều xe chở, xe bò, xe thuê nhà khác, cũng như những người cưỡi ngựa, những cách-cơ nghèo đi bộ mang những tay nải phùng to mà Joóc biết là ở trong, có những chú gà chọi được lót rơm làm ổ nằm. Nó tự hỏi: không biết trước kia mexừ Liơ có bước vào võ trường đấu gà như thế này chăng, với con gà đầu tiên mà người ta nói là ông đã trúng giải với một vé xổ số. Joóc thấy phần lớn các xe đều chở một hoặc nhiều người da trắng cùng với nô lệ, và xe nào cũng chở một vài chuồng gà. Nó nhớ lại lời bác Mingô: "Dân chơi gà chọi bất kể thời gian hay đường sá xa xôi, khi sắp diễn ra một cuộc thi đấu lớn", Joóc tự hỏi liệu một số trong đám cách-cơ chân đất kia, một ngày nào đó, có thể thành chủ nhân một trang trại và một đại sảnh như ông chủ không.

Sau khoảng hai giờ, Joóc bắt đầu nghe thấy loáng thoáng đằng xa một cái gì vốn chỉ có thể là tiếng gáy văng vẳng của nhiều con gà chọi. Cái hợp xướng kỳ lạ ấy cứ to dần lên khi chiếc xe đến gần một khu rừng thông rậm rạp toàn cây cao. Nó ngửi thấy mùi thơm của thịt nướng cả con; rồi xe của họ lẫn vào giữa đám những xe khác đang xoay sở tìm chỗ đậu. Khắp xung quanh, ngựa, la buộc ở cọc khịt mũi, giậm chân, ngoắt đuôi và nhiều người đang trò chuyện.

"Tom Liơ!"

Ông chủ vừa mới đứng dậy trong xe, nhún nhún đầu gối cho khỏi tê chân. Joóc thấy là tiếng gọi phát ra từ đám cách-cơ đứng ở gần đó đang truyền nhau một chai rượu, và mừng rơn thấy ông chủ mình nhận ra ngay. Tay vẫy những người kia, mexừ Liơ nhảy xuống đất và loáng cái đã nhập vào đám đông. Hàng trăm người da trắng - từ những thằng bé túm chặt ống quần bố đến những ông già nhăn nheo - đang xoay quanh họp thành từng tốp trò chuyện. Đưa mắt nhìn quanh, Joóc thấy hầu hết cánh nô lệ đều ở lại trong xe, chừng như đang chăm sóc lũ gà bị nhốt trong lồng, còn hàng trăm con gà thì tựa hồ đang phô diễn một cuộc thi gáy vậy. Joóc thấy cả những giường xếp ở dưới nhiều cỗ xe gần đó và đoán là các chủ xe ở rất xa nên phải ngủ lại đêm tại đây. Nó ngửi thấy mùi thơm hắc của rượu ngô.

"Đừng có ngồi há hốc mồm ra đấy nữa, nhỏ! Ta còn phải xoa bóp cho gà chứ!" bác Mingô nói, lúc này mới lách được chỗ đậu xe. Cố hết sức dẹp nỗi kích động khó tưởng tượng nổi, Joóc bắt đầu mở những chiếc lồng lưu động và lần lượt trao lũ gà lồng lộn mổ túi bụi, hết con này đến con khác, vào đôi bàn tay đen sứt sẹo của bác Mingô và đôi tay đó liền xoa bóp chân, cánh cho từng con một. Đón lấy con cuối cùng, bác Mingô nói: "Mầy bổ nửa tá quả táo cho ngon lành. Ấy là thức ăn cuối cùng tốt nhất cho bọn gà nầy bước vào giao đấu". Rồi luồng mắt của ông lão bắt gặp cái nhìn trân trân, đờ đẫn của thằng bé dán vào đám đông và bác Mingô nhớ lại tâm trạng mình trong lần dự hội chọi gà đầu tiên, cách đây quá lâu, đến nỗi bác không buồn nghĩ tới nữa. "Xéo!" bác quát, "ra khỏi đây mà chạy quanh một tẹo nếu mầy muốn thế, dưng mà phải về trước khi bắt đầu, nghe chưa?"

Khi tiếng "Vâng!" của nó đến tai bác Mingô thì Joóc đã vượt qua thành xe và biến mất rồi. Luồn lách giữa đám đông chen vai thích cánh, chén chú, chén anh, nó xông bên này sục bên kia, thảm quả thông núng nính dưới đôi chân trần. Nó đi qua hàng tá lồng chứa những con gà kêu nhặng xị bày ra một loạt kỳ diệu đủ các màu lông từ trắng như tuyết đến đen như than với những hòa sắc trung gian không xiết tả.

Joóc đứng sững lại khi trông thấy cái ấy. Đó là một khoảng rộng hình tròn, lún sâu xuống độ hơn sáu mươi phân, thành có lót đệm và nền đất sét nện rải cát có in dấu một vòng tròn nhỏ chính giữa trung tâm và hai đường thẳng tắp cách đều hai cạnh. Bãi chọi gà! Ngước nhìn lên, nó thấy những người hăm hở tìm chỗ ngồi trên một mô đất dốc tự nhiên đằng sau bãi, một số đông trong đó chuyền tay nhau những chai rượu. Thế rồi nó giật nảy mình thấy một viên chức mặt đỏ hô oang oang ngay bên tai: "Quý ngài, ta bắt đầu cuộc đấu gà!"

Joóc lao thật nhanh trở về như một con thỏ rừng, tới chỗ xe đậu trước mexừ Liơ có một khoảnh khắc. Rồi ông nhỏ vừa liếc nhìn những con gà trong lồng. Đứng trên ghế ngồi phía trước xe, Joóc có thể nhìn vượt qua đầu mọi người tới bãi chọi. Ở đó, bốn người đang xúm xít chuyện trò, trong khi hai người khác đi về phía họ, mỗi gã ẵm một con gà chọi. Bất thình lình, những tiếng xôn xao vang lên giữa đám khán giả: "Mười bạc, con màu đỏ!"… "Chơi!" "Hai mươi "đôn", con xanh"… "Năm nữa!"… "Cân!"… Những tiếng cá mỗi lúc một to và một nhiều trong khi Joóc trông thấy hai con gà được cân, rồi sau đó, được chủ chúng lắp những cái mà Joóc biết chắc là những mẩu thép nhọn như mũi kim. Nó vụt nhớ là bác Mingô đã có lần bảo nó rằng người ta hiếm khi chịu cho gà đấu nếu một con nặng hoặc nhẹ hơn con kia dù chỉ nửa lạng.

"Cho hai con chụm mỏ vào nhau!" một người ở ven bãi đấu hô. Rồi anh ta cùng hai người khác mau lẹ ngồi ra ngoài vành, trong khi các chủ gà ngồi xổm trong vòng tròn, ghé hai con vào nhau với khoảng cách đủ để chúng trao đổi vài nhát mổ ngắn.

"Chuẩn bị!" Lùi lại hai vạch xuất phát đối diện nhau, hai chủ gà cho gà đặt chân xuống đất, con nọ rướn mình nhằm tới con kia.

"Thả gà!’

Nhanh như chớp nhoáng, đôi gà chọi đâm bổ vào nhau mạnh đến nỗi mỗi con đều bật lại đằng sau, nhưng chỉ trong một giây, chúng hồi lại ngay, nhảy lên không, vung vẩy những cặp giò lắp móng sắt. Buông mình xuống sân đấu, chúng lại bay lên ngay lập tức, quyện vào nhau thành một xoáy lốc lông vũ.

"Con đỏ bị thương rồi!" có người gào lên và Joóc nín thở theo dõi mỗi tay chủ chộp lấy gà của mình khi nó đậu xuống, xem xét rất nhanh rồi lại đặt nó vào vạch xuất phát. Con gà đỏ bị thương loay hoay thế nào mà lại nhảy cao hơn địch thủ và bất thình lình một trong hai chân đá song phi của nó cắm một móng thép vào óc con gà xanh. Con này rơi xuống, đôi cánh chấp chới co giật, giãy chết. Giữa loạn xị những tiếng hò phấn khởi và những tiếng chửi thể cộc cằn, Joóc nghe thấy người trọng tài lớn giọng thông báo: "Gà của ông Grêxơn thắng - một phút mười giây trong đợt thả thứ hai".

Joóc thở hổn hển. Nó thấy trận đấu tiếp theo kết thúc còn nhanh hơn, một tay chủ gà cáu kỉnh quăng cái xác đẫm máu của con vật thua trận của mình sang bên cạnh như một tấm giẻ. "Gà chết thì chỉ là một mớ lông rối", bác Mingô đứng ngay sau lưng Joóc nói vậy. Trận thứ sáu thứ bảy gì đó vừa kết thúc thì một viên chức hô: "Ông Liơ!..."

Ông chủ hối hả đi khỏi xe, tay ẵm một con gà, Joóc nhớ là mình từng cho con này ăn, luyện cho nó, ôm nó trong tay: nó cảm thấy ngây ngất vì tự hào. Rồi ông chủ vả đối phương đến bên bãi chọi, cân gà và lắp cựa thép giữa những tiếng đánh cá ồn ào.

Sau lệnh "thả gà!", hai con đâm sầm vào nhau; chúng nhảy lên không rồi hạ xuống sàn đấu, mổ điên cuồng đánh dứ, động tác giả, uốn những cái cổ mình rắn, cố tìm bất kỳ một sơ hở nào của nhau. Một lần nữa bật lên cao, chúng đánh nhau bằng cánh - rồi rơi xuống cả hai, con của mexừ Liơ quay lông lốc, rõ ràng bị trúng cựa thép! Nhưng chỉ mấy giây sau, trong đợt quần thảo trên không tiếp theo, gà của ông chủ đánh tử thương địch thủ bằng cựa thép của mình.

Mexừ Liơ vồ lấy gà của mình bế thốc lên - nó vẫn đang cất tiếng gáy đắc thắng - và chạy về xe. Joóc chỉ nghe loáng thoáng: "Gà của ông Liơ thắng!..." trong khi bác Mingô nắm lấy con gà đang chảy máu, huơ ngón tay khắp mình nó, tìm ra vết rạch sâu ở lồng ngực. Bặm môi vào chỗ đó, bác Mingô hóp má lại, hút mạnh lớp máu đóng cục. Bất thình lình dúi nó xuống trước đầu gối Joóc, bác Mingô quát: "Đái vào nó! Đái thẳng vào đấy!" Như bị sét đánh, Joóc ngây người, ha hốc miệng: "Đái! Giữ cho nó khỏi dễm trùng!" Lóng ngóng, Joóc làm theo, tia nước tiểu phun mạnh vào con gà bị thương, bắn vào cả tay bác Mingô. Rồi bác Mingô nhẹ nhàng ủ nó giữa lớp rơm trong một chiếc giỏ sâu. "Tin chắc là ta cứu được nó rồi, ông chủ ạ! Ông cho con nào chọi tiếp?" Mexừ Liơ chỉ vào một chiếc lồng. "Bắt con gà này ra, nhỏ!". Joóc vội vã chấp hành, suýt té nhào, và mexừ Liơ hối hả trở lại phía đám đông đang hò reo trong khi kẻ chiến thắng một trận khác được thông báo. Loáng thoáng chìm dưới tiếng gáy khàn khàn của hàng trăm con gà, tiếng người xướng những khoản đánh cá mới, Joóc nghe thấy con gà bị thương cục cục yếu ớt trong giỏ. Nó vừa buồn, vừa hoan hỉ, vừa sợ hãi, chưa bao giờ nó trải một nỗi khích động như thế. Và buổi sáng mát lành ấy, một tay chọi gà mới đã ra đời.

Chương 90

"Thử nhìn nó cố lấy dáng đi cho oai vệ hơn bọn gà trống kìa!" Kitzi thốt lên với Malizi, Xerơ và bác Pompi, Joóc sải bước trên con đường để tới cùng họ tiêu dao buổi sáng chủ nhật.

"Hừm!" Xerơ lườm Kitzi. "Thôi im đi cô, bọn tui cũng vinh quang vì nó dư cô đấy!"

Trong khi Joóc tiếp tục đi tới, vẫn còn ngoài tầm tai nghe, Malizi kể cho những người kia nghe là mới chiều hôm trước thôi, chị đã nghe hóng thấy mexừ Liơ ngà ngà say tuyên bố với một số tay chơi gà được mời đến ăn tiệc rằng ông ta có một thằng nhỏ mới bốn năm tập sự đã tỏ ra có "thiên bẩm" để đến thời sẽ trở thành "ngang hàng với bất kỳ tay luyện gà nào, da trắng hay da đen, ở trong quận Caxuel"

"Ông chủ biểu lão già nhọ Mingô nói thằng nhỏ này quả là sống và thở hít chất gà! Theo lời ông chủ, lão Mingô thề không có bịa, một buổi tối muộn, lão đang đi quanh mạn dưới í thì trông thấy Joóc ngồi lom khom trên một gốc cây, nom đến ngộ. Mingô kể là lão rón rén đến đằng sau thật từ từ, hóa ra Joóc đang ngồi nói chuyện với mấy con gà mái đang ấp trứng, nói sai, lão chỉ là con chó. Lão thề là thằng nhỏ đang nói với bọn gà mái về các trận thắng sau này của lũ gà con sắp nở".

"Lạy Chúa!" Kitzi nói, đôi mắt đắm trong hình ảnh đứa con trai đang tiến lại gần. Sau khi ôm hôn đám phụ nữ và bắt tay bác Pompi như lệ thường, Joóc cùng với tất cả ngồi xuống những chiếc ghế đẩu được mau chóng mang ra từ các lều. Trước hết, họ kể cho Joóc nghe những tin mới nhất về dân da trắng mà Malizi đã nghe lỏm được trong tuần. Lần này, số tin tức ít ỏi lượm được là: nghe đồn ngày càng có nhiều người da trắng nói năng lạ hoắc từ bên kia bờ nước lớn được tàu chở tới miền Bắc tăng cường thêm cho số người đang chiến đấu giành lấy những công việc trước đây do những người da đen tự do nắm giữ và lời bàn tán về chuyện đưa người da đen xuống tàu chở về châu Phi cũng ngày một tăng thêm. Họ nói đùa Joóc là cứ sống biệt lập như nó với cái lão già kỳ cục ấy, thì đừng hòng biết gì về những chuyện đó hoặc về những sự việc khác đang diễn ra ở phần còn lại của thế giới "trừ phi có đôi ba con gà nào đó kể cho mày nghe" - và Joóc cả cười đồng ý.

Những cuộc viếng thăm hàng tuần đó không những mang lại cho Joóc niềm vui thích được gặp mẹ và những người kia mà còn khiến nó thoát được vài bữa các món nấu nướng của bác Mingô vốn hợp với gà hơn với người. Malizi và Kitzi thế nào cũng làm ít nhất hai, ba đĩa thức ăn ưa thích của Joóc.

Khi câu chuyện bắt đầu uể oải - thông thường là vào khoảng trưa - họ biết là cu cậu đã bồn chồn muốn về, và sau khi họ bắt nó hứa sẽ cầu nguyện thường xuyên, sau một tua ôm hôn, bắt tay nữa, Joóc hối hả đi xuôi con đường, xách giỏ thức ăn về để cùng đánh chén với bác Mingô.

Mùa hè, Joóc thường hay qua nốt phần còn lại của chiều chủ nhật ở một bãi cỏ chăn gia súc, tại đó bác Mingô có thể trông thấy nó nhảy tung tăng bắt cào cào làm món cao lương mỹ vị cho đám gà con và gà tơ nhốt trong chuồng. Nhưng bây giờ là đầu đông, đám gà hai tuổi vừa mới được rút về từ bãi thả để tập luyện, và Joóc đang cố tìm cách vớt vát một trong số mấy con gà mà bác Mingô và ông chủ cảm thấy có lẽ quá hoang dại và sợ người, khó bề tiếp thu tốt việc rèn cặp và có triển vọng bị loại coi như đồ bỏ. Bác Mingô cảm mến và thích thú theo dõi Joóc cưỡng bách kiềm chế con gà tơ giãy giụa, kêu quang quác và mổ lung tung, đồng thời ngọt ngào dỗ nó, thổi nhẹ vào đầu, vào cổ nó, cọ mặt mình vào mớ lông bóng bẩy, xoa bóp mình mảy, chân, cánh nó - cho đến khi nó thực sự ổn định.

Bác Mingô cầu cho Joóc may mắn, song bác hy vọng nó nhớ những điều bác bảo ban nó về việc dựa một cách cầu may vào một con gà không đáng tin cậy. Việc nuôi dạy và phát triển một con gà chọi hay có thể là một sự đầu tư cả đời và có thể mất sạch sành sanh trong một nước cờ theo cảm tính. Dứt khoát, anh không thể đánh liều cho một con gà xuất trận nếu chưa sửa được vĩnh viễn mọi nhược điểm có thể phát hiện được. Và đến nay, Joóc đã đạt được đến chỗ hoàn toàn bình tĩnh vặn ngoéo cổ một con gà chọi, nếu thấy hỏng kiểu. Nó đã đi đến chỗ hoàn toàn đồng quan điểm với ông chủ và bác Mingô rằng những con gà chọi duy nhất đáng giá là những con mà do rèn luyện triệt để cộng với bản năng hiếu chiến và dũng cảm, thà chết gục trên bãi chọi, chứ không chịu bỏ cuộc đấu.

Joóc rất thích khi gà của ông chủ giết được đối phương nhanh chóng mà không bị thương, đôi khi chỉ trong vòng ba, bốn mươi giây, nhưng trong thâm tâm - tuy nó ắt chẳng bao giờ hé ra điều này với bác Mingô hoặc mexừ Liơ - không gì có thể sánh với nỗi xúc động rộn ràng khi xem một con gà mình đã góp phần nuôi dạy từ lúc bé tí, chọi chí chết với một con khác cũng cỡ kiện tướng, cả hai cùng loạng choạng, tơi tả, máu me, mỏ há hốc, lưỡi thè lè, cánh kéo lết trên sàn bãi chọi, mình và chân đều run, cho đến lúc rốt cuộc, đều gục xuống hẳn: rồi trong khi trọng tài đang đếm đến mười, con gà của ông chủ, bằng cách nào đó, thu được chút hơi sức tàn, vùng đứng dậy và phóng ra nhát cựa quyết định.

Joóc rất hiểu sự gắn bó sâu sắc của bác Mingô với năm sáu con gà mồi già mình đầy sẹo mà bác coi gần như là con cưng - đặc biệt là con mà bác bảo là đã đem lại phần thắng cho ông chủ trong cuộc cá lớn nhất sự nghiệp chơi chọi gà của ông ta. "Cuộc chọi ghê gớm nhất tau từng thấy", bác Mingô vừa nói vừa gật gật đầu về phía con lão tướng một mắt ấy.

"Ấy là hồi nó còn thanh xuân, áng chừng ba, bốn năm trước khi mày đến đây. Chả biết làm sao ông chủ lọt được vào cuộc đấu giải lớn Tết năm í, được hỗ trợ của mexừ nào đó thiệt giàu ở tận quận Xơri, bang Vơjiniơ. Họ bảo là không kém hai trăm gà tham gia chọi, tranh giải chính thức mười ngàn đôla, cùng với dững món cá ngoài lề không dưới trăm đôla. Thế, ông chủ mấy tau mang hai mươi gà đi. Tau nói cho mày nghe, hai mươi con gà đều sẵn sàng! Bọn tau đánh xe chở đi mấy ngày tới đó, dọc đường cho gà ăn, uống trong lồng mới lị xoa bóp cho bọn nó. Thế, đến gần hết cuộc thi đấu, bọn tau thắng mấy trận, dưng lại thua quá nhiều trận khác, khó lòng mới tới món giải chính í được, thành thử ông chủ như phát điên phát cuồng. Thề rồi ông í được biết là bọn ta phải chọi mấy cái con người ta biểu là đệ nhất mãnh kê ở bang Vơjiniơ. Mày phải nghe người ta hò hét, cá nhau cái con gà í mới biết là thế nào.

"Ờ, thế đấy! ông chủ vớ lấy chai rượu, tợp vài tợp rồi mặt đỏ rừ cả lên cật lực! Và trong cái đám gà còn sót lại ông ấy mới chọn cái con ó già mày đang nhìn kia kìa. Ông chủ cặp con gà í vào nách và bắt đầu đi quanh bãi chọi, thề tướng lên rằng thì là ông ấy không có nhận ai cá hết! Ông í nói là ông í bắt đầu tay trắng, nếu có kết thúc trắng tay thì cũng chả có gì là lạ! Nhỏ này, để tau nói cho mày nghe! Cái con thịt già lông cộc kia bước vào bãi chọi í ít nữa không ra khỏi, nhưng mà con kia thì chết! Các trọng tài báo rằng hai con đã cố sức giết nhau trong gần mười tư phút!" Bác Mingô nhìn con trống già với vẻ hoài cổ nồng hậu. "Nó bị thương nát mình mẩy, máu chảy nhiều đến nỗi muốn chết, cơ mà tau không chợp mắt tí nào kì đến khi cứu được nó!"

Bác Mingô quay về phía Joóc. "Nói thật, nhỏ ạ, có cái này đáng ra tau phải dồi vào đầu mày cẩn thận hơn mới đúng - phải làm mọi cái có thể làm để cứu dững gà bị thương. Ngay cả dững con khá may để giết địch thủ nhanh chóng, rồi đứng đấy gáy tướng lên, làm dư sẵn sàng chọi tiếp, dều, mình cũng có thể mắc lừa! Hễ mang nó trở về xe là phải khám khắp mình nó ngay lập tức, thật kỹ! Có khi chỉ mấy nhát cựa làm xây xát nhỏ cũng có thể dễm trùng. Bất cứ vết xước nào, mày cứ đái đại vào cho tau. Nếu có chảy máu, mày đắp lên một cái mạng dện hay một dúm lông bụng mềm của thỏ. Nếu mầy không làm thế, hai ba ngày sau, gà mầy bắt đầu nom dư teo lại, dư cái dẻ mềm dũn, rồi chả mấy chốc, gà mày chết. Gà chọi, tau nghe nói, cũng dư ngựa đua. Bọn nó cứng rắn đấy, cơ mà đồng thời cũng lại là dững sinh linh hết sức mong manh."

Joóc có cảm giác như bác Mingô đã dạy nó một nghìn điều, vậy mà hàng nghìn điều khác vẫn còn trong đầu bác. Joóc đã cố gắng tìm hiểu mà vẫn không sao nắm được làm thế nào bác Mingô và ông chủ có thể cảm thấy những con gà nào sẽ tỏ ra nhanh mạnh nhất, táo tợn nhất và kiêu dũng nhất trong bãi đấu. Đó không phải đơn giản là những ưu điểm mắt thấy được mà giờ đây, ngay cả Joóc cũng đã biết nhận ra: lý tưởng là lưng rộng, thẳng đẹp và một cái bụng nhỏ chắc nịch. Nó biết rằng những cánh tốt, vững chãi, tròn xương phải có lông ống cứng, rộng, bóng bẩy, thiên về giao nhau dưới một cái đuôi trành góc giữa; rằng những chiếc dò lực lưỡng, mập, ngắn, phải xoạc rộng, với những cựa khỏe cách đều nhau trên đôi chân vững chắc có ngón sau đen dài xòe hẳn về phía sau và áp xuống mặt đất.

Bác Mingô thường mắng Joóc về tội trở nên mê thích một số con đến nỗi dường như quên cả những bản năng rừng rú của chúng. Thi thoảng, một con gà chọi được cưng đang ngoan ngoãn nằm trong lòng Joóc, chợt nhìn thấy một trong những con mồi già của bác Mingô, bèn quác một tiếng rầm trời, vùng khỏi tay Joóc, hùng hổ đuổi con gà già khiến Joóc phải rượt theo ách chúng lại trước khi con nọ giết chết con kia. Bác Mingô cũng dặn đi dặn lại Joóc phải kiềm chế xúc động của mình tốt hơn mỗi khi một con gà của nó bị giết trên bãi chọi; nhiều lần, anh cu Joóc cao to vạm vỡ đã òa lên khóc. "Không ai có thể mong trận nào cũng thắng, tau đã biểu mày thế không biết bao dêu lần rồi!" bác Mingô nói.

Bác Mingô cũng quyết định nói cho Joóc hay rằng mấy tháng nay bác vẫn biết cứ sau khi trời tối mịt không bao lâu, cu cậu lại lẩn mất biến, mãi rất khuya mới trở về, gần đây kéo đến gần tận sáng. Bác Mingô chắc cái đó có liên quan với việc Joóc đã có lần làm ra vẻ thản nhiên kể rằng một hôm cùng với mexừ Liơ đến cối xay bột, nó có gặp một cô hầu đại sảnh khá xinh và da gần như nâu vàng tên là Tseriti ở đồn điền kề bên. "Bao dêu năm ở đây, con mắt già, cái tai già của tau giống dư tai mắt mèo í. Ngay đêm đầu mày lẻn đi, tau đã bết", bác Mingô nói với anh chàng học việc ngỡ ngàng. "Dào, tao chả phải hạng đi chõ mũi vào việc người khác, cơ mà tau nói mầy nghe cái nầy. Mầy phải bảo đảm thật chắc chắn, chớ để ba cái thằng tuần cha tuần bố da trắng bắt được, là vì nếu chính chúng không đánh mày sống dở chết dở, thì chúng cũng mang mầy về đây, mà mầy đừng có tưởng ông chủ không quất roi vào đít mầy nhớ!" Bác Mingô đăm đăm nhìn qua bãi cỏ thả gia súc hồi lâu, rồi mới nói tiếp: "Mầy nhận thấy tau không biểu thôi đừng lỉnh đi nữa chứ?"

"Thưa bác, vâng", Joóc cung kính nói.

Trong một lát im lặng nữa, bác Mingô ngồi xuống một gốc cây cục thích, hơi ngả người về phía trước và bắt chân chữ ngũ, hai tay ôm đầu gối. "Nhỏ! Tau nhớ hồi trước tau cũng có lần đầu bết ra con gái là thế nào…" và một ánh sáng mới len vào trong mắt bác Mingô, trong khi những nét già nua dịu hẳn lại. "Là cái cô gái cao, dài í, cô ta còn lạ nước lạ cái, khi ông chủ cô í mua một chỗ ngay cạnh đồn điền ông chủ tau". Bác Mingô dừng lại, mỉm cười. "Tau tả cô í thế nào cho khéo nhất nhỉ, ờ, cánh nhọ hơn tuổi tao bắt đầu gọi cô í là "Con Rắn Đen…", bác Mingô tiếp tục kể, nụ cười mỗi lúc một mở rộng chừng nào bác hồi tưởng lại - và bác hồi tưởng lại khá nhiều điều. Nhưng Joóc đang quá buồn bực vì nỗi bị bắt quả tang, nên chẳng bận tâm đến bất cứ điều gì bác Mingô đang kể với nó. Dù sao cũng thật rõ ràng là nó đã đánh giá thấp ông lão về hơn một phương diện.

Chương 91

Một sáng chủ nhật, đi ngược con đường về phía xóm nô, Joóc cảm thấy có cái gì không ổn, khi nó không thấy mẹ nó hoặc bất kỳ ai khác đứng quanh lều Kitzi để đón nó như trước đây họ vẫn nhất nhất làm thế trong suốt bốn năm nó ở với bác Mingô. Rảo bước, nó tới lều mẹ và sắp giơ tay gõ thì cửa bật mở và Kitzi kéo giật nó vào, đóng nhanh cửa lại sau lưng, mặt căng thẳng vì sợ hãi.

"Bà chủ có trông thấy con không?"

"Con không thấy bà ấy, mẹ ạ! Có chuyện gì thế?"

"Lạy Chúa! Ông chủ nghe tin có một nhọ tự do nào đó ở Saletơn, miền Nam Calini, tên là Đemnác Vêxi, cầm đầu hàng trăm nhọ sẵn sàng giết vô kể người da trắng ngay đêm nay, nếu không đã bắt được cả bọn. Ông chủ vừa đi khỏi đây chưa lâu, làm dư hóa dại, huơ khẩu súng ngắn, dọa giết bất cứ ai bà chủ trông thấy ra ngoài lều trước khi ông í ở một cuộc họp tổ chức lớn gì gì đấy trở về!".

Kitzi men theo vách lều đến khi có thể nhìn qua khung cửa sổ duy nhất về phía đại sảnh. "Bà í không còn ở chỗ lúc nẫy bà í đứng ngó ra! Có dễ bà í đã trông thấy mầy đến, và bà í đi trốn đấy!" Việc bà chủ Liơ trốn nó, nghe thật vô lý, khiến nỗi kinh hoàng của Kitzi lây sang Joóc phần nào. "Chạy trở về mấy lũ gà đi con. Ông chủ mà bắt được mầy ở đây, không biết ông í sẽ giở trò gì!"

"Con sẽ ở lại đây nói chuyện mấy ông chủ, mẹ à!" Nó thầm nghĩ rằng trong một cực hạn như thế này, nó có thể bằng cách nào đó, gián tiếp nhắc ông chủ nên nhớ ông ta là bố ai, và điều đó hẳn sẽ kìm bớt cơn giận của ông ta, chí ít là một phần nào.

"Mầy điên rồi hay sao? Ra khỏi đây!". Kitzi đẩy Joóc về phía cửa lều. "Cút! Hiểu chưa!". Đang cơn tam bành lục tặc, ông í mà bắt được mày ở đây, lại khổ bọn tau. Mày cứ luồn qua dững bụi cây đằng sau chuồng xí cho đến khi khuất tầm nhìn bà chủ!"

Kitzi dường như sắp lên cơn cuồng loạn. Hẳn ông chủ phải hung dữ hơn bao giờ hết thì mới khiến chị khiếp hãi đến thế. "Thôi được, mẹ à", cuối cùng, nó nói. "Cơ mà con không có phải luồn qua bụi cây nào hết, con chả làm gì ai sất. Con cứ đàng hoàng trở xuôi giữa đường y dư con đã đi ngược lên đây".

"Thôi được, thôi được, chỉ cần mày đi đi!"

Quay trở về khu gà chọi, Joóc vừa mới kể xong cho bác Mingô những điều nó đã nghe thấy, đang cho câu chuyện của mình có vẻ ngớ ngẩn, thì có tiếng ngựa phóng nước đại tới. Hồi lâu, mexừ Liơ ngồi trên yên ngựa, mắt long lanh nhìn hai ông con, một tay cầm cương, tay kia cầm khẩu súng ngắn, và lão dồn cơn thịnh nộ lạnh lùng vào những lời ném vào mặt Joóc: "Vợ tao đã trông thấy mày, vậy là tất cả bọn mày đã biết việc gì đã xảy ra!"

"Vâng, thưa ông…" Joóc thấy nghẹn ở cổ, nó trừng trừng nhìn khẩu súng ngắn.

Rồi đã định xuống ngựa, mexừ Liơ lại thay đổi ý kiến, và ngồi nguyên, mặt vằn lên những nét giận dữ, lão bảo hai ông con: "Vô số người da trắng tốt lẽ ra đã chết đêm nay, nếu không có một tên nhọ kịp thời báo cho ông chủ nó biết. Chứng tỏ không bao giờ có thể tin bọn nhọ chúng mày được!" mexừ Liơ vung tay làm bộ điệu với khẩu súng ngắn. "Không thể biết được có những gì trong đầu chúng mày, khi chúng mày ở riêng biệt một mình nơi đây. Nhưng chỉ cần chúng mày để hé cho tao ngờ ngợ bất cứ điều chi kỳ cục, tao sẽ cho đầu bọn bây nổ tung nhanh như chớp!" Nhìn thẳng vào bác Mingô và Joóc với vẻ hung ác, mexừ Liơ quay ngựa và phóng ngược đường cái trở về.

Phải mấy phút sau, bác Mingô mới động đậy. Rồi bác nhổ toẹt một cách dữ tợn và đá tung những nan gỗ hồ đào mà bác đang đan thành một cái giỏ mang gà chọi. "Mình có làm cho một người da trắng đến nghìn năm cũng vẫn là thằng nhọ!" bác cay đắng thốt lên. Joóc không biết nên nói gì. Mở miệng ra toan nói nữa rồi lại ngậm lại, bác Mingô đi về phía lều mình, nhưng tới cửa, bác quay lại nhìn Joóc. "Nghe tau đây nhỏ! Mầy cứ tưởng mầy là cái gì đặc biệt đối với ông chủ, dư mà chả có gì là quan trọng đối với dững người da trắng giận dữ, hốt hoảng! Mầy đừng có dại mà lỉnh đi đâu cho tới khi chuyện này êm đi, mầy nghe thấy tau nói chứ? Tau nói thật tình: đừng có dại!"

"Thưa bác, vâng!"

Joóc nhặt cái giỏ bác Mingô đang đan dở và ngồi xuống một gốc cây cụt gần đó. Ngón tay nó bắt đầu đan những nan gỗ hồ đào lại với nhau, trong khi nó cố tập hợp ý nghĩ lại. Một lần nữa, bác Mingô lại đoán đúng những gì đang diễn ra trong đầu nó.

Joóc cáu tiết vì đã tự cho phép mình tin rằng mexừ Liơ sẽ không đối xử với mình như một ông chủ. Lẽ ra đến bây giờ nó phải hiểu rõ hơn rằng thậm chí chỉ nghĩ về ông chủ như là cha nó cũng đã đau đớn - và vô ích - biết bao. Nhưng nó hết sức mong muốn được biết một người nào đó mà nó cảm thấy có thể tâm sự được về điều đó. Người đó không phải là bác Mingô - bởi vì như thế có nghĩa là thừa nhận với bác Mingô rằng nó biết ông chủ là cha nó. Cũng vì lý do đó nó không thể nói được với Malizi, Xerơ hoặc bác Pompi. Nó không dám chắc là họ có biết chuyện ông chủ với mẹ nó hay không, nhưng nếu một người biết thì tất cả đều sẽ biết bởi vì bất cứ ai biết được điều gì về nhau đều đem kể lại sau lưng người trong cuộc, và nó với Kitzi đâu phải ngoại lệ.

Thậm chí nó cũng không thể nêu cái vấn đề đau đớn này với mẹ nó được - sau khi mẹ đã tỏ ra hết sức hối hận vì đã chủ động nói với nó về điều đó.

Sau bao nhiêu năm ấy, Joóc tự hỏi mẹ thực sự cảm thấy như thế nào về toàn bộ cái điều đau đớn ấy, và bây giờ, theo như nó thấy, mẹ và ông chủ đều làm như không hề biết đến sự tồn tại của nhau nữa, chí ít là về phương diện đó. Thậm chí chỉ nghĩ đến mẹ đã từng với ông chủ như kiểu Tseriti - và gần đây nữa - Bulơ - với mình những đêm nó lẻn đi khỏi đồn điền cũng đủ khiến nó xấu hổ.

Nhưng rồi, rỉ ra từ những ngóc ngách trí nhớ, chợt đến với nó cái hồi ức về một đêm đã lâu khi nó mới ba, bốn tuổi: Đêm ấy, thức giấc, nó cảm thấy giường chuyển động, rồi nằm im, khiếp hãi, mắt mở to nhìn trừng trừng vào đêm tối, lắng nghe tiếng ổ rơm sột soạt và tiếng của người đàn ông nằm cạnh nó. Nó đã nằm đó, kinh hoàng, cho đến khi người đàn ông đứng dậy; nghe thấy tiếng "cạch" của một đồng tiền ném trên mặt bàn, tiếng bước chân, tiếng cửa lều đóng sầm lại. Trong một quãng tưởng như bất tận, Joóc đã cố kiềm những giọt nước mắt nóng bỏng, nhắm tịt mắt thật chặt như để xua đi những gì nó đã nghe và trông thấy. Song, những điều đó cứ luôn luôn trở lại như một đợt sóng gây lộn mửa, mỗi khi nó tình cờ nhận thấy trên một cái giá trong lều mẹ một bình thủy tinh đựng những đồng tiền chồng chất lên ước chừng hai phân rưỡi. Thời gian qua, độ dày của lớp tiền đồng tăng lên, cho đến khi, rốt cuộc, nó không dám nhìn thẳng vào cái bình nữa. Rồi dạo nó độ lên mười, một hôm nó nhận thấy cái bình không ở chỗ ấy nữa. Mẹ chẳng bao giờ ngờ là nó có biết chút gì về chuyện đó và nó nguyện sẽ không bao giờ để mẹ hay.

Tuy rất tự ái không muốn nhắc đến chuyện đó, Joóc cũng đã có lần suy tính, toan nói với Tseriti về người cha da trắng của mình. Nó nghĩ là Tseriti có thể hiểu. Trái ngược với Bulơ đen nhánh như than, Tseriti là một mulatô có nước da sáng hơn Joóc nhiều, thuộc loại mà người ta thường gọi là "nhuôm nhuôm". Chẳng những Tseriti chừng như không hề buồn phiền mảy may về màu da của mình, cô còn cười vui vẻ tự thú với Joóc rằng cha cô là người giám thị da trắng ở một đồn điền lớn trồng lúa và chàm ở Nam Carôlina có tới hơn trăm nô lệ; cô đã sinh ra và được nuôi lớn lên tại đó, đến mười tám tuổi thì bị đem bán đấu giá và được mexừ Tig mua về làm hầu gái ở đại sảnh. Về chuyện màu da, Tseriti chỉ phát biểu là cô đã để lại Nam Carôlina một người mẹ và một đứa em trai hầu như là da trắng thực sự. Cô kể là bọn trẻ con da đen đã trêu chọc nó không thương tiếc, cho đến khi bà mẹ bảo nó quát lại những đứa hành tội nó: "Kền kền đẻ tau trong trứng! Mặt trời nóng ấp ra tau! Chúa cho tau màu da này, việc gì đến bọn nhọ đen chúng bay!" Từ bấy giờ trở đi - Tseriti nói - em trai cô được yên thân.

Nhưng vấn đề màu da của Joóc - và duyên do như thế nào - giờ đây bị che lấp bởi nỗi thất vọng khi nhận ra rằng cuộc mưu toan nổi dậy ở vùng Sacletơn xa xôi nhất định sẽ trì hoãn việc hoàn mãn một ý mà nó đã phát triển rất kỹ trong đầu bao lâu nay. Trên thực tế, sau gần hai năm, cuối cùng nó đã đi đến quyết định là thử nêu ý đó với bác Mingô. Nhưng bây giờ mà nói với bác ấy cũng chẳng nghĩa lý gì, vì toàn bộ vấn đề tùy thuộc ở chỗ mexừ Liơ có tán thành ý kiến đó hay không, nó biết mexừ Liơ vẫn còn giận dữ, khó bề tiếp cận để hỏi han điều gì, trong một thời gian nữa. Tuy sau độ một tuần, ông chủ thôi không mang theo khẩu súng ngắn nữa, nhưng mỗi ngày ông ta chỉ thanh tra xem xét bầy gà một thoáng ngắn ngủi và, sau khi nghiêm nghị dặn dò bác Mingô, lại phóng ngựa đi, mặt vẫn hầm hầm như lúc đến.

Mãi về sau Joóc mới thực sự nhận thức đầy đủ tầm nghiêm trọng của cái điều suýt xảy ra ở Sacletơn, khi mà, sau hai tuần nữa - bất chấp lời cảnh cáo của bác Mingô - cu cậu thấy mình không còn đủ sức cưỡng lại sự cám dỗ, lẻn đi thăm một trong hai cô bồ. Một cách xốc nổi, nó quyết định dành ưu tiên cho Tseriti lần này, do nhớ lại cô nàng bao giờ cũng cuồng nhiệt với mình như con hổ cái. Chờ cho bác Mingô ngáy, nó rảo cẳng chạy gần một tiếng đồng hồ qua các cánh đồng đến lúc tới chỗ ẩn ở lùm cây hồ đào, từ đó nó vẫn chúm miệng tu huýt gọi người tình. Khi đã huýt còi bốn lần mà vẫn không thấy cái tín hiệu "thẳng tiến" quen thuộc - một ngọn nến lập lòe vẫy thoáng chốc ở cửa sổ Tseriti - nó bắt đầu lo lo. Đúng lúc sắp sửa rời chỗ nấp, định cứ lẻn bừa vào thì nó thấy có cái gì chuyển động trong lùm cây, hướng về phía nó. Đó là Tseriti. Joóc lao tới ôm chầm lấy, nhưng Tseriti chỉ để cho nó ôm hôn rất ngắn rồi đẩy ra ngay.

"Có chuyện gì thế, em bé?" nó hỏi, mùi thân thể thơm như xạ của cô gái khiến nó bừng bừng đến nỗi hầu như không thấy thoáng run rẩy trong giọng nói của cô.

"Anh là anh dại dột nhất, bi giờ mà dám lẩn quất, bọn tuần cha bắn bỏ vô khối nhọ đấy!"

"Ờ, thế thì ta vào lều em vậy!" Joóc nói, lại đưa tay quàng lấy thân Tseriti. Nhưng một lần nữa, cô lại giãy ra.

"Anh làm dư anh không nghe thấy gì về chuyện nổi loạn í!"

"Anh biết là có một vụ dư thế, có vậy thôi"…

"Thế thì em nói cho anh nghe" và Tseriti kể là cô nghe lỏm thấy ông bà chủ nói rằng người cầm đầu, một thợ mộc da đen tự do, đọc thông Kinh Thánh, tên là Đenmac Vêxi đã bỏ bốn năm bày mưu tính kế trước khi tâm sự với bốn người bạn thân cận; mấy gã này giúp anh ta chiêu mộ và tổ chức hàng trăm người da đen tự do và nô lệ ở thành phố. Bốn tốp vũ trang khá mạnh chỉ chờ hiệu lệnh là chiếm các kho vũ khí cùng các tòa nhà chủ chốt khác trong khi những nhóm khác sẽ đốt tất cả những gì có thể đốt ở trong thành phố và giết mọi người da trắng họ bắt gặp. Lại có cả một đoàn xà ích da đen sẽ lái những xe bò, xe ngựa, xe chở không lá chắn, xe mui, phóng bạt tử khắp nơi để làm rối loạn và ngăn không cho người da trắng tập hợp lại. "Dưng mà sáng chủ nhật í, một nhọ khiếp đảm đã báo cho ông chủ hắn biết dững chuyện bố chí để xảy ra vào lúc nửa đêm hôm í, thế rồi người da trắng túa ra khắp nơí, bắt bớ, đánh đập và tra tấn dân nhọ bắt khai ra dững tên nổi loạn. Đến bi giờ, họ đã treo cổ hơn ba mươi nhọ và đâu đâu họ cũng ruồng bố dân nhọ, i dư ở vùng này bi giờ, cơ mà dữ nhất là ở Nam Calini. Đuổi các nhọ tự do ở Sacletơn, đốt nhà họ, cả dững cha cố nhọ nữa, đóng cửa nhà thờ của họ, viện cớ rằng thay vì giảng đạo, họ lại đi dạy cho nhọ biết đọc biết viết"…

Joóc lại cố gắng lôi Tseriti về phía lều. "Anh có nghe em nói không nào?" cô nói, hoang mang cao độ "Anh về đi kẻo có tên tuần cha nào trông thấy anh, nó bắn đấy!"

Joóc cãi rằng bên trong lều cô là an toàn, chẳng sợ tuần cha tuần bố gì cả, đồng thời cũng làm nguôi dịu được nỗi cuồng si của nó đối với cô, nguyên nhân thúc đẩy nó bất chấp nguy cơ bị bắn bỏ, liều mạng tới đây.

"Em đã biểu anh mà, KHÔNG!"

Cáu tiết, cuối cùng Joóc đẩy rúi cô về phía sau, "Được, vậy thì xéo!". Nó cay đắng chạy trở lui con đường lúc nãy, phẫn uất nghĩ giá mình đến Bulơ ngay từ đầu, vì bây giờ đã quá muộn không kịp nữa rồi.

Sáng ra, Joóc nói với bác Mingô: "Đêm qua, cháu lén thăm mẹ cháu, cô Malizi kể cho cháu nghe dững chuyện cô í nghe ông chủ nói mấy bà chủ về vụ nổi loạn nọ"… Tuy không chắc bác Mingô có tin câu chuyện đó hay không, nó cứ kể tiếp những điều Tseriti đã nói, và ông lão nghe rất chăm chú. Để kết thúc, Joóc hỏi: "Làm sao mà dân nhọ ở quanh đây lại bị bắn vì chuyện gì gì đó ở mãi tận Nam Calini, bác Mingô?"

Bác Mingô nghĩ một lúc rồi mới nói: "Tất tật người da trắng sợ dân nhọ ta lúc nào đó tổ chức lại mấy nhau cùng nổi dậy"…Bác khịt mũi giễu cợt. "Cơ mà dân nhọ thì chả bao giờ làm gì cùng mấy nhau". Bác ngẫm nghĩ một lát nữa, "Cơ mà cái chuyện bắn, giết mầy nói rồi sắp êm đi, dư bao giờ cũng vẫn vậy, khi nào họ giết và ruồng bố nhọ tạm đủ, khi nào họ làm một lô một lốc dững luật lệ mới, khi nào họ chán ngấy phải trả công không cho hàng sâu hàng sốc dững cùng đinh da trắng làm tuần cha".

"Tất cả dững cái đó mất bao lâu?" Joóc hỏi, vừa nói xong đã thấy đó là một câu hỏi ngu xuẩn biết mấy và cái lườm nhanh của bác Mingô chứng tỏ điều đó".

"Phải, rành là cháu hỏi thế thì ai trả lời được nhỉ!" Joóc im bặt, quyết định chờ đến khi nào mọi sự trở lại bình thường với mexừ Liơ, mới nêu ý kiến của mình với bác Mingô.

Trong hai tháng sau, mexừ Liơ bắt đầu dần dần trở lại cư xử ít nhiều giống như con người cũ - gắt gỏng hầu hết thời gian, nhưng không nguy hiểm. Và ít lâu sau, một hôm Joóc quyết định là đã đúng lúc.

"Bác Mingô ạ, từ lâu, cháu đã nghên cíu cái này"… nó mào đầu. "Cháu tin rằng cháu có một ý có thể giúp cho gà của ông chủ thắng nhiều trận hơn bi giờ". Bác Mingô nhìn, tựa hồ một dạng điên loạn đặc biệt nào vừa nhiễm vào gã giúp việc mười bảy tuổi vạm vỡ của mình. Joóc nói tiếp: "Cháu đã năm năm đi các cuộc chọi gà lớn với bác và ông chủ. Áng chừng hai mùa trở lại đây, cháu bắt đầu nhận thấy một điều mà từ đấy cháu đã theo dõi thật sát. Xem ra dững loạt gà của mỗi ông chủ đều có cách đánh riêng". Cọ cọ mũi đôi giày thô vào nhau, Joóc tránh không nhìn vào con người đã luyện gà chọi từ bao lâu trước khi nó đẻ. "Chúng ta luyện cho gà của ông chủ thật khỏe, thật bền hơi để thắng nhiều trận chỉ nhờ dai sức hơn dững con kia. Dưng cháu đã đếm kỹ - phần lớn dững lần ta thua là khi có con nào đó bay cao hơn gà của ông chủ và đánh cựa từ bên trên trúng đầu nó. Bác Mingô ạ, cháu chắc nếu gà ông chủ cánh khỏe hơn, dư ta có thể làm được thế bằng một loạt bài đặc biệt luyện cánh thì cháu tin là nó sẽ nhảy cao hơn dững gà khác và giết được nhiều hơn cả bi giờ".

Dưới vầng trán nhăn nheo, cặp mắt sâu của bác Mingô nhìn soi mói lớp cỏ giữa hai đôi giày của Joóc và của bác. Hồi lâu bác mới nói: "Tau thấy mầy định nói gì rồi. Tau cho là mầy phải nói mấy ông chủ".

"Nếu bác cảm thấy thế, thì bác có thể nói với ông í được không?"

"Không. Mầy đã nghĩ ra. Ông chủ nghe mầy nói cái í cũng bằng dư nghe tau".

Joóc cảm thấy nhẹ hẳn người vì ít nhất bác Mingô cũng không cười chê ý kiến đó, nhưng đêm đó, nằm thao thức trên chiếc ổ rơm hẹp, Joóc cảm thấy ngần ngại và sợ nói với mexừ Liơ.

Sáng thứ hai, khi ông chủ xuất hiện, cố gắng tự chủ, Joóc lấy hơi thật sâu và gần như bình tĩnh nhắc lại những điều đã nói với bác Mingô và nói thêm chi tiết về các cách đánh đặc biệt của mỗi lò gà… "Và nếu ông để ý, thưa ông chủ, đám gà của mexừ Greham đánh nhanh, hùng hục. Nhưng gà mexừ Mêc Grigo thì lại đánh rất thận trọng, tợ dư coi chừng. Hoặc là gà của đại úy Pibâuđi ra miếng thì chụm chân, chụm cựa lại, còn gà mexừ Haoớc lại đá song phi, hai chân xoạc rộng. Gà của mexừ Juét giàu xụ í đánh miếng thấp ở trên không, mổ dữ khi ở dưới đất"… Tránh nhìn vào mặt ông chủ, Joóc không thấy vẻ chú ý cao độ của ông ta. "Thưa ông chủ, điều cháu muốn nói ang áng là dư thế, nếu ông đồng ý để cháu với bác Mingô cho gà ông tập cả loạt bài luyện cánh khỏe mà bọn cháu có thể nghĩ ra được, thì dám chắc nó sẽ nhảy cao hơn lũ kia để đánh cựa từ bên trên và đừng hòng ai mau chóng bắt được miếng".

Mexừ Liơ nhìn Joóc trừng trừng như chưa từng thấy nó bao giờ. Trong những tháng còn lại trước mùa chọi tới, mexừ Liơ bỏ nhiều thời gian hơn bao giờ hết ở khu luyện gà, quan sát và đôi khi tự tay tham gia cùng với bác Mingô và Joóc tung gà lên trên không mỗi lúc một cao. Mỗi lần rơi xuống, chúng đập cánh điên cuồng, cố đỡ cho khối trọng lượng từ năm đến sáu "pao", nhờ đó cánh ngày càng khỏe.

Như Joóc đã tiên đoán, mùa chọi gà năm 1823 mở màn và diễn tiến qua các cuộc thi đấu "chính" liên tiếp, hết đợt này đến đợt khác, mà xem ra không ai phát hiện ra tại sao hoặc làm thế nào mà gà ông Liơ đạt được một tỷ lệ trận thắng cao hơn cả năm ngoái nữa. Kết thúc mùa chọi, cựa thép của chúng đã đánh tử thương ba mươi chín trong số năm mươi hai đối thủ.

Khoảng một tuần sau, một buổi sáng, mexừ Liơ tới - rất hân hoan - kiểm tra quá trình bình phục của nửa tá gà hạng ưu của ông ta đã bị thương nặng trong mùa đấu.

"Con này không chắc có qua khỏi, ông chủ ạ", bác Mingô chỉ vào một con rũ rượi và tơi tả đến nỗi mexừ Liơ phải vội vàng gật đầu đồng ý. "Cơ mà tui hy vọng những con ở trong hai cái chuồng bên này sẽ khỏi tốt đến nỗi ông lại có thể cho nó ra chọi trong mùa tới cho mà xem". Tiếp đó, bác Mingô khoa tay chỉ ba con cuối cùng đang dưỡng bệnh. "Những con này sẽ chả bao giờ đủ hoàn hảo để dự các cuộc đấu lớn, chủ lực nữa, cơ mà ta có thể dùng làm gà mồi, nếu ông chủ muốn, hoặc dù sao đem thịt cũng tốt". Mexừ Liơ tỏ ra hài lòng với sự tiên đoán bệnh tình ấy và đã bắt đầu đi về phía con ngựa thì bỗng quay lại, thản nhiên bảo Joóc: "Những đêm mày lẻn khỏi đây đi mò gái, tốt hơn là mày nên thật cẩn thận đề phòng cái thằng nhọ hung dữ cũng mê cùng một con ấy"…

Joóc đực người ra, sửng sốt đến nỗi phải mất cả một giây sau, nỗi giận dữ mới kịp bùng lên trong nó đối với sự phản thùng hiển nhiên của bác Mingô. Nhưng rồi nó thấy mặt bác Mingô cũng không kém ngạc nhiên, trong khi ông chủ nói tiếp: "Bà Tig nói với vợ tao tại cuộc họp câu lạc bộ khâu may của họ rằng bà ta không thể hình dung ra cái gì đã xảy đến với con hầu gái da nâu vàng của mình; mãi gần đây một đứa trong đám nhọ mới mách bà ta là con nhỏ rạc người vì bắt nhân tình hai tay với mày và một thằng nhọ xấu, nhiều tuổi hơn mày…". Mexừ Liơ cười khúc khích: "Tao chắc hai đứa mày phải cày nát con bé ấy!".

Tseriti! Bắt nhân tình hai tay! Giận dữ nhớ lại đêm hôm ấy, cô ả đã khăng khăng chặn lối không cho nó vào lều mình như thế nào, Joóc cố gượng tủm tỉm và cất tiếng cười bứt rứt; bác Mingô hòa theo, cũng gượng gạo như vậy. Joóc cảm thấy choáng người. Giờ đây ông chủ đã khám phá ra chuyện nó lẻn đi ban đêm, liệu rồi ông ta sẽ làm gì nó?

Sau khi dừng lại để cho Joóc chờ đợi cơn thịnh nộ của mình, mexừ Liơ ứng xử ngược hẳn lại, kỳ lạ đến mức khó tin - ông ta nói với một giọng gần như là giữa cánh-đàn-ông-chúng-ta-với-nhau: "Mẹ kiếp, chừng nào mày làm việc đâu vào đấy, mày cứ tiếp tục săn lùng lấy một cái hĩm nào đó. Có điều là đừng để thằng nào băm mày ra từng mảnh - và đừng có để người ta tóm cổ trên đường cái, nơi bọn tuần tra thường nổ súng bắn nhọ".

"Không, thưa ông. Dất khoát không"… Joóc bối rối quá không biết nói gì. "Rành là quý hóa, thưa ông chủ"…

Mexừ Liơ trèo lên mình ngựa, đôi vai rung rung khiến hai người luyện gà đoán là ông ta đang cười một mình trong khi phóng ngựa trên đường.

Cuối cùng, còn một mình trong lán đêm ấy, sau khi chịu đựng thái độ lạnh lùng của bác Mingô suốt phần còn lại trong ngày, rốt cuộc được tự do trút nỗi lòng bị xúc phạm lên đầu Tseriti, Joóc nguyền rủa cô ả và nguyền sẽ chuyển sự quan tâm (mà rõ ràng là cô ả không xứng đáng được hưởng) sang Bulơ tuy kém cuồng nhiệt nhưng chắc chắn là trung thành hơn. Nó cũng nhớ đến cô gái cao cao, nước da màu vỏ quế đã liếc nó tại một cuộc đú đởn bí mật nó bắt gặp trong rừng, một đêm nó đang vội vã đi về nhà. Lý do duy nhất khiến nó không thử cô ta ngay tại trận, là vì nó quá say thứ rượu uýtxki trắng hạng xoàng cô ta mời nó, đến nỗi chật vật lắm nó mới loạng choạng về được đến nhà vào lúc rạng đông. Nhưng nó nhớ cô ta có xưng tên là Ôphêliơ, thuộc quyền sở hữu của mexừ Juét giàu nứt đố đổ vách, nghe nói có tới trên nghìn gà chọi và gia đình còn cai quản nhiều đồn điền kếch xù ở các bang Jojiơ và Nam Carôlina, ngoài cái đồn điền ở quận Caxuel này. Kể đi bộ thì cũng xa đấy, nhưng hễ gặp cơ hội đầu tiên, Joóc quyết định sẽ phải làm quen kỹ hơn với cái cô gái làm đồng nom ngon mắt ấy mà mexừ Juét thậm chí có lẽ cũng không biết là thuộc quyền sở hữu của ông ta.

Chương 92

Một sáng chủ nhật, khi mexừ Liơ xuất hiện để làm công việc thường ngày thanh tra đàn gà thì Joóc đã đi về thăm xóm nô như mọi tuần. Đó là lúc tốt nhất. Sau khi dạo quanh nói chuyện chọi gà một lúc, bác Mingô nói như thể vừa mới nảy ra ý nghĩ đó: "Ông chủ ạ, ông cũng biết mùa nào ta cũng loại mười lăm, hai mươi gà còn tốt hơn ối con các người khác vuỗn mang ra chọi. Tui tin là ông có thể làm được tốt tền ngoại phụ nếu ông để thằng nhỏ í đem dững con bị loại của ông dự các cuộc đấu bình thường".

Bác Mingô biết rất rõ rằng cái tên Tom Liơ, trong khắp cả chiều dài chiều rộng quận Caxuel, tượng trưng cho sự phất lên địa vị cao sang của một người da trắng nghèo, một chủ gà cự phách xuất thân là một tay chơi hạ cấp với một con gà hay. Hơn một lần, y đã nói với bác Mingô là y xiết bao trìu mến nhìn lại những ngày đầu đói rét ấy: y tuyên bố rằng những rạo rực buổi ấy chí ít cũng ngang với tâm trạng xúc động thú vị của y trong mọi cuộc thi đấu "chủ lực" lớn y đã tham gia kể từ đó trở đi. Những khác biệt đáng kể duy nhất - mexừ Liơ nói - là các cuộc thi đấu "chủ lực" lớn bao gồm một lớp người cũng như gà ưu đẳng hơn và các khoản tiền đánh cá cao hơn gấp bội; người ta có thể thấy những tay chơi gà chọi giàu thật là giàu được hoặc mất cả gia tài cơ nghiệp trong vòng một trận đấu. Các cuộc thi đấu hạ cấp là dành cho những người chỉ có thể đưa ra chọi một hoặc hai hoặc ba gà, thường thường là loại hai, loại ba những người da trắng nghèo, da đen tự do hoặc nô lệ.

"Cái gì khiến lão nghĩ rằng nó có thể điều khiển gà trong một bãi chọi?" mexừ Liơ hỏi.

Bác Mingô nhẹ hẳn người khi không thấy ý kiến nào phản đối đề nghị của bác: "À, ông biết đấy, thằng nhỏ í theo dõi sát các cuộc đấu ở các bãi chọi trong năm, sáu năm nay, ông chủ ạ và cái í đem cộng với cái khiếu gà bẩm sinh của nó, tui tin chắc nó chỉ cần được dạy bảo thêm chút ít thôi. Mà cho dù có thua, thì cũng chỉ mất những gà bị loại trong số ta có ở đây thôi, cách nào thì ông cũng chả mấy dùng đến bọn nó nữa, ông chủ à".

"Ư hự" ông chủ lẩm bẩm, xoa cằm vẻ tư lự. "Thôi được, ta thấy cái đó không có gì hại. Ừ, sao lại không lấy da bọc cựa cho mấy con bị loại và giúp nó tập chọi suốt mùa hè nhỉ? Nếu đến mùa sau, nó ra dáng khơ khớ, phải, ta sẽ đặt cược vào nó chút ít để đánh cá vài trận".

"Nhất định rồi, thưa ông chủ!" bác Mingô mừng rơn, vì hàng tháng nay, trong sự biệt lập như giữa rừng sâu của khu gà chọi, bác và Joóc đã cho đám gà loại chọi thử, tất cả đều được bọc cựa bằng một thứ bao da nhẹ do bác Mingô sáng chế để tránh gây tử thương. Vốn là người cẩn thận, ông lão không mạo hiểm gợi ý với ông chủ trước khi tự mình xác định chắc chắn rằng gã học việc tài ba tỏ ra có tiềm năng chân chính để phát triển thành một tay luyện đấu thực sự là cừ. Trong thâm tâm, bác nghĩ, với kha khá kinh nghiệm đấu "hạ cấp", một ngày kia, Joóc có thể trở nên thành thạo như mexừ Liơ trong việc xử lý gà tại bãi chọi. Như bác Mingô đã nói, ngay cả những con bị loại khỏi một đàn tốt như đàn của ông chủ, cũng vẫn hơn những con thường được đem xung trận trong những cuộc đấu hạ cấp mùa nào cũng được tổ chức trong những hoàn cảnh khác nhau, đột xuất và không chính thức, ở khắp quận. Chung quy, bác Mingô thấy hầu như không có cách nào khiến Joóc trượt cả.

"Thế nào nhỏ, mày chỉ bết đứng há hốc mồm ra đấy thôi ư?" bác Mingô hỏi vậy khi bác báo tin cho Joóc, chiều hôm đó.

"Cháu chả còn biết nói gì".

"Tau chưa bao nghĩ mình còn sống tới ngày thấy mày không có gì để nói".

"Cháu… quả không biết cảm ơn bác dư thế nào cho phải".

"Có bao dêu răng mày phô ra hết dư vầy, thôi khỏi cần cám ơn. Ta bắt tay vào việc thôi".

Mùa hè ấy, hàng ngày, Joóc và bác Mingô bỏ ra ít nhất một giờ vào lúc chiều muộn, ngồi xổm đối diện nhau hai bên một bãi chọi tạm thời, đường kính và chiều sâu nhỏ hơn kích thước chính quy nhưng cũng đủ để luyện tập. Sau mấy tuần ông chủ xuống quan sát một buổi tập. Kinh ngạc trước sự mau lẹ và phản ứng sắc nhạy bên bãi chọi mà Joóc tỏ ra trong khi điều khiển gà, ông ta bèn mách nước cho gã một số ngón riêng của mình.

"Mày muốn gà mày nhảy trước chứ gì? nom tao đây". Cầm lấy con gà của bác Mingô, ông ta nói: "Được, trọng tài đã hô "chuẩn bị!" rồi. Mày đang ở dưới bãi giữ gà mày - nhưng đừng có nhìn nó! Hãy dán mắt vào môi trọng tài! Muốn biết đích xác đến một phần tích tắc khi nào hắn sắp nói: ‘Buông gà!’ chứ gì? Đó là khi môi hắn bặm chặt vào nhau"… Mexừ Liơ mím môi. "Đúng lúc ấy mày buông tay ra - mày sẽ nghe thấy ‘Buông gà!’ đúng lúc gà mày lao ra đầu tiên!"

Một số buổi chiều, sau khi luyện xong và nhốt những con gà loại về chuồng, bác Mingô ngồi nói cho Joóc biết là trong thi đấu "hạ cấp" cũng có thể đạt được vinh quang và tiền tài. "Hệt dư đám da trắng nghèo hò la cổ vũ cho ông chủ thắng cuộc, tau đã thấy ối nhọ được cổ vũ ở các cuộc đấu hạ cấp. Và trong một trận thắng, có thể được tới mười mười hai đôla, có khi hơn nữa nhỏ ạ!"

"Cháu chả bao giờ có lấy một đôla, bác Mingô ạ! Cũng chả biết mặt mũi một đôla nó ra làm sao nữa!"

"Tau cũng chả bao giờ có dều đôla. Thực tế, tau cũng chả cần đến nó nữa. Cơ mà ông chủ bểu sẽ đặt cược mầy một số tiền cá, mà nếu mầy thắng trận nào, ông í có thể để cho mày hưởng một ít…".

"Bác đoán ông í làm thế à?"

"Tau hy vọng thế là vì tau bết ông í ắt phải khoái cái sáng kến làm khỏe cánh của mày, nó bỏ dều tền vào túi ông í mà. Có đều là nếu ông í làm thế, lệu mầy có bết đàng mà dành dụm dững gì mày kếm được không?"

"Nhất định chứ! Chắc chắn cháu sẽ để dành!".

"Tau thậm chí nghe nói có dững nhọ được cuộc trong thi đấu hạ cấp và dành đủ tền mua lại tự do cho mình, thoát khỏi tay chủ".

"Mua cả cho cháu lẫn mẹ cháu!".

Lập tức, bác Mingô đứng dậy khỏi gốc cây cụt bác đang ngồi; nỗi ghen tị buốt nhói bác vừa cảm thấy, chẳng những đã đến hoàn toàn bất ngờ mà còn xáo đảo sâu sắc tận trong lòng đến nỗi bác khó tìm ra lời đối đáp. Thế rồi bác chợt nghe thấy mình sẵng giọng: "Ờ, chắc chả có gì là bất khả!" Đột nhiên muốn thoát ra khỏi cái cảm giác rằng ý thức của bác chia sẻ một mối tình thương mến thực sự gần gũi, không được đáp lại ngang xứng, bác rảo bước đi về lều mình để mặc Joóc bối rối nhìn theo.

Tại một cuộc đấu "chủ lực" lớn đầu mùa năm 1824, cùng đi với mexừ Liơ, bác Mingô được một ông già luyện gà bác quen từ nhiều năm nay cho biết một cuộc đấu "hạ cấp" sẽ được tổ chức vào chiều thứ bảy tới, ở phía sau cái chuồng ngựa lớn của một đồn điền địa phương. "Tui cho rằng nó sẵn sàng hơn bao giờ hết", sau đó bác Mingô nói với ông chủ như vậy. Sáng thứ bảy, như đã hứa, mexừ Liơ tới và đếm hai mươi đôla bằng giấy bạc lẻ và tiền đồng đưa cho bác Mingô. "Các ngươi biết chính sách của ta đấy", ông ta nói với cả hai. "Nếu sợ không dám cá vào gà mình thì đừng có đưa nó ra chọi làm gì! Nếu không cá gì thì chẳng bao giờ được gì hết! Ta vui lòng mất bất kỳ cái gì các người mất, nhưng ta bỏ tiền ra và các ngươi chọi gà của ta, nên ta phải được một nửa bất kỳ khoản thắng cuộc nào, hiểu không? Và nếu có gì khuất tất trong chuyện tiền nong của ta - thậm chí ta chỉ ngờ vậy thôi, - ta sẽ đánh tróc bộ da đen của các ngươi để lấy lại!" Nhưng hai ông con có thể thấy rõ ràng ông ta chỉ làm bộ dữ tợn khi thực sự vui vẻ, nên đồng thanh: "Vâng, thưa ông chủ!"

Đi quành góc chuồng ngựa quét vôi xám, cố không để lộ nỗi hồi hộp của mình, Joóc trông thấy khoảng hai chục tay đấu gà "hạ cấp" người da đen đang đi quanh quanh, cười cười nói nói ở mé một bãi chọi rộng và nông. Nhận ra khoảng một nửa trong số đó đã từng dự các cuộc đấu lớn cùng với chủ, cũng như nó, Joóc mỉm cười vẫy chào và gật đầu với những người khác mà quần áo nhiều màu sắc và vẻ nghênh ngang độc lập của họ khiến nó đoán chắc đó là những người da đen tự do. Đưa mắt nhìn một số tương đương người da trắng nghèo ở đối diện bên kia bãi chọi, nó ngạc nhiên thấy mình cũng biết mấy tay trong bọn họ và lòng đầy tự hào, nó thoáng nghe thấy gã nọ bảo gã kia: "Hai tên nhọ của Tom Liơ đấy". Lát sau, các tay đấu gà "hạ cấp", cả da đen và da trắng, bắt đầu cởi những bọc lót cỏ khô, lôi ra những con gà kêu nhặng xị và bắt đầu xoa bóp cho chúng mềm chân dẻo cánh trong khi bác Mingô bước quanh bãi chọi và nói một điều gì đó với người trọng tài to mập mặt đỏ, người này gật đầu, đưa mắt nhìn Joóc.

Gã trai trẻ đang khẩn trương xoa bóp cho con gà tơ của mình thì bác Mingô trở lại và bắt đầu săn sóc con kia cũng được mang theo cùng chuyến. Joóc mơ hồ cảm thấy không thoải mái vì sự gần gũi hơn bao giờ hết về thể xác với đám người da trắng nghèo vốn chỉ gây sự với người da đen, nhưng nó nhớ lại trên đường đến đây, bác Mingô đã nói với nó rằng đấu gà "hạ cấp" là điều duy nhất, theo bác biết, mà những người da trắng nghèo và người da đen cùng làm chung với nhau. Luật lệ qui định là chỉ hai người da trắng hoặc da đen xuất gà ra chọi nhau nhưng bất kỳ ai cũng có thể tự do cá thắng hoặc cá thua trên bất kỳ con nào trong trận.

Xoa bóp xong cho gà dẻo chân mềm cánh, sau khi đặt nó trở lại trong bao tải, Joóc lại say sưa nghe, ngắm thêm sự náo động xung quanh và thấy mấy tay đấu gà "hạ cấp" nữa vác những bao tải đầy hối hả đi về phía chuồng ngựa trong khi trọng tài bắt đầu vẫy tay.

"Được rồi, ổn định nào! Ta bắt đầu cho gà ra đấu! Jim Catơ! BenKpenx! Lại đây và lắp cựa thép cho gà!".

Hai người da trắng gày gò, ăn vận tồi tàn, tiến tới cân gà, rồi lắp cựa thép cho chúng giữa những tiếng hò lác đác, đặt cá hai mươi lăm đồng rưỡi. Riêng về phần Joóc, nó thấy cả hai không con nào trên mức nhàng nhàng so với hai con loại khỏi đàn của ông chủ đang nằm trong bao tải của nó và bác Mingô.

Cùng lúc với tiếng hô : "Buông gà!" hai con vật lao ra, nhảy bật lên không rồi lại hạ xuống, quay cuồng và đánh dứ - theo cảm giác của Joóc, đây chỉ là chọi thông thường, không có chút kịch tính ly kỳ nào như nó bao giờ cũng cảm thấy cùng với bác Mingô và ông chủ ở các cuộc đấu lớn. Cuối cùng khi một con đánh một cựa làm con kia bị thương nặng ở cổ, cũng vẫn phải mất hàng phút nữa mới kết liễu, mà với một con gà thượng hạng thì chỉ cần vài giây, Joóc biết thế. Nó nhìn người thua cuộc rời bãi, cay đắng nguyền rủa vận đen đủi của mình, nắm chặt chân con gà chết. Trong trận thứ hai, rồi trận thứ ba, cả những con thắng lẫn con thua đều không tỏ ra có ngọn lửa chiến đấu và cái phong cách thượng võ mà Joóc thường thấy, nỗi bồn chồn của nó giảm tới mức là trong khi trận thứ tư xẹp dần, cu cậu gần như vênh váo đợi lượt mình vào bãi chọi. Nhưng khi đến lượt, tim nó lại lập tức bắt đầu đập nhanh hơn.

"Tốt, tốt! Bây giờ đến lượt nhọ của ông Romz với một con xám đốm và nhọ của ông Liơ với một con đỏ! Lắp cựa đi!" Joóc đã nhận ra gã da đen chắc nịch, đối thủ của mình, từ lúc tới đây: trên thực tế, trong mấy năm qua, họ đã từng nói chuyện ngắn ngủi với nhau tại các cuộc đấu "chủ lực" lớn. Giờ đây, cảm thấy đôi mắt bác Mingô dán chặt vào mình, Joóc hoàn tất thủ tục cân gà, rồi quỳ xuống, mở cúc túi yếm của chiếc quần lao động và rút ra bộ cựa bọc kín. Trong khi buộc cựa vào chân gà, nó nhớ lại lời dặn của bác Mingô "đừng hờ quá kẻo có thể bị lỏng ra và tuột xuống, đừng chặt quá kẻo nó làm gà tê chân và bị chuột rút". Hy vọng là mình thực hiện vừa độ chặt, Joóc nghe thấy quanh mình những tiếng cá: "Năm mươi xu con đỏ!"… "chơi!"… "Một đôla con xám!"… "Cân!"… "Bốn đôla con đỏ". Đó là bác Mingô dõng dạc hô tiếng cá lớn nhất vượt xa mọi tay khác, dấy lên nhanh chóng một loạt tiếng xôn xao hưởng ứng. Joóc có thể thấy sự náo nức của đám đông dâng lên cùng với nỗi hồi hộp của chính bản thân. "Chuẩn bị!"

Joóc quỳ xuống, giữ chắc con gà của mình trên mặt đất, cảm thấy mình nó rung lên trong niềm háo hức lao ra tấn công.

"Buông gà!"

Nó đã quên mất không theo dõi môi người trọng tài! Lúc tay nó bật lên thì con gà kia đã vun vút xông tới. Luống cuống lùi lại, Joóc kinh hãi nhìn con gà của mình bị đánh vào mạng sườn, loạng choạng mất thăng bằng, rồi lại tiếp thêm một cựa vào sườn bên phải, nhanh và mạnh đến nỗi nó quay lông lốc. Nhưng nhanh chóng hồi sức, nó quay lại tấn công trong khi một mảng lông thấm máu đen sẫm lại. Hai con gà nhảy lên xoắn vào nhau, gà của Joóc bay cao hơn, nhưng khi nhào xuống, không hiểu sao lại đá trượt, chúng làm động tác giả, rồi lại nhảy lên, lần này thì xấp xỉ cao bằng nhau, cả hai vung cựa nhanh đến nỗi không mắt nào theo dõi kịp. Trong vài phút tưởng như bất tận, tim Joóc ngừng đập trong khi hai con gà xông vào mổ, đánh dứ, bất thình lình lao lên và nhảy chồm chồm khắp bãi chọi. Nó biết gà mình hẳn đang yếu sức vì mất máu liên tục, mặc dầu vẫn chống trả những đợt tấn công của con xám đốm. Rồi bất thình lình, một nhát cựa vung đánh nhoáng, thế là xong và con gà của Joóc lăn ra run cầm cập, giãy chết. Joóc hầu như không nghe thấy những tiếng hò reo và nguyền rủa của những người đánh cá, trong khi đó nhấc con gà hấp hối ra khỏi bãi chọi. Nước mắt trào ra, Joóc đang chen lấn qua đám đông những người kinh ngạc trố mắt nhìn thì bác Mingô nắm lấy khuỷu tay nó, thô bạo đẩy dúi ra tới một chỗ không ai có thể nghe thấy.

"Mày dư thằng ngu!" bác rít lên. "Đi bắt con gà kia để đánh trận sau thôi!".

"Cháu chẳng được tích sự gì cả, bác Mingô ạ. Làm cho con gà của ông chủ bị giết rồi!"

Mingô có vẻ không tin. "Đã chọi gà thì bao giờ cũng có một bên thua. Mày không bao giờ thấy ông chủ thua sao? Thôi, bây giờ quay lại bãi đi!" Nhưng cả dọa dẫm lẫn động viên dỗ dành đều không đủ để lay chuyển gã trai trẻ và cuối cùng bác thôi không gặng nữa. "Thôi được! Tau về biểu ông chủ là chúng ta sợ mất vía không dám gỡ lại tền của ông í!".

Giận dữ, bác Mingô quay trở về phía đám đông quanh bãi chọi. Tuy xấu hổ, Joóc vừa ngạc nhiên vừa lấy làm may là những tay đấu "hạ cấp" kia hầu như không để mắt tới nó, mà dồn cả chú ý vào trận đấu sau. Hai trận nữa qua trước khi trọng tài lại gọi: "Nhọ của Tom Liơ!". Ngượng chín người, nó nghe thấy Mingô cá mười đôla và có người nhận theo cuộc, trước khi ông lão thả con gà thứ hai của ông chủ. Nó đánh hay, giết địch thủ trong vòng không đầy hai phút.

Những cố gắng của bác Mingô để an ủi Joóc trong khi hai ông con cuốc bộ về phía đồn điền, không ăn thua mấy. "Chúng ta được hai đôla, sao mà mày lại cứ đi đưa đám làm vậy?"

"Thua xấu hổ quá thôi - mấy lị chắc ông chủ chả mấy muốn cháu đánh thua gà ông í nữa"…

Thấy chú tập sự dường như đinh ninh là mình trở thành kẻ chiến bại ngay từ trước khi khởi đầu, bác Mingô hoang mang đến nỗi, sau ba ngày Joóc quanh quẩn buồn rũ như muốn đất nứt ra, nuốt gọn với mình, bác quyết định phải nói với mexừ Liơ về chuyện đó. "Ông chủ, xin ông nói với thằng nhỏ í một tiếng. Xem vẻ nó nghĩ thua một trận là điều nhục nhã!". Lần sau đến thăm khu gà chọi, ông chủ lại gần Joóc "Tao nghe nói mày không đành tâm cam chịu một trận thua là nghĩa thế nào?"

"Thưa ông chủ, để cho gà của ông bị giết, cháu cảm thấy thật ghê gớm!"

"Ấy thế mà tao còn muốn mày đem chọi hai mươi con nữa cơ!"

"Dạ, thưa ông". Ngay cả với lời trấn an của ông chủ, Joóc vẫn lừng chừng chưa thật vững tâm.

Nhưng khi Joóc thắng cả hai gà trong khi thi đấu "hạ cấp" tiếp theo thì cu cậu bắt đầu ra dáng và huênh hoang như chú gà đắc thắng của mình. Sau khi hãnh diện vơ những món tiền cá, bác Mingô kéo Joóc sang bên và thì thầm: "Mày cứ vênh váo cái đầu rồi lại thua cho mà xem!".

"Bác Mingô để cháu cầm tất cả số tiền kia tí thôi!" anh chàng thốt lên, hai tay khum vào nhau chìa ra.

Trong khi Joóc dán mắt vào xấp giấy bạc một đôla nhàu nát và một lô tiền đồng nữa, bác Mingô cười nói: "Mày mang tiền về cho ông chủ, cả hai cùng thích!".

Trên đường về, Joóc cố gắng - có dễ đến lần thứ một trăm - thuyết phục bác Mingô đến thăm xóm nô để gặp mẹ mình, các cô bác Malizi, Xerơ và Pompi. "Ông chủ chỉ có sáu chúng ta là nhọ công, bác Mingô ạ, vậy ít nhất chúng ta cũng phải quen biết nhau chớ! Nhất định là họ thích gặp bác. Mỗi lần đến đấy, cháu đều nói chuyện về bác suốt, dưng mà các người í cảm thấy dư là bác không thích họ hay là thế nào í!"

"Cả mầy lẫn họ đều phải bết rằng tau làm sao ghét ai được nếu tau thậm chí không quen người í!" Bác Mingô nói. "Thôi cứ giữ nguyên như cũ, như vậy họ đỡ phải phiền hà vì tau mà tau cũng không phải bận tâm đến họ!"

Và một lần nữa, khi tới đồn điền, bác Mingô lại đi con đường vòng tách xa xóm nô.

Mắt Kitzi tròn xoe khi trông thấy mớ giấy bạc và tiền đồng trong tay Joóc. "Lạy Chúa, mày lấy đâu ra lắm thế, con trai?" chị hỏi và gọi Xerơ tới coi thử.

"Vậy chứ bao nhiêu đấy?" Xerơ hỏi.

"Cháu chả biết, cô ạ, dưng mà ở chỗ í còn nhiều hơn nữa".

Xerơ nắm lấy bàn tay rảnh của Joóc đến khoe món bở với bác Pompi.

"Giá tau cũng kiếm cho mình một con gà chọi có phải hơn không", ông già nói "Dưng mà, nhỏ này, đây là tiền của ông chủ!"

"Ông í cho cháu một nửa!" Joóc hãnh diện giải thích. "Thật vậy, cháu phải đến giao phần cho ông í ngay bây giờ".

Đến nhà bếp, Joóc phô tiền cho Malizi thấy, rồi xin gặp ông chủ.

Khi mexừ Liơ bỏ chín đôla được cá vào túi, ông ta cười ha hả: "Mẹ kiếp, tao ngờ là Mingô tuồn cho mày những con gà hay nhất, còn những con loại thì để cho tao!".

Joóc ngây ngất cả người.

Trong cuộc đấu hạ cấp lần sau, Joóc lại thắng bằng hai con gà bữa trước, và chuỗi thắng lợi liên tiếp của Joóc kích thích trí tò mò của mexừ Liơ đến nỗi cuối cùng, ông ta đành vi phạm những quy định tự đề ra cho mình không được dự các cuộc đấu hạ cấp.

Việc ông chủ tới bất ngờ gây ra những tiếng xì xào và những cái huých nhau vội vã trong đám đấu thủ hạ cấp. Thấy ngay cả bác Mingô và Joóc cũng sờ sợ và không tự tin, mexừ Liơ bắt đầu cảm thấy áy náy vì việc mình đã đến. Rồi, nhận ra rằng mình cần phải chủ động, ông bèn cười nhăn nhở và vẫy chào một trong những người da trắng nghèo lớn tuổi. "Chào Jim!" Rồi một người khác "Ê, Pitờ!" Họ cười đáp lại, ngạc nhiên thấy ông ta còn nhớ tên mình. "Ê, Đevờ!" ông ta tiếp tục. "Tôi thấy hình như bao nhiêu răng còn sót lại của anh đã bị mẹ đĩ đá văng đi nốt rồi thì phải - hay là tại rượu uytxki hạng bét?".

Giữa tiếng cười rộ, người ta hầu như quên bẵng cuộc đấu hạ cấp và xúm lại quanh con người đã xuất thân nghèo hèn như bất kỳ ai trong bọn họ rồi bỗng trở thành một huyền thoại đối với họ.

Tràn đầy kiêu hãnh, Joóc ẵm gà dưới cánh tay và bỗng nhiên khụng khiệng diễu quanh ra bãi chọi, làm cả bác Mingô lẫn mexừ Liơ đều sững sờ. "Được! Được!" nó nói to tướng, "bất cứ người nào có tiền hãy sắp ra! Cứ cá đi, đừng lo, bao nhiêu cũng được, nếu tui không theo nổi, đã có ông chủ tui nhất định cân hết, ông ấy giàu thế cơ mà!" Trông thấy ông chủ tủm tỉm cười, Joóc càng cao giọng hơn: "Đây tui chỉ đánh gà loại của ông ấy mà cũng được bất cứ con nào ở đây! Nào, lại đây!"

Một giờ sau, sau khi quảng bá rùm beng trận thắng thứ hai, Joóc được hai mươi hai đôla và mexừ Liơ gần bốn mươi do nhận những khoản cá ngoại phụ mà một số người nài ép thêm. Ông ta thật lòng không thích lấy tiền của những người mà ông biết là nghèo rớt mồng tơi như ông thuở xưa, nhưng ông biết là từ đấy cho đến hết năm, họ sẽ đi khoe rằng họ đã mất gấp mười lần thế vì đánh cá với Tom Liơ.

Người ta thấy nhơ nhớ gã Joóc tự kiêu, vỗ ngực đề cao mình, khi gã không xuất hiện ở bốn cuộc đấu hạ cấp sau đó trong quận Caxuel vì bác Mingô lại bị một trận ho dữ dội và Joóc không nỡ để ông thầy già thui thủi ở nhà với đàn gà mà đi một mình. Nhưng ngay cả khi bác Mingô đã đơ đỡ, bác vẫn chưa đủ sức đi bộ suốt chặng đường để đến dự cuộc đấu sắp tới - nhưng bác đề nghị Joóc cứ đi.

"Mầy đâu phải con nít! Giá có gái ở đây lại chả nhanh dư chớp!".

Thành thử Joóc đi một mình, mỗi tay xách một bị phồng to, đựng một con gà loại. Khi nó xuất hiện trong tầm mắt những tay chọi gà vốn đã cảm thấy thiêu thiếu sự có mặt rôm rả của nó trong thời gian gần đây, một người trong bọn kêu to: "Nhìn coi! Cái thằng ‘Joóc gà’ đến kìa!" Tất cả phá lên cười và nó cũng cười theo.

Trên đường về - trong túi, tiền được cá còn rủng rẻng hơn cả những lần trước - càng nghĩ, nó càng thích âm điệu của cái tên ấy. Nó có một vẻ thính nhạy nhất định.

"Con cuộc là tất cả ở đây không ai đoán được họ đặt tên con là gì tại cuộc đấu hạ cấp!" vừa tới xóm nô, nó nói luôn.

"Chịu, tên gì?"

"Joóc-Gà".

"Lạy Chúa tôi!" Xerơ kêu lên.

Mặt Kitzi long lanh đầy yêu thương và tự hào, "Được" chị nói, "Rành là cũng gần gần đúng dư ai nấy đều tả cảnh mầy bi giờ!"

Thậm chí cái biệt hiệu ấy cũng làm cho mexừ Liơ thú vị khi bác Mingô kể cho ông ta nghe; bác nhăn nhó nói thêm: "Tui lấy làm lạ sao họ không gọi nó là ‘Joóc Nhè’ vì cái thói nó vuỗn khóc òa lên mỗi lần gà nó bị giết. Bi giờ nó được dều thế mà vuỗn chả khác gì hết! Hễ gà nó bị một cựa đánh chết là nó tóe nước mắt, khóc tu tu và ôm ghì lấy gà như thể là con đẻ nó. Ông đã nghe thấy hay trông thấy thế bao giờ chưa, ông chủ?"

Mexừ Liơ cười: "Ờ, chính ta nhiều lần cũng muốn khóc khi ta cá quá mức phải chăng và gà ta bị một cựa chí tử! Nhưng mà không, ta đồ chừng nó là đứa duy nhất xúc động mạnh như lão nói đấy, ta cho là nó quá gắn bó với gà".

Sau đó không lâu, tại cuộc đấu "chủ lực" lớn nhất trong năm, ông chủ đang trở về xe, tay ẵm con gà vừa thắng trận chung kết, thì nghe có tiếng người gọi: "Ơ, ông Liơ!". Quay lại, ông ngạc nhiên thấy nhà chơi gà quý tộc Joóc Juét miệng mỉm cười, chân sải bước về phía mình.

Mexừ Liơ cố lấy giọng thản nhiên: "Ồ, ông Juét đấy à".

Rồi họ bắt tay nhau. "Ông Liơ, tôi sẽ rất thẳng thắn như trong giới thượng lưu và giới chọi gà chúng ta với nhau. Tôi vừa mới mất tên luyện gà. Bọn tuần tra đường bắt hắn đêm hôm nọ vì không có giấy thông hành. Chẳng may, hắn toan chạy trốn và bị bắn bị thương nặng không chắc có qua khỏi."

"Tôi lấy làm buồn khi nghe tin đó… tôi muốn nói, buồn cho ông chứ không phải cho tên nhọ". mexừ Liơ nguyền rủa cho sự lúng túng của mình và đoán thử điều gì sắp tiếp theo. Hẳn nhà quí tộc cần tới Mingô.

"Tất nhiên là thế." Juét nói. Thành thử tôi đâm cần ít ra là một tay luyện gà tạm thời, một tên chí ít cũng biết đôi điều về gà chọi…" Ông ta ngừng một lát. "Trong những cuộc chọi gà của chúng ta, tôi để ý thấy ông có hai tên luyện gà. Tôi không dám nghĩ đến lão già dày dạn kinh nghiệm của ông, nhưng tôi tự hỏi liệu ông có vui lòng nhượng lại tên kia với một giá kha khá, cái thằng trai trẻ hiện đang chim chuột một con hầu gái ở chỗ tôi, theo như bọn nhọ của tôi mách…"

Sự ngạc nhiên của mexừ Liơ pha lẫn với phẫn nộ trước cái bằng chứng đó về sự gian trá của Joóc-Gà. Giọng ông ta như nghẹn lại: "À, tôi hiểu."

Mexừ Juét lại mỉm cười, biết rằng mình đã làm ông kia rớm máu. "Xin để tôi chứng minh rằng tôi không muốn cò kè bớt một thêm hai". Ông ta ngừng một lát. "Ba nghìn đôla có được không?"

Mexừ Liơ lảo đảo, không dám chắc là mình đã nghe đúng. "Rất tiếc, thưa ông Juét", ông ta nghe thấy mình nói cộc lốc. Ông cảm thấy sướng rơn người vì có dịp cự tuyệt một nhà quý tộc giàu có.

"Thôi được". Giọng Juét đanh lại. "Đề nghị cuối cùng của tôi: bốn nghìn!"

"Có điều là tôi không bán người luyện gà của mình, ông Juét ạ".

Mặt nhà phú hộ chơi gà xìu xuống, mặt ông ta trở nên lạnh lùng.

"Tôi hiểu. Tất nhiên! Thôi chào ông!"

"Chào ông", mexừ Liơ nói và họ đi về hai ngả đối lập.

Ông chủ trở về xe thật nhanh, nhưng không chạy, nỗi giận dữ dâng lên. Bác Mingô và Joóc-Gà thấy vẻ mặt ông ta bèn thận trọng ngồi yên, ngây đuỗn. Tới xe, ông ta vung nắm đấm dọa Joóc, giọng run lên vì tức giận. "Tao thì đánh rập óc mày! Mẹ kiếp, mày làm cái gì ở chỗ Juét - kể với lão ấy là ta luyện gà như thế nào hử?"

Joóc-Gà xám mặt lại: "Cháu chả kể với mexừ Juét gì hết, ông chủ ạ"… Gã chật vật lắm mới nói được. "Cháu chả bao giờ nói một câu nào mấy ông í, thưa ông chủ!" Vẻ kinh ngạc hoàn toàn và sợ hãi của gã khiến mexừ Liơ tin một nửa. "Mày định nói với tao là mày đi suốt đến đó chỉ để giăng gió với con ở nhà Juét hay sao, mẹ kiếp?" Cho dù đó là điều vô tội, ông ta biết mỗi lần đi như thế đều đem lại nguy cơ cho gã luyện gà tập sự của ông trước mưu lược của Juét và điều đó có thể dẫn đến mọi sự.

"Thưa ông chủ, lạy Chúa lòng lành"…

Một chiếc xe khác đang tiến sát lại, nhiều người trong đó gọi và vẫy chào ông chủ. Vừa vẫy tay đáp lại, mexừ Liơ vừa he hé miệng gượng mỉm cười và nhích ra tận đầu chiếc ghế băng, khẽ gắt bác Mingô khiếp đảm: "Quỷ tha ma bắt, đánh xe đi!" Suốt chặng đường về đồn điền tưởng chừng không bao giờ hết, không khí căng thẳng cơ hồ lấy dao cắt được. Sự căng thẳng giữa bác Mingô và Joóc-Gà trong phần còn lại của ngày hôm đó cũng không kém mấy tí. Đêm ấy, Joóc thao thức nằm, toát mồ hôi đoán trước hình phạt sắp tới.

Nhưng không có gì đến cả. Và mấy ngày sau, ông chủ nói với bác Mingô như không có chuyện gì xảy ra. "Tuần sau, ta phải đi đấu gà ở tận Vơjiniơ. Ta biết đi xe ngựa đường dài như thế không tốt gì cho bệnh ho của lão, cho nên ta chỉ mang theo thằng nhỏ thôi"

"Dạ, thưa ông chủ"

Bác Mingô đã biết từ lâu là ngày đó phải đến; chính vì thế mà ông chủ đã luyện thằng nhỏ để thay bác. Nhưng bác không ngờ là nó đến sớm thế.

Chương 93

"Mày nghĩ gì hung thế nhỏ?"

Sau hơn một giờ ngồi chung ghế và ngắm những đám mây lớp xớp của buổi sáng ấm áp tháng hai, con đường bụi bặm trải dài trước mặt hoặc sự co duỗi đều đều những bắp thịt mông của đôi la, câu hỏi đột ngột của mexừ Liơ làm Joóc-Gà giật mình.

"Chả có gì", gã trả lời. "Cháu chả nghĩ gì cả, ông chủ ạ".

"Bọn nhọ chúng mày có cái gì đó tau không bao giờ hiểu nổi!" giọng mexừ Liơ hơi sẵng. "Người ta định nói chuyện tử tế với bọn mày, ấy thế là bọn mày bắt đầu giở thói ngu xuẩn. Làm tao phát điên lên, mẹ kiếp, nhất là với một thằng nhọ mồm mép như mày, lúc nào muốn thì thao thao bất tuyệt. Mày có nghĩ là người da trắng sẽ tôn trọng bọn mày hơn nếu bọn mày tỏ ra khôn ngoan không?"

Tâm trí Joóc-Gà đang lơ tơ mơ chợt bừng dậy linh lợi, sắc sảo.

"Có thể, mà lại cũng có thể có người không", gã thận trọng nói. "Mọi sự còn tùy."

"Đấy, mày lại giở lối nói quanh dây cà ra dây muống. Tùy cái gì?"

Tiếp tục né tránh kỳ đến lúc nào nắm rõ hơn ý đồ của ông chủ, Joóc-Gà lại lựa lời rào đón: "À, thưa ông, cháu muốn nói là còn tùy chỗ mình nói với người da trắng nào, ít nhất cháu cũng cảm thấy thế."

Mexừ Liơ ngán ngẩm nhổ toẹt sau thành xe. "Nuôi một thằng nhọ, cho nó ăn, mặc, một cái mái che trên đầu và mọi thứ khác nó cần trên đời, ấy thế rồi cái thằng nhọ ấy chẳng bao giờ trả lời mình một câu nào thẳng thắn rành rọt!"

Joóc-Gà đoán liều rằng ông chủ chỉ ngẫu hứng quyết định khơi chuyện phiếm với mình thôi, với hy vọng làm vui cuộc đi xe la đường trường đã trở nên chán ngắt và dường như bất tận này.

Để chấm dứt không làm ông chủ bực mình nữa, gã thăm dò: "Ông muốn biết sự thật chẻ hoe, thẳng băng thì, thưa ông chủ, cháu cho rằng phần đông dân nhọ cứ tưởng làm ra ngây ngô hơn thật, là khôn ngoan, bởi vì họ sợ người da trắng".

"Sợ!" mexừ Liơ thốt lên. "Bọn nhọ trơn tuột như lươn ấy, có thế thôi! Tao chắc cái bọn nhọ sợ sệt nhút nhát ấy mưu mô nổi loạn mỗi lần chúng tao quay lưng! Bỏ thuốc độc vào thức ăn của người da trắng, thậm chí giết cả con nít! Mày muốn kể tội người da trắng bất cứ cái gì, bọn nhọ cũng làm cái ấy suốt, thế mà hễ người da trắng hành động để tự vệ thì nhọ lại la ầm ĩ lên là nhọ sợ!"

Joóc-Gà nghĩ là nếu khôn ngoan thì thôi đừng có chọc tức ông chủ nữa. "Ông đừng tin là có ai ở chỗ ông làm dư thế, thưa ông chủ", gã bình tĩnh nói.

"Bọn nhọ chúng bay phải biết là nếu bọn bay làm thế thì tao giết sạch!" Một con gà gáy to tướng trong lồng đằng sau họ và mấy con khác cục cục đáp lại.

Joóc không nói gì cả. Họ đang đi qua một đồn điền lớn và gã nhìn một toán nô lệ ngả những thân cây khô chết, chuẩn bị cày vỡ cho mùa sau.

Mexừ Liơ lại nói: "Tao nghĩ mà phát ớn là cái bọn nhọ có thể làm gay go biết mấy cho những người làm lụng vất vả suốt đời để xây dựng một cái gì".

Chiếc xe la lăn bánh yên lặng được một lát, song Joóc-Gà có thể cảm thấy cơn giận của ông chủ đang dâng lên. Cuối cùng ông chủ thốt lên: "Nhỏ, tao nói cho mày nghe cái này! Suốt đời mày ở chỗ tao, ăn no phễnh bụng. Mày không biết thế nào là lớn lên lúc nhúc, chết đói dở cùng với mười anh, chị, em và cả bố lẫn mẹ chui rúc trong hai căn buồng dột nát, nóng thiêu!"

Joóc-Gà ngạc nhiên trước lời thú nhận ấy từ miệng ông chủ đang sôi nổi nói tiếp như thể cần phải trút bỏ những hồi ức đau đớn ra khỏi hệ ý nghĩ. "Nhỏ, tao không nhớ có lúc nào mà mẹ tao không có mang. Còn bố tao thì chóp chép thuốc lá, suốt đời nửa say nửa tỉnh, quát tháo, chửi rủa bọn tao không đứa nào cần cù cho vừa ý ông để làm mươi âycơ đất cằn sỏi đá - mà bây giờ có bán năm xu một âycơ, tao cũng không thèm mua - ở chỗ mà ông ấy tự xưng là chủ trại".

Nhìn trừng trừng vào Joóc-Gà, ông cáu kỉnh nói: "Mày muốn biết cái gì đã thay đổi đời tao không?"

"Thưa ông, có", Joóc đáp.

"Cái ông danh sư chữa bệnh bằng lòng tin ấy đến. Ai nấy phấn khởi chạy quanh cái lều lớn của ông ấy đang được dựng lên. Đêm mở màn, tất cả những ai đi được, thậm chí cả những người phải cáng, phải mang, đều ùa vào lều đó. Sau này, người ta nói ở quận Caxuel chưa bao giờ có một bài thuyết pháp về hỏa ngục như thế và những vụ chữa bệnh thần kỳ như thế. Tao không bao giờ quên cái cảnh hàng trăm người da trắng nhảy cẫng hò hét. Người nọ ôm chầm lấy người kia, rầu rĩ và oằn oại và co giật. Tệ hơn cả bất kỳ cuộc họp trại nào của dân nhọ. Nhưng giữa tất cả những hò la, ồn ào loạn xị ấy, có một điều làm tao chú ý, cách này hay cách khác." Mexừ Liơ nhìn Joóc-Gà. "Mày có biết gì về Kinh thánh không?"

"Không… phải, thưa ông, không biết gì mà bàn."

"Tao cuộc là mày nghĩ tao cũng mù tịt Kinh thánh! Cái ấy trong sách Thi Thiên. Tao đã đánh dấu chỗ ấy ở trong quyển Kinh Thánh của tao. Đoạn ấy nói rằng: "Xưa tôi trẻ và nay đã già; vậy mà tôi chưa từng thấy những người chính trực bị Chúa từ bỏ và dòng giống của Chúa phải đi xin ăn".

"Sau khi vị giáo sĩ ấy đã đi khỏi lâu rồi, câu đó vẫn bám chặt trong đầu tao. Tao lật đi lật lại, xoay các chiều, cố hình dung xem nó có ý nghĩa gì đối với mình. Mọi cái tao thấy trong gia đình tao, quy lại, chỉ là xin ăn. Bọn tao chẳng có gì và rồi cũng sẽ chẳng có gì hết. Rút cục, dường như câu đó có nghĩa là nếu tao quyết tâm thành người chính trực - nói cách khác là nếu tao làm lụng cần cù và sống thiện nhất như cách tao biết - tao sẽ không bao giờ phải xin ăn, khi về già". Ông chủ nhìn Joóc-Gà, vẻ thách thức.

"Dạ, thưa ông", Joóc-Gà không biết nói gì khác.

"Chính lúc đó tao bỏ nhà ra đi", mexừ Liơ kể tiếp. "Bấy giờ tao mười một tuổi. Tao tới đường cái, gặp ai cũng xin việc, làm bất cứ cái gì, kể cả công việc của nhọ. Tao rách rưới, tao ăn đồ bỏ. Tao dành dụm từng xu kiếm được - bao năm ròng, tao nói thật đấy - cho đến khi, cuối cùng tao mua được mảnh đất rừng đầu tiên trong đời tao rộng hai mươi lăm âycơ cùng với tên nhọ đầu tiên của tao tên là Joóc. Thật vậy chính là tao lấy tên hắn đặt cho mày…"

Ông chủ có vẻ như chờ đợi một phản ứng nào đó. "Bác Pompi đã kể cho cháu nghe về người í", Joóc-Gà nói.

"Ờ, Pompi còn đến sau, tên nhọ thứ hai của tao. Nhỏ, mày nghe tao kể đây, tao đã làm việc vai kề vai với gã Joóc nhọ ấy, quần quật làm từ cái có thể đến cái không thể, đào gốc trốc rễ, phát bờ phát bụi, nậy đá để trồng mùa đầu tiên. Quả là chỉ có Chúa mới run rủi cho tao mua cái vé xổ số hai mươi lăm xu ấy và nhờ cái vé ấy, tao được con gà chọi đầu tiên trong đời tao. Nhỏ ạ, đó là con gà hay nhất tao từng có! Ngay cả những lần nó bị thương nặng, tao chữa chạy cho nó và nó tiếp tục thắng nhiều trận đấu hạ cấp đến mức chưa ai từng nghe thấy có con gà nào làm được như thế."

Ông ta ngừng một lát. Không biết tại sao tao lại ngồi đây tâm sự thế này với một thằng nhọ. "Nhưng mà tao, đồ chừng con người ta đôi lúc cũng cần hàn huyên với ai đó".

Ông lại ngừng. "Người ta chả thể trò chuyện gì nhiều với vợ được. Dường như người đàn bà một khi vớ được anh chồng để săn sóc mình là suốt đời chỉ những ốm đau, nghỉ ngơi hay phàn nàn cái này cái khác, trong khi nhất cử nhất động đều có bọn nhọ hầu hạ tíu tít. Hoặc giả suốt ngày đánh phấn đánh sáp kỳ đến khi trông như ma"…

Joóc-Gà không dám tin ở tai mình nữa. Song ông chủ dường như không kìm nổi mình. "Hoặc giả lại bị cách khác, như gia đình nhà tao ấy. Nhiều lần tao cứ tự hỏi tại sao chín anh chị em tao không ai vật lộn để thoát ra như tao. Giờ đây, họ vẫn còn chen chúc, đói ăn hệt như ngày tao bỏ đi - chỉ khác cái bây giờ là tất cả đều có gia đình riêng".

Joóc-Gà quyết định rằng tốt nhất là đừng có tán thưởng - dù chỉ bằng một tiếng "dạ" - bất cứ điều gì ông chủ nói về gia đình mình, mà Joóc đã trông thấy mấy thành viên nói chuyện qua quít với ông ta khi họ gặp nhau ở các cuộc chọi gà hoặc trên tỉnh. Anh em trai của mexừ Liơ đều là những cách-cơ nghèo xác nghèo xơ, thuộc loại mà không những các điền chủ giàu, mà cả đến nô lệ của họ cũng xem khinh. Nhiều lần, Joóc đã thấy ông chủ lúng túng biết mấy, khi gặp bất kỳ ai trong bọn họ. Gã đã nghe hóng thấy họ luôn luôn ca cẩm về thời buổi khó khăn và xin tiền ông ta, gã đã trông thấy vẻ hằn học trên mặt họ khi ông chủ cho họ năm mươi xu hay một đôla mà gã biết họ sẽ tiêu vào rượu uytxki trắng loại tồi. Joóc-Gà nhớ tới cô Malizi đã kể biết bao lần là mỗi khi ông chủ mời anh chị em trong gia đình đến ăn cỗ, họ thường ăn uống, nhồi nhét bằng ba suất thường và hễ ông chủ đi khỏi tầm tai nghe là lại đua nhau thóa mạ ông ta như chó.

"Bất kỳ ai trong bọn họ đều có thể làm như tao!" mexừ Liơ thốt lên bên cạnh gã trên chiếc ghế băng xe tải. "Nhưng họ không có chí thì mặc xác họ!" Ông ta lại im, nhưng không lâu.

"Cách này hay cách khác, giờ đây tao đã khá giả - có nhà ở khang trang, trên dưới một trăm gà chọi, tám mươi lăm âycơ đất trong đó quá nửa được trồng cây cùng với nhiều ngựa, la, bò, lợn. Tao lại có đám nhọ lười chúng bay nữa."

"Dạ", Joóc-Gà nói, gã nghĩ có thể nhẹ nhàng phát biểu một quan điểm khác cũng không can chi. "Dưng mà cánh nhọ chúng cháu cũng cần mẫn làm việc cho ông đấy chứ, thưa ông chủ. Theo chỗ cháu biết thì mẹ cháu mấy các cô, bác Malizi, Xerơ và Pompi và Mingô - họ đã chẳng làm cật lực vì ông đó sao?". Và không để cho ông chủ kịp trả lời, gã chuyển sang một đầu đề mà Xerơ đã nhắc tới trong buổi nó về thăm xóm nô chủ nhật trước. "Thực tế, thưa ông chủ, trừ mẹ cháu, không có ai trong số đó còn dưới năm mươi tuổi ..." Gã hãm lại không nói thêm cái kết luận của Xerơ rằng chỉ tại ông chủ quá keo, không chịu mua người nô lệ trẻ nào, rõ ràng là định bắt dúm gia nhân có sẵn trong tay làm việc đến lúc họ gục xuống.

"Hẳn mày không chú ý nghe kỹ tất cả những gì tao nói, nhỏ ạ ! Có tên nhọ nào thuộc quyền sở hữu của tao, đã làm vất vả như tao không? Cho nên đừng có nói với tao là dân nhọ làm vất vả thế nào !"

"Vâng"

"Vâng cái gì?"

"Vâng thôi ạ. Nhất định ông cũng làm vất vả, thưa ông chủ".

"Đúng quá đi chứ! Mày tưởng chịu trách nhiệm về tất cả mọi sự và mọi người ở chỗ tao, là chuyện dễ à? Mày tưởng duy trì một đàn gà đông thế này là chuyện dễ à?".

"Không ạ, cháu biết chắc chắn cái đó thật là gay cho ông, thưa ông chủ". Joóc nghĩ đến bác Mingô đã phải chăm nom đàn gà hằng ngày trong hơn ba mươi năm nay - không kể bảy năm của bản thân gã. Rồi, dùng chút mẹo để nhấn mạnh mấy thập niên phục vụ của bác Mingô, gã hồn nhiên nói: "Ông chủ, ông có biết bác Mingô bao nhiêu tuổi rồi không?".

Mexừ Liơ xoa xoa cằm. "Mẹ kiếp, tao quả không biết. Để xem, có lần tao đồ chừng lão ấy hơn tao độ mười lăm tuổi - tức là lão vào khoảng ngoài sáu mươi gì đó. Và mỗi ngày một già thêm. Vẻ như lão mỗi năm một ốm yếu hơn thì phải. Mày thấy thế nào? Mày ở dưới đó quanh quần bên lão mà".

Joóc-Gà vụt nghĩ đến trận ho gần đây của bác Mingô, cơn bệnh nặng nhất của bác từ trước đến nay, theo như gã biết. Nhớ lại Malizi và Xerơ thường bảo rằng ông chủ coi mọi sự kêu ca bệnh tật của người làm chỉ đơn thuần là lười nhác, cuối cùng gã nói: "À thưa ông chủ, thường thường thì xem bác í cũng khỏe, dưng mà cháu cho rằng quả thật ông cũng cần phải biết là đôi khi bác í bị dững cơn ho rành là dữ dội - đến nỗi cháu phát sợ, bởi vì bác í đối mấy cháu đúng dư là một người cha vậy".

Kìm lại quá muộn, gã lập tức cảm thấy một phản ứng hằn học. Một chỗ gồ ghề trên đường làm cho những con gà trong lồng lại kêu cục cục, rồi chiếc xe lại lăn bánh trong im lặng hồi lâu trước khi mexừ Liơ cất tiếng hỏi: "Mingô làm gì cho mầy nhiều vậy? Phải chăng lão đã rút mày khỏi công việc đồng áng, đưa mày xuống đây, cho mày một cái lán riêng?"

"Không ạ, mọi cái đó là do ông làm cả, thưa ông chủ".

Họ tiếp tục im lặng một lúc cho tới khi ông chủ lại quyết định nói nữa. "Trước tao không nghĩ mấy về cái điều mày nói ban nãy, cách đây một quãng, nhưng giờ mày nhắc tới, quả là tao đã vơ lấy một lũ nhọ già. Giờ đây, một số thế tất ngày một ngày hai sẽ bắt đầu gục để tội để nợ cho tao, mẹ kiếp ! Dù nhọ hiện nay có đắt mấy, tao cũng sẽ phải mua một, hai đứa lực điền trẻ!" Ông quay lại như định sáp đến gần Joóc-Gà. "Mày hiểu những điều tao nói chứ, mọi thứ việc tao phải lo toan suốt năm suốt tháng?"

"Vâng, thưa ông chủ"

"Vâng thưa ông chủ ! Cái dân nhọ hỏi gì cũng trả lời thế !"

"Chắc chắn ông chả muốn nhọ nào không đồng ý mấy ông, phải không ạ?"

"Ờ, thế mày có thể tìm được cái gì để nói ngoài câu vâng, thưa ông chủ không?"

"Không ạ... cháu muốn nói..., phải, thưa ông, chí ít ông cũng có chút tiền để mua nhọ, thưa ông chủ. Mùa này, ông thắng hay thế trong các cuộc chọi gà mà". Joóc-Gà hy vọng lái câu chuyện sang một đầu đề an toàn hơn. "Ông chủ ạ", gã thật thà hỏi, "có tay chơi gà nào không có trại không nhỉ? Cháu muốn nói là không trồng cấy gì, mà chỉ nuôi gà thôi?"

"Hừm-m-m. Theo tao biết thì không, trừ một số dân thành phố, nhưng tao không bao giờ nghe nói bất kỳ cha nào trong bọn ấy có đủ gà để đáng gọi là tay chơi thực thụ". Ông nghĩ một lúc. "Trên thực tế, thì thường thường là càng nhiều gà chọi, trang trại càng lớn - như cái chỗ ông Juét mà mày vẫn đến mò gái ấy".

Joóc-Gà rất giận mình đã khơi mào cho ông chủ nói chuyện ấy, và gã vội tìm cách chấm dứt đi cho rồi. "Cháu đâu có đến đó nữa, ông chủ".

Sau một lúc ngừng, mexừ Liơ nói : "Mày kiếm được một con khác ở đâu đấy rồi hử?"

Joóc-Gà do dự trước khi trả lời: "Bi giờ, cháu ở nhà suốt". Như vậy, đỡ phải nói dối trực tiếp.

Mexừ Liơ giễu: "Một con ngựa đực to lớn, vạm vỡ hai mươi tuổi như mày lại chịu thế ư? Nhỏ này, đừng có nói với tao là đêm đêm mày không chuồn đi đá bẫm cái món hĩm nóng giòn ấy! Mẹ kiếp, tao có thể đem mày cho thuê gây giống: tao cuộc là mày thích thế!" Mặt ông chủ nheo nheo gần như liếc tình, đầy vẻ dâm đãng. "Có người bạn thân của tao bảo là bọn gái da đen nóng máy ngon xơi lắm, bây giờ mày nói thật tao nghe, có đúng thế không nhỏ?"

Joóc-Gà nghĩ đến ông chủ với mẹ mình. Trong lòng sôi lên, nhưng gã vẫn chậm rãi nói, gần như lạnh lùng: "Có thể thế, thưa ông chủ"... Rồi dứt khoát: "Cháu không biết nhiều lắm"...

"Thôi được, mày không muốn nói, nhưng tao biết đêm đến mày mò đi đâu và đi thường xuyên đến mức nào. Tao không muốn bọn tuần đường bắn vào mày như tên nhọ luyện gà cho ông Juét, cho nên tao nói cho mày biết tao sẽ làm gì. Khi nào về, tao sẽ viết cho mày một giấy thông hành để đêm nào mày cũng đi săn hĩm, nếu mày muốn! Tao chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ làm thế cho tên nhọ nào!"

Mexừ Liơ có vẻ gần như bối rối, rồi che giấu bằng một cái cau mày. "Thế nhưng tao bảo cho mày biết một điều. Hễ mày làm thối chuyện, sáng ra không trở về, hoặc quá mệt mà bỏ việc, hoặc giả tao khám phá ra mày lại đến chỗ Juét nữa, hoặc giở bất kỳ trò gì khác mà mày biết mày không được phép làm, tao sẽ xé tan giấy thông hành ngay lập tức - và xé xác mày luôn thể. Hiểu chưa?"

Joóc-Gà vẫn không tin. "Thưa ông chủ, thế thì quý hóa quá! Rành là cháu rất lấy làm cảm kích, thưa ông chủ!"

Một cách cởi mở, Mexừ Liơ xua tay gạt đi những lời cảm ơn "Thôi được rồi, mày thấy tao đâu có xấu bằng nửa mức bọn nhọ chúng mày tưởng tượng ra. Mày có thể nói cho bọn chúng là tao biết ưu đãi một tên nhọ như thế nào nếu tao muốn"

Cái cười dâm dật lại xuất hiện: "Tốt, thế bọn gái da đen nóng máy ấy thế nào, nhỏ? một đêm mày có thể nhảy mấy đứa?"

Joóc-Gà vặn vẹo người trên ghế như con sâu: "Thưa ông, như cháu đã nói, cháu có biết nhiều nhặn gì đâu"…

Nhưng mexừ Liơ như không nghe thấy gã, cứ tiếp tục: "Tao nghe nói khối người da trắng cứ đi tìm phụ nữ nhọ để hú hí. Mày biết chuyện đó vẫn xảy ra chứ, nhỏ?".

"Cháu có nghe nói thế, thưa ông chủ", gã nói, cố gắng không nghĩ đến cái thực tế là gã đang nói chuyện với chính cha mình. Nhưng ngoài những gì diễn ra trong các túp lều ở các đồn điền, Joóc-Gà biết rằng ở Bơớclinhtơn, ở Grinxborâu và Đơhâm, có những "nhà đặc biệt" vẫn được rầm rì nhắc đến, thường thường do một phụ nữ da đen tự do nào đó cai quản, ở đó gã nghe nói người da trắng tuỳ thích lựa chọn gái các màu da từ đen như bồ hóng đến nhuôm nhuôm với giá từ năm mươi xu đến một đôla.

"Mẹ kiếp", ông chủ vẫn dai dẳng, "tao với mày ngồi nói chuyện ở đây chỉ có hai ta trong cái xe này. Theo tao nghe nói, bọn nó là gái nhọ, ừ thì đành rằng thế, nhưng lạy chúa, chúng nó là đàn bà. Tao nghe nói, bọn nó giòn như pháo ấy". ông chủ nhìn Joóc-Gà, soi mói. "Có người quen bảo tao là bọn trai trẻ nhọ chúng bay không bao giờ chán cái hĩm đen nóng giòn ấy, kinh nghiệm mày có thế không?"

"Không ạ, thưa ông chủ - cháu muốn nói, chí ít là cho đến nay thì chắc cháu chưa phải thế!"

"Đấy! Mày lại nói quanh quéo rồi!"

"Cháu không quanh co gì đâu. Ông chủ ạ". Joóc-Gà cố hết sức mình tỏ ra nghiêm túc. "Cháu đang định nói mấy ông một điều cháu chưa hề nói mấy ai, ông chủ ạ! Ông biết cái mexừ Mêc Grigo có đám gà vàng đốm chứ?".

"Dĩ nhiên. Tao với ông ta nói chuyện luôn. Dính gì đến ông ấy?".

"À, ông đã hứa cho cháu một cái giấy thông hành, nên cháu chả cần nói dối làm gì. Ấy, thưa ông, gần đây cháu có chuồn ra, dư ông nói, đi thăm cô gái ở chỗ mexừ Mêc Grigo í"…Mặt gã đầy vẻ tha thiết "Tên cô í là Matilđa, cô í làm đồng và khi cần thì giúp việc ở đại sảnh. Ông chủ ạ, cô í là cô gái đầu tiên không thiết đến dững gì cháu nói hay toan tính, không để cháu sờ đến người, ông ạ! Giỏi lắm cháu cũng chỉ khiến được cô í nói là cô í thích cháu, dưng mà cô í không chịu được cung cách cháu. Cháu mới biểu cô í cháu muốn quơ bao nhiêu đàn bà, được chừng nấy, cô ấy chỉ nói là đi mà quơ, để cho cô í yên".

Mexừ Liơ lắng nghe Joóc-Gà với cái vẻ không tin y như gã nghe ông ban nãy.

"Còn một điều nữa", gã nói tiếp. "Mỗi lần cháu trở lại, cô ý đều dẫn Kinh Thánh về cháu! Do đâu mà cô í đọc Kinh Thánh, là vì cô í được một ông chủ cố đạo nuôi cho đến khi đạo của ông í khiến ông í phải bán nô lệ của mình đi. Thật thế, cháu xin nói mấy ông là cô í ngoan đạo biết mấy…Thưa ông chủ"…Joóc-Gà ngập ngừng. "Trước khi cháu gặp cô í, cháu vẫn săn hĩm luôn dư ông nói - dưng mà cô í làm cho cháu cảm thấy chuyện này to tát hơn chứ không phải chỉ hĩm hiếc thôi, nói sai cháu là con chó. Người đàn ông phải nghĩ đến chuyện làm lễ nhảy chổi mấy một người đàn bà tốt!"…

Joóc-Gà ngạc nhiên với chính mình. "Tức là nếu cô í bằng lòng cháu", gã nói khẽ. Rồi thậm chí còn khẽ hơn nữa. "Và nếu ông không phản đối"…

Họ đi tiếp giữa tiếng xe cót két và tiếng gà cục cục một quãng dài nữa trước khi mexừ Liơ hỏi: "Ông Mêc Grigo có biết mày đang tán con hầu gái ấy của ông ta không?".

"À, cô í là chân làm đồng, không bao giờ có chuyện gì phải nói thẳng với ông chủ. Dưng mà dững nhọ làm trong đại sảnh có biết chuyện, cháu đoán là một số đã mách lẻo".

Sau một lát im lặng nữa, ông chủ nói: "Từ khi đẻ, mày chưa bao giờ gây chuyện gì thực sự rắc rối cho tao - trên thực tế, mày đã giúp tao khối việc và tao sẽ làm một cái gì cho mày. Ban nãy, mày mới nghe tao nói là tao cần một số nhọ trẻ để làm đồng. Vậy tao sẽ đánh xe đến nói chuyện với ông Mêc Grigo. Nếu ông ta có nhiều nhọ như mày nói, chắc bớt đi một đứa con gái làm đồng, ông ấy cũng chả thiếu gì lắm - nếu có thể thoả thuận một giá phải chăng. Rồi mày có thể di chuyển con bé ấy…tên nó là gì nhỉ?".

"Tilđa…Matilđa, thưa ông chủ", Joóc-Gà thều thào, không dám chắc là mình nghe đúng.

"Rồi mày có thể chuyển nó về chỗ tao, hai đứa dựng một cái lều"…

Miệng Joóc mấy máy nhưng không thốt ra tiếng nào. Cuối cùng gã bật ra: "Chỉ có dững ông chủ thượng thặng mới làm thế!".

Mexừ Liơ ầm ừ. Ông khoát tay. "Mày phải hiểu chỗ chính của mày vẫn là ở dưới ấy với Mingô!"

"Dĩ nhiên, thưa ông chủ!"

Cố làm ra vẻ cau có, mexừ Liơ xỉa một ngón tay vào gã lái xe cho mình: "Sau khi mày có nơi có chốn, tao sẽ lấy lại cái giấy thông hành. Để giúp cho cái con gì nhỉ, à Matilđa, giữ cái đít đen của mày ở nhà nó!"

Joóc-Gà ngớ ra không nói được gì.

Chương 94

Sáng ngày cưới Joóc-Gà vào tháng tám năm 1827, khi măt trời lên, chú rể đang hăm hở bắt bản lề sắt vào cái rầm cửa gỗ sến của căn nhà gỗ hai buồng còn dở dang. Làm xong, anh chạy bổ ra chuồng ngựa, hối hả đội về cánh cửa mới mà bác Pompi đã chạm khắc và quét bằng nước vỏ quả óc chó đen nghiền nát, lắp nó vào chỗ. Rồi, lo lắng đưa mắt nhìn mặt trời đang lên cao, anh ngừng lại đủ để ngốn chiếc bánh xăngđuých kẹp xúc xích mà mẹ anh đã gần như ném cho anh tối hôm trước trong cơn giận giữ vì cái chuỗi dài những lần lữa, lý do, ngứt đoạn và đi đây đi đó của anh. Anh đã đợi quá lâu và tiến hành quá chậm đến nỗi cuối cùng, mẹ đã bảo mọi người khác chẳng những đừng giúp anh gì nữa, mà còn chấm dứt mọi lời động viên đối với anh.

Tiếp đó, Joóc-Gà đổ đầy vôi tôi và nước vào một chiếc thùng lớn, khuấy mạnh và nhúng thật nhanh cái chổi vào vũng lầy nhầy đó, rồi bắt đầu quét trắng mặt ngoài của lớp ván xẻ còn xù xì. Cuối cùng, vào quãng mười giờ, anh lùi lại, người cũng dính vôi trắng lốp như vách nhà, để ngắm nghía công việc đã hoàn thành. Hãy còn khối thời giờ, anh tự nhủ. Anh chỉ còn có việc tắm rửa, mặc quần áo và lên xe đi hai tiếng đồng hồ đến đồn điền Mêc Grigo, ở đó lễ cưới sẽ bắt đầu từ một giờ.

Chạy đi chạy về từ nhà đến giếng, anh đổ ba xô nước đầy vào cái chậu mạ mới ở phòng ngoài. Vừa nghêu ngao hát vừa kì cọ, anh mau lẹ lau khô người, rồi choàng chiếc khăn tắm bằng vải bao bì tẩy trắng, chạy vào phòng ngủ. Sau khi xỏ chân vào chiếc quần đùi vải bông, anh mặc chiếc sơmi xanh ngực hồ cứng, quần vàng, tất đỏ và áo vettông vàng có đai lưng và cuối cùng đi đôi giày màu da nhạt mới toanh; tất cả những cái đó, anh đã mua dần từng thứ bằng tiền được cá tại các cuộc đấu hạ cấp trong mấy tháng qua, khi anh cùng mexừ Liơ rong ruổi qua các thành phố khác nhau ở Bắc Carôlina. Đi đôi giày mới cứng kêu cót két đến chỗ bàn buồng ngủ, ngồi trên chiếc ghế đẩu chạm trổ, mặt đen bằng sợi hồ đào, quà mừng của bác Mingô, Joóc-Gà toét miệng cười với bóng mình trong chiếc gương cán dài, một trong những món quà bất ngờ anh sẽ tặng Matilđa. Ngắm nghía trong gương, anh cẩn thận quàng quanh cổ chiếc khăn len xanh Matilđa đã đan cho anh. Trông tươm đấy, anh thừa nhận. Chỉ còn điểm thêm nét hoàn chỉnh cuối cùng nữa thôi. Kéo một chiếc hộp cáctông tròn từ gầm giường ra, anh bỏ nắp và nhẹ nhàng, gần như kính cẩn nữa, nhấc ra chiếc mũ quả dưa màu đen, quà cưới do mexừ Liơ tặng. Xoay xoay chiếc mũ từ từ trên hai đầu ngón tay trỏ, anh thưởng thức cái hình dáng thanh nhã của nó với một khoái cảm gần như nhục dục trước khi trở lại trước gương và đội nó vừa đúng độ lệch ngang tàng, nghiêng nghiêng xuống một bên mặt.

"Ra đi nào! Bọn tau ngồi trong xe một tiếng đồng hồ rồi!" Tiếng hò gọi của Kitzi, mẹ anh, ngay bên ngoài cửa sổ, chứng tỏ rành rành là cơn tam bành của bà vẫn chưa nguôi.

"Con ra đây, mẹ ạ!" anh la to đáp lại. Sau khi xem xét lại lần cuối, đánh giá toàn bộ trang phục mình trong gương, anh đút một chai nhỏ, dẹt đựng uytxki trắng hạng xoàng vào trong túi áo vettông và nhô ra khỏi căn nhà gỗ mới như thể chờ đợi mọi người hoan hô. Anh sắp sửa cười toét miệng và lật nghiêng chiếc mũ thì chợt thấy luồng mắt dữ tợn của mẹ, của cô bác Malizi, Xerơ và Pompi, tất cả ngồi đuồn đuỗn trong xe, với những bộ đồ đẹp nhất. Ngảnh nhìn sang hướng khác và cố hết sức làm ra hồ hởi huýt sáo, anh leo lên ghế ngồi lái - thận trọng không để nhàu một nếp áo quần nào - quật dây cương vào lưng đôi la và thế là họ lên đường - có điều là muộn mất một tiếng.

Dọc đường, Joóc-Gà tợp lén mấy hụm rượu bổ ở cái chai của mình và xe tới đồn điền Mêc Grigo vào lúc hơn hai giờ một chút. Kitzi, Xerơ và Malizi bước xuống, rối rít xin lỗi cô nàng Matilđa lo lắng và cuống ra mặt, trong chiếc áo dài trắng. Bác Pompi rỡ xuống những giỏ thức ăn mang theo và, sau khi hôn vội vào má Matilđa, Joóc-Gà chuyếnh choáng đi quanh vừa tự giới thiệu vừa vỗ vỗ vào lưng và thở hơi rượu vào mặt các vị khách. Trừ những người ở xóm nô của Matilđa mà anh quen từ trước, hầu hết khách khứa là thành viên các cuộc họp cầu nguyện mà Matilđa đã chiêu mộ trong số những nô lệ ở hai đồn điền lân cận và được phép mời đến dự. Cô muốn họ gặp ý trung nhân của mình và họ làm theo ý cô. Tuy phần đông đã nghe nói nhiều về anh từ những nguồn khác ngoài bản thân cô, nhưng lần đầu tiên chính mắt trông thấy Joóc-Gà gây cho họ một loạt những phản ứng từ xì xào đến há hốc miệng sững sờ. Trong khi huyênh hoang để gây ấn tượng trong đám những người dự cưới, anh vẫn tránh xa mẹ mình, Xerơ và Malizi mà những tia nhìn sắc như dao càng được mài nhọn thêm bởi những nhận xét họ nghe lỏm được, tỏ ý nghi ngại "Con cá cắn câu" của Matilđa. Bác Pompi thì chọn cái ứng xử đơn giản là hòa lẫn với các tân khách khác, làm như không biết chú rể là người thế nào.

Cuối cùng, vị giáo sĩ người da trắng được thuê đến làm lễ, ra khỏi đại sảnh, theo sau là hai cặp vợ chồng ông chủ Mêc Grigo và Liơ. Họ dừng lại trong sân sau, ông cố đạo níu chặt quyển Kinh thánh như chiếc mộc, và đám người da đen đột nhiên im lặng tụ lại đứng sững cách một quãng xa. Theo như bà chủ của Matilđa dự định, đám cưới sẽ kết hợp một phần nghi thức hôn phối Cơ đốc của người da trắng với lễ nhảy chổi tiếp sau đó. Kéo một tay áo vàng của chú rể nhanh chóng tỉnh rượu, dẫn đi, Matilđa cùng anh đến đứng trước mặt ông cố đạo: ông này hắng giọng và bắt đầu đọc mấy đoạn long trọng trong quyển Kinh Thánh của mình. Rồi ông hỏi: "Matilđa và Joóc, hai con có long trọng thề, dù hay dù dở, vẫn ăn ở với nhau đến trọn đời không?"

"Con xin thề", Matilđa khẽ nói.

"Dạ vâng!" Joóc-Gà nói, hơi to quá.

Hoang mang, ông cố đạo ngừng một lát rồi mới nói: "Ta tuyên bố, hai con là vợ chồng!".

Trong đám khách da đen, có người thổn thức.

"Bây giờ con hôn cô dâu đi!"

Nắm lấy Matilđa, Joóc-Gà ghì chặt cô trong tay và hôn đánh chút một cái. Giữa những tiếng "hức" kinh ngạc và, chậc lưỡi, anh chợt nghĩ là có thể mình đã không gây ấn tượng tốt nhất và sau đó, trong khi hai người ngoắc tay nhảy chổi, anh moi óc cố tìm ra điều gì để nói, khả dĩ đem lại chút trịnh trọng cho dịp này, một điều gì khả dĩ làm nguôi dịu cái gia-đình-xóm-nô của mình và tranh thủ đám người sính kinh thánh. Anh nghĩ ra rồi!

"Đức Jêhôva là đấng chăn dắt tôi!" Anh dõng dạc tuyên bố. "Người ban cho tôi những thứ tôi cần!".

Khi thấy những con mắt nhìn anh tròng trọc đón lời công bố ấy, anh bèn quyết định thôi không đếm xỉa đến họ và vớ được cơ hội đầu tiên là lén rút cái chai trong túi ra, nốc cạn khô. Phần liên hoan còn lại - một bữa tiệc cưới và tiếp tân - qua đi trong một lớp sương nhòa và chính bác Pompi phải lái cỗ xe la của đồn điền Liơ trở về qua hoàng hôn. Hằm hằm tức giận vì mất thể diện, mẹ Kitzi và các cô Xerơ, Malizi ném những cái nhìn dữ tợn vào cảnh tượng đằng sau họ: chú rể ngáy khò khò gối đầu vào lòng cô dâu nước mắt đầm đìa, cái khăn quàng xanh lệch lẹo và chiếc mũ quả dưa đen che gần hết mặt.

Joóc-Gà khụt khịt thức giấc khi chiếc xe đỗ xịch lại bên nhà gỗ mới của đôi tân lang tân giai nhân. Lơ mơ cảm thấy rằng mình phải xin lỗi mọi người, anh toan làm thế, nhưng cánh cửa ba căn nhà gỗ đóng sầm lại như tiếng súng nổ. Tuy nhiên, chắc anh sẽ không bị từ chối cử chỉ ưu nhã cuối cùng. Nhấc cô vợ mới cưới dậy, anh dùng một chân đẩy cánh cửa ra và, cách nào đó, xoay sở dìu nhau vào được cả đôi không sây sát gì - duy chỉ kéo Matilđa cùng vấp vào chậu nước tắm còn sừng sững giữa phòng. Đó là nỗi sỉ nhục phút chót - song mọi sự đều được quyền tha thứ khi Matilđa, với một tiếng reo vui, nhìn thấy món quà cưới đặc biệt của mình: chiếc đồng hồ lớn để đứng, vỏ gỗ sơn mài bóng loáng, tám ngày lên dây một lần, cao bằng cô, mà Joóc-Gà đã mua bằng tất cả tiền dành dụm từ các cuộc chọi hạ cấp và chở đằng sau xe suốt từ Grinxborâu về.

Còn đang mờ mắt ngồi xệt trên sàn, nơi anh vừa ngã bịch xuống, nước tắm bẩn ướt sũng đôi giày da cam mới toanh, thì Matilđa bước lại chìa tay để đỡ anh dậy.

"Nào, bi giờ lại đây mấy em, Joóc. Để em đặt anh vào giường".

Chương 95

Tảng sáng, Joóc-Gà đã đi xuôi con đường dẫn đến bày gà của mình. Rồi độ một tiếng đồng hồ sau khi điểm tâm, Malizi nghe thấy có người gọi tên mình và, ra cửa bếp, bà giật mình thấy cô dâu mới; bà chào và mời Matilđa vào.

"Không, cảm ơn cô", Matilđa nói. "Cháu chỉ muốn hỏi hôm nay họ làm cánh đồng nào, mấy lại cháu có thể kiếm đâu được cái cuốc".

Mấy phút sau, Matilđa xuất hiện và nhập bọn với Kitzi, Xerơ và bác Pompi, tham gia làm đồng. Tối hôm ấy, tất cả tụ tập xung quanh cô ở xóm nô, ngồi chơi với cô đến lúc chồng cô về. Trong khi trò chuyện, Matilđa hỏi ở đây có thường xuyên họp mặt để cầu nguyện không và khi được trả lời là không, cô bèn đề nghị mỗi chiều chủ nhật nên có một buổi như vậy.

"Nói thật mấy con, mẹ lấy làm xấu hổ mà nói rằng mẹ bỏ nhãng bổn phận cầu kinh tận đẩu tận đâu rồi". Kitzi nói.

"Cô cũng rứa", Xerơ thú nhận.

"Ta xem chừng có cầu nguyện mấy cũng chả bao giờ thay đổi được người da trắng", bác Pompi nói.

"Kinh thánh nói ông thánh Juxe bị bán làm nô lệ cho người Ai Cập, dưng mà Chúa ở bên thánh Juxe và Chúa ban phước lành cho nhà người Ai Cập vì thánh Juxe", Matilđa nói một cách thực tế.

Ba cặp mắt liếc nhanh nhìn nhau nói lên sự cảm phục mỗi lúc một tăng của họ đối với cô gái.

"Cái thằng Joóc bảo mấy bọn ta ông chủ đầu tiên của con là một cụ đạo", Xerơ nói. "Chính mầy cũng có vẻ dư một cụ đạo, con ạ".

"Cháu là một tôi tớ của Chúa, vậy thôi!" Matilđa trả lời.

Hội cầu kinh của cô bắt đầu ngày chủ nhật kế đó, hai ngày sau khi Joóc-Gà và mexừ Liơ lên đường với mười hai chú chọi trong xe.

"Ông chủ biểu cuối cùng, ông đã có những con gà đích đáng để đem đi chọi ở nơi to tiền", anh giải thích rằng lần này gà lò Liơ sẽ đua tài trong một cuộc đấu "chủ lực" quan trọng ở một nơi nào đó gần Gôldxborâu.

Một buổi sáng ở ngoài đồng, Xerơ thận trọng dùng một giọng dịu dàng biểu lộ sự thông cảm của một người phụ nữ bốn mươi bảy tuổi với một cô dâu mới mười tám tuổi: "Lạy Chúa, cưng ạ, cô ngờ ngợ rằng duyên số con rồi phải chia sẻ với ba con gà mất".

Matilđa nhìn thẳng vào mặt bà: "Xưa nay cháu vẫn nghe nói và tin rằng cuộc nhân duyên của ai cũng vậy, họ làm nó thế nào thì nên thế ấy. Và cháu chắc anh í biết rõ anh í muốn cuộc vợ chồng của chúng cháu phải như thế nào".

Nhưng sau khi xác định lập trường của mình về hôn nhân, Matilđa sẵn sàng tham gia bất cứ cuộc mạn đàm nào về anh chồng đặc sắc của mình, dù tính chất câu chuyện là vui đùa hay nghiêm chỉnh.

"Nó ngứa chân từ thuở mới bò toài", Kitzi nói với con dâu, một đêm đến thăm cô ở căn nhà mới.

"Vâng, mẹ ạ", Matilđa nói, "con cũng nghĩ thế khi anh í đến tìm hiểu. Anh í hồ dư không nói gì khác ngoài chuyện chọi gà và đi đây đi đó với ông chủ". Cô ngập ngừng rồi nói thêm theo cái cách chân thực của mình: "Dưng khi anh í hiểu ra rằng không người đàn ông nào được tòm tem với con trước khi nhảy chổi thì, lạy Chúa, anh í nổi cơn tam bành lên chứ! Thực tế, có lần con thôi không gặp lại anh í nữa. Chả biết cái gì ốp anh í, dưng mà con muốn cười chết ngất cái đêm anh í hớt hải chạy đến biểu: "Nầy, chúng mình lấy nhau đi!"

"Ờ, rành là mẹ mừng là nó còn biết làm thế!" Kitzi nói. "Cơ mà bi giờ, các con nên vợ nên chồng rồi, gái ạ, mẹ muốn nói thẳng điều mẹ tâm niệm. Mẹ muốn có mấy đứa cháu!".

"Cái í thì chả có gì là dở, mẹ Kitzi ạ. Là vì con cũng muốn có mấy đứa con, dư mọi phụ nữ khác."

Hai tháng sau, khi Matilđa báo tin mình có mang, Kitzi mừng quýnh. Việc con trai mình sắp sửa thành bố khiến bà nghĩ đến cha mình - nhiều hơn bao giờ hết trong những năm qua - và một tối, khi Joóc-Gà lại đi xa, Kitzi hỏi: "Nó có bao giờ nói gì mấy con về ông ngoại không?"

"Không ạ", Matilđa có vẻ bối rối.

"Nó không nói?" Thấy vẻ thất vọng của bà, Matilđa vội nói thêm: "Con chắc anh í thấy chưa đến lúc đấy thôi, mẹ Kitzi ạ".

Quyết định rằng tốt hơn hết là tự mình làm việc đó vì dù sao bà cũng nhớ nhiều hơn Joóc, Kitzi bèn kể cho Matilđa nghe về quãng đời mười sáu năm của mình ở đồn điền mexừ Uolơ cho đến khi bị đem bán cho mexừ Liơ và phần lớn những điều bà nói là về ông bố người Phi của mình cùng biết bao thứ ông cụ đã bảo ban bà. "Tilđa, sở dĩ mẹ nói cho con nghe tất cả dững cái í, là vì mẹ muốn con hiểu rằng, mẹ muốn đứa bé trong bụng con cả dững đứa khác sau này cũng đều phải biết về ông, bởi vì ông là cụ ngoại của bọn nó".

"Rành là con hiểu, mẹ Kitzi ạ", Matilđa nói, thế là bà mẹ chồng lại kể thêm những hồi ức của mình, và cả hai đều cảm thấy mỗi lúc một gần gũi nhau hơn suốt thời gian còn lại của buổi tối.

Con trai đầu lòng của Joóc-Gà và Matilđa ra đời mùa xuân năm 1828, do bà Xerơ đỡ với sự giúp việc của một bà Kitzi nhớn nha nhớn nhác. Niềm vui được đứa cháu đích tôn làm nguôi cơn giận của bà về nỗi cha nó lại đi tận đâu với mexừ Liơ một tuần. Tối hôm sau, khi người mẹ mới cảm thấy có thể tiếp khách được, tất cả mọi người trong xóm nô tụ tập trong căn nhà gỗ để mừng sự ra đời của đứa hài nhi thứ hai sinh ra tại đồn điền Liơ.

"Cuối cùng, bi giờ mẹ thành "bà nội Kitzi" rồi đó!" Matilđa nói, dựa mình vào mấy cái gối trên giường, tay ẵm đứa bé và yếu ớt mỉm cười với các khách đến thăm.

"Lạy chúa, đúng thế đấy! Nghe mà sướng cái lỗ tai!" Kitzi thốt lên, cả bộ mặt bà là một nụ cười lớn.

"Ta nghe nó tuồng dư Kitzi đang già đi, thế đấy!" Bác Pompi nói, một ánh long lanh trong mắt.

"Hừm! Phụ nữ ở đây chả có ai già bằng cái người nào đó mà chúng ta đều biết!" Xerơ cười rộ nói.

Cuối cùng, Malizi ra lệnh: "Thôi, đến giờ bọn ta rút để cho mẹ con nhà nó nghỉ!" Tất cả ra về, trừ Kitzi .

Sau một hồi im lặng trầm ngâm, Matilđa nói: "Mẹ ạ, con đang nghĩ về dững gì mẹ kể về người cha của mẹ. Vì con không bao giờ thấy được mặt cha của con, nên con tin Joóc sẽ không phản đối lấy tên cha con đặt cho cháu bé. Tức là Vơjơl, mẹ con biểu thế".

Tên đó lập tức được Joóc-Gà nhiệt liệt tán thành khi anh trở về, lòng tràn đầy vui sướng trước sự ra đời của đứa con trai đến nỗi gần như không tự kiềm chế nổi. Chiếc mũ quả dưa đen đội lệch trên đầu, đôi bàn tay hộ pháp nhấc bổng đứa bé lên trên không, anh kêu lên: "Mẹ ạ, mẹ có nhớ con đã nói gì mấy mẹ không, con sẽ nói cho các con con biết dững gì mẹ đã nói mấy con!" Mặt ngời sáng, anh trịnh trọng ngồi xuống trước lò sưởi, bế thằng Vơjơl trong lòng, nói với nó bằng giọng nghiêm trang như thể đang làm một nghi thức nhỏ: "Nghe đây, con trai! Cha sẽ nói con nghe về cụ ngoại con! Cụ là một người Phi, cụ biểu tên cụ là "Kunta Kintê". Cụ gọi cái đàn bằng , con sông bằng Kămby Bôlônggô và một lô các thứ khác nữa bằng dững tiếng Phi. Cụ kể là cụ đang chặt cây để làm cho em trai một cái trống thì có bốn người lẻn đến đằng sau bắt lấy cụ. Rồi một cái tầu to đưa cụ qua miền nước nhớn đến một chỗ gọi bằng Nơplix. Rồi cụ chạy trốn bốn lần, khi cụ định giết dững kẻ bắt cụ thì họ chặt phăng nửa bàn chân của cụ!"

Giơ cao đứa nhỏ, anh quay mặt về phía Kitzi: "Và cụ nhảy chổi mấy một người bếp nữ ở đại sảnh tên là Bel, rồi hai người đẻ một con gái - và đây là người con gái í, bà nội con đang cười mấy con đấy!" Matilđa tán thưởng, nét mặt cũng nở nang, tươi rói như Kitzi; mắt Kitzi ướt đẫm những giọt lệ yêu thương và tụ hào.

Vì chồng đi xa luôn, nên Matilđa bắt đầu tiêu nhiều thì giờ buổi tối với bà nội Kitzi và sau một thời gian, hai mẹ con góp khẩu phần lại, ăn bữa tối với nhau. Bao giờ Matilđa cũng đọc kinh trong khi Kitzi lặng lẽ ngồi chắp tay và cúi đầu. Sau đó Matilđa cho con bú, rồi Kitzi hãnh diện ngồi ôm bé Vơjơl trong lòng, đu đưa và âm a hoặc hát khe khẽ trong khi chiếc đồng hồ đứng kêu tích ta tích tắc và Matilđa ngồi đọc quyển Kinh Thánh cũ nát. Mặc dù điều đó không trái với luật lệ của ông chủ, Kitzi vẫn phản đối đọc sách báo - nhưng đây là Kinh Thánh nên bà dỗ rằng không có hại gì. Thường thường không lâu sau khi đứa bé ngủ, Kitzi bắt đầu gà gật và nhiều khi lẩm bẩm một mình trong khi nửa tỉnh nửa mơ. Khi cúi xuống đỡ Vơjơl đã ngủ say khỏi tay Kitzi, Matilđa đôi khi nghe loáng thoáng thấy từng mẩu bao giờ cũng như vậy: "Mẹ…bố…đừng để họ bắt con đi!...Gia đình tui tan tác rồi…Chả bao giờ còn được thấy bố thấy mẹ trên đời này…" Xúc động sâu sắc, Matilđa thường thì thầm: "Bi giờ, chúng con là gia đình bà, bà nội Kitzi ạ". Và sau khi đặt Vơjơl vào giường, cô nhẹ nhàng đánh thức Kitzi - mà cô dần yêu như mẹ đẻ mình - rồi sau khi tiễn bà đến tận nhà, trên đường về, Matilđa thường lau nước mắt.

Những chiều chủ nhật, mới đầu chỉ có ba người đàn bà dự buổi nguyện cầu do Matilđa đề xướng - cho đến khi miệng lưỡi nanh nọc của Xerơ cuối cùng khiến bác Pompi đâm xấu hổ mà phải tham gia. Không ai thậm chí nghĩ đến chuyện mời Joóc-Gà, vì ngay cả những khi anh có nhà, cứ đến trưa chủ nhật là anh quay về khu gà rồi. Với cái nhóm nhỏ năm người trịnh trọng ngồi trên những ghế tựa mang từ lều mình đến, xếp thành hình bán nguyệt quanh cây hạt dẻ, Matilđa đọc một vài đoạn Kinh Thánh cô đã chọn trước, rồi, với đôi mắt nâu nghiêm nghị nhìn dõi vào từng khuôn mặt; cô hỏi xem có ai muốn xướng kinh cho mọi người theo và thấy không ai nhận, bao giờ cô cũng nói: "Thôi được, vậy xin tất cả quỳ xuống cùng tui". Khi mọi người quỳ xuống đối diện với cô, Matilđa liền đọc một bài nguyện giản dị, xúc động. Sau đó, cô lĩnh xướng cho họ hát một bài ca tôn giáo. Rồi cuộc họp chuyển sang bàn luận về đề tài chung: lòng tín ngưỡng.

"Hôm nay là ngày của Chúa. Tất cả chúng ta có một linh hồn để cứu rỗi và một thiên đàng để gìn giữ". Matilđa có thể mào đầu như vậy theo cái cách bình thường của cô. "Chúng ta cần ghi nhớ ai làm ra chúng ta, ấy là Đức Chúa Lời. Rồi ai cứu chuộc chúng ta, ấy là Chúa Kirixitô Jêxu. Chúa Kirixitô dạy chúng ta khiêm nhường và lo tâm để chúng ta có thể tái sinh trong tinh thần".

Mặc dầu chả mấy người gặp trong những chuyến đi có thể đoán, qua cung cách của Joóc-Gà, là anh đã có vợ, cánh phụ nữ ở xóm nô lấy làm ngạc nhiên thấy anh nhiệt tâm với chuyện hôn nhân và đối xử với vợ, với gia đình rất tốt. Không bao giờ anh ở một cuộc chọi gà trở về - với chiếc khăn quàng và chiếc mũ quả dưa đã trở thành trang phục thường xuyên của anh, nắng cũng như mưa, hè cũng như đông - mà không có tiền được cá để để dành. Phần lớn, sau khi mua các món quà mà tất nhiên bao giờ anh cũng mang về không những cho Matilđa và mẹ mình, và cho cả các cô bác Malizi, Xerơ, Pompi cũng như bé Vơjơl, và cho Matilđa mấy đôla nữa, anh chả còn được bao nhiêu. Mỗi lần trở về, anh còn mang theo hàng loạt tin tức, ít nhất cũng đủ kể một tiếng đồng hồ về những điều tai nghe mắt thấy trong chuyến đi. Hễ cái gia đình xóm nô tụ tập quanh anh, Kitzi hầu như bao giờ cũng nghĩ đến ông bố người Phi của mình đã từng là nguồn thông tin chủ yếu cho một xóm nô khác như thế nào và bây giờ lại đến lượt con trai bà.

Một lần, từ một chuyến đi dài đến tận Saletơn trở về, Joóc-Gà tả "cơ man là thuyền buồm to tướng, cột chi chít dư rừng và nhọ đông dư kiến khuân kìn kìn dững thùng thuốc lá to đùng mấy lại đủ các thứ khác chở qua miền nước nhớn sang bên Anh mấy lại nhiều nơi khác nữa. Tuồng dư bi giờ, tui mấy ông chủ đi đến đâu cũng thấy nhọ đào kênh, làm đường đá, xây đường xe lửa! Rành là dân nhọ đang dựng xây đất nước nầy bằng bắp thịt mình!"

Một lần khác, anh nghe nói là "người da trắng dọa dân da đỏ về việc nhận quá nhiều nhọ vào các khu dành riêng của mình. Ối người da đỏ tộc Críc và Xêminôl cưới nhọ làm chồng làm vợ! Có cả một số thủ lĩnh da đỏ là nhọ! Cơ mà tui nghe nói các người da đỏ tộc Tsócto, Tsiccơxo và Tsirôki còn ghét nhọ hơn cả người da trắng ghét nhọ".

Những câu hỏi đặt ra với anh ít hơn nhiều so với những điều mọi ngưòi thực sự muốn biết, và thoáng sau, Kitzi, Malizi, Xerơ và bác Pompi tế nhị viện cớ rút về lều riêng để anh và Matilđa một mình với nhau.

"Em đã tự nhủ mình là anh sẽ không bao giờ phải nghe em phàn nàn hàng lô hàng lốc, Joóc ạ", cô nói với anh một đêm như vậy khi hai người đã nằm vào giường. "Cơ mà rành là em chả mấy khi có chồng ở bên".

"Anh hiểu em muốn nói gì, cưng ạ, dất khoát là anh hiểu", anh nói thoải mái, "dững lúc đi mấy ông chủ ngoài xe, hoặc đôi khi anh mấy bác Mingô thức suốt đêm chăm cho ba con gà ốm, thực tình anh chỉ nghĩ đến em và con".

Matilđa cắn lưỡi ghìm chặt lại, không muốn nói lên những ngờ vực của mình, kể cả những điểm cô bán tín bán nghi trong một số điều anh nói. Trái lại, cô chỉ hỏi: "Joóc, anh xem liệu chừng có bao giờ khá hơn tí nào không?"

"Bao giờ làm cho ông chủ khá giàu, thế thì tự ông í sẽ muốn ở nhà! Nhưng nầy, cái í chả hại gì chúng mình đâu, em bé ạ! Em xem mình để dành được bao nhiêu nếu anh cứ mang tiền được cá về nhà dư vậy?"

"Tiền không phải là anh!" Matilđa nói thẳng thừng, rồi cô dịu giọng "Mấy lị nếu anh thôi đừng mua quà cáp cho tất cả mọi người thì chúng mình còn dành được thêm ói tiền! Các quà í, bọn em ai cũng quý, anh biết đấy! Cơ mà Joóc ạ, dư cái áo dài lụa đẹp em chắc các bà chủ cũng chả bằng, em biết mặc nó để đi đâu?"

"Em bé ạ, em có thể mặc cái áo dài í ngay ở đây rồi cởi nó ra cho anh xem!"

"Anh là gớm lắm cơ!"

Anh là người đàn ông nhộn nhất - hơn bất kì ai mà cô từng mơ tưởng đuợc biết, chí ít cũng theo cách ấy. Và hẳn nhiên anh là một tay cung ứng tuyệt vời. Song cô vẫn không tin anh thật sự là không thể không tự hỏi hiện anh có yêu vợ con bằng các chuyến đi với ông chủ không. Chẳng biết trong Kinh Thánh có nói gì về gà không nhỉ? Cô mang máng nhớ có một chỗ - trong Sách Phúc Âm của thánh Matiơ thì phải, nếu cô không nhầm - nói về "một con gà mái xoè cánh che cả đàn con"…Mình phải tìm xem lại đoạn í mới được, cô tự nhủ.

Tuy nhiên, khi có chồng ở nhà, Matilđa dẹp hết mọi nghi ngờ, thất vọng và cố gắng làm người vợ hiền thảo nhất theo sự hiểu biết của cô. Nếu cô biết anh sắp về nhà, một bữa ăn thịnh soạn liền chờ sẵn. Nếu anh về bất ngờ, cô tức tốc làm ngay một bữa, dù là ngày hay đêm. Sau một thời gian, cô thôi không bắt anh cầu kinh trước khi ăn nữa, mà chỉ đọc một lời cầu nguyện ngắn rồi sung sướng ngắm anh vừa ăn vừa bế thằng bé Vơjơl bi ba bi bô trong lòng. Rồi sau đó, khi đứa bé đã được đặt vào giường, cô xem xét, nặn trứng cá trên mặt Joóc; hoặc nấu nước đổ lưng chiếc chậu thiếc, gội đầu và lau rửa lưng cho anh; và nếu khi về đến nhà, anh kêu đau chân, cô liền nướng bánh hòa với xà phòng nhà làm, thành một thứ bột âm ấm để xoa bóp cho anh. Vào cái đận Vơjơl bắt đầu tập đi, Matilđa lại có mang, cô lấy làm lạ là chuyện đó đã không xảy ra sớm hơn.

Với triển vọng sắp có thêm một đứa bé, bà nội Kitzi quyết định đã đến lúc phải gọi riêng con trai ra nói một đôi điều bà đã tâm niệm từ lâu. Một sáng chủ nhật, Joóc-Gà từ một chuyến đi trở về nhà, thấy bà đang trông Vơjơl trong khi Matilđa đang ở trên đại sảnh giúp Malizi làm tiệc đãi các khách khứa sẽ tới trong chốc lát.

"Anh ngồi luôn xuống đây đi!" bà nói, không bỏ phí giây phút nào. Anh làm theo, lông mày nhướn lên. "Tui bất kể là bi giờ anh đã nhớn, tui vẫn là người đẻ ra anh, vậy nên anh hãy nghe đây! Trời đã cho anh một người lền bà tốt thật là tốt mà anh không ăn ở cho phải tí nào! Tui không có rỡn mấy anh đâu, nghe không! Tui vẫn có thể lấy gậy quật vào đít anh trong phút chốc! Anh phải dành nhiều thì giờ hơn cho vợ con anh, mà nó cũng đã chửa mấy anh lần nữa!"

"Mẹ ngờ cái gì vậy mẹ?" anh nói, bực bội vừa tới mức dám tự cho phép. "Khi ông chủ nói: "Đi" thì biểu ông í tui không à?"

Mắt Kitzi như rực lửa. "Tui không nói cái í, anh biết thừa đi rồi. Anh biểu con bé tội nghiệp là đêm đêm anh phải thức trông nom gà mấy lại dững chuyện tương tợ dư thế! anh kiếm đâu ra các cái sự dối trá í, trong khi vừa rượu chè, vừa cờ bạc lại vừa chơi rông? Anh biết là tui không có nuôi dạy anh dư thế! Mà đừng có tưởng chỉ có mình tui nói thế! Matilđa nó chả ngu gì đâu, nó chỉ không để anh biết là nó cũng đi guốc trong bụng anh rồi!" Không nói thêm lời nào, bà nội Kitzi giận dữ, biến ngay ra khỏi gian nhà gỗ.

Vì mexừ Liơ ở trong số những người dự cuộc chọi gà lớn năm 1830 tại Saletơn, nên không ai có thể phê phán Joóc-Gà về tội vắng mặt khi đứa bé ra đời. Anh chàng trở về, vừa sung sướng ngất ngây được biết về đứa con trai thú hai - mà Matilđa đã lấy tên em trai mình là Asfođ đặt cho - vừa hớn hở với vận may của mình. "Ông chủ được hơn nghìn đôla, còn tui được năm chục trong các cuộc đấu hạ cấp! Bà con ta phải nghe thấy cả cánh da trắng lẫn nhọ hò la: "Tui cá vào cửa Joóc-Gà!" như thế nào". Anh kể với Matilđa là ở Sacletơn, mexừ Liơ đã được biết tổng thống Anđru Jêchxơn là một người theo kiểu họ. "Không có ai thích chọi gà hơn tổng thống đâu! Ông gọi cả thượng mấy hạ nghị sĩ vào, rồi bày trò một thời gian cho họ xem lũ gà Tennetxi của ông chọi nhau ngay trong Nhà Trắng! Ông chủ biểu cái ông Jêchxơn í đánh cờ mấy uống rượu mới bất kì người lền ông nào. Họ biểu khi thắng dững con ngựa màu hạt dẻ chở ông đi trong cỗ xe Tổng thống đẹp đẽ, thì ông ngồi trên í mới cái vali lót nhung đựng đầy rượu ngay bên cạnh! Ông chủ biểu về phần dững người da trắng ở miền nam, ông có thể giữ Tổng thống lại đến khi nào Tổng thống mệt!". Matilđa dửng dưng.

Nhưng Joóc-Gà đã thấy ở Saletơn một điều khiến cô - và mọi người khác ở xóm nô - bị kích động sâu sắc không kém gì anh. "Tui thấy một xâu nhọ dài đến một dặm, bị xiềng vào nhau lùa đi!"

"Lạy Chúa! Nhọ từ đâu đến?" Malizi hỏi

"Một số bị bán ở miền bắc và miền nam Calini, dưng mà phần chính ở Vơjiniơ, là cháu nghe thấy thế!" anh nói. "Nhiều nhọ ở Saletơn biểu cháu có hàng nghìn nhọ, mỗi tháng bị đem đến dững đồn điền bông lớn đang được khai khẩn đều đều từ các khu rừng ở Alabama, Mitxixipi, Luyziana, Ackanxax và Têchxơx. Họ biểu lái buôn nhọ kiểu cổ cưỡi ngựa đã hết thời rồi, bi giờ thành công ty lớn có trụ sở ở các khách sạn to tướng! Họ biểu còn có cả dững tàu có bánh lái to tướng chở toàn nhọ ở Vơjiniơ bị xiềng vào nhau, đưa xuống Niu Oliân! Họ còn biểu…"

"Thôi im đi!" Kitzi chồm đứng dậy. "IM ĐI!" Bà lao về lều mình, nước mắt ròng ròng.

"Mẹ làm sao thế?" Joóc hỏi Matilđa sau khi những người khác bối rối bỏ đi,

"Anh không biết ư?" chị sẵng giọng "Ông bà đẻ ra mẹ ở Vơjiniơ, điều cuối cùng mẹ biết về các cụ là thế và anh đã làm mẹ gần chết khiếp!"

Joóc-Gà nom như phát ốm. Vẻ mặt anh nói với Matilđa là anh không hiểu ra nhưng cô không chịu buông tha anh dễ dàng đến thế. Cô đã trở nên tin chắc rằng với cái thói trần tục của Joóc, anh có tật thiếu nhạy cảm với quá nhiều sự việc. "Anh cũng biết rõ dư tui là mẹ Kitzi đã bị bán! Cũng dư chính tui đây!" cô nói với anh. "Bất kì ai đã bị bán đều chả bao giờ quên được điều í! Và cũng không bao giờ còn nguyên dư cũ nữa!" Cô nhìn anh với vẻ đầy ý nghĩa. "Anh chưa bao giờ bị bán. Vì thế cho nên anh không hiểu rằng chả có ông chủ nào tin được - kể cả ông chủ của anh!"

"Em cáu mấy anh để làm gì?" anh hỏi với ý thăm dò.

"Anh hỏi tui cái gì khiến mẹ Kitzi hoảng hốt thì tui nói cho anh biết. Chả còn gì mà nói về chuyện í nữa!". Matilđa tự kiềm chế lại. Cô không muốn gay go với chồng. Sau một lát im lặng, cô cố hé một nụ cười.

"Joóc à, em biết cách làm cho mẹ Kitzi khuây khỏa! Anh đi mời mẹ sang đây nghe anh kể cho thằng nhỏ này về người ông nội người Phi, dư anh đã kể với Vơjơl dạo trước í!". Và anh đã làm thế.

Chương 96

Trời sắp rạng đông và Joóc-Gà đang đứng ở cửa ra vào, khẽ lắc lư người và nhe răng cười với Matilđa đã ngồi dậy chờ anh. Cái mũ quả dưa đen của anh đội lệch. "Cáo lọt vào đàn gà", anh lè nhè. "Anh mấy bác Mingô phải bắt gà suốt đêm"…

Bàn tay của Matilđa giơ lên làm anh im bặt và giọng cô lạnh lùng: "Chắc là con cáo cho anh uống rượu và rẩy vào anh nước hoa hồng mà tui cũng ngửi thấy"…Joóc-Gà há hốc mồm, "Này Joóc, anh nghe đây! Này nhé, chừng nào tui còn là vợ anh, còn là mẹ dững đứa con của chúng ta, thì tui vẫn nguyên đây khi anh đi khỏi nhà, tui vẫn nguyên đây khi anh trở về, bởi vì anh đang làm hại cho chính anh hơn là cho chúng ta. Cái í ở ngay trong Kinh Thánh, "Gieo gì gặt nấy" - anh gieo đơn thì anh gặt kép! Và sách Phúc âm của thánh Matiơ, chương bẩy, cũng nói: "Bất kể ngươi đối xử với người khác dư thế nào, ngươi cũng sẽ bị đối xử lại y hệt".

Anh cố làm ra vẻ bị xúc phạm, không thèm nói, nhưng kỳ thực, anh không nghĩ ra được điều gì để nói. Anh quay lưng, chệnh choạng ra ngoài cửa và chân nam đá chân xiêu, đi xuôi con đường về ngủ với lũ gà.

Nhưng hôm sau anh lại về, chiếc mũ quả dưa cầm trong tay và giữ đúng bổn phận ở với gia đình suốt mùa thu và mùa đông năm ấy, chỉ trừ một số đêm vắng nhà vì phải theo ông chủ trong một chuyến đi ngắn nào đó. Và một buổi sáng sớm tháng giêng năm 1831, khi cơn đau đẻ lần sau của Matilđa dồn dập, thì mặc dầu bấy giờ là lúc cao trào của mùa chọi gà, anh vẫn xin được ông chủ cho ở lại nhà - và đem bác Mingô ốm yếu đi theo tới cuộc đấu ngày hôm đó.

Bồn chồn, anh đi đi lại lại bên ngoài căn nhà gỗ, nhăn nhăn nhó nhó lắng nghe những tiếng kêu rên đau đớn của Matilđa. Rồi, nghe thấy những tiếng khác, anh rón rén lại gần và thấy tiếng Kitzi giục" "Cứ níu lấy tay mẹ nữa đi - mạnh vào, cưng!...Lấy một hơi nữa… sâu vào!... đúng thế…thế! giữ nào! giữ chắc nhé!". Rồi tiếng Xerơ ra lệnh: "Ấn xuống, nghe cô nào!...Bi giờ RẶN đi!... RẶN nào!"

Rồi, chẳng mấy chốc, "Đây rồi…phải…lạy Chúa…"

Khi nghe thấy những tiếng phát đen đét, rồi tiếng trẻ khóc oe oe, Joóc-Gà lùi lại mấy bước, bàng hoàng vì những gì anh vừa nghe thấy. Chẳng bao lâu, bà nội Kitzi ló ra, mặt rúm ró một nụ cười. "Ờ, tuồng dư trong ruột bọn bay thuần là con giai hết".

Anh bắt đầu nhảy cẫng và tung tăng, hò la nhộn nhạo đến nỗi Malizi bổ ra cửa sau đại sảnh. Anh chạy lại gặp bà, nhấc bổng bà lên khỏi mặt đất, quay tít đi mấy vòng và hét: "Đứa này phải đặt tên cháu!"

Tối hôm sau, lần thứ ba, anh tụ tập mọi người xung quanh để nghe anh kể cho thành viên mới nhất của gia đình về người cụ gốc Phi tên là Kunta Kintê.

Trở về từ một cuộc họp thường lệ của điền chủ quận Caxuel vào cuối tháng 8, mexừ Liơ đang lái xe - Joóc-Gà còn bận moi ruột và đánh vẩy xâu cá măng, mỗi con to bằng bàn tay, mà ông chủ vừa mua đuợc - thì xe xịch đỗ lại đột ngột. Cặp mắt Joóc giương to khi anh nhổm dậy vừa kịp trông thấy mexừ Liơ đã nhảy xuống đất, hối hả cùng nhiều ông chủ khác chạy về phía một người da trắng vừa tụt xuống khỏi mình một con ngựa hổn hển, đầm đìa mồ hôi. Người này đang điên cuồng gào lên với đám đông mau chóng phát triển. Từng đoạn lời của y vọng tới Joóc-Gà cùng những người da đen khác đang há hốc mồm nghe. "Không biết bao nhiêu gia đình chết cả nhà"… "đàn bà, trẻ thơ"… "đang ngủ trong giường bọn nhọ sát nhân ập vào".. "rìu, gươm, gậy gộc".. "giáo sĩ nhọ tên là Nat Tơnơ"…

Bộ mặt những người da đen khác là tấm gương phản chiếu lại nỗi dự cảm kinh hoàng của chính anh, trong khi đám người da trắng nguyền rủa và hoa chân múa tay với những bộ mặt đỏ bừng, giận dữ. Anh vụt nhớ lại những tháng đầu khủng khiếp sau khi cuộc nổi loạn ở Saletơn bị bại lộ mà không ai bị tổn thương gì cả. Bây giờ liệu những gì sẽ xảy tới đây. Mắt him him, ông chủ trở về xe, bộ mặt đờ đẫn vì tức tối. Không thèm ngoái lại lấy một lần, ông ta phóng như điên về nhà, khiến Joóc-Gà đằng sau phải bíu cả hai tay vào thành xe.

Tới đại sảnh, mexừ Liơ vọt ra khỏi xe, để mặc Joóc ngồi nhìn đống cá đã làm sạch. Mấy phút sau, Malizi chạy ra khỏi cửa nhà bếp và lao qua sân sau về phía xóm nô, hai tay chới với trên cái đầu quấn khăn rằn. Rồi ông chủ lại xuất hiện, lăm lăm khẩu súng ngắn, gằn giọng bảo Joóc: "Về lều mày đi!".

Hạ lệnh cho tất cả mọi người trong xóm nô ra khỏi chỗ ở, mexừ Liơ lạnh lùng nói với họ những điều Joóc-Gà đã nghe được. Biết rằng chỉ còn mình mình khả dĩ có thể làm dịu cơn thịnh nộ của ông chủ, Joóc-Gà cất được nên lời: "Xin ông, thưa ông chủ"… anh run run nóí. Khẩu súng ngắn ngoắt một cái, chĩa thẳng về phía anh.

"Dọn ra! Mang hết các thứ ra khỏi lều! Tất cả bọn nhọ chúng bay! DỌN RA!". Trong một giờ tiếp theo, mọi người mang vác, kéo lết, chất đống những đồ đạc tư trang còm cõi của mình ra ngoài nhà dưới con mắt lục soát soi mói của ông chủ luôn mồm chửi rủa, doạ sẽ ra tay với bất kì ai bị khám phá ra là giấu vũ khí hoặc đồ vật gì khả nghi, họ phải rũ tung từng miếng vải, mở mọi thứ đựng, cắt rạch và xé toang từng tấm nệm rơm - mà cơn thịnh nộ của ông ta dường như vẫn vượt mọi giới hạn.

Ông ta lấy ủng giẫm nát chiếc hộp đựng các phương thuốc thiên nhiên của Xerơ, vừa quát mắng bà vừa đá tung các thứ rễ cây khô và thảo dược: "Vứt cái trò bùa yêu chết tiệt này đi!". Trước các căn lều khác, ông ta ném vung các bảo vật và dùng nắm tay hoặc chân đạp nát nhiều thứ khác. Bốn người đàn bà bù lu bù loa khóc lóc, bác Pompi dường như tê liệt, mấy đứa bé khiếp đảm, nước mắt ròng ròng, níu lấy váy Matilđa. Joóc-Gà giận sôi máu thấy Matilđa gần như đau đớn khi báng khẩu súng đập nát khung gỗ phía trước chiếc đồng hồ đứng quý giá của cô. "Tao mà tìm được một cái đinh nhọn trong này thì có thằng nhọ phải chết!"

Để lại xóm nô ngổn ngang, ông chủ ngồi vào xe, tay cầm khẩu súng ngắn, cho Joóc lái xuống khu luyện gà.

Đứng trước khẩu súng và tiếng quát tháo ra lệnh trút hết đồ đạc ra, bác già Mingô khiếp đảm lắp bắp: "Tui có làm gì đâu, thưa ông chủ"…

"Cứ tin bọn nhọ thành thử bây giờ, bao gia đình chết sạch đấy!" mexừ Liơ thét. Tịch thu cả búa, rìu, chiếc nêm mỏng manh, một cái khung bằng kim khí và dao bỏ túi của hai bác cháu, ông chủ chất những thứ đó vào trong xe khi Joóc-Gà và bác Mingô đứng trơ mắt nhìn. "Trong trường hợp bọn nhọ chúng bay định ập vào, hãy nhớ là tao ngủ với khẩu súng ngắn này!" Y quát vào mặt họ, quất ngựa phóng nước đại và khuất trong một đám mây bụi trên đường.

Chương 97

"Nghe nói bây giờ mày có bốn đứa con trai liền tù tì!". Ông chủ xuống ngựa trong khu luyện gà. Phải mất cả một năm ròng, nỗi sợ hãi pha với giận dữ của dân da trắng miền Nam - trong đó có mexừ Liơ - mới xẹp hẳn. Tuy một hai tháng sau cuộc nổi loạn, ông chủ đã lại đem Joóc-Gà đi theo đến các cuộc chọi gà, thái độ lạnh lùng rõ rệt của ông ta mãi đến hết năm mới tan hết. Nhưng vì những lý do mà cả hai đều không biết, từ đó quan hệ của họ dường như lại gần gũi hơn bao giờ hết. Không ai nhắc đến chuyện cũ lần nào, song cả hai đều tha thiết hy vọng sẽ không còn có những cuộc nổi dậy của người da đen nữa.

"Vâng! Con trai to bự đẻ trước lúc rạng sáng, thưa ông chủ !" Joóc-Gà nói, anh đang trộn khoảng một tá lòng trắng trứng và một cốc vại bia với bột yến mạch, lúa mì giã cùng một loạt nhiều thứ cỏ nghiền nát để nướng thành một thứ bánh đặc biệt làm nguồn thức ăn dự trữ mới cho đám gà chọi. Anh mới học được "bí quyết" ấy ngay sáng nay thôi, do bác Mingô già ốm yếu truyền lại một cách miễn cưỡng; mexừ Liơ đã ra lệnh cho bác phải nghỉ trong lều cho đến khi những cơn ho không dự đoán trước được và ngày càng nặng của bác dứt đi.Trong thời gian đó, một mình Joóc-Gà phải ráo riết luyện hơn hai mươi con gà chọi thượng thặng sau những đợt lọc loại hết sức nghiệt ngã trong số bảy mươi sáu con mới trưởng thành vừa mang về từ bãi thả.

Chỉ còn chín tuần lễ nữa là đến ngày anh và mexừ Liơ phải đi Niu Oliânz. Những năm chiến thắng ở địa phương, cộng với không ít thành công ở các cuộc đấu toàn bang, cuối cùng đã khiến ông chủ mạnh dạn đem mười hai con gà thượng thặng của mình xuất trận trong cuộc đấu "chủ lực" nổi tiếng vào ngày đầu năm, mở màn mùa chọi ở thành phố đó. Nếu gà của Liơ có thể thắng trong nửa số trận đấu với các cỡ gà tranh giải vô địch được tập hợp tại đấy, ông chủ không những chỉ vơ được một tài sản, mà còn có thể một sớm một chiều tót lên địa vị được công nhận trong toàn bộ giới chơi gà trùm sỏ. Chỉ riêng cái khả năng ấy cũng đã gây háo hức đến nỗi Joóc-Gà hầu như không thể nghĩ đến điều gì khác.

Mexừ Liơ đã dắt con ngựa qua và buộc một đoạn ngắn dây cương vào hàng rào song mây. Sải bước trỏ lại gần Joóc, ông chủ dụi mũi giầy vào một túm cỏ và nói: "Kỳ cục dữ, bốn thằng nhỏ mà mày không lấy tên tao đặt cho thằng nào".

Joóc-Gà vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ - và bối rối: "Ông rành là có lý, thưa ông chủ !" anh ấp úng thốt lên. "Đúng là có cái đích đáng để đặt tên cho thằng nhỏ này - Tôm! Vâng, thưa ông, Tôm!".

Ông chủ coi bộ mãn ý. Rồi ông đưa mắt nhìn về phía căn lều nhỏ dưới gốc cây, vẻ mặt trở nên nghiêm trang: "Lão già thế nào?".

"Thưa ông chủ, con nói thật với ông, khoảng giữa đêm qua, bác í bị một cơn ho xấu tệ. Đấy là vào trước lúc bác Pompi được phái xuống đây gọi cháu lên kia khi Tilđa đẻ. Đúng sáng nay, cháu nấu nướng một chút cho bác í ăn thì bác í ngồi dậy và ăn hết sạch, lại thề rằng mình thấy trong người dễ chịu. Bác í khùng lên khi cháu bảo bác í phải nằm trong giường cho đến khi nào ông biểu bác í có thể ra ngoài".

"Thôi được, dù sao cũng cứ để cái con ó già ấy nằm yên trong đó một hôm nữa đã", ông chủ nói: "Có lẽ tao phải kiếm một ông đốc-tờ xuống đây xem cho lão. Cái bệnh ho tệ hại này cứ trở đi trở lại, chừng nào còn thì chẳng hay gì!".

"Đúng thế, thưa ông. Nhưng rành là bác í chả tin gì đốc-tờ, thưa ông chủ"…

"Tao bất cần lão ấy tin cái gì! Nhưng ta hãy xem đến hết tuần, lão ấy ra sao…"

Trong khoảng một giờ sau, mexừ Liơ kiểm tra đám gà con và gà tơ trong chuồng rào, và cuối cùng, đến những con gà tuyệt vời đang được Joóc-Gà chăm nom và rèn luyện. Rồi ông ta nói chuyện về chuyến đi sắp tới một lúc. Sẽ phải mất gần sáu tuần mới tới Oliânz được, ông nói, nếu đi bằng cỗ xe tải nặng nề ông đang thuê đóng ở Grinxborâu. Xe này sẽ có thêm một moóc phụ với mười hai chuồng gà lắp vào tháo ra được, một bàn đệm đặc biệt cho gà tập luyện hằng ngày trong khi đi đường, cùng các giá, máng, thùng đặc biệt mà mexừ Liơ đã chỉ định rõ để đựng mọi thứ vật dụng và dự trữ cần thiết cho chuyến đi dài mang theo gà chọi. Chiếc xe sẽ xong trong vòng mười ngày nữa.

Khi mexừ Liơ về rồi, Joóc-Gà đắm mình vào những nhiệm vụ còn lại trong ngày. Anh đang đẩy đàn gà đến mức cực hạn. Ông chủ đã giao quyền cho anh vận dụng nhận định cá nhân của mình để loại thêm bất cứ con nào anh phát hiện thấy có một tật nhỏ bất luận thuộc loại gì, bởi lẽ chỉ những gà hay toàn diện nhất mới có thể hứa hẹn một triển vọng ở trình độ thi đấu đang chờ chúng ở Niu Oliânz. Làm việc với đàn gà, anh vẫn nghĩ về loại âm nhạc mà họ bảo anh sắp được nghe ở Niu Oliânz, bao gồm những dàn kèn đồng lớn diễn qua các phố. Người thủy thủ da đen anh gặp ở Saletơn còn nói rằng cứ đầu giờ chiều mỗi ngày chủ nhật, hàng nghìn người lại tụ tập ở một quảng trường lớn gọi là "Quảng trường Côngô" dể xem hàng trăm nô lệ biểu diễn các điệu nhảy của các vùng và các dân tộc Phi châu, nơi quê cha đất tổ của họ. Và gã thủy thủ thề rằng bến cảng Niu Oliânz vượt bất cứ bến cảng nào gã từng thấy. Còn cái khoản phụ nữ í chứ! Cả một nguồn vô tận, gã thuỷ thủ nói, muốn chuộng lạ bao nhiêu cũng có, đủ mọi loại và mọi màu da, nào "loại một nửa", nào "loại một phần tư máu đen", "một phần tám máu đen". Anh nôn nóng chỉ muốn đến ngày đó.

Chiều muộn hôm đó, sau nhiều lần định làm thế nhưng lại mắc một việc vặt vãnh gì đó, cuối cùng Joóc gõ cửa bước vào căn nhà gỗ bừa bộn và sực mùi ẩm mốc của bác Mingô.

"Bác thấy trong người thế nào?" Joóc-Gà hỏi. "Có cái gì cháu làm được cho bác không?" Nhưng anh không cần đợi trả lời mới biết.

Ông lão nhợt nhạt và yếu đến mức anh sửng sốt - nhưng cáu bẳn hơn bao giờ hết vì nỗi bắt buộc phải nằm ì.

"Mầy ra khỏi đây! Đi mà hỏi ông chủ xem tau thấy trong người thế nào! Ông í biết hơn tau đấy!" Rõ ràng bác Mingô muốn được yên thân, nên Joóc đành bỏ đi, bụng nghĩ bác ta sắp sửa giống lũ gà mồi dai thịt, nhọn lông của mình - những con lão tướng xương đồng da sắt của bao phen chiến trận, nhưng bị tuổi già đuổi kịp và tàn phá, chủ yếu chỉ còn lại bản năng.

Mặt trời lặn được một tí thì những con cuối cùng tập xong bài luyện cánh và trở về chuồng, và cuối cùng, Joóc cảm thấy rảnh rang về thăm nhà, ít nhất một lát. Về tới lều, mừng rỡ thấy Kitzi đang ở thăm Matilđa. Anh vừa nắc nỏm cười vừa kể cho hai người nghe câu chuyện trao đổi ban sáng với ông chủ về việc đặt tên đứa bé mới đẻ là Tôm. Kể xong, anh rất ngạc nhiên nhận thấy hai người dường như không chia sẻ sự vui thích của mình. Matilđa là người lên tiếng trước, lời lẽ của cô thẳng thừng và vô thưởng vô phạt: "Ờ, chắc là có hàng nút Tôm trên đời này".

Nom mẹ anh như vừa phải nhai một bánh xà phòng: "Tui đồ chừng tui mấy Tilđa cùng cảm thấy dư nhau, cơ mà nó không muốn chạm đến tình cảm anh mới ông chủ quý hóa của anh. Chả có gì không ổn về đằng ông chủ đâu. Tui rành là chỉ muốn đứa nhỏ tội nghiệp nầy mang tên một ông Tôm nào khác kia"…Bà ngập ngừng, rồi vội vã nói thêm: "Là vì đấy chỉ là ý kiến của tui thôi - đây không phải là con tui, không phải việc của tui!"

"Phải, đấy là việc của Chúa!" Matilđa cáu kỉnh nói, bước tới lấy quyển Kinh thánh. "Trước khi đẻ, tui đã lục tìm trong Kinh thánh xem có nói gì về các tên". Cô giở vội qua các trang, thấy đoạn, trang và câu định tìm đọc to lên: "Kỷ niệm về người chính trực được ban phước. Còn tên của kẻ ác sẽ thối rữa!".

"Xin Chúa thương xót!" Bà nội Kitzi thốt lên.

Joóc-Gà phát khùng đứng dậy: "Vậy thì được! Rồi các người biểu mấy ông chủ thế nào đây?" Anh đứng nhìn chằm chằm. Anh đang phát ớn vì sự ngầy ngà khó chịu khi anh về nhà của chính mình! Và anh đã ngấy quá xá cái thói của Matilđa cứ dẫn Kinh Thánh hoài hoài để chê bai chỉ trích. Anh moi óc tìm một điều gì anh đã có lần nghe thấy; đây rồi: "Các người gọi nó là Tôm Baptix 1 vậy!". Anh quát to đến nỗi ba đứa con trai thò mặt ra ở cửa phòng ngủ, và đứa sơ sinh mới được một ngày khóc oà lên khi Joóc-Gà sầm sầm ra khỏi nhà.

Đúng vào lúc đó, tại bàn giấy phòng khách trong đại sảnh, mexừ Liơ chấm bút vào mực, rồi nắn nót viết vào mặt trong tấm bìa trước quyển Kinh Thánh của ông ta một dòng ghi ngày sinh tháng đẻ thứ năm nằm dưới bốn cái tên đã ghi ở đó - Joóc-Gà và ba đứa con trai đầu của anh: "Ngày 20 tháng 9 năm 1833…Matilđa đẻ con trai…tên Tôm Liơ".

Giận dữ trở xuôi con đường cái lớn, Joóc sôi máu vì nỗi không phải là anh không yêu thương Matilđa. Cô là người phụ nữ tốt nhất, trung thực nhất anh từng gặp. Tuy nhiên một người vợ tốt không nhất thiết phải là một người đàn bà ngoan đạo, luôn luôn chỉnh đốn chồng mỗi khi anh ta giở giói, mà hành động ấy chỉ là đầy tính người thôi. Một người đàn ông có quyền thi thoảng hưởng sự gần gũi với loại phụ nữ chỉ muốn tìm vui thú trong cười đùa, dí dỏm, rượu chè và những thôi thúc của thể xác. Và qua những chuyến đi chung trong năm qua, anh biết mexừ Liơ cũng vậy. Mỗi lần sau khi dự chọi gà ở gần một đô thị lớn nào đó, bao giờ họ cũng ở lại thêm một ngày, gửi la vào chuồng và thuê người trông nom gà, trong khi đó anh và mexừ Liơ mỗi nguời đi một ngả. Sáng sớm hôm sau gặp nhau ở chuồng ngựa, họ thu thập gà lại và đánh xe về nhà, mỗi người đều nương giữ cái dư vị sau đêm hành lạc và cả hai đều không nói một lời nào tỏ ra mình biết người kia đã đi mò gái.

Năm ngày sau, cơn lôi đình của Joóc-Gà mới nguôi đủ mức để khiến anh nghĩ đến việc quay về nhà. Sẵn sàng tha thứ cho mẹ và vợ, anh sải bước trên đường về xóm nô và mở cửa lều.

"Lạy Chúa! Anh đấy ư, Joóc?" Matilđa nói: "Lũ trẻ sung sướng biết mấy được thấy lại bố! Nhất là thằng bé này. Lần rồi, anh ở đây nó đã mở mắt đâu!"

Tức thì nổi cáu, anh sắp quay ngoắt ra ngoài thì chợt thấy ba đứa con trai đầu - lên năm, lên ba và lên hai - lóng ngóng nép vào nhau, giương mắt nhìn anh với vẻ gần như sợ hãi. Anh cảm thấy một nỗi thôi thúc muốn vơ lấy chúng và ghì chặt vào lòng. Sắp tới anh không được thấy chúng trong ba tháng khi anh đi Niu Oliânz; anh phải mang về cho chúng một số quà thật thú vị mới được.

Anh miễn cưỡng ngồi xuống cạnh bàn, trên đó Matilđa bày bữa ăn cho anh; chị cũng ngồi xuống đọc kinh, rồi đứng lùi lại nói: ‘Vơjơl, đi mời bà nội sang đây!"

Joóc-Gà ngừng nhai, chỉ nuốt chỗ thức ăn trong miệng. Hai mẹ con họ mưu tính trò gì để hành mình lần này đây?

Kitzi gõ cửa và bước vào, ôm ghì Matilđa, hôn hít, vồ vập, chậc lưỡi với ba thằng nhỏ, trước khi đưa mắt nhìn con trai. "Thế nào, khoẻ không? Bao lâu không gặp anh!"

"Mẹ có khoẻ không ạ?" Mặc dầu đang sôi máu, anh vẫn cố gượng đùa.

Ngồi xuống ghế và đỡ lấy đứa bé từ tay Matilđa, mẹ anh nói với giọng gần như có tính chất đàm thoại. "Joóc à, các con anh muốn hỏi anh cái gì đấy"… Bà quay lại, phải không Vơjơl?"

Joóc-Gà trông thấy thằng con lớn nhất lẵng nhẵng đằng sau. Không biết họ đã mớm lời cho nó những gì?

"Bố" cuối cùng nó nói, giọng lanh lảnh, "bố kể cho chúng con nghe về cụ tổ chứ?"

Luồng mắt của Matilđa lia tới anh.

"Con là người tốt, Joóc ạ", Kitzi nhẹ nhàng nói. Chớ có bao giờ để ai bỉu con thế khác! Mà cũng chớ có bao giờ cảm thấy mẹ và vợ con không yêu thương con. Mẹ cho rằng có lẽ con lẫn lộn không thấy rõ mình là ai và đôi khi không rõ chúng ta là ai. Chúng ta cùng một dòng máu, cũng dư cụ của dững đứa trẻ này".

"Điều í ở ngay trong Kinh Thánh", Matilđa nói. Thấy cái liếc mắt ngài ngại của Joóc, cô nói thêm: "Không phải mọi cái gì trong kinh thánh đều nghiêm khắc, Kinh Thánh nói bao nhiêu về tình yêu".

Tràn ngập xúc động, Joóc-Gà kéo ghế lại gần lò sưởi. Ba thằng bé ngồi bệt xuống trước mặt anh, mắt long lanh dự cảm, và Kitzi trao đứa bé cho anh. Lấy nét mặt trang nghiêm, anh hắng giọng và bắt đầu kể cho bốn con trai nghe câu chuyện của bà nội về cụ tổ chúng.

"Bố, con cũng biết chuyện!" Vơjơl xen vào. Làm điệu mặt với bọn em, nó tự động kể tiếp - cả những tiếng Phi nữa.

"Nó đã nghe anh ba lần, còn bà thì chưa kể lại cho xong thì chưa bước qua ngưỡng cửa để về!" Matilđa vừa nói vừa cuời, Joóc nghĩ thầm: đã bao lâu anh chưa nghe thấy vợ mình cười?

Cố gắng giành lại trung tâm chú ý, Vơjơl nhảy lên nhảy xuống chồm chồm. "Bà nội bỉu người Phi làm cho chúng ta biết chúng ta là ai!"

"Đúng thế!" bà nội Kitzi nói, mặt tươi rói.

Lần đầu tiên trong một thời gian dài, Joóc-Gà cảm thấy căn nhà gỗ lại là tổ ấm của mình.

Chương 98

Bốn tuần sau, chiếc xe tải mới đã sẵn sàng giao cho người nhận ở Grinxborâu. Ông chủ đặt đóng nó thật hợp lý biết bao, Joóc-Gà ngẫm nghĩ trong khi hai thầy trò đi xe đến đó, vì họ cần đến Niu Oliânz, không phải trong cái mớ tùm hum xộc xệch cũ kỹ này, mà là trong cỗ xe tải đẹp nhất có thể bỏ tiền ra mua được - xứng hợp với một người chơi gà cự phách và tay luyện gà của ông ta. Cũng vì lý do ấy, trước khi rời Grinxborâu, anh phải vay ông chủ một đôla rưỡi để mua một chiếc mũ quả dưa đen mới cho hợp với chiếc khăn quàng xanh lục mới mà Matilđa đan đã gần xong. Anh cũng sẽ làm sao đảm bảo chắc chắn để Matilđa gói ghém cả hai bộ complê xanh và vàng, bộ dây đeo quần đỏ đẹp nhất, nhiều sơ mi, quần bít tất và mùi xoa, vì sau cuộc đấu, anh biết mình cần phải tốt mã khi mò ra tỉnh.

Trong mấy phút sau khi đến cửa hàng đóng xe, đứng ngoài chờ, Joóc bập bõm nghe thấy tiếng đôi co từ sau cánh cửa đóng kín. Anh biết ông chủ đã khá lâu để có thể đoán trước như thế, nên anh chả buồn nghe làm gì; anh đang quá bận bịu trong đầu, lựa lọc các nhiệm vụ anh phải lo liệu ở nhà, trước khi lên đường. Công việc gay nhất anh biết - là loại thêm bảy con gà trong số mười chín con mẫu mực tuyệt vời mà anh đã luyện cho những ngón sắc sảo để giết tươi đối thủ. Trong xe chỉ có chỗ cho mười hai con và chọn chúng là một thử thách không những với óc xét đoán của anh và của ông chủ, mà đối với cả sự phán định của bác Mingô nay đã lại đỡ, đi ra đi vô, dạo quanh được, vẫn chua chát và ác khẩu như bao giờ.

Bên trong cửa hàng, giọng mexừ Liơ đã cất cao thành tiếng la lối: sự chậm trễ không thể tha thứ được trong việc hoàn thành chiếc xe đã làm ông tốn tiền, cái đó phải khấu trừ vào giá. Người chủ hiệu quát lại rằng y đã thúc công việc nhanh hết mức và đáng lý giá phải cao hơn vì phí tổn về vật liệu đã tăng lên cùng những đòi hỏi quá quắt về lương lậu của bọn thợ da đen tự do. Nghe đoạn này Joóc-gà đoán rằng thực ra ông chủ không đến nỗi cáu như vẻ bề ngoài, mà chỉ thăm dò người chủ hiệu xe xem có thể cò kè bớt đi được ít ra là mấy đôla hay không.

Sau một lát, xem chừng trong nhà đã đi đến một kết quả gì đó và dường như đã kết thúc và chẳng mấy chốc mexừ Liơ cùng người chủ hiệu xe đi ra, mặt còn đỏ gay, nhưng giờ đây đã cư xử và trò chuyện một cách hữu hảo. Người thương gia gọi to về phía sau cửa hiệu và mấy phút sau, bốn người da đen ì ạch xuất hiện, gần như gập đôi người, kéo theo sau lưng chiếc xe tải mới nặng nề đóng theo kích thước đã đặt. Joóc tròn xoe mắt trước tay nghề tinh xảo và vẻ đẹp của chiếc xe. Anh có thể cảm thấy sức mạnh trong thân và khung gỗ sồi của nó. Ở khúc giữa thùng xe dài một cách bề thế, nhô lên những chóp của mười hai cái chuồng tháo lắp được. Các trụ xe bằng sắt và trục bánh xe rõ ràng là rất cân và được tra dầu mỡ trơn tru vì mặc dầu xe vừa to vừa nặng, anh không hề nghe tiếng cót két hoặc thậm chí tiếng cọ sát nào cả. Anh cũng chưa từng thấy mặt mexừ Liơ nở một nụ cười như thế này bao giờ.

"Đây là một trong những xe oách nhất mà chúng tôi từng sản xuất!" người chủ hiệu xe thốt lên. "Đẹp đến nỗi gần như tiếc không muốn đi!" Một cách cởi mở, mexừ Liơ nói: "Ờ, nó sắp sửa phải lăn bánh trên một chặng đường dài đấy!". Người chủ hiệu xe lắc đầu: "Niu Ôliânz! Một chuyến đi dài sáu tuần lễ đấy. Ai sẽ cùng đi với ông?"

Mexừ Liơ quay lại, khoát tay về phía Joóc-Gà đang ngồi trên ghế xà ích của chiếc xe cũ. "Tên nhọ kia của tôi và mười hai con gà."

Đón trước mệnh lệnh của ông chủ, Joóc-Gà nhảy xuống và quay lại tháo dây buộc đôi la thuê mà họ rong theo, rồi dẫn chúng đến chỗ chiếc xe tải mới. Một trong bốn người thợ da đen giúp anh thắng la vào xe, và quay lại nhập bọn với những người kia, họ không chú ý gì đến Joóc-Gà nữa, cũng như anh chẳng buồn quan tâm đến họ; nói cho cùng, họ là những người da đen tự do mà mexừ Liơ thường nói là ông thấy gai mắt không chịu nổi. Sau khi đi vòng quanh chiếc xe mấy lần với cặp mắt long lanh và bộ mặt nở rộng một nụ cười, ông chủ bắt tay người chủ hiệu xe, cảm ơn lão và hãnh diện leo len ghế ngồi. Miệng chúc ông may mắn, người chủ hiệu xe đứng đó lắc lư đầu thán phục công trình của chính mình, trong khi mexừ Liơ dẫn đầu ra khỏi khu đất, với Joóc-Gà theo sau trong chiếc xe cũ.

Trên quãng đường dài đánh xe về nhà - chiếc mũ quả dưa mới đặt trên ghế bên cạnh mình, cùng với đôi ghệt dạ sang trọng màu xám đã làm anh hụt đi một đôla - Joóc nhẩm nốt trong đầu danh sách những việc anh phải lo liệu trước khi đi Niu Oliânz và bắt đầu nghĩ đến những thứ cần làm để đảm bảo cho mọi sự vẫn trôi chảy trong khi họ đi xa. Tuy biết rằng vắng anh, việc nhà sẽ khó khăn, anh vẫn tin rằng Matilđa và Kitzi sẽ đủ sức đảm đương nhiệm vụ; và mặc dù bác Mingô không còn tháo vát lanh lợi như trước nữa, mỗi năm một thêm lẫn cẫn, Joóc vẫn chắc chắn rằng ông lão có thể chăm nom đàn gà chu toàn cho đến khi anh trở về. Nhưng anh biết, anh sẽ cần một sự trợ lực lớn hơn khả năng đang suy của bác Mingô.

Dù thế nào di nữa, anh cũng phải tìm cách vượt được sự mù lòa của vợ và mẹ mình trước cái cơ hội hiếm có mà anh cảm thấy có thể mở ra cho cu Vơjơl, nhất là vì thằng bé đã gần sáu tuổi, chẳng bao lâu sẽ phải bắt đầu ra làm đồng. Trong lúc vắng nhà, anh đã nảy ra ý nghĩ là có thể giao cho Vơjơl giúp bác Mingô trông nom đàn gà - rồi cứ tiếp tục công việc sau khi họ trở về, đơn giản thế thôi - song anh vừa nêu ý kiến đó ra, Matilđa đã đùng đùng phản đối: "Vậy thì để ông chủ mua đứa nào mà giúp bác í!" và Kitzi gay gắt xen vào: "Dững con gà í đã đánh cắp đi của gia đình này khá đủ rồi!" Không muốn để xảy ra một cuộc xung đột mới với họ, anh không cố ép, nhưng nhất định không muốn thấy ông chủ có thể mua một người nào đó hoàn toàn xa lạ để đột nhập vào địa phận riêng của anh và bác Mingô.

Tuy nhiên, ngay cả nếu ông chủ không dại gì mà đưa một người ngoài vào, Joóc cũng chưa dám chắc là bác Mingô có chấp nhận để Vơjơl giúp việc hay không, ông lão dường như ngày càng buồn bực từ khi gã phụ tá phát triển một quan hệ gần gũi với ông chủ hơn chính bản thân bác. Mới gần đây thôi, cay đắng vì nỗi không được phép cùng đi Niu Oliânz với họ, bác Mingô đã nói rằng: "Mầy mấy ông chủ ngỡ có thể giao cho tau nuôi gà trong khi thầy trò mầy đi hả?" Joóc ước sao bác Mingô hiểu cho rằng anh không dính gì vào những quyết định của ông chủ cả. Đồng thời, anh tự hỏi tại sao ông già lại không đơn giản nhìn thẳng vào cái thực tế là vào cái tuổi ngoài bảy mươi, ông chả còn hơi sức đâu mà đi ròng rã sáu tuần lễ, bất kể về hướng nào, gần như chắc chắn là bác sẽ ốm gục ở một quãng nào đó, đẻ thêm bao nhiêu vấn đề rắc rối cho anh và ông chủ. Joóc hết lòng ước ao sao biết được cách làm cho bác Mingô đỡ khổ sở hơn về chuyện này hoặc ít ra cũng thôi đừng đổ tội cho anh về mọi sự nữa.

Cuối cùng, hai cái xe rẽ khỏi đường cái lớn và lăn bánh xuôi theo lối vào đồn điền. Gần tới đại sảnh, anh ngạc nhiên thấy bà Liơ ra cửa trước và bước xuống bậc thềm. Lát sau, từ cửa sau, Malizi ló ra. Rồi anh trông thấy Matilđa cùng các con, mẹ Kitzi, cô Xerơ và bác Pompi hối hả từ các lều chạy tới. Cả bọn họ làm gì ở đây, vào chiều thứ năm - Joóc tự hỏi - trong khi đáng lẽ phải ở ngoài đồng? Phải chăng họ háo hức muốn xem cỗ xe mới, đẹp đẽ, đến nỗi sẵn sàng liều mạng chịu cơn nổi giận của ông chủ. Rồi anh trông thấy vẻ mặt họ và biết không một ai quan tâm gì đến bất cứ một cái xe mới nào.

Khi thấy bà Liơ tiếp tục bước tới chiếc xe của ông chủ, Joóc ghìm cương dừng xe mình lại và, từ chiếc ghế xà ích cao, vươn người ra đằng trước để nghe cho rõ hơn những điều bà nói với ông chủ. Joóc thấy người ông chủ giật nhổm lên thẳng đứng, trong khi bà chủ chạy trở lại phía nhà. Sững sờ, Joóc nhìn mexừ Liơ từ chiếc xe mới trèo xuống và chậm rãi, nặng nề bước lộn lại phía anh. Anh thấy bộ mặt tái nhợt đi vì xúc động đột ngột - và anh chợt hiểu ra! Câu nói của ông chủ vẳng tới anh như từ một chốn xa: "Mingô chết".

Sụp xuống tựa mạng sườn vào chiếc ghế xe, Joóc khóc tu tu lên như chưa từng khóc thế bao giờ. Anh chỉ mơ hồ cảm thấy ông chủ và bác Pompi gần như đánh vật để đỡ anh xuống đất. Rồi bác Pompi một bên, và Matilđa bên kia dìu anh về xóm nô, những người khác xung quanh thấy anh đau buồn thế lại khóc. Matilđa xốc anh loạng choạng vào trong lều, theo sau là Kitzi bế đứa bé.

Khi anh đã trấn tĩnh lại, mọi người bèn kể cho anh nghe điều đã xảy ra. "Anh với ông chủ đi sáng thứ hai." Matilđa nói, "và đêm í ở đây không ai ngủ yên. Tuồng dư sáng thứ ba, tất cả thức giấc cảm thấy dư nghe rõ hàng tràng cú rúc chó sủa. Thế rồi nghe thấy tiếng kêu thét…"

"Đấy là Malizi!" Kitzi thốt lên. "Lạy Chúa, bà í gào thiệt dữ! Bọn tui ào ra chỗ bà í đi cho lợn ăn. Và bác ta nằm đây, tội nghiệp cái linh hồn già sõng sượt trên đường cái, nom dư một đống giẻ!"

Lúc ấy, bác vẫn còn sống - Matilđa nói - nhưng "chỉ một bên miệng bác í động đậy. Em quỳ sụp ngay xuống ghé sát vào, chỉ hơi đoán ra lời bác í thì thào. "Chắc tui bị đột quỵ" bác biểu thế, "Giúp tui trông đàn gà… Tui không thể…".

"Lạy Chúa thương xót, không ai biết làm như thế nào cả!" Kitzi nói, nhưng rồi bác Pompi cố bế cái hình hài mềm oặt mà nặng nề lên. Bác không đủ sức và mọi người xúm lại, cuối cùng kéo được bác Mingô về xóm nô, đặt lên giường bác Pompi:

"Joóc ạ, bác í đã thúi dữ, sực mùi ốm trên người!" Matilđa nói. "Bọn tui bắt đầu quạt mặt bác í và bác í tiếp tục thì thào… dững con gà… tui phải quay về…"

"Bây giờ Malizi mới chạy đi thưa mấy bà chủ." Kitzi nói, "bà í đến, vặn vẹo tay, kêu khóc, làm bù lu bù loa lên! Dưng đâu phải là vì ông anh Mingô của tôi! Không! Tiên chưng bà í với hò rằng phải cắt ai xuống chỗ lũ gà kẻo ông chủ lên cơn mất! Thế là Matilđa gọi Vơjơl…"

"Rành là em chả xuống thế đâu!" Matilđa nói, "Anh biết ý em thế nào về chuyện í rồi đấy. Một người trong nhà ở dưới í với lũ gà là đủ rồi. Mấy lị, em đã nghe nói nào chó lạc, nào cáo, thậm chí là cả mèo rừng, lảng vảng tìm cách ăn thịt gà! Dưng mà Chúa phù hộ lái tim thằng bé! Nó sợ xanh mắt, dưng mà nó nói: "Mẹ ạ, con đi, con chỉ không biết làm thế nào thôi!" Bác Pompi bèn lấy một túi ngô mà rằng: Trông thấy con nào, cháu cứ ném một nắm này cho nó, rồi hễ lúc nào có thể, ông xuống đấy ngay…"

Vì không có cách nào nhắn được tới anh và ông chủ, trong khi Xerơ thì e rằng bệnh tình bác Mingô đã vượt quá giới hạn các thứ rễ cây của bà có thể chữa khỏi và thậm chí bà chủ cũng không biết xoay sở ra sao để tìm được bất kì một ông bác sĩ nào, nên bọn tui không thể làm gì khác, ngoại trừ chờ thầy trò anh về", họ nói với anh. Matilđa bỗng khóc và Joóc với tay ra nắm lấy tay cô.

"Nó khóc là vì lúc bọn tui quay về lều bác Pompi sau khi thưa chuyện bà chủ, thì bác Mingô đi rồi." Kitzi nói. "Lạy Chúa! Chỉ nhìn bác một cái là biết!" Lúc này chính bà cũng nức nở. "Tội nghiệp cái linh hồn già, chết thui thủi một mình!"

Khi bà Liơ được báo, Matilđa nói. "bà í bắt đầu la rầm lên rằng bà í thật chả biết làm thế nào mấy những người chết cả, chỉ nghe ông chủ nói là nếu giữ hơn một ngày là bắt đầu thối rữa. Bà í biểu khi thầy trò anh về thì đã quá hạn í lâu rồi, cho nên bà biểu bọn tui phải đào một cái hố…"

"Lạy Chúa!" Kitzi thốt lên. "Bên dưới rừng liễu đất khá mềm. Bọn tui lấy xẻng, bác Pompi mấy cả bọn lền bà chúng tui đào đào bới bới, luân phiên nhau mỗi người một lần, cho đến khi được một cái hố vừa để đặt bác í vào. Bọn tui quay về, rồi bác Pompi mới tắm rửa cho bác í."

"Bác Pompi bôi lên người bác í một ít sáp lixêrin cô Malizi xin của bà chủ", Matilđa nói " rồi rẩy lên ít nước hoa, thứ anh mang về cho em năm ngoái í mà".

"Chả có quần áo lành lặn tử tế mà mặc cho bác í", Kitzi kể tiếp, "cái bộ bác í đang mặc thì hôi quá, còn bác Pompi có lèo tèo mấy cái thì cái nào cũng quá chật, thành thử đành chỉ quấn bác í trong hai tấm khăn trải giường". Sau đó, bà nói, bác Pompi đã chặt hai cành cây xanh thẳng, trong khi đám phụ nữ tìm được số ván cũ và họ làm một cái cáng. "Về bà chủ, phải nói rằng khi bà í trông thấy bọn tui tất cả xúm lại khiêng bác í đến huyệt", Matilđa nói "thì bà í đã chạy đến với quyển Kinh Thánh nhà họ. Khi bọn tui đưa bác í đến đấy, bà í đọc mấy đoạn trong Thi Thiên, rồi em cầu nguyện, xin Thượng đế cứu rỗi cho linh hồn cụ Mingô an nghỉ… Thế rồi mọi người đặt thi thể xuống huyệt và lấp đất lên".

"Bọn tui đã lo cho bác í tốt đẹp nhất với sức mình có thể làm! Anh muốn bực thì mặc anh". Matilđa lớn tiếng, hiểu lầm vẻ đau đớn trên mặt chồng.

Níu lấy và ghì chặt vợ, anh cất giọng khàn khàn; "Chẳng ai bực giận cả…" Xúc động làm anh nghẹn lại không diễn đạt nên lời nỗi giận dữ với bản thân mình và ông chủ đã không có mặt ở đây sáng nay. Biết đâu họ chẳng có thể làm được chút gì khả dĩ cứu được bác.

Lát sau, anh rời khỏi căn lều, ngẫm nghĩ về chuyện chính những người vẫn nói ra miệng là không ưa Mingô, đã tỏ ra xiết bao quan tâm, lo lắng và thậm chí yêu thương đối với bác. Nom thấy bác Pompi, anh bước tới, riết chặt tay bác và hai người nói chuyện một lát. Bác Pompi cũng gần bằng tuổi bác Mingô; bác nói là bác vừa ở khu gà chọi về, để cu Vơjơl ở lại đó trông gà. "Cháu có thằng con trai ngoan lắm, rành là thế!" Rồi bác bảo "Khi nào cháu xuống đấy, vì rằng giời không mưa, cháu vẫn có thể thấy cái vệt ngoằn ngoèo trên bụi đường là dấu của ông anh Mingô lết mình trong đêm tối suốt từ đấy đến đây".

Joóc không muốn nhìn thấy cái đó. Chia tay với bác Pompi, anh chậm rãi bước tới rặng liễu. Phải mất một lúc, anh mới nhìn thẳng vào nắm đất mới đắp lên. Đi quanh quẩn như trong một cơn choáng, nhặt mấy hòn đá, anh xếp thành một hình trang trí quanh mộ. Anh cảm thấy mình không xứng đáng.

Để tránh cái vệt do bác Mingô để lại trên lớp bụi đường, anh đi tắt qua một cánh đồng đầy thân ngô gẫy đến khu gà chọi.

"Con đã làm một việc tốt, con trai ạ. Bi giờ, con đi về mấy mẹ thì hơn". Anh nói, bàn tay thô kệch vỗ vỗ đầu Vơjơl, làm thằng bé sướng rơn với lời khen đầu tiên của bố. Sau khi nó đi rồi Joóc ngồi xuống và mắt trừng trừng nhìn vào khoảng không, đầu óc lộn xộn những cảnh từ mười lăm năm nay, lắng nghe những vang vọng của con người vừa là thầy vừa là bạn, gần gũi anh nhất từ xưa đến nay, tựa hồ một người cha. Anh gần như nghe thấy cái giọng rạn vỡ ấy quát tháo ra lệnh, dịu xuống khi nói chuyện chọi gà, chua chát phàn nàn về nỗi bị gạt ra rìa. "Mầy mấy ông chủ ngỡ có thể giao cho tau nuôi gà trong khi thầy trò mầy đi hả?" Joóc cảm thấy mình ngợp chìm trong hối hận.

Những câu hỏi đến với anh: Bác Mingô ở đâu trước khi mexừ Liơ mua bác? Gia đình bác có những ai? Bác chẳng bao giờ nhắc đến người thân nào. Liệu bác có vợ con ở một nơi nào không? Joóc là người gần gũi bác nhất trên đời này, vậy mà anh biết quá ít về con người đã dạy anh mọi điều anh biết.

Joóc-Gà dạo bước: Lạy Chúa, đâu rồi, ông bạn già dáng đi lóng ngóng đã bao lần cùng anh giẫm gót lên từng tấc đất của nơi quen thuộc này?

Anh ở lại đó một mình suốt ngày và đêm hôm sau. Sáng thứ bảy, mexừ Liơ mới xuất hiện. Mặt ngơ ngác và u ám, ông đi thẳng vào vấn đề: "Tao nghĩ hết nước hết cái rồi. Trước hết, cứ đốt phăng cái lều của Mingô đi. Đó là cách tốt nhất để thanh toán chuyện này".

Mấy phút sau, họ đứng nhìn những ngọn lửa thiêu trụi căn nhà gỗ nhỏ đã từng là mái ấm che cho bác Mingô trong hơn bốn mươi năm trời. Joóc-Gà cảm thấy là ông chủ còn nghĩ một điều gì khác trong đầu, song khi ông nói ra, anh có phần bị bất ngờ.

"Tao đã nghĩ về chuyện đi Niu Oliânz", ông chủ nói, "Có quá nhiều bất trắc, trừ phi mọi cái được thu xếp ổn thỏa…" Ông nói chậm rãi, gần như là chuyện trò với bản thân. "Ta không thể đi mà không có ai trông nom gà ở nhà. Tìm người thì mất thì giờ quá, có khi lại phải dạy nghề nó nữa. Tao đi một mình thì không được rồi, phải lái xe ngần nấy đường đất, rồi lại còn chăm sóc mười hai con gà nữa. Đi dự chọi gà mà không nhằm mục đích thắng cuộc thì còn nghĩa lý quái gì. Bây giờ mà cứ đi thì chỉ là điên rồ…"

Joóc-Gà nuốt khan đánh ực. Ngần ấy tháng trời chuẩn bị…ngần ấy tiền ông chủ phải chi tiêu…bao nhiêu hy vọng của ông chủ nhằm lọt được vào giới chọi gà ưu tú nhất của miền Nam… những con gà luyện tuyệt vời đến thế để đánh bại bất kỳ đối thủ có cánh nào. Nuốt đánh ực lần thứ hai, anh nói: "Vâng, thưa ông chủ".

Chương 99

Làm việc một mình ở dưới này với đàn gà quả là xa lạ và cô quạnh đến nỗi Joóc-Gà đâm tự hỏi làm sao mà bác Mingô có thể chịu được hơn hai mươi lăm năm trời, trước khi anh đến với bác. "Khi ông chủ mua tau", ông lão đã kể với anh, "và đàn gà bắt đầu đông thêm, ông í cứ bỉu là sẽ mua thêm cho tau một đứa giúp việc, cơ mà ông í chả bao giờ giữ lời, và tau mới vỡ nhẽ ra là bạn bầu mấy gà có khi còn tốt hơn chung đụng mấy người". Mặc dầu Joóc cảm thấy mình cũng yêu gà gần như chẳng kém ai, đối với anh, chúng không bao giờ có thể thay thế người được. Song anh cần một người nào đó để giúp mình chứ không phải để bầu bạn, anh tự nhủ vậy.

Riêng phần mình, anh vẫn thấy nên chọn Vơjơl là hợp lý nhất. Như thế mọi sự sẽ vẫn là bó tròn trong phạm vi gia đình và anh có thể đào tạo thằng bé y như bác Mingô đã đào tạo anh. Nhưng vì anh ngại phải thương lượng với Matilđa và Kitzi nên Joóc cố nghĩ xem có tay luyện gà nào quen mà anh có thể thuyết phục ông chủ mua lại của người hiện đang sở hữu y. Song anh biết bất cứ ai đã là chủ gà chính hiệu thì phải ở bước dường cùng, thực sự cần tiền đến mức tuyệt vọng, mới nghĩ đến chuyện bán người luyện gà của mình, nhất là lại bán cho một đối thủ như mexừ Liơ nữa. Cho nên anh bèn nghĩ đến những người da đen dự các cuộc đấu hạ cấp, song có tới nửa số này cũng là dân luyện gà như anh, đem những gà loại của ông chủ họ đi chọi, và phần lớn trong đám còn lại thì cũng thuộc loại ba như gà của họ hoặc giả là những nhân vật khả nghi mang đến đấu trường những con gà rất hay, kiếm được bằng những cách đáng ngờ. Có một số đấu thủ hạ cấp người da đen tự do anh đã gặp là những tay cừ thực sự và có thể thuê công nhật, thuê hàng tuần, hàng tháng hoặc thậm chí cả năm, nhưng anh biết không đời nào mexừ Liơ cho phép một người da đen tự do lọt vào đất đai của ông, dù anh ta có là tay luyện gà cự phách nhất miền Bắc Carôlina chăng nữa. Thành thử Joóc không có cách nào khác. Và cuối cùng một buổi tối, anh thu hết nghị lực, nêu vấn đề ra trong gia đình.

"Trước khi em lại biểu là em không chịu, thì hẵng nghe anh đã. Lần sau mà ông chủ muốn đem theo anh đi đâu chắc chắn lúc í ông í sẽ biểu anh: "Đi kiếm thằng con nhớn của mầy đưa xuống đây!" Một khi đã xảy ra dư vậy là Vơjơl phải ở hẳn vĩnh viễn mấy bọn gà, trừ phi ông chủ nói khác đi, mà có lẽ chả bao giờ có chuyện í và cả anh lẫn em đều không thể hé ra một tiếng xì xầm…" Anh khoát tay ngăn không cho Matilđa ngắt lời. "Khoan! Anh không muốn em cãi lại. Anh đang cố để em thấy là thằng bé cần phải xuống đó ngay bi giờ. Nếu anh đưa nó xuống ngay thì có thể đủ thì giờ để anh dạy nó cho gà ăn khi anh phải đi xa và giúp anh tập cho gà trong mùa luyện. Rồi còn thì giờ bao nhiêu trong cả năm, nó có thể ra đồng với mấy người cơ mà". Thấy vẻ mặt căng thẳng của Matilđa, anh nhún vai một cách tinh vi và vờ nhẫn nhịn, nói: "Thôi được, vậy thì anh chỉ việc để em giải quyết mấy ông chủ!"

"Em chỉ tức cái là anh nói cứ dư Vơjơl đã nhớn í". Matilđa nói: "Anh không biết thằng bé mới sáu tuổi hay sao? Vừa bằng nửa tuổi của anh khi anh bị kéo xuống đấy". Cô ngừng một lát. "Dưng mà em biết là bi giờ lên sáu, là nó phải làm việc. Cho nên xem chừng không còn cách nào khác là làm theo lời anh, mặc dù quả tình em cứ tức điên lên mỗi khi nghĩ là ba cái con gà í đánh cắp anh đi mất bao nhiêu!"

"Cứ nghe em mấy mẹ thì có mà! Làm dư gà nó bắt chộp anh đi, mang qua đại dương đến tận đâu đâu í!"

"Thì cũng dư thế phần lớn thời gian, vì anh đi suốt".

"Đi suốt! Thế ai ngồi đây nói chuyện mấy em? Ai ngày nào cũng ở đây cả tháng nầy?"

"Tháng nầy thì có thể thế, dưng mà ít nữa thì anh lại ở đâu?"

"Nếu nói về mùa chọi thì ông chủ biểu đi đâu là anh ở đấy. Nếu nói về bi giờ đây thì ăn xong, chắc chắn anh cũng không ngồi đây cho đến lúc có con cáo nào bò vào khu dưới í, chén một vài chú gà, kẻo anh đi tong thực sự mất!"

"Ờ! Dốt cuộc anh cũng phải đồng ý là ông chủ chả từ bán cả anh nữa nhá!"

"Anh tin rằng nếu bà chủ để cho gà của ông bị ăn thịt thì ông ấy cũng bán luôn cả bà í".

"Nầy", Matilđa nói, "Chúng mình đã thỏa thuận về chuyện Vơjơl là không phải to tiếng, vậy thời đừng có gây sự cãi cọ về chuyện gì khác nữa".

"Anh có khơi chuyện trước đâu, chính là em đấy".

"Thôi được, Joóc à, em hết cơn đôi co rồi". Matilđa nói, đặt những bát thức ăn bốc hơi nghi ngút lên bàn. "Anh ăn đi rồi mà về thôi, sáng mai em cho Vơjơl xuống đấy. Trừ phi anh muốn đưa nó đi ngay bi giờ thì em đi sang bà tìm nó về".

"Thôi, mai cũng được".

Nhưng trong vòng một tuần, Joóc-Gà thấy rõ là đứa con trai lớn của mình hoàn toàn không có cái đã từng là niềm say mê thuở thiếu thời của anh. Dù nó sáu tuổi hay bao nhiêu đi nữa, Joóc cũng không thể quan niệm được rằng sau khi hoàn thành một công việc được giao, Vơjơl lại có thể tha thẩn chơi một mình, hoặc chỉ ngồi thừ ra không làm gì ở một chỗ nào đó. Để rồi giật mình bật dậy khi bố nó cáu tiết kêu lên: "Đứng dậy! Mầy tưởng cái nầy là cái gì? Đây không phải lợn, đây là gà chọi!" Sau đó, Vơjơl sẽ làm khá tốt bất cứ nhiệm vụ mới nào đó được cắt đặt vào, song một lần nữa liếc mắt ngó sang, Joóc lại thấy cậu con trai ngồi thừ hoặc bỏ đi chơi. Sôi máu, anh nhớ lại hồi bé, có bao nhiêu thì giờ rảnh anh chỉ lăng xăng ngắm nghía đàn gà con và gà tơ, bứt cỏ và bắt cào cào cho chúng ăn, lấy thế làm hào hứng khôn xiết.

Tuy trước kia, cách đào tạo của bác Mingô rất thiết thực và điềm tĩnh - ra một mệnh lệnh, lặng lẽ giám sát, rồi một mệnh lệnh nữa - giờ đây Joóc quyết định thử một phương pháp khác với Vơjơl, hy vọng làm nó chừa cái thói kia. Anh sẽ nói chuyện với nó.

"Ở trên kia, lúc một mình, con làm gì?"

"Chả làm gì, bố ạ".

"Ờ, thế có hòa thuận mấy các em, có nghe lời mẹ mấy bà không?"

"Có ạ".

"Chắc mẹ mấy bà cho con ăn ngon lắm hả?"

"Vâng ạ".

"Thế con thích ăn gì nhất?"

"Bất kỳ thứ gì mẹ nấu cho chúng con ạ".

Thằng bé thậm chí không có lấy một mảy may tưởng tượng. Anh sẽ thử phương sách khác.

"Con kể bố nghe chuyện cụ, dư con đã làm một lần, xem nào?"

Vơjơl ngoan ngoãn làm theo, có phần cứng ngắc, thiếu tình cảm. Tim Joóc trĩu xuống. Nhưng sau khi đăm chiêu đứng đó một lúc, thằng bé hỏi: "Bố à, bố có trông thấy cụ không?"

"Không", anh trả lời, khấp khởi hy vọng. "Bố biết về cụ cũng dư con thôi, do bà kể".

"Trước bà thường đi xe ngựa mấy cụ!"

"Nhất định rồi! Đấy là bố bà mà. Cũng dư về sau, một hôm nào đó, con kể cho các con con là con thường hay ngồi đây mấy bố giữa đàn gà".

Điều đó hình như làm Vơjơl ngượng, nó im bặt.

Sau một số lần cố gắng khập khiễng như vậy nữa, cực chẳng đã, Joóc đành bỏ cuộc, song lại hy vọng có thể may mắn hơn với Asfođ, với Joóc-con và Tôm. Không thổ lộ với ai nỗi thất vọng của mình về Vơjơl, anh tiếc rẻ quyết định dùng thằng bé vào những việc chốc lát, từng lúc, như đã bàn với Matilđa chứ không hoài công cố gắng luyện nó thành người phụ tá vĩnh viễn suốt ngày suốt buổi như anh đã thực tâm dự định.

Cho nên, khi Joóc-Gà cảm thấy Vơjơl đã nắm vững nhiệm vụ cho lũ gà nhỏ và gà tơ trong chuồng ăn và uống mỗi ngày ba lần, anh gửi trả nó về cho Matilđa để bắt đầu làm việc ngoài đồng với mọi người - và điều đó xem ra rất hợp với thằng bé. Tuy không bao giờ lộ ra ý nghĩ đó với Matilđa, Kitzi hay những người khác, song Joóc-Gà bao giờ cũng cảm thấy khinh thường sâu sắc công việc đồng áng mà anh coi không có gì khác hơn là một dịch vụ cực nhọc không ngừng, nào cuốc xới dưới ánh mặt trời nóng nực, nào kéo lê những bì ngô, nào bắt sâu thuốc lá không bao giờ dứt và ngả những thân ngô làm thức ăn cho gia súc, mùa nối mùa bất tận. Với một tiếng cười khúc khích anh nhớ lại lời bác Mingô: "Cứ cho tau chọn giữa một cánh đồng ngô hay bông thật tốt mấy một con gà chọi hay, thể nào tau cũng lấy con gà!" Chỉ nghĩ đến cái điều là một cuộc chọi gà được thông báo ở đâu đó, đã đủ phấn khởi vui vẻ rồi - dù là ở trong một cánh rừng, một bãi cỏ trống để thả bò hay đằng sau chuồng ngựa của một ông chủ nào đó - lập tức không khí náo nhiệt như thể các tay chọi gà đang bắt đầu dồn về đó với những chú gà quàng quạc cất tiếng gáy khàn trong nỗi cuồng vọng muốn thắng hay là chết.

Vào cái vụ nghỉ ngơi mùa hè, khi gà đang thay lông, chỉ có công việc thường nhật và Joóc-Gà dần dần trở nên quen với tình trạng không có ai bên cạnh để trò chuyện, ngoại trừ lũ gà - đặc biệt là con mồi lão tướng lông nhọn hoắt vốn trước đây là con cưng của bác Mingô.

"Đáng lý ra mầy có thể biểu chúng tau bác í ốm đến chừng nào chứ, cái con quỷ già mắt vách đất này!" một buổi chiều, anh bảo con gà già như vậy, nó nghênh nghênh đầu một giây như thể biết là anh đang nói với nó, rồi lại tiếp tục mổ bới theo cái cách thường xuyên đói ăn của nó. "Mầy nghe tau nói mấy mầy đây!" Joóc nói, kiểu gắt yêu. "Mầy phải biết là bác í thật là nguy kịch chứ lị!" Trong một lúc, anh đưa mắt uể oải nhìn theo con gà đang sục sạo. "Ờ, tau chắc mầy biết bác í bây giờ mất rồi. Tau không biết mầy có nhớ ông lão dư tau không." Nhưng con gà mồi già vẫn lảng ra mổ mổ, bới bới, coi bộ chẳng nhớ ai sất và cuối cùng Joóc-Gà ném một hòn sỏi khiến nó vừa chạy biến vừa kêu quang quác. Trong khoảng một năm nữa - Joóc ngẫm ngợi - có lẽ con gà già sẽ đi gặp bác Mingô ở chốn nào mà giới chọi gà và lũ gà của họ tìm đến sau khi chết. Anh tự hỏi điều gì đã xảy đến với con gà đầu tiên của ông chủ - cái con do một vé xổ số hai mươi lăm xu mang lại, đã khởi đầu sự nghiệp của ông ta cách đây hơn bốn chục năm. Cuối cùng nó đã ăn một đòn tử thương chăng? Hay nó đã chết cái chết già của một con gà mồi danh dự? Tại sao dạo trước anh không hỏi bác Mingô về chuyện đó nhỉ? Anh phải nhớ hỏi ông chủ mới được. Hơn bốn mươi năm về trước! Ông chủ đã kể với anh là khi được con gà ấy, ông mới có mười bảy tuổi. Tức thị là bây giờ ông khoảng năm mươi sáu, năm mươi bảy gì đó - hơn Joóc-Gà độ ba chục tuổi. Nghĩ về ông chủ, về việc ông ta có trong tay cả người lẫn gà cho đến trọn đời, anh bỗng lan man tự hỏi: cái cảm giác là mình không thuộc về một người nào cả, nó như thế nào nhỉ? Cái cảm giác được "tự do" nó ra sao? Chắc cũng chẳng hay ho gì lắm, nếu không thì mexừ Liơ, cũng như phần lớn những người da trắng đã không ghét dân da đen tự do thậm tệ đến thế. Nhưng rồi anh nhớ đến những lời mà một phụ nữ da đen tự do bán rượu cho anh ở Grinxborâu, đã từng nói với anh: "Mỗi một người tự do chúng tôi là một bằng chứng sống cho dân nhọ đồn điền các anh thấy rằng: là một người da đen không có nghĩa phải là nô lệ. Ông chủ anh không bao giờ muốn anh nghĩ gì về cái đó". Trong những buổi cô đơn đằng đẵng ở khu gà chọi, Joóc-Gà bắt đầu suy nghĩ triền miên về điều ấy. Anh quyết định sắp tới đây, anh sẽ lân la trò chuyện với một số người da đen tự do anh vẫn gặp nhưng bao giờ cũng lờ đi, những lần đi cùng với ông chủ đến các thành phố.

Bước dọc theo hàng rào song mây, cho lũ gà nhép và gà tơ ăn, uống, Joóc-Gà như mọi lần, vẫn khoái thấy đám gà tơ cất giọng còn non, giận dữ kêu cục cục với anh, như thể đang ôn tập cái khí thế man rợ sắp tới ở bãi đấu. Anh bắt đầu chợt thấy mình nghĩ rất nhiều về chuyện bị sở hữu.

Một buổi chiều, trong khi đi kiểm tra thường kỳ số gà đang độ trưởng thành ở bãi thả, anh quyết định tiêu khiển bằng cách thử bắt chước tiếng gáy thách thức của một con trống, một ngón mà anh gần đạt đến độ hoàn hảo. Trước đây, gần như bao giờ cũng vậy, điều đó lập tức khiến một con gà cảnh vệ giận dữ xông ra, lồng lộn gáy đáp lại và ngúc ngắc đầu bên này, bên kia tìm kẻ địch đột nhập mà nó chắc chắn là vừa nghe thấy tiếng. Hôm nay cũng thế. Nhưng con gà lẫm liệt từ bụi rậm nhẩy ra đáp lại tiếng nhứ gọi của anh còn đứng đập cánh phành phạch vào mình đến gần nửa phút rồi mới cất tiếng gáy như xé toang buổi chiều thu. Ánh nắng huy hoàng lấp lánh trên bộ lông ngũ sắc của nó. Dáng dấp nó hùng mạnh và dữ tợn, từ đôi mắt long lanh đến cặp giò to khỏe màu vàng, với những chiếc cựa sát thương lợi hại. Từng phân, từng lạng của thân hình nó biểu trưng sự dũng cảm, nghị lực và tinh thần tự do một cách hùng hồn đến nỗi khi quay về, Joóc-gà nguyện sẽ không bao giờ bắt con gà này để luyện và tỉa lông xén cánh. Nó phải được để lại ở đó, giữa lùm thông với những con mái của nó - không bị đụng chạm đến và tự do!

Chương 100

Mùa chọi gà mới đang nhanh chóng tới gần, song mexừ Liơ không hề nhắc đến Niu Oliânz. Joóc-Gà thực ra, cũng không chờ đợi ông nhắc đến, cách nào đó, anh đã biết là cuộc hành trình đó sẽ không bao giờ xảy ra. Nhưng tại những cuộc đấu "chủ lực" ở địa phương, anh và ông chủ đã gây ấn tượng mạnh mẽ khi hai thầy trò xuất hiện trong cỗ xe thửa bóng lộn có lắp mười hai chuồng gà. Và họ liên tục gặp vận. Đổ đồng, mexừ Liơ cứ năm trận thì thắng xuýt xoát bốn, và Joóc với những con hay nhất trong số gà loại, cũng thành công gần như vậy trong các cuộc đấu hạ cấp ở quận Caxuel. Đó là một mùa bận rộn đồng thời cũng nhiều lợi lộc, nhưng Joóc đã kịp về nhà khi đứa con trai thứ năm ra đời vào cuối năm ấy. Matilđa tỏ ý muốn đặt tên thằng bé này là Jêimz. Cô nói: "Trước nay, cách này hay cách khác, Jêimz vẫn là cái tên em ưa chuộng nhất trong tất cả các thánh tông đồ". Joóc đồng ý với một cái nhăn mặt kín đáo.

Giờ đây, anh và mexừ Liơ đi đâu bất kể xa, gần, cũng nghe thấy chuyện chống đối người da trắng mỗi ngày một thêm gay gắt. Trong chuyến đi gần đây nhất, một người da đen tự do đã kể với Joóc về Ôxkêôla, thủ lĩnh của bộ tộc da đỏ Xêminôn ở một bang gọi là Florida. Khi người da trắng bắt lại được người vợ da đen của Ôxkêôla một nữ nô lệ chạy trốn, anh đã tổ chức một chiến đoàn gồm hai nghìn người Xêminôn và nô lệ da đen chạy trốn, để truy lùng và phục kích một chi đội của quân đội Mỹ. Theo lời kể, trên một trăm lính đã bị giết và một lực lượng quân đội lớn hơn nhiều hiện ráo riết truy kích quân của Ôxkêôla đang chạy trốn, vừa ẩn náu vừa bắn tỉa từ những đường mòn và ngóc ngách trong vùng đầm lầy của bang Florida.

Và mùa chọi gà năm 1836 kết thúc chưa được bao lâu thì Joóc-Gà nghe nói là ở một nơi nào đó gọi là "Alamô", một toán người Mêhicô đã tàn sát một trại lính da trắng Tếchxơx, kể cả một nhân viên lâm nghiệp tên là Đêvi Crôckét vốn nổi tiếng là một người bạn và bảo vệ của dân da đỏ. Sau đó, cũng trong năm ấy, anh nghe nói người da trắng lại bị những tổn thất lớn hơn trước sự tấn công của quân Mêhicô dưới quyền chỉ huy của tướng Xanta Anna; người ta nói rằng ông này tự xưng là tay gà cự phách nhất thế giới; nếu đúng thế, Joóc tự hỏi tại sao cho đến nay, anh chưa hề nghe nhắc đến ông ta.

Mùa xuân năm sau, từ một chuyến đi trở về, Joóc kể cho xóm nô một tin kỳ lạ nữa. "Tui nghe tay nhọ gác cổng tòa án ở quận lị biểu rằng cái ông tổng thống mới Van Bureni đã hạ lệnh cho quân đội dồn hết quân da đỏ về phía Tây sông Mitxixipi!"

"Đấy là cái gì dân da đỏ thu được trước tiên vì đã để cho người da trắng vào đất nước này", bác Pompi nói. "Hàng đống người, kể cả tôi trước khi lớn, không biết rằng thoạt kỳ thủy, ở đất nước nầy, không có ai khác ngoài dân da đỏ, họ đánh cá, săn bắn và choảng nhau, lo liệu lấy công việc của mình. Thế rồi có cái tầu cũ kỹ đầy người da trắng đến vẫy vẫy và nhăn nhở cười: "Ê, bọn đỏ các người! Có bằng lòng để chúng tớ đến chén một miếng và chợp một giấc và chúng ta đánh bạn mấy nhau đi!" Hừ! Tôi cuộc là bi giờ người da đỏ đang ước là giá biết thế, họ cứ bắn tên chi chít vào cái thuyền í, biến nó thành con dím có hơn không!"

Sau khi chở ông chủ dự cuộc họp điền chủ quận Caxuel Joóc-Gà trở về với những tin thêm về người da đỏ. "Nghe nói có một ông tướng Uynfild Xcốt kiểng cáo rằng người da trắng là tín đồ cơ đốc, không muốn làm đổ máu người da đỏ thêm nữa, cho nên kẻ nào biết điều thì hãy mau mau di chuyển đi! Nghe nói hễ người da đỏ nào chỉ cần có vẻ muốn chống lại là bọn lính bắn bỏ liền! Rồi thì quân đội bắt đầu dồn hàng nghìn người da đỏ về nơi nào đó gọi là Ôklahôma. Thấy biểu không biết bao nhiêu người đã bị giết hoặc đâm ốm mà chết dọc đường".

"Thật độc ác, độc ác!" Matilđa kêu lên.

Nhưng cũng có tin tốt lành - có điều là lần này tin mừng chờ anh tại nhà khi anh trở về sau một chuyến đi vào năm 1837: đứa con trai thứ sáu, tiếp liền một mạch, ra đời. Matilđa đặt tên cho nó là Luyx nhưng sau khi phát hiện ra xuất xứ cái tên Jêimz lần trước, Joóc-Gà quyết định không cần tìm hiểu lý do tại sao nữa. Bớt hồ hởi náo nức hơn những lần sinh các đứa cháu nội trước, Kitzi nói: "Tui xem dư anh chị chả bao giờ có gì khác hơn là con giai!"

"Mẹ Kitzi, tệ hại thay, trong khi con nằm đây đau lịm thì mẹ lại ra cách chán ngán" từ trong giường, Matilđa tấm tức khóc.

"Tui cũng chả chán! Tui yêu các cháu giai tui như thế nào, anh chị biết đấy. Dưng mà tôi tưởng nhẽ ra anh chị có thể có một đứa con gái chớ!"

Joóc-Gà cười to: "Chúng con sẽ bắt tay vào đúc ngay một đứa con gái nhỏ cho mẹ, mẹ ạ!"

"Anh ra khỏi đây đi!" Matilđa kêu lên.

Nhưng chỉ vài tháng sau, thoáng nhìn Matilđa một cái cũng đủ thấy rõ là Joóc định bụng giữ lời hứa.

"Hừm! Rành khi nào cha nầy nó ở nhà đều đều là biết ngay!" Xerơ bình luận. "Tuồng dư nó hơn cả bọn gà sống!" Malizi tán thưởng.

Khi vợ đau đẻ một lần nữa, anh chàng Joóc, sau hồi lâu đi bách bộ, chờ đợi bên ngoài, bỗng nghe thấy - giữa những tiếng kêu rên đau đớn của Matilđa - tiếng mẹ mình reo lên: "Lạy Chúa Jêxu, tạ ơn người! Lạy Chúa Jêxu, tạ ơn người!" và không cần được thông báo gì thêm, anh cũng biết rằng mình đã là cha của một đứa con gái.

Ngay trước khi đứa bé được tắm rửa xong, Matilđa đã nói với mẹ chồng rằng chị và Joóc đã nhất trí từ mấy năm trước sẽ đặt tên cho đứa con gái đầu là Kitzi.

"Tôi đã không sống vô ích!" suốt ngày hôm ấy, chốc chốc người bà nội lại kêu lên như vậy. Bà cứ rối rít tít mù mãi đến chiều hôm sau, khi Joóc-Gà ở khu nuôi gà trở về, kể lại lần nữa câu chuyện về cụ tổ người Phi Kunta Kintê, với sáu đứa con trai và con bé Kitzi ẵm trong lòng.

Độ hai tháng sau, một đêm, khi lũ trẻ đã ngủ cả, Joóc hỏi: "Tilda nầy, chúng mình để dành được bao nhêu tiền rồi?"

Chị nhìn anh, ngạc nhiên: "Độ hơn trăm đôla một ít".

"Thế thôi à?"

"Có thế thôi! Được ngần ấy cũng đã lạ rồi đấy! Suốt từng í năm tui đã chả biểu anh cứ tiêu pha dư vậy thì nói chuyện để dành làm gì cho nó mệt!"

"Thôi được, thôi được" anh nói, vẻ biết lỗi.

Nhưng Matilđa tiếp tục dồn: "Không kể dững món anh được cá, đem phung phí mà tui không bao giờ được nhìn thấy, đấy là việc riêng của anh, anh thử đoán xem từ khi chúng mình lấy nhau, anh đã đưa tôi bao nhêu tiền biểu để dành, sau đó lại vay lại?"

"Thôi đươc, bao nhêu?"

Matilđa ngừng lại để tạo hiệu quả: "Khoảng từ ba đến bốn nghìn đôla!"

"Huýt!" anh kinh ngạc huýt gió, "thật ư!"

Ngắm vẻ mặt anh thay đổi, chị cảm thấy mình chưa bao giờ quan sát thấy anh trở nên nghiêm túc hơn lúc này, trong suốt mười hai năm chung sống. "Bao lâu thui thủi một mình ở dưới kia", cuối cùng anh nói: "anh đã gẫm về ối chuyện"… Anh ngừng lại một chút. Xem chừng điều anh sắp nói làm cho anh gần như bối rối, chị nghĩ thầm. "Anh gẫm một điều là anh dững năm tới đây, nếu chúng mình dành được đủ tền, có thể là chúng mình mua được tự do đấy".

Matilđa sửng sốt không nói nên lời.

Anh sốt ruột khoát tay: "Anh muốn em lấy cái bút chì tính thử một tí xem, chứ đừng có giương mắt nhìn anh dư mất hồn í!"

Vẫn còn sững sờ, Matilđa lấy bút chì và một mẩu giấy, ngồi vào bàn.

"Nhưng mà rầy một nỗi là", anh nói, "ta chỉ có thể phỏng đoán là ông chủ sẽ đòi bao nhêu cả nhà mình. Anh mấy em, mấy bọn trẻ. Bắt đầu tính từ em trước nhá. Quanh quẩn trên quận, anh được biết lực điền lền ông khoảng nghìn đôla một móng. Lền bà thì rẻ hơn, vậy nên cứ cho là em vào khoảng tám trăm đi…" Anh đứng dậy, cúi người kiểm tra cây bút chì trong tay Matilđa chuyển động trên mặt giấy, rồi lại ngồi xuống. "Thế rồi ví thử ông chủ để cho chúng mình được chuộc lại các con, cả tám đứa, mỗi đứa độ ba trăm…"

"Có bảy đứa thôi chứ?" Matilđa nói.

"Cả cái đứa mới mà em biểu lại bắt đầu đạp trong bụng em, là tám!"

"Ồ!" chị mỉm cười. Chị tính cụ thể: "Vậy là hai mươi bốn trăm…"

"Chỉ riêng bọn trẻ đã thế!" Giọng anh pha trộn ngờ vực với phẫn uất. Chị tính lại: "Tám ba hăm bốn. Cộng tám trăm phần em là đúng ba mươi trăm - hay ba nghìn cũng thế".

"Huýt!"

"Đừng nóng vội, ông tướng ạ!" Chị nhìn anh. "Thế anh tính anh bao nhêu?"

Mặc dầu chuyện đang nghiêm túc, anh vẫn không thể không hỏi: "Em cho là anh đáng giá bao nhêu?"

"Nếu em biết thì chính em đã tìm cách mua anh ra khỏi tay ông chủ". Cả hai cùng cười. "Joóc ạ, em không hiểu làm sao mà chúng mình lại trò chuyện dư thế này. Anh thừa biết là ông chủ chả đời nào bán anh".

"Anh không trả lời ngay. Nhưng sau đó, anh nói: "Tilda ạ, anh chưa bao giờ nhắc đến chuyện này vì rằng anh biết là mới nói đến tên ông chủ, em đã không thích nghe rồi. Dưng mà anh cam đoan là có dễ đến hăm nhăm bận khác nhau, ông í đã biểu anh là khi nào ông í góp nhặt đủ tền để xây cái tòa đại sảnh đẹp dư ý ông, có sáu cây cột chạy ngang mặt trước, thì vợ chồng ông í có thể sống bằng hoa lợi cây trồng, và ông í sẽ giải nghệ chọi gà, ông í biểu là ông í ngày một già không thể cứ lo toan hoài mọi sự mãi được".

"Chuyện í, em phải trông thấy mới tin được, anh Joóc ạ. Cả ông í lẫn anh đều không dứt được duyên nợ mấy gà đâu!"

"Anh chỉ kể mấy em dững đều ông í nói thôi! Nghe hay không tùy em! Nầy bác Pompi biểu ông chủ bi giờ đã gần sáu mươi ba. Để đến khi ông í thêm năm, sáu tuổi nữa - dễ gì một ông cụ già cứ chạy ngược chạy xuôi đem gà đi chọi mãi được! Trước, anh cũng chả để ý mấy đến lời bác í, mãi sau anh mới nghĩ, ờ phải, rất có thể ông í để chúng mình tự chuộc lại thật, nhất là nếu chúng mình giả ông í đủ để thêm thắt cho ông í xây cái tòa đại sảnh dư ông í muốn".

"Hừm", Matilđa ậm ừ không tin. "Thôi được, ta cứ bàn xem. Anh ước ông í đòi giá anh bao nhêu nào?"

"À…" Vẻ mặt anh dường như pha trộn cả đau đớn lẫn tự hào với điều anh sắp nói ra. "À… gã nhọ lái xe của cái mexừ Juét giầu xụ, có một lần, đã thề sống thề chết mấy anh là đã nghe lỏm thấy ông chủ hắn kể mấy người nào đó rằng ông ta đã từng giả mexừ Liơ bốn nghìn đôla để mua anh…"

"Uuúííí!" Matilđa lặng người đi vì sửng sốt.

"Thấy không, em chưa bao giờ biết giá trị của anh chàng nhọ vẫn ngủ mấy em!" Song anh mau chóng trở lại nghiêm trang. "Anh không tin hẳn gã nhọ í, anh ngờ là hắn chỉ bịa thế để thử xem anh có ngốc đến mức dắm mắt tin bừa đi không. Dù sao, anh cũng cứ vào thời giá bi giờ với dân nhọ có tay nghề nhất, chả hạn thợ mộc và thợ rèn mấy lị tơng tợ dư thế. Đám í đáng giá từ hai đến ba nghìn, anh biết chắc thế… " Anh ngừng một lát, nhìn cây bút chì đang chờ đợi của chị. "Cứ ghi là ba nghìn…" Anh ngừng lại. "Thế là bao nhêu?"

Matilđa tính. Rồi nói ước tính tổng số tiền để chuộc lại cả gia đình là sáu mươi hai trăm đôla. "Dưng còn mẹ Kitzi thì sao?"

"Anh đang sắp nói đến mẹ mà!" anh nói, vẻ sốt ruột. Anh ngẫm nghĩ.

"Mẹ bí giờ khá già rồi, có thể xuống giá…"

"Năm nay, mẹ năm mươi", Matilđa nói.

"Cứ ghi là sáu trăm đôla". Anh theo dõi cây bút chì chuyển động. Nào, bi giờ là bao nhêu?"

Mặt Matilđa căng thẳng vì tập trung. "Bi giờ là sáu mươi tám trăm đôla".

"Úi! Thế mấy biết nhọ là tền là bạc cho người da trắng". Joóc nói rất chậm rãi. "Dưng mà anh tuyên bố anh tin mình có thể chọi gà hạ cấp kiếm đủ số đó. Cố nhiên, có nghĩa là phải chờ đợi và dành dụm một thời gian dài…" Anh nhận thấy Matilđa có vẻ ỉu xìu. "Anh biết em đang nghĩ gì", anh nói, "các cô bác Malizi, Xerơ và Pompi".

Coi bộ Matilđa khoan khoái hẳn vì thấy chồng biết thế. Anh nói: "Các cô bác là người cùng gia đình mấy anh còn trước cả mấy em…"

"Lạy Chúa, Joóc!" chị thốt lên, "làm sao độc một người phải ráng sức chuộc lại tất cả mọi người, cái í không được, em biết thế, dưng mà rành là em không thể từ giã các cô bác mà bỏ đi!"

"Chúng mình có bao nhêu thời gian, Tilda ạ. Khi nào đến đó, ta hãy qua cầu".

"Thật thế, anh có lý". Chị nhìn xuống những con số mình vừa viết. "Joóc ạ, em quả khó tin rằng chúng mình đang nói chuyện về…" Chị cảm thấy mình bắt đầu dám tin điều đó, rằng lần đầu tiên, hai vợ chồng cùng nhau thực sự đi vào bàn bạc một vấn đề trọng đại của gia đình. Chị cảm thấy một thôi thúc mãnh liệt muốn bật dậy chạy quanh bàn tới ôm ghì lấy anh với hết sức mình. Nhưng chị xúc động quá không cử động được - thậm chí không nói được mất một lúc. Rồi chị hỏi: "Joóc, làm sao mà anh lại nghĩ đến chuyện í?"

Anh im lặng một lúc. "Tự anh nghĩ và xem ra anh còn phải gẫm lên thêm nữa, dư anh đã nói mấy em…"

"Phải", chị dịu dàng nói, "rành là tốt đẹp".

"Chúng mình chưa đạt tới đâu cả!" anh thốt lên. "Trước nay chúng mình chỉ độc làm cho ông chủ thành đạt thôi!" Matilđa cảm thấy muốn reo lên: "Sung sướng thay!" nhưng nén lại được. "Anh đã nói chuyện mấy các nhọ tự do khi đi mấy ông chủ đến các thành phố". Joóc nói tiếp. "Họ biểu các nhọ tự do ở trên miền Bắc là khá giả nhất. Biểu là họ sống mấy nhau ở nhà riêng và kiếm được việc làm tốt. Phải, anh có thể kiếm được cho mình một việc làm, anh biết thế! Trên miền Bắc, người ta chọi gà nhều lắm! Anh còn nghe nói dững nhọ chơi gà nổi tiếng ở ngay thành phố Niu Yóc, một bác Bili Râugiơ, một bác Pitơ có cả một đàn gà lớn và một sòng bạc lớn, mấy lị một người nữa gọi là "Jêchxơn nhọ" mà họ biểu là không ai thắng được gà của y!" Anh càng làm cho Matilđa sững sờ thêm. "Một điều nữa: anh muốn thấy con cái mình được học hành, biết đọc biết viết dư em".

"Lạy Chúa, hơn em chứ lị, em hy vọng thế!" Matilđa thốt lên, mắt sáng ngời.

"Và anh muốn chúng nó được học nghề". Đột nhiên anh nhe răng cười, dừng lại để tạo hiệu quả. "Em thử tưởng tượng em ngồi trong nhà riêng của mình, giữa những bàn ghế đệm, đồ đạc của mình, với tất cả các thứ trang sức lặt vặt, lúc í trông em ra thế nào nhỉ? Thế này nữa: bà Tilda mời các phụ nữ nhọ tự do sang uống trà buổi sáng và tất cả các bà ngồi quanh bàn nói chuyện cắm hoa, mấy lị dững chuyện tơng tợ như vậy".

Matilđa phá lên cười, gần như thét: "Lạy Chúa, ông tướng ạ, anh thật điên!" Dứt nhịp cười, chị càng cảm thấy yêu anh hơn bao giờ hết. "Em nghĩ đêm nay Thượng đế cho em cái gì em cần". Nước mắt rưng rưng, chị đặt tay lên tay anh: "Anh thật sự nghĩ rằng chúng mình có thể làm thế được ư, Joóc?".

"Vậy chớ em nghĩ anh ngồi đây nói chuyện tào lao chăng?".

"Anh có nhớ cái đêm chúng mình đồng ý lấy nhau, em đã nói gì với anh không?" Vẻ mặt anh nói lên rằng anh không nhớ. "Em đã nói với anh một đều rút từ chương đầu sách Ruth. Em đã nói với anh: Người đi đâu, tui đi đấy, và người ở đâu, tui ở đấy, dân của người là dân của tui…" Anh không nhớ là em đã nói thế sao?"

"Ừ, có thế".

"Này nhé, chưa bao giờ em thấm thía đều í hơn bi giờ".

Chương 101

Một tay nhấc chiếc mũ quả dưa đội đầu, tay kia Joóc-Gà chìa ra cho mexừ Liơ một cái bình rót nước nhỏ nom như bằng những tao dây thép dầy bện chặt vào nhau. "Thằng Tôm, con giai cháu, cái thằng chúng cháu lấy tên ông đặt cho í, ông chủ ạ, nó làm cái nầy cho bà nó, dưng mà cháu muốn đưa cho ông xem thử".

Vẻ ngờ vực, mexừ Liơ đỡ lấy chiếc bình bằng cái quai sừng bò chạm chổ của nó và đưa mắt xem qua loa. "Ừ hự" ông ậm è một cách vô thưởng vô phạt.

Joóc hiểu ra rằng anh cần phải cố gắng thuyết phục mạnh mẽ hơn. "Vậy thưa ông chủ, cái này làm bằng toàn dây thép gai gỉ vứt đi. Nó gây một lò than nóng thật là nóng uốn cong và hơ nóng chảy cho sợi này bện vào sợi nọ đến khi thành hình, rồi làm dư cách hàn đồng thau cả một lượt. Cái thằng Tôm nầy bao giờ cũng rành là khéo tay, thưa ông chủ…"

Anh lại ngừng, chờ một phản ứng mà không thấy gì.

Thấy cần phải bộc lộ ý đồ thực sự của mình để tranh thủ một phản ứng tích cực đối với ngón kỹ xảo của Tôm, Joóc đánh liều nói trắng ra: "Vâng, cái thằng bé này rất hãnh dện được mang tên ông suốt đời, thưa ông chủ, chúng cháu thục sự tin là chỉ cần có dịp, nó sẽ thành một tay thợ rèn cừ hầu hạ ông…"

Một vẻ không tán thành lập tức hiện trên mặt mexừ Liơ, tựa như do phản xạ và điều đó làm cháy rực thêm trong Joóc quyết tâm không chịu thất ước với Matilđa và Kitzi trong việc giúp đỡ Tôm. Anh thấy cần phải làm cái mà anh biết có sức hấp dẫn mạnh nhất đối với mexừ Liơ - phác họa lên những lợi lộc tài chính.

"Thưa ông chủ, hằng năm, ông có thể đỡ được tền công thợ rèn! Bọn cháu chưa ai kể mấy ông là Tôm đã tết kệm cho ông được đôi chút dư thế nào, nó mài lỡi cuốc lỡi liềm mấy lị dững đồ dùng khác - cũng dư chữa hàng lô dững thứ bị gẫy ở quanh đây. Duyên do cháu nêu chuyện nầy lên, là khi ông sai cháu đến cái tên thợ rèn nhọ Aizêiơ để lắp vành bánh xe tải, anh ta biểu cháu là mexừ Ơxkiu bao năm nay vẫn hứa cho anh ta một đứa giúp việc mà anh ta rất cần, bởi vì anh ta phải làm bao nhêu việc để kiếm tền cho ông chủ mình. Anh ta biểu cháu là ví thử vớ được thằng bé nào ngoan ngoãn để luyện thành một thợ rèn thì anh ta rành là mừng, cho nên cháu nghĩ ngay đến Tôm. Thưa ông chủ, nếu nó được học thì không dững nó có thể làm mọi thứ ta cần ở trong đồn điền mà còn có thể nhận thêm việc ở ngoài hái ra tền cho ông dư cái gã nhọ Aizêiơ làm cho ông Ơxkiu í".

Joóc cảm thấy có lẽ anh đã đánh trúng mạch nào đó, nhưng anh không dám chắc vì ông chủ thận trọng không tỏ dấu hiệu gì. "Tao thấy hình như thằng bé nhà mày tốn nhiều thì giờ với cái thứ của nợ này hơn là làm việc". Mexừ Liơ nói, dúi trả cái bình kim khí vào tay Joóc.

"Thưa ông chủ, Tôm chưa vắng mặt ngày nào từ khi nó bắt đầu đi làm đồng! Nó làm dững thứ dư thế này vào dững ngày chủ nhật nó được nghỉ! Từ khi mới choai choai, tuồng dư nó đã sẵn trong máu cái tính thích sửa chữa, chế tạo đồ vật! Chủ nhật nào, nó cũng ra cái lán một mái nó dựng lấy ở đằng sau chuồng ngựa, nung nung gõ gõ cái nầy cái nọ. Thật tình, chúng cháu cứ sợ nó làm rầy ông chủ bà chủ".

"Được, tao sẽ suy nghĩ về chuyện này". Mexừ Liơ nói rồi quay phắt bỏ đi, để Joóc-Gà đứng đó bối rối và chưng hửng - anh cảm thấy chắc là ông ta cố tình - với chiếc bình kim khí trong tay.

Malizi đang ngồi trong nhà bếp gọt củ cải thì mexừ Liơ bước vào. Bà xoay người lại nửa vòng, không đứng bật dậy như những năm trước nữa, nhưng bà cho rằng ông chủ chả chấp nê, vì bà đã đến cái độ tuổi và độ thâm niên phục vụ có thể tự cho phép một số vi phạm nhỏ.

Mexừ Liơ đi thẳng vào vấn đề. "Cái thằng bé tên là Tôm ấy nó thế nào?"

"Tôm? Ông muốn nói thằng Tôm con Tilda ấy ư, thưa ông chủ?"

"Dào, ngoài ấy có mấy Tôm? Nhà chị còn lạ gì tôi muốn nói đến đứa nào, nó thế nào nhỉ?"

Malizi biết đích xác tại sao ông ta hỏi. Mới cách đây mấy phút, Kitzi vừa nói với bà rằng Joóc-Gà còn chưa dám chắc mexừ Liơ sẽ phản ứng ra sao với đề nghị của anh. Nhưng bà đánh giá cu Tôm rất cao - không phải chỉ vì nó đã làm cho bà những móc treo nồi mới, cong hình chữ S - thành thử bà quyết định phải đắn đo mấy giây trước khi trả lời để ra vẻ vô tư.

"Phải" cuối cùng bà nói, "lẫn giữa một đám đông thì chả ai chọn nó dể chuyện trò, ông chủ ạ, vì thằng bé chả bao giờ lắm mồm lắm miệng. Cơ mà tui có thể đoán chắc mấy ông rằng thực ra nó là đứa trẻ sáng trí nhất ngoài í, hơn nữa nó còn là đứa ngoan nhất trong bọn con trai nhớn". Bà Malizi ngừng lại một cách đầy ý nghĩa. "Và tui chắc nhớn lên nó còn trượng phu hơn bố nó về nhều cung cách."

"Nhà chị nói gì vậy? Về cung cách nào?"

"Về cung cách trượng phu thôi, thưa ông chủ, vững vàng hơn, đáng tin cậy hơn, không có ngu dại một cách nào hết, đại khái dư thế. Nó sẽ là cái loại lền ông mà cô nào lấy được làm chồng là đại phúc".

"Ờ, ta hy vọng nó đừng có bị dâm thần ám" mexừ Liơ nói với ý thăm dò, "vì ta chỉ cho phép cái đó với thằng lớn nhất thôi… tên nó là gì nhỉ?"

"Vơjơl, thưa ông chủ".

"Phải. Cứ cuối tuần là nó tút đi ngủ với vợ ở đồn điền Cơri trong khi nó phải ở đây làm việc!"

"Không đâu, Tôm nó không có thế. Nó còn nhỏ chưa nghĩ đến chuyện í, mà tôi cho là ngay cả khi nó nhớn, nó cũng không sớm giở giói đâu, chí ít cũng phải đến khi nó kiếm được đúng đứa con gái nó ưng".

"Nhà chị già rồi, đâu có hiểu bọn ngựa đực đang tơ ngày nay", mexừ Liơ nói. "Nếu có một thằng nó bỏ cả cày lẫn la của ta giữa đồng mà đuổi theo gái, thì ta cũng chẳng lấy gì làm lạ".

"Tôi đồng ý với ông chủ, nếu ông nói về thằng Asfođ, vì nó thích săn gái dư bố nó. Dưng mà Tôm thì không phải loại í, dất khoát thế".

"Ờ, thôi được. Nếu ta căn cứ vào lời nhà chị nói thì xem chừng thằng này có thể được việc đấy".

"Thưa ông chủ, ông cứ bằng vào lời bất cứ ai trong bọn tôi nói về nó". Malizi cố giấu vẻ rạng rỡ. "Tôi không hểu ông chủ hỏi về Tôm làm gì, nhưng rành là nó nhất trong tụi con trai nhớn".

Năm hôm sau, mexừ Liơ báo tin cho Joóc-Gà.

"Tao đã thu xếp gửi thằng Tôm nhà mày sang đồn điền Ơxkiu", ông long trọng thông báo, "để học nghề tên nhọ thợ rèn Aizêiơ trong ba năm".

Joóc phấn khởi đến nỗi phải cố hết sức mới kìm được mình khỏi bế bổng ông chủ lên quay tít đi. Thay vì làm thế, anh chỉ ngoác miệng cười toét đến mang tai và lúng túng cảm ơn.

"Tốt hơn là mày phải nhận định đúng về thằng bé. Căn cứ vào những đảm bảo của bọn mày, tao giới thiệu rất đề cao nó với mexừ Ơxkiu. Nếu nó khôn ngoan như mầy nói tao sẽ rút nó về đây nhanh đến nỗi mầy phải chóng mặt và nếu nó ra ngoài vòng khuôn phép, nó phản bội lòng tin của tao bằng bất kỳ cách nào, tao sẽ đánh tróc da cả mày lẫn nó. Hiểu chưa?"

"Nó sẽ không phụ lòng ông đâu, thưa ông chủ. Cháu hứa mấy ông thế. Thằng bé này, cha nào con í mà".

"Ấy chính tao lại sợ thế đấy. Bảo nó gói ghém hành lý, sẵn sàng mai sớm đi".

"Vâng ạ. Cảm ơn ông. Ông sẽ không bao giờ phải hối tiếc".

Ông chủ vừa đi khỏi, Joóc-Gà bèn chạy vù về xóm nô, kể lại tin mừng cho gia đình nghe, anh gần như nổ tung lồng ngực vì tự hào với thành tích của mình đến nỗi không thấy những nụ cười méo mó trao đổi giữa Matilđa và Kitzi, những người đầu tiên thúc anh đặt vấn đề với ông chủ. Thoáng sau, anh đứng ở cửa la to: "Tôm! Tôm! Tôm con!"

"Dạạạ thưa bố!" Tôm đáp lại từ đằng sau chuồng ngựa.

"Con trai, về đây!"

Lát sau, Tôm há hốc miệng, tròn xoe mắt. Cái tin không thể tin được ấy đến với nó hoàn toàn bất ngờ - họ đã giữ kín vì không muốn nó thất vọng nếu cố gắng không đi đến đâu. Vui mừng khôn xiết, Tôm lúng túng trước những lời chúc mừng tới tấp đến nỗi nó phải rút thật nhanh trở ra ngoài - một phần cũng là để có dịp định thần nhận chân ra rằng ước mơ của mình đã thực sự trở thành sự thật. Khi ở trong lều, nó không để ý thấy hai đứa em gái, Kitzi và Meri đã chạy vụt ra ngoài và hổn hển loan tin cho bọn anh trai chúng.

Gã Vơjơl cao dong dỏng đang tong tả đi lên, vừa mới xong các công việc đặt ở chuồng ngựa trước khi đến đồn điền cô vợ mới cưới, gã chỉ khe khẽ ầm ừ một câu gì vô thưởng vô phạt và hối hả đi qua chỗ Tôm; thằng cu này tủm tỉm cười vì từ khi làm lễ nhảy chổi, Vơjơl lúc nào cũng như mụ mẫm.

Nhưng Tôm căng thẳng hẳn lên khi thấy thằng Asfođ mười tám tuổi vạm vỡ, khỏe mạnh tiến lại, gần theo sau là hai thằng em Jêimz và Luyx. Gần như cả đời, giữa nó và Asfođ có một mối kình địch không sao cắt nghĩa nổi, nên Tôm không lạ gì thái độ gầm ghè cay cú của thằng anh.

"Mầy bao giờ cũng là cưng của họ! Bợ đỡ mọi người để xin ân huệ. Bi giờ mầy sắp đi khỏi, mầy cười mũi bọn tau còn phải quần quật ngoài đồng!" Nó vung tay dứ nhanh một cái như thể đánh Tôm, làm Jiêmz và Luyx há hốc mồm. "Tau vẫn với tới mầy được, liệu hồn đấy!" và Asfođ nghênh ngang đi khỏi, Tôm nhìn trừng trừng theo, tin chắc một ngày kia nó và Asfođ sẽ phải có một cuộc đọ sức cuối cùng.

Điều Tôm phải nghe từ miệng "Joóc-con" lại là một lối cay cú khác. "Rành là tui ước được là chú để đi khỏi đây, vì ở dưới kia bố bắt tui làm việc muốn chết! Chỉ vì tui mang tên ông í, cho nên ông cứ ngỡ tui cũng mê gà dư ông í. Tui căm thù cái đồ hôi thúi í!"

Còn hai con bé Kitzi mười tuổi và Meri tám tuổi thì sau khi đã loan tin rộng rãi, chúng cứ lẽo đẽo theo Tôm đi quanh suốt buổi chiều, vẻ rụt rè của chúng nói lên rõ ràng Tôm là đứa anh trai mà chúng tôn thờ và yêu thích nhất.

Sáng hôm sau, khi tiễn Tôm lên xe la với Vơjơl, Kitzi, Xerơ và Matilđa bắt đầu ngày làm việc ngoài đồng, đang chặt đốn thì Kitzi nhận xét: "Ai trông thấy bọn chúng mình cứ khóc lóc, xụt xịt hoài thế nầy, chắc tưởng mình chả bao giờ gặp lại thằng bé nữa!"

"Hừm! Chả còn là thằng bé nữa đâu, cưng ạ!" Xerơ thốt lên. "Cái thằng Tôm là người lền ông kế tiếp ở chốn này đó!"

Chương 102

Với một giấy thông hành đặc biệt do mexừ Liơ cấp, Vơjơl treo cái đèn xách ở xe la và phóng suốt đêm hôm trước lễ Tạ Ơn để đưa Tôm từ đồn điền Ơxkiu về nhà kịp bữa tiệc lớn, sau sáu tháng vắng nhà. Khi xe lăn bánh vào đường xe riêng của đồn điền Liơ trong buổi chiều tháng mười một lạnh giá và Vơjơl thúc la chạy nước kiệu gấp, Tôm phải cố kìm nước mắt khi xóm nô quen thuộc hiện ra và nó trông thấy tất cả những người nó xiết bao thương nhớ đang đứng đó đợi nó. Rồi họ bắt đầu vẫy, gọi và lát sau, nắm chặt chiếc túi đựng những món quà nó đã tự tay làm cho từng người, nó nhảy xuống đất giữa những cánh tay ôm ghì và những cái hôn của tốp phụ nữ.

"Cầu Chúa phù hộ trái tim nó!"… "Nom nó ra dáng làm sao!" "Chứ lị! Xem nầy, vai mấy cánh tay nó đẫy ra làm sao!"… "Bà nội, để cho cháu hôn anh Tôm mấy!"… "Đừng có riết chặt lấy nó suốt ngày thế, để tau cũng được ôm nó tí chứ, nhỏ!"

Qua bờ vai họ, Tôm nhìn thấy hai đứa em trai Jêimz và Luyx với vẻ kính sợ; nó biết Joóc-con đang ở dưới khu gà chọi với bố và Vơjơl đã nói với nó là Asfođ được ông chủ cho phép đi thăm một cô gái ở đồn điền khác.

Rồi nó trông thấy bác Pompi, mọi khi vẫn liệt giường, giờ quấn xù xụ một tấm mền ngồi bên ngoài lều trong một chiếc ghế mây. Vừa gỡ ra được là Tôm chạy vội lại nắm lấy bàn tay run rẩy, sưng phù của ông già và cúi sát xuống để nghe cho rõ cái giọng rạn vỡ, gần như thều thào của bác.

"Tau chỉ muốn biết chắc là mầy đã về thực để thăm bọn tau, cháu giai ạ…"

"Vâng, ông Pompi, cháu rất mừng được trở về!"

"Thôi được, sẽ gặp mầy sau", ông già run lập cập.

Tôm lúc này đang bối rối vì xúc động. Cho đến nay mới mười sáu tuổi, chẳng những nó chưa bao giờ được đối xử trân trọng đến thế, như với người lớn, mà còn chưa từng cảm thấy ở cái gia đình xóm nô của mình một biểu hiện yêu thương và kính trọng dạt dào như vậy.

Hai đứa con gái còn đang kéo nó, reo hò í ới thì bỗng một giọng quen thuộc vang lên ồm ồm ở đằng xa.

"Lạy Chúa, ông Gà Sống đang đến kìa!" Matilđa kêu lên bàn và toán phụ nữ tíu tít bày bữa cỗ mừng Lễ Tạ ơn lên bàn.

Khi Joóc-Gà sải bước vào khu xóm nô, trông thấy Tôm, mặt anh tươi rói lên: "Chà, hãy nhìn coi cái gì đã xổng chuồng về nhà này!" Anh vỗ vai Tôm bồm bộp. "Làm được tí tền nào chưa?"

"Dạ chưa, bố ạ".

"Mầy là cái thứ thợ rèn gì mà không kiếm được tền hử?" Joóc vờ ngạc nhiên, hỏi.

Tôm nhớ là lại là bao giờ nó cũng cảm thấy như bị cuốn trong cơn lốc mỗi khi lâm vào thế tiếp cận với lối diễn đạt khoa trương ồn ã của bố. "Còn lâu mới là thợ rèn, bố ạ, con mới đang cố học thôi", nó nói.

"Chà, mầy biểu cái gã nhọ Aizêiơ í là tau biểu mau lên mà học mầy một cái gì chớ.

"Vâng" Tôm nói như cái máy, vụt nghĩ rằng có lẽ chẳng bao giờ nó nắm vững được đến nửa phần những gì ông Aizêiơ đang kiên trì dốc mọi cố gắng để giúp nó học. Nó hỏi: "Anh Joóc-con có lên ăn cỗ không?

"Cũng có thể nó đến kịp, cũng có thể không." Joóc-Gà đáp. "Nó lười lĩnh quá không làm cho xong việc thứ nhất tau giao cho nó sáng nay, cho nên tau biểu chừng nào chưa xong thì tau không muốn thấy cái mặt nó ở trên nầy!" Joóc-Gà tiến lại chỗ bác Pompi. "Cháu rất mừng thấy bác ra khỏi lều, bác Pompi. Bác thấy người thế nào?"

"Kém con ạ, kém lắm, cái thân già thì còn gì là tốt nữa, có thế thôi".

"Miễn cho tui cái chuyện vớ vỉn í đi, miễn hết không nghe một tí tẹo nào!" Joóc-Gà oang oang và anh quay sang Tôm, cười ha hả: "Ông Pompi của mầy là một người nhọ loại thằn lằn rắn ráo, còn sống đến trăm tuổi. Từ khi mầy đi có dễ ông í đã hai ba lần ốm rõ nặng cơ mà, mỗi lần cánh lền bà thút thít khóc cả lũ, sắp sửa làm ma thì ông lão lại nhỏm dậy!"

Cả ba đang cười thì Bà Nội Kitzi thét: ‘Chúng mầy mang bác Pompi lại đây ngồi vào bàn ngay đi!" Mặc dầu trời se se lạnh, các bà đã kê một cái bàn dưới cây hạt dẻ để mọi người có thể cùng dự bữa tiệc mừng Lễ Tạ ơn.

Jêimz và Luyx nắm chắc lấy chiếc ghế của bác Pompi, bà Xerơ đon đả chạy theo sau.

"Đừng có đánh rơi ông đấy, ông chưa quá già đến độ không đét đít được chúng mầy đâu!" Joóc-Gà kêu to.

Khi tất cả đã yên vị, mặc dầu Joóc-Gà ngồi chủ tọa, Matilđa vẫn chỉ đích vào Tôm để nói: "Con trai, cầu Chúa xuống phước cho bàn ăn đi". Giật mình, Tôm bỗng ước giá mình dự tiên được điều này để nghĩ sẵn trước một lời cầu nguyện nào khả dĩ diễn đạt được những nỗi xúc động nó cảm thấy đối với sự ấm cúng và sức mạnh của tình gia đình. Nhưng thấy mọi người đều đã cúi đầu, nó chỉ nghĩ được như sau: "Lạy Chúa, xin Người xuống phước cho dững thức chúng con sắp ăn đây, chúng con cầu xin vậy, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen".

"Amen!... Amen!" những người khác hòa theo, từ đầu đến cuối bàn. Rồi Matilđa, các bà Kitzi và Xerơ bắt đầu chạy qua chạy lại như con thoi, chốc chốc lại bầy thêm những bát, đĩa đầy tú ụ, nghi ngút hơi suốt dọc bàn và giục mọi người ăn, mãi cuối cùng mới trở lại ngồi về chỗ. Trong nhiều phút, không ai nói gì, tất cả đều ăn như sắp chết đói, với những tiếng ậm ự thưởng thức và những tiếng tặc lưỡi trầm trồ. Rồi sau một lát, trong khi Matilđa hay Kitzi luôn tay rót sữa bơ mới vào đầy cốc của Tôm, hoặc tiếp thêm thịt nóng, rau và bánh mì vào đĩa nó, họ bắt đầu hỏi nó dồn dập.

"Tội nghiệp thằng bé, ở đằng í họ cho con ăn có tốt không? Ai nấu nướng cho con ăn?" Matilđa hỏi.

Tôm phải nhai bớt cho đỡ đầy mồm để trả lời: "Vợ ông Aizêiơ, bà Emma".

"Da bà í màu gì, nom bà í ra sao?" Kitzi hỏi.

"Bà í da đen, beo béo".

"Cái í thì có dính gì đến việc bếp núc của nhà chị ta!" Joóc-gà cười hô hố. "Chị ta nấu nướng có tốt không, nhỏ?"

"Khá ngon, bố ạ, vâng" Tôm gật đầu khẳng định.

"Dào, dù sao cũng chẳng bằng mẹ mầy!" bà Xerơ toang toác. Tôm khoan khoái thì thào. "Vâng, không bằng", đồng thời nghĩ bụng là bà Emma ắt bất bình biết bao nếu nghe thấy họ nói vậy và ngược lại, họ hẳn sẽ bất bình biết mấy nếu biết bà ta là tay nấu bếp cừ hơn.

"Bà í mấy người chồng thợ rèn có phải là người Cơ đốc ngoan đạo không?"

"Có ạ." Nó nói. "Nhất là bà Emma, bà í đọc Kinh Thánh một lô một lốc".

Tôm vừa ăn hết đĩa thứ ba thì mẹ và bà nó lại trút thêm vào, mặc dầu nó lắc đầu quày quạy. Nó ấp úng phản đối được một câu: "Phải dành chút gì cho Joóc-con khi anh í đến chứ!"

"Còn vô khối cho nó, mà con cũng biết đấy!" Matilđa nói. "Con ăn thêm một miếng thịt thỏ rán nầy… thêm ít rau nữa nầy… và cái món bí đông ninh nầy nữa. Bà Malizi lấy ở bữa tiệc trên đại sảnh một liễn sữa trứng tướng gửi xuống đây. Ngon đáo để".

Tôm đã bắt đầu xúc sữa trứng thì bác Pompi hắng giọng định nói gì và tất cả im lặng để nghe bác. "Nhỏ, cháu đã đóng móng cho la, cho ngựa chưa?"

"Họ để cho cháu tháo móng cũ, cơ mà cháu chưa đóng cái móng mới nào!" Tôm nói, nhớ lại vừa mới hôm trước thôi có một con la dữ đến nỗi phải buộc chằng chân mới đóng móng được. Joóc-Gà cười to. "Chắc nó chưa bị la đá đủ đau để thuần thục tay nghề đây! Nếu không biết rành thì rất dễ lẫn chân ngựa, chân nọ sọ chân kia!" Nghe nói có một tay thợ rèn nhọ đóng móng đằng trước lộn ra đằng sau, thành thử con ngựa chỉ độc đi giật lùi!" Khi thôi cười về câu nói đùa của chính mình, Joóc-Gà hỏi: "Đóng móng ngựa và la thì được bao nhêu?"

"Hình như người ta giả mexừ Ơxkiu mười bốn xu một móng." Tôm nói.

"Rành là không nhiều tền bằng chọi gà!" Joóc-Gà thốt ra.

"Dào, nghề rèn rành là có ích hơn chọi gà nhều!" Bà nội Kitzi nói sẵng, giọng sắc như dao, đến nỗi Tôm muốn nhẩy lên ôm ghì lấy bà. Rồi bà nói tiếp, giọng đột nhiên trở nên dịu dàng: "Nầy con, cái người í lúc "học" con nghề rèn thì bắt con làm gì?"

Tôm rất mừng thấy bà hỏi, vì nó đang muốn cho gia đình biết sơ qua công việc của nó. "À, thưa bà, mỗi sáng sớm, cháu dóm lò, lúc ông Aizêiơ đến là phải cháy tốt. Rồi cháu bầy dững đồ dùng mà cháu biết ông í cần cho dững việc sắp làm. Là vì khi gò sắt nung đỏ thì không thể để nó nguội đi trong khi tìm bới đúng loại búa để nện nó…"

"Lạy Chúa, thằng bé đã rèn rồi!" bà Xerơ thốt lên.

"Không ạ." Tôm nói. "cháu chỉ là cái họ gọi là thợ quai búa. Nếu ông Aizêiơ làm vật gì nặng, dư trục xe hay lỡi cầy, chỗ nào ông nện búa con thì cháu quai búa tạ. Và thi thoảng, còn dững việc vặt đơn giản, ông í để cháu làm nốt trong khi ông í bắt đầu một cái gì khác".

"Bao giờ lão í để cho mầy bắt đầu đóng móng ngựa?" Joóc-Gà hỏi, vẫn tiếp tục dồn, xem vẻ gần như là muốn thằng con đang học nghề thợ rèn phải lâm vào thế bối rối, nhưng Tôm nhe răng cười: "Con không biết, bố ạ, dưng con cho rằng chả bao lâu, ông í sẽ cảm thấy con có thể làm được việc í mà không cần ông í giúp đỡ. Đúng dư bố nói, rành là con đã bị đá nhều lần. Thực tế, có một số con dữ cứ chồm chồm, chả dững đá mà còn cắn nữa, nếu mình không cẩn thận".

"Người da trắng có đến cửa hàng thợ rèn í không con?" bà Xerơ hỏi.

"Có ạ, hàng lô hàng lốc. Chả mấy ngày không thấy ít nhất là một tá hay hơn nửa đứng quanh quanh trò chuyện trong khi chờ đợi ông Aizêiơ hoàn thành công việc họ mang tới đặt làm".

"Ờ, thế con nghe thấy họ nói dững loại tin gì mà bọn ta không biết vì cứ ru rú ở đây?"

Tôm nghĩ một lúc, cố nhớ lại xem ông Aizêiơ và bà Emma coi những gì là quan trọng nhất mà họ mới nghe cánh da trắng nhắc đến. "À, có một cái tin họ gọi là "điện tín". Một mexừ Moxờ nào đó ở Washington nói chuyện thẳng mấy ai đó ở tận Baltimo. Họ biểu ông ta nói "Thượng đế đã rèn tạo cái gì?" Cơ mà con chả hiểu rõ đích xác cái đó nghĩa là gì".

Mọi cái đầu quanh bàn ăn quay cả về phía Matilđa, chuyên gia về Kinh Thánh của họ, xong xem vẻ chị cũng bối rối. "Tui… à, tui không dám chắc", chị phân vân nói, "dưng mà có lẽ tui chưa đọc thấy gì về cái đó trong Kinh Thánh".

"Mẹ à, cách nầy hay cách khác" Tôm nói, "xem ra cái í chả có dính dáng gì đến Kinh thánh cả. Đấy chỉ là chuyện gì đó nói mấy nhau tít xa qua không khí".

Nó hỏi có ai ở đây biết là mấy tháng trước đây, Tổng thống Polk đã chết vì ỉa tháo tỏng ở Nasvil, bang Tennexi và Tổng thống Zatseri Têilơ đã lên kế tục.

"Cái í ai nấy đều biết rồi!" Joóc-Gà thốt ra.

"À, ra nhà anh biết nhều thế mà chả bao giờ nói cho tui nghe" Bà Xerơ gay gắt nói.

Tôm nói: "Người da trắng, nhất là đám trẻ con, hát dững bài bắt chước chúng ta, cơ mà lại do một mexừ Xtiphân Fôxtơ đặt". Tôm hát chút ít câu nó nhớ được trong các bài "Ông già Jô da đen", "Ngôi nhà cũ kỹ của tôi ở Kentắcki" và "Ông chủ nằm trong lòng đất lạnh, giá lạnh".

"Rành là nghe có cái gì giống dư nhọ thật!" Bà nội Kitzi kêu lên.

"Ông Aizêiơ biểu là mexừ Fôxtơ, khi đang nhớn bỏ bao nhiêu thì giờ nghe nhọ hát ở nhà thờ mấy lị ở quanh các tàu thủy và các bến tầu" Tôm nói.

"Hèn nào!" Matilđa nói, "Dưng mà con có nghe thấy có ai trong dân nhọ ta làm gì không?"

"À, có ạ", Tôm nói và nó kể là những người da đen tự do đem việc đến đặt ông Aizêiơ đã nói chuyện nhiều về những người da đen trứ danh ở miền Bắc đấu tranh chống chế độ nô lệ, đi các nơi nói chuyện với những đám cử tọa rất đông, hỗn hợp da trắng lẫn da đen làm cho họ rơi nước mắt và hoan hô, bằng cách kể lại cuộc đời nô lệ của mình cho đến khi thoát ách, trở thành tự do. "Chả hạn có một người tên là Fridirich Đơgơx", Tôm nói, "họ biểu ông ta hồi bé là một nô lệ ở Merơlơn, ông ta tự học biết đọc, biết viết và cuối cùng làm việc, dành được đủ tền mua tự do cho mình khỏi tay ông chủ", Matilđa ném một cái nhìn đầy ý nghĩa về phía Joóc-Gà trong khi Tôm kể tiếp. "Họ biểu dân chúng tụ họp hàng trăm người ở bất kỳ chỗ nào ông í nói chuyện và ông í đã viết một quyển sách, thậm chí còn ra một tờ báo nữa".

"Có cả lền bà phụ nữ nổi tiếng nữa cơ, mẹ ạ". Tôm nhìn Matilđa, Bà Nội Kitzi, và bà Xerơ, và kể chuyện một người nô lệ cũ tên là Xojơnơ T’ruth: nghe nói bà ta cao hơn một mét tám, bà ta cũng nói chuyện trước những đám đông nghìn nghịt những người da trắng và da đen, mặc dầu bà ta không biết đọc cũng chẳng biết viết.

Bật dậy từ chỗ ngồi của mình, Bà Nội Kitzi bắt đầu hoa chân múa tay như điên. "Ngay bi giờ mới thấy mình cần phải lên miền Bắc, tự mình nói chuyện ít buổi". Bà làm bộ điệu như đang đứng trước một đám cử tọa lớn. "Dân da trắng các người hãy nghe Kitzi đây! Tui không muốn cái sự bí bét nầy nữa! Dân nhọ chúng tui ớn và chán ngấy kiếp nô lệ rồi".

"Mẹ ơi, thằng nhỏ biểu người phụ nữ í dững mét tám cơ! Mẹ chưa đủ cao!" Joóc-Gà vừa nói vừa cười rống lên, trong khi những người khác quanh bàn nhìn anh trừng trừng, giả vờ phẫn nộ. Buồn thỉu, Bà Nội Kitzi lại ngồi xuống.

Tôm lại kể cho họ nghe về một phụ nữ nô lệ thoát ách trứ danh khác. "Bà ta tên là Hariét Tớpman. Không kể xiết bao nhiêu lần bà í xuống Nam đưa hàng xốc người dư chúng ta đến tự do trên Bắc, đi bằng cái lối họ gọi là "Đường Sắt Bí Mật". Thực tế, bà í làm thế nhều đến nỗi họ nói bi giờ người da trắng treo giải đáng giá bốn mươi nghìn đôla cho ai bắt được bà í, sống hay chết cũng được".

"Lạy Chúa lòng thành, không thể tưởng tượng được là người da trắng lại trả nhều tền đến thế để bắt một người nhọ nào trên đời" bà Xerơ nói.

Nó kể là ở một bang xa tít gọi là Califoniơ, nghe đồn hai người da trắng đang xây một nhà máy cưa thì phát hiện ra một kho vàng nhiều quá sức tưởng tượng ở dưới đất và hàng nghìn người bèn đổ xô - bằng xe tải, cưỡi la hoặc thậm chí cuốc bộ đến cái chỗ mà người ta đồn rằng có thể lấy xẻng mà xúc vàng.

Cuối cùng nó nói những cuộc tranh luận lớn về chế độ nô lệ đang diễn ra giữa hai người da trắng tên là Xitphân Đơglơx và Abraham Lincôn.

"Hai người í, ai về phe nhọ?" Bà Nội Kitzi hỏi.

"Đâu dư là mexừ Lincôn, con chỉ biết có đến thế" Tôm nói.

"Thế thì cầu Chúa ban cho ông í sức mạnh!" Kitzi nói.

Chép chép răng, Joóc-Gà đứng dậy vỗ vỗ cái bụng căng và quay sang Tôm: "Nầy nhỏ, mầy mấy tau đi dạo cho dãn cẳng, tiêu bớt cái bữa ăn nầy đi tí chăng?"

"Thưa bố, vâng" Tôm nói gần như lắp bắp, cố lắm mới giấu được vẻ kinh ngạc và làm ra bộ thản nhiên.

Cánh phụ nữ, cũng sửng sốt không kém, đưa mắt nhìn nhau, vẻ giễu cợt, đầy ý nghĩa, khi Joóc-Gà và Tôm cùng đi xuôi con đường. Xerơ khẽ kêu: "Lạy Chúa, thằng bé đã gần to bằng bố rồi!" Jêimz và Luyx đăm đăm nhìn theo bố và anh trai, thèm đến gần phát ốm, song chẳng dại gì mà đi theo. Nhưng hai đứa con gái bé nhất, Kitzi con và Meri, thì không thể không nhẩy cẫng lên và bắt đầu lò cò theo sau, cách độ tám hoặc mười bước.

Không cần ngoái lại nhìn chúng, Joóc-Gà ra lệnh: "Quay về đằng kia giúp mẹ rửa bát đĩa!"

"Eo bố!" hai đứa đồng thanh léo nhéo.

"Cút, tau đã bẩu mà!"

Quay nửa người lại, âu yếm, nhìn hai đứa con gái, Tôm mắng yêu chúng: "Các em không nghe thấy bố nói à. Tí nữa ta sẽ gặp nhau".

Với những tiếng phàn nàn của hai đứa con gái đằng sau lưng, họ lặng lẽ bước tiếp một quãng ngắn, rồi Joóc-Gà nói, gần như càu nhàu: "Nầy, chắc mầy hiểu bố chỉ trêu mầy tí trong bữa ăn, chứ chả có ác ý gì chứ?"

"À, vâng", Tôm nói, trong thâm tâm lấy làm ngạc nhiên trước thái độ gần như xin lỗi của bố. "Con biết bố đùa thôi".

Joóc-Gà làu bàu nói: "Ta đi tiếp xuống ngó qua lũ gà cái chăng? Để xem cái thằng Joóc-con vô tích sự í mắc chuyện gì ở đấy lâu thế. Theo tau biết, chưa chừng bi giờ nó thịt mấy con gà, nấu lên đánh chén mừng Lễ Tạ Ơn cũng nên".

Tôm cười: "Joóc-con tốt đấy, bố ạ. Anh í chỉ chậm chạp thế thôi. Anh í từng biểu con anh í cũng yêu gà dư bố" Tôm dừng lại một chút, rồi quyết định đánh bạo nêu ý nghĩ tiếp theo của mình: "Con cho rằng trên đời không có ai yêu gà dư bố".

Nhưng Joóc-Gà sẵn sàng nhất trí khá nhanh: "Dù sao cũng không ai thế trong cái gia đình này. Bố đã thử tất cả bọn nó rồi - trừ con. Tuồng dư tất cả lũ con trai còn lại của bố đều muốn suốt đời kéo cầy từ đầu nầy đến đầu kia cánh đồng, ngước mắt lên chỉ thấy mông con la!" Anh ngẫm nghĩ một lát: "Nghề rèn của mày, nói cho đúng ra, cũng chưa phải là sống cao sang gì - không gì bằng chọi gà - dưng mà chí ít nó cũng là một công việc lền ông".

Tôm tự hỏi liệu cha mình có thực sự tôn trọng cái gì ngoài gà chọi không. Nó cảm thấy rất mừng là đã thoát bằng cách nào đó và đi vào cái nghề rèn vững vàng, ổn định. Song nó diễn đạt ý nghĩ của mình một cách quanh co.

"Con thấy làm ruộng chả có gì xấu, bố ạ. Nếu không có người làm ruộng, chắc không ai có ăn. Con chọn theo nghề rèn cũng dư bố ưng chọi gà, là vì con thích nó và Chúa cho con cái khiếu í. Rành không phải tất cả mọi người cùng thích một thứ dư nhau".

"Ờ, chí ít bố mấy con còn biết đường làm ra tền trong khi làm cái mình thích", Joóc-Gà nói.

Tôm trả lời. "Hiện mới có bố thôi. Con thì còn phải vài năm nữa mới kiếm được, khi nào con học nghề xong và đi làm cho ông chủ - nghĩa là nếu ông í cho con một ít trong số tền làm ra, dư ông í làm với dững gì bố được cá khi chọi gà hạ cấp!"

"Chắc chắn là ông í sẽ cho thôi!" Joóc-Gà nói. "Ông chủ không đến nỗi xấu như mẹ mầy, bà nội mầy mấy các cô bác í thích rêu rao đâu. Ông í có dững thói cách thường tình, rành là thế! Mầy chỉ cần biết cách đánh vào mặt tốt của ông chủ, dư tau í - cứ làm cho ông í tưởng mình coi ông í là một ông chủ loại thượng lưu đối đãi tốt với nhọ". Joóc-Gà ngừng một lát. "Cái mexừ Ơxkiu ở chỗ mầy làm í - mày có biết ông í cho lão nhọ Aizêiơ bao nhêu tền công rèn không?"

"Đâu dư mỗi tuần một đôla" Tôm nói. "Con nghe vợ ông Aizêiơ biểu mỗi tuần ông chồng đưa bà í chừng nấy để để dành, và bà í để dành từng xu một".

"Chọi gà thì chưa đầy một phút đã được hơn thế!" Joóc-Gà kêu lên rồi kìm lại.

"Được, dù sao, khi mầy về đây rèn cho ông chủ, chuyện tền nong cứ để mặc tau. Tau sẽ nói chuyện để ông í biết cái mexừ Ơxkiu í bủn xỉn dư thế nào mấy cánh nhọ".

"Vâng ạ"

Joóc-Gà có cái cảm giác kỳ lạ là anh thực sự muốn bảo đảm tranh thủ được sự liên mình - thậm chí, sự đồng tình thôi - của riêng đứa này trong số sáu con trai, không phải vì có cái gì không ổn với năm đứa kia và mặc dù thằng cu nầy xuề xòa nhất đám, đừng có hòng thấy nó diện cái gì đại loại như một chiếc khăn quàng xanh với mũ quả dưa đen điểm chiếc lông chim dài; mà chỉ vì rõ ràng thằng Tôm nầy có những phẩm chất về ý thức trách nhiệm không phải ngày nào cũng gặp được, cũng như một sức mạnh và bền bỉ cá nhân khác thường.

Họ tiếp tục im lặng đi một lát nữa, rồi bất thần, Joóc-Gà hỏi: "Có bao giờ, mầy nghĩ đến chuyện làm rèn vì mình không nhỏ?"

"Bố định nói gì? Cách nào mà con làm thế được, hở bố?"

"Có bao giờ mầy nghĩ đến chuyện để dành tền mầy sẽ kiếm ra để mua lấy tự do cho mình không?"

Thấy Tôm ngẩn tò te không trả lời được, Joóc-Gà tiếp tục nói:

"Mấy năm trước, vào dạo đẻ Kitzi, một đêm tau mấy mẹ mầy ngồi tính thử xem mua tự do cho cả gia đình nhà mình thì hết bao nhiêu, theo giá nhọ hồi í. Phải tới quãng sáu mươi tám trăm đôla…"

"Úi" Tôm lắc lư đầu.

"Nghe tau nầy!" Joóc nói: "Rành là một đống của. Dưng mà từ dạo í đến giờ, tau đã ra sức đi chọi gà hạ cấp đến nát xương lòi da cho mẹ mầy để dành tền được cá của tau. Không được nhều dư tau trù tính lúc bắt đầu, dưng mà dù sao cũng tạm, chả ai biết trừ mẹ mầy mấy tau - bây giờ thêm mầy nữa - bà í đã có hơn một nghìn đôla bỏ hũ chôn ở quanh sân sau!" Joóc-Gà nhìn Tôm. "Bố nghĩ…"

"Cả con nữa, bố ạ!" một ánh mắt long lanh trong mắt Tôm.

"Nghe đây, nhỏ!" Giọng Joóc-Gà thúc bách hơn. "Nếu bố cứ tiếp tục được cá dư trong mấy mùa qua thì đến lúc mầy bắt đầu rèn cho ông chủ, ắt phải có thêm ba, bốn nghìn nữa được cất giấu".

Tôm hăm hở gật đầu. "Và bố ạ, với cả hai bố con mình cùng làm ra tền, một năm mẹ có thể chôn giấu đến năm, sáu trăm cũng nên!" nó phấn khởi nói.

"Phải!" Joóc-Gà thốt lên. "Cứ đà í, trừ phi giá nhọ cao vọt lên, có thể chúng mình đủ tền để mua tự do cho cả gia đình, trong vòng độ… để bố tính xem…"

Cả hai cùng bấm đốt ngón tay, tính toán. Lát sau, Tôm kêu lên: "Độ mười lăm năm".

"Mầy học ở đâu mà tính nhanh vậy? Mầy thấy ý tau thế nào, nhỏ?"

"Bố ạ, con sẽ hục đầu vào rèn, làm chết thôi! Giá bố biểu con từ trước!"

"Với hai bố con, tau biết là làm được mà!" Joóc-Gà nói, mặt tươi hơn hớn. "Làm cho cái gia đình nầy thành cái gì chứ lị! Tất cả chúng ta lên Bắc, nuôi nấng dững con, cháu, dư con người sinh ra là phải được thế! Mầy bẩu sao, nhỏ?"

Càng xúc động sâu sắc, Tôm và Joóc-Gà đang sôi nổi nắm lấy vai nhau thì đúng lúc ấy, họ quay lại, thấy cái dáng chắc mập của Joóc-con tiến lại gần, vừa ì ạch chạy, vừa gọi to: "Tôm! Tôm!", miệng cười toác rộng gần hết mặt. Hổn hển tới kịp bố và em trai, thở không ra hơi, ngực phập phồng, nó nắm lấy tay Tôm lắc rối rít, vỗ lưng bồm bộp và đứng ngây đó hết khò khè lại nhe răng cười, mồ hôi làm đôi má phúng phính bóng nhẫy lên. "Rất… mừng… được… gặp… em… Tôm!" Cuối cùng, nó nói đứt quãng.

"Cứ bình tĩnh, nhỏ!" Joóc-Gà nói, "Kẻo không có sức mà ăn cỗ".

"Con … chả… bao… giờ… mệt… đến… không… ăn… được…bố… ạ!"

"Vậy sao không lên ăn đi" Tôm nói, "Chúng mình gặp nhau sau. Bố mấy em đang nói chuyện cần".

"Thôi… được… lát… nữa… gập… em" Joóc-con nói, không chờ giục thêm, quay đầu hướng về xóm nô.

"Tốt hơn là ba chân bốn cẳng lên!" Joóc-Gà hò với theo. "Không biết mẹ mầy giữ được bọn em mầy bao lâu để chúng nó khỏi ăn hết dững gì còn lại?"

Nhìn Joóc-con bắt đầu lạch bạch chạy, Tôm và bố ôm bụng cười cho đến lúc nó biến mất ở khúc quành, vẫn tăng tốc độ.

"Tốt hơn là ta cứ tính mười sáu năm nữa, ta mới được tự do" Joóc-Gà nói, hổn hển.

"Sao thế?" Tôm hỏi, chợt lo lắng.

"Cứ cái cách thằng nhỏ nầy phàm ăn thế, chỉ nuôi nó đến lúc í cũng mất đứt một năm thu nhập!"

Chương 103

Trong trí nhớ của Joóc-Gà, không gì gây nhộn nhạo trong giới chọi gà miền Bắc Carôlina bằng cái tin lan truyền nhanh chóng hồi cuối tháng 11 năm 1855 rằng mexừ Juét giầu bự đang đón tiếp thượng khách là một tay chơi gà chọi có chức tước, cũng giầu như ông ta, từ nước Anh sang, mang theo qua đại dương ba mươi con trong số gà "Nòi Anh Cát Lợi cổ" thuần chủng, nghe nói là giống gà chọi hay nhất hiện có. Theo tin này, vị khách người Anh, Ngài C. Eric Roxel, đã nhận thiếp mời của mexừ Juét mang gà mình đến chọi với một số gà hay nhất ở Mỹ. Vì lẽ, với tư cách là bạn lâu năm, họ không muốn đấu với nhau, nên mỗi ông sẽ đưa ra hai mươi con gà để chọi với bất kỳ bốn mươi con nào được chọn ra thách đấu, với điều kiện là tập thể các chủ gà này sẽ đặt trước nửa số 30.000 đôla là tiền cá chính thức, ngoài ra, những món cá phụ tối thiểu được phép trên mỗi con là 250 đôla. Một tay chơi chọi gà đại phú khác ở địa phương tình nguyện đứng ra tổ chức tập hợp bốn mươi gà thi đấu - chỉ nhận của mỗi người năm con, trong số bảy chủ gà khác ngoài bản thân ông ta.

Với mexừ Liơ, thực ra ông chẳng cần phải nói với người luyện gà kỳ cựu của mình rằng ông đang nhắm nhe một phần của khoản cá khổng lồ này.

"Thế đấy", ông nói lúc trở về đồn điền sau khi gửi bưu điện tấm phiếu 1.875 đôla của mình, "chúng ta có sáu tuần để luyện năm con gà".

"Vâng thưa ông, cháu nghĩ có thể làm được việc í", Joóc-Gà trả lời, cố hết sức làm như không bị kích động mà không được. Ngoài nỗi hồi hộp sâu sắc của bản thân - mới nghĩ đến một cuộc thi đấu như vậy, đã thấy rạo rực cả người - Joóc-Gà còn hân hoan nói với cuộc họp mặt gia đình xóm nô rằng ông cảm thấy như chỉ riêng sự phấn khởi đã khiến cho mexừ Liơ trẻ ra đến hai mươi lăm tuổi. "Rành là họ đặt cá cao cho cánh hạ cấp ra rìa hết!" ông kêu lên. "Ông chủ biểu rành đây là khoản tền cá to nhất ông chưa bao giờ thấy ở đâu lên xấp xỉ dư thế - thực ra thì là khoản to thứ nhì ông từng nghe thấy".

"Gớm, còn có cuộc chọi gà nào to hơn thế này nữa!" bác Pompi kêu lên.

Joóc-Gà nói: "Ước chừng hai mươi năm trước, cái ông Nicơlơx Arinhtơn giầu nứt đá đổ vách gần Nasvil, bang Tennexi, đem mười một xe tải phủ kín, hăm hai người mấy ba trăm gà, đi cùng khắp không biết bao nhêu bang, qua mặt cả cướp, cả Anhđiêng, đủ mọi thứ, cho đến khi tới Mêhicô. Họ đem chọi với ba trăm con gà khác của tổng thống Mêhicô là một ông tướng Xanta Ana lắm tền đếm không xuể, lại xưng xưng thề rằng mình nuôi được dững con gà chọi hay nhất thế giới. Chà, ông chủ biểu cuộc đấu gà của hai người kéo suốt một tuần liền. Đặt cược to đến nỗi tền bỏ chật một cái tủ đứng! Ông chủ còn biểu cá phụ cũng sạt nghiệp dững tay giàu hạng nhất. Rốt cuộc, cái mexừ Arinhton ở Tennexi í được quãng nửa triệu đôla! Ông ta gọi gà của mình là "Tôni què", lấy tên của tay nhọ què luyện gà cho ông là Tôni. Còn cái ông tướng Xanta Ana tổng thống Mênicô nọ thì muốn có một con "Tôni què" làm giống, cay cú đến nỗi xin mua nó bằng giá vàng cân!"

"Bi giờ tui mới thấy giá mình đi vào nghiệp chọi gà có phải hơn!" bác Pompi nói.

Hầu hết sáu tuần sau, họa hoằn lắm mới thấy Joóc-Gà và mexừ Liơ ở đồn điền. "May mà ông chủ cứ ở liền dưới í với gà, vì bà chủ đang cáu dư điên!" bà Malizi nói với mọi người ở xóm nô, vào cuối tuần thứ ba. "Tui nghe thấy bà la ông tru tréo về chuyện rút nhà băng ra ba nghìn đôla. Thấy bà í biểu chỗ nầy gần bằng nửa số hai vợ chồng dành dụm suốt đời, rồi bà í gào thét và làm ỏm tỏi cả lên vì nỗi ông chồng cứ cố đua đòi mấy dững mexừ giàu thật là giàu, nhều tền gấp nghìn lần ông í." Sau khi quát bà vợ im mồm và hẵng lo lấy công việc thổ tả của chính mình đã, ông chủ hiên ngang bước ra khỏi nhà, bà Malizi kể vậy.

Lầm lì nghe, không nói câu gì, là Matilđa và gã Tôm hai mươi hai tuổi; bốn năm trước Tôm đã trở về đồn điền, dựng một cửa hàng thợ rèn đằng sau chuồng ngựa, nơi anh hiện đang làm ăn phát đạt vì lợi ích của mexừ Liơ, khách ra vào tấp nập. Tức sôi sùng sục, Matilđa đã tâm sự với con trai về chuyện Joóc-gà hùng hổ đòi lấy số tiền để dành hai nghìn đôla đã cất giấu, để giao cho ông chủ đặt cá trên đám gà nhà. Matilđa cũng đã tru tréo và khóc lóc, cố gắng một cách tuyệt vọng để phân giải điều hơn lẽ thiệt cho Joóc-Gà, "Cơ mà ông í cư xử cứ dư hóa dại!" bà nói với Tôm. Ông í quát mẹ: "Nầy mụ, ta biết từng con gà nhà nầy từ lúc nó còn trong trứng. Có ba, bốn con không loài có cánh nào đánh nổi. Ta không thể bỏ qua dịp may nầy để nhân lên đúng gấp đôi dững gì chúng ta đã dành dụm được, thật mau lẹ, một con gà của ta đá chết một con là xong! Chỉ hai phút, đã có thể đỡ mất thêm tám, chín năm bòn từng đồng, dành dụm để chuộc lại tự do!"

"Mẹ à, con biết mẹ đã biểu bố là nếu gà mình thua thì lại phải bắt đầu để dành lần nữa!" Tôm đã thốt lên như vậy.

"Không phải mẹ chỉ nói mấy ông í có thế! Mẹ đã cố hết sức mình tọng vào đầu ông í rằng ông í không có quyền đánh bạc mới tự do của chúng ta! Cơ mà ông í nổi điên lên thật sự, gầm thét: "Không cách nào bọn ta thua được! Mụ đưa tền của ta cho ta!" và Matilđa đã phải làm theo, bà kể với Tôm thế, mặt đờ đẫn.

Ở khu gà chọi, Joóc-Gà và mexừ Liơ đã hoàn thành việc lọc loại từ mười bảy con trong đàn gà ở bãi thả lấy mười con - mười con gà chọi hay tuyệt, chưa từng thấy đối với cả hai. Rồi họ bắt đầu luyện bay cho mười con đó, mỗi ngày tung chúng một cao hơn, cho tới khi, cuối cùng, tám con trong số này bay được độ mười hai thước mới phải đặt chân xuống đất. "Y dư thể chúng ta đang luyện gà tây rừng í", Joóc-Gà cười khanh khách.

"Chúng nó sẽ cần phải là diều hâu để đọ lại với gà của Juét và vị khách người Anh ấy", ông chủ nói.

Khi cuộc đấu lớn chỉ còn cách một tuần nữa, ông chủ cưỡi ngựa đi và cuối ngày hôm sau, ông trở về với sáu đôi cựa thép Thụy Điển vào loại tốt nhất có thể kiếm được dài và sắc như dao cạo, đầu nhọn như mũi kim.

Sau lần đánh giá phê phán cuối cùng hai ngày trước trận đấu, cả tám con đều hoàn hảo đến nỗi không thể phân định năm con nào trội nhất. Thành thử ông chủ đành quyết định mang đi cả tám và đến phút chót sẽ chọn trong đám ấy.

Ông ta bảo Joóc là sẽ lên đường vào nửa đêm hôm sau để đến nơi đủ sớm cho cả người lẫn gà đều được nghỉ ngơi lại sức sau chặng đường dài, và sảng khoái bước vào trận đấu. Joóc-Gà biết ông chủ cũng ngứa ngáy nôn nóng muốn mau chóng tới đó như mình.

Cuộc hành trình dài bằng xe tải trong đêm tối diễn ra bình thường không có sự kiện gì đặc biệt. Trong khi lái xe, mắt uể oải nhìn chiếc đèn treo ngời sáng lắc lư ở đằng mũi xe giữa hai con la, Joóc-Gà ngẫm nghĩ với những cảm giác xáo trộn về cuộc va chạm tình cảm vừa rồi giữa mình với Matilđa xung quanh chuyện tiền nong. Ông bực dọc nghĩ về việc cái món tiền ấy là kết quả bao năm kiên trì dành dụm thì ông còn biết rõ hơn bà chứ lại: nói cho cùng, chẳng phải những thắng lợi liên tiếp của ông trong các cuộc đấu hạ cấp, hết trận nọ đến trận kia, đã kiếm ra nó hay sao. Hẳn ông không lúc nào cảm thấy Matilđa chưa tròn phận sự làm vợ, nên ông tiếc là mình đã phải thét lác át giọng bà, khiến bà nháo nhác đến thế, như ông chủ cũng buộc phải làm thế trong đại sảnh, nhưng mặt khác, có những khi người chủ gia đình phải dứt khoát hạ những quyết định cứng rắn, quan trọng chứ. Ông lại như nghe thấy tiếng kêu đầy nước mắt của Matilđa: "Joóc, anh không có quyền đánh bạc mới tự do của tất cả chúng ta!" Làm sao mà bà chóng quên đến thế rằng chính ông là người đầu tiên đề ra ý kiến cóp nhặt sao cho đủ để mua lại tự do cho cả nhà! Và sau ngần nấy năm dành dụm chậm rề rề, giờ đây ông chủ tâm sự rằng ông ta cần thêm tiền mặt để cá phụ trong những trận đấu sắp tới, không phải chỉ nhằm phô trương trước các mexừ phú quý, trưởng giả hợm hĩnh kia, mà còn nhằm vơ tiền của họ nữa, thì đó chẳng phải vận trời cho thì còn là gì? Joóc-Gà nhe răng cười một mình, khoái chá nhớ lại vẻ kinh ngạc tột độ của mexừ Liơ khi nghe thấy ông nói: "Cháu có độ hai nghìn đôla tền để dành, ông có thể dùng để cá, ông chủ ạ". Trấn tĩnh lại sau phút sửng sốt, mexừ Liơ đã thực sự nắm lấy tay người luyện gà của mình lắc đi lắc lại, hứa sẽ cho Joóc-Gà nhận tất cả tiền được giải trong những khoản cá dùng đến tiền của ông, và tuyên bố: "Mày phải nhân gấp đôi số tiền đó, muốn thế nào thì thế!" Ông chủ lưỡng lự một chút rồi hỏi : "Nhỏ này, rồi mày làm gì với bốn nghìn đôla?"

Lúc đó, Joóc-Gà đã quyết định đánh một nước bài thậm chí còn lớn hơn nước trước, bộc lộ lý do tại sao dành dụm lâu thế và ráo riết thế. "Ông chủ ạ, ông đừng có hiểu nhầm gì cháu, cháu dặt chỉ có tình cảm tốt nhất mấy ông mà thôi, ông chủ ạ. Dưng mà cháu mấy Tilđa mới nói chuyện và thưa ông chủ, chúng cháu đã quyết định thử xem có thể mua lại của ông cả vợ chồng con cái và sống tự do nốt những ngày còn lại hay không!" Thấy mexừ Liơ rõ ràng bị bất ngờ, Joóc-Gà lại nài nỉ : " Lạy Chúa, xin ông chớ hiểu nhầm chúng cháu, ông chủ"…

Nhưng, bấy giờ - và đây là một trong những trải nghiệm nồng ấm nhất trong đời Joóc-Gà - mexừ Liơ bèn nói: "Này nhỏ, ta sẽ nói cho con biết ta nghĩ gì về cuộc chọi gà chúng ta sắp tham gia. Ta đồ rằng nó là cuộc chọi lớn cuối cùng của ta. Thậm chí ta nghĩ là con không hiểu, ta nay đã bảy mươi tám tuổi rồi. Hơn năm mươi năm, mùa nào ta cũng ngược xuôi lo lắng nào nuôi gà, nào chọi gà. Ta ớn chuyện ấy rồi. Con nghe ta chứ? Ta nói cho con biết, nhỏ ạ! Với phần cược chính và các khoản cá phụ của ta, ta hy vọng được một món đủ để xây cho vợ chồng ta một ngôi nhà nữa - không phải là tòa lâu đài lớn như ta đã từng muốn một thời, mà chỉ năm sáu buồng mới, chúng ta chỉ có thế thôi. Và trước lúc con nêu vấn đề thì ta cũng chưa nghĩ tới, song quả thật đến lúc bấy giờ, cũng chả cần nuôi cả một đống nhọ chúng mày làm gì. Chỉ cần Xerơ và Malizi cũng có thể nấu nướng và chăm nom vườn tược cho tốt để chúng ta sống vào đó và có kha khá tiền ở nhà băng, khỏi phải xin xỏ ai cái gì"…

Joóc-Gà gần như nín thở trong khi mexừ Liơ nói tiếp: "Cho nên ta sẽ nói cho con biết thế này, nhỏ ạ! Các con đã hầu hạ ta tốt và chưa hề gây rắc rối thực sự cho ta. Ông con ta sẽ thắng lớn cuộc chọi gà này, ít ra là gấp đôi số tiền của cả hai ta, phải, con chỉ cần đưa ra số tiền con sẽ có, bốn nghìn đôla, thế là giữa chúng ta coi như xong! Và mày cũng biết như ta là đám nhọ nhà mày đáng giá gấp đôi thế! Tình thật, ta chưa nói cho con biết chuyện này bao giờ, có lần cái lão nhà giàu Juét đã xin mua riêng mày với giá bốn nghìn đôla mà ta từ chối phăng, cho lão tưng hửng! Phải, cả bọn mày có thể được tự do nếu đó là điều mày muốn!"

Đột nhiên ứa nước mắt, Joóc-Gà đã nhảy bổ tới định ôm chầm lấy mexừ Liơ, nhưng ông này bối rối né nhanh sang một bên. "Ôi, Lạy Chúa ông chủ, ông có biết ông đang nói gì không? Chúng con muốn được tự do xiết bao!" Giọng mexừ Liơ đáp lại khàn đi một cách kì lạ. "À, ta không biết bọn nhọ chúng bay, khi được tự do, sẽ làm gì nếu không ai để mắt tới bọn bay. Và ta biết bà vợ ta sẽ làm rinh thiên địa về chuyện ta cứ buông tha bọn bay, dù thế nào mặc lòng. Mẹ kiếp, riêng cái thằng Tôm thợ rèn đã đáng đứt hai nghìn rưởi, chưa kể nó còn kiếm tiền tốt cho ta nữa!"

Ông chủ dúi mạnh Joóc-Gà một cái. "Cút đi, nhọ, trước khi ta thay đổi ý kiến! Mẹ kiếp! Hẳn là ta điên! Nhưng ta hy vọng vợ mày và mẹ mày cùng cả bọn nhọ nhà mày thấy ra là ta không đến nỗi xấu như ta biết chúng đã thường nghĩ".

"Ồ, không ạ, không ạ, thưa ông chủ, cảm ơn ông, dạ thưa ông chủ! Joóc - Gà luýnh quýnh lui lại trong khi ông chủ vội vã bỏ đi ngược con đường về phía đại sảnh.

Hơn lúc nào hết, giờ đây Joóc-Gà những muốn giá cuộc đụng độ gay gắt với Matilđa đừng xảy ra. Giờ đây, ông quyết định tốt nhất là cứ giữ kín điều bí mật đắc ý của mình để cho Matilđa, bà mẹ Kitzi của ông và cả gia đình, khi biết mình được tự do, sẽ hoàn toàn bị bất ngờ một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, tâm tư như muốn bung ra với điều bí mật đó, mấy lần ông suýt ngỏ với Tôm, song cứ đến phút cuối cùng, ông lại thôi, vì mặc dầu đã là người lớn hẳn hoi Tôm vẫn gần gũi cả mẹ lẫn bà đến mức có thể kể lại với họ đồng thời bắt họ thề giữ kín, thế là lộ bét. Lại nữa, làm thế sẽ có thể khuấy động trong bọn họ một vấn đề rất bầy nhầy là, theo lời ông chủ nói, họ sẽ phải bỏ các bà Xerơ, Malizi, và bác Pompi ở lại, mà những con người này có khác nào gia đình thân quyến họ.

Cho nên suốt những tuần chờ đợi, Joóc-Gà, tù hãm với điều bí mật của mình, đành dốc hết tâm lực, vùi đầu vào việc rèn giũa đến mức hoàn hảo tuyệt đối tám con gà chọi chung tuyển hiện đang yên ổn trong lồng đằng sau ông và mexừ Liơ, trong cỗ xe thửa đồ sộ đang lăn bánh trên con đường cô quạnh xuyên qua đêm tối. Chốc chốc, Joóc-Gà lại tự hỏi không biết mexừ Liơ trầm lặng một cách khác thường này đang nghĩ gì.

Đến rạng sáng, trong ánh ban mai, họ trông thấy một đám người rất đông, sặc sỡ màu sắc; mặc dầu còn sớm thế, đám này chẳng những đã đứng chật kín khu chọi gà, mà còn tràn sang cả một cánh đồng cỏ bên cạnh, tại đó chẳng bao lâu đã ùn ùn những xe tải, xe ngựa, xe la, xe bò cùng với những chú la và ngựa khịt mũi ầm ĩ.

"Tôôm Liơ!" Một tốp "cách cơ" nghèo gọi to khi vừa trông thấy ông chủ từ cỗ xe đồ sộ trèo xuống. "Cho họ biết tay, Tôôm!" Trong khi đội lại chiếc mũ quả dưa đen cho chỉnh, Joóc-Gà nhìn thấy ông chủ thân ái gật đầu với họ, song vẫn tiếp tục đi thẳng. Ông biết ông chủ phân vân giữa bối rối và tự hào, trước danh tiếng của mình trong đám "cách cơ". Thực vậy, sau nửa thế kỷ chơi chọi gà, mexừ Liơ đã thành một huyền thoại ở bất kỳ nơi nào có đấu gà, vì ngay cả ở cái tuổi bảy mươi tám, bản lĩnh điều khiển gà trên bãi chọi của ông dường như vẫn không giảm sút.

Joóc-Gà chưa bao giờ nghe thấy một hỗn tấu những tiếng gà chọi quang quác inh ỏi đến như thế, trong khi ông bắt đầu tháo dỡ đồ lề để vào cuộc. Một nô lệ luyện gà, đi qua dừng lại, nói cho ông biết là trong đám đông, có nhiều người đã đi nhiều ngày từ các bang khác tới, thậm chí cả từ Florida. Vừa nói chuyện vừa liếc mắt ngó quanh, Joóc-Gà thấy khu vực mọi khi dành cho người xem đã mở rộng hơn gấp đôi, vậy mà đã chen chúc những người đến xí chỗ. Trong số những người liên tục đi qua chỗ xe đỗ, ông thấy những bộ mặt lạ, cả da trắng lẫn da đen, cũng lắm như những diện mạo quen thuộc và ông lấy làm hãnh diện khi nhiều người thuộc cả hai chủng loại, khẽ huých đồng bạn và thì thào, hiển nhiên là đã nhận ra ông.

Sự náo nức nhộn nhạo của đám đông ngổn ngang ấy càng dâng lên cao hơn nữa khi ba giám khảo đến bãi chọi và bắt đầu đo đạc, đánh dấu những vạch xuất phát. Một tiếng lao xao khác nổi lên khi một con gà chọi của ai đó xông ra và lồng lộn tấn công mọi người trên đường chạy trốn của nó thậm chí làm một con chó kêu oăng oẳng, mãi cho đến lúc nó bị dồn vào một góc và bắt lại. Và cứ mỗi khi thấy và nhận ra bất kỳ ai trong số những tay chơi chọi gà nổi tiếng trong vùng tới - đặc biệt số còn lại trong đám người sẽ đấu với các mexừ đăng cai Juét và Raxel - tiếng ồn ào của đám đông lại tăng rộ lên.

"Tôi chưa bao giờ thấy người Anh nào cả, còn ông?" Joóc-Gà nghe hóng thấy một người da trắng nghèo hỏi một người khác, tay này đáp là mình cũng vậy: Ông cũng nghe thấy người ta nói chuyện về sự giàu có của vị chức sắc người Anh này, không những ông ta có một điền trang khổng lồ ở nước Anh, mà còn nắm những tài sản phong phú ở những nơi gọi là Xcốtlen, Ailen và Hamaica nữa. Và nghe nói mexừ Juét đã hãnh diện khoe với bạn bè là vị khách của mình sẵn sàng cho gà xuất trận bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu, với bất kỳ đấu thủ nào, nhận bất kỳ khoản cược nào.

Joóc-Gà đang băm nhỏ mấy quả táo để cho gà ăn thì đột nhiên tiếng ồn ào của đám đông rộ lên thành một tiếng gào thét - và đứng vội lên trong xe, ông nhận ra chiếc xe ngựa hai chỗ rủ trướng của mexừ Juét đang tiến lại gần, theo tay lái của gã xà-ích da đen mặt lúc nào phớt tỉnh. Đằng sau là hai mexừ đại phú mỉm cười và vẫy tay với đám đông xô ra bám dày đặc quanh họ đến nỗi đôi tuấn mã tương xứng với cỗ xe sang trọng phải chật vật mới tiến lên được. Và theo sau không xa là sáu chiếc xe tải đầy những chuồng gà cao nghễu nghện, chiếc đầu do gã da trắng luyện gà cho mexừ Juét lái; ngồi cạnh gã này là một người da trắng gầy gò, mũi nhọn mà Joóc-Gà nghe lỏm thấy một người đứng gần đó bảo rằng vị chức sắc giàu có người Anh dã đưa qua đại dương sang đây chỉ cốt để chăm nom đàn gà của ông.

Nhưng bản thân nhà quý phái thấp tè, vóc người chắc nịch, da dẻ đỏ đắn và ăn vận kỳ cục mới là trung tâm chú ý chủ yếu của đám đông xoay quanh nhộn nhịp, trong khi ông ta sóng đôi với mexừ Juét cưỡi xe song mã đi qua, cả hai đều có mẽ của bậc yếu nhân, thậm chí quý tộc nữa, ngoài ra vị khách Hồng mao coi bộ còn tỏ ra tí chút khinh khi và kiêu kỳ đối với đám đông chen vai thích cánh dưới đất.

Joóc-Gà đã dự quá nhiều cuộc chọi gà, nên ông quay về với công việc xoa bóp chân, cánh cho lũ gà mình, biết chắc qua kinh nghiệm rằng những âm thanh khác nhau của đám đông sẽ mách bảo ông về mọi thứ xảy ra, không cần phải nhìn. Chẳng mấy chốc, một người trọng tài hô to để dẹp mọi tiếng hò hét, huýt còi và la ó quấy loạn, chứng tỏ nhiều người trong đám đã nốc tới số những be rượu của mình.

Rồi ông nghe thấy thông báo đầu tiên: "Ông Frêđ Ruđôlf ở Uyliêmxtao chọi con gà đỏ của mình với con xám đốm của ngài C.Eric Raxel ở nước Anh".

Rồi: "Lắp cựa!".

Và rồi: "Buông gà!" và tiếng hò reo của đám đông tiếp theo là một sự im lặng kinh hãi đột ngột, cho ông biết rõ ràng, như thể ông đang theo dõi bằng mắt, rằng con gà của vị khách Hồng mao đã mau chóng thắng cuộc. Trong khi mỗi người trong số tám chủ gà thách đấu lần lượt xuất năm con của mình để chọi xen kẽ với một con hoặc của mexừ Juét hoặc của vị khách người Anh, Joóc-Gà chưa bao giờ nghe thấy rộn tiếng cá phụ om sòm như thế trong đời và các cuộc đấu khẩu giữa đám người xen cùng tiếng trọng tài hô hào im lặng, lắm lúc cũng sôi nổi không kém những trận đọ sức trong sân chọi. Thỉnh thoảng, tiếng ồn ào của khán giả mách cho ông Joóc-Gà đang bận rộn biết rằng cả hai con gà cùng bị thương tới mức trọng tài phài ngưng trận đấu để các chủ gà chữa chạy cho chúng trước khi tiếp tục đấu. Bằng vào một cách gào rú đặc biệt của đám đông, Joóc có thể nói đúng những lần hiếm hoi gà của một trong hai nhà phú hộ bị thua, và ông bứt rứt tự hỏi chừng bao nữa đến lượt mexừ Liơ. Joóc đoán là các giám khảo định thứ tự các đấu thủ bằng cách bốc thăm những mảnh giấy ghi tên của họ đặt trong một cái mũ.

Ông cũng muốn xem đấu cụ thể, ít nhất là một lát, song còn biết bao chuyện gay go! Ông không thể ngắt quãng việc xoa bóp, dù chỉ trong một lúc. Ông thoáng nghĩ đến món tiền kếch xù, trong đó một phần là những năm ăn nhịn để dành của bản thân ông, mà ông chủ chỉ nhăm nhăm chờ cược trên chính những con gà đang được ông nhẹ nhàng lần ngón tay nắn bóp từng bắp thịt. Mặc dù sẽ chỉ có năm con được chọn ra đấu, nhưng không thể đoán được là năm con nào, nên cả tám con đều phải sẵn sàng tột độ và trong điều kiện tối ưu về thể chất. Joóc-Gà không mấy khi cầu nguyện trong đời, nhưng giờ đây ông đang làm điều đó. Ông cố hình dung nét mặt Matilđa sẽ ra sao khi, thoạt tiên, ông trở về và ném vào lòng bà món tiền chí ít cũng đã tăng gấp đôi, rồi sau đó, khi ông đề nghị bà tập hợp cả gia đình lại để báo tin là họ đã được TỰ DO.

Rồi ông nghe thấy trọng tài hô: "Năm con gà thách đấu tiếp theo là của ông Tôm Liơ ở quận Caxuel và sẽ do ông điều khiển!"

Tim Joóc nhảy thót đến họng! Chụp chiếc mũ quả dưa chặt hơn trên đầu, ông nhảy xuống khỏi xe, biết là ông chủ sắp đến chọn gà, đầu tiên ngay tức khắc.

"Tôôôôôôôm Liơ!". Chùm lên tiếng ồn ào của đám đông, ông nghe thấy những người cách-cơ hò tên ông chủ. Rồi những tiếng la khàn khàn quấy đảo ào lên, khi một tốp người nhô ra khỏi đám đông, vây quanh ông chủ. Đi giữa bọn họ tới chỗ chiếc xe, ông khum tay trên miệng và cố át tiếng huyên náo, hét vào tai Joóc: "Những tay này sẽ giúp chúng ta đem tất cả gà đến cạnh bãi chọi".

"Vâng, thưa ông chủ".

Joóc lại nhảy trở lên xe, chuyền tám cái chuồng gà xuống cho những người bạn da trắng nghèo của ông chủ, trong óc vụt nghĩ rằng trong ba mươi bảy năm theo nghiệp chọi gà, ông chưa bao giờ hết ngạc nhiên trước vẻ ngoài hoàn toàn bình tĩnh, thản nhiên của mexừ Liơ trong những lúc căng thẳng như hiện giờ. Rồi tất cả bọn kéo về phía bãi chọi, xuyên qua đám đông, mexừ Liơ mang con gà tuyệt đẹp màu vàng sẫm mà ông đã chọn để chọi đầu tiên và Joóc-Gà đi sau cùng, xách chiếc giỏ đựng các phương thuốc cấp cứu, da bụng của thỏ rừng, một mớ lá thường xuân tươi, xáp glixêrio, một búi mạng nhện và dầu thông. Càng đến gần bãi chọi, càng phải xô đẩy dữ mới tiến được, trong khi vang lên bên tai họ những giọng say bét nhè: "Tôôôm Liơ!" hoặc đôi khi: "Đây là gã nhọ Joóc-Gà của ông í!" Và Joóc có thể cảm thấy những con mắt sờ mó mình như những ngón tay, điều đó thật dễ chịu song ông vẫn tiếp tục vừa tiến bước vừa nhìn thẳng trước mặt, cố làm ra vẻ tình bơ như ông chủ.

Và Joóc-Gà trông thấy vị chức sắc người Anh thấp bè bè thản nhiên đứng cạnh bãi chọi, cánh tay trái gập lại kẹp một con gà rất đẹp, trong khi đôi mắt cảnh giác đánh giá cái đám rước nhỏ đang dinh lũ gà khiêu chiến tới. Sau những cái gật đầu cộc lốc trao đổi với mexừ Liơ, Raxel đặt con gà của mình lên bàn cân và người trọng tài xướng: "Năm (pao) mười lăm (ao-xơ) 1. Bộ lông xanh của con gà đẹp mã óng lên như bạc dưới ánh mặt trời.

Rồi ông chủ bước lên với chú gà vàng sẫm của mình, một trong những con được Joóc-Gà đặt biệt ưa thích. Nó cường lực, man dại, cổ ngọ nguậy như con rắn chuông, cặp mắt đằng đằng sát khí, và nó sôi sục muốn được thả ngay. Khi người trọng tài hô: "Chẵn sáu (pao)" đám người da trắng nghèo hâm mộ và bợm rượu bèn hò reo cứ như thể chênh lệch một (ao-xơ) ấy có nghĩa là thắng rồi. "Tôôôôôm Liơ! Xơi tái ngài Anh - cát - lị í đi, Tôm! Ngông nghênh lắm cơ! Hạ cho y ta xuống nước đi một nấc nào!"

Rõ ràng những người đặt biệt hâm mộ mexừ Liơ đã thực sự túy lúy càn khôn và Joóc-Gà thấy cả ông chủ lẫn vị khách người Anh đều đỏ rừ mặt lên vì bối rối trong khi họ quỳ xuống buộc cựa sắt cho gà của mình, vờ như không nghe thấy gì. Thế nhưng những tiếng hò càng to lên và thô lỗ hơn "Y ta chọi gà hay chọi vịt đấy nhỉ?"... "Khôồng, đấy là gà biết bơi mà!"... "Phải! Y ta nuôi nó bằng cá đấy!" Mặt vị khách người Anh đầy vẻ phẫn nộ. Người trọng tài đã bắt đầu lao tới lao lui, giận dữ vung tay hét lớn: "Xin quý vị!". Nhưng tiếng cười chế giễu chỉ lan rộng thêm và những lời châm chọc trở nên cay độc hơn: "Y ta mặc áo choàng đỏ nhằm cái trò vè gì nhỉ?", "Y ta có chơi chọi cáo nữa không nhỉ?"..."Khôồng, y quá chậm chạp, lạch bạch như con ôpốt 2 ấy "..."Giống con ếch ộp hơn!"..."Tôi nom y giống như con chó săn ấy!"

Mexừ Juét sải bước ra, giận dữ tới giáp mặt người trọng tài, hai tay chém vào không khí, nhưng những lời ông chìm đi trong tiếng hô đồng thanh: "Tôômm Liơ...! Tôômmmmm LIƠ...!". Lúc này cả các giám khảo cũng nhập với trọng tài lăng xăng hết chỗ này sang chỗ khác, vung cánh tay, giơ nắm đấm và thét lác liên hồi: "Cuộc chọi gà sẽ ngừng lại nếu không im lặng!"… "Các người muốn thế đấy chứ, phải tiếp tục đi!". Dần dà, những tiếng kêu la và cười cợt say khướt bắt đầu từ từ dịu xuống. Joóc-Gà thấy mặt mexừ Liơ như phát ốm vì bối rối và cả vị khách Hồng mao lẫn mexừ Juét đều nhợt nhạt đến tột độ.

"Ông Liơ!" Khi vị khách người Anh đột ngột cất cao giọng bật ra tiếng ấy, đám đông hồ như im bặt ngay tức thì.

"Ông Liơ, cả hai chúng ta đều có những con gà tuyệt diệu như thế này ở đây tôi không biết ông có ưng cùng tôi làm một quắn cá phụ đặc biệt của riêng chúng ta hay không?

Joóc-Gà biết là tất cả trong số hàng trăm người đang chen chúc xung quanh đều cảm thấy như ông cái giọng hằn học và hạ cố của vị khách Hồng mao đằng sau cung cách lịch sự của hắn. Gáy của ông chủ - Joóc thấy thế - bỗng đỏ lên vì tức giận.

Câu trả lời cứng nhắc của mexừ Liơ đến trong vài giây sau: "Cái đó cũng hợp ý tôi, thưa ngài. Ngài đề nghị đặt bao nhiêu?"

Vị khách Hồng mao nín thinh. Vẻ như ông ta đang cân nhắc vấn đề trước khi nói. "Liệu mười nghìn đôla có đủ không?"

Ông ta để cho đợt sóng ồ! à! hào hển tràn khắp đám đông rồi: "Có nghĩa là, trừ phi ông không tin lắm ở triển vọng của gà mình, thưa ông Liơ". Ông ta đứng nhìn ông chủ nụ cười mỏng môi rành rành lộ vẻ khinh bỉ.

Tràng sấm cảm thán ngắn ngủi của đám đông mau chóng xẹp xuống thành một im lặng ghê sợ; những người vừa nãy ngồi, giờ đứng hẳn lên. Tim Joóc-Gà như ngừng đập. Như một tiếng vang xa xăm, ông nghe thấy bà Malizi thuật lại cơn tam bành của bà chủ Liơ, bà ta gào lên rằng cái món năm nghìn đôla ông chủ đã rút ở nhà băng là "ngót nghét số tiền dành dụm suốt cả đời họ". Cho nên Joóc-Gà biết mexừ Liơ không thể cả gan nhận cá. Nhưng liệu ông có thể trả lời thế nào để khỏi bị nhục nhã cực kỳ trước cái đám đông gồm hầu hết những người ông quen biết này? Chia sẻ nỗi quằn quại của ông chủ mình, Joóc-Gà thậm chí không dám nhìn ông nữa. Dường như một thiên thu đã trôi qua, rồi Joóc-Gà chợt nghi ngờ tai mình.

Giọng mexừ Liơ căng thẳng: "Thưa ngài, liệu ngài có bằng lòng gấp đôi số ấy không? Hai mươi nghìn!"

Toàn thể đám đông trút ra những tiếng kêu hoài nghi giữa lao xao chuyển động náo nức. Hoàn toàn kinh hãi Joóc-Gà hiểu rằng món tiền ấy là tất tật cả vốn liếng mexừ Liơ có ở trên đời, nhà cửa ruộng đất và nô lệ của ông ta cộng thêm số tiền tiết kiệm của Joóc-Gà. Ông trông thấy vẻ kinh ngạc tột độ của người Anh trước khi mau chóng trấn tĩnh lại, bộ mặt giờ đây nghiêm nghị và dữ tợn. "Một bậc thượng võ chân chính! Y thốt lên, chìa tay cho mexừ Liơ "Xin nhận cá, thưa ngài! Nào ta hãy lắp cựa cho gà!"

Lúc bấy giờ, Joóc-Gà đột nhiên hiểu ra: mexừ Liơ biết là con gà vàng sẫm tuyệt vời của mình sẽ thắng. Chẳng những ông chủ phút chốc trở nên giàu có, mà chiến thắng quyết định này sẽ khiến ông mãi mãi là một huyền thoại anh hùng đối với tất cả những người cách-cơ, một biểu tượng có thể thách thức và đánh bại cả những mexừ trưởng giả, giàu sang phú quí! Từ nay, không kẻ nào trong bọn họ còn thể nhìn Tôm Liơ dưới tầm con mắt nữa!

Giờ đây, mexừ Liơ và vị khách Hồng mao cúi khom khom ở hai bên đối diện của sân chọi và trong khoảnh khắc đó, Joóc-Gà như thấy cả cuộc đời con gà của ông chủ vụt lướt qua tâm trí mình. Ngay từ khi còn là một con gà nhép, những phản xạ nhanh không tưởng tượng được của nó đã khiến Joóc chú ý từ đầu; rồi đến lúc choai choai, tính hung hãn kỳ lạ của con gà tơ này khiến nó luôn luôn tìm cách tấn công những con khác qua những kẽ rào của chuồng; và gần đây khi dược rút về từ bãi thả, trong mấy giây, li leo nữa thì nó giết chết con mồi già, trước khi nó bị chặn lại. Ông chủ đã chọn con gà này vì biết ngón đánh của nó sắc sảo, xông xáo và sâu biết bao. Chỉ thoáng trong nửa giây, Joóc-Gà lại như nghe thấy Matilđa phẫn uất kêu: "Anh còn điên hơn cả ông chủ! Tệ lắm thì kết cục ông í cũng chỉ đến lại trở thành một cách-cơ là cùng, dưng mà đàng này anh đánh bạc với tự do của cả gia đình trên mấy con gà!"

Rồi ba giám khảo bước ra, chiếm lĩnh vị trí đồng đều quanh sân chọi. Người trọng tài lấy tư thế rón rén như đang đứng trên trứng. Phảng phất một không khí tựa hồ như mọi người ở đây đều biết họ sắp được chứng kiến một cái gì sẽ là đầu đề để họ chuyện trò bàn tán cho đến hết đời. Joóc-Gà trông thấy ông chủ mình và lão người Anh ghìm đôi gà căng thẳng xuống, cả hai bộ mặt đều ngẩng lên theo dõi môi người trọng tài:

"Buông!"

Con gà xanh óng bạc và con gà sẫm loang loáng lao vào nhau, đâm sầm thật mạnh và nhảy lùi lại. Vừa chạm chân tới đất, cả hai lập tức tâng lên không, cố phóng đòn trúng vào những chỗ hiểm của nhau. Mỏ táp, cựa vung ào ào với một tốc độ lóa mắt, Joóc-Gà ít gặp trên sân chọi cặp gà nào đánh nhau dữ tợn như vậy. Bất thình lình con xanh óng bạc của lão người Anh bị trúng đòn, con gà của ông chủ đã phập sâu một cựa vào một xương cánh của nó, chúng mất thăng bằng ngã xuống, cả hai cùng vùng vẫy để gỡ chiếc cựa bị mắc trong khi mổ rất ác vào đầu nhau.

"Săn sóc! Ba mươi giây!" Tiếng hô của trọng tài chưa dứt, cả vị khách người Anh lẫn mexừ Liơ đã nhảy vào: chiếc cựa gỡ ra rồi, hai người vuốt mớ lông đầu rối bù của gà mình cho mượt lại, rồi đặt chúng trở lại vạch xuất phát, lần này giữ đuôi chúng. "Chuẩn bị." … "Buông!"

Một lần nữa, đôi gà lại gặp ở tầm cao ngang nhau trên không cả hai bộ cựa cùng tìm đánh một đòn chí tử nhưng đều không đạt trước khi hạ xuống đất. Con của ông chủ lao tới định đánh ngã địch thủ, nhưng con gà Anh làm một động tác giả xuất sắc, né sang bên, khiến đám đông hồ như nghẹn thở trong khi con gà của ông chủ nhào qua với tất cả sức mạnh vô tác dụng. Trước khi nó ngoắt lại, con gà Anh đã bổ tới, chúng điên cuồng quần nhau lăn lộn trên mặt đất, rồi lại đứng dậy được, lồng lộn, mỏ chọi mỏ, vừa rời ra lại quật cánh thật mạnh vào nhau bên trên hai cặp chân đá túi bụi. Chúng lại nhảy lên không, rồi lại hạ xuống đánh nhau dưới đất với một khí thế cuồng nộ mới.

Một tiếng kêu nổi lên! Con gà Anh đã đánh con kia chảy máu. Một vết sẫm loang loang lộ ra trên ngực con gà của ông chủ. Nhưng nó nện mạnh địch thủ bằng những đòn cánh cho đến khi con này loạng choạng và nó chồm lên để hạ thủ. Nhưng một lần nữa con gà Anh lại né đỡ xuất sắc, tránh kịp và thoát hiểm. Joóc-Gà chưa từng chứng kiến những phản xạ nhanh quá sức tưởng tượng như thế bao giờ. Nhưng lúc này, con gà của ông chủ xoáy lộn dũng mãnh đến độ đủ sức đánh con gà Anh ngã ngửa. Nó đánh trúng ngực con này hai lần, làm chảy máu, nhưng con gà Anh xoay xở thế nào lại phóc được lên trên không và lao xuống đánh con gà của ông chủ vào cổ.

Joóc-Gà đã nín thở theo dõi hai con gà máu me đầm đìa vẫn đá nhau, xoay vòng, đầu cúi thấp, mỗi con đều tìm một khe hở. Trong một pha quần thảo đột ngột, quay tít mù, con gà Anh thắng thế, dùng cánh ra đòn tới tấp, đôi cựa lại đánh tóe thêm máu, thế rồi kỳ lạ đến mức khó tin, con gà của ông chủ bỗng vọt lên không và khi hạ xuống, phóng một cựa vào trúng tim con gà Anh, nó gục xuống thành một mớ lông, máu ộc ra đằng mỏ.

Điều đó xảy ra nhanh đến nỗi khoảng một giây sau tiếng ồn ào mới bùng lên như sấm rậy. Những gã đàn ông mặt đỏ gay la thét, nhảy lên nhảy xuống: "Tôôm! Tôôm! Ông ta đã thắng!" Joóc-Gà quá đỗi sung sướng, trông thấy họ xúm lại quanh ông chủ, đấm thùm thụp vào lưng ông, chộp lấy tay ông lắc lấy lắc để: "Tôôm-Liơ! Tôôm-Liơ! Tôm LIƠ!"

Chúng ta sắp được tự do, Joóc-Gà tiếp tục nghĩ. Cái thực tế là chẳng mấy nữa ông sẽ nói vậy với gia đình mình, dường như không thể tin được. Ông thoáng thấy lão người Anh bạnh quai hàm ra khiến người ta nghĩ đến một con chó bò 3.

"Ông LIƠ" Có lẽ không gì khác có thể khiến đám đông im lặng nhanh chóng đến thế.

Lão người Anh đang bước; lão dừng lại cách ông chủ độ ba thước. Lão nói: "Gà của ông đánh cừ lắm. Kể ra con nào cũng có thể thắng…Đây là cặp gà kỳ phùng địch thủ hoàn hảo nhất mà tôi từng thấy! Tôi nghe nói ông là loại người thượng võ khả dĩ dám gộp cả tiền được lẫn vốn để cá tiếp một keo khác giữa gà của chúng ta".

Mexừ Liơ đứng đó, mặt trắng nhợt đi.

Trong mấy giây liền, tiếng cục cục, quàng quạc của những con gà chọi nhốt trong chuồng là âm thanh duy nhất người ta nghe thấy, trong khi đám người đông nghịt cố gắng lĩnh hội được cái tiềm năng của đôi gà chọi thi đấu với tám mươi nghìn đôla đặt cược ai thắng sẽ vơ tuốt…

Những cái đầu quay về phía mexừ Liơ. Ông có vẻ ngỡ ngàng phân vân. Trong một phần giây đồng hồ, luồng mắt của ông chạm vào Joóc-Gà đang ráo riết chạy chữa cho con gà bị thương. Joóc-Gà cũng giật thót như những người khác khi nghe thấy giọng của chính mình: "Gà của ông đánh được mọi thứ gì có lông vũ, thưa ông chủ!" Một biển mặt da trắng xoay về phía Joóc.

"Tôi nghe nói gã da đen trung thành của ông là một trong số những tay luyện gà cự phách nhất, nhưng ở vào địa vị ông, tôi sẽ không quá tin vào ý kiến hắn. Tôi cũng có những gà khác rất hay".

Những lời đó thốt ra như thể nhà phú hộ Anh coi thất bại vừa rồi của mình khác nào một ván bi, như thể lão đang trêu tức mexừ Liơ vậy.

Thế rồi mexừ Liơ nói, giọng hết sức trang trọng "Vâng thưa ngài. Như ngài đề nghị, tôi vui lòng để cả món tiền chuyển sang cá vào một trận khác".

Mấy phút hoạt động chuẩn bị tiếp theo đó qua đi gần như mờ mờ ảo ảo đối với Joóc-Gà. Không một tiếng động nào phát ra từ đám đông xung quanh. Trước nay chưa từng có gì như thế. Tất cả bản năng của Joóc-Gà đều đồng tình khi mexừ Liơ đưa ngón tay trỏ chỉ vào cái chuồng nhốt con gà vốn đã được Joóc đặt cho một biệt hiệu từ trước. "Vâng thưa ông, con Diều hâu", ông thì thào, biết rất cụ thể rằng con này thiên về miếng chộp và giữ địch thủ bằng mỏ trong khi dùng cựa chém. Đó sẽ là cách trị những con gà được luyện tránh né tinh thông, như trận đấu trước đã khiến người ta nghĩ đó có thể là đặc điểm trong đàn gà của vị khách Hồng mao.

Ẫm con "Diều hâu" trong tay, mexừ Liơ đi ra chỗ lão người Anh cầm một con gà chắc nịch màu xám đậm. Đưa lên cân trước khi vào trận, cả hai cùng nặng sáu (pao).

Khi tiếng "Buông!" vang lên, mang tới chấn động mong đợi, thay vì nhảy lên không, chả hiểu sao cả hai con đều phang nhau những đòn cánh dữ dội và Joóc-Gà nghe thấy con "Diều hâu" táp mỏ sắc một miếng giữ đích đáng… đang đòn đi đòn lại thì không biết thế nào, con gà Anh đánh trúng một cựa khủng khiếp. Còn gà của ông chủ loang choạng và đầu nó rũ xuống mềm oặt một lúc trước khi ngã gục, miệng há ra trào máu.

"Ôi lậy Chúa! Ôi lạy Chúa! Ôi lạy Chúa! Ôi lạy Chúa!" Joóc-Gà lao như tên bắn gạt mọi người sang bên, bổ nhào vào bãi chọi hình tròn. Rống lên như trẻ con, bế thốc con "Diều hâu" hiển nhiên là bị tử thương, ông hút máu động nơi mỏ nó trong khi nó thoi thót yếu ớt hấp hối trên tay ông. Ông chật vật đứng dậy, nỗi đau ồn ào dữ dội của ông khiến những người đứng gần nhất phải lùi lại trong khi ông loạng choạng đi xuyên đám đông trở về xe, tay ẵm con gà chết.

Quanh quanh bãi chọi, một nhóm điền chủ đang rối rít vỗ lưng chúc mừng vị khách người Anh và mexừ Juét. Cả bọn họ đều quay lưng lại cái bóng đơn độc, rũ rượi của Me xừ Liơ đang đứng chôn chân, đờ đẫn nhìn xuống những vệt máu trong sân chọi.

Cuối cùng ngài C. Eric Raxel quay lại, bước tới chỗ me xừ Liơ, và me xừ Liơ chậm rãi ngước lên.

"Ngài nói sao?" ông lẩm bẩm.

"Thưa ngài, tôi nói rằng chỉ tại hôm nay không phải là ngày đại cát của ngài thôi."

Me xừ Liơ cố tạo ra được cái vệt bóng của một nụ cười.

Ngài C. Eric Raxel nói: "Về chuyện cá thì thế này. Cố nhiên, không ai mang theo những món tiền lớn như thế trong túi. Tại sao ta không giải quyết vào ngày mai nhỉ? Cho là một lúc nào đó trong buổi chiều đi…" Ông ta dừng lại một lát. "Sau giờ dùng trà, tại nhà ông Juét".

Tê tái, me xừ Liơ gật đầu: "Vâng thưa ngài".

Chặng đường về nhà mất hai tiếng đồng hồ. Cả ông chủ lẫn Joóc-Gà đều không hé răng nói một lời. Đây là cuộc hành trình dài nhất bằng xe mà Joóc-Gà từng đi, ấy thế mà nó vẫn chưa đủ dài, khi chiếc xe rẽ vào lối đi trong đồn điền…

Khì mexừ Liơ từ nhà Mexừ Juét trờ về vào lúc sẩm tối ngày hôm sau, ông thấy Joóc-Gà đang trộn thức ăn cho lũ gà con trong lều đựng đồ dự trữ, nơi ông đã qua phần lớn thời gian từ lúc những tiếng la thét, rền rĩ than khóc của Matilđa, cuối cùng, đã khiến ông phải trốn khỏi căn nhà gỗ nhỏ của họ.

"Joóc", ông chủ nói "ta có điều đau lòng nói với anh". Ông dừng lại lựa chữ tìm lời. "Ta hồ như không biết nói sao đây. Nhưng anh đã biết đấy, ta chả lấy đâu ra ngót nghét số tiền mà người ta tưởng ta có. Sự thực là, trừ mấy nghìn, hòm hèm toàn bộ sở hữu của ta chỉ gồm có ngôi nhà, mảnh ruộng đất này và một số nô lệ các người."

Ông í sắp bán bọn ta, Joóc mang máng cảm thấy thế.

"Khốn nỗi", ông chủ nói tiếp, "thậm chí tất cả những thứ ấy cũng chỉ được vào khoảng một nửa số ta nợ lão chó đẻ giời đánh thánh vật ấy. Nhưng lão đã mở cho ta một đường thoát". Ông chủ lại ngần ngừ. "Anh đã nghe lão bảo đã nghe đồn về anh như thế nào đấy, và hôm nay lão nói lão đã thấy được tài luyện gà của anh qua cả hai con đem ra đấu"…

Ông chủ hít một hơi thật sâu. Còn Joóc-Gà thì nín thở "Ờ, tuồng như lão cần thay một tay luyện gà lão mất ở bên Anh cách đây ít lâu và lão nghĩ mang về một gã nhọ luyện gà kể cũng hay". Ông chủ không đủ sức nhìn vào đôi mắt nghi ngờ của Joóc và đâm ra cộc lốc hơn. " Để khỏi kéo dài chuyện bầy nhầy này, lão ta bằng lòng lấy tất cả tiền mặt ta có, hai đợt cầm giữ ngôi nhà này để thế nợ - đợt một và đợt hai - và mang anh về bên Anh dùng cho đến khi anh luyện được một người khác, coi thế là xong nợ. Lão ta bảo là không quá hai năm đâu".

Ông chủ cố ép mình nhìn thẳng vào mặt Joóc-Gà "Không thể nào nói được ta đau đớn biết chừng nào về chuyện này, Joóc ạ… Ta không có cách nào khác. Lão ta xử với ta thế, cũng là nương nhẹ. Nếu ta không làm theo thì sẽ lụn bại, mọi thứ ta đã làm lụng suốt đời để gầy dựng nên đều đổ xuống sông xuống biển hết".

Joóc không sao tìm ra lời để nói. Ông có thể nói gì kia chứ? Dù sao, ông cũng là nô lệ của ông chủ.

"Bây giờ, ta biết anh cũng khánh kiệt và ta muốn bù đắp lại phần nào cho anh. Cho nên, ngay đây ta hứa với anh là trong khi anh đi vắng, ta sẽ trông nom vợ con anh. Và ngày anh trở về…".

Mexừ Liơ ngừng lại, luồn tay vào túi rút ra một tờ giấy gấp, giở nó ra và chìa trước mặt Joóc-Gà.

"Biết đây là cái gì không? Đêm qua, ta ngồi viết nó đây. Con đang nhìn thẳng vào văn bản hợp pháp xác nhận cho con được tự do, nhỏ ạ! Ta sẽ giữ nó trong két sắt của ta để trao cho con, ngày con trở về!"

Nhưng sau khi nhìn trừng trừng một lúc vào những dòng chữ bí ẩn phủ kín tờ giấy trắng vuông vức, Joóc-Gà vẫn tiếp tục vật lộn để chế ngự cơn giận dữ của mình. "Ông chủ ạ", ông bình tĩnh nói, "trước tui định mua cả nhà tui tự do! Bi giờ tất cả mọi thứ tui có đã đi tong, còn tui thì ông tống khứ tận đâu đâu bên kia biển nước, xa vợ xa con. Sao ông không thể chí ít là thả cho mẹ con nó tự do ngay bi giờ, rồi sau đến tui, khi tui trở về?".

Đôi mắt Mexừ Liơ him him, "Ta không cần mày dạy ta phải làm gì, nhỏ ạ!" Không phải lỗi tại ta mà mày mất món tiền ấy! Dù sao ta vẫn tự nguyện làm quá nhiều cho mày, ấy cái phiền nhiễu với bọn nhọ là thế! Tốt hơn, là mày hãy cẩn thận cái mồm mầy!" Mặt ông chủ đỏ dần lên. "Nếu mày không ở với ta cả đời ở đây thì ta đã thẳng thừng mà làm và bán quách cái đít nhọ của mày đi cho xong".

Joóc nhìn ông, rồi lắc đầu: "Nếu cả đời tui có chút ý nghĩa gì mới ông, thì thưa ông chủ, sao ông lại còn làm nó thêm rối beng lên thế nữa?"

Mặt ông chủ rắn đanh lại: "Hãy gói ghém bất cứ thứ gì mày định mang theo! Thứ bảy, mày sẽ lên đường sang Anh".

Chương 104

Joóc-Gà đi rồi, số may mắn đi theo và có lẽ cả nghị lực của ông cũng đi nốt, vận của Mexừ Liơ cứ thế tiếp tục suy. Mới đầu, ông ra lệnh cho Joóc-con chuyển sang dành cả thời gian hằng ngày chăm nom gà, song mới đến cuối ngày thứ ba, ông chủ đã thấy các cóng nước ở một số chuồng gà con cạn khô và gã Joóc-con bầu bĩnh, chậm chạp bèn bị tống cổ với những lời đe dọa ghê gớm. Sau đó, đứa con trai út, Luyx, mười chín tuổi, được chuyển từ làm đồng về nhận công việc đó. Để chuẩn bị cho mấy cuộc chọi còn lại trong mùa, giờ đây Mexừ Liơ buộc lòng phải đích thân làm hầu hết công việc bồi sức và luyện gà trước kỳ thi đấu, vì cho đến nay, Luyx hoàn toàn không biết xoay sở ra sao. Cu cậu theo ông chủ đến các cuộc đấu ở nhiều địa phương khác nhau và những ngày ấy, cứ tối đến, gia đình lại tụ tập chờ Luyx về kể lại mọi chuyện xảy ra.

Gà của ông chủ thua nhiều hơn thắng, bao giờ Luyx cũng nói vậy, và lát sau, lại kể thêm là nó nghe hóng thấy nhiều người nói chuyện công khai rằng ông Tôm Liơ phải tìm cách vay tiền để đánh cá. "Xem vẻ chả mấy ai muốn nói chuyện mấy ông chủ. Họ chỉ nói qua quít hoặc vẫy nhanh một cái rồi tiếp tục đi cứ dư ông bị mắc dịch í".

"Phải, ôn dịch bắt họ đi, bi giờ chả họ biết là ông í nghèo mà", Matilđa nói "Ông í xưa nay vưỡn chỉ là cách cơ mà thôi" bà Xerơ sẵng giọng.

"Cái ông già í chưa bao giờ bẳn tính đến thế!" một đêm, bà Malizi kể vậy với đám cử tọa lầm lì. "Ông í sục sặc trong nhà dư con rắn, hò hét và chửi thề nếu bà chủ chỉ nhìn ông í thôi. Và khi ông đi vắng, cả ngày bà í ở trong nhà kêu la rằng bà í thậm chí không bao giờ muốn nghe nói đến gà nữa!"

Matilđa ngồi nghe, lòng cạn khô xúc động qua bao khóc lóc và cầu nguyện từ khi Joóc-Gà của bà đi khỏi. Bà đưa mắt điểm qua mấy đứa con gái ở tuổi vị thành niên và sáu con trai lớn khỏe mạnh trong đó ba đã có vợ con. Rồi tia nhìn đó quay lại ngưng trên người con trai thợ rèn, Tôm, như thể bà muốn anh nói điều gì. Nhưng người nói lại là Lili Xiu, cô vợ bụng chửa của Vơjơl ở đồn điền Cari bên cạnh ghé qua thăm, và giọng cô nặng trĩu lo sợ. "Con chả hiểu rõ ông chủ bên này bằng các bà, dưng mà con cảm thấy ông í sắp làm cái gì thật kinh khủng, chắc chắn dư chúng ta đã sinh ra đời vậy". Im lặng đè nặng lên họ, không ai muốn phát biểu, sự phỏng đoán của mình, chút ít cũng là không muốn nói ra lời.

Sau bữa điểm tâm sáng hôm sau, bà Malizi lạch bạch từ nhà bếp hớt hải xuống cửa hàng rèn. "Ông chủ biểu cháu thắng yên con ngựa của ông í và dắt nó đi vòng ra cổng trước, Tôm ạ" bà giục, đôi mắt to rõ ràng là ướt đẫm "Lạy Chúa, nhanh lên cháu, bởi vì những điều ông í nói mí bà cụ chủ tội nghiệp rằng là chả ra sao". Chẳng nói chẳng rằng, loáng sau, Tôm đã buộc con ngựa thắng yên cương vào một cột cổng vả anh vừa bắt đầu vòng ra mé đại sảnh thì mexừ Liơ lật đật đi qua cửa trước. Mặt đã đỏ gay vì rượu, ông chật vật trèo lên lưng ngựa và phóng đi, ngật ngà ngật ngưỡng trên yên.

Qua một cánh cửa sổ nửa mở nửa khép, Tôm nghe thấy bà chủ Liơ khóc như tim sắp vỡ ra. Cảm thấy bối rối thay cho bà, anh tiếp tục đi qua sân sau đến lán thợ rèn, nơi anh vừa bắt đầu mài sắc một mũi cày bị cùn, đang làm thì bà Malizi lại đến.

"Tôm", bà nói: "Bà tiêng bố cho cháu biết khéo ông chủ rồi đến tự giết mình mất thôi, ông í cứ dư thế này mãi, gần tám mươi tuổi đầu rồi còn gì".

"Bà Malizi, bà muốn biết sự thật à", anh đáp: "Cháu cho rằng cách này hay cách khác đấy chính là điều ông í định làm!"

Mexừ Liơ trở về vào khoảng giữa chiều, theo sau là một người da trắng khác cưỡi ngựa, và từ vị trí quan sát của mình ở nhà bếp và cửa hiệu rèn, cả bà Malizi và Tôm đều ngạc nhiên thấy hai người không xuống ngựa vào đại sảnh nghỉ ngơi uống nước, như trước đây, bao giờ có khách cũng thế. Đằng này, hai con ngựa vẫn tiếp tục phi nước kiệu xuôi con đường sau nhà, hướng về phía khu gà chọi. Không đầy nửa giờ sau, Tôm và bà Malizi thấy người khách phóng nhanh trở lại một mình cặp ở nách một con gà mái chọi sợ hãi kêu cục cục và Tôm đứng ở ngoài, nên có thể nhìn thấy khá gần vẻ giận dữ của người đó khi y phi ngựa qua.

Mãi đến cuộc họp mặt thường lệ của xóm nô đêm hôm ấy, Luyx mới thuật lại những gì thực sự đã xảy ra. "Khi con nghe thấy tiếng ngựa đến", nó nói, "con cốt sao chắc chắn là ông chủ đã trông thấy mình đang làm việc, rồi mới lẩn ra sau mấy bụi cây, từ chỗ í con biết là có thể nhìn và nghe rõ mọi chuyện.

"Thế, sau khi mặc cả thật găng một hồi, họ đi đến ngã giá một trăm đôla con gà mái chọi đang ấp một lứa trứng í. Rồi con thấy người kia xỉa tền ra đếm, rồi ông chủ đếm lại trước khi bỏ vào túi. Ngay sau đấy bắt đầu một sự hiểu nhầm, tưởng ông chủ biểu dững quả trứng con mái í đang ấp cũng đi kèm luôn vào món hàng í. Thế là ông chủ bắt đầu nguyền rủa dư điên! Ông chạy tới túm lấy con gà nhấc lên và lấy chân giậm nát bét ổ trứng thành một mớ bèo nhèo! Hai người xít nữa đánh nhau, thì bất thình lình người kia giật lấy con gà và nhẩy lên ngựa, miệng hét nếu ông chủ không già khụ dư thế, thì lão ta đã choảng vỡ đầu rồi!"

Mỗi ngày qua đi, nỗi lo lắng băn khoăn của cái gia đình xóm nô càng sâu thêm và ban đêm giấc ngủ khắc khoải không yên vì không biết sắp tới còn có diễn biến gì đáng sợ nữa. Suốt mùa hè cho đến khi bước vào mùa thu năm 1855 ấy, cứ mỗi cơn thịnh nộ của ông chủ, cứ mỗi lần ông đi khỏi nhà hoặc trở về, cả gia đình bất giác lại dồn mắt vào anh chàng Tôm thợ rèn hai mươi hai tuổi, như muốn kêu gọi anh dìu dắt hướng dẫn, nhưng Tôm không đáp ứng. Sang tháng mười một mát mẻ, khi một vụ thu hoạch tốt đẹp trên khoảng sáu mươi lăm âycơ bông và thuốc lá của ông chủ khiến ông có thể bán khá tiền, một hôm thứ bảy vào lúc sẩm tối, Matilđa ngóng ở cửa sổ căn nhà gỗ nhỏ của mình cho đến khi thấy người khách cuối cùng của Tôm rời cửa hiệu rèn, và bà hối hả chạy ra đó, qua kinh nghiệm bao lâu nay, nhìn vẻ mặt mẹ, Tôm biết một điều gì đặc biệt đang làm bà bận tâm.

"Có gì thế mẹ?" anh vừa hỏi vừa bắt đầu vun lửa trong lò rèn.

"Mẹ đang nghĩ, Tôm ạ. Bi giờ, cả sáu con trai mẹ đều đã thành người nhớn rồi. Con không phải là cả, dưng mà mẹ là mẹ của con, mẹ biết con có đầu óc chín chắn nhất", Matilđa nói. "Hơn nữa, con là thợ rèn, còn bọn nó là lực điền. Cho nên, xem ra con phải là người lền ông trụ cột của gia đình này từ khi bố con đi đã tám tháng nay..." Matilđa ngập ngừng rồi thành thật nói thêm, "chí ít cũng đến khi bố về".

Tôm giật mình kinh ngạc thực sự, vì từ bé đến giờ, anh vẫn là thành viên kín đáo, dè dặt nhất trong gia đình. Mặc dầu tất cả đều sinh trưởng ở đồn điền của mexừ Liơ anh chưa bao giờ trở nên thật gần gũi với ai trong số anh em trai, chủ yếu là vì anh đã phải đi xa mấy năm học nghề thợ rèn và từ khi trở về nhà như một người trưởng thành, anh luôn ở lò rèn, trong khi các anh em trai của anh làm việc ngoài đồng. Anh càng ít tiếp xúc hơn với Vơjơl, Asfođ và Joóc-con vì nhiều lý do khác nhau. Vơjơl, nay đã hai mươi sáu tuổi, có bao nhiêu thì giờ rỗi rãi đều sang đồn điền bên cạnh với cô vợ Lili Xiu và đứa con mới đẻ đặt tên là Iuriơ. Còn Asfođ, hai mươi lăm tuổi thì xưa nay gã với Tôm bao giờ cũng xung khắc và tránh nhau, thêm nữa, Asfođ đã trở nên yếm thế hơn bao giờ hết từ khi ông chủ của cô gái mà gã cay cú muốn lấy từ chối không cho hai cô cậu nhảy chổi, ông ta gọi Asfođ là tên "nhọ kiêu kỳ". Và anh chàng Joóc-con hăm bốn tuổi, bây giờ rõ là béo ị, cũng đang lao vào mải mê tán tỉnh một chị bếp ở một đồn điền kế cận, gấp đôi tuổi mình, làm cả gia đình dè bỉu rằng cu cậu sẵn sàng cầu hôn bất kỳ ai muốn nhồi đầy dạ dầy mình.

Việc Matilđa bảo Tôm rằng bà coi anh như chủ gia đình càng khiến anh bàng hoàng hơn vì điều đó hàm ý rằng anh sẽ là người trung gian giao thiệp với mexừ Liơ mà anh vốn cố tình lảng xa, rất ít tiếp xúc cụ thể. Từ khi dựng cửa hiệu rèn, ông chủ, chả biết do đâu, bao giờ cũng có vẻ tôn trọng sự dè dặt trầm tĩnh của Tôm, cùng với khả năng hiển nhiên của anh về nghề rèn, nhờ đó khách hàng cứ ùn ùn đến ngày một đông. Bao giờ họ cũng trả ông chủ tại đại sảnh mọi công sá về các việc Tôm đã làm, và mỗi chủ nhật ông chủ phát cho Tôm hai đôla tiền công hàng tuần.

Cùng với tính trầm lặng cố hữu không muốn nói chuyện nhiều với ai, Tôm còn có khuynh hướng ngẫm ngợi đào sâu những ý nghĩ thầm kín. Không ai ngờ rằng trong hai năm nay, có khi hơn nữa, anh đã xoay đi lật lại trong đầu những điều cha anh mô tả về những triển vọng đáng phấn khởi mà "trên Bắc" phơi bày trước người dân da đen tự do, và Tôm đã cân nhắc rất kỹ ý định đề nghị với toàn thể gia đình xóm nô là, thay vì chờ đợi thêm hàng bao năm đằng đẵng để cố mua lại tự do, họ nên vạch kế hoạch cẩn thận và tiến hành một cuộc chạy trốn hàng loạt lên miền Bắc. Anh đã miễn cưỡng phải bỏ ý định ấy khi nhận ra rằng bà nội Kitzi hẳn đã ngoài sáu mươi tuổi, và các bà già Xerơ, Malizi, cũng coi như người trong gia đình, đã ngoại thất tuần. Anh cảm thấy ba người này ắt sốt sắng nhất muốn đi khỏi, song anh khó tin có bà nào sống qua được những hiểm nghèo và gian khổ của một nước bài tuyệt vọng như vậy.

Gần đây, Tôm đã thầm suy luận rằng tổn thất vừa rồi của ông chủ trong chọi gà hẳn là còn lớn hơn ông bộc lộ. Tôm đã theo dõi sát mexừ Liơ mỗi ngày một thêm căng thẳng, phờ phạc và già nua, sau mỗi chai uýtxki cạn đến đáy. Nhưng Tôm biết rằng chứng đáng lo nhất về một cái gì bất ổn sâu sắc là theo lời Luyx, đến nay, ông chủ đã bán đi ít nhất là nửa số gà của mình, mà gây được bấy nhiêu giống xoàng ra cũng phải mất nửa thế kỷ.

Rồi Nôen đến và bước sang năm mới 1856, một cái gì như một tấm màng tang chùm khắp, không chỉ riêng trên xóm nô mà trên toàn bộ đồn điền. Rồi một buổi chiều đầu xuân lại một người cưỡi ngựa xuất hiện ở lối vào đồn điền. Mới đầu, bà Malizi đánh giá y là một khách mua gà nữa. Nhưng rồi thấy ông chủ đón chào người này một cách khác hẳn, bà đâm lo. Mỉm cười và tán chuyện với người khách trong khi y xuống ngựa, ông chủ hét Joóc-con đứng gần đấy sai cho ngựa ăn, uống và dắt vào chuồng ngủ đêm, rồi mexừ Liơ ân cần hộ tống y vào nhà.

Ngay cả trước khi bà Malizi bắt đầu dọn bữa tối, ngoài xóm nô mọi người đã lo sợ hỏi nhau "Muốn gì đi nữa, cái người này là thế nào nhỉ?"... "Trước nay chưa thấy y ta bao giờ cả!"..."Gần đây, chả lần nào, ông chủ tiếp khách dư vậy!"..."Thế các người đoán y ta đến đây làm gì?". Họ gần như không đủ kiên nhẫn chờ bà Malizi đến thông báo tình hình.

"Họ nói chuyện gỉ, chuyện gì tôi nghe chả đâu vào đâu cả", bà nói "Có thể là vì có bà cụ chủ ở ngay đấy". Rồi bà Malizi nói tiếp, nhấn giọng: "Dưng mà, muốn thế nào thì thế, tui không sao ưa được cái vẻ của người này! Tui đã thấy nhiều kẻ giống dư hắn, mắt liếc ngang liếc dọc, lại cố làm ra vẻ ta đây kẽ giờ, mà thực ra không phải là thế".

Hàng chục đôi mắt ở xóm nô đang giám sát các cửa sổ ở đại sảnh thì những di động hiển nhiên của ngọn đèn nói lên rằng bà chủ Liơ đã để hai người đàn ông ở lại phòng khách và lên gác đi ngủ. Ngọn đèn phòng khách vẫn còn cháy sáng khi người cuối cùng trong gia đình xóm nô thôi không gác nữa và về giường ngủ, sợ tới giờ kẻng báo thức lúc rạng đông.

Trước bữa điểm tâm, vừa có dịp là Matilđa kéo riêng người con trai thợ rèn ra một chỗ. "Tôm, đêm qua không có dịp nào để nói riêng mấy con, mới lị mẹ chả muốn làm mọi người sợ chết khiếp, cơ mà bà Malizi biểu mẹ là bà nghe thấy ông chủ nói ông phải giả hai văn tự cầm nhà và bà Malizi biết ông chủ hồ dư không có lấy một xu! Mẹ cảm thấy đến tận đầu ngón tay rằng cái lão da trắng í là một lái buôn nhọ!".

"Con cũng vậy" Tôm nói gọn. Anh im lặng một lát "Mẹ ạ, con nghĩ với một ông chủ nào khác, chúng ta lại có thể khá khấm hơn đấy, có nghĩa là chừng nào tất cả chúng ta còn sum họp. Đấy là lo lắng lớn nhất của con".

Thấy những người khác bắt đầu ra khỏi lều để đi làm buổi sáng, Matilđa vội bỏ đi, để khỏi làm họ hốt hoảng không cần thiết bởi việc tiếp tục câu chuyện.

Sau khi bà Liơ bảo Malizi là mình đau đầu, không ăn điểm tâm, ông chủ và người khách đánh một bữa sáng ngon lành, rồi bước ra sân trước, chụm đầu chuyện trò sôi nổi. Hồi lâu, họ dạo quanh đại sảnh, vào sân sau, rồi cuối cùng tới chỗ Tôm đang thụt chiếc bễ làm lấy, phun những tia lửa vàng vàng bay lên lò rèn trong đó có hai tấm sắt bẹt đang được nung gần tới độ nóng cần thiết để gò thành bản lề cửa. Trong mấy phút liền, hai người đứng theo dõi sát Tôm dùng chiếc kìm cán dài lấy những tấm sắt đỏ rực ra. Sau khi khéo léo gấp chính giữa tấm sắt đó, quấn thật chặt quanh một chiếc cần làm khuôn cắm vào lỗ đục của cái đe mang nhãn hiệu Fisơ Norix, tạo thành ống bản lề, anh tiếp tục đục ba lỗ bắt vít vào mỗi tấm. Nhấc cái đục nguội chuôi ngắn và cái búa bốn "pao" tự rèn lấy ưa thích của anh, Tôm cắt những lá sắt thành những bản lề hình chữ H mà một khách hàng đã đặt, luôn tay luôn chân làm việc tựa hồ không biết đến sự có mặt của hai người đang quan sát anh.

Cuối cùng mexừ Liơ nói:"Nó là một tay thợ rèn cừ ra trò, chính tôi cũng phải nói thế", ông lấy giọng tự nhiên.

Người kia ầm ào tán thành. Rồi y bắt đầu đi quanh trong lán rèn, ngó nhìn những dẫn chứng nhan nhản về kỹ năng của Tôm treo ở những chiếc đinh và chốt. Đột nhiên y hỏi thẳng Tôm: "Chú mày bao nhiêu tuổi?"

"Thưa ông, bi giờ là sắp hăm ba".

"Chú mày có mấy con?"

"Thưa ông, tui chưa vợ"

"Một gã trai to, khỏe như chú mày thì chả cần vợ cũng có con rải rác khắp nơi".

Tôm chẳng nói chẳng rằng, thầm nghĩ có biết bao con cái người da trắng rải rác khắp các xóm nô.

"Có thể chú mầy là một nhọ thực sự ngoan đạo chăng?"

Tôm biết người này đang tìm cách moi chuyện anh vì một lý do gì đó - gần như chắc chắn là nhằm đánh giá để mua anh. Anh nói sắc gọn: "Tui chắc mexừ Liơ đã nói mấy ông bày tui ở đây hầu hết là một gia đình, mẹ tui, bà tui và các anh chị em tui và các cháu tui. Bầy tui ai nấy đều được dạy dỗ tin ở Thượng đế và Kinh Thánh, thưa ông".

Mắt người nọ nheo lại: "Vậy chứ ai trong bọn chú mầy đọc Kinh Thánh cho mọi người khác nghe?".

Tôm chả dại gì cho người lạ mặt mang điềm gở này biết rằng cả bà nội lẫn mẹ mình đều biết đọc. Anh nói: "Tui cho rằng bọn tui trong khi nhớn lên ai nấy đều nghe Kinh Thánh nhều đến nỗi đâm thuộc lòng, thưa ông".

Có vẻ yên tâm, người nọ quay lại chuyện lúc đầu: "Chú mầy liệu có thể lo toan công việc rèn ở một đồn điền lớn hơn thế này nhiều không?"

Tôm cảm thấy uất đến mức sắp nổ tung vì đây lại thêm một bằng chứng xác nhận việc người ta bán anh, song anh cần biết gia đình mình có được bao gồm trong đó không. Qua cơn tức giận điên người vì bị treo trong trạng thái thấp thỏm như vậy, anh lại thăm dò lần nữa: "À, thưa ông, tui mấy mọi người trong gia đình tui ở đây có thể trồng cấy và làm hầu hết mọi thứ cần thiết cho một đồn điền, tui chắc thế"...

Cũng bình tĩnh như lúc họ đến, ông chủ và người khách của mình bỏ mặc Tôm tức sôi sùng sục; họ vừa mới hướng ra đồng thì bà già Malizi đã từ nhà bếp hớt hơ hớt hải đến: "Vậy chớ dững người lền ông í nói gì thế, Tôm? Bà chủ thậm chí không dám nhìn vào mắt tao nữa".

Cố gắng ghìm giọng, Tôm nói: "Sắp có sự bán chác gì đây, bà Malizi ạ, có thể là tất cả chúng ta, dưng mà cũng có thể chỉ mình cháu thôi". Bà Malizi oà lên khóc và Tôm lắc mạnh vai bà. "Bà Malizi, việc gì phải khóc. Dư cháu biểu với mẹ cháu, khéo đến nơi mới chúng ta lại khấm khá hơn ở đây mấy ông í cũng nên". Nhưng tha hồ cố gắng, Tôm vẫn không sao làm cho bà già Malizi nguôi buồn phiền.

Cuối ngày hôm đó, những người khác ở ngoài đồng về, các anh em trai của Tôm mặt lầm lầm, u ám giữa đám phụ nữ rên khóc sướt mướt. Tất cả lập tức kể lại chuyện ông chủ cũng đã dẫn khách ra quan sát họ làm việc như thế nào, rồi người lạ mặt đi từ người nọ đến người kia đặt những câu hỏi khiến không ai còn có thể nghi ngờ gì về viêc họ đang được đánh giá để đem bán.

Đến gần sáng thì ba người trong đại sảnh không thể không nghe tiếng náo động mỗi lúc một tăng do nỗi đau buồn và kinh hãi dâng lên trong đám mười bảy con người ở xóm nô; cuối cùng, phần lớn những người đàn ông cũng phản ứng một cách cuồng loạn như phụ nữ, họ đâm lây nhau lên cơn túm lấy, ghì chặt lấy bất kỳ ai ở gần mình nhất mà la trời rằng chẳng bao lâu sẽ không còn được thấy nhau nữa. "Lạy Chúa xin cứu chúng con khỏi sự áááác nầy", Matilđa thất thanh cầu nguyện.

Sáng ra, Tôm rung chuông báo thức với một dự cảm về sự tận thế.

Bà già Malizi đi qua bên anh, tất cả đến nhà bếp đại sảnh sửa soạn bữa điểm tâm. Chưa đầy mười phút sau, bà ì ạch quay lại xóm nô, bộ mặt đen căng thẳng vì một cơn choáng váng mới và lại nhễ nhượi nước mắt: "Ông chủ biểu không ai được đi đâu. Ông biểu khi nào ông điểm tâm xong, tất cả phải tập họp ngoài này"...

Cả bác Pompi già khụ, ốm liệt cũng được đặt trong ghế khiêng ra khỏi lều khi mọi người tập họp, kinh hoàng.

Lúc mexừ Liơ và người khách quành mé đại sảnh, dáng đi chệch choạng của mexừ Liơ nói với mười bảy đôi mắt rằng ông ta còn quá chén hơn mọi khi nữa và hai người dừng lại khoảng bốn mét trước đám dân xóm nô, ông chủ bèn lớn tiếng, giận dữ, líu cả lưỡi:

"Bọn nhọ các người bao giờ cũng thò mũi vào công việc của ta, cho nên các người chẳng lạ gì là cái đồn điền này sắp đổ vỡ. Các người là gánh nặng quá lớn, ta không đương nổi nữa, cho nên ta phải bán bớt cho quý ông đây"...

Thấy tất cả đồng thanh la hét, rền rĩ, người kia khoa tay thô bạo "Im mồm! Đã làm ỏm tỏi lên như thế từ đêm qua rồi còn chưa đủ à?" Y đưa mắt lướt qua lướt lại hàng người cho đến khi họ im lặng. "Ta đây không phải loại buôn nhọ bình thường. Ta là đại diện cho một trong những hãng lớn nhất, xộp nhất trong ngành. Chúng ta có các chi nhánh, có tàu để giao nhọ theo đơn đặt hàng, đi đi về về giữa Richmơnd, Saletơn, Memphix, và Niu Oliânz...".

Matilđa thốt ra nỗi khắc khoải đầu tiên trong tâm trí của tất cả: "Thưa ông chủ, chúng cháu sẽ được bán cùng cả loạt chứ ạ?".

"Ta đã bảo các ngươi im cái mồm! Rồi các ngươi sẽ biết. Ta khỏi cần nói ông chủ các ngươi đây là một quý ông chân chính, cũng như phu nhân đôn hậu trên nhà kia đang khóc nẫu cả lòng vì những bộ da đen của các ngươi. Nếu đem bán lẻ bọn các ngươi, ông bà đây ắt được nhiều tiền hơn, nhiều hơn nhiều". Y đưa mắt nhìn Kitzi-bé và Meri đang run bần bật. "Hai đứa nữ này, ngay bây giờ chúng bay đã có thể bắt đầu sinh sản những tí nhau nhọ đáng bốn trăm trở lên một đứa". Cái nhìn của y đặt lên Matilđa. "Ngay cả như nhà chị cũng đã khá già, nhà chị cũng biết nấu nướng, chị nói thế mà. Dưới miền Nam hiện nay, một đầu bếp giỏi giá từ nghìn hai đến nghìn rưởi". Y nhìn Tôm. "Cứ cái đà giá cả đang lên bây giờ, theo ta, một gã thợ rèn đang trai có thể dễ dàng bán được hai nghìn rưởi, thậm chí tới ba nghìn, nếu gặp người nào muốn có chú mày để thu hút khách hàng như chú mày đang làm ở đây!" Đôi mắt y lướt trên năm anh em trai của Tôm, từ hai mươi đến hai mươi tám tuổi. "Còn bọn trai lực điền này, mỗi đứa phải đáng giá từ chín trăm đến một nghìn"... Cha lái buôn nô lệ ngừng lại để gây hiệu quả. "Nhưng các ngươi quả là một bọn nhọ may mắn! Bà chủ các ngươi một mực đòi là các ngươi phải được bán cả cụm và ông chủ các ngươi đã đồng ý!".

"Cảm ơn bà chủ! Cảm ơn Chúa Jêxu!" Bà nội Kitzi kêu lên. "Sáng danh Thượng đế!" tiếng Maltiđa lanh lảnh.

"IM MỒM!" Cha lái buôn nô lệ giận dữ khoa tay. "Ta đã hết sức cố gắng thuyết phục ông bà ấy làm khác mà không được. Cũng là tình cờ mà hãng của ta lại có một số khách hàng có một đồn điền thuốc lá ở cách đây không xa. Ngay gần công ty xe lửa Bắc Carôlina ở quận Hơmex. Họ cần một gia đình nhọ cùng sống chung, không gây rắc rối, không có kẻ nào trốn chạy hoặc chuyện gì đại loại như thế, và có kinh nghiệm lo toan mọi việc ở chỗ của mình. Sẽ không cần phải đem các ngươi bán đấu giá. Ta được dặn là không phải xiềng các ngươi, không phải làm điều gì đại loại như thế, trừ phi gặp chuyện rầy rà!" Y lạnh lùng nhìn suốt lượt. "Thôi được, bắt đầu ngay từ bây giờ tất cả bọn các ngươi vừa nghe ta nói chuyện, hãy tự coi mình là nhọ của ta cho đến khi ta đưa các ngươi tới nơi tới chốn. Ta cho các ngươi bốn ngày để thu xếp gói ghém đồ đoàn. Sáng thứ bảy, chúng ta sẽ cho một số xe tải chở các ngươi đến quận Alơmenx".

Vơjơl là người đầu tiên thốt lên bằng một giọng rã rời: "Còn Lili Xiu mấy con nhỏ của tui ở đồn điền Cari thì sao? Ông cũng mua luôn thể chứ, thưa ông?".

Tôm bật ra: "Và còn bà nội chúng tui, bà Xerơ và bà Malizi và cụ Pompi? Cũng là gia đình cả, sao ông không nhắc đến"...

"Ta không có ý định ấy! Ta không thể mua tất cả các ả mà một gã trai vớ được để tòm tem cho khỏi cảm thấy cô đơn!" cha lái buôn nô lệ kêu lên mỉa mai. "Còn như đám già thân tàn ma dại này, họ đi còn không nổi nữa là làm việc, chả khách nào thèm mua họ? Nhưng ông Liơ tốt bụng đã bằng lòng để cho họ tiếp tục lê lết ở quanh đây".

Giữa những tiếng kêu, khóc òa lên, Bà Nội Kitzi nhảy ra ngay trước mặt mexừ Liơ nói như rứt từng tiếng ra khỏi cổ họng: "Ông đã đẩy chính con giai ông đi rồi, chả nhẽ tui không thể chí ít là được ở mấy lũ cháu ư?" Thấy mexừ Liơ vội vã nhìn đi chỗ khác, bà cụ sụm xuống đất, những cánh tay trẻ, khỏe nắm lấy và đỡ bà dậy trong khi các bà già Malizi và Xerơ gần như đồng thanh tru lên: "Ông chủ, tui chỉ còn có bọn nó là gia đình thôi!"... "Tôi cũng thế, thưa ông chủ! Bầy tui sống cùng nhau đã năm mươi năm có lẻ!" Bác Pompi già khụ tàn phế thì chỉ ngồi, không đủ sức đứng dậy khỏi ghế, nước mắt ròng ròng trên má, nhìn thẳng trước mặt như mất hồn, môi mấp máy như cầu nguyện.

"IM MỒM". Lão lái buôn nô lệ hét. "Ta bảo các ngươi lần chót đấy. Rồi các ngươi sẽ mau chóng thấy ta biết cách trị nhọ như thế nào!".

Cặp mắt Tôm tìm kiếm và trong một thoáng chốc, quyện lấy luồng mắt mexừ Liơ và Tôm lựa lời nói, giọng khàn đi: "Thưa ông chủ, chúng cháu rành là khổ tâm thấy ông gặp sự không may, và chúng cháu biết sở dĩ ông bán chúng cháu chỉ là vì ông buộc lòng phải làm thế mà thôi...".

Mexừ Liơ có vẻ gần như cảm kích, rồi mắt ông lại cụp xuống và mọi người phải cố gắng mới nghe rõ lời ông. "Phải ta chẳng hiềm ghét gì đứa nào trong bọn bay, nhỏ ạ..." ông lưỡng lự. "Tình thật, thậm chí còn có thể nói bọn bay là những tên nhọ tốt, phần hết bọn bay đều sinh ra và lớn lên ngay trên đất của ta".

"Thưa ông chủ", Tôm dịu dàng cầu xin, "nếu các người ở quận Alơmenx không nhận các cụ già trong gia đình chúng cháu, liệu ông có thể để cho cháu mua các cụ từ tay ông được không? Người này vừa nói các cụ chả đáng bao tền, cháu xin giả ông tốt giá. Cháu sẽ quỳ gối xin ông chủ mới để cho cháu kiếm chút việc rèn thuê ở ngoài, có thể là làm cho cái đường sắt í, và các anh em trai cháu cũng làm mướn góp thêm vào nữa, thưa ông?" Tôm van vỉ một cách khốn khổ, lúc này nước mắt bắt đầu chảy xuống má. "Thưa ông chủ, làm được ngần nào, chúng cháu xin gửi ông tất cả cho đến khi chúng cháu giả hết khoản tền mua bà nội chúng cháu, mấy lại ba cụ già kia nữa cũng là gia đình chúng cháu, ông đòi bao nhiêu chúng cháu xin giả chừng nấy. Tất cả chúng cháu đã no đói có nhau, rành là chúng cháu tha thiết muốn ở bên nhau, thưa ông chủ...".

Mexừ Liơ đã cứng rắn hơn. Nhưng ông nói: "Thôi được! Giả ta mỗi mống ba trăm đôla, ta để cả cho"... ông giơ tay lên ngăn lại, trước khi nỗi vui mừng của họ kịp bùng ra trọn vẹn. "Hãy khoan! Họ còn phải ở lại đây đến khi nào ta nhận đủ tiền".

Giữa những tiếng rền rĩ và nức nở, giọng Tôm vọng đến xa vắng "Xét mọi bề, bầy tui ngỡ có thể trông chờ ở ông nhiều hơn thế, ông chủ ạ".

"Đưa chúng ra khỏi đây, ông lái!" ông chủ quát. Và quay gót, đi nhanh về phía đại sảnh.

Trở về xóm nô tuyệt vọng cùng đường, cả các bà già Malizi và Xerơ cũng tham gia vào an ủi Bà Nội Kitzi. Bà ngồi trong chiếc ghế đu do Tôm làm cho bà, giữa sự nháo nhác của gia đình xúm lại ôm ghì, hôn hít bà, tưới đẫm nước mắt lên bà. Tất cả đều khóc.

Từ một nguồn nghị lực nào đó, bà lão tìm ra được sức mạnh, lòng can đảm để gắt lên, giọng khàn khàn: "Chúng bay đừng có rối lên thế! Bà mấy Xerơ, Malizi, mấy lị Pompi chỉ việc ở đây chờ Joóc cho đến khi nó trở về. Chả còn mấy lâu nữa, đã gần hai năm rồi. Nếu nó không đủ tền mua bọn tau, thì bà chắc cũng chả mất thêm nhiều thời gian để Tôm mấy cả bọn con trai chúng mầy sẽ...".

Asfođ nghẹn ngào: "Vâng thưa bà, chúng cháu nhất định sẽ làm được!" Bà mỉm cười nhợt nhạt với Asfođ, với tất cả mọi người. "Còn một điều nữa," Bà nội Kitzi nói tiếp, "bất kỳ đứa nào trong bọn bay có thêm con trước khi bà gặp lại bọn bay, chớ có quên kể lại cho chúng nghe về các cụ đẻ ra tau, về mẹ tau là Bel và bố tau người Phi tên là Kunta Kintê, tức là cụ tổ năm đời của các con bọn bay! Nghe bà đây! Hãy kể cho chúng nghe về bà, về Joóc của bà, về chính các cháu nữa! Và kể dững đều chúng ta đã phải trải qua giữa nhều ông chủ khác nhau. Kể cho con cái nghe tất cả, cho chúng biết tổ tiên, ông bà, cha mẹ chúng là ai!".

Giữa một hợp xướng xụt xà xụt xịt những tiếng "Nhất định chúng con sẽ làm thế"... "Chúng con sẽ không bao giờ quên đâu, Bà Nội ạ". Bà lão đưa tay quờ những khuôn mặt ở gần mình nhất "NÍN ngay! Mọi sự rồi sẽ tốt đẹp! Nín ngay, bà đã biểu các con mà! Bọn bay sắp sửa trút ngập nước mắt làm trôi bà ra khỏi cửa bây giờ!".

Thế rồi, cách nào đó, bốn ngày cũng trôi qua, những người phải ra đi đã gói ghém hành trang và cuối cùng, sáng thứ bảy đã tới. Ai nấy đều thao thức suốt đêm. Lặng lẽ hầu như không thốt ra lời nào, họ tập hợp lại, tay nắm tay chăm chăm nhìn mặt trời lên. Cuối cùng, đoàn xe tải tới. Lần lượt, những người ra đi quay lại lặng lẽ ôm hôn những người ở lại.

"Bác Pompi đâu?" có người hỏi.

Bà Malizi nói: "Tội nghiệp ông già đêm qua biểu bà là ông ấy không chịu nổi phải thấy tất cả các cháu đi...".

"Dù thế nào cháu cũng phải chạy vào hôn ông!" Kitzi-bé kêu lên và chạy về phía căn nhà gỗ nhỏ.

Một lát, bỗng thấy tiếng cô bé: "ÔI, KHÔNG!".

Những người khác, đang đứng dưới đất hoặc nhảy từ trên xe xuống, vội lao tới. Ông già đang ngồi trên chiếc ghế tựa của mình. Và ông đã chết.

Chương 105

Tại đồn điền mới, mãi đến chủ nhật sau, khi ông chủ bà chủ Marê cưỡi xe ngựa đi lễ nhà thờ, cả gia đình mới có dịp ngồi lại hàn huyên với nhau.

"Nầy, rành là mẹ không muốn nhận định quá sớm đâu", Matilđa nói, đưa mắt nhìn quanh cả một lượt con cháu. "Dưng mà suốt tuần vừa rồi, mẹ mấy bà chủ Marê chuyện trò khá nhều ở trong nhà bếp trong khi mẹ nấu ăn. Mẹ phải nói rằng bà í mấy ông chủ mới nầy có vẻ là dững người Cơ đốc ngoan đạo. Mẹ cảm thấy dư chúng ta ở đây rồi sẽ khấm khá hơn nhều, trừ cái là bố các con chưa về, mấy lị Bà Nội mấy hai bà già còn ở lại chỗ mexừ Liơ thôi". Một lần nữa nhìn chăm chăm vào mặt các con, bà hỏi: "Vậy chứ bằng vào dững đều tai nghe mắt thấy, các con cảm thấy thế nào?"

Vơjơl nói: "À, mexừ Marê nầy xem chừng chả biết mấy về nghề nông cũng chả có vẻ ông chủ nữa!".

Matilđa ngắt lời: "Ấy là vì họ là người tỉnh thành mở cửa hiệu ở Bơlintơn cho đến khi chú ông í chết, di chúc để lại cho hai vợ chồng cái đồn điền nầy".

Vơjơl nói: "Lần nào nói chuyện mấy con, ông í cũng biểu đang tìm thuê một xú-ba-dăng người da trắng để đôn đốc chúng ta làm việc. Con vẫn biểu ông í rằng không cần phải tiêu phí tền, rằng ông í cần ít nhất là năm sáu lực điền nữa còn hơn một xú-ba-dăng. Con biểu ông í cứ để chúng ta làm thử, chúng ta sẽ độc lực trồng cho ông í dững vụ thuốc lá thật tốt...".

Asfođ xen vào: "Nơi nào có xú-ba-dăng cách-cơ dòm dỏ từng cử động một, là tui không có chịu ở lâu dài!".

Sau khi quắc mắt nhìn Asfođ, Vơjơl nói tiếp: "mexừ Marê nói ông í có đứng quan sát một lúc xem chúng ta làm việc dư thế nào". Anh ngừng một lát. "Con gần dư van ông í mua nốt Lili Xiu mấy cháu bé khỏi mexừ Cari ở đằng í và đưa mẹ con nó về đây. Con biểu ông í là Lili Xiu làm khỏe dư bất kỳ ai. Ông í biểu là để ông í nghĩ xem, cơ mà để mua chúng ta, hai vợ chồng ông í đã phải vay nhà băng một khoản cầm cố ngôi đại sảnh và để ông í xem năm nay bán được bao nhiêu thuốc lá" Vơjơl lại tạm ngừng. "Vì vậy tất cả chúng ta đều phải cố công làm lụng ra trò! Có thể nói dững người da trắng khác đang ý kiến mấy ông í rất nhiều rằng không có người trông coi, bọn nhọ chỉ làm việc nửa vời. Nếu chúng ta để ông í thấy ai lừng khừng chơi rông thì chắc chắn là cuối cùng, chúng ta sẽ có một xú-ba-dăng kèm riết cho mà coi". Vơjơl lại đưa mắt nhìn anh chàng Asfođ mặt sưng mày sỉa và nói thêm: "Thực đấy, tui nghĩ khi nào mexừ Marê phóng ngựa ra chỗ chúng ta làm việc, tui có hò hét mọi người một tí cũng là tốt thôi, cơ mà tất cả cũng hiểu tại sao phải thế".

"Nhất định rồi!" Asfođ nổi đóa, "Tui biết anh mấy một đứa khác nữa, bao giờ cũng cố tỏ vẻ là tên nhọ đặc biệt của ông chủ".

Tôm căng cả người, nhưng kìm được làm như hoàn toàn bỏ ngoài tai lời nhận xét của Asfođ trong khi Vơjơl nhổm nửa người dậy chĩa một ngón tay trỏ sần chai vì lao động ra phía trước: "Nầy, tau bẩu cho mà biết, có cái gì hỏng kiểu là tại ai đó không hòa thuận mấy ai cả! Không khéo mầy có ngày bị lôi thôi to đấy! Nói riêng phần tau thôi, nếu phải tay tau, có người sẽ cho một trong chúng ta đi đứt đấy!".

"Im đi! Cả hai đứa im cái chuyện bí bét í đi!". Matilđa lườm cả hai, rồi nhìn riết vào Asfođ, trước khi xoay đôi mắt khẩn khoản sang Tôm, rõ ràng là tìm cách làm dịu sự căng thẳng đột ngột đó. "Tôm, nhều lần mẹ thấy mầy mấy mexừ Marê trò chuyện ở dưới í trong khi mầy dựng cửa hiệu. Mầy cảm thấy binh tình thế nào".

Chậm rãi, tư lự, Tôm nói: "Con đồng ý là chúng ta ở đây ắt khá khẩm hơn. Dưng mà còn tùy phần lớn ở cách chúng ta lo liệu ra sao. Dư mẹ đã nói, mexừ Marê có vẻ không phải là một người da trắng tầm thường, đê tiện. Con cảm thấy dư anh Vơjơl nói, ông í chỉ phải cái không có mấy kinh nghiệm, thành thử không tin ở chúng ta. Thậm chí hơn thế nữa, con cho rằng ông í sợ chúng ta tưởng ông í dễ dãi cho nên ông í buộc mình hành động và nói năng ra vẻ hắc hơn bẩm tính của ông í, mà do vậy mới có chuyện xú-ba-dăng kia". Tôm ngừng một lát. "Theo ý con, mẹ cứ lựa chiều xoay khiến bà chủ. Còn bọn chúng con cần phải dậy cho ông chủ biết là ông í muốn tốt thì cứ để cho chúng ta yên".

Sau những tiếng thì thào tán đồng, giọng Matilđa rung lên niềm vui trước triển vọng rõ ràng về một tương lai đầy hứa hẹn của gia đình. "Ờ thế, gọn lại, theo dư các con nói, thì chúng ta phải xiết phục mexừ Marê mua nốt Lili Xiu mấy bé Iuriơ nữa. Về phần bố các con thì chúng ta không thể làm gì khác ngoài chờ đợi. Một hôm nào đó ông í lù lù bước vào đây"...

Cười khúc khích, Meri ngắt lời mẹ: "Với chiếc khăn quàng cổ màu xanh phất phơ và chiếc mũ quả dưa đen nghễu nghện trên đầu".

"Cái í thì mày nói rành đúng, con gái ạ", Matilđa mỉm cười với những người khác. Bà nói tiếp: "Cố nhiên, đây là mẹ chưa nói đến chuyện kéo Bà Nội mấy hai bà Xerơ và Malizi về. Mẹ đã được bà chủ Marê hứa giúp chuyện nầy. Mẹ đem hết lời lẽ tả thật mạnh mẽ để bà í thấy tất cả chúng ta đứt ruột đứt gan mà phân ly đôi ngả dư thế nào. Lậy Chúa! Bà chủ cũng khóc dư mẹ! Bà í biểu đừng có ai, kể cả bà í, xin mexừ Marê mua ba bà già cốc đế để làm gì, vô ích, cơ mà bà í hứa chắc dư đanh đóng cột là sẽ xin ông chủ kiếm việc làm mướn cho Tôm, mới cả cho đám trai các con nữa. Cho nên hẵng nhớ đinh ninh trong dạ rằng ở đây chúng ta không phải chỉ làm việc cho một ông chủ mới, chúng ta đang làm việc để cho gia đình ta sum họp trở lại".

Với quyết tâm ấy, cả gia đình bắt tay vào mùa trồng cấy năm 1856, Matilđa ngày càng được cả hai vợ chồng mexừ Marê tin, quý với lòng trung hậu và chân thật hiển nhiên, tài nấu nướng xuất sắc và khả năng nội trợ không chê trách vào đâu được của bà. Ông chủ thấy rõ Vơjơl luôn luôn đôn đốc, thúc dục các em trai, em gái mình để đạt một mùa thuốc lá bội thu. Ông thấy Tôm rõ ràng đã khôi phục lại đồn điền đến một tình trạng đáng thèm muốn, đôi bàn tay tài năng của anh sử dụng những dụng cụ phần lớn là làm lấy, biến những mảnh sắt vụn cũ, vứt đi gỉ nát thành hàng chục nông cụ mới, chắc chắn, cùng với những đồ gia dụng vừa được việc lại vừa có tác dụng trang trí.

Hầu hết các chiều chủ nhật, trừ những buổi chính hai vợ chồng nhà Marê đi đâu đó, các gia đình ở các đồn điền trong vùng thường đến thăm xã giao họ cùng những bạn bè cũ ở Bơlinhtơn, Grehơm, Ho Rivơ, Mibên và các tỉnh khác quanh đấy. Khi đưa khách dạo xem quanh đại sảnh và các sân sướng, vợ chồng Marê bao giờ cũng hãnh diện phô những thí dụ khác nhau về tài nghề của Tôm. Không mấy vị khách, ở trang trại cũng như ở tỉnh, ra về mà không nài ông chủ cho phép Tôm làm hoặc chữa cho họ một cái gì mà mexừ Marê thường sẵn sàng đồng ý. Dần dà, thêm nhiều mặt hàng thửa của Tôm xuất hiện quanh quận Alơmenx, do người nọ truyền mồm người kia quảng cáo cho anh và yêu cầu đầu tiên của bà Marê, là ông chủ kiếm việc làm thuê cho Tôm, trở nên hoàn toàn không cần thiết. Chẳng bao lâu, ngày nào cũng thấy những nô lệ trẻ và già, cưỡi la hoặc đôi khi đi bộ, mang những dụng cụ gẫy hoặc các đồ khác đến cho Tôm chữa. Một số ông chủ hoặc bà chủ phác họa những vật trang trí họ muốn thuê làm để bày ở nhà mình. Hoặc thi thoảng có những khách hàng yêu cầu mexừ Marê viết giấy thông hành cho Tôm cưỡi la đến một số đồn điền khác hoặc thị xã để sửa chữa hoặc sắp đặt thiết bị tại chỗ. Sang năm 1857, ngày nào Tôm cũng làm việc từ mờ sáng đến tối mịt, trừ chủ nhật, toàn bộ khối lượng công việc của anh ít ra cũng ngang với bác Aizêiơ, người đã dạy nghề cho anh. Khách hàng trả tiền cho ông chủ, hoặc tại đại sảnh hoặc khi gặp ông tại nhà thờ với các mức như mười bốn xu một móng đóng cho ngựa, la, hoặc bò, ba mươi bảy xu một cạp vành mới cho bánh xe tải, mười tám xu chữa một chàng nạng hoặc sáu xu mài một lưỡi cuốc. Giá cả cho công việc trang trí do khách hàng thiết kế lấy, được thương lượng đặc biệt, như năm đôla một rèm mắt cáo cho cổng trước, điểm hình lá sồi. Và mỗi cuối tuần mexừ Marê tính toán trả Tôm với tỉ lệ mười xu một đôla trên khoản tiền do việc làm của anh mang lại trong tuần trước. Sau khi cảm ơn ông chủ, Tôm giao số tiền hàng ngày cho bà mẹ Matilđa bỏ vào lọ thủy tinh đem chôn ở những chỗ mà chỉ bà và Tôm biết.

Những trưa thứ bảy, tuần làm việc kết thúc với các thành viên lực điền của gia đình. Kitzi-bé và Meri, nay đã mười chín và mười bảy, nhanh chóng tắm rửa, lấy dây buộc chặt những bím tóc ngắn, loăn xoăn và dùng xáp ống xoa mặt cho đen bóng lên. Rồi mặc những chiếc áo váy vải bông in hoa đẹp nhất, hồ cứng và là phẳng phiu, hai cô chẳng mấy chốc đã thấy xuất hiện ở cửa hiệu rèn, một cô đem đến một bình nước, hoặc có khi là bình "limônách" và cô kia một cái môi bằng vỏ bầu. Sau khi Tôm đã giải khát, hai cô múc từng môi đầy mời cái tốp nhỏ những gã nô lệ chiều thứ bảy nào cũng được chủ sai đến lấy những đồ mà Tôm hẹn sẽ hoàn thành vào cuối tuần. Tôm vừa thinh thích vừa hơi khó chịu nhận thấy những lời chọc ghẹo nhẹ nhàng nhất, vui vẻ nhất của hai em gái mình bao giờ cũng dành cho các chàng trai trẻ đẹp. Một đêm thứ bảy, anh chẳng lấy gì làm lạ khi nghe hóng thấy Matilđa trì triết: "Tau không mù đâu! Tau thấy bọn bay xuống dưới í ngỏng đuôi làm duyên làm dáng giữa bọn lền ông!" Kitzi-bé đáp lại vẻ thách thức: "Phải, mẹ ạ chúng con là lền bà! Chúng con chưa được gặp người lền ông nào ở chỗ mexừ Liơ cả!" Matilđa làu bàu cái gì Tôm nghe không rõ, song anh ngờ rằng thâm tâm bà cũng không phản đối như bà cố làm ra vẻ thế. Điều đó được xác nhận khi, một tháng sau, Matilđa bảo anh: "Tuồng dư anh để cho hai con bé chim chuột ngay dưới mũi anh. Tui nghĩ ít nhất anh cũng phải để mắt xem ngộ nhỡ chúng nó ngoắc nhầm phải dững đứa không ra gì!".

Trước sự ngạc nhiên của cả gia đình, không phải Kitzi-bé vốn đặc biệt "đỏm dáng" mà lại chính cô nàng Meri điềm đạm hơn nhiều là người đầu tiên lặng lẽ thông báo ý muốn "nhảy chồi" với một gã coi chuồng ngựa ở một đồn điền gần làng Mibên. Cô nài nỉ Matilđa: "Con biết mẹ có thể giúp con xiết phục ông chủ bán con với giá phải chăng khi nào ông chủ của Nicôđimơx xin mua, để chúng con được sống mấy nhau, mẹ ạ!". Nhưng Matilđa chỉ ầm ào mơ hồ, làm Meri khóc ròng.

"Lạy Chúa, Tôm ạ, mẹ quả không biết nên dư thế nào nữa!" Matilđa nói. "Cố nhiên, mẹ mừng cho con bé, mẹ thấy nó sung sướng thế cơ mà. Dưng rành mẹ ghét phải thấy có ai trong nhà ta bị bán đi nữa".

"Mẹ nhầm, mẹ ạ. Mà mẹ biết là mẹ nhầm đấy!" Tôm nói. "Con rành chả muốn lấy ai sống ở chỗ khác. Mẹ xem anh Vơjơl đấy. Kể từ khi chúng ta bị bán, anh í đâm ốm vì phải để Lili Xiu ở lại nơi kia!".

"Con giai ạ!", bà nói, "con đừng có nói mấy mẹ về chuyện lấy người nào mà mình chả mấy khi thấy mặt! Hằng bao lần, nhìn các con, mẹ mới biết là mình còn có một người chồng..." Matilđa ngập ngừng. "Dưng mà giở lại chuyện Meri sắp đi, không phải mẹ chỉ nghĩ về nó, mà về tất cả các con. Con làm việc quá nhiều nên mẹ đoán con không để ý, chứ bi giờ vào dững hôm chủ nhật nghỉ việc, chả mấy khi thấy mặt các anh em trai của con ở quanh đây nữa, độc có con mấy Vơjơl thôi. Dững đứa khác đi hết, chim chuột tợn..."

"Mẹ", Tôm sẵng giọng ngắt lời. "Chúng con nhớn nhao cả rồi!"

"Rành là thế!" Matilđa đáp lại. "Mẹ không nhằm vào cái í! Mẹ muốn nói cái gia đình này sắp xé lẻ ra trước gió trước khi chúng ta vun được nó xum họp trở lại!".

Trong một phút im lặng giữa hai mẹ con, Tôm cố nghĩ xem có thể nói được điều gì an ủi, anh cảm thấy ẩn dưới tâm trạng dễ cáu bẳn hoặc những cơn ủ rũ khác thường của mẹ anh gần đây, là cái thời hạn mà đáng lẽ cha anh phải trở về, nay đã qua hàng mấy tháng. Như bà vừa mới nói, bà lại phải sống với sự vắng mặt của chồng.

Tôm bàng hoàng khi Matilđa đột nhiên đưa mắt nhìn anh: "Khi nào con lấy vợ?".

"Bi giờ con chưa nghĩ đến chuyện í..." Bối rối, anh ngập ngừng và chuyển sang chuyện khác. "Con đang nghĩ về chuyện làm sao đưa được bà nội, bà Xerơ và bà Malizi về. Mẹ, hiện chúng ta đã để dành được ước chừng bao nhêu?".

"Không phải ước chừng gì cả! Mẹ nói đích xác cho anh biết! Cộng cả hai đôla bốn xu anh đưa mẹ chủ nhật rồi là tám mươi bảy đôla năm mươi xu".

Tôm lắc đầu: "Con còn phải làm hơn nữa".

"Giá Vơjơl mấy bọn nó góp thêm vào nữa".

"Không thể trách họ được. Việc đồng áng làm mướn thật khó kiếm, vì phần lớn các ông chủ cần thuê mướn người đều gọi đám nhọ tự do, các cha này làm chết thôi để kiếm hăm nhăm xu một ngày, không có thì chết đói. Rành là con phải làm nhều hơn thôi! Bà Nội, bà Xerơ và bà Malizi, tất cả đều già tợn rồi!".

"Bà Nội bi giờ quãng bảy mươi, còn bà Xerơ mấy bà Malizi thì ngót tám mươi rồi".

Một ý nghĩ bất chợt đến với Matilđa nét mặt bà bỗng có vẻ xa vời. "Tôm, con có biết mẹ chợt nghĩ đến cái gì không? Bà Nội thường kể cụ thân sinh ra bà là người Phi, cụ ghi nhớ tuổi mình bằng cách bỏ dững hòn sỏi vào trong vỏ một quả bầu. Con có nhớ là bà nói thế không?".

"Vâng, nhất định là con nhớ chứ". Anh dừng một lát. "Không biết bi giờ, cụ bao nhêu tuổi nhỉ?".

"Mẹ không nghe nói, chí ít cũng là theo sự nhớ của mẹ". Một vẻ bối rối lộ trên mặt bà. "Còn tùy là mình nói về thời kỳ nào. Khi Bà Nội Kitzi bị bán đi khỏi cụ mấy cụ bà, thì cụ tuổi này, rồi khi Thượng đế gọi cụ về chầu, thì cụ lại tuổi khác…". Bà ngần ngừ. "Con biết đấy, bà nội sắp bảy mươi, thì cụ ắt chết đã lâu rồi. Cả cụ bà nữa cũng vậy. Tội nghiệp linh hồn các cụ!".

"Phải…" Tôm nói, vẻ trầm tư. "Đôi khi con cứ tự hỏi không biết hình dáng các cụ ra sao. Cứ nghe kể về các cụ hoài!"

Matilđa nói: "Mẹ cũng thế, con giai ạ". Bà rướn thẳng người trong chiếc ghế tựa. "Dưng mà lại nói về bà nội, bà Xerơ và bà Malizi, đêm nào mẹ cũng quỳ gối xin Thượng đế ở bên các bà và mẹ cầu nguyện là hôm nào đó, bố con tới đây, tền đầy túi và mua các bà về". Bà cười rạng rỡ. "Một buổi sáng, chúng mình ngước nhìn lên, thấy cả bốn người tự do dư chim trời!".

"Đó rành là một cảnh tượng đáng nhìn!" Tôm nhoẻn miệng cười.

Một sự im lặng buông xuống giữa hai mẹ con, mỗi người chìm vào những ý nghĩ riêng. Tôm đang suy tính rằng bây giờ là một thời điểm và không khí thuận lợi hơn lúc nào hết để anh tâm sự với mẹ về một điều mà anh đã thận trọng giữ kín, không để lộ cho ai biết, song xem ra bây giờ đang có chiều hướng phát triển.

Anh dùng một câu hỏi lúc trước của Matilđa để đưa đà: "Mẹ à, ban nãy mẹ đã hỏi con có khi nào nghĩ đến chuyện lấy vợ, phải không ạ?"

Matilđa rướn người phắt dậy, mặt rạng rỡ và mắt sáng lên: "Phải, con giai ạ!".

Tôm những muốn tự đá mình vì tội đã khơi vấn đề lên. Anh gần như đau đớn tìm cách tiếp tục như thế nào. Rồi rắn rỏi: "À, coi dư con gặp một cô gái và chúng con đã chuyện trò tí ti…"

"Lạy Chúa lòng lành, Tom! Ai vậy!"

"Chả phải ai mẹ quen biết đâu! Tên cô í là Airin. Một số người gọi là Rini. Là người của mexừ Eđuyn Hâut làm ở trong đại sảnh của họ..."

"Cái mexừ Hâut giàu bự mà ông chủ, bà chủ biểu có cái nhà máy bông ở thung Alơmenx í à?"

"Vâng..." Vẻ mặt Tôm có phần giống như vẻ mặt một chú bé bị bắt quả tang ăn vụng bánh.

"Lậy Chúa!" Một vẻ tươi hơn hớn lan khắp mặt mày Matilđa. Cuối cùng, rồi mèo cũng bắt được chuột! Bật dậy, đột ngột ôm chầm lấy cậu con trai đang lúng túng, bà sôi nổi nói: "Mẹ rất mừng cho con, Tôm ạ, rành là mừng!".

"Khoan! Khoan đã, mẹ!". Gỡ ra, anh vẫy tay cho bà trở lại ghế ngồi. "Con chỉ biểu là chúng con mới chuyện trò thôi mà!".

"Nhỏ nầy, con là đứa con kín miệng nhất của mẹ khi con thở hơi đầu tiên! Nếu con thừa nhận đến mức đã gặp một đứa con gái, thì mẹ biết là con có gì hơn thế nữa!".

Anh gần như lừ mắt với mẹ. "Con không muốn mẹ thì thào gì mấy ai đâu, mẹ nghe con đấy chứ?".

"Mẹ biết ông chủ sẽ mua nó cho con, nhỏ ạ! Kể thêm về nó cho mẹ nghe đi, Tôm!" Biết bao điều ập đến trong đầu Matilđa dồn dập đến nỗi trào cả ra... tận trong cùng tâm trí bà lóe lên hình ảnh những chiếc bánh ngọt ngày cưới mà bà sẽ bỏ vào lò...

"Muộn rồi con phải về..." Nhưng bà nhanh chân ra cửa trước anh. "Mẹ rất sung sướng sắp có người thành đôi thành lứa mấy các con! Con là đứa cưng nhất của mẹ!" Đã lâu Tôm mới thấy mẹ cười hồ hởi sung sướng như thế. "Mẹ đoán về già, rồi mẹ cũng giống bà nội Kitzi, chỉ mong có thêm cháu!" Tôm đi lướt qua, ra đến ngoài còn nghe thấy bà nói: "Mẹ còn sống khá lâu, thậm chí có thể trông thấy một số chắt nội, chắt ngoại, chưa chừng!".

Chương 106

Một ngày chủ nhật mấy tháng trước, hai vợ chồng mexừ Marê đi lễ nhà thờ về và ông chủ gần như lập tức rung chuông kêu Matilđa bảo gọi Tôm ra đằng cổng tiền.

Niềm vui thích của ông chủ lộ ra cả trên mặt lẫn trong giọng nói khi ông bảo Tôm rằng mexừ Eđuyn Hâut, chủ xí nghiệp bông Hâut, đã gửi thư cho ông nói rằng bà Hâut gần đây có xem một số đồ sắt tinh tế do Tôm làm và bà rất thích, rằng bà đã vẽ một bản thiết kế lưới sắt trang trí cửa sổ, mong Tôm thực hiện sớm cho và đem lắp ở ngôi nhà "Thích Hòe Viên" của họ.

Với một tấm giấy thông hành do mexừ Marê cấp, sáng hôm sau Tôm cưỡi la đến xem bản vẽ và đo các cửa sổ. Mexừ Marê đã bảo anh không phải băn khoăn về bất kỳ việc gì đợi ở lò rèn và dặn rằng tốt nhất là theo con đường Ho Rivơ đến thị xã Grêơm, rồi con đường Grêơm đến nhà thờ Belơmơnt, đến đó rẽ tay phải, đi bộ hai dặm nữa sẽ thấy tòa lâu đài trang nhã của gia đình Hâut, không trệch đi đâu được.

Tôm tới nơi và xưng danh với một người da đen làm vườn, người ta bảo anh chờ ở gần bậc thềm đằng trước. Lát sau, đích thân bà Hâut ra hồ hởi khen sản phẩm trước đây của Tôm mà bà đã được xem và đưa anh coi các bản vẽ của bà về một kiểu lưới sắt cửa sổ hình mắt cáo với dây leo và lá sum suê che phủ. Tôm nghiên cứu kỹ các bản vẽ và nói: "Tui tin có thể làm được, chí ít tui cũng gắng hết sức mình thưa bà". Nhưng anh chỉ ra rằng, với nhiều cửa sổ cần lưới sắt như thế, mà tất cả đều đòi hỏi công phu lắt nhắt từng li từng tí thì có thể phải mất hai tháng mới hoàn thiện được. Bà Hâut nói bà rất hài lòng nếu công việc có thể xong trong thời gian đó và sau khi giao cho Tôm giữ các bản vẽ để theo đó mà làm, bà để anh tiến hành công việc khởi đầu cần thiết là đo đạc cẩn thận các kích thước của hàng bao nhiêu cửa sổ.

Đến đầu giờ chiều, Tôm đang làm việc ở các cửa sổ trên gác nhìn ra một hàng hiên thì linh tính báo cho anh là có người nhìn mình; quay ngoắt lại, anh chớp chớp mắt như bị quáng trước vẻ xinh đẹp kỳ lạ của một cô gái da màu đồng, tay cầm chiếc giẻ lau, đang lặng lẽ đứng ngay ở khung cửa sổ mở cạnh đấy. Mặc một bộ đồng phục nữ hầu phòng đơn sơ, mớ tóc đen quận thành một búi lớn phía sau đầu, cô nhìn lại Tôm một cách điềm đạm và nồng nhiệt. Duy chỉ nhờ cái bẩm tính kín đáo, Tôm mới đủ sức giấu nổi cái phản ứng giật đánh thót tận trong lòng khi anh cố trấn tĩnh và vội vàng bỏ mũ, bật ra một tiếng: "Chào cô!".

"Chào ông!" cô đáp lại, lóe sáng một nụ cười, và chừng đó, cô biến mất.

Cuối cùng, rong ruổi trên mình la trở về đồn điền Marê, Tôm ngạc nhiên và bứt rứt thấy rằng mình không sao xua nổi hình ảnh cô gái khỏi tâm trí. Đêm ấy, nằm trên giường, như một ánh chớp, anh vụt nghĩ: thậm chí mình chưa biết tên cô ta là gì. Anh đoán cô độ mười chín hoặc có thể hai mươi tuổi. Cuối cùng anh chập chờn ngủ, rồi lại thức giấc để tự hành hạ mình với ý nghĩ là người xinh đẹp như cô ắt phải có chồng rồi hoặc đang bắt nhân tình với ai là cái chắc.

Làm những khung lưới cơ bản, hàn bốn thanh sắt bẹt cắt sẵn cho thật nhẵn nhụi bằng phẳng thành những hình chữ nhật vừa cỡ cửa sổ, chỉ là công việc thông thường. Sau sáu ngày làm phần việc đó, Tôm bắt đầu ấn những que nung sáng trắng qua bộ đồ giảm khối gồm những đê lỗ nhỏ dần cho đến khi thành những sợi không to hơn những dây bìm bìm hay kim ngân. Sau khi đã nung thí nghiệm và uốn nhiều sợi đó theo các kiểu khác nhau mà vẫn chưa vừa ý, Tôm bắt đầu những cuộc đi dạo sớm tinh mơ, xem xét thật kỹ những đường uốn duyên dáng và những chỗ giao nhau của các loại dây leo cụ thể. Sau đó, anh cảm thấy những cố gắng sao chép của mình có kết quả mỹ mãn hơn.

Công việc tiến triển tốt, trong khi mexừ Marê hằng ngày phải giải thích cho khách hàng đôi khi nổi nóng rằng Tôm chỉ có thể nhận những việc sửa chữa đột xuất khẩn cấp nhất, từ giờ cho đến khi gã hoàn thành một công việc quan trọng cho ông Eđuyn Hâut và điều đó làm nhụt sự bất bình của số đông. Mexừ Marê, rồi bà Marê thường đến cửa hàng quan sát, rồi đưa bạn bè ghé thăm, dần dà có khi tám đến mười người trong bọn họ cứ lặng lẽ đứng xem Tôm làm việc. Miệt mài với công việc nghề nghiệp của mình, Tôm cho rằng mình thật may mắn biết bao, ở chỗ là thậm chí mọi người dường như sẵn sàng để cho mấy anh thợ rèn mải mốt làm việc, lờ mình đi. Anh ngẫm nghĩ về việc phần lớn những gã nô lệ mang đồ của chủ đến cho anh chữa, đều có vẻ rầu rĩ. Hoặc giả có khi họ bô bô trò chuyện với nhau quanh cửa hàng, nhưng hễ có người da trắng xuất hiện, là lập tức tất cả đều nhe răng cười, lúng ta lúng túng, hoặc bắt đầu giả ngô giả ngọng như, thực tế, trước đây Tôm vẫn thường bối rối kết luận thầm trong bụng về ông bố Joóc-Gà đội mũ quả dưa, ăn nói khoa trương của mình.

Tôm càng cảm thấy may mắn hơn ở chỗ anh thành thật thú vị được đắm mình - thậm chí tới một mức độ biệt lập - trong cái thế giới nghề rèn. Trong khi anh làm những lưới sắt cửa sổ từ sáng sớm đến lúc không nhìn rõ gì nữa, những suy nghĩ riêng tư lan man thường choán hết tâm trí anh, có khi hàng mấy giờ liền trước khi anh lại bất chợt thấy mình nghĩ tới cô gái hầu phòng xinh xinh anh đã gặp.

Làm những chiếc lá cho lưới sắt cửa sổ là thử thách gay nhất của anh. Tôm đã nhận thức thấy điều đó từ lúc đầu tiên bà Hâut đưa anh coi bản vẽ. Anh lại đi dạo, lần này nghiên cứu thật kỹ những chiếc lá thật trong tự nhiên. Nung đi nung lại những miếng sắt vuông chiều một "insơ", dùng chiếc búa nặng vuông mặt nện bệt thành những lá mỏng tinh tế, cuối cùng anh lấy kéo cắt ra thành hàng chục hình trái tim lớn. Vì kim loại dát mỏng như thế có thể mau chóng cháy rực và hỏng nếu lò rèn quá nóng, nên anh hết sức cẩn thận thụt đôi bễ làm lấy, thoăn thoắt cặp mỗi lá sắt mỏng nung đỏ mặt lên đe và khéo léo gò thành hình vành lá bằng những nhát đập nhanh nhẹ của chiếc búa nhọn đầu nhẹ nhất của anh.

Bằng những mối hàn phức tạp, Tôm điểm những vấu lá tinh tế và sau đó gắn cuống vào những dây leo. Anh cảm thấy đắc ý là không có cái nào giống hệt cái nào, đúng như anh đã quan sát thấy trong tự nhiên. Sau cùng, vào tuần lễ thứ bảy làm việc khẩn trương, Tôm hàn những dây leo sum suê lá của mình vào đúng chỗ trên những khung lưới sắt cửa sổ đang nằm đợi.

"Tôm, mẹ tiêng bố, thật nom dư nó mọc lên ở đâu í!" Matilđa kêu lên, kinh phục nhìn trân trân vào tác phẩm của con trai. Kitzi-bé cũng trầm trồ không kém mấy, cô ta hiện đang công khai làm duyên với ba gã nô lệ cục mịch ở địa phương. Cả đến các em trai của Tôm và mấy cô vợ - hiện giờ chỉ còn Asfođ và Tôm là độc thân - cũng phóng những cái nhìn lồ lộ như tấm gương phản chiếu niềm kính trọng tăng lên của họ đối với anh. Vợ chồng mexừ Marê phải cố gắng lắm mới kìm nổi mức độ vui thích cũng như hãnh diện, có được một tay thợ rèn như vậy.

Trong chiếc xe tải chất đầy lưới thép cửa sổ, Tôm rong ruổi một mình đến đại sảnh của gia đình Hâut để lắp dựng. Khi anh giơ một chiếc lên cho bà Hâut xem, bà suýt xoa, vỗ tay, vui thích ngây ngất, gọi cô con gái dạy thì cùng mấy cậu con trai lớn tình cờ cũng ở đấy ra coi và tất cả bọn họ tức thì xúm lại khen ngợi Tôm.

Ngay lập tức, anh bắt đầu lắp dựng. Sau hai tiếng đồng hồ, các lưới sắt cửa sổ dưới nhà đã đâu vào đấy, càng làm tăng sự ngưỡng mộ của các thành viên gia đình Hâut, cũng như nhiều người trong số nô lệ; anh đoán những tiếng xì xào về nỗi vui thích của bà chủ họ đã lan truyền nhanh chóng và họ bèn chạy đến xem tận mắt. Cô ta đâu nhỉ? Câu hỏi đó khiến Tôm căng thẳng trong khi một cậu con trai ông bà Hâut dẫn anh qua phòng giải lao bóng loáng của nhà dưới, lên chiếc cầu thang lượn cong để đặt nốt những lưới sắt còn lại vào các cửa sổ hàng hiên tầng hai.

Đây đúng là cái chỗ cô ấy đã đứng lần trước. Liệu anh có thể nói cách nào và hỏi ai để biết cô là ai, cô ở đâu, thân phận ra sao, mà không tỏ ra quá mức quan tâm, tò mò? Trong nỗi thất vọng của mình, Tôm làm việc lại càng nhanh hơn, phải làm xong sớm mà ra về thôi, anh tự nhủ.

Anh đang đặt tấm lưới sắt cửa sổ thứ ba trên gác thì đây, sau những tiếng chân bước dồn, cô hiện ra, mặt đỏ bừng gần như hụt hơi vì chạy vội. Anh cứ đứng ngây, lưỡi cứng lại.

"Chào ông Marê" Anh giật mình nhận ra là cô hẳn không biết đến "Liơ" mà chỉ biết anh hiện là người của mexừ Marê nào đó. Anh vụng về bỏ chiếc mũ rơm ra khỏi đầu.

"Chào cô Hâut...".

"Đang ở dưới nhà sấy sấy thịt, nghe nói ông ở đây...". Luồng mắt cô lia tới chỗ chiếc lưới sắt cửa sổ anh vừa đặt vào vị trí. "Ôi, đẹp ơi là đẹp!" cô thì thào. "Đi qua chỗ bà chủ Emili dưới nhà rành là cứ rối rít lên về dững cái ông làm".

Anh liếc nhìn chiếc khăn làm đồng quấn trên đầu cô. "Tui cứ ngỡ cô làm hầu phòng..." Nghe chừng đó là một điều thất thố nên không nói.

"Em thích làm dững thứ khác nhau, và họ để cho em làm", cô nói, đưa mắt nhìn quanh. "Em chỉ chạy lên đây một phút thôi, tốt hơn là nên quay về làm việc, cả ông cũng thế..."

Anh cần phải biết thêm nữa, chí ít là tên cô. Anh hỏi cô.

"Airin", cô nói, "Họ gọi em là Rini". "Thế tên ông là gì?".

"Tôm", anh đáp. Như cô đã nói, cả hai phải trở về công việc. Anh cần liều một nước cờ. "Cô Airin, cô có... có... đang bầu bạn mấy người nào không?".

Cô nhìn anh thật lâu, thật nghiêm khắc đến nỗi anh biết là mình đã lỡ lời ghê gớm. "Xưa nay, em chưa bao giờ mang tiếng là không nói thật ý mình ông Marê ạ. Lần trước thấy ông quá rụt rè, em đã sợ ông không dám đến nói chuyện mấy em nữa".

Tôm tưởng có thể ngã nhào khỏi hàng hiên.

Từ đó, anh bắt đầu xin mexừ Marê mỗi chủ nhật cấp cho một giấy thông hành cả ngày, đồng thời cho phép anh dùng chiếc xe la. Anh cũng bảo với gia đình rằng anh đi sục các rệ đường kiếm những đồ kim loại vứt bỏ để bổ sung thêm đống sắt vụn ở cửa hiệu rèn của mình. Hầu như bao giờ anh cũng tìm được một cái gì đó có ích trong khi đánh xe theo các lối khác nhau trong chặng hành trình khứ hồi, mỗi chiều mất khoảng hai tiếng, để đến gặp Airin.

Không riêng cô mà những người khác anh gặp ở xóm nô của gia đình Hâut đều tiếp đãi anh hết sức nồng hậu, không thể hơn được. "Anh nhút nhát thế, khéo tay dư anh thì người nào chả ưa", Airin thật thà nói với anh. Họ thường đi xe đến một chỗ nào tương đối kín đáo ngay gần đấy, rồi Tôm tháo la, thả dài dây buộc cho nó gặm cỏ trong khi hai người đi dạo, phần lớn chỉ toàn Airin nói.

"Bố em là người Inđơn . Bố tên Hiliơn, là mẹ biểu thế. Thành thử da em mầu dư vậy", Airin tự ý nói ra một cách thản nhiên. "Dạo xưa, mẹ em chạy trốn khỏi một ông chủ thật hèn mạt, rồi có một số người Inđơn bắt được mẹ trong rừng đưa về làng họ, ở đó mẹ em gặp bố em và đẻ ra em. Em chưa nhớn được mấy tí thì người da trắng đánh vào làng giết chóc, bắt mẹ em và mang chúng em về giả ông chủ cũ. Mẹ biểu ông í đánh mẹ đau lắm rồi đem bán hai mẹ con em cho một lái buôn nhọ, rồi mexừ Hâut mua mẹ con em, thật là may vì họ là người rất tốt..." Mắt cô nheo lại. "Phải, chí ít cũng thường thường là thế. Dù sao, mẹ em vẫn làm công việc giặt là quần áo cho họ suốt đến khi mẹ ốm rồi chết cách đây bốn năm và từ đấy em ở luôn đây. Bi giờ, em mười tám tuổi, sang năm mới là mười chín...". Cô nhìn Tôm với cái vẻ thẳng thắn của mình "Anh bao nhiêu tuổi?"

"Hăm bốn" Tôm nói.

Đến lượt mình kể cho Airin nghe những sự việc chủ yếu về gia đình, Tôm nói rằng cho đến nay họ chỉ biết rất ít về cái vùng Bắc Carôlina này. Nơi họ đã bị mang đến bán.

"Nầy", cô nói, "em đã lượm được ói chuyện vì rằng là gia đình Hâut là dững người quan trọng đáo để, cho nên người nào to cũng đều đến thăm, thế là em hầu hạ cơm nước rón ra rón rén và em có tai để nghe ngóng chứ lị".

"Họ biểu dững cụ kỵ của phần đông dân da trắng ở quận Alơmenx là ở Penxylvaniơ đến đây từ lâu trước khi có cái cuộc chiến tranh cách mệnh í, dạo í chưa có mấy ai quanh đây trừ dững người Inđơn Xixipo. Có người gọi họ là dân Xăcxapa. Cơ mà lính Anh giết họ sạch trơn, kỳ đến chỉ độc chọi sông Xắcxapo bi giờ là còn cái tên í..." Airin nhăn mặt, "Ông chủ em biểu họ đã trốn cực khổ, vượt qua biển và đến chật ních Penxylvaniơ đến nỗi dững người Anh cai quản thuộc địa bố cáo là tất cả đất họ muốn bán ở cái phần Bắc Calini nầy không đầy hai xu một "âycơ". Thế, ông chủ biểu không biết cơ man nào là người Quêicơ, người Xcốt Ailen thuộc giáo hội trưởng lão, người Đức theo thuyết Lute, nhét tất cả dững gì có thể nhét vào dững xe tải phủ kín, khắp dững thung lũng Cambơlen và Sinanđo. Ông chủ biểu cơ hồ kéo dài tới bốn trăm dặm. Họ mua đất cơ chừng nào có thể và bắt đầu đào bới, khai khẩn vỡ hoang và trồng cây, hầu hết chỉ là dững trại nhỏ họ tự cầy cấy dư một số đông người da trắng ở quận nầy vẫn còn làm thế. Thành thử không có nhều nhọ dư ở dững nơi đồn điền to".

Chủ nhật sau, Airin đưa Tôm đến xem nhà máy bông của ông chủ cô ở bên bờ con sông nhỏ Alơmenx, hãnh diện như thể cái nhà máy lẫn gia đình Hâut là của cô vậy.

Sau mỗi tuần lao động vất vả, hoàn thành hàng mấy chục công việc gò rèn, Tôm khát thèm từng ngày chủ nhật khi chiếc xe la lăn bánh qua những dặm đường dọc những hàng rào bao quanh các ruộng ngô, lúa mì, thuốc lá, thi thoảng xen vào một vườn táo hoặc vườn đào và những nhà trại nhỏ bé. Vượt qua những người da đen khác hầu như bao giờ cũng đi bộ, họ vẫy chào nhau, Tôm hy vọng họ thông cảm rằng nếu anh mời họ lên xe, anh sẽ bị mất những giây phút được ngồi một mình với Airin. Thi thoảng ghìm la lại đột ngột, anh nhảy xuống và ném vào mạn sau xe một miếng kim khí gỉ vứt đi nào đó anh chợt thấy trong khi đánh xe rong ruổi trên đường. Một lần Airin làm anh giật mình khi cô cùng nhảy ra ngắt một bông hồng dại. "Từ bé, em đã yêu hoa hồng", cô bảo anh.

Gặp những người da trắng cũng đi xe hoặc cưỡi ngựa Tôm và Airin thường ngồi ngây ra như hai pho tượng, cả đôi bên đều nhìn thẳng về phía trước. Lát sau, Tôm bình luận rằng từ khi đến quận Alơmenx, anh cảm thấy ít gặp loại người da trắng "cách-cơ nghèo" hơn nhiều so với vùng anh ở trước.

"Em biết anh định nói cái loại nông dân cổ đỏ dư gà tây chứ gì", cô nói. "Không, loại í quanh đây chả có mấy. Anh có gặp người nào thì đấy chỉ là lọt sàng xuống nia thôi. Dững người da trắng tai to mặt lớn không ưa dùng họ bằng dân nhọ".

Trong thâm tâm, Tôm dần dần thấy ngán cái điều mà anh bắt đầu cảm thấy là hình như Airin khoái kể những sự kiện hàm ý ca ngợi chủ cô và dòng dõi ông ta. Một chủ nhật khi hai người mạo hiểm đi vào quận lỵ Grêơm, cô nói: "Cái năm có vụ lớn đổ xô đi tìm vàng ở Californiơ í, ông cụ đẻ ra ông chủ em đã cùng nhiều người tai to mặt lớn mua đất, dựng nên cái thị trấn nầy làm quận lỵ đấy".

Chủ nhật sau, khi đánh xe dọc con đường Xolxberi, cô chỉ một mốc đá sừng sững: "Chính ở đây, ngay trên đồn điền của ông chủ, đã diễn ra trận Alơmenx. Dân chúng chán ghét sự bạc đãi của nhà vua, cướp súng của lính Anh và ông chủ biểu trận đánh này châm ngòi cho cuộc chiến tranh cách mệnh Mêhicô khoảng năm năm sau".

Thời gian này, Matilđa đã phát cáu. Sự kiên nhẫn của bà đã căng đến mức cực hạn vì nỗi phải kìm giữ điều bí mật đáng phấn khởi lâu đến thế. "Mầy có chuyện gì thế? Cứ dư là mầy không muốn cho ai thấy cái con Inđơn nhà mầy í!".

Cố nén nỗi bực tức, Tôm chỉ lầm bầm câu gì không ai hiểu và bà Matilđa nổi điên lên, giở ngón đánh hiểm: "Dễ thường chúng tau chả đáng với nó vì nó là người ở của các ông to bà nhớn chứ gì!".

Lần đầu tiên Tôm làm một điều như vậy: anh hiên ngang đi khỏi chỗ mẹ, không thèm trả lời.

Anh ao ước có người nào, bất cứ ai, đủ thông cảm để anh có thể tâm sự về những điều đã trở nên những phân vân sâu sắc của anh: có nên tiếp tục bồ bịch với Airin nữa không?

Rút cục, anh đã thừa nhận với bản thân là anh yêu cô biết bao. Cùng với những nét xinh đẹp lai da đen và da đỏ của cô, không còn nghi ngờ gì nữa, cô là một ý trung nhân thật đáng yêu, quyến rũ và thanh lịch như trong mơ ước của anh. Tuy nhiên, bẩm tính vốn chín chắn và cẩn thận, Tôm cảm thấy nếu không giải quyết được hai mối băn khoăn có tính chất sống còn mới nảy sinh trong anh về Airin thì họ không bao giờ có thể hưởng một cuộc kết duyên thực sự thành công.

Một là, tận đáy lòng, Tôm không hoàn toàn ưa thích cũng như không hoàn toàn tin bất cứ người da trắng nào, kể cả ông bà chủ Marê của anh. Anh thực sự chán ngán thấy Airin dường như thật tình kính yêu, nếu không phải là sùng bái, những người da trắng sở hữu cô; rõ ràng là hai người sẽ không bao giờ có thể nhất trí được về một vấn đề có tính chất sống còn.

Điều lo lắng thứ hai của anh xem chừng còn khó giải quyết hơn nữa, đó là gia đình Hâut cũng có vẻ gắn bó với Airin không kém, theo cái cách một số gia đình ông chủ phát đạt vẫn hay đi đến chỗ quý mến một số gia nô. Anh biết mình không thể nào sống nổi cái cảnh oái oăm ngủ nghê ân ái với một người đàn bà nào đó mà lại ở cách biệt tận một đồn điền khác, kéo theo cái nỗi sỉ nhục thường xuyên là mỗi bên đều phải xin ông chủ của mình chấp thuận những lần năm thì mười họa vợ chồng đến thăm nhau.

Thậm chí Tôm đã nghĩ đến cả cái điều có thể là cách giải quyết danh dự nhất, tuy anh biết làm thế sẽ rất đau đớn là rút lui không gặp Airin nữa.

"Có chuyện gì thế, anh Tôm?" bữa chủ nhật sau, cô hỏi giọng đầy lo lắng.

"Không có gì cả".

Họ tiếp tục đánh xe đi, lặng lẽ. Rồi cô nói với cái phong cách chân thật, cởi mở của mình: "Thôi được, em không ép anh nếu anh không muốn nói, chỉ miễn anh biết là em biết có điều gì dầy vò anh tợn thôi".

Hầu như không biết đến những dây cương cầm trong tay, Tôm nghĩ rằng một trong những đức tính anh mến phục nhất ở Airin là sự thẳng thắn, trung thực, vậy mà hàng tuần, hàng tháng nay, anh đã thực sự man trá với cô, theo cái nghĩa là anh đã trốn tránh, không nói cho cô biết những ý nghĩ thật của mình, dù điều đó có thể trở nên sót sa đến mấy cho cả hai đi nữa. Và anh càng nấn ná lâu hơn, sẽ càng tiếp tục man trá, cũng như kéo dài những thất vọng chua chát của mình.

Tôm cố gắng lấy giọng thản nhiên: "Hồi nọ, anh có kể mấy em làm sao mà vợ anh Vơjơl nhà anh phải ở lại mấy ông chủ bên chị í, khi cả nhà anh bị bán, em có nhớ không? Anh không nói đến cái đoạn mexừ Marê, sau lần anh đích thân cầu xin, đã đến quận Caxuel và mua được Lili Xiu cùng đứa con trai Iuriơ về, vì chuyện đó không liên quan đến mục tiêu của anh".

Tự cưỡng mình tiếp tục, Tôm nói: "Anh cảm thấy nếu có bao giờ anh nghĩ đến chuyện kết đôi mấy ai... ờ, rành là anh không tin rằng mình có thể chịu nổi nếu chúng ta phải sống ở dững đồn điền của dững ông chủ khác nhau".

"Em cũng thế!". Câu trả lời của cô mau lẹ dứt khoát, đến nỗi Tôm suýt buông rơi dây cương, nghi ngờ tai mình. Anh quay phắt sang phía cô, há hốc mồm. "Em định nói gì?" Anh lắp bắp.

"Đúng dư anh vừa nói!".

Anh ghé sát lại cô. "Em thừa biết ông bà chủ Hâut sẽ không chịu bán em!".

"Khi nào em chuẩn bị xong đâu đấy, họ sẽ phải bán em!" cô bình tĩnh nhìn anh.

Tôm cảm thấy bủn rủn cả người: "Em nói sao?".

"Em không định nói cộc lốc, anh không phải lo, đấy là việc của em".

Người như lả đi, Tôm nghe thấy mình nói: "Ờ, thế tại sao em không nói họ bán em đi..."

Cô có vẻ lưỡng lự. Anh gần phát hoảng lên.

Cô nói: "Được. Anh có định thời gian đặc biệt nào không?"

"Anh nghĩ cái í cũng tùy ở em..."

Tâm trí anh mở tốc độ. Với một thứ quý giá như cô liệu ông chủ cô sẽ đòi bao nhiêu... Nếu như tiên chứng, toàn bộ chuyện này không phải là một giấc mơ điên rồ?

"Anh phải hỏi xem ông chủ anh có mua em không?".

"Ông í mua em", anh nói với vẻ chắc chắn hơn là anh cảm thấy thực sự. Rồi anh cảm thấy như mình là thằng ngốc khi anh hỏi: "Em cho là em trị giá bao nhêu? Anh nghĩ là ông ấy cần biết ang áng về cái đó".

"Em chắc ông í giả bao nhêu họ cũng nhận, phải chăng thôi".

Tôm chỉ biết nhìn cô trân trân và Airin cũng nhìn lại anh.

"Tôm Marê, cách nào đấy, anh là người lền ông đáng cáu tiết nhất em từng thấy! Chuyện này, lẽ ra em có thể nói ngay từ hôm chúng mình gặp nhau lần đầu! Bao lâu em chờ đợi anh nói một cái gì! Anh cứ đợi đấy, khi nào em nắm được anh, em sẽ tống bớt cái tính ương bướng này ra khỏi đầu anh!". Anh hầu như không cảm thấy hai nắm tay nhỏ nhắn của cô đấm thùm thụp lên đầu lên vai anh trong khi anh ôm vào trong tay người đàn bà đầu tiên của đời mình, để mặc con la đi không ai cầm cương.

Đêm ấy, nằm trên giường, Tôm bắt đầu hình dung mình sẽ làm cho Airin một bông hoa hồng bằng sắt như thế nào. Trong một chuyến đi lên quận lỵ, anh sẽ chỉ cần mua một thanh sắt nhỏ loại tốt nhất, mới luyện. Anh phải nghiên cứu thật kỹ bông hoa hồng, cuống và trôn gắn với nhau như thế nào, cánh xòe ra sao, mỗi cánh uốn ra phía ngoài theo cách riêng của nó..., làm sao nung thanh sắt vừa tới độ đỏ da cam để có thể dùng búa dát mỏng ra nhanh nhất từ đó tỉa hình các cánh hoa hồng và những miếng này, một khi đem nung lại và gò với biết bao trìu mến, yêu thương, sẽ được nhúng vào nước muối trộn dầu đảm bảo cho cô gái tao nhã của những cánh hoa hồng...

Chương 107

Thoạt tiên nghe thấy tiếng động, rồi tiến nhanh tới, bà Emili Hâut giật mình trông thấy cô hầu phòng Airin yêu quý của mình ngồi thu lu, khóc nấc lên đằng sau chỗ cầu thang nhà dưới uốn thành hình vòng cung. Lập tức, bà chủ hoảng lên: "Cái gì thế, Airin?". Bà Emili cúi xuống, nắm lấy đôi vai thổn thức, lắc mạnh. "Đứng dậy khỏi đây ngay lập tức và kể ta nghe! Cái gì thế?".

Airin cố gắng loạng choạng đứng dậy, đồng thời hổn hển thổ lộ với bà chủ về mối tình của cô với Tôm, nói rằng cô muốn lấy anh, chứ không thể tiếp tục chống lại mấy cậu công tử cứ theo đuổi cô hoài. Bà Hâut, đột nhiên bị kích động, thúc cô nêu đích danh bọn ấy, và, qua hàng nước mắt, Airin phun ra hai cái tên.

Tối hôm ấy, trước bữa ăn, ông bà Hâut, qua phút dao động, đã nhất trí rằng cần mau chóng bán Airin cho mexừ Marê, việc đó rõ ràng là phù hợp nhất với lợi ích của gia đình.

Tuy nhiên, vì ông bà Hâut chân thành yêu mến Airin và rất tán thành việc cô chọn Tôm làm bạn trăm năm, nên họ một mực yêu cầu ông bà Marê để cho họ đăng cai hôn lễ và tiệc cưới. Tất cả các thành viên của hai gia đình Hâut và Marê, da trắng cũng như da đen, sẽ dự lễ ở sân trước đại sảnh nhà Hâut, với linh mục hành lễ và đích thân mexừ Hâut trao cô dâu cho nhà trai.

Nhưng giữa cái dịp vui đầy xúc động này, điều nổi bật gây xôn xao nhất chính là đóa hoa hồng bằng sắt có cuống dài, gò tay một cách tinh vi, hoàn hảo mà chú rể Tôm rút ra từ trong túi áo véttông và âu yếm trao tặng cho cô dâu tươi roi rói. Giữa những tiếng "ồ", "à" của cả đám cưới, Airin hôn đóa hoa bằng mắt, rồi ép nó vào ngực, cô thì thào "Tôm rành là quá đẹp! Em sẽ không bao giờ xa rời bông hoa hồng này - cũng như anh!".

Trong bữa tiệc cưới linh đình ở ngay trong sân, sau khi hai gia đình da trắng hân hoan rút lui vào dùng bữa trong đại sảnh, bà Matilđa, sau cốc rượu vang ngon thứ ba sôi nổi nói với Airin: "Con còn hơn là một đứa con gái xinh đẹp! Con đã cứu mẹ khỏi lo lắng là Tôm quá nhút nhát không dám cầu hôn với cô gái nào..." Airin nhanh nhảu và lớn tiếng đáp: "Anh í có dám đâu!" Và các khách ngồi trong tầm tai nghe rộ lên cười theo họ ầm ĩ.

Sau tuần lễ đầu tiên trở về đồn điền Marê, gia đình Tôm bắt đầu nói đùa với nhau rằng, từ khi cưới, chiếc búa của anh như hát trên đe. Chắc chắn là trước nay chưa ai thấy anh chuyện trò nhiều như thế hoặc hay mỉm cười với nhiều người như thế, hoặc làm việc hăng say như từ khi Airin về với anh. Bông hoa hồng bằng sắt quý báu của cô ngự trên lò sưởi ngôi nhà gỗ mới của họ mà cứ rạng sáng, anh lại rời khỏi để ra nhóm lò rèn, sau đó những tiếng dụng cụ chí chát gò kim khí cứ rền rền chẳng mấy khi ngắt cho đến khi vật nung đỏ cuối cùng vào lúc sẩm tối được nhúng vào chậu nước ngầu ngầu, kêu xèo xèo và sủi bọt nguội dần. Có khách đến thuê chữa lặt vặt hoặc chỉ đơn thuần là để mài sắc một dụng cụ nào đó, anh thường đề nghị họ vui lòng chờ. Một số nô lệ thích ngồi trên những khúc gỗ cao độ ba mươi phân đặt ở một bên, tuy nhiên phần đông lại ưng quanh quẩn tụ thành một nhóm thoải mái trao đổi những chuyện cùng quan tâm. Bên phía đối diện, các khách hàng da trắng thường ngồi chờ trên những chiếc ghế dài làm bằng gỗ xẻ mà Tôm dành cho họ, thận trọng đặt vừa đúng tầm tai nghe, song vừa đủ xa để đám da trắng không nghi ngờ là trong khi làm việc, Tôm vẫn hóng chuyện họ. Vừa hút thuốc, vừa gọt gọt đẽo đẽo và thỉnh thoảng tợp một ngụm từ những cút rượu bỏ túi trong khi trò chuyện, họ đi đến chỗ coi cửa hiệu của Tôm như một nơi gặp gỡ nổi tiếng của địa phương, hàng ngày cung cấp cho anh một lô chuyện gẫu, đôi khi cả những tin mới toanh, quan trọng mà anh đem kể cho Airin và mẹ Matilđa của mình cùng số còn lại trong gia đình xóm nô sau giờ ăn tối.

Tôm kể cho gia đình biết người da trắng tỏ ra cay đắng sâu sắc biết mấy về chiến dịch đang rộ lên của những người theo chủ nghĩa bài nô ở miền Bắc chống chế độ nô lệ. "Họ biểu tổng thống Biucơnơn biết điều thì tách xa cái đám vô tích sự những tên yêu nhọ, nếu ông í chờ đợi một sự ủng hộ nào đó ở miền Nam nầy". Nhưng các khách hàng da trắng của anh - Tôm nói - trút ra lời sự căm thù độc địa nhất của họ "đối mấy mexừ Ebrahơn Lincôn, người đang nói đến chuyện giải phóng dân nô lệ chúng ta".

"Rành là thật!" Airin nói. "Cách đây ít cũng một năm, em đã nghe họ nói nếu ông í không im mồm thì sẽ đẩy miền Bắc lẫn miền Nam vào một cuộc chiến tranh!".

"Phải nghe cái ông cụ chủ của tui to mồm nguyền rủa mới khiếp cơ!" Lili Xiu thốt lên. "Ông í biểu mexừ Lincôn chân, tay đầy hạch, mặt xấu xí, dài nghêu, lông lá đến nỗi khó mà nói ông í giống người hơn hay giống khỉ hoặc đười ươi hơn! Biểu ông í sinh ra và lớn lên nghèo rớt mồng tơi trong một căn lều gỗ, phải bắt cáo bắt chồn lấy cái ăn, mấy lị sẻ gỗ thuê thành ván hàng rào, y dư một tên nhọ vậy".

"Anh Tôm, anh chả biểu mexừ Lincôn bi giờ làm luật sư là gì?" Kitzi-bé hỏi và Tôm ậm ừ gật đầu.

"Nầy, mẹ bất cần dững người da trắng í nói cái gì!". Matilđa tuyên bố. "Mexừ Lincôn làm tốt cho chúng ta nếu ông í khiến bọn họ nháo nhác lên dư thế. Thật tình, mẹ càng nghe nói về ông í thì lại càng thấy ông í dư ông Môixê cố tìm cách giải phóng chúng ta là con dân xứ Ixrael vậy!".

"Ấy thế, rành là ông í không thể làm thế thật nhanh chóng cho hợp nguyện vọng của con". Airin nói.

Cả cô và Lili Xiu đều được mexừ Marê mua về tăng cường lực lượng lao động làm đồng. Mới đầu, cô làm đủ lệ bộ như vậy. Nhưng chưa được bao tháng, Airin đã đề nghị với anh chồng si mê làm cho mình một chiếc khung cửi - và cô bèn được toại ý ngay trong thời gian ngắn nhất mà đôi tay khéo léo của anh có thể thực hiện. Thế rồi, ở cách xa khoảng ba căn nhà, người ta có thể nghe thấy tiếng lách cách đều đặn của chiếc khung cửi trong khi cô làm việc đến tận đêm khuya, sau cả giờ đi ngủ của mọi người khác trong xóm nô. Chẳng bao lâu, đã thấy anh chàng Tôm hãnh diện ra mặt, tuy nhiên cũng có phần ngượng nghịu, mặc một chiếc sơ mi mà Airin đã cắt và may từ tấm vải do chính bàn tay cô dệt nên. "Chỉ là em thích làm dững việc gì mẹ em đã dậy em" cô khiêm tốn đáp lại những lời khen ngợi. Sau đó, cô chải, se, quay sợi, dệt và may đôi áo dài có diềm xếp nếp thật xứng hợp cho Lili Xiu và Kitzi-bé làm cho hai cô nàng sướng ngây ngất - Kitzi-bé, nay đã gần hai mươi tuổi, tỏ ra hoàn toàn không quan tâm gì đến chuyện "yên bề gia thất", mà dường như chỉ thích nhởn nhơ hết cuộc yêu đương này đến cuộc giăng gió khác, người tình mới nhất của cô, Amôx, là một công nhân làm đủ mọi việc ở cái khách sạn mới hoàn thành của công ty đường sắt Bắc Carôlina, ở khu cơ xưởng của công ty cách đấy mười dặm.

Rồi Airin lại mang cơm cho từng người trong các anh em chồng - điều khiến cho bọn họ, kể cả Asfođ thực sự xúc động - và cuối cùng là những tạp dề, áo "blu" và mũ mềm cho Matilđa và bản thân cô. Cả bà chủ rồi đến mexừ Marê cũng không kém thích thú ra mặt với những váy áo và sơ mi với đường kim mũi chỉ đẹp lạ lùng mà cô may cho họ bằng vải dệt từ bông mọc ngay trên đồn điền của họ.

"Ồ, quả là đẹp!" Bà Marê kêu lên, xoay một vòng để phô chiếc áo váy với Matilđa mặt tươi như hoa. "Tôi không hình dung ra được tại sao ông bà Hâut lại bán nó cho chúng tôi, mà lại với giá phải chăng như thế!". Khéo léo tránh không bộc lộ sự thật mà Airin đã tâm sự với bà, Matilđa nói: "Thưa bà, cùng lắm tui chỉ có thể đoán là tại họ rất chi là thích Tôm".

Vốn rất yêu màu sắc, Airin hăm hở thu nhặt các thứ cây, lá cô cần để nhuộm vải và vào những dịp cuối tuần đầu thu năm 1859 người ta thấy những tấm vải các màu xanh, lục, đỏ, tía, nâu và nhất là màu vàng ưa thích của cô, hong khô trên những sợi dây mây phơi quần áo. Chẳng cần ai chính thức quyết định hoặc thậm chí để ý thấy, Airin dần dà rút hẳn không làm việc đồng áng nữa. Từ ông chủ, bà chủ cho chí thằng bé Iuriơ bốn tuổi, cung cách khác thường, của Vơjơl và Lili Xiu, ai nấy đều nhận thức rõ thêm nhiều là bằng những cách ngày càng phong phú, Airin đang góp một khía cạnh tươi sáng mới vào cuộc đời của tất cả bọn họ.

"Con cho rằng cái chính làm con muốn lấy anh Tôm đến thế, là vì con thấy cả hai chúng con đều thích làm các thứ cho mọi người", cô nói với Matilđa đang ung dung đu đưa trong chiếc ghế trước lò sưởi ánh lên mờ mờ, một buổi tối lạnh giá cuối tháng mười. Ngừng một lát, Airin ranh mãnh liếc nhìn mẹ chồng. "Biết tính anh Tôm", cô nói, "nên con chả cần hỏi xem anh í có biểu mẹ là chúng con đang làm một cái gì khác nữa..."

Phải mất một giây, ý nghĩa câu nói mới ngấm. Mừng rú lên, chồm dậy và ôm chặt lấy Airin, bà Matilđa sướng ngây ngất cả người, "Làm một đứa con gái trước đã, cưng ạ, để mẹ có thể ôm ấp, ru nó như một con búp bê!".

Airin làm vô số thứ, nhiều đến mức không tin được, suốt những tháng mùa đông trong khi bụng cô mỗi ngày một chửa to. Đôi bàn tay của cô dường như có thể tạo nên một phép mầu phút chốc khiến cho trong đại sảnh lẫn từng căn lều ngoài xóm nô đều hoan hỉ. Cô lấy vải vụn tết thành thảm, cô làm những cây nến Nô-en và Tết dương lịch vừa rực rỡ mầu sắc vừa thơm ngát, cô đẽo gọt sừng bò khô thành những chiếc lược xinh xinh, vỏ bầu thành môi múc nước và biến những tổ chim thành họa tiết trang trí. Cô năn nỉ bằng được Matilđa để cho cô tiếp thu nhiệm vụ hàng tuần nấu giặt và là quần áo cho tất cả mọi người. Cô bỏ mấy chiếc lá húng quế hoặc hoa hồng khô ngào ngạt hương giữa những nếp quần áo gấp gọn, làm cho dân đồn điền Marê, da trắng cũng như da đen, đều thơm phức.

Tháng hai năm ấy, Airin bị Matilđa xúi giục tham gia vào một âm mưu tay ba; trước đó, bà đã tranh thủ được sự giúp đỡ của Asfođ, anh chàng có vẻ thú cái trò này. Sau khi giải thích kế hoạch của mình, Matilđa đe Airin "Đừng có hở câu nào mấy Tôm đấy, mầy lạ gì tính nó cứng nhắc và đúng mực dư thế nào!". Thâm tâm thấy không có hại gì trong việc thực hiện những chỉ thị của bà, Airin nắm lấy cơ hội đầu tiên để kéo riêng cô em chồng Kitzi-bé (vốn công khai tôn sùng bà chị dâu) ra một chỗ và trịnh trọng nói: "Chị nghe nói một đều mà chị đồ là em không muốn. Cái anh Asfođ í cứ thì thà thì thầm khắp rằng thì là tuồng dư có một đứa con gái xinh thật là xinh đang định cướp của em cái anh chàng Amôx làm ở khách sạn đường sắt..." Airin ngần ngừ một lát vừa đủ để xác định rõ đôi mắt Kitzi-bé nheo lại vì ghen, rồi tiếp tục: "Anh Asfođ biểu con bé ở ngay cùng đồn điền mấy gã kia. Anh ấy biểu Amôx hàng tuần đến gặp nó mấy đêm, còn chủ nhật mới gặp em. Con bé nói chả mấy nữa nhất định nó sẽ cùng Amôx nhẩy chổi".

Kitzi-bé đớp mồi ngay như một con cá đói, tin đó làm cho Matilđa vô cùng mãn ý, bà đã kết luận rằng, theo sự quan sát ngấm ngầm của bà về đám người tình trước của cô con gái đổi thay xoành xoạch, Amôx có vẻ là triển vọng vững vàng nhất, chân thành nhất để Kitzi-bé thôi lăng nhăng và ổn định một bề với anh ta.

Airin thấy ngay cả anh chàng Tôm khắc kỷ của mình cũng phải nhướn lông mày lên trong buổi chiều chủ nhật tiếp đấy, khi Amôx cưỡi con la mượn tới, trung thành thực hiện cuộc đi thăm thường lệ. Chưa ai trong gia đình thấy Kitzi-bé sôi nổi phô bày sự vui tươi hóm hỉnh cùng những ngón gợi ý kín đáo như lần này, trong khi cô tới tấp chầm bập anh chàng Amôx hồ như líu lưỡi lại, mà trước đây, ít nhiều cô thường tỏ ra chán ngấy. Sau mấy chủ nhật như vậy nữa, Kitzi-bé thú nhận với nữ thần tượng Airin của mình là cuối cùng, cô đã yêu thật sự và Airin mau chóng kể lại điều đó với Matilđa, làm bà hài lòng sâu sắc.

Nhưng rồi khi thấy chủ nhật nữa qua đi mà không thấy đả động gì đến chuyện nhẩy chổi, Matilđa tâm sự với Airin: "Mẹ thấy lo lo. Mẹ biết chả mấy nữa, hai đứa nó sẽ làm cái gì đấy. Con xem, lần nào thằng í đến đây, chúng nó cũng đi dạo, tách hẳn khỏi tất cả bọn ta, đầu chụm sát vào nhau..." Matilđa ngừng một chút, "Airin ạ, mẹ lo hai cái. Thứ nhất, chúng nó cứ đú đởn và gần gũi nhau quá, con bé có thể đi đến chỗ chung gối chung chạ. Cái nữa là thằng í vốn quen chuyện đường xe lửa mấy người nọ người kia đi đây đi đó, mẹ không biết liệu chúng nó có thể nghĩ đến chuyện chạy trốn lên mạn Bắc hay không? Bởi vì Kitzi-bé rành là đủ liều lĩnh để toan tính bất kỳ cái gì, con biết đấy!".

Chủ nhật sau, Amôx vừa đến, Matilđa đã mau chóng xuất hiện, mang một chiếc bánh kem lớn nhiều tầng và một bình limônát tướng. Bà lớn tiếng rành rọt mời Amôx, nói rằng nếu như bà nấu nướng không cừ bằng Kitzi-bé đi nữa, thì chẳng gì Amôx cũng chịu khó nếm một miếng bánh và trò chuyện tí chút. "Quả thật, bọn ta cũng chả còn được gặp cháu mấy nữa, tuồng dư vậy!".

Kitzi-bé vừa hừm một tiếng, đã vội nín bặt ngay lập tức khi cô thấy Tôm lừ mắt nghiêm nghị, trong lúc Amôx không còn cách nào khác, đành phải ngồi xuống chiếc ghế được kéo ra mời anh. Rồi trong khi gia đình vừa giải khát, vừa chuyện gẫu, Amôx cũng phải tham gia đôi ba tiếng ngượng ngập, gượng gạo. Sau một lát, rõ ràng là Kitzi-bé quyết định phải chứng tỏ người yêu của mình bội phần hay hơn là gia đình cô có thể đánh giá.

"Amôx, sao anh không kể cho mọi người nghe về dững cái cột cao vút mấy lại dây thép mà dững người da trắng công ty đường sắt mới dựng cách đây không lâu?" Giọng cô có vẻ đòi hỏi hơn là đề nghị.

Amôx luống cuống một chút rồi nói: "À, thật quả chả biết cháu có thể tả đích xác nó là cái gì không. Dưng mà mới tháng qua, họ đã kéo dây thép qua suốt các đỉnh cột cao thật là cao, chạy dài tít tắp đến hết tầm mắt..."

"Thế dững cây cột mấy lại dây thép í để làm gì?" Matilđa hỏi.

"Mẹ, anh í đang sắp sửa nói đến chỗ í!".

Amôx có vẻ bối rối. "Điện tín, đâu dư họ gọi nó thế, thưa bác. Cháu đã đi theo đường dây, xem nó dẫn vào nhà ga xe lửa, ở đấy người ký ga có trên bàn giấy, một cái máy kỳ cục với một thứ cán ngồ ngộ lệch về một bên. Thi thoảng, ông ta lấy ngón tay ấn nó kêu tanh tách. Dưng mà nhều lần, cái máy í tự nó kêu tạch tạch. Cái này làm dân da trắng náo nức thật lực. Bi giờ, sáng nào cũng có một lô một xốc bọn họ đến, buộc ngựa, tha thẩn quanh đấy, chỉ chờ nghe cái vật í bắt đầu tạch tạch. Họ biểu đó là tin tức từ nhiều nơi khác nhau truyền qua dây thép tận trên các đầu cột kia".

"Amôx, khoan đã, nầy...", Tôm chậm rãi nói "Chú bẩu nó truyền tin dưng không nói, mà chỉ tạch tạch thôi ư?".

"Vâng, thưa ông Tôm, y như một con châu chấu gộc í. Tôi thấy tuồng dư ông ký ga làm cách nào đấy để ghi từ cái í ra thành chữ cho đến khi nó dừng lại. Rồi loáng sau, ông í bước ra ngoài và nói cho dững người kia biết mọi chuyện trong đó".

"Dững cái người da trắng í quả là một cái gì!" Matilđa thốt lên. "Chúa đã phán mà!" Bà nhìn Amôx, hớn hở gần như Kitzi-bé.

Amôx, rõ ràng là thoải mái hơn trước nhiều, lúc này không cần ai giục cũng tự động kể thêm một điều kỳ diệu nữa. "Ông Tôm, ông đã bao giờ vào xưởng sửa chữa hỏa xa nào chưa?"

Tôm đang thầm khẳng định là anh ưa gã trai trẻ này, vẻ như, cuối cùng, em gái anh đã chọn gã để cùng nhau nhảy chổi, gã có cốt cách đáo để. Xem ra gã là người chân thật, vững vàng.

"Không, chú ạ, tui chưa từng," Tôm nói - "Vợ chồng tui thường đánh xe qua khu cơ xưởng của công ty, dưng mà tui chưa bao giờ vào bên trong một ngôi nhà nào ở đó".

"Ấy, tui đã nhiều lần bưng khay đựng thức ăn từ khách sạn đến cho các người ở cả mười hai xưởng khác nhau và tui cho xưởng rèn là bận rộn nhất. Ở đấy, họ làm dững việc dư là uốn thẳng lại những cái trục toa to tướng bị cong, chữa đủ mọi thứ hỏng hóc của toa xe, mấy lị làm đủ các loại bộ phận làm cho tầu chạy. Dững cái tời ở đấy to dư dững khúc gỗ, bắt vít vào trần nhà, và ước chừng mười hai đến mười lăm thợ rèn mỗi người có một nhọ giúp việc quay dững cái vồ và búa tạ to chưa từng thấy. Họ có dững lò rèn đủ to để quay được đến hai ba con bò nguyên cả con, và một nhọ giúp việc bẩu tui là dững cái đe của họ nặng tới tám trăm pao!".

"Huýt!" Tôm huýt gió rõ ràng là bị ấn tượng mạnh.

"Đe của anh nặng bao nhêu, anh Tôm?" Airin hỏi.

"Khoảng hai trăm pao và không phải ai cũng nhấc nổi nó".

"Amôx..." Kitzi-bé nhắc, "anh không kể gì về cái khách sạn mới của anh, nơi anh làm việc!".

"Khoan đã nào, đâu phải khách sạn của tui!" Amôx cười nhe cả hai hàm răng. "Rành là tui dững hước hao giá nó là của tui! Họ hốt bạc! Lạy chúa! Phải, chắc mọi người đều biết cái khách sạn í xây dựng chưa được bao lâu. Người ta biểu một số ông lền ông cáu tiết là vì ông chủ công ty đường sắt nói chuyện mấy họ, dưng lại chọn bà Nanxi Hilơđ làm quản lý khách sạn. Chính bà là người đã tuyển tui vào vì nhớ hồi đang nhớn, tui làm cho gia đình bà rất cần cù. Đại khái, khách sạn có ba mươi phòng với sáu buồng vệ sinh ở sân sau. Khách phải giả một đôla một ngày tiền thuê phòng, chậu rửa mặt, khăn tắm cùng với các bữa ăn sáng, trưa, tối và ghế ngồi chơi ở cổng tiền. Thi thoảng, tui nghe thấy bà Nanxi rầy la về chuyện phần lớn công nhân đường sắt làm rây bê bết dầu mỡ và bồ hóng vào dững khăn trải giường trắng bốp của bà, dưng bà lại nói, thôi được, chí ít họ cũng tiêu hết mọi thứ họ kiếm được, cho nên họ góp phần làm cho khu cơ xưởng của công ty phát đạt lên!".

Một lần nữa Kitzi-bé lại gợi cho Amôx của mình: "Còn chuyện phục vụ ăn uống cho hàng bao nhêu người đi tầu thì sao?".

Amôx mỉm cười: "À, việc này làm bầy tui bận bịu chưa từng thấy! Nầy nhé, hàng ngày có hai chuyến tàu khách, một chuyến chạy về phía đông, chuyến kia phía tây. Trên đường đến Mrếc Linxvil hoặc Hilxborô, tùy theo tầu đi theo hướng nào, trưởng tàu đánh điện tín trước cho khách sạn biết có bao nhêu hành khách và nhân viên trên tầu. Và khi chuyến tầu í đến ga bầy tui, xin nói để các vị biết, bà Nanxi đã cho bầy tất cả đồ ăn lên dững dãy bàn dài, nóng xốt, bốc hơi nghi ngút và tất cả cánh giúp việc bầy tui cứ là tíu tít hầu bàn! Xin nói là ê hề, nào chim cun cút, nào dăm bông, nào gà thỏ, nào thịt bò, thôi thì đủ các loại xà lách trộn, rau thì muốn kể thứ gì cũng có, cùng với cả một bàn toàn đồ tráng miệng! Người kéo ra ùn ùn từ đoàn tầu to tướng đậu ở đấy hai mươi phút để cho họ đủ thì giờ ăn uống trước khi trở lại toa và nó bắt đầu tu tu xịch xịch đi tiếp!".

"Còn dững người chào hàng, anh Amôx!". Kitzi-bé kêu và mọi người mỉm cười trước vẻ tự hào của cô.

"Phải", Amôx nói. "Họ là dững người mà bà Nanxi rất thích cho trọ ở khách sạn! Thi thoảng, hai, ba người chào hàng cùng ở một chuyến tàu xuống ga, tui mấy một nhọ nữa vội vàng đến xách va-li cho họ cùng với những hòm đen nặng, bọc lưới da mà bầy tui biết là đầy dững mẫu hàng, và đưa họ về khách sạn. Bà Nanxi biểu họ là dững tay hào hoa phong nhã chính cống, luôn luôn sạch sẽ tinh tươm và thực sự trân trọng việc họ được săn sóc tử tế, và tui cũng thích họ. Một số rất nhanh nhẩu chi năm xu, một hào thưởng công xách cặp hoặc đánh giầy cho họ, hoặc dững việc gần dư không đáng kể! Họ tắm táp cẩn thận rồi dạo quanh thị xã, trò chuyện mấy mọi người. Ăn chiều xong, họ ngồi chơi ở cổng, hút hoặc nhai thuốc lá, ngắm nhìn hoặc nói chuyện cho đến lúc lên gác đi ngủ. Rồi sáng hôm sau, điểm tâm xong, họ gọi một người trong cánh nhọ bầy tui mang dững hòm mẫu hàng đến cửa hiệu thợ rèn thuê một con ngựa, một cỗ xe với giá một đôla một ngày và họ đánh xe đi bán hàng cho hầu khắp các cửa hàng dọc dững con đường trong quận này, là tui gẫm thế..."

Hoàn toàn thán phục Amôx được làm việc giữa những điều kỳ diệu như vậy, anh chàng Joóc-con phục phịch kêu lên hồn nhiên: "Amôx chú mầy, ta không ngờ chú mầy đang sống ra cái gì đấy!".

"Bà Nanxi biểu hỏa xa là cái bất hủ nhất kể từ khi biết dùng ngựa". Amôx khiêm tốn nhận xét. "Bà í biểu bao giờ có thêm nhều đường sắt nối liền nhau, mọi sự sẽ không bao giờ còn dư cũ nữa".

Chương 108

Joóc-Gà ghìm con ngựa đẫm mồ hôi chậm lại vừa đủ cho nó ngoặt lại gấp từ đường cái lớn vào lối hẻm, rồi đột nhiên hai tay ông giật lên khiến dây cương căng ra. Đúng chỗ này đây, nhưng kể từ dạo ông thấy nó lần trước..., thật không thể tin được. Bên kia con đường hẻm lút cỏ, ngôi nhà của ông Liơ thủa xưa mầu vàng sẫm, giờ trông xám xịt, nham nhở những mảng vôi cũ tróc lở, một số ô kính cửa sổ vỡ phải nhét giẻ vào, mái thì vá víu lung tung và một bên gần như võng xuống. Cả những cánh đồng kế cận cũng cằn cỗi, không còn gì ngoài những thân rơm khô héo bên trong những hàng rào gỗ sẻ siêu vẹo.

Bàng hoàng, ngơ ngác ông buông lỏng cương cho ngựa đi tiếp, tự lách đường qua đám cỏ. Đến gần hơn ông thấy cái cổng xiên xẹo của đại sảnh, những bậc thềm trước lở lói, và tất cả các mái lều gỗ xóm nô đều sụt xuống. Không thấy một con mèo, một con chó hoặc một con gà nào khi ông tụt xuống ngựa, cầm cương dắt nó đi dọc theo mé nhà đến sân sau.

Ông cũng không kém sửng sốt khi thấy bà cụ già khụ ngồi còng lưng trên một khúc gỗ, nhặt rau xà lách vứt cuộng xuống đất quanh chân và bỏ lá vào một cái chậu rửa nứt nẻ, han gỉ. Ông nhận ra đó ắt hẳn là bà Malizi nhưng khác đi quá đỗi đến mức không tin được. Ông hắng giọng to một cách không cần thiết, khiến bà cụ chú ý.

Bà Malizi ngừng nhặt rau. Bà ngẩng đầu lên, nhìn quanh, rồi trông thấy ông, song ông có thể nói chắc là bà chưa nhận ra ông là ai.

"Bà Malizi!" ông chạy lại gần hơn, dừng lại phân vân khi thấy mặt bà cụ vẫn có vẻ thắc mắc. Nheo mắt lại, bà tập trung nhìn ông cho rõ hơn... rồi đột nhiên, tỳ mạnh một tay xuống khúc gỗ, bà rướn người dậy. "Joóc... có phải cái thằng Joóc đây không?".

"Phải, bà Malizi ạ!" Bây giờ, ông chạy bổ đến nắm lấy và ôm ghì thân hình to lớn mà bèo nhèo của bà lão, gần muốn khóc. "Lạy chúa, nhỏ bao lâu nay ở đâu? dạo xưa cứ quen có mầy ở quanh đây suốt!".

Giọng và lời bà có một cái gì trống vắng, như thể bà không biết rằng một khoảng thời gian gần năm năm đã trôi qua. "Ở tận bên kia biển, bên nước Anh í, bà Malizi ạ. Chọi gà ở bên í... Bà Malizi, mẹ con, vợ con con đâu rồi?"

Mặt bà cũng đờ đẫn, thất thần như không còn khả năng xúc động, bất kể điều gì khác có thể xảy đến. "chẳng còn ai ở đây nữa, nhỏ ạ". Bà có vẻ ngạc nhiên là ông không biết điều đó. "Đi tuốt cả rồi, còn có mình tao mấy ông chủ..."

"Đi đâu, bà Malizi?". Giờ đây ông biết đầu óc bà lão đã lẫn cẫn. Bà giơ một bàn tay hum húp ra hiệu về phía khu rừng liễu nhỏ dưới xóm nô. "Mẹ mầy... Tên bà í là Kitzi... Nằm ở kia kìa..."

Một tiếng nấc hự dâng lên và bật khỏi cổ họng Joóc-Gà. Ông vội đưa tay lên bịt miệng.

"Cả Xerơ nữa, bà í cũng nằm đấy... và bà cụ chủ... ở sân trước - mầy cưỡi ngựa qua mà không thấy bà í ư?"

"Bà Malizi, Tilđa mấy các con con đâu?"

Ông không muốn thúc hối bà lão. Bà phải nghĩ một lúc.

"Tilđa à? Ừ, Tilđa xưa là đứa con gái ngoan, rành thế. Đẻ một lũ một lĩ con nữa. Ừ, nhỏ này, mày phải biết chứ, ông chủ đã bán tất cả bọn nó đi từ lâu rồi..."

"Đâu, bà Malizi, bán đi đâu?". Cơn điên khùng tràn ngập ông. "Ông chủ đâu bà Malizi?".

Đầu bà quay về phía đại sảnh. "còn ngủ trong kia, tau chắc thế. Say bét nhè, phải muộn mới dậy, gào ăn... Chả có thức ăn gì mấy... Nhỏ, mầy có mang gì đến để nấu nướng không?"

Ném một câu "Không ạ" trả lời bà lão bối rối, Joóc-Gà lao qua nhà bếp ngổn ngang và dãy hành lang tróc lở, vào căn phòng khách lộn xộn hôi hám để dừng lại dưới chân chiếc cầu thang ngắn, giận dữ gọi ầm lên: "Mexừ Liơ!"

Ông đợi một thoáng ngắn.

"MEXỪ LIƠ!"

Sắp sửa định chạy bổ lên cầu thang thì ông nghe thấy có tiếng động đậy. Sau một lát, từ khung cửa lớn bên phải, một bóng người đầu tóc bù xù nhô ra, ngó xuống phía dưới.

Qua cơn giận, Joóc-Gà đứng ngây bàng hoàng, không nói lên lời trước con người vốn là ông chủ mình nay chỉ còn là cái vỏ gầy guộc râu tóc lởm chởm không cạo, hiển nhiên là ông đã mặc cả bộ đồ quần áo ấy mà ngủ. "Mexừ Liơ đấy ư?"

"Joóc!" Người ông già giật lên trông thấy. "Joóc!" Ông chệnh choạng bước xuống những bậc cót két, dừng lại ở chân cầu thang; họ đứng nhìn nhau trân trân. Trong gương mặt hốc hác của mexừ Liơ, đôi mắt bỗng ươn ướt, rồi với một tiếng cười the thé, ông dang rộng hai tay xô đến để ôm Joóc-Gà. Ông này bước né sang một bên, nắm lấy đôi tay xương xẩu của mexừ Liơ, lắc thật mạnh.

"Joóc, anh về, ta rất mừng! Anh đã đi những đâu? Đáng lẽ anh phải về đây lâu rồi!".

"Vâng, vâng. Ngài Raxel vừa mới buông cháu ra. Và cháu mất tám ngày đi từ chỗ tàu cập bến Ríchmơnđ đến đây".

"Vào trong này! Vào nhà bếp cái!". Mexừ Liơ kéo cổ tay Joóc-Gà. Và khi họ tới đó, ông kéo rẹt hai chiếc ghế của cái bàn gẫy. "Ngồi sau, cu! Lizi! Bình rượu của tôi đâu! Lizi".

"Tôi đang đến đây, ông chủ..." tiếng bà già từ bên ngoài vọng vào. "Bà ấy đâm lẫn cẫn từ dạo anh đi, không còn phân biệt được hôm qua với ngày mai nữa". mexừ Liơ nói.

"Ông chủ, gia đình cháu đâu?"

"Cu, ta hãy uống một chén đã, rồi nói chuyện sau. Bao lâu ở với nhau, ta chưa bao giờ uống với nhau! Rất mừng thấy anh về, rốt cuộc thế là có người để chuyện trò!"

"Không uống trước khi nói chuyện đâu, ông chủ! Gia đình tui đâu...".

"LIZI".

"Dạ..." Thân hình đồ sộ của bà di chuyển qua khung cửa, bà tìm thấy và đặt một cái bình cùng vài chiếc ly lên bàn rồi trở ra ngoài như không hề biết đến Joóc-Gà và mexừ Liơ đang nói chuyện ở đó.

"Phải, cu ạ, ta thật xót thương mẹ anh. Bà ấy già quá đấy thôi, bà ấy không đau đớn gì mấy và đi nhanh chóng. Ta đặt bà ấy trong một ngôi mộ tử tế..." mexừ Liơ vừa nói vừa rót rượu cho cả hai.

Cố tình không nhắc đến Tilđa và các con mình, ý nghĩ đó vụt lóe lên trong óc Joóc-Gà. Chả thay đổi tí nào... Vẫn thủ đoạn và nguy hiểm dư con rắn, phải giữ đừng để cho ông ta nổi máu điên.

"Ông có nhớ dững điều cuối cùng ông nói mấy cháu không, ông chủ? Ông biểu thả cho cháu tự do ngay khi cháu trở về. Thì cháu đã về đấy!".

Nhưng mexừ Liơ không tỏ vẻ gì là có nghe thấy mà chỉ đẩy ly rượu đầy tới ba phần tư qua phía bên kia bàn. Rồi nâng ly của mình. "Này, cu. Ta hãy uống mừng anh trở về...".

Mình cần cái nầy... Uống một hơi cạn ly rượu, Joóc-gà cảm thấy nó trôi xuống họng cay xè và làm nóng xực trong người.

Ông lại thử đi đường vòng: "Ông chủ, cháu rành là ái ngại, nghe bà Malizi nói là ông đã mất bà chủ".

Uống nốt ly rượu, rồi ầm è, mexừ Liơ nói: "Đơn giản là một buổi sáng, bà ấy không dậy nữa, có thế thôi. Ta rất không muốn thấy bà ấy đi. Từ cái cuộc thi chọi gà ấy, bà không để ta yên một phút nào. Nhưng ta thật không muốn bà ấy đi. Không muốn thấy ai đi sất". "Ông ợ. Tất cả chúng ta ai cũng phải đi.."

Ông í chưa đến nỗi dư bà Malizi, dưng mà cũng sắp sửa. Giờ đây, Joóc đi thẳng vào vấn đề.

"Tilđa của tui và các con tui, ông chủ, bà Malizi biểu ông đã bán họ..."

Mexừ Liơ liếc nhìn ông. "Phải, bắt buộc, cu ạ. Bắt buộc phải thế! Vận rủi dồn ta cùng đường, quá tệ. Ta bắt buộc phải bán đi gần hết đất đai, bán mọi thứ, mẹ kiếp, đến cả lũ gà nữa!".

Đã sắp nổi đóa, Joóc-Gà bỗng chững lại.

"Cu ạ, ta bây giờ nghèo xơ xác, ta và Malizi gần như vớ được gì ăn nấy!". Bỗng nhiên ông cười cùng cục. "Mẹ kiếp chắc bây giờ chả có gì sất! Ta vốn sinh ra bần hàn mà!". Ông trở lại nghiêm túc. "Nhưng bây giờ anh đã về, anh với tôi có thể gây lại cái cơ đồ này, anh nghe không, tôi biết hai ta có thể làm được, cu ạ".

Tất cả cái gì đã ngăn Joóc-Gà khỏi xông vào tấn công mexừ Liơ là cái ý thức ức chế ông suốt đời do biết rõ hậu quả tự nhiên của việc phạm tới thân thể bất kỳ người da trắng nào. Nhưng cơn giận đẩy ông gần tới chỗ đó. "Ông chủ ạ, ông đã đẩy tui đi khỏi đây với lời hứa hẹn cho tui tự do! Dưng mà tui trở về, thậm chí ông đã bán cả gia đình tui đi. Tui cần giấy tờ của tui và cần biết vợ con tui giờ ở đâu, ông chủ!".

"Ta tưởng đã nói cho anh biết cái đó rồi chứ! Bọn nó bên quận Alơmenx, chỗ nhà điền chủ tên là Marê, ở cách các cơ xưởng hỏa xa không bao xa...". Mexừ Liơ nheo mắt lại. "Mày to tiếng với ta đó, cu?".

Alơmenx... Marê... Cơ xưởng hỏa xa. Khắc vào trí nhớ những tiếng then chốt đó, Joóc-Gà lúc này cố làm ra vẻ ân hận: "Xin lỗi, tại cháu hơi nóng đấy thôi, chứ không chủ ý, ông chủ ạ..."

Ông chủ có vẻ phân vân, rồi cho qua. Mình cần lựa lời dỗ ông ta đưa cái giấy ông ta đã viết cho mình được tự do. "Ta đã sa sút, cu ạ!". Cúi khom khom qua mặt bàn, ông chủ hiếng mắt, dữ tợn. "Anh nghe thấy không? Chẳng ai biết được ta sa sút đến mức nào đâu... Ta không muốn nói về mặt tiền nong thôi đâu...". Ông chỉ vào ngực mình "Sa sút ở trong này này!". Ông có vẻ cần một câu trả lời.

"Vâng".

"Ta đã trải qua những ngày cơ cực, cu ạ! Bọn chó đẻ, khi thấy ta đến thường gào tên ta từ bên này sang bên kia đường. Ta nghe thấy chúng cười diễu sau lưng ta. "Quân chó đẻ!". Một nắm đấm xương xẩu nện xuống mặt bàn. "Ta đã thề trong tim là Tom Liơ sẽ cho chúng biết tay! Bây giờ, anh trở về. Kiếm một loạt gà nữa! Bất kể đã tám mươi ba... Chúng mình có thể làm được chứ cu?".

"Ông chủ..."

Mexừ Liơ nheo mắt lại: "Ta quên mất anh bao nhiêu tuổi rồi, cu nhỉ?".

"Bi giờ là năm tư, thưa ông chủ".

"Làm gì đến!"

"Đến đấy thưa ông chủ. Chẳng mấy nữa là năm nhăm..."

"Mẹ kiếp ta thấy mày ngay từ buổi sáng mầy ra đời. Thằng nhọ con da màu rơm nhăn nheo...". Mexừ Liơ cười cùng cục. "Mẹ kiếp, chính ta đặt tên cho mày".

Tự rót cho mình một ly vơi hơn sau khi Joóc-Gà xua tay từ chối, mexừ Liơ đảo mắt vội và ngó quanh như để chắc dạ là chỉ có mình họ ở đó. "Thiết nghĩ chả cần giấu mày làm gì, ta đánh lừa bọn chúng tuốt! Bọn nó tưởng ta không còn gì nữa...". Ông nhìn Joóc-Gà vẻ âm mưu. "Ta có tiền! Không nhiều lắm... Ta cất giấu kỹ. Chẳng có ai ngoài ta biết chỗ!". Ông nhìn Joóc-Gà lâu hơn. "Cu cậu ạ, khi nào ta đi mày có biết ai sẽ được những gì ta có không? Ta hãy còn mươi âycơ nữa cơ. Ruộng đất cũng như tiền gửi nhà băng! Bất cứ cái gì ta có đều sẽ về mày. Giờ đây mày là người thân cận nhất của ta, cu ạ".

Ông có vẻ đang vật lộn với điều gì. Ông cúi lại gần hơn, vẻ lén lút "Mẹ kiếp, chả cần gì phải tránh không nhìn thẳng vào sự thật. Chúng mình có liên quan máu mủ với nhau, nhỏ ạ".

Rành là ông ta đã xuống tận đáy rồi nên mới nói ra cái đó. Lòng dạ như thắt lại, Joóc-Gà ngồi lặng câm.

"Hãy ở lại đây, dù chỉ một thời gian ngắn, Joóc ạ...". Bộ mặt say uytxki khẩn khoản. "Ta biết con không phải loại quay lưng lại với những người đã giúp con trong cuộc đời này".

Đúng trước khi mình đi, ông í đã đưa mình xem tờ chứng chỉ tự do ông í viết và ký tên vào, biểu là sẽ giữ trong két. Joóc-gà hiểu ra rằng ông còn phải chuốc rượu cho mexừ say hơn nữa. Ông ngắm nghía thật kỹ bộ mặt bên kia bàn, bụng nghĩ ông í còn độc có mỗi một thứ là nòi da trắng mà thôi...

"Thưa ông chủ, cháu sẽ không bao giờ quên là ông đã nuôi nấng cháu - rất ít có người da trắng tốt như vậy..."

Đôi mắt ươn ướt sáng lên. "Dạo ấy, anh chỉ là một thằng nhọ con lao động. Ta rành nhớ...!"

"Dạ, ông mấy bác Mingô..."

"Lão già Mingô! Cái thời lão ấy! Tay nhọ luyện gà cừ nhất đấy...". Đôi mắt rớm lệ tập trung nhìn xoáy vào Joóc-Gà "... cho đến khi anh học thành tài... ta bắt đầu mang anh đi các cuộc đấu và để Mingô lại..."

"... hy vọng mầy với ông chủ giao cho tau cho gà ăn...". Nhớ lại cái giọng cay đắng của bác già Mingô, ông vẫn còn thấy khổ tâm.

"Ông chủ ạ, ông còn nhớ cái đận ta sắp đi dự một cuộc đấu lớn ở Niu Oliânz không?".

"Tất nhiên! Rồi lại không đi nữa...". Trán ông nhăn lại.

"Là vì ngay trước khi lên đường thì bác Mingô chết".

"Phải, lão Mingô giờ nằm dưới những cây liễu kia". Cùng mấy mẹ mình, mấy bà Xerơ, và cả bà Malizi nữa, khi nào bà í đi, tuỳ theo ông hay bà í đi trước. Joóc tự hỏi hai con người này, nếu mất đi một, không biết người kia sẽ ra sao.

"Cu này, anh có nhớ hồi ta cho anh cái giấy thông hành để đi bắt tất cả các hĩm anh muốn không?".

Giả vờ cười hô hố, Joóc-Gà cũng đấm bàn, trong khi ông chủ hỏi tiếp. "Ta làm thế là rất phải, vì dạo ấy anh là con ngựa đực khoẻ nhất ta từng thấy. Và cả hai ông con đều bắt được khối hĩm trong những chuyến đi, cu nhỉ! Ta biết anh có món và anh cũng biết ta có món..."

"Dạ! Rành thế, thưa ông chủ!".

"Và anh bắt đầu chọi gà hạ cấp và ta cho tiền anh đánh cá và anh được lia lịa!"

"Vâng, rành là đúng ạ! Đúng thế!".

"Cu này, chúng ta đã từng là một ê-kíp, chúng ta đã từng là thế!". Joóc-Gà bất chợt thấy mình hầu như bắt đầu chia sẻ nỗi rạo rực trong việc ôn lại kỷ niệm cũ; ông cũng cảm thấy chếnh choáng hơi men uytxki. Ông bèn tự nhắc mình nhớ đến mục tiêu. Với tay qua bàn nhấc bình rượu lên, ông rót vào ly mình chừng một đốt ngón tay, nắm vội lấy thành ngoài ly để che giấu lượng rượu ít ỏi, trong khi vươn tay sang rót cho mexừ Liơ chừng ba phần tư ly. Ông giơ chiếc ly bọc kín trong nắm tay lên, làm ra vẻ loạng choạng, giọng lè nhè: "Chúc ông chủ mọi nơi mọi tốt! Dư dững người Anh nói: Tợp một hơi! Nào".

Nhấm nháp ly của mình, ông theo dõi mexừ Liơ nốc ừng ực. "Cu ạ, anh cảm thông thế, ta thật hởi lòng..."

"Chạm cốc lần nữa!". Hai chiếc ly được giơ lên. "Tên nhọ ưu tú nhất ta từng có!". Họ cạn ly.

Đưa một mu bàn tay nổi gân xanh lên chùi mồm, họ sục sặc vì độ sốc của uýtxki, mexừ Liơ cũng lè nhè. "Cu, mày không nói gì với ta về cái lão người Anh ấy... Tên lão ta là gì nhỉ?".

Ngài Raxel, thưa ông chủ. Ông í tiền nhều đếm không xuể. Có hơn bốn trăm gà nòi tha hồ chọn để đem đi chọi...". Rồi sau khi dụng ý dừng một lát: "Dưng mà thưa ông chủ, ông í đâu phải là tay chơi chọi gà tầm cỡ dư ông".

"Mày nói thật tình đấy chứ, cu?".

"Một là ông í không tinh bằng. Mấy lị không phải bậc tu mi nam tử dư ông! Ông í chỉ giàu và may mắn thôi... Không phải hạng người da trắng dư ông, thưa ông chủ!". Joóc-Gà nhớ lại là đã nghe lỏm thấy ngài X. Eric Raxel nói với bạn bè: Ông chủ của Joóc là một tay chọi gà lẫy lừng.

Đầu mexừ Liơ oặt xuống, ông lại hất hẳn lên, đôi mắt cố gắng tập trung nhìn Joóc-Gà. Không biết ông ta để cái két ở đâu nhỉ? Joóc-Gà nghĩ bụng số phận quãng đời còn lại của ông biết mấy tùy thuộc vào việc giành đoạt lấy mảnh giấy vuông vắn vẫn in rõ mồn một trong trí nhớ ông, với số chữ viết có lẽ nhiều gấp ba tờ thông hành, bên trên chữ ký.

"Ông chủ, cháu có thể xin ông thêm tí riệu nữa được không?".

"Việc gì mày phải hỏi, cu... mày muốn bao nhiêu cũng được"...

"Cháu biểu mấy nhều người Anh là cháu có ông chủ tốt nhất trên đời... không ai nghe thấy cháu nói đến chuyện ở lại bên í bao giờ... ấy, ly của ông chủ gần cạn rồi kìa, ông chủ..."

"... chỉ một chút nữa là đủ... không, mày không phải là cái loại ấy, cu ạ... không bao giờ gây rắc rối thật sự cho tao cả..."

"Vâng... nào, lại xin nâng cốc chúc mừng ông..." Họ uống, một chút rượu rớt xuống cằm ông chủ. Joóc-Gà đang cảm thấy ngấm rượu hơn thì bỗng nhiên ngồi thẳng người dậy, trông thấy đầu ông chủ ngả dần xuống mặt bàn...

"Ông bao giờ cũng tốt với các nhọ khác nữa, thưa ông chủ..."

Cái đầu lúng liếng, gục xuống "Ta đã cố như thế, cu ạ... đã cố"... Bặt tiếng.

Chắc là, ông ta say mềm rồi. «Vâng, ông mấy cả bà chủ đều... »

"Một phụ nữ tốt... Về nhiều mặt"...

Lúc này ngực ông chủ cũng đã chạm mặt bàn. Nhấc ghế lên thật nhẹ nhàng, không để động mạnh, Joóc-Gà đợi một lúc, nín thở hồi hộp. Đi tới cửa vào đại sảnh, ông dừng lại, rồi gọi không to lắm: "ông chủ! ông chủ!"

Quay ngoắt lại như một con mèo, trong mấy giây, ông lục tất cả các ngăn kéo trong mọi thứ đồ đạc ở phòng trước. Dừng lại, chỉ nghe thấy tiếng mình thở, ông rảo bước, vừa đi vừa nguyền rủa tiếng sàn kêu cót két.

Chỉ riêng việc đột nhập vào phòng ngủ một người da trắng đã là một chấn động mạnh đối với ông. Ông dừng sững... Bất giác bước lùi lại, ông thoáng thấy cả một mớ lộn xộn. Trấn tĩnh nhanh chóng, ông lại bước vào, bao vây bởi những mùi nồng nặc lẫn lộn của rượu uýtxki với nước tiểu, mồ hôi và quần áo bẩn chưa giặt giữa đống chai không. Rồi như bị ốp đồng, ông mở tung các thứ, gạt bừa sang bên, lục lọi một cách vô hiệu. Có lẽ ở dưới gầm giường. Giận dữ quỳ thụp xuống, ngó ngó nghiêng nghiêng, ông nhìn thấy cái két nhỏ.

Vồ lấy nó, loáng một cái, ông đã trở xuống cầu thang, nhẹ nhàng đi qua hành lang. Thấy ông chủ vẫn gục trên bàn, ông quay lại, hối hả qua cửa trước. Quành mé nhà, ông lấy tay vặn khoá định mở chiếc két sắt. Lên ngựa đi đã - rồi phá nó sau. Song ông phải biết chắc là mình đã nắm được tờ chứng chỉ tự do.

Khúc gỗ để bổ củi ở sân sau níu luồng mắt ông lại, cùng với chiếc rìu nằm bên cạnh, dưới đất. Gần như nhảy chồm tới, nhấc đánh phắt chiếc rìu lên, đặt cái két trên khúc gỗ, mặt khoá ngửa lên, ông bổ một nhát bửa tung nó ra. Tiền giấy, tiền đồng, những tờ giấy gấp văng ra, và mở vội những giấy đó, ông nhận ra ngay tờ chứng chỉ.

"Mầy làm chi đấy, nhỏ?"

Ông giật nẩy mình. Nhưng đó chỉ là bà Malizi ngồi trên khúc gỗ của mình, thản nhiên như không, lặng lẽ nhìn.

"Ông chủ biểu sao?" bà hỏi một cách lơ đãng.

"Con phải đi đây, bà Malizi ạ!"

"Ờ, thiết tưởng mầy đi đi thì hơn, rồi..."

"Con sẽ biểu Tilđa mấy các cháu là bà chúc tất cả tốt lành..."

"Thế thì tốt, nhỏ ạ... cẩn thận nhá..."

"Vâng..." Vội vội vàng vàng, ông ôm chặt lấy bà lão hôn. Mình phải chạy ra thăm cái mộ mới được. Nhưng rồi nghĩ rằng nên nhớ lại hình ảnh mẹ Kitzi của mình cùng bà Xerơ như hồi họ còn sống thì hơn, Joóc-Gà lướt nhanh một cái nhìn cuối cùng bao quát cái quang cảnh đổ nát nơi ông đã sinh trưởng; bất thình lình khóc oà lên, ông nắm chặt tờ chứng chỉ tự do, chạy vút tới nhảy lên mình ngựa, ngồi trước hai cái bọc đựng các đồ lề hành trang của ông, phóng nước đại qua lớp cỏ cao của con đường hẻm, không ngoái nhìn lại.

Chương 109

Bên dẫy hàng rào ven đường cái lớn, Airin đang bận rộn hái lá để ép lấy hương thì chợt nghe thấy tiếng vó ngựa phi và ngước nhìn lên. Chị há hốc mồm khi trông thấy người cưỡi ngựa quấn một chiếc khăn quàng cổ màu xanh bay phất phơ và đội một chiếc mũ quả dưa đen với một chiếc lông đuôi gà trống cong cong chòi lên khỏi băng mũ.

Vẫy tay rối rít, chị chạy nhanh về phía đường cái, gào đến vỡ phổi: "Joóc-Gà! Joóc-Gà!". Người cưỡi ngựa ghìm cương lại ngay bên kia hàng rào, con vật đẫm mồ hôi thở phập phồng, nhẹ nhõm.

"Cô gái, ta có biết cô không nhỉ?" ông hỏi, mỉm cười lại với chị.

"Không ạ, chúng ta chưa gặp nhau bao giờ, dưng mà anh Tôm, mẹ Tilđa mấy cả gia đình nói chuyện về ông nhiều đến nỗi cháu biết rõ hình dạng ông dư thế nào".

Ông nhìn chị chằm chằm: "Tôm và Tilđa của ta?".

"Vâng! Vợ ông và chồng cháu - bố của các con cháu!".

Ông phải mất vài giây mới hiểu ra. "Con và Tôm đang có một đứa bé hả?". Chị gật đầu, tươi cười và vỗ vỗ cái bụng chửa: "một tháng nữa đến cữ!". Ông lắc đầu! "Lạy chúa toàn năng! Tên con là gì?".

"Airin ạ!".

Sau khi bảo ông cứ cưỡi ngựa đi tiếp, Airin vụng về rảo bước đến mức nhanh nhất mà chị dám, cho tới chỗ có thể gọi với sang một khu vực khác của đồn điền nơi Vơjơl, Asfođ, Joóc-con, Jêimz, Luyx, Kitzi-bé và Lili Xiu đang trồng cây. Nghe thấy chị hú gọi, Kitzi-bé lo lắng chạy vội tới rồi lại lao đi chuyển tiếp cái tin bất ngờ. Tất cả hổn hển tới xóm nô, hò la và xộn rộn quanh ông bố, bà mẹ và Tôm, ai nấy đều cố ôm lấy bố ngay tức thì, cho đến khi ông Joóc-Gà bị đấm thùm thụp và quay cuồng - đâm chìm ngợp hoàn toàn bởi sự đón tiếp dành cho mình.

"Có lẽ tốt nhất là các con nghe tin buồn trước" và ông báo cho gia đình biết: bà nội Kitzi và bà Xerơ đã mất. "Cả bà cụ chủ Liơ cũng đi rồi..."

Khi cơn buồn về những mất mát đó đã nguôi nguôi phần nào, ông bèn mô tả hình dạng bà Malizi và, sau đó, cuộc gặp gỡ của ông với mexừ Liơ, kết cục đi đến tờ chứng chỉ tự do mà ông phô ra một cách đắc thắng. Ăn tối xong, đêm xuống, gia đình vui sướng xúm quanh Joóc khi ông đi vào câu chuyện về gần năm năm ở trên đất Anh.

"Nói thật mấy các con, thiết tưởng bố phải làm một năm nữa mới kể hết những gì bố đã thấy, đã làm ở bờ biển bên kia! Lạy chúa!". Nhưng bây giờ, ít ra ông cũng phác cho họ biết mấy nét nổi bật về sự giàu sang phú quý và uy tín xã hội của ngài X. Eric Raxet, về đàn gà nòi chính tông có dòng giống lâu đời và bách chiến bách thắng của ông, và về chuyện bản thân ông, với tư cách là một chuyên gia luyện gà người da đen từ Mỹ sang, đã tỏ ra hấp dẫn như thế nào đối với những người mê chọi gà ở nước Anh, tại đó các phu nhân đài các thường dạo chơi, dắt theo những thằng bé người Phi mặc đồ nhung, lụa, bằng những dây xích vàng thắt quanh cổ chúng.

"Bố không nói dối đâu, bố mừng là đã trải mọi sự. Dưng mà chúa chứng giám là bố nhớ mẹ mấy các con ghê gớm".

"Rành là tui thấy chả có vẻ thế tí nào - hai năm mà kéo ra thành hơn bốn năm!" Matilđa nói, giọng gay gắt.

"Bà già chả thay đổi tí nào, phải không nhỉ?" Joóc-Gà nhận xét với các con đang buồn cười.

"Hừm! Ai già?" Matilđa quặc lại. "Đầu ông phô bạc nhều hơn đầu tui thì có!".

Ông cả cười vỗ vỗ vào vai Matilđa trong khi bà giả vờ làm ra vẻ rất bất bình. "Đâu phải tui không muốn trở về! Qua hai năm là tôi bắt đầu nhắc ngài Raxel ngay. Dưng mà sau một thời gian, một hôm ông í đến bỉu tui đang luyện gà của ông í tốt thế, cũng như rèn cặp gã thanh niên da trắng giúp việc tui, cho nên ông í quyết định gởi thêm một món tiền cho mexừ Liơ, bỉu là ông í cần tui một năm nữa - và tui gần dư phát điên lên được! Cơ mà tui làm thế nào đây? Tui đã làm hết sức mình - ông í phải viết vào thư dặn mexừ Liơ phải bảo đảm nói cho bà mấy các con biết chuyện gì đã xảy ra..."

"Ông í chả nói mấy bầy tui một lời nào sất" Matilđa kêu lên.

"Mẹ biết tại sao không? Hồi í, ông í đã bán chúng ta đi rồi còn gì".

"Rành là phải! Vì thế mà chúng ta không nghe tin".

"Ừ hứ! Ừ hứ! Thấy chưa? Không phải tại tui nhá!" Giọng Joóc-Gà có vẻ khoan khoái vì được biện minh.

Sau sự thất vọng cay đắng ấy, ông đã moi được ngài Raxel phải hứa rằng đấy là năm cuối cùng. "Rồi tui tiếp tục dấn tới, giúp cho gà của ông í thắng một mùa lớn chưa từng thấy - chí ít cũng là theo lời ông í nói mấy tui. Rồi cuối cùng ông í biểu ông í cảm thấy tui đã dạy gã thanh niên da trắng đủ sức thay thế tui và tui sắp có thể để chỗ nầy cứ thế tiếp tục, tui sướng ơi là sướng!".

"Xin nói mấy tất cả một đều: Chả có mấy nhọ được cả hai xe chở người Anh đi tiễn, dư họ đã đưa chân tui đến Xaophemtơn đâu. Đấy là một thành phố to tướng bên cạnh bờ biển với không biết cơ man nào là tầu ra tầu vào. Ngài Raxel đã thu xếp cho tui đi khoang hạng bét trên cái tầu vượt đại dương.

"Lạy chúa! Tui chưa từng sợ dư thế bao giờ! Ra khơi chưa bao xa, tầu đã bắt đầu chòng chành, chồm lên chồm xuống dư con ngựa hóa dại. Nói gì đến chuyện cầu nguyện!" - ông lờ như không để ý đến cái "hừm!"của Matilđa - "tuồng dư cả đại dương đang lên cơn điên, muốn xé bọn tui ra từng mảnh vậy! Dưng mà cuối cùng biển tàm tạm lặng đi và thậm chí là êm ả tĩnh mạc khi bọn tui đến Niu Yoóc, ở đấy mọi người đều xuống khỏi tầu..."

"Niu Yoóc!" Kitzi bé kêu lên. "Làm gì ở đấy, bố!".

"Con gái, bố đã chả kể nhanh hết sức mình là gì? Thế, Ngài Raxel đã đưa tền cho một sĩ quan trên tầu, dặn là chuyển tui sang một tầu khác về Richmơnđ. Cơ mà cái tầu mà người sĩ quan í xếp tui, phải năm, sáu hôm nữa mới rời bến. Cho nên tui đành đi dạo ngược xuôi trong cái thành phố Niu Yoóc nghe ngóng xem xét..."

"Ông trọ ở đâu?" Matilđa hỏi.

Nhà trọ cho người da mầu - thế cũng dư là nhọ, chứ bà nghĩ là còn ở đâu nữa? Tui có tền. Tui còn tền, ngay bây giờ trong túi yên ngoài kia kìa. Sáng mai, tui sẽ cho tất cả xem". Ông tai quái liếc Matilđa. "tử tế, tui thậm chí có thể cho bà trăm đôla!". Thấy bà khịt khịt mũi hoài nghi, ông nói tiếp: "Ngài Raxel í hoá ra lại là một người thật là tốt. Ông ta cho tui món tiền kha khá này ngay trước khi tui lên đường. Biểu là của tui hoàn toàn, thậm chí đừng có nói cho mexừ Liơ biết, mà bà mấy các con thừa biết tui nói làm gì.

"Cái chính tui đã làm ở Niu Yoóc là nói chuyện mấy nhều nhọ tự do ở đấy. Tui thấy hình dư phần đông bọn họ cố giữ cho khỏi chết đói, lại còn nghèo hơn cả chúng mình. Cơ mà cũng dư ta đã nghe nói: Một số sống khá lắm! Có nhều loại khác nhau, họ có dững món kinh doanh hoặc là dững việc lương cao bổng hậu. Một số có nhà riêng, số đông hơn thuê dững chỗ ở gọi là căn hộ, và trẻ con có dững đứa được học hành chút ít, đại loại dư thế.

"Nhưng mà tay nhọ nào nói chuyện với tui cũng tức điên lên về nỗi nhìn đâu cũng thấy cái bọn người da trắng di trú"... "Dững tay chủ trương bãi nô í à?" Kitzi bé kêu lên. "Con nói vậy hay là bố? Không! Chắc chắn là không phải! Theo dư bố hiểu, cánh bãi nô là dững người da trắng ở đất này ít nhất cũng lâu dư dân nhọ. Dưng mà cái đám mà bố đang nói đến, họ từ các tầu đổ vào Niu Yoóc, thực tế là tràn khắp miền Bắc. Họ chủ yếu là dân Ailen, họ nói dững gì mình chả hiểu nổi, và một lô xí xộ loại người kỳ cục khác thậm chí không biết nói tiếng Anh. Thực tế, bố nghe nói từ trên tầu bước xuống, chữ đầu tên họ học là "nhụa", rồi tiếp đến là rêu rao rằng dân nhọ tranh việc làm của họ! Họ gây sự ẩu đả luôn - họ còn tệ hơn cả cánh cách-cơ!".

"Chà, lạy Chúa, mong rằng họ đừng có tràn xuống đây!". Airin nói.

"Nầy, bà nó mấy các con, phải mất một tuần nữa may ra bố mấy kể hết nữa dững đều tai nghe mắt thấy trước khi con tầu í đưa bố đến Richmơnđ"...

"Tui lấy làm lạ là ông còn lên cái tầu í đấy!".

"Cái bà nầy, chả bao giờ bà để tui yên! Chồng đi hàng bao năm, mà bà làm dư tui mới đi hôm qua í!" giọng Joóc-Gà thoáng chút bực bội.

Tôm vội vàng hỏi: "Bố mua con ngựa ở Richmơn à?".

"Đúng! Bẩy mươi đôla! Đấy là một con ngựa cái đốm nhanh thật là nhanh. Bố nghĩ người tự do cần có một con ngựa hay. Bố thúc nó phóng hết sức đến chỗ mexừ Liơ...".

Đang vào đầu tháng tư, mọi người khác đều bận tối mắt tối mũi. Gần như cả gia đình đều đang ở cao điểm của mùa trồng cấy. Giữa bao công việc nào lau chùi, nào nấu nướng và hầu hạ ở đại sảnh, Matilđa có rất ít thời giờ rảnh rỗi. Các khách hàng của Tôm khiến anh luôn luôn phải làm cật lực từ rạng sáng đến tối mịt và cô nàng Airin chửa gần tám tháng cũng không kém bận bịu giữa những công việc linh tinh của mình.

Mặc, suốt tuần sau, Joóc-Gà vẫn gẫu chuyện với tất cả. Nhưng ở ngoài đồng, chẳng mấy chốc cả những người kia lẫn bản thân ông cùng sượng sùng nhận thấy rõ ràng rằng mọi thứ liên quan đến công việc đồng áng đều xa lạ đối với ông. Matilđa và Airin thường vội mỉm cười khi ông lại gần, rồi cũng vội vàng như thế, biện bạch, mong ông thông cảm là họ phải quay về với công việc đang làm. Mấy lần, ông ghé qua định trò chuyện một chút với Tôm trong khi anh rèn, nhưng lần nào không khí cũng trở nên căng thẳng. Cánh nô lệ đang chờ thì bứt rứt ra mặt khi thấy việc mình chưa được chăm lo tới, các khách hàng da trắng thì dừng bặt câu chuyện đang nói, khạc nhổ ầm ĩ và ngọ nguậy người trên những chiếc ghế gỗ dài, trong khi đưa mắt gườm gườm nhìn cái lão đội mũ quả dưa đen và thắt khăn quàng xanh, với vẻ hồ nghi rõ rệt mà không nói ra.

Hai bận trong những lần ấy, Tôm tình cờ liếc nhìn thấy mexừ Marê đã bắt đầu đi về phía lò rèn, song lại quay lại và anh biết lý do tại sao. Matilđa đã nói với anh rằng thoạt đầu khi vợ chồng ông Marê mới biết Joóc-Gà tới, "họ có vẻ mừng cho chúng ta, dưng mà Tôm ạ, mẹ thấy lo lo, mẹ biết từ đó cứ hội họp mấy nhau đông đông, hễ thấy mẹ vào là họ thôi không nói nữa".

Cái quy chế "tự do" của Joóc-Gà ở đồn điền Marê này rồi sẽ ra sao? Sắp tới ông sẽ làm gì? Những câu hỏi ấy lởn vởn như một đám mây trong óc mỗi cá nhân trong bọn họ... Từ thằng bé Iuriơ lên bốn tuổi, con của Vơjơl và Lili Xiu.

"Ông là ông nội cháu à?", Iuriơ chộp lấy cơ hội để trực tiếp nói một điều gì đó với cái người đàn ông kỳ cục dường như đã làm xáo động tất cả đám người lớn từ khi ông ta đến đây mấy hôm trước.

"Cái gì?".

Joóc-Gà giật mình, ông vừa mới lững thững trở về xóm nô, lòng day dứt sâu sắc vì cái cảm giác bị xua đẩy. Ông liếc nhìn đứa bé đang chòng chọc dán đôi mắt thao láo, tò mò vào ông. "Ờ, có lẽ thế". Đã sắp đi tiếp, Joóc-Gà lại ngoái lại: "tên cháu là gì?".

"Iuriơ ạ. Ông ơi, ông làm việc ở đâu?".

"Mầy nói gì thế?". Ông trừng trừng nhìn xuống thằng bé. "Ai bẩu mày hỏi tau thế?".

"Ứ có ai bẩu. Hỏi ông xế xôi".

Ông chắc thằng bé nói thật. "Ông chẳng làm ở đâu hết. Ông tự do".

Thằng bé lưỡng lự. "Ông ơi, tự do là gì?".

Cảm thấy lố bịch vì phải đứng ngây ra đấy cho một đứa con nít lục vấn, Joóc cất bước đi tiếp, nhưng rồi ông nghĩ tới điều Matilđa đã tâm sự về thằng nhỏ. "Tuồng dư nó dễ quặt quẹo hay sao í, thậm chí có lẽ hơi hâm hâm đầu nữa. Lần sau ở bên nó, ông thử để ý nó cứ trừng trừng nhìn một người nào đó dư thế nào, ngay cả khi họ thôi không nói nữa". Quay đằng sau, Joóc-Gà soi mói nhìn vào mặt Iuriơ và ông thấy ra ý nghĩa của điều Matilđa định nói. Thằng bé quả có phóng ra một ấn tượng về sự yếu nhược cơ thể và đôi mắt to - trừ những thoáng chớp chớp - cứ như gắn chặt vào Joóc-Gà, đánh giá từng lời thốt ra, từng cử động của ông. Joóc cảm thấy thế nào ấy. Thằng bé nhắc lại câu hỏi: "Ông, tự do là gì?".

"Tự do nghĩa là không có ai là chủ mình nữa". Ông lại định đi.

"Mẹ bỉu ông chọi gà. Ông chọi gà mấy gì?".

Xoay hẳn người lại, đã toan bắt bẻ thì Joóc-Gà cảm nhận ra đó chỉ là bộ mặt háo hức, tò mò của một thằng bé con. Và điều đó khuấy lên trong ông một cái gì đó: cháu đích tôn.

Ông chăm chú nhìn Iuriơ thật kỹ một cách xét nét, bụng nghĩ ắt phải có điều gì thích hợp để nói với nó. Và cuối cùng: "Mẹ cháu hay ai đó có biểu cho cháu biết quê hương gốc gác cháu ở đâu không?".

"Dạ? Quê gốc gác đâu há?". Chưa có ai nói cho nó biết, Joóc thấy rõ thế, hoặc có chăng, cũng không đúng cách để nó có thể nhớ được.

"Lại đây mấy ông, con".

Đây cũng là điều ông cần làm. Joóc-Gà dẫn Iuriơ tới căn nhà gỗ ông cùng với Matilđa "Bi giờ, con ngồi xuống cái ghế này và đừng có hỏi lung tung nữa. Chỉ ngồi yên mà nghe kể thôi".

"Vâng".

"Ông mấy bà nội Tilđa đẻ ra bố con". Ông liếc nhìn thằng bé. "Con hiểu chứ?".

"Bố cháu là con ông".

"Đúng rồi. Con không đến nỗi đần dư vẻ ngoài của con. Vậy nhé, mẹ của ông tên là Kitzi. Đấy là cụ nội của con, cụ bà Kitzi. Con nói thế đi".

"Vâng. Cụ bà Kitzi".

"Ờ. Thế mẹ của cụ tên là Bel".

Ông nhìn thằng bé.

"Tên là Bel".

Joóc-Gà e hèm. "Tốt. Và bố của cụ Kitzi tên là Kunta Kintê...".

"Kunta Kintê".

"Đúng. Thế Kunta và Bel là kỵ ông, kỵ bà của cháu"...

Gần một giờ sau, khi Matilđa hớt ha hớt hải bước vào căn lều lo lắng không hiểu chuyện gì đã xảy đến với Iuriơ, bà thấy nó ngoan ngoãn nhắc lại những tiếng như "Kunta Kintê" và "Kô" và "Kămbi Bôlônggô"... Và Matilđa quyết định rằng bà có thì giờ để ngồi lại một lúc; và tươi cười mãn ý, bà lắng nghe Joóc-Gà kể cho thằng cháu nội thích mê mẩn câu chuyện về cụ tổ người Phi của nó, từ lúc cụ đang đẵn gỗ ở một nơi cách làng không xa để làm một cái trống thì có bốn người ập đến, đè nghiến và bắt lén cụ đi làm kiếp nô, "rồi thì một con tầu mang cụ qua vùng nước lớn đến một nơi gọi là Nơplix, ở đấy cụ bị một mexừ Jon Uolơ mua, đưa về đồn điền của lão ở quận Xpotxilvaniơ, bang Vơjiniơ..."

Thứ hai sau, Joóc-Gà cùng với Tôm đánh xe la đi mua đồ dự trữ ở quận lỵ Grêơm. Hai bố con không nói gì mấy với nhau, mỗi người dường như chìm đắm trong suy nghĩ riêng. Trong khi đi từ cửa hàng này sang cửa hàng kia, Joóc-Gà rất khoái với cái phẩm cách điềm đạm mà anh con trai hai mươi bảy tuổi của ông tỏ ra trong giao thiệp với những nhà buôn da trắng khác nhau. Rồi họ đến một cửa hiệu thực phẩm và Tôm báo vừa mới được bán cho một cựu quận trưởng cảnh sát tên là J.D. Kêitz.

Lão Kêitz ục ịch dường như phớt lờ họ đi trong khi lão lăng xăng phục vụ một số khách hàng da trắng ít ỏi. Trong Tôm nổi lên một ý thức cảnh giác, anh đưa mắt thấy Kêitz nhìn trộm Joóc-Gà choàng khăn xanh, đội mũ quả dưa đen đang dạo bước quanh với vẻ nghênh ngáo xem xét các mặt hàng. Theo linh tính, Tôm đang tiến về phía ông bố để rút ra cho nhanh thì giọng Kêitz bỗng xuyên qua cửa hàng:

"Ê, bồi múc cho ta môi nước ở cái xô kia kìa!".

Kêitz đang nhìn thẳng vào Tôm, đôi mắt vừa trêu chọc vừa dọa dẫm. Ruột gan như đông lại, uy hiếp bởi cái mệnh lệnh trực tiếp của một người da trắng, Tôm bước tới chỗ chiếc xô, mặt lạnh như đá và quay trở lại với một môi nước. Kêitz uống đánh ực một cái, đôi mắt ti hí phóng qua bờ cái môi nhìn vào Joóc-Gà đang đứng chậm rãi lắc đầu. Kêitz đẩy cái môi về phía ông. "Ta vẫn còn khát!".

Tránh mọi cử động vội vã, Joóc-Gà rút trong túi ra tờ chứng chỉ tự do gấp rất cẩn thận và đưa cho Kêitz. Kêitz giơ ra đọc. "Anh đang làm gì trong quận chúng ta?" lão lạnh lùng hỏi.

"Ông í là bố tui", Tôm vội vàng chen vào. Trên tất cả, anh không muốn bố mình nói bất cứ câu gì có tính chất thách thức. "Bố tui vừa mới được tự do".

"Ở với cả bọn các ngươi tại đồn điền mexừ Marê à?".

"Vâng".

Đảo mắt nhìn các khách hàng da trắng của mình, Kêitz thốt lên: "Lý ra ông Marê phải hiểu luật lệ bang này hơn thế!".

Không hiểu rõ ý lão, cả Tôm và Joóc đều không nói gì.

Đột nhiên, cung cách của Kêitz bỗng gần như hòa nhã: "Được, khi nào bọn ngươi về đến nhà, nhớ thưa với ông Marê rằng ít nữa ta sẽ ra chơi nói chuyện với ông nhé". Với tiếng đám người da trắng cười khanh khách đằng sau lưng, Tôm và Joóc-Gà vội rời khỏi cửa hàng.

Chiều hôm sau, Kêitz phóng ngựa, theo đường xe chạy tới đại sảnh nhà Marê. Mấy phút sau, Tôm ngước mắt lên khỏi chiếc lò rèn của mình và trông thấy Airin chạy về phía cửa hiệu. Hối hả đi qua vài người khách đang đợi, anh ra đón chị.

"Mẹ Tilđa biểu báo cho anh biết ông chủ mấy cái người da trắng nọ đang đứng ở cổng nói chuyện hoài hoài. Chí ít cũng là lão kia cứ nói liên hồi còn ông chủ thì gật lia lịa".

"Được, cưng ạ" Tôm nói. "Đừng hốt hoảng. Em về ngay đi". Airin chạy về.

Rồi, sau khoảng nửa tiếng nữa, chị đến báo là Kêitz đã đi khỏi và "Bi giờ, ông chủ bà chủ đang chụm đầu bàn bạc".

Nhưng không hề có gì xảy ra cho đến khi Matilđa dọn bữa tối cho ông bà Marê, bà thấy họ ăn trong một im lặng căng thẳng. Cuối cùng, khi bà mang đồ tráng miệng và cà phê đến mexừ Marê mới nói, giọng rất đanh: "Matilđa, bảo chồng chị là tôi muốn gặp anh ta ở cổng ngay bây giờ".

"Vâng, thưa ông chủ".

Bà tìm thấy Joóc-Gà với Tôm ở cửa hiệu rèn. Joóc-Gà gượng cười to khi nghe bà truyền đạt lời nhắn. "Chắc ông í muốn xem thử tui có thể kiếm cho ông í mấy con gà chọi chăng!".

Chỉnh lại chiếc khăn quàng và đội chiếc mũ quả dưa lệch theo một góc có vẻ trẻ trung hơn, ông nhanh nhẹn bước về phía đại sảnh. Mexừ Marê đang đợi ở đó, ngồi trong một chiếc ghế đu ngay cổng. Joóc-Gà dừng lại trong sân, dưới chân những bậc thềm.

"Tilđa biểu ông muốn gặp tui".

"Phải, tôi muốn gặp anh, Joóc ạ. Tôi sẽ đi thẳng vào đề. Gia đình anh đã mang lại cho bà Marê và tui đây nhiều điều vui vẻ..."

"Dạ thưa ông", Joóc xen vào, "và bọn nó cũng rành là khen ngợi ông bà hết mức, thưa ông chủ!".

Ông chủ đanh giọng lại: "Nhưng tôi e rằng chúng ta sắp phải giải quyết một vấn đề... liên quan đến anh". - Ông ta ngừng một chút. "Theo tôi hiểu, hôm qua, ở Bơlingtơn, anh đã gặp ông J.Đ. Kêitz, cựu quận trưởng cảnh sát của chúng tôi..."

"Vâng, có thể nói là tui đã gặp ông í, thưa ông chủ".

"Ờ, có lẽ anh cũng biết là hôm nay ông Kêitz đã đến thăm tôi. Ông ấy lưu ý tôi đến một điều luật ở Bắc Carôlina cấm bất kỳ người da đen được giải phóng nào lưu trú trong bang quá sáu mươi ngày, nếu không tuân sẽ bị nô dịch trở lại".

Phải một lúc Joóc-Gà mới hiểu. Ông trừng trừng nhìn mexừ Marê nghi nghi hoặc hoặc, không nói nên lời.

"Tôi thật tình ái ngại cho anh. Tôi biết anh cảm thấy điều đó là không công bằng".

"Mexừ Marê ông có cảm thấy điều đó là công bằng không ạ?".

Ông chủ ngần ngừ. "Không, nói thật với anh thế. Song luật pháp là luật pháp". Ông ngưng một lát. "Nhưng nếu anh muốn chọn ở lại đây, tôi sẽ đảm bảo là anh sẽ được đối đãi tử tế. Về điều đó, tôi xin hứa với anh vậy".

"Ông hứa ư, thưa mexừ Marê?". Đôi mắt Joóc trơ trơ.

Đêm hôm ấy, nằm dưới tấm mền chăn, Joóc và Matilđa đã cầm tay nhau, cả hai cùng nhìn trân trân lên trần nhà. "Tilđa", sau một hồi lâu, ông nói, "tui gẫm chả còn cách gì khác ngoại trừ ở lại. Tuồng dư cả đời tôi chỉ có chạy rông".

"Không, Joóc ạ", Matilđa chậm rãi lắc lư cái đầu. "Bởi vì mình là người đầu tiên trong chúng ta được tự do. Mình phải tiếp tục tự do, sao cho chúng ta có một người tự do trong gia đình nầy. Dứt khoát mình không thể quay trở lại kiếp nô được".

Joóc-Gà bắt đầu thổn thức. Và Matilđa cũng cùng khóc với ông. Hai hôm sau, bà thấy trong người khó chịu, không cùng ông đến lều của Tôm và Airin ăn bữa tối với họ được. Câu chuyện xoay quanh đứa bé sẽ ra đời trong vòng hai tuần nữa và Joóc-Gà trở nên trang trọng.

"Nhớ phải kể cho nó nghe về gia đình ta đấy, nghe không?".

"Bố ạ, sẽ không có đứa con nào của con lớn lên mà không biết chuyện í", Tôm cười gượng gạo. "Con nghĩ, nếu con không kể cho chúng nó nghe, bà nội Kitzi sẽ về cho con một trận".

Im lặng hồi lâu, trong khi ba bố con ngồi đăm đăm nhìn vào ngọn lửa.

Cuối cùng, Joóc-Gà lại nói:

"Bố mấy mẹ Tilđa đã tính. Bố còn bốn mươi ngày nữa mới phải đi, chiểu theo cái điều luật nói. Dưng mà bố nghĩ: lần lữa mà làm gì, vô ích..."

Ông đứng bật dậy khỏi ghế, cuồng nhiệt ôm ghì lấy Tôm và Airin. "Bố sẽ trở về!" ông nói, giọng khàn khàn, vỡ ra. "Hãy chăm nom lẫn nhau nhá!" ông lao vút qua cửa ra ngoài.

Chương 110

Đã đến đầu tháng 11 năm 1860 và Tôm đang hối hả hoàn thành nốt công việc rèn cuối cùng trước khi trời tối hẳn. Anh làm xong xuôi. Rồi sau khi rấm lửa trong lò, anh mệt mỏi đi về nhà ăn tối với Airin hồi này đang nuôi con thơ - con bé Marya giờ đã được nửa năm. Hai vợ chồng ăn không nói năng gì, và Airin không muốn ngắt quãng sự im lặng suy tư của anh. Và sau đó, họ đến nhập bọn với cả gia đình xúm xít trong căn lều gỗ của Matilđa, kẹp và bóc vỏ những hột hồ đào mà bà và Airin (chị đã lại có mang!) đã nhặt về, định dùng làm bánh gatô và bánh nướng nhân ngọt đặc biệt nhân dịp Nôen và năm mới.

Tôm ngồi nghe câu chuyện trao đổi nhẹ nhàng, không xen vào bình luận - thậm chí còn ra vẻ như không nghe thấy nữa - rồi, cuối cùng giữa một quãng ngừng, anh ngả người về phía trước trên ghế của mình và nói "Cả nhà còn nhớ mấy lần tui kể là đám người da trắng chờ quanh cửa hiệu tôi có bữa đã nguyền rủa và làm nhặng xị lên về mexừ Lincôn không? Ấy đấy, giá cả nhà được nghe họ nói chuyện hôm nay, bởi vì ông Lincôn đã được bầu làm tổng thống. Họ biểu bi giờ ông í sắp vào trong Nhà Trắng, ông í sẽ chống miền Nam với bất kỳ ai còn giữ nô lệ".

"Tốt", Matilđa nói, "giá mẹ được nghe mexừ Marê nói gì về chuyện nầy thì mẹ thật thỏa thuê. Ông í rành là luôn luôn nói mấy bà chủ là sắp rắc rối to trừ khi miền Bắc mấy miền Nam thu xếp ổn thoả được mọi bất đồng, cách này hay cách khác".

"Con còn nghe được dững chuyện khác cơ", Tôm kể tiếp, "hàng bao nhêu người nhều hơn ta tưởng nhều, chống việc giữ nô lệ. Tất cả bọn họ trên miền Bắc cũng thế. Hôm nay con làm việc mà đầu óc cứ để đâu đâu, mải nghĩ về chuyện í quá. Tuồng dư tốt đẹp đến nỗi không tin được, dưng mà có thể đến một ngày nào đó, sẽ không còn nô lệ nữa".

"Ờ, chắc chắn là chúng ta sẽ chả sống để nhìn thấy cái ngày í", Asfođ chua chát nói.

"Dưng mà con nhỏ kia, có thể nó sẽ thấy", Vơjơl hất hàm về phía đứa con nhỏ của Airin.

"Xem chừng chả có cơ đâu", Airin nói, "mặc dù em rất muốn tin thế. Cứ gộp tất cả các nô lệ ở miền Nam lại, cho là chỉ tính mỗi lao công làm đồng tám, chín trăm đôla thôi, cũng đã bao nhêu của rồi, đến Thượng Đế cũng chả có được ngần nấy! Hơn nữa bọn ta lại làm hết tất cả mọi việc". Chị nhìn Tôm. "Anh biết đấy, người da trắng chả chịu nhả đâu".

"Họ chả chịu từ bỏ mà không đánh nhau đâu" Asfođ nói. "Mà họ lại đông hơn ta nhều. Vậy làm sao ta thắng được?".

"Dưng mà nếu nói chung cả nước", Tôm nói, "thì có thể người chống chế độ nô lệ cũng nhiều bằng người ủng hộ nó".

"Rầy một cái là dững người chống nó lại không ở nơi chúng ta ở", Vơjơl nói và Asfođ gật đầu, lần này khác với lệ thường, anh chàng lại đồng ý với một người khác.

"Ờ, nếu ý kiến anh Asfođ về chuyện đánh nhau là đúng, thì mọi sự có thể thay đổi thiệt nhanh đấy", Tôm nói.

Một đêm đầu tháng 12, ông bà Marê đi ăn tiệc ở một đại sảnh kế cận, vừa cưỡi xe ngựa về đến nhà, thì Matilđa hối hả từ nội thất chạy ra lều của Tôm và Airin. "Ly khai nghĩa là gì?" Bà hỏi, và khi thấy hai người kia nhún vai, bà nói tiếp "Ấy, ông chủ biểu đấy chính là cái điều miền Nam Calini vừa mới làm. Ông chủ nói dư cách là họ rút ra khỏi Hợp Sẻng Cuốc í".

"Làm sao họ rút ra khỏi đất nước mà họ ở trong đó được?" Tôm nói.

"Người da trắng làm bất kỳ việc gì", Airin nói.

Tôm không nói cho mẹ và vợ biết, nhưng suốt ngày hôm ấy, anh đã nghe đám khách hàng da trắng của mình lồng lộn gầm gào lên rằng họ sẽ "lội trong máu ngập đến đầu gối" trước khi họ chịu nhượng bộ miền Bắc về một cái gì đó mà họ gọi là "quyền các bang" cùng với quyền sở hữu nô lệ.

"Con không muốn làm cho mẹ mấy em sợ" anh bảo Matilđa và Airin, "dưng mà con tin chắc rằng sắp chiến tranh".

"Ôi, lậy Chúa! Rồi ra chiến tranh ở chỗ nào, Tôm?".

"Mẹ ạ, chiến tranh không chọn chỗ nhất định dư nhà thờ hay dư cuộc đi chơi ăn uống ngoài trời!".

"Thế thì mẹ rành mong nó đừng xẩy ra ở nơi nào quanh đây!".

Airin giễu cả hai người: "Mẹ mấy anh Tôm nữa đừng có biểu con phải tin rằng người da trắng sẽ giết lẫn nhau vì dân nhọ".

Nhưng, ngày lại ngày qua đi, những điều Tôm nghe hóng được ở cửa hiệu rèn khiến anh tin chắc mình đã dự đoán đúng. Một số điều anh đem kể lại gia đình nghe, nhưng nhiều chuyện khác thì ỉm đi vì không muốn gây hoang mang không cần thiết và bản thân anh cũng không dứt khoát là nên sợ những sự kiện anh thấy đang tới, hay nên hy vọng. Song anh có thể cảm thấy dù sao đi nữa, trạng thái lo lắng không yên của gia đình vẫn tăng lên, cùng với sự đi lại trên đường cái chính, nơi những người da trắng cưỡi ngựa và ruổi xe qua đồn điền mỗi lúc một nhanh và mỗi lúc một đông hơn. Gần như ngày nào cũng có người rẽ ngoặt vào lối xe chạy trong đồn điền và bắt chuyện với mexừ Marê, Matilđa giở mọi mẹo ra để quét quáy, lau chùi ở những chỗ bà có thể nghe hóng được. Và từ từ, mấy tuần tiếp theo, trong những buổi trao đổi ban đêm ở gia đình, những lời bàn tán hoảng hốt, phẫn nộ của người da trắng dần dần có tác dụng động viên tất cả đám tin rằng nếu có chiến tranh - và người "Yanki" 1 thắng thì họ có thể được giải phóng thật sự.

Ngày càng có đông người da đen đặt Tôm làm hàng rèn kể với anh rằng các ông chủ bà chủ của họ đâm đa nghi và giở trò thậm thụt giấu giấu giếm giếm, hạ thấp giọng và thậm chí phân trần giảng giải mỗi khi thấy gia nhân, kể cả những người ở lâu năm nhất và thân cận nhất, bước vào phòng.

"Quanh chỗ mẹ trong đại sảnh, họ có hành động gì đặc biệt không, mẹ?" Tôm hỏi Matilđa.

"Chả có thì thào hay phân trần, hay làm gì tơng tự dư thế cả", bà nói. "Dưng mà rành là họ bắt đầu khác ý, hễ mẹ vào là chuyển phắt sang chuyện mùa màng hay tiệc tùng".

"Tốt nhất là tất cả chúng mình cứ hết sức giả ngây giả điếc", Tôm nói, "dư cách mình chả nghe nói gì về dững chuyện đang diễn ra".

Matilđa suy tính, song bà quyết định không nghe theo. Và một buổi tối, sau khi bày đồ tráng miệng cho vợ chồng Marê, bà bước vào phòng ăn và xoa xoa tay kêu lên: "Lạy Chúa, thưa ông chủ bà chủ, ông bà bỏ quá cho, tui phải thưa là các con tui mấy tui nghe thấy mọi thứ chuyện bàn tán lung quanh và bây giờ tui hết sức sợ hãi dững người Yanki, và bầy tui rành mong ông bà che chở nếu dư họ gây rối". Bà hài lòng nhận thấy vẻ đồng tình và nguôi dịu nhanh chóng lướt trên mặt họ.

"Phải, các người sợ là đúng, bởi vì bọn Yanki đó chắc chắn là không thân ái gì với các người đâu" bà Marê nói.

"Nhưng các người đừng lo", ông chủ trấn an. "Rồi sẽ chẳng có chuyện rắc rối gì đâu".

Ngay cả Tôm cũng phải phì cười khi Matilđa tả lại cảnh đó. Và cả gia đình lại cùng với anh cười rộ một mẻ nữa khi anh kể cho họ nghe câu chuyện nghe hóng được về một gã coi ngựa ở thị xã Melvit đã xử lý vấn đề tế nhị này như thế nào. Bị ông chủ chất vất là anh ta sẽ đứng về phe nào nếu xảy ra chiến tranh, người coi ngựa nói: "Thưa ông chủ, ông có bao giờ thấy hai con chó đả nhau để tranh một khúc xương không ạ? Ấy đấy, bọn nhọ bầy tui chính là khúc xương í".

Nôen rồi năm mới đến và qua đi mà hầu như không mấy ai nghĩ đến chuyện hội hè đình đám trong khắp quận Alơmenx. Cứ cách mấy hôm - lại thấy khách hàng của Tôm đến với những tin về nhiều bang nữa ở phía Nam đòi ly khai - đầu tiên là Mitxixipi, rồi đến Floriđa, Ơlebemơ, Jojiơ và Luizianơ trong cả tháng giêng năm 1861 và vào ngày đầu tháng hai là Têchxơx. Và tất cả đều xúc tiến việc tham gia một "Liên minh" các bang miền Nam cầm đầu bới tổng thống riêng của họ, một người tên là Jơfơxơn Đêvix.

"Cái mexừ Đêvix í và hàng lô các ông nghị sĩ quốc hội, thượng viện, hạ viện, mấy nhều người cao cấp trong quân đội", Tôm loan tin cho gia đình biết, "đã xin từ chức về nhà".

"Tôm ạ, cơ sự đã gần kề hơn ta tưởng đấy", Matilđa thốt lên. "Hôm nay một gã đến biểu ông chủ là ông Chánh án Raffin ngày mai rời Ho Rivơ đi dự một hội nghị hòa bình lớn ở cái thủ đô Oasinhtơn!".

Nhưng mấy ngày sau, Tôm nghe thấy các khách hàng của lò rèn nói rằng Chánh án Raffin đã buồn rầu trở về, cho biết hội nghị hòa bình thất bại, kết thúc bằng những cãi vã bùng nổ giữa các đại biểu trẻ ở miền Bắc và miền Nam. Sau đó, một xà ích da đen kể lại với Tôm là anh ta đã trực tiếp được người gác cổng tòa án quận Alơmenx cho biết rằng một cuộc mít-tinh đông tới gần một nghìn bốn trăm người da trắng ở địa phương - Tôm biết trong đó có cả mexừ Marê - đã được tổ chức, và mexừ Hâut, chủ cũ của Airin, cùng nhiều người khác cũng quan trọng như ông ta đã thét lớn là cần phải ngăn ngừa chiến tranh và đập bàn gọi bất kỳ ai tham gia liên minh (các bang miền Nam) là "đồ phản bội". Người gác cổng cũng nói cho tay xà ích biết là một mexừ Jailz Miben, được bầu ra để tới một hội nghị bang về vấn đề ly khai, thông báo biểu quyết của quận Alơmenx ở lại trong liên bang với bốn phiếu thuận một phiếu chống.

Gia đình khó mà theo dõi kịp tất cả những tin tức do Tôm hay Matilđa thuật lại mỗi đêm. Chỉ trong một ngày tháng ba mà hàng loạt tin dồn dập tới, nào tổng thống Lincôn đã tuyên thệ nhậm chức, nào một cái cờ của "Liên minh" đã được phát hiện trong một buổi lễ lớn ở Môngômđri, Elơbemơ, nào là Tổng thống của "Liên minh", Jef Đevix, đã tuyên bố bãi bỏ việc buôn bán nô lệ Phi. Mấy ngày sau, sự căng thẳng mới tăng lên đến độ sốt cuồng cùng với việc thông báo là cơ quan lập pháp Bắc Carôlinơ đã kêu gọi lập tức huy động hai vạn lính tình nguyện quân.

Sáng sớm ngày thứ sáu, 12-4-1861, mexừ Marê đã đi xe ngựa tới dự một cuộc họp ở thị trấn Miben, và Luyx, Jêimz, Asfođ, Kitzi-bé cùng Meri ở ngoài đồng đang bận bịu cấy những mầm cây thuốc lá thì bắt đầu nhận thấy một số lớn người da trắng tấp nập khác thường, phóng ngựa hết tốc lực qua, dọc theo đường cái lớn. Khi một người cưỡi ngựa ghìm chậm lại một thoáng, giận dữ vung nắm đấm về phía họ và quát tháo một điều gì không ai hiểu ra sao, Vơjơl bèn phái Kitzi-bé chạy từ cánh đồng về bảo cho Tôm, Matilđa và Airin biết là một chuyện gì quan trọng ắt đã xảy ra.

Tôm, bình thường vẫn điềm tĩnh, cũng phát bực khi Kitzi-bé không sao nói được cụ thể hơn một chút. "Họ quát tháo cái gì?" Anh hỏi. Nhưng cô chỉ có thể nhắc lại rằng người cưỡi ngựa nọ ở xa quá nên không nghe rõ được.

"Tốt nhất là tui cứ lấy con la, phóng ra xem sao". Tôm nói.

"Dưng mà chú không có giấy thông hành!" Vơjơl kêu to khi thấy Tôm phóng la xuôi lối xe chạy.

"Phải liều thế thôi!" Tôm thét lớn đáp lại.

Lúc anh ra tới đường cái lớn, nó đã bắt đầu giống như một trường đua ngựa và anh biết những kỵ sĩ nọ hẳn đang hướng tới khu cơ xưởng của Công ty, tại đó sở điện tín nhận được những tin tức quan trọng qua đường dây thép dăng trên các đầu cột. Trong khi ruổi ngựa, một số người gào to, trao đổi với nhau, song dường như họ cũng không biết gì nhiều hơn anh. Đi qua những người da đen và da trắng nghèo chạy bộ, Tôm biết là điều tệ hại nhất đã xảy ra, nhưng tim anh vẫn se lại khi tới khu sửa chữa hỏa xa và trông thấy đám người đông nghịt chen chúc quanh sở điện tín.

Nhảy xuống đất và buộc la xong, anh chạy một vòng rộng quanh đám lộn xộn những người da trắng giận dữ hoa chân múa tay đang nhìn lên những dây điện tín như thể chờ đợi trông thấy một cái gì đến theo đường ấy. Rẽ sang một bên, anh tới chỗ một tốp người da đen và nghe thấy họ đang nói huyên thuyên: "mexừ Lincôn rành là sắp sửa tranh đấu cho chúng ta bi giờ!"... "Rốt cuộc, tuồng như Thượng Đế cũng đến dân nhọ tí chút!"... "Thật không thể ngờ được!"... "Tự do, lậy Chúa, tự do!".

Kéo một ông già sang bên để hỏi, Tôm được biết điều gì đã xảy ra. Quân đội Nam Carôlinơ đang bắn vào pháo đài Xơmtơ của nhà nước Liên bang ở cảng Tsalztơn và hai mươi chín căn cứ khác của nhà nước Liên bang đã bị đánh chiếm theo lệnh của Tổng thống Đevix. Chiến tranh đã thực sự bắt đầu. Ngay cả sau khi Tôm mang tin trở về an toàn trước khi ông chủ về đến nhà, hàng tuần nữa hệ thống truyền tin của người da đen vẫn tràn ngập những thông báo. Sau hai ngày bị vây hãm - họ được biết như vậy - pháo đài Xơmtơ đã đầu hàng, với hai mươi lăm người của cả hai bên bị chết, và hơn một nghìn nô lệ hiện đang xếp bao cát làm công sự chặn các lối vào cảng Tsalztơn. Sau khi báo cho Tổng thống Lincôn rằng ông đừng hòng lấy lính Bắc Carôlinơ, Thống đốc Bắc Carôlinơ Jon Elix giao hàng ngàn lính với súng hoả mai cho quân đội Liên Minh. Tổng thống Đevix kêu gọi tất cả những người da trắng từ mười tám đến ba mươi lăm tuổi tình nguyện chiến đấu ba năm, và hạ lệnh rằng cứ mười nô lệ nam ở bất kỳ đồn điền nào, thì một phải đi làm lao dịch không công phục vụ chiến tranh. Tướng Rôbớt E.li rút khỏi lục quân Mỹ để chỉ huy quân đội Vơjiniơ. Và nghe nói là mọi dinh cơ của chính phủ ở thủ đô Oasinhtơn đều đông nghịt lính vũ trang và đầy những ụ sắt xi măng đề phòng các lực lượng miền Nam xâm lăng.

Trong khi đó, khắp quận Alơmenx, dân da trắng sắp thành từng dãy dài hàng chục người để ghi tên đi chiến đấu. Tôm nghe thấy một xà ích da đen lái xe tải kể rằng ông chủ anh ta đã gọi người gia bộc tin cẩn nhất vào đại sảnh, bảo: "Này anh, bây giờ ta mong anh trông nom bà chủ và bọn trẻ cho đến khi ta trở về, nghe không?". Và một số người da trắng ghé lại chỗ anh đóng móng cho ngựa trước khi đến thị trấn Miben tập họp với số còn lại của "Đại đội Hofilđ" mới thành lập ở quận Alơmenx, để đáp chuyến xe lửa đang đợi đưa họ đến một trại huấn luyện ở Tsalốt. Một xà ích da đen đã đưa ông chủ, bà chủ của mình tới đó để tiễn con trai cả, tả lại cho Tôm nghe cảnh tượng đó: đám phụ nữ khóc thảm thiết, bọn con trai họ thò người khỏi cửa sổ các toa tầu, hò hét loạn xạ, làm rung động cả không khí, nhiều gã hô: "Chúng tôi đi tống cổ bọn chó đẻ Yanki ấy xuống tàu và sẽ về trước bữa điểm tâm!". Tay xà ích nói: "Cậu công tử mặc bộ quân phục mới màu xám, cậu cũng khóc dữ dư ông chủ, bà chủ, rồi họ bắt đầu hôn hít, ôm ghì nhau mãi đến khi cuối cùng họ dư là rứt ra khỏi nhau, đứng ở giữa đường khụt khà khụt khịt. Chả cần phải nói dối làm gì, tui cũng khóc nốt!".

Chương 111

Tận khuya đêm hôm ấy, trong căn nhà gỗ thắp đèn sáng, lần thứ hai, Tôm đến ngồi bên giường đưa tay cho Airin nắm chặt lấy trong cơn quằn quại và khi nghe những tiếng rền rĩ và đau đẻ của chị đột ngột ré lên thành một tiếng thét chói tai, anh liền lao ra ngoài đi tìm mẹ. Nhưng mặc dầu đã khuya, Matilđa tuân theo linh tính, vẫn chưa ngủ và cũng nghe thấy tiếng thét ấy. Anh gặp bà lúc ấy đã ra khỏi lều mình, còn ngoái lại lớn tiếng dặn với Meri và Kitzi-bé, mắt giương lên thao láo: "Nấu mấy siêu nước, mang nhanh lại cho mẹ!". Trong vòng mấy phút sau, những người lớn khác của gia đình cũng nhô ra khỏi lều và năm anh em trai của Tôm hòa cùng anh bồn chồn dạo bước đi đi lại lại, nhăn nhăn nhó nhó trong khi những tiếng kêu đau đớn của Airin vẫn tiếp tục. Trong những tia sáng đầu tiên của rạng đông, khi tiếng khóc the thé của một đứa hài nhi vang lên, các anh em trai của Tôm ùa đến anh, đấm thùm thụp vào lưng, bắt tay rối rít - kể cả Asfođ - rồi lát sau, bà Matilđa cười toe toét bước qua cửa lều, kêu to: "Tôm, con lại có một tí gái nữa!"

Một lúc sau, trong buổi sớm mai rạng dần, đầu tiên là Tôm rồi đến số còn lại trong gia đình biến thành một đám rước nối nhau tiến vào thăm Airin xanh nhợt nhạt nhưng tươi cười và đứa bé da nâu mặt nhăn nhúm. Matilđa đã đưa tin vào đại sảnh, ở đó bà vội vã nấu bữa điểm tâm, và ngay sau khi ông bà Marê ăn xong, họ cũng tới xóm nô, vui sướng xem đứa hài nhi mới đẻ trong quyền sở hữu của họ. Tôm đồng ý ngay với mong muốn của Airin lấy tên mẹ mình là: "Ilơu" đặt cho đứa con gái thứ hai này. Anh quá mừng về việc lại được làm cha lần nữa, đến nỗi mãi về sau mới nhớ ra là mình đã mong một đứa con trai biết nhường nào.

Matilđa đợi đến chiều hôm sau mới ghé qua lò rèn. "Nầy Tôm, anh có biết mẹ đang nghĩ gì không?" bà hỏi. Mỉm cười với mẹ. Tôm nói: "Mẹ nghĩ muộn đấy, mẹ ạ. Con đã nói mấy mọi người - và đang định nói mấy mẹ nữa - là đêm thứ bảy tới, hãy đến ngồi chật căn lều và con sẽ kể cho cháu bé này nghe câu chuyện gia tộc y dư con đã kể cho Marya khi nó mới đẻ". Như đã dự định, gia đình họp lại và Tôm tiếp tục cái truyền thống đã được lưu truyền từ Bà Nội Kitzi quá cố và Joóc-Gà; Và sau đó, có nhiều câu đùa rằng nếu thảng hoặc có ai trong bọn lơ là không kể lại câu chuyện biên niên sử gia tộc cho bất cứ đứa trẻ nào mới ra đời, người đó hãy giờ hồn với vong linh Bà Nội Kitzi.

Nhưng ngay cả niềm phấn khởi về đứa con thứ hai của Tôm và Airin cũng mau chóng giảm sút khi những sự kiện dồn dập của chiến tranh tăng tốc. Trong lúc bận bịu đóng móng cho ngựa, la và làm hoặc chữa các dụng cụ, Tôm vẫn dỏng tai nghe ngóng mọi mẩu chuyện trao đổi giữa các khách hàng da trắng tụ tập trước cửa hiệu của anh. Và anh nhăn nhó thất vọng thấy họ liên tiếp kể lại một cách hoan hỉ những chiến thắng của "Liên Minh". Đặc biệt, một trận mà người da trắng gọi là "Bul Răn" đã khiến họ reo hò, vỗ lưng nhau và vừa tung mũ lên vừa hét những câu đại loại như sau: "Bọn Yanki đứa nào chưa ngoẻo hay bị thương đều chạy bán sống bán chết!" hoặc "Bọn Yanki vừa nghe thấy quân ta đến, đã quay đít chuồn!". Niềm hoan lạc ấy được lặp lại nhân một thất bại lớn của quân Yanki tại "Thung Uynxơn" bang Mixuri, rồi sau đó không lâu, lại nổi lên khi ở một nơi trong bang Vơjiniơ, hàng trăm quân Yanki bị giết, trong đó có cả một viên tướng mình lỗ chỗ đạn, người đã từng là bạn gần gũi của chính Tổng thống Lincôn. " Đám da trắng í nhảy cỡn cả lên và cười ầm ĩ, bỉu là Tổng thống Lincôn nghe tin, khóc dư đứa trẻ con", Tôm kể lại với gia đình. Cuối năm 1861 - khi quận Alơmenx đã phái mười hai đại đội tham gia nhiều trận chiến đấu khác nhau - anh đâm chán, chỉ thuật lại một phần nhỏ những gì anh tiếp tục nghe thấy, vì những điều đó chỉ làm sâu sắc thêm nỗi buồn rầu của gia đình cũng như của bản thân anh mà thôi. "Chúa biết rành là cứ cái nước nầy thì xem ra chúng ta chưa hòng gì được tự do!". Matilđa nói, đảo mắt nhìn những bộ mặt ủ rũ xúm quanh thành nửa vòng tròn, một buổi chiều tà chủ nhật. Hồi lâu, không ai bình luận câu nào; rồi Lili Xiu vừa chăm sóc đứa con trai Iuriơ bị ốm vừa nói: "Chuyện hão về tự do suốt! con rành thôi chả hy vọng gì nữa đâu!".

Rồi một buổi chiều mùa xuân 1862, một người cưỡi ngựa phóng nước kiệu nhỏ theo đường xe chạy trong đồn điền Marê; y vận bộ đồng phục màu xám của sĩ quan "Liên Minh", còn cách khá xa, Tôm đã thấy hơi quen quen. Khi người đó đến gần hơn, Tôm choáng người nhận ra đó là lão cựu quận trưởng cảnh sát Kêitz, chủ hiệu thực phẩm, người đã khuyên mexừ Marê buộc Joóc-Gà phải rời bang này. Mỗi lúc một thêm bồn chồn, Tôm trông thấy Kêitz xuống ngựa và biến vào trong đại sảnh; rồi không bao lâu, Matilđa hớt hơ hớt hải đến lò rèn, trán hằn những vết nhăn lo âu: "Ông chủ muốn gặp con, Tôm ạ. Ông í đang nói chuện mấy cái mexừ Kêitz bất hảo, chủ hiệu đồ ăn. Con cho rằng họ muốn gì?".

Từ nãy đến giờ, đầu óc Tôm đã quay cuồng nghĩ đến nhiều khả năng, kể cả việc anh đã nghe đám khách hàng nói rằng nhiều điền chủ đã đem theo nô lệ cùng đi chiến đấu với họ và một số khác thì tình nguyện đóng góp vào các dịch vụ chiến tranh những nô lệ biết nghề, đặc biệt các loại chuyên môn như mộc, thuộc da và rèn. Nhưng anh nói, cố gằng bình tĩnh hết sức mình. "Quả tình con không biết, mẹ ạ. Con nghĩ, tốt nhất là cứ đến xem sao". Lấy tư thế thật đĩnh đạc, Tôm mạnh mẽ bước vào phía đại sảnh.

Mexừ Marê nói: "Tôm, anh biết thiếu tá Kêitz chứ".

"Thưa vâng", Tôm không nhìn Kêitz mà vẫn cảm thấy lão ngó chằm chằm vào mình.

"Thiếu tá Kêitz cho ta biết ông chỉ huy một đội kỵ binh mới đang được huấn luyện ở khu cơ xưởng của công ty Hỏa xa và họ cần anh để đóng móng ngựa cho họ".

Tôm cảm thấy nghèn nghẹn. Anh nghe thấy lời mình thốt ra với một âm thanh rỗng huếch: "Thưa ông chủ, có nghĩa là tui ra trận à?".

Chính Kêitz trả lời, giọng khinh miệt: "Ta chả vạ gì mà cho tên nhọ nào đến chỗ ta chiến đấu để nó vừa nghe thấy tiếng đạn đã chạy mất! Ta chỉ cần mi đóng móng ngựa ở chỗ chúng ta luyện tập thôi".

Tôm nhẹ cả người nhưng cố tự kiềm chế không để lộ: "Thưa vâng".

"Thiếu tá và tôi đã bàn chuyện này", mexừ Marê nói. "Anh sẽ làm một tuần cho đội kỵ binh của ông, rồi lại một tuần ở đây cho tôi, trong suốt thời gian chiến tranh, mà xem chừng chiến tranh sẽ không lâu đâu". Mexừ Marê nhìn thiếu tá Kêitz. "Ông muốn hắn bắt đầu từ bao giờ?".

"Sáng mai, nếu có thể được, thưa ông Marê".

"Ồ, nhất định là được chứ, đó là bổn phận của chúng tôi đối với miền Nam mà!" mexừ Marê nhanh nhảu nói, coi bộ hài lòng vì có dịp góp phần vào cố gắng chiến tranh.

"Tôi hy vọng tên nhọ hiểu rõ vị trí của nó", Kêitz nói "Quân sự không phải là đồn điền của ai".

"Tôm biết cách cư xử, tôi biết chắc thế" mexừ Marê nhìn Tôm đầy vẻ tin cẩn. "Đêm nay tôi sẽ viết một tấm giấy thông hành và để cho Tôm lấy một con la của tôi đến trình diện ông vào sáng mai".

"Tốt lắm!" Kêitz nói rồi y đưa mắt nhìn Tôm. "Chúng ta đã có móng ngựa, nhưng mi phải mang đồ nghề đến và ta phải nói ngay với mi rằng chúng ta cần làm nhanh, làm tốt. Chúng ta không có thì giờ để phí phạm!".

"Thưa vâng".

Mang một bộ đồ đóng móng ngựa thu thập vội vàng trên lưng la, khi đến gần xưởng sửa chữa ở khu cơ xưởng của Công ty Hỏa xa, Tôm trông thấy mấy mẫu đất xung quanh trước đây loáng thoáng cây cối, giờ rải rác những lều vải nhỏ sắp thành từng dãy dài, ngay ngắn. Tới gần nữa anh nghe thấy tiếng kèn đồng rúc và súng hỏa mai bắn lẹt đẹt; rồi anh căng cả người khi trông thấy một lính gác phóng ngựa về phía mình. "Mi không trông thấy đây là quân sự ư, nhọ? Mi ngỡ mi là mi đang đi tới đâu?" gã lính hỏi.

"Thiếu tá Kêitz đã biểu tôi đến đây đóng móng ngựa". Tôm lo sợ nói.

"A, kỵ binh ở đằng kia"... tên lính gác chỉ. "Xéo nhanh kẻo ăn đạn bây giờ!".

Thúc ủng giục la đi khỏi, một chốc Tôm tới một cái gò nhỏ và trông thấy bốn hàng ngang kỵ binh đang thao diễn và lập đội hình; đằng sau các sĩ quan hò hét ra lệnh, anh nhận ra thiếu tá Kêitz vênh vênh váo váo xoay lượn trên lưng ngựa. Anh nhận biết lúc lão thiếu tá trông thấy anh trên lưng la và khoát tay ra hiệu cho một lính kỵ mã phóng ngựa về phía anh... Tôm ghìm cương và đợi.

"Mi là tên nhọ thợ rèn?".

"Vâng".

Gã lính gác chỉ về phía một cụm lều vải. "Mi sẽ ở và làm việc ở cạnh những lều chứa rác kia. Chừng nào mi thu xếp xong, chúng ta sẽ cho ngựa đến.

Suốt tuần đầu Tôm phục vụ ở đội kỵ binh của "Liên Minh", lũ ngựa cần thay móng sắt ùn ùn đến không ngớt, và từ tinh mơ đến tối mịt, anh đóng móng cho chúng kỳ tới khi phía dưới những vó ngựa dường như biến thành một vệt nhoa nhóa trong đầu anh. Tất cả những điều anh nghe lỏm bọn kỵ binh trẻ nói, càng gây cảm giác chắc chắn là quân Yanki đang đại bại trong mọi trận giáp chiến, và kẻ trở về để ở một tuần phục vụ các khách hàng thường xuyên của mexừ Marê là một gã Tôm mỏi mệt, chán ngán, thất vọng khôn bề an ủi.

Anh thấy đám phụ nữ ở xóm nô trong một trạng thái nháo nhác ghê gớm. Suốt đêm hôm trước và sáng nay, đứa con trai ốm yếu của Lili Xiu, Iuriơ, tưởng đã đi đứt. Trước lúc Tôm trở về không bao lâu, Matilđa, trong khi quét cổng trước đã nghe thấy những tiếng động kỳ lạ và, xục tìm, bà thấy thằng bé nước mắt ròng ròng, bụng đói, trốn dưới đại sảnh. "Con chỉ tìm cách nghe xem ông chủ, bà chủ lói gì về chuện cho dân nhọ ta tự do thôi, dưng mà ở dưới lày, con chả nghe thấy gì sất", Iuriơ đã nói vậy và giờ đây cả Matilđa và Airin đang cố an ủi Lili Xiu ruột gan rối bời về nỗi thằng con kỳ dị luôn luôn gây những chấn động như vậy. Tôm cũng góp sức dỗ chị bình tĩnh lại, rồi thuật cho gia đình nghe những điều mình đã trải trong tuần qua. "Dững điều tui thấy hay nghe được, chả có gì khả quan cả", anh kết luận. Airin cố gắng vô hiệu để làm cho mọi người chí ít cũng cảm thấy đỡ xìu hơn một chút. "Ta chưa bao giờ được tự do, cho nên dù sao ta cũng chả mất mát gì", chị nói. Nhưng Matilđa bảo: "Nói thật mấy các con, mẹ chỉ sợ cuối cùng rồi chúng mình còn điêu đứng hơn trước".

Cùng một dự cảm ấy thấm sâu vào Tôm khi anh bắt đầu tuần thứ hai đóng móng ngựa cho đội kỵ binh của "Liên Minh". Đêm thứ ba, đang nằm thao thức ngẫm nghĩ, anh nghe thấy một tiếng động hình như từ phía một lều chứa rác bên cạnh. Hồi hộp, Tôm sờ soạng và nắm lấy chiếc búa rèn. Anh rón rén bước ra ngoài, dưới ánh trăng yếu ớt, để dò xét. Anh đã sắp kết luận rằng đó là tiếng xục xạo của một con vật nhỏ nào đó thì bỗng thấy một bóng người từ lều rác lùi ra, tay cầm một cái gì bắt đầu đưa lên miệng ăn. Nhón chân lại gần hơn, Tôm bắt quả tang một thanh niên da trắng gày gò mặt hốc hác. Dưới ánh trăng họ trân trân nhìn nhau khoảng một giây trước khi gã thanh niên da trắng đâm đầu chạy. Nhưng cách chưa đầy mươi mét, cái bóng người trốn chạy ấy vấp phải một vật gì kêu loảng xoảng, rồi gã lấy lại thăng bằng và biến mất trong đêm tối. Thế rồi lính gác mang súng hỏa mai và xách đèn ồ tới thấy Tôm đứng đó tay cầm chiếc búa.

"Mày ăn cắp cái gì, đồ nhọ?".

Tôm lập tức cảm thấy mình mắc vào chuyện rầy rà. Bác bỏ thẳng thừng lời kết tội cũng bằng gọi một người da trắng là kẻ nói dối - lại càng nguy hiểm hơn là ăn cắp. Gấp gáp nhận thức rằng cần làm cho bọn này tin lời mình, Tôm gần như lắp bắp: "Thưa ông, tui nghe thấy có cái gì, ra xem thì thấy một người da trắng ở lều rác và hắn ta vùng ra chạy mất".

Nhìn nhau tỏ vẻ không tin, hai tên lính gác phá lên cười giễu cợt: "Mày coi chúng tao ngờ nghệch đến thế kia ư, đồ nhọ?" một tên hỏi vậy. "Thiếu tá Kêitz bảo phải đặc biệt để mắt đến mày! Mày sẽ gặp ông ấy vào sáng sớm, khi ông trở dậy, con ạ!". Mắt vẫn nhìn Tôm chòng chọc, hai tên gác rì rầm bàn bạc với nhau.

Tên lính gác thứ hai nói: "Bồi, bỏ cái búa xuống!" Một cách bản năng, tay Tôm riết chặt lấy cán búa tiến lên một bước, tên lính gác chĩa cây súng hỏa mai vào bụng Tôm. "Bỏ nó xuống!".

Ngón tay Tôm buông ra và anh nghe thấy chiếc búa rơi đánh thịch xuống đất. Bọn lính gác ra hiệu cho anh đi lên phía trước chúng một quãng khá xa, rồi hạ lệnh cho anh dừng lại ở một khoảng trống nhỏ, trước một cái lều vải lớn có một tên lính vũ trang khác đứng canh: "Chúng tôi đi tuần tra và bắt được một tên nhọ này đang ăn cắp", một trong hai tên kia nói và hất hàm về phía chiếc lều vải lớn. "Đáng lẽ bọn tôi xử trí với nó, nhưng thiếu tá đã bảo chúng tôi canh chừng nó và có chuyện gì thì báo cáo với chính thiếu tá. Khi nào thiếu tá dậy, bọn tôi sẽ quay lại".

Hai tên lính gác để Tôm lại cho tên mới, tên này gườm gườm nhìn anh và gắt gỏng bảo: "Nằm áp lưng xuống đất, nhọ. Mày mà động đậy là chết liền". Tôm nằm xuống theo y lệnh. Mặt đất lạnh. Anh suy đoán những gì có thể xảy đến, cân nhắc những khả năng trốn thoát rồi những hậu quả nếu anh làm thế. Anh ngắm rạng đông hừng lên; rồi hai tên lính gác lúc đầu trở lại khi những tiếng động trong lều cho biết thiếu tá Kêitz đã dậy. Một tên gọi: "Xin phép được gặp ngài, thưa thiếu tá!".

"Về chuyện gì đấy?" Tôm nghe thấy giọng lão càu nhàu bên trong lều.

"Đêm qua, chúng tôi bắt được tên nhọ thợ rèn đang ăn cắp, thưa ngài!".

Một quãng ngừng. "Bây giờ nó đâu rồi?".

"Chúng tôi giữ nó ngay ở ngoài này, thưa ngài!".

"Ta ra ngay đây!".

Sau một phút nữa, vạt cửa lều mở và thiếu tá Kêitz bước ra đứng nhìn Tôm như con mèo nhìn một chú chim. "Hừ thằng nhọ huênh hoang, kể tau nghe mày ăn cắp ra sao! Mà biết trong quân đội chúng tao coi chuyện này như thế nào chứ?".

"Mexừ..." Tôm sôi nổi kể lại sự thật về điều đã xảy ra và kết thúc.

"Mexừ, anh ta đói thật là đói, phải moi cả rác".

"Mày lại bắt được một người da trắng ăn rác cơ đấy! Mày quên mất là trước đây chúng ta đã gặp nhau, hơn nữa tao biết tỏng các loại chúng mày, nhọ ạ! Tao đã để ý đến cái tên nhọ tự do bất hảo là cha mày, nhưng chúng mày đã lọt lưới. Được, lần này tao vớ được mày, cứ luật lệ chiến tranh mà xử!".

Với cặp mắt hoài nghi, Tôm nhìn Kêitz sải bước tới giật chiếc roi ngựa lủng lẳng ở núm yên ngựa treo ở đầu một cái cọc gần đấy. Tôm quắc mắt, cân nhắc chuyện chạy trốn, nhưng cả ba tên gác đều chĩa súng vào anh trong khi Kêitz tiến lại: mặt rúm lại, lão giơ cao chiếc roi bện và quất xuống vai Tôm rát như lửa, lần nữa, lần nữa, liên tục...

Khi Tôm loạng choạng đi về chỗ anh vẫn đóng móng ngựa, lòng đầy tủi nhục và phẫn nộ, anh vớ lấy bộ đồ nghề, nhảy lên lưng la, bất cần điều gì có thể xảy đến nếu bọn lính hô đứng lại, và phóng miết không dừng cho tới khi về tới đại sảnh. Mexừ Marê lắng nghe câu chuyện đã xảy ra và khi Tôm kể xong, mặt ông đỏ bừng vì tức giận. "Xin ông cứ mặc kệ, thưa ông chủ, tôi không trở lại đấy nữa đâu".

"Bây giờ anh không sao chứ, Tôm?".

"Tui không đau đâu cả, trừ ở trong lòng, nếu đấy là điều ông định hỏi, thưa ông".

"Thôi được, ta hứa với anh thế này nhé. Nếu tay thiếu tá dương oai định gây sự lôi thôi, ta sẵn sàng đến chỗ ông thiếu tướng chỉ huy, nếu cần. Ta thực sự phiền lòng vì chuyện này đã xảy ra. Anh cứ trở về cửa hiệu lò rèn mà làm việc". Mexừ ngập ngừng. "Tôm, ta biết anh không phải là con cả, nhưng bà Marê và ta vẫn coi anh là chủ gia đình anh. Và ta muốn anh nói với gia đình anh là vợ chồng ta hy vọng tất cả chúng ta cùng vui hưởng quãng đời còn lại khi đánh tan bọn Yanki. Bọn chúng chỉ là lũ quỷ mặt người, không có gì khác!".

"Dạ", Tôm nói. Anh nghĩ một ông chủ không thể nào hiểu được rằng, đã thuộc quyền sở hữu của một người nào thì làm sao mà vui thú cho được. Tuần nối tuần, bước sang mùa xuân năm 1862, Airin lại có mang và những tin tức Tôm nghe được hằng ngày từ miệng những khách hàng da trắng của anh ở địa phương, đem lại cho anh cái cảm giác rằng quận Alơmenx dường như nằm trong vùng trung tâm yên tĩnh của một cơn bão tố chiến tranh đang hoành hành ở những nơi khác. Anh nghe nói về một trận chiến đấu ở Sailô trong đó quân Yanki và quân "Liên minh" mỗi bên thương vong tới gần 4 vạn, đến nỗi những người sống sót phải lách lấy lối đi giữa những xác chết và số thương binh cần cưa cắt nhiều đến mức cả một đống tú ụ những chân, tay người ùn lên trong sân của bệnh viện gần nhất ở bang Mitxixipi. Trận ấy có vẻ như là hòa nhưng xem chừng rõ ràng là bên Yanki đang thua trong hầu hết các trận lớn. Gần cuối tháng tám, Tôm nghe thấy người ta hoan hỉ mô tả một trận "Bul Răn" thứ hai trong đó quân Yanki phải rút lui với hai viên tướng trong đám tử sĩ và nghe đồn hàng nghìn lính rải rác lê lết về Oasinhtơn, dân chúng bèn hoảng hốt xô nhau chạy trốn trong khi các nhân viên văn phòng dựng chướng ngại vật quanh các công sở và tiền của cả ngân khố lẫn các nhà băng đều được đưa xuống tàu chở đến Niu Yoóc đồng thời một pháo hạm mở máy trên sông Pôtômắc sẵn sàng di tản Tổng thống Lincôn cùng bộ tham mưu của ông. Rồi không đầy hai tuần sau, tại bến phà Hacpơ một lực lượng của "Liên minh" dưới sự chỉ huy của tướng Xtônuôn Jêchxơn lại bắt được mười một nghìn tù binh Yanki.

"Tôm ạ, em thật không muốn nghe gì về cuộc chiến tranh kinh khủng nầy nữa đâu" một buổi tối tháng chín Airin nói vậy khi họ ngồi đăm đăm nhìn vào bếp lửa sau khi anh kể cho chị nghe về hai toán quân dài tới ba dặm của bên "Liên Minh" và bên Yanki đụng độ, bắn giết lẫn nhau ở một nơi gọi là Entitơm. "Em ngồi đây, bụng đầy căng đứa con thứ ba của chúng ta mà tất cả chỉ dặt nói chuyện đánh nhau mấy giết nhau thì cách nào í, tuồng dư không phải lắm đâu...".

Rồi cùng một lúc, cả hai ngoái lại nhìn về phía cửa lều vì nghe thấy một tiếng động rất nhẹ, nhẹ đến nỗi không ai buồn để ý thêm nữa. Nhưng khi lại thấy động, bây giờ rõ ràng là một tiếng gõ khe khẽ, thì Airin, ngồi gần hơn, đứng dậy ra mở cửa và Tôm rướn lông mày lên khi nghe thấy tiếng một người đàn ông da trắng van vỉ: "Xin lỗi anh chị có gì cho tui ăn được không? Tôi đang đói". Quay hẳn người lại, Tôm suýt té nhào khỏi ghế khi nhận ra bộ mặt của gã thanh niên da trắng anh đã bất chợt thấy giữa những thùng chứa rác ở trại kỵ binh. Nhanh chóng trấn tĩnh lại và ngờ là có một thủ đoạn gì đây, Tôm ngồi ngay đuỗn, nghe thấy vợ mình hồn nhiên nói: "À, bầy tui chả có gì ngoài một tí bánh ngô nguội còn thừa sau bữa tối".

"Tốt chán, hai hôm nay tôi chả được mấy tí vào bụng".

Nhận định rằng đó chỉ một sự trùng hợp kỳ lạ, lúc này Tôm đứng lên khỏi ghế và đi ra cửa. "Một tháng nay cậu chỉ đi ăn xin phải không?".

Khoảng nửa giây, gã trai trẻ nhìn Tôm, vẻ giễu cợt, rồi trợn tròn mắt, gã ù té biến mất nhanh đến nỗi Airin đứng ngây ra sửng sốt - và chị lại càng sửng sốt hơn khi Tôm nói cho chị biết người mà chị sắp cho ăn là ai.

Đêm hôm sau, trong cuộc họp gia đình có cả Tôm và Airin dự, khi toàn thể xóm nô đều đã biết cái sự kiện kỳ lạ ấy, thì Matilđa lại rêu rằng ngay sau bữa điểm tâm, "một anh cu da trắng cha căng chú kiết nào đó, gầy khẳng gầy khiu", đột nhiên xuất hiện ở cửa che nhà bếp xin ăn, coi bộ thật thảm hại; bà đã cho gã một bát thịt hầm còn thừa nguội tanh nguội ngắt, khiến gã cám ơn rối rít trước khi biến mất, rồi sau đó, bà thấy cái bát đã rửa sạch đặt ngay ngắn trên bậc cửa nhà bếp. Sau khi nói cho mọi người biết gã thanh niên đó là ai. Tôm nói: "Một khi mà mẹ đã cho hắn ăn, con chắc hắn còn quanh quẩn ở đây. Có lẽ hắn ngủ đâu trong rừng cũng nên. Dù sao con cũng không tin hắn; đều trước hết ta biết, là có người lâm nạn".

"Nói dư thật!" Matilđa thốt lên. "Thôi được, mẹ hiểu các con nầy, nếu hắn thò mặt ra nữa, mẹ sẽ đề nghị hắn chờ để hắn tin rằng mẹ đang sắp cho hắn món gì ăn, trong khi mẹ đi thưa ông chủ".

Bẫy đã được dăng hoàn chỉnh khi gã trai trẻ lại xuất hiện vào sáng hôm sau. Được Matilđa báo động, mexừ Marê vội đi qua cửa trước và vòng mé cạnh nhà trong khi Matilđa hối hả trở về nhà bếp vừa kịp để nghe thấy gã thiếu niên đang đợi, bị chộp hoàn toàn bất ngờ. "Mày lởn vởn quanh đây làm gì?" mexừ Marê hỏi. Nhưng gã trai trẻ không hoảng sợ, thậm chí cũng không có vẻ gì là bối rối nữa. "Thưa ông, tôi thật quả đã kiệt sức vì đi đây đi đó hoài. Người ta không thể trách một kẻ bí thế và các gia nhân nhọ của ông đã đủ hảo tâm để đãi tôi một chút gì!". Mexừ Marê ngập ngừng rồi nói: "Thôi được ta có thể thông cảm, song mầy phải hiểu thời buổi bây giờ khó khăn biết chừng nào, cho nên chúng ta không thể nuôi thêm những cái miệng dư thừa. Mày phải đi đi". Rồi Matilđa nghe thấy giọng gã thiếu niên van vỉ một cách hèn mạt: "Thưa ông, xin ông cho con ở lại. Con không sợ công việc gì hết. Con chỉ không muốn chết đói thôi. Con sẽ làm bất cứ công việc gì ông cần".

Mexừ Marê nói: "Ở đây không có việc gì cho mày làm cả. Làm đồng thì đã có cánh nhọ của ta rồi".

"Con sinh ra và lớn lên trên đồng ruộng. Con sẽ làm cật lực hơn cánh nhọ của ông nữa kia, thưa ông - cốt sao được ăn đều đặn", gã trai trẻ năn nỉ.

"Tên mày là gì và mày từ đâu tới đây?".

"Joóc Jonxơn ạ. Từ Nam Carôlinơ tới, thưa ông. Chiến tranh đã làm tan nát nơi con sinh sống. Con đã tìm cách tòng quân nhưng họ bảo con còn bé quá. Con vừa mới tròn mười sáu tuổi. Chiến tranh tàn phá mùa màng chúng con, tàn phá tất cả mọi thứ, tệ hại quá, bộ như cả đến thỏ cùng không còn mống nào. Và con cũng bỏ đi, ngỡ rằng ở đâu đấy - bất cứ nơi nào khác - hẳn là phải khá hơn. Nhưng xem như thời buổi này, những người duy nhất cho con là cánh nhọ của ông".

Matilđa có thể cảm thấy rằng câu chuyện của gã thiếu niên đã làm mexừ Marê xúc động. Rồi bà nghe thấy, nhưng không tin ở tai mình. "Anh có biết gì về công việc giám thị không?".

"Con chưa bao giờ làm thứ công việc ấy". Gã thiếu niên Joóc Jonxơn có vẻ sửng sốt. Rồi gã ngập ngừng nói: "Nhưng con đã nói với ông là con không từ nan việc gì".

Thất kinh, Matilđa nhích gần hơn đến mép cửa che để nghe rõ hơn.

"Xưa nay ta vẫn thích có một giám thị, mặc dầu bọn nhọ của ta làm ăn tốt, chăm nom mùa màng, cấy hái đâu ra đấy. Ta muốn thử dùng anh, ban đầu thì chỉ chu cấp nơi ăn chốn ở thôi - để xem kết quả ra sao đã".

"Thưa ông... ông... gì ạ?".

"Marê" ông chủ nói.

"Vâng, vậy là ông đã có một giám thị đấy, thưa ông Marê".

Matilđa nghe thấy ông chủ cười khẽ. Ông nói: "Có một gian trống ở đằng sau chuồng ngựa, anh có thể dọn vào đấy mà ở. Hành trang của anh đâu".

"Thưa ông, có bao nhiêu hành trang con mặc trên người cả rồi", Joóc Jonxơn nói.

Cái tin choáng người ấy lan khắp gia đình, dữ dội như một tiếng sét. "Quả thật mẹ không dám tin những điều mẹ nghe thấy!" Matilđa thốt lên, kết thúc bản tường trình lạ lùng của mình và mọi người trong gia đình đều công phẫn. "Hẳn ông chủ sắp điên đến nơi rồi!"... "Tự chúng ta đã chẳng trông nom cơ ngơi của ông í đến nơi đến chốn đấy sao?"... "Chỉ vì cả hai đều là da trắng, có thế thôi!"... "Rồi ông í sẽ nhìn cái tên cách cơ này khác đi, khi nào chúng ta liệu chiều để xảy kha khá sự trục trặc khiến công việc không chạy!".

Nhưng mặc dù họ rất phẫn nộ, ngay từ lần gặp mặt trực tiếp đầu tiên với gã mạo danh ở ngoài đồng vào sáng hôm sau, gã lập tức khiến cho cơn giận dữ của họ khó mà có thể tồn tại ở mức phát sốt phát cuồng. Khi Vơjơl dẫn mọi người ra tới đồng, gã Joóc Jonxơn khẳng khiu xanh xao đã có mặt ngoài đó và gã bước tới gặp họ. Bộ mặt gày gò của gã đỏ rừ lên và trái yết hầu cứ lên lên xuống xuống trong khi gã nói: "Tôi không thể trách các anh các chị đã ghét tôi, nhưng tôi có thể đề nghị các anh các chị chờ ít lâu xem tôi có hóa ra xấu như các anh các chị tưởng không. Các anh chị là những người da đen đầu tiên có quan hệ công việc với tôi song tôi nghĩ trời sinh các anh chị có màu da đen cũng như tôi có màu da trắng, và tôi xét mọi người ở hành động của họ. Tôi chỉ biết có một điều là các anh chị đã cho tôi ăn khi tôi đói và có ối người da trắng đã không làm thế. Giờ đây xem chừng ông Marê đã quyết tâm muốn có một giám thị, và tôi biết các anh các chị có thể khiến ông ấy thay tôi, song tôi nghĩ nếu các anh, chị làm thế, thì có cơ là kẻ thay thế tôi lại tệ hại gấp bội phần".

Xem ra trong gia đình, không ai biết trả lời ra sao cả. Dường như không có cách chi khác ngoài việc tản ra và bắt tay vào lao động, cả bọn đều ngấm ngầm quan sát Joóc Jonxơn làm việc cũng miệt mài như họ, nếu không muốn nói là hơn - thực tế, gã có vẻ chú tâm chứng minh lòng chân thành của mình.

Đứa con gái thứ ba của Tôm và Airin - Vaini - sinh vào cuối tuần đầu sau khi gã này đến. Giờ đây khi ở ngoài đồng Joóc Jonxơn đã mạnh dạn sà vào ngồi với các thành viên gia đình vào giờ ăn trưa, làm như không để ý thấy. Asfođ công nhiên đứng dậy, mặt sưng, mày sỉa, bỏ đi chỗ khác. "Các anh, chị thấy là tôi chẳng biết gì về công việc giám thị cả, cho nên các anh, chị cần giúp tôi trót lọt", Joóc Jonxơn thẳng thắn nói với họ. "Sẽ chẳng hay ho gì nếu để ông Marê ra đây và nghĩ rằng tôi không làm công việc ấy như ý ông muốn".

Cái ý rèn cặp đào tạo kẻ giám sát mình khiến cho ngay cả Tôm bình thường vốn trang nghiêm, cũng thấy ngồ ngộ khi nó được đưa ra bàn bạc ở xóm nô đêm hôm ấy, và tất cả đều nhất trí rằng các trách nhiệm ấy thế tất thuộc về Vơjơl vì xưa nay bao giờ anh cũng vẫn điều khiển công việc đồng áng. "Đều đầu tiên" anh bảo Joóc Jonxơn, "cậu sẽ phải thay đổi hàng loạt cung cách thông thường của mình. Cố nhiên là với tất cả bọn tui luôn luôn trông chừng, thì ông chủ chả thể nào đến gần trước khi bọn tui kịp ra hiệu cho cậu. Thế rồi cậu phải nhanh chân tách ra để khỏi xoắn xuýt quá gần quanh bọn tui. Chắc cậu cũng biết người da trắng, nhất là cánh xú-ba-dăng không có được tỏ ra gần gũi mấy dân nhọ".

"Ồ, ở Nam Carôlinơ quê tôi xem ra dân nhọ không bao giờ quá gần gũi với dân da trắng" Joóc Jonxơn nói.

"Ờ, dững tay nhọ í khôn ngoan đấy!" Vơjơl nói. "Đều tiếp theo là một ông chủ cần cảm thấy xú-ba-đăng của mình thúc đẩy đám nhọ làm việc hăng hơn trước khi có xú-ba-đăng. Cậu phải học quát tháo. "Làm đi, bọn nhọ chúng bay!" và dững câu đại loại dư thế. Và bất cứ lúc nào cậu ở bên ông chủ hoặc bất kỳ người da trắng nào nữa, cậu chớ có bao giờ gọi bọn tui bằng cái tên dư cậu vẫn thường gọi. Cậu phải học gầm gừ và chửi rủa và làm sao có vẻ thật bỉ ổi, để làm cho ông chủ cảm thấy cậu không quá dễ tính và thả lỏng bọn tui".

Khi mexừ Marê ra thăm đồng lần sau, Joóc Jonxơn ra sức cố gắng quát tháo, chửi rủa, thậm chí còn đe dọa tất cả mọi người trên cánh đồng, từ Vơjơl trở xuống. "Thế nào, họ làm ăn ra sao?" mexừ Marê hỏi. "Đối với bọn nhọ được để cho làm tự ý mình, thì thế cũng kha khá", Joóc Jonxơn kéo dài giọng, "nhưng con hy vọng một hay hai tuần nữa sẽ cho chúng vào khuôn phép đâu ra đấy".

Đêm hôm ấy, cả gia đình cười lăn ra, bắt chước Joóc Jonxơn cùng với vẻ vui thích hiển nhiên của mexừ Marê. Sau đó khi qua đi hàng ngàn cơn vui, Joóc Jonxơn bình thản kể cho họ nghe cảnh nghèo rớt mồng tơi suốt quãng đời trước đây của mình, ngay cả trước khi gia đình gã tan tác với ruộng đồng bị chiến tranh hủy hoại, cho đến khi gã phải ra đi tìm một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. "Có lẽ cậu ta là người da trắng duy nhất mộc mạc trung thực về chính mình mà chúng ta từng gặp". Vơjơl nói lên sự đánh giá tập thể của gia đình.

"Nói tình thật, tui thích nghe cậu ta nói chuyện", Lili Xiu phát biểu và Joóc-con giễu: "Cậu ta nói chuyện thì cũng dư mọi cách-cơ khác thôi. Khác cái cậu ta là người đầu tiên tui thấy không làm ra vẻ ta đây. Phần lớn đều rất xấu hổ về thân phận của mình". Meri cười: "Ờ, cậu này không xấu hổ, dám cả xin ăn nữa cơ mà".

"Mẹ thấy tuồng dư các con đã thực sự thích cái lão Joóc rồi đấy". Matilđa nói. Mọi người lại cười rộ khi nghe thấy cái biệt hiệu mới đặt cho gã giám thị cây nhà lá vườn của họ. "Lão Joóc", vì "lão" trẻ một cách kỳ cục. Và Matilđa nói đúng: thật khá lạ lùng, họ đã đi đến chỗ thích gã một cách thực tình.

Chương 112

Miền Bắc và Miền Nam như hai con hươu ngoắc sừng vào nhau trong một cuộc tử chiến. Xem chừng cả hai đều không thể thực hiện một chiến dịch thắng lợi để loại trừ bên kia. Tôm bắt đầu nhận thấy đôi chút thất vọng trong các cuộc trò chuyện giữa các khách hàng của anh. Đó là một cái phao cho niềm hy vọng được tự do vẫn còn mãnh liệt trong anh.

Cả gia đình lao vào sôi nổi suy đoán, khi "lão" Joóc Jonxơn nói với vẻ bí ẩn: "Ông Marê bảo tôi có thể đi lo một công việc gì đó. Tôi sẽ cố về hết sức nhanh". Rồi sáng hôm sau, anh ta đi.

"Các người đoán đó là việc gì?".

"Cứ theo cái cách lão vẫn nói chuyện thì ở quê lão chả còn gì mà lo liệu nữa".

"Có thể là một cái gì dính dáng đến họ hàng lão".

"Dưng mà lão có bao giờ nhắc đến họ hàng gì đâu - chí ít cũng là không nhắc đến người nào đặc biệt".

"Lão ắt phải có bà con nào ở đâu đó chứ!".

"Có khi lão quyết định đi chiến tranh cũng nên".

"Chà, tui rành không hình dung nổi lão Joóc lại muốn bắn ai".

"Tui ngờ là cu cậu cuối cùng đã được ăn uống đẫy bụng và bữa qua chúng ta thấy cu cậu là lần cuối đấy".

"Ồ, im đi, Asfođ! Anh thì chả bao giờ nói tốt cho lão hay bất kỳ ai khác!".

Gần một tháng đã qua khi một hôm chủ nhật, bỗng vang lên những tiếng hú và hò reo - bởi vì lão Joóc đã trở về, nhe răng cười ngượng và cùng với anh ta là một cô gái rụt rè đến khổ sở, cũng gầy gò và xanh xao như anh ta, cái bụng chửa tám tháng khiến cô có vẻ như đã nuốt phải một quả bí ngô.

"Đây là vợ tôi, cô Mathơ" Lão Joóc nói với mọi người, "Ngay trước lúc tôi ra đi, chúng tôi đã cưới và tui bảo cô ấy là khi tìm được nơi nào, tôi sẽ về đón. Sở dĩ trước tôi không nói gì về vợ tôi là vì kiếm được ai bằng lòng nhận một mình tôi cũng đã đủ khó rồi". Anh nhe răng cười với Mathơ: "Sao em không chào bà con đi?".

Mathơ ngoan ngoãn chào tất cả mọi người, và đối với cô dường như là một bài diễn văn dài khi cô nói thêm: "Joóc đã kể với tôi nhiều về bác và các anh chị".

"À, tui mong rằng mọi cái cậu í kể mấy mợ đều tốt cả!". Matilđa hớn hở nói và lão Joóc thấy bà liếc nhìn lần thứ hai vào cái bụng chửa to đến cực độ của Mathơ.

"Khi ra đi, tôi không hề biết là chúng tôi sắp có con. Tôi chỉ luôn luôn có cảm giác là tôi phải trở về. Và đó, cô ấy đã sắp làm mẹ rồi".

Cô bé Mathơ mảnh dẻ xem ra hoàn toàn vừa đôi phải lứa với Lão Joóc Jonxơn, nên gia đình nhiệt thành mừng cho đôi bạn.

"Có nghĩa là cậu chưa nói cả mấy mexừ Marê?" Airin hỏi.

"Chưa. Tôi chỉ bảo là tôi có chút công chuyện như tôi đã nói với bác và các anh, chị. Nếu ông ấy muốn tống chúng tôi đi thì chúng tôi đành phải đi, có thế thôi".

"Ồ, tui biết ông chủ sẽ không ác cảm dư thế đâu" Airin nói và Matilđa họa theo: "Cố nhiên, ông í không thế. Ông chủ không phải loại người dư vậy".

"Được bác nói hộ là hễ có dịp là cháu phải gặp ông ấy ngay", Lão Joóc Jonxơn nói với Matilđa.

Đề phòng mọi bất trắc, Matilđa thưa với bà chủ Marê trước, phần nào bi kịch hóa tình cảnh của hai cô cậu lên một chút. "Thưa bà, tui biết cậu ta là một xú-ba-dăng mí lại thế này thế khác thật đấy, dưng mà cậu í mấy cái cô vợ bé bỏng tội nghiệp của cậu í rành sợ chết khiếp là ông chủ sẽ đuổi đi bởi vì trước cậu í chả nhắc gì đến vợ mí lại thời buổi thật khó khăn đủ thứ. Hơn nữa ngày ở cữ của cô í chả còn mấy xa".

"Được, tất nhiên tôi không thể quyết định thay nhà tôi, song tôi tin chắc nhà tôi sẽ không tống họ ra khỏi cửa...".

"Vâng, thưa bà, tui biết ông bà sẽ chả làm thế đâu, nhất là tui đồ rằng cô bé mới chưa quá mười ba mười bốn tuổi bà ạ, và coi bộ dư sắp sửa đẻ bất cứ lúc nào, lại mới chân ướt chân ráo đến đây và không quen biết ai ngoài bọn tui... và ông bà".

Bà chủ Marê nói: "Thôi được, như tôi nói đấy, đấy không phải việc của tôi, mà phải do ông Marê quyết định. Nhưng tôi cảm thấy chắc chắn là họ có thể ở lại".

Trở về xóm nô, Matilđa bảo Lão Joóc Jonxơn đầy vẻ hàm ơn là đừng lo, bà chủ Marê đã nói chắc chắn rằng không có vấn đề gì. Rồi bà tất tưởi đến lều Airin, ở đó sau khi hội ý nhanh chóng, cả hai lại rảo bước đến chiếc lán nhỏ biến thành nơi ở của vợ chồng Lão Joóc Jonxơn.

Airin gõ cửa và khi Lão Joóc Jonxơn ra, chị bảo: "Bọn tui lo cho vợ cậu. Cậu biểu mợ í để bọn tui thủi nấu giặt giũ tất cả cho, vì mợ í phải dành sức để sinh cháu".

"Cô ấy đang ngủ. Chị lo cho như vậy, thật quý hóa" anh ta nói. "Bởi vì suốt từ lúc đến đây, cô ấy cứ nôn ọe hoài".

"Chả có gì là lạ. Coi bộ sức mợ í chả hơn sức một con chim là mấy", Airin nói. "Việc gì cậu phải đưa mợ í đi bao nhêu đường đất tới đây đúng vào giữa cái đận này" Matilđa nghiêm nghị nói thêm.

"Cháu đã hết hơi hết sức bảo cô ấy thế khi cháu về quê. Nhưng cô ấy không chịu giải quyết cách nào khác".

"Thí dụ có chuyện gì xảy ra dọc đường. Cậu có biết mô tê gì về đỡ đẻ đâu", Matilđa kêu lên.

Anh ta nói: "Cháu thật khó mà tin rằng cháu sắp làm bố".

"Ấy thế mà rành là sắp rồi", Airin suýt bật cười khi thấy vẻ lo lắng của Lão Joóc Jonxơn, rồi chị và Matilđa quay lưng đi về lều mình.

Hai mẹ con lo lắng bàn riêng với nhau. "Mẹ thấy tình trạng con bé tội nghiệp í chả ổn tí nào cả", Matilđa lầm bầm tâm sự "Gần dư thấy cả xương. Và xem chừng đã quá muộn để tẩm bổ cho nó khỏe".

"Con cảm thấy dư cô í sẽ gay lắm đây", Airin tiên đoán, "Lậy chúa! Rành con không bao giờ nghĩ là cuối cùng mình lại ưa được một người da trắng nào!".

Không đầy hai tuần sau, một buổi trưa, Mathơ bắt đầu thấy đau. Cả gia đình xóm nô nghe thấy cô quằn quại kêu từ trong lán, trong khi Matilđa và Airin vất vả với cô suốt đêm cho đến gần trưa hôm sau. Cuối cùng khi Airin ló ra vẻ mặt chị đã tin cho lão Joóc Jonxơn phờ phạc ngay cả trước khi miệng chị thốt nên lời. "Tui chắc mợ Mathơ sẽ qua cầu thoát nạn thôi. Đứa bé là con gái... dưng mà nó chết rồi".

Chương 113

Chiều muộn hôm Tết dương lịch năm 1863, Matilđa chạy như bay vào xóm nô. "Các con có trông thấy cái tay da trắng vừa mới cưỡi ngựa đến đây không? Các con chả tin được đâu. Y ta đang rủa xả ở trong kia, biểu mấy ông chủ là vừa có tin theo đường dây điện tín hỏa xa báo rằng Tổng thống Lincôn đã ký Tuyên bố Rải phóng cho chúng ta được tự do!".

Cái tin phấn khởi ấy khiến những người da đen thuộc sở hữu của Marê, cũng như hàng triệu người khác như họ, vui sướng như điên trong những căn lều của họ... nhưng mỗi tuần qua đi, sự hoan hỉ chờ đợi tự do giảm dần, teo đi và cuối cùng quắt lại thành một nỗi thất vọng mới, vì thực tế càng trở nên rõ ràng rằng trong cái vùng ngày càng đẫm máu, tan hoang của khối Liên Minh, lệnh của Tổng thống Lincôn, chỉ thổi bùng thêm sự khinh ghét cay đắng đối với ông mà thôi.

Nỗi thất vọng ở xóm nô của đồn điền Marê sâu sắc đến nỗi mặc dù Tôm thi thoảng vẫn báo tin quân Yanki thắng những trận lớn, kể cả việc đánh chiếm Atlanta, mọi người vẫn từ bỏ hy vọng được tự do; cứ thế cho đến cuối năm 1864, một bữa Tôm hớn hở khác thường, gần hai năm nay chưa thấy anh phấn khởi thế bao giờ. Anh nói các khách hàng da trắng của anh đã mô tả hàng nghìn lính Yanki giết người cướp của, đông không kể xiết, dăng hàng tiến quân dài tới năm dặm, dưới sự chỉ huy của một tên tướng Sơman điên cuồng nào đó, đã tàn phá bang Jojiơ như thế nào. Mặc dù trước đây đã nhiều lần vỡ mộng, gia đình khó lòng dẹp được niềm hy vọng tự do mới được nhóm lại khi Tôm thông báo thêm tin tức vào những đêm sau.

"Tuồng dư quân Yanki không chừa lại tí gì! Đám da trắng chưởi họ đốt sạch cả đồng ruộng, đại sảnh, chuồng ngựa! Họ giết cả la, nấu thịt bò và mọi thứ khác ăn được! Dững thức gì họ không đốt không ăn được thì họ phá béng mấy lại cướp bất cứ cái gì mang theo được!" Và nghe nói dân nhọ ào hết ra rừng, ra đường cái, đông dư kiến, bỏ đồn điền, bỏ các ổng chủ, đi theo quân Yanki đến nỗi chính cái ông tướng Sơman í phải xin họ trở về chỗ cũ!".

Rồi không lâu sau khi cuộc tiến quân thắng lợi của bên Yanki tràn tới bờ biển, Tôm hổn hển báo tin: "Saletơn mất rồi!"... và sau đó là: "Tướng Grant đã chiếm Richmơn!"... và cuối cùng, tháng 4 năm 1865: "Tướng Li đã đầu hàng, nộp toàn bộ quân đội "Liên Minh!" Miền Nam đã chịu thua!".

Niềm hân hoan vui sướng ở xóm nô giờ đây thật không lấy gì đo nổi khi họ ùa ra qua sân trước đại sảnh và ngược lên lối vào, tới đường cái lớn để hòa vào hàng trăm người đã kéo đến đó, tíu tít như đèn cù, nhẩy cẫng, nhún lên nhún xuống, hò la, gào hú, hát ca, thuyết giảng, cầu nguyện. "Tự do, lậy Chúa, tự do!"... "Đội ơn Chúa toàn năng, cuối cùng, tự do đã đến!".

Nhưng rồi trong vòng mấy ngày, tinh thần hội hè hoan lạc lại chìm vào tang tóc và sầu đau sâu sắc với cái tin sét đánh về vụ ám sát Tổng thống Lincôn. "Đạạại ááác!" Matilđa rít lên trong khi cả gia đình khóc quanh bà cùng với hàng triệu người như họ đã tôn kính vị Tổng thống hy sinh như đấng cứu tinh Môixe.

Rồi sang tháng năm, như đang xảy ra ở khắp miền Nam thất trận mexừ Marê triệu tập tất cả nô lệ trong sân trước đại sảnh. Khi đã tập hợp thành một hàng ngang, họ thấy khó nhìn thẳng vào bộ mặt bàng hoàng, chảy dài của ông chủ, của bà Marê khóc sướt mướt và của vợ chồng Lão Joóc Jonxơn vốn dĩ cũng thuộc nòi da trắng. Thế rồi, bằng một giọng đau đớn, mexừ Marê chậm rãi đọc tờ giấy cầm trong tay báo rằng miền Nam đã thua cuộc chiến tranh. Thấy khó nén được ngẹn ngào trước cái gia đình da đen đứng dưới đất đối mặt ông, ông nói: "Tôi nghĩ thế nghĩa là tất cả các người đã tự do như chúng tôi. Các người có thể đi khỏi nếu các người muốn, có thể ở lại nếu các người muốn thế, và nếu ai ở lại, chúng tôi sẽ cố gắng đãi một cái gì..."

Những người da đen thuộc sở hữu của Marê lại bắt đầu nhảy nhót, hát ca, cầu nguyện, la hét: "Chúng ta được tự do!"... "Rốt cuộc, thế là tự do!"... "Tạ ơn Người, Đức Chúa Jêxu!". Tiếng reo mừng như điên bay đi, lọt qua khung cửa mở của căn nhà gỗ nhỏ nơi Iuriơ, con trai của Lili Xiu, năm nay lên tám, đang nằm sốt mê man từ mấy tuần nay. "Tự do! Tự do!" nghe thấy vậy, Iuriơ bật dậy khỏi giường nằm, sôi sục, chiếc áo ngủ phất pha phất phới; đầu tiên, nó chạy ra chuồng lợn: "Lũ lợn kia, đừng ủn ỉn nữa, chúng mầy được tự do rồi! Nó nhào tới chuồng bò: "Lũ bò cái kia, đừng cho sữa nữa chúng mầy tự do rồi! - và cả TAO cũng thế!".

Nhưng đêm hôm ấy, sau khi mọi người đã mệt lử không còn sức để reo mừng, Tôm tập hợp đại gia đình trong chuồng ngựa để bàn bạc xem giờ đây, khi "cái tự do" bao lâu mong đợi đã đến, họ cần phải làm gì. "Tự do sẽ không nuôi sống chúng ta, nó chỉ để cho chúng ta tự ý quyết định xem cần làm gì để có cái ăn". Tôm nói. "Chúng ta phải có nhều tền, mà ngoài tôi làm rèn mấy mẹ nấu bếp, nhà ta chỉ biết mỗi việc làm đồng mà thôi", anh đánh giá cái thế khó xử của gia đình.

Matilđa thuật lại là mexừ Marê đã đề nghị bà thuyết phục mọi người cân nhắc ý kiến của ông đưa ra là phân mảnh đồn điền ra và ai muốn làm rẽ thì chia đôi hoa lợi. Một cuộc tranh luận sôi nổi diễn ra. Nhiều người lớn trong gia đình muốn rời đi thật nhanh, càng sớm càng tốt, Matilđa phản đối. "Mẹ muốn gia đình ta đây tiếp tục xum vầy. Bi giờ thử bàn về chuện di chuyển nhá, phí dụ chúng ta bỏ đi, thế rồi bố Joóc-Gà của các con giở về, không có ai biểu cho bố biết chúng ta đi đằng nào thì sao!".

Mọi người im lặng khi Tôm ngỏ ý muốn nói: "Tui xin nói mấy cả nhà nữa là làm sao chúng ta chưa thể bỏ đi được - là vì chúng ta chưa chuẩn bị gì cả, thế thôi. Khi nào chúng ta chuẩn bị xong xuôi, tôi sẽ là người đầu tiên đòi đi". Cuối cùng, đa số chịu là Tôm nói phải và cuộc họp gia đình giải tán.

Nắm tay Airin, Tôm cùng vợ đi dưới ánh trăng về phía cánh đồng. Nhẹ nhàng nhảy qua một hàng rào, anh bước những bước dài, ngoặt theo một góc chín mươi độ, khoanh một hình vuông, rồi sải cẳng trở về chỗ hàng rào anh nói: "Airin, chỗ này sắp sửa là của chúng mình!" Chị khe khẽ nhắc lại lời anh: "của chúng mình!".

Trong vòng một tuần, các đơn vị riêng rẽ của gia đình làm phần ruộng của mình. Một buổi sáng, Tôm đã rời khỏi lò rèn đi đến giúp sức các anh em trai, thì chợt nhận ra một người cưỡi ngựa lũi thũi trên đường cái là lão cựu thiếu tá kỵ binh Kêitz, quân phục tả tơi, ngựa thì tập tà tập tễnh. Kêitz cũng nhận ra Tôm và thúc ngựa lại gần hàng rào, lão ghìm cương lại: "Ê, nhọ, mang cho ta gáo nước!" lão gọi. Tôm tới chỗ xô nước. Anh múc đầy gáo và bước lại đưa nó cho Kêitz. "Tình hình bi giờ thay đổi rồi, ông Kêitz ạ", Tôm điềm đạm nói. "Sở dĩ tui mang cho ông gáo nước nầy chỉ là vì bất kỳ ai khát, tui cũng cho uống, chớ không phải vì ông quát tháo đâu. Tui muốn ông phải hiểu rõ điều í".

Kêitz đưa trả lại chiếc gáo. "Cho ta gáo nữa, nhọ". Tôm cầm chiếc gáo, bỏ trở lại vào xô nước và bước đi không thèm ngoái nhìn lại.

Nhưng khi một kỵ mã khác vừa hú vừa phóng nước đại theo đường cái, với một chiếc mũ quả dưa đen nhàu nát rất dễ nhận ra bên trên một chiếc khăn quàng xanh bạc thếch, thì mọi người ngoài đồng ào ào chạy cả về xóm nô: "Mẹ ơi, bố về! Bố về!" Khi con ngựa vào tới sân, các con trai Joóc-Gà kéo phăng ông kiệu lên vai và kéo đến trước mặt Matilđa chan hòa nước mắt.

"Làm sao mà lại khóc rống lên thế, mụ?" ông giả vờ bất bình hỏi, đồng thời ôm ghì lấy bà như không muốn buông ra nữa, nhưng cuối cùng ông cũng rời khỏi bà lớn tiếng bảo gia đình tập hợp lại và im lặng. "Rồi sau, bố sẽ kể cho cả nhà nghe bố đã đi dững đâu, làm dững gì từ khi chúng ta xa nhau", Joóc-Gà oang oang. "Dưng ngay bi giờ bố phải cho các con biết cả nhà ta sắp cùng nhau đi đến đâu sum vầy!". Trong không khí im lặng tưởng chừng nghe thấy cả tiếng kim rơi và với khiếu kịch bẩm sinh, Joóc-Gà kể là ông đã kiếm được cho cả nhà một khu định cư ở miền Tây Tennexi và những người da trắng vùng này đang nóng ruột chờ họ đến giúp sức xây dựng một thị xã.

"Nói cho cả nhà biết cái nầy nhé! Đất ở chỗ chúng ta sắp đến đen nhánh và mầu mỡ đến nỗi cắm một cái đuôi lợn con xuống, sẽ mọc lên cả con lợn í... đêm đến thì khó mà ngủ được vì dưa hấu nhớn nhanh đến nỗi cứ nứt đôm đốp dư pháo nổ. Có những con ôpốt 1 nằm ềnh dưới gốc cây, béo ục ịch không đi nổi, nước ngọt ở cây nhỏ xuống đặc dư mật...!".

Gia đình phấn khởi nhộn nhạo như điên, không để ông nói nốt. Trong khi một số chạy đi khoe những người khác ở các đồn điền bên cạnh, chiều hôm ấy Tôm bắt đầu lập kế hoạch sửa một chiếc xe làm đồng thành một chiếc "Róccơuê 2 có mui, mà mười chiếc như thế có thể đưa tất cả các đơn vị trong gia đình đến chỗ mới nọ. Nhưng đến lúc mặt trời lặn, khoảng một tá người khác, chủ các gia đình mới được giải phóng, đã kéo tới - không phải là xin, mà đòi hỏi cho các gia đình của họ cùng đi - họ là những người da đen ở các đồn điền Hâut, Fitzpat rie, Pơm, Têilơ, Rait, Lêik, Mêcgrigo... thuộc quận Alơmenx.

Trong hai tháng ráo riết hoạt động tiếp theo, cánh đàn ông đóng xe "Róccơuê". Phụ nữ mổ thịt gia súc, nấu nướng, đóng hộp và sấy thức ăn để đi đường và chọn những thứ tối cần thiết để mang theo. Ông già Joóc-Gà đi quanh giám sát mọi hoạt động, rất thích vai trò chính của mình. Lại có thêm những gia đình mới được giải phóng xúm đến quanh tìm Tôm tình nguyện giúp một tay và cam đoan sẽ nhanh chóng lấy xe tải riêng để làm thành xe "Róccơuê" của gia đình. Cuối cùng anh tuyên bố tất cả những ai muốn đều có thể đi - nhưng mỗi đơn vị gia đình chỉ được một chiếc "Róccơuê" thôi. Cuối cùng, khi hai mươi tám chiếc xe đã được chất đồ lên và sẵn sàng lăn bánh vào rạng sáng hôm sau, với một cảm giác kỳ lạ vừa buồn vừa bình thản, đám người mới được tự do tha thẩn đi quanh, khe khẽ sờ vào những vật quen thuộc, chậu rửa bát, cọc rào..., biết rằng đó là lần cuối cùng.

Trong nhiều ngày, những người da đen ở đồn điền Marê chỉ loáng thoáng thấy vợ chồng ông chủ. Matilđa khóc: "Lậy Chúa, tui thật không muốn nghĩ đến cái nông nỗi mà ông bà í đang phải trải qua, tui thề là thế!".

Tôm đã rút vào trong xe mình để nghỉ đêm thì chợt nghe thấy tiếng gõ nhẹ ở cửa phía sau. Không hiểu sao, anh biết ngay đó là ai, ngay trước cả khi mở tấm che hậu. Lão Joóc Jonxơn đứng đó, mặt nhăn nhó vì xúc động, hai tay vặn vẹo chiếc mũ: "Tôm... tôi muốn nói một câu với anh... nếu anh có thì giờ...".

Tụt xuống khỏi xe, Tôm đi theo lão Joóc Jonxơn một quãng dưới ánh trăng. Cuối cùng, khi lão Joóc dừng lại, gã nghẹn ngào vì bối rối và xúc động, khó khăn lắm mới nói lên lời: "Tôi và Mathơ đã bàn... xem ra chúng tôi chỉ có các anh các chị là người thân mà thôi. Tôm ạ, chúng tôi băn khoăn không biết các anh các chị có để cho chúng tôi đi theo không?".

Một lát sau, Tôm mới nói: "Nếu chỉ có một gia đình tui thì tui có thể trả lời cậu ngay bi giờ. Dưng mà còn có nhều người khác nữa. Tui phải bàn mấy tất cả bọn họ. Tui sẽ cho cậu biết...".

Tôm đi đến từng xe khác, gõ khe khẽ, gọi những người đàn ông ra. Tập hợp họ lại, anh nói cho họ biết điều gì xảy ra... Một phút im lặng nặng nề. Tôm đề nghị: "Cậu ta là tay xú-ba-dăng tốt nhất đối mấy bọn tui, bởi vì thực ra cậu í chả phải là xú-ba-dăng gì hết, cậu í vai kề vai làm lụng mấy bọn tui mà".

Một số, phần nào hiềm kỵ da trắng, phản đối kịch liệt. Nhưng sau một lát, một người bình tĩnh nói: "Giời sinh hắn da trắng, hắn làm thế nào được..." Cuối cùng, phải lấy biểu quyết và đa số đồng ý để cho vợ chồng Jonxơn đi theo.

Cần phải hoãn lại một ngày để làm một chiếc "Róccơuê" cho lão Joóc và Mathơ. Rồi rạng sáng hôm sau, một đoàn hai mươi chín chiếc "Róccơuê" có mui sắp hàng dọc bắt đầu cót két, lọc cọc chuyển bánh rời khỏi đồn điền Marê trong bình minh. Trên đầu đoàn xe, ông Joóc-Gà sáu mươi bảy tuổi đội mũ quả dưa, đeo khăn quàng, cưỡi con ngựa "Già Bóp", mang trong tay con gà chọi già độc nhỡn. Đằng sau ông, Tôm lái chiếc xe thứ nhất, với Airin ngồi bên cạnh và đằng sau họ là lũ con, mắt tròn xoe thích thú, đứa bé nhất Xinthiơ mới được hai năm. Và sau hai mươi bảy chiếc xe nữa, với những người đàn ông da đen hoặc lai cùng vợ họ ngồi trên chiếc ghế trước, cuối cùng đến chiếc xe vét của lão Joóc và Mathơ; họ dõi mắt nhìn xuyên qua lớp bụi mù mịt cuốn lên bởi tất cả những vó ngựa, la và bánh xe đang tiến về phía mà ông Joóc-Gà thề sống thề chết rằng đích thị là miền Đất Hứa.

Chương 114

"Chỗ này à?" Tôm hỏi.

"Miền Đất Hứa đây ư?" Matilđa hỏi.

"Thế dững con lợn mấy lị bí ngô vọt ra khỏi mặt đất đâu?" một đứa trong bọn trẻ con hỏi khi Joóc-Gà ghìm cương cho ngựa đứng lại.

Trước mắt họ là một khoảng trống trong rừng, với một số cửa hàng bằng gỗ ở chỗ giao nhau giữa con đường ghập ghềnh họ đang đi với một con đường thẳng góc với nó. Ba người đàn ông da trắng - một người ngồi trên một chiếc thùng đinh, một người khác trên một chiếc ghế xích đu, người thứ ba ngật ngưỡng trên hai chân sau một chiếc ghế đẩu, lưng tựa vào một bức tường có ván che và chân gác lên một cái cọc buộc ngựa - khẽ huých nhau và hất hàm về phía đoàn xe bụi bặm cùng những hành khách trên đó. Hai thằng bé da trắng đang đánh vòng đứng sững lại và giương mắt nhìn, chiếc vòng tiếp tục lăn quá chỗ chúng ra đến giữa đường, quay vài lượt nữa rồi đổ kềnh. Một người da đen lớn tuổi đang lom khom, đứng thẳng dậy, thản nhiên nhìn họ hồi lâu, rồi từ từ nhoẻn miệng cười. Một con chó lớn đang gãi bên một thùng hứng nước mưa cũng ngừng lại, chân vẫn giơ lên, nghển đầu nhìn họ, rồi lại tiếp tục gãi.

"Ta đã biểu mấy tất cả đây là một khu định cư mới", Joóc-Gà nói nhanh. "Họ chỉ mới có độ một trăm người da trắng gì đó, và ngay cả với số mười lăm xe còn lại của chúng ta sau khi dững xe khác rẽ ngang trên đường đi tới đây, chúng ta cũng chỉ gần gần tăng gấp đôi dân số mà thôi. Chúng ta đang đi vào cái nền của một đô thị đang mọc lên".

"Ờ, nó chỉ còn mỗi cách mọc lên chứ còn làm gì khác được nữa, đấy là cái chắc" Joóc-con nói, không hề mỉm cười.

"Cứ chờ lúc các người thấy vùng đất nhất đẳng điển của họ mà xem", ông bố nói, vẻ rạng rỡ, hai tay xoa vào nhau hình dung trước lúc đến đó.

"Có khi lại là đầm lầy" Asfođ lầm bầm, cũng đủ khôn ngoan để không nói to cho Joóc-Gà nghe thấy.

Nhưng quả là loại đất thượng hảo hạng thật - màu mỡ và nhiều mùn, mỗi gia đình được ba mươi "âycơ", rải rác trên những khoảnh ô bàn cờ từ ven đô kéo suốt đến những trại của người da trắng đã chiếm vùng đất tốt nhất ở quận Laođơđêl, trên hai bờ sông Hatai cách sáu dặm về phía Bắc. Nhiều trại của người da trắng rộng bằng tất cả số đất của họ cộng lại, nhưng ba mươi "âycơ" cũng đã gấp ba mươi lần những gì họ từng mong có trước đây và chừng này, họ đã thấy đầy tay rồi.

Vẫn cứ ở chen chúc trên xe, các gia đình bắt đầu đào bật những gốc cụt và phát bụi rậm ngay từ sáng hôm sau. Chẳng bao lâu, đất đã được cầy thành luống và gieo trồng vụ đầu tiên - phần lớn là bông, một ít ngô, với những mảnh vườn rau và một vạt trồng hoa. Khi mọi người chuyển sang công việc tiếp theo là hạ cây và sẻ gỗ dựng nhà, Joóc-Gà cưỡi ngựa từ trại này sang trại khác, tình nguyện góp ý kiến về cách thức xây dựng và ồn ào kể công mình đã đổi đời họ như thế nào. Ngay cả giữa đám những da trắng đến lập nghiệp ở Henning, ông cũng khoe khoang là những người ông đưa tới đây sẽ góp phần làm cho thị xã lớn lên và phồn thịnh như thế nào, không quên nói rằng con trai giữa của ông là Tôm sắp tới sẽ mở cửa hiệu rèn đầu tiên của vùng này.

Sau đó không bao lâu, một hôm, ba người da trắng cưỡi ngựa tới lô đất của Tôm trong khi anh đang cùng các con trai trộn bùn với lông lợn để trát vách cho căn lều đã xong một nửa của mình.

"Ai trong số các anh là thợ rèn?" một người hỏi to từ trên lưng ngựa. Đoán chắc là những khách hàng đầu tiên đã tới ngay cả trước khi anh kịp xây dựng cơ sở để hành nghề, Tôm hãnh diện bước ra.

"Chúng ta nghe nói anh định mở một cửa hiệu rèn ở thị xã này", một người nói.

"Vâng, thưa ông. Tui đang ngắm xem chỗ nào tốt nhất để dựng nó. Có thể là cái chỗ trống ở cạnh nhà máy cưa, nếu chưa có ai khác để mắt tới".

Ba người kia đưa mắt nhìn nhau. "Này người anh em", người thứ hai nói tiếp, "không cần phải mất thì giờ vô ích, chúng tôi sẽ nói thẳng vào vấn đề. Anh biết nghề rèn tốt thôi. Nhưng nếu anh muốn hành nghề ở thị xã này, anh sẽ phải làm việc cho một người da trắng làm chủ hiệu. Anh đã nghĩ đến chuyện đó chưa?".

Một cơn giận điên người dâng lên trong Tôm đến nỗi phải gần một phút sau, anh mới bình tĩnh lại để nói: "Không, thưa ông, tui chưa nghĩ đến", anh chậm rãi nói: "Tui và gia đình tui bì giờ là dững người tự do, bọn tui chỉ mong kiếm sống dư mọi người khác, bằng cách cần cù làm dững cái gì mình biết làm". Anh nhìn thẳng vào mắt bọn kia. "Nếu tui không được làm chủ dững gì tui làm ra bằng hai bàn tay mình, vậy đây không phải là chỗ cho bọn tui".

Người da trắng thứ ba nói: "Nếu anh cảm thấy dư thế thì ta e rằng anh phải rong ruổi đường trường nhiều nữa mới mong kiếm được nơi thích hợp, cu ạ".

"À, bọn tui quen đi đây đi đó rồi", Tôm nói. "Tui chả muốn gây rắc rối ở đâu, dưng mà tui cần phải là một con người. Tui chỉ ước là giá tui biết trước tình cảm của các ông ở đây để gia đình tui khỏi dừng lại làm phiền các ông".

"Được, cứ nghĩ thế đi", người da trắng thứ hai nói. "Đó là việc của anh".

"Bọn các anh phải học sao cho cái thói luôn mồm nói đến tự do đừng có bốc lên đầu", người thứ nhất nói.

Thúc ngựa quay đằng sau, không nói thêm lời nào, họ phóng đi.

Khi cái tin đó truyền đi chớp nhoáng qua các trại, các chủ gia đinh vội đến gặp Tôm.

"Con trai ạ" Joóc-Gà nói. "Cả đời mày đã biết người da trắng dư thế nào rồi còn gì. Tránh voi chả xấu mặt nào, con cứ né khỏi đường họ. Rồi thì tay rèn cừ dư con, chả bao lâu họ sẽ phải quay lại thôi".

"Đi cùng đường, rồi bi giờ lại phải khăn gói gió đưa!" Matilđa kêu lên. "Đừng có bắt gia đình phải thế, con giai!".

Airin phụ họa: "Tôm, em xin anh! Em mỏi mệt rồi! Mệt bã rồi!".

Nhưng mặt Tôm lầm lầm "Sự vật không bao giờ tự nó tốt lên trừ phi ta làm cho nó tốt lên!" anh nói. "Tui không ở lại nơi nào tui không thể làm dững gì một con người tự do có quyền làm. Tui không yêu cầu ai khác đi mấy bầy tui, dưng mà bầy tui sẽ chất đồ lên xe và mai đi luôn".

"Tui cũng đi!" Asfođ tức tối nói.

Đêm ấy, Tôm ra ngoài đi dạo một mình, lòng nặng trĩu cái cảm giác phạm tội, về nỗi gian truân mới mà anh đang buộc gia đình mình phải chịu đựng. Anh ôn lại trong đầu cuộc thử thách mà tất cả đã trải qua trên những chiếc xe lăn bánh hàng mấy tuần liền... và anh nghĩ tới điều Matilđa thường hay nói: "Cứ dò tìm kỹ trong cái xấu, thể nào cũng thấy cái gì tốt".

Khi cái ý đó đập vào óc anh, Tôm tiếp tục đi dạo một tiếng đồng hồ nữa, để cho kế hoạch hiện hình rõ nét trong tâm trí. Rồi anh rảo bước về xe, nơi gia đình anh đang yên giấc và vào giường ngủ.

Sáng ra, Tôm bảo Jêimz và Luyx dựng tạm hộ những lán một mái cho Airin và bọn trẻ làm chỗ ngủ vì anh sẽ cần đến xe. Trong khi gia đình đứng quanh, ngỡ ngàng nhìn anh - Asfođ thì mỗi lúc một thêm nghi hoặc và tức giận - anh nhờ Vơjơl giúp một tay, đỡ chiếc đe nặng đem lắp lên trên gốc cây cụt mới cưa. Đến trưa, anh đã dựng xong một cái lò bễ tạm thời. Tiếp đến trước mắt mọi người vẫn theo dõi, anh tháo tấm vải mui xe, rồi những tấm ván hai bên thành để trơ sàn xe, trên đó giờ đây anh bắt tay vào việc với những dụng cụ nặng nhất của mình. Dần dần, họ bắt đầu hiểu ra ý kỳ lạ mà Tôm đang biến thành một hiện thực.

Cuối tuần ấy, Tôm lái thẳng qua thị xã với lò rèn lưu động của mình và tất cả không trừ một ai - đàn ông, đàn bà hay trẻ con đều đứng há hốc miệng nhìn cái đe, cái lò bễ, cái chậu nước nhúng cùng những giá để gọn gàng một loạt dụng cụ rèn, tất cả lắp chắc chắn trên sàn xe được tăng cường thêm những thanh hỗ trợ.

Lễ phép gật đầu chào tất cả những người anh gặp - cả da trắng lẫn da đen - Tôm hỏi xem họ có đồ gì cần rèn với giá phải chăng. Trong vòng một thời gian, số trang trại yêu cầu anh tới phục vụ mỗi lúc một nhiều, vì không ai có thể nghĩ đến một lý do gì xác đáng để buộc một người da đen không được hành nghề trên một chiếc xe. Đến lúc họ nhận ra rằng với cái lò rèn lưu động, anh lại làm ăn khá hơn nhiều so với một cửa hiệu tĩnh tại, thì Tôm đã tự tạo cho mình trở thành cần thiết cho khắp thị xã đến nỗi họ không thể kiếm cách nào phản đối, ngay cả nếu họ muốn thế. Song, tình thật, họ không muốn thế, vì họ thấy Tôm là loại người làm tốt công việc của mình và không chõ vào việc của người khác, và họ không thể không trọng thị đức tính đó. Trên thực tế, cả gia đình đã mau chóng tự khẳng định mình là những Cơđốc đứng đắn, làm tròn nghĩa vụ, không giao du với bên ngoài - và "yên phận thủ thường", như một nhóm người da trắng đã nói trong một cuộc trò chuyện mà lão Joóc Jonxơn nghe lỏm được tại cửa hàng tổng hợp.

Nhưng lão Joóc cũng bị đối xử như là một kẻ trong "bọn ấy" - bị xa lánh trong môi trường xã giao, phải chờ đợi ở các cửa hàng cho đến khi tất cả các khách hàng da trắng khác đã được phục vụ xong xuôi, thậm chí có lần bị một lái buôn bắt phải mua một chiếc mũ mà anh đã thử và để trả lại trên giá khi thấy nó chật quá. Sau đó, anh kể chuyện lại cho gia đình Joóc-Gà nghe, để chiếc mũ đậu toòng teng trên đầu cho mọi người coi và ai nấy đều cười rộ như anh. "Tui lấy làm lạ là sao chiếc mũ í không vừa", Joóc-con nói đùa, "khi mà cậu thộn đến nỗi đi thử nó ở cái cửa hàng í". Asfođ thì tất nhiên phẫn nộ đến nỗi lớn tiếng dọa - dọa suông thôi - sẽ xuống đó tọng cái mũ vào cổ họng thằng cha da trắng í".

Mặc dù đám cộng đồng da trắng không cần đến họ mấy - và ngược lại - Tôm và bà con biết rất rõ là cánh thương nhân ở thị xã khó có thể nén nổi niềm phấn khởi trước sự gia tăng vùn vụt trong kinh doanh do họ tạo nên. Tuy họ tự may lấy hầu hết quần áo cho bản thân, tự túc phần lớn thực phẩm và chặt hạ phần lớn gỗ làm nhà, số lượng đinh, sắt tây và dây kẽm gai họ đã mua trong hai năm sau đó chứng tỏ nhịp độ trưởng thành của cộng đồng da đen.

Đến năm 1874, khi nhà cửa, chuồng ngựa, chuồng bò và hàng rào đã xây dựng đầy đủ, gia đình - dưới sự chỉ đạo của Matilđa - chuyển hướng chú ý sang một công cuộc mà họ coi không kém phần quan trọng đối với sự an lạc của mình: xây dựng một nhà thờ thay thế những gốc cây vẫn dùng làm nơi cúng lễ tạm bợ. Việc đó làm mất một năm và ngốn một phần lớn tiền dành dụm của họ, nhưng khi Tôm và các anh em trai cùng đám con trai của họ hoàn thành chiếc ghế dài cuối cùng trong nhà thờ và tấm vải trắng đẹp với hình thánh giá màu đỏ tía do Airin dệt tay đã được phủ trên bục giảng kinh trước cái cửa sổ bằng kính màu giá 250 đôla đặt ở hãng Xia, Râubắc, tận Tsicơgâu, thì tất cả đều nhất trí rằng ngôi nhà thờ Tân Giáo Giám Lý cho người da màu mang tên Niềm Hy Vọng Mới quả là đáng bỏ công sức, thời gian và tiền bạc ra để xây dựng.

Buổi lễ chầu ngày chủ nhật đầu tiên, tín đồ ùn ùn kéo đến - hầu hết những người da đen ở trong vòng hai mươi dặm có thể đi được hoặc cáng theo - đông đến nỗi tràn cả ra cửa lớn và cửa sổ, đứng cả ở bãi cỏ quanh nhà thờ. Nhưng ai nấy đều dễ dàng nghe rõ từng lời bài giảng kinh vang vang của đức cha Xailơx Henninh, trước là nô lệ của bác sĩ Đ.C Henninh một ủy viên chấp hành Hỏa xa Trung ương, bang Ilinoi, có rất nhiều ruộng đất quanh thị xã.

Sau bài đồng ca não lòng cuối cùng. "Cây Thánh giá cũ xù xì", một lần nữa, giáo đoàn do Matilđa dẫn đầu - Joóc-Gà chưa bao giờ thấy bà rạng rỡ như thế - lau nước mắt và sắp hàng đi qua trước mặt cha giảng đạo, xiết chặt tay và vỗ vỗ vào lưng cha. Đặt những giỏ thức ăn nơi cổng nhà thờ, họ rải những tấm khăn rộng lên bãi cỏ và bắt đầu thưởng thức các món gà rán, xăngđuých kẹp sườn lợn, trứng rán tẩm tiêu ớt, xà lách khoai tây, xà lách cải bắp, dưa góp, bánh ngô, nước chanh chai và nhiều nước ngọt, bánh nướng đến nỗi cả Joóc-con cũng phải há miệng thở sau khi ăn xong miếng cuối cùng.

Trong khi mọi người ngồi trò chuyện hoặc tha thẩn dạo quanh - cánh đàn ông và con trai mặc véttông, đeo càvạt, các bà có tuổi vận toàn trắng, các cô gái mặc áo váy màu sáng có dải băng ở eo - bà Matilđa mắt nhòa lệ, ngắm đàn cháu chơi chạy đuổi lăng xăng quanh đấy không biết mệt. Cuối cùng, quay lại phía chồng và đặt tay lên bàn tay sần sùi những sẹo do gà chọi cào, bà dịu dàng nói: "Joóc ạ, tui sẽ không bao giờ quên ngày hôm nay. Chúng mình đã đi một chặng đường dài, kể từ lúc ông đến tán tỉnh tui lần đầu với cái mũ quả dưa í của ông. Con cái chúng ta đã khôn nhớn cả, chúng nó lại sinh con đẻ cái và Chúa thương, cho tất cả chúng ta đoàn tụ một nhà. Tui chỉ ước có mỗi một điều là mẹ Kitzi của ông có ở đây để trông thấy cánh này với chúng ta".

Nước mắt lưng tròng, ông Joóc-Gà nhìn lại vợ: "Mẹ đang nhìn đấy, em ạ. Rành là mẹ đang nhìn!".

Chương 115

Trưa thứ hai, vào giờ nghỉ của người lớn ở ngoài đồng, trẻ con bắt đầu sắp hàng vào nhà thờ để khai giảng buổi học đầu tiên. Hai năm qua, từ khi đến thị xã sau khóa tốt nghiệp đầu tiên của trường cao đẳng Lêin ở Jêchxơn, bang Tennexi, cô Keri Oait đã phải dạy ngoài trời dưới bóng cây và việc sử dụng nhà thờ nhằm mục đích này thật là một dịp trọng đại. Những người quản lý nhà thờ Tôn Giáo Giám Lý cho người da màu mang tên Niềm Hy Vọng Mới - ông Joóc-Gà, Tôm và các anh em trai - đã góp tiền mua bút chì, bảng con và sách vỡ lòng để "học đọc, học viết và bốn phép tính". Vì cô dạy tất cả trẻ con đến tuổi đi học, Keri có sáu lớp những học trò từ năm đến mười lăm tuổi, trong đó có năm đứa con lớn của Tôm: Meriơ Jêin, mười hai tuổi; Ilơn; Vaini; Matilđa-bé và Ilizơbơt, sáu tuổi; kế đó là Tôm-con sang năm bắt đầu đi học, rồi đến cô út Xinthiơ.

Khi Xinthiơ tốt nghiệp vào năm 1883, thì Meriơ đã lấy chồng và đẻ đứa con đầu lòng; và Ilizơbơt, học sinh xuất sắc nhất trong nhà, đã dạy bố Tôm của cô viết được tên mình và thậm chí còn trở thành người giữ sổ sách cho cửa hiệu rèn của ông nữa. Ông cần một người như vậy bởi vì bấy giờ, cái lò rèn lưu động của ông phát triển đến nỗi ông đã dựng thêm một cửa hiệu tĩnh tại - mà không thấy một tiếng xì xào phản đối nào - và ở trong số những người làm ăn khá giả của thị xã.

Khoảng một năm sau khi làm việc cho bố, Ilizơbơt phải lòng Jon Tôlen, một người mới đến Henninh và đã đi làm rẽ ở cái trang trại sáu trăm "âycơ" của một gia đình da trắng gần sông Hatsi. Cô đã gặp anh ta, vào một hôm, ở cửa hàng bách hóa tổng hợp thị xã và - cô kể với bà mẹ Airin của mình - cảm phục ngay, không phải chỉ vì vẻ ưa nhìn và thân hình lực lưỡng của anh mà còn vì anh có phong thái đĩnh đạc và hiển nhiên là thông minh nữa. Thậm chí anh còn biết viết chút ít nữa, cô nhận thấy thế khi anh ký vào biên lai. Trong nhiều tuần sau, qua những cuộc đi dạo trong rừng với anh - mỗi tuần độ một, hai lần - cô còn phát hiện ra anh là một thanh niên có uy tín, chăm đi nhà thờ, có ước vọng dành dụm được đủ tiền để dựng lên một trang trại riêng và anh đã khỏe lại dịu dàng không kém.

Mãi đến khi hai người thường xuyên gặp nhau đã được ngót ngét hai tháng - và đã bắt đầu bí mật bàn chuyện cưới xin - Tôm mới ra lệnh cho cô không được lén lút phải dẫn anh ta về nhà ra mắt sau khi lễ nhà thờ, Ilizơbớt nữa (thực ra, ông biết chuyện từ đầu) vào chủ nhật tới, y lời làm theo. Jon Tôlen tỏ ra thân mật và hết sức kính trọng khi Ilizơbơt giới thiệu anh với Tôm; ông này thậm chí còn ít nói hơn mọi khi và, chỉ sau vài phút bông đùa gượng gạo, đã cáo lui. Sau khi Jon Tôlen ra về, Tôm gọi Ilizơbơt đến, nghiêm nghị nói: "Xem cái cách mầy lăng xăng quanh thằng thanh niên í thì rõ ràng là mầy kết nó rồi. Hai đứa mầy có tính chuyện gì không?".

"Bố định nói gì thế bố?" cô lắp bắp, mặt đỏ bừng bừng.

"Lấy nhau! Chúng mầy tính thế phải không?".

Cô không nói được.

"Mầy đã nói mấy bố! Chà, bố muốn ban phước cho mầy vì bố cũng mong mầy được sung sướng nhiều dư mầy mong". Nó có vẻ là một người tốt đấy... dưng mà bố không thể để con lấy nó được."

Ilizơbơt nhìn ông, không hiểu.

"Nó cũng duôm duôm. Nó có thể gần gần coi dư da trắng - cơ mà không hoàn toàn thế. Nó dở dơi dở chuột. Con có hiểu bố nói gì không? Nó quá trắng đối mấy người da đen, quá đen đối mấy người da trắng. Đã đành vẻ ngoài là bẩm sinh thế, nó không làm sao khác được, dưng mà bất kể nó có cố mấy, cũng chả bao giờ nhập vào đâu cho hợp được. Mới lại mầy phải nghĩ đến chuyện con cái mầy về sau bộ dạng da dẻ ra sao chứ! Bố không muốn con sống cách í, Ilizơbơt ạ".

"Nhưng bố ạ, ai cũng thích Jon mà! Nếu chúng ta có thể hòa hợp với Lão Joóc Jonxơn, thì tại sao chúng ta lại không thể hòa hợp với anh ấy?".

"Mỗi đàng một khác!".

"Nhưng bố ạ...!" cô đâm tuyệt vọng. "Bố bảo mọi người không chấp nhận anh ấy. Chính bố không chấp nhận thì có!".

"Đủ rồi, mầy đã nói tất cả dững gì tau cần nghe về chuyện í. Mầy đã không đủ trí khôn để tránh xa cái họa í thì tau phải tránh cho mầy. Tau không muốn mầy gặp nó nữa".

"Nhưng bố..." cô nức nở.

"Chấm dứt! Chuyện có vậy thôi!".

"Nếu con không lấy được Jon thì không bao giờ con lấy ai nữa!" Ilizơbơt khóc thét lên.

Tôm quay lưng và sải bước ra khỏi phòng, rập cửa đánh sầm. Sang buồng bên, ông dừng lại.

"Tôm, mình làm gì..." Airin ngồi thẳng dậy trên ghế xích đu, mào đầu vậy.

"Chả còn gì phải nói về chuyện í nữa!" ông gắt, chân bước ra cửa trước.

Khi biết chuyện, bà cụ Matilđa tức giận đến nỗi Airin phải ngăn không cho bà gặp mặt Tôm. "Bố cái thằng í cũng có máu da trắng ở trong người!" bà lão thét lên, bỗng nhiên nhăn mặt rồi ôm lấy ngực, bà Matilđa ngã chúi vào bàn, Airin với tay đỡ kịp trong khi bà đổ xuống sàn.

"Ôi, lạy Chúa ôi!" bà cụ rên rẩm, mặt rúm ró vì đau. "Chúa Jêxu lòng lành! Ôi, Thượng đế, đừng!" mí mắt bà cụ chấp chới và khép lại.

"Bà!" Airin hét lên, quàng lấy hai vai mẹ chồng. "Bà!" Airin ghé tai vào ngực bà già và lắng nghe, tim hãy còn thoi thóp. Nhưng hai ngày sau thì nó ngừng hẳn.

Cụ Joóc-Gà không khóc. Nhưng có một cái gì đến tan nát lòng trong cái vẻ ngây như đá, trong đôi mắt như chết rồi của cụ. Từ hôm ấy, không còn ai thấy cụ mỉm cười hay nói một lời lịch sự với người nào. Cụ với cụ bà Matilđa có vẻ như chưa bao giờ gần gũi nhau thật sự - nhưng khi cụ bà chết thì nhiệt tình của cụ ông cũng chết theo. Và cụ bắt đầu khô héo, quắt queo lại, gần như qua một đêm, sáng dậy đã già khụ - không phải trở nên yếu và lẫn cẫn, mà đâm ra khó tính và chấp nhặt. Không chịu ở thêm ngày nào trong căn nhà mà cụ đã từng chung sống với cụ bà Matilđa, cụ bắt đầu đi ngủ đậu ở nhà các con, hết nhà này sang nhà khác, kỳ đến khi cả hai bên đều phát ớn, thì ông lão Joóc-Gà tóc bạc lại chuyển chỗ. Khi nào không ca cẩm, cụ thường ngồi ở cổng, trong chiếc ghế xích đu mà cụ vẫn mang theo và giương mắt dữ tợn nhìn ra ngoài đồng hàng giờ liền.

Cụ vừa tròn tám mươi ba tuổi - cụ đã lạu bạu từ chối không đụng tí nào đến chiếc bánh sinh nhật con cháu làm mừng cụ. Một buổi cuối đông năm 1880, cụ ngồi trước lò sưởi nhà cô cháu gái lớn nhất Meriơ Jêin. Cô đã dặn cụ ngồi yên, cho cái chân đau nghỉ, trong khi cô chạy ù ra mang bữa trưa cho chồng ở cánh đồng bên cạnh. Khi cô trở về thật nhanh, cô thấy cụ nằm trên nền trước lò sưởi, nơi cụ đã lết đến sau khi ngã vào đống lửa. Những tiếng kêu thất thanh của Meriơ Jêin khiến chồng cô chạy vội về. Chiếc mũ quả dưa, chiếc khăn quàng và chiếc áo nịt vẫn âm ỉ, cụ Joóc-Gà bị bỏng kinh khủng từ đầu đến thắt lưng. Đêm khuya hôm ấy cụ qua đời.

Gần như tất cả những người da đen ở Henninh dự đám tang cụ, trong đó hàng tá là con cái, cháu chắt đứng bên cạnh huyệt trong khi cụ được hạ xuống trong lòng đất, ngay cạnh cụ bà Matilđa, ông con trai Joóc-con ghé vào tai Vơjơl thì thầm: "Bố cứng rắn quá, chắc chả chết tự nhiên được" Vơjơl quay lại nhìn em trai. "Tui yêu bố", ông điềm đạm nói. "Cả chú và tất cả chúng ta".

"Cố nhiên là thế", Joóc-con nói. "Sống mấy ông cụ cứ nhắng nhít te te gáy thì chẳng ai chịu nổi, thế mà bi giờ, anh nhìn xem, tất cả đều thút thít vì nỗi ông cụ ra đi!".

Chương 116

"Mẹ!" Xinthiơ hổn hển gọi Airin "Uyl Palmơ ngỏ lời muốn đưa con từ nhà thờ về nhà chủ nhật tới".

"Đích thị anh ta không phải người hấp tấp phải không? Ít ra đã hai năm nay, mẹ thấy anh ta chủ nhật nào cũng ngắm con..." Airin nói.

"Ai?" Tôm hỏi.

"Uyl Palmơ! Anh ta đưa Xinthiơ về nhà có được không?".

Sau một hồi, Tôm nói, giọng khô khốc, "Để tui nghĩ đã".

Xinthiơ đi ra, coi bộ như vừa bị dao đâm, để lại Airin nhìn chăm chú vào mặt ông chồng. "Tôm, nhẽ nào chả có ai xứng mấy các con gái ông. Ở tỉnh này, ai cũng biết cái gã trai trẻ Uyl sắp cai quản công ty gỗ cho ông già Jêimz say sưa tối ngày. Dân chúng ở khắp vùng Henninh đều thấy anh ta tự tay dỡ gỗ từ trên các xe lửa chở hàng, đích thân bán và giao gỗ, rồi biên hóa đơn, thu tền rồi lại đích thân đem tền gởi nhà băng. Lại còn làm cả dững việc mộc nho nhỏ mà khách hàng cần và không đòi thêm đồng nào. Ấy thế mà anh ta chả bao giờ nói đụng đến ông Jêimz một câu nào gọi là phạm tệ".

"Cứ dư tui nhìn nhận thì nó làm tròn phận sự, không chõ vào việc người khác", Tôm nói. "Tui cũng thấy nó trong nhà thờ, một nửa số con gái trong đấy cứ nhấm nha nhấm nháy dòm nó".

"Cố nhiên rồi!" Airin nói. "Vì anh ta là đám tốt nhất ở Henninh nầy. Dưng mà anh ta chưa ngỏ lời đưa ai về nhà 1 hết".

"Còn cái con Lulơ Catơ mà hồi nọ nó tặng hoa thì sao?".

Ngạc nhiên thấy Tôm biết cả chuyện đó, Airin nói: "Đấy là hơn một năm trước, Tôm ạ, và nếu ông biết kỹ đến thế, thì chắc ông cũng biết là sau đấy con bé này cứ sùng sục dư điên, xun xoe quanh anh ta dư cái bóng, cuối cùng anh ta thôi hẳn không chuện trò gì mấy cô ả nữa".

"Nó đã làm thế một lần, nó có thể làm lại lần nữa".

"Nó không làm thế mấy Xinthiơ đâu, con nó khôn ngoan đáo để, lại xinh và có giáo dục. Nó biểu tui là mặc dầu nó rất thích Uyl, nó vẫn không bao giờ lộ cho anh ta biết tình cảm nó thế nào! Quá lắm là nó chỉ chào hỏi và mỉm cười đáp lại khi anh ta chào nó. Bất kể bao nhiêu con gái vo ve theo Uyl, ông có thấy anh ta vo ve theo đuổi ai không?".

"Tui thấy là bà đã sắp đặt mọi sự đâu ra đấy", Tôm nói.

Airin năn nỉ: "Ôi, Tôm, hãy để cho anh ta đưa con bé về nhà. Ít ra cũng để cho hai đứa gặp gỡ nhau. Còn ở mấy nhau hay không là chuện của chúng nó".

"Thế còn tui!" Tôm nghiêm nghị nói. Ông không muốn tỏ ra dễ dãi với bất kỳ cô nào trong số con gái ông, cũng như với vợ nữa. Nhất là ông không muốn Airin biết trước đây ông đã thấy khả năng này, đã cân nhắc và hoàn toàn tán thành Uyl Palmơ nếu thời cơ đến. Vốn đã theo dõi gã trai trẻ Uyl từ khi anh ta đến Henninh, nhiều lần Tôm thầm ước giá một trong hai con trai mình có được nửa tài tháo vát của Uyl. Trên thực tế, anh chàng Uyl Palmơ nghiêm túc mà láu, nhiều tham vọng lại rất có bản lĩnh, khiến Tôm nhớ đến bản thân ông hồi còn trẻ.

Không ai ngờ việc "tìm hiểu" phát triển mau thế. Mười tháng sau, tại "buồng khách" trong ngôi nhà mới bốn phòng của Tôm và Airin, Uyl ngỏ lời cầu hôn và Xinthiơ phái khó khăn lắm mới kìm được câu trả lời "Vâng!" cho đến khi anh nói xong. Ngày chủ nhật thứ ba, tính từ bữa ấy, họ làm lễ cưới tại Nhà Thờ Tân Giáo Giám Lý cho người da màu mang tên Niềm Hy Vọng Mới, có trên hai trăm người dự, trong đó gần một nửa đã đáp xe từ Bắc Carôlinơ tới, cùng với con cái họ - nay ở các trang trại rải rác khắp quận Laođơđêil.

Uyl tự tay, và với dụng cụ của mình, dựng lên ngôi nhà nhỏ, ở đó một năm sau, 1894, đứa con trai đầu lòng của vợ chồng anh ra đời và chết trong vòng mấy hôm sau. Dạo này, Uyl Palmơ không nghỉ việc được lấy một ngày, vì ông chủ bợm rượu của công ty gỗ cứ đắm vào hết be này đến be kia, thành thử thực tế là Uyl đang điều khiển toàn bộ công việc. Một buổi chiều thứ sáu mưa dông, kiểm tra lại sổ sách của công ty, Uyl phát hiện thấy một khoản phải nộp ngân hàng đến nay đã quá hạn. Anh phóng ngựa tám dặm đường dưới mưa tầm tã đến gõ cửa sau nhà ông chủ ngân hàng.

"Thưa ông Von", anh nói, "ông Jêimz quên mất khoản này và tôi biết là ông ấy ắt không muốn để ông phải chờ đến tận thứ hai".

Được mời vào trong nhà ngồi cho khô quần áo, anh nói: "Không dám, xin cảm ơn ông, Xinthiơ hẳn đang thắc mắc không biết tôi đi đâu". Và sau khi chúc ông chủ nhà băng ngủ ngon, anh lại phóng ngựa lao vào mưa trở về.

Cảm kích sâu sắc, người chủ nhà băng kể lại sự kiện đó khắp thị xã.

Mùa thu năm 1893, có người đến báo Uyl là ở ngân hàng, người ta đang cần gặp anh. Suốt trong mấy phút đi bộ đến đó Uyl thắc mắc không hiểu chuyện gì; vào đến nơi, anh thấy mười nhà doanh nghiệp da trắng chủ chốt ở Henninh đang chờ mình, tất cả đều có vẻ bối rối, mặt đỏ rừ. Chủ nhà băng Von nói nhanh, giải thích rằng chủ công ty gỗ tuyên bố vỡ nợ và dự định chuyển cả gia đình đi nơi khác. "Henninh cần có công ty gỗ", người chủ ngân hàng nói. "Tất cả chúng tôi đây đã bàn cãi hàng tuần là không thể nghĩ đến ai khác có khả năng điều khiển công ty này tốt hơn ông, Uyl ạ. Chúng tôi đã đồng ý cùng ký vào một ngân phiếu thanh toán mọi khoản nợ cho công ty để ông tiếp nhận nó với tư cách người chủ mới".

Nước mắt ròng ròng trên má, Uyl Palmơ không nói nên lời, bước dọc theo hàng người da trắng. Mỗi lần anh riết chặt tay ai, người đó lại vội vàng ký vào tấm ngân phiếu và bỏ ra ngoài, thậm chí còn hấp tấp hơn lúc ký, mắt cũng rưng rưng lệ. Khi tất cả đã đi khỏi, Uyl xiết chặt tay người chủ ngân hàng hồi lâu: "Thưa ông Von, tôi còn muốn xin một ân huệ nữa. Chẳng hay ông có vui lòng nhận một nửa số tiền để dành của tôi làm một ngân phiếu cho ông Jêimz mà không để cho ông ấy biết do lai từ đâu tới?".

Trong vòng một năm, phương châm của Uyl - cung cấp những hàng tốt nhất và phục vụ tốt nhất trong phạm vi khả năng với giá hạ nhất có thể được - đã lôi kéo khách hàng ở cả những thị xã lân cận, và những cỗ xe chở đầy người, phần lớn là da đen, ở tận Memphix - cách bốn mươi tám dặm Anh về phía Nam - đã tới để xem tận mắt cái cơ sở kinh doanh đầu tiên do người da đen làm chủ ở miền Tây Tennexi, nơi mà Xinthiơ đã treo những tấm rèm đăngten hồ bột ở cửa sổ và Uyl đã sơn tấm biển trước cửa nhà: "CÔNG TY GỖ UYL E. PALMƠ".

Chương 117

Lời nguyện cầu của Xinthiơ và Uyl được toại vào năm 1895 với sự ra đời của một đứa con gái khỏe mạnh mà họ đặt tên là Bơthơ Joóc - "Joóc" đây là tên bố của Uyl. Xinthiơ một mực đòi họp cả nhà lại và trước mặt mọi người, chị kể với đứa bé bi ba bi bô toàn bộ câu chuyện từ đời ông tổ người Phi Kunta Kintê, đúng như ông Tôm đã kể cho tất cả con cái nghe trước đây.

Uyl Palmơ tôn trọng lòng thành của Xinthiơ toàn tâm toàn ý tưởng nhớ tới tổ tiên, nhưng lòng tự tôn của anh bị tổn thương sâu sắc vì nỗi bị coi là chịu về làm rể trong gia đình Xinthiơ chứ không phải Xinthiơ về làm dâu trong gia đình mình. Có lẽ vì thế mà anh bắt đầu độc chiếm bé Bơthơ ngay từ trước khi nó biết đi. Sáng nào anh cũng bế nó dạo quanh trước khi đi làm. Đêm nào anh cũng quấn chăn mền cho bé trong chiếc giường cũi mà anh đã tự tay đóng cho nó.

Khi Bơthơ lên năm, mọi người khác trong gia đình và số đông trong cộng đồng da đen ở thị xã thường dẫn lời Xinthiơ và phát biểu ý kiến riêng cũng nhất trí với chị: "Uyl Palmơ chiều con bé đủ thứ tùm lum!" Anh đã thu xếp để có sổ nợ ở mọi cửa hàng bánh kẹo ở Henninh và anh thanh toán hàng tháng, tuy nhiên anh bắt nó lên một bảng "kế toán" mà anh trịnh trọng kiểm tra để dạy nó "kinh doanh". Vào dịp sinh nhật mười lăm tuổi của Bơthơ, Uyl mở cho cô bé một tài khoản ở hãng Xia, Râubắc tận Tsicơgâu để cô có thể đặt bất kỳ thứ gì cô ưng ý trong "catalôg".

Sau đó, cũng năm ấy, Uyl thuê một ông thầy tận Memphix hàng tuần đến dạy Pianô cho Bơthơ. Cô là một học trò có năng khiếu và chẳng bao lâu đã đệm đàn cho dàn đồng ca ở Nhà Thờ Tân Giáo Giám Lý cho người da màu và Uyl là quản trị trưởng và Xinthiơ là chủ tịch vĩnh viễn của Ban nữ quản lý.

Khi Bơthơ học hết lớp tám ở địa phương vào tháng 6 năm 1909, một điều đương nhiên là cô phải rời Henninh để đi học tiếp ở Viện Lêin (do Nhà Thờ Tân Giáo Giám Lý do người da màu trợ giúp) tại Jêchxơn, bang Tennexi, cách đây ba mươi dặm về phía đông, có từ lớp chín cho đến hết hai năm cao học.

"Con gái ạ, con không cách nào biết được... việc này có ý nghĩa dư thế nào đâu, trong gia đình nhà ta, bi giờ con là người đầu tiên vào đại học..."

"Mẹ, bao giờ con mới có thể làm cho bố, mẹ đừng có nói những chữ như "bi giờ" và "dư" nữa? Con đã bảo phải phát âm là "bây giờ" và "như" cơ mà! Xét cho cùng, sinh ra trường cao đẳng để làm gì chứ? Chả phải để cho "người ta đến học hay sao?".

Khi còn lại một mình với chồng, Xinthiơ khóc. "Lạy chúa, xin Người giúp chúng con soi sáng cho nó. Uyl ạ, rành con nó không hiểu nổi".

"Có lẽ nó không hiểu, lại tốt nhất đấy", Uyl tìm cách an ủi. "Anh chỉ biết khi mình trút hơi thở cuối cùng, được thấy nó may mắn hơn chúng ta".

Đáp ứng lòng mong đợi của bố mẹ, Bơthơ kiên trì theo hết các lớn trên - học sư phạm để trở thành cô giáo - và cô vừa chơi pianô vừa hát ở ban đồng ca nhà trường.

Trong những lần về thăm nhà sau này, Bơthơ bắt đầu nói đến một thanh niên cô đã gặp ở ban đồng ca nhà trường tên là Xaimơn Elichzandơ Heili, gốc từ thị xã Xavannơ, bang Tennexi. Cô kể là anh ta rất nghèo, phải cùng một lúc làm bốn loại công việc linh tinh để có đủ tiền theo học khoa nông nghiệp tại trường. Thấy Bơthơ tiếp tục nói chuyện về anh ta, một năm sau, 1913, Uyl và Xinthiơ bèn gợi ý là cô nên mời anh ta về Henninh thăm bố mẹ để ông bà có thể tự mình đánh giá.

Vào cái hôm chủ nhật có tin đồn là "bồ của Bơthơ từ trường cao đẳng" sẽ tới chầu lễ, nhà thờ Tân Giáo Giám Lý cho người da màu mang tên Niềm Hy Vọng Mới chật ních người. Anh ta đến, dưới sự quan sát chăm chú không những của Uyl và Xinthiơ Palmơ mà cả của toàn thể cộng đồng da đen. Nhưng xem ra anh ta là một thanh niên rất tự tin. Sau khi đơn ca bài "Trong vườn Thiên Đàng" bằng giọng nam trung, với Bơthơ đệm pianô, anh thoải mái nói chuyện với tất cả những người xúm lại quanh anh trong sân nhà thờ, anh nhìn thẳng vào mắt mọi người, rắn rỏi bắt tay tất cả cánh đàn ông và ngả mũ chào tất cả các bà, các cô.

Tối hôm ấy Bơthơ và anh chàng Xaimơn Elic Heili của cô cùng đi xe buýt về trường cao đẳng Lêin. Trong những cuộc bàn cãi sau đó trong cộng đồng, về mặt công khai, không ai thấy có gì chê trách anh ta được. Tuy nhiên, nói riêng với nhau, một số tỏ ra băn khoăn về màu da gần như rất sáng của anh. (Anh đã tâm sự với cô Bơthơ da nâu sẫm rằng bố mẹ anh - trước kia là nô lệ - cho biết bà nội, bà ngoại anh là nô lệ, còn ông nội, ông ngoại anh đều là người Ailen da trắng). Nhưng tất cả đều nhất trí rằng anh hát hay; rằng anh có vẻ là con nhà gia giáo và không hề tỏ vẻ lên mặt vì có học thức.

Heili bỏ ra một mùa hè làm phu khuân vác hành lý trên những toa tàu Pulman 1 dành từng xu để có thể chuyển sang trường đại học nông nghiệp ở Grinxborâu, Bắc Carôlinơ, hằng tuần trao đổi thư từ với Bơthơ. Khi xảy ra thế chiến 1, anh và tất cả bạn trai trong lớp sắp tốt nghiệp đồng loạt gia nhập quân đội Hoa Kỳ và chẳng bao lâu, thư từ anh gửi cho Bơthơ đều từ Pháp đến; tại đây, năm 1918, anh bị hơi độc trong khu rừng Acgon. Sau nhiều tháng điều trị tại một bệnh viện bên kia đại dương, anh được đưa về nước dưỡng bệnh và năm 1919, hoàn toàn bình phục, anh trở lại Henninh, rồi cùng với Bơthơ tuyên bố hứa hôn.

Lễ cưới của họ, cử hành ở nhà thờ Tân Giáo Giám Lý cho người da màu mang tên Niềm Hy Vọng Mới vào mùa hè năm 1920, là sự kiện xã hội đầu tiên ở Henninh có cả người da đen và da trắng cùng dự - không những vì Uyl Palmơ giờ đã ở trong số những công dân nổi bật nhất của thị xã, mà còn vì bản thân cô Bơthơ hoàn hảo cũng là một nhân vật mà mọi người ở Henninh đều nhìn bằng con mắt tự hào. Cuộc tiếp tân được tổ chức trên bãi cỏ rộng, thoai thoải trong ngôi nhà mười buồng mới toanh của vợ chồng Palmơ, bao gồm cả một phòng nhạc và một thư viện. Một bữa tiệc được dọn ra mời khách; quà mừng chất đống, nhiều hơn cả số lượng thường thấy ở ba đám cưới trung bình; có cả một chương trình biểu diễn của toàn ban hợp xướng trường cao đẳng Lêin - chính trong đội ngũ của nó, đôi vợ chồng mới ngây ngất hạnh phúc này đã gặp nhau lần đầu. Một chiếc xe buýt do Uyl Palmơ thuê từ Jêchxơn đã chở Ban hợp xướng đến.

Chiều hôm ấy, nhà ga xe lửa nhỏ bé của Henninh tràn ngập người khi Xaimơn và Bơthơ đáp chuyến tàu Trung tâm Ilinoi đưa họ đi suốt đêm tới Tsicơgâu, ở đó họ chuyển sang một tàu khác đi tới một vùng gọi là Ithơcơ, Niu Yoóc. Xaimơn sẽ học tại trường "Đại học Conel" để lấy bằng cử nhân nông nghiệp và Bơthơ sẽ vào "Nhạc viện Ithơcơ" ở gần đấy.

Trong khoảng chín tháng, Bơthơ viết thư về nhà đều đặn, kể những thực tế phấn khởi họ đã trải ở nơi xa này và cho biết họ sống với nhau rất hạnh phúc. Nhưng rồi đến đầu mùa hè năm 1921, thư của Bơthơ bắt đầu thưa dần, cho đến khi Xinthiơ và Uyl, cuối cùng, đâm rất lo là có cái gì không ổn mà Bơthơ không nói cho ông bà hay. Uyl đưa Xinthiơ năm nghìn đôla để gửi cho Bơthơ, dặn cô cứ việc dùng theo sự cần thiết của hai vợ chồng mà không cần nói cho Xaimơn biết. Thế nhưng thư của cô con gái lại càng ít hơn và đến cuối tháng tám, Xinthiơ bảo với Uyl cùng các bạn thân thiết rằng bà sẽ đích thân đi Niu Yoóc để xem binh tình ra sao.

Hai ngày trước khi Xinthiơ định lên đường, một tiếng gõ cửa vào lúc nửa đêm khiến hai vợ chồng hốt hoảng thức giấc. Xinthiơ ra khỏi giường trước, vớ lấy chiếc áo choàng, Uyl theo sát đằng sau. Đến cửa buồng ngủ, bà có thể nhìn qua tấm cửa kính phòng khách thấy hai bóng người dưới trăng, Bơthơ và Xaimơn, ở cổng trước. Xinthiơ rú lên và nhảy xổ ra mở toang cửa.

Bơthơ bình thản nói: "Chúng con xin lỗi là đã không viết thư, chúng con muốn mang đến cho bố mẹ một món quà bất ngờ..." cô chìa cho Xinthiơ cái bọc quấn mền cô ẵm trong tay. Tim đập thình thình và với Uyl nghi nghi hoặc hoặc nhìn chăm chăm qua vai bà, Xinthiơ kéo nếp gấp trên cùng của tấm mền xuống, để lộ ra một khuôn mặt tròn, nâu...

Đứa bé trai mới được sáu tuần ấy, chính là tôi.

LỜI NGƯỜI DỊCH

Vậy đó, đứa cháu bảy đời của Kunta Kintê ra đời.

Năm mươi năm sau, đứa cháu đó, lúc này là nhà báo Elicx Hêili (ALEX HALEY), tác giả cuốn "Tự truyện của Malcôm X" lãnh tụ của những người Hồi giáo da đen ở Mỹ, mà như Malcôm đã tiên đoán, chính ông cũng không được đọc, vì ông bị ám sát khoảng hai tuần sau khi hoàn thành bản thảo, bắt đầu cuộc hành trình mười lăm năm trở ngược về quá khứ tìm nguồn cội, với trang bị còm cõi đôi ba tiếng thổ âm lạ tai - "Cô" (cái đàn) "Kămbi Bôlônggô" (con sông)... - còn lưu truyền lại nhờ cái lệ đã thành truyền thống gia đình là ôn lại câu chuyện ông tổ người Phi trước đông đủ các thành viên của gia đình, mỗi khi có thêm một đứa bé ra đời, dù trai dù gái. Khui hàng núi tài liệu ở hàng trăm cơ quan lưu trữ tư liệu, thư viện; gặp gỡ phỏng vấn hàng trăm chuyên gia các ngành nghiên cứu khác nhau: sử học, khảo cổ, Đông Phương học... có khi bỏ hàng tuần lảng vảng quanh trụ sở Liên Hợp Quốc ở Niu Yoóc rình đón các đại biểu Phi để chỉ gặt hái được những cái nhìn câm lặng, hoài nghi, khi mở miệng hỏi về những âm Phi kỳ lạ nọ bằng cái giọng lơ lớ miền Tennexi; bay qua bay lại từ bang này sang bang khác, hết Niu Yoóc đến Oasinhtơn tại Uytconxin, cuối cùng sang tận Gămbia lần mò tới tận làng Jufurê heo hút của bộ tộc Manđinka (tất cả những lặn lội lên rừng xuống biển ấy về sau đều được kể lại trong cuốn "Đi tìm" (Search), điều mà Hêili tìm kiếm đã được xác nhận từ miệng một trong những ông già "graiốt", bộ nhớ lịch sử của các bộ lạc Phi: "Vào cái đận lính của nhà Vua đến, Kunta vào rừng đẵn gỗ và không bao giờ thấy trở lại nữa...".

Phải, vào giữa "cái năm lính của nhà Vua đến" - 1767 - người thanh niên Gămbia mười bảy tuổi tên là Kunta Kintê ấy đã bị những tên "tubốp" bắt cóc trong một cánh rừng, dí sắt nung đỏ đóng dấu vào lưng, nhốt xuống hầm tàu, trần truồng, cùng với trên một trăm người khác, đàn ông, đàn bà và trẻ con, thuộc nhiều bộ lạc Phi. Ngày 5-7-1767, con tàu hắc nô mang tên Lođ Ligơnia, do Tômơx Đêiviz làm thuyền trưởng, nhổ neo từ sông Gămbia vượt biển và ngày 29-9-1767 cập bến tại Annơpơlix-Nơplix, theo cách phát âm của người da đen. Một phần ba số tù nhân trong hầm tàu đã chết trên dọc đường và bị quẳng xác xuống làm mồi cho cá. Tờ "Gazét" của Merôlơn - hồi đó chưa có "Hợp Sẻng Cuốc" Mỹ và Merơlơn mới chỉ là một trong những thuộc địa của vương quốc Anh tại châu Mỹ - thông báo HÀNG MỚI NHẬP: "Một mớ nô lệ khỏe mạnh, chọn lọc" sẽ được bán vào thứ tư, 7-10-1767, tới, "lấy tiền mặt hoặc hối phiếu". Trong các "mớ" đó, có Kunta Kintê...

Hồi đó, phải, hồi đó Hợp Chủng Quốc Mỹ chưa ra đời. Phải đến chín năm sau khi Kunta Kintê bị ném lên đất này như một món hàng, mới bắt đầu cuộc chiến tranh giành độc lập. Cuộc chiến tranh này kéo dài bảy năm cho đến khi tướng Anh Cônuôlix đầu hàng và nước Anh phải ký Hiệp ước Vécxay (3-9-1783) công nhận quyền độc lập của mười ba bang hợp thành Hợp Chủng Quốc Mỹ vào thời kỳ ấy, Kunta ngày này qua ngày khác đánh xe chở "mexừ" Uôlơ đi thăm bệnh, chữa bệnh ở các vùng xung quanh Xpốtxylvaniơ để tối tối mang về làm quà cho "xóm nô" những mẩu tin nghe lỏm được ở các thị, quận lỵ, ở nhà bếp hoặc hành lang các đại sảnh... Lòng khát khao tự do khiến dân "xóm nô" háo hức theo dõi thời sự, và những tin tức ấy khiến họ lúc thì phấn khởi, lạc quan đón chờ một thay đổi xã hội chính trị khả dĩ mở ra triển vọng được giải phóng khỏi kiếp tôi đòi nhục nhằn. Khi lại ngụp sâu hơn vào tuyệt vọng. Hai năm trước khi Kunta và Bel thành vợ chồng - quả bầu đựng những viên sỏi đếm thời gian của Kunta cho biết anh đã qua hai mươi "vụ mưa" trên đất "tubốp" - với bản hiến pháp năm 1787, một trong những hứa hẹn tự do ấy dường như đã lấp lóe trước mắt họ. Việc thông qua bản hiến pháp đầu tiên này của nước Mỹ là một thỏa hiệp giữa các phe phái, và phe chống chế độ nô lệ đã đạt được mục tiêu đòi cấm tệ buôn người. Song điều khoản này chỉ bắt đầu có hiệu lực từ 1807, tức là hai mươi năm sau, và phải hơn nửa thế kỷ nữa, qua cuộc chiến tranh Nam - Bắc (1861 - 1865), chế độ nô lệ mới được chính thức xóa bỏ.

Chế độ nô lệ đã thành thiết chế từ buổi đầu dinh điền ở Bắc Mỹ. Nét nổi bật của lịch sử Mỹ trong thời kỳ này là việc mở rộng về phía Tây, và sự bành trướng đó dẫn đến chỗ gần như tiêu diệt các bộ lạc da đỏ. Tệ buôn người cộng với tỷ lệ sinh đẻ cao của người da đen đã khiến số nô lệ - hầu hết là gốc Phi - tăng vọt lên, chiếm tới 1/7 - 1/8 tổng dân số. Đáng chú ý là vào nửa sau thế kỷ XIX, chế độ nô lệ đã tự nó biến mất ở miền Bắc; các điền chủ ở đây hoặc đã bán hết nô lệ, hoặc đã giải phóng họ. Điều đó - cùng với những tin tức về các cuộc nổi dậy đây đó của người da đen - luôn luôn là đầu đề bàn tán sôi nổi trong những buổi tối họp mặt ở các "xóm nô" của các đồn điền miền Nam, và hình ảnh người "nhọ" tự do trên miền Bắc, đầy sức hấp dẫn, trở thành nỗi trăn trở khôn nguôi của những Kunta cùng bạn nô và con cháu của họ. Điều đó cũng là nguyên nhân bất bình sâu sắc của các điền chủ miền Nam; ở đó, một phần tư dân da trắng, có sở hữu nô lệ, nguồn nhân lực cần thiết cho cuộc canh tác (bông, thuốc lá) của họ. Năm 1860, A. Lincôn trúng cử tổng thống và một trong những chủ trương tích cực của ông là xóa bỏ chế độ nô lệ. Giọt nước tràn cốc đó đã châm ngòi nổ cho cuộc chiến Nam Bắc, được gọi trong sử Mỹ là chiến tranh ly khai (1861 - 1865). Thoạt tiên, Nam Carôlinơ tuyên bố ly khai, rồi tiếp theo là mười bang khác kiên trì chế độ nô lệ. Đây là một cuộc chiến tranh không cân sức, đối lập một miền Bắc 22,5 triệu dân có công nghiệp hiện đại và ưu thế hải quân với một miền Nam nông nghiệp 8,7 triệu dân (trong đó 3,5 triệu là nô lệ hướng về miền Bắc). Tuy nhiên thời gian đầu, với một số tướng tài, miền Nam đã giành một số thắng lợi khá vang dội. Những người dân "xóm nô" ở các đồn điền miền Nam - những Joóc-Gà, Kitzi, Pompi...; vốn trông chờ một sự đổi đời ở thắng lợi của miền Bắc, đã trải qua những cơn tuyệt vọng khi nghe tin quân Yanki thất trận nặng nề ở Bulrăn (21-7-1861), Richmơn (2-7-1862), Frêđêrichxbơg (13-12-1862). Nhưng những năm sau - 1863, 1864, 1865 - các tướng Grant và Sơman, với hàng loạt chiến thắng liên tiếp, đã buộc tướng Ritsớt Li đầu hàng (9-4-1865). Chiến tranh ly khai kết thúc, Hợp Chủng Quốc Mỹ trở lại thống nhất, và chế độ nô lệ được chính thức xóa bỏ theo điều 18 (bổ sung) của hiến pháp. Song, như thường vẫn xảy ra trong cuộc đời, từ lời chữ trên văn bản đến thực tế, nhiều khi là một con đường đo bằng khoảng cách giữa các hành tinh. Nhiều thế hệ con cháu Kunta Kintê đã sống trong những chuỗi dài dặc, xen kẽ ảo tưởng, hy vọng và vỡ mộng đó...

Một chiều 29-9-1967 đúng hai thế kỷ sau ngày con tàu chở hắc nô Lođ Ligơnia đổ "mớ hàng mới" lên đất mỹ - Elicx Hêili đứng trên một cầu tầu ở cảng Annơpơlix, nhìn ra khơi, nơi con tàu định mệnh oan nghiệt đã vượt qua để mang ông tổ bảy đời của ông tới đây, và chợt thấy mình khóc những giọt nước mắt ngậm ngùi trên cái mảng đầy bóng tối và bị che lấp ấy của lịch sử nước Mỹ...

Và như thế "Cội Rễ" đã được thai nghén...

Cuốn sách ra đời như một sự kiện xã hội chấn động; sự tái tạo một quá khứ mà dân tộc da đen ở Mỹ đã bị tước đoạt. Trong hai tháng, gần một triệu bản đã bán hết. Có nơi, người ta đập vào những tủ kính cửa hiệu sách để cướp những cuốn "Cội Rễ" bày trong đó. Bộ phim vô tuyến truyền hình tám tập dựng theo tác phẩm này đã thu hút 80 triệu người xem, một kỷ lục chưa từng thấy! Hàng trăm trường học ở Mỹ đã đưa "Cội Rễ" vào giáo trình giảng dạy văn học. Người Mỹ phát hiện thấy quá khứ bạo hành và áp bức ẩn giấu trong lịch sử mỗi bang. Như một hệ quả tất yếu, cuốn sách dấy lên ở Mỹ, kể cả trong những người da trắng, một trào lưu sôi nổi tìm về gốc gác tổ tông. Điều bất ngờ thú vị đối với quê hương xa xưa của Kunta Kintê, làng Jufurê hẻo lánh, mà không ai có thể tìm thấy trên bất kỳ tấm bản đồ nào, dù đầy đủ chi tiết nhất, bỗng nhiên trở thành một nơi hành hương thu hút khách du lịch các nước. Đến mức, có hồi chính phủ Gămbia phải định ra một số quy định về việc tham quan để tránh tình trạng ùn ở nơi "di tích lịch sử!".

Hêili, mà dòng máu Phi trong huyết quản, qua bảy thế hệ đã hơn một lần bị pha loãng, vẫn không quên nỗi day dứt về nguồn cội khuấy lên bởi những tiếng kỳ lạ do người bà ngoại quá cố dạy, những chiều hai bà cháu ngồi trước cổng ngôi nhà ở Henninh, Tennexi. Ông đã nghiền ngẫm câu chuyện được nhắc đi nhắc lại, mỗi lần có thêm một đứa trẻ ra đời trong gia đình, về một ông tổ người Phi khăng khăng một mực nhấn mạnh tên mình là Kunta Kintê, chứ không phải Tôby như "mexừ chủ" đặt, khăng khăng không chịu quên những tiếng của làng cũ quê xưa, những tiếng mà với biết bao tâm thành, ông tự đặt cho mình nhiệm vụ truyền lại, và nhắc con cháu truyền lại, đời này qua đời khác, những di tồn duy nhất còn sót lại về gốc tổ. Và từ đầu mối mong manh ấy, Hêili đã lập lại được gia phả đau thương của dòng họ.

Chúng ta chia sẻ với Kunta nỗi căm giận điên cuồng khi ông bị bắt, nỗi đau trong chặng hành trình vượt đại dương dưới hầm tối của con tàu hắc nô, với bảy thế hệ con cháu của ông, những nhục nhằn bất tận của kiếp nô, những khắc khoải triền miên với ảo tưởng tự do không ngừng bị tan vỡ. Độc giả sẽ nhớ mãi Kunta Kintê và cái thế giới đột hiện lên từ quá khứ cùng với ông, cái thế giới của những người nô lệ bị áp bức đến cùng cực mà bao lâu những xã hội gọi là "văn minh" ở phương Tây khăng khăng không chịu nhận là đồng loại. Người ta có thể còn có nhiều điều bàn cãi về quan điểm của tác giả, về sự chính xác của một số chi tiết lịch sử, và bút pháp có phần thô sơ, cục mịch (mặc dầu nó có cái sức mạnh hồn nhiên của văn học truyền miệng), nhưng điều quan trọng là Elicx Hêili đã trả lại cho một dân tộc những miền đã mất đi của ký ức. Trong "Cội Rễ", chính là những người nô lệ, chứ không phải đám chủ của họ, đã lên tiếng. Và tiếng nói đó vút lên từ thẳm sâu quá khứ, sẽ không bao giờ tắt nữa. Hêili đã đắp thêm vào lịch sử nước Mỹ - và lịch sử phương Tây - trọng lượng của những đau đớn, nhục nhằn chất nặng trên cuộc đời Kunta Kintê cùng con cháu họ. Và hai mươi lăm triệu người da đen trên đất Mỹ, mà tổ tiên đã bị trốc rễ, cướp đi khỏi quê hương như Kunta Kintê, nay hiểu rõ rằng mình cũng có một CỘI RỄ. Đó là điều mà từ nay không gì xóa nổi khỏi ý thức của họ.

The end!

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #01229169933