Cỗi rễ 1 - 01229169933
Alex Haley
Cội Rễ
Dịch giả: Dương Tường
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Tổng kết thập kỷ 70 của thế kỷ này, một sự kiện nổi bật lên như cột mốc tiêu biểu của đời sống văn học ở Mỹ: việc xuất bản tác phẩm CỘI RỄ của Elicx Hêili. Tiểu sử của tác giả da đen này có thể tóm tắt bằng một dòng khiêm tốn: sinh vào mùa hè năm 1921, nhà báo chuyên nghiệp, tác giả cuốn tự truyện của Malcom X, lãnh tụ của những người Hồi giáo da đen. Điều đáng nói hơn, là niềm khắc khoải khôn nguôi về cội nguồn đã thôi thúc ông bỏ ra mười lăm năm để tìm lại gốc gác tổ tông mà ông biết chắc không phải ở trên đất Mỹ .
Và kết quả cuộc tìm kiếm lâu dài ấy đã dẫn đến sự ra đời của Cội Rễ. Chỉ hai tháng sau, gần một triệu bản đã hết ngay. Và bộ phim vô tuyến truyền hình dựng theo tác phẩm ấy đã vượt cả bộ phim nổi tiếng "Cuốn theo chiều gió" về kỷ lục người xem. Cuốn sách gây chấn động tới mức đã có hai vụ tố tụng nhằm hạ uy tín tác giả. Nhưng điều quan trọng là nó đã đánh thức ở những người da màu Mỹ nỗi niềm hoài cổ tổ tiên, và ý thức đó từ nay sẽ không bao giờ tắt trong họ. Đối với Hêili, đó cũng là phần thưởng tinh thần, sự đền bù xứng đáng cho công sức bền bỉ mười lăm năm trời mò mẫm trong hầu hết các thư viện, kho lưu trữ tư liệu khắp nước Mỹ, từ bang này sang bang khác, để cuối cùng tìm đến tận làng Jufurê hẻo lánh của Gămbia (châu Phi), nơi cách đây hơn 230 năm, Kunta Kintê, ông tổ 7 đời của tác giả đã bị bắt xuống con tàu buôn nô lệ da đen chở sang Mỹ. Với Cội Rễ có thể nói Elicx Hêili đã dựng một tượng đài cho nỗi đau hàng thế kỷ của bao thế hệ người Phi bị trốc rễ, để biến thành những mớ hàng đem bán đấu giá ở các chợ buôn người.
Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc bản gia phả bằng nước mắt này.
TÁC PHẨM MỚI
TẬP I
Chương 1
Đầu mùa xuân năm 1750, ở làng Jufurê, cách bờ biển Gămbia, Tây Phi bốn ngày đường ngược lên thượng nguồn, Ômôrô và Binta Kintê sinh được một đứa con trai. Thoát thai từ thân thể trẻ trung khỏe khoắn của Binta, đứa bé đen bóng y như mẹ, người lấm tấm và nhây nhớt máu Binta và nó oa oa cất tiếng khóc. Hai bà mụ mặt mày nhăn nheo: già Nyô Bôtô và bà nội đứa bé Yaixa, thấy đó là con trai, vui thích cười vang. Theo các cụ tổ, con trai đầu lòng là ân huệ đặc biệt của Chúa Ala ban xuống không những cho cha mẹ nó, mà cả cho đôi bên gia đình của họ nữa, và họ hãnh diện biết rằng dòng họ Kintê như vậy sẽ vừa danh giá vừa trường tồn.
Đó là cái giờ trước lúc gà gáy lần thứ nhất và cùng với tiếng trò chuyện của già Nyô Bôtô và bà nội Yaixa, âm thanh đầu tiên đứa bé nghe thấy là tiếng bùm bụp bùm bụp trầm lắng và nhịp nhàng của những chày gỗ do phụ nữ trong làng giã mạch kê trong cối để chuẩn bị bữa cháo điểm tâm cổ truyền nấu trong những nồi đất trên một bếp lửa xếp bằng ba tảng đá .
Làn khói xanh mỏng, găn gắt mà dễ chịu, ngoằn ngoèo bốc lên trên ngôi làng bụi bậm với những túp lều tròn đắp bằng bùn, khi tiếng hô giọng mũi của alimamô (1) Kajali Đemba bắt đầu cất lên, gọi cánh đàn ông tới đọc bài thứ nhất trong năm bài cầu nguyện hằng ngày vẫn được dâng lên Chúa Ala từ thưở xa xưa nhất còn có thể lưu lại trong trí nhớ . Từ những chiếc giường bằng gióng tre và da thú sấy hối hả vùng dậy khoác vội những chiếc áo dài bằng bông thô, cánh đàn ông trong làng nhanh nhẹn chạy tới nơi cầu nguyện, tại đó alimamô dẫn đầu cuộc lễ: "Allalu Alebar! Ashadu an lailahailala!" (Thượng đế là vĩ đại! Con xin chứng rằng chỉ có một thượng đế!). Chính sau đó, khi mọi người trở về nhà để điểm tâm, là lúc Ômôrô bổ nhào vào giữa đám, mặt rạng rỡ và phấn khởi, báo cho họ biết là mình đã có con trai đầu lòng. Tất cả cánh đàn ông chúc mừng anh, lặp lại những điểm tốt lành.
Mỗi người đàn ông trở về lều của mình được vợ đưa cho một suất cháo đựng trong một vỏ bầu rỗng. Liền đó quay vào bếp, các bà vợ cho trẻ ăn, rồi cuối cùng, mới đến lượt mình. Ăn xong, cánh đàn ông cầm lấy những chiếc cuốc ngắn, cán cong, lưỡi gỗ đã được bác thợ rèn của làng bịt kim loại, và lên đường làm công việc hằng ngày là xới đất chuẩn bị trồng lạc, mạch kê và bông - những thứ cây trồng chủ yếu của đàn ông, cũng như lúa là hoa màu chính của đàn bà ở vùng xavan nóng nực, xum xuê thảo mộc này của Gămbia.
Theo phong tục cổ, trong bảy ngày sau, Ômôrô chỉ có độc một nhiệm vụ phải bận tâm một cách nghiêm túc: chọn một cái tên cho đứa con trai đầu lòng. Đó phải là một cái tên phong phú màu sắc lịch sử và đầy hứa hẹn, bởi lẽ dân trong bộ lạc anh - những người Manđinka - vốn tin rằng một đứa trẻ sẽ phát triển bảy đặc tính cũa bất cứ người nào hoặc vật nào mà nó mang tên.
Nhân danh bản thân mình và Binta, suốt trong tuần lễ suy nghĩ đó, Ômôrô đến thăm mọi nhà ở Jufurê và mời từng gia đình đến dự lễ đặt tên cho đứa bé sơ sinh vào ngày thứ tám của đời nó theo tục lệ cổ truyền. Ngày đó, cũng như cha nó và cha của cha nó, đứa con trai mới ra đời sẽ trở thành một thành viên của bộ lạc.
Đến ngày thứ tám, dân làng tụ tập từ sáng sớm trước lều của Ômôrô và Binta. Phụ nữ của hai gia đình đội trên đầu những trái bầu rỗng đựng sữa chua và bánh ngọt munkô bằng gạo giã cùng mật ong. Karamôxila, Jaliba (1) của làng, cũng có mặt với bộ trống tan-tăng của mình; alimamô và arafang (2) Brima Xêxay, một ngày nào đó sẽ là thầy giáo của đứa bé; và cả hai anh trai của Ômôrô là Jannê và Xalum từ rất xa cũng lặn lội tới dự lễ, khi cái tin cháu trai mình ra đời đến tai họ theo cách truyền đạt bằng hiệu trống.
Khi Binta hãnh diện bế đứa con mới đẻ của mình, một cụm nhỏ lớp tóc đầu tiên của nó được cạo đi, như người ta bao giờ cũng làm thế vào ngày đó, và cả đám phụ nữ đều trầm trồ khi thấy thằng nhỏ thật là đẹp đẽ xinh xắn. Rồi họ im tiếng khi Jaliba bắt đầu nổi trống. Alimamô đọc một lời nguyện trên những vỏ bầu đựng sữa chua và bánh munkô, và trong khi ông cầu nguyện, mỗi người khách đưa tay phải sờ miệng một chiếc vỏ bầu - một cử chỉ biểu lộ lòng tôn trọng đối với lương thực. Rồi alimamô quay sang cầu nguyện trên đứa bé, xin Chúa Ala cho nó sống lâu, thành công trong việc mang lại uy tín, niềm tự hào và con cái đầy đàn cho gia đình, làng bản và bộ tộc - và cuối cùng là ban cho nó sức khỏe cùng tinh thần để tôn vinh và xứng đáng với cái tên nó sắp được nhận .
Sau đó Ômôrô bước ra trước toàn thể dân làng tụ tập ở đó. Đi tới bên vợ, anh nhấc bổng đứa bé lên và trong khi mọi người chăm chú theo dõi, thì thầm ba lần vào tai con trai cái tên mà anh đã chọn cho nó. Đó là lần đầu tiên cái tên đó được thốt ra với tư cách là tên của đứa bé, vì những người cùng bộ tộc với Ômôrô cho rằng mỗi con người phải là kẻ đầu tiên được biết mình là ai .
Tiếng trống tan-tăng lại vang lên; và bây giờ Ômôrô nói thầm cái tên đó vào tai Binta, và Binta mỉm cười hãnh diện và vui sướng. Rồi Ômôrô lại rỉ tai arafang lúc này đang đứng trước dân làng :
"Con đầu lòng của Ômôrô và Binta được đặt tên là Kunta!" Brima Xêxay kêu lớn .
Như mọi người đều biết, đó là chữ giữa trong tên người ông nội đã quá cố của đứa bé, Kairaba Kunta Kintê, ông cụ đã từ Moritanya, nơi chôn nhau cắt rốn, đến Gămbia tại đó ông đã cứu dân làng Jufurê thoát khỏi nạn đói, đã lấy bà nội Yaixa, phụng sự hiển hách với tư cách là thánh nhân làng Jufurê cho đến khi qua đời.
Thầy giáo lần lượt kể tên các ông tổ người Moritanya mà ông nội đứa bé, già Kairaba Kintê, thường hay nhắc tới. Những tên đó, lừng lẫy và rất nhiều, trở ngược lên tận thời xa xưa cách đây có tới hơn hai trăm vụ mưa. Rồi Jaliba nện trống tan-tăng và tất cả mọi người hô lớn tỏ lòng ngưỡng mộ và kính trọng đối với một dòng dõi vẻ vang như vậy.
Bên ngoài, dưới trời trăng sao, đêm hôm thứ tám ấy, một mình với đứa con trai, Ômôrô hoàn thành nốt cái nghi thức đặt tên. Bế chú bé Kunta trong đôi cánh tay lực lưỡng, anh đi ra ven làng, nhấc bổng thằng bé cho ngửa mặt lên trời và khe khẽ nói : " Fend kiling dorong leh warrara kaileh tee" (Hãy nhìn xem, đó là thứ duy nhất lớn hơn bản thân con).
Chương 2
Đó là mùa trồng cấy và chẳng bao lâu nữa, những trận mưa đầu tiên sẽ bắt đầu. Trên khắp đất đai canh tác, cánh đàn ông ở Jufurê đã chất những đống cỏ khô cao ngất và đốt lên cho ngọn gió nhẹ tung tãi tro tàn ra bốn phía để nuôi đất. Và ở những ruộng lúa, phụ nữ đã cấy những mạ non xanh rờn xuống bùn.
Trong thời gian Binta nghỉ ngơi hồi sức sau khi đẻ, mảnh ruộng lúa của chị được bà nội Yaixa trông nom, nhưng giờ đây Binta đã sẵn sàng trở lại với công việc của mình. Địu Kunta trên lưng bằng một tấm vải bông, chị cùng với những phụ nữ khác - một số, kể cả cô bạn Jankay Turay của chị, cũng địu con thơ cùng với những bọc quần áo đội trên đầu - đi ra những chiếc xuồng độc mộc trên bờ bôlông 1, một trong nhiều nhánh phụ từ sông lớn Gămbia uốn khúc chảy vào miền trong, gọi là Kamby Bôlônggô. Những chiếc xuồng nhẹ lướt xuôi dòng, cứ dăm sáu chị em một chiếc, ráng sức đẩy đưa những mái chèo ngắn, rộng bản. Mỗi lần cúi về đằng trước để chèo, Binta lại cảm thấy thân mình mềm ấm của Kunta áp vào lưng mình.
Không khí ngào ngạt mùi cây xú ngát xâu như xạ hương và những mùi thơm của các loài thảo mộc khác mọc chi chít hai bên bờ bôlông. Hoảng hốt vì đoàn thuyền đi qua, hàng bầy khỉ đầu chó thức giấc, bắt đầu kêu choe chóe nhảy tứ tung và rung những cành cọ. Lợn rừng khịt khịt và gầm gừ chạy trốn vào những đám cỏ và bụi rậm. Đậu kín hai bờ sông lầy lội, hàng ngàn bồ nông, sếu, cò, diệc, cò bạch, cò thìa, nhạn, đang kiếm bữa sáng đều ngừng lại, sợ hãi theo dõi khi đoàn thuyền lướt qua. Một số loài chim nhỏ hơn bay lên không trung - chim cu, nhạn biển mỏ dẹt, gà nước, chim đầu rắn và bói cá - vừa lượn vòng vừa kêu the thé cho đến khi những kẻ đột nhập đã qua hẳn.
Khi xuồng lao qua những đám nước lăn tăn, nhộn nhạo, từng đàn cá tuế thường vọt cả lên, thành một điệu khiêu vũ óng ánh bạc rồi lại nhào xuống. Có những con cá lớn dữ tợn thường săn đuổi cá tuế, đôi khi đói mồi rượt hăng đến nỗi lao thẳng vào trong một cái xuồng đi qua và chị em phụ nữ thường lấy mái đập chết, cất đi để chiều làm một bữa ngon lành. Nhưng sáng nay đàn cá tuế bơi quanh các xuồng, không bị quấy rầy.
Dòng bôlông ngoằn ngoèo đưa những người đàn bà chèo xuồng ấy quành một khúc ngoặt, tới một nhánh sông rộng hơn và khi họ vừa xuất hiện, không gian bỗng rộn khắp tiếp vỗ cánh rào rào, rồi một tấm thảm sống, mênh mông hàng vạn con chim biển đủ mọi màu sắc cầu vồng, bay lên kín cả bầu trời. Cánh chim đập rạch nước thành từng luống, mặt sông tối xầm vì cơn lốc chim đó và lốm đốm những lông chim khi đám phụ nữ khua chèo tiếp tục lướt tới.
Gần tới khu đồng lầy, nơi bao thế hệ phụ nữ làng Jufurê đã từng gieo trồng lúa từ xưa tới nay, đoàn thuyền xuyên qua những đám muỗi nhung nhúc, rồi từng chiếc một nối đuôi nhau lách vào sát một bờ nhỏ đắp bằng cỏ dại ken thật dầy. Bờ cỏ phân ranh giới và xác định phần ruộng của mỗi chị em, ở đó những cây mạ non mơn mởn màu ngọc bích giờ đây đã nhô lên cao hơn mặt nước chiều dọc một bàn tay.
Vì kích thước mảnh ruộng của mỗi phụ nữ là do Hội đồng bô lão làng Jufurê quyết định mỗi năm một lần, tùy theo số miệng ăn mà mỗi phụ nữ phải cung đốn bằng gạo, thành thử phần của Binta hiện vẫn còn nhỏ bé. Thận trọng giữ thăng bằng khi địu đứa con mới đẻ từ xuồng bước lên bờ, Binta bước vài bước rồi dừng phắt lại ngạc nhiên và sung sướng nhìn một cái chòi tre nhỏ xíu lợp rạ. Trong khi chị đau đẻ, Ômôrô đã tới đây, dựng nó lên làm chỗ che mưa nắng cho con trai. Với cái đặc tính của đàn ông, anh chẳng nói gì về chuyện đó cả.
Sau khi cho con bú, rồi đặt gọn nó vào trong chòi, Binta thay quần áo, mặc bộ đồ lao động mang theo trong cái bọc đội đầu và lội ra làm việc. Gập đôi mình trên mặt nước, chị nhổ đến tận rễ những túm cỏ dại mà, nếu để mặc, chúng sẽ mọc vượt lên, làm chết lúa. Hễ Kunta khóc, Binta lại lội tới, ròng ròng nước, cho nó bú trong bóng râm của chòi.
Cứ thế, hằng ngày, bé Kunta sưởi ấm trong âu yếm nâng niu của mẹ. Chiều chiều trở về lều, sau khi nấu nướng và dọn bữa tối cho Ômôrô, Binta thường lấy dầu cây hạt mỡ thoa từ đầu đến chân thằng bé cho mượt da rồi - đây là chuyện thường xuyên - hãnh diện bế nó đi xuyên qua làng tới lều của bà nội Yaixa cho bà chầm bập, hôn hít nó. Và cả hai thi nhau liên tiếp nắn đầu, nắn mũi, nắn tai, nắn môi thằng bé cho cân đối, ngay ngắn hơn, làm cho Kunta cáu kỉnh khóc nhặng lên.
Thỉnh thoảng, Ômôrô mang con trai đi, tạm rời khỏi mẹ và bà nó, và ẵm thằng bé bọc kín trong chăn đến túp lều riêng của mình - các ông chồng bao giờ cũng có chỗ ở riêng cách biệt với vợ - tại đó, anh để cho nó tha hồ nhìn ngắm, sờ mó những đồ vật hấp dẫn, chẳng hạn như những cái bùa ở đầu giường Ômôrô để xua đuổi ma quỷ. Mọi thứ gì có màu sắc đều gợi trí tò mò của Kunta - đặc biệt là cái túi săn bằng da của bố, giờ đây gần như phủ kín bằng những đồng tiền vỏ ốc, mỗi đồng tượng trưng cho một con thú mà đích thân Ômôrô đã mang về làm thức ăn cho bản làng. Và Kunta cứ bi bô hoài với chiếc nỏ dài, cong vút cùng bó tên treo bên cạnh. Ômôrô mỉm cười khi thấy một bàn tay nhỏ xíu với ra và nắm lấy cây dao đen xẫm, thanh mảnh, cán bóng lên vì dùng nhiều. Anh để cho Kunta sờ mó tất cả mọi thứ, trừ tấm thảm cầu kinh là vật thiêng liêng đối với người sở hữu nó. Và một mình với con trai trong lều, Ômôrô thường nói với Kunta về những hành động đẹp đẽ và dũng cảm mà nó sẽ làm khi lớn lên.
Cuối cùng, anh đem Kunta về lều Binta cho nó bú bữa sau. Ở đâu, Kunta cũng luôn luôn khoái và cu cậu thường ngủ tít khi Binta ẵm vào lòng mà đu đưa hoặc đặt lên giường và cúi xuống hát khe khẽ một điệu ru con đại loại như :
Ngoan ngoan con nhoẻn miệng cười
Mang tên ông, phải tỏ ngời tên ông.
Rồi mai, săn thú trên rừng
Hay nơi trận mạc lẫy lừng chiến công
Cha con hởi dạ hởi lòng
Mẹ riêng nhớ thưở con nằm trong nôi.
Dù yêu con, yêu chồng đến đâu chăng nữa, Binta vẫn cảm thấy một mối lo lắng rất thực tế, những người chồng theo đạo Hồi, do tập tục cũ, thường hay chọn lấy một người vợ thứ trong khi vợ cả đang nuôi con thơ. Cho tới nay, Ômôrô chưa lấy thêm người vợ nào khác; và vì Binta không muốn anh bị chuyện đó cám dỗ, nên chị cảm thấy rằng bé Kunta càng chóng biết đi càng tốt, vì đó là lúc kết thúc giai đoạn nuôi con thơ.
Vì vậy, khi Kunta, chừng mười ba tháng, thử đi những bước chập chững đầu tiên, là Binta vội vã giúp nó ngay. Và chẳng mấy chốc, nó đã có thể lẩm chẫm đi quanh không cần ai đỡ. Ômôrô hãnh diện bao nhiêu thì Binta nhẹ nhõm đi bấy nhiêu và sau đó, khi Kunta khóc đòi ăn thì Binta không chìa vú ra cho con nữa mà phát một cái kêu ra dáng vào đít nó và ấn vào miệng nó một bầu sữa bò.
--------------------------------
Chương 3
Ba vụ mưa đã qua và đây là cái mùa còm cõi khi mà dự trữ thóc cùng các loại lương khô khác từ mùa gặt trước đã gần cạn. Cánh đàn ông đã đi săn nhưng chỉ vác về được vẻn vẹn dăm ba con linh dương nhỏ và mấy chú chim rừng vụng dại, vì vào cái mùa nắng thiêu đốt này, rất nhiều vũng nước ở vùng xavan đã khô cạn chỉ còn bùn, thành thử các thú săn lớn và quý đã rút vào rừng sâu - vào đúng lúc dân làng Jufurê cần tận dụng mọi sức lực để làm mùa cho vụ gặt mới. Các bà vợ đã phải độn mầm tre nhạt thếch và lá bao-báp khô hôi xì vào lương thực chính là mạch kê và gạo. Những ngày đói kém đã bắt đầu sớm đến nỗi phải mổ năm con dê và hai con bò đực - nhiều hơn lần trước - để tế lễ, gia tăng sức mạnh cho lời cầu nguyện của mọi người xin đức Ala che chở cho làng bản khỏi chết đói.
Cuối cùng, bầu trời nóng bức phủ đầy mây, những cơn gió thoảng trở thành mạnh và cũng đột ngột như mọi lần, những trận mưa nhỏ bắt đầu rơi, ấm áp và nhẹ nhàng, khi đám nông dân cuốc xới lớp đất đã mềm đi thành những hàng dài thẳng tắp sẵn sàng đón hạt giống. Họ biết rằng phải làm xong việc gieo trồng trước khi những trận mưa lớn tới.
Mấy buổi sáng tiếp theo, sau khi điểm tâm, thay vì chèo xuồng đến ruộng lúa của mình, những người vợ nông dân, theo tục lệ cổ truyền để cầu cho đất đai mầu mỡ, mặc những bộ trang phục tết bằng lá cây to tươi tốt, tượng trưng cho mầm xanh của những gì đang lớn lên, và đi ra những mảnh ruộng đã xới thành luống của cánh đàn ông. Họ chưa ló dạng, đã nghe thấy tiếng họ lên bổng xuống trầm đọc những lời cầu nguyện do tổ tiên truyền lại, xin cho những hạt kê, củ lạc và những hạt giống khác đựng trong những bát sành đội lên đầu sẽ mọc rễ cứng cáp và lớn mạnh.
Chân không, bước theo nhịp đều đặn, toán phụ nữ xếp thành hàng dọc vừa đi vừa hát ba lần quanh mỗi thửa ruộng. Rồi họ giải tán và mỗi chị đứng vào sau một nông dân trong khi anh ta tiến dọc theo một luống đất, cứ dăm phân lại lấy ngón chân cái thọc xuống đất thành một lỗ. Cứ mỗi lỗ, chị em bỏ vào một hạt giống, lấy ngón chân cái lấp đất lên, rồi lại tiếp tục tiến. Thậm chí, phụ nữ làm việc còn vất vả hơn đàn ông, vì họ không những phải giúp chồng mà còn phải chăm sóc cả những thửa ruộng lúa lẫn những mảnh vườn rau, trồng ở cạnh bếp.
Trong khi Binta trồng hành, khoai mỡ, bầu, sắn, và cà chua, bé Kunta ban ngày chơi nhổng dưới sự trông nom cẩn thận của mấy bà già chịu trách nhiệm toàn thể trẻ con làng Jufurê thuộc lứa kafô 1 đầu, nghĩa là bao gồm những đứa tuổi dưới năm vụ mưa. Bầy trẻ, trai cũng như gái, trần truồng như những con thú nhỏ, chạy tung tăng - một số mới bắt đầu bập bẹ những tiếng đầu tiên. Tất cả, cũng như Kunta, đều mau lớn, cười đùa và la hét trong khi chúng nối đuôi nhau chạy quanh thân cây bao-báp khổng lồ trong làng, chơi đi trốn đi tìm và đuổi chó, gà chạy tán loạn.
Nhưng tất cả bọn trẻ con - kể cả những đứa bé như Kunta - hễ thấy một trong mấy bà già hứa kể chuyện, là vội vàng giành nhau xí chỗ, ngồi im phăng phắc. Tuy có nhiều chữ nó chưa hiểu được, Kunta vẫn tròn xoe mắt theo dõi các bà diễn xuất câu chuyện của mình bằng nhiều điệu bộ và tiếng động nhộn nhạo đến nỗi tưởng như sợ việc đang diễn ra thực.
Tuy còn bé tí, nhưng Kunta đã biết một số truyện mà bà nội Yaixa đã kể cho một mình nó nghe những lần nó được bế đến thăm lều của bà. Nhưng cùng với các bạn chơi nhởn cùng lứa kafô đầu, nó cảm thấy người kể chuyện tuyệt nhất trong tất cả là già Nyô Bôtô yêu dấu, bí ẩn và dị thường. Đầu không còn sợi tóc, mặt mày đầy những nếp nhăn sâu, da đen như nhọ nồi, một cái rễ chanh làm tăm giữa mấy cái răng còn sót lại, chòi ra khỏi miệng như cái vòi của một thứ côn trùng - già Nyô Bôtô mỗi lần ngồi vào chiếc ghế thấp lè tè, lại lầm bầm. Tuy thái độ bà cộc cằn, nhưng lũ trẻ biết bà yêu chúng như con đẻ và bà cũng tuyên bố rằng tất cả bọn chúng đều là con cháu bà.
Những lúc thấy chúng quây quần xunh quanh, bà thường làu bàu: "Để yên bà kể chuyện…"
"Bà kể đi!" bọn trẻ đồng thanh, đứa nào đứa nấy ngọ nguậy, dự cảm thấy trước nỗi thú vị.
Và bà lão bèn mở đầu theo kiểu của tất cả những người kể chuyện của dân tộc Mandinka: "Hồi ấy, ở một làng nọ, có một người".
Đó là một chú bé trạc tuổi chúng, cũng chừng nấy vụ mưa - bà kể - một hôm, chú đi dọc bờ sông và thấy một con cá sấu mắc kẹt trong một cái lưới.
"Cứu tôi với", con cá sấu kêu lớn.
"Để rồi mày giết tao à!" chú bé đáp.
"Không! Lại gần đây nữa nào!" con cá sấu nói.
Thế là chú bé lại chỗ con cá sấu - và phút chốc, bị ngoạm giữa hai hàm răng của cái miệng dài ngoằng.
"Thế là mày đem oán trả ơn tao đấy hả!" chú bé kêu lên.
"Dĩ nhiên rồi", con cá sấu nói bằng khóe miệng, "Sự đời là thế"
Chú bé không chịu tin như vậy, và cá sấu đồng ý sẽ không nuốt chửng chú trước khi biết ý kiến của ba kẻ làm chứng đầu tiên đi ngang qua. Trước nhất là một bác lừa già.
Khi chú bé hỏi ý kiến bác, lừa ta bèn đáp: "Bây giờ tôi già không làm việc được nữa, chủ tôi đuổi tôi ra khỏi nhà cho beo ăn thịt".
"Mày thấy chưa?" con cá sấu nói. Tiếp đó, một bác ngựa già đi qua cùng chung ý kiến.
"Mày thấy chưa?" con cá sấu nói. Rồi một chú thỏ bụ bẫm đến; chú ta bảo: "Chà, tôi không làm sao có ý kiến đúng đắn được nếu không thấy sự việc diễn ra từ lúc bắt đầu".
Con cá sấu làu bàu há miệng ra để kể lại - thế là chú bé nhảy vọt lên bờ an toàn.
"Cậu có thích ăn thịt cá sấu không" chú thỏ hỏi. Chú bé trả lời có. "Thế bố mẹ cậu?" Chú bé lại trả lời có. "Thế thì đây đã có một con cá sấu sẵn sàng để cho vào nồi đấy thôi"
Chú bé chạy đi và trở lại với trai tráng trong làng, họ giúp chú giết chết con cá sấu… Nhưng họ lại mang theo một con chó ngao, nó đuổi bắt và giết luôn cả chú thỏ.
"Thế là con cá sấu vẫn có lý", già Nyô Bôtô nói. "Sự đời là thế: làm phúc thường hay phải tội. Truyện ta kể cho các cháu là như vậy đó".
"Cầu trời phù hộ bà mạnh khỏe và thịnh vượng!" bọn trẻ nói để cảm ơn.
Rồi các bà già phân phát cho lũ trẻ những bát bọ dừa và châu chấu vừa rán xong. Vào một thời kỳ khác trong năm, của này chỉ là miếng ngon nếm náp qua loa, nhưng bây giờ, vào đận trước những trận mưa lớn, khi mùa đói kém đã bắt đầu, món côn trùng rán được dọn làm bữa ăn trưa, vì trong kho của hầu hết các gia đình chỉ còn mấy nắm kê và gạo mà thôi.
--
Chương 4
Độ này, hầu như sáng nào cũng có những trận mưa rào ngắn, mát mẻ và những lúc tạnh giữa hai đợt, Kunta và các bạn nó thường náo nức lao ra ngoài trời. "Của tao!" "Của tao" chúng nó thường la lên nhận phần khi thấy những cầu vồng xinh đẹp uốn cong tới tận mặt đất, tưởng như không xa lắm. Nhưng những trận mưa rào cũng kéo theo hàng đàn côn trùng có cánh, đốt và cắn nhoi nhói khiến cho đám trẻ chẳng mấy chốc đã phải rút vào trong nhà.
Rồi, bất thình lình, một đêm khuya, những trận mưa lớn bắt đầu, và mọi người náu trong những túp lều lạnh giá của mình, nghe nước xối rầm rầm trên mái rạ, nhìn chớp lóe và dỗ con nhỏ khi tiếng sấm khủng khiếp ầm ì trong đêm. Giữa những đợt mưa bất thần, chỉ nghe thấy tiếng chó rừng kêu, tiếng linh cẩu gào và tiếng ếch nhái ồm ộp.
Đêm sau, rồi đêm sau nữa và đêm sau nữa, lại mưa - mà chỉ mưa về đêm - ngập tràn những cánh đồng thấp ở gần sông, biến ruộng thành đầm lầy và cả làng thành một vũng bùn. Tuy vậy, mỗi sáng, trước lúc điểm tâm, tất cả nông dân vẫn lội bùn tới ngôi nhà thờ nhỏ của làng Jufurê để xin Chúa Ala cho mưa thêm nữa, vì cuộc sống tùy thuộc vào việc có đủ nước thấm sâu vào lòng đất trước khi nắng nực có thể làm khô héo mùa màng nếu rễ không hút đủ nước để sống.
Trong túp lều trẻ ẩm ướt, những cành củi nỏ cùng những nắm phân súc vật khô cháy lom rom trong hõm lò nông toèn trên sàn đất, soi sáng lờ mờ và không đủ sưởi ấm, già Nyô Bôtô kể cho Kunta và những đứa khác về các thời kỳ ghê sợ khi mà những trận mưa lớn không đủ. Bất kỳ xẩy ra sự gì xấu đến đâu chăng nữa, già Nyô Bôtô cũng vẫn nhớ ra được thời kỳ khác mà tình hình còn tệ hại hơn thế. Sau hai ngày mưa lớn - bà kể với bọn trẻ là đến những ngày nắng thiêu đốt. Mặc dầu mọi người cầu nguyện Chúa Ala rất khẩn thiết, nhảy hoài điệu nhảy mưa do tổ tiên truyền lại và mỗi ngày tế hai con dê, một con bò mộng, tất cả những gì mọc trên mặt đất vẫn bắt đầu héo hắt và chết. Cả những vùng nước trong rừng cũng khô cạn, già Nyô Bôtô kể, và thoạt tiên là chim rừng, rồi đến thú rừng, ốm lử vì khát, bắt đầu xuất hiện ở giếng làng. Đêm đêm, trên bầu trời trong như pha-lê, hàng ngàn vì sao sáng lấp lánh, một ngọn gió lạnh thổi và ngày càng có nhiều người ốm. Rõ ràng, ma quỷ hoành hành ở Jufurê.
Những người còn khỏe tiếp tục cầu nguyện và nhảy múa, rồi sau hết, con dê cuối cùng và con bò cuối cùng được đem tế nốt, cứ như là Chúa Ala đã quay lưng lại không đoái hoài đến làng Jufurê nữa vậy. Một số - gồm những người già, yếu và bị bệnh - bắt đầu lăn ra chết. Những người khác bỏ đi, tìm một làng khác để cầu xin một người nào đó có lương thực nhận mình làm nô lệ, cốt được chút gì vào bụng, còn những người ở lại thì đâm mất tinh thần, nằm bẹp trong lều. Chính lúc đó, già Nyô Bôtô kể, Chúa Ala đã xui khiến bước chân của thầy tu Kairaba Kunta Kintê rẽ vào làng Jufurê đang sắp chết đói. Thấy cảnh dân làng như vậy, người bèn quỳ xuống và cầu Chúa Ala suốt năm ngày sau, hầu như không ngủ và chỉ thỉnh thoảng nhấp vài ngụm nước cầm hơi. Và đến tối ngày thứ năm, một trận mưa lớn kéo đến, trút xuống như cơn lũ và cứu sống làng Jufurê.
Khi bà kể xong, những đứa trẻ khác kính phục nhìn Kunta, thằng bé mang tên người ông lỗi lạc, chồng của bà nội Yaixa. Ngay cả trước đó, Kunta cũng đã thấy bố mẹ những đứa kia đối xử với bà nội Yaixa như thế nào, và nó đã mang máng cảm thấy bà là một phụ nữ quan trọng khác nào già Nyô Bôtô chắc chắn cũng là người như vậy.
Những trận mưa lớn tiếp tục đổ xuống từng đêm cho đến khi Kunta cùng những đứa trẻ khác bắt đầu thấy những người lớn lội qua làng, bùn ngập đến mắt cá chân, có khi đến gần đầu gối và thậm chí phải dùng xuồng để đi lại. Kunta nghe thấy Binta bảo Ômôrô là các ruộng lúa bị nước sông lên cao làm ngập. Vừa đói vừa rét, những ông bố của đám trẻ hầu như ngày nào cũng đem dê, bò quý tế Chúa Ala, lợp vá víu những mái dột, chống lại những lều bị xụt - và cầu cho số dự trữ lúa và kê đang vơi dần có thể đậu đến vụ gặt.
Nhưng Kunta và những đứa khác, vốn còn là con nít không chú ý đến những cơn đói cồn cào trong bụng mà chỉ mải chơi đùa trong bùn, vật nhau và trượt trên cái đít trần của chúng. Tuy nhiên, trong nỗi mong ngóng được thấy lại mặt trời, chúng thường huơ tay lên phía bầu trời xám xịt màu chì và gào lên - như chúng vẫn thấy bố mẹ làm thế - "Mặt trời ơi, hãy chiếu sáng, tôi sẽ xin tạ người một con dê!".
Đợt mưa mang lại nguồn sống đã làm cho mọi thứ gì mọc được lớn được, đều trở nên tươi mát và sum suê. Chim hót khắp mọi nơi. Cây cối nở rộ hoa thơm lừng. Mỗi buổi sáng, lớp bùn nâu đo đỏ dính bết dưới chân, lai được phủ một tấm thảm mới bằng những cánh hoa rực rỡ màu sác và những lá xanh do trận mưa đêm trước làm rụng xuống. Nhưng giữa tất cả sự tốt tươi đó của thiên nhiên, bệnh tật vẫn cứ lan tràn đều trong dân làng Jufurê, vì trong số những cây trồng đang lớn lên mây mẩy, vẫn chưa có loại nào đủ chín để ăn được. Người lớn cũng như trẻ con thường giương con mắt đói nhìn hàng ngàn trái xoài và bao báp mầm mẫm trĩu nặng trên cành, những quả xanh rắn như đá, ai cắn vào đều nôn nao khó chịu và mửa liền.
"Chỉ còn da bọc xương", mỗi lần thấy Kunta, bà nội Yaixa đều tặc lưỡi rất to mà kêu lên như thế. Nhưng thực ra bà nội của Kunta cũng gầy rộc chẳng khác nó mấy; bởi vì kho của mọi nhà ở Jufurê giờ đây đều rỗng tuếch. Còn lại chút ít gia súc, dê, gà trong làng, chưa ăn đến hoặc chưa đem tế, thì phải giữ cho chúng sống, nuôi chúng, để sang năm có một lứa con mới. Thành thử dân làng bắt đầu ăn đến các loài gặm nhấm, rễ và lá cây, bòn mót được trong làng và xung quanh làng trong những cuộc lùng sục kéo dài từ rạng đông cho đến khi lặn mặt trời.
Cánh đàn ông có vào rừng săn thú như vẫn thường làm vào những thời gian khác trong năm, cũng không đủ sức lôi chúng về làng. Tục lệ kiêng kỵ của bộ tộc cấm người Manđinka không được ăn thịt khỉ lớn khỉ con đầy rẫy trong rừng, họ cũng không được đụng đến đám trứng gà để la liệt hoặc hàng triệu cóc nhái mà người Mandinka coi là độc. Và, vốn là những người Hồi giáo sùng đạo, họ thà chết chứ không ăn thịt những con lợn rừng thường hay kéo từng bầy xộc thẳng qua làng dũi đất tìm bới.
Hàng đời nay, những gia đình sếu vẫn làm tổ ở những cành cao nhất của cây gạo trong làng, và khi trứng nở, sếu lớn bay qua bay lại như con thoi, mang cá bắt được ở ven sông về nuôi con. Rình đúng lúc, các bà già và trẻ con thường đổ xô đến dưới vòm cây, la hú, ném những gậy nhỏ và đá lên tổ sếu. Và thường thường, trong cơn ồn ào và loạn xị ấy, một con sếu non há hốc miệng để rơi cá, rồi con cá lọt khỏi tổ, qua đám lá dày của cây cao, rớt xuống đất. Bọn trẻ liền tranh nhau cướp lấy miếng bở ấy, và gia đình một đứa nào đó sẽ được một bữa tiệc tối. Nếu một hòn đá nào do bọn trẻ ném lên, tình cờ lại trúng vào một con sếu non vụng về, lông chơm chởm, có khi nó ngã nhào luôn cùng với con cá từ trên tổ cao chót vót, rập mình xuống đất chết hoặc bị thương, thế là đêm ấy, một vài gia đình có cháo sếu ăn. Nhưng những bữa như vậy thật hiếm hoi.
Chiều tối, mỗi gia đình thường tụ tập ở lều, mỗi người mang về bất cứ cái gì đã kiếm được - có khi là cả một con chuột chũi hay một nắm ấu trùng to, nếu họ may mắn - để nấu nồi cháo đêm, rắc thật nhiều hạt tiêu và ớt cho nổi vị. Nhưng thức ăn đó chỉ làm đầy bụng chứ không bổ béo gì. Và cứ như thế, dân làng Jufurê bắt đầu chết dần chết mòn.
Chương 5
Giờ đây, càng ngày càng hay thấy tiếng phụ nữ the thé gào lên vang vọng khắp làng. Những kẻ may mắn là đám trẻ sơ sinh và mới chập chững, còn quá nhỏ chưa hiểu gì, vì ngay cả Kunta cũng đã đủ lớn để biết rằng tiếng gào đó có nghĩa là một người thân yêu vừa chết. Thường thường, khi chiều đến, một người nông dân ốm nào đó đang cắt cỏ ngoài đồng, được khiêng về làng nằm cứng đơ trên một tấm da bò.
Và bệnh tật bắt đầu làm phù chân một số người lớn tuổi. Lại có những người khác lên cơn sốt, mồ hôi toát ra đầm đìa và rét run bần bật. Cả lũ trẻ, chân hoặc tay phồng lên từng đám nhỏ nhanh chóng lan rộng ra và mỗi lúc một đau hơn, rồi những chỗ phồng nứt toác, rỉ ra một thứ nước hồng hồng chẳng mấy chốc thành nước vàng đặc sệt, hôi thối, thu hút đàn ruồi vo ve bu đến.
Vết đau hở toác to tướng ở chân Kunta, một hôm, làm nó vấp rúi trong khi đang cố chạy nhổng. Ngã đau, nó được các bạn vực dậy, điếng người và chảy máu trán, kêu rống lên. Vì Binta và Ômôrô đi làm đồng, bọn trẻ hối hả mang nó đến lều bà nội Yaixa, đã nhiều ngày nay, không thấy bà xuất hiện ở lều trẻ.
Nom bà rất yếu, bộ mặt đen gầy ruộc và rã rượi, mình đẫm mồ hôi dưới tấm da bò trên chiếc chiếu tre. Nhưng khi trông thấy Kunta, bà bèn vùng dậy lau cái trán rỉ máu của nó. Ôm chặt lấy cháu, bà sai những đứa trẻ khác chạy đi kiếm cho bà mấy con kiến còng kơlêlalu. Khi chúng trở lại, bà nội Yaixa bóp chặt hai mép da bị toạc lại với nhau, rồi lần lượt ấn từng con kiến dũi đang giãy giụa vào vết thương. Trong khi mỗi con kiến tức tối cắm đôi càng vào lớp thịt hai bên vết toác, bà khéo léo dí bẹp thân nó, để cái đầu ở nguyên chỗ, cho đến khi vết thương được khâu liền lại.
Cho những đứa trẻ kia lui, bà bảo Kunta nằm xuống nghỉ bên cạnh bà trên giường. Nó nằm mà nghe bà nặng nhọc thở trong khi bà nín lặng một lát. Rồi bà nội Yaixa khoát tay về phía một chồng sách trên giá cạnh giường. Cất giọng chậm rãi và dịu dàng, bà kể cho Kunta nghe thêm về ông nội, theo lời bà, là chủ nhân của những cuốn sách kia.
Tại đất nước quê hương Moritanya, khi Kairaba Kunta Kintê đến tuổi ba mươi vụ mưa 1, thầy dạy ông, một giáo trưởng, ban phước cho ông, phong thành một thánh nhân, bà nội Yaixa nói vậy. Ông nội Kunta đã kế tục một truyền thống gia đình các bậc thánh nhân trở ngược về trước hàng mấy trăm vụ mưa trên vùng đất Mali cổ xưa. Hồi còn là một thanh niên thuộc lứa kafô thứ tư 2, ông đã xin vị giáo trưởng già nhận là môn đồ và trong suốt mười lăm vụ mưa sau đó đã viễn du cùng bầu đoàn của thầy gồm thê thiếp, nô lệ, môn đồ và trâu bò, dê trong cuộc hành hương từ làng này qua làng khác phụng sự Chúa Ala cùng thần dân của người. Trên những nẻo đường mòn lầm bụi và những vũng khe lầy lội, dưới nắng thiêu và mưa lạnh, qua những con thung xanh và những vùng đất hoang lộng gió - bà nội Yaixa kể - họ hì hụi từ Moritanya đi về phương Nam.
Được phong là thánh nhân, Kairaba Kunta Kintê liền một mình lang thang nhiều tuần trăng qua các nơi thuộc đất nước Mali cổ xưa như Kêyla, ĐJila, Kangaba và Timbúctu, kính cẩn phủ phục trước các vị thành nhân già rất vĩ đại, cầu xin các vị ban phúc cho mình thành công, điều mà tất cả các vị đều sẵn lòng ưng thuận. Thế rồi Chúa Ala đã đưa bước chân bậc thánh nhân trẻ tuổi theo hướng Nam, cuối cùng tới Gămbia, nơi ông dừng chân đầu tiên ở làng Pakali N’ Đing.
Trong một thời gian ngắn, thấy kết quả mau chóng của những lời ông cầu nguyện, dân làng liền hiểu ra rằng vị thánh nhân trẻ tuổi này dã được ân sủng đặc biệt của Chúa Ala. Trống con, trống cái mách lẻo loan tin đi xa và chẳng bao lâu, các làng khác tìm cách lôi kéo ông đi khỏi bằng cách phái sứ giả đến dâng gái tân làm vợ và nào là nô lệ, nào là trâu bò, nào là dê. Và ít lâu sau, ông đi thật, lần này tới làng Jiffarong, nhưng đó chỉ là do Chúa Ala gọi ông đến đó, vì làng Jiffarong chẳng có gì nhiều nhặn làm lễ vật ngoài lòng biết ơn đối với những lời cầu nguyện của ông. Chính tại đây, ông đã nghe nói đến làng Jufurê, nơi mà dân đang đau ốm và ngoắc ngoải vì thiếu một trận mưa lớn. Và thế là cuối cùng, ông tới Jufurê - bà nội Yaixa kể - tại đó, năm ngày liền không ngừng, ông đã nguyện cầu cho đến khi Chúa Ala trút xuống trận mưa lớn cứu thoát cả làng.
Được biết việc làm vĩ đại của ông nội Kunta, đích thân vua xứ Barra, hồi ấy cai quản vùng này của Gămbia, chọn một nữ đồng trinh tặng bậc thánh nhân trẻ tuổi làm vợ đầu, tên là Xireng. Kairaba Kunta Kintê lấy Xireng sinh ra được hai con trai đặt tên là Jannê và Xalum.
Lúc này, bà nội Yaixa đã ngồi dậy trên chiếc giường tre của mình. "Chính khi đó", bà nói mắt long lanh, "ông đã trông thấy Yaixa này múa điệu xêôruba! Hồi ấy, ta mới mười lăm vụ mưa". Bà toét miệng cười, phô hai hằng lợi rụng hết răng. "Ông chẳng cần đến vua để chọn vợ thứ!". Bà nhìn Kunta. "Chính từ bụng ta mà ông đã cho ra đời bố Ômôrô của cháu đó".
Đêm hôm ấy, trở về lều của mẹ, Kunta nằm thao thức hồi lâu nghĩ về những điều bà nội Yaixa kể. Đã nhiều lần, Kunta được nghe về người ông nội thánh nhân đã cứu cả làng bằng lời cầu nguyện của mình và về sau đã được Chúa Ala gọi về trời. Nhưng đến bây giờ, Kunta mới thực sự hiểu rằng con người đó là cha của cha nó, rằng Ômôrô đã biết ông như nó biết Ômôrô, rằng bà nội Yaixa là mẹ Ômôrô cũng như Binta là mẹ nó. Một ngày kia, nó cũng sẽ gặp một người đàn bà như Binta để mang trong bụng một đứa con trai của chính nó. Và lại đến lượt đứa con trai đó…
Trở mình và nhắm mắt lại, Kunta thong thả dõi theo những ý nghĩ đó vào tận trong giấc ngủ.
Chương 6
Trong mấy ngày sau, ngay trước lúc mặt trời lặn, ở ruộng lúa trở về, Binta thường sai Kunta ra giếng làng múc một bầu nước ngọt để nấu một nồi cháo bằng bất kỳ mẩu đầu thừa đuôi thẹo nào mà chị nhặt nhạnh được. Rồi chị và Kunta mang một ít cháo đó qua làng đến cho bà nội Yaixa, Binta đi chậm chạp hơn lúc bình thường, theo cảm giác của Kunta, và nó nhận thấy bụng mẹ rất to và nặng nề.
Mặc dù bà nội Yaixa yếu ớt cất tiếng phản đối rằng mình sắp bình phục, Binta cứ quét trước căn lều và dọn dẹp đồ đạc cho ngăn nắp. Và hai mẹ con ra về sau khi dựng bà nội Yaixa ngồi dậy trên giường để ăn bát cháo với chút bánh mùa đói kém do Binta làm bằng cái thứ bột vàng vàng phủ trên những quả đen của cây bồ kếp dại.
Rồi một đêm, Kunta thức giấc, thấy mình đang bị bố lay lấy lay để. Binta đang thốt ra những tiếng rên rẩm khe khẽ trên giường và, cũng ở trong lều, bà già Nyô Bôtô và chị bạn Jankay Turay của Binta đang lăng xăng vội vã. Ômôrô hối hả đưa Kunta qua làng và chú bé, ngỡ ngàng không hiểu đó lá chuyện gì, chẳng mấy chốc đã chìm đắm trở lại trong giấc ngủ trên chiếc giường trong lều bố.
Sáng ra Ômôrô lại đánh thức Kunta dậy và bảo: "Con mới có một em trai đấy". Ngái ngủ lồm cồm quỳ dậy và rụi mắt, Kunta nghĩ bụng rằng đây ắt là một cái gì đặc biệt lắm nên mới khiến người bố, bình thường vốn nghiêm nghị, thích thú đến thế. Đến chiều, Kunta đang đi với lũ bạn cùng lứa tuổi, tìm xem có cái gì ăn được, thì già Nyô Bôtô gọi lại và đưa nó đến thăm Binta. Vẻ người rất mệt nhọc, chị ngồi trên mép giường, dịu dàng vuốt ve đứa bé trong lòng. Kunta đứng một lúc ngắm thật kỹ cái vật nhỏ đen đủi, nhăn nheo ấy, rồi nó nhìn hai người đàn bà đang cười với vật đó và chợt nhận thấy cái chỗ phình to quen thuộc trên bụng Binta đột nhiên biến mất. Lặng lẽ trở ra ngoài không nói một câu, Kunta đứng yên một hồi lâu, thay vì quay lại với lũ bạn, nó đến ngồi một mình đằng sau lều bố, và ngẫm nghĩ về những điều đã trông thấy.
Kunta tiếp tục ngủ ở lều của Ômôrô trong bảy đêm sau - mà hình như không ai để ý hoặc quan tâm đến, vì họ còn lo cho đứa bé mới đẻ. Nó đã bắt đầu nghĩ rằng mẹ không cần nó nữa - hay cả bố cũng thế - cho đến khi vào chiều tối ngày thứ tám, Ômôrô gọi nó đến trước lều mẹ nó cùng với tất cả mọi người khác còn khỏe mạnh ở Jufurê để công bố cái tên chọn cho đứa bé sơ sinh là Lamin.
Đêm hôm ấy, Kunta ngủ yên và ngon lành - trở về giường của chính mình bên cạnh mẹ và em trai mới đẻ. Nhưng trong vòng mấy ngày, vừa mới lại sức, Binta liền bắt đầu ẵm lấy đứa bé sau khi nấu nướng và dọn thức gì đó cho Ômôrô và Kunta ăn sáng và gần như ở suốt ngày tại lều bà nội Yaixa. Qua vẻ lo lắng trên mặt của cả Binta lẫn Ômôrô, Kunta biết là bà nội Yaixa ốm rất nặng.
Một buổi chiều tà, vào mấy ngày sau, nó và các bạn cùng tuổi đi hái những trái xoài, rốt cuộc, cũng đã chín. Rập lượt vỏ màu vàng da cam vào tảng đá gần nhất, chúng cắn, bươi một đầu mấp ra để ép mạnh vào múp lớp thịt mềm ngọt bên trong. Chúng đang vơ hàng rổ táo khỉ và đào dại thì bỗng nhiên Kunta nghe thấy tiếng gào của một giọng quen thuộc vọng lại từ phía lều bà nội. Toàn thân nó run lên vì đó là giọng mẹ nó cất lên trong tiếng hò chết chóc nó đã từng nghe thấy bao lần trong những tuần gần đây. Nhiều phụ nữ lập tức hòa vào thành một tiếng tru tréo chẳng mấy chốc đã lan ra khắp làng. Kunta chạy quáng quàng như người mù về phía lều bà nội.
Giữa đám hỗn độn nhộn nhạo, Kunta trông thấy Ômôrô vẻ đầy đau đớn và già Nyô Bôtô đang khóc thảm thiết. Lát sau, trống tôbalô nổi lên và gã jaliba lớn tiếng kể những việc thiện trong cuộc đời dài của bà nội Yaixa ở làng Jufurê. Choáng người đến tê dại, Kunta cứ đứng thao láo mắt nhìn, trong khi những phụ nữ trẻ chưa chồng trong làng cầm những chiếc quạt rộng kết bằng cỏ quạt tung bụi từ đất lên, theo tục lệ mỗi khi có người chết. Xem chừng không ai để ý thấy Kunta cả.
Khi Binta và già Nyô Bôtô cùng hai phụ nữ la hờ khác bước vào trong lều, đám đông bên ngoài bèn quỳ xuống và cúi đầu. Kunta đột nhiên òa lên khóc, cả vì sợ lẫn vì buồn thương. Chẳng mấy chốc, những người đàn ông mang tới một cây gỗ lớn vừa mới xẻ xong và đặt xuống trước lều. Kunta dõi nhìn đám phụ nữ khiêng ra và đặt lên mặt bằng cây gỗ thi hài bà nội nó liệm kín từ cổ đến chân bằng một tấm vải bông trắng quấn vòng vèo.
Qua hàng nước mắt, Kunta thấy những người chịu tang đi bảy vòng quanh bà Yaixa, cầu khấn và tụng niệm, trong khi alimamô rền rỉ rằng bà đang viễn du về với Chúa Ala và tổ tiên mình trong cõi vĩnh hằng. Để bà có sức làm cuộc viễn du đó, những chàng trai chưa vợ trìu mến đặt những chiếc sừng trâu bò đựng đầy tro mới xung quanh thi thể bà.
Sau khi phần lớn những người chịu tang diễu qua, bà Nyô Bôtô cùng nhiều bà già khác bèn chiếm lĩnh vị trí cạnh đấy, nép sát vào nhau, khóc lóc, hai bàn tay ôm chặt lấy đầu. Kế đó, đám phụ nữ trẻ mang tới những tàu lá xiboa lớn nhất có thể kiếm được để che đầu cho các bà già khỏi bị mưa trong đêm thức canh thi hài. Và khi các bà già ngồi đó, các cỡ trống trong làng lên tiếng kể lể về bà nội Yaixa mãi đến khuya.
Trong buổi sáng mờ sương, theo tục lệ của tổ tiên, chỉ có đàn ông trong làng Jufurê - những người còn đủ sức đi được - tham gia vào đám tang đi đến chỗ chôn cất, cách làng một quãng không xa (nếu không thể, ắt chẳng có ai đi), vì lòng kính sợ của người Manđinka đối với linh hồn ông bà ông vải. Đi đằng sau những người khiêng thi hài bà nội Yaixa trên cây gỗ, là Ômôrô bế đứa trẻ sơ sinh Lamin và dắt chú bé Kunta khiếp đảm đến nỗi không dám khóc. Và đằng sau họ, là các đàn ông khác trong làng. Cái thi thể cứng đờ liệm bằng vải trắng được hạ xuống huyệt mới đào và phủ một chiếc chiếu mây đan dày. Rồi đến những bụi gai để ngăn lũ linh cẩu khỏi đào bới và phần còn lại của huyệt được lèn chặt bằng đá với một gò đất mới.
Sau đó, trong nhiều ngày, Kunta biếng ăn biếng ngủ, cũng chẳng buồn đi đâu với các bạn cùng lứa tuổi. Nó buồn đến nỗi một tối, Ômôrô phải mang con đến lều mình và ở đó, bên cạnh giường, nói với con dịu dàng, êm ái hơn bao giờ hết, kể cho nó nghe đôi ba câu chuyện để làm nhẹ bớt nỗi buồn của nó.
Anh bảo rằng ở mỗi làng đều có ba nhóm người. Trước hết là loại ta trông thấy trước mắt - đang đi đi lại lại, ăn ngủ và làm việc. Thứ hai là tổ tiên, giờ đây bà nội Yaixa đã nhập vào nhóm đó.
"Còn loại người thứ ba là những ai?" Kunta hỏi.
"Loại người thứ ba", Ômôrô nói, "là những kẻ đang chờ ra đời".
Chương 7
Các trận mưa đã kết thúc, và giữa bầu trời xanh trong sáng và mặt đất ẩm ướt, không khí ngạt ngào mùi thơm của hoa và quả dại sum suê. Những buổi sáng sớm vang dội tiếng chày của phụ nữ giã kê, kiều mạch và lạc - không phải do thu hoạch vụ mùa chính mà là những hạt giống mọc sớm mà vụ gặt năm ngoái còn để sót lại trong lòng đất. Đàn ông đi săn mang về những con linh dương béo đẹp và sau khi chia thịt họ nạo và ướp da để phơi khô. Còn đàn bà thì bận bịu lượm những trái mangkanô chín đỏ mọng, rũ những nhành cây trên những tấm vải trải ở phía dưới và đem những trái đó phơi nắng trước khi đem giã để tách rời thứ bột futô ngon lành với hạt. Không một chút gì bị phí phạm. Đem ngâm và đun sôi với kê đã giã, những hạt này được nấu thành một thứ cháo ăn sáng ngọt lờ lợ mà Kunta và mọi người khác đều hoan nghênh, coi như một sự đổi món để thỉnh thoảng thay thế cái bữa sáng thường lệ bằng cháo mạch kê đặc.
Vì mỗi ngày đồ ăn thức uống một nhiều thêm, cuộc sống mới trào vào làng Jufurê một cách rõ ràng, trông thấy và nghe thấy được. Đàn ông bắt đầu đi lại nhanh nhẹn hơn, ra trại và ở trại trở về, hãnh diện kiểm tra mùa màng tươi tốt chẳng bao lâu sẽ có thể thu hoạch. Giờ đây, nước sông mùa lũ đang rút nhanh, cánh phụ nữ hàng ngày chèo xuồng đến khu đồng lầy nhổ nốt những đám cỏ cuối cùng mọc lẫn giữa những hàng lúa cao, xanh rờn.
Và làng xóm lại vang lên tiếng hò la, cười đùa của lũ trẻ trở lại nô nghịch sau mùa đói kém dài đằng đẵng. Những cái bụng giờ đây đầy thứ dinh dưỡng, những vết đau lở đã đóng vẩy và tróc đi, chúng đùa rỡn, nhào tới nhào lui như điên. Một hôm, chúng bắt được mấy con bọ hung, đem sắp thành hàng cho chạy thi và lấy que động viên con nào chạy nhanh nhất ra khỏi một vòng tròn vạch trong đống rác. Một hôm khác, Kunta và Xitafa Xila, thằng bạn đặc biệt của nó ở cạnh lều Binta, tiến công một gò đất, đào lên trục xuất lũ mối mù lòa, không có cánh, sống trong đó và ngắm nhìn chúng túa ra hàng nghìn con, cuống cuồng tháo chạy.
Đôi khi, bọn trẻ xua xục những con sóc nhỏ và rượt đuổi chúng vào tận rừng bụi rậm. Và bọn chúng không khoái gì hơn là vừa la thét vừa ném đá vào những bầy khỉ nhỏ lông nâu, đuôi dài, kéo nhau đi qua, có khi một vài con ném trở lại một hòn đá rồi mới quăng mình theo anh em chúng đang kêu chí chóe, lên những cành cây cao nhất. Ngày nào bọn trẻ con trai cũng đánh vật, túm lấy nhau, gầm gừ, giành từng miếng xoài ra rồi lại bật dậy bắt đầu keo khác, mỗi đứa đều mơ tới ngày trở thành một tay đô vật vô địch của làng Jufurê và được chọn đi dự những cuộc giao đấu kịch liệt với các kiện tướng các làng khác trong những dịp hội mùa.
Những người lớn đi ngang qua bất kỳ chỗ nào gần đám nhóc thường trịnh trọng làm ra vẻ không nhìn thấy hoặc nghe thấy gì, trong khi Xitafa, Kunta và những dứa cùng lứa tuổi gầm thét như sư tử, như voi và hầm hè như lợn rừng, hoặc trong khi bọn con gái - chơi nấu nướng, chăm chút những con búp bê và giã mạch kê - đóng vai những người mẹ, người vợ. Nhưng dù đang chơi hăng đến đâu, bọn trẻ cũng không khi nào thiếu tôn kính đối với mọi người lớn, sự tôn kính mà mẹ chúng đã dạy là bao giờ cũng phải bày tỏ với các bậc cha anh. Lễ phép nhìn thẳng vào mắt những người lớn, lũ trẻ hỏi: Kêrabê? (ông, hoặc bà, chú, bác, cô dì v.v… có được bằng an không ạ) và người lớn bèn đáp: Kêra dorong (vừa đủ, bằng an). Và nếu một người lớn chìa tay ra, lần lượt mỗi đứa trẻ phải đưa cả hai tay xiết chặt lấy, rồi đứng chắp lòng bàn tay lên ngực cho đến khi người lớn đó đi qua.
Việc dạy dỗ Kunta trong gia đình chặt chẽ đến nỗi nó cảm giác là nhất cử nhất động của nó đều khiến Binta bực dọc bật ngót tay tanh tách - nếu không phải là thực sự túm cổ và quất cho một chầu nên thân. Đang ăn mà Binta bắt được cu cậu để mắt vào cái gì khác ngoài thức ăn của mình là y rằng nó xơi liền một cái củng vào đầu. Và nếu sau một ngày chơi đùa miết, trở về lều mà không rửa sạch từng vết lấm bẩn trên mình, là Binta liền vớ lấy búi cây khô lởm chởm dùng thay đá kỳ và bánh xà phòng nhà làm lấy, cọ cho Kunta khiến nó tưởng như sắp bị lột da.
Hễ có giương mắt nhìn chòng chọc vào mẹ, hay bố, hay bất kỳ người đứng tuổi nào khác là ăn một cái tát ngay tắp lự, ý như nó phạm cái tội không kém nghiêm trọng là ngắt quãng câu chuyện của bất cứ người lớn nào. Và đối với nó, nói bất cứ điều gì ngoài sự thật là chuyện không thể tưởng tượng được. Vì xem ra nó chẳng bao giờ có lý do gì để nói dối, nên nó không khi nào làm thế.
Mặc dù Binta dường như không cho là thế, Kunta vẫn cố hết sức là một chú bé ngoan và sớm bắt đầu thực hành những bài học giáo dục gia đình với những đứa trẻ khác. Khi trong bọn chúng, có chuyện bất hòa, như vẫn thường xảy ra luôn - đôi khi phát triển đến mức nặng lời nhiếc móc nhau và bật ngón tay tanh tách vào mặt nhau - Kunta bao giờ cũng quay lưng và đi khỏi, tỏ rõ cái tư cách và sự tự chủ mà mẹ nó đã dạy là những đặc điểm đáng tự hào nhất của bộ lạc Manđinka.
Nhưng hầu như đêm nào Kunta cũng bị phát vào đít vì giở một trò gì xấu với đứa em trai nhỏ - thường thường là nạt em bằng cách gầm gừ dữ tợn hoặc bò bốn chân như con khỉ đầu chó, mắt long xòng xọc và giậm giậm nắm tay xuống đất như hai chân trước đầy móng vuốt của thú rừng. "Tao thì đưa bọn tubôp đến bây giờ!" Binta thường rít lên như vậy với Kunta những khi nó khiến chị mất hết kiên nhẫn nổi xung lên, làm Kunta sợ hết vía, vì các bà già thường hay nói đến những tên da trắng lông lá xồm xoàm, mặt đỏ bự, bộ dạng kỳ lạ, có những chiếc xuồng lớn vẫn lén đến bắt người mang đi khỏi nhà.
Chương 8
Mỗi ngày, vào lúc mặt trời lặn, tuy Kunta và tụi bạn vừa mệt vừa đói vì đùa nghịch, chúng vẫn thi nhau trèo lên những cây nhỏ và chỉ vào quả cầu đỏ thắm đang chìm dần. "Ngày mai, ông mặt trời sẽ còn đẹp hơn nữa cơ!" chúng thường kêu lớn như vậy. Và cả đến những người lớn tuổi ở làng Jufurê cũng ăn bữa chiều cho thật nhanh để ra tụ tập ở ngoài trời trong hoàng hôn thẫm sâu dần, mà reo hò, mà vỗ tay, mà nện trống đón vầng trăng bán nguyệt, tượng trưng cho Chúa Ala, nhô lên vòm trời.
Nhưng khi có mây che liềm trăng thượng tuần như đêm nay, thì mọi người tản ra, hoảng hốt, và đàn ông vào đền cầu nguyện xin tha tội, vì một vầng trăng đầu tháng bị mây phủ có nghĩa là các vị thần phật trên trời có điều không bằng lòng dân làng Jufurê. Sau khi cầu nguyện, cánh đàn ông dẫn những gia đình khiếp đảm của mình đến cây bao-báp, tại đó, trong đêm ấy, Jaliba đã ngồi xổm bên một đống lửa nhỏ, hơ cho căng đến tột cùng mặt trống da dê của mình.
Rụi đôi mắt cay xè vì khói của đống lửa, Kunta nhớ lại những lần mà tiếng trống đàm thoại ban đêm từ nhiều làng khác nhau đến quấy rối giấc ngủ của nó. Tỉnh giấc nó thường nằm nguyên, lắng nghe thật kỹ, những âm thanh và tiết tấu của trống sao mà giống âm thanh và tiết tấu ngôn từ, đến nỗi cuối cùng, nó hiểu ra một số lời, kể về một nạn đói, hay một dịch bệnh, hay việc cướp bóc, đốt phá một làng nào đó, giết dân hoặc bắt người mang đi.
Treo trên một cành cây bao-báp, bên cạnh Jaliba, là một tấm da dê có ghi những dấu hiệu biết nói, nghĩa là do thầy giáo viết lên đó bằng chữ Arập. Trong ánh lửa chập chờn, Kunta ngắm nhìn Jaliba bắt đầu nện rất nhanh và sắc gọn những khuỷu xù xì của bộ dùi gấp khúc lên nhiều chỗ khác nhau của mặt trống. Đó là một thông điệp khẩn cấp mời pháp sư ở gần nhất đến làng Jufurê để đuổi tà ma đi.
Không dám ngước lên nhìn trăng, dân làng vội vã về nhà và sợ hãi vào giường nằm. Nhưng, từng quãng một trong đêm, tiếng thoại của những chiếc trống ở xa các làng khác cũng lặp lại lời của Jufurê kêu gọi pháp sư. Run rẩy dưới tấm chăn da bò, Kunta đoán là trăng non ở chỗ họ cũng bị mây phủ.
Ngày hôm sau, những người thuộc lứa tuổi Ômôrô có nhiệm vụ giúp trai làng canh giữ những cánh đồng sắp chín chống lại sự quấy nhiễu của lũ khỉ đầu chó và chim đang vào kỳ đói. Bọn con trai ở lứa kafô thứ hai 1 được dặn dò là phải đặc biệt cảnh giác khi chăn dê, còn các bà, các mẹ thì quanh quẩn chăm nom bày trẻ sơ sinh và chập chững sát sao hơn lúc bình thường. Những đứa lớn nhất trong lứa kafô đầu tiên, vào tầm Kunta và Xitafa được căn dặn là phải chơi bên ngoài làng, quá hàng rào cao một quãng ngắn, ở đó chúng có thể quan sát kỹ xem có người lạ mặt nào lại gần cây lữ khách cách đấy không xa. Chúng nó làm theo như vậy, nhưng hôm ấy không thấy ai tới cả.
Đến sáng hôm thứ hai, người đó mới tới - một ông cụ rất già chống một cây gậy gỗ và đội một bọc lớn trên cái đầu hói. Phát hiện thấy ông lão, bọn trẻ nhào trở về qua cổng làng, vừa chạy vừa la. Già Nyô Bôtô chồm dậy, tập tễnh bước và bắt đầu nện vào chiếc trống lớn tôbalô gọi cánh đàn ông từ đồng ruộng hối hả bổ về làng một lát trước khi pháp sư tới cổng và bước vào làng Jufurê.
Trong khi dân làng tập hợp quanh ông pháp sư bước tới cây bao báp và thận trọng đặt cái bọc xuống đất. Bất thình lình ngồi xệp xuống, ông lắc lắc một cái túi da dê rúm ró, đổ ra một đống những vật khô đét, một con rắn nhỏ, một cái xương hàm linh cẩu, những chiếc răng khỉ, một cái xương cánh bồ nông, những rễ cây kỳ dị. Đưa mắt nhìn quanh, ông sốt ruột ra hiệu cho đám đông im thin thít dãn ra cho ông rộng chỗ hơn: và dân làng lùi lại trong khi ông bắt đầu run rẩy toàn thân - rõ ràng là đang bị tà ma làng Jufurê tấn công.
Người ông thầy mo quằn quại, mặt mày rúm ró, mắt đảo lên đảo xuống dữ dội, trong khi hai bàn tay run rẩy gắng hết sức bắt cây roi bướng bỉnh chạm vào đống đồ vật huyền bí. Khi đầu roi, do một nỗ lực tột đỉnh, cuối cùng chạm tới được ông ngã ngật người ra đằng sau và nằm sóng sượt như bị sét đánh. Dân làng như nghẹn thở. Nhưng rồi ông bắt đầu từ từ hồi lại. Tà ma đã bị đuổi khỏi. Trong khi ông yếu ớt gắng gượng quỳ dậy, những người lớn trong làng Jufurê - mệt nhoài nhưng nhẹ hẳn người - chạy vội về lều và nhanh chóng trở lại với những quà cáp tới tấp tặng ông lão. Nhà pháp thuật bỏ thêm những thứ này vào chiếc bọc vốn đã to đùng và chất nặng những tặng phẩm của các làng trước, và phút chốc ông lại lên đường để đáp lại lời kêu gọi sắp tới. Chúa Ala, một lần nữa lại mở lượng từ bi xá cho làng Jufurê.
Chương 9
Mười hai tuần trăng đã qua và, cùng với những trận mưa lớn chấm dứt một lần nữa, mùa du lịch của Gămbia bắt đầu. Dọc theo mạng lưới đường bộ hành giữa các làng, khá nhiều lữ khách đi qua hay tạm dừng chân tại Jufurê, đủ để cho Kunta và các bạn chơi của nó hầu như ngày nào cũng phải canh phòng. Hễ có một người lạ mặt xuất hiện, sau khi đưa báo động cho làng biết, chúng lại vội vàng trở ra gặp vị khách khi người đó đến gần cây lữ khách. Mạnh dạn kéo nhau lũ lượt theo bên cạnh người đó, chúng xí xộ hỏi han trong khi đưa cặp mắt sắc sảo truy tìm mọi dấu hiệu về công cán hoặc nghề nghiệp của khách. Nếu tìm ra dấu hiệu nào, chúng bèn đột ngột bỏ vị khách và chạy trước về kể cho những người lớn ở căn lều hôm đó được chọn để tiếp khách. Theo truyền thống cổ xưa, hàng ngày mỗi làng chọn một gia đình khách để biếu không đồ ăn thức uống và lo chỗ tạm trú cho các khách tới địa phương mình, chừng nào họ muốn lưu lại trước khi tiếp tục cuộc hành trình.
Được giao trách nhiệm làm đội canh gác làng, Kunta, Xitafa và những đứa bạn cùng lứa kafô, bắt đầu tự cảm thấy và hành động lớn hơn tuổi của chúng. Giờ đây, mỗi sáng sau khi điểm tâm, chúng tập họp bên sân trường của arafang và lặng lẽ quỳ xuống nghe thầy dạy đám con trai lớn hơn - những đứa thuộc lứa kafô thứ hai, vừa qua tuổi Kunta, từ năm đến chín vụ mưa - bày cho chúng đọc những câu kinh Koran và tập viết với những cây bút bằng thân cỏ rỗng chấm vào thứ mực đen pha bằng nước cam đắng trộn với nhọ nồi.
Khi bọn học trò xong bài và chạy đi - vạt đuôi áo vải bông lật phật đằng sau - để lùa bày dê của làng ra những cánh đồng cỏ rậm chăn chúng ở đó trong ngày. Kunta và các bạn nó cố làm ra vẻ dửng dưng, nhưng thực ra chúng thèm những chiếc sơmi dài cuả bọn con trai lớn hơn chúng cũng như những công việc quan trọng của bọn này. Tuy không nói ra, nhưng chẳng phải chỉ một mình Kunta tự cảm thấy đã lớn, không thể để bị đối xử như một đứa con nít và thả rông trần truồng nữa. Bọn nó tránh những đứa còn đang bú mẹ như Lamin như tránh bệnh và coi những đứa mới chập chhững là không đáng để ý, trừ phi là để phát cho chúng một cái nên thân khi người lớn không ngó tới. Trốn tránh cả sự chăm sóc ân cần của các bà già đã trông nom chúng bao lâu nay, từ những buổi còn lưu lại được trong trí nhớ chúng. Kunta, Xitafa và những đứa trẻ khác nữa, giờ đây, bắt đầu lảng vảng quanh những người lớn vào tuổi cha mẹ chúng, với hy vọng được họ thấy quẩn chân và có thể sai chúng chạy việc vặt gì đó.
Chính vào lúc trước khi mùa gặt tới, một đêm sau bữa ăn tối, Ômôrô rất thản nhiên bảo Kunta hôm sau dậy sớm để giúp vào việc canh giữ mùa màng. Kunta phấn khởi đến nỗi hầu như không ngủ được. Sáng ra, sau khi nuốt vội bữa điểm tâm, nó vui sướng tưởng đến vỡ tim khi Ômôrô đưa cho nó vác cái cuốc, lúc hai bố con xuất phát ra đồng. Kunta và các bạn lao lên lao xuống dọc những luống hoa màu đã chín, hò hét và vung gậy đuổi đám lợn rừng và khỉ đầu chó từ rừng mò tới hầm hè định tróc rễ hoặc moi bới lạc. Bằng những cục đất và những tiếng la thét, chúng đánh lui từng đàn chim hét vừa kêu rít vừa xà thấp trên ruộng mạch kê vì các bà già thường kể rằng chim đói phá các ruộng chín cũng nhanh không kém gì dã thú. Thu vén nhặt nhạnh những nắm mạch kê và lạc mà cha chú đã hái hoặc bới lên xem thử đã chín thật chưa và mang những bầu nước lạnh tới cho người lớn uống, bọn chúng làm việc suốt ngày nhanh thoăn thoắt, lòng đầy tự hào.
Sáu ngày sau, Chúa Ala phán truyền là bắt đầu mùa gặt. Sau khi cầu kinh xuba lúc rạng đông, các nông dân cùng con trai họ - một số chọn mấy đứa mang theo những trống tamtăng và xaraba nhỏ - ra đồng và chờ đợi, nghênh đầu dỏng tai nghe. Cuối cùng, trống cái lớn tôbalô của làng rộn lên và đám nông dân lao vào công việc gặt hái. Trong khi jaliba và những tay trống khác bước vào giữa đám họ đánh theo một nhịp khớp với các động tác của họ, mọi người bắt đầu cất tiếng hát. Trong niềm hân hoan, thỉnh thoảng một nông dân tung cuốc lên xoáy tròn theo một tiếng trống rồi lại bắt lấy nó vào phách trống tiếp theo.
Lứa tuổi của Kunta cũng làm mướt mồ hôi cùng với cha chú, rũ những búi lạc cho sạch đất. Khoảng giữa buổi sáng, là đợt nghỉ đầu tiên - rồi đến trưa, những tiếng reo vui nhẹ nhõm thốt lên khi toán đàn bà, con gái mang bữa trưa tới. Đi thành một hàng dọc, cũng hát những bài ca mùa gặt, họ nhấc những chiếc nồi từ trên đầu xuống lấy muôi múc vào những trái bầu rỗng, dọn ra mời các tay trống và thợ gặt, đám này ăn xong rồi ngủ trưa cho đến khi trống tôbalô lại vang lên lần nữa.
Đến cuối ngày đầu tiên ấy, từng đống hoa màu đã thu hoạch, rải rác điểm khắp cánh đồng. Mồ hôi và bùn đất nhễ nhại, đám nông dân mệt mỏi đi tới dòng suối gần nhất, cởi quần áo, nhảy tùm xuống nước, cười vang và vỗ bì bạch, tắm mát và rửa ráy sạch sẽ. Rồi họ hướng về nhà, vừa đi vừa đập những con ruồi vo ve quanh thân thể bóng loáng của họ. Càng tới gần làn khói bốc ra từ bếp của các bà các chị bay về phía họ, mùi thịt quay càng khêu gợi cồn cào, món này sẽ được dọn cho họ mỗi ngày ba lần trong suốt thời gian gặt cho đến khi nào kết thúc.
Đêm ấy, sau khi nhồi nhét đầy tễ, Kunta nhận thấy - như nó đã thấy thế mấy đêm rồi - mẹ nó đang khâu khâu vá vá cái gì. Mẹ chẳng nói gì về cái đó mà Kunta cũng chẳng hỏi, nhưng sáng hôm sau nó vác cuốc lên và bước ra khỏi cửa, mẹ bèn nhìn nó và làu bàu nói: " Sao con không mặc quần áo vào?"
Kunta quay phắt lại. Kìa, một cái áo dài mới toanh treo trên mắc. Cố giấu nỗi phấn khởi của mình, nó làm ra vẻ thản nhiên mặc áo vào và nhẩn nha bước ra khỏi cửa - đến đây, nó mới vùng chạy. Những đứa khác cùng lứa tuổi nó đã ra ngoài lều - tất cả bọn chúng, cũng như nó, lần đầu tiên trong đời được mặc quần áo, tất cả chúng đều nhảy cẫng lên, la hét và cười vang vì cuối cùng sự trần truồng của chúng đã được che đậy. Giờ đây chúng đã chính thức thuộc lứa kafô thứ hai. Chúng đang trở thành người lớn.
Chương 10
Cho tới lúc Kunta đủng đỉnh trở về căn lều của mẹ đêm hôm ấy, nó đã nắm chắc là mọi người trong làng Jufurê đều đã trông thấy nó mặc áo dài. Mặc dù làm việc không ngừng suốt ngày, nó vẫn chẳng thấy mệt tí nào và biết rằng mình sẽ không thể đi ngủ vào cái giờ thường lệ. Giờ đây nó đã là người lớn, có lẽ Binta sẽ để cho nó thức khuya hơn. Nhưng ít phút sau khi Lamin ngủ, cũng như mọi bữa, Binta liền bảo nó vào giường nằm - kèm theo lời nhắc là phải treo áo lên.
Khi nó quay lưng định đi, ra mặt hờn dỗi vừa đủ mức mà nó nghĩ không đến nỗi phải ăn đòn, thì Binta gọi lại - có lẽ để mắng về tội hờn dỗi, Kunta nghĩ vậy, hay có thể là vì thương hại nó mà thay đổi ý kiến chăng. "Bố muốn gặp con sáng mai đây." mẹ nó thản nhiên nói. Kunta biết rằng tốt hơn là đừng có hỏi tại sao, nên nó chỉ nói: "Thưa mẹ, vâng." Và chúc mẹ ngủ ngon. Cũng may mà nó không mệt, vì dù sao đi nữa, nó cũng không thể ngủ ngay được, nó nằm dưới tấm chăn da bò, tự hỏi mình đã làm điều gì bậy bạ, như vẫn thường xảy ra luôn. Nhưng vắt óc mãi, nó vẫn không nghĩ ra chuyện gì, nhất là một chuyện tệ hại đến nỗi Binta không tự tay trừng phạt mà phải đến bố nó, bởi lẽ một người bố chỉ nhúng vào khi có chuyện gì ghê gớm lắm. Cuối cùng nó thôi không thắc mắc nữa và ngủ thiếp đi.
Vào lúc điểm tâm sáng hôm sau, Kunta xìu đến nỗi hầu như quên cả niềm vui về chiếc áo dài, mãi cho đến khi thằng bé Lamin trần truồng tình cờ cọ mình vào nó. Kunta giật phắt tay lên định đẩy nó ra, nhưng thấy Binta quắc mắt nhìn, lại không dám. Ăn xong, Kunta quanh quẩn một lát, hy vọng Binta sẽ nói thêm điều gì, nhưng khi chị làm như thậm chí đã không bảo gì nó đêm qua, thằng bé đành hậm hực rời khỏi lều và lững thững bước một, đi tới lều Ômôrô, khoanh tay đứng trước cửa.
Khi Ômôrô chui ra và lẳng lặng đưa cho con trai một cái ná bắn đá nho nhỏ, mới tinh, Kunta gần như ngừng thở. Nó đứng nhìn xuống cái súng, rồi lại ngước lên nhìn bố, không biết nói gì. "Đây là của con, vì con đã thuộc lứa kafô thứ hai. Con phải đảm bảo chớ bắn quàng xiên và đã bắn cái gì là phải trúng".
Kunta chỉ nói: " Vâng, thưa bố" lưỡi vẫn líu lại không thốt ra được lời nào nữa.
"Thêm nữa, nay con đã bước sang kafô thứ hai," Ômôrô nói tiếp, "thế có nghĩa là con sẽ bắt đầu chăn dê và đi học. Hôm nay, con hãy đi lùa dê với Tumani Turay. Nó với bọn trai lớn sẽ dạy con. Hãy chú ý nghe bọn nó. Và sáng mai, con sẽ tới sân trường." Ômôrô trở vào lều và Kunta lao đi tới các chuồng dê, ở đó nó thấy thằng bạn Xitafa và số còn lại thuộc kafô nó, tất cả đều mặc áo dài mới và nắm chắc những chiếc ná mới - những đứa bố chết rồi thì chú, bác hoặc anh lớn làm cho.
Bọn con trai lớn mở cửa chuồng và bầy dê be be nhẩy ra, đói thèm bữa gặm cỏ trong ngày. Trông thấy Tumani, con trai đầu lòng của đôi vợ chồng bạn thân thiết của Ômôrô và Binta, Kunta tìm cách sán lại gần, nhưng Tumani cùng bọn bạn thảy đều lùa dê xô vào đám trẻ nhỏ đang chen nhau né ra. Nhưng chẳng mấy chốc, bọn lớn khanh khách cười cùng lũ chó uôlô (1)(loại chó lớn để chăn gia súc, như chó becgiê) đã xua đàn dê hối hả theo con đường lầm bụi, với lứa kafô hoang mang chạy theo sau, vừa nắm chặt những chiếc ná bắn đá vừa cố phủi những vết lấm trên áo.
Tuy đã quen thuộc với dê là thế, Kunta vẫn chưa hề biết chúng chạy nhanh đến mức nào. Trừ một số cuộc đi dạo với bố, nó chưa bao giờ ra khỏi làng xa như giờ đây đàn dê đang dẫn bọn nó tới một bãi chăn rộng đầy cỏ và bụi cây thấp, một mé là rừng và mé kia là cánh đồng của nông dân trong làng. Bọn lớn uể oải đứa nào đứa nấy thả đàn của mình ở những đám cỏ riêng rẽ, trong khi lũ chó uôlô đi quanh quanh hoặc nằm xuống gần bầy dê.
Cuối cùng, Tumani quyết định để mắt tới Kunta đang lẽo đẽo theo sau, nhưng nó làm như thằng bé là một giống sâu bọ nào đấy. "Mày có biết giá trị của một con dê thế nào không?" nó hỏi và Kunta chưa kịp thừa nhận rằng mình không biết chắc chắn lắm, nó đã nói: "Này nhé, mày mà để mất con nào bố mày sẽ cho mày biết!" Và Tumani bắt đầu lên lớp về những điểm phải đề phòng trong việc chăn dê. Trước hết là nếu thằng nào không chú ý hoặc lười nhác để một con dê nào lạc khỏi đàn, thì vô số điều khủng khiếp sẽ có thể xảy ra. Chỉ về phía rừng, Tumani bảo rằng chẳng hạn, ở ngay kia kìa có những con sư tử và báo thường hay lết bụng trườn qua đám cỏ cao, và chỉ nhảy một phát là có thể xé một con dê ra làm hai mảnh. Nhưng nếu có một thằng bé con ở khá gần", Tumani nói "thì đó là một món còn ngon hơn dê."
Hài lòng nhận thấy Kunta tròn xoe mắt, Tumani tiếp tục. Một điều thậm chí còn nguy hiểm hơn cả sư tử và báo là bọn tubốp cùng lũ tay sai da đen giúp việc thường bò qua đám cỏ cao để bắt người, đem đến một nơi thật xa để ăn thịt. Trong năm vụ mưa nó làm công việc chăn dê - nó kể - đã có chín thằng ở Jufurê và nhiều thằng nữa ở các làng lân cận bị bắt đi. Kunta không biết đứa nào trong số con trai của làng Jufurê bị mất tích, nhưng nó nhớ là nó đã sợ hết vía khi nghe kể về bọn ấy, đến nỗi trong mấy ngày liền, nó không dám đi quá lều mẹ đến một tầm tay ném.
"Nhưng ngay cả ở bên trong cổng làng, mày cũng chả an toàn đâu." Tumani nói, như đọc được ý nghĩ của Kunta. Nó kể với Kunta; nó biết một gã ở Jufurê mất hết của cải vì một bày sư tử giết sạch đàn dê của y, thế rồi ít bữa sau cái đêm có hai đứa con trai thuộc lứa kafô thứ ba (10 đến 14 tuổi) mất tích ngay trong lều của chúng, người ta bắt được y mang tiền của bọn tubốp trong người. Y bảo là bắt được số tiền ấy trong rừng, nhưng ngay trước hôm đem ra xử ở Hội đồng Bô lão, y đã biến mất tăm. "Hồi ấy, chắc mày còn bé quá, chả nhớ được chuyện này." Tumani nói. "Nhưng những điều như vậy vẫn còn xảy ra. Cho nên, chớ có đi đâu khuất khỏi tầm mắt của những người mày tin cậy. Và khi mày ra đây chăn dê, đừng có bao giờ để chúng đi xa đến độ có thể phải xục vào rừng sâu tìm chúng, kẻo rồi gia đình mày có bữa chẳng gặp lại được mày đâu."
Trong khi Kunta đứng run lên vì sợ, Tumani nói thêm rằng ngay cả nếu nó không bị một con mèo lớn hoặc một tên tubốp bắt, nó vẫn có thể mắc chuyện lôi thôi nếu một con dê tách khỏi bầy, và một khi chú dê đào tẩu vào khu trại mạch kê và lạc của một người nào đó gần đấy, thì đừng hòng bắt lại được. Và một khi cả người lẫn chó đều đổ đi tìm, bầy đàn còn lại có thể chạy theo con dê lạc, mà dê đói thì thậm chí có thể phá hoại cánh đồng của một nông dân nhanh hơn là khỉ đầu chó, linh dương hoặc lợn rừng nữa kia.
Đến trưa, khi Tumani chia một suất ăn mẹ nó đã gói cho nó với Kunta, thì toàn thể bọn trẻ mới bước vào lứa kafô thứ hai đã nuôi trong lòng một niềm kính trọng lớn hơn đối với lũ dê từ xưa tới nay vẫn quanh quất ở bên chúng. Ăn xong, mấy đứa trong lứa kafô của Tumani nằm kềnh ra dưới bóng những cây nhỏ gần đấy và số còn lại đi loanh quanh bắn chim bằng những cây súng bật học trò chưa được thử thách của mình. Trong khi Kunta và các bạn cố canh giữ đàn dê, bọn lớn hét lác, lúc dặn dò, lúc mắng mỏ và ôm bụng cười khi thấy tụi nhỏ cuống cuồng la lối và xông tới bất cứ con dê nào ngóc đầu lên nhìn xung quanh. Lúc nào Kunta không rượt theo dê, thì lại đưa mắt nơm nớp nhìn về phía rừng, đề phòng trường hợp có con gì rình mò ở đó định ăn thịt nó.
Xế chiều, khi dê sắp no cỏ, Tumani gọi Kunta đến chỗ nó và nghiêm nghị nói: "Mày muốn tao phải kiếm củi thay cho mày đấy phỏng?" Đến lúc đó, Kunta mới nhớ ra là đã bao lần nó thấy bọn chăn dê chiều chiều trở về, mỗi đứa đều đội một bó củi để đóng góp vào đống lửa ban đêm của làng. Vừa phải để mắt đến đàn dê, vừa phải coi chừng phía rừng, Kunta và các bạn chỉ có thể chạy quanh tìm kiếm và bứt những bụi rậm, nhặt những nhánh cây nhỏ rơi xuống đất đã đủ nỏ để cháy tốt. Kunta chất số củi của mình thành một mớ mà nó cho là vừa sức, có thể đội lên đầu được, nhưng Tumani liền giễu và ném thêm vào mấy que nữa. Rồi Kunta lấy một sợi dây leo xanh, mảnh buộc mớ củi lại, trong bụng không chắc đã nhấc nổi nó lên đầu, chưa kể còn phải đi cả quãng đường từ đó về làng.
Dưới con mắt quan sát của bọn lớn, Kunta và các bạn nó cũng tìm được cách nâng những bó củi lên đầu và bước thấp bước cao theo chân lũ chó uôlô và đàn dê, những con vật này lại thuộc đường về nhà hơn là toán mục đồng mới. Giữa tiếng cười chế giễu của bọn lớn, Kunta và những đứa kia cứ níu chặt lấy bó củi trên đầu để giữ cho nó khỏi rơi. Chưa bao giờ Kunta thấy làng mình đẹp hơn lúc này, vì nó đã mệt thấu xương; nhưng chúng vừa mới bước vào bên trong cổng làng, bọn lớn đã làm rầm rĩ ỏm tỏi lên, nào quát tháo ra lệnh, nhắc nhở dè chừng, nào nhảy chồm chồm xung quanh, sao cho tất cả những người lớn ở trong trong tầm nhìn và tầm nghe đều biết rằng chúng đang hoàn thành nhiệm vụ và cái ngày huấn luyện những thằng nhóc vụng về này quả là một thực nghiệm hết sức vất vả đối với chúng. Dù sao bó củi của Kunta cũng an toàn đến được sân nhà arafang Brima Xêxay, mà sáng hôm sau, Kunta và lứa kafô mới của nó sẽ bắt đầu theo học.
Ngay sau khi ăn sáng, các chú mục đồng mới - mỗi đứa hãnh diện mang một tấm bảng gỗ, một cái bút lông chim và một đoạn tre đựng bồ hóng để hòa với nước làm mực - hồi hộp kéo nhau vào sân trường. Coi chúng thậm chí còn ngu xuẩn hơn những con dê của chúng, arafang ra lệnh cho bọn trẻ ngồi xuống. Vừa nói dứt lời, ông đã bắt đầu giáng cây thước gỗ vào bọn chúng, làm chúng nháo nhác vì biểu hiện đầu tiên của chúng để tuân thủ mệnh lệnh ông không nhanh chóng như ông muốn. Mặt cau có giận dữ, ông đe chúng thêm rằng chừng nào chúng còn học lớp ông, bất cứ đứa nào làm một tiếng động nhỏ, trừ trường hợp xin phép nói, sẽ ăn roi nữa - ông dữ tợn vung roi vào mặt bọn chúng - và sẽ bị đuổi về nhà với bố mẹ. Và hình phạt đó cũng sẽ áp dụng với bất cứ đứa nào đến lớp muộn, giờ học được ấn định vào sau bữa điểm tâm và cả ngay sau khi chúng lùa dê trở về.
"Các con không còn là trẻ nít nữa và bây giờ các con có những trách nhiệm rồi." arafang nói. "Hãy lo làm tròn những trách nhiệm ấy." Sau khi quy định những kỷ luật ấy, ông thông báo rằng giờ học chiều hôm ấy, chúng sẽ bắt đầu nghe ông đọc một số câu kinh Koran mà chúng phải nhớ và đọc thuộc lòng trước khi học sang những môn khác. Rồi ông cho chúng ra về, khi bọn học trò lớn hơn - những mục đồng cũ - bắt đầu tới. Tụi nầy ngó bộ còn sợ sệt hơn cả lứa kafô của Kunta nữa kia, bởi vì đó là ngày thi kiểm tra kết thúc của chúng về khoa mục đọc thuộc lòng kinh Koran và viết chữ Arập, kết quả của đợt kiểm tra này sẽ có ảnh hưởng quyết định đến việc chúng được chính thức chuyển qua cương vị lứa kafô thứ ba.
Hôm ấy, lần đầu tiên trong đời, lứa kafô của Kunta hoàn toàn tự lực mở cửa chuồng dê và lùa chúng đi long tong theo một hàng xộc xệch theo con đường mòn dẫn ra khu vực thả gia súc. Trong một thời gian khá dài sắp tới, có lẽ bầy dê sẽ ít được ăn hơn mọi khi, vì Kunta và các bạn nó cứ mỗi lần thấy chúng đi mấy bước tới một đám cỏ mới, là lại đuổi và la hét. Nhưng chính Kunta còn cảm thấy bị truy dồn hơn cả đàn dê của nó nữa kia. Hễ nó cứ ngồi xuống để ngẫm nghĩ cho ra ý nghĩa của những chuyển biến này trong đời mình, là y như rằng lại có việc phải làm, lại phải chạy chỗ này chỗ nọ. Bận bịu đủ thứ, nào là chăn dê suốt ngày, nào là đến học arafang sau bữa ăn sáng và sau khi lùa dê về, nào là làm sao thu xếp tập bắn ná tí chút trước khi trời tối, xem ra nó không thể tìm đâu ra thì giờ để suy nghĩ thật sự nữa.
Chương 11
Việc thu hoạch lạc và mạch kê đã hoàn thành, tiếp theo là vụ gặt lúa của phụ nữ. Không người đàn ông nào giúp vợ mình; thậm chí bọn con trai như Xitafa và Kunta cũng không giúp mẹ chúng, vì làm lúa là công việc của riêng phụ nữ thôi. Bình minh vừa chớm tia sáng đầu tiên đã thấy Binta cùng Jankay Turay và các phụ nữ khác cúi gập mình trên cánh đồng lúa chín, cắt những thân lúa dài vàng óng để phơi khô mấy ngày trên lối đi, trước khi chất vào xuồng chở về làng, ở đó cánh phụ nữ cùng các con gái họ sẽ đánh đống gọn ghẽ trong kho chứa của mỗi gia đình Nhưng ngay cả khi gặt lúa xong, cánh phụ nữ vẫn không được nghỉ ngơi chút nào, vì bây giờ họ lại phải giúp cánh đàn ông thu nhặt số bông đã được để lại mãi cuối tận cuối vụ nhằm phơi thật lâu dưới ánh nắng ấm và, do đó, se thành chỉ tốt hơn cho đàn bà khâu và thêu thùa.
Vì ai nấy đều mong chờ bảy ngày hội mùa hàng năm của làng Jufurê, cánh phụ nữ giờ đây lại hối hả may quần áo mới cho gia đình. Nhiều tối, Kunta buộc phải trông thằng em nhỏ Lamin vòi quấy, trong khi Binta quay bông, tuy nhiên nó biết chớ có dại mà lộ vẻ bực mình ra mặt. Nhưng Kunta lại có dịp vui sướng khi được mẹ đưa đến người thợ dệt của làng, Đembô Đipha, nó say mê ngắm bà trong khi cái khung cửi thủ công khẳng khiu của bà dệt những thoi chỉ thành những tấm vải bông. Trở về nhà, Binta để cho Kunta rót nước rỏ giọt qua tro củi làm chất nước kiềm mạnh hòa lẫn với lá chàm giã nhỏ để nhuộm vải thành màu xanh thẫm. Tất cả phụ nữ ở Jufurê đều làm vậy và chẳng mấy chốc những tấm vải của họ được phơi ra trên những bụi cây thấp, điểm trang cho làng xóm những dải băng đầy màu sắc - đỏ, vàng, lục cũng như xanh da trời.
Trong khi đàn bà se sợi và khâu may, nam giới cũng làm việc cật lực để hoàn thành những nhiệm vụ được giao cho xong trước khi vào hội mùa - và trước khi mùa nóng tới khiến cho không thể làm được công việc nặng nhọc. Lũy tre làng được vá lại ở những chỗ đổ hoặc gẫy do bò, dê cọ lưng vào. Những căn lều trát bùn bị những trận mưa lớn làm hư hại nay được chữa lại, và mái mới đã thay thế mái cũ dột nát. Một số cặp trai gái sắp cưới cần có nhà mới và Kunta may mắn được cùng những đứa trẻ khác dầm đất nhào nước thành thứ bùn mịn, dầy mà cánh đàn ông dùng để đắp tường cho những căn lều mới.
Vì trong thùng nước múc ở giếng lên đã thấy vẩn bùn, một người trong toán đàn ông bèn tụt xuống xem và phát hiện ra là đám cá con nuôi trong giếng để ăn sâu bọ, đã chết trong làn nước âm u. Cho nên mọi người quyết định phải đào một giếng mới. Kunta quan sát những người đàn ông đứng xuống ngập tới vai trong cái hố mới và chuyền lên những cục đất sét trắng ngả sang màu lục to bằng quả trứng một. Những cục này lập tức được đem đến cho những phụ nữ có mang trong làng và được ăn ngấu nghiến. Thứ đất sét này, Binta bảo nó, làm cho đứa hài nhi cứng xương hơn.
Được để mặc, Kunta, Xitafa và lũ bạn dùng phần lớn quãng thời gian năm giờ của chúng vào việc chạy quanh khắp làng chơi trò đi săn bằng những cây ná mới. Bắn vào hầu hết mọi thứ - và may mắn thay, chẳng trúng cái gì cả - tụi trẻ làm náo động lên tới mức có thể làm khiếp vía cả một rừng súc vật. Cả đến bọn lít nhít vào lứa kafô của Lamin cũng chơi rông, hầu như được thả lỏng vì không có ai ở làng Jufurê bận bịu hơn các bà già, những ngày này, các bà phải làm đến tận khuya để đáp ứng yêu cầu của các cô gái chưa chồng trong làng về khoản độn tóc để mang vào dịp hội mùa. Các loại búi tóc nhỏ, đuôi sam và trọn bộ tóc giả tết bằng những sợi được gỡ rất cẩn thận từ những lá xigan đang mục hoặc từ vỏ cây bao-báp ngâm nước. Độn tóc bằng sợi xigan thô đỡ tốn hơn độn tóc bằng sợi bao-báp mềm, óng, loại này tết mất nhiều thời gian đến mức một bộ tóc giả trọn vẹn có thể đáng giá ngang với ba con dê. Nhưng các khách hàng bao giờ cũng to mồm cò kè dằng dai, vì biết rằng nếu liến láu miệng mà cả độ một giờ, các bà già sẽ bùi tai mà tính bớt cho.
Ngoài những bộ tóc giả mà bà làm rất đẹp, già Nyô Bôtô còn khiến cho tất cả phụ nữ trong làng đều thích vì bà lớn tiếng bất chấp cái truyền thống cổ hủ buộc đàn bà bao giờ cũng phải tỏ ra hết sức kính trọng đàn ông. Sáng nào bà cũng ngồi chễm chệ trước cửa lều, mình trần, khoan khoái hưởng ánh nắng mặt trời trên làn da thô cứng già nua của mình và bận bịu tết độn tóc - nhưng không bao giờ bận bịu đến mức để lọt một người đàn ông nào đi ngang qua. "Hà!" những lúc ấy bà thường kêu lớn "Nhìn xem kìa! Thế mà họ tự xưng là đàn ông! Chao, vào thời buổi của ta, đàn ông mới ra đàn ông chứ!" Và những gã đàn ông đi ngang - vốn chờ đợi cái điều bao giờ cũng xảy tới - chỉ còn thiếu nước ù té chạy để thoát khỏi miệng lưỡi bà, cho đến chiều, cuối cùng, già Nyô Bôtô ngủ thiếp đi, những độn tóc đang tết đặt trong lòng và những đứa bé mới chập chững biết đi, đặt dưới sự chăm sóc của bà, khanh khách cười khi thấy bà ngáy ầm ầm.
Bọn con gái thuộc lứa kafô thứ hai, trong thời gian đó, giúp mẹ và chị nhặt đầy những giỏ tre nào rễ cây làm thuốc đến độ chín, nào gia vị để nấu nướng, đem phơi dưới nắng. Khi các hạt hoa mầu được đem giã, bọn con gái gạt vỏ và trấu đi. Bọn chúng còn giúp gia đình giặt giũ, đập vào đá những quần áo bẩn đã được vò sùi bọt lên bằng thứ xà phòng ram ráp đỏ kệch mà mẹ chúng làm bằng nước kiềm và dầu dừa.
Khi công việc chủ yếu của cánh đàn ông đã xong xuôi - chỉ mấy ngày trước tuần trăng mới, thời điểm mở đầu hội mùa ở các làng trong toàn Gămbia - âm thanh của các nhạc cụ bắt đầu vang lên đây đó trong làng Jufurê. Trong khi các nhạc công của làng biểu diễn trên những cây đàn kora hai mươi bốn dây, những trống phách và balafông - một loại nhạc cụ du dương làm bằng vỏ bầu buộc dưới những phím gỗ dài, ngắn khác nhau, đánh bắng vồ - từng đám đông nho nhỏ tụ tập quanh họ, vỗ tay và nghe. Đang lúc họ chơi nhạc, Kunta và Xitafa cùng các bạn chăn dê trở về, cũng kéo đến quanh đó thổi sáo trúc, rung chuông và lúc lắc xủng xoảng những trái bầu khô…
Phần đông đám nam giới giờ đây xả hơi, chuyện gẫu và ngồi xổm quanh quẩn dưới bóng cây bao báp. Những người vào lứa tuổi Ômôrô và trẻ hơn kính cẩn tách ra khỏi Hội đồng Bô lão lúc này đang vạch những quyết định hàng năm trước hội mùa về những công việc của làng xóm. Thỉnh thoảng, hai ba gã trai trẻ lại đứng lên, vươn vai và sải bước quanh làng, những ngón tay út ngoắc hờ vào nhau theo phong thái yayo lâu đời của những người Phi.
Nhưng một số người thui thủi hàng giờ liền kiên nhẫn gọt đẽo những miếng gỗ có kích thước và hình thù khác nhau. Kunta và các bạn thậm chí thỉnh thoảng còn tạm gác trò bắn ná cốt để đứng xem các bác thợ chạm tạo nên những vẻ ghê sợ và huyền bí trên những chiếc mặt nạ sắp tới sẽ được dùng trong hội mùa. Nhiều người khác đẽo những hình người hoặc thú, tứ chi sát vào mình, bàn chân bẹt và đầu dựng đứng.
Binta và những phụ nữ khác, hằng ngày tranh thủ được ít phút xả hơi nào là đến quây quần quanh cái giếng mới của làng để uống hớp nước mát và chuyện gẫu giây lát. Nhưng giờ đây, hội đã đến sát nút mà họ vẫn còn ối việc phải làm, nào may cho xong quần áo, nào dọn dẹp lều cho sạch sẽ, nào ngâm tẩm lương khô, nào giết dê để quay. Và nhất là phụ nữ phải tự trang điểm cho thật lộng lẫy, thật đẹp để dự hội.
Theo Kunta, các cô gái tinh nghịch mà nó luôn luôn thấy trèo cây thoăn thoắt, giờ đây nom thật dở hơi dở hồn với cái kiểu õng ẹo làm ra vẻ thẹn thò, nhút nhát. Thậm chí họ không bước được cho ngay ngắn nữa. Và nó không thể hiểu tại sao cánh nam giới cứ ngoái lại để ngắm họ - cái bọn vụng về không làm sao giương cung bắn nổi một mũi tên, dù có cố gắng.
Nó nhận thấy miệng một số cô gái ấy sưng lên to bằng nắm đấm, phía bên trong môi thì lấy gai chích và lấy nhọ nồi sát đen nhánh. Cả Binta, cùng với mọi người phái nữ trong làng trên tuổi mười hai vụ mưa, đêm đêm cũng nấu sôi rồi để nguội một nồi nước lá funđanô vừa mới giã để ngâm chân - và cả hai lòng bàn tay trắng nhợt - cho đến lúc đen như mực tàu. Khi Kunta hỏi tại sao, mẹ nó bảo: cút đi. Nó bèn hỏi bố và bố bảo nó: "Người phụ nữ càng đen bao nhiêu càng đẹp bấy nhiêu."
"Nhưng tại sao lại thế?" Kunta hỏi.
"Một ngày kia," Ômôrô nói, "con sẽ hiểu."
Chương 12
Kunta chồm dậy khi trống tôbalô vang lên vào lúc rạng đông. Rồi nó, Xitafa cùng các bạn chạy giữa đám người lớn đến cây bông gạo, nơi những tay trống của làng đã nện thì thùng, tay hoa lên loang loáng trên mặt da dê căng, vừa đánh vừa la hét, quát mắng những cái trống như thể chúng là những vật sống vậy. Đám đông dân làng mặc quần áo ngày hội đang từng người một tập hợp lại, chẳng mấy chốc đã bắt đầu hưởng ứng, từ từ nhún nhảy tay, chân, mình, rồi mỗi lúc một nhanh hơn cho đến khi hầu hết mọi người đều tham gia cuộc nhảy.
Kunta đã thấy những nghi lễ tương tự như thế vào nhiều vụ gieo trồng và gặt hái, vào dịp đàn ông xuất phát đi săn, vào những dịp cưới xin, sinh đẻ, ma chay, nhưng chưa bao giờ sự nhảy múa lại làm nó xúc động bằng lúc này - theo một cách nói không hiểu nổi mà cũng không bao giờ cưỡng lại được. Giữa đám người quay cuồng, nhảy nhót, uốn éo, một số lại đeo mặt nạ, Kunta hầu như không tin ở mắt mình khi nó trông thấy già Nyô Bôtô dẻo dai đột nhiên rít lên man dại, vung cả hai tay lên trước mặt, rồi loạng choạng chúi về đằng sau như khiếp sợ một vật ghê sợ gớm ghiếc vô hình nào đó. Rứt bỏ một gánh nặng tưởng tượng, bà vừa quật vừa đá vào không khí cho đến khi quỵ xuống.
Kunta quay hết bên nọ sang bên kia, trân trân ngó vào nhiều người nó quen biết trong đám khiêu vũ. Dưới một trong những cái mặt nạ gớm ghiếc, nó nhận ra alimamô đang văng mình oằn oại mãi như thể một con rắn quấn quanh một thân cây, Nó thấy một số người mà nó nghe nói là còn già hơn cả bà Nyô Bôtô cũng rời khỏi lều, chật chưỡng trên đôi chân ống sậy, lập cập đôi cánh tay nhăn nheo, hiêng hiếng cặp mắt kèm nhèm dưới ánh nắng, tới nhảy múa dăm ba bước loạng choạng. Rồi mắt Kunta trố ra khi bắt gặp bố mình. Hai đầu gối Ômôrô cất cao đảo đảo, chân giậm bụi mù lên. Với những tiếng kêu the thé, anh lùi lại đằng sau, các bắp thịt rung lên, rồi lao về phía trước, đấm thùm thụp vào ngực và nhảy chồm chồm, xoáy người trong không để rồi rơi bịch xuống với những tiếng ậm è nặng nhọc.
Tiếng trống nện đều đặn tựa nhịp tim đập dường như rộn lên thình thình không những ở tai Kunta mà cả ở trong tứ chi nó nữa. Hầu như một cách vô thức, tựa hồ trong cơn mơ, nó cảm thấy toàn thân bắt đầu run rẩy và đôi cánh tay đập đập, chẳng mấy chốc nó cũng nhảy chồm lên, hò hét cùng với những người khác mà nó thôi không buồn để ý tới nữa. Cuối cùng, nó vấp rúi và ngã xuống, kiệt lực.
Nó gượng dậy và rún đầu gối bước tới vạch biên - lòng cảm thấy một nỗi kỳ dị sâu sắc trước nay chưa từng biết tới. Bàng hoàng, sợ hãi và phấn khích, nó trông thấy không chỉ riêng Xitafa mà cả những đứa khác cùng lứa kafô đang nhảy múa ngoài đó giữa đám người lớn và Kunta lại nhảy. Từ đứa rất bé đến các cụ già lụ khụ, dân làng cứ nhảy múa hoài suốt cả ngày, những người nhảy và những tay trống có ngừng chăng cũng chẳng phải để ăn hoặc uống, mà chỉ để lấy hơi mà thôi. Nhưng đêm đó, khi Kunta gục xuống ngủ lịm, trống vẫn tiếp tục đổ hồi.
Ngày thứ hai của hội liên hoan mở đầu bằng một cuộc diễu hành của những nhân vật danh dự, ngay sau buổi trưa. Đi đầu đoàn diễu hành là arafang alimamô, các vị bô lão, các nhà đi săn, các đô vật và một số người khác mà Hội đồng Bô lão đã ghi tên vì những nghĩa cử quan trọng của họ từ hội mùa lần trước. Mọi người khác đi nối đuôi theo sau, ca hát và hoan hô trong khi các nhạc công dẫn họ thành một hàng ngoằn ngoèo rồng rắn ra quá ngoài làng. Và khi họ ngoặt vòng quanh cây lữ khách, Kunta và lứa kafô của nó lao lên, hình thành cuộc diễu hành riêng của bọn nó, rồi lũ lượt nhào tới nhào lui qua mặt đám người lớn đang đều bước, chúng vừa đi vừa cúi chào và mỉm cười, thoăn thoắt bước theo nhịp sáo, chuông và phách của chúng. Bọn trẻ diễu hành thay phiên nhau đóng vai trò danh dự, đến lượt Kunta, nó vênh vênh váo váo dạo quanh, đầu gối cất cao, thực sự cảm thấy mình rất quan trọng. Đi ngang qua đám người lớn, nó bất chợt thấy cả Ômôrô và Binta đều đưa mắt nhìn nó và biết hai người lấy làm hãnh diện vì con trai mình.
Bếp của tất cả phụ nữ trong làng đều bày ra hàng loạt thức ăn công khai mời bất cứ ai đi ngang muốn dừng lại một lúc và thưởng thức một món. Kunta và các bạn cùng lứa kafô chén đẫy tễ nhiều bát thịt hầm với gạo ngon tuyệt. Ngay cả thịt quay - dê và thú rừng - cũng ê hề, và bọn con gái có nhiệm vụ đặc biệt là giữ cho những giỏ tre luôn luôn đầy mọi thứ trái cây có thể kiếm được.
Khi không nhồi nhét dạ dày thì bọn con trai ùa ra cây lữ khách đón những người khách lạ phấn khởi kéo nhau vào làng. Một số ở lại qua đêm, nhưng phần lớn chỉ lưu lại mấy giờ, trước khi tiếp tục đến dự hội ở làng bên. Những khách từ Xênêgan dựng những quày sặc sỡ trưng bày các súc vải hoa. Nhiều người khác mang tới những bao tải nặng hạt dẻ kôla thượng hảo hạng miền Nigiêria, được định giá theo thứ bậc và cỡ to nhỏ của mỗi hạt. Cánh thương nhân đi ngược sông trên những thuyền chất nặng muối thỏi để đổi lấy củ nâu, da thú, sáp ong và mật ong. Đích thân già Nyô Bôtô cũng bận bịu bán những túm rễ cỏ chanh rửa sạch và tỉa gọn mỗi túm một đồng tiền vỏ ốc, thứ rễ này đem cọ răng thường xuyên sẽ giữ cho hơi thở thơm dịu và mát miệng.
Những thương nhân tà giáo đi qua Jufurê vội vội vàng vàng, thậm chí không dừng lại vì những hàng hóa của họ: thuốc lá, rượu, bia, chỉ dành cho bọn vô đạo mà thôi, còn người Manđinka theo đạo Hồi không bao giờ uống rượu hoặc hút thuốc, một số khác họa hoằn lắm mới dừng lại vì đích của họ là những làng lớn hơn, đó là đông đảo thanh niên tự do lông bông từ những làng khác tới - cũng như một số trai trẻ đã rời bỏ làng Jufurê trong mùa gặt. Phát hiện thấy họ đi qua trên con đường ngoài làng, Kunta và các bạn thường chạy theo bên cạnh họ một lúc, cố gắng xem thử họ mang gì trong những thúng tre nhỏ đội trên đầu. Đó thường thường là quần áo và những món quà nhỏ cho những bạn mới mà họ hy vọng gặp trên bước đường lang thang nay đây mai đó, trước khi trở về làng vào mùa gieo trồng tới.
Mỗi sáng, làng ngủ và thức dậy theo tiếng trống. Và mỗi ngày lại có thêm những nhạc công lưu động khác nhau tới - những tay thành thạo về kinh Koran, về đàn balafôn và trống. Và nếu họ khá phởn chí vì những quà tặng dồn dập cùng với cảnh nhảy múa, những tiếng hoan hô và vỗ tay của đám đông, họ có thể dừng lại và biểu diễn một lúc trước khi tiếp tục đi đến làng bên.
Khi các vị graiốt (1) một nhân vật đặc biệt ở nhiều nước châu Phi. Những ông già này là những pho truyện bất tận, tích lũy qua cuộc đời rất dài của họ. Người Châu Phi thường nói khi một người graiốt chết, cũng coi như cháy cả một thư viện. Trong quá trình 12 năm thu nhập tài liệu, tác giả cuốn sách này đã dựa khá nhiều vào các graiốt.) tới, dân làng mau chóng im bặt ngồi xuống quanh cây bao báp nghe kể về các vị vua và tộc họ ngày xưa, về các chiến tướng, các trận đánh lớn và các huyền thoại của quá khứ. Hoặc giả một graiốt tôn giáo xướng lên những câu sấm và báo cho hay rằng cần cầu xin Chúa Ala toàn năng nguôi giận, rồi tỏ ý vui lòng đáp lại một món quà nhỏ bằng cách tiến hành những nghi lễ cần thiết và giờ đây đã trở thành quen thuộc đối với Kunta. Bằng một âm độ cao, vị graiốt ngâm nga những câu thơ bất tận về những huy hoàng đã qua của các vương quốc Gana, Xoonggai và Mali cổ xưa, và khi đọc xong một số người trong làng thường bỏ tiền nhờ ông tới lều riêng hát ngợi ca cha mẹ già của mình. Và dân làng thường vỗ tay hoan hô khi các cụ già bước ra cửa và đứng hấp háy mắt dưới ánh nắng rực rỡ, há rộng miệng cười phô hai hàng lợi rụng hết răng. Làm xong công việc thiện của mình, vị graiốt nhắc mọi người nhớ rằng bất cứ khi nào cần hát ngợi ai trong những đám tang, đám cưới, hoặc những dịp đặc biệt khác, cứ gióng hiệu trống mời - cùng một lễ vật nhỏ - là ông sẽ mau chóng tới Jufurê. Nói đoạn, ông vội vã đi tiếp sang làng bên.
Vào chiều thứ sáu của hội mùa, đột nhiên một giọng trống lạ xuyên qua Jufurê. Nghe thấy những lời trống xúc phạm, Kunta chạy vội ra và nhập bọn với dân làng khi họ giận dữ tập hợp bên cạnh cây bao-báp. Tiếng trống rõ ràng đã đến rất gần, báo cho biết là những đô vật rất mạnh đang đến, cho nên mọi kẻ gọi là đô vật ở Jufurê biết điều thì trốn đi. Trong vòng mấy phút, dân Jufurê hoan hô vang khi tiếng trống làng của mình gay gắt trả lời rằng những kẻ lạ dại dột nọ hẳn đang xin được bẻ què chân tay, nếu không phải là tệ hại hơn.
Lúc này dân làng đổ xô tới bãi vật. Trong khi các đô vật trong làng Jufurê xỏ vào những đala (1) (khố vật) ngắn, hai bên sườn và mông có những cuộn vải cho đối phương níu tay, và xoa mình bằng một thứ bột trơn làm bằng lá bao-báp giã nhỏ trộn với tro củi, họ nghe thấy những tiếng hò la, có nghĩa là những kẻ thách đấu đã tới. Những kẻ lạ mặt vạm vỡ ấy không buồn ngó tới đám đông đang giễu cợt. Tất cả đằng sau tay trống của mình, họ đi thẳng đến bãi vật, mình đã mặc đala sẵn, và bắt đầu xoa bột trơn cho nhau. Khi các đô vật Jufurê xuất hiện đằng sau những tay trống của làng, đám đông hò hét, xô đẩy nhau mất trật tự đến nỗi các tay trống của cả đôi bên đều phải khẩn cầu họ bình tĩnh.
Rồi trống của cả đôi bên đều nói: "Sẵn sàng!" Hai đội giao đấu phân thành từng đôi, mỗi cặp đô vật cúi rạp và trừng trừng nhìn nhau, mặt đối mặt. "Nắm lấy nhau! Nắm lấy nhau!" trống ra lệnh, và mỗi cặp đô vật bắt đầu lượn vòng như mèo vờn. Lúc này các tay trống của cả đôi bên lăng xăng đây đó giữa những đấu thủ đang hiên ngang dạo miếng; mỗi tay trống nện mạnh kể tên các đô vật vô địch tổ tiên của làng mình mà hương hồn đang theo dõi trận đấu.
Với những động tác giả nhanh như chớp, cuối cùng, hết cặp này đến cặp khác nắm được nhau và bắt đầu vật. Chẳng mấy chốc, cả hai đội quần thảo giữa những đám bụi mù do chân họ hất tung lên, gần như che khuất họ khỏi đám khán giả đang hò hét điên cuồng. Ngả nghiêng hoặc trượt chân đều không tính, chỉ khi nào một đô vật kéo được người kia mất thăng bằng, bốc cả người anh ta lên và quật xuống đất, mới là thắng cuộc. Mỗi lần có một người bị quật ngã như vậy - đầu tiên là một kiện tướng của làng Jufurê, rồi đến một trong những kẻ thách thức - đám đông lại nhảy chồm lên la hét và một tay trống gõ rành rọt tên người thắng trận đó. Ngay ở vòng ngoài đám đông phấn khích tất nhiên là Kunta và các bạn cũng đang đánh vật với nhau.
Cuối cùng cuộc đấu kết thúc và đội Jufurê đã thắng, hơn đối phương có một keo. Họ được thưởng đôi sừng và bốn vó của một con bò mộng vừa mới mổ. Những tảng thịt lớn được đem quay trên một đống lửa và những chàn thách đấu dũng cảm được nồng nhiệt mời tiệc liên hoan. Dân làng ca ngợi sức mạnh của các vị khách và các cô gái chưa chồng buộc những chuông nhỏ quanh cổ chân và cánh tay trên của tất cả các đô vật. Và trong bữa tiệc tiếp theo đó, bọn con trai thuộc lứa kafô thứ ba quét lớp bụi đo đỏ ở bãi vật, dọn cho phẳng phiu để chuẩn bị cho một điệu nhảy xêôruba.
Mặt trời nóng ấm vừa mới bắt đầu lặn, dân làng đã lại tụ tập quanh bãi vật, lúc này tất cả đều mặc quần áo đẹp nhất. Trên nền tiếng trống đánh khe khẽ, cả hai đội vật nhảy vào vòng, bắt đầu rạp mình và rập rình lượn quanh, bắp thịt nổi lên cuồn cuộn, những chiếc chuông nhỏ kêu lanh tanh, trong khi khán giả chiêm ngưỡng sức mạnh và vẻ đẹp mềm mại của họ. Trống đột nhiên nện thật mạnh, lúc này các cô gái chạy vào vòng, e ấp xen giữa các đô vật trong khi mọi người vỗ tay theo nhịp. Rồi các tay trống bắt đầu đánh theo tiết tấu mạnh nhất và nhanh nhất và chân các cô gái nhảy theo nhịp ấy.
Hết cô này đến cô khác, vã mồ hôi và mệt nhoài, lảo đảo bước ra khỏi vòng, ném xuống đám bụi chiếc khăn chùm đầu tikô nhuộm nhiều màu của mình. Mọi con mắt hau háu theo dõi xem có chàng trai đến tuổi lấy vợ nào nhặt tấm khăn tikô lên, tỏ rõ sự đánh giá đặc biệt của mình đối với bài nhẩy của cô gái đó - vì như vậy có nghĩa là anh ta có thể sắp hỏi cha cô về giá cả cưới xin, tính bằng dê và bò. Kunta và các bạn còn quá nhỏ chưa hiểu những điều đó, tưởng là cuộc vui sôi nổi đã kết thúc bèn chạy đi bắn ná. Nhưng nó mới chỉ bắt đầu, vì một lát sau, mọi người há hốc miệng khi một trong những đô vật tới thăm nhặt một chiếc khăn tikô lên. Đó là một sự kiện quan trọng - và hạnh phúc - nhưng cô gái may mắn nọ không phải là người đầu tiên đi lấy chồng ở một làng khác.
Chương 13
Sáng hôm cuối cùng của hội mùa, những tiếng thét đánh thức Kunta dậy. Mặc áo vào, nó chạy bổ ra và sợ thắt ruột lại. Trước mấy căn lều gần đấy, khoảng sáu, bảy người đàn ông đeo mặt nạ dữ tợn, khăn trùm đầu quấn cao, mặc quần áo bằng lá vả vỏ cây, đang nhảy lên nhảy xuống như choi choi, la thét man dại và vung giáo. Kunta kinh hãi nhìn một người vào từng căn lều, miệng gầm gào, và mỗi khi nhô ra đều kèm theo một đứa con trai thuộc lứa kafô thứ ba đang run bần bật nắm cánh tay nó, lôi xềnh xệch.
Cùng với một đám bạn thuộc lứa kafô thứ hai cũng khiếp đảm như nó, Kunta giương mắt nhìn vào góc một căn lều. Mỗi đứa con trai thuộc lứa kafô thứ ba bị chụp lên đầu một cái mũ nặng nề bằng vải bông trắng. Ngó thấy Kunta, Xitafa và nhóm lau nhau của chúng, một trong những người đeo mặt nạ xồ tới, hoa ngọn giáo và hét lên hung dữ. Tuy anh ta đã dừng phắt và quay lại với bọn bị chùm đầu dưới sự giám sát của mình, lũ trẻ vẫn chạy tán loạn, kinh hãi kêu the thé. Và khi tất cả bọn con trai lứa kafô thứ ba trong làng đã được tập hợp, chúng bèn được giao cho những người nô lệ, bọn này nắm tay chúng, dẫn từng đứa một ra ngoài cổng làng.
Trước đó, Kunta đã nghe nói là những đứa con trai lớn ấy sắp sửa được đưa đi khỏi Jufurê để đào tạo thành người lớn, nhưng nó không hề biết là điều đó xảy ra như thế này. Việc lên đường của bọn con trai lứa kafô thứ ba cùng với những người sẽ rèn luyện chúng thành nam nhi, chùm bóng u buồn lên cả làng. Trong những ngày tiếp theo, Kunta và các bạn không thể nói chuyện gì khác ngoài những điều kinh khủng chúng đã trông thấy cùng những điều còn kinh khủng hơn chúng nghe lỏm được về việc rèn luyện trưởng thành bí ẩn kia. Những buổi sáng, arafang củng đầu bọn chúng vì tội không chú ý nhớ những câu kinh Koran. Và sau giờ học, lũ lượt đi theo sau bầy dê ra bãi rậm, Kunta và các bạn, mỗi đứa đều cố không nghĩ đến cái điều chúng không thể nào quên đi được - là chúng sẽ ở trong cái nhóm con trai chùm đầu của làng Jufurê bị lôi xềnh xệch và đá thúc qua cổng làng.
Tất cả bọn nó đều đã nghe nói rằng phải qua trọn vẹn mười hai tuần trăng, toán con trai lứa kafô thứ ba nọ mới được trở về làng - nhưng bấy giờ là với tư cách đã trưởng thành. Kunta nói có người kể với nó rằng bọn con trai trong thời kỳ huấn luyện trưởng thành ngày nào cũng bị đánh. Một thằng tên là Kamarô bảo bọn ấy phải đi săn thú rừng lấy cái ăn, còn Xitafa thì nói là ban đêm, bọn chúng được phái vào tận rừng sâu một mình để tự tìm lấy đường về. Nhưng điều khủng khiếp nhất mà không đứa nào nhắc đến mặc dù nó làm cho Kunta nơm nớp mỗi lần đi giải, là trong thời gian huấn luyện trưởng thành, "chim" nó sẽ bị cắt bớt đi một đoạn. Sau một thời gian càng nói chuyện, ý nghĩ về việc rèn luyện trưởng thành càng trở nên ghê sợ đến nỗi bọn trẻ thôi không nói về cái đó nữa và mỗi đứa đều cố gắng giấu kín nỗi sợ trong lòng, không muốn lộ ra là mình không dũng cảm.
Kunta và các bạn đã tiến bộ nhiều trong công việc chăn dê kể từ những ngày khắc khoải đầu tiên ngoài bãi. Nhưng chúng vẫn còn phải học nhiều. Chúng bắt đầu phát hiện ra rằng công việc của bọn chúng gay nhất vào buổi sáng khi hàng đàn ruồi bu vào cắn làm cho lũ dê chạy lung tung, run cả làn da và quầy quậy cái đuôi ngắn tũn trong lúc tụi trẻ và mấy con chó bổ nháo bổ nhào cố lùa chúng trở lại bầy. Nhưng trước lúc trưa, khi mặt trời hun nóng đến nỗi ruồi phải kiếm chỗ mát , bầy dê mệt mỏi đâu đã vào đó yên trí gặm cỏ thật lực thì cuối cùng bọn trẻ có thể rảnh tay vui chơi.
Giờ đây, chúng đã là những tay thiện xạ sử dụng ná - và cả những bộ cung tên mới mà bố chúng cho trước khi chúng bước sang lứa kafô thứ hai - chúng thường bỏ ra khoảng một giờ để hạ thủ mọi thú vật nhỏ chúng có thể tìm thấy: thỏ rừng, sóc đất, chuột bụi, thằn lằn và có hôm cả một con gà gô có cựa ranh mãnh định nhử Kunta ra xa tổ nó bằng cách kéo rệt một bên cánh làm như bị thương vậy. Gần xế chiều bọn trẻ lột da, rửa sạch những thú săn được trong ngày, lấy muối (mà bao giờ chúng cũng mang theo) ướp những cỗ lòng, rồi nhóm lửa quay lên làm một bữa rôm rả.
Mỗi ngày ra bãi, dường như lại nóng nực hơn hôm trước. Càng ngày ruồi sớm càng ngừng cắn dê hơn để đi tìm bóng râm và bầy dê khom mình quỳ xuống để gặm lớp cỏ ngắn còn xanh bên dưới lớp cỏ cao đã khô nỏ. Nhưng Kunta và các bạn thì hầu như không để ý đến tiết trời nóng nực. Mình bóng nhẫy mồ hôi, chúng chơi đùa như thể mỗi ngày đều là ngày phấn khởi nhất trong đời. Bụng căng tròn sau bữa ăn trưa, chúng vật nhau, hoặc chạy thi, hoặc chỉ đơn thuần la hét và nhăn mặt chế diễu nhau, thay phiên nhau cẩn thận gác bầy dê đang gặm cỏ. Chơi đánh trận giả, bọn trẻ quật và xỉa nhau bằng những cây có rễ dày cho đến khi một đứa giơ một nắm cỏ lên, ra hiệu giảng hòa. Rồi chúng hạ bớt sát khí bằng cách xoa chân vào bộ lòng của một con thỏ vừa bị mổ, theo những truyện cổ tích chúng được các bà già kể cho nghe, các chiến binh thật sự thường dùng dạ dày cừu trong trường hợp đó.
Thỉnh thoảng, Kunta và các bạn đùa nghịch với lũ chó uôlô trung thành của mình, giống này người Manđinka đã nuôi hàng thế kỷ nay, vì chúng nổi tiếng là giống chó săn và bảo vệ tốt nhất trong toàn Châu Phi. Không ai có thể tính được số dê và gia súc đã được cứu khỏi nanh vuốt của bọn linh cẩu trong những đêm tối trời nhờ tiếng hú của chó uôlô. Nhưng linh cẩu không phải loại thú mà Kunta rình khi chúng chơi trò đi săn. Trong trí tưởng tượng của chúng, khi bò trườn trong đám cỏ cao rám nắng của vùng xavan, mồi săn của chúng là tê giác, là voi, là báo và sư tử dũng mãnh kia.
Đôi khi, một đứa trẻ theo đàn dê của mình tìm cỏ và bóng mát, loanh quanh đâm tách rời khỏi các bạn. Trong một vài lần đầu tiên gặp tình trạng đó, Kunta cố hết sức lùa dê lại thật nhanh và quay trở lại gần chỗ Xitafa. Nhưng chẳng bao lâu, nó bắt đầu thích những lúc cô đơn ấy, vì như vậy nó có dịp mơ tưởng một mình đang rình săn một con thú lớn nào đó. Trong phút mộng mơ giữa ban ngày đó, không phải nó đang lùng loại linh dương bình thường, hay báo, hay thậm chí sư tử nữa; đó là loại được kinh sợ nhất và nguy hiểm nhất trong tất cả các thú vật - một con trâu điên.
Con trâu điên mà nó truy lùng đã gieo kinh hoàng trong khắp miền đến nỗi bao nhiêu nhà đi săn đã được phái đi giết con vật man rợ, nhưng chỉ làm nó bị thương, rồi hết người này đến người khác lần lượt bị nó húc thủng bụng bằng đôi sừng quái ác. Càng khát máu hơn trước vì vết thương đau đớn, con trâu điên đã húc chết nhiều nông dân Jufurê đang làm việc trên cánh đồng bên ngoài làng. Chàng Kunta Kintê lừng danh, bấy giờ ở tận trong rừng sâu, đang hút một tổ ong để lấy mật nuôi dưỡng nghị lực của mình, thì nghe thấy tiếng trống thoại cầu xin chàng cứu dân chúng ở làng quê nơi mình sinh trưởng. Chàng không thể từ chối.
Ngay đến một ngọn cỏ khô cũng không hề sột soạt dưới chân chàng vì chàng dò theo dấu vết của con trâu điên rất lặng lẽ, sử dụng cái giác quan thứ sáu nó mách cho những ximbôn (1) (thiện xạ) bậc thầy biết những con thú đi theo đường nào. Và chẳng mấy chốc chàng thấy những dấu chân chàng tìm; chúng lớn hơn mọi dấu chân chàng từng thấy xưa nay. Giờ đây, vừa lặng lẽ rảo bước, chàng vừa hít sâu vào hai lỗ mũi cái mùi hôi thối của nó dẫn chàng tới đống phân trâu mới to tướng. Và vận động với tất cả khôn ngoan, khéo léo của mình, cuối cùng Ximbôn Kintê phát hiện thấy cái thân hình đồ sộ của chính con vật ẩn trong đám cỏ cao, rậm mà mắt thường ắt không thấy được.
Kéo căng dây cung về phía sau, Kintê thận trọng ngắm - và bắn mũi tên tới trúng đích. Con trâu điên, giờ đây bị thương nặng càng nguy hiểm hơn bao giờ hết. Bất thần nhảy từ bên nọ sang bên kia, Kintê né tránh đường tấn công hung dữ, tuyệt vọng của con vật và ráng sức đối phó trong khi nó lại lao vào húc một lần nữa. Chàng chỉ bắn phát tên thứ hai khi phải nhảy sang bên vào phút cuối cùng - và con trâu khổng lồ đổ rầm xuống chết.
Tiếng huýt gió sắc lảnh kéo Kintê kéo ra khỏi chỗ nấp những nhà đi săn sợ hãi và run rẩy trước đó đã thất bại trong công việc mà giờ chàng đã thành công vẻ vang. Chàng hạ lệnh cho họ lột bộ da khổng lồ, bẻ sừng và gọi thêm người giúp sức kéo cái xác về tận Jufurê. Dân làng mừng rỡ reo hò, họ đã trải da thú suốt lôi đi bên trong cổng làng để bụi khỏi bám vào chân Kintê. "Ximbôn Kintê!" tiếng trống gióng lên như vậy. "Ximbôn Kintê" bọn trẻ con gào lên, vẫy những cành sum suê lá trên đầu. Mọi người xô đẩy nhau, cố sờ được vào nhà đi săn dũng mãnh, hy vọng lấy được phần nào đởm lược của chàng. Những chú bé nhảy quanh cái xác khổng lồ, diễn lại cảnh hạ thủ nó bằng những cây gậy và những tiếng kêu thét man dại.
Và giờ đây từ giữa đám đông, tiến ra về phía chàng cô gái khỏe mạnh nhất, duyên dáng nhất và đen đẹp nhất trong tất cả các thiếu nữ Jufurê - thực tế là trong toàn Gămbia - và, quỳ trước mặt chàng, nàng dâng lên một bầu nước mát, nhưng Kintê không khát, chỉ rấp ướt đầu ngón tay để tỏ thiện cảm với nàng, liền đó nàng uống bầu nước ấy với những giọt nước mắt sung sướng, bằng cách đó chứng minh với mọi người tình yêu trọn vẹn của mình.
Đám đông hò reo dãn ra - nhường lối cho hai ông bà Ômôrô và Binta đầu bạc phơ, da nhăn nheo, lập cập chống gậy tới. Chàng Ximbôn để mẹ già hôn mình trong khi Ômôrô đứng nhìn, cặp mắt tràn đầy tự hào. Và dân làng Jufurê hô theo nhịp "Kintê! Kintê!" Cả lũ chó cũng sủa vang lên hoan hô.
Phải chăng chính con chó uôlô của chàng, nó đang sủa "Kintê! Kintê!" Hay là Xitafa đang điên cuồng la hét? Kunta vùng ra khỏi phút hoang tưởng kịp thời để trông thấy lũ dê bị bỏ quên của mình đang lồng về phía trại ấp của một người nào đó. Xitafa và các bạn khác cùng lũ chó giúp sức quây chúng lại trước khi xảy ra tai hại, nhưng Kunta xấu hổ quá đến nỗi phải cả một tuần trăng trôi qua nó mới lại dám thả mình vào những cơn mơ mộng hão như vậy.
Chương 14
Trời đã nắng rực thế mà năm tuần trăng dài của mùa khô mới chỉ bắt đầu. Ánh nhiệt ma quỷ lung linh, làm cho những vật ở đằng xa nom lớn hơn và những người ở trong lều cũng vã mồ hôi gần như ở ngoài đồng. Mỗi sáng, trước khi Kunta rời nhà đi chăn dê, Binta đều lo bảo vệ chân cho nó bằng cách thoa dầu dừa đỏ, nhưng chiều đến khi nó ở bãi trở về làng, môi nó xém đi, hai gan bàn chân khô nứt nẻ vì giẫm đất nóng như thiêu. Một số đứa về nhà với đôi bàn chân tướp máu, nhưng rồi mỗi sáng chúng lại ra đi không hề kêu ca phàn nàn, hệt như cha chúng - phơi mình trong cái nóng dữ dội của đồng cỏ khô, còn tệ hại hơn cái nóng trong làng.
Khi mặt trời lên tới chót đỉnh, bọn trẻ cùng lũ chó và bầy dê nằm ềnh tất cả, thở hổn hển dưới bóng những cây con, bọn trẻ mệt quá không buồn đi săn thú nhỏ về nướng, theo cái nếp thể thao hằng ngày của chúng. Phần lớn chúng chỉ ngồi tán gẫu, gượng làm vui, nhưng đến giờ, cái trò mạo hiểm chăn dê đã phần nào mất tính chất hào hứng.
Dường như chả cần gì đến những que củi chúng nhặt nhạnh hằng ngày, để sười ấm ban đêm, ấy thế nhưng hễ mặt trời vừa lặn là không khí liền thay đổi, trước nóng chừng nào giờ lạnh chừng ấy. Và sau bữa ăn tối, dân làng Jufurê lại xúm quanh những đống lửa cháy lép bép. Cánh đàn ông thuộc lứa tuổi Ômôrô ngồi nói chuyện quanh một đống lửa và cách đó một quãng ngắn là đống lửa của các bô lão. Quanh một đống khác nữa là cánh đàn bà và con gái chưa chồng, ngồi tách riêng khỏi các bà già đang kể những câu chuyện cổ tích ban đêm cho đám con nít lứa kafô đầu quanh một đống lửa thứ tư.
Kunta và bọn con trai lứa kafô thứ hai lên mặt không thèm ngồi với cái lứa kafô đầu của Lamin và các bạn nó, còn cởi truồng tồng ngồng, cho nên chúng ngồi xổm cách khá xa để khỏi lẫn vào cái nhóm ồn ào, cười như nắc nẻ ấy - nhưng cũng đủ gần để nghe thấy các bà già kể những chuyện vẫn khiến chúng hồi hộp như bao giờ. Thỉnh thoảng Kunta và các bạn thử hóng chuyện những người ở mấy đống lửa kia, nhưng họ phần lớn chỉ nói về cái nóng nực. Kunta nghe thấy các ông già ôn lại những đận mặt trời giết cả cây cối và đốt cháy mùa màng, làm cho giếng nước ôi hoặc khô kiệt, những thời kỳ mà cái nóng làm cho người ta khô xác như vỏ trầu. Mùa nóng này cũng thế, các cụ nói nhưng chưa đến nỗi như nhiều mùa mà các cụ còn nhớ. Kunta thấy hình như người già bao giờ cũng có thể nhớ ra một điều gì xấu hơn hiện tại.
Rồi bỗng nhiên có một hôm, thở hít không khí mà như nuốt lửa và đêm ấy, mọi người run rẩy dưới tấm mền vì cái rét luồn vào thấm tận xương. Đến sáng hôm sau, họ lại phải lau mồ hôi trên mặt và cố gắng hít cho đầy hơi thở. Chiều hôm ấy, gió hamáttan bắt đầu thổi. Đó không phải là thứ gió dữ hoặc thậm chí là gió dông, nếu là một trong hai loại này thì còn đỡ. Đằng này, nó cứ thổi nhẹ nhàng và đều đặn, khô và đầy bụi, suốt ngày đêm trong gần nửa tuần trăng. Như mỗi lần nổi lên, gió hamáttan thổi liên tục kiểu ấy cứ từ từ bào mòn thần kinh dân làng Jufurê. Và chẳng bao lâu, cha mẹ đâm ra hay quát tháo con cái hơn mọi khi và chẳng có lý do gì chính đáng cũng vớ roi đánh chúng. Và tuy cãi vã là điều bất thường giữa những người Manđinka, nhưng chả mấy giờ trong ngày qua đi mà không thấy những vụ to tiếng giữa một số người lớn, nhất là giữa những cặp vợ chồng trẻ như Ômôrô và Binta. Lúc đó, các cửa nhà lân cận đột nhiên đầy những người đứng nhìn các bà dâu gia hối hả chạy tới căn lều. Một lát sau, tiếng hét lác càng lúc càng to hơn và tiếp đó, một trận mưa, nào rổ khâu, nào nồi niêu, nào vỏ bầu, nào ghế và quần áo, rào rào quăng ra cửa. Rồi đích thân người vợ và bà nhạc bổ ra vơ lấy đồ đạc của cải và sầm sầm đi về lều mẹ.
Sau khoảng hai tuần trăng, gió hamáttan tắt cũng đột ngột như khi nó bắt đầu nổi lên. Trong không đầy một ngày, không khí trở nên yên tĩnh, trời lại quang. Trong vòng một đêm, lũ lượt các cô vợ lẻn về với chồng, rồi các bà thông gia gửi cho nhau những món quà nhỏ và dàn hòa các cuộc cãi vã trong khắp làng. Nhưng năm tuần trăng dài của mùa khô mới chỉ qua được một nửa. Mặc dầu thực phẩm còn nhiều trong kho, các bà mẹ chỉ nấu nướng với số lượng nhỏ vì không ai, kể cả những đứa trẻ thường thường là háu đói, cảm thấy muốn ăn nhiều. Ai nấy đều bị sức nóng mặt trời hút kiệt sức và dân làng ít trò chuyện hơn, chỉ quanh quẩn làm những điều cần phải làm mà thôi. Trâu bò của làng gầy rộc với những bộ da nứt toác, những mụn lở to tướng thành nơi cho ruồi trâu đẻ trứng. Những chú gà còm mọi khi chạy quang quác khắp làng, nay im thin thít và nằm nghiêng trên đám bụi, cánh xòa ra và mỏ há hốc. Cả đến lũ khỉ giờ cũng ít khi thấy ló mặt hoặc thấy tiếng, vì phần lớn đã chuồn vào rừng nhiều bóng râm hơn. Và Kunta nhận thấy bầy dê, trời nóng, ngày càng ít chịu ăn cỏ, đã trở nên bồn chồn và gầy đét.
Vì một lý do nào đó - có lẽ là vì nóng nực hay có lẽ chỉ vì chúng đã lớn hơn - Kunta và các bạn chăn dê, suốt gần sáu tuần trăng ngày nào cũng ở với nhau ngoài bãi, nay bắt đầu tản ra đơn lẻ mỗi đứa với đàn dê nhỏ của mình. Điều đó xảy ra được mấy ngày rồi Kunta mới nhận ra rằng trước đó nó chưa bao giờ hoàn toàn tách khỏi người khác trong bất cứ khoảng thời gian nào thực sự dài dài một chút. Nó nhìn sang chỗ những đứa khác và đàn dê của chúng ở đằng xa, rải rác trong cái im lặng của bãi hoang chói chang nắng. Quá chỗ chúng nó là những cánh đồng, ở đó nông dân đang cắt những đám cỏ đã mọc từ mùa gặt trước. Những đụn cỏ cao họ vun lại để phơi khô dưới nắng, dường như lượn sóng và lung linh trong hơi nóng.
Lau khô mồ hôi trán, Kunta có cảm giác là dân làng mình bao giờ cũng đang phải chịu đựng một gian khổ này hay một gian khổ khác - một cái gì bất tiện hoặc khó khăn, hoặc ghê sợ, hoặc đe dọa đến bản thân đời sống. Nó nghĩ về những ngày nóng cháy và những đêm lạnh giá tiếp ngay sau đó. Và nó nghĩ về những trận mưa kế liền theo biến làng xóm thành một vùng lầy và cuối cùng tràn ngập các lối đi cho đến khi dân làng phải dùng xuồng để qua lại những quãng mà lúc bình thường họ vẫn đi bộ. Họ cần mưa như cần nắng, nhung hình như những cái đó bao giờ cũng quá nhiều hoặc quá ít. Ngay cả khi dê béo mập và cây cối nặng trĩu hoa trái, nó cũng biết đó là thời kỳ mà số hoa màu thu hoạch vào vụ mưa trước sắp cạn trong các kho dự trữ gia đình và điều đó sẽ dẫn tới mùa đói kém, dân làng sẽ thiếu ăn, thậm chí một số sẽ chết, như chính bà nội Yaixa mà nó hằng nhớ thương tha thiết.
Mùa gặt là một thời kỳ hạnh phúc - và sau đó là hội mùa nữa - nhưng nó kết thúc quá sớm và rồi mùa khô nóng nực và dài dặc lại đến, với cái gió hamattan gớm ghiếc, suốt thời kỳ ấy Binta luôn luôn quát tháo nó và đánh Lamin, đến nỗi nó cảm thấy gần như ái ngại cho thằng em nhỏ vòi quấy.
Trong khi lùa dê trở về làng, Kunta nhớ lại những câu chuyện nó đã nghe bao lần hồi còn nhỏ bằng Lamin, nói về nỗi cha ông xưa đã luôn luôn sống qua những hãi hùng và nguy hiểm như thế nào. Kunta đoán là từ xửa từ xưa đời người đã vất vả. Có lẽ rồi vẫn sẽ mãi mãi thế .
Giờ đây, mỗi buổi chiều trong làng, alimamô hướng dẫn cầu Chúa Ala mang mưa tới. Rồi một hôm, làng Jufurê tràn đầy phấn khởi khi vài cơn gió nhẹ tung bụi lên - vì những cơn gió đó có nghĩa là sắp mưa. Và sáng hôm sau, dân làng ra tụ tập ngoài đồng, tại đây nông dân châm lửa đốt những đống cỏ cao họ đã chất lên, và những làn khói dày cuồn cuộn bốc lên trên cánh đồng. Nóng đến độ gần như không chịu nổi, nhưng đám người ròng ròng mồ hôi vẫn nhảy múa và hoan hô, còn bọn trẻ lứa kafô đầu thì đua nhau chạy quanh, hò hét, mỗi đứa đều cố sao bắt được những mớ tro mang lại may mắn đang bay vật vờ như lông chim…
Hôm sau, những cơn gió nhẹ bắt đầu tãi lớp tro vụn ra khắp cánh đồng, làm đất thêm màu mỡ để trồng cấy một mùa khác. Giờ đây, nông dân bắt đầu bận rộn cuốc xới đánh những luống dài sẵn đón hạt giống - vào cái thời vụ gieo trồng thứ bảy mà Kunta đã sống qua trong sự tuần hoàn bất tận của các mùa.
Chương 15
Hai vụ mưa đã qua, và bụng Binta lại to một lần nữa, đồng thời tính khí càng bẳn hơn lúc thường. Động một tí là chị quất cả hai đứa con trai, đến nỗi, mỗi buổi sáng, Kunta đều thật sự hàm ơn việc chăn dê đã khiến nó thoát khỏi mẹ được mấy giờ và buổi chiều khi trở về nó không khỏi ái ngại cho Lamin, thằng bé mới chỉ đủ tuổi để giở trò tinh nghịch và bị đòn, chứ chưa đủ tuổi để ra khỏi nhà một mình. Cho nên một hôm, khi về nhà thấy thằng em nước mắt nước mũi ròng ròng, nó bèn hỏi Binta - mà không khỏi lo lắng đôi chút - xem có thể cho Lamin cùng chạy việc vặt với nó không, và Binta gắt lên : "Được!". Thằng cu con Lamin trần truồng hầu như không nén nỗi vui sướng về hành động tốt bụng kỳ lạ này, nhưng Kunta thì lại đâm ghê tởm sự bốc đồng của chính mình đến nỗi vừa mới đi khỏi tầm tai nghe của Binta, nó liền cho thằng em một cái đá và một cái bạt tai, Lamin rống lên - rồi lũn cũn theo anh như một con chó con.
Sau đó, mỗi buổi chiều Kunta đều thấy Lamin hồi hộp đứng cửa chờ, hy vọng thằng anh lại đưa mình ra khỏi nhà. Gần như ngày nào Kunta cũng làm thế - nhưng không phải vì nó muốn thực lòng. Chả là Binta hễ có dịp nghỉ ngơi đôi chút, không phải bận bịu với cả hai đứa, là lại tỏ ra hết sức nhẹ mình, thành thử giờ đây, Kunta đâm sợ bị đánh nếu không đưa Lamin đi theo. Y như thể một cơn mê tệ hại đã gắn chặt thằng em nhỏ trần truồng vào lưng Kunta như một con đỉa khổng lồ nào đó ở con sông vậy. Nhưng chẳng bao lâu, Kunta bắt đầu nhận thấy một số bạn cùng lứa kafô cũng có những thằng em nhỏ nhằng nhẵng sau lưng. Tuy bọn này thường chơi riêng hoặc chạy nhổng quanh quanh gần đó, chúng vẫn luôn luôn để mắt chăm chú theo sát những thàng anh đang ra sức lờ chúng đi. Thỉnh thoảng những thằng lớn đột nhiên lại lao vút đi, ngoái lại giễu lũ em nhỏ nháo nhác cố đuổi kịp chúng. Khi Kunta và các bạn trèo cây, lũ em thử trèo theo, thường rớt xuống đất và những thằng lớn bèn lớn tiếng cười sự vụng về của chúng. Bọn lớn bắt đầu thấy là đem chúng đi theo, hóa ra lại vui.
Đôi khi có một mình với Lamin, Kunta cũng tỏ ra chú ý đến thằng em hơn một tí. Lấy ngón tay ngắt một cái hạt, nó cắt nghĩa cho em là cây gạo to tướng của làng Jufurê mọc lên từ một cái mầm bé như thế. Bắt một con ong mật, Kunta thận trọng cầm nó cho Lamin trông thấy cái vòi, rồi xoay mình con ong, nó giải thích loài ong hút chất ngọt ở hoa mang về tổ gây mật như thế nào trên những cây cao nhất. Và Lamin bắt đầu nêu ra với Kunta hàng lô câu hỏi mà phần lớn đều được Kunta kiên nhẫn giải đáp. Kể ra cũng thu thú khi thấy Lamin có cảm giác rằng Kunta cái gì cũng biết. Điều đó khiến Kunta tự cảm thấy lớn hơn so với cái tuổi tám vụ mưa của mình. Ngoài ý muốn của nó, Kunta bắt đầu coi thằng em như một cái gì khá hơn một thứ của nợ .
Cố nhiên, Kunta phải cố gắng chật vật để khỏi bộc lộ ra điều đó, nhưng quả thật là giờ đây, mỗi buổi chiều lùa dê trở về nhà, nó đều ngong ngóng sự đón tiếp vồ vập của Lamin. Một lần, Kunta cho là thậm chí nó đã trông thấy Binta mỉm cười khi nó và Lamin rời khỏi lều. Thực tế Binta thường quát thằng con trai nhỏ: "Hãy học cung cách của anh mày ấy!". Thế rồi lát sau, chị lại có thể nện Kunta vì chuyện gì đó, nhưng không đến nỗi thường xuyên như thông lệ nữa. Binta cũng thường bảo Lamin là nếu nó không tử tế hẳn hoi thì đừng hòng được đi với Kunta và suốt ngày hôm đó, Lamin sẽ rất ngoan.
Ngay lúc rời khỏi lều, bao giờ hai đứa cũng đi rất lễ phép, tay trong tay, nhưng vừa ra đến ngoài, Kunta bèn lao vút đi và nhảy tâng tâng - với Lamin rượt theo sau - để tới nhập bọn với những đứa thuộc lứa kafô thứ hai và thứ nhất. Trong một cuộc chơi nhổng ban chiều, khi một đứa bạn chăn dê với Kunta tình cờ đâm sầm phải Lamin làm nó ngã ngửa, Kunta lập tức chạy tới, xô mạnh thằng kia sang bên và nóng máu kêu lên : "Em tao đấy!". Thằng kia phản đối và chúng sắp sửa choảng nhau thì những đứa khác nắm lấy cánh tay chúng giữ lại. Kunta nắm tay thằng Lamin đang khóc, giằng ra và kéo nó xềnh xệch khỏi bọn bạn đang trố mặt nhìn. Kunta vừa bối rối sâu sắc, vừa tự lấy làm lạ cho bản thân về nỗi đã hành động như vậy đối với thằng bạn cùng lứa kafô - nhất là lại vì một thằng em trai ngủ nhè chè thiu. Nhưng sau hôm ấy, Lamin bắt đầu công khai bắt chước bất cứ cái gì nó thấy Kunta làm, đôi khi thậm chí ngay trước mắt Binta hoặc Ômôrô. Tuy làm ra vẻ không thích thế, Kunta vẫn không khỏi cảm thấy hãnh diện tí chút.
Một buổi chiều, khi Lamin đang cố leo một cây thấp nhưng tụt ngã. Kunta bèn hướng dẫn cho nó trèo cho đúng cách. Thỉnh thoảng, nó dạy thằng em đánh vật (nhờ vậy Lamin có thể bắt một thằng đã từng làm nhục nó trước mặt các bạn cùng lứa kafô, nay phải kiêng nể mình); dạy huýt còi bằng ngón tay (mặc dù tiếng huýt còi thành công nhất của Lamin cũng còn xa mới chói tai được đến mức như Kunta) và chỉ cho nó thấy thứ lá mà mẹ chúng thích lấy để pha trà. Và nó dặn dò Lamin phải bắt những con bọ hung to, óng ánh chúng vẫn thấy bò trong lều, đem ra ngoài đặt xuống đất cho nhẹ nhàng, vì làm hại những con vật đó sẽ gặp chuyện rất xúi. Kunta còn bảo em là sờ vào cựa gà trống lại càng xúi hơn nữa. Nhưng dù cố gắng đến đâu, Kunta cũng không thể nào làm cho Lamin biết xem giờ bằng cách nhìn bóng nắng. "Mày còn bé, nhưng mày phải học chứ!", thỉnh thoảng Kunta vẫn quát em khi Lamin tỏ ra chậm hiểu một điều gì đơn giản; hoặc vả cho nó một cái tát nếu nó quấy rầy quá. Song bao giờ Kunta cũng rất muốn rằng nó có thể cho thằng cu Lamin trần truồng mặc cái áo dài của nó một lúc.
Trong khi gần gũi hơn với thằng em, Kunta bắt đầu đỡ cảm thấy sâu sắc cái điều trước đó vẫn thường hay làm nó băn khoăn - cái hố ngăn cách giữa tám vụ mưa của nó với bọn con trai lớn hơn và cánh đàn ông ở Jufurê. Quả vậy, theo nó nhớ được, ít có ngày nào trong đời nó qua đi mà không có cái gì nhắc nhở rằng nó hãy còn ở lứa kafô thứ hai - một thằng cu vẫn còn ngủ ở lều của mẹ. Bọn con trai lớn - giờ đây đang qua đợt huấn luyện trưởng thành ở nơi xa - chẳng dành cho những đứa ở lứa tuổi Kunta cái gì khác ngoài những chế giễu khinh bỉ với bạt tai. Còn đám người lớn, như Ômôrô và những ông bố khác, thì làm như thể một thằng con trai thuộc lứa kafô thứ hai chỉ đơn thuần là một cái gì ta phải chịu đựng mà thôi. Về phần các bà mẹ, chà, thường những lúc ở ngoài bãi chăn dê, Kunta vẫn giận dữ nghĩ rằng khi nào nó trở thành một đấng tu mi nam tử, nhất định nó sẽ đặt Binta vào đúng vị trí nữ nhi, mặc dầu nó vẫn muốn tỏ ra tốt và khoan dung đối với chị, vì dù sao đi nữa, chị vẫn là mẹ nó.
Tuy nhiên, điều bực mình nhất đối với Kunta và các bạn, là việc bọn con gái thuộc lứa kafô thứ hai, lớn lên cùng với chúng, giờ đây sao mà vội vã chứng minh rằng mình đã nghĩ đến chuyện làm vợ. Kunta tức tối thấy tụi con gái mới mười bốn vụ mưa, hoặc thậm chí bé hơn thế, đã lấy chồng, trong khi con trai phải đợi đến lúc thành người lớn ba mươi vụ mưa hoặc hơn nữa mới lấy vợ. Nói chung, bị liệt vào lứa kafô thứ hai bao giờ cũng là một điều khó chịu đối với Kunta và các bạn nó, trừ những buổi chiều ở ngoài bãi chăn dê chỉ có bọn chúng với nhau và trong trường hợp Kunta, trừ mối quan hệ mới của nó với Lamin.
Mỗi lần, hai anh em dạo một mình ở một nơi nào đó, Kunta đều tưởng tượng là mình đang đưa Lamin đi du hành, như người lớn thỉnh thoảng vẫn đem con trai theo trong những chuyến đi. Giờ đây, cách nào đó, Kunta cảm thấy một trách nhiệm phải hành động già dặn hơn, khi mà Lamin ngưỡng vọng nó như một nguồn kiến thức. Đi bên cạnh anh, Lamin thường liên tục tuôn ra với Kunta hàng tràng câu hỏi.
"Thế giới là như thế nào?"
"À", Kun ta nói, " không có người nào, cũng như không có cái xuồng nào đi khắp thế giới được. Và không ai biết hết những gì cần biết về nó"
"Anh học arafang những gì?"
Kunta đọc những câu thơ đầu trong kinh Koran bằng tiếng Arập, rồi nói : "Bây giờ, mày thử đọc coi". Nhưng khi Lamin thử đọc, nó liền lẫn lung tung - Kunta biết trước là thế nào cũng vậy - và Kunta nói, giọng kẻ cả: "Phải có thời gian".
"Tại sao người ta không làm hại loài cú?"
"Vì linh hồn tất cả tổ tiên đã mất của chúng ta ở trong thân cú". Rồi nó kể cho Lamin nghe đôi điều về bà nội Yaixa quá cố của chúng. "Dạo ấy mày còn bé tí tẹo, mày chả nhớ bà được".
"Cái con chim trên cây kia là con gì?"
"Diều hâu".
"Nó ăn gì?"
"Ăn chuột, ăn những loài chim khác và các thứ".
"Eo ơi!"
Kunta trước đó chưa bao giờ nhận ra là mình biết điều thế - song thi thoảng, Lamin cũng hỏi những cái mà Kunta hoàn toàn mù tịt.
"Có phải mặt trời bốc cháy không?" hoặc "Tại sao bố không ngủ với chúng mình?".
Những lần đó, Kunta thường ầm ừ, rồi ngắt đứt câu chuyên - như Ômôrô vẫn làm thế khi thấy mệt vì những câu hỏi quá nhiều của Kunta. Sau đó, Lamin không nói gì nữa, vì giáo dục gia đình của người Manđinka dạy rằng không bao giờ hỏi chuyện những người không muốn nói chuyện. Đôi khi, Kunta làm như chìm sâu vào suy nghĩ riêng tư. Trong trường hợp đó, Lamin thường lặng lẽ ngồi bên và khi nào Kunta đứng dậy, nó cũng đứng dậy. Và đôi lần, khi Kunta không biết giải đáp một câu hỏi ra sao, nó bèn vội vã làm một cái gì để chuyển sang chuyện khác.
Bao giờ cũng vậy, liền sau đó, Kunta đợi cho Lamin ra khỏi lều rồi mới hỏi Binta hoặc Ômôrô câu giải đáp cần thiết cho Lamin. Nó không bao giờ nói rõ cho bố mẹ tại sao nó hỏi cả hai người lắm thứ thế, nhưng hình như họ cũng biết. Trên thực tế, họ dường như bắt đầu coi Kunta như người lớn, vì nó đã gánh vác thêm trách nhiệm với thằng em. Chẳng bao lâu, ngay trước mặt Binta, Kunta cũng nói gay gắt với Lamin về những điều nó làm sai. "Mày phải ăn nói cho rõ ràng!" nó có thể nói thế, kèm một cái bật tách ngón tay. Hoặc giả nó có thể đét Lamin về tội không nhanh nhảu bật dậy làm bất cứ cái gì mẹ nó sai làm. Binta thì làm như không trông thấy hoặc nghe thấy gì.
Thành thử bây giờ, ít có cử chỉ, hành động nào của Lamin mà không bị cặp mắt sắc sảo của mẹ nó hoặc anh nó theo dõi. Và bây giờ, bất cứ câu hỏi nào của Lamin, Kunta chỉ việc đem hỏi lại Binta hoặc Ômôrô, là lập tức họ cho nó biết lời giải đáp.
" Tại sao cái chiếu da bò của bố lại đỏ như thế ? Bò có đỏ đâu ?"
"Tại mẹ nhuộm da bò bằng nước kiềm với hạt kê giã", Binta trả lời.
"Chúa Ala ở đâu?"
"Chúa Ala ở nơi sinh ra mặt trời", Ômôrô nói.
Chương 16
"Nô lệ là gì" một buổi chiều, Lamin hỏi Kunta như vậy, Kunta ầm ừ và im bặt. Vừa tiếp tục đi, coi bộ đăm chiêu suy nghĩ, nó vừa tự hỏi không biết Lamin nghe lỏm được chuyện gì mà lại đặt ra câu hỏi đó. Kunta biết rằng những người bị bọn tubốp bắt, đều trở thành nô lệ, và nó cũng đã nghe hóng thấy người lớn nói về những nô lệ dưới quyền sở hữu của một số người ở Jufurê nữa. Nhưng thực tế, nó không biết nô lệ là gì. Cũng như bao lần khác, câu hỏi của Lamin làm nó bối rối muốn tìm hiểu thêm.
Hôm sau, khi Ômôrô sắp sửa đi kiếm ít gỗ cọ để dựng cho Binta một kho chứa lương thực mới, Kunta bèn xin đi theo bố, nó thích theo bố đi bất cứ đâu. Nhưng hôm nay, cho đến khi gần tới khu rừng cọ râm mát, cả bố lẫn con đều không nói gì. Thế rồi Kunta hỏi độp một cái: "Bố, nô lệ là gì?"
Thoạt đầu, Ômôrô ậm ừ, không nói gì và trong mấy phút liền cứ đi quanh quẩn trong khu rừng, xem xét các thân cây cọ khác nhau.
"Chẳng dễ gì phân biệt được nô lệ với người khác đâu." Cuối cùng anh nói. Giữa những nhát rìu bổ vào cây cọ đã chọn, Ômôrô cho Kunta biết lều của người nô lệ lợp bằng lá ngantang jôngô, còn lều của người tự do lợp bằng lá ngantang fôrô mà Kunta biết là thứ cỏ gianh lợp nhà tốt nhất.
"Nhưng chớ bao giờ nên nói đến nô lệ trước mặt những người nô lệ", Ômôrô nói, vẻ rất nghiêm nghị, Kunta không rõ tại sao lại thế, nhưng nó cứ gật đầu làm như mình hiểu.
Khi cây cọ đổ xuống, Ômôrô bèn chặt những tàu lá dày cứng. Trong khi Kunta bứt riêng cho mình mấy quả cọ chín, nó mang máng cảm thấy hôm nay bố đang có hứng nói chuyện. Nó vui sướng nghĩ rằng giờ đây nó sẽ có thể giải thích cho Lamin rõ mọi điều về những người nô lệ.
"Tại sao một số người là nô lệ, còn những người khác lại không?" nó hỏi.
Ômôrô nói con người ta trở thành nô lệ theo nhiều cách khác nhau. Có người do mẹ vốn là nô lệ, và anh kể tên mấy người ở Jufurê mà Kunta biết rất rõ. Một số trong đó là bố mẹ của mấy đứa bạn cùng lứa kafô với nó. Có những người khác, Ômôrô nói, gặp mùa đói kém ở làng mình, bỏ đi và đến Jufurê, xin làm nô lệ cho người nào đồng ý nuôi ăn và cấp đỡ cho họ. Lại có một số người khác - và anh nêu tên mấy người già ở Jufurê - trước kia đã từng là kẻ thù và bị bắt làm tù binh. "Họ trở thành nô lệ vì đã không đủ can đảm để thà chết còn hơn bị bắt", Ômôrô nói.
Anh bắt đầu đẵn cây cọ thành từng khúc vào cỡ một người lực lưỡng có thể vác nổi. Mặc dầu những người anh vừa kể tên đều là nô lệ, tất cả bọn họ, anh nói, đều vẫn được kính trọng như chính Kunta cũng biết. "Các quyền của họ được luật lệ của tổ tiên ta bảo đảm", Ômôrô nói và giải thích rằng tất cả các chủ đều phải cung cấp cho nô lệ của mình cái ăn, cái mặc, nhà ở, một mảnh đất cấy rẽ đôi và cả một cô vợ hoặc một anh chồng nữa".
"Chỉ những kẻ nào tự bêu riếu mới bị khinh rẻ", anh bảo Kunta - những kẻ đã thành nô lệ vì bị kết án là sát nhân, trộm cắp hoặc phạm những tội ác khác. Duy chỉ đám nô lệ này họa chăng mới có thể bị chủ đánh đập hoặc trừng phạt đích đáng theo ý họ.
"Thế những người nô lệ có phải mãi mãi vẫn là nô lệ không?" Kunta hỏi.
"Không, nhiều người nô lệ mua lại tự do của mình bằng những gì họ dành dụm được qua việc cấy rẽ đôi với chủ", Ômôrô kể một số người ở Jufurê đã làm thế. Anh cũng nêu một số khác đã giành lại tự do bằng cách kết hôn với người trong gia đình nhà chủ.
Để mang những khúc cọ nặng cho gọn tiện, Ômôrô lấy những sợi dây leo xanh bện thành một quai đeo thật chắc và vừa làm, anh vừa kể là, trong thực tế có những nô lệ làm ăn phát đạt hơn cả chủ. Thậm chí một số còn có nô lệ riêng và một số khác đã trở thành những nhân vật rất trứ danh.
"Như Xunđiata chẳng hạn!" Kunta kêu lên. Nhiều lần nó đã được nghe các bà già và các ông già kể sử nói về vị danh tướng nô lệ ngày xưa với đạo quân do ông chỉ huy đã từng chiến thắng biết bao kẻ địch.
Ômôrô ầm ừ và gật đầu, rõ ràng hài lòng thấy Kunta cũng biết chuyện ấy, vì khi bằng tuổi Kunta, anh cũng đã biết nhiều điều về Xunđiata. Để thử con trai, Ômôrô hỏi: "Thế ai là mẹ Xunđiata?".
"Xôgôlôn, bà Nữ Ngưu!" Kunta hãnh diện đáp.
Ômôrô mỉm cười và, xốc lên đôi vai lực lưỡng hai khúc cọ nặng cột trong dây quai, anh bắt đầu bước đi. Vừa ăn quả cọ, Kunta vừa đi theo và gần như trên suốt chặng đường về làng, Ômôrô kể cho nó nghe Vương quốc Manđinka vĩ đại đã bị chinh phục như thế nào bởi vị tướng nô lệ tàn tật mà lỗi lạc ấy, đạo quân của ông mới đầu gồm toàn những nô lệ chạy trốn mà ông bắt gặp ở những đầm lầy và những nơi ẩn náu khác.
"Con sẽ học nhiều điều nữa về ông khi nào được đào tạo trưởng thành", Ômôrô nói - và chỉ nghĩ đến thời kỳ ấy, Kunta đã sợ toát người, song đồng thời lại thấy hồi hộp đợi chờ.
Ômôrô kể rằng Xunđiata đã trốn khỏi nhà lão chủ mà ông thù ghét như phần lớn những người nô lệ không ưa chủ vẫn làm thế. Anh cho biết trừ những kẻ tội phạm bị kết án, người ta không thể đem bán nô lệ cho người chủ nào mà anh ta không ưng.
"Bà Nyô Bôtô cũng là một nô lệ", Ômôrô nói, và Kunta suýt nữa nghẹn một miếng quả cọ vì sửng sốt. Nó không thể hiểu nổi điều đó. Trong đầu nó vụt loé lên hình ảnh bà già Nyô Bôtô yêu quý ngồi xổm trước cửa lều vừa coi sóc mươi mười lăm đứa hài nhi trần truồng vừa tết hàng rổ tóc giả và nanh nọc giễu mọi người lớn đi ngang qua - thậm chí cả những người già cả, nếu bà thích thế. "Bà ấy chẳng phải là nô lệ của ai hết", nó nghĩ bụng.
Chiều hôm sau, sau khi nhốt dê vào chuồng, Kunta đưa Lamin về nhà theo một con đường khác tránh bọn bạn chơi thường ngày và phút chốc, chúng lặng lẽ ngồi xổm trước lều bà Nyô Bôtô. Lát sau, cảm thấy mình có khách, bà già xuất hiện ở khung cửa. Và chỉ thoáng nhìn thấy Kunta, vốn bao giờ cũng là một trong số những đứa bé cưng của mình, bà biết ngay rằng tâm trí nó đang băn khoăn về một điều gì đặc biệt. Mời hai đứa bé vào trong lều, bà lăng xăng pha nước lá cho chúng uống.
"Bố mẹ các cháu thế nào?" bà hỏi.
"Khỏe lắm ạ. Cảm ơn bà hỏi thăm", Kunta lễ phép đáp. "Còn bà, bà có khỏe không ạ?"
"Bà rất khỏe", bà trả lời.
Mãi cho đến lúc nước lá được rót ra đặt ra trước mặt nó, Kunta vẫn chưa tìm được lời để nói tiếp. Rồi nó bỗng bật ra: "Bà ơi, tại sao bà lại là một nô lệ".
Bà Nyô Bôtô chằm chằm nhìn Kunta và Lamin. Bây giờ đến lượt bà nín lặng hồi lâu. "Ta sẽ kể cho các cháu nghe", cuối cùng bà nói.
"Chuyện xảy ra vào một đêm tại làng quê bà, ở cách đây xa lắm và đã từ bao vụ mưa rồi, và hồi bà hãy còn là một người vợ trẻ", bà Nyô Bôtô nói; bà đang ngủ bỗng kinh hoàng thức giấc giữa những tiếng kêu thét của hàng xóm; các mái lều bốc cháy đùng đùng, đổ xập xuống. Ôm vội lấy hai đứa con thơ, một trai một gái (mà bố vừa chết trong một cuộc chiến tranh bộ lạc), bà lao ra ngoài giữa đám những người khác - tại đây, bọn da trắng vũ trang đi bắt nô lệ đã đợi họ, với những tên phản bội da đen giúp sức. Trong một cuộc chiến đấu dữ dội, tất cả những ai không thoát được đều bị dồn vào tập trung một cách thô bạo, và những ai bị thương quá nặng hoặc già quá hay bé quá không đủ sức đi xa, đều bị giết ngay trước mắt những người khác. "Kể cả hai con nhỏ của ta và mẹ già của ta", bà Nyô Bôtô nức nở.
Trong khi Lamin và Kunta nắm chặt lấy tay nhau, bà kể tiếp cho chúng nghe những tù nhân khiếp đảm xâu thành chuỗi bởi dây chằng cổ người này với cổ người kia, đã bị đánh đập và lùa đi như thế nào qua vùng nội địa nóng cháy, khô cằn trong bao ngày. Và mỗi ngày, càng có thêm nhiều tù nhân gục xuống dưới làn roi quật vào lưng họ để thúc đi nhanh hơn. Sau một số ngày lại thêm nhiều người bắt đầu ngã gục vì đói và kiệt sức. Một số gắng đi tiếp, nhưng những người không gượng nổi bị bỏ lại làm mồi cho thú dữ. Dẫy dài tù nhân đi qua những làng khác cũng bị đốt phá, đầu lâu và xương người cùng thú vật ngổn ngang giữa những lớp rạ và vách bùn cháy thui trước kia là các lều gia đình. Không đầy một nửa số người bắt đầu cuộc hành trình này, tới được làng Jufurê, cách nơi bán nô lệ gần nhất trên sông Kamby bốn ngày đường.
"Chính tại đây một tù nhân trẻ đã được bán với giá một bao ngô", bà già nói. "Đó là ta. Và vì thế mà ta được gọi là Nyô Bôtô", Kunta hiểu chữ đó nghĩa là "bao ngô". Chẳng bao lâu, người đàn ông mua bà làm nô lệ chết, bà nói "và từ đó ta cứ ở luôn đây".
Lamin nghe chuyện, khích động quá cứ ngọ nguậy hoài, còn Kunta có phần lại càng cảm thấy yêu mến, trân trọng già Nyô Bôtô hơn trước, giờ đây bà ngồi mỉm cười âu yếm với hai thằng bé mà bố mẹ chúng, cũng như chúng đã từng một thời được bà bế ẵm trong lòng.
"Ômôrô, bố các cháu, còn thuộc lứa kafô đầu, hồi ta tới Jufurê" Bà Nyô Bôtô nói, nhìn thẳng vào Kunta "Yaixa, mẹ nó, tức bà nội các cháu, là bạn rất tốt của ta. Cháu còn nhớ bà ấy chứ?" Kunta trả lời có và hãnh diện nói thêm rằng nó đã kể cho thằng em nghe mọi chuyện về bà nội.
"Thế là tốt!" bà Nyô Bôtô nói: "Bây giờ ta phải quay về làm việc đây. Các cháu đi đi thôi".
Cám ơn bà đã cho uống nước lá, Kunta và Lamin đi khỏi và chậm rãi bước trở về lều, mỗi đứa đều trầm ngâm với những ý nghĩ riêng tư của mình.
Chiều hôm qua, khi chăn dê trở về, Kunta thấy Lamin rồn rập tuông ra bao nhiêu câu hỏi về bà Nyô Bôtô. Ở Jufurê, đã có bao giờ cháy như thế không? nó lục vấn. À nó chưa từng nghe thấy thế bao giờ, Kunta nói, và cũng chẳng thấy dấu vết gì về chuyện ấy ở trong làng cả. Kunta đã bao giờ trông thấy người nào trong bọn da trắng ấy không? "Tất nhiên là chưa!" nó kêu lên. Song nó bảo bố kể là có hồi bố với các anh trai của bố đã trông thấy bọn cướp tubốp cùng những chiếc tàu của chúng tại một điểm ở ven sông.
Kunta vội vàng chuyển sang chuyện khác vì nó biết rất ít về bọn tubốp và nó cần phải tự mình suy nghĩ về chúng - Nó ước ao có dịp trông thấy một tên trong bọn ấy - cố nhiên là ở một khoảng cách an toàn, bởi vì tất cả những điều nó được nghe nói về bọn chúng đều chứng tỏ rằng tốt nhất là chớ có lại quá gần bọn chúng.
Mới gần đây thôi, một cô gái đi hái dược thảo - và trước cô ta, hai gã đi săn - đã mất tích và ai nấy đều chắc chắn là bọn tubốp đã bắt họ mang đi. Dĩ nhiên, nó nhớ là những lúc trống ở các làng khác báo động cho biết bọn tubốp hoặc đã bắt ai đó, hoặc đang đến gần, thì cánh đàn ông bèn mang vũ khí canh gác vòng trong, vòng ngoài, trong khi cánh đàn bà hốt hoảng vội vội vàng vàng tập hợp tất cả trẻ con, trốn vào rừng cách xa làng - đôi khi mấy ngày liền - cho đến khi biết là bọn tubốp đã đi khỏi.
Kunta nhớ có lần nó chăn dê ngoài bãi vắng lặng. Ngồi dưới bóng cây ưa thích của mình, tình cờ nó ngước mắt nhìn lên và ngạc nhiên thấy hai, ba chục con khỉ nép vào nhau dọc những cành cây rậm lá, im phăng phắc như tượng, những cái đuôi dài thòng xuống. Trước đó, nghĩ đến khỉ bao giờ Kunta cũng hình dung chúng lăng xăng ầm ĩ và nó không thể quên được cái cảnh chúng ngồi lặng lẽ đến thế, theo dõi từng cử chỉ của mình. Nó ước gì chính nó cũng có thể ngồi trên cây quan sát một tên tubốp nào đó ở bên dưới .
Buổi chiều sau cái hôm Lamin hỏi nó về bọn tubốp, khi lùa dê về nhà, Kunta nêu vấn đề lên với các bạn mục đồng - và lập tức, bọn này bèn kể những điều chúng đã được nghe. Một đứa, thằng Đemba Contê, nói rằng nó có một ông chú rất dũng cảm, một bận, đã lại gần bọn tubốp đến độ ngửi thấy mùi chúng - và chúng hôi đặc biệt. Tất cả bọn đều đã nghe kể là tubốp bắt người đi là để ăn thịt. Nhưng một số cũng nghe nói là bọn tubốp bảo những người bị bắt không hề bị ăn thịt, mà là để làm việc trong những trang trại lớn. Xitafa Xila nghe vậy bèn xổ ra câu trả lời nó đã nghe từ miệng ông nó: "Cái thói lừa dối của người da trắng!"
Vừa có dịp là Kunta hỏi Ômôrô liền: "Bố ơi, bố kể con nghe bố và các bác trông thấy tubốp ở ngoài sông như thế nào đi", và nó vội vàng nói thêm : "Bởi vì chuyện này cần phải nói thật đúng cho Lamin hay". Kunta có cảm giác là bố gần như tủm tỉm cười, nhưng Ômôrô chỉ ậm ừ, hiển nhiên là không muốn trò chuyện lúc đó. Nhưng mấy hôm sau, Ômôrô thản nhiên rủ cả Kunta lẫn Lamin ra ngoài làng kiếm một số rễ cây anh đang cần. Đây là lần đầu tiên thằng cu Lamin còn ở truồng được đi chơi với bố nên nó mừng không để đâu cho hết. Biết rằng nhờ có Kunta nên mới được thế, nó cứ nắm chặt lấy đuôi áo dài của thằng anh.
Ômôrô kể cho các con rằng sau đợt đào tạo trưởng thành, hai người anh trai của anh là Jannê và Xalum đã rời bỏ Jufurê và, cùng với thời gian trôi qua, người ta được tin họ trở thành những lữ khách nổi tiếng ở nhiều nơi xa lạ. Lần trở về làng đầu tiên của họ là khi tiếng trống thoại từ Jufurê lan đi khắp, báo cho họ biết Ômôrô sinh con trai đầu lòng. Hai người theo đường mòn đi liên miên ngày đêm không ngủ để về dự lễ đặt tên. Và sau một thời gian đằng đẵng xa quê, hai anh em vui mừng ôm hôn một số bạn bè cùng lứa kafô hồi còn để chỏm. Nhưng số người ít ỏi còn lại này buồn bã kể với họ về những người khác đã vĩnh viễn ra đi - người chết trong những làng bị đốt cháy, kẻ bị giết bởi những cây gậy khạc lửa ghê sợ, người bị bắt cóc, kẻ mất tích trong khi làm đồng, săn bắn hoặc du hành - và tất cả đều do bọn tubốp mà ra.
Ômôrô kê rằng hai người anh bèn nổi giận, đề nghị anh cùng đi với họ một chuyến xem thử bọn tubốp đang làm trò gì và họ có thể làm gì để đối phó. Thế là ba anh em đi ròng rã ba ngày trời dọc theo bờ sông Kamby, thận trọng náu mình trong bụi cho đến khi thấy cái điều họ tìm kiếm. Khoảng hai mươi chiếc xuồng lớn của bọn tubốp thả neo trên sông, mỗi chiếc đủ chứa cả dân làng Jufurê, chiếc nào chiếc nấy đều có một tấm vải to tướng buộc bằng thừng vào một cái cột giống như thân cây, cao bằng mười người chồng lên nhau. Gần đó là một cái đảo nhỏ và trên đảo có một pháo đài .
Rất nhiều tên tubốp đang lăng xăng đi đi lại lại, có những gã da đen giúp việc, cả ở trên pháo đài lẫn dưới những xuồng nhỏ. Những chiếc xuồng nhỏ này đang chở những hàng như củ nâu khô, bông, sáp ong và da thú đến các xuồng lớn. Tuy nhiên Ômôrô nói, kinh khủng không sao tả siết là cảnh đánh đập cùng những hành động tàn bạo khác đối với những người bị bọn tubốp bắt mang đi.
Ômôrô lắng đi hồi lâu, và Kunta đang cảm thấy anh đang nghiền ngẫm một điều gì khác để kể cho nó. Cuối cùng, anh nói: "Bây giờ, người của ta bị bắt đi không nhiều bằng dạo ấy đâu". Anh kể rằng hồi Kunta còn ẵm ngửa, vua miền Bara cai quản khu vực này của Gămbia đã ra lệnh chấm dứt các cuộc đốt làng kèm theo việc bắt bớ hoặc giết chóc dân chúng. Và chẳng bao lâu tình trạng đó kết thúc thật, sau khi quân lính của mấy vị quốc vương phẫn nộ đã đốt những chiếc xuồng lớn cháy sạch sành sanh, giết hết bọn tubốp trên đó.
"Bây giờ" Ômôrô nói tiếp :Mỗi chiếc xuồng da trắng khi vào sông Kamby đều phải bắn mười chín phát đại bác chào quốc vương Bara". Anh cho biết hiện nay chính những nhân viên của quốc vương cung cấp phần lớn bọn người cho bọn tubốp đem đi - thường thường là bọn tội phạm hoặc con nợ, hoặc những kẻ bị án tình nghi là âm mưu làm phản nhà vua, nhiều khi chỉ trên mức đồn đại một tí. Theo lời Ômôrô, hễ có tàu của bọn tubốp đi vào sông Kamby tìm mua nô lệ, là y như rằng số người bị kết án phạm tội tăng lên.
"Nhưng cả đến vua chúa cũng không thể chấm dứt được việc bắt lén một số người khỏi làng họ", Ômôrô nói tiếp. "Các con đã biết một số người mất tích khỏi làng ta, trong đó có ba người biến mất chỉ trong vòng mấy tuần trăng vừa qua, như các con biết đấy, hơn nữa các con cũng đã nghe thấy hiệu trống từ các làng khác báo tin có người bị bắt". Anh chòng chọc nhìn hai đứa con và chậm rãi nói: "Những điều cha sắp nói với các con đây, các con phải nghe không chỉ bằng hai tai, mà hơn thế nữa, phải khắc sâu vào dạ - bởi vì nếu không làm theo lời cha dặn, các con sẽ có thể bị bắt đi mãi mãi!" . Kunta và Lamin lắng nghe, nỗi sợ mỗi lúc một tăng trong lòng. "Nếu có thể thì đừng bao giờ tách ra một mình" Ômôrô nói. " Ban đêm, chớ bao giờ ra ngoài nếu giữ được thế. Và ngày cũng như đêm, lúc nào chỉ có một mình, nhớ tránh xa mọi lùm cỏ cao hoặc bụi rậm, nếu có thể".
Từ giờ đến trọn đời, chúng phải luôn luôn đề phòng bọn tubốp, "ngay cả khi các con đã trở thành người lớn" theo lời bố chúng dặn. "Bọn tubốp hay bắn những cây gậy lửa, ở xa cũng nghe thấy tiếng nổ. Và nếu các con trông thấy khói bốc cuồn cuộn từ bất cứ nơi nào cách xa mọi làng mạc, đó có thể là những bếp nấu ăn rất lớn của bọn nó. Các con cần phải xem xét thật kỹ dấu vết của bọn tubốp để biết được chúng đi theo ngả nào. Bước chân của chúng nặng nề hơn ta nên nhìn dấu vết chúng để lại, các con sẽ nhận ra, rằng không phải người của ta: chúng giẫm gãy nát cây cỏ và cành con. Và khi các con đến gần nơi nào chúng đã từng ở, các con sẽ thấy mùi chúng còn vương vấn lại. Nó giống như mùi gà con bị ướt vậy. Và nhiều người nói là bọn tubốp tỏa ra một không khí nơm nớp mà ta có thể cảm thấy được. Nếu các con cảm thấy điều đó thì hãy bình tĩnh và nhiều khi ta có thể phát hiện được chúng từ một khoảng cách nào đó".
Nhưng biết bọn tubốp chưa đủ, Ômôrô nói, "có ối người của ta làm việc cho chúng. Đó là bọn da đen phản bội. Và không có cách nào để nhận ra bọn này, nếu không biết chắc chắn. Do đó, khi ở trong rừng, chớ có tin bất cứ người nào các con không quen biết".
Kunta và Lamin ngồi ngây ra vì sợ. "Những điều này nói với các con đến thế nào cũng chưa đủ", bố chúng nói tiếp, "Các con phải biết những gì cha và các bác đã thấy xảy đến với những người bị bắt đi. Đó là chỗ khác nhau giữa những nô lệ trong nội bộ chúng ta với những người bị bọn tubốp bắt đi làm nô lệ cho chúng". Ômôrô kể lại rằng ba anh em đã trông thấy các nạn nhân đó bị xiềng trong những khoang quây kín bằng hàng rào tre chắc nịch, được canh gác rất ngặt, dọc theo bờ sông. Khi những xuồng con chở những tên tubốp bệ vệ từ những xuồng lớn đến, những tù nhân liền bị lôi khỏi khu rào ra tập hợp trên bãi cát .
"Đầu họ bị cạo trọc và mình bị xoa mỡ đến khi toàn thân bóng nhẫy. Mới đầu, chúng bắt họ ngồi xổm và cứ thế nhảy lên nhảy xuống", Ômôrô kể . " Rồi khi bọn tubốp thấy nhảy thế là đủ, chúng bèn ra lệnh banh miệng những người bị bắt ra để kiểm tra răng và họng".
Thoắt cái, Ômôrô đưa ngón tay chạm vào hạ bộ Kunta và khi Kunta giật bắn người lên, Ômôrô nói: "Rồi chúng vạch fôtô (1) (dương vật) của đàn ông ra xem xét. Thậm chí, những bộ phận kín của phụ nữ cũng bị khám". Và cuối cùng, bọn tubốp bắt mọi người ngồi bệt xuống đất một lần nữa và dí những thanh sắt nung đỏ vào lưng và vai họ. Rồi đám người la thét và vật lộn bị dồn ra bờ sông, nơi các xuồng nhỏ chờ để chở họ ra các xuồng lớn.
"Hai bác và cha nhìn thấy nhiều người ngã xấp bụng xuống, cào, cắn vào cát như thể muốn dùng răng, và móng níu lấy quê hương lần cuối". Ômôrô nói. " Nhưng họ bị đánh đập và lôi xềnh xệch đi". Ngay cả khi đã ở trong những chiếc xuồng nhỏ rời bến, anh kể tiếp với Kunta và Lamin, một số người vẫn tíếp tục chống lại roi vọt và dùi cui, rồi nhảy tỏm xuống nước nước giữa đàn cá lớn hung dữ lưng xám, bụng trắng, mõm khoằm đầy những răng nhọn hoắt ngoạm vào họ, làm máu loang đỏ cả dòng sông.
Kunta và Lamin nép sát vào nhau, đứa nọ nắm chặt tay đứa kia "Thà nói cho các con biết những điều đó còn hơn là một ngày kia cha mẹ phải giết con gà trống trắng vì các con" . Ômôrô nhìn hai đứa con trai "Các con có hiểu thế nghĩa là gì không?"
Kunta gắng gượng gật đầu và thốt nên lời: "Khi có người mất tích, phải không bố?" Nó đã từng thấy nhiều gia đình ngồi cầu Chúa Ala như điên như cuồng quanh một con gà trống trắng bị cắt tiết, giãy cánh đành đạch.
"Phải" Ômôrô nói "Nếu con gà trống trắng chết nằm sấp thì còn hy vọng. Nhưng nếu nó lật cánh nằm ngửa ra mà chết thì không hy vọng gì nữa, và cả làng sẽ cùng với gia đình đó cất tiếng than khóc lên thấu Chúa Ala".
"Bố…", giọng Lamin run lên vì sợ, làm Kunta giật mình, "Những chiếc xuồng lớn đưa những người bị bắt đi đâu?".
"Các cụ già nói là đến Joong Xang Đu", Ômôrô đáp " Một đất nước mà ở đó những người nô lệ bị bán cho những tên khổng lồ ăn thịt người gọi là tubalô kumi và chúng sẽ ăn thịt họ. Không có ai biết thêm được gì về chuyện đó".
Chương 17
Câu chuyện của bố về việc bắt nô lệ và về bọn da trắng ăn thịt người, làm cho Lamin khiếp sợ đến nỗi đêm hôm ấy, những cơn ác mộng đã khiến nó phải đánh thức Kunta dậy mấy lần. Và hôm sau, khi chăn dê về, Kunta quyết định phải lái tâm tư thằng em - và tâm tư bản thân nó - khỏi những ý nghĩ ấy bằng cách kể cho Lamin nghe về các ông bác cừ khôi của chúng .
"Các anh trai của bố cũng là con của ông nội Kairaba Kunta Kintê mà tao được đặt tên", Kunta hãnh diện nói. "Nhưng các bác Jannê và Xalum của chúng ta là do bà Xireng đẻ ra". Lamin có vẻ ngơ ngác nhưng Kunta tiếp tục giải thích "Bà Xireng là vợ thứ nhất của ông nội, bà chết trước khi ông lấy bà nội Yaixa của chúng ta". Kunta lấy những nhánh cây bày trên mặt đất để minh họa cho Lamin rõ các cá nhân khác nhau trong gia đình Kintê. Song nó có thể thấy là Lamin vẫn không hiểu. Nó thở dài và chuyển sang nói về các cuộc phiêu lưu của hai ông bác mà chính nó cũng đã nhiều lần hồi hộp nín thở theo dõi mỗi khi nghe bố kể .
"Các bác chúng ta chưa hề lấy vợ bao giờ, vì quá say mê đi đây đi đó", Kunta nói, "Hàng bao tuần trăng liền, các bác ngày ngao du dưới ánh mặt trời, đêm ngủ dưới màn sao. Bố bảo là các bác đã từng đến một nơi mà mặt trời thiêu đốt những bãi cát chạy dài không bao giờ hết, một vùng đất đai không bao giờ có mưa". Ở một nơi khác mà các bác chúng đã tới thăm, Kunta nói, cây mọc dày đến nỗi trong rừng, ban ngày cũng tối mịt như đêm. Dân vùng này không cao gì hơn Lamin và bao giờ cũng ở truồng như Lamin - ngay cả sau khi đã trưởng thành. Và họ giết những con voi to đùng bằng những mũi tên tẩm thuốc độc nhỏ xíu. Ở một nơi khác nữa, xứ sở của những người khổng lồ, Jannê và Xalum đã thấy những chiến binh có thể phóng những mũi xiên săn thú xa gấp đôi người khỏe nhất trong bộ tộc Manđinka và những nghệ sĩ múa có thể nhảy cao hơn đầu mình, nghĩa là cao hơn người cao nhất ở làng Jufurê sáu bàn tay chồng thẳng lên nhau.
Trước giờ đi ngủ, trong khi Lamin giương mắt thao láo nhìn, Kunta làm điệu bộ diễn xuất câu chuyện ưa thích nhất của mình - đột nhiên tả xung hữu đột với một thanh gươm tưởng tượng chém lên chém xuống, cứ như thể Lamin là một trong những tên cướp mà các bác chúng cùng những người khác hằng ngày phải đánh đuổi trong một chuyến đi kéo dài hàng bao tuần trăng, chở nặng những ngà voi, đá quý và vàng tới thành phố lớn của người da đen là Zimbabuê.
Lamin năn nỉ anh kể chuyện thêm, nhưng Kunta bảo nó đi ngủ đi. Cứ mỗi lần Kunta bị bắt phải đi ngủ sau khi nghe bố kể những câu chuyện như vậy, nó thường nằm dài trên chiếc chiếu - cũng như thằng em nó lúc này - mường tượng câu chuyện về các ông bác ra thành hình ảnh. Và thậm chí đôi khi Kunta còn nằm mê thấy mình đi du lịch cùng với các ông bác đến tất cả mọi nơi kỳ lạ, nói chuyện với những con người mà bộ dạng, hành vi và cách sống khác hẳn người Manđinka. Chỉ cần nghe thấy nhắc đến tên các ông bác là tim nó đã đập rộn lên rồi .
Mấy ngày sau, bỗng nhiên tên của các ông bác này được truyền tới Jufurê một cách náo nức đến nỗi Kunta phải khó khăn lắm mới tự kềm chế nổi. Đó là một buổi chiều oi ả, bình lặng và hầu như tất cả mọi người trong làng đang ngồi ngoài cửa lều hoặc dưới bóng cây bao-báp thì đột nhiên từ làng bên vọng sang gọn sắc tiếng trống truyền tin. Cũng như người lớn, Kunta và Lamin dỏng tai chăm chú nghe xem trống nói gì. Lamin há hốc miệng kêu lên khi nghe thấy tên bố mình. Nó còn bé, chưa hiểu được phần còn lại, nên Kunta thì thầm giải thích cho nó cái tin được truyền đến, Jannê và Xalum Kintê đang xây dựng một làng mới ở cách đây năm ngày đường, về phía mặt trời mọc. Và họ chờ em trai Ômôrô tới dự lễ cầu phước cho làng đó vào đầu tuần trăng sau nữa.
Tiếng trống loan tin dừng lại, Lamin hỏi rối rít: "Đúng là các bác của chúng ta đấy chứ? Cái chỗ ấy ở đâu? Liệu rồi bố có đến đó không?" Kunta không trả lời. Thật vậy, khi Kunta chạy xuyên qua làng như tên bắn về phía lều jaliba, nó hầu như không nghe thấy thằng em nói gì. Nhiều người khác đã tụ tập ở đấy - rồi Ômôrô tới, đằng sau là Binta với cái bụng kềnh càng. Mọi người nhìn Ômôrô và gã jaliba nói với nhau mấy câu ngắn và Ômôrô biếu anh ta một món quà. Cái trống đàm thoại đặt ở gần một đống lửa nhỏ, mặt bằng da dê được hơ nóng, căng đến tột độ. Phút chốc đám đông thấy đôi tay jaliba nện trống truyền đi câu trả lời của Ômôrô rằng theo ý Chúa Ala, anh sẽ có mặt tại khu làng mới của hai ông anh trước tuần trăng sau nữa. Trong những ngày tiếp theo, Ômôrô đi đâu dân làng cũng tấp nập xúm quanh chúc mừng và cầu phước cho ngôi làng mới mà lịch sử sẽ ghi lại là do thị tộc Kintê sáng lập nên.
Chỉ còn mấy ngày nữa là Ômôrô lên đường thì một ý nghĩ táo tợn đến mức hầu như không tưởng tượng được chợt xâm chiếm Kunta. Liệu có chút mong manh hy vọng nào bố nó bằng lòng cho nó đi cùng không nhỉ? Kunta không thể nghĩ đến điều gì khác. Nhận thấy sự trầm lặng khác thường của nó, các bạn chăn dê, kể cả Xitafa, đều để cho Kunta yên. Và đối với thằng em tôn sùng nó, Kunta trở nên cáu bẳn đến nỗi ngay cả Lamin cũng phải phật ý và bối rối tránh xa. Kunta biết là mình hành động không phải và cảm thấy ân hận, nhưng nó không thể làm khác được.
Nó biết là thỉnh thoảng có thằng may mắn được phép cùng đi một chuyến viễn du với bố, với chú, bác hoặc với anh trai lớn. Song nó cũng biết những thằng như thế đều không còn ở cái tuổi non nớt tám vụ mưa như nó, trừ trường hợp một số thằng bé không cha được những đặc quyền theo luật lệ của tổ tiên truyền lại. Một thằng bé như vậy có thể bám sát bất kỳ người đàn ông nào và người này sẽ không bao giờ phản đối việc chia sẻ với nó bất cứ cái gì mình có - dù anh ta đang làm một chuyến đi kéo dài hàng tuần trăng - chừng nào thằng bé còn theo sau, cách anh ta đúng hai bước, làm mọi điều anh ta sai bảo, không phàn nàn và không nói không rằng, trừ khi anh ta nói với nó.
Kunta biết là không nên để cho ai, nhất là mẹ nó ngờ ngợ đoán ra điều nó mơ tưởng. Nó cảm thấy chắc chắn rằng nếu lộ ra, Binta không những sẽ phản đối mà có lẽ sẽ còn cấm nó không bao giờ được nhắc đến chuyện ấy, điều đó có nghĩa là Ômôrô sẽ không bao giờ biết Kunta thiết tha mong muốn được đi đến mức nào. Cho nên Kunta biết hy vọng duy nhất của nó là hỏi chính bố - nếu như nó có cơ hội gặp bố một mình.
Chẳng bao lâu, chỉ còn ba ngày nữa là Ômôrô lên đường, Kunta gần như tuyệt vọng nhưng vẫn tỉnh táo chờ dịp, sau khi ăn sáng, đang lùa dê thì nó chợt thấy bố rời khỏi lều Binta. Lập tức, nó bèn điều khiển đàn dê quanh quẩn lại một chỗ cho đến khi Ômôrô đi khá xa theo một hướng khuất hẳn tầm mắt của Binta . Bấy giờ, Kunta đánh liều bỏ mặc đàn dê, chạy vụt đi như một con thỏ rừng, rồi dừng sững lại, thở không ra hơi, ngước mắt cầu khẩn nhìn vào bộ mặt kinh ngạc của bố. Miệng há hốc, Kunta quên biệt mọi điều định nói.
Ômôrô cúi nhìn con trai hồi lâu, rồi nói: " Bố vừa nói với mẹ con về chuyện ấy", và tiếp tục đi.
Kunta phải mất vài giây mới hiểu bố. "Aaa!". Kunta hét toáng lên mà thậm chí không biết là mình hét. Gieo mình xấp xuống đất, nó lại nhảy bật lên trên không như con cóc - và lao trở về với đàn dê, xua chúng chạy nhanh ra bãi.
Khi nó đủ bình tĩnh lại để kể cho lũ bạn mục đồng nghe câu chuyện vừa xảy ra, bọn này phát ghen lên đến nỗi mỗi đứa bỏ đi một phía. Nhưng dến trưa, chúng không dừng được nữa, không cưỡng nổi ý muốn chia sẻ niềm phấn khởi trước một dịp may kỳ diệu như vậy. Song lúc này, Kunta lại trở nên trầm lặng: nó chợt hiểu ra là từ lúc hiệu trống mang tin đến, bố nó đã suy nghĩ ngay đến nó.
Xế chiều hôm đó, khi Kunta sung sướng chạy về và bước vào căn lều của mẹ, Binta chẳng nói chẳng rằng, vớ lấy nó bạt tai túi bụi đến nỗi thằng bé phải vùng chạy mà không dám hỏi là mình đã làm gì nên tội. Và thái độ của Binta đối với Ômôrô đột nhiên thay đổi một cách kỳ lạ khiến Kunta cũng thấy chướng. Ngay cả Lamin cũng biết rằng một người đàn bà tuyệt đối không được phép tỏ ra bất kính đối với một người đàn ông, thế mà khi Ômôrô đứng gần kề, có thể nghe rành rọt lời chị nói, Binta vẫn cứ lớn tiếng ca cẩm, phản đối chuyến đi của hai bố con xuyên rừng xuyên bãi giữa lúc tiếng trống từ nhiều làng khác nhau thường xuyên loan tin có thêm những người bị mất tích. Những lúc chuẩn bị mạch kê làm bữa điểm tâm, chị nện chày vào lòng cối dữ dội đến nỗi nghe như đánh trống.
Hôm sau, khi Kunta hối hả ra khỏi lều - để tránh một trận đòn mới - Binta cấm Lamin không được theo, rồi hôn hít nó, vuốt ve nó, ghì lấy nó, những cử chỉ âu yếm mà kể từ sau thời kỳ nó còn ẵm ngửa, chị đã thôi không làm nữa. Lamin đưa mắt nhìn Kunta tỏ ý bối rối, nhưng cả hai đều không làm gì được.
Khi Kunta ở ngoài lều, cách xa mẹ nó, hầu hết mọi người lớn gặp nó đều chúc mừng, nêu rõ nó là đứa con trai nhỏ tuổi nhất ở Jufurê có vinh dự đi cùng với bậc cha anh trong một chuyến viễn du dài ngày. Kunta khiêm tốn nói "Cám ơn" chứng tỏ nền nếp giáo dục gia đình đâu vào đấy - nhưng một khi ra đến bãi, ngoài tầm mắt của người lớn, nó liền nhảy cỡn lên dưới cái bọc quần áo to tướng mà nó mang theo để trưng trỏ cho các bạn thấy mình có thể đội ngay ngắn như thế nào - và sáng hôm sau, nó sẽ đội cái bọc đó thật thăng bằng khi theo cha đĩnh đạc đi qua cây lữ khách cho mà xem. Nhưng đi được ba bước thì cái bọc đó rớt cả ba lần.
Trên đường trở về nhà, lòng ngổn ngang bao điều cần làm trước khi lên đường, Kunta cảm thấy một thôi thúc kỳ lạ phải đến thăm già Nyô Bôtô trước khi tiến hành bất cứ cái gì khác. Sau khi đưa dê về chuồng, nó lỉnh thật nhanh khỏi lều Binta và đến ngồi chồm chỗm trước lều bà Nyô Bôtô. Lát sau, bà hiện ra ở khung cửa "Ta đang đợi cháu", bà nói, mời nó vào trong lều. Như thường lệ mỗi khi Kunta đến thăm bà một mình, hai bà cháu cứ ngồi yên lặng một lúc. Xưa nay nó vẫn thích và chờ đợi cái cảm giác đó. Mặc dầu nó rất bé và bà thì rất già, hai bà cháu vẫn cảm thấy hết sức gần gũi nhau khi ngồi đó, trong căn lều mờ tối, mỗi người theo đuổi những ý nghĩ riêng của mình.
"Ta có một cái dành cho cháu", cuối cùng già Nyô Bôtô nói. Bước tới chỗ cái túi xẫm đen bằng da bò treo trên tường cạnh giường nằm, bà lôi ra một lá bùa xaphi màu xẫm người ta thường quấn vào cánh tay. "Ông nội cháu đã ban phước cho lá bùa này khi cha cháu đi tập luyện trưởng thành", bà Nyô Bôtô nói. "Nó được ban phước nhân kỳ huấn luyện trưởng thành của con trai đầu lòng Ômôrô - tức là cha cháu. Bà nội Yaixa giao nó lại cho ta giữ đến khi nào cháu bước vào tập luyện trưởng thành. Và chuyến đi này với bố cháu quả thật là bước mở đầu ấy". Kunta âu yếm nhìn bà già thân yêu, nhưng nó không tìm ra lời lẽ thích đáng để nói rằng lá bùa sẽ khiến nó cảm thấy bà luôn luôn ở bên nó, dù nó đi xa đến đâu chăng nữa.
Sáng hôm sau, cầu nguyện ở nhà thờ trở về, Ômôrô sốt ruột đứng chờ Binta đủng đỉnh làm nốt động tác sửa lại ngay ngắn cái bọc đội đầu cho Kunta. Ban đêm nằm chong chong, quá rạo rực không ngủ được, Kunta đã nghe thấy chị khóc nức nở. Rồi bất thình lình chị ghì chặt lấy Kunta đến nỗi nó cảm thấy người chị run lên và hơn bao giờ kết, nó hiểu mẹ nó thực quả yêu nó biết nhường nào.
Trước đó, cùng với thằng bạn Xitafa, Kunta đã thực tập và tổng duyệt những điều mà giờ đây nó và bố nó đang làm. Trước hết, Ômôrô rồi sau đó là Kunta bước hai bước ra trước cửa lều. Rồi dừng sững, quay lại và cúi xuống, hai bố con vét nắm bụi trong những dấu chân đầu tiên của mình, bỏ vào túi săn, bằng cách đó đảm bảo bước chân mình sẽ quay trở về chỗ cũ.
Từ cửa lều mình, Binta nước mắt giàn giụa, ghì chặt Lamin vào cái bụng chửa, đứng trông theo Ômôrô và Kunta bước đi. Kunta đã định ngoái lại nhìn lần cuối - nhưng thấy bố không làm thế mà cứ tiếp bước, mắt nhìn thẳng phía trước, nó bèn nhớ ra rằng một người đàn ông không nên bộc lộ những xúc động của mình. Trong khi đi ngang qua làng, mọi người đang gặp trên đường đều nói và mỉm cười với hai bố con, và Kunta vẫy các bạn cùng lứa kafô đã hoãn chậm việc lùa dê để tiễn nó. Nó biết các bạn hiểu rõ sở dĩ nó không đáp lại những lời chào của chúng là vì đối với nó lúc này, mọi lời thưa thốt là cấm kỵ. Tới chỗ cây lữ khách, hai bố con dừng lại và Ômôrô buộc hai mảnh vải hẹp thêm vào hàng trăm dải khác đã tơi tả vì mưa nắng dãi dầu nhưng vẫn phất phơ ở những cành thấp, mỗi dải tượng trưng cho lời của một du khách nguyện cầu cho chuyến đi của mình được an toàn và đầy ân phước.
Kunta không thể tin rằng những diều này đang thực sự diễn ra. Lần đầu tiên trong đời nó sẽ qua một đêm cách xa lều mẹ, lần đầu tiên, nó sẽ đi qua cổng làng Jufurê xa hơn cả một con dê lạc bầy, lần đầu tiên… cho biết bao nhiêu thứ! Trong khi Kunta đang bận tâm với những ý nghĩ ấy, Ômôrô đã quay gót và không nói không rằng, cũng chẳng ngoái nhìn lại, bắt đầu đi rất nhanh trên con đường mòn dẫn vào rừng. Kunta chạy vội để theo cho kịp bố, tí nữa làm rớt cái bọc đội đầu.
Chương 18
Kunta thấy mình phải gần như chạy lon ton mới giữ được đúng khoảng cách hai bước chân đằng sau Ômôrô. Nó thấy hầu như mỗi lần bố nó nhẹ nhàng sải dài cẳng là nó phải bước nhanh hai bước ngắn mới kịp. Sau một giờ như vậy, niềm phấn khởi của Kunta đã ỉu sìu đi gần như nhịp chân của nó. Cái bọc trên đầu mỗi lúc một nặng hơn và một ý nghĩ kinh khủng vụt đến với nó: giả dụ nó đâm mệt quá đến nỗi không theo nổi nữa thì sao? Hung lên, nó tự bảo mình sẽ gục ngay tại chỗ, trước khi điều đó xảy ra.
Đây đó, khi hai bố con đi qua, những con lợn rừng khịt khịt lao vào bụi rậm, gà gô xào xạc bay lên và những chú thỏ nhảy vọt đi tìm chỗ nấp. Nhưng đang mải miết với quyết tâm theo cho kịp Ômôrô, nên dù có là một con voi, Kunta cũng không buồn để ý. Những bắp thịt phía dưới gối Kunta đang bắt đầu nhoi nhói. Mặt nó vã mồ hôi, cả đầu cũng thế, cứ xem cái bọc bắt đầu trượt đi, đảo một tí bên này, một tí bên kia thì đủ biết, và nó cứ phải đưa cả hai tay lên chỉnh lại cho ngay ngắn.
Sau một lúc, nhìn đằng trước, Kunta thấy hai bố con đang lại gần cây lữ khách của một làng nhỏ. Nó tự hỏi đó là làng gì, nó dám chắc mình có biết đến tên làng đó nếu bố nó nhắc, nhưng từ lúc rời Jufurê, Ômôrô chẳng nói cũng chẳng nhìn lại sau lưng. Mấy phút sau, Kunta thấy mấy đứa bé trần truồng thuộc lứa kafô đầu chạy bổ ra gặp hai bố con nó - như bản thân nó có hồi cũng đã từng làm thế. Chúng vẫy tay, hò la, và khi đến gần hơn Kunta có thể thấy mắt chúng trợn tròn vì thấy một thằng nhóc như vậy cùng du hành với bố .
"Các người đi đâu thế?" chúng lao xao hỏi, chen chúc hai bên Kunta. "Có phải bố mày đấy không?" "Bố con mày là người Manđinka phải không?" "Làng mày là làng gì?" Dù rất mệt, Kunta vẫn cảm thấy rất già dặn và quan trọng nó tỉnh bơ bọn kia, y hệt như bố nó vậy.
Đến gần mỗi cây lữ khách, con đường thường rẽ đôi, một ngả dẫn vào làng, ngả kia đi qua ngoài làng để cho người nào không có việc gì ở đó cứ tiếp tục đi mà không bị coi là khiếm nhã. Khi Ômôrô và Kunta rẽ vào ngả đi qua phía ngoài làng, bọn trẻ con thất vọng kêu lên, còn những người lớn ngồi dưới cây bao-báp của làng chỉ đưa mắt nhìn các lữ khách, vì tất cả còn tập trung chú ý vào một ông già kể sử mà Kunta nghe thấy đang lớn tiếng diễn thuyết về sự vĩ đại của người Manđinka. Kunta nghĩ bụng: chắc sẽ có khối ông già kể sử, người hát ngợi và nhạc công tại lễ cầu phước cho làng mới của hai bác nó.
Mồ hôi bắt đầu chảy vào mắt Kunta, khiến nó cứ phải hấp háy cho đỡ xót. Từ lúc hai cha con khởi hành, mặt trời mới đi qua một nửa bầu trời, thế mà chân nó đã đau tợn và cái bọc đội đầu đã trở nên nặng đến nỗi nó bắt đầu nghĩ là mình sắp sửa quỵ, không chịu nổi nữa. Một cảm giác kinh hoàng dâng lên trong nó khi Ômôrô đột nhiên dừng lại và lẳng cái bọc đội đầu của mình xuống đất, bên một con hố trong leo lẻo cạnh đường đi. Kunta đứng một lúc, cố kềm chế đôi chân run rẩy. Nó túm chặt lấy cái bọc đội đầu để hạ xuống, nhưng nó tuột khỏi tay, rơi đánh bịch một cái. Lòng rầu rĩ nó biết là cha đã nghe thấy - nhưng Ômôrô đã quỳ xuống uống nước ở lạch, thậm chí không tỏ dấu hiệu gì là có con trai mình ở đó nữa.
Trước đó, Kunta không nhận ra là mình khát đến mức độ nào. Bước thấp bước cao bên bờ nước, nó quỳ xuống để uống nhưng chân nó không chịu gập theo tư thế ấy. Sau khi cố thử lần nữa vẫn không được, cuối cùng nó đành nằm áp bụng xuống, chống hai khủy tay và xoay xở áp miệng xuống được làn nước.
"Một chút xíu thôi". Đây là lần đầu tiên bố nó lên tiếng kể từ lúc rời Jufurê và điều đó khiến Kunta bất bình "Nuốt một tí chờ cho xuôi, rồi lại uống thêm tí nữa". Vì một lý do nào đó, nó cảm thấy tức bố nó. "Vâng, thưa bố", nó định nói thế, song không thốt ra được tiếng nào. Nó nhấm nháp chút nước mát và nuốt ực đi. Nó cố nén đợi mà như muốn gục xuống. Sau khi nhấp thêm một chút nữa, nó ngồi dậy và nghỉ bên bờ hồ. Nó thoáng nghĩ rằng việc rèn luyện trưởng thành hẳn cũng từa tựa như vậy. Thế rồi, ngồi thẳng người, nó ngủ thiếp đi.
Khi nó giật mình thức dậy, nó ngủ được bao lâu rồi nhỉ? - thì chẳng thấy Ômôrô đâu cả. Chồm trở dậy, Kunta thấy cái bọc lớn dưới một gốc cây cạnh đó, vậy là bố nó chưa đi đâu xa. Khi bắt đầu ngó quanh quẩn, nó mới nhận ra là mình mẩy ê ẩm biết chừng nào. Nó lắc mạnh người và vươn chân vươn tay. Các bắp thịt đau rần, nhưng nó cảm thấy dễ chịu hơn trước. Quỳ xuống uống thêm vài hụm nước, Kunta thấy bóng mình trên mặt hồ lặng tờ - một bộ mặt đen nhẻm bé choắt với đôi mắt to và cái miệng rộng. Kunta mủm mỉm cười với bóng mình rồi nhoẻn miệng phô cả hàm răng. Nó không dừng được, phá lên cười rộ, và khi ngẩng nhìn lên… thì Ômôrô đã đang đứng cạnh nó. Kunta bật đứng phắt dậy, luống cuống, nhưng bố nó dường như đang chăm chú vào những điều gì khác.
Dưới bóng mấy cái cây, cả hai đều lặng thinh chẳng nói chẳng rằng, trong khi lũ khỉ chí chóe và bầy vẹt quang quác trên đầu, hai cha con lấy trong bọc ra ít bánh mì ăn với bốn con chim câu rừng béo mập mà Ômôrô đã dùng nỏ bắn chết và quay trong khi Kunta ngủ. Vừa ăn, Kunta vừa tự nhủ rằng, dễ gặp cơ hội một cái là nó sẽ tỏ cho cha biết mình cũng có thể giết thú và nấu nướng thức ăn cừ như thế nào, theo lối nó và các bạn cùng lứa kafô vẫn làm ngoài bãi hoang vậy.
Ăn xong, mặt trời đã qua được ba phần tư bầu trời cho nên khi buộc lại và đặt các bọc ngay ngắn lên đầu thì không đến nỗi nóng như trước nữa và hai cha con lại tiếp tục lên đường.
"Bọn tubốp cập thuyền ở cách đây một ngày đường" Ômôrô nói vậy khi đã đi một quãng dài. "Bây giờ là ban ngày ta còn nhìn rõ, nhưng ta vẫn phải tránh những chỗ bụi rậm và cỏ mọc cao có thể che dấu những điều bất ngờ" Ômôrô đưa ngón tay sờ vỏ dao và cung tên "Đêm nay ta phải ngủ trong một làng nào đó".
Cố nhiên, có bố bên cạnh, nó không việc gì mà sợ, nhưng Kunta vẫn cảm thấy một loáng hãi hùng sau cả một quãng đời luôn nghe thấy mọi người cùng trống phách kể về những vụ mất tích và bắt trộm người. Trong khi tiếp tục đi - lúc này bước rảo hơn một chút - Kunta nhận thấy những đống phân linh cẩu trên đường; phân linh cẩu màu trắng ngần vì chúng có bộ hàm khỏe nhai rau ráu và ăn rất nhiều xương. Và bên vệ đường, bước chân hai cha con tiến lại gần khiến một bầy linh dương ngừng ăn, đứng ngây như tượng, chăm chăm nhìn cho tới khi hai con người đi qua hẳn.
"Voi!". Lát sau Ômôrô nói và Kunta trông thấy những bụi rậm xung quanh bị giẫm nát, các cây con bị tróc vỏ, tước cành và một số cây lớn gần bật hẳn rễ do bị voi dựa vào để kéo những lá non trên ngọn xuống vừa tầm vòi chúng có thể vươn tới. Vì lẽ voi không bao giờ ăn ở gần làng, gần người, nên cả đời Kunta cho tới nay mới chỉ thấy vài con, mà lại từ rất xa. Mấy con này ở trong số hàng nghìn thú rừng ùa nhau chạy ầm ầm như sấm dậy trước những đám khói đen khủng khiếp khi một đám cháy lớn lan khắp vùng rừng hoang hồi Kunta còn bé tí, nhưng ơn Chúa Ala, mưa đã dập tắt đám cháy trước khi nó gây hại cho Jufurê hay bất kỳ làng nào gần đó.
Trong khi hai cha con hì hụi đi theo con đường mòn tưởng như bất tận, Kunta chợt nảy ra ý nghĩ rằng cũng như bước chân người vạch nên những con đường, loài nhện dệt lên những sợi dài mỏng mảnh để ngao du trên đó, Kunta tự hỏi liệu Chúa Ala có muốn mọi sự cho sâu bọ và thú vật như cho người không; nó ngạc nhiên nhận ra trước đây chưa bao giờ nó nghĩ tới điều đó. Nó ước ao giá có thể hỏi Ômôrô ngay tức thời về chuyện này. Nó lại càng ngạc nhiên hơn về nỗi Lamin đã không hỏi gì nó về vấn đề ấy, vì Lamin vẫn hay hỏi nó về cả những chuyện nhỏ nhoi hơn cả chuyện sâu bọ. Được, nó sẽ có ối chuyện để kể cho thằng em nghe khi nó trở về Jufurê - đủ để lấp đầy những ngày dài ngoài bãi cùng các bạn mục đồng của nó trong những tuần trăng tới .
Kunta cảm thấy nó và Ômôrô đang đi vào một loại xứ sở khác với vùng mình ở. Mặt trời tà rọi chiếu xuống những đám cỏ rậm rạp chưa từng thấy, và giữa những cây quen thuộc, lại có những khóm lớn toàn cọ và xương rồng. Ngoài ruồi trâu, những vật duy nhất biết bay nó thấy ở đây không phải là những chú vẹt xinh đẹp và những loài chim vẫn ríu rít hót quanh làng Jufurê, mà là những con diều hâu lượn vòng tìm mồi cùng lũ kền kền săn thức ăn đã chết.
Khi mặt trời như quả cầu màu da cam gần sát tới đất thì Ômôrô và Kunta nhìn thấy một vệt khói dày bốc lên từ một làng trước mặt. Tới chỗ cây lữ khách, ngay cả Kunta cũng có thể thấy rõ có điều gì không ổn ở đây. Cành cây treo rất ít dải băng cầu phước, chúng tỏ dân ở đây ít có người rời khỏi làng và phần lớn khách lữ hành từ các làng thường chọn đường qua mé ngoài làng. Ngán thay, không có đứa trẻ nào chạy ra gặp hai cha con.
Khi đi ngang qua cây bao-báp làng, Kunta thấy nó bị cháy xém mất một phần. Quá nửa số lều đất nó trông thấy, đều trống không, rác rưởi đầy sân, thỏ chạy rong và chim chóc vầy trong bụi rậm. Dân làng - đa số nằm quanh hoặc tựa cửa lều của mình - hầu hết là người già hoặc ốm đau và mấy đứa hài nhi oe oe khóc dường như là những trẻ con duy nhất ở trong làng. Kunta không thấy ai thuộc lứa tuổi nó - hoặc thậm chí trạc tuổi Ômôrô.
Mấy ông già nhăn nheo yếu đuối ra đón hai du khách. Ông lão cao tuổi nhất trong đám đập chiếc gậy chống, ra lệnh cho một bà già rụng hết răng mang nước và mạch kê đến cho khách, có lẽ bà ta là một nô lệ, Kunta ngồi nghĩ thầm . Rồi các ông già tranh nhau giải thích chuyện gì đã xảy đến với làng mình, cụ nọ cướp lời cụ kia. Bọn săn nô lệ một đêm đã lén bắt hoặc giết chết tất cả lớp người trẻ trong làng, "từ tuổi con đến tuổi nó". Một ông già chỉ Ômôrô, rồi lại chỉ Kunta "Bọn ta già rồi, chúng tha cho. Bọn ta chạy rạt vào rừng".
Ngôi làng bỏ không đã tan nát trước khi họ quyết định quay về. Họ chưa trồng cấy được gì hết, lương thực không có là bao, mà sức lực cũng chẳng được mấy nả. "Không có đám trẻ, chúng tôi sẽ chết dần chết mòn" một trong số những ông già nói vậy. Ômôrô đã nghe kỹ câu chuyện của họ và anh chậm rãi nói"Làng anh con, cách đây bốn ngày đường, sẽ hoan nghênh các cụ đến".
Tất cả đều lắc đầu, trong khi cụ già nhất nói: ‘ Đây là làng của chúng tôi. Không giếng nào khác có nước ngọt như giếng làng chúng tôi. Không cây nào khác tỏa bóng mát dễ chịu như cây làng chúng tôi. Không bếp ăn nào khác thơm lừng như dưới bàn tay nấu nướng của phụ nữ làng chúng tôi".
Các cụ xin lỗi vì không có nhà khách. Ômôrô cam đoan với các cụ rằng cha con anh thích ngủ dưới trời sao. Và đêm đó, sau bữa ăn đơn sơ với bánh mì lấy trong bọc hành trang, mà họ chia sẻ với dân làng, Kunta nằm trên tấm nệm rập rình bằng nhành cây xanh, và suy nghĩ về tất cả những điều nó đã nghe thấy. Ví thử như đây là Jufurê, mọi người nó biết đều chết hoặc bị bắt mang đi, Ômôrô, Binta, Lamin và bản thân nó nữa - cây bao-báp bị đốt cháy thui và các sân nhà đầy rác rưởi. Kunta cố nghĩ sang chuyện khác.
Rồi đột nhiên trong đêm tối, nó nghe thấy tiếng kêu rú của một con gì trong rừng bị một thú dữ bắt, và nó liên tưởng đến chuyện bắt người. Nó cũng nghe thấy đằng xa có tiếng linh cẩu gào - song le, trong đời nó dù mùa mưa hay mùa khô, dù giáp hạt đói kém hay vào mùa gặt, đêm nào mà nó chả nghe thấy tiếng linh cẩu gào đâu đó. Đêm nay, khi cuối cùng, nó chìm vào giấc ngủ, Kunta thấy tiếng kêu quen thuộc của chúng gần như là an ủi vỗ về .
Chương 19
Trong ánh sáng đầu tiên của rạng đông, Kunta thức giấc và đứng bật dậy. Đứng cạnh ổ nằm của nó là một bà già kỳ quái đang cất giọng vỡ ra the thé hỏi cái khoản thức ăn bà sai nó đi tìm cách đây hai tháng, giờ ra sao rồi. Đằng sau Kunta, Ômôrô dịu dàng nói: "Bà nội ạ, chúng con cũng muốn biết đường trả lời để bà rõ thôi".
Tắm rửa và ăn uống xong, trong khi hai cha con hối hả đi khỏi làng. Kunta nhớ đến một bà già ở Jufurê thường dò dẫm đi quanh, ngó vào tận mắt mọi người và hoan hỉ nói: "Mai, con gái ta về đấy!". Con gái bà đã mất tích từ bao vụ mưa trước, ai nấy đều biết và con gà trống trắng đã nằm ngửa mà chết, nhưng tất cả mọi người bị bà níu lại đều dịu dàng đồng ý: "Vâng, thưa bà - mai ạ".
Mặt trời chưa lên cao lắm. Hai cha con thấy đằng trước có một bóng người đơn độc tiến về phía mình trên con đường mòn. Hôm trước, hai cha con đã gặp hai ba người lữ hành - mỉm cười và chào nhau - nhưng ông già này lại gần, tỏ rõ là muốn nói chuyện. Chỉ về hướng mình vừa đi khỏi, ông nói "Chú có thể gặp một tên tubốp đấy". Sau lưng Ômôrô, Kunta gần như ngừng thở. "Có nhiều người đội cái bọc hành trang cho hắn". Ông già kể là tên tubốp trông thấy ông già và giữ lại, nhưng chỉ để hỏi xem con sông bắt đầu từ đâu. "Tôi bảo hắn đầu sông ở chỗ xa cuối sông nhất".
"Hắn không có ý làm hại cụ ư?" Ômôrô hỏi.
"Hắn làm ra rất thân thiện", ông già nói, "nhưng con mèo bao giờ cũng ăn thịt con chuột mà nó vờn".
"Đúng là như thế", Ômôrô nói.
Kunta muốn hỏi bố về cái tên tubốp kỳ dị tới đây để tìm sông chứ không tìm người, nhưng Ômôrô đã chào từ biệt ông già và đang rảo bước đi xuôi con đường mòn như thường lệ, không muốn nhìn xem Kunta có theo sau lưng mình không? Lần này, Kunta lấy thế làm mừng, vì nếu ngó lại, Ômôrô ắt thấy con trai mình đưa cả hai tay lên giữ cái bọc đội đầu trong khi chật vật chạy cho kịp bố. Chân Kunta bắt đầu tướp máu, nhưng nó biết rằng để ý đền điều đó là thiếu khí phách nam nhi, nói chi đến chuyện đi thưa với bố.
Cũng vì lý do đó, Kunta cố nuốt đi nỗi khiếp sợ khi mà, lát sau, cùng ngày hôm ấy, hai cha con rẽ theo một chỗ ngoặt và gặp một gia đình sư tử - một con đực to đùng, một con cái đẹp mã và hai con con đã khá lớn - đang nằm ườn ở một ruộng cỏ rất gần đường. Đối với Kunta, sư tử là những con vật dễ sợ, lén lút, sẵn sàng vồ chú dê nào được mục đồng thả lỏng cho rời bầy đi ăn khá xa.
Ômôrô bước chậm lại và, mắt không rời đám sư tử, điềm tĩnh nói, dường như cảm thấy nỗi sợ của con trai: "Giờ này, chúng nó không săn bắt hoặc ăn gì đâu, trừ phi chúng đói. Những con này béo tốt cả". Tuy vậy, anh vẫn đặt một tay lên nỏ và tay kia nắm bó tên khi họ đi qua. Kunta nín thở, nhưng vẫn bước đều, nó và sư tử nhìn nhau chằm chằm cho đến khi khuất dạng.
Đáng lý nó còn tiếp tục nghĩ về chúng và về tên tubốp cũng ở quanh quất trong vùng, nhưng đôi chân đau nhức không để cho nó yên. Đêm hôm đó, giá có tới hai mươi con sư tử kiếm ăn ở chỗ Ômôrô chọn để ngủ lại, thì nó cũng chả buồn đếm xỉa tới. Kunta vừa mới ngã mình xuống cái ổ lót cành cây mềm đã ngủ say tít - và khi bố nó lay dậy vào lúc rạng sáng, nó tưởng đâu như mới được ít phút thôi. Mặc dầu cảm thấy như chưa ngủ tí nào. Kunta vẫn không giấu nổi vẻ thán phục khi thấy Ômôrô đã làm xong bữa ăn sáng mau lẹ biết bao, nào lột da, nào làm lòng, nào quay hai chú thỏ rừng bẫy được hồi đêm. Trong khi Kunta ngồi bệt đánh chén món thịt thơm ngon, nó nghĩ lại hồi nó cùng các bạn chăn dê bỏ hàng giờ bắt thú vật để nấu ăn như thế nào và nó băn khoăn không hiểu bố nó và nhiều người đàn ông khác lấy đâu ra thì giờ mà học được nhiều thứ thế - dường như tất cả những gì cần biết.
Đôi bàn chân rộp phồng, cặp giò và lưng và cổ nó, tất cả lại bắt đầu đau rần vào cái ngày đi đường thứ ba này - thực tế, cả người nó dường như là một khối đau ê ẩm, nhưng nó coi như việc huấn luyện trưởng thành đã bắt đầu với mình và nhất quyết phải là đứa gan lì nhất trong lứa kafô của nó, không chịu lộ vẻ đau đớn ra. Khi giẫm phải một cái gai đúng vào trước lúc trưa, Kunta dũng cảm mắm môi không kêu, nhưng nó bắt đầu tập tễnh và tụt hậu xa đến nỗi Ômôrô đành quyết định để cho nghỉ ít phút bên đường trong khi ăn bữa chiều. Thứ sáp dịu đau bố nó xoa vào vết thương khiến nó cảm thấy dễ chịu hơn, nhưng lát sau, hai cha con tiếp tục khởi hành, và nó bắt đầu đau dữ, - và chảy máu nữa. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, vết thương đã đầy bụi bẩn, nên không chảy máu nữa và việc cuốc bộ liên tục làm tê cái đau đến mức vừa đủ để nó theo kịp được bố. Kunta không dám chắc, nhưng nó có cảm giác như Ômôrô đã đi chậm lại chút xíu. Tới lúc họ dừng lại nghỉ đêm ấy, vùng chung quanh vết thương nom gớm chết và sưng đẫn, nhưng bố nó đắp một lượt thuốc khác và sáng ra, coi bộ cũng đỡ và tạm tạm để chịu sức nặng của nó mà không đến nỗi đau lắm.
Hôm sau, khi lên đường, Kunta khoan khoái nhận thấy họ đã vượt qua và bỏ lại sau lưng vùng đất đầy gai và xương rồng, và đang tiến vào miền bãi rậm giống vùng Jufurê hơn, nhiều cây to cùng thảo mộc chi chít hoa, nhiều khỉ chí cha chí chóe cùng chim chóc đủ màu sắc, nhiều hơn bất cứ nơi nào nó từng thấy. Việc hít làn không khí thơm lừng khiến Kunta nhớ lại những lần nó đưa thằng em đi bắt cua dọc theo bờ bôlông, ở đó nó và Lamin thường chờ để vẫy mẹ cùng các phụ nữ khác chèo xuồng về nhà sau buổi làm ở cánh đồng lúa.
Tới mỗi cây lữ khách, Ômôrô đều rẽ theo lối vòng qua phía ngoài làng, nhưng bọn trẻ con lứa kafô đầu của mỗi làng bao giờ cũng chạy ra gặp và kể cho hai người khách lạ những tin tức địa phương lý thú nhất. Ở mỗi làng như vậy, bọn tí nhau đưa tin bổ nhào ra kêu lớn: "Thầy mo! Thầy mo!" và, coi thế là hoàn thành nhiệm vụ, chúng chạy biến vào trong cổng làng. Con đường vòng chạy khá gần, đủ để cho Ômôrô và Kunta trông thấy đám thị dân đứng xem một bóng người đeo mặt nạ, vận tế phục đang vung roi trên tấm lưng trần của một phụ nữ kêu tru tréo bị mấy phụ nữ khác giữ chặt. Tất cả đám khán giả nữ đều thét lên mỗi lần một nhát roi quật xuống. Qua nhiều lần bàn cãi với lũ bạn chăn dê, Kunta được biết là một người chồng, nếu bị cô vợ lăng loàn, nhiễu sự làm rầy khá nhiều, có thể lặng lẽ đến một làng khác thuê một thầy mo về làng mình, nấp kín đâu đó, thỉnh thoảng quát lên rùng rợn, rồi xuất hiện và phạt đòn cô vợ đó trước công chúng, sau đó tất cả phụ nữ trong làng đều ăn ở tử tế hơn trong một thời gian.
Ở một cây lữ khách, không có đứa trẻ nào ra gặp bố con nhà Kintê. Thực tế, làng vắng lặng, không thấy một bóng người cũng chẳng nghe thấy tiếng gì, ngoài chim chóc và khỉ. Kunta tự hỏi hay là bọn bắt nô lệ cũng đến cả nơi này nữa chăng. Nó hoài công đợi Ômôrô giải thích điều bí ẩn đó, nhưng lại chính bọn trẻ mau miệng ở làng sau nói cho nó hay. Chỉ ngược trở lại con đường, chúng kể rằng xã trưởng ở đó cứ toàn làm những điều dân không ưa, cho đến một đêm cách đây không lâu, trong khi ông ta ngủ, mọi người đã lặng lẽ mang hết của cải bỏ đi đến nhà bạn bè và gia đình ở những nơi khác - để lại một ông "xã trưởng rỗng" - theo lời bọn trẻ - ông này bây giờ cứ đi quanh hứa hẹn sẽ hành động tốt hơn nếu dân làng trở về.
Vì đã sắp tối nên Ômôrô quyết định vào làng này và đám đông tụ tập dưới bóng cây bao-báp xôn xao bàn tán về tin đồn đầy khích động ấy. Đa số chắc chắn rằng những người làng giềng mới của họ sẽ trở về sau khi dạy cho xã trưởng bài học này thêm ít ngày nữa. Trong khi Kunta nhồi nhét cơm ninh lạc đầy dạ dày, Ômôrô tìm đến jaliba của làng này, thu xếp việc truyền một thông báo bằng hiệu trống cho các ông anh. Anh nhắn họ đón mình vào lúc mặt trời lặn ngày hôm sau và báo rằng cùng đi, còn có con trai đầu lòng của mình.
Trước đây, đôi khi Kunta đã mơ ước được nghe thấy tên mình loan đi bằng hiệu trống qua khắp miền và giờ đây điều đó đã xảy đến. Hiệu trống ấy ắt không rời khỏi tai nó nữa. Sau đó, nằm trên chiếc giường tre ở nhà khách, mặc dù mệt thấu xương, Kunta vẫn nghĩ tới những jaliba khác gò lưng trên mặt trống, nện rõ ràng tên nó trong từng làng dọc con đường dẫn tới làng của Jannê và Xalum.
Vì trống đã loan tin, nên giờ đây, tới mỗi cây lữ khách không phải chỉ có bọn trẻ con trần truồng như thường lệ, mà cả một số người lớn tuổi và nhạc công cũng ra đón. Và Ômôrô không thể chối từ yêu cầu của một ông già xin anh cho làng ông được hân hạnh tiếp đãi, chí ít cũng là một cuộc ghé thăm ngắn ngủi. Trong khi cha con nhà Kintê giải khát trong mỗi nhà khách, rồi ra ngồi cùng ăn uống dưới bóng cây bao-báp hoặc cây gạo, những người lớn săm sắn tập hợp quanh Ômôrô nghe anh trả lời các câu hỏi của họ, còn trẻ con các lứa kafô thứ nhất, thứ hai và thứ ba thì bu lấy Kunta.
Trong khi lứa kafô đầu chằm chằm nhìn nó với vẻ nể sợ lặng lẽ, bọn cùng tuổi hoặc lớn hơn Kunta vừa ghen tị một cách đau đớn, vừa kính cẩn hỏi về làng quê nó và về nơi nó định đến. Nó nghiêm trang trả lời bọn chúng với tư thế đĩnh đạc - là nó hy vọng thế - như bố nó trả lời bố bọn kia. Lúc hai cha con rời chân lên đường, nó chắc chắn rằng dân làng cảm thấy đã gặp một thiếu niên hầu như suốt đời theo cha đi du lịch trên những nẻo đường dài của đất nước Gămbia.
Chương 20
Hai cha con nán lại làng cuối cùng lâu quá nên phải đi nhanh hơn và vất vả hơn để tới nơi vào lúc mặt trời lặn như Ômôrô đã hẹn các ông anh. Tuy vã mồ hôi và đau đớn, Kunta lại thấy việc giữ cái bọc đội đầu cho cân là dễ dàng hơn trước và nó cảm thấy một sức mạnh mới trào lên mỗi khi lời trống thông báo tràn ngập không trung truyền tin là các ông già kể sử, các jaliba, các bô lão và nhiều nhân vật quan trọng khác đã tới thị trấn trước mặt đại diện cho những làng quê xa như Karantaba, Kutakunđa, Pixamya và Jonkakonđa, mà phần lớn Kunta chưa bao giờ nghe nhắc tới. Tiếng trống nói rằng một ông già kể sử từ vương quốc Uuli đã tới đó thậm chí có cả một hoàng tử cho vua cha miền Bara phái đến nữa. Trong khi sải nhanh đôi chân nứt nẻ trên con đường vừa nóng vừa bụi, Kunta ngây ngất thấy các bác nó thật trứ danh và được lòng dân biết mấy. Chẳng mấy chốc, nó gần như chạy, chẳng những để bám sát Ômôrô mỗi lúc một rảo bước nhanh hơn, mà còn vì những giờ cuối này dường như bất tận.
Cuối cùng, mặt trời vừa bắt đầu chuyển sang màu đỏ thắm trên đường chân trời phía tây, thì Kunta phát hiện thấy khói tỏa lên từ một làng không xa ở phía trước. Làn khói lan rộng theo hình tròn báo cho Kunta biết là người ta đang đốt vỏ cây bao-báp khô để xua muỗi. Có nghĩa là làng đang tiếp những khách quan trọng. Nó cảm thấy hoan hỉ. Cha nó đã tới đích! Chẳng mấy chốc, nó bắt đầu nghe thấy tiếng thì thùm như sấm của một cái trống tôbalô lớn của những cuộc lễ - nó đoán là trống được đánh lên khi mỗi nhân vật mới đi qua cổng làng. Quyện lẫn vào đó là tiếng bập bùng của những trống tantăng nhỏ hơn và tiếng la hét của những người nhảy múa. Rồi con đường đến một chỗ ngoặt và làng hiện ra với làn khói bốc cao. Và bên một bụi rậm, hai cha con trông thấy một người, người này cùng lúc ấy cũng nhìn thấy họ và bèn vừa chỉ vừa vẫy như thể anh ta được bố trí ở đó để chờ một người đàn ông sắp tới cùng một đứa con trai vậy. Ômôrô vẫy lại, người đó lập tức ngồi thụp xuống gióng trống loan báo: "Ômôrô Kintê và con trai đầu lòng".
Kunta cảm thấy như chân không chạm đất. Phút chốc cây lữ khách hiện ra, trang hoàng bằng những băng vải dài và con đường mòn thoạt kỳ thủy chỉ vừa một lối đi, giờ đã được mở rộng ra bởi bao bàn chân - chứng tỏ làng đã đông đảo dân và trở nên tấp nập. Tiếng trống tantăng mỗi lúc một to hơn và đột nhiên đám người nhảy múa xuất hiện trong trang phục lá cây và vỏ cây, hò la, chồm lên, quay tròn và giậm chân, dẫn đầu mọi người khác đi qua cổng làng chào đón các vị khách quý. Trống làng tôbalô giọng trầm bắt đầu rộn lên khi hai bóng người rẽ đám đông chạy tới. Đằng trước Kunta, cái bọc đội đầu của Ômôrô đột nhiên rơi bịch xuống đất và Ômôrô chạy về phía họ. Kunta chưa kịp hiểu ra thì cái bọc của chính nó đã rơi xuống và nó cũng chạy bổ tới.
Hai người đàn ông nọ và bố nó đang ôm ghì lấy nhau và đấm nhau thùm thụp. "Và đây là cháu trai của chúng ta đấy ư?" cả hai người bế thốc Kunta lên và ôm hôn nó giữa những tiếng reo vui. Cuốn băng hai cha con về phía làng, đoàn người đông đảo ra đón khách hô to những lời chào mừng khắp bốn phía, nhưng Kunta không trông thấy, nghe thấy ai ngoài hai bác nó. Đã đành là họ giống Ômôrô rồi, nhưng nó nhận thấy cả hai có phần thấp hơn, to ngang hơn và vạm vỡ hơn bố nó. Đôi mắt ông bác cả Jannê như hiêng hiếng nhìn ra xa và cả hai ông cử động thoăn thoắt gần như loài thú. Cách nói của họ cùng nhanh hơn bố nó, khi họ dồn dập hỏi thăm về làng Jufurê và về Binta.
Cuối cùng, Xalum đấm yêu lên đầu Kunta: "Từ dạo đặt tên cho nó, bọn ta chưa gặp nhau. Và bây giờ, nhìn nó mà xem! Cháu được mấy vụ mưa rồi, Kunta?"
"Thưa bác, tám ạ", nó lễ phép trả lời.
"Sắp sửa rèn cặp trưởng thành được rồi đấy!" bác nó kêu lên.
Khắp xung quanh lũy tre làng cao vút, có chất đống những bụi gai khô và giấu kín trong đó là những chông nhọn để đâm què mọi ác thú hoặc gian phi đến cướp phá. Nhưng Kunta không để ý đến những thứ đó mà đối với mấy đứa trẻ trạc tuổi nó đang ở quanh đấy, nó chỉ liếc mắt ngó qua. Nó hầu như không nghe thấy tiếng náo động của lũ vẹt và khỉ trên đầu cũng như tiếng sủa của bầy chó uôlô dưới chân, khi hai ông bác đưa cha con nó một vòng quanh ngôi làng mới đẹp đẽ. Mọi nhà đều có sân riêng, Xalum cho biết thế, và kho chứa lương khô của mọi phụ nữ đều được dựng ngay bên trên chỗ nấu ăn để khói bếp giữ cho gạo, mạch và kê khỏi bị sâu bọ.
Kunta hầu như phát chóng mặt vì nỗi cứ phải ngoắt đầu lia lịa theo dõi những điều lý thú, hết cảnh này đến mùi kia hoặc âm thanh nọ. Nghe lỏm thấy người ta nói bằng những thổ ngữ Manđinka mà thỉnh thoảng nó mới hiểu một chữ là một điều vừa mê say vừa bối rối. Giống như mọi người Manđinka khác - trừ những người có học vấn như arafang - Kunta hầu như không biết gì về ngôn ngữ của các bộ lạc khác, kể cả những bộ lạc lân cận. Nhưng nó đã bỏ khá nhiều thì giờ quanh quẩn bên gốc cây lữ khách nên có thể phân biệt được người nào thuộc bộ lạc nào. Người Fula có khuôn mặt trái xoan, tóc dài, môi mỏng và các nét sắc cạnh, với những sẹo dọc ở hai bên thái dương. Người Uôlôf cực đen và rất dè dặt, người Xêrahuli da sáng hơn và thân hình nhỏ nhắn. Còn người Jôla thì không trộn lẫn vào đâu được - toàn thân đầy sẹo và mặt lúc nào cũng như khoác một vẻ dữ tợn.
Kunta nhận ra người của tất cả các bộ lạc ấy trong ngôi làng mới, nhưng ngoài ra còn có những người nó không nhận ra. Một số lớn tiếng mà cả với những thương nhân mang hàng đi bán. Nhiều bà già rao những tấm da thuộc và các phụ nữ trẻ mà cả những trâm cài đầu làm bằng gỗ xizau và bao-báp. Tiếng rao: "Côla! Côla vừa đẹp vừa thắm!" thu hút một đám người mà số rằng ít ỏi còn lại đã ố vàng vì nhai hạt côla.
Thân thiện chen vai thích cánh giữa mọi người, Ômôrô được giới thiệu với cả một dòng bất tận dân làng và những nhân vật quan trọng từ nhiều nơi kỳ thú. Kunta ngạc nhiên thấy hai ông bác nói thành thạo những thứ tiếng xa lạ của họ. Tự buông mình theo dòng thác người trôi chảy, biết chắc có thể tìm thấy bố và các bác bất cứ lúc nào nó muốn, phút chốc Kunta bỗng ở giữa đám nhạc công đang diễn tấu cho tất cả những ai muốn nhảy múa. Sau đó, nó nếm món thịt linh dương quay, bò nướng và lạc hầm do phụ nữ trong làng cung ứng hậu hĩ trên các bàn dưới bóng cây bao-báp cho bất cứ ai muốn thưởng thức. Thức ăn kể cũng tươm đấy, Kunta nghĩ bụng, nhưng chả ngon bằng những món bổ béo vào dịp hội mùa do các bà mẹ ở Jufurê nấu.
Thấy một số phụ nữ ở chỗ bờ giếng đang sôi nổi bàn tán chuyện gì, Kunta ghé đến, dỏng tai, giương mắt hóng chuyện: nghe đồn một vị giáo trưởng rất vĩ đại chỉ còn cách đây nửa ngày đường, cùng với tùy tòng làm cuộc hành trình tới mừng ngôi làng mới, vì nó được sáng lập bởi các con trai của vị thánh nhân quá cố Kairaba Kunta Kintê. Một lần nữa, Kunta lại sướng rơn khi nghe thấy tên ông nội mình được nhắc tới một cách thành kính đến thế. Không ai trong đám phụ nữ nhận ra nó, bởi vậy sau đó, nó nghe thấy họ nói về hai ông bác nó. Đã đến lúc các ông ấy nên bớt chu du thiên hạ và định cư để lấy vợ sinh con đẻ cái, một người phụ nữ nói. "Điều rắc rối là biết bao gái tơ muốn làm vợ các ông ấy" một người khác nói.
Cuối cùng, đến gần tối mịt, Kunta mới mon men đến chỗ mấy đứa con trai trạc tuổi nó, lòng cảm thấy rất áy náy. Song bọn này xem ra không để bụng gì về chuyện từ nãy đến giờ nó chỉ sán quanh những người lớn. Chừng như chủ yếu, chúng chỉ ước ao được kể cho Kunta biết làng mới của chúng đã ra đời như thế nào. "Tất cả các gia đình chúng tớ đã trở thành bạn của các bác cậu ở đâu đó trong các chuyến du lịch của hai ông", một thằng nói. Tất cả những gia đình này đều không vừa lòng với cuộc sống của họ ở nơi cũ, vì lý do này, khác. "Ông nội tớ không có đủ chỗ cho gia đình mình cùng gia đình các con sống chung bên nhau", một thằng nói. "Bôlông chúng tớ không phải là nơi trồng lúa tốt", một thằng khác nói.
Kunta được biết: Các bác nó bèn bảo bạn bè rằng họ biết có một nơi lý tưởng mà họ định xây dựng một ngôi làng tại đó. Và thế là các gia đình của bạn bè Jannê và Xalum liền thu xếp lên đường cùng với bầy đàn dê, gà, gia súc thân thuộc, các tấm thảm cầu nguyện và những của cải khác.
Chẳng mấy chốc trời đã tối và Kunta ngắm những đống lửa của khu làng mới được nhóm lên bằng những que củi và cành cây mà các bạn mới của nó đã lượm về lúc ban ngày. Vì đây là dịp lễ mừng, nên tất cả dân làng và qua khách sẽ cùng ngồi xung quanh nhiều đống lửa, chứ không theo tục lệ thông thường quy định rằng đàn ông đàn bà và trẻ con phải ngồi riêng rẽ ở từng đống lửa loại nào ra loại nấy. Người ta cho biết alimamô sẽ cầu phước cho cuộc tụ hội, rồi Jannê và Xalum sẽ bước vào giữa vòng người kể chuyện về những chuyến du lịch và phiêu lưu của họ. Cùng đứng giữa vòng tròn với họ, sẽ là vị khách lớn tuổi nhất đến mừng làng, một cụ già từ thượng nguồn xa xôi của sông Fulađu. Có tiếng xì xào rằng ông cụ đã sống trên một trăm vụ mưa và sẵn sàng chia sẻ sự thông thái của mình với bất cứ ai muốn lắng nghe.
Kunta chạy đến ngồi với bố cạnh đống lửa vừa đúng lúc nghe thấy alimamô cầu kinh. Sau đó, không ai nói gì, trong mấy phút. Dế kêu inh ỏi và những ngọn lửa nghi ngút khói chiếu những vệt bóng nhảy nhót trên các bộ mặt quây tròn xung quanh. Cuối cùng, cụ già da khô quắt lên tiếng: "Hàng trăm vụ mưa trước cả thời xa xưa nhất trong trí nhớ của ta, tiếng đồn về một trái núi vàng ở châu Phi lan truyền sang đến tận bờ bên kia biển lớn. Đó là điều đầu tiên khiến bọn tubốp mò sang châu Phi!" Chẳng có núi vàng nào cả, cụ nói, nhưng người ta đã tìm thấy vàng nhiều vô kể ở những dòng suối và những giếng sâu đào xuyên xuống mỏ, thoạt tiên tại miền bắc Ghinêa, rồi sau đó trong các khu rừng thuộc Gana. "Người ta không bao giờ nói cho bọn tubốp hay nguồn vàng ở đâu" - cụ già nói "bởi vì cái gì tubốp biết, chẳng mấy chốc tất cả đều sẽ biết".
Rồi Jannê nói. Theo lời ông, ở nhiều nơi có một thứ quý gần như vàng, là muối. Chính mắt ông và Xalum đã thấy muối và vàng đổi ngang cân lượng nhau. Muối kết thành từng phiến dày dưới một số bãi cát xa và ở một số nơi khác, nước biển đọng lại thành ruộng muối, hình thành những tảng khối sau khi khô dưới nắng.
"Ngày xưa, đã từng có một thành phố muối", cụ già nói. "Thành phố Tagaza, dân thành phố đó xây nhà và đền chùa bằng những khối muối".
"Xin cụ hãy kể về những con vật kỳ dị có bướu mà trước kia cụ đã nói tới", một bà già dáng dấp cỗ lỗ đánh bạo ngắt lời và yêu cầu như vậy. Bà khiến Kunta nhớ đến bà nội Yaixa.
Đâu đó, trong đêm, một con linh cẩu cất tiếng gào trong khi mọi người cúi về phía trước trong ánh lửa rung rinh. Đến lượt Xalum nói. "Những con vật gọi là lạc đà ấy sống ở một vùng cát trắng mênh mông vô tận. Chúng dựa vào mặt trời, trăng sao và gió mà lần đường đi qua vùng cát. Jannê và tôi đã cưỡi những con vật đó trong suốt bao tuần trăng, ít khi phải dừng lại để kiếm nước".
"Nhưng nhiều lần phải dừng lại để đánh cướp!" Jannê nói. "Có lần chúng tôi tham gia một đoàn gồm tới mười hai nghìn lạc đà", Xalum kể tiếp. "Thực ra, đó là nhiều đoàn nhỏ hơn hợp lại cùng đi để phòng chống cướp".
Kunta thấy trong khi Xalum nói thì Jannê dỡ rộng một tấm da thuộc lớn ra. Ông già khoát một cử chỉ sốt ruột ra hiệu cho hai thanh niên bật dậy ném thêm mấy cành củi khô vào đống lửa. Trong ánh lửa bùng lên, Kunta cùng những người khác có thể theo dõi ngón tay Jannê di chuyển trên một hình vẽ kỳ lạ. "Đây là Châu Phi", ông nói. Ngón tay ông phác một khoảng mà ông bảo là "vùng biển lớn" phía tây, rồi "sa mạc lớn", một chỗ lớn gấp mấy lần toàn bộ Gămbia mà ông chỉ vào mé dưới bên trái của hình vẽ.
"Các tàu tubốp chở đồ sứ, gia vị, vải vóc, ngựa và vô số thứ do người làm ra, tới bờ biển phía bắc châu Phi", Xalum nói. "Rồi lạc đà và da lừa mang những hàng đó vào nội địa, tới những nơi như Xifilmaxa, Gađamê và Marakêta". Ngón tay di động của Jannê chỉ chỗ những thành phố ấy. "Trong khi đêm nay chúng ta ngồi đây", Xalum nói, "biết bao người đội những bọc nặng xuyên qua rừng sâu, tải những hàng của châu Phi chúng ta - ngà voi, da, ô-liu, chà là, hạt côla, bông, đồng đỏ, đá quý - về những con tàu của bọn tubốp".
Những điều Kunta nghe thấy làm đầu óc nó quay cuồng và nó nguyện thầm, một ngày nào đó nó cũng sẽ mạo hiểm tới những nơi kỳ thú đó.
"Giáo trưởng". Từ đằng xa, trên con đường mòn, người đánh trống cảnh giới nện rền vang tin đó. Một đoàn chào mừng chính thức nhanh chóng tập hợp thành hàng - Jannê và Xalum với tư cách là những người sáng lập làng, rồi đến hội đồng bô lão trưởng lễ arafang, rồi đến các đại diện danh dự của các làng khác, trong đó có Ômôrô, còn Kunta được xếp vào với những đứa cùng tầm cao với nó trong số thiếu niên của làng. Các nhạc công dẫn đầu tất cả tiến về cây lữ khách lựa bước sao cho ra đó vừa đúng lúc vị thánh nhân tới nơi. Kunta nhìn chòng chọc vào ông già râu bạc, da đen nhánh đi đầu đoàn người dài đặc, mệt mỏi. Đàn ông, đàn bà và trẻ con đều đội những bọc to, nặng, trừ một số người lùa đàn gia súc và, theo ước lượng của Kunta khoảng hơn một trăm con dê.
Bằng những động tác nhanh nhẹn, vị thánh nhân cầu phước cho đoàn người chào mừng lúc này đã quỳ phục xuống và bảo họ đứng dậy. Rồi Jannê và Xalum được đặt biệt ban phước và Jannê giới thiệu Ômôrô, và Xalum vẫy Kunta chạy lên theo họ. "Đây là con trai đầu lòng của con", Ômôrô nói, "nó mang tên ông nội chí thánh của nó".
Kunta nghe thấy vị giáo trưởng nói những câu bằng tiếng Arập trên đầu nó - mà nó chẳng hiểu chi cả, trừ tên ông nội nó - và nó cảm thấy ngón tay vị thánh nhân chạm vào đầu nó nhẹ nhàng như một cánh bướm rồi nó chạy về đám trẻ cùng lứa tuổi trong khi vị giáo trưởng tới gặp những người khác trong đoàn đón khách, nói chuyện với họ như một người bình thường vậy. Bọn trẻ trong nhóm Kunta bèn tản ra chằm chằm nhìn vào dãy dài người nào vợ, nào con, nào môn đồ, nào nô lệ đi cuối đoàn diễu hành.
Bầu đoàn thê tử của vị giáo trưởng nhanh chóng rút vào các nhà khách. Đám môn đồ ngồi xuống đất và mở bọc hành trang, lôi ra nào sách, nào bản thảo - tài sản của sư phụ họ, vị thánh nhân - và bắt đầu đọc to lên cho những người xúm lại quanh họ nghe. Kunta nhận thấy đám nô lệ không vào trong làng cùng với những người khác. Ở lại bên ngoài lũy tre, những người nô lệ ngồi xếp xuống cạnh chỗ họ đã căng dây quây đám gia súc và đàn dê. Họ là những nô lệ đầu tiên mà Kunta thấy tách rời khỏi mọi người khác.
Vị thánh nhân hầu như không nhích đi được vì có biết bao người phủ phục quỳ quanh mình. Dân làng cũng như các vị khách quý đều áp đầu xuống đất và kêu than nỗi niềm của mình với người, một số ở gần còn định sờ vào y phục của người nữa. Một số xin người tới thăm làng mình để cử hành những lễ đạo bị xao nhãng từ lâu. Một số yêu cầu những quyết định pháp lý, vì theo Hồi giáo, pháp luật và tôn giáo là bạn đồng hành. Nhiều người cha xin đặt cho những đứa con mới lọt lòng những cái tên có ý nghĩa. Nhân dân ở những làng không có arafang hỏi liệu có thể nhờ một trong các môn đồ của vị thánh nhân dạy dỗ con cái của họ chăng.
Nhưng môn đồ này giờ đây đang bận rộn bán những vuông nhỏ da dê phơi khô, rồi bao nhiêu bàn tay tới tấp giơ những mảnh đó về phía vị thánh nhân để xin dấu của người. Một mảnh da dê có dấu thánh đem khâu vào một cái bùa xaphi quý giá như của Kunta đeo ở cánh tay trên, sẽ đảm bảo cho người đeo nó luôn được gần dũi Chúa Ala. Với hai đồng tiền vỏ ốc mang theo từ Jufurê, Kunta mua một miếng da dê vuông và hòa vào đám người chen chúc xô lại hần vị giáo trưởng.
Kunta thoáng nghĩ tằng ông nội nó hẳn cũng giống như vị Thánh nhân này, có quyền thay Chúa Ala mang mưa đến cứu một số làng đang sắp chết đói, như Kairaba Kumta Kintê đã từng cứu Jufurê thưở xưa. Các bà Yaixa và Nyô Bôtô thân yêu của nó đã kể cho nó nghe như vậy từ khi nó đủ khôn lớn để hiểu. Nhưng bây giờ mới là lần đầu tiên nó thực sự hiểu tầm vĩ đại của ông nó - và của đạo Hồi . Chỉ có bây giờ, Kunta nghĩ, một con người duy nhất sắp được phán bảo cho biết tại sao hắn đã quyết định tiêu hai đồng tiền vỏ ốc quý giá và hiện đang cầm mảnh da dê khô hình vuông của mình chờ đến lượt xin dầu thánh. Nó sẽ mang miếng da dê ân phước về nhà giao cho bà Nyô Bôtô và yêu cầu bà giữ hộ cho đến đúng thời đúng lúc khâu nó vào một lá bùa xaphi quý giá đeo vào cánh tay đứa con trai đầu lòng của chính nó.
Chương 21
Lứa kafô của Kunta, ghen uất người vì chuyến đi của nó và đoán chắc nó sẽ trở về Jufurê hết sức vênh vang, đã quyết định - tuy không đứa nào nói toạc ra như vậy - là sẽ không thèm tỏ ra quan tâm gì đến nó hoặc đến chuyến du lịch của nó, khi nó trở về. Và chúng đã làm thế, không mảy may nghĩ rằng điều đó làm Kunta khổ tâm biết nhường nào khi về tới làng, thấy các bạn cố tri chẳng những làm như nó không hề đi đâu xa, mà thực tế còn ngừng bặt chuyện trò mỗi lúc nó lại gần nữa, đặc biệt thằng bạn Xitafa thân nhất của nó lại càng lạnh lùng hơn những đứa khác, Kunta choáng váng đến nỗi thậm chí nó hầu như không nghĩ gì đến thằng em sơ sinh mới, Xuoađu, ra đời trong khi nó vắng nhà với Ômôrô.
Một buổi trưa, trong khi thả dê ăn cỏ, Kunta, cuối cùng, quyết định bỏ qua thái độ ác ý của các bạn và tìm cách làm lành. Đi lại chỗ những thằng khác đang ngồi ăn trưa tách biệt với nó, Kunta ngồi xuống giữa bọn chúng và đơn giản bắt chuyện luôn, "Giá mà chuyến vừa rồi các cậu cùng đi với tớ", nó thản nhiên nói, và không chờ bọn kia phản ứng ra sao, bắt đầu kể cho chúng nghe về chuyến đi.
Nó kể những ngày đi bộ vất vả như thế nào, các bắp thịt nó đau ra làm sao, kể về nỗi khiếp sợ của nó khi đi qua chỗ bầy sư tử. Và nó tả những làng đã đi qua, cùng những người sống ở đó. Trong khi nó nói, một thằng chồm đứng dậy để tập hợp đàn dê về và khi quay lại - làm như không để ý gì - ngồi xích gần Kunta hơn. Chẳng mấy chốc, bọn kia đứa ầm ừ, đứa "ô! a!" điểm theo lời Kunta và đến đoạn nó tới làng mới của hai ông bác, chúng mới sực nhớ ra là đã đến giờ phải lùa dê về nhà.
Sáng hôm sau, trong sân trường, tất cả bọn con trai phải ráng hết sức không để cho arafang ngờ là chúng đang sốt ruột muốn sớm tan học. Cuối cùng, khi cùng bầy dê ra bãi, chúng xúm quanh Kunta và nó bắt đầu kể về các bộ lạc khác nhau cùng những thứ tiếng nó quyện lẫn với nhau ở làng các bác nó. Nó đang nói đến giữa chừng một câu chuyện về những nơi xa xăm mà Jannê và Xalum đã kể lại bên đống lửa trại - những thằng kia say mê đón từng lời từng chữ - thì tiếng sủa dữ dội của một con chó uôlô và tiếng be be khiếp hãi, thất thanh của một con dê phá tan yên tĩnh của cánh đồng.
Đứng bật dậy, chúng trông thấy ở rìa bãi cỏ cao một con báo đốm lớn buông rơi một con dê khỏi hàm và đang bổ tới hai con chó uôlô của nó. Bọn trẻ hãy còn đứng đó, bàng hoàng và hốt hoảng quá chưa kịp động đậy, thì một trong hai con chó bị con báo tát văng sang một bên - trong khi con chó kia điên cuồng nhảy lui nhảy tới, con báo lại phục xuống để chuẩn bị vồ, những tiếng gầm gừ dữ tợn của chúng át hẳn tiếng sủa loạn của những con chó khác và tiếng kêu của những con dê khác đang bổ nhào tán loạn về mọi phía.
Rồi bọn trẻ tỏa ra, vừa kêu vừa chạy, phần lớn đều cố đưa dê của mình chạy đi. Nhưng Kunta nhắm mắt nhắm mũi lao như tên bắn về phía con dê bị gục ngã của cha nó "Đứng lại, Kunta! Đừng!" Xitafa thét lên, cố cản nó đừng chạy giữa bầy chó và con báo. Xitafa không đuổi kịp nó, nhưng khi con báo trông thấy hai thằng bé gào thét lao tới nó, nó bèn lùi lại mấy bước, rồi quay đầu và chạy trở về rừng, theo sát là bầy chó lồng lộn như hoá dại.
Mùi báo hôi nồng nặc và con dê cái bị ngoạm sứt sẹo làm cho Kunta thấy buồn nôn - máu chạy xuống cả cổ bị vặn ngoéo của nó đen sẫm lại, lưỡi nó thè lè ra, mắt nó trợn ngược lên trong đầu và kinh khủng nhất là bụng nó bị phanh ra toang hoác và Kunta có thể thấy trong đó con dê con chưa đẻ còn thoi thóp thở. Gần đó là con chó uôlô thứ nhất đang đau đớn rên với cái mạng sườn bị cào toạc và ráng sức bò về phía Kunta. Nôn ngay ra chỗ mình đứng, Kunta quay đi, xám ngoét, và nhìn vào bộ mặt xót xa của Xitafa.
Một cách mơ hồ, qua hàng nước mắt, Kunta cảm thấy một số thằng khác vây quanh nó đăm đăm nhìn con chó bị thương và con dê chết. Rồi tất cả bọn nó từ từ rút lui trừ thằng Xitafa đưa tay quàng lên vai Kunta. Không đứa nào nói gì, nhưng câu hỏi như vương vất trong không khí: nó biết ăn nói làm sao với cha nó đây? Loay hoay một lúc, rồi Kunta cũng thốt nên lời. "Mày có thể trông dê giúp tao được không?" nó hỏi Xitafa, Tao phải mang bộ da này về cho bố tao".
Xitafa đi lại đàng kia, nói với những đứa khác và hai thằng mau chóng vác con chó rên rẩm lên mang đi. Kunta bèn vẫy tay ra hiệu cho Xitafa đi khỏi cùng với những đứa khác. Quỳ xuống bên con dê cái chết, Kunta lấy dao cắt, cứa, rồi lại cắt như nó vẫn thấy cha nó làm, cứ như thế cho đến khi, rốt cuộc, nó đứng lên với bộ da ướt trong tay. Nó nhổ cỏ phủ lên bộ xương con dê cái và cái thai chưa đẻ, rồi cất bước trở về làng. Trước đây, đã có một lần, nó bỏ lãng đàn dê trong khi chăn và nó đã nguyện không bao giờ để có chuyện đó lại xảy ra nữa. Thế nhưng chuyện đó đã lại xảy ra và lần này một con dê cái đã bị giết.
Một cách tuyệt vọng, nó mong sao đó chỉ là một cơn ác mộng và giờ đây nó đã thức giấc, song bộ da ướt nhèo vẫn còn đây, trên tay nó. Nó cầu ước được chết, nhưng nó biết mình sẽ làm nhục tổ tiên. Chắc đây là Chúa Ala trừng phạt nó về tội ba hoa, Kunta hổ thẹn nghĩ bụng. Nó dừng lại để quỳ xuống, hướng về phía mặt trời mọc và cầu nguyện tha tội.
Khi đứng dậy, nó thấy lứa kafô của nó đã lùa chung tất cả dê về một cụm và chuẩn bị rời bãi chăn, đứa nào đứa nấy nhấc bó củi của mình lên đầu. Một thằng mang con chó bị thương, và hai con khác trong bầy chó bị tập tễnh nặng. Trông thấy Kunta nhìn về phía bọn nó, Xitafa đặt bó củi xuống và cất bước về phía bạn, nhưng Kunta vội xua tay ra hiệu cho nó tiếp tục đi cùng bọn kia.
Mỗi bước chân trên con đường dê đi đã mòn nhẵn dường như đưa Kunta lại gần cái kết thúc - kết thúc của tất cả mọi sự trên đời. Ý thức phạm tội, nỗi kinh hoàng và cảm giác tê dại trào dâng khắp người nó thành từng đợt sóng. Nó sẽ bị đuổi đi. Nó sẽ nhớ Binta, nhớ Lamin và già Nyô Bôtô. Thậm chí nó sẽ nhớ cả lớp học của arafang. Nó nghĩ tới bà nội Yaixa quá cố của nó, tới ông nội nó mà nó mang tên, bậc thánh nhân giờ đây bị nhục nhã vì nó, tới các ông bác lữ khách trứ danh của nó đã xây dựng nên một ngôi làng. Nó chợt nhớ ra mình không có lấy một bó củi nào. Nó nghĩ đến con dê cái mà nó nhớ lúc nào cũng nháo nhác và hay nhổng khỏi đàn. Và nó nghĩ đến con dê chưa đẻ. Vậy mà trong khi nghĩ vế tất cả những cái đó, nó lại không thể nghĩ về điều gì khác ngoài cái điều mà nó sợ nghĩ đến nhất: cha nó.
Tâm trí nó loạng choạng và nó đứng sững lại như mọc rễ, chằm chằm ngó xuôi con đường phía trước. Đó là Ômôrô đang chạy về phía nó. Chắc chắn không thằng nào dám nói với anh, vậy mà làm sao anh đã biết?
"Con có làm sao không?" bố nó hỏi.
Lưỡi Kunta như dinh chặt vào vòm miệng. "Không sao ạ, thưa cha". Cuối cùng nó nói. Song lúc đó, bàn tay Ômôrô đã sờ soạng khắp bụng Kunta, nhận ra vết máu sũng ướt chiếc áo vạt dài không phải là máu Kunta.
Đứng thẳng người lên, Ômôrô cầm lấy bộ da đặt xuống bãi cỏ. "Ngồi xuống!" anh ra lệnh và Kunta run rẩy làm theo trong khi Ômôrô ngồi xuống trước mặt nó.
"Có một điều mà con cần biết", Ômôrô nói "Mọi người đều có thể lầm lỗi. Dạo bằng tuổi con, cha cũng để một con sư tử bắt mất một con dê".
Kéo chiếc áo dài lên, Ômôrô vạch mông trái của mình ra. Cả khoảng chằng chịt sẹo sâu tai tái ở trên đó khiến Kunta choáng người. "Cha đã học được và con cũng phải học Không bao giờ chạy về phía bất kỳ một con thú nguy hiểm nào!". Cặp mắt anh dõi vào mắt Kunta. "Con có nghe thấy cha nói không?"
"Thưa cha có ạ", Ômôrô đứng dậy, cầm lấy tấm da và quẳng vào bụi cây đằng xa "Thế đấy, đó là tất cả những gì cần nói".
Đầu Kunta quay cuồng trong khi nó đi về làng đằng sau Ômôrô. Lớn hơn cả ý thức phạm tội cùng niềm khoan khoái nhẹ nhõm vừa đến, là tình yêu mà lúc này nó cảm thấy đối với cha nó.
Chương 22
Kunta đã tới tuổi vụ mưa thứ mười và bọn con trai cùng lứa kafô với nó đang sắp sửa hoàn thành việc học hành mà chúng theo đuổi ngày hai lần từ hồi mới được năm vụ mưa. Đến ngày mãn khoá, cha mẹ Kunta và các bạn nó hơn hớn tự hào ngồi ở ngay những hàng đầu trong sân trường của arafang, trên cả các bô lão trong làng. Trong khi Kunta cùng các đứa khác ngổi xổm trước mặt arafang, thì alimamô của làng cầu nguyện. Rồi arafang đứng dậy bắt đầu nhìn quanh đám học trò trong khi bọn chúng vẫy tay để được thầy hỏi. Kunta là đứa đầu tiên được ông chọn.
"Tổ tiên con xưa làm nghề gì, Kunta Kintê?" ông hỏi.
"Hàng trăm vụ mưa trước đây, ở đất Mali", Kunta trả lời đầy tự tin, "đàn ông thuộc dòng họ Kintê là thợ rèn, còn phụ nữ thì làm nồi và dệt vải". Cứ mỗi lần đứa học trò trả lời đúng, tất cả cử toạ ồ à lên thích thú.
Khi arafang hỏi một câu về toán: "Nếu một con khỉ có bảy vợ, mỗi con cái đẻ bảy con và mỗi con con ăn bảy củ lạc trong bảy ngày, thì con khỉ bố ăn cắp bao nhiêu củ lạc ở trại của người?" Sau khi hí hoáy miết những chiếc bút cuộng cỏ trên những tấm bảng bằng gỗ bông, đứa đầu tiên hô to đáp số đúng là Xitafa Xila và tiếng hò la khen ngợi của đám đông át cả tiếng hậm hực của những đứa trẻ khác.
Sau đó bọn trẻ viết tên chúng bằng tiếng A rập như chúng đã được dạy. Và arafang giơ từng tấm bảng một lên cho tất cả các bậc cha mẹ và mọi khán giả khác thấy rõ thành quả của giáo dục. Giống như những đứa con trai khác, trước đây Kunta thấy những tín hiệu biểu đạt thường thường là đọc dễ hơn viết. Biết bao buổi sáng, buổi chiều, bị arafang nện thước vào đốt tay, tất cả bọn chúng đều ước sao việc viết tập cũng dễ như nghe hiệu trống báo, điều mà ngay cả những đứa ở lứa tuổi Lamin cũng có thể đọc ra được như thể có người nào đó đứng khuất mắt kêu rõ lời lên vậy.
Lúc này, arafang yêu cầu bọn học trò mãn khoá, từng đứa một đứng dậy. Cuối cùng, đến lượt Kunta. "Kunta Kintê!" mọi con mắt đổ dồn vào nó, Kunta cảm thấy niềm tự hào lớn của gia đình nó ngồi ở hàng đầu, thậm chí của cả tổ tiên nó ở nghĩa địa bên ngoài làng - đặc biệt là của bà nội Yaixa yêu dấu của nó. Nó đứng dậy, nó đọc to một câu thơ ở trang cuối kinh Koran; đọc xong nó áp quyển kinh vào trán và nói: "Amen!" Khi kết thúc môn đọc, thầy giáo bắt tay từng đứa và lớn tiếng tuyên bố rằng, vì việc học của chúng đã hoàn thành, lớp con trai này từ nay thuộc lứa kafô thứ ba và tất cả bật reo lên một tiếng hoan hô lớn. Binta và các bà mẹ khác nhanh nhẹn bỏ những nắp đậy các bát và trái bầu đầy món ăn ngon lành mà họ mang tới và lễ mãn khoá kết thúc bằng một bữa tiệc chẳng mấy chốc đã cạn sạch.
Sáng hôm sau, khi Kunta đến lùa dê của gia đình đi chăn thì Ômôrô đã đợi sẵn. Chỉ một con đực và một con cái đang tơ, Ômôrô nói: "Hai con này là quà mãn khoá học của con đó". Kunta ấp úng chưa kịp cảm ơn thì Ômôrô đã bỏ đi, không nói thêm lời nào - như thể ngày nào anh cũng cho đi một cặp dê vậy - Và Kunta cố hết sức mình để tỏ vẻ không lấy gì làm phấn khởi lắm. Nhưng lúc cha nó đã đi khuất, Kunta bèn hú to đến nỗi hai con vật nó mới được tặng chồm lên và bắt đầu chạy, khiến tất cả các con khác đuổi riết theo. Khi nó rượt kịp và lùa chúng ra đồng, những đứa bạn nó đều đã ở đó - đứa nào đứa nấy đang phô những con dê mới của riêng mình. Coi chúng như những con vật thiêng liêng, bọn trẻ dắt riêng chúng đến những vạt cỏ non nhất, ngay từ giờ đã hình dung ra những con dê con khoẻ mạnh mà chẳng bao lâu chúng sẽ sinh ra, rồi cả con của con chúng nữa, cho tới khi mỗi đứa có hẳn một đàn cũng to và giá trị như đàn của cha mình.
Trước khi bắt đầu tuần trăng mới, Ômôrô và Binta cùng nhiều bậc cha mẹ khác lại cho đi một con dê thứ ba con này đem biếu arafang để tỏ lòng biết ơn đồi với công lao dạy dỗ con cái mình. Nếu giàu có hơn, họ ắt vui lòng cho hẳn một con bò, song họ biết thày giáo cũng hiểu điều đó vượt quá khả năng họ, cũng như vượt quá khả năng mọi người ở Jufurê vốn là một làng nghèo. Thật vậy một số cha mẹ học trò - vốn là những nô lệ mới, không dành dụm được gì - chẳng có gì để biếu ngoài việc nai lưng ra giúp công, và món quà để tỏ lòng biết ơn bằng một tuần trăng làm ruộng cho arafang đã được chấp nhận một cách vui vẻ.
Những tuần trăng trôi qua chẳng bao lâu dồn góp thành mùa, cho tới khi lại một vụ mưa nữa qua đi và lứa kafô của Kunta đã dạy lứa kafô của Lamin biết cách chăn dê như thế nào. Thời kỳ bao lâu chờ đợi nay mỗi lúc một đến gần. Không ngày nào qua đi mà Kunta cùng các bạn nó không cảm thấy vừa vui mừng vừa lo sợ khi thấy sắp tới hội mùa, mà sau đó, lứa kafô thứ ba - bọn con trai từ mười đến mười lăm vụ mưa - sẽ được đưa đến một nơi cách xa Jufurê để rồi bốn tuần trăng sau trở về trong tư thế nam nhi đã trưởng thành.
Kunta và những đứa kia cố làm như thể không đứa nào thực sự nghĩ ngợi hoặc quan tâm đặc biệt đến vấn đề đó. Song chúng ít nghĩ đến chuyện gì khác và chúng theo dõi nghe ngóng ở người lớn mọi lời hoặc dấu hiệu nhỏ nhất có tí chút liên quan đến việc rèn luyện trưởng thành. Và vào đầu mùa khô, sau khi một số cha chú lặng lẽ rời Jufurê đi hai, ba ngày và trở về cũng lặng lẽ như thế, bọn con trai bèn thì thầm to nhỏ với nhau một cách căng thẳng, nhất là sau hôm thằng Kalilu Contê nghe lỏm thấy chú nó nói rằng những sửa chữa rất cần thiết đã được tiến hành ở khu rèn luyện trưởng thành vốn bỏ không, mặc cho sương gió và thú vật hoành hành trong gần năm vụ mưa kể từ khi đợt rèn luyện trưởng thành lần trước được hoàn mãn tại đó. Những chuyện rầm rì lại càng trở nên sôi nổi sau khi thấy cha chú chúng bàn tán về việc bậc huynh trưởng nào có thể được Hội đồng bô lão chọn làm kintangô - người phụ trách việc rèn luyện trưởng thành. Kunta và tất cả các bạn nó đều đã nhiều lần nghe thấy cha, chú, bác và các anh lớn chúng kính cẩn nhắc đến các bậc kintangô đã từng giám sát việc rèn luyện trưởng thành của bản thân họ bao nhiêu vụ mưa trước đây.
Đúng vào lúc trước mùa gặt, tất cả tụi con trai lứa kafô thứ ba đều khích động cơ hồ phát sốt, kể cho nhau nghe mẹ chúng lặng lẽ lấy một cái thước may đo quanh đầu xuống tới vai mỗi đứa như thế nào. Kunta cố hết sức dấu kín hình ảnh sinh động trong trí nhớ về cái buổi sáng cách đây năm vụ mưa khi mà, với tư cách là những chú mục đồng mới toanh, nó và các bạn đã sợ đến gần như bạt vía trước cảnh bọn thiếu niên kêu rống dưới những mũ vải trắng trùm kín đầu, bị một đoàn người đeo mặt nạ gớm ghiếc, cầm giáo mác vừa la hét vừa nhảy điệu kangkurang, đá túi bụi lùa khỏi làng.
Chẳng bao lâu, trống tubalô thì thùm báo hiệu mở đầu mùa gặt mới. Kunta hoà vào với dân làng ở ngoài đồng. Nó hoan nghênh những ngày dài lao động cật lực vì điều đó khiến nó quá bận rộn và mệt nhọc không còn hơi sức đâu mà nghĩ nhiều về những gì đang chờ đợi trước mặt. Nhưng khi gặt xong và bắt đầu hội mùa, nó thấy mình không thể thích thú tận hưởng những thứ nhã nhạc, nhảy múa và chè chén linh đình như những người khác - như chính nó đã từng khoái chí tham dự trong bao lâu nay. Thực tế, cuộc vui càng tưng bừng rộn rã, nó càng trở nên khổ sở hơn, đến nỗi rốt cuộc, hầu như cả hai ngày cuối hội mùa, nó chỉ ngồi một mình trên bờ bôlông lấy đá ném thia lia trên mặt nước.
Vào cái đêm hôm trước ngày cuối cùng của hội mùa, Kunta đang lặng lẽ ăn nốt bữa cơm tối với lạc hầm trong lều của Binta, thì Ômôrô bước vào đăng sau nó. Liếc mắt nhìn, Kunta thoáng thấy bố giơ một cái gì trăng trắng lên và nó chưa kịp quay lại thì Ômôrô đã chụp một chiếc mũ dài thượt xuống, bịt kín đầu nó thật chắc. Nỗi kinh hoàng truyền khắp người Kunta khiến nó gần như tê dại đi. Nó cảm thấy bàn tay bố nắm chặt cánh tay trên nó, thúc nó đứng dậy và đi giật lùi đến lúc nó bị đẩy ngã ngồi xuống một chiếc ghế đẩu thấp. Kunta thấy sung sướng được ngồi, vì nó cảm thấy chân mình như tan thành nước và đầu nhẹ bỗng. Nó nghe thấy mình thở rốc từng hơi ngắn hụt, biết rằng nếu cố gắng cử động, nó sẽ bổ nhào khỏi ghế. Cho nên nó ngồi im phăng phắc, ráng làm quen với bóng tối. Đang cơn khiếp đảm, bóng tối dường như tăng gấp đôi. Trong khi môi trên nó cảm thấy hơi thở của chính mình vừa nóng vừa nhâm nhấp ướt bên trong cái mũ chùm, Kunta vụt nghĩ rằng chắc chắn trước kia một chiếc mũ như thế này đã từng chụp xuống đầu bố nó, cũng theo cách đó. Có thể nào Ômôrô lại cũng sợ hãi như vậy? Thậm chí Kunta không thể tưởng tượng được là bố nó lại hoảng hồn và nó cảm thấy xấu hổ đã làm nhục cho tộc họ Kintê đến thế.
Trong lều rất yên tĩnh. Vật lộn với cái sợ đang thắt ruột nó lại từng khúc, Kunta nhắm mắt và tập trung từng tế bào để nghe ngóng xem có gì xảy ra không. Nó tưởng chừng nghe thấy Binta đang đi loanh quanh, nhưng nó không dám chắc. Nó tự hỏi không biết Lamin đâu, và cả Xuoadu nữa, thằng cu này nếu có ở đây ắt phải đang vòi quấy ầm ĩ. Nó chỉ biết chắc một điều: cả Binta lẫn bất cứ ai khác sẽ không nói gì với nó, chứ kể chi đến chuyện nhấc cái mũ này khỏi đầu nó. Thế rồi Kunta nghĩ: nếu cái mũ được nhấc lên thật thì kinh khủng biết mấy, vì ai nấy sẽ thấy nó quả đang thực sự hoảng hốt đến nhường nào và, do đó, tỏ ra là một thiếu niên không xứng đáng nhập bọn với các bạn cùng lứa kafô đi rèn luyện trưởng thành.
Ngay cả những thằng bé vào cỡ Lamin cũng biết - vì Kunta đã nói cho nó hay - những gì đã xảy đến với bất kỳ đứa nào tỏ ra quá yếu đuối hoặc quá hèn nhát không dám chịu đựng cuộc rèn luyện biến các thiếu niên thành những nhà săn bắn, thành chiến binh, thành tu mi nam tử - tất cả trong vòng một thời gian mười hai tuần trăng. Giả sử như nó không đủ tư cách? Nó bèn nuốt ực nỗi sợ xuống, sực nhớ là đã được kể rằng đứa nào rớt lại không qua nổi đợt rèn luyện trưởng thành, sẽ bị coi là con nít suốt đời, dù rằng bề ngoài có thể y như người lớn. Mọi người sẽ lảng tránh nó và làng sẽ không bao giờ cho phép nó lấy vợ kẻo lại sinh ra những đứa trẻ giống như nó. Những trường hợp đáng buồn ấy - Kunta nghe nói - sớm muộn rồi thì cũng lỉnh đi khỏi làng để không bao giờ trở lại và ngay cả cha mẹ đẻ chúng, anh chị em chúng cũng sẽ không bao giờ nhắc đến chúng nữa. Kunta thử hình dung mình lẻn đi khỏi Jufurê như một con linh cẩu ghẻ, bị tất cả mọi người khinh rẻ, ý nghĩ đó thật quá khủng khiếp đối với tâm trí nó.
Sau một lát, Kunta nhận ra là mình đang lơ mơ nghe thấy tiếng trống và tiếng hò la của những người nhảy múa đằng xa. Thêm một quãng thời gian nữa trôi qua. Mấy giờ rồi nhỉ, nó tự hỏi. Nó đoán bây giờ phải đến giờ xutôba rồi, tức là giữa khoảng từ hoàng hôn đến bình minh, nhưng ít phút sau, nó nghe thấy tiếng alimamô the thé gọi dân làng cầu kinh xafo, có nghĩa là hai giờ trước nửa đêm. Tiếng nhạc dứt và Kunta biết rằng dân làng đã ngừng vui chơi và cánh đàn ông đang hối hả tới nhà thờ.
Kunta cứ ngồi thế cho đến lúc nó biết rằng việc cầu nguyện đã xong xuôi, nhưng nhạc không cử lại nữa. Nó lắng tai rất chăm chú, nhưng chỉ nghe thấy im lặng. Cuối cùng nó ngủ gật, hồi lâu sau mới giật mình thức giấc. Vẫn im ắng - và dưới cái mũ chụp, còn tối hơn cả một đêm không trăng. Sau cùng, nó dám chắc đã nghe loáng thoáng tiếng sủa sớm của linh cẩu. Nó biết cái giống linh cẩu bao giờ cũng sủa từng tiếng một trước khi bắt đầu gào rền liên tục cho đến lúc tinh mơ rạng đông, nghe xa vắng kỳ lạ.
Trong tuần hội mùa, Kunta biết trống tôbalô cất tiếng trầm vang ngay từ những tia sáng đầu tiên của rạng đông. Nó ngồi chờ điều đó xảy đến - chờ bất kỳ điều gì xảy đến. Nó cảm thấy cơn giận dữ nung nấu, lòng ngóng đợi tiếng trống tôbalô gióng lên vào bất cứ lúc nào, vậy mà chẳng thấy gì cả. Nó nghiến răng kèn kẹt và đợi thêm một lúc nữa. Thế rồi cuối cùng sau mấy lần lắc mình cho tỉnh, nó thiếp đi trong một một giấc ngủ chập chờn. Nó gần như bổ choàng khỏi thần xác khi, rốt cuộc, trống tôbalô vang lên thật. Dưới tấm vải chùm, hai má nó nóng bừng, bối rối vì nỗi đã ngủ thiếp đi.
Đã quen với bóng tối trong chiếc mũ chụp, Kunta gần như có thể trông thấy những hoạt động buổi sáng qua những âm thanh lọt vào tai nó - tiếng gà gáy, tiếng chó uôlô sủa, tiếng âm a của alimamô, tiếng chày của phụ nữ giã mạch kê làm bữa điểm tâm. Nó biết bài kinh buổi sáng này dâng lên Đức Ala, là để nguyện cầu cho thắng lợi của đợt rèn luyện trưởng thành sắp sửa bắt đầu. Nó nghe tiếng cử động trong lều và nó cảm thấy đó là Binta. Thật kỳ lạ, tuy không nhìn thấy được, nó vẫn biết đó là mẹ nó. Kunta tự hỏi, không biết Xitafa và những thằng bạn khác ra sao. Nó ngạc nhiên nhận ra rằng suốt đêm cho tới giờ, nó chưa một lần nào nghĩ đến bọn chúng. Nó tự nhủ chắc chắn chúng cũng qua một đêm dài đằng đẵng như bản thân nó.
Khi đàn kora và balafôn bắt đầu đánh rộn ràng bên ngoài lều, Kunta nghe tiếng người đi lại và trò chuyện, mỗi lúc một to. Rồi trống hoà vào cuộc huyên náo với tiết tấu đanh và sắc như dao cắt. Một lát sau, tim nó như ngừng đập khi cảm thấy có người nào đó bất thần lao vào trong lều. Chưa kịp định thần, nó đã bị nắm lấy cổ tay, kéo giật khỏi ghế một cách thô bạo và đẩy qua cửa lều ra ngoài, ngợp trong tiếng ồn ào đinh tai, nào trống nện gióng một, nào người la thét.
Những bàn tay, bàn chân đấm, đá nó. Một cách tuyệt vọng, Kunta nghĩ đến chuyện tìm kế chạy té đi, nhưng đúng lúc nó sắp sửa định làm thế, một bàn tay rắn chắc mà dịu dàng nắm lấy tay nó. Thở khò khè dưới chiếc mũ chụp, Kunta nhận ra rằng mình không bị đánh, đá nữa, rằng đột nhiên tiếng la thét của đám đông bặt đi. Không còn ở gần kề nữa. Nó đoán là người ta đã đi sang lều của một thằng khác và bàn tay dẫn dắt nó hẳn là tay của người nô lệ mà Ômôrô đã thuê như mọi người cha đều làm thế - để đưa đứa con trai bị chùm kín đầu của mình đến khu rèn luyện trưởng thành.
Tiếng hò la của đám đông rộ lên với một âm độ điên cuồng mỗi khi một thiếu niên khác bị lôi ra khỏi lều và Kunta mừng thầm là nó không phải nhìn thấy những người nhảy điệu kangkurang đang khoa giáo và phốc thật cao lên trên không với những động tác nhào lộn ghê sợ cơ hồ đến đông cả máu lại. Trống lớn, trống con - dường như là tất cả các trống trong làng - nện liên hồi trong khi người nô lệ dẫn Kunta mỗi lúc một nhanh qua những hàng người la hò hai bên nó, kêu lên những câu như "Bốn tuần trăng!" "Chúng sẽ trở thành những đấng tu mi nam tử!" Kunta muốn oà lên khóc. Nó cuồng nhiệt ước có thể với tay ra, chạm vào người Ômôrô, Binta, Lamin - thậm chí cả thằng cu Xuoađu khóc nhè nữa - bởi vì nó cảm thấy sắp sửa phải qua bốn tuần trăng đằng đẵng trước khi gặp lại những con người nó yêu thương tới mức mà cho tới nay, nó chưa bao giờ ý thức được đầy đủ, đó quả là điều quá sức chịu đựng. Tai Kunta mách cho nó biết rằng nó và người dẫn đường đã nhập vào một hàng người chuyển động, tất cả đều bước theo nhịp trống gấp gấp. Khi đi qua cổng làng - nó biết thế vì tiếng ồn ào của đám đông bắt đầu ắng dần - nó cảm thấy những giọt nước mắt nóng hổi dâng lên và chảy xuống hai gò má. Nó nhắm nghiền mắt lại như để chính bản thân nó khỏi trông thấy những giọt lệ ấy.
Cũng như lúc nãy nó đã từng cảm thấy sự có mặt của Binta trong lều, giờ đây nó cảm thấy nỗi sợ của các bạn đồng tuế với nó - gần như thể nỗi sợ ấy có mùi vậy đằng trước đằng sau nó trong hàng người và nó biết chúng cũng sợ không kém gì mình. Cách nào đó, điều này làm cho nó cảm thấy bớt xấu hổ. Trong khi hì hụi đi, trong cái mù loà mầu trắng của chiếc mũ chùm đầu, nó biết rằng nó đang để lại sau lưng hơn cả bố mẹ và các em nó và làng quê chôn nhau cắt rốn của nó, và điều đó khiến lòng nó tràn đầy u buồn cũng như khiếp hãi. Nhưng nó biết là cần phải làm thế, như cha nó đã từng làm thế, trước nó và một ngày kia, con trai nó cũng sẽ làm thế. Nó sẽ trở về, nhưng chỉ khi nào thành một trang nam nhi thật sự.
Chương 23
Hẳn là bọn nó đang đến gần một khóm rừng tre vừa mới đốn - chỉ còn cách chừng một cữ ném đá thôi. Kunta có cảm giác thế. Qua chiếc mũ chùm đầu, nó có thể ngửi thấy mùi tre tươi mới đẵn, sực nức. Bọn chúng lại gần hơn; mùi tre mỗi lúc một thêm ngào ngạt; chúng tới chỗ cây ngáng, rồi đi qua đó, nhưng chúng vẫn còn ở bên ngoài. Tất nhiên - đó là một lũy tre. Đột nhiên, tiếng trống dứt hẳn và đoàn người dừng bước. Trong mấy phút liền, Kunta và những đứa trẻ khác đứng sững, im lặng. Nó lắng nghe xem có âm thanh nhỏ nào khả dĩ mách cho nó biết giờ khắc lúc bọn nó dừng bước hoặc đây là nơi nào, nhưng chỉ thấy tiếng chí choé của bầy vẹt và tiếng la lối của lũ khỉ trên đầu.
Rồi bỗng nhiên, chiếc mũ chụp của Kunta được nhấc lên. Nó đứng hấp háy mắt trong nắng chiều rực rỡ, cố gắng cho quen vói ánh sáng. Nó sợ cả đến ngoảnh đầu nhìn các bạn đồng niên, bời vì đứng ngay trước mặt bọn nó là bố già Xila Ba đipha mặt nhăn nheo, nghiêm nghị. Cũng như tất cả những đứa khác, Kunta biết rõ ông và gia đình ông. Song Xila Ba đipha làm như trước đây chưa hề gặp đứa nào trong bọn chúng - thật vậy, như thể giờ đây ông thà không nhìn chúng còn hơn, cặp mắt ông lướt trên mặt chúng như kiểu nhìn vào một đám giòi đang bò lổn nhổn vậy. Kunta biết đó chắc chắn là kintangô của chúng. Đứng ở hai bên ông là hai người trẻ hơn, Ali Xiz và Xora Tura, mà Kunta cũng biết rõ. Xora là bạn rất thân của Ômôrô. Kunta lấy làm mừng rằng không có ai là Ômôrô để phải thấy con trai mình khiếp đảm đến thế.
Như đã được dạy trước, toàn thể lứa kafô - tất thảy là hai mươi ba đứa con trai - úp hai bàn tay bắt chéo trên chỗ trái tim và chào các bậc huynh trưởng theo lối cổ truyền: "Bình an!" "Duy chỉ bình an mà thôi !", vị kintangô cao tuổi và các phụ tá trả lời. Mở rộng tầm nhìn của mình một lúc - thận trọng không ngọ nguậy đầu - Kunta thấy bọn chúng đang đứng trong một khoảng đất rào kín, điểm những túp nhà tranh vách đất, xung quanh là lũy tre cao, tươi mới. Nó có thể thấy những chỗ chữa trên các túp nhà, rõ ràng là công trình của những người cha đã mấy ngày liền mất tăm khỏi Jufurê. Tất cả những cái đó, nó trông thấy mà không đụng đậy một thớ thịt nào. Nhưng lát sau, nó giật bắn người.
"Rời khỏi làng Jufurê là lũ trẻ nít". .vị kintangô đột ngột lớn tiếng nói. "Nếu muốn trưởng thành trở về, các ngươi cần phải dẹp tan nỗi sợ, bởi vì một con người khiếp sợ là một người yếu đuối và một con người yếu đuối là một hiểm hoạ cho gia đình, cho làng bản, cho bộ lạc". Ông nhìn bọn nó trừng trừng như thể chưa bao giờ thấy một đám thảm hại đến thế, rồi quay đi. Trong khi ông làm thế, hai người phụ tá liền nhảy bổ ra, bắt đầu vun những thanh gỗ giữa đám thiếu niên, nện vào vai, vào mông chúng đau điếng và lùa chúng như lùa dê, từng tốp dăm đứa một, vào những túp lều đất nhỏ bé.
Nép vào nhau trong căn lều trống trơn, Kunta và bốn đứa bạn quá thất đảm đến nỗi không cảm thấy cái nhói buốt dai dẳng do những nhát roi chúng vừa hứng chịu và quá xấu hổ không dám ngẩng đầu lên, dù chỉ là vừa đủ để nhìn nhau. Sau mấy phút khi xem chừng có thể được tạm tha trong giây lát không bị hành hạ thêm. Kunta bèn lén nhìn các bạn cùng hội cùng thuyền với nó. Nó ước ao là nó và Xitafa được ở cùng lều. Cố nhiên, nó có quen biết tụi kia, song không đứa nào thân thiết bằng thằng bạn nối khố, và tim nó trĩu xuống. Nhưng chắc đây không phải là chuyện ngẫu nhiên, nó lý luận thế. Có lẽ thậm chí họ không muốn cho chúng mình có được niềm an ủi nhỏ bé ấy. Cơ chừng họ cũng sẽ không cho chúng mình ăn nữa cũng nên, nó bắt đầu nghĩ vậy khi dạ dày cất tiếng gào đói.
Ngay sau khi lặn mặt trời, các phụ tá của kintangô sục vào lều "Đi!". Một cái tay thước quất mạnh qua vai nó và theo tiếng xuỵt ráo riết, bọn trẻ nhốn nháo bổ ra trong chiều chạng vạng, đâm xầm vào những đứa ở các lều khác và dưới những tay thước bay tới tấp, kèm những mệnh lệnh cộc cằn, chúng bị dồn thành một hàng dọc xiên xẹo, đứa sau nắm tay đứa trước. Khi cả bọn đã đứng vào chỗ, kintangô chằm chằm nhìn chúng với vẻ lầm lầm cau có và báo là chúng sẽ làm một cuộc hành quân đêm vào sâu trong khu rừng bao quanh đây.
Khi có lệnh xuất phát, đoàn thiếu niên sắp thành hàng dài bắt đầu đi theo con đường nhỏ, lộn xà lộn xộn, và các tay thước liên tục giáng xuống chúng. "Mày đi như trâu ấy!" Kunta nghe thấy thế bên tai mình. Một thằng bị đánh, kêu khóc và cả hai người phụ tá đều lớn tiếng quát trong bóng tối: "Đứa nào đấy?" và cơn mưa roi càng trút xuống dữ dội hơn. Sau đó, không thằng nào ho he lấy một tiếng.
Chẳng mấy chốc, chân Kunta bắt đầu đau - nhưng không đau sớm hoặc tệ hại như trong trường hợp mà giả sử nó không học được cách sải bước thoải mái do bố nó dạy trong chuyến du hành tới làng của Jannê và Xalum. Nó khoái chá nghĩ rằng chân những thằng kia chắc chắn phải đau hơn chân nó, vì bọn chúng chưa biết cách đi đường trường như thế nào. Nhưng tất cả những điều Kunta đã học được đều không mảy may làm nó đỡ đói, đỡ khát. Nó cảm thấy dạ dày thắt lại từng nút và khi, cuối cùng, có lệnh dừng lại gần một dòng suối nhỏ, nó đã bắt đầu cảm thấy đầu nhẹ bỗng. Bóng trăng vằng vặc phản chiếu trên mặt suối phút chốc vỡ ra lăn tăn khi bọn trẻ quỳ xuống, bắt đầu khum tay vốc nước uống ừng ực. Một lúc sau, các phụ tá của kintangô ra lệnh cho chúng tách xa khỏi bờ suối, dặn không được uống quá nhiều ngay một lúc, rồi mở những gói đội đầu ra và phân phát một số tảng thịt sấy. Bọn trẻ giằng lấy những miếng thịt chẳng khác một bầy linh cẩu, Kunta nhai và nuốt nhanh đến nỗi nó hầu như không biết vị của bốn miếng nó dành được cho mình ra sao.
Chân đứa nào đứa nấy đều phồng giộp lên những bọng nước to tướng, Kunta cũng thế, nhưng có thức ăn và nước trong dạ dầy rồi, nó cảm thấy dễ chịu đến nỗi không nhận thấy điều ấy. Ngồi bên dòng suối, nó và các bạn đồng tuế bắt đầu đảo mắt nhìn nhau dưới ánh trăng, vẫn không nói không rằng, lần này thì vì quá mệt chứ không phải vì quá sợ hãi. Kunta và Xitafa nhìn nhau hồi lâu nhưng trong ánh sáng lờ mờ, không đứa nào đủ tinh tường để nhận rõ bạn mình trông có đến nỗi khốn khổ như bản thân mình cảm thấy không.
Kunta chỉ mới kịp nhúng đôi bàn chân bỏng rát vào làn nước suối mát lạnh thì các phụ tá của kintangô đã hô chúng trở lại đội hình để bắt đầu chặng đường dài về trại. Cả đầu lẫn chân nó đều tê dại khi bọn chúng rốt cuộc nhìn thấy cái cổng tre trước lúc rạng đông một ít. Với cảm giác là mình sẵn sàng lăn quay ra chết, nó lê bước vào lều, cụng phải một thằng khác đã ở trong đó, mất thăng bằng ngã rúi xuống sàn bẩn và ngủ mê mệt ngay chỗ nó nằm kềnh ra.
Trong sáu đêm tiếp theo, đêm nào cũng có một cuộc hành quân, càng về sau càng dài hơn. Đôi chân phồng dộp của nó đau khủng khiếp, nhưng đến đêm thứ tư, Kunta thấy rằng, cách nào đó, cái đau cũng chẳng đáng kể lắm và nó bắt đầu cảm thấy một niềm xúc động mới thú vị: tự hào. Đến cuộc hành quân thứ sáu, nó và những đứa khác phát hiện ra rằng, bất chấp đêm đen như mực, chúng không cần phải nắm tay nhau nữa mới giữ được hàng quân ngay ngắn.
Đêm thứ bảy, kintangô đích thân dạy bài học đầu tiên cho bọn trẻ: chỉ bảo cho chúng biết những người mắc kẹt trong rừng sâu dựa vào các vì sao như thế nào để định hướng, tìm đường sao cho không bao giờ bị lạc. Trong nửa tuần trăng đầu, tất cả bọn con trai lứa kafô này đã biết nhìn sao để dẫn đoàn người hành quân trở về trại. Một đêm làm nhiệm vụ dẫn đường, suýt nữa Kunta dẫm phải một con chuột rừng trước khi nó nhận ra có người mà chạy trốn. Tuy giật mình, Kunta cũng tự hào không kém, vì điều đó có nghĩa là đoàn quân đã đi lặng lẽ đến nỗi ngay cả một con vật cũng không nghe thấy.
Nhưng loài vật - như lời kintangô nói với bọn nó - là những thầy giáo cừ nhất về nghệ thuật săn bắn vốn là một trong những điều quan trọng nhất mà mọi người Manđinka đều phải học. Khi kintangô đã hài lòng về việc bọn nó đã làm chủ kỹ thuật hành quân, nửa tuần trăng tiếp theo, ông đưa cả lứa kafô vào sâu trong rừng cách xa trại, tại đó chúng dựng những lán nhỏ để ngủ trong thời gian giữa vô số các bài học về những bí quyết để trở thành một Ximbôn (1). Kunta có cảm giác như hễ động nhắm mắt là một trong hai phụ tá của kintangô đã hô dậy để dự một buổi tập nào đó.
Các phụ tá của kintangô chỉ ra những chỗ sư tử vừa mới nằm phục kích rồi nhảy bắt linh dương đi ngay qua; chỉ chỗ sư tử đến ngủ nốt đêm, sau khi ăn. Họ lần trở ngược lại dấu chân của bầy linh dương cho tới khi gần như hiện lên trước mắt bọn trẻ một hình ảnh về hoạt động của bầy linh dương suốt ngày hôm đó, trước khi gặp sư tử. Lớp kafô xem xét các kẽ nứt rộng trong những tảng núi đá, nơi ẩn náu của sói và linh cẩu. Và chúng bắt đầu học nhiều mánh lới săn bắn mà chúng chưa bao giờ mơ tưởng tới. Chẳng hạn, chưa bao giờ chúng ý thức được rằng bí quyết đầu tiên của người Ximbôn bậc thầy là không bao giờ di chuyển đột ngột. Chính vị kintangô cao tuổi đã kể cho bọn trẻ câu chuyện về một gã đi săn rồ dại ở giữa một vùng đầy muông thú mà cuối cùng suýt chết đói, vì quá vụng về chạy hết chỗ này sang chỗ nọ, làm huyên náo cả lên, đến nỗi quanh anh ta, thú vật các loại đều mau chóng và lặng lẽ chuồn đi hết mà anh ta thậm chí cũng không hề biết là chúng đã ở kề ngay bên mình.
Trong những bài học bắt chước tiếng các loài muông thú, bọn trẻ cảm thấy mình cũng giống như gã đi săn vụng về nọ. Không khí vang rộn những tiếng huýt, tiếng gầm gừ, mà chẳng thấy chim hoặc thú nào lại gần. Thế rồi, chúng được lệnh nằm thật yên trong những chỗ nấp trong khi kintangô cùng các phụ tá phát ra những tiếng tưởng chừng cũng giống như chúng đã kêu, và phút chốc, muông thú đã xuất hiện, nghênh nghênh đầu tìm xem những con nào khác đã gọi chúng tới.
Một buổi chiều, khi bọn trẻ đang tập tiếng chim gọi nhau, bỗng nhiên một con chim mình rộng mỏ to tướng đậu xuống bụi rậm gần đó, kêu quang quác. "Nhìn kìa!" một thằng kêu lên và cười hô hố tim những đức khác giật thót lên đến tận cổ, chúng biết rằng một lần nữa thói to mồm của thằng kia lại sắp sửa khiến tất cả bọn phải phạt. Trước đó, không ít lần, nó đã bộc lộ thói quen hành động không suy nghĩ - nhưng giờ đây, kintangô làm chúng ngạc nhiên. Ông bước lại chỗ thằng bé và nói với nó rất nghiêm nghị: "Bắt sống con chim ấy mang lại đây cho ta!" Kunta và các bạn nín thở theo dõi thằng nọ khom người xuống và rón rén về phía bụi rậm, nơi con chim nặng ục ịch đang đậu một cách ngu xuẩn, đầu quay hết bên này sang bên kia. Nhưng khi thằng cu nhảy vọt lên, con chim bứt ra được khỏi đôi tay nắm bắt của nó, điên cuồng vỗ đôi cánh cụt lủn, vừa đủ nâng cái thân hình ộ ệ lên trên lớp bụi rậm - và thằng bé chồm theo, đuổi riết, chẳng mấy chốc đã khuất khỏi tầm mắt.
Kunta và bọn kia đứng ngây ra như sét đánh. Rõ ràng, những điều kintangô có thể hạ lệnh bắt chúng làm, quả là vô cùng, không có giới hạn nào cả. Trong ba ngày và hai đêm sau khi đi tập, bọn trẻ cứ đưa mắt nhìn nhau hoài, rồi lại nhìn bụi rậm gần đấy, tất cả đều băn khoăn tự hỏi về những gì đã xảy đến với thằng bạn mất tích. Trước kia, nó đã làm khổ chúng bao nhiêu vì những hành vi khiến cho cả bọn bị đánh đòn, thì nay, khi nó đi rồi, nó càng thân thiết với chúng hơn bao giờ hết.
Sáng ngày thứ tư, bọn trẻ vừa mới dậy thì tốp gác của trại báo là có kẻ nào đó đang tiến lại gần làng. Một lát sau, trống truyền tin đến: chính là cu cậu. Bọn chúng lao ra đón, nhẩy cỡn lên như thể chính anh ruột chúng vừa từ một chuyến viễn du đến Marakét trở về vậy. Vừa gầy ngẵng, vừa bẩn thỉu và mình mẩy sứt sẹo, thâm tím, nó hơi lảo đảo khi tụi bạn chạy tới phát bồm bộp vào lưng nó. Nhưng nó cố mỉm một nụ cười yếu ớt và đúng là nó cần phải mỉm cười: dưới cánh tay, nó kẹp con chim, cánh, chân và mỏ buộc túm bằng một đoạn dây nho. Trông nó còn thảm hại hơn thằng bé, nhưng nó vẫn còn sống.
Kintangô bước ra và tuy nói riêng với thằng bé, ông ngụ ý rõ ràng là thực ra ông đang nói với cả bọn chúng: "Chuyện này dạy cho ngươi hai điều quan trọng - làm đúng như đã được dặn và ngậm miệng lại. Những cái đó cũng là bí quyết rèn đúc nên kẻ nam nhi". Rồi Kunta cùng lũ bạn trông thấy vị kintangô già nhìn thằng bé với vẻ tán thưởng ra mặt, ông đã biết trước, sớm hay muộn, nó cũng sẽ đủ sức bắt được một con chim nặng nề đến mức chỉ có thể lạch bạch bay được từng quãng ngắn chậm chạp qua bụi rậm, đó là lần đầu tiên chúng bắt gặp một cái nhìn như thế ở ông.
Con chim to mập, thoắt cái, được quay lên và tất cả cùng chén ngon lành, trừ người bắt được nó: cu cậu mệt đến nỗi không thể thức chờ nấu nướng cho xong. Nó được phép ngủ suốt cả ngày và cả đêm hôm đó, trong khi Kunta và tụi kia thức trắng học săn ngoài rừng. Ngày hôm sau, trong giờ nghỉ đầu tiên, nó kể lại cho tụi bạn im lặng nghe nó đã tiến hành một cuộc săn đuổi quanh co như thế nào, cuối cùng sau hai ngày và một đêm, nó đặt một cái bẫy nhử được con chim sa vào. Sau khi trói gô nó lại - buộc liền cả cái mỏ hay đớp - cu cậu ráng thức được một ngày một đêm nữa và bằng cách theo hướng sao như đã được dạy, tìm đường về được đến trại. Trong một lúc sau đó, bọn trẻ kia chẳng biết nói gì với nó. Kunta tự nhủ rằng mình thực tình không ghen tị gì với bạn; chỉ có điều là thằng cu ấy hình như nghĩ rằng thành tích nọ - cùng sự tán thưởng của kintangô - đã khiến cho nó trở nên quan trọng hơn các bạn cùng lứa kafô. Và bữa sau, các phụ tá của kintangô vừa ra lệnh dành một buổi chiều để tập đánh vật, Kunta nắm ngay cơ hội túm lấy thằng cu ấy và quật nó thật mạnh xuống đất.
Sang tuần trăng thứ hai của cuộc rèn luyện trưởng thành, lứa kafô của Kunta đã biết xoay xở sống giữa rừng sâu một cách thành thạo gần như ở ngay trong làng bản của chúng. Giờ đây, chúng có thể vừa phát hiện vừa theo dõi những dấu hiệu gần như vô hình của các thú vật và chúng hiện đang học những lễ thức bí ẩn cùng với những bài kinh của tổ tiên có thể làm cho một ximbôn cỡ lớn trở thành vô hình đối với các thú vật. Mỗi miếng thịt chúng ăn bây giờ đều do tự tay chúng bẫy hoặc bắn bằng cung, ná. Chúng có thể lột da một con thú nhanh gấp đôi trước đây và nấu nướng thịt trên những đống lửa gần như không có khói mà chúng đã biết nhóm bằng cách quẹt đá lửa vào lớp rêu khô dưới những que củi nỏ, nhẹ. Những bữa ăn thịt thú nướng - đôi khi là những con chuột rừng nhỏ - thường thường được bồi gia vị bằng món côn trùng nướng giòn dưới than.
Một số trong những bài học giá trị nhất của chúng lại không đề ra trong chương trình. Một hôm trong giờ nghỉ, khi một thằng thử cung vô ý phóng một mũi tên, trúng phải một tổ ong kuaburungô trên cây cao, một đám mây cuồng nộ à xuống - và một lần nữa cả bọn lại khốn khổ vì lỗi của một đứa. Kể cả thằng chạy nhanh nhất trong đám cũng không thoát khỏi những cú ong châm đau buốt.
"Người ximbôn không bao giờ bắn một mũi tên mà không biết nó sẽ trúng vào cái gì", sau đó, kintangô nói với chúng vậy. Ra lệnh cho bọn trẻ lấy dầu cây hạt mỡ xoa vào những chỗ đau sưng húp của nhau, ông nói: "Đêm nay, các người sẽ xử trí với bày ong đó cho thích đáng". Khi trời sẩm tối, bọn trẻ đã chất rêu khô dưới gốc cây có tổ ong. Sau khi một trong hai phụ tá của kintangô châm lửa, người kia bèn ném vào một vốc lá của một loại cây bụi nào đó. Làn khói dày, ngột ngạt bốc lên những cành cây trên cao và phút chốc, hàng ngàn ong chết rụng xuống quanh bọn trẻ, vô hại như những hạt mưa. Sáng ra, Kunta và lứa kafô của nó được chỉ vẽ cách làm chảy các tầng ong - hớt đi những xác ong chết còn lại - để chén mật thoả thích. Kunta hầu như có thể cảm thấy trong người rần rật cái khí lực mới mà người ta bảo mật ong đem lại cho các nhà săn bắn lớn khi họ cần những chất dinh dưỡng mau chóng giữa rừng sâu.
Nhưng bất kể chúng phải nếm trải những gì, bất kể chúng trau dồi được thêm bao nhiêu kiến thức và khả năng mới, vị kintangô già vẫn không bao giờ thoả mãn. Những đòi hỏi và kỷ luật ông đề ra vẫn chặt chẽ đến nỗi, phần lớn thời gian, bọn trẻ luôn bị giằng xé giữa sợ hãi và phẫn nộ, trừ những khi chúng quá mệt không còn cảm thấy gì nữa. Mọi mệnh lệnh giao cho đứa nào mà không thực hiện hoàn hảo ngay lập tức, đều khiến cả lứa kafô bị ăn đòn. Và, theo cảm giác của Kunta, cứ khi nào không bị đánh, thì giữa đêm, chúng lại bị dựng dậy một cách thô bạo để làm một cuộc hành quân dài - mà bao giờ cũng là với tính cách trừng phạt sự sai trái của một đứa nào đó. Điều duy nhất ngăn Kunta và bọn kia không tự tay nện cho thằng chết tiệt ấy một trận, là ý thức biết chắc rằng làm thế chỉ tổ bị đòn vì tội đánh lộn: một trong số những bài học đầu tiên chúng học được trong đời - từ lâu trước khi đến khu trại này - là người Manđinka không bao giờ được đánh lẫn nhau. Cuối cùng bọn trẻ bắt đầu hiểu rằng an lạc của nhóm tuỳ thuộc ở mỗi đứa chúng nó - cũng như hạnh phúc của bộ lạc sẽ tùy thuộc vào mỗi đứa chúng nó, một ngày kia. Vi phạm quy tắc giảm dần xuống tới mức chỉ còn là một thiếu sót năm thì mười hoạ và cùng với việc đánh đập bớt đi, nỗi sợ đối với kintangô dần dần được thay thế bằng một niềm kính trọng mà trước đây chúng chỉ cảm thấy đối với cha mình.
Nhưng ít có ngày qua đi mà không xảy ra điều mới lạ khiến Kunta cùng các bạn lại cảm thấy mình vụng về và dốt nát. Chẳng hạn, chúng lấy làm ngạc nhiên khi được biết một miếng vải gấp và treo theo kiểu nào đó gần lều một người đàn ông là tín hiệu thông báo ngày giờ anh ta dự định trở về, hoặc những chiếc dép xếp chéo nhau theo kiểu nào đó ngoài một túp lều có thể nói lên nhiều điều mà chỉ những người đàn ông khác mới hiểu. Nhưng điều bí mật mà Kunta thấy là đặc sắc hơn cả, là tiếng xirakangô, một kiểu hội thoại của đàn ông trong đó âm của các từ ngữ Manđinka được biến đổi đi sao cho đàn bà, trẻ con hoặc những người không thuộc bộ tộc Manđinka, không tài nào hiểu được. Kunta nhớ lại những lần nó nghe thấy cha nó nói rất nhanh với một người đàn ông khác những điều gì mà nó không hiểu và cũng chẳng dám yêu cầu giải thích. Bây giờ bản thân nó đã học được, chẳng bao lâu nó cùng các bạn sẽ nói được hầu hết những điều mà cha anh chúng nói bằng thứ thoại ngữ bí mật của đàn ông.
Ở tất cả các lều, cứ mỗi một tuần trăng qua đi, bọn trẻ lại bỏ thêm một hòn đá vào một cái bát để đánh dấu thời gian chúng đi xa khỏi Jufurê đã được bao lâu. Mấy ngày sau khi hòn đá thứ ba được bỏ vào bát, một buổi chiều, bọn trẻ đang đánh vật trong khu rào, đột nhiên chúng nhìn về phía cổng trại và thấy sừng sững đứng đó một toán từ hai mươi lăm đến ba mươi người đàn ông. Đám thiếu niên há hốc miệng thở hổn hển khi nhận ra đó là bố chúng, các chú các bác và các anh lớn chúng. Kunta nhẩy bật lên, không thể tin ở mắt mình, niềm vui như một mũi tên xuyên suốt người nó khi nhìn thấy Ômôrô lần đầu tiên sau ba tuần trăng. Song hình như có một bàn tay vô hình nào đó giữ nó lại và dập tắt một tiếng kêu mừng rỡ, ngay cả trước khi nó thấy mặt bố nó không lộ vẻ gì là nhận ra con trai của mình.
Chỉ có một thằng lao ra, kêu tên bố, và chẳng nói chẳng rằng, ông bố đó với lấy chiếc roi của người phụ tá kintangô đứng gần mình nhất, vừa quật thằng con vừa nghiêm khắc quát mắng nó về tội đã phơi bày nỗi xúc động của mình, tỏ ra vẫn còn là một thằng bé. Trong khi đánh những nhát roi cuối cùng, người đó cảnh cáo thêm thằng con trai một cách không cần thiết rằng nó đừng có hy vọng được bố ưu đãi. Rồi đích thân kintangô hô một mệnh lệnh cho toàn thể lứa kafô nằm sấp bụng xuống thành một hàng và tất cả những người khách đi dọc theo hàng đó, lấy gậy đi đường của mình quất xuống những cái mông chổng lên. Lòng Kunta xáo lộn cả lên, nó không phản đối chuyện đánh đòn vì biết đó chỉ là một kỷ luật nghiệt ngã khác của việc rèn luyện trưởng thành, song nó đau đớn không được ôm ghì lấy bố thậm chí nghe tiếng bố nói, đồng thời lại thấy hổ thẹn vì nó biết rằng ngay cả việc mong muốn những nuông chiều ấy cũng không phù hợp với khí phách nam nhi.
Xong mục đánh đòn, kintangô hạ lệnh cho bọn trẻ chạy, nhảy, múa, vật nhau, cầu nguyện như chúng đã được dạy, và đám phụ huynh lặng lẽ theo dõi tất cả, rồi nhiệt liệt ca ngợi kintangô cùng các phụ tá vừa ra về không buồn ngoái lại nhìn bọn trẻ đứng ngẩn ra, mặt ỉu xìu. Trong giờ ấy, chúng còn bị đánh một trận nữa vì dỗi không chịu chuẩn bị bữa ăn tối. Chúng càng bất bình hơn vì nỗi kintangô và các phụ tá làm như không hề có ai đến thăm cả. Nhưng quãng đầu đêm hôm ấy, trong khi bọn trẻ đánh vật trước giờ đi ngủ - lúc này chỉ miễn cưỡng thôi - một phụ tá của kintangô đi ngang qua chỗ Kunta và đột nhiên thì thào nói với nó: "Mày có một thằng em mới đẻ, tên là Mađi".
Bây giờ, chúng mình có bốn đứa, Kunta nghĩ bụng, đêm ấy nó thức khuya hơn. Bốn anh em - bốn con trai cho bố mẹ nó. Nó ngẫm nghĩ không biết trong tương lai hàng trăm vụ mưa sau, khi các graiốt kể lại lịch sử gia đình Kintê, chuyện đó sẽ gợi lên âm hưởng như thế nào. Sau Ômôrô - Kunta nghĩ - nó sẽ là người đàn ông đầu tiên trong gia đình khi nó trở lại Jufurê. Không những nó đang học để trở thành một người đàn ông, mà nó còn học rất nhiều điều mà nó có thể dạy lại cho Lamin, như nó đã từng dạy thằng em bao nhiêu điều về tuổi niên thiếu. Chí ít, nó cũng sẽ dạy Lamin những gì mà bọn thiếu niên được phép biết, rồi Lamin sẽ dạy cho Xuoađu và Xuoađu lại dạy lại thàng em mới tên Mađi này mà Kunta còn chưa biết mặt. Và một ngày kia Kunta vừa nghĩ vừa chìm dần vào giấc ngủ - khi đến tuổi Ômôrô, nó sẽ có những đứa con trai của chính mình, và mọi sự lại bắt đầu như thế.
Chương 24
"Các ngươi giờ đây không còn là trẻ con nữa. Các ngươi đang trải qua cuộc hồi sinh để trở thành người lớn", một buổi sáng, kintangô nói với lứa kafô được tập hợp lại. Đây là lần đầu tiên kintangô dùng chữ người lớn mà không phải để mắng chúng chưa đáng là người lớn. Sau những tuần trăng cùng học, cùng làm, cùng bị đánh đập - ông nói với bọn chúng - cuối cùng mỗi đứa đang bắt đầu phát hiện ra là mình có hai bản ngã: một ở trong nó và bản ngã kia lớn hơn, ở trong tất cả những ai cùng chung huyết thống, cùng chung cuộc đời với nó. Chưa học được bài học đó thì chưa thể tiến hành giao đoạn tiếp theo của việc rèn luyện trưởng thành: làm sao trở thành chiến binh. "Các con đã biết người Manđinka chỉ chiến đấu nếu những kẻ khác là hiếu chiến", kintangô nói. "Nhưng nếu bị dồn đến chỗ phải chiến đấu thì chúng ta sẽ là những chiến binh cừ nhất".
Trong nửa tuần trăng sau đó, Kunta và các bạn học cách chiến đấu như thế nào. Kintangô hoặc các phụ tá phác hoạ những binh lược trứ danh của dân tộc Manđinka rồi bảo bọn trẻ tái triển những binh lược ấy trong các cuộc tập trận giả. "Đừng bao giờ vây kín kẻ địch hoàn toàn", kintangô khuyên. "Hãy để cho chúng một lối thoát nào đó, vì nếu bị hãm cùng đường, chúng càng liều mạng chiến đấu". Bọn trẻ cũng học được rằng các cuộc chiến đấu nên mở màn vào lúc chiều tà để cho bất cứ kẻ địch nào, thấy thất bại, có thể gỡ thể diện bằng cách rút lui vào bóng tối. Và chúng được dạy rằng, trong mọi cuộc chiến tranh, đừng bên nào nên làm hại đến các giáo trưởng, các graiốt hoặc các thợ rèn trên đường lữ thứ vì một giáo trưởng phẫn nộ có thể khiến cho nỗi bất bình của Chúa Ala giáng xuống, một graiốt phẫn nộ có thể sử dụng cái lưỡi hùng biện của mình kích động địch quân trở nên man rợ hơn, và một thợ rèn phẫn nộ có thể chế tạo hoặc sửa chữa vũ khí cho kẻ địch.
Dưới sự chỉ đạo của các phụ tá kintangô, Kunta và những đứa khác đẽo những giáo mác có ngạnh và vót những mũi tên có ngạnh thuộc loại chỉ dùng trong chiến trận, và tập phóng chúng vào những mục tiêu càng ngày càng thu nhỏ. Đứa nào phóng trúng một thân tre cách xa hai mươi lăm bước là được hoan hô và ngợi khen. Xục vào rừng bọn trẻ tìm thấy một loại cây kuna, ngắt lá đem về trại nấu thành thứ nước đen đặc quánh. Một sợi chỉ bông đem nhúng vào đó rồi quấn vào ngạnh một mũi tên sẽ làm ngấm một chất độc chết người vào bất cứ vết thương nào do mũi tên gây ra.
Vào cuối thời kỳ huấn luyện chiến đấu, kintangô kể cho bọn chúng nghe nhiều điều chúng chưa từng biết - và kể một cách lý thú hơn mọi lần chúng đã từng được nghe về những cuộc chiến tranh lớn nhất và những chiến sĩ vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử dân tộc Manđinka - vào cái thời mà đạo quân của thần tướng Xundiata, xưa là nô lệ, con trai bà Nữ Ngưu Xôlôgôn, đánh bại các lực lượng của vua Xumacrô nước Burê, một tên vua tàn bạo chuyên mặc áo bằng da người và trang hoàng những bức tường trong cung điện của y bằng những sọ trắng hếu của quân địch.
Kunta cùng các bạn nín thở nghe chuyện cả hai đạo quân đã bị thương vong hàng nghìn người như thế nào. Nhưng các tay nỏ người Manđinka đã áp sát vây chặt các lực lượng của Xumacrô như một cái bẫy khổng lồ, từ hai phía bắn tên vào như mưa và liên tục tiến vào cho đến khi đạo quân táng đởm kinh hồn của Xumacrô, cuối cùng phải bỏ chạy tán loạn. Trong nhiều ngày đêm, kintangô kể - và đây là lần đầu tiên bọn trẻ thấy ông mỉm cười - các cỡ trống biết nói của mọi làng bản theo dõi bước tiến của các lực lượng Manđinka chiến thắng, chở đầy chiến lợi phẩm và giải hàng nghìn tù binh đi trước họ. Đến mỗi làng, những đám đông vui sướng xô ra nhạo báng và đá bọn tù binh đầu cạo trọc và tay trói quặt ra sau lưng. Cuối cùng, tướng Xundiata triệu tập một cuộc họp lớn của nhân dân, đưa ra trước bà con những thủ lĩnh của tất cả các làng đã bị ngài đánh bại và trả lại những ngọn giáo cấp thủ lĩnh cho họ, thế rồi ngài bèn thiết lập giữa các thủ lĩnh đó những quan hệ hoà bình sẽ ràng buộc họ trong một trăm vụ mưa về sau. Kunta và các bạn trở về giường nằm, lòng đầy mộng mơ, tự hào hơn bao giờ hết được là người Manđinka.
Khi bắt đầu tuần trăng luyện tập sau, tiếng trống truyền tới trại, báo tin sẽ có khách mới trong vòng hai ngày tới. Niềm phấn khởi trước tin có khách - bất kể là khách nào, bao lâu sau lần đoàn phụ huynh tới - lại tăng lên gấp đôi khi bọn trẻ được biết người truyền tin đi chính là tay trống của đội kiện tướng vật làng Jufurê đến đây để hướng dẫn những bài học đặc biệt cho trại viên.
Cuối buổi chiều hôm sau, trống loan báo họ đến sớm hơn dự đoán. Nhưng nỗi vui thích của bọn trẻ được gặp lại những bộ mặt quen thuộc, biến mất khi các đô vật chẳng nói chẳng rằng túm lấy chúng và bắt đầu lẳng chúng xuống đất phũ phàng tới mức chúng chưa bao giờ bị quật như thế trong đời. Và đứa nào đứa nấy đều thâm tím ê ẩm khi các đô vật chia chúng thành từng nhóm nhỏ để quần thảo với nhau dưới sự giám sát của các kiện tướng. Kunta chưa bao giờ tưởng tượng là môn vật lại có nhiều miếng đến thế và những miếng ấy hiệu nghiệm biết bao nếu sử dụng đúng cách. Và các kiện tướng không ngừng gióng trống vào tai bọn trẻ, nhắc nhở chúng rằng: chính sự hiểu biết và điêu luyện thuần thục, chứ không phải sức khoẻ, mới là điều phân biệt giữa một đô vật bình thường với một kiện tướng. Tuy nhiên, khi họ thị phạm các ngón vật cho lũ học trò thấy, bọn chúng không khỏi trầm trồ ngưỡng mộ những bắp thịt cuồn cuộn không kém gì tài nghệ của họ. Đêm ấy, quanh đống lửa, tay trống từ Jufurê tới rành rọt gõ tên tuổi và chiến tích của những đô vật kiện tướng lớn người Manđinka từ một trăm vụ mưa trước tới nay và khi bọn trẻ đến giờ đi ngủ, các đô vật bèn rời trại trở về Jufurê.
Hai hôm sau, lại có tin một vị khách nữa đến. Lần này, tin do một liên lạc từ Jufurê mang tới - một thanh niên thuộc lứa kafô thứ tư mà Kunta cùng các bạn nó biết rất rõ, mặc dù, lên mặt người lớn, anh ta làm như chưa bao giờ thấy cái bọn nhóc thuộc lúa kafô thứ ba này không thèm ngó ngàng gì đến chúng, anh ta chạy tới chỗ kintangô và vừa thở rốc vừa báo là Kujali Njai, một graiốt nổi tiếng khắp Gămbia, sắp sửa đến thăm trại tập hẳn một ngày.
Ba hôm sau, ông lão tới cùng với một số thanh niên thuộc gia đình ông. So với bất cứ vị graiốt nào Kunta đã thấy trước đây, thì ông cụ già hơn nhiều - già đến nỗi trên thực tế, bên cạnh cụ, kintangô hoá ra trẻ. Sau khi ra hiệu cho bọn trẻ ngồi xệp thành hình bán nguyệt quanh mình, ông già bắt đầu kể quá trình ông trở thành graiốt như thế nào. Cụ kể cho chúng nghe, trong những năm học hỏi thời trai trẻ, mỗi một graiốt đã chôn sâu thành tích của tổ tiên trong tâm trí như thế nào. "Bằng cách nào khác mà ta có thể biết được những việc làm lớn lao của các vua, các thánh nhân, các nhà săn bắn và các chiến binh thời xưa, sống trước ta hằng trăm vụ mưa? Ta có gặp các vị đó không?" ông cụ hỏi, "Không! Lịch sử dân tộc chúng ta được truyền tới cho tương lai từ đây này". Và cụ vỗ vào mái đầu bạc của mình.
Cái câu hỏi vẫn nằm trong trí mỗi đứa trẻ đã được vị graiốt già giải đáp: chỉ có các con trai các graiốt mới có thể trở thành graiốt. Thật vậy bổn phận trọng đại của họ là phải trở thành graiốt. Kết thúc kỳ rèn luyện trưởng thành là những thiếu niên ấy - như tốp cháu nội của chính cụ hôm nay đang ngồi bên cụ đây - liền bắt đầu học tập và đi du hành với những vị huynh trưởng chọn lọc, nghe đi nghe lại mãi những tên tuổi lịch sử và những câu chuyện được truyền lại và, đến kỳ đến lúc, mỗi thiếu niên sẽ thuộc cái phần đặc biệt trong lịch sử của cha ông đến tận chi tiết cặn kẽ nhất, đầy đủ nhất, đúng như đã được kể cho cha mình về cha của cha mình. Rồi tới một ngày nào đó, chàng trai trở thành người đàn ông trưởng thành, có con, và anh ta, sẽ kể cho chúng nghe những truyện ấy, sao cho các sự kiện của quá khứ xa xưa sẽ sống mãi.
Khi bọn trẻ thán phục nuốt vội nuốt vàng bữa ăn chiều và đổ xô trở lại xúm quanh cụ già graiốt, cụ khiến chúng hồi hộp xúc động cho đến tận đêm khuya với những câu chuyện do chính cha cụ truyền lại - về những đại vương quốc da đen đã thống trị châu Phi hàng mấy trăm năm trước.
"Rất lâu trước khi bọn tubốp đặt chân tới châu Phi", vị graiốt già nói, có vương quốc Bênin dưới sự trị vì của một ông vua nắm mọi quyền lực gọi là Ôba, muốn gì là phải có ngay. Nhưng thực tế việc cai quản Bênin lại nằm trong tay các cố vấn tin cẩn của Ôba, toàn bộ thời gian của nhà vua chỉ dành vào những cuộc tế lễ cần thiết để trấn an quỷ thần và vào việc chăm sóc thích đáng một hậu cung gồm hơn một trăm cung phi. Nhưng trước thời kỳ đó, Bênin là một vương quốc còn giàu hơn thế nữa gọi là Xonghai, vị graiốt nói vậy. Kinh đô của Xonghai là Gao, đầy những nhà cửa đẹp đẽ dành cho các ông hoàng da đen và các phú thương, bọn này thết đãi rất hào phóng những lái buôn lưu động đem vô số vàng đến mua hàng.
"Vậy mà đó chưa phải là vương quốc giàu nhất", cụ già nói. Và cụ kể cho bọn trẻ nghe về nước Gana của tổ tiên trong đó có một thành phố gồm toàn quần thần của triều đình nhà vua. Và vua Kanixal có tới một nghìn ngựa, mỗi con có ba người phục vụ và máng đái riêng bằng đồng đỏ. Kunta gần như không tin ở tai mình nữa. "Và mỗi buổi tối", vị graiốt kể. "Khi vua Kanixal từ trong cung điện bước ra, một ngàn ngọn lửa liền được thắp, soi sáng tất cả mọi thứ giữa trời và đất. Và gia nhân của bậc đại vương bưng đồ ăn thức uống ra, đủ để thết một vạn người tập hợp ở đó mỗi buổi chiều".
Đến đây cụ ngừng lại, và bọn trẻ không nén nổi những tiếng trầm trồ kinh ngạc (chúng biết rõ là không được gây một tiếng động nào trong khi một graiốt nói), nhưng cả cụ già lẫn bản thân kintangô dường như đều không nhận thấy sự thất thố của chúng. Bỏ một nửa hạt kôla vào miệng và đưa nửa kia mời kintangô - ông này vui vẻ nhận, - vị graiốt kéo vạt áo quấn chặt hơn vào chân để chống lại cái rét của đêm vừa bắt đầu và tiếp tục kể.
"Nhưng ngay cả Gana cũng chưa phải là vương quốc da đen giàu nhất!" cụ thốt lên. "Đích thực giàu hơn cả đích thực lâu đời hơn cả, chính là vương quốc Mali cổ xưa!". Như các vương quốc khác, Mali có những đô thị, những nông dân, thợ thủ công, thợ rèn, thợ thuộc da, thợ nhuộm và thợ dệt, cụ già graiốt nói. Nhưng của cải như núi của Mali là do những con đường thông thương dài rộng phục vụ việc buôn bán muối, vàng và đồng đỏ. "Đi khắp Mali, chiều dài mất bốn tuần trăng, chiều rộng mất bốn tuần trăng", vị graiốt nói, "thành phố lớn nhất là Timbutku thần kỳ!" Là trung tâm học vấn của toàn châu Phi, Timbutku có hàng ngàn học giả, hơn nữa lại không ngừng tiếp đón các nhà thông thái nườm nượp tới thăm để nâng cao kiến thức - nhiều đến nỗi một số thương gia xụ nhất chẳng bán được gì ngoài dây da và sách. "Không có một giáo trưởng nào, không một thầy giáo nào dù ở làng nhỏ nhất, mà vốn kiến thức không bắt nguồn, chí ít là một phần, từ thành phố Timbutku", vị graiốt nói.
Cuối cùng khi kintangô đứng lên cảm ơn vị graiốt đã hào hiệp chia sẻ những kho tàng trí tuệ của mình cho thầy trò ông. Kunta cùng những đứa khác lần đầu tiên từ khi chúng đến trại - dám thực sự nói lên nỗi bất mãn của mình vì đã đến giờ phải đi ngủ. Kintangô đành làm ngơ, bỏ qua sự láo xược ấy, ít nhất là trong lúc này, và nghiêm nghị ra lệnh cho chúng về lều, tuy nhiên, trước đó, chúng đã tranh thủ được cơ hội xin ông mời vị graiốt trở lại thăm chúng một lần nữa.
Sáu ngày sau, chúng vẫn còn đang suy nghĩ và bàn tán về những câu chuyện kỳ diệu mà vị graiốt đã kể cho chúng nghe, thì có tin một vị môrô trứ danh sắp đến thăm trại. Môrô là một cấp đại sư cao nhất ở Gămbia, thật vậy chỉ có một số ít đại sư và sau bao vụ mưa học tập nghiên cứu, họ trở nên uyên bác đến nỗi nhiệm vụ của họ không phải là chỉ dạy học trò mà cả các thày giáo như arafang của làng Jufurê.
Ngay cả kintangô cũng tỏ ra quan tâm khác thường đối với vị khách này, ông ra lệnh dọn thật sạch toàn thể khu trại, cào hết rác bẩn rồi lấy cành lá quét cho nhẵn nhụi phẳng phiu để xứng với vinh dự đón những vết chân tươi mới của vị môrô khi người tới đấy. Rồi kintangô tập hợp bọn trẻ trong khu rào và nói với chúng: "Không những dân chúng mà cả các xã trưởng và thậm chí các bậc quân vương cũng cầu mong được nghe lời bảo ban và cầu phước của người sắp đến với chúng ta".
Sáng hôm sau, vị môrô tới, có năm môn đồ đi theo, mỗi người đội một cái bọc mà Kunta biết là trong đó có những sách Ả rập quí giá và những bản thảo viết trên giấy da như của thành phố Timbutku cổ xưa, lúc vị đại sư già đi qua cổng, Kunta và các bạn quì gối theo kintangô và các phụ tá, trán chạm xuống đất. Sau khi vị môrô cầu phước cho bọn họ và toàn trại, mọi người đứng dậy và kính cẩn ngồi quanh đại sư trong khi người giở sách và bắt đầu đọc - đầu tiên trích kinh Koran, rồi đến những đoạn trong các sách chưa từng nghe nói đến, như cuốn Tôrêta la Muxa, cuốn Zabora, Đauydi và cuốn Lingheli la Ixa mà người nói tín đồ "Cơ đốc" gọi là Ngũ quyển của Môixe trong Cựu ước, thi thiên của Đavid và sách Exai. Mỗi lần, vị môrô mở hay gấp lại một quyển sách, giở ra hay cuộn vào một bản thảo, người lại áp trán vào đó và thì thầm "Amen!"
Khi đọc xong, vị đại sư già đặt các sách sang bên cạnh và nói về những sự kiện lớn và những nhân vật trong kinh Koran của đạo Cơ đốc thường được gọi là Kinh Thánh, Người nói về Adam và Evơ, về thánh Jôzep và các giáo hữu, về Môixe, Đavid, và Xôlômôn, về cái chết của Abet. Người kể với bọn họ về những nhân vật vĩ đại trong lịch sử gần đây như Đjulu Kara Naini mà bọn tubốp gọi là Alecxandr Đại Đế, một ông vua hùng cường của một nước đầy vàng bạc, ở đó mặt trời chiếu toả nửa phần thế giới.
Trước khi vị môrô đứng dậy ra về trong đêm ấy, người duyệt lại xem bọn trẻ đã thuộc những gì trong năm bài kinh cầu Chúa Ala hằng ngày và dặn dò chúng phải đi đứng, cư xử ra sao trong ngôi nhà thờ thiêng liêng của làng, nơi mà chúng sẽ bước vào lần đầu tiên khi chúng trưởng thành trở về nhà. Rồi người cùng các môn đồ phải đi vội để tới địa điểm sau trong chương trình bận rộn của người, và bọn trẻ hát mừng người như kintangô đã căn dặn: "Một thế hệ qua đi… Một thế hệ khác tới và lại qua… Song Chúa Ala còn mãi mãi…"
Đêm ấy sau khi vị môrô đi khỏi, nằm thao thức trong lều, Kunta nghĩ thầm sao mà biết bao điều lại gắn bó với nhau đến thế - thực tế là hầu hết những điều chúng nó đã học được. Quá khứ dường như gắn liền với hiện tại và hiện tại với tương lai; người chết với người sống và những người còn chưa ra đời, bản thân nó với gia đình nó, bạn bè nó, làng nó, bộ lạc nó, Châu Phi của nó, thế giới của con người với thế giới của thú vật và cỏ cây - tất cả đều sống với Chúa Ala. Kunta cảm thấy mình rất nhỏ bé mà rất lớn lao. Có lẽ - nó nghĩ - đó là ý nghĩa của việc trở thành người lớn.
Chương 25
Đã tới lúc tiến hành cái công việc mà chỉ nghĩ đến cũng đủ khiến Kunta và mọi đứa khác rùng mình: phép Kaxaxbôlô (1:- Tục lệ cắt bao qui đầu của tín đồ Hồi giáo) nhằm tẩy rửa một thiếu niên và chuẩn bị cho nó trở thành một người cha có nhiều con. Bọn chúng biết sự kiện đó đang tới gần, nhưng khi nó tới thì chẳng có gì báo trước cả. Một hôm vào đúng ngọ khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, một phụ tá của kintangô ra một mệnh lệnh, tưởng chừng như thông lệ, cho toàn lứa kafô xếp hàng trong khu rào, và bọn trẻ làm theo nhanh chóng như mọi khi. Nhưng Kunta cảm thấy nhói lên một nỗi sợ khi đích thân kintangô ra khỏi lều của mình như hoạ hoằn lắm ông mới làm thế vào giữa trưa và bước tới trước mặt bọn chúng.
"Vạch fôtô ra" ông hạ lệnh. Chúng ngần ngừ, không tin - hoặc không muốn tin - vào điều chúng nghe thấy. "Làm ngay!" Ông quát. Một cách chậm chạp và ngượng ngùng chúng tuân theo, đứa nào đứa nấy mắt dán xuống đất, trong khi lần tay vào trong khố.
Từ hai đầu hàng, các phụ tá của kintangô rẽ lối tiến lại từng đứa, bọc đầu fôtô của nó trong một đoạn vải ngắn phết một lớp bột xanh làm bằng một thứ lá giã nát ra. "Chẳng mấy chốc, fôtô của các ngươi sẽ mất hết cảm giác" kintangô nói và ra lệnh cho chúng trở về lều.
Nép vào nhau trong lều, xấu hổ và lo sợ những gì xảy ra tiếp theo, bọn trẻ im lặng chờ đợi cho đến khoảng giữa buổi chiều thì lại được lệnh ra ngoài, chúng đứng đó, giương mắt nhìn một số người từ Jufurê - các phụ huynh và chú bác đã đến lần trước cùng nhiều người khác nữa - đang nối nhau đi qua cổng vào. Ômôrô cũng ở trong đám, nhưng lần này Kunta làm như không thấy cha mình. Đám người xếp thành một hàng đối diện với bọn trẻ và đồng thanh: "Việc sắp làm đây…cũng đã được làm với chúng ta…như với tổ tiên trước chúng ta…sao cho các ngươi cũng sẽ trở thành ...cùng chung hàng ngũ nam tử với tất cả chúng ta". Rồi kintangô ra lệnh cho bọn trẻ trở về lều một lần nữa.
Khi màn đêm buông xuống, chúng nghe thấy rất nhiều trống bắt đầu nện ở ngay bên ngoài trại. Được lệnh ra khỏi lều, chúng trông thấy độ mươi mười hai người nhảy điệu kangkurang vừa băng qua cổng vừa gào thét. Trong trang phục bằng cành lá và đeo mặt nạ vỏ cây, họ nhảy nhót, vung giáo giữa bọn trẻ thất đảm và rồi biến mất cũng đột ngột như khi xuất hiện. Bấy giờ, bọn trẻ gần như tê dại đi vì sợ, nghe thấy kintangô hạ lệnh cho chúng ngồi sát vào nhau dựa lưng vào hàng rào tre của khu trại.
Đám cha, anh, chú bác đứng gần đó, lại đồng thanh: "Chẳng bao lâu, các ngươi sẽ trở về nhà…về trại ấp, ruộng đồng…và đến kỳ đến lúc các ngươi sẽ lấy vợ…và đời sống vĩnh hằng sẽ tuôn chảy từ thân các ngươi". Một phụ tá của kintangô gọi tên một đứa. Khi nó đứng dậy, người phụ tá vẫy nó đến đằng sau một tấm phên đan bằng tre. Kunta không trông thấy hoặc nghe thấy gì xảy ra tiếp theo, nhưng lát sau thằng bé trở ra với một mảnh vải vấy máu kẹp giữa háng. Hơi lảo đảo, nó được người phụ tá kia dìu về chỗ, dọc theo hàng rào tre. Người ta gọi tên một thằng khác. Rồi một thằng nữa, lại một thằng nữa, và cuối cùng:
"Kunta Kintê!"
Kunta như biến thành đá. Song nó tự bắt mình đứng dậy và bước lại sau tấm phên. Trong đó có bốn người, một người ra lệnh cho nó nằm ngửa lên. Nó làm theo: dù sao đi nữa, nó cũng không thể đứng vững được lâu hơn trên đôi chân run rẩy. Tốp người bèn cúi xuống, nắm chặt lấy nó và nhấc cao hai đùi nó lên. Đúng trước khi nhắm mắt lại, Kunta trông thấy kintangô cúi xuống nó, tay cầm một vật gì đó. Rồi nó cảm thấy nhát cắt đau buốt. Đau hơn là nó tưởng, tuy nhiên nếu như không đắp lá tê trước thì ắt còn tệ hơn nữa. Lát sau, nó được băng chặt chẽ và một phụ tá đỡ nó trở ra, nó ngồi xuống, yếu ớt và choáng váng, bên cạnh những đứa đã qua đằng sau tấm phên. Chúng không dám nhìn nhau. Nhưng điều mà chúng sợ hơn hết thảy, giờ đây đã xong xuôi.
Khi vết cắt bắt đầu lành, một không khí hoan hỉ bừng lên trong trại bởi lẽ cái nhục vì nỗi chỉ là những thằng bé con về cả thể xác lẫn trí tuệ đã vĩnh viễn qua rồi. Giờ đây, chúng gần như là người lớn - chúng vô cùng biết ơn và kính mến kintangô. Về phần mình, ông cũng bắt đầu nhìn lứa kafô của Kunta bằng con mắt khác…Vị huynh trưởng cao tuổi, da nhăn nheo, tóc bạc mà chúng dần dần đi tới chỗ yêu mến thật sự, bây giờ thỉnh thoảng còn mỉm cười nữa kia. Và khi nói với cả lứa kafô, ông hoặc các phụ tá thường thốt ra rất thản nhiên: "Bọn đàn ông các ngươi…" Và đối với Kunta cùng các bạn nó, điều chúng nghe thấy dường như không thể tin được, mà cũng thật là tuyệt diệu.
Ít lâu sau, tuần trăng thứ tư bắt đầu và theo lệnh riêng của kintangô, mỗi đêm hai hoặc ba thành viên thuộc lứa kafô của Kunta rời trại, phóng một mạch về làng Jufurê đang yên ngủ, lẻn như những cái bóng vào kho của mẹ đẻ mình, đánh cắp mạch kê và thịt sấy đến mức tối đa có thể mang được, rồi chạy ù về trại, hôm sau đem ra nấu nướng một cách vui vẻ - "để chứng tỏ các ngươi tinh ranh hơn tất cả phụ nữ, kể cả mẹ mình" như lời kintangô nói với chúng. Nhưng cái ngày hôm sau ấy, cố nhiên các bà mẹ của những thiếu niên ấy lại đi khoe với bạn bè rằng mình đã nghe thấy con trai quanh quất đâu đó và đã nằm lắng tai, thao thức, tự hào.
Bây giờ, những buổi tối ở trại có một tình cảm mới, gần như tối nào lứa kafô của Kunta cũng ngồi xổm thành nửa vòng tròn quanh kintangô. Phần lớn thời gian, cung cách ông vẫn nghiêm nghị như trước, nhưng giờ đây ông nói với chúng không phải như với những thằng bé chập chững mà như với những trai làng. Đôi khi, ông nói với chúng về những phẩm chất của nam nhi - trong đó, nét chủ yếu sau tính dũng cảm là hoàn toàn trung thực trong mọi sự. Và thỉnh thoảng ông lại nói cho chúng nghe về tổ tiên. Sùng kính phụng thờ là một bổn phận của kẻ còn sống đối với những người ở trên kia với Chúa Ala, ông bảo chúng vậy. Ông yêu cầu mỗi đứa nêu lên vị tổ tiên mà nó nhớ thương nhất, Kunta kể tên bà nội Yaixa của nó và kintangô bảo mỗi một vị tổ tiên mà bọn chúng đã nhắc tên đều đang khẩn cầu Chúa Ala phù hộ cho những kẻ đang sống.
Một buổi tối khác, kintangô nói với chúng là mọi người sống ở trong một làng đều quan trọng ngang nhau đối với làng đó, từ đứa trẻ sơ sinh mới nhất cho đến vị bô lão cao tuổi nhất. Với tư cách là những người mới trưởng thành, do đó, chúng phải đối xử với mọi người một cách kính trọng như nhau và nhiệm vụ hàng đầu của chúng khi trưởng thành là phải bảo vệ hạnh phúc của mỗi người đàn ông và đàn bà và trẻ con như hạnh phúc riêng của mình.
"Khi trở về nhà" kintangô nói, "các ngươi sẽ bắt đầu làm mắt, làm tai cho làng Jufurê. Các ngươi sẽ có bổn phận phải gác làng - ở bên ngoài cổng làng thì cảnh giới bọn tubốp cùng những rợ khác, còn trên cánh đồng thì canh phòng, giữ mùa màng vẹn toàn khỏi bị ác thú, sâu bọ ăn. Các ngươi cũng phải gánh lấy trách nhiệm thanh tra các nồi nấu ăn của phụ nữ - kể cả của mẹ đẻ các ngươi - để đảm bảo sao cho chúng được giữ sạch sẽ và phải khiển trách họ thật nghiêm khắc nếu thấy rác bẩn hoặc sâu bọ trong đó". Bọn trẻ rất nôn nóng muốn được bắt đầu những bổn phận của mình, tưởng như không đủ kiên nhẫn để chờ đợi.
Tuy hầu hết bọn chúng - trừ những đứa lớn nhất - đều còn quá ít tuổi chưa thể mơ tưởng đến những trách nhiệm sẽ gánh vác khi đến tuổi của lứa kafô thứ tư, chúng vẫn biết rằng một ngày kia, với tư cách những chàng trai từ mười lăm đến hai mươi vụ mưa, chúng sẽ có thể được chỉ định làm cái công việc quan trọng là đưa tin - như gã thanh niên đã đến báo cho chúng biết về cuộc đến thăm của vị môrô - giữa Jufurê và các làng bản khác. Có điều là lứa kafô của Kunta khó mà tưởng tượng được rằng những gã đủ tuổi làm giao liên thì lại không khát khao điều gì hơn là thôi không làm giao liên nữa. Khi tới mức hai mươi vụ mưa bước sang lứa kafô thứ năm, họ sẽ chuyển sang làm công việc thực sự quan trọng giúp việc các bô làng với tư cách là sứ giả và người thương thuyết trong mọi cuộc giao dịch với các làng khác. Những người đàn ông vào lứa tuổi Ômôrô - trên ba mươi - cứ mỗi vụ mưa qua đi lại dần dần lên cấp, với trách nhiệm cao hơn, cho đến khi bản thân họ đạt được cương vị danh dự của các bô làng. Kunta đã nhiều lần tự hào ngắm Ômôrô ngồi bên rìa Hội đồng Bô lão và mong mỏi cái ngày mà cha nó sẽ bước vào nội bộ những người thừa kế sứ mệnh của các thủ lĩnh tôn kính như vị kintangô khi họ về chầu Chúa Ala.
Giờ đây, Kunta và những đứa khác thấy chẳng còn dễ gì mà chú ý thích đáng đến tất cả những điều kintangô nói. Chúng cảm thấy dường như không lẽ nào lại xảy ra nhiều điều đến thế trong bốn tuần trăng vừa qua, không lẽ nào chúng lại thực sự sắp trở thành người lớn. Mấy ngày vừa qua dường như dài hơn cả những tuần trăng trước đó, nhưng cuối cùng, đến ngày rằm, trăng tròn vành vạnh cao tít trên bầu trời, các phụ tá của kintangô ra lệnh cho tất cả xếp hàng, sau bữa ăn tối một chút.
Phải chăng đây là lúc mà chúng chờ đợi? Kunta nhìn quanh tìm các bậc phụ huynh chắc chắn phải có mặt để dự buổi lễ bế mạc. Chẳng thấy họ đâu cả. và kintangô đâu rồi? Đôi mắt nó xục xạo khu rào và tìm thấy ông đứng ở cánh cổng trại đúng lúc ông mở toang nó, rồi quay lại bọn chúng và kêu to: "Các tráng sĩ Jufurê! Hãy trở về làng!".
Trong một lúc, chúng đứng như mọc rễ, rồi chúng đổ xô lại hú lên và nắm lấy, ghì lấy vị kintangô của chúng cùng các phụ tá, họ giả vờ như phật ý về sự hỗn hào ấy. Bốn tuần trăng trước đây, khi chiếc mũ chụp được nhấc khỏi đầu nó ở chính khu rào này, Kunta hẳn khó mà tin rằng nó sẽ buồn vì phải rời nơi này, hoặc sẽ đi đến chỗ yêu mến ông già nghiêm nghị đứng trước mặt chúng ngày hôm đó, nhưng giờ đây nó cảm thấy cả hai niềm xúc động ấy. Rồi ý nghĩ của nó bỗng hướng về nhà và nó vừa la hét vừa chạy cùng những đứa kia ra khỏi cổng, theo con đường mòn dẫn về Jufurê. Đi chưa được bao xa, chúng bỗng im tiếng và chậm bước lại, như vâng theo một hiệu lệnh ngầm, mỗi đứa theo cách riêng của mình, nhưng đều trầm ngâm suy nghĩ về những cái gì chúng bỏ lại sau lưng và những gì đang chờ trước mặt. Lần này, chúng không cần đến sao cũng tìm thấy đường về.
Chương 26
"A! A!" những tiếng reo sung sướng của đám phụ nữ vang lên và dân làng từ trong các lều đổ xô ra, cười, nhảy múa khi lứa kafô của Kunta - cùng những thiếu niên đã đến tuổi mười lăm và chuyển sang lứa kafô thứ tư trong thời gian chúng đi trại huấn luyện - bước qua cổng làng vào lúc rạng sáng. Những chàng trai mới trưởng thành bước khoan thai, với cái dáng mà chúng hy vọng là tư thế đường hoàng, và thoạt đầu, chúng không nói cũng chẳng mỉm cười. Khi thấy Binta chạy về phía mình, Kunta cảm thấy muốn lao tới gặp mẹ và không ngăn nổi vẻ mặt khỏi sáng bừng lên, nhưng nó cố tiếp tục giữ nhịp đi từ tốn như cũ. Thế rồi Binta vồ lấy nó, ôm cổ, vuốt má, nước mắt rưng rưng, miệng thầm thì gọi tên nó. Kunta chỉ cho phép làm thế một thoáng, rồi vùng ra, vì giờ đây nó đã là người lớn, nhưng nó làm như thể nó gỡ ra - chỉ để nhìn kỹ hơn cái bọc kêu oa oa, địu gọn gàng êm ái trên lưng mẹ nó. Nó luồn cả hai tay vào trong bọc nhấc bổng thằng bé lên:
"Thế ra đây là em trai Mađi của anh!" nó vui sướng kêu lên, giơ em lên cao.
Binta tươi hơn hớn bên cạnh nó trong khi nó bế thằng bé bước tới lều mẹ, vừa nói nựng, bẹo đôi má phính bé tẹo, vừa làm đủ kiểu nhăn mặt, méo miệng đùa với em. Song Kunta cũng không quá mải mê với em đến nỗi không nhận thấy bày trẻ con trần truồng đang bám sát lưng họ, mắt thao láo và mồm há hốc. Hai ba đứa xoắn lấy chân nó, nhiều đứa khác nhào ra nhào vô giữa đám Binta cùng các phụ nữ khác đang trầm trồ khen Kunta trông lực lưỡng khỏe mạnh biết bao, ra dáng nam nhi biết bao. Nó làm ra vẻ như không nghe thấy, nhưng lời đó rót vào tai nó như tiếng nhạc vậy.
Kunta tự hỏi Ômôrô đang ở đâu và Lamin - nó sực nhớ là giờ này hẳn thằng em đang đi chăn dê. Vào bên trong lều Binta, ngồi xuống rồi, nó mới nhận thấy có một đứa thuộc loại lớn trong lứa kafô đầu cũng theo vào và lúc này đang đứng nhìn nó trừng trừng, tay níu chặt váy Binta. "Chào anh Kunta!" thằng cu nói. Đó là Xuoađu! Kunta không tin ở mắt mình nữa. Khi Kunta lên đường đi rèn luyện trưởng thành, Xuoađu mới chỉ là một cái gì tẹp nhẹp, quá bé nhỏ không đáng để ý trừ những lúc nó quấy rầy Kunta với thói khóc nhè luôn miệng. Giờ đây, trong vòng bốn tuần trăng, nó như đã cao lớn hơn và bắt đầu biết nói, nó đã trở nên một con người. Giao trả em bé cho Binta, Kunta bế lấy Xuoađu, chao mạnh nó lên tận nóc lều Binta cho đến khi thằng cu khoái chá hét inh ỏi.
Khi chuyện trò với Xuoađu xong và thằng bé chạy ra ngoài xem mấy chàng trai mới trưởng thành khác, căn lều ắng lặng đi. Lòng tràn niềm vui và tự hào, Binta thấy chẳng cần nói gì. Nhưng Kunta thì khác. Nó muốn nói với mẹ là nó nhớ mẹ biết bao và sung sướng biết bao được trở về nhà. Song nó không tìm ra lời. Và nó biết đó không phải là điều mà một người đàn ông nên nói với một người đàn bà dù người đó là mẹ mình.
"Bố con đâu?" cuối cùng nó hỏi.
"Bố đi cắt cỏ gianh lợp lều cho con", Binta nói.
Trong khi phấn khởi, Kunta gần như quên bẵng rằng, với tư cách là một người đàn ông, giờ đây nó sẽ có lều riêng của mình. Nó bước ra ngoài và hối hả đi đến chỗ bố nó vẫn bảo là có loại gianh lợp nhà tốt nhất.
Ômôrô trông thấy nó tới và tim Kunta đập rất nhanh khi thấy bố bắt đầu bước lại gặp mình. Hai bố con bắt tay theo lối những người đàn ông với nhau, người nọ nhìn sâu vào mắt người kia, lần đầu tiên giao kiến theo đúng tư cách đàn ông với đàn ông. Kunta cảm thấy gần như xỉu đi vì xúc động và họ lặng thinh một lúc. Rồi thản nhiên như bàn chuyện thời tiết nắng mưa, Ômôrô bảo ông đã mua cho Kunta một căn lều mà chủ cũ đã lấy vợ và làm một ngôi nhà mới. Kunta có muốn xem lều ngay bây giờ không? Kunta khẽ nói là có và họ cùng đi, dọc đường phần lớn chỉ mình Ômôrô nói, vì Kunta vẫn thấy khó tìm ra lời.
Những vách đất của căn lều cũng cần được sửa chữa nhiều như phần mái. Song Kunta hầu như không để ý thấy hoặc cũng chẳng quan tâm lắm, vì đây là lều riêng của nó, và từ đây đến lều của mẹ nó phải đi xuyên qua làng, từ đầu nọ đến đầu kia. Cố nhiên, nó không cho phép mình để lộ vẻ thỏa mãn, kể chi đến chuyện nói ra mồm. Đằng này, nó chỉ bảo Ômôrô là nó sẽ tự mình sửa chữa lấy. Kunta có thể trát lại vách, Ômôrô nói, nhưng ông muốn hoàn thành nốt công việc chữa mái mà ông đã bắt đầu. Không nói thêm lời nào, ông quay lưng và trở về phía bãi gianh, để Kunta đứng đó, lòng đầy biết ơn bố đã khởi đầu mối quan hệ mới trên cương vị đàn ông với nhau một cách bình dị như vậy.
Kunta bỏ cả buổi chiều thăm thú mọi góc trong làng Jufurê, no mắt ngắm tất cả những bộ mặt từng tưởng nhớ tha thiết, những túp lều quen thuộc và những nơi hằng lui tới - giếng nước làng, sân trường, cây bao-báp và cây bông gạo. Mãi tới giờ, khi bắt đầu đằm ngợp trong những lời chào hỏi của mọi người nó gặp trên đường, nó mới hiểu ra nỗi nhớ quê trong những ngày qua thật sâu sắc biết bao. Nó ước mong đến giờ Lamin lùa dê về và chợt thấy nhớ một con người khác rất đặc biệt dù đó là một phụ nữ. Cuối cùng - bất cần đó có phải là một việc làm thích đáng đối với một người đàn ông hay không - nó cứ hướng tới căn lều nhỏ dầu dãi nắng mưa của già Nyô Bôtô.
"Bà ơi!" nó gọi cửa.
"Ai đấy?" một giọng cáu kỉnh, the thé, vỡ ra, đáp lại.
"Bà thử đoán xem!" Kunta nói và bước vào trong lều.
Nó phải mất một lúc mới quen mắt để nhìn bà rõ hơn trong ánh sáng lờ mờ. Ngồi xổm cạnh một cái chậu và tước những sợi dài từ một mảnh vỏ cây bao-báp nhúng đẫm nước trong chậu, bà nhìn xói vào đó hồi lâu rồi mới nói: "Kunta!"
"Bà ơi, gặp lại bà thật tuyệt quá!" nó kêu lên.
Bà Nyô Bôtô lại tước sợi. "Mẹ cháu có khỏe không?" bà hỏi và Kunta trả lời cho bà yên tâm rằng Binta vẫn mạnh.
Nó hơi ngạc nhiên vì cung cách bà thản nhiên như thể nó chưa hề đi đâu xa bao giờ, như thể bà không nhận thấy nó đã trở thành người lớn vậy.
"Cháu luôn nghĩ tới bà trong khi vắng xa - mỗi lần sờ tay vào chiếc bùa xaphi mà bà buộc vào cánh tay cháu".
Nó xin lỗi vì đã ngắt quãng công việc của bà và vội vã bỏ đi, phật ý sâu sắc và bối rối ghê gớm. Mãi sau này nó mới hiểu rằng thái độ khủng khỉnh của bà Nyô Bôtô còn khiến bà đau đớn hơn nó là đằng khác, bà đã hành động như bà biết một phụ nữ cần phải hành động đối với một kẻ không còn ở tuổi tìm sự vỗ về quanh gấu váy bà.
Lòng vẫn băn khoăn, Kunta đang chậm rãi bước về phía lều mới của mình thì chợt nghe thấy một tiếng xộn rộn quen thuộc: dê kêu be be, chó sủa và bọn trẻ quát tháo. Đó là lứa kafô thứ hai trở về sau buổi chiều chăn dê ngoài bãi rậm. Lamin chắc ở trong số đó. Trong khi bọn trẻ lại gần, Kunta bắt đầu bồn chồn dõi vào từng khuôn mặt. Thế rồi Lamin trông thấy nó, gọi ầm lên và chạy bổ tới, cười toe toét. Nhưng còn cách mấy bước, nó dừng phắt lại khi trông thấy vẻ mặt lạnh lùng của anh và chúng đứng sững nhìn nhau. Cuối cùng, Kunta nói trước:
"Chào".
"Chào anh Kunta".
Rồi chúng lại nhìn nhau thêm lát nữa. Mắt Lamin ánh lên niềm tự hào, song Kunta cũng thấy cả cái vẻ xúc phạm mà chính nó vừa cảm thấy trong lều bà Nyô Bôtô, cùng với sự phân vân không biết nên làm gì với anh trai. Kunta nghĩ cái cách xử sự của cả hai lúc này không phải là điều nó muốn, song một chàng trai trưởng thành cần phải được mọi người, kể cả chính em trai mình, kính nể đôi chút.
Lamin là đứa lên tiếng trước, bắt chuyện trở lại: "Cả hai con dê của anh đều đang chửa to tướng". Kunta thích mê, thế có nghĩa là nó sắp sửa có bốn, thậm chí năm con dê cũng nên, nếu một con sinh đôi. Song nó không mỉm cười hoặc tỏ vẻ ngạc nhiên. "Đó là tin tốt lành", nó nói, thậm chí ít lộ vẻ phấn khởi hơn là nó muốn. Không biết nói gì khác nữa, Lamin lẳng lặng chạy đi, hò mấy con chó uôlô quây lại đàn dê đã bắt đầu tản ra.
Binta giữ vẻ mặt nghiêm trang, đăm đăm trong khi giúp Kunta dọn đến lều riêng. Quần áo cũ của nó chật hết cả rồi, bà nói, và, với giọng kính cẩn đúng mức, nhắc thêm rằng khi nào, xen vào giữa những công việc quan trọng cần làm, Kunta có thì giờ cho bà đo người, bà sẽ may cho nó ít quần áo mới. Vì ngoài cây nỏ bó tên và cái ná bắn đá, nó chẳng có gì mấy nữa, nên Binta cứ thầm thì hoài, nào "con cần phải có cái này!", nào "con cần phải có cái kia" cho đến khi bà cung cấp cho nó một số đồ gia dụng thiết yếu như một cái bàn xoa, một ghế đẩu và một thảm cầu nguyện bà đã dệt trong khi nó vắng nhà. Cứ mỗi lần mẹ đưa thêm vật gì mới, Kunta lại hầm hừ như nó vẫn thấy cha nó bao giờ cũng làm thế, tựa hồ chẳng nghĩ ra cách gì phản đối để khỏi nhận vật đó trong nhà mình vậy. Khi thấy nó gãi đầu, Binta bèn đề nghị cho bới xem có chấy không, nó nói độp một tiếng "không" thô bạo, không buồn để ý đến những tiếng lẩm bẩm của mẹ sau đó.
Cuối cùng, mãi đến gần nửa đêm, Kunta mới ngủ, vì có biết bao điều phải suy nghĩ. Và nó thấy hình như vừa nhắm mắt một tí, tiếng gà gáy đã đánh thức nó dậy, rồi vẳng đến tiếng ê a của alimamô gọi đến nhà thờ Hồi giáo dự cái cuộc sẽ là lễ nguyện ban mai đầu tiên mà nó và chúng bạn được phép tham gia cùng những người đàn ông khác ở Jufurê. Hối hả mặc quần áo, Kunta vớ lấy tấm thảm cầu nguyện mới của mình và hòa vào đám bạn cùng lứa kafô đang theo sau những người đàn ông khác trong làng, bước vào ngôi nhà thờ thiêng liêng, đầu cúi thấp và tay chấp thảm cầu nguyện cuộn tròn - y như thể chúng đã làm việc đó suốt đời vậy.Vào đến bên trong, Kunta và những đứa kia theo dõi và bắt chước mọi hành động cùng lời lẽ của những người lớn tuổi hơn, đặc biệt chú trọng sao cho khỏi quá nhỏ nhẻ hoặc quá cao giọng trong khi đọc kinh.
Sau lễ nguyện, Binta mang bữa điểm tâm đến lều chàng trai mới trưởng thành. Đặt bát mạch kê bốc hơi trước mặt Kunta - cu cậu lại chỉ hầm hừ, không lộ vẻ gì trên nét mặt - Binta vội vã đi khỏi, và Kunta ăn không thích thú gì, bực bội vì ngờ rằng dường như mẹ đã cố nén một cái gì từa tựa như là niềm vui.
Điểm tâm xong, nó cùng các bạn tiến hành bổn phận làm tai mắt cho làng một cách chuyên cần khiến các bậc cha anh cũng phải thấy ngộ nghĩnh. Các bà các chị quay trước quay sau đều thấy các chàng trai mới trưởng thành đòi khám nồi nấu xem có sâu bọ gì không. Và sục sạo bên ngoài lều của mọi người và quanh khắp lũy tre làng, chúng phát hiện hàng trăm chỗ mà tình trạng sửa chữa chưa đạt đến tiêu chuẩn khắt khe của chúng. Cả một tá trong bọn chúng kín hàng xô nước giếng lên, lấy gáo múc nếm náp thật cẩn thận, hy vọng khám phá ra một vị mặn, hoặc mùi bùn, hoặc một vị gì khác không lành mạnh. Chúng bị thất vọng, song dù sao chú rùa và đàn cá thả dưới giếng để ăn sâu bọ vẫn cứ bị vớt đi và thay bằng những con mới.
Tóm lại, các chàng trai mới trưởng thành có mặt ở khắp nơi. "Chúng nó nhan nhản như bọ chét!" già Nyô Bôtô khịt khịt nói khi Kunta lại gần một con suối, nơi bà đang lấy chày nện quần áo giặt trên một phiến đá, và suýt nữa thì nó cắm cổ chạy về một phía khác. Nó cũng đặc biệt thận trọng tránh xa mọi nơi nó biết có thể có mặt Binta, lòng tự bảo lòng rằng mặc dù bà là mẹ nó, nó cũng sẽ không tỏ ra chiếu cố đặc biệt gì, rằng, nếu cần, nó sẽ thẳng tay kiên quyết với bà, thực đấy, tựu chung, bà vẫn chỉ là một phụ nữ.
Chương 27
Jufurê nhỏ quá và lứa kafô mới trưởng thành ra chuyên cần lại quá đông - chẳng mấy chốc Kunta đã cảm thấy điều đó - thành thử hầu hết các mái, tường, nồi niêu, thức đựng trong làng đều đã được kiểm tra, cọ rửa sạch sẽ, sửa chữa hoặc thay thế một lát trước khi nó ngó tới. Song nó lấy thế làm hài lòng hơn là thất vọng, vì như vậy, nó có nhiều thì giờ hơn dành vào việc trồng cây khoảnh đất nhỏ do Hội đồng Bô lão phân cho nó sử dụng. Tất cả những chàng trai mới trưởng thành tự trồng cây lấy mạch kê hoặc lạc riêng cho mình - một phần để sinh sống và số còn lại đổi chác với những người trồng không đủ nuôi gia đình lấy những thứ họ cần hơn lương thực. Chàng trai nào chăm nom tốt hoa màu của mình, đổi chác thuận lợi và khéo quản lý bầy dê - có khi đem một tá dê đổi lấy một con bò cái tơ dần dần đẻ đái thêm nhiều bê con - sẽ có cơ khá giả trong cuộc đời và trở thành một người có của khi anh ta đến tuổi hai mươi lăm hoặc ba mươi vụ mưa, bắt đầu nghĩ đến chuyện lấy vợ, sinh con đẻ cái.
Trong vòng mấy tuần trăng sau khi trở về, Kunta đã trồng thừa nuôi bản thân mình và khôn khéo đối chác lấy của này, của nọ để trang hoàng căn lều riêng, đến nỗi Binta bắt đầu ca cẩm về chuyện đó, để lọt tới tai nó. Binta cứ lầm bầm rằng lều nó có nhiều ghế, nhiều chiếu mây, nhiều bát đựng thức ăn, bầu đựng nước cùng các đồ linh tinh khác đến nỗi hầu như không còn chỗ cho bản thân nó trong đó nữa. Song nó nhân từ bỏ qua sự ngược ngạo đó của mẹ, vì hiện nay nó nằm ngủ trên một chiếc giường đẹp đan bằng sậy trải một chiếc chiếu tre êm như lò xo mà bà đã bỏ ra nửa tuần trăng để làm cho nó.
Trong lều, cùng với nhiều bùa xaphi đổi được bằng hoa màu ở mảnh ruộng riêng, nó còn giữ một số vật bảo hộ tâm linh khác: những chất xạ hương lấy từ một số loại thảo mộc và vỏ cây, mà mỗi đêm, trước khi đi ngủ, Kunta lấy ra xoa lên trán, cánh tay trên và đùi, như mọi người đàn ông Manđinka khác. Người ta tin rằng chất tinh dầu thần diệu này sẽ bảo vệ khỏi bị quỷ ám trong khi ngủ. Nó cũng làm cho người thơm tho - một điều mà Kunta đã bắt đầu nghĩ tới cùng với việc làm dáng.
Cùng với những đứa khác trong lứa kafô của nó, Kunta ngày càng trở nên tức tối về một vấn đề đã giày vò lòng tự hào nam giới của chúng từ nhiều tuần trăng. Khi lên đường đi rèn luyện trưởng thành, chúng bỏ lại sau lưng một đám con gái nhỏ gày gò, ngốc nghếch, hay cười ngặt nghẽo, nghịch ngợm gần như không kém gì con trai. Thế rồi chỉ sau bốn tuần trăng xa nhà, chúng trở về - với tư cách trai mới trưởng thành - để thấy vẫn những đứa con gái ấy, những đứa con gái đã cùng lớn lên với chúng, õng ẹo diễu quanh ở bất cứ nơi nào người ta ngó mắt tới, ưỡn đôi vú to như cặp xoài, ngúng ngẩy đầu và cánh tay, phô ra xủng xoẻng nào hoa tai, nào dây chuyền hạt, nào vòng tay. Điều làm Kunta cùng chúng bạn bực bội không phải ở chỗ bọn con gái cứ nhắng nhít một cách vô lối như thế, mà là ở chỗ bọn chúng làm vậy hoàn toàn chỉ vì lợi ích của những gã đàn ông khác hơn cánh Kunta ít nhất mười vụ mưa. Đối với cánh trai mới lớn lên như Kunta, những thiếu nữ đến tuổi lấy chồng ấy - khoảng mười bốn hay mười lăm - hầu như không buồn ghé mắt tới trừ phi để trêu chọc hoặc cười cợt. Kunta và bạn bè, cuối cùng đâm tởm những điệu bộ và cung cách mần tuồng ấy đến nỗi chúng kiên quyết thôi không thèm để ý đến cả những đứa con gái lẫn bọn thanh niên lớn tuổi hơn cũng đầy thèm muốn mà tụi kia tìm cách quyến rũ bằng cách làm duyên làm dáng nhặng xị đến thế.
Một đêm nằm mơ - vì từ khi còn bé tí, Kunta đã hay ngủ mê, thậm chí cả lúc tỉnh, Binta thường hay nói thế - nó thấy mình đang đứng xem một điệu nhảy xêôruba trong hội mùa, thì cô gái yêu kiều nhất, cổ cao nhất, đen giòn nhất trong đám chọn đúng nó để quẳng chiếc khăn bịt đầu xuống đất cho nó nhặt lên. Khi nó nhặt lên, nàng liền chạy bổ về nhà kêu lớn: "Kunta ưng tôi!" và sau khi thận trọng cân nhắc, cha mẹ nàng cho phép họ lấy nhau. Ômôrô và Binta cũng đồng ý và hai người cha thương lượng về khoản thách cưới. "Con bé đẹp đấy", Ômôrô nói "nhưng điều tôi quan tâm là giá trị thực sự của nó với tư cách là vợ của con trai tôi. Nó có làm khỏe và cần cù không? Nó có thích tổ ấm gia đình không? Nó có thể cơm ngon canh ngọt và nuôi nấng con cái không? Và nhất là có bảo đảm là nó còn trinh không?" Mọi câu hỏi đều được trả lời là có, thế là ngã giá và định ngày cưới.
Kunta làm một căn nhà mới, đẹp đẽ và cả hai bà mẹ cùng nấu vô số món ăn ngon lành để gây ấn tượng tốt nhất với khách khứa. Và đến hôm cưới, người lớn, trẻ con, dê, gà, chó, vẹt và khỉ làm nhộn nhạo cả lên, gần như át cả cánh nhạc công được thuê đến giúp vui. Khi đoàn phù dâu đến, người hát ngợi hô to chúc hai gia đình đề huề sum họp huệ lan. Tiếng hò reo càng lớn hơn khi các bạn gái thân thiết nhất của cô dâu xô mạnh nàng vào bên trong ngôi nhà mới của Kunta. Tươi cười vẫy mọi người, Kunta vào theo nàng kéo rèm cửa. Khi nàng ngồi xuống giường Kunta hát tặng nàng một bản tình ca nổi tiếng của tổ tiên: "Em thân yêu, cổ cao ba ngấn xinh đẹp tuyệt với…" Rồi hai người nằm xuống trên tấm da êm và nàng âu yếm hôn Kunta, và họ ghì thật chặt lấy nhau. Và thế rồi điều đó xảy ra y như Kunta từng tưởng tượng theo cách đã được nghe mô tả. Nó còn mê ly hơn là Kunta đã được nghe kể và cảm giác ấy cứ tăng lên, tăng lên mãi cho đến khi, cuối cùng, nó bùng ra.
Choàng thức giấc, Kunta nằm im không động đậy hồi lâu, cố mường tượng ra điều gì đã xảy đến. Rồi, quờ tay xuôi xuống giữa cặp giò, nó cảm thấy cái chất ươn ướt âm ấm cả trên người nó lẫn trên giường. Hốt hoảng và cuống lên, nó nhảy chồm dậy, sờ soạng tìm một chiếc khăn và lau người, lau luôn cả giường nữa, rồi ngồi đó trong bóng tối, nỗi sợ dần dần nhường chỗ cho sự bối rối, hết bối rối đến xấu hổ, hết xấu hổ lại thích thú và cuối cùng niềm thích thú được thay thế bởi một thứ tự hào. Cái sự này đã bao giờ xảy đến với thằng nào trong lũ bạn nó chưa nhỉ, nó tự hỏi. Một mặt nó hy vọng là đã, mặt khác lại hy vọng là chưa, vì có lẽ đây là điều xảy đến khi người ta thực sự trở thành đàn ông, nó nghĩ vậy, và nó muốn mình là người đầu tiên trở thành đàn ông. Song Kunta biết rằng nó sẽ chẳng bao giờ biết đích xác nó có phải là người đầu tiên hay không, bởi lẽ cái kinh nghiệm này là thậm chí cả những ý nghĩ này đâu phải thuộc loại chuyện nó có thể bộc bạch tâm sự với ai. Cuối cùng, vừa mệt nhoài vừa phấn khởi, nó lại nằm xuống và phút chốc chìm vào một giấc ngủ an làng không mộng mị gì cả.
Chương 28
Kunta biết tất cả mọi người, đàn ông, đàn bà, trẻ con, mọi con chó, con dê ở Jufurê, một buổi chiều nó tự nhủ như vậy trong khi ngồi ăn cơm bên mảnh ruộng lạc của mình, và trong quá trình làm những nhiệm vụ mới, hầu như ngày nào nó cũng trông thấy hoặc nói chuyện với hầu hết mọi người. Vậy mà tại sao nó lại cảm thấy cô đơn thế? Phải chăng nó là một kẻ mồ côi? Nó chẳng có một người cha đối xử với nó đúng như một người đàn ông cần phải đối xử với một người đàn ông khác đó sao? Nó chẳng có một người mẹ chăm sóc chu đáo cho những nhu cầu của nó đó sao? Nó chẳng có những đứa em trai để ngưỡng mộ nó đó sao? Với tư cách là một chàng trai mới trưởng thành, nó chẳng phải là thần tượng của chúng đó sao? Nó chẳng có tình bạn của những đứa cùng với nó vầy bùn hồi bé tí, cùng chăn dê ở tuổi thiếu niên và cùng trở về Jufurê với tư cách thanh niên mới trưởng thành đó sao? Nó chẳng đã được các bậc huynh trưởng nể vì - và các bạn cùng lứa kafô thèm muốn do khéo chăm bón mảnh đất riêng để phát triển thành bảy con dê, ba con gà và một căn lều cần thiết đẹp đẽ trước cả khi tròn tuổi mười sáu đó sao? Nó không thể phủ nhận những điều đó.
Ấy thế mà nó vẫn cô đơn. Ômôrô quá bận bịu không có thì giờ tiêu phí cùng Kunta như hồi mới có một con và ít trách nhiệm hơn trong làng. Binta bận trông nom lũ em Kunta, song dù sao hai mẹ con cũng ít nói chuyện để trao đổi với nhau. Thậm chí nó với Lamin cũng không còn gần gũi nữa, trong khi nó đi trại tập, Xuoađu đã trở thành cái bóng đầy lòng tôn thờ của Lamin như Lamin đã từng là cái bóng của Kunta, và Kunta theo dõi với những tình cảm xáo trộn trong khi thái độ của Lamin đối với thằng em chuyển hóa dần từ bực bội đến khoan dung, rồi đến thương mến. Chẳng bao lâu, hai đứa thành gắn bó không rời nhau, không còn chỗ cho Kunta cũng như cho Mađi, thằng này còn bé quá không nhập bọn được với chúng, nhưng đã đủ lớn để khóc vòi vì chúng không cho theo. Những ngày hai thằng kia không kịp lẻn nhanh ra khỏi lều, dĩ nhiên là Binta sai chúng đưa Mađi đi theo để bà đỡ quẩn chân, và Kunta không khỏi mỉm cười khi thấy ba đứa em trai nối đuôi nhau theo thứ tự lớn bé đi quanh làng, hai đứa đi đầu thì cau có nhìn thẳng về phía trước, trong khi thằng bé mỉm cười sung sướng, làm hậu quân, gần như chạy để theo kịp các anh.
Không còn ai đi sau Kunta nữa và cũng không mấy khi có ai đi cạnh nó vì các bạn cùng lứa kafô thì hầu hết các giờ thức đều bận bịu với những nhiệm vụ mới và có lẽ cũng như nó - bận suy nghĩ về những gì, cho đến nay, xem ra là những phần thưởng đáng ngờ của cương vị trưởng thành. Đành rằng chúng đã được phát mảnh đất riêng và bắt đầu gom được dê cùng những của cải khác. Nhưng phần đất thì nhỏ, công việc thì vất vả và những thứ chúng có đem so với của cải của những người đàn ông lớn tuổi hơn thì ít ỏi đến phát ngượng. Chúng cũng đã làm tai, mắt cho làng, nhưng chẳng có chúng giám sát thì nồi niêu cũng vẫn được giữ sạch sẽ và không hề có ai xâm nhập cánh đồng, ngoài những gia đình khỉ đầu chó hoặc những bầy chim thỉnh thoảng lai vãng đến. Chẳng bao lâu đã rõ ra là các bậc huynh trưởng làm lấy hết mọi công việc thực sự quan trọng và chỉ cho cánh thanh niên mới trưởng thành cái mà chúng cảm thấy là vẻ tôn trọng bề ngoài, cũng như chúng chỉ được giao phó cái vỏ ngoài của trách nhiệm. Thật vậy, những lúc để ý tới cánh trai trẻ các bậc huynh trưởng cũng như các cô gái làng, khó mà nhịn cười được, kể cả trong trường hợp một đứa trong bọn hoàn thành mỹ mãn nhiệm vụ gay go nhất không chút sai sót. Được, một ngày kia, nó sẽ là một trong những bậc lớn tuổi ấy, Kunta tự nhủ và nó sẽ mang cương vị người lớn một cách không những xứng đáng hơn, mà còn với nhiều thương mến và thông cảm đối với bọn trai trẻ hơn so với sự đối đãi dành cho nó và chúng bạn hiện nay.
Cảm thấy bồn chồn và hơi ái ngại cho bản thân, chiều tối hôm ấy, Kunta rời khỏi lều, đi dạo một mình, mặc dầu không dứt khoát chủ định đi đâu, bước chân nó cứ thế hướng tới đám trẻ con say mê, mặt sáng bừng trong ánh lửa trại, quây vòng quanh các bà già đang kể những câu chuyện ban đêm cho lứa kafô của làng. Dừng lại gần vừa đủ để nghe - những không sát tới mức lộ ra là mình đang lắng nghe - Kunta ngồi xổm xuống, giả tảng như xem xét một phiến đá dưới chân mình, trong khi bà già nhăn nheo vẫy vẫy đôi cánh tay gày đét và nhảy chồm chồm quanh khoảng trống trước mặt bọn trẻ như thể đang diễn lại tích chuyện về bốn nghìn chiến sĩ dũng cảm của vua xứ Kaxun xung trận trong tiếng sấm rền của năm trăm trống trận lớn và tiếng rúc của năm trăm tù và bằng ngà voi. Đó là một câu chuyện nó đã nghe nhiều lần quanh những đống lửa hồi còn bé và nhìn những bộ mặt với cặp mắt thao láo của Mađi ngồi ở hàng đầu và Xuoađu ngồi hàng sau, không hiểu sao nó cảm thấy nao nao buồn khi nghe lại câu chuyện đó.
Với một tiếng thở dài, nó đứng dậy và chậm rãi bỏ đi - không ai để ý tới nó, cả lúc đi cũng như lúc đến. Ở đống lửa nơi Lamin ngồi cùng đám bạn xướng những câu kinh Koran và bên một đống lửa khác, nơi Binta cùng các bà mẹ khác đang chuyện gẫu về các ông chồng, về gia sự con cái, bếp núc, khâu vá, trang điểm, chải đầu vấn tóc, nó cũng cảm thấy lạc lõng như thế. Đi qua những đám ấy, cuối cùng nó thấy mình đứng dưới những cành xòe rộng của cây bao-báp, nơi cánh đàn ông làng Jufurê ngồi quanh một đống lửa thứ tư bàn công việc làng và những vấn đề quan trọng khác. Cũng như nó đã cảm thấy quá lớn để được chấp nhận ở đống lửa thứ nhất, tới đây nó lại cảm thấy quá trẻ để được vời đến. Song không còn chỗ nào khác để đi, Kunta đành ngồi vào đám ở vòng ngoài - ở rìa lớp người thuộc lứa tuổi Ômôrô ngồi gần đống lửa hơn và lớp người trạc tuổi vị kintangô ngồi sát bên trong nhất, giữa Hội đồng Bô lão. Vừa ngồi xuống, nó liền nghe thấy một vị hỏi:
"Có ai biết bao nhiêu người của chúng ta hiện đã bị bắt lén không?"
Họ đang bàn chuyện bắt nô lệ vốn là đầu đề chính quanh đống lửa của đàn ông từ hơn một trăm vụ mưa nay, chuyện bọn tubốp bắt lén người, xiềng từng chuỗi đưa xuống tàu chở về vương quốc của bọn da trắng ăn thịt người ở bên kia đại dương.
Im lặng một hồi lâu, rồi alimamô nói: "Ta chỉ có thể cảm ơn Chúa Ala là bây giờ còn đỡ hơn dạo trước".
"Bởi vì bây giờ chúng ta còn ít người hơn, lấy đâu cho chúng bắt lén được nhiều", một vị bô lão giận dữ nói.
"Tôi nghe tiếng trống và đếm số bị mất", vị kintangô nói. "Tôi đoán chừng mỗi tuần trăng mới, có từ năm mươi đến sáu mươi người mất tích, chỉ kể riêng vùng dọc bờ sông của chúng ta thôi". Không ai bình luận gì và ông nói thêm. "Dĩ nhiên, không có cách nào để đếm số mất tích ở sâu trong nội địa và trên thượng nguồn".
"Tại sao ta chỉ tính số người bị bọn tubốp bắt đi thôi?", arafang hỏi. "Ta còn phải tính cả những cây bao-báp bị đốt trụi nơi đã từng có những làng. Chúng đã giết nhiều hơn là bắt đi".
Mọi người nhìn vào đống lửa hồi lâu rồi một bô lão khác phá tan im lặng: "Bọn tubốp ắt không thể làm được điều đó nếu không có sự giúp sức của chính người mình. Manđinka, Fula, Uôlôf, Jôla - không một bộ lạc nào của đất nước Gămbia không có những tên phản bội. Hồi còn nhỏ tôi đã từng thấy những tên phản bội ấy đánh những người giống như chúng để thúc họ đi nhanh hơn vì bọn tubốp".
"Vì tiền của bọn tubốp mà chúng quay lại chống nòi giống của chính mình", vị bô lão cao tuổi nhất làng Jufurê nói: "Tham lam và phản bội - đó là những điều bọn tubốp mang đến cho ta để đổi lấy những người chúng đã lén bắt đi".
Không ai góp lời thêm trong một lúc và ngọn lửa lách tách một cách bình thản. Rồi vị kintangô lại nói: "Tệ hại hơn cả tiền bạc của bọn tubốp là việc chúng nói dối vô cớ, gian manh lừa đảo có phương pháp, tự nhiên như chúng thở vậy. Chính cái đó khiến chúng lợi thế hơn ta".
Mấy phút trôi qua, rồi một thanh niện thuộc lứa kafô trước Kunta hỏi: "Liệu bọn tubốp có bao giờ thay đổi không ạ?".
"Điều đó sẽ xảy ra", một vị bô lão đáp, "khi nào sông chảy ngược dòng".
Chẳng mấy chốc, đống lửa chỉ còn là một đám than tro bốc khói và mọi người bắt đầu đứng dậy, vươn vai, chúc nhau ngủ ngon và đi về lều của mình. Nhưng năm gã trai trẻ thuộc lứa kafô thứ ba ở lại - một gã lấy đất lấp những đám tro nóng của tất cả các đống lửa và số còn lại trong đó có Kunta, làm nhiệm vụ gác khuya, cảnh giới bên ngoài mỗi góc lũy tre cao của làng Jufurê. Sau câu chuyện kinh dị được bàn quanh đống lửa như vậy, Kunta biết mình sẽ thức suốt đêm không khó khăn gì, nhưng nó không tính chuyện qua cái đêm đặc biệt này bên ngoài phạm vi an toàn của làng.
Sải bước xuyên qua Jufurê và ra khỏi cổng làng với cái dáng mà nó muốn làm ra uể oải, Kunta vẫy các bạn gác đi dọc bên ngoài lũy tre - qua những bụi rậm đầy gai sắc dựa san sát vào bờ tre cùng những cọc nhọn lấp ở bên dưới - tới một chỗ nấp um tùm là có thể nhìn ra đồng quê xung quanh lấp lánh bạc trong đêm trăng này. Chọn một tư thế thoải mái nhất, nó vắt cây giáo ngang lòng, co đầu gối lên rồi vòng hai cánh tay ôm lấy cho ấm và ổn định chỗ để ngồi cho đến hết đêm. Căng mắt ra nhìn bao quát khắp cánh đồng xem có động tĩnh gì không, nó lắng nghe tiếng dế ran ran, tiếng tu huýt kỳ lạ của loài chim đêm, tiếng gào xa xa của linh cẩu và tiếng ré lên của những con vật sơ ý bị chộp bắt và nó nghĩ về những điều cánh đàn ông đã nói quanh đống lửa. Khi rạng đông tới vô sự, nó ngạc nhiên thấy mình đã không bị bọn bắt lén nô lệ vồ, ngạc nhiên hầu như không kém khi nhận ra là, lần đầu tiên trong suốt một tuần trăng, nó đã dứt được nỗi ám ảnh, không một lúc nào băn khoăn vì những vấn đề cá nhân của mình.
Chương 29
Kunta cảm thấy hầu như ngày nào Binta cũng làm nó bực bội về một cái gì đó. Không phải do bà làm cái này hay nói cái kia, mà là bằng những cách khác - lối ngó nhìn, giọng nói - Kunta có thể đoán là bà không đồng ý một cái gì về nó. Tệ nhất là những khi Kunta có thêm những vật mới mà Binta không đích thân kiếm được cho nó. Một buổi sáng, mang bữa điểm tâm đến cho nó, Binta suýt đánh rơi bát mạch kê bốc hơi xuống người Kunta, khi bà thấy nó mặc chiếc áo dài đầu tiên không phải do chính tay bà khâu. Cảm thấy có lỗi vì đã đánh đổi một tấm da linh cẩu lấy chiếc áo đó, Kunta tức tối không giải thích gì cho mẹ rõ cả, mặc dầu nó có thể thấy bà phật ý sâu sắc.
Từ sáng hôm ấy, nó biết rằng Binta sẽ không khi nào mang bữa ăn đến cho nó mà không đưa mắt củ soát mọi thứ trong lều để xem có gì khác không liên quan với bà - một chiếc ghế đẩu, một cái chiếu, một cái chậu, một cái đĩa hoặc một cái nồi. Nếu có cái gì mới xuất hiện, đôi mắt sắc sảo của Binta ắt không bao giờ để lọt. Những lúc như vậy, Kunta thường ngồi đó, tức sôi lên trong khi bà làm ra bộ bất cần và không thèm để ý, như nó đã bao lần thấy bà xử sự thế đối với Ômôrô, và hai bố con Kunta đều biết là Binta rất nôn nóng muốn ra chỗ giếng làng gặp các bạn nữ để lớn tiếng than thở nỗi niềm - điều mà tất cả mọi phụ nữ Manđinka đều làm khi có chuyện bất hòa với chồng.
Một hôm, trước khi mẹ mang bữa sáng tới, Kunta nhấc một chiếc lẵng đan rất đẹp của Jinna M’Baki một quả phụ ở Jufurê, tặng nó, đem để ngay bên trong cửa lều, chắc mẩm mẹ nó sẽ vấp phải. Nó chợt nghĩ ra là người đàn bà góa ấy thực ra chỉ trẻ hơn Binta một chút. Hồi Kunta còn là một mục đồng thuộc lứa kafô thứ hai, chồng chị ta đi săn và không bao giờ trở về nữa. Chị ta ở gần lều bà Nyô Bôtô, Kunta đến thăm bà luôn và vì thế họ gặp nhau rồi đi tới chỗ trò chuyện với nhau khi Kunta lớn hơn. Kunta đã lấy làm phiền khi món quà tặng của người đàn bà góa khiến mấy thằng bạn trêu chọc nó về lý do chị ta cho nó cái lẵng tre quý như thế. Khi Binta tới lều và trông thấy chiếc lẵng - nhận ra kiểu đan của người đàn bà góa nọ - bà co rúm lại như thể đó là một con bọ cạp, trước khi cố gắng trấn tĩnh được.
Cố nhiên, bà không nói một lời nào về chuyện ấy, nhưng Kunta biết mình đã thành công. Nó không còn là một thằng bé và đến lúc Binta thôi đi đừng có đóng vai người mẹ nữa. Nó cảm thấy làm cho bà thay đổi về phương diện này là trách nhiệm của chính nó. Đó không phải là chuyện để đem ra nói với Ômôrô, vì Kunta biết không thể tự đặt mình vào cái thế lố bịch đi vấn kế Ômôrô xin ông khuyên nên làm thế nào để Binta tôn trọng con trai như đã tôn trọng chồng. Kunta cũng nghĩ đến chuyện bàn với già Nyô Bôtô về vấn đề này, song lại thay đổi ý kiến khi nhớ lại bà đã xử sự kỳ lạ thế nào đối với nó khi nó trở về sau đợt rèn luyện trưởng thành.
Cho nên Kunta không để lộ ý mình ra và chẳng bao lâu quyết định thôi không đến lều Binta, nơi nó đã sống hầu hết quãng đời trước đây. Và những khi Binta mang cơm đến, nó thường ngồi ngay ngắn im lặng trong khi bà đặt thức ăn trên chiếu trước mặt nó rồi bỏ đi, chẳng nói chẳng rằng hoặc thậm chí nhìn đến nó nữa. Cuối cùng, Kunta bắt đầu thực sự nghĩ đến chuyện tìm cách nào khác thu xếp việc ăn uống. Phần lớn bọn trai mới trưởng thành khác vẫn ăn nhờ bếp của mẹ, nhưng một số được chị ruột hoặc chị dâu nấu giúp. Nếu Binta quá quắt hơn chút nữa, Kunta tự nhủ, nó sẽ kiếm một người đàn bà khác nhờ nấu ăn hộ - có thể là chị góa đã cho nó cái lẵng. Không cần hỏi nó cũng biết là chị ta sẽ vui vẻ nhận lời - tuy vậy Kunta vẫn không muốn để cho chị ta biết nó đang cân nhắc chuyện này. Trong khi chờ đợi, hai mẹ con vẫn tiếp tục gặp nhau vào các bữa ăn - và tiếp tục làm như thậm chí không trông thấy nhau.
Một buổi sáng sớm, đi gác đêm ngoài ruộng lạc trở về, Kunta trông thấy ba thanh nhiên trạc tuổi nó, ắt là những lữ khách từ một nơi nào khác đến, đang hối hả đi trên đường cách nó một quãng về phía trước. Lớn tiếng gọi kỳ cho họ quay lại, nó chạy tới gặp và chào họ. Những gã này cho Kunta biết họ ở làng Bara, cách Jufurê một ngày một đêm đi bộ, và họ đang trên đường đi tìm vàng. Họ thuộc bộ lạc Filúp, một chi của tộc Manđinka, song hai bên đều phải lắng nghe thật kỹ mới hiểu nhau. Điều đó làm Kunta nhớ lại chuyến đi cùng với bố đến thăm làng mới của hai ông bác, tại đó nó không tài nào hiểu một số người nói gì, mặc dầu họ ở chỉ cách Jufurê hai ba ngày đường.
Kunta thắc mắc về cuộc đi mà mấy gã nọ đang tiến hành. Nó nghĩ có thể một số bạn mình cũng thích, nên nó đề nghị tốp thanh niên dừng lại để làng nó tiếp đãi một hôm rồi hãy đi tiếp. Nhưng họ nhã nhặn từ chối lời mời, nói rằng họ phải tới địa điểm có thể đãi vàng vào chiều hôm thứ ba của cuộc hành trình. "Nhưng tại sao bạn lại không cùng đi với chúng tôi?" một gã thanh niên hỏi Kunta.
Vì chưa từng mơ tưởng đến một điều như vậy bao giờ, Kunta ngớ người ra, sửng sốt đến nỗi chợt thấy mình thốt ra tiếng: không; Kunta bảo họ là nó rất quý trọng lời mời đó, song còn mắc công việc đồng áng cùng các công việc khác. Và ba thanh niên tỏ ý tiếc "Nếu bạn thay đổi ý kiến, thì xin cứ đến gặp chúng tôi", một gã nói. Và họ quỳ xuống, vẽ trên nền đất để chỉ cho Kunta thấy địa điểm tìm vàng ở chỗ nào - quá Jufurê hai ngày đêm hành trình. Cha của một gã trong bọn, một nhạc công lưu động, đã mách họ chỗ ấy.
Kunta vừa đi theo vừa nói chuyện với tốp bạn mới cho đến khi tới con đường rẽ đôi. Sau khi ba thanh niên theo ngã rẽ qua bên làng Jufurê - và ngoái lại vẫy chào - Kunta chậm rãi bước về nhà. Vào lều và nằm trên giường rồi, nó vẫn nghĩ rất lung và mặc dầu đã thức suốt dêm, nó vẫn không nhắm mắt được. Suy cho cùng, có lẽ nếu tìm được người bạn chăm nom giúp mảnh ruộng thì nó có cơ đi tìm vàng được đấy. Và nó biết nếu có yêu cầu thì một thằng nào đó trong số bạn bè ắt sẽ cáng đáng thay nhiệm vụ canh gác của nó - cũng như nó sẽ vui lòng nhận lời nếu các bạn nhờ nó.
Ý nghĩ tiếp theo tác động đến Kunta mạnh đến nỗi nó nhảy chồm dậy khỏi giường: giờ đây, với tư cách là một người trưởng thành, nó có thể đem Lamin đi theo, như cha nó đã từng đem nó đi theo. Cả một giờ sau, Kunta cứ đi đi lại lại trên sàn đất căn lều, tâm trí vật lộn với những vấn đề do ý nghĩ háo hức ấy khuấy lên. Trước hết liệu Ômôrô có cho phép Lamin làm một cuộc hành trình như vậy không, nó còn là một đứa con nít và, do đó, cần phải được sự đồng ý của cha. Với tư cách là một người trưởng thành, Kunta thấy khá phật ý khi phải xin phép về một điều gì: nhưng giả sử Ômôrô trả lời không thì sao? Và ba người bạn mới sẽ nghĩ sao nếu nó xuất hiện với thằng em trai nhỏ?
Nghĩ tới đó, Kunta tự hỏi tại sao mình lại phải băn khoăn dạo bước, chuốc lấy phiền nhiễu, chỉ để làm một điều ân huệ cho Lamin. Nói cho cùng, từ khi rèn luyện trưởng thành trở về, Lamin thậm chí không còn gần gũi nó nữa. Song Kunta biết đó không phải là điều mà cả hai bên cùng muốn. Hai anh em đã thực sự khoái nhau trước khi Kunta đí. Nhưng giờ đây, thì giờ của Lamin bị Xuoađu choán hết, nó cứ bám nhằng nhẵng lấy thằng anh như kiểu Lamin trước kia vẫn bám lấy Kunta, đầy tự hào và thán phục. Nhưng Kunta cảm thấy Lamin chưa bao giờ dứt những tình cảm đó đối với nó. Thậm chí, Lamin còn thán phục anh trai hơn trước kia nữa kia. Sở dĩ có một khoảng cách nào đó giữa hai bên, đó chỉ là vì Kunta đã trở thành một người lớn. Đơn giản là người lớn không dễ gì bỏ nhiều thì giờ chơi với trẻ con; và thậm chí, dù nó và Lamin không muốn thế, xem ra cả hai cũng không có cách nào đột phá nổi - cho đến khi Kunta nghĩ đến chuyện đem Lamin đi theo trong cuộc hành trình săn vàng.
"Lamin là một thằng bé ngoan. Nó tỏ rõ là con nhà gia giáo. Nó chăm nom đàn dê của con rất tốt", đó là lời bình luận khơi mào Kunta nói với Ômôrô, bởi vì Kunta biết người lớn hầu như không bao giờ mở đầu câu chuyện bằng cách trực tiếp đi vào vấn đề họ định bàn. Cố nhiên là Ômôrô cũng biết thế. Ông chậm rãi gật đầu và đáp: "Phải đúng thế". Cố hết sức bình tĩnh, Kunta liền kể cho bố việc gặp ba người bạn mới, việc họ mời cùng đi săn vàng. Cuối cùng, hít một hơi dài Kunta nói: "Con nghĩ là cho Lamin đi cùng, chắc nó thích lắm".
Mặt Ômôrô không lộ vẻ gì, dù chỉ là một thoáng. Hồi lâu, ông mới lên tiếng. "Đối với một thằng bé, đi du lịch là tốt", ông nói - Kunta biết là cha mình ít nhất cũng sẽ không hoàn toàn cự tuyệt. Cách nào đó, Kunta cảm thấy cha tin mình, đồng thời cũng thấy ông lo lắng, điều mà nó biết Ômôrô không muốn biểu lộ mạnh mẽ quá mức cần thiết. "Đã bao vụ mưa cha không đi lại ở vùng ấy. Cha không nhớ kỹ đường nẻo ở đó lắm", Ômôrô nói, thản nhiên như thể hai cha con chỉ bàn chuyện thời tiết vậy. Kunta biết rằng cha mình - vốn không bao giờ quên điều gì - đang định thử xem mình có biết đường đi tới địa điểm tìm vàng không đây.
Quỳ xuống đất, Kunta lấy một cái que vẽ đường như thể đã thuộc lòng hàng năm nay. Nó vẽ những vòng tròn chỉ những làng ở kề con đường mòn cũng như ở cách đó một quãng, suốt dọc lộ trình, Ômôrô cũng quỳ xuống và khi Kunta vẽ xong, ông nói: "Ở địa vị cha thì cha sẽ lựa chiều để đi sát cạnh hầu hết các làng. Như thế sẽ lâu hơn một chút, nhưng sẽ là an toàn nhất".
Kunta gật đầu, hy vọng tỏ ra tự tin hơn là nó đột nhiên cảm thấy. Ý nghĩ chợt đến với nó là: ba người bạn nó mới gặp cùng đi với nhau, nếu có mắc lầm lỡ gì, còn gỡ cho nhau được, còn nó đi cùng với một thằng em nhỏ mà nó phải chịu trách nhiệm, nếu có điều gì không hay xảy ra, nhờ cậy vào ai?
Rồi nó thấy Ômôrô lấy ngón tay khoanh tròn quanh cái phần ba sau cùng của con đường. "Ở vùng này, ít người nói tiếng Manđinka" Ômôrô nói. Kunta nhớ đến những bài học trong đợt rèn luyện trưởng thành và nhìn thẳng vào mắt bố. "Mặt trời và các vì sao sẽ mách đường cho con", nó nói.
Im lặng một hồi lâu, rồi Ômôrô lại nói. "Có lẽ cha sẽ ghé qua lều mẹ con". Tim Kunta như nhảy lên. Nó biết đó là cách của bố để nói rằng ông đã cho phép, và ông thấy tốt nhất là sẽ đích thân cho Binta biết quyết định của mình.
Ômôrô vào lều Binta không lâu. Ông vừa mới rời khỏi đó để về lều mình thì bà đã xô cửa ra, hai tay ép chặt lấy đầu đang lắc lư "Mađi! Xuoađu!" bà tru tréo và hai đứa từ trong đám trẻ con chạy ù về chỗ mẹ.
Lúc này, các bà mẹ khác cùng các cô gái chưa chồng từ lều của mình chạy tới, tất cả ùa theo sau Binta trong khi bà vừa kêu gào vừa lôi xềnh xệch hai thằng bé theo mình ra giếng. Tới đó rồi tất cả đám phụ nữ liền xúm quanh bà trong khi bà khóc lóc than thở rằng từ nay bà chỉ còn có hai thằng con, rằng chẳng bao lâu những thằng kia chắc chắn sẽ rơi vào tay bọn tubốp mất thôi.
Một đứa con gái thuộc lứa kafô thứ hai, không thể giữ trong bụng cái tin Kunta sắp đi xa với Lamin, chạy một mạch đến chỗ bọn con trai cùng lứa tuổi nó đang chăn dê. Chỉ một loáng sau, mọi người trong làng bỗng ngắc ngư đầu mỉm cười khi một thằng bé vui thích mê cuồng vừa chạy vào làng vừa hú rầm rĩ, tưởng chừng có thể đánh thức cả ông bà, tổ tiên dậy. Đuổi kịp mẹ ngay bên ngoài cửa lều, Lamin - tuy còn thấp hơn Binta đến một gang tay - ôm ghì lấy bà, hôn chùn chụt lên trán và nhấc bổng bà xoay tít đi khiến Binta phải hét nó đặt bà xuống. Khi đứng trở lại xuống đất, rồi bà chạy ra lấy một thanh gỗ đánh Lamin. Bà còn định đánh nữa, nhưng nó đã lao đi về phía lều Kunta, không cảm thấy đau chút nào. Nó xông thẳng vào lều, không cần gõ cửa nữa. Vào nhà một người đàn ông trưởng thành theo cách đó, là một sự xâm nhập không thể tưởng tượng được - song thoáng nhìn vẻ mặt thằng em, Kunta đành phải bỏ qua sự thất thố ấy. Lamin cứ đứng đó, ngước nhìn mặt anh trai. Thằng bé mấp máy miệng như định nói điều gì; quả vậy toàn thân nó run lên và Kunta phải tự kiềm chế mình để khỏi nắm lấy, ghì lấy Lamin trong niềm xúc động yêu thương dào dạt mà nó cảm thấy đang giao lưu giữa hai đứa trong lúc ấy.
Kunta nghe thấy mình nói, giọng hầu như cộc cằn. "Tao thấy là mày nghe tin rồi đấy. Ngày mai chúng ta sẽ lên đường sau buổi cầu nguyện đầu tiên".
Bất luận đã trưởng thành hay chưa, Kunta vẫn thận trọng tránh mọi chỗ có thể gần kề Binta trong khi đi thăm chớp nhoáng bạn bè để nhờ trông nom hộ mảnh ruộng và gánh vác thay nhiệm vụ canh phòng. Kunta có thể đoán biết Binta ở đâu bằng vào tiếng than van của bà trong khi bà dắt tay Mađi và Xuoađu đi khắp quanh làng. "Tôi chỉ còn hai đứa này nữa thôi!" bà kêu thật to như vậy. Song cũng như mọi người khác ở Jufurê, bà biết rằng dù bà có nói gì, làm gì hoặc cảm thấy thế nào đi nữa, một lời Ômôrô đã thốt ra là như đinh đóng cột.
Chương 30
Đến cây lữ khách, Kunta cầu nguyện cho cuộc hành trình của mình được an toàn. Đồng thời để xin cho chuyến đi phát tài, Kunta buộc một chân con gà đã mang theo vào một cành thấp để mặc nó vỗ cánh bành bạch và kêu quang quác ở đó, trong khi hai anh em bắt đầu lên đường. Tuy không ngoái lại nhìn, Kunta vẫn thừa biết Lamin đang cố hết sức rảo bước theo cho kịp và giữ cái bọc đội đầu cho cân - đồng thời giữ sao cho Kunta khỏi nhận thấy cả hai điều đó.
Sau một giờ, con đường mòn đưa hai anh em tới bên một cái cây thấp, cành xòe rộng treo đầy chuỗi hạt. Kunta muốn giảng giải cho Lamin hiểu một cái cây như vậy có nghĩa là gần đây có một số ít người Manđinka vô tín ngưỡng thường hay hít thuốc lá bột, hút thuốc lá sợi bằng ống điếu gỗ với bát sành và còn uống một loại bia làm bằng rượu mật ông nữa. Nhưng quan trong hơn cái kiến thức ấy, là việc dạy cho Lamin biết kỷ luật im lặng khi đi đường. Đến trưa, Kunta biết chân cẳng Lamin hẳn đang đau dữ, và cả cái cổ phải đội bọc hành lý nặng trĩu nữa. Song chỉ có bằng cách tiếp tục chịu đau, một chú bé mới có thể luyện cho mình cứng rắn về cả thể xác lẫn tâm hồn. Đồng thời Kunta cũng biết là cần phải để cho Lamin dừng lại để nghỉ trước khi nó quỵ xuống, một điều có thể làm tổn thương đến lòng tự hào của nó.
Theo con đường vòng để tránh làng đầu tiên đi qua, chúng mau chóng bứt khỏi đám con nít trần truồng chạy ra xem. Kunta vẫn không ngoái lại nhìn, song nó biết Lamin hẳn đã rảo bước nhanh hơn và rướm thẳng lưng để vây với bọn con nít. Nhưng khi đã bỏ lại bọn con nít và ngôi làng sau lưng, tâm trí Kunta chuyển từ Lamin sang những chuyện khác. Nó lại nghĩ đến cái trống mà nó sắp làm cho mình - trước hết là làm trong tưởng tượng như những người đẽo mặt nạ và con giống vẫn làm thế. Về mặt trống thì nó đã có một tấm da dê non đã cạo gột và đang sấy khô trong lều và nó biết đích chỗ có thể kiếm được thứ gỗ cứng cần thiết để làm một cái khung trống thật khỏe - chỉ quá đám ruộng lúa của phụ nữ một quãng ngắn thôi. Kunta gần như hình dung thấy được cái trống tương lai của mình kêu ra sao.
Khi con đường mòn đi vào một khóm rừng cây sát bên cạnh, Kunta riết chặt cây dao mang theo như đã được dạy. Nó tiếp tục đi một cách thận trọng - rồi dừng lại và rất lặng lẽ nghe ngóng. Lamin giương to mắt đứng đằng sau nó sợ hãi nín thở. Nhưng một lát sau, thằng anh bớt căng thẳng và lại cất bước tiến về phía mà nó nhẹ nhõm nhận ra là có tiếng nhiều người đàn ông đang hát một bài hò lao động. Phút chốc, nó và Lamin tới một quãng rừng thưa và trông thấy mười hai người đang căng thừng kéo một chiếc thuyền độc mộc. Họ đã hạ một cây, đốt và phát hết cành lá và giờ đây đang bắt đầu chuyển nó ra sông. Cứ kéo hết một cữ dây, họ lại hò sang câu sau, mỗi câu đều tận cùng bằng "Tất cả một lòng!" rồi lại ráng sức kéo chiếc thuyền đi khoảng một sải tay nữa. Đi qua đám người, Kunta giơ tay vẫy và họ cũng vẫy lại, nó định bụng lát sau sẽ nói cho Lamin biết những người đó là ai và tại sao họ lại làm thuyền bằng một cái cây mọc trong rừng sâu này mà không chọn chỗ ở gần bờ sông: họ là người làng Kêrêoan, nơi làm thuyền độc mộc cừ nhất trong dân tộc Manđinka và họ biết chỉ có gỗ cây rừng mới nổi.
Lòng trào lên nồng ấm, Kunta nghĩ về ba thanh niên làng Bara mà hai anh em nó đang rong ruổi đường trường để tới gặp. Thật kỳ lạ, tuy trước đó chưa gặp nhau bao giờ mà tưởng như là anh em vậy. Có lẽ vì họ cũng là người Manđinka. Cách họ nói năng có khác Kunta, nhưng trong lòng, họ không khác. Cũng như họ, Kunta đã quyết định rời làng đi tìm kiếm thần tài của mình - và chút ít hồi hộp - trước khi trở về nhà trước những đợt mưa lớn sắp tới.
Khi gần đến giờ cầu kinh alanxarô giữa chiều, Kunta bước tạt qua mé đường đến chỗ một dòng suối nhỏ chạy giữa đám cây cối. Không nhìn Lamin, nó trụt bọc hành trang khỏi đầu, vặn mình và cúi xuống vốc nước đầy hai bàn tay vã vào mặt. Nó uống tí một, rồi, đọc đến giữa bài kinh, nó nghe thấy chiếc bọc của Lamin rơi đánh bịch xuống đất; Cầu nguyện xong, đứng bật dậy, định mắng em, nó thấy thằng bé trườn về phía dòng nước, coi bộ mới đau khổ làm sao. Nhưng Kunta vẫn sẵng giọng: "Nhấp hớp một thôi!" Trong khi Lamin uống, Kunta quyết định là nghỉ một giờ ở đây cũng đủ chán. Nó nghĩ: sau khi ăn dăm ba miếng, Lamin hẳn có thể tiếp tục đi cho tới giờ cầu kinh fitirô vào lúc sẩm tối, bấy giờ cả hai anh em ắt sẽ hoan hỉ đón một bữa ăn đầy đủ hơn và một đêm nghỉ ngơi cho lại sức.
Song Lamin mệt quá, thậm chí không ăn được. Nó nằm lăn ngay chỗ nó vừa uống nước bên dòng suối, mặt úp xuống, hai cánh tay dang ra, bàn tay ngửa lên. Kunta lặng lẽ bước tới nhìn hai gan bàn chân em, chưa thấy chảy máu. Rồi chính Kunta cũng ngủ chợp đi và khi trở dậy, nó lấy trong bọc ra đủ hai suất thịt sấy. Lay Lamin dậy, nó đưa cho em một phần thịt và ăn phần của mình. Chẳng bao lâu, chúng lại tiếp bước trên con đường mòn qua đủ các chỗ ngoặt và các điểm mốc mà các trai làng Bara đã vẽ cho Kunta. Đến gần một làng, chúng thấy hai bà già và hai cô gái cùng mấy đứa con nít thuộc lứa kafô đầu đang tất bật bắt cua, thục tay xuống một dòng suối nhỏ tóm mồi ra.
Khoảng gần sẩm tối, khi Lamin bắt đầu mỗi lúc một níu chặt hơn lấy cái bọc đội đầu, Kunta trông thấy đằng trước có một đàn lâm cầm lớn đang bay vòng, sà xuống đất. Nó dừng phắt lại, nấp kín, trong khi Lamin cũng quỳ thụp xuống đằng sau một bụi cây. Kunta giấu môi bắt chước tiếng con đực gọi con cái và phút chốc mấy chị mái rừng mập mạp mỡ màng vỗ cánh lạch bà lạch bạch đến. Chúng đang nghênh nghênh đầu nhìn quanh thì mũi tên của Kunta xuyên thẳng qua mình một con. Kunta vặt đứt đầu nó cho máu chảy hết ra và trong khi nướng chim, nó dựng tạm một chỗ trú thô sơ rồi cầu kinh. Nó cũng nướng mấy bắp ngô rừng trẩy được ở dọc đường, trước khi đánh thức Lamin dậy, thằng cu này đã quay ra ngủ ngay lúc chúng đặt hai chiếc bọc đội đầu xuống. Lamin vừa ngấu nghiến chén xong bữa là lại lăn kềnh ra đám rêu êm mượt dưới cái mái lá siêu siêu, ngủ tiếp không hé môi thì thầm lấy một tiếng.
Kunta ngồi bó gối trong không khí tĩnh mịch của trời đêm. Cách đó không xa, linh cẩu bắt đầu hú. Nó tự giải trí một lúc bằng cách xác định các âm thanh khác của rừng. Rồi ba lần, nó loáng thoáng nghe thấy một điệu kèn thánh thót. Nó biết đó là tín hiệu cầu kinh cuối ngày của làng gần đây nhất, do vị alimamô ở đó thổi bằng một cái ngà voi rỗng. Nó muốn nhắc Lamin nghe tiếng gọi da diết gần như tiếng người đó, song nó chợt mỉm cười vì thằng em lúc này đâu có thiết gì đến bất kỳ âm thanh nào kêu ra sao. Rồi cầu kinh xong, Kunta cũng ngủ liền.
Mặt trời mọc được một lát, hai anh em đi qua làng ấy và nghe tiếng chày nhịp nhàng của phụ nữ thì thụp giã mạch kê nấu cháo điểm tâm. Kunta tưởng như thấy vị mạch kê ở lưỡi, nhưng chúng không dừng lại. Xuôi theo đường một quãng không xa, là một làng khác và khi chúng đi qua đấy, đàn ông đang ở nhà thờ ra, và đàn bà đang tất tưởi quanh bếp lửa nấu ăn. Xa hơn nữa, Kunta trông thấy trước mặt mình một ông già ngồi bên rệ đường. Ông cụ đang gần như gập đôi người trên một lô tiền vỏ ốc, vừa lẩm bẩm một mình vừa xáo đi xáo lại đồng tiền trên một chiếc chiếu tre đan. Để khỏi ngắt quãng ông lão, Kunta sắp sửa lướt qua thì ông ngước nhìn lên và gọi hai anh em lại chỗ mình ngồi.
"Lão quê ở làng Kôtacunđa thuộc nước Uôli, nơi mặt trời mọc trên khu rừng Ximbani", ông nói, giọng the thé như vỡ ra. "Còn các cháu quê ở đâu?" Kunta trả lời là làng Jufurê và ông lão gật đầu. Lão đã nghe nói về làng ấy. Ông nói là mình đang bói tiền ốc xem nó báo trước ra sao về cuộc hành trình của ông đến thành phố Timbuctu "mà lão muốn được thấy trước khi chết", và ông tự hỏi liệu các khách lữ hành có sẵn lòng giúp ông chút gì không. "Chúng cháu nghèo nhưng rất vui sướng được chia sẻ với ông những gì chúng cháu có, ông ạ", Kunta vừa nói vừa cởi bọc, thò tay vào lấy một chút thịt sấy đưa cho ông lão. Ông cám ơn Kunta và đặt miếng thịt vào lòng.
Ông nhìn cả hai và hỏi: "Các cháu là hai anh em đi du hành ư?"
"Vâng, thưa ông", Kunta đáp.
"Thế là tốt đấy!" ông già nói và nhặt lên hai đồng tiền vỏ ốc. "Hãy thêm đồng này vào số tiền vỏ ốc trong túi săn của cháu, rồi nó sẽ mang lời to cho cháu đấy", ông vừa nói với Kunta vừa chìa cho nó một đồng. "Còn cháu, chàng trai nhỏ", ông đưa cho Lamin đồng kia, "hãy giữ đồng này dành cho, khi nào cháu trưởng thành, có túi săn riêng". Cả hai anh em cảm ơn và ông lão cầu Chúa Ala phù hộ cho chúng.
Đi tiếp được một lúc lâu thì Kunta quyết định là đã đến lúc phá vỡ sự im lặng giữa nó với Lamin. Không dừng bước cũng chẳng ngoái lại, nó bắt đầu nói: "Em ạ, có một truyền thuyết kể là chính những lữ khách Manđinka đã đặt tên cho cái nơi ông già ấy định đến. Họ tìm ra ở đó một loại côn trùng mới mà trước đó họ chưa từng thấy bao giờ và bèn đặt tên cho nơi này là Tumbô Kutu nghĩa là "côn trùng mới". Thấy Lamin không trả lời gì cả, Kunta bèn quay đầu lại, Lamin ở mãi tít đằng sau lúi húi trên chiếc bọc hành lý - nó đã bung ra rơi xuống đất - và đang chật vật buộc nó lại. Khi Kunta rảo bước lộn lại, nó hiểu ra là do Lamin cứ níu lấy cái bọc, nên dây buộc bị lỏng ra và cu cậu xoay sở hạ nó xuống khỏi đầu không một tiếng động, vì không muốn phá cái quy tắc im lặng bằng cách yêu cầu Kunta dừng lại. Trong khi buộc lại cái bọc, Kunta thấy chân Lamin chảy máu, song điều đó đã được dự kiến từ trước, nên nó chẳng nói gì. Nước mắt long lanh trong mắt Lamin trong khi nó lại đội cái bọc lên đầu và hai anh em tiếp tục đi. Kunta tự trách mình đã không cảm thấy sự vắng mặt của Lamin và có thể đã bỏ nó lại sau lưng.
Chưa đi xa thêm được bao nhiêu lại thấy Lamin thốt lên một tiếng kêu tắc nghẹn. Tưởng nó giẫm phải một cái gai, Kunta quay lại - và thấy thằng em trừng trừng ngước mắt về phía một con báo nằm ép mình trên một cành cây mà hai đứa sắp sửa đi qua bên dưới. Con báo khẽ rít xì xì xì xì rồi dường như trôi lừ đừ vào đám cành cây và mất hút. Run rẩy, Kunta tiếp tục đi, vừa hoảng hốt vừa bối bối, giận mình. Tại sao nó lại không trông thấy con báo nhỉ? Có thể nó chỉ muốn ẩn kín để khỏi bị trông thấy và ắt chẳng định vồ hai anh em đâu, vì cái giống mèo lớn này, trừ phi đói hết sức, thường ít khi bắt mồi súc vật giữa ban ngày ban mặt, còn với người thì càng hiếm thấy chuyện đó, bất kể giờ giấc nào, trừ phi chúng bị dồn ép, khiêu khích hoặc bị thương. Tuy nhiên, trong trí nhớ Kunta, vụt lóe lên hình ảnh con dê cái bị báo ngoạm nát, hồi nó còn đi chăn dê. Nó tưởng như còn vẳng nghe lời cảnh báo nghiêm khắc của vị kintangô: "Các giác quan của người đi săn phải tinh. Anh ta phải nghe thấy những gì mọi người khác không nghe thấy, ngửi thấy những gì người khác không ngửi thấy. Anh ta phải nhìn xuyên qua đêm tối". Thế mà trong khi nó vừa đi vừa nghĩ ngợi lan man thì chính Lamin đã trông thấy con báo. Phần lớn những chuyện phiền phức tệ hại của nó trước nay đều do cái thói quen ấy, nhất thiết phải sửa chữa mới được nó nghĩ bụng. Nhanh nhẹn cúi xuống và vẫn đều nhịp bước, Kunta nhặt một hòn đá, nhổ lên đó ba lần rồi quăng trở lại thật xa, như thế là hòn đá đã mang những tà khí súi quẩy về quá khứ sau lưng chúng.
Hai anh em tiếp tục đi dưới nắng chói chang, cháy lửa và quanh cảnh dần dần chuyển từ rừng xanh sang những dãy cọ với lạch ngầu bùn lừ đừ chảy, chúng đi qua những làng bụi rậm, nóng bức, tại đó - hệt như ở Jufurê - từng bày con nít lứa kafô đều chạy quanh la thét, đàn ông ngả ngốn dưới gốc cây bao-báp và đàn bà chuyện gẫu bên bờ giếng. Nhưng Kunta thắc mắc tại sao họ lại để dê lang thang quanh làng cùng với chó, gà mà không đem chăn ngoài bãi hoặc nhốt trong chuồng như ở Jufurê. Nó đoán chắc họ là một loại người kỳ dị.
Chúng dấn bước trên nền đất cát, không có cỏ mọc, rải rác những quả khô nứt toác của những cây bao-báp hình thù quái dị. Những khi đến giờ cầu nguyện, chúng nghỉ ngơi và ăn nhẹ, và Kunta thường soát lại bọc đội đầu cùng chân cẳng Lamin giờ đã đỡ tướp máu, và các ngã tư đường giao nhau vẫn trải ra như một bức tranh cho đến khi, cuối cùng, xuất hiện cái khung vỏ đồ sộ già cỗi của cây bao-báp mà các gã trai làng Bara đã mô tả. Hẳn nó phải già đến mấy trăm vụ mưa, rồi cuối cùng mới chết, Kunta nghĩ và nhắc lại với Lamin cái điều mà một gã thanh niên đã nói: "Một vị graiót yên nghỉ trong đó"; nó đem kiến thức riêng kể thêm rằng các graiót, khi chết, không chôn như người thường, mà được đặt trong hốc những cây bao-báp cổ, bởi chưng cả cây lẫn những chuyện lịch sử trong đầu các vị graiót đều bất kể thời gian. "Bây giờ chúng ta gần đến nơi rồi", Kunta nói, nó những muốn ngay lúc này đã có cái trống dự định làm để báo hiệu trước cho các bạn. Cuối cùng, khi mặt trời lặn, hai anh em tới chỗ những hố đất sét - và kìa, ba gã trai trẻ!.
"Chúng tôi đã linh cảm là bạn sẽ tới!" Họ kêu to sung sướng được thấy Kunta: Họ không đếm xỉa gì đến Lamin như thể nó chỉ là thằng em lứa kafô thứ hai của bản thân họ vậy. Giữa cuộc chuyện trò sôi nổi, ba gã thanh niên hãnh diện phô những hạt vàng nhỏ xíu họ đã thu lượm được. Sáng hôm sau, tia sáng đầu tiên vừa ló, Kunta và Lamin đã nhập bọn, xắn những tảng đất sét dính nhem nhép thả vào những bầu nước lớn. Sau khi khuấy lộn lên rồi đổ từ từ chỗ nước bùn đi, họ quơ ngón tay rờ rẫm thật kỹ xem có hạt vàng nào lắng xuống đáy bầu không. Thỉnh thoảng có một hạt nhỏ như hạt kê, hoặc to hơn một tí.
Họ làm việc ráo riết đến nỗi không còn thì giờ để trò chuyện. Trong cơn lùng sục vàng, thậm chí Lamin dường như quên cả những cơ bắp đau nhừ của mình. Và mỗi một hạt vàng quý giá đó được thận trọng bỏ vào thân rỗng những chiếc lông cánh bồ câu rừng lớn nhất, nút chặt bằng một chút bông. Khi ba gã thanh niên nói họ lượm như thế là đủ rồi thì Kunta và Lamin đã được đầy sáu chiếc lông. Bây giờ - họ nói - họ muốn đi ngược đường lên xa hơn, vào sâu hơn trong nội địa để kiếm ngà voi. Họ bảo là họ được nghe kể về những nơi thỉnh thoảng có những con voi già bị gẫy ngà trong khi định nhổ bật rễ cây rừng để kiếm ăn. Họ cũng nghe nói là nếu tìm ra những bãi tha ma bí mật chôn voi, sẽ có cả một kho tàng ngà voi. Kunta có muốn cùng đi không? Anh chàng bị cám dỗ mãnh liệt, cái đó nghe còn hào hứng hơn cả săn vàng nữa. Nhưng nó không thể đi được - vì vướng Lamin. Nó buồn bã cảm ơn lời mời mọc của họ và nói rằng nó phải đưa em về nhà. Họ nồng nhiệt chia tay nhau, sau khi Kunta ép bằng được các gã trai nọ phải nhận lời ghé thăm Jufurê trên đường trở về Bara.
Cuộc hành trình trở về dường như có vẻ ngắn hơn đối với Kunta. Chân Lamin chảy máu đau hơn, song khi Kunta đưa những chiếc lông đựng hạt vàng cho nó mang và bảo: - "Chắc mẹ sẽ khoái những thứ này", thì nó lại đi nhanh hơn là đằng khác. Nỗi vui sướng của Kunta không lớn hơn niềm hạnh phúc mà bản thân nó cảm thấy do việc đã mang em cùng đi, cũng như cha nó đã từng làm thế với nó - cũng như Lamin một ngày kia sẽ đưa Xuoađu đi và rồi đến lượt Xuoađu sẽ đưa Mađi. Gần đến cây lữ khách làng Jufurê, Kunta bỗng nghe thấy cái bọc đội đầu của Lamin lại rơi một lần nữa. Kunta giận dữ quay người lại, song lúc đó nó trông thấy vẻ mặt cầu khẩn của thằng em. "Thôi được lát nữa hẵng nhặt!" nó gắt. Không nói một lời, quên phắt những bắp thịt đau nhức và đôi chân chảy máu, Lamin lao qua mặt Kunta hướng về phía làng, bộ giò khẳng khiu chạy nhanh hơn bao giờ hết.
Khi Kunta vào qua cổng làng, đàn bà, trẻ con đang náo nức bu quanh Binta, bà này cài sáu chiếc lông chim đựng hạt vàng lên tóc, rõ ràng là thanh thản nhẹ hẳn người và sung sướng cơ hồ muốn vỡ tim. Một lát sau, bộ mặt Binta và Kunta trao đổi một cái nhìn âu yếm, nồng nàn hơn hẳn những lời chào hỏi thông thường giữa một người mẹ với con trai lớn đi xa trở về. Chẳng mấy chốc, miệng lưỡi bẻo lẻo của đám phụ nữ đã kể cho tất thảy mọi người ở làng Jufurê biết hai đứa con trai lớn nhà Kintê đã mang về những gì. "Trên đầu Binta có cả một con bò cái" một bà già kêu lên như vậy - số vàng trong những chiếc lông chim đủ mua một con bò cái - và tất cả các phụ nữ khác lặp lại câu đó.
"Con đã làm tốt", Ômôrô nói gọn lỏn khi Kunta gặp ông. Nhưng cái tình cảm họ chia sẻ với nhau không cần dài lời thêm, còn lớn hơn là với Binta. Trong những ngày tiếp theo, các bậc huynh trưởng gặp Kunta trong làng và đã bắt đầu nói chuyện với nó và mỉm cười một cách đặc biệt, và nó trang trọng trả lời một cách tôn kính. Bọn nhóc lứa kafô thứ hai, bạn của Xuoađu, đều chào Kunta như một người lớn, miệng nói: "Bằng an!" hai tay chắp lên ngực đứng yên cho đến khi nó đi qua. Thậm chí, một hôm, Kunta còn nghe hóng thấy Binta cà kê nói chuyện về "hai người đàn ông mà tôi phải phục vụ cơm nước", và lòng nó đầy tự hào khi thấy mẹ nó cuối cùng đã hiểu ra nó là người lớn.
Bây giờ, Kunta để cho Binta không những nấu ăn mà còn làm những việc bới đầu chấy - điều mà bà vẫn hậm hực vì không được làm. Và nó cảm thấy bây giờ có thỉnh thoảng đến thăm lại căn lều của mẹ thì cũng tốt thôi. Còn Binta thì cứ lăng xăng tất tả, tươi hơn hớn, thậm chí lúc nấu ăn cũng âm a hát một mình, một cách tự nhiên thoải mái, Kunta thường hỏi xem bà có cần nó làm gì không; nếu bà trả lời có, nó sốt sắng làm ngay thật sớm, bất kể là việc gì. Nếu Lamin hay Xuoađu nghịch ồn quá, nó chỉ cần lừ mắt là lập tức hai đứa im bặt. Và Kunta thích tung bổng Mađi lên rồi đỡ lấy khi nó rơi xuống, còn Mađi thì càng khoái trò này hơn. Về phần Lamin thì rõ ràng nó coi ông anh lớn chỉ kém có Chúa Ala. Nó chăm nom bảy con dê của Kunta (đang sinh sôi nảy nở) như thể đó là những con dê bằng vàng và sốt sắng giúp Kunta gây dựng mảnh ruộng lạc và mạch kê.
Bất cứ lúc nào Binta cần việc gì ở quanh lều, Kunta đều đem cả ba đứa trẻ đi cho khỏi vướng tay bà và bà đứng ở cửa mỉm cười, nhìn theo nó kiệu Mađi trên vai, theo sau là Lamin vây vo như con gà trống và Xuoađu ghen tức chạy đằng đuôi. Thật tốt đẹp, Kunta nghĩ - tốt đẹp đến nỗi nó bắt đầu chợt thấy mình ước ao một ngày nào đó sẽ có một gia đình riêng như thế này.
Chương 31
Như các gã trai mới trưởng thành được phép làm thế khi nào không cản trở gì đến nhiệm vụ, Kunta và bạn bè cùng lứa Kafô thường ngồi ở rìa ngoài cùng các phiên chính thức của Hội đồng Bô lão họp mỗi tuần trăng một lần dưới cây bao-báp làng Jufurê. Ngồi đó trên những tấm da thuộc rất sát nhau, sáu vị bô lão cao niên nhất cũng gần già như cái cây, Kunta nghĩ vậy, và cùng tạc nên từ một loại gỗ, trừ một điều là các vị đều đen như gỗ mun trên cái nền trắng của những chiếc áo dài và mũ trùm đầu tròn xoe. Ngồi đối diện với các vị là những người gặp khó khăn hoặc có chuyện tranh chấp cần giải quyết. Đằng sau những người kiến nghị là các bậc huynh trưởng trung niên như Ômôrô ngồi thành nhiều hàng tùy theo tuổi tác và đằng sau họ là cánh trai mới thuộc lứa tuổi Kunta. Và đằng sau bọn này, các phụ nữ trong làng có thể ngồi, mặc dầu họa hoằn họ mới dự, trong trường hợp có ai thân thích trong gia đình bị dính líu vào vấn đề sẽ được xét. Xuân thu nhị kỳ mới thấy tất cả phụ nữ có mặt - chỉ khi nào có một vụ hứa hẹn làm đầu đề chuyện phiếm rôm rả.
Chẳng thấy một phụ nữ nào đến dự khi Hội đồng họp bàn những việc thuần túy hành chính, như quan hệ của Jufurê với các làng khác. Tuy nhiên, vào ngày bàn các vấn đề của dân làng, thì cử tọa vừa đông vừa ồn ào - nhưng tất cả mau chóng im lặng khi vị cao niên nhất trong số các bô lão giơ chiếc dùi đính những hạt màu rực rỡ trên chiếc trống hội thoại đặt trước mặt, gõ tên người đầu tiên được xét. Điều đó được làm theo trình tự tuổi tác nhằm phục vụ những nhu cầu của người lớn tuổi nhất trước tiên. Bất kỳ ai đứng ra trình bày trường hợp của mình, tất cả các vị bô lão đều đăm đăm nhìn xuống đất, lắng nghe cho đến khi người đó nói xong và ngồi xuống. Đến đây, bất kỳ ai trong hàng huynh trưởng đều có thể đặt câu hỏi với anh ta.
Nếu vấn đề có liên quan đến một vụ tranh chấp, thì bây giờ đến lượt người thứ hai trình bày về phía mình, tiếp theo là những câu hỏi nữa, liền sau đó, các vị bô lão sẽ quay lưng lại, chụm đầu bàn bạc, có thể cũng mất khá lâu. Một vài vị có thể còn ngoảnh lại hỏi thêm mấy câu. Nhưng rồi cuối cùng, tất cả quay trở lại phía trước, một vị ra hiệu cho người hoặc những người được thẩm xét đứng lên và bấy giờ vị bô lão cao tuổi nhất tuyên bố quyết định của Hội đồng, sau đó trống gióng lên cái tên tiếp theo.
Ngay cả đối với những thanh niên mới trưởng thành như Kunta, phần lớn những cuộc điều trần này cũng là những vấn đề thông thường. Những người có con mới đẻ xin một mảnh ruộng lớn hơn cho chồng và thêm một vạch lúa cho vợ - Loại yêu cầu mà hầu như bao giờ cũng được chấp nhận nhanh chóng, cũng như những yêu cầu xin mảnh ruộng đầu tiên cho những trai chưa vợ như Kunta và các bạn anh. Trong thời gian rèn luyện trưởng thành, Kintangô đã dặn dò họ đừng bao giờ bỏ buổi họp nào của Hội đồng Bô lão trừ trường hợp bắt buộc, vì việc chứng kiến các quyết định của Hội đồng sẽ mở rộng kiến thức của một con người trong quá trình tuổi tác tăng lên cho đến khi chính anh ta cũng thành một bô lão. Khi dự phiên đầu tiên, Kunta nhìn Ômôrô ngồi đằng trước, tự hỏi không biết trong đầu cha mình đã chứa mấy trăm quyết định rồi mà vẫn chưa thành bô lão.
Tại phiên đầu, Kunta chứng kiến một vụ về đất đai có dính líu đến một chuyện tranh chấp. Cả hai người đàn ông đều nhận về phần mình số quả của mấy cái cây thoạt đầu do người thứ nhất trồng trên một mảnh đất mà hiện nay người thứ hai có quyền trồng cấy, vì gia đình người thứ nhất đã giảm nhân số. Hội đồng Bô lão cho người thứ nhất hưởng số quả và nói: "Nếu anh ta không trồng cây thì làm gì mà có quả".
Tại những phiên sau, Kunta thấy nhiều người bị kết tội đánh vỡ hoặc đánh mất cái gì đó mượn của một người nào đó, người này tức tối nói rằng các thứ đồ ấy vừa quý lại vừa mới tinh. Trừ phi người mượn đồ có nhân chứng đưa ra bằng cứ bác bỏ điều đó, còn thường thường anh ta đều được lệnh phải đền hoặc thay thế thứ đồ kia bằng một cái mới giá trị ngang như thế. Kunta còn thấy những người giận dữ buộc tội người khác dùng ma thuật reo rắc vận rủi cho mình. Một ông trình bày rằng có người đã lấy một cái cựa gà trống chạm vào ông ta, làm cho ông ta ốm rất nặng. Một người vợ trẻ khai rằng bà mẹ chồng mới đã giấu một thứ cây bụi nào đó vào trong bếp của mình, khiến cho nấu nướng bất cứ cái gì cũng đâm hỏng. Và một bà góa lu loa rằng một ông già giở giọng tán tỉnh bị bà cự tuyệt, đã lấy vỏ trừng tán thành bột rắc lên lối đi của bà, khiến cho bà mắc vào một chuỗi dài những chuyện phiền phức và bà liền mô tả những phiền phức đó. Nếu vấn đề được trình bày với bằng chứng hùng hồn, đầy đủ về động cơ và kết quả của trò ma thuật, Hội đồng sẽ lập tức ra lệnh đánh trống mời vị pháp sư lưu động gần nhất tới Jufurê để xua tà, phí tổn sẽ do kẻ làm điều xấu phải chịu.
Kunta thấy các con nợ được lệnh phải thanh toán sòng phẳng, dù có phải bán của cải đi, hoặc nếu không có gì bán thì phải làm trả nợ cho người cho vay. Anh thấy những nô lệ tố cáo chủ tàn ác, hoặc cho ăn ở chẳng ra sao, hoặc lấy quá nửa những gì do lao động của người nô lệ sản sinh ra. Đến lượt chủ lại buộc tội nô lệ ăn gian bằng cách giấu giếm một phần sản phẩm của họ, hoặc làm việc không đủ mức, hoặc cố tình đánh gẫy nông cụ. Kunta thấy Hội đồng cân nhắc rất cẩn thận các bằng chứng trong những vụ này cùng với lai lịch thành tích mỗi người trong làng và không phải là hãn hữu mà thanh danh của một số nô lệ lại rất tốt đẹp hơn chủ họ!
Song đôi khi, giữa chủ và nô lệ không có tranh chấp gì. Thật vậy, Kunta đã từng thấy họ cùng đến xin phép cho nô lệ cưới người trong gia đình của chủ. Nhưng bất cứ cặp nào định lấy nhau, trước hết phải được phép của Hội đồng. Những đôi mà Hội đồng xét là có họ quá gần với nhau, bị từ chối phắt, nhưng đối với những cặp không bị coi là như thế, cũng phải có một giai đoạn chờ đợi một tuần trăng từ lúc yêu cầu đến khi trả lời, thời gian đó dân làng có nhiệm vị lặng lẽ đến thăm bất kỳ vị bô lão nào, nêu bất kỳ điều gì tốt hoặc xấu được biết riêng về cặp trai gái đang được xét. Từ thời niên thiếu mỗi người trong lứa đôi ấy có luôn luôn tỏ ra có gia giáo hay không? Một trong hai người có bao giờ gây phiền phức vô lối cho ai, kể cả cho chính gia đình mình? Một trong hai người có bao giờ biểu lộ bất cứ khuynh hướng xấu gì thuộc bất cứ loại nào, thí dụ như gian lận hoặc nói sai sự thật không? Cô gái có nổi tiếng là cáu kỉnh và hay cãi vã không? Chàng trai có nổi tiếng là hay đánh đập dê một cách tàn nhẫn không? Nếu vậy, cuộc hôn nhân sẽ bị từ chối, vì theo tín ngưỡng, một con người như thế sẽ truyền những nét cá tính đó cho con cái. Song, theo như Kunta được biết ngay từ trước khi anh bắt đầu dự các phiên họp của Hội đồng, phần lớn các cặp đều được đồng ý cho cưới, bởi vì đôi bên cha mẹ trong cuộc đều đã được biết những giải đáp cho các câu hỏi đó và thấy chúng là thỏa đáng trước khi chính họ thuận tình cho phép.
Tuy nhiên, tại các phiên họp của Hội đồng, Kunta được biết rằng đôi khi các bậc cha mẹ lại không được nghe kể về những điều mà người ta nói với các vị bô lão, Kunta đã thấy một trường hợp xin phép cưới bị từ chối thẳng thừng khi một nhân chứng đứng ra khai rằng chàng trai của dự định hôn nhân này, hồi còn nhỏ đi chăn dê, đã từng ăn cắp của anh ta một cái lẵng, tưởng không ai trông thấy. Hồi ấy anh ta không đem trình tội này là vì thương hại cu cậu hãy còn bé; nếu đã đem trình, thì chiếu theo luật, bày tay phải của cu cậu ắt đã bị chặt đứt. Kunta ngồi như bị đóng đinh khi gã ăn trộm, cuối cùng bị vạch mặt, òa lên khóc, phun hết tội trạng trước mặt cha mẹ thất kinh và cô gái mà gã đang xin cưới, cô này bắt đầu thét lên. Sau đó ít lâu, gã biến khỏi Jufurê và không ai gặp lại hoặc nghe nói về gã bao giờ nữa.
Sau mấy tháng dự các phiên họp của Hội đồng, Kunta đồ chừng phần lớn các vấn đề đối với các vị bô lão là do những người có gia thất - đặc biệt do những người đàn ông có hai, ba hoặc bốn vợ. Ngoại tình là cái tội những người này hay thưa kiện nhất và những điều không hay sẽ đến với kẻ thủ phạm nếu lời buộc tội của người chồng được ủng hộ bằng những lời chứng thuyết phục bên ngoài hoặc những chứng cớ vững vàng khác. Nếu người chồng bị xúc phạm thì nghèo mà kẻ phạm tội lại giàu có, Hội đồng có thể ra lệnh cho thủ phạm nộp của cải cho người chồng nọ, mỗi lần một thứ, cho đến khi nào anh ta nói: "Tôi đủ rồi", điều này thường xảy ra khi gã gian dâm chỉ còn cái lều rỗng tuếch. Nhưng nếu cả hai người đàn ông cùng nghèo, mà đó là trường hợp thông thường, Hội đồng có thể ra lệnh cho kẻ phạm tội làm nô lệ cho người chồng trong một thời gian được xem là đủ để chuộc lại việc sử dụng vợ anh ta một cách phi pháp như vậy. Và Kunta lo sợ thay cho một gã tái phạm nhiều lần, khi các bô lão định ngày, giờ đưa gã ra trước công chúng phạt ba mươi chín roi đòn trên lưng trần, do người chồng bị xúc phạm gần đây nhất thực thi, theo đúng quy tắc Hồi giáo cổ là "bốn mươi trừ một".
Những ý nghĩ của bản thân Kunta về việc lấy vợ có phần nào nguội khi anh quan sát và nghe những bà vợ và những ông chồng bị xúc phạm phẫn nộ kể tội nhau trước Hội đồng. Trong những vụ mưa kể từ khi Kunta rèn luyện trưởng thành trở về, không có vụ nào được Hội đồng xét xử lại khiến anh cùng bạn bè hồi hộp chờ đợi bằng cái vụ khởi đầu với những bàn tán xì xào về hai gã trong lứa Kafô của họ và hai quả phụ khả ái nhất ở Jufurê. Cuối cùng, đến hôm vấn đề được đưa ra trước Hội đồng, hầu hết dân làng tụ tập từ sớm để chiếm chỗ ngồi tốt nhất. Trước tiên, một số chuyện thông lệ của người già được giải quyết, rồi đến trường hợp của Đembô Đabô và Kiđi Tamba cách đây hơn một vụ mưa đã được ly dị, nhưng nay trở lại trước Hội đồng cười toe toét, nắm tay nhau, xin phép được tái hợp. Anh, ả bỗng thôi cười khi bô trưởng nghiêm khắc bảo: "Trước kia các ngươi đã khăng khăng xin ly dị, vì vậy các ngươi không thể cưới lại - cho đến khi giữa chừng mỗi bên đều có vợ mới và chồng mới".
Tiếng hào hển của những người ngồi đằng sau im bặt khi trống báo tên những kẻ được xét tiếp theo: "Tuđa Tamba và Kalilu Contê! Fanta Bêđeng và Xêfô Kêla!" Hai gã thuộc lứa Kafô của Kunta và hai chị góa đứng dậy. Quả phụ cao lớn hơn, Fanta Bêđeng nói thay cho tất cả, có vẻ như chị ta đã thực tập cẩn thận những gì cần thưa thốt, song chị ta vẫn nơm nớp lo sợ. "Tuđa Tamba xuân xanh đã hai mươi hai vụ mưa và tôi thì ba mươi ba, thật khó có cơ hội lấy chồng nữa", chị ta nói vậy và xin Hội đồng chấp thuận cho chị được làm bạn ngoại hôn thú, lo bếp núc và chiếu giường cho Xêfô Kêla, cũng như Tuđa Tamba với Kalilu Contê.
Các bô lão hỏi cả bốn người mấy câu - hai quả phụ trả lời một cách tự tin, còn hai gã bạn của Kunta thì ngập ngừng, trái hẳn với cung cách mạnh bạo thường lệ của họ. Rồi các bô lão quay lưng lại, thì thầm với nhau. Cuối cùng khi các bô lão quay trở ra, cử tọa nín lặng căng thẳng đến nỗi một củ lạc rơi cũng có thể nghe thấy. Bô trưởng nói: "Chúa Ala chắc cũng chấp thuận! Các ngươi là quả phụ sẽ có đàn ông để mà dùng, còn các ngươi là trai mới trưởng thành sẽ thu được kinh nghiệm quý báu cho việc hôn nhân mai sau".
Vị bô trưởng đập mạnh cây gậy hai lần vào cạnh trống và nhìn trừng trừng vào đám phụ nữ lao xao ở phía sau. Chỉ đến khi họ im lặng, cái tên tiếp theo mới được gọi: "Jankê Jalon!" Cô ả này mới mười lăm vụ mưa, nên được xét cuối cùng. Cả làng Jufurê đã nhảy múa và mở tiệc ăn mừng khi ả thoát khỏi tay một tên tubốp nào đó đã bắt cóc ả, và tìm đường về được đến nhà. Thế rồi, mấy tuần trăng sau, bụng ả chửa phễnh lên, mặc dù chưa chồng, gây ra bao điều bàn ra tán vào. Trẻ và khỏe mạnh, kể ra ả ta vẫn có thể tìm được một người đàn ông lớn tuổi thuận lấy làm vợ bé thứ ba hoặc thứ tư gì đó. Nhưng rồi đứa bé ra đời: da nó trắng bợt kỳ lạ và tóc rất khác thường - và sau đó, hễ Jankê Jalon xuất hiện ở đâu là mọi người đều nhìn xuống đất và vội vã lảng đi chỗ khác. Mắt long lanh lệ, giờ đây cô gái đứng lên và hỏi Hội đồng: cô ta biết làm thế nào đây? Các bô lão không quay lưng lại để bàn bạc; bô trưởng nói Hội đồng sẽ còn phải cân nhắc vấn đề cho đến phiên họp tuần trăng sau vì đây là một vụ thuộc loại nghiêm trọng nhất và khó khăn nhất. Nói rồi, cụ cùng năm bô lão kia đứng dậy ra về.
Bối rối và phần nào bất mãn với cái cách kết thúc phiên họp, Kunta ngồi lại một lúc sau khi phần lớn các bạn cung số cử tọa còn lại đã đứng dậy, vừa chuyện trò với nhau vừa trở về lều riêng của mình. Khi Binta mang bữa ăn chiều đến, đâu Kunta vẫn còn đầy những suy nghĩ và trong khi ăn, anh chẳng nói với mẹ lời nào, mà Binta cũng thế. Lát sau, khi cầm lấy giáo và cung tên chạy ra vị trí canh phòng cùng với con chó uôlô - vì đêm nay đến phiên anh gác ngoài làng - Kunta vẫn tiếp tục nghĩ: về đứa bé da bềnh bệch với bộ tóc kỳ quái, về cha nó hẳn còn quái dị hơn nữa và về việc liệu tên tubốp ấy có ăn thịt Jankê Jalon hay không nếu như cô ả không thoát khỏi hắn.
Chương 32
Trong thửa ruộng lạc chín vằng vặc ánh trăng, Kunta leo lên cây cột có khoét nấc và ngồi khoanh chân trên chòi canh dựng thành chạc vững chãi, cao vọt khỏi mặt đất. Đặt vũ khí bên ngoài cạnh mình - cùng với chiếc rìu mà anh dự định sáng hôm sau sẽ dùng để đẵn gỗ làm khum trống - Kunta theo dõi con chó Uôlô vừa khịt khịt vừa chạy lăng xăng đây đó trong cánh đồng bên dưới. Kunta nhớ lại cách đây mấy vụ mưa, trong những tuần trăng đầu tiên làm nhiệm vụ canh phòng chỉ một con chuột lạo xạo trong đám cỏ là anh đã vội nắm chặt cây giáo. Mỗi cái bóng lại tưởng một con khỉ; mỗi con khỉ tưởng là một con báo và mỗi con báo ngỡ là một tên tubốp, cứ thế cho đên khi tai mắt trở nên dày dạn với nhiệm vụ. Đến một độ nào anh thấy mình có thể phân biệt được tiếng su tử gầm với tiếng báo rống. Tuy nhiên, anh phải mất nhiều thời gian hơn mới học được cách luôn luôn tỉnh táo cảnh gác suốt những đêm dài đó. Khi những ý nghĩ của anh bắt đầu hướng vào nội tâm; như vẫn xảy ra luôn luôn, anh thường quên bẵng mình đang ở đâu và có nhiệm vụ phải làm gì. Song cuối cùng anh học được cách tiếp tục cảnh giác bằng một nửa đầu, còn nửa kia vẫn khơi sâu những ý nghĩ riêng tư.
Đêm nay anh đang nghĩ về mối tình ngoại hôn thú mà Hội đồng Bô lão đã chấp thuận cho hai thằng bạn. Trong nhiều tuần trăng, chúng đã bảo với Kunta và bạn bè rằng chúng sẽ đem vấn đề của mình ra trình trước Hội đồng, song không ai thực sự tin cả. Và giờ đây, việc đó đã xong xuôi. Có lẽ chính lúc này đây, anh nghĩ bụng, chúng đang làm cái hành động ngoại hôn thú trên giường với hai nàng góa của chúng cũng nên. Bỗng nhiên, Kunta ngồi thẳng người cố gắng hình dung cảnh đó ra sao.
Những điều ít ỏi Kunta được biết về chuyện bên dưới y phục đàn bà, chủ yếu là nghe qua các chuyện tán gẫu của các bạn cùng lứa Kafô. Anh biết trong việc thương thuyết cưới xin, các ông bố bên nhà gái phải bảo đảm con mình con trinh tiết để nâng giá cô dâu tới mức cao nhất. Và phụ nữ là dính dáng lôi thôi với một lô những thứ máu me, điều đó anh cũng biết. Mỗi một tuần trăng, họ lại ra máu, cả những lúc đẻ con, và cả cái đêm họ lấy chồng nữa. Mỗi người đều biết sáng hôm sau đó, hai bà mẹ của cặp vợ chồng mới cưới đến lều tân hôn, lấy tấm vải trắng lót dưới chỗ nằm, bỏ vào một cái làn ra sao, phô chỗ vấy máu cho Alimamô làm bằng chứng sự trinh tiết của cô gái như thế nào, và chỉ đến lúc đó vị trưởng lễ mới đi quanh làng gióng trống nói lên sự phù hộ của Chúa Ala đối với đám cưới đó. Nếu tấm vải không vấy máu - Kunta biết - người chồng mới sẽ giận dữ rời bỏ căn lều cùng với hai bà mẹ làm chứng và kêu to ba lần cho tất cả cùng nghe thấy: "Tôi ly dị cô!".
Song tình bạn ngoài hôn thú không dính dáng gì đến mọi thứ đó - chỉ là chuyện thanh niên mới trưởng thành ngủ với gái góa tự nguyện và ăn chung bếp. Trong một thoáng, Kunta nghĩ đến cái vẻ Jinna M’ Baki đã nhìn mình không cần giấu giếm ý đồ của chị ta, giữa đám đông xô đẩy chen chúc ngày hôm trước vào lúc phiên họp của Hội đồng kết thúc.
Tâm trí Kunta nhớ về một số thiếu nữ mà anh và Lamin đã gặp tại một làng trên đường trở về sau một cuộc hành trình săn vàng. Có khoảng mươi cô, Kunta phỏng chừng thế, tất cả đều đen giòn, xiêm áo chật căng, đeo chuỗi hạt đầy màu sắc và vòng tay, ngực vồng cao và những bím tóc nhỏ dỏng lên. Bọn này khi Kunta đi ngang qua, đã hành động thật kỳ lạ, đến nỗi Kunta phải mất một lúc mới hiểu ra rằng việc các cô ả làm bộ nguẩy đi nhìn ra chỗ khác bất cứ lúc nào thấy Kunta nhìn mình, không có nghĩa là các cô ả không quan tâm đến anh chàng, mà là muốn anh chàng phải quan tâm đến mình.
Giống cái thật đến rắc rối, Kunta nghĩ. Những thiếu nữ vào lứa tuổi Kunta ở Jufurê không bao giờ chú ý tới anh, dù chỉ đến mức vừa đủ để ngoảnh đi nhìn chỗ khác. Phải chăng là vì chúng đã biết Kunta thật sự là như thế nào? Hoặc giả, phải chăng là vì chúng biết cu cậu còn trẻ hơn bề ngoài nhiều - quá trẻ chưa đáng để chúng quan tâm? Có lẽ các cô gái ở làng nọ tưởng rằng không một lữ khách nào dắt theo một thằng bé lai có thể dưới hai mươi, hai lăm vụ mưa, nói chi đến chuyện cu cậu mới mười bảy. Nếu biết vậy, hẳn họ đã giễu cợt rồi. Ấy thế mà một quả phụ thừa biết anh trẻ như thế nào, vẫn đang cần anh đấy. Có khi anh không lớn tuổi hơn lại là điều may mắn cũng nên. Nếu anh lớn tuổi hơn, đám con gái ở Jufurê hẳn sẽ ngấm nguýt với anh như kiểu các cô ở làng nọ và anh biết cả cái đám ấy chỉ có độc một điều trong đầu: lấy chồng. Ít ra thì Jinna M’ Baki đã quá tuổi để tìm kiếm một cái gì vượt trên một tình bạn ngoại hôn thú. Tại sao một người đàn ông lại cần phải lấy vợ khi mà anh ta có thể được một người đàn bà nấu ăn cho mình, ngủ với mình mà không phải cưới xin gì cả? Chắc hẳn là phải có một lý do nào đó. Có lẽ bởi vì chỉ có thông qua hôn nhân, một người đàn ông mới có thể có con cái. Đó là một điều tốt đẹp. Song liệu anh ta có gì để dạy những đứa con đó, nếu anh ta chưa sống khá nhiều để học hỏi đôi chút về thế giới - không phải chỉ học ở cha đẻ mình, ở arafang, và ở kintangô, mà còn bằng cánh tự thám hiểm thế giới cho bản thân mình như các bác Kunta đã làm?
Các bác anh, thậm chí, vẫn chưa lấy vợ, mặc dầu lớn tuổi hơn cả cha anh và phần lớn đàn ông vào tuổi ấy đều đã lấy vợ hai. Chẳng biết Ômôrô có tính chuyện lấy vợ hai không? Ý nghĩ này làm cho Kunta giật mình đến nỗi cu cậu ngồi thẳng người lên. Và liệu rồi mẹ sẽ cảm thấy thế nào về chuyện ấy? Ờ, với tư cách là vợ cả, ít nhất Binta cũng có thể báo cho vợ hai biết bổn phận mình, bắt cô ta làm thật lực và quy định những lần cô ta được ngủ với Ômôrô. Liệu sẽ có chuyện rắc rối giữa hai người đàn bà không nhỉ? Không, anh chắc chắn Binta sẽ không như vợ cả của vị kintangô, bà này như mọi người đều biết, luôn quát tháo và chửi bới các vợ bé, làm cho họ đảo điên đến nỗi họa hoằn ông chồng mới được yên thân.
Kunta xoay thế ngồi, buông thõng chân một lúc qua mép cái sàn chòi nhỏ bé để cho bắp thịt khỏi bị chuột rút. Con chó Uôlô nằm cuộn tròn trên mặt đất bên dưới anh, bộ lông nâu mượt lấp lánh dưới ánh trăng, nhưng anh biết nó chỉ giả vờ ngủ, mũi và tai vẫn ngọ nguậy tỉnh táo rình từng mùi mơ hồ nhất hoặc từng tiếng động để chồm lên sủa và rượt theo những con khỉ đầu chó gần đây hầu như đêm nào cũng xuống phá ruộng lạc. Trong mỗi một phiên canh phòng dài dặc, ít có gì khiến Kunta thích thú hơn là những lúc - dễ thường một đêm có tới mươi mười hai lần như thế anh bị kéo bật ra khỏi dòng suy nghĩ bởi tiếng hầm hè đột ngột đằng xa của một con khỉ đầu chó nào đó bị báo vồ trong bụi rậm - nhất là nếu tiếng gầm gừ của con khỉ đầu chó chuyển thành tiếng rít lên rồi mau chóng câm bặt, có nghĩ là nó không chạy thoát.
Nhưng giờ đây, khi Kunta ngồi trên mép chòi, nhìn rộng ra khắp cánh đồng, tất cả đều ắng lặng. Dấu hiệu duy nhất của sự sống, trên thực tế, bên kia bãi cỏ cao, là ánh lửa vàng bập bùng của một mục đồng người Fulani ở phía xa, anh ta khoa bó đuốc cỏ khô để xua một con thú nào đó, có lẽ là một con linh cẩu, đang lảng vảng quá gần đàn bò của mình. Người Fulani chăn dắt gia súc khéo đến nỗi nhiều người cho rằng họ có thể nói chuyện thật sự với loài vật. Và Ômôrô đã từng kể cho Kunta là mỗi ngày, những người Fulani thường rút một ít máu ở cổ bò ra, trộn với sữa để uống, xem như một phần tiền công chăn dắt. Thật là một dân tộc kỳ lạ, Kunta nghĩ bụng: "Tuy không phải là nòi giống Manđinka, họ cũng gốc gác ở Gămbia như anh. Vậy những người - và phong tục - ở bên kia biên giới đất nước anh chắc hẳn còn kỳ lạ hơn biết bao nhiêu.
Trong vòng một tuần trăng sau khi cùng với Lamin đi săn vàng trở về, Kunta cứ háo hức muốn lên đường một lần nữa - mà lần này thì để làm một cuộc viễn du thật sự. Anh biết nhiều thanh niên khác cùng lứa kafô đang dự định du hành đến một nơi nào đó ngay sau khi thu hoạch lạc và mạch kê xong, nhưng không gã nào mạo hiểm đi xa. Còn Kunta thì muốn được nhìn thấy và đặt chân lên cái nơi xa xôi gọi là Mali, tại đó, trước đây khoảng ba, bốn trăm vụ mưa theo lời Ômôrô và các ông bác, thị tộc Kintê đã khởi lên. Theo anh nhớ, các ông tổ dòng họ Kintê đã nổi danh là những thợ rèn, những con người đã chinh phục lửa để làm ra những vũ khí bằng sắt từng giành thắng lợi trong nhiều cuộc chiến tranh và những công cụ sắt khiến cho công việc làm ruộng đỡ vất vả. Và từ cái gia đình Kintê ngọn nguồn đó, tất cả cháu con dòng dõi và tất cả những người làm việc cho họ đều lấy họ Kintê. Và một số người trong thị tộc ấy đã di truyền đến Moritanya, nơi chôn nhau cắt rốn của vị thánh nhân, ông nội Kunta.
Để cho không một người nào khác, kể cả Ômôrô, biết về dự định của mình trước khi công bố, Kunta đã hết sức bí mật thỉnh vấn Arafang, thăm dò con đường tốt nhất để đi đến Mali. Arafang vẽ một cái sơ đồ trên mặt đất, rồi, đưa ngón tay vạch theo đó, ông bảo Kunta rằng cứ đi theo bờ sông Kamby theo hướng cầu nguyện Chúa Ala độ sáu ngày thì sẽ tới đảo Xamô. Quá chỗ đó, dòng sông hẹp lại và quay ngoắt về bên phải, bắt đầu uốn khúc rồng rắn, với nhiều chi nhánh hỗn độn rẽ ngang, cũng rộng như sống chính, ven bờ lầy lội nhiều quãng không nhìn được vì những rặng đước dày đặc đôi chỗ mọc cao bằng đầu người. Chỗ nào nhìn thấy được bờ sông - thày giáo nói với anh - thường nhan nhản những khỉ, trâu nước, cá sấu to tương và hàng đàn khỉ đầu chó, mỗi đàn có tới dăm trăm con.
Nhưng hai hay ba ngày đi đường khó nhọc, như vậy sẽ đưa Kunta tới một hòn đảo lớn thứ hai, tại đó các bờ thấp, bùn lầy sẽ nhô lên thành những vách nhỏ rậm rì những bụi cây nhỏ. Con đường mòn ngoằn ngoèo theo dọc sông lúc này sẽ đưa anh qua các làng Banxang, Karantaba và Điabugu. Chẳng mấy chốc sau đó, anh sẽ qua biên giới phía đông của Gămbia và đi vào Vương quốc Fulađu, từ đó đi nửa ngày đường nữa sẽ tới làng Fatôtô. Kunta lấy trong túi săn ra một mảnh da thuộc mà Arafang đã đưa cho anh. Trên đó, có ghi tên một người bạn đồng nghiệp của Arafang; thầy bảo ông này sẽ chỉ dẫn cho Kunta về quãng đường từ mười hai đến mười bốn ngày tiếp theo, xuyên qua một vùng đất gọi là Xênêgal. Bên kia vùng này Arafang nói - là Mali và cái đích của Kunta, Kaba, địa điểm chính của đất này theo Arafang hình dung thì vừa đi vừa về phải mất khoảng một tuần trăng - chưa kể Kunta định ở lại Mali bao lâu.
Biết bao lần Kunta đã vẽ và nghiên cứu con đường ấy trên nền đất căn lều của mình - rồi lại xóa đi trước khi Binta mang cơm tới - đến nỗi anh hầu như có thể nhìn thấy nó hiện lên trước mặt trong khi ngồi trên chòi canh ở cánh đồng lạc lúc này. Nghĩ đến những phiêu lưu chờ đợi mình trên con đường ấy - và ở Mali - anh phải chật vật lắm mới kìm nỗi lòng hăm hở muốn ra đi. Anh cũng không kém hăm hở muốn nói với Lamin về kế hoạch của mình, không những vì muốn san sẻ điều bí mật riêng, mà còn vì anh đã quyết định đem thằng em đi theo nữa. Anh biết Lamin đã huênh hoang biết mấy về chuyến đi trước với anh trai. Từ đó đến nay, Lamin cũng đã trải qua rèn luyện trưởng thành và hẳn sẽ là một bạn đồng hành đáng tin cậy và giàu kinh nghiệm. Song lý do sâu xa nhất khiến Kunta quyết định mang nó đi chỉ đơn giản là anh cần có bầu bạn, Kunta phải thừa nhận thế.
Trong một lúc, Kunta ngồi trong bóng tối mỉm cười một mình, nghĩ đến bộ mặt của Lamin khi xét thấy đã đến lúc báo cho nó biết. Cố nhiên Kunta dự định đưa tin ấy ra một cách ngẫu nhiên, y như thể vừa mới chợt nghĩ đến thôi. Song trước lúc đó, anh phải nói với Ômôrô đã. Trên thực tế, anh chắc chắn rằng Ômôrô sẽ rất hài lòng và thậm chí cả Binta cũng sẽ đỡ bàng hoàng hơn trước, mặc dầu bà sẽ lo lắng. Kunta tự hỏi không biết có thể mang cái gì ở Mali về cho Binta để bà còn nâng niu quý báu hơn cả những cái lông đầy hạt vàng dạo trước. Có thể là mấy cái lọ độc bình quý hay súc vải đẹp; Ômôrô và các ông bác Kunta đã kể là các phụ nữ dòng họ Kintê ngày xưa ở Mali vốn nổi tiếng về tài nặn lọ và dệt những loại vải có họa tiết rực rỡ, cho nên có thể là phụ nữ dòng họ Kintê ở đó hiện vẫn còn làm những thứ đó.
Kunta nảy ra ý nghĩ là khi ở Mali trở về, anh sẽ vạch kế hoạch cho một chuyến đi khác vào vụ mưa sau. Thậm chí anh có thể du hành tới cái miền xa xăm bên kia những sa mạc bất tận, nơi mà các ông bác anh đã nói về hàng đoàn dài những con vật kỳ lạ chứa nước ở hai cái bướu trên lưng, Kalilu Contê và Xêtô Kêla có thể có những mụ góa già, xấu xí của chúng, còn anh, Kunta đây, anh sẽ làm cuộc hành hương đến tận đất thánh La Mêc. Tình cờ lúc đó mắt lại đăm đăm nhìn về hướng thành phố thần thánh ấy, Kunta chợt thấy một đốm lửa vàng nhỏ xíu, cháy đều đặn ở tít đầu đằng kia cánh đồng. Anh hiểu ra là gã mục đồng người Fulani ở đằng ấy đang nấu bữa điểm tâm. Kunta thậm chí không nhận thấy cả những tia sáng yếu ớt đầu tiên của rạng đông.
Với tay xuống nhặt vũ khí để về nhà, anh thấy cái rìu và nhớ đến việc lấy gỗ làm khung trống. Song anh nghĩ mình mệt rồi, có lẽ mai hẵng đốn gỗ. Không, anh đã đi được nửa đường tới rừng, nếu không làm luôn bây giờ, anh biết là có thể sẽ gác lại đến phiên gác sau, tức là mười hai ngày nữa. Vả lại, nhượng bộ sự mệt mỏi như vậy là không đáng mặt nam nhi. Cử động đôi chân để thử xem có bị chuột rút không và chẳng thấy cảm giác tê dại gì, anh tụt theo cây cột khoét nấc xuống đất, nơi con chó Uôlô đang đợi, sung sướng sủa nho nhỏ và vẫy đuôi. Sau khi quỳ xuống đọc kinh xuba, Kunta đứng dậy vươn vai, hít một hơi dài không khí mát mẻ và cất bước chạy tâng tâng về phía bờ sông.
Chương 33
Mùi thơm quen thuộc của hoa rừng đầy ắp hai lỗ mũi Kunta khi anh chạy qua lớp cỏ long lanh sương sớm thấm ướt chân, trong những tia nắng đầu tiên. Diều hâu lượn vòng trên đầu tìm mồi và những con mương bên cánh đồng rộn lên tiếng ếch nhái ồm ộp. Anh rẽ lối né xa một cái cây để tránh làm kinh động một bầy chim hét đậu đầy cành như những chiếc là đen óng. Nhưng kể ra anh chả cần mất công làm thế, bởi vì anh vừa mới qua đó thì một tiếng quàng quạc khàn khàn giận dữ làm anh ngảnh đầu lại để vừa vặn nhìn thấy hàng trăm con quạ xấn xổ đuổi lũ chim hét khỏi chỗ đậu.
Vừa chạy vừa thở thật sâu, song không hổn hển, anh bắt đầu ngửi thấy mùi thơm xạ hương của những cây xú khi tới gần lớp cây bụi thấp và dầy từ bờ sông tỏa rộng mãi vào phía trong. Vừa mới trông thấy anh, một tiếng khịt khịt đột ngột lan đi trong đám lợn rừng, dắt dây theo một loạt tiếng gừ gào trong đám khỉ đầu chó, những con đực to lớn mau chóng đẩy vợ con ra sau lưng. Hồi nhỏ tuổi hơn, anh thường dừng lại bắt chước chúng, gầm ghè và nhảy lên nhảy xuống, điều đó bao giờ cũng làm cho bọn khỉ đầu chó tức tối, chúng vung nắm đấm dứ dứ và đôi khi còn ném đá nữa. Nhưng anh không còn là một chú bé nữa và anh đã biết đối đãi với mọi sinh vật của Chúa Ala như bản thân anh muốn được đối đãi: với lòng tôn trọng.
Như những đợt sóng trắng rập rờn, từng đàn cò bạch, sếu, vạc và bồ nông chấp chới bay lên từ chỗ ngủ khi anh rẽ lối đi qua đám xú rằng rịt, xuống bờ sông. Con chó Uôlô của Kunta chạy lên trước đuổi những con rắn nước cùng những con rùa nâu to tướng đang trượt bùn trôi tuột xuống nước, không để lại lấy một gợn sóng lăn tăn.
Như anh vẫn thường làm thế mỗi khi cảm thấy cần tới đây sau một đêm gác, Kuntan đứng một lúc bên rìa sông ngắm một con diệc màu xám bay cách mặt nước xanh nhợt chừng một cây giáo dựng đứng, kéo rệt đôi chân dài mảnh, mỗi nhát đập cánh lại làm sóng gợn lăn tăn. Mặc dù giống diệc chỉ kiếm cá nhỏ, Kunta biết rằng trên dọc sông, đây là chố tốt nhất tập trung cá kujalô, một loại cá to, khỏe mà Kunta thích bắt về cho Binta nấu với hành; gạo và cà chua đắng. Vào lúc bụng đang sôi ùng ục đòi điểm tâm, chỉ nghĩ đến nó cũng đủ khiến cho Kunta thấy đói.
Đi xuôi theo dòng một quãng nữa, Kunta rẽ khỏi bờ nước, quặt vào một con đường mòn do chính anh vạch, tới một cây xú cổ rất quen thuộc sau biết bao lần tới thăm. Rún người lên cành thấp nhất, anh trèo suốt đến tận chỗ anh thích ngồi vắt vẻo ở gần ngọn. Từ đó, trong buổi ban mai ngời ngợi, với ánh mặt trời rọi ấm trên lưng, anh có thể nhìn suốt tới khúc ngoặt gần nhất của dòng sông còn la liệt từng bầy chim nước đang ngủ và quá nửa là những vạt ruộng lúa của phụ nữ rải rác điểm những chòi tre đặt trẻ sơ sinh. Dạo mình con bé, mẹ đặt mình vào cái chòi nào nhỉ, anh tự hỏi. Cái chỗ này trong buổi sớm mai bao giờ cũng khiến Kunta tràn ngập một cảm giác bình yên và kỳ diệu hơn bất cứ nơi nào khác mà anh biết. Thậm chí hơn cả trong ngôi nhà thờ Hồi giáo của làng, tại đây anh cảm thấy mọi người, mọi vật ở trong tay Chúa Ala một cách trọn vẹn biết bao, và mọi thứ anh có thể nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, từ ngọn cây này đã có ở đây từ những thuở xa xăm hơn trí nhớ của con người và sẽ còn ở đây lâu sau khi anh và con cái anh và con cái của con cái anh đã về chầu tổ tiên.
Tong tưởi đi khỏi bờ sông hướng về phía mặt trời được một lúc, cuối cùng, Kunta tới chỗ bãi cỏ cao ngang đầu người bao quanh khu rừng, nơi anh sắp sửa chọn và đẵn một khúc vừa vặn bằng thân cái trống anh định làm. Nếu gỗ tươi bắt đầu khô từ hôm nay, anh đồ chừng nó sẽ sẵn sàng đủ điều kiện cho ta khoét gọt đẽo đục trong vòng một tuần trăng rưỡi nữa, áng chừng vào lúc anh và Lamin từ cuộc viễn du Mali trở về. Khi bước vào lùm cây, một bên khóe mắt của Kunta bỗng thấy một sự di động đột ngột. Đó là chú thỏ rừng và loáng một cái, con chó Uôlô đã rượt theo khi nó chạy trốn vào đám cỏ cao. Rõ ràng chó ta đuổi theo là vì tinh thần thượng võ hơn là vì kiếm mồi để chén, vì nó đang sủa nhặng lên. Kunta biết là một con chó Uôlô săn mồi không bao giờ làm ầm ĩ, nếu nó đói thật sự. Chẳng mấy chốc, cả hai đã chạy quá tầm tai có thể nghe thấy, song Kunta biết con chó của mình sẽ quay về khi nào nó thấy chán cuộc đuổi bắt.
Kunta tiến về phía trung tâm khu rừng, nơi có nhiều cây hơn để có thể lựa chọn một casithaan đúng tầm cỡ, với độ nhẵn và tròn hợp ý mình. Mặt đất phủ rêu mềm mại dưới chân khiến anh cảm thấy dễ chịu khi dấn sâu hơn vào khu rừng, nhưng anh nhận thấy không khí ở đây ẩm ướt và lạnh vì mặt trời chưa đủ cao hoặc chưa đủ nóng để xuyên thấu vòm lá dày trên đầu. Để vũ khí và rìu dựa vào một cây cong vêu, anh lang thang đây đó, thỉnh thoảng cúi xuống sờ nắn, xem xét bằng mắt và bằng ngón tay, tìm cái thân cây thích hợp, to hơn cỡ trống anh muốn một tí để trừ hao lúc nó bị co lại.
Đang cúi xuống một thân cây có khả năng đạt yêu cầu, anh chợt nghe thấy tiếng cành cây gẫy đánh rắc, nhanh chóng tiếp theo là tiếng một con vẹt léo xéo ở trên đầu. Có lẽ là con chó trở về, anh nghĩ vậy trong nội tâm. Nhưng không có con chó khôn lớn nào lại dẫm gẫy một nhánh cây bao giờ, anh vụt nhớ ra, đồng thời xoay người lại. Anh trông thấy nhòe nhòe một cái mặt trắng lao tới anh, một cái gậy giơ lên, anh nghe thấy tiếng chân nện thình thịch đằng sau. Tubốp! Chân anh phóng ra, trúng vào bụng tên kia - nó mềm mềm và anh nghe thấy một tiếng hự - đúng vào lúc một cái gì cứng và nặng sượt qua đằng sau đầu Kunta và giáng xuống vai anh như một cái thân cây. Đau đến rụn người, Kunta quay lại - xây lưng về phía thằng cha nằm gập mình dưới đất - và tới tấp đâm vào mặt hai tên da đen đang xông tới anh với một cái bì lớn, và vào một tên tubốp khác đang vung một cái dùi cui ngắn trùng trục; nhát dùi cui lần này trượt vì anh nhảy sang bên né được.
Bụng cầu ước có bất cứ vũ khí gì đến độ muốn thét lên, Kunta nhảy xổ vào bọn chúng - cào cấu, huých khuỷu tay, đầu gối, húc đầu, móc mắt, - hầu như không cảm thấy cái dùi cui nện trên lưng. Trong khi ba tên đè dí anh xuống đất dưới trọng lượng kết hợp của chúng, một cái đầu gối thúc vào lưng dưới Kunta, làm anh đau đến chóng mặt, hộc lên. Miệng anh mở ra đụng vào da thịt, răng anh liền ngoạm lấy, cắn xé. Những ngón tay tê dại của Kunta quờ thấy một cái mặt, anh móc thật sâu vào một con mắt, nghe thấy chủ nhân con mắt ấy rú lên trong khi chiếc dùi cui nặng nề lại giáng xuống đầu anh.
Mắt hoa lên, anh nghe thấy một tiếng chó gầm gừ, một tên tubốp thét lên, rồi đột nhiên một tiếng ăng ẳng thiểu não. Lồm cồm đứng dậy, điên cuồng oằn oại mình, né tránh, bổ nhảo để khỏi hứng thêm những nhát dùi cui, máu chảy như suối từ chỗ đầu nứt toác, anh trông thấy một tên da đen lấy tay bưng mắt, một tên tubốp ôm cánh tay đẫm máu đứng bên xác con chó và hai tên còn lại giơ dùi cui quây lấy anh. Thét lớn nỗi cuồng nộ của mình, Kunta lào vào tên tubốp thứ hai, hai nắm tay va phải và phá vỡ sức mạnh của cái dùi cui đang giáng xuống. Gần như nghẹn thở vì mùi tubốp hôi gớm ghiếc, anh cố gắng một cách tuyệt vọng giằng lấy chiếc dùi cui. Tại sao trước đó anh lại không nghe thấy chúng, cảm thấy chúng ngửi thấy chúng nhỉ?
Đúng lúc ấy, chiếc dùi cui của tên da đen quật vào Kunta một lần nữa, khiến anh lảo đảo quỵ gối và tên tubốp vùng ra được. Đầu như sắp nổ tung, toàn thân quay cuồng, giận điên lên vì thế yếu của chính mình, Kunta lùi lại và gầm lên, choảng bừa vào không khí như một người mù, tất cả nhòe đi vì nước mắt và máu và mồ hôi. Giờ đây anh đang chiến đấu cho một cái gì còn hơn cả cuộc đời mình. Ômôrô! Binta! Lamin! Xuoađu! Mađi! Chiếc dùi cui nặng nề của tên tubốp nện vào thái dương anh. Và tất cả vụt đen ngòm.
Chương 34
Kunta tự hỏi không biết mình đã hóa điên chưa. Trần truồng, bị cùm và xiềng chặt, anh tỉnh dậy thấy mình nằm ngửa giữa hai người đàn ông khác trong bóng tối đen kịt đầy khí nóng bốc hơi, đầy mùi hôi thối đến lộn mửa và một cảnh hỗn loạn ác mộng: nào la hét, nào khóc lóc, cầu nguyện, nào nôn ọe. Anh có thể cảm thấy và ngửi thấy đống nôn ọe của chính mình trên ngực và trên bụng. Toàn thân anh là cả một sự co giật đau đớn do những trận đòn đã phải chịu trong bốn ngày từ khi bị bắt. Nhưng đau nhất là chỗ dùi sắt nung đỏ dí vào giữa hai vai.
Một con chuột cọ cái mình lông lá, mập mạp vào má anh, khịt khịt cái muxu tua tủa ria vào miệng anh. Rùng mình ghê gớm, Kunta cắn chặt răng lại một cách tuyệt vọng và con chuột chạy mất. Điên tiết, Kunta giằng giật và đá vào những cái còng khóa chặt cổ tay, cổ chân mình. Lập tức một người nào đó bị cùm chung với anh kêu lên giận dữ và giật lại. Vừa choáng vừa đau nên càng tức lộn ruột, Kunta chồm lên, đầu va mạnh vào gỗ - ngay giữa chỗ bị tên tubốp nện dùi cui lúc bị bắt trong rừng. Hổn hển và gầm gừ, anh và người đàn ông bên cạnh mà anh không nhìn thấy, choảng những còng sắt vào nhau cho đến lúc cả hai cùng kiệt sức rụi xuống. Kunta cảm thấy mình lại bắt đầu buồn nôn và anh cố gắng nén lại, nhưng không được. Cái bụng đã rỗng của anh vắt ra một thứ chất lỏng chua loãng từ một bên mép chảy xuống trong khi anh nằm thượt ra, thầm ước giá mình chết đi cho rồi.
Anh tự nhủ mình không thể mất tự chủ một lần nữa nếu muốn bảo toàn sức lực và trí khôn. Sau một lát, khi anh cảm thấy lại có thể cử động được, anh lấy tay trái rất từ từ và thận trọng sờ nắn cổ tay và cổ chân bên phải bị còng. Cả hai đều chảy máu. Anh khẽ kéo dây xiềng, vẻ như nó cột liền vào cổ chân và cổ tay bên phải người đàn ông đã đánh lộn với anh. Nằm bên trái Kunta, xiềng chung vào cổ chân với anh là một người đàn ông khác, miệng không ngừng rên rẩm và tất cả bọn họ nằm sát nhau đến nỗi hễ người nào đụng đậy một tí là vai, cánh tay, cẳng chân lại chạm vào nhau.
Nhớ lại vừa nãy mình đã va đầu vào gỗ, Kunta lại rướn người lên, vừa đủ để khẽ chạm đầu: thậm chí không có đủ chỗ để ngồi dậy nữa. Và đằng sau đầu anh là một bức vách gỗ. Mình như con báo bị sa vào bẫy, anh nghĩ thầm. Rồi anh nhớ lại lúc ngồi trong bóng tối căn lều rèn luyện trưởng thành sau khi bị bịt mắt đưa đến khu trại tập, hồi cách đây bao nhiêu vụ mưa, và một tiếng nấc dâng lên nơi họng, nhưng anh nén được. Kunta tự cưỡng mình nghĩ đến những tiếng kêu rên anh đang nghe thấy xung quanh mình. Đây chắc hẳn là có nhiều người trong bóng tối, người gần kề, kẻ cách xa, người ngay bên cạnh, kẻ khác lại đối diện, song tất cả đều cùng trong một phòng. Căng tai ra, anh có thể nghe thấy những tiếng kêu khác nữa, song những tiếng này bị bặt đi và vẳng từ dưới lên, từ phía dưới tấm ván anh nằm.
Nghe kỹ hơn, anh bắt đầu nhận ra các thứ tiếng nói khác nhau của những người xung quanh. Một người Fulani cứ kêu hoài kêu hủy bằng tiếng A-rập "Lạy Chúa Ala ở trên trời hãy cứu giúp con!". Và một gã thuộc bộ lạc Xêrer đang khàn khàn cất giọng rền rĩ, chắc là gọi tên những người thân trong gia đình. Nhưng phần lớn là Kunta nghe thấy tiếng Manđinka, những tay cả giọng nhất đang điên cuồng xổ hàng tràng tiếng lóng của đàn ông nguyền rủa tất cả bọn tubốp chết thảm chết hại. Những người khác vừa khóc vừa kêu, đâm ríu cả giọng, thành thử Kunta không thể xác định được lời lẽ cũng như thổ ngữ của họ, mặc dầu anh biết một số loại tiếng kỳ lạ anh nghe thấy chắc hẳn gốc gác từ bên ngoài đất nước Gămbia.
Trong khi nằm nghe, Kunta bắt đầu từ từ ý thức ra rằng là mình đang cố gắng đẩy khỏi tâm trí sự thúc bách muốn làm nguôi nhẹ những yêu cầu của ruột già, điều mà anh đã kiềm chế mấy hôm nay. Nhưng bây giờ anh không thể giữ được nữa và cuối cùng, phân tòi ra giữa hai mông anh. Ghê tởm chính bản thân mình, ngửi thấy phần đóng góp bổ sung của mình vào mùi hôi thối chung, Kunta bắt đầu nức nở và bụng anh lại cộn lên, lần này chỉ ứa ra chút nước rãi nhưng anh vẫn tiếp tục nôn khan. Anh tội tình gì mà đến nỗi bị trừng phạt cơ cực như thế này? Anh van xin Chúa Ala giải đáp cho mình hay. Từ cái buổi sáng đi kiếm gỗ làm trống anh chưa cầu nguyện lấy một lần, thế cũng đủ là tội lỗi rồi còn gì. Mặc dù không thể quỳ lên được và thậm chí không biết đằng nào là hướng đông, anh vẫn cứ nhắm mắt lại, nằm nguyên chỗ và cầu kinh, xin Chúa Ala xá tội.
Sau đó Kunta nằm một hồi lâu, lịm trong đau đớn, và dần dà nhận ra một cơn đau trong dạ dày thắt lại chẳng phải là gì khác ngoài nỗi đói. Anh chợt nghĩ ra là mình chưa ăn gì từ cái đêm trước khi bị bắt. Đang cố nhớ lại xem suốt thời gian đó mình có ngủ nghê gì không thì đột nhiên anh thấy mình đang bước dọc theo con đường mòn trong rừng, đi đằng sau anh là hai tên da đen, đằng trước là hai tên tubốp, y phục quái dị, và tóc dài màu sắc quái dị. Kunta mở choàng mắt và lắc đầu; người anh đẫm mồ hôi và tim đập thình thịch. Anh vừa chợp ngủ mà không biết. Đó là một cơn ác mộng, hay cơn ác mộng chính là cái bóng tối xú uế hôi thối này? Không, nó cũng thực như cái cảnh tại khu rừng trong giấc mộng của anh vậy. Ngược với ý muốn Kunta, tất cả vụt trở lại trong tâm trí anh.
Sau khi vật lộn tuyệt vọng với những tên phản bội da đen và bọn tubốp trong rừng, anh nhớ là mình tỉnh giấc dậy trong một đợt sóng đau nhức ê ẩm và thấy mình bị bịt miệng bịt mắt, hai cổ tay trói giật về đằng sau và hai cổ chân buộc chằng bằng thừng thắt nút. Vùng vẫy để tháo thân, anh bị chúng lấy gậy nhọn xọc vào người một cách dã man, cho đến khi máu chảy ròng ròng xuống chân. Bị lôi thốc dậy, và thúc đi bằng gậy, anh loạng choạng tiến trước bọn chúng, cố bước nhanh hết mức đôi chân buộc chằng của anh cho phép.
Tới một chỗ nào đó ven sông - Kunta có thể nhận ra điều đó bằng vào các âm thanh và cái cảm giác thấy đất mềm dưới chân - anh bị đẩy xuống một cái xuồng. Mắt vẫn bị bịt kín anh nghe thấy bọn hắc gian vừa lầm bầm vừa nhanh nhẹn chèo, còn bọn tubốp cứ thấy anh giãy giụa là đánh liền. Lên bờ rồi lại đi tiếp, cuối cùng, đêm ấy, họ tới một chỗ ở đó họ quẳng Kunta xuống đất, trói ghì anh vào một hàng rào tre và không hề báo trước, lột băng bịt mắt anh ra. Trời tối nhưng anh vẫn trông rõ bộ mặt trắng bợt của tên tubốp đứng cao vọt bên trên, anh và bóng những người khác trên mặt đất cạnh đấy, cùng số phận như anh. Tên tubốp chìa ra một khúc thịt cho anh cắn một miếng. Anh ngoặt đầu sang bên và mím chặt hàm lại. Rít lên giận dữ, tên tubốp nắm lấy cổ họng anh và cố bắt anh há miệng. Thấy Kunta vẫn ngậm chặt miệng, tên tubốp rụt nắm tay lại và thoi mạnh vào mặt anh.
Kunta được để yên cho đến hết đêm. Rạng sáng, anh bắt đầu nhìn rõ hình thù, những người bị bắt khác, trói ở những thân tre khác, tất cả có mười một người - sáu nam, ba nữ và hai trẻ con - do những tên hắc gian và tubốp vũ trang canh gác chặt chẽ. Các cô gái bị lột trần truồng; Kunta chỉ có thể đưa mắt về hướng khác; trước nay, anh chưa bao giờ trông thấy một phụ nữ khỏa thân. Tốp đàn ông, cũng trần truồng, ngồi im lặng hằm hằm, nỗi căm thù đầy sát khí hằn trên nét mặt, máu khô bết lại ở những vết roi cứa. Nhưng các cô gái thì kêu than, một cô hờ những người thân yêu chết trong một làng bị đốt phá, cô kêu khóc thảm thiết, vòng tay ôm một đứa bé tưởng tượng, chao qua chao lại, âu yếm nói nựng, và cô thứ ba chốc chốc lại thét lên là mình đang đi đến chầu chúa Ala.
Uất hận điên cuồng, Kunta nhào tới nhào lui, cố giựt đứt dây trói. Một nhát dùi cui nặng nề đánh anh bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, anh thấy mình cũng bị lột truồng, thấy tất cả đều bị cạo trọc đầu và mình mảy xoa đầy dầu cọ đỏ. Vào khoảng giữa trưa, hai tên tubốp khác tiến vào khu rừng cây. Bọn hắc gian lúc này nhăn nhở cười, nhanh chóng cởi trói cho các tù nhân khỏi những thân tre và quát họ đứng thành hàng. Các bắp thịt của Kunta cộn lên vì cuồng giận và sợ hãi. Một tên trong hai tên tubốp mới tới lùn tè, béo tròn và tóc bạc. Tên kia cao vọt lên bên hắn, lênh khênh, đồ sộ và quàu quạu, mặt chằng chịt những vết sẹo sâu do dao chém, song chính tên tóc bạc mới là kẻ khiến bọn hắc gian cùng những tên tubốp phải cười nịnh và gần như phủ phục trước hắn.
Nhìn suốt lượt, tên tóc bạc ra hiệu cho Kunta bước lên phía trước; và, khiếp đảm loạng choạng lùi về đằng sau, Kunta thét lên khi một ngọn roi xiết ngang lưng anh. Một tên hắc gian từ phía sau vật anh quỳ gối xuống, bẻ ngoặt đầu anh ra sau. Tên tubốp tóc bạc thản nhiên vạch đôi môi run rẩy của Kunta ra và xem xét răng anh. Kunta định vùng dậy, nhưng sau một nhát roi nữa, anh đứng lên theo lệnh chúng, người run lập cập trong khi tên tubốp đưa ngón tay khảo sát mắt, ngực và bụng anh. Khi những ngón tay nắm lấy fôtô Kunta, anh lạng người sang bên với một tiếng kêu tắc nghẹn. Lại phải hai tên hắc gian và thêm những nhát quật nữa để bắt Kunta cúi xuống gần như gập đôi người, và anh ghê sợ cảm thấy đôi mông mình bị banh rộng ra. Rồi tên tubốp tóc bạc gạt rúi Kunta sang bên một cách thô bạo và cũng tương tự như trên, hắn kiểm tra từng người một, kể cả các bộ phận kín của các cô gái đang rền rĩ. Sau đó, dưới làn roi và theo những tiếng thét lác ra lệnh, tất cả, đám tù nhân bị xua chạy vòng tròn trong khu rào, rồi nhảy lên nhảy xuống trong tư thế ngồi xổm.
Sau khi xem xét mọi người, tên tubốp tóc bạc và tên to lớn mặt đầy sẹo tách xa ra một quãng và thì thầm bàn nhanh với nhau. Bước trở lại, tên tóc bạc vẫy một tên tubốp khác, trỏ bốn người đàn ông, trong đó có Kunta và hai cô gái. Tên tubốp kia vẻ sửng sốt, hắn chỉ những người khác một cách cầu khẩn. Nhưng tên tóc bạc cương quyết lắc đầu. Kunta ngồi kéo căng dây trói, đầu như muốn nổ tung vì giận dữ trong khi bọn tubốp bàn cãi sôi nổi. Sau một lát, tên tóc bạc, vẻ kinh tởm, viết cái gì đó trên một mảnh giấy mà bọn tubốp kia đành phải nhận một cách bực bội.
Kunta tức giận giãy giụa, gào thét khi bọn hắc gian lại một lần nữa túm lấy anh, dằn anh ngồi trong tư thế khom lưng. Mắt giương to khiếp hãi, anh theo dõi một tên tubốp rút từ trong đống lửa ra một thanh sắt dài, mảnh, mà tên tóc bạc đã mang đến. Kunta vùng vẫy và thét rầm lên khi thanh sắt bục toang một vùng đau giữa hai vai anh. Khu rừng tre lần lượt vang lên tiếng la thét của những người khác. Rồi dầu cọ đỏ được xoa lên cái hình LL kỳ quái mà Kunta trông thấy trên lưng họ.
Trong giờ đó, họ tập tễnh đi thành một hàng, trong tiếng xiềng loảng xoảng, với những ngọn roi của bọn hắc gian sẵn sàng giáng xuống bất kỳ người nào thụt lại hay vấp ngã. Tận đêm khuya, khi tới chỗ hai chiếc xuồng giấu dưới rặng xú dày, vươn ra mặt sông, thì lưng và vai Kunta đã chằng chịt những vết roi tướp máu. Đám người chia làm hai nhóm, bọn hắc gian chèo xuồng chở họ xuyên qua đêm tối, còn bọn tubốp hơi thấy dấu hiệu giãy giụa nào là quật tới tấp.
Khi Kunta trông thấy một khối đen to lù lù trước mặt trong đêm, anh cảm thấy đây là cơ hội cuối cùng của mình. Bật dậy và bổ nhào giữa những tiếng quát tháo la thét xung quanh, anh vùng vẫy định nhảy xuống nước, làm con xuồng suýt nữa úp xấp, song anh bị trói liền với những người khác nên không thể vượt qua nổi mép thuyền. Anh hầu như không cảm thấy những nhát roi và dùi cui quật vào mạng sườn, lưng, bụng, đầu mặt - trong khi xuồng va mạnh vào sườn cái vật đen xì đồ sộ nọ. Qua cơn đau, anh cảm thấy máu âm ấm chảy ràn xuống mặt và nghe thấy nhiều tên tubốp kêu xí xố ở mé trên. Rồi thừng quấn từng vòng quanh anh khiến anh bất lực không chống cự nổi. Sau khi bị dồn thúc nửa kéo nửa đẩy lên một thứ thang dây kỳ lạ, anh còn đủ sức vặn người vùng vẫy điên cuồng tìm cách tháo thân một lần nữa; roi lại giáng xuống, nhưng bàn tay lại túm lấy anh giữa một mùi tubốp nồng nặc, giữa tiếng phụ nữ tru tréo và tiếng chửi rủa om xòm của bọn tubốp.
Qua mí mắt sưng vù, Kunta trông thấy một rừng cẳng chân, bàn chân khắp bốn xung quanh và, vừa ngước lên nhìn, vừa ráng đưa cánh tay trên che bọ mặt đầm đìa máu, anh trông thấy tên tubốp béo lùn tóc bạc đang đứng thản nhiên cầm một mẩu bút chì đánh dấu vào một quyển sổ. Rồi anh cảm thấy mình bị kéo thốc đứng lên và đẩy rúi rụi qua một quãng thẳng. Anh thoáng thấy những cây cột cao với những tấm buồm bằng vải trắng thô dày. Thế rồi chúng dẫn anh loang choạng, yếu ớt lần xuống những bậc cầu thang hẹp, tới một chỗ tối đen như mực; cùng một lúc, một mùi hôi thối không thể tưởng tượng được xộc vào mũi anh và những tiếng kêu não nùng đau đớn ập đến tai anh.
Kunta bắt đầu nôn mửa khi tên tubốp còng cổ tay, cổ chân anh, rồi đẩy anh về phía sau, ép giữa hai người đàn ông khác đang rên rẩm. Ngay cả trong cơn khủng khiếp, anh vẫn cảm thấy những ánh đèn lập lòe ở các hướng khác, có nghĩa là bọn tubốp đang dẫn những người cùng bị bắt với anh đem cùm ở chỗ khác. Rồi anh cảm thấy những ý nghĩ của mình truội đi, anh đồ rằng mình đang mơ. Và thế rồi, may sao, anh đâm mơ thật.
Chương 35
Chỉ bằng vào tiếng lạo xạo mở cửa hầm tàu, Kunta mới biết là ngày hay đêm. Nghe tiếng then cửa lách cách là anh ngóc đầu lên - động tác tự do duy nhất mà xiềng xích cùm trói anh cho phép - và bốn cái bóng tubốp đi xuống, hai tên cầm đèn lập lòe và roi bảo vệ hai tên kia đẩy một chậu thức ăn dọc theo lối đi hẹp. Chúng ấn những chiếc xoong thiếc đựng thức ăn lên trên đống nhớp bẩn giữa mỗi cặp bạn cùm. Cho đến nay, mỗi lúc thức ăn đến, Kunta đều cắn chặt hàm lại, thà nhịn đói đến chết còn hơn; cho tới khi nỗi cồn cào trong cái dạ dày lép kẹp của anh bắt đầu làm cho cơn đói trở nên ghê gớm hầu như không kém những đau đơn do bị đánh đập. Khi những người cùng dãy với anh đã được cho ăn, những ánh đèn cho thấy bọn tubốp tiếp tục đi xuống nữa với số thức ăn còn lại.
Thưa thớt hơn những lần cho ăn, và thường thường vào những lúc đêm đã xuống ở bên ngoài, bọn tubốp thỉnh thoảng lại đưa xuống hầm một số tù nhân mới, những người này khiếp sợ la thét và khóc thút thít khi bị roi quất, lùa tới bất kỳ chỗ nào có thể xiềng họ vào những khoảng trống dọc theo những dẫy ván gỗ cứng.
Một hôm, sau giờ ăn một chút, Kunta nghe thấy một tiếng động kỳ lạ, âm âm, dường như rung chuyển cả trần trên đầu anh. Một số người khác cũng nghe thấy và ngừng bặt không rên rẩm nữa. Kunta nằm chăm chú lắng nghe; tựa hồ có bao nhiêu bàn chân đang chạy tới chạy lui trên đầu vậy. Thế rồi - nghe trong bóng tối, càng gần gấp bội - vẳng tới một tiếng động mới, như của một vật gì rất nặng đang được kẽo kẹt kéo lên rất từ từ.
Tấm lưng trần của Kunta cảm thấy một rung động kỳ lạ từ tấm ván cứng, gồ ghề anh nằm. Anh cảm thấy trong ngực mình có cái gì thắt lại, phình ra và anh nằm cứng sững, lạnh toát người. Anh nghe thấy những tiếng sầm sầm, biết đó là những người đang chồn lên kéo căng xích. Anh có cảm giác như tất cả máu mình dồn cả lên đầu đang đập thình thịch. Và thế rồi, nỗi kinh hoàng quấn chặt lấy lục phủ ngũ tạng khi anh mang máng cảm thấy như cái chỗ này đang di động, mang họ đi. Khắp bốn xung quanh, người ta bắt đầu rống lên, thét lên cầu cứu Chúa Ala và anh linh của Người, rập đầu vào ván sàn, điên chồng vung còng kêu loảng xoảng. "Lạy Chúa Ala, hằng ngày con sẽ cầu nguyện Người không kém năm lần!" Kunta gào thét trong cơn náo loạn, "Xin hãy nghe con, hãy cứu giúp con!"
Những tiếng kêu khóc, cầu nguyện não nề tiếp tục và chỉ dịu đi khi từng người một, kiệt sức, theo nhau lả đi và gục xuống hổn hển lấy hơi trong bóng tối hôi tanh nồng nặc. Kunta biết rằng thế là mình sẽ không bao giờ được thấy lại Châu Phi nữa. Giờ đây, qua cả thân mình áp xuống ván nằm, anh có thể cảm thấy rõ ràng một chuyển động chầm chậm, lắc lư, đôi khi đủ để khiến vai hoặc cánh tay hoặc hông anh thoáng chạm vào thân thể nóng ấm của một trong hai người bị xiềng chung bên cạnh. Anh đã gào đến mất cả giọng, cho nên lúc này chỉ còn tiếng thét của tâm trí: "Tiêu diệt bọn tubốp - và những tên da đen phản bội tay sai!"
Anh đang âm thầm nức nở thì cửa hầm mở và bốn tên tubốp lục cục khiêng thùng thức ăn xuống. Một lần nữa, anh lại mím chặt hàm chống lại những co thắt cồn cào của cơn đói, nhưng rồi anh nghĩ tới nghĩ tới một điều kingtangô đã từng nói - là các chiến binh và thợ săn phải ăn tốt để có sức mạnh hơn người. Tuyệt thực có nghĩa là để cho sự suy nhược ngăn trở mình không giết được bọn tubốp cho nên lần này, khi chiếc xoong được ấn lên ván gỗ giữa anh và người nằm cạnh, Kunta cũng xục ngón tay vào chất cháo đặc sệt nọ. Vị nó như ngô nấu với dầu cọ vậy. Mỗi miếng nuốt ực đều làm cổ họng anh đau nhói ở chỗ bị bóp nghẹn những lần trước vì tội không chịu ăn, song anh cứ nuốt cho đến khi cái xoong sạch trơn, Anh có thể cảm thấy thức ăn vón thành một cục trong bụng và phút chốc, nó dâng lên tận cổ họng. Anh không hãm nó lại được và lát sau, bao nhiêu cháo lại ộc ra ván nằm. Qua tiếng nôn ọe của chính mình, anh nghe thấy nhiều người khác cũng thế.
Khi ánh đèn tới gần cuối dãy ván dài ở tầng Kunta nằm, bỗng nhiên anh nghe tiếng xiềng loảng xoảng, tiếng một cái đầu cụng vào gỗ, rồi một người tru tréo điên cuồng bằng một thứ ngôn ngữ kỳ lạ pha trộn tiếng Manđinka vớ một số chữ nghe như tiếng tubốp vậy. Bọn tubốp khiêng thùng thức ăn phá lên cười ầm ĩ, rồi những chiếc roi của chúng vun vút giáng xuống cho đến khi những tiếng kêu của gã đàn ông nọ bặt dần thành tiếng lắp bắp và thút thít. Có thể nào lại như thế? Phải chăng anh đã nghe thấy một người châu Phi nói tiếng tubốp? Phải chăng ngay giữa bọn họ ở dưới này cũng có hắc gian? Kunta đã từng nghe nói là bọn tubốp thường hay lật lọng với lũ phản bội da đen giúp việc chúng và quẳng lũ này vào cảnh xiềng trói.
Sau khi bọn tubốp tiếp tục xuống tầng dưới, hầu như không nghe thấy tiếng động nào ở tầng Kunta cho đến khi chúng lại xuất hiện với chiếc thùng rỗng và leo ra ngoài hầm, đóng cửa lại. Lúc đó, một làn sóng phẫn nộ bắt đầu lao xao lên bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, như ong kéo bầy. Rồi cuối dãy ván Kunta nằm, có một tiếng xích loảng xoảng nặng nề quật xuống, một tiếng rống đau đớn và tiếng nguyền rủa cay độc vẫn bằng cái giọng Manđinka đầy kích động kia. Kunta nghe thấy gã nọ tru tréo lên: "Các người tưởng ta là tubốp chăng?". Lại có những cú đánh mạnh hơn, nhanh hơn và những tiếng la tuyệt vọng. Rồi đòn đánh dừng lại và trong bóng tối của hầm tàu vẳng lên một tiếng thất thanh - rồi một tiếng ằng ặc ghê sợ, như của một người bị bóp cổ. Một tiếng xích loảng xoảng tiếng gót chân giãy giụa đập xuống ván sàn, rồi im lặng.
Đầu Kunta thình thịch và tim anh đập như trống làng khi các giọng nói xung quanh bắt đầu gào lên: "Hắc gian! Bọn hắc gian phải chết? Rồi Kunta đang gào theo họ và hòa nhịp lắc xiềng loảng xoảng như điên - thì đột nhiên cửa hầm lạo xạo mở ra, tuôn xuống luồng ánh sáng ban ngày cùng với một nhóm tubốp cầm đèn và roi. Hiển nhiên là chúng đã nghe thấy sự náo động ở bên dưới và mặc dù lúc này căn hầm đã hầu như hoàn toàn im ắng, bọn tubốp vẫn đổ xô theo những lối đi hẹp, quát tháo và vung roi quật trái quật phải tới tấp. Khi chúng bỏ đi không phát hiện ra kẻ bị chết, căn hầm tiếp tục im lặng một hồi lâu. Rồi rất khẽ khàng, Kunta nghe thấy một tiếng cười rầu rĩ từ cuối dãy ván, cạnh chỗ tên phản bội nằm chết thẳng cẳng.
Bữa ăn sau là một đợt căng thẳng, như cảm thấy có gì không ổn, bọn tubốp quật roi luôn tay, ráo riết hơn thường lệ. Kunta giật thót và kêu lên khi một nhát roi vút ngang hai chân đau như cứa. Anh đã có kinh nghiệm là khi một người bị đánh mà không kêu, anh ta sẽ ăn đòn dữ hơn, kỳ đến lúc kêu lên mới thôi. Rồi Kunta bốc và nuốt ực thứ cháo vô vị trong khi đưa mắt nhìn theo ánh đèn tiếp tục di chuyển xuống cuối dãy.
Mọi người trong hầm đều lắng tai khi một tên tubốp kêu lên một cái gì với những tên kia. Người ta thấy ánh đèn chiếu lia lịa, rồi lại ô! a! và chửi rủa, rồi một tên trong bọn chạy bổ lên qua cửa hầm, phút chốc trở lại cùng với hai tên nữa. Kunta có thể nghe thấy tiếng mở khóa xiềng và còng sắt. Sau đó, hai tên tubốp nửa khiêng nửa kéo lết cái xác chết dọc theo lối đi và lên cửa hầm trong khi bọn kia tiếp tục khiêng lục cục thùng thức ăn theo các ngách hầm tàu.
Tốp mang thức ăn đang ở tầng dưới thì bốn tên tubốp nữa chui qua cửa hầm trèo xuống và đi thẳng đến chỗ tên hắc gian đã bị xiềng. Kunta ngoẹo đầu nhìn chúng giơ cao đèn. Hai tên trong bọn tay đánh, miệng chửi rủa tàn tệ, tiếng roi quất xuống da thịt kêu veo véo. Người bị đánh, mới đầu không chịu kêu la, chỉ nghe tiếng roi đòn như vũ bão cũng khiến Kunta gần như tê điếng, anh có thể nghe thấy người bị đánh quằn quại giật giẹo dây xiềng trong cơn đau đớn nhục hình - và trong quyết tâm một mực không chịu kêu.
Rồi bọn tubốp nguyền rủa càng dữ, gần như rít lên và người ta thấy đèn chuyển qua tay khác khi tên nọ thay phiên tên kia quật roi. Cuối cùng người bị đánh bắt đầu kêu - mới đầu là một câu chửi thề của người Fula, rồi đến những điều nghe không hiểu ra sao mặc dầu cũng bằng tiếng Fula. Kunta vụt nghĩ đến những con người trầm lặng, dịu dàng thuộc bộ lạc Fula vẫn thường chăn gia súc cho người Manđinka - trong khi những tiếng roi quất vẫn tiếp tục cho đến khi người bị đánh hầu như không còn sức mà rên nữa. Rồi bốn tên tubốp bỏ đi, vừa chửi bới vừa sặc sụa và nôn khan trong mùi hôi thối nồng nặc.
Tiếng rên của người Fula nọ run rẩy qua căn hầm tối đen. Rồi một lát sau, một giọng nói rành rọt cất lên bằng tiếng Manđinka: "Hãy chia sẻ nỗi đau của anh ta. Ở nơi đây, chúng ta phải coi nhau như người cùng một làng". Đó là tiếng của một bậc cao niên. Ông nói đúng. Nỗi đau của người Fula này cũng là nỗi đau của chính Kunta. Anh cảm thấy như mình sắp nổ tung vì uất giận. Một cách nào đó không xác định nổi, anh cũng cảm thấy một nỗi kinh hoàng chưa từng thấy, dường như phát ra từ xương tủy mình. Một phần con người anh muốn chết quách đi để thoát khỏi mọi nông nỗi này, nhưng không, anh phải sống để trả thù. Anh tự cưỡng bách mình nằm im, hoàn toàn bất động. Phải mất một hồi lâu mới làm được điều đó, song cuối cùng, anh cảm thấy sự căng thẳng và bối rối trong anh, thậm chí cả những đau đớn thể xác, dịu dần - trừ cái chỗ giữa hai vai bị thanh sắt nung đỏ dí vào. Anh thấy giờ đây trí mình có thể tập trung tốt hơn vào sự lựa chọn duy nhất đặt ra trước mắt anh và những người cùng cảnh ngộ: hoặc là tất cả đều chết ở cái chốn ác mộng này, hoặc là phải thắng và tiêu diệt bọn tubốp bằng cách nào đó.
Chương 36
Muỗi đốt nhoi nhói, rồi rận cắn ngứa ran người, mỗi lúc một thêm tệ hại. Trong nhơ nhớp, rận cũng như bọ chét nhân bội lên hàng nghìn cho tới khi nhung nhúc khắp hầm tàu. Ác nhất là ở những kẻ nào trên thân thể có chút lông, tóc. Hai bên nách Kunta và quanh fôtô cứ như là lửa đốt, và bàn tay còn tự do của anh gãi lia lịa khắp những chỗ bàn tay bị cùm không với tới được.
Anh vẫn nghĩ tới chuyện vùng dậy chạy trốn, nhưng rồi, một lát sau, mắt đầy những giọt lệ ấm ức thất vọng và uất hận trào dâng, anh lại phải cố dằn lòng cho đến khi cảm thấy bình tĩnh lại phần nào. Điều tệ hại nhất là anh không thể xê dịch đi đâu được, anh cảm thấy muốn cắn vào những xiềng xích trói buộc mình. Anh quyết định là phải tập trung vào một cái gì, vào bất cứ cái gì để làm bận óc hoặc bận tay, kẻo đến phát điên lên mất - như một số người khác trong hầm tàu đã bị thế, cứ bằng vào những điều họ gào lên thì đủ rõ.
Do cứ nằm yên không động đậy, lắng nghe tiếng thở của những người ở hai bên, từ lâu Kunta đã có thể đoán biết đích xác người nào trong bọn họ đã ngủ hay còn thức. Bây giờ anh tập trung vào nghe xa hơn nữa. Cứ tập mỗi lúc một quen, qua việc chăm chú lắng nghe những tiếng lặp đi lặp lại, anh thấy ra rằng, sau một thời gian, tai mình có thể phân định gần như chính xác vị trí của từng tiếng, đó là một cảm giác khác thường, hồ như dùng tai thay mắt vậy. Thi thoảng, giữa những tiếng rên rẩm và nguyền rủa tràn ngập đêm tối, anh nghe thấy một người nào nện đầu đánh thình xuống ván gỗ nơi anh ta nằm. Và lại có tiếng động khác kỳ lạ và đơn điệu. Âm thanh đó ngắt quãng từng đợt, rồi lát sau lại tiếp tục, nghe như hai miếng kim khí cọ thật mạnh vào nhau và sau khi nghe kỹ thêm, Kunta hình dung là một người nào đó đang cố mài những mắt xích cho rời ra. Kunta cũng thường nghe thấy những tiếng kêu cộc lốc và xích sắt xủng xoẻng va nhau mỗi khi có hai người vung cùm choảng vào cổ chân, cổ tay nhau.
Kunta đã mất mọi ý niệm về thời gian. Cứt đái, nôn mửa nồng nặc khắp bốn xung quanh, loang ra thành một lớp nhão nhoét trơn bóng phủ trên những tấm ván dài cứng lát chỗ nằm. Đúng vào lúc anh nghĩ mình không đủ sức chịu đựng thêm nữa thì tám tên tubốp từ trên cửa hầm tàu đi xuống, miệng chửi rủa nhặng xị. Thay vì cái thùng đựng đồ ăn thường lệ, chúng mang những thứ tựa như một loại xẻng cán dài và bốn cái chậu lớn. Và Kunta kinh ngạc nhận thấy chúng không mặc quần áo chi cả.
Những tên tubốp trần truồng này, hầu như ngay lập tức bắt đầu nôn ọe dữ hơn mọi tên khác đã xuống hầm tàu trước đây. Trong ánh đèn bấm, từng tốp hai tên một gần như nhảy chồm chồm dọc các lối đi, thọc xẻng lên những ván nằm và cào bớt một phần cái đám bầy nhầy vào những chiếc chậu. Cứ đầy chậu bọn tubốp lại kéo lết dọc lối đi ì ạch khiêng lên, va cả vào các bậc thang, đưa qua cửa hầm tàu mở rộng để đổ ra ngoài, rồi lại quay trở xuống. Lúc này bọn tubốp càng nôn khan tợn, mặt mày rúm ró nom đến tức cười; và thân hình lông lá, trắng hếu của chúng lấm tầm đầy những cục bẩn mà chúng đang cạo đi từ ván nằm. Song khi chúng hoàn thành công việc và bỏ đi, mùi hôi thối phát ngột, ngạt thở, kinh khủng vẫn chẳng hề thay đổi mảy may.
Lần sau, bọn tubốp xuống đông hơn con số bốn tên thường mang thức ăn. Kunta đổ chừng hẳn phải có tới hai mươi tên túm tụm trên các bậc thang. Anh nằm thượt ra, người lạnh toát. Ngảnh đầu sang hai bên, anh đều thấy những tốp nhỏ tubốp đứng trấn quanh hầm tàu, một số mang roi và súng bảo vệ những tên khác cầm đèn bấm huơ lên ở hai đầy mỗi dãy người bị xiềng. Một nỗi sợ thắt nút lại lớn dần trong bụng Kunta khi anh nghe thấy những tiếng lách cách lạ tai rồi những âm loảng xoảng nặng nề. Rồi cổ chân phải bị cùm của anh bắt đầu giật giật; với một lóe chớp kinh hoàng, anh nhận ra rằng bọn tubốp đang tháo xích cho mình. Tại sao? Có điều gì ghê gớm sắp xảy ra đây? Anh nằm yên, cổ chân phải không còn cảm thấy trọng lượng quen thuộc của dây xiềng, tai nghe thấy khắp hầm tàu tiếp tục vang lên những tiếng lách cách khác và tiếng xích sắt bị kéo lên loảng xoảng. Thế rồi bọn tubốp bắt đầu gầm thét và quất roi vun vút. Kunta biết như vậy có nghĩa là bọn anh phải xuống khỏi ván nằm. Tiếng kêu hoảng loạn của anh hòa vào một hỗn tấu cuồng loạn, bất thần của những la thét bằng nhiều thứ tiếng khác nhau khi đám tù nhân nhổm người giật lùi lại, đầu vào những xà gỗ trên trần.
Roi quất xuống giữa những la thét đau đớn trong khi từng cặp tù nhân nối nhau nhảy sầm sầm xuống lối đi giữa các dãy ván nằm. Kunta và anh bạn bị cùm chung người Uôlôf nép vào nhau, quằn quại dưới những roi đòn vụt lui vụt tới. Rồi những bàn tay thô bạo tóm lấy cổ chân họ kéo qua lớp cặn bẩn lầy nhầy trên ván nằm, xô xuống cái mớ bùng nhùng những tù nhân khác mắc vào nhau giữa lối đi, tất cả đều rống lên dưới làn roi của bọn tubốp. Vặn mình và oằn oại một cách vô hiệu để tránh đòn, Kunta thoáng thấy những bóng người chuyển động trên nền sáng của cửa hầm để ngỏ. Bọn tubốp đang kéo những tù nhân đứng dậy - hết cặp này đến cặp khác - rồi vừa đánh vừa đẩy họ loạng choạng trong bóng tối về phía cầu thang cửa hầm. Lảo đảo bên người bạn cùm Uôlôf, Kunta cảm thấy như chân mình không còn dính vào cơ thể nữa; trần truồng, mình bê bết cặn bẩn, anh cầu trời khấn phật phù hộ cho mình khỏi bị ăn thịt.
Tia sáng đầu tiên giữa thanh thiên bạch nhật sau gần mười lăm ngày dưới hầm tối, như một nhát búa bổ mạnh vào khoảng giữa hai mắt Kunta. Anh chệnh choạng, đau nhói như nổ con ngươi và vung bàn tay không bị cùm lên che mắt. Đôi chân trần cho anh biết là mình đang bước trên một cái gì lắc lư nhè nhẹ từ bên này qua bên kia. Anh quờ quạng tiến lên như người mù, mắt tuy nhắm nghiền, lại lấy tay bịt chặt, vẫn lọt chút ánh sáng cay xè. Cố gắng một cách vô hiệu để thở qua hay lỗ mũi bị rỉ vít chặt, anh há hốc đôi môi nứt nẻ, hớp thật sâu một hụm không khí biển - hớp không khí biển đầu tiên trong đời anh. Hơi biển ngồn ngộn sinh khí, sạch trong làm phổi anh co giật và anh đổ rụi xuống boong tàu, nôn thốc tháo bên cạnh người bạn cùm. Khắp xung quanh, nghe thấy tiếng nôn mửa tiếp tục, tiếng xích lanh canh, tiếng roi quất vào da thịt, tiếng la thét đau đớn giữa hàng tràng quát tháo, chửi rủa của bọn tubốp cùng những tiếng phần phật kỳ lạ trên đầu.
Khi một ngọn roi nữa xé ngang lưng anh, Kunta quất người né sang bên, tai nghe thấy người bạn Uôlôf hộc lên sau nhát quất trúng mình. Làn roi tiếp tục rứt da rứt thịt cả hai cho đến lúc họ cố chệnh choạng đứng được dậy. Anh ti hí mắt nhìn xem liệu chừng có thể tránh đòn được phần nào chăng, nhưng đầu anh lại nhói buốt lên những lo sợ khi kẻ tra tấn đẩy rúi rụi bọn anh xô về một phía, ở đó Kunta lờ mờ thấy bóng những tên tubốp khác đang xâu một chuỗi dây xích dài qua những còng ngoạm quanh cổ chân mỗi người. Thì ra trong bóng tối dưới hầm tàu, bọn chúng đông hơn anh tưởng - đông hơn mọi lần trước nhiều, chưa bao giờ bọn tubốp xuống đó lắm đến thế. Dưới ánh nắng rực rỡ, nom chúng càng trắng trợt hơn, gớm ghiếc hơn, mắt hõm sâu những hốc của tật bệnh tóc dài lạ kỳ màu vàng hoặc đen hoặc đỏ, một số tên còn có lông ở quanh mồm và dưới cằm nữa. Tên thì xương xẩu, tên thì béo mập, lại có những tên mang những vết sẹo xấu xí, do dao chém, hoặc mất một tay, một chân hoặc một mắt nhiều tên lưng chằng chịt những vết sẹo sâu. Kunta thấy một số tên trong bọn này chỉ có lưa thưa mấy cái răng khiến anh vụt nhớ lại lúc răng mình bị xét, đếm kỹ lưỡng như thế nào.
Nhiều tên đứng cách quãng dọc theo lan can tàu, tay cầm roi, dao dài hoặc một loại gậy nặng bằng kim khí có một lỗ nhỏ ở đầu, và đằng sau chúng là một cảnh tượng kỳ diệu không thể tưởng tượng được đối với Kunta: nước xanh lăn tăn trải ra bất tận. Anh gật đầu nhìn lên phía những tiếng phần phật trên đầu và nhận thấy chúng phát ra từ những tấm vải trắng khổng lồ phất phới giữa những cây cột to tướng cùng với nhiều dây dợ, những tấm vải dường như đầy ắp gió. Ngảnh đầu nhìn quanh Kunta thấy một hàng rào tre cao hơn đầu người dăng suốt chiều ngang của con tàu lớn. Chính giữa hàng rào, lộ ra cái miệng há đen ngòm của một vật đồ sộ bằng kim khí nom gớm chết với một ống rỗng, dài, thành dầy và những đầu gậy kim khí giống như những gậy bọn tubốp cầm ở dọc lan can. Cả cái vật kếch sù kia lẫn những cây gậy đều chĩa về phía Kunta cùng các tù nhân khác bị tập trung.
Nhân lúc những còng cổ chân đang được nối vào sợi dây xích mới, Kunta có dịp nhìn kỹ người bạn cùm Uôlôf lần đầu. Cũng giống như Kunta, người bác ta bê bết cặn bẩn từ đầu đến chân. Xem chừng bác ta trạc tuổi Ômôrô, cha Kunta, mặt có những nét cổ truyền của bộ lạc Uôlôf và da rất đen. Lưng bác rỉ máu từ những vệt roi cứa và mủ ứa ra từ một dấu dùi nung hình chữ LL giữa hai bả vai. Vì cả hai cùng dõi mắt vào nhau, Kunta nhận ra rằng người Uôlôf đang trừng trừng nhìn mình cũng với vẻ kinh ngạc như thế. Giữa sự náo động, họ có thì giờ nhìn kỹ cả những tù nhân trần truồng khác, hầu hết đầu khiếp hãi lắp bắp không ra tiếng. Bằng vào những đặc điểm diện mạo khác nhau, những hình xăm riêng của từng bộ tộc và những dấu rạch trên da, Kunta có thể nhận ra một số là người Fula, người Jôla, người Xêrer và người Uôlôf như người bạn cùm của anh, nhưng đa số là người Manđinka - còn một số người khác, anh không biết chắc lắm. Kunta phấn khởi trông thấy người mà anh dám chắc là đã giết chết tên hắc gian. Đích thị anh ta là người Fula, khắp mình anh bê bết máu do trận đòn bữa trước.
Phút chốc, họ bị vụt túi bụi và dồn về chỗ có một dãy mười tù nhân khác đang bị tưới đẫm những xô nước biển múc từ mạn tàu lên. Rồi những tên tubốp khác cầm những chổi cán dài cọ người các tù nhân đang rống lên. Kunta cũng la khi luồng nước mặn xói vào người rát buốt như lửa đốt ở những vết roi cứa tướp máu và chỗ dùi nung trên lưng. Anh càng gào to hơn khi những rễ chổi cứng không những làm bong và cạo đi một phần cáu bẩn đóng bánh trên mình, mà còn làm toác những vết roi đã đóng vảy ra nữa. Anh trông thấy nước chảy ngầu bọt hồng hồng dưới chân bọn họ. Rồi họ bị lùa trở lại giữa boong tàu để rồi bị quẳng rúi rụi vào nhau. Kunta ngẩn tò te nhìn những tên tubốp đánh đu như khỉ trên những cây cột, kéo đám dây dợ chằng chịt giữa những tấm vải trắng lớn. Ngay cả giữa lúc bị chấn động như vậy, Kunta vẫn khoan khoái tận hưởng hơi nóng của mặt trời, lòng rộn lên một cảm giác nhẹ nhõm khôn xiết tả vì trút bỏ được một phần nhớp bẩn trên da thịt.
Một hợp xướng đột ngột những la hét khiến đám đàn ông bị xiềng ngẩng phắt lên. Khoảng hai mươi tù nữ, phần lớn ở tuổi vị thành niên, và bốn đứa bé, tất cả trần truồng không bị xiềng, từ sau hàng rào chạy ùa tới, theo sau là hai tên tubốp cầm roi nhăn nhở cười. Kunta lập tức nhận ra mấy cô gái bị đưa lên tàu cùng với mình - lòng tràn đầy phẫn nộ, anh theo dõi cả đám tubốp đang hấp háy liếc nhìn thân thể lõa lồ của họ, thậm chí một số còn xoa xoa fôtô nữa. Ráng hết ý lực, anh kiềm được cơn bồng bột thôi thúc anh đâm bổ vào những tên tubốp gần nhất bất chấp vũ khí của chúng. Nắm chặt tay lại, anh cố hít không khí để tiếp tục thở bình thường, quay mắt khỏi đám tù nữ hồn siêu phách lạc.
Rồi một tên tubốp đứng cạnh lan can bắt đầu kéo ra kéo vô giữa đôi tay một vật kỳ lạ có xếp nếp, phát ra một âm thanh vi vút. Một tên khác đánh một chiếc trống châu Phi hòa theo, trong khi tụi kia sắp thành một hàng xộc xệch, đám tù nhân đàn ông, đàn bà, trẻ con trần truồng giương mắt nhìn chúng. Bọn tubốp sắp hàng có một đoạn thừng, mỗi tên quấn một cổ chân vào đó, tựa hồ sợi thừng này là một chuỗi xích giống như chuỗi dùng để xiềng đám tù nhân. Giờ đây, miệng mỉm cười, bọn chúng bắt đầu đồng loạt chồm chồm nhảy những bước ngắn theo nhịp trống và cái vật kêu vi vu như gió kia. Rồi chúng và những tên tubốp mang đầy khí giới ra hiệu cho đám tù nhân đàn ông cùng nhảy theo kiểu đó. Nhưng khi đám người bị xiềng vẫn tiếp tục đứng ngây như phỗng thì bọn tubốp đang cười bỗng trở nên cau có và bắt đầu quật roi lia lịa.
"Nhảy đi!" đột nhiên người phụ nữ lớn tuổi nhất kêu lên bằng tiếng Manđinka. Bà ta trạc tuổi Binta, mẹ Kunta. Vọt ra khỏi hàng, đích thân bà ta bắt đầu nhảy. "Nhảy đi!" bà lại kêu the thé một lần nữa trừng trừng nhìn toán phụ nữ và trẻ con, rồi đám này cũng bắt chước bà. "Nhảy để giết bọn tubốp!" bà rít lên, cặp mắt nhanh nhẹn lóe chớp nhìn đám đàn ông trần truồng, cánh tay và bàn tay xỉa mạnh theo động tác của điệu nhảy chiến binh. Thế rồi khi hiểu thấu ý đồ của bà từng cặp tù nhân nam bị cùm chung bèn nối tiếp nhau bắt đầu loạng quạng, yếu ớt nhảy lên nhảy xuống, dây xiềng va lanh canh vào sàn tàu. Đầu cúi gằm, Kunta nhìn thấy cái mớ chân cẳng hỗn độn nhảy loi choi, cảm thấy chân của chính mình nhũn ra, trong khi hơi thở hổn hển ngắt từng đợt. Rồi người đàn bà cất tiếng hát và đám con gái hòa theo. Âm điệu nghe rộn rã song lời họ hát kể lại chuyện bọn tubốp gớm ghiếc kia đêm đêm lôi mọi chị em tù vào những góc tối của con tàu như thế nào và dùng họ như những con chó. "Tubốp fa!" (tiêu diệt bọn tubốp), họ thét lên, người cười mỉm, kẻ cười lớn thành tiếng. Cánh đàn ông trần truồng đang nhảy cũng hòa theo: "Tubốp fa" cả đến bọn tubốp cũng nhăn răng ra cười, một số tên còn khoái chí vỗ tay bồm bộp.
Nhưng đầu gối Kunta bắt đầu rụn xuống và cổ họng thắt lại khi trông thấy hai tên tubốp tiến lại gần, chính cái tên béo lùn tóc bạc và tên to lớn, quàu quạu, mắt bị dao chém thành sẹo, đã có mặt ở nơi Kunta bị khám xét, đánh đập, bóp cổ và đánh dấu bằng dùi nung đỏ trước khi đưa lên tàu. Thoắt cái, một im lặng đột ngột sập xuống khi những người tù trần truồng khác trông thấy hai tên đó, và chỉ nghe thấy độc có tiếng những tấm vải lớn phần phật trên đầu vì ngay cả đám tubốp còn lại cũng sững người trước mặt chúng.
Cất giọng khàn khàn sủa ra một câu gì đó, tên to lớn gạt đám tubốp kia ra khỏi dãy người bị xiềng. Lủng lẳng ở thắt lưng hắn là một cái vòng lớn gồm những vật thon dài, lấp lánh mà Kunta đã thấy nhiều tên khác dùng để mở những dây xích. Thế rồi tên tóc bạc tiến vào giữa đám người trần truồng, ghé mắt nhìn sát thân thể họ. Chỗ nào thấy vết roi tấy lên tợn, hoặc thấy mủ rỉ ra từ những nốt chuột cắn hay chỗ dùi nung, hắn liền bôi lên một chút mỡ gì đó lấy từ một cái hộp mà tên to lớn chìa ra cho hắn. Hoặc giả chính tên to lớn rảy một thứ bột vàng vàng đựng trong một bình chứa lên các cổ tay, cổ chân đã chuyển sang một màu xám xì tật bệnh và ươn ướt dưới những còng sắt. Khi hai tên tubốp tiến đến gần Kunta, anh lùi lại vì sợ và tức giận, nhưng rồi tên tubốp tóc bạc cứ bôi mỡ lên những chỗ tấy mủ và tên to lớn cứ rảy bột lên cổ chân, cổ tay anh, thậm chí chẳng tên nào tỏ vẻ nhận ra Kunta là ai nữa.
Rồi đột nhiên, giữa những tiếng kêu nổi lên trong đám tubốp, một trong số những cô gái bị đưa lên tàu cùng đợt với Kunta chồm lên man dại giữa những tên khác. Trong khi mấy tên cố túm và lao người rượt bắt, cô gái thét lên băng mình qua lan can tàu và đâm đầu xuống. Trong cuộc đại náo rầm rĩ tiếng quát tháo, tên tubốp tóc bạc và tên to lớn giật lấy những chiếc roi và, vừa chửi rủa tàn tệ, vừa quất vào lưng những tên luýnh quýnh đằng sau để cô gái xổng mất khỏi tay.
Thế rồi những tên tubốp ở bên trên, giữa những tấm vải, bỗng la rầm lên, chỉ xuống biển. Ngảnh lại hướng ấy, đám người trần truồng nhìn thấy cô gái nhấp nhô trên sóng - và cách đó không xa một cặp vây đen xì đang lao vút về phía cô. Rồi vọng tới một tiếng thét nữa - một tiếng thét ớn lạnh cơ hồ làm đông cả máu - rồi một lớp bọt ngầu, một sự quẫy lộn và cô gái bị kéo tuột đi mất tăm, chỉ để lại trên làn nước một vật đỏ ở chỗ vừa nãy còn thấy cô. Lần đầu tiên, không có ngọn roi nào giáng xuống khi đám người bị xiềng, khiếp đảm đến lộn mửa được lùa trở xuống hầm tàu và xích lại nguyên chỗ cũ. Đầu Kunta quay cuồng. Sau khi hưởng không khí tươi mát của đại dương, mùi hôi thối lại càng không chịu nổi và sau ánh ngày, hầm tàu lại càng tối tăm mù mịt hơn. Chẳng mấy chốc, khi một cơn náo động mới dấy lên ở cách đó một quãng, đôi tai đã thành thạo của Kunta hiểu ngay là bọn tubốp đang xua những tù nhân thất kinh ở tầng dưới lên boong.
Một lát sau, anh nghe thấy một tiếng thì thầm nhỏ bên tai phải. "Jula!" Tim Kuta giật đánh thót. Anh biết rất ít tiếng Uôlôf, nhưng biết người Uôlôf và một số bộ tộc khác dùng chữ Jula để chỉ những lữ khách và thương khách thường thường là người Manđinka. Và xoay đầu lại gần người Uôlôf hơn một chút, Kunta thì thào: "Jula, Manđinka". Hồi lâu, trong khi anh nằm im, tâm trí căng thẳng, người bạn Uôlôf không hé răng đáp lại. Trong đầu Kunta lóe lên ý nghĩ rằng giá anh có thể nói được nhiều thứ tiếng như hai ông bác... song anh lấy làm xấu hổ vì đã đưa các bác đến nơi này, dù chỉ trong ý nghĩ.
"Uôlôf, Jêbu Manga", cuối cùng, người kia thì thào. Và Kunta hiểu đó là tên bác ta.
"Kunta Kintê", anh thầm thì đáp lại.
Thỉnh thoảng trao đổi rì rầm trong nỗi khát khao tuyệt vọng muốn được giao lưu, họ lẩy trí óc nhau, người nọ học tiếng người kia, đây một chữ, kia một chữ. Y như thể học những chữ đầu tiên hồi ấu thơ vậy. Trong một quãng ngắt hai bên cùng im lặng, Kunta nhớ lại một đêm gác ngoài ruộng lạc phòng khỉ đầu chó, đống lửa đằng xa của một mục đồng người Fula đã đem lại cho anh một cảm giác ấm cúng như thế nào và anh đã ước ao có cách gì để trao đổi vài lời với người đó mà anh chưa hề gặp mặt. Dường như lời cầu ước đó giờ đây đang được thực hiện, chỉ khác cái đây là người Uôlôf suốt bao tuần cùng nằm đó, cùm chặt vào nhau, mà không thấy mặt.
Giờ đây Kunta moi từ trí nhớ ra tất cả những từ ngữ Uôlôf mà anh đã từng nghe thấy. Anh biết người bạn Uôlôf cũng đang làm như thế với những từ Manđinka mà bác ta biết nhiều hơn là anh biết tiếng Uôlôf. Trong một đợt im lặng khác nhau giữa hai người, Kunta cảm thấy là người nằm mé bên kia, vốn trước nay không hề thốt ra lấy một tiếng ngoài việc rên rẩm kêu đau, giờ đây đang dỏng tai chăm chú nghe họ trò chuyện. Qua tiếng rì rầm lan dần ra khắp tàu, Kunta nhận ra rằng, một khi đám tù nhân đã thực sự có dịp nhìn thấy nhau trên kia giữa thanh thiên bạch nhật, anh và người bạn cùm không phải là cặp duy nhất hiện đang cố tìm cách giao lưu với nhau. Tiếng rì rầm vẫn tiếp tục lan rộng. Giờ đây, hầm tàu chỉ im lặng khi bọn tubốp mang chậu thức ăn xuống hoặc mang chổi cọ nhớp bẩn trên ván nằm. Và ngay cả cái im lặng những lúc đó cũng mang một tính chất mới: kể từ khi họ bị bắt và bi xiềng, lần đầu tiên giữa những người đàn ông này dường như vừa nảy ra một ý thức cộng đồng.
Chương 37
Lần sau được đưa lên boong, Kunta chủ tâm nhìn kỹ người xếp hàng sau mình, tức là người nằm bên trái anh dưới hầm tàu. Đó là một người thuộc bộ lạc Xêrer, lớn tuổi hơn Kunta nhiều, và toàn thân bác ta, cả đằng trước lẫn đằng sau đều hằn vết roi cứa, nhiều vết sâu và mưng mủ đến nỗi Kunta đâm hối hận vì đôi khi đã ước gì có thể nện cho bác ta một trận trong bóng tối về cái nỗi cứ luôn miệng rền rĩ kêu đau. Chằm chằm nhìn trả lại Kunta, đôi mắt đen của người Xêrer đầy giận dữ và thách thức. Một ngọn roi vút xuống giữa lúc hai người đứng nhìn nhau - lần này nhằm vào Kunta, thúc anh tiến lên. Nhát quất mạnh khiến anh suýt khuỵu đầu gối và làm bùng nổ một cơn điên khùng. Thét đến xé họng như một con thú dữ, Kunta lao tới tên tubốp, chỉ để mất thăng bằng ngã lồm cồm kéo luôn theo cả người bạn cùm, trong khi tên tubốp nhẹ nhàng tránh được cả hai. Mọi người nhốn nháo xung quanh trong khi tên tubốp nheo mắt hằn học, vung roi như một lưỡi dao giáng liên hồi xuống cả Kunta lẫn người Uôlôf. Kunta cố lăn lộn né tránh và bị đá túi bụi vào mạng sườn. Tuy nhiên, anh và người Uôlôf thở hồng hộc vẫn xoay sở lảo đảo đứng được lên, nhập trở lại giữa đám người cùng dẫy ván nằm đang thất thểu bước tới đón những xô nước biển dội vào người.
Lát sau, chất muối mặn sót chà vào những vết thương của Kunta như lửa đốt và cùng với những người khác, anh la lên, trùm lấp tiếng trống và tiếng của cái khí cụ eo éo lại bắt đầu đánh nhịp cho đám người bị xiềng nhảy múa làm trò tiêu khiển cho bọn tubốp. Kiệt sức vì trận đòn mới, Kunta và người Uôlôf vấp ngã hai lần; nhưng những ngọn roi và những cú đá lại thúc họ lóc cóc nhảy lên nhảy xuống, líu ríu trong những dây xiềng. Kunta sôi máu đến nỗi hầu như không nhận ra là toán phụ nữ đang hát "Tubốp fa!" và cuối cùng, bị xích lại chỗ cũ dưới hầm tối, tim anh rộn lên cả một nỗi thèm khát muốn giết lũ tubốp.
Cứ cách mấy ngày, tám tên tubốp trần truồng lại xuống căn hầm tối xú uế một lần để hớt những chậu phân, bã tích lại trên những ván nằm của đám tù nhân bị xiềng. Những lúc ấy, Kunta thường nằm yên, hằn học đưa mắt chăm chăm theo dõi những ánh đèn lập lòe màu da cam, nghe bọn tubốp chửi rủa và đôi khi trượt chân ngã vào đám lày nhày dưới chân - giờ đây càng ngồn ngộn lên vì mọi người mỗi lúc một hay tháo dạ không kiềm chế nổi, đến nỗi cứt đái bắt đầu tong tong rớt từ mép ván nằm xuống lối đi.
Lần lên boong vừa rồi, Kunta nhận thấy một người tập tễnh trên một chân bị nhiễm trùng nặng. Tên trùm tubốp đã bôi thuốc mỡ vào chỗ đau, nhưng không ăn thua, và trong bóng tối của hầm tàu, người đó bắt đầu kêu gào dữ dội. Lần lên boong tiếp theo, anh ta phải có người dìu và Kunta thấy cái chân, trước đó mới chỉ xam xám, giờ đã bắt đầu thối rữa ra và ngay cả ngoài trời thoáng đãng cũng vẫn khắm lặm. Kỳ này, anh ta được giữ lại trên boong trong khi mọi người khác lại bị lùa trở xuống. Mấy ngày sau, đám phụ nữ, qua lời hát kể cho các tù nhân nam rằng chân người kia đã bị cắt cụt và một phụ nữ được đưa đến săn sóc, nhưng anh ta chết ngay trong đêm đó và bị quẳng xuống biển. Từ đó, mỗi lần xuống cọ ván nằm, bọn tubốp còn thả những miếng kim loại nung đỏ vào những xô dấm có độ chua mạnh. Những đám hơi bốc lên khen khét làm cho hầu tàu đỡ hôi thối hơn, song chẳng bao lâu, một không khí ngột ngạt lại bao trùm. Kunta có cảm giác cái mùi ấy sẽ không bao giờ rời khỏi phổi và da thịt mình.
Hễ bọn tubốp đi khỏi là căn hầm lại lao xao lên và tiếng rì rầm trì tục đó cứ loang rộng, tăng cường độ vì sự giao lưu giữa mọi người với nhau mỗi ngày một tiến bộ. Chữ nào không hiểu, họ lại thì thầm từ tai này sang tai nọ cho đến khi một người nào đó biết hơn một thứ tiếng truyền trở lại lời giải nghĩa. Trong quá trình đó, tất cả những người dọc theo mỗi dãy ván đều học được nhiều chữ mới trong những thứ tiếng mà trước kia họ không biết nói. Thi thoảng, có những gã, khoái chí gấp đôi vì chẳng những trò chuyện thông đạt được với nhau mà bọn tubốp lại không hay biết gì, nhún nhảy bật lên va cả đầu vào trần. Cứ thì thào với nhau hàng giờ liền, đám tù nhân phát triển dần một ý thức âm mưu và huynh đệ mỗi lúc một thêm sâu sắc. Mặc dầu khác làng, khác bộ lạc, càng ngày họ càng cảm thấy họ không phải thuộc những dân tộc khác nhau hoặc những địa phương khác nhau.
Bữa sau, khi bọn tubốp đến lùa họ lên boong, đám người bị xiềng bước đi như trong một cuộc diễu hành. Và khi trở xuống hầm, một số người biết nhiều thứ tiếng tìm cách đổi được vị trí trong hàng để được xiềng ở đầu các dãy ván, nhờ đó có thể phiên dịch chuyển tiếp được nhanh hơn. Bọn tubốp không nhận thấy gì cả, và hoặc là chúng không quan tâm, hoặc là chúng không thể phân biệt được ai với ai trong đám người bị xiềng.
Những câu hỏi và trả lời bắt đầu lan đi trong hầm tàu. "Chúng ta đang bị đưa đi đâu thế này?". Một tiếng lào xào chua chát đáp lại "Nào có ai may mắn trở về để nói cho chúng ta hay!" "Bởi vì họ đã bị ăn thịt tất!" Câu hỏi "Chúng ta đã ở đây bao lâu rồi?" dấy lên một loạt phỏng đoán lên dần đến một tuần trăng, cho tới khi nó được phiên dịch cho một người bị xiềng cạnh một lỗ thông hơi nhỏ nên có thể đếm được những lần trời sáng, anh ta nói đã được mười tám ngày kể từ khi con xuồng lớn rời bến.
Vì bọn tubốp thỉnh thoảng lại đột nhập với những chậu thức ăn hoặc những đồ cạo hót, nên có khi chỉ truyền các lời đáp cho một câu hỏi hoặc một phát ngôn cũng mất cả một ngày. Nhiều người bồn chồn muốn điều tra xem có ai quen không. "Đây có ai ở làng Barakunda không?" một hôm có người hỏi vậy và một lúc sau, từ miệng này sang tai kia truyền lại câu trả lời mừng rỡ: "Có tôi là Jabôn Xala đây!" một hôm Kunta phấn khởi cơ hồ muốn vỡ tim khi người bạn Uôlôf hối hả thì thầm: "Đây có ai là người làng Jufurê không?" "Có, Kunta Kintê!" anh đáp lại hổn hền. Phải mất một giờ sau mới có hồi âm, trong khi đó anh nằm yên, hầu như không dám thở: "Phải, đúng là cái tên ấy. Tôi đã nghe thấy làng anh ta đánh trống báo tin dữ". Kunta òa lên nức nở, trong đầu tràn ngập những hình ảnh cuồn cuộn: nào gia đình anh xúm quanh con gà trống trắng giãy giụa đập cánh rồi ngã ngửa ra chết, nào mõ làng đi loan tin buồn cho mọi người, rồi dân làng đến với Ômôrô, Binta, Lamin, Xuoađu và thằng cu con Mađi, tất cả ngồi xổm quanh nhà, khóc lóc trong khi trống làng nện rõ từng lời từng chữ báo cho bất cứ ai có thể nghe thấy, biết rằng một người con của làng Jufurê tên là Kunta Kintê nay kể như đã vĩnh viễn ra đi.
Người ta bỏ hàng ngày trời bàn bạc tìm lời giải đáp cho câu hỏi: "Làm sao có thể tấn công và tiêu diệt bọn tubốp trên tàu này?" Có ai có vũ khí gì, hoặc biết có gì khả dĩ dùng làm vũ khí không? Không ai có cả. Trên boong tàu, có ai nhận thấy bọn tubốp để lộ sự sơ suất hoặc nhược điểm nào khả dĩ lợi dụng được để mở một cuộc tấn công bất ngờ không? Một lần nữa, câu trả lời lại là không. Tin tức lợi hại nhất được rút ra qua lời hát của tốp phụ nữ trong khi đám tù nam nhảy múa: cùng đi với họ trên chiếc thuyền lớn này, có khoảng ba mươi tên tubốp. Chúng có vẻ đông hơn thế, song các tù nữ có điều kiện để đếm chính xác hơn. Chị em còn cho biết là lúc khởi hành có nhiều hơn, song tám tên đã chết. Chúng được bó vào trong những tấm vải trắng khâu lại và vứt xuống biển trong khi tên trùm tubốp tóc bạc lầm rầm đọc trong một quyển sách gì đó. Chị em cũng hát rằng bọn tubốp hay đánh nhau dữ dội, thường thường là do cãi cọ tranh giành quyền "dùng" chị em trước.
Nhờ những lời hát của chị em, hầu hết những gì xảy ra trên boong tàu đều được nhanh chóng thuật lại cho đám tù nhảy xiềng và sau đó lại được đưa ra bàn bạc dưới hầm tàu. Thế rồi xảy đến một phát triển mới đầy phấn khởi: đã bắt được liên lạc với những người bị xiềng ở tầng dưới. Khoang hầm Kunta nằm đột nhiên im lặng, rồi từ chỗ gần cửa hầm, một câu hỏi vọng xuống: "Dưới ấy có bao nhiêu?" và một lát sau, câu trả lời lan đi ở tầng của Kunta: "Bọn chúng tôi có khoảng sáu mươi người".
Việc truyền tin tức từ bất kì nguồn nào dường như là chức năng duy nhất khiến họ có lý do để tiếp tục sống. Những lúc không có tin gì, họ nói chuyện về gia đình, làng mạc, nghề nghiệp, đồng ruộng, săn bắn. Và càng ngày càng hay xảy ra bất đồng về chuyện làm thế nào để diệt bọn tubốp và khi nào thì nên khởi sự. Một số người cho rằng cần phải tấn công vào dịp lên boong sắp tới bất luận hậu quả ra sao. Nhiều người khác cho rằng nên theo dõi và đợi thời cơ tốt nhất thì khôn ngoan hơn. Những bất đồng gay gắt bắt đầu nổ ra. Một lần đang tranh luận thì bỗng nhiên vang lên giọng nói của một vị cao niên cắt ngang ý kiến: "Hãy nghe lão đây! Tuy chúng ta thuộc những bộ lạc khác nhau, tiếng nói khác nhau, nhưng hãy nhớ rằng chúng ta cùng một dân tộc! Chúng ta phải coi nhau như người cùng một làng ở nơi này!".
Những tiếng rì rầm tán thành lan nhanh trong khoang hầm. Tiếng nói đó trước đây đã cất lên, răn bảo trong những lần đặc biệt căng thẳng. Đó là một tiếng nói từng trải và đầy uy tín, lại bác tuệ, hiền minh. Phút chốc, người ta rỉ tai nhau thông báo rằng người vừa nói đã từng là thủ chỉ của làng ông. Sau giây lát, ông lại nói rằng bây giờ cần tìm ra và nhất trí bầu lên một người lãnh đạo, rằng phải đề ra và thỏa thuận một kế hoạch tấn công mới hy vọng thắng nổi bọn tubốp, vì hiển nhiên là chúng vừa được tổ chức tốt, lại vừa có nhiều vũ khí. Một lần nữa, khoang hầm lại đầy những tiếng rì rầm tán thành.
Cái ý thức mới, hởi lòng về sự gắn bó chặt chẽ với mọi người, khiến Kunta đầu như bớt cảm thấy sự hôi thối, bẩn thỉu và thậm chí cả chuột bọ nữa. Thế rồi anh nghe thấy truyền đi một nỗi lo sợ mới: người ta cho rằng có một tên hắc gian lẩn đâu đó ở tầng dưới. Một phụ nữ đã hát rằng chính chị ở trong nhóm người bị xiềng và bịt mắt mà tên hắc gian đó đã góp sức đẩy xuống con tàu này. Chị hát rằng khi chị được cởi băng bịt mắt thì trời đã tối, song chị vẫn trông thấy bọn tubốp cho tên hắc gian đó uống rượu cho đến khi hắn say mềm chân nam đá chân siêu, rồi cả bọn tubốp cười hô hố, đánh hắn bất tỉnh và kéo xuống dưới hầm tàu. Theo lời hát của người phụ nữ, thì tuy chị không thể nhận mặt dứt khoát được tên hắc gian, song chắc chắn hắn đang bị xiềng dưới đó như những người khác và đang rất sợ bị phát hiện và giết chết, vì hắn đã biết chuyện thủ tiêu tên tay sai trước đó. Anh em trong hầm bàn luận là có khi tên hắc gian này cũng biết dăm ba tiếng tubốp và có thể tìm cách báo cho bọn tubốp biết kế hoạch tấn công mà hắn nghe lỏm được, hòng cứu vãn cái sinh mệnh khốn kiếp của hắn.
Vung còng đập một con chuột béo mập, Kunta chợt nghĩ: tại sao cho tới nay, mình lại hiểu biết ít thế về bọn phản bội? Hẳn là vì không một tên nào trong bọn chúng dám sống với mọi người trong làng, ở đó một sự nghi vấn mãnh liệt về chân tướng chúng cũng đủ khiến chúng đi đời nhà ma lập tức. Anh nhớ lại hồi ở Jufurê, anh luôn luôn cho rằng chính cha mình, Ômôrô, cùng những người khác lớn tuổi hơn nữa, những lúc ngồi quanh đống lửa ban đêm, cứ hay bận tâm một cách không cần thiết với những lo lắng và suy đoán u ám về những nguy cơ mà anh cùng các thanh niên khác vẫn thầm nghĩ rằng mình sẽ chẳng bao giờ mắc vào. Nhưng giờ đây, anh đã hiểu tại sao những người lớn tuổi lại lo lắng cho an ninh của làng xóm; họ biết rõ hơn anh rằng biết bao tên hắc gian đã lẻn vào đất Gămbia. Bọn con trai da lờn lợt đáng khinh bỉ có bố là tubốp thì cũng dễ nhận ra thôi, nhưng không phải tất cả. Kunta chợt nghĩ đến cô gái làng mình bị bọn tubốp bắt cóc rồi trốn thoát, sau đó được đem ra xét ở Hội đồng bô lão ngay trước khi anh bị bắt, anh muốn biết người ta xử trí với đứa con lai của cô ta ra sao và Hội đồng bô lão đã quyết định cô ta phải làm thế nào.
Qua trò chuyện trong hầm tàu, giờ đây anh được biết một số hắc gian chỉ cung cấp một số hàng hóa như chàm, vàng, ngà voi cho các tubốp. Nhưng có hàng trăm tên khác giúp bọn tubốp đốt làng và bắt người. Một số tù nhân kể chuyện chúng đem mía dụ dỗ trẻ con rồi chụp bao tải lên đầu như thế nào. Nhiều người khác cho biết bọn hắc gian đã đánh họ tàn nhẫn suốt chặng hành trình sau khi họ bị bắt. Vợ một người trong bọn họ, đang mang thai, đã chết trên dọc đường. Một người khác có con trai bị thương vì những roi đòn, chúng để mặc thằng bé chảy máu đến chết. Càng nghe, Kunta càng căm phẫn cho những người khác cũng như cho mình.
Anh nằm đó, trong bóng tối, văng vẳng bên tai lời cha nghiêm khắc dặn dò anh và Lamin không bao giờ được lang thang đi xa một mình; một cách tuyệt vọng, Kunta ước gì giá mình đã chú ý nghe theo lời cảnh cáo của cha. Tim anh trĩu xuống với ý nghĩ rằng anh sẽ không bao giờ được nghe cha răn bảo nữa, rằng từ nay đến hết đời - dù cuộc đời đó có xoay vần ra sao chăng nữa - anh sẽ phải tự suy nghĩ lo liệu lấy cho bản thân.
"Mọi sự đều là ý của Chúa Ala!" Lời phát ngôn đó - khởi đi từ chỗ vị thủ chỉ - truyền từ miệng người này sang tai người kia và khi nó được người nằm bên trái Kunta nhắc lại, anh bèn quay đầu thì thầm với người bạn cùm Uôlôf. Sau một lát, Kunta nhận ra là người Uôlôf không tiếp tục truyền câu đó cho người bên cạnh và sau khi băn khoăn tự hỏi lý do vì đâu anh cho rằng có lẽ tại mình nói không rõ, cho nên anh lại bắt đầu thì thầm câu sấm ngữ một lần nữa. Nhưng bất thình lình, người Uôlôf văng ra những tiếng khá to, đủ để cả căn hầm nghe thấy: "Nếu Chúa Ala của các người muốn thế, thà tôi theo quỷ sứ còn hơn!" Từ các nơi khác trong bóng tối, vang lên những tiếng hô tán đồng với người Uôlôf và đây đó bùng ra những cuộc tranh cãi.
Kunta bị xáo động sâu sắc. Sự bất bình vì nhận ra là mình nằm cùng với một kẻ vô đạo xói vào óc anh như một vết bỏng, vì đối với anh lòng tin ở Chúa Ala cũng quý giá như bản thân cuộc sống vậy. Cho đến nay, anh vẫn tôn trọng tình hữu hảo và những ý kiến lịch lãm của người bạn cùm lớn tuổi. Song giờ đây, Kunta biết rằng giữa họ không thể tồn tại bất kỳ tình bằng hữu nào nữa.
Chương 38
Giờ đây, trên boong, tốp phụ nữ đang hát rằng họ đã xoay sở đánh cắp được và giấu kín mấy con dao cùng một số dụng cụ có thể dùng làm vũ khí. Trở xuống dưới hầm, ý kiến đám tù nhân nam lại chia thành hai phe, thậm chí còn đối lập mạnh hơn trước. Đứng dầu nhóm cho rằng cần phải đánh ngay không lần lữa, là một người Uôlôf xăm mình, nom dữ tướng. Trên boong, ai nấy đều đã thấy anh ta vừa nhảy cuồng dại trong dây xiềng vừa nhe hàm răng giũa nhọn với bọn tubốp, những tên này thấy thế lại vỗ tay vì chúng tưởng anh cười. Những người cho rằng cần phải khôn ngoan, cảnh giác chuẩn bị kỹ hơn, chịu sự lãnh đạo của người Fula đã bị đòn vì bóp cổ chết tên hắc gian.
Có một số người theo anh chàng Uôlôf chủ trương tấn công bọn tubốp khi nào chúng xuống đông ở dưới hầm tàu, nơi mà đám tù nhân có thể nhìn tinh tường hơn chúng và nắm yếu tố bất ngờ lớn nhất - nhưng kế hoạch này bị những người khác bác bỏ, coi là điên rồ, họ vạch rõ rằng đa số bọn tubốp vẫn còn ở trên boong và do đó có thể tiêu diệt những người bị xiềng bên dưới như một lũ chuột. Thỉnh thoảng, khi việc tranh cãi giữa người Uôlôf và người Fula đi đến chỗ to tiếng vị thủ chỉ lại can thiệp răn họ bình tĩnh hơn kẻo bọn tubốp có thể nghe thấy.
Bất luận ý kiến của thủ lĩnh phe nào cuối cùng sẽ thắng, Kunta vẫn sẵn sàng chiến đấu đến chết. Anh không thấy sợ chết nữa. Một khi đã xác định là mình sẽ chẳng bao giờ về nhà gặp lại gia đình được nữa, anh cảm thấy thế cũng coi như chết rồi. Nỗi lo sợ duy nhất của anh bây giờ là mình có thể chết mà không tự tay giết được ít nhất một tên tubốp. Nhưng người thủ lĩnh mà Kunta ngả theo ủng hộ - anh cảm thấy đa số anh em cũng vậy - là anh chàng Fula thận trọng, mình đầy vết roi đóng sẹo. Đến nay Kunta đã phát hiện ra phần lớn tù nhân ở trong hầm là người Manđinka và mọi người Manđinka đều biết rất rõ rằng dân Fula xưa nay vốn nổi tiếng là sẵn sàng bỏ hàng năm, thậm chí cả cuộc đời, nếu cần, để báo thù bằng cách giết bất cứ kẻ nào xúc phạm nặng nề đến họ. Nếu kẻ nào giết chết một người Fula và trốn thoát, các con trai người ấy sẽ không bao giờ chịu ngồi yên, kỳ cho đến một ngày nào họ tìm ra hung thủ và giết chết hắn.
"Chúng ta phải đoàn kết như một người đằng sau thủ lĩnh mà ta nhất trí lựa chọn", vị thủ chỉ khuyên như vậy. Những người theo anh chàng Uôlôf làu nhàu bực bội, song rõ ràng là đa số đã đứng về phe người Fula, nên bác ta mau chóng ra một mệnh lệnh đầu tiên. "Ta cần xem xét mọi hành động của bọn tubốp bằng đôi mắt của chim ưng. Và khi thời cơ tới, chúng ta phải là chiến sĩ". Bác dặn mọi người làm theo lời khuyên của người phụ nữ bảo họ nên làm bộ sung sướng khi nhảy xiềng trên boong. Điều đó sẽ làm cho bọn tubốp lơi lỏng việc canh phòng, dễ đánh úp hơn và người Fula còn bảo mọi người cần tỉnh mắt xác định vị trí mọi vật giống như vũ khí mà mình có thể nhanh chóng vớ lấy sử dụng. Kunta rất hài lòng với bản thân vì trong những lần lên boong, anh đã phát hiện thấy một cái cọc buộc lỏng lẻo dưới một quãng lan can mà anh định sẽ giựt ra dùng làm một ngọn giáo đâm vào bụng tên tubốp gần nhất. Mọi lần nghĩ đến, anh lại xiết chặt ngón tay quanh cái cán giáo tưởng tượng.
Những lúc bọn tubốp giật mạnh cửa hầm ra và đi xuống, vừa quát tháo vừa khoa roi, Kunta cứ nằm im phăng phắc như một con thú rừng. Anh nhớ tới lời kintangô hồi rèn luyện trưởng thành nhắc nhở rằng người đi săn phải học những gì chính Chúa Ala đã dạy cho thú vật: làm thế nào trốn và theo dõi những nhà đi săn đang lùng giết chúng. Kunta đã nằm hàng giờ ngẫm nghĩ về chuyện bọn tubốp có vẻ thích gây đau đớn cho người khác. Anh kinh tởm nhớ lại những lần thấy bọn tubốp cười ha hả khi vung roi quất tù nhân - đặc biệt những người mang đầy những vết lở loét đau đớn trên mình. Kunta cũng chua xót hình dung trong óc cảnh những tên tubốp cưỡng bức đẩy phụ nữ vào những góc tối của con tàu ban đêm, anh tưởng như nghe thấy tiếng chị em la thét. Phải chăng bọn tubốp không có đàn bà của riêng chúng? Phải chăng vì thế mà chúng săn đuổi vợ người khác như đàn chó? Giống tubốp dường như không tôn trọng cái gì cả, dường như bọn chúng không hề có Chúa, thậm chí không hề có thần linh nào để mà thờ.
Điều duy nhất có thể khiến tâm trí Kunta lãng khỏi chuyện tubốp - và làm thế nào để giết chúng - là lũ chuột ngày càng trở nên táo tợn hơn. Ria mũi chúng cù nôn giữa hai cẳng chân Kunta mỗi khi chúng sục vào cắn một nốt đau rỉ máu hoặc mưng mủ. Nhưng bọ chét thì lại thích cắn trên mặt anh hơn và hút chất lỏng ở khóe mắt Kunta hoặc nhớt rãi chảy ra từ hai lỗ mũi. Anh cứ phải vặn mình, thọc ngón tay bấu hoài, bắt được con nào là lấy móng tay giết đôm đốp. Song tệ hơn cả chuột bọ là những chỗ đau ở vai, khuỷu tay và mông Kunta giờ đây rát như lửa đốt do bao tuần lễ liên tục nằm cọ mình vào những tấm ván gỗ cứng, sần sùi. Anh đã thấy những mảng trầy da tướp máu trên mình những người tù khác khi họ lên boong, và mỗi lần con tàu lớn hơi đảo hoặc chòng chành hơn bình thường một chút là chính anh lại đau rú lên cùng với họ.
Và Kunta thấy là khi lên boong, một số tù nhân đã bắt đầu hành động như những cái xác bị quỷ nhập - mặt họ mang một vẻ nói lên rằng họ không sợ hãi gì nữa vì giờ đây, sống hay chết, họ cũng bất cần. Ngay cả lúc roi vọt giáng xuống họ cũng chỉ phản ứng một cách chậm chạp. Khi được kỳ cọ xong, một số thậm chí hoàn toàn không còn sức để nhảy xiềng nữa và tên trùm tubốp tóc bạc, vẻ lo ngại, ra lệnh cho những tên kia để họ ngồi xuống và họ làm theo, trán gục trên đầu gối, một thứ mủ loãng hồng hồng chảy xuôi trên những tấm lưng xầy da tróc thịt. Thế rồi tên trùm tubốp dằn đầu họ ật ra sau và đổ vào miệng họ một chất gì đó khiến họ sặc sụa. và một số người lả đi khuỵu xuống, không động cựa gì được và bọn tubốp bèn khiêng họ trở xuống hầm. Đa số những người này đều chết, và trước đó, Kunta đã biết họ dụng tâm tự hủy hoại mình bằng cách nào đó cho đến chết.
Nhưng tuân lệnh người Fula, Kunta và phần lớn anh em cố gắng làm bộ vui thích khi nhảy xiềng, mặc dù nỗ lực đó tựa hồ một mụn loét trong tâm hồn họ. Tuy nhiên, có thể thấy là khi thái độ đó làm cho bọn tubốp buông lỏng hơn, thì roi vọt có bớt đi và anh em được phép ở lại trên boong tàu đầy ánh nắng lâu hơn trước. Sau khi chịu đựng những xô nước biển và sự tra tấn của những bàn cọ trên mình, Kunta cùng những tù binh khác ngồi xổm nghỉ ngơi và theo dõi mọi cử động của bọn tubốp nào là chúng thường đứng cách quãng bao nhiêu dọc theo lan can, nào là chúng vẫn luôn giữ vũ khí kề sát bên mình, khó mà cướp được. Bất cứ lúc ngắn ngủi nào có tên tubốp dựa tạm súng vào hàng song sắt, đều không lọt khỏi mắt một ai. Trong khi ngồi trên boong, mường tượng trước tới ngày họ sẽ tiêu diệt bọn tubốp, Kunta cứ thắc mắc về cái vật đồ sộ bằng kim khí chõ vòi qua hàng rào. Anh hiểu rằng bằng bất cứ giá nào của bao nhiêu sinh mạng, cũng phải chế ngự và cướp lấy cái vũ khí này, vì mặc dầu không rõ đích xác nó là cái gì, anh vẫn biết nó có khả năng hủy diệt ghê gớm và tất nhiên bọn tubốp đặt nó ở đây chính vì lẽ đó.
Anh cũng thắc mắc về mấy tên tubốp nọ cứ luôn luôn quay cái bánh xe của con xuồng lớn, bên này một tí bên kia một tí, trong khi đăm đăm nhìn vào một mặt tròn nâu nâu bằng kim khí trước mặt chúng. Có lần ở dưới hầm, vị thủ chỉ đã nói lên ý nghĩ của bản thân anh. "Nếu những tên tubốp đó bị giết thì ai sẽ lái con xuồng này?". Và thủ lĩnh Uôlôf bèn trả lời là cần phải bắt sống những tên tubốp đó. "Kề giáo vào cổ chúng", bác ta nói, "chúng sẽ phải đưa chúng ta trở về đất nước, kẻo chúng sẽ chết". Chỉ nghĩ đến chuyện có thể thực sự thấy lại đất nước, nhà cửa, gia đình mình một lần nữa, Kunta đã thấy sướng rợn cả xương sống. Nhưng nếu việc đó xảy đến - anh nghĩ - thì tới lúc già lụ khụ, anh cũng khó quen được, dù chỉ là một chút xíu, những hành động của bọn tubốp đối với anh.
Trong Kunta còn náu một nỗi sợ nữa, là bọn tubốp có thể tinh ý nhận thấy cái mới mẻ trong cách nhảy xiềng của đám tù khi ở trên boong, vì giờ đây họ nhảy múa thật sự, họ không thể ngăn những động tác của mình biểu lộ những điều sâu kín trong tâm trí: những cử chỉ thoăn thoắt tung cùm xích, rồi bổ, rồi bóp cổ, xỉa, giết. Trong khi nhảy múa, Kunta và anh em khác thậm chí còn hú đến khản giọng, mường tượng trước cuộc tàn sát. Song khi điệu nhảy kết thúc và anh lại tự kiềm chế được, Kunta nhẹ hẳn người thấy bọn tubốp không nghi ngờ gì cả chỉ nhe răng cười khoái trá. Rồi một hôm trên boong, đám tù nhân đột nhiên đứng chôn chân ngỡ ngàng, và cùng bọn tubốp, trân trân nhìn một bày hàng trăm con cá bay trên mặt biển như những con chim hạc. Đang ngây người ngắm, chợt Kunta nghe thấy một tiếng thét. Quay ngoắt lại, Kunta trông thấy anh chàng Uôlôf xăm mình, dữ tợn, đang giựt một cái gậy kim khí khỏi tay một tên tubốp. Vung nó như một cái chùy, anh ta choảng tên tubốp phọt óc lênh láng sàn tàu: trong khi bọn tubốp còn lại bật khỏi tư thế ngây như phỗng vì choáng váng, anh quật một tên nữa ngã xuống sàn boong. Sự việc xảy ra mau lẹ đến nỗi anh chàng Uôlôf gầm rít điên cuồng đã chuyển sang nện tên tubốp thứ năm, bọn chúng mới kịp phản ứng: loáng cái một lưỡi dao dài lia rất ngọt, tiện đứt đầu anh, sát ngang vai. Cái đầu chạm vào sàn tàu trước khi thân anh rụng xuống và cả hai bộ phận cơ thể đều phọt máu từ chỗ bị chém cụt. Trên bộ mặt đôi mắt vẫn mở trừng trừng, coi bộ rất sửng sốt.
Giữa những tiếng rú hoảng hốt, bọn tubốp nhốn nháo đổ tới hiện trường mọi lúc một đông, đứa xô ra khỏi cửa, đứa từ trên cao giữa đám buồm trắng phất phới tụt xuống như khỉ. Trong khi toán phụ nữ kêu thất thanh, những tù nam bị còng xúm lại với nhau thành một vòng tròn. Những cây gậy kim khí sủa ra lửa và khói, rồi cái vòi đen đồ sộ nó phụt ra một tiếng gầm như sấm cùng với một đám hơi nóng và khói ngay trên đầu họ; thất đảm, họ la hét và rúi rụi vào nhau.
Từ sau hàng rào, tên tubốp đầu sỏ và tên sẹo mặt lao ra, cả hai đều gào thét điên cuồng. Tên to lớn đánh tên tubốp đứng gần nhất một cú hộc máu mồm, rồi tất cả bọn còn lại tập hợp lại thành một cụm, la hét, quát tháo, vung roi, dao, gậy phun lửa, ùa nhau dồn đám tù về phía cửa hầm tàu để ngỏ. Kunta cất bước, không cảm thấy những ngọn roi quất vào mình, vẫn chờ hiệu lệnh tấn công của người Fula. Nhưng hầu như trước cả lúc anh kịp ý thức ra thì tất cả đã ở dưới hầm và bị xiềng trở lại chỗ cũ tối mò, rồi cửa hầm xập xuống.
Song không phải chỉ có mình họ. Trong cơn náo loạn, một tên tubốp đã bị mắc kẹt vào giữa bọn họ và bị cuốn theo xuống. Hắn đâm nhào hết chỗ này sang chỗ kia trong bóng tối, vấp rúi rụi, va đầu vào các ván nằm, khiếp đảm la hét, lồm cồm bò dậy mỗi khi ngã, rồi lại chạy nháo nhác. Tiếng hắn rống nghe như tiếng một con thú thời nguyên thủy nào đó "Tubốp fa" một người hô và những giọng khác hòa theo: "Tubốp fa! Tubốp fa!". Họ hô, mỗi lúc một lớn vì mỗi lúc lại có thêm người tham gia vào bản hợp xướng đó. Dường như tên tubốp cũng biết họ hô vậy là nhằm vào hắn, nên hắn thốt ra những tiếng như van xin. Trong khi đó, Kunta nằm im như bị đóng băng, không một cơ bắp nào cử động được. Đầu đập thình thịch, mình đầm đìa mồ hôi, anh đang hớp miệng để thở. Đột nhiên, cửa hầm xịch mở và khoảng một tá tubốp nện gót trên cầu thang xuống hầm. Mấy ngọn roi quất xuống người tên tubốp bị mắc kẹt trước khi hắn kịp báo cho bọn kia biết hắn là người của chúng.
Rồi dưới làn roi tàn bạo, đám người lại được tháo xích, và bị đấm đá xô đẩy lên boong, tại đây, chúng bắt họ đứng xem bốn tên tubốp dùng những cây roi gộc đánh nát nhừ cái xác không đầu của người Uôlôf. Thân thể trần truồng của những người tù bóng nhẫy mồ hôi và máu từ những vết roi và mụn loét, nhưng hầu như không ai rỉ ra một tiếng kêu. Lúc này, mỗi tên tubốp đều vũ trang khắp người, mặt bừng bừng sát khí, trong khi chúng đứng thành một vòng tròn vây quanh họ, mắt ngó trân trân và miệng thở hổn hển. Rồi những người tù lại bị quất roi lùa xuống hầm và xích lại chỗ cũ.
Hồi lâu, không ai dám hé răng thì thào. Khi nỗi kinh hoàng đã dịu xuống để tâm trí có thể suy nghĩ, một dòng thác ý nghĩ và xúc động bỗng xâm chiếm Kunta, trong đó nổi lên cái cảm giác là không phải chỉ một mình anh khâm phục sự dũng cảm của người Uôlôf đã chết như một chiến sĩ. Anh nhớ lại cái dự cảm rấm rứt của chính mình, là thủ lĩnh người Fula sẽ ra hiệu tấn công - nhưng hiệu lệnh đó đã không đến. Kunta thấy chua xót, vì bất kể cơ sự có thể xoay vần ra thế nào, lẽ ra bây giờ mọi chuyện đã xong cả rồi; và tại sao lại không chết luôn đi? Liệu thời kỳ sắp tới có tốt đẹp hơn gì không? Có lý do gì để tiếp tục níu lấy cái cuộc sống ở đây trong bóng tối xú uế này? Anh hết lòng cầu ước giá mình có thể trao đổi với người bạn cùm như trước đây, song khốn nỗi bác ta lại là người vô đạo.
Những tiếng xầm xì tức giận vì nỗi người Fula đã bỏ qua không hành động, ngừng bặt khi một lệnh đột ngột được truyền đi từ chỗ bác ta: lần sau bác ta thông báo khi anh em ở tầng hầm này lên tắm và nhảy xiềng trên boong sẽ khởi sự tấn công vào lúc bọn tubốp tỏ ra lơi lỏng nhất. "Nhiều người trong chúng ta sẽ chết", người Fula nói "như người anh em vừa rồi đã chết vì chúng ta - song anh em ở tầng dưới sẽ báo thù cho chúng ta".
Những tiếng trầm trồ tán thưởng lan đi. Nằm trong bóng tối, Kunta lắng nghe tiếng một cái giũa đánh cắp được đang xèn xẹt cứa vào dây xiềng. Hàng tuần nay, anh vẫn biết rằng những vết giũa được trét cẩn thận bằng các thứ bẩn thỉu để bọn tubốp khỏi trông thấy. Anh khắc vào tâm trí bộ mặt của những tên quay bánh xe lớn của con tàu vì chúng sẽ là những tên duy nhất được tha mạng sống.
Nhưng trong cái đêm dài ấy dưới hầm tàu, Kunta cùng những người khác bắt đầu nghe thấy một âm thanh mới kỳ lạ trước đây chưa từng thấy. Hình như nó từ phía trên đầu họ, lọt qua sàn boong xuống. Im lặng xập xuống nhanh chóng trong khoang hầm và nghe thật kỹ, Kunta đoán là những cơn gió lớn đang làm cho những tấm vải trắng lớn kêu phần phật mạnh hơn lúc bình thường nhiều. Phút chốc lại có một tiếng khác, như thể đổ gạo xuống sàn tàu; lát sau anh đoán là mưa đang trút xuống. Rồi anh chắc chắn, không thể lầm lẫn, là đã nghe văng vẳng tiếng sấm nổ rền nặng nề.
Có tiếng chân rầm rập sàn boong trên đầu và con xuồng lớn bắt đầu dập dềnh, chao đảo. Tiếng la hét của Kunta hòa lẫn với tiếng những người khác mỗi khi tàu dềnh lên dềnh xuống hoặc lắc từ bên này sang bên kia, làm cho vai, khuỷu và mông vốn đã mưng mủ và tướp máu của những người tù trần truồng càng chà xát dữ hơn vào những tấm ván xần xùi, bóc trợt thêm lớp da mềm bị nhiễm trùng, khiến lớp cơ bắp bên dưới chòi ra, cọ vào ván nằm. Những cơn đau rát, day dứt, xuyên suốt từ đầu đến chân, cơ hồ làm anh bất tỉnh, thành thử khi bắt đầu lờ mờ nhận thấy tiếng nước tuôn xuống hầm tàu - và tiếng la thất thanh giữa một cơn náo động kinh hoàng - anh cứ tưởng đâu như từ xa vọng tới.
Nước tràn mỗi lúc một nhanh vào hầm cho đến khi Kunta nghe thấy tiếng một vật gì nặng, như thể một tấm vải thô lớn, được kéo lê trên sàn boong. Mấy phút sau, dòng lũ giảm đi, chỉ còn nhỏ giọt - song lúc này, Kunta bắt đầu toát mồ hôi và ngạt thở. Bọn tubốp đã bịt các lỗ trên đầu họ để chặn không cho nước tràn vào, nhưng làm thế chúng đã bịt hết không khí từ bên ngoài, giam toàn bộ hơi nóng và mùi hôi thối trong khoang hầm, không thể nào chịu nổi, mọi người bắt đầu sặc sụa, nôn mửa, điên cuồng lắc cùm loảng xoảng và hoảng hốt la hét. Mũi, cổ họng, rồi phổi Kunta như thể bị nhồi bằng những cục bông cháy bùng bùng. Anh cố gắng hớp thêm chút hơi để la. Bao vây giữa một cơn lồng lộn điên cuồng, người giựt xích, kẻ kêu tắc họng, Kunta mê man đến nỗi cứt, đái phọt ra lúc nào không biết.
Những cơn sóng búa bổ xô ầm ầm vào mạn tàu, làm những xà gỗ đằng sau đầu họ căng mạnh đè vào chốt, kêu răng rắc. Tiếng thét ngạt thở của những người dưới hầm càng dữ khi con tàu đâm đầu xuống, chòng chành với hàng tấn nước biển tràn qua nó. Rồi, như nhờ một phép màu, nó lại nổi lên được dưới cơn mưa bục trời nện xuống như ném đá. Khi khối nước tiếp theo to như trái núi rập vào mạn tàu dìm nó xuống rồi lại bốc lên lần nữa - chao nghiêng, nhấp nhô, rùng rình - thì tiếng huyên náo trong hầm bắt đầu xẹp xuống vì mỗi lúc càng có thêm nhiều tù nhân ngất lịm đi.
Khi Kunta tỉnh lại, thì anh đã ở trên boong, ngạc nhiên thấy mình hãy còn sống. Những ánh đèn màu da cam lấp loáng quanh đó khiến anh thoạt đầu tưởng tất cả bọn họ vẫn ở dưới hầm. Rồi anh hít một hơi thật sâu và nhận ra đó là không khí thoáng mát. Anh nằm nghều ngào, ngửa mặt lên, lưng như muốn nổ toác vì những vết đau kinh khủng đến nỗi anh không sao ngừng kêu, ngay cả trước mặt bọn tubốp. Anh trông thấy một số ở tít trên cao, như những bóng ma trong ánh trăng, bò dọc theo những thanh ngang của các cây cột to cao, dường như chúng đang ráng sức mở căng những tấm vải trắng to tướng nọ. Rồi, quay cái đầu nhức như búa bổ về phía một tiếng ồn ào, Kunta thấy một số tên tubốp nữa loạng quạng nhô lên khỏi cửa hầm, chệnh choạng kéo những hình người trần truồng, mềm nhũn, bị cùm, lên trên boong tàu, ném họ xuống cạnh Kunta cùng những người khác đã bị chất đống như những khúc gỗ.
Người bạn cùm của Kunta đang run cầm cập và nôn khan giữa những tiếng rên rẩm. Chính Kunta cũng nôn oẹ không ngừng trong khi quan sát tên trùm tubốp tóc bạc và tên to lớn mặt sẹo quát tháo chửi rủa thủ hạ, bọn này tiếp tục kéo những thân người từ dưới hầm lên, thỉnh thoảng lại trượt ngã trên những đống nôn mửa mà một phần trong đó là do chính chúng thổ ra.
Con xuồng lớn vẫn chòng chành dữ dội và từng luồng nước thỉnh thoảng vẫn trào lên tưới đẫm sàn lái. Tên trùm tubốp lúc này đang hối hả bước, chật vật lắm mới giữ được thăng bằng, theo sau là một tên tubốp khác cầm đèn. Một trong hai tên chốc chốc lại lật ngửa mặt từng người trần truồng nằm lịm, ghé sát đèn vào, tên trùm tubốp ngó thật kỹ và đôi khi nắn mạch cổ tay người bị cùm. Thỉnh thoảng sau đó, hắn chửi thề tục tĩu, sủa ra một mệnh lệnh và bọn kia khiêng người tù lên ném xuống biển.
Kunta biết những người đó đã chết ở dưới hầm. Anh tự hỏi: người ta bảo Chúa Ala ở mọi nơi mọi lúc, sao Người lại không ở đây? Rồi anh lại nghĩ: thậm chí có hỏi vậy cũng chẳng khiến anh đỡ khổ gì hơn con người vô đạo đang run bần bật và rên rẩm bên cạnh mình. Và anh chuyển sang cầu nguyện cho linh hồn những người bị vứt xuống biển, giờ đây hẳn đã gặp tổ tiên. Anh thèm được như họ.
Chương 39
Vào lúc rạng đông, thời tiết đã dịu đi và quang dần, song con tàu vẫn chao đảo trong những lớp sóng dội lớn. Một số tù nhân vẫn nằm ngửa hoặc nằm nghiêng bất động, hầu như không tỏ dấu hiệu gì là còn sống, nhiều người khác đang co giật khủng khiếp. Cùng với đa số anh em khác, Kunta đã cố gắng ngồi dậy được, tư thế đó phần nào cũng làm nguôi bớt những đau đớn kinh khủng ở lưng và mông anh. Anh đờ đẫn nhìn vào lưng những người ở gần, tất cả lại chảy máu qua những chỗ đã đóng vảy và anh thấy cái gì như là xương lòi ra nơi vai và khuỷu tay họ. Lơ đãng đưa mắt về một hướng khác, anh thấy một phụ nữ nằm hai chân xoạc rộng, hạ bộ xoay về phía Kunta, bôi một thứ sáp kỳ lạ xam xám vàng vàng và mũi anh hít phải một mùi không sao tả nổi mà anh biết là phát ra từ người chị.
Thỉnh thoảng lại có người còn nằm bẹp, cố gương dậy, một số lại rụi xuống, nhưng trong số ngồi dậy được, Kunta nhận ra người thủ lĩnh Fula. Bác ta chảy máu rất dữ, vẻ mặt như thể là của một người tách biệt khỏi những gì đang diễn ra xung quanh. Kunta không nhận ra nhiều người mà anh trông thấy. Anh đoán họ ở tầng dưới. Họ là những người mà thủ lĩnh Fula bảo là sẽ báo thù cho những người ở tầng thứ nhất có thể phải hy sinh khi tấn công bọn tubốp. Cuộc tấn công! Thậm chí Kunta không còn đủ sức để nghĩ đến nó nữa.
Trên một số khuôn mặt quanh mình, kể cả mặt người bị cùm chung với anh, Kunta thấy cái chết đã in hằn rõ nét. Không hiểu tại sao, anh chắc chắn là họ sắp chết. Mặt người Uôlôf xám ngoẹt và mỗi khi bác ta hớp miệng để thở, lại có tiếng sủi bọt trong mũi. Cả đến xương vai và xương khuỷu tay bác ta, lòi ra qua da thịt trầy trợt, cũng xám xì. Hình như biết Kunta đang nhìn mình, người Uôlôf chấp chới mở mắt, nhìn lại Kunta nhưng không tỏ vẻ gì là nhận ra người quen cả. Bác ta là người vô đạo, nhưng... Kunta yếu ớt đưa một ngón tay chạm vào cánh tay người Uôlôf. Nhưng không có dấu hiệu gì tỏ ra bác ta nhận biết cái cử chỉ của Kunta hoặc hiểu ý nghĩa của nó.
Mặc dù không bớt đau, ánh nắng ấm bắt đầu làm cho Kunta cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút. Anh cúi mặt xuống và thấy máu ở lưng mình chảy xuống thành một vũng quanh chỗ ngồi - và bất giác, một tiếng run rẩy dâng lên cổ họng anh. Những tên tubốp cũng ốm yếu, mang chổi và xô hốt mửa và cứt đái, còn những tên khác khênh những chậu phân rác dưới hầm lên, đổ xuống biển.
Một lúc sau, anh ngửi thấy hơi dấm và hắc ín đun sôi, qua hàng lưới sắt, và tên trùm tubốp bắt đầu lách giữa đám người bị cùm để bôi thứ thuốc mỡ của hắn. Hắn đắp một mảnh vải có rắc bột lên những chỗ xương lòi ra, nhưng máu ri rỉ chảy lại mau chóng làm băng vải trôi tuột đi và rơi xuống. Hắn cũng banh miệng một số người kể cả Kunta và đổ vào cổ họng họ một chất gì từ một cái chai đen đen.
Khi mặt trời lặn, những người đã kha khá được cho ăn - ngô nấu với dầu cọ đỏ, cho vào một chậu nhỏ, bốc bằng tay. Rồi mỗi người được một gáo nước do một tên tubốp múc từ một cái thùng đặt dưới chân cây cột lớn nhất trong boong tàu. Đến lúc sao bắt đầu mọc, họ lại bị đưa xuống hầm, xích lại. Thế vào chỗ trống của những người đã chết ở tầng Kunta, là những người ốm nhất ở tầng dưới, tiếng kêu đau của họ càng lớn hơn trước.
Trong ba ngày, Kunta nằm giữa bọn họ trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mê pha trộn những đau đớn, nôn mửa, sốt và kêu rên. Anh cũng ở trong số những người rũ rượi với những cơn ho khan cào cấu phổi. Cổ anh nóng ran, sưng lên và toàn thân đầm đìa mồ hôi. Chỉ có một lần, anh ra khỏi cơn mê mệt là khi anh cảm thấy một con chuột cọ ria vào hông mình; gần như do phản xạ tự nhiên, bàn tay tự do của anh phóng ra túm được đầu và phần trên con chuột. Sự việc xảy ra, chính anh cũng không thể tin. Tất cả nỗi cuồng nộ chất chứa trong anh bao lâu nay đổ dồn xuống cánh tay và bàn tay anh. Anh xiết mỗi lúc một chặt - con chuột giãy giụa và kêu choe chóe - cho đến khi anh cảm thấy mắt nó lòi ra, sọ nó nát rụn dưới ngón tay cái của anh. Lúc bấy giờ, sức lực mới rút đi khỏi những cánh tay anh và Kunta mới buông cái xác đã nát nhũn ra.
Một hai hôm sau, tên trùm tubốp bắt đầu đích thân xuống hầm tàu, mỗi lần đều phát hiện thêm - và tháo xiềng luôn thể - ít nhất là một cái xác không hồn. Khạc nhổ trong không khí hôi thối, trong khi những tên khác cầm đèn giơ lên soi cho hắn nhìn, hắn bôi thuốc mỡ, rắc bột và ấn cái cổ chai đen vào miệng những người còn sống. Kunta cố nén để khỏi kêu đau khi những ngón tay xát mỡ vào lưng anh hoặc cái chai chạm vào môi anh. Anh cũng rụt lại khi những bàn tay trắng trợt nọ chạm vào da mình, thà anh bị roi quất còn hơn. Và trong ánh đèn màu da cam, những bộ mặt tubốp mang một vẻ bềnh bệch chẳng có nét gì, mà anh biết nó sẽ không bao giờ bỏ buông tha tâm trí anh cũng như cái uế khí đang bao bọc anh vậy.
Nằm đó trong nhơ nhớp và sốt mê man, Kunta không còn biết là bọn anh đã ở trong bụng con tàu này hai tuần trăng hay sáu tuần trăng, hay thậm chí một vụ mưa. Cái người nằm cạnh lỗ thông hơi, có thể qua đó mà tính ngày giờ, đã chết rồi. Và giữa những người còn sống sót, cũng chẳng còn có giao lưu gì nữa.
Một lần, đang ngủ lơ mơ, choàng thức dậy, với một nỗi kinh hoàng không thể xác định, Kunta cảm thấy cái chết đang ở cạnh mình. Rồi, lát sau, anh nhận ra rằng mình không còn nghe thấy cái tiếng khò khè quen thuộc của người bạn cùm nằm bên nữa. Mãi một hồi lâu, Kunta mới dám quyết định thò tay sờ vào cánh tay bác ta. Anh khiếp hãi rụt lại vì cánh tay đó lạnh ngắt và cứng đờ. Kunta nằm run lảy bảy. Dù vô đạo hay không, thì anh và người Uôlôf này cũng đã trò chuyện với nhau, đã cùng nằm với nhau và giờ đây còn lại có mình anh.
Khi bọn tubốp lại mang món cháo ngô xuống, Kunta rúm người lại nghe tiếng rì rầm và tiếng nôn khan của chúng mỗi lúc một đến gần. Rồi anh cảm thấy một tên lay xác người Uôlôf và chửi thề. Sau đó, Kunta nghe thấy tiếng quèn quẹt xúc thức ăn như mọi khi vào xoong của anh và bọn tubốp, sau khi ấn chiếc xoong vào giữa anh và người Uôlôf bất động, tiếp tục đi xuống cuối dãy ván. Dù bụng đói đến đâu, lúc này Kunta cũng không thể nghĩ đến chuyện ăn uống.
Lát sau, hai tên tubốp đến tháo cùm chân và tay người Uôlôf tách rời khỏi Kunta. Choáng váng đến tê dại, anh lắng nghe tiếng cái xác bị kéo lê, va lục cục dọc lối đi và trên các bậc cầu thang. Anh định dịch xa khỏi chỗ trống đó, nhưng vừa cử động thì những chỗ trầy thịt liền cọ mạnh vào ván gỗ, khiến anh la lên đau đớn. Trong khi nằm yên cho đỡ đau, anh tưởng tượng như nghe thấy tiếng hờ của phụ nữ tại làng quê người Uôlôf khóc than cái chết của bác ta. "Tubốp fa!" anh rít lên trong bóng tối hôi thối, bàn tay bị cùm giựt loảng xoảng sợi dây xích nối liền với chiếc còng trống không của người Uôlôf.
Đợt lên boong lần sau, luồng mắt Kunta gặp cái nhìn đăm đăm của một trong những tên tubốp đã đánh đập anh và người Uôlôf. Trong một lúc, hai bên nhìn sâu vào mắt nhau và mặc dù tên tubốp nhăn mặt và nheo mắt hằn học, lần này không có ngọn roi nào giáng xuống lưng Kunta cả. Trong khi định thần lại sau phút ngỡ ngàng, Kunta nhìn qua boong tàu và lần đầu tiên kể từ khi nổ ra cơn phong ba, anh trông thấy toán phụ nữ. Tim anh trĩu xuống: trong số hai mươi chị em lúc đầu, chỉ còn lại có mười hai. Tuy nhiên, anh cũng cảm thấy nguôi bớt khi nhận ra là tất cả bốn em nhỏ đều sống sót.
Lần này, họ không bị kỳ cọ - những vết thương trên lưng đám tù nam quá đau đớn - và cuộc nhảy xiềng yếu ớt chỉ có tiếng trống đệm theo mà thôi, tên tubốp kéo cái khí cụ e é đã đi đời rồi. Gắng hết sức mình trong cơn đau đớn, những phụ nữ còn lại hát rằng một loạt tubốp nữa đã bị khâu vào trong những tấm vải trắng và vứt qua lan can tàu.
Tên tubốp tóc bạc, vẻ mặt rất mệt mỏi, đang mang món thuốc mỡ và cái chai đi giữa đám tù trần truồng thì một người, cổ tay và cổ chân lủng lẳng đôi còng trống không của một người bạn cùm đã chết, lao vụt từ chỗ đang đứng ra lan can tàu. Gã đã vắt nửa người qua hàng lan can thì một trong những tên tubốp gần đấy đuổi kịp và nắm được chuỗi xích lòng thòng đằng sau đúng vào lúc gã nhảy xuống. Một lát sau, người gã chung chiêng vào mạn tàu và những tiếng rống tắc nghẹn của gã vang lên. Bỗng nhiên, Kunta nghe thấy rõ mồn một mấy từ tubốp giữa những tiếng kêu. Một tiếng rít se sẽ nổi lên trong đám người bị xiềng không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là tên hắc gian thứ hai. Trong khi tên này vập mình vào vỏ tàu - miệng rít lên: "tubốp fa!" rồi lại van xin tha thứ - tên trùm tubốp đi tới chỗ lan can và nhìn xuống. Nghe ngóng một lúc, hắn bỗng giựt phắt đoạn xích khỏi tay tên tubốp kia và thả cho tên hắc gian rơi xuống biển trong tiếng la thét. Rồi, chẳng nói chẳng rằng, hắn quay lại tiếp tục công việc xoa thuốc mỡ và rắc bột vào các vết thương, như không có chuyện gì xảy ra.
Tuy roi vọt có thưa đi hơn, nhưng bây giờ bọn gác có vẻ gờm đám tù nhân. Mỗi lần những người tù được đưa lên boong, bọn tubốp vây chặt họ, gậy phun lửa lăm lăm và dao tuốt trần như thể bất cứ lúc nào họ cũng có thể tấn công được. Nhưng riêng về phần Kunta, tuy khinh ghét bọn tubốp hết sức mình, anh không thiết đến chuyện giết chúng nữa. Anh ốm yếu đến nỗi thậm chí bản thân mình sống hay chết anh cũng bất cần. Ở trên boong, anh chỉ nằm nghiêng và nhắm mắt lại. Anh cảm thấy bàn tay tên trùm tubốp bôi thuốc mỡ trên lưng mình. Rồi, trong một lúc anh không cảm thấy gì khác ngoài ánh nắng ấm áp, và chỉ ngửi thấy mùi gió biển mát rượi, và nỗi đau đớn tan thành một cảm giác mông lung an tĩnh - hầu như sung sướng - chờ chết để về chầu tổ tiên.
Thỉnh thoảng, ở dưới hầm, Kunta nghe thấy đâu đó có tiếng thì thầm và anh tự hỏi không biết họ có thể nghĩ ra chuyện gì để nói nhỉ? Và lợi ích gì kia chứ? Người bạn cùm Uôlôf của anh đã tịch rồi và cái chết đã cướp đi một số người có thể phiên dịch cho anh em khác. Vả chăng, chuyện trò bây giờ tốn quá nhiều sức lực. Mỗi ngày Kunta một thấy yếu hơn và nhìn thấy những điều xảy đến với một số người khác, quả là chẳng phấn khởi gì. Ruột họ bắt đầu tháo ra một hỗn hợp lẫn cả máu vón cục và đờm đặc xam xám vàng vàng hôi thối kinh khủng.
Bữa đầu ngửi thấy và trông thấy chất bài tiết độc hại ấy, bọn tubốp cuống lên. Một tên chạy bổ trở lên qua cửa hầm và mấy phút sau, tên trùm tubốp xuống. Vừa nôn khan, hắn vừa ra hiệu một cách gay gắt cho những tên kia tháo cùm cho những tù nhân đang la thét và mang họ ra khỏi hầm. Phút chốc thêm nhiều tên tubốp nữa quay trở lại, mang theo đèn, xẻng chổi và xô. Vừa nôn oẹ, thở hổn hển và chửi thề, chúng vừa hót và cọ đi cọ lại những dãy ván nằm của những người ốm vừa được mang đi. Rồi chúng tưới dấm đun sôi lên những chỗ đó và chuyển những người nằm cạnh đó sang những quãng trống ở xa hơn.
Song chẳng ăn thua gì, vì cái bệnh ỉa ra máu truyền nhiễm ấy - mà Kunta nghe thấy bọn tubốp gọi là "kiết lỵ" cứ lan hoài, lan mãi. Chẳng bao lâu, anh cũng quằn quại với những cơn đau đầu và đau lưng, rồi sốt nóng hầm hập và sốt rét run người, để rồi cuối cùng thấy ruột gan thắt lại, tháo ra cái chất lầy nhầy máu, mùi khắm lặm. Tưởng chừng ruột gan cũng xổ ra theo, Kunta gần như ngất đi vì đau. Giữa những tiếng la thét, anh gào lên những điều mà chính anh cũng khó tin rằng mình đang thốt ra: "Ômôrô - Ômar, Khalíp 1 Đệ nhị, hàng thứ ba sau đấng Tiên tri Mahamad! Kairaba - Kairaba nghĩa là bình an!" Cuối cùng gào mãi, giọng anh khản đặc lại và hầu như chìm đi không nghe thấy được giữa tiếng nức nở của những người khác. Trong vòng hai ngày hầu như tất cả mọi người trong hầm đều đã mắc kiết lỵ.
Giờ đây, những bọng máu cứ long tong giỏ từ ván nằm xuống lối đi và bọn tubốp không có cách nào tránh khỏi quệt phải hoặc giẫm lên nó khi chúng xuống hầm. Bây giờ, mỗi ngày tù nhân lại được đưa lên boong, trong khi bọn tubốp mang những xô dấm và hắc ín xuống đun sôi bốc hơi để tẩy uế hầm tàu. Kunta cùng các bạn tù chệnh choạng trèo lên qua cửa hầm, đi qua boong tới gieo mình xuống một chỗ và chỗ đó phút chốc đã bê bết máu từ lưng họ và phân lỏng bài tiết từ ruột họ. Mùi không khí thoáng mát như truyền khắp người Kunta, từ đầu đến chân và khi trở về hầm, mùi dấm và hắc ín cũng tác động như vậy, mặc dầu nó chẳng bao giờ có thể dập tắt được sự hôi thối của kiết lỵ.
Trong cơn mê sảng, Kunta thấy loé lên hình ảnh bà nội Yaixa nằm chống tay trên giường nói chuyện với anh lần cuối cùng, khi anh mới là một đứa con nít, và anh nghĩ tới bà Nyô Bôtô, tới những truyện cổ tích bà kể hồi còn ở lứa kafô đầu, như chuyện con cá sấu bị mắc bẫy trên sông và chú bé đến giải thoát cho nó. Miệng rên rẩm và lắp bắp, anh vùng vẫy cấu, đạp mỗi khi bọn tubốp đến gần.
Chẳng bao lâu, phần lớn tù nhân không đủ sức bước đi nữa và bọn tubốp phải dìu họ lên boong để tên tóc bạc có thể bôi cái thứ thuốc mỡ vô hiệu của hắn giữa ánh sáng ban ngày. Ngày nào cũng có người chết và bị vứt qua lan can tàu, trong đó có mấy phụ nữ nữa và hai trong bốn đứa nhỏ - kể cả một số tubốp. Nhiều tên tubốp sống sót phải khó nhọc lắm mới lê được cái thân xác đi quanh quẩn và một trong những tên điều khiển bánh xe của con xuồng lớn phải đứng sẵn trong một cái chậu hứng phân kiết lỵ của y.
Ngày và đêm cứ quyện lẫn vào nhau, cho đến một hôm, Kunta và một số ít tù nhân khác còn có thể lê lết lên khỏi cửa hầm, bỗng trố mắt ngạc nhiên nhìn một tấm thảm rong biển màu vàng óng đang dập dềnh trên mặt nước ở mãi cuối tầm nhìn của họ. Kunta biết rằng biển không thể cứ kéo dài đến vô tận và giờ đây xem chừng như con xuồng lớn sắp sửa đi quá bờ mép của thế giới - nhưng thực ra anh cũng bất cần. Trong thâm tâm anh cảm thấy mình đang tới gần cái kết thúc; anh chỉ không chắc có một điểm là mình sẽ chết bằng cách nào đây.
Anh lờ mờ nhận thấy những tấm vải trắng lớn đang rủ xuống không đầy căng gió như trước nữa. Trên những cây cột, bọn tubốp đang kéo mớ dây dợ nhằng nhịt để xoay những tấm vải sang bên này bên nọ, cố hứng lấy chút gió. Từ tay bọn đứng dưới boong, chúng kéo lên những xô nước, vã vào các tấm vải lớn. Song con xuồng lớn vẫn thiếu gió và chỉ dềnh tới dềnh lui nhè nhẹ trên sóng.
Tất cả bọn tubốp lúc này đều cáu bẩn, thậm chí tên tóc bạc quát cả tên bạn sẹo mặt của hắn, tên này chửi bới đánh đập thủ hạ dữ hơn mọi khi và đến lượt bọn này lại đánh nhau nhiều hơn trước. Nhưng những người tù không bị đánh nữa, trừ một vài trường hợp hiếm hoi, và họ bắt đầu được ở trên boong hầu như suốt cả ban ngày, và điều khiến Kunta ngạc nhiên là mỗi ngày họ được cả một "banh" 2 nước đầy.
Một buổi sáng, khi được đưa từ dưới hầm lên, đám tù trông thấy hàng trăm con cá chim chất đống trên boong. Toán phụ nữ hát rằng đêm qua tubốp đã bật đèn trên boong để nhử cá và chúng đã bẫy lên tàu, sau đó vùng vẫy mãi cũng không thoát nổi. Đêm ấy, cháo ngô được nấu với cá chim và vị cá tươi làm Kunta thích thú đến gai người. Anh ngấu nghiến chén sạch cả xương.
Lần sau, khi rắc cái thứ bột màu vàng xót cứng lên lưng Kunta, tên trùm tubốp đắp vào vai phải anh một tấm băng dày. Kunta hiểu thế nghĩa là xương anh bắt đầu lộ ra, như trường hợp của biết bao người khác, đặc biệt là những người gày chỉ có tí tẹo thịt bọc xương. Miếng băng lại làm cho vai Kunta đau hơn trước. Tuy nhiên, trở xuống hầm chưa được bao lâu thì máu chảy ri rỉ đã thấm đẫm vải băng làm cho nó tuột mất. Điều đó chẳng hệ trọng gì. Đôi khi tâm trí anh miên man ngẫm nghĩ về những khủng khiếp đã trải qua hoặc về nỗi ghê tởm sâu xa của anh đối với tất cả giống tubốp, song phần lớn anh chỉ nằm trong bóng tối hôi thối, mắt dính nhoèn một chất rử vàng vàng, hầu như không ý thức được là mình hãy còn sống.
Anh nghe thấy những người khác kêu la hoặc cầu Chúa Ala cứu vớt, nhưng anh chẳng biết hoặc chẳng cần biết họ là ai. Anh thường vật vờ chìm trôi vào những giấc ngủ thảng thốt, chập chờn những mảnh mộng linh tình, nào là thấy mình đang làm đồng ở Jufurê, nào những trại ấp xanh rờn cây lá, nào cá nhảy tanh tách từ mặt sông phẳng như gương, nào đùi nai nướng trên đống than hồng, nào những bầu nước trà bốc hơi pha mật ong. Rồi trở lại thao thức, đôi khi anh nghe thấy mình đang lảm nhảm thốt ra những lời dọa nạt cay độc không ăn nhập vào đâu, rồi, ngược với ý muốn của mình, lại lớn tiếng cầu xin được nhìn thấy gia đình lần cuối cùng. Mỗi một người thân - Ômôrô, Binta, Lamin, Xuoađu, Mađi - là một hòn đá trong tim anh. Lòng anh quặn đau khi nghĩ rằng mình đã gây buồn khổ cho họ. Cuối cùng anh cố lái tâm trí hướng sang chuyện khác nhưng không ăn thua. Ý nghĩ của anh cứ luôn luôn quay về một cái gì đại loại như cái trống mà anh sắp sửa làm cho bản thân mình. Anh nghĩ đến chuyện đáng lẽ phải có thể tập xử trống trong những đêm gác ngoài ruộng lạc, ở đó không ai nghe thấy được những chỗ đánh lỗi... Nhưng đến đây, anh lại nhớ đến hôm đi đẵn cái thân cây để làm trống và tất cả mọi chuyện lại ùa trở về trong đầu.
Trong số những người còn sống, Kunta là một trong những kẻ cuối cùng còn đủ sức tụt khỏi ván nằm và leo các bậc thang lên boong, không cần có người dìu. Nhưng rồi đôi chân kiệt lực của anh cũng bắt đầu run và bủn nhủn, và cuối cùng, cả anh nữa cũng phải nửa khiêng nửa kéo lết lên boong. Anh ngồi rũ ra, rên khe khẽ, đầu gục giữa hai đầu gối, mắt toét nhoèn nhắm tịt, chờ đến lượt làm vệ sinh. Bọn tubốp giờ đây dùng một miếng bọt bể lớn có thấm xà phòng, vì sợ bàn chải cứng sẽ làm trầy thêm lưng những người tù vốn đã rách nát và ứa máu. Dù sao Kunta cũng vẫn còn khá hơn số đông chỉ còn nằm nghiêng được, coi bộ như đã ngừng thở.
Trong tất cả bọn họ, chỉ có số phụ nữ và trẻ con còn lại là tương đối khỏe mạnh, họ không bị cùm xích dưới hầm tối với mọi thứ bẩn thỉu, hôi thối, chuột bọ và truyền nhiễm. Người phụ nữ sống sót lớn tuổi nhất vào trạc Binta tên là Mbutô, một người Manđinka ở làng Kêrêoan; tư thế bà đường hoàng và trang nghiêm đến nỗi thậm chí trong sự khỏa thân, bà vẫn như đầy đủ xiêm y. Ngay cả bọn tubốp cũng không dám ngăn bà đi lại, an ủi những tù nam nằm liệt trên boong, xoa ngực và trán hầm hập sốt của họ. "Mẹ! Mẹ!" Kunta thì thào khi cảm thấy bàn tay êm ái của bà, và một người khác, yếu quá không nói được, chỉ hé miệng trong một cố gắng để mỉm cười.
Cuối cùng, thậm chí Kunta không thể ăn được nếu không có người bón. Các bắp thịt ở vai và khuỷu tay anh tướp ra đến nỗi anh không thể nhấc nổi tay để vục vào xoong thức ăn. Bây giờ, tù nhân thường được cho ăn ở trong boong và một hôm Kunta đang cào cào móng tay để với qua mép xoong thì tên tubốp mặt sẹo trông thấy. Hắn sủa ra một mệnh lệnh cho một tên cấp dưới ấn một cái ống rỗng vào miệng Kunta và đổ cháo vào đó. Sặc sụa với chiếc ống, Kunta vừa phì nhớt rãi vừa cố nuốt ực đi, rồi quều quào nằm xấp bụng xuống.
Trời càng ngày càng nóng và ngay cả trên boong, mọi người vẫn thấy ngột ngạt mệt nhoài trong không khí lặng tờ. Nhưng sau một ít ngày nữa, Kunta bắt đầu cảm thấy một hơi gió mát. Những tấm vải lớn trên các cột cao lại bắt đầu lật phật và chẳng bao lâu đã phất phới trong gió. Đám tubốp trên đó lại nhảy nhót như khỉ và phút chốc, con xuồng lớn rẽ nước băng băng, bọt cuộn lên trắng xóa ở đằng mũi.
Sáng hôm sau, nhiều tubốp hơn mọi khi xầm xầm đi xuống qua cửa hầm và sớm hơn bao giờ hết. Với một niềm phấn khởi lớn biểu lộ qua lời nói và cử chỉ, chúng hối hả chạy dọc theo những lối đi, tháo xiềng cho tù nhân và hấp tấp dìu họ lên boong. Lập cập bước qua cửa hầm sau một số người đi trước, Kunta hấp háy mắt trong ánh nắng ban mai, rồi nhìn thấy những tên tubốp khác và toán phụ nữ, trẻ em đứng ở lan can tàu. Cả bọn tubốp đều cười ha hả, hoan hô và hoa chân múa tay loạn xị. Ghé qua khoảng giữa những tấm lưng sứt sẹo của các tù nhân khác, Kunta hiêng hiếng mắt và rồi trông thấy...
Mặc dầu còn lờ mờ ở đằng xa, rành rành đó là một mảnh đất của Chúa Ala, không thể lầm được. Quả là những tên tubốp này có một chỗ để đặt chân thật, một vùng đất đai mà tổ tiên xa xưa bảo là trải suốt từ nơi mặt trời mọc đến nơi mặt trời lặn. Toàn thân Kunta run lên. Mồ hôi hột toát ra và lấp lánh trên trán anh. Cuộc hành trình đang kết thúc. Anh đã sống qua cả chặng đường đó. Nhưng rồi phút chốc, nước mắt anh giàn giụa, làm đường duyên hải nhòe đi thành một làn sương mù xám, chập chờn, vì Kunta biết rằng bất cứ cái gì sắp tới cũng sẽ càng tệ hại hơn.
Chương 40
Trở xuống bóng tối cửa hầm tàu, đám tù nhân lo sợ không dám mở miệng. Trong im lặng, Kunta có thể nghe thấy những xà gồ của con tàu cọt kẹt, tiếng xào xạc của biển vỗ vào thân tàu và tiếng chân rậm rịch của bọn tubốp lăng xăng chạy quanh boong ở trên đầu.
Đột nhiên một người Manđinka bắt đầu ré lên hát mừng Chúa Ala và phút chốc tất cả hòa theo - cho đến khi dấy lên một cơn náo động trộn lẫn cả hát mừng, cầu nguyện và xích sắt vung loảng xoảng với tất cả sức lực có thể dồn lên được cánh tay. Giữa tiếng ồn ào, Kunta không nghe thấy tiếng cửa hầm kẹt mở, nhưng luồng ánh sáng ban ngày chói gắt làm anh im bặt và quay phắt đầu về hướng đó. Hấp háy mắt để gạt bớt rử, anh kèm nhèm ngó bọn tubốp xách đèn vào hầm và bắt đầu lùa họ trở lên boong, với một vẻ vội vã khác thường. Một lần nữa, bọn tubốp khua những chiếc chổi cán dài cọ lớp cáu bẩn đóng bánh trên thân mình mưng mủ của những người tù, không đếm xỉa gì đến tiếng kêu la của họ, trong khi tên tubốp đi xuôi hàng người làm cái công việc rảy bột vàng của hắn. Nhưng lần này, thấy chỗ nào thịt bị loét sâu, hắn ra hiệu cho tên phụ việc to lớn dùng một chiếc bàn chải bẹt, rộng, trát vào một chất đen đen. Khi cái chất đó chạm vào đôi mông trầy trợt của Kunta, anh đau xói lên, choáng váng ngã vật xuống sàn boong.
Đang nằm sóng soài, toàn thân cảm thấy như bị bỏ vào lửa, anh bỗng nghe thấy tiếng anh em lại gào lên kinh hãi, và ngóc đầu dậy, anh trông thấy mấy tên tubốp đang bắt tay vào cái việc chỉ có thể là chuẩn bị ăn thịt bọn họ. Từng cặp một, chúng đẩy anh em tù, thoạt tiên là một người rồi đến người tiếp theo, bắt quỳ xuống trong khi một tên thứ ba xát lên đầu họ một chất sủi bọt trắng rồi với một vật hèm hẹp, bóng loáng, cạo tóc khỏi da đầu, mặc cho máu ròng ròng trên mặt.
Khi chúng tới nắm lấy Kunta, anh hét lên và vật lộn với hết sức mình cho đến khi một cái đá như trời giáng vào mạng sườn khiến anh hộc lên, trong khi da đầu anh thấy tê tê ngầu bọt lên và bị gãi sồn sột. Sau đó, mình mảy đám tù nhân được thoa dầu bóng nhãy, rồi chúng bắt họ mặc một thứ khố kỳ lạ có hai lỗ để xỏ chân và che luôn cả hạ bộ. Cuối cùng, dưới sự giám sát chặt chẽ của tên trùm tubốp, họ bị xiềng trong tư thế nằm, dọc theo lan can, trong khi mặt trời lên tới đỉnh.
Kunta nằm đờ đẫn như mụ đi. Anh mường tượng rằng cuối cùng, khi chúng ăn thịt anh và mút xương anh thì hồn anh đã thoát ra hay về với Chúa Ala rồi. Anh đang lặng lẽ cầu nguyện thì những tiếng quát tháo của tên trùm tubốp và tên phụ tá to lớn của hắn làm anh mở mắt vừa đúng lúc để quan sát lũ bộ hạ leo lên những cây cột cao. Có điều lần này, trong khi kéo căng thừng, những tiếng ậm ạch của chúng lại pha lẫn tiếng reo hò phấn khởi và tiếng cười. Một lúc sau, phần lớn những tấm vải trắng lớn trùng lại và rụi xuống.
Lỗ mũi Kunta phát hiện ra một mùi mới trong không khí, thực ra nó là hỗn hợp của nhiều mùi, phần lớn là kỳ dị và xa lạ đối với anh. Rồi anh tưởng chừng nghe thấy những âm thanh mới ở đằng xa, nơi bờ biển. Nằm trên boong, đôi mắt toét nhoèn nửa nhắm nửa mở, anh không thể biết chắc chúng từ đâu lại. Nhưng chẳng mấy chốc, những tiếng đó gần lại, trong khi đó, anh sợ hãi rên lên, hòa vào tiếng rền rĩ của các bạn. Những âm thanh kia mỗi lúc một to, tiếng cầu nguyện lắp bắp của họ cũng vậy - cuối cùng, trong làn gió nhẹ thổi, Kunta có thể ngửi ra mùi thân thể của nhiều tên tubốp không quen. Đúng lúc ấy, con xuồng lớn va mạnh vào một vật gì vững chãi, trơ trơ và nó tròng trành mạnh, đảo tới đảo lui cho đến khi, lần đầu tiên kể từ lúc rời Châu Phi bốn tuần trăng rưỡi trước, nó được néo thừng buộc chặt, rồi nằm im trên bến.
Những con người bị xiềng ngồi sững ra, kinh hoàng. Hai cánh tay Kunta ôm lấy đầu gối và mắt anh nhắm nghiền như toàn thân bị tê liệt. Anh cố nín thở thật lâu chừng nào có thể được để khỏi phải chịu đựng cái đợt sóng những mùi lộn mửa kia, nhưng khi có cái gì đó lộp cộp nặng nề trên boong tàu, anh liền he hé mắt và trông thấy hai tên tubốp mới từ một tấm ván rộng bước xuống, tay cầm một miếng vải trắng ấp lên mũi. Đi lại cử động, nhanh nhẹn, chúng bắt tay tên trùm tubốp lúc này toe toét cười, rõ ràng là đang đon đả muốn làm vừa lòng chúng. Kunta lặng lẽ cầu xin Chúa Ala mở lượng từ bi và khoan dung, trong khi bọn tubốp bắt đầu chạy dọc lan can tháo xích cho những người da đen và hoa chân múa tay quát họ đứng dậy. Khi Kunta và các bạn anh níu chặt lấy dây xích - không muốn buông cái đã gần như trở thành một bộ phận của cơ thể mình - thì những ngọn roi bèn quật xuống đen đét, thoạt tiên là vào đầu, rồi vào lưng họ. Lập tức, giữa những tiếng la hét, họ buông dây xích ra và chệnh choạng đứng dậy.
Nhìn qua sườn tàu xuống bến, Kunta có thể thấy hàng tá tubốp náo nức giậm chân, cười ha hả, chỉ trỏ, trong khi hàng chục tên khác từ khắp ngả chạy tới nhập bọn với chúng. Dưới làn roi vọt, anh em tù bị dồn thành một hàng dọc, chệnh choạng bước qua sườn tàu đi xuống tấm ván dọc, hướng về phía đám đông đang đứng đợi. Đầu gối Kunta như rủ xuống khi chân anh chạm vào mảnh đất tubốp. Nhưng bọn tubốp cầm roi lăm lăm trong tay vẫn thúc họ đi sát vào đám đông đang cười cợt, cái mùi tập thể quánh lại của chúng như một nắm đấm khổng lồ thoi vào mặt Kunta. Mỗi khi một người da đen ngã, miệng gào Chúa Ala, dây xiềng lại kéo theo cả người đằng trước và đằng sau. Roi vọt lại thúc họ đứng dậy trong tiếng reo hò náo nức của đám đông.
Trong Kunta, nổi lên một thôi thúc mãnh liệt xui anh vùng ra chạy trốn, song những ngọn roi vẫn lùa hàng người bị xiềng tiến lên. Họ hì hụi đi qua trước những tubốp cưỡi những cỗ xe kỳ lạ hai bánh và bốn bánh kéo bởi những con vật to tướng trông hơi giống lừa, rồi qua một đám tubốp nhốn nháo quanh một thứ bãi chợ đầy những đống sặc sỡ màu sắc có vẻ như là rau, hoa quả. Một số tubốp ăn vận đẹp đẽ nhìn họ, vẻ ghê tởm, trong khi những tubốp quần áo xoàng xĩnh hơn thì chỉ trỏ và hú lên vui thích. Một trong số này - Kunta nhận thấy - là một tubốp cái, tóc lõa xõa màu rơm. Đã từng chứng kiến bọn tubốp trên tàu hau háu thèm khát phụ nữ da đen như thế nào, anh lấy làm ngạc nhiên thấy giống tubốp cũng có đàn bà của riêng chúng nhưng nhìn cái bản mẫu này, anh có thể hiểu tại sao chúng lại thích phụ nữ Châu Phi hơn.
Kunta liếc mắt nhìn sang bên khi đi ngang qua một nhóm tubốp hò hét như điên quanh hai con gà trống đánh nhau túi bụi. Và tiếng ồn ào đó vừa mới lắng đi đằng sau họ, thì lại gặp một đám khác vừa la vừa nhảy như choi choi để tránh khỏi bị ba thằng nhóc tubốp đâm sầm vào, mấy đứa này đang bổ nháo bổ nhào rượt theo một con ủn ỉn bẩn thỉu kêu eng éc mình bóng nhãy những mỡ. Kunta không dám tin ở mắt mình nữa.
Thế rồi bất thần như sét đánh, Kunta chợt nhìn thấy hai người da đen không phải trong đám được giải từ con xuồng lớn xuống - một người Manđinka và một người Xêrer, không còn nghi ngờ gì nữa. Anh quay ngoắt đầu đăm đăm nhìn họ lặng lẽ bước sau một tên tubốp. Rút cục thì ra không phải chỉ có mình anh cùng các bạn tù trên mảnh đất khủng khiếp này! Và nếu như hai người này được phép sống thì có lẽ bọn anh cũng không đến nỗi bị bỏ vào chảo nấu. Kunta những muốn xô lại ôm chầm lấy họ: song anh nhìn thấy vẻ mặt không chút thần sắc và nỗi sợ trong cặp mắt cụp xuống của họ. Thế rồi mũi anh bắt được mùi họ: nó có một cái gì làm sao ấy, không ổn. Đầu óc anh quay cuồng: anh không thể hiểu nổi, làm sao những người da đen lại ngoan ngoãn đi theo một tên tubốp không cần ngó ngàng tới họ hoặc thậm chí cũng chả thèm mang vũ khí, mà không tìm cách chạy trốn - hoặc giết béng hắn đi.
Anh không có thì giờ nghĩ thêm về chuyện đó, vì bất thình lình họ thấy mình đứng trước cánh cửa mở của một ngôi nhà lớn vuông vắn xây bằng gạch hình chữ nhật, có những song sắt rào những ô trồng dọc sườn nhà. Bọn tubốp gác cổng quật roi lùa đoàn người bị xiềng vào trong sân, rồi vào một căn phòng lớn. Chân Kunta thấy man mát khi đặt lên sàn nhà rắn chắc. Trong ánh sáng lờ mờ lọt qua hai ô mở rào chấn song sắt, đôi mắt hấp háy của anh nhận ra năm bóng người da đen nép vào nhau dọc một bức tường. Thậm chí họ cũng không buồn ngẩng đầu lên khi bọn tubốp khóa cổ chân, cổ tay Kunta và đồng bạn vào những còng sắt dày kèm những đoạn xích ngắn gắn vào tường.
Cùng với anh em khác, Kunta co ro ngồi xuống, tỳ cằm vào hai đầu gối bó lại, tâm trí choáng váng, quay cuồng với tất cả những gì đã trông thấy, nghe thấy và ngửi thấy từ lúc bước chân khỏi con xuồng lớn. Một lát sau, một người da đen khác bước vào. Không nhìn ai cả, anh ta đặt trước mỗi người vài hộp sắt tây đựng nước và thức ăn, rồi vội vã bỏ đi. Kunta không đói, song cổ anh khô se lại, đến nỗi cuối cùng, anh không thể ngăn mình hớp một chút nước; mùi nó là lạ. Anh đờ đẫn ngắm ánh ngày tàn dần và chuyển thành bóng tối qua những khoang rào chấn song sắt.
Càng ngồi đó Kunta càng ngụp vào một nỗi kinh hoàng không thể xác định. Anh cảm thấy hầu như thích cái hầm tàu tối mít hơn, vì ở đó, ít ra anh đã đạt đến chỗ đoán biết được điều gì sắp đến. Anh rúm người lại mỗi khi có một tên tubốp vào buồng ban đêm; mùi chúng lạ lẫm và nồng nặc. Anh đã quen với những mùi khác nhau - mồ hôi, nước đái, những thân người bẩn thỉu, mùi thối hoắc khi một tù nhân nào đó quằn quại tháo dạ, trong khi những người khác vừa cầu kinh, vừa chửi thề, vừa rên rẩm, vừa giựt xiềng loảng xoảng.
Bỗng nhiên, mọi tiếng ồn ào ngừng bặt khi một tubốp bước vào, mang theo một cái đèn như loại được dùng ở trên con xuồng lớn và đằng sau hắn là một tubốp khác đang lấy roi đánh một người da đen mới, người này kêu những câu gì nghe như tiếng tubốp. Phút chốc, anh ta bị xiềng lại và hai tên tubốp đi khỏi. Kunta cùng các bạn vẫn ngồi yên, nghe những tiếng rền rĩ kêu đau của người mới tới.
Kunta cảm thấy là sắp rạng đông. Thốt nhiên không biết từ đâu vẳng tới tâm trí anh cái giọng kim sắc gọn của vị kintangô, rành rọt như giữa kỳ rèn luyện trưởng thành: "Kẻ nào biết quan sát kỹ và học giống vật mới là người khôn ngoan". Điều đó gây một chấn động mạnh đến nỗi Kunta ngồi thẳng người dậy. Phải chăng, rốt cuộc, đây là một lời phán truyền của Chúa Ala? Học giống vật - điều đó, ở nơi đây, vào lúc này có nghĩa là thế nào nhỉ? Bản thân anh cũng giống như một con vật bị mắc bẫy. Anh hình dung trong đầu những con vật mắc bẫy mà anh đã thấy. Ờ, đôi khi có những con trốn thoát được trước khi bị giết. Chúng là những con vật như thế nào?
Cuối cùng câu trả lời đã đến với anh. Những con vật đã thoát ra khỏi bẫy, theo anh biết, là những con không lồng lộn trong bẫy để yếu dần đến độ kiệt sức, những con trốn thoát đã biết nén mình chờ đợi một cách lặng lẽ, giữ sức cho đến khi những người bẫy chúng tới và lợi dụng sự sơ ý của họ, trút hết năng lượng bùng lên một đợt công kích tuyệt vọng - hay, khôn ngoan hơn, chạy trốn trở lại tự do.
Kunta cảm thấy tỉnh táo nhanh nhẹn hơn gấp bội. Đây là hy vọng tích cực đầu tiên của anh kể từ sau vụ âm mưu tập thể định tiêu diệt bọn tubốp trên con xuồng lớn. Giờ đây, tâm trí anh níu chặt lấy hy vọng đó: trốn. Anh phải làm ra vẻ chịu thất bại trước mặt bọn tubốp. Anh không được lồng lộn hay đấu tranh gì hết, anh phải làm như thể đã từ bỏ mọi hy vọng.
Nhưng ngay cả nếu anh tìm cách thoát thân được, thử hỏi anh sẽ chạy đi đâu? Anh có thể trốn đâu được trên mảnh đất lạ này? Vùng quê xung quanh Jufurê thì anh thuộc lầu như trong lều riêng của mình, nhưng ở đây, anh chẳng biết đâu vào đâu cả. Thậm chí anh cũng không biết tubốp có rừng không, hoặc giả nếu có, liệu anh có tìm ra được trong đó những dấu hiệu mà một người đi săn có thể lợi dụng không? Kunta tự nhủ những vấn đề đó hẵng để vậy, bao giờ đến sẽ liệu.
Khi những tia sáng đầu tiên của rạng đông lọc qua song cửa sổ, Kunta lăn ra ngủ chập chờn. Nhưng vừa mới nhắm mắt được tí ti - anh cảm thấy thế - gã da đen lạ mặt mang nước và thức ăn đã đến làm anh thức giấc. Bụng Kunta đói quặn lại, nhưng mùi thức ăn làm anh buồn nôn, và anh quay mặt đi. Anh cảm thấy lưỡi mình lườm lượm và sưng vều. Anh cố gắng nuốt cái thứ cháo nhớt trong miệng, đau cả cổ họng.
Anh đờ đẫn nhìn các bạn cùng bị bắt trên con xuồng lớn; tất cả đều như không trông, không nghe thấy gì - thu mình vào vỏ ốc. Kunta quay đầu quan sát năm người có mặt trong buồng này khi họ tới. Hai gã có nước da nâu sáng mà các bậc huynh trưởng bảo là kết quả của việc một tubốp nào đó ngủ với một phụ nữ da đen. Rồi Kunta nhìn anh chàng mới được đưa đến hồi đêm, gã ngồi gục, chúi về đằng trước, máu khô kết lại trên tóc và bê bết bộ quần áo tubốp mặc trên người, một cánh tay lủng lẳng một cách ngượng nghịu, rõ ràng là bị gẫy.
Thời gian tiếp tục trôi và cuối cùng, Kunta lại ngủ thiếp đi - để rồi lại bị một bữa ăn khác đến đánh thức dậy, tuy nhiên lần này muộn hơn nhiều. Đó là thứ cháo nóng bốc hơi, ngửi mùi còn tệ hơn cái món được đem đặt trước mặt anh hồi nãy. Anh nhắm mắt lại để khỏi nhìn nó, song khi hầu hết các bạn tù đều vớ lấy bát và nuốt nghiến cái của nợ ấy, anh độ chừng là, xét cho cùng, nó cũng chẳng đến nỗi quá quắt lắm. Nếu muốn trốn khỏi nơi này, Kunta nghĩ, mình cần phải có sức. Anh cần tự ép mình ăn chút đỉnh - một tí tẹo thôi. Cầm lấy bát, anh đưa lên miệng và húp, và nuốt ừng ực cho đến hết nhẵn. Ghê tởm ngay chính mình, anh dằn mạnh bát xuống và bắt đầu oẹ, nhưng rồi lại cố nén xuống. Anh cần phải giữ thức ăn trong người nếu muốn sống.
Từ hôm ấy trở đi, mỗi ngày ba lần, Kunta tự buộc mình ăn cái món đáng ghét ấy. Gã da đen mang thức ăn, mỗi ngày một bận xách xô, xẻng cuốc đến dọn sạch sẽ. Và mỗi chiều một bận, hai tubốp tới bôi thêm cái chất lỏng đen đen xót giẫy nảy lên những vết loét nặng nhất của đám tù nhân và rảy bột vàng lên những nốt nhỏ hơn. Kunta tự khinh bỉ mình vì sự yếu đuối đã khiến anh giãy lên và kêu đau cùng với những người khác.
Qua cửa sổ chấn song, Kunta đếm được sáu ngày và năm đêm. Bốn đêm đầu, anh loáng thoáng nghe thấy từ đâu đó không xa lắm, tiếng la thét của phụ nữ mà anh nhận ra là các chị em cùng chuyến tàu. Anh và các bạn đã phải ngồi lặng đó, mặt nóng bừng với nỗi nhục bất lực không bảo vệ được nữ đồng loại của mình, chưa nói chi đến bản thân. Nhưng đêm nay còn tệ hơn nữa vì tịnh không có tiếng phụ nữ kêu. Điều khủng khiếp gì mới đã xập xuống đầu họ vậy?
Gần như ngày nào cũng có một hoặc nhiều gã da đen kỳ dị mặc quần áo tubốp, bị đẩy rúi vào phòng và xích lại. Phục xuống dựa mình vào tường hoặc nằm co quắp trên sàn, tất cả đều mang rành rành dấu hiệu vừa bị đánh, coi bộ không biết mình đang ở đâu hoặc bất cần những gì có thể sắp xảy đến với mình. Rồi, thường thường là không quá một ngày sau, một tubốp bộ dạng quan trọng bước vào phòng tay cầm một mảnh vải bịt mũi và lần nào cũng vậy, một trong số tù nhân mới liền sợ hãi kêu thất thanh - trong khi tên tubốp vừa quát vừa đánh anh ta, sau đó người da đen này bị đưa đi biệt.
Mỗi khi thấy thức ăn trong bụng đã lắng, Kunta cố ngừng suy nghĩ để ngủ. Dù chỉ mấy phút nghỉ ngơi cũng tạm xóa đi được trong chừng này thời gian cái nông nỗi kinh khủng này mà, không biết vì lý do gì, lại là ý thánh linh của Chúa Ala. Những khi không ngủ được - mà đa phần thời gian là thế - Kunta thường cố gắng lái tâm trí về những chuyện khác ngoài gia đình và làng bản, vì cứ nghĩ đến cái đó, anh lại khóc nức nở.
Chương 41
Ngay sau bữa cháo sáng thứ bảy, hai tubốp ôm một ôm quần áo vào căn phòng có cửa sổ chấn song. Lần lượt từ người tù khiếp đảm được tháo xiềng và bày cách mặc quần áo, một cái che từ thắt lưng xuống chân và cái thứ hai che thân trên. Khi Kunta mặc vào, những vết loét - vốn đã bắt đầu có dấu hiệu lên da non - lập tức đâm ngứa.
Một lát, anh bắt đầu nghe thấy những tiếng nói bên ngoài, mỗi lần một to hơn. Nhiều tubốp đang tụ tập, cười nói, cách cửa sổ chấn song không xa. Kunta và các bạn ngồi trong những bộ quần áo tubốp, sợ thắt ruột, không biết những gì sắp xảy tới.
Khi hai tên tubốp trở lại, chúng hấp tấp tháo xiềng cho ba trong số năm người da đen có mặt ở đây đầu tiên và áp giải họ ra khỏi phòng. Cả ba người này xem vẻ đều thản nhiên như thể chuyện đó trước đây đã xảy đến với họ khá nhiều lần nên chẳng có gì quan trọng nữa. Rồi phút chốc, giọng của đám tubốp bên ngoài bỗng đổi khác; nó nhỏ bặt đi, thế rồi một tubốp bắt đầu hô. Kunta lắng nghe những tiếng hô kỳ lạ, cố gắng một cách vô hiệu để đoán xem bọn kia nói gì: "Khỏe như vâm! Thằng mọi này sáng dạ ra phết!". Và chốc chốc lại có những tubốp khác xen vào kêu lớn:"Ba trăm rưỡi!" "Bốn trăm!". Và tên tubốp đầu tiên lại rao to:"Hãy thử nói sáu trăm đi nào! Nhìn nó mà coi! Làm khỏe như trâu nhé!"
Kunta rùng mình sợ hãi, mặt ròng ròng mồ hôi, hơi thở tắt lại trong cổ họng. Khi bốn tubốp bước vào phòng - hai tên lúc đầu cộng thêm hai tên mới nữa - Kunta cảm thấy như mình bị liệt. Cặp tubốp mới đứng ngay bên trong cửa ra vào, một tay cầm gậy ngắn, tay kia cầm một vật gì nhỏ bằng kim khí. Hai tên kia đi dọc tường bên phía Kunta tháo các còng sắt. Người nào kêu hoặc vùng vẫy liền bị đánh bằng một sợi dây da ngắn và dày. Mặc dầu thế, khi thấy bị chạm vào người, Kunta vẫn gầm gừ, vừa vì giận dữ, vừa vì kinh hãi. Một nhát roi vào đầu lọng óc; anh chỉ lờ mờ cảm thấy sợi xích gắn vào còng giựt giựt. Khi đầu anh bắt đầu tinh tường trở lại, anh thấy mình được sắp trên cùng một hàng sáu người xiềng chặt với nhau loạng choạng bước qua khung cửa rộng ra ngoài trời quang.
"Vừa mới tuyển ở rừng ra!" Tên to mồm rao đang đứng trên một cái bọc gỗ thấp, với hàng trăm tubốp khác xúm xụm trước mặt. Trong khi bọn chúng há hốc mồm, khoa chân múa tay, Kunta nheo mũi lại vì mùi hôi đậm đặc của chúng. Anh thoáng thấy một số người da đen trong đám tubốp, song nét mặt họ coi bộ như chẳng nhìn thấy gì hết. Hai gã trong số đó đang giữ dây xích chằng hai người da đen vừa được đưa từ căn phòng có cửa rào chấn song. Lúc này, tên to mồm bắt đầu rảo bước dọc theo hàng Kunta và các bạn anh, đưa mắt đánh giá họ từ đầu đến chân. Rồi hắn đi ngược lên đầu hàng người, vừa thúc cán roi vào ngực, vào bụng họ, vừa thốt ra những lời rao kỳ quái: "Tài như khỉ! Có thể huấn luyện làm được bất cứ việc gì!" rồi quay lại cuối hàng, hắn thô bạo thúc Kunta đến chỗ cái bục. Nhưng Kunta chỉ còn biết run lên, không sao cử động được; y như thể mọi giác quan đã biến đâu mất. Cán roi thúc buốt nhói lớp da đóng vẩy trên đôi mông lở lói của anh; đau điếng hầu như muốn quỵ xuống Kunta trệu trạo bước lên và tên tubốp khóa đánh cách đầu xích rời vào một vật bằng sắt.
"Thượng hảo hạng - trẻ mềm mại!" tên tubốp rao. Kun ta đã tê cứng người vì khiếp sợ đến nỗi anh hầu như không để ý tới đám đông tubốp xáp lại gần hơn quanh anh. Rồi với gậy ngắn và cán roi, chúng banh đôi môi mím chặt của anh để xem xét hai hàm răng cắn vào nhau và dùng tay không sờ nắn mọi chỗ: dưới nách, trên lưng, ngực, bộ phận sinh dục. Rồi một số tên đã củ sóat người Kunta bèn bước giật lùi và hô lên những tiếng kỳ lạ.
"Ba trăm đô la! … ba trăm năm mươi!". Tên tubốp to mồm cười chế nhạo. "Năm trăm!...sáu!". Hắn có vẻ bực mình "Đây là một thằng nhọ trẻ hảo hạng! Hình như tôi nghe ai trả bảy trăm năm mươi thì phải?".
Hắn nhắc lại tiếng đó mấy lần, rồi gào lên: "Tám nào!" cho đến khi một ngừơi nào đó trong đám đông lớn tiếng đáp lại gợi ý đó. Và hắn chưa kịp nhắc lại thì một người khác đã hét: "Tám trăm rưỡi!".
Không ai trả thêm nữa. Tên tubốp rao giá tháo xích cho Kunta và đẩy anh về phía một tên tubốp đang bước lên phía trước. Kunta cảm thấy một xung lực thúc anh hành động ngay lúc đó, song anh biết mình sẽ không thành công trót lọt - và dù sao đi nữa, chân anh vẫn dường như không cất lên nổi.
Anh nhìn thấy một gã da đen bước sau lão tubốp mà tên rao giá vừa giao cho sợi xích dắt anh. Đôi mắt Kunta cầu khẩn gã da đen nọ, mà diện mạo mang rành rành những nét đặc điểm của người Uôlôt, Người Anh Em, Bạn Cùng Một Xứ Sở Với Tôi… Song gã da đen thậm chí như không nhìn thấy anh gã giựt mạnh dây xích làm cho Kunta loạng choạng đằng sau mình và họ bắt đầu tiến qua đám đông. Một số tubốp trẻ cười cợt chế nhạo và lấy gậy thọc vào người Kunta khi họ đi ngang, nhưng cuối cùng, họ bỏ đám đông lại sau lưng và gã da đen dừng lại trước một thứ hòm to tướng đặt lơ lửng tách khỏi mặt đất trên bốn bánh xe, đằng sau một trong những con vật từa tựa như lừa mà anh đã trông thấy trên đường từ con xuồng lớn tới đây.
Với một tiếng hầm hừ bực dọc, gã da đen túm lấy mông Kunta, đẩy lên qua mép và rúi vào sàn cái hòm; anh rụng xuống thành một đống, tai nghe thấy đầu xích rời lại khóa đánh cách vào một cái gì bên dưới một chiếc ghế cao phía trên cái hòm, đằng sau con vật.
Hai cái bao tải lớn đựng một thứ gì ngửi như là thóc được chất cạnh chỗ Kunta nằm. Hai mắt anh nhắm tịt, anh cảm thấy mình không muốn nhìn lại bất cứ cái gì - nhất là tên hắc gian khốn kiếp kia.
Sau một lát tưởng chừng như rất lâu, mũi Kunta mách anh rằng lão tubốp đã trở lại. Lão tubốp nói cái gì đó, rồi cùng gã da đen trèo lên ghế trước, gieo cả sức nặng xuống làm ghế kêu cót két. Gã đen kêu một tiếng ngắn và quất một chiếc roi da đánh đét trên lưng con vật; lập tức, nó bắt đầu kéo cái hòm di động chuyển bánh về phía trước.
Kunta bàng hoàng đến nỗi, hồi lâu không nghe thấy sợi xích bắt vào chiếc còng cổ chân anh va lách cách vào sàn hòm. Khi ý nghĩ trong đầu trở lại minh bạch, anh không biết là đã đi được bao xa rồi, và anh hé mắt vừa đủ để xem xét kỹ sợi dây xích ngay gần kề. Phải, nó nhỏ hơn cái chuỗi đã xiềng chặt anh trên con xuồng lớn, nếu anh thu hết sức lực vùng ra, liệu nó có bựt khỏi chiếc hòm không nhỉ?
Kunta thận trọng ngước mắt lên nhìn lưng hai tên ngồi đằng trước, lão tubốp ngồi ngay đuỗn ở một đầu chiếc ghể gỗ dài, còn gã đen thõng thượt đầu đằng kia. Cả hai đều trân trân nhìn về phía trước như thể không hề biết rằng mình đang ngồi cùng ghế với nhau. Dây xích hình như được vít chặt vào một chỗ nào đó trong bóng tối dưới gầm ghế; anh quyết định chưa phải lúc nhảy chạy trốn.
Mùi những bao thóc bên cạnh sực nức át tất cả, song anh vẫn ngửi thấy lão tubốp cũng gã lái xe da đen - và lát sau, lại ngửi thấy cả một số người da đen khác, ngay gần đấy. Khẽ khàng không một tiếng động , Kunta nhích cái than thể đau nhừ lên dựa vào thành hòm gồ ghề, nhưng vẫn sợ không dám ngóc đầu qua mép hòm nên không nhìn thấy họ đâu cả.
Vừa nằm trở xuống thì lão tubốp ngoái đầu lại, hai luồng mắt gặp nhau. Kunta cảm thấy sợ toát người, như muốn lả đi, nhưng lão tubốp chẳng tỏ vẻ gì và lát sau, lại quay lưng lại… Thái độ dửng dưng của lão tubốp làm anh dạn lên, anh lại ngồi nhổm dậy - lần này nhô cao hơn - và nghe thấy một tiếng hát xa xa, mỗi lúc một to dần lên. Phía trước, không bao xa anh thấy một tubốp cưỡi trên lưng một con vật khác cũng giống như con kéo chiếc hòm di động. Hắn cầm một chiếc roi xoắn, và một chuỗi dây xích nối liền con vật với những còng tay của khoảng chừng hai mươi người da đen - hoặc nói đúng, phần lớn là da đen, trừ một số da nâu - đang bước thành một hàng dọc trước mặt hắn.
Kunta hấp háy và hiếng mắt để nhìn cho rõ hơn. Trừ hai phụ nữ mặc quần áo đầy đủ, còn tất cả đều là đàn ông và đều ở trần từ thắt lưng trở lên, họ đang hát, giọng buồn tủi sâu xa. Anh lắng nghe kỹ lời hát, nhưng không hiểu gì cả. Khi chiếc hòm di động chầm chậm vượt qua họ, cả đám người đen lẫn tên tubốp không buồn liếc mắt về phía đó, mặc dù hai bên kề giáp tới mức chạm nhau. Kunta thấy lưng họ hầu hết đều chằng chịt vết roi, một số còn mới toanh; anh đoán thử một số bộ lạc của họ: Fula Yôruba, Moritanya, Uôlôt, Manđinka. Về những người này, anh dám chắc hơn số còn lại, trong đó phần lớn chịu cái bất hạnh có bố là tubốp.
Phía bên kia đám người đen, đến hết tầm xa mà đôi mắt toét nhoèn của Kunta có thể nhìn thấu, trải ra những cánh đồng mênh mông, hoa mầu mọc nhiều màu sắc khác nhau. Ven đường có một cánh đồng trồng một loại cây mà anh nhận ra là ngô. Cũng như ở Jufurê sau vụ gặt, các thân cây đều nâu và tỉa hết bắp.
Lát sau, lão tubốp cúi xuống lấy ra ít bánh mì và thịt ở một cái túi dưới gầm ghế, bẻ mỗi thứ một miếng đặt lên ghế giữa lão với gã da đen, gã này lấy mũ đỡ lấy và bắt đầu ăn. Mấy phút sau, gã đen quay lại ném một cái nhìn dài về phía Kunta đang ngó trân trân và đưa cho anh một mẩu bánh mì. Từ chỗ nằm, Kunta có thể ngửi thấy mùi bánh thơm phức làm anh nhỏ rãi, nhưng anh ngảnh đầu đi chỗ khác. Gã đen nhún vai và bỏ tọt miếng bánh vào mồm mình.
Cố gắng không nghĩ đến cơn đói, Kunta nhìn ra ngoài và trông thấy phía cuối một cánh đồng một nhóm người lom khom như đang làm việc. Có lẽ họ là người da đen, anh nghĩ vậy, nhưng họ ở xa quá, khó mà chắc được. Anh khịt khịt mũi, cố bắt lấy mùi họ trong không khí nhưng không được.
Vào lúc mặt trời lặn, chiếc hòm di động gặp một cái khác giống như nó đi ngược chiều, do một tubốp lái, với ba đứa trẻ da đen thuộc lứa kafô đầu ngồi đằng sau. Lê bước trong dây xiềng đằng sau cái hòm là bảy người da đen - bốn đàn ông ăn vận rách rưới và ba phụ nữ mặc áo dài thô. Kunta thắc mắc tại sao những ngừơi này không hát; rồi khi họ vụt qua, anh trông thẩy vẻ tuyệt vọng sâu sắc trên mặt họ. Không biết bọn tubốp đưa họ đi đâu, anh tự hỏi.
Hoàng hôn thẫm bóng dần, bày dơi đen nhỏ bé bắt đầu kêu choe chóe và chập choạng bay đây đó, y như ở bên Châu Phi. Kunta nghe thấy lão tubốp bão gã da đen cái gì và phút chốc cái hòm rẽ vào một con đường nhỏ. Kunta ngồi dậy và chẳng bao lâu trông thấy xa xa một ngôi nhà lớn màu trắng thấp thoáng qua những hàng cây. Bụng anh bỗng thắt lại: Lạy Chúa Ala, chuyện gì sẽ xảy ra đây? Phải chăng đây là nơi anh sắp sửa bị ăn thịt? Anh lại gieo mình xuống và nằm lịm như chết rồi.
Chương 42
Trong khi chiếc hòm lăn bánh mỗi lúc mỗi đến gần ngôi nhà, Kunta bắt đầu ngửi thấy - rồi nghe thấy - thêm nhiều người da đen khác. Chống khuỷu tay nhổm dậy, anh chỉ nhận ra ba bóng người đang tiến lại gần trong đêm bắt đầu buông. Người to lớn nhất trong bọn đang ve vẩy một ánh lửa nhỏ như kiểu đèn đã trở thành quen thuộc với Kunta những lần bọn tubốp xuống khoang hầm tối của con xuồng lớn, có điều đốm lửa này được đóng khung trong một cái gì sáng lấp lánh không phải là kim loại. Trước nay, anh chưa bao giờ trông thấy vật gì giống như thế cả nó chói gắt, nhưng ta có thể nhìn xuyên qua như thể không có nó ở đó. Tuy nhiên, anh không có dịp quan sát nó kỹ hơn vì ba người da đen vội vàng bước sang một bên nhường lối cho một tubốp khác đi qua và tiến tới chỗ cái hòm xịch đỗ bên cạnh hắn. Hai tubốp chào nhau, rồi một gã da đen giơ cao đốm lửa cho lão tubốp trong hòm nhìn rõ mà bước xuống gặp tên kia. Họ nồng nhiệt xiết chặt tay nhau và cùng đi về phía ngôi nhà.
Hy vọng trào lên trong lòng Kunta. Liệu bây giờ những người da đen có thả anh ra không? Song anh vừa mới nghĩ vậy thì ánh đèn bỗng soi tỏ mặt họ: họ đang đứng nhìn anh qua thành xe và đang cười anh. Những gã này là cái giống da đen gì mà lại miệt thị người đồng chủng và làm việc như dê chó cho bọn tubốp? Gốc gác chúng ở đâu vậy? Bề ngoài, nom chúng như người Phi, nhưng rõ ràng chúng không phải quê quán ở Châu Phi.
Rồi cái gã lái chiếc hòm di động chậc lưỡi thúc con vật, ra roi vun vút và chiếc hòm chuyển bánh về phía trước. Bọn da đen dưới kia bước theo bên cạnh vẫn cười cợt, cho đến khi nó lại dừng. Gã lái xe nhảy xuống đi lộn lại và trong ánh đèn, giật mạnh dây xích Kunta, vừa tháo nó khỏi gầm ghế vừa hầm hè như hăm dọa, rồi ra hiệu cho Kunta ra khỏi hòm.
Kunta dẹp ý muốn bồng bột thôi thúc anh nhảy xồ vào bóp cổ bốn tên da đen. Bọn chúng quá lợi thế, phải đợi thời cơ sau này thôi. Từng đường gân thớ thịt của anh như muốn kêu lên trong khi anh tự ép mình, quỳ lên và bắt đầu lồm ngồm giật lùi trong hòm xe. Thấy anh lâu quá, hai tên da đen sốt ruột túm lấy Kunta, phũ phàng kéo anh qua thành hòm và gần như quăng xuống đất. Một lát sau, gã lái khóa đánh cách đầu rời của dây xích Kunta quanh một cái cột lớn.
Kunta đang nằm, tràn ngập đau đớn, lo sợ và căm giận thì một gã da đen đặt trước mặt anh hai chiếc hộp sắt tây. Trong ánh lửa, Kunta thấy một hộp gần đầy nước, còn hộp kia đựng một thứ đồ ăn gì nom lạ và ngửi cũng lạ. Mặc dù thế, nước miếng vẫn trào trong miệng anh và chảy xuống cổ họng, song anh không cho phép thậm chí mắt mình đụng đậy. Bọn da đen theo dõi anh và cười.
Giơ cao đèn, gã lái đi lại chỗ cây cột lớn và giật hết sức chuỗi xích bị khóa vào đó, rõ ràng để Kunta thấy là đừng hòng phá tung nổi. Rồi gã lấy chân chỉ vào hai hộp nước và đồ ăn, miệng hầm hè đe dọa trong khi bọn bốn tên kia lại cười lớn và bỏ đi.
Kunta nằm đó trên mặt đất, trong bóng tối, chờ cho cái ngủ tóm lấy chúng, bất kể chúng đã rút vào đâu. Anh mường tượng trong đầu thấy mình đang bổ lui bổ tới hoài một cách tuyệt vọng, giằng dây xích với tất cả sức lực có thể vận dụng cho đến khi nó đứt và anh trốn thoát đến… Đúng lúc đó, anh ngửi thấy một con chó đang lại gần, và nghe thấy nó khịt khịt một các kỳ lạ. Không hiểu sao, anh cảm thấy nó không phải là kẻ thù của mình. Nhưng rồi khi con chó lại gần hơn, anh nghe thấy tiếng nhai và tiếng răng va lách cách vào hộp sắt tây. Mặc dầu anh không thiết ăn, Kunta vẫn giận dữ chồm lên gầm gừ như một con báo. Con chó bỏ chạy và được một quãng ngắn, bắt đầu sủa nhặng lên. Lát sau, một cánh cửa gần đấy kẹt mở và có người cằm đèn chạy về phía anh. Đó là gã lái xe, Kunta ngồi nhìn trân trân với một nộ khí lạnh lùng trong khi gã lái lo lắng xem xét dây xích quanh chân cột và ở chỗ gắn vào còng chân Kunta. Trong ánh sang vàng vọt lờ mờ, Kunta thấy gã lái tỏ vẻ thỏa mãn với cái hộp thức ăn đã sạch trơn. Cất giọng khàn hừ một tiếng, gã bước trở về lều để mặc Kunta trong bóng tối với nỗi hoài ước giá mình có thể bóp nghiến cổ con chó trong tay.
Sau một lát, Kunta mò mẫm xung quanh tìm hộp đựng nước và uống một chút, nhưng cũng chẳng cảm thấy dễ chịu hơn tí nào; thực tế, sức lực như đã rút khỏi cơ thể anh, tựa hồ anh chỉ còn là một cái vỏ. Từ bỏ ý định giựt đứt xích, chí ít là trong lúc này, anh cảm thấy như Chúa Ala đã quay lưng lại mình - nhưng tại sao nhỉ? Anh đã làm điều gì gớm ghiếc thế? Anh cố gắng điểm lại mọi việc có chút ý nghĩa nào đó, dù phải dù trái, mà anh đã làm cho tới cái buổi sáng đi đẵn gỗ làm cái trống cho riêng mình; rồi đến lúc anh nghe thấy, quá muộn, tiếng một nhành cây gẫy rắc. Anh thấy dường như tất cả những lần anh bị trừng phạt trong đời, đều do bất cẩn và sơ ý.
Kunta nằm nghe dế kêu, chim đêm rào rào vỗ cánh, chó sủa xa xa và một lần nghe thấy một con chuột đột nhiên chóe lên rồi tiếng rau ráu xương nó bị nhai trong miệng con vật đã giết nó. Thỉnh thoảng, ý muốn chạy trốn lại thôi thúc, làm anh căng thẳng, song anh biết dù có giựt đứt được xích thì tiếng loảng xoảng ắt mau chóng đánh thức một tên nào đó trong những lều gần đấy.
Cứ thế anh nằm, chẳng nghĩ đến chuyện ngủ nghê gì cả, mãi cho đến khi ló những tia sáng đầu tiên của rạng đông. Ráng hết sức vật lộn với tứ chi đau rần để quỳ dậy, anh bắt đầu đọc kinh xuba. Thế nhưng khi cúi mình áp trán xuống đất, anh mất thăng bằng, suýt ngã nghiêng, anh cáu kỉnh nhận ra mình đã yếu đi biết bao.
Khi vừng đông dần dần hừng sáng, Kunta lại với lấy hộp nước và uống nốt chỗ còn lại. Vừa uống cạn thì những tiếng chân xáp gần báo cho anh biết bốn gã da đen đang quay lại. Chúng hối hả nhấc Kunta trở lại chiếc hòm di động được đánh tới chỗ ngôi nhà lớn màu trắng, nơi lão tubốp đang chờ để leo lên ghế ngồi. Và Kunta chưa kịp hiểu ra thì họ đã ở trên đường cái, vẫn đi về hướng cũ như trước.
Hồi lâu, trong ánh ngày rạng dần, Kunta nằm lơ đãng nhìn sợi dây xích lách cách trên sàn hòm, gắn chặt vào dưới gầm ghế. Rồi đôi mắt đầy căm thù của anh xoáy một lúc vào lưng lão tubốp và gã da đen ngồi đằng trước. Anh ước gì có thể giết được chúng. Anh tự nhắc nhở mình rằng nếu muốn sống sót, như đã từng sống sót qua bao đận cho tới nay thì phải giữ sao cho các giác quan được tập trung, phải tự chủ, phải ép mình chờ đợi, không được tiêu phí sức lực, cho đến khi nào biết chắc là đúng thời cơ.
Vào khoảng giữa buổi sáng, Kunta nghe thấy một tiếng động mà anh biết ngay là một người thợ rèn đang quai búa trên kim khí, ngẩng đầu lên, Kunta căng mắt nhìn và cuối cùng xác định là tiếng động phát ra từ một chỗ nào đó bên kia một lùm cây rậm rạp họ đang đi ngang qua. Anh thấy nhiều cây rừng vừa mới hạ, gốc bị đánh bật lên và ở một số nơi, khi chiếc hòm di động lọc cọc lướt qua, Kunta trông thấy và ngửi thấy khói xám bốc lên từ những bụi cây khô bị đốt. Anh tự hỏi phải chăng đó cũng là cách bọn tubốp làm mầu đất để trồng vụ mùa tới, như vẫn thấy ở Jufurê.
Sau đó, xa xa trước mặt, anh thấy một lều nhỏ vuông vức ở bên đường. Hình như nó được làm bằng gỗ thỏi, và trên một mảnh đất phát quang trước lều, một tubốp đực đang hì hục đằng sau một con bò thiến. Hai tay gã ấn mạnh đôi càng cong cong của một vật gì to rộng do con bò thiến kéo, đang xé đất. Đến gần hơn, Kunta trông thấy hai tubốp nữa, gầy và xanh xao đang ngồi xổm dưới một gốc cây, xung quang có ba con ủn ỉn cũng gầy trơ xương đang rũi đất và mấy con gà mổ bới kiếm mồi. Một tubốp cái tóc đỏ đứng ở cửa lều. Rồi ba tubốp con lao qua trước mặt ả này, vừa la vừa vẫy về phía chiếc hòm di động. Nom thấy Kunta chúng cười the thé và chỉ trỏ, anh trừng trừng nhìn lại như thể chúng là một đám linh cẩu con. Chúng chạy theo bên cạnh xe một quãng dài rồi mới quay lại và Kunta hiểu ra rằng anh đã chính mắt thấy một gia đình tubốp thật sự.
Hai lần nữa, Kunta lại trông thấy cách xa đường cái những ngôi nhà tubốp lớn màu trắng giống như ở nơi chiếc xe đã dừng lại đêm trước. Mỗi ngôi cao bằng hai nóc nhà như thể cái nọ chồng lên cái kia, phía trước có một dãy ba bốn cái cột đồ sộ, to như những thân cây và cao gần như thế, cạnh mỗi nhà có một cụm lều nhỏ, tối, mà Kunta đoán là để cho bọn da đen ở, và bao quanh là cánh đồng bông rộng mênh mông, tất cả đều mới gặt xong, đây đó điểm một vài khóm trắng.
Tới một chỗ, giữa hai ngôi nhà lớn đó, chiếc hòm di động vượt qua hai người khác thường đi bên vệ đường. Thoạt đầu, Kunta tưởng họ là da đen, nhưng khi xe lại gần hơn, anh thấy da họ đỏ nâu và tóc dài buộc lủng lẳng ngang lưng như sợi dây thừng; họ đi giày mặt khố tựa hồ làm bằng da, bước nhẹ thoăn thoắt và mang cung tên. Họ không phải tubốp, cũng chẳng là người Phi, cả đến mùi họ cũng khác. Họ là loại người gì nhỉ? Cả hai đều như không để ý thấy chiếc hòm di động đi qua, tung bụi bao quanh họ.
Khi mặt trời bắt đầu lặn, Kunta quay mặt về hướng Đông và lúc anh thầm lặng đọc kinh cầu nguyện Chúa Ala ban chiều thì mặt trời bắt đầu sẩm tối. Sau hai ngày không chịu ăn miếng nào trong những thứ được mang đến tận miệng, anh kiệt sức đến nỗi đành nằm lả nơi đáy chiếc hòm di động, hầu như chẳng thiết gì đến những điều xảy ra chung quanh.
Nhưng lát sau, Kunta vẫn cố nhỏm dậy được lần nữa và nhìn qua thành cửa khi chiếc hòm dừng lại. Gã lái tụt xuống, treo một cái đèn sát cạnh hòm, trở lại ghế ngồi và lại tiếp tục cuộc hành trình. Sau một hồi lâu, lão tubốp nói một câu ngắn và gã da đen đáp lại; từ khi khởi hành ngày hôm ấy, đây là lần đầu tiên hai tên trao đổi với nhau một tiếng. Chiếc hòm lại dừng và gã lái chui ra, vứt một thứ mền chăn cho Kunta nhưng anh mặc kệ, không thèm để ý. Lão trở lên chỗ ngồi, gã lái và lão tubốp kéo mền chăn phủ lên người và lại bắt đầu đi.
Mặc dầu chẳng mấy chốc đã thấy rét run. Kunta vẫn không chịu với tay ra kéo chăn đắp, vì anh không muốn làm vừa lòng chúng. Chúng đưa chăn cho mình - anh nghĩ - thế nhưng chúng vẫn xiềng mình; mà người đồng loại với mình thì chẳng những giương mắt đứng nhìn, mặc cho mọi sự xảy ra mà thực tế còn làm thay công việc bẩn thỉu của bọn tubốp nữa. Kunta chỉ còn biết có một điều: Anh phải trốn thoát khỏi cái nơi ghê sợ này - hoặc là chết trong khi làm việc đó. Anh không dám mơ ước được thấy lại Jufurê, song nếu được như vậy, anh nguyện sẽ làm cho tất cả đất nước Gămbia biết xứ sở bọn tubốp này thật sự như thế nào.
Khi chiếc hòm di động đột ngột rẽ khỏi đường cái, đi vào một con đường nhỏ gồ ghề hơn, thì Kunta đã gần như rét cóng. Anh lại bắt cái thân thể đau nhừ của mình ngóc lên đủ để hiếng mắt nhìn vào bóng tối - và đằng xa kia, anh thấy chập chờn cái màu trắng ma quỷ của một ngôi nhà lớn khác. Cũng như đêm hôm trước, nỗi sợ về những gì sẽ xập xuống đầu mình, giờ đây lại lồng lên trong Kunta khi họ tới trước ngôi nhà - nhưng thậm chí anh cũng không ngửi thấy dấu hiệu gì về lũ tubốp hoặc da đen mà anh đinh ninh là sẽ ra đón xe.
Cuối cùng, khi chiếc hòm dừng lại hẳn, lão tubốp ngồi trên băng ghế đằng trước anh làu bàu nhảy xuống đất, cúi mình và rún lên rún xuống mấy lần cho khỏi tê cơ bắp, rồi nói vắn tắt với gã lái xe, đồng thời ngoắt tay về phía Kunta, và đi về phía tòa nhà lớn.
Vẫn không thấy có thêm người da đen nào khác xuất hiện và trong khi chiếc hòm di động kẽo kẹt tiến về phía những cái lều gần đó, Kunta nằm ườn ở đằng sau, giả vờ tỏ vẻ dửng dưng. Song anh đang căng thẳng từng thớ thần kinh đến độ quên cả đau. Lỗ mũi anh phát giác ra mùi những người da đen gần đấy. Tuy nhiên, chẳng thấy ai ló ra. Hy vọng trỗi dậy mạnh hơn. Dừng xe lại gần chỗ những túp lều, gã da đen tụt xuống đất, nặng nề và lóng ngóng, lê bước về phía căn lều gần nhất, chiếc đèn lập lòe trong tay. Trong khi gã đẩy cửa, Kunta theo dõi và chờ gã đi vào, sẵn sàng vùng chạy, nhưng gã chợt quay trở lại chỗ chiếc hòm. Thò tay xuống gầm ghế, gã tháo xích và cầm lấy đầu kia, đi vòng ra sau xe. Tuy nhiên, một cái gì đó khiến Kunta vẫn ném mình lại. Gã da đen giựt mạnh xích và sủa một tiếng cộc cằn với Kunta. Trong khi gã thận trọng theo dõi, Kunta khó nhọc lồm cồm chống cả hai chân hai tay dậy - cố làm ra vẻ yếu hơn thực tế - và bắt đầu bò giật lùi chậm chạp và vụng về hết sức mình. Đúng như anh mong đợi, gã da đen sốt ruột cúi gần lại và với một cánh tay lực lưỡng, xốc Kunta lên kéo qua thành xe, đồng thời hích đầu gối lên đẩy Kunta ngã nhào xuống đất.
Đúng lúc đó, Kunta bật lên - hai tay như đôi hàm chuyên nghiến xương của loài linh cẩu ngoạm lấy cái cổ họng to tướng của gã lái xe. Chiếc đèn rơi xuống đất khi tên da đen chúi về phía sau với một tiếng kêu khan, rồi hắn vùng đứng thẳng lại, đôi bàn tay to lớn đấm mạnh, cấu xé mặt và cẳng tay Kunta. Song, cách nào đó, Kunta vẫn dồn được sức lực để bóp chặt cổ hắn hơn nữa, đồng thời với cái phẫn chí của kẻ cùng đường, vặn mình tránh những cú búa bổ của tên lái xe đánh trả bằng nắm tay, bằng chân, bằng đầu gối. Gọng kìm của Kunta không chịu nhả chút nào, kỳ tới lúc tên da đen, cuối cùng, loạng choạng ngật người về phía sau và rụn xuống với một tiếng ùng ục tận trong cuống họng và lả đi mềm nhũn.
Vùng dậy, sợ một tiếng chó sủa hơn mọi thứ khác trên đời, Kunta lảng như cái bóng ra khỏi tên lái xe ngã gục và cây đèn bị lật ngược. Anh chạy lom khom, xéo qua những thân cây bông giá băng. Cơ bắp anh bao lâu không vận động, giờ đây đau nhói, nhưng luồng không khí lạnh ào tới mát rượi làn da đem lại cảm giác khoan khoái và anh phải tự nén lòng để khỏi hú to lên niềm sung sướng được thấy mình tự do đến cuồng dại như thế!
Chương 43
Những cây leo và bụi gai nơi bìa rừng như với tay ra túm lấy và cào vào chân Kunta. Vung tay gạt chúng sang bên, vấp ngã rúi rụi rồi lại đứng lên, anh dấn bước tiếp mỗi lúc một sâu thêm vào rừng. Nhưng anh tưởng thế thôi, vì tới một quãng, cây bắt đầu thưa đi và anh bỗng đột nhập vào một đám cây bụi thấp. Trước mặt anh là một cánh đồng bông khác và quá nữa, lại một ngôi nhà trắng đồ sộ khác với những túp lều nhỏ tối tăm bên cạnh. Choáng váng và hốt hoảng, Kunta lao trở lại vào rừng, hiểu ra rằng tất cả những gì anh đã làm rút lại chỉ là xuyên qua một dải rừng hẹp ngăn cách hai trang trại tubốp lớn. Khom mình núp sau một cái cây anh lắng nghe tiếng đập trong tim, trong đầu mình và anh bắt đầu cảm thấy nhói buốt ở bàn tay, cánh tay và chân. Liếc nhìn xuống trong ánh trăng vằng vặc, anh thấy chân tay đều bị gai cào toạc máu. Nhưng điều làm anh hoảng hơn cả là trăng đã xuống trong bầu trời chẳng mấy chốc sẽ rạng đông, Anh biết mình còn rất ít thời giờ để quyết định, bất kể việc sắp phải làm là gì.
Lảo đảo bước tiếp, mãi một lát sau, Kunta mới hiểu ra rằng cơ bắp anh không thể tha mình đi xa hơn nữa. Anh phải rút lui vào tìm chỗ nào rậm rạp nhất trong rừng và trốn ở đó. Thế là anh trầy trật rẽ lối quay lại, đôi lúc bò bốn chân, vướng cẳng vướng tay vào những dây leo, mãi tới khi rút cuộc lọt vào một lùm cây um tùm. Mặc dầu hai lá phổi như muốn nổ tung, Kunta vẫn tính chuyện leo lên ẩn trên một cây, song tấm thảm lá dày, êm dưới chân mách anh rằng, các cây đã trụi nhiều lá, ở trên đó có thể dễ lộ, cho nên chỗ trốn tốt nhất là ở dưới đất.
Anh lại bò toài và cuối cùng, đúng vào lúc trời bắt đầu rạng, cố định lại một nơi dày đặc bụi rậm. Ngoại trừ tiếng thở khò khè của bản thân anh, mọi vật đều rất yên tĩnh và điều đó khiến anh nhớ lại những đêm dài một mình canh gác ruộng lạc với con chó uôlô trung thành. Chính giữa lúc đó, anh nghe thấy đằng xa có tiếng một con chó sủa ông ổng. Có lẽ anh chỉ nghe thấy trong tưởng tượng thôi - anh nghĩ vậy, đồng thời bật dậy, cảnh giác dỏng tai nghe ngóng. Nhưng tiếng sủa lại vọng đến - lần này những hai con. Anh không còn mấy thì giờ.
Quỳ xuống quay mặt về hướng đông, anh cầu Chúa Ala giải cứu, và đúng lúc cầu xong, tiếng sủa ông ổng lại vẳng tới, lần này gần hơn. Kunta quyết định cứ nấp ở nguyên chỗ là tốt nhất, nhưng chỉ vài phút sau, khi lại nghe thấy tiếng gầm gừ xáp gần hơn nữa, anh có cảm giác như chúng biết đích xác chỗ mình nấp và tứ chi anh không để cho anh nán lại đó thêm phút nào nữa. Anh lại trườn vào một bụi cây, sục sạo tìm một chỗ sâu hơn, kín đáo hơn nữa. Từng phân từng tấc lết đi trong bụi gai cào tướp tay chân là cả một cực hình, nhưng mỗi tiếng chó kêu lại càng thúc anh bò nhanh hơn. Vậy mà tiếng chó sủa vẫn cứ to thêm, gần thêm và Kunta dám chắc tai mình lúc này còn nghe thấy cả tiếng người quát đằng sau lũ chó.
Thấy mình di chuyển không đủ nhanh, anh bật dậy, bắt đầu chạy rúi rụi qua các bụi gai, ráng sao cho vừa lặng lẽ vừa nhanh hết mức mà tình trạng kiệt sức của anh cho phép. Gần như ngay tức khắc, anh nghe thấy một tiếng nổ, choáng đến rủn đầu gối và ngã nghều ngoào vào một bụi thạch nam rằng rịt.
Lúc này lũ chó đang gừ gào ngay ở rìa lùm cây rậm. Sợ run người, Kunta thậm chí có thể ngửi thấy chúng. Lát sau, chúng sục sạo qua đám cây bụi thấp nhằm thẳng tới chỗ anh. Kunta nhổm người quỳ lên hai đầu gối đúng lúc hai con chó xầm xầm bổ qua bụi rậm và chồm lên quật ngã anh, vừa gầm gừ nhớt rãi ròng ròng, vừa đớp, rồi nhảy lùi để phốc tới anh lần nữa. Bản thân Kunta cũng gầm gào, lồng lộn đánh trả, dùng tay cào cấu để đẩy chúng ra, đồng thời cố bò giật lùi tách khỏi chúng. Rồi anh nghe thấy tiếng người quát tháo từ chỗ rìa bụi rậm, và lại một tiếng nổ nữa lần này to hơn nhiều. Trong khi hai con chó có phần nào ngơi tấn công, Kunta nghe thấy đám người vừa chửi thề vừa lấy dao phát bụi rậm xông tới.
Đằng sau lũ chó gầm rít, trước hết anh thấy tên da đen đã bị anh bóp cổ. Một tay hắn cầm con dao to tướng, tay kia lăm lăm chiếc dùi cui và một cuộn dây thừng coi bộ sát khí đằng đằng. Kunta nằm ngửa máu me, hai hàm răng nghiến chặt để khỏi kêu thét, yên trí sẽ bị chặt ra từng mảnh. Rồi Kunta trông thấy lão tubốp đã đưa anh đến đây xuất hiện đằng sau gã da đen, mặt đỏ chọi đầm đìa mồ hôi. Kunta chờ đợi ánh chớp lóe và tiếng nổ mà anh biết, từ hồi trên con xuồng lớn, có thể phát ra từ cây gậy lửa đang chĩa vào anh, trên tay một tên tubốp thứ hai trước đây anh chưa từng thấy. Nhưng lúc này đây lại chính là tên da đen lồng lộn lao tới, hắn đang dơ dùi cui lên thì lão tubốp trùm sỏ quát lớn.
Gã da đen dừng lại và lão tubốp thét chó lùi lại sau. Rồi lão tubốp bảo tên da đen cái gì đó, tên này bèn bước lên, giở cuộn thừng. Một đòn nặng nề nện vào đầu Kunta và cũng may làm anh choáng váng tê dại. Anh chỉ lơ mơ biết rằng mình bị trói chặt đến nỗi thừng nghiến cả vào làn da đã chảy máu sẵn, rồi gần như được nâng dậy khỏi bụi cây gai và bị thúc đi. Hễ anh mất thăng bằng ngã xuống là lại ăn một roi xé ngang lưng. Cuối cùng khi tới bìa rừng, Kunta trông thấy ba con gì từa tựa như lừa buộc ở gần mấy cái cây.
Khi đến gần mấy con vật, anh ráng vùng chạy một lần nữa, nhưng chỉ một cái giật ác hiểm đầu dây đằng kia là đủ khiến anh bổ chửng - và xơi mấy cái đá vào mạng sườn. Lúc này tên tubốp thứ hai cầm thừng đi trước Kunta, lôi anh xềnh xệch về phía một cái cây gần chỗ buộc mấy con vật nọ. Đầu thừng rời được vắt qua một cành thấp, và gã da đen nắm lấy kéo cho đến khi chân Kunta hầu như không chạm đất.
Chiếc roi của lão tubốp trùm sỏ bắt đầu vun vút quật vào lưng Kunta. Anh đau đớn quằn quại, không chịu kêu tiếng nào, tuy nhiên mỗi nhát như xé anh làm đôi và cuối cùng anh bật thét, song trận đòn roi vẫn tiếp tục.
Sau rốt, khi roi ngừng giáng xuống, Kunta hầu như đã bất tỉnh. Anh mơ hồ cảm thấy mình được hạ xuống và đổ rụi trên mặt đất, rồi lại được bốc lên, đặt nằm thõng thẹo trên lưng một con vật rồi anh nhận ra có sự di chuyển.
Điều tiếp theo mà Kunta nhận biết được - anh không rõ bao nhiêu thời gian đã trôi qua - là mình đang nằm ngửa dạng tay dạng chân trong một thứ lều nào đó. Anh để ý thấy mỗi cổ tay, cổ chân mình có một cái còng sắt gắn liền với một sợi xích và bốn sợi xích đó được cố định vào bốn chân cột ở các góc lều. Khẽ đụng đậy một tí là đau điếng, thành thử hồi lâu, anh cứ nằm bất động hoàn toàn, mặt đầm đìa mồ hôi, hơi thở rồn gấp, hổn hển.
Nằm yên không nhúc nhích, anh thấy phía trên mình có một ô vuông nhỏ mở ra đón ánh sáng ban ngày. Liếc mắt anh lại thấy một chỗ hõm vào tường, và trong đó có một khúc gỗ đã cháy phần lớn và một ít tro. Mé bên kia có một vật lù lù rộng và phẳng, bọc vải, đặt trên sàn với những cộng ngô thò ra ở các lỗ rách. Anh đoán có thể cái đó dùng làm giường nằm.
Khi chiều chạng vạng sẫm bóng qua ô trống phía trên anh, Kunta nghe thấy từ rất gần, có tiếng một cái tù và rúc lên, thật lạ tai. Và sau đó không lâu, lại thấy những giọng nói mà do anh ngửi mùi, anh biết là của nhiều người da đen đang đi qua gần chỗ mình. Rồi anh ngửi thấy mùi nấu nướng đồ ăn. Bụng đói quặn, nhịp đập thình thình trong đầu, lưng đau xói và chân tay bị gai cào nát, ngần ấy thứ quyện lẫn vào nhau, khiến anh tự rầy mình đã không bắt chước một con vật sa lưới biết chờ một cơ hội tốt hơn hẵng trốn. Đáng ra trước hết, anh phải quan sát để biết kỹ hơn về cái chốn xa lạ này và những kẻ vô đạo ở đây.
Kunta đã nhắm nghiền mắt thì cửa lều kẹt mở, anh ngửi thấy mùi gã da đen đã bị anh bóp cổ, và đã góp sức bắt anh. Anh nằm im giả vờ ngủ - cho đến lúc một cái đá hiểm ác vào mạng sườn làm anh bừng mở to mắt. Với một tiếng chửi thề, gã da đen đặt một cái gì xuống ngay trước mặt Kunta, ném một cái chăn lên mình anh và trở ra, đóng sầm cửa đằng sau.
Mùi thức ăn trước mặt làm dạ dày Kunta đau thắt lại, gần như chẳng kém cái đau nơi lưng. Cuối cùng anh mở mắt. Đó là một thứ cháo bột mì cùng một thứ gì như thịt đắp lên một cái hộp sắt tây tròn bẹt và một quả bầu tròn trùng trục đựng nước đặt bên cạnh. Hai cổ tay bị dang ra khiến anh không thể cầm lên được, nhưng cả hai thứ đều vừa sát tầm miệng. Vừa đúng lúc sắp làm một miếng thì Kunta ngửi ra mùi thịt của giống ủn ỉn bẩn thỉu và dạ dày anh cộn lên, thốc tháo nôn mật xanh mật vàng ra hộp sắt tây.
Suốt đêm anh nằm chập chờn lúc ngủ lúc thức và bàn khoăn tự hỏi về những người đen nọ trông thì hệt như người Phi mà lại ăn thịt ủn ỉn. Điều đó có nghĩa rằng tất cả bọn họ đều là những kẻ xa lạ - hoặc phản bội - với Chúa Ala. Lặng lẽ anh cầu xin Chúa Ala tha thứ trước nếu chẳng may môi anh có đụng phải chút thịt ủn ỉn nào mà không biết hoặc thậm chí ngộ nhỡ có ăn gì ở một cái đĩa đã từng đựng thịt ủn ỉn.
Một lát sau khi bình minh lại ló ra sau ô vuông trống, Kunta nghe thấy tiếng tù và kỳ lạ rúc lên một lần nữa; rồi bay tới mùi nấu nướng đồ ăn cùng tiếng những người da đen hối hả chạy lui chạy tới. Rồi cái thằng cha anh khinh ghét lại tới, mang theo thức ăn và nước. Nhưng khi thấy là Kunta đã mửa lên cái món bữa trước không đụng tới, gã xổ ra một tràng câu chửi tục, cúi xuống và trát tuột vào mặt Kunta. Rồi gã đặt thức ăn mới và nước trước mặt anh và bỏ đi.
Kunta tự nhủ là lát nữa hẵng cố nuốt, còn bây giờ anh quá nôn nao, thậm chí không buồn nghĩ đến chuyện ăn nữa. Lát sau anh nghe thấy cửa lại mở, lần này anh ngửi thấy mùi tubốp hôi nồng nặc. Kunta nhắm tịt mắt, nhưng khi tên tubốp làu bàu giận dữ, anh sợ phải ăn một cái đá nữa, đành mở mắt ra. Anh thấy mình đang ngước lên nhìn trừng trừng vào bộ mặt ghét cay ghét đắng của tên tubốp đã mang anh về đây; cái mặt ấy đỏ bừng cuồng nộ. Tên tubốp thốt ra những tiếng nguyền rủa và khoa chân khoa tay dậm dọa, ý muốn bảo rằng nếu anh không ăn thì sẽ bị đòn nữa. Rồi bỏ đi.
Kunta cố nhích được bàn tay trái đến chỗ tên tubốp vừa đặt chân, lấy ngón cào cào một rúm đất ở đó. Kéo rúm đất lại gần hơn, Kunta nhắm chặt mắt lại, kêu gọi ma quỉ hãy đời đời rủa nguyền cái bào thai đã sinh ra tên tubốp và gia đình hắn.
Chương 44
Kunta đã đếm được bốn ngày, ba đêm trong lều. Và mỗi đêm, anh đều nằm nghe tiếng hát từ những lều gần đó bay sang - và càng cảm thấy mình càng Phi hơn bao giờ hết, kể cả hồi còn ở ngay làng quê. Họ là cái loại người đen gì mà lại hát cho qua thì giờ tại đây, trên đất của bọn tubốp, anh nghĩ thầm. Anh băn khoăn không biết có bao nhiêu người đen kỳ lạ này trên toàn bộ đất tubốp, nhưng con người dường như không biết hoặc không cần biết mình là ai, hoặc là cái gì.
Kunta cảm thấy gần gũi đặc biệt với mặt trời, mỗi lần hừng đông. Anh nhớ lại lời ông già từng là thủ chỉ đã nói trong hầm tối con xuồng lớn: "Mỗi ngày, vầng thái dương mới lại nhắc ta rằng mặt trời mọc ở Châu Phi chúng ta vốn là cái rốn của trái đất".
Mặc dầu chân tay bị bốn sợi xích căng ra, anh đã tập cho đến khi học được cách nhích lưng và mông từng tí một, tới tới, lui lui, để xem xét kỹ hơn những vành sắt nhỏ nhưng dày, giống như vòng đeo tay, bắt chặt các sợi xích vào bốn cột ở bốn góc lều. Những cột này to bằng bắp chân dưới anh, và anh biết chẳng có hy vọng gì làm gẫy được hoặc kéo bật được cái nào lên khỏi nền đất nện rất chắc, vì phần trên cột xuyên qua cả mái lều. Bằng mắt rồi bằng ngón tay, Kunta thận trọng xem xét những lỗ nhỏ ở những vòng sắt dày nọ, anh đã thấy bọn bắt anh tra một cái gì hèm hẹp bằng kim khí vào lỗ ấy và vặn đánh tách một cái. Hễ lắc một cái vòng là xích lại kêu loảng xoảng khá to khiến người ngoài có thể nghe thấy cho nên anh từ bỏ cách ấy. Anh thử cho một cái vòng vào mồm và ráng hết sức cắn thật mạnh, cuối cùng, một cái răng gãy, đau buốt đến tận óc.
Kiếm một chút đất kha khá hơn đất nền nhà để làm bái vật cầu ma quỷ, Kunta lấy ngón tay cạo ra một mẩu bùn khô cứng đờ đỏ trát giữa những thoi gỗ. Thấy trong cục bùn có những sợi lông đen ngắn, anh tò mò xem cho kỹ; khi nhận ra đó là lông của giống ủn ỉn bẩn thỉu, anh vứt tuột đi và chùi sạch bàn tay đã cầm nó.
Buổi sáng thứ năm, tí chút sau tiếng tù và báo thức rúc lên, gã da đen bước vào và Kunta căng người ra khi thấy cùng với chiếc dùi cui ngắn bẹt thường lệ, thằng cha còn mang theo hai chiếc còng sắt dày. Hắn cúi xuống khóa hai cổ chân Kunta vào còng nối liền với một dây xích nặng nề. Xong đâu đấy, hắn mới lần lượt tháo bốn sợi dây xích căng chân căng tay Kunta. Cuối cùng được tự do cử động, Kunta không đừng được bật dậy - chỉ để đón quả đấm chờ sẵn của tên da đen đánh quỵ xuống. Kunta đang rướn người đứng trở lại, thì một bàn chân đi ủng thúc rất ác vào mạng sườn. Vừa đau vừa tức điên người, anh loạng choạng đứng lên một lần nữa và lại bị đánh ngã mạnh hơn. Anh đã không hiểu ra rằng những ngày nằm ngửa sóng sượt đã phá hoại sức lực anh đến mức nào và giờ đây anh nằm thở không ra hơi trong khi gã da đen đứng sừng sững bên anh với một vẻ như nói với Kunta rằng y sẽ còn đánh gục anh cho đến khi nào anh hiểu ra ai là chủ.
Lúc này tên da đen ra hiệu thô bạo cho Kunta đứng dậy. Thấy anh thậm chí không chống nổi hai tay, hai đầu gối để nhấc người dậy, y văng tục, kéo thốc anh đứng lên và đẩy về phía trước, đôi còng chân buộc Kunta phải tập tễnh một cách vụng về.
Thoạt đầu, ánh ngày tột cùng rực rỡ làm anh quáng mắt, nhưng một lúc sau, anh bắt đầu nhận ra một dãy người da đen hối hả đi thành một hàng dọc, theo sát đằng sau là một tubốp cưỡi một con "ngựa" như anh đã nghe thấy người ta gọi con vật kỳ lạ ấy là thế. Ngửi mùi, Kunta biết đây là tên cầm thừng sau khi Kunta bị hai con chó vây hãm. Có khoảng mươi mười hai người đen - đàn bà thì chít những mảnh vải đỏ hoặc trắng trên đầu, đàn ông và trẻ con thì phần đông đội mũ rơm rách tươm; có mấy người để đầu trần và nhìn đến cuối tầm mắt, Kunta vẫn không thấy ai đeo lá bùa xaphi nào quanh cổ hoặc nơi cánh tay. Nhưng một số đàn ông mang cái gì từa tựa như những con dao dài, to bản và dãy người xem chừng đang hướng về phía cánh đồng lớn. Anh nghĩ chắc đây là những người anh nghe thấy hát hoài hồi đêm. Với họ anh không cảm thấy gì khác ngoài nỗi khinh bỉ. Đưa cặp mắt hấp háy ngoái lại nhìn, Kunta đếm số lều họ ở. Có mười cái kề cả của anh - tất cả đều rất nhỏ, cũng như lều anh, và chẳng có cái vẻ to tát như những lều đất ở làng anh, mái thơm mùi tranh. Những lều này được bố trí thành hàng, mỗi hàng năm cái - Kunta nhận thấy chúng được sắp đặt sao cho bất cứ sự gì diễn ra trong đám người đen ở đây đều có thể thấy được từ tòa nhà trắng lớn.
Đột nhiên, gã da đen lấy ngón tay chọc chọc vào ngực Kunta rồi thốt lên: "Mày - mày Tôby!" Kunta không hiểu, vẻ ngỡ ngàng hiện ra nét mặt, cho nên gã đen cứ tiếp tục chọc ngón tay vào và nói đi nói lại câu đó hoài. Kunta từ từ vỡ nhẽ ra rằng gã da đen này đang cố gắng làm cho anh hiểu điều gì đó mà hắn nói bằng thứ tiếng kỳ lạ.
Thấy Kunta vẫn ngẩn tò te nhìn trừng trừng vào hắn gã da đen bèn chọc chọc vào chính ngực mình: "Tao Xamxơn!" Hắn kêu "Xamxơn!" Hắn lại chuyển ngón tay xỉa vào Kunta "Mày! Tôby! Tôby! Me-xừ bảo mày tên Tôby!"
Khi bắt đầu thấu hiểu ý hắn, Kunta phải hết sức tự chủ, mới nén được cơn điên giận tràn ngập trong lòng, nét mặt vẫn không mảy may lộ dấu hiệu gì tỏ ra là hiểu. Anh những muốn thét lớn: "Tao là Kunta Kintê, con trai đầu của Ômôrô vốn là con trai của bậc thánh nhân Kairaba Kunta Kintê!"
Mất hết kiên nhẫn trước sự ngu xuẩn bề ngoài của Kunta, tên da đen chửi thề, nhún vai và dẫn anh tập tễnh bước vào một túp lều khác, tại đó hắn ra hiệu cho Kunta tắm rửa bằng một chậu sắt tây to rộng đựng nước. Hắn ném vào đó một mảnh vải và một miếng gì nâu nâu; mũi Kunta mách anh đó là một thứ tương tự như loại xà phòng mà phụ nữ Jufurê vẫn làm bằng nước mỡ nóng trộn với nước kiềm nhỏ giọt qua tro củi. Gã da đen quàu quạu nhìn Kunta lợi dụng cơ hội để tắm rửa. Xong xuôi, gã da đen ném cho anh vài cái quần áo tubốp để che ngực, che chân, rồi một cái mũ rơm vàng khè đã sờn, giống như của những người kia. Không biết dưới sức nóng của mặt trời Châu Phi thì các bọn vô đạo này sẽ xoay sở ra sao. Kunta tự hỏi.
Sau đó gã da đen lại dẫn anh đến một túp lều khác. Bên trong lều, một mụ già cáu kỉnh dằn mạnh một đĩa sắt tây thức ăn trước mặt Kunta. Anh nuốt ực đĩa cháo đặc và ăn một thứ giống như bánh munkô, chiêu bằng một thứ canh nóng màu nâu có vị thịt bò đựng trong một vỏ bầu tròn. Tiếp đó họ đến một túp lều hẹp, rúm ró, mới ngửi mùi đã biết trước nó dùng để làm gì. Làm bộ như tụt quần, gã đen khom lưng trên một cái lỗ to khoét vào một chỗ ngồi bằng ván gỗ và rặn ì ạch như chính hắn đang ỉa vậy. Một đống nhỏ lõi ngô chất ở trong góc, Kunta không biết ý nghĩa nó là thế nào. Nhưng anh đoán mục đích của gã đen là chỉ vẽ những cung cách lề thói của tubốp - mà anh muốn học được tất cả những gì có thể học, để dễ bề trốn thoát hơn.
Gã da đen dẫn anh đi qua mấy căn lều tiếp theo và họ đi ngang một ông già ngồi trong một cái ghế kỳ dị đu đưa tới, lui chầm chậm trong khi ông lấy rác ngô nỏ đan thành thứ gì đó mà Kunta đoán là một cái chổi. Không ngước lên, ông già liếc nhìn về phía anh, không có vẻ gì là ác cảm, nhưng Kunta tỉnh bơ lờ đi.
Chọn lấy một trong những con dao dài to bản mà Kunta đã thấy đám người lúc nãy mang theo, gã đen hất đầu về phía cánh đồng xa, làu bàu ra hiệu cho Kunta đi theo mình. Tập tễnh trong những còng sắt cọ xước cổ chân, Kunta trông thấy trên cánh đồng trước mặt toàn phụ nữ và trẻ con đen hết cúi xuống lại ngẩng lên, lượm và chất đống những thân ngô đằng sau đám đàn ông vung dao chặt những gốc ngô ngả xuống soàn soạt.
Phần lớn toàn đàn ông để lưng trần, bóng nhãy mồ hôi. Kunta dõi mắt tìm một vết dùi sắt nung đỏ đánh dấu như ở trên lưng anh, nhưng chỉ thấy sẹo roi. Tên tubốp phóng con "ngựa" tới, trao đổi mấy câu cộc lốc với gã đen, rồi chằm chằm nhìn Kunta, vẻ hăm dọa, trong khi gã đen ra hiệu cho anh chú ý.
Phát được khoảng một tá thân ngô, gã đen quay lại khom khom, và làm hiệu cho Kunta nhặt lấy và chất thành từng đống như những người kia. Tên tubốp thúc ngựa lại gần bên cạnh Kunta, roi lăm lăm và vẻ quàu quạu trên mặt nói lên rành rành ý đồ của hắn nếu Kunta không chịu vâng lời. Giận điên lên vì nỗi bất lực của mình, Kunta cúi xuống nhặt lấy hai thân ngô. Phân vân anh nghe thấy tiếng dao của gã đen chém soàn soạt đằng trước. Anh lại cúi xuống nhặt hai cây ngô nữa, rồi lại cây nữa. Anh có thể cảm thấy những cái nhìn của đám người đen từ những luống kề đấy dán vào anh, và trông thấy chân con ngựa của tên tubốp. Anh cũng có thể cảm thấy sự nhẹ nhõm của những người đen kia khi, cuối cùng, những chân ngựa phóng vụt đi.
Không cần ngẩng đầu, Kunta vẫn trông thấy tên tubốp phi ngựa đây đó tới mọi chỗ hắn thấy có ai làm không đủ nhanh để vừa ý hắn; khi đó, cây roi trong tay hắn liền quật đánh đét trên một cái lưng trần, kèm theo một tiếng quát giận dữ.
Đằng xa Kunta trông thấy một con đường cái. Trên con đường đó, mấy lần trong buổi chiều nóng nực, qua những giọt mồ hôi chảy ròng ròng trên trán và rớt vào mắt cay xè, anh thoáng thấy một người cưỡi ngựa đơn độc và hai lần thấy một chiếc xe kéo. Ngảnh đầu sang phía kia, anh trông thấy bìa cánh rừng anh đã trốn vào, định tẩu thoát. Và từ chỗ anh đang chất đống những thân ngô lúc này, anh mới rõ cánh rừng quả là hẹp và sở dĩ anh bị tóm là vì không nhận ra điều đó từ trước. Sau một lát, Kunta phải thôi không nhìn về hướng đó nữa, vì nỗi thôi thúc lại nhói lên, giục anh vùng lên, bổ nhào về phía những hàng cây nọ, hầu như không sao cưỡng nổi. Dù sao mỗi lần nhấc chân đều nhắc nhở rằng anh sẽ không tài nào chạy nổi đến năm bước qua cánh đồng với những còng sắt này. Trong khi làm suốt buổi chiều, Kunta quyết định là lần sau, trước khi định trốn, phải kiếm cho ra một thứ khí giới nào đó để đánh nhau với lũ chó và người đuổi bắt. Không một bày tôi nào của Chúa Ala được phép không đánh trả khi bị tấn công, anh tự nhắc nhở như vậy. Dù đó là chó hay người, trâu điên hay sư tử đói, đã là con trai của Ômôrô thì đừng có nghĩ đến chuyện từ bỏ chiến đấu.
Sau khi mặt trời lặn tiếng tù và lại vang lên - lần này ở đằng xa. Trong khi nhìn những người da đen nọ hối hả sắp hàng, Kunta ước gì mình có thể thôi không nghĩ rằng họ thuộc những bộ lạc bề ngoài giống hệt họ bởi vì họ chỉ là những kẻ vô đạo không xứng đáng hòa lẫn với những người cùng bị bắt với anh trên con xuồng lớn.
Song cái bọn tubốp thật ngu xuẩn biết bao: Những người mang dòng máu Fulani - dù chỉ là những mẫu tồi như thế này - đáng lẽ phải để họ chăn nuôi gia súc, thì chúng lại đem dùng vào việc hái ngô; ai cũng biết rằng người Fulani sinh ra để chăn gia súc, rằng quả thực, dân Fulani và gia súc cùng nói chung một thứ tiếng. Ý nghĩ này bị cắt ngang khi tên tubốp cưỡi "ngựa" hoa roi vun vút xua Kunta về cuối hàng. Anh đang làm theo thì người phụ nữ thân hình trùng trục nặng nề ở cuối hàng vội bước lên mấy bước, cố tránh thật xa Kunta. Anh cảm thấy muốn nhổ vào mặt mụ.
Khi họ bắt đầu cất bước - mỗi bước cà nhắc lại cào vào cổ chân anh lúc này đã trày da và bắt đầu rỉ máu - Kunta nghe thấy mấy con chó sủa ở đằng xa. Anh rùng mình nhớ đến những con đã săn đuổi và tấn công anh. Rồi hồi ức vụt lóe thắp trong anh hình ảnh con chó uôlô của chính mình đã chết như thế nào khi chọi nhau với bọn người bắt anh ở châu Phi.
Trở về lều, Kunta quỳ xuống, chạm trán vào nền đất rắn, hướng về phía mà anh biết mai tới mặt trời sẽ lại mọc lên. Anh cầu nguyện hồi lâu để bù lại hai lần phải bỏ qua ở ngoài đồng, vì lẽ tên tubốp cưỡi "ngựa" chắc chắn sẽ cắt ngang bài kinh bằng một ngọn roi quất trên lưng anh.
Cầu nguyện xong, Kunta ngồi thật ngay ngắn và khe khẽ nói bằng thứ ngôn ngữ xira kangô huyền bí, xin tổ tiên phù hộ anh đủ sức chịu đựng. Rồi lấy ngón tay bóp chặt hai chiếc lông gà anh đã xoay sở lén nhặt được sáng nay khi "Xamxơn" dẫn anh đi quanh, Kunta tự hỏi chẳng biết bao giờ mình có cơ hội đánh cắp một quả trứng còn tươi. Với những chiếc lông gà và một chút vỏ trứng tán nhỏ, anh sẽ có thể làm được một tế vật có hiệu lực mạnh mẽ để dâng các thần linh xin ban phước cho lớp bụi mà những bước chân cuối cùng của anh đã chạm phải nơi làng quê. Nếu lớp bụi đó được ban phước, nốt chân anh một ngày kia sẽ tái hiện ở Jufurê, tại đó xóm giềng làng nước đều nhận ra được nốt chân nhau và bà con thấy dấu hiệu đó sẽ hân hoan biết rằng Kunta còn sống và sẽ trở về làng bình yên. Một ngày nào đó.
Có lẽ đến lần thứ một nghìn, anh sống lại cơn ác mộng mình bị bắt. Giá như cái nhành cây gẫy báo động cho anh chỉ cần sớm hơn một bước thôi, ắt hẳn anh đã có thể chồm lên vớ lấy chiếc giáo rồi. Những giọt nước mắt tức tối trào lên. Anh có cảm giác là hàng bao tuần trăng triền miên bất tận, anh chỉ biết độc có một nông nỗi là bị săn đuổi, bị tấn công, bị bắt và bị xiềng.
Không! Anh không cho phép mình hành động như thế này. Dù sao đi nữa, giờ đây anh cũng là một người đàn ông trưởng thành tuổi đời mười bảy vụ mưa, non nớt chi nữa mà còn khóc lóc, thương thân trách phận. Gạt nước mắt, anh bò lên chiếc chiếu mỏng, cục mịch bằng rác ngô nỏ và cố gắng ngủ - song anh chỉ một mực nghĩ đến cái tên "Tôby" đã được đặt cho anh và cuồng giận lại trào lên trong anh một lần nữa. Uất ức, anh lồng lộn đá chân, song cử động đó chỉ làm những còng sắt cắn sâu thêm vào cổ chân khiến anh lại phải kêu lên.
Liệu có bao giờ anh lớn lên thành một người đàn ông như Ômôrô? Anh tự hỏi liệu cha còn nghĩ tới mình không và mẹ có dồn sang cho Lamin, Xuoađu và Mađi phần yêu thương đã bị cướp đi khi anh bị bắt lén? Anh nghĩ về tất cả mọi người ở Jufurê và chưa bao giờ hơn lúc này, anh nhận rõ mình yêu quí quê hương làng bản sâu sắc biết chừng nào. Như đã nhiều lần xảy ra trên con xuồng lớn, Kunta nằm suốt nửa phần đêm với những cảnh tượng làng Jufurê loang loáng hiện ra trong tâm trí cho đến khi anh cố tự bắt mình nhắm mắt và cuối cùng cái ngủ ập tới.
Chương 45
Càng ngày những chiếc còng trên cổ chân Kunta càng làm cho anh đi lại khó khăn và đau đớn hơn. Song anh vẫn tự nhủ rằng cơ hội thoát thân tùy thuộc vào việc tiếp tục ép mình làm bất cứ cái gì được giao, đằng sau một cái mặt nạ, ngây độn và ngớ ngẩn hoàn toàn. Trong khi làm thế, tai, mắt và mũi anh không để lọt một cái gì - mọi khí giới anh có thể lợi dụng, mọi nhược điểm của bọn tu bốp anh có thể khai thác - cho tới khi nào bọn bắt anh, cuối cùng, yên tâm tháo cùm ra. Lúc đó anh sẽ lại chạy trốn.
Mỗi buổi sáng, ngay sau khi tù và rúc, Kunta lại tập tễnh ra ngoài ngắm đám da đen kỳ cục nọ chui khỏi lều, mặt còn lộ rõ vẻ ngái ngủ, lấy nước ở những chiếc xô múc từ giếng cạnh đó vã vào người. Nhớ tiếng chày giã mạch kê của các bà các chị trong làng sửa soạn bữa sáng cho gia đình, anh lại vào lều của bà già nấu bếp và nuốt chửng bất cứ thức gì bà đưa cho - trừ cái món thịt ủn ỉn bẩn thỉu.
Sáng nào, trong khi ăn, anh cũng đưa mắt lục soát căn lều xem có gì - khả dĩ làm khí giới mà anh có thể lấy trộm được, không bị phát hiện. Nhưng trừ những nồi niêu xoong chảo đen thui treo ở móc trên bếp, chỉ có những vật tròn, dẹt bằng sắt tây trên đó bà bếp xẻ các thức cho anh ăn bốc. Anh thấy bà ta ăn bằng một cái vật dài, bằng kim khí có ba bốn mũi nhọn xít nhau dùng để xiên thức ăn. Anh thắc mắc không biết đó là cái gì và nghĩ mặc dầu bé, nó vẫn có thể hữu ích - nếu như có một lúc nào anh bất chợt thấy bà ta ngảnh nhìn đi chỗ khác trong khi cái vật lấp lánh đó nằm trong tay anh.
Một buổi sáng, đang lúc vừa ăn cháo vừa theo dõi bà bếp thái thịt bằng một con dao trước đây anh chưa từng thấy và mưu tính sẽ dùng con dao đó vào việc gì nếu nó ở trong tay anh. Kunta chợt nghe thấy một tiếng éc đau đớn ré lên bên ngoài lều. Điều đó gần gũi với những ý nghĩ của anh đến nỗi anh gần như bật dậy khỏi chỗ ngồi. Khập khiễng bước ra ngoài, anh thấy những người khác đã sắp hàng đi làm - nhiều người còn đang nhai những miếng cuối cùng của bữa "điểm tâm", sợ bị ăn roi vì ra chậm - trong khi cạnh họ trên mặt đất, một con ủn ỉn đang giãy giụa, máu phọt từ cổ họng bị mổ; hai gã đen khiêng nó lên bỏ vào một thùng nước sôi bốc hơi, rồi lôi ra, cạo lông. Da con ủn ỉn trắng hếu như da bọn tubốp, anh nhận thấy thế khi hai gã kia treo chân nó lên, rạch bụng và moi lòng ra. Mũi Kunta tắc nghẹn khi ngửi thấy mùi ruột nó phả ra và trong lúc cùng những người khác đi về phía cánh đồng, anh phải cố nén nỗi rùng mình kinh tởm khi nghĩ mình phải sống giữa đám vô đạo ăn thịt cả cái giống bẩn thỉu đến thế.
Bây giờ, sáng nào cũng có băng giá bám trên thân ngô và một ánh sương mờ là thấp trên cánh đồng cho tới khi sức nóng của mặt trời đang leo lên cao thiêu tan nó đi. Quyền phép của Chúa Ala quả không ngừng làm Kunta kinh ngạc - ngay cả ở nơi xa vời như cái đất tubốp này, ngăn cách một vùng bao la nước, mặt trời và mặt trăng của Chúa Ala vẫn lên và đi ngang qua bầu trời, tuy mặt trời không nóng bằng và mặt trăng không đẹp bằng ở Jufurê. Duy chỉ có người ở cái nơi đáng nguyền rủa này thì dường như không phải là công trình của Chúa Ala. Bọn tubốp chẳng có tính người, còn đám da đen thì đừng có tìm hiểu họ làm gì, chỉ tổ uổng công vô ích.
Khi vầng dương lên tới giữa bầu trời, tù và lại thổi, báo hiệu cho mọi người sắp hàng một lần nữa đón một chiếc xe trượt bằng gỗ kéo bởi một con vật từa tựa như ngựa nhưng lại giống lừa hơn, mà Kunta nghe lỏm thấy họ gọi là con "la". Đi bên cạnh xe trượt là bà bếp già phân phát cho mỗi người trong hàng mấy miếng bánh dẹt và một bầu món ninh; người đứng kẻ ngồi, ăn nghiến ngấu rồi uống nước múc ở một cái thùng cũng đặt trên xe trượt. Ngày nào Kunta cũng thận trọng ngửi món ninh trước khi nếm để bảo đảm chắc chắn là mình không để lọt tí thịt ủn ỉn nào vào trong miệng, song món này thường thường chỉ có rau chứ chẳng chứa chút thịt nào mà anh có thể trông hoặc ngửi thấy. Còn về bánh thì anh yên trí hơn vì đã thấy một số phụ nữ da đen dùng chày đá giã ngô trong một cái cối để làm bánh, gần giống như cách làm ở Châu Phi mặc dầu chày của Binta bằng gỗ.
Có những hôm họ cho ăn những món quen thuộc với Kunta từ dạo ở quê nhà, như lạc và kanjô - ở đây gọi là "mướt tây" - với cái thứ gì gì gọi là "đỗ mắt đen". Anh thấy những người đen này rất thích cái thứ quả to to mà ở đây người ta gọi là "dưa hấu". Song anh thấy hình như Chúa Ala không cho dân ở đây được hưởng xoài, cùi dừa, quả bánh mì và biết bao trái cây ngon lành khác hầu như mọc ở bất cứ chỗ nào ta chịu khó nghé mắt tới trong các lùm cây, bụi rậm bên Châu Phi.
Thỉnh thoảng, lão tubốp đã đưa Kunta đến chốn này - họ gọi lão là "me-xừ" - cưỡi ngựa ra ngoài đồng trong lúc họ đang làm việc. Đầu đội chiếc mũ rơm trăng trắng, những khi nói với tên tubốp trông coi cánh đồng, lão khoa một cái roi da bện dài và mảnh; Kunta nhận thấy tên tubốp "xú-ba-dăng" (1= Giám thị) cũng lăng xăng, xun xoe cười nịnh hầu như chẳng khác gì những người đen, khi nào có mặt lão ở quanh đấy.
Mỗi ngày đều xảy ra nhiều điều kỳ lạ như vậy, và trở về lều, Kunta thường ngồi ngẫm nghĩ về những điều đó trong khi chờ đợi cái ngủ đến. Những người da đen này dường như trong đời không có quan tâm nào vượt quá cái việc làm hài lòng tên tubốp lăm lăm ngọn roi. Cứ nghĩ đến cái cung cách những người đen này bổ nháo bổ nhào vào công việc bất cứ lúc nào trông thấy một tên tubốp và, nếu hắn bảo một tiếng, hối hả làm bất cứ cái gì hắn sai, là anh phát ớn đến buồn nôn. Kunta không thể dò xét điều gì xảy đến đã phá hoại đầu óc họ đến nỗi giờ đây họ hành động như loài dê, loài khỉ. Có lẽ bởi vì họ sinh ra ở nơi này chứ không phải ở Châu Phi, bởi vì mái nhà duy nhất họ biết là những túp lều gỗ thỏi của bọn tubốp, trát bằng bùn và lông con ủn ỉn. Những người đen này chưa bao giờ biết được ý nghĩa việc đổ mồ hôi dưới ánh mặt trời không phải vì bọn chủ tubốp, mà vì bản thân và đồng bào mình.
Nhưng dù có phải ở lẫn với họ lâu đến đâu chăng nữa, Kunta cũng nguyện sẽ không bao giờ trở nên giống họ và mỗi đêm, tâm trí anh lại thám hiểm tìm cách trốn khỏi vùng đất đáng khinh ghét này. Anh không khỏi tự riếc móc hầu như hàng đêm về thất bại trước đó. Duyệt lại trong đầu cái thế bị lũ chó rớt rãi ròng ròng dồn vào bụi gai, anh biết là phải có một kế hoạch chu đáo hơn cho lần sau. Trước hết cần phải tự làm một lá bùa xaphi để bảo đảm an toàn và thành công. Rồi phải tìm ra hoặc làm một thứ vũ khí gì đó. Thậm chí một cái gậy vót nhọn cũng đâm được thủng bụng những con chó - anh nghĩ bụng - và thế là lại có thể vọt xa trước khi gã da đen và lão tubốp rẽ được bụi rậm tới chỗ anh quần nhau với lũ chó. Cuối cùng, phải làm quen với thung thổ xung quanh để khi tẩu thoát lần nữa, có thể biết đường mà tìm những chỗ ẩn náu tốt hơn.
Mặc dù thường thường mất tới nửa phần đêm nằm thao thức, trăn trở với những ý nghĩ như vậy, bao giờ Kunta cũng dậy trước tiếng gà gáy đầu gọi đám gia cầm khác hòa theo. Anh nhận thấy chim chóc ở đây chỉ ríu rít, líu lo - khác hẳn tiếng quàng quạc ỏm tỏi đinh tai của những bầy vẹt xanh đông đảo mở đầu buổi sáng ở Jufurê. Dường như ở đây chẳng có vẹt mà cũng không có khỉ, cái giống này bên quê nhà bao giờ cũng khai ngày bằng chí chóe trên cây, bẻ que ném xuống những người đứng dưới đất. Kunta cũng không hề thấy có dê ở đây - một điều mà anh thấy khó tin chẳng kém gì việc dân vùng này nhốt giống ủn ỉn ở trong chuồng - họ gọi chúng là "lợn" hoặc "heo" - và thậm chí còn cho cái loài bẩn thỉu ấy ăn nữa.
Nhưng Kunta thấy tiếng kêu eng éc của con ủn ỉn cũng chẳng xấu gì hơn thứ tiếng nói của bọn tubốp, sao mà chúng giống hệt nhau. Anh sẵn sàng đổi bất cứ cái gì để được nghe, dù chỉ một câu, tiếng Manđinka hoặc bất kỳ tiếng Phi nào khác. Anh nhớ những người bạn xiềng trên con xuồng lớn - kể cả những người không theo đạo Hồi - và băn khoăn tự hỏi giờ họ ra sao. Họ bị đem đi đâu? Tới những trại tubốp khác tương tự như trại này chăng? Ở đâu thì ở, liệu họ có như anh, khao khát được nghe một lần nữa ngọt ngào tiếng mẹ đẻ - và như anh, cảm thấy tù hãm và cô đơn vì nỗi không biết tí gì về tiếng tubốp?
Kunta vỡ lẽ ra rằng cần phải học chút ít về cái thứ ngôn ngữ kỳ lạ này nếu anh muốn hiểu kha khá về bọn tubốp hoặc về cách trốn thoát khỏi tay chúng. Không để cho ai biết, anh đã thuộc được mấy chữ "lợn", "heo", "dưa hấu", "đỗ đen", "xú-ba-dăng", "me-xừ" và đặc biệt "uẩy me-xừ" cái câu hầu như duy nhất anh nghe thấy đám người da đen nói với hắn. Anh cũng thấy đám người da đen gọi mụ tu bốp, cùng chung sống với "me-xừ" trong tòa nhà trắng lớn là "bà đầm". Một lần từ đằng xa, Kunta đã thoáng thấy mụ, người ngợm xương xẩu, màu da như bụng cóc, trong khi mụ đi dạo quanh, hái mấy bông hoa ở bụi cây mọc cạnh ngôi nhà lớn.
Phần lớn những chữ tubốp khác Kunta nghe lỏm được vẫn còn làm anh bối rối không hiểu. Nhưng đằng sau cái mặt nạ ngây độn, anh cố hết sức đoán cho ra nghĩa và dần dà anh bắt đầu gắn những âm khác nhau vào với một số đồ vật và hành động. Nhưng đặc biệt có một âm làm anh bối rối cực kỳ mặc dù ngày nào cũng nghe thấy cả bọn tubốp lẫn đám da đen nói đi nói lại hoài. Một gã "nhọ" là cái gì nhỉ ? anh tự hỏi.
Chương 46
Cuối cùng, khi công việc cắt và đánh đống thân cây ngô đã xong xuôi, "xú-ba-dăng" bèn cắt đặt một số người da đen làm một loạt nhiệm vụ sau hồi tù và mỗi buổi bình minh. Một buổi sáng, Kunta được giao cho công việc rứt khỏi đám dây leo dày một lô quả to nặng, màu như trái xoài chín mõm và na ná như loại bầu lớn mà phụ nữ ở Jufurê thường phơi khô, cắt đôi làm bát, và chất lên một chiếc "xe" (anh nghe thấy họ gọi những chiếc hòm di động như thế). Đám da đen ở đấy gọi những quả đó là "pí ngô".
Chở chỗ "pí ngô" đó trên xe tới đổ vào một căn nhà to gọi là "kho", Kunta thấy một số người da đen đang cưa một cây lớn thành những khúc dày dặn, rồi lấy rìu và nêm chẻ thành củi để trẻ con xếp thành những dãy dài cao bằng đầu chúng. Ở một chỗ khác, hai người đang phơi trên sào mảnh những chiếc lá to tướng mà mũi Kunta mách cho hay là cái thứ thuốc lá bẩn thỉu của kẻ vô đạo; trước đây anh đã ngửi thấy nó một lần trong một chuyến đi cùng với cha.
Trong khi đánh xe đến nhà "kho", đi đi về về mấy chuyến, anh thấy nhiều thứ được phơi khô để sau này dùng, y như ở làng mình. Một số phụ nữ đang lượm một thứ cỏ dày màu nâu - anh nghe thấy họ gọi là "lá xô thơm" - và buộc thành bó. Và một số loại rau quả trồng ở vườn được tãi ra phơi trên những tấm vải. Ngay cả rêu, do bọn trẻ con lượm về nhúng vào nước sôi, cũng được phơi khô, anh không hiểu tại sao họ lại làm thế.
Dạ dày anh quặn lên khi đi qua một cái chuồng, lại phải mắt thấy tai nghe mấy con ủn ỉn nữa bị giết. Anh nhận thấy lông chúng cũng được phơi khô để dành - có lẽ dùng làm vữa trát tường - song điều khiến anh thực sự buồn nôn là việc nhìn thấy bọng đái của chúng được moi ra, thổi phồng lên, buộc túm hai đầu và treo lên phơi khô dọc theo một hàng rào, chỉ có Chúa Ala mới biết cái đó nhằm mục đích vô đạo gì.
Khi hái và vào kho xong xuôi khoản "pí ngô", Kunta cùng một số khác được phái đến một lùm cây, họ được lệnh rung các cành thật mạnh cho các hạt mọc trên đó rụng xuống đất để bọn trẻ thuộc lứa kafô đầu nhặt vào rổ. Kunta nhặt một hạt giấu vào quần áo để lúc nào có một mình, ăn thử xem; cũng không đến nỗi nào.
Khi nhiệm vụ cuối cùng được hoàn thành, họ lại được cất cử vào những công việc sửa chữa cần thiết. Kunta giúp một người khác sửa lại một hàng rào. Và cánh phụ nữ thì bận bịu tổng vệ sinh ngôi nhà trắng lớn và các lều của chính họ. Anh trông thấy một số trong bọn họ giặt đồ, thoạt tiên đem đun sôi trong một cái chậu lớn màu đen rồi lấy một miếng sắt tây rúm ró xát trong nước xà phòng; anh ngạc nhiên không hiểu tại sao không ai trong đám họ biết giặt quần áo cho phải lối bằng cách đập vào các tảng đá.
Kunta nhận thấy ngọn roi của "xú-ba-dăng" xem chừng đã thưa đi nhiều, ít quật xuống lưng người hơn trước, anh cảm thấy trong không khí có một cái gì tương tự như vào thời kì toàn bộ thu hoạch đã nhập kho an toàn ở Jufurê. Thậm chí, trước cả lúc tù và thổi báo hiệu kết thúc ngày làm việc, một số người da đen đã bắt đầu tí tửng, đú đởn ca hát với nhau. "Xú-ba-dăng" thấy vậy thường quay ngựa và vung roi lên, nhưng Kunta dám chắc hắn chỉ dọa thế thôi chứ thật tình cũng không định đánh. Và chẳng mấy chốc các người khác cũng hòa theo, rồi cả cánh phụ nữ nữa - họ hát những câu Kunta không hiểu gì cả. Lòng anh đầy ghê tởm đối với cả bọn đến nỗi, cuối cùng khi hồi tù và báo cho mọi người ai về lều nấy, anh thấy dễ chịu hẳn.
Tối tối, Kunta thường ngồi một mé ngay bên trong cửa lều, gót chân dán xuống nền đất nện để đôi còng sắt đỡ chà vào cổ chân mưng mủ. Nếu thoáng chút gió nhẹ, anh thích cảm thấy nó thổi trên mặt mình và nghĩ đến tấm thảm lá óng vàng và đỏ ối mà sớm hôm sau anh sẽ thấy dưới những hàng cây. Những lúc như vậy, tâm trí anh lại phiêu diêu về với những buổi tối mùa gặt ở Jufurê, mọi người ngồi quanh những đống lửa đêm, mặc muỗi và các côn trùng khác quấy nhiễu, vẫn mải mê trò chuyện, những cuộc hàn huyên dài thỉnh thoảng điểm mấy tiếng báo và linh cẩu gầm rú xa xa.
Anh chợt nghĩ ra một điều: có một thứ anh không nghe thấy, và kể từ khi rời Châu Phi đến giờ, chưa từng nghe thấy, đó là tiếng trống. Có lẽ bọn tubốp không cho phép những người da đen này được có trống thì phải, lý do chắc là như vậy. Nhưng tại sao lại thế? Phải chăng vì bọn tubốp biết và sợ rằng tiếng trống sẽ làm bốc máu mọi người trong làng, kỳ cho tới lúc con nít và người già rụng răng cũng lao vào nhảy múa điên cuồng? Hoặc nhịp điệu trống sẽ thôi thúc các tay đô vật đạt những kì tích về thần lực? Hoặt giả tiếng đập trống có thể phát động các chiến sĩ nộ khí xung thiên lăn xả vào kẻ địch? Hay có lẽ đơn giản là bọn tubốp sợ không dám cho phép một hình thức giao lưu có thể vượt qua khoảng cách từ trại này sang trại khác mà chúng không hiểu được?
Song những người da đen vô đạo này hẳn cũng không hiểu lời trống hơn gì lũ tubốp. Tuy nhiên, rất miễn cưỡng, Kunta bắt buộc phải thừa nhận rằng có thể họ chưa đến nỗi hoàn toàn không cứu chuộc nổi. Mặc dầu đầu óc tối tăm, một số điều họ làm vẫn mang tính chất Phi thuần túy và anh dám chắc chính họ cũng hoàn toàn không tự giác về điểm này. Chẳng hạn, cả đời, bao giờ anh cũng thấy là những tiếng kêu biểu lộ tình cảm như nhau phải đi đôi với những bộ điệu tay và nét mặt như nhau. Và cái cách những người đen này cử động thân mình cũng giống hệt thế. Cái điệu cười của họ khi tụ họp riêng với nhau cũng chẳng khác gì - thoải mái, rung toàn thân y như mọi người ở Jufurê.
Và Kunta được gợi nhớ tới Châu Phi ở như cái cách phụ nữ da đen nơi đây lấy dây buộc tóc thành những bím rất chặt - mặc dầu phụ nữ Châu Phi thường hay trang điểm bím tóc của mình bằng những hạt nhiều màu. Và phụ nữ ở đây cũng thắt nút những tấm vải trên đầu, tuy buộc không được ngay ngắn cho lắm. Thậm chí một số đàn ông da đen cũng tết tóc thành những bím ngắn như một số người ở Châu Phi.
Kunta cũng nhìn thấy hình ảnh Châu Phi trong cái cung cách trẻ con da đen ở đây được luyện vào khuôn phép lễ độ và kính trọng người bề trên. Anh thấy hình ảnh Châu Phi trong cách các bà mẹ bế con, cho đôi chân nhỏ mũm mĩm của chúng quặp lấy bụng mình. Anh nhận thấy cả những tục lệ nho nhỏ như cách cụ già tối đến thường ngồi xỉa răng xỉa lợi bằng một cái que nhỏ đầu nghiền nát - ở Jufurê các cụ thường dùng rễ cỏ chanh. Và Kunta phải thừa nhận rằng niềm say mê hát múa cao độ của những người đen này thì đặc Phi, không thể lầm lẫn được, mặc dầu anh khó mà hiểu được làm sao họ có thể làm thế trên đất tubốp này.
Nhưng cái điều bắt đầu thực sự làm trái tim anh dịu đi đối với những con người kì lạ này là việc trong suốt tuần trăng vừa qua, chỉ khi nào có mặt "xú-ba-dăng" hoặc "me-xừ", họ mới tiếp tục tỏ ra ồn ào không ưa anh. Những lúc Kunta đến bất cứ chỗ nào chỉ có những người đen với nhau, phần đông đều vội vàng gật đầu với anh và anh nhận thấy vẻ quan tâm của họ đối với cổ chân trái anh mỗi ngày một trầy loét thêm. Mặc dù bao giờ cũng lạnh lùng lờ họ đi và tiếp tục lặc lè bước qua, đôi khi, sau đó, anh thường bất chợt thấy mình gần như tiếc rằng đã không gật đầu đáp lại họ.
Một đêm, Kunta đã ngủ rồi song lại thức giấc, như dạo này anh thường hay thế; anh nằm trừng trừng nhìn vào đêm tối và cảm thấy rằng Chúa Ala, vì một lý do nào đó, đã muốn anh phải ở nơi đây giữa cái bộ tộc lạc lõng của một đại gia đình da đen gốc gác tông môn bắt nguồn từ tổ tiên xa xôi; nhưng khác với anh, những người đen ở nơi này không mảy may biết mình là ai và quê hương bản quán mình ở đâu.
Cách nào đó thật kì dị, Kunta cảm thấy sự có mặt của vị thánh nhận ông nội anh ở đâu đây và anh với tay quờ vào đêm tối. Thực ra có gì đâu mà sờ soạng, mà tìm, thế nhưng anh vẫn cất cao giọng nói với bậc thánh nhân Kairaba Kunta Kintê, cầu khẩn Người cho biết mục đích sứ mệnh của anh ở đây là gì, nếu như anh có một sứ mệnh nào đó. Anh giật mình khi nghe thấy tiếng nói của chính mình. Cho tới lúc này trên đất tubốp anh chưa bao giờ thốt lên một tiếng nào với ai ngoài Chúa Ala, trừ những tiếng kêu bật ra khi bị roi quật vào người.
Sáng hôm sau, khi nhập vào những người khác xếp hàng đi làm, suýt nữa Kunta buột miệng nói "Monia" (1)(Good morning hay gọn hơn, morning: lời chào buổi sáng, người da đen đọc trệch đi) như anh vẫn nghe thấy họ chào nhau hàng ngày. Song tuy giờ đây, anh đã biết khá nhiều chữ tubốp không những đủ để hiểu phần lớn những điều người ta nói với anh, mà còn đủ để làm cho người khác hiểu ý mình phần nào, một cái gì đó vẫn khiến anh quyết định tiếp tục giữ kín kiến thức đó.
Kunta chợt nghĩ ra là những người da đen này che đậy những tình cảm thực sự của mình đối với bọn tubốp cũng cẩn thận y như anh giấu kín sự thay đổi thái độ của anh đối với họ vậy. Bây giờ, anh đã nhiều lần chứng kiến bộ mặt tươi cười của họ chuyển thành cay gằn ngay khi một tên tubốp ngảnh đầu đi. Anh đã thấy họ chủ tâm đánh gẫy dụng cụ làm việc, rồi làm ra vẻ hoàn toàn không biết việc đó xảy ra thế nào khi "xú-ba-dăng" chửi rủa thậm tệ khi biết sự vụng về của họ. Và anh đã thấy những người da đen ngoài cánh đồng, tuy tỏ ra lăng xăng hối hả mỗi khi có bọn tubốp bên cạnh, thực tế vẫn dây dưa kéo dài gấp đôi thời gian cần thiết trong bất cứ công việc gì họ phải làm.
Anh cũng bắt đầu hiểu ra rằng những người đen này có một kiểu giao lưu chỉ riêng họ biết với nhau thôi, cũng như thứ ngôn ngữ xira kangô bí mật của người Manđinka vậy. Đôi khi trong lúc làm việc ngoài đồng, Kunta thoáng thấy họ khẽ làm một cử chỉ nhanh bằng tay hoặc bằng đầu. Hoặc giả một người trong bọn thốt lên một tiếng ngắn gọn, nghe thật lạ lắm; từng lúc từng lúc với những quãng cách không lường trước được, một người khác rồi một người khác nữa lại lặp lại tiếng kêu đó, bao giờ cũng ngoài tầm nghe của "xú-ba-dăng" trong khi hắn cưỡi ngựa quanh quất đây đó. Và đôi khi, có mặt Kunta ở ngay giữa bọn họ, những người này cất tiếng hát một bài gì đó khiến cho anh, dù không hiểu lời vẫn biết rằng một thông điệp đang được truyền đi, như kiểu tốp phụ nữ đã làm thế trên con xuồng lớn để loan tin cho cánh đàn ông.
Khi bóng tối phủ lên các túp lều và ánh đèn thôi không lấp lánh ở các cửa sổ ngôi nhà lớn nữa, đôi tai rất thính của Kunta thường phát giác ra tiếng sột soạt lẹ làng của một, hai người đen luồn lách khỏi "xóm nô" - và mấy giờ sau lại lẻn trở về. Anh thắc mắc không biết họ đi đâu, và để làm gì và tại sao họ lại điên rồ quay trở về. Và sáng hôm sau, ngoài đồng, anh cố đoán xem ai đã hành động thế, dù đó là ai mặc lòng, anh nghĩ mình có thể tin cậy họ.
Tối tối, sau "bữa dạ chúc", đám người đen thường ngồi quanh đống lửa nhỏ của bà bếp già cách chỗ Kunta hai căn lều và cảnh đó khiến lòng Kunta tràn ngập nỗi sầu nhớ Jufurê, chỉ khác cái là ở đây phụ nữ ngồi lẫn với đàn ông và một số người, cả nam lẫn nữ, phì phèo hút những tẩu thuốc lá vô đạo, thỉnh thoảng lại lập lòe mờ mờ trong bóng tối đang gom lại. Ngồi ngay bên trong cửa ra vào, hết sức lắng tai, Kunta có thể nghe thấy tiếng họ trò chuyện trùm lên tiếng dế nỉ non và tiếng cú rúc trong rừng xa. Tuy không hiểu lời, anh vẫn cảm thấy nỗi cay đắng trong giọng họ.
Bây giờ, ngay cả trong đêm tối, Kunta vẫn hình dung ra được bộ mặt của bất cứ người da đen nào đang nói. Tâm trí anh đã sắp xếp giọng nói của từng người trong số hơn chục người lớn tuổi vào với tên của bộ lạc mà anh cảm thấy họ có nhiều nét giống nhất. Anh biết những ai trong bọn họ thường hành động khinh suất, những ai ít khi hé miệng mỉm cười thậm chí gần bọn tubốp cũng không.
Những cuộc họp mặt buổi tối ấy có một khuôn mẫu chung mà Kunta đã thuộc. Người nói đầu tiên thường thường là bà già nấu bếp trong ngôi nhà lớn. Bà diễn lại những điều "me-xừ" và "bà đầm" nói. Rồi đến gã da đen to lớn đã tóm được anh, bắt chước "xú-ba-dăng" và anh ngạc nhiên nghe những người khác hồ như chết nghẹn vì cố nén cười, sợ bọn ở trong ngôi nhà trắng lớn nghe thấy.
Nhưng rồi tiếng cười lắng dần và họ ngồi quanh chuyện trò với nhau. Kunta nghe thấy giọng một số người đầy vẻ thảng thốt bất lực, một số khác lại phẫn nộ, mặc dầu anh chỉ hiểu tí chút về những điều họ bàn luận. Anh có cảm giác là họ đang hồi tưởng lại những điều đã xảy ra trước đây trong đời họ. Đặc biệt một số phụ nữ đang nói bỗng òa lên khóc. Cuối cùng, cuộc trò chuyện lặng đi khi một trong số phụ nữ cất tiếng hát và mọi người hòa theo. Kunta không hiểu lời - "Không ai biết những nông nỗi tôi đã trải" - song anh cảm thấy rõ nỗi buồn trong tiếng hát.
Sau rốt, vẳng đến một giọng mà Kunta biết là của người cao tuổi nhất trong bọn họ, ông lão ngồi trong chiếc ghế đu, đan đồ bằng rác ngô và thường thổi tù và. Những người khác cúi đầu và ông lão bắt đầu chậm rãi đọc những câu gì mà Kunta đoán là một thứ kinh cầu nguyện, mặc dầu chắc chắn không phải là dâng lên Chúa Ala. Song Kunta nhớ lại lời vị thủ chỉ già đã nói trên con xuồng lớn: "Chúa Ala biết mọi thứ tiếng." Trong khi cuộc cầu nguyện tiếp tục, Kunta lại nghe thấy vẫn cái tiếng kỳ lạ nọ thốt lên giật giọng từ miệng ông lão và những người khác: "Ôi, lạy Chúa!". Anh băn khoăn tự hỏi "ôi, lạy Chúa!" đây có phải là Chúa Ala của họ không.
Mấy ngày sau, những cơn gió đêm bắt đầu thổi, lạnh hơn mọi cái lạnh mà Kunta từng cảm thấy, và buổi sáng trở dậy, anh bỗng thấy những chiếc lá cuối cùng đã rời cành. Trong khi run rẩy đứng xếp hàng ra đồng anh ngạc nhiên thấy "xú-ba-dăng" lại điều tất cả vào nhà kho. Cả "me-xừ" và "bà đầm" cũng ở trong đó cùng với bốn tubốp khác mặc quần áo đẹp đứng xem và hoan hô trong khi những người đen được chia thành hai nhóm, đua nhau rút ra và quẳng sang bên những vỏ khô trắng từ đống ngô đã thu hoạch.
Rồi cả tubốp và da đen - chia thành hai nhóm - ăn uống no say. Sau đó ông già cầu kinh lúc đêm cầm lấy một thứ đàn dây - nó gợi cho Kunta nhớ đến đàn kora cổ ở quê nhà - và dùng một thứ gậy nhỏ kéo đi kéo lại trên dây đàn tạo ra một thứ nhạc rất kỳ lạ. Những người đen khác đứng dậy và bắt đầu nhảy như điên trong khi đám tubốp ngồi xem, kể cả "xú-ba-dăng", vui vẻ vỗ tay đánh nhịp và hò la bên cạnh. Mặt đỏ lên vì phấn khích cả đám tubốp bỗng nhiên đứng dậy và trong khi những người đen rạt sang bên, chúng vừa vỗ tay vừa tiến ra giữa sàn và bắt đầu nhảy một cách vụng về trong khi ông già kéo đàn như điên và đám người da đen nhảy chồm chồm vỗ tay và la hét như được xem cuộc biểu diễn lớn nhất trong đời mình vậy.
Điều đó khiến Kunta nghĩ đến một câu chuyện được bà già Nyô Bôtô yêu dấu kể cho nghe từ hồi anh còn thuộc lứa kafô đầu. Bà kể chuyện ông vua một làng tập hợp tất cả các nhạc công và ra lệnh cho họ chơi những bản hay nhất để ông nhảy múa cho nhân dân, kể cả những người nô lệ xem. Toàn thể dân làng đều vui thích, ra về tất cả đều cất cao giọng hát vang trời và chẳng bao giờ có một ông vua khác như thế.
Hôm ấy, trở về lều, suy nghĩ về những điều đã trông thấy, Kunta chợt thấy là, theo một cách kỳ lạ, mãnh liệt và rất sâu sắc nào đó, người da đen và bọn tubốp cũng có mặt nào cần đến nhau. Không phải chỉ trong lúc nhảy múa ở nhà kho, mà cả trong nhiều dịp khác, anh đã cảm thấy rằng bọn tubốp sung sướng nhất khi chúng ở gần bên những người đen - kể cả khi chúng đánh họ.
Chương 47
Cổ chân trái Kunta đã trở nên lở loét đến nỗi mủ chảy ra từ vết đau phủ gần kín cái còng sắt một màu vàng bệch đến lộn mửa và cuối cùng tình trạng tập tễnh cà nhắc của anh khiến "xú-ba-dăng" phải để tâm xem xét kĩ tận mắt. Ngảnh đầu đi, hắn bảo Xamxơn tháo còng ra.
Nhấc chân lên vẫn còn nhức nhối, song được tháo còng, Kunta sướng rơn đến nỗi hầu như không cảm thấy đau nữa. Và đêm hôm ấy, sau khi những người khác đã đi ngủ và mọi vật trở nên yên tĩnh, Kunta lò cò ra ngoài và lẻn trốn một lần nữa. Tắt ngay một cánh đồng ngược chiều với hướng chạy trốn lần trước, anh tiến về một khu rừng mé bên kia mà anh biết là rộng hơn, sâu hơn. Anh tới một khe suối cạn và đang trườn bụng nhoai lên bờ bên kia thì chợt nghe thấy âm thanh đầu tiên của một sự rộn rịch chuyển động đằng xa. Anh nằm im, tim đập rộn, tai nghe thấy tiếng chân nặng nề tiến lại gần và cuối cùng là cái giọng khàn của Xamxơn nguyền rủa, hét lác: "Tôby! Tôby!" Nắm chặt một cây gậy to mà anh đã vót nhọn thành một ngọn giáo thô sơ, Kunta cảm thấy bình tĩnh lạ lùng, gần như tê cứng, trong khi đôi mắt lạnh lùng dõi theo cái bóng người vạm vỡ đang thoăn thoắt sục sạo các bụi rậm trên bờ khe. Một cái gì khiến anh cảm thấy rằng Xamxơn sợ cho bản thân gã nếu Kunta trốn thoát được. Mỗi lúc gã một bước tới gần - Kunta vặn mình co người lại, im sững như hòn đá - thế rồi giây phút quyết định đã tới. Dồn hết sức lực phóng mũi lao ra, anh khẽ hộc lên vì đau và Xamxơn nghe thấy thế, lập tức nhảy né sang một bên, mũi giáo chỉ trượt có một sợi tóc.
Kunta toan chạy, song hai cổ chân yếu quá, thậm chí khó lòng đứng thẳng được và khi anh xoay người lại để nghênh chiến thì Xamxơn đã lao bổ tới, trọng lượng áp đảo của gã trút vào mỗi cú đánh, cho đến khi Kunta bị quật ngã xuống đất. Lôi thốc anh trở dậy, Xamxơn tiếp tục giã, chỉ nhằm vào ngực và bụng còn Kunta thì ráng vặn mình, vừa cào cấu, vừa cắn xé. Rồi một đòn búa tạ lại quật anh ngã xuống, lần này thì nằm liệt hẳn. Thậm chí anh không còn cử động được để tự vệ thêm tí nào nữa.
Thở hồng hộc Xamxơn lấy thừng trói nghiến hai cổ tay Kunta lại, rồi cầm đầu thừng rời bắt đầu lôi xềnh xệch Kunta đi về trại, phũ phàng đá thúc mạnh mỗi khi anh vấp hay chần chừ và suốt dọc đường luôn miệng chửi rủa.
Kunta chỉ còn đủ sức để lảo đảo và chệnh choạng lê bước theo sau Xamxơn. Đầu váng mắt hoa vì đau và kiệt sức - vì tự ghê tởm mình nữa - anh hằm hằm dự kiến trước những trận đòn sẽ phải chịu khi tới lều. Nhưng cuối cùng, khi về đến nơi - trước lúc rạng đông một tí - Xamxơn chỉ đá thêm anh một, hai cái, rồi bỏ mặc anh nằm mẹp một mình phủ phục đó.
Kunta kiệt sức đến run lên. Nhưng anh vẫn dùng răng nhay nghiến, cố cắn đứt những thớ dây thừng trói hai cổ tay, cho đến khi răng đau xói lên như xòe lửa. Song cuối cùng, thừng đứt thì cũng đúng vào lúc tù và thổi. Kunta nằm lăn và khóc. Anh lại thất bại và anh cầu Chúa Ala.
Suốt những ngày tiếp theo, anh và Xamxơn cứ y như là đã bí mật kí kết một hiệp ước thù hận. Kunta biết rõ mình bị theo dõi sát như thế nào; anh biết Xamxơn đang chờ đợi bất cứ cớ gì để đánh anh cho bọn tubốp vừa lòng. Kunta đáp lại bằng cách làm đến nơi đến chốn bất cứ việc gì được giao, như không có chuyện gì xảy ra mà còn làm nhanh hơn, hiệu quả hơn trước kia nữa. Anh đã nhận xét thấy "xú-ba-dăng" ít chú mục đến những ai làm hăng nhất hoặc nhăn nhở cười nịnh nhiều nhất. Kunta không thể buộc mình nhăn nhở cười được, nhưng anh hành động với một niềm thỏa mãn hung dữ rằng anh càng đổ mồ hôi, roi đòn càng ít quật xuống lưng.
Một buổi tối, làm việc xong, Kunta đang đi qua gần chỗ chuồng ngựa thì chợt phát hiện ra một cái nêm dầy bằng sắt nằm lấp một nửa trong những khúc cây đã cưa, nơi "xú-ba-dăng" cắt hai người chẻ ra làm củi. Đưa mắt vội vã nhìn quanh khắp phía không thấy ai theo dõi, Kunta vớ lấy chiếc nêm và giấu vào trong áo, hối hả đi về lều. Dùng chiếc nêm đào một lỗ trong nền đất rắn, anh bỏ luôn nó vào đó, đổ đất vụn lên, rồi lấy một hòn đá nện cẩn thận cho đến khi nền nhà nom như chưa hề bị xới lộn.
Anh qua một đêm không ngủ, lo rằng nếu chúng biết mất cái nêm, có thể tất cả các lều sẽ bị khám xét. Hôm sau, thấy không có chuyện gì ầm ĩ, anh cảm thấy yên tâm hơn song vẫn chưa chắc mình có thể dùng cái nêm như thế nào để tự cứu khi cơ hội chạy trốn lại đến một lần nữa.
Cái mà anh thực sự muốn nắm trong tay là một trong những con dao dài mà mỗi sáng "xú-ba-dăng" thường phát cho một số người. Nhưng cứ tối đến, anh lại thấy "xú-ba-dăng" đòi dao lại và đếm rất cẩn thận. Với một con dao như vậy, anh có thể phát cây bụi để tiến nhanh hơn trong rừng, và nếu cần, có thể hạ một con chó - hoặc một người.
Gần một tuần trăng sau, vào một buổi chiều giá lạnh, bầu trời heo hút và xám xịt, Kunta đang đi ngang qua một cánh đồng để giúp một người chữa lại một hàng rào thì bỗng kinh ngạc thấy có cái gì như muối từ trên trời rơi xuống, mới đầu còn nhẹ nhàng, sau rồi nhanh hơn, dày hơn. Khi thứ muối ấy trở thành từng mảng trắng, anh nghe thấy những người da đen ở gần đấy kêu lên: "Tuyết" và đoán rằng họ gọi nó là thế. Khi cúi xuống nhặt lên một ít, anh thấy nó lạnh giá cả tay - và càng lạnh hơn khi anh thè lưỡi liếm thử. Nó buốt như kim châm và chẳng có vị gì cả. Anh thử ngửi xem, nhưng chẳng những nó không có mùi gì mà còn tan biến thành nước. Và nhìn xuống mặt đất, chỗ nào anh cũng thấy một màng mỏng trăng trắng.
Nhưng khi anh tới mé bên kia cánh đồng, "tuyết" đã ngừng rơi và thậm chí còn bắt đầu tan ra nữa. Cố giấu vẻ ngạc nhiên, Kunta làm bộ điềm tĩnh và lặng lẽ gật đầu với người cộng sự da đen đang chờ bên cạnh hàng rào bị gẫy. Họ bắt tay vào việc. Kunta giúp người kia căng một thứ dây bện bằng kim khí mà gã này gọi là "dây thép". Một lúc sau, họ tới một chỗ gần như lấp kín sau lớp cỏ cao và trong khi người kia phạt bớt một ít bằng con dao dài anh ta mang theo, Kunta đưa mắt ước lượng khoảng cách giữa chỗ mình đứng với khu rừng gần nhất. Anh biết hôm ấy Xamxơn không có mặt ở chỗ nào gần đấy và "xú-ba-dăng" thì đang trông coi ở một cánh đồng khác. Kunta tất bật làm việc để người kia khỏi nghi ngờ gì về những điều anh đang suy tính trong óc. Song anh thở hổn hển trong khi đứng cầm căng sợi dây thép và nhìn xuống đầu người kia đang cắm cúi làm việc. Con dao được để lại đằng sau họ vài bước, chỗ người kia dừng tay phạt cỏ.
Miệng khấn thầm Chúa Ala, Kunta nắm chặt hai bàn tay lại với nhau giơ lên cao và giáng xuống gáy người kia với tất cả sức mạnh mà thân hình còm cõi của anh có thể huy động. Người kia rụn xuống không kêu được tiếng nào, như bị hạ thủ bằng rìu. Trong một lúc, Kunta đã trói cổ chân, cổ tay anh ta lại bằng sợi dây thép. Vớ lấy con dao dài, , Kunta dẹp cơn bồng bột muốn đâm anh ta - đấy không phải là tên Xamxơn mà anh căm thù - và, gần như gập đôi người, chạy về phía rừng. Anh cảm thấy nhẹ lâng, tựa hồ anh đang chạy trong một giấc mơ, tựa hồ như chuyện này không xảy ra thực sự.
Tâm trạng này biến mất mấy phút sau - khi anh nghe thấy gã đàn ông anh đã để cho sống gào lên đến vỡ phổi. Đáng ra mình phải giết béng hắn đi, Kunta nghĩ vậy, giận dữ với mình, trong khi cố chạy nhanh hơn. Đáng lẽ rẽ lối lao sâu vào rừng rậm, lần này anh lại men theo rìa ngoài. Anh biết rằng trước hết cần tăng thêm khoảng cách đã, rồi sau hẵng ẩn trốn. Nếu anh mau chóng chạy được khá xa, anh sẽ có thì giờ tìm ra một chỗ tốt để nấp và nghỉ ngơi trước khi tiếp tục tiến thêm dưới sự che chở của màn đêm.
Kunta sẵn sàng sống trong rừng như loài thú. Đến nay, anh đã biết nhiều điều về cái đất tubốp này, cộng thêm với những gì anh đã học từ bên Châu Phi. Anh sẽ dùng bẫy bắt thỏ cùng những loài gặm nhấm khác và nấu nướng chúng trên một bếp lửa không tỏa khói. Anh lựa chiều chạy theo một rẻo có bụi cây che khuất nhưng không rậm đến mức làm anh phải giảm tốc độ.
Đến lúc sẩm tối, Kunta biết mình đã chạy được một quãng xa. Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục đi, vượt rãnh vượt khe và lội xuôi một quãng dài theo lòng một con suối nông. Mãi đến khi tối mịt, anh mới tự cho phép mình dừng lại, nấp ở một chỗ có bụi cây rậm nhưng khi cần có thể chui ra dễ dàng để chạy. Nằm đó trong bóng tối, anh thận trọng lắng nghe tiếng chó. Song chẳng có gì ngoài tịch lặng bao quanh: Liệu có thể như thế được chăng? Phải chăng lần này anh sẽ thành công thực sự?
Đúng lúc ấy, anh cảm thấy một cái gì lạnh giá vật vờ trên mặt và anh đưa tay lên rờ rẫm. "Tuyết" lại rơi! Chẳng mấy chốc màng trắng đã phủ kín anh và bao quanh đến tận cuối tầm mắt, nó lặng lẽ rơi, mỗi lúc một sâu, cho đến khi Kunta đâm sợ rằng mình sẽ bị vùi lấp trong đó mất; anh đã lạnh cóng. Cuối cùng, không thể đừng được nữa, anh chồm dậy, chạy đi tìm chỗ trú tốt hơn.
Chạy được một quãng dài thì anh vấp ngã; anh không đau, nhưng khi ngoái nhìn lại, anh kinh hoàng thấy chân mình đã hằn vết rất sâu trong tuyết đến nỗi ngay cả một người mù cũng có thể lần theo được. Anh biết không có cách nào xóa được dấu tích và anh biết giờ đây trời cũng đã sắp sang. Giải pháp duy nhất là tăng thêm khoảng cách. Anh cố gắng tăng tốc độ, song anh đã chạy gần hết đêm và hơi thở anh hổn hển đứt quãng. Con dao dài đã bắt đầu thấy nặng, nó có thể phát bụi rậm nhưng không làm cho "tuyết" tan được. Bầu trời đang bắt đầu sáng dần ra ở đằng đông thì anh nghe thấy xa xa trước mặt thoảng tiếng tù và. Anh liền chuyển hướng ngay bước sau. Song anh có cảm giác nặng trĩu rằng anh sẽ không tìm đâu ra chỗ trú an toàn giữa cái màu trắng bao trùm khắp này.
Khi nghe tiếng chó sủa xa xa, một cơn cuồng nộ chưa từng thấy trào lên trong anh. Anh chạy như một con báo bị săn đuổi, song tiếng sủa một lúc một to và cuối cùng, khi ngoái lại nhìn qua vai có dễ đến lần thứ mười, anh thấy lũ chó đã gần đuổi kịp. Chắc đám người cũng chẳng còn bao xa đằng sau. Thế rồi anh nghe thấy một phát súng nổ và, cách nào đó, nó thúc anh chạy nhanh hơn trước. Song dù sao mặc lòng, lũ chó vẫn rượt kịp anh. Khi chúng chỉ còn cách mấy bước, Kunta quay người lại và phục xuống, gừ lại chúng. Trong khi chúng nhe nanh xồ tới, anh cũng xồ lại, lia chéo một nhát dao phanh bụng con chó thứ nhất ra; quai tay một nhát nữa, anh bổ lưỡi dao vào chỗ giữa hai con mắt của con thứ hai.
Nhảy vọt ra xa, Kunta lại bắt đầu chạy. Nhưng chẳng bao lâu, anh nghe thấy những người cưỡi ngựa băng qua bụi rậm đằng sau và anh gần như đâm đầu vào đám bụi cây rậm hơn mà ngựa không qua được. Rồi có một tiếng súng nữa, và một tiếng nữa - và anh cảm thấy đau nhói ở cẳng chân. Bị quật ngã phủ phục, anh lại lảo đảo đứng thẳng lên; vừa lúc đó bọn tubốp vừa quát tháo và nổ súng, anh nghe thấy đạn xuyên ngập vào thân cây ngay cạnh đầu. Cứ để cho chúng giết mình đi, Kunta nghĩ, mình sẽ chết như một người đàn ông. Rồi một phát đạn nữa lại trúng vẫn cẳng chân ấy, quật anh xuống như một quả đấm khổng lồ. Đang gầm gừ trên mặt đất, anh trông thấy tên "xú-ba-dăng" và một tubốp khác chĩa súng bước về phía anh và anh định chồm lên, buộc chúng phải bắn anh nữa để kết liễu cuộc đời, song những vết thương ở cẳng chân khiến anh không vùng dậy nổi.
Tên tubốp kia chĩa súng vào đầu Kunta trong khi tên "xú-ba-dăng" giựt xé quần áo anh cho đến khi anh trần truồng trong tuyết, máu ở cẳng ròng ròng chảy xuống làm hoen thảm tuyết trắng dưới chân. Tên "xú-ba-dăng" luôn mồm chửi rủa, thụi Kunta gần chết ngất, rồi cả hai trói anh xấp mặt vào một gốc cây to, cổ tay buộc chằng sang mé bên kia.
Ngọn roi bắt đầu cứa thịt khắp vai và lưng Kunta, tên "xú-ba-dăng" hầm hè, còn Kunta thì run bần bật dưới sức mạnh dữ dội của mỗi nhát đòn. Sau một lúc Kunta không thể nén mình khỏi kêu thét vì đau đớn, nhưng trận đòn vẫn tiếp tục cho đến khi thân hình anh rũ xuống dán chặt vào thân cây. Hai vai và lưng anh đầy những vết toác dài rỉ máu, ở đôi chỗ lòi cả bắp thịt ra. Sau đó, Kunta có cảm giác mình đang ngã xuống, nhưng anh không dám chắc lắm. Rồi anh cảm thấy cái giá lạnh của tuyết áp vào người và tất cả tối sầm lại.
Anh hồi tỉnh trong căn lều của mình, và cùng với ý thức, cái đau cũng trở lại - buốt nhói và bao trùm khắp. Cử động nhỏ nhất cũng khiến anh kêu lên đau đớn. Và anh lại bị xiềng. Nhưng tệ hơn nữa, mũi anh cho biết là toàn thân anh từ chân đến cằm bị bao bọc trong một tấm vải rộng tẩm đẫm mỡ của con ủn ỉn. Khi bà già nấu bếp mang thức ăn đến, anh định nhổ vào bà, song chỉ mửa ra mà thôi. Anh như thấy vẻ thương hại trong mắt bà.
Hai ngày sau, những âm thanh tưng bừng hội hè đánh thức anh dậy từ sáng sớm. Anh nghe thấy đám người đen hò la bên ngoài ngoài ngôi nhà lớn. "Quà giáng sinh, me-xừ!" và anh ngạc nhiên không biết họ còn có thể có gì mà vui vẻ đình đám thế. Anh thì chỉ muốn chết để linh hồn có thể về chầu tổ tiên, anh muốn vĩnh viễn dứt khoát với nỗi thống khổ bất tận trên đất tubốp này, nó quá ngột ngạt và hôi thối đến nỗi anh không thể hít lấy một hơi thở trong lành nào. Anh giận sôi lên vì nỗi đáng lẽ đánh anh như một người đàn ông, thì bọn tubốp lại lột anh trần truồng. Khi nào khỏe lại, anh sẽ báo thù - và sẽ lại chạy trốn. Hoặc là chết.
Chương 48
Cuối cùng, khi Kunta được ra khỏi lều, cả hai cổ chân lại bị cùm, phần lớn những người đen khác đều né tránh anh mắt la mày lét sợ đến gần anh và vội vã lảng đi chỗ khác như thể anh là một loại ác thú nào đó. Chỉ có bà già nấu bếp và ông lão thổi tù và là dám nhìn thẳng vào anh.
Không thấy Xamxơn đâu cả, Kunta chẳng biết gã đi đâu, song anh lấy thế làm mừng. Rồi mấy hôm sau, anh thấy gã da đen đáng ghét mang trên mình những vết roi chưa lành; anh lại càng khoái. Nhưng động một tí là ngọn roi của tên tubốp "xú-ba-dăng" lại vẫn giáng xuống lưng Kunta như thường.
Anh biết mình bị theo dõi hàng ngày trong khi làm việc, anh cũng bắt chước những người khác lăng xăng lẹ làng hơn khi bọ tubốp lại gần và hãm chậm lại khi chúng đi khỏi. Chẳng nói chẳng rằng, Kunta làm bất cứ cái gì anh được lệnh làm. Và hết ngày, anh lại mang nỗi buồn - chôn sâu trong lòng - từ cánh đồng về túp lều nhỏ nhớp nháp, nơi anh ngủ.
Trong cô đơn, Kunta đâm ra hay nói chuyện một mình, nhất là trong những đối thoại tưởng tượng với gia đình. Thường thường anh thầm nói trong tâm trí, song đôi khi cũng cất thành tiếng. "Cha ạ", anh nói, "những người đen này không như chúng ta. Xương thịt họ, máu huyết họ, gân bắp và chân tay họ đều không phải của riêng họ. Họ sống và thở không phải cho bản thân mà cho bọn tubốp. Mà họ cũng chẳng làm chủ cái gì sất, kể cả con cái họ. Chúng được cho ăn cho uống, được chăm nom nuôi nấng vì kẻ khác".
"Mẹ ạ", anh nói, "những người đàn bà này bịt khăn trên đầu, nhưng họ không biết thắt thế nào cho gọn; đồ nấu của họ chẳng mấy thứ không có thịt hoặc mỡ của giống ủn ỉn nhơ bẩn, và ối người trong bọn họ đã ngủ với bọn tubốp, vì con thấy con cái họ phải mang màu da tật nguyền mai mái giở trắng giở đen".
Và anh nói chuyện với các em trai, thằng Lamin, thằng Xuoađu và thằng Mađi, bảo chúng rằng ngay cả bậc huynh trưởng thông thái nhất cũng không thể in sâu đầy đủ vào óc của chúng tầm quan trọng của nhận thức này: con thú rừng đôc ác nhất cũng không nguy hiểm bằng một nửa loài tubốp.
Và các tuần trăng cứ thế qua đi, và chẳng bao lâu "băng giá" đã tan thành nước. Và ít lâu sau, cỏ non xanh rờn lại nhú lên qua nền đất đỏ sậm, cây cối bắt đầu đâm chồi nảy lộc và chim chóc lại hót líu lo. Rồi đến mùa cày và gieo trồng những luống đất dài bất tận. Cuối cùng, ánh mặt trời rọi xuống làm đất nóng giãy đến nỗi Kunta phải bước thật nhanh và những lúc cần dừng lại, cứ phải giậm chân hoài để khỏi bỏng rộp lên.
Kunta đã chờ thời và lo liệu công việc riêng, rình ngóng cơ hội những kẻ canh giữ mình sơ ý rời mắt đi một lần nữa. Nhưng anh có cảm giác rằng ngay những người da đen nọ cũng vẫn để mắt tới anh, kể cả những lúc "xú-ba-dăng" và những tên tubốp khác không có mặt. Anh phải tìm cách nào để khỏi bị theo dõi xít xao đến thế. Có lẽ anh có thể lợi dụng việc bọn tubốp coi dân da đen không phải là người mà là đồ vật. Vì phản ứng của bọn tubốp đối với những đồ-vật-da-đen ấy chừng như phụ thuộc vào hành động của các đồ vật ấy như thế nào, nên anh quyết định xử sự hết sức kín đáo.
Tuy lấy thế làm điều tự khinh mình, Kunta vẫn buộc mình phải bắt chước cách cư xử của những người đa đen khác mỗi khi bọn tubốp lại gần. Dù cố gắng đến mấy, anh vẫn không thể nhăn nhở cười và xun xoe được, song anh ráng tỏ ra thuận tình hợp tác, nếu không phải là thân thiện; và anh hết sức làm ra vẻ bận rộn. Anh cũng đã học thêm được nhiều chữ tubốp bằng cách luôn luôn chăm chú lắng nghe mọi chuyện xung quanh, ở ngoài đồng cũng như quanh các lều ban đêm, và tuy vẫn chưa nói ra miệng, anh đã bắt đầu tỏ rõ là mình có thể hiểu được.
Bông - một trong những hoa màu chính của trại - lớn mau trên đất tubốp này. Chẳng mấy chốc, hoa đã biến thành quả nang xanh lục rắn chắc và nứt ra, đầy những bông xốp, cho đến khi cánh đồng trở thành một biển trắng xóa trải ra đến cuối tầm mắt Kunta, lớn gấp bội những cánh đồng bông anh từng thấy ở quanh Jufurê. Bây giờ là mùa gặt và Kunta thấy hình như sáng sáng, tù và báo thức thổi sớm hơn và ngọn roi của "xú-ba-dăng" vút gió cảnh cáo từ trước khi đám "nô lệ" - những người da đen được gọi là thế - kịp tuột xuống khỏi chỗ ngủ.
Do quan sát những người khác ở ngoài đồng, Kunta sớm học được cách dùng tư thế lom khom để kéo cái bao tải dài đằng sau mình cho đỡ nặng trong khi những nắm bông liên tiếp ném vào cứ đầy dần lên. Sau đó, anh kéo bao tải đến trút vào chiếc xe đợi ở cuối luống. Trung bình mỗi ngày Kunta chất đầy hai bao tải, tuy rằng có một số người trảy bông rất nhanh, từ sáng đến tối ít ra cũng trút được ba bao tải vào xe để làm vừa lòng bọn tubốp; số này bị các người khác ghét đồng thời lại thèm muốn làm được như thế.
Mỗi xe bông, khi được chất đầy, được đưa đến một nhà kho của trại, nhưng Kunta nhận thấy các xe ngồn ngộn thuốc lá thu hoạch ở những cánh đồng lớn hơn bên cạnh lại được đánh về một nơi nào đó xuôi theo đường cái. Bốn ngày qua đi trước khi xe trở lại rỗng không - vừa đúng lúc để chở một chuyến khác ra. Kunta cũng bắt đầu thấy các xe thuốc lá khác, chắc hẳn từ các trại khác, lăn bánh trên đường cái lớn đằng xa, đôi khi có tới bốn con la kéo một cái. Kunta không rõ những xe đó đi đâu, song biết rằng rất xa, vì anh thấy Xamxơn và những người lái khác mệt phờ không còn chút hơi sức, sau mỗi chuyến đi.
Nơi họ đến có lẽ đủ xa để anh đến tìm thấy tự do cũng nên. Ý nghĩ dị thường đó làm Kunta phấn khởi đến nỗi mấy ngày sau anh cứ thấy bồn chồn không yên. Anh mau chóng loại trừ mọi mưu toan nhằm trốn vào một trong những chiếc xe đó của trại; anh hẳn không có cơ hội nào lẻn xuống dưới một đống thuốc lá, thoát khỏi mọi con mắt gần gũi. Phải là một chiếc xe của trại nào khác đang đi trên đường cái cơ. Đêm ấy, lấy cớ đi ngoài, Kunta sau khi chắc chắn xung quanh không có ai, lẻn đến một chỗ có thể trông thấy đường cái trong ánh trăng. Đích thị là các xe thuốc lá thường đi vào ban đêm. Anh có thể thấy đốm sáng lập lòe ở mỗi xe cho tới khi những vệt nhỏ lấp lánh ấy biến mất tận đằng xa.
Anh bày mưu tính kế từng phút một, không một chi tiết nào của các xe thuốc lá trong địa phương lọt khỏi con mắt nhận xét của anh. Khi hái bông ở ngoài đồng, hai bàn tay anh thoăn thoắt, thậm chí anh còn cố ép mình nhe răng cười mỗi khi "xú-ba-dăng" cưỡi ngựa tới gần. Và lúc nào anh cũng nghĩ đến chuyện tìm cách tót lên đằng sau một chiếc xe chất đầy lăn bánh trong đêm và rú dưới đống thuốc lá, sao cho bọn lái ở đằng trước không nghe thấy do tiếng lọc cọc của xe và không trông thấy chẳng những do bóng tối mà còn do đống lá cao tú ụ chen giữa chúng với phần sau của xe. Chỉ nghĩ đến việc phải chạm vào và ngửi hít cái thứ lá cây vô đạo mà anh đã gìn giữ lánh xa suốt đời, cũng đủ khiến anh kinh tởm đến phát ớn, song nếu như đó là cách duy nhất để trốn thoát thì anh tin chắc Chúa Ala sẽ tha thứ cho anh.
Chương 49
Ít bữa sau, một buổi tối rình sau "cầu tiêu" - những người nô lệ gọi túp lều họ dùng làm nơi tháo ruột như thế - Kunta dùng một hòn đá tảng giết được một con thỏ, giống này có rất nhiều ở khu rừng gần đấy. Anh cẩn thận thái thịt thỏ thật mỏng, đem sấy khô theo cách anh đã học được trong thời kì rèn luyện trưởng thành, vì anh sẽ cần mang theo chút ít đồ ăn. Rồi, bằng một hòn đá nhẵn, anh mài lưỡi dao gỉ cong queo anh đã kiếm được và uốn thẳng ra, cắm nó vào một cái chuôi gỗ do anh đẽo lấy. Song, quan trọng hơn cả lương khô lẫn dao là lá bùa xaphi tự tạo gồm một cái lông gà để lôi kéo quỉ thần, một cái lông ngựa để đem lại sức mạnh, một chạc xương chim để đảm bảo thành công, tất cả gói ghém và khâu thật chặt trong một vuông vải đay nhỏ bằng một cái lòng bàn tay. Anh hiểu rằng có họa là điên mới mong lá bùa xaphi của mình được một bậc thánh nhân ban phước, song dù sao có bất kì lá bùa xaphi nào cũng còn hơn không.
Cả đêm anh không ngủ song chẳng hề mệt chút nào: suốt ngày hôm sau làm việc ngoài đồng, Kunta chỉ tập trung hết ý chí để khỏi bốc lên phấn khởi, cốt sao đừng lộ chút gì là xúc động cả. Trở về lều riêng sau bữa ăn tối, tay anh run lên khi nhét con dao cũng những lát thịt thỏ sấy vào túi, rồi buộc chặt bùa xaphi vào cánh tay trên. Anh hầu như không đủ kiên nhẫn đứng nghe cuộc sinh hoạt thường lệ hồi đầu đêm của những người đen khác bởi vì mỗi thời khắc, dường như dài vô tận, đều có thể mang lại một sự việc bất ngờ có thể làm tiêu tan kế hoạch của anh. Nhưng cuộc hát xướng sầu tủi và cầu nguyện của đám tá điền mệt thấu xương mau chóng kết thúc. Muốn đợi cho họ ngủ say, Kunta ráng đợi thật lâu kỳ cho đến lúc không đủ kiên nhẫn nán lại nữa.
Thế rồi, nắm lấy con dao tự chế, anh lách mình ra ngoài trời đêm. Cảm thấy không có ai ở quanh đấy, anh cúi rạp người và chạy nhanh hết sức mình, lát sau đã lẩn vào một khóm rừng nhỏ rậm rạp cây bụi ở ngay phía dưới chỗ quành của đường cái lớn. Anh phục xuống, thở dốc. Giả dụ đêm nay không còn xe nào đi qua nữa thì sao? Ý nghĩ đó như mũi dao xuyên qua anh. Và một mối lo sợ tệ hại hơn, gần như tê dại: giả dụ người phụ lái ngồi canh đằng sau xe? Song dù sao anh cũng phải nhắm mắt đưa chân.
Anh nghe thấy tiếng một chiếc xe đi tới mấy phút trước khi ánh đèn lập lòe hiện ra. Hai hàm răng nghiến chặt, các bắp thịt run lên, Kunta cảm thấy như sắp khuỵu xuống. Chiếc xe dường như bò từng tí một. Nhưng rồi cuối cùng, nó cũng đến, ngay trước mặt anh và chậm chạp ăn bánh qua. Lờ mờ hai bóng người ngồi trên ghế đằng trước. Từ trong bụi rậm, anh lao ra, cảm thấy như mình đang thét lên. Lom khom chạy theo sau chiếc xe kẽo kẹt, lắc lư, Kunta đợi cho đến quãng đường gồ ghề tiếp theo, rồi vươn tay ra bám vào tấm ván hậu, anh lăng mình qua, chui vào đống thuốc lá ngồn ngộn như trái núi. Anh đã ở trên xe!
Anh điên cuồng rúc mãi vào. Đám lá được nén chặt hơn anh chờ đợi nhiều, nhưng cuối cùng cũng che lấp được người. Ngay cả sau khi bới ra một lỗ thông hơi để thở cho thoải mái hơn - mùi hôi của thứ cỏ dơ dáy này khiến anh gần lộn mửa - anh vẫn phải ngọ nguậy vai và lưng, quay bên này một tí, bên kia một tí, cố làm sao cho dễ chịu dưới khối nặng đè xuống. Rốt cuộc, anh cũng tìm được tư thế thuận và nhịp chuyển động đu đưa của chiếc xe, được làm dịu thêm bởi nệm lá rất ấm bao quanh, chẳng mấy chốc đã khiến anh đâm gà gà buồn ngủ.
Một tiếng sóc đánh rầm làm anh giật mình thức giấc và anh bắt đầu nghĩ đến khả năng bị phát giác. Chiếc xe đang đi đâu và phải mất bao lâu mới tới chỗ đó? Và khi tới nơi, liệu anh có thể bí mật lẻn đi thoát được không? Hay lại bị lộ dấu tích và bị vây bắt lần nữa? Tại sao anh lại không nghĩ trước đến điều đó nhỉ? Vụt lóe lên trong đầu anh hình ảnh lũ chó và Xamxơn và bọn tubốp với những cây súng của chúng. Kunta rùng mình ngẫm lại những hình phạt lần vừa rồi, anh biết rằng lần này sinh mạng mình phụ thuộc vào việc không để cho chúng bắt lại.
Nhưng càng nghĩ về điều đó, nỗi thôi thúc rời khỏi chiếc xe ngay tức khắc càng tăng lên mạnh mẽ. Anh lấy tay rẽ đám lá vừa đủ để thò đầu ra. Bên ngoài dưới ánh trăng, là cảnh thôn dã và những cánh đồng mênh mông vô tận. Anh không thể nhảy ra lúc này được. Trăng đủ sáng soi đường cho những kẻ săn đuổi anh cũng như cho anh. Và anh càng ở trên xe lâu, lũ chó càng khó dò tìm vết tích anh. Anh lấp lại lỗ và cố tự trấn an; nhưng mỗi lần xe tròng trành, anh lại sợ nó sắp dừng lại và tim anh hồ như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Hồi lâu sau đó, khi anh lại moi lỗ ra và thấy là sắp sửa rạng đông. Kunta bèn quyết định phải rời xe ngay lập tức, trước khi giáp mặt với kẻ thù ánh dương bạch nhật. Vừa nguyện cầu Chúa Ala, anh vừa nắm chặt chuôi dao và bắt đầu lách khỏi hốc ẩn. Khi đã chui cả người ra ngoài rồi, anh lại đợi đến lúc nào xe tròng trành. Thời gian tưởng như kéo dài vô tận, nhưng cuối cùng, phút đó cũng đến. Anh nhảy nhẹ một cái và thế là đã ở trên mặt đường. Lát sau, anh đã biến vào trong bụi rậm.
Kunta đi quành một vòng rộng để tránh hai trại ấp tubốp, nơi anh nhìn thấy tòa nhà lớn quen thuộc cùng những lều nhỏ, tối tăm kề bên. Tiếng tù và báo thức ở những trại đó bồng bềnh qua khoảng không tịch lặng vẳng đến tai anh và khi bình minh bừng lên, anh đang rẽ lối qua lớp cây bụi, mỗi lúc một đi sâu vào vùng mà anh biết là một khu rừng rộng. Rừng cây um tùm mát mẻ và sương sớm nhỏ giọt xuống người anh đem lại một cảm giác khoan khoái; anh vung tít con dao nhẹ bỗng như không, mỗi nhát lại khà một tiếng thích thú. Đầu buổi chiều, anh tới một dòng suối nhỏ nước trong veo chảy tràn qua những mỏm đá xanh rêu; ếch nhái hốt hoảng nhảy tứ tung khi anh dừng lại chụm hai tay vốc nước uống. Nhìn quanh và cảm thấy khá an toàn có thể nghỉ ngơi một lát, anh ngồi xuống bờ suối và thò tay vào túi. Anh lấy ra một miếng thịt thỏ sấy nhúng xuống suối và bỏ vào miệng nhai. Đất bên dưới anh êm và núng nính, những âm thanh duy nhất lọt vào tai anh là tiếng cóc nhái, tiếng côn trùng và tiếng chim. Anh vừa lắng nghe vừa ăn, và ngắm ánh mặt trời rắc những đốm vàng giữa màu xanh của vòm lá trên đầu và anh tự nhủ cũng may mà mình không phải chạy hết hơi hết sức và liền liền như lần trước, do đó dễ bị tóm gọn vì kiệt sức.
Anh chạy đến hết buổi chiều và sau khi tạm nghỉ để cầu kinh lúc mặt trời lặn, anh tiếp tục đi nữa cho đến khi bóng tối và mệt nhọc buộc anh phải dừng lại để nghỉ đêm. Nằm trên nệm lá và cỏ, anh quyết định lần sau sẽ dựng một cái lán bằng chạc cây, lợp mái cỏ như đã học được trong thời kì rèn luyện trưởng thành. Cái ngủ đến sớm, song trong đêm, mấy lần anh phải thức giấc vì muỗi và anh nghe thấy tiếng thú gầm gừ giết mồi ở đằng xa.
Dậy cùng lúc với những tia nắng đầu tiên, Kunta mài vội lưỡi dao, rồi lại lên đường. Lát sau, anh gặp một vệt đường mòn rõ ràng là đã có nhiều người đi qua; mặc dù nhận thấy con đường đã lâu không ai lai vãng, anh vẫn quay đầu ba chân bốn cẳng chạy thật nhanh về rừng.
Mỗi lúc một đi sâu vào rừng, anh vung dao phạt luôn tay. Mấy lần anh trông thấy rắn, nhưng hồi ở trại tubốp, anh đã được biết là rắn không cắn trước trừ phi chúng sợ hoặc bị dồn vào thế cùng, cho nên anh mặc kệ cho chúng trườn đi. Thỉnh thoảng, anh tưởng như nghe tiếng chó sủa đâu đây và rùng mình, vì anh sợ cái mũi đánh hơi của chó hơn cả người.
Mấy lần trong ngày Kunta đâm quàng phải những chỗ cây lá rậm rạp đến nỗi con dao của anh không đủ sức phát lấy một lối đi, và anh phải quay lui tìm đường khác. Hai lần anh phải dừng lại để mài dao vì nó hình như mỗi lúc một cùn đi mau hơn, nhưng sau đó, khi thấy không hơn gì, anh đâm ngờ rằng sức mình đã bắt đầu suy vì phải luôn tay phạt đủ mọi loại dây leo, tầm gửi và bụi rậm. Cho nên anh lại dừng chân ăn thêm ít thịt thỏ cùng mấy trái dâu dại và uống chút nước đọng ở những chiếc lá trũng giữa mọc sát gốc cây. Đêm ấy anh nghỉ bên một dòng suối khác, vừa đặt mình đã ngủ vùi, điếc đặc với mọi tiếng kêu của thú vật cùng chim đêm, kệ cho đám côn trùng vo ve bị hút đến thân thể đẫm mồ hôi của anh, tha hồ cắn vẫn trơ như gỗ chẳng cảm thấy gì.
Mãi đến sáng hôm sau, Kunta mới bắt đầu nghĩ đến chuyện mình đang đi đâu. Trước đó, anh không để cho mình nghĩ đến điều ấy. Do không thể biết được mình đang đi đâu bởi lẽ anh cũng không hề biết mình hiện ở đâu, nên anh quyết định rằng tiến trình duy nhất của mình là tránh đến gần bất cứ người nào, dù là da đen hay tubốp và tiếp tục chạy về phía mặt trời mọc. Các bản đồ Châu Phi anh đã được xem hồi bé chỉ rõ miền con nước lớn ở về phía Tây, nên anh biết nếu cứ tiến về hướng đông, cuối cùng sẽ tới đó. Nhưng khi nghĩ đến những gì có thể xảy ra lúc đó, cho dù anh không bị bắt; đến chuyện làm sao có thể vượt qua miền nước, cho dù anh có hẳn một con thuyền; đến chuyện làm sao tới được bờ bên kia an toàn, cho dù anh biết đường - anh bắt đầu khiếp hãi sâu sắc. Anh vừa chạy vừa đưa ngón tay sờ lần lá bùa xaphi trên cánh tay, chốc chốc lại cầu nguyện.
Đêm ấy, trong khi nằm ẩn dưới một bụi rậm, anh chợt thấy mình nghĩ về người anh hùng vĩ đại nhất của dân tộc Manđinka, người chiến sĩ Xunđiata xưa là một nô lệ tàn tật bị tên chủ người Phi ngược đãi quá đáng phải chạy trốn vào vùng đầm lầy, tại đó ông gặp những người bỏ trốn khác, tổ chức họ thành một đạo quân chinh phục cắt cứ một vùng ở vương quốc Manđinka rộng lớn. Có thể - Kunta nghĩ bụng khi lại cất bước lên đường vào ngày thứ tư ấy - cách nào đó mình sẽ gặp những người Phi khác cũng chạy trốn trên đất tubốp này và có thể họ cũng khao khát tột cùng như mình muốn được cảm thấy lớp bụi đất nơi chôn nhau cắt rốn dưới chân một lần nữa. Có thể họ đủ đông để đóng hoặc ăn trộm một cái xuồng lớn cũng nên. Thế rồi…
Cơn mơ mộng của Kunta bị ngắt quãng bởi một tiếng dễ sợ. Anh ngừng phắt. Không lẽ nào lại thế được! Song quả là không thể lầm được, đúng là tiếng chó săn sủa. Anh hùng hục phát bụi như điên, vẫn ngã rồi lại lồm cồm bò dậy. Chẳng mấy chốc, anh mệt đến nỗi khi ngã lần nữa, anh cứ ngồi thừ ra đấy, nắm chặt cán dao và lắng tai nghe. Nhưng lúc này anh chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng chim và tiếng côn trùng.
Có phải anh đã thực sự nghe thấy tiếng chó không nhỉ? Ý nghĩ đó dằn vặt anh. Anh không biết đâu mới là kẻ thù tệ hại nhất của mình: bọn tubốp hay trí tưởng tượng của bản thân. Anh không thể cho rằng mình đã không nghe thấy tiếng chó thực, cho nên anh lại bắt đầu chạy; an toàn duy nhất là cứ di chuyển. Nhưng chẳng mấy chốc - mệt phờ ra không những vì đã phải chạy xa, chạy nhanh thế, mà còn vì sợ nữa - anh lại phải dừng. Anh muốn nhắm mắt một lúc thôi rồi lại tiếp tục đi.
Anh thức giấc, mồ hôi toát ra, ngồi ngay đuỗn. Tối mịt rồi! Anh đã ngủ hết cả ngày! Anh lắc đầu, đang gắng hình dung ra xem cái gì đã đánh thức anh dậy thì bỗng nhiên lại nghe thấy nó: tiếng chó sủa lần này gần hơn trước nhiều. Anh vùng dậy lao đi, cuống cuồng đến nỗi mấy phút sau mới vụt nghĩ ra là mình đã bỏ quên con dao dài. Anh bổ về chỗ vừa nằm, nhưng đám dây leo lùng nhùng như mớ bòng bong và tuy biết mình chỉ cách con dao độ một với tay - biết thế để mà tức điên lên - tha hồ cho anh rờ rẫm, mò bới mà vẫn không tìm ra.
Tiếng sủa cứ to lên liên tục khiến ruột gan anh cộn cả lên. Anh biết nếu không tìm thấy dao, ắt lại bị bắt mất thôi - hoặc giả còn tệ hại hơn nữa. Quờ tay quanh quanh khắp chỗ dưới chân. Cuối cùng anh với được hòn đá bằng nắm tay. Với một tiếng kêu tuyệt vọng, anh giựt lấy hòn đá và lao vào rừng sâu.
Cả đêm ấy, như một người bị quỷ ốp, anh chạy mỗi lúc một sâu vào rừng - vấp, ngã, quấn chân vào dây leo, thỉnh thoảng chỉ dừng một chốc để lấy hơi. Nhưng lũ chó vẫn lấn tới mau hơn, mỗi lúc một gần thêm, và cuối cùng, sau lúc rạng đông một tí, anh ngoái cổ lại đã thấy chúng. Thật y như là một cơn ác mộng tái diễn. Anh không thể chạy xa hơn nữa. Quay lại và phục trong một khoảng rừng thưa, dựa lưng vào một thân cây, anh sẵn sàng nghênh tiếp chúng - tay phải lăm lăm một cành gộc anh đã bẻ ở một cây khác trong khi chạy hết tốc lực, tay trái nắm chặt hòn đá như trong móng vuốt thần chết.
Lũ chó bắt đầu xồ tới Kunta, với một tiếng thét ghê rợn, anh quật cành cây vào chúng hung dữ đến nỗi chúng phải lui lại, rúm vào nhau ngoài tầm gậy, vừa sủa vừa xổ rãi ròng ròng cho đến khi hai tubốp cưỡi ngựa xuất hiện.
Kunta chưa trông thấy bọn này bao giờ cả. Tên trẻ giương một khẩu súng, nhưng tên lớn tuổi vẫy tay ra hiệu cho gã lui lại trong khi hắn xuống ngựa và bước về phía Kunta. Hắn bình tĩnh giở ra một cây roi đen dài.
Kunta đứng ngay đó, mắt long sòng sọc, người run lên, óc vụt nhớ lại những bộ mặt tubốp trong cánh rừng xưa, trên con xuồng lớn, trong phòng giam, ở chỗ anh bị bán, trong khu trại vô đạo, trong những khu rừng anh bị tóm lại, bị đấm đá, bị đòn roi và bị bắn ba lần trước đây. Trong khi cánh tay cầm roi của tên tubốp ngoắt về đằng sau, cánh tay Kunta vung tới dữ dội đến nỗi anh mất đà chúi ngã sang một bên trong khi lẳng hòn đá đi.
Anh nghe thấy tên tubốp thét lên, rồi một viên đạn véo qua tai anh rồi lũ chó xông tới. Trong khi lăn lộn trên mặt đất quần nhau với lũ chó, Kunta thoáng thấy mặt một tên tubốp ròng ròng máu. Kunta gầm gừ như một con thú dữ khi chúng quát chó lui và chĩa súng tiến lại gần anh. Nhìn mặt chúng, anh biết mình chết đến nơi rồi, song anh bất cần. Một tên xô tới túm lấy anh trong khi tên kia lấy báng súng nện, song chúng vẫn phải lấy hết sức mới giữ được Kunta vì anh không ngừng giãy giụa chống cự, miệng rền rĩ, rít lên bằng hai thứ tiếng Ả-rập và Manđinka; chúng lại quại báng súng lên người anh. Vật vã kéo mạnh anh tới một gốc cây, chúng xé tan quần áo anh ra và trói giữa thân anh thật chặt vào cây. Anh thu hết nghị lực gồng mình chuẩn bị chịu đánh cho đến chết.
Nhưng rồi tên tubốp chảy máu bỗng dừng phắt lại, một vẻ kì lạ hiện trên khuôn mặt hắn, gần như một nét cười và hắn khàn khàn nói ngắn với tên trẻ. Tên trẻ nhe răng nhăn nhở cười và gật đầu, rồi quay lại chỗ con ngựa tháo một chiếc rìu săn ngắn cán buộc vào yên. Hắn chặt một cây mọt ruỗng đứt khỏi rễ và kéo lại bên cạnh Kunta.
Đứng trước mặt Kunta, tên chảy máu bắt đầu khoa tay làm hiệu. Hắn chỉ vào bộ phận sinh dục của Kunta, rồi vào con dao săn dắt ở thắt lưng hắn. Rồi lại chỉ vào chân Kunta và cái rìu trong tay hắn. Khi hiểu ra, Kunta gào lên và đá đạp lung tung - và lại bị ăn báng súng. Tận trong xương tủy anh, một giọng nói gào lên rằng một người đàn ông, muốn thực sự là đàn ông, thì phải có con. Và Kunta phóng hai tay xuống che fôtô. Hai tên tubốp cười gằn nham hiểm.
Một tên đẩy cái khúc cây xuống dưới chân phải Kunta cho tên kia trói ghì vào đó, tha hồ cho Kunta lồng lộn cũng không vùng nổi chân ra. Tên tubốp chảy máu nhấc rìu lên. Kunta rú lên, giãy giụa trong khi loáng một cái, lưỡi rìu vung lên rồi hạ xuống rất nhanh, tiện đứt cả da, gân, bắp thịt, xương; anh nghe thấy lưỡi rìu cắm phập vào khúc gỗ trong khi cái đau phóng đến tận óc. Cơn đau bùng nổ xuyên suốt người Kunta, cả thân trên anh giật thon thót rướn về phía trước, hai tay chới với vươn xuống như muốn cứu nửa trước bàn chân đang rơi, máu đỏ tươi phọt ra từ mỏm cụt trong khi anh rơi tõm vào đêm đen mịt mùng.
Chương 50
Gần suốt một ngày, Kunta hết tỉnh lại mê, hai mắt nhắm nghiền, cơ bắp ở mặt như tụt xuống, miệng há hốc, rớt rãi từ mép nhỏ xuống ròng ròng. Khi anh dần dần biết là mình còn sống, cái đau khủng khiếp dường như xé lẻ ra nhiều bộ phận - đập thình thình trong đầu, cắt cứa nhay nhứt toàn bộ thân và như lửa nung ở chân phải. Mở mắt ra là một cố gắng quá lớn anh bèn thử nhớ lại những gì đã xảy ra. Rồi mọi hình ảnh trở lại - bộ mặt rúm ró, đỏ ửng của tên tubốp đằng sau lưỡi rìu vung lên, tiếng xoẹt và mỏm cụt, phần trước bàn chân anh rơi xuống. Rồi nhịp đập trong đầu Kunta dội lên mạnh đến nỗi anh sung sướng lại được ngụp vào tối đen bất tỉnh.
Lần sau mở mắt ra, anh thấy mình đang trân trân nhìn một cái mạng nhện ở trên trần. Sau một lát, anh thử cựa quậy tí chút đủ để nhận ra là ngực, cổ tay và cổ chân mình đều bị trói gò xuống, nhưng bàn chân phải và gáy thì được kê lên một cái gì mềm mềm và anh đang mặc một thứ áo dài. Và lẫn với cái đau đớn là một mùi gì giống như hắc ín. Trước đây, anh tưởng đã nếm trải đủ mùi thống khổ, song tình trạng hiện giờ còn tệ hại hơn.
Anh đang lầm rầm cầu xin Chúa Ala thì cửa lều bật mở, anh ngừng bặt. Một tên tubốp cao lớn anh chưa từng gặp lần nào xách một chiếc túi đen nhỏ bước vào. Mặt y hằm hằm tức giận, mặc dù nỗi giận dữ đó hình như không phải nhằm vào Kunta. Vung tay xua đám ruồi vo ve, tên tubốp cúi xuống cạnh anh. Kunta chỉ nhìn thấy lưng y, rồi tên tubốp loay hoay làm gì với cái chân anh khiến Kunta choáng lên kêu thét như đàn bà, ưỡn người lên căng cả dây chằng ngực. Cuối cùng quay lại đối mặt với anh, tên tubốp đặt bàn tay lên trán Kunta rồi khẽ nắm cổ tay anh, cầm một lúc lâu. Rồi y đứng dậy và vừa theo dõi những nhăn nhó trên bộ mặt phờ phạc của Kunta vừa gắt gỏng gọi vọng ra ngoài: "Bel".
Một phụ nữ da đen, thấp bé, chắc nịch, vẻ mặt nghiêm nghị nhưng không đến nỗi mất cảm tình, phút chốc mang một ca sắt tây nước vào. Một cách kỳ lạ, Kunta cảm thấy mình nhận ra chị ta, hình như trong một giấc mơ nào đó, chị ta đã đứng đây nhìn xuống anh và cúi mình bên anh mớm từng hớp nước. Tên tubốp vừa nhẹ nhàng nói với chị ta vừa lấy một cái gì trong túi đen và ngoáy nó trong một cốc nước. Tên tubốp lại nói và người đàn bà da đen bèn quì xuống, một tay nâng đầu Kunta lên, tay kia nghiêng cái cốc cho anh uống: quá ốm yếu không đủ sức cưỡng lại, anh đành làm theo.
Một thoáng liếc mắt nhìn xuống đủ cho anh thấy đầu cuộn băng to xụ quấn quanh chân phải mình, máu khô nhuộm thành màu gì. Anh rùng mình, những muốn vùng dậy, song cơ bắp giờ đây cũng vô dụng như cái chất lờm lợm anh đang để cho trôi qua cuống họng. Người đàn bà da đen bèn đặt nhẹ đầu anh xuống, tên tubốp lại nói gì với chị ta, và chị ta trả lời, rồi cả hai cùng đi ra.
Gần như trước cả lúc họ đi khỏi, Kunta đã trôi sâu vào giấc ngủ. Khi anh mở mắt ra, đêm đã khuya và anh không thể nhớ là mình đang ở đâu nữa. Chân phải anh như bốc cháy, anh hất chân lên, nhưng cử động đó khiến anh bật kêu đau. Tâm trí anh đắm vào một nhòa bóng những hình ảnh và ý nghĩ đến nhanh và trôi tuột đi cũng nhanh, không tài nào nắm bắt được. Thoáng thấy Binta, anh kể là anh đau nhưng mẹ đừng lo, vì anh sẽ trở về nhà ngay khi nào có thể. Rồi anh trông thấy một gia đình nhà chim bay cao tít trên bầu trời và một mũi lao xuyên qua mình một con. Anh cảm thấy mình đang rơi, đang kêu gào, tay với ra tuyệt vọng níu vào hư không.
Khi anh thức dậy lần nữa, Kunta cảm thấy chắc chắn là một điều gì ghê gớm đã xảy đến với chân anh, hay đây chỉ là một cơn ác mộng? Anh chỉ biết mình đang rất ốm. Cả mạn sườn bên phải anh tê dại, cổ họng khô, đôi môi se lại bắt đầu nứt nẻ vì sốt, người đẫm mồ hôi và phả ra một mùi bệnh tật. Có ai lại nỡ chặt chân người khác thật sự không nhỉ? Rồi anh nhớ lại tên tubốp chỉ vào chân và bộ phận sinh dục của anh cùng cái vẻ gớm guốc trên mặt hắn. Cơn cuồng nộ lại trào lên, Kunta uốn thử ngón chân và cố gắng đó làm anh đau đến mờ cả mắt. Anh nằm đó, chờ cho cơn đau dịu đi, song chẳng thấy đỡ chút nào. Đau không sao chịu nổi - thế mà, cách nào đó, anh vẫn đang phải chịu. Anh căm ghét chính bản thân mình vì cái tội muốn thấy tên tubốp trở lại, mang thêm cái thứ lăng nhăng gì đấy mà lúc nãy y hòa vào nước cho anh uống cũng thấy đơ đỡ.
Thỉnh thoảng anh lại thử rút tay ra khỏi sợi dây trói lỏng ở hai bên sườn, nhưng vô hiệu. Anh nằm đó, đang oằn oại rên rẩm vì đau thì cửa lại mở. Đó là người đàn bà đen, tay cầm một ngọn đèn hắt ánh vàng vọt chập chờn lên mặt. Miệng mỉm cười, chị ta bắt đầu ra hiệu bằng tiếng, bằng nét mặt, bằng cử chỉ; Kunta biết là chị ta đang cố làm cho anh hiểu một điều gì đó. Chỉ tay về phía cửa lều, chị làm bộ điệu bắt chước một người đàn ông cao lớn bước vào, rồi cho một người rên uống một cái gì đó và người này sau đó bèn toét miệng mỉm cười như thể đỡ hẳn đi. Kunta chẳng tỏ dấu hiệu gì mà mình đã hiểu điều chị ta muốn nói: tên tubốp cao lớn là một thầy thuốc.
Nhún vai, chị ta ngồi xệp xuống và bắt đầu áp một miếng vải ướt mát dịu lên trán Kunta. Không phải vì thế mà anh đỡ ghét chị. Rồi chị ra hiệu là sẽ đỡ đầu anh lên để nhấp nháp tí xúp do chị mang đến. Miệng nuốt mà lòng anh vụt lóe lửa giận khi nhìn thấy vẻ mặt hài lòng của chị. Rồi chị khoét một chỗ nhỏ trên nền đất, đặt vào đó một vật tròn dài bằng sáp và thắp lửa trên chỏm đó. Bằng cử chỉ và vẻ mặt, chị hỏi anh có cần gì khác nữa không. Anh chỉ gườm gườm nhìn chị và cuối cùng chị đi khỏi.
Kunta nhìn ngọn lửa, cố suy nghĩ cho đến khi miếng sáp chảy hết trên đất. Trong bóng tối, anh nhớ lại cái âm mưu "giết tubốp" trên con xuồng lớn; anh ước ao làm một chiến sĩ trong một đạo quân da đen lớn, chém tubốp như ngả rạ. Nhưng rồi Kunta rùng mình, sợ rằng chính bản thân mình đang sắp chết, mặc dầu thế có nghĩa là anh sẽ đời đời ở bên Chúa Ala. Nói cho cùng, nào đã có ai ở chỗ Chúa Ala trở về để kể cho mọi người hay ở bên Người là như thế nào; cũng như chưa có ai trốn được về làng mà kể cho bà con hay ở trong tay bọn tubốp là như thế nào.
Lần đến thăm tiếp theo, Bel tỏ ra rất lo ngại, cúi nhìn đôi mắt vằn máu và vàng đi của Kunta, đã hõm sâu thêm trên bộ mặt hầm hập sốt. Anh nằm run hoài, rên rẩm, gầy hơn cả khi được đem về đây tuần trước. Chị trở ra ngoài, nhưng trong vòng một giờ lại quay lại mang theo những miếng vải dày, hai cái bình bốc hơi và một đôi mền. Cử động nhanh thoăn thoắt và - vì một lý do nào đó - có phần lén lút, chị đắp lên ngực trần của Kunta một mớ dày lá luộc bốc hơi, nhào trộn với một thứ gì hăng hắc. Mớ thuốc đắp nóng rộp lên khiến Kunta phát rên và định hất đi, nhưng Bel kiên quyết dằn anh xuống. Nhúng những miếng vải vào cái bình bốc hơi thứ hai rồi vắt cho ráo nước, chị bó lên trên mớ thuốc đắp rồi phủ hai cái mền lên người Kunta.
Chị ngồi nhìn mồ hôi trên người anh chảy thành từng dòng nhỏ xuống nền đất. Bel lấy vạt tạp dề thấm những giọt mồ hôi chảy vào đôi mắt nhắm nghiền của anh và cuối cùng anh hoàn toàn lịm đi. Mãi đến khi rờ vào những miếng vải bó ngực thấy chỉ còn hơi âm ấm, chị mới tháo ra. Đoạn, lau ngực anh sạch mọi vết thuốc lá lẩu, chị đắp mền cho anh và đi khỏi.
Thức giấc lần sau, Kunta yếu đến nỗi không cựa quậy được thân mình, anh cảm thấy gần như chết ngạt dưới đôi mền dày nặng. Nhưng - không hề mảy may biết ơn - anh hiểu là cơn sốt đã dứt.
Anh nằm dài tự hỏi không biết người đàn bà ấy học ở đâu ra cái cách chị ta đã làm. Nó giống như những thứ thuốc của Binta hồi anh còn nhỏ, những loại cỏ của đất Chúa Ala lưu truyền từ ông bà tổ tiên. Và nhớ lại cái cung cách lẩn lút của người đàn bà da đen, Kunta hiểu ra đó không phải là phương thuốc tubốp. Không những anh chắc chắn rằng bọn tubốp mù tịt về chuyện đó, mà anh còn biết là không được để cho chúng hay biết nữa. Và Kunta chợt thấy mình đang hình dung thật kĩ nét mặt người đàn bà da đen trong tâm trí. Tên tubốp gọi chị ta là gì nhỉ? Bel.
Sau một lát, Kunta miễn cưỡng xác định rằng người phụ nữ này giống bộ lạc của anh hơn bất kỳ bộ lạc nào khác. Anh thử hình dung chị ta ở Jufurê, giã mạch kê làm bữa sáng, chèo thuyền độc mộc trên bôlông, đội những lượm lúa mới gặt về làng. Nhưng rồi Kunta lại tự xỉ vả mình đã lố lăng đem gắn làng quê mình với những người da đen vô đạo này trên đất tubốp.
Giờ đây, những cơn đau của Kunta đã thưa hơn và đỡ dữ dội hơn, phần lớn là vào những lúc anh quẫy cựa găng mình vào dây trói. Nhưng ác nhất là lũ ruồi cứ vo ve quanh cái chân bị băng, hay đúng hơn là mẩu chân còn lại, và thỉnh thoảng anh lại phải lúc lắc cẳng tí chút để chúng bay lên một lúc, trước khi xà trở lại.
Kunta bắt đầu tự hỏi mình đang ở đâu. Chẳng những đây không phải lều cũ của anh, mà anh còn có thể đoán rằng mình đã bị đưa đến một cái trại nào khác, bằng vào những âm thanh bên ngoài và giọng nói của những người da đen đi ngang qua. Nằm đó, anh có thể ngửi thấy mùi nấu nướng của họ, nghe thấy tiếng họ chuyện trò, hát xướng và cầu kinh hồi đầu đêm và tiếng tù và thổi lúc ban mai.
Và mỗi ngày, tên tubốp cao lớn lại vào lều thay băng, lần nào cũng làm chân Kunta đau rát. Ngày ba bận, Bel đến mang theo thức ăn và nước, cùng với một nụ cười và một bàn tay ấm áp đặt lên trán anh. Anh cứ phải tự nhắc mình rằng những người da đen này chẳng tốt hơn gì bọn tubốp. Có thể người đàn bà đen này và tên tubốp không muốn làm hại anh - mặc dầu chưa thể nói chắc được vì hãy còn quá sớm - nhưng chính gã Xamxơn đã đánh gần chết và chính bọn tubốp đã dùng roi đánh anh và bắn anh và đã chặt chân anh. Càng hồi sức anh càng điên ruột vì phải nằm đấy bất lực, thậm chí không thể xê dịch đi đâu được, trong khi suốt cả mười bảy vụ mưa trước anh có thể chạy nhảy leo trèo bất cứ nơi nào mình muốn. Thật quái gở đến mức không hiểu nổi và ngoài sức chịu đựng.
Khi tên tubốp cao lớn cởi trói hai cổ tay Kunta khỏi hai cái cọc ngắn ở hai bên sườn, Kunta bỏ cả mấy giờ sau ra tập cánh tay lên mà không được: chúng quá nặng. Ráo riết, quyết liệt, không nao núng anh cố cưỡng hai cánh tay trở lại hoạt động hữu ích bằng cách uốn ngón tay liên tục, hết co vào lại duỗi ra, rồi nắm lại thành quả đấm, cho đến khi, rốt cuộc, anh có thể nhấc được cánh tay. Sau đó anh bắt đầu đánh vật để chống hai khuỷu tay nhỏm người dậy và khi đạt được, anh cứ lấy gân sức giữ tư thế đó hàng giờ liền, mắt trân trân nhìn xuống đám băng quấn quanh mỏm chân cụt. Khối bông băng to xụ như trái "pí ngô", tuy có đỡ máu me hơn những lần trước anh nhìn thấy khi tên tubốp tháo ra. Tuy nhiên, khi anh thử nhấc đầu gối bên ấy lên, anh vẫn thấy đau không sao chịu nổi.
Anh trút cơn giận dữ và tủi nhục lên Bel khi chị đến thăm vào lần sau, gầm ghè với chị bằng tiếng Manđinka và dằn mạnh cái cốc sắt tây xuống sau khi uống hết. Mãi sau anh mới nhận ra rằng đây là lần đầu tiên anh cất tiếng nói với một người khác, kể từ khi đặt chân tới đất tubốp. Anh càng điên tiết khi nhớ lại mắt chị dường như nồng ấm mặc dầu anh tỏ ra giận dữ.
Một hôm , sau khi Kunta đã ở đây gần ba tuần lễ, tên tubốp ra hiệu cho anh ngồi dậy khi y tháo băng. Khi gỡ đến gần sát da chân, Kunta trông thấy chỗ vải băng ố màu lầy nhầy một chất vàng khè dầy cộp. Rồi anh nghiến chặt quai hàm khi tên tubốp bóc một lượt vải cuối cùng - và giác quan Kunta quay cuồng khi anh nhìn thấy nửa bàn chân gót sưng đẫn, phủ một lớp vải dày gớm ghiếc màu nâu sạm. Kunta gần như thét lên. Rắc một thứ gì lên vết thương tên tubốp chỉ đắp hờ một lớp băng nhẹ lên đó, rồi xách cái túi đen vội vã đi khỏi.
Trong hai ngày tiếp theo, Bel lặp lại công việc tên tubốp đã làm, dịu dàng nói trong khi Kunta co rút người và quay mặt đi. Ngày thứ ba tên tubốp trở lại, tim Kunta giật thót khi thấy y mang hai cái gậy gộc thẳng trên đầu có chạc, Kunta đã từng thấy nhiều người bị thương đi bằng loại gậy này ở Jufurê. Kẹp đôi chạc vững chãi vào nách, tên tubốp bày cho anh tập lò cò đi quanh bằng cách đu đưa chân phải khỏi mặt đất.
Kunta không chịu động đậy cho đến khi cả hai đi khỏi. Đoạn, anh cố rướn thẳng người dậy, dựa vào vách lều cho đến khi đủ sức chịu đựng nhịp đập thon thót nơi cẳng chân mà không ngã nhào. Chưa điều khiển được đôi chàng nạng khớp vào dưới nách mà mồ hôi đã chảy ròng ròng trên mặt. Mắt hoa đầu váng, chệnh choạng, không lúc nào rời xa vách để có chỗ dựa, anh cố du mình về phía trước được vài bước vụng về, mỏm chân cụt băng bó luôn luôn đe dọa làm anh mất thăng bằng.
Sáng hôm sau khi Bel mang bữa điểm tâm đến cho anh, Kunta bắt gặp vẻ vui thích cao độ trên mặt chị lúc nhìn thấy những vết do đôi nạng để lại trên nền đất. Kunta cau mặt với chị, giận mình đã quên không xóa những vết đó đi. Anh không chịu đụng đến thức ăn trước khi người đàn bà đi khỏi, nhưng sau đó anh ăn thật nhanh, biết rằng bây giờ mình cần lại sức. Trong vòng mấy ngày, anh đã lò cò quanh lều một cách thoải mái.
Chương 51
Về nhiều mặt, trại tubốp này khác với các trại trước, điều này Kunta phát hiện ra ngay từ lần đầu tiên anh có thể chống nạng ra cửa, đứng nhìn quanh bên ngoài. Tất cả các căn lều thấp của đám da đen đều quét vôi trắng gọn gàng và xem chừng tốt hơn nhiều so với túp lều anh đang ở. Trong lều này có một cái bàn con trống trơn, một cái giá trên vách đựng một đĩa sắt tây, một vỏ bầu để uống, một "cùi dìa" cùng những đồ dùng bữa của tubốp mà cuối cùng Kunta đã biết tên: một cái "dĩa" và một "dao ăn"; anh nghĩ chúng thật ngu nên mới để những thứ đó trong tầm tay anh. Và cái chiếu anh nằm ngủ trên sàn, đan bằng vỏ ngô, cũng dày dặn hơn. Một số lều mà anh trông thấy gần đấy còn có những mảnh vườn nhỏ đằng sau và căn lều sát cạnh tòa nhà lớn của bọn tubốp có một khoảng tròn trồng hoa rực rỡ màu sắc ở ngay phía trước. Đứng ở cửa lều, Kunta có thể trông thấy bất cứ ai đi về bất cứ hướng nào và bất kỳ lúc nào cũng có thể nhanh chóng chống nạng thụt vào trong lều, ở lại đó ít lâu trước khi lại mạo hiểm trở ra cửa.
Mũi Kunta xác định được vị trí nhà tiêu. Mỗi ngày anh cố nhịn cho đến lúc biết hầu hết mọi người đã ra đồng làm việc rồi, thận trọng xem xét chắc chắn là không có ai ở gần đấy, anh mới chống nạng vượt nhanh qua khoảng cách tới chỗ đó tháo ruột, đoạn quay trở về yên ổn.
Khoảng hai tuần sau, Kunta mới bắt đầu làm những cuộc mạo hiểm ngắn vượt qua lều bên cạnh và đến bên lều người phụ nữ nấu ăn cho xóm nô, anh ngạc nhiên khám phá ra rằng người đó không phải là Bel. Ngay sau khi anh hồi phục, đủ sức để đi quanh quanh, Bel liền thôi không mang cơm, thậm chí cũng không đến thăm anh nữa. Anh thắc mắc không hiểu chị ra sao rồi - cho đến một hôm, đang đứng ở cửa, anh chợt trông thấy chị ở cửa sau tòa nhà lớn đi ra. Nhưng, hoặc là chị không nhìn thấy anh, hoặc là chị làm như không thấy, chị cứ đi thẳng qua mặt anh tới nhà tiêu. Vậy ra, xét cho cùng, chị cũng như những người khác thôi, anh biết thế từ lâu rồi. Thi thoảng, Kunta cũng thấy tên tubốp cao lớn, y thường chui vào một chiếc xe đen có hai ngựa kéo, do một gã đen ngồi ghế trước hối hả lái đi.
Sau mấy ngày nữa, Kunta bắt đầu đứng nán lại bên ngoài lều ngay cả khi những người đi làm đồng trở về buổi chiều, lê bước trong một đoàn mệt nhọc. Nhớ lại cái trại anh đã ở trước đây, anh lấy làm lạ tại sao không có tên tubốp nào cưỡi ngựa cầm roi đi sau những người đen này. Họ đi qua sát Kunta - dường như chẳng buồn để ý gì đến anh - và biến vào những túp lều của mình. Nhưng trong vòng mấy phút sau, phần lớn lại trở ra ngoài, làm các công việc vặt vãnh. Đàn ông thì bận bịu quanh chuồng ngựa, đàn bà thì vắt sữa bò và cho gà ăn. Còn trẻ con thì xách nước và chuyển củi với tất cả sức ôm của cánh tay chúng rõ ràng chúng không biết là nếu đem bó củi lại đội lên đầu - cả đối với những xô nước cũng vậy - thì sẽ mang được nhiều gấp đôi.
Ngày lại ngày, Kunta bắt đầu thấy rằng mặc dầu những người đen này sống khá hơn đám người ở trại tubốp trước, song hình như họ vẫn không nhận thức rõ hơn những người kia rằng họ là một bộ lạc mất gốc, rằng mọi thứ tự tôn tự trọng nơi họ đã bị vắt kiệt đến nỗi dường như họ cảm thấy cuộc đời mình đúng là phải như thế này. Tất cả mối quan tâm của họ chỉ là làm thế nào khỏi bị đánh đập, có đủ thức ăn và một chỗ nào đó để ngủ. Không có mấy đêm mà Kunta không nằm trằn trọc, giận sôi lên trước nỗi khổ cực của những người đồng loại, thao thức mãi mới ngủ được. Khốn nỗi họ dường như không hề biết là mình khổ. Vậy thì bận gì đến anh, nếu những người này chừng như vẫn thỏa mãn với số phận não nùng của họ? Anh nằm dài, cảm thấy mỗi ngày mình lại chết thêm một ít, trong khi mọi người đều bằng lòng sống phần còn lại của mình thì anh lại cần tìm cách trốn nữa, bất chấp khó khăn trở ngại hoặc hoàn cảnh. Dù sống hay chết, phỏng anh còn có ích gì nữa? Trong mười hai tuần trăng kể từ khi anh bị rứt khỏi Jufurê, anh đã trở nên già hơn tuổi thật của mình biết bao nhiêu.
Một điều vô bổ nữa là dường như chẳng ai tìm ra loại công việc gì ích lợi cho Kunta làm, mặc dầu anh đã chống nạng đi lại được khá vững vàng. Anh đã gây được ấn tượng là riêng việc nghĩ về bản thân cũng đủ làm bận trí anh rồi và anh không cần mà cũng không muốn liên kết với bất cứ ai. Nhưng Kunta cảm thấy những người da đen kia cũng chẳng tin gì anh hơn anh tin họ. Dù sao, một mình trong đêm, nhìn trân trân vào bóng tối hàng giờ liền, anh vẫn thấy cô đơn và chán nản đến nỗi cảm thấy như mình đang sụp xuống. Y như thể một con bệnh đang lan khắp người anh. Anh vừa ngạc nhiên vừa hổ thẹn nhận ra là mình đang cảm thấy sự cần thiết của yêu thương.
Một hôm, tình cờ Kunta đang ở bên ngoài lều thì cỗ xe tubốp lăn bánh vào sân, với một người đàn ông da nâu nhờ nhờ ngồi cùng ghế với gã xà ích da đen. Khi tên tubốp xuống xe và vào ngôi nhà lớn, chiếc xe tiến đến gần dãy lều và lại dừng bánh. Kunta thấy gã lái nắm lấy phía dưới nách người da nâu đỡ anh ta xuống vì một tay anh ta bị bó vào một cái gì nom như bùn trắng khô rắn lại. Kunta không biết đó là cái gì, nhưng xem vẻ như tay anh ta bị thương cách nào đó thì phải. Với trở lại bên trong xe bằng bàn tay lành, người đàn ông dau nâu lấy ra một cái hộp đen hình thù kỳ dị, đoạn theo sau gã lái đi xuôi tới một căn lều mà Kunta biết là trống không ở cuối dãy.
Kunta rất tò mò muốn biết đầu đuôi, đến nỗi sáng hôm ấy anh quyết định lò cò tới căn lều nọ. Anh không ngờ thấy gã da nâu ngồi ngay ở khung cửa ra vào. Họ nhìn thẳng vào nhau. Bộ mặt và cặp mắt người lạ không lộ vẻ gì cả. Cả giọng nói cũng vậy, khi y hỏi "Mầy muốn gì?" Kunta không hiểu y nói gì. "Mầy một thằng nhọ Phi". Kunta nhận ra cái chữ "nhọ" mà anh luôn luôn nghe thấy, nhưng tiếng khác thì không biết. Anh đứng đực ra đó. "Thôi, đi đi!" Kunta nghe rõ giọng gay gắt, cảm thấy y đuổi mình. Anh quay mình, suýt nữa vấp, và vừa giận dữ vừa bối rối, tập tễnh chống nạng trở về lều mình.
Cứ mỗi lần nghĩ đến người đàn ông da nâu, cơn giận lại bùng lên đến nỗi anh ước ao giá mình biết đủ tiếng tubốp để hét vào mặt y: "Chẳng gì tao cũng đen chứ không nâu như mày!" Từ hôm ấy trở đi, mỗi khi ra ngoài, Kunta đều không nhìn về phía căn lều đó. Nhưng anh không nén nổi nỗi tò mò khi thấy sau mỗi bữa ăn tối, phần lớn những người da đen khác đều vội vã đến tụ tập ở căn lều nọ. Và từ cửa lều mình lắng tai nghe thật chăm chú, Kunta có thể thấy tiếng của người da nâu nói hầu như liên tục. Thỉnh thoảng, những người kia phá lên cười và từng lúc cách quãng, anh nghe thấy họ hỏi cha kia dồn dập. Cha này là người như thế nào, là cái thá gì nhỉ, Kunta muốn biết đến đau đầu.
Khoảng hai tuần sau, vào lúc giữa chiều, tình cờ người da nâu ở nhà tiêu nhô ra đúng vào lúc Kunta đang lại gần đó. Cái vỏ trắng to xụ bọc cánh tay cha da nâu đã tháo đi và hai tay y đang bện vỏ ngô thì Kunta giận dữ chống nạng đi qua thật nhanh. Ngồi trong cầu tiêu, đầu Kunta ong ong những lời nhục mạ mà anh ước sao có thể nói lên được. Khi anh trở ra cha da nâu vẫn bình tĩnh đứng đó, nét mặt thản nhiên như không có gì đã từng xảy ra giữa hai người. Ngón tay vẫn thoăn thoắt bện vỏ ngô, y gật đầu ra hiệu cho Kunta đi theo mình.
Thật là hoàn toàn bất ngờ và không sao giận nổi - đến nỗi Kunta thấy mình cứ thế cun cút theo cha da nâu về lều của y, không thốt một lời. Ngoan ngoãn, Kunta ngồi xuống chiếc ghế đẩu cha da nâu chỉ cho và nhìn chủ nhân ngồi xuống chiếc ghế kia, tay vẫn đan. Kunta tự hỏi liệu y có tự biết mình đang rất giống kiểu người Phi hay không.
Sau một lát nữa im lặng đầy suy tư, cha da nâu bắt đầu nói, "Tau đã nghe nói chú mầy thật điên khùng. May mà chúng nó không giết mầy đó. Chúng có thể giết mà vưỡn trong vòng pháp luật. Y như thể thằng cha da trắng í oánh ghì tay tau bỉ chưng tau chán không muốn kéo đờn nữa. Pháp luật biểu ai bắt được bọn ta trốn chạy đều có thể giết mà không phải phạt gì sất. Luật í cứ sáu tháng một lần lị được đọc ở các nhà thờ của dân da trắng. Cứ bắt đầu lập một khu dinh điền mới, thoạt tiên họ xây tòa án để ra thêm luật, sau đó xây nhà thờ để chứng tỏ mình là tín đồ đạo Cơ-đốc. Tau tin rằng cái Viện Dân biểu Vơginia chỉ làm độc mỗi một việc là ra thêm luật chống cánh nhọ chúng mình. Có một luật cấm dân nhọ không được mang súng, không được mang cả gậy giống như dùi cui. Luật quy định phạt hai mươi roi nếu khám mầy không có giấy thông hành, mười roi nếu mầy nhìn thẳng vào mắt người da trắng, ba mươi roi nếu mầy giơ tay đánh một tín đồ Cơ-đốc da trắng. Luật cấm dân nhọ truyền đạo trừ phi có mặt người da trắng tại đó; luật cấm dân nhọ làm ma chay nếu bọn nó cho đó là hội họp. Luật bỉu cắt một tai mầy nếu người da trắng thề rằng mầy nói dối, cả hai tai nếu chúng rêu rao là mầy nói dối hai lần. Luật bỉu nếu mầy giết bất cứ ai da trắng, mầy bị treo cổ, còn giết một người nhọ, mầy chỉ bị đánh roi thôi. Luật quy định người Inđơn 1 nào bắt được một nhọ chạy trốn thì sức mang suể bao nhiêu thuốc lá sẽ được hưởng bí nhiêu. Luật cấm không dậy dân nhọ học đọc, học viết, hoặc cho dân nhọ sách. Bọn nó còn có Luật cấm dân nhọ đánh trống - cấm bất cứ thứ gì của Châu Phi".
Kunta mang máng thấy người da nâu biết anh không thể hiểu được, nhưng y vừa thích nói chuyện lại vừa cảm thấy rằng việc Kunta lắng nghe có thể bằng cách nào đó dẫn đến chỗ cảm thông hơn. Nhìn mặt người da nâu trong khi y nói và nghe giọng y, Kunta cảm thấy gần như có thể hiểu được. Và việc có người đang nói chuyện thật sự với anh như một con người nói với một con người, khiến anh vừa muốn cười lại vừa muốn khóc.
"Còn về cái chân mầy, thì nè, không phải chỉ có chân, tay mà cả củ lẳng mí sọ dừa cũng bị xẻo đấy. Tau đã thấy ối nhọ bị hại như thế mà vẫn phải làm việc. Đã thấy những nhọ bị oánh đến rứt thịt lòi xương. Nhiều gái nhọ chửa to tướng cũng bị đòn, nằm úp mặt xuống, lồng bụng vào một cái lỗ khoét sẵn. Dân nhọ bị cào cho trầy da rồi bôi dầu thông hoặc sát muối, đoạn lấy rơm cọ. Dân nhọ bị bắt quả tang nói chuyện làm loạn phải nhảy múa trên than hồng kỳ đến lúc ngã quỵ. Hồ như chả còn thiếu gì không chất lên đầu dân nhọ và nếu họ có chết vì thế, bọn chủ làm hoặc sai làm cái việc í cũng chẳng mắc tội gì. Luật pháp là thế đấy. Và nếu mầy cho thế là xấu, thì mầy phải nghe kể về những đối xử với đám nhọ bị mí cái tầu nô đem sang bên kia bờ biển bán cho các đồn điền Tây Indiz".
Kunta vẫn đang ngồi đó lắng nghe - và cố hiểu - thì một thằng bé vào cỡ lứa kafô đầu mang bữa chiều vào cho người da nâu. Khi thấy Kunta ở đấy, nó nhảo ra và phút chốc quay lại đem một đĩa có nắp đậy cho anh nữa. Kunta và cha da nâu cùng lặng lẽ ăn, đoạn Kunta đột nhiên đứng dậy để ra về, biết rằng những người khác sắp đến, nhưng cha da nâu ra hiệu cho anh ở lại.
Mấy phút sau, khi những người khác bắt đầu tới, không ai giấu nổi vẻ ngạc nhiên khi thấy Kunta ở đó - đặc biệt là Bel, một trong những người xuất hiện sau cùng. Cũng như số đông, chị chỉ gật đầu chào - nhưng Kunta thấy hình như có phảng phất một nụ cười. Trong bóng tối xẫm dần, người da nâu bắt đầu thuyết đám người như đã thuyết Kunta. Kunta đoán y đang kể cho họ nghe mấy câu chuyện gì đó. Anh có thể biết một câu chuyện chấm dứt ở chỗ nào vì lúc ấy họ thường đột nhiên cười ồ - hoặc đặt câu hỏi. Thi thoảng, Kunta nhận ra một số chữ đã trở thành quen thuộc với tai anh.
Khi trở về lều mình, Kunta xốn xang xúc động về chuyện đã hòa mình với những người đen nọ. Đêm ấy, trằn trọc đến khuya, tâm trí còn lục đục những xung đột, anh nhớ lại một điều Ômôrô đã từng nói khi anh không chịu buông một quả soài rất ngon mà Lamin xin cắn một miếng: "Khi mày nắm chặt tay thì không ai cho được cái gì vào tay mày, mà mày cũng chẳng nhặt thêm được cái gì".
Nhưng anh biết cha anh hẳn cũng hoàn toàn đồng ý với anh rằng dù sao đi nữa, anh cũng không bao giờ nên giống những người da đen nọ. Tuy nhiên, mỗi đêm, anh đều cảm thấy bị thu hút một cách kỳ lạ đến túp lều của người da nâu cùng với họ. Anh cố cưỡng lại cám dỗ ấy song hầu như chiều nào anh cũng lò cò đến thăm người da nâu khi bác ta có một mình.
"Tau tập cho ngón tay thuần phục để trở lại kéo đờn", một hôm, bác ta vừa bện cỏ ngô vừa nói vậy. "Muốn sao thì sao, me-xừ này cũng mua tau và thuê tau. Tau đã kéo vĩ cầm khắp vùng Vơginia, kiếm tốt tiền cho cả lão ta lẫn cho tau. Chả còn thiếu mấy thứ mà tau chưa thấy, chưa làm dù mày không biết tau nói gì. Người da trắng bỉu dân Phi Châu chỉ biết ở lều cỏ, quanh quẩn lại giết nhau và ăn thịt lẫn nhau thôi".
Bác ta ngừng độc thoại như chờ đợi một thứ phản ứng nào đó, nhưng Kunta chỉ ngồi nguyên đó thản nhiên nhìn và nghe, ngón tay mân mê lá bùa xaphi.
"Mày có rõ tau muốn nói gì không? Mày phải bỏ ngay mọi cái của nợ này đi", bác da nâu chỉ vào cái bùa xaphi nói. "Bỏ nó đi. Mày sẽ chả đi đến đâu đâu, cho nên mày hãy nhìn thẳng vào sự thật mà bắt đầu nhập gia tùy tục đi, Tôby ạ, mày có nghe rõ không?"
Mặt Kunta bừng lên giận dữ. "Kunta Kintê!" anh bật ra, ngạc nhiên với chính mình.
Bác da nâu cũng sửng sốt, "Ơ nè, nó nói được đấy thôi! Dưng mà tau bỉu mày, chú nhỏ ạ, mầy phải quên mọi lời ăn tiếng nói Phi Châu í đi. Chỉ tổ khiến bọn da trắng tức điên lên và cánh nhọ ta sợ mất vía thôi. Tên mầy, Tôby. Còn tau, họ gọi là vĩ cầm". Bác tự trỏ vào mình. "Mày thử nói chữ í xem, Vĩ Cầm!" Kunta ngớ ra nhìn bác ta, mặc dầu anh hoàn toàn hiểu bác định nói gì. "Vĩ Cầm ! Tau là một người kéo vĩ cầm. Hiểu hông. Vĩ Cầm?". Bác làm một cử chỉ như kéo cưa qua cánh tay trái. Lần này, vẻ ngơ ngác của Kunta không phải là vờ vĩnh.
Bực bội, bác da nâu đứng dậy và lấy ra từ một góc lều cái hộp hình thù kỳ quái mà Kunta đã thấy bác ta cầm hôm tới đây. Mở hộp ra, bác nhấc lên một vật bằng gỗ hình dáng còn kỳ dị hơn, màu nâu sáng, có một cái cổ dài mảnh màu đen và bốn sợi dây nhỏ, rất căng, chạy gần suốt chiều dài của nó. Y như cái đàn anh đã nghe ông lão ở cái trại nọ chơi.
"Vĩ cầm!" bác da nâu kêu lớn.
Vì chỉ có hai người với nhau, Kunta quyết định cứ nói thử xem. Anh lặp lại hai âm đó: "Vĩ cầm".
Vẻ hài lòng, cha da nâu cất cây vĩ cầm và đóng hộp lại. Đoạn, nhìn quanh, bác chỉ: "Xô!" Kunta nhắc lại, ghi trong đầu vật ấy. "Bây giờ đến: nước!" Kunta nhắc lại.
Sau khi dạy thêm tới hơn hai chục chữ mới, cha da nâu lặng lẽ chỉ vào cây vĩ cầm, cái xô, nước, cái ghế tựa, vỏ ngô và nhiều đồ vật khác, với bộ mặt tra vấn, chờ Kunta nhắc lại đúng từng chữ dùng để gọi tất cả những thứ đó. Một số tên gọi, anh mau mắn nhắc lại được ngay; anh lúng túng với một số chữ khác và được uốn nắn, và có vài tiếng, anh hoàn toàn không nhớ nổi. Bác da nâu nhắc lại cho anh nhớ những tiếng này, rồi bắt ôn lại tất cả "Mầy không đến nỗi đần độn như nhìn bề ngoài", đến bữa chiều bác lẩm bẩm nói vậy.
Các bài học tiếp tục suốt những ngày sau và kéo dài thêm hàng tuần. Kunta ngạc nhiên khám phá ra rằng mình không những có thể hiểu mà còn làm cho bác da nâu hiểu mình qua một cách diễn đạt thô sơ. Và điều chủ yếu anh muốn bác ta hiểu, là lý do tại sao anh không chịu khước từ tên mình hoặc những gì tổ tiên để lại và tại sao anh thà chết tự do còn hơn sống trọn cuộc đời của kẻ nô lệ. Anh không đủ chữ để nói lên ý đó như mình mong muốn, song anh biết bác da nâu vẫn hiểu, vì thấy bác ta cau mày và lắc đầu. Sau đó không lâu, một buổi chiều khi tới lều bác da nâu, Kunta thấy một người khác đã ngồi ở đó. Đó là ông già thỉnh thoảng anh vẫn trông thấy cuốc mảnh vườn hoa gần ngôi nhà lớn. Liếc nhìn thấy bác da nâu gật đầu tán thành, Kunta ngồi xuống.
Ông già bắt đầu nói "Chú Vĩ Cầm đây kể với não nà cháu trốn chạy bốn bận. Cháu đã thấy cháu được cái gì rồi đó; não chỉ mong cháu học được bài học dư não đây. Bởi vì việc cháu nàm chả có gì mới mẻ. Thời trẻ não chạy trốn nhiều đến nỗi bọn nó chỉ còn thiếu nước nột da não, rồi sau đó mới tỉnh cái đầu ra nà chẳng trốn đâu cho thoát được. Chạy xách xa đây tận hai bang, nó chỉ cần noan tin trên báo, thế nà sớm muộn anh cũng bị tóm cổ, thiếu nước bị giết chết và rốt cuộc đâu nại về thằng đấy. Chả có mấy ai không nghĩ đến chuyện trốn chạy. Cả dững nhọ hay xun xoe cười nhất cũng nghĩ đến chuyện í. Dưng mà não chưa từng biết có ai thoát. Đã đến núc cháu phải yên phận, sự thể ra sao ráng chịu vậy, chớ đừng như não phí hoài tuổi xuân mưu tính chuyện không nàm nổi. Bi giờ, não già nua, sức cùng nực kiệt rồi: Thử gẫm mà xem, từ khi cháu ra đời đến nay, não đã hành động dư cái thằng nhọ vô tích sự, nười nhác, vụng dại, chỉ biết gãi đầu gãi tai dư bọn da trắng biểu chúng ta như thế. Sở dĩ me-xừ giữ não ở đây chỉ vì y biết có mang não bán đấu giá cũng chẳng được bao nhiêu, mí nị cứ để não nàm vườn nửa vời thôi cũng nợi cho y hơn. Dưng mà não nghe Bel biểu nà me-xừ sắp cắt cử cháu nàm việc mí não ngày mai đấy mà".
Biết Kunta khó mà hiểu nổi những điều ông lão làm vườn đã nói, bác Vĩ Cầm bỏ cả nửa giờ sau để cắt nghĩa cho anh - từ từ và giản dị hơn, bằng những chữ quen thuộc với Kunta. Hầu hết những điều ông lão làm vườn nói đều gây cho anh những cảm giác xáo trộn. Anh hiểu ông già khuyên bảo anh với ý tốt - và anh đã bắt đầu tin rẳng quả thật không thể nào trốn thoát được - song ngay cả nếu anh không bao giờ xổ lồng được, anh cũng không đời nào chịu trả giá bằng cách từ bỏ gốc gác sinh thành - mình là ai? là cái gì? - để sống hết những năm sống của mình khỏi bị đánh đập nữa. Và ý nghĩ phải làm một anh gác vườn què cụt cho qua ngày đoạn tháng, khiến lòng anh tràn đầy giận dữ và tủi nhục. Nhưng nếu chỉ làm thế một thời gian cho đến khi khỏe hẳn trở lại, thì có lẽ cũng được. Và nếu làm sao cho tâm trí được rảnh rang và lại dùng đôi bàn tay để chăm bón đất - dù nó không phải là đất của mình - kể ra cũng có thể là điều hay.
Ngày hôm sau, ông lão làm vườn chỉ bảo cho Kunta những việc phải làm. Khi ông rãy đám cỏ dường như ngày nào cũng chòi lên giữa những luống rau, Kunta bắt chước theo. Khi ông bắt sâu bọ ở các cây cà chua, khoai tây, dí xuống chân, anh cũng làm vậy. Hai người làm việc ăn ý, song ngoài việc sóng đôi bên nhau, họ chẳng nói với nhau gì mấy. Thường thường, ông già chỉ ầm à và lấy tay ra hiệu khi nào cần chỉ bảo cho Kunta làm một nhiệm vụ gì mới và Kunta chẳng đáp lời, chỉ làm theo như chỉ dẫn. Anh không phản đối sự im lặng; trên thực tế, tai anh mỗi ngày cũng cần mấy giờ nghỉ ngơi giữa những cuộc đàm thoại với bác Vĩ Cầm cứ liến láu miệng mỗi khi hai người gặp nhau.
Đêm ấy, sau bữa tối, Kunta đang ngồi ở cửa lều mình thì người đàn ông tên là Gilđơn - làm đai cổ ngựa, lá, và đóng giày cho cánh da đen - đi đến và chìa ra cho anh một đôi giày. Theo lệnh "me-xừ", anh ta đã đóng đặc biệt cho Kunta, anh ta nói vậy. Nhận đôi giày và gật đầu cảm ơn, Kunta cứ xoay đi xoay lại mãi trong tay trước khi quyết định đi thử. Anh cảm thấy lạ lẫm khi xỏ chân vào thứ đồ như thế, song nó vừa khít - mặc dầu nửa trước của chiếc giày bên phải được nhồi chặt bông. Anh thợ giày cúi xuống thắt dây giày, rồi gợi ý Kunta đứng dậy và đi quanh xem ra sao. Chiếc giầy bên trái thì ổn rồi, nhưng anh cảm thấy hơi nhoi nhói ở chân phải trong khi bước loanh quanh bên ngoài lều một cách vụng về và thận trọng, không dùng đến nạng. Thấy vẻ thiếu thoải mái của anh, người đóng giày nói đó là do mỏm cụt chân anh chứ không phải tại giày và rồi anh sẽ quen đi thôi.
Sau đó, Kunta thử đi xa hơn chút nữa, nhưng chân phải vẫn thấy thế nào ấy, nên anh bỏ bớt ít bông ra và lại xỏ giày vào. Anh cảm thấy dễ chịu hơn và cuối cùng, dám nhấn hết trọng lượng toàn thân lên chân đó mà không hề thấy đau. Thi thoảng, anh vẫn tiếp tục thí nghiệm cái đau tưởng tượng ở đầu ngón chân phải, như đã hầu thành thói quen hàng ngày từ khi anh bắt đầu tập đi quanh và bao giờ anh cũng ngạc nhiên vì không thấy đau gì cả. Anh vẫn tập đều, cảm thấy khoan khoái, song ít để lộ ra nét mặt. trước đó, anh đã sợ phải đi bằng nạng suốt đời.
Cũng trong tuần ấy, chiếc xe của ông chủ trở về sau một chuyến đi và Luthơ, người da đen lái xe vội vã đến lều Kunta, vẫy anh đến chỗ bác vĩ cầm, tại đó Kunta đứng ngây người nhìn anh ta nói một điều gì đó, miệng toe toét cười. Rồi, khoát tay về phía ngôi nhà lớn và chọn những chữ cơ bản, bác vĩ cầm giải thích cho Kunta gật gù hiểu rằng từ nay anh thuộc về "me-xừ" Uyliêm Uolơ, cha tubốp ở trong ngôi nhà lớn. "Luthơ biểu ông ta vừa lấy được tờ chứng về mầy từ tay người anh trai đã mua mầy đầu tiên, thế là bi giờ mầy của ông í". Như mọi khi, Kunta không để cho tình cảm lộ trên nét mặt. Anh vừa tức vừa xấu hổ về nỗi mình phải "thuộc về" một người nào đó: song anh cũng nhẹ hẳn người, vì trước đó anh vẫn nơm nớp sợ một ngày kia lại bị đưa về cái "đồn điền" nọ - bây giờ anh đã biết người ta gọi các trại tubốp như thế. Bác vĩ cầm đợi Luthơ đi khỏi rồi mới lại nói tiếp - phần với Kunta, phần với chính mình "Cánh nhọ ở đây bỉu me-xừ Uyliêm là một ông chủ tốt, mà tau thì đã từng gặp dững ông chủ tệ hơn. Dưng mà bọn họ chả có ai tốt đâu. Họ sống trên lưng cánh nhọ ta suốt. Dân nhọ là thứ của quý nhất của họ".
Chương 52
Bây giờ, gần như ngày nào cũng vậy, làm việc xong, Kunta trở về lều và sau khi cầu kinh chiều, lại cào một ô vuông nhỏ trên nền đất, lấy một cái que viết những chữ Arập trên đó rồi ngồi nhìn những chữ vừa viết hồi lâu, nhiều khi đến tận bữa ăn tối. Đoạn anh xóa hết đi và thế là đến lúc tới ngồi lẫn vào đám người nghe bác vĩ cầm nói chuyện. Cách nào đó, những phút cầu nguyện và học ôn ấy khiến anh yên tâm trà trộn với họ. Anh có cảm giác là làm thế, anh có thể vẫn nguyên là mình mà không phải vẫn nguyên một mình. Dù sao, nếu ở bên Châu Phi, cũng phải có người nào đó như kiểu bác vĩ cầm làm chỗ lui tới, duy có điều, đó thường là một nhạc sĩ lang thang, hay một vị graiốt đi từ làng này sang làng kia, vừa hát vừa chơi đàn kora hay đàn balafô xen giữa những câu chuyện say mê rút ra từ những cuộc phiêu lưu của người ấy.
Theo đúng như cách làm hồi còn ở Châu Phi, Kunta đã bắt đầu tính ngày tháng trôi qua bằng cách cứ đến buổi sáng sau mỗi tuần trăng mới lại bỏ một hòn sỏi nhỏ vào một cái vỏ bầu. Trước hết anh bỏ vào vỏ bầu 12 hòn sỏi tròn nhiều màu, đánh dấu 12 tuần trăng mà anh ước đoán mình đã qua tại cái trại tubốp đầu tiên, rồi thêm sáu hòn nữa, tượng trưng thời gian ở đây, tại cái trại mới này; đoạn anh đếm thật kỹ 204 hòn đánh dấu 17 vụ mưa mà anh đã sống cho tới khi bị bắt đi khỏi Jufurê và bỏ cả vào vỏ bầu. Cộng tất cả lại, anh ước tính mình hiện đang giữa tuổi mười chín.
Vậy, tuy tự cảm thấy mình già, anh vẫn là một thanh niên. Liệu rồi anh có phải sống nốt cuộc đời còn lại như ông lão làm vườn, gương mặt nhìn niềm hy vọng và tự hào trôi tuột đi cùng với năm tháng, cho đến khi chẳng còn gì làm lẽ sống và rốt cuộc là hết đời? Ý nghĩ đó làm anh tràn đầy sợ hãi - và quyết tâm không chịu kết thúc theo cách của ông già, quanh quẩn với mảnh vườn, lập cà lập cập, phân vân không biết nên đặt chân nào trước, chân nào sau. Ông già tội nghiệp thường mệt phờ khá lâu trước bữa ăn trưa và suốt buổi chiều, ông chỉ có thể giả đò làm việc, thành thử Kunta phải ghé vai gánh vác gần hết.
Sáng sáng, trong khi Kunta lom khom cúi trên các luống đất trong vườn, Bel xách giỏ tới - Kunta đã biết chị làm công việc nấu bếp trong ngôi nhà lớn - hái những thứ rau chị định làm cho ông chủ ăn hôm ấy. Nhưng suốt thời gian ở đó, chị ta chẳng bao giờ buồn nhìn Kunta lấy một cái, kể cả lúc đi qua ngay trước mặt anh. Điều đó làm anh bối rối và bực dọc, anh nhớ chị đã săn sóc anh hằng ngày như thế nào, hồi anh nằm chống chọi để sống sót, hoặc đã gật đầu với anh như thế nào những buổi tối ở nhà bác vĩ cầm. Anh bèn nhất định ghét Bel, cả quyết rằng lý do duy nhất khiến chị chăm nom anh hồi ấy là vì ông chủ đã sai chị làm thế. Kunta ước gì mình có thể nghe ý kiến bác vĩ cầm về chuyện này, song anh biết vốn từ ngữ hạn chế của mình không cho phép diễn đạt chính xác - chưa kể ngay đến việc đặt câu hỏi cũng đã quá là rắc rối.
Sau đó không lâu, một buổi sáng, ông lão không đến vườn và Kunta đoán là ông bị ốm. Mấy ngày vừa qua, ông còn yếu hơn cả mọi khi. Đáng lẽ đi ngay đến lều ông cụ, xem thực hư ra sao, thì Kunta lại bắt tay thẳng vào việc tưới nước, rãy cỏ, vì anh biết Bel có thể đến bất cứ lúc nào và anh cho rằng khi chị tới, chả có ai ở đây thì cũng không tiện.
Mấy phút sau, chị xuất hiện và vẫn không nhìn Kunta, bắt tay vào hái rau bỏ đầy rổ trong khi Kunta cầm cuốc đứng quan sát chị. Rồi khi ra về, Bel lưỡng lự, nhìn quanh, đặt rổ xuống đất và - với một cái nhìn nhanh, nghiêm nghị về phía Kunta - cất bước đi. Sự nhắn nhe của chị thật rõ ràng; anh phải mang rổ rau đến cửa sau ngôi nhà lớn, như ông già vẫn làm thế. Kunta gần như phát khùng, trong óc vụt lóe lên hình ảnh hàng chục phụ nữ Jufurê sắp hàng dọc, đầu đội những bọc nặng đi qua cây bantaba, nơi cánh đồng đàn ông Jufurê vẫn hay đến nghỉ ngơi. Dận mạnh chiếc cuốc xuống, anh đang định nện gót dằn dỗi bỏ đi thì bỗng nhớ ra là Bel rất thân cận với ông chủ. Anh cắn răng cúi xuống, vớ lấy chiếc rổ và lặng lẽ theo Bel. Đến cửa, chị quay lại cầm lấy rổ, như thể không hề trông thấy anh. Anh quay về vườn, giận sôi lên.
Từ hôm ấy trở đi, Kunta ít nhiều trở thành người làm vườn chính thúc. Ông già ốm nặng, họa hoằn lắm mới đến khi nào ông đủ sức để bước. Những lần ấy, ông làm chút việc vặt vãnh gì đó trong khoảng khắc ông cảm thấy có thể cầm chừng được, nghĩa là không lâu, rồi ông lại ngật ngưỡng về lều. Ông cụ làm Kunta nhớ đến những người già ở Jufurê xấu hổ vì sự yếu đuối của mình, vẫn tiếp tục trệu trạo đi quanh cất nhắc tay chân, mó máy việc này việc nọ cho đến lúc buộc phải rút lui về ổ nằm và cuối cùng, họa hoằn lắm mới thấy ló mặt ra ngoài.
Cái nhiệm vụ mới duy nhất mà Kunta ghét thật sự là phải mang cái rổ đó cho Bel hàng ngày. Miệng lẩm bẩm không thành tiếng, anh đi theo chị ta đến cửa, ấn nó vào tay chị tới mức thô bạo nhất mà anh dám, rồi quay gót đi thật nhanh, trở về làm việc. Tuy nhiên, dù ghét chị đến mấy, anh vẫn nhỏ nước miếng khi những mùi khêu gợi của những thức do Bel nấu nướng, thỉnh thoảng theo gió tạt ra ngoài vườn.
Hòn sỏi thứ hai mươi hai đã được bỏ vào trong cái vỏ bầu lịch thì một buổi sáng, bề ngoài không lộ một dấu hiệu thay đổi nào, Bel vẫy anh vào trong nhà. Sau một lúc lưỡng lự, anh theo chị bước vào và đặt cái rổ lên một cái bàn ở đó. Cố gắng không tỏ vẻ ngỡ ngàng trước những vật kỳ lạ anh thấy ở khắp chỗ quanh mình trong căn phòng này mà họ gọi là "nhà bếp", anh đang quay người định đi thì chị khẽ chạm vào cánh tay anh và đưa một khúc bánh ở giữa có kẹp một miếng gì đó như là thịt bò nguội. Thấy anh tròn mắt nhìn bối rối, chị nói: "Trước nay anh chưa trông thấy một cái bánh xăngđuých bao giờ nhỉ ? Nó không cắn anh đâu. Mà anh phải cắn nó đấy. Thôi ra khỏi đây đi".
Thời gian tiếp tục qua, Bel bắt đầu cho anh nhiều đến mức một tay mang không xuể - thường thường là một đĩa sắt tây chất đầy cái thứ gọi là "bánh trứng ngô", một loại bánh trước đây anh chưa thưởng thức bao giờ, cùng với rau mù-tạc tươi nấu bằng nước hàng tuyệt diệu của chính thứ rau này. Chính anh đã gieo những hạt mù-tạc bé tí tẹo - trên đất vườn trộn với chất bùn đen màu mỡ đào ở bãi chăn bò - và những ngọn rau mơn mởn đã mau chóng nhú lên xanh um. Anh cũng thích không kém cái cách chị nấu những quả đậu dại thon dài mọc trên những dây leo quấn quanh những thân ngô ngọt ngào. Chị không bao giờ cho anh một miếng gì rành rành là thịt lợn, tuy anh không dám chắc làm sao chị lại biết điều đó. Nhưng bất kể chị cho anh món gì, bao giờ anh cũng lấy giẻ lau cái đĩa thật kỹ càng trước khi trả lại. Anh thường hay thấy chị đứng trước "lò" - một cái vật bằng sắt đựng lửa - nhưng đôi khi chị quỳ xệp hai đầu gối cọ sàn bếp bằng một cái bàn chải cứng và tro gỗ sồi. Mặc dầu đôi lúc muốn nói với chị một câu gì đó, anh không bao giờ tập hợp được đủ chữ để phát biểu sự đánh giá của mình đạt hơn là một tiếng ầm ừ - và giờ đây, chị cũng thường đáp lại như thế.
Một ngày chủ nhật, sau bữa tối, Kunta đã đứng dậy duỗi chân vươn vai và đang đi quanh lều bác vĩ cầm, uể oải vỗ vỗ vào bụng, thì bác da nâu này chợt ngắt quãng cuộc độc thoại kéo rền suốt bữa ăn mà kêu lên: "Nè, mầy bắt đầu đẫy ra rồi đấy!" Bác nói đúng. Từ khi rời Jufurê, chưa bao giờ Kunta nom - hoặc cảm thấy - khá hơn hồi này.
Sau nhiều tháng không ngừng tập đan để luyện ngón, bác vĩ cầm cũng cảm thấy khá hơn so với thời gian dài trước đây kể từ khi bác bị gẫy tay - và các buổi tối, bác đã bắt đầu chơi đàn lại. Cầm cái vật kỳ dị trong bàn tay khum khum và ép dưới cằm, bác vĩ cầm gại vào những sợi dây bằng chiếc que - hình như làm bằng những sợi tóc dài, nhỏ - và đám thính giả thường lệ ban đêm, cứ hết một bài, lại reo hò và vỗ tay ran. "Chả ra sao cả!" bác thường ngán ngẩm nói. "Ngón tay còn chưa dẻo".
Về sau, khi chỉ còn hai người với nhau, Kunta ngập ngừng hỏi: "Dẻo là gì?" Bác vĩ cầm gập ra gập vào và ngọ nguậy các ngón tay: "Dẻo! Dẻo. Hiểu chưa?" Kunta gật đầu.
"Mầy là một thằng nhỏ may mắn, mầy là thế đó", bác vĩ cầm nói tiếp. "Hàng ngày chỉ quanh quẩn làm vặt vãnh ở cái vườn í. Chả mí ai vớ được một công việc nhẹ nhàng như thế trừ ở những cái đồn điền lớn gấp bội cái này".
Kunta nghĩ rằng mình hiểu và anh không thích câu nói đó. "Làm việc nặng", anh nói. Và gật đầu với bác vĩ cầm đang ngồi trên chiếc ghế tựa, anh nói thêm: "nặng hơn thế này".
Bác vĩ cầm nhe răng cười: "Mầy nói đúng, thằng người Phi!".
Chương 53
Các "tháng" - ở đây người ta gọi tuần trăng là thế - bây giờ đang trôi qua mau hơn, chẳng bao lâu mùa nóng nực, gọi là "mùa hè", đã hết và vụ gặt đã bắt đầu cùng với rất nhiều nhiệm vụ mới cho Kunta và những người khác. Trong khi số người da đen còn lại - kể cả Bel - bận bịu làm việc nặng ngoài đồng, anh được giao chăm nom gà, lợn và gia súc thêm vào việc làm vườn. Và vào thời kỳ hái bông rộn rịp nhất, anh được gọi ra đánh xe đi dọc theo các luống. Trừ việc phải cho cái giống ủn ỉn nhơ bẩn ăn khiến anh tởm lợm cơ hồ phát ốm, Kunta không phản đối gì mọi lao dịch ngoại phụ, vì điều đó khiến anh đỡ cảm thấy mình là một kẻ tàn tật. Nhưng ít khi anh trở về lều mình trước lúc tối mịt - mệt nhoài đến nỗi đôi khi quên cả ăn tối. Để nguyên cả quần áo, chỉ bỏ chiếc mũ rơm xơ xác và cởi giày - cho bàn chân còn một nửa đỡ đau - anh gieo mình xuống ổ lá ngô, kéo cái mền chần bông đắp lên người và phút chốc đã ngủ tít, quần áo còn đẫm mồ hôi.
Chẳng bao lâu, các xe đã chất cao ngồn ngộn những bông, rồi những bắp ngô mây mẩy và các tàn thuốc lá vàng rộm được treo lên phơi khô. Người ta giết lợn, pha thành từng khúc, quay bằng củi hồ đào cháy chậm và không khí khói mù đã chuyển lạnh khi mọi người trong đồn điền bắt đầu chuẩn bị cuộc "khiêu vũ ngày mùa", một dịp quan trọng đến mức cả ông chủ cũng có mặt. Họ náo nức đến nỗi là khi thấy việc này xem chừng không đụng chạm gì tới Chúa Ala của người da đen, Kunta quyết định cũng tham dự - nhưng chỉ đứng xem thôi.
Đến lúc anh có đủ can đảm để tới tham gia liên hoan thì cuộc vui đang rôm rả. Bác vĩ cầm, cuối cùng ngón tay đã dẻo lại, đang cò cưa trên dây đàn và một người khác gõ hai khúc xương bò đánh nhịp trong khi ai đó hô lớn: "Nhảy thưởng bánh!" . Những người tham gia nhảy sắp thành từng cặp và vội vã ùa ra trước mặt bác vĩ cầm. Mỗi phụ nữ đặt chân lên đầu gối người bạn nam trong khi anh ta thắt dây giày cho nàng; đoạn bác vĩ cầm xướng to: "Đổi lộn!" và khi các cặp đổi bạn nhảy lẫn nhau, bác liền kéo đàn như điên, và Kunta thấy bước chân và các động tác uốn mình của những người nhảy mô phỏng việc trồng cấy, đẵn gỗ, hái bông, vung liềm hái, bẻ ngô, dùng chĩa xúc cỏ khô vào xe. Tất cả những cái đó giống hội nhảy mùa ở Jufurê đến nỗi chẳng mấy chốc bàn chân lành lặn của Kunta bất giác giậm nhịp trên mặt đất - cho đến khi anh nhận ra mình đang làm gì và bối rối nhìn quanh xem có ai để ý thấy không.
Nhưng không ai để ý cả. Thực tế, giữa lúc đó, hầu như tất cả đều bắt đầu chú mục vào một cô gái thanh mảnh trạc lứa kafô thứ tư đang rạp mình, xoáy lộn nhẹ như chiếc lông chim, đầu lắc lư, mắt lúng liếng, hai cánh tay lượn những đường nét duyên dáng. Chẳng mấy chốc, các cặp nhảy khác mệt phờ, dẹp sang hai bên để lấy lại hơi và đứng xem; ngay cả người bạn nhảy nam của cô cũng khó mà theo nổi.
Khi anh chàng này hổn hển bỏ cuộc, một tiếng reo nổi lên và khi, cuối cùng, cả cô gái cũng chệnh choạng bước sang bên, cả loạt tiếng la, hú như nuốt lấy cô. Tiếng hoan hô càng to hơn khi me-xừ Uolơ thưởng cô gái một nửa đôla. Và cười toe toét với bác vĩ cầm, trong khi bác này cũng cười và cúi chào đáp lại, me-xừ tạm biệt họ giữa tiếng hò reo càng rộ hơn. Nhưng cuộc nhảy thưởng bánh còn lâu mới chấm dứt và các cặp khác, giờ đây đã nghỉ ngơi, lại ào ra, tiếp tục như trước, dường như sẵn sàng nhảy suốt đêm.
Kunta đang nằm trên ổ ngẫm ngợi về những điều đã trông và nghe thấy thì đột nhiên có tiếng gõ cửa.
"Ai đấy?" anh hỏi, ngạc nhiên vì suốt từ khi anh ở đây, chỉ có hai lần có người đến lều anh.
"Đạp cái cửa này vô, nhọ!".
Kunta mở cửa vì đó là tiếng bác vĩ cầm; ngay lập tức, anh ngửi thấy hơi thở bác sặc mùi rượu. Mặc dù khó chịu, Kunta vẫn không nói gì, vì bác vĩ cầm đang phát cuồng lên thèm nói chuyện và cự tuyệt bác chỉ vì bác say rượu thì e cũng bất nhã.
"Mầy thấy me-xừ đấy!" bác thầy đờn nói, "Y không ngờ bi giờ tau lị vưỡn có thể đờn cừ thế! Rồi mầy theo dõi mà xem y có xu xếp để tau đờn cho bọn da trắng nghe rồi đem tau cho thuê không nhá!". Mừng quýnh, bác vĩ cầm ngồi lên chiếc ghế đẩu ba chân của Kunta và tiếp tục con cà con kê.
"Nè, tau đã từng đờn bè hai mí tay cừ nhất nhá! Mầy đã nghe nói đến Xai Jilaiơt ở Richmơnd bao giờ chưa?" Bác ngập ngừng. "Không, cố nhiên là mầy chưa. Phải, đấy là gã nhọ kéo vĩ cầm hay nhất xế giới, mà tau đã đờn mí tay í rồi đó. Nè, hắn chỉ đờn cho các cuộc dạ hội và khiêu vũ lớn của người da trắng mà thôi, tau muốn nói là ví dư Vũ hội đua ngựa hằng năm và dững cuộc tờ tợ dư thế chẳng hạn. Mầy phải trông thấy hắn cầm cây đờn óng ánh vàng, mặc áo triều, đeo tóc giả nâu và lạy Chúa, kiểu cách mới tao nhã nàm sao! Một gã nhọ tên là Lănđơn Brig đứng đằng sau bọn tau, thổi sáo và kèn kla. Nào mơnuyê, nào cuồng vũ, nào côngô, nào múa thủy thủ, nào khoái hoạt vũ, thậm chí chỉ nhảy cẫng thôi - muốn là gì cũng bất cần, bọn tau cứ đờn là cánh da trắng nhảy cuồng lên như vũ bão".
Bác vĩ cầm cứ thế tiếp tục cả giờ sau - cho đến khi hả hơi men - kể cho Kunta nghe về những ca sĩ nô lệ trứ danh làm việc ở các nhà máy thuốc lá tại Richmơnd, về những nhạc sĩ nô lệ khác tiếng tăm lừng lẫy, chơi các loại đàn "clavơxanh", "pianô", "viôlông", bất kể thứ gì, chỉ học bằng cách nghe các nhạc sĩ tubốp ở một nơi nào đó gọi là "Châu Âu" và vẫn thường được thuê đến các đồn điền để dạy con cái các ông chủ.
Buổi rét dài sáng hôm sau chứng kiến sự khởi đầu những nhiệm vụ mới. Kunta quan sát những phụ nữ trộn mỡ nóng chảy với dung dịch kiềm tro củi và nước, đun lên, ngoáy đảo, rồi đổ chất hỗn hợp đặc quánh màu nâu ấy vào những khay gỗ cho nguội đi, để nó rắn lại trong ba ngày, bốn đêm trước khi cắt thành những bánh xà phòng nâu nâu hình chữ nhật. Anh hết sức ghê tởm khi thấy đám đàn ông làm nên men táo, đào và hồng vàng thành một thứ khăm khẳm đóng vào chai, vào thùng mà họ gọi là "rượu mạnh". Nhiều người trộn đất sét đỏ dính nháp với nước và lông lợn khô để ép thành phiến làm vách lều. Phụ nữ lấy vỏ ngô nhồi ổ nằm, như ổ của Kunta, có khi còn nhồi bằng thứ rêu mà anh đã thấy phơi khô; và một cái ổ mới cho ông chủ được tọng đầy lông ngỗng.
Người nô lệ đóng đồ gỗ đang làm những chậu giặt mới; quần áo sẽ nhúng vào đấy ngâm nước xà phòng, trước khi đem nấu rồi chất đống trên một phiến gỗ, lấy gậy đập. Người làm đồ da - vòng cổ ngựa, yên cương thắng đai và giày dép - thì đang bận bịu thuộc da bò. Và phụ nữ nhuộm thành các màu khác nhau số vải bông trắng do ông chủ mua để may quần áo. Và y như ở Jufurê, tất cả các bụi rậm, cây leo và hàng rào gần đấy đều phơi những tấm vải đỏ, xanh, vàng.
Mỗi ngày qua đi, không khí càng lạnh thêm, bầu trời càng xám hơn, và chẳng bao lâu, mặt đất lại phủ đầy băng tuyết, khiến Kunta vừa thấy kỳ dị vừa khó chịu. Và ít lâu sau, những người đen khác bắt đầu náo nức bàn đến "Lễ Giáng Sinh" mà trước đây anh đã nghe nói tới. Chuyện này xem ra bao gồm nhiều mục: múa, hát, ăn uống và cho quà, nghe thì hay ho đấy - nhưng hình như nó cũng có liên quan đến Chúa Ala của họ, cho nên dù Kunta giờ đây thực sự thích thú những cuộc tụ họp ở lều bác vĩ cầm, anh vẫn quyết định tốt nhất là cứ ở lì một mình cho đến khi những trò hội hè vô đạo ấy kết thúc yên ổn đã. Thậm chí anh cũng chẳng đến thăm bác vĩ cầm nữa, bác này, lần sau gặp, nhìn Kunta như của lạ nhưng không nói gì.
Thế rồi, một mùa xuân nữa vụt đến, và quỳ gối trồng trọt trên luống đất, Kunta nhớ lại những cánh đồng xung quanh Jufurê vào đận này mọi năm mới tươi tốt làm sao. Và anh hồi tưởng lúc còn là một chú bé thuộc lứa kafô thứ hai, anh tung tăng ra ngoài bãi đằng sau đàn dê đói cỏ, biết mấy hạnh phúc trong cái mùa tươi xanh này. Ở cái nơi này, bọn "tí nhau" da đen giúp vào việc đuổi bắt lũ baaaing xổng - Họ gọi chúng là "cừu" - rồi tranh nhau ngồi lên đầu một con cừu giãy giụa tuyệt vọng trong khi một người đàn ông lấy kéo xén lớp lông dày xoăn, nhớp bẩn của nó. Bác vĩ cầm cắt nghĩa cho Kunta hay rằng lông cừu sẽ được đưa đến một nơi nào đó để rửa sạch và "chải thành mớ" rồi đem về cho phụ nữ quay thành sợi len để đan quần áo rét.
Đối với Kunta, công việc cày cấy vun trồng mảnh vườn ngày ngày trôi đi trong một nhập nhoạng mướt mồ hôi từ sáng đến tối. Đầu tháng giữa hè mà họ gọi là "tháng bảy", những người làm việc ngoài đồng đêm đêm trở về lều mệt nhoài vì phải gấp rút hoàn thành việc cuốc rẫy cỏ đợt cuối quanh đám bông và ngô đã cao đến ngang thắt lưng và nặng trĩu những cum tua. Công việc nặng nhọc, nhưng chí ít cũng có nhiều cái ăn trong những nhà kho vốn đã đầy ứ từ mùa thu trước. Vào thời gian này, ở Jufurê, Kunta nghĩ, dân làng chắc vẫn đau bụng vì cái thứ cháo nấu bằng rễ cây, sâu bọ, cỏ và bất kỳ cái gì khác kiếm được, bởi lẽ hoa màu và trái cây, tuy xanh rờn tươi tốt thế, vẫn chưa chín.
Công việc "dự trữ" phải xong trước ngày "chủ nhật" thứ hai trong tháng bảy - Kunta được biết thế - khi những người đen thuộc phần lớn các đồn điền trong vùng này (gọi là "Hạt Xpotxylvanya") được phép đi đến một nơi nào đó tham gia một kiểu "họp trại". Bởi lẽ cuộc này dù thế nào mặc lòng vẫn dính dáng đến Chúa Ala của họ, nên thậm chí không ai nghĩ đến chuyện gợi ý Kunta cùng đi, bọn họ gồm hơn hai chục người lên đường rất sớm vào buổi sáng chủ nhật ấy, lèn chặt trong một chiếc xe mà me-xừ Uolơ đã đồng ý cho dùng.
Hầu hết mọi người đã đi trong mấy ngày sau - đến nỗi chẳng còn mấy ai có mặt ở đây để xem xem Kunta có định chạy trốn nữa không - song anh biết mặc dù đã quen thuộc và đắc dụng, anh cũng không thể nào chạy được thật xa trước khi bị tóm lại. Tuy xấu hổ với lương tâm, anh vẫn phải thừa nhận rằng anh đã bắt đầu ưng cuộc sống như anh được phép sống nó ở cái đồn điền nay hơn là cái khả năng chắc chắn sẽ bị bắt và có lẽ bị giết nữa cũng nên, nếu anh cố chạy trốn một lần nữa. Tận trong thâm tâm, anh biết mình sẽ không bao giờ còn gặp lại gia đình và cảm thấy một cái gì quý giá không thể lấy lại được, đang chết trong anh mãi mãi. Song hy vọng vẫn còn. Tuy không mong gì gặp lại gia đình, nhưng biết đâu một ngày kia, anh lại chẳng có thể có một gia đình riêng của mình.
Chương 54
Một năm nữa trôi qua, nhanh đến nỗi Kunta khó mà tin được là những hòn sỏi trong quả bầu nói với Kunta rằng anh đã tới vụ mưa thứ hai mươi của đời mình. Lại rét và lại sắp sửa đến "Lễ Giáng Sinh". Mặc dầu cảm nghĩ của anh đối với Chúa Ala của những người đen này trước sau vẫn thế, nhưng họ vui chơi thoải mái đến nỗi anh bắt đầu cảm thấy có lẽ Chúa Ala của anh hẳn cũng không cấm anh chỉ đơn thuần quan sát những hoạt động diễn ra trong mùa hội hè này.
Hai người nam nhận được giấy phép đi xa cả tuần do Me-xừ Uolơ cấp, đang gói ghém hành lý để đến thăm bạn bè ở các đồn điền khác. Trừ lều của họ - và của Kunta - tất cả đều bận rộn chuẩn bị thứ này thứ khác, chủ yếu là sắp quần áo liên hoan với những giải thêu, chuỗi hạt và lấy hạt dẻ, táo ở những chỗ dự trữ của họ.
Và ở trên ngôi nhà lớn, tất cả nồi niêu, xoong chảo của Bel đều sủi ùng ục những khoai mỡ, thịt thỏ và thịt lợn quay - cùng nhiều món ăn làm bằng thịt những con thú mà trước khi đến cái xứ sở này, Kunta chưa bao giờ gặp hoặc nghe thấy nói đến: gà tây, gấu trúc Mỹ, con opốt có túi và các loại tương tự. Tuy mới đầu còn ngần ngại, song những mùi thơm lưng từ bếp của chị chẳng bao lâu đã thuyết phục Kunta thử nếm tất cả - tất nhiên chỉ trừ thịt lợn. Anh cũng không thích nếm món rượu mà me-xừ Uolơ đã hứa cho những người da đen: hai thùng rượu táo mạnh, một thùng rượu vang, và một thùng nhỏ uýtxki ông ta chở trong xe từ một nơi nào khác tới.
Kunta dám chắc rằng một số rượu đã được bí mật tiêu thụ từ trước, trong đó bác vĩ cầm ngốn không ít. Và cùng với sự múa may quay cuồng của các tay ma men, bọn con nít da đen tung tăng chạy dùng que dí những chiếc bong bóng lợn khô mỗi lúc một sát vào lửa cho đến khi từng cái nổ bùm bụp giữa những tiếng cười reo của tất cả. Anh cho rằng mọi cái đó đều ngớ ngẩn và chán không tưởng tượng được.
Cuối cùng, khi ngày vui đến, cuộc chè chén ăn uống bắt đầu thật sự. Từ cửa lều mình, Kunta theo dõi các khách khứa của me-xừ Uolơ đến dự buổi tiệc trưa và sau đó khi đám nô lệ tập hợp gần ngôi nhà lớn và bắt đầu hát theo giọng lĩnh xướng của Bel, anh trông thấy Me-xừ nâng cửa sổ lên mỉm cười; rồi y cùng những người da trắng khác ra ngoài đứng nghe, xem vẻ như say mê lắm. Sau đó me-xừ sai Bel đi bảo bác vĩ cầm đến đờn cho họ nghe và bác ta làm theo.
Kunta có thể hiểu được là họ phải làm những gì chủ sai bảo, nhưng tại sao họ lại có vẻ thích thú với điều đó đến thế nhỉ? Và nếu bọn da trắng ưa thích những nô lệ của mình đến mức cho họ quà thì tại sai không làm cho họ thật sự sung sướng và thả cho họ tự do đi? Song anh lại tự hỏi: liệu một số người đen nọ, tựa những con cưng, có thể sống sót nổi như anh, nếu không được săn sóc tới?
Nhưng thử hỏi anh có hơn gì họ? Có thật anh khác xa họ đến thế không? Một cách từ từ, nhưng chắc chắn, anh không thể chối cãi rằng mình đang tự buông lơi đến chỗ chấp nhận những lối thói của họ. Anh khó nghĩ nhất về mối tình bạn ngày một sâu của mình với bác vĩ cầm. Việc bác uống rượu làm anh hết sức bất bình, tuy nhiên chẳng lẽ một người vô đạo lại không có quyền là một người vô đạo hay sao? Tính khoe khoang của bác vĩ cầm cũng làm Kunta ớn, song anh tin rằng tất cả những điều bác ta khoe khoang đều có thật. Nhưng cái thói hài hước sống sượng và bất kính của bác vĩ cầm khiến anh khó chịu, và Kunta rất ghét nghe thấy bác vĩ cầm gọi mình là "nhọ" vì anh đã biết đó là cái tên do người da trắng đặt cho người da đen. Song, chẳng phải chính bác vĩ cầm đã tự đảm nhiệm việc dạy anh học nói đó sao? Chẳng phải chính tình bạn của bác đã tạo dễ dàng hơn cho anh đỡ cảm thấy xa lạ với những người đen khác đó sao? Kunta xác định là mình cần tìm hiểu bác vĩ cầm hơn nữa.
Bất cứ lúc nào thích hợp, anh lại kiếm cách quanh co hỏi bác vĩ cầm về một số vấn đề làm anh bận tâm. Nhưng hai hòn sỏi nữa đã được bỏ vào trong chiếc vỏ bầu, rồi một buổi chiều chủ nhật yên tĩnh, mọi người đều nghỉ việc, anh đi xuôi xóm nô tới căn lều quen thuộc và thấy bác vĩ cầm trong một tâm thế trầm lặng hiếm thấy.
Sau khi chào hỏi nhau, cả hai đều im lặng một lát. Rồi để khơi chuyện Kunta nói là anh nghe lỏm thấy tay lái xe của ông chủ, Luthơ, kể rằng gã đánh xe cho me-xừ đến đâu cũng thấy người da trắng bàn chuyện "thuế". Anh muốn biết thuế là cái gì.
"Thuế là tiền phải nộp xêm vào hầu hết mọi thứ người da trắng mua", bác vĩ cầm trả lời. "Cái lão vua bên kia bờ biển biểu đặt ra thuế để giữ cho mình giàu có".
Cách nói năng ngắn gọn này thật khác xa thói thường của bác vĩ cầm đến nỗi Kunta đoán là bác hẳn đang bực mình. Chán nản, anh ngồi im lặng một lúc, song cuối cùng quyết định nói toẹt ra điều mình đang bận tâm. "Bác ở đâu chước khi đây?"
Bác vĩ cầm chằm chằm nhìn anh một lúc lâu, căng thẳng. Đoạn, bác nói giọng sắt như dao chém: "Tao biết ở đây đứa nhọ nào cũng xắc mắc về tau! Tau chẳng kể gì sốt mí ai khác đâu! Dưng mà mầy thì khác".
Bác nhìn thẳng vào Kunta. "Mầy có biết sao mầy lại khác không? Bỉ vì mầy chả biết cái gì! Mầy bị bắt lôi tới đây và bị chặt chân, mầy ngỡ đã trải đủ mùi! Nè, không phải chỉ có mình mầy xấu số thế đâu!" Giọng bác giận dữ. "Mầy không bao giờ được kể dững cái tau sắp nói mí mầy đây, kẻo tau vặt đầu mầy!".
"Tôi không!" Kunta tuyên bố.
Bác vĩ cầm ngả người về phía trước và nói khẽ để khỏi bị nghe trộm. "Me-xừ chủ tau ở bắc Calina 1 bị chết đuối. Chuyện í chẳng dính dáng đến ai cả. Dù sao, đêm í tau cũng cứ lẻn đi, mí lị y chả có vợ con gì để mà đòi tau lại. Tau chốn lẫn với người Inđơn 2 cho đến khi tau gẫm là đã yên yên, thế là tau đến vùng Vơginia này và tiếp tục kéo đờn".
"Vơginia?" Kunta hỏi.
"Thằng nầy, có thật mầy chẳng biết cái mẹ gì không? Vơginia là cái thục địa mầy đang sống đây, nếu mầy mốn gọi thế này là sống"
"Thục địa là cái gì?"
Mầy còn đần độn hơn cái vẻ bề ngoài. Có mười ba thục địa hợp thành cái xứ này. Từ đây đổ xuống phía Nam có hai bang Calina và trên mạn Bắc là Merơlơn, Penxylvania, Niu Yooc và một lô khác nữa. Tau chưa lên đó bao giờ và phần lớn dân nhọ cũng vậy. Tau nghe nói ối người da trắng trên đó không giữ nô lệ và thả người mình tự do. Chính tau đây, tau cũng là một thứ nhọ nửa tự do. Tau phải bám quanh một me-xừ nào đó phòng khi bọn tuần cha tuần bố vớ được tau". Kunta không hiểu nhưng cứ làm như có, vì anh không thích bị mắng là ngu một lần nữa.
"Mầy đã thấy người Inđơn bao giờ chưa?" bác vĩ cầm hỏi.
Kunta ngập ngừng: "Tui đã thấy một vài".
"Họ có ở đây trước cả dân da trắng. Dân da trắng bỉu là một người của mình tên Côlông khám phá ra nơi nầy. Dưng mà nếu người í thấy dân Inđơn đã ở đây, thì đâu phải nó khám phá ra, phải hông". Bác vĩ cầm đang hứng lên với câu chuyện của mình.
"Người da trắng cứ tưởng bất cứ ai ở nơi nào trước nó đều không đáng kể. Nó gọi họ là mọi rợ".
Bác vĩ cầm dừng lại để tự thưởng thức trí tuệ mình rồi nói tiếp. "Mầy đã thấy lều Inđơn bao giờ chưa? Kunta lắc đầu. Bác vĩ cầm choãi ba ngón tay, quấn một mảnh vải nhỏ xung quanh. "Ngón tay là cọc, miếng giẻ là da thú. Họ ở bên trong cái nầy".
Bác mỉm cười. Mầy ở bên Phi sang, có nhẽ mầy tưởng mầy thông thạo mọi nhẽ về đường săn bắn và đại khái thế, dưng mà không ai săn bắn hoặc đi xa tài dư người Inđơn đâu. Khi một người Inđơn đi đâu, thì cứ dư là nó mang sẵn một cái bản đồ trong đầu í. Dưng mà đàn bà Inđơn - họ gọi là mẹ đó - thì địu con trên lưng, y nhu tau nghe nói tất cả đàn bà bên Phi mầy cũng đều làm thế".
Kunta ngạc nhiên thấy bác vĩ cầm biết điều đó và không khỏi lộ vẻ sửng sốt. Bác vĩ cầm lại mỉm cười và tiếp tục lên lớp. "Một số người Inđơn ghét dân nhọ và một số lại thích chúng ta. Dân nhọ và đất đai là dững mắc mớ lớn của người Inđơn với người da trắng. Dân da trắng mốn tất cả đất đai người Inđơn và ghét dững người Inđơn che giấu cho bọn nhọ!" Bác vĩ cầm dõi mắt vào từng nét mặt Kunta "Tất cả dân Phi chúng mầy và dân Inđơn cùng mắc một sai lầm: để cho bọn da trắng lọt vào nơi mình sống. Mình cho nó ăn, nó ngủ, thế rồi điều đầu tiên mình vỡ nhẽ là nó đá mình ra ngoài hoặc nhốt chặt mình lại!".
Bác vĩ cầm lại ngừng. Rồi đột nhiên, bác gắt toáng lên: "Cái làm tau điên tiết mí bọn nhọ Phi chúng mầy, đây nè! Tau đã biết năm, sáu đứa cư xử như mầy! Chả biết làm sao tau lại đi làm thân với mầy trước! Mầy đến đây gẫm rằng bọn nhọ ở đây cũng phải giống y dư mầy. Làm sao mà mầy lị hy vọng bọn tau hiểu hết về châu Phi cho được? Bọn tau chưa bao giờ ở đấy, mà cũng không đi đến đấy!" Nhìn thẳng vào Kunta, bác chìm vào im lặng.
Và sợ lại gây một cơn thịnh nộ nữa, Kunta vội rút lui không nói thêm lời nào, phân vân về những điều bác vĩ cầm đã nói với mình. Nhưng về đến lều, càng nghĩ, anh càng cảm thấy khoan khoái hơn. Bác vĩ cầm đã cất bỏ mặt nạ, như thế có nghĩa là bác đã bắt đầu tin Kunta. Lần đầu tiên trong sự giao du trong ba vụ mưa kể từ khi bị bắt lén khỏi quê hương, Kunta thực sự bắt đầu biết một người.
Chương 55
Suốt mấy ngày sau, trong khi làm việc ở vườn, Kunta nghĩ rất nhiều về việc anh đã phải mất bao nhiêu lâu mới nhận ra rằng mình hiểu biết quá ít về bác vĩ cầm và còn có bao nhiêu điều cần phải biết thêm về bác ta. Qua suy nghĩ, anh hầu như chắc chắn rằng ông lão làm vườn, mà thi thoảng anh vẫn đến thăm, cũng còn mang một cái mặt nạ không kém kín đáo, che giấu nhiều điều đối với anh. Và anh cũng chẳng biết gì nhiều hơn về Bel tuy anh và chị ta ngày ngày vẫn chuyện trò trao đổi tí chút - hay, nói cho đúng hơn, Kunta nghe là chính trong khi ăn những thức chị cho anh; song bao giờ cũng là những vấn đề nhỏ nhặt, không có gì là riêng tư. Anh chợt nghĩ ra là đôi khi cả Bel và ông già làm vườn đã khơi mào một chuyện gì, hoặc nói bóng gió đến một cái gì, nhưng rồi cứ lấp lửng không bao giờ nói cho hết. Nói chung, cả hai đều là người thận trọng, nhưng hình như đối với anh họ lại càng thận trọng đặc biệt. Anh quyết định phải tìm hiểu cả hai kỹ hơn. Lần sau đến thăm ông lão làm vườn, Kunta mào đầu theo kiểu gián tiếp của người Manđinka bằng cách hỏi về một điều bác vĩ cầm đã nói với anh. Kunta bảo đã nghe nói về bọn "tuần cha tuần bố" song anh không biết rõ bọn này là ai hoặc là cái gì.
"Đấy là đám cùng đinh da tắng nghèo hèn, thuốt đời không có nấy một nhọ nào nàm của riêng cả!" ông cụ làm vườn sôi nổi nói. "Có một nuật cũ của bang Vơginia định rằng phải tuần tra đường sá hoặc bất cứ nơi nào có bọn nhọ, và đánh roi và bỏ tù bất cứ nhọ nào không có giấy phép viết do các me-xừ cấp. Và phải thuê ai nàm việc ấy? thôi thì thuê tụi da tắng nghèo chỉ thích bắt bớ, đánh đập bọn nhọ của người khác bỉ chưng tụi này chả có nhọ nào cả. Đằng sau cái đó, cháu hiểu không, tất cả bọn da tắng đều sợ chết khiếp nà nhỡ có nhọ nào xổng ra định nàm noạn thực ra không có gì để bọn tuần tra tuần bổ thích hơn nà hô hoán tình nghi một tên nhọ nào đó và xông vào nột tần tuồng nó ngay trước mặt vợ con nó và đánh nó vãi máu ra".
Thấy Kunta chăm chú nghe và hài lòng về việc anh đến thăm, ông lão làm vườn nói tiếp: Me-xừ của ta không phải người dư thế. Thành thử y không có "xú-ba-dăng" nào cả. Y bỉu y không muốn có ai đánh bọn nhọ của y. Y bỉu bọn nhọ của y tự mình giám xị nấy mình, chỉ cần nàm việc, biết sao nàm vậy và đừng bao giờ phá nệ của y".
Kunta thắc mắc không hiểu những lệ đó là như thế nào, song ông lão làm vườn vẫn tiếp tục nói: Duyên do me-xừ dư vậy nà bỉ gia đình y vốn dĩ đã giàu từ tước khi rời cái nước Anh bên kia bờ nước sang đây. Gia đình nhà Uolơ thưa nay bao giờ cũng nà thế, mà phần nớn các me-xừ khác chỉ cố bắt chước được dư họ thôi. Bỉ chưng phần nớn các me-xừ này chả nà cái quái gì, dặt dững tay săn gấu trúc Mỹ dớ được một mảnh đất và một vài nhọ, bắt chúng nàm chí chết, và từ đó phất nên mà thôi.
"Chả mấy đồn điền có được hàng nô hàng nốc nô nệ đâu. Phần lớn chỉ có từ một đến năm hay sáu nhọ thôi, bất kỳ nơi nào dễ thường cũng vậy. Ở đây, bọn ta dững hai chục mống nà thành một đồn điền to ra dáng rồi. Cứ ba người da tắng thì có hai không có tên nô nệ nào cả, nà não nghe nói thế. Dững đồn điền thực nà to, với năm mươi hay một trăm nô nệ, phần nớn nà ở dững vùng đất đen, dững nơi đầu nguồn cuối sông dư Luizana, Mitxippi và Alabama cũng có một số; và dững vùng bờ biển dư Jóoojơ và Nam Calina nữa, ở đấy người ta trồng núa mà".
"Cù mấy nhiêu già?" Kunta bỗng hỏi độp một cái.
Ông lão làm vườn nhìn anh. "Già hơn nà cháu hoặc bất cứ ai tưởng". Ông cụ ngồi như trầm ngâm suy tưởng một lúc, "Hồi nhỏ, não đã từng nghe tiếng hú xung trận của người da đỏ".
Sau một lát im lặng cúi đầu, cụ ngước nhìn Kunta và cất giọng hát: "Ah, yah, tair, umban, booiwah…" Kunta ngồi ngây ra, sửng sốt. "Kee la zee day nic olay, man lun đee nic olay ah wah nee…" Ông lão dừng lại nói: "Xưa kia, mẹ não thường hát bài ấy. Kể nà mẹ học qua bà quê ở bên Phi, cũng dư cháu í. Cháu nghe dững tiếng í có biết được gốc gác bà cụ ở đâu không?"
"Nghe dư bộ lạc Xêrer", Kunta nói. "Dưng mà cháu không hiểu lời. Cháu đã nghe người Xêrer nói trên cái tàu đưa cháu tới đây"
Ông lão làm vườn lấm lét nhìn quanh. "Cháu phải ngậm miệng giữ kín chuyện hát hỏng này. Nhỡ nhọ nào nghe thấy và đi mách me-xừ. Người da tắng không muốn dân nhọ nói tí tiếng Phi nào".
Kunta đã sắp sửa nói rằng ông lão rành rành là một người đồng hương Gămbia mang dòng máu Jôlôf, tộc này có mũi cao, môi bẹt và da còn đen nhánh hơn hầu hết các bộ lạc khác ở Gămbia. Nhưng khi ông lão làm vườn nói những lời vừa rồi, anh quyết định không nên nói những điều như vậy. Cho nên anh chuyển đầu đề câu chuyện và hỏi ông lão từ đâu tới và làm sao cuối cùng lại cắm ở nơi này. Ông già làm vườn không trả lời ngay. Nhưng rồi cuối cùng, ông nói: "Một nhọ đã khổ cực nhiều dư não, học được ói thứ", và ông cụ thận trọng nhìn vào Kunta, vẻ như đang cân nhắc xem có nên nói tiếp hay không "Não đã có một thời tai tể. Dạo í, não có thể uốn cong một thanh xà beng trên cẳng chân. Não có thể vác một bao tải bột nặng đến nàm gục ngã một con nai. Hoặc giả não có thể giơ thẳng tay nắm chặt thắt nưng một gã nền ông mà nhấc bổng nên. Dưng não phải nàm nụng và bị đánh đập gần chết tước khi chủ cũ của não ký giấy gán não cho me-xừ này để trả nợ", ông cụ ngừng một lát. "Bi giờ não đã yếu, còn sống thêm được chừng nào, não chỉ muốn nghỉ ngơi".
Đôi mắt ông lão lục soát Kunta. "Quả thật không biết nàm sao não nại đi nói chuyện này với cháu. Thực tình não không đến nỗi ốm yếu dư não làm ra vẻ thế đâu. Dưng mà me-xừ sẽ không bán não đi chừng nào y còn ngỡ nà não ốm yếu. Não thấy cháu đã biết cách nàm vườn đôi chút". Ông cụ ngập ngừng. "Não có thể tở ra ngoài í giúp cháu, nếu cháu muốn - dưng mà chẳng được nhiều nhặn nắm đâu. Não chẳng mấy được việc nữa rồi", ông cụ buồn rầu nói.
Kunta cảm ơn ông lão đã ngỏ ý muốn giúp mình nhưng nói để ông yên tâm rằng anh có thể làm được chu tất. Mấy phút sau, anh cáo lui và trên đường về lều riêng, thấy tự giận mình đã không biết thương cảm ông già hơn nữa. Anh ái ngại cho ông cụ đã trải biết bao cơ cực, song không khỏi lạnh lùng thờ ơ với bất kỳ ai đành phận buông xuôi và đầu hàng.
Ngay hôm sau, Kunta quyết định thử xem có thể gợi chuyện cả Bel nữa không. Vì biết me-xừ Uolơ là đầu đề ưa thích của chị nên anh bắt đầu bằng cách hỏi tại sao ông ta không lấy vợ. "Nhất định là me-xừ đã lấy vợ rồi chứ. Me-xừ lấy cô Pritxilơ, đúng cái năm tui đến đây. Cô í xinh xắn như con chim sâu 1 và cũng nhỏ nhắn như thế, không hơn mấy tí. Thế cho nên đẻ đứa con đầu lòng là cô ấy chết. Nó bé xíu, và cũng chết luôn. Tui cho rằng đó là thời kỳ dễ sợ nhất ở đây. Từ đấy me-xừ đổi khác hẳn, không bao giờ trở lại như cũ nữa. Chỉ lao đầu vào làm việc, làm việc và làm việc, đôi khi tợ như định tự hủy mình. Cứ nghĩ đến ai ốm hay bị thương mà không giúp được là me-xừ không chịu nổi. Một con mèo ốm me-xừ cũng chăm nom sốt sắng y hệt một người nhọ bị đau mà me-xừ nghe nói đến, ví như cái bác vĩ cầm hay trò chuyện mấy anh đó, hay ví như khi anh được mang tới đây chả hạn. Me-xừ tức điên lên vì chuyện họ làm chân anh thế, đến nỗi ông í mua đứt anh khỏi tay chính anh trai mình là Jon. Cố nhiên ông í chả muốn, chính bọn làm thuê đuổi bắt dân nhọ bảo là anh định giết họ".
Kunta lắng nghe, nhận ra rằng anh mới chỉ bắt đầu biết đánh giá chiều sâu và các khía cạnh cá nhân của những người đen thôi, chứ chưa bao giờ nghĩ là ngay cả người da trắng cũng có những nỗi đau khổ của con người, mặc dù cung cách của họ nói chung là không thể tha thứ được. Anh thấy mình chợt ao ước đủ thông thạo tiếng người da trắng để nói hết những điều đó với Bel - và kể cho chị nghe câu chuyện mà bà già Nyô Bôtô đã kể cho anh về chú bé định giúp con cá sấu sa bẫy, câu chuyện mà bà già Nyô Bôtô bao giờ cũng kết thúc bằng: "Ở đời, làm ơn thường bị trả oán".
Nghĩ về quê nhà, Kunta nhớ đến một điều mà đã từ lâu, anh muốn nói với Bel, và cái đó dường như là một giây phút tốt đẹp. Ngoại trừ nước da nâu của chị, anh hãnh diện nói với Bel, nom chị gần giống một phụ nữ Manđinka xinh đẹp.
Phản ứng của chị với lời khen nhiệt liệt đó, anh không phải đợi lâu la gì. "Anh nói cái chuyện điên dại gì thế đấy?" chị tức giận nói. "Không biết làm sao mà đám da trắng cứ đi chở hàng tầu cái giống nhọ Phi các anh trút lên bờ!".
Chương 56
Cả tháng sau, Bel không buồn nói với Kunta - và thậm chí còn tự mình mang lấy rổ về ngôi nhà lớn sau mỗi lần đến vườn lấy rau. Thế rồi, một sáng sớm Thứ hai, chị bỗng chạy bổ ra vườn, mắt trợn tròn vì kích động, và nói buột ra: "Quận trưởng cảnh sát vừa phóng ngựa đi! Bảo me-xừ là có đánh nhau to trên mạn ngược, ở chỗ nào đó gọi là Bôxtơn! Là vì đám da trắng uất quá về các thứ thuế má của nhà vua ở bên kia bờ nước lớn. Me-xừ đã sai Luthơ đóng xe để lên tỉnh. Rõ là ông í cuống lên!".
Đến bữa ăn tối, mọi người xúm quanh lều bác vĩ cầm để nghe ý kiến của bác ta và của ông lão làm vườn, vì ông lão làm vườn là người cao tuổi nhất trong xóm nô, còn bác vĩ cầm là người chu du thiên hạ nhiều nhất và thạo đời.
"Chuyện í xảy ra từ bao giờ?" một người nào đó hỏi vậy và cụ làm vườn nói: "Dào, bất cứ cái gì ở tên mạn ngược mà đến tai ta thì cũng phải xảy ra đã khá lâu rồi".
Bác vĩ cầm chêm vào: "Tui nghe nói cái vùng mạn trên, quanh quanh cái vùng Bôxtơn í, có ngựa chạy hộc tốc truyền tin về đến Vơginia này, cũng phải mất mươi ngày là nhanh nhất".
Xe ông chủ trở về lúc trời sẩm tối, Luthơ hối hả đến xóm nô, thêm những chi tiết anh đã lượm được: "Họ kể nà một đêm, một số người Bôxtơn uất ức quá với sưu thuế của nhà vua, đâm niều mạng xông vào bọn nính triều đình. Bọn nính bèn nổ súng, và người đầu tiên bị giết nà một nhọ tên là Crixpơx. Họ gọi nà cuộc xảm xát Bôxtơn!".
Mấy ngày sau, ít thấy có chuyện gì khác được bàn tán, Kunta nghe ngóng, không biết sự tình đó là thế nào và tại sao dân da trắng và cả da đen nữa, lại nhốn nháo đến thế về những chuyện gỉ chuyện gì xảy ra mãi tít tận đâu đâu. Chả mấy ngày không có vài ba người nô lệ đi ngang, hô hoán từ đường cái lớn một tin đồn mới. Và Luthơ vẫn tiếp tục mang về đều đặn những tin tức từ miệng đám gia nô, tá điền và các lái xe khác đã cùng anh trò chuyện trong mọi chuyến đi của ông chủ để chăm nom người ốm hoặc để bàn luận về tình hình diễn biến ở Niu Inglơn với các ông chủ khác trong các tòa nhà lớn của họ, hoặc ở tỉnh hay các thị xã gần đấy.
"Người da trắng chả giữ kín được chuyện gì đâu", bác vĩ cầm nói với Kunta. "Chúng nó ngập chìm giữa dân nhọ. Chúng nó làm gì đi đâu cũng vậy, chả mí khi là không có dân nhọ nghe ngóng. Hễ chúng nó vừa ăn vừa nói chuyện là nhọ gái hầu bàn giả ngây giả điếc, dưng mà nhớ hết từng lời nghe lỏm được. Ngay cả khi bọn da trắng sợ lộ xoay ra đánh vần cũng thế thôi, nếu có nhọ ở quanh quất đấy, thì, chậc, một lũ gia nô nhọ tìm đến một nhọ biết đánh vần ở gần đấy nhất mà nhắc lại từng chữ từng vần cho nhọ này chắp lại thành câu chuyện đã được nói, phổng có lâu la gì. Là tau muốn nói: cánh nhọ ta không có chịu ngủ trước khi biết bọn da trắng bàn tán chuyện gì."
Những gì đang xảy ra "trên mạn ngược" vẫn tiếp tục truyền tới từng mẩu một suốt cả mùa hè sang tới mùa thu. Thế rồi, ngày này qua ngày khác, Luthơ bắt đầu thuật lại rằng mặc dầu dân da trắng đang khốn đốn là thế về chuyện sưu thuế, song đó không phải là mối lo duy nhất của họ. "Họ bẩu một số hạt, dân nhọ nhìu gấp đôi dân da trắng. Họ đang no nhà vua bên kia bờ nước có thể cho cánh nhọ ta được tự do để đánh nại bọn da trắng". Luthơ chờ cho những tiếng "ồ" của cử tọa lắng xuống. "Thật đấy", anh ta nói "tui nghe bẩu một số người da trắng hốt nắm, đêm đến nà khóa chặt cửa, thậm chí thôi hẳn không chuyện trò gì nữa khi có mặt bọn gia nhân nhọ".
Hàng tuần lễ sau, đêm đêm, Kunta nằm dài trên ổ ngẫm nghĩ về hai tiếng "tự do". Trong phạm vi hiểu biết của anh điều đó có nghĩa là không còn có ông chủ nào nữa, muốn làm gì thì làm, thích đi đâu thì đi. Song, cuối cùng anh xác định, thực nực cười nếu nghĩ rằng bọn da trắng mang những người đen qua suốt miền con nước lớn đến đây làm nô lệ để rồi lại thả họ tự do. Điều đó ắt chẳng bao giờ xảy ra.
Trước dịp lễ Giáng Sinh một ít, có mấy người bà con me-xừ Uolơ đến thăm. Gã da đen lái xe cho họ đánh chén căng bụng trong nhà bếp của Bel, vừa ăn vừa kể làm quà cho chị nghe những tin tức mới nhất. "Nghe nói ở Jóocjơ", gã nói, "có người da đen tên gọi Joócj Lêil, dân da trắng dòng Baptít cấp cho ông ta giấy phép được giảng đạo cho dân nhọ suốt dọc sông Xavanna. Nghe nói ông sắp mở một nhà thờ Baptít cho người Phi ở Xavanna. Lần đầu tiên tui nghe nói đến một nhà thờ cho dân nhọ…".
Bel nói: "Trước đây, tui có nghe nói đến một nhà thờ như vậy ở Pitơbơg, ngay trong vùng Vơginia này. Nhưng này, anh có nghe gì về những vụ rối loạn của người da trắng ở mạn ngược không?"
"À, tui nghe nói đận trước, cả lô cả lĩ những người da trắng tai to mặt lớn có cuộc họp lớn ở Philađelphia. Họ gọi nó là Đại hội Lục địa lần thứ nhất".
Bel nói là mình đã nghe tin đó. Thật vậy, chị đã cất công đọc tin này trong tờ Nhật báo Vơginia của me-xừ Uolơ rồi kể lại cho ông lão làm vườn và bác vĩ cầm nghe. Đó là những người duy nhất biết chị võ vẽ đọc được chút ít. Gần đây, khi bàn với nhau, cụ làm vườn và bác vĩ cầm đã nhất trí là không nên cho Kunta biết cái khả năng đó của Bel. Đã đành anh biết giữ mồm giữ miệng và đã đạt đến trình độ hiểu tiếng và diễn đạt lưu loát tới mức không thể ngờ đối với bất kỳ ai từ Châu Phi tới, song họ cảm thấy anh vẫn chưa thể đánh giá đầy đủ là hậu quả sẽ nghiêm trọng biết chừng nào nếu như me-xừ nghe mong manh là Bel biết đọc: me-xừ sẽ bán phắt chị ngay ngày hôm đó.
Sang đầu năm sau - 1775 - hầu như mọi tin tức từ bất cứ nguồn nào cũng đều nói đến những phát triển mới của tình hình ở Philađelphia. Thậm chí, qua những điều Kunta nghe thấy và hiểu được, cũng thấy rõ là dân da trắng đang tiến tới xung đột với nhà vua bên kia bờ biển ở cái nơi gọi là nước Anh. Và người ta xôn xao rất nhiều về chuyện một ông chủ Patrich Henri nào đó đã kêu to: "Hãy cho tôi tự do hay bắt tôi chết!" Kunta thích câu chuyện đó, song anh không thể hiểu làm sao lại có một người da trắng nói thế; đối với anh người da trắng xem ra tự do quá rồi còn gì.
Trong vòng một tháng, có tin là hai người da trắng tên là Uyliêm Đoz và Pôl Rivir đã phóng ngựa đi báo cho một người nào đó biết là hàng trăm lính của nhà vua đang tiến về một nơi nào đó gọi là "Comcod" để phá hủy số súng đạn tàng trữ tại đấy. Và chẳng bao lâu sau, người ta nghe nói, trong một trận ác chiến ở "Lếchxinhtơn", "dân quân" chỉ mất có một dúm người mà giết được hơn hai trăm lính triều đình. Chỉ hai ngày sau, lại có tin là một nghìn lính nữa bị hạ trong một trận chiến đẫm máu ở một nơi gọi là "Đồi Bănkơ", "Dân da trắng trên tỉnh cười hả hê, nói nà bọn nính nhà vua mặc áo đỏ để máu chảy ra đỡ nộ", Luthơ kể "Nghe nói một phần máu í chảy nà công của dân nhọ chiến đấu bên cạnh dân da trắng". Anh nói bây giờ đi đến đâu cũng nghe thấy là các ông chủ ở Vơginia tỏ ra nghi ngại đám nô lệ hơn bao giờ hết - "kể cả các gia nhân nhọ nâu năm nhất".
Vào tháng 6, trở về sau một chuyến đi, khoái chá thấy mình oai hẳn lên, Luthơ đi dọc xóm nô tới gặp một cử tọa nôn nóng chờ những tin mới nhất của anh. "Có một me-xừ Joocj Uosinhtơn nào đó được chọn để đìu khỉn một đạo quân. Một cha nhọ bẩu tôi nà nghe đâu ông í có một cái đồn điền to tướng mấy bao nhiu nô lệ". Anh nói là còn nghe đồn có một số nô lệ ở Niu Inglơn được thả tự do để góp sức đánh bọn lính áo đỏ của nhà vua 1.
"Tui biết tỏng đi rồi!" bác vĩ cầm kêu lên. "Cánh nhọ bị kéo vào vòng để chết uổng mạng, y như cái cuộc chiến tranh Pháp - Ấn nọ. Rồi chẳng bao lâu xong xuôi, da trắng lại quay phắt về vung roi đánh nhọ dư cũ!".
"Có thể không", Luthơ nói. "Nghe đâu có một số da trắng tự xưng nà Quêicơ đã nập một Hội chống Chế độ nô lệ ở Phinađelphia. Tui đồ rằng họ nà một số người da trắng không tin số kiếp dân nhọ nà phải nàm nô nệ".
"Tui cũng thế", bác vĩ cầm chêm vào.
Những mẩu tin thường xuyên do Bel đóng góp, nghe như chị đã bàn bạc trao đổi với chính ông chủ, nhưng cuối cùng, chị thừa nhận là đã nghe trộm qua lỗ khóa phòng ăn vào bất cứ khi nào me-xừ tiếp khách, vì cách đây không lâu, me-xừ đã cộc lốc bảo chị bày bàn ăn đâu đấy rồi ra ngoài ngay, và đóng cửa lại sau lưng chị; sau đó chị nghe thấy me-xừ vặn khóa cửa. "Mà tui thì biết con người này rõ hơn cả mẹ đẻ!" chị làu bàu, vẻ phẫn nộ.
"Y nói những gì trong í sau khi khóa cửa?" bác vĩ cầm sốt ruột hỏi.
"À, tối nay me-xừ biểu xem chừng không có cách nào tránh khỏi đánh nhau với người Anh. Ông í đoán bọn chúng sắp cho những tàu lớn chở lính sang đây. Ông í biểu riêng ở Vơginia đã có hơn hai trăm nghìn nô lệ và mối lo lớn nhất là ngộ nhỡ người Anh khích được cánh nhọ chúng ta chống lại dân da trắng. Me-xừ biểu mình trung thành mới nhà vua dư bất kỳ người nào, dưng không ai có thể chịu được sưu cao thuế nặng".
"Tướng Uosinhtơn đã đình không nấy thêm người da đen nào vào quân đội nữa", Luthơ nói, "dưng một số dân nhọ tự do ở mạn ngược ní sự rằng họ cũng nà một bộ phận của nước này và muốn chiến đấu".
"Rõ là liều, cú để cho bọn da trắng chết kha khá có được không", bác vĩ cầm nói. "Cái đám nhọ tự do quả là điên".
Nhưng những tin tiếp theo vào khoảng hai tuần sau lại còn rung động hơn. Huân tước Đănmo, thống đốc hoàng gia ở Vơginia, đã tuyên bố trả tự do cho những nô lệ nào rời bỏ đồn điền để phục vụ trong hạm đội Anh của ông ta gồm những chiến thuyền và tàu đánh cá.
"Me-xừ lồng lộn lên", Bel thuật lại. "Có người tới dự tiệc biểu là thuần thấy bàn chuyện đem xiềng hoặc bắt giam những nô lệ "tình nguy" là định gia nhập quân đội hoặc thậm chí chỉ mới có ý nghĩ đó - dễ thường tính cả đến nước bắt cóc và treo cổ cái ông Huân tước Đănmo ấy nữa".
Kunta được giao nhiệm vụ lo ăn uống cho lũ ngựa của các me-xừ đỏ mặt tía tai, nhớn nhơ nhớn nhác đến thăm me-xừ Uolơ nghiến răng nghiến lợi đằng đằng sát khí. Và Kunta kể lại, những là lũ ngựa đầm đìa mồ hôi như thế nào ở mạng sườn vì phải phóng trên chặng đường dài, vất vả, những là làm sao một số me-xừ phải đích thân lái lấy xe của mình. Một trong số đó - anh kể với mọi người - là Jon Uolơ, anh trai ông chủ, người đã mua Kunta khi anh được giải xuống tàu tám năm trước đây. Sau cả quãng thời gian ấy, mà mới thoạt nhìn cái bộ mặt đáng ghét nọ, anh đã biết ngay, nhưng lão ta thì thản nhiên vứt dây cương cho Kunta, chẳng tỏ vẻ gì là nhận ra anh cả.
"Mầy đừng có nây xế nàm nạ", bác vĩ cầm nói: "Kiểu ông chủ dư y ta có khi nào xèm chào hỏi bọn nhọ. Đấy nà khi y nhớ ra mầy là ai".
Trong mấy tuần sau đó, qua lỗ khóa, Bel được biết ông chủ và các khách khứa vừa hốt hoảng vừa giận dữ khi nghe tin hàng nghìn nô lệ ở Joocjơ, Nam Carôlina và Vơginia cả gan trốn khỏi các đồn điền đi theo Huân tước Đănmo. Một số nói là họ nghe đâu như phần lớn những nô lệ bỏ trốn chỉ tìm đường lên mạn ngược thôi. Song tất cả những người da trắng đều nhất trí là cần phải nuôi thêm chó săn.
Rồi một hôm, me-xừ Uolơ gọi Bel vào trong phòng khách và chậm rãi đọc to lên hai lần một bài có đánh dấu trong tờ Nhật báo Vơginia. Ông ta sai Bel đem chỉ cho cánh nô lệ thấy bài đó và đưa tờ báo cho chị. Chị làm theo lời dặn và phản ứng của mọi người cũng y như của chị - phẫn nộ hơn là sợ hãi. "Hỡi dân da đen, các người chớ có bị cám dỗ mà đi vào con đường tự hủy diệt… dù chúng ta có phải chịu đau khổ hay không, nếu các người bỏ chúng ta mà trốn chạy, nhất định các người sẽ chết".
Trước khi trả lại tờ Nhật báo, Bel vào buồng riêng đóng kín cửa, đánh vần từng chữ, đọc các tin khác trong số đó có những tường thuật về các vụ dấy loạn của nô lệ đã xảy ra thực sự hoặc còn trong dự đoán. Sau đó me-xừ quát mắng chị về tội không mang trả báo trước bữa ăn tối và Bel khóc lóc xin lỗi. Nhưng chẳng bao lâu, chị lại được sai ra truyền đạt một tin mới - lần này là việc Viện dân biểu Vơginia đã ra sắc lệnh xử "tử hình không được nhà thờ rửa tội đối với mọi nô lệ da đen hoặc nô lệ khác âm mưu dấy loạn hoặc nổi dậy khởi nghĩa".
"Thế nghĩa làm sao?" một lực điền hỏi và bác vĩ cầm trả lời "Là nếu anh nủi dậy, người da trắng sẽ giết anh mà không gọi cha cố đến!".
Luthơ nghe nói một số người da trắng gọi là "Đảng viên bảo thủ" và một loại khác gọi là "người Ecốt" đang hợp tác với người Anh. "Mới nị tên nhọ nhà cảnh sát quận trưởng bẩu tôi nà Ngài Đănmo phá các đùn đìn ven sông, đốt cháy các đại sảnh và bẩu sẽ cho dân nhọ được tự do nếu đi theo ông í", Luthơ kể là ở Yoóctao và nhiều tình khác, bất cứ người da đen nào bị bắt ở ngoài đường ban đêm đều bị phạt roi và bắt giam.
Năm ấy, Lễ Giáng Sinh chỉ là một chữ suông. Có tin là Huân tước Đănmo suýt bị một đám đông hành hung, nhưng nhanh chân chạy thoát về kỳ hạm. Và một tuần sau, lại thấy truyền tới các tin ngã ngửa là Đănmo, với các hạm đội của ông ta ở ngoài khơi Nofóc, đã ra lệnh cho thành phố này phải tản cư hết trong vòng một tiếng đồng hồ. Rồi súng lớn của ông ta bắt đầu bắn phá, gây ra những đám cháy dữ dội và phần lớn thành phố Nofóc đã biến thành tro tàn. Ở những chỗ còn sót lại, theo lời Bel, lương thực và cả nước đều khan hiếm, dịch sốt nổ ra, người chết nhiều đến nỗi nước kênh đào Hamtơn Rôd ngổn ngang những xác trương phềnh bị sóng đánh dạt vào bờ. "Nghe nói người ta chôn những xác í vào cát và bùn", Luthơ nói. "Mới nị trên các tàu Anh, bao nhiêu nà nhọ đang sắp chít đói và sợ mất vía".
Ngẫm nghĩ về tất cả những sự kiện ghê gớm đó, Kunta cảm thấy rằng, theo một cách sâu xa huyền bí nào đó, mọi đau khổ này chắc hẳn phải có một ý nghĩa nào đó, một lý do nào đó, rằng chuyện này hẳn là do ý Chúa Ala. Sắp tới đây, bất cứ sự gì xảy tới, với cả dân da đen lẫn dân da trắng cũng là do Người định đoạt.
Đầu năm 1776, Kunta và mọi người nghe tin một viên tướng tên là Conoulix chỉ huy nhiều tàu đầy thủy thủ và từ nước Anh tới, định vượt qua "sông Yoóc", nhưng một cơn phong ba lớn đã đánh bạt các tàu đi tứ phía, mỗi chiếc một nơi. Sau đó, lại thấy nói về một cuộc Đại hội lục địa nữa, trong đó một nhóm điền chủ ở Vơginia kiến nghị đòi tách rời hoàn toàn khỏi người Anh. Hai tháng trôi qua, thuần những tin vặt vãnh, rồi một hôm Luthơ từ tỉnh trở về và loan báo rằng sau một cuộc mít-tinh khác vào ngày mồng 4 tháng 7 2, "Tất cả những người da trắng tui gặp đìu quýnh cả nên! Có cái gì nói về Xuyên Ngôn Độc Nập í! Nghe họ bẩu me-xừ Jon Haucoc viết tên mình to tướng tường tương đến nỗi nhà vua chả cần giương mắt cũng nhìn thấy".
Những chuyến sau đi lên tỉnh, Luthơ trở về, mang theo những chuyện nghe lỏm được là ở Baltimo, một hình nộm "vua" to bằng người thật được chở lên xe bò diễu qua các phố rồi quẳng vào một đống lửa liên hoan, xung quanh là một đám người da trắng la hét. "Bạo chúa! Bạo chúa!" Và ở Richmơnd, súng bắn mừng hàng tràng trong khi những người da trắng reo hò, vung đuốc và nâng cốc chúc tụng lẫn nhau. Đi dọc theo xóm nô lặng lẽ, ông già làm vườn nói: "Chả có cái gì đáng cho dân nhọ reo mừng sất. Nước Anh hay nước này, đều nà da trắng tuốt".
Cuối mùa hè ấy, một hôm Bel hớt hơ hớt hải đến xóm nô báo tin một khách dự tiệc cho biết Viện Dân biểu vừa thông qua một nghị định, nói rằng "sắp lấy dân nhọ vào quân đội làm lính đánh trống, thổi kèn hoặc làm quân tiên phong".
"Quân tiên phong là gì?" một lực điền hỏi.
"Nghĩa là bị đẩy lên trước và chết độn đường" bác vĩ cầm nói.
Ít bữa sau, Luthơ mang về một mẩu chuyện hào hứng kể về một trận chiến đấu lớn ở ngay Vơginia, trong đó có nô lệ tham gia ở cả hai bên. Giữa một loạt đạn súng hỏa mai, hàng trăm lính áo đỏ và Bảo thủ cùng một đội phạm nhân và lính da đen đã dồn một lực lượng nhỏ hơn gồm lính cô-lô-nhân" da trắng cùng nhiều tên nô lệ da đen qua một chiếc cầu nhưng một người lính nô lệ tên là Bily Flora ở hậu phương đã nhổ bật nhiều ván cầu vứt đi, khiến quân Anh phải dừng lại và rút lui, cứu thoát đội quân thuộc địa.
"Bổ bựt một cái cầu! ắt hẳn nà một gã nhọ khỏe ghê gớm!" ông cụ làm vườn kêu lên.
Năm 1778, khi quân Pháp tham gia cuộc chiến về phe thuộc địa, Bel truyền đạt lại những tin tức nói rằng hết bang này đến bang khác theo nhau cho phép nô lệ nhập ngũ, hứa sẽ giải phóng cho họ khi chiến thắng. "Bi giờ chỉ còn có hai bang nói không bao giờ để cho dân nhọ chiến đấu, đó là Nam Calina và Jóocjơ".
"Đây là điều hay ho duy nhất tui nghe thấy nói về một trong hai bang í!" bác vĩ cầm nói.
Tuy rất căm ghét chế độ nô lệ, Kunta vẫn cảm thấy việc người da trắng giao súng cho người da đen không thể dẫn tới cái gì tốt đẹp. Trước hết người da trắng bao giờ cũng có nhiều súng hơn người da đen, cho nên mọi cố gắng nổi loạn, rốt cuộc, ắt sẽ thất bại. Và anh liên hệ tới chuyện ở chính quê hương anh, bọn tubốp đã trao súng đạn cho những vua chúa, thủ lĩnh gian ác, để rồi người da đen lại đánh người da đen, làng này chống làng kia và xiềng những người bị thua - chính đồng bào mình - đem bán làm nô lệ.
Có lần Bel nghe thấy ông chủ nói có tới năm nghìn người da đen, cả tự do lẫn nô lệ, tham gia cuộc chiến đang tiếp diễn, và Luthơ thường xuyên mang đến những câu chuyện về người da đen chiến đấu bên cạnh các ông chủ của họ, Luthơ còn kể về những đại đội toàn da đen ở "trên mạn ngược", thậm chí có cả một tiểu đoàn toàn da đen gọi là "Đoàn hán tử nước Mỹ" "Cả đến cũng đại tá cũng nà nhọ" Luthơ nói, "Tên nà Mitđơntơn". Anh hóm hỉnh nhìn bác vĩ cầm. "Bác chả đoán được ông ta nàm gì đâu!".
"Mầy định nói cái gì?" Bác vĩ cầm nói.
"Ông í cũng kéo vĩ cầm! Mà cũng đến núc kéo đờn tí chút rồi đấy!".
Đoạn, Luthơ âm a và hát một bài hát anh ta đã được nghe ở trên huyện. Bài hát dễ thuộc và chẳng mấy chốc những người khác cũng hát theo, còn lấy que gõ nhịp nữa. "Chàng Mỹ ta cưỡi chú ngựa lùn ra tỉnh…" 3. Và khi bác vĩ cầm bắt đầu kéo đàn, đám thiếu niên ở xóm nô bèn nhảy múa và vỗ tay theo nhịp.
Tháng 5 năm 1781 mang đến câu chuyện choáng người về việc bọn kỵ binh áo đỏ phá đồn điền Môntixelô của me-xừ Tômat Jefoxơn. Mùa màng bị hủy hoại, khoa lúa bị đốt cháy, gia súc chạy thất tán, tất cả ngựa và ba mươi nô lệ bị bắt. "Người da trắng bẩu nà cần phải kíu Vơginia", Luthơ thuật lại và ít bữa sau anh kể là dân da trắng rất mừng vì đạo quân của tướng Uosinhtơn đang tiến về đó. "Và trong đó có vô khối nhọ". Tháng 10 mang đến những tin về các lực lượng phối hợp của Uosinhtơn và Lafayét trút đạn vào Yoóctao, tấn công tướng Anh Conoulix. Và chẳng bao lâu, họ được biết nhiều trận chiến đấu khác đang diễn ra dữ dội ở Vơginia, Niu Yooc, Bắc Carôlina, Merơlơn và nhiều bang khác. Rồi đến tuần thứ ba của tháng đó, tin truyền đến khiến cho xóm nô cũng phải reo lên: "Conoulix đầu hàng rồi! Chín tranh kít thúc! Tự do đã giành được!".
Luthơ giờ đây hầu như không có thì giờ để ngủ giữa những chuyến xe đi đi về về và cả đến me-xừ cũng lại mỉm cười - lần đầu tiên trong bao năm theo lời Bel.
"Tui đến đâu cũng thấy dân nhọ gào to y như người da trắng vậy", Luthơ nói.
Nhưng theo lời anh, những người nô lệ ở khắp nơi hoan hỉ nhất là về người anh hùng đặc biệt của mình. "Ông bủ Bily Flora", vừa mới giải ngũ và mang cây súng hỏa mai trung thành của mình trở về Nôfóc.
"Tất cả đến đây!" không bao lâu sau, Bel hô lớn, gọi mọi người ở xóm nô, "me-xừ vừa mới biểu tui người ta chỉ định Philađelphia là thủ đô của Hợp Xủng Cuốc!" 4. Nhưng sau đó, chính Luthơ mới là người báo tin quan trọng: Me-xừ Jefơxơn đã nêu nên một thứ Đạo nuật giải phóng gì đó. Nó nói rằng các ông chủ có quyền cho dân nhọ tự do, nhưng tui nghe thấy nói đám Quêicơ và những người chống chế độ nô nệ mới nị các nhọ tự do trên mạn ngược vẫn tiếp tục kêu gào bởi vì đạo nuật nói nà các ông chủ không bắt buộc phải nàm thé, trừ phi các ông í muốn thế".
Khi tướng Uosinhtơn giải tán quân đội vào đầu tháng 11 năm 1783, chính thức chấm dứt cái mà đa số dân chúng đã bắt đầu gọi là "Cuộc chiến tranh bảy năm", Bel bảo mọi người trong xóm nô: "Me-xừ biểu bi giờ sắp hòa bình rồi".
"Sẽ chẳng bao giờ có hòa bình, chừng nào còn người da trắng", bác vĩ cầm chua chát nói, "bỉ chưng họ chẳng thích cái gì hơn là chém giết". Bác đảo nhanh mắt nhìn các bộ mặt xung quanh. "Rồi các người xem tui nói có đúng không - đối với cánh nhọ chúng ta, sắp tới sẽ còn tệ hơn trước nữa".
Lát sau, Kunta và ông lão làm vườn ngồi bình thản nói chuyện "Cháu đã thấy bao nhiu chuện từ khi cháu đến đây. Thế nà đã bao nâu rồi nhỉ?" Kunta không biết trả lời ra sao và điều đó làm anh bối rối.
Đêm ấy, khi còn có một mình, Kunta bỏ hàng giờ liền, cẩn thận xếp thành từng đống mười hai hòn một tất cả mớ sỏi nhiều màu và mỗi tuần trăng anh vẫn nhất nhất bỏ vào chiếc vỏ bầu, không đơn sai. Kết quả cuối cùng mớ sỏi cho anh biết khiến anh bàng hoàng đến nỗi ông lão làm vuòn không bao giờ được biết đáp số cho câu hỏi của mình. Xung quanh anh, trên nền đất của căn lều là mười bảy đống sỏi. Anh đã trải ba mươi tư vụ mưa! Lạy Chúa Ala, điều gì đã xảy đến với đời anh? Anh đã ở đất người da trắng lâu bằng thời gian anh sống ở Jufurê. Anh có còn là một người Phi nữa không, hay đã trở thành một gã "nhọ", như những người kia tự gọi mình? Thậm chí anh có còn là một người đàn ông nữa không? Anh đã bằng tuổi cha anh, khi hai cha con thấy nhau lần cuối, vậy mà anh chẳng có thằng con nào, không vợ, không gia đình, không làng bản, không nhân dân, không tổ quốc; hồ như không chút quá khứ nào tồn tại thực sự đối với anh nữa - và cũng chẳng hề thấy tương lai. Y như thể Đất nước Gămbia là một giấc mơ anh đã từng thấy lâu lắm rồi. Hay là anh vẫn còn đang ngủ? Và nếu thế, thì liệu có bao giờ anh thức giấc không?
Chương 57
Kunta không có thì giờ ngẫm nghĩ nhiều về tương lai, bởi vì ít ngày sau, một tin đến như cơn lốc làm náo động cả đồn điền. Sau khi quận trưởng cảnh sát tới gặp ông chủ, đóng chặt cửa bàn kín với nhau, Bel hổn hển kể lại rằng, một đầy tớ gái chạy trốn bị bắt về đã thú nhận, dưới làn roi quất, rằng người vẽ đường tẩu thoát cho thị không phải ai khác ngoài gã lái xe cho ông chủ, Luthơ.
Lồng lộn chạy ra xóm nô trước khi Luthơ kịp tẩu thoát, me-xừ Uolơ đưa anh đến giáp mặt với quận trưởng cảnh sát và giận dữ hỏi anh có đúng thế không. Khiếp đảm Luthơ thú nhận là có. Mặt đỏ bừng vì điên khùng, me-xừ giơ tay toan đánh, nhưng khi Luthơ xin tha tội, me-xừ lại hạ tay xuống và đứng ngây đó lặng lẽ nhìn Luthơ hồi lâu, những giọt lệ tức tối trào lên khóe mắt.
Sau cùng, ông nói, rất bình tĩnh: "Quận trưởng, ông hãy bắt tên này cho vào trại giam. Đến kỳ tới, sẽ đem hắn ra bán đấu giá". Và không nói thêm nửa lời, me-xừ quay lưng đi về đại sảnh, bỏ ngoài ta những tiếng nức nở đau đớn của Luthơ.
Những lời bàn tán phỏng đoán xem ai sẽ được chỉ định thay Luthơ lái xe cho me-xừ, vừa khởi lên chưa được bao lâu thì một đêm, Bel ra bảo Kunta là me-xừ cần gặp anh ngay lập tức. Mọi người nhìn theo - nhưng không ai ngạc nhiên - trong khi anh tập tễnh bước vào ngôi nhà theo sau Bel. Tuy đã ngờ ngợ đoán ra tại sao mình được gọi đến, Kunta vẫn thấy hơi rợn vì anh chưa bao giờ nói với ông chủ hoặc đi quá căn bếp của Bel trong ngôi đại sảnh suốt trong mười sáu năm ròng anh ở đồn điền.
Trong khi Bel dẫn anh qua bếp vào một hành lanh, Kunta tròn xoe mắt nhìn sàn nhà bóng lộn và những bức tường cao có phủ giấy. Chị gõ vào cánh cửa lớn có chạm trổ. Anh nghe thấy ông chủ nói: "Cứ vào!" và Bel bước vào trong phòng quay lại vẫy Kunta, mặt thản nhiên như không. Kích thước của căn phòng to như cái kho lúa khiến anh không thể tin được. Sàn nhà bằng gỗ sồi đánh bóng phủ đầy thảm, tường treo tranh và thảm dệt. Đồ đạc, bàn ghế mầu sẫm sang trọng, cân xứng, tất cả đều đánh véc-ni và hàng dãy sách sắp trên những giá đóng thụt vào tường. Me-xừ Uolơ ngồi đọc ở một cái bàn giấy dưới ngọn đèn dầu có chụp tròn bằng thủy tinh xanh và ông ta quay lại đối diện với Kunta, kẹp một ngón tay vào giữa cuốn sách để đánh dấu.
"Tôby, tôi cần một lái xe. Anh đã trưởng thành ở nơi này và tôi tin anh là người trung thực". Đôi mắt to màu xanh của ông ta như xuyên qua Kunta. "Bel nói với tôi là anh không uống rượu bao giờ. Tôi thích thế và tôi cũng đã để ý thấy anh cư xử như thế nào" Me-xừ Uolơ dừng lại. Bel lừ mắt nhìn Kunta. "Nhè, me-xừ", anh vội vàng nói.
"Anh biết chuyện gì xảy đến với Luthơ rồi chứ?" me-xừ hỏi. "Nhè", Kunta nói. Cặp mắt me-xừ nheo lại và giọng ông trở nên lạnh lùng, cứng rắn. "Cẩn thận, kẻo tôi sẽ bán anh đi trong vòng một phút", ông ta nói, "tôi sẽ bán cả Bel nếu hai người không biết điều hơn thế".
Trong khi họ lặng lẽ đứng đó, me-xừ lại mở sách ra. "Thôi được, mai bắt đầu đánh xe cho tôi. Tôi đi Niupo. Tôi sẽ chỉ đường cho đến khi nào anh thuộc". Me-xừ đưa mắt nhìn Bel. "Lấy quần áo tử tế cho nó. Và bảo bác vĩ cầm thay chân Tôby làm vườn nhé".
"Dạ thưa ông chủ", Bel nói và cùng Kunta đi ra.
Bel mang áo quần đến cho anh, nhưng chính bác vĩ cầm và ông lão làm vườn sáng sớm hôm sau đã đích thân giám sát, sửa sang cho Kunta đóng bộ xúng xính trong chiếc quần vải bạt hồ bột, là phẳng phiu và chiếc sơ-mi vải bông gai. Trông không đến nỗi nào, nhưng anh cảm thấy cái cà-vạt đen hẹp bản, mà sau đó họ thắt giúp anh, làm anh có vẻ lô lố thế nào ấy.
"Đánh xe đến Niupo thì đâu phải nà nơi xa nạ gì cứ đi thẳng gần ngay tòa thị chính Xpotxivanya", ông lão làm vườn nói. "Đó nà một trong dững tư thất nớn của dòng họ Uolơ lâu đời".
Bác vĩ cầm - lúc này đã được báo cho biết nhiệm vụ mới của mình cũng như của Kunta - đi quanh anh kiểm tra lần nữa với một vẻ bộc lộ rõ ràng cả hai nét tâm trạng của bác: vừa vui thích vừa ghen tị. "Mầy bi giờ rõ rành là một nhọ khá đặc biệt, không cách chi nói khác được. Chớ có bốc đồng say sưa quá đấy".
Đó là lời khuyên không cần thiết đối với một kẻ - thậm chí sau tất cả những năm tháng đó - vẫn không hề thấy chút phẩm giá nào trong bất cứ việc gì phải làm cho người da trắng. Nhưng ngay cả nếu Kunta có cảm thấy chút phấn khởi nhỏ nào trước cái triển vọng có thể từ bỏ khu vườn lại sau lưng để mở rộng chân trời của mình - như các ông bác Jannê và Xalum của anh đã làm - thì điều đó chẳng mấy chốc cũng bị quên lút đi trong những nhiệm vụ mới tất bật khẩn trương của anh.
Được các bệnh nhân viện đến bất cứ giờ nào, ngày cũng như đêm, me-xừ Uolơ thường gọi Kunta bố nháo bổ nhào ra khỏi lều, đóng ngựa vào xe để phóng miết, cơ hồ đến gẫy cổ, đến những ngôi nhà đôi khi cách đồn điền hàng bao nhiêu dặm, xuôi theo những con đường hẹp, ngoằn ngoèo không nhẵn nhụi hơn vùng nông nông bao quanh là mấy. Tròng trành, nghiêng ngả trên những vết lún và ổ gà, vung roi lia lịa cho đến khi ngựa thở hồng hộc trong khi me-xừ Uolơ níu chặt vào cái ghế sau có mái che, Kunta tỏ ra có biệt tài cầm cương, khiến cho hai thày trò trong mọi trường hợp đều đến đích an toàn, kể cả trong dịp băng tan đầu mùa xuân khi những con đường đất đỏ biến thành như dòng sông bùn phản trắc.
Một buổi sáng sớm, lão Jon, anh trai ông chủ phi ngựa tới, cuống cuồng báo là vợ lão bắt đầu đau đẻ, mặc dầu tính ra, phải hai tháng nữa mới đến ngày ở cữ. Ngựa của me-xừ Jon mệt quá, không thể trở về nếu không được nghỉ và Kunta đã đánh xe chở cả hai anh em về trại của me-xừ Jon vừa đúng lúc. Đôi ngựa của Kunta nóng hừng hực vì chạy quá căng chưa kịp dịu đi tạm đủ để có thể cho uống nước thì đã nghe tiếng trẻ sơ sinh khóc ré lên. Trên đường về, ông chủ cho anh biết đó là một đứa con gái nặng năm "pao"27, đặt tên là An.
Và công việc cứ như thế tiếp diễn. Cũng trong cái mùa hè - thu chạy ngược chạy xuôi túi bụi ấy, xảy ra một nạn dịch sốt nôn đờm đen, khắp hạt đều có người mắc, nhiều đến nỗi me-xừ Uolơ và Kunta chạy chữa không xuể và chẳng bao lâu chính họ cũng bị sốt. Nuốt ực những liều ký ninh thật mạnh để giữ sức tiếp tục đi, họ đã cứu được nhiều sinh mạng hơn là chịu để bệnh nhân chết. Nhưng đời sống của bản thân Kunta thì trở thành một chuỗi nhóa nhòa quyện vào nhau khôn xiết kể những căn bếp trong tư thất các đồn điền, những giấc ngủ chợp trong những túp lều lạ hoặc trong những góc chứa cỏ khô và những giờ đằng đẵng ngồi trên xe bên ngoài những túp nhà lụp xụp hay những đại sảnh, nghe vọng ra vẫn những tiếng kêu đau ấy trong khi đợi ông chủ ra để trở về nhà - hay như thường xảy ra hơn, để tiếp tục đánh xe đến người bệnh sau.
Nhưng me-xừ Uolơ không phải bao giờ cũng đi vào giữa kỳ nguy kịch. Đôi khi, hàng tuần liền không có gì khẩn cấp hơn là những đợt thăm bệnh thường lệ tại nhà hoặc những chuyến đi thăm một trong hàng loạt tưởng như vô cùng tận những bà con, bạn bè có đồn điền ở quanh quanh trong tầm đi lại của xe ngựa. Vào những dịp đó - đặc biệt vào mùa xuân và mùa hè, khi các ruộng cỏ chi chít những hoa, những dâu dại và những đám cây mâm xôi, và các hàng rào vấn vít những cây leo um tùm - cỗ xe thường ung dung lăn bánh đằng sau cặp ngựa hồng đẹp đôi, me-xừ Uolơ đôi khi ngủ gà ngủ gật dưới cái mui đen che nắng. Khắp chỗ chim cun cút bay lên vù vù, chim giáo chủ lông đỏ óng nhảy nhót, chiền chiện và chim đớp muỗi ríu rít. Thi thoảng một con rắn nằm phơi nắng trên đường bị cỗ xe đang đi tới phá đám, trườn mình lủi đi cho yên thân, hoặc một con chim ó vỗ cánh nặng nề rời khỏi chú thỏ chết, bữa ăn dở dang của nó. Nhưng hình ảnh ưa thích nhất của Kunta là một cây sồi hoặc một cây tuyết tùng cô đơn ở giữa cánh đồng; nó đưa tâm tưởng anh trở về với những cây bao-báp của Châu Phi, với câu nói của các bô lão là: ở đâu có một cây bao-báp đứng trơ trọi, ở đó trước đây đã từng có một làng. Những lần đó, anh thường nghĩ đến Jufurê.
Trong những chuyến đi xã giao, ông chủ thường hay đến thăm bố mẹ ở đồn điền Enfin. Tới gần đó - cũng như tất cả những tư thất của dòng họ Uolơ - cỗ xe lăn bánh giữa hai hàng cây to, lâu năm và dừng lại dưới bóng một cây óc chó trên bãi cỏ rộng trước nhà. Tòa dinh thự, to hơn và trông sang hơn nhà ông chủ nhiều, chễm chệ trên một khu đất hơi nhô lên, chon von bên một con sông hẹp nước chảy lờ đờ.
Trong mấy tháng đầu làm công việc lái xe, đám đầu bếp ở các đồn điền khác nhau đã dọn cho Kunta ăn - đặc biệt là Hattie Mac, chị bếp kênh kiệu, phốp pháp, da đen nhánh ở Enfin - đều gườm gườm nhìn anh bằng con mắt xoi mói, thái độ khư khư như ông từ giữ oản giống hệt Bel ở đồn điền me-xừ Uolơ. Tuy nhiên trước tư thế đĩnh đạc, cứng rắn và dè dặt của Kunta, không ai dám ra mặt thách thức anh một cách trực tiếp và anh cứ lặng lẽ ăn kỳ nhẵn đĩa bất cứ món gì họ dọn cho anh, trừ thịt lợn. Cuối cùng họ cũng bắt đầu quen với cung cách trầm lặng của anh và tới lần thứ sáu hay thứ bảy gì đó, ngay cả chị bếp ở Enfin cũng có vẻ đã xác định rằng anh đủ tư cách để trò chuyện và hạ cố nói với anh.
"Anh có biết anh đang ở đâu không?" một hôm, giữa lúc anh đang ăn, chị ta đột ngột hỏi. Anh không trả lời và chị cũng không chờ anh trả lời.
"Cái này đây là nhà đầu tiên của dòng họ Uolơ ở Hạp Xẻng Quốc. Ngoài họ Uolơ, không có ai ở đây tới một trăm năm mươi năm!" Chị nói khi đồn điền Enfin được xây dựng thì chỉ bằng nửa bây giờ, nhưng về sau, một cái nhà khác ở cạnh sông được rỡ đến, ghép thêm vào. "Lò sưởi của chúng tôi là gạch chở bằng tàu từ bên Anh sang", chị ta hãnh diện nói. Trong khi chị tiếp tục kể con cà con kê, Kunta gật gù xã giao nhưng anh chả lấy gì làm thán phục.
Thi thoảng me-xừ Uolơ đến thăm Niupo, nơi đầu tiên Kunta nhận nhiệm vụ đánh xe tới; thật khó mà tin rằng từ đó đến nay, cả một năm trời đã trôi qua. Một ông chú bà cô của me-xừ sống tại đó trong một ngôi nhà mà Kunta thấy rất giống Enfin. Trong khi cánh da trắng đánh chén trong phòng ăn thì chị bếp ở Niupo cho Kunta ăn dưới bếp, diễu qua diễu lại với một xâu chìa khóa ở chiếc thắt lưng da mỏng quấn quanh mé trên tạp dề. Giờ đây, anh đã để ý là mọi nữ quản gia đều mang một chùm chìa khóa như vậy. Anh được biết là trong đó, ngoài những chìa khoá phòng để thức ăn, nhà sấy, hầm ướp lạnh và những chỗ trữ thực phẩm khác, còn có các chìa mở tất cả các phòng lớn phòng nhỏ trong đại sảnh. Tất cả những chị bếp anh gặp đều đi đứng cách nào cho những chìa khóa đó kêu xủng xẻng, ra cái điều mình oai vệ và được tin cẩn biết chừng nào, nhưng không có ai lắc kêu to dữ như cái nhà chị này.
Vào một bữa gần đây, giống như chị bếp ở Enfin, sau khi xác định rằng anh chàng kể ra cũng đường được, chị áp một ngón tay lên môi ra hiệu im lặng và dẫn Kunta rón rén đến một căn buồng nhỏ trong ngôi đại sảnh. Với vẻ phô phang chị ta mở cửa bằng một cái chìa khóa ở thắt lưng, đưa anh vào trong buồng và chỉ vào một bức tường. Trên đó bày ra một loạt những thứ mà chị ta giải thích là gia huy và con dấu bạc của dòng họ Uolơ, một bộ áo giáp, những khẩu súng ngắn bằng bạc, một thanh gươm bạc và quyển sách kinh của đại tá Uolơ.
Hài lòng thấy vẻ kinh ngạc không giấu nổi trên nét mặt Kunta, chị thốt lên: "Cụ cố đại tá lập đồn điền Enfin kia, dưng mà chết chôn ở đây". Và ra ngoài nhà, chị chỉ cho anh thấy ngôi mộ và tấm bia. Sau một phút đang khi Kunta trân trân nhìn vào bia, chị ta hỏi với một vẻ thản nhiên đã luyện đi luyện lại thành thục: "Anh muốn biết nó nói gì không?" Kunta gật đầu và chị ta liếng thoắng "đọc" hàng chữ đã thuộc lòng từ lâu: "Tưởng niệm hồn thiêng Ngài đại tá Jon Uolơ, con trai thứ ba cụ cố ông Jon Uolơ và cụ cố bà Meri Ki, định cư ở Vơginia năm 1635, từ Niupo Paganel, Băckinhgamsiơ".
Ít lâu sau, Kunta được biết nhiều anh chị em họ của ông chủ hiện sống tại Đồi Viễn vọng, cũng thuộc hạt Xpotxylvanya. Giống như Enfin, tòa đại sảnh ở đây có một tầng lầu rưỡi như hầu hết các tư thất rất cổ vì, theo chị bếp ở Đồi Viễn vọng nói với anh, nhà vua đánh thuế phụ vào những nhà có hai tầng lầu. Khác với Enfin, Đồi Viễn vọng có phần nhỏ bé - nhỏ hơn các tư thất khác của dòng họ Uolơ - song bất kể Kunta có nghe hay không, chị bếp cho biết là không nhà nào có hành lang ở cửa vào rộng bằng hoặc có cầu thang tròn dốc như ở đây.
"Anh không lên gác được, dưng anh cũng nên biết trên ấy chúng tôi có dững cái giường bốn cột có trướng, cao đến nỗi phải bắc thang và bên dưới là giường trẻ con có bánh xe lăn. Mà tôi nói cho anh nghe điều này nữa: tất cả giường, gạch lò sưởi, xà nhà, bản lề cửa, mọi thứ chúng tôi có ở đây đều do bọn nô nhọ làm hết".
Ở sân sau, chị ta chỉ cho Kunta nhà dệt vải đầu tiên mà anh thấy và gần đấy là khu nô lệ - gần giống như ở chỗ anh - mé dưới là một cái ao và xa hơn nữa là một nghĩa địa nô lệ. "Tôi biết anh không muốn thấy cái này", chị ta nói, đọc được ý nghĩ của anh. Anh tự hỏi: Liệu chị ta có biết luôn cả rằng mình lấy làm lạ và buồn biết bao khi nghe thấy chị - cũng như biết bao người da đen khác - luôn mồm nói "chúng tôi", làm như chị là chủ cái đồn điền đang dựa vào mà sống, chú không phải ngược lại.
Chương 58
"Làm sao mà mấy tháng qua, me-xừ lại năng đến gặp cái lão anh trai vô tích sự ấy thế nhỉ?" Bel hỏi vậy, sau chuyến đi đến đồn điền me-xừ Jon trở về "Tôi cứ ngỡ hai người í, họ chả thương yêu gì nhau".
"Tui xem dư me-xừ đâm mê mẩn cái con gái con của họ", Kunta mệt mỏi nói.
"Con bé quả có kháu thật", Bel nói. Sau khi tư lự dừng lại một lát, chị nói thêm: "Tôi độ rằng me-xừ thấy mămzes An giống đứa con gái đã mất của me-xừ".
Ý nghĩ đó không hề đến với Kunta, anh vẫn thấy khó mà cho rằng tubốp cũng là những con người thật sự.
"Đến tháng 11 này, nó vừa đầy tuổi tôi phải không?" Bel hỏi. Kunta nhún vai. Anh chỉ biết rằng cái việc chạy đi chạy lại giữa hai đồn điền chỉ tổ cày những vết lún trên đường và làm chai mông anh ra thôi. Mặc dù anh chẳng ưa gì gã lái xe Ruxby mặt quàu quạu của me-xừ Jon, anh nói với Bel rằng anh vẫn hài lòng khi ông chủ mời anh trai đến chơi tuần trước để thay đổi đi một chút.
Hôm ấy, khi tạm biệt, Bel nhớ là nom me-xừ cũng sung sướng chẳng kém đứa cháu gái nhỏ, me-xừ tung nó lên trên không rồi lại đỡ lấy, la hét reo cười, trước khi trao trả nó cho mẹ nó ở trên xe. Lúc ấy Kunta không để ý nhận xét, mà anh cũng bất cần - và anh không hiểu nổi tại sao Bel lại chú ý thế.
Mấy ngày sau, một buổi chiều, trên đường về sau cuộc đến thăm tại nhà một bệnh nhân của me-xừ Uolơ ở một đồn điền cách Niupo không bao xa, ông chủ sẵng giọng nhắc Kunta là anh vừa đi quá một chỗ đáng lẽ phải rẽ. Kunta đã đánh xe mà không nhìn thấy gì, bởi lẽ anh quá bàng hoàng vì những điều vừa thấy ở tư thất người bệnh. Trong khi lẩm bẩm xin lỗi và vội vã quay xe trở lại anh vẫn không sao gạt ra khỏi tâm trí cái hình ảnh người phụ nữ nặng nề, da rất đen có vẻ như người Uôlôf mà anh đã trông thấy ở sân sau. Chị ta ngồi trên một gốc cây cụt, cả hai bầu vú to thỗn thện trật ra, điềm nhiên cho một đứa bé da trắng bú một bên và một đứa bé da đen bú bên kia. Đối với Kunta, đó là một cảnh vừa ghê tởm vừa kỳ lạ, nhưng sau đó, khi anh kể lại cho ông lão làm vườn nghe, ông cụ bèn nói: "Chả có mấy me-xừ ở Vơginia mà không bú một người vú da đen, hoặc ít nhất cũng được một người vú da đen nuôi".
Một điều Kunta thấy quá thường xuyên cũng khiến anh ghê tởm gần như thế - cái kiểu trò "chơi" sỉ nhục diễn ra ở các đồn điền anh tới thăm giữa bọn "nhóc" da trắng và da đen cùng lứa tuổi. Bọn trẻ con da trắng dường như không thích gì hơn là sắm vai "me-xừ" giả vờ đánh bọn trẻ da đen hoặc chơi "cưỡi ngựa" bằng cách trèo lên lưng tụi kia, bắt chúng lồm ngồm bò quanh. Chơi trò "trường học" thì bọn trẻ da trắng "dạy" bọn da đen đọc và viết, tha hồ bạt tai và thét mắng chúng là "ngu đần". Tuy nhiên, sau bữa ăn trưa - lúc đó bọn trẻ da đen phải cầm những cành lá xua ruồi cho me-xừ và cả gia đình - đám con nít da trắng và da đen lại cùng nằm lăn ra chiếu ngủ trưa với nhau.
Sau khi thấy những điều đó, bao giờ Kunta cũng nói với Bel, với bác vĩ cầm và ông lão làm vườn rằng ví dụ anh có sống tới một trăm vụ mưa anh cũng không sao hiểu nổi dân tubốp. Và họ đều cười ồ bảo anh rằng các thứ đó - và còn hơn thế nữa - họ đã thấy suốt đời rồi.
Đôi khi - họ nói với anh - bọn "nhóc" trắng và đen lớn lên bên nhau, trở nên rất gắn bó keo sơn. Bel nhớ lại có hai lần ông chủ được mới đến chữa cho những đứa con gái da trắng đâm ốm khi mấy đứa bạn da đen chơi với chúng suốt từ bé bị bán đi vì một lý do nào đó. Me-xừ Uolơ cho các me-xừ và bà đầm kia biết là nỗi sầu bệnh của con gái họ trầm trọng đến mức chúng có thể càng ngày càng yếu đi mà chết, nếu không mau chóng tìm và mua lại những đứa bạn gái nhỏ kia cho chúng.
Bác vĩ cầm nói có hàng lô hàng lĩ nhóc đen đã học chơi vĩ cầm, clavơxanh hoặc nhiều nhạc cụ khác bằng cách nghe và quan sát trong khi bọn bạn chơi da trắng của chúng được sự dạy bảo của các thầy đờn do các me-xừ giàu có thuê từ bên kia bờ biển sang. Ông lão làm vườn kể rằng ở cái đồn điền thứ hai mua cụ, có một thằng bé da trắng và một thằng bé da đen cùng lớn lên với nhau, về sau cậu chủ đã kéo luôn cả đứa bạn đen của mình vào trường Trung học Uyliêm và Meri. "Me-xừ xì chả xích xế tí nào, dưng bà đầm bỉu: "Đó nà thằng nhọ của nó, nó muốn xế xì mặc nó!" Và về sau, khi thằng nhọ í về, nó kể với bọn ta ở xóm nô nà có ối cậu ấm khác mang theo nhọ nàm đầy tớ, ngủ nuôn cùng một phòng. Nó bỉu có ói nần các cậu ấm mang nhọ tới nớp, rồi sau đó cuộc nhau xem nhọ của ai học được nhiều nhất. Cái thằng nhọ ở đồn điền não không phải chỉ biết đọc biết viết, mà còn có xể nghĩ ra được những bài thơ nữa, nó đọc thơ mí nị dững cái của nợ gì bọn nó học ở tường tung học í. Não bị bán đi vào cái đận í. Chả biết bi giờ nó ra sao?".
"Nó hông chết là may", bác vĩ cầm nói. "Bỉ chưng dân da trắng động một tí là "tình nguy" ngay một thằng nhọ dư thế dễ bề ủ ấp mưu toan nủi dậy, hoặc khởi nghĩa ở một nơi nào đó. Biết nhiều quá có lợi lộc gì đâu, đúng dư tui đã bỉu cái thằng người Phi này khi nó bắt đầu lái xe cho me-xừ. Cứ đóng miệng, mở tai là cách học hỏi tốt nhất…".
Chẳng mấy lâu sau, Kunta thấy ra những lời đó quả chí lý biết bao, khi me-xừ Uolơ mời một người bạn cùng đi xe từ đồn điền này sang đồn điền khác. Trò chuyện với nhau như thể không có Kunta ở đó - và nói những điều mà ngay cả nếu họ không biết có một người da đen ngồi ngay trước mặt, anh cũng đã cho là kỳ lạ - họ phàn nàn là đám nô lệ gỡ sợi bông ra khỏi hạt bằng tay chậm đến phát nản, trong khi nhu cầu về vải bông ngày càng tăng lên nhanh chóng. Họ bàn về cái tình hình càng ngày càng tệ là chỉ có những chủ đồn điền lớn nhất mới đủ tiền mua nô lệ với giá cắt cổ mà bọn buôn nô lệ và nhân viên các tàu mãi nô đòi.
"Nhưng ví như có đủ tiền mua, thì càng đông càng lắm vấn đề chứ chẳng giải quyết được gì", ông chủ nói. "Càng có nhiều nô lệ, càng dễ có cớ cho chúng gây phiến loạn bằng cách nào đó".
"Lẽ ra ta không nên để chúng mang vũ khí đánh nhau với người da trắng trong chiến tranh", bạn ông ta nói. "Bây giờ, ta mới thấy hậu quả!" Ông nay nói tiếp kể chuyện ở một đồn điền lớn gần Friđirichbơg, một số cựu binh nô lệ đã bị bắt ngay trước khi mưu đồ một cuộc nổi loạn, chỉ do một hầu gái nghe phong thanh và nước mắt ngắn nước mắt dài, lên tâu với bà chủ. "Bọn chúng có súng hỏa mai, lưỡi hái, đinh ba, chúng làm cả giáo mác nữa", bạn ông chủ nói. "Nghe nói âm mưu của chúng là: ban đêm giết và đốt phá, ban ngày lẩn trốn, và không ngừng di chuyển. Một trong những tên đầu đảng nói chúng cũng dự kiến đến chuyện hy sinh, nhưng không chịu chết trước khi làm được những điều mà chiến tranh đã chứng minh rằng chúng có thể làm cho người da trắng biết tay".
"Chúng có thể làm phí nhiều sinh mạng vô tội", anh nghe thấy ông chủ nghiêm nghị đáp vậy. Me-xừ Uolơ tiếp tục nói là đã đọc ở đâu đó rằng hơn hai trăm vụ nô lệ dấy loạn đã nổ ra kể từ khi những chuyến tàu mãi nô đầu tiên tới đây. "Hàng bao năm, tôi đã bảo nguy cơ lớn nhất của chúng ta là số nô lệ đang đi đến chỗ đông hơn người da trắng".
"Anh nói đúng!" người bạn thốt lên. "Chẳng còn biết ai ngay, ai gian nữa, nó xun xoe, cười nịnh đấy, rồi lại rắp tâm cắt cổ mình ngay đấy. Thậm chí đến cái đám ở ngay trong nhà mình. Dứt khoát không thể tin được đứa nào trong bọn ấy. Cái đó ở ngay trong bản chất của chúng".
Ngồi ngay ngắn, lưng thẳng đuỗn như tấm ván, Kunta nghe thấy tiếng ông chủ nói: "Là một bác sĩ, tôi đã từng hơn một lần thấy những cái chết của người da trắng mà… thôi, tôi chả đi vào chi tiết làm gì, có điều là tôi thấy một số trường hợp đáng ngờ lắm, chỉ xin nói thế thôi".
Hầu như không cảm thấy dây cương trong tay, Kunta không thể hiểu được làm sao họ lại vô ý một cách kỳ lạ đến thế, dường nhu không hề biết có anh ở đấy. Tâm trí anh xáo lộn lên những điều mà chính anh cũng đã nghe thấy trong gần hai năm trời lái xe cho me-xừ. Anh đã nhiều lần nghe thấy những chuyện xì xào về các đầu bếp và hầu gái xơn xớt cười và cúi gập người trong khi dọn cho chủ những món ăn có chứa những chất thải của chính cơ thể họ. Và anh đã được kể về các bữa ăn của người da trắng có lẫn những mảnh thủy tinh nghiền nát hoặc thạch tín, hoặc những thứ thuốc độc khác. Anh cũng được nghe chuyện về những hài nhi da trắng tự dưng bị hôn mê một cách bí hiểm rồi chết, mà không sao thấy dấu vết chiếc kim mạng do các hầu gái cắm vào da đầu mềm mại của chúng ở chỗ dày tóc nhất. Và một chị bếp đã chỉ cho anh thấy căn lều cũ của một người vú đã làm bị thương nặng một cậu ấm dở thói đánh chị ta, sau đó chị đã ăn đòn nên thân và bị bán đi.
Kunta cảm thấy phụ nữa da đen ở đây còn bướng bỉnh và quật khởi hơn nam giới. Song có lẽ đó chỉ là bề mặt, vì về vấn đề này, phụ nữ thường trực tiếp và cá nhân hơn, họ thường báo thù những người da trắng làm hại bản thân họ. Đàn ông thì có xu hướng kín đáo hơn và ít nhằm báo thù cá nhân hơn. Bác vĩ cầm đã kể cho Kunta nghe về một tên giám thị da trắng bị cha một cô gái da đen treo cổ lên cành cây, sau khi bắt quả tang hắn hiếp con gái mình, song nguyên nhân thường xuyên nhất tạo thành mồi lửa thúc đẩy người da đen bạo động chống người da trắng, là những tin tức về tội ác tàn khốc của người da trắng hay về các cuộc nổi loạn của nô lệ và những điều tương tự như thế.
Ở chỗ của Uolơ, chưa bao giờ có nổi dậy hoặc thậm chí bất cứ sự biến gì, song ngay tại hạt Xpotxylvanya này, Kunta đã từng nghe nói về một số người da đen giấu súng hỏa mai cùng những vũ khí khác và thề sẽ giết me-xừ hoặc bà đầm, hoặc cả hai, và châm lửa đốt đồn điền. Và có một số người trong đám cùng làm việc với anh thường họp kín bàn về mọi điều xấu, tốt xảy đến với dân nô lệ ở những nơi khác và cân nhắc xem có thể hành động như thế nào để giúp họ, nhưng cho đến nay, mới chỉ là bàn suông.
Kunta chưa bao giờ được họ mời tham gia - anh nghĩ có lẽ họ cảm thấy, với cái chân cụt, anh sẽ chẳng giúp ích gì được cho họ nếu có một cuộc dấy loạn thực sự . Dù họ gạt anh ra ngoài vì lý do gì, anh cũng cảm thấy như thế là đúng. Tuy mong cho họ may mắn trong bất cứ công cuộc gì họ quyết định tiến hành, Kunta vẫn không tin rằng một cuộc khởi loạn có thể thành công trước những lực lượng đối địch áp đảo như vậy. Có thể, như me-xừ Uolơ đã nói, ít lâu nữa người da đen sẽ đông hơn người da trắng, song không bao giờ đè bẹp được họ - với chàng nạng, dao bếp và súng hỏa mai lấy trộm được đem chống với những đạo quân tập trung của nước da trắng và những cỗ đại bác của nó.
Nhưng Kunta cảm thấy kẻ địch tệ hại nhất chính là bản thân họ. Ngoài một số thanh niên quật cường, đại đa số nô lệ thuộc loại người làm đích thị những gì bọn chủ mong đợi ở họ, thậm chí không cần phải bảo; cái loại người mà bọn da trắng có thể và thực sự phó thác sinh mạng của con cái chúng; cái loại người cam chịu nhìn đi ngả khác khi tên đàn ông da trắng lôi vợ họ vào nhà chứa cỏ khô. Dào, ngay tại cái đồn điền nay, cũng có một số mà anh dám chắc nếu me-xừ bỏ đấy không cần canh giữ, một năm sau trở lại vẫn sẽ thấy họ vẫn ở nguyên đó làm việc như thường. Chắc chắn không phải vì họ thỏa mãn; trong nội bộ, họ vẫn phàn nàn luôn miệng. Song chẳng bao giờ có quá một dúm người dám phản kháng, nói chi đến chống lại.
Có khi anh đang trở nên giống họ cũng nên, Kunta nghĩ. Hay có lẽ đơn giản là anh đang lớn lên? Hay anh đang già đi? Anh chẳng biết nữa; có điều anh biết chắc là anh đã mất cái hào hứng đấu tranh, bay nhảy và anh muốn được yên thân; anh muốn lo lấy thân mình. Những kẻ không biết lo lấy thân mình, rút cục sẽ đi đến chỗ chết.
Chương 59
Ngủ gà ngủ gật dưới bóng một cây sồi trong sân sau của một đồn điền nơi me-xừ tới chữa bệnh cho cả một gia đình bị sốt, Kunta giật mình thức giấc khi tiếng tù và buổi chiều tà gọi những người nô lệ ngoài đồng trở về. Anh còn đang dụi mắt cho tỉnh ngủ thì họ đã tới sân. Ngước mắt lên trong khi họ tạt qua, trên đường đi rửa ráy để ăn bữa chiều, anh nhận thấy có khoảng từ hai mươi đến ba mươi người. Anh nhìn lại lần nữa. Có lẽ anh còn ngái ngủ hay sao ấy, nhưng quả thật có bốn người trong bọn họ - một đàn ông, một phụ nữ và hai đứa con trai ở tuổi thiếu niên - là dân da trắng.
"Ta gọi họ là dân da trắng làm việc theo giao kèo", chị bạn nấu bếp giải thích vậy, khi anh bày tỏ nỗi kinh ngạc của mình với chị, mấy phút sau. "Họ ở lây lến bi giờ là lược khoảng hai tháng. Ló là một gia đình ở lâu tận bên kia bờ lước lớn. Mông-xừ chi tiền cho tầu họ sang lây, cho lên họ phải làm lô lệ cho mông-xừ bảy lăm để trả lợ. Sau đó, họ tự do dư mọi người da trắng khác".
"Họ sống ở xóm nô à?" Kunta hỏi.
"Họ có lều riêng cách chỗ chúng tôi một quãng, dưng lem nhem dư bọn tôi. Và ra làm lồng, cũng chả được sũng siêu vẹo dột lát dư các lều khác thôi. Và họ cũng ăn lối xử khác gì".
"Họ ra sao?" Kunta hỏi.
"Họ cứ bo bo thân mình dưng mà cũng ổn thôi. Không giống dư ta, dưng mà làm phận sự mình lến lơi lến chốn và không gây sự với ai cả".
Kunta có cảm giác những bạch nô này còn khấm khá hơn phần lớn những người da trắng tự do anh đã thấy trong những chuyến đi tua thăm bệnh của me-xừ. Thường thường, cả tá vừa người lớn vừa trẻ con chui rúc chồng đống lên nhau trong những túp nhà một gian trên những vạt đất đỏ hoặc đất vùng đầm lầy nhỏ bằng bàn tay, họ lậm lụi sống một cuộc sống bần hàn đến nỗi những người da đen đã đùa rỡn đặt một bài hát về họ để cười vui với nhau: "Ôi, lạy Chúa, đừng cho con làm kiếp da trắng nghèo hèn, thà cứ làm dân nhọ còn hơn". Tuy chưa bao giờ thấy tận mắt, song Kunta đã nghe nói một số trong bọn da trắng ấy nghèo đến nỗi phải ăn cả đất. Có điều chắc chắn là họ quả gầy thật, chỉ có da bọc xương, và không mấy ai - kể cả bọn "tí nhau" - còn răng cả. Và người họ hôi hám như thể họ ngủ lẫn với bầy chó mình đầy bọ chét mà nhiều người trong số đó làm thế thật. Cố gắng thở bằng miệng trong khi ngồi trong chiếc xe đậu bên ngoài dẫy lán của họ, đợi me-xừ chữa chạy cho một bệnh nhân nào đó mắc chứng hoại huyết hoặc chứng phung điên, nhìn đám phụ nữ và trẻ con cày bừa, đẵn gỗ, trong khi cánh đàn ông nằm dài dưới một gốc cây với một chiếc vò nâu nâu đựng rượu cùng lũ chó, gãi lấy gãi để, Kunta thấy khá dễ hiểu là tại sao các me-xừ chủ đồn điền và thậm chí cả những nô lệ của họ lại chế giễu và miệt thị họ, gọi họ là "đồ cặn bã da trắng lười nhác, vô tích sự, không đáng kể".
Thực ra, về phần anh, đó là một miêu tả độ lượng về những kẻ vô đạo trơ tráo đến mức có thể phạm mọi tội lỗi chống lại những tiêu chuẩn phép tắc mà cả đến người Hồi giáo có đầu óc báng bổ nhất cũng vẫn tuân thủ. Trong những chuyến đi với me-xừ đến các thị xã lân cận, lần nào anh cũng thấy hàng bầy những người như vậy đi rông xunh quanh tòa thị chính hoặc tiệm rượu ngay cả vào buổi sáng - mặc những bộ quần áo thải xác xơ, nhem nhuốc dầu mỡ và mồ hôi, nồng nặc mùi thuốc lá hôi xì mà họ hút luôn miệng, tu ừng ực cái món "chớp trắng" trong những cái chai bỏ trong túi, cười ha hả và cục cằn thét lác lẫn nhau trong khi quỳ bệt xuống đất trong những ngõ hèm chơi bài tây và xúc xắc ăn tiền.
Đến giữa chiều thì họ hoàn toàn hóa dại: say khướt, hát ông ổng, nhảy cẫng như điên từ đầu phố đến cuối phố, huýt sáo và chớt nhả gọi những phụ nữ đi ngang qua, cãi nhau và văng tục om sòm, và cuối cùng xoay ra gây sự đánh nhau, mới đầu chỉ đẩy hoặc thụi - trong khi những đám đông gồm những kẻ cũng như họ xúm lại xung quanh để cổ vũ - rồi kết thúc bằng các miếng cắn tai, móc mắt, đá vào hạ bộ, bằng những vết thương đẫm máu hầu như bao giờ cũng phải cậy đến sự cấp cứu của me-xừ. Kunta cảm thấy ngay cả những thú dữ ở quê hương anh cũng còn có phẩm giá hơn đám sinh vật này.
Bel luôn luôn kể chuyện về những người da trắng bị phạt roi vì tội đánh vợ và bị xử tù một năm vì hiếp dâm. Chị cũng hay kể chuyện người nọ đâm hoặc bắn chết người kia, tội này bị xử sáu tháng làm nô lệ. Song dù họ có sính dùng bạo lực với nhau bao nhiêu đi nữa, thì kinh nghiệm cá nhân vẫn cho Kunta biết rằng họ còn thích dùng bạo lực đối với người da đen hơn thế. Chính một đám đông những người da trắng nghèo - cả nam lẫn nữ - đã la ó, giễu cợt và thọc que vào người anh cùng các bạn cùm bị giải từ con xuồng lớn xuống. Chính một giám thị da trắng nghèo đã quất roi thỏa sức lên lưng anh ở đồn điền me-xừ Jon. Chính bọn truy bắt nô lệ thuộc loại "cặn bã da trắng nghèo hèn" đã lấy việc chặt chân anh làm vui thích đến thế. Và anh đã từng nghe nói về những người chạy trốn bị bọn "tuần cha tuần bổ" tóm được, chúng không cho họ lựa chọn mà tống cổ họ về đồn điền cũ sau khi hành hạ thân tàn ma dại không còn nhận ra được nữa - và thiến dương vật. Anh chưa bao giờ có thể hình dung ra nổi tại sao những người da trắng nghèo lại ghét người da đen đến như vậy. Có lẽ, như bác vĩ cầm đã nói với anh, đó là tại bọn da trắng giàu; bọn này có tất cả những gì mà họ không có: của cải, quyền lực và tài sản, kể cả những nô lệ được cho ăn, cho mặc, cho nhà ở, trong khi họ phải vật lộn để sống còn. Nhưng anh không thể cảm thấy thương hại họ chút nào, mà chỉ ghê tởm sâu sắc, một nỗi ghê tởm đã trở thành giá băng cùng với năm tháng trôi qua, bởi lẽ một cái rìu do một kẻ trong bọn họ vung lên đã vĩnh viễn kết liễu một cái gì mà đối với Kunta còn quý giá hơn cả chính cuộc đời anh: niềm hy vong được tự do.
Vào cuối mùa hè năm 1786 ấy, Kunta từ trên tỉnh trở về đồn điền với những tin tức làm anh tràn ngập những cảm giác xáo trộn. Dân da trắng đã tụ tập ở mọi góc phố, vung những số Nhật báo và sôi nổi bàn tán xung quanh một câu chuyện đăng trong đó, về việc một số ngày càng đông người Quêicơ không những khuyến khích bọn nô lệ chạy trốn như họ đã từng làm trong nhiều năm, mà giờ đây còn giúp đỡ, che giấu và hướng dẫn bọn chúng đi lên miền Bắc an toàn nữa. Cả dân da trắng nghèo lẫn các me-xừ đều lồng lộn kêu gào trừng phạt bằng cách bôi hắc ín rồi trét lông và thậm chí treo cổ bất kỳ tên Quêicơ nào dù chỉ bị tình nghi là có những hành động phản nghịch như thế. Kunta không tìn là những người Quêicơ hoặc bất kỳ ai khác có thể giúp đỡ được đông đảo nô lệ trốn thoát, và sớm hay muộn, rồi những người này cũng đến bị bắt thôi. Song, có những người đồng minh da trắng - cũng phải cần đến họ chứ - đâu phải là điều thương tổn và cái gì khiến cho bọn chủ nô hoảng hốt đến thế, ắt không thể là điều xấu.
Đêm hôm ấy, sau khi Kunta kể cho mọi người trong xóm nô hay những điều anh đã trông thấy và nghe thấy, bác vĩ cầm bèn nói rằng tuần trước, đàn cho một cuộc khiêu vũ ở tỉnh, bác đã thấy "dững cái mồm há hốc" khi bác dỏng tai nghe lỏm một tay thầy cò nhỏ to thổ lộ với một nhóm điền chủ bự về bản chúc thư của một phú hộ Quêicơ tên là Jon Pliđơn ban bố tự do cho hơn hai trăm nô lệ của mình. Bel đến chậm cũng góp chuyện là chị vừa nghe lỏm thấy me-xừ và một số khách dự tiệc chua chát bàn về việc chế độ nô lệ mới bị thủ tiêu ở một bang phía bắc gọi là "Maxơtauxơt" và có tin đồn rằng những bang khác gần đó cùng làm như vậy.
"Thủ tiêu nghĩa là thế nào?" Kunta hỏi.
Ông cụ gác vườn trả lời: "Nghĩa nà một ngày kia, tất cả cánh nhọ chúng ta sẽ được tự do!".
Chương 60
Ngay cả những lúc không chứng kiến hoặc nghe thấy chuyện gì ở tỉnh để kể cho mọi người, Kunta cũng thấy khoái ngồi với họ quanh đống lửa trước lều bác vĩ cầm. Nhưng gần đây, anh bỗng nhận ra là mình bỏ ít thời giờ để chuyện trò với bác vĩ cầm - mà đã có thời bác là lý do duy nhất khiến anh có mặt ở đó - hơn là với Bel và ông già gác vườn. Đúng ra, không phải hai người đã lạnh nhạt với nhau, nhưng chỉ vì tình hình không như trước nữa và điều đó làm anh buồn buồn. Việc sắp đặt bác vĩ cầm cáng đáng nhiệm vụ làm vườn của Kunta không làm cho họ gần nhau hơn, mặc dầu cuối cùng, bác cũng xoay sở đâu vào đấy. Song điều mà xem chừng bác không thể làm quen được là chẳng bao lâu Kunta đã bắt đầu thế chân bác với tư cách là nguồn thạo tin nhất của đồn điền về những chuyện bên ngoài.
Không ai có thể phán là bác vĩ cầm trở nên ngậm miệng, nhưng càng ngày, những độc thoại trứ danh của bác càng ngắn bớt và càng thưa đi; và bác hầu như không kéo đàn cho họ nghe nữa. Một buổi tối, sau khi thấy bác trầm lặng khác thường, Kunta nêu lên nhận xét ấy với Bel, băn khoăn không hiểu mình có làm hoặc nói điều gì làm bác mếch lòng chăng.
"Anh đừng có tưởng hão!" chị nói với anh. "Hàng tháng nay, bác vĩ cầm chạy ngược chạy xuôi khắp tỉnh kéo đàn cho người da trắng. Bác í mệt rũ ra còn hơi sức đâu liến thoắng cái mồm dư mọi khi, dư thế tui thấy lại tốt đấy. Và bi giờ cứ lần nào đến kéo đàn cho các cuộc liên hoan hội hè đú đởn của người da trắng, mỗi đêm bác í kiếm được một đô-la rưỡi. Dù me-xừ có lấy của bác í một nửa, bác vĩ cầm cũng giữ lại cho mình được bảy mươi lăm xu, cho nên tội gì bác í phải chơi đàn cho cánh nhọ nữa - trừ phi anh muốn làm cuộc quyên góp, xem thử bác í có chơi để kiếm dăm xu chăng".
Chị ngước mắt lên khỏi bếp lò xem Kunta có mỉm cười không. Anh không hé môi. Song giả dụ anh mỉm cười thì hẳn chị sẽ lúng túng. Chị mới chỉ thấy anh mỉm cười có độc một lần - khi anh nghe nói một người nô lệ mà anh quen ở một đồn điền gần đấy trốn thoát an toàn lên mạn Bắc.
"Tui nghe biểu bác vĩ cầm định dành dụm những gì bác í kiếm được để mua lại tự do từ tay me-xừ", chị nói tiếp.
"Đến lúc bác í kiếm được đủ tiền để làm thế", Kunta nghiêm trang nói, "thì đã già quá rồi, chả còn sức mà rời khỏi lều nữa". Bel cười rũ rượi đến nỗi tí nữa ngã vào nồi xúp.
Nếu như bác vĩ cầm không bao giờ kiếm đủ tiền để chuộc lại tự do, thì đó không phải là do thiếu cố gắng, Kunta xác định như vậy sau khi nghe bác chơi đàn tại một cuộc liên hoan vào một đêm sau đó không lâu. Anh đã để me-xừ xuống xe và đang nói chuyện với các lái xe khác dưới một gốc cây ngoài bãi cỏ tối, thì ban nhạc - do bác vĩ cầm đứng đầu, đêm ấy rõ ràng bác ở một trạng thái hào hứng hiếm thấy - bắt đầu chơi một điệu vũ quay tròn Vơginia sôi nổi đến mức cả những người da trắng cũng không giữ yên chân được.
Từ chỗ mình ngồi, Kunta có thể trông thấy bóng những cặp trẻ trung quay cuồng từ phòng lớn ra ngoài hiên qua một cửa, rồi lại vào qua một cửa khác. Kết thúc khiêu vũ, mọi người đứng thành hàng bên một cái bàn dài rực rỡ ánh nến và đầy tú ụ thức ăn đến mức cả một năm ròng, xóm nô cũng không được chừng nấy. Và khi bọn họ đã ăn đầy tễ - cô con gái béo ị của nhà chủ trở lại tới ba lần để lấy thêm - chị bếp bèn cho mang ra một khay thức ăn thừa và một vò nước chanh cho cánh lái xe. Tưởng me-xừ sắp sửa ra về, Kunta ngấu nghiến một cái cẳng gà và một thứ bánh ngọt dính dính thơm ngậy rất ngon mà một tay lái xe gọi là "bánh kem dài". Nhưng các ông chủ mặc com-lê trắng vẫn đứng quanh quẩn, bình thản chuyện trò hàng tiếng đồng hồ, tay cầm xì-gà dài khoa khoa làm điệu bộ, thỉnh thoảng lại nhấm nháp những cốc rượu vang, lấp lánh trong ánh sáng của cây đèn chùm treo trên đầu, trong khi các bà vợ, lộng lẫy trong những chiếc áo dài đẹp, ve vẩy mù xoa và che quạt cười điệu.
Lần đầu tiên đưa me-xừ đến một trong những "cuộc hoa hòe hoa sói nhí nhố" ấy - như Bel thường gọi - Kunta ngợp lên với những cảm xúc trái ngược, kính sợ, bất bình, thèm muốn, khinh bỉ, say mê, ghê tởm - nhưng trên hết là một nỗi cô đơn, u buồn sâu sắc mà anh phải mất gần một tuần mới hồi hồi lại được. Anh không thể tin rằng một sự giàu sang kỳ lạ đến thế lại có thật, rằng người ta thật sự sống như vậy. Phải mất một thời gian dài và qua rất nhiều cuộc liên hoan nữa, anh mới vỡ lẽ ra rằng họ không sống như vậy, rằng mọi cái đó là hư ảo một cách lạ lùng, một thứ mơ mộng huyền diễm của người da trắng, một sự dối trá họ đang nói với nhau: là cái tốt lành có thể từ cái xấu mà ra, là họ có thể văn minh với nhau mà không cần đối xử như con người đối với những kẻ đã đem máu, mồ hôi và sữa mẹ tạo nên cuộc sống đặc quyền đặc lợi họ đang sống.
Kunta đã tính chia sẻ những ý nghĩ đó với Bel hoặc ông lão làm vườn, song anh biết mình không thể tìm ra lời lẽ thích đáng bằng tiếng tubốp để diễn đạt. Dù sao cả hai cũng đã sống ở đây cả đời và không thể trông mong là họ nhìn những cái đó như anh nhìn, với con mắt của một kẻ ngoại cuộc - của một người bẩm sinh tự do. Cho nên, như mọi lần nghĩ về những chuyện như vậy, anh giữ kín trong lòng - và chợt thấy mình ước ao đừng bị cô đơn đến thế, ngay cả sau ngần ấy năm.
Khoảng ba tháng sau, me-xừ Uolơ - "cùng ví hầu hết dững ai là ông nọ bà kia ở bang Vơginia", theo lời bác vĩ cầm - được mời đến dự cuộc Vũ hội ngày Lễ Tạ Ơn mà hằng năm cha mẹ ông ta vẫn tổ chức ở Enfin. Tới muộn vì, như thường lệ, me-xừ vẫn dừng lại thăm bệnh nhân trên đường đi, Kunta nghe thấy cuộc liên hoan đã đang diễn ra rôm rả trong khi cỗ xe lọc cọc trên con đường giữa hai hàng cây dẫn đến ngôi nhà lớn đèn đóm sáng chưng suốt từ trên xuống dưới. Đánh xe đến cửa tiền, anh nhảy xuống đứng nghiêm trong khi người gác cửa đỡ me-xừ xuống xe. Chính lúc bấy giờ anh nghe thấy cái đó. Đâu đây, rất gần, một người nào đang dùng cạnh và gót tay nện trên một trái bầu giống như trống cơm gọi là qua-qua, với một phong thái sắc nét và mãnh liệt khiến Kunta biết ngay nhạc công đó là người Phi.
Anh chỉ còn biết đứng ngây như tượng cho đến khi cánh cửa đóng lại sau lưng me-xừ. Rồi Kunta quẳng dây cương cho chú bé bồi ngựa đang chờ và chạy với hết tốc độ mà bàn chân còn một nửa cho phép anh, quành theo sườn nhà và qua sân sau. Tiếng nhạc mỗi lúc một to lên, dường như vọng đến từ giữa một đám đông người da đen đang vỗ tay, nhảy múa dưới một dãy đèn lồng mà gia đình Uolơ cho phép đám nô lệ thắp để làm Lễ Tạ Ơn của riêng họ. Không đếm xỉa đến những tiếng kêu phẫn nộ của họ trong khi anh chen lấn lấy một lối đi, Kunta nhảy vào giữa vòng trống và đây rồi: một người đàn ông gầy gò, tóc hoa râm, da rất đen ngồi xệp trên mặt đất đánh qua-qua giữa một người chơi măngđôlin và hai người gõ phách bằng xương bò. Thấy náo động đột ngột, họ ngước lên nhìn và cặp mắt Kunta bắt gặp cặp mắt ông già - và một lát sau, hai người gần như nhảy bổ lại với nhau, những người da đen khác ngớ ra rồi cười rúc rích khi thấy họ ôm chầm lấy nhau.
"A-xalakium-xalam!".
"Malakium-xalam!" 1
Lời chào bật ra như thể cả hai chưa từng rời Châu Phi bao giờ. Kunta ru ông già ra cách mình một tầm tay. "Trước nay, tui chưa thấy bác ở đây bao giờ", anh thốt lên.
"Tui vừa được bán đến đây từ một đồn điền khác", người kia nói.
"Me-xừ của tui là con me-xừ của bác", Kunta nói "Tui lái xe cho ông í".
Những người xung quanh bắt đầu lầm bầm, sốt ruột muốn nhạc cử tiếp và rõ ràng là họ không thấy thoải mái trước việc công khai phô bày tính cách Phi như vậy. Cả Kunta lẫn người chơi qua-qua đều biết là không nên gây tâm lý nặng nề thêm cho họ nữa, kẻo một người nào đó trong bọn có thể đi mách với người da trắng.
"Tui sẽ trở lại!" Kunta nói.
"Xalakium - Xalam!" người chơi qua-qua nói và ngồi trở lại.
Kunta đứng đó một lúc trong khi nhạc lại bắt đầu cất lên, đoạn quay phắt đi, lách qua đám đông, đầu cúi gằm - thất vọng và bối rối - trở về xe đợi me-xừ Uolơ.
Suốt những tuần sau, tâm trí Kunta loay hoay với những câu hỏi về người chơi qua-qua. Bác ta thuộc bộ lạc nào? Rõ ràng bác ta không phải là người Manđinka, cũng chẳng thuộc bất cứ bộ lạc nào mà Kunta đã từng thấy hoặc nghe nói tới cả ở Gămbia lẫn trên con xuồng lớn. Mái tóc hoa râm chứng tỏ bác ta đã già; Kunta tự hỏi không biết bác có bằng tuổi Ômôrô bây giờ không. Và làm sao mỗi bên đều cảm thấy bên kia là tôi tớ của Chúa Ala nhỉ? Việc người chơi qua-qua thạo tiếng tubốp như tiếng đạo Hồi chứng tỏ bác ở đất người da trắng đã lâu, có lẽ qua nhiều vụ mưa tại đây hơn Kunta nữa kia. Người chơi qua-qua nói bác vừa được bán cho cha của me-xừ Uolơ, vậy trong ngần nấy vụ mưa trên đất tubốp, bác ta ở đâu?
Kunta duyệt lại trong tâm trí những người Phi khác anh đã tình cờ thấy - không may thay, phần lớn đều vào những lúc cùng đi với me-xừ và thậm chí anh không có cách nào gật đầu chào họ lấy một cái, chưa nói gì đến gặp gỡ - trong ba vụ mưa làm lái xe cho me-xừ. Trong số này, có cả một đôi người rành rành là dân tộc Manđinka nữa kia. Phần lớn những người Phi, anh chỉ thoáng thấy khi đánh xe ngang qua các cuộc bán đấu giá nô lệ sáng thứ bảy. Nhưng sau sự việc xảy ra vào một buổi sáng cách đây sáu tháng, anh đã quyết định không lái xe qua bất cứ nơi nào gần các cuộc đấu giá, chừng nào có thể tránh được mà không để cho me-xừ ngờ ngợ thấy nguyên do. Hôm ấy, trong khi xe đi qua, một phụ nữ trẻ người Jôla bị xiềng thét lên thảm thiết. Ngảnh lại xem có chuyện gì, anh trông thấy cặp mắt mở to của người phụ nữ Jôla dán chặt vào anh ngồi trên chiếc ghế cao của cỗ xe, miệng há hốc gào lên, cầu cứu anh. Lòng tràn ngập một nỗi hổ thẹn xót xa, Kunta quật mạnh roi lên mông cả hai con ngựa khiến chúng gần như chồm hai chân trước lên, làm me-xừ bị xóc ngật về đằng sau, còn Kunta thì hoảng lên vì hành động của mình, nhưng me-xừ không nói gì cả.
Có lần, Kunta gặp một nô lệ Phi trên tỉnh trong khi chờ me-xừ một buổi chiều, nhưng cả hai cùng không hiểu tiếng bộ lạc của nhau và người kia thì lại chưa nói được tiếng tubốp. Kunta thấy dường như không thể tin được là mãi sau hai mươi vụ mưa trên đất người da trắng, anh mới gặp được một người Phi khác có thể chuyện trò với anh.
Nhưng trong hai tháng sau, cho đến sang mùa xuân năm 1788, Kunta thấy hình như me-xừ thăm hết tất cả bệnh nhân, họ hàng bà con và bạn bè trong năm hạt - chỉ trừ có cha mẹ của chính ông ta ở Enfin. Có lần, anh đã tính xin đi phép, điều mà trước nay anh chưa làm bao giờ, song anh biết me-xừ sẽ hỏi đi đâu và để làm gì. Anh có thể nói là đi thăm Liza, chị bếp ở Enfin, song như thế, me-xừ có thể nghĩ là hai người có tình ý gì với nhau, và ông ta có thể nói với cha mẹ và từ đó lại đến tai Liza, rồi anh sẽ bị dây dưa lằng nhằng không bao giờ dứt ra nổi, vì anh biết chị chàng vẫn nhăm nhe anh mà anh thì dứt khoát không đáp lại tình cảm đó, cho nên anh từ bỏ ý định ấy.
Trong sự nôn nóng muốn trở lại Enfin, anh đã bắt đầu đâm bực với Bel - càng bực hơn vì nỗi anh không thể nói chuyện ấy với chị - thừa biết chị vốn ác cảm với mọi cái dính dáng đến Phi châu. Anh nghĩ đến chuyện thổ lộ với bác vĩ cầm và ông lão làm vườn, song cuối cùng lại quyết định rằng, mặc dù họ ắt sẽ không nói với ai khác, nhưng chắc họ không thể đánh giá được tầm quan trọng của việc gặp gỡ chuyện trò với một người cùng quê cha đất tổ sau hai mươi vụ mưa đằng đẵng.
Thế rồi, một ngày chủ nhật sau bữa ăn trưa, không hề báo trước gì cả, me-xừ cho người đến bảo anh đóng ngựa vào xe đi Enfin. Kunta gần như chồm lên khỏi ghế và lao ra khỏi cửa, khiến Bel kinh ngạc nhìn theo đăm đăm.
Liza đang bận bịu giữa đám nồi niêu xoong chảo thì Kunta bước vào bếp. Anh hỏi thăm sức khỏe chị, rồi vội vã nói thêm là anh không đói. Chị nồng nàn nhìn. "Lâu không thấy anh", chị nói, giọng êm ái. Rồi mặt chị bỗng sa sầm. "Tui nghe nói về anh mí cái người Phi mới về đây. Me-xừ cũng nghe thấy. Có mấy nhọ nói mí me-xừ, dưng me-xừ không biểu gì sất, cho nên tui không lo". Chị nắm lấy và bóp mạnh tay Kunta. "Anh đợi một phút thôi".
Kunta cảm thấy mình sắp sửa nổ tung vì sốt ruột, nhưng Liza đã thoăn thoắt làm hai cái bánh mì kẹp thịt bò dày dặn, gói lại và đưa cho anh, một lần nữa bóp mạnh tay Kunta trong tay mình. Đoạn chị dẫn Kunta ra cửa bếp, đến đây, chị ngập ngừng. "Có một điều anh không hỏi tui, nên tui chưa nói với anh - mẹ tui là một nhọ Phi. Có lẽ vì vậy mà tui thích anh đến thế".
Thấy Kunta bồn chồn muốn bỏ đi, chị quay ngoắt và chỉ tay: "Cái lều có úng khói ghĩ là lều lão í. Hầu hết nhọ, me-xừ cho đi chơi hôm nay, đến túi mí về. Chỉ cần anh phải bảo đảm có ở xe trước khi ông chủ anh ra thui!".
Tập tễnh đi thật nhanh về xóm nô, Kunta gõ vào cửa căn lều xiêu vẹo.
"Ai đấy?" vọng ra cái giọng nói mà anh vẫn còn nhớ.
"A-xalakium-xalam!" Kunta nói. Anh nghe thấy tiếng lẹt xẹt của một cử động vội vã và cửa mở toang ra.
Chương 61
Vì cùng là người Phi, nên cả hai đều không tỏ ra mình là người chờ đợi giây phút này biết chừng nào. Người lớn tuổi hơn đẩy chiếc ghế duy nhất của mình mời Kunta, nhưng khi thấy khách ưng ngồi xệp dưới nền đất như thể đang ở một làng bản nào đó nơi quê nhà, thì bác chơi đàn qua-qua e hèm ra chiều hài lòng, thắp cây nến trên cái bàn siêu siêu và cũng ngồi xệp xuống.
"Tui quê ở Gana, thuộc dân tộc Akan. Người da trắng đặt tên cho tui là Pompi, dưng tên thật tôi là Bôteng Bêdiakô. Tui ở đây đã lâu lắm rồi. Qua sáu đồn điền da trắng và hy vọng đây là cái cuối cùng, còn chú thế nào?"
Cố bắt chước cách nói ngắn gọn của người Gana này, Kunta kể cho bác ta về đất nước Gămbia, về việc anh là người Manđinka, về gia đình anh, về việc anh bị bắt và chạy trốn nhiều lần, bị chặt chân, được cắt đặt công việc làm vườn và bây giờ là lái xe.
Bác người Gana chăm chú nghe và khi Kunta nói xong, bác ngồi ngẫm nghĩ một lúc rồi mới lại lên tiếng, "Chúng ta đều đau khổ cả. Người khôn ngoan thì cố mà rút ra bài học từ đó". Bác dừng lại và nhìn Kunta, như đánh giá."Chú bao nhiêu tuổi?" Kunta trả lời ba mươi bảy vụ mưa.
"Trông chú không đến thế, tôi sáu mươi sáu đấy".
"Trông bác cũng không đến thế", Kunta nói.
"Ờ, tui ở đây từ trước khi chú đẻ. Giá dạo í tui biết đôi điều tui học được bi giờ. Dưng mà chú hãy còn trẻ, cho nên tui nói cho chú nghe. Các bà già ở nước chú có kể chuyện cho con cháu nghe không?" Kunta nói có. "Thế thì tui kể cho chú nghe một chuyện. Về cách trưởng thành ở quê tui".
"Tui còn nhớ thủ lĩnh của dân tộc Akan bây tui thường ngồi dư thế nào trong chiếc ghế to tướng làm bằng răng voi và bao giờ cũng có một người cầm lọng che trên đầu ông. Rồi bên cạnh là người kiểu dư thông ngôn cho thủ lĩnh. Ông muốn nói gì hay ai muốn nói với ông, chỉ độc một cách là thông qua người í. Lại có một chú bé ngồi dưới chân thủ lĩnh nữa. Chú bé này tượng trưng cho linh hồn của thủ lĩnh, và chạy tin truyền dững sứ điệp của thủ lĩnh cho dân chúng. Chú bé này mang một thanh gươm dày bản, cho nên ai thấy chú ta đến là biết đích xác chú là người thế nào. Nhớn lên, tui thành chú bé í chạy tin trong nhân dân. Chính là dư thế người da trắng đã bắt tôi cách í"
Kunta toan nói thì ông già Gana đã giơ tay lên ngăn lại.
"Đấy chưa phải là kết thúc câu chuyện. Điều tui muốn nói tới là: trên chóp cái lọng của thủ lĩnh, có khắc một bàn tay cầm một quả trứng. Cái này nhằm biểu người thủ lĩnh phải dùng quyền lực thận trọng dư nâng trứng. Và cái người làm thông ngôn cho thủ lĩnh bao giờ cũng cầm một cây trượng. Trên cây trượng có khắc một con rùa. Rùa nhằm biểu chìa khoá cho cuộc sống là nhẫn nại". Người Gana ngưng một lát. "Và có một con ong được khắc trên mu con rùa í. Nhằm biểu rằng không vòi nào châm qua nổi mu rùa cứng rắn".
Trong ánh nến chập chờn của căn lều, người Gana tạm ngừng, "Đó là điều tui muốn truyền đạt cho chú, điều tui đã học được trên đất người da trắng. Cái chú cần biết nhất để sống ở đây là sự kiên nhẫn - với một cái mu cứng". Nếu ở Châu Phi, Kunta dám chắc con người này phải là một kintangô hay một alcala, nếu không phải đích thị một thủ lĩnh. Song anh không biết phát biểu những cảm nghĩ của mình như thế nào và anh chỉ ngồi yên đó, không nói gì.
"Xem chừng chú có cả hai thứ đó", cuối cùng, người Gana mỉm cười nói. Kunta lúng túng định biện bạch, nhưng lưỡi anh như bị buộc chặt. Người Gana lại mỉm cười, chính bác cũng im lặng một lúc rồi nói tiếp.
"Ở nước tui, họ bảo những người Manđinka là những nhà du lịch và thương gia cừ khôi". Bác tuyên bố lửng lơ như thế, rõ ràng là chờ Kunta nói một điều gì.
Cuối cùng, Kunta mới cất giọng. "Bác nghe nói đúng đấy. Các ông bác tui là những nhà du lịch. Nghe dững chuyện các bác tui thường kể, cứ ngỡ dư họ đã ở khắp mọi nơi. Tui mí cha tui đã có lần đến một làng do hai bác tui mới lập, cách Jufurê xa lắm. Tui đã tính đi La Mếch, đi Timbuktu và đi Mali và mọi nơi hai bác tui đã tới, dưng chưa có dịp thì đã bị bắt lén".
"Tui biết đôi điều về châu Phi" bác người Gana nói.
"Thủ lĩnh biểu các bậc thông thái dậy tui. Tui chưa quên dững lời các bậc í nói. Và tui đã cố gắn dững lời í với những điều tôi nghe được và nhìn thấy từ khi tui ở đây, và tui biết phần đông người bên ta được mang tới đây đều bị bắt lén từ Tây Phi - suốt từ nước Gămbia của chú đổ xuống theo bờ biển tới Ghinêa".
Kunta bắt đầu lo là me-xừ sắp sửa ra về và dễ thường anh để ông ta phải đợi và một phút im lặng trôi qua giữa hai người. Anh đang loay hoay tìm cớ thích hợp để cáo từ thì ông già người Gana nói: "Quả thật ở đây không có ai để ngồi nói chuyện dư tui với chú. Ối lần tôi phải mượn cây đàn qua-qua mà nói những điều trong tâm mình. Dễ thường tôi đã chuyện trò với chú mà không biết có chú ở đấy".
Xúc động sâu sắc, Kunta nhìn thẳng vào mắt người Gana hồi lâu, đoạn cả hai cùng đứng dậy, trong ánh nến, Kunta nhận thấy mình để quên trên bàn hai ổ bánh xăngđuých Liza đã cho anh. Anh chỉ vào đó và mỉm cười. "Chúng ta ăn lúc nào mà chả được. Bi giờ tui biết chú phải đi". Ông già người Gana nói: "Giá ở nước tui, thì trong khi ta trò chuyện với nhau, tui đã đẽo một cái gai thành một vật gì đó để biếu chú rồi."
Kunta nói giá ở Gămbia thì anh đã đẽo một hột soài to phơi khô thành vật gì đó rồi. "Hàng bao nhiu lần, tui đã ao ước có một hột soài giống đem trồng cho nhớn lên để nhắc nhở đến quê nhà", anh nói.
Người Gana trang trọng nhìn Kunta. Rồi bác mỉm cười "Chú còn trẻ chú có ói hạt giống, chú chỉ cần có cô vợ để gieo giống vào thôi".
Kunta luống cuống không biết trả lời ra sao, bác nhạc công người Gana đưa mạnh cánh tay trái ra và hai người bắt tay trái theo kiểu Phi, ý nói sẽ sớm gặp lại nhau.
"A-xalakium - xalam!"
"Malaika - xalam!"
Và Kunta vội vã bước ra, tập tễnh đi trong hoàng hôn sẫm dần qua các túp lều nhỏ khác và hướng về ngôi nhà lớn, băn khoăn không biết me-xừ đã ra tìm mình chưa. Nhưng nửa giờ sau me-xừ mới xuất hiện và trong khi Kunta đánh xe về nhà - hầu như không cảm thấy dây cương trong tay hoặc nghe thấy tiếng vó ngựa trên đường - anh có cảm giác như mình vừa nói chuyện với ông bố Ômôrô thân yêu vậy. Chưa một buổi chiều nào trong đời có ý nghĩa với anh hơn thế.
Chương 62
"Hôm qua tui thấy Tôby đi ngang, tui hò nó: "Nì nhọ, ghé vô ngồi chơi một nhát!" Cụ phải thấy nó nhìn tui dư thế nào, mà thậm chí nó cũng chả nói gì nữa cơ! Cụ đoán là thế nào hỉ?" Bác vĩ cầm hỏi cụ làm vườn. Cụ làm vườn chịu không biết, và cả hai bèn đến hỏi Bel. "Cháu chả rõ nữa, Nếu anh í ốm hay làm sao thì phải hiểu chứ lị. Thôi cháu mặc kệ anh í, anh í làm đến là kỳ!" chị tuyên bố.
Cả đến me-xừ Uolơ cũng nhận thấy gã lái xe đáng tin cậy và dè dặt một cách đáng khen của mình dường như không giống mọi ngày. Ông ta hy vọng đó không phải là giai đoạn ủ bệnh của một dịch truyền nhiễm đang xảy ra ở địa phương mà cả hai thầy trò đều lăn vào chạy chữa, cho nên một hôm ông ta hỏi Kunta có thấy khó chịu trong người không. "Thưa không, me-xừ", Kunta vội trả lời, cho nên me-xừ Uolơ không quan tâm thêm nữa, chừng nào gã lái xe vẫn đưa mình đến nơi đến chốn.
Kunta xao xuyến đến tận tâm can vì cuộc gặp gỡ với người Gana nọ và chính sự việc ấy khiến anh thấy rõ mình đã sa sút biết bao. Ngày lại ngày, năm này qua năm khác, anh đã trở nên kém kiên cường, cam phận hơn cho tới khi, rốt cuộc, anh đã quên mất mình là ai - mà thậm chí cũng không nhận ra điều đó nữa. Đành rằng anh đã đi đến chỗ hiểu hơn và hòa hợp hơn với bác vĩ cầm, cụ làm vườn, Bel và những người da đen khác, song giờ đây, anh biết rằng anh sẽ không bao giờ thực sự là một người thuộc bọn họ được, cũng như họ không thể giống anh. Thực vậy bên cạnh người Gana kia, cả bác vĩ cầm, cả ông lão làm vườn, và cả Bel giờ đây đều làm Kunta bực bội. Anh vui mừng thấy họ lánh xa anh. Ban đêm, nằm trên ổ, lòng anh quằn quại, vò xé bởi cảm giác phạm tội và xấu hổ về những điều anh đã để xảy đến với bản thân. Cái hồi anh thường hay thức giấc đột ngột trong căn lều này, bật lên ngồi thẳng dậy, bàng hoàng phát hiện ra là mình không ở Jufurê, thời ấy anh vẫn còn là một người Phi, nhưng lần cuối cùng xảy ra như vậy cách đây bao năm rồi. Cái hồi mà những hồi ức về đất nước và nhân dân Gămbia là điều duy nhất nâng đỡ anh, thời ấy anh vẫn còn là một người Phi, nhưng bây giờ có khi hàng mấy tháng, anh không hề nghĩ đến Jufurê lấy một lần. Vào những năm đầu, khi mà mỗi tổn thương mới đến khiến anh quỳ gối cầu xin Chúa Ala ban cho sức mạnh và sáng suốt để hiểu ngọn ngành, cái thời ấy anh vẫn còn là một người Phi; đã bao lâu rồi kể từ khi anh cầu Chúa Ala cho đúng phép tắc?
Việc anh học nói tiếng tubốp - anh hiểu ra là thế - đã đóng một vai trò lớn trong chuyển biến đó. Hàng ngày chuyện trò bằng thứ tiếng ấy, thậm chí họa hoằn anh mới nghĩ đến những từ ngữ Manđinka, trừ những tiếng vẫn còn bám chắc vào đầu anh vì một lý do nào đó. Thực vậy, đến nay - Kunta giận giữ nhìn thẳng vào sự thật đó - anh thậm chí nghĩ bằng tiếng tubốp nữa. Trong vô số điều anh làm cũng như nói và nghĩ, kiểu cách Manđinka của anh đã dần dần nhường chỗ cho kiểu cách của những người da đen cùng sống với anh. Điều duy nhất anh cảm thấy còn có thể tự hào tí chút là trong hai mươi vụ mưa, anh chưa bao giờ đụng đến thịt con "ủn ỉn".
Kunta lục soát tâm trí, chắc hẳn cũng còn một phần nào khác của cái bản ngã ban đầu sót lại đâu đấy mà anh có thể tìm ra được. Và nó đây: anh vẫn giữ được phẩm cách. Qua tất cả mọi sự, anh đã mang phẩm cách của mình như đã từng mang những lá bùa xaphi để xua đuổi tà ma, một thời ở Jufurê. Anh nguyện với mình, giờ đây hơn bao giờ hết, phẩm cách phải trở thành tấm lá chắn giữa anh và tất thảy những người tự gọi là "nhọ". Họ chẳng tự biết mình chút nào; họ chả biết gì về tổ tiên như anh đã từng được dạy dỗ từ hồi niên thiếu. Kunta điểm lại trong tâm trí tên tuổi các bậc tiền thân thuộc dòng họ Kintê từ thời thị tộc xưa ở nước Mali cổ qua các thế hệ ở Moritanya, rồi ở Gămbia, cho chí các bậc đàn anh, rồi đến bản thân anh, và anh nghĩ đến mọi thành viên cùng lứa kafô với anh, ai nấy đều hiểu biết kỹ lưỡng về tổ tiên mình như vậy.
Điều đó khiến Kunta nhớ tới các bạn thời thiếu niên. Thoạt đầu anh chỉ ngạc nhiên, nhưng rồi anh đâm choáng váng khi thấy mình không sao nhớ ra tên của họ. Diện mạo họ trở lại trong trí anh - cùng với hồi ức về họ, nào những khi chạy ào ra ngoài cổng làng như bày chim hát, líu lô hộ tống mọi du khách đi ngang qua Jufurê; nào khi lấy que ném những con khỉ chí cha chí chóe cho chúng thoăn thoắt ném trở lại, nào khi thi nhau xem đứa nào ăn được sáu quả soài nhanh nhất. Nhưng tha hồ cố gắng, Kunta vẫn không tài nào nhớ ra tên của họ thậm chí không nhớ được lấy một tên. Anh như thấy cả lứa kafô của mình tập hợp lại, cau mày nhìn anh.
Ở trong lều mình cũng như khi lái xe cho me-xừ, Kunta bóp óc nghĩ. Và cuối cùng từng tên một bắt đầu lần lượt hiện về: phải, Xitafa Xila - cu cậu này với Kunta xưa kia là bạn thân nhất! Rồi đến Kalilu Contê - anh chàng đã rình mò, đuổi bắt con vẹt theo lệnh của kintangô. Xêfô Kêla - anh chàng đã xin Hội đồng Bô lão cho phép làm bạn ngoài hôn thú với chị góa nọ.
Giờ đây, nét mặt của một số huynh trưởng bắt đầu hiện về và đồng thời, cả những cái tên mà anh tưởng đã quên từ lâu. Vị kintangô là Xila Ba Bípba! Vị trưởng tế là Kujali Đemba! Kunta nhớ lại lễ tốt nghiệp cho lứa kafô thứ ba, hôm đó anh đã đọc kinh Koran làu làu, cừ đến nỗi Ômôrô và Binta phấn khởi đem một con dê béo đến tạ arafang tên là Brima Xêxay. Việc nhớ lại được tất cả những con người đó khiến Kunta tràn đầy vui sướng - cho tới khi anh chợt nhớ rằng các bậc huynh trưởng đó giờ đây hẳn đã chết và các bạn cùng lứa kafô với anh ở Jufurê mà anh nhớ lại như là những chú bé, nay cũng đã bằng tuổi anh - và anh sẽ chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Lần đầu tiên trong bao năm, anh khóc ròng mãi đến khi ngủ lịm đi.
Mấy ngày sau trên tỉnh lỵ, một lái xe khác kể với Kunta rằng một số người da đen tự do trên mạn Bắc tự xưng là "Liên hiệp da đen" đã kiến nghị để tất cả người da đen - cả tự do lẫn nô lệ - hồi hương hàng loạt về Châu Phi. Chỉ nghĩ thế, Kunta đã phấn khởi, tuy anh vẫn dè bỉu rằng điều đó có thể không bao giờ xảy ra vì các me-xừ chẳng những đua nhau mua người da đen mà còn trả những giá cao hơn bao giờ hết. Tuy anh biết bác vĩ cầm hồ như thà ở lại Vơginia làm nô lệ còn hơn đi Châu Phi làm người tự do. Kunta vẫn muốn có thể bàn chuyện đó với bác, vì bác vĩ cầm dường như bao giờ cũng thông thạo mọi điều cần biết về những gì đang diễn ra ở bất cứ nơi nào, nếu như sự việc ấy có liên quan đến tự do.
Nhưng đã gần hai tháng, Kunta độc chỉ quàu quạu với bác vĩ cầm cũng như với Bel và ông lão làm vườn. Cố nhiên, không phải anh cần họ hoặc thậm chí ưa thích họ đến thế - nhưng cái cảm giác bị mắc cạn cứ tăng mãi lên trong anh. Đến lúc tuần trăng tiếp theo vừa khởi và anh ảo não bỏ một hòn sỏi nữa vào chiếc vỏ bầu, Kunta cảm thấy cô đơn khôn xiết tả, tựa hồ anh đã tách rời mình ra khỏi thế giới.
Lần sau trông thấy bác vĩ cầm đi qua, Kunta lấp lửng, gật đầu với bác, nhưng bác vĩ cầm vẫn bước tiếp như không trông thấy ai. Kunta vừa giận vừa bối rối. Ngày hôm sau anh và ông lão làm vườn trông thấy nhau cùng một lúc và vẫn đi như thường không lỡ bước nào, ông già rẽ sang hướng khác. Vừa phật ý vừa chua xót - và với một cảm giác phạm lỗi mỗi lúc một tăng - đêm ấy, Kunta đi đi lại lại trong lều hàng giờ liền. Sáng hôm sau, ráng hết sức tự chủ, anh tập tễnh ra ngoài và đi xuôi xóm nô đến cửa căn lều cuối từng đã thân thuộc một thời. Anh gõ cửa.
Cửa mở. "Muốn gì?" bác vĩ cầm lạnh lùng hỏi.
Bối rối nuốt khan đánh ực, Kunta nói: "Nhân tiện tui đi qua ghé vào".
Bác vĩ cầm nhổ toẹt xuống đất "Nè nhọ, bi giờ nghe tau nói nhá, Tau mí Bel, mí ông già đã bàn về mầy. Và tất cả bọn tau nhất trí rằng nếu có cái gì bọn tau không chịu nổi, thì đó là một thằng nhọ tính khí thất thường". Bác nhìn Kunta chằm chằm "Tất cả cái không ổn mí mầy là dư thế! Mầy không ốm mà cũng chẳng làm sao cả"
Kunta đứng nhìn xuống mũi giày. Một lúc sau, cái nhìn của bác vĩ cầm dịu đi và bác ta bước né sang bên. "Mầy đã đến đây, thì vào đi. Dưng tau nói để mầy biết mầy còn giở rắm giở thối ra lần nữa thì chẳng ai thèm nói mí mầy cho đến khi mầy già bằng ông Bành tổ!"
Nuốt giận và tủi nhục, Kunta bước vào lều và ngồi xuống; và sau một hồi im lặng tưởng như bất tận giữa hai người - mà hiển nhiên là bác vĩ cầm không hề có ý định chấm dứt - Kunta cố cưỡng mình nói đến chuyện kiến nghị hồi hương về Châu Phi. Bác vĩ cầm hờ hững nói là bác đã biết từ lâu và không có li leo ông cụ khả năng nào để chuyện đó thành sự thật được.
Thấy vẻ phật ý của Kunta, bác vĩ cầm dường như dịu đi một chút. "Để tau nói cái này tau cuộc là mầy chưa được nghe. Trên mạn Bắc ở Niu Yóoc, có cái gọi là Hội giải phóng nô lệ, nó mở một trường cho các nhọ tự do muốn học đọc học viết và mọi thứ nghề".
Kunta thấy bác vĩ cầm lại trò chuyện với mình như cũ thì sung sướng nhẹ cả người đến nỗi hầu như không nghe thấy ông bạn già nói gì. Mấy phút sau, bác vĩ cầm ngừng nói một lát và ngồi nhìn Kunta, vẻ dò hỏi.
"Mầy có nghe tao nói không?" cuối cùng bác hỏi.
"Hả?" Kunta nói, từ nãy đến giờ anh vẫn triền miên suy nghĩ.
"Tau hỏi mầy một câu từ năm phút rồi".
"Xin lỗi tui đang mải nghĩ"
"Thôi được, vì mầy không biết đường mà lắng tai nghe, để tau bày cách cho mầy". Bác ngồi trở lại và khoanh tay.
"Bác có tiếp tục điều bác đang nói không?" Kunta hỏi.
"Bi giờ tau quên mất tau vừa nói gì rồi. Mầy có quên cái mầy vừa nghĩ không?"
"Cái í không quan trọng đâu. Chỉ là một chuyện làm tui bận óc thôi mà."
"Tốt hơn là gạt phăng nó đi cho khỏi nhức đầu - hay là, nói tau hay".
"Tui không nói được."
"Hừ!" bác vĩ cầm nói làm ra vẻ xúc phạm. "Nếu mầy nghĩ cách í…"
"Không can hệ đến bác đâu. Chuyện riêng thôi mà"
Một tia sáng bắt đầu nhoe nhoe lên trong mắt bác vĩ cầm. Khoan hẵng nói! Chuyện về một con lền bà phải không?"
"Không có gì dư thế mà!" Kunta nói, mặt đỏ bừng luống cuống. Anh ngồi đực ra nín thinh một lúc, rồi đứng dậy và nói "Thôi, tui muộn giờ làm rồi, để tui gặp bác sau nhá. Cám ơn bác đã nói chuyện với tui".
"Đương nhiên phải thế. Khi nào mầy cần chuyện trò dăm ba câu thì cứ bỉu tau".
Làm sao mà bác ấy lại biết nhỉ? Kunta tự hỏi mình trên đường đến chuồng ngựa. Và tại sao bác ta cứ gặng hỏi, ép anh nói về cái đó? Thậm chí Kunta có để cho mình nghĩ đến cái đó cũng chỉ là hết sức miễn cưỡng. Song gần đây, xem chừng anh hầu như không thể nghĩ đến chuyện gì khác. Cái đó có liên quan đến lời khuyên nhủ của ông già Gana về việc trồng hạt giống của anh.
Chương 63
Từ lâu trước khi gặp bác nhạc công người Gana, Kunta đã nhiều lần có một cảm giác trống tuênh trống toang bất kỳ lúc nào anh nghĩ về cái điều là nếu còn ở Jufurê thì giờ đây, anh hẳn đã có ba, bốn thằng con trai - cùng với người vợ đã đẻ chúng ra. Cái nguyên nhân thông thường khuấy lên những suy nghĩ đó là, vào khoảng mỗi tuần trăng một lần, Kunta lại thấy một giấc mơ mà bao giờ anh cũng choàng thức giấc đột ngột trong đêm tối, hết sức bối rối về cái chất dính nháp nong nóng vừa phọt ra từ fôtô anh vẫn còn cứng đơ. Sau đó nằm thao thức, anh ngẫm ngợi hoài, nghĩ về một người vợ thì ít mà chủ yếu về một điều anh biết là hiếm thấy một xóm nô nào mà ở đó một đôi nam nữ thương nhau không bắt đầu đơn giản bằng cách chung sống luôn với nhau trong căn lều nào tốt hơn.
Có nhiều lý do khiến Kunta không muốn nghĩ đến cái mục đôi vợ chồng phải nhảy qua cán chổi 28 một tục lệ mê tín trong các đám cưới), trước chuyện lấy vợ. Một là, chuyện đó hình như lại bao gồm mặt các người làm chứng ở xóm nô, điều mà Kunta thấy lố bịch đối với một dịp long trọng như vậy. Trong một số trường hợp được nghe kể lại, có những gia nhân sủng ái được đưa đến trước một nhà truyền giáo da trắng nào đó, nhắc đi nhắc lại những lời thề nguyền, với sự chứng kiến của me-xừ và bà đầm, nhưng đấy là một nghi thức vô đạo. Nếu muốn cưới ai theo bất cứ cách nào gọi là nghe tạm được, đối với một người Manđinka thì tuổi thích đáng của cô dâu phải là từ mười bốn đến mười sáu vụ mưa, còn chú rể thì khoảng ba mươi. Và trong những năm anh ở trên đất người da trắng, Kunta chưa hề thấy một nữ da đen nào từ mười bốn đến mười sáu tuổi - hoặc thậm chí từ hai mươi đến hai lăm - mà anh không coi là vừa đần độn ngu si vừa hay cười đú đởn vô lối; đặc biệt vào những ngày chủ nhật hay trong những dịp hội hè, các cô ả lại đánh phấn bôi môi khiến anh thấy càng giống đám người nhảy tang ma ở Jufurê thường trát tro đầy người.
Còn như đám phụ nữ từ hai mươi đổ lên mà Kunta đã đi đến chỗ quen biết, phần đông đều là đầu bếp ở các đại sảnh đường, nơi anh thường đánh xe cho me-xừ Uolơ tới, chẳng hạn như Liza ở Enfin. Thực tế, trong tất cả bọn họ, Liza là người duy nhất mà anh muốn gặp. Chị ta không có bạn và với Kunta, chị đã để lộ những dấu hiệu tỏ rõ nỗi mong muốn - nếu không phải là khao khát bồi hồi - được gắn bó chặt chẽ hơn nhiều, nhưng anh chưa bao giờ đáp lại, mặc dầu vẫn thầm nghĩ tới điều đó. Hẳn anh sẽ xấu hổ đến chết nếu như, cách nào đó, chị có thể ngờ ngợ đoán, dù chỉ hơi mang máng, rằng chính vì mơ thấy chị mà hơn một lần, anh tỉnhdậy với cái chất dinh dính kia.
Giả dụ - ấy là nói giả dụ thôi - anh lấy Liza làm vợ, Kunta nghĩ. Thế có nghĩa là, giống như bao cặp vợ chồng khác, họ sẽ phải sống riêng rẽ, mỗi người ở đồn điền của ông chủ mình. Thường thường, chiều thứ bảy, người đàn ông được cấp giấy thông hành để đi thăm vợ, chừng nào anh ta nhất nhất trung thành trở về trước buổi tối chủ nhật để nghỉ ngơi sau cuộc hành trình thường thường là xa, trước khi trở lại làm việc vào sáng sớm thứ hai. Kunta tự bảo là anh không muốn có vợ không sống cùng một chỗ với mình. Và anh tự nhủ vấn đề thế là giải quyết xong.
Song tâm trí anh, tựa hồ như tự động, vẫn tiếp tục nghĩ về chuyện đó. Do tính tình Liza bẻo lẻo nói luôn miệng, át hết tất cả, mà anh thì lại thích có nhiều thì giờ được yên tĩnh một mình, cho nên việc họ chỉ được gặp nhau vào cuối tuần có lẽ lại là một điều hay. Và nếu anh lấy Liza thì không lẽ nào họ lại phải sống như bao cặp vợ chồng da đen khác luôn luôn sợ một trong hai người, hoặc cả hai, có thể bị đem bán, vì xem ra me-xừ rất hài lòng về anh, còn Liza thuộc sở hữu của cha mẹ me-xừ, rõ ràng họ cũng quý chị. Với quan hệ gia đình như thế, chắc không thể nào xảy ra cái kiểu va chạm đôi khi kéo giằng hai ông chủ vào cuộc, thậm chí đôi khi khiến một hoặc cả hai me-xừ đi đến chỗ cấm cuộc hôn nhân nữa.
Mặt khác, Kunta nghĩ…anh cứ lật đi lật lại hoài trong đầu vấn đề này. Nhưng dù anh có nghĩ ra bao nhiêu lý do hoàn toàn vững để lấy Liza, vẫn có một cái gì ngăn lại. Rồi một đêm, trong khi nằm trên giường cố ngủ đi, điều đó bật ra trong trí anh như một tiếng sét! - có một người đàn bà khác mà anh có thể cân nhắc.
Bel.
Anh nghĩ có dễ mình điên chăng. Chị ta gần gấp ba cái tuổi thông thường - có lẽ đến ngoài bốn mươi vụ mưa. Nghĩ gì mà khó nghe vậy.
Bel.
Anh cố hất chị ra khỏi tâm trí. Chị đã lọt vào đó chỉ vì anh đã biết chị quá lâu, anh tự nhủ vậy. Thậm chí, anh chẳng bao giờ nằm mơ thấy chị. Anh hằm hằm nhớ lại cả loạt những sỉ nhục và bực bội chị ta đã gây ra cho anh. Anh nhớ lại chị ta vẫn có cái thói gần như là xập cửa vào mặt anh như thế nào mỗi khi anh mang rổ rau đến bếp cho chị. Rõ nét hơn nữa, anh nhớ lại cái thái độ phẫn nộ của chị khi anh bảo nom chị giống người Manđinka; chị ta là một kẻ vô đạo. Hơn nữa, nói chung, chị ta hay lý sự và lên mặt bà chủ. Và chị ta lắm mồm quá.
Nhưng anh không thể không nhớ lại hồi anh nằm liệt chỉ muốn chết, hằng ngày chị đã đến thăm anh năm, sáu bận như thế nào, chị đã chăm sóc nuôi nấng anh như thế nào, thậm chí lau sạch cứt đái anh bậy lên chính người anh, và mớ thuốc lá của chị đã chữa cho anh dứt cơn sốt như thế nào. Chị lại có sức vóc và khoẻ mạnh. Và chị biết nấu vô số thứ ngon lành trong những nồi niêu xoong chảo đen xì.
Càng thấy chị khá hơn, anh lại càng cục cằn với chị bất cứ khi nào anh phải đến nhà bếp và càng muốn bỏ đi cho mau, khi đã nói để chị rõ mình đến để làm gì. Chị đăm đăm nhìn anh rút lui, thậm chí còn lạnh lùng hơn trước.
Một hôm, sau một lát trò chuyện với ông lão làm vườn và bác vĩ cầm và rất từ từ lái câu chuyện xoay xung quanh Bel, Kunta cảm thấy mình đã lấy đúng cái sắc điệu thản nhiên vừa phải khi anh nói: "Chị ta ở đâu trước khi đến đây nhỉ?" Nhưng tim anh thót lại khi hai người kia lập tức ngồi thẳng lên và nhìn vào anh, cảm thấy có cái gì thoảng trong không.
"À", sau một phút, ông lão làm vườn nói, "não nhớ nà nó đến đây tước cháu độ hai năm. Dưng nó chả bao giờ nói gì nhìu về mình. Thành thử não cũng chả biết gì nhìu hơn cháu".
Bác vĩ cầm nói Bel cũng chẳng kể với bác về quá khứ của chị bao giờ.
Kunta không sao xác định thật đúng ở vẻ mặt của họ có cái gì khiến anh bực mình. À phải, anh thấy ra rồi: đó là cái lối dương dương tự đắc.
Bác vĩ cầm gãi gãi tai phải. "Thật cũng ngộ là mầy hỏi về Bel vào lúc nầy", bác vừa nói vừa hất đầu về phía cụ làm vườn, "bỉ chưng tau mí cụ í cũng vừa bàn về cả hai đứa mầy cách đây không lâu". Bác thận trọng nhìn Kunta.
"Bọn não vừa nói xem ra hai cháu đứa nọ cần có đứa kia đấy", cụ làm vườn nói.
Phật ý, Kunta ngồi há hốc mồm, nhưng không thốt ra được tiếng nào.
Vẫn gãi tai, bác vĩ cầm coi bộ đến là ma mãnh. "Ầu, cái mồng nó to tướng, phần đông các anh lền ông không đủ sức xài"
Kunta cáu tiết mở miệng nói, nhưng ông lão làm vườn cắt ngang, và hỏi độp một cái: "Này chứ, đã bao nhiêu nâu cháu chưa đụng đến nền bà?"
Kunta nhìn gườm gườm. "Chí ít cũng hai mươi năm!" bác vĩ cầm kêu lên.
"Trời, lạy Chúa!" ông lão gác vườn nói. "Tốt hơn nà cháu hãy kiếm nấy một món kẻo rồi héo khô mất đấy!"
"Nó đỏ rừ mặt lên kìa", bác vĩ cầm châm vào. Không đủ sức nói nên lời nhưng vẫn đủ sức tự kiềm chế một lúc nữa, Kunta bật dậy và giậm chân sầm sầm đi ra. "Mầy đừng có lo!" bác vĩ cầm với theo. "Rồi mầy sẽ không héo mãi được với cái con í đâu!".
Chương 64
Trong mấy ngày tiếp theo, hôm nào không phải đánh xe đưa me-xừ đi đâu, Kunta dành cả sáng lẫn chiều để tra dầu mỡ và lau chùi xe. Vì anh ở ngay ngoài chuồng ngựa trước mắt mọi người, nên không ai có thể bảo là anh lại tự biệt lập, nhưng đồng thời công việc này khiến anh luôn bận rộn, không còn thì giờ đâu mà chuyện trò với bác vĩ cầm và ông già làm vườn - mà anh vẫn còn bực vì những điều họ nói về anh và Bel.
Việc tách riêng một mình còn cho anh nhiều thời gian hơn để phân loại những tình cảm của anh đối với chị. Những lúc nghĩ đến điều gì anh không ưa ở chị, chiếc giẻ lau trong tay anh lại loang loáng cọ như điên vào lớp da bọc, và lúc nào cảm nghĩ về chị ưu ái hơn, thì nó khoan thai và sảng khoái chuyển động trên mặt ghế, thi thoảng gần như dừng lại khi tâm trí anh vấn vương với một ưu điểm nào đó khiến không ai giận được chị. Bất kể chị có những khuyết điểm gì đi nữa, anh vẫn phải thừa nhận rằng trong những năm vừa qua, chị đã làm rất nhiều vì những lợi ích tốt đẹp nhất của anh. Anh cảm thấy chắc chắn rằng thậm chí Bel đóng một vai trò kín đáo trong việc gợi cho me-xừ chọn anh làm lái xe. Rõ ràng là theo lối tinh tế của mình, Bel có ảnh hưởng đối với me-xừ hơn bất kỳ ai khác ở đồn điền, hoặc có lẽ hơn cả tất thảy mọi người cộng lại. Và một loạt những điều vụn vặt hơn diễu qua trong óc Kunta. Anh nhớ lại một lần, khi anh còn làm vườn, Bel để ý thấy anh luôn luôn rụi mắt trong cơn ngứa đến phát điên. Chẳng nói chẳng rằng, một buổi sáng, chị ra vườn mang theo mấy cái lá rộng còn ướt sương và rũ cho những hạt sương đó giỏ vào mắt anh, chẳng bao lâu liền hết ngứa.
Chẳng phải anh bớt gay gắt đi chút nào đối với những điều anh không đồng tình ở Bel, nghĩ vậy, chiếc khăn lau lại tăng tốc độ - đặc biệt anh nhớ đến thói quen đáng tởm của chị là hút thuốc lá bằng ống điếu. Càng chướng tai gai mắt hơn nữa, là cái cách nhảy múa của chị mỗi khi có dịp hội hè đình đám trong đám người da đen. Anh không nghĩ rằng phụ nữ không nên nhảy múa, song có nhảy thì cũng nên một vừa hai phải thôi, đừng có cuồng nhiệt quá. Điều làm anh khó chịu là Bel dường như vượt ra ngoài khuôn khổ với cái lối ngoáy mông mà anh chắc đó là lý do khiến bác vĩ cầm và ông lão làm vườn đã nói những điều về chị trong bữa trước. Cố nhiên bộ mông của Bel chả dính dáng gì đến anh; anh chỉ muốn chị tỏ ra tự trọng hơn chút nữa - và luôn thể, tôn trọng anh cùng những người đàn ông khác hơn chút nữa. Cái miệng lưỡi của chị, anh cảm thấy thế, còn nanh nọc hơn cả bà già Nyô Bôtô nữa kia. Anh không phản đối cái tính hay chỉ trích vạch vòi của chị nếu chị giữ những ý kiến chỉ trích cho riêng mình, hoặc trong đám phụ nữ tụ họp với nhau như kiểu ở Jufurê.
Khi Kunta lau xong xe, anh bắt đầu tra dầu mỡ, đánh bong các đồ thắng đai bằng da, và trong khi làm việc này, vì một lý do nào đấy, anh bỗng nhớ đến những ông già ở Jufurê thường hay đẽo các đồ vật bằng những khúc gỗ như cái phiến gỗ hồ đào cao bằng đầu gối anh đang ngồi đây. Anh hình dung lại các cụ thoạt tiên chọn lựa rất cẩn thận, rồi xem xét kỹ lưỡng một khúc gỗ nào đó thật khô trước khi đụng rìu, đụng dao vào.
Kunta đứng dậy và lật khúc gỗ hồ đào nằm ngang ra làm lũ dán ở dưới chạy tán loạn. Sau khi xem xét thật kỹ cả hai đầu khúc gỗ, anh lăn đi lăn lại, lấy một thanh sắt gõ vào nhiều chỗ khác nhau, đều nghe thấy cùng một tiếng khô giòn chắc nịch. Anh thấy cái phiến gỗ hảo hạng này để nằm trơ đây thì chẳng có ích lợi gì. Rõ ràng nó có mặt ở chỗ này chỉ vì một người nào đó đã đặt nó ở đó từ lâu và không ai buồn di chuyển nó đi. Nhìn quanh cho chắc chắn là không có ai theo dõi, Kunta lăn nhanh khúc gỗ về lều mình, dựng đứng nó trong một góc, đóng cửa lại và quay về làm việc.
Đêm ấy, sau khi đưa me-xừ trở về từ một chuyến đi lên tỉnh tưởng như bất tận, Kunta thấy không thể ngồi ăn cho hết bữa tối trước khi ngắm nghía khúc gỗ hồ đào thêm một lần nữa, cho nên anh mang luôn thức ăn về lều. Thậm chí không buồn để ý xem mình đang ăn gì, Kunta ngồi bệt xuống sàn trước khúc gỗ và xem xét nó trong ánh nến chập chờn ở trên bàn. Anh thấy hiện lên trong trí cái cối và cái chày do Ômôrô đẽo cho Binta, đã mòn nhẵn đi qua bao nhiêu lần nghiền giã ngô.
Những khi me-xừ Uolơ không cần đi đâu, Kunta bắt đầu lấy một cái rìu sắc chặt chặt đẽo đẽo khúc gỗ, rập rạp thành hình vành ngoài của một cái cối giã ngô - gọi là để tiêu thì giờ rỗi rãi mà thôi, theo như anh tự nhủ mình. Đến ngày thứ ba, với một cái búa và một cái đục, anh khoét lòng trong cối, cũng mới tàm tạm qua loa, rồi bắt đầu lấy dao đẽo gọt.
Sau một tuần, Kunta ngạc nhiên thấy các ngón tay mình thoăn thoắt cử động xiết bao khéo léo, bởi lẽ phải xét thấy rằng đã hơn hai chục vụ mưa rồi, anh không được xem các già làng chạm khắc đồ dùng.
Khi đẽo xong cả trong lẫn ngoài cối, anh kiếm một cành hồ đào khô già thẳng băng, to bằng cánh tay anh, chẳng mấy chốc đã biến thành cái chày. Đoạn anh bắt tay vào làm nhẵn phần trên của cái cán, mới đầu bào bằng dũa, rồi bằng dao và cuối cùng bằng một mảnh kính.
Xong xuôi đâu đấy, cả cối lẫn chày được đặt trong một góc lều của Kunta khoảng hai tuần nữa. Thỉnh thoảng anh lại ngắm nghía, bụng nghĩ là giá có đặt nó trong bếp của mẹ mình ắt cũng xứng đáng, chẳng hề lạc lõng tí nào. Nhưng giờ đây, hoàn thành rồi, anh phân vân không biết làm gì với nó, chí ít đó cũng là điều anh tự nhủ với mình. Thế rồi, một buổi sáng, thực bụng không hề nghĩ tại sao mình lại làm thế, Kunta cầm lấy bộ cối, chày, mang theo mình khi anh đến hỏi lại Bel xem me-xừ sáng nay có định đi đâu không. Kunta đợi cho chị sây lưng lại và chợt thấy mình đặt cối, chày lên bậc cửa, rồi quay phắt bỏ đi thật nhanh. Khi tai Bel thoáng thấy tiếng bịch nhè nhẹ khiến chị quay người lại, mới đầu chị trông thấy Kunta tập tễnh lảng đi, còn hối hả hơn cả mọi khi, rồi chị nhìn thấy cái cối và cái chày trên bậc cửa.
Đi ra cửa, chị ngó theo Kunta cho đến khi anh khuất bóng, đoạn mở rộng cánh cửa và nhìn xuống bộ cối giã, chị sững cả người. Nhấc bộ cối lên mang vào trong bếp, chị kinh ngạc ngắm nghía những đường chạm khắc công phu, rồi chị bắt đầu khóc.
Đây là lần đầu tiên trong hai mươi năm chị ở đồn điền Uolơ, có một người đàn ông tự tay làm một cái gì cho chị. Chị thấy trào lên trong lòng cái cảm giác phạm lỗi về cách chị đối xử với Kunta và chị nhớ lại gần đây bác vĩ cầm và ông lão làm vườn đã có thái độ đến kỳ cục khi chị phàn nàn với họ về anh. Hẳn họ đã biết chuyện này - song chị không dám chắc vì chị biết Kunta vốn kín miệng và dè dặt như thế nào theo cái tác phong Phi châu của anh.
Bel bối rối không biết nên nghĩ như thế nào - hoặc nên cư xử như thế nào vào lần tới, khi anh đến hỏi lại về chuyện đi đứng của me-xừ sau bữa trưa. Chị lấy làm mừng ít ra cũng còn nốt buổi sáng để quyết định thái độ về chuyện này. Trong khi đó, Kunta ngồi trong lều riêng, cảm thấy như mình là hai người, một lấy làm nhục nhã hết sức vì cái điều rồ dại và lố bịch mà người kia vừa làm - đã thế lại còn phấn khởi và sung sướng hồ như mê cuồng lên về điều đó. Cái gì đã khiến anh làm thế? Chị ta sẽ nghĩ thế nào? Anh thấy sợ phải trở lại bếp sau bữa trưa.
Cuối cùng, tới giờ đó, Kunta lụi hụi lê bước dọc lối đi như thể đang ra pháp trường. Khi thấy bộ cối, chày đã biến khỏi bậc cửa sau bếp, tim anh cùng một lúc vừa nhảy lên vừa thót xuống. Tới chỗ cửa chắn gió, anh thấy là chị đã để nó ngay bên trong, như cách chưa rõ tại sao Kunta lại bỏ nó ở đó. Quay lưng lại khi anh gõ cửa - làm như không nghe thấy anh đi tới - chị cố tỏ ra bình tĩnh khi rút then và mở cửa cho anh vào. Đó là một dấu hiệu xấu; đã mấy tháng rồi, chị không hề mở cửa cho anh. Nhưng anh thì lại muốn vào; tuy nhiên, anh không thể ra mặt đi bước trước này để làm lành. Chôn chân ở chỗ mình đứng, anh thản nhiên hỏi về me-xừ, và Bel, giấu nỗi tổn thương tình cảm và bối rối của mình, cố trả lời cũng với vẻ thản nhiên như thế, rằng me-xừ nói chiều nay không định đi đâu bằng xe cả. Khi Kunta quay lưng định đi, chị nói thêm, lòng khấp khởi hy vọng. "Me-xừ viết thư suốt ngày". Tất cả những gì Bel đã nghĩ sẵn định nói bay biến khỏi đầu và khi anh lại quay lưng định đi, chị nghe thấy miệng mình buột ra "Cái gì đây?", đồng thời khoát tay về phía cái cối và cái chày.
Kunta ước gì mình ở bất cứ nơi nào khác trên trái đất. Nhưng cuối cùng, anh trả lời gần như giận dữ: "Để cho đằng í giã ngô mà". Bel nhìn anh với những niềm xúc động xáo trộn giờ đây lộ rõ trên nét mặt. Nắm lấy sự im lặng giữa đôi bên làm cớ để tháo lui, Kunta quay gót và hấp tấp đi, không nói thêm lời nào. Bel đứng sững đó, cảm thấy mình như kẻ ngây dại.
Trong hai tuần sau, ngoài việc chào hỏi nhau, không ai nói với ai điều gì. Rồi một hôm, ở ngay cửa bếp, Bel đưa cho Kunta một ổ bánh ngô tròn. Lầm rầm cảm ơn, anh mang về lều và ăn ngay chiếc bánh đẫm những bơ và còn nóng nguyên vừa lấy ra khỏi chảo. Anh xúc động sâu sắc. Chắc chắn là chị đã làm bánh bằng bột giã trong chiếc cối anh cho chị. Nhưng ngay cả trước đó, anh đã quyết định phải nói chuyện với Bel. Khi đến hỏi công việc sau bữa trưa, anh gắng gượng nói cái câu anh đã ôn đi ôn lại cẩn thận và thuộc lòng: "Đây muốn nói mới đấy một câu sau khi ăn tối". Bel không trì hoãn câu trả lời quá lâu. "Đây thì thế nào cũng được", chị nói quá vội, đâm tiếc.
Đến giờ ăn tối, Kunta đã đi đến chỗ tự khiến mình lo ngại bồn chồn. Tại sao chị lại nói thế? Có thật chị dửng dưng như vẻ bề ngoài không? Và nếu đúng vậy, tại sao chị lại làm bánh ngô cho anh? Anh cần phải hỏi chị cho ra nhẽ. Nhưng cả anh lẫn Bel đều quên không hẹn đích xác gặp nhau vào lúc nào hoặc ở đâu. Hẳn chị muốn anh gặp chị ở lều của mình, cuối cùng anh khẳng định vậy. Song anh lại hết sức mong muốn có một ca bệnh đột xuất vời đến me-xừ Uolơ. Khi không có gì và biết không thể trì hoãn thêm được nữa, anh thở một hơi thật sâu, mở cửa lều và làm ra bộ thản nhiên, đi nhẩn nha đến chỗ chuồng ngựa. Trở ra ngoài, tay vung vẩy một bộ thắng đái mà anh cho là có thể thoả mãn sự tò mò của bất kỳ người nào tình cờ trông thấy anh và thắc mắc tại sao anh lại quanh quẩn ngoài ấy, Kunta sải bước xuôi xóm nô tới lều Bel và nhìn quanh cho chắc chắn là không có ai - rất sẽ sàng gõ cửa.
Cửa mở ra gần như trước khi khớp đốt ngón tay anh kịp chạm vào mặt gỗ và Bel lập tức bước ra ngoài. Liếc nhìn bộ thắng đái, rồi nhìn Kunta, chị không nói gì - và khi thấy anh cũng lặng thinh, chị bắt đầu chậm rãi đi về phía hàng rào đằng sau; anh sánh bước bên cạnh chị. Vầng trăng nửa vành bắt đầu lên và trong ánh trăng mờ nhạt, họ đi bên nhau không nói một lời. Khi một cây leo bò sát mặt đất vướng vào chiếc giày bên chân trái anh, Kunta vấp rúi - vai anh chạm sượt vào người Bel - và anh gần như vùng ra. Vắt óc tìm một điều gì - bất kỳ điều gì - để nói, anh bỗng cuồng nhiệt ước gì mình đang đi với ông già làm vườn hay bác vĩ cầm, hay thực tế là bất kỳ ai trừ Bel.
Cuối cùng, chính chị đã phá vỡ im lặng. Chị đột ngột nói: "Người da trắng đã đưa tướng Uosinhtơn ra tuyên thệ làm Tổng thống đấy". Kunta những muốn hỏi chị thế là thế nào nhưng lại thôi, hy vọng là chị tiếp tục nói. "Và một me-xừ khác tên là Jon Ađơmz là Phó tổng thống", chị nói tiếp.
Phân vân , anh cảm thấy mình cần nói điều gì để duy trì câu chuyện. Cuối cùng, anh nói: "Hôm qua đây đánh xe cho me-xừ đến thăm con bé của anh trai me-xừ", và lập tức cảm thấy mình ngố vì anh thừa biết là Bel đã biết chuyện đó rồi.
"Lạy Chúa, me-xừ quý con bé í thật!" Bel nói cảm thấy dơ, vì lần nào nhắc đến Mămzen An, chị cũng chỉ nói độc có thế. Im lặng lại sâu thêm chút nữa, rồi chị nói tiếp. "Đây chẳng biết đấy hiểu ngần nào về anh trai me-xừ. Ông í là thư ký toà Thị chính Xpotxylvanya, dưng mà chẳng có đầu óc dư me-xừ của ta đâu", Bel lặng lẽ đi mấy bước nữa. "Đây cứ luôn dỏng tai chộp dững chuyện vặt hở ra. Đây biết vô khối chuyện, biết nhiều hơn người ta tưởng cơ".
Chị đưa mắt nhìn Kunta "Đây chả bao giờ thiết cái me-xừ Jon đâu - và đây chắc đấy cũng thế - dưng có một điều đấy cần biết về ông í, mà đây chưa kể cho đấy nghe bao giờ. Không phải ông í sai chặt chân đấy đâu. Thực ra, ông í đã nổi cáu với bọn cặn bã da trắng mạt hạng làm việc í. Ông í thuê bọn nó đem chó lùng bắt đấy, và bọn nó biểu duyên do bọn nó làm thế là vì đấy định giết một đứa trong bọn bằng một hòn đá". Bel ngừng một lát. "Đây còn nhớ như mới ngày hôm qua quận trưởng cảnh sát Brúc hộc tốc mang đấy tới cho me-xừ của ta". Dưới ánh trăng, Bel nhìn Kunta. "Đấy gần như sắp chết, me-xừ biểu vậy. Me-xừ điên tiết lên khi me-xừ Jon biểu không cần đến đấy nữa vì đấy mất chân rồi, me-xừ thề là sẽ mua đấy của me-xừ kia và me-xừ làm thế thật. Đấy đã xem đích bản chứng thư me-xừ mua đấy. Me-xừ lấy một cái trại lớn cùng với đấy, trừ tiền ông anh trai nợ me-xừ. Đó là cái trại to có cái đầm ở ngay chỗ đường cái lượn quanh, đấy vẫn đi qua luôn í mà".
Kunta nhớ ra ngay cái trại. Anh có thể hình dung ra cái đầm và những cánh đồng bao quanh. "Dưng mà dững vụ giao dịch í chả can hệ gì, vì tất cả dững người trong gia đình Uolơ rất là khăng khít", Bel nói tiếp. "Họ nằm trong số những gia đình lâu đời nhất ở Vơginia. Thực đấy, ngay cả trước khi vượt biển sang đây, họ đã là một gia đình lâu đời ở cái nước Anh. Có đủ các thứ "Ngài" và vân vân, tất cả đều thuộc Giáo hội Anh quốc. Có một người làm thơ, tên là me-xừ Etmơn Uolơ. Em trai ông í, me-xừ Jon Uolơ, là người đến đây trước nhất. Ông mới mười tám tuổi, đây nghe me-xừ kể lại thế, khi vua Tsáclơ Đệ nhị nào đó cho ông một miếng đất lớn ở chỗ bi giờ là hạt Kent".
Trong khi Bel nói, họ chậm bước lại nhiều và Kunta rất bằng lòng thấy chị chuyện trò luôn miệng, tuy anh đã nghe một số đầu bếp khác của gia đình Uolơ kể ít nhất là một đôi điều chị đang nói, cho dù anh sẽ chẳng bao giờ để chị biết thế.
"Quanh quẩn thế nào rồi cái me-xừ Jon Uolơ í lại lấy một mămzen Ki, rồi họ xây cái tư thất Enfin mà đấy vẫn đưa me-xừ đến thăm bố mẹ í. Và họ có ba con giai, đặc biệt Jon-thứ-hai là con út thì vô số chức vị - làm quận trưởng cảnh sát đọc luật vanh vách, rồi vào viện Dân biểu, lại góp công lập nên Fvidirichbơg và tập hợp thành hạt Xpotxylvanya. Chính me-xừ í và bà đầm Đôrôthy đã xây cái tư thất Niupo và hai vợ chồng được sáu người con. Và cố nhiên, họ sinh sôi nảy nở tất cả, con cái nhà Uolơ bắt đầu lan tràn khắp nơi, rồi lớn lên và lại sinh con đẻ cái. Me-xừ nhà ta và các người khác trong họ Uolơ ở quanh đây chỉ là một dúm trong số bọn họ. Cả bọn họ cũng rặt là dững người rất được kính nể, quận trưởng cảnh sát, cha cố, chánh văn phòng, dân biểu hoặc đốc tờ dư me-xừ nhà ta, ói người đã chiến đấu trong cách mạng, đây cũng chả biết hết được.
Kunta bị thu hút vào câu chuyện của Bel đến nỗi anh giật bắn người khi chị dừng bước lại. "Ta về đi thì hơn", chị nói. "Cứ đi vơ vẩn ngoài các đám cây cỏ này hàng giờ thì sáng mai đến ngủ quá giấc mất". Họ lộn lại và khi Bel im lặng một phút còn Kunta cũng chẳng nói gì, chị bèn hiểu rằng anh sẽ chưa thổ lộ với mình cái điều anh mang trong tâm tình, cho nên chị tiếp tục chuyện gẫu về bất cứ cái gì chợt đến trong đầu cho tới lúc họ về đến lều chị; tới đây, chị quay lại đối diện với anh và im lặng. Anh đứng đó nhìn chị một lúc lâu khắc khoải, rồi cuối cùng, anh nói "Ờ đấy nói phải, muộn rồi. Vậy mai gặp lại nhá" Trong khi anh đi khỏi, tay vẫn mang bộ thắng đái. Bel nhận ra là anh chưa hề nói với chị cái điều anh muốn nói. Thôi được, chị tự nhủ - sợ phải nghĩ rằng đó có thể đúng là điều chị dự đoán - trước sau rồi anh ta cũng sẽ phải mon men đến chuyện đó vào đúng lúc của anh ta.
Chị không vội gì cũng phải thôi, vì tuy Kunta bắt đầu bỏ rất nhiều thời gian tới ngồi lì trong bếp của Bel trong khi chị làm việc, song cũng như mọi khi, phần lớn vẫn toàn là chị nói. Nhưng chị thích có anh ngồi đấy nghe. "Đây vừa khám phá ra", một hôm chị bảo anh, "là me-xừ đã viết một tờ di chúc nói rằng nếu me-xừ chết mà không có vợ, các nô lệ của me-xừ sẽ thuộc về mămzen bé An. Dưng di chúc còn nói nếu me-xừ lấy vợ, thì người vợ sẽ được cánh nô lệ chúng ta khi me-xừ chết". Ngay cả như thế Bel hình như cũng chẳng lo lắng vô ích. "Chắc chắn quanh đây, ói nàng thích vớ được me-xừ. dưng me-xừ chẳng bao giờ lấy ai nữa đâu". Chị ngừng một lát, "Cũng dư đây chả lấy ai nữa".
Kunta suýt đánh rơi cái đĩa khỏi tay. Anh dám chắc mình đã nghe đúng ý Bel và choáng người khi biết trước đây Bel đã từng có chồng, bởi vì anh không thể nghĩ rằng một người vợ như ý mình lại không còn là gái trinh. Kunta vội vàng ra khỏi bếp và về lều mình. Anh biết là mình phải suy nghĩ thật kỹ về vấn đề này.
Hai tuần lễ im lặng trôi qua, rồi một hôm Bel thản nhiên mời Kunta đến lều mình ăn tối. Anh sửng sốt đến nỗi không biết nói sao. Anh chưa bao giờ ở một mình trong một căn lều với người đàn bà nào khác ngoài mẹ hoặc bà mình. Điều này ắt là không ổn. Nhưng khi anh không tìm ra lời mà nói, chị bèn dặn anh tới vào lúc nào, và thế là xong.
Anh ngồi trong một cái bồn sắt tây, lấy một cái khăn thô và một bánh xà phòng nâu kỳ cọ từ đầu đến chân. Rồi anh lại kỳ cọ một lần nữa, và thêm lần thứ ba nữa. Đoạn anh lau khô người và trong khi mặc áo quần, anh chợt thấy mình khe khẽ hát một bài hát của làng quê xưa" "Manumbê, cổ em cao, xinh đẹp tuyệt vời…" Cổ Bel không cao, chị cũng chả đẹp song anh phải thừa nhận với chính mình là khi ở gần bên chị, anh có một cảm giác khoan khoái. Và anh biết chị cũng đang cảm thấy thế.
Lều của Bel là căn lều lớn nhất ở đồn điền và ở gần đại sảnh nhất, đằng trước có một vạt đất trồng hoa. Vốn biết căn bếp của chị như thế nào, sự gọn gàng sạch sẽ tinh tươm trong lều không hề làm cho Kunta ngạc nhiên. Căn buồng anh bước vào khi chị mở cửa, có một vẻ tiện nghi ấm cúng, với bức vách gỗ thỏi trát bùn và một ống khói bằng gạch làm lấy từ trên mái loe rộng xuống đến cái lò sưởi lớn, cạnh đó lủng lẳng những dụng cụ nấu nướng bóng lộn. và Kunta nhận thấy là không như lệ thường và như anh, chỉ có một buồng với một cửa sổ, lều của Bel có những hai buồng và hai cửa sổ, cả hai đều lắp cánh trượt có thể kéo xuống khi trời mưa hoặc trở rét. Phòng đằng sau có che rèm, hiển nhiên là chỗ ngủ của chị và Kunta luôn luôn giữ gìn không nghé mắt về phía cửa ấy. Trên cái bàn chữ nhật ở giữa phòng anh đang đứng, có dao dĩa, cùi-dìa đựng trong một cái bình, mấy bông hoa ngắt ở vườn của chị cắm trong một bình khác, và hai cây nến đã thắp trong những giá vững chãi bằng đất sét, và mỗi đầu bàn là một chiếc ghế có thành cao dựa lưng.
Bel mời anh ngồi vào một chiếc ghế đu gần lò sưởi. Anh làm theo, ngồi xuống rất thận trọng, vì anh chưa bao giờ dây vào những thứ máy móc kỳ cục như thế này, nhưng vẫn cố làm ra vẻ tự nhiên như Bel.
"Đây bận quá chưa kịp cả nhóm lửa", chị nói, và Kunta gần như nhảy vọt khỏi chiếc ghế, sung sướng tìm ra một công việc để mó tay vào làm. Đập mạnh hòn đá lửa vào thanh sắt, anh châm vào nắm bông sơ mà Bel đã đặt dưới những nhánh thông nỏ làm nòm cho những thoi gỗ sồi và lửa nhanh chóng bùng lên.
"Chả hiểu sao mà đây lại biểu đấy đến đây, nhà cửa tanh bành ra, mà đây thì chưa kịp soạn sửa gì cả", Bel vừa nói vừa lăng xăng với đống nồi niêu xoong chảo.
"Đây mí đấy việc gì mà vội", Kunta gượng đáp. Nhưng món gà luộc sẵn với bánh hấp mà chị biết Kunta rất thích, chẳng mấy chốc đã sủi ùng ục. Và khi dọn cho anh ăn, chị rầy anh sao mà ngốn ngấu thế. Nhưng anh không vì thế mà bỏ cuộc cho đến đợt thứ ba; Bel ép anh ăn thêm, nói rằng trong nồi vẫn còn chút ít nữa.
"Thôi đây sắp vỡ bụng ra rồi" Kunta thành thật nói. Và sau khi chuyện gẫu thêm mấy phút nữa, anh đứng dậy và bảo mình về. Dừng lại ở cửa ra vào, anh nhìn Bel và Bel nhìn anh, không ai nói gì, đoạn Bel quay mắt đi và Kunta tập tễnh dọc xóm nô về lều mình.
Anh ngủ dậy, lòng phơi phới lâng lâng chưa từng thấy kể từ khi rời châu Phi - nhưng anh không nói cho ai rõ lý do tại sao anh vui vẻ và cởi mở như thế. Song chả nói người ta cũng biết. Họ bắt đầu đồn là có người đã thực mắt thấy Kunta cười tủm tỉm và thậm chí cười to ở trong bếp của Bel. Và thoạt đầu là khoảng mỗi tuần một lần, sau rồi mỗi tuần hai lần, Bel lại mời Kunta đến lều mình ăn tối. Mặc dầu nghĩ bụng rằng thỉnh thoảng cũng phải kiếm cớ thoái thác, song anh không bao giờ đủ sức từ chối. Và Bel luôn luôn nấu những thứ mà Kunta đã cho chị biết ở Gămbia cũng có trồng, chẳng hạn như đỗ đen, mướp tây, lạc ninh hay củ từ rán bơ.
Chuyện trò thì phần lớn nặng về một phía, nhưng xem ra cả hai cùng thấy là chả sao. Đầu đề ưa thích của chị cố nhiên là me-xừ Uolơ và Kunta không bao giờ hết ngạc nhiên thấy Bel hiểu rõ hơn anh biết bao về con người mà anh có biết bao thời gian hơn chị để gần gũi.
"Me-xừ có nhiều cái kỳ lắm", Bel nói "Dư là tin ở nhà băng, thế cũng được thôi, dưng me-xừ còn giấu tiền nữa cơ; trừ đây ra không ai biết chỗ nào đâu…Với các nhọ của mình, me-xừ cũng rất kỳ. Me-xừ làm bất kỳ cái gì cho đám ấy, dưng hễ ai lung tung là me-xừ bán liền, chả hạn dư Luthơ í".
"Còn một cái khác, me-xừ cũng thật kỳ". Bel nói tiếp. "me-xừ không muốn có một nhọ lai nào ở chỗ mình cả. Đấy có bao giờ để ý là, trừ bác vĩ cầm ra, ở đây rặt những nhọ đen cả không? Me-xừ cũng nói rõ ý kiến mình về cái đó nữa cơ. Đây đã nghe thấy me-xừ nói với một trong dững người tai to mặt lớn nhất hạt này - đây muốn nói dững người có nhiều nhọ lai í - là quá nhiều người da trắng có con nô lệ, thành thử họ độc buôn bán máu mủ của chính mình và cái đó cần phải chấm dứt nó đi".
Tuy không bao giờ để lộ ra và chỉ "ừ - ừ" suốt trong khi Bel nói, Kunta đôi khi chỉ nghe bằng một tai, đồng thời nghĩ sang chuyện khác. Một bận, chị hấp cho anh một cái bánh ngô làm bằng bột giã trong bộ cối anh đẽo cho chị, Kunta hình dung chị giã mạch kê làm bữa điểm tâm ở một làng nào đó bên Châu Phi, trong khi chị đứng bên cạnh lò kể cho anh là loại bánh này còn gọi là bánh bàn cuốc vì những người nô lệ, khi làm ngoài đồng, thường đặt nó lên bàn cuốc mà nướng.
Thi thoảng Bel còn đưa cho Kunta một vài món đặc biệt mang cho bác vĩ cầm và ông cụ làm vườn. Dạo này anh ít đến thăm họ hơn trước, nhưng xem ra họ cũng thông cảm và thậm chí thời gian vắng nhau lại làm câu chuyện đậm đà thú vị hơn, mỗi lúc họ gặp nhau. Tuy anh không bao giờ bàn với họ về Bel - và họ cũng không nhắc đến chị - nhưng cứ nhìn nét mặt họ cũng đủ rõ họ thừa biết anh ả đang ve vãn nhau, tựa hồ như các cuộc hẹn hò gặp gỡ của anh ả diễn ra ngay ở bãi cỏ trước mặt vậy. Kunta thấy hơi bối rối, nhưng xem ra anh chẳng thể làm thế nào được - vả lại anh cũng không quan tâm lắm.
Điều anh quan tâm hơn là còn có một số vấn đề nghiêm túc anh cần nêu lên với Bel, nhưng anh không làm sao đề cập tới được. Trong số đó, có vấn đề là Bel vẫn giữ trên bức vách phòng đằng trước một tấm hình lớn, đóng khung, của một ông "Jêxu" tóc vàng hoe, hình như là bà con gì với "Đức Chúa Lời" vô đạo của họ. Nhưng cuối cùng, khi anh đủ can đảm nhắc đến chuyện ấy, thì Bel lập túc nói: "Chỉ có hai nơi để mọi người hướng về, thiên đàng và địa ngục, vậy đấy muốn đi đâu là việc của đấy!" Và chị không nói thêm gì về chuyện ấy nữa. Câu trả lời của chị làm anh thất vọng mỗi lần anh nghĩ tới nó, song cuối cùng anh xác định là chị có quyền theo tín ngưỡng của chị, mặc dầu lầm lạc, cũng như anh đã sinh ra với Chúa Ala và anh sẽ chết với Chúa Ala - mặc dầu anh lại không cầu nguyện Người đều đặn nữa từ khi anh bắt đầu năng lui tới Bel. Anh quyết tâm sửa lỗi đó và hy vọng Chúa Ala sẽ tha thứ cho mình.
Dù sao anh cũng không thể quá nghiệt ngã với một người, dù là công giáo, đã tử tế đến thế với một kẻ khác tín ngưỡng, dù kẻ đó xứng đáng như anh. Thực vậy, chị tốt với anh đến nỗi Kunta muốn làm một cái gì đặc biệt cho chị - một cái gì chí ít cũng đặc biệt như bộ cối giã. Cho nên một hôm, trên đường đi đến me-xừ Jon để đón Mămzen An về chơi cuối tuần với me-xừ Uolơ, Kunta dừng lại bên một lùm cói anh vẫn thường để ý và ngắt mấy cây đẹp nhất anh có thể tìm thấy. Trong mấy ngày sau, với số cói tước nhỏ ra và một ít lá ngô trắng, mềm chọn lựa kỹ càng, anh đan một chiếc chiếu rất cầu kỳ, ở giữa có một hoa văn Manđinka táo bạo. Cái chiếu lúc hoàn thành còn đẹp hơn là anh chờ đợi và anh đem tặng cho Bel vào dịp sau chị mời anh đến ăn bữa tối. Từ chiếc chiếu, chị ngước lên nhìn Kunta. "Sẽ không ai được đặt chân lên đây!" Chị kêu lên, quay lại và biến vào trong buồng ngủ. Một lúc sau trở lại, một tay giấu sau lưng, chị nói: "Cái này định làm quà Tết Giáng sinh cho đấy, dưng đây sẽ làm cho đấy một cái gì khác".
Chị chìa tay ra. Đó là một đôi tất len đan rất đẹp - một chiếc chỉ đến nửa chân, phía dưới lót dầy len mềm. Cả anh lẫn Bel đều chẳng biết nói sao.
Anh ngửi thấy mùi thơm thức ăn chị đang hâm, sắp dọn ra, nhưng một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm khắp người anh trong khi họ vẫn đứng nhìn nhau. Đột nhiên Bel nắm lấy tay anh và thổi một cái tắt cả hai ngọn nến; Kunta có cảm tưởng như mình là một chiếc lá bị dòng suối cuốn băng trong khi họ kéo nhau ào qua cái cửa che rèm vào phòng trong và nằm xuống quay mặt vào nhau trên giường. Nhìn sâu vào mắt anh, chị với tay ra, họ sát lại với nhau, và lần đầu tiên trong ba mươi chín vụ mưa đời anh, Kunta ôm một người đàn bà trong tay.
------------------------------
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top