Hồi 3: Hán Võ (Vũ) Đế
Hán Vũ Đế (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), hay được phiên thành Hán Võ Đế, tên thật Lưu Triệt (劉徹), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con trai thứ 11 của Hán Cảnh Đế, vua thứ sáu của nhà Hán. Khi mới 7 tuổi, Lưu Triệt giành được ngôi Thái tử của huynh trưởng của mình là Lưu Vinh. Năm 141 TCN, sau cái chết của cha, ông kế vị Hoàng đế lúc 16 tuổi và cai trị từ năm 140 TCN đến 87 TCN (54 năm), là vị hoàng đế trị vì lâu nhất trong lịch sử nhà Hán và cả lịch sử Trung Quốc từ sau đời Tần Chiêu Tương vương đến trước đời Khang Hi.
Ông được đánh giá là một hoàng đế tài ba (Hán Vũ thời đại), đã làm nhiều việc củng cố nền cai trị và mở cửa ra bên ngoài. Dưới thời trị vì của ông, nhà Hán đã phát triển lớn về chính trị và quân đội, tiến hành các cuộc xâm lược vào Vệ Mãn Triều Tiên, Dạ Lang, Hung Nô, Nam Việt, Mân Việt, Đông Âu; kết thân và thiết lập quan hệ với các nước ở phía tây, mở rộng lãnh thổ phía đông đến bán đảo Triều Tiên, phía bắc đến vùng sa mạc Gobi, phía nam tới miền Bách Việt và phía tây vươn ra tận Trung Á; ngoài ra ông còn chủ trương sử dụng Nho giáo làm tư tưởng trị nước, nhưng cũng tôn sùng Đạo giáo. Hán Vũ Đế cùng Tần Thủy Hoàng được đánh giá là những vị Hoàng đế vĩ đại bậc nhất trong thời kỳ đầu của Đế quốc Trung Hoa, được xưng tụng bằng cụm từ Tần Hoàng Hán Vũ (秦皇漢武).
Cuối đời, do tin vào thuật trường sinh bất lão, Hán Vũ Đế đã tiêu tốn rất nhiều vàng bạc để đi tìm thuốc trường sinh và tin dùng gian thần Giang Sung, dẫn đến vụ án Vu Cổ vào năm 91 TCN và cái chết của Thái tử Lưu Cứ, con trai trưởng của ông. Ông qua đời ở tuổi 69.
Do kiêng tên húy của Vũ Đế, các sách vở Trung Quốc thời đó phải chép chữ Triệt ra chữ Thông. Sau này một số sách vở dùng tư liệu của đời Hán soạn cũng chép tương tự. Tiểu sử của ông được ghi tại Hán thư, quyển 6 "Vũ Đế kỷ" và Sử ký, quyển 28 "Phong thiện thư".
3.1 Thân thế
Hán Vũ Đế Lưu Triệt là con trai thứ 11 của Hán Cảnh Đế, mẹ là Kế Hoàng hậu Vương Chí. Vương Chí nguyên được gả cho Kim Vương Tôn (金王孙) sinh một con gái là Kim Tục (金俗), sau tái giá với Hán Cảnh Đế được phong vị Mỹ nhân (美人), sinh được ba con gái là Bình Dương Công chúa, Nam Cung Công chúa và Long Lự Công Chúa. Sau đó, Vương Mỹ nhân sinh con trai út là hoàng tử Lưu Triệt.
Lưu Triệt được sinh vào ngày 31 tháng 7, năm 156 TCN. Tương truyền, khi mang thai Lưu Triệt, Vương Mỹ nhân đã nằm mộng thấy mặt trời rơi vào bụng mình, bèn nói lại với Cảnh Đế. Cảnh Đế cho rằng đứa bé đó về sau sẽ phú quý. Do có thân phận hoàng tử nên Lưu Triệt được phong tước vị Giao Đông vương (膠東王) vào năm 153 TCN
Theo Hán Võ cố sự (漢武故事), quyển tiểu thuyết viết về Hán Vũ Đế thì lúc mới sinh ông được đặt tên là Lưu Trệ (劉彘), sau khi làm Giao Đông vương mới đổi lại là Lưu Triệt. Tuy nhiên, các bộ sử chính thống như Sử ký, Hán thư và Tư trị thông giám đều không công nhận điều này, mà cho rằng Hán Võ Đế có một tên duy nhất là Lưu Triệt.
Năm 155 TCN, Hoàng hậu đầu tiên của Cảnh Đế là Bạc thị, không sinh được con nên thất sủng và bị phế. Hậu vị vì thế mà bỏ trống. Lịch Cơ (栗姬), phi tần được sủng ái nhất đã sinh hoàng trưởng tử là Lưu Vinh (劉榮) cho Cảnh Đế nên Lưu Vinh được phong Hoàng thái tử.
Quán Đào công chúa (館陶公主), chị của Cảnh Đế và là cô của Lưu Triệt có con gái tên Trần A Kiều (陈娇), muốn hứa hôn với Lưu Vinh để làm Thái tử phi, sau trở thành Hoàng hậu đại Hán nhưng bị Lịch Cơ khước từ vì hận Quán Đào thường xuyên tiến cử mĩ nữ cho Hán Cảnh Đế. Vương Mỹ nhân thấy vậy bèn tìm cách lấy lòng Quán Đào, hứa sẽ cho Lưu Triệt (năm đó 6 tuổi) thành thân với Trần A Kiều nếu ông được lập làm Thái tử. Quán Đào muốn giúp Lưu Triệt giành ngôi để có lợi cho con gái mình, đồng thời trả thù Lịch Cơ nên thường nói tốt ông trước mặt Cảnh đế và gièm pha mẹ con Lịch Cơ. Khi đó Lịch Cơ ỷ sủng sinh kiêu, lại có con làm Thái tử nên không biết kiêng dè, nhiều khi còn lớn tiếng với cả Cảnh Đế khiến Cảnh Đế không còn sủng ái bà như trước.
Năm 150 TCN, nhân Hán Cảnh Đế giận Lịch Cơ, Quán Đào công chúa cùng Vương Mỹ nhân xúi giục các đại thần trong triều viết tấu xin lập Lịch cơ làm hậu. Đại thần làm theo khiến Cảnh Đế vốn đã tức giận, nghi ngờ việc này do Lịch Cơ xúi giục nên phế Lưu Vinh xuống làm Lâm Giang vương (臨江王) và không đoái hoài đến Lịch Cơ khiến bà uất ức qua đời. Sau đó Cảnh Đế tấn phong Vương Mỹ nhân làm Hoàng hậu và Lưu Triệt làm Thái tử.
Năm 141 TCN, Hán Cảnh Đế qua đời, Lưu Triệt năm ấy 16 tuổi lên nối ngôi, tức Hán Vũ Đế. Ông lập Trần A Kiều làm Hoàng hậu, tôn mẹ là Vương hoàng hậu làm Hoàng thái hậu, và bà nội Đậu Thái hậu làm Thái hoàng thái hậu.
3.2 Hán Vũ Đế và giấc mộng Trung Hoa
Năm 141 TCN, Hán Vũ Đế kế vị Cảnh Đế. Vị vua mười sáu tuổi thông minh và mạnh mẽ, luôn thích liều mạng trong những cuộc săn lớn. Vũ Đế kéo dài thời thịnh vượng của Hán triều. Vũ Đế bắt đầu thời cai trị của mình bằng một nỗ lực không can thiệp vào thương mại và các cơ hội kinh tế, điều này cho phép kinh tế tư nhân phát triển.
Ông vẫn giữ các vị quan dân sự dưới sự quản lý chặt chẽ và trừng phạt sự bất tuân nhỏ nhất cũng như sự không trung thành. Ông kết thúc sự thỏa hiệp của Cảnh Đế bằng một cuộc chiến quý tộc chống lại các hoàng tử có ảnh hưởng nhất của Trung Quốc, và ở tầm địa phương ông trao nhiều quyền lực cho các vị quan đại diện của mình.
Vũ Đế thay đổi luật thừa kế. Thay vì việc đất đai gia đình rơi vào tay người con trai cả, ông trao cho mọi người con trong gia đình phần chia bằng nhau đối với đất đai của ông cha, điều này phá vỡ các khoảnh đất lớn thành cách mảnh nhỏ. Và vào năm 138 TCN, Vũ Đế tiến hành cuộc thám hiểm được biết đến lần đầu tiên của Trung Quốc, Trương Khiên đến Tây Á, phía tây của Đại Hạ để thiết lập quan hệ với Đế Chế Quý Sương (Kushan Empire).
Nhờ nền kinh tế thịnh vượng, Trung Quốc có nhiều khả năng hơn để chi phí chiến tranh. Vũ đế tin rằng ông đủ mạnh để không cần phải cống nạp cho Hung nô, vốn bắt đầu từ thời Lưu Bang nữa. Ông lo ngại rằng Hung nô có thể phái quân vào thảo nguyên miền bắc dân cư thưa thớt của Trung Quốc hay họ có thể lập thành liên minh với người Tạng, và ông muốn lập nên một con đường thương mại nhằm buôn bán với vùng Trung Á bảo đảm được an toàn. Vì thế Vũ đế mở nhiều chiến dịch quân sự. Chúng được các tướng của ông ta chỉ huy, nhưng chúng lại mang lại cho Vũ đế sự công nhận như là một vị vua mạnh mẽ và can đảm.
Việc Vũ đế quay sang chống lại Hung Nô làm tốn nhiều nhân lực nhưng nó giúp đẩy lùi Hung nô ra khỏi biên giới phía bắc Trung Quốc. Có lẽ khoảng hai triệu người Trung Quốc đã di cư đến các vùng mới chinh phục được và Vũ đế thành lập các thuộc địa ở đó với các binh sỹ và nhân viên dân sự của mình. Những người Hung Nô bị bắt phải chuyển sang làm nghề trồng trọt, công nhân xây dựng và lao động tại các trang trại. Một số trong số họ gia nhập quân đội Trung Quốc, gia đình của họ bị bắt buộc phải ở tại nơi cũ làm con tin để đảm bảo họ không phản bội.
Cuộc chiến chống lại Hung nô khuyến khích việc khai phá xa hơn về phía tây. Sau mười ba năm vắng mặt và mười năm bị Hung nô bắt giữ, nhà thám hiểm Trương Khiên quay trở về triều đình Vũ đế và mang theo miêu tả đáng tin cậy đầu tiên về Trung Á. Vũ đế ra lệnh cho Trương Khiên và tay chân quay trở lại Trung Á, và họ đã thu thập thông tin về Ấn Độ và Ba Tư và khám phá các vùng đất trồng trọt màu mỡ ở Bactria. Các cuộc thám hiểm đó, và sự thắng lợi của Trung Quốc trước Hung nô mang lại một sự trao đổi sứ thần thường xuyên giữa Trung Quốc và các nước phía tây, và nó mở ra cho Trung Quốc con đường thương mại dài 4.000 dặm sau này sẽ được biết đến với cái tên Con đường tơ lụa. Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu các ngũ cốc và ngựa tốt, họ cũng bắt đầu trồng cỏ đinh lăng và nho. Vũ đế biết thêm nhiều về nguồn gốc của những hàng hóa mà Trung Quốc nhập khẩu. Để kiếm thêm lợi nhuận ông yêu cầu các nước lân cận trả thuế cho mình để được phép bán hàng cho người dân Trung Quốc, và tiến hành các chiến dịch quân sự nhằm buộc họ phải làm thế.
Trong lúc đó, Vũ đế gửi quân đội của mình tới phía bắc và phía nam. Năm 108 TCN vì muốn kiểm soát vùng đông bắc, Vũ đế chinh phục một vương quốc đang ở thời đồ sắt phía bắc Triều Tiên, vương quốc Cổ Triều Tiên. Đây là một vương quốc tồn tại cùng mức với nhiều tiểu quốc tại Trung Quốc trước khi chúng thống nhất với nhau năm 221 TCN, và nó cũng có nhiều người tị nạn Trung Quốc chạy đến từ những thế kỷ trước. Ở phía nam, quân đội của Vũ đế chinh phục lại những đất đai mà Trung Quốc đã mất trong cuộc nội chiến đưa nhà Hán lên ngôi, gồm cả thành phố cảng Quảng Châu. Những người di cư Trung Quốc theo chân quân đội. Sau đó, với những trận chiến lớn, quân đội của Vũ đế chinh phục phía bắc Việt Nam, một vùng mà người Trung Quốc gọi là An Nam, hay "miền nam yên ổn".
Tuy nhiên về tiếng nói, người Trung Quốc không thể đồng hóa được người Việt Nam. Người Trung Quốc biến người Annam từ cách trồng cấy theo kiểu khai hoang và đốt sang kiểu đời sống ổn định hơn. Họ chia An Nam thành hai vùng hành chính, mỗi vùng có trách nhiệm thu thuế và cung cấp binh sỹ cho triều đình địa phương. Nhưng sự cai trị của Trung Quốc đối với An Nam luôn mong manh, các cánh rừng và núi đồi ở đó cung cấp nơi trú ẩn cho người Việt Nam tiến hành nhiều cuộc khởi nghĩa liên tục và chiến tranh du kích chống lại người Trung Quốc.
Các cuộc chiến mở mang đất đai của Vũ đế và việc cung cấp cho một quân đội chiếm đóng đông đảo là một gánh nặng cho kinh tế Trung Quốc. Chúng lớn hơn nhiều nhưng lợi ích thu lại được từ việc tăng trưởng thương mại theo sau các cuộc chinh phục. Nhập khẩu góp phần thỏa mãn nhu cầu của người giàu hơn là góp phần tăng sinh khí cho kinh tế Trung Quốc. Các quan chức triều đình theo phái Pháp gia thậm chí làm mọi việc trở nên tồi tệ hơn. Họ rất thù địch với những thương nhân, và họ vận động việc triều đình quản lý kinh tế. Dưới ảnh hưởng của họ, triều đình đánh thuế mới trên các tàu và xe buôn bán hai loại hàng mang lại nhiều lợi nhuận nhất trong công nghiệp của Trung Quốc đó là muối và sắt. Và với việc triều đình ngày càng can thiệp sâu, kinh tế suy yếu.
Tích tụ ruộng đất đã từng làm thay đổi nông nghiệp của đế quốc La Mã giờ đây cũng làm thay đổi nông nghiệp Trung Quốc, ngoại trừ việc dân số vùng nông thôn Trung Quốc đã tăng lên. Với việc ruộng đất của người giàu ngày càng tăng và nông dân cũng tăng, một sự thiếu hụt đất đai xuất hiện. Quan liêu tiểu quý tộc tìm cách ngăn chặn sự bấp bênh bằng cách mua đất và thường lợi dụng ưu thế của mình để làm việc đó, và thông thường họ có thể miễn trừ thuế cho đất đai của mình. Những người dân thường phải chịu phần thuế nặng hơn, dẫn tới kết quả là họ phải vay mượn nhiều hơn – với lãi rất nặng. Khả năng sản xuất nông nghiệp giảm sút. Nhiều nông dân bị đuổi đi hay bị buộc phải rời bỏ đất đai, làm cho tiểu quý tộc càng có nhiều đất hơn. Một số nông dân rời ruộng đất để làm nghề ăn cướp, và một số nông dân bắt buộc phải bán con làm nô lệ.
Chế độ bắt lính và bắt lao động cũng làm tăng sự bất mãn của nông dân. Học giả nổi tiếng Trung Quốc Đổng Trọng Thư, bất bình trước cảnh tuyệt vọng của người dân và ông đã bày tỏ những lo lắng về tình trạng suy tàn của xã hội. Ông phàn nàn về sự mở rộng to lớn của những vùng đất của người giàu trong khi người nghèo không có chỗ đứng chân. Ông phàn nàn rằng những người canh tác trên đất của người khác phải mất năm mươi phần trăm thu hoạch cho chủ đất. Đổng Trọng Thư công nhận sự bất mãn đối mặt với những người nông dân không thể có tiền để mua công cụ bằng sắt, những người phải trồng cấy bằng dụng cụ gỗ và phải nhổ cỏ bằng tay. Ông phàn nàn rằng người dân thường phải bán mùa màng của mình khi giá thấp và sau đó lại phải vay tiền vào mùa xuân để bắt đầu gieo hạt khi mức lãi rất cao. Và ông phàn nàn về việc hàng nghìn người bị giết hàng năm vì tội ăn cướp.
Đổng Trọng Thư đề nghị Vũ đế một phương thuốc chữa khủng hoảng kinh tế: giảm thuế đánh vào người nghèo và giảm số nhân công bắt buộc mà người dân phải thực hiện cho nhà nước; bãi bỏ độc quyền nhà nước về muối và sắt; và cải thiện phân phối đất đai bằng cách hạn chế số đất sở hữu của mọi gia đình. Không một đề xuất nào của Đổng Trọng Thư được thi hành. Vũ đế muốn nông dân được phồn thịnh nhưng ông quá bị ảnh hưởng bởi bọn quý tộc nhỏ quan liêu những người cai trị địa phương ở mọi cấp. Cuộc vận động cải cách do những người theo Khổng giáo đề xuất nhưng những quý tộc Khổng giáo lại không chống lại quyền lợi kinh tế của mình. Sự trả lời quan trọng duy nhất của Vũ đế cho sút giảm kinh tế là đánh thuế cao hơnvào người giàu và gửi điệp viên đi khám phá các vụ trốn thuế. Ông không muốn phân phối lại đất đai, không muốn tấn công những chủ đất giàu có, tin rằng ông cần sự hợp tác của họ để có tiền chi cho các chiến dịch quân sự...
3.3 Vì sao Vũ Đế giết những cung phi sinh con cho mình?
Trước lúc băng hà, Hán Vũ đế bỗng hạ lệnh xử tội chết Câu Dặc phu nhân và tất thảy cung phi trong triều đã sinh con cho ông. Nhưng ít ai biết nguyên nhân đằng sau là gì?
Hán Vũ đế là hoàng đế thứ 7 của nhà Tây Hán. Trong suốt 54 năm trị vì đất nước (từ 140 TCN – 87 TCN), vị vua này nổi tiếng là minh quân sáng suốt với những đường lối cai trị hợp lòng dân. Nếu trong thời Lưu Bang, Hán Văn đế, Hán Cảnh đế, số lượng cung phi trong triều chỉ có hạn, thì tới giai đoạn trị vì của Hán Vũ đế, lịch sử đã sang trang.
Vào năm 101 TCN, sau khi cung Minh Quang được xây dựng xong, Hán Vũ đế lập tức mở cuộc tuyển chọn mỹ nữ. Hai nghìn cô gái thân ngọc mày ngà đã được triệu vào cung. Họ đều là những bông hoa mới chớm nở, tuổi tròn 15 – 20
Số lượng phi tần nhiều không đếm xuể cũng gây ra phiền toái cho hoàng cung. Sách "Bác vật chí" tiết lộ, Hán Vũ đế vì muốn kiểm soát chuyện trinh tiết của mỹ nữ trong triều đã dùng thủ cung sa, tức chấm dấu tròn đỏ vào cổ tay các cô gái còn trong trắng. Những cung tần, mỹ nữ thời bấy giờ cũng vì thế mà không dám làm điều trái luật.
Chuyện tình cảm của vị minh quân này với các hậu phi trong cung cũng để lại nhiều câu chuyện lý thú. Người phụ nữ có ảnh hưởng rất lớn với sự nghiệp của Hán Vũ đế là Trần A Kiều, con gái của công chúa trưởng Lưu Phiếu.
Nhà sử gia Ban Cố trong "Hán thư" chỉ rõ, Hán Vũ đế Lưu Triệt năm lên ba tuổi đã được phong là Giao Đông vương. Một lần, ông được mẹ nuôi, tức công chúa trưởng Quán Đào Lưu Phiếu, ôm vào lòng rồi hỏi: "Con có muốn lấy vợ không?". "Có", Hán Vũ đế đáp lại.
Công chúa chỉ vào đám đông hơn trăm người đứng cạnh gợi ý tiếp: "Muốn người nào?". Vũ đế nguầy nguậy lắc đầu, tỏ ý không ưng. Lưu Phiếu vội chỉ tay về phía con gái mình, tức Trần A Kiều, rồi hỏi: "Ta gả A Kiều làm vợ cho con được chăng?". Hán Vũ đế Lưu Triệt nhoẻn cười đáp: "Được ạ! Nếu lấy được A Kiều làm vợ, con sẽ cho đúc nhà vàng để cho nàng ở".
Chính câu nói này về sau đã trở thành điển cố nổi tiếng của Trung Quốc: "Kim ốc tàng Kiều" (nhà vàng cất người đẹp). Dù câu chuyện có yếu tố thêm bớt nhưng theo những ghi chép của sử sách, khi lên 6 tuổi, Hán Vũ đế đã đính ước với A Kiều (lúc này tròn 10 tuổi). Sau khi lên ngôi trị vì, ông đã lập nàng làm hoàng hậu.
Tình cảm giữa hai người mặn nồng trong buổi sơ khai. Hán Vũ đế thường lui tới cung của A Kiều mỗi buổi tan triều, cùng nàng hưởng những ngày quấn quít yêu thương. Nhưng về sau, Hán Vũ đế dần nhạt phai tình cảm dành cho hoàng hậu. Phần vì cung tần mỹ nữ trong cung nhiều không đếm xuể, phần vì chung sống nhiều năm, hai người vẫn không có nổi một mụn con.
Công chúa trưởng Lưu Phiếu vì việc này mà ủ rũ, muộn phiền. Bà nhiều lần than vãn với công chúa Bình Dương, tức chị gái của Vũ đế: "Nếu không có tôi, hoàng đế sao được lên ngôi. Sao giờ lại nỡ vứt bỏ con gái tôi như vậy?".
Bình Dương công chúa bèn giải thích: "Đấy là do A Kiều không sinh nổi con trai". Biết chuyện, công chúa trưởng bèn lạy lục tứ phương, tìm danh y chữa trị cho con gái, thậm chí tiêu tốn tới hơn 9 ngàn vạn lượng, nhưng chỉ là công dã tràng.
Khi biết Hán Vũ đế hết mực sủng ái mỹ nhân Vệ Tử Phu, Trần A Kiều nổi máu Hoạn Thư. Bà khóc lóc than vãn, thậm chí tìm mọi phương sát hại Vệ Tử Phu. Biết sự thực, Vũ đế nổi trận lôi đình, dần dần xa lánh bà.
Tương truyền, để lấy lại sự sủng ái trước đây của hoàng đế, Trần A Kiều hoàng hậu bèn nhờ Tư Mã Tương Như – nhà thơ nổi tiếng bấy giờ - sáng tác bài "Trường môn phú" với lời lẽ, ý tứ tha thiết rồi tìm cách dâng lên vua. Đọc xong bài thơ, thấu tỏ tấm chân tình của A Kiều, Hán Vũ đế xúc động bồi hồi, lại hết mực thương yêu bà. Nhưng thói ghen tị xưa kia vẫn khiến Trần A Kiều yểm bùa Vệ Tử Phu, lăng mạ hoàng đế nên bị phế ngôi hoàng hậu.
Nổi tiếng là vị vua tài trí minh mẫn, lẫy lừng một thuở khi đánh bại Hung nô nhưng về cuối đời, Hán Vũ đế có tính khí thất thường, độc đoán, tàn nhẫn.
Năm 91 TCN, ông đã khép tội mưu đồ làm phản đối với thái tử Lưu Cứ vì vụ án mưu trừ gian thần Giang Sung (vốn được Vũ đế tin cậy). Sai lầm này của vua cha khiến thái tử Lưu Cứ phải tự vẫn.
Sau khi Lưu Cứ qua đời, Hán Vũ đế lập Phất Lăng làm thái tử để truyền ngôi (là Hán Chiêu đế sau này). Nhưng vì mẫu thân của Phất Lăng là Câu Dặc lúc này còn quá trẻ, riêng ông đã ngoài tuổi lục tuần, nên Vũ đế trong lòng luôn canh cánh lo sợ phụ nữ sẽ buồng rèm nhiếp chính, thao túng triều đình như Lữ Hậu xưa kia. Để trừ hậu họa, ông đã cho lập một Hội đồng phụ chính do Hoắc Quang đứng đầu, chuyên giúp ấu chúa trị nước yên bình. Trước lúc băng hà, Hán Vũ đế thậm chí xử tội chết đối với Câu Dặc phu nhân và tất thảy cung phi từng sinh con cho mình để triều đình nhà Hán vẫn cực thịnh về sau. Để con được lên ngôi, Câu Dặc phu nhân đành ngậm ngùi kết thúc số mệnh ngắn ngủi của mình.
Quả như những điều tiên liệu của vua cha, Hán Chiêu đế (95 TCN – 74 TCN) sau này cũng trở thành vị vua anh minh, tài ba của triều đại Tây Hán. Dù chỉ tại vị trong 13 năm, nhưng ông giữ vững thiên hạ thái bình và dẹp yên họa tạo phản của cha con Thượng Quan.
3.4 Qua đời
Sau Án Vu cổ, Hán Vũ Đế lập con trai út Lưu Phất Lăng làm Thái tử, đồng thời bắt mẹ của Phất Lăng là Câu Dặc phu nhân Triệu thị phải chết, vì lo sợ Phất Lăng còn nhỏ thì bà ta sẽ thành Thái hậu, vượt quá bổn phận. Vũ Đế có ý định giao con trai cho Hoắc Quang sau khi mình qua đời. Năm 88 TCN, ông sai họa sư làm bức vẽ "Chu công bối Thành Vương triều chư hầu đồ" (周公背成王朝诸侯图), trao cho Hoắc Quang với ý định nhờ ông ta phụ tá cho Phất Lăng.
Năm 87 TCN, tháng hai, Hán Vũ Đế lâm bệnh nặng. Trước lúc chết, ông hạ chiếu phó thác việc nước cho các trọng thần: Hoắc Quang làm Đại tư mã, Đại tướng quân Kim Nhật Đê làm Xa Kị tướng quân, thái phó Thượng Quan Kiệt (上官桀) làm Tả tướng quân, đô úy Tang Hoằng Dương làm Ngự sử đại phu.
Ngày hôm sau, Hán Vũ Đế qua đời ở Ngũ Tạc cung (五柞宮), hưởng thọ 70 tuổi, được tôn miếu hiệu là Thế Tông (世宗), thụy hiệu là Hiếu Vũ Hoàng đế (孝武皇帝). Ông là vị quân vương ở ngôi lâu nhất và thọ nhất nhà Tây Hán.
Vũ Đế băng, Thái tử Lưu Phất Lăng lên ngôi, tức là Hán Chiêu Đế. Tân đế mới tuổi còn nhỏ, được Đại Tư Mã Hoắc Quang giúp sức, tiếp tục sự phồn thịnh của nhà Tây Hán qua 2 đời Chiêu Đế (87 TCN - 74 TCN), Tuyên Đế (74 TCN - 49 TCN).
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top