Cơ hội nào cho doanh nghiệp huy động nguồn vốn?

Cơ hội nào cho doanh nghiệp huy động nguồn vốn?

Thứ ba, 10 Tháng năm 2011, 15:11 GMT+7

Nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, Chính phủ đang thực thi các giải pháp thắt chặt tiền tệ, tài khóa khiến cho nguồn vốn trên thị trường bị suy giảm đáng kể. Tìm vốn luôn là bài toán khó của các DN, đặc biệt đối với DNVVN.   Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, vẫn còn nhiều kênh khác có thể tận dụng để huy động vốn như kênh phát hành cổ phiếu, trái phiếu, hợp tác công – tư, đi thuê tài chính hay liên doanh liên kết…   Vốn - nỗi lo dài hạn của DN

Tại buổi toạ đàm “Giải pháp vốn cho DN” do Báo Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức sáng nay (10/5), TS Vũ Tiến Lộc - chủ tịch VCCI cho biết, vấn đề vốn bao giờ cũng là mối quan tâm của các DN và nó đặc biệt quan trọng hơn trong bối cảnh lạm phát hiện nay. Có nhiều nguyên nhân khiến cho DN khó vay vốn của NH nhưng nguyên nhân căn bản là do các DNVVN chưa đáp ứng đủ điều kiện để các NH cho vay như việc lập kế hoạch kinh doanh, tài sản đảm bảo, cân đối tài chính của DN…Những điều kiện trên thường thì chỉ có DN lớn, có uy tín, thương hiệu mới đáp ứng được.

Theo điều tra gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có 1/3 DNVVN có khả năng tiếp cận nguồn vốn NH, 1/3 khó tiếp cận và 1/3 không tiếp cận được. Không ít DNVVN cho rằng, thủ tục các NH đặt ra là ‘quá sức’ đối với họ. Ngay cả khi có chính sách ưu đãi của Chính phủ cũng chỉ có 5-10% số DNVVN được vay.

Thêm vào đó, lãi suất cho vay của các ngân hàng quá cao (có nơi lên tới 27%) và việc gia tăng các loại phí của các NH cũng đang ảnh hưởng rất lớn đến các DN thực sự cần vay vốn để sản xuất kinh doanh. Không ít DN đã thu hẹp hoặc tạm dừng sản xuất vì không vay được vốn.

  Dưới góc độ của DN, ông Đoàn Trọng Lý – Chủ tịch HĐQT, giám đốc CTCP Chăn nuôi chế biến và xuất nhập khẩu (Aprocimex) cho biết, trong năm qua, giá cả có sự biến động rất lớn đã làm cho không ít các DN trong nước dè chừng, không mạnh dạn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Trong lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi, các phí đầu vào cho sản xuất như nguyên vật liệu, vận tải…đều tăng cao. Do vậy, DN rất chật vật, khó khăn khi không tìm được nguồn vốn vay.  TS Vũ Tiến Lộc - chủ tịch VCCI phát biểu tại buổi tọa đàm Chia sẻ mối quan tâm, lo lắng về vốn của các DN, TS Lộc cho rằng, hiện nay, ngoài kênh huy động vốn truyền thống là vay từ NH, vẫn còn khá nhiều kênh huy động vốn khác mà các doanh nghiệp chưa tận dụng hết như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, mua chịu hàng hoá, đi thuê tài chính hay kinh doanh liên kết.…Theo nghiên cứu của VCCI, có đến 74,47% DN muốn tìm đến vốn bằng hình thức vay NH. Chính tâm lý này đang hạn chế tính năng động của DN. Đa dạng kênh huy động vốn

Tại hội thảo, các chuyên gia đã phân tích ‘mổ xẻ’ các hình thức huy động vốn cho các DN. Xu hướng vay của các NH đang ngày càng trở nên khó không chỉ về vấn đề thủ tục, lãi suất cao đang là một rào cản vì nếu có vay được thì dùng vốn đó sản xuất kinh doanh cũng khó có lãi.

Đối với việc huy động vốn trên TTCK - một kênh huy động vốn quan trọng của nhiều DN, theo bà Nguyễn Thị Mùi cũng đang ngày một khó khăn hơn vì chính sách tài khóa tiền tệ thắt chặt của Chính phủ. Đó là chưa kể, việc phát hành cổ phiếu ồ ạt khiến cho TTCK bị bội thực nguồn cung vì thế kênh huy động này đã kông phát huy được hiệu quả trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, bà cũng cho biết, nếu thị trường ổn định thì việc huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu trên TTCK cũng là một nguồn vốn khá tốt nếu DN biết cách tận dụng đầu tư hợp lý. TTCK là kênh huy động vốn khá hiệu quả

Cùng với việc phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu đang là kênh giúp nhiều DN huy động vốn hiệu quả, song kênh này vẫn chưa được nhiều DN quan tâm chú trọng. Thông qua phát hành trái phiếu, DN có thể tránh bị pha loãng cổ phiếu, được hưởng ưu đãi thuế đối với vốn vay và giảm chi phí sử dụng vốn. Đặc biệt, nếu phát hành trái phiếu chuyển đổi, DN chỉ phải trả mức lãi suất rất thấp, thậm chí là không phải trả lãi.

Ông Đỗ Ngọc Quỳnh - Tổng thư ký Hiệp hội thị trường Trái phiếu Việt Nam khẳng định: “về mặt dài hạn, DN vẫn có nhiều thuận lợi để tiếp cận vốn trên thị trường trái phiếu. Do đó, cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước, trái phiếu sẽ ngày càng trở thành kênh huy động vốn hiệu quả và quan trọng đối với các DN quy mô lớn trong những năm tới đây”.

Ông Quỳnh lý giải, thứ nhất, hệ thống hành lang pháp lý đối với hoạt động phát hành trái phiếu của DN đã được ban hành và đang dần hoàn thiện, giúp DN có cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp cận nguồn vốn trên TTCK. Thứ hai, các chính sách khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển thị trường của Chính phủ, trong đó nổi bật là chính sách ổn định kinh tế vĩ mô hiện đang thực thi, được nhiều chuyên gia đánh giá cao và hy vọng đem lại hiệu quả tích cực trong thời gian tới. Thứ ba, nhu cầu nắm giữ đa dạng các sản phẩm đầu tư của nhà đầu tư trên thị trường ngày càng cao nhằm gia tăng lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Thứ tư, các NHTM và CTCK cung cấp các dịch vụ trung gian tài chính giúp phân phối trái phiếu của DN đến tay nhà đầu tư một cách hiệu quả.

Ngoài ra, sự tham gia tích cực của Hiệp hội thị trường trái phiếu (VBMA), các công ty tư vấn luật và công ty định hạng tín nhiệm, ... đang góp phần vào sự phát triển đúng hướng của thị trường, tạo cơ hội cho các DN tiếp cận hiệu quả thị trường trái phiếu.

  Một hình thức huy động vốn nữa giúp các DN tìm được nguồn vốn trong bối cảnh còn nhiều khó khăn đó là theo hình thức công - tư. Bà Thái Thanh Hải – Phó Tổng giám đốc Deloitte Việt Nam cho biết, các dự án đầu tư theo hình thức công – tư hấp dẫn các DN bởi rủi ro thấp do nhà nước cung cấp các cam kết thể chế cho dự án, bảo lãnh và xúc tiến khả thi cho dự án. Tính dài hạn trong đầu tư cũng là một điểm thu hút khu vực tư nhân, các dự án này thường mang lại cho nhà đầu tư khoản lợi nhuận ổn định trong dài hạn. Bên cạnh đó các DN cũng không đủ khả năng để tự thực hiện các dự án lớn nếu thiếu sự tham gia và hợp tác của nhà nước. Để thu hút đầu tư tư nhân thông qua hình thức hợp tác công – tư, Chính phủ cũng sử dụng các biện pháp ưu đãi và bảo đảm đầu tư thông qua ưu đãi thuế, quyền mua ngoại tệ hoặc bảo đảm cân đối ngoại tệ, quyền bảo đảm cung cấp các dịch vụ công cộng…  Trái phiếu là kênh huy động vốn hiệu quả nhưng vẫn chưa được các DN quan tâm đúng mức

“Hợp tác công – tư là một xu thế tất yếu để thu hút vốn của các nhà đầu tư nhằm lấp đầy khoảng cách đầu tư cũng như tranh thủ năng lực về quản lý, kỹ thuật, công nghệ của khu vực tư nhân để nâng cao hiệu quả đầu tư và cải thiện chất lượng dịch vụ công” bà Hải nhấn mạnh.

Tuy nhiên, để phát huy nội lực, các DN Việt Nam cần sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình, trong đó đặc biệt quan tâm tới việc tiết giảm chi phí, tích cực cải tiến công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc; tập trung kinh doanh sản phẩm chính; rút ngắn thời hạn thanh toán phân phối để đẩy nhanh vòng vốn, giảm lệ thuộc vào vay ngân hàng; đảm bảo thanh toán hàng nhập khẩu, tạo nguồn dự phòng thay đổi tỷ giá; tránh giảm mức tiêu thụ bằng cách phải chấp nhận lỗ để giữ khách hàng…

Với các ưu điểm riêng từ những kênh huy động vốn qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và hợp tác công – tư, liên doanh liên kết…các DN Việt Nam hoàn toàn có thể huy động được vốn phù hợp với thực trạng của DN mình, làm đa dạng các nguồn vốn tài trợ khác nhau, giảm sự phụ thuộc vào hệ thống NH, từ đó chủ động trong hoạt động kinh doanh.

Xuất hiện làn sóng huy động vốn bằng trái phiếu

Viettinnhanh - Lãi suất huy động đang được Ngân hàng Nhà nước ráo riết kiểm soát thực hiện theo quy định ở mức trần 14%/năm. Trước tình hình đó, nhiều doanh nghiệp công bố phát hành trái phiếu với mức lãi suất đủ hấp dẫn, để tìm kiếm nguồn vốn đang hạn hẹp.

Sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) áp trần lãi suất 14%/năm, việc huy động vốn từ dân cư của các ngân hàng phải cạnh tranh khốc liệt. Những ngân hàng nhỏ gặp khó khăn trong thanh khoản, có thể buộc phải tìm cách “lách” để huy động được vốn. Còn đối với doanh nghiệp, việc vay với lãi suất 17% - 19%/năm vẫn hết sức khó khăn vì ngân hàng chỉ chọn một số ít đối tượng ưu tiên.

Để tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu, nhiều doanh nghiệp không chỉ nâng lãi suất trái phiếu lên khá cao mà còn “khuyến mãi” thêm quyền chuyển đổi. Nghĩa là khi tham gia mua trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, nhà đầu tư vừa được hưởng lãi suất, vừa có cơ hội nắm giữ cổ phiếu đến ngày đáo hạn.

 ông ty cổ phần Chứng khoán Ngân hàng NN-PTNT Việt Nam (AGR) cũng huy động đến 3.000 tỷ đồng qua việc phát hành trái phiếu riêng lẻ có thời hạn 5 năm. Lãi suất năm đầu cố định, sau đó được thả nổi, bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm trả sau đối với cá nhân kỳ hạn 1 năm bình quân của sở giao dịch tại Hà Nội của 4 ngân hàng: Vietcombank, Agribank, BIDV và Vietinbank cộng thêm tối đa 5%/năm.

Công ty cổ phần chứng khoán Địa ốc Sài Gòn Thương Tín (SCR) phát hành 99 trái phiếu riêng lẻ có giá trị 99 tỷ đồng. Trái phiếu được phát hành vào ngày 6-10, kỳ hạn 18 tháng. Lãi suất trái phiếu thả nổi và có điều chỉnh hàng tháng. Lãi suất tháng đầu tiên là 17%/năm, lãi suất tháng tiếp theo được áp dụng như lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng của Sacombank lãi cuối kỳ +2,5%. Đây là trái phiếu không đảm bảo và có thể hoán đổi.

Trước SCR, 2 doanh nghiệp khác hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán cũng huy động vốn bằng con đường trái phiếu. Cụ thể, CTCP Chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội (SHS) sẽ huy động 350 tỷ đồng, thông qua chào bán riêng lẻ trái phiếu có kỳ hạn 1 năm. SHS chia ra 1 đến 3 đợt phát hành, trong đó, đợt 1 với tổng giá trị 250 tỷ đồng, lãi suất 20%/năm và trả lãi một lần vào ngày đáo hạn.

Như vậy, trong điều kiện khó khăn cả đầu ra lẫn đầu vào, doanh nghiệp và ngân hàng đã thể hiện “trong cái khó ló cái khôn”. Điển hình như, SHS huy động lãi suất tới 20%, SJS 22% và KDH 21,5%, cao hơn nhiều so với trần lãi suất tiết kiệm hiện nay. Tuy nhiên, việc lãi suất trái phiếu ở mức cao này cũng là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy thị trường đang rất khát vốn.

Công ty cổ phần Chứng khoán Ngân hàng NN-PTNT Việt Nam (AGR) cũng huy động đến 3.000 tỷ đồng qua việc phát hành trái phiếu riêng lẻ có thời hạn 5 năm. Lãi suất năm đầu cố định, sau đó được thả nổi, bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm trả sau đối với cá nhân kỳ hạn 1 năm bình quân của sở giao dịch tại Hà Nội của 4 ngân hàng: Vietcombank, Agribank, BIDV và Vietinbank cộng thêm tối đa 5%/năm.

Công ty cổ phần chứng khoán Địa ốc Sài Gòn Thương Tín (SCR) phát hành 99 trái phiếu riêng lẻ có giá trị 99 tỷ đồng. Trái phiếu được phát hành vào ngày 6-10, kỳ hạn 18 tháng. Lãi suất trái phiếu thả nổi và có điều chỉnh hàng tháng. Lãi suất tháng đầu tiên là 17%/năm, lãi suất tháng tiếp theo được áp dụng như lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng của Sacombank lãi cuối kỳ +2,5%. Đây là trái phiếu không đảm bảo và có thể hoán đổi.

Trước SCR, 2 doanh nghiệp khác hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán cũng huy động vốn bằng con đường trái phiếu. Cụ thể, CTCP Chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội (SHS) sẽ huy động 350 tỷ đồng, thông qua chào bán riêng lẻ trái phiếu có kỳ hạn 1 năm. SHS chia ra 1 đến 3 đợt phát hành, trong đó, đợt 1 với tổng giá trị 250 tỷ đồng, lãi suất 20%/năm và trả lãi một lần vào ngày đáo hạn.

Như vậy, trong điều kiện khó khăn cả đầu ra lẫn đầu vào, doanh nghiệp và ngân hàng đã thể hiện “trong cái khó ló cái khôn”. Điển hình như, SHS huy động lãi suất tới 20%, SJS 22% và KDH 21,5%, cao hơn nhiều so với trần lãi suất tiết kiệm hiện nay. Tuy nhiên, việc lãi suất trái phiếu ở mức cao này cũng là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy thị trường đang rất khát vốn.

Nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, Chính phủ đang thực thi các giải pháp thắt chặt tiền tệ, tài khóa khiến cho nguồn vốn trên thị trường bị suy giảm đáng kể. Tìm vốn luôn là bài toán khó của các DN, đặc biệt đối với DNVVN.

 Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, vẫn còn nhiều kênh khác có thể tận dụng để huy động vốn như kênh phát hành cổ phiếu, trái phiếu, hợp tác công – tư, đi thuê tài chính hay liên doanh liên kết…

Vốn - nỗi lo dài hạn của DN

Tại buổi toạ đàm “Giải pháp vốn cho DN” do Báo Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức sáng nay (10/5), TS Vũ Tiến Lộc - chủ tịch VCCI cho biết, vấn đề vốn bao giờ cũng là mối quan tâm của các DN và nó đặc biệt quan trọng hơn trong bối cảnh lạm phát hiện nay. Có nhiều nguyên nhân khiến cho DN khó vay vốn của NH nhưng nguyên nhân căn bản là do các DNVVN chưa đáp ứng đủ điều kiện để các NH cho vay như việc lập kế hoạch kinh doanh, tài sản đảm bảo, cân đối tài chính của DN…Những điều kiện trên thường thì chỉ có DN lớn, có uy tín, thương hiệu mới đáp ứng được

.Theo điều tra gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có 1/3 DNVVN có khả năng tiếp cận nguồn vốn NH, 1/3 khó tiếp cận và 1/3 không tiếp cận được. Không ít DNVVN cho rằng, thủ tục các NH đặt ra là ‘quá sức’ đối với họ. Ngay cả khi có chính sách ưu đãi của Chính phủ cũng chỉ có 5-10% số DNVVN được vay

.Thêm vào đó, lãi suất cho vay của các ngân hàng quá cao (có nơi lên tới 27%) và việc gia tăng các loại phí của các NH cũng đang ảnh hưởng rất lớn đến các DN thực sự cần vay vốn để sản xuất kinh doanh. Không ít DN đã thu hẹp hoặc tạm dừng sản xuất vì không vay được vốn.

Dưới góc độ của DN, ông Đoàn Trọng Lý – Chủ tịch HĐQT, giám đốc CTCP Chăn nuôi chế biến và xuất nhập khẩu (Aprocimex) cho biết, trong năm qua, giá cả có sự biến động rất lớn đã làm cho không ít các DN trong nước dè chừng, không mạnh dạn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Trong lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi, các phí đầu vào cho sản xuất như nguyên vật liệu, vận tải…đều tăng cao. Do vậy, DN rất chật vật, khó khăn khi không tìm được nguồn vốn vay.

Chia sẻ mối quan tâm, lo lắng về vốn của các DN, TS Lộc cho rằng, hiện nay, ngoài kênh huy động vốn truyền thống là vay từ NH, vẫn còn khá nhiều kênh huy động vốn khác mà các doanh nghiệp chưa tận dụng hết như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, mua chịu hàng hoá, đi thuê tài chính hay kinh doanh liên kết.…Theo nghiên cứu của VCCI, có đến 74,47% DN muốn tìm đến vốn bằng hình thức vay NH. Chính tâm lý này đang hạn chế tính năng động của DN.

Đa dạng kênh huy động vốn

Tại hội thảo, các chuyên gia đã phân tích ‘mổ xẻ’ các hình thức huy động vốn cho các DN. Xu hướng vay của các NH đang ngày càng trở nên khó không chỉ về vấn đề thủ tục, lãi suất cao đang là một rào cản vì nếu có vay được thì dùng vốn đó sản xuất kinh doanh cũng khó có lãi.

Đối với việc huy động vốn trên TTCK - một kênh huy động vốn quan trọng của nhiều DN, theo bà Nguyễn Thị Mùi cũng đang ngày một khó khăn hơn vì chính sách tài khóa tiền tệ thắt chặt của Chính phủ. Đó là chưa kể, việc phát hành cổ phiếu ồ ạt khiến cho TTCK bị bội thực nguồn cung vì thế kênh huy động này đã kông phát huy được hiệu quả trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, bà cũng cho biết, nếu thị trường ổn định thì việc huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu trên TTCK cũng là một nguồn vốn khá tốt nếu DN biết cách tận dụng đầu tư hợp lý

.Cùng với việc phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu đang là kênh giúp nhiều DN huy động vốn hiệu quả, song kênh này vẫn chưa được nhiều DN quan tâm chú trọng. Thông qua phát hành trái phiếu, DN có thể tránh bị pha loãng cổ phiếu, được hưởng ưu đãi thuế đối với vốn vay và giảm chi phí sử dụng vốn. Đặc biệt, nếu phát hành trái phiếu chuyển đổi, DN chỉ phải trả mức lãi suất rất thấp, thậm chí là không phải trả lãi

.Ông Đỗ Ngọc Quỳnh - Tổng thư ký Hiệp hội thị trường Trái phiếu Việt Nam khẳng định: “về mặt dài hạn, DN vẫn có nhiều thuận lợi để tiếp cận vốn trên thị trường trái phiếu. Do đó, cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước, trái phiếu sẽ ngày càng trở thành kênh huy động vốn hiệu quả và quan trọng đối với các DN quy mô lớn trong những năm tới đây”.

Ông Quỳnh lý giải, thứ nhất, hệ thống hành lang pháp lý đối với hoạt động phát hành trái phiếu của DN đã được ban hành và đang dần hoàn thiện, giúp DN có cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp cận nguồn vốn trên TTCK. Thứ hai, các chính sách khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển thị trường của Chính phủ, trong đó nổi bật là chính sách ổn định kinh tế vĩ mô hiện đang thực thi, được nhiều chuyên gia đánh giá cao và hy vọng đem lại hiệu quả tích cực trong thời gian tới. Thứ ba, nhu cầu nắm giữ đa dạng các sản phẩm đầu tư của nhà đầu tư trên thị trường ngày càng cao nhằm gia tăng lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Thứ tư, các NHTM và CTCK cung cấp các dịch vụ trung gian tài chính giúp phân phối trái phiếu của DN đến tay nhà đầu tư một cách hiệu quả.

Ngoài ra, sự tham gia tích cực của Hiệp hội thị trường trái phiếu (VBMA), các công ty tư vấn luật và công ty định hạng tín nhiệm, ... đang góp phần vào sự phát triển đúng hướng của thị trường, tạo cơ hội cho các DN tiếp cận hiệu quả thị trường trái phiếu.

Một hình thức huy động vốn nữa giúp các DN tìm được nguồn vốn trong bối cảnh còn nhiều khó khăn đó là theo hình thức công - tư. Bà Thái Thanh Hải – Phó Tổng giám đốc Deloitte Việt Nam cho biết, các dự án đầu tư theo hình thức công – tư hấp dẫn các DN bởi rủi ro thấp do nhà nước cung cấp các cam kết thể chế cho dự án, bảo lãnh và xúc tiến khả thi cho dự án. Tính dài hạn trong đầu tư cũng là một điểm thu hút khu vực tư nhân, các dự án này thường mang lại cho nhà đầu tư khoản lợi nhuận ổn định trong dài hạn. Bên cạnh đó các DN cũng không đủ khả năng để tự thực hiện các dự án lớn nếu thiếu sự tham gia và hợp tác của nhà nước. Để thu hút đầu tư tư nhân thông qua hình thức hợp tác công – tư, Chính phủ cũng sử dụng các biện pháp ưu đãi và bảo đảm đầu tư thông qua ưu đãi thuế, quyền mua ngoại tệ hoặc bảo đảm cân đối ngoại tệ, quyền bảo đảm cung cấp các dịch vụ công cộng…

“Hợp tác công – tư là một xu thế tất yếu để thu hút vốn của các nhà đầu tư nhằm lấp đầy khoảng cách đầu tư cũng như tranh thủ năng lực về quản lý, kỹ thuật, công nghệ của khu vực tư nhân để nâng cao hiệu quả đầu tư và cải thiện chất lượng dịch vụ công” – bà Hải nhấn mạnh.

Tuy nhiên, để phát huy nội lực, các DN Việt Nam cần sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình, trong đó đặc biệt quan tâm tới việc tiết giảm chi phí, tích cực cải tiến công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc; tập trung kinh doanh sản phẩm chính; rút ngắn thời hạn thanh toán phân phối để đẩy nhanh vòng vốn, giảm lệ thuộc vào vay ngân hàng; đảm bảo thanh toán hàng nhập khẩu, tạo nguồn dự phòng thay đổi tỷ giá; tránh giảm mức tiêu thụ bằng cách phải chấp nhận lỗ để giữ khách hàng

…Với các ưu điểm riêng từ những kênh huy động vốn qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và hợp tác công – tư, liên doanh liên kết…các DN Việt Nam hoàn toàn có thể huy động được vốn phù hợp với thực trạng của DN mình, làm đa dạng các nguồn vốn tài trợ khác nhau, giảm sự phụ thuộc vào hệ thống NH, từ đó chủ động trong hoạt động kinh doanh.

32% doanh nghiệp được hỏi cho biết vay vốn ngân hàng vẫn là nguồn huy động vốn chính trong thời gian qua.

Đó là kết quả khảo sát tại Hội nghị Thường niên Việt Nam CFO năm 2011 với 300 doanh nghiệp tham dự.

Hai hình thức huy động vốn phổ biến tiếp theo là huy động vốn trong nội bộ doanh nghiệp (21%) và vốn đối ứng của khách hàng (17%).

Mặc dù tín dụng ngân hàng vẫn là kênh truyền thông được ưa chuộng, nhưng các doanh nghiệp cho rằng lạm phát và lãi suất cao, cộng với tỷ giá không ổn định và thắt chặt cho vay và hạn mức tín dụng quá khắt khe của các ngân hàng đang là những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.

Có tới 40% doanh nghiệp cho rằng khó khăn lớn nhất mà họ phải đối mặt là lãi suất và các loại phí đi vay quá cao, đồng thời, khó đáp ứng điều kiện cho vay của các nhà đầu tư hay bên cung ứng vốn.

Trong bối cảnh siết tín dụng và thị trường chứng khoán ảm đạm như hiện nay, doanh nghiệp cho rằng quan trọng nhất là phải tái cấu trúc nguồn vốn để sử dụng hiệu quả đồng vốn hiện có của doanh nghiệp, tối ưu hóa các nguồn vốn nhàn rỗi và thu hẹp danh mục đầu tư với những dự án chưa cần thiết để tiết kiệm chi phí.

Ông Vũ Đình Phúc, Kế toán trưởng Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu & Hợp tác đầu tư Vilexim, nhận định lãi suất và tỉ giá hiện đang là vấn đề rất lớn với doanh nghiệp nhưng đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp tái cấu trúc để hoạt động hiệu quả hơn.

Đánh giá về tình hình ở Việt Nam hiện nay, ông Tom Herron, Giám đốc Dịch vụ Tư vấn Giao dịch Tài chính của Công ty Ernst & Young Việt Nam cho rằng huy động vốn rất khó vì chi phí vốn cao và sự thiếu hụt nguồn vốn tăng do nhiều công ty cùng cạnh tranh huy động.

"Chi phí vốn ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước khác. Nó tác động đến dòng chảy của vốn vì người ta sẽ tìm tới những thị trường có chi phí thấp hơn," ông Tom nhấn mạnh.

Ông Tom khuyên các doanh nghiệp Việt Nam cần phải bảo toàn vốn trong những lúc "bão tố", còn khi sóng yên biển lặng thì cũng phải duy trì quan hệ tốt với ngân hàng. Thực tế có những doanh nghiệp vay vốn ở mức lãi suất 17% - 18% do có quan hệ tốt và được ngân hàng tin tưởng.

Đồng thời, cần cân nhắc các nguồn vốn khác như liên kết theo chiều dọc, sáp nhập theo chiều ngang, từ các quỹ đầu tư, tham gia vào thị trường chứng khoán quốc tế và huy động từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ.

Ông Tom Herron nêu hai trường hợp điển hình của Hoàng Anh Gia Lai và Massan vừa qua đã huy động vốn trên kênh quốc tế rất hiệu quả.

Tuy nhiên, theo khảo sát, chỉ có 10% doanh nghiệp cho rằng tìm kiếm vốn từ các quỹ đầu tư nước ngoài là một biện pháp hiệu quả để đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh.

Những rủi ro thường gặp trong tài chính doanh nghiệp

Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông, “rủi ro là điều không lành mạnh, không tốt bất ngờ xảy ra”. Vậy, rủi ro trong tài chính là “những điều không lành mạnh, không tốt, bất ngờ xẩy ra trong tài chính doanh nghiệp”. Khoa học về quản trị tài chính doanh nghiệp (TCDN) và tổng kết từ thực tiễn đã cho thấy, rủi ro trong TCDN luôn luôn gắn liền với tình trạng lạm phát trong nền kinh tế và gồm có:

Một là, rủi ro về cân đối dòng tiền

Các luồng tiền vào doanh nghiệp (dòng thu) và các luồng tiền ra khỏi doanh nghiệp (dòng chi) diễn ra một cách thường xuyên liên tục. Trên thực tế, tại những thời điểm nhất định có thể xảy ra, hiện tượng lượng tiền vào doanh nghiệp (số thu) nhỏ hơn lượng tiền ra khỏi doanh nghiệp (số chi) đến hạn. Khi đó, tình trạng mất cân đối về dòng tiền đã xẩy ra. Sự mất cân đối này tiềm ẩn một rủi ro lớn đối với hoạt động kinh doanh. Do thiếu tiền, việc mua nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu... phục vụ cho sản xuất kinh doanh có thể bị dừng lại, dẫn đến ngừng sản xuất, kinh doanh; tiền lương của công nhân và các khoản vay (nếu có) không được trả đúng hạn ảnh hưởng lớn tới uy tín của doanh nghiệp, v.v...

Sự mất cân đối dòng tiền được chia thành: mất cân đối tạm thời và mất cân đối dài hạn. Có thể nói, ở bất kỳ doanh nghiệp nào cũng xảy ra mất cân đối tạm thời do việc thu hồi các khoản nợ phải thu không đúng kế hoạch; việc góp vốn không được thực hiện đúng cam kết... Mất cân đối tạm thời về dòng tiền có thể khắc phục được bằng nhiều biện pháp và hậu quả thường không lớn. Mất cân đối dài hạn xảy ra do những nguyên nhân quan trọng như: phần định phí trong tổng chi phí của doanh nghiệp quá lớn; vốn lưu động tự có quá ít; nợ khó đòi tăng lên; doanh thu chưa bù đắp đủ các khoản chi phí thường xuyên, v.v… Khi lạm phát xảy ra trong nền kinh tế, do tác động dây chuyền giữa các doanh nghiệp, số nợ phải thu, đặc biệt là nợ phải thu khó đòi tăng lên, mất cân đối tạm thời rất dễ chuyển thành mất cân đối dài hạn. Mất cân đối dài hạn về dòng tiền có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản.

Hai là, rủi do về lãi suất tiền vay

Để phục vụ kinh doanh, đầu tư, hầu như tất cả các doanh nghiệp đều phải sử dụng vốn vay. Do đó, lãi suất tiền vay - chi phí sử dụng vốn - trở thành bộ phận cấu thành quan trọng trong chi phí sản xuất kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp. Khi lập kế hoạch kinh doanh và dự án đầu tư, lãi suất tiền vay đã được dự tính. Song, có rất nhiều nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp tác động đến lãi suất tiền vay. Thông thường khi lạm phát xảy ra, lãi suất tiền vay tăng đột biến. Do đó, những tính toán, dự kiến trong kế hoạch kinh doanh, đầu tư bị đảo lộn. Một rủi ro lớn đã xảy ra và ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh. Lượng tiền vay càng lớn, tác động tiêu cực của rủi ro này càng nghiêm trọng và có thể dẫn đến tình trạng phá sản doanh nghiệp nếu nó tồn tại trong một thời kỳ dài.

Ba là, rủi ro về sức mua của thị trường

Sức mua của thị trường là nhân tố quyết định khả năng tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp và do đó, nó cũng quyết định dòng tiền vào doanh nghiệp. Song, sức mua của thị trường lại phụ thuộc vào khả năng thanh toán. Khi lạm phát, giá cả hàng hóa trên thị trường tăng cao, thu nhập của người lao động và các tầng lớp dân cư không tăng hoặc tăng chậm hơn chỉ số lạm phát và tất yếu dẫn đến sức mua giảm. Quan trọng hơn nữa, cơ cấu tiêu dùng cũng thay đổi. Phần lớn khả năng thanh toán tập trung cho những nhu cầu thiết yếu. Vì vậy, sẽ có không ít mặt hàng lượng tiêu thụ sẽ giảm đi đáng kể. Khi đó, rủi ro về sức mua của thị trường đã xảy ra. Nó thể hiện qua số lượng hàng hóa tiêu thụ được giảm, giá bán không bù đắp được chi phí sản xuất, kinh doanh.

Bốn là, rủi ro về tỷ giá hối đoái

Là rủi ro xẩy ra khi các giao dịch kinh tế được thực hiện bằng ngoại tệ và tỷ giá hối đoái biến động theo hướng làm cho đồng nội tệ bị mất giá. Với những doanh nghiệp sử dụng nhiều ngoại tệ, khi tỷ giá hối đoái tăng, số lỗ về tỷ giá có thể làm giảm đáng kể, thậm chí là triệt tiêu toàn bộ lợi nhuận thu được trong kinh doanh. Đây là rủi ro bất khả kháng của các doanh nghiệp trong một nền kinh tế nhập siêu với tỷ lệ lớn.

Năm là, rủi ro về khả năng tái đầu tư

Muốn phát triển bền vững, quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp phải diễn ra liên tục, vòng sau phải cao hơn vòng trước. Đó chính là quá trình tái đầu tư. Nguồn vốn để tái đầu tư là quỹ khấu hao, lợi nhuận thu được từ quá trình sản xuất kia doanh trước đó. Khi lạm phát xẩy ra, nguồn vốn để tái đầu tư bị giảm đi, thậm chí là một số âm. Do đó, khả năng tái đầu tư bị triệt tiêu, doanh nghiệp sẽ không thể hoạt động liên tục, quy mô kinh doanh bị thu hẹp. Nếu điều đó xẩy ra trong một thời gian dài, doanh nghiệp có thể sẽ "biến mình trên thị trường. Với những doanh nghiệp đang thực hiện các dự án đầu tư lạm phát có thể làm cho dự án đầu tư phải dừng lại thậm chí là "nằm chờ vĩnh viễn" do tổng mức đầu tư tăng đột biến, lãi suất tiền vay tăng cao, việc vay vốn bị chặn lại...

Sáu là. Rủi ro mất ổn định nguồn cung ứng

Khi kinh tế bất ổn và mọi thứ đều tăng giá thì tình trạng hàng hóa/dịch vụ đầu vào không ổn định, chất lượng giảm sút, giá thành tăng vọt… là khó tránh khỏi. Đơn cử, do giá vải tăng, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may chỉ hưởng 10% trong 30% tăng lên của giá hàng xuất khẩu.

Một giải pháp như tăng cường đầu tư vùng nguyên liệu đã được Công ty Cửu Long An Giang (ACL) áp dụng. Hay Công ty Bình Tân tìm thêm nhiều nguồn cung khác từ Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia… để giảm rủi ro biến động nguyên liệu đầu vào.

Quản trị rủi ro trong tài chính

·         Các doanh nghiệp - phòng hơn chống

Nguyên nhân xảy ra các rủi ro về tài chính doanh nghiệp có ở tầm vi mô - hay là công tác quản trị của bản thân các doanh nghiệp và cả ở tầm vĩ mô - hay là những biến động trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, phòng ngừa rủi ro từ việc quản trị và điều hành hàng ngày phải được coi là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong việc quản từ các rủi ro đối với từng doanh nghiệp. Với nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, các doanh nghiệp cần thực hiện những biện pháp sau đây:

·         Tôn trọng nguyên tắc thận trọng khi lập kế hoạch KD hoặc dự án đầu tư: Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để lập các ước tính trong KD, đầu tư.Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi:

-          Phải lập các khoản dự phòng nhưng không tạp quá lớn;

-          Không đánh giá cao hơn giá trị của các TS và các khoản thu nhập;

-          Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí;

-          Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí.

-          Thường xuyên phân tích tình hình tài chính nhằm nhận diện những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Một trong những công cụ để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là xác định và đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua sự biến động của các chỉ tiêu tài chính quan trọng như: Hệ số vốn tự có; Hệ số thanh toán hiện thời; Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn; Hệ số thanh toán nhanh; Hệ số thanh toán của vốn lưu động. v.v...

Quản lý chặt chẽ nợ phải trả và nợ phải thu: Biện pháp này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên nắm chắc danh mục các khoản nợ phải trả và nợ phải thu; có kế hoạch thanh toán nợ và thu nợ; không để nợ phải trả cộng dồn quá lớn và không để phát sinh nợ phải thu khó đòi...

Thực hiện nghiêm túc các quy định về thời hạn trong kinh doanh, đầu tư: Trong kinh doanh, cố gắng thực hiện các thương vụ với thời hạn ngắn; trong đầu tư, tập trung giải quyết dứt điểm từng phần công việc theo đúng tiến độ… Điều đó sẽ giúp doanh nghiệp tránh được sự biến động bất khả kháng của thị trường.

Kiện toàn bộ máy kế toán, thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán quản trị để thường xuyên có được những thông tin trung thực, chính xác và đầy đủ về tình hình tài chính của doanh nghiệp phục vụ cho việc phân tích và ra những quyết định quản lý. Đồng thời, bên cạnh lực lượng cán bộ kế toán, mỗi doanh nghiệp cần có một giám đốc tài chính - người thực hiện chức năng quản trị tài chính của doanh nghiệp; thực hiện những biện pháp phòng ngừa rủi ro trong tài chính doanh nghiệp.

·         Nhà nước - Không thể đứng ngoài cuộc

Các rủi ro trong tài chính doanh nghiệp thường gắn liền với hiện tượng lạm phát trong nền kinh tế. Lạm phát xảy ra do rất nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là những nguyên nhân khách quan từ thị trường thế giới, từ việc điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Hơn nữa, các doanh nghiệp là những tế bào của nền kinh tế quốc dân, là nơi tạo ra của cải vật chất, là lực lượng chủ yếu trong việc đóng góp vào ngân sách nhà nước. Do đó, khi lạm phát xảy ra, các doanh nghiệp phải đối mặt với tất cả các rủi ro về tài chính thì nhà nước không thể đứng ngoài cuộc.

Có một số ý kiến cho rằng, lạm phát lại là một thời cơ để thị trường thanh lọc và loại trừ các doanh nghiệp yếu; để các doanh nghiệp tiến hành cải tổ và phát triển bền vững hơn. Điều đó không hoàn toàn sai. Song, cũng không nên quá nhấn mạnh ý nghĩa của điều đó rồi phó mặc cho các doanh nghiệp “lặn, ngụp” trong vô vàn khó khăn do lạm phát. Lạm phát là một căn bệnh của nền kinh tế. Không ai nhờ bệnh dịch để thanh lọc cuộc sống con người. Vì vậy Nhà nước - người có quyền thu thuế và có chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân - cần có những biện pháp cấp bách và hữu hiệu để giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chống đỡ được với những rủi ro về tài chính do lạm phát.

Quản lý rủi ro trong doanh nghiệp

Thứ ba, 15/09/2009, 02:06 GMT+7

Trước những tác động mạnh mẽ của lạm phát cao và suy thoái kinh tế do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra đối với các doanh nghiệp, người ta càng đề cập nhiều hơn đến hoạt động quản lý rủi ro (Risk management) trong doanh nghiệp. Đó là chưa kể mỗi một doanh nghiệp khi thực thi những chiến lược hoạt động phát triển sản phẩm và dịch vụ của mình đều có thể đương đầu với những rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh. Đó có thể là rủi ro về tài chính, rủi ro về hoạt động, rủi ro về pháp luật... Để giảm thiểu các rủi ro có thể gặp, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro, vừa đảm bảo mục tiêu kinh doanh, tạo ra lợi thế cạnh tranh và đem lại giá trị tăng thêm cho những đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, gắn kết chặt chẽ với hoạt động của mình.

Rủi ro và quản lý rủi ro

Hiểu một cách khái quát, rủi ro là bất cứ sự không chắc chắn nào có thể là nguy cơ đối với khả năng thực hiện thành công mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp có thể nhận diện được các rủi ro tiềm ẩn để "quản lý" chúng hay không? Câu trả lời là hoàn toàn có thể. Quản lý rủi ro là một quy trình được thiết lập bởi hội đồng quản trị, ban quản lý và các cán bộ có liên quan khác áp dụng trong quá trình xây dựng chiến lược doanh nghiệp thực hiện xác định những sự vụ có khả năng xảy ra gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp đồng thời quản lý rủi ro trong phạm vi cho phép nhằm đưa ra mức độ đảm bảo trong việc đạt được mục tiêu của doanh nghiệp

Quản lý rủi ro doanh nghiệp được coi là bộ phận không thể tách rời với chiến lược doanh nghiệp. Chẳng hạn một doanh nghiệp xuất khẩu bất ngờ phải đối mặt với một vụ kiện chống bán phá giá dẫn tới những thua thiệt trong việc nhận đơn hàng; hay nhân công của một nhà máy nào đó bất ngờ đình công làm ngưng trệ sản xuất; rồi hàng loạt nhân viên giỏi ra đi để chuyển sang doanh nghiệp khác hoặc thành lập công ty riêng... Những rủi ro đó sẽ làm cho doanh nghiệp bị bất ngờ và dẫn đến thiệt hại, ảnh hưởng đến mục tiêu của doanh nghiệp. Tất cả những vấn đề này sẽ được sự giám sát của bộ phận quản lý rủi ro doanh nghiệp.

Phân loại rủi ro trong doanh nghiệp

Rủi ro là bất cứ điều gì có khả năng ngăn cản sự phát triển của doanh nghiệp, có những rủi ro xâm nhập từ bên ngoài doanh nghiệp, cũng như phát sinh bên trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, rủi ro doanh nghiệp được chia thành các nhóm chính sau:

- Rủi ro trong kinh doanh: là tất cả những yếu tố rủi ro phát sinh từ môi trường kinh doanh bên ngoài Doanh nghiệp:chính trị, xã hội, khoa học công nghệ, nhà cung cấp, khách hàng, đối thủ cạnh tranh...

- Rủi ro trong hoạt động: là các rủi ro về vi phạm quy định chính sách nội bộ của công ty hoặc các hoạt động gian lận như: tham ô, mất mát, lãng phí, hư hỏng, lạm dụng, phá hoại…

- Rủi ro tuân thủ: là các rủi ro liên quan đến pháp luật, hay chính là những việcvi phạm các văn bản pháp luật của nhà nước.

- Rủi ro tài chính: là những rủi ro liên quan đến các thiệt hại có thể xảy ra đối với thị trường tài chính do sự thay đổi của các biến số tài chính: giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái.

Chính sách quản lý rủi ro doanh nghiệp

Chính sách quản lý rủi ro xác định phương pháp tiếp cận đối với rủi ro và quản lý rủi ro, đồng thời nêu rõ trách nhiệm trong việc quản lý rủi ro trong toàn bộ doanh nghiệp.

Hội đồng quản trị là người chịu trách nhiệm xác định hướng chiến lược và cơ cấu cho chức năng quản lý rủi ro doanh nghiệp nhằm đảm bảo hoạt động hiệu quả nhất. Các bộ phận chức năng trong doanh nghiệp có trách nhiệm trong việc quản lý rủi ro hàng ngày, gắn kết việc nhận thức và tuyên truyền về quản lý rủi ro trong bộ phận mình công tác.

Bộ phận quản lý rủi ro doanh nghiệp phải xây dựng được chính sách kiểm soát bất cứ một rủi ro nào thông qua việc phân tích các rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải. Từ đó, phát triển các chiến lược nhằm từng bước giảm thiểu tần suất và nguy cơ mắc rủi ro, thiết kế định hướng quản lý rủi ro ở cấp độ chiến lược và chức năng. Đặc biệt có những chuẩn bị kịp thời để phản ứng nhanh chóng đối với những biến cố xảy ra trong quá trình sản xuất cũng như cung ứng ra bên ngoài thị trường.

Xây dựng và nâng cao văn hóa nhận thức về rủi ro trong doanh nghiệp trong đó có việc đào tạo về quản lý rủi ro trong doanh nghiệp; thiết kế và rà soát quy trình quản lý rủi ro; điều phối các hoạt động chức năng khác nhau có liên quan đến vấn đề quản lý rủi ro trong doanh nghiệp…cũng cần được quan tâm, chú trọng.

Tổ chức giám sát việc thực hiện các biện pháp

Trong quá trình thực thi các biện pháp ứng phó, doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống báo cáo thường xuyên nhằm đảm bảo kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hiện. Doanh nghiệp cũng cần đảm bảo mọi thiếu sót trong việc thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro phải được thông tin kịp thời đến cấp quản lý có trách nhiệm. Thường xuyên tổ chức kiểm tra và đánh giá việc tuân thủ chính sách quản lý rủi ro và các tiêu chuẩn liên quan.

Môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động là không ngừng vận động, do vậy doanh nghiệp cần quan tâm xem xét điều chỉnh các biện pháp đang thực hiện cho phù hợp với những chuyển biến của môi trường. Định kỳ, doanh nghiệp cần xem xét lại mức độ phù hợp của danh sách các rủi ro cùng với biện pháp ứng phó tương ứng.

Tóm lại, để thiết lập được một hệ thống quản lý rủi ro hoạt động hiệu quả, bên cạnh việc xây dựng chính sách quản lý rủi ro của doanh nghiệp, bản thân lãnh đạo doanh nghiệp phải cam kết ủng hộ việc triển khai, đảm bảo không tồn tại khái niệm "vùng cấm" trong doanh nghiệp, những khu vực không được tiếp cận đánh giá, kiểm soát. Đồng thời, lãnh đạo doanh nghiệp cũng phải thật sự coi trọng công tác thông tin, tuyên truyền và đào tạo để xây dựng văn hóa quản lý rủi ro đến mọi đối tượng trong doanh nghiệp.

Tác dụng của quản lý rủi ro

Các hoạt động quản lý rủi ro là bảo vệ và đóng góp những giá trị tăng thêm cho doanh nghiệp và các đối tác liên quan của doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp đạt được mục tiêu đề ra thông qua những nội dung cơ bản thể hiện tác dụng của quản lý rủi ro doanh nghiệp:

- Xây dựng khuôn khổ nhằm giúp doanh nghiệp thực hiện kế hoạch tương lai có tính nhất quán và có thể kiểm soát.

- Tăng cường năng lực trong việc ra quyết định, lập kế hoạch và sắp xếp thứ tự ưu tiên công việc trên cơ sở hiểu biết thấu đáo và chặt chẽ về hoạt động kinh doanh, môi trường kinh doanh, cơ hội và thách thức của doanh nghiệp.

-  Góp phần phân bố và sử dụng hiệu quả những nguồn lực trong doanh nghiệp.

-  Giảm thiểu những sai sót trong mọi khía cạnh của doanh nghiệp.

- Bảo vệ và tăng cường tài sản cũng như hình ảnh doanh nghiệp.

- Phát triển và hỗ trợ nguồn nhân lực và nền tảng tri thức của doanh nghiệp.

- Tối ưu hóa hiệu quả hoạt động

Rõ ràng, đã đến lúc các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam cần nhìn nhận một cách nghiêm túc về vai trò của hoạt động quản lý rủi ro, cân nhắc thiết lập và duy trì một hệ thống quản lý rủi ro trong doanh nghiệp của mình. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, một khi rủi ro được dự báo trước, doanh nghiệp hoàn toàn có thể xây dựng và triển khai những kế hoạch ứng phó hiệu quả và phát triển bền vững.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: