CÓ ANH TRONG ĐỜI

Debbie Macomber

Dịch giả: Thu Trang

Chương 1

Ngay từ lúc đặt chân vào phiên toà xử ly hôn ở vịnh Cedar, Rosie Cox đã có cảm giác thất bại, và cả nỗi ám ảnh vì bị phản bội. Song gặp hoàn cảnh này thì bất cứ ai cũng rơi vào tâm trạng như vậy mà thôi. Suốt mười bảy năm của cuộc hôn nhân tưởng chừng lý tuởng, chưa bao giờ cô ngờ rằng Zach có thể phản bội mình.

Zach chẳng mảy may công khai thú nhận về mối quan hệ bất chính của anh.

Rosie cũng chưa hề phát hiện ra bằng chứng cụ thể hay biểu hiện đáng ngờ nào từ chồng mình. Cô không bắt gặp anh và cô trợ lý dùng bữa ở những nhà hàng sang trọng, không tìm thấy hoá đơn những món trang sức đắt tiền hay hoá đơn nhà nghỉ, nhưng trong sâu thẳm trái tim mình, Rosie biết chồng đang ngoại tình, đó là điều mà một người vợ luôn luôn cảm nhận được.

Rosie thừa nhận rằng cô rất tức giận, và cương quyết thể hiện sự tức giận ấy bằng cách làm cho cuộc ly hôn trở nên phức tạp và khó khăn tột độ. Việc gì cô phải dễ dãi với Zach hay nhẹ nhàng bước ra khỏi cuộc hôn nhân của họ mà không tỏ rõ thái độ bất bình. Vì vậy cô đã đấu tranh quyết liệt.

Nhưng khi rời khỏi toà án với phán quyết cuối cùng trong tay Rosie nhận ra mình đã phạm sai lầm.

Cô những tưởng một khi chính thức ly hôn, những tháng ngày mệt mỏi đầy cay đắng và giận hờn sẽ tan biến. Nhưng cô đã lạc quan quá sớm. Một nỗi buồn thậm chí còn não nề hơn mau chóng bao trùm lên tâm trí và thể xác cô. Hai vợ chồng họ đã lập một bản thoả thuận chung tỉ mỉ đến từng chi tiết về quyền chăm sóc con cái, nào ngờ vừa trình lên, tòa án đã bác bỏ nó. Thay vào đó, người chủ tọa phiên tòa là thẩm phán Lockhart đã phán quyết rằng bọn trẻ sẽ bất lợi về mặt tình cảm khi cứ một vài ngày lại phải di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Bà ta nói Allison và Eđie không đòi ly hôn, vì vậy chúng xứng đáng được hưởng một cuộc sống ổn định. Chắc hẳn sẽ có nhiều người cho rằng vị thẩm phán này quá cách tân hoặc mất trí rồi, Rosie nghĩ, sự can thiệp của bà ta quả là điên rồ.

Ngôi nhà được giao cho bọn trẻ, như vậy chính Rosie và Zach mới là người phải chuyển tới chuyển lui. Quả là nực cười và không tưởng!

Giờ đây, khi thủ tục ly hôn đã kết thúc, Rosie và Zach sẽ phải tính toán việc sắp xếp chỗ ở. Chưa rời tòa án mà Rosie đã thấy tình hình trở nên bất lợi cho mình.

Sharon Castor, luật sư của Rosie giữ cô lại ở hành lang ngoài phòng xử án, "Rosie! Chúng ta phải gặp chồng cũ của bà".

Nhìn ánh mắt Sharon, Rosie hiểu rằng vị luật sư này đang bối rối y như mình vậy.

Otto Benson, luật sư của Zach cũng có cùng tâm trạng đó. Mặc dù gắng giữ vẻ bình tĩnh, nhưng anh ta không che giấu nổi sự căng thẳng lồ lộ trên khuôn mặt. Rosie không dám liếc về phía Zach. Cô đã tránh nhìn thẳng vào người chồng cũ ngay từ khi bước vào phòng xử án.

Luật sư của Zach đề nghị, "Chúng ta tìm một phòng họp để thảo luận chi tiết nhé".

Zach đang đứng sau Otto, dường như anh cũng không vui vẻ gì hơn Rosie trước quyết định của thẩm phán, nhưng chắc chắn anh không thể suy sụp bằng cô được.

Rosie và tôi có thể tự giải quyết vấn đề, Zach càu nhàu, giọng pha chút bực bội.

Rosie hiểu khi mọi việc đã căng thẳng đến nước này thì câu nói của Zach sẽ không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cả. Cô lập tức lên tiếng:

"Không ích gì đâu! Chắc anh còn nhớ chúng ta đã mất hàng tuần tranh cãi về việc thoả thuận nuôi con thế nào rồi chứ?". Cô thích thú nhắc nhở, muốn Zach hiểu anh thật rất ngớ ngẩn nếu định tiết kiệm tiền thuê luật sư bằng cách tự bàn bạc lấy với cô. Giả sử việc này khiến anh ta phải chi ít tiền hơn cho cô trợ lý của mình thì Rosie sẽ thấy thật hả hê.

Tay nắm chặt, Zach làu bàu gì đó qua hơi thở, Rosie hầu như không nghe thấy, nhưng cô đã kiên quyết dặn lòng phải giữ bình tĩnh và cảm thấy tự hào về khả năng tự chủ của mình.

"Điều gì khiến anh nghĩ rằng chúng ta có thể đi đến thoả thuận mà không cần người dàn xếp?", cô hỏi một cách mỉa mai.

"Được thôi", Zach lẩm bẩm với một cái bĩu môi giống hệt cậu con trai chín tuổi của họ. Bây giờ, khi nhìn kỹ Zach, Rosie khó lòng tin nổi mình đã từng yêu anh ta. Zach không chỉ tự mãn, hay lý sự và tự cao tự đại mà còn không hề có một khái niệm gì về trách nhiệm của người chồng, người cha. Không thể phủ nhận Zach là một người đàn ông quyến rũ, hơn nữa, vẻ bề ngoài còn cho thấy anh ta là một doanh nhân thành đạt, một người hết sức lịch lãm. Tuy vậy, ai kém tinh tường đến đâu cũng có thể nhận ra Zach làm nghề kế toán ngay từ cái nhìn đầu tiên. Đôi mắt sẫm màu của anh ta nheo nheo như thể phải dành hàng tiếng đồng hồ mỗi ngày cho những cột số li ti. Tuy thế, trông anh ta vẫn rất hấp dẫn với bờ vai rộng, nó làm tôn lên giá trị của bộ vét đắt tiền trên người, cộng thêm sự quyến rũ của mái tóc dầy và sẫm màu. Có thời Zach đã là một vận động viên, bây giờ anh ta vẫn có thói quen đi bộ để duy trì vóc dáng.

Rosie từng yêu và say đắm vuốt ve những cơ bắp săn chắc ấy mỗi lần ân ái.

Nhưng đã hàng tháng qua họ không ngủ chung giường, và còn lâu hơn nữa kể từ khi họ thực sự làm tình với nhau.

Rosie thậm chí không nhớ gì về lần cuối cùng. Nếu biết trước có ngày hôm nay thì cô đã trân trọng nó hơn, nấn ná thêm một chút bên chồng, tận hưởng vòng tay ôm ấp của anh. Nhưng có một điều chắc chắn là Zach đã không còn hứng thú gì với cô kể từ ngày anh tuyển Janice Lamond làm trợ lý riêng.

Cứ nghĩ đến việc anh ta và Janice quấn lấy nhau Rosie lại thấy nghẹn thở.

Khó khăn lắm cô mới gạt được hình ảnh đó ra khỏi đầu. Nỗi tức giận và cảm giác bị tổn thương vì sự thiếu chung thuỷ của người chồng - không, phải nói là chồng cũ mới đúng - dâng lên đầy ứ trong cổ họng cô.

Zach lên tiêng khiến cô bừng tỉnh, hình như anh ta đã đồng ý để luật sư đàm phán vấn đề rắc rối nảy sinh trong phán quyết ly hôn này. Otto đang làm việc với một nhân viên toà án để tìm một phòng họp trống.

Khi đã tìm được một căn phòng khá riêng tư trong thư viện luật, Zach và luật sư của anh ta ngồi bên bàn đối diện với Rosie và luật sư của cô.

Hai luật sư tỏ rõ bối rối trước chiều hướng của vụ việc. "Tôi chưa bao giờ gặp phán quyết nào như thế này", Sharon mở đầu cuộc nói chuyện.

"Tôi cũng vậy". Otto cau mày. "Đáng lẽ tình huống này chỉ xảy ra trong tiểu thuyết hoặc phim ảnh".

"Chẳng sao cả", Zach nói cộc lốc. "Sự việc không bình thường, nhưng chúng ta đều là người lớn và đủ sức giải quyết vấn đề. Tôi thì lúc nào cũng tha thiết quan tâm đến lợi ích của bọn trẻ trước tiên". Anh ta trừng trừng nhìn Rosie như muốn ám chỉ rằng cô thì trái nguợc.

"Nếu tha thiết thật, anh đã phải cân nhắc kỹ càng trước khi ngủ với con đàn bà dâm đãng đó". Rosie chẳng muốn tranh luận, nhưng thái độ giả dối của người chồng cũ khiến cô phát cáu. Giả sử biết ngó ngàng đến lợi ích của bọn trẻ thì anh ta đã không phá vỡ lời thề hôn ước của họ như vậy.

"Tôi chẳng hơi đâu giải thích hay thanh minh với cô làm gì", Zach nói qua kẽ răng. "Nếu cô ở nhà nhiều hơn thay vì cứ chăm chăm vào các hoạt động tình nguyện chẳng hữu ích gì cho các con ấy thì cô đã ...".

"Đừng hòng tìm cách đổ lỗi cho tôi vì những gì anh đã làm". Rosie rít lên.

Lúc nào Zach cũng phàn nàn về các hoạt động tình nguyện của cô. Nay anh ta thỏa nguyện rồi, vì Rosie phải từ bỏ mọi vị trí mà cô đang giữ. Cô đã hi sinh tất cả vì gia đình, đã nghỉ làm ở nhà, bỏ qua cơ hội có được một công việc với mức lương ổn định. Cô hy vọng anh ta sẽ vui. Kể từ khi bọn trẻ được sinh ra, Rosie luôn dành tất cả cho chúng, chỉ hiềm không phải lúc nào cô cũng có mặt ở nhà mà thôi.

"Tôi nghĩ chúng ta vào đây để thảo luận về phán quyết ly hôn phải không?".

Zach hỏi với vẻ chán nản, một biểu hiện hiển nhiên là có lợi cho cô. "Đừng lăng mạ nhau nữa, tôi không trả tiền để các luật sư ngồi đây nghe đâu".

Đúng vậy, Rosie đăm chiêu, cô hài lòng khi biết Zach sẽ phải chịu chi phí cho luật sư của cả hai bên. Anh ta có một công việc được trả lương cao. Còn cô hiện đang theo một khoá học hè để nâng cấp chứng chỉ dạy học của mình. Học phí cũng do Zach thanh toán. Đó là một vết khía vào lòng cô, bởi nó là một thoả thuận được dàn xếp trong cuộc ly hôn của họ.

Rosie đã nộp đơn vào trường South Kitsap của thị trấn, và nhờ các mối quan hệ quen biết của mình, cô sẽ dễ dàng được tuyển làm giáo viên vào tháng Chín này.

"Hãy lập danh sách những điều chúng ta cần thoả thuận", Sharon nhanh nhảu nói, phớt lờ cuộc tranh cãi giữa Rosie và Zach. "Mặc dầu cuộc hôn nhân của ông bà đã tan vỡ, nhưng cả hai đều khẳng định rằng lợi ích của bọn trẻ là trước tiên và trên hết".

Rosie và Zach cùng gật đầu.

Sharon mỉm cười. Cô là mẫu phụ nữ đầy lý trí, không dễ bị tình cảm chi phối. "Được rồi, vậy chúng ta đã có điểm chung để bắt đầu".

"Tôi muốn khen ngợi thái độ của cả hai ông bà". Otto nói và lấy một tập giấy tờ pháp lý từ trong cặp ra như muốn chứng minh anh ta xứng đáng được trả công. Zach đã chọn luật sư có uy tín nhất và vì thế Rosie cũng chọn một luật sư tương xứng. Và cả hai luật sư đều có giá rất cao.

"Vâng", Zach mỉa mai. "Nếu chúng tôi hoà hợp hơn, chúng tôi đã không chia tay".

"Anh phải tự biết ai là người có lỗi trong chuyện này", Rosie ngắt lời.

"Có chứ, tôi biết", Zach bác lại ngay. "Cô thực sự ở nhà được bao nhiêu đêm? Cô đã nấu được bao nhiêu bữa cơm tối? Nếu cô không nhớ thì đẽ tôi nói cho cô biết. Con số đó đếm trên đầu ngón tay".

Sharon thở dài thườn thượt. "Thôi nào, bàn đến bọn trẻ trước. Hiện thời ngôi nhà là của chúng. Ba ngày mỗi tuần, khi Zach ở với các con, Rosie sẽ phải tìm một nơi nào đó để trú chân".

Nơi nào đó để trú chân? Rosie choáng váng, cảm giác bàng hoàng luồn dọc sống lưng, bây giờ cô mới ý thức được hậu quả tồi tệ của phán quyết kia.

"Và cô ta cũng phải trả một nửa số tiền nhà cho bọn trẻ", Zach nói thêm và mỉm cười đôn hậu một cách giả tạo.

"Nhưng tôi không thể", Rosie không thể không nghĩ được xa hơn. "Bây giờ tôi vẫn chưa tìm được việc. Làm sao tôi chi trả nổi cho một căn hộ như vậy với hàng loạt phí tổn liên quan?". Thật thiếu công bằng, Zach phải nhận thấy yêu cầu đó là vô lý chứ. Cô cũng có cuộc sống riêng và cô không thể xây dựng cuộc sống đó nếu cứ phải chi tiêu từng đồng xu kiếm được cho hai căn hộ riêng biệt.

Rosie ngó Zach chằm chằm, anh ta cũng gườm gườm nhìn lại.

"Tôi có một gợi ý thế này", Sharon đề xuất.

"Cô nói thử xem sao", luật sư của Zach lộ vẻ háo hức vì dường như anh ta cũng không còn ý tưởng gì.

"Trong ba ngày Zach ở với bọn trẻ, căn hộ của ông ấy sẽ để trông, đúng không?". Cô ta quay sang phía Zach để xác minh.

Rosie cũng quan sát chồng cũ. Thực chất Sharon muốn ngầm hỏi Zach có ý định đưa Janice và đứa con trai bằng tuổi Eđie về chung sống trong căn hộ đó không.

"Để trông", Zach nhấn mạnh.

"Vậy nếu ...". Sharon liếc từ người này sang người kia, "Rosie chuyển đến căn hộ trong thời gian ông ở cùng bọn trẻ thì sao? Ông từng nói đó là một căn hộ có hai phòng ngủ phải không?".

Rosie thấy lòng chứa đầy mâu thuẫn. Cô không muốn dính dáng gì đến người chồng cũ nữa, càng không muốn bị đặt vào một vị trí quá gần Zach, gần những đồ vật của anh ta hoặc những đồ vật đã từng là của họ. Cô cũng không muốn bắt gặp những dấu vết chứng tỏ tình cảm qua lại giữa anh ta và ả nhân tình.

"Không đời nào tôi để Rosie bước vào căn hộ của tôi", Zach cũng chung mối e ngại với người vợ cũ. Chúng tôi đã ly hôn, và phải mất hàng tháng trời để đạt được điều đó. Rosie muốn đi và cô ấy đã được thỏa nguyện".

"Anh mới là người đầu tiên dọn đi", Rosie khinh khỉnh nhắc.

"Hoàn toàn chính xác. Cô đá tôi ra khỏi nhà".

Rosie không thể tin nổi là Zach cố tình bóp méo sự thật như vậy, "Chính anh khăng khăng bắt tôi gặp luật sư, anh quên rồi à?".

Zach khịt mũi và nhìn Sharon. "Tôi thật ngu ngốc".

Luật sư của Rosie xòe tay năn nỉ. "Nghe này, đây chỉ là lời gợi ý giúp cả hai tiết kiệm một khoản tiền". Cô ta lại quay sang Rosie "Nếu may mắn, có thể bà sẽ tìm được một căn hộ, thậm chí một căn phòng rất nhỏ, nhưng nó sẽ có giá không dưới năm hay sáu trăm đô một tháng".

"Zach sẽ phải trả".

"Tôi có bị điên đâu".

"Quyết định ly hôn đã có hiệu lực", Otto Benson chỉ rõ. "Zach không phải chi trả thêm bất cứ khoản nào ngoại trừ những gì đã được thống nhất".

Rosie nhìn sang luật sư, Sharon miễn cưỡng gật đầu. Tình huống này thực quá sức chịu đựng của Rosie. Không những mất chồng, cô còn bị tống ra khỏi nhà mình. Nước mắt chực tuôn rơi, nhưng cô gắng kìm lại. Zach không được phép biết anh ta đã làm cô khốn khổ đến mức nào.

Một lúc lâu sau Zach lên tiếng. "Thôi được, tôi đồng ý cho Rosie ở căn hộ của tôi trong khi tôi ở cùng bọn trẻ, miễn là cô ấy đồng ý chia đôi tiền thuê nhà".

Rosie nhận thức được rằng mình không còn sự lựa chọn nào khác, nhưng cô cũng có lòng tự trọng riêng và kiên quyêt giữ vững nó. "Với một điều kiện", cô ngẩng cao đầu yêu cầu.

"Gì nữa đây?". Zach hỏi cùng tiếng thở dài đầy chịu đựng.

"Tôi không muốn anh đưa người đàn bà đó vào ngôi nhà mà bọn trẻ ở. Tôi muốn ngôi nhà phải là nơi an toàn cho chúng. Nói cách khác tôi không muốn Allison và Eđie tiếp xúc với người đàn bà của anh".

"Cái gì?". Zach trân trối nhìn Rosie như thể cô đang nói tiếng nước ngoài.

"Anh nghe thấy rồi đấy", Rosie hung hăng nói và bắt gặp ánh mắt giận dữ của Zach. "Cuộc ly hôn này là quá đủ với bọn trẻ. Chúng không thể chịu đựng được việc anh công khai với Janice hay hẹn hò ả nào đó trước mặt chúng đâu.

Vì vậy đừng để bọn gái điếm lượn lờ trong căn nhà của tôi".

"Gái điếm à?". Zach cười đầy vẻ tụ mãn. "Được thôi không có gái điếm. Và cô cũng vậy, tôi không muốn cô đưa bất cứ người đàn ông nào về nhà. Không bạn trai, không đồ chơi tình dục, không ...".

"Ồ thật là vui", Rosie ngắt lời, cắt dứt sự nhạo báng của anh chồng cũ. Thậm chí cô chưa từng nhìn đến người đàn ông nào khác trong suốt mười bảy năm qua, tất nhiên không tính đến thời gian trước khi quen Zach.

"Cô đồng ý hay không đây?", người đàn ông thách thức.

"Tất nhiên tôi đồng ý".

"Tốt".

"Tuyệt".

Với sự có mặt của các luật sư, họ nhanh chóng đi đến quyết định về một số vấn đề khác, rồi Sharon thảo ra một bản thoả thuận. Luật sư của Zach xem xét lại, sau đó cả Zach và Rosie cùng ký.

Lúc rời khỏi phòng xét xử, Rosie cảm thấy thân thể rã rời như bị hàng ngàn con sóng vùi dập liên hồi trong bão táp biển khơi. Trái tim cô thực sự bị tổn thương. Cô đã rất sợ hãi, đồng thời cũng rất nôn nóng được đối mặt với ngày này. Việc ly hôn đã xong xuôi, cô không thể nắm bắt được cảm xúc của mình, ngoại trừ vết thương lòng đang bủa vây và mãi cứa sâu vào tâm khảm.

Rosie lái xe vào con đường dẫn tới số nhà 311 đường Pelican, lúc ấy Eđie đang chơi bóng rổ. Chỉ một tháng nữa thôi bọn trẻ lại bắt đầu tới trường, hi vọng lúc đó cuộc sống của họ sẽ trở lại bình thường.

Eđie bắt quả bóng rổ và ôm ở cạnh sườn, đứng nhìn mẹ tiến xe vào ga- ra.

Đôi mắt buồn sẫm màu của cậu dõi theo Rosie, và cậu bước sang một bên để mẹ lái xe qua.

Cô bé Allison mười lăm tuổi đang ở trong bếp hâm lại một cái xúc xích cho bữa trưa. Thấy mẹ vào cô quay ra nhìn, đôi mắt ánh lên vẻ ngang ngạnh. Lúc đó trông nó thật giống Zach.

"Mọi việc thế nào hả mẹ?". Eđie đi theo mẹ vào bếp và hỏi, tay vẫn ôm quả bóng rổ.

"Mẹ cho là mọi việc vẫn ổn".

Lò vi sóng kêu bíp và Allison lấy cái xúc xích xông khói nóng hổi ra. Có vẻ như miếng xúc xích không còn hấp dẫn nữa, nên cô bé đặt cái đĩa đựng xúc xích lên mặt bàn ăn và nhìn Rosie.

"Có một ... rắc rối nho nhỏ", Rosie thông báo. Cô không muốn che giấu sự thật với bọn trẻ, đặc biệt là những gì có ảnh hưởng trực tiếp đến chúng.

"Rắc rối gì vậy mẹ?". Eđie hỏi và kéo chiếc ghế bàn ăn ra. Cậu bé đặt quả bóng rổ lên bàn, một tay chống lên quả bóng. Allison khoanh tay trước ngực và dựa vào bệ nấu ăn, vờ như chán nản, nhưng không bỏ vào phòng riêng như nó vẫn làm.

Rosie cố gắng tỏ ra hào hứng với phán quyết của thẩm phán Lockhart. "À bây giờ hai con sẽ không phải vài ngày lại chuyển đến ở với bố nữa".

Allison và Eđie đều tỏ ra ngạc nhiên. Rosie gắng tạo nét mặt vui vẻ để giải thích về quyết định của thẩm phán Lockhart và vắn tắt chỉ ra sự thay đổi đó.

"Ý mẹ là bố sẽ đến sống ở đây?". Eđie hỏi như thể chưa hoàn toàn nắm bắt được vấn đề. Rosie không trách con vì chính cô cũng thấy khó bối rối và bực bội vì sự xoay chuyển tình thế này. Cuộc sống thật khốn khổ, dù ly hôn hay không, Rosie cay đắng nghĩ.

"Bố của các con sẽ về nhà ba ngày trong tuần", Rosie nói. Cô đã đồng ý chuyển căn phòng may của mình thành một phòng ngủ nữa cho Zach. Sẽ chẳng có vấn đề gì nếu đặt chiếc máy khâu trong phòng ngủ trước kia của hai người.

"Ồ" Eđie nói. Ban đầu cậu bé có vẻ thất vọng, nhưng sau đó mắt nó sáng lên khi hiểu rằng sẽ được ở bên bố, cho dù chỉ phân nửa thời gian. "Con cho rằng quyết định này hay đấy".

"Còn con thì không", Allison hét lên. "Con chỉ biết toàn bộ cuộc ly hôn này là giả dối". Nói xong cô bé lao ra khỏi bếp.

Rosie nhìn theo con gái, ước gì nó biết cảm thông với mình. Cô muốn ôm con bé vào lòng và nói với nó rằng mọi việc sẽ ổn, nhưng con bé không chấp nhận bất cứ sự gần gũi nào, ít nhất là từ phía cô ...

"Mẹ không cần lo lắng cho chị Allison đâu", cậu con trai chín tuổi nói. "Chị ấy cũng rất mong bố về nhà dù chỉ một vài ngày, nhưng chị ấy không muốn cho mẹ biết".

Chương 2

Mồ hôi nhỏ thành từng giọt xuống mặt Grace Sherman. Cái oi bức của buổi chiều giữa tháng bảy làm chiếc áo thun bó sát lấy cơ thể chị. Grace nhúng cây lăn vào sơn và nhẹ nhàng phủ màu vàng nhạt lên bức tường phòng ngủ của mình. Chị là một thủ thư, mặc dù công việc của chị là bảo quản sách nhưng thực tế chị không có năng khiếu bảo dưỡng và sửa chữa. Dan luôn là người làm những công việc này. Sống một mình ở tuổi năm mươi lăm, Grace nhận thấy cuộc đời vẫn tiếp tục xô đẩy chị vào những tình huống éo le đầy thách thức.

"Tớ hy vọng cậu nhận thấy tớ là một người bạn tốt thế nào", Olivia Lockhart cất tiếng từ phía sau lưng Grace. Chị sang giúp bạn sơn bức tường trắng cáu bẩn thành màu vàng nhạt, lúc này chị chị đang thận trọng dịch chuyển đồ đạc ra giữa phòng ngủ và che phủ chúng bằng những tấm giấy cũ.

"Cậu tình nguyện giúp đấy chứ", Grace nhắc nhở, lấy cánh tay quệt mồ hôi trên trán. Căn phòng tĩnh mịch và không khí trong phòng rất ngột ngạt, mặc dù các cửa số đang được mở rộng.

Từ khi biết Dan chết vì tự sát, Grace đã mắc chứng mất ngủ. Olivia bèn gợi ý nên sơn lại căn phòng vì cho rằng thay đổi màu sắc sẽ biểu hiện cho một giai đoạn mới trong cuộc đời. Màu vàng nhạt là một màu yên bình, lạc quan. Tiềm thức của chị cũng mách bảo điều ấy. Đây quả là một ý kiến hay, nhất là khi Olivia đề nghị được giúp đỡ. Suốt những năm tháng thân thiết, họ đã hỗ trợ nhau từ những việc lặt vặt trong nhà đến những sự kiện lớn trong cuộc sống.

"Không thể tin được, tớ cứ nghĩ chúng ta sẽ hoàn thành chỉ trong một ngày".

Olivia rên rỉ. Chị vươn người đưa tay ra sau lưng. "Tớ không nghĩ rằng sẽ có nhiều việc phải làm đến vậy".

"Uống một tách trà đá nhé?". Bản thân Grace cũng muốn được nghỉ giải lao.

Hai người đều có cảm giác là đã phải sơn tường lâu lắm rồi, nhưng thực tế họ mới tiến hành được một hoặc hai giờ đồng hồ gì đó. Lâu có lẽ là do họ phải thực hiện thêm một số thao tác nữa, như chuyển đồ đạc ra chỗ khác, trải một lớp vải phủ trên sàn nhà và che lại cửa sổ để chúng khỏi bị dính sơn.

Olivia đặt cây lăn sơn sang một bên và nói. "Cậu không cần mời lần thứ hai đâu".

Grace cho hai cây lăn sơn vào một túi ni lông và bước vào bếp. Khi Olivia rửa tay xong thì Grace cũng đã rót trà ra hai chiếc cốc cao. Buttercup, con chó cưng của chị cào cửa. Vì không để ý, Grace đã mở cửa cho nó vào trong. Con chó kéo lê theo sơn vào trong nhà và nằm vươn vai dưới bàn, tì cằm vào sàn nhà lát đá.

Grace thả người xuơng ghế, tháo chiếc khăn trùm đầu buộc xuống cổ và lắc mái tóc còn ẩm cho chúng xõa ra. Mới đây chị đã cắt tóc ngắn vì không còn phải bận tâm đến sở thích của chồng nữa.

Sau khi chứng kiến nỗi đau nhiều năm trước đây của Olivia, Grace không bao giờ muốn phải ly hôn, nhưng khi Dan biến mất chị không còn sự lựa chọn nào khác.

Đó là chuyện nhiều tháng trước đây. Cuối cùng khi biết rằng Dan đã chấm dứt cuộc đời, và khi tìm thấy xác anh, chị cũng cảm thấy phần nào thanh thản.

Tuy vậy, chị vẫn đau đớn khôn tả và bị giằng xé vì mặc cảm tội lỗi:

tất cả những nghi ngời buộc tội đều đổ lên đầu chị sau cái chết của Dan. Vì vậy, việc Grace bị mất ngủ cũng là điều hoàn toàn dễ hiểu.

"Ngoài việc bật đĩa nhạc Credence Clearwater Revival thì uống trà là ý tưởng hay nhất trong ngày của cậu", Olivia nói và gieo mình xuống ghế. Cả hai đều bị cuốn hút vào điệu nhạc trẻ trung mà không hề để ý đến sự nóng nực và khó chịu của thời tiết cho đến khi bài hát cuối cùng kết thúc.

"Chúng ta không còn sung sức để có những bước dịch chuyển như ba mươi năm trước đây nhưng cũng chưa sẵn sàng để dò dẫm những bước tiếp theo", Grace nói và Olivia mỉm cười đồng ý.

"Tớ có nghe chuyện về vụ xử gần đây nhất của cậu", Grace nói và cười với bạn. Họ đã cùng làm việc cả buổi chiều, nhưng vì mải lắng nghe những giai điệu tuyệt vời của âm nhạc nên họ hầu như không có cơ hội nào để nói chuyện.

"Ý cậu muốn nói đến vụ quyền chăm sóc con chung của vợ chồng Zach - Rosie?". Olivia hỏi.

Grace gật đầu. "Cả thị trấn này đều biết". Đây không phải lần đầu tiên Olivia đưa ra một quyết định gây tranh cãi ở toà.

Olivia đảo mắt. "ít nhất Jack không dành một cột trên báo để viết về chuyện này nữa".

Cuối cùng Olivia đã nhắc đến Jack Griffin. Vậy là tốt. Grace đang tìm cách đả động tới chủ đề này. Olivia và Jack đã có mối quan hệ gần gũi với nhau hơn một năm nay, Grace quý Jack vì một lý do đơn giản, đó là anh ấy đã khiến cho bạn mình hạnh phúc. Từ khi Olivia và Jack - biên tập viên tờ báo địa phương hẹn hò với nhau, chị cảm thấy rất mừng cho bạn mình. Cách đây một vài tuần, Jack và Olivia đã cãi nhau vì một chuyện hiểu lầm có liên quan đến Stan - chồng cũ của Olivia. Và từ bấy đến nay họ vẫn chưa hòa giải. Olivia đã rất khổ sở, mặc dù chị không thú nhận điều đó.

"Nói về Jack nhé", Grace hỏi một cách vui vẻ, "hai người đã làm lành với nhau chưa?". Theo quan điểm của Grace, Jack là một người hoàn toàn phù hợp với bạn chị. Anh rất hóm hỉnh, khôi hài và có một chút khác thường đủ để hấp dẫn người khác.

Olivia ngước lên. "Tớ không muốn nói chuyện về Jack".

"Nếu cậu không thích thì thôi vậy. Kể cho tớ nghe về Stan đi".

Stan là chồng cũ của Olivia, bây giờ hiện đang sống ở Seattle với người vợ thứ hai, nhưng gần đây anh ta xuất hiện rất thường xuyên ở vịnh Cedar. Chắc phải có điều gì đó đang điễn ra, nhưng Olivia vẫn giữ im lặng một cách đáng ngờ về việc này.

"Cậu biết chuyện về Stan và Marge à?". Olivia hỏi tròn mắt ngạc nhiên. "Ai kể với cậu vậy? Mẹ hay Justine?".

"Chẳng ai nói với mình cả. Tớ đang đợi cậu nói cho tớ nghe đây".

Olivia uống một hơi hết ly trà đá và ngước lên, một chút ngập ngừng thoáng qua khuôn mặt chị.

"Có chuyện gì đó không vui với cậu à?". Grace thúc giục.

"Stan và Marge đang làm thủ tục ly hôn".

Điều Olivia tiết lộ khiến Grace thấy sốc. Đây quả là một tin bất ngờ. Nó giải thích tại sao Stan lại đến vịnh Cedar thường xuyên hơn trước đây. Những chuyến viếng thăm của anh ta luôn được ngụy trang bằng lý do về thăm con gái Justine và cháu ngoại mới sinh cách đây hai tuần. Grace thấy nghi ngờ về việc anh ta lại đột ngột quan tâm đến gia đình. Đặc biệt là kể từ khi Stan bỏ rơi vợ và con anh ta vào mùa hè năm 1986. Jordan, một đứa trẻ mười ba tuổi sáng sủa và hoạt bát, đã chết đuối khi đi bơi với bạn vào một buổi chiều tháng Tám oi bức.

Justine, em gái sinh đôi của Jordan, đã ôm cơ thể lạnh ngắt của anh trai cho đến tận khi những người y tá đến. Cuộc sống của Olivia đã đã chuyển sang bước ngoặt mới kể từ ngày hôm đó; cái chết của Jordan chứng tỏ một điều rằng thế giới là một chốn an toàn nhưng cũng có thể là một nơi đầy rẫy hiểm nguy.

Cuộc hôn nhân của Olivia và Stan đổ vỡ sau khi Jordan chết đuối, và Grace luôn phân vân không biết có phải Stan đã có quan hệ với Marge từ trước cái chết của Jordan không. Chị chưa bao giờ nói thẳng điều này với Olivia mà chỉ nghi ngờ.

"Cậu không có gì để kể à?". Olivia hỏi.

Grace lấy làm ngạc nhiên rằng cuộc hôn nhân của Stan và Marge đã kéo dài được ngần ấy năm. Stan lấy người phụ nữ khác khi tờ giấy ly hôn chưa khô mực. "Mình rất tiếc là cuộc hôn nhân lại kết thúc như vậy", chị lẩm bẩm và không tin chuyện đó lại có thể xảy ra.

"Mình rũng vậy". Olivia nói với vẻ u sầu và mệt mỏi.

Và rồi Grace chợt hiểu ra. Lẽ ra chị phải kết nối được các sự kiện này sớm hơn chứ nhỉ? Chị muốn tự cốc vào đầu mình vì sự chậm hiểu này. "Stan muốn quay lại với cậu phải không?".

Olivia ngập ngừng. Dường như chị không muốn trả lời câu hỏi này, nhưng rồi chị gật đầu.

Grace vô cùng giận dữ. Làm sao anh ta dám có ý định đó? Sao anh ta dám quay lại để xáo trộn cuộc sống của Olivia sau ngần ấy năm và hy vọng cô ấy sẽ dang tay đón nhận. Trơ trẽn quá thể ! Anh ta tính toán cũng thật hoàn hảo, Grace cảm thấy ghê tởm. Đương nhiên là Stan đã xuất hiện vào thời điểm mà Olivia gặp Jack. Chắc hẳn anh ta không chịu được ý nghĩ vợ cũ của mình đang hẹn hò với ai đó.

"Tớ không kể với cậu về Stan chính vì lý do này", Olivia lẩm bẩm. "Cậu đang giận dữ đến nỗi mắt long lên rồi kìa".

"Tớ không thể kiềm chế được". Grace hét lên.

Và trong đầu Grace chợt loé lên ý nghĩ rằng Olivia đang định quay lại với Stan. Đó là điều tệ nhất mà Olivia có thể làm, và nếu Olivia không nhận thức được điều đó thì Grace cũng không bao giờ dám nói thẳng với Olivia rằng cô ấy đang mắc phải sai lầm. Stan chưa bao giờ tôn trọng vợ. Anh ta dường như không thèm quan tâm rằng sự ra đi của mình sẽ ảnh hưởng thế nào đến vợ và bọn trẻ bị bỏ lại. Tất cả mối quan tâm của Stan là bản thân anh ta, nhu cầu của anh ta.

"Mình hiểu cậu nghĩ gì về Stan". Olivia thì thầm.

"Cậu sẽ không quay lại với anh ta chứ? Cậu không phải đắn đo đấy chứ?".

Những suy nghĩ của Grace rối bời tới mức chị cảm thấy khó mà diễn đạt được bằng lời.

Sự bối rối khác thường của Olivia khiến Grace phải cố gắng kiềm chế không đứng lên và ôm lấy bạn mình.

"Mình không biết", Olivia thì thầm.

Grace chỉ gật đầu, cố gắng tỏ ra trung lập.

"Ngày mà Leif ra đời", Olivia vừa nói vừa nhìn vào chiếc cốc như thế trong đó chứa đựng câu trả lời mà chị cần. "Mình và Stan đã có khoảng thời gian tuyệt vời nhất".

"Cậu đã có với anh ta ba đứa con", Grace nói, cố gắng kìm nén quan điểm tiêu cực của chị về tình huống này.

"Bọn tớ đã hạnh phúc bên nhau trong nhiều năm".

Grace không thể phủ nhận điều này, nhưng Stan đã gây ra cho bạn chị rất nhiều tổn thương về mặt tình cảm. Hơn ai hết, chị biết Olivia phải mất bao lâu để gượng dậy, để ấy lại được trạng thái thăng bằng sau cái chết của Jordan và sự thất bại trong hôn nhân.

"Thế còn Jack thì sao?". Có lẽ nhắc đến tên anh ta lúc này là một sai lầm nhưng Grace thực sự tò mò. "Anh ấy có biết không?". Chị đoán là Jack biết và đó là mấu chốt cho những mâu thuẫn gần đây của họ.

Olivia gật đầu và siết chặt tay quanh chiếc cốc. "Cậu biết anh ấy đã làm gì không?". Đôi mắt nâu của chị ánh lên những tia giận dữ. "Cứ nghĩ đến chuyện này là tớ phát điên".

Vậy là cuối cùng Olivia cũng sẽ kể mọi chuyện cho Grace.

Olivia nói tiếp. "Jack đưa ra cho tớ tối hậu thư. Anh ấy nói rằng Stan đã theo đuổi tớ hàng tháng nay, và rằng tớ phải chọn hoặc anh ấy hoặc Stan".

"Vậy ư?". Grace nói, kéo dài giọng. "Thế ý cậu thì sao?".

"Tớ nghĩ rằng", Olivia nói với sự kiềm chế hết sức, "tớ không phải chiến lợi phẩm dành cho bất cứ ai hết. Hơn nữa tớ không muốn tham gia vào trò chơi ngu ngốc này của Jack".

"Trò chơi", Grace phản đối. "Theo tớ thì dường như cậu mới chính là người đang chơi trò chơi đấy".

"Mình ư?". Olivia kêu lên.

"Đúng vậy, chính cậu", Grace nói. "Có phải cậu mong Jack sẽ quanh quẩn bên cậu trong khi Stan quay lại với cậu không?".

"Không, nhưng tớ hy vọng anh ấy sẽ tỏ ra có dũng khí hơn. Nếu tớ thực sự quan trọng với anh ấy như anh ấy nói, thì ít nhất anh ấy phải cho tớ biết anh ấy cảm thấy thế nào".

Grace cau mày. "Ý cậu là anh ấy vẫn chưa nói gì với cậu?".

"Nói với tớ à?". Olivia nhắc lại. "Ồ gần như là không. Khoảng một tháng trước đây anh ấy đến nhà tớ vào đúng thời điểm không thích hợp. Stan đã qua đêm ...".

Grace không thể che giấu nỗi sửng sốt của mình, "Stan ...".

"Đừng nói với tớ là cả cậu cũng nghĩ vậy chứ". Olivia nói, nghe có vẻ cực kỳ bực bội. "Cậu phải biết là anh ta ngủ ở trên gác trong căn phòng cũ của James. Hoàn toàn không có chuyện gì hết. Tớ không thể tin là cậu cũng nghĩ tớ cho anh ta ngủ trên giường tớ ...".

"Tớ không biết phải nghĩ thế nào nữa", Grace nôn nóng muốn biết điều gì đã diễn ra. "Nào vậy cậu hãy nói cho tớ biết chuyện gì đã xảy ra?".

"Tớ và Jack định đi chơi với nhau vào sáng hôm đó, nhưng anh ấy đến sớm hơn dự định, mang theo cà- phê và bánh rán, anh ấy đã gặp Stan mặc áo choàng trong nhà và đi dép lê của tớ. Trông anh ta chắc hẳn rất buồn cười, nhưng đó không phải vấn đề chính".

"Và theo lẽ tự nhiên Jack đã nghĩ đến điều tồi tệ nhất". Anh ta đã vội vã đi đến kết luận như Grace, rằng Stan và Olivia đã ngủ chung giường.

"Thoo lẽ tự nhiên", Olivia lặp lại lời bạn. "Tớ chạy theo anh ấy, cố giải thích cho anh ấy hiểu, nhưng anh ấy không chịu nghe. Anh ấy nói nếu tớ muốn quay lại với Stan thì cũng tốt thôi".

"Cậu có chắc đó là những điều anh ấy nói không?".

Olivia ngừng lại. "Anh ấy không nói hẳn ra như thế, nhưng đó là thông điệp mà anh ấy muốn nói. Tớ phải cho cậu biết là tớ bực đến thế nào khi anh ấy thực sự nghĩ rằng tớ và Stan ngủ với nhau. Trong khi tớ và anh ấy đang hẹn hò một cách rất nghiêm túc".

Grace sắp xếp lại những sự việc đã diễn ra. "Kể từ hôm đó cậu chưa nói chuyện lại với Jack phải không?".

"Chưa. Mẹ khuyên tớ nên gọi cho anh ấy". Olivia chậm rãi ngước mắt lên và bắt gặp ánh mắt của Grace. "Có phải đây cũng là điều cậu nghĩ không?".

Grace nhún vai. Nếu ở trong tình huống này, có lẽ chị sẽ, nhưng ...

"Vấn đề là", Olivia cắn môi và nói. "Tớ muốn Jack phải tỏ ra sốt sắng. Để chứng tỏ là anh ấy thực sự quan tâm đến tớ. Nếu anh ấy thực sự yêu tớ thì phải đấu tranh vì tớ chứ".

"Đấu tranh vì cậu?". Một hình ảnh hài hước nảy ra trong đầu Grace. Đó là hình ảnh Jack và Stan đứng trên đường, giơ nắm đấm về phía nhau. "Ý cậu là cậu muốn anh ta sẽ thách thức Stan so găng với anh ấy à? Hay là ...", Grace cười to, cô đang tưởng tượng hai người đàn ông trong trang phục quý tộc, tay vung súng lục, " ...một cuộc đọ súng tay đôi?".

"Không, không phải vậy", Olivia mất kiên nhẫn. "Tớ muốn anh ấy thể hiện rằng tớ đáng giá hơn lòng sĩ diện đàn ông của anh ấy. Vậy đó". Olivia cụp mắt xuống. "Anh ấy cư xử như một đúa bé bị tổn thương".

"Nhưng tớ thấy đúng là anh ấy bị tổn thương mà?".

"Thì tớ cũng bị tổn thương chứ. Jack nhanh chóng đi đến kết luận là đêm hôm đó tớ đã ngủ với Stan mặc dù bọn tớ đang có mối quan hệ nghiêm túc với nhau. Nếu anh ấy nghĩ tớ là người như vậy thì có lẽ tớ cũng không cần anh ấy nữa".

"Đừng từ bỏ dễ dàng như vậy chứ".

"Đã gần một tháng rồi Grace à". Olivia nói giọng buồn rầu, chậm rãi lắc đầu.

"Tớ phải nghĩ thế nào nữa đây? Dường như Jack cũng không phải cân nhắc nhiều về việc từ bỏ mối quan hệ của chúng tớ".

"Thế cậu thì sao?". Grace hỏi. "Cậu có sẵn sàng từ bỏ Jack không?".

Olivia không trả lời ngay, nhưng cuối cùng cũng lên tiếng. "Tớ không nghĩ vậy".

Điều này nghe có vẻ đáng khích lệ đây. "Thế cậu định làm gì?".

"Tớ cũng không biết nữa", chị thú nhận. "Hãy để thời gian trả lời vậy".

Grace gật gù, chị uống cạn ly trà rồi đứng dậy, thả cái cốc vào chậu rửa.

"Chúng ta quay lại với công việc sơn tường nhé".

"Đợi một chút", Olivia ngăn Grace, đồng thời vẫn ngồi yên trên ghế. "Nhân tiện đang nói chuyện về chủ đề đàn ông, nói cho tớ nghe chuyện gì đã xảy ra giữa cậu và anh chàng chủ trang trại đẹp trai nào?".

Grace muốn kêu lên một tiếng thật to. Chị không muốn nói chuyện về Cliff Harding chút nào. Họ đã quen biết nhau được gần một năm; họ gặp nhau ngay sau khi Grace nộp đơn ly hôn. Đến khi cuộc ly hôn kết thúc chị mới chính thức hẹn hò với anh ta, nhưng trước đó anh ta đã theo đuổi chị và thổ lộ cho chị về tình cảm của mình. Grace cũng có tình cảm với anh ta, nhưng không hiểu vì lý do gì, chuyện tình cảm ấy lại gây cho Grace một cảm giác không thoải mái.

"Có chuyện gì vậy?". Olivia hỏi.

"Tớ cũng không biết rõ nữa", Grace lầm bầm. "Và đó là cũng một nguyên nhân của những rắc rối giữa bọn tớ".

"Ý cậu là một người đàn ông tử tế, không có gì đáng chê bước vào cuộc đời cậu và cậu không lý giải được tại sao mình lại không muốn?".

Grace tảng lờ lời châm biếm của Olivia. "Tớ và Dan kết hôn khi còn quá trẻ", chị nói, và thấy Olivia có vẻ vẫn muốn nghe chuyện, chị lại ngồi xuống ghế. "Lúc ấy bọn tớ mới đang ở tuổi cắp sách, sau đó Dan sang Việt Nam.

Nhưng bất chấp tất cả những khó khăn đó, tớ vẫn không hề để mắt đến người đàn ông nào khác".

"Tớ biết", Olivia nói bằng giọng nhẹ nhàng, vỗ về.

"Cứ nhìn cách Cliff chăm sóc an ủi, tớ chắc chắn anh ấy sẽ cầu hôn tớ vào một ngày gần đây thôi".

"Anh ấy đã thật tử tế hôm đám tang của Dan".

Grace không thể không đồng ý. Cliff đã có mặt ở nhà sau khi đưa tang và đã chăm sóc chị thật dịu dàng. Chị đã kiệt sức cả về thể chất, tinh thần và tình cảm.

Buổi chiều hôm đó, Cliff đã vỗ về chị, đưa chị vào giường để chị yên tâm ngủ, còn anh thì đi chuẩn bị bữa tối. Grace chưa gặp ai chu đáo như Cliff Harding, và thực sự, cách đối xử của anh ấy đã khiến chị sợ hãi chính mình.

"Tớ biết Cliff muốn tiến tới chuyện nghiêm túc", chị nói giọng run run, "nhưng tớ chưa hề hẹn hò với ai kể từ sau cái chết của Dan".

"Vậy cậu nghĩ rằng hẹn hò riêng tư với một người đàn ông - bất cứ người nào cũng là rơi vào cái bẫy như thời học trung học sao?". Olivia hỏi. "Có phải vậy không?".

"Tớ không muốn ly hôn hay trở thành goá phụ, nhưng tớ đã trải qua cả hai.

Cho nên lúc này tớ không muốn phải gắn bó với chỉ một người đàn ông. Tớ không nghĩ rằng tớ đã sẵn sàng cho một mối quan hệ". Khi nói với bạn những điều này, Grace tự nhiên bừng hiểu nguyên nhân của tất cả những chuyện đang xảy ra với mình, và tại sao mình lại rơi vào bế tắc, dằn vặt, lo âu.

"Gráce?". Olivia quan sát bạn rất kỹ.

"Mọi chuyện là vậy đó", Grace thốt lên. Chứng mất ngủ, nỗi lo lắng bất an ...

tất cả đã được giải đáp. Chị không cần phải sơn lại phòng ngủ để quên đi những ký ức về người chồng quá cố của mình. Đúng là chị phải suy nghĩ nhiều đến những điều Dan nói với chị trong bức thư anh viết trước khi qua đời nhưng Dan không phải là nguyên nhân duy nhất khiến chị bị khuấy động. Tất cả những lo lắng này phần lớn xoay quanh mối quan hệ giữa chị và Cliff. Điều mà chị cần bây giờ là thời gian, là một không gian riêng, là sự tự do để khám phá bản thân mình:

chị sẽ trở thành một người như thế nào, và chị muốn gì ở cuộc sống này.

Chị cần một cơ hội để được là chính mình.

"Grace này?".

"Tớ rất quý Cliff", Grace thì thầm. "Tớ thực sự quý anh ấy nhưng tớ chưa sẵn sàng cho một mối quan hệ nghiêm túc với anh ấy. Vẫn chưa ... chỉ là tớ không thể". Mặc dù gần như bật khóc nhưng Grace đang cảm thấy rất thanh thản, và lần đầu tiên kể từ khi Dan mất, chị biết mình sẽ có một đêm ngủ ngon.

"Cậu phải nói cho Cliff biết", Olivia khẩn khoản.

"Tớ biết". Cô sẽ phải tìm cách giải thích cho Cliff để không làm anh bị tổn thương cũng như không để mất đi tình bạn của họ. "Tớ muốn tiếp tục mối quan hệ với anh ấy, nhưng tớ cũng muốn có sự tự do để có quan hệ với những người đàn ông khác nữa". Nói ra được điều này, cho dù nghe có vẻ hơi ích kỷ và không công bằng với Jack, nhưng đó là sự thật và cũng là điều mà rất khó khăn Grace mới thú nhận được với chính bản thân mình.

Chương 3

Khi tia nắng ban mai rọi vào trong phòng ngủ, Maryellen Sherman thận trọng trở mình, ngạc nhiên vì tự nâng được cả cơ thể đang mang bầu chín tháng gần đến ngày sinh.

Kelly đã cảnh báo những ngày cuối cô sẽ cảm thấy rất nặng nề và đây chính là những ngày như vậy nhưng Maryellen không thể quên được khoảng thời gian hạnh phúc này.

"Từ hôm nay mình có thể sinh vào bất cứ ngày nào", cô vừa nói vừa xoa tay lên cái bụng căng tròn của mình. Catherine "Katie" Grace thức dậy, cô bé đạp và vươn vai trong bụng mẹ. Maryellen cảm thấy thật tuyệt khi ngắm nhìn những chuyển động trên bụng mình. Đồng hồ đã chỉ đên con số tám giờ rưỡi, đã đến giờ thức dậy. Cô tỳ lòng bàn tay vào một bên giường và cố gắng ngồi dậy, Maryellen nhìn xuống phía dưới và nhận thấy rằng cô không thế nhìn thấy chân mình nữa. Đã hàng tuần nay cô không thể nhìn thấy ngón chân mình.

Cô lóng ngóng đứng lên và chống hai tay đỡ lưng. Lưng cô đã bắt đầu đau.

Điều này cũng thật dễ hiểu. Chẳng qua là do cô ngủ trên cái đệm đã cũ rách.

Sau khi đi vài vòng quanh nhà, cô đã cảm thấy khá hơn. Cô bước chân trần vào bếp và đặt nước để tự pha cho mình một ấm trà thảo dược. Trong khi đợi nước sôi, cô chọn ra bốn cái áo cho bà bầu vẫn còn khá tươm tất để có thể mặc đi làm.

Việc có bầu này hoàn toàn nằm ngoài kế hoạch. Cô đã cố gắng để không cho cha đứa bé biết. Đây không phải một nước cờ khôn ngoan mà khá liều lĩnh Jon Bowman, một hoạ sỹ có tác phẩm được trưng bày tại phòng tranh nơi cô điều hành đã biết chuyện về đứa bé trong bụng cô. Anh đã rất kiên quyết đòi quyền làm cha đối với cô con gái bé bỏng này. Maryellen không thích điều đó nhưng cô không còn sự lựa chọn nào khác. Hoặc là cho anh ta quyền đến thăm con, hoặc là phải đấu tranh với anh trước toà. Mà đó là điều cô không hề muốn, vì cô rất dễ bị tước quyền nuôi con.

Maryellen thích anh và ngưỡng mộ những tài năng của anh. Điều mà cô ghét nhất ở anh lại không phải lỗi do anh. Bởi anh đã đánh thức được bản năng nhục dục trong cô. Cho đến tận đêm của tháng Mười Một năm trước, cô vẫn cho rằng những đam mê tình dục của cô đã bị vùi chôn vĩnh viễn cùng với cuộc hôn nhân thất bại của mình. Nhưng Jon đã chứng minh điều ngược lại.

Sự hối hận lớn nhất của cô xảy ra khi cô còn là một cô sinh viên đại học.

Maryellen đã từng có bầu ngoài kế hoạch. Và cô đã để bạn trai, chồng sắp cưới của mình thao túng, khiến cô phải bỏ đứa bé. Cô không hề muốn điều đó và cô không thể tha thứ cho việc mình đã làm.

Và đến lần này, cô quyết tâm bảo vệ đứa con trong bụng của mình. Lần này cô từ chối không nghe theo bất cứ ai, bất cứ điều gì ngoại trừ sự mách bảo của con tim. Cô muốn có đứa bé, cô yêu đứa bé trong bụng mình biết bao. Điều tưởng như là một lỗi lầm lớn hóa ra lại là một cơ hội đáng quý lần thứ hai với cô.

Điều bất ngờ nhất với Maryellen lại là ý định của Jon. Anh ta kiên quyết sẽ là một phần trong cuộc đời của Katie. Hơn thế nữa, anh ta còn đe dọa sẽ kiện Maryellen ra toà nếu cô không cho anh ta quyền cùng chăm sóc con gái. Không có lý do gì để ngăn cản, nên cô đành miễn cưỡng đồng ý với những điều kiện mà anh ta đưa ra.

Ấm nước sôi kêu lên báo hiệu khi cô đang sắp xếp quần áo. Một tay mát xa trên lưng, một tay cô rót nước vào ấm trà đang đợi sẵn. "Con không thể biết được mẹ hạnh phúc thế nào vì lại sắp được uống cà- phê đâu", cô lẩm bẩm trò chuyện cùng đứa con trong bụng.

Maryellen đi tắm và thay quần áo, vì chỉ làm nửa ngày nên cô có thể ăn một bữa sáng thư thái với bánh mỳ nướng, sữa chua và trà. Cô không cần phải có mặt ở phòng tranh trên phố Harbor cho đến cuối buổi sáng. Cô yêu công việc của mình và cũng rất thích kết bạn với những họa sỹ trong vùng. Jon là một nhiếp ảnh gia, và các tác phẩm của anh, hầu hết là ảnh thiên nhiên, vừa ngoạn mục lại vừa sâu sắc. Sau khi cô bỏ lỡ cơ hội trưng bày ảnh của anh sau đêm ân ái năm ngoái, anh đã mang chúng sang phòng tranh khác. Maryellen đã lỡ mất cơ hội được gặp Jon mỗi dịp anh đến giao các bức ảnh anh chụp và phòng tranh cũng bỏ lỡ lợi nhuận mà các tác phẩm của anh đem lại.

Tài năng của Jon là điều đầu tiên hấp dẫn cô, nhưng bản thân anh ta cũng khiến cô say mê. Anh khiêm tốn, thẳng thắn và rất kín đáo về những chi tiết đời sống riêng tư của mình. Mặc dù cô đã làm việc với anh hơn ba năm nhưng cô không biết kiến thức về mỹ thuật của anh từ đâu mà có, và cô gần như không biết gì về gia cảnh của anh. Điều duy nhất mà anh cho cô biết là anh được thừa kế một phần bất động sản tuyệt vời từ người ông, chính là của khu đất mà anh đã tự xây ngôi nhà của mình. Khi cô đặt câu hỏi về đời tư Jon, thì hoặc là anh bỏ đi hoặc là anh chuyển chủ đề. Anh hầu như từ chối mọi lời mời tham gia những buổi hội họp. Năm ngoái cô rất ngạc nhiên khi anh nhận lời tham gia buổi tiệc Halloween. Cô đã nghĩ ra đủ thứ lý do để mời anh và không bao giờ tin anh sẽ xuất hiện. Đêm hôm đó họ đã trao nhau nụ hôn đầu tiên và nó khởi đầu cho tất cả. Những ngày tiếp sau đó, Maryellen đã biết rõ về anh như bất cứ ai ở vịnh Cedar, và có lẽ cô còn biết rõ hơn họ. Đứa bé trong bụng lại đạp. Cô cười một mình. Hiển nhiên cô biết nhiều về anh hơn ai hết.

Nhưng cô vẫn rất ấn tượng với người đàn ông là cha của đứa con trong bụng mình. Jon tự xây nhà và là một bếp trưởng cho nhà hàng Hải Đăng, trong khi danh tiếng nhiếp ảnh của anh ngày càng được nhiều người ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương và xa hơn biết đến.

"Tôi không nghĩ chị lại đến sớm trước buổi trưa", Lois Habbersmith nói khi Maryellen bước vào phòng tranh lúc 11 giờ 30, sớm hơn thời gian thường ngày.

Lois làm thư ký của Maryellen, nhưng sắp tới cô sẽ tạm giữ chức Giám đốc điều hành phòng tranh trong thời gian Maryellen nghỉ đẻ. Maryellen tin rằng Lois sẽ làm công việc này tốt hơn yêu cầu.

"Khi nào chị phải đi khám bác sỹ nữa?". Lois hỏi.

"Sáng mai". Cô cảm thấy lưng như đau hơn. Maryellen kéo ghế ra và ngồi xuống.

Lois nhìn cô vẻ lo lắng. "Chị vẫn ổn chứ?".

"Không", Maryellen thú nhận. "Thú thực tôi thấy đau lưng hơn mọi ngày".

Cô nhận thấy cơn đau giảm đi rồi lại tăng lên khá đều đặn. Và đột nhiên cô nghĩ rằng có lẽ đây không phải đau lưng mà là cơn chuyển dạ.

Có vẻ như Lois cũng đã nhận ra điều này, cô tiến lại gần Maryellen. "Cơn đau chuyển dạ của tôi cũng bắt đầu là đau lưng". Sau đó đặt một ngón tay lên môi, Lois nói:

"Maryellen, chị có nghĩ chị sắp chuyển dạ không?".

"Để tôi nghĩ lại xem mình bắt đầu đau lưng vào mấy giờ sáng nay nhé?".

Lois vỗ tay một cách hào hứng. "Thật là tuyệt".

"Lois, Lois, tôi không biết tôi sắp chuyển dạ chưa. Tôi chỉ mới có cảm giác hơi khác thường thôi".

Maryellen liếc nhìn đồng hồ và cố nhớ xem cô bị đau dọc xương sống như thế này kể từ khi nào.

"Mẹ chị sẽ là người vào phòng sinh cùng chị phải không?".

Maryellen gật đầu. Cô mơ hồ nhớ rằng mẹ cô có nói sẽ đi dự một buổi gặp mặt các thủ thư ở Seattle vào thứ Tư. Hôm nay là thứ Tư. Grace có điện thoại di động, nhưng luôn quên bật máy hoặc thường để điện thoại trong trạng thái hết pin. Maryellen quyết định chưa cần phải gọi cho mẹ vội. Còn nhiều thời gian và cô vẫn chưa tin mình đang trong cơn chuyển dạ. Cô phân vân liệu đây có phải cơn đau giả mà nhiều người đã từng cảnh báo không.

Vài giờ sau, lúc đã về nhà, lúc này Maryellen không còn nghi ngờ gì nữa. Cô biết chắc chắn mình đang chuyển dạ. Không phải một cơn đau giả. Những cơn đau lưng đến thường xuyên, cô cảm nhận được những cơn co bóp, cứ năm phút một lần nó như rút xương sống của cô lại. Cô với điện thoại và gọi cho mẹ.

Đúng như suy nghĩ của cô, di động của mẹ cô tắt máy, hoặc đã hết pin. Cô hít một hơi thở sâu và nhắm mắt. Còn em gái của cô, Kelly đã xử sự với cô một cách thật tuyệt vời kể từ khi biết cô có mang. Hồi nhỏ hai chị em đã rất thân thiết với nhau nhưng lớn lên thì cả hai lại hay mâu thuẫn.

Sau năm hồi chuông có tiếng phát ra từ máy trả lời tự động của Kelly và Paul. Maryellen cố gắng giữ cho giọng nói của mình thật bình tĩnh và có vẻ như vẫn kiểm soát được tình hình, cô để lại lời nhắn. "Kelly. Em nghe này, có vẻ như chị đang chuyển dạ. Chị vẫn chưa gọi cho bác sỹ Abner và chị chắc rằng vẫn còn nhiều thời gian, nhưng chị nghĩ chị phải báo cho em biết". Sau đó, không muốn cho Kelly biết cô đang cảm thấy hoảng hốt thế nào, Maryellen nói thêm. "Mẹ đi dự buổi gặp mặt các thủ thư và chiều nay mới quay về, nên khi nào em về thì gọi cho chị nhé. Chị .... chị chưa có ai đưa đến bệnh viện". Tất cả những cố gắng để tỏ ra bình tĩnh đều biến mất khi cô gác điện thoại lên.

Khi Maryellen quay đi khỏi chiếc điện thoại, cô cảm nhận được cơn đau nhói khiến cô gần như gập người xuống. Và gần như ngay lập tức nước ộc ra giữa hai chân cô. Nước ối.

Maryellen đứng giữa vũng nước và cố gắng bình tĩnh suy nghĩ. Cô sợ rằng bất cứ chuyển động nào cũng có thể nguy hiểm cho đứa bé, nên cô với tay ra lấy điện thoại, sau đó lại ngập ngừng vì không biết gọi cho ai.

Đột nhiên cô nhớ ra. Cô phải lấy số điện thoại từ tổng đài. Khi có được số điện thoại, cô thầm cầu nguyện Jon đang ở nhà và ở gần cái điện thoại.

Không có ai trả lời điện thoại ở nhà anh và cô gần như bật khóc vì thất vọng.

Cô bắt đầu thấy hoảng sợ, cố gạt cảm giác đó sang một bên, cô bắt mình phải bình tĩnh. Hy vọng rằng anh đang ở chỗ làm, cô quay số điện thoại nhà hàng Hải Đăng.

Người phụ nữ trả lời điện thoại rất lịch sự và thân thiện. Maryellen đang chờ được nối máy. Rất lâu sau đó, Jon mới trả lời điện thoại, và câu chào cụt lủn cho thấy anh không hề vui vẻ gì khi bị gián đoạn khỏi công việc mà anh đang làm.

Sợ hãi, gần như tuyệt vọng, Maryellen thì thào bằng giọng nói khàn khàn, "Jon ... em cần anh giúp ...".

Không để cho cô nói hết, anh hỏi. "Em đang ở đâu?

"Ở nhà. Em đã bị vỡ ối".

"Năm phút nữa anh sẽ có mặt".

Một cảm giác nhẹ nhõm bao trùm. Cô chớp mắt liên tục để những giọt nước mắt không tuôn trào khỏi khoé mắt. "Cám ơn anh", cô nói, nhưng điện thoại đã kêu tút từ bao giờ.

Chỉ sau vài phút cô đã nghe thấy tiếng cửa xe ô tô đóng sầm phía ngoài căn nhà thuê nhỏ bé của cô. Lúc đó cô mới gọi cho bác sỹ Abner và đúng như bản năng mách bảo, ông bác sỹ muốn cô lập tức đi ngay đến trung tâm hộ sinh.

Jon không buồn gõ cửa mà đi thẳng vào cửa trước. Bộ quần áo bếp trưởng màu trắng mà anh mặc vẫn còn dính bẩn. Rõ ràng là cô đã bắt anh đi vào lúc bận rộn nhất trong ngày. Đã hàng tuần nay cô không gặp anh. Lần cuối cùng họ gặp nhau là đầu mùa hè khi họ thỏa thuận về việc chăm sóc con, và cho dù lúc này anh đang quắc mắt nhìn cô, cô vẫn thấy anh thật tuyệt vời. Theo chuẩn mực thông thường thì anh không phải đẹp trai. Các nét của anh quá sắc, khuôn mặt dài và hẹp khiến cho mũi anh như mũi diều hâu, nhưng Maryellen đã có một bài học cay đắng với những người đàn ông hấp dẫn. Mới nhìn lần đầu, Jon không phải người đàn ông khiến phụ nữ xao xuyến rung động, chỉ sau này khi có cơ hội tiếp cận gần gũi với anh hơn, cô mới nhận thấy sự hấp dẫn chết nguời nơi anh.

"Anh à", cô nói giọng yếu ớt, mắt nhìn xuống vũng nước dưới sàn nhà mà cô đang đứng.

"Vậy là em chỉ có một mình trong lúc khó khăn này đây". Nụ cười của anh khiến cô thấy ấm áp.

"Anh có thực sự muốn chứng kiến Katie chào đời không?", cô hỏi. Mọi nỗi hoảng sợ đã tan biến hết từ khi anh đến đây.

"Anh rất muốn".

"Có vẻ như anh là người được chỉ định sẵn từ trước để đưa em đến nhà hộ sinh của bệnh viện".

Chỉ bước ba sải chân anh đã đi ra khỏi phòng, anh ôm cô trong vòng tay như thể trọng lượng cơ thể đáng kể của cô chẳng đáng gì.

Cô muốn phản đối, vì cô nghĩ mình quá nặng để cho anh bế, nhưng cô đã không làm thế. Lần đầu tiên kể từ lúc cô cố gắng liên lạc với mẹ, cô cảm thấy mình được bảo vệ. Một cảm giác an toàn tuyệt đối. Anh giúp cô thay quần áo và bế cô ra cửa.

Anh thận trọng đặt cô vào trong xe. "Em đã sắp sẵn đồ mang theo chưa?".

Cô gật đầu. "Tất cả trừ bàn chải đánh răng".

"Anh vào lấy chúng và cái túi to của em rồi sẽ quay lại ngay".

Anh để cô trong xe và quay lại ngay khi cô xuất hiện cơn đau. Những cơn đau dữ dội hơn nhiều lúc nước ối mới bị vỡ. Cô nhắm mắt, nghiêng đầu về phía sau và hít thở, cố gắng nhớ lại những điều đã học trong lớp học cho các bà mẹ sắp sinh.

Jon đã ngồi ở ghế lái ngay bên cạnh khi cô mở mắt ra.

"Em vẫn ổn chứ?", anh hỏi.

Và cô nhận thấy mặt anh cũng đang tái xanh đi. Cô cố nở một nụ cười để giúp anh bình tĩnh.

Sau đó Maryellen chẳng còn nhớ gì về chặng đường từ vịnh Cedar đến Silverdale và nhà hộ sinh nữa. Jon không nói năng gì và cô cũng vậy, cô chỉ cố gắng tập trung vào kỹ năng thở đã được học. Trong khi đó Jon thành thạo len qua dòng xe cộ tấp nập trên đường.

Khi họ đến nhà hộ sinh, mọi người lập tức vây quanh Maryellen và thực hiện các thủ tục. Họ cởi quần áo cô và đưa vào giường, gắn thêm một thiết bị theo dõi thai nhi. Jon biến mất và cô tự hỏi có phải anh đưa cô đến đây rồi lại bỏ đi không. Cô cho rằng điều đó cũng đúng thôi vì cô đã gọi anh giữa ca làm việc.

Sau đó Maryellen được đưa vào một căn phòng đầy đủ tiện nghi với các trang thiết bị hiện đại để làm cô phân tán khỏi cơn đau. Âm nhạc phát ra những âm thanh nhẹ nhàng, cạnh đó là một tivi với đầu video trong trường hợp cô muốn xem, nhưng cô chẳng hứng thú với bất cứ thứ gì.

Cơn đau dữ dội ngoài sức tưởng tượng. Cô đếm từng giây mỗi khi cơn đau ập đến, nó xoáy từ phía sau lưng ra phía trước, bụng cô quặn lại.

"Maryellen", tiếng Jon nhẹ nhàng.

Cô mở mắt và thấy anh đang đứng ở phía cửa, ngay lập tức cô cảm thấy nhẹ nhàng và thật biết ơn anh. Chống khuỷu tay xuống để nâng người lên, cô hỏi đầy hy vọng. "Anh có thể ở lại với em không?".

"Nếu em muốn như vậy".

Đương nhiên là cô muốn như vậy rồi. Cho đến giờ cô mới nhận thấy cô muốn có anh bên cạnh và cần anh đến nhường nào. Không phải bất cứ ai khác.

Mà chính là anh.

Len qua đám máy móc, Jon tiến đến chỗ Maryellen và kéo ghế ngồi sát bên cô, chăm chú nhìn màn hình đang ghi lại những cơn đau của cô. Dù chưa bao giờ tham gia lớp học sinh sản, nhưng anh biết chính xác phải nói gì và làm gì để vỗ về, động viên Maryellen. Khi cô chuyển mình nằm nghiêng, anh vừa xoa lưng cho cô vừa thì thầm khuyến khích cô. Những lời anh nói là sự xoa dịu êm ái dễ chịu nhất, anh luôn lặp đi lặp lại rằng cô đang làm được một việc to lớn và vô cùng ý nghĩa.

Cơn đau mỗi lúc một dài và dữ dội hơn, và khoảng thời gian giữa mỗi cơn đau lên tới gần một phút, đó là một phút dài nhất trong cuộc đời của Maryellen.

Các cơn đau đến dồn dập. Cô oà khóc.

"Hãy làm điều gì đi, cô ấy không thể chịu được nữa". Jon yêu cầu người y tá lúc đó vô tình bước vào phòng.

Cô y tá cười nhân hậu. "Maryellen chọn phương pháp sinh nở tự nhiên.

Chúng tôi tôn trọng quyết định của cô ấy".

"Em vẫn ổn mà", Maryellen nói, nhưng cô cũng không biết mình có thể chịu đựng thêm đến bao giờ. "Em muốn được nắm tay anh".

Jon đang đứng ngay đó và anh nhoài người về phía cô. Anh chống khuỷu tay vào giường và đưa bàn tay cho cô nắm. Từ lúc đó, cô bám chặt vào anh. Đến khi đứa bé sắp sửa ra đời, Jon vẫn ở bên cô, đầu anh ghé sát vào đầu cô, tay anh ôm lấy hai vai cô. Bác sỹ Abner đến, và điều đó cho cô biết rằng em bé sẽ ra đời trong vài phút nữa.

Jon quay sang bác sỹ tự giới thiệu mình, và bằng giọng nói nhẹ nhàng, anh tiếp tục vỗ về động viên Maryellen. Dựa vào người anh, cô căng người ra, cố lấy sức rặn đứa bé và kêu gào điên dại giữa những cơn đau.

Các cơn co bóp nối tiếp nhau, cô nắm chặt tay Jon và rặn thật mạnh, rên rỉ vì đau. Mồ hôi cô vã ra như tắm. Và rồi con gái bé bỏng của cô đã chào đời.

Maryellen thở hổn hển khi nghe thấy tiếng khóc non nớt của Catherine Grace.

Một cảm giác tự hào đầy yêu thương ùa đến với Maryellen. Mắt cô đẫm lệ.

Cô bẽn lẽn cười với Jon, và ngạc nhiên khi thấy rằng nước mắt cũng đang lăn trên má anh.

"Chào Katie", cô thì thầm.

Jon nhìn cô. "Katie, chứ không phải Catherine sao?".

Maryellen gật đầu. Cô đã quen gọi con gái bé bỏng bằng cái tên đó.

"Catherine dường như là một cái tên quá dài cho một đứa trẻ bé bỏng như vậy, anh có nghĩ thế không?". Katie cũng là tên của mẹ anh, và Maryellen muốn làm như vậy là vì anh. Cô muốn thể hiện sự kính trọng đối với người mẹ mà anh luôn luôn yêu quý.

Jon nhìn không rời mắt khỏi khuôn mặt vẫn còn đỏ hỏn đang nhăn nhó khóc của đứa trẻ. "Cám ơn em", anh thì thầm, và tay anh ôm chặt vai cô. Bác sỹ Abner giao đứa trẻ đang khóc cho cô y tá.

"Bố cháu có thể đi theo tôi", cô y tá đỡ đẻ nói với anh. "Tôi sẽ cân và tắm cho cháu, và lúc đó anh có thể bế con gái bé bỏng của mình".

Jon quay sang Maryellen như muốn hỏi ý cô. Với đôi mắt đẫm lệ vì vui mừng và xúc động cô gật đầu. Không gì trên thế giới này có thể so với cảm giác lúc này của cô, một cảm giác chiến thắng, hân hoan và đầy yêu thương.

Maryellen yêu đứa trẻ biết bao. Mãnh lực tình yêu trong trái tim cô không giống với bất cứ cảm xúc nào cô từng trải qua.

Jon và cô y tá đang bận rộn phía bên kia căn phòng. Maryellen không thể nhìn thấy tất cả những việc đang xảy ra, nhưng cô nhìn thấy khuôn mặt Jon khi cô y tá đặt đứa bé vào tay anh. Nét mặt anh lúc đó vừa sợ hãi vừa phấn khởi khiến cô thấy cảm động sâu sắc. Đúng lúc đó, anh cũng liếc nhìn cô - và ánh mắt họ gặp nhau.

"Con bé thật xinh đẹp", anh thì thầm, nâng niu con gái trong vòng tay.

Cũng muốn được bế con gái, Maryellen giơ hai tay lên và Jon từ cuối căn phòng đi về phía cô, trao Katie vào vòng tay âu yếm chờ đợi của cô.

Maryellen nhận thấy đây là cách mà cả hai sẽ sống vì con gái. Cả cô và anh sẽ phải học cách chia sẻ trách nhiệm với con, họ sẽ gạt bỏ những mong muốn, nhu cầu của mình sang một bên, để dành cho Katie những điều tốt đẹp nhất.

Có tiếng gõ cửa nhưng Maryellen không mấy chú ý. Cô đang chăm chú với Catherine Grace. Khuôn mặt bé bỏng vẫn còn đỏ và hai mắt bé nhắm chặt như thể ánh sáng ở bên ngoài quá chói với bé.

Jon đưa ngón tay ra và bàn tay nhỏ xinh của Katie nắm chặt lấy ngón tay anh.

Một phụ nữ trẻ, có vẻ như là một nhân viên tình nguyện, ngó đầu vào trong phòng. "Có bà Sherman ở ngoài. Bà nói rằng bà là người được vào phòng sinh cùng cô".

"Đó là mẹ tôi", Maryellen mỉm cười giải thích.

Người nhân viên tình nguyện cũng cười với cô:

"Vậy tôi sẽ cho bà vào".

Hai phút sau, cả mẹ và Kelly đều đã ở trong phòng. Mọi người dồn dập hỏi thăm cô. Trước khi Maryellen ý thức được sự vắng mặt của Jon, anh đã lặng lẽ rút lui, thậm chí không để cô kịp nói lời cảm ơn.

Trong khi chờ cuộc họp của hội đồng thành phố bắt đầu, Charlotte Jefferson cặm cụi đan len. Bà thấy buồn vì trong cộng đồng ngày càng có nhiều người không quan tâm đến chính quyền địa phương. Nhưng thật ra, đây mới chỉ là lần thứ hai trong bảy mươi lăm năm qua bà tham gia cuộc họp của hội đồng. Bản thân bà cũng không mấy quan tâm đến những vấn đề của thành phố cho đến tận thời gian gần đây.

"Chào Louie", bà nói và gật đầu chào lịch sự khi ngài thị trưởng bước vào.

Chỉ có mình bà ngồi trên hàng ghế đầu.

"Tôi đã biết tin mừng của bà rồi. Chúc mừng bà nhé". Louie Benson nói khi đi qua chỗ Charlotte. Gia đình Benson là một gia đình đã có nhiều thế hệ sống ở vịnh Cedar. Otto, em trai Louie, là một luật sư xuất chúng trong thị trấn.

"Vâng, tôi đã có chắt trai", bà khẳng định. Đứa chắt đầu tiên".

"Tôi cũng mới biết là Grace Sherman đã lên chức bà ngoại. Và đây là lần thứ hai làm bà của chị ấy".

"Vừa mới tuần trước thôi". Grace rất tự hào về đứa cháu gái đầu tiên của mình, con của Maryellen, cũng như đứa cháu trai, Tyler, con của Kelly và Paul.

Thật thú vị khi Olivia và cô bạn thân nhất cùng trở thành bà ngoại một lúc. Hai người lúc nào cũng thân nhau và niềm vui của người này cũng trở thành niềm vui của người kia.

"Tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy bà tham gia cuộc họp của hội đồng thành phố", ngài thị trưởng nói. "Có điều gì khiến bà không hài lòng chăng?".

"Tôi đến đây là có lý do". Charlotte kéo mạnh sợi len và tay vẫn thoăn thoắt đan.

"Tôi có giúp gì cho bà được không?", ngài thị trưởng đề nghị.

Thực lòng Charlotte đã rất hy vọng Loiue sẽ hỏi mình câu đó. "Tôi có đề xuất rằng thị trấn này nên mở một phòng khám chăm sóc sức khoẻ. Tôi lấy làm xấu hổ khi từ trước tới giờ chúng ta không có lấy một phòng khám". Tất cả mọi người đều phải lái xe từ năm đến mười lăm dặm đến khu Bremerton để khám bệnh, và điều đó có nghĩa là họ phải đợi hàng tiếng đống hồ trong phòng cấp cứu. Một thị trấn với diện tích như vịnh Cedar có thể dễ dàng có kinh phí để xây dựng một phòng khám. Nhưng Charlotte muốn một khu chăm sóc sức khoẻ thật sự tiện nghi, một nơi dành cho tất cả mọi người ở vịnh Cedar.

"Ngây bây giờ sao, bà Charlotte ...".

"Phòng khám này sẽ hoạt động trên hình thức thu phí với giá rẻ", bà nói át đi vì không muốn nghe lời phản đối của Louie. "Tôi biết người bệnh trong thị trấn sẽ rất nhiệt tình ủng hộ việc này vì họ không còn phải đi cả đoạn đường dài đến Bremerton hay Silverdale để khám sức khoẻ nữa".

"Tôi đồng ý, nhưng ...".

"Rất nhiều bạn bè không thường xuyên được tới bác sỹ để chăm sóc sức khoẻ vì lo sợ khoản chi phí khám bệnh phát sinh ra khi phải đi xa".

"Tôi cũng biết điều đó, song ...".

"Louie Benson, ông bắt đầu nói chuyện như một chính trị gia rồi đấy".

"Bà Charlotte, chúng ta đều biết vị trí của tôi chỉ là bù nhìn, người ta có thuê một người quản lý khác đấy. Nếu bà muốn nói chuyện với Matthew Harper về việc thành lập một phòng khám sức khoẻ giá rẻ thì bà cứ gặp ông ta, nhưng ngay lúc này tôi có thể nói cho bà biết rằng không có ngân sách cho việc này".

Nếu bắt buộc phải như vậy thì bà sẽ thảo luận với người quản lý. "Tôi sẽ làm như vậy".

Louie có vẻ phật ý, ông liếc xung quanh và hạ giọng nói. "Tôi có một lời khuyên dành cho bà".

"Tôi trân trọng bất cứ điều gì ông nói", Charlotte khẳng định, mắt vẫn chăm chú vào kim đan như thể công việc đó đòi hỏi bà phải tập trung cao độ.

"Hãy tập hợp tất cả những luận cứ của bà trước khi gặp Matt Harper".

"Tôi sẽ làm như vậy", Charlotte nhấn mạnh. Harper khét tiếng là chặt chẽ, chi li với ngân sách của thị trấn, nhưng nếu ông ta cho rằng có thể cản những cố gắng của bà thì ông ta đã gặp nhầm người. Dù đây là điều cuối cùng làm được trước khi chết, Charlotte cũng sẽ quyết tâm đẽ được nhìn thấy vịnh Cedar có một phòng khám sức khoẻ riêng.

Cánh cửa bật mở, ngài thị trưởng nhanh chóng ngồi thẳng lên và chuyển chủ đề như thể cả hai đang có một cuộc nói chuyện hết sức lịch sự, xã giao. "Thế tình hình mọi người ở Hội Người cao tuổi ra sao?".

"Bệnh thấp khớp của Laura lại tái phát", Charlotte kể. "Bà ấy nói mùa đông năm nay chắc sẽ khắc nghiệt. Bess thì ho suốt mùa hè. Tôi đã khuyên không biết bao nhiêu lần rằng bà ấy phải đến gặp bác sỹ, nhưng bà ấy sợ những lời chẩn đoán nên vẫn không chịu đi. Nếu thị trấn này mà có một phòng khám thì tôi sẽ đăng ký lịch khám và kéo bà ấy đến đó. Và Evelyn ...", Charlotte ngừng nói vì nhận ra Louie không còn lắng nghe nữa, ông ta đã chuyển hướng sự chú ý của mình đi chỗ khác.

Thấy bà đã ngừng kể lể, Louie vỗ vai bà và nói. "Rất vui được trò chuyện với bà, Charlotte ạ. Tôi sẽ xem xét đề nghị của bà".

"Ông nhớ xem xét giúp tôi đấy", Charlotte nói với theo và biết rằng lời nói của mình đối với Benson cũng sẽ vào tai này ra tai kia, nhưng dù sao ông ta cũng đã cho bà một lời khuyên hữu ích. Bà cần phải có thông tin đầy đủ và chính xác trước khi đưa ra kiến nghị.

Charlotte quyết định đứng lên ngay sau khi đan xong đường viền. Không ai muốn nghe một bà già lẩm cẩm góp ý, ít nhất cũng là như thế trong căn phòng toàn đàn ông mà người nào cũng gắng tỏ ra quan trọng hơn người kia. Cánh cửa phía sau căn phòng cọt kẹt mở, Charlotte cho rằng lại là một thành viên hội đồng khác nên không buồn quay lại nhìn.

Thật ngạc nhiên khi đó là Ben Rhodes. Ông là một người cao to, nổi bật với mái tóc trắng dày. Bà đã bảy mươi lăm tuổi nhưng chưa bao giờ hết rung động trước một người đàn ông đẹp trai, và bây giờ vẫn vậy. Một số bà bạn trong Hội Người cao tuổi nói Ben trông giống như Cesar Romero. Ông mới chuyển đến vùng này nên bà chưa biết nhiều, nhưng ở hội thì ông được rất nhiều người yêu quý, đặc biệt là phụ nữ - và vì lý do gì thì ai cũng biết.

"Chào ông Ben", bà nói khi Ben ngồi xuống hàng ghế đối diện với bà.

Ông nhìn sang phía bà; từ cái nhìn trống rỗng của ông ta, bà hiểu rằng ông ấy không nhận ra mình.

"Tôi là Charlotte Jefferson ở Hội Người cao tuổi Henry M.Jackson".

Một nụ cười ấm áp thay đổi nét mặt Ben khi ông băng qua lối đi giữa hai hàng ghế đến ngồi cách bà một ghế. Họ chưa chính thức được giới thiệu để làm quen với nhau, nhưng bà đã gặp ông nhiều lần. Cứ mỗi sáng thứ hai Ben, cũng như bà, lại có mặt ở Hội Người cao tuổi. Ông đến chỉ để chơi bài brit và Pinooc, còn bà đến tham gia vào nhóm đan lát.

Ben luôn tới Hội một mình. Charlotte tự hỏi vợ ông đâu mà bà không bao giờ nhìn thấy, nhưng họ chưa có cơ hội để nói chuyện với nhau. Nhưng cứ theo cách các bà ở câu lạc bộ nói về ông như những con ong vây quanh hũ mật thì bà đoán rằng ông đã goá vợ.

Đã một lần Charlotte chủ động nói chuyện với Ben. Đó là hôm Olivia đến làm khách mời danh dự tại bữa tiệc trưa hàng tháng do Hội Người cao tuổi tổ chức. Hôm đó bà cũng đã nói chuyện với rất nhiều người. Bà lấy làm vinh dự khi con gái mình đã có một bài nói chuyện hết sức ấn tượng. Nhưng đó là nhiều tháng trước đây và Charlotte không dám chắc liệu Ben còn nhớ Olivla là con gái bà hay không.

"Tôi không biết là ông cũng quan tâm đến chính trị", Charlotte bắt đầu cuộc nói chuyện mới mặc dù trước đó bà đã có ý định ra về. Bây giờ khi Ben đã ở đây thì bà không có gì phải vội vã nữa.

"Tôi không quan tâm nhiều đến những cuộc tranh luận chính trị. Tôi đến đây vì có một đề xuất với hội đồng thành phố. Còn bà thì sao?".

"Tôi cũng đến đây vì lý do đó", bà nói. "Vịnh Cedar cần có một phòng khám sức khoẻ".

Đôi mắt xanh sâu thẳm của Ben mở to hơn. "Đó cũng chính là lý do khiến tôi đến đây".

"Một phòng khám với các mức thu phí linh động", Charlotte đáp, "để mọi người không kể tuổi tác và thu nhập đều có khả năng được khám chữa bệnh".

Ben nhiệt thành gật đầu. "Tôi hoàn toàn đồng ý với bà".

Họ ngồi nói chuyện trong suốt cuộc họp, cách nhau một chiếc ghế. Khi Matthew Harper hỏi có ai có ý kiến gì mới không, Ben liền đứng dậy, bám tay vào thành ghế phía trước và nói. "Liệu tôi có thể đưa ra đề xuất của mình với Hội đồng thành phố không?".

Harper ngẩng đầu, nhìn ông Ben và bà Charlotte một cách tò mò và gật đầu.

Ben phát biểu rất hùng hồn. Ông nói rằng con người có quyền được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tốt và vạch rõ những lợi ích mà một phòng khám sẽ mang lại cho vịnh Cedar, cuối cùng ông kết thúc bằng câu. "Hãy cùng nhau chung sức để vượt qua những vấn đề hành chính và hãy xin giấy phép để thành lập một phòng khám. Làm được điều đó là góp phần nâng cao sức khoẻ cho tất cả mọi người dân trong cộng đồng của chúng ta".

Charlotte muôn nhảy lên và vỗ tay thật to. Ngay cả trong ý nghĩ, bà cũng chưa chuẩn bị được luận chứng luận cứ nào có tính thuyết phục hơn những lời Ben đã phát biểu. Ông còn lái vấn đề theo hướng lợi ích chung, và nhấn mạnh rằng việc có một phòng khám hiển nhiên là nhờ sự lãnh đạo và những tác động của hội đồng thành phố. Charlotte rất ngạc nhiên và thán phục sự khéo léo của ông.

Cả hội đồng ai cũng phải mỉm cười, họ hứa sẽ xem xét và trả lời về vấn đề này ở buổi họp lần tới.

Sau khi buổi họp kết thúc, Charlotte cất chỗ len đang đan dở vào túi. "Ông thật tài", bà nói. "Tôi không thể trình bày về vấn đề phòng khám sức khoẻ hay như ông".

"Cám ơn bà". Ben đứng dậy và lịch sự tránh sang một bên để Charlotte có thể đi qua lối đi trước mặt ông.

Họ cùng bước ra ngoài, tiết trời đang ấm áp. Đó là tối thứ Năm. Có tiếng nhạc văng vẳng vọng lại từ phía công viên bến cảng. "Ông có biết là tôi đã phải bỏ lỡ buổi hoà nhạc ở thị trấn vì việc này không", cho dù đây bà nghĩ cũng không phải một sự hy sinh trong buổi tối hôm nay. Người tổ chức đã cho đan xen các chương trình trình diễn rối nước và vì vậy có vẻ như hướng tới khán giả trẻ tuổi nhiều hơn.

"Vậy chúng ta cùng uống cà- phê nhé". Ben đề nghị.

Charlotte thấy tim mình xao xuyên. Nghe chừng thật ngốc nghếch, nhưng không phải ngày nào bà cũng nhận được một lời mời hấp dẫn như vậy. "Được thôi".

"Chúng ta đến quán Lighthouse nhé". Ben hỏi.

Charlotte cười rạng rỡ. "Tuyệt quá. Ông biết không, cháu gái tôi và chồng nó chính là chủ của quán ấy đấy".

Ben tỏ ra ngạc nhiên. "Dường như chúng đang rất thành công".

Charlotte gật đầu đồng ý, nhưng có vẻ như không hay lắm nếu bà cứ khoe khoang mãi về Justine và Seth. Bà cũng ngạc nhiên khi thấy hai đứa trẻ này thành công đến thế trong khi chúng hầu như không có kinh nghiệm về việc quản lý và kinh doanh nhà hàng. Bù lại chúng có đầu bếp giỏi, có kỹ năng xã hội tốt và khả năng kinh doanh bẩm sinh.

Cũng thật tình cờ, cả Seth và Justine đều không có mặt ở quán tối hôm đó, Charlotte chọn chỗ ngồi ngoài hiên, nơi có tấm nhìn rất đẹp và đăm chiêu trông ra vịnh, ngắm những ngọn sóng lô xô lấp lóa dưới luồng sáng di động của ngọn hải đăng, ngắm ánh đèn lung linh từ xưởng đóng tàu hắt xuống bề mặt sẫm màu của vịnh Sinclair.

Cả hai đều gọi cà- phê và bánh nhân táo để ăn cùng với kem.

"Thật là một lựa chọn dễ chịu". Charlotte nói và lấy dĩa xắn một miếng bánh táo nhỏ. Vị cay nồng của quế thật hợp với vị ngậy của kem vani. Món tráng miệng là một loại hưởng thụ xa xỉ, nhưng cuộc sống quá ngắn nên đôi khi con người không nên bỏ qua những thú vui như vậy.

"Rất nhiều lần tôi muốn dừng chân ở đây, nhưng ngồi ăn một mình thì chẳng có gì là phấn khởi cả", Ben tâm sự. Ông lắc đầu một cách buồn bã và nói tiếp.

"Vợ tôi mất cách đây sáu năm, tôi vẫn chưa biết đến bao giờ mình mới có thể quen được cuộc sống cô đơn này".

"Ông Clyde nhà tôi cũng ra đi được hai mươi năm rồi".

"Thế thì chắc là bà thấu hiểu cảm giác của tôi".

Charlotte hiểu chứ. Thậm chí sau ngần ấy năm bà vẫn cảm thấy một nỗi đau ẩn sâu trong lòng và một nỗi buồn xa xăm. Clyde là tất cả đối với bà:

một người bạn chân thành, một người chồng tốt và một người tình tuyệt vời. Khoảng trung mà ông để lại trong cuộc đời bà sau khi mất không gì có thể lấp đầy được.

"Tôi nghe đồn ông đã nghỉ hưu ở hải quân phải không?", bà nói để chuyển chủ đề trước khi tấm màn u sầu phủ xuống buổi tối của họ.

"Bốn mươi năm", Ben xác nhận. "Tôi gia nhập hải quân ngay sau Đệ nhị Thế chiến, lúc mới mười tám tuổi. Tôi đã tham chiến ở Hàn Quốc và Việt Nam, sau này nghỉ hưu với hàm Thượng tướng".

"Ông có đông con cái không?".

"Tôi có hai con trai. Chúng đều đã lập gia đình riêng. Gia đình bà thì sao?".

"Tôi chắc ông đã gặp Olivia rồi".

Ông gật đầu. "Một thẩm phán".

Vậy là ông ấy có nhớ. "Tôi còn có hai con trai nữa. Will sống ở gần Atlanta, Georgia. Nó là kỹ sư nguyên tử". Charlotte nói một cách kiêu hãnh. "Còn Steven, con trai lớn của tôi cũng sống ở Georgia. Ông đã nghe nói đến đảo St.Simon chưa? Clyde và tôi đã đến đó một lần vào mùa hè. Để tôi nhớ xem, chắc phải vào thập ky sáu mươi, nhưng tôi vẫn còn nhớ nơi đó đáng yêu thế nào. Tất cả những cây sồi cổ thụ ở đó đều được phủ một lớp rêu Tây Ban Nha xanh mướt".

Ben mỉm cười. "Joan cũng từng rất thích đến thăm hòn đảo đó". Khi nhắc đến tên người vợ, mắt ông thoáng nét buồn. Charlotte rất hiểu việc mất đi người bạn đời của mình là đau khổ như thế nào nên bà nhẹ nhàng vỗ vào bàn tay ông.

"Thời gian sẽ làm vơi đi nỗi đau", bà thì thầm. "Cuộc sống luôn thay đổi và chúng ta sẽ dần thích nghi với nó. Mỗi năm trôi qua, cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn một chút". Bà nghĩ an ủi như vậy sẽ khiến ông cảm thấy dễ thổ lộ về người vợ đã mất hơn. "Kể cho tôi nghe về bà nhà ông đi".

Ben tỏ ra ngạc nhiên. "Bà muốn nghe tôi kể về Joan ư?".

"Nếu ông muốn".

Hiển nhiên là Ben rất muốn kể. "Joan đã đi theo tôi khắp nơi trên thế giới.

Tôi phải đóng quân ở châu Âu, châu Á và ở một số bang ở Mỹ. Chưa bao giờ bà ấy than phiền vì điều đó. Tôi đã hứa với bà ấy là khi nghỉ hưu, chúng tôi sẽ định cư một chỗ".

"Và ông có làm như vậy không?".

"Có, ở California. Chúng tôi đã xây nhà ở đó, được khoảng mười năm nhưng rồi Joan đõ bệnh. Ung thư".

"Điều gì khiến ông tới vịnh Cedar?".

Ben im lặng một lúc lâu. Bóng tối đang buông xuống, và ánh sáng phản chiếu trên mặt hồ tĩnh lặng. "Tôi không thể ở trong căn nhà đó được nữa. Tôi chuyển đến San Diego, nhưng vẫn cảm thấy không ổn. Rồi tôi đi lên phía Washington, Seattle một vài lần. Vài người bạn của tôi có mời tôi đến chơi sau đám tang của Joan, mỗi năm tôi đều đến nhà họ vài lần. Cách đây vài năm tôi có đi phà đến Bremerton. Tình cờ, tôi ghé qua vịnh Cedar và tôi thấy thích nơi này.

Người dân ở đây rất thân thiện, vừa hay tôi cũng đang tìm một chỗ mới để sinh sống".

"Thế các con trai của ông thì sao?".

"David muốn tôi chuyển tới sống gần nó, nó đang ở Arizona, nhưng điều đó cũng không mấy hứng thú với tôi. Nó muốn được chăm sóc tôi, nhưng tôi lại không bao giờ muốn trở thành gánh nặng của con cái".

"Tôi hiểu ý của ông". Charlotte cũng có suy nghĩ đó. Bà tin rằng Ben không bao giờ cam chịu trở thành gánh nặng cho bất cứ ai. Ông ấy bản chất là một người kiêu hãnh, có tài và rất độc lập.

"Ông ông ở đây được bao lâu rồi".

"Cho đến giờ là được hơn một năm".

Thật lạ lùng. Lẽ ra bà phải biết ông từ lâu rồi chứ!

Ben liếc nhìn đồng hồ và dường như rất ngạc nhiên khi thấy thời gian trôi nhanh. "Chúa ơi, đã gần chín rưỡi rồi".

"Không thể như vậy được!". Charlotte chắc là ông đã xem nhầm. Họ mới vừa tới đây lúc sau tám giờ. Cuộc họp của hội đồng thành phố bắt đầu lúc bảy giờ và kéo dài trong vòng một tiếng.

"Bà là một phụ nữ cởi mở và chân thành, Charlotte ạ".

Charlotte thấy tim mình xao xuyến bởi lời khen của ông. "Cám ơn ông đã khen". Bà kiềm chế để không nói ra rằng Ben Rhodes cũng là một người rất biết cách nói chuyện, và là một người đàn ông dễ mến.

Chương 4

Rosie Cox thôi dạy học ở trường phổ thông đã nhiều năm rồi, chính xác là mười sáu năm. Từ khi sinh Allison, Zach và Rosie đã quyết định cô sẽ không đi làm mà ở nhà chăm sóc con. Đã nhiều năm cô tự hào tuân theo khẩu hiệu "Hiền mẫu". Quan điểm của cô, là vai trò của người phụ nữ trong gia đình giống như một người chiến sỹ ngoài mặt trận vậy. Tình yêu thương chăm sóc của người mẹ, đặc biệt trong những năm phát triển đầu đời của đứa trẻ là hết sức quan trọng. Đã từng có lúc cô tự hào vì mình là một người mẹ, người vợ, người quản gia tốt hơn ai hết. Cũng đúng thôi, vì cô đã đọc tất cả các sách báo, đã trò chuyện cùng các chuyên gia và tham dự các lớp học mới nhất về vai trò cách trở thành một người phụ nữ chuẩn mực của gia đình. Cô quyết tâm làm mọi việc vì chồng và con cái.

Khi cả Allison và Eđie đều đi học, Rosie cũng đã từng nghĩ mình sẽ đi dạy lại. Cô có đầy đủ phẩm chất để làm giáo viên, giờ làm việc ở trường học cũng rất lý tưởng và cô cũng sẽ được nghỉ hè cùng lũ trẻ. Tuy nhiên lúc đó cô đã không xin được, nhưng cô cũng bắt đầu đi làm vào mùa thu cách đây vài năm, khi đó cô làm thu ngân cho một hiệu thuốc. Tuy nhiên công việc này cũng không kéo dài lâu.

Khi Eđie vào lớp Một, Rosie đã tham gia vài công việc tình nguyện mà cô rất yêu thích. Cô muốn đóng góp cho cộng đồng, ban đầu Zach cũng rất ủng hộ việc này. Nếu cô muốn tình nguyện đóng góp công sức của mình cho các hoạt động xã hội thì với Zach mọi việc cũng vẫn ổn, họ vẫn luôn sống thoải mái nhờ vào lương của anh. Nhưng sau đó, chồng cô đã bắt đầu bực bội khi cô dành quá nhiều thời gian cho các tổ chức và than phiền về việc cô vắng nhà hay đi xa nhiều đêm. Rốt cục là Zach không đồng ý cho cô đi làm mà cũng không ủng hộ công việc tình nguyện của cô. Cái mà anh ấy cần, cô chua xót nhận ra rằng, đó là một người vợ mẫu mực truyền thống biết nghe lời và đáp ứng những đòi hỏi của chồng. Một người quản gia đầy cam chịu, và không bao giờ từ chối chuyện chăn gối vì hiển nhiên nếu cô không đáp ứng được thì anh ấy cũng có thể có chuyện đó từ một nơi khác.

Công việc tình nguyện đã lấp đầy thời gian của cô nhưng đó là trước đây, còn bây giờ cô không thể tham gia được nữa. Với bản án ly hôn đã được tuyên cùng với bản thoả thuận chính thức về quyền chăm sóc con cái - mặc dù đó là một bản thoả thuận lạ lùng nhất trên đời, Rosie sẽ phải tìm cách tự nuôi sống mình.

Cô hầu như có rất ít sự lựa chọn. Sau một vài khoá học bổ túc theo học từ hè, cô đã được một trường ở quận nhận làm giáo viên hợp đồng. Và cô sống nhờ vào công việc đó. Cô đang đợi cơ hội để được nhận làm giáo viên chính thức.

Là giáo viên hợp đồng chỉ được dạy ít giờ, cũng có nghĩa là ít tiền hơn, và cô còn phải lo lắng về kinh tế cho đến khi nào được dạy nhiều giờ như cô muốn.

Ngày hôm qua, ngày đầu tiên của năm học, cô vừa được gọi đến để dạy lớp Hai ở trường tiểu học Evergreen. Đó là thứ Tư, ngày làm việc thứ hai của cô.

Vào cuối buổi chiều, những bước chân của Rosie nặng nề hơn và cô có thể cảm nhận được những biểu hiện của chứng đau nửa đầu. Dạy học không phải một việc dễ dàng, nhưng cô có thể làm được, cô tự nhủ Bà Gough, giáo viên chính của lớp bị mổ ruột thừa vào đúng ngày Quốc tế lao động và sẽ không đến lớp được trong vòng hai đến ba tuần, tuỳ thuộc vào mức độ hồi phục của bà. Và vì vậy mà Rosie sẽ không phải lo lắng gì về thu nhập của mình trong tháng Chín.

Lúc cô rời khỏi trường học thì cũng đã gần năm giờ. Hầu hết các giáo viên khác đã rời khỏi trường. Người quét dọn đã miết cây chổi xuống hành lang không một bóng người khi cô bước ra khỏi lớp học.

"Chào bác", cô nói khi đi ngang qua ông và cố gắng mỉm cười.

Ông tỏ ra biết đến sự có mặt của cô bằng một cái gật đầu và lại mẫn cán tiếp tục công việc của mình.

Trèo lên chiêc xe SUV, cô vỗ nhẹ vào lưng mình. Cô đã được chia chiếc xe Ford Explorer này trong vụ ly hôn. Zach buộc phải cho cô chiếc Explorer hoặc là phải mua cho cô chiếc mới vì chiếc xe của cô đã cũ và không còn an toàn nữa. Anh ta đã chọn cách từ bỏ chiếc xe của mình, nhưng sau đó cô mới biết rằng anh ta vốn không có ý định dùng nó nữa từ lâu rồi.

Cả hai đều cảm thấy người còn lại thấp hèn trong những cuộc thương lượng cho vụ ly hôn. Rosie đã không nhận thức được cô đã nhỏ mọn, tầm thường như thế nào. Cô thực sự ghét Zach vì những gì anh đã làm với cô và với gia đình của họ, và cô muốn làm anh tổn thương nhiều như anh đã gây ra cho cô. Có vẻ như anh ta cũng muốn đối xử với cô y hệt như vậy.

Rosie rẽ sang đường Pelican và đi vào con ngõ, cô thốt ra một tiếng thở dài.

Thật thoải mái khi về đến nhà. Cô rất háo hức được nói chuyện với bọn trẻ và xem những ngày qua với chúng như thế nào. Allison học ở trường trung học vịnh Cedar và Eđie đang học lớp năm ở trường tiểu học Lincoln. Dù gần như sắp kiệt sức, cô vẫn mong được nghe bọn trẻ kể về trường học của chúng. Cô thậm chí còn gọi bánh pizza, thứ có vẻ như xa xỉ trong những ngày khó khăn này của cô. Nhưng ba mẹ con đáng được hưởng một điều gì đó đặc biệt.

Cửa ga- ra đóng. Rosie cau mày khi mở ra và nhìn thấy chiếc xe mới của Zach đậu ở chỗ của cô. Điều này nghĩa là sao? Ra khỏi xe cô đóng sầm cửa lại.

Điều cuối cùng cô muốn là bây giờ là nói chuyện cho ra lẽ với anh ta, nhất là sau những ngày mà cô vừa phải trải qua.

Cô do dự trước cánh cửa, phân vân không biết cô có nên gõ không, nhưng ngay sau đó cô quyết định đây là nhà chung của cả cô và anh ta. Và cô không cần phải thông báo sự có mặt của mình, vì vậy cô lao vào bếp từ của phía trong ga- ra.

Và đúng là như vậy, Zach đang ở trong bếp, mặc một chiếc tạp dề trông thật nực cười. Cả hai đứa trẻ đang tụ tập quanh anh ta và điều này càng khiến cô khó chịu. Eđie đang ngồi ở bàn làm bài tập về nhà, Allison thì đang đứng ở chậu rửa bát gọt khoai tây. Đây là một cảnh tượng mà cô không thể tin được, đặc biệt là lũ trẻ có vẻ như hoàn toàn tự nguyện làm những việc này.

"Anh làm gì ở đây vậy?", cô hỏi, hai tay chống nạnh.

"Ý cô là sao?". Zach hỏi, ngước mắt lên nhìn cô. Nụ cười của anh tắt dần và hai mắt nheo lại. Hai bàn tay anh còn đang nhúng sâu đến tận cổ tay trong cái tô gốm to màu xanh, trong đó đầy những thứ trông có vẻ như là hăm- bơ- gơ và vụn bánh quy. À, giờ thì cô hiểu rồi. Đây là cố gắng đáng thương của anh ta để làm bánh mỳ nhồi thịt. Một năm trước đây, họ đã có một trận cãi nhau to về việc khi anh ấy đi làm về không được dọn sẵn một bữa cơm ba món. Có vẻ như anh ta nghĩ cô chẳng có việc gì làm ngoại trừ việc loanh quanh ở nhà, xem những bộ phim tình cảm sướt mướt và chương trình nói chuyện vớ vẩn trên tivi.

"Bánh mỳ nhồi thịt à?", cô hỏi không che giấu vẻ khinh bỉ.

"Tối nay tôi ở với bọn trẻ", Zach nói. Hai tay đông cứng lại , anh nhìn cô chằm chằm một cách thiếu thiện ý.

Cái quái quỷ gì thế này. "Tôi không nghĩ vậy". Rosie không nhượng bộ.

Việc có Zach trong nhà cô đã là tệ lắm rồi. Cô ghét việc phải đi đi lại lại thế này. Cô nhớ lại lịch:

cô sẽ ở với bọn trẻ vào Chủ nhật thứ Hai, thứ Ba và thứ Tư; còn Zach ở nhà vào thứ Năm, thứ Sáu, thứ Bảy cộng với các ngày nghỉ lễ.

Cô cảm thấy chiến thắng vì có thêm được một ngày nhưng đổi lại cô đã phải hy sinh những ngày nghỉ lễ cùng các con. Sự thoả hiệp này có vẻ như không công bằng, nhưng đây là điều tốt nhất mà Sharon Castor có thể dành được cho cô.

"Thứ hai là ngày lễ", Zach nhắc nhở cô.

Khoanh tay trước ngực, Rosie ném về phía anh một nụ cười mỉa mai. "Vậy thì sao?".

"Thứ hai là ngày Quốc tế lao động".

"Bố ở với chúng con vào các ngày lễ, mẹ không nhớ sao? Vì vậy tuần này bố có thêm một ngày".

Để mặc Allison đứng về phe với bố nó, Rosie cau mày với con gái. Có đến hàng nghìn lần cô nhờ con gái gọt khoai tây cho bữa tối, và đáp lại Allison luôn nhìn cô tỏ vẻ phiền phức, như một nô lệ bị bắt làm công việc khổ sai. Thế mà bây giờ Zach lại khiến nó làm một cách tự nguyện thế kia. Cô điên mất!

"Chúng ta đã quyết định rằng tôi sẽ ở với các con vào tất cả những ngày lễ tết, kể cả nó có trùng với ngày mà cô được ở với các con. Nên hôm nay dù là ngày của cô, nhưng vì là ngày lễ nên nó sẽ vẫn là của tôi".

"Chúng ta đã thống nhất như vậy sao?". Cô lờ mờ nhớ ra một vài thảo luận liên quan đến ngày Quốc tế Lao động, nhưng nó đã trôi tuột khỏi đầu cô với những quay cuồng của ngày đầu tiên ở trường học. Và mọi chuyện sẽ tương tự như vậy đối với ngày Columbus vào tháng sau, cô bắt đầu nhận thức được mọi việc.

"Cô có cần luật sư của tôi gửi cho cô những giấy tờ thoả thuận mà cô đã ký không?". Zach hỏi.

"Anh không cần phải mỉa mai tôi như vậy", cô trả lời.

Eđie đóng sập quyển sách và lấy hai tay bịt tai. "Bố mẹ dừng lại hết đi", nó hét lên. "Hãy dừng lại đi".

"Anh đã nhìn thấy những gì anh gây ra chưa", Rosie nhìn anh đầy giận dữ, dang đôi tay che trở ôm lấy vai cậu con trai. Eđie là một đứa trẻ rất nhạy cảm.

Cái nhìn chằm chằm của Zach khoét sâu vào cô. "Đây là thời gian của tôi dành cho các con của tôi", anh nói, "và tôi rất biết ơn nếu cô rời khỏi đây".

Rosie mở miệng định đấu khẩu, nhưng anh ta đã đúng. Cô mới là người nhầm lẫn.

"Tốt thôi", cô nói với tất cả lòng tự trọng của mình mà lúc này đang ở mức rất thấp. Cô cười dịu dàng với con trai và con gái để làm yên lòng chúng và sau đó rời khỏi ngôi nhà.

Nước mắt chỉ chực tuôn ra xối xả ngay khi cô quay lại và bước lên chiếc Explorer. Điều này sẽ không xảy ra nữa; cô sẽ phải đảm bảo chuyện này không lặp lại. Kể từ bây giờ cô sẽ đánh dấu rõ ràng trên lịch để không gặp phải cảnh tượng khó chịu này.

Căn hộ cô thuê cùng Zach cách ngôi nhà hơn một dặm. Cô đưa xe vào chỗ đậu xe và tắt máy. Khu vực này không được tốt lắm nhưng giá thuê căn hộ khá hợp lý.

Mọi thứ trong căn hộ được phân chia một cách rõ ràng. Trong tủ lạnh cô có ngăn riêng của mình và Zach cũng vậy. Những đồ dùng cá nhân của cô được cất giữ và khoá trong một phòng ngủ, và đồ của anh được khoá trong căn phòng còn lại. Mặc dù vậy cô không quan tâm trong phòng anh có những gì.

Căn hộ này nóng bức và không có điều hoà như ở ngôi nhà chung của họ.

Rosie bật tivi để cho có tiếng người và lấy ra hai viên aspirin, cô ném phịch chúng xuống trước tivi. Đang đến phần tin tức thời sự, nhưng cô không quan tâm hay hứng thú với các sự kiện thế glới. Điều mà cô quan tâm là giải quyết những vấn đề đang xảy ra trong chính cuộc sống của cô.

Có lẽ cô đã ngủ quên vì tiếng chuông điện thoại đã đánh thức cô dậy. Giật mình, cô nhảy ra khỏi chiếc ghế truờng kỷ và chạy xuống bếp.

"Alô", cô nói thở không ra hơi, điều này không giống giọng cô lúc bình thường chút nào.

Người ở đầu dây bên kia là một phụ nữ, cô ta ngập ngừng. "Tôi nghĩ tôi đã gọi nhầm số".

Rosie có thể nhận ra giọng nói ấy ở bất cứ nơi đâu. Đó chính là Janice Lamond, người đã phá vỡ hạnh phúc gia đình cô, cướp đi chồng cô. Người đàn bà đã lập kế hoạch một cách chi tiết để huỷ hoại cuộc đời cô. Rosie thấy lòng sục sôi giận dữ và căm thù.

"Vâng, tôi nghĩ là cô đã nhầm", cô nói và cố tình để cho người phụ nữ đó biết sự khinh ghét tột độ trong giọng nói của mình. Và vì không còn gì cần phải nói nữa nên cô lấy làm vui thích cụp rầm điện thoại xuống. Tay run run tỳ xuống bệ bếp, Rosie gạt những giọt nuớc mắt tức tưởi.

Zach đang hẹn hò. Anh ta hẹn hò thậm chí cả khi cuộc ly hôn chưa ngã ngũ.

Thậm chí trước khi anh ta chuyển ra ngoài. Chính cô là người trân trọng lời thề hôn nhân, cô là người chăm sóc cho ngôi nhà và gia đình trong khi người mà được coi là chồng cô thì đi ngoại tình. Đến giờ cô vẫn thấy đau đớn khi nhận thấy người đàn ông mà cô hoàn toàn tin tưởng và dành trọn tình yêu đã đi dan díu với người đàn bà khác.

Rosie rót cho mình một cốc nước cam lạnh và quay lại phòng khách nhỏ. Cô uế oải nằm xuống sô- pha và nhìn lên trần nhà.

Cả hai người họ đã chơi trò chơi này từ lâu rồi. Vậy mà Rosie đã phải mất quá lâu để nhận ra điều đó.

Đã đến lúc cô phải tìm bạn trai cho mình.

Những bài viết mới nhất cho tờ Bản tin vùng vịnh Cedar đã sẵn sàng trước máy in. Jack Griffin đang có một buổi chiều rảnh rỗi hiếm hoi, và đó là một chiều tháng chín đẹp trời. Thông thường thì anh sẽ dành thời gian rảnh rỗi để hẹn hò với Olivia, nhưng bây giờ anh chỉ có thể lặng lẽ ngồi một mình với một tâm trạng thật tồi tệ.

Anh đã cố tỏ ra lãnh đạm, cố che giấu tình cảm thật sự của mình với Olivia.

Anh không thật sự thân thiết với ai, ngoại trừ người bạn thân nhất của anh là Bob Beldon. Bob còn hơn cả một người bạn. Bob là người tài trợ cho Hội Những người cai rượu của họ. Và giữa hai người đã có gần ba mươi năm gắn bó với nhau.

Anh đậu chiếc xe Ford Taurus mòn vẹt, cũ kỹ và dễ đến mười lăm năm tuổi bên ngoài nhà nghỉ Thyme và Tide của Beldon, Jack dừng lại một lúc lâu để ngắm nhìn quang cảnh phía bên kia vịnh. Thật đẹp. Thật ngoạn mục. Ở phía xa, phà từ Seattle màu trắng pha xanh đang giảm dần tốc độ khi đi vào bến tàu Bremerton. Những con hải cẩu nhảy lên khỏi mặt nước. Gần hơn một chút là những con diệc đẹp như tranh đang đi nhẹ nhàng dọc bãi biển, chúng nhặt nhạnh những động vật biển nằm lộ trên bãi cát trong khi thuỷ triều vỗ nhẹ nhàng vào chân chúng. Một đường bờ biển hình vỏ sò chạy viền theo bãi đá.

Peggy đang bận tỉa cỏ trong vườn, đội một chiếc mũ rộng vành để che khuôn mặt khỏi cái nắng cuối chiều. Chị đứng thẳng người dậy khi trông thấy anh, trong tay vẫn cầm cái rổ.

"Jack", chị vồn vã chào anh. "Gần đây anh đi đâu mà chúng tôi không nhìn thấy vậy?". Nhanh chóng đi qua bãi cỏ, chị nhẹ hôn lên má anh. "Hôm nay quả là một buổi chiều đẹp trời phải không?".

"Quả là rất đẹp Peggy ạ". Anh ngừng rồi hỏi tiếp Bob có ỏ nhà không?".

"Thật tiếc là anh ấy không có ở đây. Anh ấy đã đi cùng cha Flemming rồi.

Tôi không biết bằng cách nào nhưng cha Dave Flemming đã thuyết phục được anh ấy làm huấn luyện viên cho đội bóng rổ thiếu niên".

Thành thực mà nói Jack cũng không biết bằng cách nào mà ngài mục sư có thể làm được điều đó. "Tôi không biết là chị và Bob cũng thường đi lễ nhà thờ đấy", anh nói với một chút bối rối.

"Trước đây thì không", Peggy thú nhận. "Cho đến khi ...". Mùa đông năm trước một người đàn ông xa lạ chết trong nhà họ và điều đó đã khuấy động cuộc sống của họ. Câu chuyện vẫn chìm trong bức màn bí ẩn. John Doe - người đàn ông đó đã đến trong một đêm bão táp; anh ta mang chứng minh thư giả khuôn mặt gần như đã phẫu thuật toàn bộ để không bị nhận dạng. Vì vậy câu chuyện này vẫn không có câu trả lời, và một số người dường như cho rằng Peggy và Bob có thể liên quan đến cái chết của người đàn ông đó. Nếu người lạ mặt đó chết ở nhà của anh, Jack nghĩ rằng anh cũng sẽ bắt đầu đi lễ nhà thờ như vợ chồng bạn mình.

Peggy, khoan thai và tự tin như mọi khi, hướng về phía bếp như thế chị biết Jack sẽ đi theo mình. Và đúng là anh cũng đang tự nguyện đi theo chị. Peggy là người phụ nữ khiến cho bất cứ ai cũng có cảm giác được chào đón. Đó là khả năng tự nhiên của chị và nó khiến chị rất phù hợp với công việc điều hành nhà nghỉ.

Peggy giữ tấm màn che cửa cho Jack đi qua và đặt cái rổ lên quầy. "Tôi vừa pha một bình trà đá mát lạnh đây", chị tuyên bố, và không cần hỏi Jack, chị tự động rót ra hai chiếc cốc cao và xếp ra đĩa vài chiếc bánh bơ đậu phộng to.

Jack cầm chiếc khay và hai người đi ra ngoài hiên. Anh đặt chiếc khay lên bàn rồi bắt đầu tìm lý do để rời đi ngay khi có thể. Nhưng anh thay đổi ý định đó, vì rốt cục anh đến đây với hy vọng là đầu óc mình sẽ không loanh quanh với những ý nghĩ về Olivia nữa.

"Khi nào thì Bob quay về", anh hỏi.

"Tôi đoán khoảng năm giờ", Peggy nói với anh.

Liếc nhanh vào đồng hồ, Jack cảm thấy yên tâm vì chỉ còn khoảng ba mươi phút nữa.

"Sau cái chết của Dan Sherman ...". Peggy bắt chuyện trước. Chị ngập ngừng. "Bob đã rất đau lòng".

Vì là người mới đến, Jack không nhớ rằng Bob đã rất thân với người thợ đốn gỗ quá cố đó. Việc đó khiến anh nhớ lại rằng Grace Sherman đã nhờ anh phát biểu tại buổi lễ tang mà cô tổ chức cho Dan. Jack rất ngạc nhiên khi nhớ ra Dan và Bob từng rất thân nhau, nhưng anh không nói gì.

Như đọc được suy nghĩ của anh, Peggy giải thích. "Bob và Dan là bạn thân từ khi còn học trung học. Cái chết của Dan thực sự khiến anh ấy rất buồn, và sau đó thì lại đến ...". Chị nhún vai và bắt gặp ánh mắt của Jack. Anh biết chị đang muốn nhắc đến người khách lạ mặt đã chết trong nhà nghỉ của họ.

"Sau khi Dan được chôn cất, Bob quyết định sẽ bắt đầu đi nhà thờ", Peggy tiếp tục. "Tôi đương nhiên không phiền lòng vì điều này. Thực tế tôi cũng đã từng nhiều lần muốn đi nhà thờ rồi. Thật buồn cười là những cái chết lại khiến chúng ta mất tinh thần đến vậy phải không?".

"Có lẽ vậy". Jack mỉm cười mệt mỏi và không muốn tiếp tục trò chuyện.

Nhưng sau một vài phút, sự im lặng trở nên ngột ngạt nên Jack cố gắng lấp đầy khoảng trống bằng một câu hỏi. "Khoảng thời gian gần đây Bob và Dan không gặp nhau nhiều phải không?".

Peggy lắc đầu. "Kể từ khi họ từ Việt Nam trở về, Dan không còn như trước nữa. Họ dần xa nhau. Tôi không nghĩ Dan là một người nát rượu, nhưng Bob thì ... anh biết đấy, lúc nào anh ấy cũng có chai rượu như bất cứ một người nghiện rượu nào khác".

Jack gật đầu. "Bạn bè cũng có thể có những lúc như thế", anh vừa nói vừa suy nghĩ đến anh và Olivia nhiều hơn là nghĩ đến Dan Sherman và Bob. "Ý tôi là bạn bè cũng có những lúc xa nhau". Chỉ có mối quan hệ giữa anh và Olivia thì không phải là xa nhau, mà đột nhiên chấm dứt hoàn toàn. Bụng anh tự nhiên đau quặn lại, và nếu không biết chắc là do cuộc chia tay này anh có thể nghĩ đó là dấu hiệu của bệnh đau dạ dày. Khi với tay lấy ly trà đá, anh nhận ra Peggy đang quan sát mình.

"Dạo này anh gầy đi đấy".

"Vậy sao?". Nếu quả đúng như vậy thì anh cũng lấy làm mừng. Khi đến độ tuổi trung niên và do công việc bàn giấy chỉ ngồi một chỗ nên anh cảm thấy bụng mình đang nặng nề hơn. Một nguyên nhân nữa, là do anh không có nhiều thời gian vận động và các bữa ăn thì thường là những món ăn nhanh mà anh có thể kiếm được dễ dàng từ máy bán hàng tự động.

"Tôi cho rằng chuyện này có liên quan đến Olivia. Trông anh có vẻ suy sụp".

Bây giờ thì thật là tồi tệ hết sức. Jack gần như rên lên thành tiếng. "Không công bằng chút nào", anh lẩm bẩm. "Chính Olivia thì dường như không mảy may bận tâm".

"Thôi nào", Peggy thì thào, chị có vẻ tôn trọng suy nghĩ của anh. "Tôi phải nói với anh điều này. Sau đó thì tùy anh quyết định, tôi sẽ không xen vào nữa".

"Một điều à?", anh nhắc lại. "Chỉ một điều thôi sao?".

"Đúng vậy", Peggy nói, "và tôi dám chắc anh sẽ thấy nó rất thú vị. Vài hôm trước, tôi có việc đi đến toà án. Tất cả mọi người ở đó đều bàn tán với nhau về một phán quyết gần đây của Olivia". Rồi chị dừng lại, như thế đang đợi cho anh cắn câu.

Đúng như cô nghĩ, Jack chưa hề nghe đến việc này. Ngay lập tức trí tò mò chiến thắng và anh đã mắc câu. "Lần này cô ấy đã đưa ra phán quyết gì vậy?".

Peggy kể lại phán quyết của Olivia về quyền chăm sóc con chung cho một cặp vợ chồng đang gây tranh cãi trong dư luận. "Giá như có nhiều thẩm phán biết xem xét đến nhu cầu của bọn trẻ như vậy" chị nói.

Luôn hoà hợp giữa lý trí và tình cảm trong phòng xử án là điều đầu tiên lôi cuốn Jack đến với Olivia. Anh đã rất ngạc nhiên và ấn tượng khi một năm trước đây, Olivia đã từ chối không cho một cặp vợ chồng trẻ ly hôn.

Mọi người trong phòng xử án đều có thể thấy Ian và Cecilia Randall vẫn còn yêu nhau. Họ đã mất đứa con gái mới sinh, và cái chết của đứa trẻ đã đẩy họ xa nhau. Olivia không chỉ nhìn thấy sự xáo trộn về mặt tình cảm của họ và nhận ra rằng họ vẫn cần nhau, mà chị còn tự tin hành động theo những gì trái tim mình mách bảo. Lần gần đây nhất khi Jack nghe mọi người nói về cặp vợ chồng này, đó là Ian và Cecilia đã quay lại với nhau.

Peggy chăm chú nhìn Jack.

"Đã mấy tuần nay tôi chưa gặp Olivia". Jack tự lấy cho mình một chiếc bánh quy. Chính xác là sáu tuần, nhưng anh có đếm từng ngày đâu nhỉ? Thực tế thì anh đang đếm không chỉ từng ngày mà còn từng giờ, song anh không dám thú nhận với ai.

"Jack, thế thì tệ quá đi mất!".

Đúng là như thế. Anh hầu như không thể chịu đựng nổi tình trạng này thêm nữa. Đây là một tình huống Jack không ngờ tới, cái tôi đã yêu cầu anh không được có bất kỳ một động thái làm lành nào với Olivia.

"Anh nhớ cô ấy phải không?".

Jack nói rằng sau một thời gian thì anh cũng không còn cảm giác nhớ đến quay quắt nữa, rồi anh đột ngột ngừng lại. Cái quái quỷ gì vậy, anh tưởng mình đang tự lừa dối ai chứ? Thực tế là anh cảm thấy khốn khổ hơn bao giờ hết, nhất là khoảng thời gian mấy tuần vừa qua. "Cô ấy thì chắc vẫn ổn. Tôi nghe nói gần đây Stanley Lockhart vẫn quanh quẩn bên cô ấy".

"Olivia quay lại với chồng cũ chị ấy à?".

"Theo như bà Charlotte nói thì không". Gần như cắn phải lưỡi, Jack gắng ngậm miệng lại. Anh không có ý cho Peggy biết chuyện anh đã chia sẻ nỗi đau với mẹ Olivia. Charlotte là người ủng hộ anh nhiều nhất. Bà nói với anh rằng bà đã khuyên Olivia gọi lại cho anh nhưng cô ấy vẫn không nhận là mình sai.

Jack để miếng bánh quy sang một bên, anh không còn hứng thú ăn nữa.

"Xem ra Olivia muốn tôi phải diễn kịch với cô ấy".

"Diễn kịch?".

"Chị biết đấy", anh nóng nảy nói. "Cô ấy muốn - theo như lời của cô ấy, tôi phải tỏ ra dám nghĩ đám làm và phải đấu tranh vì cô ấy".

Peggy cau mày. "Cô ấy muốn anh phải đánh nhau à?".

"Có thể đó không phải là một cuộc đọ sức, nhưng ... có Chúa mới biết cô ấy thực sự muốn gì". Anh cho rằng Olivia đang mong chờ anh đến quỳ gối trước mặt và xin chị tha thứ. Lòng tự trọng trong anh không cho phép anh làm như vậy. Nếu như chị cũng quan tâm đến anh như tình cảm anh dành cho chị thì đã không cần đến những thứ kịch tính đó. Jack không tin là một người phụ nữ vốn hiểu rất rõ về bản chất con người như Olivia lại không thể luận ra được điều này.

"Anh nên gửi hoa tặng Olivia", Peggy gợi ý.

Jack cũng từng nghĩ đến việc này. "Nhưng tôi chẳng có lý do gì để tặng hết".

"Lý do à? Anh nói đến lý do nghĩa là thế nào?". Peggy nhắc lại.

"Chị biết đấy ... ví dụ như sinh nhật cô ấy, Giáng sinh, hay một dịp nào đó".

"Jack ơi là Jack", Peggy chậm rãi nói. "Anh có lý do đấy. Anh muốn cô ấy quay lại phải không nào? Khoảng thời gian vô nghĩa này đã đủ rồi đấy. Và làm lành chắc chắn là điều mà cô ấy mong muốn. Cô ấy đang đợi anh đi bước đầu tiên đấy".

Nhưng chính Jack cũng đang đợi Olivia làm lành trước.

"Anh đang quá đề cao cái tôi của mình", Peggy nói. "Nếu anh không nhanh chóng làm điều gì đó thì anh sẽ mất Olivia. Nếu cô ấy có ý định quay lại với chồng cũ thì chắc chắn bây giờ cô ấy đã ở bên anh ta rồi. Trời ạ!". Peggy lắc đầu. "Nếu Stan biết chuyện này hẳn anh ta phải vui lắm".

Jack cau mặt giận dữ. Anh đã nghĩ rất nhiều về gã đốn mạt đó, người đã từng là chồng của Olivia, và có Chúa chứng giám Jack không bao giờ muốn cho Stan bất cứ một cơ hội nào. "Vậy chị cho rằng tôi phải moi tim tôi ra trao cho cô ấy hay sao?".

"Không". Peggy nói. "Như vậy thì không giống với anh chút nào".

Thật may là Peggy hiểu tính hay đùa của anh. "Vậy tôi phải nói thế nào?".

"Tại sao lại phải nói gì? Chỉ cần viết tên anh trên đó thôi".

"Đơn giản vậy thôi sao?".

Peggy gật đầu. "Tất cả những gì Olivia cần là một cái gì đó chứng tỏ anh còn quan tâm đến cô ấy".

Dễ dàng đến thế ư? Không thể nào.

"Vậy anh có làm theo lời của tôi không?". Peggy nhấn mạnh.

"Có lẽ tôi sẽ thử xem sao". Có vẻ đây là một lời khuyên hay, và vào thời điểm này anh sẵn sàng làm bất cứ điều gì, miễn là anh vẫn có thể giữ được niềm kiêu hãnh của mình.

Peggy đẩy đĩa bánh về phía Jack và anh lấy chiếc bánh cuối cùng. Chị nói:

"Tôi hy vọng anh sẽ làm như vậy".

Peggy đã giải quyết giúp anh điều khiến anh phải suy nghĩ, nhưng bây giờ anh nóng lòng muốn chuyển sang chủ đề khác ngoài Olivia. "Tôi tình cờ gặp Roy McAfee ngày hôm trước". Jack nói. Đó là một thám tử trong ngành cảnh sát đã nghỉ hưu ở Seattle, và ngay khi đến vịnh Cedar anh ta đã mỏ văn phòng thám tử tư. Jack biết rằng Roy đã nhiều lần nói chuyện với Bob và Peggy về John Doe - người đã thuê phòng của họ nhưng không bao giờ có khả năng trả phòng nữa. Bác sỹ khám nghiệm tử thi vẫn chưa xác định được nguyên nhân của cái chết ấy.

"Roy có còn tiếp tục điều tra về người khách bí ẩn đến thuê phòng ở chỗ chúng tôi không?". Peggy hỏi, đôi mắt ánh lên vẻ phiền muộn.

"Anh ta không nhắc gì đến chuyện đó nhưng tôi nghĩ là có".

Peggy trở nên yên lặng và suy tư. "Giá như anh ta tiếp tục điều tra", cuối cùng chị mới cất lên tiếng nói.

"Tiếp tục điều tra về John Doe à?". Jack hỏi tiếp.

"Cứ như thể ... John Doe từ một hành tinh khác đặt chân xuống đây vậy".

"Chị nghĩ rằng Roy có thể phát hiện ra điều mà cảnh sát không nhận ra?", anh hỏi.

"Tôi ... tôi không biết nữa". Peggy xoay người trong chiếc ghế và đột nhiên trở nên suy tư. "Chỉ là ...". Và rồi chị lại do dự không nói tiếp.

"Chuyện gì vậy?".

"Chuyện về Bob. Đêm hôm đó, anh ấy tình cờ nói là có nét gì đó rất quen với người khách này. Nhưng anh ta đến rất muộn, trời lại tối và anh ta không đặt phòng trước, nên Bob cũng không phát hiện ra thêm điều gì. Tôi nghĩ trong chuyện này còn có cái gì đó chứ không đơn thuần chỉ là trông quen mắt".

Bob và Jack rất thân nhau. Anh biết là Bob đã phải nghĩ nát óc để tìm ra một mối liên kết nào đó nhưng vẫn chưa tìm thấy.

"Tôi đã lấy Bob được hơn ba mươi năm ...". Giọng của Peggy nhỏ dần, nghe như thì thầm. Chị ném về phía anh một cái nhìn thật nhanh. "Anh ấy có bao giờ kể cho anh nghe về những cơn ác mộng của anh ấy không?".

Thực tế là không. "Chúng ta đều gặp ác mộng lúc này hay lúc khác". Bản thân Jack chưa tới Việt Nam, nhưng anh biết rất nhiều người đã từng đến đó.

Với những người đã từng trải qua chiến tranh thì gặp ác mộng hằng đêm không phải là chuyện hiếm.

"Tính đến bây giờ là hai lần rồi ...". Chị thở dài. "Đôi khi anh ấy bị chứng mộng du".

Jack ngả người ra phía trước. "Chị không nghĩ rằng anh ấy có liên quan gì đến cái chết của người khách chứ?".

"Ồ không". Mắt chị mở to vẻ sợ hãi. "Không bao giờ có chuyện đấy. Cửa phòng ngủ được khoá từ phía trong".

Nhưng Jack biết họ có chìa khoá nên đây không phải một lý do hợp lý.

"Và không có một vết xước nào trên người anh ta".

Jack gật đầu. Điều này thì đúng.

"Hơn nữa, anh biết Bob đấy. Anh ấy thậm chí không dám đập chết một con ruồi. Bản chất của anh ấy rất tốt, anh ấy không bao giờ cố ý làm đau hay làm tổn thương đến bất cứ ai".

Peggy nói đúng. "Vậy tại sao chị lại muốn Bob nói chuyện với thám tử Roy?".

"Tôi muốn Bob nói chuyện, vì điều này có lẽ không ảnh hưởng đến ai. Sau khi chứng kiến anh ấy đã buồn rầu thế nào vì cái chết của Dan, cùng với những cơn ác mộng thường xuyên xảy đến thì tôi nghĩ chắc anh ấy sẽ nhẹ nhàng hơn nếu có thể thổ lộ hết. Bob luôn lo sợ rằng lại mắc chứng mộng du như ngày xưa".

Jack rất hiểu những lo âu của chị. "Chị có muốn tôi nói gì với anh ấy không?".

Peggy lắc đầu. "Điều này có hại nhiều hơn lợi. Nếu anh ấy biết rằng tôi nói chuyện vế anh ấy - cho dù là với anh thì anh ấy sẽ rất khó chịu".

Jack thấy Peggy liên tục nắm chặt tay lại và thả lỏng ra, anh nhận thấy rằng chị đang thực sự sợ hãi. Mặc dù không nói ra, nhưng có lẽ chị lo lắng rằng chồng mình có liên quan đến cái chết của người lạ mặt.

Có thể nào như vậy không? Liệu Bob có liên can gì đến cái chết đó?

Chương 5

Đó là một chiều chủ nhật khi Katie vừa tròn một tháng tuổi, Maryellen đi đi lại lại trong phòng khách, cô âu yếm bế con gái bé bỏng trước ngực. Tiếng chuông cửa vang lên khiến cô như hoá đá. Jon đến để đón Katie về với anh qua đêm. Đây là lần đầu tiên kể từ khi sinh bé cô phải cho con về nhà Jon. Ngày nào Jon cũng đến thăm hai mẹ con nhưng anh thường gượng gạo và chỉ ở lại vài phút. Hôm nay là ngày anh đến đón con bé theo thoả thuận giữa họ và sẽ đưa nó quay lại vào chiều mai. Mặc dù đã chuẩn bị sẵn tinh thần là việc này sẽ khiến mình khó chịu, nhưng bây giờ phải trực tiếp đối mặt với nó, Maryellen vẫn cảm thấy không chịu đựng nổi.

Cô miễn cưỡng đặt Katie vào xe nôi và ra mở cửa. Jon đang đứng một bên, anh có vẻ rất thoải mái với quần Jeans và áo sơ mi ngắn tay. Mớ tóc dài sẫm màu được anh vén lên gọn gàng và buộc thành một túm sau gáy.

"Chào em", anh nói. "Trông cả hai mẹ con đều khoẻ nhỉ".

"Chào anh". Mặc dù đã cố gắng để không bộc lộ cảm xúc nhưng giọng Maryellen vân run run.

Jon nhận thấy nỗi buồn và sự thất vọng của cô, nhưng anh vờ như không để ý. "Em đã chuẩn bị cho Katie xong chưa?".

Maryellen nuốt cục nghẹn trong cổ họng và gật đầu. Cô vẫn giữ cửa mở cho anh vào. "Em đã chuẩn bị tất cả những thứ anh cần". Cô với tay lấy cái túi đựng đồ của em bé, tìm bình đựng sữa mẹ mà cô đã vắt và một vài cái bình không.

"Con ăn mỗi lần khoảng 90ml, có lúc nó ăn được 120ml. Có thể anh sẽ phải dậy hai lần trong đêm, và có lẽ nó chưa quen bú bình nên em không biết nó chịu ăn không". Cô lại nuốt cục nghẹn vào, cố gắng che giấu sự lo ngại của mình. "Anh sẽ nghe thấy nếu như con khóc chứ?".

"Anh rất tỉnh ngủ mà".

Điều này không đúng với những gì Maryellen nhớ về anh. Cái đêm mà họ ở bên nhau, cô đã gom hết quần áo và nhẹ nhàng đi được nửa đường xuống cầu thang thì anh mới phát hiện ra.

"Em để ba bộ quần áo trong túi đồ phòng trường hợp cần phải thay - và cả bỉm nữa".

"Được rồi". Anh đi đến chiếc nôi mà cô vừa để ở phòng khách sáng nay.

"Anh không biết bây giờ họ vẫn còn cái nôi kiểu này đấy".

"Nôi cũ của em", Maryellen nói với anh. "Mẹ giữ nó từ khi sinh em và cho Kelly khi em ấy sinh Tyler. Kelly mới chuyển nó cho em để dùng cho Katie".

Jon nhìn và cười với con gái; đứa trẻ dường như cũng mỉm cười lại với anh, nó đang vẫy vẫy hai tay. Jon đặt tay lên cái bụng xinh xinh của đứa trẻ.

"Nó thích nhất cái chăn màu vàng ...", Maryellen kể. "Mẹ em đã đan cho cháu và em nghĩ nó sẽ ngủ ngon hơn với cái chăn đó". Cô bắt đầu nói lan man vì không tự chủ được.

"Anh đảm bảo rằng con sẽ luôn có cái chăn đó".

"Anh cần phải có ghế ngồi trong xe. Luật của bang đã quy định như vậy".

"Anh đã có sẵn một cái rồi".

Ánh mắt của anh không rời khỏi con gái, Maryellen thấy anh làm bộ nhăn mặt để trêu con bé. Vẻ âu yếm trên khuôn mặt anh khiến cô muốn rớt nước mắt.

"Con bé hay cáu gắt vào buổi sáng khi mới ngủ dậy", cô nói với anh, và cắn môi để cho giọng không run lên.

"Chắc nó học tính đó từ em", Jon nói và liếc nhanh về phía cô. "Nếu anh nhớ không nhầm thì em cũng không phải người thích dậy sớm vào buổi sáng".

Anh đang gợi lại cho cô về cái đêm họ ở bên nhau. Maryellen muốn phản bác ngay, nhưng cô sợ rằng nếu nói thêm bất cứ một từ nào nữa thì cô sẽ oà khóc mất. Việc thay nhau chăm sóc Katie nghe có vẻ như một giải pháp hợp lý cho cả hai người cách đây vài tháng. Katie là con gái của Jon và về mặt pháp lý thì anh có quyền được ở bên con. Nhưng Maryellen đã không ý thức được rằng khi đồng ý với việc này thì cô sẽ cảm thấy hụt hẫng và mất mát thế nào. Một cảm giác mất mát không gì có thể bù đắp.

Jon cẩn hận cúi người xuống và ôm con gái vào vòng tay anh. Maryellen phải cố gắng hết sức mới không xông lên giằng lại đứa bé khi thấy những động tác lóng ngóng vụng về của anh. Cô kiên quyết đứng yên tại chỗ. Chắc chắn Jon cũng sẽ không hài lòng nếu cô chỉ bảo anh phải ẵm con thế nào.

"Anh sẽ bế con ra và đặt nó vào ghế ngồi trong xe nhé", anh nói.

Maryellen không đáp lại bằng lời mà chỉ gật đầu. Cô theo sát phía sau anh, xách theo túi đồ của bé. Trong lúc Jon chỉnh ghế em bé trong xe thì cô kiên nhẫn đứng nhìn để chắc rằng đứa trẻ được buộc đúng cách.

"Mấy giờ anh sẽ đem con quay lại?", cô hỏi mặc dù đã biết trước câu trả lời.

"Trước năm giờ".

Hai tư tiếng đồng hồ.

Jon đóng cửa sau.

"Gọi cho em nếu anh cần gì nhé".

Anh đi một vòng quanh xe, một chiếc xe dòng Sê- đan mới tinh, và mở cửa bên phía lái. "Tất nhiên. Anh để số của em ngay cạnh điện thoại mà".

"Vâng ... vậy được rồi". Maryellen bám chặt lấy cửa tới tận khi Jon lên xe và tra chìa khoá vào ổ khởi động. Còi báo động kêu vang, cô miễn cưỡng lùi lại để Jon đóng cửa.

"Mọi việc sẽ ổn thôi", anh nói qua cửa kính vẫn để mở một nửa để làm cô an lòng.

"Em biết ... chỉ là em và con chưa từng phải xa nhau bao giờ".

Ánh mắt Jon chợt trở nên lạnh lùng. "Chính em là người muốn như thế này.

Anh chỉ làm theo những gì em muốn thôi".

Điều mà cô muốn, giá như cô có thể nhắc lại với anh, đó là không cho anh biết gì về đứa con này. Ban đầu cô đã dự định không kéo anh vào việc này vì cô tin là Jon không muốn liên quan gì đên đứa trẻ, nhưng cô đã nhầm.

Nước mắt tuôn lã chã khiến mắt cô nhoà đi. Bình thường Maryellen không phải một người mau nước mắt, nhưng việc mang thai và sinh nở đã khiến cô trở nên đa cảm. Những việc tưởng chừng như nhỏ nhặt nhất, ví dụ xem một quảng cáo trên tivi ngồi ngắm đứa con của mình ngủ, hay thậm chí ngồi gấp quần áo cho con gái cũng khiến Maryellen dễ dàng rơi nước mắt.

Jon chuẩn bị lái xe khỏi lề đường, anh liếc nhìn cô và dừng lại. "Em vẫn ổn chứ?".

Cô mạnh mẽ gật đầu và lấy tay quệt hàng nước mắt trên má. "Gần đây em rất dễ xúc động. Chỉ vậy thôi". Khoanh tay lại như một phản ứng tự vệ, cô lùi lên vỉa hè.

"Đó là những xúc động của phụ nữ khi mới được làm mẹ", anh nói vẻ rất hiểu biết. "Anh đã đọc về điều này trong một cuốn sách trên thư viện. Nó sẽ tự hết sau vài tuần".

"Em biết", cô nói. Maryellen cũng đã đọc nhưng nếu nói ra điều đó thì có vẻ như đó là một sự phản kháng đối với Jon vậy. Cô không muốn nói gì làm anh bực, nhất là khi anh đang có đứa bé trong xe.

"Chiều mai anh sẽ đưa con về", anh trấn an cô.

"Vâng ạ", cô thì thầm. Mình sẽ có một đêm yên giấc, Maryellen tự nhủ. Sau một tháng phải thức dậy hai hoặc ba lần trong đêm, cô sẽ cảm thấy dễ chịu khi có một đêm được ngủ ngon mà không bị quấy rầy. Tất cả những lo lắng của cô là kết quả của nhiều đêm bị ngủ ít để chăm sóc bé Katie. Đấy là chưa kể đến những thay đổi về hoóc- môn ...

Bước vào nhà, Maryellen dành chút thời gian để sắp xếp lại phòng khách. Cô nhặt cái lắc, đó là món quà rủa Jon gửi cùng một giỏ hoa lớn hôm cô còn ở trong bệnh viện, cô vứt tấm vải lót trải trong nôi vào máy giặt.

Maryellen đặt vào trong nôi một con gấu trắng to mà Jon mua cho Katie từ trước khi bé chào đời. Căn nhà tràn ngập những món quà nhỏ xinh mà anh mua trước hoặc sau khi Katie ra đời. Bất cứ nơi nào cô cũng nhìn thấy những bằng chứng cho thấy anh quyết tâm trở thành một phần của cuộc đời con bé. Anh thực sự nghiêm túc trong vấn đề này và cô biết anh sẽ không bỏ qua những cam kết giữa họ, vì vậy không còn cách nào khác, cô phải làm quen với chúng.

Đêm hôm đó đúng là một cơn ác mộng với Maryellen. Cô trằn trọc trở mình mà không sao ngủ được. Cô chắc rằng Katie đang rất cần cô và Jon sẽ không nghe thấy con bé khóc khi nó quấy lúc nửa đêm. Hàng trăm nỗi hối tiếc bủa vây cô. Cô đã trao con gái cho Jon mà không kiểm tra xem anh đã chuẩn bị sẵn sàng cho việc chăm sóc một đứa bé chưa. Maryellen tưởng tượng ra cảnh Katie khản giọng khóc với bỉm ướt và cái dạ dày rỗng không, trong khi Jon ngủ một cách sung sướng và không hề biết con bé cần gì.

Đến bảy giờ sáng hôm sau, Maryellen đã gần như phát điên. Đã ba lần cô lấy điện thoại nhưng rồi cô không dám gọi vì sợ đánh thức anh, và tệ hơn nữa là đánh thức Katie. Khi không thể chịu đựng hơn được nữa, cô vội vàng mặc quần áo và lái xe đến nhà mẹ.

Thật may là Grace đã dậy và đang ngồi uống cà- phê ở bàn ăn trong bếp.

Grace mở cửa sau cho con gái, và con Buttercup cũng vẫy đuôi mừng cô Maryellen bước vào bếp, nhìn mẹ và oà khóc nức nở.

"Maryellen! Chúa ơi có chuyện gì vậy con?".

"Không có gì cả ... Nhưng Katie đang ở với Jon".

Mẹ cô rót cho cô một tách cà- phê. "Ngồi xuống rồi hai mẹ con mình sẽ nói chuyện".

Maryellen cảm thấy mình thật ngốc nghếch và quá dễ xúc động. Nhưng tất cả mọi việc tồi tệ mà cô chưa từng mong đợi đều xảy ra. Yếu đuối thế này thật không giống cô chút nào. "Mẹ còn phải chuẩn bị đi làm nữa mà", cô nói trong khi vẫn thổn thức.

"Không sao, trong khi mẹ thay đồ con có thể kể cho mẹ nghe".

Nhẹ thấm nước mắt, Maryellen theo mẹ vào phòng ngủ. Cô chợt dừng lại khi bước qua cửa. "Mẹ sơn lại phòng này à?".

Grace gật đầu:

"Con có thích màu sơn mới này không?

Maryellen nhún vai. "Con cho là ... con không nghĩ màu sơn cũ có vấn đề gì cả".

"Đúng là màu sơn cũ không có vấn đề gì, nhưng nó khiên mẹ phải suy nghĩ và việc sơn lại căn phòng giúp mẹ thư giãn hơn".

Nghe những lời mẹ nói, Maryellen cảm thấy hình như cô đã quên mất nhưng khó khăn mà mẹ mình đang phải đối đầu. Mùa hè năm nay quả là một quãng thời gian khó khăn cho cả hai mẹ con. "Con có thể làm gì giúp mẹ được không?", cô hỏi khi ngồi xuống phía cuối chiếc giường của bố mẹ. Mẹ cô lấy ra một chiếc áo khoác và một chiếc áo len từ trong tủ.

Grace lắc đầu. "Mẹ không sao. Mà hơn nữa con đến đây vào giờ này không phải chỉ để nói với mẹ điều đó. Nào, kể cho mẹ nghe tại sao con lại bực bội như vậy?".

Maryellen không hề bực tức như mẹ nói, mà cô thấy lo lắng nhiều hơn. "Jon chưa từng chăm sóc Katie bao giờ ... và con sợ rằng con bé sẽ nhớ con. Lẽ ra con không nên để việc này xảy ra".

Mẹ cô chui đầu vào một chiếc áo choàng đen dài. "Đợi đến tám rưỡi và gọi cho nó", Grace khuyên. "Mẹ đoán là Jon cũng đang mong điện thoại của con đấy".

Maryellen hy vọng đúng là như vậy. Cô không muốn anh nghĩ rằng cô đang xâm phạm vào khoảng thời gian của anh và Katie, nhưng anh phải hiệu rằng việc phải xa con khó khăn với cô đến nhường nào.

"Thôi nào", Grace nói sau khi đã mặc quần áo xong. "Để mẹ trang điểm và chải tóc một chút rồi mẹ sẽ mời con ăn sáng trước khi đi làm nhé".

Maryellen lắc đầu từ chối. "Bây giờ con không thể ăn gì được".

"Con có thể", mẹ cô nhấn mạnh. "Chắc chắn là thế. Nào đi thôi, không phải ngày nào con cũng được mẹ đãi ăn sáng đâu. Ở Pancake Palace đang có chương trình ăn sáng đặc biệt. Con có thể ăn bao nhiêu bánh kếp tuỳ thích với giá chỉ một đô".

Mẹ nói đúng, Maryellen nhận ra điều đó. Cô cần phải ăn và cần một chút thư giãn.

Và khi cô rời khỏi Pancake Palace, cô đã cảm thấy khá hơn rất nhiều, mặc dù họ không có thời gian, nói chuyện với nhau vì phải chào hỏi rất nhiều người quen. Nhà hàng này quả nhiên rất phát đạt với công việc kinh doanh ăn sáng.

Hai mẹ con đã tình cờ gặp bà Charlotte Jefferson và các thành viên của Câu lạc bộ Thay khớp gối. Họ luôn họp mặt hàng tháng tại đây. Những người ngồi ở chiếc bàn dài đó đều đã phải trải qua phẫu thuật thay khớp gối. Charlotte giới thiệu họ với Ben Rhodes, một ông lão trông rất điển trai. Dường như hai người họ có một mối quan hệ thân thiết còn hơn cả bạn bè, ít nhất đó là theo đánh giá của Maryellen. Cô không ngừng phân vân liệu có một tình cảm lãng mạn sắp diễn ra giữa họ không. Nếu vậy thì thật hay biết bao.

Cô quay về nhà sau chín giờ và đi ngay đến cái điện thoại, cô đoán là giờ này Jon và Katie đã dậy rồi. Nhưng không có ai nghe máy, cô để lại lời nhắn và chán nản gác máy.

Mười giờ cô gọi lại. Vẫn không thấy ai nghe máy. Cô không chịu được khi không có tin tức gì như thế này, cô lập tức lái xe đến nhà Jon ở vùng phụ cận Olalla. Tim cô đập thình thịch khi cô đỗ xe và bước xuống.

Trước khi cô tiến đến cửa trước thì Jon đã mở cửa. Katie đang ở trong vòng tay anh, con bé tin tưởng tựa vào vai anh. Cô rất ngạc nhiên khi thấy con gái ngẩng đầu nhìn mình và ngó nghiêng xung quanh chứ không lập tức theo cô như cô đã tưởng.

"Maryellen", Jon nói và bước sang một bên. "Em vào nhà đi".

Ngôi nhà của anh đã gần được hoàn thiện. Lần cuối cùng cô đến công việc sửa sạng mới được một phần. Nhưng hôm nay cô nhìn thấy thảm đã được trải ở khu vực phòng khách - một tấm thảm Berber rất đáng yêu màu xanh nhạt pha xám, cánh cửa sổ gỗ sồi nhìn ra Puget Sound đã được đánh véc- ni bóng đẹp. Cô có thể nhìn thấy đảo Vashon từ phía xa, và cả dãy núi Rainier thật hùng vĩ thanh bình hiện ra phía sau hòn đảo. Phong cảnh ngoạn mục ấy khiến cô sững sờ.

Bây giờ khi Maryellen đã ở đây, cô thấy rõ rằng Jon có thể xoay xở tốt với con bé. "Anh ... tại sao anh không trả lời điện thoại", cô lắp bắp, "em ... em sợ có chuyện gì đã xảy ra".

"Em gọi sao?".

"Em đã gọi hai lần". Cô nhún vai. "Em lo quá, nhưng giờ em có thể thấy mọi việc đều rất ổn".

"Vậy chắc lúc đó anh ở trong phòng tắm", anh giải thích, "hoặc là ở ngoài ban công".

Bây giờ duờng như anh đã rất quen và thoải mái với Katie. Lúc anh đến đón con bé, anh còn nhấc nó lên một cách đầy vụng về, vậy mà bây giờ trông cách anh bể con đã rất thuần thục, đúng như là một ... người bố vậy.

Những lo lắng của Maryellen là thừa. Cô cảm thấy thật xấu hổ về việc muôn tới để giải cứu cho con gái, nhưng Jon lại tự xoay xở được mọi việc.

"Em có muốn thăm phòng của Katie không?", anh hỏi.

Maryellen gật đầu. Thật là ngớ ngẩn, lẽ ra cô phải kiểm tra tất cả những việc này trước khi trao con gái họ cho anh.

Jon đưa cô lên gác. Cô rất thích căn nhà này không chỉ vì vẻ đẹp và sự rộng rãi của nó, mà còn vì một lý do là hầu như mọi việc xây dựng đều do anh tự làm. Hình như không có gì là Jon Bowman không thành thạo cả.

Phòng ngủ của Jon ở tầng trên cùng, các cửa ra vào kiểu Pháp dẫn ra ban công đều mở. Cô có thể tưởng tượng anh ngồi đó ngắm ánh bình minh, ôm Katie và trò chuyện với con gái về cảnh vật bên ngoài.

Maryellen liếc vào phòng ngủ, cô bắt gặp giường ngủ của anh vẫn chưa dọn và thấy bức ảnh của cô được lồng khung trang trọng treo trên bức tường đối diện. Lần đầu tiên cô nhìn thấy là khi nó được trưng bày ở phòng tranh ở Seattle, nơi mà hầu hết các tác phẩm của anh đều bán ở đó. Bức ảnh này được chụp vào một buổi chiều sương mù khi cô đứng trên cầu tàu gần bến du thuyền; cô không hề biết anh đứng đằng sau ngắm mình. Cô quay lưng lại phía ống kính máy ảnh và tung bỏng ngô cho những con mòng biển. Bức ảnh trông rất thú vị và sinh động, màn sương mù của vịnh càng tô thêm vẻ bí ẩn cho bức ảnh.

Jon dường như hơi bối rối khi thấy cô để ý đến bức ảnh. "Đó là một trong những bức ảnh mà anh yêu thích", anh nói. "Em có phiền khi anh treo nó ở đây không?".

Điều lạ lùng là cô không hề có cảm giác khó chịu. Cô còn vui khi thấy anh giữ bức ảnh trong phòng, mặc dù cô không dám phân tích lý do sâu xa của cảm giác đó. "Em không thấy phiền đâu", cô nói.

"Vậy thì tốt". Anh nói và đưa cô xuống hành lang vào phòng của Katie.

Maryellen cảm thấy rõ một niềm hạnh phúc và vui suớng ngập tràn khi cô bước vào căn phòng dễ thương được dành cho bé. Jon đã vẽ một bức tranh sở thú trên tường. Hươu cao cổ, voi, ngựa vằn và khí hiện lên trong những tư thế hết sức sinh động.

"Anh đã tự làm việc này sao?", cô hỏi, không giấu nổi vẻ ngạc nhiên.

"Anh vẫn chưa hoàn thiện xong". Anh chỉ lên một chỗ đã được vẽ nhưng vẫn chưa sơn màu.

Tất cả đồ đạc đều mới. Anh đã mua một cái ghế đu và một cái cũi có màn che. Trong góc phòng là một chiếc ghế tập ăn cao mà chắc anh sẽ chuyển xuống bếp khi Katie đến tuổi dùng nó. Những lo lắng trước đây của Maryellen có vẻ thật nực cười.

"Tuyệt quá", cô nói với anh. "Em thật ngốc nghếch khi đã lo lắng và chạy đến đây như thế này". Cô không nhìn anh. "Em về đây".

Jon dang tay ngăn cô lại và nói. "Anh và Katie muốn em ở lại đây", anh nói với ánh mắt trìu mến như muôn níu giữ cô.

Maryellen mỉm cười với Jon, cục nghẹn trong cổ họng tan biến. Cô cũng rất muốn có một ngày trọn vẹn để ở bên Katie, và bên anh.

Chương 6

Vào buổi tối thứ ba, khi mặt trời phủ sắc vàng xuống vịnh, Grace bắt đầu rời thư viện. Grace đã gần như mất cả một ngày để hướng dẫn người trợ lý mới nên chị phải ở lại muộn để giải quyết nốt công việc giấy tờ của mình. Chị mệt đến gần kiệt sức. Và những lúc như thế này khiến chị thấy nhớ Dan nhất. Lúc này giá như được về nhà ăn bữa tối yên bình cùng Dan, và kể cho anh nghe những câu chuyện hàng ngày. Nhưng anh đã biến mất một năm trước đây, anh đã tan biến không để lại một lời nào, một dấu vết gì. Anh đã trốn trong một chiếc xe moóc lưu động và đi vào tận sâu trong rừng, nơi cuối cùng anh đã tự kết liễu đời mình. Ký ức của cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã khiến anh không bao giờ được thanh thản. Anh đã sống trong nỗi sợ hãi và cảm giác tội lỗi thường trực.

Sau khi tìm thấy thi thể Dan, Grace đã phải sống trong nỗi dằn vặt, cô đơn, tại sao mình không thể cảm nhận nỗi khổ tâm của chồng để có thể giúp anh, gần gũi với anh hơn. Nhưng cô cũng tự hỏi rằng nếu biết được những gì Dan đã phải chịu đựng thì liệu cô có đủ khả năng và sự kiên trì để giúp anh thoát khỏi nỗi ám ảnh cửa quá khứ hay không? Bởi quá khứ ấy khủng khiếp đến mức anh không thể chia sẻ được với ai, kể cả với Grace người vợ đầu gối tay ấp của anh.

Gần đây Grace đã cảm nhận một nỗi buồn và sự trung vắng mà chị không tài nào gạt bỏ được. Chồng đã mất, cả quãng đời còn lại chị sẽ phải sống một mình, và chị vẫn chưa quen với sự thiếu vắng này. Điều này khiến tâm trí chị luôn rối bời. Cuộc hôn nhân của họ chưa bao giờ thực sự cuồng nhiệt và hạnh phúc nhưng họ đã luôn cố gắng sống vui vẻ. Họ đã từng yêu nhau, đó là điều mà chị có thể chắc chắn. Chị đã sai khi nghĩ rằng mình có thể nhanh chóng bắt đầu một mối quan hệ mới. Chị đã cho rằng nỗi đau buồn này sẽ qua nhanh. Bây giờ thì chị lại tự hỏi liệu đến bao giờ nó mới chấm dứt. Điều mà giờ đây chị mong muốn là được trở lại cuộc sống trước khi Dan biến mất.

Mặc dù anh chưa bao giờ là một người chồng biết nói những lời yêu thương trìu mến, nhưng cả hai đều tìm thấy nguồn an ủi trong cách sống và cách chia sẻ những công việc gia đình. Cứ mỗi chiều anh lại lấy thư và báo. Còn chị thì nấu ăn. Tối đến họ cùng nhau ngồi xem tivi hoặc chuyện trò về những cô con gái hay về những điều nhỏ nhặt thường ngày - chuyện ở chỗ làm, những mối quan tâm trong gia đình, những mẩu tin địa phương. Mỗi tuần một lần chị đi tập aerobic với Olivia. Dan không thích chị đi nhưng cũng không bao giờ yêu cầu chị phải ở nhà. Anh hiểu tình bạn của chị và Olivia quan trọng như thế nào. Còn bây giờ những buổi tối trôi qua trong yên lặng. Cô đơn tràn ngập tâm hồn Grace. Bây giờ chỉ là người mang rác đi vứt, là người phải vật lộn với cái máy cắt cỏ để tỉa hàng rào, phải đọc phần chữ in nhỏ trong hợp đồng bảo hiểm xe hơi. Cô ghét tất cả những điều này.

Đi bộ đến bãi đậu xe đằng sau thư viện, chị cố gắng rũ bỏ nỗi phiền muộn và tự nhắc nhở mình - như chị vẫn thường làm - rằng cuộc sống của mình còn nhiều nguồn vui. Sau nhiều năm mong đợi, chị đã được lên chức bà lần thứ hai.

Các con gái của chị rất gần gũi với chị và trở nên thương yêu nhau. Chị có nhiều bạn tốt, đặc biệt là Olivia. Kinh tế của chị cũng đi vào ổn định, mặc dù không phải là một cuộc sống vương giả nhưng chị cũng kiếm đủ để không phụ thuộc vào ai. Chị đã có câu trả lời về việc mất tích của Dan, cho dù đó là một câu trả lời chị không mong đợi.

Mọi thứ với chị nhìn chung như vậy là tốt.

Con Buttercup mừng rỡ chào đón khi chị về đến nhà Hàng ngày cứ đến năm giờ rưỡi là con chó lại ra khỏi cửa riêng dành cho nó để đón chị. Nó đã được huấn luyện cẩn thận bởi người chủ trước và nó sẽ không rời chỗ của mình cho đến khi Grace về, cho dù là muộn như hôm nay. Chị lấy thư và báo trong ngày, rồi thì thầm xin lỗi và vỗ về Buttercup. Chị đọc lướt qua mục quảng cáo và các hoá đơn trong lúc đi vào nhà và chợt dừng bước khi bắt gặp một bức thư gửi cho chị từ Atlanta. Nhìn địa chỉ gửi chị nhận thấy đây là một bức thư đến từ Will Jefferson, anh trai của Olivia. Grace háo hức xé phong bì thư. Chị luôn rất quý Will.

Đứng ngay trên vỉa hè, chị đọc lướt qua lá thư dài một trang, được đánh máy ngay ngắn. Khi còn học trung học chị đã đứng từ xa ngưỡng mộ và thần tượng anh trai Olivia. Anh luôn khiến bao con tim của các nữ sinh trung học thổn thức và thời gian cũng không xoá mờ đi vẻ hấp dẫn đó. Chị mới gặp lại anh gần đây khi anh bay về nhà sau cuộc phẫu thuật của bà Charlotte. Grace thấy ngạc nhiên rằng cho đến tận bây giờ, sau ba mươi bẩy năm tốt nghiệp trung học, chị vẫn thấy anh thật hấp dẫn.

Đó là một lá thư chia buồn. Anh chia buồn về việc của Dan, và sơ qua về những thay đổi mà anh nhận thấy ở vịnh Cedar. Anh nói anh không chỉ coi đây là một chuyến viếng thăm, vì sau ngần ấy năm được trở về nhà thì đó thật là một cảm giác bình yên, dễ chịu. Anh còn nói rất vui vì đã được gặp lại chị. Kể từ khi quay lại Atlanta anh đã nói chuyện với vợ về việc nghỉ hưu trong vài năm tới và anh sẽ cân nhắc việc quay trở về sống ở vịnh Cedar.

Grace biết là Olivia và bà Charlotte sẽ rất sửng sốt khi biết ý định này của Will. Và rồi chị để ý thấy bên dưới chữ ký Will có ghi địa chỉ thư điện tử. Anh không yêu cầu chị viết lại nhưng đây chính là một lời mời để ngỏ.

Trên đường vào nhà, chị đọc lại lá thư của Will lần thứ hai, cố gắng đoán ra những ẩn ý của anh. Không có gì ngoài những câu hỏi thăm thông thường, những từ ngữ bộc lộ đồng cảm chân thành và một chút thông tin về kế hoạch cho tương lai của anh.

Chị cất lại lá thư vào trong phong bì, cho Buttercup ăn và sau đó bật tivi.

Những ngày gần đây chiếc tivi với chị không chỉ là để giải trí mà còn là một người bạn đồng cảm. Buổi tối hôm nay trở nên ấm áp lạ thường, chị lục tung đồ ăn trong tủ lạnh rồi quyết định sẽ ăn salat. Chị vừa bóc hai hộp sữa chua, vừa ngân nga hát.

Grace đột nhiên dừng lại và đứng thẳng người lên. Khi chị rời thư viện, chị đã cảm thấy tâm trạng mình thật u ám, nhưng bây giờ tâm trạng ấy đã biến đâu mất cả. Một cảm giác vui vẻ, hạnh phúc ngập tràn trong chị. Điều duy nhất có thể lý giải cho sự thay đổi đột ngột này là do lá thư của Will. Chị phân vân tự hỏi không hiểu mình có phải người dễ thay đổi, chỉ một lá thư từ một người bạn cũ - một người mà chị hằng ngưỡng mộ từ hồi trung học, lại có thể khiến tâm trạng mình biến đổi hoàn toàn như vậy sao?

Chị cũng không có thời gian để phân vân nhiều về điều này. Buttercup sủa vang và chạy ra cửa chỉ vài giây trước khi chuông cửa kịp reo.

Grace ra mở cửa và nhận thấy Olivia đang đứng bên ngoài.

"Cậu có thời gian nói chuyện không?". Olivia hỏi. Trông chị có phần bực bội điều này khiến Grace rất ngạc nhiên vì Olivia vốn rất điềm tỉnh.

"Tất nhiên rồi Olivia. Có chuyện gì vậy?".

Cô bạn giơ tay như thể hết hi vọng và không biết bắt đầu từ đâu. "Tớ không thể tin được".

"Tin được cái gì?".

"Đầu tiên thì Stan liên lạc với tớ và sau đó là đến Jack sau hàng tuần liền im hơi lặng tiếng. Điều này chỉ xảy ra trong vòng vài tiếng đồng hồ. Như thể hai người họ có rađa và biết được chính xác người kia đang làm gì".

Đây quả là một tin tuyệt vời vì Grace cũng đang rất quan tâm. "Jack à? Jack đã liên lạc với cậu à?". Chị ngồi lên ghế sô- pha.

Olivia gật đầu. "Người đàn ông này đúng là một con cáo".

"Jack à?". Grace bối rối hỏi. "Lần này anh ấy đã làm gì?".

Olivia ngồi phịch xuống ghế cạnh Grace. "Anh ấy gửi hoa đến nhà tớ. Bó hoa thật tuyệt vời và những bông hoa thì không chê vào đâu được. Chắc anh ấy đã phải tốn khá nhiều tiền cho chỗ hoa đó. Nhưng đó mới chỉ là bắt đầu thôi".

"Jack gửi hoa cho cậu à?". Grace kêu lên một cách ngạc nhiên đấy vui mừng. "Thế cậu đã làm gì?".

"Và mình đã gọi điện cám ơn anh ấy".

"Có thể coi đây là một hành động làm lành rồi". Grace nói. Chị luôn thích thú khi thấy bạn mình rõ ràng là đang yêu Jack, và bị bối rối bởi Jack. Chị rất muốn Olivia có thể xác định rõ ràng tình cảm của mình. Cũng trong thời gian này Stan đang có âm mưu làm Olivia phân tán, anh ta rất háo hức muốn đoạt lại trái tim Olivia và vì những cảm xúc đảo lộn như vậy nên rất có thể Olivia sẽ yếu lòng mà quay lại với anh ta.

Grace chỉ có một điều để nói về chồng cũ của Olivia:

vlệc tính toán của anh ta thật hoàn hảo. Vào đúng lúc Olivia đang có một mối quan hệ mới tốt đẹp thì bỗng dưng ở đâu xuất hiện một Stan biết ăn năn hối lỗi, hy vọng lôi kéo cô vợ cũ trở lại với mình.

"Cậu không thể tin được anh ấy đã nói gì với tớ đâu".

"Jack hay Stan?". Grace đang mất tập trung và không kịp theo dõi câu truyện.

"Cả hai". Olivia gần như hét lên.

"Vậy bắt đầu với Stan trước đi". Nếu Olivia thực sự cảm động trước việc được Jack tặng hoa thì Grace không còn phải lo lắng về việc chồng cũ của cô ấy đã làm những gì.

"Stan gọi điện và nói muốn đưa tớ đi ăn tối".

"Không phải vậy chứ". Grace nói vờ như kinh ngạc. "Cậu chỉ việc nhốt anh ta lại và vứt chìa khoá đi thôi".

Olivia nhìn Grace, mắt ánh lên vẻ giận dữ. "Cậu đang cố tình đùa tớ đấy à Grace Sherman?".

Grace cười. Chị không thể dừng được. "Chẳng có ai được tặng hoa hay được mời đi ăn lại tức giận cả. Chắc phải có lý do gì mới khiến cậu giận dữ đến vậy.

Có phải họ đang cố ganh đua với nhau à?". Điều đó có thể đúng. Và đây cũng chính là điều mà Olivia muốn, khi xảy ta chuyện hiểu lầm giữa cô và Jack.

Olivia bỏ hai cánh tay đang khoanh trước ngực và vuốt ve cái đầu mượt như nhung của con Buttercup. "Thực ra thì Stan là người đầu tiên tấn công tớ. Anh ta muốn tớ đi Seattle ăn tối cùng anh ta vào tôi thứ sáu".

Grace nhướn lông mày. "Tại sao lại là ở Seattle?".

"Anh ta phải dự một bữa tiệc chiêu đãi của công ty và không muốn xuất hiện một mình. Anh ta có một phòng ở khách sạn và ...".

"Một phòng à?".

Olivia đảo mắt. "Chắc anh ta nghĩ tớ quá ngây thơ không đoán biết được trong đầu anh ta đang nghĩ gì. Ồ, chắc chắn là phòng sẽ có hai giường, nhưng tớ đâu phải đứa trẻ lên ba và mình biết rất rõ Stanley Lockhart. Anh ta đang có một kế hoạch".

"Thế còn Jack thì sao?".

"Khi hoa được mang đến", Olivia nói mơ mộng. "Grace, sau hàng tuần dài như vậy, tớ phải nói thật rằng tớ đã rất vui khi nhận được chúng".

Grace cũng thích thú không kém. Mặc dù Jack đã để thời gian dài trôi qua một cách lãng phí ... "Vậy anh ấy viết gì trong tấm thiệp hoa?".

Olivia nhìn xuống sàn nhà. "Anh ấy chỉ ký tên thôi. Tất cả chỉ có vậy".

Thật là thông minh. "Nói cách khác, anh ấy chọn cách đi nước cờ đầu tiên, phần còn lại là do cậu đúng không?".

"Chính xác là như vậy".

"Và Cậu đã gọi cho anh ấy?".

Olivia gật đầu. "Tớ đã gọi và anh ấy nghe máy khi hồi chuông đầu tiên vừa reo, như thế anh ấy đã ngồi đó chỉ chờ tớ gọi đến. Lại được nói chuyện với anh ấy thật là một cảm giác tuyệt vời dễ chịu. Bọn tớ đã nói chyện vui vẻ như vậy cho đến khi ...".

"Cho đến khi có chuyện gì xảy ra?".

"Anh ấy mời tớ đi ăn tối cũng vào tối thứ sáu, tớ đã vô ý nói rằng mình chưa chắc chắn vì tớ cũng đã nhận được lời mời đi ăn tối trước đó".

Grace đồng ý rằng đây không phải một lời từ chối khôn ngoan, nhưng cô không bình luận.

"Jack mất hai giây để nhận ra rằng lời mời khác kia là của Stan. Thế là anh ấy tỏ thái độ khác rất với tớ và nói rằng anh ấy nhớ ra anh ấy cũng bận vào tối thứ sáu rồi. Anh ấy chúc tớ có một buổi tối vui vẻ với Stan, và cúp máy trước khi tớ kịp thanh minh".

Grace chỉ muốn rên lên.

Hai vai của Olivia chùng xuống. "Bây giờ thì cậu hiểu tại sao tớ lại bực mình như vậy đấy".

"Cậu sẽ không đi ăn tối cùng Stan chứ?". Grace hỏi lại chỉ để kiểm tra cho chắc chắn.

"Chắc là không". Olivia khẽ nói.

"Tối thứ sáu này tớ cũng rảnh. Chúng mình đi xem phim nhé?".

Olivia cười lớn. "Đống ý, bạn của tôi à. Chúng mình đâu cần đến những người đàn ông chứ phải không?".

Có lẽ, Grace quyết định, chị sẽ tìm cách kéo Jack Griffin cùng tới rạp chiếu phim vào tối thứ sáu. Hiển nhiên đôi lúc sự phát triển của một tình cảm lãng mạn cũng cần phải có bàn tay sắp đặt.

Rosie đã viết mẫu những từ mà học sinh lớp hai của cô phải chép lại lên bảng. Cô đặt mấu phấn thừa cạnh bảng và phủi bụi trên tay.

Chuông reo báo hiệu buổi học hôm nay đã kết thúc. "Đừng quên nhắc với bố mẹ các em là tối nay có buổi họp phụ huynh nhé" cô nói với các học sinh. Buổi họp phụ huynh là để giới thiệu giáo viên với phụ huynh học sinh, thường được tổ chức vào tuần thứ ba của tháng 9.

Bọn trẻ nhảy ra khỏi bàn, lấy cặp sách, ba lô và lao ra khỏi lớp học. Tất cả trừ Jolene Peyton. Cô bé với mái tóc dài sẫm màu được bện thành một bím tóc hôm nay có vẻ mặt buồn rầu, đáng thương. Cô bé chậm rãi đi về phía cửa lớp, đầu cúi gằm xuống.

"Jolene, cô có giúp gì được không?". Rosie nhẹ nhàng hỏi.

Mặt cô bé vẫn cúi gằm, mắt nhìn xuống đất. "Tối nay chỉ có bố em đến họp được thôi".

"Rất tuyệt. Cô rất muốn gặp bố em".

Jolene từ từ ngẩng đầu lên cho đến khi bắt gặp ánh mắt Rosie. "Mẹ em đã chết trong một tai nạn ôtô".

"Cô biết, và cô rất lấy làm tiếc". Trái tim cô như bị dao cứa khi nghe những lời nói của cô bé.

"Ngày nào bố và con cũng đặt hoa ở trên đường nơi mẹ mất".

Rosie cũng biết điều này. Khi đi qua đoạn đường cắt ngang đông đúc đó cô vẫn thường nhìn thấy hoa và bóng bay.

"Cô rất vui khi tối nay bố em sẽ đến tham dự buổi họp phụ huynh". Rosie nói.

Jolene gật đầu. "Bố nói đây là việc mẹ vẫn thường làm nếu mẹ còn sống".

Rosie ôm cô bé vào lòng. Thậm chí đến bây giờ là hai năm sau vụ tai nạn, Jolene vẫn rất nhớ mẹ.

"Em nói với bố rằng em cần có một người mẹ và bố nói bố sẽ nghĩ về điều đó". Cô bé thở dài. "Bố nói như vậy rất nhiều lần rồi".

Cô cũng vậy, Rosie nghĩ với một nụ cười nhẹ. "Mẹ sẽ nghĩ về điều đó", cũng là một câu quen thuộc trong vở kịch của các bà mẹ.

Buổi tối hôm đó khi lớp học đã chật cứng các vị phụ huynh, Rosie cố gắng tìm kiếm bố Jolene. Cô bé dẫn bố vào lớp học rồi chạy đi lấy bánh và nước hoa quả cho bố ở chiếc bàn được đặt phía trên lớp học.

Trong khi đợi con gái, Bruce Peyton đứng ở phía sau, không hoà vào với các phụ huynh khác. Trông anh rất điển trai nhưng vây quanh anh là sự u sầu xa xăm. Những sự kiện ở trường như buổi tối hôm nay là một sự nhắc nhở đau đớn với anh rằng anh đang cô đơn. Anh là một người có chiều cao trung bình và hơi gầy. Quần áo anh trông có vẻ hơi lùng thùng so với khổ người. Rosie cho rằng đây là kết quả của việc sút cân trong lúc phải suy nghĩ và đau đớn quá nhiều.

Đôi mắt của anh mang màu xanh sâu thẳm khiến cô không thể kiềm chế được việc liếc trộm về phía anh.

Đã rất nhiều năm, phải nói là hàng thập kỷ, Rosie không biết nhìn đến một người đàn ông nào ngoài chồng mình. Kỹ năng tán tỉnh của cô đã mòn đi do không được sử dụng dù cô tin rằng cô có thể học hỏi được điều đó từ Janice Lamond.

Khi Rosie rảnh rỗi hơn, cô tiến đến chỗ Bruce. Cô cười và chìa tay ra phía anh:

"Tôi là Rosie Cox, cô giáo của Jolene. Tôi chỉ muốn nói tôi rất tiếc khi biết chuyện của vợ anh".

"Cám ơn cô". Nụ cười thoảng qua trên môi người đàn ông goá vợ và anh nắm tay cô vài giây. "Tôi rất vui được biết cô".

"Cô Cox là một cô giáo rất tốt nhưng cô không phải cô giáo chính của con bố ạ". Jolene nói với bố một cách nghiêm túc.

"Tôi sẽ đảm nhiệm cho đến khi cô Gough bình phục sau cuộc phẫu thuật".

Rosie giải thích. "Đây là lần đầu tiên tôi quay lại lớp học sau vài năm nghỉ ở nhà. Tôi mới ly hôn". Nói ra những từ này khiến cô thấy như bị nghẹn. Và đúng như Rosie lo sợ, nước mắt cô tự nhiên tuôn trào và cô phải quay đi nơi khác để không làm cả hai bối rối.

Nhưng bằng ý chí mạnh mẽ, cô đã lấy lại được sự bình tĩnh. Trong khi cô nói chuyện với một vài phụ huynh khác thì Bruce nấn ná quanh đó; Jolene chỉ cho anh chỗ ngồi của mình và đưa anh đến khu vực vui chơi ở phía sau lớp học.

Đến tám giờ chỉ còn lác đác vài vị phụ huynh ở lại. Rosie mang cái bát to và khay bánh quy đã hết tới bếp ăn. Khi cô quay lại thì chỉ còn hai bố con Bruce và Jolene.

"Nếu Jolene cần phải học thêm môn đọc hay đánh vần thì cô cứ cho tôi biết nhé", anh nói.

"Tôi sẽ thông báo cho anh" Rosie khẳng định với anh. "Tôi rất vui vì đã được gặp anh".

"Tôi cũng vậy". Anh đưa tay ra cầm tay con gái và rồi ngập ngừng. Ánh mắt anh tìm kiếm ánh mắt cô. Tôi rất tiếc về việc ly hôn của cô".

Rosie nhìn xuống và gật đầu:

"Tôi ... tôi cũng vậy".

Và ngay sau đó anh rời khỏi lớp học. Một lần nữa Rosie lại thấy mắt mình nhoè nước.

Mọi chuyện với cô thật tồi tệ. Nhìn vẻ bên ngoài thì dường như mọi chuyện với Zach đều rất tốt. Khi Allison và Eđie ở với anh ta cả ba bố con đã cùng nhau nấu ăn và ba người đã rất vui vẻ. Nhưng những đêm cô ở với hai đứa trẻ thì mọi chuyện lại không như vậy. Allison và Eđie cãi nhau không ngớt và cô con gái đang độ tuổi dậy thì luôn thách thức Rosie bởi bất cứ chuyện gì dù rất nhỏ. Nó rõ ràng đã đứng về phía Zach trong vụ ly hôn này.

Rosie lê bước vào căn hộ mà cô và Zach thuê chung. Tối nay anh ở cùng bọn trẻ, Rosie nghi ngờ không biết Eđie có quấy nhiễu anh vào giờ đi ngủ không.

Những cơn tức giận như vậy thường được chúng để dành cho những đêm Rosie đến ở cùng chúng. Allison chắc đã tình nguyện rửa bát đĩa của bữa tối. Rosie thậm chí không dám nhờ con bé những việc nhà đơn giản nhất vì cô không muốn phải tranh cãi với con bé.

Bây giờ cô đã là một phụ nữ độc thân tự do rồi, Rosie nghĩ một cách mỉa mai. Cô là một phụ nữ đã ly hôn với hai đứa con muôn nói loạn. Không bao lâu nữa sẽ có hàng tá đàn ông đứng xếp hàng trước cửa để được hẹn hò với cô.

Chắc chắn sẽ như vậy!

Chương 7

Từng là một cảnh sát ở Seattle, Roy McAfee rất hiếm khi bỏ qua bất cứ một vụ việc nào cho dù nó có khó khăn đến đâu chăng nữa. Và điều này không thay đổi mặc dù bây giờ anh đã nghỉ hưu và sống ở vịnh Cedar, nơi anh mở văn phòng thám tử tư. Sự kiên quyết và gan góc của anh rất có ích cho công việc mới này. Anh thích công việc của mình, thích sự bận rộn đến tối mắt tối mũi với các vụ điều tra nối tiếp nhau. Và anh biết anh luôn làm tốt công việc của mình.

Với nhiều năm kinh nghiệm làm cảnh sát Roy, phát hiện ra rằng nếu anh cứ kiên trì cộng với một chút may mắn thì cuối cùng anh cũng sẽ tìm ra được điều mình cần. Tuy nhiên không phải lúc nào mọi việc cũng diễn ra theo chiều hướng như anh mong muốn.

Sự việc Dan Sherman mất tích là một ví dụ điển hình.

Grace đã đến gặp anh ngay sau khi chồng cô biến mất. Cô là một người phụ nữ mạnh mẽ. Là một thám tử tư, Roy đã từng được một vài bà vợ thuê để theo dõi và tìm ra câu trả lời cho những việc làm, hành vi của các ông chống. Anh đã hai lần bị yêu cầu theo dõi các ông chồng bỏ nhà đi lang thang. Có một vụ, khi anh vừa bắt tay vào điều tra được một tuần về ông chồng bị mất tích thì khách hàng của yêu cầu anh dừng lại. cô ta khẳng định rằng không có gã khốn đó cô ta thấy cuộc sống của mình tốt hơn rất nhiều. Và vì vậy cô chẳng cần biết lão ta đang ở chỗ quái quỷ nào nữa. Nếu thật sự lão ta đã đi với một mụ đàn bà khác, như cô nghi ngờ, thì cứ để người phụ nữ đó hứng chịu hắn.

Từ một số kinh nghiệm về tìm kiếm các ông chống mất tích, Roy cho rằng khách hàng đó đã có sự lựa chọn đúng đắn.

Điều làm anh ngạc nhiên là Grace Sherman liên lạc lại với anh. Người ta đã tìm thấy Dan, anh ta bị chết do một vết đạn tự bắn và đã được chôn cất. Roy cho rằng vụ việc đã là kết thúc. Grace đã có được câu trả lời. Nhưng có lẽ nó không phải câu trả lời mà cô mong muốn.

Anh nghe có tiếng mở cửa bên ngoài, anh liếc nhìn chiêc đồng hồ nhỏ trên bàn. Mười hai giờ hai lăm. Một phút sau Corrie, vợ của anh và cũng là cũng là trợ lí cho anh, bước vào văn phòng.

"Grace Sherman có cuộc hẹn lúc mười hai rưỡi. Chị ta đang đợi anh ở ngoài đấy".

Rồi Corrie đưa Grace vào phòng. Cô nhìn Roy và nhún vai muốn nói cô cũng không biết mục đích cuộc gặp này là gì.

"Mời chị ngồi". Roy nói và chỉ chiếc ghế phủ đối diện với bàn làm việc của anh.

"Chị uống một tách cà- phê nhé?". Corrie hỏi.

Grace từ chối, Corrie khép cửa đi ra ngoài để hai người trong phòng.

"Tôi có thể làm gì cho chị?". Roy bắt đầu câu chuyện. Anh ngả người ra sau ghế và đợi.

Grace giữ chiếc ví trên đùi, hai tay bồn chồn giữ chặt quai ví. "Tôi đến đây vì tôi cũng không biết phải đi đâu nữa", cô nói mắt dán xuống sàn nhà. "Việc này có liên quan đến Dan".

"Việc với Dan vẫn chưa kết thúc sao?".

Chị gật đầu. "Trước khi ấy tự tử, anh ấy có viết cho tôi một lá thư. Cảnh sát trưởng Davis đã đưa nó cho tôi". Cô mở ví. "Trong thư có một số thông tin mà tôi không biết phải làm gì".

Roy không nhớ gì về việc lá thư. "Thông tin gì vậy?".

Grace thò tay vào ví lấy ra một cái phong bì và đưa qua bàn cho Roy. "Tôi chưa đưa cho bất cứ ai đọc búc thư này, kể cả các con gái của tôi".

"Thế còn cảnh sát trưởng Davis thì sao?". Roy hỏi.

"Tôi ... tôi nghĩ ông ấy có đọc một phần nhưng sau đó ông ấy nhận ra đây là một bức thư hết sức riêng tư, và làm như vậy là có lỗi với Dan và tôi, nên ông ấy ...". Cô ngừng lại, sau đó lắc đầu. "Tôi không biết ông ấy đã đọc hay chưa".

Roy kéo bức thư ra khỏi phong bì. Chữ viết ở những dòng đầu rất đều và thẳng hàng như thể Dan đã cân nhắc từng từ từng chữ. Đến nửa trang sau chữ viết bắt đầu to và xiên xuống dưới. Phần cuối thư nơi Dan ký tên thì hầu như không đọc được.

Roy lật lại trang đầu tiên và bắt đầu đọc. Dan Sherman xin lỗi vợ mình vì đã quyết định tự tử và vì những gì cô phải chịu đựng trong cuộc hôn nhân của họ.

Sau đó Dan kể lại một việc xảy ra ở Việt Nam khi anh đi đến một ngôi làng.

Tại đó anh đã giết một phụ nữ và đứa con của cô ta. Sau đó là cá gia đình họ.

Anh đã tàn sát họ bằng những viên đạn, đã giết họ trong sự sợ hãi bản năng. Với sự liều lĩnh tuyệt vọng của một thanh niên trẻ sẵn sàng làm bất cứ việc gì để được sống sót và thoát khỏi cuộc chiến tranh, anh đã giết những người vô tội trong ngôi nhà đó. Rất nhiều người khác từng phải làm như vậy. Con số người chết trong ngôi làng ngày hôm đó vẫn là một câu hỏi không có đáp án.

"Sau khi đọc xong, Roy ngước nhìn lên và thấy Grace đang nhìn vào khoảng không xa xăm. Trông cô xanh xao nhưng rất bình tĩnh.

"Sau khi trở về từ cuộc chiến Dan đã không bao giờ còn được như trước", cô thì thầm bằng một giọng khàn khàn. "Bây giờ thì tôi đã biết tại sao".

"Chuyện đó đã xảy ra rất lâu rồi". Roy trấn an cô. Nỗi hối tiếc bóp nghẹt nơi ngực anh. Khi còn là một thanh niên mười chín tuổi anh cũng đến Việt Nam.

Thật may mắn là anh chưa bao giờ phải ở trong tình huống của Dan Sherman.

Dan không chỉ rõ số người bị chết, nhưng có vẻ như đó là một cuộc loạn đả.

Trong thư Dan viết. "Tiếng súng dường như không bao giờ ngừng". Anh đã sống với mặc cảm tội lỗi trong suốt ngần ấy năm. Roy nhớ mình đã đọc ở đâu đó rằng rất nhiều cựu chiến binh bước ra từ cuộc chiến tranh Việt Nam đã chết bằng chính bàn tay của họ những năm sau này, con số này cũng nhiều như con số những người mất tích trong chiến tranh. Có rất nhiều nguyên nhân đẩy họ tới con đường tự kết liễu cuộc đời mình, trong đó nguyên nhân từ mặc cảm tội lỗi như Dan chiếm một phần không nhỏ.

"Sự việc này đã được trình báo chưa?", anh hỏi.

"Trình báo?". Grace nhắc lại. "Đó là điều mà tôi đang nghĩ, nhưng tôi rất phân vân".

"Vậy chị muốn tôi phải làm gì?".

"Tôi muốn một lời khuyên từ anh. Tôi ... tôi không biết phải làm gì với những thông tin trong này". Cô quan sát anh, rõ ràng là hy vọng anh sẽ đưa ra phương hướng giải quyết. Nhưng anh cũng chẳng có cách nào.

"Tôi có nên nộp lại bức thư này cho quân đội và để họ giải quyết việc này không?", cô hỏi.

Anh không có câu trả lời và chỉ khẽ nhún vai.

"Hay là tôi đưa lại cho Cảnh sát trưởng Davis và phó mặc cho ông ấy?".

Giọng của cô bắt đầu mất bình tĩnh xen lẫn bối rối. "Hay là tôi có ý như thế này", cô gần như hét lên. "Có lẽ tôi nên vứt bức thư này đi vờ như chưa từng đọc nó. Hay tốt hơn là tôi nên huỷ nó đi".

Roy hiểu tình thế tiến thoái lưỡng nan của chị, anh thông cảm phản ứng thái quá của cô. Grace, tôi cũng không thể nói với chị phải làm thế nào được".

"Dan không muốn Maryellen hay Kelly biết chuyện này. Chúng vừa mới phải chôn cha mình. Thế là quá đủ. Tôi không muôn bắt chúng phải chịu đựng thêm chuyện này nữa".

Đay là một quyết định mà Grace tự đưa ra. Roy cũng đồng ý với quyết định này. Hai cô con gái của Grace sẽ chẳng giải quyết được gì mà chỉ thêm đau đớn.

"Chuyện xảy ra đã gần bốn mươi năm rồi. Đó là một quãng thời gian khủng khiếp trong lịch sử của đất nước chúng ta. Chúng ta đã phải hy sinh năm mươi nghìn người đàn ông ... Chúng ta không muốn chiến tranh dù đã qua rất lâu rồi mà vẫn bị mất thêm những người đàn ông khác nữa". Cô lắc đầu. "Anh ấy không nói có bao nhiêu người khác dính líu tới vụ này". Giọng của chị rất khẽ, và Roy phải căng tai ra mới nghe được. "Tôi muốn biết điều gì đã xảy ra với những người kia trong cuộc đi tuần đó. Làm thế nào họ có thể sống được với những gì họ đã gây ra. Cuộc sống của họ có phải cũng như địa ngục không?".

Giọng của cô thổn thức chất chứa những cảm xúc. "Đêm đêm họ có bị mộng du đi lại trong nhà như chồng tôi không. Trong lòng họ có bị dằn vặt, giằng xé không?". Mắt cô nhìn thẳng vào mắt Roy. "Roy, anh hãy nói xem tôi phải làm gì. Anh là người duy nhất mà tôi có thể hỏi. Anh là người duy nhất tôi tin có thể chỉ cho tôi lối đi đúng".

Roy nghiêng người về phía cô. Anh ước giá như có thể có được câu trả lời cho cô nhưng anh không thể. Nhìn những quầng thâm nơi mắt cô, anh hiểu cô đã bị dằn vặt như thế nào bởi trách nhiệm mà Dan đặt lên.

"Như thế anh ấy không chịu đựng được nữa và thế là anh ấy trút lên vai tôi".

Những lời cô nói khẳng định những suy nghĩ của anh là chính xác.

"Hàng tuần kể từ khi Dan được tìm thấy, tôi không ngủ được. Tôi cứ nghĩ là vì mình bị sốc, và mọi chuyện dần qua. Nhưng tôi đã lầm. Chứng mất ngủ vẫn hành hạ tôi".

Có nghĩa bây giờ chị là người hàng đêm đi lại trong nhà.

"Tôi vẫn luôn là người vui vẻ, vô tư nhưng gần đây ... gần đây tôi rất suy sụp".

"Chị đã đến gặp bác sỹ chưa?", anh hỏi.

"Vậy tôi phải nói thế nào với bác sỹ? Rằng chồng tôi là kẻ giết người hành loạt, là người vừa mới tự tử. Và rằng việc giết người xảy ra ba mươi sáu năm trong chiến tranh trước đây lại có nguy cơ sao?".

Roy thở dài. Chị ta cũng có cái đúng. "Như tôi đã nói rồi Grace à, tôi không thể khuyên chị nên làm gì".

"Nếu tôi quyết định huỷ bức thư này thì sao? Người duy nhất biết nội dung là anh và tôi" Cô nheo mắt có vẻ thách thức.

"Vậy thì chị cứ làm thế đi".

"Tôi đến đây không phải để nghe điều đó".

Anh nhận thấy sự tuyệt vọng trong giọng nói của cô, nhưng anh chẳng thể nói gì để giúp cô được.

"Tôi sẽ trả công cho anh để anh giúp tôi, hãy chỉ cho tôi biết tôi nên làm gì".

"Chị có muốn tôi tìm những người đàn ông kia không?", anh hỏi.

Grace nhún vai. "Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu nữa. Dan không bao giờ nói về những gì anh ấy phải trải qua trong chiến tranh, và không bao giờ nhắc đến tên của đồng đội".

Đột nhiên Roy không dám chắc liệu Grace có thực sự muốn biết sự thật không.

"Tôi có thể giúp chị tìm ra". Anh có mối quen biết với Bộ quốc phòng, và chỉ cần một hai cuộc điện thoại là có thể giải quyết được chuyện này.

Grace chần chừ, cô nhắm mắt và hít một hơi sâu. "Tôi sẽ suy nghĩ về việc này và báo cho anh sau".

"Được thôi". Roy biết rằng Grace muốn có một câu trả lời, nhưng chắc chắn cô không muốn một câu trả lời sẽ làm tan nát cuộc đời mình, và cuộc đời những người khác nữa. Anh sẽ đợi quyết định của cô.

Vào một buổi sáng khi Katie được sáu tuần tuổi, Maryellen tắm cho bé như mọi khi. Cô hạnh phúc ngắm con dang tay nghịch nước và cười ré lên với một niềm sung suớng vô biên. Katie trong khi nghịch đã làm bắn nước vào mặt mẹ.

Khi Maryellen mặc cho Katie bộ quần áo màu hồng nhạt, cô ngửi thấy hương thơm mùi kem và dầu gội đầu của bé. Sáu tuần trước đây, cuộc đời Maryellen đã hoàn toàn thay đổi. Con gái bé bỏng của cô đã cho cô mục đích sống và niềm hạnh phúc lớn lao, đó là món quà lớn nhất mà Chúa đã ban tặng cho cô.

Chuông cửa reo, Maryellen vác Katie lên vai, đi ra phòng khách để mở cửa.

Lá cây sồi đang ngả vàng theo từng cơn gió mùa thu và bắt đầu rụng xuông bãi cỏ.

Cô rất ngạc nhiên khi thấy Jon đứng trước cửa, trông anh có vẻ bồn chồn.

Ánh mắt anh hướng vào Katie và một nụ cười âu yêm nở trên môi.

"Anh vừa rửa thêm vài bức ảnh mới", anh thông báo. "Anh biết hôm nay không phải ngày của anh và Katie nhưng anh muốn cho em xem chúng".

"Không sao đâu, lúc nào anh cũng được chào đón mà". Maryellen choáng ngợp bởi số lượng ảnh mà Jon đã chụp cho con gái.

"Nói thật là anh cảm thấy nhớ Kate kinh khủng. Và anh cho rằng đây là một cái cớ để anh đến thăm con gái". Anh đưa ra một phong bì to. "Đổi cho em này".

Anh biết cô rất thích những bức ảnh anh chụp. "Đống ý", cô nói và trao Katie cho anh để lấy phong bì ảnh. Trong khi Maryellen ngồi ở một đầu ghế sôpha ngắm những bức ảnh mới nhất thì Jon đùa giỡn cùng con gái. Thật khó để mà tập trung được vào những bức ảnh khi mắt cô còn đang âu yếm nhìn hai bố con chơi với nhau. Để Jon đến đón Katie mỗi tuần hai lần chưa bao giờ là một việc dễ dàng với cô, nhưng cô không còn nghi ngờ gì về tình yêu của anh với con gái.

Khi cô xem lại tập ảnh, có một chiếc làm cô đặc biệt chú ý. Đó là bức ảnh được chụp vào buổi sáng hôm Maryellen đến nhà Jon. Cô đang ngồi cho con bú trên chiếc ghế xích đu trong căn phòng của Katie. Cô quay lưng lại phía cửa sổ, ánh sáng vây quanh cô. Bức tường vui nhộn mờ đi làm nền cho cô và Katie hiện lên rõ ràng và sông động. Bằng cách nào đó Jon đã lưu lại được sự âu yếm và tình yêu Maryellen dành cho con gái. Mọi chú ý của cô hoàn toàn tập trung vào Katie, nụ cười của cô cũng là dành riêng cho con gái của họ. Đó là một hình ảnh tiêu biểu, điển hình về tình mẫu tử, và nó gợi cô nhớ tới những bức họa của Botticelli và Rembrandt.

Cô nhớ lại buổi sáng hôm đó, Jon cầm máy ảnh và cô đã làm trò cho Katie cười để anh chụp, hết tấm này đến tấm khác, nhưng cô không ngờ anh lại chụp được một tấm như thế này.

"Em thích bức ảnh đó phải không?", anh nói và nhìn cô vẫn đang khi cô say mê ngắm nó.

"Làm sao anh chụp được một bức ảnh có hồn đến thế", cô nhẹ nhàng hỏi.

"Làm sao anh có thể biết được chính xác giây phút để nắm bắt được trái tim một người phụ nữ?".

Anh nhíu mày như thể anh không hiểu câu hỏi của cô. Maryellen cũng không dám chắc mình có thể lý giải được điều đó. Cô yêu con gái của mình. Yêu Katie nhiều tới mức đôi khi chỉ nhìn con bé cũng khiến tim cô ngừng đập trong giây lát. Và tình yêu đó được Jon tái hiện một cách hoàn hảo trong bức ảnh.

"Em vẫn nghĩ anh không chụp ảnh người", cô nói. "Tất nhiên là trừ Katie".

Nhưng cô chợt nhớ tới bức ảnh trong phòng ngủ của anh - bức ảnh mà anh đã chụp cô.

"Cả em nữa chứ". Jon hôn lên trán Katie. "Nhưng nếu điều đó làm em không vui thì anh sẽ không chụp nữa".

Đó không phải là điều cô muốn, nhưng Maryellen cũng không biết nên khuyến khích hay ngăn chặn việc Jon chụp ảnh mình. Anh đã khiến cho mọi việc trở nên phức tạp hơn.

"Em ... thích bức ảnh này Jon à. Em thực sự rất thích nó".

"Vậy thì nó là của em".

Cô không ngăn được những giọt lệ dâng đầy trong mắt, cô quay đi chỗ khác khi nước mắt lăn xuống hai gò má.

"Mareellen?".

"Gì vậy anh?".

"Tại sao em lại khóc?".

"Em cũng không biết nhưng tất cả là do lỗi của anh". Cô thốt ra những lời nói vội vã và có vẻ thiếu lôgíc cùng tiếng khóc nức nở.

Jon đứng dậy đặt Katie vào nôi. Anh bước tới bước lui vài lần rồi mới ngồi xuống bên cạnh Maryellen. Cô quay đi chỗ khác tránh không nhìn vào mắt anh để ngăn những giọt nước mắt tiếp tục tuôn trào. Một nỗi buồn vô cớ bỗng trào dâng. Đây là một cảm xúc ủy mị, nó xuất hiện trong thời gian cô sinh Katie, cô rất ghét khi không tự kiểm soát được bản thân như thế này.

Anh chạm vào vai cô nhẹ nhàng tới mức cô gần như không cảm nhận được.

"Nói cho anh nghe tại sao em lại khóc?", anh thì thầm vào tai cô.

"Không sao đâu", cô lẩm bẩm.

Anh chậm rãi đưa hai tay từ trên vai xuống cánh tay cô.

"Tại sao anh lại phải tốt với em như vậy?", cô nấc lên.

Tay anh dừng lại trên tay cô. "Vậy em muốn anh phải vô lý và cáu gắt với em sao?".

"Em đã đối xử rất tệ với anh. Em đã không cho anh biết là em có mang Katie, em đã cố ngăn sự xuất hiện của anh trong cuộc đời của con và tất cả ... tất cả những gì anh làm là kiên nhẫn và thật tốt với em.

"Em ghét anh vì điều đó".

"Ghét anh sao?". Anh quay vai cô lại và cô phải đối mặt với anh.

"Nhưng em không thể ghét anh. Em đã nghĩ em sẽ làm được nhưng em đã không thể".

Anh nhẹ nhàng vuốt ve gáy cô như thôi miên. Maryellen đã nhắm hờ mắt và quay lại phía anh. Jon lùa tay sâu vào mái tóc dài của cô và đưa môi cô sát vào môi anh.

"Sau những gì em làm với anh, lẽ ra anh phải căm ghét em mới phải", cô nói với anh.

"Anh không hề giận em, Maryellen ạ", anh thì thầm và hơi thở anh hoà cùng hơi thở của cô.

Môi cô hé mở, chờ đợi nụ hôn của anh. Đầu lưỡi của anh, ẩm ướt và ấm áp liếm nhẹ quanh môi cô, Maryellen nhẹ rên lên đầy khoái cảm và đam mê. Môi cô mở lớn hơn và miệng Jon bao bọc lấy cô. Những ngón tay anh nắm chặt lấy tóc cô và môi anh quấn lấy môi cô.

Maryellen cảm nhận được vị mặn của những giọt nước mắt và chợt nhận ra mình đang khóc trong khi được anh hôn cô. Cô thấy anh thì thầm gấp gáp trong hơi thở nhưng cô không hiểu được anh đang nói gì. Nhưng cho dù anh nói gì thì điều đó cũng không quan trọng bằng việc anh đang làm, và cách anh khiến cô cảm nhận được tình yêu của anh.

Tay ôm vòng qua người anh, cô tỳ mạnh vào cơ bắp săn chắc rắn rỏi của anh. Cả hai đều thở hổn hển, hai bờ vai họ nhấp nhô cùng với khao khát mãnh liệt.

Sức cuôn hút của sự đam mê khiến tâm trí cô như mê dại. Cô rên rỉ không biết việc này sẽ đưa họ đến đâu, nhưng cô không muốn dừng lại. Tay anh vuốt ve ngực cô, và cảm giác ham muốn bủa vây lấy cô. Môi anh vẫn mơn trớn trên môi cô, anh cởi áo ngoài rồi luồn tay ra sau tháo khuy áo ngực của cô, và cô thấy tay anh run run khi anh đưa ngón cái chạm vào núm vú căng cứng của cô.

Cô ngả đầu ra sau.

Chợt có tiếng khóc và Maryellen mở choàng mắt. "Katie", cô thì thầm.

"Katie đang khóc".

Jon ngừng lại. Trong giây lát họ tựa vào nhau, cố lấy lại trạng thái cân bằng.

"Chúng mình suýt nữa đã quên cả con", cô nói.

Jon khẽ cười. "Con, em muốn nói đến con của chúng ta phải không".

"Vâng, con của chúng ta".

Maryellen đứng dậy đi đến chỗ Katie lúc đó đang khóc ra trò. Bé đang hươ tay chân trong không khí và gào to như thể ngày tận thế của thế giới đang đến.

Maryellen hiểu rằng với một đứa trẻ, việc khiến chúng khóc to như vậy chỉ có thể là đã đến giờ ăn.

Maryellen kín đáo cài lại áo ngực và áo ngoài. Cô chợt nghĩ rằng thật là ngốc nghếch vì chỉ một phút nữa thôi cô sẽ lại cởi ra. "Anh có nghĩ rằng chúng mình đã làm hư con bé rồi không?", cô hỏi, hy vọng làm giảm đi sự say mê đến cuồng loạn vừa xảy ra giữa hai người.

"Với Katie thì anh không biết, nhưng anh biết những gì em vừa gây ra cho anh".

"Anh cảm thấy ... không thoải mái?", cô hỏi không biết làm cách nào để diễn đạt một cách tế nhị hơn. Ngay cả khi suy nghĩ của cô là tốt, cô vẫn khiến anh cảm thấy bị tổn thương, bị chối bỏ, về mặt thể chất hoặc tình cảm. Cô đoán anh đã phải chịu đựng những điều tương tự rất đau đớn trong quá khứ, và nó để lại những vết sẹo trong anh cho đến tận bây giờ. Tuy nhiên, cô cũng có khác gì anh đâu. Cô cũng có một quá khứ đau đớn và những phiền muộn không thể sẻ chia với bất cứ ai.

"Anh đã cảm thấy không thoải mái, ngay từ đêm đầu tiên mình hôn nhau".

Cô vẫn nhớ nụ hôn ấy. Vào đêm Halloween một năm trước đây. Anh đã đưa cô ra xe sau một bữa tiệc mà cô giới thiệu anh cho một người bạn. Cô đã cố gắng một cách đáng thương để gán anh cho một người bạn của cô nhằm gạt anh ra khỏi đầu mình. Và kế hoạch ấy đã thất bại thảm hại.

"Em phải cho Katie ăn", cô nói với anh. Cô có cảm giác hai chân loạng choạng khi cô vươn tay ra bế con gái và đặt con trong vòng tay mình. Cô ngồi xuống chiếc ghế xích đu cởi áo ngoài và áo ngực, để lộ bầu ngực cho Katie. Đôi môi nhỏ xinh của Katie ngay lập tức ngậm vào đầu vú mẹ.

"Anh nghĩ đã đến lúc anh về cho hai mẹ con ở bên nhau", Jon nói.

Cô gật đầu, không dám ngước lên để nhìn anh.

Jon chỉ đứng cách cô vài bước. "Anh để những bức ảnh lại đây cho em nhé".

"Cám ơn anh", cô thì thầm. Cô thấy thật khó tin rằng chỉ vừa mới đây thôi họ đã quấn lấy nhau trên sàn nhà, môi kề môi và vuốt ve nhau dường như không còn để ý gì đến xung quanh nữa. Cô cảm thấy bối rối và khó hiểu vì sự pha trộn giữa những cảm xúc của tình mẫu tử cũng như những ham muốn tình dục.

"Em hãy cứ giữ những bức ảnh em thích để vào cuốn nhật ký cho Katie, chủ nhật anh sẽ đến lấy những bức còn lại".

"Em cám ơn anh". Tất nhiên anh ấy sẽ quay lại để đón Katie. Cô ôm siết con vào lòng.

"Gặp lại em vào chủ nhật nhé".

"Katie và em sẽ đợi anh". Ánh mắt cô vẫn nhìn xuống Katie.

Cô nghe thấy tiếng bước chân anh đi về phía cửa. Anh mở cửa.

"Maryellen?".

Cô ngước lên nhìn anh và thấy trên môi anh một nụ cười gượng gạo. "Em có thể ghét anh bất cứ lúc nào em muốn".

Zach Cox ngó xuống đồng hồ. Tối nay theo lịch là ngày của anh dành cho Allison và Eđie, và anh cần phải rời khỏi văn phòng vào lúc năm giờ. Anh bực bội đóng tập hồ sơ lại và để sang một bên. Vào sáng mai anh sẽ phải hoàn thành việc tính toán thuế cho tập đoàn Tulips and Things Craft Stone. Đúng lúc anh chuẩn bị về, Janice Lamond xuất hiện ở ngay cửa.

"Ông Cox", cô nói với giọng dịu dàng. "Tôi không biết liệu ông có thể cùng tôi xem lại chứng từ thuế theo quý của gia đình Jackson được không?", ánh mắt cô như khẩn khoản.

Dường như đã thành thông lệ, cô thường yêu cầu anh giúp đỡ vào cuối giờ làm việc. Mọi tối khác Zach sẽ không khó khăn gì trong việc giúp cô kiểm tra lại các con số, nhưng những buổi tối đến với bọn trẻ thì thật sự là anh không có một phút nào dư ra.

"Có thể đợi đến sáng mai được không?", anh hỏi và đứng lên khỏi ghế.

Janice mặc một chiếc váy ngắn cao trên nửa đùi để lộ cặp chân dài thon thả.

Chiếc váy ngắn và bó hết cỡ. Anh chưa bao giờ để ý cách ăn mặc của Janice cho đến thời gian gần đây. Anh liếc ra phía ngoài văn phòng và nhận thấy những người phụ nữ khác làm trong một công ty kế toán ăn mặc kín đáo hơn rất nhiều.

"Tất nhiên là để đến mai cũng được", cô quả quyết. "Tôi quên là tối nay ông đến với bọn trẻ".

Anh gật đầu và với tay lấy chiếc cặp.

"Việc sắp xếp ở với bọn trẻ như vậy có ổn không ạ?". Janice bước tới bước lui trong văn phòng của anh.

"Mọi việc đều khá tốt". Thực tế thì việc này bất tiện không thể tuởng tượng được. Phân nửa thời gian của mình không biết anh sẽ ngủ ở đâu - trong căn hộ thuê hay ở ngôi nhà với bọn trẻ. Tuần trước anh đến mang theo quần áo nhưng quên không mang đồ lót. Bây giờ anh để một bộ sơ cua trong cốp xe. Tuy nhiên anh thấy không cần thiết phải kể cho Janice nghe những chuyện như thế này.

Khi chuẩn bị rời văn phòng, anh đặt một vài tờ báo kinh tế anh chưa có thời gian đọc vào trong chiếc cặp da. Đây là chiếc cặp Rosie tặng anh nhân dịp Giáng sinh ba năm trước, và kể từ đó ngày nào anh cũng dùng nó. Gần đây anh hầu như không có thời gian đọc sách báo nữa. Cũng không có thời gian chơi gôn, đi bộ hay tham gia những hoạt động mà anh từng ưa thích.

"Tôi sẽ không giữ ông ở lại nữa", Janice nói với sự miễn cưỡng rõ ràng.

"Gặp lại cô vào sáng mai nhé", anh nói và đóng chiếc cặp lại. "Và lúc đó tôi sẽ xem lại những con số này".

"Con số ạ?", cô nhắc lại. "À vâng chút nữa thì tôi quên mất".

Anh lấy chiếc áo vét từ một ngăn tủ nhỏ và xỏ tay vào áo. Janice vẫn nấn ná ở lại. Anh hỏi cô. "Còn gì nữa không?".

"Có khi nào ông thấy cô đơn không?", cô chớp hàng mi và vì lý do gì đấy nó khiến Zach liên tưởng đến những con nhện.

"Cô đơn à?" anh hỏi.

"Ý tôi muốn nói là sau khi ly hôn tôi đã từng có cảm giác cơ đơn. Đó quả là một khoảng thời gian khó khăn về mặt tình cảm, tôi muốn ông biết rằng tôi hiểu được điều đó. Nếu ông cần ai đó để nói chuyện, tôi sẽ là người hiểu được ông".

"Tôi sẽ ghi nhớ điều này". Zach không có ý định kết hợp công việc với tình cảm. Anh đã một lần sai lầm khi làm lu mờ ranh giới đó. Điều đó xảy ra hoàn toàn ngẫu nhiên - Janice đi ăn trưa cùng anh khi Rosie phải hoãn vào phút cuối.

Sau này khi anh nhận thấy Rosie ngày càng trở nên vô lý, anh đã nhờ Janice tìm cho anh một căn hộ với hy vọng có thể làm lay chuyển vợ mình, muốn cô ấy nhận ra những gì cô ấy đang làm. Nhưng cuối cùng, những cố gắng của anh đã thất bại. Rosie cho rằng anh thực sự muốn chuyển đi, và hình như đó cũng là điều cô muốn. Janice đã tìm cho anh một căn hộ và ranh giới giữa họ ngày càng mờ đi. Đặc biệt là khi anh nhận từ cô món quà mừng nhà mới. Sau đó, anh lại đưa hai mẹ con Janice đi ăn trưa.

Janice hỏi. "Tôi đang nghĩ liệu hôm nào đó chúng ta có thể đi ăn tối cùng nhau không. Tôi mời".

Đi ăn tối? Cô ấy mời? Không đời nào nữa. "Cám ơn cô đã mời nhưng tôi không cho rằng việc mọi người bắt gặp chúng ta đi cùng nhau ở bên ngoài văn phòng là một điều hay". Anh sẽ không để cho Rosie có cơ hội hay lý do gì để ném những lời buộc tội vào mặt anh như vậy nữa. Thật không may là việc họ di chuyển lại tới căn nhà với bọn trẻ khiến cho việc đối mặt nhau là không tránh khỏi. Zach không thấy vui vẻ một chút nào và anh cho rằng Rosie cũng vậy.

"Vậy để đến một lúc nào khác vậy". Janice nói đầy hy vọng.

"Có lẽ vậy". Zach cũng đồng ý, nhưng anh sẽ không để điều này xảy ra.

Cách đây mấy tháng Rosie đã một mực cho rằng Zach và Janice lén lút đi lại với nhau. Rosie đã thật nực cười và không chịu tin khi anh nói giữa hai người không có chuyện gì. Đến bây giờ anh phân vân không biết có phải Janice đang theo đuổi anh không. Anh ghét ý nghĩ rằng anh đang trở thành một trò cười. Và nếu đúng như vậy thì đó chính là những gì Rosie muốn. Cô là người đã quy chụp kết luận mọi việc một cách nhanh chóng, cô háo hức muốn bắt lỗi anh - sẵn sàng bỏ anh cho Janice. Rosie đã cư xử như một mụ đàn bà đanh đá ghen tuông vô lý. Điều này khiến anh bực tức đến phát điên. Không phải anh đang trách Janice vì sự đổ vỡ trong cuộc hôn nhân của mình, bởi thực tế cuộc hôn nhân đó đã có những trục trặc từ lâu trước khi có sự xuất hiện của cô.

Anh cau mày bước ra khỏi văn phòng, Zach không để cho đầu óc mình bận tâm về mặc cảm tội lỗi và những lời trách móc nữa. Cuộc hôn nhân của anh đã chết, nên nhắc lại những câu chuyện đã qua giữa anh và Rosie cũng chẳng có ích gì.

Mười lăm phút sau, Zach đã lái xe vào gara ở số nhà 311 đường Pelican, ngôi nhà được xây theo thiết kế riêng của anh. Anh và Rosie đã miệt mài với bản thiết kế này hàng tháng trời trước khi đi đến được thông nhất. Cho dù cảm thấy bất tiện khi phải di chuyển hàng tuần như thế này, anh vẫn thấy biết ơn phán quyết trái với thông lệ của bà thẩm phán, vì điều này đồng nghĩa với việc anh không phải hoàn toàn từ bỏ nơi ở mà anh yêu thích.

Zach rất ngạc nhiên vì căn nhà hoàn toàn yên tĩnh khi anh bước vào cửa bếp.

"Các con đâu rồi?", anh đặt chiếc cặp lên quầy bar dưới bếp và cất tiếng hỏi.

"Con đây bố ơi", tiếng Eđie hét to vang lên từ phòng khách lớn. Nó đang nằm sấp trước cái tivi, tay thuần thục bấm bộ điều khiển trò chơi điện tử. Chị Allison có bạn đến chơi trong phòng ngủ". Nó nói và ngẩng đầu nhìn Zach.

"Bạn trai bố ạ".

"Gì cơ?". Câu nói giận dữ đột ngột phát ra từ miệng Zach trước khi anh có thể dừng lại. Anh phải làm rõ chuyện này. Allison đã biết các quy tắc trong nhà, và quy tắc số một là không được đưa bạn đến chơi khi bố mẹ không có nhà. Đặc biệt không được phép đưa bất cứ cậu con trai nào vào phòng. Không bao giờ.

Eđie hất đầu chỉ lên phía hành lang. "Bố cứ lên mà kiểm tra".

Zach không đợi đến câu thứ hai. Anh gần như lao thẳng lên phòng con gái.

Anh đập mạnh vào cánh cửa phòng đang đóng và hất tung cửa ra. Con gái anh đang ngồi trên mép giường, hai tay ôm lấy cổ một cậu con trai gầy gò với mái tóc dài xoã xượi dường như đã lâu chưa được gội. Cậu bé mặc một áo khoác da màu đen và đi đôi bốt cao cổ lên đến tận đầu gối, cổ thì đeo một sợi dây da kỳ quặc.

"Bố". Allison mở to mắt. "Bố đang làm gì ở đây?".

"Bố ở đây ba ngày trong tuần. Thế còn ai đây?". Anh nhíu mắt nhìn cậu bé mặt đầy mụn.

"Đây là Ryan. Ryan, đây là bố em".

"Ryan", Zach nói và chìa tay, anh bắt tay cậu bé và lắc thật mạnh theo chiều thẳng đứng. "Rất vui đuợc gặp cậu" Và không kịp thở anh nói tiếp:

"Tuy nhiên chúng tôi có một số quy tắc trong nhà, trong đó có một quy tắc là con gái tôi sẽ không đưa bất cứ cậu con trai nào lên phòng ngủ" Anh nhìn chăm chú cậu bé và cậu bé cũng chớp mắt nhìn anh với vẻ mặt xanh xao.

"Bố". Allison hét lên.

Zach không thèm để ý đến con bé. "Nếu cậu còn muốn gặp lại con gái tôi thì cậu nên tôn trọng những quy tắc của tôi. Vậy là chúng ta hiểu nhau rồi đúng không Ryan?", anh hỏi thẳng thắn.

Ryan gật đầu.

"Tốt". Anh chìa tay ra phía cậu bé. "Tạm biệt Ryan. Tôi cho rằng cậu vẫn nhớ lối ra cửa đúng không?".

Ryan đi thẳng ra khỏi phòng ngủ.

Allison cũng đang hết sức bực tức, cô bé như nổ tung với cơn giận dữ của mình. "Sao bố dám xử sự như vậy?".

"À bố dám đấy Allison ạ, và bố còn dám làm nhiều điều khác nữa đấy. Con nghĩ con đang làm cái quái quỷ gì khi đưa một cậu con trai về nhà trong khi bố mẹ vắng mặt?".

"Con đã là người lớn".

Zach suýt nữa thì phá lên cười. "Khi nào con sống tự lập, tự chi trả các chi phí thì chúng ta sẽ xem xét lại vấn đế này. Còn bây giờ, con đang sống trong nhà của bố. Anh chợt ngừng lại vi nói chính xác đây không phải là nhà của anh.

Nó là tài sản chung của anh và Rosie và của cả bọn trẻ.

"Con có thể mời bất cứ ai con muốn vào phòng".

Zach nhìn trừng trừng con bé. "Đừng có làm thế con gái bé bỏng ạ".

"Con gái bé bỏng?". Anh có thể nhìn thấy sự phẫn nộ từ đôi mắt cô bé và hai má nó đỏ lựng lên khi nó chống hai nắm đấm ở hai bên sườn.

Zach có thể thấy cuộc tranh luận này nằm ngoài tầm kiểm soát của anh. Cả hai bố con đều đang hết sức giận dữ. Vì vậy cả hai đều cần phải bình tĩnh lại, anh hít thở một hơi thật sâu. "Chúng ta sẽ nói về chuyện này sau bữa tối". Anh quay lưng lại và rời khỏi phòng, chỉ vài giây sau anh nghe thấy tiếng đóng sầm cửa sau lưng.

Khi quay lại bếp, Zach vẫn còn đang run lên vì giận dữ. Anh cố hít thở thật sâu để lấy lại bình tĩnh và bắt con tim quay lại nhịp đập bình thường.

"Hôm nay chúng mình ăn tôi món gì vậy bố?", Eđie hỏi và theo anh vào bếp.

"Xúc xích nhé". Zach nói. Món này thật tiện lợi, nhanh chóng và anh cũng chẳng còn tâm trí nào để làm món thịt hầm. Anh phát hiện ra rằng anh rất có năng khiếu trong việc trộn một vài nguyên liệu với nhau. Tuy nhiên cũng có lúc anh thất bại - điển hình là với món thịt gà tây xay nướng lẫn với đậu và cơm.

Eđie dường như không mấy quan tâm đến việc phải ăn gì. Trong hai đứa thì Allison kén cá chọn canh hơn.

"Tối qua chúng con ăn xúc xích rồi".

"Thế bây giờ các con thích ăn gì?", anh hỏi.

Không một chút do dự Eđie nói:

"Mỳ Ý".

"Được thôi". Anh mở ngăn làm đông của tủ lạnh để tìm hăm- bơ- gơ và nhận thấy là không còn gì. Tuần này là tuần anh phải mua thực phẩm, lẽ ra anh phải đi mua trước khi đến đây. Và điều này có thể giải thích tại sao Allison và Ryan lại ở trong phòng con bé. Con bé nghĩ anh sẽ đến muộn hơn bình thường, nhưng anh lại quên đến lượt mình phải đi mua sắm.

"Ryan đã đến đây lần nào chưa?", anh hỏi. Anh ghét việc phải sử dụng Eđie làm gián điệp nhưng anh bắt đầu nghĩ đến khả năng Ryan có thế là một vị khách thường xuyên. Nếu quả đúng như vậy thì đã đến lúc chấm dứt chuyện này?

Eđie liếc mắt qua vai anh và gật đầu.

"Thế mẹ con có biết không?".

Eđie lắc đầu. "Không ai biết cho đến tận hôm nay".

Zach vỗ vai cậu con trai. "Con có thích macaroni và pho mát không?".

Eđie nhún vai. "Có thật là bố sẽ nấu được không hay lại là đồ ăn sẵn?".

"Để xem chúng ta còn gì nào?". Zach hỏi và kiểm tra lại một loạt các ngăn tủ. Anh cần món gì đó dễ chế biến để có thời gian suy nghĩ xem sẽ làm gì với Allison. Rõ ràng anh sẽ phải nói chuyện với con bé, và cho dù anh sợ ý tưởng phải gọi điện cho Rosie, nhưng có lẽ anh sẽ phải hỏi ý kiến của cô trước khi bắt đầu một cuộc tranh luận lớn như thế này.

"Chúng ta có pho mát sợi Mozzarella". Eđie nói trong khi ngó ngiêng tủ lạnh. "Loại này là tốt nhất vì nó sẽ dễ dàng quyện với sợi mỳ ống".

"Vậy là xong". Zach nói.

Eđie lấy pho mát trong hộp ra và để trên mặt bếp. "Bố không định bắt chúng con ăn đậu xanh cùng với món này chứ? Mẹ thì có đấy. Mẹ lúc nào cũng nói rau và hoa quả tươi có lợi cho sức khoẻ. Nhưng chúng thật kinh khủng. Mẹ còn không cho chúng con gọi pizza nữa".

Zach cười mệt mỏi. "Chỉ lần này thôi nhé". Eđie tỏ ra rất biết ơn.

"Bố nghĩ bố phải gọi cho mẹ con". Zach nói và đặt một tô nước vào trong lò.

"Mẹ không có nhà đâu bố ạ".

Đứa con trai của anh quả là một kho thông tin. "Mẹ không có nhà sao?".

Eđie cười rạng rỡ:

"Hôm nay mẹ có hẹn rồi".

Rosie có hẹn? Nếu vậy anh muốn biết cô ấy hẹn với ai. Không ai nói gì với anh về việc này. "Có hẹn ở trường vào buổi tối sao?".

Eđie gật đầu. "Đó là những gì mà mẹ nói tối qua. Bố ơi con có mấy bài toán về nhà chưa làm được. Bố giúp con nhé".

"Tất nhiên là được chứ", anh nói một cách lơ đễnh. Thật là hay. Hay quá.

Zach đang cố tìm thứ gì đó có thể ăn được cho bọn trẻ. Anh là người đang phải giải quyết với sự nổi loạn của con gái. Eđie thì cần anh giúp làm bài tập về nhà. Và vợ cũ của anh thì đang vui thú ở thị trấn cùng với người yêu mới của cô ấy. Có cái gì đó hoàn toàn không ổn trong tất cả những chuyện này.

Chương 8

Đó là một sáng chủ nhật đẹp trời, những cơn gió dữ dội của tháng mười khiến lá vàng rụng đầy quanh khu bến cảng và khu phiên chợ nhà Nông Dân của vịnh Cedar. Grace và Olivia đi lang thang dọc theo những quầy hàng trong lễ hội.

"Vậy mấy giờ cậu muốn đi xem phim?", Olivia hỏi "Tớ nghĩ để hôm khác nhé". Grace nói một cách lãnh đạm.

"Trời". Olivia không khỏi thất vọng. "Thế là sao?".

Grace đột nhiên trở nên bối rối. "Vì chúa, hãy đi xem phim một mình mà không có tớ".

Olivia biết Grace đang giấu mình một bí mật. Bạn của cô đang có kế hoạch gì đó mà Olivia chắc chắn sẽ không thích. Chị dừng lại ở một quầy hàng mua một ổ bánh mỳ nho khô và nhét vào chiếc túi cói to của mình.

"Thôi được, thôi được, tớ sẽ nói với cậu". Grace nói như thể chị bị tra tấn buộc phải nói ra sự thật.

Olivia thậm chí còn không muôn chỉ ra rằng chị cũng không cần hỏi.

"Nếu cậu đi, Jack cũng sẽ đến rạp chiếu phim để gặp cậu".

Điều này làm Olivia chú ý. "Jack à?".

"Ừ Jack. Vẫn nhớ Jack chứ? Anh ấy gọi cho tớ và nhờ tớ sắp xếp".

Thật là hết sức nực cười. Jack gọi điện cho bạn thân của chị chứ không phải là chị.

"Cậu còn nhớ tháng trước khi cậu từ chối lời mời ăn tối ở Seattle của Stan chứ?".

Olivia không thể quên. Việc chị từ chối lời mời ăn tối ấy đã gây ra một vết nứt giữa chị và Stan. Nhưng chị không quan tâm nhiều đến mối quan hệ với chồng cũ nhiều như mối bất hoà với Jack.

"Jack lẽ ra phải gặp chúng ta ở rạp chiếu phim vào tối thứ sáu tháng trước để xem phim cùng, nhưng đến phút cuối cùng anh ấy không đến được".

"Có chuyện gì ở đây vậy?". Olivia hỏi mặc dù chị không thực sự cảm thấy bực bội. Rõ ràng là về lĩnh vực tình cảm, đặc biệt là trong việc làm lành với Jack, chị cần sự trợ giúp. Bạn của chị cũng không phải một chuyên gia. Grace cũng có những khó khăn riêng, nhưng vì không phải sự can thiệp nào cũng là tốt nên Grace đã không thể giúp được gì cho bạn.

"Jack làm về mảng các trận bóng vào tối thứ sáu", Grace nhắc lại với chị.

"Anh ấy đã nhờ Gordie đi thay để đi xem phim với bọn mình nhưng có chuyện gì đó xảy ra nên anh ấy lại không đi được nữa".

Họ vẫn tiếp tục đi tản bộ qua khu chợ, cảm thấy thèm chảy nước miếng khi ngửi thấy mùi vị hấp dẫn của bỏng ngô trong gió. "Jack rất thất vọng và buồn vì việc đó". Grace thở dài. "Kể từ khi đó anh ấy cứ khiến tớ phát điên, anh ấy muốn tớ lập tức phải sắp xếp một buổi xem phim khác, nhưng để trùng được lịch của tớ, cậu và anh ấy thì thật là điên đầu. Và tớ thấy rằng tớ phải nói với cậu".

"Và đã đến lúc mình và anh ấy phải tự giải quyết việc này đúng không?".

Olivia nói, cũng rất hăm hở được dàn xếp những mâu thuẫn với Jack. Họ đã giận nhau hàng tháng trời và để thời gian trôi đi quá lâu. Chị không hiểu tại sao anh ấy không chịu gọi cho chị, hình như ... đàn ông luôn làm cho mọi việc có vẻ khó khăn phức tạp hơn thì phải.

"Chính xác là như vậy". Grace nhấn mạnh. "Tại sao cả hai lại ương ngạnh và cứng đầu như vậy. Đã đến lúc phải thay đổi rồi đấy".

Olivia không tin vào tai mình nữa. Grace đây sao? Grace chưa bao giờ ra lệnh cho ai bao giờ. Chắc chắn cô ấy cũng đã trở nên mạnh mẽ và có những suy nghĩ tích cực hơn, sau tất cả những sự kiện đau thương vừa dồn dập xảy ra.

Olivia thấy mừng cho bạn.

Gió cuốn lá khô bay tung lên không trung và những đám mây xám nặng nề đã bắt đầu kéo đến che phủ bầu trời. Chẳng mấy chốc nữa trời sẽ mưa, Olivia nhẩm đoán.

"Cậu sẽ đi chứ?".

"Làm sao anh ấy biết tớ sẽ xem phim nào?". Olivia thậm chí còn chưa quyết định sẽ chọn bộ phim gì.

"Jack là một người đàn ông thông minh, anh ấy sẽ biết phải làm gì".

"Nếu anh ấy thông minh, anh ấy đã ...".

"Olivia, cậu định tranh luận với tớ hay chấp nhận nghe những lời khuyên chân thành và làm theo những gì tớ nói?".

Trước khi trả lời, Olivia hỏi lại Grace. "Thế chuyện giũa cậu và Cliff thế nào rồi?".

Grace lại thở dài. "Cũng không có gì mới. Sau khi thi thể Dan được tìm thấy, tớ có nói với Cliff là tớ cần có thời gian để quên đi nỗi đau về cái chết của Dan và anh ấy hoàn toàn thông cảm".

Olivia gật đầu, đó là những gì chị đã biết. "Gần đây cậu không gặp anh ấy phải không?".

"Tuần nào bọn tớ cũng nói chuyện. Dịp này Cliff cũng khá bận rộn vì anh ấy đang xây thêm một cái chuồng ngựa".

"Tại sao vậy? Anh ấy có ý định mở rộng khu nuôi ngựa à?".

"Ừ. Anh có dự định phát triển đàn ngựa và anh ấy cũng đang tăng thêm số lượng trong đàn. Thứ bẩy tuần trước khi bọn tớ nói chuyện, anh ấy có nói rằng anh ấy đang nghĩ đến việc thuê một người làm công cả ngày" Chị hào hứng nói rồi đột ngột dừng lại vì nhận ra mánh khoé của bạn mình. Olivia muốn biết Grace có còn quan tâm nhiều đến Cliff nữa không? Chị quay lại và nhìn chằm chằm Olivia. "Thế nào? Cậu có định đi xem phim một mình vào chiều nay để gặp Jack hay không?".

Olivia nhún vai.

Grace bật cười:

"Cậu sẽ đi, cứ nhìn nụ cười trên mặt cậu là tớ biết cậu cũng không thể đợi thêm được đâu".

Sự thật là như vậy. Olivia không chắc liệu Jack có biết chị định xem bộ phim nào không, nhưng như Grace đã nói thì anh ấy sẽ tự tìm ra chị.

Nhưng Grace, thì biết rất rõ những gì chị đã nói. Chưa đầy năm phút sau khi Olivia chọn được ghế ngồi, nhai bỏng ngô và đợi bộ phim bắt đầu thì Jack Griffin bước vào rạp. Trông Jack vẫn y như lần cuối cùng chị gặp anh. Anh mặc một chiếc áo choàng dài sẫm màu bên ngoài chiếc quần màu be và áo len chui đầu cao cổ màu đen. Anh đi ngang qua chị và như thể không nhìn thấy, anh chọn chỗ ngồi trước chị ba hàng ghế.

Nếu anh ấy nghĩ mình sẽ bắt chuyện trước thì còn lâu. Olivia thầm nghĩ.

Nhưng chợt như tình cờ bỏ quên thứ gì, Jack đứng dậy và đi ra phía cửa. Anh bước hai bước lên lối đi ở giữa và tỏ ra kinh ngạc khi nhìn thấy chị.

"Nếu tôi không nhầm thì đây là thẩm phán Lockhart".

"Jack Griffin. Thật là một sự ngạc nhiên thú vị" Chị cũng đóng kịch theo anh, mặt đỏ lên vì ngượng. Thật là hết sức thú vị khi gặp lại anh, bởi ngay khi nhìn thấy anh, chị chợt nhận ra mình nhớ anh đến nhường nào. Thậm chí nhớ hơn sự tưởng tượng của chị.

"Điều gì đưa em đến rạp chiếu phim một mình trong một buổi chiều thứ bẩy như thế này?", anh hỏi và giả bộ như chưa hề biết lý do.

Olivia quyết định nói sự thật. "Anh vẫn chưa biết thật sao?". Chị nhìn anh cười ngượng ngùng. "Em đến đây vì anh".

"Vì anh?". Anh nhìn chị bằng một ánh mắt ngạc nhiên đầy chiến thắng.

"Grace nói với em là anh sẽ đến đây". Olivia thú nhận.

Jack thở gấp. "Grace cũng nói với anh là em sẽ ở đây".

Trong rạp chiếu phim bắt đầu tắt đèn và Jack tiến về phía chị. "Em có phiền nếu anh ngồi cạnh em không?".

"Em rất vui lòng".

Và không đợi chị nói đến lần thứ hai, anh gần như nhảy qua đến chỗ chị để được ngồi vào chiếc ghế bên cạnh. Ngay khi vừa ổn định chỗ ngồi, anh với tay sang phía chị bốc một nắm bỏng ngô.

Olivia vờ đánh vào cổ tay anh. "Hãy đợi đến khi em mời chứ".

Jack giả bộ xuýt xoa vì bị đau, và khi túi bỏng ngô được chìa về phía anh, anh lập tức thò tay vào. "Đằng nào em cũng không thể ăn một mình hết chỗ bỏng ngô này được mà".

"Được chứ".

Anh khẽ cười khúc khích. "Lúc nào em cũng hách dịch như vậy sao?".

"Đúng vậy, và nếu đến giờ anh vẫn chưa biết điều ấy thì do anh đã không chịu để ý".

"Nếu anh không nhầm thì đây là lớp học hóa trang. Vậy mà sao em lại có thể biến hóa nhanh thế nhỉ?", anh hỏi và lùi người xuống ghế.

Olivia cười. "Có thế lắm chứ".

Jack với tay bốc một nắm bỏng ngô nữa. "Anh đã rất nhớ em".

Cổ họng chị như nghẹn lại. "Em cũng rất nhớ anh".

Người phụ nữ ngồi xế trước họ quay xuống. Môi cô ta cong lên vẻ như bị quấy rầy:

"Tôi không muốn xen vào cuộc sum họp của anh chị nhưng tôi muốn xem phim".

"Xin lỗi". Olivia thì thầm, chị cảm thấy xấu hổ vì có người bảo chị phải im lặng trong rạp chiếu phim. Chị hy vọng ánh đèn trong rạp không đủ sáng để ai đó có thể nhận ra mình.

Jack ngồi thẳng dậy và vươn người lên phía sau ghế của người phụ nữ vừa phàn nàn. "Tất cả đều do lỗi của Olivia", anh nói. "Cô biết không? Đã hơn bốn tháng rồi chúng tôi chưa gặp nhau và ...".

"Jack". Olivia kéo tay áo choàng của anh. "Em nghĩ cô ấy không cần phải biết chi tiết những hiểu lầm của chúng ta".

Jack tiếp tục trò chuyện cứ như người phụ nữ này là một người bạn lâu năm không gặp vậy. Olivia lùi dần ra sau ghế.

Sau vài phút, khi cuộc nói chuyện kết thúc, Jack quay lại giới thiệu:

"Marion, đây là Olivia. Olivia, đây là Marion".

"Xin chào". Olivia giơ tay lên chào và cười nửa miệng.

Marion vui vẻ vẫy tay lại. "Tôi rất mừng khi thấy hai người quay lại với nhau và bạn thân, rất thân của chị vẫn còn sống".

"Gì cơ?". Chắc chắn là Olivia đã nghe nhầm.

"Cô xem phim đi nhé". Jack nói và lui người về phía sau ghế của anh.

"Tất cả những điều đó nghĩa là sao?". Olivia hỏi, mặc dù chị biết hẳn Jack đã bịa ra một câu chuyện nào đó, anh ấy lẽ ra phải viết tiểu thuyết mới đúng chứ không phải viết báo thế này. Chị huých vào mạng sườn anh khi anh giả bộ lờ đi thắc mắc của chị.

"Suỵt". Jack nói và chăm chú nhìn vào màn hình. Anh cứ như vậy khá lâu, sau đó mới quay lại bốc thêm một nắm bỏng ngô nữa.

Olivia thấy yên bình, chị thở hắt ra như đã bị dồn nén từ lâu. Chị cảm giác thật thư thái khi lại có anh trong đời. Họ chưa dàn xếp hay tranh luận gì về vấn đề đã từng là nguyên nhân của mối bất hòa giữa họ. Và Olivia cũng không chắc điều đó có cần thiết nữa hay không.

Chị cứ chìm trong suy nghĩ và mãi đến khi thọc tay xuống túi bỏng ngô chị mới phát hiện ra rằng Jack đã cầm cả túi tự khi nào.

"Này", chị phản đối.

"Em không nên ăn nữa", anh khẳng định.

"Tại sao lại không chứ?".

"Vì em sẽ không đói đâu, sau khi hết phim anh sẽ mời em đi ăn tôi mà".

"Thế à". Thì ra là anh định mời mình đi ăn tôi. Nhưng không thể giải thích nổi tại sao anh vẫn cử nhai tóp tép như là đã hàng tuần nay anh bị bỏ đói. "Vậy sao anh vẫn ăn?".

Anh nhún vai. "Anh lúc nào cũng đói mà".

Olivia tựa đầu vào vai anh, Jack lập tức đặt túi bỏng ngô trên đùi đưa tay sang ôm chị. Và như những cặp tình nhân thời trung học, họ tựa đầu vào nhau, âu yếm cầm tay nhau. Đã nhiều tháng nay Olivia không có được cảm giác hạnh phúc như thế này.

Chị không biết bộ phim tối nay có nội dung như thế nào.

Sáng chủ nhật, Rosie bị đánh thức dậy bởi tiếng mưa rơi quất vào. Cô cố gắng nhắm mắt để tìm lại giấc ngủ mà không được. Cô đã tỉnh rồi. Tỉnh như sáo Cô đã đã mất nhiều giờ đồng hồ để có thể ngủ được và bây giờ thì thế này đây.

Cuối tuần là khoảng thời gian tệ nhất với cô. Cả tuần cô bận rộn với lớp học, nên vấn đề về cuộc ly hôn và bản thoả thuận quyền nuôi con chung nực cười này có thể dễ dàng được đẩy sang một bên. Nhưng cuối tuần thì thật kinh khủng. Cô ghét phải chấp nhận thực tế rằng Zach được ở nhà cùng bọn trẻ vào tối thứ sáu và thứ bẩy. Khi cô đồng ý để anh đến vào cuối tuần, cô đã nghĩ đó là một hành động khôn ngoan. Cả ngày bận rộn với bọn trẻ con, anh ta sẽ không có thời glan mà hẹn hò nữa. Rosie cảm thấy thỏa mãn khi cản trở được các mối quan hệ của anh ta, đặc biệt là khi nó có dính đến Janice Lamond.

Mặc một chiếc áo ngủ mỏng, Rosie đi lại trong bếp và bắt đầu pha cà- phê.

Phải đến tận năm giờ tối mới là giờ của được cô ở cùng bọn trẻ. Điều mà cô và Jack đang làm thật là vô nghĩa - sống chung dưới một mái nhà, rồi vài ngày lại chuyển tới chuyển lui tới chỗ bọn trẻ. Cô không tưởng tượng được vị thẩm phán đó suy nghĩ gì khi phán quyết điều này.

Cơn mưa vẫn chưa ngớt và cô thấy cái lạnh chạy dọc theo cánh tay. Chiếc áo ngủ mùa hè cô đang mặc không đủ che cái lạnh của buổi sáng đầu thu. Cô thấy bực bội. Một nửa số quần áo của cô được treo ở đây, nửa còn lại treo ở nhà mà bọn trẻ đang sống. Nhiều lúc cô không biết tìm cái nào ở đâu.

Buổi sáng cứ thế trôi qua trong sự trống rỗng và lạnh lẽo. Một năm trước đây, cô còn đang rất bận rộn với các công việc tình nguyện của mình, đến mức không có thời gian để nấu một bữa cơm tối cho gia đình. Chuyện này cùng với nhiều lý do khác đã dẫn đến cuộc ly hôn. Cô đã buộc phải từ bỏ tất cả những hoạt động tình nguyện. Nhưng cô không cảm thấy nhớ chúng. Tất cả các công việc từng rất quan trọng của cô đã được chuyển cho những người khác tiếp quản. Còn cô bây giờ phải chuyển từ trường này sang trường khác. Công việc dạy học chiếm hết thời gian của cô, và khi phải ở một mình không có hai đứa trẻ bên cạnh, cô cảm thấy rât cô đơn. Cuộc đời cô đã hoàn toàn rẽ sang một trang khác khi tiếng búa của vị thẩm phán gõ xuống.

Bạn cũ của cô hầu hết đã có gia đình, nên không còn thời gian dành cho cô nữa. Một năm trước đây, Rosie có cơ hội gặp gỡ nhiều người, có lịch hẹn kín mỗi ngày, thậm chí có kế hoạch hàng đêm. Bây giờ cô chẳng còn gì ngoài cảm giác chua xót, nghi ngờ và một nỗi đau vô bờ bến.

Khi uống cà- phê xong, Rosie đi tắm và đọc số báo cuối tuần Bremerton Sun và báo địa phương, nhưng chúng chẳng có gì khiến cô quan tâm. Mục tin tức hàng ngày ở vịnh Cedar có đưa tin về một người đàn ông bí ẩn đã chết ở nhà nghỉ Thyme and Tide, nhưng không đưa thêm thông chi tiết gì. Nhắm mắt lại, cô cố gắng hồi tưởng lại cuộc sống của cô trước đây ... trước khi có những mâu thuẫn trong hôn nhân. Trước cuộc ly hôn.

Các buổi sáng chủ nhật lúc nào cô cũng phải vội vã bận rộn để sắp xếp cho cả nhà đi làm lễ ở nhà thờ đúng giờ. Cho đến thời gian gần đây cô vẫn tham gia trong đội thánh ca, nhưng cô đã không đi nhà thờ nữa kể từ khi nộp đơn ly hôn.

Cô sợ phải gặp lại bạn bè và phải thú nhận sự giả dối mà cô vẫn hàng ngày sống chung với nó.

Nếu cô thấy nhớ những buổi lễ ở nhà thờ đến như vậy thì có lẽ cô nên quay lại với thói quen đi nhà thờ. Tất nhiên không phải nhà thờ trước đây, mà là một nơi nào đó khác, xa hơn, nơi cô có thể có một sự khởi đầu mới. Cô thấy người ta rất khen ngợi vị mục sư ở nhà thờ Hội giáo lý, nếu cô nhớ không nhầm thì tên ông là Dave Flemming. Có lẽ cô sẽ phải nghĩ đến việc tiếp tục đi nhà thờ, nó có thể giúp cô tìm thấy sự thanh thản trước những biến động trong cuộc sống của mình. Chỉ có Chúa mới biết cô cần gì.

Quyết định xong, Rosie nhanh chóng tra danh bạ điện thoại các buổi lễ nhà thờ và nhận thấy rằng nếu cô đi ngay thì cô sẽ kịp buổi lễ lúc chín giờ.

Khi cô đến, bãi đậu xe đã gần như chật cứng. Cô trông thấy một vài người quen, trong đó có Bob và Peggy Beldon - chủ một nhà nghỉ, và một số vị phụ huynh cô đã gặp trong buổi họp phụ huynh. Nếu gặp Bruce Peyton và con gái anh ở đây có lẽ cô sẽ thấy vui hơn, nhưng hình như họ dự lễ ở nơi khác. Cô thấy mến Bruce, họ cũng đã nói chuyện đôi lần, có lần họ còn đi ăn tối cùng nhau một lần khi Jolene ngủ và được bác hàng xóm trông giúp. Họ cùng có một nỗi đau chung - và có lẽ chính điều đó đã tạo nên mối liên kết giữa họ.

Âm nhạc bắt đầu nổi lên khi Rosie rón rén đi vào hàng ghế dài gần phía cuối nhà thờ. Đã qua rồi những ngày cô hiên ngang cùng chồng và hai con đi vào lối chính giữa nhà thờ. Cũng giống nhiều người khác, niềm kiêu hãnh của cô đã biến mất cùng với cuộc ly hôn.

Âm nhạc thật tuyệt vời, và thậm chí trong lúc cô đang thực sự chán nản như thế này, nó cũng giúp tinh thần cô thăng hoa. Cô chăm chú lắng nghe bài thuyết giáo, nhưng đến nửa chừng thì cô cảm thấy có ai đó đang quan sát cô. Cô hy vọng mình không quá nhạy cảm, nhưng khi cô nhìn xéo qua vai mình thì ngay lập tức như bị đông cứng lại.

Không thể như vậy được. Cho dù cuộc sống luôn có là những tình huống trùng hợp một cách ngẫu nhiên, nhưng tại sao lại ở đây? Và tại sao lại vào lúc này?

Ngồi sau cô hai hàng ghế là Zach và Eđie. Ở vịnh Cedar phải có đến mười lăm nhà thờ, nhưng cô và Zach đã ngẫu nhiên chọn cùng một nhà thờ vào cùng một buổi sáng chủ nhật. Rosie muốn rên lên vì bực tức. Không có nơi nào là an toàn cho cô. Cô thậm chí không thể bước chân vào nhà thờ một cách thanh thản mà không bị ám ảnh bởi quá khứ.

Khi buổi lễ kết thúc, Zach đợi cô phía ngoài nhà thờ.

"Tôi không đi theo cô đến đây nếu đó là điều cô nghĩ". Zach nói với cô bằng một giọng tự vệ.

"Tôi cũng không đi theo anh. Nghe này Zach, chúng ta đã ly hôn. Anh có cuộc sống của anh, và tôi cũng có cuộc sống của tôi. Đây là lần đầu tiên tôi đi lễ ở nhà thờ này và tôi có thể dễ dàng chuyển sang một nhà thờ khác. Đó cũng không phải là vấn đề gì lớn lắm".

"Chào mẹ. Chào bố". Eđie lên tiếng và chạy đến chỗ bố mẹ. "Bạn con, Joel đến đây. Nó mời con đến nhà ăn trưa. Con đi được chứ bố?". Nó nhìn Zach bằng ánh mắt hy vọng, và sau đó là quay sang Rosie. "Mẹ cũng cho con đi chứ?".

Vì Eđie đang dưới sự giám sát của bố cho đến tận năm giờ chiều nên cô để anh quyết định.

"Bố cần biết địa chỉ và số điện thoại của bạn con". Zach nói.

"Bố có muốn gặp bố mẹ bạn ấy không?". Eđie hỏi.

"Chắc chắn rồi. Bố sẽ đến ngay. Bố nói chuyện với mẹ con trước đã".

Eđie cười tươi. "Vâng ạ". Sau đó cậu bé chín tuổi lao vút qua bãi đậu xe - nơi một nhóm cha mẹ và con cái đang tập trung ở đó.

Như đọc được ý nghĩ trong đầu cô, Zach nói, "Tôi sẽ đảm bảo con về nhà trước khi cô đến".

Cô gật đầu. "Tôi đang nói về buổi sáng nay ...".

"Không vấn đề gì". Zach cắt ngang. "Đây cũng là chủ nhật đầu tiên hai bố con tôi đến đây".

"Tôi sẽ đến nhà thờ khác vì có vẻ như Eđie đã có bạn ở đây rồi". Tuy nhiên cô không nhìn thấy Allison. "Còn Allison đâu?". Rosie nhìn quanh, cô nghĩ rằng con gái cũng đang ở quanh đây với bạn nó. Khi họ đến nhà thờ dự lễ thì Allison luôn có thói quen không ngồi cùng hàng ghế với cả nhà.

"Nó không đi".

Rosie phát cáu lên vì Zach để mặc Allison ở nhà. Kể từ khi Zach đuổi cậu bạn trai ra khỏi phòng ngủ của con bé, Allison đã ở trong một tâm trạng rất tồi tệ. "Anh để nó ở nhà một mình sao?".

Zach tỏ ra ân hận. "Nó không muốn đi, và tôi nhận thấy rằng bắt nó đi chỉ làm cho vấn đề trở nên xấu hơn thôi" Zach cũng không vui vẻ gì về việc này.

Cứ theo cách nói của anh ấy thì rõ ràng là anh mong cô sẽ trừng phạt anh.

Thực tế thì cô thấy hài lòng khi biết rằng Zach phải đối mặt với cơn giận dữ của con gái. "Anh vẫn căng thẳng với con bé à?", cô hỏi, hy vọng anh sẽ thú nhận sự thất bại của mình với con gái.

"Cũng vẫn còn. Cô thì sao?".

Cô nhún vai. "Một chút".

"Có lẽ chúng ta phải ngồi cùng nhau và bàn bạc xem có chuyện gì đang xảy ra với con bé". Zach đề nghị như vậy khiến Rosie thấy ngạc nhiên.

"Khi nào?".

"Bất cứ khi nào thuận tiện?".

"Ý anh muốn nói mọi thứ còn đi xa hơn việc con bé đưa Ryan vào phòng nó?".

"Tôi không biết, nhưng tôi nghĩ việc quan trọng là chúng ta phải liên lạc thường xuyên để trao đổi tình hình về con cái".

Rosie đồng ý với một chút miễn cưỡng. Họ càng nhanh chóng giải quyết được vấn đề này càng tốt, cô quyết định. "Vậy bây giờ nói chuyện luôn nhé?".

Zach gật đầu:

"Được".

Mười lăm phút sau, Zach và Rosie đã ngồi đối diện nhau ở Pancake Palace.

Eđie đi với Joel bạn của nói và Zach sẽ đến đón nó sau.

Vì hai người đang ngồi mất cả một cái bàn và vào sáng chủ nhật, nơi này rất đông người đến ăn sáng, nên Rosie cảm thấy phải gọi thêm thứ gì đó chứ không chỉ uống cà- phê.

Khi cô phục vụ bàn đến, Rosie gọi cà- phê, hai trứng và bánh mỳ nướng và nói với cô phục vụ là làm hoá đơn tính tiền riêng. Zach cũng gọi giống cô, và cũng yêu cầu hoá đơn riêng. Khi cô phục vụ hiểu rằng mỗi người họ sẽ tự thanh toán bữa sáng thì Zach bắt đầu chuyển sự chú ý sang Rosie.

"Cô biết gì về Ryan không?".

"Không nhiều. Bố mẹ Ryan ly hôn và cậu bé sống với mẹ".

"Và mẹ nó để nó xâu khuyên khắp người như vậy sao?".

Việc cậu bé xỏ khuyên khắp người cũng không gây ấn tượng tốt với Rosie.

"Hình như là vậy" Có sáu cái khuyên trên vành tai Ryan và một hạt thép nhỏ ở đầu lưỡi. Cứ nghĩ đến việc cậu ta hôn con gái mình với cái lưỡi ấy lại khiến cô buồn nôn.

"Nó đã không đến nhà kể từ hôm tôi nói chuyện với nó". Zach nói thêm vào vẻ thoả mãn.

Rosie thì không thấy đó là một dấu hiệu tốt đẹp, nhưng cô cũng không muốn nói thêm sợ rằng vì sẽ phá vỡ hoà khí mỏng manh giữa hai người.

"Tôi đã nói chuyện với mẹ cậu bé tuần trước".

Điều này khiến Zach tò mò. "Thế cô ta nói thế nào?".

Qua cuộc trao đổi ngắn gọn giữa hai người thì dường như mẹ Ryan không nhìn nhận vấn đề cùng Rosie. "Cô ta có thái độ phòng thủ. Tôi nói với cô ta rằng nếu Ryan đến chơi thì phải có một người lớn giám sát. Cô ta kết tội tôi bao bọc con bé quá mức".

"Cô ta có vẻ thờ ơ trước việc này phải không?".

"Đúng, tôi không nghĩ chúng ta có được nhiều sự hợp tác từ phía cô ta".

"Có vẻ như vậy". Zach cau mày.

Rosie thấy dễ chịu khi nói chuyện với Zach về việc này. Bây giờ cô nhận ra tại sao mình lúc nào cũng có cảm giác bực bội không yên - phần lớn là do cách cư xử của con gái.

"Anh còn nhớ năm ngoái khi tôi kể với anh về chuyện con gái gia đình Harrison không?".

Zach lắc đầu.

"Nó đang học trung học và đang mang bầu sinh đôi".

Mặt của Zach đột ngột biến sắc. "Cô không nghĩ rằng ...". Anh không tự mình nói hết được câu.

"Tôi cũng không biết, và có lẽ cả hai ta cũng sẽ không biết được cho đến khi mọi chuyện xảy ra".

Những lời nói của cô đã có tác dụng gây kinh ngạc đúng theo ý cô. Sự giận dữ và căm ghét của Allison mỗi ngày một sâu sắc. Cậu bé này xuất hiện trong cuộc đời nó là một rắc rối lớn, và tương lai con gái họ đang bị đe doạ.

"Tôi rất lo lắng cho Allison". Zach hạ thấp giọng.

"Tôi cũng vậy". Rosie cũng đồng tình. "Con bé đã không đồng tình với cuộc ly hôn của chúng ta và phản ứng tiêu cục với cả hai chúng ta. Tôi không biết nó sẽ định làm gì nữa ... Tôi không thể hiểu được nó nữa rồi".

Chương 9

Olivia đang hạnh phúc. Chị tỉnh giấc sớm vào sáng chủ nhật. Hôm nay là ngày sinh nhật của chị. Chị hưởng thụ những giây phút lười nhác dễ chịu trên giường cho đến khi cơn buồn ngủ thực sự qua đi. Chị sực nhớ ra là phải cộng thêm cho mình một tuổi nữa để thành một con số khá bất ngờ. Chị cũng phải ôn lại những gì mình làm được trong suốt năm vừa qua và sắp xếp chúng lại cùng với mục tiêu của mình. Đây là việc mà chị vẫn làm vào sinh nhật mỗi năm.

Đáng ra lúc này chị phải đang làm điều đó rồi. Sinh nhật là một dịp để đánh giá lại cuộc đời mỗi con người. Nhưng thay vào đó, chị lại đang tự cười và ngẫm nghĩ về chuyện chị và Jack "tình cờ gặp nhau" ở rạp chiếu phim, và chị cũng nhớ lại khoảng thời gian vô nghĩa khi chị và Jack có chuyện bất hòa.

Nhưng rồi tối hôm qua họ đã quay lại với nhau. Jack có khả năng khiến cho chị cười, khiến chị cảm thấy vui vẻ và chị thực sự trân trọng điều đó. Tất cả những hiểu lầm giữa họ đã qua. Có thể thấy anh đã vui mừng thế nào khi gặp lại chị và sự thật là chị cũng có chung cảm giác vui mừng ấy.

Họ đã có cả buổi chiều và buối tối ở bên nhau. Sau khi xem phim, họ đi ăn tối ở Taco Shack và nấn ná hàng giờ đồng hồ uống cà- phê, nói chuyện về mọi chủ đề trừ Stan. Anh không hỏi, và đương nhiên Olivia cũng không nhắc đến tên chồng cũ của chị trong cuộc trò chuyện giữa hai người. Dường như không ai trong hai người muốn nói hoặc làm điều gì khiến cho mối quan hệ của họ xấu đi.

Họ chia tay trong lưu luyến đã thế hai người còn đứng ở bãi đỗ xe ba mươi phút nữa để nói chuyện.

Năm trước Jack có mua quà sinh nhật cho chị nhưng chị chắc năm nay anh quên mất ngày này rồi. Chị đã có thể nhắc anh, có lẽ chị nên làm vậy. Lại là có lẽ ... nhưng chị không có ý định thông báo với anh rằng chị sắp già thêm một tuổi.

Bà Charlotte cứ khăng khăng muốn nấu bữa sáng cho con gái, nên sau khi đi dự lễ nhà thờ, Olivia đến chỗ mẹ.

"Vào đi, vào đi" bà Charlotte nói vọng hi dưới bếp khi Olivia bước vào nhà.

Harry, con mèo vệ sỹ của bà, đang nằm vươn vai trên bậu cửa sổ, nó đang tắm mình trong ánh nắng mùa thu. Mùi bánh quế bay ra từ lò nướng khiến Olivia chảy nước miếng.

"Chúc mừng sinh nhật con yêu" giọng mẹ chị ấm áp, bà đi ra từ trong bếp vả vẫn đang mặc tạp dề. Bà ghì xiết lấy Olivia. "Trông con thật tuyệt".

"Cám ơn mẹ" Olivia vẫn chưa thú nhận với mẹ rằng Jack chính là nguyên nhân của niềm vui rạng ngời trong mắt chị. Chị chỉ kể kể lại mọi chuyện khi thấy mẹ mình sẽ chủ động nói một cách chân tình rằng. "Mẹ đã nói với con vậy mà".

"Mọi thứ đã sẵn sàng rồi" Charlotte nói. Trên bàn ăn đã bày sẵn bộ đồ sứ đẹp nhất, nước cam được rót vào những chiếc ly pha lê cao. Lẩm bẩm điều gì đó mà Olivia không nghe rõ, bà Charlotte hối hả quay lại vào bếp. Nghĩ tới điều đó dường như khiến mẹ chị vui vẻ và hào hứng hẳn lên.

"Con giúp gì được không?" Olivia hỏi và đi theo bà.

"Tất cả những gì ta cần làm là mang hết đồ ăn ra bàn nữa thôi" Charlotte quả quyết. "Mẹ đã nấu bữa sáng có món thịt hầm và bánh quế mà con vẫn thích".

Olivia cố nhịn cười. Bữa sáng có thịt hầm vốn là món ưa thích của mẹ, nhưng không bao giờ bà tự nấu cho mình, nên bà luôn tận dụng một cơ hội thích hợp như là sinh nhật con gái mình để thưởng thức món này.

"Món này thật ngon mẹ ạ" Olivia kéo ghế ra ngồi và quan sát bữa tiệc.

Cả hai đều cúi đầu và mẹ chị cầu nguyện trước khi ăn món thịt hầm làm từ thịt xông khói, hành, thịt băm và rất nhiều pho mát. "Mẹ kể cho con nghe về ngày con sinh ra nhé" Charlotte hỏi.

"Mẹ ơi, con đã năm mươi lăm tuổi rồi! Và năm tư năm qua sinh nhật nào con cũng được nghe câu chuyện đó. Con đã biết tất cả những gì có thể biết về ngày mình sinh ra". Câu chuyện đã được bà Charlotte kể đến từng chi tiết không biết bao nhiêu lần. "Con biết bố đã phải gấp rút đưa mẹ đến bệnh viện lúc chín giờ tối và mẹ đã đau suốt hai tư tiếng đồng hồ. Con biết ngay ngày hôm sau có một cơn bão to và không ai đến thăm chúng ta được cho đến tận ngày hôm sau nữa. Và con cũng biết con đã gào khóc suốt ba tiếng đồng hồ, hay đại loại thế".

"Sự thật là như vậy", Charlotte gật đầu một cách ngoan cố.

Olivia phá lên cười. Và mặc dù chị thấy điều này thật ngớ ngẩn nhưng chị cũng đã nhiễm thói quen này từ mẹ mình và truyền lại cho các con. Vào buổi sáng ngày sinh nhật James con trai chị năm ngoái, Olivia đã gọi một cuộc điện thoại đường dài để miêu tả ngày James cất tiếng khóc chào đời. James đã rất kiên nhẫn và lịch sự lắng nghe mẹ. Sau đó anh nói rằng năm trước vào ngày này mẹ cũng đã kể câu chuyện này không khác một từ.

Trong suốt bữa sáng hai mẹ con đã nói chuyện về gia đình, bạn bè. Rồi làm như vô tình, mẹ chị nói. "Mẹ có mời ông Ben Rhodes đến ăn cùng chúng ta nhưng sáng nay ông ấy bận".

Ben, Olivia trầm ngâm. Chị mơ hồ nhớ rằng mẹ đã từng nhắc đến Ben.

Nhưng điều đáng ngạc nhiên là Charlotte lại muốn mời một người lạ mặt đến dự sinh nhật của Olivia. Nhưng mẹ chị là vậy. Bà sưu tập bạn như là cách những người phụ nữ sưu tập đồ sứ hay hoa cài áo. Ví dụ như Tom Harding - ông nội của Cliff, hay một cụ ông đang ở tuổi chín mươi chẳng hạn.

Bà đã làm bạn với ông được vài năm. Ông là nạn nhân của chứng đột quy và đã không còn khả năng nói, nhưng dường như ông chẳng gặp khó khăn gì trong việc giao tiếp với mẹ chị. Đó là một năng khiếu bẩm sinh của Charlotte Olivia quyết định đề cập đến những người khiến bà Charlotte quan tâm nhất để không phải nghe chuyện về những người bạn già của mẹ mình. "Justine và Seth mời con đến ăn tối" chị nói với mục đích chuyển chủ đề khỏi "dự án từ thiện" mới nhất của mẹ.

"Mẹ biết rồi".

"Con và Grace sẽ đi phà đến Seattle để ăn trưa ở khu bến cảng cuối tuần tới".

Mẹ chị gật đầu nhưng hình như hơi phật ý vì Olivia không quan tâm đến người bạn mới của bà. "Ben sẽ ghé qua lúc khác và mẹ sẽ cùng ông ấy đến thăm mảnh đất trồng bí ngô".

Olivia thấy hơi lạ rằng hai người cao tuổi này lại muốn thực hiện một việc truyền thống chỉ dành cho những gia đình trẻ, nhưng chị không nói gì. Rất có thể là bạn của mẹ chị đã già yếu ông ta muốn quay lại những ký ức tuổi thơ và đây là điều gắn bó với tuổi thơ của ông ta nhất.

"Chúc mẹ vui vẻ nhé".

"Ừ. Mẹ và bác ấy có ý định như vậy" Charlotte lầm bầm.

Olivia đã nghĩ rằng mẹ chị đang đỏ mặt.

Cũng vào hôm ấy, chị đã hỏi con gái mình về việc đó. Gần đây con thấy bà ngoại có thay đổi gì không?".

Justine đang bận quấy nước sốt, cô ngước lên nhìn mẹ. "Bà ngoại ạ? Điều gì khiến mẹ hỏi như vậy?.

Olivia bế đứa cháu trai mới sinh và đi loanh quanh trong bếp, chị nhẹ vỗ lưng đứa bé. Leif kêu ọ ẹ, và trong giây lát, chị hoàn toàn bị thôi miên bởi giây phút tuyệt vời khi bế đứa trẻ áp vào tim mình. Khi chợt nhận ra rằng Justine đang chờ câu trả lời của chị, chị quay lại chủ đề về bà Charlotte. "À, sáng nay mẹ ăn sáng cùng bà và bà ngoại con có vẻ ... ồ, mẹ không biết nữa, có vẻ bí mật".

"Bí mật ạ? Như thế nào ạ?".

Olivia nhún vai.

"Mẹ à, gần đây con bận rộn với nhà hàng và Leif quá nên cũng không có thời gian để ý nữa".

"Mẹ chắc là không có gì đâu. Nhưng sau nguy cơ ung thư năm ngoái mẹ muốn để mắt tới bà".

"Con cũng vậy. Chỉ vì đợt này con bận quá" Justine luôn là người có trách nhiệm, cô không sẵn sàng chấp nhận người khác chỉ trích những thiếu sót của mình, cho dù có thật hay chỉ trong trí tưởng tượng.

"Con yêu, con không cần phải giám sát bà. Chỉ cần để ý một chút nếu gặp bà và chúng ta sẽ so sánh xem có phải mẹ và con đều thấy bà có vẻ khác trước không".

Justine vừa bỏ cái chảo xuống khỏi bếp và đổ nước sốt ra cái bát thì có tiếng chuông ngoài cửa. Sau khi đặt những món ăn đã bày biện xong lên bàn, Seth chạy ra mở cửa.

Stan đứng ngay ở bậc cửa, tay ôm một bó hoa và một chai rượu. "Bố không đến muộn chứ?". Stan hỏi khi bước vào phòng. "Chúc mừng sinh nhật em, Olivia" anh nói và hôn lên má chị.

"Bố". Cứ nhìn ánh mắt kinh ngạc của Justine thì Olivia có thể đoán rằng cuộc viếng thăm của Stan cũng là một bất ngờ với con gái.

"Anh nghĩ anh sẽ dự tiệc sinh nhật của em dù không được nhận giấy mời.

Em không phiền chứ?". Anh cười với Olivia và Justine.

"Tất nhiên là không rồi bố ạ" Justine nói sau khi đã hết ngạc nhiên. Seth nhanh chóng lấy thêm một bộ đồ ăn.

"Chào anh, Stan" Olivia đáp lại lịch sự và lãnh đạm. Chị vẫn chưa nói chuyện với anh kể từ hôm nhận được lời mời thiếu tế nhị, anh đã mời chị đi ăn tối ở Seattle - một bữa tôi bao gồm cả một đêm trong khách sạn.

Justine đón lấy bó hoa và khéo léo cắm vào một chiếc bình, sau đó cô đặt vào chính giữa bàn ăn. Khi Leif đã ngủ, Olivia đặt đứa bé vào cũi và ngồi vào bàn cùng mọi người.

Bữa tối với gà quay, rau củ trộn nước sốt và salát trông thật tuyệt và ngon miệng nhưng Olivia vẫn cảm thấy hơi bực mình. Tuy nhiên trong không khí bữa ăn gia đình, cảm giác đó dần biến mất. Có lẽ rượu làm chị thư giãn hơn. Chị nhanh chóng hoà cùng không khí vui vẻ của cả gia đình. Hoàn toàn tụ nhiên, chị gần như quên là chị và Stan đã từng ly hôn. Stan luôn biết cách thể hiện mình là một con người nồng hậu, dễ thu hút người khác. Anh vui nhộn, hài hước, thông minh đúng như Olivia đã từng biết.

"Vậy" Stan nói khi Seth và Justine đi vào bếp pha cà - phê. "Em có tha thứ cho anh không?".

Olivia thấy chẳng ích gì nếu cứ tỏ ra không hiểu chuyện anh ta đang đề cập.

"Không có gì phải tha thứ cả".

Anh nhún vai. "Anh nghĩ anh đã hơi vội vàng".

"Vấn đề của anh là anh cần một người phụ nữ tôn thờ anh".

Stan cười tủm tỉm và giơ chiếc ly không lên. "Em đã từng như vậy và anh hy vọng em sẽ lại như vậy với anh. Anh yêu em, em biết mà".

Chị thấy tự hào và hãnh diện khi nghe chồng cũ điều này, nhưng Olivia bây giờ đã khôn ngoan hơn ngày trước nhiều. Trước đây chị đã từng yêu Stan hết mình nhưng cuộc hôn nhân của họ bị tan vỡ sau cái chết của đứa con trai. Ly hôn là một cú sốc lớn về mặt tình cảm và chị phải mất nhiều năm mới lấy lại được thăng bằng. Thậm chí cho đến bây giờ chị vẫn không thể nghĩ đến mùa hè năm 1986 mà không thấy buồn.

"Anh đã sai rồi" Stan xuống giọng. "Anh muốn bù đắp lại cho em".

Bù đắp lại cho chị sao? Olivia gần như bật cười nhưng vẫn giữ được vẻ ngoài bình tĩnh của mình. "Thế gian này còn nhiều phụ nữ cho anh".

"Đừng nói với anh rằng em thích cái gã nhà báo đó chứ. Olivia, không được.

Bất cứ ai cũng có thể thấy Griffin không phải mẫu người dành cho em".

"Em nghĩ em mới là người đánh giá điều đó một cách chính xác nhất".

Stan ngồi lại xuống ghế và khoanh tay. Và rồi anh khẽ lắc đầu như muốn ngầm thể hiện rằng anh không thể tưởng tượng được chuyện chị lại yêu Jack.

"Anh ta là một ...". Stan lầm bầm. "Em nhận ra điều đó chứ?".

Olivia không đồng ý nhưng chị không có ý định tranh cãi với Stan về mối quan hệ của chị với một người đàn ông khác. Nên chị đã chỉ im lặng. Thật may là đúng lúc đó Seth và Justine quay lại với cà - phê và bánh sinh nhật nên câu chuyện dừng ở đây.

Tối muộn hôm đó, khi chị về nhà sau một ngày kín mít các bữa tiệc kỷ niệm sinh nhật, chị nhận thấy có hai tin nhắn trên điện thoại. Một tin nhắn của Selina - vợ James gọi điện đến chúc mừng sinh nhật. Tin nhắn thứ hai là của Iack.

Olivia gọi cho Jack trước. Anh nghe máy ngay lập tức như thể anh luôn ngồi cạnh điện thoại chờ cuộc gọi của chị. Điều này lại khiến chị thấy vui.

"Em à" Anh nói, và nghe giọng anh có vẻ rất hồi hộp khi chị gọi đến. "Cả ngày hôm nay em đi đâu vậy?".

"Em đi chơi".

"Anh biết. Anh gọi cho em sáu lần và lái xe qua nhà em một lần".

"Jack!".

"Anh muốn gặp em. Anh biết nói như vậy không tế nhị cho lắm nhưng anh vẫn phải nói".

"Bây giờ quá muộn rồi".

"Anh biết". Anh rên lên từng từ. "Em đã ở đâu cả ngày?".

"Anh phải biết hôm nay là sinh nhật em và em đã ăn tối cùng Seth và Justine".

"Sinh nhật em! Trời ơi, Olivia, anh đã không nhớ. Em tha lỗi cho anh chứ?".

"Với điều kiện anh đừng hỏi em bao nhiêu tuổi".

Anh cười. "Anh không hỏi đâu và em cũng đừng nói".

"Vậy thì được".

"Có ai ở đó ngoài Seth và Justine không em?". Câu hỏi hiển nhiên là muốn nhắc đến chồng cũ của cô.

Olivia hoàn toàn có thể nói dối để tránh một sự hiểu nhầm kéo dài nữa. Cô không muốn làm anh giận khi họ vừa mới làm lành, nhưng cô không thể lừa dối anh. "Có", cô miễn cưỡng thú nhận. "Stan đến. Không báo trước".

"Chắc chắn anh ta phải có quà cho em chứ?".

"Có một chút".

"Hóa phải không?".

"Không đẹp như những bông hoa anh gửi cho em lần trước." Olivia đã để bó hoa Stan tặng lại nhà con gái.

"Kẹo nữa phải không?".

"Không có kẹo".

"Vậy thì là rượu?".

"Vâng có rượu" Cô khẳng định.

Anh gầm gừ trong cổ họng. "Em vẫn muốn anh đeo găng đấm bốc và chiến đấu với anh ta chứ?".

Olivia cười. "Em không bao giờ muốn anh phải đọ nắm đấm với Stan" cô nói. "Em chỉ muốn anh chứng minh rằng anh quan tâm đến em".

"Được rồi," anh nói. "Để anh gọi cho anh ta hay là em muốn em gọi?".

"Gọi Stan à?". Jack đang nói gì vậy.

"Anh nghĩ bọn anh phải giải quyết việc này, chỉ anh và Stan thôi, hai người đàn ông với nhau".

"Jack Griffin, thật là nực cười! Không phải anh đang nghiêm tức đấy chứ?".

Anh im lặng, và cô có cảm giác như nghe thấy tiếng bàn tay của anh đang đấm trong không khí. Chắc chắn anh đang đi lại quanh nhà.

"Em chỉ cần đơn giản tuyên bố anh là người thắng cuộc thôi" Jack gợi ý đầy hy vọng.

"Em sẽ làm như vậy" chị đồng ý, "nhưng trước hết anh phải chiếm được tình cảm của em đã".

Jack lại rên lên. "Thế chính xác anh phải làm thế nào?".

"Anh không biết sao?" chị giả vờ ngạc nhiên.

"Hình như là không, nhưng anh sẽ cố gắng".

"Anh cứ làm đi." Olivia cười sảng khoái. "Em có cảm giác anh sẽ có cách".

Thật hạnh phúc khi lại có anh trong đời.

Chương 10

Maryellen đã đi làm trở lại. Cô để con gái được mười tuần tuổi ở nhà em gái vào sáng thứ hai, tuần cuối cùng của tháng mười. Cô quay lại công việc ở phòng tranh từ chín giờ sáng cho đến năm giờ chiều.

"Con bé sẽ ổn thôi" Kelly đảm bảo với Maryellen khi thấy chị mình còn đang lo lắng nấn ná ở cửa không dám đi.

"Gọi điện cho chị nếu có việc gì nhé" Việc bỏ con gái ở nhà khó khăn hơn Maryellen nghĩ. Việc để Jon đón Katie thường xuyên cũng đã là một khó khăn lớn với Maryellen rồi. Cô đã nghĩ rằng để Katie lại cho em gái của mình thì dễ dàng hơn, nhưng không phải vậy. Cô chảy nước mắt khi nghĩ đến cảnh phải xa con hơn tám tiếng mỗi ngày.

"Bà mẹ trẻ đều phải trải qua cảm giác này." Kelly cam đoan với cô. "Thật khó để mà rời xa con mình, thậm chí khi chúng ta biết chắc là nó được chăm sóc ở mức tốt nhất".

"Thông thường con bé sẽ đòi ăn vào lúc mười giờ" Maryellen nói mặc dù cô đã nhắc lại lịch của Katie hai lần. Cô đã vắt sữa sớm hơn và cho vào mấy chiếc bình.

"Em biết, em biết rồi. Bây giờ thì chị đi đi không sẽ muộn giờ làm đấy".

Em cô nói đúng, nhưng Maryellen vẫn phân vân chưa nỡ đi ngay mà đứng một lát ở lối ra cửa trước. Sau đó, cô quay lưng vội vã chạy ra xe như sợ mình sẽ thay đổi quyết định. Trong vòng vài ngày, việc xa Katie sẽ phải trở thành một phần thói quen của cô. Cô đã nghĩ tới việc mang Katie đến phòng tranh cùng cô, nhưng một đứa bé sẽ khiến cô không thể tập trung làm việc được. Và cho dù không công khai cấm, nhưng chắc chắn người chủ phòng tranh cũng không đồng ý nếu cô đưa con đến.

Cô ghét việc phải xa con mình hơn tám tiếng mỗi ngày, cô ghét cảm giác nôn nao bất an trào ngược lên trong lòng. Những nghi ngờ luôn ám ảnh cô, cô sợ rằng mình không phải một người mẹ tốt. Cô bị đeo bám bởi ý nghĩ là cho dù Kelly là dì của Katie, nhưng em cô không thể yêu con bé như chính bản thân mình. Mặc dù thấy ân hận nhưng cô hiểu điều này là cần thiết và không sớm thì muộn cô phải đối mặt với nó.

Đến mười giờ sáng hôm đó, Maryellen đã gọi điện cho em gái không dưới ba lần. Katie ngủ gần như cả buổi sáng như mọi ngày. Lần cuối cùng khi cô gọi điện, Kelly đã nói rằng cô đã hâm lại sữa và sẽ cho con bé ăn đúng giờ.

Maryellen tin em gái mình nhưng cô lo rằng Kelly sẽ không bế đứa bé như mình vẫn bế. Cô lo rằng môi trường lạ sẽ làm thay đổi nhịp sinh học của con bé. Lo rằng con bé sẽ bằng trực giác sẽ biết được nó không ở nhà mình, không nằm trên chiếc giường của mình, và nó sẽ khác.

Chuông cửa báo hiệu có người vào ở phòng tranh kêu lên khi Maryellen vừa đặt ống nghe xuống. Phải mất vài giây để làm dịu con tim đang đập liên hồi, cô cố gắng tỏ ra thân thiện và chuyên nghiệp để đón khách. Khi bước vào phòng chính để gặp người khách đầu tiên, cô mỉm cười.

Vẻ mặt đầy tính công việc của cô nhanh chóng thay đổi khi nhìn thấy đó là Jon. Cô rất hài lòng khi gặp anh vì ít nhất cô đã có ai đó để nói chuyện về Katie.

Anh nhìn cô cau mày và nói. "Anh đã nghĩ đúng".

"Anh nghĩ gì chứ?" Cô lập tức thấy cáu tiết. Nỗi vui mừng khi nhìn thấy anh lập tức biến mất. Cái cô cần là sự chia sẻ, không phải một bài thuyết giáo.

"Anh cho rằng anh phải kiểm tra xem ngày đầu tiên em đi làm như thế nào.

Chắc phải khó khăn lắm em mới rời được Katie phải không?".

Cô muốn vờ đóng kịch rằng anh đã hoàn toàn lầm tưởng về cô, nhưng cô không làm được điều đó. Cô nhận thấy ngày càng khó che giấu cảm xúc của mình trước Jon. Trước khi sinh Katie, cô đã rất giỏi khi đánh lạc hướng mẹ và em gái về những suy nghĩ và tình cảm của mình. Nhưng Jon có một khả năng bẩm sinh trong việc nhìn thấu cô.

"Thật là khủng khiếp", cô thú nhận.

"Con bé có khóc ầm lên không?".

Maryellen lắc đầu, và đúng như cô lo sợ, nước mắt cô đang tuôn trào. Điều này thật đáng xấu hổ.

Jon đỡ cánh tay cô và đưa cô vào phòng trong. Anh quay người cô lại đối mặt với mình, và đặt tay lên vai cô. "Katie sẽ hoàn toàn ổn khi được Kelly chăm sóc".

Maryellen gật đầu. "Chỉ là em ghét vì không được ở cùng con bé".

Jon thở dài thành tiếng, và chậm rãi như thế ngược với ý muốn của anh, anh kéo Maryellen vào vòng tay mình. "Anh biết".

"Làm sao mà anh biết được?", cô nghi ngờ hỏi anh, cô muốn được anh an ủi dỗ dành nhưng lại ghét thực tế rằng cô cần điều đó. Cô nhắm mắt và cảm nhận vòng tay anh, tận hưởng sự ấm áp nơi anh, mùi hương rất nam tính của anh. Cô không muốn anh nhận ra ở bên anh cô thấy yếu đuối như thế nào. Cách duy nhất để chống lại những cảm giác này đó là phản ứng tự vệ.

"Anh biết chứ Maryellen", anh nói giọng đều đều, "vì chính anh cũng cảm thấy không chịu đựng được khi không được ở bên con".

"Ồ" Điều này không thể khó khăn với anh được, cô lập luận. Anh ấy không thể trải qua những ăn năn và nghi ngờ như mình.

"Em ... chắc em là một bà mẹ tồi". Gần Jon như thế này khiến cô như người say; cô không thể diễn tả đuợc hết cảm xúc của mình. Cô cần phải thoát khỏi trạng thái say mê này, phải rời xa anh và cô cần phải làm điều đó ngay bây giờ.

Những cảm xúc này chính xác là điều mà cô lo sợ kể từ lần đầu tiên họ hôn nhau. Anh khiến cô có cảm giác thật yên bình và yếu đuối khi được dựa vào anh. Nếu cô không bứt ra ngay từ bây giờ, anh sẽ có thể trở thành một phần vĩnh viễn không thiếu được trong cuộc đời cô. Và đó là điều mà cô không dám mạo hiểm. Anh là cha của Katie, nhưng sẽ không bao giờ là chồng của Maryellen.

"Em không phải một người mẹ tồi, em chỉ là một người mới làm mẹ" Jon tự tin nói với cô. "Em còn phải học nhiều. Cả hai chúng ta đều phải học" Anh nhẹ nhàng vuốt tóc cô khiến cô hầu như không thể rời khỏi vòng tay anh.

Phải gắng sức lắm cô mới dứt khỏi anh. Hai tay khoanh trước ngực, cô tựa hông vào bàn. "Em sẽ ổn thôi".

"Em có chắc không?".

Không dám nhìn vào mắt anh, cô khẽ gật đầu. "Em ... chỉ vì đây là ngày làm việc đầu tiên. Chắc chắn đây là ngày khó khăn nhất".

"Đó là những gì trong sách cho các bà mẹ trẻ đã nói đấy".

Cô cố mỉm cười yếu ớt. "Anh thật chu đáo khi đã ghé qua thăm em".

Jon cho hai tay vào túi. Cô nhận thấy rằng, bất cứ khi nào anh không chắc chắn về chính mình anh lại làm như thế. Cô cảm nhận rằng anh không muốn ở đây, nhưng anh cũng không thể bỏ mặc cô được. Cô hoàn toàn có thể hiểu được cảm giác của anh. Cô không muốn cho Jon lại gần cuộc sống của cô. Nhưng anh đã ở đây và cô không thể ngăn anh quan tâm đến Katie. Ngày Katie chào đời đã hình thành một sợi dây liên kết giữa hai người, họ vừa là cha mẹ, vừa là bạn bè, và cả hai đều không biết phải làm gì với những cảm xúc đó. Cách đây vài tuần, khi hôn anh, cô lại thấy mọi việc thật phức tạp.

"Anh đang trên đường đến chỗ làm phải không?", cô hỏi, gợi ý để anh đi.

Jon hiểu ý cô. "Ừ, anh phải đi rồi".

Lúc này cả hai đã cảm thấy thoải mái. "Cám ơn anh đã đến với em".

Anh hướng ra phía cửa, và đột nhiên, không báo trước, anh quay lại, ôm lấy vai cô và hôn cô. Một nụ hôn nhanh chóng nhưng thật sự nóng bỏng. Nó khiến cô run rẩy.

Chuông cửa báo hiệu lại kêu khi anh bước ra. Phải làm điều gì đó ngay. Jon đã trở nên quá quan trọng trong cuộc đời cô.

Tối thứ tư, cả Allison và Eđie đều đang trong phòng ngủ làm bài về nhà, theo như Rosie nghĩ. Chẳng có gì trên tivi để xem nên cô đem một đống to quần áo cho vào máy giặt. Cô vẫn muốn giặt giũ tại nhà. Máy giặt tự động mới ở căn hộ đã phải có ít nhất hai mươi năm tuổi và nó đã làm hỏng một chiếc áo của cô.

Với ngân quỹ hạn hẹp, cô không muốn mạo hiểm làm hỏng bất cứ thứ gì trong tủ quần áo của mình nữa.

Chuông điện thoại reo Rosie biết Allison sẽ nghe máy. Allison luôn coi việc chộp lấy điện thoại khi bất cứ ai gọi đến là quyền của nó. Nó không bao giờ để điện thoại kêu mà không trả lời như Rosie vẫn làm như vậy trong thời gian gần đây, đặc biệt là vào buổi tối.

Năm giây sau hồi chuông đầu tiên, con gái cô thò đầu ra khỏi phòng ngủ.

"Điện thoại của mẹ" con bé nói bằng giọng hoài nghi. "Bố gọi".

Thật tuyệt! Rosie nghĩ rằng lần này Zach gọi điện là để than phiền về việc gì đó.

"Mẹ đừng nói chuyện lâu nhé" Allison nói bằng một giọng chanh chua.

"Con đang chờ điện thoại gọi đến".

Đây là một lời nhắc nhở tế nhị rằng bà thẩm phán kỳ cục - người đưa ra phán quyết quyền nuôi con chung đã trao ngôi nhà cho Allison và Eđie. Vì vậy điện thoại cũng thuộc về bọn trẻ - có phải đó là suy nghĩ của Allison không.

"Mẹ không nghĩ rằng bố mẹ có thể nói chuyện lâu được đâu" Rosie cam đoan.

Allison đóng cửa phòng ngủ không nói gì thêm.

Rosie trả lời điện thoại ở trong bếp vì cô cho rằng đây là nơi ít bị nghe trộm nhất. Cô hít một hơi thật sâu trước khi cầm ống nghe. "Alô" cô nói rất vui vẻ.

Cô muốn tạo cho anh cảm giác là cô đang rất vui và cuộc gọi của anh là một sự gián đoạn.

"Tôi Zach đây" anh nói bằng một giọng kiên quyết. "Tôi nghĩ rằng cô sẽ muốn biết cô có bạn trai gọi tới".

Bạn trai của cô? Đây hoàn toàn là một tin mới mẻ với Rosie. À chắc hẳn anh ấy muốn nói tới Bruce. Lạy Chúa, cô mới chỉ gặp anh ta buổi tối hôm đó. Chỉ một lần đó cũng để cả hai nhận ra rằng điểm chung duy nhất giữa hai người là sự mất mát.

Họ vẫn rất thân mật và thỉnh thoảng có trò chuyện với nhau, nhưng tất cả chỉ có vậy.

"Tôi nghĩ cô nên biết điều đó" Anh lại lặp lại.

"Tôi xin lỗi nếu cuộc gọi đó làm phiền anh" Rosie nói, cố tỏ ra nhẹ nhàng.

"Chắc là anh ấy quên tối nay tôi không có nhà" Cô cố ý tỏ ra cho Zach nghĩ rằng cô và Bruce thường xuyên gặp nhau.

"Anh ta có thường gọi không?". Zach gặng hỏi, và chợt ngừng lại. "Không sao, tôi không có quyền hỏi như vậy".

"Đúng, anh không có quyền" Cô cảm thấy hả hê khi nói ra điều đó. "Cám ơn đã cho tôi biết. Tôi sẽ gọi lại cho Bruce ngay đây".

"Trước khi gác máy, chúng ta có thể nói chuyện một chút được không?", anh hỏi," chỉ một lát thôi".

"Được, nhưng tôi đã hứa với Allison là không giữ máy lâu vì con bé đang chờ điện thoại".

"Nó thì lúc nào cũng chờ điện thoại" Zach làu bàu. "Mấy ngày hôm nay hai mẹ con có vui vẻ với nhau không?".

"Rất tốt, tại sao anh lại hỏi như vậy?". Nếu Rosie và Allison mỗi người ở một góc thì cũng không cần thiết phải cho Zach biết điều đó.

"Con bé không nói gì với tôi mà luôn tỏ thái độ bướng bỉnh" anh miễn cưỡng thú nhận.

Rosie nhận thấy điều này chắc phải rất khó khăn với anh vì Zach và Allison đã luôn rất thân thiết với nhau. "Tôi rất tiếc khi biết điều này".

"Gần đây mấy giờ cô đi làm về?", anh hỏi.

"Vẫn như mọi khi, khoảng năm giờ, thỉnh thoảng thì năm rưỡi. Tuỳ thuộc vào việc tôi dạy thay cho ai. Điều gì khiến anh phải hỏi như vậy?".

"Allison về nhà lúc nào? Hai rưỡi à?".

"Có lẽ thế" Những hoạt động sau giờ học của con gái họ đã giảm dần sau khi họ ly hôn. Gần đây con bé đã bỏ bóng chuyền, một môn thể thao mà nó từng yêu thích. Allison cũng quyết định không tham gia vào câu lạc bộ kịch. Điều này khiến Rosie rất thất vọng vì cô vẫn tin Allison thực sự có năng khiếu, nhưng không ai có thể khiến con bé thay đổi quyết định của mình.

"Tôi nghĩ Allison có quá nhiều thời gian tự do một mình".

"Tôi cũng nghĩ vậy" Rosie không còn đóng kịch nữa. Cô đang hết sức lo lắng về con gái, đặc biệt là những gì có thể xảy ra giữa con bé và cậu bạn trai.

May mắn là hai tuần qua không thấy bóng dáng Ryan đến nhà, nhưng điều đó không có nghĩa là cậu ta không đến. Vì trường học của Eđie tan lúc gần bốn giờ. Allison có thừa cơ hội để gặp Ryan mà không ai có thể biết nó đi đâu, với ai. Ý nghĩ đó khiến Rosie đau đầu.

"Chúng ta phải làm gì?", cô hỏi Zach.

"Cô có cách gì không?".

"Không có cách gì hết". Cô thú nhận.

"Tôi cũng vậy".

"Tôi cho rằng chúng ta phải nói chuyện nhiều với nhau về vấn đề này" Rosie nói. "Xem có vạch ra được phương án nào không".

Zach đồng ý. "Tôi hỏi một chút nhé". Anh nói tiếp. "Cô và anh chàng Bruce có hợp nhau không?".

Cô đang định nhắc anh rằng việc cô hẹn hò với ai không cần anh phải bận tâm, nhưng cô lại thay đổi. "Chúng tôi khá hợp nhau".

"Thế bọn trẻ nghĩ thế nào về anh ta?".

"Tôi chưa giới thiệu anh ấy với bọn trẻ". Cô không có ý định làm vậy, vì cô không có ý định đi chơi với anh ấy lần thứ hai.

"Vậy à" Zach thốt lên. "Rosie, tôi muốn cô biết rằng tôi thực sự chúc cô và Bruce hạnh phúc. Tôi nói điều này một cách chân thành".

Rosie như muốn khóc và cô cố gắng giữ niềm kiêu hãnh của mình. "Cám ơn anh" cô lí nhí. "Nếu Janice mang lại hạnh phúc cho anh, thì đó cũng là điều tôi mong muốn".

Cả hai đều im lặng khoảng nửa phút.

"Việc quan trọng nhất đối với tôi bây giờ là trở thành một người cha tốt với các con", Zach nói.

"Các con đối với tôi bây giờ cũng là điều quan trọng nhất" cô nói với anh.

Nhưng khi cô gác máy, Rosie phân vân tự hỏi liệu có phải trước hết sự thất bại trong vai trò của một người vợ, người mẹ đã đưa cô đến tình thế này không?

Cha xứ Dave Flemming có ý định chơi một trận gôn trước khi những cơn mưa tháng mười một ập đến. Thông thường thứ hai là ngày ông rảnh rỗi, và ông đã thu xếp để tận dụng đợt nắng thu cuối cùng này. Ông bước chân lên thảm cỏ xanh mướt ở sân gôn McDougal Woods và thật ngạc nhiên khi ông gặp Bob Beldon. Bob và vợ anh, Peggy gần đây đã đến dự lễ ở nhà thờ Hội giáo lý vịnh Cedar. Peggy dạy một lớp học vào chủ nhật cho nhà thờ và Bob đã đồng ý huấn luyện cho đội bóng rõ thiếu niên. Dave rất thích Bob, còn Peggy là một đầu bếp cừ nhất mà ông được biết. Buổi lễ nhà thờ gần đây nhất chị đã mang đến món đào trộn đường, và nó đã trở thành món ăn ngon nhất của ngày hôm đó.

"Cha đang tìm người chơi cùng sao?", Bob hỏi.

"Đúng vậy". Dave niềm nở nói, ông hoan nghênh tất cả những người cùng chơi với mình.

Họ bắt đầu phát bóng từ cọc thứ nhất, sau đó nhảy lên xe.

"Thực sự không phải tình cờ mà Cha và con gặp nhau ở đây chiều nay" Bob thú nhận. "Con gọi đến nhà thờ và thư ký của Cha nói là Cha sẽ đến đây".

Vẫn không dừng lại, Dave với lấy cây gậy có đầu bịt sắt. "Con đang có chuyện gì sao?".

"Đúng vậy Cha ạ".

Nhìn chằm chằm sang Bob, Dave nhận thấy anh ta rất xanh xao với những quầng thâm dưới mắt. Kể từ lần gặp trước, Bob già đi trông thấy.

"Con hy vọng Cha có thể cho con vài lời khuyên".

"Ta sẽ làm hết sức mình".

Cú đánh hếp theo của Bob bị chệch lên cây. Anh lầm bầm:

"Con không giỏi môn này lắm".

Dave tỏ ra thông cảm. Ông cũng không phải là một người giỏi chơi gôn nhưng ông không bình luận gì, ông để cho Bob có dịp nói ra những chất chứa trong lòng.

Đến tận khi đánh lỗ thứ tư Bob mới nói tiếp. "Con đã liên tiếp có những cơn ác mộng suốt ba mươi năm kể từ khi con quay về từ Việt Nam".

Dave đứng gần chiếc xe chở gậy gôn. "Đây có phải điều mà con muốn bàn luận không?".

Bob gật đầu và tựa mạnh vào xe. "Những sự kiện trong giấc mơ thực sự đã xảy ra ... con cảm thấy hoảng sợ và kinh hoàng, một cảm giác sợ hãi đến tê liệt.

Con nghe thấy và nhìn thấy một cách chi tiết, sinh động. Con đã sống lại cảm giác đó".

Anh trèo lên xe chở gậy gôn và nhắm mắt. "Sau khi quay về từ Việt Nam, con mượn rượu để quên đi mọi chuyện" Giọng Bob nhỏ tới mức Dave phải cố hết sức mới nghe ra được.

"Vậy là con bắt đầu uống rượu?", ông hỏi lại để chắc chắn.

Bob gật đầu, mở mắt ra. "Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, con quay trở về với Peggy. Và chẳng bao lâu sau con gần như đã phá vỡ cuộc hôn nhân và cuộc sống của con bằng việc núp sau vỏ bọc là một kẻ nát rượu. Trong một vài năm, con dường như có thể quên đi quá khứ, nhưng sau đó ngay cả rượu cũng không giúp ích gì được nữa. Khi đó con đã xin vào Hội Những người cai rượu.

Và đó là lý do duy nhất khiến bây giờ con trở lại là một người tỉnh táo".

Dave bắt đầu quan tâm đến những lời Bob nói. Bob trông càng xanh xao hơn. "Ta có thể làm gì cho con?".

"Trong mười hai quy định của Hội Những người nghiện rượu muốn giấu tên, chúng con được yêu cầu phải bồi thường bất cứ lúc nào có thể. Con không thể xoá bỏ những gì đã xảy ra trong cuộc chiến ngày ấy. Peggy là người duy nhất biết tất cả các chi tiết, người duy nhất mà con kể lại. Dan có lẽ cũng đã nói gì đó với Grace trước khi anh ấy bỏ đi".

"Dan Sherman à?".

Bob lại gật đầu. "Chúng con đăng ký đi Việt Nam sau khi học hết trung học và đã cùng nhau trải qua mọi biến cố của cuộc chiến".

"Vậy là Dan Sherman cũng cùng đi với con trong cuộc đánh du kích?".

"Vâng" Bob che một tay lên mặt. "Con nghi rằng đây chính là lý do khiến anh ta tự sát. Có Chúa biết chính con cũng từng có ý định như vậy với mình, đặc biệt trong những ngày khi con còn nghiện rượu. Theo như con biết, rất nhiều người đã chọn lối thoát này. Con có thể hiểu được tâm trạng của họ".

"Ta không hề biết con và Dan đã là bạn thân của nhau".

"Bọn con chỉ chơi thân với nhau hồi còn đi học và trong chiến tranh thôi.

Sau chiến tranh, con và Peggy đã di chuyển tới rất nhiều nơi. Con làm thợ mộc ở những công trường xây dựng lớn. Chúng con mới quay trở về vịnh Cedar được sáu năm". Bob tựa người ra sau ghế và tay anh xoay tròn theo bánh lái.

Anh nhìn phía xa xăm. "Con không muốn việc này tạo gánh nặng cho Cha, nhưng con cho rằng con có một số rắc rối ở đây".

"Ta không coi đó là gánh nặng" Dave cam đoan với anh. "Cứ nói xem ta có thể giúp được gì cho con không".

Tay Bob nắm chặt bánh lái. "Con cần biết con nên làm gì?".

"Về những việc xảy ra trong chiến tranh?".

"Vâng ... và Dan nữa".

"Vào thời điểm này chúng ta không làm được gì cho Dan" Có lẽ Bob đang nghĩ bằng cách nào đó anh nên giúp Grace, nhưng Dave lại không nghĩ là Bob có thể giúp được gì cho cô.

Bob lắc đầu. "Con biết, con biết ...".

Có điều gì đó mà Bob không nói ra, anh đang cố giữ nó lại. Dave quyết định không dò hỏi. Bob sẽ nói cho ông nghe khi nào anh ta thấy sẵn sàng.

"Con đã kể cho Cha việc đôi lúc khi con bị mộng du hay chưa, con đã đi ra khỏi giường và đi xung quanh nhà. Vài năm trước đây, Peggy còn thấy con chuẩn bị đi ra ngoài. Lúc đó con vẫn đang mặc pijama và tay cầm chìa khoá xe trong khi con hoàn toàn đang ngủ".

Dave gật đầu, hy vọng việc mình không bình luận gì sẽ khuyên khích Bob nói tiếp. Có nhiều chi tiết trong những chuyện Bob kể khiến Dave nghi ngờ là đã có chuyện không hay nào đó xảy ra, bắt đầu bằng việc anh ta nói về giấc mơ, mặc dù điều này hiển nhiên gắn liền với cuộc chiến tranh xảy ra ở Việt Nam.

Bob gục mặt vào tay. "Con đã đánh peggy khi cô ấy cố gắng ngăn con đi ra khỏi nhà. Con thề có Chúa con không hề biết những gì con đã làm".

"Ta biết chắc những điều đó là thật" Dave đáp lại nỗi đau đớn của Bob.

"Trong trạng thái mộng du, con hoàn toàn không ý thức được hành động của mình mà".

Sau một khoảng lặng dài, Bob hạ thấp giọng và thì thầm. "Con đã gặp ác mộng trong đêm xảy ra cơn bão to, khi John Doe đến" Hàm anh nghiến chặt và Dave nhận thấy các cơ trên mặt anh ta co giật.

"Con có mộng du không?".

Khuôn mặt Bob biến dạng. "Con không biết. Peggy cũng không nghĩ vậy, nhưng sáng hôm sau cả hai chúng con đều cảm thấy mệt mỏi và cô ấy không chắc".

Mọi rắc rối bắt đầu sáng tỏ. "Con có nghĩ con có liên quan tới cái chết của người đàn ông đó à?".

Bob im lặng lâu tới mức Dave phân vân không biết Bob có nghe thấy mình không. "Bob?".

"Con không biết" anh trả lời sau một hồi suy nghĩ. "Có vẻ không phải như vậy nhưng ...". Anh bỏ lơ lửng câu trả lời.

"Cảnh sát đã hỏi con chưa?".

"Họ đã hỏi ngay từ đầu và sau một thời gian ngắn cũng hỏi lại con về điều này. Nhưng con nghĩ họ sẽ còn nói chuyện với con nữa".

Dave không hỏi tại sao anh ta lại có suy nghĩ đó "Con đang lo lắng về những gì mà họ có thể tìm ra?".

"Con không hề biết chuyện gì đã xảy ra vào đêm hôm đó. Nhưng cũng không hẳn là không biết. Con băn khoăn về việc Dan tự sát - và sự thực là người lạ mặt đó trông ... rất quen".

"Quen? Ý con là như thế nào?".

Bob ngoảnh đầu và nhìn vào đường lăn bóng. "Con cứ có cảm giác là con biết anh ta. Con đã cố gắng nhiều lần nhưng không thể nào nhớ ra một cái tên cho gương mặt đó".

"Con đã trình bày việc này cho Roy McAfee chưa?". Dave hỏi.

Bob quay lại và bắt gặp ánh mắt Cha. Dave nhận thấy Bob rất ngạc nhiên khi nghe lời gợi ý của ông.

"Cha nghĩ rằng con nên nói chuyện với Roy à? Tại sao con phải làm như vậy?".

"Roy từng là một cảnh sát" Dave nói. "Anh ta có thể cho con những lời khuyên tốt hơn ta rất nhiều về việc cảnh sát có thể tìm kiếm những gì. Nếu con có liên quan tới cái chết này, Roy có thể tứ vấn giúp con và có thể tìm cho con luật sư".

Vai của Bob chùng hẳn xuống. "Cha thực sự nghĩ anh ta có thể giúp con sao?".

"Cha thực sự nghĩ như vậy" Dave nói. Ông đẩy chiếc xe chở gậy bên cạnh Bob. "Nhưng còn một điều khác mà chúng ta có thể làm được".

"Điều gì thưa Cha?".

"Chúng ta có thể cầu nguyện".

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top