Chuyen xua-Lenghiabk05

Cân lòng chai rượu nuốt người... lao đao

NGUYỄN THỊ KHANH   -

Thứ Sáu, 16/08/2013, 10:8 (GMT+7)

“Nắm xôi nuốt trẻ lên mười

Con gà chai rượu nuốt người lao đao

(Ca dao)

Ông Trần Ninh Thuỵ kính mến!

Tôi là Nguyễn Thị Khanh, nguyên thẩm phán một toà án cấp huyện, nghỉ hưu đã rất lâu. Nhân đọc loạt bài “Bi hài thời bao cấp” của ông trên Báo NNVN, thấy hay hay, nên tôi xin kể lại một câu chuyện cũng đủ cả “bi” lẫn “hài”, xảy ra trong một phiên toà do chính tôi là Chủ toạ Hội đồng xét xử (HĐXX), để ông đăng báo. Tên của câu chuyện tuỳ ông đặt. Chuyện thế này:

Thời kỳ đó, xã Ninh Du có một tay chuyên giết lợn lậu là Nguyễn Đức Thiền. Cứ dăm bữa hay nửa tháng hắn lại “xài” một con, nhỏ thì ba bốn chục, lớn đến sáu bảy chục cân. Thịt được tuồn cho các hàng phở, hàng ăn trên thị xã và bán lén lút trong dân.

Địa điểm hành nghề của Thiền là bờ sông Hoá. Từ làng, phải qua đê, qua một cánh đồng hoang hoá rất rộng, không một bóng người rồi mới đến bờ sông. Bờ sông cũng rất rậm rạp. Mua được lợn (tất nhiên là mua lậu), hắn giấu một chỗ, rồi cứ khoảng hai ba giờ sáng thì hành sự.

Thiền chỉ mổ lợn lậu một mình, tuyệt không cho vợ con dính vào. Lý lịch của hắn, có thể tóm tắt như sau: Một vợ, sáu con. Từng là lính trinh sát, ra vào đồn giặc như đi chơi, bơi lặn cực giỏi, dân làng gọi hắn là “Thiền rái cá”, cũng vì cái tài bơi lặn ấy.

Kế hoạch vây bắt quả tang Nguyễn Đức Thiền vi phạm pháp luật đã nhiều lần được Công an huyện triển khai. Mỗi lần tổ chức, công an thường mời lãnh đạo xã xuống để thống nhất phương án. Phương án hành động được giữ rất bí mật. Ngoài mấy cán bộ chủ chốt của xã, thì ngay cả xã đội trưởng, trưởng công an xã cũng không biết.

Chỉ trước giờ hành động vài chục phút, họ mới được lệnh điều quân. Nhưng kỳ lạ thay, hơn một lần các mũi vây bắt tiến đến bờ sông đều không thấy bóng dáng Thiền đâu, nghĩa là hôm ấy hắn không mổ, dù trinh sát biết chắc hắn đã mua được lợn.

Có 2 lần thấy hắn đang mổ lợn nhưng dường như hắn đã đề phòng sẵn. Thoáng thấy động, chỉ một vài tích tắc hắn đã tống được tất cả thịt thà, lòng mề xương xẩu vào bao, xách bao nhảy ùm xuống sông Hoá, lặn mất tăm mất tích.

Nhận định rất có thể Thiền có “nội gián” là một trong mấy anh cán bộ chủ chốt của xã, và được báo trước mỗi lần công an có kế hoạch vây bắt, nên Công an huyện quyết định tự mình hành động, không qua xã nữa.

Kế hoạch được xây dựng rất chu đáo. Nhất động nhất tĩnh của Thiền đều được trinh sát nắm chắc. Để vô hiệu hoá tài bơi lặn của Thiền, mấy chiến sĩ được lệnh giả làm những người đi thuyền nan đánh cá đêm trên sông, chờ giờ “G” là nhất tề hành động.

Hoàn toàn bất ngờ, tuy tống được tất cả tang vật vào bao, rồi nhảy xuống sông nhưng Nguyễn Đức Thiền lại bị “những người đánh cá đêm” bám sát. Mỗi cú lặn của Thiền kéo dài đến hai ba phút, lặn xa bốn năm mươi mét.

Nhưng đoán đúng hướng lặn của Thiền, nên hắn vừa nhô đầu lên lấy hơi thì đã thấy thuyền của công an ngay cạnh. Sau năm cú lặn, kiệt sức, Thiền đành thúc thủ, chịu bị bắt cùng cả bao tang vật. Lên đến bờ, hắn năn nỉ:

- Tội con làm thì con chịu. Nhưng xin các ông thương tình, cho con cắt lại một tý cho vợ con. Khổ, tiếng là vi phạm pháp luật, nhưng mà giết mỗi con lợn lãi được mươi đồng. Nhà 8 miệng ăn, cũng chỉ đủ mua gạo, chứ vợ con con có mấy khi được miếng thịt đâu.

Sau khi hội ý và xin ý kiến lãnh đạo Công an huyện, đề nghị của Thiền được chấp nhận. Bao tang vật được mở ra, Thiền được phép cắt cho vợ con hắn 2 kg thịt, 1 kg lòng. Số tang vật còn lại được kiểm kê, lập biên bản rồi được chuyển cho cửa hàng thực phẩm huyện. Thiền bị khởi tố, tạm giam để phục vụ điều tra.

Khi cáo trạng cùng toàn bộ hồ sơ vụ án được Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) huyện chuyển sang Toà án huyện, tôi được phân công thụ lý và là Chủ toạ HĐXX. Hồi ấy chưa có Bộ luật Hình sự (năm 1985, Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta mới ra đời) nên VKS truy tố, toà xét xử và lượng hình đều căn cứ vào các pháp lệnh.

Phiên toà được mở tại sân UBND xã, có rất đông người dự. Tại toà, Nguyễn Đức Thiền khai nhận rất thành khẩn, thừa nhận toàn bộ tội trạng như VKSND huyện đã truy tố. Thiền trình bày, do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn. Sau khi sinh đứa con thứ 6, vợ hắn bị hậu sản, kiệt quệ không làm ăn gì được.

Sáu đứa con, đứa lớn nhất 12 tuổi, đứa út mới 3 tuổi. Một mình hắn quần quật từ sáng chí tối không đủ gạo cho 8 miệng ăn, quẫn quá hoá liều, hắn mới nhắm mắt đưa chân vào con đường làm ăn phi pháp. Nay phải trả giá trước toà, hắn đã nhận thức rõ tội lỗi của mình và vô cùng ân hận.

Không có luật sư bào chữa, Thiền lại khai và nhận toàn bộ tội lỗi nên sau khi đại diện VKSND huyện giữ quyền công tố tại toà trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án, phần tranh tụng được bỏ qua.

Được nói lời cuối cùng, Thiền xin HĐXX cho hắn được hưởng án treo để có điều kiện nuôi vợ con, vì “nếu toà mà bắt con ngồi tù, thì con chỉ còn cách giả lại vợ với 6 đứa con cho Nhà nước, không thì chúng nó chết đói”.

Rồi quay về phía ông Chủ tịch UBND xã đang ngồi gần đó trong đám người dự khán, hắn bỗng gào rất to:

- Ối ông chủ tịch ơi là ông chủ tịch. Sao ông không nói hộ con một lời. Chính ông đã ra lệnh cho con “mỗi con lợn, mày phải mang cho tao một cân lòng với một chai rượu”. Con đã làm đúng lời ông, mổ con lợn nào con cũng mang đến. Lòng con bán cho người ta, mỗi cân đến 8 lạng dồi. Còn cân của ông thì toàn tim gan phèo phổi, chỉ có đoạn dồi bằng gang tay. Thế mà giờ ông nỡ ngồi nhìn con tù tội ư?

Cả HĐXX, đại diện VKS cũng như người dự khán đều hết sức ngỡ ngàng. Ông chủ tịch xã tái mét mặt. Ngây ra một lát rồi lập cập đứng lên, ông chuồn khỏi nơi xét xử. Nhận thấy đây có thể là một tình tiết mới mà nếu bỏ qua thì việc xét xử sẽ thiếu toàn diện, tôi quyết định cho dừng phiên toà, trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.

Kết quả điều tra bổ sung đã chứng tỏ điều Nguyễn Đức Thiền nói là có căn cứ. Trong một thời gian khá dài, hành vi vi phạm pháp luật của hắn đã được ông chủ tịch “bảo kê” để đổi lấy mỗi con lợn cân lòng, chai rượu. Cuối cùng, ông chủ tịch xã mất chức, bị khai trừ Đảng còn Thiền phải nhận 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo.

Hà Nội thời bao cấpCông cuộc Đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã và đang đem lại cuộc sống ấm no cho hàng triệu người dân Việt Nam. Thế hệ 8x hôm nay khó có thể biết thời kỳ đó, bố mẹ ông bà và toàn xã hội đã phải trải qua những khó khăn như thế nào.

Theo góc nhìn ngày hôm nay, thời bao cấp có những khó khăn, vất vả của những buổi xếp hàng mua lương thực, mua thực phẩm Tết, chuyện tàu xe, chiếu bóng... Bao cấp cũng có thể trở thành những câu chuyện bi hài mà người ta kể cho nhau ngày hôm nay. Nỗi lo vật chất đã có lúc, có nơi chiếm trọn suy nghĩ của nhiều người.

Một thời kỳ bao cấp qua 20 năm đã trở lại trong tiềm thức của những người đến xem triển lãm "Hà Nội thời bao cấp" tại bảo tàng Dân tộc học. Những tái hiện của cuộc trưng bày là bài học đầy ý nghĩa cho tuổi trẻ - thế hệ tương lai của đất nước. Ảnh của Phan Lê Tùng.

Ký ức Tết một thời gian khó.Điều lo lắng nhất của mỗi gia đình khi Tết đến gần là làm sao mua được hết các tiêu chuẩn gạo, thịt và “tiêu chuẩn Tết”. Tiêu chuẩn Tết cũng chẳng có gì nhiều: một hộp mứt thập cẩm đồng loạt cho cả nước, đựng trong cái hộp bìa mỏng manh xấu xí, vài lạng đậu xanh để gói bánh chưng, hình như mỗi người được thêm lạng thịt và cuối cùng là một bánh pháo tép. Xếp hàng ở các ở các loại cửa hàng khác nhau mua cho hết các tiêu chuẩn là nỗi lo lắng đầu tiên và lớn nhất của mỗi gia đình khi Tết đến.

Bánh chưng là nỗi lo lắng thứ hai. Bánh chưng hồi đó rất quan trọng, là một món ăn ngon được chờ đón và là chủ lực trong mấy ngày Tết. Khách đến chơi cũng mang bánh chưng ra mời và nhà nào “có khả năng” (từ chỉ nhà giàu) gói được cái bánh chưng ngon, nhiều đậu, thịt thì rất tự hào và là chủ đề bàn tán cho bạn bè, khách khứa trong nhiều ngày sau đó. Hồi đó không có ai làm bánh chưng để bán và một gia đình thì cũng không thể làm cả một nồi bánh chưng. Vì vậy thường là mấy gia đình chung nhau luộc một nồi bánh chưng. Bánh nhà ai nhà nấy gói, đánh dấu riêng, chiều 29 mang đến một nhà có sân, có một cái nồi to (hoặc mượn ở đâu đó), bắc bếp củi lên nấu và thay nhau canh suốt đêm, đến sáng hôm sau thì chín. Mãi sau này, khi "kinh tế thị trường" bắt đầu phát triển, mới có các cửa hàng bán nước sôi nhận luộc bánh chưng thuê vì họ có sẵn nồi và bếp than. Bây giờ chắc nhiều bạn trẻ không thể hình dung ra được những cửa hàng bán nước sôi, nơi có một bếp than và cái nồi nước sôi sùng sục suốt ngày có vòi ở dưới, khi cần bạn có thể xách phích ra mua một phích nước sôi về dùng.

Vì thế mà bận rộn nhất mấy ngày giáp Tết là chuẩn bị gói bánh chưng. Mua lá dong, rửa lá, thái thịt rồi ướp nước mắm, hạt tiêu, ngâm và đãi đậu xanh. Tôi đã từng có những buổi sáng ngồi còng lưng đãi đậu xanh cho thật sạch vỏ, rồi lại ngồi gói. Bao giờ cuối cùng cũng vét chỗ gạo, thịt đậu còn sót làm một hai cái bánh dậm nho nhỏ để ăn ngay sau khi vớt từ nồi ra (các bánh to phải để cúng, không được ăn).

Ngoài tiêu chuẩn Tết chính thức của nhà nước cho, các cơ quan bao giờ cũng cố gắng lo thêm cái gì đó cho cán bộ, nhân viên. Phòng Hành chính hoặc phòng Đời sống (có cơ quan có hẳn thứ phòng này chuyên lo tìm kiếm mua bán các loại hàng hóa quanh năm) tỏa đi khắp nơi, liên hệ với mọi mối quan hệ để mua lợn, bò, gạo nếp, thuốc lá. Tôi nhớ có năm, cơ quan lo được cho mỗi phòng một con lợn sống. Ngày 29 Tết cả cơ quan nhộn nhịp chọc tiết làm thịt lợn. Lợn làm xong được chia ra thành từng phần theo số người trong phòng, cả thịt, xương phải tương đối đều. Sau đó bắt thăm cho công bằng, phần ai người đó bỏ vào túi nilông, lòng lợn và tiết canh thì làm bữa liên hoan cuối năm. Không khí rất nhộn nhịp vui vẻ và đầm ấm khác hẳn không khí cơ quan bây giờ mặc dù lĩnh thưởng Tết tiền triệu. Đến lúc chia tay, xe đạp người nào cũng đeo lỉnh kỉnh túi thịt, túi gạo ra về.

Một việc nữa cũng quan trọng, phải lo là chuẩn bị cái xe đạp để đi chơi Tết. Thanh niên ngày ấy hầu như ai cũng biết sửa xe đạp. Trước mấy ngày Tết, ngả cái xe ra, tháo tung các ổ bi, rửa dầu hỏa sạch sẽ rồi lắp vào, bôi đầy mỡ mới. Nan hoa, ốc vít được kiểm tra, siết chặt lại kỹ lưỡng. Xích thì tăng lên cho nó khỏi chùng. Các thứ hỏng hóc khác cũng được sửa kỳ hết. Sau đó lau sạch sẽ toàn bộ xe, cái khung xe bằng sắt đã long sơn và rỉ hoen thì chỉ có mỗi cách là dùng dầu hỏa lau, trông nó cũng bong bóng lên một ít. Cái xe hồi đó là cả một tài sản và công cụ không thể thiếu nên được chăm sóc hết sức kỹ lưỡng. Có người "đi làm nhà nước" gần hết đời mới được tiêu chuẩn mua một cái xe đạp mà phải qua một đợt bình bầu, xem xét rất kỹ lưỡng.

Cả Hà nội hồi đó chỉ có một chợ hoa hàng Lược. Nhà nào cũng cố mua lấy hai cành đào: cành to thì cắm ở chỗ tiếp khách, cành nhỏ cắm trên bàn thờ. Chiều 30, đàn ông con trai thì lo dọn dẹp lau nhà cửa (được cái nhà hồi đó cũng hẹp chỉ 20m2 là to nên dọn cũng nhanh), phụ nữ thì lo làm cỗ cúng. Hai mâm cỗ cúng tối 30 và sáng mùng một không bao giờ bỏ được.

Tiêu chuẩn vải cả năm hình như chỉ mỗi người 5 mét. Vì vậy thanh niên bao giờ cũng để dành đến Tết mới bắt đầu diện. Tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác sau khi dọn dẹp nhà cửa xong xuôi, bắt tay vào là bộ "củ" (từ dùng để gọi bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất). Chắc chắn là chúng tôi là cẩn thận, nâng niu và mất thì giờ hơn bây giờ nhiều. Cái quần kaki thôi nhưng phẳng lỳ, ly quần sắc như dao cạo! Những cái bàn là thời Pháp cũ, băng sắt nặng chình chịch, rải vỏ chăn ra để quần áo lên trên mà là, không có cầu là như bây giờ. Đôi dép nhựa Tiền phong nếu được mua trong năm cũng phải để dành đến Tết, còn nếu không trước Tết phải kiểm tra lại, gia cố những chỗ sắp bị đứt. Hà nội có hồi nở rộ các hàng chuyên hàn dán dép nhựa, đồng phục của cả nước (trước đó thì là dép cao su). Giầy thì chỉ có cán bộ cao cấp, ngoại giao hoặc những anh đi Tây về mới có.

Phải nói là cái thời gian khổ ấy lại có rất nhiều cảm giác sung sướng. Vì thiếu thốn mọi thứ nên khi có được cái gì là sướng đến hàng tháng!!! Cái bữa ăn tối ba mươi được cả nhà hồi hộp chờ đón và ăn rất ngon lành. Vì quanh năm ăn uống có gì đâu, thiếu chất nên cảm giác đói triền miên. Ngồi trước một mâm cỗ có thịt gà rán, thịt gà luộc, bánh chưng, bát bóng, bát măng, trẻ con người lớn mặt mày đều rạng rỡ. Đến giờ, ngay cả khi dự những bữa tiệc rất thịnh soạn và đắt tiền trong các khách sạn 5 sao, tôi không bao giờ có được cảm giác ăn ngon như ngày ấy nữa. Phần do tuổi tác nhưng tôi chắc các bạn trẻ bây giờ cũng không có được cảm giác ăn ngon như chúng tôi ngày xưa trong một bữa cỗ.

Cái cảm giác sung sướng nữa mà tôi còn nhớ là khi ăn xong bắt đầu đóng bộ đi chơi. Khoác cái áo sơ mi vải pôpơlin, cái quần kaki mới là xong hồi chiều,... vào thấy người khác hẳn, "nhớn" hẳn lên, đẹp trai hẳn lên, tự tin hẳn lên nhưng đi đứng thì rón rén vì sợ làm mất nếp quần áo! Bây giờ, mặc cái sơ mi Pierre Cardin 500 000đ, bộ comple gần chục triệu cũng thờ ơ không sướng được như hồi ấy.

Cả Hà nội tối ba mươi đổ về quanh hồ Hoàn kiếm là chỗ đi chơi duy nhất. Pháo nỗ râm ran suốt từ 7,8 giờ tối. Tiếng pháo nổ và mùi khói pháo cùng với mùi hương là những cái tạo nên không khí đặc thù ngày Tết chắc chắn sẽ phải khôi phục lại. Không có tục hái lộc nên cây cối không bị phá phách như bây giờ. Cũng không có ca nhạc, hàng quán gì quanh hồ, chỉ đi và ngắm nhau thôi. Mà cũng có gì lạ để ngắm đâu. Quần áo, giấy dép, xe cộ hầu như mọi người đều giống nhau chỉ có vài ba loại. Vì Hà nội thời đó vắng nên tuy người đổ về đông nhưng gửi xe, đi dạo cũng không chen chúc, chật chội gì.

Ba ngày Tết chỉ đi thăm nhau là chính. Mồng một là họ hàng, các ngày sau là bạn bè. Tuyệt đối không có lệ biếu xén trước Tết (mà cũng chẳng xoay đâu ra cái gì mà biếu). Đi chơi thăm hỏi nhau cũng thoải mái đầu óc vì cả nước hoàn cảnh sống như nhau, chẳng phải đố kỵ, tủi hờn gì trước cảnh thành đạt, giàu sang của người khác.

Ngày đầu tiên đi làm cũng dành chúc Tết và kéo nhau cả phòng đi thăm từng nhà một. Mà toàn đi bằng xe đạp. Có bao thuốc Tam đảo được phân phối trước Tết cũng để dành nguyên trên bàn thờ để sau Tết tiếp khách cơ quan. Tình cảm đồng nghiệp trong sáng vô tư, giúp được gì nhau là giúp. Vì hồi ấy, trưởng phòng cũng không hơn nhân viên được bao nhiêu, vị trí nào trong cơ quan thì cũng hưởng lương như nhau chẳng có lộc lá gì. Do đó mà âm mưu, thủ đoạn, đố kỵ, tranh giành không có đất mà phát triển. Những chuyện lặt vặt thì tất nhiên là có, nhưng không có những vụ dữ dội như bây giờ.

Tôi còn có một kỷ niệm sâu sắc về Tết những năm chiến tranh. Hồi đó các trường đại học sơ tán về nông thôn. Tôi không ở nhà tập thể của lớp mà tìm vào trong xóm xin ở nhờ nhà một người dân. Cần phải nói rõ "ở nhờ" đây đúng nghĩa là "nhờ": không tiền nong, quà cáp gì hết, chỉ có tấm lòng người dân thương "các chú sinh viên" mà thôi. Gia đình tôi ở nhờ có đến tám người con mà cũng đâu có rộng rãi gì. Một ngôi nhà tranh ba gian hai trái nhỏ nhỏ. Họ dồn cả nhà lại nhường cho tôi một gian.

Tết năm đấy sau khi ăn Tết ở nhà lên, tôi được liên hoan với cả nhà một bữa. Bác chủ nhà trịnh trọng vào trong buồng bê ra một liễn mỡ, lấy đũa móc từ trong đó ra một miếng thịt đã rán chín khoảng nửa lạng và bảo: "Để phần chú suốt từ trong Tết đấy. Phải ngâm vào đây mới giữ được". Mà đã nói phần chú là của chú. Suôt bữa cơm tôi không sao bảo được bọn trẻ con ăn lấy một miếng. Bạn phải biết là dân thành phố thì còn có tiêu chuẩn thịt hàng tháng, nông thôn tuyệt đối không. Chất đạm hàng ngày của họ là con cá, con tôm bắt được trong ao, trong ruộng (không ai nuôi tôm, cá như bây giờ). Nhà có nuôi gà cũng chỉ dám giết thịt vào ngày giỗ. Cái miếng thịt lợn để phần tôi suốt hai tuần tôi nghỉ Tết ấy trích từ tiêu chuẩn của cả nhà, đến Tết hợp tác xã mổ lợn tập thể chia cho, phần rán lấy mỡ để dành cho cả năm, phần để ăn chắc cũng chỉ được hai bữa Tết. Mà nhà họ tám đứa con lít nhít, thiếu ăn, gầy còm. Miếng thịt nhỏ bé, bình thường ấy nặng hơn cả núi.

Còn nhiều những chuyện khác đại loại như thế làm cho tôi, một người Hà nội gốc, các cụ đã nhiều đời ở Hà nội, đến bây giờ vẫn giữ trong tâm khảm sự kính trọng vô bờ bến với những người nông dân chân chất, hiền lành nhưng có một nhân cách và tình người không gì sánh được.Kể lể chuyện ngày xưa như vậy, không có nghĩa là tôi bảo bây giờ toàn những điều xấu xa cả đâu. Gần đây, tôi có một việc liên quan đến nhiều người giải quyết. Và tôi đã sửng sốt khi phát hiện ra rằng giữa cái thời buổi đồng tiền ngự trị khắp nơi này vẫn còn khá nhiều người tốt, sống và làm việc theo lương tâm. Cái tốt bây giờ khó khăn hơn cái tốt ngày xưa, nhất là với giới công chức: vì làm điều tốt bạn có thể phải chịu tai tiếng oan, gánh nhiều điều phiền toái, bị mất nguồn thu nhập,.v.v. và v.v

Thời bao cấp đã sản sinh ra nhiều từ và cụm từ cũng như câu khẩu hiệu mà giờ đây không còn thấy sử dụng nữa. Xin đơn cử một vài ví dụ..

Từ "con phe” hay "làm nghề phe phẩy” dùng để chỉ những người mua lại những mặt hàng của người được cung cấp theo tem phiếu hay chế độ phân phối để bán lại kiếm lời.

Những người này bị mọi người khinh bỉ, mặc dù họ kiếm được nhiều tiền. Thời tôi đi học phổ thông, có bạn trong lớp có mẹ là... "con phe" bị các bạn trong lớp chế giễu đến mức uống thuốc ngủ tự tử.

Cụm từ "móc ngoặc" được dùng khá phổ biến thời bao cấp được dùng để chỉ sự cấu kết của hai cá nhân hay hai cơ quan nhằm một mục đích không chính đáng, hay vi phạm pháp luật. Các họa sĩ biếm thời đó hay vẽ hai người giơ hai bàn tay có ngón trỏ dài và cong móc vào nhau để minh hoạ cho sự "móc ngoặc".

Có câu chuyện vui kể về chuyện "móc ngoặc" của một ông bác sĩ và bệnh nhân: Ông bác sĩ kê đơn cho vị "bệnh nhân"... không hề ốm đau được nghỉ làm việc 10 ngày để anh ta đi chơi, với lời nhắn "Nhớ kiếm cho tớ vài lạng chè... móc câu (chè búp Thái Nguyên) nhé!”.Thời bao cấp, làm trong ngành thương nghiệp là nghề "có giá” nhất! Nghề thương nghiệp gắn liền với cụm từ "mậu dịch", nên người ta hay gọi "kem mậu dịch”, "phở mậu dịch”, “vải mậu dịch", v.v... để chỉ những thứ do thương nghiệp bán cung cấp theo tem phiếu hay "lệnh” của cấp trên.Ở các cửa hàng bách hóa thường có các khẩu hiệu như "Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi" nghe rất... hài hước, vì hàng được phân phối theo tem phiếu, không hề có sự lựa chọn nào khác. Trong cửa hàng bách hóa trưng bày rất nhiều hàng, nhưng bán rất ít, còn đa số là "hàng mẫu không bán”.Tuy treo khẩu hiệu "Cân đong, đo, đếm đầy đủ”, nhưng nếu có bị thiếu hụt, nhiều khách không dám thắc mắc, vì sợ bị nhớ mặt và lần sau sẽ bị gây khó dễ. Không những vậy, mấy cô "mậu dịch viên" mặt lạnh lùng hay cáu gắt thì làm sao có thể làm "vui lòng” và "vừa lòng” khách hàng được!

TẢN MẠN VỀ CHUYỆN ĂN UỐNG TRONG THỜI BAO CẤP

Từ những thế hệ sinh năm 1986 trở đi, những dấu vết về một thời bao cấp gian khó dường như đã dần phai nhạt. Tuy nhiên trong lòng những người Việt sinh ra trước thập niên 70, hình ảnh của giai đoạn bi tráng này vẫn còn thấm sâu trong ký ức, để hôm nay trỗi dậy, bão tố nhưng lại dịu dàng. mơ hồ như mới đến hôm qua.

Tôi là một người sinh vào năm 1976, cái mâm cơm ngày ấy cũng đã bắt đầu có những gì khởi sắc. le lói những gì đổi mới đằng xa. nghĩa là không còn những món bánh bo bo, cơm độn hay nắp hầm, đứa trẻ con đã bắt đầu được chiều cái quyền đòi thêm một miếng thịt lợn hay một bát phở lúc ốm đau.

Không biết những bạn trẻ ngày nay có thể hiểu và sẻ chia cái khó khăn qua cảm nhận trên thông tin đại chúng hay không. Những người lớn đã cố gắng gợi lại bằng những hoạt động về một thời bao cấp thiếu thốn, chưng ra những đồ đạc cũ, những hình ảnh về một xã hội đang trong thời kỳ bắt buộc phải chuyển mình trong những cơn dằn vặt.Và cứ như thế chúng ta, hai thế hệ bên hai bờ đổi mới, cứ cố gắng nhìn nhau qua sự trao đổi hai chiều, một bên là bếp dầu, xe đạp..., một bên là xe máy, bếp ga,..., họ cố tưởng tượng và hiểu nhau. Lúc này những vận động để tiếp thu và thâú hiểu cũng chính là một khó khăn thực sự.

Đọc qua những bài viết trên, của những người anh, người chị và cũng có thể là các em, trên cùng Diễn đàn Tứ Hải, tôi không có ý thêm thắt và ôm lấy toàn bộ một vấn đề hay cố gắng đưa ra một chủ thuyết mà chỉ muốn nói một chút thoáng qua về một khía cạnh thời bao cấp: Ăn uống.

Thật ý nghĩa khi một ngày mưa, ngồi với chúng bạn ở đó đây, ngày quốc tế lao động, có thể ở Hồ Tây, ở công viên, hay cửa ô Quan Chưởng, cùng ôn lại, cùng bạn bè thưởng thức lại những món ăn của một thời kỳ đã qua, một thời hàn vi nghèo khó.

Nói về thực phẩm thời bao cấp, đó là những món ăn từ bất cứ thứ gì, những cây nhà lá vườn, qua bàn tay người phụ nữ đảm đang khéo léo đã thành những bữa cơm nuôi sống chúng ta, những đứa trẻ.

Đó là những lạc rang muối, thầu dầu nấu dưa, bì trâu xào muống, hoa chuối trộn trai hay dưa xào tóp mỡ.v.v..., tất cả đều đơn giản nhưng đậm đà biết bao!

Xa hơn nữa đó là những con cua, cá cờ hay rắn nước quấn que nướng những ngày chủ nhật cha tôi tát được, rồi những con ốc âm tháng tám để chị tôi rủ chúng bạn quây quần những chiều thứ bảy. Rồi đó là những miếng chả nhái, chẫu chuộc tẩm bột rán thơm lừng, là kết quả tranh thủ của anh những chiểu trên ruộng rau muống.

Họ ngoại tôi ở Lạng Sơn, cho nên cứ mỗi lần cậu mợ xuống thăm là đem theo một bịch trám lớn, món ăn tôi không thể nào quên thời thơ ấu. Vị trám béo, bùi, lẫn với mùi cá trạch kho khiến chúng tôi ăn thủng nồi trôi rế.

Tôi sinh ra không còn phải ăn thứ cơm độn gồm đủ loại như khoai sắn, mì, bo bo, nhưng thời ấy chuyện ăn cơm hẩm và đầy sạn là một điều không thể tránh khỏi.

Thế là trước bữa ăn, cả gia đình phân công nhau ngồi nhặt thóc, nhặt sạn. Có khi ngồi hồi lâu nhặt được đến cả hàng chục viên sỏi nhỏ. Công việc ấy đối với một đứa bé ham chơi thì thật chả thích chút nào. Tuy nhiên, xét ra, chính cái thời tôi sinh ra ấy đã khiến tôi thấm thía hơn về giá trị của cuộc sống cần lao, để hôm nay, sẻ chia cùng mọi người gần xa, nhân ngày quốc tế lao động.

Bị con ma bao cấp nó ám”

Bà Thông 74 tuổi, sống ở thành phố Thanh Hóa cùng với chồng, vợ chồng con trai thứ và cô con gái út. Gia đình chưa phải giàu có, nhưng cũng chẳng thiếu thứ gì, năng lực tài chính ngoài chuyện cho phép họ ăn ngon mặc đẹp thì còn bảo đảm cho cả nhà mỗi năm một chuyến du lịch. Con cái đều có công việc tốt, thu nhập tốt, ai cũng bảo, ông bà Thông giờ đã có thể an nhàn hưởng thụ được rồi.

Ấy thế mà tất cả con cái bà Thông đều thường xuyên kêu lên: “Mẹ đúng là số khổ!”. Khi kêu như thế, họ đã giấu đi cái ý: “Mẹ làm bọn con cũng khổ lây”. Họ khổ vì nhà lúc nào cũng ngập thức ăn, nhưng lúc nào cũng phải ăn đồ thừa, đồ cũ. Nồi cơm to đùng luôn ghế thêm cả âu cơm nguội. Đến bữa, bà động viên cả nhà ăn hết cơm nguội rồi mới ăn đến cơm nóng. Rốt cục phần cơm mới nấu ấy bị thừa đến 2/3, đến bữa sau lại biến thành cơm nguội…

Con trai bảo: “Hoặc là mẹ dũng cảm đổ hẳn cơm nguội đi một lần, hoặc là mẹ đừng nấu cơm mới nữa, để ăn cho hết đã. Hoặc mẹ cho chúng con ăn cơm mới trước, thiếu thì mới ăn đến cơm nguội. Chứ cứ như thế này, cả đời chả bao giờ được ăn cơm miếng cơm nóng cả”.

Bà mẹ nhăn mặt: “Chúng mày giờ sướng quá sinh ra thói hoang phí. Bỏ là bỏ thế nào, mày có biết ngày xưa tao với bố mày chả có gạo mà ăn, toàn phải xơi mì hột không?”. Thấy mẹ bắt đầu ca khúc ngày xưa, mấy đứa con ngán ngẩm nhún vai. Con gái vớt vát: “Hạt gạo quý vậy thì mẹ đừng nấu vô tội vạ nữa, nấu ít thôi cho khỏi thừa”.

Bà Thông đáp: “Nhưng tao sợ nấu ít đi nhỡ đâu chúng mày lại đói thì khổ thân”.  Mấy đứa con chỉ biết kêu trời, vì đã bao giờ được biết cái sự đói. Mà giả dụ như có thiếu đi vài thìa cơm chăng nữa thì trong nhà còn cơ man nào là bánh trái, sữa, ca cao…

Thế nhưng bà Thông lúc nào cũng lo ngay ngáy các con bị đói. Vì thế, hễ gia đình anh con cả ở Hà Nội về chơi, có 3 miệng ăn thì lượng thực phẩm bà nấu thêm phải đủ cho 2 mâm khách. Nhìn cái bếp chất đầy đồ, mấy đứa con đã hốt hoảng, thế mà thỉnh thoảng bà lại à lên một tiếng, chạy ra chợ bổ sung thêm mấy thứ nữa. Cứ vài tiếng đồng hồ, bà lại lôi một đống đồ ăn ra giục con cháu giải quyết, kẻo “về với bố mẹ được vài bữa mà phải chịu đói thì tội". Đồ ăn thừa, bà chất đầy tủ lạnh, thịt thà cá mú cho thêm nước mắm đun lại, ăn mãi cả tuần không hết.

Con trai bà thỉnh thoảng phải đi công tác các tỉnh. Lần nào đi, dù anh van xin hay gắt gỏng thế nào, bà cũng quyết nhét vào vali nào mỳ tôm, nào lương khô, bánh quy và cả hộp ruốc thịt, để “nhỡ ra có cái mà ăn”. Anh con trai nhăn nhó bảo mẹ sợ nhỡ cái gì, có lên miền núi thì cũng đầy hàng quán, con lại còn ở nhà khách, họ lo cho từ A đến Z, ăn đồ của mẹ vào lúc nào mà mang. Bà Thông bảo không ăn hết cứ trả về cho tao, nhưng dứt khoát phải mang đi.

Mỗi khi bà vắng mặt, mấy đứa con ngồi với nhau lại hăng hái tố mẹ, bảo bà hâm quá là hâm, thân làm tội đời. Chỉ có ông bố là cười cười: “Chúng mày chịu khó chút đi, mẹ mày bị con ma bao cấp nó ám, trước đây lúc nào cũng tất tưởi mà không kiếm đủ cái ăn, nên sợ đến bây giờ”.

Hễ nghe sắp bão là đi mua cá khô

Vợ chồng ông Hưng, 78 tuổi, nhà ở phường Bến Thủy, thành phố Vinh, Nghệ An, không bao giờ bỏ qua chương trình dự báo thời tiết. Hễ lúc nào nghe báo sắp có bão hay mưa to gió lớn, ông lại nhắc: “Bà bảo chúng nó đi mua các thứ về, kẻo rồi mưa gió chợ búa không ai họp, lấy gì mà ăn?”. Bà bảo" Thôi để tôi đi mua, chứ chúng nó có bụng ăn mà chẳng có bụng lo". Rồi bà ra chợ, mua cả một lô một lốc nào cá khô, tép khô, nào lạc, vừng, thêm vài yến gạo. “Sẵn những thứ này, cho dù có mưa bão lũ lụt cả tuần cũng tha hồ thứ ăn”, bà hể hả nói.

Nhưng trên thực tế thì dù thời tiết có ẩm ương kéo dài đến đâu, gia đình bà cũng chưa bao giờ phải ăn đến những thứ đó (dĩ nhiên là trừ cái thời cách đây vài chục năm mà ký ức về nó khiến cho bà đến giờ vẫn sợ). Bản thân cái tủ lạnh nhà bà đã đủ chứa thịt cá cho cả tuần, trong khi chợ, siêu thị, cửa hàng tự chọn thì hầu như lúc nào cũng sẵn sàng. Vì thế, nhiều tháng sau đó, đám cá khô, lạc, vừng của bà vẫn nguyên trong thùng, phải kiếm chỗ để cho, và lần sau bà Hưng lại tất tả đi mua khi nghe nói trời sắp mưa lụt…

Mà đâu chỉ mưa bão, hễ cứ đọc báo, xem tivi thấy có mặt hàng gì đang khan hiếm hay sắp lên giá là bà giục  con cháu đi mua cả đống. Mua về rồi thì bà phấn khởi như cách đây mấy chục năm bà xếp hàng mua được miếng thịt ngon, mãi mới nhận ra là mình cũng không thực sự cần thứ đó, hoặc cần rất ít,  cho dù có lên vài giá thật cũng chẳng ảnh hưởng gì.

Còn ông Trường, nhà ở quận Thanh Xuân, Hà Nội, thì bị ám ảnh chuyện nước, khiến con cháu suốt ngày căng thẳng. Hầu như ngày nào cũng có đứa bị ông mắng vì tội lãng phí nước. “Chúng mày cứ dùng xả láng cho lắm vào, hết nước trong bể thì mai mốt mất nước tha hồ mà xách xô đi xin”. Thực ra lâu lắm rồi khu vực nhà ông không mất nước, mà có mất thì thùng chứa cũng đủ cho họ dùng trong mấy ngày liền.

“Ông không cho đổ thứ nước gì đi cả”, cô con dâu nói. “Nước rửa mặt, nước rửa bát, rửa rau, nước giặt, tất cả đều phải cho vào cái thùng nhựa trong nhà tắm để dội bồn cầu. Hễ nghe tiếng đứa nào giật nước bồn cầu là ông mắng ầm lên. Nhà tắm thì sạch sẽ thơm tho, thế mà chình ình cái thùng nước bẩn hôi mù, trong đó bao nhiêu là rau, là váng mỡ với cả cặn xà phòng, dội cái thứ đó, bồn cầu cũng lem nhem luôn”.

Nhưng anh con trai lại rất thông cảm với bố: “Tôi vẫn nhớ hồi còn nhỏ ở tập thể cơ quan, bố phải thức đêm canh nước , hễ nghe nói có nước là 2 giờ sáng cũng bật dậy, xách xô xách thùng xuống bể nước tập thể, xếp hàng hứng, rồi xách lên tận tầng 4. Bố xách 2 xô, dặn tôi trông chừng 2 xô còn lại cho đầy rồi mới để người khác hứng".

"Hôm nào tôi buồn ngủ quá không theo xuống được, bố xách nước lên rồi lại xuống xếp hàng để hứng tiếp. Có những hôm nước chỉ chảy ri rỉ, lấy được xong thì cũng đến sáng. Nhưng có nước mà hứng thì mất cả đêm cũng bõ, vì những khi mất nước thì khổ không sao nói hết. Vì thế, giờ bố tôi sợ nhất là nhà hết nước”.

Phải "vào biên chế' mới được làm con dâu

Nghe con trai nói mai sẽ dẫn người yêu về ra mắt, cô gái kia tuy cũng sống và làm việc tại Hà Nội nhưng là người Hà Tĩnh, bà Hạnh, 67 tuổi, Hương Sơn, Hà Tĩnh, mừng lắm. Bà luôn mong con trai lấy vợ cùng quê, để thông gia đi lại cho gần và vì "người quê mình thật thà, tình cảm".

Khi gặp mặt nàng dâu tương lai, hỏi han cặn kẽ về gia đình, bà Hạnh lại càng ưng ý. Cái nghề kế toán của cô cũng làm bà hài lòng nốt. Sau khi cô gái cho biết về nơi làm việc, bà hỏi: "Công ty đó cũng thuộc bộ X. như thằng Hùng (con trai bà) à?". "Dạ không. Công ty cháu là của tư nhân ạ". Bà Hạnh không nói gì, nhưng từ đó vẻ mặt không còn niềm nở phấn khởi như trước nữa, mà đượm vẻ lo lắng.

Rồi bà thì thầm với chồng: "Không được đâu ông ạ. Nó làm ngoài, mai mốt công việc có trục trặc gì thì con mình khổ". Anh Hùng con trai bà là "người nhà nước", làm việc ở một bộ phận nhiều "màu mỡ", lại có tí chức sắc nên kiếm rất khá. Vì thế, một cô gái "đi làm ngoài" thật sự không xứng đôi với con bà, có thể khiến anh phải đèo bòng thêm khổ. Bà khuyên con trai nên tìm đám khác. Anh Hùng bật cười: "Giờ là thời nào mà mẹ còn ham cái tiếng làm nhà nước. Làm ngoài còn nhiều tiền bằng mấy anh nhà nước lương ba cọc ba đồng".

Bà Hạnh phán: "Bọn mày đúng là trẻ con chỉ biết cái lợi trước mắt. Làm ngoài nhiều tiền nhưng là nhiều xổi, bất cứ lúc nào cũng có thể mất việc, bơ vơ không biết bấu víu vào đâu. Mày xem bây giờ người ta thất nghiệp đầy ra kia kìa, giỏi giang cũng thất nghiệp. Còn làm nhà nước, lương có thấp một chút nhưng ổn định, cứ thế mà làm đến lúc về hưu chứ không ai đuổi mình được, lương thì cứ đến năm là lên. Đàn bà con gái lại càng phải làm nhà nước, vừa nhàn thân vừa an toàn, có thời gian chăm sóc gia đình, mà có sinh nở, ốm đau gì thì cũng được nghỉ chế độ chứ không sợ đuổi việc".

Hùng giải thích, làm tư nhân bây giờ cũng phải theo luật lao động, chế độ đủ hết. Bà mẹ không chịu, đưa ra dẫn chứng cô nọ cô kia trong xã bị đuổi việc vì sinh con. Hùng bực mình hỏi vặn: "Thế sao lần trước, con đưa về nhà một cô làm nhà nước hẳn hoi, mẹ cũng không chịu?". Bà Hạnh tỉnh queo: "Nó làm nhà nước nhưng mà làm hợp đồng, bị đuổi lúc nào không biết. Phải vào được biên chế thì tao mới duyệt, nhé!".

Hùng bảo mẹ không duyệt thì con cũng duyệt. Tuy nhiên, anh cũng không trách mẹ: "Trong cái thời bao cấp mà mẹ sống, ai không phải người nhà nước mà lại không tháo vát, có gan làm ăn thì đúng là khổ trăm bề. Đành rằng hồi đó ai cũng khổ, nhưng làm nhà nước ít ra còn có tiêu chuẩn gạo thịt và những thứ khác, không sợ bị đói. Mẹ tôi làm mấy chục năm ở cơ quan nhà nước rồi về hưu, từ đó cũng không đi đâu hay làm thêm gì, nên vẫn giữ nếp nghĩ đó".

Thời bao cấp đối với thế hệ trẻ ngày nay đã là một khái niệm xa lạ. Thế nhưng đối với nhiều người, nhất là những người cao tuổi, nó vẫn là một nỗi ám ảnh, thậm chí để lại dấu vết trên tính cách, thói quen và nếp nghĩ của họ, không bao giờ thay đổi nữa. 

Chuyện thỏi son môi trong thời bao cấp

Trượt chức bí thư vì thoa son

“Bây giờ phụ nữ ra đường để mặt mộc có khi còn bị coi là không tôn trọng cộng đồng, chứ cái thời tôi còn trẻ, nếu không phải văn công mà tô son điểm phấn thì không hay đâu”, bà Hoàng Linh, hiện sống ở Gia Lâm, Hà Nội, nói. “Ở thành phố lớn như thủ đô, nơi người ta quen nhìn phụ nữ ngắm vuốt thì không biết thế nào, chứ ở cái thị xã miền Trung quê tôi hồi đó, cô nào diện một chút là gây ngứa mắt lắm”.

Bà Linh đang nói đến những năm cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước, khi toàn dân đang dốc sức cho việc đánh Mỹ và thống nhất đất nước. Tất cả cho chiến trường, mọi người đều phải chịu thiếu thốn, đến ăn còn không đủ. Vì vậy, những thứ dùng cho việc làm đẹp trở thành xa xỉ và khó với và nếu có, việc sử dụng chúng dường như cũng lạc lõng.

Bà Linh kể: “Tôi có bà chị họ đi nghiên cứu sinh về tặng một thỏi son đỏ, bảo thỉnh thoảng thoa một tí cho xinh. Lần đầu tiên tôi được cầm một vật xinh đẹp như vậy, lại còn thơm nữa. Chưa trang điểm bao giờ nên tôi cũng ngượng, giấu thỏi son trong rương, mỗi tối soi gương thoa trộm, tự ngắm nghía một tí rồi chùi đi”.

“Một hôm chủ nhật, anh bạn cùng cơ quan rủ đi thăm người ốm. Nghĩ thế nào, tôi lại lấy son ra bôi, có lẽ vì tôi thích anh ta. Đến nhà chị bạn bị ốm, chị ấy khen xinh. Tôi thích lắm nên mấy hôm sau khi đi làm cũng lôi son ra thoa nhẹ, phớt một chút thôi, nhưng chị em nhận ra ngay, xúm lại hỏi han, bảo hôm sau mang son đến cho họ bôi thử với”.

“Không ngờ, tuần đó họp đoàn, tôi bị phê vì gieo rắc tư tưởng đua đòi ăn chơi tiểu tư sản, mà người phê phán tôi lại chính là anh chàng tôi thích. Anh ta bảo tôi là người trong ban chấp hành, thậm chí có tiềm năng trở thành bí thư khóa tới, mà như thế thì làm gương thế nào được, mà thực tế là nhiều nữ đoàn viên cũng bị cuốn theo thói hư của tôi”.

Sau hôm đó, bà Linh hết dám ho he trang điểm, chị em trong cơ quan cũng chả dám xin bôi thử son nữa. Tưởng thế là xong, ai ngờ các cuộc họp sau đó, chuyện thỏi son của Linh vẫn tiếp tục được đưa ra để nhắc nhở, cảnh báo về chuyện giữ vững lối sống lành mạnh. Và đến kỳ đại hội đoàn sau đó, bà Linh cũng bị gạch tên khỏi danh sách đề cử ban chấp hành.

Những năm đó, việc mang tiếng tiểu tư sản không đến nỗi “nguy hiểm chết người” nhưng cũng đủ cản trở sự thăng tiến, vì nó được đánh đồng với “lập trường không vững, tư tưởng mơ hồ, coi thường lao động”, tóm lại là cần được uốn nắn, giáo dục nhiều. Thích những thứ xa xỉ, phù phiếm cũng là một biểu hiện của cái thói tiểu tư sản. Vì thế hồi đó, những anh chị điệu đà dễ bị “để ý”.

“Mẹ tôi kể, hồi đó bố đi nước ngoài về tặng mẹ đôi xu chiêng nhọn với cái khăn mỏng rất điệu. Mẹ mới quàng cái khăn đã bị phê là tiểu tư sản rồi, sợ quá cất luôn, đôi xu chiêng nhọn cũng chả dám mặc nữa vì sợ lúc giặt phơi bị phát hiện, lại thành học đòi lối sống đồi trụy thì chết”, chị Mai Lê, 39 tuổi, nói. “Dì tôi được cho cục xà phòng thơm, cũng suốt ngày đem ra hít hà, ngửi lấy ngửi để mà không dám dùng, vì nó thơm quá, không giống xà phòng thường vốn hôi xì”.

Lại còn quần áo nữa. Những năm 1960, dễ gặp lôi thôi nhất là những anh mặc quần ống tuýp, nếu thêm kiểu đầu “đít vịt” (tóc để dài, bôi sáp bóng mượt, chải túm về phía sau) nữa thì càng đích thị là kẻ không ra gì. Để thể hiện tinh thần văn minh, tiến bộ, có nơi còn để bảng cấm đầu đít vịt, quần ống tuýp vào làng. Tới những năm sau giải phóng, mốt quần trên bó dưới loe cùng mốt tóc dài kiểu John Lennon từ miền Nam tràn ra Bắc, càng được cho là tàn dư của lối sống hưởng thụ cực kỳ độc hại, ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, đạo đức thanh niên.

Thế là hồi đó, trên các ngã tư, đường phố thường có các đội thanh niên cờ đỏ cầm kéo chực sẵn, hễ thấy anh chị nào mặc quần ống loe thì nhẹ là cắt dọc theo đường may, nặng là cắt xoẹt cụt cả ống quần. Anh nào tóc dài, râu xồm xoàm cũng bị xén trụi. “Tôi bị mất đứt hai cái quần ngay ngoài phố”, ông Thiện, người Hà Nội, nhớ lại.

Sự cố từ tính lãng mạn

Chỉ cần báo cáo tổ chức là đôi trai gái được phép công khai tìm hiểu nhau nhằm tiến tới hôn nhân. Thế nhưng thể hiện tình yêu như thế nào cũng là chuyện không phải muốn gì làm nấy. Nếu như thanh niên bây giờ vắt óc nghĩ ra cách thể hiện sự lãng mạn để người yêu hài lòng thì thời bao cấp, lãng mạn quá nhiều khi sinh vạ.

“Nghèo quá, chẳng có gì để tặng người yêu, tôi xót lắm vì nàng cũng nghèo, công việc vất vả, sức khỏe lại yếu. Để động viên nàng, mỗi chiều thứ 7 sang thăm, tôi đều cố kiếm một vài bông hoa để tặng, báo hại nàng bị phê phán là học đòi yêu đương mùi mẫn kiểu tiểu tư sản. Yêu hoa là tốt, nhưng ướt át, ủy mị đến mức thứ 7 nào cũng kiếm hoa tặng thì còn lao động, phấn đấu sao được”, ông Trần Long, người Thanh Hóa, kể, “Sau này, tôi được biết chẳng có chủ trương, chỉ thị nào cấm những cái đó cả, nhưng mà nhiều người họ cứ suy diễn theo ý họ”.

Còn ông Lê Văn Hưởng, người Bắc Ninh, hiện sống ở Thanh Xuân, Hà Nội, thì “chết” vì những bài thơ tình ông viết cho người yêu. Cũng vì bạn gái tự hào về tài thơ của ông quá, mang ra khoe. Các cô khác truyền tay nhau chép lại ngâm nga. Rồi một người trong cơ quan phát hiện ra những vần thơ này có vấn đề. Trong khi những người khác hoặc đổ máu ngoài chiến trường, hoặc lao động quên mình vì sự nghiệp chung thì anh chàng này lại chỉ nói về “hạnh phúc riêng hai đứa” với những lời sướt mướt, lại còn dám ước “tất cả tan biến thành hư vô, chỉ tình yêu, anh với em còn lại”, quá ư ích kỷ. Rồi người ta thông báo đến cơ quan ông Hưởng để họ theo dõi và uốn nắn, giáo dục ông.

“Mấy chục năm, tôi vẫn nhớ lời ‘tâm sự’ của thủ trưởng cơ quan ngày đó, bảo chẳng ai cấm cậu làm thơ tình, nhưng thơ tình của cậu lãng mạn xa rời thực tế, thiếu tính chiến đấu, cực kỳ nguy hiểm và độc hại… Tôi nghe đến đâu, mồ hôi lạnh túa ra đến đó”, ông Hưởng chia sẻ.

Còn ông Mai Văn Hồng thì gặp rắc rối vì yêu nhạc, nhất là những ca khúc tiền chiến, thời đó không được khuyến khích vì tính trữ tình ướt át có thể làm ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu. Có lần cơm xong ngồi hóng mát ở hành lang, ông hát: “Hà Nội ơi! Hướng về thành phố xa xôi, ánh đèn giăng mắc muôn nơi, áo màu tung gió chơi vơi. Hà Nội ơi! Dáng huyền tha thướt đê mê, tóc thề thả gió lê thê…” Ngay hôm sau Hồng đã bị căn vặn rằng anh đang ở Hà Nội, lại còn muốn hướng về cái Hà Nội nào, có phải cái Hà Nội tư sản ánh đèn giăng mắc với những cô áo màu, dáng huyền tha thướt đê mê không? Hú hồn.

Để hát cho thỏa, Hồng và các bạn anh thường chui xuống cái hầm trong nhà một cậu trong nhóm, đàn hát với nhau cho thỏa thích những ca khúc trữ tình lãng mạn mà họ say đắm. Cũng may mà không ai phát hiện ra, nếu không có khi cả bọn lại bị hiểu nhầm là đang làm chuyện gì mờ ám.

"Tôi vẫn thỉnh thoảng kể con cái những chuyện ngày xưa, để chúng biết thế hệ bố mẹ đã trải qua những khó khăn nào, và hiện chúng đang được hưởng những gì, và trân trọng hơn những giá trị của cuộc sống", ông Hồng nói.

Những câu chuyện về hộ khẩu

Đầu những năm 1960, hàng vạn thanh niên Hà Nội đã tình nguyện cùng gia đình đi khai hoang ở Tây Bắc. Đoàn xe chở người rời thành phố lên vùng núi heo hút là cảm hứng cho Tố Hữu viết "Đi ta đi khai phá rừng hoang" (Bài ca xuân 1961).

Dân nghèo thành thị vốn quen buôn thúng bán mẹt, sáng đi bán hàng, chiều có thể đếm tiền thì nay phải lao động chân tay. Các chàng trai cô gái thị thành thừa nhiệt huyết song lại chưa từng cầm con dao, cái cuốc phát cây làm nương nên chân tay xây xát, rồi sốt rét làm cho làn da trắng xanh xao, môi thì xám ngoét. Đêm về ngủ trong lán khóc rưng rức và còn lo sợ thú dữ luẩn quẩn bên ngoài. Nhiều người không chịu nổi đã bỏ về "đất thánh". Thanh niên phải nút bông vào tai khỏi nghe ì xèo, chì chiết của cha mẹ, bóng gió cạnh khóe của hàng xóm. Nhiều gia đình đã bán nhà, cắt hộ khẩu, không còn chỗ ở, phải tá túc ở gầm cầu dẫn phố Phùng Hưng, gầm cầu Long Biên, sau ga Hàng Cỏ vì khi đó phố Trần Quý Cáp còn là ao ruộng, hay bám vào chùa Liên Phái... Không thể nhập lại được hộ khẩu, những hộ này phải ăn gạo ngoài và sống "lậu" trên chính nơi mình đã sinh ra. Họ làm đủ nghề như bán nước chè chén, gánh nước thuê, kéo xe bò ở bến phà Đen... Khi Mỹ ném bom miền Bắc, nhiều thanh niên tình nguyện đi bộ đội để vợ con hay cha mẹ được nhập hộ khẩu nhưng vì không có hộ khẩu nên khu đội cũng đành chịu. Bà giáo Liên ở phố Hàng Cót khi còn sống kể rằng, thấy con trẻ sống ở gầm cầu, không đi học được vì không có hộ khẩu, bà xin phép chính quyền mở lớp học buổi tối ngay trên vỉa hè, dưới ngọn đèn đường để dạy chữ, nhưng đến năm 1966 Mỹ ném bom Hà Nội thì lớp học phải dừng. Các gia đình sống dưới gầm cầu Long Biên buộc phải tìm chỗ khác, khi cả Hà Nội đi sơ tán nhưng trẻ con không hộ khẩu vẫn ở lại, đi sơ tán biết làm gì để sống...

Ở gần Ga Vọng có một ông tên Hải, vì mặt ông bị rỗ nên người ta gọi ông là Hải Min. Cũng đi khai hoang Tây Bắc, nhưng năm 1963 không chịu được gian khổ ông trốn về Hà Nội và làm căn nhà ở gần ga. Sau bao nhiêu năm tích cực tham gia công tác khối phố nhưng ông không thể nhập hộ khẩu. Năm 1978, ông dắt díu vợ con đi kinh tế mới Lâm Đồng, cách đây hai chục năm, nghe nói ông có hộ khẩu tại TP Hồ Chí Minh. Ông Phạm Quang Nhuận bạn thân của nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, từng phụ trách phòng hộ khẩu của thành phố trong nhiều năm, có lần kể rằng khi con trai bạn là Lưu Quang Vũ ra khỏi bộ đội về nhà mãi không nhập được hộ khẩu dù ai cũng biết nhà Vũ ở Hà Nội và Vũ đã nổi tiếng trong làng thơ với tập "Hương cây - Bếp lửa" (in chung với Bằng Việt). Nhiều tháng không có tiêu chuẩn gạo nên ông Phạm Quang Nhuận phải đứng ra làm lại hộ khẩu cho Lưu Quang Vũ.

Thời bao cấp, người ta gọi Hà Nội là "đất thánh", chẳng ai muốn xa "đất thánh" và ai cũng muốn về "đất thánh", vì ở đây có điện, có đường nhựa, có nước máy - thứ nước làm trắng da và giọng nói trở nên mềm mại hơn. Những người ở quê bám trụ "đất thánh" với quan điểm rõ ràng "giàu nhà quê không bằng ngồi lê Hà Nội". Thời bao cấp, ở dãy số chẵn phố Phan Chu Trinh có ông Việt, gần bốn mươi tuổi đã rụng tóc nên anh em ở Xí nghiệp Mỳ Thượng Đình, nơi ông làm việc gọi là "Việt hói". Ông Việt lấy vợ ở Hưng Yên, bao nhiêu năm đơn từ các cửa vợ ông vẫn không thể về Hà Nội. Cuối tuần về thăm vợ con, ông Việt phải mang theo bọc gạo vì vợ là giáo viên nên tiêu chuẩn cũng chỉ được mười mấy cân. Vợ và các con ông ra Hà Nội cũng phải xách theo mấy cân gạo. Ông Việt kể lúc đầu thấy bực bội, sau rồi cũng quen. Nhiều đôi trai gái yêu nhau tha thiết cuối cùng cũng đành phải nói lời chia tay vì lý do không thể nhập khẩu. Còn đôi nào chấp nhận thì lâm vào hoàn cảnh giống như ông Việt.

Cuối năm 1989, Nhà nước bỏ chế độ gạo cung cấp cùng tem phiếu nhưng hộ khẩu thì vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, hộ khẩu không còn giá trị như thời kỳ trước đó...

Chuyện riêng tư vợ chồng

Chủ nhật, 02/12/2012, 16:36

Thời bao cấp, hai vợ chồng vừa mới cưới nhau được phân căn hộ tập thể cấp 4, mỗi nhà cách nhau bởi bức tường mỏng dính.

Một buổi, cả hai giao hẹn với nhau:

- Em à, để bảo mật cho sự riêng tư của đôi ta, chúng mình nên quy ước. Nếu em muốn rủ anh… tắt đèn ngủ sớm thì gọi là “làm ăn”, bữa nào anh hơi mệt thì anh sẽ trả lời “mất khả năng chi trả".

- Hay quá, thế hôm nào mệt thì em sẽ từ chối khéo là đang “lạm phát” nhé. Quên nữa, hàng tháng anh cần nhớ là em sẽ có vài ngày “khủng hoảng".

- Nhớ rồi. Còn cái này nữa, anh nói ví dụ thôi nhé, là mai mốt nếu chẳng may tình nghĩa đôi ta có thế thôi thì xin cứ nói với nhau là muốn “từ chức”, “miễn nhiệm”, chứ đừng dùng từ “ly hôn” hay “ly dị”, nghe buồn lắm!

Được một thời gian, một đêm nọ, khi cả khu chung cư đang say giấc thì đôi vợ chồng này bỗng to tiếng kịch liệt với nhau:

- Đã bảo giảm “lạm phát”, qua thời “khủng hoảng” rồi, mà cứ rủ “làm ăn” thì ông mở miệng than “mất khả năng chi trả”, là sao? Là sao? Giải trình ngay!

- Bà thông cảm, đâu phải chỉ bà mới biết “làm ăn".

- Á! Ra là ông có “đầu tư ngoài ngành”! Nói ngay, ông rải vốn những đâu, khai mau!

- Thôi mà bà, thời buổi này có thằng nào không “đầu tư ngoài ngành” đâu, bởi càng được chiều chuộng thì vốn liếng càng dư dả, không kiếm chỗ rải nó… ức chế lắm!

- Trời ơi là trời! Thế ông không thấy những thằng “đầu tư ngoài ngành” chỉ toàn lỗ lã hay sao? Còn ông, phen này tôi cho ông “miễn nhiệm” nhé!

- Bà có gan thì cứ miễn! Thằng này thà chết chứ không “từ chức”!

Gay cấn như đi… toilet thời bao cấp (kỳ 1)

28/11/2012 11:58

Nói về thời bao cấp, có một thứ ấn tượng và ám ảnh đến nỗi người ta 'đến kiếp sau cũng không quên', đó là chuyện nhà vệ sinh.

Vừa bịt mũi vừa xếp hàng

Nói đến nhà vệ sinh thời bao cấp nghĩa là nói đến cái hố xí công cộng ở các đô thị hay khu tập thể cơ quan, trường học, xí nghiệp… Cả dãy nhà, thậm chí vài dãy nhà mới có một khu toilet chừng 4 – 5 ô, "nội thất" gồm 2 viên gạch  đặt chụm đầu nhau chỗ cái lỗ tròn, có khi thêm cái xô đựng tro hoặc đất. Nhiều nơi, không biết để tiết kiệm diện tích hay gia tăng tình đoàn kết, người ta làm chuồng xí đôi, hai người chồm hổm ngồi đối diện nhau, có thể vừa “trút bầu tâm sự” vừa rôm rả bình luận chuyện quốc tế.

Để phục vụ công tác vệ sinh, trong mỗi khu nhà xí tập thể đều có một bể hay thùng chứa nước, dù không phải lúc nào cũng có nước (đến nước ăn, nước rửa rau nhiều khi còn phải chờ dài cổ nữa là...). Thế nên hồi đó, chẳng cần phải bảng biển chỉ dẫn như bây giờ, nhưng kể cả khách lạ mới đến lần đầu khi cần cũng biết ngay toilet nằm đâu nhờ cái sự “gửi hương cho gió”.

Mà dù cho bể đầy nước cũng chưa chắc có người dùng. Ở cái chỗ công cộng này, người ta thường nghe tiếng ai đó mới bước vào chửi kẻ đến trước mình là vô ý thức, xong việc không chịu dội nước, làm cho họ phải giải quyết hậu quả thay. Rồi đến lượt người vào kế tiếp lại chửi cũng vì cái chuyện ấy.  Có lẽ người ta nghĩ, mình “xử lý' hộ thằng khác thì thằng khác cũng phải "xử lý" của mình, thế mới công bằng.

Kinh khủng nhất là những ngày trời nắng nóng, khu toilet công cộng ngập trong thứ mùi “khó tả” cùng tiếng vo ve bất tận của lũ ruồi. Anh Trần Trung, 39 tuổi, sống ở quận Đống Đa, Hà Nội, miêu tả: “Ngồi trong ấy là cứ phải rung lắc, đung đưa thân hình liên tục để bọn tàu bay Mỹ ấy (chỉ lũ ruồi) không đáp được lên người. Lại còn gián con bò lổm ngổm, con bay xè xè sẵn sang lao vào mặt mình nữa chứ. Trời thì nóng, ngồi mấy phút là mồ hôi đầm đìa chả khác gì tắm hơi, toàn thân ướp hương”.

Những hôm trời mưa ngập mới lại càng rùng rợn. Thôi thì thứ gì nổi được cứ nổi, cái gì dập dềnh cứ dập dềnh. Thế nhưng cái sự tiêu hóa nó không ngừng lại được, người ta vẫn phải nhón chân bì bõm đi ra…

Có lẽ câu ví “tình yêu như cái nhà xí, kẻ ở trong muốn ra, người ở ngoài muốn vào” nảy sinh ra trong cái thời này chăng? Dù có kinh sợ đến mấy, cứ sáng sáng, tối tối, trước cửa nhà vệ sinh công cộng luôn có cả hàng dài chờ đợi. “Tôi toàn được bố phân công dẫn thằng em ra xí phần cho cả nhà, vừa bịt mũi vừa xếp hàng chờ, không dám bỏ ra xa vì sợ nhỡ có đứa nào tranh phần vào trước mất”, anh Trung nói.

Anh kể tiếp: “Khu WC nhà tôi hồi đó có 4 'chuồng', 'chuồng' cuối cùng toàn bị tắc, chẳng ai dám dùng, nhưng nhiều khi đau bụng cuống quá cũng đành đâm bổ vào đó. Rùng cả mình. Thế mà trong khu tập thể vẫn có một ông kỳ tài, ngồi trong ấy đọc báo bao lâu cũng được. Chả là hồi đó, người ta toàn sử dụng sách vở và báo cũ cho cái việc vệ sinh, nếu tiết kiệm thì còn cắt ra thành những mảnh vuông nhỏ nữa. Trước khi vò cho nó mềm ra và tăng ma sát, hầu như ai cũng tranh thủ đọc. Có điều cái ông kia, đọc hết những tờ mình cầm đi, nếu thấy trên tường có mảnh sách báo nào người ta còn thừa giắt lại là cũng phải cố đọc bằng hết mới chịu ra, nhiều khi để người ta chờ lâu, mắng ầm cả lên”. 

Còn ông Phái, công nhân về hưu, hiện sống ở quận Hoàng Mai, Hà Nội, nhớ lại: “Kể ra cũng buồn cười, cả khu tập thể hôm nào cũng gặp nhau đủ mặt ở nhà vệ sinh công cộng, mãi nên cũng chả ngượng ngùng gì nữa. Trong lúc chờ đợi, mọi người hỏi thăm nhau, thông báo tin tức, rồi 'chém gió' vui vẻ ra trò, khi có một chỗ trống, có vài người lịch sự 'mời bác đi trước', 'không bác đi trước đi', hoặc 'bác thông cảm cho em vượt tí nhé, bí quá'… Hồi đó toilet cũng chả phân khu nam khu nữ gì sất, cứ có chỗ trống là xông vào thôi”.

Nhà vệ sinh chỗ ông Phái có phân ra các khu dành cho nam và nữ đàng hoàng. Có điều phần bên nam thường rất bẩn do các anh đã lười lại còn hay bừa bãi. Vì thế, nhiều anh toàn nhân lúc vắng đi trộm bên khu nữ cho nó sạch.

Chuyện về những cánh cửa

“Hồi đầu thì nhà vệ sinh khu tập thể tôi ở hình như cũng có cửa, nghe bảo sau cửa nó mục nát rồi gãy rời đi. Làm đơn mãi mà xí nghiệp không cho lắp lại, nhưng cái chuyện kia thì không ngừng nổi một ngày, nên không có cửa thì vẫn phải vào”, bà Vân, 52 tuổi, sống ở Nam Định, kể. “Thế là ai đi vệ sinh cũng mang theo tờ báo thật to, vừa để đọc vừa che kín cả người. Lâu dần cũng thành quen, chỉ còn chị em che bằng báo, còn đàn ông với trẻ con thì mặc kệ”.

“Căng thẳng nhất là ban đêm. Những hôm mất điện hay bóng đèn khu vệ sinh hỏng thì khỏi bàn, nhưng cả khi có đèn thì cũng không đủ sáng cho cả 4 – 5 buồng được. Thế là ngồi trong ấy mà lo nơm nớp, hễ nghe tiếng bước chân tới gần là phải đằng hắng một tiếng, ra ý có tôi trong này, hoặc cố ý vò giấy thật to. Chết cười, có người còn giả vờ hát khe khẽ nữa. Mãi về sau này thấy nhiều người vẫn gọi đi vệ sinh là đi hát, không biết có phải bắt nguồn từ cái chuyện này không”.

Còn nhà vệ sinh của khu nhà ông Long (Cầu Giấy, Hà Nội) từng sống vẫn có cửa, nhưng sau nhiều năm chịu ẩm ướt, phần bên dưới, nơi vẫn bị nước dội vào, bị mủn rồi rụng dần, tạo thành một lỗ hổng toang hoác, đủ thấy hết “phần nhạy cảm” của người ngồi trong. Thành thử ai cũng lo che che, đậy đậy mỗi chỗ ấy. Những lỗ hổng đó cũng là “gợi ý” cho bọn trẻ nhỏ tinh nghịch, lũ nhóc mới lớn tò mò và những gã đàn ông thèm thuồng bệnh hoạn tập thói quen rình mò, nhìn trộm chị em. Trẻ con nghịch thì hay rủ nhau cùng đi, cùng chỉ trỏ, cùng khúc khích rồi cùng ù té chạy, người lớn làm chuyện xấu thì âm thầm, lén lút một mình…

Mà không phải chỉ có những nhà vệ sinh thiếu cửa hay cửa hỏng mới có cái tệ nhìn trộm này. Hình như đây là thứ “tác dụng phụ” phổ biến ở những nơi mà người ta phải dùng hố xí công cộng, trong cái thời mà  thông tin về giới tính – sức khỏe sinh sản quá ít ỏi, bản năng tình dục bị cấm đoán và kìm nén. Trong khi đó, ở nhiều nơi, khu vệ sinh lại được bố trí khá tách biệt, thường là góc xa vắng nhất của khu đất, để đến được đó phải đi qua bao nhiêu vườn rau, bụi cây, thật tiện cho việc  rình mò và chạy trốn.

“Tôi còn nhớ hồi đó cô Hoa nhà bên cạnh mỗi lần đi vệ sinh toàn nịnh tôi đi cùng, dù tôi không có nhu cầu”, chị Loan, 36 tuổi, kể. “Cô ấy dặn tôi đứng ngoài canh, để ý xem có đứa nào rình mò không, nếu có thì kêu lên cho cô biết. Vì cái công lao đó, thỉnh thoảng cô cho tôi vài hào, hoặc cái kẹo. Hình như cô sợ vì đã mấy lần bị nhìn trộm rồi. Trong những lần chờ  cô như vậy, đa phần là tôi thơ thẩn bắt châu chấu giết thời gian, nhưng cũng đã đôi lần thấy mấy gã thanh niên lấm lét khả nghi. Tôi hét lên cô Hoa ơi có người đấy, thế là mấy kẻ kia chạy mất”.

Lại nói chuyện cái cánh cửa nhà vệ sinh công cộng, ở khu tập thể nhà anh Phấn, 47 tuổi, Thanh Hóa, thường xuyên xảy ra chuyện chơi ác nhau. Chẳng là mỗi cánh cửa ấy đều có cả móc cài ở bên trong lẫn bên ngoài. Móc trong là để bảo vệ người phía trong, móc ngoài là để khi “xong việc” bước ra thì cài lại cho đảm bảo vệ sinh và… thẩm mỹ. Bọn trẻ con nghịch ngợm nhiều lúc chẳng nghĩ ra chuyện gì để chơi, bèn mò đến nhà vệ sinh, thấy buồng nào có người là cài móc bên ngoài lại, báo hại nạn nhân phải đợi người bên cạnh “hoàn tất công việc” để nhờ giải thoát.

Anh Phấn kể: “Có lần, chúng nó nhốt một lúc 5 người trong nhà xí. Lúc đầu vì ngượng nên không ai lên tiếng, cứ nghe ngóng xem nếu có tiếng người hay tiếng bước chân gần đó mới gọi. Không ngờ chờ mãi chẳng thấy ai, một cô gái lo quá kêu toáng lên, người các buồng lên cạnh mới liên tiếng, lúc đó ai nấy mới biết nãy giờ mình khôngphải chịu nạn một mình. Thế là họ cùng chửi cái đứa chơi ác rồi cùng hợp lực kêu ầm lên, một lúc mới có người tới cứu. Bị nhốt trong cái toilet tập thể thơm tho của thời đó có lẽ là một kỷ niệm đến chết không quên”.

Thật khó mà hình dung cánh cửa và mấy bức tường nhà vệ sinh công cộng thời bao cấp lại ăm ắp thơ văn, hài hước có, lãng mạn có.

Thơ tình trong… toilet

Hầu như chẳng có bức tường hay cánh cửa toilet công cộng nào mà không bị viết hay vẽ lên, thậm chí không còn một chỗ trống, hình này chồng lên hình kia, dòng chữ này đè lên dòng chữ kia, trong đó có… thơ.

Nếu từng sống trong thời bao cấp, dù ở miền Bắc hay miền Trung, hẳn bạn từng nghe mấy câu nhại thơ tình Xuân Diệu này:  “Đố ai cắt nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu một buổi chiều/ Gặp em đi ‘hát’ ở nhà tiêu/ Về thương rồi nhớ, thế là yêu”.  Trong các dị bản, câu cuối được sửa thành: “Chia nhau tờ giấy, thế là yêu”, hoặc: “Nhường nàng đi trước, thế là yêu”.

Theo anh Nguyễn Văn Huân, 38 tuổi, quê ở Thái Nguyên, hồi còn bé, anh và đám bạn bè trong khu tập thể thường ngân nga mấy câu “thơ” đọc được ở mặt ngoài cánh cửa nhà vệ sinh như sau: “Gặp em nhà xí chiều tà/Chìa tay xin giấy thế là yêu nhau/ Việc gì hò hẹn nơi đâu/ Cứ ra nơi ấy chia nhau mà ngồi”. Hễ thấy cô bé hoặc chị nào đi qua, đám con trai lại gọi ời ời rồi đọc toáng mấy câu này lên, cười hô hố, khiến nạn nhân hoặc đỏ mặt cúi đầu mà bước cho nhanh, hoặc quắc mắt lên mắng cho té tát. Có cô dữ dằn còn rút cả dép ra dọa ném.

Huân nói thêm, cái câu “chìa tay xin giấy” kia cũng bắt nguồn từ một thực tế oái oăm nhưng rất quen thuộc ở các nhà vệ sinh công cộng: đó là nhiều khi gặp “tình huống bất ngờ” không kịp chuẩn bị, người ngồi bên này phải gọi với hay thò tay sang buồng bên cạnh xin giấy.

Nhiều câu thơ tình của Xuân Diệu, Nguyễn Bính… cũng được viết lên tường, lên cửa toilet, nguyên bản, không xuyên tạc, có đoạn dài đến nỗi khiến “độc giả” băn khoăn tự hỏi người chép nó ra chẳng hay có bị táo bón hay không. Ngoài thơ, nhà vệ sinh còn là nơi người ta viết những lời nhắn gửi, tỏ tình.

“Thôi thì đủ loại, nào ‘Thủy ơi anh yêu em’, nào ‘kỷ niệm mối tình Toàn – Luyến, 1982’, nào ‘Nhớ mãi mùa thi, nhớ mãi mối tình đầu, Nga yêu Trung’… Viết bằng phấn cũng có, bằng gạch nung cũng có, than cũng có. Kèm theo là hình vẽ trái tim bị mũi tên xuyên thủng, hay hình đôi trai gái bên nhau”, chị Linh, 43 tuổi, sống ở Hà Nội, kể.

Nhưng phổ biến nhất trên tường toilet công cộng là những câu cảnh báo giữ gìn vệ sinh, thậm chí nhiều câu mang sắc thái giận dữ, đe dọa. Mấy câu dưới đây được viết trên tường rất nhiều nhà vệ sinh ở Bắc Bộ: “Ai ơi bắn trúng mới tài/Bắn trúng ra ngoài kỹ thuật còn non”, nhằm nhắc nhở những người không biết vì thiếu ý thức hay thiếu kỹ thuật mà làm bẩn sàn toilet.  

“Bài thơ” này sau đó được những người khác nối dần từng hai câu một: “Còn non thì mặc còn non/ Bắn trật vài hòn thì đã làm sao?”, rồi người khác tiếp: “Làm sao là nghĩa thế nào?/ Bỏ trật không vào là mất vệ sinh”. Có kẻ ngang như cua đáp lại một cách thật củ chuối: “Vệ sinh thì mặc vệ sinh/ Kỹ thuật của mình chỉ có thế thôi”. Đáp lại là: “Thế thôi thì hãy ra ngoài/ Luyện tập thành tài thì hãy vào đây”. Và dưới đây là câu chốt: “Thơ hay thì thật là hay/ Bỏ tiền túi quét vôi ngay bức tường”.

Toilet biết… sủa

Tình hình “đầu ra” khó khăn như vậy nên để phục vụ trẻ con, những đứa chưa đủ tuổi xông pha vào “địa hình nguy hiểm” như nhà vệ sinh công cộng, ngoài chuyện dùng bô, nhiều nhà áp dụng giải pháp nuôi chó. Có một khung cảnh cực kỳ quen thuộc thời bấy giờ, kể cả ở các thành phố: Đứa trẻ ngồi xổm trên nền đất, mấy con chó đứng chầu hẫu bên cạnh, vẫy đuôi chờ đợi.  

Đứa bé vừa đứng lên là chúng xông tới, nhiều khi tranh nhau, cắn nhau loạn xị, đớp cả vào “chim” tiểu chủ. Nhiều cậu bé có thói quen chờ chó dọn xong dưới đất thì chổng mông cho nó “vệ sinh” luôn cho mình. Đôi khi chú chó tiện thể dọn nốt cả “cơ quan phát triển dân số” của cậu chủ. Các bác sĩ Bệnh viện Việt Đức (Hà Nội) cho biết, trong số những quý ông đến tạo hình lại cơ quan sinh dục ở đây, không ít người bị “mất” do chó táp phải trong cái tình huống ấy, vào cái thời ấy.

Tình trạng nhếch nhác, bẩn thỉu của hệ thống toilet công cộng còn sản sinh một tệ nạn khác, hiện diện từ nông thôn đến thành phố, đó là thói “đi bậy”, mà thủ phạm không chỉ có trẻ con. Địa điểm áp dụng thì ôi thôi, vô cùng phong phú và đa dạng, từ vườn hoa, công viên đến bờ sông, bãi cỏ, từ sân bóng đến vỉa hè, đường phố, vườn nhà hàng xóm, sân thượng nhà tập thể, thậm chí cả sân ủy ban… Người ta bước ra khỏi nhà, chỉ cần không cẩn thận là có thể đạp ngay phải “mìn”.

“Hồi đó mấy thằng nhóc bọn tôi có cái thú buổi tối rủ nhau trèo lên bức tường hợp tác xã, ngồi vắt vẻo trên đó, chìa mông vào trong và… xả đạn, chênh vênh thế mà chẳng đứa nào ngã, anh Lâm, 43 tuổi, kể. “Có lần, đang sung sướng hưởng cái thú quận công cách mặt đất gần mét rưỡi như vậy thì ai đó xịt chó từ  phía sau lưng nhảy chồm tới. Cả lũ chưa kịp vệ sinh, chẳng kịp kéo quần, nhảy phốc xuống chạy, từ đó mới chừa”.

Trên một diễn đàn online, có anh kể chuyện những năm 1980: “Khu em ở gần chục hộ mà chỉ có 2 hố xí nên bọn em toàn phải sang vườn hoa Hàng Đậu gần nhà. Cả hội ngồi lên ghế đá theo cặp, hai đứa một ghế, hôm nào hội đông cũng phải 5 - 6 ghế lố nhố. Sướng nhất là thoáng, mát và sạch sẽ vô cùng”.

Và “tai nạn nghề nghiệp” cũng đã xảy ra. Có buổi tối cả hội đang “làm quận công” trên ghế đá thì mấy cô gái cùng phố đi bộ qua, chắc vì mất điện nóng quá nên ra vườn hoa hóng mát.  “Gần như cả hội lấy báo che ‘súng’ và nhe răng cười, duy nhất có một thằng lấy báo che mặt, chấp nhận show hàng. Thế là hôm sau cả lũ con gái trêu mấy thằng che ‘súng’, còn chả biết thằng che mặt là thằng nào mà trêu”.

Rất nhiều gia đình cãi nhau mất cả tình làng xóm vì “nhà mày có vườn sao không ‘ấy’ lại ‘ấy’ sang vườn nhà tao”. Nhiều người, đang đêm đau bụng, ngại trời tối không muốn mò ra toilet, bèn “giải quyết” ngay vào bọc rồi hôm sau tìm cách phi tang trong đống rác. Những chuyện kinh dị như vậy, tưởng không thể nào có thật được, vậy mà xảy ra rất nhiều, cho thấy sự khó khăn thiếu thốn có thể làm người ta trở nên cao thượng hơn nhưng cũng có thể làm người ta trở nên bẩn tính hơn.

Bây giờ, ngay cả ở nông thôn, nhà vệ sinh cũng đã được coi trọng và xây dựng sạch đẹp. Nhưng đây đó ở một số nơi, thậm chí ngay Hà Nội, vẫn có những khu toilet công cộng cũ nát và mất vệ sinh, gợi nhớ lại cái thời cách đây mấy chục năm, khi người ta phải sống trong điều kiện đáng sợ đến thế.

TẾT SINH VIÊN THỜI BAO CẤP– Phút thư giãn

Nói đi, nói lại, cũng may cho Việt Nam có thời bao cấp. Cái thời ấy, bất cứ chuyện gì xảy ra, bây giờ kể lại, cứ như chuyện tiếu lâm, cười chảy nước mắt.

Thế hệ trẻ hiện đại nghe tôi kể, toàn nói: “ Chú lại bịa!”

… Không khí tết bắt đầu len lỏi trong suy nghĩ của sinh viên độ đầu tháng chạp. Nghĩa là, ngồi học trong lớp mà cứ nghĩ mình đang ở nhà. Tất nhiên rồi, nếu ở nhà có tết, dù nghèo mấy cũng có miếng thịt lợn để mỡ dính mồm, có tý chả nhai thấy rõ mùi thịt, có cơm trắng lùa vào miệng, răng được vận hành liên tục…sướng rơn cả người. Từ một chỗ cơm độn mỳ, ngô…thức ăn không có gì, canh lõng bõng nước, vù một cái, có bữa ăn rau ra rau, thịt ra thịt… ai chẳng thích. Hơn nữa, ít ra cũng gần hai tuần nghỉ ngơi, đầu óc thoả mái, khỏi giáo trình, công thức, lên lớp, thư viện, xêmine… Đạp xe lên phố huyện, sang hơn nữa đi ké honđa của thằng bạn lên tỉnh thăm thú bạn bè, khỏi cảnh nhồi nhét kiến thức…không gì sướng bằng.

Nhưng đó là tưởng tượng, mong ước, chứ còn thời gian này, nếu đang ở trường, có muôn “ cực hình” giăng ra, sinh viên cố sống, cố chết gắng vượt.

Đầu tiên, không biết các trường Đại học khác như thế nào? Riêng trường ĐHSP Hà Nội I, nơi tôi học, cứ đến gần tết là phải thi hết học kỳ I. Mà không thi liên tục, trước tết thi hai đến ba môn. Rồi sau tết, thi tiếp mấy môn còn lại. Kiểu thi giữ sinh viên như thế này quả là quá khổ! Tết đến nơi rồi, trăm thứ lo, lo xếp hàng mua hàng tết theo tiêu chuẩn tem phiếu. Nào có nhiều nhặn gì, mỗi sinh viên may ra được nửa lít nước mắm, một hộp mứt tết, độ một phần ba lạng mỳ chính, ba lạng đường… nhưng phải đi từ sớm, tìm chỗ xếp hàng mới có. Dù đang rất bận thi, nhưng trong lớp cũng phải phân công mấy thằng khoẻ mạnh nhất, đi xếp hàng mua hàng tết cho cả lớp. Đến trưa những thằng ấy đạp xe về, mặt tái nhợt như vừa mới vớt ở sông lên, quần áo đẫm mùi mồ hôi vừa nồng, vừa chua… Thằng mua được hàng tết, ôm một bọc, nhìn mọi người cười mà trông như khóc, nói méo xệch cả mồm: “ Chúng nó chen tao, lấn chỗ bẹp cả ruột. May mà phân công thằng đẩy người giữ chỗ để thằng kia mua… mới được ngần này hàng. Mai phải đi sớm hơn… tận Đồng Xuân kia!” Nói xong, nó ngồi bệt luôn xuống nền nhà, thở phì phò cứ như vừa xong cú đấu vật. Mấy đứa con gái thương tình pha cho cốc nước đường, uống bồi dưỡng. Nó tu một hơi hết sạch, còn đưa mắt nhìn ngơ ngác: “ Còn không ? Cho tao một hớp nữa”. Thế là hạnh phúc đấy! Tôi còn nhớ, trong lớp có bạn nữ, tự động đi mua hàng bị bọn lừa đảo lấy sạch tem phiếu, tiền… về đến khu ký túc xá rũ rượt đầu tóc, quần áo xộc xệch lăn luôn ra giường, khóc còn hơn người yêu bỏ: “ Có tí tiền… để tận chỗ này này…thế mà chúng cũng lấy… ”. Lớp lại đứng ra quyên góp, đã nghèo lại gặp eo, nhưng biết thế nào, chẳng lẽ để bạn ở lại ăn tết một mình !

Gần tết, một mắt thì ngóng mua hàng: “ Chỗ nào ? Mỳ chính hử… không xếp hàng à…Đường trắng nhé…không phải đường vàng…mua ngay đi… không hết…”. Còn mắt kia thì dồn vào việc học thi. Đã cận ngày tết, ngoài đường, dẫu cảnh còn nghèo, nhưng cũng nhận thấy người đi lại tấp nập hơn, gồng gánh nhiều hơn, tiếng nói cũng lao xao hơn…ít nhiều ảnh hưởng đến việc học, không thể tập trung, kiến thức không vào. Đã thế, thỉnh thoảng trong trường, không biết tướng nào lại đốt pháo. Tiếng nổ pháo bất chợt, giật mình, kiến thức trong đầu “văng” ra, chẳng biết mình đang học cái gì!!!Họp lớp, phía trên lớp trưởng cứ thao thao bất tuyệt, bên dưới thì thầm to nhỏ: “ tết này nhà mày đã chuẩn bị những gì? Có giò chả không ?”. “ Nhà tao sẵn hai con lợn rồi. Lần này tao về ăn cho chán thịt thì thôi.”. “ Cứ nghĩ đến tết lại thèm bánh chưng.”…nghĩa là, họp lớp gần tết, bên dưới chỉ bàn toàn chuyện ăn… còn bên trên, lớp trưởng nói về “ Phấn đấu”. “ phê bình”, “ các đồng chí cố gắng hoàn thành tốt kỳ thi…”… không biết ông ấy nói cho ai nghe!

Nói thì nói vậy, gần tết, nhất là bên nam cũng bày lắm trò. Tôi nhớ trong lớp tôi, một thằng mua được chai rượu Thanh Mai, của cực hiếm lúc đó. Nó để chai rượu đó lên giường tầng giữa phòng tập thể. Nó đố thằng nào ở trong phòng, tay phải vòng qua nách trái, nắm được dáy tai trái, cúi xuống, lấy ngón trỏ tay trái chỉ xuống đất, quay người theo chiều ngược kim đồng hồ mười vòng, thành công sẽ lấy được chai rượu Thanh Mai kia. Có thằng tưởng bở, dễ làm vội xin thực hiện. Mới quay đến vòng thứ bảy đã ngã lăn ra đất. Hãi nhất là “ bố” ấy nôn toé loe cơm canh vừa ăn, cả mật xanh, mật vàng… ra nền nhà, rồi ngất lịm. Cả bọn hoảng khiêng “ bố” xuống bệnh xá nhà trường. Còn “ bãi chiến trường” kia, may là đúng ngày cả phòng về nghỉ tết, cả bọn thống nhất, khóa phòng, ra tết sẽ dọn!!! Kể lại vẫn còn thấy khiếp.

Chuyện xếp hàng để tìm mua hàng tết, dẫu có cực thế nhưng mới chỉ bằng một phần mười chuyện tìm vé tầu, vé xe để về tết. Lúc ấy đâu có phải thoả mái xe cộ như bây giờ, nhất là phương tiện đi về phía nam, thời gian gần tết, có khi khó y như tìm đãi vàng. Tôi nhớ có một tết, cùng Lê Văn Anh ( Hiện là phó giám đốc ĐH Huế), hai anh em ra ga Hàng Cỏ ( Hà Nội) từ rất sớm. Đến nơi cả hai anh em hoảng hồn khi thấy những hàng người xếp hàng dài như rồng rắn. Thấy một người thanh nữ, thôi thì… bất chấp dung nhan bị xô lệch, kể cả lưng ông trung niên phía trước ép xuống, phía sau ngực anh thanh niên đẩy lên, người của người thanh nữ ấy như bị ép còn hơn ép khuôn dép, thế mà nàng ấy vẫn không chịu rời hàng… Thật kinh khủng! Nhưng cũng chính hình ảnh đó động viên hai anh em, họ là nữ còn như thế ,mình là thanh niên, khỏe mạnh lại chịu thua à! Thế là hai anh em cũng lao vào xếp hàng…Có ai dè, đứng chỉ một lúc cả hai bị đẩy dồn lên trên. Phía trên, bị dồn đột ngột, một ông tức quá lấy cùi chỏ thúc mạnh vào sau, trúng ngay mặt, tôi thấy như có ngàn sao tóa ra trước mặt, tưởng như mình bị bật văng ra khỏi hàng. Lê Văn Anh thương quá, hỏi tôi: “ Anh có làm sao không ?”. Tôi lắc đầu coi như không có chuyện gì xảy ra, hai anh em quyết “ chiến đấu” tiếp…

Cuối cùng thì hai anh em cũng mua được chiếc vé tầu hỏa, những chiếc vé cuối cùng của chiều hai mươi bảy tết cùng hai gói quà tết mà nhà ga gửi tặng hành khách. Cầm chiếc vé nhỏ bằng hai ngón tay, nhầu nhĩ, đẫm mồ hôi mừng còn hơn bắt được vàng. Quên cả chiếc dép nhựa tiền phong bị đứt quai, hàng khuy bị đứt mấy cái nút, từ sáng sớm chưa có hạt cơm vào bụng, thế mà giờ hai anh em không thấy đói, tung tẩy với hai gói quà mang về. Mải vui, vung tay mạnh quá, gói quà tôi đang cầm bay ngay xuống rãnh nước bên đường, nước chảy đen ngòm, hôi thối có cả c…đang trôi. Tôi và Anh đưa mắt nhìn nhau, Anh nói: “ Gói quà bọc bằng ni lông, không sao đâu anh ạ! Mang ra máy nước rửa là xong. “ Nghe Anh nói vậy, tôi thấy cũng có lý, hơn nữa, chẳng lẽ về nhà ăn tết lại không có quà. Thế là tôi lại vớt gói quà lên, mang ra máy nước, hai anh em hỳ hục cọ rửa…

Nghĩ lại, thấy không gì tội bằng tết sinh viên.

Đấy là chưa kể, tết đến, nhiều thằng nghèo quá, không đủ tiền về quê, không có phương tiện nữa, đành ở lại trường.

Nghe chúng nó kể mà thấy thương.

Hồi đó không có chuyện sinh viên làm thêm trong các cửa hàng tư nhân vì một lẽ đơn giản hồi đó, thời bao cấp, những của hàng tư nhân chủ yếu là bán phở, của hàng ăn nhỏ, đâu cần nhiều người phục vụ. Còn cửa hàng nhà nước, thì đừng mơ! Ai người ta cần người làm thêm, tất cả vào biên chế, hơn nữa, ở cửa hàng nhà nước làm gì có việc mà làm thêm. Thế là, mấy đứa ở lại trường không thể về tết, chỉ quanh quẩn trong khu ký túc xá. Sang hơn một chút, ra Cầu Giấy đi tàu điện vào Bờ Hồ để “ lượn” quanh hồ Hoàn Kiếm cho hết ngày. Cũng nhớ có vài người bạn ở Hà Nội, ghé thăm, nhưng rồi đứng lên ngay vì một nhẽ, toàn nhà chật, trong khu tập thể phòng bé tí hin, vừa ăn, vừa ở, vừa là phòng khách, vừa là cả chỗ… nuôi lợn mà cả đại gia đình đang sinh hoạt, mình đến thăm nên “tế nhị” nhường chỗ cho người khác. Chứ ngồi lâu, họ lấy cái gì mà tiếp! Đi chơi về bụng đói meo, không có cái gì ăn, may có thằng còn một ít bột mỳ, cho vào xoong, để lên bếp dầu, quấy lên thành cháo, cả bọn ngồi xì sụp húp.

Thế cũng hết mấy ngày tết.

Cũng có thằng khoe với tôi, mấy ngày tết giúp cho một cô giáo trong khoa bán chè đỗ đen đầu cổng trường cho người đi chơi tết, được cô mời về ăn cơm cùng gia đình mấy ngày tết đó.

- No thật mày ạ!- Nó cười nhăn nhở, trông vui lắm!

Bi hài “hợp tác xã cắt tóc” Hà Thành

Cắt tóc thời bao cấp cũng nhiều chuyện khôi hài. Ngày làm 8 tiếng, trung bình một thợ một ngày cắt 30 đầu khách.

Không ai có thể biết được câu trả lời chính xác: nghề cắt tóc có từ bao giờ? Người ta đồ rằng, nó xuất hiện từ khi những nhà cách tân đầu tiên của Việt Nam sang nước ngoài, ảnh hưởng theo lối sống phương Tây, bỏ búi tó củ hành để tóc ngắn.

Thuở  ban đầu sơ khai của cái nghề "đè đầu thiên hạ" ấy, nó cũng chỉ dành cho... nam giới. Nó là một cõi giang san bất khả xâm phạm của giới đàn ông, đàn bà con gái tịnh không được "bén mảng" đến.

Khi những "cao thủ" của làng nghề cắt tóc Kim Liên lần lượt về với tiên tổ. Trong cái tao đoạn ấy, tay kéo Duy Hào, được dân trong nghề thừa nhận như là người cắt tóc cuối cùng của đất Hà thành này...

Một thế kỷ... "vít đầu thiên hạ"!

Tiệm cắt tóc nhỏ xíu bị che khuất bởi những lô hàng quần áo cũ, hàng chợ, hàng "si-đa" Kim Liên. Tấm biển hiệu nhỏ bé đặt trên lan can tầng 2 của ngôi nhà cũ kỹ: "Cắt tóc Duy Hào".

Trong khi những tiệm cắt tóc nam nữ, nhuộm tóc, hấp tóc, duỗi tóc, là tóc... mọc lên như nấm ở đất Hà thành này, với đủ loại hình: cắt tóc máy lạnh, cắt tóc... wifi, cắt tóc massage, cắt tóc thư giãn, rồi bình dân nhất là những anh cắt tóc dạo, treo cái gương lên gốc cây bên vỉa hè, với bộ dao kéo, tông đơ..., thế là cũng đủ để hành nghề.

Khi thảy ai cũng coi cái nghề "đè đầu thiên hạ" này là nghề phụ, mưu sinh trong những lúc sa cơ thất vận, chẳng cần học hành gì cả, thấy cái gì thừa ra là lấy dao, lấy kéo phay cho cụt, thế là... thành thợ cắt tóc.

Những người thợ cạo Kim Liên chính gốc, với họ, nghề cắt tóc là nghề của sự tài hoa, nghề "hành" bằng đôi tay, đôi mắt!

Theo lời tâm sự của "anh thợ cạo" đất Kim Liên tên Hào, thì cả gia đình anh đã làm nghề cắt tóc, từ cha truyền con nối đến giờ cũng ngót một thế kỷ.

Người mang dao kéo đầu tiên, chính là cụ Phạm Duy Hiền (tức Đảng) - ông nội anh Hào - đã mở nghiệp cắt tóc cho làng Kim Liên. Đến đời anh Hào, dòng họ Phạm đã có ba đời sống bằng nghề cắt tóc.

Xưa, cụ Hiền theo nghề cũng rất tình cờ. Thời gian đầu, cụ chỉ là cậu bé học nghề, lo khoản nhóm lò, quạt bếp..., rảnh rỗi thì học lỏm những người thợ cả... Thế mà thành nghề. Theo yêu cầu của khách, cụ cắp tráp đến cắt tóc tận nhà. Quãng năm 1920-21, lúc đó cụ Hiền chừng 18, 19 tuổi, cụ đã mở được cửa hàng cắt tóc ở phố Hàng Bông. Khách đông không xuể, phải xếp hàng đợi đến lượt mình.

Một lần, vua Bảo Đại đi vi hành, đến tiệm cắt tóc của cụ Đảng. Nhà vua để mắt tới bởi phục cái tài hoa, khéo léo, đôi mắt thẩm mỹ của người thợ cạo, chỉ nhìn liếc một cái đã biết, kiểu tóc nào hợp với đầu nào.

Cụ Đảng trở thành thợ cắt tóc riêng cho vua Bảo Đại, được vời vào Huế, chuyên "phụ trách" mảng "tóc tai" cho các hoàng tử con vua. Có đận, anh thợ cạo đất Bắc được theo chân ông vua ăn chơi này sang tận Angieri để chăm sóc "góc con người" của vua.

Bấy giờ, cụ Đảng đã mua được một ngôi nhà nằm trên phố Bà Triệu, chỗ Viện mắt Trung ương bây giờ. Ngôi nhà bị cháy trong một lần hoả hoạn. Cụ bèn mua ngôi nhà mới trên phố Đào Duy Anh cho vợ con ở, để yên tâm công việc cắt tóc trong Huế.

Hàng tháng, cụ đánh dây thép gửi tiền về cho vợ nuôi con. Mức lương vua Bảo Đại trả cho người thợ cắt tóc riêng của mình, nếu quy đổi ra mệnh giá tiền tệ bây giờ, tương đương... 20 triệu đồng!

Sau này, khi những biến cố xảy ra, cụ Đảng quay lại Hà Nội, tiếp tục làm nghề cắt tóc của mình. Số tiền dành dụm được trong những năm cắt tóc cho vua Bảo Đại ở cung đình Huế, người thợ cạo "chịu chơi" này mua hẳn một con xe Solec "mù" của Pháp. Cụ trở thành một trong bốn người sở hữu bốn chiếc xe duy nhất do Pháp mang sang.

Năm 1985, cụ Đảng mất. Khi ấy, cụ hành nghề cắt tóc được ngót 70 năm, thọ 84 tuổi. Toàn bộ di vật của cụ theo thời gian bị rơi vãi dần. Thế nhưng, đó là những món đồ "có một không hai": kéo tỉa của Pháp, kéo cắt của Tây Đức, tông đơ loại 3.0, con dao cạo sắc mát lịm, bôi dưới màu thép trắng, bôi trên mạ vàng, giữa là dòng chữ Frances khắc chìm.

Cuộc đời dâu bể dâu. Những cái tên "nức danh" đất kéo Hà thành một thời như cụ Hai Hiền, cụ Phạm Văn Cam, cụ Phạm Đình Vân, cụ Trinh Hữu Kỳ, cụ Nguyễn Văn Nhị, cụ Nguyễn Văn Mùng ... lần lượt phải "rửa tay gác kiếm" vì lý do tuổi tác "tay chậm, mắt mờ", cũng là khi các cụ có trong tay xấp xỉ năm sáu chục năm tuổi nghề.

Lớp trẻ hậu sinh chẳng thiết tha với cái nghề tay dao tay kéo nữa. Làng cắt tóc Kim Liên ngày càng trong cảnh suy vi, thất truyền đối lập với sự bung ra của những dịch vụ tóc tai một cách... không thể cưỡng lại được.

Cái tao đoạn chung của hầu hết những nghề truyền thống, giữa cảnh giao thời này, không riêng gì làng cắt tóc Kim Liên. Và, chính hoàn cảnh ấy dường như đã "chọn" người họ Phạm đời thứ ba của dòng họ Phạm Duy làm người kế cận, giữ nghề!

Bước qua tuổi 50, thế nhưng anh thợ kéo Phạm Duy Hào vẫn giữ nét trẻ trung của một anh... trai tân!

Giọng khàn khàn rất riêng. Sự nhanh nhẹn và khéo léo của anh sống động hơn bao giờ hết trong mỗi lần cắt tóc cho khách. Cái cửa hàng nhỏ xíu của anh, vốn đã bị "nuốt chửng" bởi những lô hàng quần áo siđa trên phố Kim Liên, lại bị khuất lấp thêm bởi khóm tre ngà đứng chơ vơ và đầy lạc lõng giữa phố phường ngập ngụa bụi và nắng này.

Thế nhưng, hữu xạ tự nhiên hương. Không cần phải trưng biển như đập vào mắt thiên hạ. Không cần phải cửa kính, máy lạnh, phòng kính sang trọng như những tiệm cắt tóc máy lạnh, hay cắt tóc massege mọc lên ầm ầm khắp các hang cùng ngõ hẻm. Tấm biển nhỏ nằm khiêm tốn trên gác hai, ngay trên hàng lan can của một ngôi nhà xây kiểu cũ không còn phù hợp với kiến trúc bây giờ.

Khách quen muốn đến cắt tóc, phải gọi điện trước, một là để... "xếp lốt", thứ hai là đề phòng ông chủ ngẫu hứng bỏ đi chơi, để cửa tiệm lại cho mấy cậu bé học nghề trông coi!

Tuổi thơ của Phạm Duy Hào gắn liền với những ngày tháng làm phụ việc cho ông nội, cho bố..., những người "thợ cả" của làng nghề cắt tóc Kim Liên. Khi ấy, cậu chỉ làm "chân chạy" sai vặt.

Hoà bình lập lại, mô hình hợp tác xã được mở rộng. Những cửa hiệu cắt tóc tư nhân do người làng Kim Liên mở ra dọc các phố Quang Trung, Hàng Cót, Hàng Bông... được quy tụ lại trong một hợp tác xã. Hợp tác xã này do chính người cha của Phạm Duy Hào làm chủ nhiệm.

Khi ấy, thợ cắt tóc muốn hành nghề phải trải qua lớp đào tạo, phải được cấp bằng "hành nghề" do ngành Quản lý ăn uống và phục vụ Hà Nội cấp. Hàng tháng, hợp tác xã tổ chức các cuộc thi sát hạch, nâng cao tay nghề để xếp cấp bậc (theo kiểu xếp bậc của công nhân).

Những thợ nào không vượt qua được kỳ sát hạch sẽ bị xuống bậc. Cùng với sự xuống ấy là mức lương cũng bị hạ theo. Phạm Duy Hào đỗ thủ khoa của khoá học đầu tiên, vào nghề được "vượt bậc" lên bậc hai, bỏ qua thời gian thử việc. Cái "gien" di truyền của dòng họ đã ngấm sâu vào trong máu anh từ lúc nào không biết.

Cắt tóc thời bao cấp cũng nhiều chuyện khôi hài. Ngày làm 8 tiếng, trung bình một thợ một ngày cắt 30 đầu khách.

Sáng mở cửa, khách lần lượt kéo vào lấy số thứ tự, xếp hàng đợi. Tất thảy mọi người đều để một kiểu tóc như nhau, kiểu tóc mai xanh trắng gáy. Anh thợ nào "ngẫu hứng" tạo kiểu đầu mới, sẽ bị tổ trưởng trừ thi đua, lấy đó làm căn cứ để... hạ bậc tay nghề. Bằng không, ông khách để kiểu "mốt mới" sẽ được đội trật tự thanh niên cờ đỏ gặp ngoài đường yêu cầu dừng lại, lấy tông đơ "xoẹt" dọc ngang hai đường, bắt phải quay lại hợp tác xã để sửa lại kiểu đầu cũ.

Một cái đầu cắt theo kiểu "bình dân" như thế, mất ba hào, tương đương với một bát phở. Chỉ sau một thời gian ngắn, do tay nghề cao, anh thợ cạo Duy Hào được "đặc cách" lên thợ bậc 7, hưởng mức lương cao nhất là 70 đồng/1 tháng. Anh cũng là người thợ cắt tóc duy nhất trong hợp tác xã thường xuyên được mời đến các đại sứ quán cắt tóc cho các chuyên gia nước ngoài!

Năm 1981, Phạm Duy Hào nghỉ chế độ 176, rồi đi thanh niên xung phong trong Lâm Đồng. Năm 1983, Phạm Duy Hào về thành đoàn Hà Nội, được cử đi học tập tại Liên Xô.

Một lần, đi cắt tóc ở Nga, thấy anh thợ cạo của Nga cứ lóng nga lóng ngóng, anh giành lấy tong-đơ, kéo... cắt cho hết cả những ông khách của nước bạn.

Thấy anh múa kéo đẹp quá, cắt vừa nhanh, vừa chuẩn, kiểu dáng lại phù hợp với kiểu đầu, sau đận ấy, anh được "tín nhiệm" mời đến làm thợ cắt tóc vào những ngày cuối tuần. Cũng là vừa đỡ nhớ nghề, vừa có thu nhập thêm trong những năm tháng sống bên nước bạn.

Cứ ngỡ duyên nợ với nghề dao kéo đã cạn, khi Phạm Duy Hào rẽ ngang nghề cắt tóc khi "nhảy" sang địa hạt mới làm công tác thanh niên, thế nhưng, cái số của anh như bị cái nghề chiếu tướng. Về Việt Nam, anh lại quay trở lại với cái quán cắt tóc gia truyền ba đời của dòng họ Phạm, và đứng với nó đến tận bây giờ!

Khách đến quán của Phạm Duy Hào, mong muốn lớn nhất, ấy là được anh trực tiếp nắn nót, sửa sang cho cái "góc con người" của mình.

Vị trí "Kim Liên đệ nhất kéo" của Phạm Duy Hào cho đến bây giờ vẫn chưa có ai có đủ bản lĩnh để có thể... soán vị, bởi một lẽ, trong những hội làng của làng Kim Liên, phường tổ chứ cuộc so tài giữa những tay "anh hùng kéo". Lần nào Phạm Duy Hào cũng được phong tặng danh hiệu "tay kéo vàng" của làng.

Cái sáng kiến tổ chức cuộc thi cắt tóc trong các kỳ lễ hội của ông chủ tịch phường Kim Liên, cũng là để nhắc dân làng Kim Liên không quên mất, rằng tự cổ chí kim, biết bao đời người làng Kim Liên sống bằng nghề dao kéo, rằng cắt tóc cũng là một nghề truyền thống của làng.

iết canh lòng sốt

28/04/2013

BY

ADMIN

Chuyện đó cách đây vài, ba chục năm, lúc đất nước đang còn trong thời bao cấp. Quả tình, không chỉ trẻ con, cả người lớn cũng mong Tết đến. Nhất là trẻ con. Tết được ăn thịt lợn, được mặc áo mới. Từ trưa 27 đến chiều 30 Tết, cả làng eng éc tiếng lợn kêu…

Nuôi cả năm mới được con lợn nặng chừng 30-40 cân, nhà nào mát tay được 50-60 cân, nuôi được tới 70 cân đã nổi tiếng khắp làng. Mà lại chỉ vào dịp Tết mới được mổ. Muốn mổ, phải lên Hợp tác xã xin giấy “sát sinh”.

Vườn chuối cạnh sân, cạnh giếng nước, để một cái niễng, gần đó bắc một cái bếp, trên có nồi đồng 50, đổ đầy nước, được đun sôi, để tí dội cạo lông. Con lợn được bắt trong chuồng ra. Ba người đàn ông, đặt đè nó trên cái niễng. Một người giữ chân sau, một người túm bóp chặt mõm chuẩn bị chọc tiết, một người tay lăm lăm cái bát ô tô, trong đó bỏ sẵn nhúm muối, đôi đũa, chuẩn bị hứng tiết, để hãm, làm tiết canh; phía dưới có thêm cái chậu nhỏ, cũng có nhúm muối, hứng tiết thừa, để sau đó đúc dồi. Chỗ cổ con lợn, nơi sẽ chọc tiết, được rửa sạch. Người chọc tiết dùng con dao bầu cứa ngang cổ nó một vết khía sâu, nhỏ, lách dao vào đó, chọc hơi chếch trái về phía ức con vật. Máu tươi phọt mạnh. Phóng vào bát, toé xuống chậu. Người hãm tiết canh nhanh tay đánh đũa, bát tiết ngàu bọt, hứng gần đầy một bát. Chẳng mấy chốc, con lợn đã được cạo sạch lông, trắng hếu. Nó được rửa sạch, túm chân, khênh đưa vào cái nong đã được lót sẵn lá chuối để trên sân. Vẫn 3 người, họ phanh bụng con lợn, một người nhanh tay bắt phèo; rồi cắt thủ, lôi lòng… Một người cạo lại thủ cho sạch, làm thủ; một người pha thịt và pha thịt để giã giò; một người đi làm lòng.

Nồi đồng 50 còn non lưng nồi nước. Nó được để luộc lòng, luộc thêm ít thịt thủ chuẩn bị cho bữa cỗ của ngày mổ lợn. Dồi được đúc bằng tiết đã đông nơi chậu. Hành tươi cả dọc thái nhỏ và mỡ chài băm nhỏ được cho vào đó trộn lẫn cùng, bóp nát. Khi luộc, người đàn ông làm lòng thỉnh thoảng dùng que nhọn đã vót sẵn chọc dồi, để không khí thừa trong lòng nó thoát ra, khỏi vỡ dồi. Chỗ que nhọn chọc vào, khi rút ra, một ít nước tiết trong dồi vọt ra theo, hoà vào nước luộc, làm cho nó thẫm màu, anh ánh những sao mỡ – nước xuýt, mới ngon làm sao, nhỏ cả nước miếng. Cụm phèo phập phềnh trong nồi luộc đang sôi lăn tăn.

Người chọc tiết là người sành ăn. Ông ta còn cắt lấy một miếng mỡ gáy, bảo chọc vào cái que đem đi đốt cho chín tái; lại cắt lấy một miếng gan, bảo đem đi chần. Hai thứ này sau để làm món gan chần tái gáy. Lúc mổ phanh con lợn, đè hai chân sau xuống nong, hai gồ thịt ở bẹn phồng lên, ông ta xẻo khoét lấy, khía vào đó vài nhát, bảo lấy gắp, gắp chúng đem nướng chín đến.

Không còn nhìn thấy hình hài con vật. Cả nong chỉ thấy ngồn ngộn những thịt đã pha đâu ra đấy. Tiếng giã giò đùm đụp, nhanh và đều tay. Thịt giã nhuyễn được lấy ra một ít để làm chả rán. Chẳng mấy chốc, tiếng băm nhân tiết canh đã vang lên câng cấc, rộn ràng.

Bữa cỗ hôm mổ lợn thật xôm. Nhiều nhất là dồi, là lòng; những miếng phèo trông thật thích mắt. Có thêm đĩa gan chần tái gáy thái chỉ trộn đều màu phớt hồng rắc lá chanh thái nhỏ; đĩa chả, đĩa thịt bẹn nướng, đĩa thịt tai và mũi, bát nước xuýt đỏ sậm; các bát tiết canh, nhà có bao nhiêu người đánh bấy nhiêu bát. Chỉ có mỗi một cái mâm. Bày cỗ lên đó dành cho ông bà chủ nhà và mấy người hàng xóm cao tuổi được mời. Còn thì dùng mẹt, dùng sàng làm mâm, lót lá chuối; dồi, lòng, phèo, gan chần tái gáy, thịt nướng, thịt thủ xếp thành các mô trên những cái mẹt, cái sàng ấy; chỉ có tiết canh, nước luộc lòng phải để trong bát. Ăn nghiến ngấu, háo hức. Nhai, nuốt tưởng nghẹn. Đói mà! Đói cơm gạo cả năm. Cả năm không được ăn thịt lợn. Bữa cỗ hôm mổ lợn là bữa ngon nhất – ngon quá xá trong năm, trong dịp tết. Chỉ bát cơm chan nước xuýt cũng đã là quá ngon rồi. Ăn xong bữa này là thôi, là thấy chán, các bữa tết sau có cảm giác ngấy đến tận cổ.

“Tiết canh lòng sốt”. “Sốt” ở đây không hẳn là nóng. Nó là chín tới ăn liền, là sốt sồn sột.

Thử tìm một bữa tiết canh lòng sốt ở Hạ Long, chả quán nào được vừa ý, kể cả Quán Toan. Quán này được dồi ngon, cháo ngon, tiết canh ngon vừa phải, dạ dày giòn, gan luộc được; nhưng lòng, luộc không được giòn, mà dai – cái gọi là phèo, không thể có. Muốn tìm lại âm hưởng phải tự đi mà đặt lấy, lấy mọi thứ nguyên liệu mang về tự làm. Nhưng đặt người ta – người mổ lợn, không dễ, có quen mới đặt được. Hay là lại về quê, về cái vùng núi xa xôi của mình, nơi mỗi năm chỉ nuôi được 1 con lợn, mát tay mới được mấy mươi cân, chỉ hay mổ vào dịp tết?

…3 người, đặt đè nó trên cái niễng. 1 người giữ chân sau, 1 người túm bóp chặt mõm chuẩn bị chọc tiết, 1 người tay lăm lăm cái bát ô tô…

Chuyện sinh viên Việt ăn lòng lợn, tiết canh ở Úc

Thứ ba 12/02/2013 08:00

Nước Úc cấm giết mổ tại nhà vì vấn đề an toàn vệ sinh. Thông thường muốn ăn tiết canh thì phải đặt trước cho người ta vài ngày. Đến hẹn “phi xe” xuống một chỗ nào đó vắng vẻ rồi gọi điện. Người bán thường đã đợi sẵn chỗ nào gần đó, sau khi quan sát không có gì bất thường sẽ đem túi hàng tới, điềm nhiên ném vào trong xe mình và ... chạy tóe khói. 

i chợ người Việt

Đất Sydney có cả trăm ngàn người Việt sinh sống và học hành nên việc mua mấy thứ dưa cà mắm muối cực đơn giản. Để tiết kiệm thời gian, cuối tuần cả nhà lại leo lên xe phi thẳng xuống mấy quận có đông người Việt định cư (Marrickville, Bankstown, Cabramatta) để đi chợ.

Thôi thì đủ cả, từ mớ rau muống, nắm hành lá, túm mùi tầu, húng quế, rau răm ... cho tới trứng vịt lộn, chả giò chiên, chả lụa, ... thậm chí có cả hến, cua đồng, cá kèo, lươn, ốc được nhập khẩu từ Việt Nam sang. Ngoài ra các đồ thịt cá bán ở khu này cũng có giá mềm hơn cả siêu thị, khâu vệ sinh an toàn có thể chưa bằng nhưng cũng tốt chán. Dù sao cộng đồng Việt ở đây đại đa số cũng chả giàu có gì. Mình cứ tẩn mẩn lựa từng món, chất đầy cốp xe, về ném tủ lạnh cả nhà ăn vài tuần mới hết.

Xong xuôi mọi việc, cậu con trai của mình lại xung phong dẫn đầu tiến vào hàng phở, bún bò ... nao nao thưởng thức những món ăn thuần Việt. Phở ở Sydney ngày càng ngon, tất nhiên chỉ là theo quan điểm của mình. Bánh phở tươi, nước phở xương bò trăm phần trăm (xương ở đây cực rẻ), thịt bò Úc ngon, miếng tái thì ngọt, miếng chín thì mềm, tảng gầu vàng rộm, giòn tan, rau ăn kèm gồm giá đỗ và húng quế thơm lừng. Người Hà Nội mới sang thường ăn chưa quen vì vị hơi ngọt theo kiểu miền Nam, nhưng ở lâu rồi thì ngấm dần, giờ mình thấy còn ngon hơn phở Hà Nội.

Vào những ngày lễ tết, việc tụ hội của người xa quê như bọn mình cũng rôm rả lắm. Sinh viên Việt bên này đông, hô một cái vài ba chục chú tụ tập ăn uống hàn huyên tâm sự cực kỳ đơn giản. Hình thức tiệc phổ biến nhất ở Úc có lẽ là tiệc thịt nướng (BBQ). Tại hầu hết các bãi biển và công viên đều có lò nướng BBQ miễn phí, mọi người cứ dùng xong, rửa sạch cho người tiếp theo dùng là được.

Ngoài mấy món theo kiểu Úc như xúc xích, phi lê (fillet) thịt cừu, thịt bò thì bọn mình thường độn thêm vài món ướp theo kiểu Việt như lưỡi lợn, chim cút ... Đồ biển thường là tôm, sò lông (cái này đi bắt được), hàu xanh, ... Bọn mình hay uống bia chai Úc, thi thoảng xuống khu người Việt thì khuân được thùng bia Sài Gòn, nghe nói có cả bia Hà Nội ở bên này nhưng mình chưa mua được.

Ăn lòng lợn, tiết canh và thịt chó

Đám sinh viên làm nghiên cứu sinh thường có tuổi đời khá cao, mỗi lần nhớ quê anh em lại tụ tập làm bữa tiết canh lòng lợn. Tiết canh thường đánh từ tiết vịt. Cái chuyện mua vịt về làm tiết cũng li kì. Úc cấm giết mổ gia cầm tại nhà vì vấn đề an toàn vệ sinh. Những gia đình làm nghề này thường làm chui, nếu bị bắt được thì mức phạt rất cao.

Thông thường muốn ăn tiết canh thì bọn mình gọi trước cho người ta vài ngày. Đến hẹn phi xe xuống một chỗ nào đó vắng vẻ rồi gọi điện lại. Người bán thường đã đợi sẵn chỗ nào gần đó, sau khi quan sát không có gì bất thường sẽ đem túi hàng tới, điềm nhiên ném vào trong xe mình, thu tiền và ... chạy tóe khói.

Hàng ở đây là mấy con vịt vừa bị giết, vài hộp tiết đã được hãm. Bọn mình đem về pha tiết với nước xáo, đổ ra đĩa nhân, đợi cho thật đông là chén được. Tiết canh ở đây khá an toàn vì không bị nhiễm giun sán như ở nhà.

Lòng lợn thì lại càng đơn giản. Vì dân Úc đa phần không ăn nội tạng nên cả bộ lòng bán ra với mức giá rất phải chăng, hầu như tiệm thịt người Việt nào cũng có.

Cái khó nhất ở đây có lẽ là thịt chó. Ở bên này án dành cho người giết chó có khi còn cao hơn án buôn ma túy nên chuyện ăn thịt chó gần như không tưởng. Mình nghe nói ở vài nơi người Việt vẫn làm chó ở các trang trại xa thành phố. Khách ăn thường là người quen biết, khách lạ bị từ chối liền. Mỗi lần muốn ăn thịt chó phải hẹn trước và đi xa cả mấy trăm cây số. Nói chung là rất khó khăn.

Nhưng cái khó ló cái khôn, các du học sinh nhà ta bên này nhiều bác tay dao tay thớt cực kỳ điêu luyện. Phần do năng khiếu từ hồi ở bên nhà, phần nữa được đào tạo bài bản qua đôi năm làm phục vụ nhà bếp kiếm thêm thu nhập bên này nên việc làm một vài mâm thịt chó "giả lập" cũng không khó lắm.

Món luộc thì đơn giản, mua đùi dê thui về, róc thịt lấy xương ra, quấn cả tảng thịt bao quanh vài gốc sả rồi hấp. Thịt chín để ráo rồi thái mỏng bày ra đĩa, thêm dăm lát riềng, nhìn chẳng khác, ăn lại càng giống. Món nhựa mận cũng đơn giản, nếu có đủ gia vị thì cả thịt lợn cũng thành thịt chó. Món dồi thì khó hơn, cơ mà cũng làm được: mua tiết cục về đánh tan, nhồi vào ruột non lợn kèm lạc rang, lá mơ, riềng sả băm nhỏ ... xong rồi rán lên cho đen sì. Mâm "thịt chó" này thường được nhậu cùng với rượu quốc lủi gốc Nga, hay còn gọi là vodka.

Cái tết xa quê

Mình dăm năm rồi không về Việt Nam ăn tết, đa phần là do lịch nghỉ hai nước khác nhau, ở nhà nghỉ lễ thì bên này lại vào đợt cao trào làm việc, không thể về được. Năm hết xuân về, lắm lúc nhớ nhà đến da diết. Mình có gia đình còn đỡ, anh chị em nào mới sang, một thân một mình thì chỉ có đêm nằm ôm gối mà khóc. Thôi thì anh em tụ tập nhau lại, giành một ngày cuối tuần gần tết nhất để tổ chức tất niên.

Việc đầu tiên là gói bánh chưng, cái này thường giành cho các bác cao niên có nhiều kinh nghiệm. Bánh chưng ở khu người Việt cũng bán nhưng tự mình làm được thì vui hơn nhiều, ăn cũng thấy ngon hơn.

Bên này không có lá dong, thường phải mua lá tre (có lẽ lá trúc loại to bẳng cả bàn tay, dài nửa mét) để gói. Khung bánh không có, một anh sáng tạo đem đồ chơi lego của con ra ghép lại làm khung. Mấy anh chị khéo tay tập trung lại một buổi chiều cũng làm xong được vài chục cái. Bánh sống được phân về cho mỗi nhà vài cái, công thức nấu được phổ biến, cho bánh vào nồi rồi đun trên bếp ga. Sáng hôm sau thì mọi người đem bánh ra bãi cỏ trong trường để làm tất niên.

Chỗ mình ở có một cây đa cổ thụ, tán lá rộng xum xuê mát mẻ. Mấy em trẻ đã nhanh tay dậy sớm trang trí, thôi thì cũng đủ cành đào, cây mai, câu đối, phong bao lì xì. Chả phân biệt người miền Nam hay Bắc, cứ thấy cái gì hay thì thêm vào.

Một món chính không thiếu vào ngày tết là ... bê thui tại chỗ. Anh em thường đặt trước một con bê đã làm sẵn. Lò mổ cũng cung cấp luôn cả bếp, giàn quay, mình chỉ mua than bán ở siêu thị, nhóm lên, cắm điện cho quay và thế là món bê thui được bắt đầu.

Bánh chưng được xếp chồng, bác cả (thường là bí thư chi bộ) thắp mấy cây nhang dưới gốc đa, trịnh trọng khấn vái, anh chị em ai có cầu mong điều gì thì cũng thắp hương. Xong xuôi mọi người vào tiệc, thịt bê cứ vừa nướng vừa cắt ra ăn, kèm với mấy thứ cổ truyền như dưa hành, củ kiệu, ...

Bánh chưng cũng ăn một nửa, một nửa cho mọi người đem về nhà để giành hôm sau cho đỡ nhớ tết. Trẻ con nô nức nhận phong bao lì xì, chơi pháo hoa cầm tay, chạy tung tăng trên thảm cỏ. Đối với nhiều đứa trong đám chúng nó thì tết có lẽ chỉ gói gọn trong một không gian bé tẹo như thế này mà thôi.

Vui nhất, ngon nhất – Tết thời bao cấp

Muốn ăn ngon thì chờ đến Tết

Cách đây mấy chục năm, vào thời bao cấp khó khăn, người dân làm sao có điều kiện sắm mâm cao cỗ đầy cho ngày Tết như bây giờ được. Ấy thế nhưng thời hiện đại, nói đến chuyện ăn Tết, người ta không “nhiệt tình”, bởi quanh năm đã ăn uống no say rồi, chưa kể một loạt bữa tiệc tất niên trước đó cùng cơ quan, bè bạn, khiến họ không thấy hứng thú gì với những món làm sẵn quá quen thuộc trong ngày Tết như giò chả, canh măng… Vì  là ngày Tết nên vẫn phải sắm, phải nấu, đến bữa sắp ra đầy mâm cho có không khí là chính. 

Còn trong những ngày Tết thời bao cấp, người ta gắp miếng thịt, miếng giò một cách vô cùng hào hứng và vui sướng, rồi tấm tắc, đúng là cả năm được mấy ngày Tết.

Anh Thạch, 39 tuổi, quê Thái Bình, kể về hồi anh còn bé: “Vào khoảng tháng 11 âm lịch, mỗi khi tôi kêu thèm thịt, mẹ tôi lại bảo chịu khó ít bữa đi con, Tết tha hồ mà ăn. Thỉnh thoảng bữa cơm có mấy miếng thịt, tôi toàn phải nhường cho các em, chỉ được gắp một miếng. Bố tôi lại an ủi rằng nhường em một chút, Tết bố ưu tiên cho miếng gan thật to. Đối với tôi, Tết là thời điểm ước mơ biến thành hiện thực: được nghỉ học, được ăn ngon, và có khi được may cả áo mới nữa”.

Không chỉ trẻ con mới thấy thỏa mãn trong những ngày Tết. Ông Bính, 72 tuổi, sống ở Hà Đông, Hà Nội, tâm sự: “Với những nhà nghèo như nhà tôi, đến gần Tết là vợ chồng méo mặt, vì tiền đâu mua đồ ăn, tiền đâu sắm áo quần cho con. Nhưng như các cụ ta nói, dù khó đến mấy thì cũng ngày 30 Tết thịt treo trong nhà, những món cơ bản đều có đủ cả. Dù là đi vay đi mượn hoặc phải bán đi thứ gì đó nhưng kể từ khi đón giao thừa, năm mới đến, vợ chồng con cái không nghĩ đến cái sự nghèo khó đó nữa, mà chỉ vui sướng hưởng thụ cái Tết, hy vọng về tương lai”.

Ông Bính cho biết, những năm gần đây, Tết nhà ông cũng rất vui vì con cháu đông đúc, vật chất đủ đầy, nhưng cái cảm giác sung sướng náo nức “chỉ ngày Tết mới có” thì không bằng ngày xưa. Bởi bây giờ, quá nhiều nhu cầu, quá nhiều ham muốn đã được thỏa mãn trong ngày thường rồi, không phải ao ước chờ đến Tết nữa.

Trẻ con ngáp dài chờ mổ lợn

“Mẹ tôi mỗi năm chỉ nuôi một lứa lợn. Đầu năm mua con giống về nuôi, cuối năm thịt để ăn Tết. Thường là nuôi 2 con, một con bán lấy tiền mua sắm, con còn lại chung nhau mổ với mấy đồng nghiệp của bố mẹ”, anh Vinh, 38 tuổi, giáo viên tiếng Anh, hiện sống ở Hà Nội, kể về thời thơ ấu ở một tỉnh miền Trung.  

Thường việc mổ lợn được tiến hành vào tờ mờ sáng 30 Tết. Đêm trước đó mấy chị em anh Vinh dặn đi dặn lại là bố mẹ nhất định phải gọi con dậy xem, và cố gắng đi ngủ sớm, nhưng náo nức quá chẳng ngủ được.

“Khoảng 4 giờ sáng, chị tôi đập dậy, tôi rên rỉ không mở nổi mắt ra, chị phải dọa là thôi kệ mày, không được xem đừng có trách. Thế là tôi tỉnh cả ngủ, lồm cồm bò dậy. Hăng hái như vậy nhưng lần nào xem người lớn cạo lông lợn, pha thịt, làm lòng, nhồi dồi, tôi cũng ngáp dài ngáp ngắn, ngủ gà ngủ gật,. Thường đến khi có món lòng lợn luộc hoặc cháo lòng thì tôi đã lại ngủ tít rồi”, Vinh kể.

Anh Long, 41 tuổi, thì khoái nhất trong màn mổ lợn là chuyện người lớn dành cho anh cái bong bóng lợn làm đồ chơi. “Đó là cái bàng quang lợn. Ông chú lấy ra, cho thêm gì đó, hình như muối hay tro tôi không nhớ, dùng chân đạp đi đạp lại, mục đích cho nó mỏng đi thì phải,  rồi rửa sạch, quẳng cho tôi".

"Tôi kiếm cái cọng rau muống già hay đọt đu đủ nhét vào, phồng mang trợn mắt thổi thật căng, chờ trời sáng hẳn rủ bọn trẻ con trong xóm đá bóng. Bong bóng lợn vừa xấu xí vừa không tròn, đá sao bằng bóng thường được, nhưng bọn trẻ chúng tôi vẫn rất thích nó, vì nó là loại bóng đặc biệt. Và nó cực bền, có khi chơi cả tháng chả rách”.

Bà Hoa, 65 tuổi, cho rằng, hồi đó để có mâm cỗ Tết, mọi người phải tự làm từ A đến Z, từ mổ lợn đến giã giò, gói và nấu bánh chưng. Nói là nghèo nhưng số món của cỗ Tết có khi còn nhiều hơn bây giờ, mỗi con lợn thôi mà cho ra nào giò lụa, giò thủ, nào thịt đông, canh bóng, giả cầy, thịt kho Tàu, canh măng hầm chân giò, thịt luộc, lòng luộc, nem, mọc, các món xào… Ấy thế nhưng các bà nội trợ không đến nỗi phải tất bật như chị em thời nay.

“Đó là vì vào thời bao cấp, người ta chỉ làm trong giờ hành chính, lại còn ăn bớt thời gian. Trưa về nhà chơi thoải mái mới thèm đến, chiều chưa hết giờ đã về, hoặc đưa việc nhà lên cơ quan làm, nhàn lắm. Đâu như phụ nữ bây giờ làm đến ngày cuối cùng của năm, ngày nào cũng căng như dây đàn từ sáng sớm đến tối mịt, nên chuyện sắm Tết, chuẩn bị Tết toàn phải tranh thủ, thành ra quá tải. Nhiều người nghĩ đến Tết chỉ thấy chuỗi ngày mệt phờ, kiệt sức chứ chẳng vui thú gì. Thời tôi còn trẻ, công việc chẳng áp lực như vậy nên thời gian chuẩn bị Tết cực kỳ vui”.

Xé sách vở làm pháo Tết

Với anh Hùng, 42 tuổi, cái đáng nhớ nhất trong những ngày Tết thời bao cấp là việc tự sản xuất pháo. Hồi đó việc đốt pháo nổ chưa bị cấm, pháo là thứ không thể thiếu trong ngày Tết.

“Thường thì trước Tết cả tháng, anh em tôi ríu rít hỏi dò bố rằng năm nay nhà mình mua mấy phong pháo, to hay nhỏ, có được mua thêm mấy quả pháo đùng cho nó oách không. Để dụ bố, chúng tôi toàn giả vờ kể với bố là nhà thằng A, thằng B mua nhiều pháo lắm. Cuối cùng thì năm nào chúng tôi cũng có 3 phong pháo, một đốt lúc giao thừa, một khi cúng sáng mồng một là phong cuối cùng đốt vào mùng 2 lúc tiễn các cụ đi, hơn kém nhau chỉ ở chỗ tràng pháo dài hay ngắn mà thôi”, Hùng nói.

Năm học lớp 4, Hùng thấy anh hàng xóm  tự cuốn pháo để nổ Tết, bèn nằng nặc xin anh ta dạy cách làm. “Không hiểu sao tôi vẫn biết đây là chuyện bố mẹ không đồng ý nên giấu biệt các cụ. Tôi dụ thằng em nộp hết tiền nó được cho, gộp với tiền tôi bán đồng nát, để mua thuốc pháo và ngòi pháo. Giấy cuốn thì tôi chỉ việc lôi sách vở cũ ra là đủ. Không có nhiều tiền mua thuốc nên năm ấy tôi chỉ làm được vài chục quả pháo đùng loại vừa, bố hỏi thì tôi bảo anh hàng xóm cho. Không ngờ tác phẩm đầu tay của tôi nổ giòn giã. Hai anh em sướng mê tơi”.

Thừa thắng xông lên, mấy năm sau Hùng lại cuốn pháo. Anh dành dụm tiền từ rất sớm. Số quả pháo và kích thước của chúng tăng đều mỗi năm, đến nỗi không thể nói dối là ai cho được nữa. Hùng bảo với bố là anh mua bằng tiền bán sắt vụn. Thế nhưng đến năm thứ tư, bố biết được trò “ám muội” của cậu con trai khi phát hiện ra sách giáo khoa của năm ngoái, lẽ ra phải giữ để cho em năm sau dùng lại, đã bị cậu quý tử “tiêu thụ” sạch.

Hùng bị một trận đòn thừa sống thiếu chết, toàn bộ pháo bị tịch thu tiêu hủy cho nhớ đời. Anh cho biết trong suốt tuổi thơ, đó là lần anh thấy đau đớn nhất, không phải vì ăn đòn mà vì bao nhiêu “của nả trân quý” đội nón ra đi. “Phải nói là ruột đau như xé, biết mình sai nhưng vẫn hận ông già đến hết tháng giêng mới nguôi được”, Hùng cười nói.

Từ lần đó, Hùng bị cấm tiệt chuyện sản xuất pháo. Sau này, anh cũng thấy hú hồn vì biết rằng rất nhiều sinh mạng đã bị thuốc nổ cướp đi khi làm pháo, và chuyện pháo nổ bị cấm tuy có gây nuối tiếc nhưng Hùng cho rằng đó là quyết định cực kỳ đúng đắn. “Cũng vì đã lâu rồi Tết không gắn với pháo nên với tôi, mùi khói pháo thơm nồng, tiếng pháo giòn đanh, hình ảnh xác pháo hồng rải đầy mặt đất đã trở thành ‘thương hiệu’ của những cái Tết thời bao cấp, cứ nghĩ đến là lòng nôn nao”.

Những người từng sống trong thời bao cấp khi nhìn lũ trẻ con bây giờ thường ít nhất một lần chép miệng: 'Bây giờ chúng nó sướng thật, cái gì cũng thừa thãi, chê chán, chả bù cho mình ngày xưa, đủ thứ khát thèm'.

Ước bị ốm để ăn ngon

“Hồi thằng Long nhà này 8 tuổi, có ông khách đến chơi nói chuyện với nó, hỏi Long mơ ước nhất điều gì, không ngờ thằng bé bảo cháu ước thường xuyên bị ốm. Ông khách trố mắt hỏi tại sao, nó nói vì ốm được ăn ngon”, bà Phương, 64 tuổi, kể về cậu con trai cả của mình, nay đã 38 tuổi.

“Biết cái tính con phàm ăn, tôi cố ra hiệu cho nó đừng nói nữa kẻo xấu hổ, nhưng được ông khách khuyến khích, thằng Long vẫn cứ thao thao kể. Nó bảo ngày thường có đồ ăn gì mẹ cháu cũng bắt ăn ít thôi để nhường em, cháu gắp thêm một miếng có khi mẹ còn mắng. Nhưng khi bị ốm thì mẹ sẽ hỏi thích ăn gì để mẹ mua, bữa ăn có gì ngon cũng gắp cho cháu, còn giục cháu ăn thêm nữa. Cháu ốm, mẹ cháu sẽ lôi lọ đường ra cho cháu ăn với cơm, chứ ngày thường thì đừng hòng, thỉnh thoảng cháu xúc trộm vài thìa còn bị ăn mắng”.

Ngày trước bị con “tố cáo” như thế, bà Phương xấu hổ lắm, nhưng giờ thì bà rất thích kể như muốn chia sẻ cảm xúc và nỗi hoài niệm về một thời khó khăn mà tất cả mọi người đều đã kiên cường vượt qua. Bà nhớ, hồi đó các con bà, đặc biệt là Long, lúc nào cũng thèm nhạt các loại đồ ngọt. Nhà có gói kẹo nào, bà phải cất đi thật kỹ, đứa nào có thành tích cần khen thưởng mới đem ra cho vài cái, mấy đứa kia nhân đó cũng có phần. Nhiều khi cất dành lâu quá, khi lôi ra thì kiến, chuột đã ăn mất, mấy đứa trẻ vừa tiếc xót xa, vừa oán mẹ, ngồi khóc rấm rứt.

Anh Long cũng góp chuyện: “Bây giờ các cô cậu 9X hay nói ‘bình thường như cân đường hộp sữa’ chứ thời tôi còn bé, cân đường hộp sữa chả bình thường chút nào, mà nó vô cùng sang trọng, vô cùng xa xỉ, ngoài đồ phân phối ra thì chỉ được cho khi ốm, mà phải ốm nặng nhé, hoặc người ốm phải quan trọng hay thân thiết một chút. Tôi mê nhất là sữa đặc, hình như hiệu là Thống Nhất. Tôi không thích pha sữa, dĩ nhiên có thì chả từ chối bao giờ, nhưng với tôi, sang nhất, tuyệt nhất là sữa đặc không pha, cứ ăn thẳng như thế, ngọt lừ, béo ngậy”.

“Vì cái hộp sữa ấy, tôi không chỉ mong mình ốm mà còn mong bố mẹ ốm nữa, vì bố mẹ ốm mới được người ta cho sữa, chứ trẻ con ốm thì cho mấy cái kẹo hay mấy quả trứng, quả cam thôi. Mỗi lần khách đến thăm mà cầm theo đường sữa là mấy anh em mắt sáng rực, hau háu nhìn túi quà, cứ đi ra đi vào, lảng vảng nhìn trộm cái túi, chỉ mong khách về mau để còn cầm lấy mà hít hà, dù chỉ có mùi kim loại. Ấy thế mà lần nào bố mẹ tôi cũng cất vào tủ, mấy đợt ốm rồi vẫn cất trong tủ. Phải thật lâu sau đó, chúng tôi cứ nhắc nhở, nì nèo mãi, mẹ tôi mới lôi cái hộp ra. Mà nào có được ăn ngay, bà còn lột nhãn giấy, cho vào nồi luộc mãi, sốt ruột đến chết”, Long kể.

Sữa luộc rồi, bà mẹ Long mới đục, rồi rót ra tí tẹo vào đáy cốc, pha thêm cơ man nào là nước sôi, lại còn thêm đường mới đủ ngọt, đúng là chỉ có mùi và màu sữa mà thôi. Chỗ sữa còn lại, bà đặt vào cái đĩa sâu lòng đựng nước để chống kiến, đậy lại, cất tủ. Thế là anh Long cứ rình lúc không có ai, thỉnh thoảng lại lôi hộp sữa ra, cho vào mồm nút trộm. Một hôm, nút chụt chụt mấy cái không thấy gì chảy vào mồm, Long nhận ra mấy hôm nay mình đã chén sạch cả hộp sữa rồi. Nhớ lại những lần bị bố quất cho mấy roi vì tội ăn vụng, Long sợ run, vì anh nghĩ, một thứ quý giá như hộp sữa thì chắc chắn mức độ đánh đòn phải nặng kinh người.

hế là Long trốn, nấp sau đống gạch cạnh bể nước của khu tập thể từ trưa đến tối. Khi mọi người đi tìm, gọi ầm ĩ khắp nơi, cậu bé vẫn không dám lên tiếng, cứ cố co mình lại, im thin thít, rồi sau đó ngủ quên mất. Mãi đến khuya, một bác hàng xóm mới phát hiện được, bế về.

Không thổ lộ 'ham muốn' 

Một dấu ấn tinh thần đóng lên hầu hết lớp trẻ thời bao cấp đến tận sau này là rất ngại bộc lộ ham muốn.

Hầu hết những đứa trẻ thời đó đều biết bố mẹ mình khốn khó, cực nhọc trong việc kiếm cho chúng miếng cơm để ăn, manh áo để mặc. Vì thế, trẻ con thời bao cấp rất thương bố mẹ và cực kỳ biết thân biết phận, không mấy đứa dám đòi hỏi, xin xỏ cái nọ cái kia. Mặc dù đứa nào cũng thèm khát đủ thứ, từ đồ ăn đến đồ chơi, nhưng luôn nghĩ rằng nếu nói ra những nhu cầu đó là tội lỗi, là làm khổ bố mẹ.

“Tôi thèm bánh mỳ từ hồi bé tí, cho đến năm học lớp 8, năm 1993, mới lần đầu được ăn. Hình vẽ bánh mỳ trong các cuốn sách tiếng Nga quá hấp dẫn, khiến tôi tưởng tượng nó phải ngon kinh khủng, phải đắt kinh khủng, nên không bao giờ xin mẹ, cũng không bao giờ đả động đến chuyện tôi thèm món đó. Nếu biết tôi thèm đến thế chắc mẹ đã mua cho, và tôi đã biết nó cũng bình thường thôi, không phải kéo dài sự khao khát cho đến tận tuổi dậy thì như vậy”, chị Mai, 34 tuổi, kể. Năm chị học lớp 8, thời bao cấp đã qua, nhưng nhà Mai vẫn nghèo, chị vẫn quen thói kiềm chế mọi ham muốn của mình. Nếu không nhặt được tiền và quyết định mua bánh mỳ ăn thử, chắc không biết đến bao giờ chị mới biết đến vị bánh mỳ.

Còn chị Trúc, 37 tuổi, cho biết cái mà chị khao khát nhất hồi bé là chiếc khăn voan màu đỏ. Những đứa bạn chị có người nhà đi nước ngoài về đều có khăn voan đỏ. Chúng dùng để quàng, để thắt làm nơ cài lên đầu hay đeo vào tay những khi biểu diễn văn nghệ, để trùm lên đầu khi chơi trò hoàng tử, công chúa, hoặc quấn ngang hông làm váy…

Trúc biết bố mẹ mình không bao giờ bỏ tiền ra mua một thứ phù phiếm như khăn voan, khi mà dép đứt còn chưa mua nổi. Vì thế chị chỉ ước và ước. Trúc thường tưởng tượng bỗng dưng có một người cậu hay người cô đi nước ngoài, về tặng mình cái khăn voan, rồi tưởng tượng đó đi vào giấc mơ. Ngoài khăn voan, chị cũng thèm những chiếc kẹp tóc hình bướm, những chiếc vòng tay nhựa đủ màu vẫn chạy lên chạy xuống trên cổ tay các cô bạn… Nhưng chị chẳng bao giờ dám tâm sự với mẹ. Và khi chị có khả năng mua những món đồ nho nhỏ ấy thì thời để đeo chúng đã qua từ lâu.

Anh Trần Phong, 39 tuổi, thì chia sẻ, cái làm anh khao khát nhất hồi bé là máy chơi điện tử, thứ đồ chơi mà mấy đứa em họ anh được bố chúng mua cho từ Algeria. Cái món đồ “từ thế giới khác” ấy khiến anh mong ngóng từng cơ hội nhỏ được gặp bọn em họ, nuốt nước bọt hếch mỏ xem chúng chơi, hy vọng thỉnh thoảng được chơi ké một tí. Dĩ nhiên, để tăng cơ hội cho mình, anh cũng hối lộ chúng những gì kiếm được. Phải mất bao thời gian và tâm lực cho việc đợi chờ mới được sờ vào cái máy một tí, nên anh Phong thấy hậm hực, đau đớn vô cùng khi vừa đến lượt chơi, hay đang chơi dở thì đã phải ra về. Dĩ nhiên, dù có ngông cuồng đến mấy, anh cũng không bao giờ nghĩ đến chuyện xin bố mẹ mua cho một món thượng lưu như vậy.

Không dám xin, nhiều đứa trẻ nghĩ cách tự xoay xở để có được thứ mình thích, mà dễ nhất là trò gom - bán đồng nát. Những sợi dây nhôm, những lõi dây điện bằng đồng, những mẩu sắt vụn, những chiếc dép nát đến không thể nát hơn… được bọn trẻ gom lại, giấu kín vào một xó để bán cho đồng nát. Tiền ấy, chúng giấu đi, mua kem, mua kẹo để ăn, hoặc để hối lộ thằng bạn có món đồ chơi cao sang.

Chị Trúc chia sẻ: “Đến bây giờ, mỗi lần nghe tiếng rao của các bà đồng nát, tôi lại nhớ cái thời nhặt nhạnh từng cái đinh gỉ, từng mẩu sắt vụn ấy”.

Trai 6X 'cưa cẩm' như thế nào?

6X đời chót bây giờ mới ngoài 40, cũng chưa xa thời thanh niên trai tráng là mấy. Thế nhưng so với đám thanh niên thời @, phương pháp cưa gái của họ thật 'cổ kính'.

Những chàng trai thế hệ 6X bước vào tuổi yêu đương trong thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Đó là những năm cuối thời bao cấp và đầu thời kỳ đổi mới, khi người dân còn nghèo, nhịp sống còn chậm, và chuyện tán tỉnh, yêu đương cũng phải “trường kỳ kháng chiến” chứ không ào ạt “đánh nhanh thắng nhanh” như bây giờ.

Còng lưng bóc lạc nhà nàng

Hễ bị vợ chê lười là anh Phạm Văn Trực, sinh năm 1964, hiện sống ở Kim Giang, Hà Nội, lại hài hước kể công rằng, hồi xưa để cưa được chị, anh đã lao động khổ sai không công cho nhà chị mấy năm ròng, giờ thi thoảng phải cho lười một chút chứ.

Chị Thịnh vợ anh hồi con gái rất đẹp, lại còn học khá, hát hay nên nhiều anh theo lắm. Bố anh nghiện thuốc lá nặng, ngày hút gần hai bao thuốc mà không bao giờ phải mua một điếu nào, toàn đám trai đến tán chị Thịnh đua nhau biếu. Trực chẳng có tiền mua thuốc lá, vả lại anh nghĩ cả ông già được biếu cả nắm thuốc, chắc chẳng nhớ hết của những đứa nào. Thế là anh xoay cách khác.

Hồi đó người dân ở thành phố Vinh quê anh thường nhận bóc lạc cho cơ quan thương nghiệp. Mỗi nhà, tùy sức, nhận từ vài tạ đến cả tấn lạc vỏ về bóc trong thời gian quy định. Tùy chất lượng lạc mà bên thương nghiệp quy định mỗi tạ lạc vỏ phải nộp lại bao nhiêu kg lạc nhân, nếu thừa thì được hưởng chỗ dôi ra đó, còn thiếu thì phải bù vào. Nhà chị Thịnh cũng nhận lạc về bóc để kiếm ít lạc nhân dự trữ cho ngày mưa gió. Nhà gồm có bố mẹ, bà nội và ba chị em Thịnh, ai nấy làm việc, học hành, cơm nước xong là vùi đầu vào bóc.

Anh Trực quyết định “tấn công” người đẹp và gia đình nàng bằng chuyện bóc lạc. Tối nào cũng vậy, cứ ăn tối xong là anh đến “thăm bà và hai bác” rồi cặm cụi bóc giúp “cho vui”. Anh cứ hai tay cầm hai củ lạc chọi thẳng xuống nền nhà xi măng, nhanh thoăn thoắt. Chỉ nghe “choách, choách” một hồi, lạc bóc rồi đã vun cả đống, người lớn trong nhà khen lấy khen để.

Nhưng biểu diễn được chừng một tiếng đồng hồ thì rát ngón tay, anh đành phải dùng cái kẹp (gồm 2 thanh bản tre hoặc gỗ có khía, buộc một đầu với nhau bằng dây cao su). Thấy kẹp nhà chị Thịnh vừa khó bóc vừa dễ làm củ lạc trượt ra, khiến hai thanh gỗ kẹp phải tay đau điếng, Trực hì hụi cải tiến đám kẹp, cái nào cũng "ngon", khiến bà nội thích lắm. Chưa hết, Trực còn nhờ vả bạn, bạn anh nhờ vả bà cô làm bên thương nghiệp can thiệp để nhà chị Thịnh toàn được nhận loại lạc tốt nhất, nên lần nào cũng thừa ra được khá nhiều lạc nhân, chẳng những đủ ăn mà còn đem bán.

Tóm lại, người lớn trong nhà coi như đã “duyệt”, chỉ riêng chị Thịnh không thích anh. Anh bóc lạc cứ bóc, chị mặc kệ. Nhiều khi anh đang còng lưng bóc lạc thì chị ăn mặc đẹp đi chơi với chàng trai khác. Ấy thế mà rồi mưa dầm thấm lâu, dần dần anh cũng lấy được chị làm vợ.

Nhắc lại chuyện tình của hai anh chị, cô em gái Trực “tố cáo”: “Trong khi mẹ và em phải thức suốt đêm bóc lạc cho kịp ngày nhập thì anh ấy chả đụng một ngón tay, hóa ra là bận đi bóc cho nhà người ta. Lại còn xin lạc tốt cho nhà người ta nữa chứ, mẹ thì thỉnh thoảng vẫn vớ phải lạc xấu, phải bù lỗ suốt, hi hi”.

Những món quà của “thời xa vắng”

“Ngày xưa đi cưa gái làm gì có chuyện đưa đi ăn nhà hàng, đi uống cà phê hay shopping như bây giờ. Tiền không có, hàng quán cũng ít, mới cả hồi đó con gái nhà tử tế cũng không tùy tiện ra ngoài với ‘trai lạ’. Thế nên nói đi tán tức là đến nhà người ta mà ngồi thiền, phải thân thân rồi mới rủ được ra ngoài chơi”, anh Lê Hải, sinh năm 1965, nhớ lại.

Ngồi ám quẻ lâu chỉ khiến người nhà đâm ghét, nên các chàng rồi cũng phải liệu đường mà về, rồi tìm cách nối dài cuộc trò chuyện qua những lá thư.

 Hải viết thư mỗi ngày, đến nỗi nhiều khi hết cả giấy, phải xé trộm từ vở của em gái út. Viết xong, anh còn cầu kỳ gấp thư theo những kiểu điệu đà, rắc rối đến nỗi bạn gái mở mãi không ra, có khi sốt ruột giật rách cả thư. Sợ bị bố nàng ngăn cản, anh gửi thư về địa chỉ của nàng ở trường. Viết chừng 10 lá thì anh nhận được một lá hồi âm, thế cũng đủ sướng cả chục ngày, đọc đi đọc lại đến nhầu cả giấy, đi ngủ cũng ấp vào tim.

“Đừng có bảo tôi sến. Bạn tôi đầy thằng còn sến hơn. Có đứa viết thư tỏ tình lâm ly, thảm thiết, lại còn nhỏ mấy giọt nước cho nhòe mực, ra vẻ là mình vừa viết thư vừa khóc vì nhớ nàng, vì chưa được nàng để mắt. Thế mà cũng có cô tin, cảm động đến rụng rời”, Hải nói.

Hải cho biết, anh không có tài lẻ gì nên hồi đó rất ghen với những cậu biết đàn, hát, biết làm thơ, vẽ tranh:“Bọn đấy mới là sát thủ. Con gái thời đó cứ được chàng ôm đàn ghi-ta hát tặng mấy tình khúc thay lời trái tim, tặng cho mấy vần thơ con cóc là đổ ràn rạt, lại còn khoe khắp bạn bè là anh ấy làm thơ hay còn hơn... Tố Hữu. Nhìn mấy thằng cha đấy, vừa xấu trai vừa nghèo rớt, ấy thế mà tán em nào chết em đấy, ức thật. Mình đọc thơ chúng thấy dở òm, nhiều bài mình biết thừa là thuổng trong sách ra, nhưng chả nhẽ lại bảo với nàng là em ơi em nhầm rồi, hê hê”.

Quà tặng lấy lòng bạn gái hồi đó của Lê Hải và các bạn vô cùng giản dị và ít mang tính vật chất: chiếc khăn mùi xoa, chiếc kẹp tóc, cục xà phòng thơm, cây bút máy, đôi quai nón, thậm chí là những món đồ chơi làm tử vỏ lon bia…

Những sự cố của “thợ cưa”

Anh Nguyễn Văn Hưng, sinh năm 1962, quê ở Thanh Hóa, cho biết hồi chinh phục người yêu đầu, anh không phải nịnh nàng hay bố mẹ nàng nhiều lắm, mà chủ yếu nịnh hai thằng em tai quái của nàng. Hai cậu này biết Hưng đến “cầu cạnh” chị mình nên được 

thể “hành hạ”, hoặc phá đám cho vui. Khi thì chúng xì lốp xe của anh, lúc lại nhân lúc anh đang say sưa “chém gió”, dán vào lưng anh mảnh giấy ghi những câu buồn cười, hoặc giấu mũ, giấu dép…

Hưng chỉ có cách là nịnh. Anh vẽ bích báo hộ chúng, dán diều cho chúng mang đi thả, gần Tết thì làm pháo cho chúng đốt. Hồi đó trẻ con rất thích sưu tập vòng thun (dây nịt cao su dùng để buộc đồ), rồi mang ra thi bắn vòng thun để “ăn” của nhau. Hai cậu em này cũng thế. Vậy là Hưng đi mua một túi bự, thỉnh thoảng lại cho các em nàng vài chục chiếc, khiến chúng sướng rơn.

Thấy bọn trẻ thích chơi con quay, Hưng cũng về chặt cây ổi nhà mình, lấy phần gốc tiện cho hai cậu “em vợ” mấy con quay rất đẹp, đóng đinh ở chân để “tăng sức chiến đấu”. Hôm đầu tiên mang tặng, hai cậu bé hớn hở mời “anh rể” ra xem chúng “chọi” nhau. Cậu em cuốn dây vào con quay, giơ thật cao tay rồi bổ xuống, không hiểu thế nào con quay lao ngay vào đầu Hưng, máu chảy đầy mặt. Cũng may, vì áy náy và thương xót cho Hưng, sau vụ đó tình cảm của chị gái chúng dành cho anh tăng vượt bậc.

Còn anh Minh, ở Cầu Giấy, Hà Nội, từng phải đi bệnh viện vì tội bày tỏ tình yêu theo cách quá lãng mạn. Đêm đó lúc ai nấy đã đi ngủ, anh mang một bông hồng tuyệt đẹp lặng lẽ đến trước nhà bạn gái. Miệng ngậm bông hồng, anh trèo hàng rào lên cửa sổ nhà nàng, vốn không hề biết về cuộc đột nhập này nên vẫn ngủ tít trong chăn. Anh định bụng sẽ mở cửa sổ vào đặt bông hồng lên tủ, hôn nàng một cái rồi đi ra, không để phụ huynh biết. Không ngờ trèo gần đến nơi thì trượt tay, cả thân hình nặng 60 kg rơi thịch xuống đất, khiến bố nàng hớt hải hô “trộm, trộm” rồi vác gậy xông ra, may là còn kịp nhận mặt “cây si” của con gái.

Hôm đó Hưng chẳng những gãy tay mà còn bị rách mắt, mặt sưng tướng, phải đi bệnh viện; đó là chưa kể được phen xấu hổ với bố mẹ nàng và mấy nhà xung quanh.

Sự cố của anh Hoàn (Đống Đa, Hà Nội) thì chắc là thuộc loại hi hữu, vì cách thể hiện sự quan tâm, chăm sóc của anh quá “độc”: Cô gái mà anh đang tán ở ký túc xá nên chịu cảnh thiếu nước thường xuyên, khiến anh rất ái ngại. Có mấy hôm để ý việc nàng gãi gãi tay, nhìn trộm ở kẽ ngón tay thấy có mấy nốt ghẻ, Hoàn thương lắm. Anh lập tức đi mua mấy lọ thuốc Dep đưa cho nàng, ân cần dặn dò cách dùng. Chẳng ngờ mặt nàng đỏ bừng, rồi lại tái đi vì giận, ném trả lọ thuốc vào ngực Hoàn rồi đuổi về, từ đó về sau không chịu tiếp nữa.

Lúc đó Toàn nhận ra mình đã bóc mẽ “đối tượng”, làm nàng xấu hổ, nhưng vẫn cố vớt vát: “Ghẻ thì có gì đâu em? Bọn anh đứa nào chả bị?’, nhưng chưa hết câu đã bị nàng đẩy ra khỏi cửa. Anh chàng chỉ còn biết tự chửi mình ngu.

Mà cái “ngu” kiểu đó, chắc chắn các chàng trai 9X chẳng bao giờ mắc phải, cho dù các cô gái bây giờ có mắc cái bệnh ghẻ cổ lỗ sĩ kia đi nữa.

Khổ như tán gái thời bao cấp

Một đôi dép, chục người mượn

Ông Nguyễn Văn Quảng, 57 tuổi, từng là sinh viên Đại học Tổng Hợp Hà Nội những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20. Năm thứ hai, ông phải lòng một cô sinh viên khóa dưới.

“Cô này da trắng, tóc dài chấm hông, nhiều anh mê lắm, toàn những đứa có sừng có mỏ cả. Mình cũng thuộc dạng khá, học hành được, nhưng trong đám cưa nàng, loại như mình đổ đi không hết, lại phải tội nghèo. Hồi mình đỗ đại học, thầy u giết được con lợn mời cả xóm đến mừng, tiễn mình đi, thế là từ đó giao mình cho nhà nước nuôi dạy chứ chả cho được đồng nào”, ông Quảng kể.

Mỗi lần định đến thăm nàng, nghĩ đến hai bộ đồ sờn cũ của mình, chàng sinh viên Nguyễn Văn Quảng thấy nản. Dĩ nhiên ông cũng làm như các bạn bè ở hoàn cảnh mình khi đó vẫn làm: mượn đồ. Áo mượn người này, quần mượn người kia, cứ mới mới chút là được, không khó kiếm. Nhưng muốn gây ấn tượng tốt 

thì phải có những đồ thời thượng, kiểu như hàng hiệu bây giờ.

Thế nên cứ đến thứ 5 hằng tuần là Quảng lại nhắc cậu bạn trong ký túc xá: “Nhớ là tao đăng ký từ trước rồi đấy nhé”, ý nói đến đôi dép nhựa trắng Tiền phong và cái xe đạp của anh chàng.

Cái xe đạp hồi đó cũng giống như xe máy Dreams với thế hệ sinh viên 7X hay xế hộp với sinh viên 9X vậy, có nó là nghiễm nhiên thành hot boy. Còn dép nhựa trắng Tiền phong thì giá trị chả kém gì giày hàng hiệu bây giờ. Thế nên anh chàng quê Hải Phòng sở hữu cả hai món này là người được cầu cạnh nhiều khu ký túc. Bạn bè cậu nào cũng muốn mượn để “lấy le” với các em. Họ đua nhau hối lộ khổ chủ, nào thuốc lá, nào kẹo lạc, nào giặt hộ quần áo… chỉ cốt chiều thứ 7 được mượn dép, mượn xe.

Yêu thì yêu vô cùng, nhớ ghê gớm lắm, nhưng vì mấy lần trước đã xuất hiện như “dân chơi” trước mặt nàng rồi nên những hôm không mượn được đồ, Quảng đành nằm nhà, nhất là khi không mượn được dép. “Không có xe đạp thì còn giả vờ tinh tướng là cho thằng bạn mượn đạp về quê thăm thầy u, chứ hôm trước đi dép Tiền phong, hôm nay đi dép rách là lòi đuôi ra ngay”, ông Quảng giải thích.

Còn ông Phạm Thành, 60 tuổi, cho biết hồi trai trẻ, ông không có xe đạp, cũng chẳng có dép nhựa Tiền phong, nhưng lại có một món “hàng hót” thời bấy giờ, đó là mũ cối Tàu, giá bằng cả chỉ vàng. Có điều khác với bạn bè, Thành không coi đó là thứ để làm “các em” lác mắt về độ ăn chơi của mình, chỉ là anh thích cái mũ ấy, và quý như vàng, đi đâu cũng mang, và dứt khoát không cho ai mượn. Ngoài ra thì khi đi cưa cẩm, Thành chỉ ăn mặc bình thường, gọn gàng sạch sẽ là được.

Đợt ấy người đẹp mà Phạm Thành chinh phục có vẻ đã xuôi xuôi. Sáng chủ nhật, hai người đi dạo Bờ Hồ, rồi Thành mua sách tặng nàng, mời nàng ăn kem Tràng Tiền. Những tưởng đi chơi trong buổi sáng rồi chở nàng về, vì chiều nàng còn có việc bận, ai ngờ nàng hứng khởi quá nên quyết định hoãn công việc sang dịp khác để tiếp tục cuộc dạo chơi.

Chơi đến quá trưa thì cũng phải ăn, và người trong mộng của Thành lại có nhã ý ăn phở. Kể ra Thành chẳng nghèo đến mức hai bát phở cũng không mua nổi, nhưng lúc nãy trót vung tay nên hết sạch tiền.

“Từ sáng đến giờ đã ra vẻ phong lưu, nàng thích gì là mua tặng, muốn gì là chiêu đãi, giờ có bát phở cũng không mời được thì ê mặt quá, nhưng chẳng biết nói thế nào. Nghĩ chưa xong thì hai đứa đã vào đến quán, nàng ngồi xuống rồi. Cực chẳng đã, mình đành giả vờ buồn đi vệ sinh, bảo nàng chờ rồi lẻn ra chỗ cách đó vài phố, bán cái mũ cối cho bọn phe. Nhìn điệu bộ hớt hải của mình, biết mình vừa vội vừa cần tiền gấp nên chúng nó ép giá thê thảm. Tiếc đứt ruột, nhưng cũng đành”, ông Thành cười kể lại.

Phải có tủ lạnh, em mới yêu

Ông Lê Văn Tịnh, 65 tuổi, nói: “Người ta cứ bảo bây giờ dân tình chạy theo đồng tiền, chứ thực ra thời bao cấp cũng vậy thôi, nghĩa là thời nào cũng có người coi đồng tiền là trên hết. Hồi đó khốn khó, nên cái chuyện vật chất càng quan trọng, các cô gái đẹp lại càng đặt mục tiêu lấy được anh giàu, nếu không phải có chút chức sắc thì cũng phải là cánh lái xe, hay những người đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô về, giống như bây giờ chân dài chỉ muốn câu đại gia vậy. Hồi đó mình ngây thơ quá, trót dại mê nhan sắc một cô, rồi chuốc nhục mà về”.

Cô gái ấy là sinh viên khoa văn. Thấy nàng đi đứng tao nhã, ăn nói dịu dàng rõ con người thanh lịch, ông Tịnh bèn dùng thế mạnh thơ phú của mình để tấn công, nghĩ mình vừa đẹp trai, lại có tài, kiểu gì nàng cũng đổ. Rồi thấy bài thơ nào của mình nàng cũng nhận, đọc xong mắt chớp chớp ra chiều cảm động lắm, ông Tịnh hy vọng tràn trề. Những bài thơ nồng cháy tình yêu ấy ông chỉ viết riêng cho nàng, ấy vậy mà sau đó nhiều cô gái biết và thuộc, nhiều cậu trai khác copy gửi cho bạn gái, điều đó chứng tỏ nàng thấy chúng rất hay và đem ra khoe với mọi người. Ông Tịnh nghĩ, nàng chưa “nhiệt tình” với mình hơn chắc cũng chỉ vì gái đẹp thường kiêu kỳ mà thôi.

Một hôm đến nhà nàng, ông Tịnh đánh bạo nói lời yêu và bày tỏ ước mơ lấy nàng làm vợ. Nàng cũng chớp chớp mắt, khiến kẻ si tình muốn đứng cả tim vì chờ đợi. Rồi lời vàng cũng được thốt ra từ miệng ngọc, khiến chàng trai rụng rời: “Nhà anh có tủ lạnh không?”. Thấy “đối tượng” mặt tái mét, chẳng nói ra lời, nàng tự xác định luôn là không có. Rồi nàng ái ngại thanh minh cho chuyện “đòi” tủ lạnh, hình như nói về chữ hiếu gì đó, nhưng ông Tịnh không nghe nổi nữa, cáo từ ra về.

Ông sốc chẳng phải vì mình không có tủ lạnh để cưới giai nhân (dù sự thật đúng là không có) mà vì không thể ngờ nàng thơ khả ái vừa nghe tỏ tình đã kê ngay tủ lạnh vào mồm mình như vậy. Nghĩ đến những bài thơ viết bằng cả trái tim và sự tài hoa, những mong xứng đáng với sắc đẹp và tâm hồn sinh viên khoa văn của nàng, ông Tịnh tê tái cả người vì xấu hổ.

Nói về chuyện yêu đương thời ấy, bà Trần Thùy Liên, 54 tuổi, tâm sự: “Cánh phụ nữ chúng tôi ngồi với nhau thường nói chuyện chọn chồng. Tuy ít ai nói thẳng ra nhưng tôi biết, rất nhiều cô có nhan sắc chỉ muốn nhăm nhăm kiếm chồng giàu cho ấm thân. Thế nên mới có chuyện nhầm lẫn đau đớn như cô Phước làm cùng cơ quan tôi”.

Cô bạn này nhan sắc rất khá, công việc đã ổn định nên rất nhiều anh nhắm nhe, trong đó có anh Mộc. Anh Mộc mặt mũi dễ coi và nói chuyện rất có duyên, hài hước nên nhiều cô mê. Bản thân Phước cũng rất thích Mộc nhưng đối xử với anh khi thân mật, lúc lạnh lùng, rồi vài tháng sau thì từ chối anh để tập trung vào một chàng “có máu mặt”. Có lần ngồi hàn huyên, Thùy Liên có hỏi Phước về anh Mộc thì cô nói, cô thích anh lắm nhưng không yêu được vì anh nghèo.

Ít lâu sau, qua một người trong ngành đến liên hệ công tác, chị em trong cơ quan mới biết nhà anh Mộc rất giàu chứ không bần hàn như cái vẻ ngoài giản dị, lôi thôi của anh thể hiện. Ngồi nghe nhà anh có đến 2 cái xe Cup 50, có đài cassette mà người Phước cứ tái đi như muốn lả. Sau đó, cô phát phiền đến mức đổ bệnh. Người trong cơ quan bảo chắc cô đấm ngực hằng đêm vì đã ném đi cục vàng mà không biết. Nghe nói Phước có ý bật đèn xanh cho anh Mộc trở lại, nhưng anh đã yêu người khác rồi.

“Nói vậy nhưng không phải cô gái đẹp nào thời đó cũng chạy theo vật chất cả”, bà Liên bảo, “Như chị gái tôi, có mấy anh phó tiến sĩ ở Nga về theo đuổi, mà trước sau vẫn chỉ yêu anh Thắng là bạn hồi cấp ba. Anh ấy làm ở huyện bên cạnh, cứ chiều thứ 7 là còng lưng đạp xe 40 cây số về thăm chị, rồi chở chị đi chơi. Không có tiền nên họ chẳng ăn uống gì, chỉ đạp xe mấy vòng rồi về”.

“Xe đạp hồi đó hỏng hóc như xịt lốp, sang vành, tuột xích liên tục là thường, nên nhiều bữa ‘đi tình yêu’ về mà anh chị tả tơi như đánh trận, mặt mũi, áo quần đều nhem nhuốc, mồ hôi đầm đìa. Có mấy lần, trên đường từ cơ quan về thăm chị, anh Thắng bị hỏng xe, mãi 10 giờ tối mới về đến nơi”, bà Liên kể.

Chị gái bà Liên và người yêu thời đó giờ đã có chung 3 đứa con, 1 đứa cháu. Nhớ về thời bao cấp, họ không còn rùng mình về những thiếu thốn, khó khăn, chỉ thấy những kỷ niệm tình yêu lãng mạn mà đến con cháu cũng phải ghen, phải nể.

Ngộ nghĩnh chuyện 'làm giàu' thời bao cấp

Thì thụt nấu rượu lậu

Hồi tôi còn bé, những năm đầu thập kỷ 1980, mẹ tôi cứ mỗi tuần lại cất một mẻ rượu. Đó là bí mật mà ai cũng biết. Bí mật vì hồi đó hành vi của mẹ tôi được gọi là nấu rượu lậu, rượu hợp pháp phải là rượu quốc doanh. Thế nhưng các gia đình và hàng quán xung quanh đều biết rượu của mẹ tôi là ngon nhất, uống lại không bị đau đầu. Đó là vì mẹ kết hợp phương thức nấu rượu truyền thống với khoa học, nhờ mấy thiết bị chưng cất bằng thủy tinh “mượn tạm” ở phòng thì nghiệm, nơi mẹ làm việc, giúp loại bỏ các chất độc.

Việc sản xuất rượu của mẹ diễn ra lặng lẽ, trong tiếng thì thầm của cả nhà. Hễ nước nóng từ vòi chảy ra nhiều nhiều một chút, mẹ lại nói nhỏ: “Gọi các em ra tắm đi con”. Thỉnh thoảng, mẹ rỉ tai tôi: “Trông bếp cho mẹ tí, nhớ đừng để lửa to kẻo rượu khê mất”. Khi những dòng rượu đầu tiên chảy xuống, trong vắt, bố tôi lại nếm thử và thì thầm: “Ngon ngon”. Tôi thích chí hét toáng lên: “Ngon lắm hả bố? Cho con nếm thử”, lập tức bố mẹ để tay lên miệng suỵt suỵt. Khách đến nhà tôi mua rượu, hai bên cũng đều thì thà thì thụt như buôn bạc giả.

Rượu ngon lại bán rẻ nên theo như mẹ nói thì chỉ lấy công làm lãi. Cái lợi lớn nhất là con cái có cơm rượu để ăn nhằm hỗ trợ tiêu hóa, những hôm cất rượu thì cả nhà có nước ấm để tắm, bố tôi không phải uống rượu độc hại ở ngoài và “lãi” nhất là có cả thùng bỗng rượu để nuôi lợn.

Hồi đó, tôi không thấy nhà ai không nuôi lợn. Ngay cả giai đoạn sống ở khu tập thể cao tầng, những ai không “xí phần” được mảnh đất bên dưới để dựng chuồng thì đều chia nhau căn đầu hồi, nuôi lợn trên tầng cao. Các bác, các chú cứ lên lớp giảng bài thì đạo mạo, về nhà lại quần xà lỏn, áo may-ô thủng lỗ chỗ múc nước tắm cho lợn. Tiếng lợn đói réo eng éc, mùi phân lợn nồng nặc lúc nào cũng treo trên đầu mọi người.

Lúc bố mẹ tôi mua được đất bằng tiền bán cái máy khâu, rồi chuyển về đó ở trong căn nhà dựng tạm, tôi bắt đầu gia nhập đội trẻ con chuyên đi hái rau lợn trong xóm. Chúng tôi cứ lang thang bờ bụi, lội xuống mương, hễ có gì lợn ăn được là tha về hết, nếu không kiếm được gì mới phải cắt rau lang hay hạ cây chuối trong vườn băm cho lợn ăn. Lợn nhà tôi lại được bồi bổ bằng bỗng rượu nữa nên cứ lớn vù vù, mỗi lần xuất chuồng là mấy chị em lại được mua cho món gì đó mới.

Cũng liên quan đến lợn, hồi đó thỉnh thoảng trong xóm lại có một ông đạp xe đi qua, rao rất “to mồm”: “Ai hoạn lợn đê!”. Chó và trẻ con cả xóm đuổi theo suốt dọc đường, chó thì sủa, trẻ con thì vừa cười vừa hét: “A hoạn lợn, ông hoạn lợn, ông ăn cà lợn, hô hô hô!!!”.  Có vẻ như trẻ con hồi đó có tí tuổi mà chuyện tế nhị gì cũng biết. Thỉnh thoảng khi một nhà nuôi lợn nái mời người ta đến thụ tinh cho lợn, trẻ nhà đó lại rủ bạn bè "đến xem con lợn nhà tao bị bơm vào chỗ ấy”.

Khi thầy giáo thành “con buôn”

Bố tôi đi dạy được mười mấy năm thì về nghỉ mất sức. Thấy vợ con nheo nhóc, ông quyết tâm vận dụng kiến thức khoa học để kiếm tiền, nhưng công việc nào cũng chỉ “ăn” được một thời gian ngắn. Đầu tiên là một nghề nghe khá kêu: phân kim vàng bạc. Tóm lại ai có bạc xấu, vàng kém tuổi hay vụn vàng vụn bạc cứ đem đến cho bố tôi dùng phương pháp hóa học loại bỏ tạp chất, làm cho chúng nõn nà. Có đợt ông mua bạc linh tinh về phân kim thành bạc nõn cung cấp cho các hiệu kim hoàn để họ chế tác. 

Khi nghề này không “kiếm” nữa, ông chuyển sang làm kem giặt. Mấy chị em giúp bố mẹ  giã cao lanh trắng đến sụn cả lưng, rồi lại ngồi dùng bàn là để dán bao bì, người ngợm ê ẩm. Một thời gian sau, cả xóm, cả người quen, họ hàng đều dùng kem giặt nhà tôi vì vừa tốt vừa rẻ, nhưng cũng vì tốt và rẻ mà chả có lãi, cả nhà lại phải tiếp xúc suốt ngày với hóa chất nên chẳng mấy chốc mà bố tôi quyết định bỏ.

Trong khi chưa nghĩ ra “chiêu” làm ăn gì mới, bố pha một một thùng mực cho mấy chị em tôi bán, dĩ nhiên giá chỉ bằng một nửa ngoài cửa hàng. Thỉnh thoảng vào buổi trưa hay chiều, trẻ con trong xóm mang lọ đến í ới gọi tôi: “Mực mày ơi”. Giá mỗi lọ hình như 50 đồng, lâu lâu mới bán được một lọ, bố bảo “bày ra để chị em mày chạy ra chạy vào cho vui chứ ăn thua gì”.

Dự án làm ăn tiếp theo của bố là chưng cất tinh dầu từ các loại cây lá có hương thơm. Sản phẩm cực tốt nhưng chẳng ma nào mua, tôi cũng không hiểu người ta có thể làm gì với thứ đó. Thất bại này khiến bố tôi kết luận, kiến thức khoa học chẳng mài ra mà ăn được, tóm lại là phải làm con buôn thôi.

Mẹ tôi vay giật các nơi, bán nhẫn hồi môn, bán gỗ dành làm nhà cho bố góp vốn đi buôn với người ta. Ngoài một đợt bố mang hải sản khô về chất đầy nhà, tôi chả nhớ bố buôn cái gì, chỉ nhớ là sau vài vụ kinh doanh như thế, ông cựu nhà giáo bị bạn hàng lừa, mất sạch vốn liếng, mất luôn cả cái mộng học đòi làm con buôn.

Những đứa trẻ quấn thuốc lá

Xung quanh nhà tôi, các gia đình chẳng ai không “làm kinh tế”. Nhà chú Thung có 5 cô con gái, nhà nước chỉ bao cấp cho 2 cô, số còn lại thì vì đã lỡ “sinh voi” nên vợ chồng chú phải lo "kiếm cỏ" cho chúng ăn chứ không chờ trời được. Một trong các nghề của họ là cuốn thuốc lá. Đồ nghề cực đơn giản: mỗi người một cái bàn cuốn mà đến trẻ con cũng bắt chước chế ra được, một tập giấy mỏng, một hộp sợi thuốc và một chén hồ. Điếu thuốc dài quấn xong được dùng kéo cắt đôi, xếp vào túi nylon 20 điếu một, hơ trên ngọn đèn dầu để dán lại, nhập cho các quán nước.

Chú Thung và vợ  sáng,chiều đi dạy, trưa và tối cặm cụi quấn thuốc. Mấy đứa con lớn cứ đi học thì thôi, về nhà là lao vào quấn. Hình như công việc này cũng kiếm được, vì thuốc lá thủ công này giá rẻ hơn thuốc "có nguồn gốc xuất xứ" nhiều; vì thế nên nhà họ mới nuôi nổi 5 “con bươm bướm”.

Cạnh đó là nhà cô Liên, chuyên làm lạc rang húng lìu. Trẻ con trong xóm nghe nói đến món này là thèm rỏ dãi, nhưng cái thứ thơm ngọt đó không dành cho trẻ con mà cho người lớn, dĩ nhiên là đàn ông, khi uống rượu. Mỗi gói lạc dài chừng 12 – 15 cm, bé bằng 2 ngón tay, chắc chỉ đựng được vài chục hạt lạc.

Bọn nhóc cứ chiều tối là kéo nhau sang nhà cô Liên xem cô rang lạc rồi đóng gói, đứa nào cũng xin làm giúp để thỉnh thoảng nhón trộm hạt lạc cho vào mồm. Nhưng lòng vả cũng như lòng sung, mấy đứa con cô biết thừa nên ngồi xem thì được, chứ làm giúp là chúng đuổi xoe xóe. Bản thân chúng cũng nuốt nước bọt chứ quyết không ăn vụng lạc của mẹ.

Cô Liên là nhân viên đánh máy của cơ quan nên cũng kiêm luôn nghề đánh máy thuê, dĩ nhiên là sử dụng “cơ sở vật chất” của cơ quan, tức cái máy đánh chữ già nua và những tờ giấy than được dùng đi dùng lại đến hết cả mực. Có điều, cũng được đồng nào hay đồng đó thôi chứ hồi ấy nhu cầu đánh máy không nhiều, ít ra là ở khu tôi sống.

Bác Thiết làm công nhân thì treo tấm biển “nhận hàn dép” ngoài cổng, ai cần thì đến gọi. Hồi đó làm gì có chuyện ra đường là phải giày với xăng đàn như bây giờ. Có đôi dép lê bằng nhựa để đi học, đi làm là oách lắm rồi, có đứt thì phải dán đi dán lại cho đến lúc không dán nổi nữa mới đành bán cho đồng nát.

Khi nhận dép rách, bác Thiết sẽ làm nóng con dao, xẻo một miếng nhựa từ  chiếc dép cũ đã “vô phương cứu chữa” khác, có màu tương đồng, rồi lại làm nóng con dao, miết vào miếng hàn và chỗ dép đứt, cho đến khi nối được chúng với nhau. Tiền công chẳng đáng bao nhiêu, ấy thế nhưng đối với sự nghèo của dân thời bao cấp, một hào cũng quý. Vì thế nhiều nhà tự dán dép cho mình và con cái, dù nhiều khi dép vàng lại dán miếng nhựa màu xanh, tay nghề không có nên nó cứ lồi lên một cục chỗ xanh, chỗ đen sì. Nói chung, chuyện người thời đó đi một đôi dép chi chít sẹo lồi như thế là thường.

Có một nghề thu nhập rất khá nhưng khi nghe nói đến, nhiều người thời đó tỏ thái độ khinh khi, đó là nghề “phe phẩy”.  Giữa thời hàng hóa khan hiếm, nghề này kiếm ác, nhưng cũng đòi hỏi phẩm chất khôn ngoan, năng động, nhạy bén vốn không có nhiều ở thời bao cấp. Có điều khi ấy, sự nhạy bén đó bị cho là khôn lỏi, ma mãnh kiểu con buôn, gần như đồng nghĩa với vô đạo đức. Nói đến phe phẩy là người ta ghét, có lẽ một phần do ghen tỵ thấy những kẻ “vô đạo đức” lại được ăn sung mặc sướng hơn mình. Con cái những nhà đó vênh mặt vì có áo đẹp nhưng lại không bao giờ được khoe một cách dõng dạc: “Bố tao/mẹ tao là dân phe”.

Sau mấy chục năm, những đứa trẻ lớn lên bằng đồng tiền dán dép, chăn lợn, quấn thuốc lá… của bố mẹ ngày ấy giờ đã là chủ nhân của nền kinh tế thị trường. Nhưng những ngày thơ ấu sống trong thiếu thốn, nghèo khổ, sẽ không ai quên.

MIẾNG THỊT KHÔNG VUÔNG - KHÔNG ĂN!"

Chuyện từ thời “bao cấp”, cách đây hơn ba mươi năm. Ngày ấy, hàng hóa, thực phẩm khan hiếm. Dịp cuối năm, mối lo của các ông lãnh đạo cơ quan đơn vị là làm sao có thịt, gạo nếp, đỗ xanh v.v. cho công nhân cán bộ ăn Tết. Quang cảnh chia hàng Tết và tâm trạng của công nhân khi ấy ra sao, tôi đã kể trên blog và đăng trên Vnnet. Ở đây, qua câu chuyện này, chúng tôi muốn đề cập tới việc thưởng Tết nói riêng và bình xét thưởng, nói chung.

Cơ quan doanh nghiệp nào cũng vậy, dù ít, dù nhiều, Tết là phải có thưởng cho CNCB. Trước đây, khi hàng hóa còn khan hiếm, các đơn vị thường thưởng cho CNCB bằng hiện vật như vải, quần áo, đồng hồ, như mì chính, đường, sữa v.v. Ở Xí nghiệp Xây lắp mỏ Mông Dương – nơi tôi từng làm việc – ngày ấy công nhân cũng được thưởng Tết bằng hiện vật. Nhưng với những thợ giỏi, thợ xuất sắc, Giám đốc còn thưởng riêng cho món quà độc đáo: Mỗi người một khúc giò!

Phần thưởng độc đáo ấy khiến CNCB trong Xí nghiệp bình luận râm ran rằng, cái ông Giám đốc này giở hơi, bữa ăn ba ngày Tết, nhà ai chẳng có giò mà lại đi tặng giò! Miếng giò bày ra mâm cỗ thì giò nào chẳng phải là giò! Rằng, nếu phần thưởng là tờ lịch, treo trên tường, khách vào nhà, nhìn hàng chữ trên lịch biết ngay đơn vị tặng. Đằng này, phần thưởng là khúc giò, dù ngon đến đâu thì cũng chẳng ai biết đó là giò Giám đốc tặng v.v.

Nhiều người nghĩ thế nhưng không phải thế. Người kể chuyện này đã mấy lần ăn Tết ở Mông Dương. Đến chúc Tết những gia đình được thưởng giò, dù không đúng bữa, chủ nhà cũng thái ra đĩa giò, rót rượu mời khách rồi nâng đĩa giò lên, trịnh trọng: “Các bác nếm miếng giò. Ngon lắm. Giò Giám đốc thưởng đây…” Lời mời của gia chủ lúc này là niềm hân hoan, kiêu hãnh, được “khoe” đúng dịp, công khai mà kín đáo; lại vừa là sự hiếu khách, vừa là niềm tự hào và nó lan tỏa đến tận hôm nay. Các cụ xưa nói “Miếng ngon nhớ lâu” là thế.

Lại nhớ chuyện trong sách cổ. Chuyện rằng, dịp Tết, vua nước Lỗ không chia phần thịt cho Khổng Tử, Khổng Tử liền bỏ nước Lỗ mà đi. Cũng theo sách cổ, Khổng Tử cực kỳ khó tính trong ăn uống. Khổng Tử từng nói “Miếng thịt không vuông - không ăn!”. Nhiều người hiểu lầm Khổng Tử vì tham miếng thịt mà bỏ cả Tổ quốc. Nhưng không phải vậy! Miếng thịt lúc đó là thước đo sự đánh giá, sự trân trọng của bậc đế vương với hiền tài. Nhà vua không chia phần thịt cho Khổng Tử tức là coi Khổng Tử không là gì. Vậy thì, những ý kiến của Khổng Tử (bây giờ ta thường gọi là tham mưu) làm sao mà được vua tin! Thì Khổng Tử còn ở lại với nước Lỗ làm gì!

Món quà Tết độc đáo chúng tôi kể trên cũng vậy, không thuần túy là miếng ngon trong thời bao cấp gian khó mà hơn thế, đó là sự trân trọng của lãnh đạo với những người hết lòng vì sự phát triển của Xí nghiệp; là hành vi ứng xử văn hóa của bậc minh chủ. Bởi vậy, dù làm việc ở nơi xa xôi, nhiều gian khó, những người thợ xây lắp mỏ Mông Dương ngày ấy vẫn gắn bó với Xí nghiệp và đã lập những thành tích xuất sắc: Xây dựng thành công Mỏ than Mông Dương, Khe Chàm, Khe Tam, Khe Bố v.v.

Bây giờ giá trị phần thưởng Tết, phần thưởng cuối năm lớn hơn nhiều. Ngoài tiền mặt, những CNCB xuất sắc còn được thưởng chuyến du lịch nước ngoài và được hưởng những đặc ân khác. Có lẽ vì thế mà những cuộc bình xét thưởng như chặt chẽ hơn, quyết liệt hơn. Thế nhưng không ít người được tôn vinh này nọ, thậm chí được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, CSTĐ Toàn quốc v.v. nhưng sau đó bị kỷ luật, thậm chí vi phạm pháp luật.

Khổng Tử nói “Miếng thịt không vuông - không ăn”. Ấy là Khổng Tử muốn đề cao sự công bằng, sự rạch ròi trong ứng xử, trong ăn chia…Sự ứng xử không công bằng, không rạch ròi sẽ có tác dụng ngược, kìm hãm sự phát triển xã hội. Tôi khẳng định như vậy. (viết thêm: và chúng ta thử liên tưởng đến việc xét thưởng của Hội Nhà văn những năm gần đây xem sao?)

Chuyen xua

Cắt gà bằng kéo thì cũng không có gì ghê gớm bác ạ. Đúng là cắt bằng cách này thi hàng xóm có áp tai vào tường cũng không nghe thấy gì, nhưng không phải người ta dùng nó chỉ vì muốn dấu diếm. Nhiều bà, nhiều cô ngày nay vẫn dùng cách này, vừa đỡ dao thớt, vừa an toàn (với một số người), vừa tiện lúc muốn lọc thịt (xé phay chẳng hạn); bản thân em thi thoảng cũng vẫn dùng.

Nhưng đúng là thời đó có miếng ngon nào là cứ giấu như đi ăn vụng, ăn trộm vậy.

Hồi bao cấp em còn bé, nên nhớ loáng thoáng, nhưng ngồi nghĩ lại thì thấy như có 2 hình ảnh khác nhau. Một vui, một buồn. Vui vì hay chia sẻ, tối tối mọi người quây quần ấm trà, điếu cày, điếu bát, nghe đài, tán chuyện; trẻ con đứa ngoẹo đầu, ngoẹo cổ tập viết, đứa "sinh hoạt" văn nghệ, thi thoảng bị người lớn bắt ra biểu diễn rất vui.

Buồn vì (lúc ấy chả nghĩ thế) chập tối lợn kêu eng éc, khói bếp mù mịt, nhà này mắng con, nhà kia cãi nhau, điện đỏ như con đom đóm đực, có để cho có, lúc học thường phải thắp đèn.

Một bữa canh thì đủ mọi loại rau: mùng tơi, rau đay, lang, muống, ngót thập cẩm loại trong vườn "mót" về. Tối tối mùa hè thường trải chiếu ra hè ăn vừa mát vừa ngắm trời sao (ăn trong nhà chắc chịu không thấu). Cua cá hồi đó còn nhiều, trẻ con bọn em nghỉ hè sáng sáng đi lượn một vòng cũng kha khá, nhưng chủ yếu cũng một quãng thời gian sau vụ gặt đó thôi. Các thức ăn khác thì ít hơn. Thi thoảng thịt lợn, lâu lâu thịt gà. Chắc vẫn còn tốt hơn chán so với thế hệ phụ huynh thời xưa đợi đến Tết để được miếng thịt mỡ "ngập chân răng". Nói chung hình như cũng không đến nỗi quá tệ, nhưng có một giai đoạn sau này thì ban-căng hơn, nhà em thì ăn độn, nhà nhiều đứa bạn ăn sắn toàn diện. Thế nên có lúc nghe có đứa ở phố nói chán ăn thịt, thấy có đứa đi ăn cưới bóc thịt mỡ vứt đi là tụi em choáng. Người ta xào rau cần vứt bỏ hết lá đi là mình cũng phải băn khoăn.

Giai đoạn cuối bao cấp tụi em cũng choai choai rồi. Hầu hết "giúp đỡ" bố mẹ. Sáng đi học, chiều bốc vác như người lớn, có tiền phì phèo tí thuốc men cũng "phởn". Nhiều đứa lên lớp ngủ ngay tại trận, rơi rụng, bỏ học vãn cả. Sau này còn có "phong trào" bỏ nhà đi Nam. Bố mẹ có chửi, có đòn uất quá là găm tạm ít tiền ra nhảy xe ngay. Cũng may nhà mình còn điều kiện hơn một chút. Thày bu lại ưu tiên cho học hành nên cũng đỡ.

Có lẽ chẳng phải riêng gì bao cấp, nhưng nhớ lại ngày xưa là nhớ Tết, nhớ pháo (chả biết bao giờ được gặp lại em này). Chuẩn bị Tết các nhà trong khu "đụng" thịt lợn rất rộn ràng; mổ lợn, chia thịt, giã giò rộn rịp cả buổi; các nhà tranh thủ quét vôi tường; trẻ con được cho trông nồi bánh chưng chung là cái thùng phuy, được ăn bánh cóc; được quần áo mới, được mừng tuổi nên cứ háo hức lắm. Không khí rất tươi mới.

Đêm 30 vừa châm pháo vừa run, điện đóm tắt đi để nhìn chớp pháo. Đếm những quả "tạch" để đợi quả "đùng", ngửi mùi pháo ...ôi sao mà thèm quá. Giờ Tết chả hứng thú gì nữa, trách nhiệm là chính, trẻ con chắc cũng không mấy đứa thiết tha.

Ở nông thôn thì chó, gà, cá ăn thoải mái miễn là có để mà ăn bất kể thời nào.

Thời HTX thì có trò khử lợn bằng vồ đập đất.

Ngày bấy giờ, mỗi lao động nông nghiệp (từ 16 tuổi đến 65 tuổi ) phải nộp x. kg lợn hơi. Nếu vượt sản thì nhà nước ( Các cty thực phẩm cấp 3 ) ghi cho cái phiếu trừ vào vụ sau hoặc lấy thóc, lấy tiền với giá rẻ mạt. Vì vậy dân ta mới có trò '' giết lợn lậu '':

 Sáng sớm lấy chày hoặc vồ táng thật mạnh vào sống mũi lợn. '' Hứ...!'' một phát là xong. Tức tốc báo với đội trưởng đội sản xuất, thú y xã. Biên bản kết luận : Lợn phải gió. Thịt ! Trưa ấy nửa xóm có bữa cháo lòng . Trẻ già hỉ hả.Thành phần mâm trên chỉ có ông chủ nhà và mấy ông có lợn đã bị '' phải gió''. Mâm này đặc biệt

có món tiết canh tươi rói.

Tuyệt đối không có cán bộ, Đảng viên. Ông thú y được học từ thời Tây thì đánh chén vô tư. Ngoài bữa ăn tại gia chủ, mỗi nhà trong xóm được

biếu

một phần thịt. Biếu để lúc nhà người ta có '' lợn chết'' người ta biếu lại. Chứ không bán, bán sẽ bị thu thuế sát sinh. Con lợn ỷ chừng 30 cân hơi được giải quyết chóng vánh. Nhà chủ rán chút mỡ rót vào chai ăn dần.

 Xung quanh chuyện '' giết lợn lậu'' cũng lắm cái dở khóc dở cười. Lúc nào rảnh em kể chơi. Nam nữ từ 16 tuổi đã làlao động chính

.Tức là mỗi công có thể được 4 ->5 điểm.

 Lợn vượt sản còn gọi là '' ngoài nghĩa vụ'' có thể cho hộ khác vay bằng cách cân chung. Có thể lưu chuyển cho vụ sau (mỗi năm cân lợn nghĩa vụ 2 lần) hoặc bán hoặc đối lưu hàng công nghệ phẩm với nhà nước (cty thực phẩm ). Trao đổi với nhà nước thì dân thiệt về kinh tế ( giá rẻ, cân điêu, khó lấy tiền nếu là hàng công nghệ phẩm thì toàn hàng thứ phẩm có khi bị đổi hàng '' gia công'').Bù lại, được cái giấy khen cấp huyện. Khi có dịp cưới hỏi, liên hoa con đi bộ đội, Tết nhất..được mua lại thịt lợn của nhà nước. Ở quê em lợn thay nhau '' phải gió ''. '' Phải gió '' đến mức hết cả gió lạ bị sập tường, chết đuối, bừa rơi. Có con bị điên , chủ nhà cho phát K44.

.

 Tết đến, XTH cho đội sản xuất mổ lợn chia theo từng hộ. Mỗi hộ nhiều ít lại tính theo nhân khẩu : lao động chính + ăn theo (trẻ con, người già , bệnh tật mất sức lao động). Ngày mổ lợn Tết thật sự là một ngày hội. Những chiếc chảo to tướng của tổ kỹ thuật thường để nấu nước ủ mầm có dịp chứa đầy nước suýt.

 Cũng có nhà thịt lợn Tết một cách công khai. Âý là những nhà chạy được cái giấy mua lại con lợn nhà mình do Cty thực phẩm bán lại. Muốn có cái giấy này, chủ nhà phải thừa lợn nghĩa vụ đã bán cho nhà nước hay lý do đặc biệt như con mới xuất ngũ, đv cho vê  ăn Tết ...Thường thì lượng thịt được mua ít hơn trọng lượng con lợn đang nuôi. Người ta lại rủ nhau thịt chung gọi là '' đụng lợn''. Những con lợn này chết một cách chính nghĩa nên ban xã ban thôn được mời đánh chén cũng rất chính nghĩa.

ở quê đến tết là "đánh đụng", đụng trong "chung đụng", nghĩa là chung. Thường thì xóm giềng họ hàng độ 2-4 nhà chung nhau 1 con lợn của ai đó trong hội, chung thế không sợ nhồi nhét thêm bớt, gắn bó anh em, mà có thịt đúng 30 tết, có trước nó "hao" nhanh đến tên chả còn gì cúng, lại nhiều món. chỉ 2-4 nhà vì lợn ngày ấy bé tẹo, độ 30-40kg hơi / con, mổ ra được độ 60% thịt. Mổ đánh đụng cái gì cũng chia đều hết, tim cật tì đến cả cái cuống họng cũng chia đều, 1/4 con lợn gọi là 1 chân. Mổ như thế không phải bán chác đi đâu, nếu như không đến nỗi bị cả làng thù thì xã đội đố dám đến lằng nhằng, lôi quyền họ hàng ra tẩn bỏ mợ. Cái này thì đồng bằng, lên trung du thì đến cả anh em, xã đội với du kích cũng vào lột. Tất nhiên là hiểu nhau thôi, đừng làm quá, cả chi họ nhà mình đến gần tết mới nấu một nồi rượu đúng nếp cái hoa vàng, chứ tháng nào cũng đụng lợn thì nó cho ăn... cám.

Vì đánh đụng mổ lợn này mà chiều 30 có lễ hội ăn lòng lợn tiết canh, cả năm mới bắt đầu thấy tết, cứ gọi là bét xác  

.

Ở thành phố thì gọi ba toa. Khoảng 3 h sang mình chuẩn bị sẵn nước, họ đến, làm gọn trước trwoif sáng đem đi, cân móc hàm, họ có lại quả một chút, nhưng không nhiều, muốn thêm thì phải trừ tiền cân. Trách nhiệm bắt mổ lợn lậu ở tiểu khu (phường) là công an khu vực. Công an ông nào còn tí tốt đẹp, trách nhiệm.... là buồn chán bất mãn thải hồi hàng loạt, người nào có tâm càng khổ. Chú An tiểu khu mình lằng nhằng với bà góa bị thải hồi, cũng là do gánh nặng của cái nhân tâm.

Vụ ông Chẩn vua lốp ở Nguyễn Thái Học thì nhiều người còn nhớ.

 Câu chuyện này còn dài, xuất xứ của cái đám lốp tanh này là ông Đề. Tạ Đình Đề là một nhà tư bản công hiến toàn bộ cuộc đời tài sản cho cách mạng, trực tiếp chiến đấu ở những mặt trận cam go nhất. Đến cuối đời, bọn khốn nạn đặt vè tuyền truyền vu ông là quân địch. Ông chán nản với cách quản lý của bọn chó điên hồng vệ binh, lập ra xưởng cao su, mấy lần bị bắt vì những tội bao dung những số phận nhân tâm.... có vấn đề. Ông là một nhà tư bản, sớm nhìn thấy sức mạnh của cao su Việt Nam đã được người Pháp nghiên cứu, và nhìn thấy cuộc cách mạng giả của chó điên nó tàn phá tận gốc những tế bào xã hội thế nào. Xưởng nhanh chóng có những công nghệ kỹ thuật vượt trội nhất nước đơn giản chỉ vì không... ăn cắp của nhau từng tí một, dối trá nhau từng câu một, và là chỗ duy nhất ở hà nôi có những người gọi là thợ, là giai cấp công nhân.

Và vì thế ông bị đì, nhưng thế ông to , làm gì được nhau. Xưởng sau bị bán đất co lại, ngày xương đồng không mông quạnh, ở chỗ đại sứ quán Mỹ bây giờ. Nếu các bạn còn thật sự nhớ thời bao cấp thì không thể quên những mặt hàng danh giá của xưởng.

Thương thế... ngày xưa...: MIẾNG NGON MIẾNG NGỌT

[07.02.2013 23:48 - Nhịp Cầu Thế Giới Online]

(NCTG) “Những ngày những người trước chúng ta đã sống thật là đáng thương, cũng thật là đáng kiêu hãnh” - nhà văn Lê Minh Hà hồi nhớ về một thời.

Bà nội của bọn trẻ, vốn là người nhà nước làng nhàng nhưng lại tống được đủ bốn đứa con sinh ra phải thời loạn lạc lớn lên gặp buổi gian nan vào đại học hay cười cười mà rằng “

khéo cũng chẳng bằng béo với ngọt”. Không sống qua cái thời bao cấp, khi mà trong chạn có âu mỡ và cái lọ mì chính là cả một niềm vui vô bờ với các bậc làm cha mẹ, mà nếu không có, lại thêm thùng gạo thùng mì rỗng từ từ thì chắc chắn lâm vào hoảng loạn, khó mà hiểu được câu nói của bà. Công nhận, những ngày những người trước chúng ta đã sống thật là đáng thương, cũng thật là đáng kiêu hãnh.

Tết thì càng cần béo với ngọt. Ngọt đây là ngọt đường ngọt mật, là thứ xa xỉ ở thời ấy. Nhà quê trồng mía ép mật làm đường, thế mà trẻ con cũng cứ đợi đấy, chờ tới phiên chợ tết, thích thì theo bà theo mẹ ra phía hàng đường, sẽ được nhón cái đóm mà xỉa vào thùng mật, mút mát say mê. Vài ba hôm nữa thôi sẽ có bánh mật bánh gai gói lá chuối khô, chè kho thơm lừng đò ho thảo quả. Ra giêng, đĩa chè kho lên mốc ngoài, lấy con dao bài gọt nhẹ đi, bên trong vẫn nguyên lành, còn ngon nữa. Tôi thì thích hơn vị chè bà cốt nấu bằng đĩa xôi để trên bàn thờ, mặt ngoài cứng quèo, hạ xuống thổi phù phù để tàn hương bay đi, cho đẫy gừng đập dập giã nhỏ vào, và, nhất thiết phải được nấu bằng đường phên, màu nâu nâu đỏ đỏ.

Này, món nghèo quê nghèo, thế mà chiến tranh đánh phá vừa ngừng, ra tới Hà Nội là phải thèm nhạt mới buồn. Thời bao cấp, nhà quê tự cấp tự túc, tết nhất đĩa xôi cái bánh chạy quanh làng xóm, tiếng vậy mà ê hề gấp mấy nhà người Hà Nội. Ở Hà Nội, lấy quái đâu ra để mà cứ khách tới là thượng ra trước mặt từng khách một góc đĩa chè kho cho ngày xuân thêm ngọt ngào. Bánh mật bánh gai, cũng phải là nhà chân trong chân ngoài nửa quê nửa tỉnh mới có mà ăn chứ.

Bìa tết cho mỗi gia đình, chẳng nhớ tính kiểu gì, nhưng thể nào cũng có gói mứt, tạp từ cái vỏ hộp tạp đi. Ấy thế mà trẻ con cứ nhìn cái hộp mứt in đỏ đỏ xanh xanh loè loẹt nhoè nhoẹt là chân tự dưng thành chân sáo. Vài ba miếng mứt bí ngọt khé họng, tí mứt gừng cay cay, đôi mảnh mứt dừa béo béo, và lổn nhổn mứt lạc như hòn bi ron ron bọc lớp đường trắng. Này, các bạn ta khi đó còn đang tuổi bé, ngày tết có phải chúng mình khoái nhất cái món bọc đường này không?

Khoái, vì nhẽ chỉ được nhón dăm ba hạt thế thôi, phải chờ khách tới chơi, bê ra bê vào mời mọc, gặp phải năm nào tết bị nồm, tất cả chảy nước ra thì mới…

Chờ đến khi thành con gái mười ba mười bốn, đêm đêm ngực đau mưng mưng, ngày ngày đi học xấu hổ bê cái cặp lên ngang vú che che, rồi giấu giếm mặc cái yếm tân thời đầu tiên, chỉ sợ đứa nào nó chỉ chỉ sau lưng chê bai chế nhạo. Khi đó, bạn bè nhiều lên, bọn con giai ở lớp ngày thường cực kỳ khó chịu, thế mà tết thì rồng rắn chở nhau tới nhà bọn chúng mình, lên giọng chúc tết từ người lớn tới người bé hơn mình, như thật.

Đấy là lúc chúng mình bắt đầu biết đổ cát vào rang hạt bí và lo món ngọt cho mấy ngày xuân.

Để có được mấy món đó, cả nhà, theo lệnh mấy cô con gái, phải nhịn miệng để dành đường. Đâu như mỗi người được ba lạng đường mỗi tháng, mua theo bìa, đựng bằng giấy bao xi măng, đúng không?

Con gái Hà Nội thời bao cấp tiếng vậy mà khéo phết. Quanh năm có được kiến tập thực tập gì cái vụ nữ công gia chánh thật sự đâu, thế mà gần tết, cô nào cũng làm được chí ít là mứt khế mứt khoai. Mứt khế dễ ăn dễ làm. Nhưng cũng như là nấu cơm, luộc rau, pha nước mắm ấy, càng đơn giản thì càng phải để tâm cầu kỳ, cơm phải chạm hơi, rau thì tùy loại phải tái phải nhừ, nhưng mà kiểu gì thì cũng đừng có vàng ệch ra khi vớt… Sau này, có lần ngồi với mấy ông thợ mộc, nghe giảng giải làm cái tủ cánh phẳng khó hơn tủ cánh cong, mới ngộ ra cánh đàn ông bận bịu với cái bào cái tràng cái đục hóa ra cũng khó cũng khổ như là mình hàng ngày lo cơm nước.

Chết chết, đang nói chuyện ăn lại tự kéo nhằng mình vào chuyện làm. Thì cái sự làm mứt khế. Khế khô ra chợ là có, ngâm kỹ để miếng khế khô quắt như mộc nhĩ nở đều, mềm đến độ, và quan trọng nhất là ra hết bụi bặm dính vào khi người ta xắt phơi. Sên mứt thì khỏi phải nói là kỳ công thế nào. Chỉ biết, ở nhà đứa bạn nào ngày tết cũng được mời món mứt giản dị, nghèo hiền này, mình vẫn thường tự hỏi bọn con giai ăn vào có biết mứt đứa nào làm ngon hơn của đứa nào không? Ngọt. Chua. Mềm. Dai. Đã đành. Còn phải là đến độ. Mà tay mỗi đứa thì mỗi khác, lẽ nào những nôn nao khi ngồi canh chảo mứt cũng như nhau? Nhưng mà thôi, nói chuyện ăn là ngóng sự xem. Xem mấy thằng con giai bạn cùng lớp với mình, hay ngắm nghía mấy ông anh bạn cùng lớp bà chị mình rón rén đưa lên môi miếng mứt, nói thật là phải ăn đúng lúc đó mình thấy mứt bọn mình làm mới ngon.Nhà khá nhiều đường, lắm con gái, còn bày ra làm mứt khoai, mứt gừng, mứt quất, mứt cà chua. Vẫn nhớ năm nào đến nhà chị bạn ở Hàn Thuyên, ra sức ăn mứt chị làm, còn chọc “

là chúng mình ăn hộ chị tí”, chỉ vì món mứt cà chua của bà chị bị nhão. Bà chị gương mặt như tây, miệng rộng như cô Ngọc Khánh mãi sau này mới được lên ngôi hoa hậu, hát hay và học giỏi. Phải nhấn mạnh sự học của chị bởi lẽ thường không ai có thể đòi hỏi chị điều ấy, vì chị bị liệt. Nhà khá thật, nhưng lúc đó đã mấy ai trong cảnh ấy có nổi cái xe lăn, chị di chuyển chỉ bằng cái xe ba bánh trẻ con, hết dạy học (tiếng Pháp tiếng Anh) nhà trên, lại xuống nhà dưới săm soi mẻ mứt. Mấy chục năm qua, vẫn cứ nhớ gương mặt trắng xanh xinh đẹp ngẩng lên, trên số phận, những ngày ấy rập rình xuân.

Mứt dân tộc đấy, nhưng cũng thường thôi. Có người ở đâu không ham của lạ? Lạ, thì tết nhất phải có cái thứ bánh làm từ lương thực của dân Tây, là bột mì. Giản đơn nhất là bánh quy.Vẫn nhớ hồi đó nhà máy bánh kẹo Hải Hà có sản xuất bánh quy hương thảo. Ngày tết, bà hàng xóm nhà mình là công nhân nhà máy được ưu tiên mua bánh gẫy, phởn ra tận bể nước công cộng. Ăn uống thiếu chất thì bánh quy hương thảo cũng có thể coi là bố tướng. Bố của bố tướng phải là bánh quy bơ, xốp hơn, thơm cái mùi trời xa hơn, dù là thuở ấy khối người Hà Nội ăn tem phiếu ngắc cổ không tài nào xơi được bơ viện trợ bán thay mỡ. Bơ hết đông lại chảy vì chỉ có cách để chạn, mấy gia đình có tủ lạnh đâu. Chiều muộn, nhà nhà nấu nướng, mùi bếp dầu hòa quyện với mùi bơ quá hạn đem xào đem rán, khó tả vì khó ngửi.Nhưng mùi bánh quy bơ bán trong Giao tế, hay ở đôi ba cửa hàng ăn uống như Bodega thì phải nói là trên cả tuyệt vời. Thú thực, cái mùi đó, cũng y như mùi thịt hộp thỉnh thoảng được mấy chú bộ đội đã được lính gọi là thủ trưởng cho, ám tôi đến độ hồi mới qua tây tôi đã nhất quyết tìm ăn lại, và thất vọng tràn trề vì không sao thấy lại cảm giác ngày xưa.Ngày xưa, bánh quy bơ là ước mơ trẻ con của tôi ngày tết. Đến lúc nhớn nhao, biết đua đòi bè bạn làm mứt nọ mứt kia, bánh quy bơ vẫn là mơ ước. Nhưng để đãi tất cả khách khứa, mà ngày đó đã là khách thì phải tới chơi nhà chứ không có chuyện hẹn nhau ngoài quán như bây giờ, đông thế, lấy đâu ra mà mời nhau. Cái câu đùa “thóc đâu mà đãi gà rừng” học được của mấy anh chàng dặt dẹo trường Kiến trúc giờ nhắc lại vẫn nguyên mùi chua vị chát.Còn nhớ, Hà Nội một năm tự dưng xuất hiện vô số những biển hàng “Quy gai xốp“, đôi khi chỉ là một cái bảng gỗ con con viết nguệch ngoạc cũng mấy chữ ấy cùng mũi tên chỉ vào một ngõ nhỏ. Đấy là những lò bánh tư nhân, cứu tinh của bọn con gái nhà nghèo vẫn ưa màu mè kiểu thị dân chúng tôi.Mẻ bánh đầu tiên chúng tôi thuê làm là ở một lò bánh trên Sinh Từ. Nghe nói anh chủ lò tên Long, bặm trợn và kiêu kỳ y như cô bán thịt cửa hàng thực phẩm vì lò nhà anh đắt khách. Hôm trước đang viết dở bài này, đọc được cáistatus của nhà báo Thu Hà, trên FB có cái nick tôi toàn dịch thành Cấm Cảu Bà Bà dù chưa bao giờ có cơ may gặp mặt, cũng về chuyện đi làm bánh quy ngày tết, đọc xong thở dài các em còn sướng lắm dù chị chỉ chào cái cuộc đời này trước có mấy năm.

Là bởi vì chúng tôi đi làm bánh phải tha bột, tha trứng, tha đường theo đã đành, nói bây giờ khéo không ai tin, còn phải tha theo phiếu thịt tháng giêng, vì nhà không sẵn mỡ. Nội cái vụ làm bánh quy bằng mỡ nghe ra đã rất nỗi niềm gì gì và này nọ rồi phải không? Mới đây, giữa Berlin, tôi có duyên được nghe chuyện một cô dân Hà Nội quy mô thân thể hoành tráng hơn tôi bây giờ rất nhiều. Cô vui vẻ mà rằng từ cái ngày các chị gầy xơ em đã được béo rồi, vì nhà em làm quy gai xốp, ngày nào em cũng húp cả bát mỡ. Nghe, vui sướng tố bây giờ tôi hiểu tại sao bánh quy gai mình thuê làm ngày đó không xốp rồi chị em ngồi cười với nhau, vì những nỗi niềm khác nhau.

Mất đến nửa ngày chầu ở lò mới nhận về thành phẩm, là một rổ bánh, hơi thất vọng một chút, vì không được phổng phao mềm mại như cái cũng hình quy gai xốp nhưng là bánh bơ, và cũng không có cái màu vàng dịu dàng của bánh bơ, quy gai xốp của chúng tôi đậm màu suy nghĩ, nghĩa là hơi bị cháy, bị gãy cũng nhiều. Dù thế, mừng lắm rồi. Chị em đèo nhau về, trôi qua những vàng hồng tím trắng của bao nhiêu gánh hàng hoa trên phố ngày năm cùng tháng tận, lòng bừng bừng một nỗi niềm rất ít khi có được kể từ ngày mẹ mất. Mưa như sương phảng phất. Thành phố trong mưa những năm vừa đi qua chiến tranh ngày cuối năm rộn ràng niềm vui của những người bình thường đang cố làm cho cuộc sống rất bất bình thường của mình trở thành như bình thường.

Tôi không nhớ tới năm nào thì chị em tôi thôi đi làm quy gai xốp cho ba ngày tết. Rồi cả mứt tết tôi cũng thôi làm. Áo cơm dần không thắt buộc ông anh ruột, nhưng lại trói người ta vào muôn vàn những khấp khởi mong đợi khác. Song niềm sung sướng của ngày tháng đó cứ thỉnh thoảng lại đâm đánh nhói trong ký ức, mà tôi có cảm giác như ý thức được bằng thịt da mình.

Và, cũng dần dần thức dậy, một cảm giác mà khi ấy tôi đã lập tức xua đuổi vào một xó xỉnh trong lòng, nhất quyết không cho ngọ nguậy. Đấy là nỗi bàng hoàng, khi rời lò bánh, quay lại nhìn những người vẫn còn đang nhấp nhổm đợi chờ bánh ra lò cho xong một công đoạn tết nhất của gia đình. Ai cũng gầy, đàn ông toàn mặc áo bộ đội, đàn bà con gái gói mình trong mỗi cái áo khoác ngoài may bằng vải pha kha khá nilon, kiểu cách như nhau, màu sắc như nhau, cố khác nhau nhờ cái khăn voan quấn hờ làm phép.

Phơi phới xuân. Thành phố những năm sau chiến tranh những ngày ấy thật sự chỉ có màu hoa là rực rỡ. Đào. Cúc. Quất. Dơn. Hồng. Và chân chim đẫm hơi mưa, tím miên man, dại hết cả lòng cho tới tận không biết bao giờ nữa.

NUÔI LỢN THỜI BAO CẤP…

Hôm trước có entry “Tập thể…liệt truyện”, em Vân Linh của WB bên Washington DC đọc xong, liền vào phòng chào anh Cua. Em cười và nói thích những chuyện thời bao cấp. Vân Linh bảo, anh viết truyện nuôi lợn ở nhà cao tầng đi, em giúp cho vài tích. Rồi em vừa kể vừa lau nước mắt.

Người nuôi lợn và lợn…nuôi người?

Những năm cuối 1970, chẳng hiểu ai nghĩ ra nuôi lợn giữa thủ đô đầu tiên. Do đói kém, không có gì ăn đành phải tăng gia, nuôi gà vịt kể cả lợn, dù ai cũng biết là bẩn thỉu cảnh người lợn, lợn người cạnh nhau.

Sau đó, phong trào lên cả những nhà cao tầng. Vào khu tập thể, thay vì hỏi gia chủ có mạnh khỏe không, câu chuyện bắt đầu bằng những chú lợn.

Bác Tâm, hàng xóm ở Thành Công, có ông chồng gầy ho sù sụ cả ngày, nhưng nuôi lợn cực giỏi, béo tốt hơn cả chồng con.

Nhà bác thường nuôi hai con, theo bác nói, để chúng tranh nhau, háu ăn, chóng lớn. Tính bác hơi chan chát, nhưng tốt tính, có lẽ vì thế mà có tay nuôi lợn.

Mang mấy cái xô nhựa đi gửi tầng trên, tầng dưới, lấy nước gạo, thức ăn thừa, rau muống già để không mất tiền thức ăn. Lợi đủ đằng. Mấy ngày Tết thì lợn hưởng như người, có có cả bánh chưng thiu hay giò mốc vì để dành.

Người ta thường chọn lợn cái, ít người mua lợn đực. Bọn thiếu nữ lợn đến tuổi động đực, kêu réo cả ngày không chịu ăn gì, má cứ đỏ hây hây. Các cụ nhìn qua phía đuôi cũng biết là cần kế hoạch hóa gia đình cho nàng.

Thế là có dân hoạn lợn từ Gia Lâm qua Long Biên vào thành phố. Đang làm thơ lãng mạn, anh thương yêu em đến cuối đời, anh thề nguyền sẽ chung thủy, thì bỗng có tiếng rao “Hoạn lợn đây, hoạn cả lợn nam, lợn nữ, một phát ăn ngay, không sót trứng, không bỏ tinh hoàn, hoạn xong, lợn lớn như Thánh Gióng”.

Có lần mình sang chơi nhà bác Tâm, giả vờ khen lợn mới hoạn có vẻ chóng lớn. Bác sa sầm nét mặt vì người ta kiêng khen, nhưng cũng chẳng thích chê. Tốt nhất là ngắm lợn từ xa và tự chiêm nghiệm cuộc đời xem có giống lợn hay không.

Quả thật, hôm sau bác than, chẳng hiểu sao lợn ỉa lỏng, không chịu ăn gì cả. Hai vợ chồng đang lo mất ăn mất ngủ. Nhưng mấy ngày cuối tuần, bác vồn vã gọi, chú Cua vào chơi xơi nước, cứ tưởng do vía chú độc nên lợn ốm, rủa chú oan.

Hóa ra từ hôm chú sang chơi, lợn vật vờ do đau vết hoạn, nay khỏe hơn. Cứt lợn bây giờ khô lắm, tôi có thể bốc tay cho vào chuồng xí được. Chú ăn lạc, uống nước đi. Lợn ỉa vón cục mừng hơn cả chồng vừa dứt cơn hen.

Vân Linh kể rất tội nghiệp. Bố mẹ cũng nuôi chú lợn trên tầng 3. Thiếu nước ăn, tắm giặt cho người nhưng vẫn phải đủ nước để dội phân, tắm mát cho lợn.

Em là con gái mới 8 tuổi vào đi ị, sợ hết hồn, vừa ngồi vừa run. Con lợn gần tạ cứ ủi em ngã đổ vào tường để tranh thức ăn…thải.

Bây giờ lấy chồng, có hai con, định cư bên Mỹ rồi. Em vẫn có giấc mơ Mỹ không thành là nuôi heo bên xứ cao bồi để dạy con cái. Có trải qua gian khổ mới nên người.

Em kể, hồi đó vào mùa Tết, nhà được phân phối 1 kg thịt bò, sang lắm. Các cụ kho mặn rồi để trên bếp dầu, dành cho các con ăn dần ba ngày Tết. Cạnh đó là chuồng lợn, chính là cái buồng tắm, đã ngăn bằng một cái vỉ tre rất to và chắc. Cả nhà yên tâm đi chơi đón Giao thừa.

Khuya về thấy cái vách ngăn tung lên, nồi thịt bò bị lợn xơi sạch hết sạch. Các con nước mắt ngắn dài, tiếc nồi thịt đứt ruột. Thế là hết Tết.

Nhưng hai cụ còn lo lắng hơn khi thấy con lợn 50kg đang kêu réo, chõ mõm vào cái xô nước đã cạn tới đáy.

Hóa ra cu cậu chén cả nồi thịt bò mặn quá nên khát nước. Uống bao nhiêu nước cũng chẳng ăn thua. Mấy ngày liền toàn nằm thở, bụng chướng, tưởng không qua khỏi. Mà lối đời, thịt lợn ốm không bán được cho ai, có bán cũng như cho.

Run lập cập, các cụ thắp mấy nén hương, khấn trời đất giúp cho lợn tai qua nạn khỏi. Giời có mắt, thương người nghèo, chú lợn khỏi bệnh nan y thời đại “đời lợn ăn mặn, đời chủ tràn nước…mắt”.

Được 80kg, bố mẹ bán cho hàng thịt và lấy cả cái thủ chiêu đãi các con đã phải nhịn thèm mấy ngày Tết vì mất nồi thịt bò.

Nhớ thời lụt lội ở bến Chương Dương, người ta thấy một người đàn ông cởi trần, lội nước đẩy một cái bè, sơ tán cả nhà lên đê sông Hồng. Trên cái bè là bà vợ vung vẩy tay chỉ đạo. Bên cạnh là cậu con trai cởi truồng, rét run nhưng vẫn vỗ tay hoan hô.

Trên cái bè là một cái giường, đủ chăn chiếu, chú lợn to tướng nằm ủn ỉn. Lợn phải tránh nước lũ rất độc, nếu không sẽ ốm, mất cơ nghiệp.

Sự phân chia giai tầng rất rõ thời đó: CỤ LỢN trên giường, ÔNG CON trên bè, BÀ VỢ đứng chỉ huy và THẰNG CHỒNG lóp ngóp đẩy bè.

Chuyện của Giáo sư Văn Như Cương còn thú vị hơn. Hai vợ chồng thấy khổ quá, cũng bắt chước nuôi lợn. Chả biết có lãi gì không nhưng hàng xóm ghen ăn tức ở, báo công an.

Nhà công lực lập biên bản “Giáo sư Văn Như Cương nuôi lợn, vi phạm qui tắc vệ sinh thành phố. Phạt vi cảnh 5 đồng (lương hồi đó 60 đồng là to lắm), và phải bán lợn ngay lập tức”.

Giáo sư xem xong và đề nghị “Các anh giúp sửa một vài từ trong biên bản, tôi sẽ ký và nộp phạt ngay”.

Hỏi ra mới biết ông đề nghị sửa “Lợn nuôi giáo sư Văn Như Cương” cho đúng hoàn cảnh gia đình nhà giáo nghèo và lương thiện.

Nghe nói mấy anh công an gạt lệ ra về và suy tư về thời đại “Lợn nuôi người”.

Thịt lợn…trộm

Những năm 1960, nhà ai nuôi lợn phải đăng ký với UB. Thịt, mua bán đều làm đơn trình báo, rồi nộp thuế khá cao. Lợn nhà mình bỏ tiền ra mua, nuôi bằng nước gạo và cám nhà mình, nhưng thuộc sở hữu nhà nước.

Dân thì vốn gian. Chả ai dại gì đi nộp thuế vài đồng một đầu lợn, trong khi cả con lợn chỉ được vài chục đồng. Thế là có chuyện thịt lợn trộm, đủ kiểu, đủ bài. Công an hay dân quân, kể cả lính nhà đoan cũng phải lắc đầu.

Ông Thiêm hàng xóm nhà Cua nổi tiếng là đồ tể lợn. Cụ chọc tiết một phát là đầy chậu, lợn chết ngay tắp lự. Quan trọng nhất là lợn không kêu thành tiếng. Eng éc là hàng xóm đi báo công an xã, họ đến tịch thu cả lợn, lại còn phạt tiền, sạt nghiệp, rồi phê cả vào lý lịch, gia đình không gương mẫu, con cái khó vào đoàn Thanh niên.

Bài giết lợn của cụ Thiêm thật đơn giản. Cho cái vồ vào đầu, lợn ngất, cho ngay bàn lên chọc tiết. Chậm chút là lợn chết, tiết không ra thì thịt đỏ và hôi. Lũ trẻ được giao trách nhiệm trông dân quân đi tuần. Nếu ai lạ thì cảnh báo, chả khác gì ngoài chiến trường.

Một nồi nước sôi cạnh bụi tre, cạo soàn soạt 10 phút xong chú lợn. Chia phần chính xác đến từng khúc ruột kể chim lợn. Các cụ còn gọi là đánh đụng, nhà ông một đùi, nhà tôi nửa đùi, cắt cắt, xẻ xẻ, trong nửa tiếng, con lợn biến mất như chưa từng có trên thế gian này.

Sáng sớm hôm sau, bà già gầm lên, cha tiên nhân năm đời, mười đời nhà đứa nào ăn trộm lợn của bà. Mày ăn rồi mày nôn thốc thốc nôn tháo, chẳng được nên người.

Đó là thông điệp ngầm cho chính quyền địa phương về con lợn “biến mất” đêm qua. Làng Tụ An ấy cứ vài ngày lại có cảnh mất lợn và tiếng chửi vang như hát hay.

Dân quân xã tới lập biên bản và tìm quanh thấy cả một đống lông lợn cùng phân tro ngoài bụi tre. Hỏi, sao bọn trộm giỏi thế, ăn cắp con lợn to tướng, không ai biết, chó không cắn, mang ra bụi tre, đun nước xẻ thịt, không ai hay thì thật lạ. Đây là con dao bầu của nhà bà Ba phải không.

Sau này còn nghĩ ra kiểu cho mấy hạt đậu vào tai lợn, lợn lọng óc không kêu, cứ thế mà chọc tiết.

Thời mở cửa, dân đồ tể châm điện, lợn giật một cái là…đi, không kêu thành tiếng vì sợ ô nhiễm tiếng ồn trong khu phố.

Có lần bà già đánh đụng thịt lợn của hàng xóm, mang về xào nấu thơm lừng. Bỗng dân quân ập vào kiểm tra. Bà vội mang cái chã đầy thịt ra bụi tre giấu. Họ đi khắp trong nhà, dưới bếp cũng không tìm ra.

Dân quân đi rồi, bà ra lấy lại, thì than ôi, kiến vàng bu đầy. Vừa thổi vừa đuổi kiến, lũ con háu ăn chén tất. Kiến vàng hơi đăng đắng, cũng chẳng sao, so với mùi thịt lợn thơm và nước mắm tép vàng ươm chén với cơm trắng đầu mùa, Tổng Cua chưa thấy cao lương mỹ vị nào bằng.

Bây giờ nuôi lũ con sao mà khó thế. Thịt kho tầu cực ngon, chúng bỏ hết mỡ, chỉ ăn nạc, lại còn chê ỏng chê eo, sao nhà mình toàn ăn pork.

Giá như chúng đọc những dòng này sẽ hiểu tại sao, mỗi lần nhìn lũ con chê cơm, vứt thức ăn vào thùng rác, rồi sợ mỡ trong máu, Tổng Cua rơi nước mắt.

Chả hiểu từ bé sống no đủ, Bin và Luck có nên cơm cháo gì không. Thằng bố của chúng ngày xưa, cả năm được vài miếng thịt lợn trộm mẹ mua ăn với kiến vàng, rồi cũng nên người.

HM. 11-11-2011

. Cứ mỗi sáng Ngọc đi làm hắn lại cảm thấy mình là người có lỗi. Còn hơn thế. Đó là cảm giác của người ở nhà nhìn người khác vì mình mà đi ra mặt trận. Thật đau khổ và nhục nhã. Sau khi Ngọc vác xe đạp khuất hẳn xuống thang, hắn đi ra đi vào, hút thuốc lào, gấp máy bay cho thằng Dương, làm ngựa cho nó cưỡi, nằm sấp cho nó tẩm quất. Hắn muốn sống lại những ngày lũ con còn bé. Rồi hắn xem sách học của hai đứa lớn. Và giục con đi nấu cơm. Đến lúc sắp tan tầm, mấy bố con mê mẩn dọn dẹp, lau nhà cho bóng nữa để làm vui lòng Ngọc.

Những hôm mậu dịch bán thịt, bán gạo sang kỳ... những hôm ấy hắn mới lập được tý chút công lao với vợ với con. Hắn mong đến những ngày ấy, vì mấy lạng thịt phiếu, mấy cân gạo hút, mấy cân ngô... mang từ cửa hàng về là một sự kiện trong cuộc sống của nhà hắn, thổi vào mỗi người một luồng sinh khí, vì nó là cái để mọi người bàn tán chuyện trò. Đó là sự kiện xáo động cả số nhà hắn ở. Họ chuyện về những miếng thịt họ mua, ngon hay không, cân thiếu hay đủ, nhiều mỡ hay nhiều nạc, ba chỉ hay mông sấn, lợn to hay lợn nhỏ, có bà còn vớ phải cả miếng thịt lợn hoi nữa. Thật đau khổ. Họ bình luận về cô bán thịt, về cái sự xếp hàng, về dự định chế biến mấy lạng thịt này. Người lọc hết mỡ rán ăn dần, người bảo có ít thịt nạc giã ruốc cho cháu, người tuyên bố sẽ luộc hết cho mấy bố con nó một bữa. Thèm nhạt đến khổ. Rồi ăn rau cả tháng cũng được. Ngày ấy nhà nào cũng có mùi thịt thơm lừng. Họ chuyện về chỗ gạo đong ngon hay không, xúc ngay dưới đất hay dốc từ bao nguyên ra, hột vàng nhiều hay ít, gạo tấm hay gạo dẻo. Có bà còn xúc lẻ gạo trên lòng bàn tay đi so đọ với các nhà, mặt mũi hớn hở vì được mẻ gạo ngon hơn các nhà khác. Cũng gạo “mậu” cả đấy, nhưng bao nhiêu loại. Mình không quen, ăn may thôi. Có một ông quen mậu dịch viên, được họ chỉ cho bao ngon, nhưng ông ta không lấy hết cả bao, mình lấy sau vớ được chỗ mấy cân thừa ấy. Sự may mắn ấy không xảy ra hai lần trong một đời người. (Ngọc đã một lần được may mắn như vậy. Nửa đêm thức dậy, nàng cứ thấy vui. Nghĩ mãi mới nhớ ra rằng nàng đong được 20 ký gạo ngon. Niềm vui thấm vào giấc ngủ.) Rồi đến khoản độn. Nếu là ngô thì đơn giản thôi. Nếu là mì, thật cả một vấn đề. Ai bị mì vụn, mì gia công chua lòm. Ai được mì đóm, mì sò, mì trắng... Những câu chuyện phấn khích nói đến tận tối mịt chưa hết.

Những ngày được mua ấy (mậu dịch có lên lịch cẩn thận) cả nhà hắn gọi là “ngày cá mè ô 5”, chẳng riêng xóm hắn, cả khu phố đều tất bật, vất vả, lo lắng, bận rộn, âm sâm: rộn ràng, ríu rít, rôm rả, râm ran.

Những ngày ấy, hắn dậy từ lúc còn tối đất. Chiến công bao giờ cũng được bắt đầu một cách thầm lặng như vậy. Hắn cùng Ngọc đã tính toán từ tối hôm trước lượng gạo, lượng độn, hay lượng thịt được mua hết bao nhiêu tiền để khỏi nhầm lẫn. Nhưng hắn chỉ ra đi người không. Còn lâu mới bán. Khi đi làm Ngọc sẽ cầm ra cho hắn tiền, phiếu và đồ đựng. Cửa hàng mậu dịch lúc hắn đến còn vắng tanh. Nhưng ngoài khung cửa đóng im ỉm, những khuôn cửa bảo vệ kho tàng của cải, niềm vui hạnh phúc mà mỗi người sẽ được chia theo khẩu phần và thang bậc xã hội đã được tiêu chuẩn hoá bằng các loại phiếu bao giờ cũng có sẵn những cái lốt: Gạch vỡ, mũ nón rách, bát mẻ, ống bơ gỉ, mảnh cạp rá gẫy, niêu đất thủng, mảnh giấy xi-măng, đá củ đậu, cán ô gẫy... Mỗi thứ ấy là một sổ, một hộ, một người. Có khi là hai ba sổ, hai ba người. Nhấc cái nón mê: bên trong bốn hòn gạch vỡ. Vậy là năm người tất cả.

Đấy là những lốt người ta xếp từ tối hôm trước. Hắn tìm nhặt một hòn gạch để vào cuối hàng rồi đứng sát cục gạch đó. Và thật sung sướng nếu có ai đến đá tung tất cả những cái lốt ấy đi và quyết định một trật tự mới, công bằng hơn:

- Xếp người. Ai có mặt thì xếp. Không có cái trò này.

Thật là một người dám chịu trách nhiệm, một anh hùng.

Những người đang lục tục tới cũng ủng hộ giải pháp công bằng ấy. Hắn đứng vào hàng. Dòng người cứ dài ra, dài mãi, ngoằn ngoèo. Và vẫn cứ dài thêm mãi. Hắn đứng chờ. Uất ức nhìn những người đến sau, nhưng thản nhiên, vênh váo ném vào cửa quầy cái sổ ưu tiên. Rồi ngẫm ngợi. Thấy mình đã giúp được vợ con tý chút. Không có hắn, Ngọc, con Thương phải làm việc này. Chờ. Lâu. Lâu lắm. Trời rạng dần. Rồi sáng bạch. Rồi mặt trời lên. Rồi người đi làm. Đường đông. Rồi vắng. Mới thấy những người mình mong đợi đến. Ôi! Những thiên thần. Những cô gái, có cả những bà đã đứng tuổi, ý thức được tầm quan trọng của mình, phẩm giá đức hạnh cao quý của mình, vị trí chót vót trong xã hội của mình, nghiêm nghị dắt xe lên hè, mở khoá. Không thèm nhìn ai, họ gọi nhau, họ dựng xe, họ đi mua nước uống, họ bật quạt, họ cười nói oang oang.

Thấy họ đến đám đông đang bồn chồn nôn nóng, sốt ruột, cau có, làu bàu trong miệng tự nhiên thay đổi hẳn. Họ chỉnh đốn lại hàng ngũ. Họ giấu biệt vẻ mặt lúc nãy, làm ra vui vẻ tươi tắn, thú vị vì được xếp hàng để “các cô mậu” khỏi phật ý. Đừng để các cô ấy mếch lòng. Đừng để các cô ấy thấy mình sốt ruột. Cũng có người không kìm được, ngọt ngào:

- Tới giờ rồi, bán thôi chị ơi...

Thật là một sai lầm tai hại. Không ai thèm trả lời kẻ hỗn xược ấy. Người ta lại giờ sổ ra, cộng trừ. Người ta lại ra uống nước và cười nói to hơn. Cứ phải nén cái gì từ cổ xuống. Cứ chờ. Mãi cũng phải được chứ.

Thế rồi tất cả mở cờ trong bụng, reo lên từ đáy lòng khi thiên thần bước ra ghế ngồi trước bàn ngay chỗ cửa ghi-sê. Tiếng reo ấy làm thiên thần khó chịu. Bằng chứng là thiên thần lại quay vào phía trong một lúc rồi mới ra, lật sổ xem xét, im lặng, chăm chú hệ trọng, trang nghiêm. Thiên thần ngẩng lên nhìn vào đám đông vô liêm sỉ, hay quấy rầy, không để ai yên nhưng đã biết lỗi và đứng im phăng phắc:

-Lào

! Đưa sổ đây!Lăm

người một. Từ từ chứ

lào

. Đã bảo

lăm

sổ một. Ai là Tẩm!

Một ông già móm mém bật trả lời không chậm một giây:

- Em đây! Dạ! Em là Tẩm đây.

Tất cả nhìn cô mậu dịch viên. Cô lật sổ gốc. Cô ghi định lượng. Cô ký vào sổ gạo của ông già. Cô không nói một câu. Ông già khe khẽ:

- Cô cho em đong 6 ký được không? Em vay nhiều quá rồi. Tháng vừa rồi lắm khách quá. Có chú em ở Hà Nội về chơi, lại có mấy đứa cháu từ quê ra.

- Sang kỳ chỉ bán mỗi sổ một phần ba định lượng.

Ông im lặng. Sổ của ông, hộ độc thân có 13 ký rưỡi (các con ông đã đi chiến trường cả). Được đong bốn ký rưỡi. Một phần ba ngô là ký rưỡi. Ba ký gạo. Cô mậu nhìn vào ba-rem tính tiền và nói: 1 đồng 47. Ông già đưa ra hai tờ giấy một đồng.

- Có tiềnnẻ

không?- Dạ. Em không ạ. - Ông già nói như người có lỗi.Ba bốn người chạy từ dưới lên:- Tiền lẻ đây ạ.Một em bé trạc tuổi con Thương nhanh chân đến trước tiên. Nó đưa cho cô mậu dịch viên những đồng một xu hai xu năm xu bằng nhôm và những đồng tiền giấy một hào. Tiền lẻ hơn thẻ thương binh. Nó sẽ được đong trước. Chẳng ai dám ghen tỵ với nó. Hắn sợ nhất những sổ ưu tiên, những bao tải có buộc túi ni-lông đựng sổ gạo kèm theo tiền. Hắn sợ nhất những cái túi vải có đựng phiếu thịt và tờ giấy xin mua bao nhiêu thịt. Những suất ấy được cắt trước. Lại toàn chỗ ngon. Có khi đến lượt mình chỉ còn ít bạc nhạc. Một lần hắn đến cửa hàng từ sớm để mua thịt mà không mua được. Phiếu TR của thằng Dương cũng không mua được. Phiếu BĐ cũng không mua được. Hôm ấy cửa hàng chỉ về có mấy cân thịt mà có đến ba người cầm phiếu bán máu đứng chờ. Thịt bà đẻ không bán. Thịt trẻ em không bán.Thịt chỉ bán cho những người bán máu. Hắn về tay không và nghĩ đến Vũ Mạc. Thịt hiếm thế này Vũ Mạc kiếm được đây. Vũ Mạc bán máu và bao giờ cũng bán nốt mọi thứ phiếu bồi dưỡng...

Bất cứ ai đã từng để lại tuổi thanh xuân ở giai đoạn

bao

cấp

và đầu đổi mới thì đều có cả một “kho truyện” để kể lại cho thế hệ em, con cháu mình nghe. Thời kỳ ấy không huy hoàng niềm hạnh phúc như đúng bản chất nó phải thế, mà trái lại hằn sâu trong tâm trí những người đã từng sống thứ miền ký ức về sự khốn khó, thiếu thốn theo cách vô cùng ấn tượng. Người ta nhắc lại cụm từ “

bao

cấp

",

"đầu đổi mới”

thường với 2 trạng thái ngược nhau: một là trầm ngâm suy tư, hai là

cười

phá lên đầy vui vẻ sảng khoái. Thứ kỷ niệm về thời kỳ đặc biệt ấy khi ngẫm lại chỉ có thể là niềm đau hoặc một hoài niệm đẹp.

Những chuyện vô đề về các “dân chơi hàng xịn”

Đầu thập kỷ 60, mốt của thanh niên là diện quần ống tuýp, loại quần này tiêu chuẩn là phải chật, thật chật, đến mức lúc thay ra cần có người kéo ống quần hộ thì mới đúng điệu. Nam thanh niên để đầu "đít vịt"– kiểu tóc để dài, chải keo sáp bóng nhoáng, vuốt túm chỉa chỉa về phía sau, cưỡi hiên ngang con xe Pha vo rít (Favorite) đi ngoài đường là ai cũng phải ngoái nhìn.

Tầm sau giải phóng, ảnh hưởng với phong trào phản chiến hippy, người ta quay sang “cuồng si” mốt áo vải thô bó chẽn cùng quần ống loe rộng và để tóc dài phóng khoáng.

Cách ăn mặc như vậy đối với giới trẻ rất được ưa chuộng, song về tình hình xã hội thì cách phục sức kiểu này rất “có vấn đề”, bị xếp vào hàng văn hóa lai căng, không đứng đắn. Một số đơn vị hành chính còn treo biển rất rõ ràng

“Không tiếp quần loe”

,

“Chúng tôi không tiếp những người mặc quần loe, quần tuýp, để tóc bù xù”.

Thậm chí trên các ngã tư, đường phố thường có các đội thanh niên tình nguyện cờ đỏ chuyên chăm chăm đi cắt quần ống loe. Xử nhẹ là cắt dọc đường li trước, nặng là cắt phần ống quần rộng. Đầu đít vịt hay tóc tai râu ria xồm xoàm dài quá quy định nếu bị bắt cũng đều phải cắt trụi hết. Bên cạnh đó tiêu chuẩn đánh giá dân chơi thời ấy không nằm ngoài câu vè sau:

Đến những năm cuối 70, đầu năm 80, do tình hình khan hiếm hàng hóa nên đã bắt đầu xảy ra nạn buôn lậu tại các đầu mối cửa khẩu nước ta. Những con buôn vận chuyển hàng lậu được người dân “ưu ái” gọi bằng một cái tên khá kì dị: dân bám mích. Tay nào buôn hàng trót lọt được vài bữa là đã giàu lên nhanh chóng, và tất nhiên họ đều diện những bộ cánh thời thượng nhất bấy giờ. Dạo ấy, vải Pho Canada là loại thịnh hành và được ưa thích nhất bấy giờ. Thứ vải này được người bây giờ miêu tả lại bằng sự châm chọc

“May đồ bằng Pho Canada, mặc mùa đông thì lạnh run, mùa hè diện vào lại nóng chảy mỡ”

. Chê bai là vậy nhưng vào thời đó, phải khá giả lắm mới có mà mặc. Phất lên nhanh nhờ buôn gạo, bột mì, phân bón, dân bám mích không thoát khỏi thành ngữ sâu cay “ Trưởng giả học làm sang”. Giữa mùa hè nắng chang chang đổ lửa, thế mà các tay chơi “dân bám mích” vẫn cố đóng nguyên cả bộ kiểu ký giả may bằng vải Pho Canada, đầu đội mũ phớt len, đeo kính râm, đi đôi sa bô nặng chịch...trông vô cùng bức bối, ngột ngạt. Đối với những quán ăn hay hàng giải khát, hôm nào gặp được toán dân chơi đóng bộ bảnh chọe này là biết ngay đã vào dịp vớ bở, tha hồ mà chặt chém…

Cho tới giữa năm 80 đến đầu 90, danh xưng “dân chơi hàng hiệu” chuyển sang cho những người may mắn có người nhà đi xuất khẩu lao động hoặc đi học ở nước ngoài về. Màu mốt nhất thời đấy là các tông cỏ úa, tím than. Người sành thời trang là phải diện áo lông Đức hoặc áo bay Nga mặc quần giả bò cưỡi Custom Minks, Simson, Suzuki 100 mận chín, Honda Super Cub C50... Một bộ hoàn chỉnh như vậy đáng giá bằng cả một gia tài vì thế nên nếu có “ cưa” cô nào là đổ cô ấy.

"Một trăm lời nói không bằng ống khói Hon Đa”

- như các đại gia, thiếu gia ngày nay, các dân chơi thời xa vắng như thế này luôn được người đời nhìn bằng ánh mắt ngưỡng mộ pha chút thèm thuồng, ghen tị.

à những nghề chỉ thời ấy mới có

Có những thứ chỉ tồn tại ở một thời điểm nhất định. Những nghề phục vụ sự mặc thời

bao cấp

là một trong những thứ như vậy. Xuất phát từ việc mọi cái đều phải nhận qua tem phiếu, nhiều người dân rơi vào tình cảnh quần áo giày dép thiếu thốn, vải vóc không dư thừa, một năm con em cán bộ công nhân viên chức nội thành cũng chỉ được phát có khoảng 2,5 mét vải. Chính bởi vậy nên người thời ấy rất giữ gìn trang phục, bởi nếu rách tả tơi quá thì cũng không có cái khác để mà thay. Phỏng theo nhu cầu ấy, một số nghề nho nhỏ nhưng đặc biệt đã nở rộ.

Hồi ấy có nghề may lộn lại quần. Sở dĩ có nghề này xuất phát từ việc thiếu vải. Mỗi người chỉ có khoảng 1 -2 cái quần để mặc đi mặc lại, mặc đến khi sờn rách, bạc màu. Thế là người ta đem chiếc quần “Chử Đồng Tử’’ ra hiệu nhờ tháo hết đường chỉ ra, lộn bên trong ra bên ngoài hoặc cắt đôi ống quần xoay đằng trước ra đằng sau rồi mới may lại. Mặt trong quần do ít tiếp xúc với ánh nắng nên vẫn còn rất mới, nếu không may có chỗ rách nào thì mạng lại bằng chỉ cùng màu.

Lại có giai đoạn Hà Nội nở rộ các hàng chuyên hàn dán dép nhựa, dép cao su. Người ta nấu chảy các miếng nhựa, cao su vụ để tra vào chỗ bị đứt, mẻ. Ngoài ra còn có nghề làm dép râu rất được chuộng. Đế dép được làm bằng vỏ xe nhà binh cũ, quai dép bằng ruột xe. Vỏ xe và ruột xe được cắt nhỏ, gọt theo dạng bàn chân, xỏ lỗ để luồn quai. Dép râu mang ít mòn, ít hư chỉ tội là hay bị đen chân do ruột cao su và kiểu dáng không thanh nhã, nặng nề, xấu xí.

Nghề “thợ nhuộm” đã có từ lâu ở miền Bắc, sau 1975, nghề này có cơ hội phát triển ở miền Nam do nhiều người có nhu cầu nhuộm đen quần áo cho sạch hoặc để “đỡ thấy dơ” hơn, tiện cho công việc lao động. Cũng có người đi nhuộm đồ trắng hay màu thành đenchỉ để tỏ ra cũng thuộc nhóm người lao động. Đồ được đem đi nhuộm là áo quần quân đội từ áo quần kaki vàng của sĩ quan, đến đồ xanh, đồ rằn ri của lính hay đồ trắng cảnh sát,… đều bị nhuộm thành màu đen hết.

Những biến cố của lịch sử luôn có ảnh hưởng rất mạnh tới gu thời trang của người dân. Điều này thể hiện rất rõ rệt trong phong cách ăn mặc của dân thành thị ở 2 thành phố lớn nhất Việt Nam: Hà Nội và Sài Gòn.

Một Hà Nội rất khác

Trong thời kỳ này, người dân miền Bắc nói chung và người Hà Nội nói riêng đang trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, chống Mỹ và khôi phục lại những hậu quả khủng khiếp sau chiến tranh chống Pháp nên phong cách ăn mặc chuyển từ xênh xang áo xống sang gọn gàng, khỏe khắn. Đi tới nơi đâu cũng bắt gặp hình ảnh áo cánh, áo sơ mi tay bồng chiết eo đi cùng quần đen (mùa hè) và áo trần bông, áo vest kiểu Hồng Kong (mùa đông) trông na ná như nhau chỉ khác về chất liệu. “Xịn” nhất trong phong cách thời trang này là áo lụa trắng nõn và quần đen tuyền may từ lụa Hà Đông hoặc lĩnh Bưởi. Nam giới thì thường mặc áo đại cán 4 túi, còn gọi là áo kiểu Tôn Trung Sơn

Khi kiểu dáng quần áo cả trăm cái như một thì các trang phục nhập ngoại (được xách tay hoặc buôn lậu) trở thành mốt của giới thanh niên. Những “thương hiệu” nổi bật có thể kể đến như áo bay Liên Xô, áo Nato, quần bò Thái, quần áo Tô Châu… Về thứ đội trên đầu thì mũ cối gần như chiếm một vị trí độc tôn, trong đó mũ cối Tàu là thời thượng nhất, có khi giá trị gần bằng hai chỉ vàng.

Giày dép “hàng hiệu” lúc bấy giờ là dép nhựa trắng Tiền Phong, dép tông lào đế dày, giày Tây cũng xuất hiện song thuộc loại hàng “cực độc.” Thậm chí, thanh niên thời đó coi thời trang như là công cụ “khoe mẽ” để cạnh tranh “tán gái”!

Và một Sài Gòn xa hoa

Trong khi ấy, Sài Gòn lại vô cùng nở rộ và đa dạng các sắc thái phong cách thời trang theo phong trào Tây hóa. Khắp Sài Gòn tràn ngập các loại váy đầm, quần, áo rất hợp thời, thậm chí còn bắt kịp xu thế thời trang thế giới lúc bấy giờ.

Người Sài Gòn khá sành điệu với các loại quần, từ quần ống túm cho tới ông côn, ống loe rộng (thập niên 70). Váy cũng đủ loại, đủ kiểu từ kiểu cổ điển nhất là dài quá đầu gối, phồng, gọi là váy chuông, váy bút chì (thập niên 60), mini jupe càng ngắn càng đẹp (thập niên 70) cho đến váy suông thẳng xẻ tà, váy xếp li…

Áo quần kiểu hippy đã một thời chiếm lĩnh mốt thời trang của Sài Gòn cùng lúc với phong trào hippy ở Mỹ năm đầu thập kỷ 60. Áo may bằng vải xô mỏng, thêu rối rắm. Áo thường ngắn, hở cả lưng, bụng người mặc, ống tay áo rộng, phồng. Quần bò "zin" bó mông, bạc phếch, rách rưới, có miếng vá ở đầu gối, ở mông... hoặc váy dài đến mắt cá nhân, có hàng khuy ở giữa từ thắt lưng xuống gấu…

Giày dép cũng đa dạng, thay đổi xu hướng đến chóng mặt. Năm 1954 - 1959, mốt là giày da mũi nhọn, gót cao. Đến ít năm sau, người ta đi giày mũi vuông, gót vuông, thấp. Sau lại đổi qua mốt giày cao gót trên 10cm lênh khênh... Nếu mặc áo dài thì phải đi guốc gỗ gót cao, nhọn, sơn mài hoa lá…

Vào giai đoạn này, những người nổi tiếng cũng là những người đi đầu xu hướng và định hình phong cách cho người dân. Họ được coi như những biểu tượng thời trang như đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân – người khởi xướng mốt áo dài Trần Lệ Xuân biến tấu táo bạo với cổ ngang, quàng khăn lông thú và cũng từng đưa hình ảnh áo dài lên tạp chí Time. Hay như ngôi sao Thẩm Thúy Hằng lăng xê mốt váy áo bó sát gợi cảm và bốt cao… Phụ nữ Sài Gòn thời ấy ai cũng muốn được phong cách cao sang như Trần Lệ Xuân hay sành điệu như Thẩm Thúy Hằng, nên đổ xô đi mua hay may những bộ cánh giống thần tượng. Đây cũng là nét rất tương đồng với thời trang hiện đại ngày nay.

huyện buôn bán lắm gian nan

Vào thời

bao

cấp

, khoảng tầm những năm 80 đổ lên, chuyện buôn bán tại thị trường “chợ trời” đã bắt đầu nở rộ. Ngày ấy, những thanh niên đi du học nước ngoài và sau này là những người đi xuất khẩu lao động tại các nước Đông Âu đã mang về các loại mốt thời trang thời thượng lúc bấy giờ. Người ta tiếp nhận những thứ phục trang, xe cộ từ nước ngoài mang về như trẻ nhỏ thôn quê khao khát thứ đồ chơi xịn. Đó là sự thèm thuồng, mơ ước khi nghĩ về và chút ngưỡng mộ pha cảm giác ganh tị khi nhìn thấy chúng hiển hiện trong cuộc sống. Tâm lý từ xa xưa này so với thái độ mê đắm của các tín đồ thời trang với các món hàng hiệu cao cấp ngày nay cũng chẳng kém lòng nhiệt thành là bao.

Nhắc tới thời

bao cấp

, có lẽ chúng ta vẫn hình dung ra một bức tranh toàn cảnh của những cá nhân ăn chưa no, mặc chưa ấm. Tuy vậy thực chất thời ấy, vẫn có những người giàu và khá giả, dù số ấy khôn nhiều. Chẳng thế mà ngày đó người ta sẵn sang trả vài cây vàng cho một chiếc xe máy, 3 chỉ vàng cho một chiếc mũ cối… Tính ra một dân sành chơi bao cấp với đủ bộ xe Minsk, mũ cối, quần bò, áo bay là đã mang theo mình gánh nặng bằng cái nhà, với trị giá quy đổi từ vàng sang tiền bây giờ là phải cả trăm triệu.

Cũng bởi thị hiếu dân sành điệu, có cung ắt có cầu, những người từ nước ngoài về tranh thủ những chuyến đi xa xứ để đánh quả lẻ thêm ít hàng hóa về bán cho các dân chơi. Ông Trần Thắng, một người đã từng đi học ở Liên Xô (cũ) cho biết:”Hàng tháng, ngoài việc được chu cấp cho toàn bộ chi phí học hành, ăn ở, chính phủ Liên Xô cũng “trợ cấp” thêm cho cánh nghiên cứu sinh chúng tôi một khoản để chi tiêu lặt vặt. Tận dụng món tiền đó, cộng thêm với việc trong thư vợ tôi bảo ở quê nhà người ta chuộng xe đạp với quần áo Liên Xô, thế là trong 3 năm tôi không đụng tới một đồng nào trong khoản “viện trợ” quý giá ấy. Trước ngày trở về quê hương, tôi ra chợ mua một chiếc va li thật to, 2 chiếc xe đạp, 7 cái áo, 9 cái quần, thế là hết sạch tiền. Sau đó, tôi tháo hết bộ phận của chiếc xe đạp ra nhét kín va li. Đống quần áo thì mặc hết lên người, ních chặt đến mức tứ chi như không cử động nổi, vô cùng khó chịu. Điều hay là những người bạn Liên Xô lúc chia tay cùng không thấy thắc mắc gì về hình dáng to sù sụ của tôi, có lẽ họ cũng quen rồi. Khi về Việt Nam, tôi phải nhờ một người quen thạo buôn bán để “tẩu tán” hộ mấy món này vì hồi đó, du học sinh của Đảng mà lại đi giao dịch chợ đen thì mang tiếng chết. Cũng may là vừa chào buổi sáng thì đến trưa là đã hết hàng ngay”.

Ông Tuấn Hoàng tại Láng Hạ thì nhớ lại chuyện đi bán hàng lén lút ngày xưa:

“Tôi trước cũng vốn là cán bộ công nhân viên chức nhà nước với đồng lương ít, tem phiếu phát nhỏ giọt không đủ trang trải cuộc sống cho gia đình. Điều kiện như thế làm gì có tiền mà đi buôn hàng. Đến tầm năm 85 bên mình nở rộ ra mốt Thái Lan với áo sơ mi kẻ, áo chim cò, quần bò, áo thun cổ lọ không tay… nên tôi tranh thủ tận dụng nhờ người quen đinh cư bên Thái Lan gửi ít hàng về.

Mỗi đợt nhận được vài cái quần bò, bán rẻ thì một chiếc cũng phải 2 chỉ vảng, có chiếc hàng độc, người ta kì kèo tôi bán với giá 4 chỉ. Nghe tưởng dễ nhưng mọi chuyện thực ra không suôn sẻ như vậy. Vì hồi đấy tôi là công nhân viên nhà nước nên bán chác gì cũng phải thậm thụt ghê lắm, nhất là với những mặt hàng có giá trị, lơ mơ là bị khiển trách như chơi. Để bán hàng, tôi mặc hết đồ mới lên người, đi ra chợ Hòa Bình phố Huế (hay còn gọi là chợ Trời), hễ ai có nhu cầu mua là lần từng lớp áo, vạch lên cho họ xem chất lượng, mẫu mã hàng. Buồn

cười

nhất là chuyện đi thử quần áo, cả khách cả chủ kéo nhau ra… nhà vệ sinh công cộng, vào đó mặc đồ xem có vừa không, giá cả “thuận mua vừa bán” là đồng ý luôn. Mọi chuyện diễn ra rất nhanh chóng. Cẩn thận là thế, song "cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”, trong một lần bán mua bất cẩn, tôi bị lộ và nhận được cảnh cáo của cơ quan. Vì xấu hổ với anh em đoàn thể, nên tôi đã có một quyết định táo

báo

là xin nghỉ để làm kinh doanh ngoài. Sẵn có ít vốn từ việc buôn quần áo Thái Lan, tôi xoay sang buôn đủ loại vải từ dạ, voan, pô dơ lin, sa tanh... Thế là từ một tay bán hàng cò con nhỏ lẻ, tôi đã trở thành cơ sở bỏ xỉ vải như bây giờ cũng là có nguyên nhân cả”.

Cảm xúc không tên

Mặc dù từng bán biết bao nhiêu chiếc quần bò xịn, nhưng ông Tuấn tự cảm thấy hối tiếc vì

“thời đó tôi chưa bao giờ có nổi một chiếc quần bò Thái đúng nghĩa”.

Ông tự nhận có lẽ cái nghèo đã ăn sâu vào máu quá lâu, đến nỗi mà, đến bây giờ quần áo ngày xưa – những kỷ vật ấy ông vẫn ngay ngắn xếp vào một ngăn tủ, không vứt đi cái nào. Những món đồ này, dù không còn mới, tuy cũ nhưng không nát, rất ít vết bẩn, sờn rách.

“Các cháu giờ đầy đủ nên ăn mặc phí quá, cứ hết mùa chúng lại hò nhau đem quần áo còn mới tinh ra để làm giẻ lau nhà. Không như thế hệ ngày trước, thanh niên luôn giữ gìn kỹ những bộ đẹp nhất, chỉ dịp lễ Tết hoặc dịp trọng đại mới lôi ra dùng, mặc xong giặt cẩn thận và cất vào tủ. Trân trọng và quý hóa lắm. Rồi khi có những bộ đồ mới, niềm vui của chúng tôi như vỡ òa. Giới trẻ bây giờ chắc không cảm nhận được điều hạnh phúc ấy. Có lẽ đấy là một trong những thứ quý giá mà thời đói khổ mang lại cho thế hệ đã từng sống ở giai đoạn này – sự trân trọng và tìm mọi cách chinh phục cuộc sống”

– Ông Tuấn trầm ngâm.

Thời

bao

cấp, tất cả các cán bộ đi công tác nước ngoài kể cả cán bộ ngoại giao ngắn hay dài ngày đều phải lên phố Hàng Bột (Hà Nội) để mượn quần áo.

Vào thời

bao

cấp

, khoảng năm 60-70, những người được nhận công văn công tác nước ngoài cũng đều phải đi… mượn quần áo Nhà nước ở phố Hàng Bột, theo như nhiều người kể lại thì đó là một kho đồ của Bộ Tài chính. Trong đó có khoảng vài trăm bộ comple – là thứ hàng cực hiếm lúc bấy giờ, được may sẵn với đủ mọi kích cỡ. Đa số các bộ đồ này đều có chỉ có màu tím than hoặc xanh dương đậm, với chất liệu bằng kaki hoặc vải dạ, hầu hết là hàng viện trợ từ Mông Cổ, Liên Xô, Trung Quốc... Ngoài bộ comple, những người đi nước ngoài còn được mượn thêm cả sơ mi, quần âu, một cái cà vạt, 1 cái vali có đóng bằng gỗ bọc vải. Sang đến Liên Xô đoàn cán bộ được ở khách sạn Tháng Mười - và được

bao cấp

100% như gửi thư không phải dán tem, giặt khô quần áo, sửa đồng hồ… tất cả đều được miễn phí hoàn toàn. 

Điểm hay của tất cả những bộ đó là để đánh dấu nên người quản kho đều dùng lá trầu không để in một chữ KHO to đùng ở phần lưng quần và miệng túi áo trong. Chính cái chữ KHO - ở ta thì dễ hiểu, sang Tây lại khó hiểu này đã khiến nhiều chuyện khá hài hước xảy ra. 

Thành viên A ở một diễn đàn kể một chuyện vui hồi đi công tác ở Liên Xô:

“Đoàn chúng tôi có 5 người, sang bên Liên Xô việc đầu tiên sau khi nhận phòng là trút bộ comple ra để giặt là cho phẳng phiu. Đến chiều bà phục vụ đi các phòng gõ cửa , mồm luôn gọi Ta - vơ - rít Kho (có nghĩa là Đồng chí Kho) vì cả 5 bộ đưa đi giặt đều có áo in chữ KHO. Vì vậy bà nghĩ rằng Kho chắc hẳn là một cái tên rất phổ biến ở Việt Nam. Một trường hợp khác xảy ra với anh bạn tôi làm thông ngôn cho một đoàn cao cấp ở Đồi Lê Nin. Vì giỏi tiếng Nga nên buổi chiều, anh thăm hỏi bà phục vụ phòng. Bà nhìn anh từ đầu đến chân, rồi bỗng mắng cho một trận té tát: "Lần trước mày hẹn là sẽ viết thư cho tao kể chuyện chiến tranh ở Việt Nam. Vậy mà tao không nhận lấy của mày một chữ, thế là thế nào?". Anh bạn tôi ngẩn tò te vì đây là lần đầu tiên anh... được đi Liên Xô. Thấy bộ dạng ngơ ngác của anh, bà lại mắng tiếp: "Mày lại quên hay sao? Đây này, lần trước mày ngồi hút thuốc, tàn thuốc rơi xuống làm thủng một lỗ ở tay áo. Tao ngồi cả một buổi tối mạng lại lỗ thủng đó cho mày. Nhớ ra chưa?". Vừa nói, bà lại kéo tay anh bạn tôi chỉ vào vết thủng trên bộ quần áo anh mặc. Thì ra đúng là có một cán bộ Việt Nam khác đã được bà phục vụ người Nga phúc hậu giúp. Và bà chỉ nhận diện được người mang ơn qua lỗ thủng và chữ KHO in trên áo!”

Du học sinh cũng mượn đồ của Nhà nước

Ngoài các cán bộ thì sinh viên đạt tiêu chuẩn đi học nước ngoài, trước khi sang xứ người cũng phải đi mượn quần áo. Sở dĩ như vậy bởi với điều kiện kinh tế khó khăn thiếu thốn ở cái thời

“Cho may ô mới được phần may ô”

, thì ít ai có đủ bộ phục trang tối thiểu để cư trú ở nước ngoài trong nhiều năm. Được Bộ Đại Học gọi tập trung tạm thời, sau đủ các màn khám sức khỏe, mới bắt đầu cẩn thận thực hiện việc cấp phát trang phục cho từng người cả nam và nữ với một bản kê khai chi tiết đầy đủ các thứ đồ đã mượn. Đi bất cứ nước nào thì họ cũng được cấp một vali vải giả da hoặc túi du lịch loại lớn để chứa quần áo được nhận. Để chuẩn bị chống chọi với cái rét cắt da của phương xa, các vali, túi, hòm phải chất đủ các thứ từ sơ mi, quần tây, đồ giữ ấm như măng tô, mũ lông, áo len, khăn len quàng cổ, giày da, tất chân, bộ complet... với màu sắc thì cũng như đã kể trên, toàn một màu "ít bẩn" rất mốt thời

bao cấp

như tím than hay xanh dương đậm.

Sau khi về nước, dù thuộc diện tốt nghiệp hoàn thành khóa học hay về sớm vì lí do sức khỏe hoặc tiếp thu không được, thì bất cứ ai cũng phải gửi trả lại cho Nhà nước những thứ đồ “mượn” như trong bản kê khai nhận đồ đã ký ban đầu.

Ông Thái Hồng – người đã từng du học ngành Y tại Liên Xô và Trung Quốc những năm 60- 70 bồi hồi nhớ lại những chuyện ngày xưa:

“Việc mượn quần áo ở Liên Xô và Trung Quốc cũng khác nhau nhiều lắm đấy. Hồi tôi chuẩn bị qua Liên Xô, được nhà nước cấp trước cho một bộ comple với vài chiếc áo ấm, đến khi sang bên kia mỗi năm lại được chính phủ nước bạn cho mượn thêm 1 bộ comple nữa với kha khá quần áo, thế là xông xênh áo xống thừa để yên tâm học tập trong cái lạnh buốt của khí hậu hàn đới. Đến khi về bản quốc lại còn được Liên Xô tặng lại hết cho những thứ ấy. Còn sau đó, tôi sang Bắc Kinh -Trung Quốc học, cũng được cán bộ bản xứ phát cho ít quần áo mặc thay đổi. Kết thúc quá trình học tập, khăn gói hành trang về Việt Nam, khi ra tới gần đoạn Cốc Lếu là mấy đồng chí Trung Quốc bắt lột hết đồ họ cấp, không được mang về thứ gì, kể cả quần áo đang mặc trên người. Thời kỳ ấy là vào khoảng cuối năm 70”.

Tuy nhiên việc này cũng khiến xảy ra cơ man “tai nạn”, ông Thành vừa nhớ lại vừa cười:

“Có lần tôi mặc một bộ quần áo, mà trong đó áo là của tôi, quần là của anh bạn trong nhóm để đi chơi cùng một cô khoa Sử. Hôm đấy lại đúng sinh nhật nàng, không có tiền mua quà nên tôi quyết đinh liều…trèo bờ rào nhà nọ để hái hoa. Chẳng may lúc trèo ra, mải loay hoay cầm hoa, quần bị vướng ngay vào đống kẽm gai, xước một mảng khá to. Thôi, lúc đấy thì lo cuống quít, vứt cả hoa, quên cả cuộc hẹn, chỉ có mỗi hình ảnh cái quần đi mượn rách tươm rách tả là còn trong đầu. Tôi phải chạy ngay đến 5 hàng may thì 4 hàng không nhận mạng lại vì rách “thảm” quá, mà kể cả sau khi mạng lại rồi cái quần ấy trông vẫn rất kinh khủng. Về anh bạn tôi nhất nhất không chịu nhận quần lại, “ăn vạ” đòi đền cái mới nhưng tôi làm gì có tiền, đành phải gá tạm cái áo “bảnh” nhất của mình cho anh ta, cầm chiếc quần tả tơi về mà lòng đau như cắt!”.

Mượn đồ ngày ấy cũng không chỉ để hẹn hò, mà ngoài ra còn cho nhiều tình huống khác như đi họp, đi ăn cưới, đi về quê ra mắt song thân phụ mẫu nhà vợ...Điều này minh chứng một điều rằng: Trong "thời để nhớ" đó, tuy hoàn cảnh cuộc sống khốn khó nhưng mọi người trong cộng đồng vẫn rất biết chia sẻ những gánh nặng lo toan với nhau. 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: