pháp luan cong

Chuyển Pháp Luân

Lý Hồng Chí

Luận ngữ

“Phật Pháp” tinh thâm nhất, là khoa học huyền bí và siêu thường hơn hết thảy các

học thuyết trên thế giới. Nếu khai mở lĩnh vực này, thì cần phải cải biến từ tận gốc

quan niệm của người thường; nếu không, chân tướng vũ trụ sẽ vĩnh viễn là điều

thần thoại của nhân loại, và người thường vĩnh viễn bò lết trong cái khung do hiểu

biết ngu muội của mình dựng nên.

Vậy “Phật Pháp” đúng ra là gì? Là tôn giáo chăng? Là triết học chăng? Đó chỉ là

nhận thức của những “học giả Phật giáo hiện đại hoá” mà thôi. Họ chỉ học lý luận,

họ xem đó như phạm trù triết học để vừa phê phán vừa học [tập] và làm những cái

gọi là nghiên cứu. Kỳ thực, “Phật Pháp” không chỉ là những gì ít ỏi trong kinh sách,

vốn chỉ là Pháp của tầng sơ cấp của “Phật Pháp”. “Phật Pháp” là từ những lạp tử,

phân tử đến vũ trụ, từ thứ nhỏ hơn cho đến lớn hơn, nhìn thấu hết thảy điều bí mật,

không gì không bao [hàm], không gì bị bỏ sót. Nó là đặc tính “Chân Thiện Nhẫn”

của vũ trụ, [với] những luận thuật khác nhau của các tầng khác nhau; cũng chính là

điều Đạo gia gọi là “Đạo”, Phật gia gọi là “Pháp”.

Khoa học của nhân loại ngày nay dẫu phát triển đến đâu, cũng chỉ là một bộ phận

của bí mật trong vũ trụ. Mỗi khi chúng tôi đưa ra những hiện tượng cụ thể trong

“Phật Pháp”, liền có người nói: “Giờ đã là thời đại điện tử, khoa học rất phát triển,

phi thuyền vũ trụ đã bay đến cả những tinh cầu khác, vậy còn giảng chi mấy điều

mê tín cũ xưa ấy”. Nói thẳng ra, máy tính dẫu phát triển đến đâu, cũng không sao

sánh nổi bộ não người, mà não người cho đến tận bây giờ vẫn là chỗ mê không thể

nghiên cứu cho thấu đáo. Phi thuyền vũ trụ dẫu bay cao đến đâu, cũng không thể

bay khỏi không gian vật chất này nơi nhân loại chúng ta đang tồn tại. Tri thức của

nhân loại hiện đại có thể liễu giải được chỉ là những điều lẻ tẻ vô cùng thiển cận,

quá cách biệt với nhận thức chân chính về chân tướng của vũ trụ. Thậm chí có

người không dám nhìn thẳng, không dám tiếp xúc, không dám thừa nhận sự thực

của những hiện tượng tồn tại một cách khách quan; vì họ quá bảo thủ, không muốn

thay đổi quan niệm truyền thống để tư duy. Chỉ có “Phật Pháp” mới có thể  khai mở

những chỗ mê về toàn vũ trụ, thời-không, và [thân] thể người; Nó có thể thực sự

phân biệt thiện và ác, tốt và xấu; phá bỏ hết thảy kiến [giải] sai lầm, đưa ra chính

kiến.

Tư tưởng chỉ đạo về nghiên cứu phát triển của khoa học nhân loại hiện nay chỉ có

thể hạn cuộc trong thế giới vật chất; sự vật được nhận thức rồi thì nó mới được

nghiên cứu, [người ta cứ] theo lề lối ấy. Nhưng tại không gian chúng ta [có] những

hiện tượng [tuy] nhìn không thấy sờ không được, nhưng tồn tại [một cách] khách

quan, và lại có khả năng phản ánh đến không gian vật chất chúng ta, [có] biểu hiện

hết sức thực tại, [người ta] lại khước từ không động chạm đến, cho đó là những

hiện tượng ‘bất minh’. Người cố chấp khăng khăng vô căn cứ tìm lý do để nói rằng

đó là hiện tượng tự nhiên; người có dụng ý khác đã trái với lòng mình mà chụp lên

mọi thứ cái mũ lớn ‘mê tín’; người ít truy cầu lảng tránh rằng khoa học chưa đủ

phát triển. Nếu nhân loại có thể nhận thức lại mới về bản thân và vũ trụ, thay đổi

hoàn toàn quan niệm đã cứng nhắc, thì nhân loại sẽ có một [bước] nhảy vọt. “Phật

Pháp” cho phép nhân loại thấu triệt thế giới vô lượng vô biên. Từ nghìn xưa đến

nay, có thể đưa ra thuyết minh sáng tỏ đầy đủ về nhân loại, mỗi từng không gian

vật chất tồn tại, sinh mệnh, cho đến toàn vũ trụ, thì chỉ có “Phật Pháp”.

Lý Hồng Chí

MỤC LỤC

Luận ngữ

Bài giảng thứ nhất 1

Chân chính đưa con người lên cao tầng.............1

Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau.....4

Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận

định người tốt xấu.............................................. 6

Khí công là văn hoá tiền sử................................ 8

Khí công chính là tu luyện............................... 11

Luyện công vì sao không tăng công.................13

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp..................18

Bài giảng thứ hai 23

Vấn đề liên quan đến thiên mục....................... 23

Công năng dao thị............................................ 31

Công năng túc mệnh thông............................... 32

Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới.........35

Vấn đề hữu sở cầu............................................ 38

Bài giảng thứ ba 45

Tôi đối xử với các học viên đều như đệ tử.......45

Công pháp Phật gia và Phật giáo......................46

Tu luyện phải chuyên nhất............................... 49

Công năng và công lực.....................................51

Phản tu và tá công............................................ 51

Phụ thể.............................................................. 55

Ngôn ngữ vũ trụ............................................... 59

Sư phụ cấp gì cho học viên...............................61

Trường năng lượng...........................................66

Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công

như thế nào....................................................... 66

Bài giảng thứ tư 69

Mất và được...................................................... 69

Chuyển hoá nghiệp lực..................................... 70

Đề cao tâm tính................................................ 76

Quán đỉnh......................................................... 80

Huyền quan thiết vị.......................................... 82

Bài giảng thứ năm 87

Đồ hình Pháp Luân...........................................87

Kỳ Môn công pháp........................................... 89

Luyện tà pháp................................................... 90

Nam nữ song tu................................................ 92

Tính mệnh song tu............................................93

Pháp thân.......................................................... 94

Khai quang....................................................... 95

Khoa chúc do..................................................100

Bài giảng thứ sáu 101

Tẩu hoả nhập ma............................................ 101

Luyện công chiêu ma..................................... 107

Tự tâm sinh ma............................................... 111

Chủ ý thức phải mạnh.....................................115

Tâm nhất định phải chính...............................115

Khí công võ thuật........................................... 120

Tâm lý hiển thị............................................... 123

Bài giảng thứ bẩy 126

Vấn đề sát sinh............................................... 126

Vấn đề ăn thịt................................................. 129

Tâm tật đố.......................................................133

Vấn đề trị bệnh............................................... 137

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công

........................................................................ 140

Bài giảng thứ tám 144

Tịch cốc.......................................................... 144

Trộm khí......................................................... 145

Thu khí........................................................... 147

Ai luyện công thì đắc công.............................149

Chu thiên........................................................ 153

Tâm hoan hỷ................................................... 159

Tu khẩu...........................................................161

Bài giảng thứ chín 163

Khí công và thể dục........................................ 163

Ý niệm............................................................ 164

Tâm thanh tịnh................................................169

Căn cơ.............................................................172

Ngộ................................................................. 174

Người đại căn khí........................................... 178

Bài giảng thứ nhất

Chân chính đưa con người lên cao tầng

Trong toàn bộ quá trình truyền Pháp, truyền công tôi có bổn ý là có trách

nhiệm với xã hội, có trách nhiệm với học viên; hiệu quả thu được thật tốt, ảnh

hưởng đến toàn xã hội cũng rất tốt. Vài năm trước có rất nhiều khí công sư truyền

công; những gì họ giảng đều thuộc về tầng chữa bệnh khoẻ người. Đương nhiên,

không phải nói là công pháp của những người khác không tốt; tôi chỉ nói rằng họ

không truyền gì tại cao tầng. Tôi cũng biết rõ tình thế khí công trên toàn quốc

1

. Cả

trong ngoài nước hiện nay, về việc truyền công lên cao tầng một cách chân chính,

thì chỉ có mình cá nhân tôi đang làm. Truyền công lên cao tầng ấy, tại sao không có

ai làm? Là vì nó động chạm đến những vấn đề rất lớn, động chạm đến lịch sử uyên

nguyên rất sâu xa, động chạm đến phạm vi cũng rất rộng, những vấn đề liên quan

đến cũng hết sức gay gắt. Nó không phải là [điều] mà người bình thường có thể

truyền được, bởi vì nó phải động đến những điều của rất nhiều công phái. Đặc biệt

là chúng ta có rất nhiều người luyện công, họ nay học công này, mai học công

khác, đã làm thân thể của mình loạn lung tung hỏng cả; họ nhất định rồi sẽ không

thể tu lên được nữa. Người ta theo một con đường lớn [đại đạo] mà tu lên, [còn] họ

[theo] các đường nhánh; họ tu cái này, cái kia can nhiễu; tu cái kia, cái này can

nhiễu; đều can nhiễu đến họ, họ đã không [thể] tu được nữa rồi.

Những sự tình ấy chúng tôi đều phải giải quyết, cái tốt lưu lại, cái xấu bỏ đi;

đảm bảo từ nay trở đi chư vị có thể tu luyện; nhưng [chư vị] phải đến học Đại Pháp

một cách chân chính. Nếu chư vị ôm giữ các chủng tâm chấp trước, đến cầu công

năng, đến trị bệnh, đến nghe ngóng lý luận, hoặc giả ôm giữ mục đích bất hảo nào

đó; như thế đều không được. Bởi vì như tôi đã nói, việc này hiện nay chỉ có mình

cá nhân tôi đang làm. Sự việc như thế này, cơ hội không nhiều, và tôi cũng không

truyền [giảng] lâu theo cách này. Tôi thấy rằng những người trực tiếp nghe tôi

truyền công giảng Pháp, tôi nói thật rằng…… sau này chư vị sẽ hiểu ra; chư vị sẽ

thấy rằng khoảng thời gian này thật đáng mừng phi thường. Tất nhiên chúng tôi nói

về duyên phận; mọi người ngồi tại đây đều là duyên phận.

Truyền công lên cao tầng, mọi người nghĩ xem, [đó] là vấn đề gì? Đó chẳng

phải độ nhân sao? Độ nhân ấy, chư vị đúng là tu luyện chân chính, chứ không chỉ là

chữa bệnh khoẻ người. Là tu luyện chân chính, đối với tâm tính của học viên thì

yêu cầu cũng nhất định phải cao. Chúng ta là những người ngồi tại nơi này, đến để

học Đại Pháp, chư vị phải coi mình đúng là những người luyện công chân chính

đang ngồi tại đây, chư vị phải vứt bỏ các tâm chấp trước. [Khi] chư vị ôm giữ các

loại mục đích hữu cầu mà đến học công, học Đại Pháp, [thì] chư vị sẽ không học

được gì hết. [Tôi] nói rõ cho chư vị một chân lý: toàn bộ quá trình tu luyện của

người ta chính là quá trình liên tục tống khứ tâm chấp trước của con người. Con

người trong xã hội người thường, kẻ tranh người đoạt, kẻ lừa người dối, chỉ vì chút

đỉnh lợi ích cá nhân mà làm hại người khác; các tâm ấy đều phải vứt bỏ. Nhất là với

những người học công tại đây hôm nay, những tâm ấy lại càng phải vứt bỏ hơn

nữa.

1 Toàn quốc: tức là Trung Quốc. Trong toàn cuốn sách này, các từ như nước ta, toàn quốc, v.v. đều là để nói về

Trung Quốc. Tất cả các chú thích đều do người dịch tự ý biên soạn, không phải chính văn, chỉ có tác dụng tham

khảo.

Chân chính đưa con người lên cao tầng 1

Ở đây tôi không giảng trị bệnh; chúng tôi cũng không trị bệnh. Nhưng là người

tu luyện chân chính, chư vị mang theo thân thể có bệnh, [thì] chư vị tu luyện không

được. Tôi phải giúp chư vị tịnh hoá thân thể. Tịnh hoá thân thể chỉ hạn cuộc cho

những ai đến học công chân chính, những ai đến học Pháp chân chính. Chúng tôi

nhấn mạnh một điểm: [nếu] chư vị không bỏ được cái tâm ấy, không bỏ được cái

[suy nghĩ về] bệnh ấy, [thì] chúng tôi chẳng thể làm gì, đối với chư vị chẳng thể

giúp được. Tại sao? Bởi vì trong vũ trụ này có một [Pháp] lý: những sự việc nơi

người thường, chiểu theo Phật gia [tuyên] giảng, đều có quan hệ nhân duyên; sinh

lão bệnh tử, [chúng] tồn tại đúng như vậy ở [cõi] người thường. Bởi vì con người

trước đây đã làm điều xấu [nên] nghiệp lực sinh ra mới tạo thành có bệnh hoặc ma

nạn. Chịu tội [khổ] chính là hoàn trả nợ nghiệp; vậy nên, không ai có thể tuỳ tiện

thay đổi nó; thay đổi [nó] cũng tương đương với mắc nợ không phải trả; cũng

không được tuỳ ý mà làm thế, nếu không thì cũng tương đương với làm điều xấu.

Có người tưởng rằng trị bệnh cho người khác, chữa bệnh khoẻ người là việc

tốt. Theo tôi thấy, [họ] đều không thật sự trị khỏi bệnh; đều chỉ là trì hoãn bệnh,

hoặc là chuyển hoá [bệnh], chứ không đúng là trị bỏ nó đi. [Để] thật sự trừ dứt nạn

ấy, thì phải tiêu trừ nghiệp lực. Nếu thật sự có khả năng trị hết bệnh ấy, thanh trừ

triệt để nghiệp lực ấy, thật sự đạt đến điểm ấy, [thì] tầng của cá nhân đó cũng

không thấp lắm. Họ đã thấy rõ một [Pháp] lý, chính là không được tuỳ ý phá hoại

[Pháp] lý trong [cõi] người thường. Trong quá trình tu luyện, người tu luyện xuất

phát từ tâm từ bi mà làm một vài việc tốt, giúp người trị bệnh, chữa bệnh khoẻ

người; điều ấy được phép; nhưng cũng không thể hoàn toàn trị hết [bệnh] cho

người ta được. Nếu như có thể thật sự trị tận gốc bệnh cho một người thường, thì

người thường không có tu luyện ấy có thể ra khỏi đây, chẳng còn chút bệnh nào

hết; ra khỏi cửa vẫn là một người thường, và xuất phát từ lợi ích cá nhân người ấy

vẫn tranh đoạt như những người thường; vậy làm sao có thể tuỳ ý tiêu trừ nghiệp

lực cho họ được? Điều ấy tuyệt đối không được phép.

Vậy vì sao lại có thể giúp người tu luyện [trị bệnh] được? Bởi vì người tu luyện

là trân quý nhất, [vì] người ấy muốn tu luyện; vậy nên, một niệm [muốn tu luyện]

xuất phát ra là trân quý nhất. Trong Phật giáo có giảng Phật tính; một khi Phật tính

xuất hiện, các Giác Giả có thể giúp người ấy. Ý nghĩa ấy là gì? Nếu hỏi tôi giảng,

bởi vì tôi đang truyền công tại cao tầng, liên quan đến [Pháp] lý tại cao tầng, liên

quan đến những vấn đề rất lớn. Nơi vũ trụ này, chúng tôi thấy rằng sinh mệnh con

người không phải sinh ra tại xã hội người thường. Sự sản sinh ra sinh mệnh chân

chính của con người chính là sinh ra trong không gian vũ trụ. Bởi vì trong vũ trụ

này có rất nhiều các loại vật chất chế tạo sinh mệnh; với sự vận động tương hỗ,

những vật chất ấy có thể sản sinh ra sinh mệnh; nên cũng nói, sinh mệnh tối nguyên

sơ của con người đến từ vũ trụ. Bản lai của không gian vũ trụ là lương thiện, là

mang đầy đủ chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn; con người sinh ra cùng với vũ trụ là

đồng tính. Nhưng sản sinh ra nhiều thể sinh mệnh rồi; thì cũng phát sinh quan hệ xã

hội [trong] quần thể. Trong đó có một số người có thể tăng thêm tư tâm; tầng của

họ dần dần rất chậm hạ thấp xuống; [khi] không thể ở tại tầng ấy nữa, thì họ phải

rớt xuống dưới. Tuy nhiên tại tầng kia [họ] lại biến đổi không còn tốt nữa, họ

không thể ở lại, và tiếp tục rớt xuống dưới; cuối cùng rớt xuống đến tầng của nhân

loại.

Toàn thể xã hội nhân loại đều cùng trong một tầng này. Đã rớt đến bước này,

đứng tại góc độ công năng mà xét, hoặc đứng tại góc độ các Đại Giác Giả mà xét,

[thì] những thể sinh mệnh kia cần phải bị tiêu huỷ. Tuy nhiên các Đại Giác Giả đã

Chân chính đưa con người lên cao tầng 2

xuất phát từ tâm từ bi mà cấp cho họ một cơ hội nữa; [các Đại Giác Giả] tạo nên

một hoàn cảnh đặc thù, một không gian đặc thù như thế này. Tuy vậy các thể sinh

mệnh tại không gian này khác xa các thể sinh mệnh tại tất cả không gian khác trong

vũ trụ. Những thể sinh mệnh tại không gian này không thể nhìn thấy các thể sinh

mệnh tại các không gian khác, và không thể nhìn thấy chân tướng của vũ trụ; bởi

vậy ai [rớt xuống đây] đều tương đương với rơi vào [cõi] mê. Muốn hết bệnh, trừ

nạn, tiêu nghiệp, thì những người này phải tu luyện, [phải] ‘phản bổn quy chân’ đó

chính là điều mà các loại [môn pháp] tu luyện đều nhìn nhận. Con người phải phản

bổn quy chân, đó mới là mục đích chân chính để làm người; do vậy một cá nhân hễ

muốn tu luyện, thì được [xác] nhận là Phật tính đã xuất hiện. Niệm ấy trân quý

nhất, vì vị ấy muốn phản bổn quy chân, muốn từ tầng của người thường mà nhảy

ra.

Có thể mọi người đã từng nghe câu này trong Phật giáo: ‘Phật tính nhất xuất,

chấn động thập phương thế giới’. Ai mà nhìn thấy, [thì] đều [muốn] giúp người kia,

giúp một cách vô điều kiện. Phật gia độ nhân không nói điều kiện, [cũng] không có

giá cả; có thể giúp đỡ người kia một cách vô điều kiện; vậy nên chúng tôi có thể

làm cho học viên rất nhiều sự việc. Nhưng [đối với] một người thường, chỉ muốn

làm người nơi người thường, họ [chỉ] muốn hết bệnh, thì không thể được. Có người

nghĩ: ‘Mình hết bệnh thì mình sẽ tu luyện’. Tu luyện không có điều kiện nào hết;

muốn tu luyện, thì tu luyện thôi. Nhưng mang một thân thể có bệnh, hoặc có người

mang trên thân những tín tức còn rất loạn; có người chưa từng luyện công; cũng có

người đã luyện công hàng chục năm, nhưng vẫn loanh quanh ở [tầng luyện] khí,

cũng chưa tu được lên trên.

Vậy làm sao đây? Chúng tôi sẽ tịnh hoá thân thể họ, để họ có thể tu luyện lên

cao tầng. Trong khi tu luyện tại tầng thấp nhất, có một quá trình, chính là thân thể

chư vị được hoàn toàn tịnh hoá cho đến triệt để; tất cả những gì không tốt tồn tại

trong tư tưởng, quanh thân thể tồn tại trường nghiệp lực và những nhân tố làm thân

thể không được khoẻ mạnh; toàn bộ những thứ ấy phải được thanh lý ra hết. Nếu

chẳng thanh lý, mang theo thân thể nhơ nhớp, thân thể đen bẩn và tư tưởng dơ xấu

như vậy, thử hỏi có thể đạt đến tu luyện lên cao tầng được không? Ở đây chúng ta

không luyện khí, không yêu [cầu] chư vị luyện gì ở tầng thấp ấy hết; chúng tôi đẩy

chư vị vượt qua, để cho thân thể chư vị đạt đến trạng thái vô bệnh. Đồng thời chúng

tôi còn cấp cho chư vị một bộ đã hình thành đầy đủ mọi thứ cần thiết cho [việc tạo]

cơ sở của tầng thấp; như thế, chúng ta sẽ ở trên tầng rất cao [mà] luyện công.

Chiểu theo thuyết pháp tu luyện, khí được tính [thế nào]: có ba tầng. Nhưng tu

luyện chân chính (không tính phần luyện khí), gồm có hai tầng lớn tất cả: một là tu

luyện ‘thế gian pháp’, hai là tu luyện ‘xuất thế gian pháp’. Thế gian pháp và xuất

thế gian pháp này khác với ‘xuất thế gian’ và ‘nhập thế gian’ [được giảng] trong

chùa, vốn chỉ là lý luận. [Của] chúng tôi là biến hoá tại hai tầng lớn tu luyện [thân]

thể người một cách chân chính. Bởi vì trong quá trình tu luyện thế gian pháp thân

thể người được tịnh hoá liên tục, tịnh hoá không ngừng; do đó khi đến hình thức

cao nhất của thế gian pháp, thân thể đã hoàn toàn được thay thế bằng vật chất cao

năng lượng. Còn tu luyện xuất thế gian pháp cơ bản là tu luyện Phật thể, là thân thể

cấu thành từ vật chất cao năng lượng, [trong đó] tất cả công năng đều tái xuất lại

mới. Chúng tôi nói về hai tầng lớn như vậy.

Chúng tôi giảng duyên phận; với mọi người ngồi đây, tôi có thể làm cho mọi

người những sự việc này. Chúng ta hiện nay cũng đã hơn hai nghìn người; với vài

nghìn người, thậm chí nhiều hơn nữa, trên vạn người, tôi cũng có thể làm được;

Chân chính đưa con người lên cao tầng 3

nghĩa là, chư vị không cần luyện lại những gì ở tầng thấp. Sau khi tịnh hoá thân thể

của chư vị và đẩy chư vị vượt qua, tôi sẽ cài cho chư vị một bộ hoàn chỉnh một hệ

thống tu luyện; chư vị lên ngay trực tiếp tu luyện tại cao tầng. Nhưng [điều này] chỉ

giới hạn cho những học viên đến tu luyện chân chính; không thể nói rằng [hễ] chư

vị ngồi ở đây, [thì] chư vị là người tu luyện. Khi trong tư tưởng [chư vị] có chuyển

biến căn bản, thì chúng tôi có thể cấp [cho chư vị]; không chỉ những thứ ấy; sau

này chư vị sẽ hiểu rõ ràng minh bạch rằng tôi đã cấp cho mọi người rốt ráo những

gì. Tại đây chúng tôi cũng không giảng trị bệnh; nhưng chúng tôi nói điều chỉnh

toàn thể thân thể của học viên, sao cho chư vị có thể luyện công. Chư vị mang cái

thân thể có bệnh, thì chư vị hoàn toàn không thể xuất [hiện] công; do đó mọi người

cũng không nên tìm tôi để trị bệnh; tôi cũng không làm việc ấy. Tôi ra công chúng

1

có mục đích chủ yếu là đưa con người lên cao tầng, đưa con người lên cao tầng một

cách chân chính.

Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau

Trước đây có nhiều khí công sư giảng rằng khí công có nào là sơ cấp, trung

cấp, cao cấp. Cái đó toàn là khí, đều là những thứ tại cùng một tầng luyện khí, mà

cũng phân thành sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Về những gì thực sự tại cao tầng, hầu

hết những người tu luyện khí công chúng ta không có gì trong đầu hết, [họ] hoàn

toàn chẳng biết gì. Từ nay trở đi, những gì chúng tôi nói rõ đều là Pháp tại cao tầng.

Hơn nữa tôi muốn khôi phục lại danh tiếng chân chính của [pháp môn] tu luyện.

Tại khoá học này tôi muốn đề cập đến một số hiện tượng bất lương trong giới tu

luyện. Chúng ta đối đãi, nhìn nhận những hiện tượng ấy như thế nào, tôi đều cần

giảng rõ; hơn nữa truyền công giảng Pháp tại cao tầng có liên quan đến nhiều mặt,

liên quan đến vấn đề rất lớn, thậm chí rất gay gắt; tôi cũng muốn giảng rõ những

điều ấy; lại có những can nhiễu xuất phát từ không gian khác đến xã hội người

thường chúng ta, đặc biệt can nhiễu đến giới tu luyện; tôi cũng cần giảng rõ; đồng

thời [tôi] cũng giúp học viên của chúng ta giải quyết những vấn đề ấy. Nếu vấn đề

ấy chẳng được giải quyết, [thì] chư vị không luyện công được. Muốn giải quyết tận

gốc những vấn đề đó, chúng tôi cần phải coi mọi người [học viên] như những

người tu luyện chân chính thì mới làm vậy được. Đương nhiên, không dễ mà

chuyển biến ngay lập tức tư tưởng của chư vị; trong khi nghe bài giảng từ nay trở

đi, chư vị sẽ chuyển biến tư tưởng của mình một cách từ từ; cũng mong muốn rằng

chư vị chú ý nghe [giảng]. Tôi truyền công khác với người khác truyền công. Có

người truyền công, họ chỉ đơn giản là giảng một chút về công lý của họ, sau đó kết

nối [để truyền] một chút tín tức, rồi dạy một bộ thủ pháp là xong. Người ta hiện nay

đã quen với [phương cách] truyền công như thế.

Truyền công chân chính cần phải giảng về Pháp, phải thuyết về Đạo. Qua mười

bài giảng trên lớp, tôi cần nói rõ những [Pháp] lý tại cao tầng, chư vị mới có thể tu

luyện được; nếu không, thì không cách nào tu luyện. Người ta chỉ truyền những thứ

tại tầng chữa bệnh khoẻ người thôi; [nếu] chư vị muốn tu luyện lên cao tầng,

[nhưng] chư vị lại không có Pháp để chỉ đạo tại cao tầng, [thì] chư vị không thể tu

luyện được. Ví như chư vị đi học, chư vị mang sách giáo khoa tiểu học mà đến đại

học, [thì] chư vị vẫn chỉ là học sinh tiểu học. Có người cho rằng [họ] học rất nhiều

công, học công này, học công kia, có cả chồng chứng chỉ tốt nghiệp; nhưng công

của họ vẫn chưa hề [tăng] lên. Họ cho rằng những thứ đó chính là nghĩa lý chân

1 Xuất sơn: ra công chúng (nghĩa chuyển, nghĩa bóng).

Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau 4

chính và toàn bộ khí công; không phải thế, đó chỉ là phần vỏ nông cạn của khí

công, [là] những thứ tại tầng thấp nhất. Khí công không chỉ là vậy; nó là tu luyện,

là điều rộng lớn tinh thâm; ngoài ra tại những tầng khác nhau tồn tại những Pháp

khác nhau; vậy nó khác với những thứ luyện khí chúng ta biết hiện nay; [những thứ

mà] chư vị có học nhiều nữa cũng vậy thôi. Lấy một thí dụ, sách tiểu học của Anh

chư vị cũng học, sách tiểu học của Mỹ chư vị cũng học, sách tiểu học của Nhật chư

vị cũng học, sách tiểu học của Trung Quốc chư vị cũng học, [rốt cuộc] chư vị vẫn

chỉ là học sinh tiểu học. Chư vị học càng lắm khí công tại tầng thấp, nhận càng

nhiều những thứ ấy, thì trái lại lại càng có hại, [vì] thân của chư vị đã bị loạn mất

rồi.

Tôi cũng cần phải nhấn mạnh một vấn đề, tu luyện chúng ta cần phải có truyền

công [và] giảng Pháp. Một số hoà thượng ở chùa, đặc biệt là [hoà thượng] Thiền

tông có thể có cách nghĩ khác. Hễ nghe đến giảng Pháp, họ liền không thích nghe.

Tại sao? Thiền tông [nhìn] nhận rằng: Pháp ấy không thể giảng, Pháp đã giảng ra

[thành lời] thì không còn là Pháp nữa; không có Pháp có thể giảng; chỉ có thể tâm

lĩnh thần hội; vậy nên đến ngày nay Thiền tông không giảng Pháp gì hết. Đạt Ma

[bên] Thiền tông truyền [dạy] điều ấy; [đó] là căn cứ theo một câu của Thích Ca

Mâu Ni. Thích Ca Mâu Ni giảng: ‘Pháp vô định Pháp’. Ông ấy căn cứ trên câu

thoại của Thích Ca Mâu Ni mà sáng lập pháp môn Thiền tông. Chúng tôi nói cái

pháp môn ấy là thứ dùi sừng bò. Sao lại gọi là dùi sừng bò? Khởi đầu khi Đạt Ma

dùi vào trong thì thấy còn rộng; nhị tổ dùi vào thì thấy không còn rộng nữa; tam tổ

thì thấy còn lọt được; tứ tổ thì thấy hẹp lắm rồi; ngũ tổ về cơ bản chẳng còn gì để

dùi nữa; tới lục tổ Huệ Năng thì đã đến đỉnh [sừng bò] và có dùi cũng chẳng đi đến

đâu được nữa. Ngày nay chư vị nếu muốn đến Thiền tông học Pháp, chư vị chớ hỏi;

nếu chư vị hỏi ông [thầy] bất kể vấn đề gì, [ông ta] sẽ quay lại cho vào đầu chư vị

một gậy, gọi là “bổng hát”

1

. Đó nghĩa là chư vị không được hỏi, phải tự mình ngộ.

Chư vị nói: ‘Tôi chưa biết nên mới đến học, ngộ được gì đây? Ông lại cho tôi một

gậy [là sao]?!’ Đó là cái sừng bò kia đã dùi đến đỉnh rồi, không còn gì có thể giảng

nữa. Đạt Ma giảng rõ là nó chỉ có thể truyền đến lục tổ, sau đó không dùng được

nữa. Mấy trăm năm qua rồi, đến nay vẫn có người ôm chết cứng cái lý của Thiền

tông mà không bỏ. Hàm nghĩa chân chính của lời giảng “Pháp vô định Pháp” của

Thích Ca Mâu ni là gì? Tầng của Thích Ca Mâu Ni là [tầng] Như Lai; [nhưng] các

tăng nhân sau này có rất nhiều vị không hề ngộ đến tầng của Thích Ca Mâu Ni,

[không ngộ được] tâm thái trong cảnh giới tư tưởng của Ông, hàm nghĩa chân chính

trong Pháp mà Ông giảng, [cũng như] hàm nghĩa chân chính trong lời mà Ông nói.

Vậy nên đời sau người giải thích thế này, người giải thích thế kia, giải thích đến độ

hỗn loạn; cho rằng ‘Pháp vô định Pháp’ nghĩa là chư vị không được giảng, đã giảng

ra thì không còn là Pháp nữa. Thật ra không phải nghĩa như vậy. Thích Ca Mâu Ni

dưới cội bồ đề khai công khai ngộ rồi, chưa lập tức đạt đến tầng Như Lai. Trong

suốt 49 năm truyền Pháp, Ông liên tục tự mình đề cao. Mỗi khi đề cao [lên] một

tầng, Ông quay lại xét thấy Pháp mình vừa giảng xong không còn đúng nữa. Lại đề

cao lên, Ông phát hiện rằng Pháp mình vừa giảng xong lại cũng không đúng nữa.

Cứ đề cao lên, Ông lại phát hiện rằng Pháp vừa giảng xong lại không còn đúng.

Trong toàn bộ 49 năm, Ông không ngừng thăng hoa như thế; mỗi lần đề cao [lên]

một tầng, [Ông] lại phát hiện Pháp Ông giảng trước đó về nhận thức đều là rất thấp.

Ông cũng phát hiện rằng Pháp của mỗi một tầng là thể hiện của Pháp tại mỗi một

tầng đó; mỗi một tầng đều có Pháp, nhưng đó không phải là chân lý tuyệt đối của

1 Bổng hát: gậy cảnh tỉnh.

Tầng khác nhau có Pháp của tầng khác nhau 5

vũ trụ. Vả lại Pháp của tầng cao so với Pháp của tầng thấp thì [tiếp cận] gần đặc

tính của vũ trụ hơn; vậy nên, Ông bèn giảng: ‘Pháp vô định Pháp’.

Cuối cùng Thích Ca Mâu Ni lại giảng: ‘Ta đời này chưa có giảng Pháp nào

hết’. Thiền tông lại lý giải rằng không Pháp có thể giảng. Vào những năm cuối,

Thích Ca Mâu Ni đã đạt đến tầng Như Lai; hỏi tại sao Ông nói Ông chưa có giảng

Pháp nào hết? Thực ra Ông đã nêu ra một vấn đề gì? Ông [muốn] nói: ‘Đạt đến

tầng Như Lai như ta, ta chưa thể thấy được [chân] lý tối hậu của vũ trụ, Pháp tối

hậu của vũ trụ là gì’. Vậy nên Ông muốn nói người đời sau không được lấy những

lời Ông giảng làm chân lý tuyệt đối, chân lý bất biến; nếu không người đời sau sẽ

bị hạn cuộc vào tầng Như Lai hoặc thấp hơn Như Lai, mà không thể đột phá lên

tầng cao hơn. Người đời sau không lý giải được nghĩa chân chính của câu nói ấy,

[nên nhìn] nhận rằng Pháp đã giảng ra thì không còn là Pháp, [họ] lý giải kiểu như

thế. Kỳ thực Thích Ca Mâu Ni [muốn] giảng rằng: Các tầng khác nhau có Pháp của

các tầng khác nhau, Pháp của mỗi một tầng không phải là chân lý tuyệt đối của vũ

trụ; nhưng Pháp của mỗi một tầng có tác dụng [làm Pháp lý] chỉ đạo tại mỗi một

tầng. Thật ra Ông đã giảng chính [Pháp] lý này.

Trước đây có nhiều người, đặc biệt [bên] Thiền tông, cứ nhất mực bảo trì nhận

thức thiên kiến và sai lầm cực đoan ấy. Không dạy chư vị, thử hỏi chỉ đạo [tu]

luyện làm sao, luyện thế nào, rồi tu ra sao? Trong Phật giáo có nhiều chuyện cổ

Phật giáo, có thể có người đã từng xem; kể rằng lên trên trời, sau khi đến thiên

quốc, rồi phát hiện rằng kinh «Kim Cương» ở đó so với kinh «Kim Cương» ở dưới

[hạ giới], từng chữ đều khác nhau, ý nghĩa cũng khác nhau. Tại sao kinh «Kim

Cương» kia lại khác với kinh «Kim Cương» tại nhân gian? Lại có người nói: Kinh

sách của thế giới Cực Lạc so với [kinh thư] dưới [hạ giới] quả là khác hẳn, hoàn

toàn khác nhau, không chỉ các chữ khác nhau mà hàm nghĩa, ý nghĩa cũng khác

nhau, chúng đã thay đổi hẳn rồi. Thật ra, chính là cùng một Pháp đồng nhất

[nhưng] tại các tầng khác nhau [thì] có các biến hoá và hình thức hiển hiện khác

nhau; đối với người tu luyện tại các tầng khác nhau, có thể phát huy tác dụng chỉ

đạo khác nhau.

Mọi người đều biết, trong Phật giáo có cuốn sách nhỏ tên là «Tây phương Cực

Lạc thế giới du ký», kể rằng một tăng nhân kia đả toạ luyện công, nguyên thần

[bay] đến thế giới Cực Lạc xem ngắm cảnh tượng [nơi ấy]; hết một ngày; rồi quay

về nhân gian đã thấy sáu năm trôi qua. Vị ấy thấy được không? Đã thấy, nhưng

điều vị ấy đã thấy không phải là chân tướng. Tại sao? Bởi vì tầng của vị ấy không

đủ, [nên] chỉ có thể ở tầng của vị ấy mà hiển hiện cho vị ấy những thể hiện của Phật

Pháp mà vị ấy nên được thấy. Bởi vì một thế giới kiểu như vậy chính là thể hiện

cấu thành của Pháp; cho nên, vị ấy không thể thấy được chân tướng. Tôi giảng rằng

‘Pháp vô định Pháp’ chính là có hàm nghĩa như thế.

Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận định người tốt xấu

Trong Phật giáo người ta luôn tìm hiểu xem Phật Pháp là gì. Cũng có người

[nhìn] nhận rằng Pháp giảng trong Phật giáo chính là toàn bộ Phật Pháp; thực ra

không phải. Pháp mà Thích Ca Mâu Ni giảng, cách đây 2 nghìn 5 trăm năm dành

cho những người thường ở tầng cực thấp, mới thoát thai từ xã hội nguyên thuỷ; [là]

Pháp giảng cho những người có tư tưởng đơn giản như thế. Thời mạt Pháp mà Ông

nói đến, chính là hôm nay; con người hiện tại mà dùng Pháp ấy để tu luyện thì đã

không thể được nữa. Vào thời mạt Pháp, hoà thượng trong chùa tự độ còn rất khó,

huống là độ nhân. Pháp mà Thích Ca Mâu Ni thời đó truyền là nhắm thẳng vào tình

Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận định người tốt xấu 6

huống bấy giờ mà truyền; ngoài ra Ông cũng không hề giảng hết ra những gì bản

thân Ông tại tầng của mình biết về Phật Pháp; muốn bảo trì bất biến vĩnh cửu [Pháp

ấy], cũng không thể được.

Xã hội đang phát triển; tư tưởng của nhân loại càng ngày càng phức tạp; khiến

con người không dễ dàng theo cách đó mà tu được nữa. Pháp trong Phật giáo không

thể khái quát toàn bộ Phật Pháp, nó chỉ là bộ phận rất nhỏ của Phật Pháp. Còn có

rất nhiều Pháp lớn của Phật gia đang lưu truyền tại dân gian, đơn truyền qua các

thời đại. Các tầng khác nhau có các Pháp khác nhau, các không gian khác nhau có

các Pháp khác nhau; đó chính là Phật Pháp thể hiện khác nhau tại từng không gian,

tại từng tầng khác nhau. Thích Ca Mâu Ni cũng giảng rằng tu Phật có 8 vạn 4 nghìn

pháp môn; nhưng trong Phật giáo chỉ có Thiền tông, Tịnh Độ, Thiên Thai, Hoa

Nghiêm, Mật tông, v.v khoảng hơn chục pháp môn, không thể bao quát hết Phật

Pháp được. Bản thân Thích Ca Mâu Ni không hề truyền ra hết Pháp của mình,

[Ông] chỉ nhắm thẳng vào năng lực tiếp thụ của người thời đó mà truyền một bộ

phận mà thôi.

Vậy Phật Pháp là gì? Đặc tính căn bản nhất trong vũ trụ này là Chân Thiện

Nhẫn, Nó chính là thể hiện tối cao của Phật Pháp, Nó chính là Phật Pháp tối căn

bản. Phật Pháp tại các tầng khác nhau có các hình thức thể hiện khác nhau, tại các

tầng khác nhau có các tác dụng chỉ đạo khác nhau; tầng càng thấp [thì] biểu hiện

càng phức tạp. Vi lạp không khí, đá, gỗ, đất, sắt thép, [thân] thể người, hết thảy vật

chất đều có tồn tại trong nó cái chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn ấy; thời xưa giảng

rằng ngũ hành cấu thành nên vạn sự vạn vật trong vũ trụ; [ngũ hành kia] cũng có

tồn tại chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn ấy. Người tu luyện đến được tầng nào thì

chỉ có thể nhận thức được thể hiện cụ thể của Phật Pháp tại tầng ấy; đó chính là quả

vị và tầng tu luyện [của người ấy]. Nói chung, Pháp rất lớn. Đến điểm cực cao mà

giảng, thì rất đơn giản; bởi vì Pháp kia giống như hình dáng của kim tự tháp. Đến

nơi tầng cực cao thì ba chữ có thể dùng để khái quát, đó chính là Chân Thiện Nhẫn;

thể hiện tại các tầng cực kỳ phức tạp. Lấy con người làm ví dụ, Đạo gia xem [thân]

thể người như một tiểu vũ trụ; con người có thân thể vật chất; nhưng chỉ cái thân

thể vật chất ấy không thể đủ cấu thành một con người hoàn chỉnh được; còn phải có

tính khí, tính cách, đặc tính, và nguyên thần mới có thể cấu thành một con người

hoàn chỉnh, độc lập, và mang theo cá tính tự ngã. Vũ trụ này của chúng ta cũng như

thế; có hệ Ngân Hà, có các thiên hà khác, cũng như các sinh mệnh và nước, vạn sự

vạn vật trong vũ trụ này; [tất cả những thứ ấy] chúng đều có phương diện tồn tại vật

chất; đồng thời chúng cũng có tồn tại đặc tính Chân Thiện Nhẫn. Dẫu là vi lạp vật

chất nào thì cũng bao hàm chủng đặc tính ấy, trong vi lạp cực nhỏ cũng bao hàm

chủng đặc tính ấy.

Chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn để nhận định tốt và xấu trong

vũ trụ. Thế nào là tốt, thế nào là xấu? Chính là dùng Nó {Chân Thiện Nhẫn} mà

xác định. ‘Đức’ mà chúng ta nói đến trong quá khứ cũng tương tự như thế. Tất

nhiên chuẩn mực đạo đức của xã hội nhân loại hiện nay đã biến đổi rất nhiều, tiêu

chuẩn đạo đức đã méo mó hẳn rồi. Hiện nay [nếu] có người noi gương Lôi Phong,

thì có thể bị coi là mắc bệnh tâm thần. Nhưng nếu vào hồi thập kỷ 50, 60, thì ai

dám nói người ấy bị bệnh tâm thần? Chuẩn mực đạo đức của nhân loại đang trượt

trên dốc lớn, đạo đức thế gian trượt xuống hàng ngày; chỉ chạy theo lợi, chỉ vì chút

đỉnh lợi ích cá nhân mà làm tổn hại người khác; người tranh kẻ đoạt, chẳng từ một

thủ đoạn nào. Mọi người thử nghĩ xem, có được phép tiếp tục như thế này không?

Có người làm điều xấu, chư vị nói rằng anh ta đã làm điều xấu, anh ta cũng không

Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận định người tốt xấu 7

tin; anh ta thật sự không tin rằng mình đã làm điều xấu; có một số người dùng

chuẩn mực đạo đức đang trượt dốc kia mà tự đo lường bản thân mình, cho rằng

mình tốt hơn người khác, vì tiêu chuẩn để đánh giá đã thay đổi rồi. Dẫu tiêu chuẩn

đạo đức của nhân loại có thay đổi thế nào đi nữa, đặc tính của vũ trụ không hề thay

đổi; Nó chính là tiêu chuẩn duy nhất để xác định người tốt xấu. Là người tu luyện,

phải chiểu theo tiêu chuẩn này của vũ trụ mà yêu cầu chính mình, không thể chiểu

theo tiêu chuẩn của người thường mà đặt yêu cầu cho mình được. Nếu chư vị muốn

phản bổn quy chân, chư vị muốn tu luyện lên trên, thì chư vị cần chiểu theo tiêu

chuẩn ấy mà làm. Là một cá nhân, nếu thuận với đặc tính Chân Thiện Nhẫn này của

vũ trụ, thì mới là một người tốt; còn người hành xử trái biệt với đặc tính này, thì

đúng là một người xấu. Trong đơn vị [công tác], hoặc ngoài xã hội, có người có thể

nói chư vị xấu, [nhưng] chư vị không nhất định đúng là xấu; có người nói chư vị

tốt, chư vị lại cũng không nhất định đúng là tốt. Là người tu luyện, [nếu] đồng hoá

với đặc tính này, [thì] chư vị chính là người đắc Đạo; [Pháp] lý đơn giản như vậy.

Đạo gia tu luyện Chân Thiện Nhẫn, trọng điểm tu Chân; vậy nên Đạo gia giảng

tu chân dưỡng tính, nói lời chân, làm điều chân, làm chân nhân, phản bổn quy chân,

cuối cùng tu thành Chân Nhân. Nhưng cũng có Nhẫn, cũng có Thiện; [còn] trọng

điểm rơi vào tu Chân. Trọng điểm của Phật gia rơi vào tu Thiện của Chân Thiện

Nhẫn. Vì tu Thiện có thể tu xuất tâm đại từ bi; một khi xuất hiện tâm từ bi, thì

[thấy] chúng sinh rất khổ, do vậy phát sinh nguyện vọng muốn phổ độ chúng sinh.

Nhưng cũng có Chân, cũng có Nhẫn; trọng điểm rơi vào tu Thiện. Pháp môn Pháp

Luân Đại Pháp của chúng ta chiểu theo tiêu chuẩn tối cao của vũ trụ—Chân Thiện

Nhẫn đồng tu—[vậy nên] công chúng ta luyện rất to lớn.

Khí công là văn hoá tiền sử

Khí công là gì? Rất nhiều khí công sư giảng về điều này; điều tôi giảng khác

với điều họ giảng. Rất nhiều khí công sư [chỉ] giảng từ tầng [của họ]; còn tôi thì

giảng về nhận thức đối với khí công từ tầng cao hơn, so với nhận thức của họ tuyệt

nhiên khác hẳn. Có khí công sư giảng: Khí công nước ta có lịch sử 2 nghìn năm;

cũng có vị giảng [khí công] có lịch sử 3 nghìn năm; có vị giảng có lịch sử 5 nghìn

năm, so với lịch sử nền văn minh của dân tộc Trung Hoa chúng ta thì không khác là

mấy; lại cũng có người giảng rằng, dựa theo quan sát văn vật khai quật được thì

[khí công] có lịch sử 7 nghìn năm, [vậy là] vượt xa lịch sử nền văn minh của dân

tộc Trung Hoa chúng ta. Nhưng nhận thức của họ dù thế nào đi nữa, nó cũng không

vượt quá xa khỏi lịch sử nền văn minh của nhân loại. Chiểu theo thuyết tiến hoá

của Darwin, thì nhân loại [xuất phát] từ thực vật dưới nước, rồi [thành] động vật

dưới nước, sau đó bò lên lục địa, rồi leo lên cây, rồi lại quay xuống mặt đất thành

người vượn, cuối cùng tiến hoá thành nhân loại hiện đại có tư tưởng có văn hoá; từ

đó mà suy ra rằng nền văn minh nhân loại thực sự xuất hiện không thể quá 1 vạn

năm. Còn suy xét trước đó, thì ngay cả thắt nút dây để ghi nhớ sự việc [họ] cũng

chưa [biết]. [Họ] che thân bằng lá cây, ăn thịt sống; còn trước đó nữa, thì có thể còn

chưa biết lấy lửa, hoàn toàn là con người hoang dã, con người nguyên thuỷ.

Nhưng chúng tôi phát hiện một vấn đề; tại nhiều địa phương trên thế giới còn

lưu lại rất nhiều những tích cổ văn minh, [tuổi của chúng] vượt xa rất nhiều lịch sử

nền văn minh nhân loại chúng ta. Những tích cổ ấy, đứng về góc độ công nghệ mà

xét, thì có trình độ công nghệ rất cao; còn về góc độ nghệ thuật mà xét, thì cũng

khá cao siêu; con người hiện đại [dường như] chỉ là mô phỏng lại nghệ thuật của

người xưa, [vốn] có giá trị thưởng thức rất sâu sắc. Nhưng chúng đã được lưu lại từ

Khí công là văn hoá tiền sử 8

trên mười vạn năm, mấy chục vạn năm, vài trăm vạn năm, thậm chí trên vài trăm

triệu năm về trước. Mọi người thử nghĩ xem, điều ấy chẳng phải đang cười giễu

lịch sử ngày nay hay sao? Cũng không có gì đáng cười hết; bởi vì nhân loại không

ngừng tự hoàn thiện, không ngừng tự nhận thức lại một cách mới, xã hội chính là

đang phát triển như thế, [và] nhận thức ban đầu không nhất định là tuyệt đối chính

xác.

Có thể nhiều người đã nghe nói đến “văn hoá tiền sử”, cũng gọi là “văn minh

tiền sử”; chúng tôi giảng về [vấn đề] văn minh tiền sử đó. Trên Trái Đất có châu Á,

châu Âu, Nam Mỹ, Bắc Mỹ, châu Đại Dương, châu Phi, và châu Nam Cực; những

nhà Địa Chất học gọi chúng với tên chung là “bản khối đại lục”. Các bản khối đại

lục hình thành cho đến hôm nay, đã trải qua hàng chục triệu năm lịch sử. Nên cũng

nói, có rất nhiều lục địa từ đáy biển nổi lên, cũng có rất nhiều lục địa trầm xuống

đáy biển; ổn định ở trạng thái hiện nay đã qua lịch sử hàng chục triệu năm rồi.

Nhưng tại nhiều đáy biển, [người ta] đã phát hiện nhiều kiến trúc cổ đại to lớn;

những kiến trúc này được chạm khắc tinh tế và đẹp phi thường; [chúng] không phải

là di sản của nền văn hoá nhân loại hiện nay, mà chúng khẳng định đã được kiến

tạo từ trước khi bị trầm xuống đáy biển. Từ hàng chục triệu năm trước thì hỏi ai đã

sáng tạo ra những nền văn minh ấy? Lúc bấy giờ, nhân loại chúng ta còn chưa là

khỉ, làm sao tạo dựng nổi những thứ trí tuệ cao như thế? Trên thế giới, các nhà

khảo cổ học đã phát hiện một loài sinh vật, mang tên “bọ ba thuỳ”; nó là sinh vật có

từ 600 triệu đến 260 triệu năm trước đây; còn trước đây 260 triệu năm cho đến nay

nó không có nữa. Một khoa học gia của Mỹ đã phát hiện một khối hoá thạch bọ ba

thuỳ; đồng thời trên mặt [khối hoá thạch] còn có dấu chân một người đang đi giày

đạp lên, in rõ mồn một trên mặt [khối hoá thạch]. Điều ấy chẳng phải là chế nhạo

những nhà lịch sử học là gì? Cứ chiểu theo thuyết tiến hoá của Darwin, vào 260

triệu năm trước lẽ nào đã có con người được?

Tại bảo tàng của Đại Học Quốc Gia Peru có một khối đá; trên khối đá ấy có

khắc một hình người; theo khảo sát thì hình người này được khắc lên đó 3 vạn năm

về trước. Nhưng hình người ấy mặc y phục, đội mũ, đi giày, trong tay lại còn cầm

một chiếc kính viễn vọng đang quan sát thiên thể. Con người 3 vạn năm trước hỏi

biết dệt vải may áo là sao? Lại càng khó tin hơn nữa, là người ấy cầm kính viễn

vọng để quan sát thiên thể, vậy nhất định còn có tri thức về thiên văn. Chúng ta vẫn

[nhìn] nhận rằng một người châu Âu là Galileo là người đã phát minh ra kính viễn

vọng; tính đến nay mới hơn 3 trăm năm lịch sử; vậy ai là người đã phát minh ra

kính viễn vọng 3 vạn năm trước? Còn rất nhiều chỗ mê khó giải thích nữa. Chẳng

hạn có rất nhiều bức bích hoạ đá trong các động đá tại Pháp, Nam Phi, và dãy núi

Alps; chúng được khắc hết sức chân thực và sống động. Những hình người được

khắc trông vô cùng tinh tế và đẹp, và được tô với chất liệu mầu là một thứ khoáng

chất. Nhưng họ vận trang phục người hiện đại, tương tự Âu phục, mặc quần nịt. Có

người tay cầm thứ như cái tẩu thuốc, có người cầm ba-toong, có người đội mũ.

Những con khỉ mấy chục vạn năm trước, làm sao có được mức độ nghệ thuật cao

như thế?

Nói xa hơn nữa, ở châu Phi có nước Cộng Hoà Gabon có một mỏ quặng

uranium; nước này có phần lạc hậu, tự mình không thể chiết luyện uranium, [nên

phải] xuất khẩu [quặng] sang những nước tiên tiến. Năm 1972, một nhà máy ở

Pháp nhập khẩu quặng uranium ấy. Qua hoá nghiệm đã phát hiện rằng quặng

uranium này đã được chiết luyện và đã bị sử dụng. Thấy quá lạ, họ bèn phái những

nhân viên khoa học kỹ thuật đi khảo sát, khoa học gia nhiều nước khác cũng đi

Khí công là văn hoá tiền sử 9

khảo sát. Cuối cùng kiểm chứng được rằng mỏ quặng uranium kia chính là một lò

phản ứng hạt nhân cỡ lớn; hơn nữa bố cục hết sức hợp lý; con người hiện đại chúng

ta không thể tạo dựng. Vậy thử hỏi nó được xây dựng vào thời gian nào? Vào 2 tỷ

năm trước; nó đã được vận hành 50 vạn năm. Điều ấy quả là những chữ số thiên

văn; chiểu theo thuyết tiến hoá của Darwin thì không thể nào giải thích nổi; sự tình

như thế có rất nhiều. Những gì mà giới khoa học kỹ thuật phát hiện hôm nay đã đủ

để thay đổi sách giáo khoa hiện nay của chúng ta. [Khi] quan niệm cũ cố hữu đã

hình thành hệ thống và phương pháp tư duy, [thì] rất khó tiếp thu nhận thức mới.

Khi chân lý xuất hiện [người ta] không dám tiếp thụ, mà lại bài xích nó theo bản

năng. Vì ảnh hưởng của những quan niệm truyền thống, hiện nay không có ai

[đứng ra] chỉnh lý điều này một cách có hệ thống; vậy nên quan niệm của người ta

luôn không theo kịp sự phát triển; [nếu] chư vị có nói đến điều như thế—tuy nó

chưa được phổ biến nhưng đã được phát hiện rồi—[thì] vẫn có người nói đấy là

‘mê tín’, không [chịu] tiếp nhận.

Nhiều nhà khoa học dũng cảm ở nước ngoài đã công khai thừa nhận rằng

chúng [thuộc về] văn hoá tiền sử, là nền văn minh có trước nền văn minh lần này

của nhân loại chúng ta; chính là trước nền văn minh kỳ này của chúng ta đã tồn tại

[những] thời kỳ văn minh khác, hơn nữa [đã] không chỉ một lần. Khảo sát những

văn vật khai quật được, [người ta] thấy rằng đều không là sản vật của một thời kỳ

văn minh. Do vậy [người ta] nhìn nhận rằng nhiều lần văn minh nhân loại gặp phải

đợt huỷ diệt, chỉ có một số ít người sống sót; sau đó sống một cuộc sống nguyên

thuỷ, dần dần sinh sôi thành [xã hội] nhân loại mới, tiến vào nền văn minh mới. Sau

đó lại đi đến huỷ diệt, dần dần sinh sôi thành nhân loại mới; nó đã trải qua những

chu kỳ biến đổi như thế. Các nhà vật lý giảng rằng, sự vận động của vật chất là có

quy luật, sự biến đổi của toàn vũ trụ chúng ta cũng là có quy luật.

Sự vận động của Trái Đất chúng ta, trong vũ trụ bao la này, trong hệ Ngân Hà

đang vận chuyển này, không thể lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió; rất có thể nó va

phải một tinh cầu nào đó, hoặc một vấn đề nào đó nảy sinh, [và thế là] tạo thành

một tai nạn rất lớn. Đứng từ góc độ của công năng chúng tôi mà xét, thì chính là đã

được an bài như vậy. Tôi đã một lần khảo sát rất kỹ lưỡng, phát hiện rằng nhân loại

đã có 81 lần [rơi vào] trạng thái huỷ diệt hoàn toàn; chỉ có một ít người sống sót;

lưu lại theo một chút văn hoá tiền sử vốn có từ đầu, [họ] tiến vào một thời kỳ [mới],

sống cuộc sống nguyên thuỷ. Nhân loại sinh sôi đông lên rồi cuối cùng xuất hiện

nền văn minh. Trải qua 81 lần chu kỳ biến đổi như thế; tôi cũng chưa khảo sát được

cho đến [tận thời điểm] ban đầu. Người Trung Quốc giảng về thiên thời, địa lợi,

nhân hoà. Thiên tượng biến hoá khác nhau, thiên thời khác nhau, dẫn đến xã hội

người thường có những trạng thái xã hội khác nhau. Theo vật lý học giảng [thì] sự

vận động của vật chất là có quy luật; sự vận động của vũ trụ cũng lại như thế.

[Vấn đề] văn hoá tiền sử giảng bên trên chủ yếu chỉ để nói với mọi người rằng:

khí công cũng không phải là phát minh của nhân loại hôm nay, [nó] cũng đã được

lưu lại từ niên đại rất xa xưa, [nó] cũng là một thứ văn hoá tiền sử. Trong kinh thư

[Phật giáo] chúng ta cũng có thể tìm thấy luận thuật tương tự. Thích Ca Mâu Ni

đương thời có giảng rằng, Ông đã tu thành đắc Đạo từ hàng ức kiếp về trước. Một

kiếp là bao nhiêu năm? Một kiếp là bao nhiêu ức năm, đó là con số rất lớn, quả là

không thể nghĩ bàn. Nếu đó là lời chân thật, chẳng phải nó tương hợp với lịch sử

nhân loại, và sự biến đổi của toàn Trái Đất hay sao? Ngoài ra Thích Ca Mâu Ni còn

giảng rằng, trước Ông có sáu vị Phật nguyên thuỷ tồn tại, Ông cũng lại có sư phụ,

v.v. tất cả đã từng tu luyện đắc Đạo từ hằng bao nhiêu ức kiếp. Nếu những sự tình

Khí công là văn hoá tiền sử 10

này chính là lời chân thật, vậy trong những công pháp chính thống, công pháp chân

truyền chân chính đang truyền ngoài xã hội chúng ta hôm nay, hỏi có phương pháp

tu luyện như thế hay không? Nếu yêu cầu tôi trả lời, [thì] đương nhiên là có,

[nhưng] chẳng thể gặp nhiều. Hiện nay giả khí công, nguỵ khí công, cho đến những

loại người có mang theo phụ thể, tất cả đã loạn tạo những thứ để lừa người; [số ấy]

vượt xa khí công chân chính gấp bội; thật giả khó mà phân biệt được. Khí công

chân chính không dễ phân biệt được, cũng không dễ mà tìm được đâu.

Thực ra không chỉ khí công là được lưu lại từ niên đại xa xưa; [mà] Thái Cực,

Hà Đồ, Lạc Thư, Chu Dịch, Bát Quái, v.v. đều là [những thứ] di lưu từ tiền sử. Vậy

nên chúng ta hôm nay đứng tại góc độ người thường mà nghiên cứu chúng, nhận

thức chúng, [thì] chẳng nghiên cứu được gì sáng tỏ. Đứng tại tầng, từ góc độ, trong

cảnh giới tư tưởng của người thường, [thì] lý giải không được những điều chân

chính [trong ấy].

Khí công chính là tu luyện

Khí công đã có lịch sử xa xưa đến như vậy, thì rốt cuộc nó có tác dụng gì? Tôi

nói cho mọi người rằng, [pháp môn] chúng ta là tu luyện Đại Pháp của Phật gia,

vậy đương nhiên là tu Phật; còn Đạo gia thì đương nhiên tu Đạo đắc Đạo. Tôi nói

cho mọi người hay, [chữ] “Phật” ấy không hề mê tín. Chữ “Phật” {Buddha} là

tiếng Phạn, tiếng Ấn Độ cổ. Vào thời [Phật giáo] truyền vào nước Trung Quốc

chúng ta, nó có hai chữ, đọc là “Phật Đà”, cũng có người phiên âm là “Phù Đồ”.

Truyền tới truyền lui, người Trung Quốc chúng ta lược bớt đi một chữ, đọc thành

“Phật”. [Nếu] dịch ra tiếng Trung Quốc, thì ý tưởng là gì? Chính là ‘Giác Giả’, [là]

người thông qua tu luyện mà giác ngộ. Ở đây nào có mang màu sắc mê tín gì?

Mọi người thử nghĩ xem, tu luyện có thể xuất hiện công năng đặc dị. Trên thế

giới hiện nay có sáu loại công năng đã được công nhận; [nhưng] không chỉ có vậy,

tôi nói rằng công năng chân chính có trên một vạn loại. Người ngồi chỗ kia, không

động tay không động chân, mà có thể làm những điều mà mọi người dùng hết cả

tay lẫn chân cũng không làm được; có thể thấy được [Pháp] lý chân chính của các

không gian vũ trụ; thấy chân tướng của vũ trụ; thấy những điều người thường

không thấy. Chẳng phải đó đã là người tu luyện đắc Đạo? Chẳng phải đó đã là Đại

Giác Giả? Liệu có thể nói người ấy cũng như người thường? Chẳng phải là người

tu luyện giác ngộ là gì? Gọi là ‘Giác Giả’ chẳng đúng sao? Dịch thành tiếng Ấn Độ

cổ thì chính là ‘Phật’ {Buddha}. Thực ra là như thế, khí công chính có tác dụng ấy.

Hễ đề cập đến khí công, liền có người nói: ‘Không bệnh hỏi ai luyện khí

công?’ Ngụ ý rằng khí công [chỉ] là để chữa bệnh; đấy là nhận thức rất nông cạn,

rất là nông cạn. Chỗ này không có trách mọi người, bởi vì có rất nhiều khí công sư

toàn làm cái việc chữa bệnh khoẻ người, toàn giảng về chữa bệnh khoẻ người,

không có ai giảng đến cao tầng cả. [Tôi] không có ý nói rằng công pháp của những

vị ấy không tốt, [vì] sứ mệnh của họ chính là truyền những điều ở tầng chữa bệnh

khoẻ người, [và] phổ biến khí công. Có rất nhiều người mong muốn tu luyện lên

cao tầng, [họ] có suy nghĩ như thế, có nguyện vọng như thế; nhưng tu luyện không

đắc Pháp, kết quả tạo thành rất nhiều khó khăn, lại còn xuất hiện rất nhiều vấn đề.

Tất nhiên, việc truyền công tại cao tầng một cách chân chính có liên quan đến

[những] vấn đề rất cao. Vậy nên chúng tôi có bổn ý là có trách nhiệm đối với xã

hội, có trách nhiệm đối với con người; [và] hiệu quả của toàn bộ [quá trình] truyền

công là tốt. Có những điều thật sự rất cao, nói đến [nghe] giống mê tín; nhưng

chúng tôi [sẽ] cố gắng dùng khoa học hiện đại để giải thích.

Khí công chính là tu luyện 11

Có những điều hễ chúng tôi đề cập đến, liền có người nói là mê tín. Tại sao?

Tiêu chuẩn của họ chính là [điều gì] khoa học chưa nhận thức đến được, hoặc giả

họ tự mình chưa tiếp xúc đến được; họ cho rằng [chúng] không hề tồn tại, họ cho

rằng [chúng] đều là mê tín, đều là duy tâm; họ có quan niệm kiểu như thế. Quan

niệm như thế có đúng không? Hễ gì mà khoa học chưa nhận thức đến được, cũng

chưa phát triển đến bước đó, đều có thể nói là mê tín, là duy tâm? Người này chẳng

phải tự mình làm mê tín? Làm duy tâm? Cứ chiểu theo cái quan niệm như thế [mà

hành xử], khoa học thử hỏi có thể phát triển, có thể tiến bộ được không? Xã hội

nhân loại cũng chẳng thể thúc đẩy lên được. Những điều mà giới khoa học kỹ thuật

phát minh ra đều là những điều con người chưa từng [biết], [nếu] đều cho đó là mê

tín, [thì] tất nhiên cũng chẳng cần phát triển. Khí công không phải là thứ duy tâm;

có nhiều người không hiểu khí công, vậy nên mãi cho rằng khí công là duy tâm.

Ngày nay dùng những máy đo thân thể các khí công sư [người ta thấy] có thành

phần của sóng hạ âm, sóng siêu âm, sóng điện từ, tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia

phóng xạ gamma, neutron, nguyên tử, nguyên tố kim loại vi lượng; những thứ ấy

chẳng phải tồn tại vật chất là gì? Chúng cũng là vật chất. Cái nào là không do vật

chất cấu thành? Chẳng phải thời-không khác cũng do vật chất cấu thành là gì? Làm

sao có thể nói là mê tín? Khí công đã là dùng để tu Phật, tất nhiên sẽ động chạm

đến nhiều vấn đề cao thâm; chúng tôi đều phải giảng [những vấn đề này].

Khí công đã có tác dụng ấy, thì sao chúng ta lại gọi nó là ‘khí công’? Kỳ thực

nó không được gọi là ‘khí công’; nó được gọi là gì? Gọi là “tu luyện”; chính là tu

luyện. Tất nhiên, nó còn có những tên cụ thể khác, nhưng được gọi chung là ‘tu

luyện’. Vậy gọi ‘khí công’ là sao? Mọi người đều biết, khí công đã được phổ cập

ngoài xã hội có lịch sử hơn 20 năm

1

, khai thuỷ vào giữa thời kỳ Đại Cách mạng

Văn hoá, và lên thành cao trào vào thời kỳ cuối. Mọi người thử nghĩ xem, thời ấy

trào lưu tư tưởng cực tả khá là nghiêm trọng. Chúng tôi sẽ không đề cập đến những

tên của khí công thời văn hoá tiền sử gọi là gì; trong tiến trình phát triển của văn

minh nhân loại chúng ta lần này, [khí công] đã qua một thời xã hội phong kiến, nên

thường mang những cái tên mang đậm sắc thái phong kiến. Và [những môn] có

quan hệ đến tôn giáo thường có những cái tên mang đậm sắc thái tôn giáo. Ví dụ:

nào là Tu Đạo Đại Pháp, Kim Cương Thiền, La Hán Pháp, Tu Phật Đại Pháp, Cửu

Chuyển Kim Đan Thuật, toàn là những thứ như thế. Nếu gọi [bằng] những tên như

thế trong thời Đại Cách mạng Văn hoá, thử hỏi chư vị có tránh khỏi bị phê phán?

Mặc dù nguyện vọng phổ cập khí công của các khí công sư là tốt, vì để chữa bệnh

khoẻ người cho quảng đại quần chúng, đề cao tố chất thân thể cho mọi người, điều

ấy rất tốt, nhưng không làm được; người ta không dám gọi chúng [với những tên]

như thế. Vậy nên rất nhiều khí công sư vì để phổ cập khí công, đã từ hai cuốn «Đan

Kinh» và «Đạo Tạng», lấy ra hai chữ tách khỏi nội dung [của cuốn sách]

2

, gọi là

‘khí công’. Nhiều vị còn đào sâu vào danh từ ‘khí công’ mà nghiên cứu, nhưng

chẳng có gì nghiên cứu; trong quá khứ nó chỉ được gọi là ‘tu luyện’. ‘Khí công’ chỉ

là danh từ mới đặt ra cho phù hợp với ý thức tư tưởng của con người hiện đại mà

thôi.

1 Theo hiểu biết của người dịch, Sư phụ bắt đầu truyền Pháp vào tháng Năm năm 1992, giai đoạn truyền công giảng

Pháp trực tiếp một cách có hệ thống trải qua hơn hai năm cho đến cuối 1994; các bài giảng được thâu âm, kết tập

và đến tháng Giêng 1995 cuốn Chuyển Pháp Luânđược xuất bản lần thứ nhất. Như vậy đọc giả có thể tạm dựa

vào các con số đó làm điểm tham chiếu về thời gian.

2 Đoạn chương thủ nghĩa: lấy ra cái nghĩa nhưng lại tách khỏi văn chương.

Khí công chính là tu luyện 12

Luyện công vì sao không tăng công

Luyện công vì sao không tăng công? Khá nhiều người có lối nghĩ như thế này:

Mình luyện công chẳng được chân truyền, ông thầy nào giảng cho mình mấy tuyệt

chiêu, rồi vài thủ pháp cao cấp, [thì] công của mình tăng ngay. Hiện nay có đến

95% người có lối nghĩ như thế; tôi thấy rằng điều ấy thật đáng cười. Tại sao đáng

cười? Bởi vì khí công không phải kỹ năng nơi người thường; nó hoàn toàn là những

điều siêu thường; nó phải được dùng những [Pháp] lý tại cao tầng để đánh giá. Tôi

giảng cho mọi người rằng, công không lên được cao có nguyên nhân căn bản là: hai

chữ “tu luyện”, người ta chỉ coi trọng chữ ‘luyện’ mà chẳng coi trọng chữ ‘tu’. Chư

vị hướng ngoại mà cầu, thì cầu thế nào cũng không được. [Với] thân thể người

thường kia, bàn tay người thường kia, và tư tưởng người thường kia của chư vị; chư

vị muốn [từ] vật chất cao năng lượng diễn hoá trở thành công? [Công] tăng trưởng

lên? Nói chuyện sao dễ vậy! Theo tôi thấy là chuyện đáng cười. Cũng tương đương

với hướng ngoại mà cầu, hướng ngoại mà tìm, vĩnh viễn không tìm được.

Nó không giống kỹ năng nơi người thường chúng ta: chư vị trả một số tiền, học

một số kỹ thuật, là chư vị có được nó trong tay. Nó không như thế; nó là điều vượt

xa khỏi tầng của người thường; vậy nên phải dùng [Pháp] lý siêu thường để yêu cầu

chư vị. Yêu cầu đó là gì? Chư vị phải hướng nội mà tu, không thể hướng ngoại mà

tìm. Bao nhiêu người cứ hướng ngoại mà cầu, nay cầu cái này, mai cầu cái khác, lại

còn ôm giữ tâm chấp trước truy cầu công năng, và đủ loại mục đích [khác nhau].

Có người còn muốn làm khí công sư, còn muốn chữa bệnh kiếm tiền! Tu luyện

chân chính là tu thẳng cái tâm của chư vị, gọi là ‘tu tâm tính’. Ví dụ như, chúng ta

trước mâu thuẫn giữa người với người, trước thất tình lục dục của cá nhân, [và] các

thứ dục vọng, ta [đều] coi nhẹ. Trong khi chỉ vì lợi ích cá nhân mà tranh mà đấu,

chư vị lại muốn tăng công, nói chuyện sao dễ vậy! Chư vị nào có khác chi người

thường? Chư vị làm sao có thể tăng công? Vậy phải coi trọng tu luyện tâm tính,

[thì] công của chư vị mới có thể tăng, tầng [của chư vị] mới có thể đề cao lên được.

‘Tâm tính’ là gì? Tâm tính bao gồm có đức (‘đức’ là một thứ vật chất), gồm có

Nhẫn, gồm có ngộ, gồm có xả, xả bỏ các thứ dục vọng tâm chấp trước trong người

thường; còn cả khả năng chịu khổ v.v., bao gồm nhiều thứ phương diện [khác

nhau]. Cần phải đề cao [tất cả] các phương diện tâm tính con người; như vậy chư vị

mới có thể thật sự đề cao lên; đó là nguyên nhân then chốt bậc nhất để đề cao công

lực.

Có người nghĩ: ‘Vấn đề tâm tính mà ông nói đến ấy, nó là điều trong hình thái

ý thức, là chuyện [về] phương diện cảnh giới tư tưởng của con người; nó không

[liên quan đến cái] công mà chúng tôi luyện’. Không liên quan là sao? Lịch sử xưa

nay trong giới tư tưởng học vẫn luôn có vấn đề rằng vật chất là đệ nhất tính hay

tinh thần là đệ nhất tính; nghị luận mãi, tranh luận mãi về vấn đề ấy. Kỳ thực tôi

nói với mọi người rằng, vật chất và tinh thần chúng là nhất tính. Trong nghiên cứu

khoa học [thân] thể người, hiện nay các nhà khoa học đều nhận định rằng tư duy

xuất phát từ đại não chính là vật chất. Như vậy nó là một thứ tồn tại vật chất, nhưng

chẳng phải nó [cũng] là thứ ở trong tinh thần con người hay sao? Chẳng phải là

nhất tính là gì? Cũng như vũ trụ mà tôi giảng, nó có tồn tại vật chất, đồng thời nó

có tồn tại đặc tính. Đặc tính Chân Thiện Nhẫn trong vũ trụ kia, người thường không

cảm nhận được sự tồn tại của nó, bởi vì toàn thể người thường cùng ở trên mặt của

một tầng này. Khi chư vị siêu xuất khỏi tầng của người thường, thì có thể quan sát

được. Quan sát như thế nào? Bất kể vật chất nào trong vũ trụ, bao gồm tất cả toàn

Luyện công vì sao không tăng công 13

thể những vật chất tràn đầy trong toàn vũ trụ, chúng đều là những linh thể, chúng

đều có tư tưởng; chúng đều là những hình thái tồn tại của Pháp vũ trụ tại các tầng

khác nhau. Chúng không cho phép chư vị thăng hoa lên; chư vị muốn đề cao,

nhưng đâu có đề cao được, chúng không cho phép chư vị nâng cao lên. Vì sao

không cho phép chư vị lên cao? Bởi vì tâm tính của chư vị chưa đề cao lên. Mỗi

một tầng đều có tiêu chuẩn khác nhau; muốn đề cao tầng, chư vị nhất định phải vứt

bỏ những tư tưởng không tốt và đổ đi những thứ dơ bẩn, [và] đồng hoá với yêu cầu

tiêu chuẩn của tầng ấy; có như vậy chư vị mới có thể lên đó.

Hễ tâm tính chư vị đề cao, thì thân thể chư vị sẽ phát sinh biến đổi to lớn; hễ

tâm tính chư vị đề cao lên; thì vật chất của thân thể chư vị bảo đảm sẽ biến đổi.

Biến đổi gì? Những truy cầu chấp trước những thứ xấu của mình, chư vị sẽ quẳng

chúng đi. Lấy một ví dụ, một chiếc chai đựng đầy thứ dơ bẩn, xiết nút thật chặt;

ném nó xuống nước, thì nó chìm ngay đến đáy. Chư vị đổ những thứ bẩn đi, càng

đổ nhiều ra thì nó lại càng có thể nổi lên cao hơn; [nếu] đổ hết [thứ bẩn] ra ngoài,

[thì] nó nổi hẳn lên trên. Trong quá trình tu luyện chúng ta cần gạt bỏ những thứ

không tốt tồn tại nơi thân người của mình, [thì] mới có thể thăng hoa lên trên được;

đặc tính của vũ trụ chính là có tác dụng ấy. [Nếu] chư vị không tu luyện tâm tính

của mình, chuẩn mực đạo đức của chư vị không đề cao lên trên, tư tưởng xấu và vật

chất xấu không bị quẳng đi, [thì] chúng chẳng cho phép chư vị thăng hoa lên trên;

chư vị nói rằng chúng không phải nhất tính là gì? Chúng ta thử nói một chuyện đùa,

ví như có người kia từ chốn người thường thất tình lục dục đầy đủ cả, lại được

thăng thượng lên làm Phật, mọi người thử nghĩ xem có thể sẽ ra sao? Không chừng

thấy một Đại Bồ Tát quá đỗi khả ái, vị ấy liền phát sinh tà niệm. Bởi vì tâm tật đố

chưa bỏ được, vị ấy lại phát sinh mâu thuẫn với các vị Phật; những chuyện như thế

có được phép tồn tại không? Cần xử lý sao đây? Chư vị nhất định phải từ chỗ người

thường mà vứt bỏ hết tất cả các chủng tư tưởng không tốt, [rồi] chư vị mới có thể

đề cao lên được.

Vậy cũng nói, chư vị phải coi trọng việc tu luyện tâm tính, chiểu theo đặc tính

Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ mà tu luyện; vứt bỏ [hết] những dục vọng, tâm không

tốt, ý định hành động xấu ở người thường. Chỉ một chút đề cao cảnh giới tư tưởng,

[thì] đã có những thứ xấu trong thân chư vị được loại bỏ bớt rồi. Đồng thời chư vị

phải chịu khổ một chút, chịu tội một chút, [thì] nghiệp lực nơi thân chư vị được tiêu

trừ một phần; qua đó chư vị có thể thăng hoa lên một chút; tức là, lực mà đặc tính

vũ trụ khống chế chư vị không còn lớn [như trước]. Tu tại tự kỷ, công tại sư phụ.

Sư phụ cấp cho chư vị một cái công [để] tăng công; [khi] cái công này phát huy tác

dụng, [thì] đức, một dạng vật chất, quanh thân chư vị sẽ được diễn hoá trở thành

công. [Khi] chư vị không ngừng đề cao, không ngừng tu lên, [thì cột] công trụ của

chư vị cũng không ngừng đột phá lên. Là người tu luyện, [thì] ngay nơi hoàn cảnh

người thường mà tu luyện bản thân, mà ‘ma luyện’ chính mình; các tâm chấp trước

những thứ dục vọng đều dần dần vứt bỏ. Điều mà nhân loại chúng ta thường cho là

tốt, thì từ cao tầng mà xét lại thường thấy là xấu. Vậy nên điều mà người ta cho là

tốt ấy, ở nơi người thường thì lợi ích cá nhân càng nhiều thì cho là càng sống tốt,

[nhưng] các Đại Giác Giả lại thấy rằng cá nhân ấy là càng xấu. Xấu chỗ nào? Vị ấy

được càng nhiều, thì vị ấy càng làm tổn hại người khác; [để] đạt được những thứ lẽ

ra không được, vị ấy sẽ [coi] trọng danh lợi, như thế vị ấy mất đức. Chư vị muốn

tăng công, [nhưng nếu] chư vị không chú trọng tu luyện tâm tính, [thì] công của

chư vị hoàn toàn không tăng lên được.

Luyện công vì sao không tăng công 14

Giới tu luyện chúng ta giảng rằng, nguyên thần của con người là bất diệt.

Trước đây nói đến nguyên thần của con người, là có thể có người nói đó là mê tín.

Mọi người đã biết rằng vật lý học nghiên cứu [thân] thể con người chúng ta có phân

tử, proton, electron, nghiên cứu tiếp xuống nữa thì có hạt quark, neutrino, v.v.

[Mới] đến bước đó, [mà] kính hiển vi đã không thấy được rồi. Nhưng nó còn quá

xa mới đến được bản nguyên của sinh mệnh, bản nguyên của vật chất. Mọi người

đều biết rằng về phân rã nguyên tử hạch, cần một năng lượng va chạm rất lớn cũng

như một nhiệt lượng rất lớn mới có thể tổng hợp, mới có thể phân rã hạt nhân. Vào

lúc con  người chết, những hạt nguyên tử trong thân thể có thể tuỳ tiện chết theo

không? Vì vậy chúng tôi phát hiện rằng khi con người chết rồi, thì chỉ tại tầng

không gian của chúng ta, thành phần phân tử ở tầng thô nhất mới bị tuột ra; còn tại

các tầng không gian khác thì các thân thể không hề bị huỷ. Mọi người thử nghĩ

xem, dưới kính hiển vi thân thể người trông ra sao? Toàn bộ thân thể con người

luôn vận động; chư vị đang ngồi kia bất động, [nhưng] toàn bộ thân thể lại vận

động, các tế bào phân tử cũng đang vận động, toàn bộ thân thể rất lơi lỏng, giống

như những hạt cát ghép thành. Dưới kính hiển vi thân thể người trông như vậy, so

với thân người dưới tròng mắt này của chúng ta quả nhiên sai biệt rành rành.  Đó là

vì cặp mắt này của con người đã tạo thành cho chư vị một loại giả tướng như vậy,

không cho phép chư vị thấy những thứ ấy. [Khi] thiên mục khai [mở], thì có thể

phóng đại những thứ ấy mà nhìn; nguyên nó chính là bản năng của con người, hiện

nay lại gọi là công năng đặc dị. Nếu chư vị muốn xuất hiện công năng đặc dị, thì

phải phản bổn quy chân, vãng hồi tu.

Chúng ta hãy thuyết về ‘đức’. Giữa chúng có quan hệ liên đới cụ thể nào?

Chúng tôi sẽ phân tích để giảng giải. Con người chúng ta trong rất nhiều không

gian đều có một thân thể tồn tại. Hiện nay chúng tôi xem các thành phần của thân

thể, [thì] phần to nhất là các tế bào, đó chính là nhục thân của chúng ta. Nếu như

chư vị tiến nhập được vào [không] gian [giữa] tế bào và phân tử, [không] gian

[giữa] phân tử và phân tử, [thì] chư vị sẽ thể nghiệm được việc tiến nhập vào không

gian khác rồi. Hình thức tồn tại của thân thể ấy ra sao? Tất nhiên chư vị không thể

dùng khái niệm của không gian hiện hữu này để lý giải [không gian bên kia] được

đâu; thân thể của chư vị phải đồng hoá theo những yêu cầu tồn tại của không gian

ấy. Tại không gian kia thân thể vốn có thể thành lớn thành nhỏ, lúc ấy chư vị sẽ

phát hiện rằng nó là không gian mênh mông vô tỷ. Đây chỉ nói đến một hình thức

tồn tại đơn giản của không gian khác, đồng thời ở cùng một chỗ có tồn tại không

gian khác. Con người tại rất nhiều các không gian khác đều có một thân thể chuyên

biệt; và trong một không gian nhất định, thì có một trường bao quanh thân thể. Là

trường gì vậy? Trường ấy chính là cái mà chúng tôi gọi là ‘đức’. Đức là một loại

chất màu trắng; nó không phải là thứ mà trước kia chúng ta cho rằng chỉ là điều

[thuộc về] tinh thần, điều ở trong con người [với] hình thái ý thức; nó hoàn toàn là

dạng tồn tại vật chất; vậy nên những người già trước đây thường nói nào là tích

đức, nào là tổn đức; những lời nói ấy hết sức đúng. [Chất] đức ấy ở chung quanh

thân thể người, nó hình thành một trường. Trước đây Đạo gia giảng rằng sư phụ tìm

đồ đệ, chứ không phải đồ đệ tìm sư phụ. Ý nghĩa là sao? Vị ấy cần xét xem thân thể

đồ đệ mang theo thành phần đức có nhiều không; nếu nhiều thì người ấy dễ tu; nếu

ít thì người ấy khó tu, người ấy sẽ rất khó tăng công lên cao.

Đồng thời tồn tại còn có một loại vật chất màu đen, ở đây chúng tôi gọi là

‘nghiệp lực’; trong Phật giáo gọi đó là ‘ác nghiệp’. Vật chất màu trắng cùng vật

chất màu đen, hai loại vật chất ấy tồn tại đồng thời. Giữa hai loại vật chất ấy có

Luyện công vì sao không tăng công 15

quan hệ thế nào? Loại vật chất đức là khi chúng ta chịu khổ, bị đánh đập, làm việc

tốt thì được nó; còn vật chất màu đen là khi người ta làm việc xấu, làm việc không

tốt, hiếp đáp người khác, thì nhận được loại chất màu đen. Bây giờ không chỉ có

những kẻ chỉ chạy theo lợi, mà còn có những kẻ không điều ác nào mà không làm,

chỉ vì tiền mà không việc gì là không làm: giết người hại mệnh, thuê giết người,

đồng tính luyến ái, hút hít ma tuý, v.v. việc gì cũng có. Trong khi làm những việc

xấu thì người ta bị tổn đức. Tổn ra sao? Khi một cá nhân [nhục] mạ người khác, cá

nhân ấy chiếm được tiện nghi, và thấy giải toả [hả giận]. Trong vũ trụ này có một

[Pháp] lý, gọi là ‘bất thất giả bất đắc, đắc tựu đắc thất’, chư vị chẳng mất, [nó]

cưỡng chế chư vị phải mất. Ai có tác dụng ấy? Chính là đặc tính vũ trụ có tác dụng

ấy; vậy nên chư vị muốn chỉ có được [mà không mất] thì không thể được. Nó xảy

ra như thế nào? Trong khi vị này [nhục] mạ, hiếp đáp người khác, vị này chính là

đã lấy đức cấp cho người kia; đối phương là bên chịu ép uổng, chịu thiệt, chịu khổ,

vậy nên mới được bồi thường. Vị này [nhục] mạ người kia ở bên này, thì theo cái

lời [nhục] mạ ấy vào lúc đó trong phạm vi không gian của mình đã có một khối đức

bay mất đi, và lọt vào thân của người ta. Vị này càng nhục mạ nặng nề, thì lại cấp

càng nhiều đức cho người ta. Đánh người, hiếp đáp người khác cũng lại giống như

thế. Vị kia đánh người một đấm, đá người một cước, thì tuỳ theo cú đánh mạnh đến

đâu mà đức bị chuyển sang lớn đến đó. Người thường không thấy được cái [Pháp]

lý ở tầng này; khi chịu hiếp đáp, vị ấy chịu không được: ‘Ông đánh tôi, tôi đánh trả

ông’. “Păng” một đấm trả lại, và cái đức kia lại quay về; hai người chẳng được gì

mất gì. Vị ấy có thể nghĩ: ‘Ông đánh tôi một, tôi đánh ông hai, nếu không thì không

hả được cái khẩu khí này’. Vị ấy lại đánh nữa, và từ mình một khối đức lại bay ra

sang bên đối phương.

Đức được coi trọng là vì sao? Chuyển hoá của đức có quan hệ thế nào? Trong

tôn giáo giảng rằng: có đức ấy, đời này không được đời sau được. Họ được gì? Đức

của họ mà lớn, thì có thể làm đại quan, [hoặc] phát đại tài, muốn gì được nấy; cái

tác dụng hoán đổi của đức là như thế. Trong tôn giáo còn giảng: nếu người kia

chẳng có đức, rồi sẽ ‘hình thần toàn diệt’. Nguyên thần vị ấy rồi bị tiêu huỷ; vị ấy

trăm tuổi [lâm chung] là toàn bộ chết hết, chẳng còn gì. Còn giới tu luyện chúng tôi

giảng rằng đức có thể trực tiếp diễn hóa trở thành công.

Chúng tôi bây giờ sẽ giảng về đức diễn hoá trở thành công. Trong giới tu luyện

có câu rằng: “tu tại tự kỷ, công tại sư phụ”. Có người giảng về ‘an đỉnh thiết lư, thái

dược luyện đan’, hoạt động ý niệm, họ cho rằng [điều ấy] rất quan trọng. Tôi nói

với chư vị rằng, chẳng quan trọng chút nào; chư vị mà nghĩ nhiều thì đó là tâm

chấp trước. Chư vị mà nghĩ nặng [về nó], thì chẳng phải chư vị chấp trước truy cầu

là gì? Tu tại tự kỷ, công tại sư phụ; chư vị chỉ cần nguyện vọng [tu luyện] là đủ rồi.

Mà chân chính làm việc ấy là sư phụ cấp cho [chư vị], chư vị hoàn toàn không làm

được. Thân thể người thường của chư vị, liệu có thể diễn hoá thành thể sinh mệnh

cấu thành từ vật chất cao năng lượng không? Hoàn toàn không thể được, nói ra chỉ

là chuyện cười thôi. Quá trình diễn hoá [thân] thể con người tại các không gian

khác rất huyền diệu, rất phức tạp; chư vị hoàn toàn làm không nổi việc này đâu.

Sư phụ cấp cho chư vị những gì? Cấp cho chư vị một công [để] tăng công. Bởi

vì đức ở bên ngoài [thân] thể con người, công chân chính của người [tu luyện] là từ

đức mà sinh thành. Tầng của một người cao thấp ra sao, [và] công lực lớn đến đâu,

tất cả là từ đức mà sinh thành. Ông [sư phụ] diễn hoá đức của chư vị trở thành

công, tăng trưởng thẳng lên trên dưới dạng xoáy ốc. Công quyết định một cách

chân chính tầng cao thấp của cá nhân được tăng trưởng lên bên ngoài [thân] thể,

Luyện công vì sao không tăng công 16

cuối cùng theo xoáy ốc trên đỉnh đầu mà hình thành một cột công trụ. Công của

một người cao bao nhiêu, chỉ cần nhìn xem công trụ của vị ấy cao đến đâu [là biết],

nó chính là tầng của vị ấy, là ‘quả vị’ được giảng trong Phật giáo. Có người khi đả

toạ thì nguyên thần có khả năng rời khỏi thân, lập tức đến một mức cao nào đó; có

hướng lên nữa cũng không lên được, cũng chẳng dám lên. [Nguyên thần] người ấy

ngồi trên công trụ của mình mà lên, [nên] người ấy chỉ lên cao đến vậy. Bởi vì công

trụ của người ấy cao đến đó thôi, có lên cao hơn cũng không được; đây là vấn đề

quả vị trong Phật giáo.

[Để] đo tâm tính cao đến đâu, còn có một cái xích độ. Xích độ và công trụ

không tồn tại trong cùng một không gian, mà đồng thời tồn tại. Tâm tính chư vị tu

lên rồi; chẳng hạn như tại nơi người thường, người khác [nhục] mạ chư vị một câu,

chư vị chẳng nói gì, tâm chư vị thật thản nhiên; đánh chư vị một đấm, chư vị cũng

chẳng nói chi, chỉ mỉm cười, bỏ qua; [đó là] tâm tính chư vị đã lên rất cao. Như vậy

chư vị là người luyện công, chư vị đáng được gì? Chẳng phải được công là gì? Tâm

tính của chư vị đề cao rồi, thì công của chư vị cũng tăng cao lên theo. Tâm tính cao

bao nhiêu công cao bấy nhiêu, đó là chân lý tuyệt đối. Trước đây có người tại công

viên luyện công cũng vậy, ở nhà luyện công cũng vậy, rất dùng tâm luyện, rất cung

kính, luyện được rất khá. Nhưng một khi ra khỏi cửa đã không phải là người ấy rồi,

lại hành xử như bản thân xưa kia, nơi người thường lại vì danh lợi mà tranh mà

đấu; hỏi công người ấy có thể tăng trưởng được không? Hoàn toàn không thể tăng

được; bệnh người này cũng không lành được, cũng lại vì lý do ấy. Vì sao có người

luyện công một thời gian lâu mà bệnh vẫn chẳng hết? Khí công là tu luyện, là điều

siêu thường, không phải là môn thể thao nơi người thường; cần phải coi trọng tâm

tính thì mới có thể lành bệnh hoặc tăng công.

Có một số người cho rằng an đỉnh thiết lư, thái dược luyện đan, rằng cái đan ấy

là công; không phải thế. Đan chỉ tồn trữ một bộ phận năng lượng, nó không phải

toàn bộ năng lượng. Vậy đan ấy là cái gì? Mọi người đã biết, chúng ta còn có một

phần khác để tu mệnh, thân thể cũng có thể xuất công năng, và còn rất nhiều các

thuật loại khác. Hầu hết những thứ ấy đều bị khoá lại, không cho phép chư vị lấy ra

sử dụng. Có rất nhiều công năng, trên vạn loại công năng; hình thành cái nào là

khoá cái ấy. Tại sao không cho xuất ra? Mục đích là không cho chư vị tuỳ ý sử

dụng nơi xã hội người thường; [chư vị] không được phép tuỳ tiện can nhiễu đến xã

hội người thường, cũng không được tuỳ tiện thể hiện bản sự của chư vị tại xã hội

người thường; bởi vì làm thế là phá hoại trạng thái của xã hội người thường. Có

nhiều người đang tu trong ngộ, chư vị hiển hiện [công năng] cho họ, người ta thấy

điều ấy là sự thật, tất cả đều đến tu; [cả] những kẻ thập ác bất xá cũng đến tu; điều

này không được. Không cho phép chư vị hiển thị [công năng] như thế; chư vị lại

cũng dễ làm điều xấu, bởi vì chư vị không thấy hết được quan hệ nhân duyên của

nó, [và] chư vị không thấy hết được bản chất của nó; chư vị cho rằng đây là việc

tốt, nhưng có thể đấy là việc xấu; vậy nên không cho chư vị dùng. Bởi vì một khi

làm việc xấu, tầng sẽ bị rớt, tu như chưa có tu; do vậy rất nhiều công năng bị khoá.

Làm sao đây? Đến ngày khai công khai ngộ, cái đan ấy chính là quả bom, nó nổ

tung khai mở tất cả công năng, tất cả khoá trong thân, và trăm khiếu [huyệt]; chấn

động “păng” một cái là chấn động mở hết; [đan] có tác dụng ấy. Hoà thượng trăm

tuổi [lâm chung] rồi hoả táng lại có xá lợi tử; có người bảo đó là xương, hoặc răng.

Vậy hỏi người thường sao chẳng có? Đó chính là cái đan kia đã khai nổ; năng

lượng của nó đã phóng thích ra ngoài; bản thân nó cũng bao hàm một lượng lớn vật

chất không gian khác. Rốt cuộc nó cũng là dạng tồn tại vật chất, nhưng nó chẳng

Luyện công vì sao không tăng công 17

còn công dụng gì nữa. Con người hiện nay coi nó trân quý lắm; nó có năng lượng,

lấp lánh ánh sáng, rất cứng; nhưng nó chỉ là vậy thôi.

Không tăng công còn có một nguyên nhân nữa, chính là [vì] không biết Pháp

tại cao tầng, [thì] không thể tu luyện lên được. Nghĩa là sao? Như tôi vừa nói trước

đây, có một số người đã học rất nhiều công pháp; tôi nói rằng chư vị có học nhiều

nữa cũng vô dụng, vẫn chỉ là học sinh tiểu học, là học sinh tiểu học trong [giới] tu

luyện; [chúng] toàn là những [đạo] lý ở tầng thấp. Chư vị lấy những [đạo] lý tầng

thấp để tu luyện lên tầng cao, thì không có tác dụng chỉ đạo. Đến đại học mà lại đọc

sách tiểu học, thì chư vị vẫn là học sinh tiểu học thôi; dẫu học nhiều nữa cũng vô

dụng, kết cục lại càng hỏng việc. Các tầng khác nhau có các Pháp tại các tầng khác

nhau. Pháp tại các tầng khác nhau có tác dụng chỉ đạo khác nhau; vậy nên chư vị

mà lấy [Pháp] lý của tầng thấp [thì] không thể chỉ đạo tu luyện lên cao tầng. Những

gì tôi nêu rõ sau đây đều là [Pháp] lý tu luyện tại cao tầng; tôi kết hợp những điều

tại các tầng khác nhau vào bài giảng; vậy nên trong quá trình tu luyện của chư vị từ

nay trở đi, [chúng] sẽ có tác dụng chỉ đạo [cho tu luyện]. Tôi có một số sách, băng

tiếng, băng hình; qua đó chư vị sẽ nhận thấy rằng, chư vị xem qua, nghe qua một

lượt; qua một thời gian xem lại, nghe lại, đảm bảo nó [lại] có tác dụng chỉ đạo đối

với chư vị. Chư vị không ngừng đề cao bản thân, [thì nó] không ngừng có tác dụng

chỉ đạo đối với chư vị; đây chính là Pháp. Vậy luyện công chẳng tăng công có hai

nguyên nhân [nói] trên: không biết Pháp tại cao tầng thì chẳng có cách nào tu;

không hướng nội mà tu, không tu tâm tính [thì] chẳng thể tăng công. Đó chính là

hai nguyên nhân.

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp

Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi là một pháp môn trong 8 vạn 4 nghìn pháp

môn của Phật gia; trong thời kỳ lịch sử văn minh nhân loại của chúng ta đây nó

chưa từng được truyền bá công khai; nhưng trong một thời kỳ tiền sử nó đã được

quảng bá rộng rãi để độ nhân. Tôi vào điểm cuối thời kỳ mạt kiếp lại đưa Nó ra

hồng truyền một lần nữa; vậy nên Nó vô cùng trân quý. Tôi đã giảng hình thức đức

trực tiếp chuyển hoá trở thành công. Công thực ra không phải từ luyện mà có, nó từ

tu mà có. Nhiều người mong cầu tăng công, [nhưng] chỉ chú trọng luyện thế nào,

chẳng chú trọng tu ra sao; kỳ thực công hoàn toàn dựa vào tu tâm tính mà xuất lai.

Vậy vì sao mà chúng tôi cũng dạy người ta luyện công tại đây? Trước tiên [tôi] nói

một chút, vì sao hoà thượng không luyện công? Vị ấy chủ yếu đả toạ, niệm kinh, tu

tâm tính; vị ấy có tăng công; vị ấy chỉ tăng công xác định tầng cao thấp của mình.

Bởi vì Thích Ca Mâu Ni giảng phải vứt bỏ hết thảy mọi thứ thế gian, gồm cả bản

thể, vậy nên không cần [tập] động tác hình thể. Đạo gia không nói đến phổ độ

chúng sinh; họ không đối mặt với những người có tâm thái khác nhau, các chủng

tầng khác nhau, [kiểu] người nào cũng có, có người tư tâm nhiều, có người tư tâm

ít. Họ tuyển chọn đồ đệ; chọn ba đồ đệ, nhưng trong đó chỉ có một đồ đệ chân

truyền, chủ định là đồ đệ ấy đức phải cao, phải tốt, không xảy ra vấn đề gì. Vậy nên

trọng điểm là truyền các thứ thủ pháp, để tu mệnh. Luyện các thứ thần thông thuật

loại; [họ] yêu cầu có một số động tác.

Pháp Luân Đại Pháp cũng là công pháp loại tính mệnh song tu; vậy yêu cầu có

động tác để luyện. Một mặt động tác là để gia trì công năng; ‘gia trì’ là gì? Là dùng

công lực lớn mạnh của chư vị để tăng sức mạnh cho công năng của chư vị; càng

ngày càng mạnh; mặt khác là nơi thân thể chư vị cần diễn hoá ra rất nhiều thể sinh

mệnh. Tu luyện trên cao tầng, Đạo gia giảng về nguyên anh xuất thế, Phật gia giảng

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp 18

về thân kim cương bất hoại, còn cần diễn hoá ra rất nhiều các thứ thuật loại nữa.

Những thứ ấy phải thông qua thủ pháp mà thành, động tác là để luyện những thứ

ấy. Một bộ công pháp tính mệnh song tu hoàn chỉnh, nó yêu cầu cả tu, yêu cầu cả

luyện. Tôi nghĩ rằng mọi người đã hiểu rõ được công kia là từ đâu; công quyết định

một cách chân chính tầng cao hay thấp của chư vị, hoàn toàn không hề từ luyện mà

có được, mà là từ tu. Chư vị trong quá trình tu, tại nơi người thường mà đề cao tâm

tính của mình, đồng hoá với đặc tính vũ trụ; [khi] đặc tính vũ trụ không còn ước

chế chư vị nữa, [thì] chư vị có thể thăng hoa lên được. Đức [sẽ] bắt đầu diễn hoá

trở thành công, tuỳ theo việc đề cao tiêu chuẩn tâm tính của chư vị, mà nó thăng lên

theo; nó chính là có mối quan hệ như thế.

Bộ công pháp của chúng tôi, là chân chính thuộc về [loại] công pháp tính mệnh

song tu. Công mà chúng ta luyện được được tồn trữ trong từng tế bào thân thể, tận

đến trong thành phần vi lạp tồn tại vật chất ở trạng thái vi quan cực nhỏ, cũng chứa

công [là] vật chất cao năng lượng. Tuỳ theo công lực chư vị cao bao nhiêu, [thì]

mật độ của nó càng lớn bấy nhiêu, uy lực của nó càng lớn bấy nhiêu. Vật chất cao

năng lượng này có linh tính; bởi vì nó được tồn trữ từ trong mỗi tế bào, cho đến tận

bản nguyên của sinh mệnh; [nên] nó dần dần hình thành hình thái giống như tế bào

của thân thể, [trở nên] cùng loại chuỗi sắp xếp của phân tử; [trở nên] cùng hình thái

của hết thảy nguyên tử hạch. Nhưng bản chất ấy đã thay đổi rồi; nó không còn là

thân thể được cấu thành từ những tế bào nhục thể ban đầu nữa; chẳng phải chư vị

đã không còn trong ngũ hành là gì? Tất nhiên [quá trình] tu luyện của chư vị chưa

kết thúc; chư vị phải [tiếp tục] tu luyện giữa những người thường; vậy nên bề ngoài

chư vị trông vẫn như người thường; điểm khác biệt duy nhất là so với những người

cùng tuổi thì trông chư vị trẻ hơn nhiều. Tất nhiên, đầu tiên phải loại bỏ những thứ

không tốt trong thân thể chư vị, trong đó có cả các bệnh tật. Nhưng, tại đây [chúng

tôi] không trị bệnh, điều chúng tôi làm là thanh lý thân thể; danh từ cũng không gọi

là ‘trị bệnh’; chúng tôi gọi đó là ‘thanh lý thân thể’; vì người tu luyện chân chính

mà thanh lý thân thể. Có một số người đến để trị bệnh. [Đối với] người bệnh rất

nặng, chúng tôi không cho phép đến lớp; bởi vì người ấy không thể vứt bỏ được cái

tâm trị bệnh ấy, không thể vứt bỏ được suy nghĩ về bệnh. Người ấy mắc trọng

bệnh, rất khó chịu đựng, hỏi người ấy có thể vứt bỏ [cái tâm nghĩ về bệnh ấy]

không? Người ấy tu luyện không được. Chúng tôi nhấn mạnh lần nữa, chúng tôi

không nhận người mang bệnh nặng; ở đây là tu luyện, nó so với suy nghĩ của họ thì

quá là khác xa; người ấy có thể tìm một vị khí công sư khác để giải quyết. Tất

nhiên nhiều học viên mang bệnh; vì chư vị là người tu luyện chân chính, nên chúng

tôi có thể giúp chư vị xử lý chuyện này.

Học viên Pháp Luân Đại Pháp chúng ta sau một giai đoạn tu luyện, từ bên

ngoài mà trông thì thấy khác rất nhiều; da trở nên mềm, trắng hồng; người cao tuổi

có nếp nhăn xuất hiện giảm nhiều, thậm chí có rất rất ít [nếp nhăn]; đó là một hiện

tượng phổ biến. Ở đây tôi không nói chuyện trời ơi đất hỡi, chúng ta ngồi tại đây có

những học viên lâu năm đã hiểu được điểm này. Ngoài ra những phụ nữ cao tuổi sẽ

có kinh nguyệt trở lại; bởi vì công pháp tính mệnh song tu yêu cầu khí của kinh

huyết để tu luyện mệnh. Kinh nguyệt sẽ trở lại, nhưng không nhiều; giai đoạn này

chỉ có một chút thôi, vừa đủ; đây cũng là hiện tượng phổ biến. Nếu không như thế,

thì chư vị thiếu mất nó hỏi luyện mệnh sao được? Nam giới cũng vậy, là người cao

tuổi, hoặc thanh niên đều cảm thấy thân thể nhẹ nhàng. Là người tu luyện chân

chính, chư vị sẽ cảm giác thấy được sự thay đổi này.

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp 19

Bộ công pháp chúng tôi luyện được rất lớn; không giống như nhiều công pháp

mô phỏng theo động vật mà luyện. Bộ công pháp này luyện được quả là hết sức

lớn. [Pháp] lý mà Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử đương thời giảng, đều là [Pháp] lý nội

trong phạm vi hệ Ngân Hà của chúng ta. Pháp Luân Đại Pháp chúng ta luyện gì?

Chúng ta là tu luyện chiểu theo nguyên lý diễn hoá của vũ trụ, tu luyện chiểu theo

tiêu chuẩn chỉ đạo của đặc tính tối cao của vũ trụ—Chân Thiện Nhẫn. Chúng ta

luyện một điều rất to lớn, tương đương với luyện vũ trụ.

Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi còn có một đặc điểm hết sức đặc thù mà

không giống bất kỳ một công pháp nào khác. Ngoài xã hội hiện nay đều lưu truyền

các [môn] khí công thuộc về tẩu đan đạo, luyện đan. Khí công loại luyện đan ở

trong người thường rất khó đạt khai công khai ngộ. Pháp Luân Đại Pháp của chúng

tôi không tẩu đan đạo; bộ công pháp của chúng tôi tu luyện một Pháp Luân tại bụng

dưới; trong lúc giảng bài trên lớp tôi đích thân cấp [Pháp Luân] cho học viên.

Trong khi tôi đang giảng Pháp Luân Đại Pháp, tôi lần lượt cấp Pháp Luân cho mọi

người; có người có cảm giác được, có người không cảm giác được. Đại đa số các vị

là có cảm giác thấy; bởi vì tố chất thân thể [mỗi] người có khác nhau. Chúng ta

luyện Pháp Luân, chứ không luyện đan. Pháp Luân là [hình] ảnh thu nhỏ của vũ

trụ, có đầy đủ hết thảy các công năng của vũ trụ; Nó có thể vận chuyển, xoay

chuyển một cách tự động. Nó nằm tại bụng dưới của chư vị chuyển động vĩnh viễn;

từ khi đã cấp cho chư vị trở về sau, không bao giờ dừng lại; vĩnh viễn năm này qua

năm khác chuyển động như thế. Trong quá trình Nó chuyển động theo chiều kim

đồng hồ

1

, Nó tự động hấp thụ năng lượng từ vũ trụ; Nó tự biết diễn hoá năng lượng,

cung cấp năng lượng cần thiết cho các nhu cầu diễn hoá của tất cả bộ phận thân thể

của chư vị. Đồng thời, khi Nó quay ngược chiều kim đồng hồ, Nó phát phóng năng

lượng; các chất phế bỏ được đẩy xuất ra ngoài, rồi tiêu tán ra quanh thân thể. Khi

phát phóng năng lượng, Nó đẩy ra rất xa; rồi lại quay lại lấy năng lượng mới. [Khi]

Nó đẩy năng lượng ra, thì những người ở chung quanh chư vị thu được lợi ích. Phật

gia giảng độ kỷ độ nhân, phổ độ chúng sinh; không chỉ là tự tu, còn cần phổ độ

chúng sinh; người khác cũng được theo hưởng lợi; có thể vô ý điều chỉnh thân thể

cho người ta, trị bệnh, v.v. Tất nhiên năng lượng không có mất, Pháp Luân khi

quay thuận chiều kim đồng hồ, Nó lại tự thu lại [năng lượng], bởi vì Nó thường

chuyển không dừng.

Có người suy nghĩ: ‘Vì sao mà Pháp Luân ấy thường chuyển không dừng?’

Cũng có người hỏi tôi: ‘Nó vì sao mà chuyển động? Nguyên lý ở chỗ nào? Năng

lượng tụ nhiều có thể thành đan, điều ấy còn lý giải được; chứ Pháp Luân xoay

chuyển thì thật khó tin.’ Tôi đơn cử một thí dụ cho chư vị, vũ trụ đang vận động,

trong vũ trụ có hệ Ngân Hà, có các thiên hà tất cả đều đang vận động, chín hành

tinh đang quay quanh Mặt Trời, Trái Đất cũng tự chuyển động. Mọi người thử nghĩ

xem, ai đẩy chúng? Ai gia lực cho chúng? Chư vị không thể dùng khái niệm người

thường mà nhận thức chúng được, nó là một dạng ‘toàn cơ’ như thế. Với Pháp

Luân của chúng ta cũng như thế, Nó cũng vận chuyển [như thế]. Nó giải quyết

được vấn đề luyện công giữa trạng thái sinh hoạt người thường, [nó] gia tăng thời

gian luyện công. Gia tăng như thế nào? Bởi vì Nó xoay chuyển không ngừng, [Nó]

không ngừng hấp thụ năng lượng từ vũ trụ, diễn hoá năng lượng. Chư vị đi làm, Nó

vẫn luyện chư vị. Tất nhiên không chỉ Pháp Luân, chúng tôi cần phải cấp lên thân

thể chư vị rất nhiều cơ năng, cơ chế, liên quan chặt chẽ với Pháp Luân [và] chúng

tự động vận chuyển, tự động diễn hoá. Vậy nên công này hoàn toàn tự động chuyển

1 Chiều kim đồng hồ, hiểu là người đứng từ phía trước mặt nhìn vào người luyện công mà thấy thế.

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp 20

hoá liên tục con người ta, nó hình thành nên một loại “công luyện người”, cũng gọi

là “Pháp luyện người”. Lúc chư vị không luyện công, công luyện chư vị; vào lúc

chư vị luyện công; công cũng luyện chư vị. Chư vị ăn, ngủ, đi làm, cũng đều được

công chuyển hoá liên tục. Hỏi chư vị luyện công làm gì? Chư vị luyện công là để

gia trì Pháp Luân, gia trì tất cả những cơ năng và khí cơ mà tôi đã cấp cho chư vị.

Khi tu luyện tại cao tầng, chính là vô vi, động tác cũng là tuỳ cơ nhi hành, không có

ý niệm đạo dẫn gì hết, cũng không có giảng hô hấp [tập thở].

Chúng tôi cũng không giảng thời gian, địa điểm luyện công. Có người giảng

rằng, những giờ nào là thời gian luyện công tốt? Giờ tý, giờ thìn, giờ ngọ? Chúng

tôi không giảng thời thần; giờ tý chư vị không luyện công, công luyện chư vị; giờ

thìn chư vị không luyện công, công cũng luyện chư vị; chư vị ngủ, công cũng luyện

chư vị; chư vị đi đường, công cũng luyện chư vị; chư vị đi làm; công cũng luyện

chư vị. Chẳng phải là rút ngắn rất nhiều thời gian luyện công của chư vị là gì?

Chúng ta có rất nhiều người ôm giữ cái tâm muốn đắc Đạo chân chính, tất nhiên nó

là mục đích tu luyện; mục đích cuối cùng của tu luyện là đắc Đạo, viên mãn.

Nhưng có người trong những năm được sống của họ, tuổi tác rất hữu hạn, không đủ

[để tu luyện]; Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi có thể giải quyết vấn đề ấy, rút

ngắn quá trình luyện công. Đồng thời cũng là công pháp tính mệnh song tu, [nên]

khi chư vị không ngừng tu luyện, thì sinh mệnh không ngừng được kéo dài; chư vị

không ngừng luyện, nó không ngừng kéo dài; nếu người cao tuổi có căn cơ tốt, chư

vị vẫn có thể đủ thời gian luyện công. Nhưng có một tiêu chuẩn: khi vượt qua tiến

trình sinh mệnh thiên định ban đầu, [thì] sinh mệnh được kéo dài thêm kia, hoàn

toàn chỉ để cho chư vị dùng để tu luyện; chư vị suy nghĩ chỉ chệch đi chút xíu, là

sinh mệnh gặp nguy hiểm ngay; bởi vì quá trình sinh mệnh của chư vị đã qua lâu

rồi. Trừ phi chư vị bước sang tu luyện xuất thế gian pháp, thì không có khống chế

ấy; lúc đó có một trạng thái khác.

[Chúng tôi] không giảng phương hướng [luyện công], cũng không giảng thu

công. Bởi vì Pháp Luân thường chuyển không dừng, cũng không thể thu dừng lại.

Có điện thoại, [hoặc] có người gõ cửa, chư vị dậy ngay để giải quyết công việc,

cũng không cần thu công. Chư vị đi giải quyết công việc, Pháp Luân lập tức quay

theo chiều kim đồng hồ, thu hồi lại những năng lượng tản xạ quanh thân thể [chư

vị]. Người [nào] mà ôm khí quán đỉnh, [thì] chư vị có ôm khí nhiều nữa rồi cũng

mất. Pháp Luân là thứ có linh tính, nó tự biết làm những việc như thế. [Chúng tôi]

cũng không giảng phương hướng, bởi vì toàn bộ vũ trụ đang vận chuyển, hệ Ngân

Hà đang vận chuyển, chín hành tinh lớn đang xoay quanh Mặt Trời, Trái Đất cũng

đang tự xoay. Chúng ta chiểu theo [Pháp] lý vĩ đại của vũ trụ mà luyện, hỏi đâu là

Đông Nam Tây Bắc? Không có. Quay về hướng này mà luyện, cũng là quay tất cả

các hướng mà luyện; quay về hướng kia mà luyện, cũng tương đương đồng thời

quay về Đông Nam Tây Bắc mà luyện. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi bảo hộ

học viên khỏi bị thiên sai. Bảo hộ thế nào? Chư vị làm một người tu luyện chân

chính, Pháp Luân của chúng tôi [sẽ] bảo hộ chư vị. Gốc của tôi gắn trên vũ trụ, ai

có thể động tới chư vị, người ấy có thể động đến tôi; nói thẳng ra, người ấy có thể

động đến vũ trụ này. Lời tôi nói nghe rất huyền hoặc, sau này chư vị học lên, chư vị

sẽ tự rõ. Còn có những điều khác, cao quá nên tôi không thể giảng nói. Chúng tôi

diễn giảng rõ từ nông cạn vào thâm sâu một cách có hệ thống [các] Pháp của cao

tầng. Nếu tâm tính chư vị không chính thì không thể được; chư vị tìm cầu, thì có

thể gặp vấn đề. Tôi nhận thấy Pháp Luân của nhiều học viên lâu năm bị biến hình.

Tại sao vậy? Chư vị luyện tạp lẫn với những thứ khác, chư vị đã muốn những thứ

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp 21

của người khác. Vậy sao Pháp Luân không bảo hộ chư vị? [Khi] đã cấp cho chư vị,

[Pháp Luân] chính là thứ của chư vị, phải chịu chi phối của ý thức chư vị. Chư vị

mong gì thì không ai can thiệp, đó là một [Pháp] lý trong vũ trụ. Chư vị không

muốn tu, [thì] không ai cưỡng chế chư vị tu, [nếu làm thế] thì cũng tương đương

với làm việc xấu. Ai có thể cưỡng chế chư vị thay đổi tâm chư vị được? Chư vị tự

đặt yêu cầu cho mình thôi. Lấy cái sở trường của mọi người, là nhận đủ thứ từ mọi

người; nay luyện công này, mai luyện công kia, mục đích là chữa bệnh, hỏi bệnh có

chữa được không? Không chữa được, chỉ trì hoãn nó về sau này thôi. Tu luyện tại

cao tầng, cần phải giảng vấn đề chuyên nhất: phải vững tu theo một môn; [khi đã]

theo môn pháp tu nào, [thì chỉ] để tâm tu luyện môn ấy, cứ theo môn ấy cho đến

khai công khai ngộ; [rồi] chư vị mới có thể chuyển công pháp tái tu, và đó là một

bộ [công pháp] khác. Bởi vì những thứ chân chính được truyền lại ấy, là những thứ

được truyền lại từ rất xa xưa; có quá trình diễn hoá rất phức tạp. Có người luyện

công theo cảm giác; hỏi cảm giác của chư vị có nghĩa gì? Không là gì hết. Quá

trình diễn hoá thật sự diễn ra tại không gian khác, vô cùng phức tạp và huyền diệu;

sai một chút là không được; ví như một thiết bị chính xác, chỉ thêm một linh kiện lạ

vào là hỏng ngay. Thân thể chư vị tại tất cả các không gian đều biến đổi, huyền

diệu phi thường, sai một tý là không thể được. Tôi chẳng đã giảng rõ cho chư vị,

rằng ‘tu tại tự kỷ, công tại sư phụ’. [Nếu] chư vị tuỳ tiện lấy những thứ của người

khác, thêm chúng vào đây, [thì] những tín tức khác sẽ can nhiễu đến pháp môn này,

rồi chư vị sẽ bị lệch; hơn nữa nó sẽ phản ánh vào xã hội người thường, đem lại

những điều phiền phức nơi người thường; đó là vì chư vị theo đuổi, người khác

không thể quản; đó [cũng] là vấn đề ngộ tính. Đồng thời chư vị thêm những thứ ấy

đã làm loạn hết công [của mình], chư vị sẽ không thể tu được nữa; sẽ xuất hiện vấn

đề này. Tôi cũng không bảo mọi người phải học Pháp Luân Đại Pháp. Chư vị

không học Pháp Luân Đại Pháp, [mà] chư vị được chân truyền ở một công pháp

khác, tôi cũng tán thành. Nhưng tôi nói với chư vị rằng, tu luyện lên cao tầng [một

cách] chân chính, chắc chắn cũng yêu cầu chuyên nhất. Có một điểm tôi nói với

chư vị rằng: hiện nay truyền công chân chính lên cao tầng giống như tôi đây, thì

không hề có một người thứ hai làm đâu. Sau này chư vị sẽ hiểu được tôi đã làm

những gì cho chư vị; vậy nên hy vọng rằng ngộ tính của chư vị không quá thấp. Có

rất nhiều người muốn tu luyện lên cao tầng; hiện nay nó được bày ngay trước mặt

chư vị, chư vị có lẽ còn chưa phản ứng được gì; chư vị đi [khắp] nơi để bái sư, tốn

bao nhiêu tiền, [mà] chư vị tìm chẳng được. Hôm nay [nó] được đặt đến cổng nhà

chư vị, phải chăng chư vị vẫn không nhận ra! Đó là vấn đề có ngộ hay không, cũng

chính là vấn đề có thể [cứu] độ được hay không.

Đặc điểm của Pháp Luân Đại Pháp 22

Bài giảng thứ hai

Vấn đề liên quan đến thiên mục

Có nhiều khí công sư cũng bàn về một số tình huống [liên quan] đến ‘thiên

mục’; nhưng Pháp tại các tầng khác nhau có các hình thức hiển hiện khác nhau.

Người tu luyện đến tầng nào, họ chỉ thấy được cảnh tượng trong tầng đó; chân

tướng vượt trên tầng đó [thì] họ không nhìn thấy, cũng không tin; do vậy, họ cho

rằng chỉ những gì tự mình nhìn thấy tại tầng này mới là đúng. Khi họ chưa tu luyện

đến một tầng cao nào đó, [thì] họ cho rằng những thứ ấy [tại đó] không tồn tại,

cũng không thể tin; đây là do tầng [của họ] quyết định; tư tưởng của họ cũng không

thể thăng hoa lên trên được. Nên cũng nói, về vấn đề thiên mục của con người, thì

có người giảng thế này, có người giảng thế kia; kết quả giảng đến loạn cả lên; rốt

cuộc cũng không ai có thể giải thích về [vấn đề thiên mục] cho rõ ràng cả; thật ra,

[vấn đề] thiên mục ấy cũng không thể từ tầng thấp mà giảng cho rõ được đâu.

Trong quá khứ, vì kết cấu của thiên mục thuộc về bí mật trong những bí mật, không

cho người thường biết được, cho nên lịch sử xưa nay cũng không hề có ai giảng về

nó. Vả lại tại đây chúng tôi cũng không xoay quanh lý luận trong quá khứ mà giảng

[về thiên mục]; chúng tôi sẽ dùng khoa học hiện đại, dùng ngôn ngữ hiện đại nông

cạn nhất để giảng về [thiên mục] này, và giảng về vấn đề căn bản của nó.

Thiên mục mà chúng tôi nói, thực chất là tại chỗ giữa hai lông mày của con

người dịch lên trên một chút [rồi] nối đến vị trí thể tùng quả; đó là đường thông

chính

1

. Thân thể còn có rất nhiều con mắt [khác nữa]; Đạo gia giảng mỗi một khiếu

chính là một con mắt. Đạo gia gọi huyệt vị của thân thể là ‘khiếu’, còn Trung y gọi

là ‘huyệt vị’. Phật gia giảng mỗi lỗ chân lông chính là một con mắt; vậy nên có

người dùng tai mà học chữ; có [người] dùng tay, dùng gáy mà nhìn; lại có [người]

dùng chân mà nhìn, dùng bụng mà nhìn; tất cả đều có thể [xảy ra].

Giảng đến thiên mục, chúng tôi trước hết nói một chút về cặp mắt thịt này của

con người chúng ta. Hiện nay có một số người cho rằng cặp mắt này có thể nhìn

thấy bất kể vật chất nào, bất kể vật thể nào trong thế giới chúng ta. Do vậy, có một

số người đã hình thành một thứ quan niệm cố chấp; họ cho rằng chỉ những gì nhìn

thấy được thông qua con mắt này mới đúng là điều thực tại; còn điều họ nhìn không

thấy thì không thể tin. Trước đây người như thế được xem là ‘ngộ tính không tốt’;

cũng có người giảng không rõ ràng vì sao ngộ tính không tốt. ‘Không thấy thì

không tin’, câu này thoạt nghe rất hợp lý. Nhưng từ một tầng hơi cao hơn một chút

mà xét, [thì] nó không còn hợp lý nữa. Bất kể một thời-không nào đều do vật chất

cấu thành; tất nhiên các thời-không khác nhau có kết cấu vật chất khác nhau, có các

chủng hình thức hiển hiện của các thể sinh mệnh khác nhau.

Tôi dẫn ví dụ này cho mọi người; trong Phật giáo giảng rằng hết thảy hiện

tượng của xã hội nhân loại đều là huyễn tượng, không thật. Huyễn tượng là sao?

Vật thể này thực tại rành rành bày đặt ở đây, ai có thể bảo là giả được? Hình thức

tồn tại của vật thể là thế này; nhưng hình thức biểu hiện của nó lại khác. Còn con

mắt chúng ta có một công năng: [nó] có thể từ vật thể của không gian vật chất

chúng ta mà đưa đến một trạng thái [hình tướng] cố định mà chúng ta nhìn thấy

hiện nay. Thực ra nó không phải là trạng thái ấy; [ngay] tại không gian của chúng

ta nó cũng không phải trạng thái như vậy. Ví như nhìn qua kính hiển vi thì thấy con

1 Chủ thông đạo: đường thông chính. Phó thông đạo: đường thông phụ.

Vấn đề liên quan đến thiên mục 23

người ra sao? Toàn bộ thân thể trông thật lơi lỏng; do những phân tử nhỏ cấu thành;

như những hạt cát, như những dạng hạt, luôn vận động; điện tử luôn chuyển động

quanh hạt nhân nguyên tử; toàn bộ thân thể luôn lay động, luôn vận động. Bề mặt

thân thể [cũng] không trơn nhẵn, không đều đặn. Bất kể loại vật thể nào trong vũ

trụ, [như] thép, sắt, đá đều như vậy; thành phần phân tử bên trong chúng đều luôn

vận động; chư vị không thể thấy được toàn bộ hình thức của chúng; thực ra chúng

không ổn định. Chiếc bàn này cũng đang lay động, nhưng con mắt nhìn không thấy

được chân tướng; cặp mắt [thịt] này làm cho người ta nhìn sai như thế.

Không phải là chúng ta không thể thấy được các thứ ở vi quan, không phải là

con người không có bản sự ấy; mà nguyên con người sinh ra được trang bị đầy đủ

bản sự đó, [và] có thể nhìn thấy được những thứ đến một [mức] vi quan nhất định.

Chính là từ khi con người chúng ta có cặp mắt tại không gian vật chất này, mà con

người mới thấy giả tướng, làm cho người ta nhìn không thấy [chân tướng]. Do đó

ngày xưa giảng rằng, những ai [nếu] không thấy là không thừa nhận, thì trong giới

tu luyện xưa nay luôn cho rằng ngộ tính loại người ấy không tốt, đã bị giả tướng

của người thường làm mê hoặc, đã mê trong người thường; tôn giáo xưa nay vẫn

giảng câu ấy; [và] chúng tôi thấy rằng nó cũng có lý.

Cặp mắt [thịt] này có thể từ những thứ trong không gian vật chất hiện hữu mà

cố định đến một trạng thái; ngoài đó ra, nó không có tác dụng gì đáng kể. [Khi]

người ta nhìn một vật, [thì] cũng không phải trực tiếp từ cặp mắt mà lên hình; con

mắt cũng giống như ống kính máy ảnh, chỉ có tác dụng của loại công cụ ấy thôi.

[Khi] nhìn xa, ống kính sẽ kéo dài ra, [và] con mắt của chúng ta cũng lại có tác

dụng như thế; [khi] nhìn vào chỗ tối, đồng tử [con mắt] cần mở to ra, [và khi] máy

ảnh chụp hình tại chỗ tối, [thì] lỗ ống kính cũng cần mở to hơn; nếu không như thế

thì lượng phơi sáng không đủ, [ảnh thu được] sẽ bị tối; [khi] đi ra nơi rất nhiều ánh

sáng ở bên ngoài, đồng tử [con mắt] cần lập tức thu nhỏ, nếu không như thế thì loá

mắt, nhìn gì cũng không rõ; máy ảnh cũng [theo] nguyên lý ấy, lỗ ống kính cũng

cần thu nhỏ lại. Nó chỉ có thể thâu nhận [hình ảnh] vật thể, nó chỉ là một thứ công

cụ. Chúng ta thật sự nhìn thấy được một thứ gì, thấy một người [hay] thấy một hình

thức tồn tại của một vật thể, thì đó là do hình ảnh hình thành trên đại não của con

người. Như vậy, thông qua con mắt này nhìn, rồi lại thông qua dây thần kinh thị

giác truyền dẫn đến thể tùng quả ở nửa phần sau đại não; tại khu vực ấy nó phản

ánh hình ảnh lên đó. Nghĩa là phản ánh hình ảnh thật sự nhìn thấy được, là một bộ

phận của thể tùng quả trong đại não của chúng ta; y học hiện đại cũng nhận thức

điểm này.

Khai [mở] thiên mục mà chúng tôi giảng chính là tránh việc mở dây thần kinh

thị giác của con người; ở chỗ giữa hai lông mày [chúng tôi] sẽ đánh thông ra một

đường, cho phép thể tùng quả có thể trực tiếp nhìn ra ngoài; đó gọi là ‘khai thiên

mục’. Có người nghĩ: Điều này cũng không thực tế, cặp mắt này rốt cuộc cũng có

tác dụng làm công cụ ấy, nó có thể thâu nhận [hình ảnh] vật thể, không có con mắt

này thì không thể được. Giải phẫu y học hiện đại cũng đã phát hiện rằng, nửa bộ

phận phía trước [của] thể tùng quả, nó đã được trang bị một kết cấu tổ chức đầy đủ

của [một] con mắt người. Vì nó đặt ở vị trí bên trong sọ não, nên người ta giảng

rằng nó là một con mắt thoái hoá. [Dù] đó có đúng là con mắt thoái hoá hay không,

giới tu luyện chúng tôi vẫn bảo lưu [quan điểm của mình]. Và dù sao thì y học hiện

đại cũng đã công nhận rằng tại vị trí ấy trong sọ não người có một con mắt. Chúng

tôi đánh thông ra một đường nhắm vào chính điểm ấy; [nó] chính là tương hợp với

nhận thức của y học hiện đại. Con mắt này không gây cho người ta giả tướng như

Vấn đề liên quan đến thiên mục 24

cặp mắt thịt kia của chúng ta, nó có thể thấy được bản chất của sự vật, thấy được

bản chất của vật chất. Do đó, với người có thiên mục tầng rất cao, họ có thể nhìn

xuyên qua không gian chúng ta mà thấy được những thời-không khác, có thể thấy

được những cảnh tượng mà người thường không thấy; người ở tầng không cao có

thể có lực xuyên thấu, cách tường khán vật, thấu thị nhân thể; nó có đầy đủ công

năng như thế.

Phật gia giảng ngũ thông: nhục nhãn thông, thiên nhãn thông, huệ nhãn thông,

Pháp nhãn thông, Phật nhãn thông. Đó là năm tầng lớn của thiên mục; mỗi một

tầng lại phân thành thượng, trung, hạ. Đạo gia giảng chín lần chín là tám mươi mốt

tầng Pháp nhãn. Tại đây chúng tôi khai thiên mục cho mọi người; nhưng không

khai mở tại [tầng] thiên nhãn thông hoặc thấp hơn. Tại sao? Tuy rằng chư vị ngồi

đây đã bắt đầu tu luyện rồi, nhưng chư vị rốt ráo cũng mới vừa từ người thường mà

bước lên, còn có nhiều tâm chấp trước của người thường chưa hề vứt bỏ. Nếu khai

mở tại [tầng] thiên nhãn thông hoặc thấp hơn, thì chư vị sẽ xuất hiện cái mà người

thường coi là công năng đặc dị, chư vị sẽ cách tường khán vật, thấu thị nhân thể.

Nếu chúng tôi truyền công năng như thế này trên diện rộng, ai ai cũng được khai

mở đến trình độ ấy, thì sẽ can nhiễu nghiêm trọng đến xã hội người thường, [sẽ]

phá hoại trạng thái xã hội người thường. Quốc gia cơ mật chẳng thể giữ được;

người ta có mặc quần áo hay không thì cũng như nhau; người ở trong phòng, chư vị

ở ngoài cũng nhìn thấy được; đi ngoài đường thấy vé số thì vé giải nhất có thể bị

chư vị lấy trước; không thể như thế được! Mọi người thử nghĩ xem, [nếu] ai ai cũng

được khai thiên mục đến [tầng] thiên nhãn thông, [thì] có còn là xã hội nhân loại

không? Can nhiễu nghiêm trọng đến hình thức của xã hội nhân loại là điều tuyệt

đối không được phép. Nếu tôi mà thật sự giúp chư vị khai mở đến tầng này, thì chư

vị có thể lập tức trở thành khí công sư. Có người trước đây chỉ mong muốn làm khí

công sư; giờ thiên mục [được] khai mở, [thì họ] có thể coi bệnh cho người khác.

Tôi sao lại dẫn chư vị lạc sang đường tà như vậy được?

Vậy tôi sẽ khai mở [thiên mục] cho chư vị đến tầng nào? Tôi khai mở [thiên

mục] cho chư vị trực tiếp đến tận tầng huệ nhãn thông. Khai mở tại tầng cao hơn,

thì tâm tính chư vị không đủ; khai mở tại tầng thấp hơn, thì phá hoại nghiêm trọng

trạng thái của xã hội người thường. Khai mở đến huệ nhãn thông, [thì] chư vị

không có bản sự như cách tường khán vật, thấu thị nhân thể, nhưng chư vị lại có

thể thấy được cảnh tượng tồn tại nơi không gian khác. Vậy nó có lợi ích gì? Nó có

thể tăng cường tín tâm luyện công của chư vị; [khi] chư vị thấy rành rành những

điều mà người thường nhìn không thấy, [thì] chư vị hiểu rằng chúng thật sự tồn tại.

Bây giờ thì dù chư vị nhìn được rõ cũng vậy, không được rõ cũng vậy, [thiên mục]

sẽ được khai mở đến tầng này; đối với việc luyện công của chư vị đều có lợi ích.

Người thật sự tu Đại Pháp, [nếu] tuân theo chặt chẽ yêu cầu đề cao tâm tính, [thì]

đọc cuốn sách này [cũng sẽ] có hiệu quả như vậy.

Điều gì quyết định tầng của thiên mục con người? Không phải là sau khi khai

thiên mục cho chư vị thì cái gì [chư vị] cũng có thể nhìn thấy; không phải thế; nó

còn có sự phân chia tầng thứ. Vậy tầng ấy là do điều gì quyết định? Có ba nhân tố:

nhân tố thứ nhất chính là thiên mục con người cần phải có từ trong ra đến ngoài

một trường, mà chúng tôi gọi là ‘khí tinh hoa’. Nó đóng vai trò gì? Nó tương tự

như màn huỳnh quang của TV: nếu chẳng được tráng huỳnh quang {phosphor} thì

sau khi bật TV lên nó {TV} chỉ là bóng đèn điện: chỉ có ánh sáng mà không có

hình ảnh. Chính là nhờ có tráng huỳnh quang, nó mới có thể hiển thị hình ảnh

được. Tất nhiên, ví dụ này cũng không thật khớp lắm. Vì chúng ta nhìn trực tiếp,

Vấn đề liên quan đến thiên mục 25

còn nó {TV} phải thông qua lớp huỳnh quang để hiển hình; [nhưng] đại khái ngụ ý

là vậy. Chút xíu khí tinh hoa này vô cùng trân quý; [nó] là cấu thành từ một thứ rất

tinh hoa được tinh luyện từ đức. Thông thường khí tinh hoa này tồn tại trong mỗi

cá nhân đều khác nhau; có lẽ trong một vạn người mới có thể tìm thấy hai người ở

cùng một tầng.

Tầng của thiên mục trực tiếp là thể hiện của Pháp trong vũ trụ này của chúng

ta. Nó là điều siêu thường, và có quan hệ khăng khít với tâm tính của người ta; tâm

tính một người mà thấp, thì tầng của vị ấy cũng thấp. Vì tâm tính thấp, nên khí tinh

hoa vị này tản mất nhiều; còn nếu tâm tính người kia rất cao; vị ấy từ bé đến lớn

[sống] trong xã hội người thường, đối với danh, lợi, mâu thuẫn giữa con người, lợi

ích cá nhân, và [đối với] thất tình lục dục đều coi rất nhẹ, [thì] khí tinh hoa có thể

được bảo tồn tốt hơn; do đó sau khi khai thiên mục, [vị này] nhìn thấy được rõ ràng

hơn. Với đứa trẻ sáu tuổi trở xuống, thì sau khi khai [thiên mục] sẽ nhìn hết sức rõ

ràng; [và] khai mở cũng dễ dàng, [tôi nói] một câu liền có thể khai mở ngay.

[Vì] sự ô nhiễm của dòng chảy lớn, của thùng thuốc nhuộm lớn xã hội người

thường, [mà] điều người ta cho rằng đúng, trên thực tế rất nhiều khi lại là sai. Con

người ai chẳng muốn sống tốt? Mong muốn sống tốt ấy, có thể phải làm tổn hại đến

lợi ích người khác, có thể làm tăng trưởng tâm lý tự tư của con người, có thể chiếm

đoạt lợi ích người khác, nạt dối người khác, gây thiệt hại người khác. Chỉ vì lợi ích

cá nhân, ở chốn người thường mà tranh mà đấu, vậy chẳng phải tương phản với đặc

tính của vũ trụ là gì? Do vậy, điều con người cho là đúng, nó lại không nhất định là

đúng. Khi giáo dục cho trẻ nhỏ, vì muốn tương lai sau này có thể xác lập chỗ đứng

trong xã hội người thường nên người lớn thường hay dạy bảo ngay từ tấm bé: “con

phải biết sống khôn khéo”. Từ vũ trụ chúng ta mà xét thì thấy “khôn khéo” ấy đã

sai quá rồi; bởi vì chúng tôi giảng tuỳ kỳ tự nhiên, đối với lợi ích cá nhân cần coi

nhẹ. Nó mà khôn kiểu ấy, chính là chạy theo lợi ích cá nhân. “Đứa nào nạt dối con,

con hãy tìm thầy giáo nó, tìm cha mẹ nó”; “thấy tiền [rơi] con hãy nhặt [bỏ túi]”,

toàn giáo dục trẻ như thế. Từ bé đến lớn đứa trẻ tiếp thụ những thứ như thế rất

nhiều, dần dần tại xã hội người thường tâm lý tự tư của nó càng ngày càng lớn; nó

chỉ muốn chiếm lợi riêng cho mình, và nó sẽ tổn đức.

Chủng vật chất đức ấy khi tổn thất rồi không tản đi mất, nó chuyển sang người

khác; nhưng loại khí tinh hoa kia thì sẽ tản đi mất. Nếu một cá nhân từ bé đến lớn

sống rất ‘khôn khéo’ như thế, rất coi trọng lợi ích cá nhân, chỉ chạy theo lợi, [thì]

thông thường thiên mục của loại người này sau khi khai mở rồi cũng không dùng

được, nhìn không rõ ràng; nhưng không có ý nói rằng từ nay trở đi vĩnh viễn không

dùng được. Tại sao? Vì chúng ta trong quá trình tu luyện là phản bổn quy chân,

không ngừng luyện công, cũng không ngừng bù đắp, bù đắp trở lại. Do vậy cần

giảng tâm tính, chúng tôi giảng đề cao toàn bộ, thăng hoa toàn bộ. Tâm tính nâng

cao lên, các điều khác cũng theo đó mà lên; tâm tính chẳng nâng lên, thì chút khí

tinh hoa của thiên mục kia cũng chẳng thể bù đắp lại được; đạo lý là như vậy.

Nhân tố thứ hai chính là trong khi tự luyện công, nếu như căn cơ tốt, có thể

khiến thiên mục khai mở. Thông thường một số người khi thiên mục vừa mới khai

mở thì hoảng cả lên. Tại sao lại hoảng cả lên? Bởi vì môn luyện công thường chọn

lúc canh khuya giờ tý, đêm thâu tịch lặng [để luyện công]. Vị ấy đang luyện đang

luyện, đột nhiên trông thấy một con mắt lớn ngay trước mặt, làm vị ấy phát hoảng

cả lên. Lần phát hoảng này không phải thường đâu, đến nỗi từ đó trở đi vị này

không dám luyện [công] nữa. Nó làm người ta hoảng sợ lắm! Một con mắt to như

thế đang chớp chớp nhìn, thật rõ ràng rành rành. Vậy nên có người gọi đó là ‘mắt

Vấn đề liên quan đến thiên mục 26

ma’, cũng có người gọi là ‘mắt Phật’, v.v.; kỳ thực nó chính là con mắt của chư vị.

Tất nhiên, tu tại tự kỷ, công tại sư phụ. Toàn bộ quá trình diễn hoá công của một

người tu luyện, là một quá trình rất phức tạp tại các không gian khác; không phải

chỉ ở một không gian khác, mà tại tất cả các không gian; thân thể tại các từng

không gian tất cả đều biến hóa. Chư vị có tự mình làm được điều ấy không? Không

làm được. Điều ấy là do sư phụ an bài, sư phụ làm cho; do đó mới nói là tu tại tự

kỷ, công tại sư phụ. Chư vị chỉ cần tự mình có nguyện vọng như thế, mong muốn

như vậy; [còn] sự việc chân thực là do sư phụ làm giúp.

Có người tự mình luyện khai thiên mục, chúng tôi giảng đó là con mắt của chư

vị, dẫu rằng chư vị tự mình không diễn hoá ra nó được. Có vị có sư phụ; sư phụ

thấy thiên mục của chư vị đã khai mở, liền diễn hoá ra một con mắt cho chư vị; gọi

là ‘chân nhãn’. Tất nhiên có vị không có sư phụ, nhưng lại có một sư phụ qua

đường. Phật gia giảng: ‘Phật vô xứ bất tại’; nơi nào cũng có, nhiều đến mức độ như

vậy; cũng có người giảng: ‘trên đầu ba thước có thần linh’, nghĩa là [họ] có rất

nhiều. Sư phụ qua đường một khi thấy chư vị tu tốt lắm, thiên mục đã khai mở

nhưng còn thiếu một con mắt, [sư phụ] liền diễn hoá một [con mắt] cấp cho chư vị;

cái đó được coi như chư vị tự mình luyện được. Bởi vì độ nhân không nói điều

kiện, không tính công, không kể thưởng, cũng không kể danh tiếng; so với những

nhân vật mẫu mực nơi người thường thì cao hơn hẳn; nó hoàn toàn phát xuất từ tâm

từ bi.

Sau khi thiên mục người ta khai mở rồi, thì xuất hiện một loại trạng thái: bị ánh

sáng chói loá mắt rất ghê gớm, cảm giác như kích thích [vào] mắt. Thật ra không

phải cặp mắt của chư vị bị kích thích, mà là thể tùng quả của chư vị bị kích thích;

[nhưng] chư vị cảm thấy giống như mắt bị kích thích. Đó là vì chư vị chưa có một

con mắt; cấp cho chư vị một con mắt xong, thì chư vị không cảm thấy mắt bị kích

thích nữa. Một số chúng ta sẽ có thể cảm thấy, [hoặc] nhìn thấy con mắt này. Vì nó

có cùng bản tính vũ trụ, nên nó rất ngây thơ, cũng rất hiếu kỳ; nó nhìn vào trong,

coi xem thiên mục đã khai mở chưa, đã có thể nhìn được chưa; nó cũng ngó vào

bên trong nhìn chư vị. Bấy giờ thiên mục chư vị cũng vừa khai mở, nó đang nhìn

chư vị; đột nhiên nhìn thấy nó thì chư vị lại hoảng cả lên. Thật ra đó chính là con

mắt của chư vị, sau này chư vị có nhìn gì thì cũng thông qua con mắt này mà nhìn;

chưa có con mắt ấy thì chư vị hoàn toàn không thể nhìn được, có khai mở [thiên

mục] cũng không nhìn thấy được.

Nhân tố thứ ba là đột phá tầng thứ hiển hiện ra sự khác biệt [về] các không

gian; nó chính là vấn đề thật sự quyết định về tầng. [Để] nhìn sự vật, ngoài đường

thông chính, người ta còn có nhiều đường thông phụ. Phật gia giảng mỗi lỗ chân

lông đều là một con mắt; Đạo gia giảng tất cả các khiếu trên thân thể đều là con

mắt, nghĩa là, tất cả các huyệt vị đều là con mắt. Tất nhiên điều họ giảng chỉ là một

dạng hình thức diễn biến của Pháp trên thân thể: không nơi nào không thể nhìn

được.

Tầng mà chúng tôi giảng không giống với điều ấy. Ngoài đường thông chính ra

thì tại hai lông mày, bên trên mí mắt, bên dưới mí mắt và [tại] sơn căn có một vài vị

trí có đường thông phụ chủ yếu. Chúng quyết định vấn đề đột phá về tầng. Tất

nhiên người tu luyện thông thường, nếu mà tại mấy vị trí ấy đều có thể nhìn được,

thì tầng mà cá nhân ấy đột phá lên đã rất cao rồi. Có người có thể nhìn bằng mắt

[thịt], họ đã luyện được cặp mắt của họ, nó cũng trang bị một loại hình thức công

năng. Nhưng nếu con mắt này được dùng không đúng, họ cứ nhìn được cá thể này

thì không thấy các cá thể khác, vậy cũng không ổn; do vậy có người thường dùng

Vấn đề liên quan đến thiên mục 27

một con mắt để nhìn bên kia và một con mắt [khác] để nhìn bên này. Còn chỗ dưới

con mắt này (mắt bên phải) không có đường thông phụ; vì nó có quan hệ trực tiếp

với Pháp: khi làm điều không tốt người ta thường sử dụng mắt phải, nên dưới mắt

phải không có đường thông phụ. Đây là nói về việc trong khi tu luyện tại thế gian

pháp có xuất hiện một số đường thông phụ chủ yếu như vậy.

Đến tầng cực cao, sau khi tu luyện xuất khỏi thế gian pháp, thì còn xuất hiện

một loại con mắt kiểu như phức nhãn; toàn bộ trên nửa khuôn mặt sẽ sản sinh ra

một con mắt đơn lớn mà trong nó có vô số con mắt nhỏ. Có những Đại Giác Giả rất

cao [tầng] tu luyện được rất nhiều con mắt, đầy hết cả khuôn mặt. Tất cả các con

mắt đều thông qua con mắt đơn lớn này mà nhìn; muốn nhìn gì thì thấy nấy; liếc

mắt một cái là thấy được tất cả các tầng. Hiện nay các nhà động vật học, các nhà

côn trùng học nghiên cứu nhặng xanh. Mắt nhặng xanh rất lớn; dùng kính hiển vi

để nhìn thì trong nó có vô số con mắt nhỏ; [mắt lớn ấy] nó được gọi là phức nhãn.

Đến tận tầng cực cao [mới] có thể xuất hiện trạng thái này; so với [tầng] Như Lai

thì còn phải lên cao rất nhiều lần, rất nhiều lần mới có thể xuất hiện. Nhưng người

thường không thể nhìn thấy được; [người] tại tầng thông thường cũng không nhìn

thấy sự tồn tại của [phức nhãn], chỉ thấy giống như người thường, bởi vì nó ở

không gian khác. Đến đây đã giảng xong phần đột phá về tầng; cũng chính là vấn

đề có khả năng đột phá các từng không gian.

Nói chung tôi đã giảng cho mọi người về kết cấu của thiên mục. Chúng tôi

dùng ngoại lực để khai thiên mục cho chư vị, như thế nhanh hơn [và] dễ hơn. Trong

khi tôi đang giảng về thiên mục, trên trán của mỗi người chúng ta đều có cảm giác

căng lên, thịt tụ lại, tụ lại xoáy vào trong. Có như thế hay không? Là như thế. Miễn

là tại đây những ai thật sự vứt bỏ tâm [chấp trước] đến đây học Pháp Luân Đại

Pháp, thì ai cũng đều có cảm giác ấy; lực cũng rất lớn, đẩy vào phía trong. Tôi xuất

ra một công chuyên môn khai thiên mục để khai mở cho chư vị; đồng thời cũng

xuất những Pháp Luân để tu bổ cho chư vị. Trong khi tôi giảng thiên mục, chỉ cần

là [người thật sự] tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, chúng tôi đều khai mở cho chư vị;

nhưng không phải nhất định ai cũng có thể nhìn rõ, cũng không nhất định là ai cũng

có thể nhìn thấy; điều này có quan hệ trực tiếp đến tự thân của chư vị. Không sao

hết, chư vị nhìn không thấy cũng không sao, hãy tu luyện dần dần. Thuận theo việc

chư vị không ngừng đề cao tầng, chư vị sẽ lần lần nhìn thấy được, [trước] nhìn

không rõ [sau] sẽ lần lần nhìn rõ. Miễn là chư vị tu luyện, khi mà chư vị dốc lòng

quyết tâm tu luyện, [thì] những gì của chư vị bị tản mất sẽ [được] bồi bổ đầy đủ.

Tự mình khai thiên mục khó khăn hơn. Tôi giảng một chút rằng tự mình khai

thiên mục có một vài hình thức. Ví như trong lúc chúng ta đả toạ có người quan sát

[chỗ] trước trán, quan sát thiên mục, thì thấy trước trán là một đống đen đen, cũng

chẳng [thấy] có gì. Qua một thời gian, họ nhận thấy trước trán lần lần trắng ra. Tu

luyện một thời gian, họ phát hiện rằng trước trán lần lần sáng lên, sáng dần lên

thành mầu đỏ. Đến lúc này thì nó như hoa nở; nó tương tự như trong điện ảnh, trên

TV: nụ hoa nháy mắt một cái là khai nở; sẽ xuất hiện cảnh ấy. Mầu hồng này ban

đầu là bình phẳng, sau đó ở giữa chuyển sang dạng ống, [từ đó] không ngừng nở,

không ngừng nở. Chư vị muốn tự mình khiến nó nở thấu hoàn toàn, thì 10 năm

[hay] 8 năm cũng không đủ, vì toàn bộ thiên mục đã tắc nghẽn hẳn rồi.

Thiên mục của một số người không bị tắc nghẽn, nó đã được trang bị đường

thông; nhưng vì họ không luyện công, [nên] cũng không có năng lượng; do vậy khi

họ luyện công thì đột nhiên xuất hiện trước mắt một thứ hình tròn đen đen. Luyện

công một thời gian, nó lần lần trắng ra, từ trắng rồi lần lần sáng lên, cuối cùng ngày

Vấn đề liên quan đến thiên mục 28

càng sáng hơn, cảm giác [như] kích thích con mắt. Có người nói: Tôi thấy được

Mặt Trời, [hoặc] tôi thấy được Mặt Trăng. Thật ra, chư vị không thấy được Mặt

Trời, [cũng] không thấy được Mặt Trăng. Vậy điều mà chư vị nhìn thấy là gì?

Chính là đường thông của chư vị. Có người đột phá [lên] tầng khá là nhanh, ngay

sau khi [có được] con mắt này, họ có thể trực tiếp nhìn ngay. [Cũng] có người lại

vô cùng khó khăn, họ [cảm thấy như đang chạy] theo đường thông ấy, giống như

một đường hầm, hoặc giống như một cái giếng; cứ khi nào luyện công lại hướng

ngoài mà chạy; thậm chí cả khi ngủ cũng thấy cảm giác như tự mình đang chạy ra

bên ngoài. Có người cảm giác như phi ngựa, có người [như] đang bay, có người

[như] đang chạy, có người như là đang ngồi trong xe mà xông thẳng ra ngoài;

nhưng xông mãi ra mà chẳng đến đầu [kia] bởi vì tự mình khai thiên mục thật rất

khó. Đạo gia coi thân thể người ta như một tiểu vũ trụ; nếu như đó là một tiểu vũ

trụ, [thì] mọi người thử nghĩ xem, từ trước trán cho đến thể tùng quả là mười vạn

tám nghìn dặm vẫn chưa hết; do đó luôn thấy xông ra ngoài mà vẫn chưa đến đầu.

Đạo gia xem thân thể người như một tiểu vũ trụ, [điều ấy] rất có lý. Không phải

ý nói rằng kết cấu tổ chức của nó rất tương tự với vũ trụ, [cũng] không phải giảng

về hình thức tồn tại của cái thân thể trong không gian vật chất này của chúng ta.

Chúng tôi giảng rằng, theo chỗ khoa học hiện nay nhìn nhận thì thân thể vật chất

này từ tế bào trở xuống có trạng thái thế nào? Các loại thành phần phân tử, dưới

phân tử là nguyên tử, proton, hạt nhân nguyên tử, điện tử, hạt quark; lạp tử nhỏ

nhất mà hiện nay nghiên cứu đến là neutrino. Vậy đến vi lạp hết sức nhỏ hết sức

nhỏ nữa là gì? Muốn nghiên cứu thì vô cùng khó. Những năm về sau, Thích Ca

Mâu Ni đã giảng một câu như thế này, Ông nói: “Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội”.

Nghĩa là gì? Ngay tại tầng Như Lai [mà xét], nó lớn quá, nhìn không tới biên giới

của vũ trụ; nó nhỏ quá, không tới được vi lạp vật chất nhỏ nhất; do đó Ông giảng:

“Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội”.

Thích Ca Mâu Ni còn giảng về học thuyết ‘tam thiên đại thiên thế giới’. Ông

nói rằng trong vũ trụ này của chúng ta, trong hệ Ngân Hà này của chúng ta, có ba

nghìn tinh cầu có tồn tại sắc thân như thân thể nhân loại chúng ta. Ông còn giảng

rằng trong một hạt cát cũng có tam thiên đại thiên thế giới như thế này. Một hạt cát

lại giống như một vũ trụ; trong đó lại có con người có trí tuệ như chúng ta, có tinh

cầu giống như thế, cũng có núi sông nước chảy. Nghe thật quá huyền hoặc! Nếu

đúng như lời ấy, mọi người thử nghĩ xem, ở bên trong đó cũng có những hạt cát

phải không? Bên trong hạt cát kia lại có tam thiên đại thiên thế giới phải không?

Như vậy trong tam thiên đại thiên thế giới ấy lại có những hạt cát phải không, bên

trong hạt cát kia cũng còn có tam thiên đại thiên thế giới phải không? Vậy nên, đến

tầng Như Lai mà nhìn cũng không đến tận cùng của nó được.

Tế bào [làm bằng] phân tử của con người cũng như thế. Người ta hỏi vũ trụ to

đến đâu; tôi nói với mọi người rằng, vũ trụ này có biên giới; nhưng tại tầng như

tầng Như Lai mà xét, thì thấy nó là vô biên vô tế, to lớn vô hạn. Mà nội bộ thân thể

con người, từ phân tử cho đến vi lạp tại vi quan trở xuống lại to lớn như vũ trụ này;

nghe vậy mà thấy quá huyền hoặc. [Khi] tạo thành một cá nhân, một sinh mệnh,

[thì] tại [mức] cực vi quan đã tạo nên thành phần sinh mệnh đặc định của nó, bản

chất của nó. Do đó những điều nghiên cứu của khoa học hiện đại còn xa mới đến

chỗ này; [nếu] so sánh với các sinh mệnh ở các tinh cầu có trí huệ cao cấp trong

toàn vũ trụ này, [thì] mức độ khoa học kỹ thuật của nhân loại chúng ta còn thấp

lắm. Ngay cùng một lúc ở cùng một chỗ có các không gian khác, [mà] chúng ta đều

không đột phá đến được; còn đĩa bay của tinh cầu khác lại trực tiếp đi trong không

Vấn đề liên quan đến thiên mục 29

gian khác; khái niệm thời-không của nó khác hẳn, do đó nó nói đến là đến, nói đi là

đi, mau lẹ quá đến nỗi nếu dùng quan niệm của con người thì không thể tiếp thu

được.

[Khi] giảng về thiên mục, chúng tôi đề cập đến vấn đề như thế này, khi chư vị

ở trong đường thông mà chạy mãi hướng ra ngoài, thì chư vị cảm thấy như nó vô

biên vô tế. Có người có thể nhìn thấy một tình huống khác: họ cảm thấy không phải

chạy dọc theo một đường hầm, mà là chạy về phía trước ra ngoài theo một con

đường lớn vô biên vô tế, hai bên đường có non có nước có cả thành phố; [họ] cứ

chạy một mạch mãi như thế hướng ra ngoài; nghe vậy rất huyền hoặc. Tôi còn nhớ

một khí công sư giảng câu như thế này: ông nói rằng trong một lỗ chân lông người

ta có một thành phố, trong đó có cả xe lửa, xe hơi đang chạy. Người khác nghe vậy

lấy làm sửng sốt lắm, thấy huyền hoặc lắm. Mọi người đã biết, vật chất ở [các mức]

vi lạp có phân tử, nguyên tử, proton, khảo sát xuống nữa mãi đến tận cùng; nếu như

tại mỗi tầng có thể nhìn thấy được một diện {bề mặt} của tầng, chứ không phải là

một điểm, [tức là] thấy một diện của tầng phân tử, thấy một diện của tầng nguyên

tử, một diện của tầng proton, một diện của tầng hạt nhân nguyên tử, thì chư vị đã

nhìn thấy được hình thức tồn tại tại những không gian khác nhau. Bất kể vật thể

nào, kể cả thân thể người, cũng đều đồng thời tồn tại [tại các] tầng không gian cùng

với không gian vũ trụ, [chúng] cũng có tương thông [với nhau]. Vật lý học hiện đại

của chúng ta nghiên cứu các vi lạp vật chất, [nó] chỉ nghiên cứu từng vi lạp, phân

tích, phân tách nó; phân tách hạt nhân nguyên tử rồi lại nghiên cứu thành phần phân

rã [của hạt nhân]. Nếu có các thiết bị có thể triển khai mà nhìn thấy trong tầng ấy—

toàn bộ thể hiện của tất cả thành phần nguyên tử hoặc thành phần phân tử ở trong

tầng này—nếu có thể nhìn thấy được cảnh tượng ấy, thì chư vị đã đột phá được đến

không gian ấy mà nhìn thấy được chân tướng tồn tại ở các không gian khác. Thân

thể người và không gian bên ngoài [nó] có sự đối ứng, chúng đều tồn tại theo hình

thức tồn tại như thế.

Tự mình khai thiên mục còn có một số trạng thái khác nữa, chúng tôi chủ yếu

đã giảng một số hiện tượng phổ biến. Còn có người thấy thiên mục xoay chuyển;

người luyện công Đạo gia thường xuyên thấy trong thiên mục xoay chuyển; đĩa thái

cực “păng” một cái là tách mở ra, sau đó là nhìn được cảnh tượng. Nhưng không

phải trong sọ não chư vị [vốn] có thái cực; đó là sư phụ ban đầu đã cấp cho chư vị

một bộ hệ thống, một thứ trong đó là thái cực; ông [niêm] phong thiên mục chư vị

lại; đến lúc chư vị khai mở [thiên mục], nó sẽ tách mở ra. Ông đã cố ý an bài cho

chư vị như thế, chứ không phải nguyên trong não chư vị đã có.

Lại có một số người truy cầu khai thiên mục, [họ] càng luyện lại càng không

khai mở được; nguyên nhân tại sao? Bản thân họ không [hiểu] rõ. Chủ yếu là vì

thiên mục không phải là thứ có thể cầu; càng cầu càng không được. Càng truy cầu

nhiều, thì không chỉ không khai mở, trái lại một thứ [chất] tràn ra từ thiên mục của

họ, đen không đen, trắng không trắng, thứ ấy đóng kín thiên mục của chư vị lại.

Càng lâu về sau, nó sẽ hình thành một trường rất lớn, ngày càng tràn ra nhiều.

Thiên mục càng không khai mở, lại càng truy cầu hơn, thứ chất kia lại tràn ra càng

nhiều; kết quả [nó] bao vây toàn bộ thân thể của họ, thậm chí độ dày rất lớn, mang

theo một trường rất lớn. Thiên mục của cá nhân này dẫu thật sự khai mở rồi, vị ấy

cũng chẳng nhìn thấy được, bởi vì vị ấy bị tâm chấp trước của mình phong kín lại

rồi. Trừ phi sau này không gọt giũa lại nữa, khi đã hoàn toàn vứt hết cái tâm chấp

trước ấy, nó mới dần dần tản đi; nhưng phải trải qua một quá trình tu luyện rất gian

khổ và rất lâu mới có thể dứt khỏi hết được; điều này rất không cần thiết. Có người

Vấn đề liên quan đến thiên mục 30

không hiểu điều ấy; sư phụ đã dặn họ không thể cầu, không thể cầu; họ không tin,

cứ một mực truy cầu; và kết quả thu được [hoàn toàn] ngược lại.

Công năng dao thị

Quan hệ trực tiếp đến thiên mục có một công năng gọi là ‘dao thị’. Có người

giảng: Tôi ngồi tại đây có thể nhìn thấy cảnh tượng Bắc Kinh, nhìn thấy cảnh tượng

Hoa Kỳ, nhìn thấy [cảnh tượng] bên kia Trái Đất. Có người lý giải không được,

theo khoa học mà lý giải cũng không xong; tại sao như thế? Có người giải thích thế

này, giải thích thế kia, nói cũng không được thông; vì sao người ta có bản sự to lớn

ấy. Không phải vậy, người tu luyện tại tầng thế gian pháp không có bản sự này.

Những gì mà họ nhìn thấy, kể cả dao thị, kể cả rất nhiều các công năng đặc dị khác,

tất cả đều có tác dụng ở trong một không gian đặc định [của con người]; lớn nhất

cũng không vượt qua khỏi không gian vật chất mà nhân loại chúng ta đang sinh

tồn; nói chung thì không vượt qua khỏi trường không gian của thân thể bản thân họ.

Thân thể chúng ta ở trong một không gian đặc định có tồn tại một trường;

trường này và trường đức không phải là một trường, không cùng một không gian;

nhưng phạm vi trường [kích thước] to nhỏ là như nhau. Trường này có một thứ

quan hệ đối ứng với vũ trụ: phía vũ trụ có thứ gì thì trong trường này của người ta

cũng có thứ đối ứng với nó; [tất cả đều] có thể đối ứng. Nó là một loại hình tượng,

không phải là [vật] chân thực. Ví dụ: trên Trái Đất có nước Mỹ, có Washington, thì

trên trường [kia] của người ta cũng phản ánh nước Mỹ, phản ánh Washington;

nhưng chúng là hình ảnh. [Nó] dẫu là hình ảnh nhưng cũng là một loại tồn tại vật

chất; nó là quan hệ đối ứng như vậy: tuỳ theo biến đổi ở bên kia mà [nó] biến đổi

[theo]; do đó cái mà có người gọi là ‘công năng dao thị’ chính là tự nhìn vào trong

phạm vi của trường không gian bản thân mình. Nhưng sau khi tu luyện xuất khỏi

thế gian pháp, thì không nhìn như thế nữa, mà là nhìn trực tiếp, gọi là ‘Phật Pháp

thần thông’; đó là thứ có uy lực vô tỷ.

Công năng dao thị khi [tu luyện] thế gian pháp như thế nào? Tôi sẽ phân tích

cho mọi người rõ: trong không gian của trường ấy, ở vị trí phía trước trán của con

người có một chiếc mặt gương; người không luyện công thì [gương] buộc chặt;

người luyện công thì nó lật qua lại. Khi công năng dao thị của người luyện công

sắp xuất hiện, nó sẽ liên tục lật. Mọi người đã biết, phim điện ảnh mỗi giây 24 hình

thì xem hình ảnh chuyển động liên tục, còn ít hơn 24 hình thì cảm thấy như nhảy

động. Tốc độ lật của nó vượt quá 24 hình một giây, nó ghi nhận lên chiếc gương

những gì phản chiếu, [rồi] lật lại để chư vị nhìn; rồi lật trở lại thì [hình ảnh] sẽ bị

xoá hết. Sau rồi lại phản chiếu, lại lật, lại xoá hết, không ngừng lật; do đó những

thứ mà chư vị nhìn thấy [như] là vận động; đó chính là phản chiếu vào trong trường

không gian của chư vị để chư vị [có thể] nhìn thấy; còn những thứ trong trường

không gian kia là đối ứng từ [những thứ tại] vũ trụ [rộng] lớn.

Vậy sao lại nhìn được phía sau thân người [của mình]? Chiếc gương nhỏ thế,

không nhất định hoàn toàn phản chiếu được quanh thân thể? Mọi người đã biết,

tầng thiên mục của con người khai mở vượt qua thiên nhãn thông, khi sắp tiến nhập

vào huệ nhãn thông, thì sẽ đột phá không gian này của chúng ta. Chính lúc ấy, khi

sắp sửa đột phá nhưng chưa hoàn toàn đột phá, thì thiên mục sẽ phát sinh một loại

biến đổi: nhìn vật thể đều không [thấy] tồn tại, nhìn người cũng [biến] mất, tường

vách cũng [biến] mất, cái gì cũng [biến] mất, vật chất [thấy như] không tồn tại nữa.

Nghĩa là trong không gian đặc định này, khi mà nhìn thật sâu xuống, thì sẽ không

thấy người nữa, chỉ có một chiếc mặt gương đứng bên trong phạm vi trường không

Công năng dao thị 31

gian này của chư vị. Nhưng chiếc mặt gương ấy trong trường không gian của chư

vị lại to lớn như toàn bộ trường không gian ấy; do đó nó ở trong ấy, trong khi lật đi

lật lại, thì không chỗ nào là không phản chiếu. Chỉ cần bên trong phạm vi trường

không gian của chư vị [có] những thứ đối ứng với vũ trụ, thì nó có thể chiếu xạ

[hiện hình] vào trong ấy; chúng ta giảng công năng dao thị là như vậy.

Khi [người nghiên cứu] khoa học về thân thể người kiểm định công năng [dao

thị] này, thông thường [họ] dễ phủ nhận nó. Lý do phủ nhận là: chẳng hạn hỏi

‘người thân thích của một người hiện đang làm gì ở nhà tại Bắc Kinh?’ Sau khi nói

ra tên của người thân thích và tình trạng đại khái, thì vị ấy có thể nhìn thấy. Vị ấy

nói: Nhà lầu ấy trông ra sao, tiến đến cổng kia như thế nào, đi vào phòng, bày biện

trong phòng trông ra làm sao. Nói tất cả đều đúng. ‘Anh ấy đang làm gì thế?’ Rằng

‘anh ta hiện đang viết chữ’. Để chứng thực sự thực ấy, [người kia] bèn quay điện

thoại đến người thân thích [hỏi]: ‘Anh đang làm gì thế?’ ‘Tôi đang ăn cơm’. Thế

chẳng phải không khớp với điều vị ấy nhìn thấy là gì? Trước kia nguyên nhân phủ

nhận loại công năng này chính là chỗ đó; có thể hoàn cảnh vị ấy nhìn thấy không

sai điểm nào hết. Bởi vì không gian và thời gian của chúng ta—chúng tôi gọi là

‘thời-không’—so với thời-không của không gian nơi công năng tồn tại có một chỗ

sai biệt về thời gian, khái niệm thời gian của hai phía là khác nhau. Anh ấy vừa viết

chữ xong, còn ngay bây giờ đang ăn cơm; có sự sai biệt về thời gian như thế. Do

vậy những người nghiên cứu khoa học về thân thể người, nếu vẫn luôn luôn theo lý

luận thông thường, chiểu theo khoa học hiện tại mà suy diễn, mà nghiên cứu, thì

thêm cả vạn năm nữa cũng chẳng đi đến đâu. Vì những điều này ngay từ đầu đã là

thứ vượt xa người thường rồi, nên tư tưởng con người cần phải thay đổi, không thể

cứ lý giải sự việc như thế này mãi được.

Công năng túc mệnh thông

Còn có một loại công năng có quan hệ trực tiếp đến thiên mục, gọi là ‘túc mệnh

thông’. Trên thế giới hiện nay có sáu loại công năng đã được công nhận, trong đó

có thiên mục, dao thị, và còn có túc mệnh thông. Sao lại gọi là ‘túc mệnh thông’?

Ấy là có thể biết được tương lai và quá khứ của cá nhân; lớn nữa thì có thể biết

được sự thịnh suy của xã hội; còn lớn hơn nữa thì có thể thấy được những quy luật

biến hoá của toàn thiên thể; đó chính là ‘công năng túc mệnh thông’. Vì vật chất

chiểu theo quy luật nhất định mà vận động; trong không gian đặc thù, bất kể vật thể

nào đều có hình thức tồn tại trong rất nhiều không gian khác. [Tôi] nói một thí dụ:

một khi thân thể người ta chuyển động, [thì] các tế bào trong thân thể người đều

động theo; hơn nữa ở vi quan tất cả các phân tử, proton, điện tử, cho đến nhỏ hơn

mãi nữa tất cả thành phần đều vận động theo. Nhưng chúng có hình thức tồn tại độc

lập; các hình thức tồn tại của thân thể trong các không gian khác cũng đều trải qua

một loại biến đổi.

Chẳng phải chúng ta giảng vật chất là bất diệt? Trong một không gian đặc định,

người ta làm xong một việc gì, [ví dụ] người ta huơ tay làm một việc gì, tất cả đều

là tồn tại vật chất; làm việc gì thì cũng lưu lại một hình tượng và tín tức. Tại không

gian khác, nó là bất diệt, vĩnh viễn tồn tại ở đó, người có công năng nhìn một cái là

thấy được cảnh tượng tồn tại trong quá khứ, nên hiểu biết liền. Tương lai khi chư vị

có công năng túc mệnh thông rồi, chư vị nhìn thử về hình thức mà chúng ta hôm

nay giảng bài tại đây, [sẽ thấy] nó vẫn còn tồn tại, đã đồng thời tồn tại ở nơi ấy. Khi

một cá nhân giáng sinh, trong một không gian đặc thù không có khái niệm thời

Công năng túc mệnh thông 32

gian, cuộc đời vị ấy đã đồng thời tồn tại ở đó rồi; có [những người] không chỉ là

một đời [đồng thời tồn tại ở đó].

Có thể có người nghĩ: Những phấn đấu cá nhân, cải thiện bản thân của chúng ta

vậy chăng là không cần thiết? Họ không [chịu] chấp nhận [điều này]. Thực ra phấn

đấu cá nhân có thể thay đổi được những thứ nhỏ trong đời người, một số thứ nhỏ

thôi; bằng phấn đấu cá nhân có thể có được những thay đổi ấy. Nhưng chính vì nỗ

lực cải biến của chư vị mà có thể chịu nhận nghiệp lực; nếu không thế thì không

tồn tại vấn đề tạo nghiệp, cũng không tồn tại vấn đề làm việc tốt [và] làm việc xấu.

Khi ngoan cố làm việc gì đó, họ sẽ chiếm tiện nghi của người khác, họ làm điều

xấu. Do đó trong tu luyện nhắc lại [nhiều lần] rằng cần phải thuận theo tự nhiên, đó

chính là đạo lý; bởi vì chư vị qua nỗ lực mà làm hại người khác. Nguyên sinh mệnh

của chư vị không có thứ đó, nhưng tại xã hội chư vị lại được những thứ vốn thuộc

về người khác; vậy là chư vị đã mắc nợ người ta rồi.

Người ta muốn [tác] động [làm thay đổi] những sự việc lớn; người thường hoàn

toàn không thể [tác] động đến được. Họ có một cách [tác] động, chính là cá nhân ấy

toàn làm điều xấu, không điều ác nào mà không làm; vị ấy có thể thay đổi được

cuộc đời của mình, nhưng vị ấy sẽ đương đầu với sự huỷ diệt triệt để. Chúng tôi từ

cao tầng mà nhìn, thấy [khi] con người chết rồi, [nhưng] nguyên thần bất diệt.

Nguyên thần bất diệt là sao? Chúng tôi thấy rằng sau khi người ta chết, [thì xác]

người ở chốn an nghỉ kia, chẳng qua chỉ là các tế bào của thân người trong không

gian này của chúng ta mà thôi. Các tổ chức tế bào của nội tạng và bên trong thân

thể, toàn bộ thân người, và từng tế bào tại không gian này đều thoát rơi ra; còn thân

thể tại các không gian khác như phân tử, proton, điện tử, cho đến các vật chất vi lạp

thành phần nhỏ hơn thì không chết; chúng vẫn ở trong các không gian khác,

[chúng] vẫn tồn tại trong các không gian vi quan. Nhưng điều mà kẻ không điều ác

nào mà không làm sẽ đương đầu chính là việc toàn bộ tế bào giải thể hết, trong Phật

giáo gọi là ‘hình thần toàn diệt’.

Còn có một cách có thể cho phép con người biến đổi đời của họ; đây là cách

duy nhất; chính là cá nhân ấy từ nay trở đi sẽ bước trên con đường tu luyện. Vậy tại

sao đi theo con đường tu luyện có thể làm biến đổi đời người của họ? Ai có thể tuỳ

tiện [tác] động đến điều ấy? Bởi vì [khi] cá nhân ấy hễ muốn đi theo đường tu

luyện, ý niệm ấy vừa mới động, [thì] giống như ánh vàng kim loé sáng, chấn động

mười phương thế giới. Khái niệm vũ trụ đối với Phật gia là học thuyết thế giới

mười phương. Bởi vì [đứng] tại sinh mệnh cao cấp mà xét, thì sinh mệnh [đời]

người không phải vì để làm người. Họ cho rằng sinh mệnh con người là [được] sản

sinh trong không gian vũ trụ, có cùng tính chất với vũ trụ, là lương thiện, là cấu

thành từ chủng vật chất Chân Thiện Nhẫn. Nhưng họ cũng có quan hệ [mang] tính

quần thể; trong quần thể khi họ phát sinh quan hệ xã hội, một số biến đổi không

còn tốt nữa, do vậy bị rớt xuống dưới; tại tầng [dưới] ấy họ cũng không trụ lại được

nữa, họ lại biến thành tệ hơn nữa, họ lại rớt thêm một tầng nữa; rớt, rớt, rớt mãi

cuối cùng rớt đến tầng người thường này.

[Rơi rớt đến] tầng này, cá nhân ấy nên bị huỷ diệt, bị tiêu huỷ. Nhưng các Đại

Giác Giả đã xuất phát từ tâm đại từ bi, mà đặc cách tạo một chủng không gian này,

như không gian của xã hội nhân loại chúng ta. Tại không gian này, họ được cấp

thêm một nhục thân, thêm một cặp mắt chỉ nhìn được vật thể hạn cuộc trong không

gian vật chất của chúng ta; cũng có nghĩa là rơi vào [cõi] mê, làm cho họ không

nhìn thấy được chân tướng của vũ trụ; trong khi tại các không gian khác đều có thể

nhìn thấy được. Ở trong [cõi] mê ấy, tại trạng thái ấy, một cơ hội thế này được lưu

Công năng túc mệnh thông 33

lại cho họ. Bởi vì ở trong mê, nên cũng là khổ nhất; có mang thân thể này, chính là

phải chịu khổ. Người tại không gian này nếu có thể quay trở về trên, Đạo gia luyện

công giảng ‘phản bổn quy chân’, vị ấy nếu mang tâm muốn tu luyện, chính là Phật

tính xuất hiện, [thì] cái tâm ấy là trân quý nhất, mọi người sẽ giúp đỡ vị ấy. Con

người ở trong hoàn cảnh khổ như thế này mà chưa bị mê mất, còn muốn quay trở

về, do đó mọi người sẽ giúp đỡ vị ấy, giúp đỡ một cách vô điều kiện, việc gì cũng

có thể giúp được. Tại sao chúng tôi có thể vì người tu luyện mà làm những sự việc

này, nhưng không thể làm cho người thường? Đó chính là đạo lý.

Đối với một người thường [chỉ] mong trị bệnh, [chúng tôi] không giúp chư vị

được; người thường vẫn là người thường; người thường nên [ở trong] trạng thái của

xã hội người thường. Nhiều người giảng, [rằng] Phật phổ độ chúng sinh, [rằng]

Phật gia giảng phổ độ chúng sinh. Tôi nói với chư vị, chư vị thử giở tất cả kinh điển

Phật giáo [mà xem], không có nói rằng chữa bệnh cho người thường được tính là

phổ độ chúng sinh. Mấy năm nay chính những khí công sư giả đã làm loạn việc

này. Những khí công sư chân chính, những khí công sư mở đường không hề giảng

hoặc bảo [chư vị] trị bệnh cho người [thường]; họ chỉ dạy chư vị cách tự mình rèn

luyện, [tự] chữa bệnh khoẻ người. Chư vị là người thường, mới học có hai ngày

chư vị làm sao có thể trị được bệnh? Có phải lừa người chăng? Đó có phải tăng

trưởng tâm chấp trước chăng? Truy cầu danh lợi, mong cầu những điều siêu thường

[rồi] hiển thị nơi người thường! Điều ấy tuyệt đối không được phép. Do vậy có

người càng truy cầu càng không có [được]; không cho phép chư vị làm như thế;

cũng không cho phép chư vị tuỳ ý phá hoại trạng thái của xã hội này.

Vũ trụ này có một [Pháp] lý rằng, khi chư vị muốn phản bổn quy chân, người

ta sẽ giúp chư vị; họ cho rằng sinh mệnh của con người là nên [để] quay trở về, chứ

không phải nên [để sống] nơi người thường. Nếu nói nhân loại chẳng có bệnh gì

hết, [sống] quá ư thoải mái, thì có bảo chư vị làm thần tiên chư vị cũng chẳng làm.

Không có bệnh, cũng chẳng có khổ, muốn gì được nấy, tốt đẹp nhường ấy, thì đúng

là thế giới thần tiên rồi. Nhưng chư vị biến đổi thành không tốt rồi rơi rớt xuống

đến đây, do đó chư vị sẽ không thể thoải mái được. Nhân tại mê trung dễ phạm điều

xấu, trong Phật giáo gọi là ‘nghiệp lực luân báo’. Do đó con người thường xuyên tự

họ có ma nạn nào đó, hay gặp lúc có việc không tốt, đó đều là ở trong nghiệp lực

luân báo mà hoàn trả nghiệp của mình. Trong Phật giáo lại nói: ‘Phật vô xứ bất tại’.

Một vị Phật chuyển tay một cái, thì bệnh của toàn nhân loại sẽ không còn; điều này

đảm bảo là làm được. Rất nhiều chư Phật vậy sao không làm điều ấy? Bởi vì trước

đây họ {con người} làm điều không tốt, họ mới phải chịu tội này. Nếu chư vị chữa

hết cho họ, thì tương đương với phá hoại [Pháp] lý vũ trụ, tương đương với việc cá

nhân ấy có thể làm điều xấu, nợ người mà không [cần] hoàn trả; điều ấy không

được phép. Do vậy ai cũng duy hộ trạng thái của xã hội người thường, ai cũng

không phá hoại nó. Thoải mái không bệnh duy nhất mà chư vị [có thể] tìm thấy, có

thể đạt được mục đích giải thoát thật sự, chỉ có ‘tu luyện’! [Khuyên] bảo con người

tu chính Pháp, [đó] mới là phổ độ chúng sinh một cách chân chính.

Tại sao có nhiều khí công sư có thể trị bệnh? Vì sao họ giảng trị bệnh? Có

người có thể đã nghĩ đến vấn đề này; đại đa số [khí công sư ấy] đều không [theo]

đường chính. Khí công sư chân chính xuất phát từ tâm từ bi, xuất phát từ [lòng]

thương xót, trong quá trình tu luyện thấy chúng sinh đều khổ, [nên] họ giúp đỡ

người ta; điều ấy được phép. Nhưng họ không trị [hết bệnh]; họ chỉ tạm thời giúp

chư vị ức chế bệnh lại; hoặc giúp chư vị chuyển dịch nó đi, bây giờ không mắc

[bệnh] nhưng tương lai sẽ mắc, chuyển dịch bệnh về sau này; hoặc giúp chư vị

Công năng túc mệnh thông 34

chuyển hoá [bệnh], chuyển nó sang thân thể thân quyến của chư vị. Còn tiêu trừ

nghiệp ấy một cách thật sự triệt để, thì họ không làm được; không được phép tuỳ

tiện giúp người thường như thế; nhưng chỉ có thể giúp người tu luyện làm việc ấy;

đó chính là đạo lý.

Hàm nghĩa của câu ‘phổ độ chúng sinh’ mà Phật gia giảng là: đưa chư vị từ

trạng thái tối khổ của người thường lên cao tầng, vĩnh viễn không còn chịu khổ, và

[được] giải thoát; điều họ giảng có hàm nghĩa như thế. Chẳng phải Thích Ca Mâu

Ni đã giảng về bờ bên kia của niết bàn là gì? Đó là hàm nghĩa chân chính [câu]

‘phổ độ chúng sinh’ của Ông. Nếu ví như chư vị ở chốn người thường toàn hưởng

phúc, có tiền đến mức giường ở nhà chư vị cũng dùng tiền mà lót, chẳng có tội

[khổ] gì, thì có bảo làm thần tiên chư vị cũng chẳng làm. [Chư vị] là một người tu

luyện, [nên] có thể cải biến đường đời cho chư vị; cũng duy chỉ có tu luyện là có

thể cải biến mà thôi.

Hình thức công năng túc mệnh thông là ở bộ phận trước trán của con người có

một cái như màn huỳnh quang nhỏ của TV. Có người thì [nó] ở bộ phận trước trán;

có người thì ở cách trước trán một cự ly rất gần; có người thì ở bên trong trán. Có

người nhắm mắt [mới] có thể nhìn thấy; còn trường hợp nó hoạt [động] rất mạnh,

thì có người mở mắt [cũng] có thể nhìn thấy. Nhưng người khác nhìn không thấy,

nó là thứ ở bên trong phạm vi của trường không gian người ấy. Tức là, chủng công

năng này xuất hiện rồi, thì còn một chủng công năng nữa [có tác dụng] như tải thể,

[nó] lấy cảnh tượng nhìn thấy ở không gian khác phản ánh vào đây, do vậy có thể

nhìn thấy được trong thiên mục này. Nhìn thấy tương lai một cá nhân, nhìn thấy

quá khứ một cá nhân, nhìn thấy [một cách] chuẩn xác phi thường. Toán quái dẫu rõ

ràng đến đâu, thì những việc nhỏ, chi tiết không suy tính ra được; nhưng vị ấy

{người có công năng túc mệnh thông} có thể thấy rõ ràng phi thường, cả niên đại

cũng có thể thấy được. Những chi tiết của biến đổi đều có thể thấy, bởi vì điều vị ấy

thấy chính là phản ánh chân thực của người hoặc vật ở các không gian khác.

Chỉ cần là [người] tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thiên mục ai ai cũng được

khai mở. Nhưng những công năng mà chúng tôi đề cập đến sau này, thì không khai

mở giúp [chư vị]. Tuỳ theo khi không ngừng đề cao tầng, công năng túc mệnh

thông tự nhiên sẽ xuất hiện; tương lai trong [quá trình] tu luyện sẽ gặp tình huống

như thế. Khi chủng công năng này xuất hiện, [chư vị] sẽ biết {nhận thức} được việc

ấy, do đó Pháp này, Lý này chúng tôi đều giảng hết.

Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới

“Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới” là gì? Vấn đề này nói ra rất hóc

búa. Trước đây khi nói đến vấn đề này, có nhiều khí công sư đã bị làm cho nghẹn

[không biết ăn nói ra sao] bởi những người không tin khí công. “Trong các vị luyện

công đây hỏi ai đã ra ngoài ngũ hành, trong các vị có ai không còn trong tam giới?”

Có một số không phải là khí công sư; ‘khí công sư’ của họ là tự phong. Đã nói

không rõ thì đừng nói, họ lại dám nói, rồi bị người ta làm cứng họng. Gây tổn thất

lớn cho giới tu luyện, tạo nên hỗn loạn lớn; có người mượn cớ này để công kích khí

công. ‘Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới’, là một câu của giới tu luyện,

nguyên từ trong tôn giáo, là [câu nói] sinh ra trong tôn giáo. Do đó chúng ta không

thể tách khỏi bối cảnh lịch sử ấy, không thể tách khỏi hoàn cảnh đương thời [lúc

bấy giờ] mà giảng vấn đề này.

‘Không trong ngũ hành’ là gì? Vật lý học cổ đại của Trung Quốc chúng ta, [và]

vật lý học hiện đại đều nhìn nhận rằng học thuyết ngũ hành của Trung Quốc là

Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới 35

đúng. Kim mộc thuỷ hoả thổ, ngũ hành ấy cấu thành nên mọi sự vật trong vũ trụ;

điều ấy là đúng, do vậy chúng ta [mới] giảng về ngũ hành. Nói rằng một người ra

ngoài ngũ hành, [nếu] dùng cách nói hiện đại mà giảng, chính là đã ra ngoài thế

giới vật chất này của chúng ta; nghe mà thấy thật huyền [hoặc]. Mọi người hãy

nghĩ về vấn đề này, các khí công sư có tồn tại công. Tôi đã [làm] qua thí nghiệm,

rất nhiều khí công sư cũng đều đã [làm] qua trắc nghiệm như thế, [để] kiểm định

năng lượng của họ. Bởi vì các thành phần vật chất trong công này [thì] rất nhiều

các thiết bị mà chúng ta đang có hiện nay đều có thể kiểm định ra được, cũng [có

nghĩa] là [với] thành phần mà khí công sư phát ra chỉ cần có một loại thiết bị [đó]

tồn tại thì có thể kiểm định được sự tồn tại của công. Hiện nay các thiết bị có thể đo

thấy hồng ngoại, tử ngoại, siêu âm, hạ âm, điện, từ, tia phóng xạ gamma, nguyên

tử, neutron. Các khí công sư đều có những vật chất ấy; còn có những vật chất mà

khí công sư phát ra vẫn chưa đo thấy được, [vì] chưa có thiết bị. Miễn là có thiết bị

[thì] tất cả chúng đều có thể được đo thấy; [người ta] phát hiện rằng vật chất các

khí công sư phát ra cực kỳ phong phú.

Dưới tác dụng của một trường điện từ nhất định, khí công sư có thể phát ánh

quang huy rất mạnh mẽ, đẹp vô cùng. Công lực càng cao thì trường năng lượng

phát ra càng lớn. Còn người thường cũng có, nhưng rất nhỏ; một loại ánh quang

huy rất nhỏ. Trong nghiên cứu của môn vật lý cao năng lượng, người ta nhìn nhận

rằng năng lượng chính là những thứ như neutron, nguyên tử. Nhiều khí công sư đã

[làm] qua trắc [nghiệm], những khí công sư nổi tiếng cũng đều tham gia. Tôi cũng

được đo, đo thấy tia phóng xạ gamma và neutron nhiệt phát ra nhiều hơn vật chất

thông thường [phát ra] từ 80 đến 170 lần. Lúc ấy kim của thiết bị thí nghiệm trỏ

đến hết mức rồi; vì kim đã trỏ đến tận cùng, [nên] rốt cuộc cũng không biết được

[nó] lớn ngần nào. Neutron mạnh mẽ đến nhường ấy, thật quả là khó mà tin nổi!

Người ta sao lại phát ra được neutron mạnh mẽ đến thế? Điều đó chứng minh rằng

những khí công sư chúng tôi có tồn tại công, có tồn tại năng lượng; điểm này trong

giới khoa học kỹ thuật đã chứng thực được.

Ra ngoài ngũ hành, còn phải là công pháp tính mệnh song tu; công pháp không

phải là tính mệnh song tu thì chỉ tăng [cái] công [xác định] tầng cao thấp. [Với]

công pháp không tu mệnh, thì không hề có vấn đề này, nó không giảng [vấn đề] ra

khỏi ngũ hành. [Còn với] công pháp tính mệnh song tu, thì năng lượng của nó được

tồn trữ trong tất cả các tế bào của thân thể. Người luyện công thông thường của

chúng ta, người mới tăng công, [thì] viên lạp [hạt] năng lượng phát ra rất thô, có

khoảng cách, mật độ không cao, do đó uy lực rất thấp. Khi lên đến tầng rất cao, mật

độ năng lượng ấy so với phân tử nước thông thường có thể gấp 100, 1000, [hoặc]

100 triệu lần; tất cả đều có thể. Vì tầng càng cao, mật độ của nó càng lớn và càng

tinh tế, uy lực càng lớn. Trong tình huống ấy, ở trong mỗi một tế bào của thân thể

đã được tồn trữ năng lượng ấy—không chỉ trong từng tế bào của thân thể trong

không gian vật chất này của chúng ta, mà trong tất cả thân thể tại các không gian

khác, phân tử, nguyên tử, proton, điện tử, cho đến các tế bào ở mức hết sức vi quan

—tất cả đều được chủng năng lượng ấy lấp đầy. Dần dần qua thời gian rất lâu, thân

thể người đã hoàn toàn sung mãn bằng chủng vật chất cao năng lượng ấy.

Vật chất cao năng lượng này có linh tính, nó [rất] có bản sự. Một khi nó nhiều

lên, mật độ lớn lên, sau khi sung mãn tất cả các tế bào của thân thể người, [thì] nó

có thể ức chế các tế bào của xác thịt con người, [vốn là] các tế bào vô dụng nhất.

Khi ức chế vững chắc rồi, thì sẽ không xuất hiện sự tân trần đại tạ; rốt cuộc [nó]

hoàn toàn thay thế các tế bào xác thịt của người. Tất nhiên, tôi giảng ra thì dễ,

Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới 36

[nhưng] tu đến mức ấy là một quá trình rất chậm. Khi chư vị tu đến mức này, tất cả

tế bào của thân thể chư vị đều được vật chất cao năng lượng này thay thế; chư vị

thử nghĩ xem, thân thể chư vị có còn cấu thành từ ngũ hành không? Có còn là vật

chất của không gian này của chúng ta không? Nó đã cấu thành từ vật chất cao năng

lượng gom chọn từ các không gian khác. Thành phần của [chất] đức kia cũng là vật

chất tồn tại trong không gian khác; nó cũng không chịu sự ước chế của trường thời

gian của không gian này của chúng ta.

Khoa học hiện đại nhìn nhận rằng thời gian là có tồn tại trường; không nằm

trong phạm vi của trường thời gian thì không chịu ước chế của thời gian. Khái niệm

thời-không của không gian khác là khác hẳn so với bên này chúng ta; nó làm sao có

thể ước chế vật chất của không gian khác được? Hoàn toàn không có tác dụng. Mọi

người thử nghĩ xem, đến lúc ấy chư vị chẳng phải đã không trong ngũ hành là gì?

Chư vị có còn cái thân thể người thường không? Hoàn toàn không. Nhưng có một

điểm: người thường nhìn không ra

1

. Tuy rằng thân thể của họ đã cải biến đến trình

độ ấy, nhưng sự tu luyện chưa kết thúc, [nên] họ cần tiếp tục đột phá tầng tu lên

cao; do đó họ còn cần phải tu luyện nơi người thường; người thường mà nhìn

không thấy họ

2

thì không được.

Vậy sau đó thì sao? Họ ở trong quá trình tu luyện, tất cả các tế bào [làm bằng]

phân tử của họ tuy rằng được vật chất cao năng lượng thay thế, nhưng nguyên tử có

trình tự sắp xếp của nó, trình tự sắp xếp của các phân tử, hạt nhân nguyên tử không

hề thay đổi. Trình tự sắp xếp các phân tử của tế bào [vẫn] là trạng thái như thế,

[mà] sờ vào thì thấy mềm; mật độ trình tự sắp xếp các phân tử của xương cần lớn,

sờ vào thì thấy cứng; mật độ các phân tử máu thì rất là nhỏ, nó là thể lỏng. Người

thường từ bề mặt mà nhìn thì không thể thấy được sự biến đổi của chư vị; tế bào

[làm bằng] phân tử của nó vẫn duy trì kết cấu và trình tự bài trí như dạng ban đầu;

kết cấu của nó vẫn không phát sinh biến đổi; nhưng năng lượng bên trong nó đã

thay đổi rồi; do đó cá nhân này từ nay trở đi không già cỗi đi một cách tự nhiên,

những tế bào của người ấy [cũng] không tiêu vong; vậy người này trẻ trung thanh

xuân mãi. Trong quá trình tu luyện, người ta sẽ trông ít tuổi; cuối cùng [bề ngoài

của người ấy] định lại ở nơi ấy.

Tất nhiên, cái thân thể ấy mà đụng phải xe hơi thì có lẽ xương cũng gãy, một

khi bị dao cắt thì vẫn chảy máu thôi. Bởi vì trình tự sắp xếp phân tử của nó không

đổi, chỉ là nó sẽ không tự nhiên tiêu vong, sẽ không tự nhiên lão hoá; không có việc

tân trần đại tạ; đó chính là điều chúng tôi gọi là ‘ra ngoài ngũ hành’. Chỗ này có gì

là mê tín? Dùng lý luận khoa học hoàn toàn có thể giải thích được rõ. Có một số

người [giải] nói không được rõ lại cứ tuỳ tiện nói; người ta bèn bảo rằng ‘ông làm

mê tín’. Bởi vì câu này nguyên từ tôn giáo, không phải là danh từ xuất hiện từ khí

công hiện đại của chúng ta.

‘Ra khỏi tam giới’ là gì? Hôm rồi tôi đã giảng rằng, điểm chốt của tăng công là

việc chúng ta tu luyện tâm tính, đồng hoá với đặc tính của vũ trụ; [khi] đặc tính vũ

trụ đối với chư vị không còn ước chế nữa, tâm tính chư vị đã thăng hoa lên trên,

[thì] thành phần đức kia sẽ diễn hoá trở thành công. Không ngừng tăng lên trên,

thăng lên trên; sau khi thăng hoa lên cao tầng, thì hình thành một cột công trụ.

Công trụ này cao bao nhiêu, thì công của chư vị cao bấy nhiêu. Có một câu thế này:

‘Đại Pháp vô biên’; tất cả là tuỳ vào cái tâm của chư vị mà tu; xét chư vị tu cao

được đến đâu, tất cả là dựa theo lực nhẫn nại và năng lực chịu khổ của chư vị.

1 Nghĩa là người thường nhìn không thấy được sự khác biệt.

2 Tức là trở thành vô hình dưới con mắt người thường.

Không trong ngũ hành, ra ngoài tam giới 37

[Nếu] vật chất màu trắng của bản thân chư vị dùng hết, [thì] vật chất màu đen của

bản thân chư vị có thể qua chịu khổ mà chuyển hoá thành vật chất màu trắng. [Nếu]

vẫn chưa đủ, [thì chất đen] của những người thân và bè bạn, họ không tu luyện, chư

vị thay họ mà gánh chịu tội [nghiệp], và chư vị cũng có thể tăng công; đây là nói về

người đã tu luyện đến tầng cực cao. [Là] một người thường tu luyện chư vị chớ

mong tưởng gánh chịu tội [nghiệp] cho thân nhân; một người bình thường có

nghiệp lực to lớn nhường ấy thì tu không thành. Điều tôi giảng ở đây là [Pháp] lý

tại các tầng khác nhau.

‘Tam giới’ mà tôn giáo nói, là nói đến 9 tầng trời hoặc là 33 tầng trời; cũng lại

nói trên trời, trên đất, và dưới đất, [chúng] cấu thành các chúng sinh trong tam giới.

Họ giảng rằng hết thảy sinh vật trong 33 tầng trời đều phải qua lục đạo luân hồi.

Lục đạo luân hồi có nghĩa là đời này là người, đời sau có thể là động vật. Trong

Phật giáo giảng: ‘Phải tận dụng những năm [tháng] có ở đời này, bây giờ chẳng tu

thì đến khi nào mới tu?’ Bởi vì động vật không được phép tu luyện, không được

phép nghe Pháp, có tu cũng không đắc chính quả, công mà [tăng lên] cao thì phải bị

trời diệt. Chư vị hàng trăm năm mà chẳng được thân người; [có khi] hơn nghìn năm

mới được thân người; được thân người rồi cũng chẳng biết quý tiếc. Nếu chư vị

thác sinh thành một tảng đá thì vạn năm không ra được; tảng đá ấy nếu chẳng tan

nát, chẳng phong hoá, thì chư vị vĩnh viễn chẳng ra được; được thân người nào có

dễ chi! Nếu mà thật sự được Đại Pháp, cá nhân ấy quả là quá may mắn. ‘Nhân thân

nan đắc’; đó chính là đạo lý.

Chúng ta luyện công giảng về vấn đề tầng; tầng ấy hoàn toàn dựa vào tự thân tu

luyện; nếu như chư vị muốn nhảy ra khỏi tam giới, công trụ của chư vị tu được rất

cao rất cao rồi, thì chẳng phải chư vị đã đột phá khỏi tam giới là gì? Có người đả

toạ một khi nguyên thần ly thể liền lên rất cao. Có học viên viết trong bài trao đổi

tâm đắc thể hội: ‘Thưa Sư phụ, con lên đến bao nhiêu bao nhiêu tầng trời rồi, con

nhìn thấy những cảnh tượng như thế như thế.’ Tôi nói: ‘Con lại lên cao hơn một

chút nào’. Người ấy nói: ‘Con không lên [nổi] được nữa, không dám lên nữa, lên

cao nữa không được’. Tại sao? Bởi vì công trụ người ấy cao được ngần ấy, người

ấy [đã] ngồi trên công trụ của mình mà lên. Đó chính là ‘quả vị’ giảng trong Phật

giáo; [người ấy] đã tu lên đến quả vị như thế. Nhưng đối với người [đang] tu luyện

mà nói, vẫn chưa đến đỉnh điểm của quả vị. Người ấy còn không ngừng thăng lên

trên, không ngừng thăng hoa, không ngừng đề cao. Nếu công trụ của chư vị đã đột

phá qua giới hạn của tam giới, thì chẳng phải chư vị đã ra khỏi tam giới là gì?

Chúng tôi đã từng trắc định, phát hiện rằng tam giới mà tôn giáo nói đến, chỉ bất

quá là trong phạm vi chín đại hành tinh của chúng ta. Có người giảng mười đại

hành tinh, tôi nói hoàn toàn không có điều ấy. [Trong] những khí công sư trong quá

khứ, tôi thấy có người có công trụ vọt tận ngoài hệ Ngân Hà; cao nhường ấy, họ từ

lâu đã qua khỏi tam giới. Tôi vừa giảng về ‘ra ngoài tam giới’; thật ra [nó] chính là

vấn đề về tầng.

Vấn đề hữu sở cầu

Có nhiều người ôm giữ tâm hữu cầu đến gia nhập trường tu luyện của chúng

tôi. Có người ôm giữ [tâm] cầu công năng, có người muốn nghe ngóng lý luận, có

người mong [được] trị bệnh, cũng có người muốn đến để có Pháp Luân; tâm thái

nào cũng có. Lại có người nói: ‘Nhà tôi còn có người không đến tham gia học tập,

tôi [sẽ] đóng học phí, [xin] thầy cấp Pháp Luân cho người ấy’. Chúng tôi đã phải

qua biết bao nhiêu thế hệ, trải qua từ niên đại cực kỳ xa xưa, con số ấy mà giảng ra

Vấn đề hữu sở cầu 38

sẽ khiến người ta phải giật mình sửng sốt; điều được hình thành từ hằng xa xưa như

thế, chư vị chỉ bỏ ra mấy chục đồng

1

để mua Pháp Luân là sao? Tại sao chúng tôi

cấp cho mọi người [học viên] một cách vô điều kiện? Chính là vì chư vị muốn làm

người tu luyện; cái tâm ấy có dùng bao nhiêu tiền cũng không mua được; [đây] là

Phật tính xuất hiện; [chỉ khi đó] chúng tôi mới làm như thế này.

Chư vị ôm giữ tâm hữu cầu, chư vị phải chăng vì những điều ấy mà đến? Trong

tư tưởng chư vị nghĩ gì, [thì] tại không gian khác những Pháp thân của tôi đều biết

hết. Bởi vì hai khái niệm thời-không không giống nhau, từ không gian khác mà

nhìn thì cấu thành tư duy của chư vị là một quá trình hết sức chậm chạp. Từ trước

lúc chư vị nghĩ, họ đã có thể biết được rồi; do vậy với những tư tưởng không đúng

đắn của mình, chư vị phải vứt bỏ hết. Phật gia có giảng duyên phận; mọi người đều

là [nhờ] duyên phận mà đến; đắc được [nó] rồi có thể là vì chư vị [đáng] nên được

[nó]; do vậy chư vị phải biết quý tiếc, đừng có ôm giữ tâm hữu cầu nào hết.

Tu luyện tôn giáo trong quá khứ, Phật gia giảng ‘không’, cái gì cũng không

mong nghĩ

2

, nhập ‘không môn’; Đạo gia giảng ‘vô’, cái gì cũng không có, cũng

chẳng muốn, cũng chẳng truy cầu. Người luyện công giảng: ‘hữu tâm luyện công,

vô tâm đắc công’. Ôm giữ một chủng tu luyện trạng thái ‘vô vi’, chỉ quan tâm tu

luyện tâm tính chư vị, thì tầng của chư vị sẽ đột phá, chư vị đáng được gì thì đương

nhiên sẽ có. Chư vị vứt bỏ không được, [thì] chẳng đúng là tâm chấp trước là gì? Ở

đây chúng tôi tức khắc truyền Pháp cao đến vậy, tất nhiên yêu cầu đối với tâm tính

chư vị cũng phải cao; vậy nên không thể ôm giữ tâm hữu cầu mà đến học Pháp

được đâu.

Để có trách nhiệm với mọi người, chúng tôi [cần] dẫn mọi người theo con

đường [chân] chính, Pháp này [cần] được giảng rõ cho chư vị. Có người khi truy

cầu thiên mục, thiên mục ấy tự họ làm nghẽn lại, tự mình phong kín lại. Ngoài ra

tôi còn nói với chư vị rằng, trong [giai đoạn] tu luyện thế gian pháp, thì hết thảy các

công năng xuất hiện đều là một chủng loại bản năng tiên thiên mà nhục thân mang

theo; hiện nay chúng ta gọi là ‘công năng đặc dị’. Chúng chỉ có thể có ở không gian

hiện hữu này, phát huy tác dụng trong không gian này của chúng ta, [có thể] ước

chế đối với người thường. Những tiểu năng tiểu thuật ấy chư vị truy cầu để làm gì?

Truy cầu tới truy cầu lui, sau khi sang [giai đoạn] xuất thế gian pháp, thì chúng

không có tác dụng ở các không gian khác. Đến khi tu luyện xuất thế gian pháp, toàn

bộ những công năng ấy đều phải quăng đi hết, chúng được ép nhập vào một không

gian rất thâm sâu, lưu tồn ở đó; sau này chúng được dùng như một hồ sơ lưu ghi lại

một quá trình tu luyện của chư vị, [chúng] chỉ có một tác dụng ấy.

Sau khi bước sang [giai đoạn] xuất thế gian pháp, người ta phải tu luyện lại từ

đầu. Loại thân thể ấy chính là thân thể ra ngoài ngũ hành mà tôi vừa giảng, nó là

một Phật thể. Loại thân thể ấy lẽ nào không gọi là Phật thể được? Phật thể ấy tu

luyện lại từ đầu, xuất công năng lại từ đầu; chúng không được gọi là ‘công năng’,

mà được gọi là ‘Phật Pháp thần thông’. Chúng uy lực vô cùng, ước chế với các

từng không gian; [chúng] là thứ thật sự phát huy tác dụng; chư vị nói xem chư vị

còn truy cầu công năng để làm gì? Hễ là người truy cầu công năng, chư vị phải

chăng muốn sử dụng nơi người thường, hiển thị nơi người thường; nếu không thì

chư vị muốn để làm gì? Nhìn không thấy, rờ không được; ngay cả làm vật trang trí

cũng phải tìm đồ [đẹp mắt] dễ coi chứ! Đảm bảo là ẩn giấu trong ý thức chư vị có

suy nghĩ dùng chúng với mục đích ấy. Chúng không thể truy cầu như những kỹ

1 Đồng: đồng nhân dân tệ Trung Quốc {yuan—nguyên}. Các đơn vị tiền trong sách này là tiền Trung Quốc.

2 Chữ tưởngvừa có nghĩa là ‘nghĩ’, vừa có nghĩa là ‘mong muốn’.

Vấn đề hữu sở cầu 39

năng của người thường được; chúng hoàn toàn là những thứ siêu thường, chư vị

không thể lấy chúng hiển thị nơi người thường được. Bản thân [tâm] hiển thị là một

loại tâm chấp trước rất mạnh, tâm hết sức không tốt, là tâm [chấp trước] mà người

tu luyện phải bỏ. Chư vị muốn dùng chúng để kiếm tiền, muốn dùng chúng để phát

tài, [dùng] khi phấn đấu cá nhân để đạt được những mục tiêu nơi người thường của

chư vị; như thế càng không thể được. Đó là dùng những thứ ở cao tầng để can

nhiễu đến xã hội người thường, phá hoại xã hội người thường; ý tưởng ấy rất xấu;

do đó không được phép tuỳ tiện sử dụng.

Thông thường chúng ta xuất hiện công năng phần nhiều ở hai đầu: trẻ con và

người cao tuổi. Đặc biệt là các cụ bà cao tuổi; thông thường các cụ bà giữ vững tâm

tính, ở nơi người thường không có tâm chấp trước. Sau khi công năng xuất hiện,

các cụ bà dễ tự chủ, và không có tâm lý hiển thị. Tại sao người trẻ tuổi không dễ

xuất hiện [công năng]? Nhất là nam thanh niên; [vì] họ muốn phấn đấu hết mình

nơi xã hội người thường, [họ] còn muốn đạt được mục tiêu này khác! Đến khi công

năng xuất hiện, thì vận dụng nó, để thực hiện mục đích của họ; coi nó như một loại

bản sự để thực hiện mục đích của họ, việc ấy tuyệt đối không được phép; do vậy họ

không xuất hiện công năng.

Việc tu luyện không thể là trò đùa con trẻ, cũng không phải là kỹ năng nơi

người thường; [nó] là việc nghiêm túc phi thường. Chư vị muốn tu hay không, chư

vị có thể tu hay không, [điều ấy] hoàn toàn xét trên việc chư vị đề cao tâm tính ra

sao. Nếu mà một cá nhân quả thật có thể cầu công năng mà được, thì vậy là hỏng

rồi. Chư vị sẽ thấy vị này [đối với] tu luyện hay không tu luyện, thì hoàn toàn

không có nghĩ tới điều này. Bởi vì tâm tính vị này đặt trên cơ sở [tâm tính] người

thường, công năng cũng là từ truy cầu [rồi có], việc xấu nào vị ấy cũng có thể làm.

Trong ngân hàng có toàn là tiền, lấy đi một chút; trên phố có toàn vé số, cầm ngay

giải nhất. Tại sao không có việc như thế tồn tại? Có khí công sư giảng: ‘Không coi

trọng đức thì khi xuất hiện công năng dễ làm việc xấu’. Tôi nói rằng đó là câu nói

sai lầm, hoàn toàn không có chuyện ấy. [Nếu] chư vị không coi trọng đức, không tu

tâm tính, thì hoàn toàn không xuất hiện công năng. Có người tâm tính tốt, ở trên

tầng ấy một khi xuất hiện công năng, [nhưng] sau đó vị này không tự chủ vững

chắc, đã phạm những việc không nên làm; có tồn tại hiện tượng như thế. Nhưng vị

này hễ làm điều xấu, thì công năng suy yếu hoặc mất. Khi đã mất thì vĩnh viễn mất;

ngoài ra, nghiêm trọng nhất là [nó] có thể làm người ta khởi tâm chấp trước.

Có khí công sư giảng rằng, học công của họ ba ngày có thể chữa bệnh, năm

ngày có thể chữa bệnh; như làm quảng cáo vậy; [nên chăng] gọi đó là ‘thương mại

khí công’. Mọi người thử nghĩ xem, chư vị là một người thường, chư vị phát khí

một cái là có thể trị hết bệnh cho người khác chăng? Trên thân thể người thường

cũng có khí, chư vị cũng có khí; chư vị vừa mới luyện công, bất quá mới chỉ khai

mở huyệt lao cung, có thể nạp khí phát khí. Khi chư vị trị bệnh cho người khác,

trên thân người ấy cũng là khí, có lẽ [khí của họ] lại trị [bệnh] cho chư vị cũng nên!

Giữa khí và khí với nhau nào có tác dụng ước chế gì? Khí hoàn toàn không trị bệnh

được. Ngoài ra khi chư vị trị bệnh cho họ, chư vị và bệnh nhân hình thành một

trường; khí bệnh trên thân bệnh nhân đều chạy sang thân thể chư vị, [hai bên] nhiều

như nhau; tuy rằng gốc [bệnh] ở trên thân của họ, [nhưng nếu] khí bệnh nhiều quá

thì cũng làm chư vị mắc bệnh. Một khi chư vị nhận thấy [mình] có thể trị bệnh, thì

chư vị sẽ mở cửa trị bệnh cho người ta; ai đến cũng không từ chối, chư vị sẽ khởi

tâm chấp trước. Chữa bệnh được cho người, quả là cao hứng! Tại sao có thể chữa

được bệnh? Chư vị chẳng hề nghĩ [tại sao như vậy]; trên thân các khí công sư giả

Vấn đề hữu sở cầu 40

đều có phụ thể, để chư vị tin, [họ] cấp cho chư vị một chút tín tức. Chư vị trị [bệnh]

3 lần, 5 lần, 8 lần, hoặc 10 lần là hết. Nó là một dạng tiêu hao năng lượng; từ đó trở

đi chút năng lượng ấy cũng chẳng còn. Bản thân chư vị không có công, hỏi lấy

công từ đâu đây? Khí công sư chúng tôi đã trải qua hàng chục năm tu luyện; tu Đạo

trong quá khứ không dễ chút nào. Không vững theo pháp môn chân chính, mà tu

theo thiên môn, tu theo tiểu đạo, thì quả thực rất khó.

Chư vị thấy một số đại khí công sư danh tiếng lẫy lừng; [họ] phải tu hàng chục

năm, mới xuất ra được chút công ấy thôi. Chư vị chưa hề tu, [chỉ] tham gia lớp học

tập là chư vị có công? Đâu có chuyện như thế? Từ đó trở đi chư vị đã sinh ra tâm

chấp trước. Hễ xuất hiện tâm chấp trước rồi, [khi] chư vị trị bệnh không được, chư

vị thấy rất lo. Có người vì muốn bảo vệ danh [tiếng] bản thân, khi trị bệnh cho

người ta thậm chí còn nghĩ những gì? ‘Bệnh này tôi xin nhận, để người kia khỏi

bệnh’. Đó đâu phải xuất phát từ tâm từ bi; cái tâm danh lợi người ấy chưa hề dứt

bỏ; hoàn toàn không xuất hiện tâm từ bi. Người ấy sợ mất danh [tiếng]; không nhịn

được, thà tự mình chịu bệnh kia còn hơn bị mất danh [tiếng]; tâm cầu danh quả là

mạnh mẽ! Nguyện vọng của người này vừa xuất ra, tốt thôi, bệnh kia lập tức bị

chuyển hoá sang thân của người ấy; thật sự có cái tác dụng ấy; người này về nhà

chịu bệnh; người ta khỏi bệnh; sau khi trị bệnh cho người khác, người này về nhà

lâm bệnh chịu khôn thấu. Chư vị thấy bệnh trị được rồi, người ta lại gọi mình một

tiếng ‘khí công sư’, chư vị [cảm] thấy quả là dương dương tự đắc, khoan khoái vô

cùng. Đó chẳng phải tâm chấp trước là gì? Khi trị [bệnh] không được thì gục đầu ủ

dột; đó chẳng phải tâm danh lợi đang khởi tác dụng là gì? Ngoài ra chư vị thấy rằng

khí bệnh của bệnh nhân đều chạy sang thân của chư vị. Vị khí công sư giả kia dạy

chư vị bài xuất ra ngoài như thế nào; tôi nói với chư vị rằng, hoàn toàn không bài

xuất được, một chút cũng không; bởi vì tự thân chư vị không có năng lực phân biệt

khí tốt khí xấu. Dần dần, trong toàn thân chư vị là đen; đó chính là nghiệp lực.

Khi tu luyện một cách chân chính, chư vị phải gặp thử thách gay go; chư vị làm

sao đây? Chư vị phải chịu bao nhiêu khổ mới có thể chuyển hoá nó thành vật chất

màu trắng? Rất khó; đặc biệt người có căn cơ càng tốt thì càng dễ xuất hiện vấn đề

này. Có người nhất mực truy cầu trị bệnh, trị bệnh. Chư vị hữu sở cầu, con động

vật kia liền thấy, nó liền gắn [nó] lên [thân chư vị]; đó chính là phụ thể. Chẳng phải

chư vị muốn trị bệnh? [Nó] sẽ giúp chư vị trị [bệnh]. Nhưng nó không phải là

không có duyên cớ gì mà giúp chư vị trị [bệnh], bất thất giả bất đắc, rất nguy hiểm;

rốt cuộc thì chư vị đã chiêu mời nó đến; chư vị còn tu luyện gì nữa đây? Tất cả là

hết rồi.

Có một số người có căn cơ tốt đã dùng căn cơ của bản thân mà đổi lấy nghiệp

người khác. Vị kia có bệnh, nghiệp lực của họ lớn, chư vị chữa xong cho một bệnh

nhân nặng, chư vị về nhà thấy rất đỗi khó chịu! Trước đây chúng ta có nhiều người

chữa cho bệnh nhân rồi có cảm giác thế này: bệnh nhân thì khỏi, còn chư vị về nhà

lâm bệnh nặng. Sau một thời gian, nghiệp lực hoán chuyển nhiều lên, chư vị đổi

đức lấy nghiệp lực người ta; ‘bất thất bất đắc’ mà. Đành rằng [điều] chư vị muốn

nhận là bệnh, nhưng cũng phải dùng đức mà trao đổi lấy nghiệp. Trong vũ trụ này

có một [Pháp] lý, rằng bản thân chư vị muốn gì, thì ai cũng quản không được, cũng

không thể nói chư vị là tốt. Trong vũ trụ có điều đặc định, rằng hễ ai có nhiều

nghiệp lực thì đó là người xấu. Chư vị dùng căn cơ bản thân để hoán chuyển lấy

nghiệp lực của họ; [khi] nghiệp lực nhiều thì chư vị còn tu luyện gì nữa? Căn cơ

hoàn chỉnh của chư vị đã bị họ huỷ mất. Chẳng đáng sợ ư? Người kia khỏi bệnh, họ

thấy thoải mái; còn chư vị về nhà thấy chịu khôn thấu. Chư vị chữa lành hai bệnh

Vấn đề hữu sở cầu 41

nhân ung thư, thì chư vị phải tự thế chỗ của họ; điều ấy nguy hiểm không? Nó đúng

là như thế đấy; nhiều người không hiểu đạo lý trong việc này.

Có một số khí công sư giả, chư vị không nên thấy thanh danh của họ to lớn, có

danh [tiếng] không nhất định là minh bạch. Người thường biết được gì? Nhiều

người cứ nói giống như thế liền [có người] tin theo. Chư vị dẫu thấy họ đang làm

như thế hiện nay; họ không chỉ hại người, mà họ còn hại bản thân họ; qua một hai

năm chư vị sẽ thấy họ [trở thành] như thế nào; tu luyện không cho phép phá hoại

như thế. Tu luyện có thể trị bệnh; nhưng không phải dùng để trị bệnh. Nó là một

dạng siêu thường, chứ không phải kỹ năng nơi người thường chúng ta; chư vị tuyệt

đối không được phép tuỳ tiện lấy nó ra phá hoại. Hiện nay những khí công sư giả

kia đã làm nên một [vùng] ô yên chướng khí; lấy khí công làm thủ đoạn cầu danh

phát tài; họ đã tạo nên một đoàn thể tà ác [để] khuếch trương thế lực; đông gấp bội

lần những khí công sư chân chính; người thường đều nói như thế, làm như thế, hỏi

chư vị có tin theo? Cho rằng khí công chính là như thế; không phải vậy. Điều tôi

giảng mới là [Pháp] lý chân chính.

Khi người thường phát sinh các chủng quan hệ xã hội giữa người với người, vì

lợi ích cá nhân mà làm điều xấu, mắc nợ [người ta], nên phải chịu [khổ] để bồi

thường. Chẳng hạn nói, chư vị tuỳ tiện trị [bệnh], chư vị có thể thật sự trị hết, hỏi

điều ấy có được phép không? ‘Phật vô xứ bất tại’, có nhiều chư Phật như vậy tại

sao không làm việc ấy? Họ làm nhân loại [sống] thoải mái thì tốt quá! Sao họ

không làm? Nghiệp lực của tự thân, con người phải hoàn trả; ai cũng không dám

phá hoại [Pháp] lý này. Một người trong quá trình tu luyện, có thể xuất phát từ tâm

từ bi mà giúp đỡ người khác đôi lần; nhưng cũng chỉ là trì hoãn bệnh. Hiện nay chư

vị không chịu tội [khổ], sau này chịu tội; hoặc là giúp chư vị hoán chuyển: chư vị

không mắc bệnh nhưng chư vị mất tiền, gặp nạn; có thể là vậy. Làm việc ấy một

cách thật sự, giúp chư vị tiêu bỏ nghiệp ngay tức thời, [việc ấy] chỉ hạn cuộc cho

những người tu luyện; nhưng không thể làm giúp người thường. Tại đây tôi không

giảng về [Pháp] lý của gia [phái] chúng ta [mà thôi]; tôi đang đàm [luận] về chân lý

của toàn vũ trụ chúng ta; tôi đang đàm [luận] về tình huống thực tế của giới tu

luyện.

Ở đây chúng tôi không dạy chư vị trị bệnh, chúng tôi dẫn chư vị theo đường

lớn, đường chính; đưa chư vị lên cao. Do đó ở trên lớp tôi đều giảng rằng các đệ tử

Pháp Luân Đại Pháp không được phép đi coi bệnh; chư vị đi coi bệnh thì không

phải là người của Pháp Luân Đại Pháp của tôi. Vì chúng tôi đưa chư vị lên cao theo

đường chính, trong quá trình tu luyện thế gian pháp liên tục giúp chư vị tịnh hoá

thân thể, tịnh hoá thân thể, tịnh hoá thân thể, cho đến khi được vật chất cao năng

lượng chuyển hoá hoàn toàn. [Nếu] chư vị vẫn nạp lên thân của mình những thứ

[màu] đen ấy, hỏi chư vị tu luyện sao đây? Nó là nghiệp lực mà! Hoàn toàn không

thể tu luyện được nữa. Để chư vị [nạp] nhiều quá, [thì] chư vị chịu đựng không nổi;

chịu khổ quá nhiều thì chư vị không thể tu; đó chính là đạo lý. Tôi đưa Đại Pháp

này truyền ra [công chúng], có thể chư vị chưa biết được tôi đang truyền điều gì.

Đại Pháp này đã có thể truyền ra thì phải có biện pháp bảo hộ nó. Nếu chư vị đi coi

bệnh cho người ta, thì tất cả những gì tu luyện được cài trên thân thể chư vị, Pháp

thân của tôi sẽ thu hồi toàn bộ. Không thể để chư vị chỉ vì danh lợi mà tuỳ tiện huỷ

hoại những thứ trân quý ấy. Đã không làm theo yêu cầu của Pháp, [chư vị] không là

người của Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi; thân thể của chư vị sẽ lùi lại trở về vị trí

người thường, những thứ không tốt cũng quay trở lại chư vị, bởi vì chư vị muốn

làm người thường.

Vấn đề hữu sở cầu 42

Bắt đầu từ hôm qua sau khi nghe bài học xong, rất nhiều người chúng ta cảm

thấy thân nhẹ nhàng. Nhưng một số rất ít những người bệnh nặng [cần] xử lý trước,

hôm qua bắt đầu thấy rất khó chịu đựng. Hôm qua sau khi tôi lấy xuống những thứ

không tốt của thân thể mọi người, đại đa số chúng ta đều cảm thấy thân nhẹ nhàng,

thân thể hết sức thoải mái. Nhưng trong vũ trụ này của chúng ta có một [Pháp] lý

gọi là ‘bất thất bất đắc’, không thể giúp chư vị hạ hết toàn bộ xuống được, chư vị

mà không phải chịu đựng một chút thì tuyệt đối không được phép. Nghĩa là nguyên

nhân căn bản của bệnh chư vị và nguyên nhân căn bản của những thứ không tốt của

chư vị đều được chúng tôi giúp chư vị lấy bỏ đi; nhưng chư vị vẫn còn một trường

bệnh. Khi thiên mục khai mở ở tầng rất thấp, thì thấy được trong thân thể có một

vài cục khí đen, khí bệnh vẩn đục; nó là một cục khí đen đã cô đặc có nồng độ rất

cao; đến lúc nó toả ra thì sẽ sung mãn khắp toàn thân thể chư vị.

Bắt đầu từ hôm nay, có người sẽ cảm thấy toàn thân phát lạnh, giống như mắc

cảm mạo nặng, có thể xương cốt đau khắp cả. Đại đa số sẽ cảm giác có chỗ khó

chịu [trong người], chân nhức, đầu choáng váng. Chỗ mà trước đây chư vị mắc

bệnh có thể cho rằng đã từng luyện khí công mà khỏi, cũng có thể đã có khí công

sư chữa khỏi, nhưng [nay bệnh] lại xuất hiện trở lại. Đó là vì họ không chữa hết

cho chư vị, chỉ trì hoãn lại về sau; còn tại vị trí ấy, chư vị nay không mắc [bệnh],

mà tương lai mắc [bệnh]. Chúng tôi đều moi nó lên, đều đẩy nó hẳn ra, gỡ bỏ nó ra

từ gốc rễ. Như vậy, có thể chư vị cảm thấy như bệnh cũ tái phát; đó là tống khứ

nghiệp từ căn bản, vậy nên chư vị sẽ có phản ứng; có người có phản ứng cục bộ,

chỗ này khó chịu, chỗ kia khó chịu, đủ loại khó chịu, đều sẽ xảy đến, [tất cả] đều là

bình thường. Tôi nói với mọi người, bất kể khó chịu như thế nào, [chư vị] nhất định

phải kiên trì đến nghe giảng bài, chỉ cần chư vị đi vào giảng đường [lớp học này],

thì triệu chứng [bệnh] nào của chư vị cũng mất; sẽ không xuất hiện bất kể nguy

hiểm gì. Có điểm này, [tôi] nói với mọi người rằng, cái mà chư vị cho là “bệnh” ấy

dẫu nặng đến đâu, thì hy vọng rằng chư vị đều kiên trì đến [học]; Pháp rất khó

được. Khi chư vị càng thấy khó chịu thì tức là ‘vật cực tất phản’, toàn bộ thân thể

chư vị cần được tịnh hoá hết, cần phải được tịnh hoá toàn bộ. Gốc của bệnh đã

được dứt bỏ, chỉ còn chút dư khí đen kia để nó tự chạy xuất ra, để cho chư vị chịu

một chút khó khăn, chịu một chút tội [khổ] ấy mà thôi; chư vị mà không chịu đựng

một chút nào thì không thể được.

Trong xã hội người thường, chỉ vì danh lợi, tranh đoạt giữa người với người,

chư vị ăn không ngon ngủ không yên, thân thể chư vị đã không còn ra hình nữa: ở

không gian khác mà nhìn thân thể chư vị, thì xương cốt kia, khúc nào cũng đều

[màu] đen. Với thân thể như thế, một khi giúp chư vị tịnh hoá mà không có chút

phản ứng nào thì cũng không thể được; do vậy chư vị phải có phản ứng. Có người

còn bị miệng nôn trôn tháo. Trước đây có nhiều học viên các địa phương viết cho

tôi trong bài tâm đắc thể hội: ‘Thưa Sư phụ, con từ lúc ra khỏi lớp học trở về nhà,

trên đường cứ liên tục tìm nhà vệ sinh, tìm suốt cho đến khi về nhà’. Bởi vì nội tạng

đều cần phải được tịnh hoá. Có một số vị cá biệt thì ngủ, tôi giảng xong thì vị ấy

cũng tỉnh giấc. Tại sao vậy? Bởi vì trong sọ não vị ấy có bệnh, cần phải điều chỉnh.

Hễ điều chỉnh bộ não, thì họ không thể chịu được; do đó cần cho họ vào trạng thái

mê man bất tỉnh, để họ không hay biết. Nhưng bộ phận thính giác một số người

không có vấn đề gì; họ ngủ rất say, nhưng một chữ cũng không bỏ sót, [họ] nghe

được hết; người này sau đó tinh thần phấn khởi lên, không ngủ hai ngày cũng

không thấy mệt mỏi. Tất cả đều là những trạng thái khác nhau, đều cần điều chỉnh

hết; toàn bộ thân thể cần được tịnh hoá cho chư vị.

Vấn đề hữu sở cầu 43

[Là] người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp [một cách] chân chính, khi chư vị có

thể vứt bỏ tâm [chấp trước], [thì] từ nay trở đi sẽ đều có phản ứng. [Còn với] người

chẳng vứt bỏ tâm ấy, trên miệng họ nói đã dứt bỏ rồi, thực tế họ hoàn toàn chưa vứt

bỏ, do vậy rất khó làm [tịnh hoá cho họ]. Cũng có một số người về sau này mới

hiểu ra nội dung bài tôi giảng, họ [mới] vứt bỏ, thân thể [mới] tịnh hoá; người khác

đều là thân nhẹ nhàng, họ mới bắt đầu [được] khỏi bệnh, mới bắt đầu thấy khó

chịu. Ở lớp học nào cũng có những vị thụt hậu như thế, ngộ tính hơi kém; vậy nên

chư vị có gặp bất kể tình huống nào thì cũng đều là bình thường. Tại các địa

phương khác trong khi giảng bài, đều xuất hiện tình huống này: có người thấy rất

khó chịu, phủ phục trên ghế chẳng dậy, đợi tôi từ trên bục giảng xuống trị [bệnh]

cho họ. Tôi sẽ chẳng động thủ trị [bệnh], chỉ có một quan

1

mà chư vị chẳng qua

nổi; sau này khi tự mình tu luyện chư vị sẽ gặp nhiều đại nạn nữa; cái này chẳng

qua nổi, thì chư vị tu luyện làm sao được? Một chuyện nhỏ ấy mà chư vị không

vượt qua nổi là sao? Tất cả đều có thể vượt qua hết. Vậy nên mọi người không nên

tìm tôi [để] trị bệnh; tôi cũng không trị bệnh; hễ chư vị động đến chữ “bệnh” là tôi

không muốn nghe.

Con người thật sự rất khó [cứu] độ; ở mỗi lớp học nào cũng có 5%, 10% số

người là không theo lên được. Ai ai cũng đắc đạo là điều không thể; là người kiên

định [tu] luyện rồi, còn cần xem chư vị có thể tu xuất lai hay không, còn cần xem

chư vị có thể hạ quyết tâm tu hay không; ai ai cũng thành Phật là điều không thể.

[Người nào] chân tu Đại Pháp, đọc sách này cũng sẽ gặp trạng thái như thế; cũng

lại được hết thảy những gì đáng được đắc.

1 Quan: cửa, cửa ải; có nghĩa là khảo nghiệm, thử thách. Quá quannghĩa là vượt qua khảo nghiệm, thử thách.

Vấn đề hữu sở cầu 44

Bài giảng thứ ba

Tôi đối xử với các học viên đều như đệ tử

Mọi người biết chăng? Tôi làm việc gì đây? Đối với tất cả học viên tôi đều dẫn

dắt như là đệ tử, bao gồm cả người tự học mà có thể tu luyện một cách chân chính.

Truyền công lên cao tầng, mà không dẫn dắt chư vị như thế thì không thể được;

điều ấy tương đương với [việc làm] vô trách nhiệm, làm loạn. Chúng tôi cấp cho

chư vị bao nhiêu thứ như thế, cho chư vị biết được bao nhiêu [Pháp] lý mà người

thường không đáng được biết; tôi truyền Đại Pháp này cho chư vị, lại còn cấp cho

chư vị rất nhiều thứ nữa. Giúp chư vị tịnh hoá thân thể rồi, với lại còn liên quan đến

một số vấn đề khác nữa; do vậy không dẫn dắt chư vị như đệ tử, [thì] hoàn toàn

không thể được. Tiết lộ cho một người thường nhiều thiên cơ tuỳ tiện như thế, điều

ấy không được phép. Nhưng có một điểm, thời đại hiện nay đã biến đổi, chúng ta

cũng không phải theo hình thức dập đầu chắp tay lạy nữa. Hình thức ấy không có

tác dụng gì; làm thế giống như tôn giáo; chúng ta không làm như vậy. Bởi vì chư vị

dập đầu xong, bái sư xong, ra khỏi cửa lại quay lại là chư vị khi xưa, nơi người

thường muốn làm gì liền làm nấy, chỉ vì danh lợi của mình mà tranh mà đấu, thì hỏi

[dập đầu bái sư] có tác dụng gì? Chư vị [thậm chí còn] có thể lấy cờ hiệu của tôi

làm bại hoại danh dự Đại Pháp!

Việc tu luyện chân chính đều dựa vào cái tâm của chư vị mà tu; chỉ cần chư vị

có thể tu, chỉ cần chư vị có thể tu một cách vững bước tinh tấn và kiên định, thì

chúng tôi sẽ dẫn dắt chư vị như là đệ tử; [nếu] chẳng đối xử như thế thì không thể

được. Nhưng có một số người vẫn không nhất định có thể thật sự tự coi bản thân họ

là người tu luyện mà [tiếp tục] tu; có người không thể [làm được như vậy]. Nhưng

rất nhiều người sẽ đi theo tu luyện thật sự. Chỉ cần chư vị còn tu, thì chúng tôi sẽ

dẫn dắt chư vị như những đệ tử.

Hàng ngày cứ luyện mấy bộ động tác ấy, vậy có thể tính là đệ tử Pháp Luân

Đại Pháp không? Không nhất định [là vậy]. Bởi vì tu luyện chân chính cần chiểu

theo tiêu chuẩn tâm tính chúng tôi đề ra mà [tự] yêu cầu, cần phải thật sự đề cao

tâm tính bản thân; ấy mới là tu luyện chân chính. Chư vị cứ luyện các động tác ấy,

[nhưng] tâm tính không đề cao lên, không có năng lượng lớn mạnh để gia trì mọi

thứ, [thì] chưa nói chuyện tu luyện được; chúng tôi cũng không thể coi chư vị là đệ

tử Pháp Luân Đại Pháp. Chư vị nếu cứ như thế mãi, đành rằng chư vị luyện công,

nhưng không [thực sự] chiểu theo yêu cầu của Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi, chư

vị không đề cao tâm tính, ở chốn người thường chư vị vẫn hành xử như xưa, rất có

thể chư vị vẫn gặp phải những sự cố phiền phức này khác; [khi] xử lý không đúng,

chư vị thậm chí có thể nói Pháp Luân Đại Pháp đã làm cho chư vị luyện công thiên

[sai] như thế; điều này có thể xảy ra. Vậy nên chư vị phải chiểu theo yêu cầu tiêu

chuẩn tâm tính của chúng tôi mà hành xử, ấy mới là người tu luyện chân chính. Tôi

đã nói cho mọi người vậy là rất rõ; do đó mọi người đừng tìm tôi để làm cái việc

bái sư hình thức ấy; chư vị chỉ cần thật sự tu, thì tôi sẽ đối đãi như vậy với chư vị.

Pháp thân của tôi nhiều không tính được; không chỉ là số học viên này, dẫu nhiều

hơn nữa tôi cũng quản được.

Tôi đối xử với các học viên đều như đệ tử 45

Công pháp Phật gia và Phật giáo

Công [pháp] Phật gia không phải là Phật giáo, điểm này tôi giảng rõ cho chư

vị; thực ra công [pháp] Đạo gia cũng không phải là Đạo giáo. Trong chúng ta có

một số người cứ không hiểu rõ điều này. Một số vị là hoà thượng ở chùa, cũng có

một số vị là cư sỹ, họ tự cho rằng họ hiểu biết nhiều điều trong Phật giáo, nên họ

chẳng e dè gì mà cứ tuyên truyền những điều trong Phật giáo cho các học viên

chúng tôi. Tôi nói với chư vị rằng, chư vị đừng làm thế; bởi vì đây là sự việc trong

các pháp môn khác nhau. Tôn giáo có hình thức của tôn giáo; còn ở đây chúng tôi

truyền một bộ phận pháp môn tu luyện của chúng tôi; trừ các đệ tử chuyên tu của

Pháp Luân Đại Pháp, thì [chúng tôi] không giảng hình thức tôn giáo; vậy nên

[chúng tôi] không phải là Phật giáo trong thời kỳ mạt Pháp.

Pháp trong Phật giáo chỉ là một bộ phận nhỏ trong Phật Pháp; còn có nhiều Đại

Pháp cao thâm khác; trong mỗi tầng lại có các Pháp khác nhau. Thích Ca Mâu Ni

giảng rằng tu luyện có 8 vạn 4 nghìn pháp môn. Trong Phật giáo chỉ có một vài

pháp môn, nó chỉ có Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông, Tịnh Độ

[tông], Mật tông, v.v. chỉ mấy pháp môn ấy; đếm ra chỉ là một con số quá nhỏ! Do

vậy nó không khái quát toàn thể Phật Pháp được; nó chỉ là một bộ phận nhỏ của

Phật Pháp. Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi cũng là một pháp môn trong 8 vạn 4

nghìn pháp môn ấy; [nó] không có quan hệ gì với Phật giáo nguyên thuỷ cho đến

Phật giáo thời kỳ mạt Pháp, cũng không có quan hệ với các tôn giáo hiện đại.

Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni sáng lập vào 2 nghìn 5 trăm năm trước đây tại

Ấn Độ cổ. Thời ấy sau khi Thích Ca Mâu Ni khai công khai ngộ, trong ký ức của

Ông nhớ lại những điều bản thân mình đã tu luyện trước đây, [Ông] lấy những điều

[tu luyện] ấy truyền rộng ra độ nhân. Pháp môn của Ông bất kể có xuất ra bao

nhiêu vạn cuốn kinh sách, kỳ thực là 3 chữ, đặc điểm pháp môn của Ông gọi là

“Giới Định Huệ”. Giới, chính là cấm hẳn hết thảy dục vọng nơi người thường,

cưỡng chế chư vị vứt bỏ những truy cầu lợi ích, đoạn tuyệt khỏi hết thảy những

điều thế tục này khác. Như thế tâm của họ sẽ biến thành ‘không’, điều gì cũng

chẳng mong nghĩ, họ có thể định lại được; chúng {Giới và Định} tương phụ tương

thành [cho nhau]. Sau khi định lại được rồi, thì cần đả toạ thực tu, dựa vào định lực

mà tu lên; đó chính là phần tu luyện chân chính của pháp môn ấy. Họ cũng không

giảng thủ pháp, không cải biến bản thể của mình. Họ chỉ tu cái công [xác định] tầng

cao thấp của mình, vậy nên [họ] chỉ một điều là tu tâm tính của mình; không tu

mệnh nên cũng không giảng diễn hoá của công. Đồng thời trong khi định thì họ

tăng cường định lực, trong khi đả toạ thì chịu khổ, [và] tiêu nghiệp của họ. Huệ, ấy

chính là chỉ người đã khai công khai ngộ, đại trí đại huệ. Thấy được chân lý của vũ

trụ, thấy chân tướng của mỗi tầng không gian; thần thông đại hiển. Khai huệ, khai

ngộ ấy, còn được gọi là ‘khai công’.

Thời Thích Ca Mâu Ni sáng lập pháp môn này, ở Ấn Độ có 8 tôn giáo đang

đồng thời lưu truyền. Có một tôn giáo thâm căn cố đế gọi là Bà La Môn giáo.

Trong những năm tại thế, Thích Ca Mâu Ni đã luôn luôn phát sinh hình thái đấu

tranh về ý thức [quan điểm] với các tôn giáo khác. Vì điều mà Thích Ca Mâu Ni

truyền là chính Pháp, do đó trong suốt quá trình truyền Pháp, Phật Pháp mà Ông

truyền càng ngày càng hưng thịnh. Còn các tôn giáo khác càng ngày càng suy tàn;

ngay cả Bà La Môn giáo vốn đã cắm rễ sâu nơi ấy cũng lâm vào trạng thái bên bờ

diệt vong. Nhưng sau khi Thích Ca Mâu Ni [nhập] niết bàn, các tôn giáo khác lại

bắt đầu hưng thịnh trở lại; đặc biệt là Bà La Môn giáo, lại bắt đầu hưng thịnh trở

Công pháp Phật gia và Phật giáo 46

lại. Còn khi ấy trong Phật giáo xuất hiện tình huống gì? Có một số tăng nhân đã ở

các tầng khác nhau khai công, khai ngộ rồi, [nhưng] mà tầng mà [họ] khai [công

khai ngộ] lại tương đối thấp. Thích Ca Mâu Ni đạt đến tầng Như Lai; còn nhiều

tăng nhân không hề đạt được đến tầng ấy.

Tại các tầng khác nhau Phật Pháp có các hiển hiện khác nhau; nhưng [tầng]

càng cao [thì] càng tiếp cận chân lý, [tầng] càng thấp thì càng viễn ly với chân lý.

Vậy nên một số tăng nhân khai công khai ngộ tại tầng thấp rồi, họ dùng hiển tượng

trong vũ trụ mà họ thấy tại tầng của bản thân mình, tình huống mà [họ] hiểu được

và [Pháp] lý mà [họ] ngộ được, để giải thích những lời mà Thích Ca Mâu Ni đã

từng giảng. Nghĩa là, đối với Pháp mà Thích Ca Mâu Ni từng giảng có các tăng

nhân tiến hành giải thích thế này, [hoặc] giải thích thế khác. Lại có một số tăng

nhân lấy những điều bản thân mình tham ngộ mà giảng nói như thể đó là lời của

Thích Ca Mâu Ni, chứ họ không giảng [bằng] những lời nguyên gốc của Thích Ca

Mâu Ni. Như thế làm diện mục của Phật Pháp sai khác hẳn, hoàn toàn không còn là

Pháp mà Thích Ca Mâu Ni đã truyền; rốt cuộc đã làm Phật Pháp trong Phật giáo tại

Ấn Độ tiêu mất. Đó là bài học lịch sử quan trọng bậc nhất; vậy nên Ấn Độ sau này

không còn Phật giáo nữa. Trước khi tiêu mất, Phật giáo trải qua nhiều lần cải tổ,

cuối cùng kết hợp với những điều của Bà La Môn giáo, mà hình thành tại Ấn Độ

một tôn giáo [đến] hiện nay, gọi là Ấn Độ giáo. [Họ] cũng không thờ cúng Phật nào

cả, mà thờ cúng những thứ khác; [họ] cũng không tin theo Thích Ca Mâu Ni; đã

xảy ra tình huống như thế.

Phật giáo trong quá trình phát triển, đã xuất hiện một số lần cải tổ rất lớn. Một

là [xảy ra] không lâu sau khi Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế; có người căn cứ

theo [Pháp] lý ở cao tầng mà Thích Ca Mâu Ni giảng, để sáng lập ra Đại Thừa Phật

giáo. [Về những ai nhìn] nhận rằng Pháp mà Thích Ca Mâu Ni giảng công khai là

giảng cho người [tu] bình thường nghe, dùng để giải thoát tự thân, đạt đến quả vị

La Hán, không giảng phổ độ chúng sinh; được gọi đó là [theo] Tiểu Thừa Phật

giáo. Hoà thượng tại các nước Đông Nam Á bảo lưu theo phương pháp tu luyện

nguyên thuỷ từ thời đại của Thích Ca Mâu Ni; người Hán chúng ta gọi đó là Tiểu

Thừa Phật giáo. Tất nhiên tự họ không thừa nhận [điều ấy]; họ nhìn nhận rằng họ

kế thừa những điều nguyên gốc của Thích Ca Mâu Ni. Quả đúng là như vậy; trên

cơ bản họ kế thừa phương pháp tu luyện của thời đại Thích Ca Mâu Ni.

Đại Thừa Phật giáo vốn đã qua cải tổ ấy, sau khi truyền nhập vào Trung Quốc

chúng ta, ở Trung Quốc chúng ta [Đại Thừa Phật giáo] đã cố định lại; đó chính là

Phật giáo đang lưu truyền ở nước ta hiện nay. Trên thực tế thì nó đã thay đổi toàn

bộ diện mạo so với Phật giáo của thời đại Thích Ca Mâu Ni: từ trang phục cho đến

toàn bộ các trạng thái tham ngộ, [và] quá trình tu luyện đều đã đổi khác. Phật giáo

nguyên thuỷ chỉ nhìn nhận Thích Ca Mâu Ni là tổ tôn để thờ cúng; nhưng [trong]

Phật giáo hiện đại đã xuất hiện khá nhiều vị Phật cũng như các Đại Bồ Tát; hơn nữa

đó là tín ngưỡng đa Phật. Xuất hiện tín ngưỡng đối với rất nhiều Phật Như Lai; trở

thành một chủng Phật giáo đa Phật. Ví dụ: Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, Đại Nhật

Như Lai, v,v.; cũng xuất hiện nhiều Đại Bồ Tát. Như vậy, toàn thể Phật giáo đã

hoàn toàn khác xa với [Phật giáo] nguyên sơ do Thích Ca Mâu Ni sáng lập thuở

xưa.

Tại thời kỳ ấy còn phát sinh một quá trình cải tổ nữa, từ Bồ Tát Long Thọ

truyền xuất ra một chủng phương pháp mật tu; [nó] từ Ấn Độ đi qua Afghanistan,

sau đó tiến vào vùng Tân Cương nước ta mà truyền vào đất người Hán; [lúc ấy]

đúng vào [triều] đại nhà Đường, nên gọi đó là ‘Đường Mật’. Bởi vì Trung Quốc

Công pháp Phật gia và Phật giáo 47

chúng ta chịu ảnh hưởng rất mạnh của Nho gia, quan niệm đạo đức khác với các

dân tộc nói chung. Trong pháp môn tu luyện Mật tông này có [những] điều của

nam nữ song tu, xã hội thời ấy không thể tiếp thụ; do vậy vào thời kỳ diệt Phật

trong những năm Hội Xương [triều] đại nhà Đường thì nó đã bị trừ dứt hẳn; Đường

Mật đã bị tiêu mất ở nơi người Hán chúng ta. Nhật Bản hiện nay có [môn] gọi là

‘Đông Mật’, [đó] chính là học từ Trung Quốc chúng ta vào thời ấy; nhưng họ

không hề qua quán đỉnh. Theo Mật tông giảng, không qua quán đỉnh mà học những

điều của Mật tông, thì thuộc về trộm Pháp, không được thừa nhận là thân thụ. Một

nhánh khác từ Ấn Độ, Nepal truyền nhập vào Tây Tạng, gọi là ‘Tạng Mật’, từ đó

lưu truyền đến nay. Trên cơ bản Phật giáo có những việc như thế; một cách rất đơn

giản và khái quát, tôi đã nói một lượt về quá trình diễn biến phát triển của nó. Toàn

thể Phật giáo trong quá trình phát triển, còn xuất hiện [những môn] giống như

Thiền tông do Đạt Ma sáng lập, còn có Tịnh Độ tông, Hoa Nghiêm tông, v.v.; tất cả

đều chiểu theo điều Thích Ca Mâu Ni từng giảng rồi tham ngộ [mà] ra; chúng đều

thuộc về Phật giáo đã qua cải tổ. Trong Phật giáo có hơn mười pháp môn như vậy;

chúng đều đi theo hình thức tôn giáo, do đó đều thuộc về Phật giáo.

Các tôn giáo sinh ra trong thế kỷ này; [mà] không chỉ thế kỷ này, mấy thế kỷ

trước ở các vùng khác nhau trên thế giới cũng có nhiều tôn giáo mới xuất sinh;

phần đông chúng đều là giả. Các Đại Giác Giả độ nhân, [họ] đều có thiên quốc của

bản thân mình; Thích Ca Mâu Ni, A Di Đà Phật, Đại Nhật Như Lai, v.v., các Phật

Như Lai ấy độ nhân, [họ] đều có thế giới do bản thân mình chủ trì. Tại hệ Ngân Hà

này của chúng ta, có trên một trăm thế giới như thế; Pháp Luân Đại Pháp của chúng

tôi cũng có thế giới Pháp Luân.

Những pháp môn giả kia độ nhân thì độ đi đâu? Họ không độ nhân được; điều

họ giảng ra không phải là Pháp. Tất nhiên có một số người đã sáng lập tôn giáo,

mục đích ban đầu [là] họ không muốn sẽ làm ma phá hoại chính giáo. Họ khai công

khai ngộ tại các tầng khác nhau, họ thấy được một chút [Pháp] lý; nhưng so với các

Giác Giả [có khả năng] độ nhân thì họ khác xa: họ rất thấp. Họ phát hiện một số

[Pháp] lý, phát hiện một số điều ở nơi người thường là sai; họ cũng [khuyên] bảo

người ta làm điều tốt như thế nào; ban đầu họ cũng không phản đối các tôn giáo

khác. Cuối cùng người ta tín phụng họ, cho rằng họ giảng có đạo lý; sau đó ngày

càng tin tưởng họ; kết quả một số người sùng bái họ, không sùng bái tôn giáo. Tâm

danh lợi của họ xuất hiện, [họ] bảo đại chúng phong [cho họ] làm [vị] nào đó; từ đó

trở đi họ lập ra một tôn giáo mới. Tôi nói với mọi người rằng chúng đều thuộc về tà

giáo; dẫu chúng chẳng hại người, chúng vẫn là tà giáo. Bởi vì chúng can nhiễu đến

[việc] con người tin vào chính giáo; chính giáo là độ nhân, còn chúng thì không

thể. Dần dần phát triển, họ quay ra làm điều xấu. Gần đây có nhiều [thứ] loại này

đã lưu truyền vào Trung Quốc chúng ta; ví dụ cái gọi là ‘pháp môn Quán Âm’

chính là một trong số ấy. Vậy nên mọi người phải hết sức chú ý; nghe nói rằng một

nước ở đông Á có trên 2 nghìn loại [như vậy]; tại Đông Nam Á và các nước Tây

phương khác, điều gì cũng có [người] tin; có một quốc gia công nhiên có Vu giáo.

Những thứ ấy đều là ma xuất hiện tại thời kỳ mạt Pháp. Thời kỳ mạt Pháp là không

phải chỉ nói đến Phật giáo; mà còn nói về rất nhiều không gian từ một tầng rất cao

trở xuống đều đã bại hoại rồi. Mạt Pháp không chỉ nói đến mạt Pháp của Phật giáo,

mà còn là xã hội nhân loại không [còn] duy trì tâm Pháp [để] ước [chế câu] thúc

đạo đức nữa.

Công pháp Phật gia và Phật giáo 48

Tu luyện phải chuyên nhất

Chúng tôi giảng rằng tu luyện phải chuyên nhất; bất kể chư vị tu như thế nào,

thì cũng không thể trộn lẫn với những thứ khác mà loạn tu. Có những cư sỹ, họ vừa

tu những điều trong Phật giáo, vừa tu những điều của Pháp Luân Đại Pháp chúng

tôi. Tôi nói cho chư vị biết, rốt cuộc chư vị chẳng được gì, chẳng ai cấp gì cho chư

vị. Bởi vì chúng tôi đều là Phật gia, nên ở đây có vấn đề tâm tính, đồng thời cũng

có vấn đề chuyên nhất. Chư vị chỉ có một thân thể; thân thể chư vị [hỏi] sẽ sinh ra

công theo môn nào đây? Làm thế nào để diễn hoá cho chư vị? [Hỏi] chư vị muốn

đến đâu? Chư vị tu theo pháp môn nào thì chư vị sẽ đến đó. Chư vị tu theo Tịnh Độ

thì chư vị sẽ đến thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà; còn nếu chư vị tu theo Dược

Sư Phật thì chư vị sẽ đến thế giới Lưu Ly; trong tôn giáo [cũng] giảng như thế; gọi

là ‘bất nhị pháp môn’.

Luyện công mà chúng tôi giảng ở đây, chính là một quá trình diễn hoá công

hoàn chỉnh; hoàn toàn tuân theo pháp môn tu luyện của bản thân mình. Hỏi chư vị

sẽ đi đến đâu? Chư vị đặt [hai] chân trên hai chiếc thuyền, thì sẽ chẳng được gì.

Không chỉ giữa luyện công và tu Phật tại chùa [là] không thể trộn lẫn; [mà] giữa

các phương pháp tu luyện, giữa khí công với khí công, giữa tôn giáo với tôn giáo

cũng không thể trộn lẫn. Ngay cả cùng một tôn giáo, [thì] giữa các pháp môn của

nó cũng không thể đồng thời tu lẫn, chỉ có thể chọn lấy một mà tu thôi. Chư vị tu

Tịnh Độ, thì là Tịnh Độ; chư vị tu Mật tông, thì là Mật tông; chư vị tu Thiền tông,

thì là Thiền tông. Nếu chư vị đặt chân lên hai thuyền, vừa tu cái này, vừa tu cái kia,

thì sẽ chẳng được gì. Vậy cũng nói, trong Phật giáo [cũng] giảng ‘bất nhị pháp

môn’, cũng không cho phép chư vị tu lẫn. Họ cũng luyện công, họ cũng tu luyện;

quá trình sinh thành của công nơi họ đều chiểu theo quá trình tu luyện và diễn hoá

trong pháp môn của bản thân họ mà [tiến hành]. Tại các không gian khác cũng có

một quá trình diễn hoá cái công [ấy], cũng là quá trình hết sức phức tạp hết sức

huyền diệu; không thể tuỳ tiện trộn lẫn những thứ khác vào mà tu được.

Một số cư sỹ, nghe thấy đây là công pháp Phật gia, liền lôi kéo học viên của

chúng tôi lên chùa quy y. Tôi nói với chư vị rằng, các học viên chúng ta đang ngồi

đây, chớ có ai làm điều đó. Chư vị phá hoại Đại Pháp của chúng tôi, cũng phá hoại

giới luật của Phật giáo; đồng thời chư vị can nhiễu đến học viên, [chư vị] khiến

người ta không đắc được gì hết; điều ấy không thể được. Tu luyện là vấn đề nghiêm

túc, nhất định phải chuyên nhất. Bộ phận [môn pháp] mà chúng tôi truyền nơi

người thường, tuy rằng không phải tôn giáo, nhưng mục tiêu tu luyện là nhất trí

[với nhau]; đều là [cùng] một mục đích đạt đến khai công khai ngộ, công thành

viên mãn.

Thích Ca Mâu Ni giảng rằng, đến thời mạt Pháp, tăng nhân trong chùa tự độ đã

rất khó, huống nữa là cư sỹ, càng không có ai quản. Dẫu rằng chư vị đã bái sư,

nhưng người được gọi là ‘sư’ ấy cũng là một người tu luyện; người ấy mà không

thực tu thì vô dụng; ai mà không tu cái tâm này thì đều không thể lên được. Quy y

là hình thức nơi người thường; chư vị quy y xong thì phải chăng [chư vị] đã thành

người của Phật gia? Phật sẽ quản chư vị? Không [hề] có chuyện ấy. Hàng ngày chư

vị dập đầu lạy đến vỡ cả đầu, đốt hương hết nén này nén khác, cũng vô dụng; chư

vị phải chân chính thực tu cái tâm này thì mới được. Đến thời mạt Pháp, vũ trụ đã

phát sinh biến đổi to lớn, thậm chí ngay cả những nơi tín ngưỡng tôn giáo cũng

không còn tốt nữa; những người có công năng (kể cả hoà thượng) đã phát hiện ra

tình huống này. Hiện nay toàn thế giới chỉ mình cá nhân tôi đang công khai truyền

Tu luyện phải chuyên nhất 49

chính Pháp; tôi làm điều mà người ta trước đây chưa làm; ngoài ra vào thời mạt

Pháp [tôi] đã mở cửa lớn [pháp môn] này. Thực ra [điều này] nghìn năm chẳng gặp,

vạn năm chẳng gặp; nhưng có thể độ được không cũng chính là có thể tu được

không thì còn tuỳ vào bản thân [chư vị]; điều tôi giảng là [Pháp] lý của cả vũ trụ to

lớn này.

Tôi cũng không bảo là chư vị phải học Pháp Luân Đại Pháp của tôi; điều tôi

giảng là một [Pháp] lý: [Nếu] chư vị muốn tu luyện [thì] chư vị nhất định phải

chuyên nhất; nếu không [thì] chư vị hoàn toàn không thể tu luyện được. Tất nhiên

nếu chư vị không muốn tu luyện, [thì] chúng tôi cũng không quản chư vị; Pháp là

để giảng cho người tu luyện chân chính nghe; do vậy nhất định phải chuyên nhất;

ngay cả ý niệm của công pháp khác cũng không được xen lẫn vào. Ở đây tôi không

giảng hoạt động ý niệm; Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi không có bất cứ ý niệm

hoạt động nào hết; do vậy mọi người cũng đừng xen thêm ý niệm nào vào trong

đây. Nhất định phải chú ý điểm này: trên cơ bản không có hoạt động ý niệm; Phật

gia giảng ‘không’, Đạo gia giảng ‘vô’.

Tôi có một lần lấy tư tưởng của mình liên [kết] với bốn, năm Đại Giác Giả và

Đại Đạo ở tầng cực cao. Nói cao [đến đâu], từ người thường mà xét thì quả thật là

cao [đến mức] người ta có nghe cũng sửng sốt [khó tin]. Họ muốn biết trong tâm

tôi có nghĩ gì. Tôi tu luyện đã nhiều năm như vậy, người khác muốn biết tư tưởng

của tôi thì hoàn toàn không thể được, công năng người khác hoàn toàn không thể

đánh vào được. Không ai biết được tôi, họ cũng không biết được tôi nghĩ gì; họ

muốn liễu giải hoạt động tư tưởng của tôi, do vậy họ đã được tôi đồng ý, nên có

một giai đoạn tư tưởng của tôi và họ liên [kết] với nhau. Sau khi liên [kết], tôi có

chút đỉnh chịu không nổi; bất kể tầng của tôi cao bao nhiêu, cũng như tầng của tôi

thấp bao nhiêu, bởi vì tôi ở nơi người thường, tôi vẫn còn làm một việc hữu vi: tâm

đang độ nhân, để tâm vào việc độ nhân. Nhưng cái tâm của họ tĩnh đến trình độ

nào? Tĩnh đến một trình độ đáng sợ. Nếu có một cá nhân tĩnh đến trình độ ấy thì

còn được; [nhưng] bốn, năm vị ngồi nơi kia, đều tĩnh đến trình độ ấy, giống như

một đầm [sâu] nước chết không có gì trong đó hết; tôi muốn cảm thụ họ mà không

thể cảm thụ được. Mấy hôm ấy trong tâm tôi rất khó chịu, chính là cảm thấy một dư

vị nào đó. Người thông thường chúng ta không [thể] tưởng tượng được, không [thể]

cảm giác được; hoàn toàn là vô vi, [hoàn toàn] là không.

Tu luyện trên cao tầng hoàn toàn không có hoạt động ý niệm; bởi vì chư vị ở

nơi người thường gây cơ sở trên tầng này, bộ cơ sở ấy đã được lập xong. Đến tu

luyện tại cao tầng, đặc biệt là công pháp của chúng tôi [nó] là tự động, hoàn toàn là

tu luyện tự động. Chư vị chỉ cần đề cao tâm tính của mình, công của chư vị sẽ tăng

trưởng; thậm chí chư vị không cần phải làm bất cứ thủ pháp nào hết. Động tác của

chúng tôi là [để] gia cường những cơ chế tự động; vì sao trong thiền định họ cứ

thiền bất động? Hoàn toàn chính là vô vi. Chư vị thấy Đạo gia giảng thủ pháp này,

thủ pháp kia, hoạt động ý niệm này nọ, ý niệm dẫn đạo. Tôi nói với chư vị rằng

Đạo gia sau khi vượt khỏi tầng về khí một chút, sẽ không còn gì hết; hoàn toàn

không giảng ý niệm này, ý niệm kia. Vậy nên có một số người từng luyện những

khí công khác, họ vẫn mãi không vứt bỏ được những thứ nào là hô hấp, nào là ý

niệm, v.v. Tôi dạy họ những điều đại học, họ vẫn cứ hỏi tôi những việc của học

sinh tiểu học: dẫn đạo ra sao, hoạt động ý niệm thế nào; họ đã quen như thế rồi; họ

nhìn nhận rằng khí công chính là như vậy, kỳ thực không phải vậy.

Tu luyện phải chuyên nhất 50

Công năng và công lực

Chúng ta có nhiều người nhận thức chưa rõ về các danh từ trong khí công;

cũng có người cứ lẫn lộn không rõ mãi. Họ nói ‘công năng’ thành ‘công lực’, ‘công

lực’ lại nói thành ‘công năng’. Chúng ta dựa vào tâm tính của chính mình mà tu

[luyện] ra loại công ấy, [nó đã] đồng hoá với đặc tính của vũ trụ, [và là] đức của

bản thân diễn hoá trở thành công. Đó chính là quyết định tầng cao thấp của cá nhân,

công lực lớn nhỏ, vấn đề quả vị cao thấp của họ; công ấy chính là then chốt bậc

nhất. Trong quá trình tu luyện, người ta sẽ xuất hiện một loại trạng thái nào? Có thể

xuất hiện một số ‘công năng đặc dị’, mà chúng tôi gọi tắt là ‘công năng’. Còn cái

công đề cao tầng mà chúng tôi vừa nói đến, nó được gọi là ‘công lực’. Tầng càng

cao thì công lực càng lớn, công năng càng mạnh.

Công năng chỉ là sản phẩm phụ trong quá trình tu luyện, [chúng] không đại

biểu cho tầng, không phải đại biểu [rằng] tầng cao hay thấp của cá nhân, công lực

lớn hay nhỏ; có người có thể xuất hiện nhiều [công năng], có người xuất hiện ít.

Ngoài ra công năng cũng không phải là thứ để truy cầu như là điều chủ yếu để tu

mà có thể đạt được. [Chỉ] khi người [tu luyện] định rõ là họ tu luyện một cách chân

chính, họ mới có thể xuất công năng; không thể coi [công năng] là mục đích chủ

yếu để mà tu. Chư vị muốn luyện thứ ấy để làm gì? Mong sử dụng nơi người

thường phải không? Tuyệt đối không thể cho phép chư vị tuỳ tiện dùng chúng ở nơi

người thường; do đó càng [truy] cầu càng không có. Bởi vì chư vị [truy] cầu, bản

thân [truy] cầu chính là tâm chấp trước; tu luyện cần từ bỏ chính là tâm chấp trước.

Có rất nhiều người tu luyện đã đến cảnh giới rất cao thâm, [mà] họ chưa có

công năng. Sư phụ giúp họ khoá lại hết, e rằng họ giữ mình không vững mà phạm

điều xấu; do đó ngay từ đầu trở đi đã không cho phép họ thi triển thần thông của

mình; người như vậy tương đối nhiều. Công năng chịu sự chi phối của ý thức con

người. Trong khi người ta ngủ, có thể kiềm chế không vững bản thân, rất có thể

nằm mộng mà đến sáng hôm sau trời đất đảo lộn cả; điều này không được phép.

Bởi vì tu luyện nơi người thường, nên hễ mà có công năng to lớn thì thường không

được phép dùng; hầu hết đều bị khoá lại; nhưng cũng không tuyệt đối. Có rất nhiều

người tu luyện rất tốt mà không bị khoá; [họ] có thể giữ mình rất tốt, [nên họ] được

phép có một bộ phận công năng. Với những người này, [nếu] chư vị bảo họ lấy

công năng ra hiển thị một cách tuỳ ý, [thì] họ tuyệt đối không làm thế; họ có thể giữ

mình vững vàng.

Phản tu và tá công

Có người chưa từng luyện công, hoặc chỉ mới học được một vài điều trên lớp

học khí công, nhưng chúng đều thuộc về chữa bệnh khoẻ người, chứ không phải là

tu luyện nào hết. Tức là, những người này, họ chưa được chân truyền; nhưng đột

nhiên trong một đêm mà họ có được công. Chúng tôi giảng một chút về loại công

ấy đã đến như thế nào; có một vài hình thức.

Có một loại thuộc về phản tu. ‘Phản tu’ là gì? Chúng ta có những người cao

tuổi muốn tu luyện; tu luyện từ đầu [đối với họ] là [chuyện] đã muộn. Vào lúc

phong trào khí công đang lên cao họ cũng muốn tu luyện; họ biết rằng khí công có

thể làm điều tốt cho người khác, đồng thời có thể đề cao bản thân; họ có một

nguyện vọng như vậy, mong muốn đề cao [lên], mong muốn tu luyện. Nhưng

những năm trước trong cao trào khí công, các khí công sư đều phổ cập khí công,

nhưng không hề có ai thật sự truyền [giảng] những điều ở cao tầng. Cho đến tận

Phản tu và tá công 51

hôm nay, thật sự truyền công tại cao tầng một cách công khai, thì chỉ có một mình

cá nhân tôi làm, không có người thứ hai. Phàm là phản tu, đều 50 tuổi trở lên, là

người tuổi đã cao niên, căn cơ tốt phi thường, trên thân mang những thứ rất tốt, hầu

như người ta đều muốn [thu làm] đồ đệ, làm đối tượng truyền thừa. Tuy nhiên

những người này tuổi tác đã cao, lại mong muốn tu [luyện]; nói chuyện sao dễ vậy!

Hỏi tìm sư phụ nơi đâu? Nhưng khi họ muốn tu luyện, cái tâm ấy hễ nghĩ như thế,

[thì] chính như vàng kim loé sáng, chấn động thế giới mười phương. Người ta nói

[đó là] Phật tính; chính là nói đến Phật tính đã xuất lai.

Từ cao tầng mà xét, sinh mệnh con người chẳng phải vì để làm người. Là vì

sinh mệnh con người sản sinh nơi không gian vũ trụ, đồng hoá với đặc tính Chân

Thiện Nhẫn của vũ trụ, là tính bản thiện, là lương thiện. Nhưng vì sau khi những

thể sinh mệnh nhiều lên, nó cũng sản sinh ra một chủng quan hệ xã hội; do đó trong

số ấy có những người biến đổi thành tự tư hoặc không còn tốt, nên không thể [tồn

tại] ở trên tầng rất cao kia được nữa, nên phải rớt xuống, rớt xuống một tầng. Tại

tầng ấy họ lại trở nên không tốt nữa, lại rớt xuống tiếp, rớt xuống; cuối cùng rớt

xuống đến tầng người thường này. Đã rớt xuống đến tầng này, thì con người phải bị

tiêu huỷ triệt để; tuy nhiên những Đại Giác Giả xuất [phát] từ tâm từ bi, quyết định

ở hoàn cảnh tối khổ ấy cấp cho con người một lần cơ hội nữa: [họ] sáng tạo ra

không gian này.

Người ở các không gian khác đều không tồn tại cái thân thể này; họ có thể

phiêu [đãng bay] lên; họ cũng có thể biến lớn, thu nhỏ. Nhưng ở không gian này

cho con người phải có cái thân thể như thế này; [chính là] cái nhục thân này của

chúng ta. Sau khi có cái thân thể này, thì lạnh chịu không được, nóng chịu không

được, mệt chịu không được, đói chịu không được, thế nào cũng là khổ. Có bệnh

chư vị thấy khó chịu; sinh lão bệnh tử ấy, chính là để chư vị trong khổ mà hoàn

[trả] nghiệp; xét xem chư vị có thể quay trở về hay không, cấp cho chư vị một cơ

hội nữa; do đó con người rớt vào [cõi] mê này. Sau khi rớt xuống đến đây, sáng tạo

cho chư vị cặp mắt này, không cho phép chư vị nhìn được không gian khác, không

thấy được chân tướng của vật chất. Chư vị nếu có thể trở về, thì khổ nhất cũng là

quý nhất; ở trong mê vãng hồi tu dựa vào ngộ tính [chịu] khổ rất nhiều, thì quay về

[rất] nhanh. Nếu chư vị còn tệ hơn nữa, thì sinh mệnh sẽ bị tiêu huỷ; do vậy họ

{Giác Giả} thấy rằng, sinh mệnh của con người, mục đích không phải [vì] để làm

người; [nên] bảo chư vị phản bổn quy chân, quay trở về. Người thường chẳng ngộ

ra điểm này; người thường ở nơi xã hội người thường, họ [chỉ] là người thường;

muốn phát triển như thế nào, [sống] tốt ra sao. Họ càng [sống] tốt, thì càng tự tư,

càng muốn chiếm hữu nhiều, họ càng rời xa đặc tính vũ trụ, họ tiến đến diệt vong.

Trên cao tầng thì [nhận] thấy như thế; chư vị cho rằng đang tiến lên, nhưng trên

thực tế là thoái lùi. Nhân loại cho rằng khoa học đang phát triển tiến bộ, thực ra

cũng chỉ bất quá là đi theo quy luật vũ trụ. Trương Quả Lão trong bát tiên cưỡi lừa

ngược; rất ít người biết được tại sao ông lại cưỡi lừa ngược. Ông phát hiện rằng đi

về trước lại chính là thụt lùi, nên ông quay trở lại cưỡi như thế. Vậy nên một khi

người ta nghĩ đến tu luyện, [thì] các Giác Giả thấy rằng tâm ấy cực kỳ trân quý, nên

có thể giúp đỡ một cách vô điều kiện. Cũng như học viên chúng ta ngồi đây hôm

nay, nếu chư vị [muốn] tu luyện thì tôi có thể giúp chư vị vô điều kiện. Nhưng nếu

làm một người thường, chư vị muốn coi bệnh, cầu mong điều này, cầu mong điều

khác, thì không được, không thể giúp chư vị được. Vì sao? Vì chư vị muốn làm

người thường; người thường nên phải sinh lão bệnh tử, nên phải như thế; hết thảy

đều có quan hệ nhân duyên, không thể làm rối loạn. Trong sinh mệnh [đường đời]

Phản tu và tá công 52

một cá nhân của chư vị đáng lẽ không có tu luyện; hiện nay chư vị muốn tu luyện;

thì cần phải an bài lại đường [đời] từ nay trở đi cho chư vị; và cũng có thể điều

chỉnh thân thể cho chư vị.

Vì vậy con người muốn tu luyện, ngay khi nguyện vọng ấy xuất ra, các Giác

Giả nhìn thấy rồi, thật là quá trân quý. Nhưng giúp thế nào đây? Trên thế gian có sư

phụ nào dạy? Hơn nữa đây là người đã trên 50 tuổi; các Đại Giác Giả không thể

dạy được; bởi vì nếu họ hiển hiện ra để dạy chư vị, giảng Pháp và dạy công cho

chư vị, thì đó là tiết lộ thiên cơ; họ cũng phải hạ [tầng] xuống; con người tự bản

thân làm điều xấu mà rớt vào cõi mê này, nên phải ngộ trong mê mà tu; do đó Giác

Giả không thể dạy. Nếu nhìn thấy một vị Phật sống rõ ràng giảng Pháp cho chư vị,

lại còn dạy công cho chư vị, [thì cả] những kẻ thập ác bất xá cũng đều đến học, ai

ai cũng tin theo; vậy còn gì để ngộ; sẽ không tồn tại vấn đề về ngộ. Bởi vì con

người tự mình rớt đến cõi mê này, lẽ ra đã bị huỷ diệt; [các Giác Giả] cấp cho chư

vị một cơ hội ở trong mê ấy mà có thể quay về. [Nếu] có thể quay về, thì quay về;

không quay về được, thì tiếp tục luân hồi và [chịu] huỷ diệt.

Con đường là tự mình đi; chư vị muốn tu luyện thì làm thế nào đây? Họ nghĩ

đến cách này; bởi vì lúc ấy khí công lên thành cao trào, cũng là một loại biến hoá

của thiên tượng. Vì vậy để phối hợp với loại thiên tượng ấy, người ta {các Giác

Giả} theo vị trí tâm tính của họ {người tu luyện} mà cấp thêm công cho họ, cấp

thêm lên thân họ [thông qua] một loại ống mềm; giống như vòi nước: [họ] mở ra là

nó {công} sẽ đến. Họ muốn phát công thì công đến; [kỳ thực] họ không phát công,

bản thân họ chưa có công; chính là trạng thái như thế, nó được gọi là ‘phản tu’: từ

cao xuống thấp mà tu viên mãn.

Tu luyện bình thường của chúng ta, là tu từ thấp lên cao, mãi cho đến khai

công tu viên mãn. [Người] được gọi là ‘phản tu’ này, tuổi đã cao mà tu từ thấp lên

cao sẽ không kịp, nên họ tu từ cao về thấp sẽ nhanh hơn; hiện tượng ấy cũng là thời

đó tạo thành. Tâm tính của những người này cần phải rất cao; tại nơi vị trí tâm tính

của họ mà họ được cấp thêm năng lượng lớn như vậy. Mục đích để làm gì? Một là

để phối hợp với thiên tượng lúc bấy giờ; người ấy làm điều tốt đồng thời họ có thể

chịu khổ. Vì đối mặt với người thường, các thứ tâm của người thường đều can

nhiễu đến chư vị. Có người chư vị chữa lành bệnh cho họ rồi, họ vẫn không hiểu

được chư vị; khi chữa bệnh cho họ chư vị đã trục khỏi thân họ biết bao thứ xấu, trị

giúp họ đến một mức độ nào đó, nhưng lúc ấy chưa có thể hiện biến đổi rõ ràng [ra

bên ngoài]. Nhưng trong tâm họ không vừa ý, không cảm tạ chư vị; có khi còn

nguyền rủa rằng chư vị lừa họ! Chính là đối mặt với những vấn đề ấy, để tâm của

chư vị được ‘ma luyện’ trong hoàn cảnh ấy. [Giác Giả] cấp công cho họ mục đích

là để họ tu luyện, đề cao lên trên. Khi làm điều tốt [họ] lại đồng thời khai phát công

năng bản thân, tăng công của chính mình; nhưng một số người không hiểu đạo lý

này. Chẳng phải tôi đã giảng rồi sao? Không thể giảng Pháp cho họ; ngộ được thì

ngộ được; đây là vấn đề về ngộ; ngộ không được thì chẳng còn cách nào nữa.

Có vài người khi nhận công, một đêm đang ngủ đột nhiên nóng không chịu

được, không thể đắp chăn; sáng sau dậy sờ vào đâu thì đó có điện. Họ biết là công

đã đến; thân thể của ai có chỗ đau, thì chỉ cần làm qua một cái là khỏi không có sai

chạy, quả là tốt. Từ đó trở đi họ biết là [họ] có công; [họ] làm khí công sư, treo biển

hiệu; họ tự phong cho mình là ‘khí công sư’ mà hành nghề. Ban đầu, bởi vì cá nhân

này là còn rất tốt, họ trị bệnh giúp người ta xong, người ta đưa tiền cho họ, đưa tặng

thứ này thứ khác cho họ, họ có thể không nhận, cự tuyệt hết. Tuy nhiên chẳng trụ

vững nổi trong thùng thuốc nhuộm lớn [là xã hội] người thường mà không bị ô

Phản tu và tá công 53

nhiễm; bởi vì những người thuộc loại phản tu này chưa hề trải qua [quá trình] thật

sự tu luyện tâm tính; giữ vững tâm tính của bản thân rất là khó. Dần dần tặng

những đồ kỷ niệm nhỏ thì họ nhận; rồi dần dần tặng phẩm lớn cũng nhận; cuối

cùng đưa ít quá thì không ưng ý. Rốt cuộc họ nói: ‘Đưa tôi nhiều thứ thế làm gì,

đưa tiền là được rồi!’ Đưa ít tiền quá là không được. Người này cũng chẳng phục

những khí công sư chân truyền, và tai họ rót đầy những lời khen tụng của người ta

về những bản sự của họ. Nếu ai nói họ không tốt, họ sẽ không vừa ý; tâm danh lợi

đã xuất hiện hoàn toàn; họ tưởng rằng mình cao minh hơn những người khác, mình

thật xuất sắc. Họ tưởng rằng cái công cấp cho họ, là để họ làm khí công sư, [để họ]

phát tài; kỳ thực [công ấy] là để họ tu luyện. Hễ tâm danh lợi dấy lên, thì trên thực

tế tâm tính của họ đã rớt xuống rồi.

Tôi đã giảng rằng, tâm tính cao đến đâu, công cao đến đó. Đã rớt xuống thì cái

công ấy không thể cấp cho họ lớn như trước nữa, cần tuỳ theo tâm tính mà cấp; tâm

tính cao đến đâu, công cao đến đó. Tâm danh lợi càng nặng, ở chốn người thường

rớt xuống càng trầm trọng, công của họ cũng theo đó rớt xuống. Cuối cùng đến khi

họ hoàn toàn rớt xuống, [thì] công không được cấp nữa, không có công nào hết.

Những năm trước xuất hiện không ít những người như thế; phần nhiều là những

phụ nữ trên 50 tuổi. Chư vị thấy các cụ bà tập công, cũng chưa hề được chân

truyền, có lẽ đã đến lớp khí công học một số động tác chữa bệnh khoẻ người,

nhưng đột nhiên một hôm có công đến. Khi tâm tính hỏng, tâm danh lợi khởi lên

liền bị rớt xuống, kết quả hiện nay chẳng là gì cả, đã mất hết công. Hiện nay loại

phản tu này bị rớt xuống hết sức nhiều, phần còn lại chỉ lèo tèo thưa thớt. Tại sao?

Vì họ không biết rằng đó là để họ tu luyện; họ tưởng rằng đó là để họ phát tài, nổi

danh nơi người thường, và làm khí công sư; thực ra đó là để họ tu luyện.

‘Tá công’ là gì? Nó không có hạn chế về tuổi; nhưng có một yêu cầu, cần phải

là người có tâm tính đặc biệt tốt. Người ấy hiểu rằng khí công có thể tu luyện,

người ấy cũng muốn tu luyện. Tâm ấy muốn tu luyện, nhưng hỏi tìm sư phụ ở đâu?

Những năm trước đây quả là có những khí công sư chân chính đã xuất hiện truyền

công, nhưng những điều họ truyền đều là chữa bệnh khoẻ người; không có ai

truyền dạy lên cao tầng, người ta cũng không có dạy.

Giảng đến tá công, tôi còn giảng một vấn đề này: con người ngoài chủ nguyên

thần (chủ ý thức) ra còn có phó nguyên thần (phó ý thức). Có người có một, hai, ba,

bốn, có khi đến năm phó nguyên thần. Phó nguyên thần không nhất định có cùng

giới tính với người ấy; có [cái] là nam, có [cái] là nữ, không như nhau. Thực ra

[ngay cả] chủ nguyên thần cũng không nhất định có cùng [giới tính] với nhục thân;

bởi vì chúng tôi đã phát hiện rằng bây giờ nữ nguyên thần của nam có rất nhiều,

nam nguyên thần của nữ cũng có rất nhiều; hoàn toàn phù hợp với điều mà hiện

nay Đạo gia gọi là thiên tượng âm dương đảo chiều và âm thịnh dương suy.

Thông thường phó nguyên thần của con người đến từ tầng cao hơn so với chủ

nguyên thần; đặc biệt một số người, phó nguyên thần của họ đến từ tầng hết sức

cao. Phó nguyên thần không phải là phụ thể; nó và chư vị cùng sinh ra từ một thai

mẹ, mang cùng một tên với chư vị; [nó] cũng là một bộ phận của thân thể chư vị.

Lúc bình thường người ta nghĩ về điều gì, làm việc gì, là do chủ nguyên thần quyết

định. Phó nguyên thần chủ yếu gắng sức khống chế chủ nguyên thần của con người

để nó không phạm điều xấu; tuy nhiên lúc mà chủ nguyên thần quá ư chấp trước thì

phó nguyên thần cũng không giúp gì được. Phó nguyên thần không tiếp thu chỗ mê

của xã hội người thường, còn chủ nguyên thần thì dễ bị tiếp thu chỗ mê của xã hội

người thường.

Phản tu và tá công 54

Một số phó nguyên thần đến từ tầng rất cao, có thể chỉ còn một chút nữa là đắc

chính quả. Phó nguyên thần muốn tu luyện, nhưng chủ nguyên thần lại không muốn

tu luyện thì cũng chịu. Một hôm trong cao trào khí công, chủ nguyên thần cũng

muốn học công, tu luyện lên cao tầng; tất nhiên suy nghĩ ấy rất chất phác, không có

mong nghĩ gì đến truy cầu danh lợi. Phó nguyên thần rất lấy làm ưng ý: ‘Ta muốn

tu luyện, nhưng ta không quyết định; ngươi muốn tu luyện, quả là hợp ý ta’. Nhưng

hỏi tìm sư phụ nơi đâu? Phó nguyên thần rất có bản sự, nó rời khỏi thân thể đi tìm

Đại Giác Giả mà nó đã biết trong đời trước. Bởi vì có một số phó nguyên thần [ở]

tầng rất cao, nên có thể rời thân thể; sau khi đến nơi [phó nguyên thần] liền nói

muốn tu luyện, muốn mượn công. Người ta thấy cá nhân này rất tốt, [muốn] tu

luyện thì tất nhiên giúp thôi; vậy là phó nguyên thần đã mượn được công. Thông

thường công ấy có năng lượng tản xạ; nó thông qua đường ống mà truyền dẫn đến;

cũng có [trường hợp công] mượn được đã thành hình; [công] đã thành hình thông

thường kèm công năng tồn tại.

Như vậy, họ đồng thời có kèm theo công năng; cá nhân này cũng giống như tôi

vừa giảng: đêm đang ngủ [cũng] nóng không chịu được, sáng hôm sau ngủ dậy thì

thấy có được công. Chạm vào đâu ở đó có điện; có thể trị bệnh cho người ta; họ

biết rằng họ có được công. [Công] đến từ đâu? Họ không biết rõ. Họ chỉ biết đại

khái là nó đến từ không gian vũ trụ; nhưng cụ thể nó đến như thế nào, thì họ không

biết; phó nguyên thần không có bảo cho họ [biết], là vì [kẻ] tu luyện là phó nguyên

thần; họ chỉ biết rằng có công truyền đến. 

Thông thường người tá công không chịu hạn chế tuổi tác; người ít tuổi có khá

nhiều; do vậy mấy năm trước có xuất hiện một số người 20 tuổi, 30 tuổi, 40 tuổi;

nhiều tuổi hơn cũng có. Thanh niên thường khó tự chủ bản thân; bình thường chư

vị thấy họ rất tốt; khi chưa có bản sự gì nơi xã hội người thường, thì tâm danh lợi

của họ rất nhẹ. Rồi một khi nổi danh, thông thường họ rất dễ bị tâm danh lợi can

nhiễu; họ cảm thấy năm tháng đời này còn là một chặng đường rất dài, còn cần

chạy vạy này khác, [còn cần] phấn đấu một phen để đạt được một mục tiêu nào đó

nơi người thường. Do vậy hễ khi công năng xuất hiện, có được bản sự rồi, [thì]

thông thường họ lấy [năng lực ấy] làm phương tiện để truy cầu mục tiêu cá nhân

nơi xã hội người thường. Điều ấy không được, cũng không được phép sử dụng

[công năng] như thế; càng dùng nhiều thì công ấy càng ít; cuối cùng thì chẳng còn

chút gì. Những người [tá công] bị rớt như vậy rất nhiều; tôi thấy rằng hiện nay

không còn một ai.

Hai tình huống mà tôi vừa giảng đến đều là những người có tâm tính tương đối

tốt mà được công; công ấy không phải do bản thân mình [tu] luyện mà thành; nó là

từ các Giác Giả; do vậy bản thân công ấy là tốt.

Phụ thể

Có nhiều người chúng ta [đã nghe] về những chuyện trong giới tu luyện về phụ

thể [là] những thứ liên quan đến động vật, cáo chồn quỷ rắn v.v. Đó thực ra là gì?

Có người giảng rằng luyện công khai phát công năng đặc dị; thực ra không phải là

khai phát công năng đặc dị; công năng đặc dị ấy chính là bản năng của con người.

Chẳng qua vì thuận theo sự phát triển tiến bộ của xã hội nhân loại, con người ngày

càng theo những thứ hữu hình ở trong không gian vật chất trước mắt chúng ta, ngày

càng phụ thuộc vào những công cụ hiện đại hoá của mình, nên bản năng của con

người chúng ta ngày càng thoái hoá; cuối cùng những chủng bản năng ấy bị làm

cho tiêu mất hoàn toàn.

Phụ thể 55

Muốn có công năng, thì phải trải qua tu luyện, [phải] phản bổn quy chân, nó

mới tu xuất lai được. Nhưng động vật không có tư tưởng phức tạp như thế; do đó

nó câu thông với đặc tính của vũ trụ, nó có bản năng tiên thiên. Có người giảng

rằng động vật biết tu luyện, rằng cáo biết luyện đan, rằng con rắn này biết tu luyện

v.v. Không phải [là] chúng biết tu luyện; ban đầu chúng cũng chẳng hề biết [đến tu]

luyện là gì hết; chính là vì chúng có cái chủng bản năng tiên thiên ấy. Vì vậy dưới

một điều kiện đặc định, dưới một hoàn cảnh đặc định, sau thời gian lâu có thể phát

huy tác dụng; chúng có thể đắc công, có thể xuất hiện công năng.

Như vậy, chúng có bản sự; trong quá khứ chúng ta giảng là ‘đắc linh khí’, ‘có

bản sự’. Từ người thường mà xét, thì động vật kia thật lợi hại, có thể chi phối con

người dễ dàng. Thật ra tôi nói rằng không lợi hại; trước mặt người tu luyện chân

chính thì nó không là gì hết; chư vị đừng coi nó tu cả 800 năm, cả 1000 năm, chẳng

cần đến một ngón tay nhỏ cũng đủ vê nát nó. Chúng tôi giảng động vật có bản năng

tiên thiên như vậy, nó có thể có bản sự. Nhưng trong vũ trụ này của chúng ta còn có

một [Pháp] lý: chính là không cho phép động vật tu thành. Vì vậy mọi người xem

những sách cổ thấy viết rằng mấy trăm năm cần giết chúng một lần, có đại kiếp tiểu

kiếp. Đến một thời gian nhất định nếu động vật tăng công, thì phải tiêu diệt chúng,

sét sẽ đánh chúng, v.v. không cho phép chúng tu luyện. Bởi vì chúng không được

trang bị bản tính con người, chúng không thể tu luyện như con người, không có đặc

điểm con người; nếu tu thành thì đảm bảo chúng sẽ thành ma; nên không cho phép

chúng tu thành; do đó trời giết chúng; chúng cũng biết điểm này. Tuy nhiên như tôi

đã giảng, xã hội nhân loại hiện đang trượt trên dốc lớn, có cả những kẻ không điều

ác nào mà không làm; đã đến trạng thái như thế, hỏi xã hội nhân loại chẳng phải

nguy hiểm là gì?

Vật cực tất phản! Chúng tôi phát hiện rằng vào mỗi lần chu kỳ huỷ diệt khác

nhau của xã hội nhân loại tiền sử, đều phát sinh tình huống là đạo đức của nhân loại

đã hết sức bại hoại. Hiện nay tại không gian mà nhân loại chúng ta [đang] sinh tồn

cũng như nhiều không gian khác, mọi nơi đều ở trong hoàn cảnh vô vàn nguy hiểm;

tại các không gian khác của tầng này cũng lại như thế; chúng cũng muốn mau

chóng thoát thân, chúng cũng muốn lên tầng cao hơn; đề cao tầng thì chúng tưởng

rằng có thể trốn thoát được. Nói sao dễ dàng vậy! Muốn tu luyện, thì cần phải có

thân thể người; do đó xuất hiện [tình huống có] người luyện công bị phụ thể [nhập

vào], [đó] là một [trong những] nguyên nhân.

Có người nghĩ: ‘Nhiều Đại Giác Giả, nhiều sư phụ công phu cao như vậy, vì

sao không quản [việc này]?’ Trong vũ trụ này của chúng ta còn một [Pháp] lý: bản

thân chư vị cầu gì, chư vị muốn gì thì người khác không muốn can thiệp. Ở đây

chúng tôi dạy mọi người theo đường chính, đồng thời giảng rõ Pháp cho chư vị, để

cho chư vị tự mình ngộ; còn học hay không là vấn đề ở bản thân chư vị. Sư phụ

lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân. Không ai cưỡng bách hay bức bách chư vị phải

tu; tu hay không là vấn đề riêng của cá nhân chư vị; nghĩa là, chư vị theo đường

nào, chư vị muốn gì, chư vị mong được gì, không ai can thiệp chư vị hết; chỉ có thể

khuyến Thiện.

Có người mà chư vị thấy họ luyện công, thật ra toàn cho phụ thể được [công].

Vì sao chiêu mời phụ thể? Những người luyện công trên toàn quốc, hỏi bao nhiêu

người mà đằng sau có phụ thể? Nếu nói ra thì rất nhiều người sẽ không dám luyện

công, vì con số ấy làm người ta phát sợ! Vậy vì sao lại xuất hiện tình huống này?

Nó đang là cái hoạ loạn xã hội người thường; hỏi tại sao hiện tượng nghiêm trọng

này xuất hiện? Cũng là vì nhân loại tự mình chiêu mời chúng đến, bởi vì nhân loại

Phụ thể 56

đang bại hoại, đến đâu cũng có ma. Nhất là những khí công sư giả đều mang phụ

thể trên thân; họ truyền công chính là truyền những thứ ấy. Trong lịch sử nhân loại

không hề cho phép động vật [gắn] lên thân thể người; hễ [gắn] lên là bị giết; ai thấy

được đều không cho phép. Tuy nhiên tại xã hội chúng ta ngày nay có người cầu

chúng, muốn chúng, cúng [thờ] chúng. Có người nghĩ: ‘Tôi đâu có cầu chúng một

cách minh xác!’ Chư vị không cầu chúng, nhưng chư vị [có thể] cầu công năng; các

Giác Giả của [môn] tu luyện chính Pháp liệu có thể cấp [công năng] cho chư vị?

[Truy] cầu chính là một chấp trước nơi người thường; tâm ấy phải bỏ. Vậy ai có thể

cấp? Chỉ có ma tại các không gian khác và động vật mới cấp thôi; vậy chẳng phải

tương đương với cầu chúng đến là gì? Chúng liền đến.

Có bao nhiêu người mang cách nghĩ đúng đắn đến luyện công? Luyện công đòi

hỏi [coi] trọng đức, làm việc tốt, hành Thiện; ở đâu làm gì đều tự yêu cầu bản thân

như vậy. Tại công viên luyện cũng vậy, ở nhà luyện cũng vậy, hỏi có mấy người

suy nghĩ như thế? Có những người mà thật không hiểu nổi họ luyện là công gì, khi

đang luyện, khi đang chuyển động, thì miệng họ chẳng dứt: ‘A! Mấy cô con dâu

nhà này chẳng có hiếu với tôi; mẹ chồng của tôi sao mà quá tệ!’ Có người bình luận

từ chuyện đơn vị cho đến quốc gia đại sự, không gì là họ không nói đến; điều gì

không phù hợp với quan niệm cá nhân của họ là [họ] bực bội khó chịu. Chư vị gọi

đó là tu luyện được không? Còn có người khi luyện công luyện trạm trang, chân

mỏi run cả lên, vậy mà não của họ chẳng có nghỉ: ‘Mọi thứ bây giờ đắt đỏ, vật giá

leo thang, đơn vị mình lại chưa trả tiền lương; tại sao mình luyện vậy vẫn chưa

được công năng? Mình luyện thành công năng rồi; mình cũng làm khí công sư;

mình cũng phát tài; mình cũng coi bệnh cho người ta để kiếm tiền’. Một khi họ

thấy người khác xuất hiện công năng, thì họ rất sốt ruột, họ nhất mực truy cầu công

năng, truy cầu thiên mục, truy cầu khả năng trị bệnh. Mọi người thử nghĩ xem: điều

này sai biệt quá xa so với đặc tính Chân Thiện Nhẫn trong vũ trụ chúng ta! Hoàn

toàn trái ngược. Nói nghiêm trọng một chút: họ đang luyện tà pháp! Ấy vậy mà họ

chẳng tự biết. Họ càng suy nghĩ như thế, ý niệm xuất phát ra lại càng xấu. Những

người này chưa hề đắc Pháp; họ không biết [coi] trọng đức; [họ] tưởng rằng luyện

công thông qua thủ pháp thì có thể luyện xuất ra công; họ nghĩ rằng mong muốn

điều gì thì cũng có thể truy cầu được; họ tưởng như vậy.

Chính vì tư tưởng của bản thân là bất chính, nên [họ] mới chiêu mời những thứ

xấu. Con động vật kia nhìn thấy rồi: ‘Vị này muốn luyện công phát tài; vị kia muốn

nổi danh, muốn đắc công năng. Được lắm, thân thể hắn cũng khá, những thứ mang

trên thân cũng rất tốt; nhưng tư tưởng của hắn quả là tệ; hắn truy cầu công năng

mà! Có thể hắn có sư phụ; dẫu hắn có sư phụ ta cũng không sợ’. Nó biết rằng sư

phụ của [môn] tu luyện chính Pháp [cũng] thấy được họ truy cầu công năng như

thế; càng truy cầu càng không được cấp; đó chính là tâm chấp trước phải vứt bỏ.

Họ càng nghĩ như vậy, thì càng không cấp công năng cho họ, họ lại càng không

ngộ được; càng truy cầu thì cách nghĩ càng tệ hơn. Cuối cùng sư phụ thở dài thất

vọng, thấy rằng cá nhân này không còn hy vọng, nên không chăm sóc cho vị ấy

nữa. Có người không có sư phụ, nhưng có [sư phụ] qua đường quản một chút. Bởi

vì các Giác Giả tại các không gian khác rất nhiều; Giác Giả thấy vị này, coi thử một

chút, theo họ một hôm thì thấy vị này không được, [Giác Giả] bèn bỏ đi; hôm sau

lại có một [Giác Giả khác], đến coi một chút thấy cá nhân này không được, liền bỏ

đi.

Con động vật biết rằng, vị này có sư phụ cũng vậy, có sư phụ qua đường cũng

vậy, sư phụ của họ không thể cho họ những thứ họ truy cầu. Bởi vì [con] động vật

Phụ thể 57

không thấy được không gian nơi các Đại Giác Giả ở, nên nó cũng không sợ, nó cứ

dùi sâu vào chỗ sơ hở này. Trong vũ trụ chúng ta có một [Pháp] lý, rằng tự mình

truy cầu gì, tự mình mong muốn gì, người khác thông thường không thể can thiệp;

nó dùi sâu vào sơ hở ấy: ‘Hắn ta muốn thế, ta giúp hắn; ta giúp hắn nào có sai gì?’

Nó cấp [cho vị này]. Mới đầu nó chưa dám gắn lên [thân thể vị ấy]; trước tiên nó

cấp cho vị ấy một chút công để thử. Một hôm vị này đột nhiên thật sự thấy công mà

mình truy cầu đã đến, lại có thể trị bệnh. Nó thấy thế quả là tốt, giống như chơi

khúc nhạc dạo đầu: ‘Ý nguyện của hắn muốn thế, vậy ta sẽ gắn lên [hắn], gắn rồi

cấp được nhiều hơn, cấp được thoả thích hơn. Chẳng phải ngươi cầu thiên mục? Kỳ

này ta sẽ cấp đủ cho ngươi’, thế là nó gắn lên [thân thể vị kia].

Tư tưởng truy cầu của vị ấy, chính là truy cầu những điều này, thì thiên mục

khai mở, lại có thể phát công, còn được một chút công năng nhỏ bé. Vị ấy vui

mừng quá đỗi; vị ấy tưởng rằng mình cuối cùng cũng truy cầu được điều ấy rồi,

luyện xuất ra rồi; kỳ thực vị ấy chẳng luyện ra gì cả. Vị ấy cho rằng mình có thể

thấu thị nhân thể, có thể thấy được thân thể con người có bệnh ở đâu. Thực ra thiên

mục vị này hoàn toàn chưa khai mở; [mà] là con động vật đã khống chế đại não của

vị ấy, nó lấy con mắt của nó để nhìn, rồi phản ánh lên đại não vị kia; [vậy nên] vị

kia tưởng rằng thiên mục của mình đã khai mở. Phát công, ngươi cứ phát công đi,

hễ vị ấy duỗi tay ra phát công, thì những móng vuốt con động vật kia cũng từ sau

lưng vị ấy cũng chìa ra; khi vị ấy phát công, thì cái đầu rắn thè ra cái lưỡi [chẻ đôi],

mà vươn đến chỗ có bệnh, chỗ sưng kia, rồi dùng đầu lưỡi mà liếm liếm. Loại này

rất nhiều; phụ thể của những người ấy đều là bản thân họ cầu mong mà đến.

Bởi vì vị này truy cầu, vị ấy muốn phát tài, muốn nổi danh. Tốt quá, công năng

kia cũng có, còn có thể trị bệnh, thiên mục lại nhìn được; như thế thật là ưng ý. Con

động vật liền thấy ngay: ‘Ngươi chẳng phải muốn phát tài? Tốt, ta sẽ cho ngươi

phát tài’. Khống chế đại não của một người thường thật là việc quá dễ dàng. Nó có

thể khống chế rất nhiều người đến tìm vị này để coi bệnh, rất nhiều [người] đến.

Được lắm, bên này vị ấy đang trị bệnh, bên kia con động vật chỉ thị phóng viên báo

chí đăng bài tuyên truyền. Nó khống chế người thường làm những việc như thế;

nhưng người đến coi bệnh mà trả ít tiền quá thì không được, [nó] sẽ làm chư vị đau

đầu; thế nào chư vị cũng phải đưa nhiều tiền. Danh lợi đều được: đã phát tài lại nổi

danh; cũng đã được làm khí công sư. Thông thường những người này không giảng

tâm tính, điều gì cũng dám nói; trời là thứ nhất, họ là thứ nhì. Họ dám nói họ là

Vương Mẫu Nương Nương, là Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng trần; họ còn dám nói

họ là Phật. Vì họ chưa thật sự trải qua tu luyện tâm tính, nên họ luyện công truy cầu

công năng; kết quả [họ] đã chiêu mời phụ thể [là] động vật.

Có người có thể nghĩ: ‘Như thế có gì xấu đâu; dẫu sao kiếm tiền, phát tài là

được rồi, lại có thể nổi danh nữa’; có không ít người suy nghĩ như vậy. Tôi bảo với

mọi người, thật ra [con động vật ấy] nó có mục đích, nó không hề giúp chư vị một

cách vô duyên vô cớ. Trong vũ trụ này có [Pháp] lý, gọi là ‘bất thất giả bất đắc’. Nó

được gì? Chẳng phải tôi vừa đề cập đến vấn đề này sao? Nó muốn được một điểm

tinh hoa của thân thể chư vị để tu thành hình người; nó sẽ ở trên thân thể người mà

thu thập tinh hoa của con người. Mà tinh hoa của thân thể người chỉ có một phần

ấy; nếu muốn tu luyện, thì chỉ có phần ấy thôi. Nếu chư vị để nó lấy mất, thì chư vị

đừng nghĩ đến tu luyện nữa; chư vị còn tu luyện gì nữa đây? Chư vị chẳng còn gì

nữa, thì chư vị hoàn toàn không tu luyện được. Có người có thể nói: ‘Tôi cũng

không muốn tu luyện; tôi chỉ muốn phát tài; có tiền là được rồi; lo gì!’ Tôi nói với

chư vị, chư vị muốn phát tài, tôi giảng đạo lý này ra cho chư vị, thì chư vị sẽ không

Phụ thể 58

nghĩ như thế nữa. Vì sao? Nếu nó ly khai khỏi thân chư vị từ sớm, thì chư vị sẽ tứ

chi vô lực. Từ đó trở đi, cả đời sẽ như thế; bởi vì tinh hoa con người đã bị nó lấy đi

quá nhiều; [còn] nếu nó rời khỏi thân chư vị muộn hơn, thì chư vị chính là một

người thực vật; nửa đời về sau chư vị chỉ nằm dài trên giường hít thở mà thôi. Chư

vị có tiền liệu có thể tiêu? Có danh liệu chư vị có thể hưởng thụ? Có đáng sợ

không?

Sự tình ấy trong những người luyện công hiện nay rất nổi cộm, có rất nhiều.

[Động vật] không chỉ [làm] phụ thể, [nó] còn [có thể] giết nguyên thần của con

người, nó chui vào nê hoàn cung của người ta, ngụ ở đấy. Nhìn bề ngoài thì là một

người, nhưng nó không phải là người; hiện nay đã xuất hiện tình huống này. Bởi vì

chuẩn mực đạo đức của nhân loại đã phát sinh biến hoá; có người làm điều xấu, nếu

chư vị nói với họ rằng họ đã làm điều xấu, họ chẳng hề tin. Họ cho rằng kiếm tiền,

truy cầu tiền, phát tài, đó là điều hết sức hợp lý, là điều đúng đắn; vì thế mà làm hại

người khác, làm thương tổn người khác, vì kiếm tiền mà không việc ác nào không

làm, điều gì họ cũng dám phạm. [Con động vật ấy] nó không mất, thì nó không

được; nó giúp chư vị phải chăng là vô cớ? Nó muốn đoạt những thứ trên thân chư

vị. Tất nhiên như tôi đã giảng, người ta đều vì quan niệm của mình chẳng ngay, tâm

nơi mình chẳng chính mà [tự] rước lấy rắc rối.

Chúng tôi giảng Pháp Luân Đại Pháp. Tu luyện pháp môn này của chúng tôi,

chỉ cần chư vị giữ vững tâm tính, nhất chính áp bách tà, thì chư vị không xuất hiện

bất cứ vấn đề gì. Chư vị nếu chẳng giữ vững tâm tính, chư vị truy cầu điều này,

truy cầu điều khác, chắc chắn sẽ chiêu mời rắc rối. Có người chẳng dứt bỏ được

những thứ đã luyện trước đây; chúng tôi giảng luyện công phải chuyên nhất, tu

luyện chân chính phải chuyên nhất. Chư vị chớ coi các khí công sư viết sách; tôi

nói với chư vị rằng trong những cuốn sách ấy thứ gì cũng có, và giống như những

thứ họ luyện; đó là rắn, đó là cáo, đó là chồn. Chư vị đọc những cuốn sách đó, [thì]

những thứ ấy sẽ từ trong chữ mà nhảy ra. Tôi đã giảng, những khí công sư giả ấy

đông hơn khí công sư chân chính rất nhiều lần, chư vị không phân biệt được rõ; do

đó mọi người nhất định phải giữ vững [tâm tính]. Ở đây tôi không nói chư vị nhất

định phải tu luyện Pháp Luân Đại Pháp; chư vị tu môn nào cũng được. Trong quá

khứ có một câu: ‘Nghìn năm chẳng được chính Pháp, còn hơn một ngày tu thiền

cáo hoang’. Do đó, nhất định phải giữ vững [tâm tính]; tu luyện chính Pháp một

cách chân chính, không trộn lẫn bất kể thứ gì vào tu, ngay cả ý niệm cũng không

được thêm vào. Pháp Luân của một số người bị biến hình; vì sao biến hình? Họ nói:

‘Tôi có luyện công nào khác đâu?’ Nhưng mỗi khi luyện công, ý niệm của họ [lại]

thêm vào những thứ họ từng [luyện] trước đây; chẳng phải là mang thêm chúng vào

là gì? Vấn đề phụ thể, chúng tôi chỉ giảng đến đây.

Ngôn ngữ vũ trụ

‘Ngôn ngữ vũ trụ’ là gì? Đó là một người đột nhiên có thể nói một loại lời nói

kỳ diệu bí ẩn, líu lo ríu rít, líu lo ríu rít; [họ] nói những gì, chính họ cũng chẳng

biết. Người có công năng tha tâm thông có thể hiểu được ngụ ý đại khái, nhưng

không thể hiểu được người kia nói cụ thể những gì. Ngoài ra có người có thể nói

được nhiều loại ngôn ngữ khác nhau. Có người còn cho rằng [điều này] thật xuất

sắc, nhìn nhận đó là bản sự, là công năng. [Thật ra] nó không phải là công năng,

cũng không phải là bản sự của người tu luyện, nó không đại biểu cho tầng của chư

vị. Vậy nó là gì? Chính là do tư tưởng của chư vị bị một loại linh thể ngoại lai

khống chế; chư vị lại còn cho rằng tốt lắm, chư vị thấy hoan hỷ, chư vị thấy cao

Ngôn ngữ vũ trụ 59

hứng; chư vị càng cao hứng thì nó khống chế chư vị càng chắc chắn hơn. Đã là một

người tu luyện chân chính, chư vị chịu để nó khống chế là sao? Hơn nữa nó đến từ

tầng vô cùng thấp; do vậy, chúng ta là những người tu luyện chân chính, nên

[chúng ta] không thể chiêu mời những phiền phức đó được.

Con người là trân quý nhất, là anh linh của vạn vật; chư vị chịu để những thứ

ấy khống chế là sao? Ngay cái thân thể của mình chư vị cũng chẳng thiết, thật đáng

buồn thay! Những thứ ấy có thứ gắn lên thân người, có thứ không gắn lên thân

người mà cách thân người một đoạn; nhưng chúng thao túng chư vị, khống chế chư

vị. Chư vị muốn nói chúng liền cho chư vị nói, nói cứ líu lo ríu rít cả lên. Còn có

thể truyền nữa; người khác muốn học, dám lớn mật mà mở miệng ra, thì liền nói

được. Kỳ thực những [linh thể ấy] chúng đi thành từng nhóm từng bầy; chư vị

muốn nói là chúng liền đến để chư vị nói.

Vì sao xuất hiện tình huống này? Cũng như tôi đã từng nói, chúng cũng muốn

đề cao tầng của mình; nhưng ở chỗ [chúng ở] không có khổ mà chịu, nên không thể

tu luyện, không thể đề cao [tầng]. Chúng bèn nghĩ ra một cách: giúp con người làm

việc tốt; nhưng chúng không biết rõ thực hiện ra sao; nhưng chúng biết rằng năng

lượng chúng phát ra có thể có đôi chút tác dụng ước chế đối với người mang bệnh,

có thể tạm thời giải trừ sự đau đớn cho bệnh nhân, nhưng không thể trị hết bệnh; do

vậy chúng biết cách khởi tác dụng bằng cách dùng miệng của người ta mà phát ra;

chuyện là như vậy. Có người gọi đó là lời của trời; cũng có người gọi đó là lời của

Phật, [nói thế] là phỉ báng Phật. Tôi nói rằng [ăn nói như thế] thật là hàm hồ!

Mọi người đều biết rằng Phật không dễ mở miệng. Nếu tại không gian này của

chúng ta mà mở miệng nói, có thể ông [Phật] sẽ gây động đất cho nhân loại; điều

ấy đâu có được! Chấn động ầm ầm như thế. Có người nói: ‘Thiên mục tôi thấy ông

[Phật] nói chuyện với tôi’. Không phải ông ấy nói với chư vị. Có người nhìn thấy

Pháp thân của tôi cũng làm việc ấy; [thực ra] không phải là [Pháp thân] nói với chư

vị; ý niệm mà Pháp thân xuất ra có mang theo âm thanh lập thể, chư vị nghe thấy

giống như nghe được Pháp thân nói vậy. Thông thường Pháp thân có thể nói tại

không gian mình đang ở; nhưng sau khi truyền dẫn qua đây thì chư vị nghe không

rõ Pháp thân nói gì. Bởi vì khái niệm thời-không của hai không gian là khác nhau;

một thời thần của không gian chúng ta, tức là hai giờ đồng hồ hiện nay. Nhưng tại

các đại không gian kia, thì một thời thần của chúng ta là bằng một năm; vậy so với

thời gian của Pháp thân thì chậm hơn.

Quá khứ có câu “một ngày phương trời, nghìn năm mặt đất”; ấy là nói về các

thế giới đơn nguyên không có khái niệm không gian và thời gian; chính là những

thế giới mà các Đại Giác Giả cư ngụ; ví như thế giới Cực Lạc, thế giới Lưu Ly, thế

giới Pháp Luân, thế giới Liên Hoa, v.v; chính là những nơi ấy. Còn thời gian tại các

đại không gian kia lại nhanh hơn [chúng ta]; nếu chư vị có thể tiếp thu được [âm

thanh], thì nghe được họ nói chuyện; có người [có được] thiên nhĩ thông, tai của họ

đã khai mở; nhưng lúc có thể nghe họ nói chuyện, thì chư vị cũng không nghe rõ.

Chư vị nghe gì cũng như thế: như tiếng chim hót hoặc tiếng máy hát quay nhanh;

nghe không được nội dung. Tất nhiên có người có thể nghe được âm nhạc, có thể

nghe được [người ta] nói chuyện. Nhưng nó cần phải thông qua một loại công năng

đóng vai tải thể, để tiêu trừ sự sai biệt về thời gian, truyền cho đến tai chư vị, [có

vậy] chư vị mới có thể nghe rõ ràng; chính là tình huống như vậy. Có người nói

rằng đó là ngôn ngữ của Phật, [thực ra] nó hoàn toàn không phải.

Một khi các Giác Giả gặp mặt, hai người chỉ [cần] mỉm cười, liền hiểu nhau

ngay. Bởi vì đây là truyền cảm tư duy không dùng âm thanh; điều tiếp nhận được

Ngôn ngữ vũ trụ 60

có mang theo âm thanh lập thể. Khi họ mỉm cười, thì ý kiến đã trao đổi xong rồi.

Cũng không chỉ dùng hình thức [trao đổi] ấy, cũng có lúc [họ] dùng một phương

pháp khác. Mọi người đã biết, trong Mật tông, các lạt-ma Tây Tạng chú trọng

những phép thủ ấn; tuy nhiên chư vị có hỏi các lạt-ma về những thủ ấn ấy là gì? Họ

nói với chư vị rằng đó là yoga vô thượng. Cụ thể là gì? Họ cũng không biết. Kỳ

thực đó là ngôn ngữ của các Đại Giác Giả. Khi có nhiều người, [Đại Giác Giả] làm

những đại thủ ấn, trông hết sức đẹp mắt, các loại đại thủ ấn; khi có ít người, họ làm

những tiểu thủ ấn, trông cũng rất đẹp mắt; các loại tư thế tiểu thủ ấn vô cùng phức

tạp, vô cùng phong phú, bởi vì chúng là ngôn ngữ. Trước đây những điều này đều

là thiên cơ, [nay] chúng tôi đã giảng ra. Những gì dùng ở Tây Tạng là một vài động

tác đơn thuần dành cho luyện công; họ đã quy nạp chúng, hệ thống hoá [chúng].

Chúng chỉ là một loại ngôn ngữ đơn thuần dùng cho luyện công, hơn nữa chỉ là một

vài hình thức để luyện công; [còn] thủ ấn chân chính thì rất phức tạp.

Sư phụ cấp gì cho học viên

Có người sau khi gặp tôi liền bắt tay tôi, nắm lấy mãi mà không buông. Những

người khác thấy người kia cầm tay, họ cũng cầm tay tôi. Tôi hiểu được trong tâm

họ nghĩ gì. Có người muốn bắt tay với Sư phụ, cảm thấy rất cao hứng; có người

nghĩ sẽ được một chút tín tức, [nên] cầm tay là không có rời ra. Chúng tôi nói với

mọi người rằng, tu luyện chân chính là việc của cá nhân chư vị; ở đây [chúng tôi]

không chữa bệnh khoẻ người, [không] cấp cho chư vị một chút tín tức, [không]

giúp chư vị chữa bệnh; chúng tôi cũng không giảng những thứ ấy. Bệnh chư vị do

tôi trực tiếp chữa cho chư vị; [học viên] ở điểm luyện công là do Pháp thân của tôi

chữa; [học viên] đọc sách tự học cũng do Pháp thân của tôi chữa. Chư vị tưởng

rằng chạm vào tay tôi là có thể tăng công được ư? Đó chẳng phải chuyện khôi hài

hay sao?

Công là dựa vào tâm tính bản thân mà tu. Chư vị không thực tu, thì công ấy

không thể tăng lên được, bởi vì ở đó nó có tiêu chuẩn tâm tính. Trong khi chư vị

tăng công, [tại] cao tầng có thể nhìn thấy tâm chấp trước của chư vị, cái vật chất kia

vứt bỏ rồi, trên đỉnh đầu sẽ xuất sinh một xích độ. Hơn nữa xích độ này là một

[hình] thức tồn tại của công trụ; xích độ cao bao nhiêu, công trụ cao bấy nhiêu; nó

đại biểu cho công mà bản thân chư vị tu được, cũng đại biểu cho tâm tính cao hay

thấp của chư vị. Người khác dẫu là ai cấp thêm cho chư vị bao nhiêu cũng không

được, thêm lên một chút [cũng] không trụ lại được; đều bị rớt xuống. Tôi có thể lập

tức đưa chư vị đạt đến “tam hoa tụ đỉnh”; nhưng chư vị vừa ra khỏi cửa thì công lại

rớt xuống. Nó không phải [của] chư vị, không phải do chư vị tu được, không đặt

lên được; bởi vì tiêu chuẩn tâm tính của chư vị chưa đến đó, nên ai thêm vào cũng

không thêm được; nó hoàn toàn dựa vào tự mình mà tu, tu luyện cái tâm của mình.

Tăng công lên một cách thực chất, không ngừng đề cao bản thân, đồng hoá với đặc

tính vũ trụ, thì chư vị mới có thể lên được. Có người tìm tôi xin chữ ký; tôi không

muốn ký. Một số người nói rằng Sư phụ đã cho [họ] chữ ký; họ muốn hiển thị,

muốn tín tức của Sư phụ bảo hộ họ. Đó chẳng phải là tâm chấp trước? Tu luyện là

do tự mình, chư vị còn giảng tín tức nào đây? Tu luyện tại cao tầng mà chư vị còn

nói về những thứ ấy là sao? Nó có nghĩa gì đâu? Nó chỉ để chữa bệnh khoẻ người

thôi.

Công mà chư vị tự luyện được, tại mức cực vi quan, các lạp tử của công ấy có

cùng hình dạng giống hệt chư vị. Khi tu luyện xuất khỏi thế gian pháp, thì chư vị đã

là tu luyện Phật thể. Công đều mang hình dáng Phật thể, trông đẹp vô cùng, ngồi

Sư phụ cấp gì cho học viên 61

trên [toà] sen; trên mỗi một vi lạp nhỏ đều như vậy. Còn công của động vật đều là

những thứ như cáo bé, rắn bé; trên các vi lạp nhỏ tại mức cực vi quan đều là những

thứ ấy. Còn có cái [gọi là] ‘tín tức’; [có người] khuấy khuấy trà rồi đưa chư vị

uống, dẫu sao nó cũng là công. Người thường chỉ muốn tạm thời giải trừ sự đau

khổ, [tạm thời] đẩy lùi bệnh tật về sau này, ức chế [nó]; người thường dù sao vẫn là

người thường; họ có làm cho thân thể họ xấu tệ thế nào đi nữa, chúng ta cũng

không quan tâm. Chúng ta là những người tu luyện, [như thế] tôi mới vì chư vị mà

giảng ra điều này. Từ nay trở đi, mọi người chớ có làm như vậy nữa; tín tức nào đi

nữa; dẫu là gì đi nữa thì cũng tuyệt đối không lấy những thứ ấy. Có khí công sư

nói: ‘Ta phát tín tức cho các vị, các vị ở các nơi trên toàn quốc đều tiếp nhận được’.

Tiếp nhận gì đây? Tôi giảng cho chư vị rằng điều ấy không có tác dụng gì lớn; cứ

giả thuyết rằng nó có chỗ tốt, thì chẳng qua để cầu chữa bệnh khoẻ người mà thôi.

Tuy nhiên chúng ta là người tu luyện; công là bản thân tu xuất lai; người khác phát

tín tức công gì cũng không thể đề cao tầng [cho chúng ta] được; chỉ để chữa bệnh

cho người thường. Nhất định phải giữ tâm cho chính; việc tu luyện không ai thay

thế được đâu; chư vị tự mình tu luyện một cách chân chính, mới có thể tự mình đề

cao tầng.

Vậy tôi cấp gì cho mọi người? Mọi người đã biết, chúng ta có nhiều người

chưa từng luyện công, thân thể có bệnh; có nhiều người tuy đã luyện công nhiều

năm, nhưng vẫn loanh quanh ở [giai đoạn] khí, cũng chưa có công. Tất nhiên có

một số vị đã chữa bệnh cho người ta, [nhưng] chư vị lại không biết mình làm sao

mà trị được bệnh? Khi tôi giảng về vấn đề phụ thể, tôi đã [trục xuất] các phụ thể

mang trên thân thể của những người có thể chân tu Đại Pháp; bất kể [phụ thể đó] là

gì đi nữa; từ trong đến ngoài thân thể có thứ gì không tốt, toàn bộ đều được vứt bỏ.

Người tự tu chân chính khi đọc Đại Pháp này, cũng được thanh lý thân thể; hơn nữa

hoàn cảnh trong gia đình của chư vị cũng được thanh lý. Trước đây nếu chư vị cúng

thờ bài vị của cáo hoặc chồn, chư vị lập tức quăng vứt đi; chúng đều bị thanh lý cho

chư vị rồi, không còn tồn tại nữa. Bởi vì chư vị muốn tu luyện, nên chúng tôi có thể

mở cánh cửa thuận tiện nhất, làm những việc ấy cho chư vị; nhưng chỉ hạn cuộc

cho những người tu luyện chân chính mà thôi. Tất nhiên có người không muốn tu

luyện; đến tận bây giờ họ vẫn chưa hiểu ra, nên chúng tôi không thể quản [họ]

được; [người mà] chúng tôi quản là những ai tu luyện chân chính.

Còn một kiểu người: trong quá khứ người ta nói rằng trên thân họ có phụ thể,

và bản thân họ cũng cảm giác là có. Nhưng sau khi giúp họ vứt bỏ [phụ thể] rồi, thì

cái tâm bệnh của họ lại không dứt: họ cứ cảm giác như trạng thái ấy vẫn tồn tại; họ

cho rằng vẫn còn; ấy chính là một loại tâm chấp trước, gọi là ‘nghi tâm’. Dần dà tự

họ chiêu mời cái thứ không tốt ấy trở lại. Tự chư vị phải vứt bỏ cái tâm ấy; hoàn

toàn không tồn tại [phụ thể nữa đâu]. Có những người mà chúng tôi đã xử lý từ bài

học trước, tôi đã làm những việc ấy rồi, các phụ thể đã được vứt bỏ hết rồi.

Luyện công tại tầng thấp của Đạo gia yêu cầu [tạo] một cơ sở: cần hình thành

chu thiên, một khối điền của đan điền cần hình thành, còn có những điều ở các

phương diện khác cũng cần hình thành. Chúng ta ở đây cần đặt Pháp Luân, khí cơ;

hết thảy các cơ chế tu luyện v.v. rất nhiều, hơn vạn thứ, tất cả thứ ấy đều cấp cho

chư vị, như các chủng tử [được] gieo vào cho chư vị. Sau khi loại bỏ bệnh của chư

vị, thì những gì cần làm đều được làm, những gì cần cấp sẽ được cấp toàn bộ cho

chư vị; như vậy chư vị mới có thể ở trong pháp môn này của chúng tôi mà thật sự

tu luyện xuất lai. Nếu không, nếu chẳng cấp gì cho chư vị, thì [chỉ] là chữa bệnh

Sư phụ cấp gì cho học viên 62

khoẻ người. Nói thẳng ra: có người không giảng tâm tính, thì chẳng thà tập thể

thao.

Tu luyện chân chính cần phải có trách nhiệm với chư vị; những ai tự tu cũng

được như thế, nhưng cần phải là chân tu; chúng tôi cấp tất cả những điều ấy cho

người chân tu. Tôi đã giảng rằng phải thật sự dẫn dắt chư vị như các đệ tử. Ngoài

ra, [chư vị] nhất định phải học thật thấu Pháp ở cao tầng, [phải] biết tu luyện như

thế nào; năm bộ công pháp được truyền dạy hết để [chư vị] học. Trong tương lai

chư vị có khả năng sẽ đạt đến tầng rất cao; [bây giờ] chư vị chưa ý thức được tầng

cao đến thế; đắc chính quả không thành vấn đề. Chư vị chỉ cần tu luyện; Pháp này

tôi đã kết hợp từ [Pháp] tại các tầng khác nhau mà giảng; sau này khi chư vị tu

luyện tại các tầng khác nhau, chư vị sẽ phát hiện nó đều có tác dụng chỉ đạo cho

chư vị.

Là người tu luyện, đường đời từ nay về sau sẽ được cải biến; Pháp thân của tôi

sẽ an bài lại cho chư vị. An bài như thế nào? Hỏi tiến trình sinh mệnh của một số

người còn có bao nhiêu [năm]? Người ấy tự mình cũng chẳng biết; có người còn

một năm nữa, nửa năm nữa là có thể mắc bệnh nặng, hễ mắc bệnh là bị luôn mấy

năm liền; có người có thể bị tắc nghẽn mạch máu não hoặc bệnh khác, hoàn toàn

bất động. Tại đường đời từ nay về sau, hỏi chư vị tu luyện sao đây? Chúng tôi đều

giúp chư vị thanh lý hết, không cho phép sự kiện như thế phát sinh. Nhưng chúng

tôi có lời nói trước, chỉ có thể giúp người tu luyện chân chính làm những điều ấy;

tuỳ tiện làm cho người thường thì không thể; nó tương đương với làm điều xấu.

Sinh lão bệnh tử nơi người thường có quan hệ nhân duyên của nó; không thể tuỳ

tiện phá hoại.

Chúng tôi coi người tu luyện là trân quý nhất, vậy nên chỉ có thể làm vậy cho

người tu luyện. Làm những gì? Nếu uy đức của sư phụ rất cao, cũng có nghĩa là

công lực của sư phụ rất cao, thì ông có thể tiêu [trừ] nghiệp lực cho chư vị. Công

của sư phụ cao thì có thể tiêu trừ được rất nhiều; công của sư phụ thấp thì chỉ có thể

tiêu trừ một chút. Chúng tôi ví dụ thế này: lấy các chủng nghiệp lực trên đường đời

từ nay về sau của chư vị mà tập trung lại, [từ đó lấy ra] tiêu trừ đi một phần, [ví

như] tiêu trừ một nửa. Nửa còn lại chư vị cũng không qua nổi, [nó] cao hơn núi.

Làm sao đây? Có thể khi chư vị đắc Đạo, trong tương lai sẽ có nhiều người được

lợi ích; như thế, có rất nhiều người sẽ thay chư vị mà đảm nhận một phần. Tất

nhiên đối với họ sẽ không đáng kể. Chư vị còn diễn luyện ra nhiều thể sinh mệnh;

vả lại ngoài bản thân chủ nguyên thần, phó nguyên thần của chư vị ra còn có rất

nhiều ‘chư vị’ [khác], đều thay thế chư vị mà đảm nhận một phần. Đến lúc chư vị

qua kiếp nạn, thì phần còn lại không đáng mấy. Nói là ‘còn lại không đáng mấy’,

nhưng nó còn rất lớn, chư vị vẫn không qua được; vậy làm thế nào đây? [Chỗ ấy]

sẽ được phân thành vô số rất nhiều các phần, đặt tại các tầng tu luyện của chư vị;

lợi dụng chúng để đề cao tâm tính của chư vị, chuyển hoá nghiệp lực của chư vị,

tăng công của chư vị.

Hơn nữa, một cá nhân mong muốn tu luyện, nhưng đó đâu phải chuyện dễ

dàng. Tôi đã giảng rằng đây là một việc nghiêm túc phi thường, ngoài ra nó là điều

siêu xuất [khỏi] người thường; so sánh với bất kể sự việc gì nơi người thường thì

nó cũng khó hơn. Nó chẳng phải siêu thường là gì? Do vậy so với việc gì trong

người thường, thì yêu cầu đối với chư vị cũng cao hơn. Con người chúng ta có

nguyên thần; nguyên thần là bất diệt. Nếu nguyên thần là bất diệt, mọi người thử

nghĩ coi, nguyên thần chư vị trong hoạt động xã hội tại các đời trước phải chăng đã

từng làm những điều xấu? Rất có thể. Đã từng sát sinh, đã từng thiếu nợ của ai

Sư phụ cấp gì cho học viên 63

những thứ gì, hiếp đáp những ai, làm tổn hại những ai; [tất cả] những việc ấy đều

đã có thể từng làm. Nếu đúng như thế, [thì] khi chư vị ở bên này tu luyện, họ ở bên

kia sẽ thấy rất rõ ràng. [Nếu] chư vị chữa bệnh khoẻ người [thì] họ không quan tâm

đến chư vị; họ biết chư vị [chỉ] trì hoãn về sau; hiện tại chư vị không hoàn [trả thì]

tương lai hoàn [trả], tương lai hoàn [trả] còn nặng hơn. Do vậy chư vị tạm thời

không hoàn [trả], [thì] họ cũng không lo.

Chư vị nói chư vị muốn tu luyện, họ không chịu: ‘Ngươi muốn tu luyện, ngươi

muốn rời đi; ngươi tăng công rồi, thì ta không động đến ngươi được, ta không gần

ngươi được nữa,’ họ có thể không chịu. Họ dùng trăm phương ngàn kế để cản trở

chư vị, không cho chư vị tu luyện, vì vậy viện đến đủ loại phương pháp để can

nhiễu chư vị, thậm chí đến giết chư vị. Tất nhiên chư vị sẽ không vì đang ngồi đả

toạ nơi đây mà đầu lìa đi mất; như thế không thể, bởi vì cần phải phù hợp với trạng

thái xã hội người thường. Có thể vừa ra khỏi cửa liền bị đụng xe hơi, ngã từ trên lầu

xuống, hoặc xuất hiện các nguy hiểm khác; có thể xuất hiện những sự việc như thế,

rất là nguy hiểm. Tu luyện chân chính không hề dễ dàng như chư vị tưởng tượng

đâu; [hễ] chư vị muốn tu luyện, thì chư vị [liền] tu luyện lên được sao? Nếu chư vị

tu luyện một cách chân chính, thì lập tức gặp [những chuyện] nguy hiểm đến sinh

mệnh, lập tức vấp phải vấn đề này. Có rất nhiều khí công sư không dám truyền

công đưa con người lên cao tầng. Tại sao? Chính là [vì] họ không làm được điều

này, họ không bảo hộ chư vị được.

Có nhiều người truyền [giảng] Đạo trong quá khứ, họ chỉ có thể dạy một đồ đệ;

họ duy hộ được một đồ đệ là khá lắm rồi. Còn trên diện rộng thế này, người bình

thường không dám làm. Nhưng tại đây chúng tôi giảng cho chư vị rằng, tôi có thể

thực hiện việc này, bởi vì tôi có vô số Pháp thân, [vốn] mang đầy đủ Pháp lực thần

thông lớn phi thường của tôi, có thể triển hiện những thần thông lớn, Pháp lực rất

lớn. Hơn nữa những điều chúng tôi đang làm hiện nay cũng không hề đơn giản như

biểu hiện có thể thấy được ở chúng ta; tôi cũng không phải vì một lúc nhiệt huyết

trong đầu mà đứng ra làm [việc này]. Tôi có thể nói với chư vị, rằng có rất nhiều

Đại Giác Giả đều đang chăm chú theo dõi sự việc này; đây là vào thời kỳ mạt Pháp

mà chúng tôi truyền chính Pháp một lần cuối cùng. Chúng tôi thực hiện việc này

cũng không được phép sai sót; [nếu chư vị] thật sự theo con đường chính đạo mà tu

luyện, [thì] không ai dám động đến chư vị; hơn nữa chư vị có Pháp thân của tôi bảo

hộ, sẽ không xuất hiện bất kể nguy hiểm gì.

Nợ thì phải hoàn [trả]; do vậy trên đường tu luyện có thể phải gặp một số điều

nguy hiểm. Nhưng khi gặp những sự việc loại này, chư vị sẽ không sợ hãi, cũng

không để cho chư vị thật sự gặp nguy hiểm. Tôi có thể dẫn một số thí dụ cho chư

vị. Vào thời tôi giảng bài ở Bắc Kinh, có một học viên, đang đi xe đạp qua đường;

vào lúc đi trên đường đến một đoạn quành, thì một chiếc xe ô-tô cao cấp đang rẽ

gấp ở đó đột nhiên đụng phải vị học viên này của chúng ta; đây là một nữ học viên

đã trên 50 tuổi. Chiếc xe ô-tô ấy đâm vào bà một cái, đâm rất mạnh, nghe thấy

“bang” một tiếng vào đầu, đầu của bà đập đúng vào mui xe. Vào lúc ấy bàn chân

của học viên này vẫn còn mắc ở bàn đạp, đầu đã va vào [ô-tô] rồi; nhưng lại không

cảm thấy đau. Không những không cảm thấy đau, mà cũng không chảy máu, cũng

không có sưng. Người lái xe sợ hãi quá, nhảy vội ra khỏi xe và hỏi bà, rằng bị đụng

xe có sao không, rằng chúng ta cần đến bệnh viện không? Bà nói không sao cả. Tất

nhiên, tâm tính người học viên này của chúng ta rất cao, nên không gây khó khăn gì

cho người ta. Nói rằng không sao cả, nhưng mui xe đã bị đâm lõm một miếng lớn.

Sư phụ cấp gì cho học viên 64

Những sự việc kiểu như thế là đến để lấy đi [sinh] mệnh [của người ta]; nhưng

sẽ không gặp nguy hiểm gì. Trước đó chúng tôi dạy tại trường Đại học Cát Lâm, có

một học viên từ cổng chính Đại học Cát Lâm đi ra; đang dắt xe vừa đến giữa thì hai

chiếc xe [ô-tô] đột ngột chạy tới kẹp ngay anh ta vào giữa, trông thấy thì như là

đâm rồi; nhưng [vị này] không hề sợ. Thông thường chúng ta gặp những tình huống

như thế này đều không sợ hãi; tại đúng tích tắc ấy, [hai chiếc] xe dừng lại, và không

xảy ra vấn đề gì.

Tại Bắc Kinh còn có một chuyện nữa. mùa Đông trời mau tối hơn, người ta

cũng đi ngủ sớm hơn. Trên đường phố chẳng có ai, rất yên tĩnh. Có một học viên

đang đạp xe vội vã về nhà; phía trước chỉ có một chiếc xe jeep đang chạy; đang

chạy đang chạy, đột nhiên chiếc xe phanh gấp. Anh này không hề chú ý, vẫn cắm

đầu đạp xe tiến lên. Nhưng chiếc xe jeep kia đột nhiên lùi lại, lùi lại cấp tốc, lùi lại

rất nhanh; hai luồng lực ấy mà gặp nhau, thì đó cũng là đến để lấy đi [sinh] mệnh

[của anh ta]. Đúng vào tích tắc mà trông như đâm vào nhau, thì một luồng lực đột

nhiên kéo xe đạp của anh ấy lại một đoạn nửa mét; ngoài ra chiếc xe jeep cũng

phanh đứng lại ngay trước bánh xe của anh ta; có lẽ người lái trong xe đã phát hiện

rằng phía sau có người. Lúc ấy người học viên này cũng không sợ hãi; nói chung

lúc gặp tình huống như thế thì không sợ hãi; có thể sau này mới thấy sợ. Điều mà

anh ấy nghĩ đến trước tiên là: ‘Ái chà, ai đã kéo mình lại nhỉ, mình phải cảm ơn

người ấy’. [Anh ta] quay đầu lại vừa định nói cảm ơn, thì thấy trên đường chẳng có

một ai, hoàn toàn yên tĩnh. Anh ấy lập tức hiểu ra: Chính là Sư phụ bảo hộ mình

rồi!

Còn một sự kiện nữa ở Trường Xuân. Có học viên mà bên cạnh nhà là một cao

ốc đang xây; hiện nay các toà nhà này được xây rất cao; giàn giáo của nó toàn là

những ống sắt dày hai tấc, dài bốn mét. Học viên này vừa ra khỏi nhà không xa thì

một chiếc ống sắt từ trên tầng cao kia rơi thẳng đứng xuống, lao thẳng xuyên vào

đỉnh đầu của anh này; mọi người trên phố trông thấy thảy đều kinh sợ. Anh ta nói:

‘Ai vỗ tôi thế?’ Anh ấy vẫn tưởng rằng ai đó đang vỗ lên đầu của mình. Đúng lúc

tích tắc quay đầu nhìn lại, [anh ta] thấy trên đỉnh đầu [mình] là một Pháp Luân lớn

đang quay; chiếc ống sắt thuận theo đầu mà trượt xuống. Trượt xong nó cắm dựng

đứng xuống đất. Nếu [ống sắt] ấy mà thật sự cắm vào thân người, thì mọi người thử

nghĩ xem, nó nặng nhường ấy, thì như là xuyên qua kẹo hồ lô, xuyên một cái là từ

trên xuống dưới; rất nguy hiểm vậy.

Sự tình loại này rất nhiều, không tính đếm được; nhưng không xuất hiện nguy

hiểm. Sự việc này không phải ai cũng gặp; những người cá biệt của chúng ta mới

gặp. Có gặp cũng vậy, không gặp cũng vậy, đảm bảo là chư vị sẽ không xuất hiện

nguy hiểm gì; điểm này tôi có thể đảm bảo được. Có một số học viên, họ không

chiểu theo yêu cầu tâm tính mà làm, chỉ luyện động tác không tu tâm tính; họ

không thể được xem là người luyện công.

Giảng đến việc Sư phụ cấp những gì, đó là những thứ tôi cấp cho mọi người.

Các Pháp thân của tôi sẽ liên tục bảo hộ cho đến khi chư vị có thể tự bảo hộ được

bản thân mình; khi ấy chư vị đã xuất khỏi tu luyện thế gian pháp rồi, đã đắc Đạo.

Nhưng chư vị cần phải tự hành xử như là người tu luyện chân chính, thì mới có thể

làm điều ấy được. Có người trong tay cầm cuốn sách của tôi, trên đường phố lớn

vừa đi vừa hét to lên rằng: ‘Có Lý Sư phụ bảo hộ thì không sợ xe hơi đâm’. Đó là

phá hoại Đại Pháp, sẽ không bảo hộ loại người này; thực ra các đệ tử chân tu sẽ

không làm như vậy.

Sư phụ cấp gì cho học viên 65

Trường năng lượng

Chung quanh chúng ta khi luyện công có xuất hiện một trường; trường ấy là

trường gì? Có người nói là trường khí, trường từ, trường điện. Thực ra chư vị gọi

đó là trường gì thì cũng không đúng, bởi vì vật chất mà trường này bao hàm là cực

kỳ phong phú. Vật chất cấu thành trong tất cả các không gian của vũ trụ chúng ta,

hầu như đều có trong công này; chúng tôi gọi đó là trường năng lượng là thích hợp

hơn; do vậy chúng tôi thông thường gọi đó là ‘trường năng lượng’.

Trường ấy có tác dụng gì? Như mọi người biết, những người tu luyện chính

Pháp chúng ta đều có một loại cảm giác thế này: vì đã tu luyện chính Pháp, họ

giảng từ bi, họ đồng hoá với đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ; do vậy các học

viên chúng ta ngồi trong trường này đều có cảm thụ, rằng trong tư tưởng không có

niệm đầu nào xấu; hơn nữa rất nhiều học viên chúng ta ngồi tại đây thậm chí không

nghĩ đến hút thuốc, cảm thấy bầu không khí hết sức tốt lành, hết sức thoải mái; đó

chính là [vì] năng lượng mà người tu luyện chính Pháp mang theo [bên mình];

trong phạm vi của trường này thì [nó] khởi tác dụng ấy. Tương lai từ khi chư vị học

xong lớp này trở đi, hầu hết mọi người chúng ta đều sẽ có công, thật sự xuất hiện

công; bởi vì [những thứ] mà tôi truyền [và] cấp cho chư vị đều là những thứ tu

luyện chính Pháp; bản thân chư vị cũng cần chiểu theo tiêu chuẩn tâm tính mà tự

đặt yêu cầu cho mình. Tuỳ theo việc chư vị luyện công không ngừng, chiểu theo

yêu cầu tâm tính của chúng tôi mà tu luyện, [thì] năng lượng của chư vị sẽ dần dần

ngày càng lớn [mạnh].

Chúng ta giảng độ kỷ độ nhân, phổ độ chúng sinh; do đó Pháp Luân xoáy vào

trong độ bản thân, xoáy ra ngoài độ nhân. Khi xoáy ra ngoài thì nó phát phóng năng

lượng, có ích cho người khác; như vậy, ai ở trong vùng che phủ của trường năng

lượng của chư vị đều được lợi ích; họ có thể cảm thấy rất thoải mái. Bất kể là chư

vị đi ngoài phố, tại đơn vị [công tác], [hay] ở nhà cũng vậy, đều có tác dụng như

thế. [Đối với] người ở trong phạm vi trường của chư vị, có thể chư vị không cố ý

[mà đã] điều chỉnh thân thể của họ; bởi vì loại trường này có thể điều chỉnh lại hết

thảy các trạng thái không đúng đắn. Thân thể con người không nên có bệnh; có

bệnh là thuộc về trạng thái không đúng đắn; nó {trường năng lượng} có thể điều

chỉnh lại trạng thái không đúng đắn này. Người mang tư tưởng xấu, khi nghĩ đến

những thứ không đúng đắn, gặp tác dụng mạnh mẽ của trường của chư vị, cũng có

thể thay đổi tư tưởng của họ, có thể khi ấy họ liền không nghĩ việc xấu nữa. Có thể

có người muốn [nhục] mạ người khác, đột nhiên lại thay đổi tư tưởng, không nghĩ

đến [nhục] mạ nữa. Chỉ có trường năng lượng của tu luyện chính Pháp mới có tác

dụng như vậy. Do đó trong Phật giáo quá khứ có câu rằng: “Phật quang phổ chiếu,

lễ nghĩa viên minh”, chính là ý nghĩa này.

Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công như thế nào

Chúng ta có nhiều học viên sau khi về [nhà], cảm thấy công pháp [này] rất tốt,

muốn truyền cấp cho bạn bè thân quyến. Có thể; chư vị có thể truyền, truyền cho ai

cũng được. Nhưng có một điểm, chúng tôi cần nói rõ cho mọi người; chúng tôi cấp

cho mọi người nhiều thứ như thế, vốn không thể lấy giá trị [tiền] mà đo lường

được. Vì sao cấp cho mọi người? Là để chư vị tu luyện; chỉ có tu luyện, mới có thể

cấp cho chư vị những thứ ấy. Cũng có nghĩa là, khi chư vị truyền công trong tương

lai, không được dùng những thứ này để cầu danh cầu lợi; do đó chư vị không được

giống như tôi mở lớp thu phí. Bởi vì chúng tôi cần in sách, in tài liệu, đi các nơi để

Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công như thế nào 66

truyền công, [nên] cần phí tổn. Trên toàn quốc, học phí của chúng tôi đã là thấp

nhất, trong khi những thứ chúng tôi cấp lại là nhiều nhất; chúng tôi thật sự đưa con

người lên cao tầng; điều này bản thân chư vị thể nghiệm được. Là một học viên

Pháp Luân Đại Pháp, tương lai chư vị [nếu] ra truyền công, đối với chư vị chúng tôi

có hai yêu cầu [như sau]:

Yêu cầu thứ nhất là không được thu phí. Chúng tôi cấp cho chư vị nhiều thứ

như thế, không phải để chư vị phát tài, cầu danh, mà là để độ chư vị, để chư vị tu

luyện. Nếu chư vị thu phí, thì Pháp thân của tôi sẽ thu hồi lại toàn bộ tất cả những

gì [đã từng cấp cho] chư vị; như vậy, chư vị không còn là người của Pháp Luân Đại

Pháp chúng tôi nữa, điều chư vị truyền cũng không phải là Pháp Luân Đại Pháp của

chúng tôi. Khi chư vị truyền công thì không [được] cầu danh cầu lợi; [mà] tự

nguyện phục vụ mọi người. Những học viên của chúng tôi ở các nơi trên toàn quốc

đều làm như thế, các phụ đạo viên mọi nơi cũng tự họ làm gương. Đến học công

của chúng tôi, chỉ cần chư vị muốn học, là chư vị đến học thôi; chúng tôi có thể có

trách nhiệm với chư vị; một xu cũng không lấy.

Yêu cầu thứ hai là không được trộn lẫn những gì của cá nhân vào trong Đại

Pháp. Trong quá trình truyền công, bất kể là thiên mục của chư vị đã khai mở cũng

vậy, chư vị đã nhìn thấy được gì cũng vậy, đã xuất được những công năng nào cũng

vậy, chư vị không được dùng những gì mình thấy mà giảng Pháp Luân Đại Pháp

của chúng tôi. Một chút sự tình mà chư vị ở nơi tầng ấy nhìn thấy được có thể quá

sai khác, quá ư sai biệt so với hàm nghĩa chân chính của Pháp mà chúng tôi giảng.

Do vậy từ nay trở đi khi chư vị truyền công, phải hết sức chú ý điều này; có như

vậy mới có thể đảm bảo những gì nguyên gốc của Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi là

bất biến.

Cũng không cho phép theo phương thức truyền công này của tôi, không cho

phép dùng hình thức mở lớp lớn giảng Pháp như tôi; chư vị không thể giảng Pháp.

Bởi vì những gì tôi giảng, ý nghĩa rất sâu xa, kết hợp với những điều tại cao tầng

mà giảng. Chư vị tu luyện tại các tầng khác nhau, trong tương lai sau khi chư vị đề

cao [tầng], chư vị nghe lại băng thâu âm này, chư vị sẽ không ngừng đề cao; chư vị

không ngừng nghe, thì chư vị sẽ cứ mãi có được lĩnh hội mới, có thu hoạch mới;

đọc sách lại càng như vậy. Những lời tôi giảng đã kết hợp với những điều rất cao

thâm; do vậy chư vị không thể giảng được Pháp này. Không cho phép chư vị dùng

lời nói nguyên gốc của tôi mà nói thành lời của chư vị; nếu không, đó chính là hành

vi trộm Pháp. Chư vị chỉ có thể dùng lời nguyên gốc của tôi mà giảng, [nói] thêm

rằng Sư phụ đã giảng như vậy, rằng trong sách đã viết như vậy; chỉ có thể nói như

thế. Tại sao? Bởi vì một khi chư vị nói như thế, thì có mang theo lực lượng của Đại

Pháp. Chư vị không được dùng những điều mà chư vị hiểu biết để truyền như thể là

Pháp Luân Đại Pháp, nếu không, điều chư vị truyền không phải là Pháp Luân Đại

Pháp, [tức là] chư vị tương đương với phá hoại Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi.

[Nếu] chư vị chiểu theo cách nghĩ của mình, chiểu theo tư tưởng của mình mà

giảng, thì đó không phải là Pháp, không thể độ nhân, cũng không thể khởi bất kể

tác dụng gì; do vậy, không ai có thể giảng Pháp này.

Phương pháp truyền công của chư vị, chính là tại điểm luyện công, hoặc tại

trường truyền công mà bật băng tiếng, băng hình cho học viên; sau đó nhờ các phụ

đạo viên dạy họ [động tác] luyện công. Có thể chiểu theo hình thức hội thảo trao

đổi: mọi người chia sẻ, đàm luận với nhau, giảng cho nhau; chúng tôi yêu cầu thực

hiện như vậy. Đồng thời, không được gọi các học viên (đệ tử) truyền bá Pháp Luân

Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công như thế nào 67

Đại Pháp là Thầy, là Đại sư, v.v.; Sư phụ trong Đại Pháp chỉ có một. Bất kể vào

học trước hay sau cũng đều là đệ tử.

Khi chư vị truyền công, có thể có người nghĩ: ‘Sư phụ có thể cài Pháp Luân, có

thể vì người mà điều chỉnh thân thể; [còn] chúng tôi làm không được’. Không sao;

tôi đã giảng cho mọi người rồi: đằng sau thân mỗi học viên đều có Pháp thân của

tôi, mà không chỉ có một [Pháp thân]; do đó Pháp thân của tôi sẽ làm những việc

ấy. Khi chư vị dạy họ, nếu họ có duyên phận, thì lúc ấy có thể đắc Pháp Luân. Nếu

duyên phận còn kém chút ít, [thì] qua điều chỉnh thân thể, rồi sau khi luyện công

cũng dần dần có thể đắc [Pháp Luân]; Pháp thân của tôi cũng sẽ giúp đỡ họ điều

chỉnh thân thể. Không chỉ có vậy, tôi nói với chư vị rằng, [nếu] đọc sách của tôi,

xem băng hình của tôi, hoặc nghe băng tiếng của tôi mà học Pháp học công, [và] có

thể tự hành xử như người luyện công, thì cũng sẽ đắc được những gì đáng được

đắc.

Chúng tôi cũng không cho phép học viên trị bệnh cho người khác; tuyệt đối

cấm chỉ học viên Pháp Luân Đại Pháp trị bệnh cho người khác. Chúng tôi dạy chư

vị tu lên cao, không cho phép chư vị khởi bất kể tâm chấp trước gì, cũng không cho

phép chư vị tự mình làm hỏng thân thể chính mình. Trường luyện công của chúng

tôi là tốt hơn cả so với các trường luyện công của các công pháp khác; chỉ cần chư

vị đến luyện công tại trường này, thì cũng tốt hơn nhiều so với điều [trị] bệnh của

chư vị. Các Pháp thân của tôi ngồi thành một vòng tròn, trên không úp trên trường

luyện công có Pháp Luân lớn, [và] Pháp thân lớn ở trên nắp trông coi trường này.

Trường này không phải là một trường bình thường, không phải là một trường luyện

công bình thường, mà là một trường tu luyện. Chúng ta có rất nhiều người có công

năng đã thấy được trường này của Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi, che phủ bằng

ánh sáng đỏ, toàn là màu đỏ.

Pháp thân của tôi có thể trực tiếp cài Pháp Luân; nhưng chúng ta chớ có phát

triển tâm chấp trước. Khi chư vị dạy họ động tác, họ [có thể] nói: ‘Ái chà, tôi được

Pháp Luân rồi’. Chư vị [có thể] tưởng rằng chư vị cài [Pháp Luân], [thực ra] không

phải. Tôi nói cho mọi người điều này: chớ có phát triển tâm chấp trước ấy; đó đều

là do Pháp thân của tôi làm. Các đệ tử Pháp Luân Đại Pháp chúng ta đều truyền

công như vậy.

Ai mà thay đổi công pháp trong Pháp Luân Đại Pháp, đều chính là phá hoại

Đại Pháp, phá hoại pháp môn này. Có người lấy công pháp này biến thành văn vần;

điều này tuyệt đối không được phép. Các phương pháp tu luyện chân chính đều

được lưu lại từ thời kỳ tiền sử, được lưu lại từ những niên đại vô cùng xa xưa, đã tu

luyện xuất lai vô số Đại Giác Giả. Không ai dám động đến [thay đổi] chúng dẫu chỉ

một chút; chỉ là vào thời kỳ mạt Pháp chúng ta mới có thể xuất hiện những việc

như thế. Trong lịch sử không hề xuất hiện những việc như vậy; mọi người phải hết

sức chú ý đến điểm này.

Các học viên Pháp Luân Đại Pháp truyền công như thế nào 68

Bài giảng thứ tư

Mất và được

Trong giới tu luyện thường bàn về quan hệ giữa mất và được

1

; nơi người

thường cũng hay bàn về quan hệ giữa mất và được. Người luyện công chúng ta đối

với ‘mất và được’ như thế nào? Nó khác với người thường; điều người thường

muốn được chính là lợi ích cá nhân, [sống] sao được tốt, được thoải mái. Nhưng

người luyện công chúng ta không thế, mà hoàn toàn trái lại: chúng ta không mong

truy cầu những gì người thường muốn được, nhưng chỗ mà chúng ta được thì người

thường có muốn cũng không thể được, trừ phi [họ] tu luyện.

Cái ‘mất’ mà chúng ta thường nói đến, cũng không phải là ‘mất’ theo phạm vi

rất nhỏ. Khi nói đến ‘mất’, có người nghĩ: Phải chăng là bố thí tiền tài, thấy người

gặp khó khăn thì giúp một chút, thấy người ăn xin ngoài đường thì cho một chút.

Đó cũng là một thứ ‘xả’, cũng là một thứ ‘mất’; nhưng trong vấn đề này thì đó chỉ

là coi nhẹ bạc tiền hoặc vật chất. Vứt bỏ đối với [tiền] tài ấy, đương nhiên đó cũng

là một phương diện, cũng là một phương diện tương đối chủ yếu. Nhưng cái ‘mất’

mà chúng tôi giảng không phải [theo] phạm vi nhỏ ấy; chúng ta trong quá trình tu

luyện, thì những tâm mà một người tu luyện cần vứt bỏ là rất nhiều: tâm hiển thị,

tâm tật đố, tâm tranh đấu, tâm hoan hỷ; rất nhiều các loại tâm chấp trước đều phải

vứt bỏ hết. Cái mất mà chúng tôi giảng là [cái mất] theo nghĩa rộng: trong toàn bộ

quá trình tu luyện, cần phải ‘mất’ đi tất cả các chủng chấp trước, các chủng dục

vọng của người thường.

Có thể có người nghĩ: ‘Chúng ta tu luyện nơi người thường, cái ‘mất’ ấy phải

chăng giống như hoà thượng? Phải chăng giống như ni cô? [Nếu] mất đến như thế,

thì dường như không thực hiện nổi’. Pháp môn này của chúng tôi, [đối với] bộ phận

tu luyện này nơi người thường, yêu cầu là tu luyện tại xã hội người thường, [cần]

duy trì đến mức độ tối đa sao cho giống với người thường; không để chư vị thật sự

mất đi bất kể thứ gì nơi lợi ích vật chất. Chư vị làm quan chức to đến mấy cũng

không ngại, chư vị có nhiều tiền tài đến mấy cũng không ngại; [điều] then chốt là ở

chỗ chư vị có thể vứt bỏ cái tâm kia không.

Pháp môn này của chúng tôi chính là trực chỉ nhân tâm; ở nơi lợi ích cá nhân,

gặp khi mâu thuẫn giữa người với người, thì liệu có thể coi thường coi nhẹ những

chuyện ấy được hay không—đây là vấn đề then chốt. Tu luyện trong chùa và tu

luyện trong núi sâu rừng già yêu cầu chư vị hoàn toàn cách biệt với xã hội người

thường, cưỡng chế chư vị mất đi cái tâm nơi người thường, không để chư vị đắc

được những lợi ích vật chất; từ đó chư vị mất [chúng]. Những người tu luyện nơi

người thường không theo [cách] ấy; yêu cầu chính là trong trạng thái sinh hoạt của

người thường kia mà coi nhẹ chúng; nó đương nhiên rất khó, nó cũng là vấn đề

then chốt nhất của pháp môn này của chúng tôi. Do vậy cái ‘mất’ mà chúng tôi

giảng là [cái mất] với nghĩa rộng chứ không phải [cái mất] với nghĩa hẹp. Chúng ta

hãy thử giảng về làm điều tốt, [và] bố thí tiền tài; chư vị thấy những người ăn xin

ngoài đường hiện nay, có một số họ là ăn xin chuyên nghiệp, họ có nhiều tiền hơn

cả chư vị. Chúng ta cần để mắt tới những chuyện lớn, chứ không phải để mắt đến

những chuyện nhỏ. Tu luyện ấy, nên nhìn đến những việc lớn một cách đường

1 Thất: mất; đắc: được.

Mất và được 69

đường chính chính mà tu luyện. Chúng ta trong quá trình mất ấy, thì những điều mà

chúng ta thực sự mất chính là những thứ không tốt kia vậy.

Người ta thường cho rằng những điều mình truy cầu đều là tốt; kỳ thực tại cao

tầng mà xét, thì đều là để thoả mãn chút đỉnh lợi ích vốn đã có được nơi người

thường. Trong tôn giáo giảng: Chư vị có tiền nhiều đến mấy, làm quan to đến đâu

cũng chỉ là mấy chục năm, khi sinh chẳng đem đến, khi tử chẳng mang theo. Cái

công này tại sao quý giá vậy? Chính vì nó tăng trưởng trên thân nguyên thần của

chư vị, khi sinh đem đến được, khi tử mang theo được; hơn nữa nó quyết định trực

tiếp quả vị của chư vị; do đó tu được không dễ. Nghĩa là, những gì chư vị vứt bỏ

đều là những thứ không tốt, có như vậy chư vị mới có thể phản bổn quy chân. Vậy

những thứ ‘được’ là gì? Chính là đề cao tầng, cuối cùng đắc chính quả, công thành

viên mãn, giải quyết được vấn đề căn bản. Tất nhiên chúng ta muốn mất đi các dục

vọng người thường, để có thể đạt đến tiêu chuẩn của người tu luyện chân chính;

[nhưng] lập tức làm được thì không hề dễ dàng, từ từ mà làm mới được. Chư vị

nghe tôi nói từ từ mà làm, chư vị liền nói: ‘Sư phụ bảo rằng từ từ mà làm, vậy từ từ

mà làm’. Không thể được! Chư vị phải có yêu cầu thật nghiêm khắc đối với bản

thân mình; nhưng chúng tôi cho phép chư vị đề cao một cách từ từ. Hôm nay chư vị

lập tức làm được, thì hôm nay chư vị là Phật; do vậy cũng không hiện thực; chư vị

sẽ làm được điều này một cách từ từ.

Điều chúng ta mất thực sự là những điều không tốt, chúng là gì? Chính là

nghiệp lực; nó tương phụ tương thành với các chủng tâm của con người. Ví như nói

rằng những người thường chúng ta có các chủng tâm không tốt, chỉ vì lợi ích cá

nhân mà làm những điều không tốt, vậy sẽ nhận phải loại vật chất màu đen—

nghiệp lực. Điều này có quan hệ trực tiếp đến những tâm của bản thân chúng ta;

nếu muốn vứt bỏ những thứ không tốt ấy, thì đầu tiên chư vị cần thay đổi cái tâm

kia mới được.

Chuyển hoá nghiệp lực

Giữa vật chất màu trắng và vật chất màu đen có một quá trình chuyển hoá. Sau

khi mâu thuẫn phát sinh giữa người với người, thì nó có một quá trình chuyển hoá.

Làm điều tốt thì nhận vật chất màu trắng—đức; làm điều xấu thì nhận vật chất màu

đen—nghiệp lực. Còn có một quá trình truyền thừa; có vị nói rằng có phải vì nửa

đời trước đây đã từng làm điều không tốt? Cũng không hẳn như vậy; bởi vì nghiệp

lực con người ta tích lại là không phải chỉ trong một đời. Giới tu luyện giảng rằng

nguyên thần bất diệt. Nếu nguyên thần bất diệt, thì nó có thể có những hoạt động xã

hội tại đời trước, như thế trong hoạt động của đời trước nó có thể đã mắc nợ ai đó,

nạt dối ai đó, hoặc giả phạm những điều không tốt khác, như sát sinh, v.v.; như thế

tạo thành nghiệp lực. Những thứ ấy, tại không gian khác, tích lại về sau; [người ta]

luôn mang chúng theo; vật chất màu trắng cũng lại như thế; nhưng không chỉ có

một nguồn ấy. Còn một tình huống: trong gia tộc và từ tổ tiên có thể tích lại [những

thứ ấy]. Những người già trong quá khứ giảng câu này: ‘hãy tích đức hãy tích đức;

tổ tiên tích đức; người kia thất đức, tổn đức’. Những câu này giảng hết sức đúng.

Con người hiện nay đã không còn nghe [theo] lời ấy nữa; chư vị mà nói với một số

thanh niên về mất đức hay thiếu đức, họ sẽ hoàn toàn chẳng để tâm. Thực ra ý

nghĩa của [những câu] này thật vô cùng sâu sắc; [đức] ấy không chỉ là tiêu chuẩn tư

tưởng và tinh thần của con người cận đại, mà nó thật sự là tồn tại vật chất; trên thân

thể chúng ta đều có hai chủng vật chất [đức và nghiệp] này.

Chuyển hoá nghiệp lực 70

Có người nói: ‘Phải chăng khi vật chất màu đen nhiều quá, thì không thể tu

luyện lên cao tầng?’ Có thể nói như thế; người có nhiều vật chất màu đen, nó ảnh

hưởng đến ngộ tính. Vì nó hình thành một trường quanh thân thể chư vị, chính là

bao bọc chư vị vào trong; tách khỏi đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ; do vậy

ngộ tính của loại người này có thể kém hơn. Người ta giảng về tu luyện, về khí

công, thì họ một mực coi là mê tín, hoàn toàn không tin; họ cho rằng thật khôi hài.

Thường là như vậy; nhưng không tuyệt đối. Cá nhân ấy phải chăng khó mà tu luyện

nổi, không thể tăng công cao lên được? Cũng không phải thế; chúng tôi giảng Đại

Pháp vô biên; [hoàn] toàn dựa vào cái tâm của chư vị mà tu. Sư phụ lĩnh tiến môn,

tu hành tại cá nhân; hoàn toàn [dựa] xem bản thân chư vị tu ra sao. Có thể tu được

không hoàn toàn [dựa] xem chư vị có thể nhẫn chịu không, có thể phó xuất không,

có thể chịu khổ không. Nếu dốc lòng quyết tâm, khó khăn nào cũng không ngăn

được, [thì] tôi nói rằng, [nó sẽ] không thành vấn đề.

Người có nhiều vật chất màu đen, thường phải phó xuất nhiều hơn người có

nhiều vật chất màu trắng. Bởi vì vật chất màu trắng đồng hoá trực tiếp với đặc tính

Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ, nên chỉ cần tâm tính của họ đề cao lên, có thể đề cao

bản thân qua những mâu thuẫn, thì họ sẽ tăng công; nó nhanh gọn như thế. Người

nhiều đức ngộ tính cao; cũng có thể chịu khổ, nhọc cái gân cốt, khổ cái tâm chí;

ngay cả chịu đựng nhiều về phương diện thân thể mà chịu đựng ít về tinh thần, [họ]

vẫn có thể tăng công. Người có nhiều vật chất màu đen không như thế được; trước

hết phải qua một quá trình thế này: đầu tiên [phải] chuyển hoá vật chất màu đen

thành vật chất màu trắng; chính là quá trình ấy, [nó] cực kỳ thống khổ. Do đó người

có ngộ tính không tốt thường chịu khổ nhiều; nghiệp lực lớn, ngộ tính kém, họ tu

luyện thật không hề dễ dàng.

Lấy một ví dụ cụ thể, chư vị thử xem họ tu luyện thế nào. Tu luyện yêu cầu

[ngồi] xếp bằng thật lâu khi thiền định; hễ xếp bằng là vừa đau vừa khó chịu; hễ

kéo dài thời gian thêm, thì tâm náo [loạn], náo [loạn] ghê gớm. Nhọc cái gân cốt,

khổ cái tâm chí; thân thể chẳng thoái mái, tâm cũng chẳng thoải mái. Một số vị

[ngồi] xếp bằng lại sợ đau, liền tháo ra mà chẳng kiên trì. Một số vị vừa xếp bằng

lâu một chút, là không chịu được. Liền tháo [chân] ra; luyện [cũng] như không.

Xếp bằng hễ đau một cái, liền vội hoạt động hoạt động rồi lại xếp bằng tiếp; chúng

tôi thấy không có tác dụng. Bởi vì khi chân họ đau, chúng tôi thấy vật chất màu đen

đang [tấn] công xuống chân họ. Vật chất màu đen chính là nghiệp lực; chịu khổ có

thể tiêu nghiệp, từ đó chuyển hoá thành đức. Khi [bắt đầu] đau chính là nghiệp lực

bắt đầu bị tiêu; nghiệp lực càng chuyển áp [lực] xuống nhiều, thì chân họ lại càng

đau ghê gớm; do vậy cái đau ở chân họ không phải là vô duyên vô cớ. Thông

thường người ngồi đả toạ chân chịu đau một trận, một trận đau đến, vô cùng khó

chịu; rồi lại ngưng; sau một lúc lại bắt đầu đau nhức trở lại; thông thường như vậy.

Bởi vì nghiệp tiêu theo từng cục từng cục; sau khi một cục bị tiêu thì thấy chân

đỡ hơn; một lúc lại một cục nữa đến, thì lại bắt đầu đau. Sau khi vật chất màu đen

này tiêu đi, thì [nó] không tản mất—vật chất này bất diệt—sau khi tiêu rồi thì [nó]

trực tiếp chuyển hoá thành vật chất màu trắng; vật chất màu trắng này chính là đức.

Tại sao nó có thể chuyển hoá như vậy? Bởi vì họ đã chịu khổ, đã phó xuất, đã chịu

thống khổ. Chúng tôi giảng, [khi] bản thân chịu thống khổ, chịu khổ, làm điều tốt

[thì] đức đến; do đó trong khi thiền đả toạ thì xuất hiện vấn đề này. Có người chân

vừa đau một cái là dựng ngay dậy, hoạt động hoạt động rồi lại xếp bằng tiếp; hoàn

toàn không có tác dụng. Có người tập trạm trang, các bắp tay mỏi, chịu không

được, liền hạ xuống; hoàn toàn không có tác dụng. Một chút khổ ấy có đáng kể gì?

Chuyển hoá nghiệp lực 71

Tôi nói rằng [nếu] chư vị luyện công giơ tay như thế mà tu thành được thì đúng là

quá ư dễ dàng. Đây là tình huống xuất hiện trong khi người ta thiền định.

Pháp môn chúng ta chủ yếu không theo cách ấy, mặc dù một phần cũng có tác

dụng theo phương diện này. Chúng ta phần lớn là trong khi xung đột tâm tính giữa

người với người mà chuyển hoá nghiệp lực; thông thường nó thể hiện tại đây. Con

người ở trong mâu thuẫn, trong xung đột giữa người với người như vậy thì thậm chí

vượt quá cả thống khổ loại kia. Tôi nói rằng thống khổ trên thân thể là dễ chịu đựng

nhất, cắn răng là vượt qua được. Trong lúc lục đục giữa người với người, thì cái

tâm kia mới thật là khó giữ vững nhất.

Ví dụ, như có người kia, vừa đến cơ quan liền nghe thấy hai người khác nói lời

xấu về mình, nói rất khó nghe, liền cảm thấy rất bực mình. Tuy nhiên chúng tôi đã

giảng rằng, là một người luyện công, thì cần làm được ‘đả bất hoàn thủ, mạ bất

hoàn khẩu’, dùng tiêu chuẩn cao mà yêu cầu bản thân. Người ấy liền nghĩ: ‘Sư phụ

đã dặn rồi, người luyện công chúng mình chẳng giống như người ta, cần có phong

thái cao [mới được]’. Người ấy bèn không tranh cãi với hai vị kia. Tuy nhiên

thường khi mâu thuẫn đến, [nếu] chẳng làm kích động đến tâm linh người ta, [thì]

không đáng kể, không tác dụng, không đề cao được. Do đó tâm chẳng dứt được,

tâm bứt rứt; có thể tâm [người ấy] vẫn đeo đuổi, vẫn muốn quay đầu lại coi mặt hai

vị kia đang nói lời xấu về mình. Quay đầu lại ngó một cái, thấy nét mặt hai vị kia

thể hiện thật quá ác, đang nói đúng lúc bốc lửa nhất; người này lập tức chẳng chịu

được nữa, hoả khí liền bốc lên, có thể lập tức gây sự với người ta. Khi phát sinh

mâu thuẫn giữa người với người, cái tâm ấy rất khó giữ vững. Tôi nói rằng [nếu]

đều trải qua trong ngồi đả toạ, thì dễ quá; tuy nhiên không phải đều như vậy.

Do vậy sau này khi luyện công, chư vị sẽ gặp các dạng các loại ma nạn. Không

có những ma nạn ấy hỏi chư vị tu ra sao? Mọi người ai với ai cũng tốt, không có

xung đột về lợi ích, không có can nhiễu nhân tâm, chư vị ngồi nơi kia [hỏi] tâm tính

đề lên cao là sao? Như thế không thể được. Con người phải qua thực tế mà thật sự

‘ma luyện’ bản thân mới có thể đề cao lên. Có người nói: ‘Chúng ta luyện công vậy

sao vẫn cứ gặp những chuyện phiền phức thế này? Chẳng khác mấy so với những

phiền phức nơi người thường.’ Bởi vì chư vị tu luyện ngay tại nơi người thường, họ

không thể đột nhiên đưa chư vị quay đầu xuống đất, phiêu đãng lơ lửng trên kia, để

chư vị chịu khổ trên trời được; nó không thể như thế được. [Tất cả] đều [phải] là

trạng thái nơi người thường: hôm nay có ai đó sinh chuyện với chư vị, ai đó làm

chư vị bực mình, ai đó xử tệ với chư vị, đột nhiên nói lời bất kính với chư vị; chính

là để xem chư vị đối đãi với vấn đề này như thế nào.

Tại sao lại gặp những vấn đề này? [Đó] đều là nghiệp lực mà bản thân chư vị

mắc nợ tạo thành; chúng tôi đã giúp chư vị tiêu trừ vô số phần rồi. Chỉ còn lại một

chút được phân chia tại giữa mỗi tầng, để đề cao tâm tính của chư vị, thiết lập một

số ma nạn để ‘ma luyện’ tâm của chư vị và vứt bỏ các chủng chấp trước. Đây đều

là [khó] nạn của bản thân chư vị; nhưng chúng tôi lợi dụng chúng để đề cao tâm

tính của chư vị; đều có thể để chư vị vượt qua được. Chỉ cần chư vị đề cao tâm tính,

thì có thể vượt qua; chỉ e bản thân chư vị không muốn vượt qua; muốn vượt qua thì

vượt qua được. Do đó sau này khi gặp mâu thuẫn, chư vị không được coi đó là

ngẫu nhiên. Bởi vì khi xảy ra mâu thuẫn, [nó] đột nhiên xuất hiện; tuy vậy [nó]

không hề tồn tại [một cách] ngẫu nhiên; đó là để đề cao tâm tính chư vị. Chỉ cần

chư vị coi mình là người luyện công, chư vị sẽ có thể xử lý chúng được tốt.

Tất nhiên, những khó khăn và mâu thuẫn sẽ không được báo trước cho chư vị;

[nếu] nói cho chư vị biết hết, thì chư vị còn tu gì nữa? Chúng sẽ không có tác dụng.

Chuyển hoá nghiệp lực 72

Thông thường chúng đột nhiên xuất hiện, [như thế] mới có thể khảo nghiệm tâm

tính con người, mới có thể làm cho tâm tính con người thật sự đề cao lên, coi xem

có thể giữ vững tâm tính hay không, vậy mới có thể xem rõ được; do đó những mâu

thuẫn xảy đến không hề tồn tại ngẫu nhiên. Trong toàn bộ quá trình tu luyện, khi

nghiệp lực chuyển hoá sẽ xuất hiện vấn đề này; chúng khó hơn rất nhiều so với việc

‘nhọc cái gân cốt’ như người bình thường chúng ta vẫn tưởng tượng. Chư vị luyện

luyện công, luyện nhiều hơn một chút, tay giơ lên phát mỏi, hoặc chân đứng phát

run, vậy hỏi có tăng công; chư vị luyện thêm vài giờ hỏi có thể tăng công? Nó chỉ

có tác dụng chuyển hoá bản thể thôi, nhưng vẫn cần năng lượng để gia trì; nó

không có tác dụng đề cao tầng. ‘Khổ cái tâm chí’ mới là then chốt đề cao tầng thực

sự. Nếu nói ‘nhọc cái gân cốt’ là có thể đề cao lên được, thì tôi nói rằng nông dân

Trung Quốc khổ nhất, [phải chăng họ] đều nên được làm đại khí công sư? Chư vị

nhọc cái gân cốt đến mấy cũng không thể như họ, vốn hàng ngày làm việc [ngoài

đồng] dưới nắng gắt, vừa khổ vừa mệt; không phải việc đơn giản như thế. Vậy như

tôi đã giảng, muốn thật sự đề cao, thì phải thật sự đưa cái tâm này lên cao, thế mới

có thể đề cao một cách chân chính.

Khi nghiệp lực đang trong quá trình chuyển hoá, để có thể giữ vững bản thân—

chứ không biểu hiện như người thường vốn hay làm sự tình tệ hơn—thì bình

thường chúng ta [luôn] phải bảo trì tâm từ bi, tâm thái hoà ái. Khi đột nhiên gặp

một vấn đề nào đấy, thì chư vị sẽ có thể xử lý nó được tốt. [Nếu] thông thường toàn

tâm của chư vị luôn hoà ái từ bi như thế, [thì] khi đột nhiên xuất hiện vấn đề, chư vị

sẽ có thêm một khoảng hoà hoãn, [để] cân nhắc thêm. [Còn nếu] trong tâm cứ luôn

nghĩ đến tranh [đấu] với người khác, đấu [tranh] này khác, [thì] tôi nói rằng hễ gặp

vấn đề là chư vị liền gây sự với người ta; đảm bảo là như vậy. Do đó [khi] chư vị

gặp mâu thuẫn nào đấy, [thì] tôi nói rằng [đó] là để vật chất màu đen của bản thân

chư vị chuyển hoá thành vật chất màu trắng, chuyển hoá thành đức.

Nhân loại chúng ta phát triển cho đến mức độ như ngày nay, hầu như ai ai cũng

đến

1

trong nghiệp cuộn lấy nghiệp; trên thân người có nghiệp lực rất lớn. Do đó

trong vấn đề chuyển hoá nghiệp lực thường hay xuất hiện tình huống này: chư vị

vừa đồng thời tăng công, vừa đồng thời đề cao tâm tính, nghiệp lực của chư vị cũng

đồng thời tiêu, đồng thời chuyển hoá. Khi gặp mâu thuẫn, thì có thể biểu hiện [là]

trong khi ‘ma luyện’ tâm tính giữa người với người, [nếu] chư vị có thể nhẫn chịu

được, [thì] nghiệp lực của chư vị cũng tiêu, tâm tính của chư vị cũng đề cao, công

của chư vị cũng tăng lên; chúng dung hợp cùng nhau như thế. Con người trong quá

khứ có đức lớn, tâm tính của họ ban đầu là cao; [họ] chỉ cần chịu một chút khổ thì

có thể tăng công. Con người hiện tại không như thế, hễ chịu khổ một cái là không

muốn tu; hơn nữa [họ] càng ngày càng không ngộ, [nên] lại càng khó tu.

Trong tu luyện, khi đối xử với các mâu thuẫn cụ thể, khi người khác đối xử với

chư vị không tốt, có thể có tồn tại hai loại tình huống: một là chư vị tại đời trước có

thể đã đối xử không tốt với người ta; trong tâm chư vị thấy bất bình: ‘Cớ chi đối xử

với tôi như vậy?’ Nhưng tại sao trước đây chư vị đối xử với người ta như thế? Chư

vị nói rằng chư vị đâu có biết được lúc ấy, rằng đời này đâu liên quan gì với chuyện

của đời kia; [suy nghĩ] thế không được. Còn có một vấn đề nữa, trong lúc mâu

thuẫn, thì có động chạm đến vấn đề chuyển hoá nghiệp lực; do đó chúng ta khi đối

xử [với trường hợp] cụ thể, cần phải có phong thái cao, chứ không như người

thường. Tại đơn vị [công tác], tại các hoàn cảnh công tác khác cũng lại như thế;

1 Hiểu là ai ai cũng sinh ra…

Chuyển hoá nghiệp lực 73

[kinh doanh] cá thể cũng thế, cũng có giao tiếp người với người; không thể không

có tiếp xúc với xã hội; tối thiểu cũng có quan hệ hàng xóm.

Trong các giao tiếp xã hội, sẽ gặp các dạng các loại mâu thuẫn. Bộ phận tu

luyện [tại] người thường chúng ta, bất kể chư vị có bao nhiêu tiền, làm quan [chức]

to đến mấy, chư vị làm kinh doanh cá thể, mở công ty, làm doanh nghiệp gì đi nữa,

thì cũng không hề gì; [hãy] giao dịch công bằng, giữ tâm cho chính. Các ngành

nghề trong xã hội nhân loại đều nên tồn tại; ấy là do nhân tâm không chính, chứ

không phải do làm nghề gì. Có câu thuyết trong quá khứ, kiểu như: “mười người

buôn chín kẻ gian”; ấy là người thường nói thế; tôi nói rằng đây là vấn đề ‘nhân

tâm’. Nếu nhân tâm được giữ cho chính, giao dịch công bằng, [thì] chư vị phó xuất

nhiều đến đâu sẽ nên kiếm được tiền nhiều đến đó; ấy là vì ở nơi người thường chư

vị phải phó xuất rồi mới được, ‘bất thất bất đắc’, [đây là] cái được nhờ lao động.

Mỗi giai tầng đều có thể làm người tốt, các giai tầng khác nhau có tồn tại các mâu

thuẫn khác nhau. Giai tầng cao có hình thức mâu thuẫn của giai tầng cao, đều có

thể đối xử thích hợp với các mâu thuẫn; tại giai tầng nào cũng làm người tốt, đều có

thể coi nhẹ các chủng dục vọng, [và] tâm chấp trước. Tại các giai tầng khác nhau

đều có thể thể hiện là người tốt; đều có thể tu luyện ngay tại giai tầng của mình.

Nước ta hiện nay bất kể là trong doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp

khác, mâu thuẫn giữa người với người là cực kỳ đặc biệt. Tại nước khác, trong lịch

sử xưa nay không có hiện tượng này; do đó mâu thuẫn về lợi ích thể hiện ra hết sức

gay gắt; lục đục căng thẳng, tranh đấu chỉ vì chút lợi nhỏ; những tư tưởng xuất

hiện, những chiêu thuật sử dụng đều rất xấu; làm người tốt thật khó. Ví như cá nhân

kia đi đến đơn vị [công tác], liền nhận thấy không khí tại đơn vị rất không bình

thường. Sau đó có người bảo rằng: một người kia đã công khai nói xấu chư vị, tố

cáo chư vị với lãnh đạo, làm chư vị rất mất mặt. Những người khác đều nhìn chư vị

với cặp mắt kỳ dị. Người bình thường đâu chịu nhịn việc này? Làm sao nén nổi tức

giận đây? “Hắn chơi tôi, [thì] tôi chơi hắn. Hắn có người [ủng hộ], tôi cũng có

người [ủng hộ]; xử lý nhau thôi.” Ở nơi người thường, [nếu] làm thế, thì người

thường sẽ nói chư vị là người mạnh mẽ. Tuy nhiên là một người luyện công, thì

như thế là quá dở. Chư vị cũng tranh cũng đấu giống như người thường, thì chư vị

chính là người thường; nếu chư vị còn hơn cả hắn, thì chư vị lại còn chẳng bằng

người thường như hắn.

Chúng ta đối xử với vấn đề này thế nào? Khi gặp mâu thuẫn kiểu này, chư vị

đầu tiên nên phải bình tĩnh, không nên đối xử giống như hắn. Tất nhiên chúng ta có

thể giải thích một cách có thiện ý; nói rõ sự việc thì không hề gì; tuy nhiên chư vị

chấp trước quá thì không được. Khi chúng ta gặp phải những chuyện phiền phức

như thế, thì [chúng ta] không được giống như người ta mà tranh mà đấu. Họ làm

sao, chư vị cũng làm vậy, thì chư vị chẳng phải người thường là gì? Chư vị không

những không giống hắn mà tranh mà đấu, mà trong tâm chư vị phải không hận hắn,

thật sự không thể hận hắn. Một khi chư vị hận hắn, thì chẳng phải chư vị tức giận là

gì? Chư vị chưa thực hiện được ‘Nhẫn’. Chúng tôi giảng Chân Thiện Nhẫn; ‘Thiện’

của chư vị cũng chẳng còn có nữa. Do đó chư vị không thể theo giống như hắn, chư

vị thật sự không thể tức giận hắn, ngay cả khi hắn làm chư vị rất mất mặt, không

cất đầu lên được. Chư vị không những không tức giận hắn, mà trong tâm chư vị còn

nên cảm ơn hắn, thật sự cảm ơn hắn. Tại người thường có thể nghĩ: ‘Chẳng đúng

A-Q là gì?’ Chúng tôi nói với chư vị, rằng không phải vậy.

Mọi người thử nghĩ xem, chư vị là người luyện công, cần dùng tiêu chuẩn cao

để yêu cầu chư vị phải không? Không thể dùng [đạo] lý của người thường mà yêu

Chuyển hoá nghiệp lực 74

cầu chư vị. Chư vị là người tu luyện, điều chư vị được chẳng phải là những thứ ở

cao tầng là gì? Vậy cần dùng [Pháp] lý cao tầng để yêu cầu chư vị. [Nếu] chư vị

hành xử giống hắn, thì chẳng phải chư vị cũng như hắn? Vậy, cớ gì phải cảm ơn

hắn? Chư vị thử nghĩ xem, hỏi chư vị được những gì? Trong vũ trụ này có một

[Pháp] lý, gọi là ‘bất thất giả bất đắc, đắc tựu đắc thất’. Nơi người thường hắn đã

làm chư vị rất mất mặt; vậy hắn tính là bên được, hắn chiếm được tiện nghi. Hắn

càng làm chư vị mất mặt, ảnh hưởng càng mạnh mẽ, [thì] bản thân chư vị chịu

đựng càng lớn, [và] đức mà hắn tổn thất càng nhiều; chỗ đức ấy đều cấp cho chư vị.

Đồng thời khi bản thân chư vị chịu đựng, chư vị có thể vứt bỏ tâm thật nhẹ nhàng,

chẳng để nó trong tâm.

Trong vũ trụ này còn có một [Pháp] lý: chư vị đã chịu đựng thống khổ rất lớn,

vậy nên nghiệp lực tự thân của chư vị cũng phải được chuyển hoá. Bởi vì chư vị đã

phó xuất; chịu đựng lớn đến đâu, chuyển hoá lớn đến đó; đều biến thành đức.

Người luyện công chẳng phải muốn đức ấy là gì? Chẳng phải chư vị lưỡng đắc

1

;

nghiệp lực cũng được tiêu trừ. Nếu hắn không tạo hoàn cảnh ấy cho chư vị, thì chư

vị làm sao đề cao tâm tính được? Chư vị [đối đãi tôi] tốt, tôi cũng [đối đãi chư vị]

tốt, tất cả hoà ái ngồi đây rồi sẽ tăng công; lẽ nào có chuyện ấy? Chính là vì hắn tạo

cho chư vị mâu thuẫn như vậy, tạo ra cơ hội đề cao tâm tính, [nên] chư vị mới từ

trong đó mà có thể đề cao tâm tính của mình; tâm tính chư vị chẳng phải đã đề cao

lên là gì? Tam đắc. Chư vị là người luyện công, tâm tính chư vị nâng lên thì công

của chư vị chẳng phải cũng nâng lên? Nhất cử tứ đắc. Chẳng phải chư vị nên cảm

tạ người ta? Trong tâm chư vị phải hết mực cảm ơn người ta, thật sự là như vậy.

Tất nhiên, hắn đã xuất ra tâm không tốt, nếu không đã không cấp đức cho chư

vị, nhưng thật sự hắn đã tạo ra một cơ hội cho chư vị đề cao tâm tính của mình.

Vậy cũng nói, chúng ta nhất định phải coi trọng tu luyện tâm tính; khi tu luyện tâm

tính [thì] đồng thời tiêu trừ nghiệp lực, chuyển hoá thành đức, chư vị mới có thể đề

cao tầng; chúng tương phụ tương thành cho nhau. Lên đến cao tầng mà xét, thì các

[Pháp] lý [nơi người thường] đều thay đổi. Người thường không hiểu rõ những việc

này; [khi] chư vị lên cao tầng mà xét những [Pháp] lý, thì mọi thứ đều đã thay đổi.

Ở nơi người thường chư vị cho rằng [đạo] lý này là đúng, nhưng nó không thật sự

đúng. Lên cao tầng mà xét thì mới thật sự đúng; thông thường là như vậy.

Tôi đã giảng thấu [Pháp] lý cho chư vị rồi; hy vọng rằng trong tu luyện sau

này, mọi người có thể tự coi mình là người luyện công, tu luyện một cách chân

chính, vì [Pháp] lý này đã được [trình] bày ở đây rồi. Có thể một số người, vì họ ở

nơi người thường, nên họ cho rằng lợi ích vật chất rõ ràng thực tại kia của người

thường mới là lợi ích thiết thực. Trong dòng chảy lớn người thường, họ không thể

lấy tiêu chuẩn cao mà yêu cầu bản thân. Kỳ thực, [về việc] làm người tốt nơi người

thường [thì] đã có những nhân vật anh hùng mô phạm làm khuôn mẫu; đó là khuôn

mẫu nơi người thường. Nếu chư vị muốn làm người tu luyện, thì hoàn toàn dựa vào

cái tâm của mình mà tu, toàn dựa vào bản thân mà ngộ, không hề có khuôn mẫu.

May thay hôm nay chúng tôi đã giảng rộng Đại Pháp; trong quá khứ [nếu] chư vị

muốn tu, nhưng không ai giảng [dạy]. Như thế này chư vị chiểu theo Đại Pháp mà

thực hiện thì sẽ thực hiện tốt hơn; có thể tu hay không, có thể hành hay không, đột

phá lên đến tầng nào, hoàn toàn dựa vào bản thân chư vị.

Tất nhiên, hình thức chuyển hoá nghiệp lực cũng không hoàn toàn giống [hệt]

như tôi vừa giảng; cũng sẽ [có] biểu hiện tại các phương diện khác. Ngoài xã hội, ở

1 Lưỡng đắc: được cả đôi đường; tam đắc: được cả ba đường; nhất cử tứ đắc: một hành động được cả bốn đường

tiện lợi.

Chuyển hoá nghiệp lực 75

gia đình đều xuất hiện. Đi ngoài đường, hoặc trong các hoàn cảnh xã hội khác, đều

cũng có thể gặp chuyện phiền phức. Cần làm cho chư vị vứt bỏ những tâm nào mà

chưa vứt bỏ được ở nơi người thường. Tất cả các tâm chấp trước, miễn là chư vị có,

thì cần phải vứt bỏ tại các chủng hoàn cảnh [khác nhau]. [Sẽ] làm cho chư vị trượt

ngã, từ đó mà ngộ Đạo; tu luyện là như thế.

Còn có một tình huống khá điển hình: có rất nhiều người chúng ta trong quá

trình tu luyện, thông thường khi chư vị luyện công, thì ái nhân của chư vị đặc biệt

không ưng ý; một khi chư vị luyện công, liền gây sự [đánh lộn] với chư vị. Chư vị

làm việc khác, thì họ không quan tâm. Chẳng hạn chư vị đam mê chơi mạt chược

mất bao nhiêu thời gian, thì họ cũng khó chịu, nhưng không như [việc] luyện công.

Chư vị luyện công đâu có can hệ gì đến họ; rèn luyện thân thể, không ảnh hưởng

đến họ, và là tốt. Nhưng hễ chư vị luyện công, họ liền quăng đồ gây sự với chư vị.

Có người chỉ vì luyện công, [mà] cãi nhau đến mức ly hôn. Rất nhiều người đã

không nghĩ thử xem tại sao lại xuất hiện tình huống này? Sau này chư vị hỏi họ:

‘Cớ sao tôi luyện công thì mình lại khó chịu nóng nảy đến thế?’ Họ không nói được

gì, thật sự không nói được gì: ‘Thế à, tôi không nên nóng thế, nhưng lúc ấy phát

hoả ghê quá’. Thực ra là chuyện vì sao? Khi luyện công thì đồng thời nghiệp lực

cần chuyển hoá, bất thất giả bất đắc, điều mất cũng là điều xấu; chư vị cần phải phó

xuất.

Có thể vừa vào đến cửa nhà, ái nhân của chư vị liền cho chư vị một trận vào

đầu; chư vị nếu nhận nhịn qua được, thì công chư vị luyện hôm nay sẽ không uổng

phí. Có người hiểu rằng luyện công cần [coi] trọng đức, nên bình thường [quan hệ]

với ái nhân của mình rất tốt. Nhưng vừa nghĩ: “Bình thường tôi nói ‘một’ [thì nó]

không nói ‘hai’; hôm nay nó lại cưỡi lên đầu lên cổ tôi.” Không nhịn nổi, liền gây

sự lại với ái nhân; như thế hôm nay luyện cũng như không. Là vì nghiệp lực vẫn

còn ở kia, họ giúp chư vị tiêu đi nhưng chư vị đã không chịu mà còn gây sự với

người ta; [nên nghiệp lực] không tiêu được. Những việc này rất nhiều, có rất nhiều

người chúng ta từng gặp tình huống này, nhưng đã không thử nghĩ là vì sao. Chư vị

làm việc khác thì họ không quan tâm đến chư vị; nguyên [luyện công] là việc tốt,

nhưng họ cứ không chịu để chư vị yên. Thực ra họ giúp chư vị tiêu nghiệp, nhưng

tự họ không biết. Họ không hề gây sự với chư vị ở bề mặt, còn trong tâm lại rất tốt

với chư vị; không phải như thế, [mà] cơn nóng giận thật sự xuất ra từ nội tâm. Bởi

vì nghiệp lực rơi vào ai thì người đó thấy khó chịu; đảm bảo là như vậy.

Đề cao tâm tính

Nhiều người trước đây vì không giữ vững tâm tính, [nên] vấn đề xuất hiện rất

nhiều; luyện đến một tầng nhất định rồi thì không lên được nữa. Có người nguyên

[ban đầu] tâm tính đã tương đối cao; khi luyện công liền lập tức khai mở thiên mục,

đạt đến một cảnh giới nào đó. Bởi vì căn cơ của cá nhân này khá tốt, tâm tính rất

cao, nên công của họ tăng lên rất nhanh. Khi đạt đến vị trí sở tại nơi tâm tính của

họ, công của họ cũng tăng lên đến đó, họ cần đề cao công của mình hơn nữa, thì

[khi ấy] các mâu thuẫn kia cũng đột nhiên xuất hiện, chính là để họ liên tục đề cao

tâm tính. Đặc biệt là [người] ban đầu đã có căn cơ tốt, họ cho rằng công của mình

tăng lên tốt, luyện cũng rất tốt, nhưng tại sao bao nhiêu phiền phức đột nhiên [xảy]

đến? Vì sao cái gì cũng không tốt: mọi người đối với họ cũng không tốt, lãnh đạo

cũng không coi trọng họ, hoàn cảnh tại gia đình cũng trở nên rất căng thẳng. Tại

sao đột nhiên xuất hiện nhiều mâu thuẫn như thế? Tự họ không ngộ [ra được]. Vì

căn cơ của họ tốt, nên đạt đến được một tầng nhất định, [và] xuất hiện trạng thái

Đề cao tâm tính 76

như thế. Tuy vậy đó đã là tiêu chuẩn viên mãn tối hậu của người tu luyện chưa?

Hãy còn quá xa mới tu lên đó được! Chư vị cần liên tục đề cao bản thân. Đó là vì

một chút căn cơ bản thân mình mang theo khởi tác dụng, nên chư vị mới có thể đạt

đến trạng thái ấy; đề cao hơn nữa, thì tiêu chuẩn kia cũng cần đề cao lên.

Có người nói: ‘Tôi kiếm thêm chút tiền, thu xếp gia đình ổn thoả, thì tôi không

lo lắng gì nữa, [rồi] tôi sẽ lại tu Đạo’. Tôi nói rằng chư vị đang vọng tưởng; chư vị

không thể chi phối cuộc đời người khác được, không thể thao túng vận mệnh người

khác được, kể cả vận mệnh của vợ, cha mẹ, anh em; chư vị có quyết định được

[những việc ấy] không? Hơn nữa, chư vị sau này không phải lo lắng, chư vị không

có phiền phức gì nữa, thì chư vị tu luyện gì đây? Luyện công một cách quá ư thoải

mái chăng? Lẽ nào có chuyện ấy? Đó [chỉ] là chư vị đứng tại góc độ người thường

mà [mong] tưởng vậy thôi.

Tu luyện cần phải tu luyện trong ma nạn, [để] xem [đối với] thất tình lục dục

chư vị có thể dứt bỏ hay không, có thể coi nhẹ hay không. Chư vị chấp trước chính

vào những thứ ấy, thì chư vị không tu xuất lai được. Bất kể sự việc gì cũng có quan

hệ nhân duyên; vì sao người ta có thể làm người? Chính là vì người ta có ‘tình’;

người ta vì cái ‘tình’ này mà sống; tình cảm thân quyến, tình cảm nam nữ, tình cảm

với cha mẹ, cảm tình, tình bè bạn, thực thi công việc cũng có tình, ở đâu cũng

không tách khỏi cái ‘tình’ ấy; muốn làm hay không, cao hứng hay không, yêu và

ghét, hết thảy mọi thứ trong toàn bộ xã hội nhân loại đều từ cái ‘tình’ ấy mà ra. Nếu

‘tình’ kia chẳng đoạn, thì chư vị không thể tu luyện được. Người ta nếu nhảy ra

khỏi cái ‘tình’ này, thì không ai động đến chư vị được, tâm người thường không

động đến chư vị được; thay vào đó là ‘từ bi’, vốn là điều cao thượng hơn. Tất nhiên

đoạn dứt điều ấy ngay lập tức không dễ dàng gì; tu luyện là quá trình lâu dài, là quá

trình lần lần vứt bỏ các tâm chấp trước của bản thân; nhưng chư vị cần phải tự

mình đặt yêu cầu nghiêm khắc cho mình.

Là người luyện công chúng ta sẽ đột nhiên gặp mâu thuẫn. Xử lý thế nào? Bình

thường chư vị luôn luôn bảo trì trái tim từ bi, [bảo trì] tâm thái hoà ái; [khi] gặp vấn

đề thì sẽ xử lý được tốt, bởi vì nó có một khoảng hoà hoãn. Chư vị luôn từ bi, lấy

Thiện đãi người, làm việc gì đều luôn luôn cân nhắc đến người khác, mỗi khi gặp

vấn đề thì trước hết nghĩ rằng: ‘Việc này đối với người khác có thể chịu được

không, đối với người khác có phương hại gì không’; như vậy sẽ không xuất hiện

vấn đề gì. Do đó chư vị luyện công cần theo tiêu chuẩn cao, tiêu chuẩn cao hơn nữa

mà yêu cầu bản thân.

Một số người vẫn hay không ngộ [ra được]. Có người khai mở thiên mục rồi,

nhìn thấy Phật, liền về nhà bái Phật, trong tâm cầu niệm: ‘Ngài vì sao không quan

tâm đến con? Xin giúp con giải quyết vấn đề này đi!’ Tất nhiên Phật không quản;

[khó] nạn kia chính là ông ấy bày đặt ra; mục đích để chư vị đề cao tâm tính, trong

mâu thuẫn chư vị dễ đề cao lên. Hỏi ông ấy có thể giúp chư vị giải quyết [mâu

thuẫn] đó không? Hoàn toàn không giúp chư vị giải quyết; giải quyết rồi thì chư vị

tăng công ra sao, đề cao tâm tính và tầng như thế nào? Để chư vị tăng công mới là

[điều] then chốt. Các Đại Giác Giả nhìn [nhận] rằng, làm người không phải là mục

đích, sinh mệnh người ta không phải vì để làm người, mà chính là để quay trở về.

Con người chịu khổ bao nhiêu; [các Đại Giác Giả] cho rằng chịu khổ càng nhiều

càng tốt, trả nợ nhanh hơn; họ thực sự nghĩ như thế. Có người không ngộ, cầu Phật

không được, liền bắt đầu oán Phật: ‘Tại sao Ngài không giúp con? Hàng ngày [con]

đốt hương dập đầu lạy Ngài [cơ mà].’ Có người vì điều này mà quăng cả tượng

Phật, từ đó [lăng] mạ Phật. Vì họ [lăng] mạ, tâm tính của họ cũng rớt xuống, công

Đề cao tâm tính 77

cũng mất. Họ hiểu rằng mất cả rồi, nên càng hận Phật; họ tưởng rằng Phật [làm] hại

họ. Họ dùng cái lý của người thường mà đo tâm tính của Phật; làm sao có thể đo

được? Họ dùng tiêu chuẩn người thường mà xét sự việc trên cao tầng; làm sao có

thể thế được? Do đó thường hay xuất hiện vấn đề như vậy: coi những khổ [nạn]

trong cuộc đời là bất công đối với mình; có nhiều người suy sụp mà rớt xuống.

Mấy năm trước có rất nhiều đại khí công sư, danh tiếng hiển hách cũng suy sụp

rớt xuống. Tất nhiên, các khí công sư chân chính đã trở về, hoàn thành xong sứ

mệnh lịch sử của mình liền trở về. Những [khí công sư] còn [ở] lại lầm lạc nơi

người thường; những người tâm tính đã rớt xuống ấy vẫn còn đang hoạt động; họ

đã không còn công nữa. Một số khí công sư trước đây nổi danh vẫn đang hoạt động

tại xã hội; sư phụ của họ thấy rằng họ đã rớt ở chốn người thường, rớt nơi danh lợi

và không thể tự kéo lên được nữa, đã hỏng rồi; người ta bèn mang phó nguyên thần

của họ đi, [mà] công đều ở trên thân của phó nguyên thần. Những ví dụ như thế có

khá nhiều.

Trong pháp môn chúng ta, ví dụ loại này rất ít, [nếu] có thì cũng không nổi

cộm như thế. Về phương diện đề cao tâm tính, thì những ví dụ nổi trội có rất nhiều.

Có một học viên ở nhà máy dệt kim tại một thành phố của tỉnh Sơn Đông, sau khi

học Pháp Luân Đại Pháp đã dạy các công nhân khác luyện; kết quả làm cho diện

mạo tinh thần của nhà máy hưng khởi hẳn lên. Trước đây các đầu [mẩu] khăn tắm

của nhà máy dệt kim thường bị cất đi mang về nhà, các công nhân đều lấy [như

thế]. Sau khi học công rồi thì anh ta không những không lấy nữa, mà còn mang

những thứ đã lấy về nhà trả lại [nhà máy]. Người khác thấy anh ta làm thế, thì

không ai lấy nữa; có công nhân còn mang hết những gì đã lấy trả lại nhà máy; trong

toàn nhà máy xuất hiện tình huống như vậy.

Trạm trưởng một trạm phụ đạo ở thành phố đó đã tới nhà máy để xem [tình

hình] các học viên luyện Pháp Luân Đại Pháp ở đó [tu] luyện thế nào; giám đốc nhà

máy ấy đã đích thân gặp mặt nói: ‘Những công nhân sau khi học Pháp Luân Đại

Pháp của các ông, đến sớm về muộn, làm việc hết sức cẩn thận, lãnh đạo phân công

việc gì cũng [thực hiện] không nề hà; [họ] cũng không tranh [giành] lợi ích. Họ đều

làm việc như thế cả, làm cho diện mạo tinh thần toàn bộ nhà máy khởi sắc [hơn

lên], hiệu quả kinh tế của nhà máy cũng tốt. Công của các ông thật là lợi hại; khi

nào Sư phụ các ông qua đây, tôi cũng tham gia.’ Mục đích chủ yếu việc tu luyện

Pháp Luân Đại Pháp của chúng ta là đưa con người lên cao tầng, chứ không hề nghĩ

đến làm những sự việc như vậy; tuy nhiên nó cũng có thể phát huy tác dụng to lớn

thúc đẩy văn minh tinh thần của xã hội. Nếu như ai ai cũng hướng vào nội tâm mà

tìm, ai ai cũng muốn bản thân làm thế nào cho tốt, thì tôi nói rằng xã hội này sẽ ổn

định, tiêu chuẩn đạo đức nhân loại cũng sẽ nâng cao trở lại.

Khi tôi giảng Pháp truyền công tại Thái Nguyên, có một [nữ] học viên trên 50

tuổi, hai vợ chồng già cùng đến học. Khi họ đi đến giữa đường cái, một xe ô-tô

chạy rất nhanh qua đó; chiếc gương chiếu hậu của xe đột nhiên mắc vào y phục của

bà. [Nó] mắc vào và kéo bà lôi đi hơn mười mét, và làm bà ngã xuống đất “phịch”

một cái, [còn] chiếc xe chạy xa hơn hai mươi mét mới dừng lại. Người lái xe nhảy

vội ra khỏi xe và bực mình nói: ‘Này, bà đi đường mà không nhìn à!’ Hiện nay

người ta như vậy đấy, hễ gặp vấn đề là trước tiên [họ] đẩy trách nhiệm, có tại họ

hay không thì cũng đẩy cho [người khác]. Người ngồi trong xe nói: ‘Hãy xem xem

[người ta] ngã có sao không, đưa [người ta] đến bệnh viện đi’. Lái xe hiểu ra, vội

nói: ‘Bác có sao không? Ngã có bị sao không ạ? Chúng ta cùng đến bệnh viện để

Đề cao tâm tính 78

xem nhé’. Học viên này từ từ bò dậy khỏi mặt đất rồi nói: ‘Không sao cả, cậu đi

đi’. [Bà] phủi bụi xong bèn vịn ông chồng rồi đi tiếp.

Đến lớp học, [bà] kể với tôi chuyện ấy; tôi cũng hết sức vừa ý: Tâm tính của

học viên chúng ta thực sự đã được đề cao lên. Bà kể với tôi: ‘Thưa Sư phụ, hôm

nay con học Pháp Luân Đại Pháp; nếu con không học Pháp Luân Đại Pháp, thì hôm

nay con sẽ không hành xử như thế.’ Mọi người thử nghĩ xem: đã nghỉ hưu rồi, vật

giá hiện nay đắt đỏ như thế, đãi ngộ phúc lợi cũng không có. Người trên 50 tuổi bị

xe hơi lôi đi xa như thế, bị ngã xuống đất. Hỏi bị thương ở đâu? Đâu cũng bị

thương hết, nằm ở đó không dậy. Đến bệnh viện, thì đi viện; đến rồi nằm lại không

ra nữa. Người thường có thể sẽ [làm] như vậy. Nhưng bà này là người luyện công,

không làm như thế. Chúng ta giảng rằng, tốt xấu xuất tự một niệm của người ta, sai

biệt ở một niệm ấy đưa đến hậu quả khác nhau. Với tuổi cao nhường ấy, là người

thường, có thể ngã [vậy] mà không bị thương không? Ấy vậy mà ngay cả da của bà

này cũng không bị trầy xước. Tốt xấu xuất tự một niệm; nếu như bà nằm tại đó nói:

‘Ái chà, tôi hỏng rồi, chỗ này bị rồi, chỗ kia bị rồi’. Nếu thế thì đã có thể gân đứt

xương gãy, tê bại rồi. Chư vị được cấp bao nhiêu tiền, cả đời còn lại chư vị nằm tại

bệnh viện mà không ra, hỏi chư vị có thể thoải mái không? Người đứng ngoài xem

đều cho rằng lạ lắm: ‘Bà này sao không vòi vĩnh anh kia chút tiền, đòi tiền anh kia’.

Chuẩn mực đạo đức con người ngày nay đã méo mó cả rồi. Người lái xe phóng

nhanh, nhưng anh ấy phải chăng cố ý đâm người ta? Anh ta chẳng phải vô ý là gì?

Nhưng con người hiện nay đều như vậy cả, nếu không vòi tiền, thì trong tâm người

xem cũng thấy bất bình. Tôi nói rằng hiện nay tốt xấu chẳng rạch ròi; có người nếu

nói với họ rằng ‘ông đang làm điều xấu’, họ sẽ không tin. Bởi vì chuẩn mực đạo

đức con người đã thay đổi; có người chỉ chạy theo lợi, chỉ vì kiếm tiền, [mà] việc gì

cũng làm. ‘Người chẳng vì mình, trời tru đất diệt’, [câu này] đã trở thành phương

châm để sống mất rồi!

Có một học viên ở Bắc Kinh, buổi tối sau khi ăn xong dắt con trai đi dạo ở Tiền

Môn, và thấy có xe quảng cáo đang bán vé số; đứa trẻ đến xem, [và] muốn mua vé

số. Chơi thì chơi, [anh ấy] bèn cho cậu con một đồng để chơi; mua một cái được

ngay giải nhì, được một chiếc xe đạp cao cấp dành cho trẻ em; đứa trẻ vô cùng vui

thích. Trong đầu anh ta lúc đó máy động một cái: ‘Mình là người luyện công, cớ

sao lại cầu những thứ này? Mình đã nhận của cải phi nghĩa mất rồi; mình đã mất

cho họ bao nhiêu đức không biết?’ Liền nói với con: ‘Bố con mình không cần; nếu

muốn thì chúng ta tự mua’. Đứa trẻ không bằng lòng: ‘Nói bố mua bố không mua;

tự con chơi được bố lại không cho con lấy.’ Kêu khóc mãi không chịu, không có

cách nào khác, [anh ta] đành đẩy xe về nhà. Về nhà rồi, càng nghĩ càng thấy khó

chịu, định đem tiền đưa lại cho người ta. Nhưng nghĩ lại: ‘Xổ số đã xong, mình đưa

tiền cho họ, chẳng phải họ sẽ chia nhau? Vậy quyết định đưa tiền ủng hộ cho đơn vị

[công tác].’

Tại đơn vị cũng có không ít học viên Pháp Luân Đại Pháp, [nên] lãnh đạo cũng

hiểu được anh ta. Còn nếu ở một hoàn cảnh thông thường, một đơn vị thông

thường, [nếu] chư vị nói rằng chư vị là người luyện công, trúng giải một chiếc xe

đạp, nhưng chư vị lại nói chư vị không cần, nên lấy tiền ủng hộ cho đơn vị; [nếu

thế] ngay cả lãnh đạo cũng nghĩ rằng tâm thần người này có bệnh. Người khác cũng

bàn tán lung tung: ‘Anh này phải chăng luyện công thiên [sai], bị tẩu hoả nhập

ma?’ Tôi đã giảng, rằng chuẩn mực đạo đức đã méo mó rồi. Vào thời thập niên 50,

60, thì việc này không đáng kể, rất bình thường, không ai cảm thấy lạ.

Đề cao tâm tính 79

Chúng tôi giảng: dẫu chuẩn mực đạo đức của nhân loại đã biến đổi nhiều đến

đâu, [thì] đặc tính của vũ trụ—Chân Thiện Nhẫn—Nó vẫn vĩnh viễn bất biến. Có

người nói chư vị tốt, chư vị không nhất định thật sự tốt; có người nói chư vị xấu,

chư vị không nhất định thật sự xấu; [đó] là vì tiêu chuẩn nhận định tốt xấu đã méo

mó rồi. Chỉ khi phù hợp với đặc tính này của vũ trụ thì họ mới là người tốt; đó là

tiêu chuẩn duy nhất nhận định người tốt xấu, [và] đó là [điều] được thừa nhận trong

vũ trụ. Chư vị dẫu thấy xã hội nhân loại đã biến đổi nhiều đến vậy, chuẩn mực đạo

đức của nhân loại đang [trượt] trên dốc lớn, đạo đức thế gian trượt xuống hàng

ngày, chỉ chạy theo lợi; nhưng sự biến hoá của vũ trụ không thể tuỳ theo sự biến

hoá của nhân loại mà biến hoá theo. Làm người tu luyện thì không thể dùng tiêu

chuẩn của người thường để yêu cầu. Người thường nói rằng việc này là đúng, thì

chư vị liền theo đó mà làm, như thế không thể được. Người thường nói tốt ấy

không nhất định là tốt; người thường nói xấu ấy cũng không nhất định là xấu. Vào

thời đại mà tiêu chuẩn đạo đức đã méo mó này, [ví như] một cá nhân làm điều xấu,

chư vị bảo rằng họ đang làm điều xấu, thì họ không tin! Là người tu luyện, thì phải

dùng đặc tính vũ trụ mà nhận định, thì mới có thể phân biệt ra cái gì là thật sự tốt

và thật sự xấu.

Quán đỉnh

Trong giới tu luyện có một tình huống, gọi là ‘quán đỉnh’. Quán đỉnh là một

hình thức [nghi thức] tôn giáo của phương pháp tu luyện Mật tông của Phật gia.

Mục đích là cá nhân đã trải qua quán đỉnh rồi thì không thể tái [gia] nhập môn

khác, [họ đã được] thừa nhận là đệ tử chân chính của môn này. Hiện nay việc này

kỳ lạ như thế nào? Luyện công cũng xuất hiện hình thức tôn giáo này, các công

pháp Đạo gia cũng làm quán đỉnh, chứ không [còn] chỉ có Mật tông. Tôi đã giảng:

hễ lấy cờ hiệu Mật tông mà giảng công pháp Mật tông ngoài xã hội thảy đều là giả.

Tại sao nói như vậy? Bởi vì Đường Mật ở nước ta đã tiêu mất trên một nghìn năm

rồi, hoàn toàn không tồn tại; vì chịu hạn chế ngôn ngữ nên Tạng Mật vẫn luôn

không truyền vào vùng đất người Hán chúng ta một cách hoàn chỉnh. Đặc biệt [vì]

đây là Mật giáo, nên cần phải tu luyện bí mật trong chùa, hơn nữa phải trải qua sự

trao truyền bí mật từ sư phụ, sư phụ mang [đệ tử] đi tu bí mật. Không thực hiện

được điểm này, thì tuyệt đối không thể truyền ra được.

Có nhiều người ôm giữ mục đích như thế này lên Tây Tạng học công: theo

người ta bái sư học Tạng Mật, tương lai làm khí công sư, nổi danh, phát tài. Mọi

người thử nghĩ xem, các Phật sống lạt-ma thật sự được chân truyền đều có công

năng rất mạnh, đều có thể thấy trong tâm người đến học công suy nghĩ những gì. Vị

kia đến để làm gì, nhìn một cái liền hiểu rõ cái tâm ấy ngay: ‘Muốn lên đây học

những điều này, [sau] ra làm khí công sư phát tài nổi danh; đến để phá hoại phương

pháp tu Phật này’. Pháp môn tu Phật nghiêm túc nhường ấy liệu có thể để chư vị vì

cầu danh lợi [muốn] làm khí công sư này nọ mà tuỳ tiện phá hoại không? Chư vị có

động cơ gì? Do đó hoàn toàn không thể truyền cho vị kia được; [họ] sẽ không được

chân truyền. Tất nhiên, có khá nhiều chùa, [họ] có thể đắc được một số thứ vỏ

ngoài nông cạn. Nếu như tâm không chính, khi muốn làm khí công sư mà phạm

việc xấu, như thế sẽ chiêu mời phụ thể. Con động vật phụ thể cũng có công, nhưng

[đó] không phải là Tạng Mật. Người thật sự lên Tây Tạng cầu Pháp, có thể lên đó

rồi sẽ ở lại luôn mà không trở ra nữa; ấy là những người chân tu.

Rất lạ là hiện nay có nhiều công pháp Đạo gia cũng giảng quán đỉnh. Đạo gia là

dẫn theo mạch, hỏi làm quán đỉnh gì đây? Theo tôi biết, [khi] tôi truyền công tại

Quán đỉnh 80

phía Nam, đặc biệt ở vùng Quảng Đông có khá nhiều, có khoảng trên mười công

pháp làm loạn lung tung đang giảng quán đỉnh. Ý nghĩa là gì? Họ quán đỉnh cho

chư vị rồi, chư vị sẽ là đệ tử của họ, không thể học công khác được nữa; nếu học

công khác họ sẽ trừng phạt chư vị; họ làm những điều như thế. Đó chẳng phải tà

môn oai đạo là gì? Điều họ truyền là chữa bệnh khoẻ người, quần chúng học rồi

cũng chỉ là muốn được thân thể khoẻ mạnh. [Họ] làm vậy để làm gì? Có người nói,

rằng luyện công của ông ta sẽ không được luyện công khác nữa. Ông ấy có khả

năng [cứu] độ người ta đến viên mãn không? Đúng là đưa đệ tử của người ta đi sai

đường rồi! Có nhiều người làm như vậy.

Đạo gia không giảng điều này, vậy mà đã xuất hiện những gì là quán đỉnh. Tôi

phát hiện ông khí công sư làm quán đỉnh lợi hại nhất, công trụ ông ấy cao ngần

nào? Chỉ cao như toà nhà hai hoặc ba tầng là hết; tôi thấy rằng là một đại khí công

sư nổi danh lẫy lừng như thế, công [của ông] đã rớt xuống thật đáng thương. Hàng

trăm hàng nghìn người xếp thành hàng, [để] ông ấy quán đỉnh cho người ta. Công

của ông hữu hạn, chỉ cao ngần ấy; công này chẳng mấy chốc sẽ hạ xuống, không

còn nữa, hỏi lấy gì để quán [đỉnh] cho người ta, chẳng phải lừa người là gì? Quán

đỉnh chân chính, nhìn tại không gian khác, thì xương cốt của người ta từ đầu đến

chân đều biến thành giống như bạch ngọc. Chính là dùng công, vật chất cao năng

lượng [để] tịnh hoá thân thể, quán toàn bộ từ đầu đến chân. Ông khí công sư kia có

thể làm được điều này không? Ông ta không thể. Ông ta làm gì đây? Tất nhiên [ông

ấy] không nhất định làm tôn giáo; mục đích là học xong công của ông, thì đã là

người của ông, chư vị phải tham gia lớp [học] của ông, học những điều của ông ấy.

Mục đích là kiếm tiền của chư vị; không ai học thì ông không kiếm được tiền.

Đệ tử Pháp Luân Đại Pháp cũng giống đệ tử các pháp môn Phật gia khác, tức là

được thượng sư quán đỉnh nhiều lần; nhưng không để chư vị biết. Người có công

năng có thể biết; người nhạy cảm cũng có thể cảm thấy; khi ngủ hoặc một lúc nào

đó có thể đột nhiên một luồng nhiệt tuôn từ trên đỉnh đầu xuống thông thấu toàn

thân. Mục đích của quán đỉnh không phải cấp công thêm cao cho chư vị; công là

bản thân chư vị tu luyện xuất lai. Quán đỉnh là một phương pháp gia trì, chính là

giúp chư vị tịnh hoá thân thể, làm thân thể chư vị thanh lý thêm một bước nữa. Cần

quán [đỉnh] nhiều lần, mỗi tầng đều cần giúp chư vị thanh lý thân thể. Bởi vì ‘tu tại

tự kỷ, công tại sư phụ’, nên chúng tôi không giảng hình thức [nghi thức] quán đỉnh.

Một số người còn làm những gì là bái sư. Giảng đến đây, tôi thuận tiện đề cập

một điều; có nhiều người muốn bái tôi làm Sư. Thời kỳ lịch sử chúng ta hiện nay đã

khác với xã hội phong kiến Trung Quốc; quỳ gối dập đầu có được tính là bái sư

không? Chúng ta không làm cái việc hình thức ấy. Có nhiều người chúng ta nghĩ

thế này: ‘Mình dập đầu đốt hương bái Phật, trong tâm thành kính thì sẽ tăng công’.

Tôi nói rằng thật khôi hài; luyện công chân chính toàn dựa vào bản thân mà tu; cầu

gì cũng vô dụng. Không bái Phật, không đốt hương, [mà] chiểu theo tiêu chuẩn

người tu luyện mà tu luyện một cách chân chính, [thì khi] ông [Phật] gặp chư vị sẽ

rất vừa ý. Ở nơi khác chư vị toàn làm điều xấu, chư vị dập đầu đốt hương cho ông,

[thì] ông gặp chư vị sẽ rất khó chịu; đó chẳng phải đạo lý là gì? Tu chân chính dựa

vào bản thân. Hôm nay chư vị dập đầu bái sư xong, ra khỏi cửa lại muốn gì làm

nấy, hỏi có tác dụng gì? Chúng tôi hoàn toàn không giảng hình thức [bái sư] này;

chư vị có thể còn làm ô uế danh dự của tôi [ấy chứ]!

Chúng tôi cấp cho chư vị nhiều như thế; tất cả mọi người chỉ cần thực tu, dùng

Đại Pháp để yêu cầu bản thân một cách nghiêm khắc, [thì] tôi đều coi chư vị là đệ

tử; chỉ cần chư vị tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, chúng tôi sẽ coi chư vị là đệ tử.

Quán đỉnh 81

Nếu chư vị không muốn tu, thì chúng tôi không có cách nào. Nếu chư vị không tu,

thì chư vị mang danh [đệ tử] hỏi có ích gì? Học viên vào kỳ thứ nhất hay học viên

vào kỳ thứ hai [cũng như nhau]; nhưng chư vị chỉ luyện mấy động tác kia thì đã là

đệ tử của chúng tôi chăng? Chư vị phải thật sự chiểu theo tiêu chuẩn tâm tính của

chúng tôi mà tu luyện, thì mới có thể đạt được thân thể khoẻ mạnh, thì mới có thể

thật sự lên cao tầng. Do đó chúng tôi không giảng những việc hình thức ấy; chỉ cần

chư vị tu luyện, thì là người trong môn chúng tôi. Những Pháp thân của tôi điều gì

cũng biết; chư vị nghĩ gì họ đều biết; điều gì họ cũng có thể làm được. Chư vị

không tu luyện thì họ không quản chư vị; [còn nếu] chư vị tu luyện thì [họ] sẽ giúp

đến cùng.

Có công pháp trong đó người luyện công chưa gặp qua sư phụ, nói rằng hướng

về một phương nào đó mà dập đầu, trả vài trăm đồng là được. Chẳng phải lừa mình

dối người là gì? Ngoài ra người này rất tự nguyện. Từ đó trở đi duy hộ đối với công

này, [đối với] người [của công] này; cũng lại nói với người khác, rằng đừng học

công khác. Tôi thấy thật quá khôi hài. Còn có người làm những gì là ‘mô đỉnh’;

cũng không biết người ấy chạm một cái thì có tác dụng gì.

Không chỉ những gì truyền công dưới cờ hiệu Mật tông là giả, mà tất cả môn

truyền công dưới [cờ hiệu] Phật giáo cũng đều là giả. Mọi người thử nghĩ xem,

phương pháp tu luyện mấy nghìn năm của Phật giáo đều [có] hình thức như thế, ai

mà sửa đổi [nó] đi thì có còn là Phật giáo không? Phương pháp tu luyện là tu Phật

một cách nghiêm túc, hơn nữa [nó] cực kỳ huyền diệu; sửa đổi một chút là loạn

ngay. Vì quá trình diễn hoá công là cực kỳ phức tạp; cảm giác của con người không

là gì hết; không thể dựa vào cảm giác để tu luyện. Hình thức tôn giáo của hoà

thượng chính là phương pháp tu luyện; hễ sửa đổi thì không còn là những điều của

môn ấy nữa. Mỗi một môn đều có Đại Giác Giả chủ trì, mỗi môn cũng tu xuất được

rất nhiều Đại Giác Giả, không ai dám tuỳ ý thay đổi phương pháp tu luyện của môn

ấy; còn một khí công sư nhỏ bé, hỏi có được mấy uy đức dám coi thường Chủ mà

sửa đổi pháp môn tu Phật? Nếu như đã sửa đổi rồi, thì đó có còn là pháp môn kia

nữa không? Khí công giả có thể phân biệt được.

Huyền quan thiết vị

‘Huyền quan thiết vị’ còn gọi là ‘huyền quan nhất khiếu’. Trong «Đan Kinh»,

«Đạo Tạng», «Tính Mệnh Khuê Chỉ» có thể tra thấy những danh từ như thế. Vậy

chúng là gì? Có rất nhiều khí công sư thuyết không được rõ ràng. Là vì ở tầng sở tại

của một khí công sư bình thường hoàn toàn không thể nhìn thấy [chúng], cũng

không cho phép họ thấy. Người tu luyện nếu muốn thấy được chúng, thì tại tầng

thượng của huệ nhãn thông trở lên mới có thể thấy được; khí công sư bình thường

chưa đạt đến tầng ấy, do vậy nhìn không thấy. Giới tu luyện xưa nay đều tầm cứu

xem ‘huyền quan’ là gì? ‘Nhất khiếu’ ở đâu? ‘Thiết vị’ như thế nào? Đọc trong

«Đan Kinh», «Đạo Tạng», «Tính Mệnh Khuê Chỉ» chư vị thấy họ toàn giảng lý

luận vòng vòng, hoàn toàn không nói cho chư vị về thực chất. Giảng tới giảng lui,

còn làm chư vị lẫn lộn cả lên, [họ] giảng không rõ ràng; bởi vì không thể để những

điều thực chất cho người thường biết được.

Ngoài ra tôi nói với mọi người, vì chư vị là đệ tử Pháp Luân Đại Pháp chúng

tôi, nên tôi mới nói với chư vị những lời này: nhất định không được đọc những

sách khí công giả loạn bậy kia; không phải [tôi nói về] mấy cuốn cổ thư ở trên, mà

là nói về những sách khí công giả mà những người hiện nay viết; ngay cả giở ra

chư vị cũng đừng làm. Trong não chư vị chỉ hơi có một niệm đầu xuất hiện: ‘Úi

Huyền quan thiết vị 82

chà, câu này có đạo lý đó’. Niệm đầu ấy vừa loé lên, thì phụ thể ở bên kia sẽ gắn

lên [thân chư vị]. Rất nhiều [sách] là do phụ thể chỉ huy và khống chế tâm danh lợi

của người ta mà viết. Sách của khí công sư giả nhiều, khá là nhiều; rất nhiều vị

không có trách nhiệm; bị phụ thể loạn bát nháo rồi mà họ cũng viết. Cả những cuốn

cổ thư nói trên hoặc những cổ thư liên quan chư vị tốt nhất cũng không nên xem; ở

đây có vấn đề chuyên nhất không loạn.

Một lãnh đạo ở Hiệp hội Khí công Trung Quốc đã kể cho tôi một chuyện, làm

tôi buồn cười quá. Kể rằng có một cá nhân kia ở Bắc Kinh, ông vẫn thường đến

nghe các khí công sư [thuyết] giảng; nghe tới nghe lui, sau một thời gian dài đi

nghe như thế, ông cho rằng khí công chính là mấy món đồ ấy [thôi]. Vì [họ] đều ở

một tầng, [nên] đều giảng những điều ấy. Ông cũng như các khí công sư giả, tưởng

rằng hàm nghĩa của khí công chỉ có vậy! Thế rồi, ông cũng muốn viết sách khí

công. Mọi người thử nghĩ xem, [một] người không luyện công [cũng] viết sách khí

công; sách khí công hiện nay chỉ là sao chép của nhau. Ông viết tới viết lui, viết

đến đoạn huyền quan thì không viết được nữa. Ai biết rõ huyền quan nhỉ? [Trong]

các khí công sư chân chính cũng chẳng có mấy [người] biết rõ. Ông bèn hỏi một vị

khí công sư giả. Ông không biết [đó] là giả; mà bản thân ông cũng không hiểu khí

công. Tuy nhiên nếu người ta hỏi mà khí công sư giả trả lời không được, thì người

ta chẳng phải sẽ biết vị này là giả? Do vậy vị này dám nói lung tung, nói rằng

huyền quan nhất khiếu ở trên đầu chỗ tiểu tiện. Nghe thật quá khôi hài. Chư vị chớ

có cười, cuốn sách này đã xuất bản ngoài xã hội rồi. Vậy cũng nói, sách khí công

hiện nay đã ở mức khôi hài đến thế; tôi nói rằng chư vị đọc những thứ đó nào ích

gì; [chúng] vô dụng, chỉ có thể hại người.

Cái gì được gọi là huyền quan thiết vị? Người ta khi tu [ở giai đoạn] thế gian

pháp, khi tu đến trung tầng trở lên, tức là khi tu đến các tầng cao của thế gian pháp,

thì người ta bắt đầu xuất nguyên anh. ‘Nguyên anh’ khác với cái mà chúng tôi gọi

là ‘anh hài’. Anh hài rất bé, nhảy nhót lăng xăng vui nhộn, rất nghịch ngợm.

Nguyên anh bất động; [lúc] nguyên thần không đến làm chủ nó, [thì] nó ngồi ở đó

bất động, tay kết ấn, chân xếp bằng ngồi trên [toà] sen. Nguyên anh sinh xuất ra tại

đan điền; ở [mức] cực vi quan khi [nó] bé như đầu kim cũng có thể nhìn thấy nó.

Ngoài ra [tôi] nói rõ một vấn đề nữa: đan điền chân chính [chỉ] có một khối, ở

vị trí bụng dưới. Huyệt hội âm trở lên, nằm trong thân thể con người, từ bụng dưới

trở xuống, đó chính là khối điền ấy. Rất nhiều công, rất nhiều công năng, rất nhiều

thứ thuật loại, Pháp thân, nguyên anh, anh hài, rất nhiều thể sinh mệnh, [chúng] đều

từ khối điền này sinh ra.

Quá khứ có một vài người tu Đạo giảng về thuyết thượng đan điền, trung đan

điền, hạ đan điền; tôi nói rằng đó là sai. [Họ] cũng nói sư phụ của họ đã truyền

[điều này] từ bao nhiêu [niên] đại, trong sách cũng viết thế. Tôi nói với mọi người:

những đồ bã trấu bã cám [vô dụng] thời cổ đại đều có; chư vị dẫu thấy [chúng]

được truyền thừa bao nhiêu năm, nhưng chúng không nhất định là đúng. Những

tiểu đạo thế gian vẫn luôn lưu truyền ở người thường, nhưng họ tu không [thành]

được, không là gì cả. Họ gọi chúng là thượng đan điền, trung đan điền, hạ đan điền;

ý của họ là chỗ nào có thể sinh đan đều là đan điền

1

. Đó chẳng khôi hài là gì? Ý

niệm người ta tập trung vào một điểm, [sau] một thời gian lâu, thì có thể sản sinh

một khối năng lượng, [và] kết đan. Không tin thì ý niệm chư vị [đặt] mãi tại cánh

tay, giữ nguyên như thế, [sau] một thời gian lâu, nó sẽ kết đan. Do đó có người thấy

tình huống này, bèn nói ‘vô xứ bất đan điền’, nghe lại càng khôi hài hơn; nhận thức

1 Đan điền: ruộng đan; điền→ ruộng.

Huyền quan thiết vị 83

của họ là kết đan được tức là đan điền. Thực ra đó là đan nhưng không phải điền;

chư vị nói ‘vô xứ bất “đan”’ hoặc thượng đan, trung đan, hạ đan; nói thế thì còn

được. Còn cái điền thật sự có thể xuất sinh vô số Pháp thì chỉ có một khối, chính là

khối điền ở vị trí bụng dưới. Như vậy thuyết về thượng đan điền, trung đan điền, hạ

đan điền là sai lầm. Ý niệm người ta đặt tại nơi đâu, [qua] một thời gian lâu, thì sẽ

kết đan.

Nguyên anh sinh ra từ khối đan điền ở vị trí bụng dưới; dần dần to lớn lên rất

chậm. Đến khi lớn bằng quả bóng bàn, thì toàn bộ hình dáng thân thể đã có thể nhìn

được rõ, mắt mũi đều đã hình thành. Cũng vào lúc [nguyên anh] lớn bằng quả bóng

bàn, sát cạnh thân của nó lại có một tiểu bào tròn tròn được xuất sinh. Sau khi sinh

ra rồi thì tuỳ theo nguyên anh lớn đến đâu, nó cũng lớn đến đó. Đến khi nguyên anh

lớn đến chiều cao 4 thốn, thì xuất hiện một cánh hoa sen. Khi lớn đến chiều cao 5

đến 6 thốn, các cánh hoa sen về cơ bản đã trưởng thành, xuất hiện một tầng hoa

sen; nguyên anh rực rỡ ánh vàng kim ngồi trên đài hoa sen sắc vàng ấy, trông rất

đẹp. Đó chính là [thân] thể kim cương bất hoại; Phật gia gọi là Phật thể; Đạo gia

gọi là nguyên anh.

Pháp môn tu luyện chúng tôi đều tu luyện cả hai loại thân thể, [chúng] đều cần;

bản thể cũng cần chuyển hoá. Mọi người đều biết, rằng Phật thể không thể hiển

hiện nơi người thường; dồn hết sức thì có thể hiển hiện được hình thái, [mà] dùng

mắt người thường có thể nhìn thấy quang ảnh của nó. Còn thân thể này, sau khi trải

qua chuyển hoá, thì ở nơi người thường [nó] giống với [thân thể] người thường;

người thường nhìn không ra [chỗ khác biệt]; nó còn có thể đi xuyên qua các không

gian. Khi nguyên anh lớn đến chiều cao 4 đến 5 thốn, thì khí bào cũng đã lớn đến

chiều cao ấy; nó giống như vỏ của khí cầu, trong suốt. Nguyên anh vẫn ngồi đả toạ

bất động. Khi lớn đến ngần ấy, khí bào kia cần rời khỏi đan điền, nó đã [được] sinh

ra xong, [ví như] dưa chín cuống rụng, do đó [nó] sẽ thăng lên. Quá trình thăng lên

là một quá trình vô cùng chậm, nhưng hàng ngày có thể [nhận] thấy nó đang di

động. [Nó] chầm chậm di động lên, thăng lên trên. Chúng ta quan sát thật kỹ sẽ

cảm giác được sự tồn tại của nó.

Khi thăng đến vị trí huyệt đản trung của người [tu luyện], nó cần ở tại vị trí đó

một giai đoạn thời gian. Bởi vì những tinh hoa của [thân] thể người, có rất nhiều

thứ (quả tim cũng nằm tại đây) đều cần hình thành nên một bộ ở trong khí bào này.

Những [chất] tinh hoa cần bổ sung vào cho khí bào. Qua một giai đoạn thời gian,

nó lại bắt đầu thăng lên. Đến lúc đi qua cổ của người [tu luyện], thì cảm thấy rất

nghẹt thở, giống như các huyết quản đều bị kẹp lại, sưng lên rất khó chịu; nó sẽ như

thế trong khoảng một hai ngày là hết. Rồi nó tới đỉnh đầu; chúng tôi gọi là lên [tới]

nê hoàn. Nói là tới nê hoàn, kỳ thực nó đã to đến cỡ toàn bộ đầu của chư vị; chư vị

sẽ cảm thấy đầu não sưng lên. Bởi vì nê hoàn là một vùng hết sức then chốt của

sinh mệnh con người, nó cũng cần hình thành những thứ tinh hoa tại nơi này. Sau

đó nó sẽ từ đường thông đạo của thiên mục mà dồn ép ra ngoài; cảm nhận được rất

là khó chịu. Sưng lên làm thiên mục rất đau, huyệt thái dương cũng sưng lên, [và]

mắt cũng hõm vào trong; liên tục như thế cho đến khi nó dồn ép ra hẳn ngoài, và

lập tức treo [lơ lửng] ở trước trán; như vậy được gọi là ‘huyền quan thiết vị’, được

treo tại chỗ này.

Người đã khai mở thiên mục, đến lúc này không nhìn được nữa. Vì [trong] tu

luyện của Phật gia và Đạo gia, muốn để những thứ trong huyền quan [được] hình

thành nhanh nhất, nên cửa kia không mở. Phía trước có hai cánh cửa lớn, phía sau

có hai cánh cửa, [chúng] đều đóng lại; giống như cửa lớn của Thiên An Môn ở Bắc

Huyền quan thiết vị 84

Kinh, hai bên mỗi bên có hai cánh cửa lớn. Vì để chúng [được] hình thành và bổ

sung nhanh nhất, nên cửa không mở khi không gặp tình huống hết sức đặc thù;

[người] có thiên mục vốn có thể nhìn được, thì đến bước này không nhìn được nữa,

không cho nhìn. Nó treo ở nơi ấy có mục đích để làm gì? Bởi vì trăm mạch của

thân thể chúng ta giao hội tại nơi ấy; vào lúc này trăm mạch đều đi qua huyền quan

quanh thành một vòng [rồi] đi ra; đều phải đi [qua] huyền quan; mục đích là ở trong

huyền quan đặt lên một cơ sở nữa, hình thành một hệ thống các thứ. Bởi vì [thân]

thể người chính là tiểu vũ trụ, nó sẽ hình thành một tiểu thế giới; toàn bộ những thứ

tinh hoa của [thân] thể người đều hình thành trong này. Tuy nhiên nó chỉ hình

thành một bộ thiết bị, chưa thể hoàn toàn vận dụng được.

[Trong] tu luyện của Kỳ Môn công pháp, huyền quan vẫn mở. Huyền quan

[được] phóng xuất ra xong, [nó] là hình ống thẳng, rồi dần dần biến thành tròn; do

vậy cửa hai bên của nó đều mở. Vì Kỳ Môn công pháp không tu Phật cũng không

tu Đạo, nên tự mình bảo hộ lấy mình. Sư phụ trong Phật gia và Đạo gia có rất

nhiều, đều có thể bảo hộ chư vị; chư vị không cần [có khả năng] nhìn, và cũng

không xuất hiện vấn đề gì. Nhưng [ở] Kỳ Môn công pháp [làm] thế không được, họ

cần tự bảo hộ mình; do đó họ cần duy trì khả năng nhìn. Nhưng lúc này thiên mục

nhìn các thứ, đều giống như nhìn qua một ống kính viễn vọng. Sau khi [một] bộ các

thứ [được] hình thành xong, khoảng một tháng thì [nó] bắt đầu quay lại. Quay vào

trong đầu xong rồi, gọi là ‘huyền quan hoán vị’.

Khi quay vào cũng sưng rất khó chịu, sau đó [nó] dồn ép ra ở huyệt ngọc chẩm

của người [tu luyện]. Cảm giác dồn ép ra cũng rất là khó chịu, giống như đầu nứt

mở ra; lập tức xuất ra ngay, nó xuất ra thì lập tức cảm giác nhẹ hẳn đi. Sau khi xuất

ra, nó treo ở không gian rất thâm [sâu], trong hình thức thân thể tồn tại ở không

gian rất thâm [sâu]; do đó [người tu luyện] khi ngủ không gối [đè] lên nó. Nhưng

có một điểm: khi huyền quan thiết vị lần thứ nhất thì trước mắt có cảm giác, tuy

rằng nó ở tại không gian khác, nhưng vẫn cứ cảm thấy trước mắt mờ mờ, giống hệt

như có cái gì đó đang che chắn, không được thoải mái lắm. Bởi vì ngọc chẩm là

một đại quan

1

rất then chốt, ở phía sau cũng cần hình thành một bộ các thứ; rồi nó

lại bắt đầu quay lại. Huyền quan nhất khiếu ấy thực ra không phải là nhất khiếu,

[mà] nó cần hoán vị nhiều lần; nó quay vào đến nê hoàn rồi lại bắt đầu giáng hạ

xuống, ở trong thân giáng hạ xuống, [giáng hạ] một mạch cho đến huyệt mệnh

môn. Tại huyệt mệnh môn nó lại phóng xuất ra.

Mệnh môn của con người là một đại khiếu chủ yếu cực kỳ then chốt. Đạo gia

gọi là ‘khiếu’, chúng tôi gọi là ‘quan’. Đại quan chủ yếu này, thực sự là cửa sắt, vô

số tầng cửa sắt. Mọi người đã biết rằng thân thể có nhiều tầng, các tế bào nhục thể

của chúng ta hiện nay là một tầng, các phân tử bên trong là một tầng; nguyên tử,

proton, điện tử, [các lạp tử] nhỏ vô hạn, nhỏ vô hạn, nhỏ vô hạn, cho đến các lạp tử

cực tiểu, mỗi một diện đều [thiết] lập một tầng cửa. Do vậy có rất nhiều những

công năng, rất nhiều những thứ thuật loại, đều bị khoá ở trong cửa mỗi tầng. Các

công pháp khác luyện đan, đến lúc đan cần nổ tung, đầu tiên cần chấn [động] mở

mệnh môn; nếu nó chẳng được chấn [động] mở ra, công năng sẽ không phóng thích

được. Tại huyệt mệnh môn huyền quan hình thành xong một bộ các thứ ấy, nó lại

tiến vào [thân thể]. Sau khi tiến vào nó sẽ bắt đầu quay trở lại chỗ bụng dưới; gọi là

‘huyền quan quy vị’.

Sau khi quy vị, [huyền quan] không trở về chỗ ban đầu. Lúc này nguyên anh đã

lớn lắm rồi; khí bào sẽ phủ trùm lên nguyên anh, bao [bọc] lấy nguyên anh. [Khi]

1 Đại quan: cửa lớn, ở đây huyệt ngọc chẩmđược tính là một quan.

Huyền quan thiết vị 85

nguyên anh lớn lên, nó cũng lớn lên theo. Thông thường lúc nguyên anh [của] Đạo

gia lớn đến cỡ đứa trẻ 6~7 tuổi, thì cho phép nó rời [thân] thể, gọi là ‘nguyên anh

xuất thế’. Vì nguyên thần của người [tu luyện] làm chủ nó, nó sẽ có thể xuất ra hoạt

động. Thân thể của người [tu luyện] định tại chỗ kia bất động, nguyên thần xuất ra.

Thông thường khi nguyên anh [của] Phật gia tu luyện đến cỡ của bản thân [người tu

luyện] thì không còn nguy hiểm gì nữa. Thông thường đến lúc ấy cho phép nó rời

[thân] thể, ly khai khỏi thân thể, có thể xuất lai. Khi này nguyên anh đã to lớn như

bản thân [người tu luyện], cái bọc cũng lớn [như thế]; cái bọc ấy đã nở ra ngoài

[thân] thể rồi, [đó] chính là huyền quan. Bởi vì nguyên anh đã lớn nhường ấy, tất

nhiên [huyền quan] cũng nở lớn ra ngoài [thân] thể.

Chư vị có thể đã thấy hình tượng Phật trong chùa, thấy rằng hình tượng Phật

đều ở trong một vòng tròn, nhất là những bức hoạ hình tượng Phật, đều có cái vòng

ấy, [và] ông Phật ngồi trong đó. Rất nhiều hình tượng Phật đều như thế, nhất là

những bức hoạ hình tượng Phật tại các chùa cổ, đều như vậy cả. Vì sao ngồi trong

vòng tròn, không ai [giải] nói rõ ràng cả. Tôi nói với mọi người rằng, [nó] chính là

huyền quan. Nhưng lúc này nó đã không còn được gọi là ‘huyền quan’ nữa, gọi là

‘thế giới’; nhưng chưa có thể thực sự gọi là thế giới được. Nó mới chỉ có một bộ

các thiết bị kia thôi; giống như nhà máy chúng ta có một bộ các thiết bị, nhưng

chưa có khả năng sản xuất; cần có nguồn năng lượng, có nguyên liệu rồi mới có thể

sản xuất. Mấy năm trước có nhiều người tu luyện nói: ‘Tôi [có] công cao hơn Bồ

Tát, tôi [có] công cao hơn Phật’, người khác nghe vậy thấy huyền [hoặc] lắm. Kỳ

thực họ nói không huyền [hoặc] chút nào; tu luyện [ở] thế gian công thực sự đạt rất

cao.

Vì sao xuất hiện tình huống này, tu thành rồi còn cao hơn Phật không? Không

thể lý giải trên bề mặt như thế được; công của họ thật sự rất cao. Bởi vì sau khi họ

tu lên đến tầng rất cao, rồi đạt đến lúc khai công khai ngộ của mình, thì công thực

sự rất cao. Đúng vào thời điểm ngay trước khi họ khai công khai ngộ, thì giúp họ

bẻ tám phần mười công của bản thân họ xuống, ngay cả tiêu chuẩn tâm tính của họ

cũng cắt xuống. Dùng năng lượng ấy mà bổ sung cho thế giới của họ, thế giới của

bản thân họ. Mọi người đã biết rằng, công của người tu luyện, đặc biệt là những thứ

thêm lên chỗ tiêu chuẩn tâm tính, là [trải qua] vô số khổ [nạn] một đời, tại hoàn

cảnh gian khổ mà ‘ma luyện’, mà tu luyện xuất lai, nên nó cực kỳ trân quý; lấy ra

tám phần mười những thứ trân quý như thế mà bổ sung cho thế giới của họ. Do vậy

khi tu thành trong tương lai, [họ] muốn gì giơ tay lập tức được ngay, cần gì có nấy,

muốn làm gì thì làm được nấy, trong thế giới của họ cái gì cũng có. Đó là uy đức

của họ, bản thân kinh qua chịu khổ mà tu xuất ra được.

Chủng năng lượng này của họ có thể tuỳ ý biến hoá các thứ. Do đó Phật mong

muốn gì, muốn ăn gì, [muốn] thưởng ngoạn gì, thì đều có điều đó. Đây là [điều]

bản thân họ tu xuất lai được; chính là ‘Phật vị’; không có những thứ ấy thì họ tu

không thành được. Lúc bấy giờ, mới xứng là thế giới của bản thân mình; nhưng họ

chỉ còn lại hai phần mười công để đến viên mãn, đắc Đạo. Tuy rằng chỉ còn lại hai

phần mười, nhưng thân thể của họ không [còn bị] khoá; hoặc giả không mang theo

thân thể, hoặc giả mang theo thân thể, nhưng thân thể đã được chuyển hoá [bằng]

vật chất cao năng lượng rồi; lúc ấy họ đại hiển thần thông, uy lực vô tỷ. Còn khi tu

luyện tại nơi người thường thông thường mang theo khoá, không có bản sự gì lớn;

công cao đến mấy cũng chịu hạn chế; hiện nay không thế nữa.

Huyền quan thiết vị 86

Bài giảng thứ năm

Đồ hình Pháp Luân

Ký hiệu của Pháp Luân Đại Pháp chúng ta là Pháp Luân. Người có công năng,

có thể nhìn thấy Pháp Luân này đang xoay chuyển. Chiếc huy hiệu nhỏ Pháp Luân

này của chúng ta cũng như thế, nó đang xoay chuyển. Chúng ta chiểu theo đặc tính

Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ, để chỉ đạo sự tu luyện của mình, chiểu theo nguyên lý

diễn hoá của vũ trụ mà luyện; do đó công mà chúng ta luyện được cũng rất lớn.

Theo một ý nghĩa nào đó mà giảng, đồ hình Pháp Luân này là [hình] ảnh thu nhỏ

của vũ trụ. Phật gia coi thế giới mười phương như một khái niệm [về] vũ trụ, bốn

mặt tám phương, tám phương vị; có thể có người có thể nhìn thấy tồn tại trên dưới

của nó {Pháp Luân} một công trụ, như vậy với trên dưới được thêm vào thì [nó]

chính là thế giới mười phương, cấu thành nên vũ trụ này, đại biểu cho vũ trụ nói

chung mà Phật gia nhìn nhận.

Tất nhiên trong vũ trụ này có vô số thiên hà, bao gồm cả hệ Ngân Hà của

chúng ta trong đó. Toàn bộ vũ trụ đang vận động, tất cả các thiên hà trong toàn bộ

vũ trụ cũng đang vận động; do đó các thái cực và phù [hiệu] chữ  卍 nhỏ ở trong đồ

hình này cũng đang xoay chuyển, toàn bộ Pháp Luân cũng đang xoay chuyển, hơn

nữa phù [hiệu] chữ 卍 lớn ở giữa cũng đang xoay chuyển. Theo một ý nghĩa nào đó

mà giảng, nó tượng trưng cho hệ Ngân Hà của chúng ta; đồng thời vì chúng ta là

Phật gia, nên trung tâm là phù hiệu của Phật gia; nhìn bề mặt là như vậy. Tất cả các

vật chất khác nhau đều có hình thức tồn tại ở [các] không gian khác, tại [các] không

gian khác đều có hình thức tồn tại và một quá trình diễn hoá cực kỳ phong phú và

cực kỳ phức tạp. Đồ hình Pháp Luân này là [hình] ảnh thu nhỏ của vũ trụ, tại từng

không gian khác nó cũng có hình thức tồn tại và quá trình diễn hoá của mình, vậy

nên tôi gọi [đó] là một thế giới.

Khi xoay chuyển theo chiều kim đồng hồ thì Pháp Luân có thể tự động hấp thụ

năng lượng vũ trụ; khi xoay chuyển ngược chiều kim đồng hồ thì [nó] có thể phát

phóng năng lượng. Xoáy vào (thuận chiều kim đồng hồ) độ bản thân, xoáy ra

(ngược chiều kim đồng hồ) độ nhân; [đó] là một đặc điểm của công pháp chúng ta.

Có người nói: ‘Chúng ta là Phật gia, vì sao còn có thái cực? Thái cực ấy phải chăng

là Đạo gia?’ Bởi vì công của chúng ta luyện được rất lớn; [điều] luyện được tương

đương với cả vũ trụ. Như vậy mọi người thử nghĩ xem, trong vũ trụ này có hai ‘gia’

lớn là Phật gia và Đạo gia, loại trừ đi bất kỳ ‘gia’ nào cũng không cấu thành nên vũ

trụ hoàn chỉnh được, không thể nói là vũ trụ hoàn chỉnh được; do đó chúng ta ở đây

cũng có những điều trong Đạo gia. Có người giảng: ‘Nhưng không phải chỉ có Đạo

gia, còn có những [môn] như Cơ Đốc giáo, Nho giáo, và những [tôn] giáo khác

nữa’. Tôi nói với chư vị rằng, Nho giáo khi tu luyện đến tầng cực cao, nó quy về

Đạo gia; còn ở phương tây có rất nhiều tôn giáo sau khi tu lên cao tầng, chúng quy

về Phật gia, chúng thuộc về cùng một thể hệ bên Phật gia. Đó là hai thể hệ lớn.

Vậy tại sao thái cực đồ [hình] vừa có hai cái trên đỏ dưới xanh lam, vừa có hai

cái trên đỏ dưới đen? Theo chỗ hiểu thông thường của chúng ta, thái cực là do hai

chủng vật chất đen và trắng cấu thành, [ấy là] khí âm và khí dương. Đó là nhận

thức đứng tại tầng rất nông [cạn] mà xét; tại các không gian khác nhau có các hiển

thị [tại] không gian khác nhau. Hiển thị tại tầng cao nhất, thì mầu sắc của nó chính

Đồ hình Pháp Luân 87

là như thế. Đạo [gia] mà chúng ta vẫn thường biết đến chính là [có thái cực đồ] có

mầu sắc trên đỏ dưới đen. [Tôi] lấy một thí dụ, một số người trong chúng ta đã khai

thiên mục, phát hiện rằng dùng mắt nhìn thì thấy [vật] mầu đỏ, [nhưng] tại không

gian chỉ sai khác một tầng mà nhìn thì nó là mầu xanh lục. Cái [vật] mầu vàng kim

này ở trong không gian khác lại thấy là mầu tím; nó có  sự tương phản sai biệt như

thế; tức là mầu sắc tại các không gian khác nhau cũng có sự thay đổi khác nhau.

Thái cực trên đỏ dưới xanh lam là thuộc về Tiên Thiên Đại Đạo, bao gồm pháp

môn tu luyện Kỳ Môn. Phù [hiệu] chữ  卍   tại bốn [bên] mặt là Phật gia; chúng

giống với [phù hiệu] ở giữa; đều là Phật gia. Mầu sắc của Pháp Luân này trông rất

tươi sáng, chúng tôi lấy nó làm ký hiệu của Pháp Luân Đại Pháp.

Mọi người chúng ta thông qua thiên mục nhìn thấy Pháp Luân này không nhất

định có mầu sắc như vậy; mầu nền này thay đổi, nhưng mẫu hình không thay đổi.

Khi Pháp Luân mà tôi cấp cho chư vị ở vị trí bụng dưới đang xoay chuyển, thiên

mục của chư vị nhìn được [nó], có thể [là] đỏ, có thể là tím, có thể là xanh lục;

cũng có thể là vô sắc. Đỏ da-cam vàng lục lục-lam lam tím, mầu nền của nó không

ngừng đổi mầu như thế; do đó điều chư vị nhìn thấy được có thể có các mầu sắc

khác; nhưng mầu sắc của mẫu hình phù [hiệu] chữ  卍   và thái cực ở bên trong

không thay đổi. Chúng tôi nhận thấy màu nền này của mẫu hình rất đẹp mắt, nên

chúng tôi lấy nó cố định lại [như thế]. Người có công năng có thể thấu qua tầng

không gian này mà thấy được rất nhiều điều.

Có người nói: ‘Phù [hiệu] chữ 卍 này trông rất giống như thứ của Hitler’. [Tôi]

nói với mọi người rằng phù hiệu này bản thân nó không có khái niệm giai cấp nào

hết. Có người nói: ‘Nếu góc này mà quay hướng nghiêng phía kia thì đúng là thứ

của Hitler’. Không phải như thế, nó xoay chuyển cả hai phía. Xã hội nhân loại

chúng ta đã biết đến mẫu hình này một cách rộng rãi từ 2500 năm trước đây, từ thời

đại Thích Ca Mâu Ni đã biết đến nó. Hitler là vào thời Chiến tranh thế giới lần thứ

hai tính đến nay mới có mấy chục năm; ông ta đã trộm lấy nó để dùng. Tuy nhiên

mầu sắc của nó khác với của chúng ta; nó mầu đen; hơn nữa nó hướng đầu nhọn lên

trên, để đứng, dùng đứng như thế. Về Pháp Luân này [tôi] chỉ giảng đến đây thôi,

chúng tôi chỉ giảng đến hình thức bên ngoài của nó thôi.

Vậy phù [hiệu] chữ 卍 trong Phật gia chúng ta [biểu] thị điều gì? Có người nói

là cát tường như ý; đó là cách giải thích ở người thường. Tôi nói với chư vị rằng,

phù [hiệu] chữ  卍  là tiêu chí của tầng các Phật; chỉ đạt đến tầng của Phật mới có.

Bồ Tát, La Hán không có; tuy nhiên Đại Bồ Tát, tứ Đại Bồ Tát đều có. Chúng tôi

thấy rằng những Đại Bồ Tát này đã vượt xa khỏi tầng của Phật thông thường, thậm

chí cao hơn cả Như Lai. Chư Phật vượt quá tầng Như Lai có nhiều đến mức không

đếm được. Như Lai chỉ có một phù [hiệu] chữ 卍, đạt đến tầng Như Lai trở lên, phù

[hiệu] chữ  卍  sẽ [xuất hiện] nhiều hơn. Vượt gấp đôi Như Lai thì có 2 phù [hiệu]

chữ  卍. Vượt lên nữa sẽ có 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, v.v. đầy khắp thân cũng có. Trên

đầu, hai đầu vai, đầu gối đều sẽ xuất hiện; khi nhiều quá thì cả các chỗ như lòng

bàn tay, ngón tay, gan bàn chân, ngón chân đều sẽ xuất hiện [các chữ ấy]. Tuỳ theo

tầng không ngừng đề cao, các phù [hiệu] chữ  卍  sẽ không ngừng tăng thêm nhiều;

do vậy phù [hiệu] chữ  卍  là đại biểu cho tầng của Phật; tầng của Phật càng cao thì

phù [hiệu] chữ 卍 càng nhiều.

Đồ hình Pháp Luân 88

Kỳ Môn công pháp

Ngoài các công pháp bên Phật gia và Đạo gia, còn có Kỳ Môn công pháp; họ tự

gọi mình là ‘Kỳ Môn tu luyện’. Đối với các công pháp tu luyện thì người thường

chúng ta có nhận thức thế này: Trung Quốc từ thời cổ đại đến nay, người ta nhìn

nhận rằng các công pháp bên Phật gia và Đạo gia là các phương pháp tu luyện

chính thống, cũng gọi chúng là tu luyện chính pháp môn. Kỳ Môn công pháp này từ

xưa đến nay chưa hề [được] công bố ra thế [gian]; rất ít người biết được sự tồn tại

của họ, chỉ nghe nói đến qua các tác phẩm nghệ thuật.

Có Kỳ Môn công pháp hay không? Có. Tôi trong quá trình tu luyện, đặc biệt là

vào một số năm về sau, tôi đã gặp ba vị cao nhân ở bên Kỳ Môn; [họ] truyền cấp

cho tôi những tinh hoa trong môn của mình, những điều hết sức độc đáo đặc biệt,

hết sức hay. Chính vì những điều của họ rất độc đáo đặc biệt, nên những [thứ]

luyện xuất lai cũng cổ quái phi thường; người thường không thể hiểu được. Ngoài

ra còn giảng một câu: ‘phi Phật phi Đạo’, không tu Phật không tu Đạo. Người ta hễ

nghe thấy chẳng tu Phật cũng chẳng tu Đạo, liền gọi họ là ‘bàng môn tả đạo’, họ tự

gọi mình là ‘Kỳ Môn công pháp’. Nói bàng môn tả đạo là có ý khinh thường,

nhưng không có ý phản đối, không bảo rằng họ là tà pháp; điểm này là khẳng định.

Lý giải trên chữ [nghĩa] cũng không có ngụ ý tà pháp. Lịch sử xưa nay [người ta]

vẫn coi công pháp của Phật và Đạo mới xứng là tu luyện chính pháp môn; khi

người ta không nhận thức được công pháp của họ, thì người ta nói họ là ‘bàng

môn’, [tức là] cửa bên cạnh, không phải chính pháp môn. Thế còn ‘tả đạo’? Tả đạo

ngụ ý là vụng về dốt nát, con đường vụng về. Chữ ‘tả’ tại Trung Quốc cổ đại

thường hay nói thành ‘bổn’; ‘bàng môn tả đạo’ là có ngụ ý như thế

1

.

Vì sao họ không phải tà pháp? Vì họ cũng có yêu cầu nghiêm khắc về tâm tính,

họ cũng tu luyện chiểu theo đặc tính vũ trụ, họ cũng không vi phạm đặc tính của vũ

trụ, [và] quy luật của vũ trụ, họ cũng không làm điều xấu; do đó không thể nói nó là

tà pháp. Không phải vì đặc tính của vũ trụ chúng ta phù hợp với phương pháp tu

luyện của Phật gia và Đạo gia, mà là vì phương pháp tu luyện của Phật gia và Đạo

gia phù hợp với đặc tính của vũ trụ, nên mới [trở] thành chính Pháp. Tu luyện của

Kỳ Môn công pháp nếu phù hợp với đặc tính của vũ trụ này, thì họ không phải tà

pháp, mà cũng lại là chính Pháp; bởi vì tiêu chuẩn nhận định tốt-xấu thiện-ác là đặc

tính của vũ trụ. Họ chiểu theo đặc tính vũ trụ mà tu, cho nên nó cũng là con đường

chính; chỉ có điều đặc điểm yêu cầu của họ khác với bên Phật gia và Đạo gia. Họ

cũng không giảng việc truyền đồ đệ một cách rộng rãi, phạm vi truyền rất nhỏ. Đạo

gia truyền công, dạy một lô đồ đệ khá đông, tuy nhiên trong đó chỉ có một đồ đệ

chân truyền; Phật gia giảng phổ độ chúng sinh, ai có thể tu thì người ấy tu.

Khi truyền thừa Kỳ Môn công pháp không thể chọn hai người, mà trong một

thời kỳ lịch sử rất dài mới tuyển chọn một người để truyền; do đó những điều của

họ không hề được người thường biết đến trong lịch sử xưa nay. Đương nhiên vào

lúc khí công lên cao trào, tôi phát hiện rằng trong công pháp này có một số ít người

cũng ra truyền công. Tuy nhiên truyền tới truyền lui [một thời gian] thì họ thấy

không được, bởi vì có một số điều mà sư phụ của họ hoàn toàn không cho phép họ

truyền. Nếu chư vị truyền công [phổ cập], thì chư vị không thể chọn người [học];

những người đến [học], tâm tính cao thấp tại các tầng khác nhau. [Những người]

1 Về các chữ Hán trong đoạn này. Có chữ môn, nghĩa là cửa, cũng có nghĩa môn phái; tương tự với chữ đạo, nghĩa

là con đường, cũng có nghĩa là đạo, hay một môn phái nào đó. Bàng môn→ cái cửa bên cạnh, không phải là chính

pháp môn. Tả đạo, hay bổn đạo→ con đường vụng về dốt nát, không phải là chính đạo. Hiểu trên nghĩa bề mặt là

như vậy.

Kỳ Môn công pháp 89

ôm giữ những quan niệm khác nhau đến [học], loại người nào cũng có, nên chư vị

không có cách nào chọn đồ đệ để truyền. Do vậy không phổ cập Kỳ Môn công

pháp được, dễ xuất hiện nguy hiểm; bởi vì những điều của họ rất đặc thù.

Có người nghĩ: Phật gia tu Phật, Đạo gia tu [thành] Chân Nhân, Kỳ Môn công

pháp này tu thành thì được tính là gì? Là tản Tiên, họ không có phạm vi thế giới cố

định [trong] vũ trụ. Mọi người đều biết, Phật Như Lai Thích Ca Mâu Ni có thế giới

Ta Bà, Phật A Di Đà có thế giới Cực Lạc, Phật Dược Sư có thế giới Lưu Ly; mỗi

Như Lai và Đại Phật đều có thế giới của mình. Mỗi một Đại Giác Giả đều có một

thiên quốc do tự mình tổ chức; rất nhiều đệ tử của họ sinh sống trong đó. Nhưng

Kỳ Môn công pháp họ không có phạm vi cố định [trong] vũ trụ, họ chỉ giống như

du Thần tản Tiên.

Luyện tà pháp

Luyện tà pháp là gì? Có một số hình thức như thế này: có một loại người

chuyên luyện tà pháp, bởi vì những điều đó [luôn] có người truyền trong các [thời]

đại lịch sử. Tại sao lại truyền những thứ ấy? Vì họ truy cầu những danh, lợi, phát

tài ở nơi người thường, họ giảng những thứ ấy. Tất nhiên tâm tính của họ không

cao, nên họ không đắc công. Họ đắc [được] gì? [Đắc] nghiệp lực. Khi nghiệp lực

của người ta lớn, thì cũng sẽ hình thành một loại năng lượng. Nhưng họ không có

tầng, họ so với người luyện công thì không so được, nhưng so với người thường thì

lại có thể ước chế người thường. Bởi vì những thứ ấy cũng là một loại thể hiện của

năng lượng, khi mật độ tập trung lại rất lớn, cũng có thể làm cho công năng trên

thân [thể] người ta mạnh lên, cũng có thể phát huy tác dụng như thế; do đó trong

lịch sử xưa nay cũng có một số người truyền những điều này. Họ nói: ‘Tôi làm điều

xấu, [nhục] mạ người ta, thì tôi tăng công’. Họ không hề tăng công, [trên] thực tế là

làm mật độ vật chất màu đen tăng lên; bởi vì làm điều xấu có thể đắc vật chất màu

đen, [tức là] nghiệp lực. Do vậy họ có thể khiến những công năng nho nhỏ vốn

mang trên thân thể {của họ} nhờ nghiệp lực kia mà trở nên mạnh hơn; họ có thể

sinh ra một ít công năng nhỏ bé, nhưng không làm được điều gì to tát. Những người

này cho rằng, làm việc xấu thì cũng tăng công, [ấy là] họ có cách nói như thế.

Có người giảng những thứ như: ‘Đạo cao một thước, ma cao một trượng’. Đó

là tà thuyết nơi người thường; ma kia vĩnh viễn không thể cao hơn Đạo được. Có

một tình huống như thế này; vũ trụ mà nhân loại chúng ta nhận thức được chỉ là

một tiểu vũ trụ trong vô số các vũ trụ; chúng ta gọi tắt [nó] là vũ trụ. Vũ trụ ấy của

chúng ta mỗi lần trải qua thời gian hết sức lâu dài, thì đều phát sinh một đại tai nạn

vũ trụ. Vụ tai nạn ấy sẽ làm cho hết thảy [mọi thứ] trong vũ trụ, kể cả các tinh cầu

đều có thể [bị] huỷ diệt, hết thảy các sinh mệnh trong vũ trụ đều có thể [bị] huỷ

diệt. Sự vận động của vũ trụ cũng có quy luật [của nó]; [tại] vũ trụ chúng ta lần này

không chỉ có nhân loại là đã biến chất trở nên xấu; có rất nhiều sinh mệnh đã thấy

được tình huống này, rằng hiện nay, trong không gian vũ trụ này từ lâu đã phát sinh

một vụ nổ lớn. Các nhà thiên văn học hiện nay không nhìn thấy, là vì hiện nay khi

chúng ta dùng kính viễn vọng lớn nhất mà nhìn, thì quang cảnh nhìn được là những

sự việc 15 vạn năm ánh sáng trước đây. Nếu muốn nhìn thấy sự biến hoá của thiên

thể hiện nay, họ cần sau 15 vạn năm ánh sáng nữa mới có thể nhìn thấy được, như

vậy rất là lâu.

Toàn bộ vũ trụ hiện nay đã xuất hiện một biến đổi rất to lớn; mỗi khi xuất hiện

sự biến đổi như vậy, toàn bộ các sinh mệnh của toàn vũ trụ đều [bị] xử [lý] huỷ

diệt, toàn bộ đều [bị] đặt vào trạng thái huỷ diệt. Mỗi một khi phát sinh tình huống

Luyện tà pháp 90

như vậy, thì đặc tính tồn tại từ trước trong vũ trụ và vật chất trong đó đều cần phải

[bị] làm cho nổ tung; thông thường đều bị nổ chết hết; tuy nhiên qua mỗi lần nổ

cũng không có sạch hết. Khi vũ trụ mới được những Đại Giác Giả cực cao cực cao

kiến tạo lại mới xong rồi, trong đó vẫn có [còn tồn tại] một số không bị nổ chết.

Các Đại Giác Giả kiến tạo vũ trụ [mới] này là chiểu theo đặc tính của bản thân

mình, [theo] tiêu chuẩn của bản thân mình mà kiến tạo vũ trụ ấy; do đó [so] với đặc

tính vũ trụ của thời kỳ trước đó có những chỗ bất đồng.

[Những sinh mệnh] không bị nổ chết, cứ ôm giữ đặc tính ban đầu, [Pháp] lý

ban đầu trong khi hành xử tại vũ trụ [mới] này. Vũ trụ mới được kiến tạo ra là chiểu

theo đặc tính vũ trụ mới, theo [Pháp] lý này mà hành xử. Do đó [những gì] đã

không bị nổ chết trở thành ma can nhiễu đến [Pháp] lý của vũ trụ. Nhưng họ không

có xấu tệ đến thế, họ chẳng qua chỉ chiểu theo đặc tính của vũ trụ chu kỳ trước mà

hành xử; đó chính là cái mà người ta gọi là ‘thiên ma’. Nhưng đối với người thường

họ không có sự uy hiếp gì cả, họ hoàn toàn không hại người, họ chỉ hành sự theo

cái lý họ ôm giữ mà thôi. Trong quá khứ đây là điều người thường không được

phép biết đến; tôi nói rằng những Phật ở cảnh giới rất cao siêu quá tầng Như Lai có

rất nhiều, những ma ấy đáng kể gì, so sánh thật quá ư nhỏ bé. Lão, Bệnh, Tử cũng

là một loại ma, nhưng được sinh ra để duy hộ đặc tính vũ trụ.

Trong Phật giáo giảng lục đạo luân hồi, giảng về vấn đề [có] một đạo [là] A Tu

La; kỳ thực chính là [một] sinh vật của không gian khác, nhưng không mang bản

tính [con] người. Theo [góc độ] Đại Giác Giả mà xét, chúng cực kỳ cực kỳ thấp,

không hề có khả năng gì; nhưng trong con mắt người thường thì [chúng] thật đáng

sợ; chúng có tồn tại năng lượng nhất định; chúng xem người thường như thú vật,

nên thích ăn người. Mấy năm gần đây, chúng cũng chạy ra truyền công. Chúng

được tính là gì đây; [hình dáng] chúng trông có ra hình người [đâu]? Làm người ta

rất sợ; học những thứ của chúng rồi thì phải theo chúng [thành] đồng loại của

chúng. Có một số người khi luyện công, tư tưởng không đúng đắn, khi phù hợp với

cách nghĩ của chúng, chúng liền đến dạy chư vị. Nhất chính áp bách tà, khi chư vị

không truy cầu, thì không ai dám động đến chư vị. Nếu chư vị sinh ra tà niệm, truy

cầu những thứ không tốt, chúng sẽ đến giúp chư vị, chư vị sẽ tu theo ma đạo; sẽ

xuất hiện vấn đề này.

Còn có một tình huống nữa gọi là ‘luyện tà pháp không tự biết’. Tại sao gọi là

luyện tà pháp không tự biết? Chính là vì người ta không hiểu được rằng mình đang

luyện tà pháp. Sự việc này hết sức phổ biến, quả là có rất nhiều. Giống như tôi đã

giảng hôm vừa rồi, có nhiều người luyện công tư tưởng không đúng đắn; chư vị

thấy họ đang [luyện] trạm trang ở kia, tay mỏi run cả lên, chân cũng mỏi run cả lên.

Nhưng [đầu] não họ vẫn không nghỉ, họ nghĩ: ‘Vật giá leo thang, mình phải đi mua

mấy thứ; luyện công xong mình sẽ đi mua; nếu không giá lại tăng lên’. Có người

nghĩ: ‘Đơn vị [công tác] hiện nay đang phân nhà, phân nhà [lần này] không biết có

mình trong ấy không nhỉ? Người phụ trách phân nhà đối xử tệ với mình như thế

như thế’. Càng nghĩ càng bực mình: ‘Hắn thể nào cũng không cấp nhà cho mình,

mình sẽ cho hắn biết tay như thế này này …’ niệm đầu nào cũng có. Như tôi đã

giảng, [họ] nói từ chuyện nhà mình cho đến quốc gia đại sự; nói đến chỗ không vừa

ý thì càng nói càng bực mình.

Luyện công cần [coi] trọng đức; khi chúng ta luyện công, chư vị không nghĩ

việc tốt, thì cũng không thể nghĩ việc xấu; tốt nhất là đừng nghĩ gì hết. Bởi vì khi

luyện công tại tầng thấp cần phải thiết lập một cơ sở; cơ sở ấy phát huy tác dụng

hết sức quan trọng, bởi vì ý niệm hoạt động của con người có một tác dụng nhất

Luyện tà pháp 91

định. Mọi người thử nghĩ xem, hỏi những gì được thêm vào trong công của chư vị,

những điều chư vị luyện xuất ra được có thể là tốt không? Nó có thể không phải là

đen đen không? Hỏi có bao nhiêu người không ôm giữ cách nghĩ như trên khi luyện

công? Chư vị tại vì sao luyện công mãi mà không hết bệnh? Tại nơi luyện công có

một số người không có nghĩ đến việc xấu như thế, tuy nhiên khi luyện [công] họ

vẫn cứ ôm giữ mãi [tâm] cầu công năng, cầu điều này cầu điều khác, các loại tâm

thái, [cũng như] các loại dục vọng mạnh mẽ. Kỳ thực, [họ] đang luyện tà pháp [mà]

không tự biết; nếu chư vị bảo rằng họ luyện tà pháp, họ có thể không ưng ý: ‘Tôi là

có khí công đại sư này nọ dạy tôi kia đấy’. Tuy nhiên khí công đại sư ấy bảo chư vị

[coi] trọng đức, chư vị có [coi] trọng không? Khi chư vị luyện công, chư vị cứ thêm

vào những ý niệm bất hảo, chư vị thử nói xem chư vị có thể luyện xuất ra được gì

tốt không? Chính là vấn đề ấy, nó thuộc về luyện tà pháp không tự biết, vô cùng

phổ biến.

Nam nữ song tu

Trong giới tu luyện có một loại phương pháp tu luyện, gọi là ‘nam nữ song tu’.

Mọi người đã có thể nhìn thấy trong phương pháp tu luyện Mật tông Tây Tạng, ở

các hình tượng Phật điêu khắc hoặc hình hoạ, thấy một [thân] thể nam ôm một

[thân] thể nữ đang tu luyện. Có những lúc hình thức biểu hiện của [thân] thể nam là

Phật, đang ôm một người nữ không mặc gì cả; cũng có [lúc là] thân biến hoá của

Phật, biến thành hình tượng kim cương đầu bò mặt ngựa, ôm một [thân] thể nữ

cũng không mặc chút gì. Tại sao lại như thế? Trước hết chúng tôi nói rõ vấn đề này

cho chư vị. Trên Trái Đất chúng ta, không chỉ Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho

gia, [mà] toàn thể nhân loại chúng ta, vào thời cổ đại mấy thế kỷ trước, [thì] quan

niệm đạo đức của nhân loại không khác [nhau] nhiều. Do đó loại phương pháp tu

luyện ấy thực ra không bắt nguồn từ Trái Đất này của chúng ta, nó truyền từ tinh

cầu khác đến; nhưng loại phương pháp ấy thật sự có khả năng tu luyện. Thời ấy khi

loại phương pháp này truyền nhập vào Trung Quốc nước ta, thì chính vì nó có bộ

phận nam nữ song tu và tu luyện bí mật, [nên] không được người Trung Quốc tiếp

thụ; do đó vào những năm Hội Xương [triều] đại nhà Đường đã bị hoàng đế đất

người Hán tiêu diệt. Không cho phép nó lưu truyền tại Hán địa; thời ấy gọi là

Đường Mật. Nhưng nó ở hoàn cảnh đặc thù nơi Tây Tạng, ở vùng đất đặc thù ấy,

nó đã được lưu truyền về sau. Tu luyện kiểu như thế là vì sao? Mục đích của nam

nữ song tu là cần lấy âm bổ dương, lấy dương bổ âm, bổ trợ cho nhau cùng tu, đạt

đến mục đích âm dương cân bằng.

Mọi người đã biết, dẫu là Phật gia hay Đạo gia cũng vậy, đặc biệt là học thuyết

âm dương của Đạo gia giảng rằng, [thân] thể người tự đã có âm dương tồn tại. Vì

[thân] thể người có âm dương tồn tại, [thân] thể người mới có thể tu luyện xuất ra

các loại công năng, nguyên anh, anh hài, Pháp thân cũng như các thể sinh mệnh. Vì

có âm dương tồn tại, nên có thể luyện xuất ra được rất nhiều thể sinh mệnh. Bất

luận là người nam hay nữ, đều như nhau cả, từ khối điền của đan điền ấy đều có thể

sinh thành [những sinh mệnh nói trên]; thuyết này rất có đạo lý. Đạo gia vẫn

thường coi nửa trên thân là dương, nửa dưới thân là âm; cũng có [người] coi mặt

lưng là dương, mặt trước thân là âm; lại cũng có [người] coi thân thể người bên trái

là dương, bên phải là âm. Trung Quốc chúng ta có cách nói rằng ‘nam tả nữ hữu’,

cũng chính từ đây mà ra, rất có đạo lý. Vì thân người đã tự có âm dương tồn tại,

[nên] dưới tác dụng âm dương tương hỗ, tự thân sẽ có thể đạt đến âm dương cân

bằng, cũng sẽ có thể sản sinh ra rất nhiều các thể sinh mệnh.

Nam nữ song tu 92

Điều này đã nói rõ một vấn đề, chúng ta không cần dùng đến phương pháp tu

luyện nam nữ song tu, cũng có thể tu lên đến tầng rất cao như thế. Nếu như dùng

đến phương pháp tu luyện nam nữ song tu, nếu như giữ [tâm tính] không vững, thì

sẽ nhập ma, sẽ thành tà pháp. Tại tầng rất cao [trong] Mật tông nếu muốn dùng đến

nam nữ song tu, thì hoà thượng [hoặc] lạt-ma ấy cần phải tu luyện lên đến tầng rất

cao rồi. Tới lúc đó sư phụ của họ sẽ [hướng] dẫn họ tiến hành loại tu luyện này; vì

tâm tính của họ rất cao, họ có thể giữ [mình] được vững, [nên] không lạc sang

những điều tà. Còn đối với những người tâm tính rất thấp thì tuyệt đối không thể

dùng đến [phương pháp này]; dùng đến thì sẽ nhập tà pháp, bảo đảm là vậy. Vì tâm

tính có hạn, các tâm dục vọng ở cảnh giới người thường chưa bỏ, tâm sắc [dục]

chưa bỏ, xích độ của tâm tính chỉ ở đó thôi, đảm bảo rằng hễ dùng một cái là tà

ngay. Do đó chúng tôi giảng rằng, tuỳ tiện truyền [nó] ở tầng thấp, thì chính là

truyền tà pháp.

Vài năm nay có không ít khí công sư truyền giảng nam nữ song tu. Kỳ lạ ở chỗ

nào? Đạo gia cũng xuất hiện phương pháp tu luyện nam nữ song tu; hơn nữa [nó]

không phải xuất hiện bây giờ, [mà] bắt đầu từ [triều] đại nhà Đường. Đạo gia xuất

hiện nam nữ song tu là sao? [Trong] học thuyết thái cực của Đạo gia, thân thể là

tiểu vũ trụ, tự đã có âm dương. Các đại pháp chính truyền chân chính đều lưu

truyền từ những niên đại xa xưa; tự ý thay đổi, tự ý cho thêm vào bất kể thứ gì đều

chính là làm loạn những điều trong pháp môn ấy, làm cho nó không thể đạt mục

đích tu luyện viên mãn được. Do đó [nếu] trong công pháp ấy không có những điều

nam nữ song tu, thì nhất định không thể [thực hành nam nữ song] tu; nếu dùng, thì

sẽ sai lệch, sẽ xuất hiện vấn đề. Đặc biệt pháp môn Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi,

không có nam nữ song tu, cũng không giảng về nó. Vấn đề này, chúng tôi có nhìn

nhận như vậy.

Tính mệnh song tu

Vấn đề tính mệnh song tu này đã được giảng giải rõ cho mọi người rồi. ‘Tính

mệnh song tu’ chính là ngoài việc tu luyện tâm tính ra, cũng đồng thời tu mệnh;

nghĩa là, cải biến bản thể. Trong quá trình cải biến ấy, trong khi các tế bào của con

người dần dần được vật chất cao năng lượng thay thế, thì lão hoá sẽ chậm lại. Thân

thể biểu hiện sự lùi lại hướng về tuổi trẻ con người, dần dần lùi lại, dần dần chuyển

hoá; cuối cùng khi đã hoàn toàn được vật chất cao năng lượng thay thế, [thì] thân

thể cá nhân ấy đã hoàn toàn chuyển hoá thành một loại thân thể [cấu thành từ] vật

chất không gian khác. Loại thân thể này giống như ‘ra ngoài ngũ hành’ mà tôi đã

giảng, không ở trong ngũ hành nữa; thân thể của người ấy đã là một thân thể bất

hoại rồi.

Tu luyện trong chùa chỉ là tu tính, nên không giảng thủ pháp, không giảng tu

mệnh; họ giảng niết bàn. Phương pháp Thích Ca Mâu Ni truyền là giảng niết bàn;

kỳ thực bản thân Thích Ca Mâu Ni có đại pháp cao thâm, có thể chuyển hoá hoàn

toàn bản thể thành vật chất cao năng lượng để mang theo. Ông muốn lưu lại pháp tu

này, [nên] bản thân Ông cũng niết bàn. Vì sao Ông dạy như thế? Là vì Ông muốn

người ta vứt bỏ đến mức tối đa các tâm chấp trước, điều gì cũng vứt bỏ, cuối cùng

đến thân thể cũng vứt bỏ; tất cả các tâm đều không có. Vì muốn người ta đạt đến

mức độ tối đa như thế nên Ông đã đi con đường niết bàn; do đó hoà thượng xưa

nay đều đi con đường niết bàn này. Niết bàn chính là hoà thượng chết rồi, nhục

thân bỏ đi, nguyên thần của bản thân họ mang theo công mà đi lên.

Tính mệnh song tu 93

Trọng điểm của Đạo gia đặt vào tu mệnh; vì họ tuyển đồ đệ, không giảng phổ

độ chúng sinh, [nên] họ đối diện là với những người hết sức tốt, tốt phi thường. Do

đó họ giảng những thứ thuật loại, họ giảng vấn đề làm sao để tu mệnh. Tuy nhiên

tại các phương pháp tu luyện đặc định của Phật gia, đặc biệt trong phương pháp của

Phật giáo thì không thể giảng điều này. [Nhưng] không phải [tất cả] đều không

giảng; trong nhiều đại pháp cao thâm của Phật gia cũng có giảng [điều này]; pháp

môn chúng tôi có giảng. Môn Pháp Luân Đại Pháp này của chúng tôi cần cả bản

thể, cần cả nguyên anh; hai cái này có chỗ khác nhau. Nguyên anh cũng là thân thể

cấu thành từ vật chất cao năng lượng, nhưng nó không thể hiển hiện một cách tuỳ

tiện tại không gian này của chúng ta; còn nếu muốn bảo trì lâu dài hình tượng giống

như người thường tại không gian này, [thì] cần phải có bản thể chúng ta. Do vậy

sau khi bản thể này chuyển hoá rồi, tuy rằng các tế bào của nó đã được vật chất cao

năng lượng thay thế, nhưng trình tự sắp xếp của các phân tử không thay đổi, do đó

nhìn thì không khác mấy so với thân thể người bình thường. Tuy nhiên có chỗ khác

biệt [so với người thường], tức là, thân thể này có thể tiến nhập vào không gian

khác.

Công pháp tính mệnh song tu, từ ngoài mà quan sát người ta cảm thấy như trẻ

ra nhiều tuổi; cá nhân nhìn bề ngoài khác nhiều so với tuổi thực tế. Một hôm có

người hỏi tôi: ‘Thưa Sư phụ, thầy nhìn xem con đã bao nhiêu tuổi?’ Kỳ thực, bà đã

gần 70 tuổi rồi, [nhưng] biểu hiện [bên ngoài như] mới có 40 tuổi. Không có nếp

nhăn, sắc mặt sáng sủa, trắng trẻo, hồng hào; không hề giống như những người 70

tuổi. Người luyện Pháp Luân Đại Pháp chúng ta sẽ xuất hiện tình huống này. Nói

vui thế này, các cô nương trẻ tuổi đều trang điểm, muốn da dẻ trắng trẻo hơn, đẹp

hơn. Tôi nói rằng chư vị tu luyện công pháp tính mệnh song tu một cách chân

chính, [thì] tự nhiên đạt được điều ấy; bảo đảm là chư vị không [cần] trang điểm.

Chúng tôi không đưa [thêm] ví dụ về phương diện này [nữa]. Vì trước đây tại các

ban ngành có khá nhiều người cao tuổi, nên người ta thường coi tôi là người còn ít

tuổi; hiện nay khá hơn rồi, [vì] tại các ban ngành cũng có khá nhiều người trẻ. Kỳ

thực tôi cũng không còn trẻ nữa, cũng đang đến 50 tuổi rồi; hiện nay đã 43 tuổi rồi.

Pháp thân

Tại sao trên [hình] tượng Phật có một trường? Có nhiều người giải thích không

được; cũng có người nói: ‘Trên tượng Phật có trường là vì hoà thượng hướng vào

tượng Phật niệm kinh mà sinh ra’, tức là trường do hoà thượng tu luyện ở trước

[tượng] sinh ra. Tuy nhiên hoà thượng tu luyện cũng vậy, ai tu luyện cũng vậy, loại

năng lượng ấy là tản xạ, không định hướng; nên chăng là toàn bộ sàn, trần, tường

nơi Phật đường đều có trường ấy như nhau. Vậy cớ sao chỉ có trường ở trên tượng

Phật mới mạnh như thế? Đặc biệt ở các tượng Phật trong núi sâu, hoặc tại sơn

động, hoặc tạc trên vách núi, thường hay có tồn tại trường ấy. Vì sao xuất hiện

trường này? Có người giải thích thế này, giải thích thế kia, giải thích thế nào cũng

không giải thích được thông. Kỳ thực trên tượng Phật có trường ấy là vì trên tượng

Phật có một Pháp thân của Giác Giả. Pháp thân của Giác Giả ấy tại chỗ đó, do đó

nó có năng lượng.

Thích Ca Mâu Ni hay Bồ Tát Quán Âm cũng vậy, nếu như trong lịch sử thật sự

có nhân vật ấy, mọi người thử nghĩ xem, khi họ tu luyện, thì họ cũng là người luyện

công phải không? Người ta sau khi tu đến một tầng rất cao nào đó ở xuất thế gian

pháp, thì sẽ sản sinh ra Pháp thân. Pháp thân được sinh ra từ bộ vị của đan điền

người ta, là do Pháp và công cấu thành, là thể hiện xuất ra ở tại không gian khác.

Pháp thân 94

Pháp thân được trang bị đầy đủ uy lực rất lớn của bản thân họ; nhưng ý thức của

Pháp thân, tư tưởng của Pháp thân chịu sự khống chế [điều hành] của chủ thể.

Nhưng bản thân Pháp thân cũng là một sinh mệnh cá thể hoàn chỉnh, độc lập, hết

sức thực tại; do vậy bản thân [nó] cũng có thể thực thi bất kể sự việc gì một cách

độc lập. Sự việc mà Pháp thân thực thi là giống với, giống như đúc với sự việc mà

chủ ý thức của người ta mong muốn thực thi. Sự việc ấy bảo bản thân thực thi thì sẽ

thực thi như thế nào, [thì để] Pháp thân thực thi cũng lại như thế ấy; đây chính là

điều mà chúng tôi gọi là ‘Pháp thân’. Tôi muốn làm một sự việc nào đó, ví như

giúp đệ tử tu luyện chân chính điều chỉnh thân thể, [thì] đều do Pháp thân của tôi

làm. Bởi vì Pháp thân không mang cái thân thể thường nhân như thế này, nên [Pháp

thân] thể hiện tại không gian khác. Thể sinh mệnh ấy cũng không cố định bất biến;

Pháp thân có thể biến thành lớn thu thành nhỏ. Có lúc Pháp thân biến thành rất lớn,

lớn đến mức không nhìn được toàn bộ đầu của Pháp thân; có lúc biến thành rất nhỏ,

nhỏ đến mức nhỏ hơn cả tế bào.

Khai quang

[Hình] tượng Phật chế tạo từ công xưởng chỉ là một tác phẩm nghệ thuật. ‘Khai

quang’ chính là thỉnh mời một Pháp thân của Phật vào tượng Phật; rồi sau đó, coi

tượng Phật như một thân thể hữu hình [của Phật] nơi người thường để thờ cúng.

Người luyện công có cái tâm kính ngưỡng ấy, [thì] khi tu luyện, Pháp thân trên

tượng Phật sẽ hộ Pháp cho họ, coi sóc họ, bảo hộ họ; đây là mục đích chân chính

của khai quang. Chỉ khi phát xuất chính niệm trong nghi thức khai quang chính

thức, hoặc có Đại Giác Giả tại tầng rất cao, hoặc có người tu luyện ở tầng rất cao có

lực lượng [quyền lực] ấy thì mới có thể thực hiện được sự việc này.

Trong chùa giảng rằng tượng Phật cần phải khai quang; họ nói rằng tượng Phật

chưa qua khai quang thì không linh. [Về] các hoà thượng trong chùa hiện nay, các

đại Pháp sư chân chính, đều đã [qua đời] không còn tại thế. Từ sau “Đại Cách

mạng Văn hoá”, trong những tiểu hoà thượng có những vị không được chân truyền

[nhưng] hiện nay làm trụ trì; có rất nhiều điều bị thất truyền. Hỏi họ khai quang để

làm gì? Họ nói: ‘Khai quang xong, tượng Phật sẽ linh’. Cụ thể linh [nghiệm] ra sao,

họ không nói rõ được. Do đó họ chỉ cử hành nghi lễ, đặt một cuốn tiểu kinh văn

vào trong tượng Phật, sau đó lấy giấy hồ [kín] lại, [rồi] hướng vào đó niệm kinh, và

họ nói rằng đã khai quang xong. Nhưng đã đạt được khai quang chưa? Còn phải

xem họ niệm kinh ra sao. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng chính niệm, [đạt đến được]

niệm kinh nhất tâm bất loạn, thì thật sự có khả năng tạo ra chấn động đến thế giới

pháp môn tu của Ông, như thế mới mời được Giác Giả. Một Pháp thân của Giác

Giả này sẽ đến và nhập lên [tượng Phật], như thế mới đạt được mục đích khai

quang.

Có hoà thượng ở đó [vừa] niệm kinh, vừa nghĩ trong tâm: ‘Khai quang xong

[người ta] đưa mình bao nhiêu tiền nhỉ.’ Hoặc là vừa niệm kinh vừa nghĩ: ‘Người

kia xử tệ với mình quá’. Họ ở đó cũng có lục đục tranh chấp, hiện nay vào thời kỳ

mạt Pháp, không thể không thừa nhận những hiện tượng ấy; tại đây chúng tôi

không [định] phê bình Phật giáo; vào thời kỳ mạt Pháp có những ngôi chùa chẳng

hề thanh tịnh. Khi trong đầu họ nghĩ những thứ ấy, phát sinh những niệm đầu

không tốt như thế, hỏi các Giác Giả có thể đến không? Hoàn toàn không đạt được

mục đích khai quang. Tuy vậy [cũng] không tuyệt đối, cũng có những chùa và Đạo

viện đặc biệt tốt.

Khai quang 95

Ở một thành phố nọ tôi thấy một hoà thượng, tay đen thui. [Vị ấy] nhét cuốn

kinh văn vào tượng Phật, dán dán lại, miệng lẩm nhẩm đọc một chập là coi như

khai quang xong. Lại lấy một tượng Phật nữa, lại lẩm nhẩm một chập; mỗi một lần

khai quang là 40 đồng. Hoà thượng hiện nay đã biến [khai quang] thành hàng hoá

thương mại, kiếm tiền bằng khai quang tượng Phật. Tôi nhìn một cái là thấy ngay

khai quang chưa được, hoàn toàn không khai quang; hoà thượng ngày nay còn làm

cả những việc như thế. Tôi còn thấy một việc gì nữa? Trong chùa có một vị kia,

trông giống như một cư sỹ, nói là khai quang tượng Phật; vị này hướng mặt một

chiếc gương về phía Mặt Trời, để ánh sáng phản chiếu lên thân của tượng Phật, họ

nói thế là khai quang xong. Đúng là đã đến mức thật quá tức cười! Phật giáo hôm

nay đã phát triển đến mức độ ấy; nó còn là một hiện tượng rất phổ biến.

Một bức tượng Phật lớn bằng đồng chế tạo tại Nam Kinh, [được] đưa đến đặt

trên Đại Dữ Sơn ở Hồng Kông; tượng Phật rất to lớn. Nhiều hoà thượng trên toàn

thế giới đến để khai quang tượng Phật này; trong đó có một hoà thượng hướng mặt

tấm gương về phía Mặt Trời, để ánh sáng phản chiếu rọi lên mặt của tượng Phật

[và] gọi đó là khai quang. Một đại hội lớn đến thế, ở một trường hợp nghiêm túc

đến thế mà còn làm những việc ấy; tôi nhận thấy rằng thật đáng buồn thay! Không

lạ gì, Thích Ca Mâu Ni giảng: Đến thời kỳ mạt Pháp, hoà thượng độ bản thân còn

rất khó, độ nhân lại càng khó hơn. Thêm vào đó còn có nhiều hoà thượng đứng tại

góc độ của bản thân mình mà giải thích kinh Phật; cái thứ gọi là ‘Vương Mẫu

Nương Nương kinh’ cũng lọt được vào trong chùa; những điều không phải là kinh

điển trong Phật giáo cũng lọt vào trong chùa; làm loạn lung tung cả, bây giờ thật

loạn. Tất nhiên, vẫn có những hoà thượng tu luyện một cách chân chính, và còn rất

tốt. Khai quang trên thực tế là thỉnh mời Pháp thân của Giác Giả về ngụ trên tượng

Phật; đó là khai quang.

Nếu bức tượng Phật ấy chưa được khai quang thì không thể [thờ] cúng; nếu

[thờ] cúng thì sẽ mang đến hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng gì?

Hiện nay những [người] chúng ta làm khoa học về [thân] thể người đã phát hiện

rằng, ý niệm của con người chúng ta, tư duy trong đại não con người có thể sinh ra

một loại vật chất. Chúng tôi ở tầng rất cao nhìn thấy nó thật sự là một loại vật chất;

tuy nhiên loại vật chất ấy không giống như hình thức sóng điện não mà hiện nay

chúng ta nghiên cứu phát hiện ra, mà là một loại hình thức đại não hoàn chỉnh.

Bình thường người thường nghĩ tưởng về một vấn đề gì thì phát xuất ra một thứ có

hình thái đại não; bởi vì nó không có năng lượng, nên [sau khi] phát xuất ra một

thời gian ngắn liền tản mất; nhưng năng lượng của người luyện công thì được bảo

trì trong một thời gian lâu hơn. [Tôi] không nói rằng bức tượng Phật ấy sản xuất ra

khỏi công xưởng liền có tư tưởng; [nó] không có. Nhưng có những chiếc chưa được

khai quang, họ mang [chúng] lên chùa rồi cũng không đạt được mục đích khai

quang. Nếu như tìm đến khí công sư giả nào đó, [hoặc] người theo tà môn oai đạo

để khai quang, thì nó càng nguy hiểm hơn: cáo, chồn sẽ gắn lên đó.

Như vậy nếu tượng Phật kia chưa được khai quang, chư vị lên đó bái [lạy], thì

rất nguy hiểm. Nguy hiểm đến mức độ nào? Tôi đã giảng rằng nhân loại phát triển

cho đến hôm nay, hết thảy đều đã bại hoại; hết thảy mọi thứ ở trong toàn bộ xã hội,

trong toàn bộ vũ trụ đều theo nhau trở nên bại hoại; hết thảy mọi sự việc ở chốn

người thường chúng ta đều là do tự mình tạo thành hết. Muốn cầu chính Pháp,

[muốn] theo chính Đạo đều rất khó; can nhiễu đủ mọi phương diện. Muốn cầu Phật,

hỏi ai là Phật? Muốn cầu rất khó. [Nếu] không tin [thì hãy] để tôi giảng: Hễ người

thứ nhất đến trước tượng Phật chưa được qua khai quang mà bái [lạy] một cái là

Khai quang 96

hỏng rồi. Hiện nay bái Phật hỏi có mấy người mang trong tâm mong muốn cầu Phật

đắc chính quả? Những người như thế quá ít. Mục đích của đại đa số người bái Phật

là gì? Tiêu tai, giải nạn, phát tài, [họ] cầu những thứ ấy. Đó có phải là những điều

trong kinh điển Phật giáo không? Hoàn toàn không phải những thứ ở tầng này.

Chẳng hạn người bái Phật cầu tiền, bái [lạy] trước tượng Phật, hoặc tượng Bồ

Tát Quán Âm, hoặc tượng Phật Như Lai mà nói: ‘Cho con xin phát tài’. Tốt thôi,

một ý niệm hoàn chỉnh bèn hình thành. [Vì] họ hướng đến tượng Phật mà phát xuất

ra, nên [nó] lập tức gắn lên tượng Phật. [Thân] thể tại không gian khác, có thể

phóng lớn thu nhỏ; [nó] gắn lên thân kia rồi, thì tượng Phật ấy sẽ có một đại não, sẽ

có tư tưởng; nhưng chưa có thân thể. Những người khác cũng đến bái [lạy], bái tới

bái lui, sẽ cấp cho nó một năng lượng nhất định. Đặc biệt nếu người luyện công thì

còn nguy hiểm hơn; hễ bái [lạy] thì dần dần cấp năng lượng cho nó; nó sẽ hình

thành một thân thể hữu hình; tuy nhiên thân thể hữu hình ấy hình thành tại không

gian khác. Sau khi hình thành rồi thì nó ở không gian khác; nó có khả năng biết

được một số [Pháp] lý trong vũ trụ; do vậy nó có thể vì người mà làm một chút

việc, như thế nó cũng tăng trưởng một chút công; nhưng giúp đỡ người ta là có điều

kiện, có giá cả. Tại không gian khác nó hành động tự do như ý, khống chế người

thường hết sức tự do như ý. Cái thân thể hữu hình ấy so với hình tượng của bức

tượng Phật thì giống hệt như đúc; [đây] chính là Bồ Tát Quán Âm giả, Phật Như

Lai giả do con người bái [lạy] mà nên, là do con người bái [lạy] mà xuất lai; hình

dáng [nó] trông giống hệt như tượng Phật, hình tượng của Phật. Nhưng tư tưởng

của Phật giả, Bồ Tát giả [ấy] cực kỳ xấu, [nó truy] cầu tiền. Nó sinh ra ở không

gian khác, nó có tư tưởng, nó hiểu biết được một chút [Pháp] lý, nó không dám làm

những điều xấu nghiêm trọng, nhưng nó dám làm những điều xấu nhỏ nhặt. Có

những lúc nó giúp đỡ con người, nếu không giúp đỡ con người thì [nó] đã hoàn

toàn là tà, nên cần phải giết nó. Giúp như thế nào? Một người kia nói: ‘[Con] cầu

xin Phật giúp đỡ giúp đỡ, con có người nhà đang lâm bệnh’. ‘Tốt, ta giúp ngươi’.

Nó liền để chư vị bỏ tiền vào hòm công đức: tư tưởng của nó cần tiền. Tiền bỏ vào

hòm công đức nhiều bao nhiêu, [nó] liền làm bệnh chư vị mau khỏi bấy nhiêu. Bởi

vì nó có năng lượng, ở không gian khác có thể thao túng người thường. Nhất là khi

người có công đến bái [lạy], thì còn nguy hiểm hơn. Người luyện công cầu điều

chi? Cầu tiền ư? Mọi người thử nghĩ, người luyện công cầu tiền tài là sao? Cầu

mong giúp thân nhân tiêu nạn tiêu bệnh chính là chấp trước đối với tình cảm thân

quyến. Phải chăng muốn chi phối vận mệnh của người khác; mỗi người đều có vận

mệnh của mình chứ! Nếu chư vị bái [lạy] nó, lẩm nhẩm: ‘Con xin được phát tài’.

Tốt thôi, nó giúp chư vị; nó chỉ mong rằng chư vị cầu thật nhiều tiền, càng cầu

nhiều tiền chút nào, nó lấy được của chư vị thêm chút ấy; giao hoán bình đẳng mà.

Người khác bỏ tiền vào hòm công đức cho nó rất nhiều, [và] nó để chư vị được

[tiền]. Được như thế nào? Ra khỏi cửa thì nhặt được ví tiền, [hoặc được] đơn vị

[công tác] thưởng tiền; dù thế nào thì nó cũng làm mọi cách để chư vị được tiền.

[Nhưng] nó không thể giúp chư vị một cách vô điều kiện phải không? Bất thất bất

đắc; [nó] lấy một phần công của chư vị; hoặc lấy của chư vị những thứ như đan đã

luyện thành, nó cần những thứ ấy.

Những Phật giả ấy có những lúc rất nguy hiểm. Rất nhiều người chúng ta đã

khai thiên mục và tưởng rằng tự mình đã nhìn thấy Phật. Có người nói rằng hôm

nay ở chùa có một nhóm chư Phật đến, ông Phật kia tên là gì đã dẫn một nhóm chư

Phật đến. [Lại] nói hôm qua một nhóm như thế như thế đã đến, hôm nay một nhóm

như thế như thế đã đến, một lúc rồi rời đi, lại một nhóm nữa đến. Là gì vậy? Chính

Khai quang 97

là cái loại này. Chúng không phải là Phật thật, mà chúng là [Phật] giả; loại này rất

là nhiều.

Nếu như xuất hiện tình huống này ở chùa, thì thật nguy hiểm hơn nữa. Hoà

thượng mà bái [lạy] nó, như thế nó sẽ quản hoà thượng: ‘Ngươi chẳng phải đang

bái [lạy] ta? Ngươi rất minh bạch đang bái [lạy] ta! Tốt lắm, chẳng phải ngươi

muốn tu luyện? Ta sẽ quản ngươi, ta sẽ để ngươi tu như thế như thế’. Nó an bài cho

chư vị, vậy chư vị tu thành thì sẽ tu đến đâu? Tu là do nó an bài, thì các pháp môn

trên kia đâu có nhận. Nó an bài, thì chư vị tương lai sẽ quy về nó [cai] quản. Vậy

chư vị chẳng phải tu cũng như không hay sao? Tôi nói rằng hiện nay nhân loại

muốn tu đắc chính quả thật rất khó. Hiện tượng thế này rất phổ biến; tại danh sơn

đại xuyên có người chúng ta thấy Phật quang, phần đông là thuộc loại này; chúng

có năng lượng, nên có thể hiển hiện ra được. Đại Giác Giả chân chính không tự

dưng hiển hiện như thế.

Trong quá khứ những cái gọi là ‘địa thượng Phật’, ‘địa thượng Đạo’ này tương

đối ít; nhưng hiện nay rất nhiều. Khi chúng làm điều xấu, ở trên sẽ muốn giết

chúng; định giết thì chúng liền chạy vào tượng Phật. Các Đại Giác Giả thông

thường không tự dưng can thiệp vào [Pháp] lý nơi người thường; Giác Giả càng

cao càng không phá hoại [Pháp] lý nơi người thường, không động tới một chút nào.

Không lẽ đột nhiên đánh sét làm vỡ tan tượng Phật; họ không làm những việc ấy;

do đó nó chạy vào tượng Phật thì [họ] cũng không quản. Nó biết là muốn giết nó,

nó liền chạy. Vì vậy Bồ Tát Quán Âm mà chư vị thấy có phải là Bồ Tát Quán Âm

không? Phật mà chư vị thấy có phải là Phật không? Rất khó nói.

Rất nhiều người chúng ta liên tưởng về vấn đề này: ‘Tượng Phật ở nhà mình thì

thế nào nhỉ?’. Có thể có nhiều người đã nghĩ đến tôi. Để trợ giúp học viên tu luyện,

tôi bảo chư vị làm thế này: chư vị vừa cầm cuốn sách của tôi (vì trong sách có ảnh

tôi) hoặc ảnh chụp hình tôi, tay chư vị bê tượng Phật, làm thủ ấn đại liên hoa, sau

đó như là cầu tôi vậy: ‘Cầu Sư phụ khai quang cho’. Sau nửa phút là vấn đề giải

quyết xong. [Tôi] nói với mọi người rằng, [việc này] chỉ giới hạn trong những

người tu luyện chúng ta; khai quang cho bè bạn thân quyến là không được, chúng

tôi chỉ quản người tu luyện thôi. Có người nói rằng đưa [hình] tượng Sư phụ đến

nhà bạn bè thân quyến để trừ tà; tôi [ở đây] đâu phải để trừ tà cho người thường; ấy

là [hành vi] bất kính lớn nhất đối với Sư phụ.

Giảng đến vấn đề địa thượng Phật và địa thượng Đạo. Còn một tình huống nữa,

Trung Quốc cổ đại có rất nhiều người tu luyện tại núi sâu rừng già. Vì sao hiện nay

không có? Kỳ thực không phải là không có, mà là không để người thường biết;

cũng không thiếu đi chút nào; những vị này đều có công năng. Mấy năm nay không

phải là những vị này không có mặt, họ đều có cả đấy. Hiện nay trên thế giới còn có

vài nghìn; Trung Quốc nước ta tương đối nhiều hơn. Đặc biệt là ở các danh sơn đại

xuyên đều có, một số núi cao cũng có. Họ dùng công năng bít [hang] động lại, do

đó chư vị không thấy được sự tồn tại của họ. Họ tu luyện rất chậm, chiêu [pháp]

của họ không lanh lợi, [vì] họ không nắm được trung tâm của tu luyện. Còn chúng

ta trực chỉ nhân tâm, chiểu theo đặc tính tối cao của vũ trụ chúng ta mà tu luyện,

chiểu theo hình thức ấy của vũ trụ mà tu luyện, nên đương nhiên công tăng trưởng

rất mau. Vì các pháp môn tu luyện cũng như hình kim tự tháp, chỉ có ở giữa là đại

đạo [đường lớn]. Còn tiểu đạo [đường nhỏ] ở các bên, thì tâm tính tu luyện không

nhất định là cao; có khi tu chưa cao đã khai công rồi; còn so với các đại đạo tu

luyện chân chính thì [chúng] khác biệt nhiều lắm.

Khai quang 98

Họ cũng có đồ đệ truyền thừa; môn của họ tu cao đến đó, tâm tính của họ cũng

cao đến đó; do đó đồ đệ của họ cũng tu được cao đến đó [thôi]. Là tiểu đạo thế gian

càng ở biên thì thuyết pháp càng nhiều, phương pháp tu trì cũng phức tạp, không có

nắm trúng trung tâm mà tu. Người ta tu luyện chủ yếu là tu tâm tính, họ vẫn không

hiểu rõ điểm này; họ tưởng rằng nhờ chịu khổ là có thể tu luyện. Do vậy họ trải qua

một thời gian rất lâu dài, tu qua hàng mấy trăm năm, trên nghìn năm, thì họ mới

tăng được một chút công ấy thôi. Thực ra không phải là họ dựa vào chịu khổ mà tu

xuất lai; vì sao tu xuất lai? Giống hệt như con người: vào thời trẻ tâm chấp trước rất

nhiều; cho đến lúc già, thì thuận theo năm tháng trôi qua, tiền đồ vô vọng, thì

những cái tâm kia đã tự nhiên dứt bỏ đi, rơi rụng đi; những loại tiểu đạo ấy cũng

dùng phương pháp như vậy. Nên khi họ dựa vào ngồi đả toạ, định lực, chịu khổ để

tu lên, thì họ phát hiện rằng cũng có thể tăng công. Tuy nhiên họ lại không biết

rằng cái tâm chấp trước của người thường kia đã dần dần từ bỏ qua những năm

tháng gian khổ; cái tâm kia dần dần rơi rụng đi thì công tăng lên được.

Chúng ta là có tính nhắm thẳng, thật sự chỉ thẳng vào cái tâm ấy, vứt bỏ cái

tâm ấy; như vậy tu được mau lẹ phi thường. Tôi từng đi qua một số địa phương,

thường hay gặp những người kia, đã tu rất nhiều năm. Họ nói: ‘Không ai biết được

chúng tôi ở đây; công việc của ông chúng tôi không quan tâm, cũng không gây rối

loạn’. Đó là thuộc về những người tương đối tốt.

Cũng có [kẻ] không tốt; không tốt thì chúng ta cũng cần xử lý. Ví dụ, lần đầu

tiên tôi đến Quý Châu truyền công, trong lúc ở trên lớp, thì có một người đến tìm

tôi, nói rằng lão sư gia anh ta muốn gặp tôi, rằng sư gia của anh ta tên là như thế

như thế, đã tu luyện rất nhiều năm. Tôi nhìn một cái thì thấy người này mang theo

âm khí, rất không tốt, mặt vàng như sáp. Tôi bảo tôi không gặp ông lão ấy, không

có thời gian, từ chối thẳng. Kết quả ông lão đó không vừa ý, [và] bắt đầu phá quấy

tôi, hàng ngày phá rối. Tôi là người không thích đấu với người ta, tôi cũng không

thèm đấu với ông lão ấy. Ông ta quăng đến cái gì không tốt thì tôi thanh lý, thanh lý

hết xong, tôi lại truyền Pháp của mình.

Quá khứ vào triều Minh có một người tu Đạo, khi tu Đạo bị mắc phụ thể là rắn;

sau đó người tu Đạo tu không thành kia chết đi, và con rắn này đã chiếm hữu thân

thể của người tu Đạo ấy, rồi tu xuất được hình người. Ông sư gia của anh kia chính

là hình người mà con rắn kia tu thành. Vì bản tính của ông ta không đổi, [ông ta] lại

hoá thành con rắn lớn đến phá rối tôi. Tôi thấy vậy là thái quá, tôi bèn bắt nó trong

tay, dùng một loại công mạnh mẽ phi thường, gọi là ‘hoá công’, hoá phần nửa dưới

của nó, hoá thành nước; nửa thân trên của nó bỏ chạy về.

Một hôm trạm trưởng trạm phụ đạo Quý Châu của chúng ta được đồ tôn của

ông ta tìm đến, nói rằng sư gia muốn gặp bà. Bà trạm trưởng đến, vào đến hang

động thì thấy tối đen không trông thấy gì cả; chỉ thấy một hình ảnh ngồi ở đó, mắt

phóng ra ánh sáng xanh lục; hễ [ông ta] mở mắt thì động sáng, còn nhắm mắt thì

trong động lại tối đen. Ông ta nói bằng thổ ngữ địa phương: ‘Lý Hồng Chí lại đến,

lần này chúng tôi không có ai làm chuyện kia nữa; tôi đã nhầm. Lý Hồng Chí đến

để độ nhân’. Đồ tôn hỏi ông ta: ‘Thưa sư gia, thầy đứng dậy đi, chân của thầy bị

sao thế?’ Ông ta nói: ‘Tôi không đứng dậy được nữa, chân của tôi bị thương rồi’.

Hỏi ông ấy bị thương ra sao, ông ta bèn bắt đầu kể về quá trình phá rối của mình.

Đến Hội Sức khoẻ Đông phương năm 1993 tại Bắc Kinh ông ta lại phá rối tôi. Vì

ông ta cứ làm điều xấu, ông ta phá hoại việc tôi truyền Đại Pháp, nên tôi đã triệt để

tiêu huỷ ông ấy. Sau khi tiêu huỷ, những sư tỷ, sư muội, sư huynh, sư đệ của ông ta

đều muốn hành động. Lúc đó tôi nói với họ mấy câu; họ đều cảm thấy kinh hoàng,

Khai quang 99

khiếp sợ lắm, không ai dám hành động gì nữa, và cũng hiểu ra chuyện này. Trong

số họ một số [người] vẫn hoàn toàn là người thường, [mặc] dù đã tu một thời gian

rất dài. Đây là vài thí dụ được nêu ra khi giảng về vấn đề khai quang.

Khoa chúc do

Khoa ‘chúc do’ là gì? Trong giới tu luyện, tại quá trình truyền công có nhiều

người cũng coi nó là điều được truyền trong phạm trù tu luyện; kỳ thực nó không

phải là điều thuộc phạm trù tu luyện. Nó là loại truyền thừa kiểu như quyết khiếu,

chú quyết, kỹ thuật. Hình thức mà nó sử dụng kiểu như vẽ bùa, đốt hương, đốt giấy,

niệm chú, v.v.; nó có thể trị bệnh, phương pháp trị bệnh hết sức độc đáo đặc biệt.

Lấy ví dụ thế này, ví như một người mọc mụn nhọt trên mặt, họ bèn dùng bút lông

chấm [son] chu sa vẽ trên mặt đất hình tròn, trong vòng tròn vạch một hình chữ

thập; [họ] bảo người kia đứng vào trung tâm của vòng tròn, rồi họ bắt đầu niệm chú

quyết. Sau đó lấy bút son vạch hình tròn lên mặt người kia, vừa vẽ vừa niệm chú,

vẽ tới vẽ lui, đến khi chấm một điểm lên chỗ mụn nhọt, niệm chú đến đó cũng vừa

xong, bảo rằng đã khỏi rồi. Chư vị thử sờ vào [chỗ mụn nhọt], thì thấy đã nhỏ lại,

không đau nữa, nó đã khởi tác dụng. Những bệnh nhẹ thì họ có thể trị được, còn

bệnh nặng thì không được. Còn nếu như đau cánh tay thì làm sao? Miệng bắt đầu

niệm chú, họ bèn bảo chư vị duỗi tay ra, lấy miệng thổi vào huyệt hợp cốc tại tay

này, và làm cho nó xuất ra ở huyệt hợp cốc của tay kia; cảm thấy như một luồng

gió; sờ lại, thì nó không còn đau như thế nữa. [Họ] còn dùng đến những việc đốt

giấy, vẽ bùa, dán bùa, v.v.; họ làm những việc ấy.

Trong các tiểu đạo thế gian của Đạo gia, [người ta] không giảng tu mệnh, hoàn

toàn là toán quái, xem phong thuỷ, đuổi tà, trị bệnh. Những tiểu đạo thế gian

thường dùng đến những thứ này. Nó có thể trị bệnh, nhưng các phương pháp nó

dùng đến là không tốt. Chúng tôi không giảng là nó dùng cách gì trị bệnh; nhưng

những người tu Đại Pháp chúng ta không được dùng chúng, bởi vì chúng mang

theo những tín tức rất thấp và rất không tốt. Các phương pháp trị bệnh ở Trung

Quốc cổ đại được phân thành những khoa mục; ví dụ: tiếp cốt, châm cứu, án ma,

thôi nã, điểm huyệt, khí công trị bệnh, thảo dược trị bệnh, v.v. phân thành khá

nhiều loại. Mỗi loại phương pháp trị bệnh gọi là một ‘khoa’; khoa chúc do này

được liệt vào khoa thứ 13, do đó tên đầy đủ của nó là ‘khoa 13 chúc do’. Khoa chúc

do không thuộc về những điều trong phạm trù tu luyện, nó không phải là công đắc

nhờ tu luyện, mà là một thứ thuật loại.

Khoa chúc do 100

Bài giảng thứ sáu

Tẩu hoả nhập ma

Trong giới tu luyện có một thuyết, gọi là ‘tẩu hoả nhập ma’; ảnh hưởng trong

quần chúng cũng rất lớn. Đặc biệt có một số người quảng bá chuyện này rất rầm rộ,

làm một số người không dám luyện công nữa. Người ta hễ nghe thấy nói rằng luyện

công rồi sẽ [bị] tẩu hoả nhập ma, liền sợ quá không dám luyện nữa. Kỳ thực, tôi nói

với mọi người rằng, tẩu hoả nhập ma hoàn toàn không tồn tại.

Có không ít người vì bản thân tâm mình không chính, chiêu mời những phụ

thể. Chủ ý thức của mình không khống chế được bản thân mình, lại còn tưởng đó là

công. Thân thể đang bị phụ thể khống chế, điên đảo hò hét lung tung cả lên. Người

ta nhìn thấy luyện công có [hình] thức như thế, sợ quá chẳng dám luyện. Chúng ta

có khá nhiều người tưởng rằng đó là công; luyện công mà như thế sao? Đó chỉ là

một loại trạng thái thấp thấp nhất để chữa bệnh khoẻ người, nhưng nó rất nguy

hiểm. Nếu bản thân chư vị quen làm như thế, thì chủ ý thức của chư vị rồi sẽ không

khống chế được bản thân nữa; như thế thân thể của chư vị sẽ có thể bị phó ý thức

hoặc tín tức ngoại lai hay phụ thể các loại khống chế, và có thể làm ra những cử

động nguy hiểm, ngoài ra [nó cũng gây nên] sự phá hoại mạnh mẽ trong giới tu

luyện. Đó là nhân tâm bất chính tạo thành như vậy, là chấp trước vào sự thể hiện

bản thân, đó không phải là tẩu hoả nhập ma. Một số người, thật không hiểu vì sao

[họ] lại trở thành cái gọi là ‘khí công sư’, họ cũng giảng tẩu hoả nhập ma. Kỳ thực

luyện công không thể tẩu hoả nhập ma; đa số người ta nghe [điều] ấy trong các tác

phẩm nghệ thuật, nghe danh từ này trong những tiểu thuyết võ hiệp nào đó v.v. Nếu

không tin, chư vị thử dở các sách cổ, các sách tu luyện [ra xem] trong đó không hề

có chuyện này. Ở đâu có tẩu hoả nhập ma nào? Hoàn toàn không xuất hiện sự việc

ấy được.

Người ta nhìn nhận rằng tẩu hoả nhập ma có một vài hình thức, điều tôi vừa

giảng cũng là một loại hình thức. Vì bản thân tâm bất chính, chiêu mời phụ thể,

truy cầu những khí công thái nào đó để hiển thị bản thân cũng như các chủng tâm

thái. Có người trực tiếp truy cầu công năng hoặc luyện khí công giả; hễ luyện là tự

mình lại quen rũ bỏ chủ ý thức của bản thân mình, không còn biết gì nữa, thân thể

đã giao cho kẻ khác rồi; bị phó ý thức hoặc tín tức ngoại lai làm chủ thân thể đến

điên đảo lung tung cả lên; làm ra một số cử động đặc thù. Bảo họ nhảy lầu thì họ

nhảy lầu; bảo họ nhảy xuống nước thì họ nhảy xuống nước. Bản thân họ chẳng còn

thiết sống nữa, đã đem thân thể giao cho kẻ khác rồi. Đó không thuộc về tẩu hoả

nhập ma, mà thuộc về luyện công lầm đường lạc lối; ngay từ đầu đã hữu ý thực thi

theo hình thức ấy. Có rất nhiều người tưởng rằng lắc lư dao động chính là luyện

công, kỳ thực nếu thật sự luyện công theo trạng thái kiểu như vậy, thì sẽ tạo thành

hậu quả nghiêm trọng. Đó không phải luyện công, [mà] là chấp trước và truy cầu

của người thường tạo thành như thế.

Một tình huống khác là khi luyện công khí ứ tắc ở chỗ nào đó mà không thông;

khí lên đỉnh đầu không xuống được, họ liền sợ quá. Thân thể con người là một tiểu

vũ trụ, đặc biệt [trong] công pháp Đạo gia khi vượt quan, thì sẽ gặp chuyện phiền

phức này; vượt [quan] không qua được, thì khí quanh quẩn ở chỗ ấy. Không chỉ có

đỉnh đầu, chỗ khác cũng như thế, nhưng, [nơi] nhạy cảm nhất của con người là đỉnh

đầu. Khi khí lên đỉnh đầu rồi xung xuống, [nhưng] không vượt quan được, [thì] họ

Tẩu hoả nhập ma 101

liền cảm giác thấy đầu nặng, đầu sưng, [như] có hiện tượng đội một chiếc mũ khí

dày cộp, v.v. Nhưng khí không có tác dụng ước chế gì cả, nó cũng không làm

người ta dẫn đến phiền phức gì hết, cũng hoàn toàn không sinh ra bất kể bệnh tật gì.

Có những người không hiểu rõ tình huống chân thực của khí công, cũng phát biểu ý

kiến lung tung một cách thần bí huyền hoặc, kết quả tạo thành hiện tượng rất hỗn

loạn. Người ta bèn cho rằng khí lên đến đỉnh đầu mà không xuống được thì sẽ [bị]

tẩu hoả nhập ma, xuất hiện thiên [sai] v.v., kết quả rất nhiều người bản thân họ rất

sợ.

Khí lên đỉnh đầu mà không xuống, nó chỉ là trạng thái tạm thời; có người [bị]

trong thời gian rất lâu, nửa năm vẫn không xuống. [Nếu] không xuống [thì] tìm một

khí công sư chân chính [để] đạo dẫn xuống thì có thể xuống ngay. Như vậy chúng

ta phàm khi luyện công chưa xung qua quan được, khí không xuống, [thì] chúng ta

hãy thử tìm nguyên nhân ở tâm tính, có phải là vướng ở tầng ấy một thời gian lâu

quá không; cần phải thực sự đề cao tâm tính! Khi chư vị thực sự đề cao tâm tính,

chư vị sẽ thấy nó có thể xuống. Chư vị chỉ một mực nhấn mạnh vào biến hoá công

của bản thân mình mà không nhấn mạnh vào chuyển biến tâm tính của mình; nó có

thể đang đợi tâm tính chư vị đề cao, [rồi] mới phát sinh biến đổi toàn diện được.

Khí thực sự không thông thì người ta cũng không vấn đề gì; thông thường là do tác

dụng của tinh thần chúng ta, lại nghe mấy vị khí công sư giả nói rằng khí mà lên

đỉnh đầu thì xuất hiện thiên sai nào đó, nên họ sợ lắm. Sự lo sợ của họ có khi nó

thật sự mang đến phiền toái. Bởi vì hễ chư vị lo sợ, thì chính là tâm hoảng sợ;

chẳng phải đó là tâm chấp trước? Tâm chấp trước của chư vị hễ xuất hiện, [thì]

chẳng phải cần [tống] khứ tâm chấp trước sao? Càng lo sợ, thì lại càng giống như

mắc bệnh; nhất định phải vứt bỏ tâm chấp trước ấy của chư vị; để chư vị học bài

học này, mà từ đó vứt bỏ tâm hoảng sợ, đề cao lên trên.

Người luyện công trong tương lai tu luyện sẽ không thoải mái, thân thể xuất

hiện nhiều công, đều là những thứ rất mạnh mẽ [chuyển] động qua lại trong thân

thể chư vị, làm cho chư vị khó chịu thế này, khó chịu thế kia. Nguyên nhân chư vị

không thoải mái chủ yếu là chư vị cứ lo sợ thân thể bản thân mình bị bệnh nào đó;

kỳ thực ở trong thân thể xuất hiện những thứ rất mạnh mẽ, xuất ra đều là công, đều

là công năng, còn có rất nhiều thể sinh mệnh. Nếu [chúng chuyển] động, chư vị sẽ

cảm thấy thân thể phát ngứa, đau, khó chịu, v.v.; đầu dây thần kinh cảm giác rất

linh mẫn; các loại trạng thái đều xuất hiện. Chừng nào thân thể chư vị chưa được

vật chất cao năng lượng chuyển hoá, đều có các loại trạng thái [như thế], mà

nguyên đây là điều rất tốt. Làm một người tu luyện, chư vị mãi cứ coi bản thân

mình là người thường, mãi cứ cho rằng có bệnh, thì hỏi luyện sao đây? Trong luyện

công khi chúng ta gặp kiếp nạn, chư vị [nếu] vẫn cứ coi bản thân mình là người

thường, tôi nói rằng tâm tính của chư vị lúc ấy đã rớt xuống chỗ của người thường.

Chính tại vấn đề này, thì ít nhất chư vị cũng đã rớt xuống tầng kia của người

thường.

Chúng ta làm người luyện công chân chính, cần phải từ tầng rất cao mà xét vấn

đề, không thể dùng quan điểm của người thường mà xét vấn đề. Khi chư vị cho

rằng có bệnh, như thế có thể dẫn đến mắc bệnh. Bởi vì khi mà chư vị cho rằng nó

có bệnh, thì tâm tính của chư vị cũng cao như người thường. Luyện công và tu

luyện chân chính, đặc biệt là trong trạng thái [điều kiện] này, không [thể] dẫn đến

mắc bệnh. Như mọi người đã biết thật sự [làm người ta] mắc bệnh thì [do] bảy phần

tinh thần ba phần bệnh. Thông thường ban đầu tinh thần của người ta suy sụp, ban

đầu không chịu được, gánh nặng lớn quá, rồi làm cho bệnh tình trở nên [nguy]

Tẩu hoả nhập ma 102

kịch; thường [xảy ra] như vậy. Lấy một thí dụ, quá khứ có một người, bị trói trên

giường; lấy tay anh ta ra, và nói rằng sẽ làm cho chảy máu. Sau đó bịt mắt anh ta

lại, rồi vạch một cái lên cổ tay của anh này (hoàn toàn không làm anh ta chảy máu);

rồi mở vòi nước sao cho anh này nghe thấy tiếng [nước] nhỏ giọt. Anh ta tưởng

rằng chính là máu của mình đang nhỏ giọt xuống, một lúc sau cá nhân này chết. Kỳ

thực hoàn toàn không làm anh ta chảy máu, chỉ có nước chảy thôi; tinh thần của cá

nhân này đã dẫn đến cái chết của mình. Khi chư vị cứ mãi nhìn nhận rằng bản thân

mình có bệnh, thì có khi dẫn đến bản thân chư vị phát bệnh. Bởi vì tâm tính của

chư vị đã giáng hạ xuống đến cơ sở của người thường, mà người thường đương

nhiên sẽ mắc bệnh.

Là người luyện công chư vị cứ mãi cho rằng đó là bệnh, trên thực tế chư vị

đúng là đang cầu [nó]; chư vị cầu bệnh, cái bệnh ấy sẽ có thể nhập vào. Làm một

người luyện công thì tâm tính cần phải cao. Chư vị không được lo sợ mắc bệnh; lo

sợ bệnh cũng là một tâm chấp trước, nó mang đến phiền phức cho chư vị cũng như

thế. Trong tu luyện cần tiêu nghiệp, tiêu nghiệp sẽ thống khổ; làm sao có thể tăng

công một cách nhẹ nhàng thoải mái kia chứ! Nếu không thì tâm chấp trước của chư

vị làm sao bỏ được đây? Tôi kể cho mọi người một chuyện cổ trong Phật giáo: Xưa

có một người đã rất cố gắng tu thành La Hán. Vị này khi đắc chính quả, tu thành La

Hán thì lẽ nào không cao hứng cho được? Nhảy thoát khỏi tam giới rồi! Nhưng cao

hứng lại chính là tâm chấp trước, [là] tâm hoan hỷ. La Hán cần phải vô vi, tâm bất

động; vị này bị rớt xuống, tu lại như không [tu]. Tu như không thì cần tu lại, lại tu

hướng lên trên một lần mới; bỏ ra bao nhiêu cố gắng lại tu lên được nữa. Lần này vị

kia lo sợ, vị ấy tự nhủ: ‘Mình chớ có cao hứng, cao hứng nữa thì lại rớt mất’. Vị

này vừa lo sợ thì lại rớt xuống [một lần nữa]. Lo sợ cũng là một loại tâm chấp

trước.

Còn có một tình huống nữa, đó là có người mắc bệnh tâm thần, [người ta] liền

bảo là người ấy [bị] tẩu hoả nhập ma. Cũng có người chờ đợi tôi chữa bệnh tâm

thần cho họ! Tôi nói rằng bệnh tâm thần không phải là bệnh, tôi cũng không có thời

gian quan tâm đến chuyện ấy. Vì sao? Bởi vì người bệnh tâm thần không có bệnh

độc, tại thân thể không có bệnh biến, không có nhiễm trùng; theo tôi nhìn nhận thì

không phải là bệnh. Bệnh tâm thần chính là chủ ý thức của người ta quá yếu đuối.

Yếu đuối đến mức độ nào? Giống như một cá nhân mãi không quyết định được cho

bản thân mình, chủ nguyên thần của người bệnh tâm thần chính là như vậy. Họ

không muốn quản cái thân thể ấy nữa, tự họ cứ mê mê muội muội mãi, tinh thần

không có khởi lên được. Lúc ấy phó ý thức, [và] các tín tức ngoại lai sẽ can nhiễu

đến họ. Tầng của mỗi không gian nhiều như thế, các loại tín tức đều can nhiễu đến

họ. Thêm nữa chủ nguyên thần của người ta có thể đã làm một số điều không tốt ở

đời trước, còn có chủ nợ cũng có thể làm hại họ; tình huống các loại đều xuất hiện.

Chúng tôi nói rằng bệnh tâm thần là như thế. Bảo tôi trị bệnh [tâm thần] giúp chư vị

làm sao được? Tôi nói rằng mắc bệnh tâm thần chính là như thế. Vậy xử lý ra sao?

Hãy giáo dục họ, làm cho tinh thần của họ khởi lên; nhưng khó thực hiện lắm. Chư

vị [có thể] thấy bác sỹ bệnh viện tâm thần hễ nhấc cây roi điện lên, là họ lập tức sợ

quá chẳng dám nói lăng nhăng gì nữa. Vì sao vậy? Lúc ấy tinh thần của chủ nguyên

thần của họ đã khởi lên: họ sợ [bị] điện giật.

Thông thường người ta khi đã vào cửa tu luyện thì sẽ vui mừng luyện [công]

tiếp tục; ai cũng có Phật tính, ai cũng có tâm tu Đạo; do đó một khi đã học công, có

nhiều người sẽ tiếp tục [tu] luyện suốt đời. Bất kể là người kia có thể tu lên được

không, đã đắc Pháp chưa; dù sao người ấy cũng có tâm cầu Đạo; người ấy cứ luyện

Tẩu hoả nhập ma 103

mãi. Mọi người đều biết rằng cá nhân này luyện công, người ở nơi công tác cũng

biết, ngoài phố cũng biết, hàng xóm cũng biết rằng người này luyện công. Nhưng

mọi người nghĩ xem, [về] tu luyện chân chính, mấy năm trước ai thực hiện điều

này? Không ai làm cả; [chỉ] tu luyện chân chính mới có thể thay đổi đường đời của

người ấy. Nhưng người này chỉ là một người thường, chỉ luyện công chữa bệnh

khoẻ người; hỏi ai thay đổi đường đời cho họ? Là người thường, đến một ngày kia

phải mắc bệnh, đến một ngày kia phải gặp chuyện rắc rối nào đó, đến một ngày kia

biết đâu sẽ mắc bệnh tâm thần, hoặc giả hết mệnh lìa đời; một đời của người

thường là như thế. Chư vị thấy rằng người kia đến công viên luyện công, kỳ thực

người ấy không phải tu luyện một cách chân chính; người ấy mong muốn tu lên cao

tầng nhưng chưa đắc chính Pháp; [nên] người ấy không tu lên được. Cá nhân này

chỉ có nguyện vọng mong muốn tu luyện lên cao tầng, [và] người ấy vẫn còn là

người luyện công tại tầng thấp chữa bệnh khoẻ người. Đường đời của người này

chưa có ai thay đổi, như thế người ấy phải mắc bệnh. [Nếu] không [coi] trọng đức

thì bệnh cũng chẳng khỏi; không thể nói rằng luyện công sẽ không mắc bệnh gì

nữa.

Người kia cần tu luyện chân chính, coi trọng tâm tính; tu luyện chân chính mới

có thể khỏi bệnh. Bởi vì luyện công không phải thể thao, mà là điều vượt khỏi

người thường; do vậy phải có [Pháp] lý và tiêu chuẩn cao hơn để yêu cầu người

luyện công, cần phải thực hiện được [chúng] thì mới đạt được mục đích. Tuy nhiên

nhiều người không thực hiện như thế, họ vẫn là người thường; do đó khi đến lúc thì

họ phải mắc bệnh. Một ngày kia họ đột nhiên bị tắc nghẽn mạch máu não, đột

nhiên mắc bệnh này, mắc bệnh khác, hoặc giả một ngày kia mắc bệnh tâm thần. Họ

luyện công có thể ai ai cũng biết; khi cá nhân ấy mắc bệnh tâm thần, người ta bèn

nói rằng người này luyện công tẩu hoả nhập ma, một chiếc mũ lớn liền chụp lên đó.

Mọi người thử nghĩ xem làm thế có hợp lý không? Người ngoài nghề đâu có hiểu;

[ngay cả] người trong nghề như chúng ta, rất nhiều người luyện công khó mà hiểu

được đạo lý chân chính bên trong chuyện này. Nếu như cá nhân kia ở nhà mắc bệnh

tâm thần thì còn đỡ, [dẫu] người ta [vẫn] nói rằng người ấy [mắc bệnh là vì] luyện

công; còn nếu người này mắc bệnh tâm thần ở chính điểm luyện công, thì rất tệ hại;

cái mũ lớn kia sẽ chụp ngay vào, [và] không gỡ xuống được nữa. Rằng ‘luyện công

tẩu hoả nhập ma’; báo chí cũng đều đăng như thế. Có người nhắm mắt mà phản đối

khí công: ‘Đấy ông xem, vừa rồi ở đó luyện [công] còn tốt lắm, mà bây giờ thành

như thế đấy’. Làm một người thường, cá nhân kia lẽ ra phải gặp điều gì thì phải gặp

thôi; người ấy có thể còn xuất hiện những bệnh khác nữa, các chuyện phiền phức

khác nữa; [nếu] nói rằng đều là luyện công [mà thành], thì có hợp lý không? Cũng

như bác sỹ ở bệnh viện chúng ta, họ là bác sỹ, vậy phải chăng họ suốt đời vĩnh viễn

không mắc bệnh; có thể nhận thức như thế không?

Do vậy mới nói rằng, có rất nhiều người họ không hiểu tình huống chân thực

của khí công, họ cũng không biết đạo lý bên trong của nó, nên [họ] nói lung tung

cả. Khi xảy đến vấn đề nào đấy, thì cái mũ nào [họ] cũng chụp lên khí công. Thời

gian phổ cập khí công ngoài xã hội còn rất ngắn, có rất nhiều người còn ôm giữ

quan điểm cố chấp, mãi vẫn không thừa nhận nó, [mà] phỉ báng nó, bài xích nó;

cũng không hiểu nổi trạng thái tâm lý của họ là gì nữa, họ chán ghét khí công

nhường ấy, cứ như [khí công] có liên quan gì đến họ vậy; hễ nói đến khí công [họ]

liền bảo là duy tâm. Khí công là khoa học, là khoa học cao hơn. Chỉ có điều loại

người này quan niệm quá cố chấp, tri thức quá hạn hẹp tạo thành như vậy.

Tẩu hoả nhập ma 104

Còn có một tình huống: trong giới tu luyện có điều gọi là ‘khí công thái’; loại

người này tinh thần mơ màng, nhưng không phải là họ bị tẩu hoả nhập ma, [mà] họ

rất có lý trí. Trước hết tôi nói khí công thái là gì. Như mọi người đã biết, chúng ta

luyện công chú trọng vấn đề căn cơ. Tất cả các quốc gia toàn thế giới đều có những

người tín ngưỡng tôn giáo; còn ở Trung Quốc hàng mấy nghìn năm vừa qua đều có

những người tín ngưỡng Phật giáo, Đạo giáo; tin rằng thiện hữu thiện báo, ác hữu

ác báo. Nhưng cũng có người không tin. Đặc biệt trong thời kỳ “Đại Cách mạng

Văn hoá” thì [điều ấy] bị phê phán, nói là mê tín. Một số người cho rằng những

[điều gì] mà không thể lý giải, không được học trong sách [giáo khoa], khoa học

hiện đại chưa phát triển đến bước ấy, hoặc là những sự vật chưa nhận thức được, họ

liền gộp hết lại nói đó là mê tín. Mấy năm trước loại người này có rất nhiều, hiện

nay tương đối ít. Bởi vì có một số hiện tượng [dẫu] chư vị không thừa nhận chúng,

nhưng chúng đã phản ánh hết sức thiết thực đến không gian chúng ta. Chư vị [dẫu]

không dám nhìn thẳng chúng, nhưng người ta hiện nay đã dám nói về chúng, người

ta đã mắt thấy tai nghe và cũng hiểu ra một số tình huống liên quan đến luyện công.

Một số người cố chấp đến mức độ này: hễ chư vị nói [đến] khí công, thì từ

trong tâm của họ phá ra cười chư vị, họ cho rằng chư vị làm mê tín, thật đáng cười

ghê lắm. Hễ chư vị nói [đến] những hiện tượng trong khí công, họ liền cho rằng cá

nhân chư vị quá ư ngu muội. Loại người này tuy cố chấp, nhưng căn cơ không nhất

định là không tốt. Nếu căn cơ của cá nhân này tốt, [nếu] họ luyện công, thì thiên

mục có thể khai mở đến tầng rất cao, còn xuất cả công năng nữa. Họ không tin khí

công, nhưng không thể đảm bảo rằng bản thân họ sẽ không mắc bệnh. Họ nếu mắc

bệnh thì đến bệnh viện để chữa; Tây y chữa không khỏi thì đến Trung y chữa;

Trung y chữa cũng không được, dùng phương thuốc gì cũng không khỏi, đến lúc

này họ bèn nghĩ đến khí công. Họ đắn đo: ‘Mình thử vận [may] này xem, xem xem

khí công rốt cuộc có chữa được bệnh này của mình hay không’. Họ rất ngại ngùng

đến [thử khí công]. Họ vừa [bắt đầu] luyện công, thì vì căn cơ rất tốt, nên lập tức

luyện được rất tốt. Có thể được sư phụ nào đó để mắt đến, một sinh mệnh cao cấp ở

không gian khác giúp đỡ họ đôi chút. Họ liền lập tức khai thiên mục, hoặc giả lọt

vào trạng thái bán khai ngộ. Thiên mục khai mở đến tầng rất cao, [họ] lập tức nhìn

thấy được một số tình huống chân thực trong vũ trụ, ngoài ra còn có công năng.

Chư vị thử nói xem loại người này khi thấy được những tình huống như thế, thì đầu

não của họ có chịu được không? Chư vị thử nghĩ coi tâm thái của họ sẽ như thế nào

đây? Những điều xưa nay vẫn coi là mê tín, là tuyệt đối không thể, những điều mà

hễ người khác nêu liền thấy tức cười [lắm], thì [nay] lại triển hiện hết sức thiết thực

ngay trước mắt của họ, lại còn tiếp xúc đến được một cách hết sức thực tại. Như

vậy đầu não của họ sẽ không chịu nhận nổi, áp lực tinh thần [lên] họ là quá lớn, và

lời [họ] nói ra người khác không tiếp thu được; nhưng lô-gíc tư duy không hề loạn;

mà chính là vì họ không dàn xếp [hợp lý] quan hệ hai bên. Họ phát hiện rằng,

những việc nhân loại làm là sai, còn [việc] ở bên kia thường là đúng. Chiểu theo

bên kia mà làm, thì người ta nói là họ sai. Người ta không lý giải được, nên nói

rằng cá nhân ấy luyện công tẩu hoả nhập ma.

Kỳ thực họ không bị tẩu hoả nhập ma, hầu hết người chúng ta luyện công hoàn

toàn sẽ không xuất hiện hiện tượng này; chỉ những ai đặc biệt cố chấp mới xuất

hiện khí công thái này. Những người chúng ta ngồi [đây] có nhiều [người] đã khai

thiên mục, có khá nhiều. Họ thực sự nhìn thấy những điều tại không gian khác; họ

không thấy kỳ lạ gì lắm, [mà] thấy rất tốt, đầu não cũng không thấy kích động gì,

cũng không xuất hiện khí công thái như thế. Người nào sau khi xuất hiện khí công

Tẩu hoả nhập ma 105

thái, thì rất mực có lý trí, lời nói ra rất mực có tính triết lý, hơn nữa tính lô-gíc cũng

rất tốt. Chỉ là những gì họ nói thì người thường không có tin. Có lúc họ nói với chư

vị rằng, họ gặp một người đã quá cố nào đó, [và] người ấy bảo họ hãy làm điều gì

đấy. Người thường hỏi có tin được không? Sau này họ hiểu ra, rằng những điều ấy

nên cất ở trong tâm của bản thân mình, không nên nói ra; thu xếp ổn thoả quan hệ

hai bên là tốt rồi. Thông thường những người này đều có tồn tại công năng; [và] đó

cũng không phải tẩu hoả nhập ma.

Còn một tình huống nữa gọi là “chân phong”

1

; tình huống này cực hiếm thấy.

“Chân phong” mà chúng tôi nói đến không phải là ‘điên thật’, không phải có ý nói

như thế, mà có ý là ‘tu chân’. Vậy chân phong là gì? Tôi nói rằng trong những

người tu luyện, thì mười vạn người mới có một người như thế, cực kỳ hiếm thấy.

Do đó nó không có tính phổ biến, cũng không tạo nên ảnh hưởng xã hội.

“Chân phong” thông thường có một điều kiện tiên quyết, đó là vị này có căn cơ

hết sức tốt, còn phải là rất nhiều tuổi. Tuổi nhiều quá, mong muốn tu luyện là

[chuyện] đã muộn. [Người] có căn cơ cực kỳ tốt thường là [người] đến đây với sứ

mệnh [nào đó], là [người] từ cao tầng đến. Xã hội này của người thường ai đến

cũng thấy ghê sợ, đầu não tẩy rồi thì không còn nhận ra được ai nữa. Vào đến hoàn

cảnh xã hội người thường, thì những can nhiễu của người ta đối với vị ấy, sẽ làm vị

ấy [coi] trọng danh, [coi] trọng lợi, cuối cùng rớt xuống, vĩnh viễn không biết ngày

nào cất đầu lên được nữa; do vậy không ai dám đến đây, ai cũng ghê sợ. [Nhưng

cũng] có loại người đến; sau khi đến đây, vị này ở nơi người thường quả thực hư

hỏng, [và] thật sự phải rớt xuống, suốt đời đã làm không ít chuyện xấu. Khi con

người ta sống mà tranh giành lợi ích cá nhân thì sẽ làm rất nhiều điều xấu, sẽ mắc

nợ rất nhiều thứ. Sư phụ của vị này thấy rằng cá nhân ấy sẽ phải rớt xuống. Tuy

nhiên vị ấy là [người] có quả vị, không thể để vị ấy rớt xuống tuỳ tiện như thế

được! Làm thế nào đây? Lo lắm, không có cách nào khác để bảo vị này tu luyện,

mà lúc ấy biết tìm sư phụ ở đâu? Vị ấy phải quay lại từ đầu, phải vãng hồi tu.

Nhưng nói chuyện sao dễ vậy? Tuổi đã nhiều rồi, tu cũng là [chuyện] đã muộn, mà

biết đến đâu để tìm công pháp tính mệnh song tu đây?

Cần phải là người có căn cơ tốt phi thường, và là ở tình huống cực kỳ đặc thù

này, thì mới dùng đến phương pháp làm cho vị ấy điên. Nghĩa là, [chỉ khi] tuyệt đối

không còn hy vọng, ở tình huống bản thân không thể tự quay trở về, thì mới viện

đến phương pháp này, tức là làm cho vị ấy điên, làm cho một chỗ nào đó của đại

não vị ấy phải bế tắc. Ví như con người chúng ta sợ lạnh, sợ bẩn; vậy làm cho vị ấy

có bộ phận sợ lạnh của đại não bị bế tắc, làm cho vị ấy có bộ phận sợ bẩn cũng bế

tắc lại. Sau khi làm cho vị này bế tắc một số bộ phận rồi, thì cái tinh thần của cá

nhân ấy xuất hiện vấn đề, đúng là điên điên rồ rồ. Tuy nhiên loại người này thông

thường không làm điều xấu, không [nhục] mạ người cũng không đánh người,

thường hay làm điều tốt. Nhưng vị ấy đối với bản thân lại rất tàn khốc. Bởi vì vị

này không biết lạnh, do đó mùa Đông vị ấy chân không chạy trên tuyết, mặc phong

phanh, rồi bị cóng đến mức chân nứt nẻ rỉ máu; bởi vì vị này không biết bẩn, vị ấy

dám ăn cả phân, vị ấy dám uống cả nước tiểu. Quá khứ tôi có biết một người như

thế, ngay cả cục phân ngựa đông cứng ngắc cả lại, ông ấy cũng gặm như thể là

thơm [ngon] lắm; vị ấy có thể chịu những thứ khổ mà người thường ở trạng thái

tỉnh táo không thể chịu được. Chư vị nghĩ xem vị ấy bị điên rồi gặp bao nhiêu tội

khổ rất lớn; đương nhiên họ thường kèm theo có công năng; thường là các cụ bà.

Trước đây [có một] cụ bà có chân bó buộc nhỏ lại, vậy mà tường cao hơn hai mét,

1 Chân phong: hiểu theo nghĩa từng chữ là điên thật; phongnghĩa là điên, chỗ này chơi chữ.

Tẩu hoả nhập ma 106

bà nhảy một cái là qua ngay. Người nhà thấy bà bị điên rồi và hay chạy ra ngoài,

liền khoá bà lại trong nhà. [Bà] đợi gia nhân đi vắng rồi chỉ [tay] một cái là khoá

mở tung ngay, rồi lại đi ra. [Người nhà] bèn dùng dây xích sắt trói lại; [bà] đợi gia

nhân đi vắng rồi rũ một cái là xích sắt cũng mở. Quản thế nào cũng không quản

được bà; như thế bà chịu rất nhiều khổ. Vì bà chịu khổ đến mức quá ghê gớm, nên

được cũng quá mạnh mẽ; bà hoàn trả cực nhanh những gì không tốt đã mắc nợ. Rốt

cuộc là không quá ba năm, thông thường là một hoặc hai năm, là vượt qua; cái khổ

phải chịu ấy rất to lớn. Khi đã vượt qua rồi, [bà] liền hiểu ra ngay, bởi vì bà đã

được tính là tu luyện xong, do đó lập tức khai công, các chủng thần thông đều xuất

lai. Điều này cực kỳ hiếm thấy, cực kỳ hiếm thấy; trong lịch sử cũng có [những

người] như thế; [còn đối với] người căn cơ bình thường thì không thể để chư vị như

thế được. Như mọi người đã biết có những vị tăng điên, đạo [sỹ] điên, và trong lịch

sử thực sự có [tồn tại], có ghi chép. Những [điển cố] như ‘phong tăng tảo Tần’, các

đạo sỹ điên; những điển cố như thế có rất nhiều.

[Về] tẩu hoả nhập ma, chúng tôi nói khẳng định rằng không tồn tại. Thử nói ai

có thể tẩu hoả

1

, nếu thật sự được như thế, tôi nói rằng cá nhân ấy thật xuất sắc. Có

thể há miệng phun lửa, [hoặc] có thể duỗi tay phóng lửa, [hoặc] chỉ tay một cái liền

châm điếu thuốc, thì tôi nói đó là công năng!

Luyện công chiêu ma

‘Luyện công chiêu ma’ là gì? Ấy là khi chúng ta luyện công, thường dễ gặp

một số can nhiễu. Luyện công cớ sao lại chiêu [mời] ma? Bởi vì [khi] một cá nhân

mong muốn tu luyện [thì] thực tế rất khó khăn; chân tu mà không được Pháp thân

của tôi bảo hộ, thì chư vị hoàn toàn không thể tu thành; hễ ra khỏi cửa là chư vị có

thể gặp những vấn đề [liên quan] đến sinh mệnh [sống chết]. Nguyên thần con

người là bất diệt; như vậy chư vị tại hoạt động xã hội đời trước, có thể đã mắc nợ

người ta, nạt dối người ta, hoặc đã từng làm chuyện bất hảo nào đó; chủ nợ kia sẽ

tìm chư vị. Trong Phật giáo giảng rằng: Con người sống chính là [vì] nghiệp lực

luân báo. Chư vị nợ họ [gì], họ sẽ tìm chư vị đòi nợ; nếu lấy quá đi thì sau này họ

sẽ hoàn lại cho chư vị. Con không hiếu thuận với cha mẹ, [thì] sau sẽ đổi lại; nó

luân chuyển qua lại như thế. Tuy nhiên chúng tôi thực sự thấy có ma đang can

nhiễu, không cho chư vị luyện công; nó đều có quan hệ nhân duyên, chứ không

phải vô duyên vô cớ; nếu vô duyên vô cớ thì không cho phép nó như thế.

Hình thức luyện công chiêu ma phổ biến nhất, chính là [thế này]: khi chư vị

chưa luyện công, thì hoàn cảnh chung quanh còn tương đối tĩnh. Vì đã học công,

nên luôn thích luyện; nhưng khi vừa vào chỗ rồi ngồi đả toạ, thì đột nhiên cảm thấy

bên ngoài không còn tĩnh nữa. [Tiếng] còi ô-tô kêu, ngoài hành lang có tiếng đi lại,

tiếng nói chuyện, tiếng sập cửa, bên ngoài cũng bật máy thu thanh; lập tức không

còn tĩnh nữa. Hoàn cảnh bên ngoài khi chư vị không luyện công còn rất tốt, chư vị

hễ luyện công thì lại như thế. Có khá nhiều người chúng ta không thử nghĩ sâu

thêm, rằng rốt cuộc đó là chuyện gì vậy; chỉ thấy rất kỳ lạ, và thấy rất thất vọng

không luyện công được. Cái điều “kỳ lạ” ấy đã ngăn trở; đó chính là ma đang can

nhiễu chư vị; chúng đang sử dụng người [khác] để can nhiễu chư vị. Đây là hình

thức can nhiễu đơn giản nhất, đã đạt được mục đích [là] không để chư vị tu luyện.

Chư vị luyện công, chư vị đắc Đạo, phải chăng bao nhiêu thứ chư vị mắc nợ rồi

chư vị không hoàn trả? Chúng không chịu, chúng sẽ không để chư vị [tu] luyện.

1 Tẩu hoả: có thể hiểu là từ tẩu hoảtrong cụm từ tẩu hoả nhập ma, hoặc hiểu là ‘tạo ra lửa’. Chỗ này chơi chữ.

Luyện công chiêu ma 107

Nhưng đây cũng là phản ánh trong một tầng [nào đó]; qua một [giai] đoạn thời gian

thì không cho phép hiện tượng này lại tồn tại; nghĩa là khi món nợ này qua đi rồi,

thì không cho phép chúng lại đến can nhiễu nữa. Vì tu luyện Pháp Luân Đại Pháp

chúng tôi sẽ tu được tương đối nhanh, đột phá về tầng cũng tương đối nhanh.

Còn có một hình thức can nhiễu nữa của ma. Như mọi người đã biết chúng ta

luyện công có thể khai thiên mục, có người sau khi khai thiên mục rồi luyện công ở

nhà, liền nhìn thấy một số cảnh tượng ghê rợn, những bộ mặt khủng khiếp đáng sợ.

Có thứ đầu bù tóc xoã, có thứ muốn đến liều mạng với chư vị, thậm chí còn xuất

hiện nhiều cử động, làm người ta sợ lắm. Có lúc hễ luyện công liền nhìn thấy ngoài

cửa sổ bám đầy những thứ ấy, làm người ta hãi lắm. Vì sao xuất hiện những tình

huống này? Đó đều là những hình thức can nhiễu của ma. Nhưng trong môn Pháp

Luân Đại Pháp của chúng tôi, hình thức [can nhiễu] này cực kỳ hiếm thấy, trăm

phần có một; đa số đều không gặp tình huống này. Bởi vì nó không có gì là tốt đối

với luyện công của chúng ta, do đó không cho phép chúng chọn hình thức này để

can nhiễu chư vị. Tại công pháp tu luyện thông thường, sự việc này chính là một

hiện tượng phổ biến nhất, lại còn duy trì trong thời gian rất lâu. Có người chính vì

điều này mà không luyện công được, khiếp sợ ghê lắm. Luyện công đêm khuya đều

chọn hoàn cảnh rất yên tĩnh, liền thấy một người đứng ngay đằng trước, người

chẳng ra người quỷ chẳng ra quỷ, [nên] sợ quá không dám luyện nữa. Trong Pháp

Luân Đại Pháp của chúng ta bình thường không có hiện tượng này; nhưng cũng có

những người rất cá biệt, có những người tình huống cực kỳ đặc thù.

Còn một loại nữa là của công pháp nội ngoại kiêm tu; họ vừa luyện võ vừa tu

nội; công pháp loại này thường hay gặp bên Đạo gia. Khi ai đã học loại công pháp

ấy, thông thường sẽ gặp chủng loại ma này. Công pháp bình thường [khác] không

gặp; chỉ có công pháp nội ngoại kiêm tu, công pháp luyện võ mới gặp; tức là có

người tìm đến họ để tỷ võ. Bởi vì trên thế giới có rất nhiều người tu Đạo, [trong đó]

có rất nhiều người là luyện võ, là nội ngoại kiêm tu. Người luyện võ ấy, họ cũng có

thể tăng công. Tại vì sao? Sau khi họ vứt bỏ những tâm khác, [như] tâm danh lợi,

những tâm như thế, thì họ cũng tăng công. Tuy nhiên tâm tranh đấu của họ lại lần

lữa mãi không bỏ, bỏ được cũng rất muộn màng; do đó họ dễ làm sự tình này; đến

một tầng nhất định vẫn còn xuất hiện [hiện tượng này]. Khi đả toạ lúc mơ mơ tỉnh

tỉnh họ biết được ai đó đang luyện công, nguyên thần bèn ly thể tìm người ta tỷ võ,

xem ai công phu cao hơn; và xảy ra [trận] tranh đấu. Tại không gian khác cũng xuất

hiện tình huống này, cũng có [người] tìm họ để tranh đấu, đánh lộn; nếu [từ chối]

nói không đánh, thì thật sự sẽ giết họ; [nên phải] đánh nhau, đánh tới đánh lui. Mỗi

khi ngủ lại có người tìm họ để tranh đấu tỷ võ, làm cả đêm không nghỉ ngơi được.

Kỳ thực, khi này chính là lúc để tống khứ tâm tranh đấu của họ; nếu tâm tranh đấu

của họ chưa bỏ, họ vẫn mãi như thế, thì một thời gian lâu, sau mấy năm qua đi cũng

không xuất ra khỏi tầng này. Làm cho cá nhân ấy không luyện công được nữa,

[làm] thân thể vật chất ấy không chịu nổi nữa, tinh lực hao tổn quá lớn, không khéo

sẽ bị [tàn] phế. Do vậy trong công pháp nội ngoại kiêm tu sẽ gặp tình huống này;

ngoài ra còn hết sức phổ biến. Công pháp tu nội của chúng ta không có tình huống

ấy, không cho phép nó xuất hiện. Một số hình thức mà tôi vừa giảng trên đây đều

tồn tại tương đối phổ biến.

Còn một loại can nhiễu nữa của ma, cũng là điều mà ai ai cũng cần gặp phải;

pháp môn của chúng ta ai ai cũng cần gặp phải: gặp ‘ma sắc’. Điều này rất nghiêm

trọng. Trong xã hội người thường có sinh hoạt vợ chồng, có như thế mới sinh sôi

nảy nở đời sau nơi xã hội nhân loại. Nhân loại chính là phát triển như thế; [và]

Luyện công chiêu ma 108

trong xã hội nhân loại cũng có cái ‘tình’; do đó sự tình này đối với người thường

mà xét quả là hợp với luân lý của đất trời. Vì con người có ‘tình’, nóng giận là

‘tình’, ưng ý là ‘tình’, yêu là ‘tình’, hận cũng là ‘tình’; vui thích làm điều [nào đó]

là ‘tình’, không thích làm điều [nào đó] cũng là cái ‘tình’ ấy; thấy người này hay

người kia dở, yêu thích làm gì đó hoặc chẳng yêu thích làm gì đó, hết thảy đều là

‘tình’; người thường chính là vì cái ‘tình’ ấy mà sống. Như vậy làm một người

luyện công, một người siêu thường, thì không thể dùng cái [đạo] lý ấy để nhận định

được, cần đột phá điều này. Do đó [đối với] rất nhiều tâm chấp trước xuất phát từ

‘tình’, chúng ta cần xem nhẹ, cuối cùng hoàn toàn vứt bỏ. ‘Dục’ và ‘sắc’ những thứ

ấy đều thuộc về tâm chấp trước của con người; những thứ ấy đều nên tống khứ.

Pháp môn này của chúng tôi, [đối với] bộ phận tu luyện ở nơi người thường thì

không bảo chư vị làm hoà thượng, làm ni cô; những người trẻ tuổi trong chúng ta

còn cần lập gia đình. Như vậy chúng ta đối xử với vấn đề này như thế nào? Tôi đã

giảng, pháp môn này của chúng tôi là ‘trực chỉ nhân tâm’, không để chư vị thật sự

mất đi những gì ở nơi lợi ích vật chất. Chính là trái lại, chính là ngay ở trong lợi ích

vật chất nơi người thường mà ‘ma luyện’ tâm tính của chư vị; [điều] thật sự đề cao

lên, chính là tâm tính của chư vị. [Nếu] cái tâm kia của chư vị có thể vứt bỏ được,

thì cái gì chư vị cũng vứt bỏ được, ở nơi lợi ích vật chất mà bảo chư vị vứt bỏ đi,

chư vị đương nhiên sẽ vứt bỏ được. [Còn nếu] tâm của chư vị mà không vứt bỏ

được, [thì] chư vị không vứt bỏ được gì hết; do vậy mục đích thật sự của tu luyện là

tu cái tâm này. Tu luyện trong chùa họ cưỡng chế chư vị mất đi những thứ ấy, cũng

chính là để chư vị dứt bỏ cái tâm này; họ cưỡng chế chư vị, làm chư vị hoàn toàn

đoạn tuyệt với chúng, không cho chư vị nghĩ đến chúng; họ [theo] cách ấy. Nhưng

chúng tôi không yêu cầu đi [theo cách] như thế; yêu cầu của chúng ta là ngay với

lợi ích vật chất ở trước mặt, chư vị làm sao xem chúng thật nhẹ; do đó môn của

chúng ta tu xuất lai là vững chắc nhất. Không bảo chư vị đều làm hoà thượng, làm

ni cô. Chúng ta là tu luyện nơi người thường, tương lai công pháp chúng ta sẽ

truyền ra càng ngày càng rộng, [nếu] ai ai cũng thành ‘hoà thượng không ra hoà

thượng’

1

, hễ ai luyện Pháp Luân Đại Pháp rồi đều có hình thức như thế, [thì] như

vậy không được. Trong luyện công chúng tôi yêu cầu mọi người: chư vị luyện

công, ái nhân chư vị có thể không luyện công, [thì chỉ] vì luyện công mà hai vợ

chồng ly hôn là không được. Nghĩa là chúng ta coi chuyện này thật nhẹ; chư vị

không thể coi trọng nó kiểu như người thường được. Nhất là hiện nay ngoài xã hội

cái gọi là ‘giải phóng tình [dục]’, [và] những thứ đồ khiêu dâm đang can nhiễu đến

người ta. Một số người thấy nó [quan] trọng lắm; chúng ta là người luyện công, thì

phải coi nó thật nhẹ.

Tại cao tầng mà nhìn, [họ] nói rằng người thường ở xã hội đối với bùn đất quả

là không ngại bẩn, ở mặt đất mà chơi nghịch bùn đất vậy. Chúng tôi [đã] giảng,

rằng chư vị không thể vì điều này mà làm cho gia đình bất hoà; do đó tại giai đoạn

mà chư vị đang có hiện nay, chư vị coi nó thật nhẹ, duy trì sinh hoạt vợ chồng hài

hoà như bình thường là được rồi; tương lai [khi] đến một tầng nhất định sẽ có trạng

thái của tầng ấy; [còn] hiện tại là như thế này, chúng tôi yêu cầu chư vị thực hiện

như thế này là được rồi. Đương nhiên không thể giống như trạng thái của xã hội

hiện nay, không được thế!

Tại đây còn có một vấn đề; như mọi người đã biết, thân thể người luyện công

chúng ta có năng lượng. Hiện nay 80%–90% những người trong chúng ta từ lớp

học này về sau, không chỉ hết bệnh, mà còn xuất [hiện] công; do đó trên thân thể

1 Bất thị hoà thượng đích hoà thượng: hoà thượng không ra hoà thượng, hoà thượng nửa mùa.

Luyện công chiêu ma 109

mang theo năng lượng rất lớn mạnh. Công mà chư vị mang theo so với tâm tính của

chư vị không tương ứng. Hiện tại chư vị tạm thời [có] công cao hơn; giúp chư vị

lập tức nâng cao lên; [còn] hiện nay đang đề cao tâm tính của chư vị. Dần dần [tâm

tính] chư vị sẽ lên đến theo, đảm bảo nội trong một [giai] đoạn thời gian thì [tâm

tính] chư vị sẽ lên đến theo; do đó chúng tôi làm việc này từ trước; nghĩa là chư vị

có năng lượng nhất định. Bởi vì năng lượng tu luyện xuất lai từ chính Pháp là thuần

chính từ bi, do đó mọi người ngồi tại đây đều cảm giác thấy một trường hoà ái từ

bi. Tôi luyện công vốn tu luyện như thế, tôi mang theo [mình] những thứ ấy. Mọi

người ngồi ở đây đều cảm thấy rất hài hoà, trong tư tưởng của người ta không có tà

niệm, ngay cả hút thuốc cũng không nghĩ tới. Trong tương lai chư vị chiểu theo yêu

cầu của Đại Pháp chúng tôi mà thực hành, thì công mà chư vị tu luyện xuất lai

được sau này cũng như thế. Tuỳ theo công lực của chư vị không ngừng tăng

trưởng, thì khi ấy năng lượng tản xạ của công mang theo trên thân thể chư vị cũng

rất lớn mạnh. Ngay cả khi không có được sự lớn mạnh ấy, [thì] một người thường,

ở trong phạm vi trường của chư vị, hoặc khi chư vị ở nhà, thì chư vị cũng có thể

ước chế người khác. Thân nhân ở nhà chư vị đều có thể chịu sự ước chế của chư vị.

Tại sao? Chư vị cũng không cần động niệm; bởi vì trường ấy là thuần chính hoà ái,

từ bi, là trường của chính niệm; do đó người ta không dễ nghĩ đến điều xấu, không

dễ làm những chuyện không tốt; sẽ [phát huy] tác dụng như thế.

Hôm vừa rồi tôi có giảng ‘Phật quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh’, nghĩa là

năng lượng tản xạ từ thân thể chúng ta có thể [điều] chỉnh lại hết thảy những trạng

thái không đúng đắn. Như vậy dưới tác dụng của trường này, khi chư vị không nghĩ

gì đến chuyện ấy, thì vô hình chung cũng ước chế ái nhân của chư vị. Chư vị không

động niệm, chư vị cũng sẽ không động niệm ấy, thì họ cũng không nghĩ đến. Tuy

nhiên [nó] không tuyệt đối; ở hoàn cảnh hiện tại, một khi bật TV lên xem, thì cái gì

cũng có, dễ làm cho người ta khởi dục vọng. Tuy nhiên ở tình huống thông thường,

chư vị có thể khởi tác dụng ước chế như thế. Tương lai khi tu luyện ở cao tầng,

không cần tôi bảo chư vị, chư vị tự mình [cũng] sẽ biết [cần] làm thế nào, lúc ấy sẽ

có trạng thái khác; duy trì sinh hoạt hài hoà. Do đó, về chuyện này chư vị không

cần coi trọng quá; nếu chư vị để tâm thái quá thì cũng thuộc về chấp trước. Giữa vợ

chồng với nhau thì không có vấn đề về ‘sắc’, nhưng có ‘dục vọng’; chư vị coi nó

thật nhẹ, trong tâm cân bằng là được rồi.

Vậy gặp ‘ma sắc’ như thế nào? Nếu như định lực của chư vị chưa đủ, chư vị sẽ

[thấy nó] xuất hiện ở trong mộng khi ngủ; chính lúc chư vị ngủ hoặc chính vào lúc

chư vị đả toạ, liền đột nhiên xuất hiện: [nếu] chư vị là nam thì sẽ xuất hiện mỹ nữ,

nếu chư vị là nữ thì sẽ xuất hiện một trang nam tử mà chư vị hằng tơ tưởng, nhưng

họ không mặc chút gì. Nếu chư vị máy động niệm đầu một cái, thì có thể tiết ra, sẽ

trở thành sự thực. Mọi người thử nghĩ coi, chúng ta luyện công, khí của tinh huyết

là dùng để luyện mệnh; chư vị không thể cứ mãi tiết ra như thế. Đồng thời cái quan

[khảo nghiệm] ‘sắc dục’ ấy chư vị chưa có vượt qua được; như thế có được không?

Do đó tôi giảng vấn đề này cho chư vị, ai ai cũng sẽ gặp, bảo đảm là sẽ gặp. Khi tôi

giảng Pháp, tôi lấy một năng lượng rất mạnh đưa vào não của chư vị. Chư vị ra

khỏi cửa có thể không nghĩ ra được điều tôi giảng cụ thể là những gì; tuy nhiên khi

chư vị thực sự gặp vấn đề, chư vị sẽ nghĩ lại được lời tôi đã giảng. Chỉ cần chư vị

coi bản thân mình là người luyện công, thì đúng thời điểm ấy chư vị sẽ nghĩ ra

được, [nên] chư vị có thể ước chế bản thân mình, cái quan này chư vị có thể vượt

qua được. Nếu như vượt quan [lần] thứ nhất không được, quan [lần] thứ hai sẽ rất

khó giữ được vững. Tuy nhiên có như thế này, lần thứ nhất không qua được, tỉnh ra

Luyện công chiêu ma 110

rồi hối tiếc ghê gớm khôn thấu; thì có thể tâm lý ấy, trạng thái ấy của chư vị, cũng

sẽ nhấn sâu thêm ấn tượng trong tư tưởng chư vị; khi gặp lại vấn đề, chư vị sẽ giữ

[mình] được vững, có thể vượt qua được. Còn nếu có người không vượt qua được,

cũng không để ý, thì sau này sẽ càng khó giữ vững hơn; đảm bảo là như vậy.

Hình thức này [cũng] có can nhiễu của ma, cũng có sư phụ diễn vật hoá vật để

khảo nghiệm chư vị; hai hình thức ấy đều tồn tại, bởi vì ai ai cũng cần vượt qua

quan này. Chúng ta bắt đầu tu luyện từ người thường, bước đi thứ nhất chính là cái

quan này, ai ai cũng gặp. Tôi nêu một ví dụ cho chư vị, hồi [tôi] dạy ở lớp học tại

Vũ Hán có một học viên như thế, một cậu thanh niên ba mươi tuổi. Tôi vừa giảng

bài này trên lớp xong, cậu này về nhà ngồi đả toạ, lập tức [nhập] định. Định trụ lại

xong, đột nhiên nhìn thấy bên này xuất hiện Phật A Di Đà, bên kia xuất hiện Lão

Tử. Đó là điều cậu ấy nói trong tâm đắc thể hội. [Họ] xuất hiện xong, [đưa mắt]

nhìn cậu ấy mà không nói gì cả, rồi ẩn đi [biến mất]. Lại xuất hiện Bồ Tát Quán

Âm, trong tay cầm chiếc bình; từ chiếc bình ấy bay ra một làn khói trắng. Cậu này

đang ngồi đó đả toạ, nhìn thấy thật rõ ràng; cậu ta rất cao hứng. Lập tức [làn khói]

hoá thành một số mỹ nữ, mỹ nữ ấy là những phi thiên bay lượn, trông nhất mực

xinh đẹp. Nhảy múa cho cậu ta, những vũ điệu trông thật khả ái! Cậu này tự nghĩ:

‘Mình luyện công nơi này, Bồ Tát Quán Âm thưởng tặng cho mình, hoá mấy cô mỹ

nữ cho mình coi, mấy cô phi thiên bay lượn nhảy múa cho mình’. Đúng lúc cậu ta

nghĩ cao hứng nhất, thì lập tức những mỹ nữ kia [trở nên] không mặc chút gì, thực

hiện một số động tác, đến vịn cổ ôm lưng. Tâm tính của học viên chúng ta đề cao

rất nhanh, lúc ấy cậu thanh niên liền cảnh giác, điều mà cậu ấy nghĩ đến trước nhất

là: ‘Tôi không phải người bình thường, tôi là người luyện công; các vị chớ đối xử

với tôi như thế; tôi là [người] tu Pháp Luân Đại Pháp’. Niệm đầu vừa xuất khởi,

“xoẹt” [một cái] lập tức tất cả đều biến mất; nguyên [chúng] là huyễn hoá mà

thành. Sau đó Phật A Di Đà và Lão Tử lại xuất hiện lại. Lão Tử lấy tay trỏ vào cậu

thanh niên, vừa cười vừa nói với Phật A Di Đà rằng: ‘Nhụ tử khả giáo dã’. Tức là

cậu tiểu tử này được, có thể dạy dỗ được.

Tại lịch sử hoặc tại không gian cao tầng, mà xét [một] người có thể tu hay

không, [thì] coi những thứ dục vọng và sắc của người ấy [là] rất chủ yếu; do vậy

chúng ta thật sự phải coi những thứ ấy thật nhẹ. Tuy nhiên chúng ta tu luyện tại

người thường, không yêu cầu chư vị đoạn tuyệt hoàn toàn với nó; ít nhất trong giai

đoạn này, chư vị phải coi nó thật nhẹ, không được lại giống như trước đây. Làm

người luyện công thì cần phải như vậy. Hễ trong khi luyện công mà xuất hiện can

nhiễu này, can nhiễu kia, [thì] chư vị phải tìm xem nguyên nhân [ở] bản thân mình,

chư vị còn điều gì chưa vứt bỏ được không.

Tự tâm sinh ma

Cái gì gọi là ‘tự tâm sinh ma’? Thân thể con người tại các tầng không gian đều

có một trường vật chất tồn tại, trong một trường đặc thù, [thì] hết thảy những gì

trong vũ trụ đều chiếu xạ lên trường không gian này của chư vị tương tự như bóng

ảnh; tuy là bóng ảnh, nhưng cũng là tồn tại vật chất. Hết thảy mọi thứ trong trường

không gian của chư vị đều nghe theo sự chi phối từ ý thức của đại não chư vị; nghĩa

là, [khi] chư vị dùng thiên mục để nhìn, tĩnh tĩnh không động niệm mà nhìn thì là

chân thực; chỉ cần hơi động niệm, thì những gì nhìn thấy đều là giả; đó chính là ‘tự

tâm sinh ma’, cũng gọi là ‘tuỳ tâm nhi hoá’. Chính là vì có những người luyện công

tự họ không thể tự đặt mình làm người luyện công, không thể tự mình giữ lấy

mình; họ hữu cầu vào công năng, chấp trước vào tiểu năng tiểu thuật, thậm chí chấp

Tự tâm sinh ma 111

trước vào những gì nghe được từ không gian khác, chấp trước vào truy cầu những

thứ ấy; loại người này dễ tự tâm sinh ma nhất, dễ bị rớt xuống nhất. Bất kể [họ] đã

tu luyện cao đến đâu, một khi tình huống này xuất hiện thì sẽ rớt xuống đến đáy,

hủy [hại] đến đáy. Đây là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng. Không như các phương

diện khác: khảo nghiệm tâm tính lần này nếu không qua, thì ngã rồi vựng dậy bò

lên, [vẫn] còn có thể tu tiếp được. Nhưng xuất hiện vấn đề tự tâm sinh ma này thì

không được, người ấy đời này là huỷ [bỏ] rồi. Đặc biệt là những người luyện công

tại một tầng nhất định đã khai thiên mục rồi, dễ xuất hiện vấn đề này. Còn có một

số người bản thân ý thức của họ cứ hay nhận can nhiễu từ tín tức ngoại lai; tín tức

ngoại lai bảo họ thứ gì, họ liền tin thứ nấy; cũng sẽ xuất hiện vấn đề này. Do đó

trong chúng ta có những người đã khai thiên mục rồi, sẽ nhận can nhiễu có đủ loại

phương diện của các tín tức.

Chúng tôi nêu ví dụ thế này. Tu luyện ở tầng thấp mà tâm không động, [là]

điều khó làm được. Sư phụ như thế nào có thể chư vị thấy chưa rõ. Đột nhiên một

hôm, chư vị thấy một vị Đại Thần Tiên vừa cao vừa lớn đến. Đại Thần Tiên này

khen chư vị hai câu, rồi dạy chư vị vài thứ; nếu chư vị cũng nhận, thì công của chư

vị đã bị loạn mất rồi. Hễ trong tâm của chư vị cao hứng lên, nhận ông ta làm sư

phụ, rồi theo ông ta học; nhưng ông ta cũng không đắc chính quả, ở không gian kia

có thể biến lớn thu nhỏ. Triển hiện như thế trước mặt chư vị, chư vị nhìn thấy Đại

Thần Tiên ấy, quả là kích động! Hễ tâm hoan hỷ dấy khởi lên, chẳng phải chư vị sẽ

theo học ông ta? Người tu luyện [nào] giữ mình không vững thì rất khó hoá độ, và

dễ tự huỷ [hoại] bản thân mình. Người trời đều là Thần, nhưng họ cũng chưa đắc

chính quả, phải nhập lục đạo [luân hồi] như nhau thôi. Chư vị tuỳ tiện nhận sư phụ,

[rồi] chư vị phải theo ông ấy, hỏi ông ấy đưa chư vị lên đến đâu? Chính ông ta

không đắc chính quả, chẳng phải chư vị có tu mà như không ư? Kết quả công của

bản thân chư vị đã loạn cả rồi. Con người rất khó không động tâm. Tôi bảo mọi

người, rằng vấn đề này rất nghiêm túc; tương lai [trong] chúng ta [có] rất nhiều

người sẽ xuất hiện vấn đề này. Pháp tôi đã giảng cho chư vị rồi; chư vị có thể giữ

vững nó hay không hoàn toàn dựa vào bản thân chư vị; điều tôi giảng là một tình

huống. Gặp Giác Giả của bất kể môn phái nào khác cũng không động tâm, chính là

tu ở một môn. ‘Phật nào, Đạo nào, Thần nào, ma nào, đều chớ có mong động được

cái tâm của tôi’, như thế nhất định có [hy] vọng sẽ thành công.

Tự tâm sinh ma còn có tình huống khác: can nhiễu gặp thân nhân đã qua đời;

khóc lóc nỉ non, bảo chư vị làm điều này, điều khác; chuyện gì cũng xuất hiện. Chư

vị có thể không động tâm? Chư vị yêu dấu đứa con này lắm, chư vị yêu thương cha

mẹ chư vị. Cha mẹ chư vị đã qua đời, họ bảo chư vị làm điều gì đó … đều là những

việc không thể làm; nếu chư vị làm thì hỏng rồi; người luyện công khó như thế đó.

Người ta nói rằng Phật giáo loạn rồi, những thứ của Nho giáo đều lọt cả vào Phật

giáo; những gì như ‘hiếu kính cha mẹ’, ‘tình cảm con cái’ đều lọt cả vào; trong

Phật giáo [vốn] không bao hàm những điều ấy. Ý nghĩa là gì? Bởi vì sinh mệnh

chân chính của một cá nhân là nguyên thần; người mẹ sinh ra nguyên thần chư vị

mới là người mẹ thật sự của chư vị. Chư vị trong lục đạo luân hồi, mẹ của chư vị là

người, không là người, [số ấy] không đếm được. Con cái của bao đời chư vị hỏi có

bao nhiêu; cũng không đếm được. Ai là mẹ chư vị, ai là con chư vị, một khi hai mắt

kia khép lại [tạ thế] thì ai còn nhận ra ai nữa; nghiệp mà chư vị nợ vẫn theo đó mà

hoàn trả. Nhân tại mê trung, không vứt bỏ được những thứ này. Có người không

vứt bỏ được [tâm về] con của họ, nói [nó] tốt ra sao, nó chết rồi; mẹ họ tốt ra sao,

cũng chết rồi; họ thống thiết muốn chết [theo], quả thật bỏ nửa cuộc đời còn lại để

Tự tâm sinh ma 112

theo những người kia. Chư vị không nghĩ ư, đó chẳng phải đến giày vò chư vị?

Dùng hình thức ấy để chư vị chẳng có ngày nào yên.

Người thường có thể không lý giải được: nếu chư vị chấp trước [vào] những

thứ ấy, [thì] chư vị hoàn toàn không tu luyện được; do đó trong Phật giáo không

bao hàm những thứ này. Chư vị nếu muốn tu luyện, thì cái ‘tình’ của con người cần

vứt bỏ. Tất nhiên, chúng ta tu luyện trong xã hội người thường, [thì] hiếu kính cha

mẹ, dạy dỗ con cái đều cần phải [làm]; tại các hoàn cảnh đều đối xử tốt với người

khác, lấy Thiện đãi người, huống là thân nhân chư vị. Đối với ai cũng vậy, đối với

cha mẹ, đối với con cái đều tốt, ở đâu cũng cân nhắc đến người khác; cái tâm ấy

không phải là tự tư, mà là tâm từ thiện, là từ bi. ‘Tình’ là việc của người thường;

người thường là vì ‘tình’ mà sống.

Nhiều người giữ mình không tốt, tạo thành khó nạn cho tu luyện. Có [người]

nói, rằng Phật nói với họ những gì. Phàm là nói với chư vị, rằng hôm nay có nạn, sẽ

xuất hiện sự kiện gì, chư vị cần tránh nó ra sao. Hoặc giả ai nói với chư vị giải nhất

hôm nay số hiệu bao nhiêu, bảo chư vị đi lấy. Ngoại trừ [trường hợp] có nguy hiểm

đến sinh mệnh bảo chư vị tránh như thế nào, còn hễ là bảo chư vị đắc những điều

tốt ở xã hội người thường thì đều là ma. Chư vị ở nơi người thường đắc những thứ

tốt, không vượt qua được một nạn, thì chư vị không đề cao lên được. Chư vị ở nơi

người thường hàng ngày an nhàn thoải mái, thì chư vị tu làm sao? Nghiệp lực của

chư vị chuyển hoá thế nào? Ở đâu có được hoàn cảnh để đề cao tâm tính chư vị và

chuyển hoá nghiệp lực của chư vị? Mọi người nhất định phải nhớ lấy điểm này.

Con ma ấy cũng khen tụng chư vị, nói chư vị thật cao biết mấy, nói chư vị là Đại

Phật cao biết mấy, [là] Đại Đạo cao biết mấy, thấy rằng chư vị thật xuất sắc; đó

toàn là giả. [Là] người tu luyện lên cao tầng một cách chân chính, các chủng tâm

của chư vị đều phải vứt bỏ; khi gặp vấn đề này, mọi người nhất định phải cảnh

giác!

Khi chúng ta luyện công thiên mục khai [mở]. Thiên mục khai [mở] có chỗ khó

tu của thiên mục khai mở, thiên mục không khai mở có chỗ khó tu của thiên mục

không khai mở; đều không dễ tu luyện. Thiên mục khai mở xong, khi các chủng tín

tức can nhiễu đến chư vị, chư vị sẽ thật sự khó mà giữ mình được vững. Ở không

gian khác, đâu đâu cũng long lanh như châu ngọc, đẹp đẽ phi thường, tốt đẹp phi

thường; cái gì cũng có thể động tâm. Một khi động tâm thì có thể chư vị đã nhận

can nhiễu, công của chư vị đã bị loạn; thông thường là như vậy. Do đó [với] người

tự tâm sinh ma, khi giữ mình không được vững, thì sẽ xuất hiện tình huống như thế

này. Nói thí dụ, một cá nhân sinh ra một niệm đầu bất chính, thì rất nguy hiểm. Có

một hôm, vị này khai thiên mục, vị ấy nhìn thấy rất rõ ràng. Vị ấy nghĩ: ‘Tại điểm

luyện công này, chỉ thiên mục của mình là khai mở tốt thế, mình có lẽ không là

người bình thường thì phải? Mình có thể học Pháp Luân Đại Pháp của Sư phụ Lý

Hồng Chí, mình có thể học tốt đến như thế, mình trội hơn hẳn những người khác,

mình có thể không phải người bình thường đâu’. Riêng suy nghĩ này đã là không

đúng rồi. Vị này nghĩ: ‘Có thể mình là một vị Phật, à, mình thử tự coi mình xem’.

Vị này vừa nhìn một cái liền thấy mình là Phật. Tại sao như vậy? Bởi vì hết thảy

vật chất nằm trong phạm vi của trường không gian quanh thân thể của vị ấy, đều

thuận theo niệm đầu của vị ấy mà diễn hoá, cũng gọi là ‘tuỳ tâm nhi hoá’.

Những thứ đối ứng đến từ vũ trụ, đều biến hoá thuận theo niệm đầu của vị này.

Bởi vì [những gì] trong phạm vi trường không gian của vị ấy đều quy về vị ấy

quản; bóng hình cũng là tồn tại vật chất, [nên] cũng lại như thế. Vị này nghĩ: ‘Mình

là Phật rồi, có thể mình đang mặc là y phục của Phật’. Như vậy vị này nhìn thấy y

Tự tâm sinh ma 113

phục mình đang mặc chính là y phục của Phật. ‘Ái chà, mình đúng là Phật rồi,’ lấy

làm cao hứng ghê lắm. ‘Mình có thể không phải là một tiểu Phật đâu,’ nhìn một cái,

bản thân lại là một Đại Phật. ‘Có khi mình cao hơn cả Lý Hồng Chí!’ Coi thử, ‘Ái

chà, mình thật sự cao hơn Lý Hồng Chí’. Cũng có người từ tai nghe thấy, con ma

ấy liền can nhiễu vị này, nói: ‘Ngài còn cao hơn cả Lý Hồng Chí, Ngài cao hơn Lý

Hồng Chí biết bao nhiêu là bao nhiêu’. Vị này cũng tin. Chư vị chẳng nghĩ chư vị

sau này tu sao đây, chư vị đã từng tu chưa, ai dạy chư vị tu? Chân Phật hạ xuống

đây hành sự đều phải tu lại, công nguyên lai

1

không được cấp, chỉ bất quá hiện giờ

tu nhanh hơn. Như thế, một khi cá nhân ấy xuất hiện vấn đề này rồi, thì vị ấy rất

khó tự vực lên được, tâm ấy lập tức khởi lên. Khởi lên rồi, vị ấy điều gì cũng dám

nói: ‘Ta chính là Phật rồi, các ngươi khỏi cần học theo người khác; ta chính là Phật

rồi, ta bảo các ngươi làm thế này thế kia.’ Vị ấy trở thành như thế.

Tại Trường Xuân chẳng phải chúng ta cũng có người như vậy? Ban đầu là cá

nhân rất được, nhưng sau lại trở thành sự việc như thế. Anh ta [cho rằng mình] là

Phật, cuối cùng thì anh ta cao hơn mọi người; chính là người không giữ mình được

vững, khởi tâm chấp trước tạo thành như vậy. Tại sao xuất hiện hiện tượng này?

Trong Phật giáo giảng: bất kể chư vị nhìn thấy gì, chư vị chớ quan tâm chúng, đều

là ma huyễn, chư vị chỉ quan tâm tự mình nhập định tu lên. Vì sao họ không để chư

vị nhìn, không để chư vị chấp trước vào những thứ ấy? Họ sợ xuất hiện vấn đề này.

Trong tu luyện Phật giáo không có phương pháp tăng cường tu luyện, trong kinh

thư cũng không có chỉ đạo chư vị thoát khỏi điều ấy như thế nào. Thích Ca Mâu Ni

đương thời không giảng Pháp này; vì để tránh vấn đề tự tâm sinh ma, tuỳ tâm nhi

hoá, Ông nói hết thảy những cảnh tượng nhìn thấy trong khi tu luyện đều là ma

huyễn. Do vậy một khi có tâm chấp trước, thì liền sản sinh ma huyễn này, [và]

người ta rất khó thoát khỏi nó. Nếu xử lý không khéo thì cá nhân ấy sẽ kết thúc

thôi, đã nhập ma rồi. Bởi vì vị ấy nói rằng tự mình đã là Phật, vị ấy đã nhập ma rồi;

rốt cuộc có thể chiêu mời phụ thể hoặc những sự việc khác; vị ấy đã triệt để kết

thúc rồi. Tâm tính của vị ấy đã biến thành xấu rồi, triệt để hạ xuống rồi; những

người loại này có rất nhiều. Hiện nay ở lớp này có những người cảm thấy tự mình

khá lắm, thái độ nói chuyện khác [thường]. Bản thân mình vốn là gì, thì ngay tại

Phật giáo cũng là điều rất kỵ huý [không nói đến]. Điều tôi vừa giảng là một tình

huống nữa [của ma can nhiễu], đó gọi là ‘tự tâm sinh ma’, cũng gọi là ‘tuỳ tâm nhi

hoá’. Tại Bắc Kinh có những học viên loại này, còn có một số nơi khác cũng xuất

hiện; hơn nữa can nhiễu rất lớn đến những người tu luyện.

Có người hỏi tôi: ‘Bạch Sư phụ, tại sao thầy không thanh lý những điều này?’

Mọi người thử nghĩ xem, nếu như chúng tôi thanh lý toàn bộ những chướng ngại

trên con đường tu luyện cho chư vị, thì chư vị tu làm sao? Chính là tại tình huống

có ma can nhiễu này mới có thể thể hiện được chư vị có thể tu được hay không, chư

vị có thể thật sự ngộ Đạo được hay không, chư vị có thể bị can nhiễu không, có thể

kiên định vào pháp môn này không. Sóng lớn cuốn cát đi—tu luyện chính là điều

như vậy—còn lại mới là vàng thật sự. [Nếu] chư vị không có hình thức can nhiễu

này, [thì] tôi nói rằng người ta tu luyện quá dễ dàng; tôi đang thấy rằng chư vị tu

được quá dễ dàng. Những Đại Giác Giả ở cao tầng kia thấy vậy trong tâm càng bất

bình: ‘Ông làm gì đó vậy? Ông độ nhân thế này ư? Trên con đường không có

chướng ngại nào cả, hễ tu là đến; đó là tu à? Càng tu càng thoải mái, can nhiễu nào

cũng không có; như thế có được không?’ Chính là vấn đề này, tôi cũng đang cân

nhắc vấn đề này. Vào thời kỳ đầu, tôi đã xử lý rất nhiều ma như thế. [Nếu] cứ mãi

1 công nguyên lai: hiểu là cái côngmà ông Phật thật (Chân Phật) đã có được từ trước khi giáng trần.

Tự tâm sinh ma 114

tiếp tục như vậy, [thì] tôi nghĩ rằng cũng không đúng. Người ta cũng nói với tôi:

‘Ông để họ tu được cũng dễ dàng quá. Bản thân người ta chỉ có một chút nạn, giữa

người với người có không mấy sự việc, còn có rất nhiều tâm vẫn chưa thể vứt bỏ

được! Trong khi mê hoặc [họ] có thể nhận thức bản thân Đại Pháp của ông được

hay không vẫn còn là một vấn đề!’ Có vấn đề như thế; do vậy sẽ có can nhiễu, sẽ

có khảo nghiệm. [Điều] vừa giảng là một hình thức của ma. Thật sự độ một cá nhân

rất khó; nhưng huỷ [hoại] một cá nhân lại cực kỳ dễ dàng. Hễ tâm của chư vị bất

chính, liền lập tức kết thúc ngay.

Chủ ý thức phải mạnh

Vì những điều bất hảo con người đã làm từ đời này qua đời khác, mà tạo thành

tai nạn cho người ta, tạo thành trở lực nghiệp lực cho người tu luyện; do đó có tồn

tại sinh lão bệnh tử. Đó là những nghiệp lực thông thường. Còn có một loại nghiệp

lực lớn mạnh nữa, ảnh hưởng rất lớn đến người tu luyện, gọi là ‘nghiệp tư tưởng’.

Con người ta sống cần phải suy nghĩ. Bởi vì con người mê ở chốn người thường,

nên trong tư tưởng hay sản sinh những ý niệm theo danh, lợi, sắc, nóng giận, v.v.;

dần dần sẽ tạo thành một loại nghiệp lực tư tưởng rất lớn mạnh. Bởi vì ở không

gian khác hết thảy đều có sinh mệnh, nghiệp cũng như thế. Khi một người muốn tu

luyện chính Pháp, thì cần phải tiêu nghiệp. Tiêu nghiệp chính là tiêu diệt, chuyển

hoá nghiệp ấy. Tất nhiên nghiệp lực không chịu, nên người ta sẽ có nạn, có trở lực.

Tuy nhiên nghiệp lực tư tưởng là can nhiễu trực tiếp đến đại não con người, từ đó ở

trong tư tưởng có những [lời lăng] mạ Sư phụ, [lăng] mạ Đại Pháp, nghĩ ra những

tà niệm và những lời [lăng] mạ người ta. Thế là, có những người tu luyện không

hiểu đó là chuyện gì, lại còn tưởng rằng bản thân mình nghĩ thế. Cũng có người

tưởng rằng đó là phụ thể; nhưng nó không phải là phụ thể, mà là nghiệp tư tưởng

phản ánh lên đại não của con người mà tạo thành như vậy. Có người chủ ý thức

không mạnh, bèn thuận theo nghiệp tư tưởng làm điều xấu; người này vậy là kết

thúc, rớt xuống rồi. Nhưng đại đa số người ta có thể lấy tư tưởng chủ quan rất mạnh

(chủ ý thức mạnh) để bài trừ nó, phản đối nó. Như thế, minh chứng rằng cá nhân ấy

có thể độ được, có thể phân biệt rõ tốt xấu, cũng chính là ngộ tính tốt; Pháp thân

của tôi sẽ giúp đỡ họ tiêu trừ đại bộ phận loại nghiệp tư tưởng này. Tình huống này

tương đối hay gặp. Một khi xuất hiện, chính là để xem bản thân có thể chiến thắng

tư tưởng xấu đó không. Ai có thể kiên định, thì nghiệp có thể tiêu.

Tâm nhất định phải chính

Tâm không chính là gì? Đó là [người mà] họ cứ mãi không tự coi mình là

người luyện công. Người luyện công trong khi tu luyện sẽ gặp các nạn; khi nạn ấy

đến có thể thể hiện là khi xích mích giữa người và người, sẽ xuất hiện những sự

tình đấu tranh lục đục, v.v.; ảnh hưởng trực tiếp đến những thứ trên tâm tính của

chư vị; phương diện này tương đối nhiều. Còn gặp những gì nữa? Thân thể chúng

ta đột nhiên cảm thấy không thoải mái; bởi vì hoàn [trả] nghiệp, nó sẽ thể hiện tại

các phương diện khác nhau. Đến một thời kỳ nhất định còn làm cho chư vị [thấy]

thật không thật, giả không giả; làm cho chư vị cảm giác cái công ấy không biết tồn

tại không, có thể tu được không, rốt cuộc có thể tu luyện đến đích không, có Phật

hay không; thật có giả có. Tương lai còn làm chư vị xuất hiện tình huống ấy, làm

chư vị tạo thành [cảm] giác sai như thế, làm chư vị cảm giác như chúng hệt như

không tồn tại, đều là giả hết, chính là để xem chư vị có thể kiên định hay không.

Tâm nhất định phải chính 115

Chư vị nói rằng chư vị cần phải kiên định không lay động, với tâm như thế, đến lúc

ấy chư vị thật sự có thể kiên định không lay động, thì chư vị tự nhiên làm được tốt,

bởi vì tâm tính chư vị đã đề cao lên. Nhưng hiện nay chư vị bất ổn như thế, nếu

hiện nay cấp cho chư vị ma nạn ấy, chư vị sẽ hoàn toàn không ngộ, hoàn toàn

không thể tu. [Về] các loại phương diện đều có khả năng xuất hiện ma nạn.

Trong quá trình tu luyện, người ta phải tu luyện lên theo cách như thế. Do đó

chúng ta có những người hễ thân thể họ đâu đó không thoải mái, họ liền cho rằng

bản thân có bệnh. Họ cứ mãi không thể tự coi mình là người luyện công; [khi] gặp

tình huống này, họ cũng tự coi là mắc bệnh; tại sao lại gặp nhiều chuyện phiền

phức thế? [Tôi] nói với chư vị rằng, đã giúp chư vị tiêu [trừ] rất nhiều rồi, những

phiền phức ấy của chư vị không [còn] là mấy. Nếu không tiêu [trừ] giúp chư vị, thì

[khi] chư vị gặp những phiền phức ấy có thể hết mệnh lìa đời rồi, cũng có thể nằm

luôn đó không dậy nổi. Do đó chư vị gặp chút phiền phức, chư vị thấy khó chịu; ở

đâu có được sự thoải mái kia chứ? Lấy thí dụ, hồi tôi giảng bài ở Trường Xuân, có

một cá nhân căn cơ rất tốt, quả là một khối nguyên liệu [tốt], tôi cũng để mắt đến

anh này. Bèn để nạn của anh ta hơi lớn hơn một chút, để anh ta hoàn trả nhanh hơn,

để anh ta khai công, tôi chuẩn bị làm như vậy. Rồi một hôm anh ta đột nhiên mắc

triệu chứng hệt như bị nghẽn mạch máu não, trượt ngã xuống đó, cảm thấy không

cử động được nữa, hệt như tứ chi không còn linh nữa; đưa đến bệnh viện cấp cứu.

Sau đó anh ta có thể trở dậy [khỏi giường bệnh]. Mọi người nghĩ xem, bị nghẽn

mạch máu não làm sao có thể ra khỏi [giường] nhanh đến thế kia chứ, tay chân đều

cử động được? [Vậy mà] anh ta quay lại bảo rằng học Pháp Luân Đại Pháp, đã làm

anh ta sai lệch như thế. Anh ta không thử nghĩ, hỏi nghẽn mạch máu não sao khỏi

nhanh vậy? Nếu hôm ấy anh ta không học Pháp Luân Đại Pháp, thì một khi trượt

ngã xuống, có khi chết luôn ở đó, hoặc vĩnh viễn không dậy nữa, thực sự bị nghẽn

mạch máu não.

[Có thể] nói con người khó độ như vậy đó, đã vì anh ta làm [giúp] bao nhiêu,

vậy mà anh ta đã không ngộ mà còn nói thế. Có học viên lâu năm nói: ‘Thưa Sư

phụ, con sao mà thấy chỗ nào cũng khó chịu lắm, đến bệnh viện tiêm cũng không

khỏi, uống thuốc cũng không khỏi’. Họ còn nói được với tôi như thế! Tất nhiên nó

không khỏi. Nó cũng không phải là bệnh, khỏi sao được? Chư vị kiểm tra đi, không

có mầm bệnh, chư vị chỉ thấy khó chịu thôi. Chúng ta còn có học viên đến bệnh

viện làm cong mấy cái kim tiêm, cuối cùng ống thuốc cũng phụt ra ngoài, không có

vào [thân thể]. Anh ta hiểu ra: ‘Ái chà, mình là người luyện công kia mà, mình

không tiêm nữa’. [Lúc ấy] anh ta mới nghĩ ra là không nên đi tiêm. Do vậy khi

chúng ta gặp những ma nạn ấy, nhất định phải hết sức chú ý vấn đề này. Có người

tưởng rằng tôi không cho phép họ đến bệnh viện khám [bệnh], bèn nghĩ: ‘Sư phụ

không cho mình đến bệnh viện khám, [thì] mình tìm khí công sư để khám’. Họ vẫn

cho đó là bệnh, họ tìm khí công sư để khám. Biết tìm khí công sư chân [chính] ở

đâu? Nếu là giả thì lúc đó chư vị hỏng rồi.

Chúng ta nói, những khí công sư ấy thật có giả có, hỏi chư vị phân biệt rõ được

ở đâu? Rất nhiều khí công sư đều là tự phong. Tôi đã trải qua trắc định, tôi có trong

tay tư liệu trắc định của khoa nghiên [cứu] bộ môn đối với tôi. Có rất nhiều khí

công sư là giả, là tự phong, chính là để lừa đảo. Những khí công sư giả ấy cũng có

thể khám bệnh. Vì sao có thể khám bệnh? Họ có phụ thể, không có phụ thể thì họ

lừa người sao được! Phụ thể ấy chúng cũng có thể phát công, cũng có thể trị bệnh;

chúng cũng là một loại tồn tại năng lượng, ước chế người thường hết sức dễ dàng.

Tuy nhiên [như] tôi đã giảng, nếu phụ thể ấy mà trị bệnh, thì phát lên thân chư vị

Tâm nhất định phải chính 116

những gì? Ở [mức] cực vi quan đều là hình tượng của phụ thể ấy, phát lên thân chư

vị rồi, chư vị nói xem làm thế nào đây? Mời Thần đến thì dễ mời Thần đi thì khó.

[Với] người thường thì chúng tôi không nói, họ chỉ muốn làm người thường, họ chỉ

mong nghĩ được thoải mái nhất thời. Tuy nhiên chư vị là người luyện công, chẳng

phải chư vị muốn liên tục tịnh hoá thân thể? Những thứ ấy làm bậy lên thân chư vị

rồi, hỏi đến thời nào chư vị có thể bài xuất chúng đi? Ngoài ra chúng còn có năng

lượng nhất định. Có người nghĩ: ‘Pháp Luân kia sao có thể để chúng phát vào được

nhỉ? Sư phụ chẳng phải có Pháp thân bảo hộ chúng mình cơ mà?’ Trong vũ trụ này

của chúng ta có một [Pháp] lý: điều bản thân chư vị cầu thì không ai quản, điều bản

thân chư vị mong cũng không ai quản. Pháp thân của tôi sẽ ngăn trở chư vị, điểm

hoá cho chư vị, [nhưng] hễ thấy chư vị cứ thế mãi, thì cũng không quản chư vị nữa;

cớ chi cưỡng bức người ta tu luyện được? Không thể cưỡng chế chư vị tu, bức bách

chư vị tu. Cần dựa vào bản thân chư vị mà thật sự đề cao, chư vị không muốn đề

cao thì không ai còn cách nào cả. Lý cũng giảng cho chư vị rồi, Pháp cũng giảng

cho chư vị rồi; bản thân chư vị còn không muốn đề cao, thì chư vị trách ai đây?

Điều bản thân chư vị muốn, Pháp Luân cũng không quản, mà Pháp thân của tôi

cũng không quản, đảm bảo là như vậy. Còn có người đến trường của khí công sư

khác nghe trình bày, về nhà rất khó chịu; ấy là đương nhiên. Tại sao Pháp thân [của

tôi] không phòng [hộ] gì cho chư vị? Chư vị đến đó làm gì, chư vị đến nghe, chẳng

phải chư vị đến để cầu? Chư vị không để [nó] rót vào tai, thì nó sao có thể lọt vào

[thân chư vị]? Có người đã làm biến hình Pháp Luân của mình. Tôi nói với chư vị,

cái Pháp Luân ấy còn giá trị hơn cả sinh mệnh chư vị; Nó là một loại sinh mệnh cao

cấp; không thể tuỳ tiện huỷ hoại Nó. Hiện nay khí công sư giả rất nhiều, nhiều

[người] có danh tiếng. Tôi đã nói với một vị lãnh đạo ở Hội Nghiên cứu Khoa học

Khí công Trung Quốc; tôi nói rằng cổ đại đã xuất hiện Đát Kỷ làm loạn triều đình,

con cáo ấy làm dữ lắm; [nhưng] nó không tệ hại bằng khí công sư giả hiện nay,

chính là làm loạn toàn quốc; hỏi bao nhiêu người chịu nạn? Chư vị thấy rằng bề

ngoài như thể tốt lắm, hỏi bao nhiêu người mang trên thân thể những thứ ấy? Họ

phát [ra] là cấp lên [thân] chư vị, quả thực là quá ngang ngược; do vậy người

thường từ bên ngoài khó mà thấy cho được.

Có người có thể nghĩ: ‘Hôm nay đến tham gia nghe giảng khí công, nghe xong

bài của [Sư phụ] Lý Hồng Chí giảng, [thấy] khí công vốn dĩ quả thật rộng lớn tinh

thâm! Sau này có khí công sư khác giảng tôi sẽ lại đến nghe’. Tôi nói rằng chư vị

nhất định chớ có đến, [nếu] nghe thì những điều không tốt sẽ rót từ tai chư vị mà

vào. Độ một người rất khó, cải biến tư tưởng của chư vị rất khó, điều chỉnh thân thể

chư vị cũng rất khó. Khí công sư giả rất nhiều; [ngay cả] khí công sư chính truyền

chân chính, hỏi khí công sư ấy có làm tịnh được không? Có những con động vật rất

hung dữ, những thứ ấy không gắn lên họ được, nhưng họ cũng không tống khứ

chúng đi được. Họ không có năng lực thách thức những thứ ấy trên một diện rộng,

nhất là học viên của họ; họ phát công ở kia, lẫn lộn đủ những thứ ấy vào trong đó.

Bản thân họ thật sự rất chính, nhưng học viên của họ không chính, mang theo các

chủng phụ thể, cái gì cũng có.

Nếu chư vị thật sự tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, thì chư vị chớ đến [đó] nghe.

Tất nhiên [nếu] chư vị không muốn tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, mà cái gì cũng

muốn luyện, thì chư vị cứ đi. Tôi cũng không quản chư vị, chư vị cũng không là đệ

tử Pháp Luân Đại Pháp, nếu có vấn đề gì chư vị cũng chớ nói là vì luyện Pháp Luân

Đại Pháp. Chư vị chiểu theo tiêu chuẩn tâm tính mà làm, chiểu theo Đại Pháp mà tu

luyện, như thế mới thật sự là người của Pháp Luân Đại Pháp. Có người hỏi: có thể

Tâm nhất định phải chính 117

tiếp xúc với người luyện khí công khác không? Tôi nói với chư vị: họ là luyện khí

công, còn chư vị là tu luyện Đại Pháp; từ lớp học này trở đi, thì cách biệt về tầng sẽ

không biết là xa đến nhường nào; Pháp Luân này là thứ mà người của bao nhiêu

[niên] đại luyện mới thành hình, [nó] có uy lực lớn mạnh. Tất nhiên nếu chư vị tiếp

xúc, có thể bảo trì vững không nhận và cũng không cần gì của họ, mà chỉ là bạn bè

thông thường, thì không thành vấn đề. Nhưng nếu trên thân người kia thật sự có

những thứ ấy thì rất không tốt; tốt nhất là không tiếp xúc. Nói về vợ chồng, nếu có

luyện công khác, tôi nghĩ rằng cũng không thành vấn đề. Tuy nhiên có một điểm,

bởi vì chư vị là luyện chính Pháp, một người luyện công, người khác có lợi ích.

[Nếu] họ luyện oai môn tà đạo, trên thân họ có thể có những thứ oai môn tà đạo;

[thì] vì sự an toàn của chư vị, cũng cần thanh lý cho họ. Mọi thứ ở không gian khác

đều được thanh lý cho chư vị, hoàn cảnh nhà chư vị cũng được thanh lý. Không

thanh lý hoàn cảnh, các thứ các loại can nhiễu chư vị, hỏi chư vị luyện công ra sao

đây?

Tuy nhiên có một tình huống mà Pháp thân của tôi không thể thanh lý giúp. Tôi

có một học viên, một hôm thấy Pháp thân của tôi đến, làm ông ta vui sướng quá:

‘Pháp thân của Sư phụ đến đây này, kính mời Sư phụ vào nhà’. Pháp thân của tôi

nói: ‘Phòng này của con loạn quá, nhiều thứ quá’. [Pháp thân] liền rời đi. Nói

chung, [nếu] các linh thể ở không gian khác nhiều quá, thì Pháp thân của tôi sẽ

thanh lý giúp. Tuy nhiên phòng của ông này đầy những sách khí công loạn lung

tung cả. Ông ta hiểu ra, bèn thu dọn, cái thì đốt đi, cái thì bán đi; sau đó Pháp thân

của tôi lại quay lại. Đó là những gì mà học viên ấy kể với tôi.

Còn có người đi cầu người ta toán quái. Có người hỏi tôi rằng: ‘Thưa Sư phụ,

con luyện Pháp Luân Đại Pháp rồi, đối với «Chu Dịch» hoặc những thứ toán mệnh

con thấy thích thú ghê lắm, con còn có thể dùng [chúng] không?’ [Tôi] nói thế này,

nếu chư vị có mang năng lượng nhất định, thì lời chư vị nói ra sẽ phát huy tác dụng.

Một chuyện không phải thế này, nhưng [chư vị] lại cứ nói với người ta thành

chuyện như thế, như vậy chư vị có thể đã phạm điều xấu. Một người thường hết

sức yếu nhược, những tín tức tồn tại ở họ đều không ổn định, rất có thể phát sinh

biến đổi này khác. Chư vị mở miệng nói với người ta rồi, có thể cái nạn ấy liền tồn

tại. Chẳng hạn họ có nghiệp lực rất lớn, họ cần phải hoàn trả; [nhưng] chư vị cứ nói

mãi rằng họ có việc tốt; hỏi không hoàn trả nghiệp lực có được không? Chẳng phải

chư vị đang hại người? Có người không vứt bỏ được, cứ chấp trước vào những thứ

ấy, cứ như là họ có bản sự lắm; đó chẳng phải chấp trước là gì? Hơn nữa dẫu chư vị

thật sự biết [thiên cơ], thì đã là một người luyện công giữ [gìn] tâm tính, cũng

không thể tuỳ tiện lấy thiên cơ tiết lộ cho người thường; đó chính là đạo lý. Lấy

«Chu Dịch» mà suy như thế nào? Dù sao cũng có một số điều [trong đó] đã không

còn là điều chân thực nữa; suy đi tính lại, thật có giả có; xã hội người thường được

phép có thứ toán quái như vậy tồn tại. Còn chư vị là người thật sự có công; tôi nói

rằng người luyện công chân chính thì cần phải lấy tiêu chuẩn cao mà yêu cầu bản

thân mình. Tuy nhiên có vị tìm người ta toán quái cho mình, nói: ‘Ông hãy toán

quái, xem xem tôi sẽ ra sao, công này luyện sẽ thế nào? Hoặc tôi sẽ có nạn nào hay

không.’ Họ tìm người để bói những thứ ấy. Nạn ấy nếu để chư vị bói ra được, hỏi

chư vị đề cao làm sao đây? [Với] người luyện công thì đời của họ đã thay đổi rồi;

tướng tay, tướng mặt, coi giờ sinh, cũng như những thứ mang trên thân thể như tín

tức đều khác rồi, đã thay đổi rồi. Khi chư vị tìm đến họ để toán quái, chư vị sẽ tin

họ; nếu không thì chư vị [xem] bói làm gì? Điều họ nói là những gì ở bề ngoài,

những điều nói ra là những điều trong quá khứ của chư vị; tuy nhiên trên thực chất

Tâm nhất định phải chính 118

đã có thay đổi. Như thế mọi người thử nghĩ xem, chư vị tìm họ [xem] bói rồi, chư

vị sẽ nghe phải không, sẽ tin phải không? Như vậy sẽ tạo thành gánh nặng cho tinh

thần của chư vị có phải không? Gánh nặng tạo thành rồi, trong tâm chư vị sẽ nghĩ

đến nó; có phải là chấp trước hay không? Như vậy loại bỏ chấp trước này đi thế

nào đây? Đó chẳng phải là nạn do con người tăng thêm? Tâm chấp trước sinh ra ấy

chẳng phải cần phải chịu khổ thêm nữa thì mới có thể dứt bỏ đi? Mỗi một quan,

mỗi một nạn đều có tồn tại vấn đề tu lên trên hoặc rớt lại xuống. Nguyên đã khó, lại

có thêm cái nạn mà người thêm vào, thì vượt qua sao đây? Vì điều này mà chư vị

sẽ phải gặp nạn, chuyện phiền phức. Con đường [đời] sau khi đã thay đổi của chư

vị là không cho phép người khác nhìn thấy. Nếu người khác nhìn thấy rồi, liền có

thể nói hết cho chư vị rằng chư vị đến bước nào sẽ có nạn gì, [nếu thế] chư vị còn

tu gì đây? Do đó hoàn toàn không cho thấy. Ai ở pháp môn khác cũng không được

thấy; các đệ tử đồng môn đều không được thấy; ai nói cũng không trúng. Bởi vì

một đời ấy đã thay đổi rồi, là một đời tu luyện.

Có người hỏi tôi: ‘Sách trong tôn giáo khác, cũng như sách khí công có thể

xem không?’ Chúng ta giảng, rằng sách trong tôn giáo, nhất là sách của Phật giáo,

đều bảo người ta tu luyện tâm tính như thế nào. Chúng ta cũng là Phật gia, có thể

nói là không thành vấn đề. Nhưng có một điều, nhiều kinh sách có những điều đã bị

sai lệch trong quá trình phiên dịch, lại còn [bị] thêm vào đó rất nhiều giải thích kinh

sách, [đó] cũng là đứng tại các tầng khác nhau mà giải thích, mà tuỳ tiện định

nghĩa; đó chính là loạn Pháp. Những người giải thích loạn cả kinh sách ấy cách quá

xa cảnh giới của Phật, hoàn toàn không biết được hàm nghĩa chân chính trong đó;

do vậy vấn đề [họ] nhận thức là khác rồi. Chư vị muốn đọc hiểu rõ nó, cũng không

hề dễ dàng; bản thân chư vị không ngộ rõ ra được. Nhưng [nếu] chư vị nói: ‘Chúng

tôi thấy rất thích kinh sách [Phật giáo]’. Nếu chư vị cứ học loanh quanh trong

những kinh sách ấy, thì chính là đang tu luyện trong pháp môn ấy, bởi vì kinh sách

cũng là có công và Pháp ở trong đó hợp lại; hễ học thì là đã học vào môn ấy rồi, có

vấn đề như thế. Nếu chư vị đào sâu vào đó, chiểu theo đó mà tu, thì có thể chư vị

đã đi theo pháp môn ấy, không còn là pháp môn chúng tôi nữa. Tu luyện xưa nay

đều nói ‘bất nhị pháp môn’, nếu chư vị chân tu một môn, thì chư vị chỉ xem kinh

[sách] của môn ấy.

Còn nói về sách khí công, [nếu] chư vị muốn tu thì chớ có đọc, nhất là những

sách hiện nay, đừng xem. Còn về những [cuốn] như «Hoàng Đế Nội Kinh», «Tính

Mệnh Khuê Chỉ», hoặc «Đạo Tạng» thì cũng như thế; tuy rằng chúng không có

những điều xấu, nhưng trong đó có tồn tại các loại tín tức ở các tầng. Bản thân

chúng là các phương pháp tu luyện, hễ xem là cấp thêm cho chư vị, can nhiễu đến

chư vị. Chư vị thấy rằng câu kia là đúng, tốt thôi, nó lập tức tiến [nhập] vào. Liền

tiến [nhập] vào công của chư vị; tuy rằng nó không phải là thứ xấu, [nhưng] đột

nhiên cấp cho chư vị một chút gì lạ nào đó, chư vị thử nói còn luyện sao đây?

Chẳng phải sẽ xuất hiện vấn đề? Những linh kiện điện tử trong cái TV này của

chúng ta, nếu chư vị cho thêm vào đó một linh kiện lạ khác, chư vị thử nói cái TV

này sẽ ra sao? Sẽ lập tức hỏng ngay; chính là đạo lý này. Hơn nữa hiện nay trong

những sách khí công thì rất nhiều là giả, mang theo các loại tín tức. Trong chúng ta

có một học viên vừa giở sách khí công thì một con rắn lớn từ trong đó nhảy phốc

ra. Tất nhiên tôi không có ý định nói chi tiết. Điều tôi vừa giảng là việc những

người luyện công chúng ta vì bản thân không thể đối đãi với bản thân mình một

cách đúng đắn, [nên] tạo thành những chuyện phiền phức ấy, cũng chính là phiền

phức do tâm bất chính chiêu mời đến. Chúng tôi giảng cho mọi người có chỗ tốt, để

Tâm nhất định phải chính 119

mọi người biết [cần] làm thế nào, phân biệt chúng ra sao, sao cho tương lai không

xuất hiện vấn đề. Chư vị chớ cho rằng những lời tôi vừa giảng là không [nghiêm]

trọng; mọi người phải hết sức chú ý, thông thường xuất hiện vấn đề chính ở điểm

này, thông thường vấn đề xuất hiện chính ở chỗ này. Tu luyện là cực kỳ gian khổ,

là nghiêm túc phi thường; chư vị hơi không chú ý là có thể [bị] rớt xuống ngay, huỷ

[hoại] chỉ trong một sớm; do vậy tâm nhất định phải chính.

Khí công võ thuật

Ngoại trừ công pháp tu nội ra, còn có ‘khí công võ thuật’. Khi bàn về khí công

võ thuật, tôi cũng cần nhấn mạnh một vấn đề, hiện nay trong giới tu luyện có nhiều

thuyết về khí công.

Bây giờ đã xuất hiện những thứ như ‘khí công mỹ thuật’, ‘khí công âm nhạc’,

‘khí công thư pháp’, ‘khí công vũ đạo’, cái gì cũng có; [chúng] đều là khí công?

Tôi thấy lạ lắm. Tôi nói chúng là ‘khí công làm loạn’; không chỉ là ‘khí công làm

loạn’, mà quả thực là ‘chà đạp khí công’. Căn cứ lý luận [của họ] là gì? Nói rằng

khi vẽ, hát, nhảy múa, hay viết chữ, thì tiến nhập vào một trạng thái mơ mơ tỉnh

tỉnh, gọi là ‘khí công thái’; đó là khí công ư? Không thể nhận thức vấn đề như vậy

được. Chẳng phải tôi nói đó là ‘chà đạp khí công’ là gì? Khí công là một loại học

vấn rộng lớn uyên thâm về tu luyện [thân] thể con người. A, cứ mơ mơ tỉnh tỉnh là

khí công rồi? Vậy chúng ta mơ mơ tỉnh tỉnh rồi vào nhà vệ sinh thì tính sao? Chẳng

phải là chà đạp khí công là gì? Tôi nói đó chính là ‘chà đạp khí công’. Hội Sức

Khoẻ Đông phương năm kia, [tôi] thấy [khí] công thư pháp nào đó. Cái gì gọi là

khí công thư pháp? Tôi bèn đến xem khí công thư pháp ấy ra sao; ông này cầm bút

viết chữ; viết chữ xong, liền dùng tay phát khí đến từng chữ; phát xuất ra đều là khí

đen. Trong đầu chỉ toàn là tiền và danh [vọng], chư vị thử nói có thể có công

không? Khí cũng sẽ không phải khí tốt. Treo lên là bán rất đắt, mà người nước

ngoài đều tới mua của ông. Tôi nói rằng ai mua về nhà rồi sẽ xúi quẩy. Cái khí đen

ấy có thể tốt sao được? [Tôi] thấy mặt của ông này đen lắm, ông ta nhìn gì cũng ra

tiền, chỉ nghĩ đến tiền; hỏi có thể có công? Trên danh thiếp ông này có ghi cả đống

danh [hiệu], nào là ‘Khí công Thư pháp Quốc tế’ v.v. Tôi hỏi cái thứ mánh lới ấy

có được tính là khí công hay không?

Mọi người thử nghĩ, trong những người [học] xong lớp này của tôi, 80%–90%

chúng ta sẽ không chỉ hết bệnh, mà chư vị còn đắc công, công chân chính. Những

thứ mang trên thân chư vị đã là siêu thường rồi; [nếu] tự bản thân chư vị luyện,

[thì] cả một đời chư vị cũng không thể luyện xuất lai ra được [những thứ ấy]. Một

người còn trẻ từ bây giờ mà bắt đầu luyện, thì cả một đời cũng không luyện xuất lai

được những thứ mà tôi đã cấp cho chư vị, mà vẫn cần một minh sư chân chính [để

chỉ] dạy chư vị. Chúng tôi những người bao nhiêu thế hệ mới hình thành được Pháp

Luân và những cơ chế này; những thứ ấy lập tức gắn cấp cho chư vị rồi. Do đó tôi

nói với mọi người, chớ nên vì dễ được mà dễ mất. Nó cực kỳ trân quý, không thể

dùng giá trị để đo lường được đâu. Chúng ta sau lớp học này, những gì chư vị mang

theo là công chân chính, là vật chất cao năng lượng. Chư vị về nhà cũng lấy bút viết

mấy chữ, chữ dù đẹp hay xấu, [đều] có công! Do đó chúng ta sau lớp học này trở

đi, phải chăng ai ai cũng có thêm một chữ “sư” vào, đều là ‘khí công sư thư pháp’?

Tôi nói rằng không thể nhận thức như thế được. Vì là người có công chân chính,

chư vị không [cần] dùng ý đặc biệt để phát [công], chư vị chạm qua cái gì thì đều

lưu lại năng lượng, đều lấp lánh ánh quang.

Khí công võ thuật 120

Tôi còn xem một cuốn tạp chí, đăng thông tin về việc mở lớp khí công thư

pháp. Tôi giở ra một chút, xem xem họ dạy thế nào. Trong đó viết thế này: trước

tiên điều tức, hô hấp, sau đó ngồi đả toạ ý tưởng [đặt tại] khí đan điền; đả toạ mười

lăm phút cho đến nửa giờ đồng hồ, ý tưởng nâng khí đan điền lên dẫn nhập vào

cánh tay, lấy bút chấm vào mực [nho], lại vận khí tiếp vào đầu bút. Ý niệm đến đó

rồi, thì bắt đầu viết chữ. Chẳng phải đó là lừa người? A, đề khí vào đâu thì gọi là

khí công đó phải không? Thế thì chúng ta khi ăn cơm, ngồi đả toạ một lúc, cầm đũa

lên, vận khí vào đầu đũa ăn cơm, vậy bèn gọi là ‘khí công ăn cơm’, phải vậy

không? Đồ ăn cũng là năng lượng; chuyện này nói như vậy đấy. Tôi nói rằng chính

là ‘chà đạp khí công’; họ coi khí công quá thiển cận; vậy nên không thể nhận thức

như thế được.

Tuy nhiên khí công võ thuật đã có thể được xem là một môn khí công độc lập.

Vì sao? Nó có quá trình truyền thừa mấy nghìn năm, nó có một bộ hoàn chỉnh về lý

luận tu luyện cũng như một bộ hoàn chỉnh về phương pháp tu luyện; do đó nó có

thể được tính là một bộ hoàn chỉnh. Tuy như vậy, nhưng khí công võ thuật cũng là

điều ở tầng thấp nhất trong công pháp tu nội [như] của chúng ta. Ngạnh khí công

chính là một loại viên năng lượng vật chất, chỉ có tác dụng trong đánh nhau. Lấy ví

dụ này cho mọi người; tại Bắc Kinh có một học viên, sau khi lên lớp [học] Pháp

Luân Đại Pháp của chúng tôi, thì không thể [dùng] tay ấn vào cái gì hết. [Anh ta]

đến cửa hàng mua xe trẻ em, dùng tay thử độ bền chắc, thì vừa ấn một cái, “păng”

[một cái] khung xe gẫy ngay; anh ta lấy làm lạ lắm. Về nhà ngồi ghế dựa, anh này

không thể dùng tay mà ấn; dùng tay mà ấn xuống ghế thì “păng” một cái gẫy ghế

ngay. Anh ta hỏi tôi đó là sao. Tôi không giảng cho anh ta, tôi e rằng anh ta phát

sinh tâm chấp trước. Tôi nói: ‘đó đều là trạng thái bình thường, tuỳ kỳ tự nhiên,

không cần quan tâm đến nó, đều là điều tốt’. [Nếu] công năng ấy mà dùng tốt, thì

hòn đá kia chỉ dùng tay nắn một cái là bở vụn ngay. Chẳng phải ngạnh khí công là

gì? Tuy nhiên anh này chưa hề luyện ngạnh khí công. Trong công pháp tu nội

thông thường các công năng này đều xuất [hiện], tuy nhiên vì tâm tính người [học]

chưa giữ được vững, do đó thông thường công năng xuất ra đều không cấp chư vị

dùng. Nhất là khi tu luyện tại tầng thấp, tâm tính người ta chưa đề cao lên, nên

những công năng xuất ra ở tầng thấp này, hoàn toàn đều không được cấp. Dần dần

sau này khi chư vị nâng cao tâm tính lên rồi, thì những thứ ấy không có tác dụng gì

nữa, nên cũng không được xuất lai nữa.

Cụ thể về luyện khí công võ thuật là thế nào? Luyện khí công võ thuật họ giảng

vận khí. Tuy nhiên ban đầu chưa có vận được cái khí ấy, bảo chư vị nghĩ đến vận

khí là vận được ngay [hay sao], họ còn chưa vận [khí] được. Làm thế nào đây? Họ

cần luyện tay của mình, hai bên sườn, hoặc đùi, chân, cẳng tay cánh tay, đầu cũng

cần luyện. Luyện thế nào? Có người dùng tay đánh vào cây, dùng chưởng đánh vào

cây. Có người dùng tay vỗ vào phiến đá, ‘păng-păng’ vỗ vào đó. Chư vị [có thể]

nói là xương mà dội vào đó thì phải đau ghê lắm, chỉ dùng kình [lực] hơi quá chút

xíu là chảy máu ngay. Nhưng khí ấy vẫn chưa vận được. Làm sao đây? Họ bắt đầu

vung tay, sao cho máu chảy ngược ra; bắp tay, bàn tay sẽ phồng lên. Thực tế là

chúng phồng lên, sau đó họ dùng tay đánh vào [phiến] đá một cái, xương đã được

đệm lót rồi, không trực tiếp chạm vào đá nữa, cũng không đau như trước nữa. Cùng

theo việc họ luyện công liên tục, sư phụ sẽ dạy họ; dần dần họ sẽ vận được khí. Tuy

nhiên chỉ vận khí thôi thì chưa được; khi đánh nhau thật thì người ta đâu có đợi chư

vị. Đương nhiên người ta khi có thể vận khí thì đã có thể chịu được đòn, lấy một

cây gậy rất dày mà đánh lên cũng có thể không thấy đau; họ vận khí xong có thể

Khí công võ thuật 121

phồng lên. Tuy nhiên khí là thứ nguyên thuỷ nhất ban đầu; thuận theo thời gian họ

không ngừng luyện, [thì] khí này sẽ chuyển hoá lên thành vật chất cao năng lượng.

Khi nó đã chuyển hoá thành vật chất cao năng lượng rồi, sẽ dần dần hình thành một

loại cục năng lượng có mật độ rất lớn. Nhưng loại cục năng lượng này có linh tính,

do đó nó cũng là một cục công năng, [nó] chính là một loại cục công năng. Nhưng

loại công năng này có thể chuyên dùng để đánh, đỡ đòn; [nhưng] dùng nó trị bệnh

thì không được. Bởi vì vật chất cao năng lượng này ở tại không gian khác, nó

không di chuyển ở không gian này của chúng ta, do đó thời gian của nó nhanh hơn

của chư vị rất nhiều. Khi chư vị muốn đánh người khác, không còn dùng đến vận

khí nữa, không cần nghĩ tưởng nữa, [mà] công ấy đã đến chỗ đó ngay rồi. Người

khác đánh chư vị, khi chư vị muốn chống đỡ, thì công ấy cũng đã đến đó rồi. Bất kể

là chư vị xuất thủ nhanh đến đâu, nó còn nhanh hơn chư vị; khái niệm thời gian của

hai bên là khác nhau. [Nếu] luyện khí công võ thuật, [thì] có thể luyện xuất được

những thứ như là ‘thiết sa chưởng’, ‘chu sa chưởng’, ‘kim cương thối’, ‘la hán

cước’; đó là những bản sự của người thường. Người thường khi đã trải qua rèn

luyện rồi thì có thể đạt được đến mức ấy.

Sự khác biệt lớn nhất giữa khí công võ thuật và công pháp tu nội là: khí công

võ thuật yêu cầu luyện trong vận động, do đó khí chạy dưới da. Vì luyện trong vận

động, nên không thể nhập tĩnh, khí không nhập đan điền; khí chạy dưới da, khí

thoát qua cơ bắp, do đó không thể luyện mệnh, cũng không thể tu luyện xuất ra

được những công phu cao thâm. Công pháp tu nội của chúng ta yêu cầu luyện trong

tĩnh. Công pháp thông thường giảng khí nhập đan điền, khí nhập bụng dưới, chú

trọng tu luyện trong tĩnh, chú trọng chuyển hoá bản thể, có thể tu mệnh, có thể tu

luyện đến tầng cao hơn.

Mọi người có thể đã nghe đến những công phu như thế; trong tiểu thuyết cũng

viết về những thứ như ‘kim chung trạo’, ‘thiết bố sam’, ‘bách bộ xuyên dương’.

Còn ‘khinh công’ nữa, có người đi lại trên cao; có người thậm chí có thể độn nhập

sang không gian khác. Các công phu này có hay không? Có, điểm này là khẳng

định; tuy nhiên không có trong người thường. Ai đã thật sự luyện xuất được những

công phu này, thì không thể lấy chúng ra hiển thị được. Bởi vì họ không chỉ đơn

thuần luyện võ thuật, mà đã hoàn toàn siêu xuất khỏi người thường rồi; như thế

những người này cần phải chiểu theo công pháp tu nội mà tu. Họ phải giảng tâm

tính, đề cao tâm tính của mình; họ coi những thứ lợi ích vật chất kia thật nhẹ nhàng.

Tuy rằng họ đã tu xuất ra được những loại công phu ấy, nhưng từ đó trở đi họ

không thể tuỳ tiện sử dụng ở chốn người thường nữa; khi không có người nhìn thấy

[thì] tự mình làm một chút thì được. Chư vị thấy viết trong những tiểu thuyết kia,

rằng các nhân vật vì [sơ] đồ kiếm [thuật], vì [muốn] lấy báu vật, vì đàn bà, mà giết

mà đánh; bản sự của ai cũng rất to lớn, đi lại như Thần. Mọi người thử nghĩ xem,

người đã thật sự có những công phu này, họ chẳng phải tu nội mà tu xuất lai được

hay sao? Họ [coi] trọng tâm tính mới tu xuất lai được, đối với danh lợi và các thứ

dục vọng thì [họ] đã xem nhẹ từ lâu; họ có thể đi giết người không? Họ có thể coi

trọng tiền tài đến thế không? Hoàn toàn không thể như vậy được; đó chỉ là thổi

phồng trong nghệ thuật thôi. Con người truy cầu những kích thích tâm lý, cái gì

thoả mãn điều ấy thì [đọc]. Các tác giả cũng nắm chắc đặc điểm này, thể nào cũng

[viết] cho chư vị thấy thoả [mãn], thấy cao hứng; họ gắng sức viết cho chư vị. Viết

ra càng huyền [hoặc] chư vị càng thích đọc; đó chỉ là thổi phồng trong nghệ thuật

thôi. Ai thật sự có những công phu này đều không hành xử như thế, đặc biệt lại

càng không thể lấy ra biểu diễn.

Khí công võ thuật 122

Tâm lý hiển thị

Có nhiều học viên trong chúng ta, vì tu luyện ở nơi người thường, nên có nhiều

tâm chưa vứt bỏ; có nhiều tâm đã trở thành ‘tự nhiên’ rồi, bản thân họ không nhận

ra được nữa. Tâm lý hiển thị này ở đâu cũng thể hiện ra; khi làm điều tốt cũng có

thể thể hiện ra tâm lý hiển thị. Bình thường thì vì danh [tiếng] cho bản thân, vì để

được lợi hơn một chút, [mà] phô diễn, [mà] hiển thị: ‘Tôi có khả năng, là người

mạnh hơn’. Chúng ta cũng có tình huống này: luyện có phần hơn, thiên mục xem

có phần rõ hơn, động tác trông đẹp mắt hơn; cũng có hiển thị trong đó.

Có người nói: ‘Tôi đã nghe thấy Sư phụ Lý Hồng Chí nói điều nào đó’; mọi

người liền tụm lại nghe; người ấy ở đó giảng nói, dùng lý giải của bản thân để thêm

thắt lưu truyền những tin đồn. Mục đích làm gì vậy? Cũng là để hiển thị bản thân.

Còn có người lưu truyền những tin đồn như vậy, người nọ truyền người kia, ở đó

giảng nói mà lấy làm thích thú lắm, như thể là họ linh thông những tin đồn ấy lắm.

[Như thể là] chúng ta có rất nhiều học viên không hiểu rõ như họ, người khác

không biết nhiều như họ; họ đã thành ‘tự nhiên’ rồi, có thể không tự nhận ra được

nữa. Trong tiềm ý thức, họ đã có tâm lý hiển thị ấy; nếu không thì truyền những tin

đồn kia để làm gì? Còn có người truyền rằng Sư phụ đến một lúc nào đó sẽ ‘hồi

sơn’. Tôi không phải từ núi đến, hỏi tôi hồi về núi nào đây? Còn có người nói rằng

Sư phụ vào ngày hôm ấy đã giảng những điều gì đó cho ai, rằng tôi đối xử đặc biệt

với ai như thế nào đó. Truyền những thứ ấy hỏi có gì tốt? Chẳng có điểm gì tốt ở đó

cả; mà trái lại chúng tôi thấy được một loại tâm chấp trước, một loại tâm lý hiển

thị.

Còn có người tìm tôi xin chữ ký; mục đích là gì? Cũng là cách thức của người

thường: xin chữ ký, lưu kỷ niệm. Chư vị nếu không [thực] tu, thì tôi cho chư vị chữ

ký cũng không có tác dụng gì. [Trong] sách của tôi chữ nào cũng là hình tượng của

tôi và Pháp Luân, mỗi câu đều do tôi giảng; chư vị còn cần chữ ký nào nữa đây? Có

người nghĩ: ‘Có chữ ký rồi, tín tức của Sư phụ sẽ bảo hộ mình’. [Họ] vẫn giảng về

tín tức; chúng tôi không giảng tín tức. Cuốn sách này vốn đã không thể dùng giá trị

mà đo lường. Chư vị còn cầu gì nữa đây? Chúng đều là những điều phản ánh từ cái

tâm ấy. Còn có người quan sát những học viên thân cận tôi, quan sát lời nói cử chỉ

của những vị ấy xong, liền theo [đó] mà học; điều tốt hay xấu họ không có [phân

biệt] rõ. Kỳ thực bất kể chúng tôi [đối xử] với ai thế nào đi nữa, cũng chỉ có một

Pháp này; chỉ cần tuân theo Pháp này mà làm, đó mới là tiêu chuẩn chân chính.

Những người thân cận bên tôi không hề được đối xử đặc biệt gì, cũng như mọi

người thôi; họ chỉ là những nhân viên công tác của Hội Nghiên cứu; [chư vị] chớ

khởi cái tâm ấy. Thông thường khi chúng ta dấy khởi cái tâm ấy, [thì] chư vị vô ý

đã khởi tác dụng phá hoại Đại Pháp. Những điều [đồn đại] giật gân mà chư vị tạo

ra, thậm chí có thể làm nảy sinh mâu thuẫn, và thường gây tâm chấp trước cho học

viên, cũng mong đến gần Sư phụ để nghe được thêm đôi chút, v.v.; những sự việc

như thế đó không phải đều là vấn đề này hay sao?

Tâm lý hiển thị này còn dễ dẫn đến điều gì? Thời gian truyền công của tôi đã

hai năm rồi; trong những học viên lâu năm tu luyện Pháp Luân Đại Pháp chúng ta,

có một số người có thể khai công rất nhanh; có một lớp người sẽ tiến nhập vào

trạng thái tiệm ngộ, đột nhiên tiến nhập vào tiệm ngộ. Tại sao lúc này họ không

xuất những công năng ấy? Là vì tôi lập tức đẩy chư vị lên đến cao như thế, các tâm

người thường của chư vị [vẫn] chưa bỏ đi thì không thể được. Tất nhiên tâm tính

của chư vị đã nâng lên rất cao, nhưng vẫn còn nhiều tâm chấp trước chưa từ bỏ, do

Tâm lý hiển thị 123

đó không thể để chư vị xuất ra những công năng ấy được. Khi mà chư vị vượt qua

được giai đoạn ấy, sau khi ổn định lại, [thì] lập tức đẩy chư vị lên đến trạng thái

tiệm ngộ. Trong trạng thái tiệm ngộ này, thiên mục của chư vị sẽ khai mở ở rất cao,

chư vị sẽ xuất rất nhiều công năng. Ở đây tôi nói với mọi người rằng, khi tu luyện

chân chính, thì vừa bắt đầu vào là đã xuất hiện rất nhiều công năng; chư vị đã tiến

nhập đến tầng cao như thế rồi, do đó công năng rất nhiều. Gần đây chúng ta có

nhiều người có thể đã xuất hiện trạng thái này. Còn có một số người, họ tu không

cao, những thứ họ mang trên thân và lực nhẫn nại của bản thân họ kết hợp lại là cố

định; do đó có một số người [ngay] tại tầng rất thấp [đã] khai công khai ngộ rồi;

ngộ triệt để; sẽ xuất hiện những người như thế.

Tôi giảng rõ vấn đề này cho chư vị, chính là để nói với chư vị rằng, nếu mà

những người như thế xuất hiện, chư vị nhất định không thể coi họ như những Giác

Giả xuất sắc. Trong tu luyện đây là một vấn đề rất nghiêm túc; chỉ có tuân theo Đại

Pháp này mà hành động mới là đúng. Chư vị không được [phép vì] thấy người ta

[có] công năng, thần thông, nhìn thấy một số điều, rồi sau đó theo người ta, nghe

theo người ta. Chư vị rồi sẽ làm hại họ, họ sẽ sinh tâm hoan hỷ, cuối cùng những gì

mà họ có sẽ bị mất hết, đóng lại hết; rốt cuộc [họ] sẽ bị rớt xuống. [Người] đã khai

công cũng [có thể] bị rớt; người đã khai ngộ rồi nếu giữ [mình] không vững cũng sẽ

rớt xuống. Ông Phật kia nếu không giữ được tốt cũng rớt xuống, huống là chư vị

vốn là người luyện công ở trong người thường! Do vậy bất kể là đã xuất được bao

nhiêu công năng, công năng lớn đến mấy, thần thông hiển được lớn đến mấy, thì

chư vị nhất định phải giữ cho vững. Gần đây chúng tôi có người đang ngồi ở kia

liền [biến] mất, sau một lúc lại xuất hiện; những thần thông lớn hơn cũng đều sẽ

xuất hiện. Trong tương lai chư vị cần làm thế nào? Là học viên và đệ tử của chúng

tôi, tương lai sự việc ấy nếu chư vị xuất ra cũng vậy, người khác xuất ra cũng vậy,

chư vị không được sùng bái họ và đi cầu những thứ ấy. Hễ tâm chư vị biến đổi, thì

lập tức là hết rồi, chư vị đã rớt xuống rồi; có khi chư vị còn cao hơn họ, chỉ là chưa

xuất thần thông thôi. Ít nhất thì về vấn đề này chư vị đã bị rớt rồi; do đó mọi người

nhất định phải chú ý vấn đề này. Chúng tôi xếp chuyện này vào vị trí rất trọng yếu;

bởi vì sẽ xuất hiện sự việc này rất nhanh; hễ xuất hiện, chư vị mà không giữ mình

được vững thì không được.

Người tu luyện đã xuất hiện công, đã khai công, hoặc thật sự đã khai ngộ, cũng

không thể tự coi mình là thế này thế nọ được; những điều mà họ thấy, là những

điều thấy được tại tầng của họ. Bởi vì tu luyện đã đến bước ấy, cũng là ngộ tính của

họ đã đạt đến bước ấy, tiêu chuẩn tâm tính của họ đạt đến bước ấy, trí huệ của họ

cũng là đạt đến bước ấy. Do đó [đối với] những điều ở tầng cao hơn, họ có thể

không tin. Chính là vì họ không tin, nên mới tạo thành việc là họ cho rằng những gì

bản thân mình nhìn thấy là tuyệt đối [đúng đắn], cho rằng chính là như thế. Nhưng

nó còn sai khác nhiều, bởi vì tầng của họ chỉ ở đó thôi.

Có một số bộ phận [học viên] cần khai công ở trong tầng ấy; có tu cao lên nữa

cũng không tu lên được, do đó chỉ có thể khai công khai ngộ tại tầng đó thôi.

Những người tu luyện xuất lai sau này của chúng ta, sẽ có [người] khai ngộ tại tiểu

đạo thế gian, có [người] khai ngộ tại các tầng khác nhau, [và] có [người] khai ngộ

tại đắc chính quả. Khai ngộ tại đắc chính quả mới là tối cao, tại các tầng khác nhau

đều có thể nhìn thấy và cũng có thể hiển hiện xuất lai. Ngay [những người] tại tầng

thấp nhất tiểu đạo thế gian khai công khai ngộ, cũng có thể thấy được một số không

gian, một số Giác Giả, cũng có thể câu thông với họ. Lúc ấy chư vị không nên cảm

thấy tự hài lòng quá, [vì] theo tiểu đạo thể gian, tại tầng thấp mà khai công thì

Tâm lý hiển thị 124

không đắc được chính quả; điều này là khẳng định. Vậy cần làm sao? Họ chỉ có thể

bảo trì ở trong tầng ấy; sau này [đối với] tu luyện lên tầng cao hơn, [thì] đó là

chuyện về sau. Đã tu cao đến đó mà không khai công thì để làm gì? Dẫu rằng chư

vị cứ tu hướng lên trên như thế này, nhưng tu không lên được; do đó mới khai

công, [vì] đã tu đến đầu đỉnh rồi; sẽ xuất hiện rất nhiều người như vậy. Bất kể là

xuất hiện tình huống gì, [chư vị] nhất định phải giữ vững tâm tính; chỉ có tuân theo

Đại Pháp mà thực thi mới là thật sự đúng đắn. Công năng của chư vị cũng vậy, sự

khai công của chư vị cũng vậy, đều là trong khi tu Đại Pháp chư vị mới đắc được

[như thế]. Nếu như chư vị xếp Đại Pháp vào vị trí thứ yếu, [và] xếp thần thông của

chư vị vào vị trí trọng yếu; hoặc là người đã khai ngộ bèn cho rằng nhận thức của

bản thân mình như thế này như thế kia là đúng, thậm chí cho rằng bản thân mình

thật xuất sắc, vượt trên cả Đại Pháp, [thì] tôi nói rằng chư vị đã bắt đầu rớt xuống

phía dưới, đã nguy hiểm, sẽ càng ngày càng có vấn đề. Lúc ấy chư vị có thể thật sự

gặp rắc rối, tu lại như không; xử lý không tốt sẽ bị rớt xuống, tu đã về không rồi.

Tôi còn nói với chư vị rằng: nội dung cuốn sách này là bài giảng Pháp tại một

số lớp hợp lại. Đều là [điều] mà tôi giảng, từng câu đều là tôi giảng ra, đều là từ

băng thâu âm lấy từng chữ từng chữ mà ra, lấy từng chữ từng chữ sao chép ra, đều

là do các đệ tử, học viên của tôi đã giúp tôi sao lục lại, sau đó tôi chỉnh lý từng lượt

từng lượt. Đều là Pháp của tôi, những điều tôi giảng chính là Pháp này.

Tâm lý hiển thị 125

Bài giảng thứ bẩy

Vấn đề sát sinh

Vấn đề sát sinh rất mẫn cảm; đối với người luyện công mà nói, yêu cầu của

chúng tôi rất nghiêm khắc: người luyện công không được sát sinh. Bất kể là Phật

gia, Đạo gia, Kỳ Môn công pháp, cũng bất kể là môn nào phái nào, chỉ cần là tu

luyện chính Pháp, thì đều coi [vấn đề] này rất tuyệt đối; đều không được sát sinh;

điểm này là khẳng định. Bởi vì vấn đề xuất hiện sau khi sát sinh là quá to lớn, [nên]

chúng tôi cần nói kỹ lưỡng cho mọi người. ‘Sát sinh’, trong Phật giáo nguyên thuỷ,

là chủ yếu nói về ‘giết người’, đó là nghiêm trọng nhất. Về sau này, [giết] những

sinh mệnh lớn, súc vật lớn hoặc những sinh mệnh có phần tương đối lớn, đều được

xem là rất quan trọng. Vì sao giới tu luyện luôn luôn coi vấn đề ‘sát sinh’ là nghiêm

trọng đến như thế? Quá khứ trong Phật giáo có thuyết rằng, những [sinh mệnh] lẽ

ra không phải chết nhưng bị giết chết, sẽ thành cô hồn dã quỷ. Quá khứ giảng ‘siêu

độ’, chính là chỉ về bộ phận những người này. Không cấp siêu độ [cho họ], thì

những sinh mệnh ấy sẽ không ăn không uống, [sống] trong một hoàn cảnh rất cực

khổ; đó là điều trước đây giảng trong Phật giáo.

Chúng tôi [đã] giảng, khi một cá nhân làm một điều gì xấu nhắm vào một cá

nhân khác, thì họ phải cấp cho người ta khá nhiều đức để bồi thường; ấy là chúng

tôi chỉ những điều thông thường như chiếm hữu thứ gì đó của người khác. Nhưng

nếu bất ngờ làm kết thúc một sinh mệnh—động vật cũng vậy, [hay] sinh vật khác

cũng vậy—thì nó sẽ tạo thành một nghiệp lực khá to lớn. ‘Sát sinh’ trong quá khứ

chủ yếu nói về giết người; nghiệp tạo thành khá lớn. Tuy nhiên giết thể sinh mệnh

bình thường khác cũng không phải là nhẹ; [cũng] trực tiếp sản sinh ra nghiệp lực

rất lớn. Đặc biệt là người tu luyện, trong quá trình tu luyện, tại các tầng khác nhau

[đã] thiết lập cho chư vị một chút nạn; đó đều là nghiệp lực của bản thân chư vị, là

nạn của bản thân chư vị; giúp chư vị bày xếp tại các tầng khác nhau để chư vị đề

cao. Chư vị chỉ cần đề cao tâm tính, thì có thể vượt qua được. Nhưng nếu đột nhiên

thêm nghiệp lực lớn như thế lên đó, thì chư vị vượt qua sao đây? Dựa vào tâm tính

của chư vị, chư vị hoàn toàn không có cách vượt qua; nên có thể làm chư vị hoàn

toàn không thể tu luyện được nữa.

Chúng tôi đã phát hiện, rằng khi một cá nhân giáng sinh, thì ở trong một phạm

vi nhất định trong không gian của vũ trụ này có rất nhiều những ‘cá nhân ấy’ đồng

thời giáng sinh, cũng giống như cá nhân kia, cùng mang một tên, những việc họ

làm là đại đồng tiểu dị; do đó cũng được tính là bộ phận của toàn bộ chỉnh thể cá

nhân ấy. Khía cạnh này động chạm đến một vấn đề: nếu như một thể sinh mệnh

(các thể sinh mệnh của các động vật lớn cũng thế), mà đột nhiên bị chết, nhưng cá

nhân ấy ở các không gian khác đều chưa hề đi hết tiến trình sinh mệnh đã được đặc

định từ đầu, vẫn còn có rất nhiều năm cần phải sống. Như vậy cá nhân bị chết ấy sẽ

rơi vào hoàn cảnh không nơi tá túc, [phải] phiêu đãng trong không gian vũ trụ. Quá

khứ có giảng cô hồn dã quỷ, không ăn không uống, rất khổ; cũng có thể là như vậy.

Tuy nhiên chúng tôi thật sự nhìn thấy rằng cá nhân ấy [sống] trong một hoàn cảnh

rất đáng sợ: chính là họ phải liên tục đợi mãi, đợi cho đến khi tất cả những cá nhân

ở các không gian khác đi hết tiến trình sinh mệnh, thì mới có thể tìm được nơi tá

túc cho mình. Thời gian càng lâu, thì cá nhân ấy chịu khổ càng nhiều. Cái khổ mà

cá nhân ấy chịu càng nhiều, thì nghiệp lực do thống khổ của cá nhân ấy tạo thành

Vấn đề sát sinh 126

cũng liên tục cấp thêm lên thân của kẻ sát sinh; chư vị nghĩ xem chư vị sẽ tăng

thêm biết bao nhiêu nghiệp lực? Chúng tôi thông qua công năng mà nhìn thấy được

như thế.

Chúng tôi còn thấy một tình huống: vào lúc một cá nhân giáng sinh, thì ở trong

một không gian đặc định đều có hình thức tồn tại của một đời của cá nhân ấy; nghĩa

là, sinh mệnh của cá nhân này [khi] đến một [lúc] nào đó, [sẽ] cần phải làm gì đó,

thì ở đấy đã có hết rồi. Hỏi ai an bài một đời cho cá nhân ấy? Quá hiển nhiên, chính

là một sinh mệnh cao cấp hơn đã làm điều này. Nói thí dụ, chúng ta ở trong xã hội

người thường, sau khi họ sinh ra, họ sẽ thuộc về gia đình ấy, thuộc về trường học

ấy, lớn lên sẽ thuộc về đơn vị [công tác] ấy, thông qua công tác của mình và xã hội

sẽ có được những liên hệ về rất nhiều phương diện; tức là bố cục của chỉnh thể xã

hội đều được bố trí như thế cả. Tuy nhiên vì sinh mệnh này đột nhiên chết đi,

không còn theo sự an bài đặc định từ ban đầu, mà xảy ra thay đổi. Như vậy [đối

với] người mà đã làm loạn ấy, thì sinh mệnh cao cấp kia không tha thứ cho họ

được. Mọi người thử nghĩ xem, làm người luyện công, chúng ta muốn tu luyện lên

trên cao tầng, nhưng các sinh mệnh trên cao tầng cũng không tha thứ, vậy chư vị

còn có thể tu luyện được không? Có những sư phụ không cao tầng bằng sinh mệnh

cao cấp vốn đã an bài sự tình ấy, do đó sư phụ của họ cũng gặp tai hoạ, cũng bị

đánh hạ xuống. Mọi người thử nghĩ xem, đó có còn là một vấn đề bình thường

không? Do đó một khi làm điều [sát sinh] này thì sẽ rất khó tu luyện.

Trong các học viên Pháp Luân Đại Pháp, có thể có những người đã tham gia

chiến đấu trong những niên đại chiến tranh. Chiến tranh ấy là trạng thái do toàn bộ

đại biến hoá của thiên tượng đưa đến; chư vị bất quá chỉ là một phần tử trong trạng

thái như thế. Biến hoá của thiên tượng mà ở [xã hội] bên dưới nếu không có người

[hành] động [theo], thì cũng không thể đưa đến trạng thái như thế ở xã hội người

thường, và cũng không gọi là biến hoá của thiên tượng được. Những sự tình như

thế là tuỳ thuận theo đại biến hoá mà biến hoá, những việc ấy không thể hoàn toàn

tính là do bản thân chư vị được. Chúng tôi giảng ở đây là những việc làm xấu vì

những mưu đồ cho cá nhân, hoặc để thoả mãn lợi ích cá nhân, hoặc vì những điều

gì của bản thân bị ảnh hưởng mà mang đến nghiệp lực. Còn phàm đã liên quan đến

toàn bộ đại biến hoá của không gian, biến hoá trên hình thế rộng lớn ngoài xã hội,

thì đều không thuộc về vấn đề của chư vị.

Sát sinh sẽ tạo thành nghiệp lực rất lớn. Có người nghĩ: ‘Không được sát sinh,

vậy tôi làm cơm ở nhà, nếu tôi không sát sinh, thì người nhà tôi ăn gì?’ Tôi không

quan tâm đến vấn đề cụ thể ấy; tôi giảng Pháp cho người luyện công, chứ không

phải giảng một cách tuỳ tiện cho người thường cần sống như thế nào. Vấn đề cụ thể

nên thực hiện ra sao, cần phải dùng Đại Pháp mà cân nhắc; chư vị hiểu được làm

thế nào là tốt, thì chư vị làm như thế. Người thường muốn làm gì thì họ làm nấy; đó

là những chuyện nơi người thường; ai ai cũng đều chân tu là điều không thể.

Nhưng đã là người luyện công, thì cần phải [dùng] tiêu chuẩn cao mà yêu cầu; do

vậy ở đây là điều kiện đề xuất cho người luyện công.

Không phải chỉ có người [hay] động vật, mà cả thực vật cũng có sinh mệnh; ở

trong không gian khác bất kể vật chất nào cũng đều thể hiện xuất lai ra sinh mệnh.

Khi thiên mục của chư vị khai mở đến tầng Pháp nhãn, [thì] chư vị sẽ phát hiện

rằng mọi thứ như đá, tường đều có thể nói chuyện với chư vị, gọi chào chư vị. Có

thể có người nghĩ: ‘Vậy lương thực, rau mà chúng ta ăn đều có sinh mệnh; ở nhà

còn có nhặng xanh, muỗi thì làm thế nào?’ Mùa hè bị [muỗi] đốt rất khó chịu, nhìn

thấy nó đốt [cũng] không được đập; thấy nhặng xanh đậu vào làm bẩn đồ ăn, cũng

Vấn đề sát sinh 127

không được đánh. Tôi nói với mọi người: chúng ta không được tuỳ ý vô cớ sát hại

sinh linh. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể làm ‘kẻ quân tử’ cẩn thận những điều

nhỏ nhặt, mắt chỉ nhìn những việc nhỏ bé, đi đường cứ sợ dẫm chết kiến, [nên] phải

vừa đi vừa nhảy. Tôi nói rằng chư vị sống thế mệt mỏi lắm, đó cũng chẳng phải

chấp trước là gì? Chư vị vừa đi vừa nhảy, không dẫm chết kiến, nhưng có nhiều vi

sinh vật, chư vị cũng dẫm chết rồi. Tại vi quan còn có rất nhiều thể sinh mệnh nhỏ

hơn nữa, còn có vi khuẩn và vi trùng, có thể chư vị cũng dẫm chết chúng không ít;

như vậy [có lẽ] chúng ta đừng sống nữa. Chúng ta không phải làm người như thế,

[như thế] không cách nào tu luyện được. Phải nhìn đến những chuyện lớn, cần tu

luyện một cách đường đường chính chính.

Con người chúng ta sống thì có quyền lợi duy trì sự sinh hoạt của con người,

do đó hoàn cảnh sinh hoạt cũng phải thích ứng với yêu cầu sinh sống của con

người. Chúng ta không thể cố ý làm hại các sinh linh; nhưng chúng ta cũng không

thể câu nệ thái quá đến những sự việc nhỏ bé kia. Ví như rau và lương thực đều có

sinh mệnh, chúng ta cũng không thể vì chúng có sinh mệnh mà không ăn không

uống; như thế còn luyện công gì nữa? Cần phải xét rộng. Ví như khi chư vị đang đi

trên đường, thì kiến, côn trùng chạy vào dưới chân, và bị dẫm chết; như thế có thể

chúng cần phải chết, bởi vì chư vị không cố ý làm hại chúng. Trong giới sinh vật

hoặc trong các vi sinh vật khác cũng nói về vấn đề cân bằng sinh thái; nhiều quá thì

cũng là thái quá; do đó chúng tôi giảng tu luyện một cách đường đường chính

chính. Ở nhà có nhặng xanh, muỗi, chúng ta suỵt đuổi chúng, lắp rèm chắn không

cho chúng vào. Tuy nhiên có lúc suỵt đuổi không đi, thì đập chết là đập chết thôi.

[Tại] không gian mà con người ở, nếu chúng đốt người ta làm hại người ta thì

đương nhiên cần xua đuổi chúng đi; đuổi không đi, thì không thể coi chúng ở đó

đốt người ta [mà mặc kệ]. Chư vị là người luyện công không có e sợ, [vốn] đã có

lực đề kháng; [nhưng] người nhà chư vị không luyện công, [mà] là người thường,

còn vấn đề bệnh truyền nhiễm; cũng không thể nhìn [chúng] đốt lên mặt đứa bé mà

[vẫn] mặc kệ.

Tôi lấy một ví dụ cho chư vị, có một câu chuyện trong những năm đầu của

Thích Ca Mâu Ni. Một hôm, Thích Ca Mâu Ni cần tắm, ở trong rừng rậm ấy Ông

yêu cầu đệ tử của mình dọn sạch bồn tắm. Vị đệ tử của Ông đến coi, thấy trong bồn

tắm bám đầy côn trùng; nếu dọn sạch bồn tắm sẽ giết chết những côn trùng ấy. Đệ

tử quay lại nói với Thích Ca Mâu Ni rằng bồn tắm bám đầy côn trùng. Thích Ca

Mâu Ni không nhìn vị đệ tử này, nói một câu: ‘Con hãy đi dọn sạch bồn tắm’. Vị

đệ tử này đến chỗ bồn tắm thấy rằng không biết hạ thủ ra sao; hễ [dọn] thì côn

trùng phải chết; vị này loanh quanh một vòng rồi lại quay lại hỏi Thích Ca Mâu Ni:

‘Bạch Sư tôn, bồn tắm bám đầy côn trùng; nếu [dọn sạch] sẽ làm côn trùng kia chết

mất’. Thích Ca Mâu Ni [đưa mắt] nhìn vị ấy và nói: ‘Điều ta bảo con là hãy đi dọn

sạch bồn tắm’. Vị đệ tử này giật mình tỉnh ngộ, lập tức dọn sạch bồn tắm. Trong

[câu chuyện] này đã nói rõ một vấn đề: không thể [chỉ] vì có côn trùng, mà chúng

ta không tắm; cũng không thể [chỉ] vì có muỗi, mà chúng ta phải đi nơi khác tìm

chỗ ở; không thể [chỉ] vì lương thực cũng có sinh mệnh, rau có sinh mệnh, mà

chúng ta liền thít cổ lại không ăn không uống chi nữa. Không thể như thế được;

chúng ta cần cân bằng quan hệ này cho đúng, tu luyện một cách đường đường

chính chính; chúng ta không cố ý làm hại các sinh mệnh là được rồi. Cũng vậy, con

người cần có không gian sinh hoạt và điều kiện sinh tồn của con người, cũng cần

duy hộ [điều đó]; con người cũng cần duy trì sự sống và sinh hoạt bình thường.

Vấn đề sát sinh 128

Trong quá khứ có một số khí công sư giả giảng: ‘Mùng một, mười lăm [âm

lịch] thì có thể sát sinh’. Có người còn giảng: ‘Có thể giết những [con vật] hai

chân’, cứ như thể loài hai chân không phải là sinh linh vậy. Sát sinh vào mùng một,

mười lăm mà không tính là sát sinh, thì phải chăng là đào đất? Có những khí công

sư giả, mà từ lời nói hành vi của họ đã có thể phân biệt ra ngay; [điều] họ nói là gì,

[điều] họ truy cầu là gì; phàm là khí công sư mà có những ngôn luận như thế thì

thường là phụ thể. Chư vị [hãy] xem khí công sư có phụ thể là cáo đang ăn thịt gà

ra sao, đúng là ăn nuốt ngốn ngấu, cũng chẳng buồn nhả xương ra nữa.

Sát sinh không chỉ tạo thành nghiệp lực to lớn, mà còn liên quan đến vấn đề

tâm từ bi. Người tu luyện chúng ta chẳng phải cần có tâm từ bi? Khi tâm từ bi của

chúng ta xuất hiện, có thể thấy rằng chúng sinh đều khổ, thấy ai cũng khổ; sẽ xuất

hiện vấn đề này.

Vấn đề ăn thịt

Ăn thịt cũng là một vấn đề rất mẫn cảm, tuy nhiên ăn thịt không phải là sát

sinh. Chư vị học Pháp một thời gian lâu rồi, [nhưng] chúng tôi không hề yêu cầu

mọi người không ăn thịt. Có rất nhiều khí công sư khi mà chư vị vừa nhập học, liền

bảo chư vị rằng: ‘Bắt đầu từ bây giờ sẽ không được ăn thịt nữa’. Chư vị có thể

nghĩ: ‘Đột nhiên không được ăn thịt, tư tưởng cũng chưa được chuẩn bị. Hôm nay ở

nhà có thể có gà hầm, cá rán, dậy mùi thơm phức nhưng lại không được ăn’. Tu

luyện trong tôn giáo cũng như thế, [họ] cưỡng chế không cho ăn [thịt]. Công [pháp]

thông thường của Phật gia, một số công [pháp] của Đạo gia cũng giảng như thế:

không được ăn [thịt]. Chúng tôi tại đây không yêu cầu chư vị làm thế; tuy nhiên

chúng tôi cũng giảng về nó. Vậy chúng tôi giảng thế nào? Bởi vì công pháp của

chúng tôi là công pháp ‘Pháp luyện người’. Công pháp Pháp luyện người [này],

chính là một số trạng thái sẽ từ công, từ Pháp thể hiện ra. Trong quá trình tu luyện

các tầng khác nhau sẽ thể hiện ra các trạng thái khác nhau. Như vậy sẽ có hôm,

hoặc ngay hôm nay sau khi tôi giảng bài xong sẽ có người tiến nhập vào trạng thái

như thế này: không thể ăn thịt được; ngửi thấy rất hôi tanh, ăn vào liền thấy buồn

nôn. Không phải vì người ta khống chế chư vị hoặc chư vị tự khống chế bản thân là

không được ăn, mà [nó] xuất phát ra từ nội tâm; đến tầng ấy, từ trong công phản

ánh ra nên không thể ăn được; thậm chí nếu chư vị thật sự nuốt vào rồi, thì sẽ thật

sự nôn ra.

Những học viên lâu năm của chúng ta đều đã biết, tu luyện Pháp Luân Đại

Pháp sẽ xuất hiện trạng thái ấy, tại các tầng khác nhau sẽ phản ánh các trạng thái

khác nhau. Dục vọng [ăn thịt] của một số học viên tương đối lớn, tâm ăn thịt rất

mạnh, thường hay ăn nhiều thịt. Đến lúc mọi người đều thấy thịt tanh hôi, [thì] họ

vẫn thấy không tanh, vẫn có thể ăn được. Để họ vứt bỏ cái tâm này, thì làm sao

đây? Họ ăn thịt vào liền bị đau bụng, không ăn [thịt] thì không đau; sẽ xuất hiện

trạng thái này, nghĩa là không được ăn [thịt] nữa. Vậy phải chăng môn này của

chúng tôi từ đó trở đi là không còn dính dáng gì đến thịt nữa? Không phải thế. Hỏi

đối xử với vấn đề này như thế nào? Không thể ăn [thịt] thực sự xuất ra tự nội tâm

rằng không thể ăn. Mục đích là gì? Tu luyện trong chùa cưỡng chế chư vị không

cho ăn [thịt] và sự phản ánh không thể ăn [thịt] của chúng ta, đều là để vứt bỏ dục

vọng và tâm chấp trước của con người đối với thịt.

Có người hễ bưng bát cơm lên mà không có thịt, thì quả thực nuốt cơm không

trôi; đây là dục vọng của người thường. Một buổi sáng sớm [khi] tôi đi qua con

đường chỗ cổng sau công viên Thắng Lợi tại Trường Xuân. Có ba người từ phía

Vấn đề ăn thịt 129

cổng sau nói chuyện ầm ỹ đi ra, trong đó một người nói: ‘Luyện công gì rồi không

cho ăn thịt nữa? Tôi thà sống ít đi mười năm mà được ăn thịt còn hơn!’ Dục vọng

này quả là mạnh mẽ. Mọi người thử nghĩ xem, dục vọng ấy có nên tống khứ

không? Rõ là cần phải tống khứ rồi. Người ta trong quá trình tu luyện cần phải tống

khứ các loại dục vọng, tâm chấp trước của con người. Nói thẳng ra, nếu cái tâm ăn

thịt mà không vứt bỏ đi, thì đó chẳng phải là tâm chấp trước chưa bỏ được là gì?

Liệu có thể tu viên mãn không? Do vậy miễn là tâm chấp trước, thì cần phải tống

khứ đi. Tuy nhiên không phải từ đó trở đi vĩnh viễn không ăn [thịt] nữa; không cho

chư vị ăn thịt tự bản thân nó không phải là mục đích; mục đích là không cho chư vị

có tâm chấp trước này. Nếu trong giai đoạn thời gian không ăn được thịt, chư vị vứt

bỏ được tâm chấp trước ấy, thì sau đó lại có thể ăn thịt, ngửi cũng không thấy tanh

hôi. Ăn vào cũng không thấy khó ăn, đến lúc ấy chư vị cứ ăn thôi, không sao.

Đến khi chư vị có thể ăn [thịt trở lại], tâm chấp trước của chư vị đã mất đi rồi,

tâm dục vọng đối với thịt cũng đã mất rồi. Tuy nhiên sẽ phát sinh một biến đổi to

lớn: sau đó ăn thịt không thấy thơm nữa; [nếu] ở nhà làm [món thịt] thì cùng ăn, ở

nhà không làm [món thịt] thì cũng không nghĩ đến; ăn vào cũng không thấy có

hương vị gì; sẽ xuất hiện trạng thái này. Tuy vậy tu luyện nơi người thường rất

phức tạp, nếu ở nhà vẫn mãi cứ làm món thịt, sau một thời gian lâu rồi, chư vị ăn

vào lại cảm thấy rất có hương vị; sau đó lại lặp lại, trong toàn bộ quá trình tu luyện,

sẽ xuất hiện lặp lại nhiều lần. Đột nhiên chư vị lại không ăn được [thịt]; không ăn

được thì không ăn nữa, thật sự không ăn được, ăn vào liền muốn nôn; hãy đợi đến

khi chư vị có thể ăn được, ‘tuỳ kỳ tự nhiên’. Ăn thịt hay không ăn thịt tự bản thân

nó không phải là mục đích; vứt bỏ tâm chấp trước mới là chỗ then chốt.

Môn Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi tiến bộ tương đối nhanh; chỉ cần chư

vị đề cao tâm tính, thì đột phá từng tầng đều rất nhanh. Có người nguyên ban đầu

đối với thịt không chấp trước thái quá, có [thịt ăn] hay không cũng không thành vấn

đề. Kiểu người này qua một hai tuần liền vượt qua, liền vứt bỏ được cái tâm ấy. Có

người duy trì đến một tháng, hai tháng, ba tháng, có thể tới nửa năm; ngoài tình

huống cực kỳ đặc thù ra thì không quá một năm rồi cũng có thể ăn. Bởi vì thịt đã là

một bộ phận chủ yếu trong những đồ ăn của con người. Tuy nhiên [người] chuyên

tu trong nhà chùa không được ăn thịt.

Chúng ta giảng một chút về nhận thức [vấn đề] ăn thịt trong Phật giáo. Phật

giáo nguyên thuỷ lúc đương sơ không có giới cấm ăn thịt. Đương thời khi Thích Ca

Mâu Ni dẫn dắt các đồ đệ tu khổ [hạnh] trong rừng rậm, thì hoàn toàn không có

giới luật cấm thịt. Tại sao không có? Bởi vì vào thời Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp

hơn 2500 năm trước, xã hội nhân loại rất lạc hậu; có nhiều vùng đất có nông

nghiệp, có nhiều vùng đất chưa có nông nghiệp, diện tích đất canh tác rất ít, chỗ

nào cũng là rừng rậm. Ngũ cốc rất khan hiếm, rất ít ỏi. Con người vừa mới thoát

thai từ xã hội nguyên thuỷ, sống chủ yếu bằng săn bắt, có rất nhiều vùng đất còn

sống chủ yếu bằng ăn thịt. Để vứt bỏ [ở] mức tối đa các tâm chấp trước của con

người, Thích Ca Mâu Ni đã không cho [đồ đệ] tiếp xúc với bất kể những thứ gì như

tài, vật; [Ông] dẫn dắt các đệ tử đi xin ăn, đi hoá duyên. Người ta cấp cho gì thì ăn

nấy; là người tu luyện thì cũng không thể lựa chọn đồ ăn; trong đồ ăn được cấp có

thể có thịt.

Tại Phật giáo nguyên thuỷ còn có thuyết pháp về ‘giới huân’. Giới huân chính

là từ Phật giáo nguyên thuỷ, tuy nhiên hiện tại lại nói rằng ăn thịt là thuộc về huân.

Kỳ thực thời ấy huân không phải nói về thịt, [mà] là chỉ nói về những thứ như

hành, gừng, tỏi. Vì sao coi chúng là ‘huân’? Hiện nay có nhiều tăng nhân không

Vấn đề ăn thịt 130

thuyết minh [điều này] được rõ, bởi vì có nhiều người trong số họ không giảng thực

tu, [và] cũng không biết được nhiều điều. Điều Thích Ca Mâu Ni truyền gọi là

“Giới Định Huệ”. Giới là giới [cấm] hết thảy những dục vọng của người thường;

Định là nói về người tu luyện hoàn toàn ở trong thiền định, trong đả toạ mà tu

luyện, cần hoàn toàn nhập định. Hết thảy những thứ can nhiễu làm cho không thể

nhập định, không thể tu luyện đều được coi là những can nhiễu nghiêm trọng; ai mà

ăn hành, gừng, tỏi đều có mùi rất mạnh. Thời bấy giờ các tăng nhân ở trong rừng

rậm, sơn động, cứ bẩy hoặc tám vị [ngồi] thành một vòng; ngồi đả toạ thành từng

vòng từng vòng. Nếu như ai ăn thứ đó, thì sẽ sinh ra mùi vị có kích thích rất mạnh,

làm ảnh hưởng đến đả toạ, ảnh hưởng đến người khác nhập định, can nhiễu nghiêm

trọng đến luyện công của người ta. Do vậy đã có giới luật ấy, coi những thứ ấy là

‘huân’, không cho phép ăn chúng. Rất nhiều thể sinh mệnh tu luyện xuất ra ở trên

thân thể người [tu] đều thấy khó chịu cái mùi vị nặng nề ấy. Hành, gừng, tỏi đều có

thể kích thích người ta phát sinh dục vọng; ăn nhiều cũng gây nghiện; do đó chúng

bị coi là huân.

Quá khứ có rất nhiều tăng nhân sau khi tu luyện đến tầng rất cao, lọt vào trạng

thái khai công hoặc bán khai công, [họ] cũng biết rằng giới luật kia trong quá trình

tu luyện cũng không có nghĩa gì. Nếu sau khi có thể vứt bỏ cái tâm ấy rồi, thì

những thứ vật chất kia tự bản thân nó không có tác dụng gì; còn điều thật sự can

nhiễu đến người ta chính là cái tâm ấy. Do đó các cao tăng trong quá khứ cũng thấy

rằng vấn đề người ta ăn thịt không phải là vấn đề then chốt nào hết; vấn đề then

chốt là có thể vứt bỏ cái tâm kia hay không; [nếu] không có tâm chấp trước thì ăn

gì cho đầy bao tử cũng được. Bởi vì trong chùa đã tu luyện như thế từ xưa đến nay,

rất nhiều người đã quen như thế. Hơn nữa nó cũng không còn đơn thuần là vấn đề

giới luật, mà đã thành một chế độ ghi rõ trong các chùa: hoàn toàn không được ăn

[thịt]; người ta đã quen với tu như thế rồi. Chúng ta nói về hoà thượng Tế Công;

trong các tác phẩm nghệ thuật [ông] được [người ta] làm cho rất nổi [tiếng]; hoà

thượng phải cấm thịt, nhưng ông lại ăn thịt, [điều ấy] làm ông trở nên rất khác

thường. Thực ra sau khi Tế Công bị trục xuất khỏi chùa Linh Ẩn, thì đồ ăn đương

nhiên trở thành vấn đề rất chủ yếu của ông, cuộc sống trở nên nguy khốn. Để lấp

cho đầy bao tử, ông kiếm được gì liền ăn nấy, chỉ cần nạp đầy bao tử là được rồi;

không có chấp trước vào bất kể đồ ăn nào, thì không sao cả. Khi tu luyện đến đó,

ông đã hiểu rõ đạo lý này; thực ra Tế Công cũng bất quá ăn thịt đôi lần thôi. Hễ nói

hoà thượng ăn thịt, các nhà viết văn liền thấy hứng thú lắm; đề tài nào càng giật

gân, thì càng làm cho người ta muốn xem; các tác phẩm văn nghệ là nguyên lấy từ

cuộc sống và thổi phồng cuộc sống lên, rồi đưa ra tuyên truyền. Thực ra điều thật

sự cần vứt bỏ là các tâm chấp trước; [còn] để lấp cho đầy bao tử thì ăn gì cũng

không thành vấn đề.

Tại Đông Nam Á hoặc tại phía Nam nước ta, Quảng Tây và Quảng Đông, có

một số cư sỹ khi nói chuyện, họ không nói là ‘tu Phật’, như thể là danh từ ‘tu Phật’

lỗi thời quá; họ nói là họ ăn trai tịnh, ăn chay; ngụ ý tức là ‘ăn chay tu Phật’. Họ coi

việc tu Phật thành điều đơn giản như thế. Ăn chay có thể tu Phật chăng? Như mọi

người đã biết, đó chỉ là một chấp trước, dục vọng của người thường, chỉ là một cái

tâm, chỉ vứt bỏ được một cái tâm. Còn phải bỏ tâm tật đố, tâm tranh đấu, tâm hoan

hỷ, tâm hiển thị, các loại tâm; tâm người ta rất nhiều, tất cả các tâm, các loại dục

vọng, đều phải vứt bỏ, thì mới có thể đạt đến tu luyện viên mãn. Còn chỉ vứt bỏ

được cái tâm ‘ăn thịt’, thì có thể tu Phật là sao? Cách nói này không đúng.

Vấn đề ăn thịt 131

Con người trong vấn đề ăn thì không chỉ là ăn thịt; chấp trước đối với bất kể đồ

ăn nào cũng là không được; những thứ khác cũng như thế. Có người nói ‘tôi rất

thích ăn thứ này’; đó cũng là dục vọng; người tu luyện sau khi đến một trình độ

nhất định, sẽ không có cái tâm ấy nữa. Đương nhiên Pháp chúng tôi giảng là rất

cao, là kết hợp [từ] các tầng mà giảng; [chư vị] không thể lập tức đạt đến điểm này

được. Giả sử chư vị muốn ăn một thứ nào đó, thì khi tu luyện đã thật sự đến lúc

phải bỏ cái tâm ấy, thì chư vị sẽ không thể ăn [nó] nữa; chư vị ăn vào sẽ thấy chẳng

đúng vị nữa, có khi chẳng ra vị gì. Hồi tôi còn đi làm ở đơn vị [công tác], nhà ăn

của đơn vị cứ thua lỗ mãi, sau đó phải đóng cửa. Đóng cửa rồi thì anh chị em phải

mang cơm đi. Sáng sớm làm cơm, rồi vội vội vàng vàng đi làm rất nhọc sức. Đôi

lúc [tôi] mua hai cái bánh bao, một miếng đậu phụ chấm tương. Về lý mà xét thì đó

là món rất thanh đạm cũng khả dĩ; [nhưng] cứ ăn thế mãi cũng không được, cũng

cần vứt bỏ cái tâm ấy. Chư vị vừa nhìn thấy món đậu phụ, liền cảm thấy buồn nôn;

nếu ăn nữa cũng không ăn được; cũng e rằng chư vị sẽ sản sinh tâm chấp trước.

Tuy nhiên đó là phải sau khi tu luyện đến một trình độ nhất định; lúc mới bắt đầu sẽ

không như thế.

Phật gia không giảng uống rượu, chư vị thấy ông Phật nào mang theo bình

rượu không? Không. Tôi nói rằng không thể ăn thịt; sau khi ở nơi người thường vứt

bỏ tâm chấp trước ấy rồi, thì tương lai ăn [thịt] trở lại không thành vấn đề. Tuy

nhiên đã giới [cấm] rượu rồi là sau đó không được uống nữa. Trên thân người luyện

công chẳng phải có công? Công các loại hình thái, có những công năng hiển hiện

trên bề mặt thân thể chư vị, đều là thuần tịnh. Hễ chư vị uống rượu, thì “vù” một

cái [chúng] lập tức đều rời khỏi thân thể; ngay trong nháy mắt chư vị chẳng còn gì

nữa; ai cũng sợ cái mùi vị này. Nếu chư vị nhiễm thói quen ấy thì rất gay; uống

rượu vào là loạn tính. Vì sao có một số [người] tu luyện Đại Đạo phải uống rượu?

Vì họ không tu luyện chủ nguyên thần, [rượu] là để đánh mê chủ nguyên thần.

Có người quý rượu như [sinh] mệnh vậy, có người chỉ thích có rượu, có người

uống đến mức bị đầu độc trong rượu, không có rượu thì thậm chí chẳng thể nâng

nổi bát cơm, không uống không [chịu] được. Người luyện công chúng ta không nên

như thế. Uống rượu khẳng định là gây nghiện, nó là dục vọng chà xát, kích thích

lên thần kinh gây nghiện của người ta; càng uống nghiện càng nặng. Làm người

luyện công, chúng ta thử nghĩ xem, tâm chấp trước ấy có nên vứt bỏ đi không?

Tâm ấy cũng cần phải bỏ. Có người nghĩ: ‘Không được đâu, tôi phải đón tiếp tiễn

đưa [khách]’, hoặc ‘Tôi chuyên trách liên hệ công tác [giao dịch] bên ngoài, không

uống rượu thì không làm tốt công việc được’. Tôi nói rằng không như vậy; khi bàn

công việc kinh doanh, nhất là bàn việc kinh doanh với người nước ngoài; chư vị gọi

đồ uống, người này gọi nước khoáng, người kia gọi bia. Không ai ép chư vị uống

[rượu]; chư vị tự chọn tự uống, uống bao nhiêu thì uống; nhất là trong những người

trí thức, lại càng không có chuyện ấy; thông thường là như vậy.

Hút thuốc cũng là chấp trước, có người nói rằng hút thuốc có thể làm tinh thần

tỉnh táo; tôi nói rằng đó là tự dối mình dối người. Có người làm việc đến lúc mệt

hoặc giả viết sách đến lúc mệt mỏi, bèn muốn nghỉ một lát hút điếu thuốc; họ liền

cảm thấy rằng hút thuốc xong thì tinh thần lại tỉnh táo lại. Thực ra không phải vậy,

lý do là vì họ đã nghỉ một lúc. Tư tưởng của người ta có thể tạo thành một cảm giác

sai, còn gây ra một ảo giác. Như vậy về sau thực sự hình thành quan niệm [như

thế], hình thành cảm giác sai [như thế]; chư vị cảm thấy dường như hút thuốc làm

tinh thần tỉnh táo lên; [thực ra] hoàn toàn không phải, nó không có tác dụng. Đối

với thân thể con người thì hút thuốc không có chút gì tốt cả; một cá nhân hút thuốc

Vấn đề ăn thịt 132

một thời gian lâu, đến lúc bác sỹ giải phẫu thân thể người ấy, thì thấy khí quản đều

là đen, trong phổi đều đã thành đen.

Những người luyện công chúng ta chẳng phải giảng tịnh hoá thân thể? Chẳng

phải liên tục tịnh hoá thân thể, liên tục phát triển hướng lên cao tầng. Vậy mà chư

vị lại rước những thứ ấy vào trong thân thể, chẳng phải chư vị [làm] ngược hẳn với

chúng tôi? Ngoài ra nó còn là một loại dục vọng rất mạnh mẽ. Có người cũng biết

rằng nó không tốt, nhưng không cai hẳn được. Thực ra tôi nói với mọi người rằng

[vì] họ chưa có một tư tưởng thích đáng chỉ đạo [cho việc này]; nên họ muốn bỏ nó

như vậy không dễ. Làm người tu luyện, từ nay chư vị hãy coi đó là một tâm chấp

trước và bỏ nó đi, [rồi] chư vị thử xem có thể cai hẳn được không. Tôi khuyên mọi

người, rằng ai thật sự muốn tu luyện [thì] từ nay trở đi [hãy] cai hẳn thuốc lá, bảo

đảm chư vị có thể cai hẳn được. Tại trường [năng lượng] của lớp học tập này không

có ai nghĩ đến hút thuốc; nếu chư vị muốn cai, đảm bảo chư vị có thể cai; chư vị hễ

cầm [điếu] thuốc hút trở lại [thì] sẽ không thấy đúng mùi vị nữa. Chư vị đọc sách

đọc bài giảng này, cũng sẽ có tác dụng ấy. Tất nhiên nếu chư vị không muốn tu

luyện, thì chúng tôi cũng không quản; làm một người tu luyện, tôi nghĩ rằng chư vị

cũng nên cai bỏ nó đi. Tôi từng lấy ví dụ này: chư vị thấy có ông Phật, ông Đạo

ngồi ngậm điếu thuốc lá không? Đâu có chuyện ấy? Làm người tu luyện, mục tiêu

của chư vị là gì? Chẳng phải chư vị cần cai hẳn nó ư? Do đó tôi giảng rằng chư vị

muốn tu luyện, thì chư vị phải cai hẳn nó đi; nó làm hại thân thể chư vị, hơn nữa lại

là một thứ dục vọng, hoàn toàn trái ngược với yêu cầu của những người tu luyện

chúng ta.

Tâm tật đố

Khi giảng Pháp tôi thường hay giảng vấn đề tâm tật đố. Vì sao? Bởi vì tâm tật

đố biểu hiện cực kỳ mạnh mẽ ở Trung Quốc, mạnh mẽ đến mức đã trở thành tự

nhiên, bản thân không cảm giác thấy. Tại sao người Trung Quốc có tâm tật đố

mạnh mẽ đến như vậy? Nó có căn nguyên [của nó]. Người Trung Quốc trong quá

khứ chịu ảnh hưởng của Nho giáo rất sâu sắc, tính cách rất hướng nội; nóng giận

không biểu hiện ra, cao hứng cũng không biểu hiện ra; [họ] giảng hàm dưỡng,

giảng Nhẫn. Bởi vì đã thành tập quán là như vậy, do đó toàn bộ dân tộc chúng ta

đều hình thành tính cách rất hướng nội. Tất nhiên nó có chỗ tốt, không để lộ tài

năng bên trong. Nhưng cũng tồn tại những điều dở, có thể mang đến những trạng

thái không tốt. Đặc biệt đã đến thời kỳ mạt Pháp, thì bộ phận không tốt ấy lại biểu

hiện nổi cộm hơn nữa, cũng có thể làm cho người ta tăng trưởng tâm tật đố. Ai có

điều tốt mà biểu lộ ra, thì người khác lập tức [ganh tỵ] tật đố đến mức khó chịu; ở

trong đơn vị [công tác] hoặc ngoài đơn vị mà được thưởng, hay được điều gì tốt thì

về không dám nói năng gì, [e rằng] người khác biết sẽ thấy bất bình trong tâm.

Người Tây phương gọi đó là ‘tật đố Đông phương’, cũng gọi là ‘tật đố châu Á’.

Toàn bộ vùng châu Á đều chịu ảnh hưởng của Nho giáo tương đối sâu sắc, ít nhiều

là như thế; còn riêng Trung Quốc chúng ta thì biểu hiện rất mạnh mẽ.

Điều này có quan hệ đến chủ nghĩa bình quân tuyệt đối mà chúng ta thực thi

trước đây; ‘dù sao trời sập thì mọi người đều chết; có gì tốt thì mọi người chia đều

nhau; lương tăng mấy phần trăm thì mỗi người đều có phần’. Tư tưởng này xem ra

thật là đúng, ai ai cũng như nhau. Kỳ thực làm sao mà như nhau được? Công tác

thực thi là khác nhau, mức độ chức vụ trách nhiệm cũng khác nhau. Vũ trụ này của

chúng ta còn một [Pháp] lý, gọi là ‘bất thất bất đắc, đắc tựu đắc thất’. Trong người

thường còn giảng ‘không làm không được, làm nhiều được nhiều, làm ít được ít’,

Tâm tật đố 133

phó xuất nhiều, thì nên được nhiều. Trước đây thực thi chủ nghĩa bình quân tuyệt

đối, giảng rằng dẫu cá nhân nào thì sinh ra là đều như nhau, hậu thiên [mới] cải

biến người ta. Tôi nói rằng thuyết ấy quá tuyệt đối; cái gì quá tuyệt đối thì không

còn đúng nữa. Cớ sao người ta sinh ra có nam có nữ? Lớn lên trông khác nhau? Có

người sinh ra đã có bệnh, dị dạng; [người ta khi sinh đã] khác nhau. Chúng tôi từ

trên cao tầng mà nhìn, [thấy rằng] tại không gian khác [đã] tồn tại một đời người

sắp đặt ở đó; hỏi có thể như nhau không? Cứ muốn rằng bình quân, [nhưng] trong

đời của họ không có [thứ ấy], thì bình quân sao đây? [Người ta là] khác nhau.

Người ở các nước phương tây có tính cách tương đối hướng ngoại; cao hứng có

thể nhận thấy, nóng giận cũng có thể nhận thấy. Họ có chỗ tốt của họ, nhưng cũng

có chỗ dở của họ, không thể nhẫn nại. Hai loại quan niệm tính cách khác nhau, thực

thi sự việc sẽ sinh ra hiệu quả khác nhau. Người Trung Quốc nếu được lãnh đạo

biểu dương, hoặc cấp cho chư vị thứ tốt nào đó, thì người khác sẽ bất bình trong

tâm. Nếu được thưởng nhiều hơn, thì bản thân [họ] len lén cất ngay vào túi, không

thể để người khác biết. Hiện nay làm người gương mẫu trong lao động không dễ:

‘Anh là lao động gương mẫu thì anh làm được rồi; anh phải đến sớm về muộn,

những việc ấy anh làm đi; anh làm được tốt, còn chúng tôi không được’, giễu cợt

châm chọc [như thế]; làm người tốt không dễ.

Nếu ở nước ngoài thì sẽ khác biệt rõ ràng. Thủ trưởng thấy vị này hôm nay làm

việc tốt, thưởng cho vị ấy nhiều hơn. Vị ấy sẽ vô cùng thích thú ở ngay trước mặt

mọi người mà đếm từng tờ tiền một: ‘A, hôm nay thủ trưởng cho tôi nhiều tiền

chưa này’, [vị ấy] mừng rỡ đếm từng tờ bảo cho mọi người, vị ấy cũng không có

hậu quả gì. Còn nếu ở Trung Quốc, nếu có người được thưởng, thì cả lãnh đạo cũng

bảo chư vị cất ngay đi, chớ để người khác trông thấy. Ở nước ngoài, một đứa trẻ

được 100 điểm ở trường, nó sướng quá vừa chạy vừa la lớn: ‘Hôm nay con được

100 điểm, hôm nay con được 100 điểm!’ Một mạch từ trường chạy về nhà. Hàng

xóm sẽ mở cửa nói: ‘Này Tom, giỏi đấy, thằng bé giỏi đấy!’ Người kia sẽ mở cửa

sổ nói: ‘Này Jack, cháu khá lắm!’ Nếu điều này xảy ra ở Trung Quốc thì quả là

hỏng hẳn: ‘Con được 100 điểm, con được 100 điểm!’ đứa trẻ từ trường chạy về

nhà, thì cửa nhà [hàng xóm] chưa mở, trong nhà [người ta] đã nguyền rủa rồi: ‘Có

gì là ghê gớm thế, được 100 điểm? Sĩ diện! Ai chưa từng được 100 điểm kia chứ!’

Hai loại quan niệm bất đồng sẽ dẫn đến những hiệu quả khác nhau. Nó có thể dẫn

đến tâm tật đố: người khác nếu [có điều gì] tốt, thì thay vì cảm thấy mừng cho họ,

người ta lại thấy bất bình trong tâm. Nó sẽ xuất hiện vấn đề này.

Chủ nghĩa bình quân tuyệt đối thực thi mấy năm trước đây, quả thực đã làm

loạn bậy quan niệm tư tưởng con người. Lấy thí dụ cụ thể thế này. Một cá nhân tại

đơn vị [công tác], anh ta thấy rằng người khác đều không bằng mình, anh ta làm gì

cũng được tốt, nhận rằng [mình] thật xuất sắc. Anh ta tự nhủ: ‘Để mình làm giám

đốc hay tổng giám đốc nhà máy, mình cũng làm tốt; chức vụ cao hơn thế mình

cũng có thể làm; mình có thể làm bộ trưởng cũng được’. Lãnh đạo cũng có thể nói

rằng anh này rất khá, làm gì cũng tốt. Các bạn đồng sự cũng có thể nói, rằng anh ta

rất giỏi, biết việc, có tài năng. Tuy nhiên ngay trong tổ [công tác] hoặc cùng phòng

của anh này có một cá nhân, làm gì cũng không thành, làm gì cũng không nên. Rồi

một hôm, cá nhân không có năng lực kia lại được đề bạt làm cán bộ, chứ không

phải anh ta, hơn nữa lại làm lãnh đạo của chính anh ta. Anh này thấy rất bất bình

trong tâm, gặp cả trên cả dưới để trình bày, thấy rất căm phẫn bất bình, [ghen tức]

tật đố rất khó chịu.

Tâm tật đố 134

Tôi giảng [Pháp] lý này cho mọi người, [Pháp] lý mà người thường không thể

nhận thức ra được: chư vị thấy rằng mình làm gì cũng được, [nhưng] mệnh của chư

vị không có [nó]; anh ta làm gì cũng không nên, [nhưng] mệnh của anh ta có [nó],

nên anh ta sẽ làm lãnh đạo. Bất kể người thường suy nghĩ thế nào, đó chỉ là cách

nghĩ của người thường. Với sinh mệnh trên tầng cao hơn mà xét, rằng sự phát triển

của xã hội nhân loại, chẳng qua chỉ là sự phát triển chiểu theo quy luật phát triển

đặc định mà thôi; do đó [về việc] người ta trong đời làm gì, họ có thể không an bài

cho chư vị chiểu theo bản sự của chư vị. Trong Phật giáo giảng ‘nghiệp lực luân

báo’: họ chiểu theo nghiệp lực của chư vị mà an bài cho chư vị; bản sự của chư vị

có lớn đến mấy, [nhưng] chư vị không có đức, thì có thể cả đời chư vị chẳng có gì.

Chư vị thấy rằng vị kia làm gì cũng không nên, [nhưng] đức của vị ấy lớn, [thì] vị

ấy làm đại quan, phát đại tài. Người thường không nhìn thấy điểm này, họ cứ cho

rằng bản thân họ cần phải làm chính những gì bản thân cần làm. Do vậy họ một đời

tranh đấu ngược xuôi; cái tâm ấy bị tổn thương rất lớn, cảm thấy thật khổ, thật mệt,

luôn bất bình trong tâm. Ăn không ngon, ngủ không yên, tâm ý nguội lạnh như tro

tàn; khi về già, làm cho thân của mình thật tàn tạ, các thứ bệnh tật xuất hiện.

Như vậy những người tu luyện chúng ta lại càng không nên thế; những người

tu luyện chúng ta giảng ‘tuỳ kỳ tự nhiên’; cái gì của chư vị thì sẽ không mất, cái gì

không của chư vị thì chư vị [dù có] tranh [giành] cũng không được. Tất nhiên cũng

không tuyệt đối. Nếu tuyệt đối đến vậy, thì không tồn tại vấn đề con người làm điều

xấu, vậy nghĩa là nó cũng còn tồn tại một số nhân tố bất ổn định. Tuy nhiên chúng

ta là người luyện công, thì về lý là do Pháp thân của Sư phụ quản; người khác có

muốn lấy thứ gì của chư vị thì cũng không lấy được. Do đó chúng ta giảng ‘tuỳ kỳ

tự nhiên’; có lúc chư vị thấy rằng thứ ấy là [của] chư vị, người ta cũng nói với chư

vị rằng thứ ấy là [của] chư vị; kỳ thực nó không phải [của] chư vị. Chư vị có thể

cho rằng đó là của mình, [nhưng] rốt cuộc nó lại không phải của chư vị; qua đó

thấy được rằng đối với sự việc này chư vị có thể vứt bỏ được không; vứt bỏ không

được thì chính là tâm chấp trước; chính là dùng cách này để chư vị vứt bỏ tâm

[chấp trước] vào lợi ích ấy; chính là vấn đề này. Bởi vì người thường không ngộ

được [Pháp] lý này, nên với lợi ích trước mắt mà tranh mà đấu.

Tâm tật đố phản ánh tại cõi người thường quả là rất ghê gớm, tại giới tu luyện

xưa nay cũng phản ánh khá nổi cộm. Giữa các công phái không chịu phục nhau;

‘công của ông tốt, công của họ tốt’, bàn luận chỗ hay chỗ dở đều có cả; tôi thấy

rằng đó đều cùng ở tầng chữa bệnh khoẻ người thôi. Các [công phái] đấu với nhau

đại đa số đều là những công loạn bậy do phụ thể mang đến, [họ] cũng không giảng

tâm tính. Có người luyện công luyện đến trên 20 năm vẫn chưa xuất hiện công

năng, người khác vừa luyện liền xuất hiện công năng; tâm lý vị kia liền thấy bất

bình: ‘Tôi luyện công trên 20 năm rồi, tôi vẫn chưa xuất công năng; anh ta xuất

công năng, anh ta xuất công năng nào vậy?’ Trong tâm vị ấy bị thương tổn: ‘Anh ta

bị phụ thể rồi, tẩu hoả nhập ma rồi!’ [Khi] khí công sư mở lớp [giảng bài], có vị kia

ngồi đó không phục: ‘A, khí công sư nào vậy, tôi chẳng buồn nghe mấy thứ đồ của

ông ta’. Có thể là khí công sư thật sự giảng không hay bằng vị kia, nhưng điều khí

công sư ấy giảng là những điều trong môn của bản thân ông ta. Còn vị kia thì cái gì

cũng học, có cả chồng chứng chỉ tốt nghiệp, có khí công sư nào mở lớp [giảng] vị

ấy cũng đến tham dự, vị này quả thực biết rất nhiều, còn biết nhiều hơn cả khí công

sư kia. Nhưng nào có tác dụng gì? Đều là thứ chữa bệnh khoẻ người thôi, vị này

càng trang bị ôm đồm nhiều thứ, thì tín tức lại càng loạn, càng phức tạp, càng

không tu được, đều đã loạn lung tung hỏng cả. Tu luyện chân chính giảng chuyên

Tâm tật đố 135

nhất, không xuất hiện thiên sai nào hết. Người tu Đạo chân chính cũng có phản ánh

[vấn đề tâm tật đố] này, đối với nhau không phục; [nếu] tâm tranh đấu không bỏ,

cũng dễ sinh ra tâm tật đố.

Chúng ta nói về truyện «Phong Thần diễn nghĩa», trong đó có ông Thân Công

Báo thấy rằng Khương Tử Nha vừa già vừa không có bản sự gì; tuy nhiên Nguyên

Thuỷ Thiên Tôn lại cho Khương Tử Nha [được đi] phong Thần. Trong tâm Thân

Công Báo thấy bất bình: ‘Để ông ấy phong Thần là sao? Các vị thấy tôi Thân Công

Báo này thật lợi hại, đầu của tôi cắt rơi xuống rồi lại đặt lên được, tại sao không để

tôi phong Thần?’ Ông ta tật đố quá không chịu được, cứ mãi theo loạn phá Khương

Tử Nha.

Thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật giáo nguyên thuỷ có giảng công năng, hiện nay

trong Phật giáo không có ai dám giảng công năng nữa. Nếu chư vị giảng công

năng, họ sẽ nói chư vị tẩu hoả nhập ma. Công năng là cái gì vậy? Họ hoàn toàn

không thừa nhận. Vì sao? Hoà thượng hiện nay hoàn toàn không biết đó là gì.

Thích Ca Mâu Ni có mười đại đệ tử, [trong đó] Mục Kiền Liên được Ông nói là đệ

nhất về thần thông. Thích Ca Mâu Ni cũng có các nữ đệ tử, trong đó một người tên

là Liên Hoa Sắc, cũng là thần thông đệ nhất. Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc

cũng lại như thế, trong lịch sử có nhiều cao tăng, khi Đạt Ma đến Trung Quốc là

bằng một cọng lau vượt sông. Tuy nhiên khi lịch sử phát triển thì thần thông càng

ngày càng bị bài xích. Nguyên nhân chủ yếu là những vị như đại hoà thượng, hoà

thượng trụ trì, phương trượng trong chùa không nhất định là những người đại căn

cơ; dẫu họ làm phương trượng, làm đại hoà thượng, nhưng đó chẳng qua chỉ là

chức vị ở nơi người thường, họ cũng là người còn đang trong tu luyện; họ bất quá

chỉ là [người tu] chuyên nghiệp thôi. Chư vị [tu] ở nhà là nghiệp dư. Tu thành được

hay không là tuỳ vào cái tâm này mà tu, đều như nhau, kém một chút là không

được. Tuy nhiên tiểu hoà thượng làm cơm ở nhà bếp lại không nhất định là người

tiểu căn cơ. Tiểu hoà thượng ấy càng chịu khổ thì càng dễ khai công, còn đại hoà

thượng kia càng hưởng thụ càng khó khai công, bởi vì [ở đây] có vấn đề chuyển

hoá nghiệp lực. Tiểu hoà thượng thường xuyên vừa khổ vừa nhọc, hoàn nghiệp sẽ

nhanh, nên khai ngộ mau chóng; có lẽ đến một hôm vị này lập tức khai công. Hễ

khai công, khai ngộ hoặc giả bán khai ngộ, thì thần thông xuất lai; các hoà thượng

trong chùa đều đến hỏi vị này, mọi người đều bội phục vị này. Tuy nhiên trụ trì

không chịu nổi: ‘Tôi còn là trụ trì nữa không, khai ngộ là cái chi vậy? Anh ta bị tẩu

hoả nhập ma rồi, trục xuất anh ta đi thôi’. Và đuổi [anh ta] khỏi chùa. Dần dần

trong Phật giáo ở vùng đất người Hán chúng ta không còn ai dám bàn về công

năng. Chư vị thấy Tế Công với bản sự lớn thế, chuyển gỗ từ núi Nga Mi, từ trong

giếng ném từng khúc từng khúc lên trên, nhưng rốt cuộc vẫn bị trục xuất khỏi chùa

Linh Ẩn

1

.

Vấn đề tâm tật đố rất nghiêm trọng, bởi vì nó liên quan trực tiếp đến vấn đề

chúng ta có thể tu viên mãn được hay không. Nếu tâm tật đố không dứt bỏ, thì hết

thảy các tâm người ta tu luyện được đều biến thành yếu nhược. Có một quy định,

rằng trong tu luyện nếu người ta không vứt bỏ được tâm tật đố thì không đắc chính

quả, tuyệt đối không đắc chính quả. Trước đây có thể chư vị đã nghe thuyết rằng

Phật A Di Đà giảng về việc mang theo nghiệp khi vãng sinh; [nhưng] nếu tâm tật

đố không bỏ thì không được. Nếu phương diện khác còn kém chút ít, mang theo đôi

chút nghiệp vãng sinh, rồi tu tiếp, điều ấy có thể được, nhưng nếu tâm tật đố không

bỏ thì tuyệt đối không thể. Hôm nay tôi giảng [điều này] với những người luyện

1 Núi Nga Mi cách xa khoảng một nghìn dặm tính đến chùa Linh Ẩn, nơi có cái giếng được kể đến.

Tâm tật đố 136

công, chư vị chớ có chấp mê bất ngộ như thế; nếu chư vị muốn đạt mục đích tu

luyện lên cao tầng, thì tâm tật đố nhất định phải vứt bỏ. Do vậy chúng tôi giảng

riêng về phần này như vậy.

Vấn đề trị bệnh

Bàn về trị bệnh, [tôi] không dạy chư vị trị bệnh. Các đệ tử chân tu của Pháp

Luân Đại Pháp không ai được trị bệnh cho người ta; hễ chư vị trị bệnh, thì tất cả

những gì của Pháp Luân Đại Pháp mang trên thân chư vị đều sẽ bị Pháp thân của

tôi thu hồi toàn bộ. Vì sao coi vấn đề này nghiêm trọng như vậy? Bởi vì đó là một

hiện tượng phá hoại Đại Pháp. Không chỉ làm tổn hại đến thân thể của bản thân chư

vị; có người một khi đã khám bệnh là muốn thế mãi, gặp ai cũng muốn lôi vào coi

bệnh cho người ta, [để] hiển thị bản thân; đó chẳng phải là tâm chấp trước là gì?

Ảnh hưởng nghiêm trọng đến tu luyện của mọi người.

Có rất nhiều khí công sư giả nắm bắt được tâm lý của người thường, rằng sau

khi học khí công liền muốn coi bệnh cho người, nên [họ] dạy chư vị những điều ấy.

Nói rằng phát khí có thể trị bệnh, nói vậy chẳng phải là nói đùa? Chư vị là khí, họ

cũng là khí, chư vị phát khí là có thể trị bệnh cho người ta sao? Có khi khí của

người ta lại trị cho chư vị cũng nên! Giữa khí với nhau không có tác dụng chế ước.

Khi tu luyện tại cao tầng người ta [có thể] xuất công, [thứ] phát xuất ra là vật chất

cao năng lượng, nó thực sự có thể trị bệnh, có thể ước chế bệnh, có thể có tác dụng

ức chế; nhưng vẫn không thể trừ tận gốc. Do đó [để] thật sự có thể trị bệnh, phải có

công năng mới có thể trị bệnh triệt để. Mỗi một loại bệnh đều có một loại công

năng trị liệu nhắm vào bệnh ấy; chỉ riêng về các công năng trị bệnh, tôi nói rằng có

trên nghìn loại, có bao nhiêu bệnh thì có bấy nhiêu công năng để trị. Nếu không có

công năng ấy, thì tay chư vị có xuất chiêu gì cũng vô dụng.

Mấy năm gần đây một số người đã gây bao hỗn loạn trong giới tu luyện.

Những khí công sư xuất hiện để thật sự chữa bệnh khoẻ người, những khí công sư

khai thuỷ mở con đường ấy, [trong số họ] hỏi nào có ai dạy người ta đi trị bệnh?

[Họ] đều chỉ giúp chư vị chữa bệnh hoặc dạy chư vị tu luyện thế này thế kia, rèn

luyện thân thể như thế này thế kia, dạy chư vị một bộ công pháp, sau đó chư vị

thông qua việc tự mình rèn luyện mà khỏi bệnh. Về sau các khí công sư giả xuất

hiện làm thành ô yên chướng khí, hễ ai muốn trị bệnh đều chiêu mời phụ thể, nhất

định là như vậy. Tại hoàn cảnh thời ấy cũng có một số khí công sư khám bệnh, đó

là để phối hợp với thiên tượng lúc bấy giờ. Tuy nhiên đó không phải là kỹ năng của

người thường, không thể duy trì mãi như thế, đó là thiên tượng biến hoá vào thời ấy

mà thành như vậy, đó là sản phẩm của thời ấy. Về sau [những người] chuyên môn

dạy người ta đi trị bệnh, đã làm loạn cả lên. Một người thường [sau] ba ngày, năm

ngày liền có thể trị bệnh là sao? Có người nói: ‘Tôi có thể trị bệnh này, bệnh kia’.

Tôi nói với chư vị, rằng phàm là như thế đều có mang theo phụ thể, chư vị có biết

đằng sau lưng chư vị có gì nằm ở đó không? Chư vị có phụ thể, mà bản thân chư vị

không cảm thấy, chư vị không biết, chư vị lại cho là tốt lắm, cho rằng bản thân

mình có bản sự.

Các khí công sư chân chính phải trải qua bao nhiêu năm khổ tu, mới có thể đạt

được mục đích ấy. Khi chư vị trị bệnh cho người ta, chư vị thử nghĩ xem mình đã

có chủng công năng lớn mạnh để tiêu trừ nghiệp lực cho người ta hay không? Chư

vị đã được chân truyền chưa? Chư vị [sau] ba ngày, hai hôm liền có thể trị bệnh là

sao? Chư vị với bàn tay của người thường có thể trị bệnh là sao? Nhưng những khí

công sư giả kia, họ nắm trúng nhược điểm của chư vị, nắm trúng tâm chấp trước

Vấn đề trị bệnh 137

của con người: chư vị chẳng phải mong cầu trị bệnh là gì? Tốt thôi, họ bèn mở lớp

dạy trị bệnh, chuyên dạy chư vị các thủ pháp trị liệu. Nào là khí châm, nào là phép

chiếu quang, bài [khí], bổ [khí], nào là điểm huyệt, nào là phép chộp bắt, rất nhiều

thứ với mục đích chính là kiếm tiền của chư vị.

Chúng ta hãy nói về [cách] chộp bắt. Tình huống mà chúng tôi nhìn thấy là như

thế này: con người vì sao có bệnh? Nguyên nhân căn bản làm cho người ta có bệnh

hoặc bất hạnh [chính] là nghiệp lực, trường nghiệp lực vật chất màu đen. Nó là thứ

thuộc về tính âm, thuộc về những thứ không tốt. Còn những con linh thể bất hảo

kia, cũng là thứ có tính âm, đều là thuộc [loại màu] đen, do vậy chúng có thể gắn

vào; hoàn cảnh đó thích hợp với chúng. Chúng là nguyên nhân căn bản làm người

ta trở thành có bệnh, đó là căn nguyên chủ yếu nhất của bệnh. Tất nhiên còn có hai

hình thức [khác] nữa: một là tiểu linh thể rất nhỏ rất nhỏ nhưng mật độ rất lớn, như

một cục nghiệp lực; còn nữa là thứ giống như cái ống dẫn đến, loại này ít gặp, đều

là do tổ tiên ở trên tích tụ lại; cũng có tình huống như thế.

Chúng tôi hãy giảng [tình huống] phổ biến nhất; người ta mọc khối u chỗ này,

phát viêm chỗ kia, có gai xương ở chỗ nào đó, v.v., nơi không gian khác thì có một

con linh thể nằm chính tại chỗ đó, có một con linh thể tại không gian rất thâm sâu.

Khí công sư bình thường không thấy được [linh thể ấy], công năng đặc dị bình

thường không thấy được, chỉ có thể thấy rằng thân thể có khí đen. Tại chỗ nào có

khí đen, thì chỗ đó có bệnh, nói như thế là đúng. Nhưng khí đen không phải là

nguyên nhân căn bản tạo thành bệnh, mà là vì ở trong một không gian thâm sâu hơn

có con linh thể kia, [chính] là nó phát xuất ra cái trường. Do vậy có người nói nào

là bài [khí], nào là tiết [khí]. Chư vị cứ bài [khí] đi! Không mấy chốc nó lại sản sinh

ra, có [con] có lực rất mạnh, vừa bài [khí] ra [nó] lại kéo trở lại, bản thân nó có thể

thu hồi lại, làm cho việc trị [bệnh] như thế không được.

Theo công năng đặc dị mà xét, thì chỗ ấy có khí đen, xác nhận là có khí bệnh;

Trung y xét thì chính là chỗ ấy các mạch không thông, khí huyết không thông,

mạch ứ tắc; Tây y xét thì chính là chỗ ấy có hiện tượng như lở loét, mọc u, gai

xương, hoặc phát viêm; nó phản ánh đến không gian này với hình thức như thế. Sau

khi chư vị gỡ bỏ [linh thể] ấy đi rồi, thì chư vị phát hiện rằng trên thân thể ở bên

[không gian] này chẳng còn [bị] gì nữa. Những gì là lệch đĩa đệm thắt lưng, gai

xương, thì sau khi chư vị gỡ bỏ [linh thể] đó xuống, lấy trường kia ra xong, chư vị

sẽ thấy lập tức khỏi [bệnh]. Chư vị thử chụp lại X-quang, thì không còn thấy gai

xương nào nữa; nguyên nhân căn bản là do [linh thể] kia khởi tác dụng.

Có người nói rằng [sau] ba hôm có thể trị bệnh, năm ngày có thể trị bệnh, dạy

chư vị phép chộp bắt. Chư vị chộp cho tôi xem! Con người là yếu kém nhất, còn

linh thể kia quả là rất lợi hại. Nó khống chế đại não chư vị, điều khiển chư vị quay

vòng vòng như trò chơi, còn dễ dàng lấy đi sinh mệnh của chư vị. Chư vị nói chư vị

chộp nó, chộp thế nào đây? Bàn tay người thường của chư vị không động đến nó

được, chư vị tại đó khua loạn lên, nó cũng không quan tâm, nó đang ở sau lưng

cười chư vị: chộp loạn cả lên, sao khôi hài vậy; nếu chư vị thật sự động đến nó

được, thì nó lập tức làm tay chư vị bị thương; vết thương thực sự đấy! Quá khứ tôi

có gặp một số người, hai tay không bị sao, kiểm tra thế nào cũng không thấy thân

thể có bệnh, hai tay không có bệnh, nhưng không giơ tay lên được, cứ rủ xuống

như thế này; tôi từng gặp bệnh nhân như thế. [Thân] thể tại không gian khác bị

thương rồi, đã thật sự bị tàn phế rồi. Cái [thân] thể ấy của chư vị mà bị thương, thì

chẳng đúng tàn phế là gì? Có người hỏi tôi: ‘Thưa Sư phụ, con có thể luyện công

được không? Con đã bị [phẫu thuật] tuyệt dục rồi’ hoặc ‘đã bị cắt bỏ gì đó rồi’. Tôi

Vấn đề trị bệnh 138

nói rằng điều đó không ảnh hưởng, cái [thân] thể ở không gian khác của chư vị

không bị [phẫu] thuật, mà luyện công là cái [thân] thể ấy khởi tác dụng. Do vậy tôi

mới nói, chư vị chộp nó, [nhưng] chư vị không động đến nó được, [thì] nó cũng

không quan tâm đến chư vị; chư vị [mà] động đến nó, có thể nó làm tay chư vị bị

thương.

Để ủng hộ hoạt động khí công có quy mô lớn của quốc gia, tôi đưa một số đệ tử

tham gia Hội Sức Khoẻ Đông phương tại Bắc Kinh. Tại hai lần hội chúng tôi đều

nổi bật nhất. Lần hội thứ nhất, Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi được vinh dự là

‘Minh Tinh công phái’; vào hội lần thứ hai người [đến] đông quá không biết làm

thế nào. Tại gian khác không có mấy người, còn tại gian chúng tôi thì mọi người

đứng chật khắp chung quanh. Xếp thành ba hàng, từ sớm hàng thứ nhất là đăng ký

hết cho buổi sáng, hàng thứ hai đợi cho đăng ký buổi chiều, còn một hàng nữa đợi

xin chữ ký của tôi. Chúng ta không trị bệnh, vì sao lại thực hiện điều ấy? Bởi vì đây

là ủng hộ hoạt động khí công quy mô lớn của quốc gia, cống hiến cho sự nghiệp ấy,

do đó chúng tôi đã tham gia.

Tôi lấy công của mình phân cho các đệ tử đi theo tôi, mỗi người một phần, đều

là cục năng lượng hợp thành từ trên một trăm chủng công năng. Đều lấy tay của họ

[niêm] phong lại, chính là như thế, có tay vẫn bị cắn, cắn đến giộp cả lên, chảy cả

máu, điều ấy vẫn hay xảy ra. Thứ [linh thể] ấy lợi hại đến vậy, chư vị nghĩ rằng chư

vị dám động đến nó bằng tay người thường của chư vị ư? Hơn nữa chư vị không

động đến nó được, không có chủng công năng ấy thì không làm gì được. Vì tại một

không gian khác [khi] chư vị muốn làm gì, hễ não chư vị nghĩ một cái nó liền biết,

chư vị muốn chộp nó, nó đã chạy từ lâu. Đợi đến lúc bệnh nhân ra khỏi cửa, nó lập

tức lại gắn vào, bệnh lại tái phát. Muốn động thủ trị [được] nó thì phải có chủng

công năng ấy, vươn tay ra là “pắc” [một cái] định nó tại đó luôn. Sau khi định vững

lại rồi, chúng ta còn có một chủng công năng, quá khứ gọi là ‘nhiếp hồn đại pháp’,

chủng công năng này còn lợi hại hơn, có thể lấy [toàn bộ] chỉnh thể nguyên thần

của người ta lôi hết ra, cá nhân kia lập tức bất động. Công năng này có tính nhắm

thẳng, và chúng ta nhắm thẳng vào thứ [linh thể] ấy mà chộp. Như mọi người đã

biết, trong tay Phật Như Lai cầm chiếc bát, chiếu lên một cái, chư vị thấy rằng Tôn

Ngộ Không lớn như thế, lập tức biến thành một điểm nhỏ. Công năng ấy khởi tác

dụng như thế. Bất kể linh thể ấy lớn đến mấy, bất kể linh thể to nhỏ thế nào, lập tức

bị chộp cứng trong tay, liền biến thành rất nhỏ.

Ngoài ra, nếu lấy tay vươn vào trong nhục thể của bệnh nhân, rồi chộp lấy ra,

dẫu làm được, cũng không được [phép]. Như thế sẽ làm loạn tư duy của con người

tại xã hội người thường; hoàn toàn không cho làm thế. Họ đưa vào trong là cánh

tay tại không gian khác. Giả thuyết người kia có bệnh ở tim, khi cánh tay này

chuyển về phía của tim để chộp, thì cánh tay tại không gian khác sẽ đưa vào. Chỉ

trong nháy mắt rất mau lẹ đã chộp vững xong rồi, tay bên ngoài của chư vị chộp bắt

xong, hai tay lại hợp nhất lại, nó đã nằm trong tay rồi. Nó rất lợi hại, có lúc động

đậy trong tay, dùi vào [tay], có lúc cắn, có lúc còn kêu thét. Chư vị thấy [nó] rất bé

[khi] ở trong tay, nhưng thả ra khỏi tay liền biến thành rất lớn. Điều này không phải

ai cũng dám động đến, không có công năng ấy thì hoàn toàn không động đến được,

hoàn toàn không đơn giản như chúng ta vẫn tưởng tượng.

Đương nhiên trong tương lai hình thức trị bệnh bằng khí công này cũng có thể

được [phép] tồn tại; trong quá khứ nó vẫn luôn tồn tại. Nhưng phải có điều kiện, cá

nhân ấy phải là người tu luyện, trong quá trình tu luyện họ xuất phát từ tâm từ bi,

họ làm điều ấy giúp một số lượng ít những người tốt thì được. Nhưng họ không thể

Vấn đề trị bệnh 139

giúp người ta triệt để tiêu trừ nghiệp, uy đức của họ không đủ; do vậy [khó] nạn

vẫn còn, chỉ có bệnh cụ thể kia là khỏi thôi. Một khí công sư nhỏ bé bình thường

không phải là người đã đắc Đạo, họ chỉ có thể giúp người ta trì hoãn về sau; cũng

có thể chuyển hoá, cũng có thể chuyển hoá thành tai nạn khác. Tuy nhiên bản thân

họ không biết được quá trình trì hoãn về sau [ra sao]; nếu [người] tu luyện công

pháp ấy là phó ý thức, thì phó ý thức của họ đã làm [điều ấy]. Có những người tu

luyện của một số công pháp dường như có danh [tiếng] rất lớn, có rất nhiều đại khí

công sư có danh tiếng hiển hách nhưng không hề có công; công [của họ] đều có

trên thân của phó nguyên thần. Nghĩa là, trong quá trình tu luyện cho phép làm như

vậy, bởi vì có một số người cứ duy trì ở tầng ấy, hễ luyện là đến mấy chục năm,

mấy chục năm vẫn chưa ra khỏi tầng ấy, do đó họ suốt đời vẫn mãi đi coi bệnh coi

bệnh cho người ta. Bởi vì họ đang ở tại tầng ấy, thì cũng cho phép họ làm như vậy.

Các đệ tử tu luyện Pháp Luân Đại Pháp tuyệt đối không được phép đi coi bệnh [cho

người khác]. Đọc cho người bệnh cuốn sách này, nếu như người bệnh có thể tiếp

thu, thì có thể trị bệnh, tuy nhiên hiệu quả đối với những người có nghiệp lực to

nhỏ khác nhau là khác nhau.

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công

Chúng tôi giảng một chút về vấn đề quan hệ giữa trị bệnh tại bệnh viện và trị

bệnh bằng khí công. Một số bác sỹ Tây y không thừa nhận khí công, có thể nói là

đa số. Họ nói kiểu như: ‘Nếu như khí công có thể trị bệnh thì cần đến bệnh viện

chúng tôi làm gì nữa? Các vị thay thế bệnh viện của chúng tôi đi thôi! Khí công các

vị chạm tay vào là có thể trị khỏi bệnh, lại không cần tiêm, uống thuốc, nhập viện;

thay thế bệnh viện chúng tôi chẳng quá tốt hay sao?’ Nói như thế rất không có đạo

lý, rất không hợp lý. Có người không liễu giải được khí công; thực ra, coi bệnh

bằng khí công không thể như các phương pháp trị liệu nơi người thường được, nó

không phải là kỹ năng nơi người thường, nó là điều siêu thường. Điều siêu thường

như thế nếu can nhiễu đến xã hội người thường trên diện rộng, hỏi có thể được

phép không? Phật [có] bản sự rất lớn, một vị Phật huơ tay một cái, bệnh của toàn

nhân loại sẽ không tồn tại. Tại sao ông không làm thế? Hơn nữa lại có nhiều Phật

đến như vậy, tại sao họ không phát tâm từ bi làm chư vị khỏi bệnh? Bởi vì xã hội

người thường chính là như thế, sinh lão bệnh tử chính ở trạng thái như thế, đều có

quan hệ nhân duyên, đều là nghiệp lực luân báo; những gì chư vị mắc nợ [đều] phải

hoàn [trả].

Nếu như chư vị chữa khỏi cho họ, thì cũng tương đương với phá hoại [Pháp] lý

này; có thể làm điều xấu mà không cần hoàn [trả]; vậy có được chăng? Người trong

[khi] tu luyện xuất tâm từ bi, khi chư vị chưa có lực lượng đủ mạnh để giải quyết

triệt để vấn đề ấy, thì cho phép chư vị coi bệnh, vì chư vị xuất tâm từ bi rồi, cho

phép làm như thế. Tuy nhiên nếu chư vị thật sự có thể giải quyết vấn đề ấy, thì giải

quyết trên diện rộng là không được. Đó là chư vị phá hoại trạng thái xã hội người

thường một cách nghiêm trọng, nên không thể được. Do đó khí công thay thế bệnh

viện của người thường là [điều] hoàn toàn không được; nó là Pháp ở nơi siêu

thường.

Nếu như tại Trung Quốc lập nên các bệnh viện khí công, ví như cho phép làm

như thế, rằng các đại khí công sư đều xuất lai để làm, chư vị thử coi sẽ ra sao?

Không cho phép làm như vậy, bởi vì phải duy hộ trạng thái của xã hội người

thường. Nếu như dựng lập các bệnh viện khí công, phòng điều trị khí công, trung

tâm sức khoẻ, thắng địa liệu dưỡng bằng khí công, thì một khi lập nên, thì [khả

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công 140

năng] trị bệnh của các khí công sư sẽ sụt xuống ngay, hiệu quả trị bệnh lập tức sẽ

không được [tốt] nữa. Vì sao? Vì họ đang làm những [sự việc] ở nơi người thường,

thì cũng phải cao như Pháp ở cõi người thường, hoà [hợp] với trạng thái của người

thường tại tầng ấy, hiệu quả trị bệnh của họ cũng giống như [hiệu quả trị bệnh] của

bệnh viện. Do đó trị bệnh sẽ không được [tốt] nữa, họ cũng sẽ phải giảng trị bệnh

cần một số liệu trình; thông thường là như vậy.

Dẫu khí công thành lập bệnh viện cũng vậy, không lập bệnh viện cũng vậy, thì

việc khí công có thể trị bệnh là một điểm không ai phủ nhận được. Khí công phổ

biến trong xã hội trong một thời gian lâu ngần ấy, có bao nhiêu người thông qua

luyện công đã thực sự đạt được mục đích chữa bệnh khoẻ người. Dẫu là họ được

khí công sư trì hoãn bệnh lại về sau cũng vậy, làm thế nào cũng vậy, dù sao thì

bệnh kia bây giờ đã khỏi; tức là việc khí công có thể trị bệnh là điều không ai phủ

nhận được. Đa số những [người] tìm đến khí công sư để coi bệnh, đều được xem là

bệnh nan y, đã từng đến bệnh viện chữa không khỏi, nên đến gặp khí công sư thử

vận may, kết quả đã chữa khỏi. Những [ai] đã được chữa khỏi tại bệnh viện thì

không tìm đến khí công sư, nhất là vào giai đoạn ban đầu, người ta đều nhận thức

như thế cả; như vậy khí công là có thể khám bệnh. Nó bất quá chỉ không thể thực

hiện giống như những sự việc khác nơi xã hội người thường. Can thiệp trên diện

rộng là tuyệt đối không được phép; trên diện hẹp hoặc không có ảnh hưởng to lớn

gì, âm thầm lặng lẽ mà thực hiện thì được; nhưng cũng không được chữa triệt để

khỏi bệnh, điều này là khẳng định. Tự mình dùng khí công rèn luyện chữa bệnh là

tốt nhất.

Có khí công sư giảng: bệnh viện chữa bệnh không được, hiệu quả trị liệu của

bệnh viện hiện nay thế này thế kia. Chúng ta nói như thế nào? Tất nhiên nó có

nguyên nhân nhiều mặt. Tôi thấy rằng chủ yếu nhất là [do] chuẩn mực đạo đức của

con người thấp kém, đã tạo thành các loại bệnh kỳ quái, bệnh viện chữa không

khỏi, dùng thuốc cũng không xong; thuốc giả cũng nhiều; đều là vì xã hội nhân loại

đã bại hoại đến mức độ như thế. Mỗi người cũng đừng oán người khác, ai ai cũng

đều có góp sóng thành bão ở trong đó, vậy nên người nào tu luyện cũng phải gặp

khổ nạn.

Có những bệnh mà bệnh viện kiểm tra không ra, nhưng xác thực là có bệnh. Có

những người kiểm tra là có bệnh, nhưng không biết tên gọi [bệnh] đó là gì, là bệnh

chưa từng gặp, bệnh viện gọi chung [đó là] “bệnh hiện đại”. Hỏi bệnh viện có thể

chữa bệnh không? Tất nhiên là có. Nếu bệnh viện không thể trị bệnh, thì hỏi tại sao

người ta lại tin, tại sao lại đến đó để chữa bệnh. Bệnh viện vẫn có thể trị bệnh, chỉ

có điều cách trị liệu của nó là tại tầng của người thường, còn bệnh kia lại là [điều]

siêu thường, có những bệnh rất nặng. Do đó bệnh viện giảng rằng trị bệnh cần trị

sớm, nặng quá họ cũng không trị được; [dùng] nhiều thuốc quá thì người ta [ngộ]

độc. Chuẩn mực của bệnh viện hiện nay là ngang với chuẩn mực của khoa học kỹ

thuật của chúng ta, đều ở tại tầng của người thường, do đó nó chỉ có hiệu [quả trị]

liệu như vậy thôi. Có một vấn đề cần nói rõ, trị bệnh bằng khí công thông thường

và trị bệnh tại bệnh viện, đều là đưa cái nạn nguyên nhân tạo thành bệnh trì hoãn lại

về sau, trì hoãn về nửa đời sau này hoặc về sau, hoàn toàn không động đến nghiệp

lực.

Chúng tôi lại giảng một chút về Trung y. Trị bệnh của Trung y rất gần với trị

bệnh của khí công. Tại Trung Quốc cổ đại, các bác sỹ Trung y nói chung đều có

công năng đặc dị, các đại y học gia như Tôn Tư Mạc, Hoa Đà, Lý Thời Trân, Biển

Thước, v.v. đều có công năng đặc dị, trong sách y học đều có chép lại. Tuy nhiên

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công 141

hiện nay những điều tinh hoa ấy thường hay bị phê phán; kế thừa của Trung y [hiện

nay] bất quá chỉ là một chút dược phương, hoặc giả một số dò dẫm kinh nghiệm.

Trung y thời Trung Quốc cổ đại rất phát triển, trình độ phát triển vượt siêu xuất so

với y học hiện nay. Có người nghĩ, y học hiện nay phát triển lắm, làm [quét ảnh]

CT là có thể nhìn thấy nội bộ bên trong thân thể người ta, làm siêu âm, chụp hình,

chụp X-quang, các thiết bị hiện đại rất là tiên tiến; theo tôi nhìn nhận thì như vậy

cũng không được [bằng] y học thời Trung Quốc cổ đại.

Hoa Đà thấy trong não của Tào Tháo có khối u, cần mở não để làm thủ thuật bỏ

khối u. Tào Tháo nghe vậy liền tưởng rằng Hoa Đà muốn lấy đầu của mình, [nên]

bắt Hoa Đà giam lại, kết quả Hoa Đà chết trong nhà ngục. Khi Tào Tháo mắc bệnh,

nghĩ đến Hoa Đà, tìm đến Hoa Đà, thì Hoa Đà đã chết rồi. Sau đó Tào Tháo thật sự

mắc bệnh ấy mà chết. Vì sao Hoa Đà biết? Ông ta đã nhìn thấy, đó là công năng

đặc dị của con người chúng ta, các y học gia trong quá khứ đều có trang bị bản sự

ấy. Sau khi khai thiên mục, thì từ một mặt có thể đồng thời thấy được thân thể

người ta từ bốn mặt; từ mặt trước có thể thấy mặt sau, mặt trái, mặt phải; còn có thể

thấy từng lớp cắt của mỗi tầng; còn có thể thấu qua không gian này mà thấy được

nguyên nhân căn bản của bệnh là gì. Phương pháp của y học hiện đại có thể đạt

được như vậy không? Còn cách xa lắm, [phải] thêm một nghìn năm nữa! [Quét

ảnh] CT, siêu âm, X-quang cũng có thể nhìn được bộ phận bên trong của thân thể

người, nhưng đồ cơ khí đó to lắm, và thứ to lớn thế cũng không dễ mang theo

[người], không có điện không [dùng] được. Còn thiên mục này là mang đâu theo

đó, không cần nguồn [điện], làm sao sánh được!

Có người giảng rằng thuốc hiện đại như thế này như thế kia. Tôi nói rằng

không hẳn thế, thảo dược của Trung Quốc cổ đại thật sự có thể ‘thuốc vào là bệnh

hết’. Có rất nhiều điều đã thất truyền; có rất nhiều điều không thất truyền, đang lưu

truyền trong dân gian. Vào thời giảng bài tại Tề Tề Cáp Nhĩ tôi có nhìn thấy một

người dựng quầy ngoài phố để nhổ răng cho người ta. Nhìn qua là thấy vị này đến

từ phương Nam, không ăn mặc theo kiểu người vùng Đông Bắc. Ai đến cũng

không từ, ai đến vị ấy cũng nhổ, răng nhổ được xếp thành một đống thế này. Vị này

nhổ răng không phải là mục đích, mà mục đích là bán thuốc của mình. Thuốc ấy

bốc lên lớp khí vàng rất đặc. Khi nhổ răng, bèn mở nắp lọ thuốc nước ra, ở ngoài

má hướng vào chỗ răng sâu, bảo người ta hít chút khí thuốc màu vàng; nước thuốc

coi như không vơi đi chút nào, lại đậy nắp lại. Rút trong túi ra một que diêm, vừa

nói về thuốc của mình, vị ấy vừa lấy que diêm để khều răng, cái răng liền rời ra,

cũng không đau, chỉ có một tý máu, cũng không chảy máu. Mọi người thử nghĩ

xem, nếu dùng lực hơi mạnh là que diêm gẫy ngay, vậy mà vị này lại dùng que

diêm khêu một cái là nhổ được răng.

Tôi nói rằng Trung Quốc có một số điều đang lưu truyền tại dân gian, mà khí

cụ chính xác của Tây y không sánh được; thử xem hiệu quả ai tốt hơn, que diêm

của vị ấy khêu một cái là được ngay. Tây y nhổ răng trước hết phải tiêm thuốc tê,

tiêm chỗ này, tiêm chỗ kia, châm kim đau lắm; đợi thuốc tê có tác dụng, rồi lấy kìm

để nhổ. Nhổ cả nửa ngày không khéo chân răng gẫy [còn lại ở trong]. Bèn lấy búa

lấy đục để tróc ra, đập làm cho đau đớn kinh khiếp, rồi lại dùng khí cụ chính xác để

khoan cho chư vị. Có người bị khoan đau quá chỉ muốn nhảy dựng lên, chảy rất

nhiều máu, nhổ ra một búng máu. Chư vị nói xem ai tốt hơn? Chư vị nói xem ai

tiên tiến hơn? Chúng ta không thể chỉ coi công cụ bề ngoài, mà cần coi hiệu quả

thực tế. Trung y thời Trung Quốc cổ đại rất phát triển, Tây y hiện đại còn phải trải

qua bao nhiêu năm nữa mới theo được.

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công 142

Khoa học của Trung Quốc cổ đại khác với khoa học hiện nay mà chúng ta học

từ phương tây, nó đi theo một con đường khác, có thể đưa đến trạng thái khác. Do

đó không thể dùng phương pháp nhận thức của chúng ta hiện nay để nhận thức

khoa học kỹ thuật của Trung Quốc cổ đại, bởi vì khoa học Trung Quốc cổ đại là

nhắm thẳng vào [thân] thể người, sinh mệnh, vũ trụ; nhắm trực tiếp vào những điều

ấy mà nghiên cứu, do đó [nó] đi theo một con đường khác. Thời ấy người đi học,

đều phải chú trọng đả toạ, khi ngồi cũng giảng [phải] có tư thế; khi cầm bút viết

cũng giảng [phải] vận khí hô hấp; các ngành các nghề đều giảng [phải] tịnh tâm,

điều tức; toàn bộ xã hội đều đặt trong trạng thái như thế.

Có người nói: ‘Chiểu theo khoa học của Trung Quốc cổ đại mà tiến, thì hỏi có

xe hơi, xe lửa ngày nay không? Hỏi có thể có hiện đại hoá hôm nay không?’ Tôi

nói rằng chư vị không thể đứng tại hoàn cảnh này mà nhận thức một trạng thái

khác; [trong] quan niệm tư tưởng của chư vị cần phải có cách mạng mới được.

Không có TV, [thì] ngay phía trước đầu bản thân mình đã mang theo, muốn coi gì

liền thấy nấy, cũng có tồn tại công năng. Không có xe hơi, xe lửa, [thì] người ngồi

đó có thể phiêu [đãng bay] lên, thang máy cũng không cần. Nó sẽ dẫn đến trạng

thái phát triển khác của xã hội, không nhất định phải cuộc hạn vào cái khung này.

Đĩa bay của người hành tinh khác đi lại thần tốc, biến lớn thu nhỏ. Họ đi theo một

con đường phát triển còn khác hơn nữa, là một loại phương pháp khoa học khác.

Trị bệnh ở bệnh viện và trị bệnh bằng khí công 143

Bài giảng thứ tám

Tịch cốc

Một số người đề cập đến vấn đề tịch cốc. Hiện tượng tịch cốc có tồn tại; không

chỉ có trong giới tu luyện, trong toàn thể xã hội nhân loại chúng ta cũng có không ít

người xuất hiện tình huống này. Có người không ăn không uống trong mấy năm

[liền], hoặc mười mấy năm [liền], nhưng vẫn sống tốt. Có người nói tịch cốc là thể

hiện của một tầng nào đó; có người nói tịch cốc là biểu hiện của thân thể tịnh hoá;

cũng có người nói tịch cốc là quá trình tu luyện tại cao tầng.

Thực ra đều không phải. Vậy hỏi đó là điều gì? Trên thực tế tịch cốc chính là

một phương pháp tu luyện đặc thù mà chúng ta sử dụng trong [một số] hoàn cảnh

đặc định. Vào hoàn cảnh đặc định nào thì sử dụng đến nó? Vào thời Trung Quốc cổ

đại, nhất là trước khi thành lập tôn giáo, có rất nhiều người tu luyện họ đều sử dụng

phương pháp mật tu, tu luyện đơn độc; đi vào núi sâu hoặc chui vào hang động

trong núi mà tu, tách ly xa khỏi nơi con người quần tụ sinh sống. Một khi làm như

vậy sẽ động chạm đến vấn đề nguồn cấp lương thực. Nếu như họ không sử dụng

phương pháp tịch cốc, thì hoàn toàn tu luyện không được, sẽ chết đói chết khát ở

đó. Khi tôi từ Trùng Khánh đến Vũ Hán giảng Pháp, ngồi thuyền xuôi dòng Trường

Giang về phía Đông, thì thấy hai bên bờ Tam Hiệp có một số động đá ở lưng chừng

núi, nhiều vùng núi danh tiếng cũng có những [hang động] như thế. Người tu luyện

trong quá khứ sau khi dùng dây để trèo vào trong, liền cắt đứt dây đi, [rồi] tu luyện

ở trong động; [nếu] không tu luyện xuất lai, thì sẽ chết ở trong đó. Không có nước,

không có lương thực, họ đã sử dụng phương pháp tu luyện đặc thù ấy ở trong chính

hoàn cảnh cực kỳ đặc thù này.

Có nhiều công pháp đã trải qua quá trình truyền thừa như vậy, do đó nó có tịch

cốc; có nhiều công pháp không có tịch cốc; các công pháp được truyền xuất ra nơi

xã hội chúng ta hiện nay đa số là không có điều này. Chúng tôi giảng rằng luyện

công phải chuyên nhất, chư vị không thể mong muốn theo cách con người như thế

nào liền làm nấy. Chư vị cho rằng nó rất tốt, chư vị cũng muốn tịch cốc; hỏi chư vị

tịch cốc làm gì? Có người cho rằng [nó] rất tốt, [nên] hiếu kỳ, hoặc cho rằng bản

thân mình công phu cao rồi, có thể hiển thị này khác; các chủng tâm thái của người

ta đều có [cả]. Ngay cả khi dùng phương pháp ấy tu luyện, thì cũng phải tiêu hao

năng lượng của tự thân để bổ sung cho thân thể, do vậy cái được chẳng bõ cho cái

mất. Như mọi người đã biết, nhất là sau khi thành lập tôn giáo, khi chư vị trong

chùa ngồi thiền, bế quan, đều có người cung cấp cho chư vị trà và thức ăn, [nên]

không động chạm đến vấn đề này. Nhất là chúng ta tu luyện trong xã hội người

thường, chư vị hoàn toàn không cần phải dùng đến phương pháp này; hơn nữa pháp

môn chư vị nếu không có [nó] thì chư vị không thể [tập luyện nó mà] loạn. Nếu chư

vị thật sự muốn tịch cốc, chư vị cứ thử tu. Theo tôi được biết, thông thường khi sư

phụ truyền công lên cao tầng, nếu thật sự đưa người lên, [và] tại pháp môn của ông

có tịch cốc, thì có thể xuất hiện hiện tượng ấy, nhưng ông không thể phổ cập [rộng

rãi], thông thường đều mang đồ đệ đi mật tu, tu đơn độc.

Hiện nay cũng có các khí công sư dạy người ta tịch cốc. Tịch cốc được không?

Rốt cuộc không tịch được; hỏi ai tịch được nào? Tôi thấy không ít [người] phải

nhập viện, không ít người xuất hiện nguy hiểm đến sinh mệnh. Vậy tại sao xuất

hiện tình huống ấy? Hiện tượng tịch cốc phải chăng không có? Có. Nhưng có một

Tịch cốc 144

điểm: trạng thái này của xã hội người thường chúng ta, không ai được phép tự dưng

phá hoại, không cho phép phá hoại. Không nói trên toàn quốc bao nhiêu người

luyện công không ăn không uống, chỉ nói riêng nơi Trường Xuân này ai ai cũng

không ăn không uống, tôi nói vậy thì giản tiện quá rồi! Khỏi phải vội vàng làm cơm

nữa. Nông dân làm ruộng vất vả khó nhọc là thế, giờ [không ai] cần ăn nữa, rất giản

tiện; cứ làm việc mãi, khỏi phải ăn. Như vậy có được không? Đó còn là xã hội nhân

loại không? Khẳng định là không được, không cho phép sự việc như thế can nhiễu

đến xã hội người thường trên diện rộng.

Khi một số khí công sư truyền tịch cốc, xuất hiện rất nhiều nguy hiểm. Có

người chấp trước vào truy cầu tịch cốc, nhưng cái tâm kia của họ chưa hề bỏ, còn

rất nhiều tâm của người thường chưa hề vứt bỏ, khi thấy đồ ăn ngon nhưng không

được ăn liền thèm quá, cái tâm ấy của họ hễ khởi lên là không ổn rồi. Họ thấy rất

sốt ruột phải ăn gì đó, dục vọng thăng lên liền phải ăn, không ăn cảm thấy đói.

Nhưng ăn vào phải nôn ra, không ăn vào được; điều này tạo thành tinh thần căng

thẳng, sợ hãi ghê lắm. Rất nhiều người đã vào bệnh viện, thực sự đã có rất nhiều

người gặp nguy hiểm đến sinh mệnh. Cũng có người tìm đến tôi nhờ tôi xử lý

những ca loạn bậy ấy; tôi không muốn quản sự việc này. Có những khí công sư rất

hồ đồ, không ai muốn theo [xử lý] những sự loạn bậy cho họ.

Hơn nữa, chư vị tịch cốc mà gặp vấn đề, thì chẳng phải là vì tự chư vị cầu?

Chúng tôi giảng rằng hiện tượng ấy tồn tại, nhưng nó không phải là trạng thái nào

đó xuất hiện ở cao tầng, cũng không phải là phản ánh đặc thù gì, nó chẳng qua chỉ

là một phương thức tu luyện được dùng trong một tình huống đặc thù, nhưng không

thể phổ cập nó được. Có không ít người truy cầu tịch cốc, lại còn gọi nó thành tịch

cốc thế này thế khác, ‘bán tịch cốc’, cũng phân thành đẳng cấp v.v. Có người nói

rằng họ [chỉ cần] uống nước, có người nói [chỉ cần] ăn hoa quả; đó đều là tịch cốc

giả. Sau một thời gian lâu, đảm bảo sẽ không còn được nữa. Người chân chính tu

luyện; một khi vào sơn động, [thì] không ăn không uống, đó là tịch cốc chân chính.

Trộm khí

Nói về trộm khí, có người biến sắc như nói đến cọp vậy, sợ quá không dám

luyện công. Nhiều vị vì giới tu luyện có người truyền nhiều thuyết như tẩu hoả

nhập ma, trộm khí, v.v. mà làm cho người ta không dám luyện công, không dám

tiếp xúc với khí công. Nếu như không có những thuyết ấy, có thể sẽ có nhiều người

luyện công hơn nữa. Cũng có một số khí công sư tâm tính bất hảo, chuyên môn dạy

những thứ ấy, làm cho giới tu luyện ô yên chướng khí; thực ra không đáng sợ như

họ nói đâu. Chúng ta giảng khí chỉ là khí, dẫu cho chư vị có nói thành ‘hỗn nguyên

khí’, khí này khí nọ [đi nữa]. Hễ thân thể người ta có khí, thì cá nhân ấy vẫn ở trong

tầng chữa bệnh khoẻ người, cho nên chưa được tính là người luyện công. Người ta

chỉ cần có khí, thì minh chứng rằng cá nhân ấy chưa đạt được đến thân thể tịnh hoá

cao độ, đó chính là vẫn còn khí bệnh, điều này là khẳng định. Người trộm khí cũng

ở trong tầng khí ấy thôi; chúng ta là người luyện công nào có ai cần cái khí dơ bẩn

ấy? Người không luyện công khí của thân thể họ rất dơ, luyện công rồi có thể trong

sáng ra. Chỗ có bệnh có thể hiển lộ ra một cục vật chất màu đen có mật độ rất cao.

Luyện tiếp dần dần, đến khi thật sự đạt đến chữa bệnh khoẻ người, khí sẽ dần dần

chuyển sang màu vàng. Luyện tiếp sẽ thật sự chữa bệnh khoẻ người, cũng không

còn khí nữa, tức là tiến nhập sang trạng thái ‘nãi bạch thể’.

Như vậy cũng nói có khí là có bệnh. Chúng ta là người luyện công, luyện công

ai còn muốn khí làm gì? Bản thân tự mình cần tịnh hoá, cớ chi còn muốn khí dơ

Trộm khí 145

bẩn kia chứ! Khẳng định là không cần. Người muốn khí cũng là ở trong tầng khí, ở

tầng khí họ không phân biệt được đâu là khí tốt, đâu là khí xấu, họ không có bản sự

ấy. Còn khối chân khí ở đan điền nơi thân thể chư vị thì họ không động đến được;

chỗ nguyên khí ấy phải là người có công phu cao mới có thể động đến được. [Còn]

khí dơ bẩn kia trong thân thể, thì để họ trộm lấy; có gì là quan trọng đâu. Khi tôi

luyện công nếu muốn quán khí, chỉ cần nghĩ một chút, một lúc bụng này sẽ đầy

ngay.

Đạo gia giảng thiên tự trang, Phật gia giảng ôm khí quán đỉnh; trong vũ trụ có

[toàn là] khí, chư vị có thể suốt ngày quán vào trong. Huyệt lao cung khai mở,

huyệt bách hội đả khai, chư vị quán vào trong, ý đặt đan điền, tay [bưng] khí vào

trong, một lúc sẽ đầy thôi. Chư vị dẫu có quán đầy đến mấy cũng có tác dụng gì

đâu? Có người khi luyện khí luyện rất nhiều, cảm thấy ngón tay trướng lên, thân

thể trướng lên. Người khác đến bên, cảm nhận thấy chung quanh [vị ấy] có một

trường. ‘Ái chà, bạn luyện công luyện tốt thật đấy’. Tôi nói rằng chẳng là gì cả, hỏi

công ở đâu? Vẫn là luyện khí thôi, khí nhiều đến mấy cũng không thay thế được

công. Mục đích luyện khí là lấy khí tốt bên ngoài giao hoán với khí bên trong thân

thể, là để tịnh hoá thân thể; hỏi giữ khí ấy để làm gì? Chư vị tại tầng ấy, [khi] chưa

có thay đổi về bản chất, [thì] nó cũng không phải là công. Chư vị trộm được bao

nhiêu đi nữa, chư vị bất quá chỉ là cái bao khí to; hỏi có tác dụng gì? Nó chưa

chuyển hoá hướng đến vật chất cao năng lượng. Do đó chư vị sợ gì, họ thật sự

[muốn] trộm thì [để họ] trộm.

Mọi người thử nghĩ coi, thân thể chư vị có khí là có bệnh. Như thế khi trộm

khí, chẳng phải cũng trộm luôn cả khí bệnh của chư vị có phải không? Họ hoàn

toàn không phân biệt được điều ấy, bởi vì người muốn khí cũng ở tại tầng khí này

[thôi], họ chưa có bản sự gì cả. Người có công sẽ không muốn khí, điều ấy là khẳng

định. Không tin thì chúng ta làm thí nghiệm, [nếu họ] thật sự muốn trộm khí thì chư

vị đứng ở kia cho họ trộm, một mặt chư vị nghĩ rằng đang quán khí vũ trụ vào

trong, còn họ ở đằng sau trộm khí. Chư vị sẽ thấy thật là tốt, thay cho chư vị [làm]

tăng nhanh tịnh hoá thân thể, chư vị đỡ khỏi phải xung quán xung quán. Bởi vì tâm

mà họ xuất phát là xấu, muốn trộm lấy những thứ của người khác, dẫu rằng là

[trộm lấy] thứ không tốt, họ cũng đã phạm phải việc tổn đức; do đó họ phải cấp đức

cho chư vị. Nó hình thành một thứ đối lưu, một phía lấy khí của chư vị, một phía

cấp đức cho chư vị. Cá nhân lấy trộm khí ấy không hiểu biết; nếu họ biết thế thì họ

đã không dám làm!

Phàm là người trộm khí, sắc mặt đều xanh, đều là như vậy. Đến công viên

luyện công, rất nhiều người đều là để [bài trừ khí] bệnh, bệnh nào cũng có. Người

ta khi trị bệnh, là phải bài xuất ra; nhưng người trộm khí ngay cả bài xuất ra cũng

không, mà lại [rước vào] thân, khí bệnh nào cũng có; ngay cả trong thân thể cũng

tối đen như mực. Họ cứ tổn đức mãi, bên ngoài của họ cũng đen, trường nghiệp lực

thật to lớn, đức tổn mất nhiều rồi, thì bên trong bên ngoài cũng đen. Người trộm khí

nếu biết rằng bản thân mình đã thay đổi như thế, đang cấp đức cho người ta, đang

làm công việc thật dại khờ như thế, thì họ đã không làm như vậy.

Có người nói rất huyền [bí] về khí: ‘Ông ở Mỹ, tôi phát khí ông có thể tiếp

được; ông đợi ở ngoài bức tường, tôi phát khí ông sẽ tiếp được’. Có người rất mẫn

cảm, hễ phát khí liền tiếp được ngay. Tuy nhiên khí ấy không truyền trong không

gian này, nó dẫn ở không gian khác; tại không gian khác kia ở đó không có bức

tường. Vì sao có khí công sư ở chỗ đất bằng phẳng phát khí, chư vị lại không cảm

Trộm khí 146

giác thấy gì? Ở không gian khác ấy có chỗ gián cách; do vậy khí không có lực

xuyên thấu to lớn như chúng ta giảng.

[Điều] thật sự có tác dụng cũng chỉ là công. Người luyện công khi có thể phát

xuất công, thì họ đã không còn khí nữa; phát xuất ra một loại vật chất cao năng

lượng; dùng thiên mục mà nhìn thì thấy là một loại ánh sáng. Phát đến thân của

người khác, có một cảm giác nóng bừng, trực tiếp có thể ước chế người thường.

Tuy nhiên điều đó vẫn không đạt đến mục đích trị bệnh hoàn toàn; chỉ phát huy tác

dụng ức chế. Muốn thật sự trị bệnh thì phải có công năng tồn tại; mỗi chủng bệnh

có một chủng công năng tương ứng nhắm vào. Ở mức cực vi quan, từng vi lạp của

công, đều có hình tượng giống với cá nhân chư vị. Chúng có khả năng nhận thức

được người ta, đều có linh tính, là vật chất cao năng lượng; người khác dẫu có trộm

lấy đi, thì chúng liệu có thể ở lại đó hay không? Chúng sẽ không ở đó, cũng không

đặt lên được, [chúng] không phải là thứ của bản thân người ấy. Phàm là người

luyện công chân chính, thì ai sau khi đã xuất hiện công đều có sư phụ quản; sư phụ

ở đó thấy chư vị đang làm gì; lấy những thứ của người ta, thì sư phụ của họ cũng

không chấp nhận.

Thu khí

‘Trộm khí’ và ‘thu khí’ không phải là những vấn đề mà chúng tôi phải giải

quyết cho chư vị khi truyền công tại cao tầng. [Mà] là vì tôi còn có một mục đích

như thế này: khôi phục danh tiếng của tu luyện, làm một số điều tốt, mà giảng rõ ra

một số hiện tượng bất lương; trước đây không có ai giảng. Nếu mọi người chúng ta

đều biết về nó, thì những người kia không thể mãi làm điều xấu nữa; một số người

hễ [nói] đến những chân tướng bất minh trong khí công là biến sắc cứ như thể là

nói về cọp dữ vậy.

Khí vũ trụ thật là [nhiều], có người giảng khí thiên dương, khí địa âm. Chư vị

cũng là các phần tử trong vũ trụ, chư vị cứ thu [khí vũ trụ] đi. Tuy nhiên có người

không thu khí vũ trụ, họ chuyên môn dạy người ta thu khí của cây; còn tổng kết ra

kinh nghiệm: khí cây dương màu trắng, khí cây tùng màu vàng, rồi thu như thế nào,

thu vào thời gian nào. Cũng có người nói: ‘Trước nhà tôi có cái cây, tôi đã thu khí

của nó làm nó chết rồi’. Bản sự ấy được tính là gì đây? Đó chẳng phải làm điều xấu

là gì? Như mọi người đã biết, chúng ta tu luyện chân chính, [chúng ta] chú trọng

các tín tức có tính lương [thiện], chú trọng đến việc đồng hoá với đặc tính vũ trụ;

chư vị chẳng phải nói về vấn đề Thiện là gì? Đồng hoá với đặc tính Chân Thiện

Nhẫn của vũ trụ, phải chú trọng Thiện. Chư vị cứ làm điều xấu liệu có thể tăng

công hay không? Có thể hết bệnh không? Chẳng phải hoàn toàn tương phản với

người tu luyện chúng ta là gì? Đó cũng là sát sinh làm điều xấu! Có lẽ cũng có

người nói: ‘Thầy càng giảng càng huyền [hoặc], giết động vật là sát sinh, mà giết

thực vật cũng là sát sinh’. Thực ra đúng như vậy đấy, trong Phật giáo giảng lục đạo

luân hồi; trong lục đạo luân hồi chư vị có thể biến thành thực vật; trong Phật giáo

[giảng] như thế. Tại đây chúng tôi không giảng như vậy. Nhưng chúng tôi nói với

mọi người, cây cũng là sinh mệnh; không chỉ là sinh mệnh, mà còn có hoạt động tư

duy rất cao.

Ví dụ: có một vị ở Mỹ chuyên làm các nghiên cứu điện tử, dạy người ta dùng

máy dò nói dối. Một hôm vị này có hứng khởi bèn tức thời nối hai cực của máy dò

nói dối lên một cây ngưu thiệt lan hoa, rồi tưới nước vào chỗ gốc cây hoa, sau đó vị

này phát hiện rằng bút điện tử của máy dò nói dối lập tức vẽ một đường cong.

Đường cong ấy chính là tương đồng với loại đường cong mà đại não của người ta

Thu khí 147

trong một thời gian ngắn hưng phấn, cao hứng mà sinh ra. Lúc đó vị này sửng sốt,

thực vật có cảm tình là sao! Vị ấy dường như muốn chạy ra đường cái mà hô lớn:

‘thực vật cũng có cảm tình’. Khởi phát từ sự việc đó, vị ấy mau chóng triển khai

nghiên cứu theo phương diện này, đã làm rất nhiều thực nghiệm.

Có một lần, vị này đặt hai cái cây với nhau, rồi bảo học sinh của mình dẫm đạp

một cái cây trước mặt cái cây kia, dẫm đạp cho chết đi. Sau đó đưa cái cây kia vào

phòng, nối vào máy dò nói dối; rồi bảo năm em học sinh lần lượt đi từ ngoài vào.

Bốn em học sinh đầu đi vào, không có phản ứng gì cả. Đến khi học sinh thứ năm

vốn đã dẫm đạp cây nọ bước vào, thì [em này] còn chưa kịp tiến đến, bút điện tử đã

lập tức vẽ nên một đường cong; khi người ta sợ hãi mới có thể vẽ xuất ra đường

cong như thế. Vị này kinh ngạc quá! Sự việc ấy đã minh chứng một vấn đề rất lớn:

chúng ta xưa nay vẫn nhìn nhận rằng con người là sinh mệnh cao cấp, con người có

khả năng cảm quan, có thể nhận thức phân biệt, có đại não, có thể phân tích. Còn

thực vật cớ chi [có thể] nhận thức phân biệt được, nó không có giác quan kia mà?

Trong quá khứ ai mà nói rằng thực vật có cảm quan, có tư duy, có cảm tình, có thể

nhận thức được con người, thì người ta bèn nói là mê tín. Mà không chỉ có vậy, về

một số phương diện [thực vật] dường như còn vượt trội hơn cả con người chúng ta

hôm nay.

Có một hôm vị kia nối máy dò nói dối vào một cái cây, sau đó vị ấy nghĩ: ‘Làm

thí nghiệm nào đây nhỉ? Mình đốt thử cái lá của nó xem, xem xem có phản ứng nào

nhé’. Vị ấy vừa suy nghĩ như vậy, chưa có đốt, mà bút điện tử đã mau chóng vẽ ra

một đường cong, chính là khi con người kêu cứu mạng mới có thể vẽ ra đường

cong như vậy. Công năng siêu cảm loại này, quá khứ gọi là tha tâm thông, là một

tiềm năng, bản năng của con người; tuy nhiên nhân loại ngày nay đều đã thoái hoá,

chư vị cần phải tu luyện từ đầu, phản bổn quy chân, phản hồi về bản tính tiên thiên

của chư vị, thì chư vị mới có thể có được nó. Vậy mà [thực vật] đã có rồi, chư vị

nghĩ gì nó liền biết, nghe vậy thật là huyền [hoặc], nhưng đó là những thí nghiệm

khoa học hết sức thực tại. Vị này đã làm các thí nghiệm, còn có công năng dao

khống từ cự ly xa. Luận văn của vị ấy sau khi công bố ra, toàn thế giới rất chấn

động.

Các nhà nghiên cứu thực vật tại các quốc gia đều đang triển khai nghiên cứu

theo phương diện này, ở nước ta cũng có làm; điều ấy đã không còn là thứ gì mê tín

nữa. Hôm rồi tôi đã giảng một câu, rằng những gì phát sinh, phát minh và phát hiện

nơi nhân loại chúng ta hôm nay đã đủ để cải biến sách giáo khoa hiện nay của

chúng ta rồi. Nhưng do ảnh hưởng của quan niệm truyền thống, người ta không

muốn thừa nhận nó, và cũng chưa có ai chỉnh lý một cách có hệ thống những điều

ấy.

Ở một công viên ở [tỉnh] Đông Bắc, tôi thấy một đám cây tùng đã chết gục.

Không biết được một số người kia luyện là luyện thứ gì, lăn lộn khắp đất, lăn lộn

xong rồi, chân thu [khí] thế này, tay thu [khí] thế kia, và sau một thời gian không

lâu đám cây tùng ấy vàng [úa] rồi chết cả. Chư vị đang làm việc tốt hay xấu đây?

Đứng tại góc độ người luyện công chúng ta mà xét, ấy là sát sinh. Chư vị là người

luyện công thì chư vị cần phải làm người tốt, dần dần đồng hoá với đặc tính vũ trụ,

bỏ những thứ không tốt của mình. Còn nếu đứng tại góc độ người thường mà xét,

[đó] cũng không phải làm việc tốt, mà là phá hoại của công, phá hoại cây xanh, phá

hoại cân bằng sinh thái; đứng tại góc độ nào mà giảng cũng thấy không phải việc

tốt. Khí trong vũ trụ thật là [nhiều], chư vị cứ thu thôi có sao đâu. Có người có năng

lượng rất lớn, sau khi luyện đến một tầng nhất định, thì thật sự huơ tay một cái là

Thu khí 148

khí của cả một vùng thực vật lớn lập tức thu được ngay. Nhưng bất quá chỉ là khí,

thu nhiều đến mấy thì đã sao? Có người đến công viên không làm điều gì khác, họ

nói: ‘Tôi không cần luyện công, tôi vừa đi vừa thu [khí] là được rồi, tôi luyện thế là

xong rồi. Đắc khí là được rồi.’ Họ tưởng rằng khí là công. Người ta đến gần vị này,

cảm thấy thân thể vị ấy ơn ớn lạnh. Khí thực vật ấy chẳng phải âm tính là gì?

Người luyện công giảng âm dương cân bằng; thân thể vị ấy toàn là mùi dầu cây

tùng, mà vẫn tưởng rằng bản thân mình luyện tốt ghê lắm.

Ai luyện công thì đắc công

Vấn đề ‘ai luyện công ai đắc công’

1

 là một vấn đề cực kỳ then chốt. [Khi]

người khác hỏi tôi rằng Pháp Luân Đại Pháp có chỗ nào hay, tôi nói rằng Pháp

Luân Đại Pháp có thể đạt được ‘công luyện người’, thu ngắn thời gian luyện công;

có thể giải quyết vấn đề không có thời gian luyện công, nhưng vẫn được luyện công

một cách trường kỳ. Đồng thời chúng ta cũng là công pháp tính mệnh song tu chân

chính, sự biến hoá thân thể vật chất này của chúng ta sẽ rất to lớn. Pháp Luân Đại

Pháp còn có một chỗ tốt lớn nhất, trước đây tôi chưa từng giảng, chỉ có hôm nay tôi

mới giảng xuất lai. Bởi vì nó liên quan đến vấn đề rất to lớn trong lịch sử xa xưa,

cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến giới tu luyện; trong lịch sử từ xưa đến nay chưa

có ai dám chỉ ra, và cũng không cho phép họ chỉ ra; nhưng tôi không thể không

giảng [điều này].

Có đệ tử nói: ‘Mỗi lời của Đại Sư Lý Hồng Chí đều là thiên cơ, là tiết lộ thiên

cơ’. Tuy nhiên chúng tôi thật sự đưa người lên cao tầng, chính là độ nhân. Phải

chịu trách nhiệm đối với mọi người, có thể gánh chịu trách nhiệm ấy, do đó không

phải là tiết lộ thiên cơ. Còn không chịu trách nhiệm mà nói thuyết tuỳ tiện thì chính

là tiết lộ thiên cơ. Hôm nay chúng tôi nói ra vấn đề này: chính là vấn đề ai luyện

công ai đắc công. Theo tôi thấy thì tất cả các công pháp hiện nay, bao gồm cả [công

pháp] Phật gia, Đạo gia và Kỳ Môn công pháp từ lịch sử đến nay đều tu luyện phó

nguyên thần (phó ý thức) của người ta, đều là phó nguyên thần đắc công. Chúng tôi

ở đây giảng về chủ nguyên thần, chính là tư duy của bản thân mình, tự mình nếu

biết rõ mình đang suy nghĩ gì, thực hiện gì, đó chính là bản thân mình thực sự. Còn

phó nguyên thần làm những gì thì chư vị hoàn toàn không hay biết. Tuy nó và chư

vị đồng thời xuất sinh, gọi bằng cùng một tên, làm chủ một thân thể, lớn lên cùng

dạng như nhau; nhưng nói một cách chặt chẽ thì nó không phải chư vị.

Trong vũ trụ có [Pháp] lý: rằng ai mất thì được, ai luyện công thì đắc công. Các

công pháp trong lịch sử đều dạy người ta khi luyện công phải mơ mơ tỉnh tỉnh,

không suy nghĩ gì hết, sau đó nhập định thâm sâu, định đến mức rốt cuộc bản thân

mình không còn biết gì nữa. Có người đả toạ ba giờ đồng hồ tựa như trong nháy

mắt; người khác còn khâm phục định lực của họ. Thực ra họ đã luyện hay chưa

luyện? Bản thân họ hoàn toàn không biết. Đặc biệt công pháp Đạo gia giảng: ‘thức

thần tử nguyên thần sinh’. ‘Thức thần’ mà họ nói chính là ‘chủ nguyên thần’ mà

chúng ta đề cập đến; còn ‘nguyên thần’ mà họ nói chính là cái mà chúng ta gọi là

‘phó nguyên thần’.[Nếu] ‘thức thần’ thật của chư vị mà chết, thì chư vị thực sự đã

chết rồi, chủ nguyên thần thật sự không còn nữa. Có người luyện công pháp khác

nói với tôi: ‘Thưa Thầy, khi con luyện công, con không nhận ra ai ở nhà con nữa’.

Còn có người nói với tôi: ‘Con không giống như người ta luyện công thức khuya

dậy sớm, con về nhà ngả lưng một cái, bản thân con liền xuất ra luyện công; con

1 Thuỳ luyện công thuỳ đắc công: (i) ai luyện công ai đắc công; (ii) ai luyện công người ấy đắc công.

Ai luyện công thì đắc công 149

nằm đó xem con xuất ra luyện công’. Tôi thấy rằng như thế thật đáng buồn; nhưng

cũng không đáng buồn!

Vì sao người ta độ phó nguyên thần? Lã Động Tân có câu: ‘Ta thà độ động vật

còn hơn độ nhân’. Thực ra con người rất khó ngộ; bởi vì người thường chịu nhận

chỗ mê của xã hội người thường, khi lợi ích hiện thực trước mắt liền không vứt bỏ

cái tâm ấy được. Chư vị không tin [ư]; có người nghe xong bài giảng ra khỏi lễ

đường, liền biến thành người thường; ai gây [sự] với họ, đụng phải họ, họ liền

không chịu. Qua một giai đoạn thời gian, hoàn toàn không còn coi bản thân mình là

người luyện công nữa. Rất nhiều người tu Đạo trong lịch sử đều thấy rõ điểm này;

con người rất khó độ, chính vì chủ nguyên thần của con người mê quá rồi. Có

người ngộ tính tốt, [nói] một chút là thấu [hiểu]. Một số người có giảng thế nào họ

cũng không tin, họ cho rằng chư vị nói phóng đại. Chúng tôi bảo họ tu luyện tâm

tính như thế, nhưng họ hễ đến chốn người thường liền muốn sao làm vậy. Họ cho

rằng những lợi ích rất thiết thực, động chạm đến được, đạt được nơi người thường

mới là lợi ích thiết thực, còn phải đắc những thứ ấy. Pháp mà Sư phụ giảng, nghe

thì thấy có đạo lý, nhưng không thực hiện nổi. Chủ nguyên thần con người khó độ

nhất, nhưng phó nguyên thần có thể thấy cảnh tượng không gian khác. Nên người

ta nghĩ: ‘Ta hà tất phải độ chủ nguyên thần của ngươi, [phó nguyên thần] cũng là

ngươi, ta độ nó cũng vậy phải không? Đều là ngươi mà, ai đắc mà chả là đắc, đều là

ngươi đắc’.

Tôi giảng phương pháp tu luyện cụ thể của họ. Ai có công năng dao thị, có thể

thấy một cảnh tượng như thế này: chư vị hễ đả toạ, chư vị liền thấy rằng vào đúng

tích tắc chư vị định lại được, thì “vèo” một cái từ trong thân thể chư vị xuất ra một

chư vị khác giống hệt chư vị. Tuy nhiên chư vị phân biệt được đâu là tự ngã?

[Chính là] đang ngồi ở đây thôi. Chư vị thấy rằng sau khi nó xuất ra, sư phụ liền

đưa nó đi tu luyện tại một không gian mà sư phụ diễn hoá ra; cũng có thể là hình

thức xã hội quá khứ, cũng có thể là hình thức xã hội hiện tại, cũng có thể là hình

thức xã hội không gian khác; [sư phụ] dạy nó luyện công; nó chịu khổ không ít,

mỗi ngày một, hai giờ đồng hồ. Người ta luyện công xong quay trở về, thì chư vị

cũng liền xuất định; đó là [những ai] có thể nhìn thấy được.

Nếu [chư vị] không nhìn thấy [được gì] thì càng đáng buồn hơn, chả biết gì cả;

mơ mơ màng màng trong hai giờ đồng hồ rồi xuất định. Có người ngủ, ngủ liền

một mạch hai ba tiếng đồng hồ; họ tính rằng như thế là luyện công xong; hoàn toàn

giao cấp cho người ta. Đó là hoàn thành có tính gián tiếp, mỗi ngày [xếp bằng] đả

toạ lâu ngần ấy. Còn có [loại] hoàn thành trong một lần; có thể mọi người đều đã

nghe Đạt Ma quay mặt vào vách 9 năm; trong quá khứ có nhiều tăng nhân ngồi liền

mấy thập kỷ; lịch sử có chép lâu nhất hơn 90 năm; còn có [vị] lâu hơn, bụi bám dày

trên mắt, cỏ mọc khắp thân, mà vẫn còn ngồi tại nơi ấy. Đạo gia cũng giảng điều

này, đặc biệt là một số Kỳ Môn công pháp giảng ngủ, ngủ một mạch liền mấy chục

năm mới xuất định, không tỉnh. Tuy nhiên ai luyện đây? Phó nguyên thần của họ đã

xuất ra và luyện, nếu như họ có thể thấy thì liền nhìn thấy sư phụ mang theo phó

nguyên thần đi luyện. Phó nguyên thần cũng nợ nghiệp lực rất lớn, sư phụ không có

bản sự tiêu trừ chỗ nghiệp lực ấy. Do đó bảo nó rằng: ngươi ở đây luyện công cho

tốt, ta đi nơi khác một chuyến, rồi sau sẽ quay lại, ngươi hãy đợi ta.

Sư phụ biết rõ chuyện gì sẽ xảy đến, [nhưng] cũng phải làm vậy. Kết quả là ma

đến doạ nạt nó, hoá thành mỹ nữ dẫn dụ nó, chuyện gì cũng có. Nhưng rồi thấy

rằng nó thật sự không động tâm, bởi vì phó nguyên thần tương đối dễ tu hơn, nó có

thể biết được chân tướng. Con ma ấy nóng mắt liền muốn giết nó, để giải hận báo

Ai luyện công thì đắc công 150

thù, đã thật sự giết nó, lập tức món nợ hoàn trả xong. Bị giết xong phó nguyên thần

liền phiêu đãng bay ra, như một làn khói xuất ra. Rồi chuyển sinh, thác sinh vào

một gia đình bần cùng. Từ bé đã chịu khổ; đến khi lớn đến lúc có thể hiểu biết được

sự việc thì sư phụ đến; tất nhiên nó không nhận ra. Sư phụ dùng công năng khai mở

phần tư duy tồn trữ trong nó, lập tức [nó nhớ] nghĩ ra ngay: chẳng đúng sư phụ là

gì? Sư phụ nói với nó: hiện giờ tốt rồi, có thể luyện rồi. Như vậy trải qua bao nhiêu

năm, sư phụ đem những điều này khác truyền lại cho nó.

Truyền xong sư phụ lại bảo nó: ngươi còn rất nhiều tâm chấp trước cần phải

bỏ, ngươi hãy trở ra đi vân du. ‘Vân du’ rất khổ, bước đi ngoài xã hội, phải xin ăn,

gặp các loại người, giễu cợt nó, nhục mạ nó, khinh nhờn nó, các sự tình đủ loại đều

sẽ gặp phải. Nó coi bản thân là người luyện công, dàn xếp tốt quan hệ với người ta,

giữ vững tâm tính, không ngừng đề cao tâm tính, những dụ dỗ từ các loại lợi ích

nơi người thường đều không làm nó động tâm; trải qua bao nhiêu năm vân du nó

quay trở lại. Sư phụ nói: Ngươi đã đắc Đạo rồi, viên mãn rồi. Nếu không còn việc

gì, thì ngươi trở về chuẩn bị rời đi; nếu còn việc gì, thì ngươi hãy hoàn tất sự việc

ấy nơi người thường đi. Như vậy sau bao nhiêu năm, phó ý thức đã trở về; nó vừa

trở về, thì bên này chủ nguyên thần cũng liền xuất định, chủ ý thức tỉnh ngủ.

Tuy nhiên họ xác thực chưa hề tu luyện, phó nguyên thần của người ta đã tu

luyện, do đó phó nguyên thần đắc công. Tuy nhiên chủ nguyên thần cũng khổ, dù

sao thì toàn bộ [tuổi] thanh xuân của họ đã ngồi ở nơi ấy rồi, thời gian người

thường đã qua đi rồi. Vậy giải quyết sao đây? Họ cảm thấy rằng khi xuất định thì

công mà mình luyện đã đến, đã có công năng rồi, họ muốn trị bệnh, muốn làm gì

liền có thể làm nấy, phó nguyên thần sẽ làm họ thoả mãn. Bởi vì rốt cuộc thì họ là

chủ nguyên thần, chủ nguyên thần làm chủ thân thể, là [người] quyết định. Hơn nữa

ở bên này họ đã ngồi đây, một đời đã trôi qua rồi. Đến khi trăm tuổi [lâm chung] thì

phó nguyên thần rời đi, [đường] ai nấy đi. Theo Phật giáo giảng, họ vẫn phải nhập

lục đạo [luân hồi]. Bởi vì trong thân của họ đã tu xuất một Đại Giác Giả, nên họ đã

tích được đại đức, vậy sẽ sao đây? Có thể vào đời tiếp họ sẽ làm quan lớn, phát tài

lớn. Cũng chỉ có thể như vậy thôi, đó chẳng phải tu mà như không ư?

Sự việc này chúng tôi giảng xuất ra, cũng là phải mất bao nhiêu phí tổn mới

được đồng ý giảng. Tôi đã chỉ ra chỗ mê từ thiên cổ, bí mật trong những bí mật

tuyệt đối không thể giảng, chỉ ra căn bản của các loại phương pháp tu luyện trong

tu luyện lịch sử. Chẳng phải tôi đã giảng rằng [nó] liên quan đến lịch sử uyên

nguyên rất thâm sâu hay sao? Chính là nguyên nhân ấy. Chư vị thử nghĩ, hỏi gia

nào, môn nào mà không tu luyện như thế? Bản thân chư vị tu tới tu lui mà chư vị

không có công, chư vị chẳng đáng buồn lắm ư! Nhưng biết oán ai đây? Con người

mê đến mức như thế, không ngộ, điểm hoá thế nào cũng không được. Nói cao thì

nghe thấy huyền [hoặc] quá, nói thấp thì ngộ không lên được. Tôi đã thuyết [giảng]

thế này, mà còn có người bảo tôi trị bệnh cho họ, tôi thật sự không biết nói sao.

Chúng tôi giảng tu luyện, tu luyện lên cao tầng thì [tôi] mới có thể quản.

Pháp môn này của chúng tôi là chủ ý thức đắc công; vậy nói là chủ ý thức đắc

công liền được chủ ý thức đắc công? Ai cho phép? Không phải thế, nó cần phải có

điều kiện tiên quyết. Như mọi người đã biết, pháp môn này của chúng tôi không

tránh né xã hội người thường [rồi mới] đi tu luyện, không tránh, không trốn tránh

mâu thuẫn; ngay trong hoàn cảnh người thường phức tạp này, chư vị tỉnh táo rõ

ràng, hết sức minh bạch chịu thiệt thòi tại các vấn đề lợi ích vật chất; khi bị người

khác lấy mất lợi ích thiết thân, chư vị không giống như người ta mà tranh mà đấu;

trong các can nhiễu tâm tính, chư vị chịu thiệt thòi; trong hoàn cảnh gian khổ như

Ai luyện công thì đắc công 151

thế chư vị ‘ma luyện’ ý chí của mình, đề cao tâm tính của mình; khi có ảnh hưởng

của các tư tưởng bất hảo của người thường, chư vị có thể siêu thoát xuất lai.

Mọi người thử nghĩ xem, [người] chịu khổ một cách minh bạch chẳng đúng là

chư vị, [người] phó xuất chẳng đúng là chủ nguyên thần của chư vị, khi mất đi

những thứ tại người thường, chẳng phải chư vị chịu mất một cách minh bạch đúng

không? Công ấy nên để chư vị được, ai mất thì được. Do đó đây chính là nguyên

nhân vì sao pháp môn này của chúng ta, không hề thoát ly hoàn cảnh phức tạp này

nơi người thường để thực hành tu luyện. Vì sao chúng ta phải tu luyện trong mâu

thuẫn người thường? Bởi vì chúng ta muốn bản thân mình đắc công. Các đệ tử

chuyên tu tu luyện tại các chùa trong tương lai cũng phải vân du nơi người thường.

Một số người nói: các công pháp hiện nay cũng luyện tại người thường thì sao?

Nhưng đó chỉ là phổ cập chữa bệnh khoẻ người thôi; tu luyện lên cao tầng một cách

chân chính thì ngoài việc đơn truyền ra không có ai truyền công khai hết. [Ai] thật

sự đưa đồ đệ [lên cao tầng], đã đưa đồ đệ đi rồi, truyền dạy riêng mà thôi. Trong

bao nhiêu năm, ai giảng những thứ ấy cho quần chúng trên diện rộng? Không ai

giảng cả. Pháp môn chúng tôi giảng như vậy, bởi vì chúng ta chính là tu luyện như

thế, chính là đắc công như thế. Đồng thời không chỉ hàng nghìn hàng vạn thứ [cần]

được cấp trong môn này của chúng tôi, đã cấp toàn bộ cho chủ nguyên thần của chư

vị, thật sự để bản thân chư vị đắc công. Tôi nói rằng tôi đã làm điều mà người xưa

từ trước đến nay chưa từng làm, đã mở cánh cửa [rộng] lớn nhất. Những lời này của

tôi có người nghe và hiểu rõ, những điều tôi giảng thật sự không huyền [hoặc] chút

nào. Cá nhân tôi có thói quen, nếu tôi có một trượng, [thì] tôi chỉ nói một thước, mà

chư vị đã cho rằng tôi thổi phồng lên quá. Thực ra đó mới chỉ nói một chút đó thôi;

vì sự chênh lệch quá lớn về tầng nên Đại Pháp cao thâm hơn nữa tôi không thể

giảng chút gì cho chư vị.

Pháp môn này của chúng tôi tu luyện đúng là như thế, để chính bản thân chư vị

thật sự đắc công; đây là lần đầu tiên từ khi khai thiên tịch địa; chư vị có thể tra lại

trong lịch sử. [Nó] rất tốt là bản thân chư vị đắc công, nhưng cũng rất khó khăn. Tại

hoàn cảnh phức tạp nơi người thường, trong ma sát giữa người với người, chư vị có

thể thực sự vượt lên, ấy là điều khó khăn nhất. Khó là khó ở chỗ chư vị chịu thiệt

thòi một cách minh bạch rõ ràng nơi lợi ích người thường, với lợi ích thiết thân

[bày] trước mắt, chư vị có bất động tâm hay không; khi đấu tranh lục đục giữa

người với người, chư vị có bất động tâm hay không; khi bạn bè thân quyến gặp

chuyện thống khổ, chư vị có bất động tâm hay không, chư vị nhìn nhận sự việc như

thế nào đây; làm người luyện công khó khăn như vậy đấy! Có một người nói với

tôi: ‘Thưa Sư phụ, làm người tốt nơi người thường là được rồi, ai tu nổi lên trên

được chứ?’ Tôi nghe thấy thật thương tâm! Và không nói gì với vị ấy cả. Tâm tính

các dạng đều có, họ có thể ngộ cao đến đâu thì ngộ cao đến đó; ai ngộ ra thì người

ấy đắc được.

Lão Tử đã nói: ‘Đạo, khả Đạo, phi thường Đạo’. Như thế [cái gì] có nhiều đầy

đất nhặt lên là tu thành ngay, thì nó không trân quý. Pháp môn này của chúng tôi

cho phép chư vị đắc công trong mâu thuẫn; do đó chúng ta phải phù hợp tối đa với

người thường, còn về vật chất cũng không thật sự để chư vị mất mát gì cả. Tuy

nhiên trong hoàn cảnh vật chất ấy chư vị phải đề cao tâm tính. Thuận tiện cũng là

thuận tiện ở chỗ này, pháp môn chúng tôi là thuận tiện nhất, có thể tu luyện nơi

người thường, không cần xuất gia. Và khó nhất cũng chính là khó ở chỗ này, tu

luyện trong hoàn cảnh người thường phức tạp nhất. Nhưng [điểm] tốt nhất chính là

tốt ở chỗ này, bởi vì nó cho phép [chính] bản thân chư vị đắc công; đây là điểm

Ai luyện công thì đắc công 152

then chốt bậc nhất nơi pháp môn này của chúng ta, hôm nay tôi đã giảng rõ cho mọi

người. Tất nhiên, [khi] chủ nguyên thần đắc công, [thì] phó nguyên thần cũng đắc

công; tại sao? Hết thảy các tín tức, hết thảy các linh thể của thân thể chư vị và các

tế bào của chư vị đều tăng công, thì tất nhiên [phó nguyên thần] cũng tăng công.

Tuy nhiên lúc nào nó cũng không cao bằng chư vị; chư vị là Chủ, nó là hộ Pháp.

Giảng đến đây, tôi còn muốn nói một câu. Trong giới tu luyện chúng ta có

không ít người như thế này: luôn luôn mong muốn tu luyện lên cao tầng. Đi khắp

nơi cầu Pháp, tiêu tốn không ít tiền, núi Nam bể Bắc đều đã tới, đi tìm danh sư mà

không gặp. Có danh tiếng không nhất định là có minh bạch. Kết quả phí công chu

du các nơi, mệt thân tốn tiền, không đắc được gì cả. Công pháp tốt như thế này,

hôm nay chúng tôi đã cấp cho chư vị, chúng tôi đã bưng đến tận nơi cho chư vị, đặt

đến cổng nhà cho chư vị. Chính là để xem chư vị có thể tu được hay không, có thể

hành được hay không. Nếu chư vị có thể [thực] hành được, thì chư vị tu; còn nếu

chư vị không hành được, nếu chư vị không tu được, thì từ giờ trở đi chư vị chớ nghĩ

đến tu luyện nữa. Ngoại trừ ma lừa đảo chư vị ra sẽ không ai dạy chư vị nữa; từ nay

trở đi chư vị đừng tu nữa. Nếu tôi không độ được chư vị, thì không ai độ chư vị

được đâu. Thực ra hiện nay muốn tìm sư phụ chính Pháp chân chính để dạy chư vị,

còn khó hơn lên trời; hoàn toàn không còn ai quản nữa. Vào thời kỳ mạt Pháp, tại

tầng rất cao đang ở trong mạt kiếp, càng không thể quản người thường được nữa.

Đây là pháp môn thuận tiện nhất rồi, hơn nữa tu luyện trực tiếp chiểu theo đặc tính

vũ trụ, tu nhanh nhất tắt nhất rồi, trực chỉ nhân tâm.

Chu thiên

Trong Đạo gia giảng đại chu thiên tiểu chu thiên; chúng tôi sẽ giảng một chút

chu thiên là gì. Chu thiên mà chúng ta bình thường nói đến là nối vòng hai mạch

nhâm đốc [mà thành], chu thiên ấy chỉ là chu thiên vỏ ngoài nông cạn, không đáng

kể gì cả, chỉ là thứ chữa bệnh khoẻ người thôi; gọi là tiểu chu thiên. Còn một loại

chu thiên nữa, không gọi là tiểu chu thiên cũng không gọi là đại chu thiên, [nó] là

hình thức chu thiên tu luyện trong thiền định. Nó từ trong thân thể, từ nê hoàn chạy

quanh một vòng rồi đi xuống, ở trong thân thể cho đến đan điền chuyển quanh một

vòng rồi đi lên; tuần hoàn nội tại; đó là chu thiên chân chính tu luyện khi thiền

định. Sau khi chu thiên loại này hình thành rồi cũng sẽ hình thành một dòng năng

lượng rất mạnh mẽ, sau đó ‘nhất mạch đới bách mạch’, làm cho các mạch khác đều

khai mở theo. Đạo gia giảng chu thiên, Phật giáo không giảng chu thiên. Phật giáo

giảng điều gì? Khi Thích Ca Mâu Ni truyền bộ Pháp của mình đã không giảng

công, không hề giảng công; tuy nhiên công Pháp của Ông cũng có hình thức diễn

hoá [trong] tu luyện. Mạch trong Phật giáo chạy theo hướng nào? Bắt đầu từ huyệt

bách hội bên trên thông thấu, sau đó phát triển từ đỉnh đầu xuống thân thể theo hình

xoáy ốc, rốt cuộc cũng là thông qua hình thức ấy làm cho trăm mạch khai mở theo.

‘Trung mạch’ trong Mật tông cũng có mục đích ấy. Có người nói rằng không

có trung mạch; vậy tại sao Mật tông có thể tu luyện xuất ra trung mạch? Thực ra tất

cả các mạch trên thân thể gộp hết cả lại, có trên vạn mạch, tương tự như huyết quản

ngang dọc nối vào nhau; còn có nhiều hơn cả huyết quản. Các chỗ trống của nội

tạng không có huyết quản, nhưng [vẫn] có mạch. Từ đỉnh đầu cho đến các vị trí

trong thân thể cũng có các mạch lạc

1

ngang dọc giao nhau, tiếp nối tất cả chúng gộp

lại, ban đầu có thể là không thẳng, liên kết lại đả thông. Sau đó dần dần nới rộng ra,

1 Nói chung về các đường mạch-kinh-lạc trong thân thể.

Chu thiên 153

dần dần hình thành một mạch thẳng. Lấy mạch ấy làm cái trục tự [xoay] chuyển,

kéo theo một số bánh xe trong ý niệm xoay chuyển theo chiều ngang; mục đích

cũng là làm tất cả các mạch trong thân thể kéo theo khai mở toàn bộ.

Tu luyện Pháp Luân Đại Pháp chúng ta tránh hình thức ‘nhất mạch đới bách

mạch’ ấy; ngay lập tức yêu cầu trăm mạch đồng thời khai mở, trăm mạch đồng thời

vận chuyển. Chúng ta ngay lập tức đứng tại tầng rất cao luyện [công], tránh những

thứ tại [tầng] rất thấp. [Nếu theo cách] nhất mạch đới bách mạch, chư vị nếu muốn

khai mở tất cả, thì có người luyện cả một đời vẫn còn khó đạt; có người phải tu

luyện cả mấy chục năm, rất khó khăn. Trong rất nhiều công pháp giảng rằng một

đời vẫn chưa tu thành được, có nhiều người tu luyện trong các Đại Pháp cao thâm

có thể kéo dài thọ mệnh; chẳng phải họ giảng tu mệnh là gì? Có thể kéo dài thọ

mệnh mà tu luyện, tu liên tục thời gian rất lâu dài.

Về cơ bản tiểu chu thiên chỉ là chữa bệnh khoẻ người, còn đại chu thiên chính

là luyện công, đã là tu luyện chân chính rồi. Đại chu thiên mà Đạo gia nói đến

không mạnh mẽ như của chúng ta, trăm mạch toàn bộ đánh thông hết. Của họ là

một số mạch vận chuyển, ba mạch âm ba mạch dương nơi tay, dưới chân, hai bắp

chân đến đầu [tóc], chạy khắp thân thể một lượt, vậy được tính là vòng tuần hoàn

đại chu thiên. Hễ đại chu thiên bắt đầu [chuyển] là luyện công thật sự rồi đó, do vậy

một số khí công sư không truyền [dạy] đại chu thiên; điều họ truyền chỉ là những

điều chữa bệnh khoẻ người thôi. Một số người cũng giảng về đại chu thiên, nhưng

họ không cài gì cho chư vị, chư vị tự mình không đánh thông ra được. Không cài gì

cả, bản thân dựa vào ý niệm muốn khai mở, nói sao dễ vậy! Chỉ giống như tập thể

thao, liệu có thể khai mở được không? Tu tại tự kỷ, công tại sư phụ, những “cơ

chế” nội tại cấp hết rồi cài cho chư vị thì mới có thể có tác dụng như vậy.

Xưa nay Đạo gia vẫn coi thân thể con người là tiểu vũ trụ, họ cho rằng vũ trụ

bên ngoài lớn ngần nào, thì bên trong lớn ngần ấy, bên ngoài như thế nào, thì bên

trong như thế ấy. Điều này giảng ra thật khó tin quá, không dễ mà lý giải cho được.

Vũ trụ này to lớn nhường ấy, đem so sánh với thân thể người là sao? Chúng tôi

giảng đạo lý này: vật lý học chúng ta hiện nay nghiên cứu các thành phần vật chất,

từ phân tử, nguyên tử, điện tử, proton, quark cho đến neutrino; nhưng [kích thước]

xuống đến dưới nữa thì thế nào? [Mới] đến đó mà kính hiển vi đã không thấy được

rồi, xuống nữa cho đến vi lạp nhỏ nhất là gì? Không biết. Thực ra một chút xíu mà

vật lý học hiện nay chúng ta hiểu biết được còn xa lắm lắm mới đến được vi lạp

nhỏ nhất của vũ trụ. Lúc con người không mang tròng mắt thịt này, thì con mắt của

người ta nhìn mọi thứ có thể có tác dụng phóng đại, có thể thấy được [mức] vi

quan. Tầng càng cao, thì nhìn thấy được vi quan càng lớn hơn.

Thích Ca Mâu Ni tại tầng ấy, Ông đã giảng học thuyết tam thiên đại thiên thế

giới, tức là trong hệ Ngân Hà này, cũng tồn tại những người có sắc thân giống như

nhân loại chúng ta. [Ông] còn giảng học thuyết rằng một hạt cát cũng bao hàm tam

thiên đại thiên thế giới, [điều ấy] phù hợp với nhận thức của vật lý học chúng ta

hiện nay. Hình thức chuyển động của điện tử xoay quanh hạt nhân nguyên tử và

Trái Đất chuyển động xoay quanh Mặt Trời có gì khác nhau? Do đó Thích Ca Mâu

Ni đã giảng, rằng tại mức vi quan, trong một hạt cát có tam thiên đại thiên thế giới,

nó cũng tương tự như một vũ trụ này, trong đó có sinh mệnh có vật chất. Nếu như

đó là lời chân thật, mọi người thử nghĩ xem thế giới bên trong hạt cát ấy lại có hạt

cát nữa phải không, như thế hạt cát ở bên trong hạt cát ấy lại cũng có tam thiên đại

thiên thế giới có phải không? Như vậy thế giới bên trong hạt cát ở bên trong hạt cát

ấy cũng lại có hạt cát nữa phải không? Cứ truy mãi xuống như thế thì vô cùng vô

Chu thiên 154

tận. Do đó Thích Ca Mâu Ni đạt đến tầng Như Lai như vậy, Ông đã giảng một câu

như thế này: “Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội”. Đại, không thấy được biên của vũ

trụ; tiểu, không thấy được vật chất bản nguyên nhỏ bé nhất rốt ráo là gì.

Có khí công sư giảng: trong lỗ chân lông có thành phố, trong đó có xe lửa, xe

hơi đang chạy. Nghe vậy huyền [hoặc] lắm; tuy nhiên chúng ta đứng tại góc độ

khoa học mà thực sự lý giải, mà nghiên cứu, thì phát hiện rằng nói như thế không

có gì là huyền [hoặc] cả. Hôm rồi khi tôi giảng khai [mở] thiên mục, có rất nhiều

người khai mở thiên mục rồi thấy cảnh tượng thế này: họ phát hiện rằng cứ chạy

mãi trong đường thông trong trán của mình, như thể là chạy mãi không đến đầu

[bên kia]. Mỗi ngày luyện công đều chạy ra theo con đường lớn ấy, hai bên có non

có nước, khi chạy còn qua những thành phố, còn thấy rất nhiều rất nhiều người, họ

thấy rằng đó là ảo giác. Đó là chuyện gì vậy? Nhìn thấy rất rõ ràng, không phải ảo

giác. Tôi giảng rằng tại mức vi quan nếu thân thể con người thực sự to lớn đến thế,

thì đó không phải là ảo giác. Bởi vì Đạo gia luyện công xưa nay vẫn nhìn nhận rằng

thân thể con người là một tiểu vũ trụ, nếu như đúng nó là một vũ trụ, thì từ thể tùng

quả cho đến trán không chỉ là mười vạn tám nghìn dặm; chư vị [vẫn] chạy mãi ra,

rất xa vậy.

Nếu như trong quá trình tu luyện đánh thông toàn bộ đại chu thiên xong, thì sẽ

dẫn đến cho người tu luyện một loại công năng; công năng gì? Mọi người đã biết,

đại chu thiên cũng được gọi là ‘tý ngọ chu thiên’, cũng được gọi là ‘càn khôn vận

chuyển’, cũng được gọi là ‘hà xa vận chuyển’. Tại một tầng rất nông, sự vận

chuyển của đại chu thiên hình thành một dòng năng lượng, nó sẽ dần dần gia tăng

mật độ và chuyển hoá hướng lên tầng cao hơn, sẽ trở thành vành đai năng lượng có

mật độ rất cao. Đai năng lượng này nó vận chuyển, trong quá trình vận chuyển,

chúng tôi tại một tầng cực nông dùng thiên mục mà nhìn, thì phát hiện rằng nó có

thể hoán vị khí ở bên trong thân thể: khí ở tim chạy sang ruột, khí ở gan chạy sang

dạ dày … nếu như có thể thấy thì ở mức vi quan nó đang vận chuyển những thứ rất

to lớn; nếu như đưa đai năng lượng ấy ra ngoài [thân] thể thì đó chính là công năng

‘ban vận’. Người có công rất mạnh thì có thể vận chuyển những thứ rất lớn, tức là

‘đại ban vận’. Người có công rất yếu có thể vận chuyển những thứ rất nhỏ, tức là

‘tiểu ban vận’. Đây là hình thức của ‘ban vận công’ và sự hình thành của nó.

Đại chu thiên [liên hệ] trực tiếp đến luyện công, do đó sẽ dẫn đến các trạng thái

khác nhau và hình thức của công [khác nhau]; nó cũng đưa đến cho chúng ta một

trạng thái rất đặc thù. Trạng thái gì? Mọi người có thể đã [xem] trong các cuốn cổ

thư như «Thần tiên truyện» hoặc «Đan Kinh», «Đạo tạng», «Tính mệnh khuê chỉ»

đều thấy viết về một câu là “bạch nhật phi thăng”, tức là ban ngày sáng tỏ người kia

bay lên. Thực ra tôi nói với mọi người, hễ đại chu thiên [khai] thông một cái là cá

nhân ấy có thể [bay] lên không trung, đơn giản vậy thôi. Có người nghĩ: luyện công

bao nhiêu năm như thế, số người thông đại chu thiên không phải ít. Tôi nói rằng

cũng không có gì là lạ nếu có hàng vạn người đã đạt đến trình độ ấy, bởi vì đại chu

thiên [khai thông] rốt cuộc cũng chỉ là bước đầu trong luyện công mà thôi.

Như thế tại sao không thấy những vị ấy phiêu [đãng bay] lên? Không thấy họ

trên không trung? Trạng thái của xã hội người thường không thể bị phá hoại, không

thể tuỳ tiện phá hoại hoặc cải biến hình thức trạng thái xã hội người thường; con

người cứ lơ lửng hết ở trên không có được không? Đó có còn là xã hội người

thường không? Đó là mặt chủ yếu; một mặt khác, con người trong xã hội người

thường không phải vì để làm người, mà vì để phản bổn quy chân, do đó còn có vấn

đề ngộ tính. Họ thấy có nhiều người rõ ràng thực sự có thể bay lên, thì họ cũng đi

Chu thiên 155

tu, tức là không tồn tại vấn đề ngộ tính nữa. Do vậy nếu chư vị tu hành [được như

thế] rồi, cũng không thể tuỳ tiện để người ta thấy, không được phép thị hiện cho

người ta thấy, người ta còn phải tu. Do đó đại chu thiên thông rồi, chỉ cần đầu ngón

tay, đầu ngón chân hoặc chỗ nào đó của chư vị bị khoá lại, thì chư vị không bay lên

được.

Thông thường khi chúng ta sắp thông đại chu thiên, sẽ xuất hiện một trạng thái

này, có người khi ngồi đả toạ thân thể cứ ngả về phía trước. Đó là vì phía lưng

thông được tốt, [phía] lưng rất nhẹ nhàng, phía trước cảm thấy nặng; có người ngả

về sau, chính là phía lưng thì nặng, phía trước thì nhẹ. Nếu như chư vị thật sự thông

tốt được toàn bộ rồi, như thế chư vị sẽ xóc cất lên, cảm thấy như tự mình có thể

nâng [người] lên, có cảm giác rời khỏi mặt đất. Một khi thật sự có thể [bay] lên, thì

sẽ không cho phép chư vị [bay] lên; tuy nhiên cũng không tuyệt đối. Xuất [hiện]

công năng [thường] ở hai đầu, trẻ em không có chấp trước, người già, nhất là các

cụ bà không có tâm chấp trước, dễ xuất hiện công năng, dễ bảo trì. Nam giới, đặc

biệt là nam thanh niên, đến khi họ có công năng, họ không tránh được tâm lý hiển

thị; đồng thời họ có thể lấy đó làm một thứ công cụ cạnh tranh nơi người thường.

Không cho phép tồn tại như thế. Luyện xuất được rồi thì cũng phải khoá kín nó lại.

Khoá kín một chỗ nào đó, thì người ấy không bay lên được. Nói vậy cũng không

tuyệt đối là không cho phép chư vị xuất hiện trạng thái ấy, có thể cho phép chư vị

thử một chút, có một số người có thể bảo trì [trạng thái] như vậy.

Lớp học tại các nơi đều có tình huống như thế. Hồi tôi dạy lớp ở Sơn Đông,

trong các học viên ở Tế Nam, các học viên ở Bắc Kinh cũng có; có vị nói: ‘Bạch

Sư phụ, con thế nào ấy, đi đường cứ như thể rời khỏi mặt đất, nằm ngủ ở nhà cũng

bay lên, ngay cả chăn đắp cũng bay lên, cứ bay lên như khí cầu vậy’. Hồi tôi dạy

lớp ở Quý Dương, có một học viên cao tuổi tại Quý Châu, một cụ bà, ở nhà bà có

hai chiếc giường, mỗi bên tường một chiếc. Bà ngồi đả toạ trên giường, rồi cụ bà

thấy tự mình bay bổng lên, bà mở to mắt thấy rằng [mình] đã bay sang chiếc

giường kia; cụ bà liền nghĩ: ‘Mình phải trở lại chứ’, liền bay trở lại.

Có một học viên ở Thanh Đảo, giờ nghỉ trưa trong phòng không có ai, ông ngồi

trên giường đả toạ, ông vừa đả toạ liền bay lên, bay lên xóc rất ghê, lên cao một

mét. Lên cao rồi lại rớt xuống, nẩy lên nẩy xuống tưng tưng, làm cả chăn đắp cũng

rớt xuống đất. Vừa có phần hưng phấn, vừa có phần sợ hãi, rung xóc lên xuống

trong suốt cả buổi trưa. Cuối cùng chuông công sở đổ, [ông] nghĩ: ‘Không thể để

người ta thấy được, như thế để làm gì, lập tức dừng lại thôi’. Thế là thôi. Đó là tại

sao những người già có thể giữ [tâm tính] được vững vàng. Nếu là thanh niên, tới

khi có tiếng chuông công sở: ‘Đến đây [cả] đi, tôi bay lên đây này’. Đây là chỗ mà

ai không dễ dàng giữ vững tâm hiển thị của mình: ‘Coi tôi luyện công tốt chưa, tôi

có thể bay lên được’. Một khi họ hiển thị thì sẽ mất, không cho phép tồn tại như

vậy. Sự việc như thế rất nhiều, học viên ở các nơi đều có [hiện tượng này].

Chúng ta cần lập tức trăm mạch đều khai [thông]. Mới đến hôm nay thì 80 đến

90% trong chúng ta bây giờ đã đạt trạng thái thân [thể] nhẹ nhàng, không có bệnh.

Đồng thời chúng tôi đã giảng: ở trên lớp này không chỉ đẩy chư vị lên trạng thái

như vậy, để thân thể chư vị hoàn toàn tịnh hoá, mà còn cài vào trong thân thể chư

vị rất nhiều thứ, sao cho từ sau buổi học này chư vị có thể xuất công, như thế tương

đương với việc tôi nâng chư vị lên và đưa về phía trước. Tôi đã liên tục giảng Pháp

cho chư vị, tâm tính của chư vị đã liên tục phát sinh cải biến. Chúng ta có khá nhiều

người sau khi ra khỏi giảng đường, chư vị sẽ cảm thấy như một người khác, đảm

bảo rằng thế giới quan của chư vị sẽ có chuyển biến, chư vị biết được tương lai chư

Chu thiên 156

vị sẽ làm người như thế nào, không còn mơ hồ nữa; đảm bảo là như vậy, do đó tâm

tính của chúng ta sẽ lên theo [kịp].

Bàn về đại chu thiên, tuy rằng không cho phép chư vị phiêu [đãng bay] lên,

nhưng chư vị sẽ cảm thấy thân nhẹ nhàng, như đi trên gió vậy. Trước đây đi mấy

bước là mệt, hiện nay đi [bộ] xa mấy cũng cảm thấy rất nhẹ nhàng, đạp xe đạp cảm

thấy như có người đẩy, leo bậc thang cao mấy cũng không mệt; đảm bảo sẽ như

vậy. [Ai] đọc sách này tự tu cũng có thể đạt đến trạng thái đáng có được giống như

thế. Cá nhân tôi có thể không nói những gì tôi không muốn nói, nhưng lời mà tôi

nói ra phải là lời chân thật. Đặc biệt trong tình huống như thế này, trong khi tôi

giảng Pháp nếu mà tôi không nói lời chân thật, ngồi ở đây nói những lời huyền

thoại, ở đây không thể không tuỳ tiện loạn giảng, thì tôi chính là đang truyền tà

pháp. Tôi thực thi công việc này cũng không hề dễ dàng gì, trong vũ trụ đều đang

theo dõi, chư vị mà đi sai lệch là không được.

Người bình thường biết đến chu thiên như vậy là hết; thực ra như vậy vẫn chưa

[đủ]. Muốn đạt đến thân thể được vật chất cao năng lượng hoàn toàn thay thế và

chuyển hoá mau lẹ nhất [có thể], còn có một vận chuyển có hướng với hình thức

chu thiên, kéo theo tất cả các mạch của thân thể chư vị vận chuyển theo hướng; nó

gọi là ‘mão dậu chu thiên’; có thể có một số rất ít người biết đến. Trong sách cũng

có lúc đề cập đến danh từ này, nhưng không ai giảng đến nó cả, không nói cho chư

vị [biết]. Đều chỉ loanh quanh nơi lý luận; [vì] đây là bí mật của những bí mật. Tại

đây chúng tôi nói rõ hết cho chư vị: có thể bắt đầu từ huyệt bách hội (cũng có thể

xuất phát từ huyệt hội âm), chạy dọc theo chỗ giao giới của hai mặt âm dương, qua

biên của tai đi xuống, rồi theo vai đi xuống. Chạy men theo từng ngón tay từng kẽ

ngón tay. Sau đó chạy theo một bên thân thể, đi xuống bàn chân, rồi lên trên háng.

Rồi lại xuống phía bên kia, lại xuống đến [bàn] chân, lên theo phía bên thân thể.

Chạy men theo từng ngón tay từng ngón tay, đi trọn một vòng là quay về đến đỉnh

đầu; đó là mão dậu chu thiên. Người ta có thể viết cả một cuốn sách, tôi chỉ nói

mấy lời ấy là đủ. Tôi cho rằng nó không có gì đáng kể là thiên cơ nào cả, nhưng

người khác có thể cho rằng nó là rất trân quý, hoàn toàn không giảng; là đồ đệ chân

truyền mới giảng về mão dậu chu thiên. Tuy rằng tôi đã giảng rõ ra, nhưng không

ai được dùng ý niệm dẫn đạo và khống chế để luyện, chư vị mà luyện thì không còn

[thuộc về] Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi nữa. Tu luyện lên cao tầng một cách

chân chính là vô vi, không có hoạt động ý niệm nào hết; toàn bộ đã cấp hết cho chư

vị [những gì] hình thành cả rồi. Chúng đều tự động hình thành, những cơ [chế] nội

tại ấy đang diễn luyện chư vị; đến thời thì chúng sẽ tự chuyển. Một hôm khi chư vị

luyện công sẽ lắc đầu; nếu đầu lắc sang bên này, thì nó chuyển thế này; nếu đầu lắc

sang bên kia, thì là chuyển thế kia; cần chuyển cả hai bên.

Đại chu thiên, tiểu chu thiên thông rồi, thì khi ngồi đả toạ sẽ gật đầu; đó là hiện

tượng năng lượng thông qua. ‘Pháp Luân chu thiên pháp’ mà chúng ta luyện cũng

giống như thế, chúng ta sẽ luyện như thế; thực ra khi chư vị không luyện nó [vẫn]

tự chuyển. Bình thường vĩnh viễn [vận] chuyển mãi; lúc chư vị luyện là để gia

cường những [khí] cơ ấy. Chúng tôi vẫn giảng ‘Pháp luyện người’ phải không?

Chư vị [sẽ] phát hiện rằng lúc bình thường thì chu thiên ấy vẫn liên tục tuần hoàn;

[lúc] chư vị không luyện, thì khí cơ được gắn ở bên ngoài, tức là một tầng các mạch

lớn bên ngoài đang kéo thân thể chư vị luyện theo, đều là tự động. Nó cũng [vận]

chuyển ngược lại, [vận] chuyển cả hai chiều xuôi ngược, vào mọi thời khắc đều

đang thông mạch cho chư vị.

Chu thiên 157

Như vậy mục đích thông chu thiên là gì? Bản thân việc thông chu thiên không

phải là mục đích luyện công. Chư vị thông chu thiên rồi, tôi nói vẫn không là gì cả.

Vẫn còn tu tiếp nữa; mục đích là thông qua hình thức chu thiên ‘nhất mạch đới

bách mạch’, để làm cho các mạch của thân thể, tất cả các mạch toàn bộ khai [mở].

Chúng ta đã đang làm công việc ấy rồi. Luyện tiếp nữa, có người khi đại chu thiên

đang chạy liền phát hiện rằng, mạch luyện được rất rộng, giống như đầu ngón tay,

bên trong rất rộng. Bởi vì năng lượng cũng rất mạnh mẽ, nên dòng năng lượng sau

khi hình thành rồi cũng sẽ rất rộng, nó cũng rất sáng. Như thế vẫn chưa gì đáng kể;

hỏi [cần] luyện đến mức độ nào? Cần làm cho bách mạch của thân thể người ta dần

dần rộng ra, năng lượng càng ngày càng mạnh, trở nên càng ngày càng sáng. Cuối

cùng làm cho hơn vạn mạch liên [kết] thành một khối, đạt đến một cảnh giới không

mạch không huyệt, toàn bộ thân thể liên [kết] lại thành một khối; ấy là khi đã đạt

được mục đích cuối cùng của việc thông mạch. Mục đích của nó là làm cho toàn bộ

thân thể được chuyển hoá [thành] vật chất cao năng lượng.

Khi luyện đến bước này, thân thể người ta cơ bản đã được chuyển hoá [thành]

vật chất cao năng lượng; tức là luyện lên đến tầng tối cao trong tu luyện thế gian

pháp, nhục thân của [thân] thể người ta đã tu luyện đến đỉnh điểm nhất rồi. Khi đã

đến bước này, cũng sẽ đưa đến cho họ một trạng thái; trạng thái nào vậy? Công của

họ đã xuất ra vô cùng phong phú. Tất cả các công năng đặc dị (tiềm năng) của

người ta [khi] tu luyện thân thể người thường, tức là trong quá trình tu luyện thế

gian pháp, tất cả mọi thứ đều xuất lai; tuy nhiên [khi] tu [luyện] trong người thường

thì đại bộ phận đều bị khoá lại. Ngoài ra công trụ của họ đã vươn lên rất cao, hết

thảy các hình thức của công, đều đã được công mạnh mẽ gia trì đến mức rất mạnh.

Nhưng chúng chỉ có tác dụng tại không gian hiện hữu này của chúng ta, chứ không

thể ước chế các không gian khác, bởi vì chúng chỉ là công năng được luyện ra từ

nhục thể người thường chúng ta. Tuy nhiên [chúng] đã rất phong phú. Tại các hình

thức tồn tại của thân thể ở trong từng không gian, [ở] những không gian khác nhau,

đều đã có biến đổi khá to lớn. Những thứ được mang theo thân thể, những thứ tại

mỗi tầng được mang theo thân thể đều đã rất phong phú, trông cũng rất ghê gớm.

Có người khắp thân thể đều là những con mắt, các lỗ chân lông ở khắp thân [thể]

đều là con mắt, trong phạm vi khắp cả trường không gian của vị ấy đều có con mắt.

Vì đây là công [pháp] Phật gia, nên có người khắp thân thể đầy những hình tượng

Bồ Tát, Phật. Các hình thái các loại công đều đã đạt đến mức độ cực kỳ phong phú;

ngoài ra còn có rất nhiều các sinh mệnh thể đã hiển hiện xuất lai.

Khi [đạt] đến bước này, thì nó còn xuất hiện một trạng thái, gọi là “tam hoa tụ

đỉnh”. Đây là một trạng thái hết sức [rõ ràng] minh hiển, hết sức dễ thấy; người có

thiên mục ở tầng không cao cũng có thể nhìn thấy được. Trên đầu có ba đoá hoa,

[trong ấy] một đoá là hoa sen, nhưng không phải là hoa sen trong không gian vật

chất này của chúng ta

1

; còn có hai đoá [hoa] nữa cũng là hoa ở không gian khác,

mỹ diệu khôn cùng. Ba đoá hoa luân phiên [xoay] chuyển trên đỉnh đầu, [xoay]

chuyển xuôi, [xoay] chuyển ngược; ba đoá hoa cũng tự [xoay] chuyển. Mỗi đoá hoa

có một cột trụ, to bằng đường kính của hoa. Ba chiếc cột trụ lớn ấy thông thẳng lên

đỉnh trời, nhưng đó không phải là công trụ; chúng có hình thức như thế; huyền diệu

phi thường; [khi] bản thân chư vị nhìn thấy cũng sẽ giật mình kinh sợ. Lúc tu luyện

đến bước này, thân thể rất trắng rất tịnh, da dẻ cũng rất mềm. Khi đã đến bước này,

1 Liên hoa, hà hoa: đều dịch là hoa sen. Chữ liên[莲] là để chỉ bông sen trong tam hoa tụ đỉnh; còn chữ hà[荷] là hoa

sen bình thường.

Chu thiên 158

thì cũng là đã đến hình thức cao nhất trong tu luyện thế gian pháp. Nhưng đây chưa

phải đỉnh điểm, còn cần tu tiếp nữa, cần tiến tiếp lên nữa.

Tiến tiếp lên nữa, là tiến nhập vào tầng quá độ giữa thế gian pháp và xuất thế

gian pháp, gọi là trạng thái ‘tịnh bạch thể’ (cũng gọi là ‘tinh bạch thể’). Bởi vì thân

thể tu luyện đến hình thức cao nhất trong thế gian pháp, cũng bất quá chỉ là nhục

thân đã chuyển hoá đến hình thức cao nhất. Khi thật sự tiến nhập vào hình thức ấy,

thì toàn bộ thân thể đã hoàn toàn được cấu thành từ vật chất cao năng lượng rồi. Vì

sao gọi là tịnh bạch thể? Là vì nó đã đạt đến thuần tịnh cao độ ở mức tuyệt đối rồi.

Dùng thiên mục mà nhìn, thì toàn bộ thân thể là trong suốt, giống như pha lê trong

suốt, nhìn vào không thấy gì cả; sẽ thể hiện ra trạng thái như thế; nói thẳng ra, nó

đã là Phật thể rồi. Bởi vì thân thể cấu thành từ vật chất cao năng lượng ấy đã khác

với thân thể bản thể của chúng ta. Khi đến bước này, thì hết thảy những công năng

và những thứ thuật loại đã xuất hiện trên thân thể sẽ lập tức phải toàn bộ vứt bỏ

xuống, gỡ chúng xuống cho vào một không gian rất thâm sâu; [chúng] không còn

[tác] dụng gì nữa, từ đó trở đi là vô dụng. Chỉ bất quá vào một hôm nào đó sau này

khi chư vị đã tu thành đắc Đạo rồi, chư vị quay đầu xem xem quá trình tu luyện của

mình, bèn lấy chúng ra xem xem một chút. Lúc này chỉ có hai thứ tồn tại: công trụ

vẫn còn, nguyên anh tu luyện được cũng đã trở nên rất lớn. Tuy nhiên hai thứ ấy

đều ở một không gian rất thâm sâu, người bình thường thiên mục không cao sẽ

không nhìn thấy được, họ chỉ thấy được thân thể cá nhân ấy là một [thân] thể trong

suốt.

Bởi vì trạng thái tịnh bạch thể là tầng quá độ, khi tu luyện tiếp nữa, thì thật sự

đã tiến nhập sang tu luyện xuất thế gian pháp, cũng gọi là ‘tu luyện Phật thể’. Toàn

bộ thân thể là do công cấu thành; khi ấy tâm tính người ta đã ổn định rồi. Bắt đầu tu

luyện lại từ đầu, công năng bắt đầu xuất hiện lại từ đầu; cũng không gọi là công

năng nữa, [mà] gọi là “Phật Pháp thần thông”, chúng ước chế tất cả các không gian,

uy lực vô tỷ. Tương lai thuận theo việc bản thân chư vị không ngừng tu luyện, thì

[về] những thứ ở tầng cao hơn nữa, tự [chư vị] sẽ biết được tu luyện như thế nào và

hình thức tồn tại của tu luyện.

Tâm hoan hỷ

[Chúng ta] nói về vấn đề này, đó cũng thuộc về ‘tâm hoan hỷ’. Rất nhiều người

đã trải qua luyện công lâu [năm], cũng có người chưa từng luyện công, nhưng họ

đang tìm kiếm những chân lý và ý nghĩa nhân sinh vốn đã truy cầu cả một đời của

mình. Đến khi học Pháp Luân Đại Pháp của chúng tôi, họ liền lập tức hiểu rõ ra rất

nhiều vấn đề mà cả đời họ mong muốn biết rõ nhưng lại không giải được. Tuy

nhiên cùng với sự thăng hoa tư tưởng của họ, thì tâm tình của họ cũng vô cùng kích

động; điểm này là khẳng định. Tôi hiểu rằng, những ai tu luyện chân chính sẽ biết

sức nặng của nó, họ sẽ biết trân quý [nó]. Nhưng thường hay xuất hiện vấn đề như

thế này: vì sự cao hứng của con người, nảy sinh ra tâm hoan hỷ không cần thiết,

cho nên họ có biểu hiện thất thường trên hình thức trong những giao tiếp giữa

người với người nơi xã hội người thường, trong hoàn cảnh xã hội người thường; tôi

nói rằng như thế là không được.

Phần lớn [người học] bộ công pháp này của chúng ta là tu luyện trong xã hội

người thường, chư vị không được làm cho mình thoát ly khỏi xã hội người thường;

chư vị cần tu luyện một cách rõ ràng minh bạch. Quan hệ giữa người với người vẫn

bình thường; tất nhiên tâm tính rất cao, tâm thái rất chính, đề cao tâm tính bản thân,

đề cao tầng của mình, không làm chuyện xấu [chỉ] làm điều tốt; chỉ có biểu hiện

Tâm hoan hỷ 159

như thế. Có người biểu hiện như thể là tinh thần không bình thường, như thể đã coi

chán cõi hồng trần rồi, lời nói ra người ta không lý giải nổi. Người ta nói, ‘Ông này

học Pháp Luân Đại Pháp rồi là thành vậy ư? Tựa như mắc bệnh tâm thần ấy’. Thực

ra không phải, mà là họ quá kích động thôi, không lý trí, không theo cái lý thông

thường. Mọi người thử nghĩ xem, chư vị làm thế cũng không đúng, chư vị đã lại

quay sang cực đoan mất rồi; cũng là tâm chấp trước. Chư vị cần vứt bỏ nó, sinh

hoạt và tu luyện một cách bình thường như mọi người. Ở nơi người thường, [nếu]

mọi người đều cho rằng chư vị thần hồn điên đảo, mọi người đều không nhìn nhận

chư vị như bình thường, tránh xa chư vị, không ai cung cấp cho chư vị cơ hội đề

cao tâm tính, không ai coi chư vị như người bình thường, thì tôi nói như vậy không

được! Do đó mọi người nhất định phải chú ý vấn đề này, chư vị nhất định phải giữ

bản thân mình cho đúng đắn.

Công pháp của chúng ta không giống các công pháp bình thường khác, vốn mơ

mơ màng màng, nửa mơ nửa tỉnh, thần hồn điên đảo. Công pháp chúng ta yêu cầu

chư vị tu luyện bản thân mình một cách tỉnh táo minh bạch. Có người cứ nói: ‘Thưa

Sư phụ, con cứ nhắm mắt lại là lắc động’. Tôi nói rằng không phải thế, chư vị đã

hình thành thói quen vứt bỏ chủ ý thức của mình, hễ chư vị nhắm mắt liền buông

lơi chủ ý thức của mình, đã mất rồi; chư vị đã hình thành thói quen như thế mất rồi.

Chư vị ngồi đây tại sao không lắc động? Chư vị vẫn bảo trì trạng thái mở mắt, hơi

hơi nhắm khẽ mắt lại thì hỏi chư vị có lắc động không? Tuyệt đối không. Chư vị

cho rằng luyện khí công là phải như thế, chư vị đã hình thành khái niệm như thế, hễ

nhắm mắt lại liền mất, chẳng còn biết đã đến đâu nữa. Chúng tôi giảng rằng chủ ý

thức của chư vị nhất định phải thanh tỉnh, bởi vì bộ công pháp này là tu luyện bản

thân chư vị, chư vị cần đề cao một cách tỉnh táo minh bạch. Chúng ta cũng có tĩnh

công, bộ công pháp ấy chúng ta luyện như thế nào? Chúng tôi yêu cầu mọi người,

chư vị dẫu có [nhập] định thâm sâu đến mấy cũng phải biết rằng bản thân mình

đang luyện công ở đó, tuyệt đối không cho phép tiến nhập vào trạng thái không còn

biết gì cả. Như vậy cụ thể sẽ xuất hiện trạng thái nào? Sẽ xuất hiện là lúc ngồi ở đó,

cảm giác bản thân mình mỹ diệu hệt như đang ngồi trong vỏ trứng gà, cảm giác

thoải mái phi thường, biết rằng mình đang luyện công tại đó, cảm giác toàn thân bất

động. Đó là điều công pháp này của chúng ta nhất định sẽ xuất hiện. Còn một trạng

thái nữa: ngồi tới ngồi lui phát hiện chân [biến] mất, không biết rõ chân đã đi đâu

mất, thân thể cũng [biến] mất, cánh tay cũng [biến] mất, bàn tay cũng [biến] mất,

chỉ còn mỗi cái đầu não. Luyện tiếp nữa thì thấy đầu não cũng [biến] mất, chỉ còn

[mỗi] tư duy của bản thân, một chút ý niệm biết rằng bản thân đang luyện công nơi

ấy. Nếu chúng ta đạt đến mức độ ấy là đủ rồi. Vì sao? Người ta luyện công trong

trạng thái ấy thì thân thể đạt đến trạng thái diễn hoá đầy đủ nhất, trạng thái tốt đẹp

nhất, do đó chúng tôi yêu cầu chư vị nhập tĩnh vào trạng thái ấy. Nhưng chư vị

không được ngủ [hay] mê mờ đi mất; như thế có thể những thứ tốt sẽ để người khác

luyện mất.

Tất cả những người luyện công chúng ta phải hết sức chú ý không được biểu

hiện quá thất thường ở nơi người thường. Chư vị khởi tác dụng không tốt ở nơi

người thường, người ta liền nói rằng, học Pháp Luân Đại Pháp rồi đều thành ra như

thế cả; vậy cũng tương đương với phá hoại danh dự Pháp Luân Đại Pháp; phải nhất

định chú ý việc này. Tại các phương diện khác và quá trình tu luyện cũng phải chú

ý không được sinh tâm hoan hỷ; loại tâm này rất dễ bị ma lợi dụng.

Tâm hoan hỷ 160

Tu khẩu

Về ‘tu khẩu’, tôn giáo quá khứ cũng giảng. Tuy nhiên tu khẩu mà họ nói đến

đặt trọng điểm vào những người tu luyện chuyên nghiệp—tăng nhân và đạo sỹ—

[họ] ngậm miệng không nói. Vì là người tu luyện chuyên nghiệp, mục đích là vứt

bỏ [ở] mức độ lớn hơn các tâm chấp trước của con người; họ cho rằng người ta một

khi động niệm liền là nghiệp. Trong tôn giáo [người ta] phân nghiệp thành hai loại

nghiệp thiện và nghiệp ác; dẫu là nghiệp thiện cũng vậy, nghiệp ác cũng vậy, dùng

cái ‘không’ của Phật gia, cái ‘vô’ của Đạo gia mà xét thì đều không nên làm; do

vậy họ nói: ‘Tôi không làm gì cả’. Vì không thấy được quan hệ nhân duyên của sự

vật, rằng sự việc kia rốt ráo là việc tốt hay việc xấu, còn có quan hệ nhân duyên ở

đó. Người tu luyện bình thường chưa [được] cao tầng đến chỗ ấy, không thấy được

điều này; do đó họ lo sợ rằng bề mặt là việc tốt, nhưng thực hiện rồi có khi lại là

việc xấu. Vậy nên họ gắng sức giảng ‘vô vi’, họ không làm gì cả; như thế họ tránh

được việc tạo nghiệp thêm nữa. Bởi vì tạo nghiệp sẽ phải tiêu nghiệp, phải chịu

khổ. Ví như người tu luyện chúng ta, đã định rõ là đến một bước nào đó sẽ khai

công, chư vị đưa vào đó những thứ không cần thiết, nó đều sẽ thành khó nạn cho

toàn thể việc tu luyện; do đó họ giảng vô vi.

Tu khẩu được giảng trong Phật gia, ấy là, con người ta [lúc] nói đều do ý thức

tư tưởng của mình chi phối; như vậy ý thức tư tưởng kia chính là ‘hữu vi’. Nếu bản

thân ý thức tư tưởng người ta vừa động niệm, nói một [lời] nào đó, làm một [điều]

nào đó, chi phối giác quan hay tứ chi của con người, thì có thể là chấp trước nơi

người thường. Ví như chư vị nói, [khi có] mâu thuẫn giữa người với người: ‘anh tốt

đấy, nó không tốt, anh tu luyện được tốt đấy, còn nó tu luyện không có tốt’, bản

thân những thứ ấy chính là mâu thuẫn. Chúng ta chỉ nói bình thường thôi: ‘tôi nên

làm việc này hay việc nọ, hiện nay việc này nên thực hiện như thế này hay như thế

kia’, nhưng cũng có thể vô ý làm tổn thương ai đó. Bởi vì mâu thuẫn giữa người

với người rất là phức tạp; có thể vô ý tạo nghiệp. Thế là, họ giảng rằng tuyệt đối

ngậm miệng không nói năng gì nữa. Quá khứ trong tôn giáo vẫn luôn luôn coi việc

‘tu khẩu’ rất [quan] trọng; đó là điều giảng trong tôn giáo.

Người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp chúng ta tuyệt đại đa số là tu luyện trong

người thường (trừ những đệ tử tu luyện chuyên nghiệp), như vậy không thể tránh

khỏi [cuộc sống] sinh hoạt bình thường nơi xã hội người thường và giao tiếp ngoài

xã hội. Ai cũng có công tác nào đó, hơn nữa cũng cần làm công tác cho tốt; có

người thực hiện công tác của mình chính là thông qua việc thuyết nói; như vậy có

phải là mâu thuẫn không? Cũng không mâu thuẫn. Không mâu thuẫn ở chỗ nào?

‘Tu khẩu’ mà chúng ta giảng, khác hẳn với [tu khẩu] mà họ [giảng]. Vì pháp môn

khác nhau, nên yêu cầu cũng khác nhau. Chúng ta mở miệng nói, đều [cần] chiểu

theo tâm tính của người luyện công mà nói, không nói những lộng ngữ thị phi,

không nói những lời bất hảo. Là người tu luyện cần chiểu theo tiêu chuẩn của Pháp

mà nhận định bản thân mình, [lời] nào nên nói [lời] nào không. [Lời] nào nên nói,

dùng Pháp nhận định thấy phù hợp với tiêu chuẩn tâm tính người luyện công thì

không thành vấn đề; vả lại chúng ta còn phải giảng Pháp, tuyên truyền Pháp, do đó

không nói nữa cũng không được. Chúng ta giảng tu khẩu, ấy là những danh lợi

chưa vứt bỏ được nơi người thường và những gì không liên quan gì đến công tác

thực tế ngoài xã hội của người tu luyện; hoặc chuyện phiếm vô dụng giữa các đệ tử

đồng môn; hoặc muốn hiển thị xuất phát từ tâm chấp trước; hoặc những điều nghe

ngoài đường hay tin đồn lưu truyền; hoặc một số việc ngoài xã hội hễ đàm luận đến

Tu khẩu 161

liền thấy hưng phấn, thích nói [về chúng]; tôi nghĩ rằng chúng đều là tâm chấp

trước của người thường. Tại những phương diện này tôi cho rằng chúng ta cần tu

cái miệng ấy lại, đây là ‘tu khẩu’ mà chúng tôi giảng. Các tăng nhân trong quá khứ

coi việc này rất [quan] trọng, bởi vì hễ động niệm là họ đang tạo nghiệp. Do đó họ

giảng “thân khẩu ý”. ‘Tu thân’ mà họ giảng ấy, chính là không làm điều xấu. ‘Tu

khẩu’ chính là không nói. ‘Tu ý’ chính là luôn cả nghĩ thì cũng không nghĩ nữa.

Yêu cầu những việc này của người tu luyện chuyên nghiệp trong các chùa quá khứ

rất nghiêm khắc. Chúng ta chiểu theo tiêu chuẩn tâm tính của người tu luyện để yêu

cầu bản thân mình, dàn xếp cho tốt những gì nên nói những gì không nên nói là

được rồi.

Tu khẩu 162

Bài giảng thứ chín

Khí công và thể dục

Ở tầng bình thường, người ta dễ nhìn nhận rằng khí công có quan hệ trực tiếp

với rèn luyện thể dục. Tất nhiên ở tầng thấp mà giảng, từ phương diện chữa bệnh

khoẻ người mà xét, thì khí công và rèn luyện thể dục là đều cùng mục đích. Tuy

nhiên phương pháp rèn luyện cụ thể của nó, phương tiện [nó] sử dụng là khác hẳn

với thể dục. Muốn rèn luyện thể dục để đạt [được] thân thể người khoẻ mạnh, thì

cần tăng cường lượng vận động của con người, tăng cường huấn luyện thân thể của

con người; còn tu luyện khí công lại hoàn toàn trái lại, không yêu cầu người ta [cử]

động, nếu có [cử] động thì cũng là ‘hoãn mạn viên’, thậm chí còn bất động, tĩnh

chỉ. Điều ấy khác hẳn so với hình thức rèn luyện thể dục. Còn nếu từ tầng cao mà

xét, thì khí công không chỉ là chữa bệnh khoẻ người, nó có những thứ ở tầng cao

hơn, có nội hàm thâm sâu hơn. Khí công không phải [chỉ] là một đôi điều ở tầng

người thường, nó là siêu thường; hơn nữa tại các tầng khác nhau nó đều có hiển

hiện khác nhau; nó là những gì vượt rất xa người thường.

Xét theo bản chất [phương pháp] rèn luyện, chúng khác nhau rất nhiều. Vận

động viên cần phải tăng cường vận động, nhất là các vận động viên hiện nay, để

thân thể thích ứng cho được với mức độ cạnh tranh hiện đại, để đạt được tiêu chuẩn

như thế, họ cần phải làm sao cho thân thể luôn luôn ở trạng thái tốt nhất. Để đạt

mục tiêu ấy, cần tăng cường vận động, sao cho thân thể người ta có được tuần hoàn

máu đầy đủ nhất, từ đó tăng cường năng lực [tân trần] đại tạ, làm cho thân thể luôn

luôn bảo trì ở trạng thái hướng lên. Tại sao cần tăng cường năng lực [tân trần] đại

tạ? Bởi vì thân thể vận động viên cần phải luôn luôn thể hiện ra trạng thái hướng

lên tốt nhất cho cạnh tranh. Thân thể người ta do vô số tế bào tổ hợp tạo thành;

những tế bào ấy đều có một quá trình: tế bào mới phân tách có sinh mệnh [sống] rất

mạnh mẽ, thể hiện ra [sự] phát triển lên trên. Khi đạt đến hạn độ cực [điểm] rồi, thì

nó không thể tiếp tục phát triển [lên trên] được nữa, chỉ có thể giáng hạ xuống, một

mạch cho đến cực điểm, rồi sẽ lại có tế bào mới thay thế nó. Chẳng hạn, lấy ví dụ

mười hai giờ đồng hồ [trong] một ngày; từ lúc 6 giờ sáng tế bào [mới được] phân

tách ra, liên tục thể hiện ra [trạng thái] hướng lên, hướng lên, đến 8, 9 giờ, cho đến

10 giờ vẫn là thời kỳ còn rất tốt. Cho đến lúc 12 giờ, nó không lên tiếp được nữa,

chỉ có thể rớt xuống. Đến lúc ấy tế bào vẫn còn một nửa lực sống, chính nửa lực

sinh mệnh ấy là không thích hợp với trạng thái cạnh tranh của vận động viên.

Vậy làm sao đây? Họ cần tăng cường huấn luyện, gia tăng tuần hoàn máu, sau

đó các tế bào mới được sinh ra thay thế tế bào cũ; họ [chọn] đi con đường ấy.

Nghĩa là, quá trình toàn bộ của tế bào chưa đi hết, mới đi hết một nửa tiến trình

sinh mệnh thôi, thì chúng đã bị bài tiết rồi; do vậy thân thể vẫn bảo trì được trạng

thái cường tráng, hướng lên trên. Tuy nhiên tế bào của con người không thể phân

tách vô hạn [lần] được như thế, số lần tế bào phân tách là có giới hạn. Chẳng hạn

trong một đời người có thể phân tách một trăm lần; thực ra còn hơn cả trăm vạn

lần. Ví như tế bào của người ta bình thường phân tách 100 lần [và họ] có thể sống

100 tuổi, nhưng hiện nay tế bào chỉ sống có một nửa đời của nó, do vậy họ chỉ có

thể sống được 50 tuổi thôi. Nhưng chúng ta không thấy vận động viên nào có vấn

đề nghiêm trọng cả; bởi vì các vận động viên hiện nay chưa đến 30 tuổi đã bị đào

thải; nhất là mức độ cạnh tranh bây giờ rất cao, số lượng vận động viên bị đào thải

Khí công và thể dục 163

cũng lớn; do đó họ khôi phục trở lại cuộc sống sinh hoạt bình thường, nhìn bề

ngoài không thấy họ chịu ảnh hưởng gì. Từ lý luận mà xét thực chất là như vậy, có

thể làm cho thân thể của họ bảo trì một cơ thể khoẻ mạnh, nhưng lại rút ngắn sinh

mệnh của họ lại. Từ bên ngoài mà nhìn, thì vận động viên mười mấy tuổi sẽ trông

như hai mấy tuổi; vận động viên hai mấy tuổi sẽ trông như ba mấy tuổi. Thông

thường các vận động viên làm cho người ta [có] cảm giác lớn sớm và trông già hơn

tuổi; có lợi có hại; nhìn nhận một cách biện chứng; thực ra là [họ] chọn con đường

ấy.

Tu luyện khí công trái ngược hẳn với rèn luyện thể dục; về động tác không yêu

cầu vận động mạnh mẽ, nếu có động tác cũng là ‘hoãn mạn viên’, chậm rãi vô

cùng, thậm chí bất động, tĩnh chỉ hẳn lại. Như mọi người đã biết phương pháp thiền

định, tĩnh chỉ hẳn lại, tốc độ nhịp tim cũng chậm lại, tuần hoàn máu cũng như hết

thảy mọi thứ đều giảm xuống chậm lại. Ấn Độ có rất nhiều thầy yoga, có thể ngồi

toạ trong nước hàng mấy ngày liền, chôn xuống đất mấy ngày liền, hoàn toàn làm

cho bản thân họ tĩnh chỉ hẳn lại, thậm chí cả nhịp tim cũng được khống chế vững

chắc. Chẳng hạn tế bào người ta một ngày phân tách một lần, thì những người tu

luyện ấy làm cho tế bào thân thể người ta hai ngày phân tách một lần, một tuần

phân tách một lần, nửa tháng phân tách một lần, thậm chí thời gian lâu hơn nữa,

như thế họ đã kéo dài sinh mệnh của họ. Đây là công pháp chỉ tu tính không tu

mệnh, nó cũng có thể đạt đến điểm này, cũng có thể kéo dài sinh mệnh bản thân.

Có người nghĩ: sinh mệnh của người ta, đời của người ta chẳng phải đã định [trước]

rồi ư? [Ai] không tu mệnh thì làm sao sống [lâu hơn] được? Đúng thế, vì tầng của

người tu luyện đã đột phá tam giới nên [mới] có thể kéo dài [sinh mệnh] được,

nhưng từ bề ngoài mà nhìn thì trông già cỗi phi thường.

Công pháp tu mệnh thật sự, cần liên tục đưa vật chất cao năng lượng đã thâu

thập được tồn trữ vào tế bào của thân thể người ta; khi liên tục gia tăng mật độ, thì

cũng dần dần ức chế vững tế bào người thường, dần dần thay thế tế bào người

thường. Đến lúc ấy liền phát sinh biến hoá về chất, cá nhân ấy sẽ mãi thanh xuân.

Tất nhiên quá trình tu luyện là một quá trình rất chậm, phải phó xuất rất lớn. Nhọc

cái gân cốt, khổ cái tâm chí, không dễ dàng chút nào. Ở trong va chạm giữa người

với người thì tâm ấy có thể bất động hay không? Trước những lợi ích thiết thân của

cá nhân thì cái tâm ấy có bất động hay không? Những sự việc ấy làm được rất khó;

do đó không phải muốn đạt được mục đích ấy liền có thể đạt được đâu. Tâm tính

của người ta, đức của người ta đều cần phải tu lên trên mới có thể đạt được mục

đích như vậy.

Xưa nay rất nhiều người coi khí công lẫn lộn cùng với rèn luyện thể dục thông

thường, thực ra sự khác biệt rất to lớn, là một việc hoàn toàn khác hẳn. Chỉ khi

luyện khí tại tầng thấp nhất, [chỉ] chú trọng chữa bệnh khoẻ người, để đạt một thân

thể khoẻ mạnh, thì mục đích ở tầng thấp nhất [đối] với rèn luyện thể dục là cùng

một tính. Nhưng lên đến tầng cao, thì hoàn toàn là việc khác. Tịnh hoá thân thể

trong khí công cũng có mục đích, còn phải dùng [Pháp] lý siêu thường để yêu cầu

người luyện công, không thể dùng [đạo] lý của người thường để yêu cầu. Rèn luyện

thể dục chỉ là việc của người thường.

Ý niệm

Bàn về ý niệm, cũng chính là hoạt động tư duy của tư tưởng con người chúng

ta. Giới tu luyện nhìn nhận ý niệm con người trong hoạt động tư duy đại não như

thế nào? Xét các hình thức khác nhau của tư duy (ý niệm) con người ra sao? Thể

Ý niệm 164

hiện ra như thế nào? Y học hiện đại nghiên cứu đại não con người vẫn còn rất nhiều

vấn đề nan giải, bởi vì nó không dễ như những thứ bề mặt thân thể chúng ta. Tại

tầng thâm sâu, ở các tầng khác nhau đều có hình thức khác nhau. Tuy nhiên cũng

không giống như một số khí công sư giảng. Một số khí công sư bản thân họ không

biết điều ấy là gì, họ nói không rõ ràng. Họ cho rằng đại não của bản thân mình hễ

động [niệm], hễ sản sinh ý niệm liền có thể thực hiện sự việc, nên họ nói rằng tư

tưởng của họ thực hiện, ý niệm của họ thực hiện; kỳ thực hoàn toàn không phải là ý

niệm của họ thực hiện.

Trước hết chúng ta giảng về [nguồn] nguyên lai của tư duy con người. Trung

Quốc cổ đại có một cách nói: “tâm tưởng”. Tại sao lại nói ‘tim suy nghĩ’? Khoa

học Trung Quốc cổ đại đã vô cùng phát triển, bởi vì họ nghiên cứu trực tiếp nhắm

thẳng vào những điều như thân thể người, sinh mệnh và vũ trụ. Có người thực sự

cảm giác thấy ‘tim’ đang suy nghĩ vấn đề, nhưng có người cảm thấy như đại não

suy nghĩ vấn đề. Vì sao xuất hiện tình huống ấy? Họ giảng ‘tâm tưởng’ cũng rất có

đạo lý, bởi vì chúng tôi thấy nguyên thần của người thường rất bé, tín tức chân

chính phát xuất ra trong đại não người không phải là bản thân đại não người ta phát

huy tác dụng, không phải bản thân đại não phát xuất ra, mà là nguyên thần của

người ta phát xuất ra. Nguyên thần con người không chỉ lưu trú tại nê hoàn cung.

Nê hoàn cung mà Đạo gia nói đến chính là thể tùng quả mà y học hiện đại chúng ta

vẫn nhìn nhận. Nếu nguyên thần ở nê hoàn cung, thì chúng ta thực sự cảm thấy như

đại não đang suy xét vấn đề, đang phát xuất ra tín tức; nếu như nó ở tim, thì thực sự

cảm thấy tim đang suy xét vấn đề.

[Thân] thể người là một tiểu vũ trụ, rất nhiều thể sinh mệnh của người luyện

công đều có khả năng có tác dụng hoán vị. Nếu nguyên thần có sự hoán vị, [và] nó

chạy vào bụng, thì sẽ thực sự cảm thấy như bụng đang suy nghĩ vấn đề; nếu nguyên

thần chạy sang bắp chân hay gót chân, thì sẽ cảm thấy như bắp chân hay gót chân

đang suy xét vấn đề, đảm bảo là như vậy; nghe vậy rất huyền [hoặc]. Khi chư vị tu

luyện tại tầng không cao quá, chư vị sẽ cảm nhận thấy tồn tại hiện tượng này. Thân

thể người ta nếu không có nguyên thần của mình, không có tính khí tính cách, đặc

tính, không có những thứ ấy, thì chính là một tảng thịt; nó không thể là một con

người hoàn chỉnh, có mang theo cá tính tự ngã độc lập. Như vậy đại não của con

người khởi tác dụng gì? Nếu yêu cầu tôi giảng, thì đại não con người với hình thức

trong không gian vật chất này của chúng ta, nó chỉ là một [nhà máy] công xưởng

gia công. Tín tức thật sự là do nguyên thần phát xuất ra; nhưng thứ mà nó phát xuất

ra không phải là ngôn ngữ; nó phát xuất ra một chủng tín tức vũ trụ, đại biểu cho

một ý nghĩa nào đó. Đại não của chúng ta sau khi tiếp thụ chỉ lệnh ấy, liền biến đổi

nó thành ngôn ngữ hiện nay, hình thức biểu đạt như thế. Chúng ta thông qua tư thế

tay, ánh mắt, hay các động tác đủ loại để biểu đạt nó ra; đại não là có tác dụng ấy.

[Còn] chỉ lệnh chân chính, tư duy thật sự là do nguyên thần của con người phát

xuất ra. Người ta thường vẫn tưởng rằng đây là tác dụng độc lập trực tiếp của đại

não; thực ra có những lúc nguyên thần ngụ tại tim, có người thực sự cảm thấy rằng

tâm đang suy nghĩ.

Hiện nay những vị nghiên cứu thân thể người cho rằng, đại não phát xuất ra

một thứ có hình thức tương tự như sóng điện; thực chất nó phát xuất ra cái gì thì

chúng tôi không giảng trước, tuy nhiên họ đã thừa nhận rằng đó là một loại vật chất

tồn tại; như vậy đây không phải là mê tín. Những gì phát xuất ra ấy có tác dụng như

thế nào? Có khí công sư giảng: ‘Tôi dùng ý niệm để ban vận, dùng ý niệm khai

[mở] thiên mục cho các vị, dùng ý niệm trị bệnh cho các vị v.v.’ Thực ra có những

Ý niệm 165

khí công sư không hiểu biết rằng bản thân họ có những công năng gì, cũng không

[biết] rành mạch rõ ràng. Họ chỉ biết rằng họ muốn làm gì thì nghĩ là được rồi. Kỳ

thực khi ý niệm của họ hoạt động, thì công năng tiếp nhận khống chế từ ý niệm

[của] đại não, đã thực hiện những việc cụ thể dưới sự chỉ huy của ý niệm; còn bản

thân ý niệm của họ không có khả năng làm gì cả. Khi một người luyện công làm

một việc cụ thể nào đó, thì ấy là công năng của họ khởi tác dụng.

Công năng là tiềm năng của thân thể người, tuỳ theo sự phát triển của xã hội

chúng ta, tư duy của đại não con người càng ngày càng trở nên phức tạp, càng ngày

càng coi trọng ‘hiện thực’, càng ngày càng trở nên ỷ lại vào công cụ hiện đại hoá;

như vậy, bản năng con người càng ngày càng thoái hoá. Đạo gia giảng phản bổn

quy chân, trong quá trình tu luyện, chư vị phải ‘chân’, cuối cùng phản bổn quy

chân, quay trở về bản tính nguyên thuỷ của chư vị, rồi chư vị mới có thể hiển lộ

những bản năng ấy của chư vị. Cái mà chúng ta hiện nay gọi là công năng đặc dị,

thực ra chính là bản năng của người ta. Xã hội nhân loại dường như đang tiến bộ,

nhưng kỳ thực là thoái lùi, càng ngày càng rời xa đặc tính vũ trụ chúng ta. Hôm rồi

tôi giảng Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược, [người ta] không lý giải được ý nghĩa đó

là gì. Ông thấy rằng tiến lên lại chính là thụt lùi, con người càng ngày càng rời xa

đặc tính vũ trụ. Trong quá trình diễn hoá của vũ trụ, nhất là hiện nay từ khi tiến

nhập vào trào lưu kinh tế hàng hoá mạnh mẽ ấy, rất nhiều người đạo đức đã trở nên

bại hoại, càng ngày càng xa rời đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ; những người

ở cõi người thường trong trào lưu ấy cũng trôi theo mà không cảm nhận được mức

độ đạo đức bại hoại đến đâu; do vậy có người còn cho rằng như thế là tốt; chỉ ai có

tâm tính tu luyện lên trên rồi sau đó ngoảnh lại nhìn, mới có thể nhận ra rằng đạo

đức của nhân loại đã bại hoại đến mức độ đáng sợ như thế nào.

Có khí công sư giảng: ‘Tôi khai phát công năng cho các vị’. Khai phát công

năng nào đây? Công năng của họ nếu không có năng lượng thì không dùng được,

[chúng] chưa xuất lai thì chư vị có thể khai phát cho xuất lai được không? Công

năng của người kia chưa được năng lượng gia trì cho thành hình thì chư vị có thể

khai phát cho chúng xuất lai được không? Hoàn toàn không được. Cái mà họ nói là

‘khai phát công năng’, chẳng qua chỉ là lập ra liên hệ giữa công năng đã thành hình

của chư vị với đại não của chư vị, chịu nhận sự chỉ huy của ý niệm chư vị mà khởi

tác dụng; thế là được tính là ‘khai phát công năng’; thực ra họ chưa hề khai phát

công năng nào hết, chỉ làm chút việc ấy mà thôi.

Đối với người luyện công mà xét, thì ý niệm chỉ huy công năng người ta để

thực hiện các việc; còn đối với người thường mà xét, thì ý niệm chỉ huy tứ chi, các

giác quan để làm các việc; tương tự như phòng sản xuất của nhà máy: ban giám đốc

ra các chỉ lệnh, và cụ thể [là do] các bộ phận chức năng thực hiện công việc. Cũng

giống như bộ phận chỉ huy trong quân đội: tư lệnh ra các mệnh lệnh chỉ huy toàn

bộ quân đội hoàn thành nhiệm vụ. Khi tôi đi các nơi mở lớp [giảng bài] thường hay

đàm luận về vấn đề này với những lãnh đạo Hội Nghiên cứu khí công vùng sở tại.

Họ sửng sốt lắm: ‘Chúng tôi vẫn luôn nghiên cứu rằng tư duy con người có năng

lượng tiềm tàng và ý thức tiềm tàng thật to lớn’. Thực ra không phải vậy, họ từ đầu

đã trệch rồi. Chúng tôi nói rằng khoa học về [thân] thể người, cần có sự thay đổi

lớn về tư duy [quan niệm] của người ta, chứ không thể dùng phương pháp suy lý và

phương pháp nhận thức vấn đề của người thường để nhận thức những điều siêu

thường như vậy được.

Nói về ý niệm, còn có một số hình thức ý niệm. Ví như có người nói về tiềm ý

thức, hạ ý thức, linh cảm, giấc mộng, v.v. Nói về giấc mộng, không có khí công sư

Ý niệm 166

nào muốn giải thích về nó. Bởi vì lúc chư vị giáng sinh, thì trong rất nhiều không

gian vũ trụ đều có một chư vị đồng thời giáng sinh, cùng với chư vị trở thành một

thể hoàn chỉnh, đều có mối liên hệ tương hỗ, đều có quan hệ liên đới về tư duy.

Ngoài ra chư vị còn có chủ nguyên thần, phó nguyên thần, còn có hình tượng của

các loại thể sinh mệnh khác tồn tại trong [thân] thể; mỗi tế bào, lục phủ ngũ tạng

đều là tín tức hình tượng của chư vị với hình thức tồn tại ở không gian khác; do đó

vô cùng phức tạp. Khi chư vị mê ngủ lúc thì thế này lúc lại thế khác, rốt cuộc là từ

đâu đến? Trong y học, [người ta] nói rằng có [xảy ra] sự biến đổi ở vỏ não của

chúng ta. Ấy là biểu hiện phản ánh tại hình thức vật chất là như vậy, thực ra là nó

đã chịu tác dụng của tín tức từ không gian khác. Do vậy khi chư vị ở trong giấc

mộng mà chư vị cảm thấy mơ mơ màng màng, thì nó không có quan hệ gì với chư

vị, chư vị cũng không cần quan tâm đến nó. Có một loại giấc mộng có quan hệ trực

tiếp với chư vị, với loại giấc mộng này chúng ta không thể gọi đó là giấc mộng

được. Chủ ý thức của chư vị, nó cũng chính là chủ nguyên thần, ở trong giấc mộng

mộng thấy gặp thân quyến; hoặc cảm thấy một sự việc hết sức xác thực; đã thấy gì

đó hoặc thực hiện việc nào đó. Ấy chính là chủ nguyên thần của chư vị thật sự ở

một không gian khác đã thực thi một việc nào đó, gặp một chuyện gì đó, cũng thực

thi rồi, ý thức rõ ràng, chân thực; sự việc kia thực sự có tồn tại, chẳng qua [nó] ở

trong một không gian vật chất khác, thực thi tại một thời-không khác. Liệu chư vị

có thể gọi đó là giấc mộng được không? Không được. Thân thể của chư vị ở phía

bên này đúng là đang nằm ngủ tại nơi đây, nên cũng đành gọi nó là giấc mộng vậy;

chỉ có loại giấc mộng ấy là có quan hệ trực tiếp với chư vị.

Nói về những thứ như linh cảm, hạ ý thức, tiềm ý thức của người ta, tôi nói

rằng những danh từ ấy không phải do các nhà khoa học đưa ra, mà là các danh từ

do nhà văn đưa ra dựa vào trạng thái tập quán quen dùng nơi người thường; chúng

không có tính khoa học. ‘Tiềm ý thức’ mà người ta nói đến rốt cuộc là gì? Rất khó

nói rõ ràng, rất chung chung, bởi vì các chủng tín tức quá phức tạp, [nó] giống như

một chút ký ức mờ nhạt nào đó. Còn như điều mà họ gọi là ‘hạ ý thức’, thì chúng

tôi có thể giải thích rõ. Căn cứ theo định nghĩa về trạng thái hạ ý thức: thông

thường khi nói về một người lúc đang mơ mơ màng màng mà làm một điều gì đó,

thì thường người ta nói rằng vị ấy thực hiện một cách ‘hạ ý thức’, không phải ‘hữu

ý’ thực hiện. Hạ ý thức ấy chính là điều mà chúng ta gọi là ‘phó ý thức’. Bởi vì sau

khi chủ ý thức lơi lỏng ra, khi không còn khống chế đại não, mơ mơ màng màng

giống như ngủ vậy, hoặc là khi đang trong giấc mộng, ở trong trạng thái vô ý thức

thì dễ bị phó ý thức, cũng chính là phó nguyên thần làm chủ. Vào lúc ấy phó ý thức

có thể thực hiện một số sự việc; tức là bản thân chư vị đang trong trạng thái mơ mơ

màng màng mà thực hiện một [số sự việc]. Tuy nhiên, thông thường những sự việc

được thực hiện ấy không dễ mà thực hiện không tốt, bởi vì phó ý thức ở không gian

khác có thể thấy được bản chất của sự vật, không thụ nhận chỗ mê của xã hội người

thường. Do đó những sự việc được làm, đến lúc tỉnh lại rồi xét: ‘Việc này sao mà

thực hiện dở quá, lúc mình tỉnh táo minh bạch đã không làm thế’. Nhưng hiện nay

chư vị nói là không tốt, đợi mươi hôm hay nửa tháng sau xét lại: ‘Ái chà, việc ấy

thực hiện sao tuyệt vời đến vậy! Lúc ấy sao mà mình làm được thế không biết?’

Vấn đề này thường hay xuất hiện. Bởi vì phó ý thức không quan tâm rằng lúc ấy sự

việc có tác dụng gì, mà đến tương lai mới có tác dụng tốt đẹp. Cũng có những việc

[sẽ] không có kết quả gì, chính là lúc ấy đã có tác dụng [rồi]; tuy nhiên sự việc

được phó ý thức thực thi vào lúc ấy hết sức tốt đẹp.

Ý niệm 167

Còn có một hình thức nữa, thông thường chúng ta có những người căn cơ rất

tốt, dễ chịu nhận sự khống chế của sinh mệnh cao cấp để thực hiện một số công

việc. Tất nhiên đó là chuyện khác, ở đây chúng ta không giảng, chủ yếu là giảng về

loại ý thức đến từ tự thân con người chúng ta.

Còn nói về ‘linh cảm’, nó cũng là danh từ do các nhà văn đưa ra. Những người

bình thường nhìn nhận như thế này: ‘linh cảm chính là tri thức tích luỹ trong đời

của người ta, và trong một tích tắc nó vụt loé lên xuất ra’. Tôi nói rằng nếu chiểu

theo chủ nghĩa duy vật mà xét, thì tri thức tích luỹ trong đời của con người ấy, nếu

tri thức tích luỹ càng nhiều, đại não của con người càng dùng nhiều thì càng linh

hoạt. Đến khi sử dụng nó lẽ ra phải tuôn trào như nguồn [nước]; vậy không thể nói

là vấn đề linh cảm được. Hễ linh cảm thực sự xuất hiện, hoặc khi mà linh cảm đến,

thì nó không phải trạng thái ấy. Thông thường là khi người ta sử dụng đại não, liên

tục sử dụng, cho đến lúc cảm thấy như tri thức khô kiệt rồi, hệt như là không còn

dùng được nữa; viết bài văn đến chỗ đó là không có hạ bút [viết tiếp] được nữa;

sáng tác một bài hát đến chỗ đó là không có nghĩ thêm được nữa; làm nghiên cứu

khoa học đến chỗ đó là không có làm tiếp được nữa. Thông thường lúc ấy mệt mỏi

lắm không chịu được, đầu thuốc lá vứt đầy mặt đất, bí bách đau đầu, mà không

nghĩ được gì. Rốt cuộc linh cảm đến trong trạng thái nào? Chẳng hạn lúc mệt quá

bèn nghĩ: “Mặc kệ nó, nghỉ một lát”. Bởi vì chủ ý thức càng khống chế vững chắc

đại não, thì sinh mệnh khác càng không sáp nhập vào được. Hễ họ vừa nghỉ ngơi

một cái, tư tưởng của họ vừa buông lơi một cái, không nghĩ đến nó nữa, thì đúng

trong lúc vô ý ấy liền suy nghĩ ra được, từ trong đại não liền nghĩ ra. Linh cảm đều

đến như vậy.

Vậy hỏi tại sao lúc ấy linh cảm đến? Bởi vì lúc đại não con người đang được

chủ ý thức khống chế, càng dùng đại não nhiều thì nó khống chế càng chặt, phó ý

thức càng không tiến nhập vào được. Khi họ suy nghĩ đến mức nhức đầu, suy nghĩ

đến lúc cảm thấy khó chịu, thì phó ý thức ấy cũng là một bộ phận của thân thể,

cùng từ thai mẹ đồng thời giáng sinh mà ra, nó cũng làm chủ một bộ phận thân thể,

nó cũng rất khó chịu; khi [họ] nhức đầu, nó cũng đau nhức không chịu được.

Nhưng khi chủ ý thức vừa buông lơi ra, phó ý thức liền đưa những gì nó biết phản

ánh lên đại não, bởi vì lúc ở không gian khác nó có thể nhìn thấy bản chất sự vật,

như vậy liền làm [tiếp] được, viết [tiếp] được, sáng tác ra được.

Có người nói: ‘Vậy thì chúng ta sẽ vận dụng phó ý thức’. Giống như có người

vừa viết mấy chữ [đưa tôi]: ‘Làm thế nào nắm được liên hệ với phó ý thức?’ Chư vị

không liên hệ được, bởi vì chư vị là người mới bắt đầu luyện công thôi, là người

chưa có bản sự gì cả; chư vị cũng đừng liên hệ, mục đích chắc chắn là chấp trước.

Có người nghĩ: ‘Chúng ta vận dụng phó ý thức để sáng tạo ra những giá trị [vật

chất] cho chúng ta, đưa xã hội nhân loại phát triển; thế có được không?’ Không

được! Tại sao? Bởi vì những sự việc mà phó ý thức biết được cũng rất có hạn.

Không gian phức tạp nhường ấy, tầng thứ nhiều như thế, kết cấu của vũ trụ này hết

sức phức tạp, mà nó cũng chỉ có thể biết được những gì trong không gian sở tại của

nó thôi; những gì vượt ra ngoài không gian sở tại của nó, thì nó cũng không biết.

Ngoài ra còn có rất nhiều không gian ngang dọc khác nhau; sự phát triển của nhân

loại phải do sinh mệnh cao cấp tại tầng rất cao mới có thể khống chế được, [nó]

đang được tiến hành chiểu theo quy luật phát triển.

Xã hội nhân loại chúng ta đang phát triển chiểu theo quy luật lịch sử; chư vị

nghĩ rằng phát triển thế này, đạt mục tiêu thế kia; tuy nhiên sinh mệnh cao cấp kia

lại không nghĩ thế. Con người cổ đại ấy, họ có nghĩ đến máy bay, tầu hoả, xe đạp

Ý niệm 168

của ngày hôm nay không? Tôi nói rằng không nhất định là không nghĩ đến. Là vì

lịch sử chưa phát triển đến quá trình ấy, họ cũng chưa sáng tạo ra. Trên bề mặt theo

nhận thức lý luận truyền thống của người thường chúng ta [mà xét], từ góc độ của

tri thức hiện hữu của nhân loại mà xét, thì là vì khoa học nhân loại chưa đạt đến

trình độ ấy, nên chưa sáng tạo ra được. Thực ra khoa học nhân loại dẫu phát triển

như thế nào đi nữa, thì cũng đang chiểu theo an bài trong lịch sử mà phát triển thôi;

chư vị vì [theo nỗ lực của] con người mà muốn đạt được mục đích nào đó, thì cũng

không đạt được. Tất nhiên cũng có người có phó ý thức dễ khởi tác dụng; có tác giả

nói: ‘Một ngày tôi có thể viết hàng vạn chữ, không mệt mỏi chút nào; muốn viết

thật mau liền viết được ngay; người khác đọc sách cũng thấy [viết] hay lắm’. Tại

sao như vậy? Bởi vì đó là kết quả sự chung sức giữa chủ ý thức và phó ý thức của

họ; phó ý thức của họ cũng có thể phát huy phân nửa tác dụng. Tuy nhiên không

phải [ai cũng] đều như vậy. Tuyệt đại đa số phó ý thức đều không quan tâm; chư vị

muốn họ thực hiện công việc, có khi trái lại còn tệ hơn, kết quả trái lại.

Tâm thanh tịnh

Có nhiều người [khi] luyện công không nhập tĩnh được, đến khắp nơi tìm hỏi

khí công sư: ‘Thưa thầy, tại sao con luyện công không nhập tĩnh được, hễ nhập tĩnh

liền suy nghĩ đủ thứ, tư tưởng hỗn loạn’. Đúng là sông biển quay lộn, cái gì cũng

xuất hiện, chư vị hoàn toàn không nhập tĩnh được. Vì sao không tĩnh lại được? Có

người không hiểu, [họ] cho rằng có bí quyết nào đó; họ bèn tìm đến danh sư: ‘Xin

dạy con chiêu thuật cao siêu, để con tĩnh lại được’. Theo tôi thấy, đó là hướng

ngoại mà cầu. Nếu chư vị muốn đề cao bản thân, thì chư vị phải hướng nội mà tìm,

đặt công phu vào cái tâm ấy. Chư vị mới có thể thật sự đề cao lên trên. Khi ngồi đả

toạ chư vị mới có thể tĩnh lại được; có thể tĩnh lại được chính là công; định lực

thâm sâu ngần nào [cũng] là thể hiện của tầng.

Người thường có thể tự nhiên tĩnh lại được không? Hoàn toàn không tĩnh lại

được, trừ những người có căn cơ rất tốt. Cũng nói, nguyên nhân căn bản làm người

ta không tĩnh lại được, không phải là vấn đề thủ pháp, không phải vì có tuyệt chiêu

nào đó, mà là vì tư tưởng của chư vị, cái tâm của chư vị không tịnh. Chư vị ở nơi

xã hội người thường, ở trong mâu thuẫn giữa người với người, chỉ vì lợi ích cá

nhân, thất tình lục dục cũng như các chủng chấp trước dục vọng, chư vị đấu tranh

với người ta, những thứ ấy chư vị chưa vứt bỏ được, chưa có thể coi nhẹ chúng

được, vậy mà chư vị muốn tĩnh lại ngay, nói sao dễ vậy? Có người khi luyện công

nói: ‘Tôi không tin, tôi tĩnh được ngay thôi, không nghĩ loạn nữa’. Vừa nói dứt, liền

đảo lộn trở lại; cái tâm ấy của chư vị bất tịnh, do đó chư vị không tĩnh lại được.

Có thể có người không đồng ý với quan điểm của tôi: ‘Chẳng phải có khí công

sư dạy người ta sử dụng các thủ pháp nào đó hay sao? Có thể đặt tâm vào một thứ,

quán tưởng, đặt ý đan điền, nhìn vào trong nơi đan điền, hoặc niệm Phật, v.v.’ Đó

là một loại phương pháp, tuy nhiên nó không chỉ là phương pháp, nó là thể hiện của

công phu. Công phu ấy có quan hệ trực tiếp với tâm tính tu luyện được của chúng

ta, [với] sự đề cao tầng của chúng ta; nó cũng không phải là một phương pháp được

sử dụng chuyên nhất để cho tĩnh lại. Nếu không tin chư vị hãy thử đi, khi các chủng

dục vọng và tâm thái chấp trước quá cường thịnh, chưa vứt bỏ được gì cả, chư vị

thử xem chư vị có thể tĩnh lại được không. Có người nói ‘niệm Phật hiệu’ là được

đấy; niệm Phật hiệu hỏi chư vị có thể đạt đến nhập tĩnh được không? Có người nói:

‘Pháp môn của Phật A Di Đà dễ luyện, niệm Phật hiệu là được rồi.’ Chư vị đã thử

Tâm thanh tịnh 169

niệm chưa? Tôi nói rằng đó cũng là công phu; chư vị nói dễ, còn tôi nói không dễ;

không có pháp môn nào dễ dàng cả.

Như mọi người đã biết Thích Ca Mâu Ni giảng “định”; hỏi trước khi “định” thì

Ông giảng gì? Ông giảng “giới”, giới cấm hẳn hết thảy các dục vọng, thèm muốn,

không còn gì nữa, rồi mới định lại được. Đạo lý là vậy phải không? Vả lại “định”

cũng là công phu, chư vị không thể lập tức đạt đến mức độ ‘giới’ tất cả ngay được;

thuận theo việc hết thảy những thứ bất hảo dần dần bị giới cấm, thì định lực cũng đi

từ nông cạn đến thâm sâu. Niệm Phật hiệu thì người ta phải niệm một cách nhất

tâm bất loạn, trong tâm không suy nghĩ gì cả, niệm đến mức các bộ phận khác

trong đại não đều tê liệt, không còn biết gì nữa, một niệm thay vạn niệm; từng chữ

từng chữ “A Di Đà Phật” đều có thể hiển hiện trước mắt. Đó chẳng phải công phu

là gì? Lập tức có đạt được vậy không? Không đạt được; chưa đạt được thế thì

khẳng định là chưa nhập tĩnh được; nếu không tin thì chư vị hãy thử đi. Ngoài

miệng niệm hết lượt này lượt khác, nhưng trong tâm thì cái gì cũng nghĩ đến: ‘Tại

sao lãnh đạo đơn vị công tác chỗ mình không coi trọng mình nhỉ, thưởng tháng này

sao ít quá vậy’. Càng nghĩ càng bực mình, bực không chịu được, miệng vẫn còn

đang niệm Phật hiệu; chư vị nói xem như thế luyện công được không? Đó chẳng

phải vấn đề công phu hay sao? Đó chẳng phải vấn đề bản thân chư vị tâm bất tịnh

hay sao? Có người khai thiên mục rồi, có thể nhìn vào đan điền. Bởi vì đan tích tụ

lại ở nơi bụng dưới của người ta, vật chất năng lượng ấy càng thuần thì càng sáng,

càng bất thuần thì càng tối, càng đen. Nhìn vào đan điền hỏi có thể nhập tĩnh

không? Không nhập tĩnh được, không phải do bản thân phương pháp; then chốt là ở

tư tưởng và ý niệm của người ta không thanh tịnh. Chư vị nhìn vào đan điền, thấy

cái đan ấy sáng tinh anh rất đẹp, một lúc cái đan ấy biến hoá, biến thành căn hộ.

“Phòng này để con trai lấy vợ rồi sẽ dùng, phòng này để cho con gái, hai vợ chồng

mình là ở phòng này, ở giữa là phòng khách, tuyệt quá! Căn hộ này có thể cấp cho

mình không? Mình phải nghĩ ra cách nào để có thôi, làm thế nào đây?” Con người

cứ chấp trước vào những thứ ấy, chư vị nói xem thế có tĩnh lại được không? Người

ta nói: ‘Ta đến xã hội người thường, giống như đến khách sạn, tá túc vài ngày, rồi

vội rời đi’. Một số người cứ lưu luyến nơi này mãi, quên cả nhà của bản thân mình.

Tu luyện chân chính, cần phải hướng tâm mà tu, hướng nội mà tu, hướng nội

mà tìm, chứ không hướng ngoại mà tìm. Có pháp môn giảng rằng ‘Phật tại tâm

trung’, cũng có đạo lý. Có người lý giải câu này không đúng, nói rằng Phật ở trong

tim, cứ như thể bản thân họ đã là Phật rồi, cứ như thể trong quả tim đã có ông Phật

rồi. Họ lý giải như thế, vậy chẳng phải sai hay sao? Lý giải vậy sao được. Ý nghĩa

chính là chư vị phải hướng tâm mà tu, thì chư vị mới có thể tu thành; đạo lý chính

là ở chỗ ấy. Trong thân chư vị hỏi ở đâu có ông Phật? Chư vị phải tu thì mới tu

thành được.

Nguyên nhân chư vị chưa tĩnh lại được, là vì tư tưởng của chư vị chưa phải là

‘không’, chư vị chưa có tầng cao đến thế; như vậy [nhập tĩnh] từ nông cạn vào

thâm sâu có quan hệ tương phụ tương thành với việc đề cao tầng. Chư vị vứt bỏ

tâm chấp trước, tầng chư vị mới nâng lên, thì định lực của chư vị cũng thâm sâu

hơn. [Nếu] chư vị muốn thông qua thủ pháp hay phương pháp nào đó mà [nhập]

tĩnh, thì tôi nói rằng ấy đều là hướng ngoại mà cầu. Mà ‘luyện công thiên sai’, ‘lệch

sang tà đạo’, chính là để nói về người hướng ngoại mà cầu. Nhất là trong Phật giáo,

nếu chư vị hướng ngoại mà cầu, thì họ nói chư vị ‘đi sang ma đạo’. Còn tu luyện

chân chính phải tu cái tâm ấy; chỉ khi chư vị đề cao tâm tính, thì tâm chư vị mới có

thể đạt được vô vi thanh tịnh; chỉ khi chư vị đề cao tâm tính, thì mới đồng hoá với

Tâm thanh tịnh 170

đặc tính vũ trụ chúng ta; vứt bỏ các chủng dục vọng, tâm chấp trước và những thứ

bất hảo của con người, thì chư vị mới bài xuất khỏi thân thể chư vị những thứ

không tốt, chư vị mới có thể nổi lên trên. Không chịu ước chế của đặc tính vũ trụ

nữa, thì loại vật chất đức của chư vị mới có thể chuyển hoá thành công, nó chẳng

phải tương phụ tương thành là gì? Đây chính là đạo lý!

Ấy là nguyên nhân chủ quan vì bản thân không đạt được yêu cầu về tiêu chuẩn

người tu luyện nên mới không tĩnh lại được. Hiện nay về mặt khách quan cũng tồn

tại một tình huống này, đang can nhiễu nghiêm trọng làm chư vị không tu luyện lên

cao tầng được, ảnh hưởng nghiêm trọng đến những người luyện công. Như mọi

người đã biết, thuận theo [trào lưu] khai mở cải cách, năng động kinh tế, thì chính

sách cũng nới rộng. Có nhiều khoa học kỹ thuật mới cũng được tiến nhập vào, mức

sống người ta cũng nâng cao, người thường ai cũng cho rằng thế là tốt. Tuy nhiên

cần xét theo cả hai mặt, [cần] nhìn nhận một cách biện chứng; những thứ bất hảo

cũng thuận theo sự khai mở mà tiến nhập vào, đủ thứ đủ loại. Trong tác phẩm văn

hoá nếu không có chỗ viết về tình dục, thì dường như cuốn sách đó không bán

được, bởi vì phải xét đến vấn đề số lượng [sản phẩm] tiêu thụ; trên truyền hình hay

điện ảnh nếu thiếu mấy cảnh chăn gối, thì dường như [chương trình] truyền hình

điện ảnh ấy sẽ không có người xem, vì phải xét đến vấn đề tỷ lệ khán giả; còn trong

tác phẩm mỹ thuật, thì không ai biết nổi rằng đó là nghệ thuật chân chính hay là

một cái gì đó; nền nghệ thuật dân tộc cổ xưa của Trung Quốc chúng ta vốn không

hề có những thứ ấy. Mà truyền thống dân tộc Trung Hoa của chúng ta cũng không

phải là do ai phát minh, ai sáng tác ra cả. Khi giảng về văn hoá tiền sử tôi đã nói

rồi, hết thảy mọi thứ đều có căn nguyên của nó. Chuẩn mực đạo đức của nhân loại

đã méo mó hẳn rồi, đã thay đổi rồi; tiêu chuẩn nhận định tốt và xấu đều đã thay đổi

rồi; ấy là việc tại cõi người thường; còn tiêu chuẩn đặc tính Chân Thiện Nhẫn của

vũ trụ là tiêu chuẩn duy nhất nhận định người tốt và xấu, nó không thể thay đổi. Là

người luyện công, chư vị nếu muốn nhảy xuất ra, thì chư vị phải dùng tiêu chuẩn ấy

mà nhận định, chư vị không được dùng tiêu chuẩn của người thường mà nhận định;

do đó về khách quan cũng tồn tại can nhiễu như thế. Mà không chỉ có vậy, điều gì

cũng đã thay đổi rồi, nào là đồng tính luyến ái, giải phóng tình dục, hút hít ma tuý,

đủ thứ loạn bậy đều đã xuất hiện.

Ngày nay xã hội nhân loại đã phát triển đến bước này, mọi người thử nghĩ xem,

phát triển tiếp như thế nữa sẽ ra sao? Có cho phép nó tồn tại mãi như vậy hay

không? Người không trị thì trời trị. Mỗi khi phát sinh kiếp nạn thì nhân loại đều ở

trong trạng thái như thế. Qua nhiều khoá học rồi, tôi chưa bàn về vấn đề đại kiếp

nạn của nhân loại. Tôn giáo cũng giảng về nó, rất nhiều người cũng giảng về đề tài

nóng bỏng ấy. Tôi đặt vấn đề này ra cho mọi người, mọi người thử nghĩ xem: tại xã

hội người thường chúng ta, chuẩn mực đạo đức con người đã thay đổi đến mức như

thế! Mức độ căng thẳng giữa người với người đã đến mức độ như thế! Chư vị có

nghĩ rằng nó chẳng phải đã đến hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm hay sao? Do đó những

hoàn cảnh tồn tại khách quan ấy, cũng đang can nhiễu nghiêm trọng đến những

người luyện công chúng ta đang tu luyện lên cao tầng. Tranh ảnh khoả thân bày

ngay ở đằng kia, treo ngay chỗ đại lộ, hễ ngẩng đầu lên liền nhìn thấy.

Lão Tử từng giảng câu: ‘Thượng sỹ văn đạo, cần nhi hành chi’. Kẻ sỹ bậc

thượng được nghe Đạo, [hiểu ra] đắc chính Pháp không hề dễ dàng gì, hôm nay

không tu thì đợi bao giờ nữa? Hoàn cảnh phức tạp, tôi nghĩ rằng trái lại lại là điều

hay; càng phức tạp thì càng có khả năng xuất hiện cao nhân; nếu từ nơi đây mà vọt

trội lên được thì mới tu được chắc chắn nhất.

Tâm thanh tịnh 171

Người nào có thể thật sự hạ quyết tâm tu luyện, tôi nói rằng trái lại [hoàn cảnh

này] lại là điều tốt. Nếu không có mâu thuẫn nảy sinh, không tạo ra cơ hội đề cao

tâm tính cho chư vị, thì chư vị không lên được. Chư vị tốt tôi cũng tốt, hỏi tu luyện

làm sao? Là một người tu luyện bình thường, thuộc hạng “trung sỹ văn Đạo”, luyện

cũng được chẳng luyện cũng xong, kiểu người như thế rồi có lẽ sẽ không thành. Có

người ngồi đây nghe Sư phụ giảng thấy rất có đạo lý, [nhưng] quay về xã hội người

thường, lại [thấy] lợi ích hiện thực mới là thực tại. Đúng là thực tại ghê lắm, không

chỉ chư vị, có rất nhiều triệu phú và những người giàu có bên Tây phương, đến khi

trăm tuổi [lâm chung] họ liền thấy họ chẳng còn gì; những của cải vật chất khi sinh

không mang theo đến, khi tử không mang theo đi, rất [trống rỗng] hư không. Vậy

công kia vì lẽ gì mà trân quý như thế? Bởi vì nó trực tiếp đeo bên thân nguyên thần

của chư vị, khi sinh mang theo đến, khi tử mang theo đi. Chúng tôi giảng nguyên

thần bất diệt, điều ấy cũng không phải mê tín. Khi những tế bào của chúng ta trút ra

rồi, thì những thành phần phần tử nhỏ bé hơn tồn tại ở không gian vật chất khác

không hề diệt mất, nó chỉ trút khỏi cái xác kia mà thôi.

Điều tôi vừa giảng đều thuộc về vấn đề tâm tính của con người. Thích Ca Mâu

Ni đã giảng câu này, Đạt Ma cũng giảng thế: ‘Vùng Trung Quốc đông thổ ấy là nơi

xuất ra những kẻ sỹ đại đức’. Trong lịch sử Trung Quốc chúng ta có rất nhiều tăng

nhân, có nhiều người Trung Quốc rất tự hào. Ý nghĩa [câu trên] là có thể tu lên cao

công, do vậy có nhiều vị cao hứng lắm, tự mình vinh hạnh lắm: ‘Chẳng phải người

Trung Quốc chúng ta, ở vùng đất Trung Quốc xuất hiện những người đại căn khí,

xuất hiện những kẻ sỹ đại đức’. Thực ra rất nhiều người không hiểu rõ ý nghĩa

trong câu ấy; vì sao tại vùng đất Trung Quốc có thể xuất hiện những kẻ sỹ đại đức,

tại sao có thể xuất được cao công? Rất nhiều người không biết được hàm nghĩa

chân chính của những lời mà người tại cao tầng giảng thuyết, cũng không biết được

cảnh giới cũng như trạng thái tư tưởng của người tại cao tầng tại cảnh giới cao đang

ở. Tất nhiên chúng tôi giảng rồi, [nay] không nói về ý nghĩa của nó là gì; [mà] mọi

người nghĩ xem, chỉ có ở chỗ quần thể con người phức tạp đến thế, ở hoàn cảnh

phức tạp nhất mới có thể tu lên cao công; là có ý như thế.

Căn cơ

Căn cơ được quyết định theo lượng nhiều ít của chất đức mà người ta mang

theo thân thể ở một không gian khác. Đức ít, vật chất màu đen nhiều, thì trường

nghiệp lực lớn, như thế là thuộc loại căn cơ không tốt; đức nhiều, vật chất màu

trắng nhiều, thì trường nghiệp lực nhỏ, như thế là thuộc loại căn cơ tốt. Hai loại vật

chất là vật chất màu trắng và vật chất màu đen của người ta có thể chuyển hoá

tương hỗ với nhau; chuyển hoá thế nào? Làm điều tốt sẽ sinh ra vật chất màu trắng;

vật chất màu trắng là khi chịu khổ, chịu đựng điều thống khổ rồi, [hay] làm điều tốt

rồi mà được. Còn vật chất màu đen là khi làm điều xấu, làm điều bất hảo mà sinh

ra; nó là nghiệp lực. Nó có một quá trình chuyển hoá như vậy; đồng thời nó còn có

quan hệ mang theo. Bởi vì nó trực tiếp đi theo nguyên thần, [nó] không phải là thứ

chỉ thuộc về một đời, mà đã được tích luỹ từ những niên đại rất xa xưa. Do đó mới

giảng ‘tích nghiệp’, ‘tích đức’, ngoài ra tổ tiên cũng có thể tích lại cho đời sau. Có

những lúc tôi nhớ rằng người xưa Trung Quốc hoặc người già hay nói: ‘tổ tiên tích

đức’ hoặc ‘tích đức’, ‘khuyết đức’; những lời ấy hết sức đúng đắn, đúng đắn phi

thường.

Căn cơ tốt hay xấu có thể quyết định ngộ tính cá nhân ấy là tốt hay dở. Người

căn cơ không tốt có thể làm cho ngộ tính người ta trở nên rất kém. Vì sao? Vì

Căn cơ 172

người có căn cơ tốt có nhiều vật chất màu trắng; vật chất màu trắng ấy dung hiệp

với vũ trụ của chúng ta, dung hiệp với đặc tính Chân Thiện Nhẫn, không có phân

cách. Vậy nên đặc tính vũ trụ phản ánh trực tiếp lên thân thể của chư vị, trực tiếp

câu thông với thân thể của chư vị. Còn chủng vật chất màu đen là tương phản hẳn

lại, là khi làm điều xấu mà nhận phải, [nó] trái ngược với đặc tính của vũ trụ của

chúng ta; do vậy phát sinh một sự cách ly giữa chủng vật chất màu đen ấy với đặc

tính vũ trụ của chúng ta. Khi chủng vật chất màu đen ấy có nhiều, thì nó hình thành

một trường bao quanh thân thể con người lại, bao con người vào trong. Mà trường

này càng lớn, thì mật độ của nó càng lớn, càng dày, nên làm cho ngộ tính của cá

nhân càng không tốt. Bởi vì họ không thể tiếp thu chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn

của vũ trụ; cũng là vì họ đã làm điều xấu mới sinh ra vật chất màu đen như thế.

Thông thường những người này đã như thế lại càng không tin vào tu luyện; ngộ

tính càng không tốt, thì càng tiếp thụ trở ngại của nghiệp lực; chịu khổ càng nhiều,

thì lại càng không tin, nếu [họ] tu luyện thì càng khó khăn.

Người có nhiều vật chất màu trắng tu luyện sẽ dễ dàng hơn; bởi vì trong quá

trình tu luyện họ chỉ cần đồng hoá với đặc tính vũ trụ, tâm tính của họ có thể đề cao

lên trên, thì chất đức của họ sẽ trực tiếp diễn hoá [trở] thành công. Còn người có

nhiều vật chất màu đen, thì giống như sản xuất ra sản phẩm ở nhà máy vậy, phải

thêm một thủ tục nữa; người ta đã [có vật] liệu sẵn sàng rồi, còn họ mới [có

nguyên] liệu thô, cần phải gia công thêm một lượt nữa, phải qua một quá trình ấy.

Do vậy trước tiên họ phải chịu khổ, để hạ bỏ nghiệp lực của họ, chuyển thành vật

chất màu trắng; sau khi hình thành chất đức ấy rồi mới có thể tăng công lên cao.

Tuy nhiên loại người này bản thân họ ngộ tính không tốt, chư vị bảo họ chịu thêm

chút khổ nữa, thì họ càng không tin, càng không chịu được; do đó người có nhiều

vật chất màu đen khó tu luyện. Đạo gia hoặc các pháp môn đơn truyền trong quá

khứ đều giảng rằng sư phụ tìm chọn đồ đệ, chứ không phải đồ đệ tìm sư phụ, cũng

là để xem những thứ mang theo nhiều [hay] ít trên thân thể [đồ đệ] mà quyết định.

Căn cơ quyết định ngộ tính của người ta, tuy nhiên cũng không tuyệt đối. Có

người căn cơ rất dở, nhưng hoàn cảnh gia đình rất tốt, rất nhiều người đều luyện

công, cũng có một số người là cư sỹ trong tôn giáo, rất tin vào những chuyện tu

luyện. Trong hoàn cảnh như thế, cũng có thể làm cho họ trở nên tin tưởng hơn, ngộ

tính trở nên tốt; do vậy nó không tuyệt đối. Cũng có người căn cơ rất tốt, nhưng

thường hay chịu nhận sự giáo dục tri thức nhỏ bé của xã hội hiện hữu này, nhất là

phương pháp giáo dục tư tưởng tuyệt đối hoá ở mấy năm trước đây, làm cho tư

tưởng con người ta trở nên vô cùng chật hẹp, hết thảy những gì vượt khỏi phạm vi

mà họ đã biết thì họ đều không chịu tin, nên cũng có thể làm cho ngộ tính của họ

chịu can nhiễu nghiêm trọng.

Lấy một thí dụ, khi tôi mở lớp giảng dạy, ngày thứ hai giảng khai [mở] thiên

mục. Có một vị căn cơ rất tốt, nên lập tức mở thiên mục cho vị ấy tại tầng rất cao,

vị này nhìn thấy được rất nhiều cảnh tượng mà người khác không nhìn thấy. Vị ấy

nói với mọi người: ‘Ái chà, tôi thấy toàn bộ trường truyền Pháp đều có Pháp Luân

giăng như hoa tuyết rơi lên thân thể của mọi người; tôi thấy chân thể của Sư phụ Lý

Hồng Chí như thế này thế này, tôi nhìn thấy vòng hào quang của Sư phụ Lý Hồng

Chí, thấy được Pháp Luân là như thế như thế, có bao nhiêu Pháp thân. Thấy tại các

tầng khác nhau đều có Sư phụ Lý Hồng Chí đang giảng Pháp, Pháp Luân đang điều

chỉnh thân thể cho học viên như thế nào. Còn thấy rằng khi Sư phụ giảng bài thì

từng tầng từng tầng tại các tầng khác nhau đều có công thân của Sư phụ đang

giảng; ngoài ra còn thấy các thiên nữ trải hoa, v.v.’ Vị ấy đều nhìn thấy được những

Căn cơ 173

điều mỹ diệu như thế, điều ấy nói lên rằng căn cơ của cá nhân này rất khá. Vị ấy

nói tới nói lui, cuối cùng nói một câu: ‘Tôi không tin những điều này’. Có rất nhiều

điều đã được khoa học hiện hữu này chứng thực rồi, có rất nhiều điều có thể lý giải

từ khoa học hiện hữu này, có nhiều điều mà chúng ta cũng luận [giải] được rồi. Bởi

vì chỗ nhận thức của khí công thật sự vượt trên nhận thức của khoa học; điều này là

khẳng định. Như vậy có thể thấy rằng căn cơ không hoàn toàn ước chế ngộ tính.

Ngộ

“Ngộ” là gì? Danh từ “ngộ” xuất phát ban đầu trong tôn giáo. Trong Phật giáo

là nói về việc người tu luyện lý giải đối với Phật Pháp thế nào, ngộ trên nhận thức

và ngộ cuối cùng, là ý nói về ‘huệ ngộ’. Tuy nhiên hiện nay đã đưa vào ứng dụng ở

người thường, nói rằng cá nhân ấy rất thông minh, biết được trong tâm của lãnh đạo

đang nghĩ gì, lập tức có thể lĩnh hội được ngay, khi lãnh đạo có mặt liền có thể làm

vừa lòng. Người ta giảng rằng như thế là ngộ tính tốt; [họ] thường lý giải như vậy.

Tuy nhiên [khi] chư vị vượt qua tầng của người thường, đến tầng cao hơn một chút,

thì chư vị liền phát hiện rằng, [đạo] lý ở chỗ nhận thức của người thường, thông

thường là sai. ‘Ngộ’ mà chúng tôi nói đến hoàn toàn không phải là cái ‘ngộ’ ấy.

Ngộ tính của kẻ khôn khéo quá trái lại là không tốt; bởi vì kẻ thông minh thái quá

sẽ thực hiện hời hợt bề mặt, lấy lòng lãnh đạo vừa ý thượng cấp. Công việc thật sự

chẳng phải để người khác làm hay sao? Như vậy họ sẽ mắc nợ những thứ của người

khác; bởi vì họ khôn, họ sẽ biết lấy lòng người, họ có thể được nhiều thứ tốt, người

khác do vậy sẽ phải nhận nhiều thứ xấu; bởi vì họ khôn, nên họ cũng không thể

chịu thiệt, họ không dễ chịu thiệt, và người khác phải chịu thiệt. Họ ngày càng coi

trọng những lợi ích thực tiễn nhỏ nhoi ấy, như vậy bụng dạ của họ ngày càng hẹp

hòi, họ ngày càng cho rằng lợi ích vật chất có được ở nơi người thường mới là

những thứ không thể buông bỏ được, họ cũng nhận rằng bản thân họ coi trọng hiện

thực, họ cũng không chịu thiệt thòi.

Có người còn ngưỡng mộ [kẻ ấy]! Tôi nói với chư vị rằng, chớ có ngưỡng mộ

họ. Chư vị đâu biết rằng họ sống mệt mỏi ra sao, họ ăn không ngon ngủ không yên,

trong mơ cũng lo lợi ích của mình bị tổn thất. Đối với lợi ích cá nhân, họ cứ dùi

mãi vào sừng bò, chư vị nói xem họ sống vậy có mệt mỏi không; cả một đời họ cứ

sống vì điều đó. Chúng ta nói rằng khi gặp mâu thuẫn trước mặt, lùi một bước biển

rộng trời trong, đảm bảo sẽ là một cảnh tượng khác. Nhưng loại người kia sẽ không

chịu lùi, họ sống một cách mệt mỏi nhất, chư vị không được học theo họ. Trong

giới tu luyện giảng rằng: những người này là mê nhất, chỉ vì lợi ích vật chất mà đã

hoàn toàn mê tại cõi người thường. Bảo họ thủ đức ư, không dễ đâu! [Nếu] chư vị

bảo họ luyện công, họ có thể không tin: ‘Luyện công sao? Người luyện công các vị

đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu. Người ta bắt nạt các vị thật tệ hại mà trong tâm

các vị không được đối xử với người ta như thế, mà trái lại phải cảm tạ người ta.

Các vị đều là A-Q mất rồi! Ai ai cũng bị tâm thần hết cả!’ Người như thế, họ không

cách nào lý giải được tu luyện. Họ nói rằng chư vị thật khó hiểu lắm lắm, họ bảo

chư vị mới là ngốc. Chư vị nói xem hoá độ họ có khó không?

‘Ngộ’ mà chúng tôi nói không phải là cái ‘ngộ’ ấy. Chính cái mà họ nói là

‘ngốc’ về lợi ích vật chất của chúng ta; ‘ngộ’ mà chúng tôi giảng là cái ‘ngộ’ ấy.

Tất nhiên, không phải là ngốc thật, chúng ta chỉ là coi nhẹ vấn đề lợi ích thiết thân

thôi, còn tại các phương diện khác, thì chúng ta đều rất sáng suốt. Các công trình

khoa học nghiên cứu mà chúng ta làm, lãnh đạo giao nhiệm vụ nào, hoàn thành

công tác nào, chúng ta đều tỉnh táo minh bạch làm cho thật tốt. Nhưng chính ở

Ngộ 174

điểm lợi ích cá nhân của bản thân chúng ta, [hoặc] khi gặp mâu thuẫn giữa người

với người, [thì] chúng ta coi [chúng] rất nhẹ. Ai nói chư vị là ngốc? Không ai nói

chư vị ngốc cả; đảm bảo là như vậy.

Chúng ta hãy nói về kẻ ngốc trong những kẻ ngốc; cái lý ở trên cao tầng đều

phản đảo lại. Một kẻ ngốc kia ở nơi người thường không thể làm điều xấu gì lớn,

không thể đấu tranh chỉ vì lợi ích cá nhân, không cầu danh, và vị ấy không tổn đức.

Nhưng người khác lại cấp đức cho vị ấy; đánh vị ấy, [nhục] mạ vị ấy đều là cấp đức

cho vị ấy; mà chủng vật chất này cực kỳ trân quý. Trong vũ trụ này của chúng ta có

[Pháp] lý thế này: bất thất giả bất đắc, đắc tựu đắc thất. Người ta nhìn thấy kẻ đại

ngốc, ai đều lăng mạ: ‘Mi là đồ ngốc’. Thuận theo lời [nhục] mạ tuôn ra từ cái

mồm kia, thì một khối đức đã bay sang. Chư vị chiếm tiện nghi nên thuộc về bên

được, như vậy chư vị phải mất. Đi qua đá cho vị ấy một cước: ‘Đồ đại ngốc nhà

mi’. Tốt thôi, một khối đức lại bay sang. Ai nạt dối vị ấy, ai đá vị ấy, vị ấy cũng

đều khoan khoái: ‘Các ngươi cứ đến đi, thế nào cũng cấp đức cho ta mà, ta không

đẩy ra chút nào hết đâu!’ Như vậy nếu chiểu theo [Pháp] lý tại cao tầng, thì mọi

người nghĩ xem, hỏi ai khôn? Chẳng phải vị ấy khôn là gì? Vị ấy là khôn nhất. Vị

ấy không rơi rớt chút đức nào hết, còn chư vị cấp đức cho vị ấy, vị ấy cũng không

đẩy trở lại một chút nào, đều nhận hết, nhận một cách rất khoan khoái. Đời này

ngốc đời sau không ngốc, nguyên thần không ngốc. Trong tôn giáo giảng rằng,

người kia nếu nhiều đức, thì đời sau làm quan lớn, phát tài lớn, đều dùng đức mà

giao hoán.

Chúng tôi giảng, đức có thể trực tiếp diễn hoá [trở] thành công. Chư vị tu cao

được đến đâu, chẳng phải chính là đức kia diễn hoá mà thành? Nó trực tiếp có thể

diễn hoá [trở] thành công. Quyết định tầng của người ta cao thấp ra sao, công lực

lớn nhỏ thế nào, chẳng phải chính là do chủng vật chất ấy diễn hoá mà thành? Chư

vị nói xem nó có trân quý không? Nó quả là mang theo đến khi sinh, mang theo đi

khi chết. Trong Phật giáo giảng rằng chư vị tu luyện cao đến đâu, đó là quả vị của

chư vị. Chư vị phó xuất nhiều đến đâu, thì sẽ đắc được nhiều đến đó; đấy chính là

đạo lý. Trong tôn giáo giảng rằng, có đức mà đến đời sau thì sẽ làm quan lớn, phát

tài lớn. Ít đức thì có xin ăn cũng không được [ai cho], bởi vì không có đức giao

hoán; bất thất bất đắc! Không một chút đức, thì sẽ hình thần toàn diệt, sẽ chết thật

sự.

Quá khứ có một khí công sư, khi mới xuất sơn có tầng khá cao; khí công sư

này về sau đã rớt ở nơi danh lợi. Sư phụ anh ta đã mang phó nguyên thần của anh ta

đi, bởi vì anh ta cũng thuộc về [môn] tu luyện phó nguyên thần. Khi còn phó

nguyên thần tại đó, thì [anh ta] chịu sự khống chế của phó nguyên thần. Lấy một ví

dụ; một hôm đơn vị [công tác] phân nhà, lãnh đạo nói: ‘Ai thiếu nhà ở hãy qua đây,

trình bày hoàn cảnh, nói xem cá nhân cần nhà ở như thế nào’. Mỗi người đều nói về

mình, riêng anh kia không nói gì cả. Cuối cùng lãnh đạo xét qua liền thấy rằng anh

này khó khăn hơn mọi người khác, cần cấp nhà cho anh ta. Người khác nói: ‘Không

được, nhà ấy không thể cấp cho anh ta, cần cấp cho tôi, tôi cần căn hộ như thế như

thế’. Anh ta nói: ‘Thế thì ông lấy đi’. Nếu người thường xét, thì cá nhân kia thật

ngốc. Có người biết rằng anh ta là người luyện công, bèn hỏi anh ta: ‘Người luyện

công các anh không muốn gì cả; hỏi anh muốn gì?’ Anh ta nói: ‘Điều người khác

không muốn, tôi muốn’. Thực ra anh ta không ngốc chút nào hết, rất tinh minh.

Chính về mặt lợi ích thiết thân của cá nhân, thì đối đãi như vậy; anh ta giảng tuỳ kỳ

tự nhiên. Người kia lại hỏi: ‘Hiện nay có gì mà người ta không muốn?’ Anh ta nói:

‘Cái cục đá bị đá đi đá lại trên mặt đất kia là không ai cần cả; vậy tôi nhặt cục đá

Ngộ 175

ấy’. Người thường thấy vậy thật không thể hiểu nổi; người thường không thể lý giải

được người luyện công, không cách nào lý giải được; cảnh giới tư tưởng khác nhau

quá xa, cách biệt về tầng quá to lớn. Tất nhiên anh ta sẽ không nhặt cục đá ấy đâu,

anh ta nói ra [Pháp] lý mà người thường không ngộ ra được: ‘Tôi không cầu những

thứ của người thường’. Hãy nói về cục đá ấy; mọi người đều biết trong kinh Phật

viết: [ở] thế giới Cực Lạc cây cũng là vàng, đất cũng là vàng, chim cũng là vàng,

hoa cũng là vàng, nhà cũng là vàng, ngay cả Phật thể cũng lấp lánh ánh vàng kim.

Đến đó sẽ không tìm đâu được một cục đá; nghe nói tiền để tiêu ở đó chính là đá;

anh ta rồi sẽ không mang được cục đá lên trên đó đâu, nhưng anh ta đã nói lên được

một [Pháp] lý mà người thường không lý giải được. Người luyện công thật sự giảng

rằng: những cái mà người thường vẫn truy cầu thì chúng tôi không truy cầu; thứ mà

người thường có thì chúng tôi cũng không quan tâm; nhưng thứ mà chúng tôi có thì

người thường có muốn cũng không được.

Thực ra, ‘ngộ’ mà chúng tôi vừa giảng, nó vẫn còn thuộc về loại ‘ngộ’ trong

quá trình tu luyện, nó hoàn toàn tương phản với cái ‘ngộ’ ở nơi người thường.

‘Ngộ’ chân chính của chúng ta, chính là nói về Pháp mà sư phụ giảng trong quá

trình chúng ta luyện công, Đạo mà sư phụ trong Đạo gia giảng, trước những ma nạn

bản thân gặp phải trong quá trình tu luyện, thì có thể ngộ được rằng bản thân là

người tu luyện hay không, có thể lý giải [theo Pháp] hay không, có thể tiếp thụ

[Pháp] hay không, trong quá trình tu luyện có thể chiểu theo Pháp mà hành xử hay

không. Có người có làm thế nào mà giảng họ cũng không tin, vẫn [chỉ tin vào]

những lợi ích thiết thực nơi người thường. Họ vẫn ôm giữ những quan niệm cố hữu

mà không bỏ, làm cho [họ] không thể tin [vào Pháp]. Có người muốn trị bệnh, ở

đây tôi giảng khí công hoàn toàn không phải dùng để trị bệnh, tư tưởng của họ liền

cảm thấy phản đối, từ đó không tin vào những điều giảng sau đó nữa.

Có người không nâng ngộ tính lên được; có người lấy cuốn sách này của tôi mà

tuỳ tiện vẽ vẽ vạch vạch vào đó. Những ai đã khai [mở] thiên mục trong chúng ta

đều thấy rằng, cuốn sách này nhìn là thấy ngũ quang thập sắc, lấp lánh ánh vàng

kim, mỗi chữ đều là hình tượng Pháp thân của tôi. Nếu tôi nói lời giả thì chính là

lừa đảo mọi người; đường vẽ kia từ bút của chư vị là đen thui, chư vị dám tuỳ tiện

vẽ lên đó là sao? Chúng tôi đang làm gì tại nơi đây? Chẳng phải đưa chư vị tu lên

trên là gì? Có những sự việc chư vị cũng cần suy nghĩ một chút; cuốn sách này có

thể chỉ đạo chư vị tu luyện; chư vị có nghĩ rằng nó trân quý hay không? Chư vị bái

Phật có thể làm cho chư vị tu luyện chân chính không? Chư vị rất thành kính,

chẳng dám chạm khẽ vào tượng Phật, hàng ngày đốt hương cho tượng; vậy mà chư

vị dám làm hư hại Đại Pháp vốn thật sự có thể chỉ đạo chư vị tu luyện.

Giảng về vấn đề ngộ tính của con người, đây mới chỉ là trong quá trình tu

luyện, với những điều nào đó hay Pháp nào đó xuất hiện tại các tầng hoặc trong

những gì sư phụ giảng, thì chư vị lý giải chúng đến mức độ nào. Tuy nhiên vẫn

chưa phải là ‘ngộ căn bản’ mà chúng tôi nói đến; ‘ngộ căn bản’ chúng tôi nói đến

chính là trong những năm tháng cuộc đời của họ, từ khi bắt đầu tu luyện, không

ngừng thăng hoa lên trên, không ngừng vứt bỏ các tâm chấp trước các chủng dục

vọng của con người, công cũng không ngừng tăng trưởng lên trên, cuối cùng đã

liên tục đi cho đến bước cuối cùng con đường tu luyện của mình. Toàn bộ chủng

vật chất đức cũng đã diễn hoá [trở] thành công, con đường tu luyện mà sư phụ an

bài cho cũng đã đi đến đầu chót rồi; tại đúng tích tắc ấy, nổ “păng” một cái là mở

tung các khoá. Thiên mục đạt đến điểm cao nhất trong tầng sở tại của họ, thấy được

chân tướng trong các không gian trong tầng sở tại của họ, hình thức tồn tại của các

Ngộ 176

thể sinh mệnh của các thời-không, hình thức tồn tại của vật chất trong các thờikhông, nhìn thấy được chân lý trong vũ trụ chúng ta. Thần thông đại hiển, đều có

thể câu thông với các loại thể sinh mệnh. Đến bước đó thì chẳng phải đã là Đại

Giác Giả là gì? Người đã tu luyện giác ngộ rồi đúng không? Phiên [dịch] sang tiếng

Ấn Độ cổ thì chính là Phật {Buddha}.

Ngộ mà chúng tôi giảng ấy, ngộ căn bản ấy vẫn thuộc về hình thức ‘đốn ngộ’.

‘Đốn ngộ’ tức là trong những năm tháng cuộc đời thì họ bị khoá, không biết công

của mình cao đến đâu, không biết hình thái mà công mình luyện được là gì, hoàn

toàn không có phản ứng gì, thậm chí các tế bào của thân thể bản thân mình đều bị

khoá, công luyện xuất ra được đều bị khoá; liên tục tu luyện cho đến bước cuối

cùng rồi mới được mở tung ra. Đây phải là người đại căn khí mới có thể làm vậy, tu

luyện rất khổ. Bắt đầu từ chỗ làm con người tốt [rồi tu] lên, một mực đề cao tâm

tính bản thân mình, một mực chịu khổ, một mực tu lên trên, một mực yêu cầu đề

cao tâm tính, nhưng lại không thấy được công của bản thân mình. Loại người này

tu khó khăn nhất, đây phải là người đại căn khí; tu biết bao nhiêu năm, mà không

biết được gì.

Còn một loại nữa gọi là ‘tiệm ngộ’. Ngay từ đầu có rất nhiều người đều cảm

thấy Pháp Luân đang xoay chuyển, đồng thời tôi cũng giúp mọi người khai [mở]

thiên mục. Có người vì nguyên nhân này khác, sẽ từ chỗ nhìn không thấy cho đến

chỗ nhìn thấy được, từ chỗ nhìn không rõ cho đến chỗ nhìn được rõ, từ chỗ không

dùng được đến chỗ sử dụng được, không ngừng đề cao tầng. Thuận theo việc tâm

tính chư vị đề cao lên và tâm chấp trước vứt bỏ đi, các chủng công năng đều xuất ra

ngoài. Sự diễn biến của toàn bộ quá trình tu luyện, quá trình chuyển hoá thân thể

đều xảy ra những biến đổi trong trạng thái mà bản thân chư vị có thể thấy hoặc cảm

nhận được. Cứ như thế mà cho đến bước cuối cùng, hoàn toàn nhận thức được chân

lý của vũ trụ, tầng đã đạt đến đỉnh điểm cao nhất mà chư vị nên phải tu luyện đến

được. Sự biến hoá của bản thể, gia trì của công năng đều đã đạt đến một mức độ

nhất định, dần dần cũng đạt mục đích ấy. Điều này thuộc về tiệm ngộ. Phương pháp

tu luyện theo loại tiệm ngộ cũng không dễ dàng gì, đã có công năng rồi, có những

người tâm chấp trước chưa vứt bỏ, nên rất dễ hiển thị, nên dễ phạm phải điều xấu.

Như vậy chư vị sẽ mất công, chư vị sẽ tu mà như không, cuối cùng sẽ huỷ [hoại].

Có người có thể nhìn, có thể thấy sự thể hiện của các chủng sinh mệnh tại các tầng

khác nhau, họ có thể bảo chư vị làm điều này điều nọ, họ có thể bảo chư vị luyện

những thứ của họ, thu chư vị làm đồ đệ, nhưng bản thân họ lại không thể [giúp] chư

vị đắc chính quả, bởi vì họ cũng không đắc chính quả.

Ngoài ra, người ở cao tầng đều là Thần, biến thành rất to lớn, thần thông đại

hiển, hễ tâm bất chính, chư vị liền đi theo họ phải không? Một khi chư vị đi theo

họ, thì đã tu lại như không. Dẫu họ là Phật thật, là Đạo thật, thì chư vị cũng phải tu

luyện lại từ đầu. Người ở biết bao nhiêu tầng trời, đó chẳng phải Thần Tiên là gì?

Chỉ có tu luyện đến tầng cực cao, sau khi đạt được mục đích rồi, thì mới có thể

hoàn toàn nhảy vượt ra. Tuy nhiên, trước mắt một con người bình thường thì Thần

Tiên ấy thực sự hiển thị vừa cao vừa lớn, bản sự cũng rất to lớn; nhưng có thể họ

chưa hề đắc chính quả. Khi chịu can nhiễu của các chủng tín tức, trong các cảnh

tượng dụ dỗ mê hoặc, chư vị có thể bất động tâm được hay không? Vậy mới nói

khai mở thiên mục tu cũng khó, giữ vững tâm tính càng khó hơn. Tuy nhiên rất

nhiều người trong chúng ta sẽ giữa chừng được đả khai công năng cho chư vị, tiến

nhập vào trạng thái tiệm ngộ. Thiên mục của ai cũng được khai [mở], rất nhiều

người có công năng [nhưng] không cho phép chư vị được xuất ra. Khi tâm tính chư

Ngộ 177

vị dần dần đề cao đến một tầng nhất định, khi tâm thái ổn định và có thể giữ vững

bản thân, thì sẽ lập tức khai nổ cho chư vị. Đến tầng ấy sẽ cho phép chư vị xuất

hiện trạng thái tiệm ngộ; lúc đó đã dễ dàng giữ vững bản thân rồi, các chủng công

năng đều đã xuất hiện rồi, bản thân tu lên trên, cho đến cuối cùng hoàn toàn khai

[mở]. Đến giữa chừng quá trình tu luyện sẽ cho phép chư vị xuất hiện [công năng],

chúng ta có rất nhiều người thuộc loại này; do đó mọi người đừng sốt ruột [mong]

nhìn thấy được.

Có thể mọi người đã nghe qua thuyết Thiền tông cũng giảng về phân biệt ‘đốn’

và ‘tiệm’. Lục tổ Huệ Năng của Thiền tông giảng đốn ngộ, Thần Tú ở Bắc Phái

giảng tiệm ngộ. Tại lịch sử giữa hai vị này đã phát sinh cuộc tranh luận rất lâu dài

trong Phật học, tranh luận tới lui mãi. Tôi nói rằng thật vô nghĩa; tại sao? Bởi vì

[ngộ mà] họ nói chẳng qua là về nhận thức đối với [Pháp] lý trong quá trình tu

luyện. Về [Pháp] lý ấy, có người lập tức nhận thức ra ngay; có người ngộ ra, nhận

thức ra một cách từ từ. Ngộ thế nào là không được? Lập tức nhận thức ra thì tốt

hơn, ngộ ra một cách từ từ thì cũng được; chẳng phải cùng là ngộ? Đều là ngộ cả

thôi; do đó không [ai] sai cả.

Người đại căn khí

Thế nào là người đại căn khí? Người đại căn khí có chỗ khác biệt với [người

có] căn cơ tốt hay dở. Người đại căn khí kia vô cùng khó tìm; đều phải trải qua một

thời kỳ lịch sử rất lâu dài, mới có thể xuất sinh một người [như vậy]. Tất nhiên

người đại căn khí trước tiên cần phải có đức rất lớn, trường của chủng vật chất màu

trắng ấy rất to lớn; điểm này là khẳng định. Đồng thời họ phải có thể chịu cái khổ

trong những cái khổ, còn phải có tâm Đại Nhẫn, còn phải có thể xả, còn phải có thể

thủ đức, còn phải có ngộ tính tốt, v.v.

Thế nào là ‘cái khổ trong những cái khổ’? Trong Phật giáo nhận thức rằng làm

người là khổ; hễ chư vị làm người, thì phải chịu khổ. Nó cho rằng sinh mệnh của

tất cả các không gian đều không có cái thân thể người thường này của chúng ta, nên

sẽ không mắc bệnh, cũng không tồn tại vấn đề sinh lão bệnh tử, nên cũng không

tồn tại loại thống khổ như thế. Người tại không gian khác có thể phiêu [đãng bay]

lên, không có [trọng lượng] nặng nhẹ, mỹ diệu phi thường. Người thường chính là

vì có cái thân thể này, nên xuất hiện một vấn đề: lạnh không chịu được, nóng không

chịu được, khát không chịu được, đói không chịu được, mệt không chịu được, lại

còn có sinh lão bệnh tử; thế nào thì chư vị cũng không thể thoải mái.

Tôi đã từng xem một tờ báo đăng rằng khi có địa chấn ở Đường Sơn, đã có rất

nhiều người tử vong trong trận động đất ấy; nhưng có một số người được cứu sống

lại. Một cuộc điều tra xã hội đặc biệt đã được thực hiện dành cho bộ phận những

người này: hỏi xem họ có cảm giác gì khi ở trong trạng thái tử vong? Nhưng bất

ngờ là những người đó đều nói về một tình huống đặc thù, hơn nữa đều giống nhau;

chính là khi người ta vào đúng tích tắc đang chết ấy không có cảm giác sợ hãi, mà

hoàn toàn trái lại đột nhiên cảm thấy một loại cảm [giác] giải thoát, có một loại cảm

[giác] hưng phấn tiềm tại; có người cảm thấy lập tức không còn sự câu thúc của

thân thể nữa, nhẹ nhàng phiêu đãng bay lên một cách rất tuyệt đẹp, còn nhìn thấy

được thân thể của mình; có người còn thấy được các thể sinh mệnh ở không gian

khác; có người còn đến các địa phương nào đó. Tất cả mọi người đều nói rằng vào

đúng tích tắc ấy cảm giác thấy một loại cảm giác hưng phấn giải thoát tiềm tại,

không có cảm giác thống khổ. Nghĩa là chúng ta có nhục thân của con người chính

Người đại căn khí 178

là khổ; tuy nhiên mọi người đều từ thai mẹ mà ra như thế cả, nên cũng không biết

[thế là] khổ.

Tôi nói rằng con người phải chịu khổ trong những cái khổ. Hôm rồi tôi đã nói,

khái niệm không gian thời-không ở nhân loại và của thời-không lớn hơn khác là

khác nhau; ở đây một thời thần của chúng ta là hai giờ đồng hồ, thì lại là một năm ở

không gian của họ. Nếu cá nhân kia ở hoàn cảnh khổ thế này mà luyện công, thì

thật khá lắm; nếu cá nhân kia có tâm cầu Đạo, mong muốn tu luyện, thì cá nhân ấy

quả thật xuất sắc. Khổ đến như thế mà vị ấy vẫn chưa rơi mất bản tính của mình, vị

ấy vẫn còn muốn tu luyện quay trở về. Vì sao có thể giúp đỡ người tu luyện một

cách vô điều kiện? Chính là như vậy đó. Nếu cá nhân kia ở trong không gian người

thường ngồi đả toạ một đêm, người ta hễ nhìn thấy, liền nói rằng cá nhân ấy quả

thực là xuất sắc, anh ta đã ngồi ở nơi ấy sáu năm rồi. Bởi vì một thời thần của

chúng ta là một năm ở nơi đó. [Không gian của] nhân loại chúng ta là một không

gian cực kỳ đặc thù.

Thế nào là chịu khổ trong những cái khổ? Lấy thí dụ; cá nhân kia một hôm đi

làm. Đơn vị [công tác] làm ăn không khá, tình cảnh người làm việc xao lãng mãi là

không được; đơn vị cần cải cách, nhận [nhân viên] hợp đồng; các nhân viên dư ra

đều [bị] sa thải. Cá nhân ấy nằm trong số đó, đột nhiên bị mất miếng cơm. Cảm

thấy thế nào? Không còn chỗ khác để kiếm tiền nữa, vậy sống sao bây giờ? Không

còn kỹ năng khác nữa nên đành buồn bã trở về nhà. Vừa về đến nhà, cụ già ở nhà

ngã bệnh rất nặng, bèn vội vội vàng vàng đưa đến bệnh viện; thật cũng không hề dễ

gì mà vay được tiền nhập viện. Rồi quay về nhà chuẩn bị đồ cho cụ già; vừa mới về

nhà, thì thầy giáo ở trường đến bảo: ‘Con ông đánh người ta ghê lắm, ông lập tức

đến coi đi’. Xử lý việc đó xong rồi trở về nhà, vừa ngồi xuống điện thoại liền reo:

‘Vợ ông ngoại tình rồi’. Tất nhiên mọi người không gặp phải sự việc như vậy. Một

người bình thường không chịu nổi nỗi khổ ấy, liền nghĩ: ‘Sống nữa làm gì, kiếm cái

dây treo lên cho rồi, khỏi sống nữa! Một cái là xong hết!’ Tôi nói rằng con người

phải chịu khổ trong những cái khổ; tất nhiên không phải nhất định đều là dưới hình

thức ấy. Khi lục đục đấu đá giữa người với người, ma sát về tâm tính, trong khi

tranh đoạt về lợi ích cá nhân thì nó cũng không kém điều đó đâu. Có bao nhiêu

người chỉ vì một khẩu khí mà sống, chịu không nổi liền treo lên mà chết. Do đó

chúng ta phải ở trong hoàn cảnh phức tạp như vậy mà tu luyện, cần chịu khổ trong

những cái khổ; đồng thời còn phải có tâm Đại Nhẫn.

Thế nào là tâm Đại Nhẫn? Đã làm người luyện công thì trước hết phải làm

được ‘đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu’, phải Nhẫn. Nếu không, thì chư vị là

người luyện công [loại] gì vậy? Có người nói: ‘Nhẫn đến như thế khó làm lắm, tính

tôi vốn nóng nảy’. Nóng tính thì phải sửa; người luyện công nhất định phải Nhẫn.

Có người khi quản giáo con cái cũng nóng giận, nổi cơn tam bành; khi quản giáo

con cái thì chư vị đừng làm thế, chư vị không được thật sự nóng giận; chư vị cần

giáo dục con cái một cách có lý trí, như thế mới có thể thật sự giáo dục chúng được

tốt. Việc nhỏ không nhịn được, đã vội nóng, mà lại muốn tăng công là sao. Có

người nói: ‘Đi ngoài đường, bị người ta đá một cước, nhưng không ai biết mình là

ai, thì cũng có thể Nhẫn được’. Tôi nói rằng vậy không đủ; trong tương lai có khi

đang ở trước mặt người mà chư vị không muốn mất mặt nhất thì chư vị bị người ta

tát cho hai cái, không cất đầu lên nổi; chư vị đối đãi vấn đề ấy như thế nào, xem

chư vị có thể Nhẫn được hay không. Nếu chư vị có thể Nhẫn được vững, nhưng

trong tâm vẫn không dứt bỏ, thì như thế vẫn chưa được. Như mọi người đã biết,

[khi đã] đạt đến tầng La Hán, [thì] gặp sự việc gì cũng không để trong tâm, hết thảy

Người đại căn khí 179

những sự việc nơi người thường đều hoàn toàn không để tâm, đều là vui vẻ thoải

mái; chịu thiệt thòi lớn đến mấy, vẫn cứ vui vẻ thoải mái. [Nếu] thật sự có thể làm

được vậy, thì chư vị đã đạt đến quả vị sơ cấp của La Hán.

Có người nói: ‘Nhẫn kia phải đến mức độ ấy thì người thường sẽ nói chúng ta

quá nhu nhược, quá dễ bị bắt nạt’. Tôi nói rằng, đó không phải là nhu nhược. Mọi

người thử nghĩ xem, những người cao tuổi và người có văn hoá ở nơi người thường

cũng giảng về hàm dưỡng như thế, không so đo với người khác. Huống nữa là

người luyện công? Như vậy đâu phải là nhu nhược? Tôi nói đó là thể hiện của tâm

Đại Nhẫn, là thể hiện của ý chí kiên cường; chỉ người luyện công mới có thể có tâm

Đại Nhẫn như vậy. Có câu rằng: ‘Thất phu bị nhục, tuốt kiếm tương đấu’. [Đạo lý

ấy] là đương nhiên đối với người thường: ông [nhục] mạ tôi thì tôi [nhục] mạ ông,

ông đánh tôi thì tôi đánh ông. Như thế chính là người thường rồi, có thể nói họ là

người luyện công hay không? Là một người luyện công, nếu chư vị không có ý chí

kiên cường, nếu chư vị không khống chế được bản thân, thì chư vị không thể làm

được việc này.

Mọi người đều biết [Trung Quốc] cổ đại có Hàn Tín, kể rằng Hàn Tín rất có

bản lĩnh, là đại tướng quân của Lưu Bang, là bậc lương đống của quốc gia. Vì sao

có thể có năng lực lớn vậy? Kể rằng Hàn Tín từ tấm bé đã khác người bình thường.

Có điển cố về chuyện Hàn Tín chịu nhục chui háng. Thời thiếu niên Hàn Tín luyện

võ; người luyện võ đều khoác bảo kiếm. Một hôm đi ngoài đường, có một kẻ vô lại

tay chống nạnh chặn đường anh ta và nói: ‘Ngươi khoác kiếm làm gì? Ngươi dám

sát nhân không? Ngươi dám sát nhân thì hãy chặt đầu ta đi’. [Kẻ vô lại] vừa nói

vừa vươn cổ ra. Hàn Tín nghĩ: ‘Mình chặt đầu hắn làm gì?’ Vào thời ấy nếu chặt

đầu người ta sẽ bị báo quan đền mạng, hỏi có thể tuỳ tiện sát nhân không? Kẻ kia

thấy Hàn Tín không dám giết, bèn nói: ‘Ngươi không dám giết ta, vậy ngươi chui

háng ta’. Hàn Tín thật sự đã chui qua háng của kẻ kia. Điều đó đã chứng tỏ rằng

Hàn Tín có tâm Đại Nhẫn thật phi thường. Ông ta không giống như người bình

thường khác, vậy nên ông mới làm được những việc to lớn. ‘Con người tranh hơn

nhau khẩu khí’, ấy là câu nói của người thường. Nếu sống là vì chút khẩu khí, mọi

người thử nghĩ xem sống như thế có mệt mỏi không? Có khổ sở không? Có đáng

vậy không? Hàn Tín dù sao thì cũng chỉ là người thường, chúng ta là người tu

luyện, chúng ta còn phải hơn cả ông ta nữa. Mục tiêu của chúng ta là đạt đến tầng

siêu xuất khỏi người thường, hướng đến tầng cao hơn mà tiến đến. Việc như [Hàn

Tín] thì chúng ta không gặp, [nhưng] người tu luyện tại người thường khi chịu

khuất nhục, khi chịu tủi nhục, cũng không nhất định là thua kém. Ma sát tâm tính

giữa người với người, tôi nói rằng cũng không kém sự việc trên, có [việc] còn hơn

cả như thế, cũng rất khó khăn.

Đồng thời người tu luyện còn phải ‘xả’, xả bỏ các chủng chấp trước các chủng

dục vọng của người thường. Không thể làm xong ngay một lúc được, chúng ta có

thể từ từ mà làm. Hôm nay chư vị lập tức làm được thế, thì hôm nay chư vị chính là

Phật. Tu luyện cần từ từ mà làm, nhưng chư vị không được buông lơi. Chư vị nói:

‘Sư phụ giảng rồi, tu luyện cần từ từ mà làm, vậy nên từ từ mà làm’. Không thể như

thế được! Chư vị phải yêu cầu một cách nghiêm khắc, tu luyện Phật Pháp yêu cầu

chư vị dũng mãnh tinh tấn.

Còn phải thủ đức, phải giữ tâm tính, không thể làm bừa. Chư vị không được

tuỳ tiện muốn làm gì liền làm nấy, chư vị phải có thể giữ vững tâm tính của mình.

Mọi người thường nghe câu như thế này trong người thường: tích đức làm việc tốt.

[Nhưng] người luyện công không giảng tích đức, chúng ta giảng ‘thủ đức’. Tại sao

Người đại căn khí 180

giảng thủ đức? Bởi vì chúng tôi thấy được tình huống như thế này: tích đức là điều

giảng nơi người thường, họ cần tích đức, hành Thiện, đời sau [sống] tốt. Nhưng

chúng ta tại đây không có vấn đề này; nếu chư vị tu thành tức là đắc Đạo xong, thì

không còn đời sau nữa. Tại đây chúng ta giảng thủ đức; còn có một tầng ý nghĩa

nữa, tức là, hai chủng vật chất mà chúng ta đem theo bên thân thể kia không phải là

do một đời tích luỹ mà thành, chúng đã từ niên đại xa xưa di lưu lại. Chư vị đi xe

khắp thành phố, cũng không nhất định gặp được việc tốt mà làm. Hàng ngày chư vị

làm thế, cũng không nhất định gặp.

Còn có một tầng ý nghĩa nữa, [nếu] để chư vị tích đức, chư vị coi thấy việc kia

là việc tốt, nhưng [hễ] chư vị thực hiện, có khi lại hoá ra là việc xấu; khi mà chư vị

coi việc này là xấu mà chư vị lại quản [nó], có khi lại hoá ra là việc tốt. Tại sao?

Bởi vì chư vị không nhìn thấy được quan hệ nhân duyên ở trong đó. Pháp luật quản

những việc nơi người thường, như thế không thành vấn đề. Làm người luyện công

đã là siêu thường rồi, chư vị đã là người siêu thường rồi, nên phải dùng [Pháp] lý

siêu thường để yêu cầu chư vị, chứ không thể dùng [đạo] lý nơi người thường để

nhận định. Chư vị không biết được quan hệ nhân duyên của một sự việc, nên chư vị

dễ sai sót nếu thực hiện việc đó. Do đó chúng tôi giảng ‘vô vi’, chư vị không thể

muốn làm gì liền làm nấy. Có người nói: ‘Tôi [chỉ] muốn xử lý những kẻ xấu’. Tôi

nói rằng người này mà làm cảnh sát là được đấy. Tuy nhiên chúng ta cũng không

thể không làm gì khi gặp chuyện sát nhân phóng hoả. Tôi giảng cho mọi người:

giữa người với người mà phát sinh mâu thuẫn, vị kia đá người ta một cước, vị này

đấm người ta một quyền, thì có thể là trước đây người kia nợ vị ấy, nay hai người

tính sổ [với nhau]. Nếu chư vị xử lý vào, thì giữa họ không kết được, phải đợi đến

sau này làm lại. Tức là chư vị không thấy được quan hệ nhân duyên, dễ làm điều

xấu, từ đó tổn đức.

Người thường quản sự việc của người thường thì không hề gì, họ dùng [đạo] lý

của người thường mà nhận định. Chư vị phải dùng [Pháp] lý siêu thường mà nhận

định; [nhưng nếu] chư vị thấy [việc] sát nhân phóng hoả mà không quản thì đó lại

là vấn đề tâm tính; nếu không thì thể hiện là người tốt sao được? Sát nhân phóng

hoả mà chư vị cũng chẳng quản, thì hỏi chư vị quản việc gì nữa đây? Tuy nhiên có

một điểm: những việc ấy không có chút quan hệ nào đến người tu luyện chúng ta.

Không nhất định là đã an bài cho chư vị như thế, không nhất định để chư vị gặp.

Chúng ta giảng thủ đức là để chư vị tránh phạm điều xấu; có khi chư vị vừa mới

làm chút gì đó, như thế đã là làm điều xấu rồi, như thế chư vị phải thất đức. Hễ chư

vị thất đức, thì hỏi chư vị đề cao lên trên thế nào đây? Làm thế nào đạt đến mục

tiêu cuối cùng của chư vị? Tại đây có vấn đề như thế. Ngoài việc đó ra, còn phải có

ngộ tính tốt, căn cơ tốt có thể có ngộ tính tốt, ảnh hưởng của hoàn cảnh cũng có tác

dụng.

Chúng tôi cũng giảng, nếu ai ai trong chúng ta cũng đều hướng nội mà tu, ai ai

cũng tìm trong tâm tính của bản thân mình cho ra nguyên nhân ở tự mình đã không

làm tốt, để lần sau làm cho tốt, khi thực thi đều nghĩ đến người khác. Như thế xã

hội nhân loại sẽ biến đổi thành tốt, đạo đức cũng thăng hoa trở lại, văn hoá tinh

thần cũng tốt lên, tình trạng trị an cũng tốt, có khi cũng chẳng còn cảnh sát nữa.

Không cần ai quản, [mà] ai ai cũng đều tự quản, hướng tâm của bản thân mà tìm;

chư vị thấy thế có tốt không. Như mọi người đã biết pháp luật ngày nay đang dần

dần kiện toàn, dần dần hoàn thiện, nhưng có người vì sao vẫn làm điều xấu? Có

pháp [luật] mà không [tuân] theo là sao? Chính là vì chư vị không quản được tâm

của họ; lúc không nhìn thấy, họ vẫn làm điều xấu. Nếu như ai ai cũng đều hướng

Người đại căn khí 181

vào nội tâm mà tu, thì hiển nhiên sẽ khác hẳn. Cũng không cần chư vị chống đối lại

những điều bất bình nữa.

Pháp chỉ có thể giảng đến tầng này thôi, cao hơn nữa thì cần dựa vào bản thân

chư vị tu rồi mới đắc. Có người hỏi các vấn đề càng ngày càng cụ thể; [nếu] các

vấn đề sinh hoạt [cụ thể] ra làm sao cũng để tôi giải đáp, thì bản thân chư vị tu

luyện gì nữa! Chư vị phải tự mình mà tu, tự mình mà ngộ; nếu tôi giảng hết cả ra

rồi, thì chư vị tu gì nữa. Điều tốt là Đại Pháp đã truyền xuất ra rồi, chư vị có thể

chiểu theo Đại Pháp mà làm.

* * * * * * * * *

Tôi nghĩ rằng thời tôi truyền Pháp nói chung sắp kết thúc, do đó [tôi] muốn lưu lại

cho mọi người những điều chân chính, thuận tiện cho mọi người trong khi tu luyện

từ nay trở về sau, đều có Pháp chỉ đạo mọi người. Trong toàn bộ quá trình truyền

Pháp, tôi cũng chịu trách nhiệm đối với mọi người, đồng thời cũng chịu trách

nhiệm đối với xã hội; trên thực tế tôi cũng thực thi dựa trên nguyên tắc đó; còn như

việc thực thi ấy hay dở thế nào thì tôi không giảng nói, đã tự có công luận. Nguyện

vọng của tôi là đưa Đại Pháp này truyền xuất ra, để cho chúng ta có nhiều người

hơn nữa thu được lợi ích, làm cho những người thật sự muốn tu luyện sẽ theo Pháp

mà tu luyện lên trên. Đồng thời trong quá trình truyền Pháp, chúng tôi cũng giảng

đạo lý làm người; cũng mong rằng chư vị từ sau khi học lớp này trở đi, nếu như

không phải là người có thể chiểu theo Đại Pháp mà tu luyện, thì ít nhất cũng có thể

làm người tốt; như vậy cũng có lợi ích đối với xã hội chúng ta. Thực ra chư vị đã

làm người tốt rồi, từ nay trở đi, chư vị cũng có thể làm người tốt.

Trong quá trình truyền Pháp cũng có những chỗ không thuận lợi, can nhiễu đủ

mọi phương diện cũng rất lớn. Nhờ đơn vị chủ quản và giới lãnh đạo các cấp đã

góp sức hỗ trợ cũng như nỗ lực của các nhân viên công tác, lớp học của chúng ta đã

viên mãn rất tốt đẹp.

Tại lớp, những điều tôi giảng đều là những điều chỉ đạo mọi người tu luyện lên

trên cao tầng; trong giảng Pháp tại quá khứ đều không có ai giảng những điều ấy.

Những điều tôi giảng đã minh [bạch] phi thường, kết hợp với khoa học hiện đại và

nhân thể học hiện đại mà giảng, hơn nữa điều giảng có tầng rất cao. Chủ yếu là vì

mọi người, để cho mọi người sau này có thể đắc Pháp một cách chân chính, tu

luyện lên trên; ấy là xuất phát điểm của tôi. Trong quá trình tôi truyền Pháp truyền

công có rất nhiều người cho rằng Pháp này tốt lắm nhưng thực hiện lại khó quá.

Thực ra tôi thấy rằng khó hay không khó; đối với một người nào đó mà xét, một cá

nhân hết sức phổ thông, vốn không muốn tu luyện, thì vị ấy sẽ thấy tu luyện quả

thực là khó quá, không thể nghĩ bàn, không [thể] tu thành. Họ là người thường, họ

không muốn tu luyện, thì họ sẽ thấy rất khó. Lão tử giảng: “Thượng sỹ văn Đạo,

cần nhi hành chi; trung sỹ văn Đạo, nhược tồn nhược vong; hạ sỹ văn Đạo, đại tiếu

chi; bất tiếu bất túc dĩ vi Đạo.” [Đối với] người tu luyện chân chính, tôi nói rằng

[nó] rất dễ, [nó] không phải là cái gì đó cao quá không với tới được. Thực ra có rất

nhiều học viên lâu năm ngồi tại đây và học viên lâu năm không có mặt ở đây đã tu

luyện lên đến tầng rất cao rồi. Tôi không giảng cho chư vị điều ấy vì e rằng chư vị

sẽ sản sinh tâm chấp trước, [sản sinh] nhân tố thấy khoan khoái tự mãn cá nhân v.v,

sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng công lực của chư vị. Làm người tu luyện chân

chính có quyết tâm, họ có thể Nhẫn được vững chắc; với các chủng lợi ích trước

mắt họ có thể vứt bỏ các tâm chấp trước, có thể coi chúng rất nhẹ, chỉ [những ai] có

Người đại căn khí 182

thể làm được như thế thì mới thấy không khó. Người nào mà nói là khó, thì chính là

vì họ không vứt bỏ được những thứ ấy. Bản thân công pháp tu luyện không hề khó,

bản thân việc đề cao tầng cũng không khó gì hết, mà chính là tâm con người không

vứt xuống được, nên họ mới nói là khó. Bởi vì đang trong lợi ích hiện thực thì rất

khó vứt bỏ nó được, lợi ích kia đang ở đó, chư vị nói xem cái tâm ấy vứt bỏ như thế

nào đây? Họ thấy rằng khó, trên thực tế chính là khó ở chỗ này. Khi phát sinh mâu

thuẫn giữa người với người, chúng ta không Nhẫn được cái khẩu khí kia, thậm chí

còn không thể đối đãi với bản thân mình như là người tu luyện; [thế thì] tôi nói

rằng không được. Thời tôi tu luyện trong quá khứ, có rất nhiều cao nhân đã giảng

cho tôi câu này, họ nói: “Nan Nhẫn năng Nhẫn, nan hành năng hành”. Thực ra

đúng là như vậy. Nếu không ngại gì thì khi về nhà chư vị hãy thử đi. Khi gặp khó

khăn kiếp nạn, hoặc khi vượt quan, chư vị hãy thử xem: khó Nhẫn, chư vị hãy cứ

Nhẫn xem sao; thấy thật khó làm, nói là khó làm, chư vị cứ làm xem cuối cùng có

làm được chăng. Nếu chư vị có thể thật sự thực hiện được như vậy, thì chư vị sẽ

phát hiện rằng ‘liễu ám hoa minh hựu nhất thôn’!

Bởi vì tôi giảng đã nhiều rồi, giảng nhiều quá chư vị khó nhớ hết được. Điểm

yêu cầu chủ yếu mà tôi đề xuất là: mong rằng mọi người từ nay trở đi trong quá

trình tu luyện, hãy thật sự coi mình là người luyện công, tiếp tục tu luyện một cách

chân chính. Tôi mong rằng các học viên mới và cũ đều có thể tu luyện trong Đại

Pháp, đều có thể công thành viên mãn! Mong rằng mọi người về nhà hãy tranh thủ

thời gian để thực tu.

* * * * * * * * *

………

Cuốn «Chuyển Pháp Luân» không đẹp đẽ về văn chương bề mặt, thậm chí

không phù hợp với ngữ pháp hiện đại. Tuy nhiên, nếu tôi dùng ngữ pháp hiện đại

để chỉnh lý cuốn [sách] Đại Pháp này, thì sẽ xuất hiện một vấn đề nghiêm trọng:

quy phạm kết cấu của ngôn ngữ văn chương [dẫu] chau chuốt, nhưng sẽ không có

nội hàm cao hơn và sâu hơn. Bởi vì việc sử dụng từ vựng quy phạm hiện đại hoàn

toàn không cách nào biểu đạt được chỉ đạo của Đại Pháp tại các tầng khác nhau ở

cao hơn và biểu hiện của Pháp tại mỗi từng tầng, cũng như [không thể] dẫn đến

diễn hoá [về] bản thể và công của học viên cùng các loại biến hoá về thực chất

trong đề cao [tầng].

………

Lý Hồng Chí

5 tháng Giêng, 1996

Người đại căn khí 183

Phụ lục — Tra cứu từ ngữ

Tất cả các chú thích trong sách này đều viết theo hiểu biết và tìm tòi chủ quan của người dịch

không phải chính văn, đương nhiên không phải là Pháp, chỉ có tác dụng tham khảo. Người dịch

thực hiện công việc dịch thuật này với tiêu chuẩn “bảo lưu” văn gốc của Sư phụ ở mức tối đa có

thể được. Tiêu chuẩn “văn dịch lưu loát” được xem là thứ yếu. Do vậy văn dịch đọc lên nghe

giống “Hán Việt” hơn là “thuần Việt”.

Liệt kê trong phụ lục này chủ yếu là các từ ngữ mà người dịch đã bảo lưu Hán văn, tức là

không dịch sang từ ngữ thuần Việt mà vẫn dùng trực tiếp từ ngữ Hán Việt. Có hai loại chính.

Thứ nhất, các thuật ngữ hay các từ ngữ hay dùng để diễn đạt các khái niệm trong giới tu

luyện nói chung và trong bổn môn Pháp Luân Đại Pháp nói riêng. Ví dụ:  nguyên anh, huyền quan,

công thân, thủ ấn, chu thiên. Người dịch nghĩ rằng các từ này không nên dịch mà nên dùng trực

tiếp từ ngữ Hán Việt thì tốt hơn. Tại đây người dịch chỉ cố gắng diễn giải các từ theo chữ nghĩa bề

mặt mà không can thiệp vào hàm nghĩa thâm sâu. Xin đọc giả vui lòng thông qua học Pháp tu

luyện, giao lưu tâm đắc thể hội mà ngộ.

Thứ hai, các từ hoặc các cụm từ khó dịch cho hết nhẽ, thường là các từ liên quan chặt chẽ

đến văn hoá Trung Quốc hoặc gắn chặt vào cấu trúc ngôn ngữ tiếng Hán, do vậy trong từ vựng

thuần Việt không có từ ngữ tương đương, hoặc nếu dịch ra thì khó truyền đạt được sức mạnh ngôn

ngữ. Ví dụ: vật cực tất phản, đả bất hoàn thủ mạ bất hoàn khẩu, nan nhẫn năng nhẫn nan hành

năng hành, tu tại tự kỷ công tại sư phụ. Tại đây người dịch chỉ diễn giải ngắn gọn đủ để hiểu đại

khái. Mục đích là để đọc giả người Việt vượt qua được khoảng cách do văn hoá và ngôn ngữ khác

biệt gây nên.

Đối với các tên riêng vốn có nguồn gốc là tiếng nước ngoài, không phải tiếng Hán, người

dịch tuân theo cách dịch đã phổ cập. Có chỗ dùng từ tiếng Hán, ví dụ:  Pháp, Anh, Mỹ. Có chỗ

dùng tiếng Anh hoặc từ gốc, ví dụ: Darwin, Afghanistan, Galileo, neutron, neutrino. Tuy nhiên

riêng với các từ ngữ có gốc tiếng Phạn (Sanskrit) thì người dịch giữ nguyên từ ngữ của tiếng Hán.

Lý do là tuy các từ ấy gốc Phạn, nhưng đã được người Hán dùng lâu rồi, một số từ cũng có sắc thái

nghĩa mới khác với gốc Phạn, hơn nữa người Việt đã quen với các từ tiếng Hán này; ví dụ:  Thích

Ca Mâu Ni, A Di Đà, niết bàn.

Trong khi dịch không tránh khỏi phải chèn những từ của tiếng Việt vào cho đủ câu đủ ý và

có thể đọc tụng thành tiếng, ví dụ: rằng thì là mà nó tôi… Các chữ chèn ấy được đặt trong ngoặc

vuông []. Cũng có phần chèn trong dấu ngặc nhọn {} ấy là do người dịch tự thêm vào như các chú

thích. Mục đích của việc dùng các dấu ngoặc vuông [] và ngoặc nhọn {} là để người đọc hiểu rằng

đó là do người dịch thêm vào theo chỗ hiểu của bản thân, không chắc hẳn đó là ý của Sư phụ.

Cũng vậy, các dấu nháy do người dịch chèn vào là các dấu nháy đơn ‘’ để khỏi lẫn với các dấu

nháy kép “” ở nguyên tác. Sư phụ thường đặt câu dài, tại đây người dịch cũng bảo lưu câu dài,

nhưng dùng thêm dấu chấm phẩy (;) để tách thành các câu con cho phù hợp với cú pháp tiếng Việt.

Đây là kinh văn Phật gia, tất nhiên hàm nghĩa uyên thâm huyền diệu, người dịch lượng sức

hạn hẹp, chắc chắn còn nhiều sai sót; kính mong các bằng hữu đồng tu góp sức chỉnh lý.

A-Q: tên nhân vật ‘ngu ngốc’ trong tiểu thuyết  A-Q

chính truyệncủa Trung Quốc.

ái nhân: vợ|chồng, người yêu; trong sách này thường

để chỉ vợ|chồng.

an đỉnh thiết lư, thái dược luyện đan: đặt đỉnh lập

lò (lư, lô), gom thuốc luyện đan.

án ma: xoa bóp.

anh hài: anh→ đứa bé sơ sinh; hài→ đứa trẻ nít.

anh hùng: người giỏi giang xuất chúng mẫu mực.

bách bộ xuyên dương: cách trăm bộ xuyên qua [lá]

cây dương [liễu].

bách hội: huyệt trên đỉnh đầu, căn từ hai lỗ tai thẳng

lên. Khi ngồi đả toạ, đây là điểm cao nhất.

bách mạch: trăm mạch; nói khái  quát tất cả  các

mạch trong thân thể, con số thực tế vượt trên 100 rất

nhiều.

bạch nhật phi thăng:  bạch → trắng,  nhật → Mặt

Trời, phi thăng→ bay lên.

ban vận: [công năng] vận chuyển, vận chuyển vật

thể; ban→ dời, dọn đi; vận→ vận chuyển.

bán khai công: khai công một nửa, một phần.

bán khai ngộ: khai ngộ một nửa, một phần.

bản lai: nguyên lai ban đầu là như thế.

bản nguyên: bản lai nguyên gốc ban đầu.

bản sự: khả năng, năng lực.

Phụ lục i

bản thể: thân thể nguyên bản ban đầu; thân thể đầy

đủ, gồm cả ở không gian này và các không gian

khác.

bát  tiên:  tám  vị  tiên,  tám  ông  Đạo  trong  truyền

thuyết lịch sử Trung Hoa.

bất khả tư nghị: không thể nghĩ bàn; (điều) khó tin,

(điều) phi thường không thể nghĩ bàn.

bất nhị pháp môn: không [tu] hai pháp môn, chỉ

chuyên nhất vào một pháp môn thôi.

bất thất bất đắc: không mất [thì] không được.

bất thất giả bất đắc: ai không mất thì không được,

hễ không mất thì không được.

bất thất giả bất đắc, đắc tựu đắc thất: kẻ không

mất thì không được, được ắt phải mất.

bất thuần: không thuần khiết, không thuần tịnh.

bế quan: đóng cửa; người luyện công một số công

phái khác có hình thức bế quan luyện công trong một

thời gian dài, khi ấy họ không tiếp xúc với bất kể ai

trừ một hai người thân cận.

bệnh độc: (i) cái độc của bệnh; (ii) virus.

bích hoạ: tranh trên vách.

cách tường khán vật: [công năng] nhìn được vật thể

cách qua bức tường.

càn khôn: càn khôn vũ trụ.

cao hứng: hài lòng, vừa ý.

cát tường như ý: điềm lành như ý.

căn cơ: cái gốc cái cơ sở, cơ sở điều kiện ban đầu

của người tu luyện (hiểu theo chữ nghĩa).

câu  thông:  liên  lạc,  liên  thông,  làm  cho  hai  bên

thông nhau.

chân: theo ngu ý của người dịch có một nghĩa chung

như trong các từ chân thể(thân thể thật), chân Phật

(ông Phật thật),  chân Đạo (Đạo thật),  chân tu (tu

thật), chân niệm(niệm thật của mình).

chân thể: thân thể chân thật.

Chân Thiện Nhẫn: chân→ chân thực, chân thành,

chân chính, chân lý; thiện→ lương thiện, hiền lành,

từ bi;  nhẫn → nhẫn nại, nhẫn nhịn (diễn đại khái

theo chữ nghĩa).

chân tướng: thực chất, sự thật, cái phản ánh đúng

thực chất sự thật; trái nghĩa với giả tướng.

chỉ lệnh: lệnh chỉ huy, chỉ thị.

chính niệm: niệm chân chính.

chu sa chưởng: bàn tay [son] chu sa.

chu thiên: thiên→ trời; chuhoặc châu→ chỉ cái gì

khép kín hoặc ở khắp cả; ví dụ chu trình(trình khép

kín), châu thân(khắp người).

chủ nguyên thần: nguyên thần chủ.

chủ thông đạo: đường thông chính.

chủ ý thức: ý thức chủ.

chủng tử: hạt giống; cũng có nghĩa bóng, chỉ những

cái gì gieo mầm rồi sau này phát triển lên.

chuyên nhất: chỉ chuyên về một thứ; tu luyện chỉ

một công phái, không tạp lẫn mà loạn tu.

chuyên  tu: người tu luyện chuyên  nghiệp, tức là

những người theo hình thức tu luyện chuyên nghiệp:

họ lập tức cắt đứt mọi quan hệ xã hội để chuyên tâm

vào tu luyện. Ví dụ: hoà thượng.

chuyển sinh: chuyển sinh vào nơi nào đó, tái sinh,

giáng sinh, đầu thai.

cô hồn dã quỷ: hồn cô độc quỷ hoang dã không nhà.

cố sự: chuyện cổ.

công: (i) năng lượng luyện được; (ii) phương pháp

để luyện năng lượng ấy.

công lý, công pháp: theo tập quán truyền dạy khí

công, có phần lý thuyết, gọi là  công lý, và có phần

thực hành, gọi là công pháp.

công thân: thân làm bằng công.

da và lông: (bì mao) chỉ là cái vỏ ngoài hời hợt chứ

không phải là cái ruột tinh thâm cốt tuỷ.

danh lợi tình: chấp trước vào danh lợi và tình; nói

khái quát các chấp trước và dục vọng người thường.

danh sơn đại xuyên: núi danh tiếng và sông rộng

lớn.

dao khống: [công năng] khống chế từ xa, điều khiển

từ xa; daohoặc diêu→ từ xa, khống→ khống chế.

dao thị: [công năng] nhìn xa; daohoặc diêu→ từ xa.

dặm:  một  đơn  vị  đo  chiều  dài  thời  xưa,  khoảng

500m. Nói ‘mười vạn tám nghìn dặm’ là chỉ một

quãng đường rất dài.

diễn hoá: chuyển hoá liên tục, diễn biến, tiến hoá.

du Thần tản Tiên: [loại] Thần Tiên du ngoạn, tản đi

các nơi không cố định.

dục vọng: các ham muốn nói chung, ví dụ: ăn thịt,

uống rượu, hút thuốc, v.v.

dùi sừng bò: một lối nói của người Hoa, ngụ ý rằng

chui vào ngõ cụt.  Toàn ngưu giác tiêm → dùi mũi

sừng bò|trâu.

dung hiệp( 溶洽): dung→ hoà tan (bộ thuỷ); hiệp

→ thuận hoà, hợp nhau; dung hiệpngụ ý là đã hoà

tan hoà hợp hẳn như tan trong nước. Lưu ý: chữ

dung có mấy chữ khác nhau với nghĩa cũng khác

nhau.

dung hợp( 熔合): dung→ nóng chảy (bộ hoả); hợp

→ tập hợp lại, tổng lại; dung hợplà ngụ ý nóng tan

thành một, hợp nhất lại.

duy hộ: duy trì bảo hộ.

duy tâm, mê tín: những người theo chủ thuyết duy

vật tin rằng không có Thần Phật, và họ gọi những gì

mà người có đức tin vào Thần Phật tin vào hoặc nhận

thức được là duy tâmvà mê tín. Duy tâmtheo chữ mà

luận nghĩa là ám chỉ rằng đó là những thứ chỉ có

Phụ lục ii

trong tư duy thôi, chứ không thật. Mê tínđược những

người duy vật dùng như một cái nhãn để công kích

và bài xích những người có đức tin vào Thần Phật.

duyên: liên hệ có ý nghĩa theo nghĩa rộng, không

phải theo nghĩa hẹp chỉ là duyên vợ chồng; ví như

duyên giữa thầy và trò, duyên giữa cha mẹ và con

cái, duyên giữa bạn bè thân quyến, duyên tu Đạo,

v.v.

dữ nhân vi Thiện: lấy Thiện đãi người.

dược phương: phương thuốc, bài thuốc.

đả bất hoàn thủ, mạ bất hoàn khẩu: bị đánh không

đấm trả, bị nhục mạ không nói lại.

đả toạ: ngồi, ngồi luyện công và|hoặc nhập định.

Đại Cách mạng Văn hoá: một giai đoạn trong lịch

sử Trung Quốc, từ 1966 đến 1976.

đại biểu: đại diện cho, biểu hiện cho, thể hiện cho.

đại đồng tiểu dị: phần lớn là giống, chỉ khác phần

nhỏ; nói chung là như nhau, chỉ khác tiểu tiết.

đại đức: nhiều chất đức, đức lớn; người có nhiều đức

được gọi là ‘bậc đại đức’.

đanhoặc đơn: cục|khối vật chất cao năng lượng tích

tụ từ không gian khác.

đan điền hoặc  đơn điền: ‘ruộng đan’ nằm ở chỗ

bụng dưới; điền→ ruộng.

đản trunghoặc đởn trunghoặc chiên trung: huyệt

vị nằm tại vị trí giữa ngực, lấy điểm giữa đoạn nối

hai đầu vú. Đối với nữ, cần căn ngang điểm xương

sườn thứ tư gắn vào xương ức.

Đạo gia: nhà Đạo, khái quát các công pháp tu Đạo.

Đạo giáo: tôn giáo mà người ta coi như bắt nguồn từ

Lão Tử.

Đạo, khả Đạo, phi thường Đạo: Gọi là Đạo cũng

được, nhưng là Đạo phi thường; con đường ấy có thể

đi nhưng là con đường phi thường; (câu của Lão Tử).

đắc tựu đắc thất: được thì phải mất.

đề cao: nâng cao lên trên.

địa thượng Phật: Phật trên mặt đất.

địa thượng Đạo: Đạo trên mặt đất.

điểm hoá: gợi ý cho người ta bằng các cách khác

nhau, như báo mộng, thông qua người khác nói, làm

xảy ra một sự việc như làm trượt ngã, v.v.

điều tức: điều-hoà|điều-khiển hơi thở.

định công: [công năng] bắt định, không cử động.

độ kỷ độ  nhân:  tự  cứu độ  mình  và  cứu  độ  con

người.

độ nhân: cứu độ con người.

đốn ngộ: ngộ tức thời, trái với tiệm ngộlà ngộ dần

dần (hiểu trên chữ nghĩa).

đông thổ: vùng đất phía Đông; người Ấn Độ gọi

vùng đất Trung Quốc là vùng đông thổ.

đồng:  đồng  nhân  dân  tệ  Trung  Quốc  {yuan—

nguyên}. Vào năm 2001, 1 nhân dân tệ đổi được

1800 đồng Việt Nam, hoặc 0,12 US dollar. Lương

tháng một người lao động trung bình ở thành thị

Trung Quốc là 400–600 nhân dân tệ.

động công: luyện công trạng thái động, có động tác.

đơn truyền: [công pháp] chỉ truyền dạy cho một

người.

đường đường chính chính: (một cách) đàng hoàng,

phóng khoáng.

giả tướng: hình tướng giả, không thực chất; trái với

chân tướng hoặc  chân tượng là cái thực chất, hiện

tượng thật, cái phản ánh đúng sự thật.

giai tầng: giai cấp, đẳng cấp.

giới huân: giới cấm đồ ăn mặn.

hạ ý thức: vô thức.

hảo hoại xuất tự nhất niệm: tốt xấu xuất tự một

niệm.

hậu thiên: những gì sau mới có là  hậu thiên; trái

nghĩa với tiên thiênlà thứ vốn có ban đầu.

hình thần toàn diệt: hình thể và nguyên thần đều bị

diệt

hoá công: [công năng] hoá thành nước.

hoãn mạn viên:  hoãn → từ tốn, mạn → chậm rãi,

viên→ tròn trịa.

hồ hoàng bạch liễu:  cáo chồn quỷ rắn.  Hồ hoàng

bạch liễulà bốn chữ đầu của bốn từ có nghĩa là cáo

chồn quỷ rắn (hồ ly, hoàng thử lang, bạch quỷ, liễu

xà), nên tạm dịch trên nghĩa bề mặt là như vậy. Bản

thân từ hồ hoàng bạch liễucó nghĩa khái quát hơn.

hội âm: huyệt vị nằm ở điểm giữa đoạn nối từ gốc bộ

phận  sinh  dục  đến  hậu  môn,  tức  là  ứng  với  đáy

xương chậu. Khi ngồi đả toạ đây là điểm thấp nhất

của vòng nhâm đốc.

hồng trần: cõi người, trần thế nhơ nhuốc, ấy là so

với thiên quốc thanh tịnh; trần→ bụi.

hợp cốc: huyệt vị trên mu bàn tay, gần chỗ gốc ngón

cái và ngón trỏ.

huân: đồ ăn mặn.

huyền quan: cửa bí mật.

huyền quan hoán vị:  huyền quan → cửa bí mật,

hoán vị→ trao đổi vị trí.

huyền quan nhất khiếu: huyền quan→ cửa bí mật,

nhất khiếu→ một khiếu, một huyệt.

huyền quan quy vị: huyền quan→ cửa bí mật, quy

vị→ quy về vị trí ban đầu.

huyền quan thiết vị:  huyền quan → cửa bí mật,

thiết vị→ đặt vị trí.

huyễn tượng: hình tượng, hình ảnh hư huyễn, không

thật.

huyết quản: mạch máu.

Phụ lục iii

hữu sở cầu hoặc  hữu cầu: có chỗ truy cầu, mong

cầu.

hữu tâm luyện công, vô tâm đắc công: người luyện

công chỉ chú tâm vào luyện công mà chẳng để tâm

vào đắc công.

hữu vi: trái với vô vi.

khai công: khai [mở] công, công năng.

khai ngộ: khai [mở] ngộ, trí huệ hiểu biết.

khai quang: khai [mở] ánh sáng, thỉnh mời Pháp

thân.

khai thiên mục: khai [mở] thiên mục.

khai thiên tịch địa: khai trời mở đất.

khí bào: bọt bóng khí.

khí công thái: [trạng] thái khí công.

khí cơ: cơ chế khí.

khinh công: công phu làm người ta nhẹ;  khinh →

nhẹ.

khổ kỳ tâm chí: khổ cái tâm chí, những cái khổ

thuộc về tinh thần.

không môn: cửa  ‘không’; cách nói bên Phật gia,

cũng như Đạo gia nói vô môn, tức là cửa ‘vô’.

kiếp: (i) kalpa (tiếng Phạn), chỉ thời gian rất lâu, cho

một chu kỳ diễn hoá của vũ trụ; (ii) kiếp nạn, nạn

lớn.

kim chung trạo: bọc chuông vàng.

kim cương: kim→ vàng, kim loại; cươnghoặc cang

→ cứng rắn; kim cươnghoặc kim cangcó thể để nói

về hộ pháptrong nhà Phật hoặc có nghĩa nào đó mà

không nhất thiết là chất kim cương (diamond).

kim cương thối: chân kim cương.

kỳ đại vô ngoại,  kỳ  tiểu vô nội: thật lớn  không

ngoài, thật nhỏ không trong. Đây là trích dẫn câu của

Phật Thích Ca Mâu Ni.

Kỳ Môn công pháp: công pháp Kỳ Môn;  kỳ môn→

cửa kỳ lạ, cửa đặc biệt.

La Hán cước: bàn chân La Hán.

lao cung: một huyệt vị ở giữa lòng bàn tay.

lao kỳ cân cốt: nhọc cái gân cốt, những cái khổ

thuộc về thể xác.

lạp tử: hạt; chỉ các hạt cấu thành nên vật chất ở các

mức khác nhau.

liễu ám hoa minh hựu nhất thôn : qua rặng liễu tối

vườn hoa sáng là lại đến một thôn trang.

liễu giải: hiểu, hiểu cặn kẽ, lý giải được thấu đáo.

linh cảm: cảm hứng, ý nghĩ hay chợt đến, linh cảm.

Lôi Phong: tên một cá nhân gương mẫu ở Trung

Quốc hồi thập kỷ 1960.

luận thuật: nghĩa giải, diễn giải.

lương đống: trụ cột, rường cột (của nước nhà).

ma huyễn: những thứ huyễn hoặc do ma, ma tính

gây ra (diễn trên chữ nghĩa); huyễn→ huyễn hoặc,

ảo giác.

ma luyện( 魔炼): rèn luyện, tu luyện trong ma nạn

(diễn trên chữ nghĩa); ma→ matrong từ ma tính, ma

quỷ.

ma nạn ( 魔 难 ): khó nạn do ma gây ra, khó nạn

mang tính ma tính (diễn trên chữ nghĩa).

ma sắc: sắc ma, ma sắc dục.

mạt chược: tên một trò chơi cổ truyền Trung Quốc,

4 người chơi.

mạt kiếp: giới tu luyện tin rằng vũ trụ diễn hoá theo

các thời kỳ, các giai đoạn; mạt kiếplà giai đoạn cuối.

mật tu: tu bí mật (diễn trên chữ nghĩa).

mệnh môn: huyệt vị nằm ở giữa đoạn các đốt xương

thắt lưng, giữa đốt xương thắt lưng số 2 và số 3.

minh bạch: hiểu biết rõ, tỉnh táo mạch lạc.

mô đỉnh: sờ, chạm vào đỉnh đầu.

mô phạm: mẫu mực làm gương cho mọi người.

mỹ diệu: mỹ→ đẹp; diệu→ kỳ diệu.

nãi bạch thể: thân sữa trắng.

nam nữ song tu: nam và nữ hai người cùng tu luyện

(diễn trên chữ nghĩa).

nan nhẫn năng nhẫn, nan hành năng hành: nhẫn

cả những điều khó mà nhẫn cho được, làm những

điều  khó  mà  làm  cho  được;  nhẫn  được  điều  phi

thường, làm được việc phi thường.

năng lượng tản xạ: năng lượng toả ra các phía, toả

ra xung quanh.

nê hoàn, nê hoàn cung: thuật ngữ bên Đạo gia chỉ

một nơi ở trong thân thể; trùng với vị trí thể tùng

quả.

ngạ quỷ: quỷ đói; ngạ→ đói.

ngạnh khí công: môn khí công võ thuật luyện các

công phu về cương ngạnh, công phá.

nghi tâm: tâm nghi ngờ; tên một tâm chấp trước.

nghiệp lực luân báo: nghiệp lực xoay báo lại.

ngọc chẩm: một huyệt vị ở phần sau sọ não ; chẩmlà

cái điểm gối đầu khi nằm.

ngũ quang thập sắc: năm ánh sáng mười màu sắc.

ngũ thông: năm thông.

nguyên anh: nguyên→ chỉ cái gì đầu tiên, thứ nhất;

anh→ đứa bé sơ sinh.

nguyên thần ly thể: nguyên thần thoát ly khỏi thân

thể, rời khỏi thân thể.

người đại căn khí:  căn → gốc,  khí → khí cụ, đồ

đựng; theo ngu ý của người dịch, chữ  cănở đây là

nói tắt của từ căn cơ.

ngưu  thiệt  lan  hoa:  tên  một  loại  [phong]  lan

(orchid).

nhân tại mê trung: con người sống ở trong mê.

Phụ lục iv

nhân thân nan đắc: thân người khó được.

nhâm đốc: tên hai mạch chạy dưới da, một mạch

phía trước dọc giữa thân, một mạch phía sau dọc

giữa thân.

nhất chính áp bách tà: một [điều] chính trấn áp cả

trăm [điều] tà, một [niệm] chính trấn áp cả trăm [thế

lực] tà ác.

nhất mạch đới bách mạch: một mạch kéo theo cả

trăm mạch.

nhất phàm phong thuận: thuận buồn xuôi gió, cách

nói của người Hoa, nghĩa là trôi chảy không sự cố gì.

nhiếp hồn: [công năng] bắt nguyên thần.

Nho giáo: giáo lý nhà Nho, Khổng giáo.

nhục thân: thân [thể] xác thịt.

nhục thể: [thân] thể xác thịt.

nội hàm: nội dung, hàm nghĩa, cái chứa đựng ở bên

trong; trái với biểu diệnlà cái vỏ, bề mặt ngoài.

nội ngoại kiêm tu: kiêm tu cả nội và ngoại, kiêm cả

hai thứ, cả ngoại công và nội công.

oai môn tà đạo: cửa lệch đường tà.

ô  yên  chướng  khí:  khói  đen  khí  nặng,  lam  yên

chướng khí.

phản  bổn quy chân:  quay về cội nguồn, quy về

‘chân’ (diễn trên chữ nghĩa); phản→ quay trở lại.

phản tu: tu ngược; phản→ phản lại, ngược lại.

Phật gia: nhà Phật, khái quát các công pháp tu Phật.

Phật giáo: tôn giáo bắt nguồn từ tổ tôn là Phật Thích

Ca Mâu Ni.

Phật quang: ánh sáng của Phật.

Phật quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh: ánh

sáng Phật chiếu rọi rộng khắp, lễ nghĩa tròn đầy sáng

tỏ.

Phật tại tâm trung: Phật ở trong tâm, Phật tại tâm.

Phật thể: [thân] thể Phật.

Phật tính nhất xuất, chấn động thập phương thế

giới:  một  khi  Phật  tính  xuất  hiện,  thế  giới  mười

phương chấn động.

Phật vô xứ bất tại: Phật không chỗ nào không có, có

mặt khắp nơi.

phi thiên: thiên thần bay, tiên nữ bay lượn.

phó nguyên thần: nguyên thần phụ.

phó thông đạo: đường thông phụ.

phó xuất: chi trả phí tổn, trả nợ, chịu đựng cho.

phó ý thức: ý thức phụ.

phong tăng tảo Tần: điển cố một tăng nhân ở chùa

Linh Ẩn dùng chiếc chổi mà ông đang quét sân để

tống khứ Tần Cối ra khỏi chùa.  Tảo là quét bằng

chổi. Tần Cối là tể tướng, một đại gian thần thời

Nam Tống. Phong tăng→ hoà thượng điên.

phong thuỷ: phép xem địa lý của Trung Quốc.

phổ độ chúng sinh: cứu độ chúng sinh trên diện

rộng. Đây là câu lưu truyền trong Phật gia.

phụ thể: thể sinh mệnh bám thêm vào; phụ→ thêm

vào, bám vào, gắn vào.

phức nhãn: mắt phức hợp.

quan: cửa, cửa ải. Chữ  quan này có thể có một số

nghĩa bóng tuỳ ngữ cảnh, thường có nghĩa là khảo

nghiệm, thử thách. Quá quannghĩa là vượt qua khảo

nghiệm, thử thách. Một số huyệt-vị, khiếu cũng được

gọi là quan, ví dụ: huyệt mệnh môn, ngọc chẩm.

quán đỉnh: tưới vào đầu (diễn trên chữ nghĩa). Quán

nghĩa là tưới vào, đỉnhngụ ý là đỉnh đầu.

quản: coi sóc có trách nhiệm; cai quản, quản lý.

sắc ma: ma sắc, ma sắc dục.

sắc thân: thân thể mà người ta nhìn thấy được. Theo

cách nói bên Phật giáo, những gì các giác quan tiếp

cận được thì được gọi chung là thanh sắc.

sinh lão bệnh tử: sinh→ sinh ra, lão→ già đi, bệnh

→ chịu bệnh, tử→ chết đi.

sơn căn: huyệt vị nằm giữa hai lông mày.

sung mãn: đầy khắp, đầy đủ.

sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân : sư phụ

dẫn vào cổng, còn tu hành là chuyện của cá nhân

người tu luyện.

tá công: mượn công; tá→ vay mượn.

tà môn oai đạo: cửa tà đường lệch, chỉ những công

pháp tà vạy lưu truyền ở thế gian; oai→ bất chính.

tam hoa tụ đỉnh: ba bông hoa tụ trên đỉnh đầu.

tam thiên đại thiên thế giới : ba nghìn nghìn-thế-giới lớn. Đây là cụm từ vốn lưu truyền trong Phật

giáo.

tải thể: [công năng hoặc gì đó làm] thể truyền tải.

tâm đắc thể hội: điều mà tâm hiểu được hoặc bản

thể lĩnh hội; điều mình đã trải qua; kinh nghiệm.

tâm hoan hỷ: tâm lý vui mừng [thái quá]; đây là tên

một chấp trước.

tâm lĩnh thần hội: dùng tâm mà lĩnh hội.

tâm  lý  hiển  thị hoặc  tâm  hiển  thị:  tâm  lý  phô

trương hiển thị; đây là tên một chấp trước.

tâm tật đố: tâm đố kỵ, ganh tỵ, ganh ghét; đây là tên

một chấp trước.

tâm thái: [trạng] thái tâm.

tâm tranh đấu: tâm ganh đua, cạnh tranh, tranh đấu;

đây là tên một chấp trước.

tầng, tầng thứ: theo ngu ý người dịch, cả hai từ này

được dùng với cùng nghĩa như nhau; trong bản dịch

này thường được dịch chung là tầng.

tân trần đại tạ: đổi cũ thay mới, cũ mới thay nhau.

tẩu đan đạo: dẫn đạo, dẫn đan.

tha  tâm  thông:  [công  năng]  biết  được  suy  nghĩ

người khác; tha tâmlà tâm của người khác.

Phụ lục v

thái dương: (i) huyệt vị ở hai bên, từ đuôi mắt dịch

về sau 1 thốn; (ii) Mặt Trời.

tham ngộ: thực hành mà ngộ. Chữ thamcó trong từ

tham gia, và trong cụm từ tham thiền nhập định.

thanh lý:làm sạch, làm trong sạch, bỏ những thứ ô

uế.

thân thụ: truyền thụ trực tiếp từ thầy.

thần thông đại hiển:thần thông hiển thị rất lớn.

thập ác bất xá: mười tội ác không thể tha.

thập phương thế giới: thế giới mười phương.

thất phu: người dân thường.

thất tình lục dục: bẩy thứ tình cảm sáu thứ ham

muốn, chỉ những tình cảm ham muốn nói chung.

thấu thị nhân thể: [công năng] nhìn được bên trong

thân thể người.

thế nhân: con người thế giới, con người thế gian.

thể: chữ này có nhiều nghĩa; theo người dịch có một

nghĩa chung trong các từ: nhân thể, Phật thể, Thiên

thể, vật thể, phụ thể, bản thể, tải thể, sinh mệnh thể,

nãi  bạch thể,  tịnh  bạch thể,  v.v. Trường  hợp ấy,

người dịch bảo lưu tiếng Hán; ngoại lệ: nhân thể→

[thân] thể người, sinh mệnh thể→ thể sinh mệnh.

thể hệ: hệ các thể, hệ thống.

thể nghiệm: tự mình chứng nghiệm được.

thể tùng quả: cơ quan hình quả cây-tùng|cây-thông

ở trong đại não; tuyến yên trong não; theo Tây y thì

vị trí này ở vùng giao tiếp với hai bán cầu đại não,

tiểu não, và tuỷ sống đi lên.

thị hiện: làm [biểu thị] ra cho người ta thấy.

thiên cơ: bí mật của trời.

thiên địa: thiên địa trời đất.

thiên định: [điều] do ông trời định ra.

Thiên lý: đạo lý của ông trời.

thiên môn tiểu đạo: cửa lệch đường nhỏ, chỉ những

công pháp nhỏ bé lưu truyền ở thế gian, không phải

danh môn chính phái.

thiên quốc: nước ở trên trời.

thiên sai: lệch lạc, sai lệch.

thiên tự trang: đứng theo hình chữ ‘thiên’ (天).

thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo: thiện có báo

ứng thiện, ác có báo ứng ác.

thiết bố sam: áo giáp sắt.

thiết sa chưởng: bàn tay sắt-cát.

thỉnh Thần dung dị tống Thần nan: mời Thần đến

thì dễ, mời Thần đi thì khó.

thôi nã, suy nã: nắn khớp.

thốn: tấc. (i) nói tắt của từ  Anh thốn→ tấc Anh, tức

là inch, ≈ 2,54cm; ngoài nghĩa hiện đại ngày nay ra

nó còn có nghĩa: (ii) đơn vị chiều dài ngày xưa, bằng

1/10 thước, ≈ 3,3cm. (iii) nói tắt của từ  đồng thân

thốn; một đơn vi đo trong Đông Y thường dùng khi

mô tả vị trí các huyệt, nó được lấy theo số đo sinh

học của thân thể đương sự, nên mới gọi là  đồng thân;

có một số cách xác định; một cách thông dụng là lấy

chiều rộng  ngón tay cái chỗ rộng nhất.  Thốn này

không có giá trị cố định, trung bình là 2~2,2cm.

thời thần: một giờ, tính theo cách chia giờ cổ truyền,

một ngày có 12 giờ: Tý Sửu Dần Mão … Hợi. Bắt

đầu là giờ Tý từ 23

h

đêm đến 1

h

sáng. Một thời thần

dài bằng 2 giờ đồng hồ hiện nay.

thu công: tức là thu công kết thúc buổi tập; các công

pháp khác thường như vậy; còn trong Pháp Luân Đại

Pháp thì không thể và không được thu công như thế,

vì Pháp Luân thường chuyển không dừng.

thủ ấn: bắt ấn, bắt quyết bằng tay.

thủ đức: giữ gìn đức; thủ→ giữ gìn, coi sóc, chăm

nom, phòng thủ.

thủ pháp: động tác tay, bài động tác.

thư pháp: phép viết chữ Hán.

thường chuyển: liên tục chuyển động, liên tục xoay

chuyển,  không  dừng;  cái  gì  vĩnh  viễn  là  thường,

không vĩnh viễn là vô thường.

thượng sư: thầy ở bên trên, thầy ở cõi trên.

thượng sỹ văn Đạo, cần nhi hành chi; trung sỹ

văn Đạo, nhược tồn nhược vong; hạ sỹ văn Đạo,

đại tiếu chi; bất tiếu bất túc dĩ vi Đạo: kẻ sỹ bậc

thượng  mà  nghe  được  Đạo  liền  chuyên  cần  thực

hành; kẻ sỹ bậc trung mà nghe Đạo thì cái còn cái

mất; loại người bậc hạ mà nghe Đạo liền phá ra cười,

không cười thì chưa đủ là Đạo; đây là câu của Lão

Tử. Từ thượng sỹhay hạ sỹtrong giới tu luyện cũng

là từ câu này mà ra.

tích cổ: di tích cổ, di vật cổ.

tích đức: tích lũy đức, thâu tập đức.

tiềm ý thức: tiềm thức.

tiệm ngộ: ngộ dần dần, trái với đốn ngộlà ngộ tức

thời (hiểu trên chữ nghĩa).

tiên thiên: cái gì nguyên từ nguyên sơ ban đầu xa

xưa thì gọi là tiên thiên. Từ trái nghĩa là hậu thiên.

tiếp cốt: nối xương.

tiểu bào: bọt bóng nhỏ.

tín tức: một dạng năng lượng, thông tin có thể truyền

sang người khác.

tinh bạch thể: thân tinh trắng; tên khác của  tịnh

bạch thể; chữ tinhnày ở trong từ tinh khiết, tinh thể.

tinh hệ: hệ các tinh cầu, thiên hà.

tính bản thiện: nguyên ban đầu là thiện tính, bản

chất là thiện.

tính mệnh song tu: vừa tu tính vừa luyện mệnh.

tĩnh chỉ: yên tĩnh bất động.

tĩnh công: luyện công trạng thái tĩnh, ví dụ: thiền

định.

Phụ lục vi

tịnh bạch thể: thân tịnh trắng.

toán mệnh: bói số mệnh.

toán quái: bói quẻ.

toàn cơhoặc tuyền cơ: cơ [chế] xoay chuyển.

trạm trang: luyện công ở tư thế đứng.

trân quý: quý giá lắm.

triển hiện: thể hiện ra, thi triển.

Trung y: Y họcTrung Hoa; người Việt Nam ta gọi

là ‘Đông Y’.

truyền thừahoặc thừa truyền: truyền tiếp kế thừa

từ đời này sang đời khác, thầy truyền thừa cho đồ đệ

qua các thế hệ.

trực chỉ nhân tâm: nhắm thẳng vào tâm con người.

trượng:  đơn  vị  đo  ngày  xưa,  ≈  330cm,  bằng  10

thước.

tu khẩu: tuở trong từ tu luyện, khẩu→ miệng.

tu tại tự kỷ, công tại sư phụ: tu ở bản thân, công ở

sư phụ; tu là ở nỗ lực bản thân người tu luyện, còn

diễn hoá công được thực hiện nhờ sư phụ.

túc mệnh thông: [công năng] thông suốt số mệnh

trước đây—hiểu trên chữ nghĩa là như vậy,  túc mệnh

→ sinh mệnh trước đây. Tuy nhiên ‘công năng túc

mệnh thông’ có nghĩa rộng hơn, như được chỉ rõ

trong sách.

tùng tân tái xuất: tái xuất lại mới.

tuỳ cơ nhi hành: thuận theo cơ [chế] mà thực hành,

thuận theo [khí] cơ mà vận động.

tuỳ kỳ tự nhiên: [sống] thuận theo tự nhiên.

tuỳ tâm nhi hoá: tuỳ theo tâm mà biến hoá.

tư tâmhoặc tự tư: tâm ích kỷ, tên một chấp trước.

tứ chi vô lực: hai chân hai tay không có lực, rất yếu.

tự ngãhoặc ngã: cái ‘tôi’; ngã→ tôi.

tự tâm sinh ma: tự trong tâm [của mình] sinh ma.

tương phụ tương thành: giúp đỡ phụ trợ lẫn nhau,

[sinh] thành ra nhau.

ức kiếp: chữ  ức có nghĩa là 100 triệu {10

8

}; tuy

nhiên trong tiếng Hán cổ, ứclà 10 vạn {10

5

}.

vạn: chữ vạn ( ).

vãng hồi tu: tu quay trở về.

văn hoá tinh thần: đây là từ hay dùng trong Trung

Quốc hiện đại, nghĩa là nền văn hoá nâng cao giá trị

tinh thần đạo đức con người; ngụ ý đối lập với  văn

hoá vật chấtlà thứ chạy theo giá trị vật chất bạc tiền.

văn vật: vật [cổ] văn hoá.

vật cực tất phản: vật đến cùng cực thì phản lại, sự

việc đến cùng tột thì đảo lại, âm dương đảo lại.

vi lạp: vi hạt. Từ này được dùng để chỉ các hạt cấu

thành nên vật chất ở các mức vi quan khác nhau, ví

dụ: phân tử, nguyên tử, quark, neutrino, …

vi quan: quan-sát|quan-cảnh ở mức|tầng vi mô; đối

lập với hoành quanhoặc hồng quan.

viên dung( 圆容 ): viên→ tròn, dung→ dung nạp

nội dung bao hàm, chứa đựng.

viên minh: viên→ tròn đầy, minh→ sáng tỏ.

viên mãn: viên→ tròn, mãn→ đầy khắp.

vô  ác  bất  tố: [những kẻ] không  điều  ác nào mà

không làm.

vô biên vô tế: không biên giới không giới hạn.

vô sở bất bao, vô sở di lậu: không gì là không bao

hàm, không gì bị bỏ sót.

vô sở cầuhoặc vô cầu: không chỗ truy cầu, không

mong cầu.

vô tỷ: không [gì] sánh được, không thể so sánh.

vô vi: không chủ ý, không mong nghĩ, không hành

động, không mong cầu (từ này rất khó diễn nghĩa);

trái với nó là hữu vi.

vô xứ bất đan điền: không đâu là không phải đan

điền, đan điền khắp nơi; đây là điều sai lầm được lưu

truyền trong một số công phái.

vu giáo: lên đồng, thầy mo.

vũ đạo: múa, nhảy múa.

xích: thước, đơn vị đo chiều dài ngày xưa, ≈ 33cm,

bằng 10 tấc (thốn).

xích độ: cái thước, còn có nghĩa là hình thức thể hiện

của tâm tính cao đến đâu.

xuất lai: xuất hiện, từ chỗ không có mà thành có là

xuất lai, từ chỗ chưa được mà được là xuất lai.

xuất  sơn:  (i)  ra  khỏi  núi;  (ii)  ra  công  chúng,  ra

[truyền giảng] ngoài  công chúng. Trong sách này

thường dùng theo nghĩa (ii).

xung quán: người dịch nghĩ rằng từ ‘xung quán’

trong sách là nói về động tác của bài tập công số 3:

Quán thông lưỡng cực Pháp.

Phụ lục vii

Copyright © 2008 by Li, Hongzhi

All Rights Reserved

For information, write:

(Taiwan)

Yih Chyun Book Corp., Ltd

No. 229-9, Section 2, Chung-Ching North Road

Taipei, Taiwan 103

(US)

Yih Chyun Corp.

P.O. Box 193

Gillette, NJ 07933

ISBN: 1-58613-051-X

Translated in Vietnam,

Bản tiếng Việt, dịch tại Việt Nam

First revision, March 2003

Hiệu chỉnh lần đầu, tháng Ba, 2003

Second revision, November 2004

Hiệu chỉnh lần thứ hai, tháng Mười một, 2004

Third revision, June 2006

Hiệu chỉnh lần thứ ba, tháng Sáu, 2006

Updated Glossary, February 2008

Chỉnh sửa phần phụ lục, tháng Hai 2008

http://www.phapluan.org

http://www.falundafa.org/Vietnamese

Published by Yih Chyun Corp.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: