Chuyện lạ có thật về một con người - Cao Hùng - NETBABY st
Chuyện lạ có thật về một con người - CAO HÙNG
Viết về nhân vật này, chúng tôi có suy nghĩ là có nên viết tên họ thật, địa chỉ thật không, vì trước đây khi bài báo đầu tiên được phát hành, hàng trăm người ở nhiều vùng trong nước mà đa số là những bệnh nhân nặng kéo đến gây nên cuộc náo loạn ở địa phương cả về an ninh, trật tự, ô nhiễm môi trường và nhiều vấn đề phức tạp khác buộc địa phương phải có biện pháp giải tỏa.
"Chuyện lạ có thật về một con người" viết mang tính chất nghiên cứu một sự thật khách quan không mang ý đồ tuyên truyền. Để tránh mọi sự cố có thể xảy ra do người đọc, người bệnh vì tò mò vô ý gây ra, chúng tôi không viết tên thật, địa chỉ thật. Bạn đọc hết sức thông cảm cho vấn đề này, không nên đi tìm nhân vật chính trong truyện, để khỏi gây khó khăn cho địa phương.
Nếu có dịp đọc tập sách nhỏ này mong các bạn đọc với tinh thần nghiên cứu một hiện tượng lạ có thật để suy ngẫm, phán xét. Tập sách này ra mắt bạn đọc chỉ có một mục đích cung cấp dữ liệu để các bạn nghiên cứu, ngoài ra không có mục đích nào khác.
Nhân vật chính trong câu chuyện tên khai sinh là Đ.V. T., gia đình và hàng xóm thường gọi là T., T. sinh ngày 8 tháng giêng năm Tân hợi (1971) trong một gia đình nông dân đông anh em. Bố là Đ.V.H. 61 tuổi mẹ là L.T.H. 60 tuổi (tính đến năm 2003) ở thôn X,. xã T., huyện K. tỉnh R. Theo mẹ T. kể bà có mang đến tháng thứ mười mới sinh. T. sinh ra lúc 10 giờ đêm, trong một cái bọc. Mẹ T. xé bọc cho T. ra thì T. không khóc mà lại nhoẻn miệng cười. Sau hơn một giờ mới cất tiếng khóc. Trường hợp này là bình thường, không có gì đặc biệt vì không hiếm những người mẹ sinh con trễ tháng, sinh trong bọc và cũng không hiếm những trường hợp sinh ra không khóc, bà mẹ phải phát vào mông mới khóc
Được ba tuổi, bố mẹ T. làm giấy khoản nhờ ông ngoại nuôi. Ngôi nhà vợ chồng T. đang ở hiện nay vốn là nhà của ông ngoại để lại, thuộc thôn B., xã M., huyện S tỉnh H.. Ông ngoại làm sao nuôi được cháu nhỏ? Vấn đề là ông ngoại có năm người con gái, 4 người lấy chồng ở riêng còn bà N. ở lại vừa phụng dưỡng ông vừa trông nom, nuôi dưỡng T. từ ba tuổi cho đến lúc trưởng thành.
T. phát triển bình thường như những đứa trẻ khác trong làng. T. học đến lớp 9 thì thôi học, ở nhà lao động và buôn bán vặt giúp gia đình. Với những người ruột thịt trong gia đình, người T. yêu quý nhất là ông ngoại vì ông là người thay mặt bố mẹ T. cưu mang T. từ tuổi ấu thơ đến lúc nên người. Lúc ông ngoại qua đời khỏi phải nói T. đau thương đến mức nào!
Có một chi tiết hơi đặc biệt và cũng là chuyện lạ có thể viết ra đây. T. không xưng hô với bố mẹ là cha, mẹ mà chỉ gọi bằng thứ. Bố T. thứ năm nên T. gọi bằng Năm. Mẹ thì gọi bằng Bốn. Hỏi thì T. trả lời: Bố mẹ T. chỉ sinh thể xác T. phần còn lại (phần linh hồn) T. thuộc về một thế giới khác.
Việc T. lấy vợ, theo T. kể là để làm vui lòng gia đình chứ T. không thích người khác giới. T. chưa từng yêu hoặc có cảm tình với một phụ nữ nào, kể cả vợ. Tuy vậy, cái gì phải đến đã đến theo quy luật tự nhiên của tạo hóa. Vợ T. đã sinh cho T. 2 cháu gái cùng một lúc (đẻ sinh đôi). Hai cháu năm nay đã 6 tuổi, khỏe mạnh, đang học cấp 1, vợ T. 32 tuổi, làm ruộng, chăn nuôi và chạy chợ lúc nông nhàn.
Những chuyện lạ về nhân vật này bắt đầu từ năm 1996. Tù lúc thôi học, là một thanh niên khỏe mạnh ở nông thôn, gặp việc gì T. cũng làm. Ai nhờ việc gì T. cũng giúp như đào mương, đắp nền nhà, cuốc vườn.
Và vào một buổi sáng mùa thu năm ấy, T. dùng xe ba gác kéo đất đắp nền nhà cho một gia đình như đã từng làm cho một số gia đình khác. Kéo được mấy xe, đến xe tiếp theo, mới nửa đường, bỗng nhiên T. bỏ xe đất, chẳng nói chẳng rằng chạy thẳng một mạch về nhà tọa thiền trước bàn thờ gia tiên suốt 3 ngày, 3 đêm, không ăn, không ngủ. Người nhà hỏi gì cũng không nói. Ngồi kiết già (kiểu ngồi hoa sen) triền miên như một pho tượng gỗ.
Thấy chuyện lạ, cả nhà hốt hoảng chẳng hiểu đầu đuôi ra sao. Người thì bảo T. bị ma làm, người thì cho là T. mắc bệnh tâm thần. Mặc cho ai nói gì thì nói, T. vẫn yên lặng, tập trung tinh thần hướng về cõi vô định mênh mông. Cho đến khi ông H. bố T. lo lắng bảo người nhà đi thuê ô tô để đưa T. đi bệnh viện chứ kiểu nảy là nó bị đau nặng lắm rồi!
Nghe vậy, sau ba ngày đêm, lần đầu tiên T. mở miệng nói: "Năm dẹp cái chuyện thuê xe đưa tôi vào bệnh viện đi! Tôi không đau ốm gì đâu!". ông H. nói: "Không đi bệnh viện cũng được nhưng con phải ăn uống gì chứ! Ba ngày rồi, ngồi mãi chịu sao nổi!". Nói xong ông thúc người nhà dọn cơm cho T. ăn.
Cơm dọn xong, T. buộc phải ngồi vào mâm thì chuyện lạ lại xảy ra. Khi T. một tay bưng bát cơm, một tay cầm đũa định đưa bát cơm lên miệng, nửa chừng bỗng cả bát cơm và đũa đều rơi tung tóe xuống bàn. T. đứng dậy nói: "Trên bảo từ nay trở về sau không được ăn cơm mà chỉ ăn rau, hoa quả thôi!". Cả nhà ai cũng trố mắt ngạc nhiên.
Từ sự khởi đầu lạ lùng đó cho đến ngày nay đã qua tám năm, T. chỉ ăn độc có rau, thỉnh thoảng có ăn hoa quả nhưng rất ít. Anh em chúng tôi đã chung sống với T. nhiều lần, nhiều ngày nhưng chưa bao giờ thấy T. ăn thứ gì khác. Các loại rau như rau muống, rau cải, rau đắng, rau diếp... luộc hoặc xào dầu T. đều ăn được. Cơm, bánh mỳ, bánh ngọt, kẹo các loại đều không ăn. Thấy T. luôn khỏe mạnh, cơ bắp nở nang rắn chắc như gỗ nhiều người không tin. Coi chừng anh ta có ăn lén về ban đêm. Chúng tôi bảo đảm điều đó tuyệt nhiên không có. Về ăn của anh chàng này có một điểm đặc biệt là rất thích ăn hoa vạn thọ sống mà hoa vạn thọ thì ở tỉnh H. rất nhiều. Người nhà kể lại, có lần hàng tháng liền, anh ta chỉ độc ăn hoa vạn thọ, ngoài ra không ăn rau quả gì khác.
Thấy nhiều năm rồi T. vẫn ăn như vậy, chúng tôi rất lo cho sức khỏe của T. Anh ta chỉ cười: "Anh em không phải lo chuyện đó! Anh em không biết chứ chỉ ăn rau mà hôm nào ăn hơi nhiều một chút là trong người thấy mệt lắm, không ăn người lại khỏe! Lúc nào luyện thành công thì rau cũng không ăn nữa mà chỉ sống bằng không khí".
Về uống, T. chỉ uống nước dừa. Gần đây, không có dừa T. uống nước khoáng đóng chai hoặc uống một thứ nước do T. pha chế có chanh, một ít đường và bột thuốc bắc tự chế mà uống rất ít. Ngoài ra tuyệt nhiên không uống nước gì khác kể cả các loại nước ngọt, chè, cà phê. Nước dừa uống trong quả, rót ra cốc không uống. Nước khoáng đóng chai cũng vậy. Chai để nguyên niêm đưa cho anh ta, mở nắp rồi là không uống. Giữa mùa hè nóng bức đi đường với T., anh em hết ăn lại uống nhưng với T. đi cả ngày không uống cũng không ăn.
Đặc biệt vào những ngày 30, 1, 14, 15 âm lịch T. hoàn toàn nhịn ăn. Đặc biệt nữa là từ lần đầu rơi bát, đũa, T. không cầm đũa được nữa mà chỉ ăn bốc. Mỗi lần đi ra ngoài năm bữa nửa tháng, anh em muốn mời T. ăn phải sắm nồi xoong, bát riêng vì T. không ăn những thứ nấu đồ mặn của gia đình.
Về mặc, đối với T. cũng là một chuyện lạ. Mùa đông lạnh lẽo, anh ta chỉ mặc phong phanh một chiếc áo lót và áo khoác. Ngược lại mùa hè nóng bức, đi đâu T. mặc sáu lớp quần, áo căng cứng người. Anh ta không tắm như người thường mà mỗi lần muốn tắm, cởi quần áo ngoài, ngồi thiền vận công cho mồ hôi toát ra rồi lấy khăn lau. Như vậy là tắm xong. Tuy vậy, người T. vẫn sạch sẽ không hôi hám gì. Lâu lâu, T. có tắm bằng nước nhưng chỉ thi thoảng.
Về ngủ, gần như nhân vật này không ngủ hoặc có thể nói ngủ rất ít. Ban đêm, trong khi mọi người ngủ, T. ra ngoài trời tập luyện tháng này, sang tháng khác, thường xuyên như vậy. Tập luyện với ai, tập như thế nào không ai biết. Hỏi thì T. bảo tập với thầy, nhưng không được nói vì thiên cơ bất khả lộ. Một điều chắc chắn là T. không có thầy đời trần. 5 giờ sáng T. mới vào nhà, thiền định cho đến 12 giờ trưa.
Về quan hệ vợ chồng, từ ngày không ăn cơm đến nay, T. không còn sinh hoạt trong quan hệ với vợ mà chỉ coi vợ là người giúp việc, lo toan gia đình. Anh ta nói thẳng với vợ là từ nay T. không còn làm chồng được nữa, cô có thể tự do đi lấy chồng khác. Tuy rất buồn, khổ nhưng vợ T. nhất quyết ở lại với T. lo làm ăn, nuôi con khôn lớn.
T. là một người tương đối đẹp trai, thân thể tráng kiện lại có nhiều tài năng nên một số cô đem lòng thương trộm nhớ thầm nhưng chỉ là vô vọng, chỉ là một thứ tình yêu đơn phương. T. có biết nhưng không quan tâm. Nói với anh ta chuyện này, anh ta chỉ cười và nói. "Đó là chuyện của người ta. không phải chuyện của mình, chẳng có liên quan gì đến mình".
Những sinh hoạt thường ngày của nhân vật này không giống sinh hoạt đời thường của con người. Có người đặt câu hỏi phải chăng anh chàng này lập dị để cho khác với mọi người. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy không phải lập dị mà có thể do những nhu cầu đặc biệt nào đó của cơ thể, cả thế xác lẫn tinh thần, ý thức, nhằm phục vụ cho một mục đích mà T. đang theo đuổi.
Đã là con người thì từ những bậc quyền quý cao sang, đến người dân thường ai cũng có những ham muốn nhất định - đây chỉ nói những ham muốn chính đáng. Ăn uống phải đủ, phải ngon. Ngủ phải say phải ngon giấc. Tắm rửa thường xuyên cho thân thể sạch sẽ, khỏe mạnh. Mặc phải đẹp, mùa hè mặc mát, mùa đông mặc ấm. Sinh hoạt vợ chồng bình thường, bảo đảm quân bình âm dương, sảng khoái, không bệnh tật, v.v. Con người ai cũng có nhu cầu và ham muốn chính đáng đó trong sinh hoạt đời thường. Riêng với T. là không có, ăn uống như T. còn gì gọi là ngon. Ngủ như T. lấy đâu được đẫy giấc. Tắm rửa như T. làm sao thoải mái. Chuyện cai vợ, tiết dục làm mất quân bình âm dương, và vân vân.
Có thể nói T. không có những ham muốn đời trần.
Trong sinh hoạt đời thường, chúng tôi muốn nhấn mạnh một vấn đề là tiền. Tiền nói riêng, tiền của, vật chất nói chung. Từ thời thượng cổ đến thời hiện tại, tiền là phương tiện giao lưu phục vụ cuộc sống con người và trong mọi quan hệ xã hội. Có tiền là có tất cả. Chính con người đã sáng tạo ra đồng tiền và sử dụng nó để phục vụ cuộc sống cho từng cá nhân, gia đình, từng quốc gia, dân tộc và cả nhân loại. Ở đây chỉ nói đến đồng tiền chân chính không nói đến khía cạnh đồng tiền bất minh, bất chính. Lao động và làm đủ thứ nghề để kiếm ra tiền. Người có nhiều tiền muốn có nhiều tiền hơn. Người nghèo khổ không có tiền lo ngày lo đêm, lao động cật lực, chạy vạy để có tiền cho cuộc đời đỡ khổ. Xưa nay chỉ có người ham tiền, "càng nhiều càng ít" chứ chẳng có ai chê tiền, không cần đến tiền. Quy luật tự nhiên, quy luật xã hội đều như vậy. Nói cách khác tiền là cuộc sống.
Vậy mà có chuyện lạ là nhân vật chính trong câu chuyện này chẳng mấy quan đến tiền. Nói ra rất khó tin nhưng lại là chuyện có thật. Khi viết những dòng này, chúng tôi đã nghiên cứu thận trọng, theo dõi trong nhiều năm và có nhiều chứng minh thực tế.
Trước hết là chuyện chữa bệnh không lấy tiền. Ở đây chúng tôi chỉ nói đến góc độ tiền, chưa nói đến khả năng chữa bệnh. Suốt 8 năm qua, T. đã chữa cho hàng ngàn bệnh nhân chưa bao giờ lấy tiền của ai, kể cả những căn bệnh thập tư nhất sinh. Chữa ở bệnh viện hoặc các cơ sở y tế tư nhân Tây y, Đông y đều phải có tiền, tiền khám bệnh. tiền thuốc, mà nông dân nghèo lấy đâu ra tiền! Riêng chuyện chữa bệnh không lấy tiền đã thu hút nhiều bệnh nhân đến với T.
Chúng tôi chứng kiến nhiều trường hợp T. giúp người bệnh nặng thoát khỏi cái chết. Khỏi bệnh rồi, biết T. không nhận tiền, người bệnh và gia đình lúng túng không biết làm thế nào để đền ơn người chữa cho mình. Có thể nêu vài ví dụ điển hình.
Anh Bùi Thanh Tùng ở Kế Xuyên bị bệnh viêm khớp teo cơ, bệnh viện cho về chờ chết. T. chữa 19 ngày hoàn toàn khỏi bệnh. Vợ chồng bàn nhau thấy nhà T. quá nghèo, không có gì ngoài cái bàn và bộ phản gỗ, liền đi mua 1 chiếc ti-vi 21 in mang đến biếu. T. bảo: "Tôi không lấy tiền kể cả quà biếu vì đó cũng là tiền. Anh chị mang về, nếu không, về nhà đau lại, tôi không giúp nữa đâu!". Nghe thế, vợ chồng sợ quá đành mang về nhưng vẫn chưa yên lòng. Thấy chỗ T. nằm kê bằng hai chiếc ghế băng, khổ quá, vợ chồng lại đi mua một chiếc giường xếp bằng bố, thừa lúc T. không có nhà đem đặt vào chỗ hai chiếc ghế băng. T. về, vợ chồng phải năn nỉ mãi T. mới chịu cho để lại có tính chất kỷ niệm.
Một trường hợp khác, một bệnh nhân nặng được chữa khỏi mang đến một chiếc xe máy mới, T. không nhận. Nói mãi, cuối cùng. T. xin chiếc chìa khóa xe nhận tượng trưng còn xe phải mang về. Và còn nhiều, nhiều nữa: Bệnh nhân đến phần nhiều chỉ mang hoa quả đặt trên bàn thờ gia tiên. Có người bảo T. không lấy tiền của ai nhưng bệnh nhân có đưa tiền cho vợ T.. Điểm này cần làm rõ. Thấy vợ T. phải nuôi hai con mà quá nghèo, thỉnh thoảng có bệnh nhân cho các cháu ít tiền hoặc quần áo. Lần nào T. cũng biết. Cho các cháu năm, mười ngàn T. cho qua nhưng nhiều hơn, T. bắt vợ phải trả lại. Có trường hợp một bệnh nhân đền ơn T. dưới dạng lén đưa tiền cho vợ. T. không nhìn thấy nhưng biết ngay bắt vợ phải lập tức mang trả lại và cấm vợ tuyệt đối không được làm thế.
Một số Việt kiều ở Mỹ, Ca-na-đa về nước thấy T. có nhiều tài năng nhưng quá nghèo gửi cho T. hàng nghìn đô la nhưng T. đều gửi trả lại. Anh em bảo cậu cứ nhận rồi giúp các quỹ từ thiện có hơn không! T. bảo làm vậy là mình có nhận tiền. Còn việc mình làm từ thiện hay không ai biết được. Tốt nhất là không nhận.
Trong người T. không lúc nào có tiền. Chúng tôi thỉnh thoảng lén kiểm tra chiếc ví chỉ thấy có giấy tờ chứ không có tiền. Khi cần mua xăng hay mua vé tàu, xe T. bảo vợ đưa, ngoài ra không tiêu việc gì khác.
Xin nói thêm T. có phải là người lừa bịp, mê tín dị đoan không? Gần T. lâu không bao giờ thấy T. thắp hương hoặc cứng bái. Ngày rằm, mồng một, ngày giỗ cũng vậy. Theo dõi tìm hiểu vẫn chưa phát hiện T. có tín ngưỡng gì rõ rệt. Thiên chúa, Tin lành không phải, ngay cả Phật giáo, Lão giáo, Cao Đài cũng không thấy có gì rõ rệt. Chưa bao giờ thấy T. tụng kinh. Điều thấy được là T. chống mê tín dị đoan, chống lừa bịp, nhất là các vị thầy cúng bói toán nói dựa lấy tiền. Còn T. có lừa bịp ai không có thể lấy thực tế trả lời. Chữa bệnh không lấy tiền thì lừa bịp sao được, và lừa bịp nhằm mục đích gì?
Nhân nói về sinh hoạt, kể thêm một vài chuyện lạ trong ngôi nhà của T.
Một lần ba anh em gồm tôi (người viết truyện), bác H. cán bộ công an nghi hưu, bác Q. cán bộ địa chất nghỉ hưu đến thăm chơi với T.. Tối hôm đó, như thường lệ T. ra ngoài tập luyện. Ba anh em ngủ ở nhà. Nhà chỉ có một chiếc phản để bác H., bác Q. ngủ, tôi trải chiếu nằm dưới đất ngay cửa ra vào. Trước khi ra ngoài T. dặn tôi: "Bố (tôi lớn tuổi nên T. thường gọi tôi bằng bố) vào giường xếp của tôi ngủ, đừng ngủ dưới đất". Tôi nghĩ mình nằm chỗ tay này, khuya nó vào nó không có chỗ nằm nên tôi vẫn nằm dưới đất.
Độ một giờ sáng, tôi nằm im vẫn chưa ngủ được. Bỗng nhiên thấy ngay phía đầu nằm của mình có một người đang đứng. Thấy người nhưng không rõ mặt. Lúc đó cửa ra vào vẫn đóng. Tôi lặng lẽ chồm người dậy nhìn và suy nghĩ cửa đóng làm sao có ai vào nhà được. Tôi vẫn yên lặng theo dõi. Người đó đứng một lúc rồi đưa tay chỉ vào chiếc phản và chỗ đặt chiếc giường xếp của T. xong quay lưng bước ra trong khi cửa vẫn đóng. Thấy chuyện lạ, tôi vội vàng đến mở cửa hông, ra ngoài thì không thấy gì nữa. Đến kiểm tra chiếc cửa ra vào mà người đó vừa bước ra thì cửa vẫn đóng.
Tôi đánh thức bác H., bác Q. dậy kể lại câu chuyện vừa thấy, ai cũng ngạc nhiên. Gần sáng, T. đi luyện tập về tôi kể lại T. chỉ cười nói: "Ở đây, chuyện đó là bình thường!". T. còn nói thêm: "Tại bố không vào giường xếp nằm như tôi dặn đấy!".
Chuyện này tôi trực tiếp chứng kiến, không phải nằm mơ.
Một chuyện lạ khác là trước đó mấy tháng có mấy bà phụ nữ đến nhà T. chữa bệnh, nhà xa không về kịp xin ở lại. Nhà T. có một quy ước là chiếc phản nhà trên chỉ để nam giới ngủ. Phụ nữ nằm nhà dưới. Hôm đó, ở nhà dưới quá chật, một chị cỡ trung niên thấy phản nhà trên bỏ không liền lên nằm đỡ.
Ngủ đến nửa đêm, chị thấy có một người đàn ông đến bảo: "Chị xuống nhà dưới nằm, không được nằm ở đây!" Chị vâng vâng dạ dạ nhưng buồn ngủ quá nằm luôn trên phản ngủ tiếp lúc nào không biết. Độ 3 giờ sáng bỗng chị thấy một bầy độ bốn, năm con khỉ líu cha, líu chíu kéo đến khiêng chị ra hè ném chị đúng vào bậc tam cấp làm chị đau ê ẩm cả người và sây sát chân tay.
Vừa lúc T. đi tập luyện về thấy vậy hỏi- "Sao chị lại ra đây nằm?" Chị kể lại câu chuyện vừa xảy ra. T. lại cười: "Ấy là tại chị, có người nhắc rồi nhưng chị không nghe! Thôi rút kinh nghiệm vậy!". Nói xong T. dìu chị xuống nhà.
Giải thích thế nào về những hiện tượng lạ này? Xin để các nhà khoa học nghiên cứu giúp!
Đó là toàn bộ sinh hoạt thường ngày của nhân vật. Hiếm thấy có ai sinh hoạt kiểu mô hình này! Trên thế giới cũng như trong nước đã xuất hiện nhiều người có công năng đặc biệt nhưng chưa thấy ai có những sinh hoạt kỳ lạ như đã kể. Phải chăng để có những công năng đặc biệt như T. phải có cách sinh hoạt tương ứng?
Từ bước khởi đầu năm 1996, không ăn cơm nữa, T. thực hiện một cách nghiêm túc mọi sinh hoạt (như đã nói phần trên), đặc biệt là chuyên cần, kiên trì tập luyện theo một phương pháp riêng. Qua thời gian, những công năng đặc biệt bắt đầu nảy sinh. Trước hết là khả năng chữa bệnh bằng năng lượng, khả năng tiên tri, biết trước sự việc và nhiều khả năng kỳ lạ khác.
Tìm hiểu về đời tư của nhân vật này thì T. chưa từng được học một khóa huấn luyện Tây y nào mà mới chỉ tham dự một khóa huấn luyện Đông y ở địa phương. Nói về học thì T. chưa đủ trình độ và kiến thức y học để chữa bệnh. Những năm qua cả trong Nam lẫn ngoài Bắc nổi lên phong trào học năng lượng sinh học (nhân điện), khí công, yoga và nhiều môn phái dưỡng sinh, chữa bệnh khác nhưng T. không tham gia. Theo T. kể với các nhà báo, chữa bệnh được là nhờ T. hằng ngày thu năng lượng vũ trụ vào người theo một phương pháp riêng và dừng năng lượng đó chữa bệnh cho người nghèo.
Từng bước, từng bước, T. thực hiện khả năng chữa bệnh của mình. Trước hết chữa cho người thân trong gia đình. Thấy T. chữa có kết qua, bà con xa gần đến chữa bệnh ở nhà T. ngày càng đông.
Trước hiện tượng chữa bệnh kỳ lạ của T., đặc biệt là người đến mỗi lúc một nhiều, chính quyền và công an xã căn cứ vào T. không có bằng cấp chuyên môn và không có giấy phép hành nghề y tế nên lập biên bản và ra lệnh cấm T. không được chữa bệnh. Tuy vậy, do T. chữa bệnh không lấy tiền và thấy bệnh tật có thuyên giảm nên bà con cứ đến và xin chữa. T. nhiều lần nói với bà con: "Tôi rất thông cảm và quý mến bà con, bà con đau cũng như tôi đau, nhưng chính quyền không cho tôi chữa, bà con nên đến các cơ sở y tế Nhà nước, nếu không tôi bị vi phạm pháp luật". Nói thế nào bà con vẫn không nghe; đặc biệt là trước tình trạng đau đớn của bệnh nhân nặng, T. buộc lòng phải chữa. Hiệu quả chữa bệnh ngày càng được khẳng định. Có bệnh khỏi, có bệnh thuyên giảm. Nếu việc chữa bệnh của T. không có hiệu quả thì tại sao nhân dân cứ ùn ùn kéo đến? Việc chữa có hiệu quả hay không nó diễn ra sờ sờ trong cơ thể từng cơn bệnh đâu phải chỉ nói mồm. Quần chúng nhân dân ta không đến nỗi khờ dại, u mê chữa không kết quả mà vẫn bỏ công bỏ việc, mất thời gian, tốn tiền tàu xe đi lại để cuối cùng bệnh tật vẫn đâu hoàn đấy.
Cần biết rõ một điều, cách đây hàng ngàn năm. Hoa Đà, ông tổ ngành y phương Đông có nói một câu: "Trên thế gian này, không có một phương pháp chữa bệnh thần diệu nào, không có một thầy chữa tài ba, siêu việt nào, không có một thứ thuốc thần dược nào có thể chữa một trăm người khỏi cả trăm". Câu nói nổi tiếng này mãi mãi là chân lý vĩnh cửu suốt các thời đại. Nó hết sức đúng đắn ở chỗ cơ thể con người là một bộ máy hết sức tinh vi phức tạp và hoàn thiện về mặt cơ cấu khoa học, không ai giống ai cả trong hình thành phân tử tế bào và hệ thống ADN. Ngoài ra con người từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành không ai giống ai cả về mã di truyền, điều kiện nuôi dưỡng, cách sống, nghề nghiệp, gia đình bố mẹ, anh chị em, vợ chồng con cái, môi trường sống, v.v. Có thể khái quát là nó khác cả về phần tiên thiên cũng như hậu thiên (Tiên thiên là phần thừa hưởng di truyền của bố mẹ, dòng họ từ trong bào thai. Hậu thiên là cuộc sống về mọi mặt từ khi lọt lòng đến lúc trưởng thành). Có thể đơn cử một sự khác biệt của những con người. Đó là dấu vân tay. Nước ta có 80 triệu người là 80 triệu người có vân tay khác nhau. Địa cầu này có 7 tỷ người là 7 tỷ người có vân tay khác nhau.
Từ những căn cứ khoa học và phân tích trên vận dụng vào việc chữa bệnh, cũng phương pháp chữa bệnh ấy, thầy ấy, thuốc ấy mà kết quả có người khỏi, người không khỏi, tỷ lệ thuyên giảm, từng căn bệnh, từng người bệnh cũng kẻ nhiều, người ít khác nhau. Ngay như nền y học hiện đại thế giới cũng với các ngành khoa học đồng bộ, liên quan đang tiến như vũ bão với nhiều phát minh, sáng tạo, nhiều loại thuốc mới đặc trị, nhiều máy móc chuyên khoa tinh vi, với những giáo sư, bác sĩ tài ba lỗi lạc mà nhiều trường hợp cũng đành bó tay trước những căn bệnh hiểm nghèo, trước những người bệnh thập tử nhất sinh. Ở nước ta cũng vậy, Đảng và Nhà nước ta với quan điểm lấy dân làm gốc, luôn chăm lo sức khỏe cho dân, với hàng chục viện nghiên cứu về y học, với hàng ngàn cơ sở chữa bệnh Tây y, Đông y với nhiều giáo sư, bác sĩ, lương y giỏi, nhiều kinh nghiệm, với nhiều phong trào bảo vệ sức khỏe như sức khỏe sinh sản, sức khỏe ban đầu, sức khỏe bà mẹ và trẻ em, sức khỏe người cao tuổi, sức khỏe cho dân vùng sâu vùng xa. v.v. mà đâu có thể chữa hết mọi bệnh cho dân. Không phải nền y học thế giới yếu kém, không phải nền y học Việt Nam thiếu cố gắng mà đó là quy luật, mà đã là quy luật thì không thể khác được.
Việc chữa bệnh của T. hay của bất cứ thầy chữa nào cũng đều nằm trong quy luật chung đó, có bệnh khỏi, bệnh đỡ, có bệnh không khỏi. Trên cơ sở quy luật khoa học đó nếu có vị thầy chữa nào nói bệnh nào chữa cũng khỏi thì lời nói đó chỉ là hoang tưởng.
Đứng về phía bệnh tật mà nói, bệnh nào cũng có quy luật phát sinh, phát triển của nó. Tính chất cơ thể con người khác nhau thì bệnh phát sinh, phát triển cũng khác nhau và tiếp thu liệu pháp điều trị, thuốc men cũng khác nhau, nó luôn tương ứng với cơ thể từng con người. Do vậy, hai người mắc phải căn bệnh giống nhau, cùng dùng một bài thuốc, do một thầy chữa điều trị mà kết quả vẫn khác nhau, người khỏi nhanh, người khỏi chậm, thậm chí có trường hợp lay lắt không khỏi. Chúng tôi không phải là bác sĩ, lương y nhưng qua nhiều năm nghiên cứu theo dõi có thể định ra bốn mức độ của bệnh: loại một, nhẹ, cơ thể tự điều chỉnh, không chữa cũng khỏi. Loại hai, có chữa mới khỏi, không chữa không khỏi. Loại ba, nặng, phải có thầy giỏi thuốc hay chữa mới khỏi. Loại bốn, bệnh nan y, khó chữa khỏi.
T. chữa được nhiều bệnh thông thường, có chữa được một số bệnh hiểm nghèo, đặc biệt là không có phản ứng phụ. T. chữa bệnh chủ yếu bằng công lực, bằng năng lượng (y năng lượng) và bấm huyệt, một số trường hợp cần thiết có dùng thêm thuốc Nam hoặc thuốc Bắc. Một vài người nói T. chữa bệnh bằng cách "chưởng" vào người bệnh. Nói vậy là không đúng, là không hiểu thế nào là chưởng. Chưởng là một thủ thuật trong võ thuật. Các môn võ thuật nói chung gồm quyền, cước chưởng, chỉ, v.v. Khi võ sĩ ra chưởng là nhằm đánh đối phương. Chưởng không dùng trong chữa bệnh. Trong chữa bệnh bằng năng lượng, người chữa dùng cách phát công hay nói theo khí công học là phải phóng ngoại khí vào một số điểm tương ứng với bệnh tật của người bệnh theo một phác đồ điều trị năng lượng.
Qua nhiều năm theo dõi, nghiên cứu, chúng tôi khẳng định T. sử dụng công lực và ý niệm có kết hợp với bấm huyệt để chữa bệnh. Công lực của T hàm chứa một sức mạnh kỳ lạ, có thể phát ra khí nóng, hoặc khí lạnh, có thể phát bằng hai bàn tay hoặc cả bằng mắt. T. có một nội khí độc đáo, có thể nói là độc nhất vô nhị. Trên thế giới cũng như trong nước chưa thấy ai làm được kể cả những khí công sư tài ba lỗi lạc. Đó là phát công làm cho người bệnh hôn mê - như y học hiện đại gây mê bệnh nhân trên bàn mổ trước khi tiến hành phẫu thuật để chữa. Khi chữa xong, T. chỉ đưa một ngón tay, thổi một hơi vào ngực là người bệnh tỉnh lại. Sau khi phát công cho người bệnh hôn mê, T. dám nói với tất cả mọi người ai làm cho người bệnh tỉnh lại được T. xin tôn người ấy làm sư phụ. Đã có nhiều nhà khí công làm thử, nhưng không ai làm cho người bệnh tỉnh lại được. Không phải bệnh nhân nào T. cùng áp dụng thủ pháp này mà chỉ áp dụng cho một số bệnh nhân nặng cần dùng những thao tác mạnh để tránh cho bệnh nhân khỏi đau, vì đã hôn mê rồi thì không còn cảm giác đau nữa. T. có thể gây mê ba, bốn người cùng một lúc. Nội khí của T. còn kỳ diệu ở chỗ có thể phát xa với khoảng cách 50 mét hoặc cách một bức tường dày 22cm người bệnh vẫn hôn mê.
Một thủ pháp độc đáo và kỳ lạ khác là khi muốn gây mê người bệnh, T. không trực tiếp phát công mà dùng một tấm ảnh đặc biệt của chính T. đưa cho một người khác cầm và bảo người bệnh tập trung nhìn vào mặt T. trong tấm ảnh. Chỉ sau mấy phút, người bệnh ngã vật rahôn mê, không biết gì nữa, giống nhu lúc T. trực tiếp phát công. Chữa xong, người cầm tấm ảnh quay lưng tấm ảnh về phía người bệnh, đưa tay thổi một hơi về phía người bệnh đang nằm, người bệnh lập tức tỉnh lại, ngồi dậy.
Một thủ pháp chữa bệnh khác là cho người bệnh uống nước năng lượng cao, làm tất cả bệnh nhân có mặt đều sửng sốt. T. lấy 3 ly nước nguội để trước mặt xong vận công vào hai bàn tay và lần lượt phát công vào 3 ly nước. Chỉ mấy phút sau, cả 3 ly nước đều bốc hơi. T. bảo 3 bệnh nhân đến bưng nước uống và dặn: "Nước nóng lắm đấy, uống từ từ, cẩn thận kẻo bỏng môi". Mới sờ tay vào ly nước, ai cũng bảo nóng quá. Công lực của T. là như vậy.
Còn khi chữa bệnh, có trường hợp T. nhảy và dậm chân lên hai ống chân người bệnh mà đã có lần được chứng kiến, một cán bộ cao cấp ngành vật lý cho rằng cách chữa nảy là cực kỳ nguy hiểm, phản khoa học, có thể làm gãy chân người bệnh và chắc chắn là phải vào bệnh viện bó bột. Tám năm nay chưa có người bệnh nào bị T. dẫm gãy chân phải bó bột. Vì sao? Vì qua theo dõi, nghiên cứu, chứng tôi thấy khi nhảy lên, T. dùng thuật khinh công, trọng lượng của T. 55kg chỉ còn vài ki-lô-gam. Và T. chỉ dùng thủ thuật này với những căn bệnh cần thiết, không phải người bệnh nào cũng áp dụng.
***
Xin trở lại thời điểm tháng 10, 11 năm 1998. Trước những yêu cầu bức xúc của đông đảo bệnh nhân. T. cân nhắc giữa hai cái tội: tội vi phạm lệnh cấm chữa của chính quyền địa phương và tội hàng ngày nhìn người bệnh đau vật vã mà không chữa. Với tâm đức của một người có khả năng chữa bệnh, T. đành chấp nhận phạm tội vi phạm lệnh cấm. Xác định rồi, T. tiếp tục chữa bệnh cho dân. Và việc gì diễn ra tiếp theo thì chúng ta đã rõ. Thấy T. không chấp hành lệnh cấm, chính quyền địa phương lại đến lập biên bản và ra quyết định xử phạt hành chính 200.000 đồng.
Đặt biệt sau khi bài báo "Một người có khả năng chữa bệnh đặc biệt" được phát hành. Nhân dân các nơi trong cả nước ùn ùn ke1o đến gây náo loạn ở địa phương (như đã nói ở phần trên). Trước tình hình đó, Sở Y tế tỉnh H. cùng Công an tỉnh, công an huyện thành lập đoàn kiểm tra khả năng chữa bệnh của T. bằng một cuộc trắc nghiệm tại trụ sở công an huyện. Nhưng T. đã từ chối thục hiện yêu cầu của đoàn kiểm tra mà thừa nhận không đảm bảo khả năng chữa bệnh của mình. Về việc này, chúng tôi qua tìm hiểu có biết vì sao T. không thực hiện những nội dung trắc nghiệm nhưng không tiện viết ra đây vì có nguyên nhân tế chị, chứ không phải T. không cỏ khả năng thực hiện.
Đối với đoàn kiểm tra của tỉnh nhu vậy là đã đủ để Sở Y tế tỉnh H. ra thông báo kết luận với nội dung như sau:
"l. Ông Đ.V.T. chưa được học tập qua bất kỳ mộttrường lớp đào tạo về công tác khám chữa bệnh. Chưa được một cơ quan y tế nào công nhận về khả năng chữa bệnh.
2. Mọi câu trả lời của ông T. đều cho rằng việc chữa bệnh của ông theo ý nguyện của bản thân mà chưa có khả năng chẩn đoán, điều trị, tiên lượng cũng như đánh giá kết quả điều trị cho người bệnh có hiệu quả hay không.
3. Việc chữa bệnh của ông T. trên bệnh nhân, đoàn kiểm tra đã kiểm chứng thấy không có cơ sở khoa học và không hiệu quả như một số thông tin báo chí đưa tin.
4. Buộc ông Đ.V.T. phải thực hiện nghiêm chỉnh quyết định về việc đình chỉ công tác chữa bệnh."
Một lần nữa T. bị cấm chữa bệnh, không phải ở cấp xã cấp huyện mà ở cấp tỉnh - cấp cao nhất ở địa phương. Chúng tôi không muốn đi sâu vào những chứng cứ trong việc điều tra của đoàn để dẫn tới kết luận là cách chữa bệnh của T. "Không có cơ sở khoa học và không có hiệu quả" (chứng tôi sẽ có nhiều dẫn chứng để chứng minh cho việc chữa bệnh có hiệu quả của T. Ở phần dưới của chương này). Nhưng một điều tho6ng bảo nói đu1ng là tính bất hợp pháp của T., T. không có bằng cấp của ngành y - không phải bác sĩ, không phải lương y, chưa được một cơ quan y tế nào công nhận về khả năng chữa bệnh. Hơn nữa T. không có giấy phép hành nghề y của cơ quan chức năng.
Với những bằng chứng có ti1nh pháp lý đó cộng với tình hình phức tạp nhiều mặt do bệnh chân kéo đến quá đông ở địa phương, việc cấm T. chữa bệnh là đúng đắn cả về mặt bảo đảm kỷ cương pháp luật và mặt xã hội. Đặt một giả thuyết không thể có là lúc đó T. không bị cấm chữa bệnh, số lượng đông đảo bệnh nhân cùng gia đình sẽ không chịu về. Cấm rồi, niêm yết quyết định cấm của Sở Y tế, cả một lá thư của T. dán ở cửa mà số ở lại còn quá đông. Phần của T. cũng có sức đâu mà chữa cho số lượng bệnh nhân đông đảo đó mà toàn là bệnh nặng. Đó là một phần của lý do T. không đáp ứng cuộc trắc nghiệm của đoàn kiểm tra. Đặt một giả thuyết nữa, hôm đó T. trắc nghiệm thành công thì Sở Y tế có ra lệnh cấm không? Chắc là vẫn phải cấm. Trước tình hình rối loạn đó không thể không cấm. Không cần biết T. chữa có kết quả hay không, không có bằng cấp, không có giấy cho phép chữa bệnh là đủ điều kiện cấm rồi.
Rõ ràng trước tình hình đó, T. phải lánh mặt là hợp lý, không phải chạy trốn mà để cho dân buộc phải ra về. Sau một thời gian, T. về nhà thì lần lượt người bệnh vẫn kéo đến xin chữa. T. buộc lòng phải giúp, lại tiếp tục vi phạm. Và từ đó đến nay, lần nào thấy có người đến nhà T. là chính quyền đến lập biên bản. Vào một buổi sáng, anh em chúng tôi hôm đó có 7 người lâu ngày đến thăm T. và gia đinh, không phải bệnh nhân đến xin chữa bệnh vẫn bị công an xã đến lập biên bản. Đó cũng là một chuyện lạ.
Xin nói về cách chữa bệnh của T. Mỗi lần chữa cho bệnh nhân nào, T. yêu cầu bệnh nhân không khai bệnh mà chỉ đưa tay cho T. Cầm tay một lúc T. có thể nói đúng các căn bệnh của bệnh nhân. Có trường hợp T. bắt mạch (thốn, quan, xích) như Đông y nhưng thông thường T. chỉ cầm rà lên rà xuống thế là xong. Xin kể vài trường hợp được tận mắt chứng kiến.
Anh Miền con trai lớn ông Nguyễn Minh Hoàng cán bộ công an nghỉ hưu, hôm đó hai bố con đến thăm T. T. bảo anh Miền đưa tay cho T. Chỉ vài phút sau T. nói: "Phía sau gáy anh có một mảnh lựu đạn nhỏ hình tam giác, hai cạnh sắc, cạnh thứ ba tù (không sắc), nhưng may nó không vào sâu trong não. Tôi (người viết) hỏi bác Hoàng, bác Hoàng nói đã đi Xquang, đúng y như vậy!
Trường hợp sau đây còn thần kỳ hơn. Một hôm tôi đang ngồi với T. ở ngoài vườn, bỗng có một ông già vóc người vạm vỡ đến xin gặp T. Không để ông già kịp nói, T. nói ngay: "Tôi biết ông đến gặp tôi về việc gì rồi, ông đưa tay đây!". Ông già đưa tay cho T. cầm, dùng ngón cái rà lên rà xuống rồi nói: "Con trai lớn của ông bị bệnh ung thư hạch ở cổ, đã di căn xuống dạ dày, ông đến nhờ tôi xuống giúp cho con ông phải không?".
Ông già nghe xong vội vàng chắp tay vái T. nói: "Hoàn toàn đúng như ông nói, bệnh viện không chữa được cho về chờ chết, ông cố giúp cháu sống được ngày nào hayy ngày ấy!".
Chuyện xảy ra trước mắt tôi, người thực, việc thực, quả là một cách chẩn đoán hy hữu, kỳ lạ hết chỗ nói. Cầm tay bố mà biết rõ con ở nhà đau thế nào và biết bố đến để nhờ chữa cho con. Lúc ông này đến, tôi nghĩ chắc ông này đến xin T. chữa bệnh! Tôi hỏi, ông nói: "Tôi tên là Trinh Minh Hiệu ở thôn 4, xã Tam Hải, huyện Núi Thành". Ông nói với T.: "Ông cố giúp cháu, hiện nó nằm kêu la đau bụng quá, mấy ngày rồi cháu không ăn gì!". T. nói: "Hiện nay tôi chưa đến được, ông đưa tay đây!". Ông già đưa tay. T. cầm bàn tay ông, úp bàn tay của mình vào xoa đi xoa lại mấy vòng, xong bảo tôi vào nhà lấy cho T. quả quýt. Tôi đem quả quýt ra, T. vận công vào quả quýt và nhét vào túi ông già, dặn: "Ông đi thẳng về nhà, không được ghé đâu. đến nhà dùng bàn tay tôi đã xoa, xoa nhẹ nhiều vòng vào bụng anh ấy rồi bóc quả quýt cho anh ấy ăn, anh ấy sẽ bớt đau. Nếu anh ấy đòi ăn, ông bảo người nhà nấu cháo loãng cho ăn, không được ăn gì khác!". Ông già vội vàng ra về. Ngày hôm sau ông lên. Lúc đó T. bận đi với anh em chúng tôi vào thị trấn N. Ông già cũng đi. Đến thị trấn. T. cùng anh em dừng lại vào một nhà quen. Một lúc thấy con dâu ông già đèo chồng là bệnh nhân bị ung thư đến. Tôi hỏi ông Hiệu, ông bảo: "Ông T. chưa xuống được nên tôi điện về bảo vợ nó đèo nó lên đón đường nhờ ông giúp". T. bảo đưa bệnh nhân vào phòng trong và chỉ cho tôi cùng vợ bệnh nhân vào, ngoài ra không cho ai vào.
T. vận công, tập trung nhãn lực nhìn vào bụng bệnh nhân nói: "Trong dạ dày đầy bún, bốc mùi hôi thối! Tôi dặn chỉ cho ăn cháo loãng sao lại cho ăn bún để thối như thế này!". T. gọi tôi cúi xuống ngửi, tôi thấy có mùi thối. T. lại gọi vợ bệnh nhân đến ngửi. Vợ nói: "Thưa ông, đúng là thối thật". Vợ bệnh nhân kể lại: "Khi bố về xoa bụng và cho ăn quýt, anh hết đau và đòi ăn. Em đi nấu cháo như bố dặn nhưng chồng em bảo thèm bún lắm, đòi ăn bún cho bằng được. Vì thương chồng, buộc lòng em đi mua bún cho anh ăn mới ra nông nỗi này".
T. vận công nghe rắc rắc rồi phát công vào bụng, vào cổ chữa cho bệnh nhân độ 15 phút. Xong T. bảo: "Xong rồi, cô đèo về, nhưng nhớ chỉ cho ăn cháo loãng thôi đấy!"
San lần đó, tôi về Hà Nội, không theo dõi được việc chạy chữa tiếp theo thế nào!
Một lần khác, tôi về thăm quê ở Quảng Ngãi, gặp ông Ba, Bí thư Đảng ủy phường Lê Hồng Phong, thị xã Quảng Ngãi muốn ra nhờ T. giúp. Tôi đưa ông đến nhà T. Gặp nhau, T. bảo đừng nói gì để T. coi cho! T. cầm tay ông Ba rà lên rà xuống nói: "Ông là người thích chơi thể thao có lần bị chấn thương phải vào bệnh viện cấp cứu. Hiện nay ông bị đau đầu kinh niên. Bệnh đau đầu của ông không phải ngày nào cũng đau mà đau theo chu kỳ. Khoảng 10 ngày đau một lần, cứ thế diễn đi diễn lại tháng này sang tháng khác, đúng không?". Ông Ba nói: "Ông nói đúng quá, không sai một chi tiết nào, xin bái phục". T. bảo: "Ông không có điều kiện gặp tôi thường xuyên để chữa, tôi cho ông bài thuốc nam về tìm uống, bệnh sẽ đỡ". Nói xong, T. lấy giấy viết đơn thuốc đưa cho ông Ba.
Việc chẩn đoán của T. là như vậy!
* * *
Xin chuyển qua câu chuyện T. làm thuốc.
Anh Bốn Bôi quê ở xã Cẩm Kiến, thị xã Hội An, có con gái lớn bị đau cổ họng. Hàng ngày anh đi làm thợ hồ chưa đưa con lên T. được. Anh đến nhà trình bày với T. T. bảo: "Tôi cho tạm ít thuốc về cho cô ấy uống. Lúc nào rảnh đưa cô lên sau cũng được". Nói xong, T. đem ra một túi thuốc bột màu vàng, lấy tờ giấy trắng đặt dưới, lấy cuộn giấy vệ sinh xé làm bốn khúc đặt chéo bốn góc, đổ thuốc vào, lần lượt gấp các góc giấy vệ sinh, xong gấp tiếp tờ giấy trắng lại thành một gói vuông vức. T. lấy bút viết lên tờ giấy trắng mà toàn là chữ Phạn. không ai đọc được. T. dặn anh Bốn Bôi: "Ông đem gói thuốc về đưa cho con ông bảo cứ theo hướng dẫn viết ở đây mà uống, ông không được mở ra!". Bốn Bôi thắc mắc chữ này làm sao con đọc được, nhưng không dám hỏi. Bốn Bôi về nhà đưa thuốc cho con và nói như T. dặn. Xong do bận việc phải đi làm ngoài Đà Nẵng, ba ngày sau mới về hỏi con: "Con uống thuốc ông cho thấy thế nào?" Cô con bảo: "Mỗi ngày ông dặn uống một viên mà thuốc nhiều lắm, con mới uống có ba viên".
Bốn Bôi trố mắt ngạc nhiên, tại sao là viên được, rõ ràng ông cho thuốc bột mà! Bốn Bôi bảo con gái lấy thuốc ra xem lại. Mở ra thấy đúng toàn thuốc viên. Mấy khúc giấy vệ sinh không thấy nữa mà nó biến thành từng mẩu nhỏ bọc từng viên thuốc một. Một việc lạ nữa là T. viết chữ Phạn làm sao đọc được liền hỏi con. Con bảo: "Ông viết chữ quốc ngữ nên con đọc được". Xem lại tờ giấy thì vẫn là chữ Phạn. Lần sau gặp tôi; Bốn Bôi kể lại và hỏi tôi. Tôi chịu không làm sao giải thích được.
T. còn nhiều cách làm thuốc rất lạ chứ không chỉ có vậy.
Một hôm hai bố con Phước và Lương từ Hà Nội đến thăm T. Phước là huynh đệ thân tình với T. Hai bố con Phước ở nhà T. hơn nữa tháng. Buổi tối hôm đó, T. bảo Phước: "Ông muốn coi tôi làm thuốc không?" Phước nói muốn! T. bảo Lương ra bờ rào bứt một số lá, lá gì cũng được, đem vào. Lương ra bờ rào bứt mỗi loại năm, ba lá đưa cho T. T đặt nắm lá vào lòng hai bàn tay vừa vò vừa nhảy nhót. Một lát. T. xòe bàn tay cho hai bố con xem thì nắm lá đã hóa thành 10 viên thuốc màu đen tròn như viên thuốc tể lớn hơn hạt ngô. T. bảo Phước có muốn nếm thử không! Phước gật đầu. T. bảo há mồm ra. T. búng một viên vào mồm Phước bảo nhai nuốt đi. Phước nhai nuốt thấy đúng là viên thuốc tể có mùi thuốc bắc. Chín viên còn lại T. cho vào mồm nhai nuốt hết và cười. T. hỏi hai bố con ông muốn xem nữa không. Phước gật đầu. T. bảo Phước: "Bây giờ đến lượt ông! Ông ra ngoài bốc cho tôi một nắm đất". Phước ra bốc đất nhưng vùng này toàn cát, Phước hỏi cát có được không? T. trả lời, cát cũng được! Phước bốc nắm cát đem vào. T. lại cho vào lòng bàn tay, vừa xoa vừa nhảy nhót như lúc đầu, xong xòe tay ra. Mười viên thuốc màu vàng nhưng lần này là viên nén, dẹp đã nằm giữa bàn tay T. T. cười hỏi muốn nếm thử nữa không? Phước bảo có và một viên thuốc lại bay vào miệng Phước. Phước nhai. Điều lạ lừng là viên thuốc nhai rất mịn không hề thấy có tý cát nào mà hơi chua như vitamin C. Chín viên còn lại T. cho vào mồm nhai nuốt luôn.
Một lần khác, ông Xuân kỹ sư ở Hà Nội cũng là huynh đệ thân tín của T. vào chơi với T. hơn một tháng trời xem T. chữa bệnh. Theo Xuân kể lại có một bệnh nhân nữ đến xin T chữa bệnh. T. bảo bệnh nhân nằm trên phản rồi ra ngoài sân bứt một số lá vạn thọ vào bỏ trong một ly nước. T. bưng ly nước đưa ra ngoài cửa sổ. Sau đó lấy lá vạn thọ ra cho vào mồm nuốt đồng thời uống luôn cả ly nước. Một lát T. ợ cho số lá vạn thọ ra khỏi mồm đặt vào ngực và bụng phía trong áo bệnh nhân xong, T. một tay bưng chiếc ly đưa ra ngoài cửa sổ một tay lấy từ ngực bệnh nhân ra hai viên thuốc tròn màu nâu nhét vào mồm bệnh nhân bảo nhai nuốt. Xong T. đưa tay vào bụng bệnh nhân lấy ra viên thuốc thứ ba. Viên này không đưa cho bệnh nhân mà bảo ông Xuân: "Viên này cho ông!". Ông Xuân cầm viên thuốc ngửi thấy thơm mùi thuốc bắc. Không thấy T. bảo nhai viên thuốc nên đem vào cất trong tủ. Lúc về Hà Nội, quên không lấy viên thuốc.
Tất cả những câu chuyện trên đều có thật trăm phần trăm. Anh em suy nghĩ mãi không thể nào giải thích được.
Việc T. chữa cai nghiện rượu, cai thuốc lá, ma túy xin kể vài mẩu đượcc trực tiếp chứng kiến.
Hôm đó có tôi, bác Hoàng và một số anh em đang ở nhà T. Một ông khoảng 60 tuổi ở xã Tam Lãnh đến nói với T.: "Thưa ông (tất cả những người đến chữa bệnh đều gọi T. bằng ông), tôi nghiện rượu đã hơn chục năm nay, muốn bỏ mà không sao bỏ được, nhờ ông giúp cho". T. hỏi: "Mỗi ngày ông uống bao nhiêu?". Ông già trả lời: Ít là một xị còn nói chung từ nửa lít đến một lít!". T. lại hỏi: "Ông dứt khoát chưa?". Ông bảo: "Dứt khoát rồi vì không có tiền và biết uống rượu là hại sức khỏe lắm". T. bảo: "Ông ngồi xuống đây!" T. nhờ tôi lại bàn lấy một ly nước sôi để nguội trong bình nhựa. Tôi rót đầy ly và đưa cho T., T. cầm ly nước, phát công vào ly đưa cho ông. già và dặn: "Ông gắng uống hết ly này thì bỏ được rượu!". Ông già thấy tôi rót nước sôi để nguội vào ly liền cầm uống. Uống được vài ngụm, khoảng một phần ba ly liền ngưng lại nói: "Ông cho uống thú rượu quá nặng, uống vào muốn đứt hơi. Tôi chưa uống loại nào nặng như rượu này!". T. bảo: "Ông phải uống hết, nếu say ngã, có anh em đỡ đừng sợ." Với quyết tâm từ bỏ rượu, ông cố gắng uống tiếp. Mặt ông đỏ phừng. Đến ngụm cuối cùng, ông ngã quẹo đầu trên ghế. Đúng là ông già say rượu thật. Độ 15 phút sau, ông tỉnh lại, T. bảo: "Ông bỏ rượu được rồi! Từ nay về sau, chỉ cần ngửi thấy mùi rượu là ông lảng tránh, đừng nói chuyện uống. Chiếc ly T. vẫn cầm trên tay. Tôi bảo T. đưa ly tôi cất cho. T. biết ngay nói: "Bố lại muốn kiểm tra nước hay rượu chứ gì!" T. đưa ly cho tôi. Trong ly còn một ít nước, tôi đưa lên miệng nhắp thì vẫn là nước sôi để nguội mà ông già uống lại là rượu quá nặng, say ngã vật ra. Chuyện thật khó hiểu.
Mấy ngày sau ông già Tam Lách quay lại gặp T. cảm ơn rối rít nói: "Nhờ ông tôi bỏ hẳn được rượu rồi! Giờ có ai mời cũng không uống được!"
Một buổi tối T. rủ tôi ra Kế Xuyên thăm huynh đệ. Sau khi thăm vài nhà, T. và tôi đến nhà anh Ngộ khoảng 30 tuổi. Anh Ngộ nói với T.: "Em hút thuốc nhiều quá, biết có hại nhưng chưa bỏ được". T. hỏi: "Mỗi ngày anh hút bao nhiêu điếu?". Ngộ trả lời: "Mỗi ngày em hút trung bình 20 điếu, có ngày hút 30 điếu". "Được rồi. Anh lấy thuốc châm lửa đi". Ngộ móc gói thuốc Du Lịch trong túi ra, lấy một điếu châm lửa rồi đưa cho T. T. cầm điếu thuốc vuốt tới vuốt lui đưa cho Ngộ nói: "Anh muốn bỏ hẳn thuốc phải hút hết điếu thuốc này.Vấn đề là phải hút hết, khó mấy cũng phải hút hết. Nếu chỉ hút một nửa mà thôi thì chỉ bỏ được một nửa!". Ngộ bắt đầu hút. Mới được mấy hơi, anh ta dừng lại nói: Vẫn là thuốc Du lịch thường hút nhưng hôm nay sao nó quá gắt, hút vào đau ngực chịu không nổi". T. bảo: "Tôi nói rồi mà, phải ráng hút hết điếu thuốc!". Ngộ hút tiếp một hơi nữa, ho sặc sụa, ôm ngực kêu đau, không hút được nữa. T. cầm điếu thuốc cười nói: "Như vậy, anhh chỉ bỏ được một nửa chứ không bỏ hẳn được! Đó là tại anh nhé!". Tôi bảo T. đưa điếu thuốc cho tôi. T. đưa cho tôi cười: "Bố lại muốn thử rồi!". Tôi hút hết nửa điếu thuốc còn lại thấy hoàn toàn bình thường, không ho cũng chẳng đau ngực.
Chữa cai nghiện ma túy, T. chữa cho nhiều người khỏi hẳn. Tôi chứng kiến được hai trường hợp: Cậu B và cậu H. là hai thanh niên ở Hà Nội. Hàng năm, T. có ra Hà Nội vài thuần. Nghe T. có tài chữa bệnh, gia đình có con nghiện đưa con đến nhờ chữa.
Hôm đó ở một quán cơm chay đường Thái Hà thuộc quận Đống Đa, con nghiện B. được T. chữa. Trước tiên, T. phát công cho B. hôn mê nằm trên giường không biết gì. T phát công vào đầu, ngực, bụng độ 15 phút là xong. Anh thầy chữa này rất vui tính. Anh ta cầm quả khế ngọt trên bàn cắt ra từng miếng bảo những người chung quanh: "B. mê man rồi, các anh thử cho anh ta ăn miếng khế xem anh ta có ăn được không?". Một người ngồi sát bên cầm miếng khế nhét vào mồm B. Hai hàm răng B. cắn chặt không nhét khế vào được. T. nói: "Không cho ăn được phải không? Tôi sẽ cho B. ăn cho các vị xem!".
T. cầm miếng khế đưa vào miệng B. thì B. ngậm lấy và nhai nuốt trong khi vẫn hôn mê. Tóm lại, người đã hôn mê rồi, T. điều khiển thế nào cũng được.
Cả B. và H. chữa ở Hà Nội được vài lần. Khi T. về, hai thanh niên này được gia đình đồng ý cho đi luôn với T. để được tiếp tục chữa. B. sau khi khỏi hoàn toàn đã lấy vợ và đã có 1 cháu. H. sau khi khỏi nghiện, tình nguyện đi theo thầy để học chữa bệnh.
* * *
Phần này xin dành tập trung nói về hiệu quả chữa bệnh của T.
Nhu phần trước đã phân tích, T. hoặc bất cứ thầy chữa nào cũng không thể chữa khỏi trăm phần trăm cả người bệch và loại bệnh vì đó là quy luật. T. chữa bệnh có hiệu quả nhất định. Chúng tôi chỉ là những người bình thường, không phải bà con họ hàng xa gần gì với T., chỉ có một mục đích là tìm hiểu sự thật đúng như nó vốn có. T. làm đúng, làm được, chúng tôi nói T. làm đúng, làm được. T. làm sai, làm dở, chứng tôi nói T. làm sai, làm dở một cách khách quan, vô tư. Sau đây là những kết quả chúng tôi chứng minh được:
Trở lại chuyện chữa bệnh đau cổ họng cho cô con gái của Bốn Bôi ở Cầu Kim, Hội An. Sau lần T. cho thuốc bột (mà bột đã hoá thành viên) uống đỡ chỉ được một thời gian. Độ một năm sau, cô này bệnh càng ngày càng nặng đến mức không nuốt được cơm mà chi bón cháo loãng. Trong cổ họng như có một cục u, ra cả máu mũi, máu mồm. Gia đình quá nghèo không có tiền đưa đi bệnh viện. Bốn Bôi phải nghỉ làm thợ hồ, đèo con lên gặp T. xin T. giúp.
Chở con đến nhà thì T. đi vắng. Lúc đó là 5 giờ chiều. Hai bố con chỉ còn biết ngồi than thở. Không gặp ông thì chắc là chỉ còn có chết. Bốn Bôi nói với con phải ráng chờ đến tối may ra ông về chứ bây giờ biết đi đâu trong lúc nhà không có tiền. May sao lúc chạng vạng tối thì T. về. Vẫn thấy mặt hai bố con Bốn Bôi T. nói ngay: "Tôi biết bố con ông đợi tôi mà đợi trong giờ phút hiểm nghèo của con ông nên tôi phải bỏ việc đang làm giở, chạy gấp về đây. Yên tâm đi, con ông không chết đâu! Tôi chữa ngay bây giờ!".
T. bảo bệnh nhân nằm lên phản, vận công nhìn vào vùng cổ nói: "Cô này bị một cái u ở vòm họng đã bị vỡ, nhưng là u lành không phải u ác. May là ông đưa lên kịp nếu chậm vài ngày thì xin chịu". Nói xong. T. tiếp tục vận công, phát phóng ngoại khí vào đầu, gáy, đặc biệt tập trung trên vùng cổ. Độ 20 phát. T. bảo xong rồi và dặn: "Bố con ông phải ở đây vài ba ngày, tôi chữa tiếp mới được, một lần chưa được đâu. Ăn uống không lo nhà tôi còn nhiều gạo, rau thì rất sẵn".
Tối hôm đó, Bốn Bôi không ngủ, thức để theo dõi con. Hiệu quả trước mắt là hết ra máu ở mũi, ở mồm, đau có giảm, thở dễ chịu hơn. Sáng sớm hôm sau, đỡ con ra bể nước rửa mặt, cô con bỗng nổi ho và hộc lên một tiếng, cục u trong họng vọt ra dính toàn máu, mủ. Thật mừng hết chỗ nói, cả hai bố con đều rơi nước mắt. Lấy giấy cầm cục u vào đưa cho T. xem. T. bảo: "Tôi biết rồi, u lành mà! Nhưng chưa về được đâu, ở lại chữa tiếp vài lần nữa cho cổ họng bình thường trở lại mới hoàn toàn khỏe mạnh được!". T. còn nói vui: "Về lấy chồng được rồi! Lúc nào cưới nhớ mời tôi nghen!"
Sau đó, bố con về và cô con gái hoàn toàn khỏe mạnh cho đến ngày nay, đã lấy chồng và có 2 cháu.
Nói tiếp việc T. chữa bệnh cho Bùi Thanh Tùng ở Kế Xuyên mà trong phần nói về tiền đã đề cập.
Bùi Thanh Tùng độ 35 tuổi sống khỏe mạnh, bình thường bỗng nhiên các khớp cả chi trên, chi dưới đều sưng đau, có khớp bị lở loét. Gia đình vội vàng đưa Tùng vào bệnh viện đa khoa Đà Nẵng để chữa trị. Bệnh viện qua khám nghiệm chẩn đoán Tùng bi bệnh viêm khớp teo cơ, một chứng bệnh hiếm gặp. Qua 3 tháng điều trị tốn khoảng 5 cây vàng mà bệnh càng ngày càng nặng. Các khớp bị lở loét đầy máu mủ. Các cơ bắp chân, bắp tay mất dần chỉ còn xương với da. Suốt ngày đêm Tùng nằm trên giường bệnh, không ngồi, đứng được, không ăn được. Vợ phải luôn túc trực bón cháo, sữa và phục dịch.
Cuối tháng thứ ba, bệnh viện tuyên bố hết khả năng chữa tri cho về sống được ngày nào hay ngày ấy. Đưa chồng về khỏi nói là vợ Tùng và cả gia đình đau thương như thế nào? Vợ Tùng là một người vợ hết mực yêu thương chồng. "Chẳng lẽ anh ra đi bỏ em và con bơ vơ trên đời này sao?". Không biết làm gì hơn, vợ Từng thắp hương trên bàn thờ gia tiên khấn xin trời đất, thần linh và ông bà tổ tiên độ cho Tùng tai qua nạn khỏi.
Vì phải chăm sóc chồng mấy tháng trong bệnh viện nên vợ Tùng rất ít được ngủ, khấn xong vào giường nằm xuống là ngủ thiếp đi. Độ 12 giờ đêm, vợ Tùng nằm mơ thấy một ông già râu dài đầu tóc bạc phơ đến bên giường bảo: "Chồng con không chết đâu, không nên bi lụy, ta sẽ mách bảo để cứu chồng con. Ngay bây giờ sau khi ta nói, con dậy huy động người nhà thuê xe, làm cáng đưa ngay chồng con theo đường 1 vào hướng nam, qua khỏi cầu T. ... cây số, dừng lại, khiêng chồng con theo đường luồng hướng tây một đoạn là tới. Người này sẽ chữa cho chồng con khỏi bệnh. Nhưng không được chậm trễ. Đưa đến chậm, người này cũng không cứu được. Nhớ kỹ điều đó".
Vợ Tùng quá mừng lập tức nhanh chóng tổ chức đưa chồng đi theo đúng lời Thần dặn. Xe vào đến đầu đường luồng, Tùng được chuyển qua cáng. Vừa khiêng chồng, vợ Tùng năn nỉ số người ở dọc đường luồng xin cho lên trước vì bệnh quá nặng sợ không kịp. Thời điểm này, bệnh nhân từ các nơi đến nhà T. quá đông. Và cuối cùng, Tùng được khiêng đặt trước sân nhà T. Lúc này trời đã gần sáng. Trong nhà, T. đã biết sự việc, bảo mấy người đang đợi chữa ra ngoài và gọi ra sân bảo khiêng Tùng vào ngay, chậm không cứu kịp đâu!
Tùng vừa được đặt xương sàn nhà, T. không nói, không hỏi lập tức vận công khắp người kêu răng rắc, phát công từ đầu đến chân độ 15 phút. Tiếp theo là một đợt bấm huyệt cũng từ chân lên đầu. Trên người T. mồ hôi toát ra đầm đìa. T. thở phào nói: "Khỏi chết rồi, may mà đến kịp, nếu chậm độ một giờ thì vô phương cứu chữa! Nhưng chưa xong đâu, mới bước thứ nhất!". T. bảo vợ Tùng: "Ngay bây giờ huynh đệ sẽ đèo cô đến một chỗ lấy về đây cho tôi một viên gạch cổ. Cô cứ ngồi lên xe, người lái xe biết chỗ". Thế là vợ Tùng ngồi lên xe ra thị xã X. đi về phía tây độ 10km. Xe dừng lại bên đống gạch cổ, vợ Tùng đã thấy T. đang ngồi chọn gạch, quá sức ngạc nhiên về sự có mặt của T. ở đây. T. cầm viên gạch đưa cho vợ Tùng bảo: "Phải về nhanh, lấy rơm đốt cho viên gạch đỏ lên rồi cho vào chậu nước xông cho Tùng". Vợ Tùng ngồi lên xe và người lái xe chạy một mạch về nhà. Về đến sân lại đã thấy T. trong nhà hối thúc phải đi đốt gạch nhanh lên. Càng ngạc nhiên hơn nhưng lo đốt gạch chữa cho chồng, vợ Tùng không dám hỏi.
Tùng được xông toàn thân theo hướng dẫn của T. T. lại bảo: "Mới bước thứ hai. Còn một việc nữa. Đơn thuốc tôi đã viết sẵn, cô ra hiệu thuốc Bắc ngoài thị xã bảo họ hốt cho 10 thang. Mỗi thang 15 nghìn, cô có tiền trong túi không? Nếu không có xuống bảo vợ tôi đưa". Vợ Tùng nói: "Em có tiền đây rồi". Thế là lại lên xe đi mua thuốc. Mang thuốc về, vợ Tùng nói: "Em kể lại chuyện chồng đau, nhờ ông chữa khỏi chết như thế nào cho ông hốt thuốc nghe, ông cảm động lấy vốn chỉ 10 nghìn một thang!" "Giờ cô sắc ngay một thang cho Tùng uống là hoàn toàn yên tâm".
Sau khi Tùng uống thuốc, T. bảo: "Giờ thì ngồi được rồi! Ông ngồi lên tôi coi!" Tùng chống tay ngồi dậy. T. lại bảo: "Ông đứng lên!" Tùng theo lời đứng dậy. T. bảo: "Ông đi được đó, đừng sợ, cứ đi đi". Tùng bước tới rồi bước lui. Cả vợ lẫn chồng đều rơi nước mắt. Vì cả tháng trời, Tùng có có nằm. Tất cả những người có mặt hôm đó đều ngạc nhiên trước cảnh chữa thần kỳ của T.
T.dặn tiếp: "Giờ cô cho tất cả số anh em đi theo về, chỉ cần mình cô ở lại với Tùng, tôi sẽ chữa cho chồng cô khỏi hẳn mới được về. Còn một việc nữa, cô ra ngoài quán mua 3 gói mỳ tôm đem về đây!".
Mỳ tôm mua về, T. lấy hai chiếc bát bảo: "Cô làm một bát 2 gói, một bát một gói. Hai gói là cho chồng, một gói là cho cô. Chồng cô lâu rồi không ăn gì, đang thèm ăn đấy!". Vợ Tùng nhất nhất chấp hành nhưng vẫn sợ nên e ngại. T. biết ngay nói: "Cô lại sợ chồng lâu không ăn mà ăn những hai gói chứ gì! Tôi bảo đảm, không việc gì đâu!".
Ngồi nhìn chồng ăn liền hai gói mỳ ngon lành, vợ Tùng lại khóc vì quá mừng và xúc động. Ngày nào Tùng cũng được T. phát công và bấm huyệt. Đến ngày thứ 10 thì tất cả các khớp lở loét đều lành lặn. Sức khỏe hồi phục trông thấy, có da có thịt không còn tình trạng da bọc xương như lúc mới đưa đến. Hàng ngày T. hướng dẫn Tùng tập thể dục. Ngày thú 11 trở đi, T. bảo vợ Tùng đưa Từng đi từ nhà ra cầu rồi trở về. Đến ngày thứ 15, T. cho hai vợ chồng chạy lúp xúp cũng ra đến cầu rồi chạy về. Đến ngày thứ 19, T. cười bảo: "Ngày mai xuất viện được rồi đó!".
Vậy là qua 19 ngày bằng nhiều phương pháp, T. đã chữa cho Tùng, một bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo trong tình trạng thập tử nhất sinh hoàn toàn khỏi bệnh trong khi bệnh viện bất lực cho về chờ chết. Ta suy nghĩ thế nào về hiệu quả chữa bệnh trong trường hợp này? Tôi là người chứng kiến và gặp vợ chồng Tùng nhiều lần để trao đổi về hiệu quả chữa bệnh thần kỳ của T. Chuyện tặng ti-vi đã nói ở phần trước, không nhắc lại. Vợ chồng Tùng còn một thắc mắc hỏi tôi, tôi không làm sao giải thích được. Đó là tại sao vợ Tùng khi đi lấy gạch đã thấy T. đang ngồi chọn gạch. Lúc về đến nhà lại thấy T. có mặt ở nhà. Vợ Tùng cả đi lẫn về đều ngồi trên xe máy chạy nhanh. Nếu T. đi tắt phải đi bộ làm sao nhanh được. Một hôm nằm với T. tôi đưa thắc mắc đó ra hỏi, T. chỉ cười và nói là các người đó đi đường thẳng còn tôi đi đường tắt có gì mà không hiểu? Tôi suy nghĩ mãi vẫn thấy giải đáp của T. không ổn chút nào, bên trong còn những vấn đề huyền bí không hiểu được mà T. không nói.
Ông Nguyễn Minh Hoàng cán bộ công an nghỉ hưu ở thị xã Quảng Ngãi là bạn thân của tôi. Ông bị sỏi thận lâu năm đã một lần tán sỏi bằng la-de và cũng đã mổ lấy sỏi ra. Nhưng chỉ một thời gian sỏi lại hình thành trở lại. Tôi đưa ông ra gặp T. nhờ T. giúp. Đi lại hàng năm trời, ông Hoàng trở thành huynh đệ thân thiết của T. nhưng T. vẫn chưa chữa cho ông lần nào (đây là điểm khác thường của T., sẽ tập trung nói ở phần sau). Một hôm ông Hoàng ra thăm T., T. bảo: "Ông lại đây tôi giúp. Tôi biết bệnh ông rồi!" . Thế là T. phát công độ 10 phút vào vùng thận. Tôi hỏi ông Hoàng: "Ông có cảm thấy gì không?". Ông Hoàng bảo: "Thấy bình thường, không có gì lạ". Nhưng sáng hôm sau khi ông về đến nhà thì chuyện lạ đã xảy ra. Ông đi tiểu thấy tức và 2 viên sỏi to bằng.hạt đậu xanh vọt ra. Trong ngày hôm đó, mỗi lần đi tiểu sỏi lại tiếp tục ra. Tất cả là 7 viên. Ông nhẹ hẳn người và từ đó đến nay không thấy đau tức ở vùng thận nữa. Chuyện lạ và cũng là thần kỳ ở chỗ chỉ mới chữa một lần mà có hiệu quả trông thấy.
Cô Lê Thị Lan con ông Lê Văn Tám ở thị xã Hội An bi bệnh bướu cổ lỗ tròng, Tây y gọi là bướu độc hoặc ba-giơ-đô. Bướu ở cổ cô Lan càng ngày càng to và hai tròng mắt lồi ra ngoài. Lan lên nhà xin T. giúp. T. chữa cho cô nhưng không được liên tục vì nhiều lúc phải đi các huyện để chữa cho những người không đến được. Tuy vậy sau khoảng một tháng cục bướu ở cổ nhỏ dần và hai tròng mắt cũng bớt lồi. Qua mấy tháng, bệnh ba-giơ-đô của Lan lùi dần. Vài ba năm nay Lan hoàn toàn khỏe mạnh. Căn bệnh quái ác không còn hành hạ Lan nữa. Cô tự nguyện tu tại gia, ở vậy không lấy chồng, và ăn chay trường từ đó đến nay. Thỉnh thoảng T. ra Hà Nội, cô xin đi theo nấu ăn cho thầy để ghi nhớ mãi công ơn người đã cứu cô khỏi căn bệnh mà cô cho là rất nguy hiểm và khó coi đối với giới nữ.
Một cách chữa bệnh kỳ lạ khác. Một hôm chúng tôi đang ngồi với T. trong nhà thì có hai bà vào lứa tuổi trên 50 từ ngoài sân đi vào. Vào đến cửa, hai bà định nói, T. bảo: "Biết rồi, không cần nói! Bây giờ tôi quăng trái quýt này xuống đất, bà nào chụp được quýt tôi chữa, bà nào không chụp được thì thôi!". Nói xong, T. lăn quả quýt trên mặt đất. Hai bà bò trên mặt đất ra sức chụp đến 15 phút, quả quýt lăn hết chỗ này sang chỗ khác không bà nào chụp được! Thì ra là T. dùng công lực điều khiển quả quýt chạy. T. hỏi: "Hai bà muốn chụp nữa không?". Hai bà đều nói xin chụp tiếp vì nghĩ không chụp được sẽ không được chữa bệnh. Quả quýt tiếp tục lăn, 10 phút sau, không bà nào chụp được quả quả quýt. T. nói: "Đủ rồi! Tôi chữa cho cả hai bà xong rồi! Các bà xem lại cánh tay của mình đi!" . Hai bà lúc ấy mới ngớ người ra nhìn vào cánh tay của mình. Thì ra hai bà này đều bị cánh tay cán vá (cánh tay bị khuỳnh không thẳng ra được). Sau hai lần ra sức chụp cho được quả quýt cánh tay đã trở lại hoạt động như tay người bình thường. Hai bà xuýt xoa đưa tay co vào duỗi ra không thấy có trở ngại gì nữa vội sụp xuống cám ơn T. rối rít. Cả T. và chúng tôi cuối cùng không ai biết hai người này tên gì, ở đâu, vì sự việc diễn ra liên tiếp hấp dẫn mọi người, không ai nghĩ đến việc hỏi tên họ, địa chỉ. Riêng T. không mấy khi hỏi tên họ, địa chỉ người bệnh.
Chúng tôi hiểu T. đặt ra chuyện chụp quả quýt là để kích thích bệnh nhân phát huy sức lực của cánh tay tới mức tối đa để chữa dị tật ở cánh tay. Ngoài ra không rõ T. có tác động thêm gì nữa không, điều đó chỉ có T. biết. Riêng việc điều khiển quả quýt lăn và biết né tránh để hai bà không chụp được đã là một việc thần kỳ.
Trước sự việc đó chúng tôi chỉ biết kết luận: Đây là một cách chữa bệnh đầy sáng tạo và độc đáo.
Về chữa mắc xương chúng tôi biết có hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất: Một anh ở thành phố Quy Nhơn tỉnh Bình Định (không rõ tên họ địa chỉ cụ thể) ăn cá ngừ bị mắc một khúc xương nằm sâu trong ống thực quản. Gia đình đã dùng các cách chữa mẹo không kết quả. Qua mấy ngày, chỗ mắc xương bị nhiễm trùng viêm tấy nặng gây khó khăn cho ăn uống. Đưa vào bệnh viện thành phố, các bác sĩ hết lòng cứu chữa, đưa xuống không được mà dùng dụng cụ y tế sắp ra cũng không được. Đã nghĩ đến dùng biện pháp phẫu thuật nhưng sợ nguy hiểm vì vết thương bị viêm tấy nên nên đành bất lực cho về nhà tìm phương pháp khác.
Lúc đó có người mách chỉ có ông T. ở khu vực Q. may ra có thể chữa được. Gia đình lập tức thuê xe hỏa tốc chạy đi mời bằng được T. vào. Cũng may lúc đó, T. ở nhà không đi đâu vì T. hay đi nơi này nơi khác. Mời được T. rồi, xe lại hỏa tốc chạy về.
Đến nơi, T. bắt tay vào chữa ngay. Một số bác sĩ ở bệnh viện được tin kéo đến chứng kiến. T. vận công lực đến đỉnh cao, toàn thân rung động, răng nghiến ken két, hai tròng mắt như muốn lồi ra ngoài, đưa toàn bộ nội khí ra hai bàn tay, từ bên ngoài lồng ngực tập trung đẩy từ dưới lên trên và hét lên một tiếng. Chiếc xương cá ngừ không chịu nổi áp lực lớn vọt lên miệng ra ngoài. Những người có mặt hôm đó, cả mấy bác sĩ ồ lên một tiếng tỏ lòng khâm phục, ca nhợi cách chữa thần kỳ của T.
Vấn đề còn lại là theo đơn bác sĩ người nhà đi mua thuốc kháng sinh về cho bệnh nhân uống để giải quyết chỗ bị viêm tấy.
Trường hợp thứ hai xảy ra ở thành phố Buôn Ma Thuột. Sau buổi liên hoan thịt thú rừng, một người bị mắc xương, cũng nằm sâu trong ống thực quản. Gia đình, bạn bè và các bác sĩ bệnh viện thành phố làm đủ mọi cách nhưng không lấy xương ra được. Giống như trường hợp ở Quy Nhơn có người mách phải đi mời thầy T.. Tôi viết theo cách gọi thông thường nhưng T. không bao giờ chịu người khác gọi thích bằng thầy. T. nói "Tôi có dám làm thầy đâu mà gọi bằng thầy!".
Mời được T. lên, T. thao tác y như trường hợp ở Quy Nhơn. Mẩu xương vọt ra ngoài. Lần này cũng có các bác sĩ ở bệnh viện thành phố Buôn Ma Thuột tham dự. Cách chữa mắc xương của T. là như vậy, tin hay không tùy các bạn.
* * *
Đến đây chúng tôi xin trở lại bài báo đầu tiên với nhan đề "Một người có khả năng chữa bệnh đặc biệt"! Những điều tờ báo viết về hiệu quả chữa bệnh của T. là hoàn toàn đúng sự thật, không hề có chuyện dối trá, lừa bịp mang màu sắc mê tín dị đoan. Có thể tóm tắt lại sau đây:
- Chị Lê Thị Lệ 29 tuổi bị lao màng bụng và u đại tràng đã chữa ở bệnh viện ĐKĐN 4 tháng nhưng không khỏi.
- Anh Võ Nã 36 tuổi bị đau cột sống được bác sĩ Đ.X C. ở BVĐKTK chữa 15 ngày. Sau đó chữa tiếp ở phòng mạch của Đông y sĩ N.T.B 20 ngày nữa vẫn không khỏi.
- Cháu Lê Thị Hằng 16 tuổi bị bệnh đau đầu mãn tính sau đó chuyển sang hội chứng tâm thần đã chữa ở BVĐKĐN không khỏi.
- Chị Lê Thị Hồng Xuân 46 tuổi công tác ở Z176 Tổng cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng đã nghỉ hưu bị đau đầu kinh niên đã chữa ở BVXP và có đến một số giáo sư bác sĩ ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng không bớt.
- Bà Đỗ Thị Năm 49 tuổi bị đau dạ dày đã vào thành phố Hồ Chí Minh chữa trị 3 tháng tại Trung tâm chẩn đoán y khoa HH vẫn chưa bớt.
- Anh Nguyễn Đăng Bảng 39 tuổi bị bệnh đường tiêu hóa đã điều trị ở BVĐKTK không khỏi.
- Và vân vân...
Tất cả những bệnh nhân đều được T. chữa một cách nghiêm túc, hết lòng và cả hết sức trước mặt nhóm phóng viên với nhiều công năng đặc biệt có ca-mê-ra ghi hình như phát công từ gần đến xa, phát nội khí nóng, lạnh bằng tay cả bằng mắt, phát công cách tường, cho hôn mê, cho tỉnh, v.v. Bài báo đã tường thuật từng chi tiết quá trình chữa trị của T., chúng tôi không nhắc lại. Chúng tôi chỉ khẳng định một điều là bài báo ấy viết đúng đắn, nghiêm túc, đúng sự thật, có băng ghi hình kiểm chứng. Hiện nay chúng tôi còn lưu giữ được băng ghi hình này. Sở dĩ chúng tôi có băng ghi hình là do một sự ngẫu nhiên. Trong dịp gặp một người bạn, biết anh có băng ghi hình này chúng tôi mượn đi in sang lại. Chúng tôi không hề quen biết và chưa có liên hệ nào với nhóm phóng viên tờ báo đó. Nói vậy là để chứng minh sự khách quan. Chúng tôi có nhận được một thông tin là bài báo đó do ủng hộ một hiện tượng mê tín dị đoan phản khoa học nên ông trưởng nhóm phóng viên bị thi hành kỷ luật "treo bút" 3 tháng, không biết có đúng không? Nếu đúng thì thật oan cho ông ấy.
Trở lại hiệu quả chữa trị đối với các bệnh nhân trên. Những bệnh nhân trên được T chữa trị có người 10 - 15 ngày, có người chữa 1 - 2 tháng. Có người khỏi như anh Võ Nã, cháu Lê Thị Hằng. Có người giảm được từ 70% đến 50% như chị Lê Thị Lệ, chị Lê Thị Hồng Xuân, bà Đỗ Thị Năm, anh Nguyễn Đăng Bảng. T. chữa hoàn toàn không lấy tiền mà hiệu quả được như vậy là quý trong khi những người này đã chữa ở các cơ sở y tế tốn nhiều tiền mà bệnh không khỏi. Tất nhiên ở bệnh viện cũng đã chữa khỏi, chữa thuyên giảm nhiều người bệnh, nhiều loại bệnh nhưng phải tốn tiền. Ngoài tiền khám bệnh, tiền thuốc theo quy định của Nhà nước, ở bệnh viện còn nhiều loại tiền tiêu cực khác mà người bệnh phải gánh chịu. Còn đến với T. thì không tốn tiền. Đó là cái lý do duy nhất tại sao T. bị cấm bao nhiêu lần mà người bệnh vẫn kéo đến đông. Xin nói lại một điều là T. không có khả năng chữa khỏi mọi người bệnh, mọi loại bệnh. Các bệnh viện từ địa phương đến Trung ương cũng vậy, vì đó là quy luật của tự nhiên. Đừng bao giờ thần thánh hóa người chữa, bất kể là ai.
* * *
Phần còn lại của chương này xin tập trung nói về chuyện chữa căn bệnh hiểm nghèo - bệnh ung thư.
Trước hết xin trích lời khẳng định của một bác sĩ nói với các nhà báo: "Trong y văn thể giới từ trước đến nay chưa từng công bố một trường hợp nào chữa trị được ung thư gan". Trải qua các thời đại, bệnh ung thư các loại quả là bệnh nan y, một căn bệnh hiểm nghèo vào loại bậc nhất trên thế giới. Từ lời khẳng định trên. chúng tôi hiểu rằng với nền y học hiện đại trên thế giới, chưa có trường hợp ung thư gan nào được chữa khỏi.
Công bố trên chắc là đúng, vì qua theo dõi chúng tôi thấy y học hiện đại chỉ có thể làm chậm lại, ngăn chặn sự tiến triển của bệnh ung thư gan, chứ chưa có khả năng chữa khỏi hoàn toàn. Nếu bệnh mới ở thời kỳ tiền ung thu hoặc mới nhóm bệnh, được phát hiện sớm, y học hiện đại có khả năng chữa khỏi. Nhưng hầu hết bệnh nhân khi đến bệnh viện đã ở thời kỳ nặng nên bệnh viện cũng đành bất lực.
Đó là y học hiện đại còn các phương pháp khác như y dược học dân tộc, y học năng lượng, thuốc nam gia truyền có chữa được không, xin mời các bạn tham khảo phần chứng minh sau đây.
Qua báo chí trên thế giới và trong nước, chúng tôi thử tìm hiểu xem có nơi nào chữa được căn bệnh quái ác này chưa? Tiếp cận tư liệu. thông tin không nhiều, nhưng chúng tôi đã phát hiện thấy ở Trung Quốc và ngay ở nước ta một số nơi đã chữa được bệnh ưng thư, trong đó có ung thư gan.
Ở Trung Quốc có ông Vương Chấn Quốc đã để cả mấy chục tuổi xuân của mình vào việc nghiên cứu loại thuốc Trung y chống ung thư. Cuối cùng ông đã thành công. Ông phát minh ra loại thuốc mang tên "Thiên tiên dịch" và "Thiên niên nang" được nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới công nhận.
Hai loại thuốc Thiên tiên dịch và Thiên tiên nang được Hiệp hội chống ung thu quốc tế công nhận là loại thuốc có giá trị chống ưng thu vào loại hàng đầu trên thế giới. Ông còn phát minh ra lọai thuốc thứ ba có tên là "Thiên tiên dinh dưỡng", phòng chữa ưng thư, chống lão suy và tăng cường thể lực. Với những thành tích phát minh trên, Vương Chấn Quốc trở thành nhà khoa học Trung Quốc đạt được nhiều giải thưởng, nhiều huân chương cao quý ở giải hạng cao nhất tại một Hội chợ phát minh Quốc tế. Ông được các chuyên gia chống ung thư hàng đầu của hơn 30 nước trên thế giới bầu làm Hội trưởng Hiệp hội chống ung thư quốc tế. Với khả năng chữa ung thư đạt hiệu quả cao, ông được Chủ tịch Giang Trạch Dân đến thăm những bốn lần, cũng là việc hiếm thấy. Thiên tiên nang, đặc biệt là Thiên tiên dịch của ông có tác dụng chữa trị hiệu quả các loại ung thư thực quản, ung thư dạ dày, ung thư ruột, ung thư phổi, ung thư gan, ung thư vú. Tỷ lệ chữa khỏi và kìm hãm bệnh đạt 80,2%. Hiện nay có hàng vạn bệnh nhân ung thư các loại ở hơn 50 quốc gia đã được chữa trị. Hàng chục ngàn bệnh nhân ung thư ở Nhật Bản đã được chữa trị có hiệu quả bằng loại thuốc trên.
Ngay ở Việt Nam ta cũng có mấy nơi chữa được bệnh ung thư bằng y dược học dân tộc.
Cháu Trần Thị Ngọc ở cây số 5, ấp 5 xã Sông Trâu, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, 19 tuổi đang học lớp 11 thì bị căn bệnh hiểm nghèo xơ gan cổ trướng. Chân tay, mặt mày cháu Ngọc bị sưng vù, bụng trướng lớn. Gia đình đưa cháu vào Bệnh viện Thống Nhất điều trị. Sau 20 ngày chữa chạy bệnh ngày càng nặng, không ăn được, thỉnh thoảng bị những cơn đau khủng khiếp. Bệnh viện cho về chờ chết
Bạn bè mách có thầy Bùi Quốc Mẫn ở nhà thuốc Mậu Phước Đường cu trú tại Trà Cổ, xã Bình Minh, huyện Thõng Nhất, tỉnh Đồng Nai - một đông y sĩ gia truyền có thể chữa được bệnh này. Lập tức gia định đưa cháu Ngọc đến gặp thầy Mẫn. Sau khi bắt mạch, chẩn đoán, thầy nói: "Bệnh cháu quá nặng, đã ở thời kỳ cuối", nhưng động viên gia đình còn nước còn tát. Thầy kê đơn, bốc thuốc dặn về nhà sắc một thang cho cháu uống ngay. "Thuốc rất đắng cố cho cháu uống hết!".
Uống thang đầu tiên cháu đi ngoài nhiều lần, toàn chất nhầy nước đen hôi thối, bụng bớt đau, người nhẹ dần. Uống thang thứ hai, mặt, chân tay, bụng xẹp dần, không bi trướng nữa. Cháu đòi ăn và ăn khá, thấy ngon miệng. Hết thang thú bảy, cháu đi lại, chơi đùa với các em được. Khỏi phải nói bố mẹ cháu mừng như thế nào, nghĩ lại nếu để chậm vài ngày mới đến thầy Mẫn chắc không còn được thấy mặt con nữa. Liều chỉ định của thầy là 40 thang nhưng chỉ sau 20 thang, sức khỏe cháu Ngọc ngày càng hồi phục, cháu đã đến trường học trở lại. Cháu Ngọc thi đỗ đại học, học ở Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thủ Đức.
Một trường hợp khác, chị Lê Thị Bích Thu 38 tuổi cu trú tại 8G thôn Long Nguyên, xã Long Điền, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vú bên trái nổi lên một cục như hòn bi. Vào Trung tâm ung bướu Gia Định, sau khi làm đủ các xét nghiệm, cả sinh thiết tế bào, kết luận chị bị ung thư vú.
Bệnh viện quyết định mổ cắt khối u và dùng phương pháp xạ trị để tiêu diệt tiếp tế bào ung thư. Được 3 tháng sức khỏe tốt, bệnh viện cho về. Được hơn một năm bị đau lại, chị Thu lại lên Trung tâm ung bướu Gia Định diều trị tiếp. Để ngăn chặn di căn, các bác sĩ quyết định mổ cắt bỏ buồng trứng. Cắt buồng trứng xong, thấy phổi có vấn đề, bệnh viện cho xét nghiệm lại toàn bộ, chụp phim cắt lớp hai lá phổi, và một tin sét đánh đến với chị Thu và gia đình: Ung thư đã di căn vào phổi, gây tràn dịch màng phổi. Bệnh viện lại cho xạ trị, rút nước ở phổi cùng với các loại thuốc đặc trị nhưng bệnh ngày càng nặng. Bệnh viện Ung Bướu cho về sống được ngày nào hay ngày ấy. Không biết làm gì hơn, chồng chị lại đưa chị vào bệnh viện An Bình. Sau 3 tuần điều trị không có tác dụng gì chị được xuất viện về nhà trong điều kiện thập tử nhất sinh. Không lẽ để chị chết, chồng chị lại đưa chị vào Bệnh viện Bà Ria. Vào đây các bác sĩ chỉ còn biết cho chị thở ôxy và truyền Moriamin với độ đạm cao. Người chị chỉ còn da bọc xương và thường xuyên đau đớn gần như không còn sức chịu đựng. Bệnh viện Bà Rịa cho chị về.
Chị biết mình không thoát khỏi cái chết nên đã viết di chúc để lại cho chồng trăn trối lời cuối cùng và hôn mê không còn biết gì nữa. Thân nhân, họ hàng đã dựng rạp, mua quan tài chuẩn bị làm đám tang.
Anh Tiến chồng chị đã có địa chỉ của thầy Mẫn Mậu Phước Đường trước đây hai tháng, nhưng anh không tin, vì các bệnh viện Nhà nước đầy đủ dụng cụ y tế, thuốc men, với những bác sĩ chuyên khoa ung thư tài ba còn bất lực thì một thầy thuốc đông y với những cây, lá, rễ, củ làm sao chữa được căn bệnh quái ác này. Nhưng giờ đây, trước cái chết từng giờ, từng phút của vợ, anh đành đến gặp thầy Mẫn với hy vọng mong manh cuối cùng của người chồng hết lòng thương yêu vợ. Anh trình bày với thầy Mẫn tất cả diễn biến bệnh tình của vợ và cách chữa trị của 3 bệnh viện. Thầy Mẫn lặng lẽ cắt cho anh 3 thang thuốc về uống thử, và chuyện lạ đã xảy ra.
Uống thang đầu, chị Thu hết hôn mê. thấy dễ chịu. Uống hết 3 thang chị nằm được, ngủ tốt hơn và đòi ăn. Trước đó chị chỉ ngồi dựa mới thở được, không ăn được. Cả nhà phải thốt lên đúng là thuốc thánh. Uống hết 20 thang, sức khỏe chị hồi phục, đi lại bình thường. Nhờ những cây, lá, rễ, củ và cái tâm của thầy Mẫn, chị Thu đã thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, khỏe mạnh, đi làm việc trở lại.
Bạn suy nghĩ gì về hai trường hợp trên? Chúng tôi chỉ có suy nghĩ là đừng bao giờ coi thường Đông y nói chung và Đông y Việt Nam nói riêng. Bác Hồ chúng ta đã từng đề xướng và kêu gọi phải thực hiện Đông Tây y kết hợp đó sao! Tây y có cái mạnh của Tây y, Đông y có cái mạnh riêng của nó. Mỗi phương pháp đều có điểm mạnh và cả mặt hạn chế. Phải kết hợp, bổ sung cho nhau để đạt tới mục đích chữa được bệnh, cứu được người.
Việc dùng Đông y chữa các căn bệnh hiểm nghèo có hiệu quả không dừng lại ở đây. Ở tỉnh Hòa Bình có bà lương y Đinh Thị Phiễn người dân tộc Mường có bài thuốc gia truyền chủ vị là cây xạ đen kết hợp với một số cây, lá khác đã chữa được nhiều bệnh nhân ung thu có hiệu quả. Bài thuốc của bà Phiễn đã được Thiếu tướng, Giáo sư Tiến sĩ khoa học Lê Thế Trung, Phó chủ tịch Hội ưng thư Việt Nam khẳng định bằng nhiều nghiên cứu khoa học, kể cả sưu tầm các kết quả nghiên cứu của nước ngoài về cây xạ đen và họ hàng của nó trong tác dụng chữa trị và ngăn ngừa bệnh ung thư. Mặt khác Sở y tế tỉnh Hòa Bình cũng đã làm một việc rất hợp lòng dân, rất đáng hoan nghênh là bước đầu công bố kết quả nghiên cứu về bài thuốc chữa ung thư của bà Phiễn chứ không ngăn cấm, vùi dập như một vài nơi khác. Có thể nêu một số dẫn chứng hiệu quả chữa bệnh của lương y Phiễn.
Anh Tụ nguyên là lái máy bay ở Hà Nội, ông Bùi 70 tuổi ở Hải Dương, anh Nổi 40 tuổi ở Hà Tây khi đến với bà Phiễn đang ở trạng thái bệnh rất nặng. Sau khi uống thuốc đều đã vượt qua cửa tử, ăn ngủ tốt, các dấu hiệu của căn bệnh quái ác bị đẩy lùi.
Ông Đỗ Văn Tại ở Đội Bình, Ứng Hòa, Hà Tây bị ung thư môn vị đã được bệnh viện mổ vị tràng nhưng không khỏi. Ông cầu cứu đến bà Phiễn. Sau khi uống 60 thang, bệnh khỏi và hiện nay đã khỏe mạnh.
Ông Đỗ Công Đoạn ở Đông Xá, Bình Lục, Hà Nam bị ung thư phế quản trái đã điều trị Tây y nhưng không khỏi. Khối u lớn 6 x 4cm. Sau 2 tháng uống thuốc bà Phiễn, đi kiểm tra X-quang, không còn khối u, chỉ phổi bị xơ hóa. Ông Đoàn hiện sinh hoạt bình thường..
Bệnh nhân ung thư Đặng Văn Được ở 11B Trần Quốc Toản, Trần Phú, Hải Dương. Tây y chẩn đoán ung thư dạ dày, đã mổ cắt dạ dày nhưng bị di căn lên phổi và có hạch ở vùng rốn phổi. Sau khi uống thuốc bà Phiễn một thời gian đi kiểm tra Tây y lại thì u và hạch vừng phổi đã biến mất.
Dẫn chứng kết quả còn nhiều nhưng chỉ xin đưa một trường hợp đặc biệt nữa.
Ông Đoàn Khu Tự ở 20/4 khu phố 7, phường Tân Biên, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Tháng 3 năm 2003, bỗng nhiên lưỡi ông bị hoại tử, thối rữa từng mảng, không nói được, không ăn uống được phải dùng bơm. Gia đình đưa ông vào Bệnh viện Pháp - Việt ở thành phố Hồ Chí Minh. Bệnh viện chẩn đoán ông bị ung thư lưỡi, vô phương cứu chữa. Cả Bệnh viện ung bướu Gia Định, Bệnh viện K Hà Nội cũng đành bất lực. Như vậy là các bệnh viện chuyên khoa cấp cao nhất không làm gì được trước căn bệnh hiểm nghèo. Ông về nhà đợi ngày sang thế giới bên kia.
May sao một người bạn đưa cho gia đình xem tờ báo Công an nhân dân có đăng tin về bài thuốc gia truyền chữa được ung thư các loại của bà Phiên. Thế là gia đình cấp tốc một lần nữa đưa ông ra Hà Nội. Một điều may mắn nữa là ông được gặp Giáo sư Lê Thế Trung và chính Giáo sư đã giới thiệu để lương y Đinh Thị Phiễn khám chữa cho ông. Cách chữa của bà Phiễn là dùng tinh bột xạ đen đắp trực tiếp vào vùng lưỡi bị hoại tử. Và chuyện thần kỳ đã xảy ra. Sau hơn một tháng chữa trị, các vết hoại tử ở lưỡi biến mất, ông Tự bắt đầu nói được, ăn uống bình thường trở lại. Sức khỏe hồi phục và căn bệnh quái ác bị đẩy lui hoàn toàn. Để chắc ăn, ông trở lại Bệnh viện Pháp - Việt làm các xét nghiệm kiểm ta. Các bác sĩ ở đây bị bất ngờ vì sau ba lần sinh thiết ở ba tầng cơ lưỡi của ông Tự đều không phát hiện được một tế bào ung thư nào!
Bà Phiễn có được học hành về y khoa lần nào đâu! Với chuyên khoa ung thư bà lại càng không biết. Chỉ với bài thuốc gia truyền tổ tiên để lại cùng một số gia giảm theo từng loại bệnh, người bệnh, bà đã chữa được căn bệnh ung thư một cách có hiệu quả.
Một thông tin gần đây nhất làm xôn xao nhân dân Cà Mau và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đó là việc chữa bệnh bằng thuốc Nam của anh Hứa Thành Chương ở thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Hơn 3 năm nay anh đã chữa được nhiều bệnh thông thường, đặc biệt là chữa được bệnh ung thư cho nhiều người dân nghèo.
Bố anh là ông Hứa Thành Tâm bị bệnh xơ gan cổ trướng đã chữa ở nhiều bệnh viện, cả ở Trung tâm ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không khỏi chỉ chờ ngày chết. Gia đình đã đi mua đất chuẩn bị đào huyệt. Anh Chương được cử đi Tiền Giang để báo cho bà con về lo tang lễ.
Đến Mỹ Tho, trong một quán nước.,tình cờ anh gặp và làm quen với ông Ba Việt. Anh kể cho ông Ba Việt nghe về căn bệnh xơ gan cổ trướng của bố, quá trình chữa chạy và hiện đang chờ chết ở nhà. Nghe vậy ông Ba Việt kể là trước đây ông cũng bị xơ gan cổ trướng chữa chạy từ tỉnh tới Trung ương mất gần 28 lạng vàng mà không khỏi. Ông bán cả ruộng vườn và đã lập di chúc để lại.
Trong lúc không còn gì để hy vọng, ông được một người bạn ở U Minh cho uống mấy thang thuốc nam. Nhờ mấy thang thuốc đó ông vượt qua được cửa tử, bệnh xơ gan cổ trướng bị đẩy lùi, ông sống khỏe mạnh cho đến ngày nay.
Như người chết đuối vớ được cọc, anh Chương năn nỉ ông Ba Việt xin lại toa thuốc, hy vọng cứu sống bố, và điều kỳ lạ đã xảy ra. Sau khi cho bố uống 26 thang thuốc do tự mình thu hái, sao chế theo đúng toa ông Ba Việt cho, bố anh khỏe mạnh, trở lại bình thường như người chưa từng biết bệnh xơ gan cổ trướng. Năm nay ông đã 80 tuổi.
Anh Chương nghĩ: cái toa thuốc thần này đã cứu được hai bệnh nhân xơ gan cổ trướng trong tình trạng gần đất xa trời, tại sao mình không đem ra cứu giúp bà con nghèo khổ. Nhưng anh lại nghĩ: mình vốn là dân chài lưới, văn dốt vũ dát, không biết một tý gì về y học, ai tin mình chữa được bệnh. Kệ, cứ thử xem sao! Chính từ cái sự thử xem sao ấy, Hứa Thành Chương trở thành thầy thuốc nổi tiếng suốt dọc vùng sông nước Cà Mau, cả vùng sông Tiền, sông Hậu. Thấy uống thuốc thầy Chương có hiệu quả, thầy lại không lấy tiền, dân nghèo từ bốn phương kéo đến ngày càng đông.
Ban đầu anh chỉ dám hốt thuốc cho những người mắc bệnh thông thường. Anh lại thử hốt cho những phụ nữ bị viêm loét tử cung - một bệnh tương đối phổ biến đối với chị em vùng sông nước. Điều thần kỳ xảy ra là toa thuốc ấy cũng chữa được bệnh viêm loét tử cung. Bệnh nhân uống vào đều khỏi. Như vậy Hứa Thành Chương chẳng những chữa được bệnh thông thường mà anh đã chữa được các bệnh khó như xơ gan cổ trướng, viêm loét tử cung, ra máu trắng, thận ứ nước, cả viêm gan siêu vi B, C.
Người khỏi bệnh rất nhiều không kể hết được, chỉ xin đưa một dẫn chứng điển hình.
Chị Lê Thị Thùy Dung quê gốc ở Sông Đốc Cà Mau theo chồng sang định cư ở Úc. Bỗng nhiên chị bị ốm nặng phải vào bệnh viện. Các bác sĩ Úc sau khi làm xét nghiệm kết luận chị bị ung thư tử cung, khối u có kích thước 60mm.
Đầu năm 2002, chị đã làm mọi thủ tục, đóng trước viện phí 10.000USD chờ ngày nhập viện để mổ. Chưa biết được kết quả sau khi nhập viện thế nào, chị đưa chồng con về thăm quê để lỡ xảy ra điều chẳng lành sau này khỏi phải ân hận.
Về quê nhà ở thị trấn Sông Đốc, người nhà đưa chị sang anh Hứa Thành Chương khám và hốt thuốc uống thử. Uống được 10 thang, nhân đưa con lên thành phố Hồ Chí Minh thăm bạn bè, chị vào Bệnh viện Hòa Hảo kiểm tra bằng siêu âm. Chuyện lạ bắt đầu xảy ra. Khối u qua siêu âm chỉ còn 30mm, nhỏ được một nửa. Về Sông Đốc uống tiếp 15 thang nữa chị nhớ chồng con phải trở về Úc.
Đến đây mới thật là thần kỳ. Vào bệnh viện Úc kiểm tra lần cuối, bệnh viện đã hoàn lại số tiền cho chị vì khối u không còn. Chị đã hoàn toàn khỏi bệnh. Vợ chồng chị quá đỗi vui mừng gọi điện thoại về Sông Đốc báo tin vui, hết lòng cám ơn thầy Chương, gửi biếu thầy một chai rượu quý và một tút thuốc lá.
Xin đưa một dần chứng nữa về chữa trị bệnh ung thư gan. Anh Trần Đương Sang ở thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định 72 tuổi bị đau vùng gan. Vào bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh, cả 2 bệnh viện sau khi khám nghiệm kiểm tra, làm sinh thiết đều thống nhất kết luận là anh Sang bị ưng thư gan. Bệnh viện Chợ Rẫy quyết định anh phải vào để tiến hành xạ trị, hóa trị. Gia đình không đủ tiền xin về tìm cách chữa khác.
Có người mách nên dùng mật gấu may có thể chữa được, ít ra là có thể kéo dài cuộc sống. Người nhà lên Buôn Ma Thuột tìm mua được một cái mật gấu cho anh uống. Liều lượng dùng theo hướng dẫn của một lương y. Sau khi dùng hết cái mật gấu, vùng gan không đau nữa. Anh đã vào viện kiểm tra lại, không còn dấu hiệu của bệnh ung thư gan. Đến nay, đã qua 5 năm, anh Sang hoàn toàn khỏe mạnh, thân thể tráng kiện. Tôi đã gặp anh vài lần, hỏi anh và viết lại câu chuyện này.
Để dừng lại phần dẫn chứng hơi nhiều này, chúng ta thấy gì? Riêng chúng tôi thấy: Trong khi y văn thế giới từ trước đến nay chưa từng công bố một trường hợp nào chữa trị được ưng thư gan thì ở Việt Nam ta có những công dân xuất thân là đông y sĩ, thậm chí là nông dân, bạn chài lưới với một vài bài thuốc gia truyền đơn giản đã chữa được các loại bệnh nan y, hiểm nghèo. Điều đó đúng là khó tin nhưng là chuyện có thật. Và, chuyện lạ có thật ở nước ta còn nhiều chưa phải đã hết.
Viết những câu chuyện này, chúng tôi muốn qua thực tế cuộc sống chứng minh một điều. Ở nước ta, dân tộc ta, thời nào cũng có những người tài, những người có khả năng đặc biệt trên nhiều phương diện. Vấn đề đặt ra là phải tìm hiểu, nghiên cứu, xác minh, khai thác, tạo điều kiện cho họ phát huy, phát triển, phục vụ lợi ích cho dân, cho nước, không nên vội quy chụp, trù dập. Tất nhiên phải phân biệt đâu là thật, là khoa học, đâu là giả, là lừa bịp, mê tín dị đoan.
Giờ xin trở lại câu chuyện T. chữa bệnh, đặc biệt là T. có chữa được bệnh ung thư không?
Trở lại năm 1998, T. có chữa hai trường hợp báo chí nói nhiều.
Trường hợp thứ nhất là anh Nguyễn Ngọc Trai ở tổ 19 phường An Mỹ, thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Anh bị đau vùng gan vào bệnh viện Tam Kỳ xin điều trị. Theo các bác sĩ nói với nhà báo: Qua siêu âm thấy gan to hơn bình thường, có biểu hiện sưng tấy. Từ kết quả siêu âm, các bác sĩ kết luận: Trai bị viêm gan cấp với bệnh lý viêm gan mãn, có khả năng ung thư gan nguyên phát. Đây mới là chẩn đoán ban đầu, để chắc chắn có phải ung thư gan thật không phải tiến hành thử Test, trong đó có xét nghiệm sinh hóa (alpha - photo protéin) và làm sinh thiết mẫu vật. Thế nhưng chưa kịp tiến hành thì Trai xin ra viện. Theo anh Trai kể: "Chữa ở bệnh viện tốn nhiều tiền mà tôi thì nghèo không biết có khỏi không, tôi đến thầy T., vấn đề quan trọng là chữa không tốn tiền nên tôi xin thầy chữa. Chữa được một tháng 4 ngày, thấy bệnh thuyên giảm rõ rệt". Hiện nay qua 3 năm rồi anh vẫn khỏe mạnh, bình thường. Chúng tôi cứ cho là anh Trai bị viêm gan sưng tấy, nghi ung thư như bác sĩ đã nói chứ chưa khẳng định là ung thư mà T. chữa khỏi đã là quý.
Trường hợp thứ hai là bà Nguyễn Thị Vinh ở xã Tam Anh, huyện Núi Thành bị đau ở vú. Bà được một bác sĩ tên Từ, người cùng địa phương khám, chẩn đoán bà bị ung thu vú. Được T. chữa trong thời gian một tháng, bệnh đã khỏi. Bà chưa qua xét nghiệm và làm sinh thiết ở bệnh viện, do đó cũng chưa chắc là bà bị ung thu vú. Cứ cho bà bị u lành ở vú, T. chữa khỏi vẫn là tốt.
Việc T. chữa các loại bệnh ung thư, tuy hiện nay đã có một số tư liệu nhưng để thật chắc chắn, chúng tôi cần có thời gian ới gặp từng người bệnh theo dõi thật kỹ từng trường hợp, nhất là phải được y học hiện đại làm sinh thiết xét nghiệm, kiểm tra, xác minh. Do vậy phần này xin tạm dừng ở đây. Sau này có điều kiện tái bản, chúng tôi sẽ bổ sung. Mong các bạn thông cảm.
Với những khả năng đặc biệt, T. không chỉ chữa bệnh có hiệu quả mả còn nhiều khả năng kỳ lạ khác. Chương này dành nói về khả năng biết trước sự việc của T. dân gian gọi là tiên tri.
Chuyện đầu tiên. Hôm đó, ba anh em cùng T. có việc phải đi một tỉnh xa. Ra bến xe, anh em vào mua vé đi chuyến ô tô khách đầu tiên (trong đó dân gọi là "tài một"). Khi đến trước chiếc xe "tài một". T. bảo vào phòng vé đổi lại đi chuyến sau (tài hai). Anh em thắc mắc bảo đi tài một cho sớm, sao lại đổi đi tài hai. T. đứng trước xe nói: "Xe này chạy khoảng 70 cây số thì bị tai nạn, không nên đi, chỉ vậy thôi!".
Người lái xe và hành khách ngồi trên xe đều nghe T. nói. Người lái xe đứng lên chỉ vào mặt T. nói: "Ông có điên không đấy! Xe sắp chạy ông nói cái quái gì lạ thế! Không đi thì thôi, ai cần ông đi, cút đi cho khuất mắt". Lái xe còn chửi T. những lời thậm tệ.
Anh em vào phòng vé đổi vé đi xe sau. Xe T. chạy khoảng 70 cây số nhìn thấy chiếc xe chạy trước nằm lật dưới ruộng. Hai người chết, một số người khác bị thương. Lái xe chính chết. Xe của T. phải dừng lại. T. cùng anh em cả hành khách đều xuống xe. Người lái phụ của chiếc xe bi lật vừa thấy T. liền sụp lạy nói: "Trời ơi! Ông biết trước xe ra đây bị tai nạn sao ông không ngăn lại đừng cho chạy để đến nông nỗi này!" T. nói: "Anh nghe rõ ràng nhé, tôi mới chỉ nói có thế mà bạn anh đã chửi tôi một trận thậm tệ, tôi làm sao ngăn được!"
Anh em đi cùng T. qua một phen hú vía. Nếu T. không bảo đi đổi vé, bây giờ không biết sẽ ra sao?
Chuyện có tai nạn giao thông trên đường các bạn đã biết. Công an đến làm biên bản, gọi xe cấp cứu đưa người bị thương đi bệnh viện, xử lý người chết, giải tỏa giao thông không kể làm gì.
Chuyện thứ hai. Hai vợ chồng người nông dân nghèo nọ muốn nuôi lợn mà không có tiền. Có người bày đem giấy sở hữu đất lên ngân hàng thế chấp sẽ vay được tiền. Mừng quá vì sẽ có tiền nuôi lợn, hai vợ chồng đem giấy tờ lên ngân hàng và vay được hai triệu đồng. Có tiền rồi, vợ chồng lo sửa sang chuồng trại, máng ăn, chuẩn bị thức ăn cho những con lọn sắp nuôi.
Trong khi chờ đến phiên chợ có bán nhiều lợn giống, vợ chồng đem gói tiền hai triệu dúi trong bồ thóc. Đến phiên chợ, hai vợ chồng dậy sớm ra bồ lúa lấy tiền đi mua lợn thì ôi thôi gói tiền đã không cánh mà bay. Cả vợ lẫn chồng như người mất hồn bỏ cả ăn uống. Như vậy là có trộm vào nhà mình lấy tiền, lấy gì mua lợn và làm sao có tiền trả ngân hàng. Cả ngày vợ chồng chỉ biết than ngắn thở dài. Bỗng nghĩ ra điều gì, bà vợ nói với chồng: "Tui nghe bà con nói ở xã bên có một ông tên T., ông này giỏi lắm, chuyện gì ông cũng biết. Vợ chồng mình sang đó nhờ ông thử xem may ra!".
Hỏi được địa chỉ rồi, vợ chồng liền đến gặp T. Vừa bước vào nhà, T. cười nói ngay: "Ông bà bị mất tiền, đến nhờ tôi giúp phải không?". Ông chồng thưa: "Dạ, ông tài quá chưa nói mà ông đã biết, ông cố giúp cho! Thưa ông, gay quá, đã nghèo lại gặp cái eo! Loại phi nghĩa này nếu trời không tru thì đất cũng diệt nó!".
T. ngồi định thần một lúc rồi bảo: "Ông bà cứ bình tĩnh, tôi sẽ cố giúp thử được không? Nhưng hiện giờ thì chưa được vì kẻ lấy tiền của ông bà tiêu hết rồi!" T. lại định thần nhẩm tính trên đầu các ngón tay, nói tiếp: Tôi ghét loại người trộm cắp này lắm! Tôi sẽ bắt nó trả lại tiền cho ông bà. Ông bà phải chịu khó đợi đến ngày X tháng tới. Đúng ngày tôi dặn, ông bà đến bồ lúa moi lên sẽ thấy lại túi tiền. Số tiền vẫn đủ như lúc mất nhưng loại tiền thì nhiều loại không giống như trước chỉ một loại!".
Vợ chồng cám ơn T. rối rít rồi chào ra về. Dọc đường ông chồng bảo vợ: "Chẳng lẽ ông tài tới mức biết kẻ cắp đã tiêu hết tiền giờ ông bắt nó phải chạy cho ra tiền để trả lại chỗ cũ cho mình! Nếu đúng vậy ông này là Phật, là Tiên chứ không phải người thường". Tin thì tin rồi nhưng thấy việc khó quá nên bán tín bán nghi.
Đúng ngày T. dặn, vợ chồng hồi hộp đến bồ lúa bới sâu xuống quả đụng gói tiền đã mất. Vợ chồng ngồi đếm, đúng hai triệu không mất đồng nào. Chỉ có điều khác là khi nhận ở ngân hàng về toàn giấy một trăm, nhưng giờ thì đủ loại, vừa một trăm, vừa năm chục, cả loại hai chục và một chục.
Không có nỗi mừng nào bằng, hai vợ chồng mua bánh trái lên tạ thầy. Gặp T., T. chỉ cười: "Thấy tiền rồi phải không? Có đủ không?" Ông chồng nói: "Dạ thưa ông, đủ không thiếu đồng nào, chỉ khác là nhiều loại tiền". T. lại nói: "Tiền lấy được nó tiêu xài hết, nó không ngờ bị bắt phải trả lại nên phải chạy đi vay kẻ ít, người nhiều cho đủ số. Tôi không nhận quà đâu, ông bà mang về!".
Làm sao giải thích được chuyện này.
***
Một chuyện khác. Ở xã bên có vợ chồng một gia đình nông dân quá nghèo, chỉ biết làm ruộng, không có nghề phụ gì khác nên cuộc sông rất bần hàn, cơ cực. Lao động một nắng hai sương mà không đủ nuôi hai con ăn học, không có tiền đóng học phí cho con.
Một hôm cả hai vợ chồng đến gặp T. Kể nỗi khổ của gia đình cho T. nghe và nhờ ông có cách gì giúp cho để bớt khổ. Xin nói thêm, tôi đã đến vùng này nhiều lần. Tình trạng nghèo khổ trên không phải chỉ có gia đình này mà nhiều gia đình khác cũng trong tình trạng đó.
Tôi đến thăm T., nhưng ban đêm có lúc không ngủ nhà T. mà sang nhà hàng xóm ngủ để tránh công an thấy nhà T. đông người đến lập biên bản. Ở nhà hàng xóm nhiều lần, tôi như người thân của gia đình. Một hôm về quê tôi mang đến cho gia đình này một ki-lô lá long tu - loại lá bổ dưỡng. Tôi hướng dẫn gia đình cách làm rượu thuốc long tu. Chỉ cần một cân đường, một lít rượu là làm được. Vậy mà, khi trở lại hỏi làm rượu long tu xong chưa? Cả nhà nín thinh. Sau mới biết là cả nhà không làm gì có tiền để mua đường và rượu. Tình trạng chung là thóc làm ra chỉ đủ ăn với rau mắm qua ngày, không làm gì ra tiền. Muốn có tiền chỉ có cách bán thóc, mà bán thóc rồi lấy gì ăn. Có lúc cả nhà không có lấy năm nghìn đồng.
Trở lại đôi vợ chồng nông dân nghèo gặp T. Sau khi nghe vợ chồng than nghèo kể khổ, T. bảo: "Chỉ có cách phải cày sâu cuốc bẫm thôi! Ông bà cày cuốc cạn hịt làm sao hoa màu tốt được mà có tiền lo cho con. Nghe lời tôi mùa sắp tới phải cày cuốc thật sâu mới vượng lên được!".
Vợ chồng về thực hiện như lời T. dặn, ra sức cày sâu cuốc bẫm. Đến mùa thu hoạch, thóc lúa hoa màu tăng tiến hơn trước. Đời sống có khá lên chút ít, nhưng chưa thể thay đổi cảnh sống nghèo khổ. Vợ chồng lại lên gặp T. nói lại kết quả thực hiện lời T. dặn. T. bảo: "Ông bà có thực hiện đúng lời tôi đâu mà bảo không kết quả. Tôi bảo cày sâu, cuốc sâu, phải sâu nữa mới có kết quả làm như gãi đất làm sao có kết quả tốt được!".
Về nhà chồng bàn với vợ: "Bà nghe ông dặn kỹ rồi đó! Nhưng tôi vẫn thấy có cái gì khó hiểu. Mùa rồi mình đâu có gãi đất, cày cuốc sâu đấy chứ! Thôi lần này ta đào thật sâu xem sao!". Thế là vợ chồng hì hục đào xới cả khoảnh vườn rộng. Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm. Lần này thì chuyện lạ đã xảy ra. Đào xới đến độ sâu nhất định ở một góc vườn, lấp loáng dưới ánh trăng thượng tuần, vợ chồng thấy hiện ra nhiều lá vàng, ông chồng thì thẩm bên tai vợ: "Bà ơi, trời cho rồi, trời cho rồi, đổi đời rồi!" Bà vợ cãi lại: "Không phải trời cho mà là ông T. cho!". Vợ chồng thu gom lại tất cả được 21 lạng.
Lúc này vợ chồng mới thấm thía lời ông T.. Như vậy ông biết dưới mảnh vườn nhà mình có vàng nên ông bảo phải cày sâu, cuốc bẩm, đào chưa sâu, chưa tới ông bảo gãi đất. Như vậy không lo con thất học. Phải phấn đấu cho con vào đại học, chứng nó đều học khá cả.
Vợ chồng tìm nơi bí mật cất 11 lạng còn 10 lạng mang tới gặp T. vì nghĩ rằng được thế này tất cả đều nhờ ông mà gia đình ông cũng nghèo nên kính ông một nửa là thỏa đáng. Vợ chồng minh chi có công đào thôi! Ông không tận tình chỉ bảo làm sao mình có được! Lúc gặp T., đưa gói vàng ra trình bày, nói gì T. cũng không nghe, bắt phải mang về, còn nói: "Không phải giúp cho ông bà để tôi cũng được đâu đấy! Tôi không dùng thứ đó, nếu muốn lúc nào tôi chả có! Thôi, để giành lo cho gia đình, lo cho con ăn học!".
Không thể nói gì hơn, vợ chồng hết lời cảm tạ T. ra về rất mừng nhưng vẫn chưa vui vì chưa đền đáp được công ơn của ông.
Trong xóm của T. ở có một ông lão khoảng 70 tuổi thân với T.. Hàng ngày ông thường sang nhà T. chơi, lúc nào thấy T. rảnh là mời T. đánh cờ. Một hôm, đánh cờ xong T. nói với ông già: "Tháng này là tháng rất xấu đối với ông, nhất là vào ngày N. Đúng ngày đó, từ sáng đến tối, ông không được ra khỏi nhà. Ông phải nhớ lời tôi dặn, nếu không ông bi chết đấy!". Ông già vâng dạ cám ơn, lấy giấy ghi ngày T. dặn, sợ quên.
Đúng ngay N. ông già nhớ lời T., không dám đi đâu. Nhưng có một việc là sáng nào ông cũng tập thể dục. Tập xong ông chạy lúp xúp theo lề đường quốc lộ 1. Hôm đó cũng vậy, ông nghĩ mình có đi đâu mà sợ, chạy bên lề đường chắc không việc gì. Bỗng một chiếc xe tải chạy cùng chiều không hiểu thế nào đang chạy giữa đường lạng bánh vào lề đường tông ông già chết ngay tại chỗ. Ông được báo trước cái chết nhưng vẫn không tránh khỏi. Phải chăng đến ngày đó, số mệnh ông đã hết? Chúng tôi nghĩ nếu hôm đó ông không đi tập thể dục như mọi hôm, chỉ ở trong nhà thì ông có tránh được cái chết không?
Chịu, không trả lời được!
Nhân chuyện này kể luôn chuyện ông Sáu Nuôi.
Ông Sáu Nuôi ở thị xã Hội An là một huynh đệ có thể nói là thân tín nhất trong hàng huynh đệ của T. Thảng tuần không thấy ông Sáu Nuôi lên, thế nào T. cũng xuống thăm ông, không gặp không chịu được. Một tình cảm hơi đặc biệt. Ông Sáu Nuôi hơn T. những 30 tuổi.
Sáng hôm đó, ông Sáu Nuôi ngủ dậy, bỏ chân bước xuống đất, chân bi vướng ống quần làm ông ngã nhào, đầu gối dập xuống nền xi măng làm ông rất đau. Gia đình lo sợ náo loạn cả lên.
Lúc này T. đang ở nhà mình. Bỗng nhiên. T. nói với người nhà và anh em có mặt lúc đó: "Ông Sáu Nuôi vừa bị tai nạn, có thể gãy chân, tôi phải xuống ngay!". Thế là T. mượn xe máy phóng thẳng đi Hội An. Đến nơi, T. vào xem chân ông Sáu Nuôi, vận công phát vào đau gối và bấm một số huyệt. T. nói: "Chân không sao, nhưng xương bánh chè bị vỡ đôi. Tôi chỉ giúp ông bớt đau thôi, phải nhanh chóng đưa ông đi bệnh viện".
Đến bệnh viện, sau khi làm X quang, các bác sĩ kết luận: Xương bánh chè bị vỡ đôi, phải làm phẫu thuật để ghép xương lại. Làm phẫu thuật xong T. xin đưa bệnh nhân về nhà. Bác sĩ dặn về cũng được nhưng vết ghép sau 1 tháng mới liền, phải bất động. Đến tháng thứ hai bắt đầu tập cử động đề đầu gối khỏi cứng. Sau đó, mới chống gậy tập đi dần. Đây là một thương tổn khó và phức tạp phải rất cẩn thận.
Về nhà T. ngày nào cũng xuống chữa cho ông. Chỉ sau một tháng, ông đã đi lại bình thường và khỏe mạnh.
Sau lần đó, T. biết ông Sáu Nuôi số đã hết. Anh em chỉ còn sống với nhau hơn một năm nữa thôi! Quả đúng như T. dự đoán. Một năm sau ông Sáu Nuôi bị tai biến mạch máu não và qua đời để lại mềm thương tiếc vô hạn cho T.
Riêng T., T. biết trước ngày tháng mình bị tai nạn ô tô rất nặng nhưng không chết. Lần đó có kỹ sư Xuân từ Hà Nội vào chơi với T. cả tháng trời. Hàng ngày T. đưa Xuân đi bằng xe máy nhiều nơi. Đến một hôm, vào buổi chiều gần tối, T. bảo Xuân chuẩn bị hoa quả đi thăm ông Sáu Nuôi. Lúc này ông Sáu Nuôi bị tai biến não nằm một chỗ. Xuân chuẩn bị các thứ xong định lên xe cùng T. tới Hội An thì T. bảo: "Hôm nay ông phải ở nhà, chỉ mình tôi đi thôi!" T. không nói lý do vì sao không để Xuân đi, Xuân thấy lạ đành ở nhà, không hỏi. Sau này Xuân mới biết là hôm đó T. bi tai nạn nên không cho mình đi.
Trên đường từ Hội An về, đến khoảng huyện Thăng Bình thì T. bị một chiếc xe tải cùng chiều chạy với tốc độ cao từ phía sau đâm vào xe T. làm T. văng xa hơn 10 mét đập đầu vào miệng cống trên quốc lộ 1 . Lúc này là 2 giờ sáng. Dân ở vùng đó phát hiện báo cho bệnh viện Thăng Bình. Bệnh viện đưa xe cấp cứu đến thấy tình trạng T. quá nặng. không dám để lại bệch viện huyện mà đưa thẳng ra Đà Nẵng.
Nhân đây kể thêm một số chi tiết lạ của T. Ở Bệnh viện đa khoa Đà Nẵng để các bạn tham khảo.
Qua chẩn đoán ban đầu của bệnh viện. T. bị chấn thương sọ não với 3 vết thương, hai trước, một sau, mỗi vết dài 5 - 7cm. Xương sống bị chấn thương nặng làm tê liệt toàn thân. 6 xương sườn bên trái bi gãy. Trạng thái lúc này của T. là toàn thân cứng đờ không cử động được nhưng vẫn tinh táo, nói chuyện bình thường, không hôn mê. Các bác sĩ bảo trường hợp này rất lạ ít khi gặp. Thông thường bị chấn thương nặng cả sọ não và xương sống thì chết ngay tại chỗ, nếu chưa chết cũng bị hôn mê sâu triền miền. Ngược lại T. vẫn nói chuyện với bác sĩ bình thường. Việc gãy sáu xương sườn, các bác sĩ quyết định mổ để lấy máu trong bụng ra. Nếu không lấy máu ở ổ bụng rất nguy hiểm đến tính mạng, nhưng T. yêu cầu không mổ mà chỉ yêu cầu bác sĩ mấy việc: Khâu giúp ba vết thương trên đầu và bó bột lồng ngvc để giữ cho các xương sườn gãy trở lại bình thường.
Bệnh viện theo yêu cầu làm xong các việc đó, T. xin thanh toán viện phí và xin ra viện. Cả bệnh viện ngạc nhiên. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị. Riêng việc thử máu, sau này hỏi lại mới biết là máu T. không có cách nào thử được .
Bệnh viện cho T. về nhưng chắc chắn một điều là về nhà T. sẽ chết, không thể chịu nổi trước những thương tổn quá nặng đến mức ấy.
Về nhà được 3 ngày, bệnh viện cử 2 bác sĩ vào theo dõi tình trạng của T., thấy T. không chết, chỉ nằm không cử động, T. vẫn ăn uống được, tất nhiên là phải có người chăm bón. Sau 15 ngày, T. bắt đầu cử động.
Sau 1 tháng T. đứng dậy, đi lại bình thường. Lần thứ hai, các bác sĩ ở bệnh viện Đà Nẵng vào thấy vậy quá sức ngạc nhiên. Các bác sĩ bảo phải sau 3 tháng mới được tháo bột. Vừa đúng một tháng, T. bảo người nhà tháo bột vì thấy khỏe mạnh bình thường rồi nhưng không ai dám tháo vì việc tháo bột phải do bác sĩ làm.
Một buổi chiều. T. gọi cô L. con dâu bà N., chị em bạn dì với T. giúp T. tháo bột. T. lấy dao đưa cho L nói: "Cô cắt ra cho tôi, tôi chịu trách nhiệm, không việc gì mà sợ!" L. buộc phải chấp hành, cắt tháo bột cho T.
Từ buổi tháo bột đó, T. hoàn toàn khỏe mạnh, bình thường như người chưa từng bị tai nạn suýt chết. Sau lần tai nạn khủng khiếp này, T. bảo còn bị một lần nữa không kém nguy hiểm, hai mắt bị mù, nhưng sau đó sáng lại và không chết.
Thời gian sẽ trả lời cho dự báo này!
Kể thêm vài chuyện vặt biết trước của nhân vật này.
Nhân một lần ra Hà Nội, T. đang ngồi với năm ba anh em huynh đệ ở nhà ông M. một người bạn. T. vừa cười vừa bảo ông H.: "Vợ ông có một căn hộ cho thuê. Hôm trước có một cô thợ may đến gặp vợ ông hỏi thuê nhà. Vợ ông ra giá tám trăm ngàn. Cô thợ may xin thuê với giá bảy trăm ngàn. Vợ ông cuối cùng chấp nhận và bảo cô thợ may phải đặt trên cọc để nếu ai trả hơn cũng dành cho cô. Cô thợ may hỏi đặt cọc bao nhiêu? Vợ ông nói hai trăm. Cô thợ may lục túi chỉ có một trăm. Vợ ông bảo cũng được và nhận một trăm tiền đặt cọc. Chuyện này ông không biết. Chiều nay ông về hỏi vợ, nói lại những điều tôi nói xem có đúng không? Nếu đúng ông bảo vợ ông xuất một trăm đặt cọc đó xuống đây chiêu đãi anh em. Nếu sai hoặc không đúng tôi xin chịu phạt lại một trăm chiêu đãi".
Chiều hôm đó, ông H. về gặp vợ nói lại những điều T. nói. Bà vợ trố mắt ngạc nhiên: "Chuyện này ngay ông cũng không biết, làm sao ông T. biết được?" Ông H. nói: "Bà chỉ trả lời ông T. nói đúng không thôi!" Bà vợ trả lời: "Hoàn toàn đúng!".
Ông H. không bảo vợ đưa tiền vì đoán chắc bà sẽ không đưa nên lấy tiền túi xuống gặp T., T. chỉ cười: "Cà rửng với các ông cho vui thôi, chứ lấy tiền bà ấy làm gì!".
Một chuyện khác. Một tuần trước khi đến gặp vợ ông H. hỏi thuê nhà, chính cô thợ may này đã đi xem một căn hộ khác. Xem xong cô về quán cơm chay trên đường Thái Hà gặp ông T. nhờ ông đi coi thử nhà này có hợp với cô không? Cô biết lúc này ông T. đang ở quán cơm chay với mẹ cô. Lúc này tôi (người viết) cũng đang có mặt tại đó. Cô thợ may vừa bước vào cửa, T. nói: "Tôi biết cô gặp tôi nhờ việc gì rồi! Cô đừng nói để tôi nói cho!".
Một lát sau. T. nói: "Cô định nhờ tôi đi xem căn hộ cô vừa đi xem về, có nên thuê không chứ gì? Tôi không cần đi, ngồi đây tôi đã xem kỹ nó rồi!". T. cười nói tiếp: "Căn hộ đó nằm ngay dưới chân một cái dốc hơi cao, nhà hai tầng, mặt bằng khoảng 30 mét vuông. Trước nhà phía bên phải có giàn giây leo rủ xuống lòng thòng. Có thể ở được nhưng không tốt lắm đối với hiệu may của cô. Nếu muốn thuê, cô phải làm các động tác tẩy uế! Tôi biết chỉ có vậy!" Cô thợ may quá đỗi ngạc nhiên, nghĩ làm sao ông biết tường tận như vậy! Cô trả lời: "Ông nói không sai một chi tiết nào!" Mẹ cô ngồi một bên nghe xuýt xoa thán phục.
Một hôm, tôi đang ngồi ở nhà T., có hai thanh niên, một nam, một nữ đến nhờ T. chữa bệnh. Bỗng T. nói luôn: "Này hai bạn không còn chỗ nào hôn nhau sao đi vào đường luồng trước nhà tôi ôm hôn nhau thắm thiết thế không sợ ai thấy người ta cười cho à!". Cả đôi nam nữ đỏ mặt tía tai ngồi im không dám có lời nào.
Chữa bệnh xong lúc chàng và nàng ra về, tôi theo ra cổng hỏi riêng chàng thanh niên: "Ông nói có đúng không?" Chàng thanh niên vừa thẹn vừa nói: "Thưa ông, bọn cháu mới yêu nhau, thấy đường luồng vắng vẻ nên có làm việc ấy thật, ông thông cảm cho!".
Một buổi sáng khác, vào lúc 11 giờ, một anh trung niên độ 40 tuổi là huynh đệ của T. đến rủ T. đánh cờ. T. cười cười bảo: "Này, ban đêm ông bận lắm hay sao, hay thiếu thì giờ mà 9 giờ sáng nay vợ chồng ông làm cái chuyện ấy giữa ban ngày, không sợ con cái nhìn thấy sao?" Ông bạn kia đỏ mặt phải thú thật: "Vợ mình nó biểu làm, không phải tại mình". T. lại bảo: "Chuyện đó ông với vợ ông biết làm sao tôi biết được! Nhớ đừng để con biết, nó biết thì phiền đấy!".
Những chuyện vặt đó đối với T. là bình thường. Muốn biết điều gì, định thần là biết ngay.
* * *
Một câu chuyện nữa khá ly kỳ, rất khó tin mang nhiều tính huyền hoặc nhưng là chuyện có thật nên viết để các bạn rộng đường tham khảo.
Vào một buổi tối, khoảng 19 giờ, năm bảy anh em đang ngồi trong nhà với T.. bỗng nhiên T. hỏi: "Các ông đã bao giờ nhìn thấy một ngôi sao lạ trên bầu trời này chưa?". Mọi người trả lời chưa nhìn thấy và cũng không biết có chuyện đó. T. nói: trước khi chỉ cho các ông xem, tôi nói qua về chuyện ngôi sao này. Đến tháng này thì sao lạ mới xuất hiện trên đầu chúng ta. Qua theo dõi ngôi sao nhiều lần, một số chiêm tinh gia nước ngoài phát hiện ở vùng này có một nhân vật lạ. Họ cử người đến gặp nhân vật đó và tìm mọi cách thuyết phục dụ dỗ. Nếu đi với họ sẽ được trọng vọng, sung sướng, không bị trù dập, không khổ như hiện nay. Nhân vật này nói thẳng với họ là không bao giờ rời khỏi quê cha đất tổ, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Thấy không dụ dỗ được, họ dùng đủ mọi cách họ có được để thực hiện bằng được ý định trên. Chuyện đó nói sau, bây giờ các ông ra ngoài sân nhìn lên trời đi!".
Thấy chuyện lạ, tất cả anh em có mặt đều ra sân. Nhìn lên chỉ thấy bầu trời đen kịt, đầy mây đang vần vũ, trần mây rất thấp. Ngoài ra không thấy gì khác. T. nói: "Các ông cứ yên tâm theo dõi, chốc lát rồi sẽ thấy". Nói xong, anh em thấy T. đưa cả hai tay lên trời khoác đi, khoác lại. Độ năm phút, những đám mây đen tản ra để lộ một khoảng trời xanh thẳm với một ngôi sao sáng chói. T. nói: "Thấy rồi phải không. Thôi vào nhà đi, trời sắp mưa đấy!". Anh em không ai chịu vào, đứng nhìn mãi ngôi sao cho đến khi những đám mây đen kéo trở lại che kín ngôi sao và cả khoảng trời.
Trở lại chuyện các chiêm tinh gia. Không dụ dỗ được T. theo họ, họ thuê người chờ lúc T. không có nhà giả làm người bệnh đến bí mật, yếm bùa trước cổng, chung quanh nhà. Mỗi lần có người đến đặt bùa, T. về đến cổng là biết ngay, moi lên đốt đi. Đã bốn lần như vậy. Đến lần thứ năm, cũng là lần cuối cùng thì sự việc diễn ra khác những lần trước. Diễn biến câu chuyện như sau:
Hôm đó T. đang trong nhà bỗng có một đoàn khách gồm năm người trong đó có ba người lạ mới đến lần đầu có một người làm phiên dịch. T. mời ngồi và câu chuyện bắt đầu.
Một vị đứng lên nói: "Chúng tôi ở xa, được biết ông là người có nhiều tài năng đức độ nên đến thăm sức khoẻ ông. Nếu ông đồng ý chúng ta ra ngoài vườn nói chuyện thoải mái hơn và xin phép ông cho vài người ở lại thắp hương trên bàn thờ gia tiên". T. đồng ý. Thế là T. ra vườn với ba bị khách. Ngoài vườn, dưới hàng cau có bóng cây râm mát, có sẵn ghế nhựa để anh em đến đánh cờ.
An tọa xong, vị khách tỏ lời ca ngợi, mến mộ việc T. chữa bệnh có hiệu quả mà không lấy tiền của ai và nhiều tài năng khác. Bỗng nhiên T. đứng lên nói với một thái độ nghiêm trang. "Các ông bảo đến thăm tôi với thiện chí và tấm lòng trân trọng, vậy các ông hãy vào nhà, tôi sẽ chứng minh thiện chí của các ông". Nói xong, T. lặng lẽ đi vào nhà buộc các vị khách phải đi theo.
Vào nhà T. vọt lên bàn thờ cao lật chiếc lư hương lấy ra một gói nhỏ mở ra nói: "Đây, thiện chí của các ông đây! Tôi nói để các ông biết, từ lúc các ông vào đây tôi đã biết các ông từ đâu đến, đến đây định làm gì, không qua mặt tôi được đâu". Các vị khách im như thóc, mặt tái ngắt, không nói được lời nào. T. nói tiếp: Tôi còn biết rõ lá bùa này các ông nhằm mục đích gì. Nhưng thôi lần này tôi cảnh cáo các ông, các ông về đi! Xe các ông để ngoài đường 1 , tôi biết rồi!".
Trước khi ra về, các vị khách chỉ còn biết xin lỗi. Ra đường, lên xe, chạy tới cầu xe bị nổ lốp không đi được. Các vị hiểu nguyên nhân xe nổ lốp chứ lốp tốt làm sao nổ được! Để lái xe thay lốp, các vị quyết định kéo trở lại gặp T.
Gặp lại T., các vị hoàn toàn bị thuyết phục, thay đổi hẳn thái độ, thành khẩn xin lỗi thực sự. Một vị nói: "Chúng tôi tuy có biết, nhưng điều chứng tôi không ngờ là tài năng ông đã đạt đến độ cao siêu như vậy! Hết sức thành thật một lần nữa mong ông thứ lỗi cho". T . đáp: "Tôi nói rồi, tôi không làm hại các ông đâu, chỉ cảnh cáo các ông thôi, nhớ đừng bao giờ coi thường người Việt Nam. Tôi chẳng là cái gì đâu! Đất nước này còn nhiều người tài hơn tôi nhiều! Được rồi, các ông về đi, xe thay lốp xong rồi đó!".
Vậy là những vị "khách quý" ra về.
Viết những dòng này, chúng tôi càng thấy tự hào về dân tộc mình, đất nước mình. Quả là một dân tộc anh hùng, với những người con có nhiều tài năng trên nhiều mặt.
Ngoài khả năng chữa bệnh cho dân, biết trước sự việc, T. còn nhiều khả năng kỳ lạ khác, không thể tin nổi, nhưng toàn là chuyện thật. Ở Trung Quốc, Viện nhân thể học gọi những người có khả năng đặc biệt là những người có "công năng đặc dị". Khoa học hiện đại chưa giải thích được, nhưng công nhận là nó đang hiện hữu, không thuộc phạm trù mê tín dị đoan. Những khả năng đặc biệt khác của nhân vật này cũng lắm màu nhiều sắc.
Trước hết nói về Khánh Duy, một em bé có liên quan đến những khả năng của T.. Năm 2000, Khánh Duy đã một thời làm xôn xao dư luận trong giới khoa học nói chung, các nhà nghiên cứu tâm linh nói riêng. Chuyện Khánh Duy hơi dài, ở đây chỉ đóng khung trong những chuyện có liên quan đến nhân vật chính của tập truyện.
Khánh Duy năm nay (2003) vừa tròn 12 tuổi, đi học bình thường như những đứa trẻ khác. Năm 2000, Khánh Duy mới 9 tuổi. Vậy mà hàng năm cứ đến ngày Tết, cậu bé này có viết một bản bằng một thứ chữ lạ không ai đọc được nên không biết nội dung viết những gì.
Chuyện đó như sau.
Khánh Duy là con một chị quê ở tỉnh Phú Thọ, đã đỗ hai bằng đại học, đã từng ở Liên Xô (cũ), nhưng sau khi sinh con, chị bỏ việc cơ quan, đưa con về Hà Nội mở quán cơm chay sống qua ngày để nuôi con khôn lớn. Tôi quen chị do đến ăn cơm chay ở quán chị. Chị cho biết vào dịp Tết năm 2000, Khánh Duy có viết một bản chữ lạ. Tôi bảo chị đưa tôi xem thử. Chị bảo không được, con nó biết nó la chị. Không ngăn được tính tò mò, tôi bảo chị cho tôi xem rồi trả ngay, nó không biết đâu. Chị buộc phải lấy cho tôi xem. Tôi thấy một thứ chữ lạ quá, xưa nay chưa từng thấy bao giờ. Tôi năn nỉ chị cho tôi mượn nửa giờ thôi. Cuối cùng chị đồng ý. Tôi cầm ngay đi phô tô, chỉ 15 phút sau cầm về trả chị. Vậy mà khi đi học về Khánh Duy biết, nói với mẹ: "Mẹ lấy bản viết của con đưa cho ai con biết rồi. Con đã bảo mẹ không được đưa cho ai xem cơ mà!". Nói xong Khánh Duy đốt luôn tờ giấy.
Có bản viết rồi, tôi phô tô thêm mấy bản, đưa cho các nhà nghiên cứu nhưng không ai đọc được. Chẳng lẽ chịu thua sao? Tôi nghĩ đến T., thời gian này tôi đã quen T. ba năm rồi, biết T. có nhiều khả năng may ra T. có thể đọc được. Quyết như thế rồi, nhưng bận không vào T. được. Nhân có bác Quyên cán bộ địa chất nghỉ hưu về thăm quê cũng là huynh đệ của T.. Tôi nhờ Quyên đưa cho T. xem, nếu được dịch ra luôn, tôi sẽ vào sau. Sau đây là bản viết của Khánh Duy cùng với bản dịch ra chữ Phạn và bản dịch ra chữ quốc ngữ của T.
Bản dịch ra chữ quốc ngữ của T.
Linh ấn thư!
Chứng minh sở đắc cầu thiên địa!
Nhân Trần đang đau khổ lắm của kỳ này, khó ai mà hiểu được. Chỉ có các bậc thiên linh trả lời tất cả mọi sự việc hiển diện cho kỳ này. Ta nói để bày tỏ đến tất cả những gì mà còn thảm hại, bi kịch ở hành tinh. Các người hãy đề phòng thiên tai dồn dập cứ diễn tiếp. Người thì gây thảm hại cho nhau cũng không ít (................). Ta nói rằng chỉ có các vị thiên sứ về mới giúp được nhiều việc nguy kịch sẽ diễn biến sau này tại quả đất các người. Nói về nền tâm linh. Ai có thân có mạng, có duyên hãy cố gắng lên, đừng bỏ phí chút thời gian vàng ngọc tại kỳ này mà không hành trì. Sau này đến việc mà không giúp được việc gì cho nhân loại, cho chúng sanh thì cũng đừng hối tiếc Ta nói... ...................... Có một đám mây đen ùn kéo đến + ba tiếng nổ không vừa và trời nổi giông tố, có trận nóng tăng nhiệt độ kinh khủng làm sức chịu. đựng không nổi, và có ngọn gió lốc đi như tên bay, lúc đó làm rung chuyển cả bầu trời. Sẽ có một căn bệnh lạ xuất hiện, lúc này khoa học không tìm nguyên nhân được (không tìm thấy vi trùng). Căn bệnh này chi các bậc thiên linh mới giúp được thôi.
Ngày ... ... ... ... ... ... ... .... sẽ có tác động. Đây lời ta nói đến tháng 7 - 8 các chư thiên về mượn thân, đầu thai giúp cho nhân loại nhiều việc hay (2000).
Phần ta cũng không xa, thời gian ta cũng sẽ giúp đất nước nhiều việc. Ta hẹn thư sau.
G.C.
"Tôi chỉ biết bấy nhiêu dịch lại do chữ thiên của Khánh Duy viết ra. Có câu "Thiên cơ bất khả lộ". Tôi còn muốn đưa rộng thêm ý trong thư nhưng sợ lỗi ý trời đất. Tôi chỉ dịch ra phần cơ bản và tóm lại ý để ai xem tự mình rút ra kết luận theo hiểu biết mỗi người, trong thư cho nói khi nhận điển lực, không cho ghi, chép, người có ý, lộ lời sai ý".
Trong bản dịch ra chữ quốc ngữ, T. không dám dịch toàn văn vì sợ lộ thiên cơ và đụng tới vấn đề chính trị, các nhà nghiên cứu, các bạn thông cảm.
Một tuần sau, tôi vào gặp T. thì T. đã dịch xong. T. còn muốn dịch ra bản chữ nho nhưng tôi bảo thôi, không cần đâu. Tôi kể lại cho T. nghe về chuyện lạ của cậu bé 9 tuổi Khánh Duy. Tôi định nói ngày sinh tháng đẻ của cậu bé này để T. xem có điều gì lạ không, mẹ Khánh Duy đã nói cho tôi biết. T. đưa tay bảo đừng nói để T. nói cho.
T. lấy tờ giấy viết tên Nguyễn Khánh Duy bằng chữ Phạn, ngồi thiền, đưa hai tay lên trời khua mấy vòng rồi chụp xuống tờ giấy. Làm hai lần như vậy, xong T. nói: Cậu này sinh lúc 2 giờ chiều ngày 9 tháng 9 năm Nhâm Thân tức ngày 9 tháng 10 năm 1992". Tôi lấy sổ tay ra đối chiếu thấy đúng y như vậy, thật kỳ lạ! T. còn nói về nguồn gốc Khánh Duy, tôi thấy không tiện viết ra đây vì nó ở lĩnh vực nghiên cứu khác. Tôi bảo khi nào T. ra Hà Nội, muốn gặp cậu bé này tôi sẽ đưa đến.
Khi hai nhân vật này gặp nhau ở Hà Nội, nói chuyện với nhau bằng thứ ngôn ngữ lạ, không ai hiểu được. Thời điểm này có đông anh em ngồi nghe. Về chuyện viết dịch và nói thứ ngôn ngữ lạ, một vài nhà nghiên cứu tâm linh cho rằng T. không làm được mà có người nhập vào hoặc điều khiển T. làm. Tôi chứng kiến một lần ở quán cơm chay, một vị tướng quân đội ta đã nghỉ hưu nói với T.: "Tôi nghe nói anh biết viết và nói nhiều loại ngôn ngữ, anh thử viết cho tôi xem được không?". T. đồng ý lấy giấy bút viết ngay một trang nhỏ, viết rất nhanh. Vị tướng công nhận tài của T., xin tờ giấy làm kỷ niệm, cũng là để về nghiên cứu.
Một lần gặp riêng T., đề cập việc T. viết, nói loại ngôn ngữ đó một vài anh em cho là có người điều khiển. T. nổi khùng nói: "Toàn nói bậy! Tôi là tôi, ai điều khiển được tôi! Vị nào điều khiển, tôi tát cho vị ấy một tát tai! Tôi viết ngay cho ông coi xem có ai điều khiển tôi không". Nói xong T. lấy giấy bút viết ngay một trang nhanh như điện rồi nói: "Ông thấy đấy, có ai điều khiển tôi không!".
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top