Chuyen de - Kham cot song
Khám cột sống
*Mục tiêu:*
1. Xác định các mốc giải phẫu của cột sống.
2. Khám được cột sống trên 3 phương diện:
3. Khám hình thể cột sống.
4. Khám thần kinh
5. Đọc phim X quang cột sống.
6. Chẩn đoán được một số bệnh lý thường gặp của cột sống.
*1.Nhắc lại giải phẫu:*
Cột sống gồm 32 đốt sống nối ghép nhau tạo nên trục của thân mình.
*Các thành phần chính của đốt sống gồm có:*
− Thân đốt sống.
− Bảng sống.
− Các mấu gai, mấu khớp.
− Chân cung ( cuống)
− Đĩa sống (đĩa đệm)
− Để giữ vững cột sống có hệ thống các dây chằng:
− Dây dọc trước.
− Dây dọc sau
− Dây chằng vàng.
− Dây chằng liên gai.
Cột sống chứa tuỷ sống ( thần kinh trung ương) trong ống sống và cho ra các
rễ thần kinh (thần kinh ngoại biên) qua lỗ liên sống để chi phối các hoạt
động của cơ thể ( cảm giác, vận động, phản xạ…) ở các đốt sống thấp tuỷ sống
không nằm cùng một bặc với đốt sống cùng tên.
*Cột sống được chia làm 4 đoạn:*
− Cổ ( cervical: C)
− Ngực, lưng ( Thoracic: T; Dorsal: D)
− Thắt lưng ( Lumbar: L)
− Cùng ( Sacrum: S) và xương cụt ( Coccy: Co)
*Các vận động cột sống gồm có:*
− Cúi (gập trước)
− Ngửa
− Xoay
− Gập bên (nghiêng).
Chấn thương làm gẫy cột sống thường thường gặp nhiều ở cổ và ngực – thắt
lưng.
*2. Khám lâm sàng và Xquang cột sống:*
Việc khám cột sống cần thực hiện theo nguyên tắc:
Theo trình tự nhất đinh: nhìn, sờ, gõ, vận động cột sống.
− Khám hình thể cột sống.
− Khám thần kinh
− Khám X quang cột sống.
*2.1 Khám hình thể cột sống:*
*Nhìn thẳng:*
− Xác định trục cột sống: là đường thẳng nối các gai sau từ C1 – giữa nếp
lằn mông.
− Đánh giá sự cân bằng của khung chậu: nối 2 gai chậu trước trên, 2 gai
chậu sau trên, bình thường là 2 đường thẳng.
− Đánh giá sự cân bằng của 2 vai. Khi vẹo cột sống mất bù, vai sẽ lệch
nhau.
*Nhìn nghiêng:* khảo sát đường cong của cột sống, phát hiện gù cột sống.
*Sờ:*
− Xác định các vị trí các đốt sống.
− Phát hiện các biến dạng, u , gồ gai sống.
− Có thể thấy khối cơ cạnh sống co cứng.
*Gõ:* gõ dọc các gai sống tìm điểm đau.
*2.2 Khám vận động:*
− Động tác cúi.
− Động tác ưỡn ngực
− Động tác nghiêng.
− Động tác xoay.
*Sờ nắn: *Ấn dọc theo các gai sống hoặc dùng búa gõ phản xạ lên các gai
sống: bình thường không đau.
*Dồn gõ: *Đấm từ đầu xuống tạo lực truyền theo trục dọc cột sống hoặc cho
bệnh nhân đứng nhón gót rồi nện mạnh gót xuống sàn nhà. Bình thường không
đau.
*Vận động:*
Có 3 cặp vận động:
− Cúi – ngửa
− Xoay (trái) – xoay (phải)
− Gập bên (trái) – gập bên (phải)
*Các chỉ số bình thường:*
*Cột sống cổ:*
− Cúi cổ: cằm chạm ức ( khoảng 45o)
− ngửa cổ: mắt nhìn thẳng trần nhà ( khoảng 45o)
− Gập bên ( nghiêng): tai – vai ( khoảng 45 – 60o)
− Xoay (trái) – xoay (phải): 45o
*Cột sống lưng – thắt lưng:*
− Cúi : đầu ngón tay chạm đất hoặc cách đất vài cm ( khoảng 90o). Hình
dạng cột sống đều hài hoà ( trong viêm dính cột sống, cột sống thẳng đơ).
Hai nửa lống ngực cong đều, ngang bằng ( trong vẹo cột sống cấu trúc hai nửa
này không cân xứng)
− Gập bên ( nghiêng trái và phải): hai tay giữ mào chậu cho khung chậu
đứng thẳng, cho bệnh nhân nghiêng trái và nghiêng phải. Bình thường mỗi bên
khoảng 30 – 45o
− Xoay: giữ khung chậu như trên và cho bệnh nhân xoay người sang trái và
sang phải. Bình thường mỗi bên khoảng 30 – 45o
*2.3 Khám cột sống ở tư thế nằm:*
*Nằm sấp:*
− Đặt bệnh nhân nằm sấp ngay ngắn trên giường phẳng, mặt úp xuống.
− Kiểm tra các mốc xương và các tiêu chuẩn khám trong tư thế đứng.
− Xác định lại trục cột sống (một số bệnh lý ở chi dưới làm lệch vẹo cột
sống khi bệnh nhân đứng nhưng sẽ hết khi bệnh nhân nằm).
− Tìm các điểm đau trên gai sống.
− Sờ nắn các cơ cạnh cột sống, vuốt dọc các cơ này, bình thường cơ mềm
mại, không đau, da không nổi đỏ ( khi có rối loạn dinh dưỡng, các cơ này co
cứng, da nổi đỏ theo ngón tay khi vuốt)
− Ấn khớp cùng chậu hai bên và tìm các điểm đau dọc đường đi của dây thần
kinh toạ (thần kinh hông to). Bình thường không đau.
*Nằm ngửa:*
− Đặt bệnh nhân nằm ngửa ngay ngắn trên giường phẳng. Bình thường cột
sống giảm độ cong sinh lý. Không thể đút lọt bàn tay dưới thắt lưng bệnh
nhân ( khi cột sống bị ưỡn quá mức sẽ đút lọt bàn tay dưới thắt lưng)
− Chú ý: Bệnh nhân bị chấn thương cột sống chỉ khám ở một tư thế nằm.
Người khám phải dùng tay luồn dưới lưng bệnh nhân để tìm điểm đau, gù…
*Các nghiệm pháp.*
*Đo chỉ số Schober:*
− Bệnh nhân đứng thẳng, đánh dấu khoảng giữa gai sống L4, L5, đo lên trên
một đoạn 10 cm, đánh dấu.
− Cho bệnh nhân cúi hết mức và đo lại khoảng cách trên. Bình thường có độ
chênh lệch là 4 – 5 cm (trong viêm dính cột sống độ chênh lệch này < 2 cm)
*Nghiệm pháp Lasegue ( straight leg raising test)*
− Bệnh nhân nằm ngửa trên giường phẳng, hai chân duỗi thẳng, cổ chân
trung tính.
− Người khám một tay cầm cổ chân bệnh nhân giơ cao dần chi dưới ( gấp
háng thụ động, tay kia đặt trước gối giữ ở tư thế duỗi thẳng. Nâng cao dần
chi dưới đến khi háng gấp 90o, chân còn lại vẫn duỗi thẳng. Bình thường
không đau.
− Dấu hiệu dương tính khi háng gấp dưới 60o thì bệnh nhân cảm thấy đau
buốt từ hông, mông và mặt sau đùi. Dấu hiệu này gặp trong một số bệnh lý
viêm nhiễm thần kinh toạ, thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng, viêm các mỏm
khớp cột sống, viêm khớp cùng chậu và gân các cơ sau đùi.
*2.4 Khám thần kinh:*
*Khám vận động:*
Nhớ các mốc chi phối vận động:
− Gấp háng: tuỷ và rễ ở L1 và L2
− Gấp gối: L5 – S1
− Duỗi gối: L3 – L4
*Đánh giá cơ lực theo bảng:*
Điểm
Mức độ
0
Không co cơ
1
Co cơ không phát sinh động tác
2
Co cơ thắng trọng lượng chi
3
Co cơ không thắng được sức cản
4
Co cơ
5
Vận động bình thường.
*Khám cảm giác:*
Dùng vật nhọn để khám cảm giác đau, viên đá để khám cảm giác nóng lạnh.
Các mốc cảm giác cần nhớ:
− Ngang vú: T4
− Ngang rốn: T 10
− Mào chậu: T 12
− Giữa đùi: L2
− Mặt ngoài cẳng chân: L5
− Mặt ngoài bàn chân: S1
*Phân loại tổn thương thần kinh theo Frankel ( 1969)*
Loại
Chức năng
A
Mất hoàn toàn cảm giác và vận động dưới mức thương tổn.
B
Còn cảm giác, mất vận động
C
Còn cảm giác, cơ lực chi đạt đến 2/5
D
Còn cảm giác, cơ lực chi đạt 3/5 ; 4/5
E
Vận động và cảm giác bình thường.
*Khám phản xạ:*
− Phản xạ hành hang.
− Phản xạ cơ thắt.
− Phản xạ gân xương.
− Các hội chứng tuỷ: tuỳ vào vị trí tuỷ bị tổn thương mà biểu hiện lâm
sàng khác nhau.
− Hội chứng tuỷ trung tâm: liệt đồng đều 2 bên.
− Hội chứng tuỷ trước: tổn thương sừng trước tuỷ sống, bệnh nhân bị liệt
vận động nhưng vẫn còn cảm giác.
− Hội chứng tuỷ sau: có vận động nhưng mất cảm giác.
− Hội chứng đuôi ngựa: rối loạn cơ tròn và cảm giác.
*2.5 Khám XQ:*
*Chụp XQ quy ước*: đánh giá trên phim thẳng và nghiêng, xác định: khảo sát
đường cong sinh lý cột sống, cột sống, vị trí tổn thương đốt sống, chiều cao
thân đốt, trục dọc của cột sống, vị trí tổn thương đốt sống, chiều cao thân
đốt, trục dọc của cột sống, trật đốt sống, vỡ các thành phần của đốt sống,
vẹo cột sống.
*Chụp tuỷ cản quang:* đánh giá chèn ép tuỷ và rễ thần kinh.
*Chụp cắt lớp vi tính:* đánh giá chính xác tổn thương xương.
*Chụp cộng hưởng từ hạt nhân*: đánh giá chính xác tổn thương tuỷ và phần
mềm.
Khám bụng ngoại khoa và bệnh án ngoại khoa
In Data Medical <http://vi.wordpress.com/tag/data-medical/>, Ngoại khoa<http://vi.wordpress.com/tag/ngo%e1%ba%a1i-khoa/>,
Triệu chứng ngoại khoa<http://vi.wordpress.com/tag/tri%e1%bb%87u-ch%e1%bb%a9ng-ngo%e1%ba%a1i-khoa-ngo%e1%ba%a1i-khoa-data-medical-8/>on
*Tháng Một 30, 2007* at *10:48 chiều*
*MỤC TIÊU :*
Nắm vững các nội dung của một bệnh án ngoại khoaBiết cách khai thác và phát
hiện các triệu chứng lâm sàng (bao gồm các dấu hiệu cơ năng, toàn thân và
thực thể)Trình bày được giá trị của một số thăm dò cận lấm sàng cơ bảnTrình
bày được tóm tắt bệnh án: triệu chứng chính, các triệu chứng và các hội
chứng.Nắm vững cách thăm khám bụngXác định được các dấu hiệu bệnh lý về tình
trạng thành bụng, ổ bụngNắm được các triệu chứng của một số bệnh lý cấp cứu
bụng thường gặp.
*HỎI BỆNH :*
*Trước khi hỏi bệnh*, ta bắt buộc phải có những lời *chào hỏi xã giao* để
làm quen với bệnh nhân, tạo sự tin tưởng của người bệnh với mình đồng thời
cũng để tìm hiểu trình độ dân trí và văn hoá của người bệnh để đề ra những
câu hỏi khai thác bệnh sử một cách thích hợp. Ngoài ra, những câu hỏi xã
giao cũng để tìm hiểu thêm về hoàn cảnh gia đình, xã hội bệnh nhân. Đối với
người văn hoá cao, cần có những câu hỏi tế nhị nhưng đối với những người văn
hoá thấp thì lại chọn những câu hỏi đơn giản, cụ thể. Hiện nay, hầu như các
bác sỹ và sinh viên đều bỏ qua mục này và thường có một thái độ ban ơn,
trịch thượng đối với người bệnh. Những biểu hiện này đang làm mất dần đi
tính nhân văn, những thể hiện văn hoá tối thiểu của một con người.
*Trong hỏi bệnh và trong khám bệnh*, người làm bệnh án phải ghi vào những *dấu
hiệu dương tính* (những dấu hiệu người bệnh có) và cả những *dấu hiệu âm
tính* (là những dấu hiệu người bệnh không có) vì nhiững dấu hiệu âm tính có
tác dụng rất lớn trong chẩn đoán phân biệt và chẩn đoán xác định. Ví dụ, đau
quặn vùng mạng sườn có đái ra máu sẽ khác hẳn đau mạng sườn không đái ra
máu, hoặc đau vùng dưới sườn phải có sốt nóng và rét sẽ rất khác đau dưới
sườn phải không có sốt.
*LÝ DO VÀO VIỆN :*
Lý do vào viện là *lý do khiến người bệnh đi đến tiếp xúc với cơ sở y tế đầu
tiên* chứ không phải là lý do hành chính như chuyển viện hay hẹn vào mổ. Lý
do vào viện chính là dấu hiệu chủ đạo để khai thác trong quá trình hỏi bệnh.
Ví dụ như bệnh nhân vào viện vì đau bụng. Khi bệnh nhân vào viện vì đau bụng
thì việc khai thác dấu hiệu xung quanh đau bụng là quan trọng nhất. Đó sẽ là
phần chính trong khai thác bệnh sử. Nếu người bệnh đi đến cơ quan y tế đầu
tiên là nôn ra máu thì việc khai thác các đấu hiệu liên quan đến nôn ra máu
sẽ là những phần chính càan khai thác trong bệnh sử.
*BỆNH SỬ*
Bệnh sử là khai thác các thông tin xung quanh lý do vào viện. Đầu tiên ta
phải hỏi đến *cơ hội xuất hiện lý do* này rồi *vị trí xuất hiện* của lý do
vào viện đối với những trường hợp đau vì thông thường mỗi một cơ quan nội
tạng đều có một sự tương ứng ở bên ngoài. Ta bắt đầu hỏi đến *thời gian xuất
hiện* của lý do vào viện vì chúng ta biết rằng sự tiến triển của bệnh thường
tương quan với thời gian. Đó là điều quan trọng trong sơ bộ nhìn nhận bệnh
nhân có ở trong tình trạng cấp cứu hay không. Nếu như lý do vào viện của
bệnh nhân đã có từ lâu thì rất ít khi là một bệnh cấp cứu ngoại khoa và nếu
như có cấp cứu ngoại khoa thì đây là điều tệ hại, có thể do tuyến y tế nhưng
cũng có thể do người bệnh dân trí thấp hoặc không có khả năng kinh tế đi
khám bệnh và để đến khi không chịu đựng nổi họ mới đi khám bệnh. Tiếp theo
thời gian xuất hiệu dấu hiệu đầu tiên ta cần hỏi đến *cường độ của dấu hiệu*này. Cường độ dữ dội hay vừa phải chỉ cảm thấy khó chịu. Cùng với hỏi cường
độ, ta cần hỏi tiếp đến đặc tính của dấu hiệu này: *có cơn hay không*, *có
liên tục hay không*, *có lan đi theo hướng nào*. Sau khi đã hỏi đủ và kỹ các
dấu hiệu này, ta mới hỏi đến các dấu hiệu khác xuất hiện kèm theo dấu hiệu
này. Lấy một ví dụ khi bệnh nhân bị đau bụng vì phần lớn bệnh nhân đến khám
cấp cứu là vì đau bụng. Để khai thác dấu hiệu này:
- *Cơ hội xuất hiện của dấu hiệu đau*. Có thể là tự nhiên, nhưng cũng có thể
sau khi ăn cỗ và uống rượu (viêm tuỵ) sau khi lao động nặng (sỏi tiết niệu),
hoặc thay đổi thời tiết (loét dạ dày-tá tràng).
- *Đau từ bao giờ, đau ở vùng nào của bụng*. Nếu là vùng trên rốn thường ta
hay nghĩ đến dạ dày-tá tràng, nếu đau vùng dưới sườn phải, ta nghĩ đến gan
mật, nếu đau hố chậu phải ta nghĩ đến ruột thừa, nếu đau vùng bụng dưới ta
nghĩ đến phần phụ hoặc bàng quang. Sự suy nghĩ này xuất phát từ vị trí giải
phẫu và hệ số tương quan giữa vị trí bên ngoài với bệnh lý các tạng bên
trong. Tuy nhiên nếu chúng ta lại định kiến vào quan điểm này thì có thể dẫn
đến sai lầm trong chẩn đoán. Ví dụ như trẻ em, khi bị viêm ruột thừa lại
thường bắt đầu đau ở vùng trên rốn, hoặc không ít các trường hợp đau hố chậu
phải lại thuộc về bệnh lý phần phụ hay đại tràng.
- *Cường độ đau* cũng tuỳ thuộc vào từng loại bệnh. Ví dụ như thủng dạ dày
thường xuất hiện đột ngột, cơn đau dữ dội như bị đâm dao vào bụng khiến bệnh
nhân phải gập người lại và vì cơn đau dữ dội nên họ nhớ rất chính xác thời
gian xảy ra và thường đi đến bệnh viện rất sớm trong khi đó viêm ruột thừa
lại chỉ đau lâm dâm và do vậy người bệnh thường đến viện khá muộn, kể cả
những người có học vấn hoặc chức vụ cao.
- *Tính chất đau* cũng mang tính đặc thù cho từng bệnh. Đau do tắc ruột hoặc
viêm đại tràng, giun lên ống mật, sỏi niệu quản … thường đau thành từng cơn
điển hình.
- *Hướng lan của đau* cũng mang tính đặc thù cho một số loại bệnh: đau của
viêm tuỵ, sỏi mật thường lan ra sau lưng, đau của thoát vị lỗ bịt thường lan
xuống mặt trong đùi (do chèn vào thần kinh thẹn), viêm túi mật, áp xe gan,
viêm gan thường lan ra sau lưng và lên bả vai, sỏi tiết niệu thường lan
xuống bộ phận sinh dục.
- Cũng trong khi hỏi về đau, ta phải hỏi thêm bệnh nhân trong khi đau thì *tư
thế nào giúp cho bớt đau*: nếu như thủng dạ dày, bệnh nhân không dám thở
mạnh và gập người lại, hai tay ôm ghì lấy vùng bụng trên trong khi cơn đau
do giun lên đường mật, bệnh nhân thường nằm chổng mông hoặc vắt chân lên
tường.
- Các *dấu hiệu kèm theo* của đau bụng cũng mang tính đặc trưng. Ví dụ như
sỏi đường tiết niệu thường kèm theo đái ra máu, đau do tắc ruột, viêm tuỵ
thường kèm theo nôn, bí trung đại tiện. Những trường hợp nhiễm trùng đường
mật hoặc áp xe gan hoặc những nung mủ thường kèm theo dấu hiêụ sốt cao và
rét run, đau do viêm bàng quang hay phần phụ thường kèm theo đái buốt và đái
dắt hoặc đau do viêm ruột thưà thường kèm theo buồn nôn và ngây ngấy sốt.
Điều quan trọng trong khi hỏi bệnh phải kiên nhẫn, không gợi ý cho bệnh nhân
kể theo định hướng của người thầy thuốc, nên đặt các câu hỏi mang tính lựa
chọn và nếu thấy gì nghi ngờ cần hỏi đi hỏi lại để tránh những tưởng tượng
của bệnh nhân.
*TIỀN SỬ *
Khai thác tiền sử có môt giá trị quan trọng không chỉ trong chẩn đoán, điều
trị mà còn góp phần cho nghiên cứu.
- Trong tiền sử, *khai thác những bệnh lý trước đây liên quan đến xuất hiện
bệnh lần này*. Ví dụ như một người có tiền sử táo bón lâu ngày thì là điều
kiện hết sức thuận lợi để gây nên bệnh trĩ; hoặc tiền sử một người từ lâu có
biểu hiện cơn đau kiểu giun chui ống mật sẽ liên quan đến bệnh sỏi mật, hoặc
là tiền sử sốt rét sẽ liên quan đến lách to… Đó là khai thác tiền sử nhằm hỗ
trợ cho chẩn đoán.
- Khai thác trong tiền sử bệnh nhân có *bệnh gì kèm theo hay không* như cao
huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim mạch… hoặc những *tiền sử dị ứng* như dị
ứng với một loại thuốc nào để trong quá trình gây mê và điều trị ta có kế
hoạch trước, tránh những tại biến đáng tiếc xảy ra. Đó là khai thác tiền sử
phục vụ cho điều trị.
- Khai thác tiền sử hỗ trợ cho nghiên cứu khoa học, ta cần khai thác những
thói quen trong sinh hoạt của bệnh nhân như hút thuốc, ăn mặn, uống rượu
hoặc uống nước không đun sôi… để từ đó có thể tìm đến nguyên nhân hoặc điều
kiện thuận lợi gây nên bệnh này. Đồng thời cũng cần khai thác trong gia đình
hoặc xóm giềng có ai biểu hiện bệnh giống của bệnh nhân để từ đó có thể phát
hiện bệnh mang tính di truyền hoặc bệnh sinh ra do tác động của ảnh hưởng
môi trường. Vì vậy, tiền sử phải được khai thác một cách nghiêm túc và tỉ
mỉ, tránh qua loa, lấy lệ như hiện nay.
Trong khi ta hỏi bệnh, đồng thời tiến hành quan sát bệnh nhân từ sắc diện,
màu da, môi, kiểu thở, hơi thở, kiểu nói, tư thế và kiểu đau, thần sắc…để có
định hướng dần những việc sẽ cần làm trong khi khám bệnh.
*KHÁM BỆNH *
Khám bệnh phải được xây dựng thành một trình tự logic để thành một thói quen
và nhờ thói quen này mà người thày thuốc giỏi ít khi bỏ sót dấu hiệu có thể
phát hiện ra các triệu chứng không đáng bỏ qua.
Trước hết ta phải xem *da và niêm mạc*, lưu ý niêm mạc mắt (vàng, nhợt …) và
niêm mạc lưỡi (bẩn …), sờ *mạch* xem rõ, đều, nhanh chậm. Lấy *nhiệt độ* và
đo *huyết áp*. Nếu bệnh nhân có biểu hiện thở khó người khám bệnh phải đếm *nhịp
thở* bằng cách áp bàn tay lên vùng thượng vị, mắt nhìn đồng hồ trong ít nhất
một phần tư phút. Khi thấy người bệnh có biểu hiện bất thường về mạch, huyết
áp, nhịp thở mà cụ thể là mạch nhanh, nhỏ, huyết áp thấp, nhịp thở quá nhanh
hoặc quá chậm ta phải có động tác can thiệp ngay vì đây là những dấu hiệu có
nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng trước khi tiến hành khám để phát hiện bệnh.
Ví dụ như một phụ nữ đến khám vì đau bụng dữ dội, vào đến phòng khám, người
nhợt, da tái, mạch nhanh nhỏ, huyết áp hạ. Trong tình trạng này nếu người
chưa có kinh nghiệm phải làm ngay động tác ủ ấm, truyền dịch và xét nghiệm
máu còn người có kinh nghiệm sẽ hướng ngay đến chẩn đoán là vỡ khối chửa
ngoài dạ con và chuyển vào phòng mổ để tiếp tục hoàn thiện chẩn đoán và sẵn
sàng can thiệp. Nếu lúc đó chúng ta tiếp tục thăm khám, tìm kiếm dấu hiệu
chẩn đoán thì nguy cơ truỵ mạch đe doạ tính mạng người bệnh là rất lớn và có
khi chẩn đoán xong thì đã quá muộn không còn thời gian để xử lý. Nếu người
bệnh đến trong tình trạng mê man, mất ý thức, tại nơi tiếp nhận phải có biên
bản của một nhóm gồm ba người kiểm kê mọi loại giấy tờ, tài sản, tư trang
trên người và trong túi quần áo đồng thời phải ghi tên tuổi địa chỉ của
người đưa đến. Một điều cần lưu ý đối với khám cấp cứu bụng do nguyên nhân
tai nạn giao thông hoặc sinh hoạt như đánh nhau hay đâm chém nhau. Đây là
những trường hợp có liên quan đến yếu tố pháp luật sau này trong việc định
tội hoặc giám ddịnh thương tật vì vậy mọi vết tích có ở trên người nạn nhân
phải được thống kê đầy đủ, mô tả tỷ mỷ trong hồ sơ bệnh án.
*1. Khám bụng.*
Khám bụng là những thăm khám vùng bụng, vùng bẹn bìu và thăm trực tràng hoặc
thăm âm đạo vì vậy phải có nơi khám kín đáo và đối với phụ nữ khi người thày
thuốc là nam giới khám bệnh thì trong chỗ khám bệnh bắt buộc phải có từ hai
người trở lên.
*a. Thăm khám vùng bụng.*
Thăm khám vùng bụng người khám bệnh phải yêu cầu người bệnh bộc lộ đầy đủ từ
ngang núm vú xuống tới phần trên của đùi. Người bệnh nằm ngửa, chân chống
xuống giường để bụng và đùi tạo một góc lớn hơn 45 độ làm chùng cơ bụng.
Người khám ngồi bên phải nếu thuận tay phải và ngồi bên trái nếu thuận tay
trái. Tuy nhiên có một số trường hợp đau dữ dội, bệnh nhân không thể nằm
ngửa được ví dụ như trong thủng ổ loét dạ dày tá tràng. Trong những trường
hợp này cần ai ủi nhẹ nhàng đả thông bệnh nhân và nhanh chóng xác định bệnh
nhân có co cứng thành bụng hay không để có chẩn đoán quyết định.
*Quan sát.*
Trước hết là nhìn. Nhìn xem *bụng bệnh nhân có di động theo nhịp thở hay
không, bụng lõm hay chướng*.
- Nếu bụng không di động theo nhịp thở, ta có thể phát hiện *dấu hiệu co
cứng thành bụng* qua quan sát: các múi cơ thẳng của bụng nổi rõ liên tục như
người lên gân bụng.
- Nếu bụng lõm, động tác tiếp theo là tìm kiếm dấu hiệu Bouveret .
- Nếu bụng chướng, động tác tiếp theo là xác định chướng do hơi hay do dịch
bằng cách gõ.
Ngoài ra cần quan sát xem trên bụng có vết mổ cũ hoặc có chỗ nào gồ lên hay
không cũng như vùng bẹn bìu có gì khác lạ hay không…Điều này rất quan trọng
trong mối liên quan chẩn đoán.
- Nếu như bệnh nhân có sẹo mổ hay sẹo thương tích trên thành bụng thì thường
liên quan đến tắc ruột sau mổ.
- Nếu bệnh nhân có những chỗ lồi lên ở vùng bẹn, nếu trên đường Malgaine
(đường nối từ gai chậu trước-trên đến bở trên phải xương mu) thường là khối
thoát vị bẹn, dưới đường này thường là khối thoát vị đùi; lồi lên ở quanh
rốn thường là thoát vị rốn, lồi lên dưới sẹo mổ thường là sa lồi thành bụng.
Những lỗ thoát vị này là do điểm yếu của thành bụng (bẩm sinh hoặc mắc phải)
làm cho một số quai ruột nằm ra ngoài ổ bụng và có thể bị thắt nghẹt lại.
Trong quan sát, ta cũng cần nhìn đến các chất thải của bệnh nhân như chất
nôn, nước tiểu, phân… để có thể hướng tới chẩn đoán ví dụ như nôn ra máu hay
đi ngoài phân đen, đái ra máu hay đái ra mủ, dịch nôn có dịch mật hay không
để phân biệt giữa tắc tá tràng với hẹp môn môn vị.
*Sờ nắn bụng.*
Mục đích của sờ nắn bụng trong cấp cứu ngoại khoa tập trung cho phát hiện
tình trạng thành bụng đồng thời cũng tìm các dấu hiệu khác trong khám bụng.
Tình trạng thành bụng thể hiện tổn thương của các tạng ở trong ổ bụng vì vậy
việc thăm khám một cách kỹ càng của những người có kinh nghiệm đã mang lại
nhiều giá trị trong chẩn đoán cấp cứu bụng và cho đến nay, với những áp dụng
tiến bộ trong các thăm dò bổ trợ, khám lâm sàng vẫn mang tính chất quyết
định trong chẩn đoán và chỉ định cấp cứu bụng ngoại khoa.
Để đánh giá tình trạng thành bụng, người khám cần *áp nhẹ toàn bộ bàn tay
của mình lên bụng bệnh nhân, mềm mại ấn từ từ, không khám bằng các đầu ngón
tay* vì các đầu ngón tay sẽ kích thích thành bụng tạo ra những đáp ứng của
thành bụng do phản xạ. Nguyên tắc đặt ra trong khám bụng là *khám từ vùng
không đau đến vùng đau*, để so sánh tình trạng cơ thành bụng ở các vùng bụng
đối diện. Thông thường, chỉ có khi thành bụng mềm hoàn toàn mới xác định
được các khối u hoặc các tạng trong ổ bụng như gan, lách, túi mật, thận … to
ra còn khi thành bụng đã phản ứng hoặc co cứng, dấu hiệu này rất khó xác
định.
*Phản ứng thành bụng.*
Phản ứng thành bụng là tình trạng *cơ thành bụng co lại khi ta ấn nhẹ bàn
tay vào bụng bệnh nhân từ nông xuống sâu*. Để tránh tình trạng phản ứng
thành bụng giả tạo do người khám bệnh gây nên, bàn tay người khám bệnh phải
được làm ấm trước khi khám, áp sát toàn bộ bàn tay lên bụng, từ vùng bụng
không đau đến vùng bụng bị đau, so sánh tình trạng thành bụng bên đau với
bên đối diện. Phản ứng thành bụng có thể biểu hiện bằng thớ cơ thành bụng
căng lại gần như lên gân bụng, nét mặt đau đớn và thể hiện động tác đối
kháng như giữ tay người khám lại, gạt tay người khám ra …Nguyên nhân phản
ứng thành bụng là một phản xạ của thành bụng nhằm bảo vệ các tạng bên trong
khi bị tổn thương do sang chấn hay viêm nhiễm.
*Co cứng thành bụng.*
*Co cứng thành bụng nghĩa là thành bụng phải co cứng liên tục và ngoài ý
muốn người bệnh*
Co cứng thành bụng được chia làm hai loại:
- *Co cứng thành bụng cục bộ* – chỉ co cứng một nhóm cơ của một vùng bụng –
như chỉ co cứng ở hố chậu phải hay dưới sườn phải, trong khi những nơi khác
vẫn còn mềm
- *Co cứng toàn thể các cơ thành bụng*.
Cần lưu ý khi xác minh co cứng thành bụng nghĩa là thành bụng phải co cứng
liên tục và ngoài ý muốn người bệnh. Phát hiện dấu hiệu này, chỉ cần áp nhẹ
bàn tay lên bụng bệnh nhân để cảm nhận tình trạng co cứng liên tục của các
khối cơ thành bụng. Khi co cứng cục bộ có nghĩa là một tạng đã bị vỡ nhưng
chưa vỡ vào toàn ổ bụng còn co cứng toàn thể là dấu hiệu sớm của thủng tạng
rỗng. *Co cứng thành bụng liên tục toàn thể**Cảm ứng phúc mạc.* *Cảm ứng
phúc mạc là thể hiện ở thành bụng các dấu hiệu mà trong ổ phúc mạc có dịch
viêm hoặc máu hoặc nói cách khác là tình trạng thể hiện của thành bụng trong
trường hợp phúc mạc bị kích thích do dịch viêm nhiễm hoặc do máu*. Trong
những trường hợp này, bụng bệnh nhân thường trướng, vẻ mặt biểu hiện nhiễm
trùng nếu trường hợp có mủ trong ổ bụng hoặc nhợt nhạt nếu có máu trong ổ
bụng. Nắn bụng rất nhẹ nhàng cũng làm người bệnh không chịu nổi hoặc khi ta
bỏ tay đột ngột khỏi thành bụng sau khi ấn sâu vào khiến bệnh nhân đau nảy
người lên. Trong một số trường hợp thể hiện kín đáo, *tìm các điểm đau xung
quanh rốn* để phát hiện cảm ứng phúc mạc rất có giá trị. Cũng có thể tìm dấu
hiệu cảm ứng phúc mạc bằng cách *giảm áp lực đột ngột ổ bụng* trong khi
khám: Ta áp cả bàn tay ấn sâu đều vào thành bụng rồi đột ngột bỏ ra. Nếu
bệnh nhân đau nảy người lên là thể hiện dấu hiệu dương tính. Đồng thời với
biểu hiện trên thành bụng, nếu ta thăm trực tràng, bao giờ cũng phát hiện
túi cùng Douglas phồng và đau vag dấu hiệu này rất trung thành và có giá
trị…
*Tìm các điểm đau. *
*Nhắc lại về phân khu vùng bụng* :
Bụng được chia thành 9 vùng do hai đường thẳng đi từ giữa xương đòn đi xuống
cắt vuông góc với hai đường ngang mà đường ngang thứ nhất tạo bởi đường nối
hai gai chậu trước trên và đường ngang thứ hai nối điểm cắt của đường
thẳngvới hai bờ sườn.
- Vùng trên rốn (tương ứng với dạ dày, đại tràng ngang, tuỵ, thuỳ gan trái).
- Vùng quanh rốn (tương ứng với ruột non) .
- Vùng dưới rốn (tương ứng với bàng quang, tử cung).
- Vùng dưới sườn phải (tương ứng với tá tràng, túi mật, gan, thận phải).
- Vùng mạng sườn phải (tương ứng với đại tràng lên, niệu quản phải).
- Hố chậu phải (tương ứng với ruột thừa, manh tràng, phần phụ).
- Dưới sườn trái (tương ứng với đuôi tuỵ, lách, đại tràng góc lách, thận
trái).
- Mạng sườn trái (tương ứng với đại tràng xuống và niệu quản) .
- Hố chậu trái (tương ứng với đaị tràng xích ma, vòi trứng và buồng trứng
trái).
*Các điểm đau đặc hiệu. *Trong khám bụng ngoại khoa cấp cứu, người ta lưu
tâm đến một số điểm như *điểm MacBurney *trong bệnh viêm ruột thừa, *điểm
cạnh ức trái* trong trường hợp gan trái nung mủ, *điểm sườn lưng trái* trong
phù tuỵ hoặc viêm tuỵ cấp. Đồng thời với việc tìm các điểm đau đặc hiệu, có
một số nghiệm pháp thường được tiến hành cùng với động tác khám. Ví dụ như
nghiệm pháp Murphy, nghiệm pháp rung gan, nghiệm pháp kích thích gây tăng
nhu động của dạ dày hai quai ruột.
- *Nghiệm pháp Murphy* nhằm phát hiện dấu hiệu viêm nhiễm của túi mật. Bệnh
nhân nằm ngửa, hai chân chống xuống giường tạo thành một góc 45 độ. Người
thày thuốc ngồi ở bên phải, bàn tay để ở dưới bờ sườn phải. Khi bệnh nhân
hít vào bàn tay người thày thuốc ấn nhẹ và đẩy lên trên, nếu túi mật viêm,
bệnh nhân sẽ ngừng động tác hít vào. Cơ chế của nghiệm pháp này là khi bệnh
nhân hít vào, cơ hoành hạ xuống, đẩy gan và túi mật xuống theo. Khi người
thày thuốc đưa tay lên, túi mật đang bị đẩy xuống do động tác hít vào chạm
vào đầu ngón tay người thày thuốc và vì túi mật bị viêm nên đau và vì thế
bệnh nhân tự nhiên ngừng hít vào.
- *Nghiệm pháp rung gan *nhằm phát hiện những nung mủ ở trong gan. Các ngón
tay của một bàn tay áp lên các khoang liên sườn từ thứ 6 trở xuống rồi dùng
cạnh của bàn tay kia chặt xuống bàn tay đang áp vào sườn bệnh nhân. Nếu
nghiệm pháp dương tính có nghĩa là bệnh nhân đau nảy người lên.
- *Nghiệm pháp kích thích tăng nhu động ruột hoặc dạ dày* bằng cách búng nhẹ
hoặc véo nhẹ cơ bụng tạo kích thích và ta nhìn tiếp tuyến với thành bụng.
Nếu dương tính, ta sẽ thấy các nhu động ruột cuộn lên như rắn bò vì vật dấu
hiệu dương tính được gọi là dấu hiệu rắn bò.
*Nghe bụng** *Nghe bụng nhằm phát hiện tiếng nhu động ruột để phân biệt giữa
*tắc ruột cơ giới* (có và tăng nhu động) với *tắc ruột cơ năng do liệt ruột*(mất nhu động ruột), đồng thời một số trường hợp túi phình động mạch chủ vỡ
thường biểu hiện một bệnh cảnh của hội chứng phúc mạc và trong trường hợp
này khi nghe bụng sẽ thấy tiếng thổi tâm thu rất rõ.
*Khám các lỗ thoát vị.** *Trong khám bụng bình thường nói chung và khám bụng
cấp cứu nói riêng, khám các lỗ thoát vị và thăm trực tràng hoặc âm đạo là
những động tác bắt buộc. Thoát vị nghĩa là một quai ruột chui qua một lỗ ở
bên trong ổ bụng (thoát vị trong) hoặc ra dưới da bụng, bẹn, đùi (thoát vị
ngoài). Thoát vị trong thường gặp do lỗ bịt không kín hoàn toàn, thoát vị
qua cơ hoành … còn thoát vị ngoài thường là thoát vị bẹn, thoát vị đùi,
thoát vị rốn. Khám bụng chỉ c
ó thể phát hiện được những thoát vị ngoài. Thông thường, thoát vị không phải
là một bệnh ngoại khoa cấp cứu nhưng khi đoạn ruột thoát vị bị nghẹt lại sẽ
gây nên tắc ruột và muộn hơn, đoạn ruột này sẽ bị hoại tử do việc cấp máu
động mạch cho quai ruột bị khó khăn cùng với việc quai ruột phù nề do mạch
mạch và tĩnh mạch trở về bị ứ trệ, càng làm tăng thêm cản trở cho việc cấp
máu động mạch. Dấu thoát vị nghẹt là khối thoát vị không tự lên, bệnh nhân
đau, nôn và khi khám vào cổ bao thoát vị, bệnh nhân rất đau. Khi đã xác định
là thoát vị nghẹt, mọi động tác thử đẩy khối thoát vị lên là cấm tuyệt đối
vì cho dù khối thoát vị được ấn lên nhưng tiến triển của đoạn ruột này không
xác định được và nếu hoại tử sẽ gây nên viêm phúc mạc trầm trọng. Kể cảc
những trường hợp đã chỉ định mổ, sau khi gây mê, do tác dụng mềm cơ nên một
số trường hợp khối thoát vị tự tụt lên. Trong những trường hợp này, vì sự an
toàn của bệnh nhân, ta vẫn phải tiếp tục mổ để kiểm tra quai ruột bị sa
xuống đồng thời giải quyết nguyên nhân gây thoát vị.
*b.Thăm trực tràng, âm đạo** *
Thăm trực tràng hoặc thăm âm đạo là những động tác bắt buộc trong khám bụng
cấp cứu. Động tác thăm khám này bắt buộc vì ba lý do:- Nó xác định tình
trạng ổ phúc mạc thông qua kiểm tra túi cùng
Douglas. Chúng ta đều biết túi cùng
Douglas là chỗ thấp nhất của ổ phúc mạc và tính chất sinh lý của phúc mạc
vùng này là tái hấp thu kém nhất trong toàn ổ bụng vì vậy khi trong ổ bụng
có dịch, sẽ tụ lại ở túi cùng này. Bình thường túi cùng
Douglas là một khoang ảo và khi chứa dịch nó mới đầy lên vì vậy khi thăm
trực tràng hoặc âm đạo, ta sẽ thấy túi cùng này đầy và rất đau. – Qua thăm
khám trực tràng hay âm đạo, ta có thể gián tiếp kiểm tra một số tạng qua
thành bên (như ruột thừa, phần phụ) hoặc thành trước (tuyến tiền liệt, tử
cung).- Khi thăm trực tràng hay âm đạo, ta có thể chẩn đoán nguyên nhân một
số bệnh như trong tắc ruột ở người già ta có thể sờ thấy khôí u trực tràng,
trong tắc ruột ở trẻ còn bú, nếu đứa trẻ bỏ bú, ưỡn người, khóc thét cùng
với khi thăm trực tràng (bằng ngón tay út) có máu dính vào găng thì chẩn
đoán lồng ruột sẽ được xác định, đối với phụ nữ tự nhiên xỉu đi, tụt huyết
áp mà khi thăm âm đạo có máu ra theo găng thì chắc chắn là vỡ chửa ngoài dạ
con. Thăm trực tràng và âm đạo là một động tác thăm khám tế nhị vì vậy nó
phải được giải thích kỹ về lý do và quy trình thao tác với bệnh nhân và
người nhà của họ trước khi tiến hành. Đối với phụ nữ bao giờ cũng phải có
một người y tá hoặc nhân viên y tế là nữ có mặt trong lúc thăm khám và nếu
người phụ nữ chưa sinh hoạt tình dục thì không được phép thăm khám âm đạo.
Thăm khám được tiến hành trong buồng riêng, bệnh nhân nằm ngửa trong tư thế
phụ khoa, dưới mông được lót một miếng toan nhỏ. Người thăm khám đi găng, sử
dụng ngón trỏ trong thăm trực tràng ở người lớn, ngón út ở trẻ em và ngón
trỏ cùng ngón giữa trong thăm âm đạo. Sau khi đi găng, người khám nhúng ngón
tay vào dầu parafin rồi tiến hành thăm khám. Động tác thăm khám phải hết sức
nhẹ nhàng, từ từ và tuyệt đối không được thô bạo vì sự thô bạo sẽ cho kết
quả nhầm do phản ứng của người bệnh. Trong khi thăm trong, có thể dùng bàn
tay còn lại kết hợp nắm trên thành bụng để phát hiện các dấu hiệu kèm theo.
Sau khi tiến hành khám bụng xong, người thày thuốc phải nghe tim, phổi, khám
vùng cổ, cột sống để phát hiện những bệnh kèm theo và những bệnh kèm theo
này có khi giúp đỡ cho chẩn đoán (như khi khám bụng phát hiện gan to và đau
mà nghe tim có tiếng rung tâm trương thì chắc chắn phải nghĩa đến gan to là
do suy tim) đồng thời giúp đỡ cho gây mê lựa chọn những phương án tối ưu
trong khi gây mê.
*CÁC THĂM DÒ CẬN LÂM SÀNG BỔ TRỢ:*
Sau khi đã thu nhận được những triệu chứng cơ năng thông qua hỏi bệnh, triệu
chứng thực thể thông qua khám bệnh và các yếu tố về toàn thân, người khám đã
có hướng nào nghĩ đến chẩn đoán và để làm rõ thêm, người khám sẽ cho tiến
hành các thăm dò cận lâm sàng gồm xét nghiệm máu, xét nghiệm sinh hoá, thăm
dò hình ảnh và một số thăm dò khác như nội soi dạ dày thực quản…
*1. Xét nghiệm huyết học*: gồm xét nghiệm đếm hồng cầu và công thức bạch
cầu, huyết sắc tố nhóm máu, thời gian máu đông, máu chảy và hêmatocrit. Hồng
cầu và hematocrit tăng trong trường hợp máu bị cô đặc do mất nước hoặc sốc
và giảm khi bị mất máu. Bạch cầu tăng trong các trường hợp nhiễm trùng hay
chấn thương tạng đặc như vỡ lách hoặc vỡ gan . Thời gian máu đông và máu
chảy để khái quát về trạng thái đông máu, cầm máu của bệnh nhân. Nhóm máu
ABO là đủ đối với người Việt
Nam và á đông nhưng với người phương tây, xét nghiệm nhóm Rh là điều bắt
buộc để bảo đảm an toàn trong truyền máu.
*2. Xét nghiệm sinh hoá*. Những xét nghiệm sinh hoá thông thường là urê,
đường máu. Nếu urê cao thì phải làm tiếm creqtinin để xác định tình trạng
suy thận và kali máu để đánh giá mức độ suy thận. Nếu đường máu cao thì phải
làm ngay đường niệu để xác định có hay không có bệnh đái tháo đường. Nếu
bệnh nhân nôn nhiều thì phải xét nghiệm điện giải. Nếu bệnh nhân có vàng mắt
thì phải cho thử bilirubin cùng với muối mật và sắc tố mật trong nước tiều.
Nếu bệnh nhân có tiền sử tiêm chích thì bắt buộc phải thử HIV, viêm gan C và
viêm gan B….
*3. Thăm dò chẩn đoán hình ảnh.* *- Chụp bụng không chuẩn bị*. Các dấu hiệu
thu được trên phim chụp bụng không chuẩn bị gồm: sỏi cản quang, liềm hơi,
mức hơi nước… Chụp bụng không chuẩn bị một phần giúp cho chẩn đoán xác định
(như liềm hơi dưới cơ hoành trong thủng tạng rỗng) hoặc chẩn đoán phân biệt
(đâu hố chậu phải có hình ảnh sỏi niệu quản phái phân biệt với đau hố chậu
phải do viêm ruột thừa). Tuy nhiên các dấu hiệu này không thể thay thế cho
các dấu hiệu lâm sàng.
*- Siêu âm:* Siêu âm là một phương pháp thăm dò được áp dụng nhiều vì không
gây nguy hiểm và đau đớn cho bệnh nhân. Siêu âm cho phép đánh giá đầu tiên ổ
phúc mạc có dịch hay không. Tiếp đến siêu âm cho phép chẩn đoán xác định một
số tạng tổn thương như hình ảnh dãn đường mật có hoặc không kèm sỏi, viêm và
sỏi túi mật, hình ảnh vỡ tạng đặc, tình trạng tử cung và buồng trứng, tình
trạng tuỵ, thận. Đối với tạng rỗng một đôi khi có thể thấy hình ảnh ruột
thừa hoặc khối u của ruột. Đối với mạch máu, siêu âm có thể xác định được
đường kính của tĩnh mạch cửa, phát hiện những túi phình của động mạch chủ
hoặc các động mạch khác trong ổ bụng. Tuy nhiên một nhược điểm lớn của siêu
âm chẩn đoán phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng máy và đặc biệt là kinh
nghiệm và trình độ người đọc siêu âm.
*- Chụp cắt lớp vi tính*. Nhìn chung hiện nay chụp cắt lớp vi tính chưa là
một thăm dò thông thường trong cấp cứu ở nước ta vả lại giá trị trong chẩn
đoán cấp cứu bụng không hơn nhiều siêu âm.
*4. Nội soi đường tiêu hoá (Endoscospy):* Trong những trường hợp chảy máu
đường tiêu hoá, một trong những chỉ định rất cần để xác định nguyên nhân
chảy máu là nội soi dạ dày tá tràng. Trước hết nó xác định chảy máu do vỡ
búi dãn tĩnh mạch thực quản hay do ổ loét dạ dày tá tràng hay do đường mật
(dịch chảy qua Oddie có máu hay không), đồng thời nó có thể can thiệp cầm
máu tạm thời như tiêm chất gây xơ vào búi dãn tĩnh mạch thực quản hoặc tiêm
thuốc cầm máu ổ loét.
*5. Chọc rửa ổ bụng*: Nếu như trong những năm đầu của thế kỷ XX, chọc dò ổ
bụng được đề cập đến trong cấp cứu bụng ngoại khoa nhưng hiện nay phương
pháp này đã đưọc thay thế bằng chọc rửa ổ bụng. Sau khi luồn một catheter ở
dưới rốn hướng xuống Douglas, người ta cho dịch sinh lý chảy vào trong ổ
bụng từ 500 đến 1000ml. Sau đó dung nguyên tắc xi phông để cho dịch rửa này
tự chảy ra. Nếu như đại thể xác định rõ dịch chảy ra có máu hoặc dịch tiêu
hoá là đủ để chỉ định mổ nhưng nêú chưa rõ, người ta mang dịch này đi ly tâm
đến hồng cầu, bạch cầu và thử amylase. Chọc rửa ổ bụng cho một giá trị chẩn
đoán cao.
*6. Nội soi ổ bụng (Laparoscopy).* Trong một số trường hợp nghi ngờ, để
tránh mổ bụng thăm dò, một số cơ sở có điều kiện có thể tiến hành soi ổ bụng
để chẩn đoán và qua nội soi ổ bụng có thể tiến hành các thủ thuật cần thiết
như khâu lỗ thủng dạ dày, cắt ruột thừa, cắt túi mật, gỡ dính ruột. Đây là
một hướng mới của ngoại khoa trong thế kỷ XXI.
*7. Những thăm dò khác:* trong những trường hợp nghi nghờ bệnh nhân có bệnh
khác kèm theo qua thăm khám toàn thân ta phải cho làm các thăm dò khác như
chụp phổi (đối với nghi ngừo lao phổi) điện tim, siêu âm tim (đối với người
cao huyết áp hoặc nghi nghờ bệnh tim). Đặc biệt hiện nay, trong mối đe doạ
của đại dịch HIV, tất cả những bệnh nhân có nguy cơ cao (đặc biệt là nghiện
chích, mại dâm) việc xét nghiệm tìm HIV, viêm gan B và viêm gan C là bắt
buộc.
*KẾT LUẬN : *
Khám bụng ngoại khoa được bắt đầu từ hỏi bệnh. Qua hỏi bệnh ta sẽ thu thập
được các triệu chứng cơ năng. Trên cơ sở những triệu chứng cơ năng này ta sẽ
tập trung tìm kiếm các triệu chứng thực thể thông qua động tác khám bệnh.
Tập hợp triệu chứng cơ năng và triệu chứng thực thể lại ta sẽ thu được các
triệu chứng lâm sàng làm cơ sở cho hướng tới một số chẩn đoán lâm sàng. Từ
những chẩn đoán lâm sàng này ta cho làm thêm các nhóm xét nghiệm và thăm dò
khác nhằm phân biệt một số biểu hiện lâm sàng giống nhau của một số bệnh
khác nhau tiến tới chẩn đoán xác định. Một khi chẩn đoán xác định đã được rõ
ràng, việc xây dựng những phương án điều trị không là khó khăn. Như vậy muốn
điều trị tốt ta phải có được chẩn đoán đúng và muốn có được chẩn đoán đúng
ta phải biết cách hỏi bệnh, cách khám bệnh cách yêu cầu các xét nghiệm và
thăm dò cận lâm sàng khác. Khi có được những thông tin này, xác dịnh những
chẩn đoán loại trừ hoặc chẩn đoán phân biệt theo một tư duy logíc để dẫn tới
chẩn đoán xác định. Không bao giờ được quên khám toàn thân để phát hiện
những bệnh kềm theo hoặc là những nguyên nhân có thể gây nên những dấu hiệu
bụng ngoại khoa giả như suy tim, viêm phổi.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top