câu hỏi - TRL quản lý nhà nước
QUẢN Lí NHÀ NƯỚC
Câu 1. Anh(Chị) hày trình bày sự cần thiết quản lý nhà nước về tài chính tiền tệ? (Trang 1)
Câu 2: Anh(Chị) hóy trỡnh bày Mục tiờu, Nhiệm vụ chủ yếu quản lý Nhà nước về tài chính tiền tệ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay? (Trang 1)
Câu 3: Anh chị hãy nêu nội dung quản lý của Nhà nước về kinh tế? (Trang 2)
Câu 4: Anh chị hãy nêu các phương thức QLNN về kinh tê? (Trang 3)
Câu 5: Anh chị hãy nêu các loại công cụ Nhà nước sử dụng để quản lý kinh tế?(Trang 4)
Câu 6: Anh chị hãy trình bày bản chất, nguyên tắc của Kinh tế thị trường định hướng XHCH ở nước ta?(Trang 4)
Câu 7: Anh chị hãy nêu các đặc trưng của nền kinh tế thị trường ?(trang 5)
Câu 8: Anh chị hãy nêu các đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN?(trang 6)
Câu 9: Anh chị hãy trình bày khái niệm, đặc trưng (Đặc điểm), bản chất của thuế của thuế?(trang 6)
Câu 10: Anh chị hãy phân tích các chức năng của Thuế? (trang 7)
Câu 11: Anh chị hãy nêu vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường?(trang 8)
Câu 12: Anh chị hãy nêu các tiêu thức của một hệ thống thuế tối ưu?(trang 9)
Câu 13: Anh chị hãy trình bày các yếu tố cấu thành một sắc thuế?(trang 9)
Câu 14: Anh chị hãy trình bày các yếu tố tác động đến chính sách thuế?(trang 10)
TRẢ LỜI
Cõu 1. Anh(Chị) hày trỡnh bày sự cần thiết quản lý nhà nước về tài chớnh tiền tệ?
Trả lời: Trong nền kinh tế thị trường núi chung và nền kinh tế thị trường cú sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta núi riờng, tài chớnh tiền tệ là điều kiện, tiền đề của mọi hoạt động trong đời sống kinh tế xó hội. Nú trực tiếp chi phối đến cỏc hoạt động khỏc từ sản xuất đời sống đến quản lý Nhà nước. Để tài chớnh tiền tệ tác động đến cỏc hoạt động của đời sống kinh tế, xó hội theo mục tiờu và bản chất của chế độ, đũi hỏi Nhà nước trong thực hiện chức năng tổ chức và quản lý mọi hoạt động của xó hội cần chủ động tác động vào tài chính cũng như sử dụng tài chớnh là cụng cụ để quản lý đời sống xó hội. Đó là đồi hỏi khỏch quan của bất kỳ chế độ xó hội nào, đặc biệt là trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Vai trũ quản lý Nhà nước đối với tài chớnh tiền tệ là một tất yếu được thể hiện qua hai khớa cạnh:
Thứ nhất, xuất phỏt từ vai trũ của tài chớnh tiền tệ đối với mọi hoạt động trong đời sống kinh tế xó hội. Tài chớnh tiền tệ cú vai trũ đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Nó có tác động và chi phối mọi mặt hoạt động trong xó hội, quan hệ tài chớnh tiền tệ thuộc phạm trự quan hệ sản xuất, thể hiện bản chất của Nhà nước, của chế độ và phục vụ Nhà nước. Do vậy, đũi hỏi Nhà nước phải trực tiếp can thiệp, chi phối cỏc quan hệ tài chớnh tiền tệ trong nền kinh tế, một mặt được thực hiện theo yờu cầu của quy luật giỏ trị, quy luật lưu thông tiền tệ và tớn dụng ngõn hàng…phự hợp với điều kiện của đất nước. Mặt khỏc, phụ vụ cho việc thực hiện mục tiờu, nhiệm vụ của Nhà nước trong từng thời kỳ. Đó là yêu cầu mang tớnh khỏch quan xuất phỏt từ chức năng, nhiệm vụ quản lý của Nhà nước.
Thứ hai, xuất phát từ vai trò tài chính Nhà nươc. Điều này được thể hiện Nhà ngược phải sử dụng tài chính tiền tệ là công cụ quan trọng trong quản lý xó hội núi chung và quản lý kinh tế nói riêng:
Một là, Nhà nước định ra cỏc luật, phỏp lệnh, nghị định, quyết định về tài chớnh, cỏc chớnh sỏch về ngõn sỏch, về thuế, về tớn dụng, tiền tệ…Cỏc luật, chớnh sỏch này khụng những bắt buộc doanh nghiệp và dân cư phải tuõn thủ mà cũn tạo điều kiện, môi trường để cỏc doanh nghiệp hoạt động.
Hai là, Nhà nước bỏ vốn đầu tư vào các doanh nghiệp quan trọng của mỡnh, cỏc khu vực cụng cộng, kết cấu hạ tầng. Những nguồn tài chớnh to lớn đầu tư vào các lĩnh vực khỏc nhau, khụng chỉ tạo ra môi trường, hành lang cho cỏc doanh nghiệp hoạt động, mà cũn tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho cỏc ngành mới, khu vực mới, cú tầm quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dõn.
Ba là, Nhà nước cũng là người cung ứng cỏc nguồn vốn cho đất nước. Nhà nước là người quyết định phỏt hành tiền tệ, kiểm soỏt tất cả cỏc hoạt động tớn dụng và phõn phối tớn dụng. Ngoài ra, Nhà nước cũn trợ giỏ, bự lỗ, quy định giỏ.
Bốn là, Nhà nước chi tiờu bằng vốn ngõn sỏch sẽ là người mua hàng lớn nhất của đất nước. Những khoản chi ngân sách nhà nước tạo thành một sức mua bằng tiền to lớn và đũi hỏi những hàng hoỏ, dịch vụ đa dạng, phức tạp tạo ra những thị trường to lớn cho việc tiờu thu hàng hoỏ, dịch vụ của cỏc doanh nghiệp. Trong bất cứ hỡnh thỏi xó hội nào, sức mua do chi tiêu ngân sách nhà nước tạo ra là sức mua lớn nhất trờn thị trường và đó là lực lượng tiờu thụ lớn nhất.
Năm là, Nhà nước với tư cách là người cú quyền lực, thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát tài chính đối với cỏc hoạt động kinh tế - xó hội, trong đó có hoạt động tài chớnh của cỏc doanh nghiệp. Những việc kinh doanh phạm phỏp, những bờ bối về tài chớnh của cỏc doanh nghiệp, được Nhà nước xử lý theo phỏp luật, bảo đảm cho cỏc doanh nghiệp hoạt động theo yờu cầu của nền kinh tế và đời sống của nhõn dõn.
Cỏc vấn đề tài chớnh trờn tầm vĩ mụ ấy chỉ có Nhà nước mới cú khả năng chi phối, tác động đến mọi hoạt động trong đời sống kinh tế xó hội. Qua đó, Nhà nước vừa bắt buộc vừa tạo điều kiện cho cỏc hoạt động trong nền kinh tế phỏt triển.
Từ những vấn đề trờn cú thể khẳng định rằng, trong bất kỳ xó hội nào đặc biệt là nền kinh tế thị trường cú sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta; Nhà nước quản lý tài chớnh tiền tệ là tất yếu khách quan đồng thời cũng đũi hỏi chủ quan xuất phỏt từ bản chất Nhà nước ta.
Cõu 2: Anh(Chị) hóy trỡnh bày Mục tiờu, Nhiệm vụ chủ yếu quản lý Nhà nước về tài chớnh tiền tệ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay?
Trả lời:
1. Mục tiờu của quản lý Nhà nước về tài chớnh tiền tệ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay:
Xuất phỏt từ bản chất của Nhà nước ta và phự hợp với tiến trỡnh đổi mới của đất nước, quản lý Nhà nước về tài chớnh tiền tệ cần đạt được cỏc mục tiờu (yờu cầu) sau đây:
Thứ nhất, giải quyết hài hoà quan hệ lợi ớch: lợi ích nhà nước, lợi ớch tập thể, lợi ớch của người lao động theo hướng quan tâm đến lợi ớch vật chất đạt được, mọi tổ chức, doanh nghiệp, cỏ nhõn tự giỏc thực hiện cơ chế quản lý kinh tế nói chung và cơ chế tài chớnh núi riờng của Nhà nước.
Thứ hai, giải quyết hài hoà quan hệ trước mắt và lâu dài theo hướng cú sự chuẩn bị nguồn tài chớnh cho sự phỏt triển lõu dài phự hợp với xu thế vận động của nền văn minh nhân loại, của khu vực và quỏ trỡnh đổi mới của đất nước trờn cơ sở khụng ngừng cải thiện đời sống trước mắt của nhõn dõn, chống lóng phớ.
Thứ ba, giải quyết hài hoà quan hệ giữa sản xuất và tiờu dựng với phương châm “tiêu dùng trong cái làm ra”. Ở đây, đũi hỏi tiờu dựng phải trên cơ sở phỏt triển sản xuất. Đời sống chỉ cú thể được nâng cao trên cơ sở nõng cao tốc độ tăng trưởng và phỏt triển kinh tế.
Trong tiến trỡnh đổi mới kinh tế hiện nay, quản lý Nhà nước về tài chớnh tiền tệ cần giải quyết tốt một số vấn đề sau:
- Tài chớnh tiền tệ phải tham gia giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất và thị trường với phương châm tài chính tiền tệ tham gia vào quỏ trỡnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải lấy thị trường làm cơ sở. Chỉ đầu tư vào những lĩnh vực, ngành, sản phẩm cú thị trường nhằm hạn chế rủi ro.
- Tài chớnh tiền tệ gúp phần giải quyết việc rỳt ngắn dần khoảng cỏch giữa thị thành với nụng thụn, miền xuụi với miền ngược, cũng như hạn chế những khuyết tật mà nền kinh tế thị trường tạo nờn.
- Thúc đẩy quỏ trỡnh đô thị hoá đất nước và thị trường hoỏ nền kinh tế trên cơ sở dành tỷ lệ tài chớnh tiền tệ thoả đáng cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuậ và cơ sở hạ tầng xó hội.
- Bảo đảm đầy đủ nguồn tài chính để giải quyết những nhiệm vụ trọng yếu của Nhà nước trong từng thời kỳ.
- Bảo đảm cân đối tài chớnh tớch cực hàng năm có phần bổ sung dự trữ cũng như thanh toán dần nợ đến hạn.
Giải quyết tốt những vấn đề trên là đũi họi và cú ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quản lý Nhà nước về tài chớnh tiền tệ cũng như chính sách tài chính tiền tệ quốc gia.
1. Nhiệm Vụ chủ yếu quản lý Nhà nước về tài chớnh tiền tệ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay:
Quản lý Nhà nước về tài chớnh tiền tệ là quỏ trỡnh tỏc động của Nhà nước vào cỏc quan hệ tài chớnh tiền tệ nhằm hướng nó tác động vào cỏc hoạt động trong đời sống kinh tế xó hội phục vụ mục tiờu, chiến lược, kế hoạch phỏt triển đất nước núi chung và kinh tế xó hội nói riêng mà Nhà nước đặt ra trong từng thời kỳ. Quản lý Nhà nước về tài chớnh tiền tệ đồng thời là quỏ trỡnh sử dụng tài chớnh tiền tệ như là công cụ để quản lý và điều hành nền kinh tế, hướng cỏc quan hệ kinh tế phỏt triển theo ý đồ của Nhà nước.
Thực hiên đường lối đổi mới của Đảng ta khởi xướng và lónh đạo xuất phỏt từ bản chất của Nhà nước ta (Nhà nước của dõn, do dõn và vỡ dõn), mục tiờu, nhiệm vụ chủ yếu của quản lý Nhà nước về tài chớnh tiền tệ ở nwocs ta trong giai đoạn hiện nay được thể hiện qua cỏc nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, xõy dựng, hỡnh thành một hệ thống cơ chế mới, quản lý vĩ mụ nền kinh tế, kích thích, thúc đẩy mọi tổ chức, cá nhân đầu tư và nâng cao hiệu quả sản xuất xó hội, thúc đẩy thực hiện cỏc mục tiờu chiến lược phỏt triển kinh tế - xó hội.
Hai là, hỡnh thành và bảo đảm các cân đối chủ yếu, tỉ lệ phỏt triển nền kinh tế, phõn phối hợp lý quan hệ tớch luỹ - tiêu dùng, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý cho sự phỏt triển trong từng giai đoạn và sự phỏt triển lõu dài.
Ba là, thúc đẩy sự phỏt triển quan hệ sản xuất xó hội chủ nghĩa, nõng cao vai trũ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất chủ yếu; doanh nghiệp Nhà nước phải giữ vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế.
Bốn là, định hướng hoạt động và phỏt triển cỏc thành phần kinh tế khỏc bằng chớnh sỏch tài chớnh cởi mở, khuyến khớch, cụng bằng về nghĩa vụ và quyền lợi.
Năm là, khai thỏc triệt để mọi nguồn vốn, kỹ thuật, lao động, thị trường cho phỏt triển kinh tế - xó hội.
Sỏu là, mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế với nước ngoài, hoà nhập kinh tế với khu vực và thế giới, vỡ mục đích lợi ích cho đất nước.
Bảy là, khai thác, nuôi dưỡng, tạo lập và phỏt triển cỏc nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thực hiện chính sách động viờn thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước; quản lý chặt chẽ cỏc nguồn vốn cho phỏt triển kinh tế và thực hiện cỏc chức năng khác của Nhà nước.
Tỏm là, bảo đảm thực hiện cỏc chớnh sỏch xó hội của Nhà nước.
Chớn là, bảo đảm ổn định thị trường, giỏ cả, ổn định giỏ trị đồng tiền, làm cơ sở cho ổn định và phỏt triển kinh tế.
Mười là, tăng cường kiểm tra, kiểm soỏt, bảo đảm chớnh sỏch tài chớnh tiền tệ nhất quỏn, giữ vững trật tự kỷ cương về kinh tế tài chớnh xó hội.
Những điều trên được thực hiện theo nguyờn tắc:
- Nhà nước quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước và lưu thông tiền tệ theo nguyờn tắc tập trung thống nhất. Bảo đảm quyết định tập trung vào Quốc hội và sự điều hành của Chớnh phủ. Đề cao trỏch nhiệm của chớnh quyền cỏc cấp trên cơ sở lợi ớch quốc gia.
- Phấn đấu cõn bằng ngõn sỏch tớch cực, khụng in tiền để bự vào bội chi ngân sách, chi thường xuyờn của ngân sách nhà nước không được vượt quỏ tổng số thu từ thuế và cỏc khoản mang tớnh chất thuế. Bộ thu nếu có được đầu tư để phỏt triển.
- Tài chính nhà nước giữ vai trũ chủ đạo trong hệ thống tài chớnh.
- Thực hiện nguyờn tắc tự chủ về tài chính đối với cỏc doanh nghiệp. Xoỏ bỏ mọi sự bự lỗ từ ngân sách nhà nước.
- Tiết kiệm là quốc sỏch.
Với những điều trờn, quản lý Nhà nước về tài chớnh tiền tệ nhằm đảm bảo cân đối ngõn sỏch vững chắc, ổn định tiền tệ, kỡm hóm lạm phỏt, tạo điều kiện tài chớnh bền vững cho quỏ trỡnh hội nhập vào khu vực.
Câu 3: Anh chị hãy nêu nội dung quản lý của Nhà nước về kinh tế?
Trả lời:
Kinh tế thị trường là mô hình phát triển kinh tế phù hợp với sự vận động của các quy luật kinh tế và xã hội trong đó có quy luật giá trị, Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ tạo ra khung pháp lý, cơ sở hạ tầng, cơ chế kiểm soát, trọng tài đề ra chiến lược phát triển nèn kinh tế Quốc dân.
Việc QLNN về kinh tế bao gồm những nội dung cơ bản sau đây:
1. Tổ chức bộ máy QLNN về kinh tế.
Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế tuy thuộc vào cơ cấu, tổ chức sản suất và cơ chế kinh doanh nhằm quản lý có hiệu quả, hiệu lực phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế.
Tổ chức bộ máy QLNN về kinh tế bao gồm Tổ chức bộ máy Nhà nước ở trung ương và địa phương, và bộ máy quản lý của các tổ chức sản xuất kinh doanh hình thành nên hệ thống bộ máy quản lý kinh tế Nhà nước thích hợp, đáp ứng được yêu cầu và những biết đổi phù hợp với sự phát triển của cơ cấu, tổ chức sản xuất, cơ chế quản lý kinh doanh định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Xây dựng phương hướng mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, Cụ thể :
- Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
- Xây dựng hệ thống các dự án đầu tư nhằm cụ thể hoá chương trình mục tiêu chiến lược.
- Xây dựng hệ thống chính sách, tư tưởng chiến lược để chỉ đạo việc thực hiện các mục tiêu đó.
3. Xây dựng pháp luật kinh tế,
Nội dụng này tạo khung pháp lý, cơ sở để công dân làm kinh tế, khi Đảng cầm quyền đã có đường lối chính trị-kinh tế rõ ràng. đồng thờ hệ thống Pháp luật và thể chế là điều kiện tối cần thiết cho một hoạt động kinh tế-xã hội.
Hệ thống pháp luật kinh tế bao gồm rất nhiều loại. Về tổng thể, hệ thống PL bao gồm hai loại chính sau đây:
- Hệ thống pháp luật theo chủ thể hoạt động kinh tế, như Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật hợp tác xã, Luật doanh nghiệp tư nhân và công ty,v.v… Loại hình pháp luật này về thực chất là Luật tổ chức các đơn vị kinh tế, theo đó, sân chơi kinh tế được xác định trước các loại chủ thể tham gia cuộc chơi kinh tế, do Nhà nước làm trọng tài.
- Hệ thống pháp luật theo khách thể như Luật tài nguyên, môi trường, được Nhà nước đặt ra cho mọi thành viên trong xã hội, trong đó chủ yếu là các doanh nhân, có tham gia vào việc sử dụng các yếu tố nhân tài, vật lực và tác động vào môi trường thiên nhiên.
4. Tổ chức hệ thống các doanh nghiệp:
Với nội dung này Nhà nước tổ chức và không ngừng hoàn thiện tổ chức hệ thống doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cụ thể của đất nước, bao gồm:
- Đánh giá hệ thống DNNN hiện có, xác định những mặt tốt, mặt xấu của hệ thống điều hành.
- Loại bỏ các mặt yếu kém bằng phương thức thích hợp cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê, giao, v.v…
- Tổ chức xây dựng mới các DNNN cần có
- Củng cố các DNNN hiện còn cần tiếp tục duy trì nhưng yếu kém về mặt này, mặt khác, nâng cấp để các DNNN này ngang tầm vị trí được giao.
· Xúc tiến các hoạt động pháp lý và hỗ trợ để các đơn vị kinh tế dân doanh ra đời, cụ thể:
- Thực hiện các mặt về pháp luật cho các hoạt động của doanh nhân trên thương trường như xét duyệt, cấp phép đầu tư, kinh doanh, v.v…
- Thực hiện các hoạt động hỗ trợ về tư pháp, thông tin, phương tiện, v.v…
5. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước.Xây dựng quy hoạch, thiết kế tổng thể, thực hiện các dự án phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng của nền kinh tế.
Tổ chức việc xây dựng
Quản lý khai thác sử dụng
6. Kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các đơn vị kinh tế
Kiểm tra việc tuân thủ pháp luật kinh doanh.
Kiểm tra việc tuân thủ các pháp luật lao động, tài nguyên, môi trường.
Kiêm tra việc tuân thủ pháp luật về tài chính, kế toán thống kê, v.v…
Kiểm tra chất lượng sản phẩm.
7. Thực hiện và bảo vệ lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của công dân.
7.1. Các loại lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội, chịu ảnh hưởng của hoạt động kinh tế mà Nhà nước có nhiệm vụ thực hiện và bảo vệ.
- Phần vốn của Nhà nước trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Các khoản được thu của Nhà nước vào ngân sách Nhà nước từ các hoạt động kinh tế quốc dân.
7.2. Nội dung của QLNN về mặt này:
- Tổ chức bảo vệ công sản
- Thu lợi cho Nhà nước: Thu thuế, phí, các khoản lợi ích khác.
Câu 4: Anh chị hãy nêu các phương thức QLNN về kinh tê?
Trả lời:
Phương thức quản lý là thuật ngữ có tính khái quát cao về một hệ thống các nguyên tắc, phương pháp, biện pháp, công cụ quản lý, có sự nhất quán với nhau về phương hướng mục tiêu, về bố trí lực lượng quản lý, về phối hợp hành vi, v.v.. nhờ vậy, sự quản lý có được hiệu lực, hiệu quả cao.
Các phương thức QLNN về kinh tế:
1. Phương thức cưỡng chế
Thực chất của phương thức cưỡng chế là dùng sự thiệt hại làm áp lực để buộc đối tượng thể hiện ý chí của Nhà nước.
Phương thức cưỡng chế được sử dụng khi các đối tượng bị quản lý có hành vi vi phạm hoặc lẩn tránh nghĩa vụ gây thiệt hại cho cộng đồng, cho Nhà nước hoặc cho một công dân hợp pháp khác. Cưỡng chế là biện pháp bắt buộc phải thực hiện để tránh cho cộng đồng, cho Nhà nước một thiệt hại nào đó.
Các biện pháp trách nhiệm trong cưỡng chế là trách nhiệm hình sự và trách nhiệm hành chính.
2. Phương thức kích thích
Bản chất của kích thích là dùng lợi ích làm động lực để khiến đối tượng vì muốn có lợi cho mình mà làm theo quy định của Nhà nước.
Kích thích là để doanh nhân đồng thời vì lợi ích của chính mình làm lợi cho Nhà nước, cho cộng đồng. Kích thích cũng còn được dùng để bổ sung khi cưỡng chế.
Lợi ích có thể là vật chất hoặc danh giá. Đối với doanh nhân, vật chất là tất cả những gì trực tiếp hoặc gián tiếp giúp họ tăng lợi nhuận: Một quyết định miễn thuế, giảm lãi suất cho vay, v.v…đều là những kích thích đối với họ.
Danh giá cũng là cái có tác dụng kích thích. Nó tạo nên sự cạnh tranh, sự tôn trọng, khiến đối tượng do không chịu kém ai mà hành động hơn người.
3. Phương thức thuyết phục
Thuyết phục là tính toán hộ và truyền cho đối tượng quản lý biết những cái được, cái mất khi họ theo hoặc không theo Nhà nước, tính không thể khác được trong việc chấp hành sự quản lý của Nhà nước, từ đó tạo ra sự giác ngộ chân lý, đạo lý, tình thương trong nội tâm đối tượng quản lý để họ chủ động làm theo Nhà nước hoặc làm theo cái đúng, dù Nhà nước chưa hoặc không yêu cầu.
Phương thức thuyết phục cần áp dụng trong mọi lúc mọi nơi, mọi đối tượng, áp dụng đồng thời với phương thức cưỡng chế là kích thích.
Nội dung thuyết phục bao gồm pháp luật kinh tế, kế hoạch kinh tế, quy luật kinh tế, đạo lý…
Câu 5: Anh chị hãy nêu các loại công cụ Nhà nước sử dụng để quản lý kinh tế?
Trả lời: Công cụ, theo nghĩa đen, là các dụng cụ có công năng, là cái có khả năng thay cho con người trong một số hoạt động. Công cụ trong QLNN về kinh tế có thể được hiểu theo cả hai nghĩa: dụng cụ và phương tiện, là tất cả những gì giúp Nhà nước thực hiện được hành vi quản lý của mình.
Các công cụ Nhà nước dùng để QLNN về kinh tế:
Để thực hiện các phương thức quản lý, Nhà nước cần đến các công cụ, phương tiện sau đây:
1. Các công cụ dùng để thể hiện mục tiêu, đó là
- Các loại kế hoạch Nhà nước, từ kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đến các kế hoạch cụ thể, đặt ra cho từng doanh nhân về HH,DV, thuế, phí, v.v… với tính chất là nghĩa vụ đối với Nhà nước của doanh nhân.
- Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm quốc gia về sản phẩm và dịch vụ.
- Các dự án, luận chứng kinh tế-kỹ thuật được duyệt.
Bằng các công cụ này, Nhà nước nói lên được ý muốn hoặc ý chí của mình, được đặt ra cho các đối tượng quản lý của mình thi hành.
2. Các công cụ thể hiện chuẩn mực cư xử, hành vi khi thực hiện các mục tiêu nói trên.
Thuộc loại công cụ này có các đạo luật và hệ thống thể chế hành chính.
3. Các công cụ thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các xu hướng hành vi kinh tế của công dân.
- Đường lối phát triển kinh tế-xã hội
- Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
- Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
- Hệ thống pháp luật về kinh tế
- Các chính sách kinh tế và các công cụ kinh tế của từng chính sách (như chính sách tài chính với hai công cụ: thuế, chi tiêu của Chính phủ; Chính sách tiền tệ – tín dụng với hai công cụ là kiểm soát mức cung tiền và lãi suất; Chính sách ngoại thương với các công cụ: thuế quan, hạn ngạch, tỷ giá hối đoái, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế; chính sách thu nhập với các công cụ là giá cả và tiền lương v v…)
Chính sách là công cụ để Nhà nước thể hiện toàn bộ các quan điểm, các nguyên tắc, qua đó thể hiện quyết tâm và phương hướng dùng các phương thức, biện pháp của Nhà nước trong việc điều chỉnh một loại quan hệ kinh tế nào đó.
4. Các công cụ vật chất thuần tuý
Đó là các loại quỹ để khuyến khích, các nơi giam giữ và phương tiện giam giữ kẻ phạm pháp, v v…
5. Các công cụ hành động cụ thể
Đó là Bộ máy và công chức, được lập ra để thực thi các công vụ cưỡng chế, kích thích, thuyết phục
Câu 6: Anh chị hãy trình bày bản chất, nguyên tắc của Kinh tế thị trường định hướng XHCH ở nước ta?
Trả lời: Định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là bản chất của nền kinh tế nước ta, thể hiện bản lĩnh chính trị của công cuộc đổi mới do Đảng ra lãnh đạo. Về nguyên tắc, nước ta đang chuyển đổi nền kinh tế, nhưng không phải là chuyển sang nền kinh tế thị trường chung chung, bất kỳ mà có hướng đích cụ thể - định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử và thực tiễn đã chứng tỏ kinh tế thị trường là thành tựu của nhân loại có thể chung sống với nhiều chế độ xã hội, do đó nó được coi như một phương tiện, gắn liền với một thiết chế chính trị và ý tưởng của Nhà nước đương quyền. Chủ nghĩa xã hội với mục tiêu tốt đẹp nhân văn cần phải sử dụng động lực của kinh tế thị trường làm cho “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đó là mục tiêu cao cả của chế độ xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang hướng tới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta khác các nền kinh tế thị trường nói chung ở bốn vấn đề cơ bản:
- Mục đích là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
- Về sở hữu, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
- Về quản lý, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước ta. Đó là Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách,… phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể nhân dân.
- Về phân phối, thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền vớiđảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Như vậy, quan điểm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng được nhận thức rõ hơn, nhưng trên thực tế có bảo đảm được định hướng XHCN hay không lại phụ thuộc vào hoạt động lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong thực tiễn. Nhân tố quyết định bảo đảm định hướng XHCN là vai trò quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó kế hoạch và thị trường kết hợp chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Nhà nước sử dụng luật pháp, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác, đặc biệt là thực lực kinh tế của Nhà nước để tác động vào thị trường nhằm phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường, ngăn ngừa, hạn chế xu thế tự phát, phân hoá giàu nghèo quá mức, hạn chế sự sa sút về đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, tàn phá môi trường và các tệ nạn xã hội khác.
Chung quy lại, đúng hướng hay chệch hướng lại phụ thuộc vào bộ máy lãnh đạo, quản lý và phụ thuộc vào con người như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN”, bao gồm từ người lãnh đạo và quản lý cao nhất cho đến những cán bộ, đảng viên ở cơ sở, cả những người làm quản lý Nhà nước và quản lý kinh doanh.
Câu 7: Anh chị hãy nêu các đặc trưng của nền kinh tế thị trường ?
Trả lời: Kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế vận động, phát triển dựa trên cơ sở các quy luật của thị trường, trong đó quan hệ hàng hoá - tiền tệ trở thành phổ biến và bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế.
· Một là, sự lựa chọn khách quan của thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, ba vấn đề cơ bản do thị trường quyết định. Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào do cầu của thị trường và do lợi nhuận mách bảo, sản xuất cho ai do thu nhập của dân cư quyết định. Nguồn lực của xã hội luân chuyển theo chiều ngang, không gian thị trường được mở rộng cho sự lựa chọn. Sự vận động của cung - cầu và cạnh tranh đã làm bộc lộ một cách thực chất sản phẩm gì cần được lựa chọn, cần sử dụng như thế nào để sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường. Nguồn lực của xã hội được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi có hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao.
Hai là, các sản phẩm đều là hàng hoá hoặc mang tính hàng hoá. Điều này bắt nguồn ngay từ đầu quá trình sản xuất kinh doanh - sản xuất để bán. Sản phẩm là hàng hoá không chỉ bao gồm sản phẩm hữu hình mà còn cả sản phẩm vô hình như các dịch vụ, thông tin, bí quyết công nghệ, chất xám,…
Ba là, cung - cầu hàng hoá trên thị trường là yếu tố chủ yếu quyết định giá cả của hàng hoá. Hai đại lượng cung - cầu vận động theo quy luật ngược chiều nhau và ấn định mức giá cả mà người mua và người bán đều chấp nhận được. Ngoài ra, còn nhiều yếu tố khác tác động với mức độ khác nhau tới giá cả của thị trường.
Bốn là, kinh tế thị trường gắn với tự do trong sản xuất kinh doanh, các chủ thể kinh doanh có quyền tự do kinh doanh do cung - cầu thị trường tác động và chi phối. Khi có cầu, các chủ thể kinh doanh tiến hành tổ chức sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường và tìm kiếm lợi nhuận (khác với mô hình kinh tế kế hoạch hóa, sản xuất cái gì đều có “kế hoạch” định trước). Tuy vậy, hiểu tự do kinh doanh đúng nghĩa là hoạt động kinh doanh những gì pháp luật của Nhà nước không cấm.
Năm là, kinh tế thị trường luôn gắn với cạnh tranh. Đặc trưng cạnh tranh của kinh tế thị trường do nhiều nhân tố quy định. Tự do kinh doanh mưu cầu, tìm kiếm lợi nhuận cao dẫn tới cạnh tranh, muốn chiếm giữ và mở rộng thị phần, muốn giành chiến thắng trên thương trường cũng dẫn tới cạnh tranh. Cạnh tranh chính là động lực của phát triển và hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, trong quản lý của Nhà nước cần hạn chế độc quyền, mở rộng cạnh tranh thực sự, bình đẳng.
Sáu là, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ, thống nhất, ngày càng hiện đại, đảm bảo cho cơ chế thị trường vận động đồng bộ, thông suốt cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới.
Bảy là, kinh tế thị trường là kinh tế mở. Nhờ tự do, mở cửa, không gian thị trường được mở rộng, thị trường là một thể thống nhất thông suốt, hoà nhập thị trường thế giới. Nguồn lực của xã hội được mở rộng không chỉ trong nước mà cả quốc tế. Trong điều kiện của xu hướng toàn cầu hoá, mỗi quốc gia có thể tìm thấy lợi thế của mình trong quan hệ đa phương. Đối với các nước kém phát triển và đang phát triển, mở cửa hội nhập là xu hướng tất yếu để có thêm nguồn lực cho sự phát triển, nhưng cũng đặt ra những yêu cầu mới cao hơn, có cả cơ hội và thách thức. Điều quan trọng là phải có chiến lược, biết chuẩn bị về nội lực để tiếp thu một cách có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài.
Tám là, kinh tế thị trường gắn liền với sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh. Kinh tế thị trường tự bản thân nó là một nền kinh tế xã hội hoá gắn liền với chế độ sở hữu đa dạng, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh, nhiều loại quy mô. Sự đa dạng về sở hữu, về loại hình quy mô tạo điều kiện giải phóng sức sản xuất xã hội, nhằm khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực ngày càng khan hiếm.
Đó là những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường mà trong kinh tế kế hoạch hoá tập trung không thể có hoặc chỉ có đôi nét rất mờ nhạt. Quản lý nền kinh tế thị trường một cách hiệu quả phải trên cơ sở nắm chắc những đặc trưng cơ bản trên đây.
Câu 8: Anh chị hãy nêu các đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN?
Trả lời: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế có các đặc trưng sau đây:
- Một là, quá trình lưu thông những sản phẩm vật chất và phi vật chất từ sản xuất đến tiêu dùng phải được thực hiện chủ yếu bằng phương thức mua - bán.
Sở dĩ có sự luân chuyển vật chất trong nền kinh tế là do có sự phân công chuyên môn hoá trong việc sản xuất sản phẩm xã hội ngày càng cao, cho nên sản phẩm trước khi trở thành hữu ích trong đời sống xã hội; cần phải được gia công qua nhiều khâu chuyển tiếp nhau. Bên cạnh đó, có những người, có những doanh nghiệp, có những ngành, những vùng sản xuất dư thừa sản phẩm này nhưng lại thiếu những sản phẩm khác, do đó giữa chúng cũng cần có sự trao đổi cho nhau.
Sự luân chuyển vật chất trong quá trình sản xuất có thể được thực hiện bằng nhiều cách: luân chuyển nội bộ, luân chuyển qua mua bán. Một nền kinh tế được gọi là nền kinh tế thị trường khi tổng lượng mua - bán vượt quá nửa tổng lượng vật chất của xã hội.
- Hai là, người trao đổi hàng hoá phải có quyền tự do nhất định khi tham gia trao đổi trên thị trường ở ba mặt sau đây:
+ Tự do lựa chọn nội dung trao đổi.
+ Tự do chọn đối tác trao đổi.
+Tự do thoả thuận giá cả trao đổi, theo cách thuận mua vừa bán.
- Ba là, hoạt động mua bán được thực hiện thường xuyên ổn định, trên cơ sở một kết cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua bán được diễn ra thuận lợi và an toàn.
- Bốn là, các đối tác hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích của mình. Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, lợi ích cá nhân không được xâm phạm đến lợi ích của người khác và của cộng đồng.
- Năm là, cạnh tranh là linh hồn của kinh tế thị trường, là động lực thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có lợi cho người tiêu dùng.
- Sáu là, sự vận động của các quy luật khách quan của thị trường dẫn dắt hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể kinh tế tham gia thị trường.
Một nền kinh tế có những đặc trưng cơ bản trên được gọi là nền kinh tế thị trường. Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất trong từng quốc gia và sự hội nhập kinh tế còn mang tính toàn cầu đã tạo điều kiện và khả năng vô cùng to lớn để phát triển nền kinh tế thị trường đạt đến trình độ cao - kinh tế thị trường hiện đại.
Kinh tế thị trường hiện đại là nền kinh tế có đầy đủ các đặc trưng của nền kinh tế thị trường, đồng thời nó còn có các đặc trưng sau đây:
- Một là, có sự thống nhất mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị - xã hội nhân văn.
- Hai là, có sự quản lý của Nhà nước. Đặc trưng này mới hình thành ở các nền kinh tế thị trường trong vài thập kỷ gần đây, do nhu cầu không chỉ của Nhà nước, mà người đại diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền, mà còn do nhu cầu của chính các thành viên những người tham gia kinh tế thị trường.
- Ba là, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận gắn bó hữu cơ với các bộ phận khác.
Câu 9: Anh chị hãy trình bày khái niệm, đặc trưng (Đặc điểm), bản chất của thuế của thuế?
Trả lời: Khái niệm: Thuế là một khoản nộp bằng tiền mà cỏc thể nhõn và phỏp nhõn cú nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện theo luật đối với nhà nước; khụng mang tớnh chất đối khoản, khụng hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dựng để trang trải cho cỏc nhu cầu chi tiờu cụng cộng.
Bản chất, các đặc trưng của thuế:
Từ khái niệm về thuế cho ta thấy bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định tương đối qua từng giai đoạn phát triển và biểu hiện thành những đặc trưng riêng có của thuế, qua đó giúp ta phân biệt giữa thuế với các công cụ tài chính khác. Những đặc trưng (đặc điểm)đó là:
1. Tính bắt buộc(Luụn gắn liền với quyền lực nhà nước )
Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với các hình thức động viên tài chính khác của ngân sách Nhà nước.
Tính bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những lý do sau:
Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng, Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối tượng có thu nhập phải chuyển giao.
Thứ hai, trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng về hàng hoá công cộng ngày càng tăng mà phần lớn hàng hoá này lại do Nhà nước cung cấp. Để duy trì hoạt động cung cấp hàng hoá công cộng thì thu nhập về hàng hoá công cộng từ những người thụ hưởng phải đủ bù đắp các chi phí bỏ ra. để đảm bảo cung cấp hàng hoá công cộng Nhà nước chỉ có thể sử dụng phương pháp thuế để buộc tất cả mọi người, kể cả “Người Ăn Không” phải chuyển giao thu nhập của mình sang khu vực công.
Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành động đóng thuế cho NN không phải là hành động xuất hiện khi có biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ đóng thuế của người công dân.
Với đặc trưng này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính khác của NSNN như Phí, lệ phí, công trái, hoặc hình thức phạt bằng tiền. Hình thức Phí, lệ phí và công trái nói chung mang tính tự nguyện và có Ttính chất đối giá. Còn phạt tiền cũng là hình thức bắt buộc, song nó chỉ xảy ra khi người bị phạt có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi ích Nhà nước hoặc cộng đồng.
2. Tính không hoàn trả trực tiếp(và được sử dụng để đáp ứng chi tiêu công cộng).
Tính không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện ở chỗ: Thuế được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua các dịch vụ công cộng của NN. Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu thuế, NN không hề cung ứng trực tiếp một DV công cộng nào cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế, NN cũng không có sự bồi hoàn nào cho người nộp thuế. Cũng như vậy, người nộp thuế cũng không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế với lý do họ không được hoặc ít được sử dụng các DV công cộng. Người nộp thuế cũng không có quyền đòi hỏi được thừa hưởng nhiều DV công cộng hơn so với số thuế mà họ phải trả và họ cũng không thể từ chối nộp thuế với lý do họ đã phải thanh toán cho các khoán chi trái với nguyên tắc này.
Đặc trưng này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản phí, lệ phí và tín dụng Nhà nước.
3. Luụn gắn liền với thu nhập
Đặc điểm này thể hiện rừ nội dung kinh tế của thuế. Nhà nước thực hiện thu thuế thông qua quỏ trỡnh phõn phối lại tổng sản phẩm xó hội và thu nhập quốc dõn, mà kết quả của nú là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế. Thuế, cho dù dưới bất kỳ hỡnh thức nào đều buộc người trả thuế phải lấy một khoản thu nhập của mỡnh ra thanh toỏn cho Nhà nước mà không cần biết mỡnh đó chuẩn bị được khoản thu nhập đó hay chưa.
Với đặc điểm này, thuế không giống như các hỡnh thức huy động tài chớnh tự nguyện hoặc hỡnh thức phạt tiền tuy cú tớnh chất bắt buộc, nhưng chỉ áp dụng đối với những tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
4. Thuế có tính pháp lý cao:
Đặc trưng này thể hiện thuế là một công cụ TC có tính pháp lý cao. Điều này được quyết định bởi quyền lực chính trị của NN. NN là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị XH. Vì vậy, để bắt buộc các công dân “ Tự nguyện” nộp thuế thì NN phải sử dụng đến quyền lực của mình, quyền lực ấy được thể hiện bằng luật pháp. Nhà KT học Joseph E, STIglitz nói rằng: “ Việc chuyển giao bắt buộc này giống như là ăn trộm, chỉ có một điểm khác chủ yếu là: Trong khi cả hai cách chuyển đều là không tự nguyện, thì cách chuyển qua Chính phủ có mang tấm áo choàng hợp pháp và sự tôn trọng do các quá trình ban cho.
Tuy nhiên, để sự chuyển giao bắt buộc thông qua thuế diễn ra được “êm thấm”, mặc dù quá trình đó được thực hiện dưới sự bảo vệ của LP, thì những quy định của PL cũng không được mang tính tuỳ tiện mà phải dựa trên cơ sở khoa học nhất định. Vì vậy, trong luật thuế thường xác định trước các yếu tố có tính chất điều chỉnh hành vi nộp thuế như: Đối tượng nộp thuế, Đối tượng chịu thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.
Câu 10: Anh chị hãy phân tích các chức năng của Thuế?
Trả lời: Thuế không những là một phạm trù Kinh tế, mà còn là phạm trù tài chính. Do đó thuế không chỉ mang trong mình những thuộc tính vốn có của các quan hệ Tài chớnh, mà còn biểu hiện đặc trưng, hình thức vận động và các chức năng riêng có bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính. Các chức năng cơ bản của thuế bao Gồm:
1. Chức năng huy động nguồn lực Tài chớnh cho Nhà nước
Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện động viên nguồn tài chính cho Nhà nước. Người ta gọi công dụng này là chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế.
Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trng cho tất cả các dạng Nhà nước. Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn lực tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế.
Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội.
Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn lực của thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước thông qua thuế tiến hành phân phối một bộ phận đáng kể tổng sản phẩm quốc nội. Thuế trở thành nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân sách các nước có nền kinh tế thị trường.
Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách quan cho sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nói cách khác, quá trình huy động tập trung nguồn lực thông qua thuế đã tự động làm xuất hiện chức năng điều tiết kinh tế của thuế. Chức năng huy động nguồn lực và chức năng điều tiết kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
2. Chức năng Điều tiết kinh tế
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế mặc dù có cơ sở nảy sinh từ chức năng huy động tập trung nguồn lực, nhưng chỉ được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ những năm đầu của thế kỷ XX khi vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước được thực hiện. Việc tăng cường chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi tiêu ngày càng lớn và hậu quả tất yếu đòi hỏi Nhà nước phải tăng nguồn lực tài chính Nhà nước, mà được hình thành chủ yếu từ thuế. Nhu cầu về nguồn lực tài chính càng lớn thì sự cần thiết phải tăng cường các chức năng của thuế càng cấp bách, để tác động một cách hiệu quả đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong quá trình đó chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế của thuế đã được sử dụng một cách hiện thực.
Điều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã được lồng trước vào quá trình huy động tập trung nguồn lực tài chính. Bằng cách sử dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu đi sự tích luỹ tư bản, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh tế, Nhà nước đã thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trên quy mô cả nước.
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy đĩnh các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế, sử dụng linh hoạt các u đãi và miễn giảm thuế. Trên cơ sở đó, Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung, phù hợp với lợi ích của xã hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và kích thích, chức năng điều tiết kinh tế của thuế đã được thực hiện. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động đến lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế vì lợi ích của xã hội.
Câu 11: Anh chị hãy nêu vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường?
Trả lời: Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện kinh tế thị trường, với sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Vai trò của thuế được biểu hiện trên khía cạnh sau đây:
1. Thuế là công cụ chủ yếu huy động tập trung nguồn lực vật chất cho Nhà nước
· Để huy động nguồn lực vật chất cho mình, Nhà nước có thể sử dụng các hình thức khác nhau:
- Phát hành thêm tiền để trang trải nhu cầu chi tiêu cần thiết của Nhà nước
- Phát hành trái phiếu để vay trong và ngoài nước.
- Bán một phần tài sản quốc gia.
- Thu thuế.
- Hạn chế bớt tính luỹ thoái cả một số loại thuế so với thu nhập có được.
Phát hành thêm tiền để chi tiêu là cách thức đơn giản nhất. Song việc phát hành thêm tiền để chi tiêu thiếu cơ sở vật chất đảm bảo sẽ dẫn đến hậu quả lạm phát đưa nền kinh tế đến bờ vực thẳm, càng làm khó khăn thêm cho ngân sách Nhà nước.
Phát hành trái phiếu để vay trong và ngoài nước vừa phải chịu những ràng buộc về kinh tế và chính trị từ phía người cho vay, vừa phải tìm nguồn để hoàn trả cả gốc và lãi.
Do đó, nói chung ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, để huy động tập trung nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, vai trò quan trọng thuộc về thuế. Sử dụng công cụ thuế để huy động sự đóng góp có ưu điểm:
- Thuế là một công cụ phân phối có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đối tượng nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế và phát sinh nguồn thu nhập nộp thuế. Vì thế, thuế đem lại nguồn thu lớn cho Nhà nước.
· - Phương thức huy động tập trung nguồn lực của thuế sử dụng phương pháp chuyển giao thu nhập bắt buộc. Do vậy, nhà nước đảm bảo thực hiện sự công bằng trong việc phân bổ gánh nặng của các khoản chi tiêu công cộng.
- Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong nước tạo ra. Nhờ đó mà một bộ phận đáng kể thu nhập của xã hội được tập trung vào trong tay Nhà nước để đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho các biện pháp kinh tế – xã hội. Mặt khác, nguồn thu từ thuế được đảm bảo tập trung một cách nhanh chóng, thường xuyên, ổn định.
· - Tính ưu thế của động viên thông qua thuế so với các công cụ tài chính khác ở chỗ: Thuế kết hợp giữa cưỡng bức, được quy định dưới hình thức pháp luật cao với kích thích vật chất nhằm tạo ra sự quan tâm của các chủ thể kinh tế đến chất lượng và hiệu quả kinh doanh.
Chính vì những nguyên nhân kể trên, ở nước ta thuế luôn được coi là nguồn thu chủ yếu. Nói như vậy không có nghĩa là để đảm bảo vai trò chủ yếu thì cần phải tăng thu thuế bằng mọi giá. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay ở nước ta việc tăng thu phải đặt trong mối quan hệ với quá trình tăng trưởng kinh tế. Nguồn thu của ngân sách Nhà nước chỉ có thể gia tăng khi và chỉ khi nền kinh tế có sự tăng trưởng và đạt năng suất, hiệu quả cao.
2. Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực cũng như chứa đựng những khuyết tật vốn có. Chính đó là lý do biện minh cho sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình hoạt động của nền kinh tế thị trường. Trong quá trình can thiệp đó, Nhà nước đã sử dụng các biện pháp hành chính, mang tính chất cưỡng chế và hàng loạt các đòn bẩy kinh tế, đặc biệt là thuế. Cùng với việc mở rộng chức năng của Nhà nước, thuế trở thành một công cụ quan trọng để thực hiện điều tiết nền kinh tế quốc dân.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà nước hoàn toàn có khả năng sử dụng thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Điều đó xuất phát từ cơ sở của chức năng điều chỉnh của thuế. Vì lợi ích của xã hội, Nhà nước có thể tăng hoặc giảm thuế đối với thu nhập của các tầng lớp dân cư và doanh nghiệp, để kích thích hoặc hạn chế sự phát triển các lĩnh vực, các ngành nghề khác nhau của nền kinh tế. Bằng cách ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ doanh nghiệp, quá trình điều tiết nền kinh tế quốc dân thông qua thuế được thực hiện.
Nội dung điều chỉnh của thuế đối với nền kinh tế quốc dân bao gồm: điều chỉnh chu kỳ kinh tế; cơ cấu ngành, khu vực và từng vùng lãnh thổ; tích luỹ tư bản; lạm phát; việc làm; lưu thông tiền tệ; giá cả; tiền lương; phân phối thu nhập; các mối quan hệ kinh tế đối ngoại; bảo vệ môi trường… Như vậy, nội dung của điều chỉnh của thuế đối với nền kinh tế quốc dân rất rộng, nó bao hàm các quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Câu 12: Anh chị hãy nêu các tiêu thức của một hệ thống thuế tối ưu?
Trả lời: Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Thuế không chỉ được sử dụng để tập trung nguồn thu cho ngân sách Nhà nước mà còn là một trong những công cụ quan trọng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Bởi vậy, việc xây dựng một hệ thống thuế hiệu quả nhằm giải quyết thoả đáng cả hai yêu cầu trên luôn được các nhà khoa học thế giới quan tâm. Đã từ lâu, chính nhà kinh tế học nổi tiếng Adam-Smith đã đưa ra bốn nguyên tắc cơ bản để xây dựng một hệ thống thuế hợp lý. Sau này các nguyên tắc trên được các nhà kinh tế học hiện đại hoàn chỉnh, bổ sung, và khái quát hoá thành những tiêu thức (tiêu chí) làm cơ sở xây dựng và đánh giá chất lượng của một hệ thống thuế trong mỗi quốc gia.
1. Tính công bằng
Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong tiến trình phát triển lịch sử. Trong một xã hội dân chủ, tính công bằng cần phải được thực hiện trước hết đối với việc phân chia gánh nặng thuế khoá. Tuy nhiên cho đến nay, tiêu thức để đánh giá tính công bằng của một hệ thống thuế cũng đang có nhiều ý kiến khác nhau. Các nhà kinh tế cho rằng tính công bằng của thuế khoá phải dựa trên nguyên tắc công bằng theo chiều ngang và nguyên tắc công bằng theo chiều dọc.
Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang, nếu các cá nhân về mọi mặt đều như nhau thì được đối xử ngang nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.
Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều dọc, nếu người có khả năng nộp thuế nhiều hơn thì phải nộp thuế cao hơn những người khác.
2. Tính hiệu quả
Hệ thống thuế phải đảm bảo tính hiệu quả xét trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, hiệu quả can thiệp đối với nền kinh tế là lớn nhất.
Thứ hai, hiệu quả tổ chức thu thuế là lớn nhất.
3. Tính rõ ràng, minh bạch
Một hệ thống thuế chính xác thể hiện sự rõ ràng và minh bạch trước hết phải chỉ rõ ai chịu thuế, thời hạn nộp thuế và dễ xác định mức thuế phải nộp. Thuế trực thu (thuế thu nhập cá nhân) thường có tính minh bạch hơn thuế gián thu.
Tính minh bạch dễ dàng đạt được hơn khi chính sách thuế đơn giản. Nếu một chính sách thuế phức tạp với quá nhiều mức thuế suất phân biệt và các điều khoản miễn giảm thuế sẽ gây ra tình trạng không có chuẩn mực rõ ràng trong cách hiểu và vận dụng, làm cho người nộp thuế khó hiểu và do đó khó tự giác chấp hành, còn cơ quan thu thuế gặp khó khăn trong quản lý thu nộp. Vì lẽ đó, phát sinh ra sự tuỳ tiện, tạo kẽ hở trốn và tránh thuế, đồng thời tăng chi phí hành chính thuế.
4. Tính linh hoạt
Hệ thống thuế phải có tính linh hoạt, được thể hiện thông qua khả năng thích ứng một cách dễ dàng với những hoàn cảnh kinh tế thay đổi. Nền kinh tế thị trường rất năng động nó luôn biến động theo thời gian, trong khi chính sách thuế lại tương đối ổn định, do vậy dễ nảy sinh sự chệch pha giữa chính sách thuế và các hoạt động kinh tế. Cơ cấu thuế nên tạo thuận lợi việc sử dụng chính sách tài khoá cho sự ổn định và mục tiêu tăng trưởng. Một số chính sách thuế có cơ chế ổn định tự động rất hữu hiệu đó là thuế thu nhập sẽ tự thay đổi mà không cần phải thay đổi chính bản thân chính sách thuế. Thu nhập chịu thuế phụ thuộc vào thu nhập thực tế, khi nền kinh tế suy thoái, thu nhập thực tế giảm dẫn đến mức thuế phải nộp giảm, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, thu nhập tăng nhiều thì thuế phải nộp cũng tự động tăng lên, nên có tác động hạn chế nguy cơ lạm phát.
c. Yêu cầu xây dựng hệ thống thuế:
Trong hoạch định chính sách thuế việc đảm bảo sự thống nhất và hài hoà các tiêu thức trên là rất khó khăn, đôi khi giữa chúng có sự mâu thuẫn nên đòi hỏi phải có sự cân nhắc thận trọng về sự thay đổi này. Chẳng hạn để đạt được tiêu thức công bằng thì buộc phải giảm tính hiệu quả hay nói cách khác là nền kinh tế phải chấp nhận sự phi hiệu quả do tính công bằng của thuế gây ra, bởi vì để tăng tính công bằng thì các sắc thuế phải gồm nhiều mức thuế suất, nhiều các điều khoản miễn giảm phù hợp theo từng đối tượng chịu thuế. Như vậy, chính sách thuế trở nên phức tạp và tất yếu tính đơn giản của thuế lại bị vi phạm. tương tự như vậy, tiêu chí linh hoạt cũng như mối quan hệ nghịch với tiêu chí hiệu quả và tiêu thức công bằng.
Yêu cầu xây dựng hệ thống thuế chính là phải kết hợp những tiêu thức đó một cách tối ưu nhất nhằm thực hiện mục tiêu của hệ thống một cách tốt nhất trong hoàn cảnh kinh tế xã hội cụ thể phù hợp với từng quốc gia và từng giai đoạn phát triển kinh tế. Mỗi quốc gia tuỳ từng điều kiện kinh tế - xã hội và quan điểm của Nhà nước trong sử dụng thuế để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế mà chấp nhận sự đánh đổi giữa các tiêu chí trên để xây dựng một hệ thống thuế phù hợp. Mặt khác qua phân tích mức độ chấp nhận đánh đổi giữa các tiêu chí trong hệ thống thuế của mỗi quốc gia, chúng ta cũng có thể nhận rõ được quan điểm của Chính phủ trong điều hành chính sách thuế của quốc gia đó.
Câu 13: Anh chị hãy trình bày các yếu tố cấu thành một sắc thuế?
Trả lời: Sắc thuế là một hình thức thuế cụ thể được quy định bằng một văn bản pháp luật, dưới hình thức luật, pháp lệnh hoặc các chế độ thuế. Trong một văn bản pháp luật về thuế thông thường chứa đựng các yếu tố cơ bản cấu thành sắc thuế sau đây:
1. Tên gọi của sắc thuế
Mỗi sắc thuế đều có một tên gọi nhằm phân biệt giữa các hình thức thuế khác nhau, đồng thời phản ánh những tính chất chung nhất của hình thức thuế đó. Trong nhiều trường hợp, tên gọi của sắc thuế đã hàm chứa nội dung, mục đích và phạm vi điều chỉnh của sắc thuế đó. Chẳng hạn, "thuế thu nhập công ty" đánh vào thu nhập của pháp nhân là công ty; "thuế GTGT" đánh vào phần giá trị tăng thêm của hàng hoá và dịch vụ sau mỗi chu kỳ luân chuyển hàng hoá và dịch vụ qua từng giai đoạn.
2. Đối tượng nộp thuế
Trong một luật thuế thường quy định rõ ai phải nộp thuế và người đó được gọi là đối tượng nộp thuế.
Đối tượng nộp thuế có thể là thể nhân hoặc pháp nhân mà được pháp luật xác định có trách nhiệm phải nộp thuế cho Nhà nước và gọi là người nộp thuế. Do tồn tại cơ chế chuyển dịch gánh nặng của thuế nên người nộp thuế không đồng nhất với người chịu thuế tức là người chịu gánh nặng của thuế.
3. Đối tượng chịu thuế
· Đối tượng chịu thuế chỉ rõ thuế đánh vào cái gì (hàng hoá, thu nhập hay tài sản…). Mỗi một luật thuế có một đối tượng chịu thuế riêng, chẳng hạn đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá dịch vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước, còn đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng có tính chất đặc biệt; đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là thu nhập từ hoạt động kinh doanh, còn đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân là thu nhập của các cá nhân.
4. Cơ sở tính thuế
Cơ sở tính thuế là một bộ phận của đối tượng chịu thuế được xác định làm căn cứ tính thuế. Do đối tượng chịu thuế là thu nhập, hàng hoá hay tài sản, do đó cơ sở tính thuế chính là thu nhập chịu thuế, giá trị hàng hoá hoặc giá trị của tài sản. Tuy nhiên, đối tượng chiụ thuế thường rộng hơn sơ sở tính thuế, bởi vì tồn tại mức tối thiểu không phải nộp thuế miễn giảm thuế. Một cơ sở thuế, sau khi tính và nộp một loại thuế tương ứng có thể trở thành cơ sở của một loại thuế khác.
5. Mức thuế
Mức thuế thể hiện mức độ động viên của nhà nước so với cơ sở tính thuế và được biểu hiện dưới hình thức thuế suất hay định thuế suất.
Trong một luật thuế, thuế suất là linh hồn của một sắc thuế mang trong mình gánh nặng thuế, thể hiện nhu cầu cần tập trung nguồn tài chính và biểu hiện chính sách điều tiết kinh tế xã hội của nhà nước, đồng thời cũng là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế. Vì vậy, việc xác định thuế suất trong một luật thuế phải quán triệt quan điểm vừa coi trọng lợi ích quốc gia vừa chú ý thích đáng đến lợi ích của người nộp thuế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung và tích tụ trong việc sử dụng công cụ thuế.
6. Miễn giảm thuế
Miễn giảm thuế là yếu tố ngoại lệ được quy định trong một số sắc thuế. Thực chất đó là số tiền thuế mà người nộp thuế phải nộp cho Nhà nước, song vì những lý do kinh tế - xã hội mà Nhà nước quy định cho phép không phải nộp toàn bộ (miễn thuế) hoặc chi một phần (giảm thuế) trong số tiền thuế đó
Câu 14: Anh chị hãy trình bày các yếu tố tác động đến chính sách thuế?
Trả lời: Chính sách thuế là tổng hợp các quan điểm, phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thu nộp thuế và các phương thức, biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định.
Những yếu tố tác động đến chính sách thuế:
1. Yếu tố chính trị: Bản thân thuế là do Nhà nước đặt ra. Mà Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội, do đó chính sách thuế trước hết phải phục vụ cho các mục tiêu do Nhà nước đặt ra và phục vụ cho ý đồ chính trị của giai cấp thống trị.
Thể chế chính trị của Nhà nước có ý nghĩa quyết định đến cơ cấu chính sách thuế và tổ chức bộ máy thu thuế. Nếu thể chế chính trị của Nhà nước tổ chức theo chế độ Nhà nước Liên bang thì trong cơ cấu hệ thống thuế thường bao gồm các loại thuế trung ương và thuế địa phương. Bộ máy tổ chức thu thuế thường cũng bao gồm các cơ quan thu thuế trung ương và thuế địa phương riêng biệt nhau. Còn nếu thể chế chính chị của Nhà nước tổ chức theo chế độ Nhà nước đơn nhất thì thường chỉ có một hệ thống chính sách thuế thống nhất cho cả nước. Bộ máy tổ chức thu thuế thường là tổ chức theo một hệ thống ngành dọc thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Yếu tố chính trị có tác động quyết định đến chính sách thuế được thể hiện rõ ngay cả trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các chính sách thuế quan và thuế nội địa của các nước phải sửa đổi lại cho phù hợp với các cam kết quốc tế (như các cam kết gia nhập AFTA, WTO, APEC) hoặc tuỳ thuộc vào các quan hệ chính trị giữa các nước mà áp dụng thuế trả đũa, thuế chống trợ cấp, thuế chống phá giá…
Nghiên cứu sự tác động của các yếu tố chính trị đến chính sách thuế để hiểu rõ hơn về bản chất giai cấp của thuế và quán triệt tinh thần xây dựng chính sách thuế phải phù hợp và phục vụ cho những mục tiêu chính trị của Nhà nước.
2. Yếu tố về kinh tế:
Điều này, trước hết thể hiện ở chỗ thuế là một phần thu nhập của nền kinh tế quốc dân được tập trung vào NSNN. Do đó, kinh tế là cơ sở của thuế. Thuế luôn gắn chặt với sản xuất kinh doanh và nguồn thu từ thuế chỉ có thể tăng nhiều và nhanh trên cơ sở nền kinh tế được phát triển có hiệu quả.
Những yếu tố kinh tế thường tác động đến chính sách thuế là mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, quan hệ cung cầu trên thị trường, sự biến động của NSNN, tỷ giá hối đoái… Điều này đã được chứng minh qua các phân tích về bản chất và chức năng của thuế ở phần trên.
Nghiên cứu sự tác động của các yếu tố kinh tế đối với chính sách thuế để thấy rõ hơn về bản chất kinh tế của thuế và quán triệt quan điểm việc xây dựng chính sách thuế phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế và dựa trên các chính sách phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ của mỗi quốc gia.
3. Yếu tố xã hội
Chính sách thuế do Nhà nước ban hành nhưng những người thực hiện chính sách thuế là các tầng lớp dân cư trong xã hội. Do đó, các yếu tố xã hội như tâm lý tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc, kết cấu giai cấp trong xã hội… đều tác động và ảnh hưởng nhất định đến nội dung của chính sách thuế cũng như quá trình tổ chức thực hiện chúng.
Nghiên cứu sự tác động của các yếu tố xã hội đến chính sách thuế giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất xã hội của thuế, qua đó thấy rõ về yêu cầu xây dựng chính sách thuế phải đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện và dễ kiểm tra.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top