Chuyện Của Cáo Và Trăng
[Author's note]
1/ Lâu lắm mới trở lại, cứ tưởng không xong nổi fic này rồi cơ. Fic lần này được viết dựa theo một bài hát.
2/ AU tu tiên (nhưng không chú ý phần tu tiên lắm...).
3/ BGM: 호랑수월가 (Horang Suwolga) - 상록수 feat. Narae.
Khi đến vùng đất này, đây là câu chuyện đầu tiên ngươi sẽ được nghe. Trải bao nhiêu năm tháng mà ngay cả các vị trưởng lão cũng không còn có thể nhớ rõ, câu chuyện ấy đã trở thành huyền thoại, tựa áng mây vờn quanh đỉnh Thái Bạch hay tuyết trải dài trên sườn đồi, theo ngọn Đông Phong tràn vào giấc ngủ của những đứa trẻ và rù rì trên những cánh hoa mỗi độ xuân về. Tất cả chúng ta đều biết về nó. Đó là ký ức đầu tiên trong tiềm thức của nhi đồng, là hành trang song hành trên mỗi bước chân của từng người con rời khỏi quê hương, và ngươi có biết điều này chăng? Khi ngươi trở về với đế đô đang chờ đợi ngươi, trở thành con người rực rỡ hơn nữa so với bản thân cũ kỹ mà ngươi đã bỏ lại, những vị thần tiên của câu chuyện ấy sẽ phù hộ ngươi cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay.
Nếu ngươi đến nơi này từ hướng Đông, nơi chân núi, hẳn ngươi đã trông thấy một ngôi đền lớn. Tường trắng như tuyết, mái lợp ngói vàng, cột kèo đỏ thẫm, náu mình bên dưới những tán ngân hạnh vàng rực. Vào những ngày trời trong, ánh sáng sẽ nhảy múa trên những viên gạch của ngôi đền, ôm ấp từng bức tượng đúc từ đồng đen bảo vệ những vị Thần ngự trong đền, lướt đi trên mỗi mảnh ngói, lấp lánh như thể đó là phúc lành hiện thành hình dạng để người trần mắt thịt cũng có thể ngắm nhìn. Nếu đứng ở đỉnh núi nhìn xuống, ngươi vẫn có thể trông thấy ánh sáng lấp lánh của ngôi đền, trở thành kim chỉ nam cho thiên hạ khắp bốn phương. Mỗi năm cư dân đều tổ chức lễ hội linh đình ở đấy, dâng lên cơ man là bánh nếp và đậu phụ, rồi tiếng nô đùa của con trẻ ở sân đền sẽ rộn ràng đến nỗi ngấm sâu vào từng viên gạch. Thời gian sau đó khi ngươi trở lại và đứng ở sân đền đầy ắp lá vàng, không khó để ngươi nghe thấy âm thanh đó lần nữa vang vọng bên tai.
Đó là đền Thủy Nguyệt. Trong đền thờ Nguyệt Hồ. Ngươi thấy đấy, có rất nhiều phù điêu hình linh hồ ôm trăng trong đền. Thật là một việc hiếm thấy khi chúng ta lại tôn thờ những vị Thần mang hình hài như thế. Nhưng sau cùng, uy nghiêm của một người không được xác định bằng nhân dạng của họ, mà đối với thần thánh thì những tiêu chuẩn thông thường của con người lại càng không phù hợp. Nguyệt Hồ không bắt đầu như thần tiên, nhưng đã trở thành người xứng đáng để được tôn thờ.
Rất lâu về trước, hồ tiên vẫn chưa hoàn toàn tuyệt diệt trên thế giới này. Ngươi có từng nghe về chủng loài ấy chăng? Rất lâu về trước, không khó để bắt gặp bóng dáng những bộ lông ngũ sắc tuyệt đẹp của chúng tỏa sáng lấp lánh mỗi khi chúng bay nhảy xuyên qua những tán cây đượm nắng, cùng bước chân cưỡi trên mây gió và nhẹ như lông hồng, với đôi tai nghe thấy tâm tình của vạn vật trong thiên hạ, và cặp mắt có thể nhìn xa đến ngàn dặm. Nếu ngươi có cơ may trông thấy một hồ tiên, điều đó chẳng khác nào thần tiên đã ban phúc lành cho ngươi. Thế giới khi ấy rực rỡ, trong lành, rộng lớn, tràn ngập tài nguyên, bao dung, kỳ diệu. Trước khi lòng tham và sự đố kỵ khiến nó bị vấy bẩn và chật chội, mặt đất đã từng được lấp đầy bởi những sinh vật diễm lệ biết mấy. Khí chất phi thường của chúng tựa cơn gió mùa xuân, ngươi có thể hít một hơi và cảm thấy nó lấp đầy lồng ngực. Hồ tiên là một trong số đó, nhưng không ngoa khi nói rằng chúng quả thật xứng đáng với vị trí độc nhất vô nhị mà những loài khác sẽ khó lòng đạt được.
Trong số những hồ tiên ấy, có một linh hồ đã sinh sống dưới chân núi Thái Bạch này. Hồ tiên không thích lạnh, mà Thái Bạch thì rất lạnh, kể cả dưới chân núi. Không ai hiểu vì sao linh hồ ấy lại chọn một nơi như thế để làm nhà, nhưng có một điều chắc chắn, đó là cái lạnh không làm khó được nàng ta. Không như đồng loại của mình tỏa sáng dưới thiên không trong trẻo, nàng trở nên rực rỡ mỗi độ thu đông, khi cơn gió Bắc ùa tới trên những cành lá trơ trọi và tuyết từ đỉnh núi rơi xuống cùng những tảng mây xám xịt. Bộ lông của nàng mềm mại như tuyết và trắng muốt như tấm gương của Thần, đến nỗi ngay cả những bông hoa tuyết cũng ghen tỵ và tan ra trước khi có thể chạm vào nàng. Nàng cưỡi trên những cơn gió lạnh, xuyên qua muôn trùng mây, chạy đến tận đỉnh Thái Bạch, rồi nương theo cánh chim bạch hạc mà tiến về phía trời cao, chẳng lưu lại bất kỳ dấu vết nào từ đôi bàn chân nhỏ bé ấy. Âm thanh mà linh hồ nọ làm ra mỗi khi nàng du ngoạn trong không trung xám xịt nghe như tiếng chuông reo vang, trong lành và thanh khiết, cao vút đến tận Thiên Đường xa xôi, rồi chỉ đơn giản như vậy mà xua đi mây mù cùng sương giá và chở trên tấm lưng của bản thân cơ man là ánh sáng khi nàng trở về với gốc cây ngân hạnh. Cây ngân hạnh của nàng là thứ duy nhất vàng rực trong khung cảnh ảm đạm của mùa đông, nhưng linh hồ ấy còn rực rỡ hơn cả sắc vàng của lá ngân hạnh.
Đồng loại gọi nàng là Ngự Soạn Tân, bởi vì sự rạng ngời của nàng. Một hồ tiên cô đơn nơi ngọn núi cô đơn. Thái Bạch của những năm tháng xưa cũ sớm đã cao đến nỗi đỉnh núi mất hút bên trong những rặng mây, ngay cả Mặt Trời cũng không thể vượt qua. Vạn vật dưới chân núi đã sống mà không biết tới hơi ấm, dần dà cũng rời đi tìm nơi chốn đất lành chim đậu. Nhưng Ngự Soạn Tân thì vẫn ở đó. Trong bao lâu, chúng ta không thể biết, sau cùng thì hồ tiên cũng sống rất thọ. Vài trăm năm, hay vài thiên niên kỷ không chừng, chỉ có nàng ta nơi chân núi chìm trong vắng lặng, trải qua vô số lần xuân hạ thu đông và hằng hà sa số những chuyến đi chở theo ánh sáng, đến nỗi ánh sáng ngấm vào bộ lông của nàng và khiến nàng trông như một vầng mặt trời nhỏ. Thái dương dưới chân núi Thái Bạch, phải rồi. Đồng loại của nàng chê cười nàng làm chuyện thừa thãi, và rằng dẫu cho nàng có thể thu thập được cả một kho ánh sáng đi chăng nữa, thì cũng chẳng thể khiến nơi lạnh giá ấy hồi sinh. Hơn nữa, nàng cũng có được lợi lộc gì đâu?
Ngươi cũng cảm thấy Ngự Soạn Tân quả thật ngu ngốc chăng, khi cống hiến mà không có khán giả và nỗ lực mà chẳng có tương lai? Làm gì có tương lai nào cho vùng đất ấy, khi nó đã rơi vào quên lãng và bị nuốt chửng bởi hiu quạnh như vậy. Các vị Thần đã bỏ quên nó, và thật ngây thơ khi cố gắng đưa nó trở lại. Sau cùng, đôi chân đi mây về gió của hồ tiên chính là để tìm kiếm những vùng đất mới. Ngự Soạn Tân luôn có thể rời bỏ Thái Bạch và tìm kiếm một chốn phù hợp với bản thân hơn, nơi nào đó sẽ bao dung cho nàng và giang tay nuôi dưỡng nàng. Thế gian rộng lớn, chắc chắn sẽ có một vùng đất dành cho nàng, nơi nỗ lực của nàng được ngưỡng mộ và vẻ đẹp cùng sự lộng lẫy của nàng được tôn thờ. Sống hàng trăm năm để làm gì, nếu không phải là để khám phá thế giới và lưu lại dấu ấn của bản thân trong dòng chảy vô tận của thời gian?
Chà, chúng ta không thể quyết định cuộc đời của nàng thay cho bản thân nàng, có đúng không? Con người hay có một tật xấu khi cho rằng chúng ta có thể đánh giá số phận của người khác và gán ghép những nhận định mà chúng ta gọi là "lẽ phải" lên những định mệnh không thuộc về chúng ta, và có một niềm tin mãnh liệt rằng chúng ta có thể sống cuộc đời của người khác tốt hơn họ có thể, trong khi chúng ta lại bỏ quên cuộc đời của chính mình. Đối với Ngự Soạn Tân, Thái Bạch chưa bao giờ chỉ đơn giản là một vùng đất. Ở nơi chốn yên tĩnh và biệt lập ấy, nàng có thể sống theo ý mình. Không ai ép buộc nàng, không ai xét nét nàng. Nàng có thể vẫy vùng trong tuyết lạnh, có thể chở bao nhiêu ánh sáng tùy thích, có thể tu luyện thành tiên. Ở chân núi, náu mình dưới bóng dáng hùng vĩ của Thái Bạch, nàng tự do và yên bình để theo đuổi bất cứ điều gì nàng muốn. Đồng loại của nàng, cho đến trước khi nàng làm được những việc ấy, đều xem chúng là bất khả thi.
Ngự Soạn Tân cố gắng tu luyện để thành tiên, phải rồi. Chúng ta không lạ gì với những chuyện tu tiên như vậy, nhưng thời gian và sự vội vàng của con người đã khiến nó trở nên không gì hơn những lời đồn đại, và ngày nay thì chẳng mấy ai cố gắng để thoát khỏi những ranh giới của hồng trần và ngũ hành nữa. Một phần do phép thuật đã chẳng còn hiện hữu trước sự trần tục của nhân loại, mà không hiện hữu thì chẳng ai tin được, và phần lớn còn lại, thì là do không còn ai có đủ nhẫn nại và ý chí để kiên cường đến cùng trên một con đường với kết quả không thể nắm bắt bằng tay và mắt.
Tu tiên không phải một hành trình dễ dàng. Người dấn thân nhập đạo phải không ngừng thanh lọc và tôi luyện bản thân, như vàng nung qua lửa và sông đổ ra biển lớn, học hiểu quy luật của vũ trụ và tìm về gốc rễ của bản thân, đôi khi tiêu tốn cả đời cũng chẳng thể thông suốt. Mà dẫu có thông suốt đi chăng nữa, thì cũng chẳng có gì đảm bảo người học có thể thoát khỏi sự trầm luân của nhân gian. Trở thành thần tiên nghe có vẻ là một việc tuyệt vời, nhưng mọi sự tuyệt vời ấy không thể khiến người ta can đảm chấp nhận đương đầu với chông gai. Sau cùng, khó quá thì vẫn nên bỏ qua. Đời sống hồng trần chẳng có gì không tốt để phải đánh đổi lấy một thứ mơ hồ như vậy. Khi chúng ta đã sống được hàng chục năm và chạm đến đoạn cuối của cuộc đời, quả thật, chúng ta hầu hết chỉ muốn mau chóng nghỉ ngơi và ngủ một giấc dài.
Ngự Soạn Tân thì không muốn nghỉ ngơi. Vòng đời miên man của hồ tiên không đủ để nàng cảm thấy mệt mỏi với thế giới. Trái lại, càng sống lâu, nhận thức của nàng về sự nhỏ bé của bản thân lại càng trở nên rõ ràng, và rằng mọi niềm tự hào cố hữu của giống loài hồ tiên - bộ lông óng ánh, bước chân như bay, cùng phúc lành được ban tặng bởi trời cao - khi đặt giữa nhân gian rộng lớn trải dài đến tận chân trời xa xôi, thì ra đều chẳng thấm vào đâu. Không thể sánh được với ánh dương trên mặt biển hay Ngân Hà trong đêm tối, càng không thể mang tới bình an cho phiến thiên địa hỗn loạn này. Ngươi có thể cho rằng Ngự Soạn Tân quanh năm suốt tháng chỉ tới lui ở núi Thái Bạch mà không hiểu sự đời, và rằng đó chỉ là sự hoang tưởng của nàng sau khi sống một mình quá lâu, nhưng chúng ta chẳng thể biết được, rằng chỉ trong đơn độc, một người mới có thể ngộ ra bao nhiêu phần minh mẫn. Ngự Soạn Tân thấu hiểu nhiều sự hơn bất kỳ đồng loại nào của mình, đủ nhiều để nàng quyết tâm bước vào con đường tu tiên chỉ với một mục đích duy nhất. Không phải để thành thần tiên vượt trên nhân loại, không phải để thọ ngang trời đất. Trở thành sự tồn tại với nhiều quyền năng hơn hồ tiên là cách duy nhất để linh hồ ấy có thể mang phúc lành phủ đầy mọi ngóc ngách của nhân loại. Và rồi nàng sẽ có thể quan sát nhân loại thật lâu, nhìn ngắm từng thế hệ trưởng thành và vượt xa hơn tưởng tượng của bất kỳ ai.
Giấc mơ ấy của nàng là một bí mật, mà nếu không cần thiết, thì nàng sẽ không nói ra. Ấy thế mà có người vẫn biết. Người lạ.
Một ngày kia, có giọng nói xuất hiện bên tai nàng, trong một đêm trăng non, khi nàng đứng dưới trời tuyết và ngắm nhìn tuyết trắng rơi xuống từ những cánh chim. Đó là lần đầu tiên nàng nghe thấy giọng nói của bất kỳ ai khác ngoài chính bản thân.
Người ấy hỏi nàng rằng:
"Nếu ngươi muốn mang phúc lành đến mọi ngóc ngách của hồng trần, vì sao ngươi không tranh thủ làm điều ấy khi còn sống?"
Nàng không trông thấy là ai đã lên tiếng. Giữa bầu trời tràn ngập tuyết và cơn gió lạnh căm, chẳng hề có một linh hồn nào ở đó bên cạnh nàng. Không một ai, ngoài vầng trăng trên cao, tít tắp giữa những rặng mây và lung lay khi cơn gió đêm vụt qua. Mảnh ánh sáng ấy đậu trên chiếc móng của nàng khi Ngự Soạn Tân vươn tay về phía bầu trời, chỉ lớn bằng một cánh bướm bay, nhưng ánh sáng của nó đã lan tỏa khắp thiên không từ khi đêm vẫn còn non trẻ. Đêm đầu đông luôn không nhiều tinh tú, nhưng cũng thật hiếm hoi khi vầng trăng đầu mùa lại tỏa sáng mãnh liệt như vậy. Kỳ lạ thật, ánh sáng ấy còn lấp loáng sắc xanh, như một bóng hình in nơi đáy nước. Hoặc là gió tuyết đã khiến tầm mắt của nàng bị mờ nhòa, hoặc sự thật quả là như thế. Rằng vầng trăng ấy có màu xanh.
Đó là mặt trăng xanh đầu tiên mà đôi mắt này của nàng trông thấy, mặc cho nàng đã sống rất lâu rồi. Đó chẳng những là mặt trăng xanh đầu tiên, mà còn là vầng trăng đẹp nhất nàng từng ngắm nhìn. Phải rồi, trước khi nàng có thể nhận ra, thì nàng đã ngây người vọng ngưỡng vẻ đẹp hiếm hoi ấy, lâu đến nỗi tuyết đọng lại trên đôi vai nhỏ bé của nàng và khiến chóp mũi của nàng đỏ ửng.
"Trăng của ta ơi, người đi khắp muôn nơi, phải chăng đã thấy được mọi ngóc ngách của trần thế?"
Mặt trăng xanh có thể kỳ lạ, nhưng việc Ngự Soạn Tân trò chuyện với quầng sáng nơi ngàn dặm xa xôi trên bầu trời, công bằng mà nói, thì còn kỳ lạ hơn. Thật lạ lùng khi nàng vẫn chưa quên cách nói chuyện, mặc cho đã ở một mình trong thời gian dài như thế. Càng lạ lùng hơn nữa khi nàng có thể vấn đáp với một thực thể mà khắp thiên hạ này có lẽ sẽ chẳng ai có thể nghe thấy âm thanh. Có khi còn không xem đó như một cá nhân.
Không biết chừng, ấy cũng là lần đầu tiên mặt trăng gặp một người để cùng nhau trò chuyện. Thiên hạ không thiếu kẻ ngưỡng mộ vẻ đẹp của trăng, nhưng chẳng mấy ai quả thật hàn huyên cùng tinh cầu ấy. Một phần vì họ không nghe được, và phần còn lại, thì đều cho rằng trăng ở quá xa, nơi tầm tay của họ không thể vươn tới. Họ sẽ chết khi cố gắng làm thế. Hơn nữa, ai sẽ yêu thích một mặt trăng xanh đây? Đó không phải một sắc màu đẹp đẽ khi đặt vào phông nền đen thẫm của bầu trời. Huống hồ, màu sắc dị thường như vậy, chắc chắn là điềm gở. Không ai muốn điềm gở. Những mặt trăng trước mặt trăng xanh này không bao giờ có màu xanh. Mặt trăng xanh chỉ xanh vì bản thân là kẻ bị nguyền rủa, không đúng ư?
Ngự Soạn Tân, dù vậy, không sợ điềm gở. Đối với nàng, vạn vật đều có định mệnh, và những việc xui xẻo chỉ là một trong số đó mà thôi. Chỉ là một phiến ánh sáng trên bầu trời, làm sao có thể đại diện cho định mệnh? Hay chăng, đó chỉ là áp đặt của muôn loài lên những sự vật mà bản thân không hiểu được? Rằng nếu không thể biết được là điều gì nó sẽ mang lại, hãy cứ gắn cho nó một điều gì đó bản thân luôn nghĩ rằng mình biết?
Đây hẳn là định mệnh của nàng, khi có thể gặp được người ấy. Bất kể người ấy mang lại điều gì, nàng đều sẽ đón nhận.
"Ta đi khắp thiên hạ, nhưng không phải ai cũng đón nhận ánh sáng của ta."
Ngự Soạn Tân nghe mặt trăng xanh trả lời như vậy. Giọng nói của mặt trăng xanh nghe như vọng lại từ một chốn xa xôi, sâu lắng và âm trầm, trong tai nàng biến thành muôn trùng sóng vỗ và chậm rãi ngấm sâu vào cõi lòng phẳng lặng. Kỳ lạ. Trăng ở xa như vậy, thế mà nàng nghe như liền kề bên tai, tựa như đã theo từng bông hoa tuyết rơi xuống trên vai nàng. Nàng gật gù chiếc đầu nhỏ của mình, tỏ ý hiểu.
Ngay cả tạo vật thần thánh như ánh trăng còn không thể đi khắp mọi nơi và trông thấy mọi thứ. Nếu ngay cả mặt trăng còn không thể, thì một linh hồ như nàng biết đến bao giờ mới có thể chạm tới thế gian rộng lớn?
"Vì biết rằng không bao giờ có thể bao quát hồng trần mênh mang, nên mới phải nỗ lực nhiều hơn cả những gì sinh mạng này cho phép. Một mai khi ta thoát khỏi sự phong tỏa của ngũ hành và luân hồi, hãy để ánh sáng của ta thay người chạm tới những nơi từ chối người."
Mặt trăng xanh cười lên một tiếng. Tiếng khô khốc, như âm thanh của cánh chim lẻ loi trong đêm đông giá. Nàng đột ngột ngộ ra - như cách nàng ngộ ra rằng không phải mọi cây cối trên đời đều vẫn sẽ rực rỡ như cây ngân hạnh của nàng mỗi độ đông về, một sự thật hiển nhiên với mọi người nhưng không phải với nàng - rằng người ấy thì ra không hiền lành như ánh sáng mà người ấy tỏa ra. Đột nhiên, nàng trộm nghĩ, không biết mặt trăng xanh có đọc được suy nghĩ của mình chăng? Liệu rằng mảnh ánh sáng cô đơn trên bầu trời kia có thấu hiểu những gì chạy qua trong cái đầu nhỏ bé của nàng chăng, mặc cho họ xa cách nhau đến nỗi dẫu nàng có vươn tay ra hết mức cũng chẳng thể chạm tới? Nếu người ấy biết, liệu rằng người ấy có chê cười sự ngây ngô của nàng?
"Vì sao ngươi lại cố gắng?"
"Vì sao lại không nên cố gắng?"
"Vì ta đã trông thấy hồng trần rộng lớn mà giống loài của ngươi không bao giờ có thể đi hết trên đôi chân nhỏ bé của mình. Khi Mặt Trời trở về nơi đường chân trời và ta bước lên dòng chảy vô biên của sông Ngân, nương theo ánh sáng của tinh tú mà trôi đi, ta đã nhìn thấu những thứ chỉ bộc lộ dưới tấm áo choàng của màn đêm."
Mặt trăng xanh trả lời nàng, điềm tĩnh và êm ái như ru. Mặc dù vậy, nàng có cảm giác điều người ấy chuẩn bị nói sau khoảng trầm ngâm thinh lặng sẽ không phải một điều êm ái.
"Nhân loại không xứng đáng với lòng từ bi của ngươi. Từ bỏ đi."
Nàng hỏi lại, một nửa bình tĩnh, một nửa ngạc nhiên, kín đáo che giấu sự tò mò của mình phía sau nét mặt nhu hòa như nước.
"Trăng của ta ơi, phải chăng người đã thấu tỏ sự phức tạp của nhân loại?"
Không nhiều người có thể nói được điều ấy, rằng nhân loại không xứng đáng với tình yêu thương và lòng bao dung. Thực ra, nàng chưa bao giờ gặp bất cứ ai có thể nói điều ấy. Nhân loại, suy cho cùng, là một giống loài khó hiểu. Hồ tiên đi khắp nhân gian nhưng không hiểu được nhân loại, mà ai nấy cũng đều cho rằng tốt hơn hết nên tránh xa những kẻ hai chân ấy đi. So với thiên tai thần phạt, nhân loại mới là thứ không thể dự đoán.
Nàng từng nghe nhiều người kể về sự độc địa của nhân loại. Phong thanh mang những lời đồn đi xa, đến tận chân núi ngập trong tuyết trắng này và lọt vào tai nàng. Nhân loại là những kẻ ăn thịt. Dưới tay nhân loại, muôn loài đều có thể trở thành thức ăn để lấp đầy những bao tử không có điểm dừng. Nhân loại là những kẻ tham lam. Trong mắt nhân loại, lớp lông của cáo là những tấm áo và cặp ngà của voi là những chiếc tù và. Nhân loại là những kẻ nhẫn tâm. Muôn loài dựa vào nhau để sinh tồn, nhưng con người thì giết chóc lẫn nhau vì ganh ghét, đố kỵ, và đôi khi là miếng cơm manh áo và một ngày nữa được bước đi trên mặt đất.
Nàng đã nghe nhiều. Nghe con người săn lùng giống loài của nàng. Nghe họ đặt những chiếc bẫy đầy gai xấu xí như hàm cá sấu bên dưới những thảm lá dày mỗi độ thu sang, rồi chờ đợi một kẻ xấu số sa bẫy ở phía sau những tảng đá. Nghe họ trói những đôi chân của hồ tiên lại và mang về nhà trưng bày một cách đầy vinh quang như chiến tích cho lòng can trường và sự may mắn của họ. Nghe những kẻ lột bộ da óng ánh của hồ tiên để may áo mùa đông và ăn thịt hồ tiên để cầu mong trường sinh bất tử, trong khi những kẻ còn lại cầu nguyện với cơ man là lễ vật trước những bức tượng linh hồ rằng hãy phù hộ cho họ suốt đời. Khi nàng trẻ hơn, khi nàng vẫn còn là một linh hồ ngây thơ, nàng đã cảm thấy việc đó thật mỉa mai làm sao. Ngươi không thể cầu xin lòng độ lượng từ một người khi đó không phải là điều ngươi mang lại cho người ấy.
Dù vậy, chẳng mấy nàng đã trở nên già dặn hơn và trầm tĩnh hơn. Khi nàng lớn lên, phán xét không còn là điều bản thân nàng có khả năng thực hiện. Khi nàng trưởng thành, nàng nhận ra một chuyện, rằng chẳng ai trên đời có đủ tư cách để phán xét bất kỳ ai. Không phải con người, không phải hồ tiên, không phải bất kỳ thế lực không tên nào, không phải những vị Thần. Chỉ có định mệnh.
Con người độc ác, phải rồi, nhưng chẳng ai có thể nói rằng con người không xứng đáng với tình yêu thương. Cũng nhiều như bạo lực và dục vọng, con người sở hữu trái tim tràn đầy lòng nhân từ. Nàng biết con người giết chóc, nhưng cũng biết con người bảo vệ lẫn nhau. Nàng biết con người giẫm đạp lên nhau, nhưng cũng biết con người nâng đỡ lẫn nhau. Nàng biết con người vị kỷ và chỉ biết tới bản thân, nhưng cũng biết con người hy sinh vì nhau. Nàng biết những kẻ buôn thần bán thánh, những kẻ ỷ lại và lệ thuộc vào thần linh, báng bổ tôn nghiêm của Thần, nhưng cũng biết những người với tấm lòng trong sạch đến nỗi soi sáng biển Đông. Khi nàng đã biết đủ nhiều, nàng không thể đưa ra bất kỳ nhận xét nào về con người được nữa.
Đó là việc của định mệnh. Sau tất cả, nhân loại cũng chỉ là một trong vô số những số phận đang quằn quại trên hồng trần vô biên, và rốt cuộc rồi thì ai cũng sẽ phải chết.
Nàng không đành lòng nhìn những số phận ấy lụi tàn như thiêu thân trong biển lửa. Hồ tiên, con người, hay bất cứ sinh vật nào, Ngự Soạn Tân đều không đành lòng nhìn. Có thể nàng không thể thay đổi sự thật vẫn luôn tiếp diễn trên thế giới này, rằng mọi giống loài trong luân hồi đều sẽ luôn tổn thương lẫn nhau. Thậm chí, có thể nàng chỉ đang làm việc thừa thãi khi cho rằng đôi tay nhỏ bé này có thể trở thành chiếc thuyền của bất kỳ ai. Nhưng thế thì có sao? Chừng nào Thái Bạch vẫn còn sừng sững và ngoài kia vẫn có người cần đến nàng, Ngự Soạn Tân sẽ không vứt bỏ niềm tin của chính mình.
Mặt trăng xanh không trả lời nàng. Khi đôi mắt của nàng nhìn lên bầu trời mùa đông, trong đáy mắt đỏ thẫm như hồng ngọc hiện rõ cả không trung trong vắt. Đêm mùa đông ảm đạm và hiu quạnh, và vầng trăng kia thì nhỏ bé biết bao, nhưng ánh sáng lại rực rỡ và tinh khiết đến thế. Dưới ánh trăng xanh này, dường như chẳng điều gì có thể được che giấu, kể cả cõi lòng đậm sâu của nàng. Nàng có thể hiểu vì sao trên đời này chỉ có vầng trăng ấy có thể nói điều đó.
"Nếu ta nói rằng bản thân không đồng thuận với lời ấy của người, như vậy có phải bất kính hay chăng?"
"Nếu ngươi nói rằng bản thân không đồng thuận với lời ấy của ta, như vậy quả thật là bất kính." Mặt trăng xanh không ngọt không nhạt đáp lại, điềm đạm như nước. "Nhưng kể cả như vậy, đó cũng không phải vấn đề của ta. Ta vì ngươi mà khuyên nhủ điều đúng đắn, nghe hay không là quyết định của ngươi."
Ngự Soạn Tân chớp mắt, đăm đăm nhìn mặt trăng xanh. Bên dưới giọng nói như sóng vỗ rì rào ngoài khơi ấy, nàng dường như nghe ra bao nhiêu sóng ngầm. Cảm giác như thể mặc cho khoảng cách không thể lấp đầy giữa nàng và mặt trăng xanh, những cơn sóng ngầm ấy vẫn đủ sức nhấn chìm nàng, cuốn nàng rời xa khỏi bờ cát và nuốt chửng nàng vào lòng đại dương.
Mặt trăng xanh nói rằng người ấy vì nàng mà khuyên nhủ một điều đúng đắn. Đối với Ngự Soạn Tân, có hai điểm đáng thắc mắc trong lời nói ấy. Thứ nhất, người ta không thường xuyên đưa ra một lời khuyên cho một người lạ mặt. Nàng và mặt trăng xanh, chà, nàng đoán đều là những người lạ với nhau chăng? Họ chưa bao giờ gặp nhau cho đến hôm nay, đêm nay, dưới bầu trời này. Những khi nàng bay nhảy trên muôn trùng mây trong những đêm dài triền miên, nàng không nhớ bản thân đã từng tiếp xúc với mặt trăng xanh, hay bất kỳ mặt trăng nào. Trông thì có vẻ gần nhau trong gang tấc, nhưng nàng biết, những sinh vật của trần thế sẽ không bao giờ có thể chạm vào những tạo vật của Thiên Đường. Luôn luôn, sẽ có một bầu trời ngăn cách giữa hai bên, và cách duy nhất để thu hẹp khoảng cách ấy - nếu nó quả thật có thể được xem như một cách - là hướng về phía đường chân trời ở nơi tận cùng thế giới. Chưa ai có thể chạm tới đường chân trời.
Hơn nữa, nếu nàng từng gặp mặt trăng xanh, thử hỏi làm sao nàng có thể quên rằng mình đã từng gặp được người?
Thứ hai, người đã thấy những gì, để người có thể quả quyết với suy nghĩ ấy đến vậy? Suy nghĩ rằng thế gian là địa ngục, và những sinh vật bước đi trên mặt đất này hết thảy đều đang gánh chịu nghiệp chướng xứng đáng với bản thân?
Ngự Soạn Tân không thể tưởng tượng là những chuyện như thế nào đã diễn ra với mặt trăng xanh. Nàng âu cũng chỉ là một linh hồ nhỏ bé, biết thế nào được những việc ẩn phía sau những rặng mây trên bầu trời. Có liên quan đến sự xuất hiện của người chăng? Có liên quan đến tương lai của người chăng? Phải chăng đã thay đổi người? Hay đã định hình để người trở nên như bây giờ? Với ánh sáng dịu dàng thế này, vì sao người lại khắc nghiệt đến thế? Dẫu cho nàng dùng toàn bộ thị lực của mình, bất chấp cơn gió lạnh để thu vào tầm mắt hình dung của phiến ánh sáng ấy, nàng đều không thể thấy được bề mặt bị giấu đi phía sau hào quang của mặt trăng xanh. Đó sẽ là thứ phương diện như thế nào? Nếu nàng có cơ may để biết được, liệu nàng có thể làm được gì cho người chăng?
Nàng không có ý định thay đổi quan điểm của mặt trăng xanh về nhân loại. Sau cùng, một linh hồ ngây thơ như nàng có khi còn không thấy nhiều như người, mà như vậy thì lấy tư cách gì để can thiệp vào tư tưởng của người đây? Người không ngăn cản nàng, đó mới là điểm mấu chốt. Không như những kẻ khác, người sẽ không can thiệp vào quyền lựa chọn của nàng, và sẽ để nàng được tự do với quyết định của chính mình. Đối với Ngự Soạn Tân mà nói, việc ấy khiến nàng trong khoảnh khắc gặp gỡ ngắn ngủi này đã nảy sinh tình cảm, và nàng không thể ngăn bản thân tự hỏi, rằng phía sau sự dung túng này của người hướng về nàng, rốt cuộc là bao nhiêu phần người đã phải khắc nghiệt với chính bản thân?
Đó là lần đầu tiên của nàng với mặt trăng xanh. Hoang. Tên người là Hoang.
-----
Cuộc gặp gỡ đó đánh dấu một chuyển biến lớn trong cuộc đời trầm lặng của tiểu hồ tiên. Hai mươi năm rồi, và mỗi khi nhớ lại, Ngự Soạn Tân đều cảm thấy bản thân thật may mắn khi ngày hôm ấy không trốn chạy khỏi Hoang.
Mặc cho màu sắc quỷ dị của mình, người không thực sự gây ra tai họa gì, ấy là theo cảm nhận của nàng. Lúc nào cũng vậy, bất kể là đêm của sông Ngân chớp tắt hay là bầu trời trống rỗng vào khoảnh khắc bình minh chập chờn, người luôn tỏa ra ánh sáng dịu dàng, giữa mây trời bát ngát độc chiếm khoảng không gian rộng lớn và cứ thế đường hoàng lấp lánh, như một câu khẳng định không cần nói ra đối với bất cứ kẻ nào xem người là điềm gở. Ngự Soạn Tân thích ánh trăng, nhưng nàng nghĩ rằng mình yêu hào quang của người. Ánh mặt trời ấm và hào phóng, nhưng mãnh liệt đến nỗi khiến bộ lông của nàng bắt lửa và bốc cháy. Ánh trăng mềm mại và êm ái, nhưng ngấm vào xương thịt của nàng lạnh căm. Ánh sáng của người, thật ngạc nhiên, nhưng có lẽ cũng không kỳ lạ lắm, thì khác biệt hơn hẳn. Tinh khiết làm sao, trong sạch làm sao, hiền hòa làm sao, vững chãi làm sao. Bên dưới ánh trăng này, nàng là giọt sương đọng nơi những búp hoa ngủ yên trong lớp vỏ sần sùi, và người ở đó để bảo vệ nàng khỏi cơn gió mùa đông không ngừng kéo tới hòng giật nàng rơi xuống khỏi những cành cây khô. Hào quang rực rỡ ấy khiến nàng cảm thấy an toàn hơn bao giờ hết. Người ta không thường cảm thấy an toàn nếu không có gì xuất hiện như một mối đe dọa. Núi Thái Bạch cô đơn, dĩ nhiên chẳng có gì đe dọa Ngự Soạn Tân. Nhưng nàng lại cảm thấy an toàn, chỉ tự nhiên như thế. Như thể sau chừng ấy năm tháng độc lập và tự do, rốt cuộc bên trong nàng vẫn tồn tại một tiểu hồ tiên, chờ đợi ai đó bước tới và tưới tắm cho hạt mầm của nàng nảy nở. Thủ hộ nàng, bên cạnh nàng như ngọn núi này, mang lại cho nàng bình yên.
Hoang nói rằng màu sắc này của người là do người được tạo ra từ biển cả. Có rất nhiều mặt trăng trước người, nhiều đến nỗi người cũng không nắm được. Không như Mặt Trời, mặt trăng không thể sống mãi mãi để trường tồn cùng thiên địa. Khi Thiên Đường đi hết một năm dài, sẽ có những ngày Mặt Trời không chiếu sáng, đó là để tiếc thương một mặt trăng nữa chuẩn bị lụi tàn. Vào những ngày ấy, buổi đêm sẽ kéo dài hơn bình thường, và những vì sao của sông Ngân cũng sẽ sáng hơn bình thường, như một cách để lấp đầy khoảng trống mà mặt trăng để lại. Vì sao mặt trăng lại chịu số phận yểu mệnh đến vậy, chẳng ai trong chúng ta có câu trả lời. Phải chăng, ấy đã là sự thật từ thuở thiên địa hồng hoang, và thay vì cố gắng lý giải, tốt hơn hết chúng ta chỉ nên thuận theo mà thôi?
Người được tạo ra bằng cách cắt hình từ đáy nước. Khi mặt trăng cũ qua đời, Thiên Đường vì nguyên nhân nào đấy đã chẳng còn đủ tinh vân để kiến tạo nên một mặt trăng theo cách thông thường. Thế giới không thể không có mặt trăng, bằng không thì giống loài quỷ dữ sẽ trỗi dậy và làm mất cân bằng Tam Giới, và Mặt Trời thì cũng chẳng thể duy trì trên bầu trời một khi màn đêm đã kéo tới. Bởi vì sự cấp bách ấy, thần linh đã lấy đi bóng hình in hằn dưới bề mặt xanh thẳm của đại dương mà mặt trăng cũ để lại, dùng nước của sông Ngân và hào quang của Mặt Trời uốn nắn thành ra vật chất, rồi đem treo lên trên bầu trời, ban cho mặt trăng xanh danh hiệu kẻ cai trị của bóng đêm, khiến người đường hoàng trở thành một mặt trăng mới. Rõ ràng là trong sự vội vàng và khẩn thiết, Thiên Đường đã quyết định lờ đi màu sắc dị thường của người. Rõ ràng hơn nữa, là đối với Thiên Đường, người chỉ đơn giản là một vật chữa cháy cho thiếu sót của họ. Nếu xuất hiện một mặt trăng mới tốt hơn, không nghi ngờ gì, họ sẽ thay thế người.
Khi người mở mắt và nhận ra xung quanh mình đã chẳng còn tiếng rì rào của sóng nước hay cảm giác thinh lặng của lòng biển, thay vào đó là cơn gió điên cuồng của buổi tối mùa đông và thế gian rực rỡ sắc màu bên dưới, người mới biết rằng bản thân đã không còn là bóng hình lẻ loi bị lãng quên và sẽ sớm biến mất dưới mặt nước. Rằng nhờ vào định mệnh, người đã được thần linh ban cho một số phận mới. Rằng trong một năm tới của Thiên Đường, người sẽ là kẻ sánh ngang với Mặt Trời. Rằng người chính là vầng thái dương trong đêm tối. Rằng thế gian trông cậy vào người, rằng sức mạnh mà định mệnh và Thần Giới ban cho người sẽ khiến người thấu tỏ cõi trần hỗn loạn như một đấng chí tôn. Rằng, người sẽ không phải tan biến như một bóng hình, chẳng còn được nhớ tới bởi bất kỳ ai. Rằng người sẽ được nhớ tới. Đối với người khi ấy, đó là một sự cứu rỗi. Đó là sự cứu rỗi chỉ tồn tại nơi những giấc mơ, mà ngay cả trong giấc mơ hoang dại nhất, người cũng không thể mơ thấy việc đó.
Hoang có biết rằng mình chỉ là vật thế thân chăng? Ngự Soạn Tân tự hỏi, không bao giờ có đủ can đảm để đề cập chuyện đó với người. Có thể người biết, người rất thông tuệ, nhưng cũng có thể là không. Chỉ có một điều chắc chắn, rằng việc đó không quan trọng đối với người. Nàng biết trách nhiệm của người đối với công việc của một mặt trăng là chân thật, cũng như lòng cảm kích của người đối với cơ hội được trao cho bởi Thần Giới là chân thật. Kể cả khi đó chỉ đơn giản là lợi dụng, kể cả khi người chỉ là tạm bợ để lấp đầy chỗ trống. Kể cả khi nhân loại sợ hãi người và xua đuổi người, từ chối sự giúp đỡ của người, hay người chẳng hề có hảo cảm với nhân loại. Khi người vẫn còn thứ đặc quyền được ngự trị trong màn đêm vô tận, người sẽ tiếp tục tỏa sáng. Giữa không trung rộng lớn nối liền giữa mặt đất và Thiên Đường, người chính là duy ngã độc tôn, và sẽ chẳng có mặt trăng thứ hai nào xuất hiện trên bầu trời khi người vẫn còn ở đấy. Càng không có mặt trăng xanh thứ hai.
Nhân loại không nhận thức được rằng phải may mắn đến mức nào để có thể chiêm ngưỡng sự đặc biệt ấy của người. Thiên Đường cũng chẳng nhận ra rằng phải may mắn đến thế nào để sở hữu một tạo vật như người - sở hữu một cách yên ổn. Biết đâu được. Một ngày nào đó, có thể người sẽ làm nên điều đặc biệt, như bản chất đặc biệt của người, và khiến Thiên Đường phải đổi thay. Ai biết được đó là điều gì.
Ngự Soạn Tân không biết, rằng từ lúc nào bản thân đã thân thiết với mặt trăng xanh đến thế. Nàng đã sống lâu, ít nhất là nàng cho là thế, nhưng chưa bao giờ nàng để bất kỳ ai bước vào cuộc đời của nàng. Nàng tiếp xúc với nhiều giống loài những khi ngao du trên mây, nhưng ngày tháng đằng đẵng của nàng lại là của một ẩn sĩ. Nhiều người xuất hiện trong cuộc sống của nàng, nhưng lại chẳng ai thực sự in dấu trong tâm trí của tiểu hồ tiên. Nàng như dòng nước, cứ thế róc rách xuyên qua năm tháng dài. Không dừng lại, không lưu luyến, không nuối tiếc, không băn khoăn, không chờ đợi, chỉ nhìn về phía biển lớn ở đường chân trời. Từ khi nào, biển của nàng đã xuất hiện một vầng trăng xanh?
Biển của nàng, chân trời của nàng. Ở nơi đó, mặt trăng xanh đã được sinh ra. Một ngày nào đó, nàng có thể tới đó hay chăng?
"Cây ngân hạnh này vì sao giữa mùa đông vẫn có thể tỏa sáng như vậy?"
Ngự Soạn Tân ngước mắt lên khi nghe thấy giọng nói quen thuộc ấy. Nàng ngồi trên tán ngân hạnh, nơi những chiếc lá mong manh như cánh hoa đậu đầy tuyết trắng. Giữa màu trắng xóa vô tận của không trung, lá ngân hạnh vẫn vàng rực, như những đốm nắng nhỏ mà Mặt Trời bỏ quên trước khi trở về phía sau những rặng mây và nhường chỗ cho cơn gió tung hoành. Gió không giật xuống được những chiếc lá này, cũng như Mặt Trời không thể đem ánh sáng của chúng đi.
"Khi ta trồng nó, ta tưởng rằng nó sẽ không qua khỏi mùa đông đầu tiên." Nàng nói, cuộn đuôi trên những đụn tuyết trên cành cây, ngón tay hái một ít lá ngân hạnh, rồi đưa phiến lá hình rẻ quạt ấy hướng về phía ánh trăng trên cao. Nửa như nàng muốn ánh trăng ấy có thể quan sát kỹ lưỡng, nửa lại như muốn đem phiến lá thấm đẫm ánh trăng. "Đất của Thái Bạch rất màu mỡ, nhưng luôn bị giấu bên dưới vô vàn lớp tuyết. Ta đào lên từng mảnh đất bằng đôi tay và móng vuốt của chính mình, rồi ta thu thập ánh sáng bằng bộ lông này để sưởi ấm cho nó. Lâu dần, nó đã tỏa sáng trước khi ta có thể nhận ra, ngay cả tuyết mùa đông cũng không thể khiến nó mờ nhạt. Có lẽ ánh Mặt Trời đã ngấm vào nó đủ nhiều để nó không thể tàn lụi."
Nàng cài những mảnh lá ngân hạnh đẫm ánh trăng lên mái tóc của mình. Tóc của nàng trông như tuyết buổi bình minh. Ánh sáng xanh thẫm của mặt trăng xanh chảy trên tóc nàng như thác, mượt mà và êm dịu, tựa hồ những ngón tay từ đâu đó trong không gian rộng lớn đã vươn ra và vuốt ve trên mái đầu nhỏ bé của nàng. Hoang vuốt ve nàng. Mặc cho người ở cao đến vậy và xa đến vậy, và xung quanh nàng là cơn gió lạnh căm của buổi mùa đông, lạnh đến nỗi ngấm xuyên cả qua lớp lông của nàng, Ngự Soạn Tân vẫn cảm thấy thứ hơi ấm mơ màng tỏa ra từ người như những chiếc lá mặt trời nhỏ này ấp ôm trên da thịt của bản thân. Nàng không ngăn được bản thân hưởng thụ sự dịu dàng ấy.
Bên dưới muôn trùng tầng tuyết của Thái Bạch là đất đai màu mỡ. Bên dưới ngàn trượng nước sâu của biển Đông là một mặt trăng dịu dàng. Sự dịu dàng đó, sự nhu hòa đó, nàng mất hai mươi năm để vượt qua sự khắc nghiệt của người để chạm vào. Chạm vào rồi, nàng ước gì chúng có thể tan ra như tuyết và ngấm vào cơ thể nàng. Ánh sáng nuôi dưỡng cho cây ngân hạnh này đứng sững kể cả giữa ngày đông buốt giá, còn nàng, từ khi nào đã muốn được nuôi dưỡng bởi sự yên bình này? Bảo bọc nàng, ở bên nàng, quan sát nàng trưởng thành. Một ngày nào đó, liệu nàng có thể bước đến bên người ở bầu trời kia chăng?
Ngự Soạn Tân nằm dài trên tán ngân hạnh. Tuyết rơi phủ trên người nàng, nhưng nàng chỉ cảm thấy hơi ấm dịu dàng của Hoang. Vầng trăng đó trông như đang neo lại trên tán lá vàng óng, và có lẽ trận tuyết đã khiến tầm mắt của nàng hoa lên, vì cảm giác như thể nàng chỉ cần vươn tay ra là đã có thể sà vào vầng hào quang xanh thẫm ấy. Chắc chắn còn ấm hơn cả tưởng tượng của nàng nữa.
"Khi ta quan sát cây ngân hạnh này lớn lên và không còn là mầm cây trong lòng bàn tay của ta, ta từ từ hiểu ra rằng sự sống là điều nhiệm màu tới mức nào. Một hạt giống nhỏ bé cũng có thể trở thành gốc cây hùng vĩ và kiên cường đến thế. Tất nhiên, không thể chỉ nhờ vào sức lực của chính nó. Nhờ có đất đai, nhờ có ánh sáng, nhờ có nước. Trên thế giới này, vạn vật đều như vậy. Phụ thuộc vào nhau, liên kết với nhau. Một ngày nào đó, ta cũng mong rằng bản thân có thể trở thành đất đai, hay ánh sáng, hay nước, của bất kỳ ai cần tới ta. Trở thành như Thái Bạch, như mây và không khí, như cơn gió hướng về phía bình minh trên biển. Biết đâu được, có lẽ ta sẽ gặp được người, khi ta đã thoát khỏi ngũ hành."
Hoang cười. Gần đây người cười nhiều hơn, nàng để ý điều đó. Tiếng cười cũng êm ái hơn so với tiếng cười đầu tiên nàng từng nghe. Nàng không biết bản thân yêu thích tiếng cười nào hơn. Sau cùng, đó đều là người, và nàng không ghét bất cứ thứ gì thuộc về người.
"Tới ngày ngươi thoát khỏi ngũ hành và bước lên bầu trời này, có lẽ ta đã không còn ở đây nữa."
"Phải rồi nhỉ." Nàng gật gù, cơ thể vẫn nằm yên dưới những bông hoa tuyết rơi xuống, ánh mắt ngây dại quan sát mặt trăng xanh. "Còn bao lâu, trăng của ta ơi? Đã quá lâu rồi ta không còn đếm ngày tháng trôi qua nữa."
"Khoảng tám mươi năm."
Tám mươi năm nữa, ấy là theo thời gian của nhân thế. Khi thời gian đã hết, mọi mặt trăng đều sẽ chết. Sẽ tàn lụi như đom đóm, và tan vỡ thành hàng ngàn mảnh. Những mảnh vỡ ấy sẽ hóa thành những vì tinh tú mới, và trở thành một phần của Ngân Hà mênh mông. Mỗi khi Hoang trôi đi trên con sông ấy, người chính là đang nhìn ngắm cái chết của chính mình.
Trở thành tinh tú có tốt hơn tan biến thành bọt biển không? Nếu người không được các vị Thần ban cho số mệnh mới và đưa lên bầu trời, và người vẫn đắm chìm trong đáy biển sâu thẳm, mỗi ngày lại hòa vào một ít với những cơn sóng ngầm, đó sẽ là cái chết như thế nào? Người có cảm thấy sự sống rời bỏ bản thân chăng? Người có cảm thấy dòng nước thinh lặng bào mòn bản thân chăng, như cách nó bào mòn đá và núi? Người sẽ suy nghĩ gì, khi cái chết mỗi ngày đến và chào hỏi người như một người bạn cũ, lấy đi một chút nữa minh mẫn của người? Cái chết được định sẵn có phải là điều đáng sợ hay chăng? Hay sự sống giới hạn mới là điều đáng sợ hơn, và đường biên giới cuối cùng là việc đã được ghi trên giấy trắng mực đen, trên con đường trải dài ánh sáng của tinh tú mà mỗi ngày người đều bước qua?
Sinh vật có cả tỉ cách để chết. Ngự Soạn Tân cũng có tỉ cách để chết. Nhưng nàng không biết khi nào cái chết sẽ đến, hay người xung quanh nàng khi nào sẽ chết. Đó là nếu xung quanh nàng quả thật có ai. Một mai khi việc tu luyện hoàn thành và nàng thành công trong việc thoát ly khỏi ngũ hành, nàng có chết hay không? Nàng sẽ chết như thế nào? Nếu nàng nhìn thấy một người sắp chết, nàng có thể cứu người ấy hay không? Nàng có muốn cứu người ấy hay không? Nàng có thể gặp tận mắt cái chết hay không? Gặp rồi, nàng sẽ trở thành bạn với cái chết, hay nàng sẽ là một kẻ nữa bị cái chết đánh bại? Con người có sợ chết không? Nàng có sợ chết không?
Hoang có sợ chết không?
Vì sao người có thể ngắm nhìn nấm mồ của mình mỗi ngày? Nói rằng người là vị vua của màn đêm, rằng người là kẻ thống trị, kỳ thực người chỉ là chiếc bóng cô đơn trong nghĩa trang lấp lánh ánh sáng, không phải ư? Là điều gì nuôi dưỡng người? Biển khơi ư? Hay mặt trăng đã in bóng người xuống lòng biển? Hay ánh sáng các vị Thần ban cho người, để người sáng hơn tất thảy sao trời và đi khắp muôn nơi?
Hoang không như nhân loại, hay cây ngân hạnh của Ngự Soạn Tân. Người chẳng phải một phần của vạn vật. Trong mạng lưới đan cài của muôn loài, mặt trăng xanh ấy chưa bao giờ là một phần trong đó. Mặt trăng xanh ấy chỉ là một chiếc bóng, khoác trên vai bộ da của kẻ đứng đầu. Mặt trăng xanh ấy không trưởng thành cũng không được nuôi dưỡng, mặt trăng xanh ấy cứ như thế mà sinh ra mà thôi, và rồi đột ngột phải gánh vác trên vai trách nhiệm bảo hộ cả một thế giới xa lạ. Bởi vì không có quá khứ cũng không có tương lai, bởi vì cho đến giây phút cuối cùng của số phận đều đã được định sẵn, bởi vì chưa bao giờ tồn tại như một sự tồn tại đúng nghĩa, nên có bước đi trên cái chết của bản thân cũng chẳng sao cả.
Một cơn gió mạnh ùa tới. Những đụn tuyết trên tán cây rơi xuống trên người Ngự Soạn Tân, lạnh buốt. Mảnh lá ngân hạnh cài trên mái tóc nàng cũng rơi xuống. Mặt trăng xanh cũng như cơn tuyết này. Sẽ vỡ nát, rồi bị thay thế bởi một đợt tuyết mới.
Nhưng tuyết năm nào cũng đều là tuyết cả thôi. Cũng như mọi lá ngân hạnh đều chẳng khác gì nhau. Còn mặt trăng xanh, đến khi nào mới có một mặt trăng xanh nữa? Kể cả nếu tương lai quả thật tồn tại một mặt trăng xanh, đó cũng không phải là Hoang.
"Khi ta thoát khỏi ngũ hành, ta sẽ đưa tay về phía người đầu tiên, trước khi ta đưa tay về phía bất kỳ ai."
"Ta không cần được cứu. Ngươi cũng không thể thay đổi định mệnh của ta." Hoang trả lời như vậy. Từ trong luồng ánh sáng tỏa ra ở người, xuất hiện một cơn gió nhẹ. Nàng biết cơn gió đó khác hẳn so với ngọn gió lạnh căm và vô tình của mùa đông, khi nó cuốn lấy những mảnh lá ngân hạnh ánh xanh đã rơi xuống nền tuyết, và cẩn thận đặt chúng trở lại trên mái tóc nàng. Như thể người thay nàng gài chúng lên. "Mục tiêu của ngươi khi tu luyện thành tiên là hồng trần, không phải ta."
Nàng chỉ cười. Nàng cầm lấy một mảnh lá ngân hạnh, để nó lên môi.
"Ánh sáng của người là một phần trong hồng trần của ta. Ta sẽ giữ lấy người."
Tám mươi năm nữa.
-----
Ngự Soạn Tân thích mùa đông. Nàng thích cảm giác lạnh lẽo ngấm sâu vào da thịt và những đầu ngón tay trở nên tê dại mỗi khi tuyết rơi. Mùa đông không có ánh sáng, và nó khiến bộ lông của nàng run lên mỗi khi cơn gió thổi qua, nhưng bởi vì không có ánh sáng và cũng chẳng có sự ấm áp, nàng mới học được cách nhìn ngắm những vẻ đẹp băng giá mà chẳng phải ai cũng có thể ngắm nhìn. Những thứ như là cảm giác mềm mại của tuyết, làn khói tỏa ra từ ấm trà, hoa tuyết in trên thành cửa, ánh sáng lấp lánh của lá ngân hạnh, và sự rực rỡ của mặt trăng xanh.
Nửa thế kỷ, nếu nàng không nhầm. Có một chút lạ lẫm khi nàng bắt đầu đếm thời gian trở lại, nhưng đó là một cách để nàng thúc đẩy bản thân. Ngự Soạn Tân luôn cho rằng mình có rất nhiều thời gian, và rằng tu tiên không phải chuyện một sớm một chiều, nhưng nàng biết nếu nàng không nhanh lên, nàng sẽ bỏ lỡ những điều mà nàng có chết cũng không muốn bỏ lỡ. Hoang cho nàng tám mươi năm, nàng sẽ không uổng phí một khắc.
Kể từ hơn ba mươi năm trước, nàng đã giam mình dưới tán ngân hạnh. Từng tấc da thịt và mỗi mảnh tinh thần của nàng hòa vào linh khí của trời và đất theo từng khoảnh khắc đã trở nên dài đến vô biên khi nàng quyết tâm chuyên sâu hơn nữa chuyện tu luyện của mình. Hoa nở trên mái tóc của nàng, cỏ xanh dưới gót chân của nàng, mùi của cơn gió nơi đầu mũi, và chỉ khi bộ lông của nàng trở nên lạnh như băng, nàng mới biết đã một năm trôi qua. Mùa đông lay động tiềm thức của nàng một lần nữa, để nàng nhận thức về thế giới xung quanh, trước khi nó tiếp tục nương theo bộ rễ đã đâm thật chắc và đào xuống sâu hơn nữa, tìm về cội nguồn của nàng.
Tất nhiên, không chỉ có cái lạnh của mùa đông là thứ duy nhất tác động đến nàng. Ngự Soạn Tân im lìm và vững chãi như bức tượng ngọc thạch, dẫu có là làn mưa lạnh đến thấu xương hay luồng gió kéo tới từ biển Đông báo hiệu một cơn bão, hay thậm chí là sự tò mò của những kẻ vãng lai, đều chẳng thể khiến nàng bận tâm, nhưng nàng luôn có thể nhận ra ánh trăng dịu dàng bao bọc trên đôi vai của nàng. Nàng không cần nhìn, nàng chỉ đơn giản là biết mà thôi. Biết rằng đó là đêm trời trong, biết rằng người ở đó trên bầu trời cao rộng. Biết rằng người vẫn sáng rực rỡ và đẹp đẽ như ký ức của nàng, biết rằng muôn ngàn ánh sao đều chỉ là phông nền của người, biết rằng ánh mắt của người đang đặt lên nàng. Quan sát nàng, chờ đợi nàng, cùng nàng nhẫn nại. Nàng không sợ mưa gió, nàng không sợ thiên tai, nàng không sợ tuyết lạnh hay tàn lửa khiến lớp lông của nàng bốc cháy, một khi ánh mắt ấy vẫn còn trông chừng nàng.
Nàng mạnh hơn, mạnh hơn, mạnh hơn nữa. Thâm trầm hơn, thâm trầm hơn, thâm trầm hơn nữa. Mỗi khoảnh khắc trôi qua, nàng lại tiến sâu thêm một bước. Tóc nàng dài hơn, bộ lông ngày càng sáng lấp lánh như được điểm trang bằng vàng, trên cơ thể hắt ra thứ lân tinh dịu dàng như tàn lửa. Cảm giác như thể nàng quả thật là tạo vật của thần linh, và rằng nàng đã lặn sâu đến nỗi thấu tỏ nhân thế mà không cần dùng đến đồng tử của mình.
Khi đôi mắt của nàng không mở ra để nhìn ngắm thế giới phù du, nàng trông thấy cõi lòng phẳng lặng của chính mình, rõ như thanh thiên bạch nhật. Ở thế giới nội tâm bí mật ấy, cũng có một bầu trời. Giữa bầu trời ấy, nàng trông thấy người. Ngồi bên tán ngân hạnh của nàng, những mảnh lá vàng phủ trên đôi vai vững chãi gánh vác màn đêm. Ánh sao chảy vào chiếc chén ngọc, trở thành rượu của người, và những áng mây là chiếc kiệu của người trên dòng sông Ngân. Chảy trôi bên dưới mặt nước tràn ngập ánh sáng ấy, nàng trông thấy cả thiên hạ. Thấy những làng mạc bập bùng ánh lửa của con người, thấy bóng dáng thoăn thoắt như bay của hồ tiên. Thấy ngọn sóng tung bọt trắng xóa vào bờ cát, thấy đỉnh Thái Bạch ngập trong tuyết trắng và băng sương, cao hơn tất thảy mọi đỉnh núi mà Mặt Trời từng đậu lại. Nàng thấy chính mình, cưỡi trên mây gió, nương theo cánh chim, vượt qua đỉnh núi, vượt qua chín tầng trời, nhảy múa giữa ánh sáng mà Mặt Trời bỏ quên cho đến khi chính nàng cũng trở thành ánh sáng.
Chỉ là, nàng không trở về mặt đất. Trong bộ áo lấp lánh ánh hoàng kim ấy, nàng bước về phía người. Từng bước, từng bước, gót chân chạm vào mây, chạm vào mặt nước bàng bạc của sông Ngân. Nước lạnh và mây mềm mại, và ánh lửa của con người như cát trôi đi bên dưới mỗi bước nàng tiến tới. Lá ngân hạnh trên tóc nàng, lấp lánh như những mảnh nắng vỡ. Chúng khiến bờ má của nàng hồng lên, gò má thiếu nữ lần phủ đào tơ, và làm bình minh trong mắt nàng mỹ lệ tựa những vì tinh tú mới sinh. Nàng trông thấy người cười với nàng, đưa tay về phía nàng, và môi nàng nở thành nụ cười đẹp nhất nó từng thể hiện. Như thể nàng đã để dành nó, cho đến ngày nàng có thể gặp người.
Ngự Soạn Tân nhìn rõ cõi lòng của mình như vậy. Cõi lòng phẳng lặng và cô đơn suốt chừng ấy năm trên hồng trần vô biên, cho đến lúc ấy nàng mới thấu suốt. Nàng chưa bao giờ tự nhận rằng bản thân cô đơn, càng không tự nhận rằng sâu thẳm bên trong, nàng vẫn luôn tìm kiếm ý nghĩa cho chính mình. Vạn vật đều cần một ý nghĩa để tồn tại. Ý nghĩa của nàng là gì, khi nàng được sinh ra mà không tồn tại liên kết với bất kỳ ai?
Phải rồi, Ngự Soạn Tân sinh ra với không một liên kết. Nàng không biết là ai, hay là thế lực nào, đã sinh ra nàng. Từ khi nàng có thể nhớ, nàng đã luôn ở đây, dưới chân Thái Bạch. Nói nàng thuộc về giống loài hồ tiên cũng chẳng đúng, vì làm gì có hồ tiên nào yêu thích cái lạnh như nàng, hay mong muốn trở thành tiên như nàng. Hồ tiên là giống loài kiêu ngạo và vô tình, không như nàng ngây thơ và khờ dại, ôm ấp giấc mộng nâng đỡ thế giới. Hồ tiên có thể trông như nàng, nhưng nàng chưa bao giờ giống một hồ tiên.
Nàng là ai đây, trong thế giới này? Liên hệ của nàng là gì? Là thứ gì giữ cho nàng không trở thành chiếc lá trên dòng chảy của lịch sử, cứ thế bị cuốn trôi? Vì sao nàng tồn tại?
Phải chăng tiềm thức của nàng vẫn luôn làm tốt hơn trong việc nhận biết những vướng mắc mà nhận thức của nàng chối bỏ? Thiên hạ vẫn hay nói, rằng sự học đến từ trong tâm khảm, và rằng bên trong mỗi người vẫn luôn là cảnh giới xa nhất mà chẳng phải ai cũng có thể chạm tới. Ngươi có thể lên rừng xuống biển, có thể ngao du khắp muôn trùng nhân gian, nhưng đến khi nào ngươi mới có thể tìm đến cõi lòng kín đáo của chính mình mà thấu hiểu chính bản thân ngươi? Trong khi ngươi chật vật với những thắc mắc và trăn trở thông thường của cuộc đời, tận sâu bên trong ngươi vẫn luôn ẩn chứa câu trả lời. Chỉ là, ngươi không đủ kiên nhẫn để tìm đến nó.
Cây ngân hạnh là bạn của nàng, núi Thái Bạch là nhà của nàng. Con của nàng là ánh sáng, thiên hạ của nàng nằm trong giấc mộng tu tiên. Khi nàng không nhận thức được, bản thân nàng vẫn luôn không ngừng kiến tạo những liên kết. Khiến chính nó thuộc về nơi nào đó, khiến chính nó quan tâm người nào đó, khiến chính nó trở thành một sự tồn tại có giá trị, để khi nhắm mắt xuôi tay, nàng biết rằng mình đã không sống uổng phí. Nàng luôn đinh ninh rằng bản thân là dòng nước chảy không ngừng nghỉ cho đến ngày đổ ra biển lớn, nhưng nàng đã quên mất rằng trong lòng suối của nàng vẫn luôn có những viên sỏi. Những viên sỏi lớn, neo giữ nàng, mà giữa hàng ngàn sinh vật nàng từng tiếp xúc, gần như chẳng ai đủ khả năng để chạm vào lòng suối của nàng. Những thứ có thể trở thành sỏi trong lòng nàng, nàng khiến chúng trở thành ngọc trai. Chúng sẽ định nghĩa cuộc đời nàng. Đó là cách để nàng trưởng thành. Đó là cách để nàng không đánh mất bản thân trong dòng đời dài mênh mông.
Ngự Soạn Tân đã hiểu vì sao mình lại có lòng với Hoang. Cuối cùng nàng cũng hiểu được rồi. Người là viên ngọc trai lớn nhất của nàng. Người là kẻ đồng cảm với nàng. Người là kẻ cùng cảnh ngộ với nàng. Người là liên kết của nàng. Rằng cũng như người, nàng tìm kiếm một giá trị để khẳng định rằng bản thân đã tồn tại. Đã sống, đã là một phần của thế giới.
Mùa đông, nàng mở mắt. Thứ đón nàng là ánh sáng nhu hòa của Hoang. Mi mắt của nàng không đau nhức như nàng đã nghĩ, và cái lạnh này thì ra cũng không lạnh đến thế. Thực ra, nàng chẳng cảm thấy gì cả. Chỉ là ánh sáng của Hoang mà thôi. Rõ ràng, chân thật, bao phủ từng tấc của nàng.
"Ngươi đã trở về."
Người lên tiếng, ánh sáng vuốt ve mái tóc đã dài hơn gót chân của Ngự Soạn Tân. Trên nền tuyết trắng, tóc của nàng còn trắng hơn cả tuyết. Nàng ngửa đầu, hưởng thụ cái đụng chạm rất đỗi dịu dàng ấy. Nàng nghĩ mình đã quen với nó, nhưng nàng lại nhầm lẫn lần nữa. Chẳng quen thuộc gì cả, vì trái tim trong lồng ngực của nàng đang nhảy múa những nhịp kỳ lạ như khi nàng ở giữa biển mây, bơm máu lên đôi má của nàng nhiều đến nỗi nàng phải tự ép nó bình tĩnh trở lại. Bầu không khí có mùi thanh khiết của sương, cơn gió mang đến cảm giác dịu dàng mơn trớn trên gò má hây hây. Cứ như nàng đang ở trong cảnh giới của riêng Hoang, cách biệt khỏi mặt đất ngập tràn tuyết trắng và khí lạnh. Ở đây, chỉ có người là sự tồn tại rõ ràng duy nhất.
Nàng cảm thấy, không, nàng trông thấy. Đôi mắt của nàng trông thấy rất rõ mà chẳng phải dùng đến trí tưởng tượng hay là sự lừa gạt của ảo ảnh. Nàng trông thấy đôi bàn tay của Hoang. Những ngón tay thon dài, trong suốt, đầu ngón tay thấp thoáng ánh xanh, móng tay trông như tinh tú. Đôi tay ấy đặt lên cặp má ửng hồng của nàng, ngón tay ve vuốt da thịt của nàng bằng những cử động mềm mại đến nỗi nàng có thể tan ra thành thinh không để trở thành thứ cảm giác trên những đầu ngón tay của người. Nàng không lạnh, nhưng hơi ấm này đối với nàng lại rõ rệt hơn cả những điều các giác quan trần trụi của nàng nhận thấy.
Nàng trông thấy khuôn mặt của Hoang. Hàng mày vững chãi, sống mũi cao, bờ môi như mảnh trăng khuyết, đôi mắt như màn trời đêm. Trên vạt áo của người lóng lánh ánh sáng từ mảnh vỡ của những mặt trăng cũ, đuôi áo ánh xanh như sắc màu của biển khơi bên dưới ánh trăng mà nàng đã trông thấy từ thế giới nội tâm. Khi người bước về phía nàng, người kéo theo cả âm thanh rì rào của sóng nước.
Nàng không ngạc nhiên khi trông thấy người. Nàng đã thấy dung mạo của người khi ở cõi nội tâm ấy. Nhưng việc có thể trông thấy người tận mắt, và chạm vào người với những ngón tay, chẳng mấy đã khiến nước mắt đọng lại trên vành mi của nàng. Khi chúng rơi xuống, nàng thấy chúng hóa thành tinh tú trên Ngân Hà.
"Trăng của ta ơi, mặt trăng xanh duy nhất của ta ơi."
Đến bên ta, trở thành của ta. Để ta bảo vệ người. Khỏi thiên hạ, khỏi tai ương, khỏi sự nhỏ nhen của định mệnh, khỏi cái chết chực chờ người ở phía cuối con đường.
Chiếu sáng trong lòng bàn tay đau xót vì mong chờ của ta, chạm tới ngón tay than khóc của ta. Để ta thấm nhuần ánh sáng của người, để ta trân quý người thay cho định mệnh, để ta giữ gìn người thay cho thế giới.
Sưởi ấm ta, ôm lấy ta, chiếm lấy ta. Để ta trở thành của người, để ta tan ra cùng người. Hôn lên khóe môi lạnh băng của ta, xua đi nỗi cô đơn cháy bỏng của ta. Để ta trở thành đôi cánh của người, để ta trở thành hào quang của người.
Nắm lấy tay ta, đưa ta đi cùng người. Đưa ta về phía đại dương, đưa ta về phía chân trời. Đưa ta đi cùng người trên Ngân Hà, đưa ta vỡ tan cùng người khi phán quyết của định mệnh giáng xuống. Đưa ta đi, đừng bỏ rơi ta. Đừng tan biến khi màn đêm trở về phương Tây. Đừng tan biến mãi mãi khỏi cuộc đời ta.
Để ta bước vào cuộc đời của người. Trở thành chân lý trong cuộc đời của ta. Khi ngày đó tới, chúng ta sẽ trở thành ánh sáng của bầu trời. Không phải thế thân của bất kỳ ai. Không phải lo về sống và chết. Chúng ta sẽ có mọi thời gian chúng ta muốn, và ánh sáng của người sẽ là thứ cứu rỗi cả thiên hạ. Ta sẽ ở đó, sau lưng người, yêu thương người thay cho thế giới.
Mặt trăng xanh của ta ơi. Có biết hay chăng, rằng ánh Mặt Trời là dành cho Thái Bạch, còn ánh sáng của người là cứu rỗi của ta?
Mặt trăng xanh của ta ơi. Có biết hay chăng, rằng ta yêu người đến vô cùng? Có biết hay chăng, rằng thiên hạ của ta là nơi có ánh sáng của người? Có biết hay chăng, rằng ta có thể vì người mà chết?
Linh hồ Ngự Soạn Tân ấy rốt cuộc đã yêu một vị thần mặt trăng. Một mặt trăng bị nguyền rủa, một mặt trăng thay thế, một mặt trăng tạm bợ. Thần mặt trăng của nàng là điều không được đón nhận, thần mặt trăng của nàng là điều không được mong chờ. Ngay cả sự tồn tại của người đã là một việc nằm ngoài kế hoạch, và mỗi lần người tỏa sáng trên bầu trời, sáng hơn bất kỳ ngôi sao nào, cũng là một lần người đón nhận sự phỉ báng của nhân loại. Nhưng như thế thì có vấn đề gì? Nhân loại không cần người, nhưng nàng thì cần. Các vị Thần không chú ý đến người, nhưng nàng thì để tâm. Thiên hạ không muốn người, nhưng thiên hạ trong mắt nàng sẽ không bao giờ hoàn thiện nếu không có người. Nàng muốn một thế giới có người. Kể cả có phải hy sinh hàng trăm năm tu luyện của mình, nàng cũng không tiếc.
Khi họ trôi đi trong ánh sáng lấp lánh của sông Ngân, Hoang đã thầm thì vào tai nàng.
"Yêu một kẻ như ta có đáng hay không?"
Người biết, rằng thế giới rộng lớn này có nhiều điều kỳ diệu hơn người. Người đã trông thấy kia mà. Người thấy nhiều hơn cả những thứ mà linh hồ ngây thơ này từng trông thấy. Thế giới của nàng là xứ tuyết trắng xóa, là đỉnh mây, là cơn gió, là ánh sáng vô biên. Người đã trông thấy, người đã biết như thế kể từ ngày bắt gặp nàng giữa biển nắng bị bỏ quên của Mặt Trời. Nàng thuộc về những thứ trong sạch và rực rỡ, và kể cả những thứ rực rỡ ấy cũng chẳng thể lấp lánh như nàng. Ở nơi đáy biển, người không trông thấy bất cứ điều gì chói mắt đến thế. Trong màn đêm vô tận này của mình, người cũng không có bất cứ thứ gì chói mắt đến thế.
Người đã từng sợ hãi ánh sáng của nàng. Người là mặt trăng, người là một bóng hình. Chỉ là tự nhiên khi người e dè những điều lộng lẫy nhường ấy. Người không sánh bằng. Người còn có thể bị ánh sáng ấy nuốt chửng. Trong bức màn chói lòa của thanh thiên bạch nhật, người chẳng là gì cả. Người còn tệ hơn lúc ở đáy biển. Việc trông thấy nàng chỉ khiến mặc cảm mà người giấu kín trong lòng trở nên tồi tệ, và ai biết được khi người bước lên chiếc kiệu đậu bến sông trăng, người đã băn khoăn ra sao khi lại lần nữa sẽ trông thấy tiểu hồ tiên ở núi Thái Bạch.
Không khó để trông thấy nàng. Người không trốn tránh được. Người gọi nàng bằng cái tên mặt trời của Thái Bạch. Mặc cho người ở rất cao và rất xa trên bầu trời, và lòng bàn tay của nàng không bao giờ có thể xuyên qua mây gió để chạm tới người, người luôn có thể trông thấy nàng. Nhỏ bé, lấp lánh, đôi mắt như hừng đông. Người đã quan sát nàng một thời gian trước khi thực sự lên tiếng, và bắt đầu mọi thứ giữa cả hai. Người đã kiên nhẫn, chờ đợi đến ngày bản thân không còn sợ sệt thứ ánh sáng rực rỡ của nàng, chờ đợi hàng rào phòng thủ hạ xuống và lòng mặc cảm của bản thân không lộ ra quá dễ dàng. Khi ngẫm lại, người biết đó đã là một quãng đường dài.
Ánh sáng của nàng không như ánh Mặt Trời. Mặt Trời nóng và ngột ngạt, và chẳng ai có thể chạm vào. Người sẽ chết ngay tức khắc nếu người chạm vào Mặt Trời, kể cả với sinh mạng thứ hai đã được ban cho bởi thần tiên. Người đã nghĩ tiểu hồ tiên ấy cũng sẽ như phần còn lại của thế giới, chẳng thể trụ được nếu tiếp tục tiếp xúc với ánh sáng của Mặt Trời như thế. Nhưng nàng không chết. Chẳng những không chết, nàng còn tỏa sáng. Như thể thứ bị Mặt Trời bỏ quên đã trở thành sức mạnh của riêng nàng. Nàng tỏa sáng, cây ngân hạnh của nàng tỏa sáng, núi Thái Bạch của nàng mơ hồ cũng không đến nỗi mù sương khi người ngắm nhìn thật kỹ.
Ánh trăng của người chạm vào nàng. Một lần nữa, đó là một quãng đường dài, khi người đã có đủ an toàn để bước thêm một bước, và khi người đã thừa rung động để mong muốn. Nàng không đốt cháy người. Thay vào đó, nàng khiến người cảm thấy êm ái như được vỗ về bởi đợt tuyết đầu đông, và thứ cảm giác ấm áp kỳ lạ ấy bao bọc người như tấm chăn mà người chưa bao giờ có. Ấm biết bao, thoải mái biết bao, trong sạch biết bao, tinh khiết biết bao. Trước khi người có thể nhận ra, người đã mong muốn nhiều hơn nữa. Trước khi người có thể nhận ra, ý thức của người đã vượt qua cả không gian bất tận ngăn trở để chạm vào lòng bàn tay đón chờ của nàng, mưu cầu đụng chạm của nàng.
Người yêu nàng. Người yêu ánh sáng của nàng. Ánh sáng này của người chỉ trọn vẹn khi người đậu trên đỉnh núi Thái Bạch và có nàng ở đấy mong đợi người. Ánh sáng này của người chỉ mạnh mẽ và rực rỡ khi nàng ở đấy ngắm nhìn người. Người vì nàng mà tỏa sáng.
Từ lúc nào mà người yêu nàng, việc ấy chẳng quan trọng. Từ khi nào người tỏa sáng vì nàng, việc ấy chẳng quan trọng. Người là thần mặt trăng nhưng lại yêu một hồ tiên, việc ấy chẳng quan trọng. Nhân gian gắn cho người danh phận điềm gở, việc ấy chẳng quan trọng. Không gian vô biên ngăn trở giữa người và nàng, việc ấy chẳng quan trọng. Hết thảy đều không quan trọng, càng ngăn được người muốn chạm vào nàng, nắm lấy bàn tay vươn ra của nàng, vuốt ve từng đầu ngón tay lạnh như băng. Nếu định mệnh đã quyết để người tan vỡ thành ngàn mảnh tinh tú, người cầu mong rằng ánh sáng của người sẽ trở thành trang sức trên mái tóc của nàng, để người điểm trang cho nàng mãi mãi.
Người sẽ chết. Nàng sẽ không chết. Nàng tu luyện thành tiên. Người biết nàng sẽ thành công, và sẽ thoát khỏi ngũ hành. Rốt cuộc, nàng sẽ cứu rỗi hồng trần này khỏi bi ai và truân chuyên mà các vị Thần đã đặt xuống. Nàng sẽ nâng đỡ thế giới này nhiều hơn nàng có thể tưởng tượng, và người biết thế giới này sẽ biết ơn nàng. Sẽ tôn thờ nàng, sẽ xây cho nàng những ngôi đền dưới tán ngân hạnh, sẽ kể đi kể lại cái tên của nàng cho đến hàng ngàn năm sau. Trong thế giới của hàng ngàn năm sau ấy, không có người. Người nghĩ rằng thật đáng tiếc thay khi bản thân lại không sống được tới ngày đó để chứng kiến.
Định mệnh của nàng là một ngôi sao sáng. Một vầng trăng vỡ như người không nên cản đường nàng. Bởi vì người yêu nàng, người muốn thấy nàng rực rỡ hơn bao giờ hết.
Ấy thế mà nàng lại không muốn buông người ra. Nàng muốn người phải làm sao đây? Nếu nàng không buông ra, làm sao người có thể đành lòng buông ra?
Những lúc như vậy, người muốn nguyền rủa sự yếu đuối của chính mình, lại âm thầm cảm ơn số mệnh đã cho người gặp được nàng.
"Ta có thể hỏi người điều tương tự." Nàng cười. Đôi má nàng ửng hồng. Người cảm thấy đó là điều đáng yêu hơn mọi thứ người từng chứng kiến, vô thức lại giữ nàng chặt hơn nữa trong tay. "Tình yêu của ta ơi, ta yêu người không hối tiếc."
Người không nói được, rằng người thì có. Không như nàng, người hối tiếc nhiều điều. Người hối tiếc vì bản thân không thể sinh ra là chiếc lá ngân hạnh trên mái tóc nàng, để ở bên nàng cho đến ngày thế giới vỡ tan. Người hối tiếc vì bản thân chỉ là một vầng trăng đoản mệnh, chẳng thể nâng đỡ bước chân của nàng. Người hối tiếc, vì bản thân người không thể thoái lui khỏi hơi ấm của nàng được nữa.
Một ngày nào đó, người sẽ bị trừng phạt vì tình cảm sai trái và ích kỷ này. Cho đến ngày đó, người muốn nụ hôn với nàng kéo dài thật lâu.
Nửa thế kỷ rồi.
-----
Năm mươi năm sau đó, thế giới xảy ra biến cố. Biến cố lớn, lớn đến nỗi Ngự Soạn Tân chẳng còn có thể ngồi yên ở tán ngân hạnh nơi chân núi Thái Bạch.
Thần Giới đánh rơi hạt giống lương thực xuống trần gian. Đúng, chính là thứ ngươi ăn mỗi ngày. Lúa gạo là món quà của thần linh. Đó là thức quà quý giá, quý giá đến nỗi nếu không có sự kiểm soát của thần linh, và con người - với thói bừa bãi cố hữu của mình - được chạm tay vào những hạt ngọc ấy, nhân thế mà con người từng biết tới sẽ sụp đổ và con người sẽ tàn sát lẫn nhau. Đó sẽ là địa ngục.
Đừng hỏi vì sao các vị Thần lại có thể sơ suất đến thế. Với tất cả lòng thành kính hướng về thần linh, ngươi không cần phải biết về chuyện ấy. Điều quan trọng là thu hồi lại những hạt giống lương thực trước khi chúng mọc tràn lan trên nhân thế. Thần Giới không có khả năng dung túng cho việc xa xỉ ấy.
Đó là một sự kiện cấp bách. Nhiều vị Thần đã giáng phàm, nhưng hồng trần không phải nơi thích hợp để họ bước đi. Thần linh không thể hít thở không khí ô uế nhuốm đầy dung tục của những sinh vật phàm trần, mà trần gian cũng không có khả năng chống đỡ trước sức mạnh to lớn của Thần. Huống hồ, nếu họ thu lại sức mạnh của chính mình để dễ bề hành động nơi hạ giới, sẽ gần như bất khả thi để truy tìm những hạt giống nhỏ bé đó giữa thế gian mênh mông. Chẳng mấy chốc, họ buộc phải bỏ cuộc, và tìm kiếm những cá nhân để giao phó lại nhiệm vụ cao cả ấy.
Ngự Soạn Tân không phải người được giao phó. Nàng cũng không có ý ham thích tham gia cuộc đua tìm kiếm những hạt giống. Phải, nó đã trở thành một cuộc đua. Thần linh hứa hẹn rất nhiều điều hào phóng, những điều mà ngươi có dành cả đời - hay nhiều hơn một đời - để tìm kiếm, thì chắc chắn đều không thể tìm được. Chỉ là lẽ tự nhiên khi mọi giống loài đều đổ xô săn lùng những hạt giống, với mong muốn rằng định mệnh sẽ ưu ái bản thân và cho phép mình được là kẻ lưu danh trong huyền thoại - với tư cách là cứu tinh của Tam Giới. Đã nhiều người vào cuộc đến vậy, Ngự Soạn Tân có tham gia cũng chẳng thay đổi được gì.
Nhưng ngươi biết đấy, kẻ thắng cuộc lại chính là nàng. Ngươi hẳn đã nghe về điều ấy khi đặt chân đến đây. Ngươi thậm chí có thể đã trông thấy nó, khi ngươi ghé qua đền Thủy Nguyệt. Vì để tôn vinh công lao ấy của nàng, hằng năm chúng ta đều dâng lên nàng cơ man là gạo nếp và đậu phụ, những thứ mà Nguyệt Hồ của chúng ta yêu thích thưởng thức.
Ngươi hỏi vì sao nàng lại dấn bước vào cuộc hành trình ấy ư?
Trước tiên, là vì tình yêu. Nàng yêu thương thế giới, bất kể nó có bị vấy bẩn và ô uế tới đâu, bất kể những kẻ được ban cho thế giới tươi đẹp này chẳng có lấy một chút cảm kích rằng bản thân đã may mắn biết chừng nào. Nàng yêu núi Thái Bạch, nàng yêu cây ngân hạnh, nàng yêu ánh sáng Mặt Trời, nàng yêu vẻ đẹp của muôn loài, nàng yêu nụ cười của nhân loại. Mặc cho định mệnh này không tử tế với nàng, mặc cho cuộc đời này không công bằng với nàng, Ngự Soạn Tân vẫn muốn bảo vệ nó. Đó vẫn luôn là mục tiêu của nàng khi dấn bước tu tiên.
Sau đó, là vì trách nhiệm. Mặc cho nàng chẳng hề được sinh ra với bất cứ liên kết nào với thế giới, mặc cho sự sơ suất của các vị Thần có thể sẽ không bao giờ ảnh hưởng đến nàng và đời sống của nàng ở ngọn núi cô đơn, Ngự Soạn Tân biết rằng nàng không có thứ đặc quyền được nằm ngoài vòng xoáy của định mệnh. Tu thành tiên để làm gì, nếu nàng bình chân như vại trong khi thế gian nằm trên biển lửa? Giả sử nàng có thể thuận lợi thành tiên đi chăng nữa, nàng cũng chẳng đủ tư cách để theo đuổi ước nguyện của bản thân.
Cuối cùng, là vì Hoang.
Nàng không muốn mặt trăng xanh của nàng bị che lấp bởi mây mù của buồn phiền. Người chẳng hề liên quan đến tai nạn của các vị Thần, và thành thật mà nói thì cũng chẳng hề bị ảnh hưởng nếu giả như nhân gian thực sự biến thành địa ngục. Sau cùng, người vẫn luôn mang tiếng là điềm gở. Đó là thứ nhân loại gắn cho người, nếu nó trở thành sự thật, thì ấy chính là nghiệp chướng của nhân loại. Ánh sáng của người khi soi sáng nhân gian sẽ không thay đổi, bất kể bên dưới là hòa bình hay là biển máu.
Nhưng nàng biết, rằng mặc cho người không có thiện cảm với nhân loại, mặc cho người cách biệt khỏi nhân loại, mặc cho người khuyên nhủ nàng vô số lần về sự tàn bạo của nhân loại, và rằng không sớm thì muộn chúng đều sẽ phải nhận lấy quả báo của mình, người vẫn không từ bỏ nhân loại. Người cũng như nàng, đều không từ bỏ thế giới, càng không thể để nó chìm vào bóng tối triền miên. Nếu một mai thế giới hóa thành biển lửa, nàng không muốn ánh lửa ấy nhuộm đỏ ánh sáng của Hoang.
Vì thế, Ngự Soạn Tân đã đi. Nàng rời bỏ quê hương nơi chân núi với tán ngân hạnh đã che chở nàng suốt hàng trăm năm để đi. Nàng đã gần với khai sáng đến thế, và đắc đạo chỉ còn cách nàng vài bước chân, nhưng nàng quyết định đi, sau khi những kẻ truy lùng hạt giống dần dần bỏ cuộc hoặc bỏ mạng. Rất có thể nàng cũng sẽ bỏ mạng trong chuyến hành trình chờ đợi phía trước, và như thế đồng nghĩa với việc bỏ đi hàng trăm năm đạo hạnh.
Hoang không muốn nàng đi, nhưng cũng không thể ngăn cản nàng. Người biết nàng rõ hơn ai hết. Sau cùng, nếu nàng chọn náu mình và ngồi yên, người đã không yêu nàng. Linh hồ của người là một kẻ bao đồng và không thể bỏ đi thói xả thân vì những kẻ mà bản thân nàng còn chẳng quen biết, nhưng đó là điều khiến người yêu nàng. Tấm lòng vị tha của nàng và trái tim bao dung của nàng, ấy là những điều khiến nàng xứng đáng trở thành huyền thoại hơn bất kỳ ai. Người sẽ không trở thành chướng ngại vật trên chính đạo rực rỡ của Ngự Soạn Tân.
Những năm tháng ấy, mặt trăng xanh luôn mọc sớm hơn bình thường và lặn muộn hơn bình thường. Nhiều hơn thường xuyên, người ta còn trông thấy hình bóng mờ nhạt của mặt trăng xanh vào buổi ban ngày, bị lấn át bởi mây và ánh nắng, nhưng vẫn ở đó trên bầu trời như một vết nhơ không thể bị xóa bỏ. Con người không hiểu căn nguyên của sự kỳ lạ ấy, chỉ cảm thấy thật đáng sợ, và cũng đáng tò mò, khi tạo vật trái khuấy đó giờ đây còn có thể bất chấp cả thiên đạo để ngự trị trên thiên không cùng với Mặt Trời. Ai cũng biết, rằng đối đầu với Mặt Trời là cái chết.
Nhưng làm sao họ biết được, rằng đâu đó trên mặt đất mênh mông, có khi đang bước đi giữa họ không chừng, là ý nghĩa tồn tại của mặt trăng xanh. Đâu đó, trên sa mạc hay trong rừng thẳm, giữa đồng tuyết hay trong bão giông, ở nơi hoang vắng hay lưu lạc trong biển người, là nàng. Là Ngự Soạn Tân. Là nàng đang liều lĩnh, là nàng đang đương đầu với sự sống và cái chết, là nàng đang không tiếc sức mạnh đã tiêu tốn hàng trăm năm luyện thành, là nàng đang đi xa hơn, chạy nhanh hơn, bay cao hơn, vươn tới tận núi đao biển lửa để cứu rỗi thế giới. Thần linh không giúp nàng, đồng loại không giúp nàng, nhân loại không giúp nàng, yêu ma không giúp nàng. Chỉ là nàng và chính bản thân nàng mà thôi. Âm thầm, nhẫn nại, kiên cường, từng bước từng bước, không bỏ cuộc.
Hoang chỉ có thể tỏa sáng mạnh mẽ hơn nữa. Khi tỏa sáng không còn là đủ, người bất chấp cả thiên đạo để trông chừng nàng trên bầu trời của Thái Dương. Người soi chiếu từng bước chân của nàng, bất kể nơi đó là nhân gian xô bồ hay quỷ giới hỗn loạn. Người nâng đỡ nàng, cùng nàng đuổi theo cơn gió Bắc và lao vào hỏa diệm dung nham. Người vuốt ve nàng mỗi khi màn đêm buông, xoa dịu những vết thương đã khắc sâu mãi mãi, trông chừng giấc ngủ của nàng, bảo vệ cõi mộng của nàng. Người nuốt vào cảm giác bỏng rát ăn mòn thân xác của mình mỗi khi ánh sáng Mặt Trời chực chờ nuốt chửng người để bước đi cùng nàng. Như họ đã từng hứa, người cùng nàng đi. Những vết bỏng ấy chẳng là gì để được cùng nàng đi. Đối với người, việc chỉ có thể ở trên bầu trời cao và quan sát mặt trời của riêng người đốt cháy chính mình mới là nỗi đau vô hạn thực sự.
Đó là một chuyến đi dài. Mạnh mẽ như Ngự Soạn Tân, rốt cuộc cũng phải mất cả nửa thế kỷ để tìm về những hạt giống. Nửa thế kỷ, nhân loại có khi chẳng còn ai màng đến tai ương của thần thánh một thời, những kẻ lên đường năm xưa cũng đã cằn cỗi như gốc cây vào độ thu đông. Phải rồi, từ khi nào mà chẳng ai để ý, cuộc đua đã giải tán, và những hứa hẹn của một thuở xa xôi cũng rơi vào dĩ vãng. Chỉ có nàng, và Hoang. Nàng vẫn đi, và người vẫn ghi nhớ từng bước của nàng, mãi đến đoạn cuối cùng khi nàng đến biển Đông.
Ngự Soạn Tân đã sống rất lâu, nhưng đó là lần đầu tiên nàng có thể tận mắt trông thấy đại dương. Nó đẹp hơn cả tưởng tượng của nàng. Bờ cát rất mềm, trắng phau như tuyết, trong không khí có mùi vị mằn mặn của muối ngấm vào đầu lưỡi, và cơn gió thì rì rào âm thanh của những đợt sóng không ngừng nối tiếp. Vùng nước xanh thẳm trước mắt nàng kéo dài đến xa tít tắp, dường như kéo dài đến tận điểm cuối cùng của thế giới, và sẽ đổ xuống như thác khi nó chảy đến bờ rìa. Từ nơi đó, nó sẽ trở lại lòng đất, trở thành nước ngầm, đổ ra sông và suối, rồi lần nữa hướng về đại dương. Đó là cuộc hành trình của nước. Tuần hoàn, không ngừng nghỉ, duy trì sự sống cho thế giới này.
Đâu đó giữa lòng biển khơi mênh mông ấy, mặt trăng xanh của nàng đã được sinh ra. Tình yêu của nàng đến từ biển. Tình yêu của nàng mang màu của biển. Tình yêu của nàng, nếu không trở thành vị vua của bầu trời đêm, thì hẳn đã tan ra thành bọt biển, hòa cùng đại dương rộng lớn này chảy về phía chân trời. Nếu định mệnh đi theo hướng ấy, nàng tự hỏi, định mệnh có thể cho nàng được gặp người hay chăng? Người có thể là bông hoa tuyết rơi xuống từ bầu trời, có thể là cơn mưa đến cùng ngọn gió. Người có thể là băng, cũng có thể là nước. Bằng bất kể cách nào, nàng đều muốn mong đợi người, chờ người tìm đến và đưa nàng đi.
"Tình yêu của ta ơi, ta đã đến nơi rồi."
Nàng ngước lên, mỉm nụ cười rạng rỡ hướng về phía Hoang. Trong tay nàng là chiếc túi mà nàng dệt từ chính những sợi lông lấp lánh ánh sáng của bản thân, đựng đầy những hạt giống của Thần Giới. Năm mươi năm đi khắp nhân gian, nàng không bỏ sót bất kỳ hạt giống nào, đều là nhờ năng lực tu luyện của chính nàng và ánh trăng soi sáng của người. Nàng hầu như không nghỉ ngơi, và thời gian của nàng thậm chí còn không thể tính bằng ngày. Từng mảnh linh lực trôi đi như nước, đổi lấy bao nhiêu ánh sáng để cuộc hành trình có thể đi đến hồi kết ở biển khơi mênh mông.
Khi ngày hôm nay cuối cùng cũng đã lấp ló ở đường chân trời, Ngự Soạn Tân đã chẳng còn linh lực nữa. Còn Hoang, người đã sáng đến nỗi cảm giác như thể người sẽ vỡ tan thành từng mảnh ngay tức khắc, tựa một ngôi sao đã đến thọ mệnh.
Ừ thì, cũng đã đến thọ mệnh của người rồi, không phải ư? Đã đến thời khắc người phải đi rồi. Nàng nghe hồi chuông phán quyết ấy gióng bên tai mình, đinh đang đinh đang từng tiếng ngày một rõ ràng hơn theo mỗi bình minh trôi qua, rồi trở thành tiếng sét trong đầu nàng. Nàng bận rộn với chuyến đi, nhưng chưa bao giờ quên đếm ngày. Càng đếm lại càng sợ hãi, nhưng nàng vẫn tiếp tục đếm.
Thật khó để tin vào điều ấy, quả thật là vậy. Làm sao có thể tin được, khi người vẫn ở đó, giữa bầu trời vào khoảnh khắc hừng đông, và ánh sáng của người chẳng những không hề yếu đi, mà dường như còn trọn vẹn hơn cả ngày đầu tiên nàng trông thấy người.
"Vẫn còn một hạt."
"Ta biết."
Vẫn còn một hạt. Nàng cảm thấy nó. Trong tim nàng xuất hiện cảm giác thôi thúc, lôi kéo đôi chân nhỏ bé của nàng hướng về phía biển. Nàng biết nó ở đó, ngủ yên trong lòng đại dương. Nó đang đợi. Nàng phải thu hồi nó. Nàng chỉ cần thu hồi nó mà thôi, và cuộc hành trình này sẽ hoàn thành. Nàng sẽ giao túi hạt giống này cho các vị Thần. Khi nàng làm thế, nàng sẽ cầu xin các vị Thần. Nàng sẽ không mưu cầu bất cứ điều gì cho bản thân. Nàng không cần lưu danh sử sách. Nàng không trở thành tiên cũng được. Nàng có thể tu luyện lần nữa, khi nàng được sinh ra lần nữa. Nàng chỉ muốn vào kiếp sống kế tiếp của mình, mặt trăng xanh của nàng vẫn ở đó trên bầu trời.
Ngự Soạn Tân hướng mắt về phía chân trời xa tít tắp. Ở nơi giao nhau giữa trời và biển, Mặt Trời đang lên. Vầng Thái Dương vĩ đại và uy nghiêm của thế giới đang thức dậy, chẳng mấy chốc sẽ khiến mặt trăng xanh của nàng lu mờ. Nước biển nhuộm ánh đỏ hồng, chẳng còn nữa màu xanh thẳm như khi ở bên dưới ánh sáng của mặt trăng, và cơn sóng dưới chân nàng cũng ấm lên. Ấm như nước mắt của nàng.
"Người sẽ đi cùng ta chứ?"
Nước biển dâng. Đến đầu gối nàng, đến eo, đến vai. Y phục của nàng ướt đẫm. Bộ lông của nàng cũng ướt. Nàng đã dành toàn bộ những sợi lông tốt nhất của mình để bảo vệ hạt giống. Nước khiến bước chân của nàng nặng trĩu, cơn sóng xô đẩy thân thể mảnh khảnh của nàng, kéo nàng, nhấn chìm nàng, nuốt chửng nàng. Nàng không dừng lại.
Trong mắt nàng không nhìn thấy Mặt Trời, dù nàng đang tiến về phía Mặt Trời. Mặt Trời quá chói lọi, nàng không thể nhìn thẳng. Nhưng nàng thấy Hoang. Bất chấp mọi sự chói lọi của Thái Dương, Hoang vẫn tỏa sáng, sáng tới nỗi nàng trông thấy cả lòng biển sâu thẳm đến ngàn trượng. Nàng biết, đó là ánh sáng cuối cùng của người.
Nàng chạy. Nàng chạy. Nàng chạy. Nàng chạy. Nàng chạy mãi. Nàng như mũi tên lao về phía chân trời. Rồi nàng mất hút bên dưới làn nước đỏ thẫm.
"Cho đến tận cùng, tình yêu của ta."
-----
Thuở xa xưa, Thái Bạch là ngọn núi cô đơn quanh năm bao phủ trong băng và tuyết. Từ nơi ấy, sinh ra một linh hồ. Linh hồ nọ rực rỡ và tươi sáng hơn bất kỳ sự tồn tại nào từng bước đi trên mặt đất, cũng sẽ rực rỡ và tươi sáng hơn bất kỳ sự tồn tại nào sẽ bước đi trên mặt đất. Linh hồ ấy ôm ấp giấc mộng tu tiên.
Thuở xa xưa, biển Đông quanh năm soi bóng mặt trăng. Từ đáy biển sâu thẳm, sinh ra một hình hài. Hình hài ấy trở thành mặt trăng xanh của màn đêm. Mặt trăng xanh là kẻ không được đón nhận, nhưng điều ấy không thể ngăn cản mặt trăng xanh tỏa sáng. Mặt trăng xanh ấy sáng hơn bất kỳ mặt trăng nào từng tồn tại, cũng sẽ sáng hơn bất kỳ mặt trăng nào sẽ tồn tại.
Thuở xa xưa, mặt trăng xanh và linh hồ gặp gỡ nơi ngọn núi cô đơn. Người trên trời, kẻ dưới đất, gần nhau trong gang tấc, lại chẳng thể chạm vào nhau. Kể cả như vậy, thứ nảy nở giữa mặt trăng xanh và linh hồ vẫn là tình yêu. Đó là mối tình được chứng giám bởi Thái Bạch và ánh sáng của Ngân Hà. Bên dưới bầu trời tràn ngập ánh sáng ấy, họ đã đường hoàng và chân thật yêu nhau. Bởi vì lẽ đó, tình cảm của họ trở thành điều vượt qua cả không gian lẫn thời gian.
Thuở xa xưa, các vị Thần đánh rơi hạt giống lương thực xuống nhân thế. Linh hồ nọ quyết định lên đường thu thập hạt giống, dấn thân vào hành trình vĩ đại mà về sau sẽ trở thành huyền thoại của Thái Bạch. Xuyên suốt chuyến đi rất mực gian nan ấy, có mặt trăng xanh song hành bên cạnh nàng. Đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử, cứ như thế cùng nhau thiêu đốt bản thân hết năm mươi năm ròng.
Thuở xa xưa, hành trình của linh hồ và mặt trăng xanh kết thúc ở đại dương. Để thu thập hạt giống cuối cùng, linh hồ đã sử dụng toàn bộ sức mạnh còn lại của bản thân. Khi nàng chạm đến hạt giống ngủ vùi trong lòng biển sâu thẳm và đại dương nuốt chửng nàng, mặt trăng xanh đã rơi xuống khỏi bầu trời và chìm vào biển nước cùng nàng. Người không còn ánh sáng để soi đường cho nàng hướng về chân trời nữa, nhưng vòng tay của người vẫn có thể bảo vệ nàng, cùng nàng hóa thành bọt biển.
Khoảnh khắc mặt trăng xanh và linh hồ tan vỡ thành ngàn mảnh, nhất thời đã gây ra chấn động từ biển Đông đến tận núi Thái Bạch. Những sợi lông tỏa sáng của linh hồ làm tan chảy băng tuyết của Thái Bạch, và những mảnh tinh thể của mặt trăng xanh đã khiến ngọn núi chìm trong sương mù trở nên lấp lánh.
Đó là lí do vì sao núi Thái Bạch lại trở thành một nơi như nó của ngày hôm nay: màu mỡ, dồi dào, bao dung, hào phóng. Con người tìm đến bên dưới ngọn núi này, nương tựa vào bóng dáng vững chãi bất chấp năm tháng của nó để an cư lạc nghiệp. Từ những làng mạc ban đầu, chẳng mấy đã trở thành thành thị, cuối cùng là cả một đất nước. Đế đô dựa lưng vào núi, hướng mặt về biển, ấy là thế rồng cuộn hổ ngồi, là gốc rễ cho giang sơn trường tồn cùng trời và đất.
Cây ngân hạnh nơi linh hồ và mặt trăng xanh cùng nhau hẹn hò đã trở thành đại thụ. Thân của nó cao đến lưng chừng núi, tán của nó rộng hàng ngàn mẫu ruộng, và nó tỏa sáng. Đất nước này tôn xưng nó là thần thụ. Những mảnh lá của nó lấp lánh như vàng, ai nấy đều xem chúng là bùa hộ mệnh. Khi con cháu của ngươi đủ tuổi, hãy mang nó đến bên dưới thần thụ, thỉnh lá của thần thụ về nhà. Sức mạnh của thần tiên sẽ bảo hộ cho những đứa trẻ của ngươi.
Tuy vậy, chúng ta đều biết lá ngân hạnh đẹp nhất là vào mùa đông, khi được tắm đẫm ánh trăng. Ngươi có thể trông hàng ngàn cây ngân hạnh, nhưng trên đời chỉ có một thần thụ vẫn tỏa sáng khi mùa đông tới. Nếu ngươi có thể tìm thấy một mảnh lá óng ánh sắc xanh của mặt trăng từ thần thụ, đó sẽ là may mắn của ngươi cho đến ngày ngươi lìa đời.
Tất nhiên, đừng quên ghé thăm đền Thủy Nguyệt. Đó là nơi năm xưa linh hồ đã tu luyện thành tiên. Nếu ngươi có thể nán lại trong đền đến nửa đêm, ngươi sẽ thấy ánh trăng lấp loáng màu xanh, đổ xuống như suối, và những chiếc lá ngân hạnh trong sân đền sẽ trông như Ngân Hà thu nhỏ. Nếu may mắn, biết đâu được, ngươi có thể gặp thần tiên, cầu xin họ phù hộ cho ngươi.
Cuối cùng, đừng bỏ cuộc. Bất kể mong ước của ngươi là gì, bất kể là hành trình nào chờ đợi ngươi, đừng dừng lại trong việc theo đuổi nó. Nếu ngươi cứ chạy và chạy, một ngày nào đó, nó sẽ ở trong tầm tay của ngươi. Như cây ngân hạnh không ngừng cao lên. Như mặt trăng không ngừng tỏa sáng. Như hồ tiên đã sống một đời không uổng phí.
Cầu mong Thủy Nguyệt và Nguyệt Hồ dõi theo bước chân ngươi, bạn của ta.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top