Chương X Vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng xhcn
Tôn giáo là một hình thái ý thức - xã hội ra đời và biến đổi theo sự
biến động của điều kiện kinh tế - xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, tôn giáo còn tồn tại và có những biến đổi nhất định.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác
nhau và đang có chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước. Vì vậy, để
tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới ở nước ta, trước hết đòi hỏi Đảng
phải đổi mới tư duy, nhìn nhận và đánh giá đúng những vấn đề lý luận và
thực tiễn, trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo đang và sẽ có nhiều biểu
hiện mới, đa dạng, phức tạp, cần được giải quyết đúng đắn.
I. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo
1. Bản chất và nguồn gốc của tôn giáo
a) Bản chất của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan.
Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự
nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.
Ăngghen đã viết: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo -
vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối
cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng
ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế."1 C. Mác và
Ph. Ăngghen còn cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa,
lịch sử; một lực lượng xã hội trần thế.
Giữa tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ chặt
chẽ mà ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối.
Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn tôn giáo. ở đây chúng ta chỉ đề
cập một dạng tín ngưỡng - đó là tín ngưỡng tôn giáo (gọi tắt là tôn giáo).
Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 437.
134
tượng, một lực lượng siêu nhiên, tôn sùng vào một điều gì đó pha chút thần
bí, hư ảo, vô hình tác động mạnh đến tâm linh con người, trong đó bao hàm
cả niềm tin tôn giáo. Còn tôn giáo thường được hiểu là một hiện tượng xã
hội bao gồm có ý thức tôn giáo lấy niềm tin tôn giáo làm cơ sở, hành vi và
các tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo - nghĩa là, tôn giáo thường có
giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ chức giáo hội.
Mê tín dị đoan là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu và
vẫn tồn tại ở thời đại chúng ta. Trên thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào
các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Việc xác định hiện tượng mê
tín dị đoan chủ yếu dựa vào biểu hiện và hậu quả tiêu cực của nó. Mê tín dị
đoan là niềm tin cuồng vọng của con người vào các lực lượng siêu nhiên
đến mức độ mê muội với những hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân tính,
phản văn hóa của một số người gọi chung là cuồng tín. Hiện tượng mê tín
dị đoan thường gắn chặt và lợi dụng các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo để hành nghề. Vì vậy, cùng với việc tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì chúng ta phải loại bỏ dần mê
tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử
tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là
một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự
nhiên và xã hội.
Theo C.Mác: "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự
nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực
ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế
giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự
không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân"1.
Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá, phù hợp
với đạo đức, đạo lý của xã hội.
Về phương diện thế giới quan, thế giới quan duy vật mácxít và thế
giới quan tôn giáo là đối lập nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, những người
cộng sản có lập trường mácxít không bao giờ có thái độ xem thường hoặc
trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của nhân dân. Ngược
lại, chủ nghĩa Mác-Lênin và những người cộng sản, chế độ xã hội chủ
nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân
dân.
1. Sđd, t.1, tr. 570.
135
Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và "thiên đường" mà
các tôn giáo thường hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo, "thiên
đường" không phải là hiện thực xã hội mà là ở "thế giới bên kia", trên
"thượng giới" (tức là cái hư ảo). Còn những người cộng sản chủ trương và
hướng con người vào xã hội văn minh, hạnh phúc ngay ở thế giới hiện
thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người. V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Đối
với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thực sự cách mạng đó của
giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan
trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc
trên thiên đường"1.
b) Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, hoàn thiện
và biến đổi cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội.
Sự xuất hiện và biến đổi đó gắn liền với các nguồn gốc sau:
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất
thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng
lớn và bí ẩn, vì vậy, họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to
lớn, thần thánh hoá những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên
của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu
đuối trước sức mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước
những sức mạnh tự phát hoặc của thế lực nào đó của xã hội. Không giải
thích được nguồn gốc của sự phân hoá giai cấp và áp bức bóc lột, tội ác,
v.v., và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người thường hướng
niềm tin ảo tưởng vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các tôn giáo.
Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự
bần cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất
công xã hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Các nhà duy vật trước C. Mác thường nhấn mạnh về nguồn gốc nhận
thức của tôn giáo. Còn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lại
quan tâm trước hết đến nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên,
chủ nghĩa Mác-Lênin không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
mà còn làm sáng tỏ một cách có cơ sở khoa học nguồn gốc đó.
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t. 12, tr. 174.
136
ở một giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự
nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ từng
bước khám phá những điều chưa biết. Song, khoảng cách giữa biết và chưa
biết luôn luôn tồn tại; điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì điều đó
dễ bị tôn giáo thay thế.
Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận
thức của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn thế giới khách quan, khái quát hoá thành các khái niệm, phạm trù, quy
luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu tượng hoá đến mức hư ảo thì sự vật,
hiện tượng được con người nhận thức càng có khả năng xa rời hiện thực và
dễ phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hoá, cường điệu
hoá của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện
thực, dễ rơi vào ảo tưởng, thần thánh hoá đối tượng.
- Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm "sự sợ hãi sinh ra
thần linh". V.I. Lênin tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực mù
quáng của tư bản..., sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ
bị diệt vong..., dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của
tôn giáo hiện đại.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo làm nảy sinh những tình cảm như lòng biết ơn, sự kính trọng, tình
yêu trong quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người.
Đó là những giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng
trong tâm hồn, an ủi, vỗ về, xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ lỡ vận. Vì
thế, dù chỉ là hạnh phúc hư ảo, nhưng nhiều người vẫn tin, vẫn bám víu
vào. C. Mác đã nói, tôn giáo là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng
giống như nó là tinh thần của trạng thái xã hội không có tinh thần.
2. Tính chất của tôn giáo
a) Tính lịch sử của tôn giáo
Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù tôn giáo còn tồn tại lâu dài,
nhưng nó chỉ là một phạm trù lịch sử. Tôn giáo không phải xuất hiện cùng
với sự xuất hiện của con người. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy
trừu tượng của con người đạt tới một mức độ nhất định.
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ của lịch sử, tôn
giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại
137
đó. Thời đại thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo.
Đến một giai đoạn lịch sử, khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo
bị loại bỏ, khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân
nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ
dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức,
niềm tin của mỗi con người. C. Mác đã nói: Tôn giáo sẽ mất đi khi mà "con
người không chỉ mưu sự, mà lại còn làm cho thành sự nữa, - thì chỉ khi đó,
cái sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện nay vẫn còn đang phản ánh vào tôn giáo
mới sẽ mất đi, và cùng với nó bản thân sự phản ánh có tính chất tôn giáo
cũng sẽ mất đi, vì khi đó sẽ không có gì để phản ánh nữa"1. Đương nhiên,
để đi đến trình độ đó sẽ còn là một quá trình phát triển rất lâu dài của xã hội
loài người.
b) Tính quần chúng của tôn giáo
Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ
các tôn giáo. Hiện nay tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân
số thế giới (nếu chỉ tính các tôn giáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến 1/2 dân số thế
giới chịu ảnh hưởng của tôn giáo). Mặt khác, tính quần chúng của tôn giáo
còn thể hiện ở chỗ các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một
số bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Dù tôn giáo hướng con người
niềm tin vào hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, song nó luôn luôn phản
ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng,
bác ái... Bởi vì, tôn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện.
Vì vậy, còn nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã hội tin theo.
c) Tính chính trị của tôn giáo
Trong xã hội không có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính chính trị.
Tính chất chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai
cấp, có sự khác biệt về lợi ích, các giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để
phục vụ lợi ích của mình.
Những cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại, như các
cuộc thập tự chinh thời trung cổ ở châu Âu hay xung đột tôn giáo ở bán đảo
Ban Căng, ở Pakixtan, ấn Độ, Angiêri, Bắc Ailen, Bắc Capcadơ (thuộc
Nga)... đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau trong xã
hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Trong nội
bộ các tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái... nhiều khi cũng
mang tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tôn giáo
thường là một bộ phận của đấu tranh giai cấp.
1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 20, tr. 439.
138
Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp
không chỉ thể hiện tính tự phát trong nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc
gia... mà còn có tổ chức ngày càng chặt chẽ, rộng lớn ngoài phạm vi địa
phương, quốc gia - đó là nhiều tổ chức quốc tế của các tôn giáo với vai trò,
thế lực không nhỏ trên toàn cầu và với những trang bị hiện đại tác động
không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, tâm lý... mà cả trong chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận rõ rằng: đa số quần chúng tín đồ đến với
tôn giáo nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã
và đang bị các thế lực chính trị - xã hội lợi dụng cho thực hiện mục đích
ngoài tôn giáo của họ.
II. Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
1. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Các tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu dài trong các nước xã hội chủ nghĩa là
do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Nguyên nhân nhận thức: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
và trong chế độ xã hội chủ nghĩa trình độ dân trí của nhân dân chưa thật
cao; nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải thích
được.
Hiện nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học
và công nghệ, với những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, sinh
học, vật liệu mới... đã giúp con người có thêm những khả năng để nhận
thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song, thế giới khách quan là vô cùng, vô
tận, tồn tại đa dạng và phong phú, nhận thức của con người là một quá trình
và có giới hạn, thế giới còn nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm
rõ. Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng
còn tác động và chi phối đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông
chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật... chưa thể gạt bỏ khỏi ý
thức của con người trong xã hội, trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ
nghĩa.
- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài
người, ăn sâu vào trong tiềm thức của nhiều người dân.
Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, thì ý thức xã
hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tôn giáo lại là một trong
những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu
vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của
139
một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh
hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù có thể
có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội... thì tín ngưỡng, tôn
giáo cũng không thay đổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã
hội mà nó phản ánh.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có
những điểm còn phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là mặt giá trị đạo đức, văn hóa của tôn
giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Dưới chủ
nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu
hướng "đồng hành với dân tộc" sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống phúc âm
giữa lòng dân tộc"... Nhà nước không ngừng nâng cao địa vị, tính tích cực
xã hội của những người có đạo bằng cách tạo điều kiện để họ tham gia
ngày càng nhiều vào các hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, nhà nước xã
hội chủ nghĩa làm cho người có đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính
không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội
đang hiện thực hoá lý tưởng của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của
mỗi người dân.
Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức vô
cùng phức tạp; trong đó, các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để phục
vụ cho mưu đồ chính trị của mình. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục
bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn, lật đổ... còn xảy
ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo... cùng với
những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu
của thời kỳ quá độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường với những lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội, sự bất bình
đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... vẫn là một thực tế; đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, thì con người càng chịu tác động
mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó đã làm cho con
người có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu
nhiên.
- Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả năng
đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hoá tinh thần và có ý nghĩa nhất
định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy,
việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hoá (có chọn lọc) của nhân loại, trong
đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết. Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên
quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, và do đó sự tồn tại
của tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như một
140
hiện tượng xã hội khách quan.
2. Những quan điểm chỉ đạo giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì
vậy, giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận
trọng, tỉ mỉ và chuẩn xác; vừa đòi hỏi giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải
mềm dẻo, linh hoạt, đúng như tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta là: không "tuyên chiến" với tôn giáo
mà tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
cần dựa trên những quan điểm sau:
Một là, chủ nghĩa Mác- Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội xã hội
chủ nghĩa và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan,
nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Với hệ
thống tín điều và giáo lý của mình, tôn giáo phần nào hạn chế khả năng
vươn lên làm chủ của con người. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng
tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; là yêu cầu khách quan của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận quần chúng nhân dân, thì chính sách nhất quán của nhà nước xã
hội chủ nghĩa là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự
do không tín ngưỡng của công dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không
theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ
như nhau. Cần phát huy những nhân tố tích cực của tôn giáo, đặc biệt là
những giá trị đạo đức; chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu nước. Nghiêm
cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng của công dân. Đó là sự thể
hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự quan tâm của
đảng cộng sản và nhà nước của giai cấp vô sản đến nhu cầu tinh thần của
quần chúng nhân dân đối với tín ngưỡng tôn giáo.
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người
không theo một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính,
đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành
vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Thông qua quá trình cùng nhau đoàn
kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao mức sống, lối sống và
trình độ kiến thức của quần chúng, những người lao động có tín ngưỡng,
tôn giáo sẽ dần dần đến với chủ nghĩa xã hội. Những người lao động quan
tâm việc xây dựng cuộc sống hạnh phúc thực sự ở thế gian - một thiên
141
đường dưới trần gian - có ý nghĩa thiết thực hơn những cuộc tranh luận
suông về có hay không có "cõi cực lạc", "thiên đường", v.v..
V.I. Lênin nhấn mạnh rằng: Những lời tuyên chiến ầm ĩ với chủ nghĩa
duy tâm, những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tôn giáo là những hành vi
dại dột, vô chính phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tôn
giáo của tín đồ, làm cho họ ngày càng gắn bó với tôn giáo, xa lánh, thậm
chí đi đến chống lại công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không có nghĩa là coi nhẹ việc giáo
dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật cho toàn dân, trong
đó có những tín đồ tôn giáo, việc làm đó góp phần nâng cao trình độ kiến
thức cho toàn dân.
Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Khắc
phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào
có tín ngưỡng. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự
nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội của những phần tử
phản động đội lốt tôn giáo. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong
lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, đòi hỏi phải nâng cao cảnh giác
kịp thời chống lại những âm mưu và hành động của các thế lực thù địch lợi
dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, nhằm bảo vệ
thành quả cách mạng, xây dựng xã hội mới - giải quyết vấn đề này vừa phải
khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và có sách lược đúng.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo:
ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo
đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm thái độ của các giáo
hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác
biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và
ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Có những tôn giáo khi mới xuất hiện như một phong trào bảo vệ lợi
ích của người nghèo, người bị áp bức và nô lệ. Nhưng rồi, tôn giáo ấy lại
biến thành công cụ của giai cấp bóc lột, thống trị. Có những giáo sĩ suốt đời
hành đạo luôn luôn đồng hành cùng với dân tộc, nhưng cũng có những
người đã hợp tác với các thế lực phản động, đi ngược lại lợi ích quốc gia,
dân tộc. Có những vị chân tu luôn "kính Chúa yêu nước", thiết tha sống "tốt
đời, đẹp đạo", nhưng lại có những người lầm đường lạc lối nghe theo kẻ
địch phản bội Tổ quốc và suy đến cùng cũng phản lại cả lợi ích của giáo
hội. Điều khiến cho nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn cần có thái độ, cách cư
142
xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể đó là điều mà V.I. Lênin đã nhắc
nhở: "Người mácxít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể"1.
III. Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
1. Đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam
a) Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Một là, Việt Nam là nước có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo.
Hiện nay, ở nước ta có sáu tôn giáo lớn đã được Nhà nước thừa nhận
về tổ chức là: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài, Hoà Hảo
với khoảng 20 triệu tín đồ. Ngoài ra còn hàng chục triệu người khác vẫn
giữ tín ngướng dân gian, truyền thống và cả tín ngưỡng nguyên thuỷ.
Tín ngướng, tôn giáo ở nước ta chủ yếu ở cấp độ tâm lý tôn giáo.
Nhiều tín đồ tôn giáo tuy khá sùng đạo, nhưng hiểu giáo lý rất ít, gia nhập
đạo phần nhiều do lan truyền tâm lý, hoặc do vận động, lôi kéo; ý thức tôn
giáo ở phần lớn tín đồ không thật sâu sắc.
Hai là, các tôn giáo, tín ngưỡng dung hợp, đan xen và hoà đồng,
không có kỳ thị, tranh chấp và xung đột tôn giáo.
Các tín ngưỡng truyền thống và tàn dư tôn giáo nguyên thuỷ in dấu ấn
khá sâu đậm vào đời sống tinh thần của người Việt Nam, theo suốt chiều
dài lịch sử, đó là cái nền tâm linh để dễ dàng đón nhận sự du nhập của các
tôn giáo khác. Sự khoan dung, lòng độ lượng, nhân ái của dân tộc Việt
Nam, cùng với yêu cầu phải đoàn kết toàn dân để bảo vệ nền độc lập, thống
nhất lãnh thổ, nên người Việt Nam tiếp nhận các tôn giáo khác nhau một
cách tự nhiên, miễn là nó không trái với lợi ích dân tộc - quốc gia và truyền
thống văn hoá, tín ngưỡng cổ truyền.
Sự phân bố tôn giáo ở nước ta có đặc điểm nổi bật là giáo dân của các
tôn giáo thường sinh sống thành từng cộng đồng quy mô nhỏ, các cộng
đồng tôn giáo khác nhau có thể sống xen kẽ nhau. ở nhiều nơi, trong một
làng, xã cũng có các nhóm tín đồ của các tôn giáo khác nhau sống đan xen,
hoà hợp nhau, hoặc xen kẽ với những người không theo tôn giáo nào.
Ba là, các tôn giáo chính có ảnh hưởng lớn trong xã hội Việt Nam đều
du nhập từ bên ngoài, ít nhiều đều có sự biến đổi và mang dấu ấn Việt
Nam.
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.17, tr. 518.
143
Các tôn giáo từ bên ngoài vào Việt Nam vừa theo cách du nhập tự
nhiên qua giao lưu kinh tế, văn hoá như: Phật giáo, Hồi giáo; vừa có sự áp
đặt song hành với quá trình xâm lược của các đế quốc trong lịch sử như
Công giáo, Tin lành... Quá trình giao du, gặp gỡ các tôn giáo vừa thâm
nhập, bổ sung, vừa cải biến lẫn nhau, khiến cho mỗi tôn giáo đều có sự
biến đổi phù hợp với đặc điểm địa lý, lịch sử và văn hoá Việt Nam.
Bốn là, sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tôn giáo với tín ngưỡng
truyền thống và tình cảm, phong tục tập quán và nhân dân.
Tín ngưỡng truyền thống dân gian mà nổi bật nhất là phong tục thờ
cúng tổ tiên, đã dung hợp với các tôn giáo, góp phần tạo nên đặc điểm
tình cảm, tâm hồn, tính cách người Việt Nam. Tuy vậy, sự pha trộn phức
tạp giữa ý thức tôn giáo với tín ngưỡng cổ truyền và tình cảm, phong tục
tập quán đã ăn sâu vào đời sống tinh thần người Việt Nam, làm cho một
bộ phận không nhỏ quần chúng lao động rất dễ dàng tiếp nhận tình cảm, ý
thức tôn giáo mới.
b) Tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay
Mặc dù sự hình thành và phạm vi ảnh hưởng đối với số lượng tín đồ
và tác động chính trị - xã hội không giống nhau, đồng bào các tôn giáo đã
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hàng chục vạn
thanh niên có đạo đã tham gia chiến đấu và nhiều người đã anh dũng hy
sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nhiều tín đồ và giáo sĩ đã nhận thức đúng chính sách, luật pháp của
Nhà nước, làm tốt cả "việc đạo" và "việc đời". Tình hình kinh tế, an ninh
chính trị và trật tự xã hội ở nhiều vùng tôn giáo khá ổn định. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo
còn băn khoăn, lo lắng cả phần đạo và phần đời.
Những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phần phát triển, nhà thờ,
đình chùa, miếu mạo, thánh thất được tu sửa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn tài
liệu, đào tạo các chức sắc... Số người tham gia các hoạt động tôn giáo gia
tăng. Những hoạt động lễ hội gần gũi với tôn giáo nhiều, mang nhiều màu
sắc khác nhau, cũng xuất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan. Thực trạng
trên, một mặt phản ánh nhu cầu tinh thần của một số đông quần chúng. Từ
khi đổi mới và dân chủ hoá tự do tín ngưỡng càng có điều kiện thể hiện,
đáp ứng nguyện vọng của một bộ phận nhân dân. Mặt khác cũng nói lên
điều không bình thường vì trong đó không chỉ có sự sinh hoạt tôn giáo
thuần tuý, mà còn biểu hiện lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để phục vụ cho
144
mưu đồ chính trị và hoạt động mê tín dị đoan.
2. Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay
a) Quan điểm
Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo dưới chủ nghĩa xã hội và tình hình tôn giáo ở nước ta, Đảng ta đã
khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau, đồng bào theo tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo. Chăm
lo phát triển kinh tế, văn hoá, nâng cao đời sống của đồng bào. Nghiêm
cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ
các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia"1.
Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX về công tác tôn giáo đã chỉ rõ quan
điểm lớn sau:
- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đoàn kết toàn dân tộc.
- Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc.
- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
b) Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:
Theo tinh thần trên, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay bao gồm:
+ Thực hiện quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công
dân trên cơ sở pháp luật.
+ Tích cực vận động đồng bào các tôn giáo tăng cường đoàn kết toàn
dân nhằm xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo", tích cực góp phần vào
công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định về chính trị, trật tự và
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr. 128.
145
an toàn xã hội. Trên cơ sở đó, chăm lo cải thiện đời sống vật chất và văn
hoá, nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào.
+ Hướng các chức sắc giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng pháp
luật, ủng hộ các xu hướng tiến bộ trong các tôn giáo, làm cho các giáo hội
ngày càng gắn bó với dân tộc và sự nghiệp cách mạng toàn dân, thể hiện rõ
vai trò trách nhiệm của tôn giáo ở một quốc gia độc lập.
+ Luôn luôn cảnh giác, kịp thời chống lại những âm mưu và thủ đoạn
của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng
của nhân dân, chống chủ nghĩa xã hội.
+ Những quan hệ quốc tế và đối ngoại về tôn giáo hoặc có liên quan
đến tôn giáo phải theo chế độ, chính sách chung về quan hệ quốc tế đối
ngoại của Nhà nước.
Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: "Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính
sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp
luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các
chức sắc tôn giáo sống "tốt đời, đẹp đạo". Các tổ chức tôn giáo hợp pháp
hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá
của đồng bào các tôn giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
làm công tác tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan,
các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung
của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân"1.
Như vậy, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta bao gồm nhiều
mặt, vừa có mặt đối nội, vừa có mặt đối ngoại. Thực hiện chính sách tôn
giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý của mình thông qua chính sách, pháp luật, các
đoàn thể nhân dân và Mặt trận Tổ quốc có nhiệm vụ vận động các tín đồ và
chức sắc trong các giáo hội phấn đấu xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp
đạo".
Câu hỏi thảo luận và ôn tập
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 122- 123.
146
1. Phân tích nguồn gốc, bản chất và những tính chất cơ bản của tôn giáo?
2. Vì sao trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong chế độ xã
hội chủ nghĩa vẫn còn tôn giáo? Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin đối với tôn giáo như thế nào?
3. Nêu khái quát về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay và nội dung cơ bản của
quan điểm và chính sách đối với tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top