CHƯƠNG I - V
CHƯƠNG I
MA QUỶ QUẤY NHIỄU
THÁNH GIOAN MARIA VIANNÂY
NHỮNG ĐỢT TẤN CÔNG ĐẦU TIÊN CỦA MA QUỶ
Khi tới làm cha sở họ đạo Ars, cha Gioan Viannây được 32 tuổi. Họ đạo nhỏ bé này rất nghèo nàn, rất hiu quạnh mà cũng rất khô khan. Còn ngài thì bị tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn thiêu đốt, dằn vặt. Trước tình trạng của họ đạo như thế, ngài chỉ biết cầu nguyện và ăn chay. Ngày đầu ngài ăn chay cầu nguyện thế nào, thì ngài cũng cầu nguyện ăn chay suốt cuộc đời như vậy. Vì thế, trong kinh cầu nguyện ngày lễ kính ngài, Giáo Hội đã ca tụng ngài là một người cầu nguyện không biết mệt, đồng thời thống hối liên tục. Hằng ngày ngài cầu nguyện và hãm mình không ngừng là để xin Thiên Chúa ban cho họ đạo của ngài biết quay trở về với Chúa.
Nếu thực sự có những kẻ thù của các linh hồn mà chúng ta gọi là ma quỷ, thì chắc chắn chúng phải biết những khát vọng lớn lao của vị linh mục trẻ tuổi ấy từ lâu. Và chắc chắn không tránh được việc chúng muốn vô hiệu hoá những cố gắng của ngài. Ngay từ bài giảng đầu tiên ở nhà thờ, vị linh mục trẻ này đã thẳng thắn lên tiếng chống lại những tật xấu, những lộn xộn đang làm cho xứ đạo của ngài hư hỏng: là khiêu vũ và say rượu. Đương nhiên bài giảng của ngài làm cho nhiều người bị tổn thương về quyền lợi khiến họ đứng lên chống lại ngài: các chủ quán rượu, các khách khứa tới uống rượu, những người hay lui tới vũ trường, những người lạm dụng ngày chủ nhật để làm bậy, họ cảm thấy những đam mê, thói hư tật xấu, và những ham muốn xác thịt của họ đang bị đụng chạm, bị bài xích. Nhưng trong họ đạo của ngài, người ta thấy ngài thật nhân từ, hiền lành, thật thánh thiện, sốt sắng, đến nỗi họ đã coi ngài như một vị thánh sống.
Tuy nhiên, những thanh niên đàng điếm, du đãng gần đó, nhưng không thuộc họ đạo của ngài, không ngần ngại chống lại ngài, vu khống cho ngài những gì xấu xa nhất. Ngài sống giống như một thiên thần: để chế ngự xác thịt, để bắt xác thịt trở thành nô lệ ngoan ngoãn của tinh thần, và để thông hiệp với những đau khổ của Chúa Cứu Thế trên thập giá, ngày nào ngài cũng ăn chay đánh tội, nên thân thể ngài xanh xao, gương mặt ngài hốc hác, và họ đã cả gan giải thích đó là do ngài đã bí mật ăn chơi trác táng. Người ta đã đặt ra những câu hát thô bỉ để nhạo cười ngài, đã gửi cho ngài những lá thư nặc danh để chửi rủa ngài, dán vào cửa nhà ngài những tờ giấy nhục mạ ngài.
Bà Cathérine Lassagne, là nhân chứng sống gần ngài liên tục và lâu nhất, biết rõ những đức hạnh của ngài nhất, đã viết: "Vào thời đó, ngài bị vu khống và khinh bỉ. Người ta tới la hét om sòm vào cửa sổ nhà ngài...".
Dẫu không muốn quy toàn bộ thủ đoạn này cho một mình ma quỷ, chúng ta cũng cứ theo dõi cuộc tấn công đầu tiên của nó chống lại một tông đồ nhiệt thành như ngài, nhằm phá hoại danh dự và tiếng tăm của ngài một cách hèn hạ và kinh tởm. Chỉ một chút xíu nữa là cuộc tấn công đó có thể đi đến thành công! Trong vụ án điều tra phong thánh, một nhân chứng nói: "Ngài quá mệt mỏi và chán nản vì những tiếng đồn quái ác xấu xa mà người ta dám tung ra về ngài, đến nỗi ngài muốn bỏ họ đạo của ngài để trốn đi. Nếu không có một người ở gần ngài thuyết phục ngài rằng, việc ngài bỏ đi sẽ làm cho người ta tin những lời đồn đại ấy là đúng, thì ngài đã bỏ trốn rồi".
Vậy thì ngài phải làm gì đây? Phó thác mọi sự cho Thiên Chúa, tiếp tục cầu nguyện hãm mình, nhất là cầu nguyện cho những kẻ bách hại ngài. Ngài cứ làm như thế, và đó là chiến thắng đầu tiên của ngài trên Satan.
CÁM DỖ GHÊ GỚM
Tuy nhiên, ma quỷ không chịu thua. Nó lại tiếp tục tấn công ngài. Lần này, nó tấn công trực tiếp đối thủ của nó. Chính vì ngài hãm mình ép xác, nên sức khoẻ của ngài ngày một suy giảm. Ngài là con trai của một nông dân, nên có một thể chất bự con, khoẻ mạnh. Thế mà trong những năm đầu tiên phục vụ tại Ars, ngài bị một cơn bệnh khá nặng. Cơn bệnh đó chắc chắn là kết quả của cái mà về sau ngài gọi là "sự điên khùng của tuổi trẻ", nghĩa là sự ăn chay hãm mình mà ngài tự ép buộc mình làm khi sống một mình trong nhà xứ, và chỉ một mình Thiên Chúa mới biết được. Khi bị bệnh, ngài bắt đầu có những tư tưởng chán nản và thất vọng. Ngài chắc rằng mình chết đến nơi rồi. Nhiều lần ngài nghe thấy giọng nói xấc xược dường như phát xuất tự đáy lòng ngài nói với ngài: "Bây giờ chính là lúc mi phải sa hoả ngục!". Sở dĩ ta biết được những điều đó là do ngài kể lại, và do những nhân chứng đã cung khai trước toà án phong thánh, nhất là do Cathérine Lassagne mà chúng tôi đã giới thiệu ở trên.
Tuy nhiên, đức tin nơi đáy tâm hồn ngài vẫn rất mãnh liệt, ngài vẫn trông cậy vào Chúa, nhờ đó, ngài mau chóng tìm lại được bình an nội tâm tưởng chừng như đã mất.
Đọc tới đây, chúng ta phải công nhận rằng cha sở trẻ này đã giữ được nét tinh tuý nhất của chức vụ tông đồ, ngài đã chứng tỏ được ngài có lương tri, có khôn ngoan về mặt tâm linh, có sức mạnh, và có bản lĩnh tinh thần.
Những vu khống, những cám dỗ là những phương pháp chung, là những phương pháp thông thường mà ma quỷ dùng để can thiệp vào định mệnh của con người, mà chúng ta chưa thoát ra khỏi được.
Nhưng bây giờ chúng ta hãy nói tới những quấy nhiễu của ma quỷ, là một cái gì khác hẳn những cái trên, mà chúng ta sắp thấy sau đây.
NHỮNG TRÒ CHƠI CỦA SATAN
Trong cuộc chiến đấu của Satan chống lại cha sở họ Ars, có sự leo thang rất dễ thấy. Những gì xảy đến cho ông Gióp cách đây hàng chục thế kỷ dường như cũng xảy đến y hệt cho ngài. Những cơn cám dỗ được chuyển thành những quấy nhiễu phá phách. Thiên Chúa là ông chủ tối thượng định đoạt vận mệnh chúng ta, đã cho ma quỷ được phép đi quá giới hạn mà chúng ta vẫn thường ấn định theo quan niệm của chúng ta. Nên nhớ rằng thánh Augustinô đã nói: "'con chó bị xiềng' đó không thể cắn được ai."
Những cái xiềng này có thể được nới lỏng ra một chút do Thiên Chúa cho phép. Việc đó đã khởi sự xảy ra cho cha sở Viannây suốt mùa đông cuối năm 1824 đến đầu năm 1825. Lúc đó ngài làm cha sở họ Ars được sáu năm, và ngài được 38 tuổi. Những hiện tượng kì cục đó luôn luôn xảy ra vào ban đêm. Những tiếng động gây bất an khiến ngài không ngủ được. Ngài không hề sợ hãi, mới đầu ngài tưởng rằng đó là những con chuột vẫn cắn xé những tấm màn ở giường của ngài. Vì thế, ngài lấy một cây gậy ở đầu giường để đuổi chúng đi. Nhưng vô ích, càng đập vào màn để đuổi chuột đi, thì càng nghe thấy tiếng chúng nghiến răng. Thế mà sáng dậy coi lại màn thì không thấy có một dấu hiệu nào chứng tỏ có chuột cắn xé cả. Tuy nhiên, ngài không hề nghĩ những tiếng động đó là do ma quỷ gây ra. Theo cha Toccanier, một linh mục được sai đến phụ tá ngài sau này, thì "ngài không phải là người dễ tin, vì ngài rất khó tin vào những chuyện dị thường". Nhưng rồi ngài cũng phải tin rằng đó là do ma quỷ làm, như chúng ta sẽ đọc thấy sau đây.
Đức Cha Saudreau, một Giám mục rất có uy tín trong những chuyện thần bí về Thiên Chúa cũng như về ma quỷ, là một tác giả mà sau này chúng tôi sẽ phải trích dẫn nhiều đoạn văn, ngài viết một cách rõ ràng:
"Ma quỷ tác động lên mọi người bằng cách cám dỗ họ... Không ai thoát khỏi những cuộc tấn công của nó: đó là công việc thường xuyên của nó. Đôi khi ma quỷ biểu lộ sự hiện diện của chúng qua những quấy nhiễu khó chịu, để làm cho người ta sợ hơn là để gây nguy hiểm cho người ta. Chúng gây tiếng động, lay chuyển, dời chỗ, đảo lộn và đôi khi làm đổ bể một vài đồ vật nào đó. Người ta gọi đấy là ma quỷ quấy nhiễu".
Cũng có thể là Đức Cha Saudreau đã từng mắt thấy tai nghe y hệt những kinh nghiệm của cha sở họ Ars, chứ chắc chắn không phải chúng chỉ xảy ra trong trí của ngài đâu.
Chúng ta sẽ thấy, Satan, được Thiên Chúa cho phép, sẽ tiến tới mạnh dạn hơn chút nữa. Vì thế, trong những đêm tĩnh mịch, cha Viannây nghe thấy có những tiếng đập ngoài cửa, có những tiếng la hét lạ tai vọng tới nhà xứ. Cha Viannây không hề nghĩ tới đó là do ma quỷ, mà chỉ đơn giản nghĩ rằng có lẽ đó là kẻ trộm đang bị cám dỗ vì những vật dụng trang trí và những đồ vật rất đẹp và quí giá mà ông xã trưởng ở Ars đã cung hiến cho nhà thờ. Vì thế, ngài trỗi dậy, đi xuống dưới cái sân nhỏ, nhìn quanh quất khắp nơi, dòm ngó trong các góc kẹt, các xó xỉnh. Ngài không thấy gì cả! Ngài chưa hiểu có chuyện gì. Ngài quyết định tới cầu cứu một người nào đó trong họ đạo để đề phòng những kẻ tấn công mà ngài chưa thấy được đang đe doạ ngài.
MỘT NHÂN CHỨNG TƯỜNG THUẬT
Thời đó, năm 1826, người thợ đóng xe trong làng là một chàng trai 28 tuổi khoẻ mạnh, đã sống tại đó khá lâu để có thể làm chứng cung khai trước toà án phong thánh. Anh tên là André Verchère. Chúng ta hãy đọc qua lời khai của anh lần đầu tiên vào ngày 4.6.1864 và lần thứ hai ngày 2.10.1876, được khai sau khi thề nói đúng sự thật. Anh nói:
Đã nhiều ngày rồi, cha Viannây nghe thấy có những tiếng động lạ thường trong nhà xứ. Một buổi tối, ngài đến tìm tôi và nói: "Cha không biết đó có phải kẻ trộm không... Con có thể đến ngủ ở nhà xứ với cha được không?"
_ Thưa cha, con rất sẵn lòng. Con sẽ đem cây súng theo.
Đêm đến, tôi lại nhà xứ. Tôi vừa sưởi ấm vừa nói chuyện với cha sở cho tới mười giờ. Cuối cùng cha nói: "Thôi, chúng ta đi ngủ nhé!" Cha nhường cho tôi phòng ngủ của cha, còn cha thì ngủ ở phòng bên cạnh. Tôi không ngủ được. Vào khoảng 1 giờ sáng, tôi nghe thấy có tiếng lay động dữ dội ở cánh cửa bước ra sân. Cùng một lúc vang dội lên những tiếng chuỳ đập vào cánh cửa ấy, đang trong khi nhà xứ có những tiếng rầm rầm như tiếng của nhiều chiếc xe chạy.
Tôi cầm khẩu súng lao về phía cửa sổ và mở ra. Tôi nhìn ra mà chẳng thấy gì cả. Căn nhà rung lên trong vòng 15 phút. Hai chân tôi cũng rung lên như vậy, và tôi còn cảm thấy như vậy suốt 8 ngày. Ngay khi có tiếng động bắt đầu, cha sở đốt đèn lên. Cha đến với tôi và hỏi:
_ Con có nghe thấy không?
_ Con nghe chứ! Cha thấy đó, vì con đã đứng dậy cầm súng mà!
Nhà xứ rung động y như có động đất. Cha sở còn hỏi:
_ Con có sợ không?
_ Không, tôi đáp, con không sợ, nhưng con cảm thấy như chân con muốn khuỵu xuống. Nhà xứ chắc sập mất!
_ Con nghĩ chuyện gì đang xảy ra vậy?
_ Con nghĩ rằng đây là do ma quỷ!
Khi mọi tiếng động chấm dứt, chúng tôi đi ngủ lại. Tối hôm sau, cha sở lại đến yêu cầu tôi trở lại ngủ với cha. Tôi trả lời:
_ Thưa cha, con ngán quá cha ạ!
Chính cha sở đã xác nhận sự kiện này, tại trường Chúa Quan Phòng, một cơ sở bác ái do ngài sáng lập, ngài đã kể lại người đầu tiên tới giữ nhà xứ cho ngài đã sợ hãi thế nào. Ngài vừa cười vừa nói: "Tội nghiệp anh chàng Verchère của tôi, cầm súng trong tay mà cứ run như cầy sấy! Anh ta không còn nhớ rằng mình đang có súng trong tay nũa!"
NHỮNG NHÂN CHỨNG KHÁC
Anh chàng đóng xe từ chối, cha Viannây nói với ông xã trưởng, và ông gửi một lúc hai người tới nhà xứ để canh giữ: chính con trai ông là Antoine, một thanh niên khoẻ mạnh 26 tuổi, và người làm vườn ở lâu đài Ars tên Jean Cotton, 24 tuổi. Trong 12 ngày, tối nào họ cũng đến ngủ ở nhà xứ. Trước toà án phong thánh, họ khai như sau:
_ Chúng tôi không nghe thấy một tiếng động nào, Jean Cotton kể lại. Cha sở ngủ ở một phòng bên cạnh, không phải ngài cũng thấy như chúng tôi. Hơn một lần, giấc ngủ của ngài bị quấy phá, ngài kêu chúng tôi và nói: "Các con không nghe thấy gì sao?". Chúng tôi trả lời là không hề nghe thấy một tiếng động nào cả. Tuy nhiên, có lúc chúng tôi nghe thấy một tiếng động giống như tiếng một lưỡi dao gõ rất nhanh vào một cái lu đựng nước... Hồi tối, chúng tôi đã treo đồng hồ của mình gần cái gương trong phòng ngài. Cha sở nói với chúng tôi: "Cha lấy làm lạ là đồng hồ của các con không bị bể".
Dẫu sao, cha Viannây vẫn chưa dám nói gì về nguồn gốc và bản chất những tiếng động lạ thường mà ngài nghe thấy. Nhưng cuối cùng, sau khi có một kinh nghiệm mới nữa, ngài mới hiểu rõ.
Đường phố phủ đầy tuyết. Lúc đó, vào giữa mùa đông. Bỗng nhiên, giữa đêm khuya, có những tiếng kêu la vọng lên trong sân nhà xứ. Cathérine Lassagne, là người biết rất nhiều về cha sở, đã viết:
"Lúc đó y như có một đạo quân gồm lính Áo và lính Côzắc nói lộn xộn một thứ ngôn ngữ mà ngài không hiểu gì cả".
Vì thế, ngài xuống mở cửa ra, nhìn thấy tuyết vẫn y nguyên trên đường, không một dấu chân. Thì ra tất cả những tiếng lộn xộn đó, những tiếng ồn ào của những binh lính đi qua chỉ là ảo ảnh ảo giác! Ngài nghĩ, dẫu sao đây không phải là chuyện do con người làm ra được. Nhưng nếu không phải do con người, thì cũng không phải việc làm của "thần lành". Lần này, quả thật, ngài cảm thấy sợ! Đó là một dự cảm tiên báo một cuộc tấn công của hoả ngục! Ngài quả quyết như thế! Về sau, khi được Đức Giám mục của ngài là Đức Cha Delvie hỏi, ngài nói:
_ Con cho rằng đó là ma quỷ, vì con cảm thấy sờ sợ. Nếu là do Thiên Chúa nhân từ, thì ngài không làm cho người ta sợ hãi.
Từ lúc đó, ngài không còn cho rằng cầu cứu sự che chở của con người là hữu ích nữa. Ngài cho tất cả những người canh giữ nhà xứ về hết, và chỉ còn một mình ngài sẵn sàng trực diện với Đối Thủ.
QUỶ CÀO SẮT
Đối Thủ này - như chúng ta biết, từ Đối Thủ dùng để chỉ ma quỷ hay Satan - được cha Viannây gọi là con Quỷ Cào Sắt. Tại sao ngài lại chọn từ ngữ đó để gọi ma quỷ? Chắc hẳn là vì Satan luôn luôn tìm cách lôi kéo các linh hồn xuống hoả ngục, y như người ta thường dùng cái cào sắt có nhiều răng để kéo cỏ, kéo phân bón về một nơi nào đó. Đó là một hình ảnh rất cụ thể và sống động ở vùng đồng quê nơi ngài phục vụ.
Một khi đã biết chắc chắn những tiếng động đó phát xuất từ đâu, ngài dùng một chiến thuật rất đơn giản và đúng đắn để đối phó. Cha Beau giải tội cho ngài khai rằng:
_ Thỉnh thoảng tôi có hỏi ngài: "Làm sao ngài đẩy lui được những cuộc tấn công đó?" Ngài trả lời: "Tôi hướng về Thiên Chúa, làm dấu thánh giá, nói mấy lời khinh bỉ với ma quỷ. Vả lại, tôi nhận xét thấy khi nào tiếng động to hơn, và những cuộc tấn công gia tăng nhiều hơn, thì ngày hôm sau thế nào cũng phải có một tội nhân 'cỡ bự' nào đó tới!"
Thật là một khám phá lớn, một nguồn an ủi kì diệu đối với cha sở khiêm nhượng đó khi những người tội lỗi từ khắp nơi trong địa phận, thậm chí là trong cả nước Pháp, và đôi khi từ ngoại quốc đến gặp ngài để xưng tội.
Theo lời khai của một người bạn thân với ngài, thì về sau, ngài có nói với người bạn đó rằng: "Những lần đầu thì quả thực tôi sợ, vì không biết nó là cái gì. Nhưng bây giờ tôi rất hài lòng, vì đó là một dấu hiệu tốt cho biết mẻ lưới của ngày hôm sau luôn luôn tốt đẹp".
Và một lần khác ngài nói: "Đêm đó, ma quỷ quấy phá tôi dữ dội, nhờ vậy tôi biết ngày mai tôi sẽ gặp rất nhiều người... Con Quỷ Cào Sắt này ngu quá, chính nó báo cáo cho tôi biết trước khi nào có những tội nhân 'cỡ lớn' đó tới... Nó nổi giận, càng hay!".
MỘT THÍ DỤ DỄ NHỚ
Một trong những thí dụ gây cảm xúc nhất về việc ma quỷ quấy nhiễu, là chuyện xảy ra nhân dịp cử hành Năm thánh vào tháng mười hai năm 1826, tại Saint-Trivier-sur-Moignans.
Thành phố nhỏ này cách họ Ars khoảng 12 cây số. Mọi linh mục gần đó đều hẹn nhau tới đó để đón mừng Năm Thánh. Tại đây, người ta hy vọng cuộc lễ sẽ lôi kéo được rất nhiều người đến, và sẽ khuyến khích được nhiều người xưng tội và ăn năn hối cải.
Cha Viannây cũng khởi hành từ nhà cha trước rạng đông. Vừa đi ngài vừa lần hạt. Đó là một khí giới cha thích dùng để chiến đấu với Satan. Bỗng xảy ra một chuyện không thể cắt nghĩa được, tháng đó trong năm là đã gần tới mùa đông, chung quanh ngài xuất hiện những quầng sáng mờ mờ quái gở, không khí dường như bằng lửa. Ở hai bên đường, ngài có cảm tưởng rằng những bụi cây đang cháy. Ngài nghĩ rằng chính Satan làm ra như vậy để khiến ngài sợ sệt, vì nó thấy trước được những thành quả cứu độ mà Năm Thánh sẽ đem lại. Nhưng ngài vẫn tiếp tục con đường của mình đến đó.
Khi vừa tới nhà xứ ở Saint-Trivier, ngài bắt đầu ngay bổn phận của mình. Tối đến, tại nhà xứ, khi mọi sự dường như đều yên tĩnh, thì có những tiếng động không thể cắt nghĩa được nổi lên. Những tiếng động đó dường như xuất phát từ phòng của cha sở họ Ars. Các cha bạn, bị quấy rầy bởi những tiếng ồn ào lạ tai, đến than phiền với ngài. Ngài chỉ đơn sơ trả lời: "Đó là do con Quỷ Cào Sắt, nó đang giận lên vì những việc thiện mà chúng ta làm ở đây!"
Các linh mục bạn chỉ cười về sự quả quyết của ngài. Họ nói với ngài: "Cha không ăn cũng chẳng ngủ, nên chính cái đầu của cha nó ca nó hát, và có những con chuột đang chạy ở trong trí óc của cha đấy!".
Những ngày sau, các cha khác tha hồ chế diễu ngài. Một buổi tối, bị chế nhạo trách móc dữ dội hơn, ngài không nói gì cả. Nhưng khi mọi người vừa bắt đầu nằm xuống, thì có những tiếng động như tiếng của một chiếc xe chở rất nặng làm rung động cả nhà xứ. Mọi người đều sợ hãi chỗi dậy.
Đang khi mọi người tự hỏi tiếng động như thế phát xuất từ đâu, thì có một tiếng gãy bể từ phòng cha sở họ Ars vang ra, to đến nỗi cha sở họ đạo ở đó là Benoit phải kêu lên: "Cha sở Ars bị ám sát rồi!". Lập tức, mọi người đổ xô về phòng ngài và mở cửa: họ thấy gì lúc đó? Cha Viannây vẫn ngủ yên trên giường, nhưng có những bàn tay vô hình đã khiêng giường của ngài ra giữa phòng. Lúc đó ngài thức dậy và nói với họ tỉnh bơ: "Chính con Quỷ Cào Sắt đã lôi tôi ra tận đó, và gây ra tất cả những tiếng động ấy... Không sao đâu... Tôi rất tiếc là đã không báo cho các cha biết trước. Nhưng đó là một dấu hiệu tốt cho biết ngày mai sẽ đánh được một con cá lớn".
Ai cũng ngẫm nghĩ tự hỏi "con cá" đó là gì?
Các cha bạn vẫn còn chế nhạo ngài một chút, nhưng cũng ngán sợ cái mà họ gọi là "ảo ảnh" của ngài. Nhưng quả là ngài không lầm, mọi người đều công nhận điều ngài nói đó khi thấy một nhân vật trong vùng này mà họ biết là đã bỏ đạo, đó là một kỵ sĩ ở Murs, bước vào nhà thờ và đi thẳng tới toà giải tội của cha sở họ Ars. Việc trở lại của ông này đã gây một ấn tượng mạnh mẽ trong cả vùng đó. Trong số những người chỉ trích cha Viannây gay cấn nhất, có một người bắt đầu từ lúc ấy coi ngài như "một vị thánh lớn".
NHỮNG BIỂU HIỆN KHÁC CỦA MA QUỶ
Những quấy nhiễu của Satan còn kéo dài nhiều năm nữa. Lúc trước chỉ có một mình cha sở Ars phải chịu đựng điều đó. Về sau, ma quỷ cũng quấy phá cả những người sống chung quanh ngài. Các cô giáo và các em nhỏ mồ côi ở trường Chúa Quan Phòng, một cơ sở sáng giá do cha sở thiết lập, cũng nghe thấy những tiếng động kì lạ trong một vài đêm. Ma quỷ còn chọc ghẹo cả cộng đoàn này. Về sau, trước toà án phong thánh, Marie Filliat cung khai rằng:
"Một hôm, sau khi rửa nồi, tôi đổ nước vào nồi để nấu súp. Tôi thấy trong nước có những miếng thịt nhỏ. Hôm đó lại là ngày ăn chay kiêng thịt. Tôi đổ bỏ hết nồi đó, rồi rửa nồi và đổ nước vào lần nữa. Khi nồi súp đã nấu xong sẵn sàng để dọn ra, thì tôi lại thấy trong đó có lẫn những miếng thịt nhỏ. Khi biết chuyện, cha sở bảo: 'Ma quỷ nó làm ra như thế đấy, cứ việc dọn lên mà ăn'".
Như mọi người thấy, cha sở Ars không hề bối rối. Lương tri của ngài vẫn không bị lay chuyển, và sự trông cậy của ngài vào Thiên Chúa đã khiến cho Satan không làm gì được ngài. Một hôm, người ta hỏi xem ngài có sợ không, ngài chỉ trả lời: "Cái gì rồi cũng quen! Quỷ và tôi, chúng tôi coi nhau như đồng chí".
Điều đó rõ ràng không có nghĩa là ngài cùng phe với ma quỷ. Ngày 4.12.1841, ngài tâm sự với các cô giáo trường Chúa Quan Phòng: "Các con nghe đây: tối hôm qua, quỷ nó tới phòng cha đang khi cha đọc sách nguyện. Nó thổi hơi rất mạnh, và dường như mửa ra một cái gì đó giống như hạt lúa mì hay hạt gạo trên nền nhà. Cha nói với nó: 'Tao sẽ lại đằng kia (nhà trẻ mồ côi) kể lại việc mày làm để người ta khinh rẻ mày'. Thế là nó im lặng ngay tức khắc".
Hôm khác, khi cha Viannây đang dỗ giấc ngủ vì ngài rất cần nghỉ ngơi, thì ma quỷ la lên để làm hao mòn sức khoẻ ngài chừng nào có thể: "Viannây! Viannây! Ta sẽ bắt mi! Hãy xem, ta sẽ bắt mi!". Ngài trả lời: "Tao đâu có sợ mày!".
Hiện nay, tại nhà xứ họ Ars, người ta thấy có một cái giường mà trước đây là giường của cha Viannây. Cái giường đó bị cháy khi nó được đặt ở nhà thờ, nhưng không biết nó bị cháy cách nào. Hồi đó, khi người ta tới báo cho ngài biết là nhà ngài bị cháy, thì ngài không trao chìa khoá cho họ để họ xông vào nhà dập tắt đám cháy. Mà ngài nói, mặt tỉnh bơ không lộ vẻ hoảng hốt: "Lại cái con Quỷ Cào Sắt khốn kiếp! Nó không bắt được chim, nên đã đốt cái lồng chim rồi".
Ma quỷ sỉ nhục, mắng nhiếc cha Viannây một cách rất thường xuyên, nó đe doạ ngài, nói với ngài những câu thô lỗ. Nó dùng những lời thô tục để chửi ngài: "Viannây! Viannây! Đồ ăn khoai thiu! A, mi chưa chết à! Ta sẽ bắt mi!". Tại nhà xứ, nó bắt chước tiếng gấu gầm gừ, tiếng chó tru tréo, lay động như điên những tấm màn ở giường ngài,...
Theo lời khai của Cathérine Lassagne và sư huynh Athanase, thì có những lần ma quỷ bắt chước tiếng búa đóng đinh xuống sàn, hay tiếng búa đóng vành sắt vào thùng tônô, nó đánh trống trên bàn, trên ống khói, trên bình nước, hoặc nó hát bằng một giọng nheo nhéo và sai lạc, khiến cho cha Viannây nói: "Con Quỷ Cào Sắt có một giọng nói tệ ơi là tệ!".
Thực ra, tất cả những cái đó chỉ là những trò kì cục, ấu trĩ hơn là nguy hiểm. Cũng may là ma quỷ không được phép làm tất cả mọi chuyện. Cha Viannây có một nghĩa vụ phải chu toàn mà Thiên Chúa trao cho. Nếu ma quỷ muốn gây trở ngại khó khăn cho nghĩa vụ đó bằng cách làm ngài bị mất ngủ, bằng cách tấn công cha đủ mọi mặt, thì phản ứng của ngài là lại càng làm nghĩa vụ đó một cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn. Tóm lại, những quấy nhiễu chỉ làm bất lợi ngược lại cho kẻ gây ra chúng. Chúng ta sẽ thấy tương tự như vậy trong một số trường hợp bị quỷ nhập.
Hiện nay, có những "nạn nhân của quỷ" chấp nhận chịu mọi thử thách của ma quỷ để liên kết với những đau khổ của thập giá cứu chuộc của Chúa, là thứ khí giới chắc chắn sẽ chiến thắng Satan, và làm cho nó thất bại vĩnh viễn. Chúng ta sẽ thấy rõ điều đó sau này!
Chúng tôi chắc chắn rằng cha sở Ars là người như thế. Ngài chấp nhận chịu đựng tất cả mọi sỉ nhục của ma quỷ để cứu rỗi các linh hồn. Qua các kinh nghiệm hằng ngày của ngài, ngài đã rất sớm nhận ra rằng cuộc chiến đấu của ngài với ma quỷ có liên quan chặt chẽ với việc người tội lỗi ăn năn trở lại, rằng Thiên Chúa dẫn đến với ngài những người tội lỗi ở khắp mọi miền nước Pháp, kể cả ở ngoại quốc nữa.
Bây giờ chúng ta sẽ nói đến những biểu hiện của Satan gây ấn tượng mạnh mẽ nhất trong đời sống của "vị linh mục Công giáo gương mẫu" này như thế nào.
CON RẮN
Theo thánh sử Gioan, Con Rồng hay Con Rắn cám dỗ bà Eva chính là Satan. Vì thế, không có gì lạ khi ma quỷ thỉnh thoảng hiện ra dưới lốt một con rắn. Chúng ta sẽ có một thí dụ điển hình về việc đó trong một chương sau, về trường hợp bị quỷ nhập của Claire-Germaine Cèle ở Nam Phi châu.
Sau đây là một đoạn văn của cha Monnin, người đầu tiên viết tiểu sử cha sở họ Ars, kể lại lời chứng của Cathérine Lassagne, là người nổi tiếng tận tâm với cha sở Ars. Chính chị Cathérine nói:
_ Một buổi tối, cha sở đến trường chúng tôi để thăm một bệnh nhân. Khi tôi gặp lại ngài ở nhà thờ, ngài bảo: "Con thích nghe tin tức! Được rồi! Đây là một tin rất sốt dẻo. Hãy nghe cha kể chuyện mới xảy đến với cha sáng nay. Cha có một vật để trên bàn, con có biết đó là cái gì không?".
Xin mở ngoặc ở đây: ngài muốn nói về kỷ luật của ngài. Ngài chưa bao giờ nói với Cathérine về điều đó, nhưng nhiều lần chị đã thấy cái dụng cụ khủng khiếp ấy dưới gầm giường ngài. Chị biết rõ ngài để nó ở đó không phải để làm vật tượng trưng. Rõ ràng là vị linh mục thánh thiện này đã dùng nó, thậm chí dùng thường xuyên nếu không nói là hằng ngày. Nhưng chị chưa bao giờ hở môi hỏi ngài về điều đó, mà ngài cũng không hề nói với chị. Thế mà lần này tự nhiên ngài lại nói:
_ Con có biết cái gì đây không? Nó tự nhiên trườn lên bàn của cha như một con rắn! Thấy vậy, cha hơi sợ. Con biết đó là một sợi dây thừng: cha cầm sợi dây lên, nó cứng như một thanh gỗ. Cha lại đặt nó xuống bàn, nó lại bắt đầu trườn đi như vậy tới ba lần."
Một trong những cô giáo có mặt trong cuộc nói chuyện đó phản bác: "Có thể cha đã rung cái bàn của cha?"
_ Không, cha sở đáp, cha không hề đụng tới cái bàn.
NHỮNG LẦN MA QUỶ HIỆN RA
Chính cha Monnin còn tự hỏi ma quỷ có thực sự hiện ra với cha sở Ars không? Cha muốn nói về sự hiện ra thấy được, không phải chỉ là tai nghe mà là mắt thấy. Chúng ta biết là nhiều lần ma quỷ đã thổi vào mặt cha, và cha đã cảm nhận trên mặt mình có cái gì đó giống như một con chuột chạy qua. Nhưng ngài có trông thấy Satan không? Thấy nó dưới hình thức nào? Cha Monnin trả lời cho câu hỏi này bằng hai sự kiện.
Một hôm, vào lúc ba giờ sáng, cha Viannây thấy một con chó đen lớn có đôi mắt sáng quắc, lông lởm chởm, nó cào cào xuống đất ở chỗ trước đó vài tuần lễ người ta đặt xác của một người chết chưa xưng tội. Trông thấy con chó ở một chỗ như thế ngài sợ lắm! Ngài không hề nghi ngờ về thực chất của con chó đó. Ngài chắc chắn đó là quỷ, và nó trốn vào trong toà giải tội của ngài. Cha Monnin còn nói thêm: người ta thấy sự kiện này có một cái gì giống hệt như ở trong đời sống của thánh Stanislas ở Kotska: ma quỷ đã hiện ra với vị thánh này khi ngài bị bệnh, dưới lốt một con chó giận dữ, có vẻ như muốn phóng bổ vào ngài, và ngài đuổi nó ba lần bằng cách làm dấu thánh giá.
Cha Viannây còn kể rằng quỷ đã hiện ra với ngài dưới lốt những con dơi bay vào phòng ngài và bay chung quanh giường của ngài. Chúng nhiều đến nỗi các bức tường trở thành đen kịt.
Sự kiện đó khiến chúng ta, cũng như cha Monnin, tự hỏi có phải cha sở Ars là người duy nhất nghe, cảm thấy hay xem thấy nhiều chuyện khó tin như thế không?
LỜI CHỨNG
Về vấn đề này, chúng ta đã có sẵn một câu trả lời. Khi ma quỷ bắt đầu quấy nhiễu, cha sở Ars không biết chuyện gì xảy ra cả. Cha đã cầu cứu và nhận được sự can thiệp của một vài người trong họ đạo: anh chàng Verchère và vài người khác nữa. Tất cả những người đó đều đã nghe thấy như ngài. Tất cả đều sợ hãi, còn sợ hãi hơn ngài nữa. Tất cả đều kết luận như ngài, rằng không thể lẫn lộn những tiếng động mà họ nghe được với những tiếng động tự nhiên. Cha Monnin còn trưng ra những nhân chứng khác, và chúng tôi cũng tường thuật lại sau cha chính những nhân chứng ấy, vì họ đã đến xác nhận với chúng tôi sự kiện chính trong số những sự kiện ma quỷ quấy nhiễu ở Ars, chung quanh thánh Gioan-Maria-Viannây.
Năm 1829, khi những "chuyện ma quỷ" ấy đã xảy ra được 5 năm, thì có một linh mục trẻ thuộc giáo phận Lyon đến Ars, linh mục này là con bà quả phụ Bibot, bà là người đã giúp cho cha sở thánh biết bao nhiêu công việc, ngay từ khi ngài được bổ nhiệm tới họ Ars.
Cha Bibot cũng được cha Viannây tín nhiệm như mẹ mình. Cha đến với ngài để cấm phòng. Đương nhiên cha được ngài tiếp đón hết sức thân tình, vì ngài biết ơn mẹ của cha một cách sâu xa. Và cha ở trong nhà xứ của ngài.
Chúng tôi có một trình thuật của cha Bibot về những gì xảy ra lúc đó ở nhà xứ họ Ars. Trình thuật này được cha Renard, bạn cha Bibot, kể lại. Cha Renard hỏi cha Bibot:
_ Cha ngủ tại nhà xứ. Vậy cha hãy cho tôi biết những chuyện ma quỷ xảy ra ở đó. Có thật là nó gây ra những tiếng động không? Cha có nghe thấy không?
_ Có chứ, cha Bibot trả lời, đêm nào tôi cũng nghe thấy. Nó nói bằng một giọng nheo nhéo và hoang dại, giống như những tiếng kêu của loài hươu nai. Nó cứ quanh quẩn quanh những cái màn của cha sở, và lay động những cái màn đó dữ dội. Nó gọi đích danh ngài: Tôi nghe rõ mồn một những câu: "Viannây! Viannây! Mi làm gì đó! Cút đi! Xéo đi!".
_ Những tiếng động và kêu la ấy hẳn phải làm cha sợ hãi chứ?
_ Không hẳn vậy! Tôi không nhát gan đâu, vả lại, cha Viannây có mặt ở đó làm tôi an tâm. Tôi cầu xin Thiên Thần Bản Mệnh gìn giữ và tôi ngủ được. Nhưng tôi thực sự tội nghiệp cho cha sở: tôi không muốn ở lại mãi với ngài. Vì tôi chỉ ở đó như một khách tới thăm, nên tôi cũng phải rút lui "có trật tự", mặc cho Thiên Chúa lo liệu.
_ Cha có hỏi cha sở ở đó không?
_ Không, tôi có ý định đó nhiều lần, nhưng vì sợ làm phiền ngài, nên không dám mở miệng. Tội nghiệp cha sở! Tội nghiệp cho con người thánh thiện đó! Làm sao ngài có thể sống được giữa những cảnh đảo điên như thế?
Đó là một chứng cứ rất rõ ràng. Cha Bibot đã nghe thấy, đã tội nghiệp cho cha sở. Ngài thẩm định rằng việc chịu đựng những cuộc tấn công được lập đi lập lại hằng đêm như thế quả là quá sức của ngài. Cuộc chiến đấu liên tục với ma quỷ này là một chuyện xảy ra thực sự, và làm cho người ta mệt lừ.
Có điều nên ghi nhớ trong bài tường trình của cha Bibot, đó là lời cha đã nghe: những lời mà Satan cứ lập đi lập lại hoài vào tai cha sở: "Viannây! Viannây! Mi làm gì đó? Cút đi! Xéo đi!".
Chúng tôi sẽ nhấn mạnh những lời này sau. Nhưng ngay bây giờ, chúng ta có thể biết rằng đó là một trong những hình thức ma quỷ bách hại hay quấy nhiễu cuộc đời của cha Gioan-Maria-Viannây, người giải tội và làm cho người ta trở lại với Chúa không biết mệt!
MỘT XÁC NHẬN KHÁC
Và đây là lời xác nhận thứ hai, vẫn theo tiểu sử mà cha Monnin viết về cha Viannây.
Năm 1842, nghĩa là 13 năm sau khi cha Bibot tới thăm, có một tội nhân hối cải tới Ars, nhưng vẫn còn ngần ngại chưa quyết định đến xưng tội với cha sở thánh thiện ấy. Đó là một cựu quân nhân đã chuyển sang ngành hiến binh đang phục vụ ở quận Ain. Cũng như bao người khác, vào nửa đêm, ông ta đứng dậy đến cửa nhà thờ để chờ cha giải tội nổi tiếng mà ai cũng kính trọng ấy tới.
Trong lúc ngài chưa tới, ông ta đi bộ chung quanh nhà thờ, rất gần với nhà xứ. Mới đây ông bị nhiều điều phiền muộn, và chúng vẫn còn để lại cho ông một cảm tưởng vừa buồn, vừa bất an, vừa lo sợ bị Chúa phạt. Tất cả những chuyện đó vẫn còn ngổn ngang trong thâm sâu tâm hồn ông. Chân lý Kitô giáo đã lôi kéo ông và làm ông lo sợ. Ông muốn xưng tội, nhưng tâm trí ông vẫn còn đang diễn ra một cuộc chiến đấu dữ dội chung quanh ý định trở lại của ông.
Trong lúc ông đang phải chiến đấu - cuộc chiến đấu mà biết bao người khác đã phải trải qua, ở Ars cũng như ở bao chỗ khác - thì ông bỗng nghe thấy một tiếng động lạ thường dường như phát xuất từ cửa sổ nhà xứ. Cha Monnin viết:
"Ông ta nghe thấy một giọng nói mạnh, nheo nhéo và chói tai, y như vọng lên từ hoả ngục, lập đi lập lại nhiều lần những lời mà ông nghe rất rõ: 'Viannây! Viannây! Lại đây! Lại đây!'. Cái tiếng kêu từ hoả ngục ấy làm ông kinh hãi. Ông bị lay chuyển rất mạnh khiến ông bỏ đi. Lúc đó, ở tháp chuông, đồng hồ lớn gõ một tiếng. Lập tức cha sở xuất hiện cầm đèn trong tay. Ngài gặp ông này vẫn còn đang hết sức xúc động. Ngài trấn an ông, đưa ông vào nhà thờ. Trước khi hỏi ông và nghe những điều đầu tiên ông kể về lai lịch của mình, thì ngài đã làm ông cảm động vì những lời này: 'Này anh bạn, anh đang phiền muộn. Vợ anh vừa sinh đẻ xong thì mất. Nhưng hãy cậy trông vào Chúa. Chúa nhân từ sẽ đến nâng đỡ anh... Nhưng trước hết, hãy làm cho lương tâm mình được yên ổn đã, rồi anh mới ổn định được các công việc của anh dễ dàng hơn'.
Anh hiến binh đó nói: tôi không hề chống cự lại, tôi quỳ xuống như một đứa trẻ và bắt đầu xưng tội. Trong cơn bối rối, tôi không làm sao liên kết các ý tưởng lại với nhau, nhưng cha sở nhân từ đã giúp tôi. Ngài hiểu ngay tận đáy tâm hồn tôi, ngài cho tôi thấy những điều mà tôi không thể nhận thức được, những điều khiến tôi ngạc nhiên khôn xiết. Tôi không tin rằng có người lại hiểu được, đọc được tâm hồn người ta chính xác đến thế!".
Qua những lời chứng vừa mới kể, chắc chắn không có gì khiến người ta phải thắc mắc khi thấy rằng trong chương nói về hiện tượng quỷ nhập và những dấu hiệu quỷ nhập lại nói tới việc hiểu biết về những chuyện ẩn kín. Trong chương cuối cùng, chúng tôi sẽ đưa ra nhiều thí dụ cho thấy Satan cũng biết về những chuyện ẩn kín trong lương tâm này.
Nghĩa là sao? Chắc chắn không phải nhờ ma quỷ mà thánh nhân ở họ Ars mới đọc được tâm hồn người ta. Sở dĩ Satan biết như thế một cách chắc chắn nhiều hay ít, là do những ân huệ đặc biệt của trí khôn thiên thần, dẫu nó là một thiên thần sa ngã. Trái lại, nơi cha Viannây, việc biết những chuyện bí mật trong lương tâm là một đoàn sủng cao quý nhất, nhờ nó mà ngài khiến cho người tội lỗi ăn năn trở lại một cách hiệu quả nhất. Lời thú nhận của người hiến binh mà chúng ta vừa kể chỉ là một thí dụ trong hàng ngàn thí dụ khác.
LỜI CHỨNG CỦA Y SĨ
Bây giờ chúng ta đã có đủ chứng cớ để bác bỏ những giải thích quá sơ lược cho rằng những hiện tượng ma quái được kể ra đây là do việc ăn chay hãm mình quá đáng của cha Viannây, hay do khuynh hướng cho bất kì chuyện gì xảy đến cũng đều do siêu nhiên cả của ngài. Các linh mục bạn của ngài khởi đầu cũng nghĩ như vậy. Nhưng rồi họ cũng phải thay đổi ý kiến. Cuối cùng, mọi người đều phải công nhận sự bình tĩnh lạ thường và lành mạnh của ngài, và công nhận những chuyện xảy ra giữa ngài và Satan là có thực. Ngài nói những chuyện đó một cách rất tự nhiên, vừa nói vừa pha trò châm biếm. Cathérine Lassagne đã nhiều lần lưu ý tới những chuyện ngài kể cho những người chung quanh về đề tài ấy. Như ta đã biết, đó cũng chính là một trong những phản ứng của ngài đối với ma quỷ: "Tao sẽ nói với họ tất cả những gì mày làm để người ta cười mày!".
Chúng ta cũng nên nghe các y sĩ của ngài nói về vấn đề này. Tất cả những người sống gần ngài đều nói rằng ngài hoàn toàn quân bình về thể lý cũng như tâm lý. Người ta hỏi ông J.B Saunier, là bác sĩ thường xuyên chữa bệnh cho ngài, về những chuyện ma quỷ quấy nhiễu. Khi người ta dám mở miệng ra nói với ông hai tiếng "ảo ảnh", thì ông trả lời một cách quả quyết rằng: "Để trả lời cho những cố gắng nhằm giải thích những hiện tượng thuộc loại này về mặt sinh lý, chúng tôi chỉ có một điều phải nói, là nếu người ta có thể chấp nhận những giải thích ấy khi đã biết rõ những sự kiện được thực hiện trong những điều kiện bệnh lý xảy ra đồng thời, khiến ta thấy được bản chất của những sự kiện, là những sự kiện bình thường không bao giờ gây ra một khuyết tật nào - như trì độn, động kinh hay những dấu hiệu điên loạn - thì không thể nào gán cho những sự kiện đó có cùng một nguyên nhân khi chúng hội tụ lại với nhau như trong trường hợp của cha Viannây, khi mọi chức năng trong cơ thể ngài đều hoạt động rất điều hòa, ý tưởng của ngài rất rõ ràng minh bạch, nhận thức rất tinh tế, phán đoán và cách nhìn rất chắc chắn, sự tự chủ rất đầy đủ, sức khoẻ kì diệu của ngài giữ được mãi, hầu như không hề bị suy giảm giữa những công việc liên tục đến hàng loạt khiến ngài phải tiêu hao sức lực".
Y sĩ này có lý. Những ơn siêu nhiên mà Thiên Chúa ban cho cha sở họ Ars để tôn vinh ngài đã được ghép với những tính tốt tự nhiên của ngài, những tính tốt mà lịch sử dễ dàng nhận thấy. Ngài có những thiên tư cần thiết để trừ quỷ một cách hữu hiệu hơn bất cứ một linh mục nào khác trong địa phận của ngài, và có thể hơn mọi linh mục đồng thời với ngài. Một hôm, Đức Cha Devie, giám mục của ngài, đã làm cho một số những kẻ phê bình ngài phải câm miệng: "Tôi không biết là cha sở Ars có được đào luyện hay không, nhưng tôi biết rằng ngài được ơn soi sáng". Đức Cha rất xác tín về điều đó đến nỗi đã ban cho ngài được phép toàn quyền sử dụng mọi quyền năng trừ quỷ của ngài trong tất cả mọi trường hợp đến với ngài. Chúng ta sẽ thấy ngài làm việc ấy trong một chương khác trong sách này.
Nhưng trước đó, chúng ta nên tiếp tục tìm hiểu những cuộc tấn công của ma quỷ trong đời sống của vị thánh thời đại này.
CÁM DỖ LỚN NHẤT
Ngày 12.4.1959, để kỷ niệm 100 năm ngày mất của cha sở họ Ars, tại nhà thờ Đức Bà Paris, Đức Cha Fourrey, Giám mục Belley, đã nói một bài tán tụng trọng thể về thánh Gioan-Maria-Viannây, trong đó Đức Cha đã mô tả những quấy nhiễu của ma quỷ như sau:
"Tôi không ngần ngại gợi lên đây những đau khổ lạ thường cứ diễn đi diễn lại trong suốt 35 năm, những đau khổ ấy chắc chắn phải làm tê liệt việc thi hành tác vụ linh mục nếu ngài chỉ như mọi linh mục khác. Ngay khi biết được những quấy nhiễu ấy là do ma quỷ, ngài đã tự trấn an: Vị Thầy mà mình đang phục vụ thì mạnh hơn Ma Quỷ. Vì thế, đêm nào những hiện tượng ma quái đáng sợ ấy xảy ra một cách đặc biệt, thì ngài còn vui mừng nữa. Đối với ngài, đó là dấu hiệu cho biết hôm sau sẽ có những tội nhân 'cỡ lớn' - những 'con cá bự' như ngài thường nói - nhờ toà cáo giải của ngài mà trở thành những người có ân nghĩa với Chúa".
Nhưng vị Giám mục hùng biện đó lập tức cho thấy ngay điều quan trọng nhất, theo ý kiến ngài, trong sự kiện ma quỷ quấy nhiễu cuộc sống của một vị đại thánh như thế. Ngài nói:
"Tôi muốn nói tới cái mánh khoé tinh vi hơn của Thần Ác muốn tìm cách làm cho ngài thất vọng, rồi dùng màu sắc của một sự thánh thiện cao nhất để tách ngài ra khỏi những chức năng mà Giáo Hội đã trao phó.
Việc cứu rỗi các linh hồn luôn luôn ám ảnh ngài, tràn ngập tâm hồn ngài, sẽ trở thành một đam mê thánh thiện mà kẻ thù của mọi sự thiện sẽ dùng nó một cách rất nghịch lý để làm cho ngài mù quáng. Nó muốn đưa người của Thiên Chúa vào một thảm kịch nội tâm bi đát nhất mà người ta có thể quan niệm được. Có thể trong khi muốn cứu rỗi các linh hồn, mà vì dốt nát và bất lực, ngài có nguy cơ dẫn đưa các linh hồn đến hư mất và cùng chịu trầm luân với họ chăng? Bổn phận đích thực của ngài chẳng phải là tự xoá mình đi thay vì trở thành một linh mục sáng giá, và che dấu mọi bất hạnh to tát của mình trong tĩnh tâm, cầu nguyện và sám hối sao? Nhưng đây mới là nỗi đau khổ lớn nhất mà ngài đã chịu: đó là Đức Giám mục địa phận đã ra lệnh cho ngài phải ở lại nhiệm sở, tiếp tục chu toàn bổn phận, cái bổn phận vượt quá sức ngài, cái bổn phận mà ngài có cảm tưởng mình đã phản bội".
Không có gì làm người ta cảm động hơn là thấy thảm trạng này. Ma quỷ đã nắm được vị thánh nhờ cái mà người ta gọi là "điểm yếu" của ngài, và cái "điểm yếu" này trong thực tế lại chính là cái "điểm mạnh" của ngài! Ngài là một linh mục trung thành, là người đầy tình thương và đầy tinh thần phục vụ! Nhưng ngài cũng là người cảm nghiệm được sự hư không của mình, biết tự hạ mình trước Chúa Giêsu của ngài. Và ma quỷ lợi dụng ngay chính điểm này, nắm ngay lấy sự khiêm nhượng này, đưa nó tới một cực đoan nào đó, cực đoan này sẽ biến cái nhân đức lớn nhất ấy thành một nguy hiểm lớn lao nhất cho linh hồn của vị thánh. Còn thủ đoạn nào khéo léo hơn, nguy hiểm đối với nạn nhân mà nó nhắm tới hơn là thủ đoạn đó? Cần biết thêm rằng điều đã củng cố cho ý định trốn đi của cha sở thánh này, là ngài tin, cũng như rất nhiều vị linh mục thánh thiện trước ngài và đồng thời với ngài đã tin, tin rằng nên dành một khoảng thời gian nào đó giữa thời thi hành tác vụ và giờ chết, để bằng sự thống hối sửa chữa lại tất cả những thiếu sót về hành động trong suốt cả đời mình.
Đức Cha Fourrey nói tiếp: "Ma quỷ tìm cách đưa cha sở Ars vào cái bẫy duy nhất mà ngài có thể sa vào. Nó đẩy ngài vào một con đường không phải là con đường mà Thiên Chúa đã vạch ra cho ngài, bằng cách làm cho ngài phải âu lo trong lương tâm, tức nơi xảy ra cuộc chiến đấu của ngài.
Sư huynh Athanase nói: "Người tôi tớ của Thiên Chúa đó phải chịu rất nhiều đau khổ nội tâm. Đặc biệt ngài bị dằn vặt vì muốn được sống tĩnh mịch: ngài thường nói về chuyện đó. Ý muốn đó như một cơn cám dỗ ám ảnh ngài ban ngày, và còn nhiều hơn nữa vào ban đêm. Ngài nói với tôi: 'Đêm nào tôi không ngủ được, là tâm trí tôi luôn luôn đi du lịch: khi thì ở tu viện Trappe, khi thì ở dòng Chartreuse, tôi muốn tìm một xó xỉnh nào để khóc lóc cho cuộc đời khốn nạn của tôi, và để thống hối tội lỗi tôi'. Ngài cũng thường nói ngài không hiểu được rằng tại sao ngài lại không ngã lòng khi thấy những nỗi bất hạnh của mình. Ngài rất sợ sự phán xét của Thiên Chúa. Mỗi lần nói đến chuyện đó, ngài sợ run lên. Ngài khóc và nói rằng mối lo ngại lớn nhất của ngài là sợ tới giờ chết mà lại ngã lòng thất vọng. Ngài sợ hãi và lo lắng khi phải mang lấy trách nhiệm mục vụ của mình. Ngài không muốn chết khi đang làm cha sở. Ngài thú nhận rằng đó là nỗi sợ khiến cho ngài bị cám dỗ đi trốn lần thứ hai. Ngài nói với tôi: 'Tôi muốn đặt Thiên Chúa nhân lành ở chân tường để cho Ngài thấy rằng nếu tôi chết trong trách nhiệm của linh mục, thì đó không phải là do tôi muốn, mà là vì Ngài muốn'".
Chúng ta có thể nói: có lẽ ngược lại như vậy, khi sắp đến thời mà ơn kêu gọi trở nên hiếm hoi hơn, thì Thiên Chúa muốn dùng gương sáng của ngài để chứng tỏ rằng một cha sở tốt có thể chết hoặc phải chết "tại trận". Vào thời của ngài, các linh mục không bị thiếu một cách trầm trọng như thời của chúng ta. Cuộc đối thoại sau đây giúp ta hiểu điều đó:
_ Tôi sẽ đi khỏi đây!
_ Đức Giám mục không muốn cha đi.
_ Đức Cha không cần tới tôi: ngài đã có đủ người làm cha sở rồi. Còn tôi, tôi cần phải có chút ít thời giờ để khóc lóc cho cuộc đời khốn nạn của tôi, và để thống hối tội lỗi hầu chuẩn bị về với Chúa.
Mẩu đối thoại này xảy ra giữa ngài và Cathérine Lassagne, cũng như xảy ra với sư huynh Athanase. Chị vừa thuật lại điều đó vừa kết luận: "Chính vì thế mà ngài quyết ra đi."
Cha Monnin là người rất rành rọt về mọi chi tiết của đời sống cha sở Ars, theo cha thì vị thánh nhân xứ Ars này nhìn nhận rằng có sự bất hợp lý trong ước muốn của ngài, và ma quỷ đã lợi dụng điều đó để cám dỗ ngài. Và chúng ta biết rằng ngay từ những năm đầu ngài nhận chức vụ ở Ars, ngài đã phải nghe hoài câu nói muốn phát khùng của ma quỷ: "Viannây! Viannây! Mi làm gì đó? Hãy cút đi! Xéo đi!". Theo lời chứng của cha Bibot, thì ngài đã phải nghe lời của ma quỷ đó ít nhất từ năm 1829. Ta có thể chắc chắn rằng đó là cơn cám dỗ chủ yếu của đời ngài, và ngài đã chống trả cơn cám dỗ đó một cách can đảm. Tuy nhiên, có hai lần ngài suýt nhượng bộ cơn cám dỗ, nhưng cuối cùng ngài đã vâng theo thánh ý Chúa và mệnh lệnh của Giám mục một cách tốt đẹp đến nỗi ngài đã chết vì bổn phận như Chúa Giêsu của ngài đã mong muốn.
Đức Cha Fourrey còn nói: "Việc ngài muốn trốn hai lần không phải là những dự tính chống đối bề trên. Vì khi định ra đi, ngài có viết cho Đức Giám mục địa phận: 'Xin Đức Cha chắc chắn rằng con sẽ trở về khi nào Đức Cha muốn con trở về'. Nhưng việc báo động về thảm trạng lương tâm của ngài cho toà giám mục dường như đối với ngài là phương tiện cuối cùng đạt được sự giải phóng mà ngài khao khát. Cathérine Lassagne đã nhận thấy: 'Ngài tin rằng khi trốn khỏi họ đạo là ngài làm theo thánh ý Chúa'.
Chỉ sau thất bại trong lần thử trốn đi vào năm 1853, ngài mới phát giác ra có sự can thiệp của ma quỷ trong những ước mơ đã ám ảnh ngài là được sống trong sự tĩnh mịch, xa khỏi họ đạo Ars để thống hối ăn năn".
Đó là cuộc chiến đấu gay cấn nhất của cha sở họ Ars chống lại "Con Quỷ Cào Sắt". Nếu ma quỷ muốn chơi khăm ngài bằng cách tỏ hiện ra một cách kì cục và tức cười, thì nó cũng biết tỏ ra là một tên cám dỗ đặc biệt sành sỏi và bạo dạn.
CHA SỞ ARS VÀ TRÒ CHIÊU HỒN
Việc chúng ta tìm hiểu về "cha sở họ Ars và ma quỷ" sẽ không đầy đủ nếu chúng ta không biết một vài câu truyện chính xác về phản ứng của ngài đối với trò chiêu hồn mà ngài luôn luôn coi như trò ma quỷ.
Vì có những bất động sản ở Beaujolais, không xa Villefranche, nên khi nào cư ngụ tại đó, Bá tước Jules de Maubou cũng hay tới thăm vị thánh ở Ars. Ông ta vừa là bạn vừa là hối nhân của ngài. Ông thuộc giai cấp phong lưu trong xã hội, trong đó người ta "giải trí" bằng trò chơi cầu cơ. Một hôm ông tham dự trò chơi ấy chỉ vì muốn làm theo "mốt" thời đó.
Hai ngày sau, ông ta tới Ars, thoạt trông thấy cha Viannây, thì như thường lệ ông đi thẳng tới chỗ ngài, vừa mỉm cười vừa đưa tay ra để bắt tay. Nhưng ông ta ngạc nhiên biết bao khi thấy cha sở chặn ông lại bằng một cử chỉ ngay trước khi ông định nói với ngài, và bằng một giọng buồn buồn xen lẫn nghiêm nghị, ngài nói:
_ Này anh Jules, hôm kia anh đã giao dịch với ma quỷ! Anh hãy đến xưng tội đi!
Bằng những phương thế tự nhiên, chắc chắn cha Vannây không thể biết được chuyện gì đã xảy ra với ông ta hai ngày trước. Vì thế, vừa ngạc nhiên vừa ngoan ngoãn, ông bá tước trẻ này đã quỳ gối xuống xưng tội và hứa sẽ không bao giờ tham dự vào một trò chơi mà người của Thiên Chúa đã tuyên bố là có ma quỷ nữa.
Ít lâu sau, khi ông trở lại Paris, ông lại thấy người ta chơi cầu cơ trong một phòng khách. Họ mời ông chơi, ông từ chối. Họ khẩn khoản mời ông, ông vẫn một mực từ chối. Người ta nắm tay nhau quanh bàn cầu cơ. Bá tước Maubou bỏ đi tìm một góc ngồi, từ thâm tâm ông phản đối trò chơi đang diễn ra không có ông. Nhưng bất chấp mọi người chờ đợi, bàn cầu cơ vẫn bất động. Người đồng cốt, tức người chủ động của trò chơi, hết sức ngạc nhiên. Cuối cùng ông ta nói: "Tôi không hiểu tại sao, chắc chắn ở đây có một thế lực cao hơn đang làm tê liệt tác động của chúng ta."
Sau đây là chuyện thứ hai cũng tương tự như câu chuyện thứ nhất. Charles de Montluisant, một sĩ quan trẻ tuổi, đã từng nghe nói đến những điều lạ lùng ở Ars, nên đã cùng với bạn bè quyết định tới đó, thuần tuý vì hiếu kì. Trên đường, các sĩ quan đó thoả thuận với nhau rằng mỗi người phải hỏi cha sở Ars một câu. Chỉ có De Montluisant tuyên bố là anh ta không có gì để hỏi cha cả, nên anh sẽ không hỏi ngài điều gì hết!
Vì thế, họ tới Ars. Thình lình, trong bọn họ có người muốn chơi khăm anh ta, nên nói với cha sở:
_ Thưa cha sở, đây là anh De Montluisant, một đại uý trẻ có tương lai, anh có điều muốn hỏi cha.
Anh đại uý mắc bẫy, đành phải tham dự cuộc chơi của bè bạn. Không biết hỏi gì, anh chỉ hỏi đơn sơ:
_ Thưa cha, những câu chuyện ma quỷ mà người ta nói về cha không có thật, phải không ạ? Đó chỉ là tưởng tượng!
Để trả lời, cha sở nhìn viên sĩ quan với ánh mắt xuyên suốt và nói bằng một giọng gọn gàng và quả quyết:
_ Ồ, anh bạn, về chuyện đó, anh đã từng có kinh nghiệm điều gì rồi! Nếu anh không làm như thế, thì anh không thể nào dứt nó ra được!
Câu trả lời thật bí ẩn, khó hiểu, nhưng lại đầy quả quyết. Họ nhìn nhau. Mọi người im lặng, và anh đại uý không trả lời trước sự ngạc nhiên của bè bạn.
Nhưng, khi gặp lại nhau, bạn bè anh muốn biết rõ sự việc ấy thế nào: hoặc cha sở nói một cách may rủi không có gì chính xác, hoặc ngài thực sự muốn nói điều gì. Nhưng điều ấy là điều gì?
De Montluisant trả lời rằng hồi anh còn học ở Paris, anh có gia nhập vào một nhóm từ thiện bác ái, nhưng lại là một nhóm chơi trò chiêu hồn. Anh nói:
"Một hôm, khi bước vào trong phòng của tôi, tôi có cảm tưởng rằng không phải chỉ có một mình tôi trong phòng. Cảm giác kì lạ này làm tôi bất an. Tôi nhìn, tôi kiếm khắp nơi mà không thấy gì cả. Hôm sau cũng vậy. Mặt khác, dường như có một bàn tay vô hình nào đó xiết vào họng tôi. Tôi là người theo đạo Chúa, nên tôi lấy nước thánh ở Sait-Germain-l'Auxerrois là họ đạo của tôi, rảy khắp phòng, mọi góc kẹt, xó xỉnh. Từ đó, mọi cảm giác có sự hiện diện siêu nhiên nào đó biến mất luôn. Thế rồi tôi rút ra khỏi nhóm chơi trò chiêu hồn đó. Tôi chắc chắn rằng cha sở Ars đã ám chỉ tới việc rắc rối ấy xảy ra cách đây đã lâu".
Những sự kiện vừa kể được xếp vào hồ sơ ở mục trò chiêu hồn mà chúng tôi sẽ nói lại ở một chương khác. Nhưng khi nghĩ rằng cha sở họ Ars đã chứng tỏ được ơn Thiên Chúa soi sáng suốt cả cuộc đời ngài, và ngài đã có rất nhiều kinh nghiệm nhờ nghe vô số người đến xưng tội, thì chúng ta không thể nào không có ấn tượng khi thấy ngài quả quyết một cách rõ ràng chắc chắn rằng, hầu hết những cuộc chiêu hồn đích thực đều do ma quỷ làm ra.
Cha sở Ars đã trông thấy và biết những điều mà chúng ta không thể trông thấy hay biết được. Không thể coi nhẹ những quả quyết của ngài về vấn đề này, vì thế chúng tôi nghĩ rằng cần phải nhấn mạnh điều đó, hơn là giải quyết những vấn đề phức tạp không kém gì những vấn đề siêu linh học đó.
TỔNG KẾT VÀ SO SÁNH
Vì giới hạn của chương này, chúng tôi chỉ trình bày những câu chuyện đặc thù, và đối với đầu óc của người thời đại thì cũng rất lạ thường. Vì thế, chúng tôi nghĩ rằng tốt hơn nên một mặt tổng kết lại, mặt khác đưa ra những đối chiếu so sánh. Tổng kết này chúng tôi dành để nói về ma quỷ, nó sẽ cho ta thấy sự hăm hở của ma quỷ trong việc chống lại cha sở họ Ars. Những so sánh chúng tôi đưa ra sau đó sẽ giúp chúng ta xác định vị thế của thánh nhân trong hàng ngũ các tôi tớ cao cả của Chúa trong quá khứ.
Ma quỷ sở dĩ ghét cha Gioan-Maria-Viannây, bằng mọi giá làm cho ngài sao lãng bổn phận, hoặc bằng cách làm ngài mất ngủ để tiêu hao sức khoẻ ngài, hoặc một cách tinh vi hơn làm cho ngài âu lo thao thức, khiến ngài muốn trốn vào sa mạc, chính vì ngài hiểu rõ sự hiện hữu của việc cầu nguyện, của việc ăn chay hãm mình, của tác vụ linh mục trong việc làm cho người tội lỗi ăn năn trở lại. Một hôm Satan dùng miệng của một phụ nữ bị quỷ nhập để nói với ngài trước mặt các nhân chứng rằng:
"Mi làm ta đau khổ biết bao! Nếu trên trái đất này có 3 người như mi thì vương quốc của ta sẽ bị tiêu diệt mất. Mi đã cướp khỏi tay ta 80 ngàn linh hồn rồi đấy!".
Những lời này được nói ra trong thời gian cha sở Ars đang nhờ một vị thừa sai tới giảng cho các con chiên trong họ đạo của ngài. Khi nói với vị thừa sai, cha đã giảm đi 3/4 số lượng các linh hồn mà mọi người đã nghe rõ và nhớ kỹ: "Cha thấy không, ma quỷ nói rằng hai chúng ta đang phá hoại vương quốc của nó, và chúng ta đã cướp mất của nó 20 ngàn linh hồn rồi!".
Ma quỷ nói rõ là 80 ngàn, mà nó không hề nói tới vị thừa sai, mà chỉ nói về cha sở họ Ars. Chính vì hết sức khiêm nhượng, mà thánh nhân đã nói giảm đi con số tổng kết những chiến thắng của ngài, và gán một phần nào cho vị linh mục đồng sự của ngài.
Cũng cần phải nói rằng con số mà người phụ nữ bị quỷ nhập nói ra - người phụ nữ được vị thánh của chúng ta chữa lành - không phải là tổng kết cuối cùng. Một hôm, chính cha sở Ars nói: "Chỉ một mình Thiên Chúa mơi biết tất cả những điều tốt đẹp được thực hiện ở đây!", trong khi nói câu đó, ngài chỉ vào toà giải tội của ngài. Không phải những hối nhân của ngài đều là những người trở lại, còn lâu mới được như thế, nhưng không thể chối cãi được rằng rất nhiều người ở trong đó, có thể là đa số, đã trở về với đức tin, hay ít nhất là sống một đời sống tôn giáo.
Bây giờ chúng ta hãy đưa ra những so sánh. Khi tìm hiểu sâu sát đời sống tu đức của cha sở họ Ars, ta không thể chối cãi sự thật hiển nhiên này, là ngài hết lòng yêu mến - yêu mến cách lạ lùng - sự ăn năn thống hối trong gương các vị thánh hồi xưa, đặc biệt nơi các vị thánh ở Thébaide và ở các sa mạc xứ Ai Cập. Có những bằng chứng rõ ràng cho thấy cha sở Ars có biết đời sống của các vị ẩn tu ở Ai Cập, và ngài đã tự ý trích dẫn những đoạn văn của các vị ẩn tu đó trong những bài giáo lý và trong các bài giảng nổi tiếng của ngài.
Cha Balley, thầy dạy của ngài, thường hay giới thiệu các vị thánh đó với ngài để khuyến khích ngài noi gương bắt chước. Giữa những vị thánh đó với ngài có một điểm giống nhau nữa, đó là sự quấy nhiễu của ma quỷ. Nhất là không thể không nói tới thánh Antôn Cả, ông tổ của đời sống ẩn tu, mà không nói tới những quấy nhiễu của ma quỷ mà thánh nhân phải chịu đựng. Những khách đến thăm viếng ngài trên núi Kolsim ở vùng sa mạc, hầu như không bao giờ đến mà không nghe thấy chung quanh ngài có những tiếng động lộn xộn hoà lẫn với nhau, phá tan bầu khí im lặng của sa mạc bao la, những tiếng động ghê rợn như tiếng của binh khí và ngựa: y như âm thanh của một thành bị cả một đạo quân thù nghịch bao vây. Chính những hồn ma vô hình tạo nên những tiếng động ấy, y như Con Quỷ Cào Sắt đã làm cha sở họ Ars sau đó nhiều thế kỷ.
Thánh Hilarion, một ẩn sĩ nổi tiếng khác, mỗi khi đọc kinh đều nghe thấy chung quanh ngài những tiếng cho sủa, bò rừng rống, rắn huýt sáo, hay những âm thanh khác không kém lạ lùng và ghê rợn.
Chung quanh canh chòi của thánh Pacôme, là bậc thầy của phái ẩn tu theo cộng đoàn, ma quỷ tạo ra một thứ âm thanh mà người nào nghe nó cũng có cảm tưởng mọi sự đều bị đảo lộn và phá hủy.
Chúng hiện ra chung quanh chiếc lều của thánh Abraham, tay cầm búa như thể muốn phá huỷ chiếc lều.
Những lần khác, chúng lấy lửa đốt chiếc chiếu của ngài, y như chúng đã đốt giường của cha sở họ Ars.
Và như cha Monnin nhận xét: người ta có thể đọc hết đời sống các vị thánh, ít khi người ta lại không nhận thấy trong đó có cuộc chiến đấu công khai với Satan, thường là ồn ào và gây ấn tượng sâu đậm. Cùng với ngài, chúng ta hãy kể thánh Benoit, thánh Francois d'Assise, thánh Gioan Thiên Chúa, Vincent Ferrier, Pierre d'Alcantara. Trong số các thánh nữ có thánh Marguerite de Cortone, Angèle de Foligno, Rita de Cascia, Rose de Lima, và biết bao vị khác nữa.
Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi cũng gặp rất nhiều trò ma quái ở Lộ Đức, chung quanh cô bé Bernadette khiêm nhường. Đó là những điều chúng tôi sẽ đề cập đến ở chương kế tiếp.
CHƯƠNG II
MA QUỶ PHÁ RỐI Ở LỘ ĐỨC
(1858-1859)
MỘT THÀNH PHỐ NHỎ TRỞ THÀNH NỔI TIẾNG
Làng Ars, một làng đơn sơ tầm thường bỗng trở thành nổi tiếng vì có một cha sở thánh thiện: trước ngài, nó hoàn toàn không được thế giới biết đến. Nhưng làng Lộ Đức được nổi tiếng lại không hoàn toàn theo cùng một cách thức như vậy. Trong cuốn La France pittoresque (Nước Pháp kiều diễm) xuất bản năm 1835, tác giả Abel Hugo, là anh cả của Victor Hugo, đã nói về Lộ Đức bằng những từ ngữ này: "Cái thủ phủ của Lavedan-en-Bigorre ở phía trước đây ngày xưa tên là Miranbel, theo thổ ngữ của vùng, từ này có nghĩa là đẹp mắt".
Lộ Đức có một lâu đài cổ chủ yếu được dùng làm nhà tù từ thế kỷ XIV. Theo Abel Hugo, thì lâu đài này vừa được sửa chữa lại. Ông còn mô tả thêm:
"Thành phố bao quanh một tảng đá ở phía đối diện với con suối Gave. Nó trải dài trong một cái khe, có một dòng suối chảy băng ngang khe. Thành phố được xây dựng một cách thích đáng, nhưng không đều đặn, không có một dinh thự nào to tát điểm trang cho thành phố cả, nhưng nó lại có một vị trí thuận lợi, là nơi tiếp giáp của bốn thung lũng có các đường tới Pau, Tarbes, Barège và Bagnères chạy khắp".
Nhưng không phải vì cảnh đẹp mà năm 1958 hàng triệu người đã tới đó, thực ra họ tới để hành hương. Năm đó là năm kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức. Hiện ra như thế nào? Cả thế giới đều biết. Ngày 11.2.1858, một cô bé rất đơn sơ, rất nghèo nàn, rất dốt nát, nhưng rất đạo đức, tên là Bernadette Soubirous, bỗng nhiên trông thấy "một thiếu nữ bận quần áo trắng" hiện ra ở hốc một tảng đá, ngay lối vào hang Massabieille. Trong khoảng từ 11.2 đến 16.7, còn 18 lần hiện ra như thế nữa.
Nhưng mục đích của chúng tôi hiển nhiên không phải là kể lại những lần Đức Mẹ hiện ra đó cho độc giả ở khắp các nước trên thế giới, mà là nói về sự can thiệp của ma quỷ vào những lần hiện ra này.
Ma quỷ đã can thiệp vào những lần Đức Mẹ hiện ra một cách lạ lùng này. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Nếu nó im lặng hay vắng mặt thì mới là chuyện đáng ngạc nhiên. Nó đã từng quậy phá ở Ars, làm phiền nhiễu một vị thánh. Làm sao nó bỏ qua được những gì đang xảy ra ở Hang Đá kì diệu này? Rất nhiều tác giả đã viết về Lộ Đức, và tất cả đều nhấn mạnh đến sự can thiệp của ma quỷ. Sự can thiệp đó, các nhà thần học gọi là những quấy nhiễu. Trong chương này, chúng ta sẽ đề cập đến những trò quái đản mà chỉ có Satan mới bày ra để phá rối sự việc này.
NHỮNG PHÁ RỐI ĐẦU TIÊN
Một trong những người đầu tiên tường thuật về những lần Đức Mẹ hiện ra này là anh chàng J.B Estrade, một tường thuật viên xuất sắc. Theo anh, thì kể từ ngày 19.2.1858, khi Đức Mẹ hiện ra lần thứ tư, ma quỷ đã bắt đầu quấy nhiễu.
Sau khi Đức Mẹ hiện ra lần đó tại Hang Đá, khi trở lại thành phố, Bernadette cho biết là có những tiếng la hét nghe lạ thường và kì dị đã phá rối việc Đức Mẹ hiện ra. Dường như những tiếng la hét ấy vọng lên từ con suối Gave. Tiếng la hét rất nhiều và có vẻ như đối đáp nhau. Chúng kêu gọi nhau, giao thoa nhau, như những tiếng om sòm của một đám đông đang náo loạn. Giữa những tiếng lạ tai ấy, có một giọng nói rõ ràng hơn nghe có vẻ điên dại, được vang lên như một lời đe dọa: "Hãy trốn đi! Trốn đi!".
Mệnh lệnh đó nói với ai vậy? Bernadette hiểu ngay rằng không phải nói với cô cho bằng nói với "thiếu nữ áo trắng" đó mà cô chưa biết tên, đang hiện ra với một đôi mắt xuất thần, vì nếu cô có bị nguy hiểm thì nào có ý nghĩa gì? Vẫn theo J.B Estrade, Thiếu Nữ hiện ra trong ánh sáng đó chỉ cần quay mắt trong chốc lát về phía xuất phát những tiếng la hét đó, là những tiếng đó ngừng bặt ngay. Thật là những ánh mắt hữu hiệu, như có một quyền lực tối thượng!
J.B Estrade tuyên bố rằng bài tường thuật về cuộc phá rối đầu tiên của ma quỷ này là do Bernadette trực tiếp kể lại cho ông và em gái của ông. Cha Nogaro, cha sở nhà thờ chính toà Tarbes, cả ngài nữa, cũng đã tiếp xúc với "chính cô gái xuất thần ấy".
Cũng như Đức Cha Trochu, chúng tôi nghĩ rằng phải chấp nhận sự kiện đó có thực. Nhưng chúng tôi nghi ngờ về cái ngày tháng xảy ra sự kiện. Thật vậy, cha Cros Dòng Tên là người nghiên cứu tỉ mỉ những gì liên quan tới những lần Đức Mẹ hiện ra, đã không nói tới sự kiện đó vào ngày 19.2 và cả sau đó nữa. Vả lại, nhiều lần cha đã bắt quả tang những khiếm khuyết về trí nhớ của anh chàng Estrade tốt lành ấy, đến nỗi người ta có chiều hướng cho rằng anh ta đã dời cho cái tình tiết này, nghĩa là anh ta đã dời ngày tháng xảy ra sự kiện đó về phía trước. Chúng tôi không bài bác ông, chắc chắn như vậy, nhưng chúng tôi nghĩ rằng việc đó về sau mới xảy ra.
Bây giờ chúng ta hãy nói tới những "trò ma quỷ" có ghi ngày tháng rõ ràng hơn, và do đó chắc chắn hơn. Nhưng chúng tôi dự định chỉ đưa ra những sự kiện đã được xác nhận rõ rệt, nên chúng tôi sẽ theo các tài liệu của cha Cros một cách sâu sát. Trước hết là đưa ra các dữ kiện, rồi sau đó mới đưa ra các nỗ lực giải thích.
RẤT NHIỀU NGƯỜI BỊ ẢO KIẾN
Hôm đó là ngày thứ năm, ngày 15.4.1858, ông thôn trưởng Lộ Đức là Lacadé, đã làm một bản tường trình đầu tiên cho ông xã trưởng Argelès về những người tự cho rằng mình thấy Đức Mẹ hiện ra, khác với Bernadette Soubirous. Chúng ta hãy lưu ý tới ngày tháng xảy ra các sự kiện. Theo những tính toán của cha Cros, thì có 18 lần hiện ra từ ngày 11.2 đến ngày 7.4.1858 (còn một lần hiện ra nữa với Bernadette vào ngày 16.7 mà cha Cros không kể tới. Theo cha, loạt hiện ra đã chấm dứt vào ngày 7.4.1858). Loạt hiện ra của Đức Mẹ đã chấm dứt. Bernadette sẽ ở ngoài vòng những gì xảy ra sau đó. Chúng ta hãy đọc bài tường thuật của ông thôn trưởng. Ông viết:
"Thứ bảy tuần trước, 10.4.1858, có ba cô gái làng Lộ Đức tới Hang Đá cầu nguyện vào lúc 2 giờ trưa. Các cô xác nhận rằng Đức Trinh Nữ hiện ra với họ. Một trong ba cô, theo lời yêu cầu của cha sở, đã viết một bản khai báo mà cha sẽ gởi lên cho Đức Giám mục địa phận:
'Con tên là Pauline Labantès, vào lúc 10 giờ sáng hôm qua, 14 tháng 4, đã tới Hang Đá để cầu nguyện, và nói rằng con đã thấy Đức Trinh Nữ hiện ra'".
Tuy nhiên, đó mới chỉ là khởi đầu. Ông Jacomet, một viên cảnh sát rất có lương tâm, đã viết những bản tường trình, theo như bổn phận mình, gởi cho xã trưởng, rồi gởi cho tri huyện.
Số người tự cho là mình thấy Đức Mẹ hiện ra càng ngày càng nhiều. Bernadette lúc này có thể nói là "đã rút lui vào bóng tối". Cô không còn tranh đua với biết bao người đang thấy những điều kì diệu đó làm gì! Ông cò đưa ra những chi tiết rất chính xác. Những chi tiết này rất hữu hiệu để dư luận có thể thẩm định được giá trị của những thị kiến mới xuất hiện này. Những thị kiến ấy xảy ra ở đâu? - Không bao giờ xảy ra ở chính cái chỗ mà Bernadette đã thấy Đức Mẹ hiện ra, đã nghe chính miệng Ngài xưng danh hiệu của Ngài. Dường như có một sự che chở vô hình bao quanh nơi này, cũng như đã bao quanh chính bản thân Bernadette. Sau thời gian được Đức Mẹ hiện ra, Bernadette vẫn luôn luôn rất "tự nhiên", nghĩa là rất giản dị, rất dốt nát, nhưng rất ngay thẳng, rất chân thành. Đó là những điểm để chúng ta so sánh với những người tự nhận rằng mình thấy Đức Mẹ sau này.
Ngày 10.4.1858, có năm cô tự nhận mình thấy Đức Mẹ, chứ không phải ba cô như trong trình thuật của ông thôn trưởng. Ông cò viết:
"Một cô là Claire-Marie Sazenave, 22 tuổi, là một cô gái đức hạnh, có đức tin nhiệt thành nhưng lại có óc tưởng tượng cao độ. Cô nói: 'Tôi thấy một tảng đá trắng, hầu như cùng lúc với hình một phụ nữ, dáng dấp bình thường, tay trái bồng một đứa trẻ: gương mặt tươi cười, tóc hình xoáy ốc rủ xuống vai; trên đầu có một cái gì trăng trắng, dựng đứng lên như được chải bằng một cái lược, và cuối cùng là bận một áo dài trắng. Còn đứa trẻ, tôi chỉ nhìn thấy lúc đầu không được rõ ràng lắm, sau đó tôi không còn thấy nữa'.
Cô thứ hai là Madeleine Cazaux, 45 tuổi, đã lập gia đình, là một đàn bà hư hỏng, thích uống rượu, nói về thị kiến của mình như sau: 'Tôi thấy trên một hòn đá trắng có một cái gì đó, có dáng dấp như một cô gái mười tuổi, đầu đội "voan" trắng rủ xuống vai, còn tóc thì thả xuống tới ngực. Mỗi lần cây đèn cầy bị dời chỗ một chút, thì hình đó biến mất'.
Cô thứ ba là Honorine Lacroix, trên 40 tuổi, là một gái điếm, phong cách đê tiện, có nói rằng chị ta trông thấy Đức Trinh Nữ trước tiên. Chị nói: 'Đức Trinh Nữ có hình dáng một cô bé 4 tuổi, đầu phủ một tấm "voan" trắng, tóc thả xuống vai và chải ngược lên ở trán. Mắt ngài xanh, tóc hoe vàng, phần dưới khuôn mặt rất trắng, còn đôi má thì hồng'.
Còn hai cô gái lạ, người ta nói là một cô cũng thấy, và người ta không nghe nói gì hơn nữa: họ chẳng biết hai cô này từ đâu tới".
Tất cả những việc đó, mới nghe, thấy rất khả nghi! Nhưng khả nghi hơn nữa, chính là cái nơi xảy ra những cái-được-gọi-là-hiện-ra ấy.
NƠI CHỐN HIỆN RA
Ông cò còn mô tả rõ ràng hơn.
Sau những lần Đức Mẹ hiện ra với Bernadette, Hang Đá trở thành nơi hành hương của dân chúng. Vì thế, người ta dựng nên ở đó một bàn thờ. Những khách thăm viếng mang đến những bông hoa ngoài đồng hay trong vườn, và để lại đó những lễ vật họ dâng cúng. Hang Đá có hình dáng một cái bếp lò sâu khoảng 4 mét, vòm cao 2 mét 6. Lên cao khoảng 2 mét rưỡi, nghĩa là tại một điểm người ta không cần thang cũng có thể với tới, mở lên phía trên vòm một lỗ thông đi thẳng lên ở bên trong tảng đá. Lỗ thông này có thể dài 4 mét, và mở rộng ra thành một khoảng trống hình quả trứng với đường kính khoảng 2 mét 6. Tiến sâu lên nữa, lỗ thông này lại hẹp trở lại. Và sâu lên 4 mét nữa thì lỗ thông bị bít lại, nhưng nếu nhìn từ đó với ánh sáng đèn cầy, ta có thể thoáng thấy những bề mặt của vách đá màu trăng trắng.
Rõ ràng là muốn vào trong cái hốc đá ấy, phải thường xuyên nằm sát bụng xuống mặt đất và trườn tới, trong một tư thế rất bất tiện, không có vẻ trang nhã chút nào đối với phụ nữ. Hơn nữa, lần đầu tiên, những phụ nữ "được thị kiến" này đâu có mang theo thang để leo lên như những người sau sẽ làm, nên họ đã phải trèo lên bàn thờ một cách "vô liêm sỉ", vì bàn thờ được dựng ở đáy Hang Đá, rồi đứng trên bàn thờ mà trèo lên cái lỗ thông hơi kì bí mà chúng tôi vừa mô tả sơ lược. Họ phải đốt đèn lên để thấy đường, và ánh sáng chập chờn đó chắc chắn sẽ làm hiện ra những hình bóng thay đổi, mà với một chút tưởng tượng, người ta có thể thấy những hình bóng đó khi thì thành một phụ nữ với dáng dấp bình thường, khi thì thành một cô gái 10 tuổi, hay thậm chí 4 tuổi.
Ông cò diễn tả rõ ràng với giọng điệu bài bác:
"Hôm đó là thứ bảy, mùng 10.4, lần đầu tiên các phụ nữ đó mạo hiểm vào thăm cái nơi mà tôi vừa mô tả cho các bạn. Không có gì giữ họ lại được cả, cả cái bàn thờ mà họ phải đạp lên, cả sự đoan trang mà phụ nữ phải có. Họ gồm 5 người, một nhóm kì cục, khác biệt nhau rất nhiều về tuổi tác, phong cách, thói quen".
Cuộc thăm viếng đầu tiên này không gây nhiều ồn ào. Trong số ba người thị kiến ấy, thì Marie Sazenave là người đàng hoàng nhất. Theo ông cò thì dường như cô ta đã "hổ thẹn về những gì mà mấy người bất xứng cùng đi với cô khai rằng đã thấy". Nhưng dầu vậy, sự việc đó cũng được đồn thổi ra. Sự tò mò vẫn mạnh hơn là nỗi sợ dư luận. Nhiều phụ nữ đã thay phiên nhau vào trong cái hốc xó đó. Rất nhiều người không thấy gì cả và đã trở về với tâm tình hụt hẫng bối rối. Nhưng ngày 14.4, một phụ nữ giúp việc 50 tuổi, tên là Sazette Lavantès, đã leo lên cái lỗ thông đó, và trở về hết sức hớn hở. Người ta xúm xít quanh bà ta hỏi han. Bà đã thấy. Bà vẫn còn run rẩy. Bà ta thấy gì vậy? Bà ta nói: "Một hình thể trắng, cao gần bằng tôi, có một thứ hơi nước làm thành một tấm "voan", và ở dưới là một cái áo dài lê thê, nhưng tôi không thấy rõ hình thể người, không đầu, không tay, không chân, không có phần nào của thân thể con người gì cả. Tóm lại, điều tôi thấy không có gì là rõ ràng, nó mơ hồ đến nỗi tôi không biết đó là cái gì".
Chính những yếu tố đó đã gây ra những xung động. Kể từ lúc đó, những cuộc thăm viếng tới cái lỗ thông rất khó leo lên đó càng ngày càng nhiều. Ngày 17.4, lần đầu tiên cả đàn ông và đàn bà hợp nhau lại để thám hiểm. Một thiếu nữ 15 tuổi tên là Joséphine Albario bật khóc lên và xúc động. Người ta trấn an cô và dẫn cô về. Họ bắt buộc phải đưa cô về nhà cô và đặt cô nằm trên giường. Cô tuyên bố là cô đã thấy "Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, đang bồng một em nhỏ trên tay, và bên cạnh có một người đàn ông râu dài". Dẫu nằm trên giường, những hình ảnh ấy dường như vẫn ám ảnh cô!
Từ đó, nhiều người cảm thấy lo sợ. Có hai luồng tư tưởng tự nhiên thành hình. Một số người đầy ngưỡng mộ, tin vào bất kì vụ hiện ra nào, của Bernadette cũng như của những người "thị kiến" sau này. Những người còn lại cảm thấy chướng tai vì những tình tiết khác nhau giữa những người "thị kiến" sau này, nên không tin gì nữa, kể cả những thị kiến của Bernadette. Hai luồng tư tưởng đó khiến người ta rất hoang mang. Ngày 18.4, người đầy tớ gái của ông thôn trưởng bị chấn động, vì chị ta tin rằng chị ta cũng trông thấy một cái gì!
Nhưng lần này, chị ta không cần phải leo lên cái lỗ thông ở trong tảng đá, vì đang khi chị lần hạt trước bàn thờ trong Hang Đá, thì chị bị chấn động. Ông thôn trưởng rất tin tưởng vào người tớ gái của mình. Ông cho người thí nghiệm xem ánh sáng có thể khêu gợi lên những thị kiến không, những thị kiến đã xoay chuyển được đầu óc của nhiều phụ nữ như thế! Ngày 19.4, một ban thẩm tra muốn biết đích xác sự việc đó thế nào, nên đã vào trong hang phía trên. Có thể giải thích một cách tự nhiên những thị kiến, nhất là thị kiến của Joséphine Albario, đã khiến cô ta xuất thần suốt 45 phút không? Nhưng kết quả cuộc thẩm tra đó là không giải thích được gì cả.
Tuy nhiên, người ta nhận xét thấy những cuộc hiện ra với Bernadette được xảy ra trong những hoàn cảnh rất khác biệt với những cuộc hiện ra mà chúng tôi vừa nói.
Điều chắc chắn là đám đông có khuynh hướng lẫn lộn hai thứ đó với nhau. Những người nghiêm túc như ông cò Jacomet thì tin rằng họ có đủ chứng cớ để xác định ngay rằng cả hai loại đã hiện ra đó đều là những ảo giác đáng tiếc. Và ông biện lý Dutour sẽ viết cho ông tổng biện lý ngày 18.4, than phiền về thái độ của hàng giáo phẩm:
"Cái tâm tình tôn giáo đã bị sai lạc đi vì sự điên đảo và gian trá ấy, thế mà không có ai làm gì cả để xoay chuyển cái tâm tình tôn giáo đó khỏi con đường sai lạc mà nó đã đi sâu vào. Các thị kiến càng ngày càng nhiều, người ta không còn kể tới các phép lạ nữa: hàng giáo phẩm và ông thôn trưởng Lộ Đức dường như không còn bận tâm nào khác nữa ngoài việc tiếp nhận những cái đó".
Và tới lượt ông, ông lại làm lại như ông cò Jacomet toàn bộ bản tường trình về những thị kiến mà chúng tôi vừa nói.
Chắc chắn là vào cuối tháng 4.1858, sự hoang mang tinh thần lên đến cực độ chung quanh những vụ hiện ra đó.
NỖI LO ĐẦU TIÊN
Tuy nhiên, một giọng nói đã vang lên, giọng nói mà chúng ta phải đón nhận, nó sẽ cho chúng ta nguyên tắc để phân biệt hai loại thị kiến. Chúng tôi đã nói rằng cho tới đó đã có hai khuynh hướng: hoặc chấp nhận tất cả, thán phục tất cả, hoặc kết án tất cả, loại bỏ tất cả. Lần đầu tiên có một linh mục đề cập đến một điều mà về sau được nhìn nhận là chân lý
Vào chính thời gian đó, trong số những người "thị kiến", có một cô tên là Marie-Bernard, ở Carrière-Basse. Cha Pène kể lại rằng:
"Cô này cho rằng cô đã thấy tại hang Lộ Đức một nhóm gồm 3 người: một người nam có râu trắng, một người nữ khá trẻ, và một em bé. Ông già một tay cầm xâu chìa khoá còn tay kia vuốt râu. Ở thành phố, thoạt tiên, người ta nói có lẽ là gia đình Thánh Gia. Về sau, cô ta thấy lại những thị kiến đó và nhận xét thấy những nhân vật đó có những cử chỉ không được đoan chính. Nhận xét như thế về những cử chỉ đó là do chính cô gái "thị kiến" đó hay do những người thấy cùng một thị kiến đó nói ra, chứ không phải do tôi hay do em gái tôi nói ra. Tuy nhiên, cô gái này là hối nhân của tôi, nhiều lần cô đã kể cho tôi những sự kiện đó, nhưng tôi không lưu tâm tới, vì cho rằng đó chỉ là những thủ đoạn của ma quỷ muốn che lấp những lần Đức Mẹ hiện ra trước đó bằng bóng đen của chúng".
Chính chúng tôi nhấn mạnh những dòng cuối cùng này. Dường như những dòng chữ đó đã giúp chúng tôi giải thích được toàn bộ những sự kiện đã xảy ra một cách hợp lý nhất.
Khi người ta cho rằng những thị kiến được thêm vào những lần Đức Mẹ hiện ra với Bernadette là do thần kinh bị kích thích, do tưởng tượng, do tinh thần bị truyền nhiễm, thì rõ ràng là như thế có lợi cho ma quỷ, và người ta thấy trong toàn bộ những tình tiết - mà chúng tôi mới chỉ kể có một phần - cò lòi ra một thủ đoạn: đó là thủ đoạn làm ngạt thở, bóp nghẹt những thị kiến rất chính thức và những lần hiện ra rất chắc chắn của Đức Trinh Nữ, bằng một loạt những bắt chước một cách xuyên tạc và méo mó, mà một phần nào dân chúng ở Lộ Đức đã chấp nhận một cách vội vàng, đang khi những người khôn ngoan nhất thì nhún vai.
Nhận chìm chân lý vào một đám dối trá, đó là một phương thức rất xứng hợp với ma quỷ. Điều đó giúp chúng ta hiểu rõ hơn những biến cố đã xảy ra hơn.
Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng, tuy những cấm đoán cũng như những đối kháng của những người không tin gây bất lợi cho những lần hiện ra đích thực - tức là những lần hiện ra với Bernadette - nó cũng vẫn có một tác dụng tốt là hạn chế và tiêu diệt những biểu hiện của ma quỷ khi chúng quấy nhiễu ngày càng nhiều hơn. Cuối cùng, với thời gian, người ta hiểu rằng không nên coi tất cả đều tốt, cũng không nên kết án tất cả, mà đơn giản là phải phân biệt tất cả.
Trong số những người bị ảo kiến, người được biết đến nhiều nhất là cô bé Joséphine Albario. Nhưng trường hợp của cô có quá nhiều bối rối, giao động và nước mắt. Ông Estrade - mà chúng tôi đã trích dẫn nhiều lần, vốn có trí phán đoán tốt hơn là trí nhớ - đã viết về cô, sau khi trong thâm tâm ông đã tin tưởng cô ngang với Bernadette:
"Tuy nhiên có một điều gì đó kín đáo ngăn cản lòng ngưỡng mộ của tôi và dường như báo trước cho tôi biết là chân lý không ở nơi cô này. Tôi bắt đầu so sánh và nhớ lại rằng: Trước sự hăng say của Bernadette vào sự việc tôi cảm thấy hoan hỉ, đang khi trước những hăng say của Joséphine, tôi chỉ ngạc nhiên. Tìm hiểu kĩ sự hăng hái của Bernadette, tôi hiểu rằng đó là một tác động xuất phát từ trời, còn khi đối diện với sự hăng hái của Joséphine, tôi chỉ thấy đó là những giao động của một cơ thể đã bị kích thích quá mức..."
Khi nói như vậy, Estrade cũng như mọi người có lương tri khác, đã thực hành một nghệ thuật cần thiết mà thánh Inhaxiô sáng lập dòng Tên gọi là "sự phân biệt các thần". Và chính thánh Inhaxiô đã cùng lời khuyên quan trọng của thánh Phaolô thời bình minh của Kitô giáo làm phương châm: "Đừng dập tắt Thánh Linh, đừng coi thường những ơn tiên tri, nhưng hãy kiểm chứng lại tất cả: điều gì tốt thì giữ lấy!..." (1Ts 5,21)
NHỮNG PHÁN ĐOÁN HỢP LÝ
Vì thế, chân lý vẫn còn đang được thử nghiệm. Người ta đang dần dần thấy rõ ánh sáng hơn. Dẫu mục đích phải đạt tới còn khá xa, nhưng người ta đã xem thấy nó.
Nhưng trước khi đề cập đến một loạt những xáo trộn và giao động khác cho thấy sự quấy nhiễu đó là do ma quỷ một cách rõ ràng hơn, chúng ta hãy thêm một thí dụ nữa cho thấy sự đánh giá của mọi người về những "thị kiến" đang tranh đua với những thị kiến của Bernadette. Chúng ta vừa nói đến Joséphine Albario, một thiếu nữ rất tốt. Và đây là một cô khác: Marie Courrech, người tớ gái của chính ông thôn trưởng Lộ Đức. Nếu thuật lại ở đây chính những lời khai báo của cô do cha Cros thuật lại thì rất là dài (II, 96 và tt).
Nhưng điều đáng cho chúng ta lưu ý là phán đoán của Antoinnette Garros, một phụ nữ ở Lộ Đức: "Tôi không tin vào những thị kiến Marie Courrech: gương mặt của cô ta không giống như gương mặt của Bernadette, cử chỉ cũng vậy. Cô ta bị chấn động, hay rùng mình. Nhiều lần, khi trông thấy có gì hiện ra ở phía bên kia suối Gave là cô ta muốn lao mình về phía trước, bởi vì theo như cô ta nói, người hiện ra kêu cô ta tới hang. Nếu chúng tôi không hết sức giữ cô ta lại, thì cô ta sẽ lao mình xuống suối Gave. Một hôm, tôi phải ráng sức giữ cô ta lại, thì những người gần đó trông thấy liền la lên: 'Cứ để cho cô ấy đi, nếu cô ta băng qua được suối Gave thì đó là phép lạ'. Nhưng tôi không nghe họ, tốt hơn tôi nên ngăn cản để cô khỏi chết đuối. Tôi tự nhủ: 'Nếu Đức Mẹ muốn kêu cô ta băng qua suối Gave, thì Ngài sẽ gỡ được cô ta ra khỏi tay tôi'.
Từ những thí dụ và tranh luận này, ta có thể rút ra bài học là luôn luôn có một phương cách để phân biệt những ơn chính thức, những đoàn sủng đích thực, với những thứ giả hiệu làm giống như vậy của ma quỷ.
BỊ ẢO KIẾN CẢ ĐÁM
Những chuyện lộn xộn đó - cần phải gọi như vậy - không bị giới hạn lâu trong một vài phụ nữ hay thiếu nữ như những người mà chúng tôi đã trưng dẫn. Mà con số những "người bị ảo kiến", càng ngày càng tăng lên, và bộ tịch của họ thường là tức cười, kì dị, khôi hài. Chúng ta sẽ nói đến tính cách của những bộ tịch đó. Cứ như thế kéo dài cho đến đầu năm 1859.
Khoảng 20 năm sau, cha Cros có tìm hiểu ý kiến của nhiều người cho biết về những người bị ảo kiến đó. Cha viết: "Vào tháng 6.1878 chúng tôi đã tìm lại được ở Lộ Đức tên của hơn 30 người bị ảo kiến, cả đàn ông lẫn đàn bà, gồm đủ loại tuổi: nhưng chúng tôi chỉ tìm thấy tên của những người nổi tiếng nhất, vì sau 20 năm, không còn ai hãnh diện là mình đã thấy Đức Mẹ hiện ra nữa cả".
Cha Cros có những chứng cớ chứng tỏ những tường trình của ông cò Jacomet không có gì là quá đáng, cho dẫu người ta thường trách ông quá nghiêm khắc vì hiểu lầm rằng ông có thành kiến thù nghịch với những chuyện linh thánh. Thực ra, ông cò không nắm được hết các sự kiện: ông chỉ đưa ra được phần nào thôi, ngoài ra ông không biết hay không lưu tâm tới.
Những biểu hiện phá rối của ma quỷ đã lên tới mức quá đáng đến nỗi người ta cảm thấy hết sức chướng tai gai mắt, đến nỗi chính cha sở Lộ Đức, vào tháng 9.1858, phải lên toà giảng yêu cầu các bậc cha mẹ chấm dứt tình trạng đó bằng cách ngăn cấm con cái mình không được dấn thân vào những chuyện quái đản xảy ra không ngừng ấy.
Khi đọc những bản văn do cha Cros sưu tập, người ta có cảm tưởng đang phải đối diện với một thứ dịch tễ. Đây là những lời khai của các nhân chứng:
Sư huynh Léobard, giám hiệu các trường học ở Lộ Đức: "Ma quỷ đã khơi động lên vô số người thấy ảo ảnh. Người ta thấy họ dây vào những chuyện vô lý điên cuồng nhất. Họ có thấy gì không? - Có chứ! Và người ta có đủ lý do để tin rằng rất nhiều người trong bọn họ đã trông thấy Thần Ác dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhiều học trò của tôi quả quyết rằng chúng đã thấy những cuộc hiện ra ấy. Chúng thường trốn học. Những chuyện kì dị của chúng không phải chì xảy ra ở Hang Đá, ở dòng suối, ở bên cạnh nhà thờ lớn, mà còn ở nhà của chúng, nơi chúng tạm thời dùng làm những nhà nguyện nho nhỏ...".
Sư huynh Cérase: "Một đám trẻ con cả nam lẫn nữ tự cho rằng mình đã thấy Đức Trinh Nữ. Tôi có gặp một số đang trên đường đi tới Hang Đá. Chúng cầm đèn cầy trong tay và quỳ xuống gần những ao nước. Một hôm có người nói với tôi: 'Cả con gái tôi cũng thấy Đức Trinh Nữ ở Hang Đá. Có biết bao người trông thấy Ngài!'. Tôi rất nghi ngờ những thị kiến của Bernadette, những thị kiến mà tôi chưa bao giờ được chứng kiến..."
Chính chúng tôi nhấn mạnh những dòng chữ cuối cùng này. Người ta thấy những thị kiến do ma quỷ nguỵ tạo ra gây nhiều bất lợi cho sứ điệp của Bernadette. Chúng ta sẽ có những bằng chứng khác về chuyện đó.
Chúng ta hãy theo dõi tiếp cuộc điều tra kiên trì của cha Cros mà chúng tôi mượn để trưng dẫn bằng chứng:
"Dominique Vignes, Marie Portau, Dominiquelle Cazenave, Ursule Nicolau... những nhân chứng tuyệt diệu: Tôi đã nhiều lần gặp những người ảo kiến ở Hang Đá. Họ cầm trong tay những bó hoa thiên nhiên, bứt bỏ những bông huệ và bông hồng rồi ném xuống suối Gave và nói: Đấng hiện ra không thích hoa huệ lẫn hoa hồng'.
"Tôi có nghe thấy một cô gái khoảng mười, mười một tuổi than van khóc lóc tru tréo trước cái hốc đá, hiện nay là chỗ ở cho người canh gác: cô bé thấy có "Đấng" hiện ra tại đó với cô. Người ta kính trọng cô bé cũng như những em "được thị kiến" khác. Người ta ôm hôn chúng một cách sùng kính".
"Mỗi em trong đám đó cầm một xâu chuỗi. Nhưng mọi xâu chuỗi đều mới và chưa làm phép: chúng không thích những xâu chuỗi cũ hay đã làm phép. Chúng cầm chuỗi giơ lên cao, thánh giá trong xâu chuỗi ngang với tầm mắt, và lúc lắc xâu chuỗi trước mặt, chúng chạy theo đủ mọi hướng, người nghiêng về một bên, mặt thì nhăn nhó, và kêu la om sòm như những con chó nhỏ vừa chạy theo con mồi vừa sủa vang...".
"Tôi thấy các em làm thành một đám rước đi từ suối Merlasse đến chỗ cái cột có bảng yết thị cấm tới hang đá. Tới đó, một em kêu lên: 'Tất cả hãy xuống đây với tao, tụi bây sẽ thấy Đức Trinh Nữ!'. Các phụ nữ cũng đi cả đám theo chúng..."
"Một buổi tối, khi đêm đã xuống, một trong số các em bị ảo kiến đó, đầu có quấn vòng nguyệt quế, kêu lên: 'Tất cả hãy lần chuỗi, cả Thiên Chúa cũng lần chuỗi nữa đấy!'. Tôi có giải thích cho các em thấy như thế là thế giới đã đảo lộn rồi, đời nào lại có chuyện Thiên Chúa cầu nguyện với Đức Trinh Nữ!... Nhưng vô ích! Người ta cũng bị lôi cuốn theo. Một lát sau em đó kêu lên: 'Hãy hôn đất 40 lần! 40 lần!'. Những người tham dự đều hôn đất. Còn tôi, tôi cười, đồng thời bực bội vì trông thấy những trò ma quỷ đó".
Cô Tardhivail: "Ngày nay người ta không thể quan niệm được sự nhẹ tin của dân chúng Lộ Đức thời đó: họ tin có các vong hồn lảng vảng trong không khí và trong lửa. Một tên vô danh nào đó vừa ở Saint-Pé tới, vào trong thành nói: 'Tôi nhìn lên phía Hang Đá thì thấy Đức Trinh Nữ đang đi lại. Mọi người ở đó đều thấy Ngài'. Thế là cả một đám đông chạy lại Hang Đá, chị tôi và tôi cũng trong đám đó".
Jean Domingieux: "Một hôm, tôi thấy một người bị ảo kiến thuộc họ đạo Ribère đứng trước Hang Đá, anh ta hô hào đám đông đang chen chúc nhau ở giữa con kênh và con suối Gave, và ở trong cánh đồng bên kia suối Gave, nơi tôi đang đứng: 'Anh chị em hãy lấy tràng hạt ra, tôi sẽ làm phép tràng hạt'. Người ta lấy các xâu chuỗi ra, và anh chàng ảo kiến đó làm phép bằng nước ở Hang Đá",
Trong số những "kì cục" của tất cả đám trẻ tội nghiệp đó, có một điều đáng lưu ý, là bọn chúng hay nhăn mặt cách dị hợm. Sau đây là những lời chứng về những chứng kì cục đó:
Anh phu tuần phiên Callet: "Một hôm, tôi đi theo một anh chàng ảo kiến tên là Barraôu tới chỗ máy xay. Tới gần một cái giường, anh bèn leo lên dọc theo những tấm màn, mặt thì nhăn nhó trông khủng khiếp: anh ta nghiến răng, hoặc chạm răng vào nhau kêu lập cập, cặp mắt anh trông có vẻ hoang dại".
Bà Prat: "Một hôm tôi chứng kiến cảnh thằng Minino trông thấy thị kiến: nó kêu như lừa kêu, gương mặt nó trông khủng khiếp đến nỗi tôi không dám nhìn".
Những nhân chứng khác cho chúng tôi biết về những cử chỉ ngu xuẩn của những người bị ảo kiến: có lần họ nhìn thấy Bernadette ăn cỏ. Người ta cũng hay nói về chuyện đó: nên họ thích bắt chước Bernadette ăn cỏ như thế, và như thế rõ ràng là họ đã làm cho hành vi đó bị hiểu sai ý nghĩa dầu họ không muốn, vì phần đông đã làm mà không ý thức được tầm quan trọng của việc mình làm.
Nhưng họ cũng có những sáng kiến khác biểu lộ điều họ tin:
Pauline Bourdeu: "Tôi thấy 12 đứa ở trong bọn cùng tới Hang Đá, đầu đội một vòng hoa".
Basile Casterot: "Anh chàng bị ảo kiến tên S., đi ngang qua thành phố, mang trên đầu một băng vải mà anh ta lấy từ cái nón của một thiếu nữ. Anh nói: 'Đức Trinh Nữ ra lệnh cho tôi làm điều đó'. Nhiều người đi theo anh ta. Một vài người bảo: 'Hắn điên rồi!' Nhưng đa số cho rằng anh ta được Đức Mẹ hiện ra."
Bà Baup: "Trên đường tới Bois, một hôm tôi gặp anh chàng ảo kiến M. đang xuất thần, nhưng gương mặt bối rối lo lắng. Tôi lay hắn dậy, hắn không nói lời nào. Cuối cùng hắn ra khỏi cơn xuất thần và đột nhiên đứng dậy đi ra. Tôi hỏi hắn: 'Mày thấy gì vậy?'. Hắn không muốn trả lời và cứ đi. Tôi nhấn mạnh hơn: 'Mày thấy gì vậy?' Cuối cùng hắn vừa tiếp tục đi vừa nói: 'Thấy Đức Trinh Nữ bận áo dài trắng và mang triều thiên'.
Cùng lúc đó, cháu gái của tôi tới kiếm tôi, để rủ tôi tới xem ba hay bốn người ảo kiến khác trên cùng con đường đó. Nó nói với tôi: 'Cô nên tới xem một cô bé đang xuất thần hay lắm!'. Tôi trông thấy cô bé tuổi từ mười đến mười một, đang quì gối, gương mặt trông khác hẳn. Lúc đó, một cô bé ảo kiến khác đi ngang qua, tay cầm đèn cầy cháy sáng. Tôi giật lấy cây đèn cầy và đưa ngọn đèn tới ngay trước cặp mắt của cô bé đang xuất thần ấy. Đôi mắt vẫn mở. Dần dần, cơn xuất thần chấm dứt, cô bé nói với chúng tôi: 'Con trông thấy Đức Trinh Nữ bận áo dài trắng, mang thắt lưng xanh, và đội triều thiên trên đầu'. - 'Ngài nói gì với con?' - 'Ngài nói với con: Con hãy về! Ta cần phải đi tới Hang Đá'".
Tất cả những chuyện đó không phải là điều ác, nhưng chúng tạo ra những bất lợi rất lớn cho những lần hiện ra chân thực, tức những lần hiện ra với Bernadette, hiện nay đã chấm dứt và đang bị những lần hiện ra giả tạo lấn lướt và nhận chìm, tức những lần hiện ra cho những người bắt chước cô.
BỊ ẢO KIẾN CẢ ĐÁM (tt)
Thật vậy, người ta ngần ngại, người ta thắc mắc, người ta nghi vấn. Trong vô số những người thị kiến ấy, có những cái rất đáng nghi ngờ, trong số những phép lạ được dẫn chứng có những phép lạ hết sức khả nghi. Vì thế, chúng làm cho cả những đầu óc ưu tú nhất cũng phải hoang mang.
Một thí dụ cụ thể sẽ giúp chúng ta hiểu điều đó. Trong số những người được kể tới đầu tiên, trong số những người cứng tin trước những sự kiện ở Lộ Đức, có giám đốc Đại chủng viện Tarbes, cha Ribes, là người có đức tin mạnh hơn ai. Chính ngài thuật lại việc ngài đến Lộ Đức vào tháng 8.1858 ra sao. Cùng đi với ngài có một linh mục ngoại quốc. Cả hai cha tới đó hỏi thăm. Đầu tiên các ngài tới thăm Bernadette. Cô ấy vẫn là đối tượng hàng đầu trong thời sự ở Lộ Đức. Cô là người thấy Đức Mẹ hiện ra nhiều nhất. Hai người khách của chúng ta tới gặp cha mẹ của Bernadette và xin gặp cô. Cô đi vắng. Các ngài quyết định đi tới chỗ máy xay, nhờ cha cô dẫn đi. Và đây là cảnh họ chứng kiến tại đó. Cha Ribes nói:
"Từ nhà máy xay, chúng tôi tới Hang Đá bằng một con đường nhỏ dọc theo đồi Fort. Chúng tôi xuống dốc, thời đó rất hiểm trở và chẳng có cây cối gì cả, nhưng hiện nay đã có trồng nhiều cây xanh và đã trở nên dễ đi vì có những con đường làm theo hình chữ Z, mà các người hành hương thời nay đều biết. Chúng tôi tới trước mặt cái hang đá kì diệu ấy. Một tấm chắn bằng gỗ đóng kín lối vào hang. Tại đó có một em bé khoảng 12 đến 14 tuổi đang quì gối, đèn cầy cầm trong tay, tay kia cầm tràng hạt lần chuỗi, đang chào một nhân vật nhiệm màu và đi bằng đầu gối tới chân tảng đá. Mặt đất lên cao thành bậc thang. Nước thuỷ triều ở suối Gave dâng lên rút xuống tạo thành những bậc thang rộng và thoai thoải. Chúng tôi quan sát cậu bé đang bị ảo kiến này trong giây lát: gương mặt của nó co rúm lại trông rất xấu. Người bạn đồng hành với tôi nói với nó: 'Ra chỗ khác đi! Con đang làm công việc của ma quỷ!'. Đứa bé giả bộ không nghe thấy, cứ tiếp tục công việc của nó: Một giọng nói sang sảng lập lại với nó: 'Ra khỏi đây mau! Đi đi, nếu không Thiên Chúa sẽ trừng phạt con đó!'. Lập tức cậu bé ảo kiến thổi tắt ngọn đèn, leo lên chỗ tấm chắn và chuồn mất".
Đó chỉ là việc làm đầu tiên trong cuộc điều tra của hai vị giáo sĩ. Kỳ thực, họ tìm kiếm, họ nghi ngờ, nhưng họ biết rằng nhờ cầu nguyện họ sẽ không bị sai lầm. Hãy nghe phần tiếp theo bài tường thuật:
"Chúng tôi cầu nguyện, chúng tôi uống nước suối, và chúng tôi tới cha sở. Bernadette đợi chúng tôi tại đó. Với lòng thành thật thường ngày của cô, cô kể lại cho chúng tôi những gì cô đã thấy, đã nghe ở Hang Đá. Tôi cho cô ta những nhận xét về ba điều bí mật: Tôi thấy những điều đó giống như những bí mật ở La Salette. Cô trả lời không do dự là cô đã nhận những bí mật này cho riêng cô thôi, cô không phải nói với ai cả, dẫu là với Đức Giáo Hoàng, và cô cảm thấy mình phải giữ gìn những bí mật đó".
"Linh mục đồng hành với tôi tuyên bố rằng ngài tin. Còn tôi, tôi chưa tin chắc lắm! Tôi nói với ngài: 'Tôi sẵn sàng tin, nhưng tôi còn muốn có thêm chứng cớ nữa!'"
Cha sở Lộ Đức lúc đó đã tin một cách hoàn toàn và chính đáng tính chính thống của sự kiện Đức Mẹ hiện ra với Bernadette, nên sự do dự của tôi đã làm ngài hiểu lầm. Vài ngày sau, ngài có viết thư cho Đức Giám mục phàn nàn về chuyện đó:
"Làm sao Đức Cha muốn người ngoại quốc thêm niềm tin vào việc Đức Mẹ hiện ra được, khi mà các vị Giám đốc Đại chủng viện lại tuyên bố chống lại?".
Tuy nhiên năm sau, cha Ribes trở lại Lộ Đức dâng thánh lễ tạ ơn cho một trường hợp khỏi bệnh nhờ uống nước suối Lộ Đức. Lúc đó, cha sở nói với ngài: "Cha phải tạ lỗi với Đức Trinh Nữ vì cha đã đối nghịch với Ngài".
Tuy nhiên, cha Giám đốc Đại chủng viện đã có lý khi chỉ muốn chấp nhận với những chứng cớ chắc chắn. Và tháng 8.1858, những chứng cớ vẫn còn được đem ra bàn cãi và thực sự cũng cần được bàn cãi. Như chúng tôi đã từng nói, ma quỷ đã nhận chìm sự thật vào giữa đám dối trá tức những lần hiện ra bằng ảo giác, những phép lạ mạo danh. Người ta hiểu rằng ông cò Jacomet lúc đó đã có thể viết cho ông tri huyện về điều đó, khi một uỷ ban của Đức Giám mục được thành lập để khảo cứu những sự kiện đó:
"Những người có lý trí và sùng đạo thực sự tự hỏi làm sao người ta lại dám để cho hàng giáo phẩm cấp cao phải can thiệp vào những chuyện trá nguỵ đang xảy ra đó?"
Tuy nhiên, uỷ ban đó đã được ông tri huyện chấp nhận. Và ông tin chắc ông sẽ làm cho uỷ ban kết án thẳng thừng mọi chuyện về vụ thị kiến đó, kể cả những thị kiến của Bernadette, là những thị kiến khởi đầu cho những rắc rối này! Ông Massy, tri huyện Tarbes nói:
"Một uỷ ban được thành lập có nhiệm vụ nhận định về những phép lạ ở Lộ Đức. Trong khi thi hành nhiệm vụ đã được uỷ thác này một cách có lương tâm và không thành kiến, uỷ ban có quyền chấm dứt tình trạng đáng buồn này... Tôi sẵn sàng cung cấp tin tức, tài liệu để đánh giá đúng mức những sự kiện được cho là siêu nhiên mà người ta đang tìm cách tạo ra".
NHỮNG KẾT LUẬN CỦA THÁNH BỘ PHỤNG TỰ
Vô số những trò bắt chước ấy đang cố bóp méo tính chân thực của việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette, nếu chúng phát xuất từ ma quỷ đúng như những đầu óc ưu tú đã suy nghĩ, thì phải công nhận rằng ma quỷ đã không tính sai nước cờ của nó. Những sự việc chúng tôi thuật lại đã được chính quyền dân sự biết tới, ít ra là một phần nào đó. Chúng ta đừng ngạc nhiên về điều ấy. Vì bổn phận của chính quyền là phải bảo vệ trật tự xã hội, trật tự này đã bị phá rối một cách rất thường xuyên và rất rõ rệt chung quanh hang đá Lộ Đức và trong tất cả những làng mạc lân cận. Vì thế chính quyền đã rất tán thành lá thư của Bộ Trưởng Thánh bộ Phụng Tự, Hồng y Rouland, gởi cho Giám mục giáo phận Tarbes là Đức Cha Laurence, đề ngày 30.7.1858. Lá thư này đề cập đến quá nhiều vấn đề nên không tiện trưng dẫn toàn bộ ở đây:
"Kính thưa Đức Cha, những tin tức mới mà tôi nhận được về vụ Lộ Đức, theo tôi, có lẽ là một chuyện tự bản chất có thể làm cho mọi người chân thành sùng đạo đau buồn sâu xa.
Việc trẻ con làm phép chuỗi Môi Khôi, những biểu hiện tôn giáo mà trong đó hàng đầu lại là những phụ nữ kém tư cách, việc các em bị ảo kiến đội vòng hoa, những nghi thức kì quái, những trò bắt chước nhái lại y hệt các lễ nghi tôn giáo, sẽ mở lối cho các báo chí Tin Lành và một vài tờ báo khác tấn công, nếu giáo quyền trung ương không can thiệp vào để làm dịu bớt lòng háo thắng bút chiến của họ.
Những cảnh không đẹp ấy chắc chắn sẽ làm mất uy tín của tôn giáo dưới con mắt của dân chúng. Vì thế, kính thưa Đức Cha, tôi nghĩ rằng tôi có bổn phận phải một lần nữa yêu cầu Đức Cha hết sức lưu tâm đến những sự kiện ấy.
Ngài sẽ dễ dàng hiểu rằng việc thiết lập một nơi hành hương mới, tự nó, không thể tạo nên một mối nghi ngờ nào cho chính quyền cả. Ngay từ khi xảy ra những biểu hiện đầu tiên ấy tại Hang Đá Lộ Đức, nếu tôi can thiệp mạnh để nó không tiếp tục xảy ra, thì những tin tức chính xác phát xuất từ nhiều nguồn khác nhau sẽ không cho phép tôi thấy được điều gì nghiêm trọng hay có giá trị trong nguồn gốc, hoặc trong diễn tiến, hoặc trong kết quả của cái phong trào bình dân này.
Những biến cố đó khiến tôi phải có những dự liệu trước: Sự kiến số người ảo kiến và xuất thần ngày càng gia tăng nhắc chúng ta nhớ lại những cảnh tượng đáng tiếc nổi tiếng đã xảy ra vào thế kỷ 18, và sự kiện có những đám đông điên khùng tụ tập bên bờ suối Gave vào thời này, những sự kiện đó sẽ biện minh cho những biện pháp mà Giáo quyền đã phải áp dụng.
Những biểu hiện đáng tiếc ấy, theo tôi, có lẽ đã làm cho hàng giáo phẩm mất đi sự dè dặt đã từng bảo vệ mình cho tới nay.
Cuối cùng, về điểm này, tôi chỉ biết khẩn cấp kêu gọi Đức Cha hãy hết sức cẩn thận và cũng hết sức kiên quyết trong việc công khai khống chế những lạm dụng tương tự..."
Trong lá thư đó, người ta không thể không nhìn thấy một mệnh lệnh thực sự, tuy rất lịch sự nhưng cũng rất dứt khoát. Khi nói một cách bóng gió nhưng rõ ràng đến những lộn xộn trong lịch sử ở nghĩa trang Saint-Médard vào thế kỷ 18, Bộ trưởng Thánh Bộ Phụng Tự mong muốn, chờ đợi, yêu cầu Giám mục Laurence phải can thiệp, và sự can thiệp này dường như phải là và chỉ là sự khống chế tổng quát và lên án tất cả mọi câu chuyện về sự kiện Đức Mẹ hiện ra, kể cả việc hiện ra với Bernadette vốn là khởi đầu cho những sự kiện khác tương tự.
Nếu Đức Giám mục tuân hành sự thôi thúc ấy, nếu ngài can thiệp vào những sự việc đó bất chấp lời khuyên của Phaolô: "Hãy giữ lại những gì tốt đẹp." thì Satan đã chiến thắng rồi.
SỰ GANH ĐUA GIỮA CÁC LÀNG
Nỗi nguy hiểm mà chúng tôi nói đến đâu có thể coi thường được, nên vào một ngày tháng 7.1858, Đức Giám mục được một cha sở ở vùng chung quanh Lộ Đức báo cho biết về những trường hợp cả tập thể bị kích động vừa xảy ra. Những thị kiến siêu nhiên mới đây đây đã leo thang, không phải chỉ ở Lộ Đức, mà còn ở những làng lân cận nữa. Tại Lộ Đức, biết bao người nghĩ rằng họ sẽ trổi vượt hơn cô bé Bernadette nghèo nàn, vì theo sự suy nghĩ của quần chúng, cô khó mà xứng đáng được Đức Trinh Nữ ưu tiên chọn hơn những người khác.
Ngày 9.7, cha sở họ Ossen là Pierre Junca viết cho Đức Cha Laurence một lá thư trình bày cho ngài biết những gì đang xảy ra trong họ đạo của cha.
Một thiếu niên 10 tuổi tên Laurent Lacaze muốn tới Hang Đá sau khi học hành buổi sáng ở trường. Hôm đó là ngày 2.7, nó nài xin cha mẹ cho phép đến nỗi hai ông bà đã nhượng bộ nó. Vào giữa trưa, Laurent cùng với đứa em trai 8 tuổi của nó tới trước Hang Đá. Nó lần chuỗi. Khi ngước mắt lên, nó thấy “một phụ nữ mặc áo trắng, tay trái bồng một em nhỏ. Em nhỏ này tay phải cầm một cụm ba bông hồng đỏ, đầu đội một mũ trùm đỏ có ba bông hồng trắng được buộc bằng một băng vải đỏ.. Người nữ tay mặt cầm một cụm ba bông hồng đỏ. Cánh tay phải có quàng một băng vải lớn màu đỏ có viền hoa, và thõng xuống một tràng hạt xinh xắn. Bà đội mũ trùm đầu màu trắng được trang hoàng bằng một băng vải trắng. Hai bên bà là hai người đàn ông, một người đứng bên phải, một người bên trái, đều mặc đồ đen, đầu đội bê-rê xanh. Đàn ông bên phải có bộ râu dài trắng. Người phụ nữ và hai người đàn ông đều mang giầy đen".
Trong lá thư của cha sở có ghi toàn bộ mô tả trên. Cậu bé lacaze có nhiều thì giờ để thấy chi tiết cái thị kiến lạ lùng của cậu. Người phụ nữ yêu cầu cậu phải trở về ban chiều. Cậu đã vâng lời. Và cậu lại thấy những nhân vật ban sáng, và tất cả những người đó đi theo cậu trên con đường hướng về làng Ossen, mang theo đứa nhỏ và mẹ nó đi với cậu. Dọc đường, người phụ nữ đùa với những trò vui vẻ trẻ con của Laurent... Những ngày kế tiếp, Laurent Lacaze lại đến thăm viếng Hang Đá, và lại thấy những người đó hiện ra. Nhưng kể từ đấy, có nhiều người vây quanh nó. Người ta đi theo nó thành một đám rước. Được báo tin, cha sở nghĩ rằng cần phải rảy nước thánh lên cậu bé và lên nơi mà nó nói là thấy người phụ nữ đó. Nhưng dường như không có kết quả bao nhiêu.
Đó là những câu chuyện nghe phát chán. Nhưng dân chúng Ossen láo nháo cả lên. Người ta ghét cha sở vì ngài tỏ ra nghi ngờ. Còn cha thì phải hỏi ý kiến Đức Giám mục để biết phải hành xử ra sao. Trong thời gian đó, lại có những em khác thấy ảo kiến nữa: Jean-Marie Pomiès, 13 tuổi và Jean-Marie Sarthe, 10 tuổi. Cậu sau ở làng Ségus, một làng khác gần bên. Nhưng những thị kiến của nó không kéo dài. Cha sở và nhiều người khác ra lệnh cho nó ở nhà. Nó vâng lời và mọi sự đều chấm dứt.
Hai đứa trẻ làng Ossen, trái lại, tiếp tục việc làm sai trái của chúng. Người ta nói với chúng tôi về hai đứa đó như sau: "Trong một thời gian khá lâu, chúng bị theo đuổi và ám ảnh bởi cuộc hiện ra đó. Ngoài đường cũng như trong nhà, chúng chạy theo "đấng hiện ra" như thể chúng săn đuổi "ngài". Tiếng kêu la của chúng thường giống như những tiếng tru tréo, cử chỉ cũng như những vận động của chúng không luôn luôn hoà nhịp với nhau. Nhiều lần người ta cảm thấy chướng mắt vì những cái họ thấy không thích hợp và mất trật tự. Cha mẹ chúng cứ ngỡ là mấy đứa con của mình thấy Đức Trinh Nữ thật, nên tự ái của họ, sự hãnh diện của họ đã góp phần làm cho những cảnh đáng tiếc này lâu chấm dứt".
Những dòng chữ đó là của cha sở họ Ségus.
Ông Jean Vergez, thôn trưởng làng Ossen, cũng quan sát những gì xảy ra về phía ông. Cha Cros đã thuật lại những lời chứng của ông như những gì ta vừa thấy. Rõ ràng là cậu bé Lacaze thực sự có những thị kiến. Những người chứng kiến không thể nghĩ gì khác hơn cho đó là Đức Trinh Nữ hiện ra. Tại sao lại không thể nghĩ như thế? Chẳng lẽ chỉ có Bernadette Soubirous là độc quyền thấy ngài sao? Cha mẹ của Laurent Lacaze không cho Bernadette là độc quyền. Ông thôn trưởng tìm hiểu họ, và viết:
"Gia đình Lacaze không làm việc. Họ vui vẻ, nhất là người cha, về những gì xảy ra cho đứa con của họ. Buổi tối tôi gặp cha của Lacaze đi cắt cỏ. Tôi nói với ông: 'Ông đã mất một ngày'. Ông ta trả lời: 'Phải, nhưng tối thiểu chúng tôi được một xã hội tốt đẹp ở nhà, xã hội của Đức Trinh Nữ'.
Nhưng không phải chỉ có thế. Theo sự xác nhận của ông thôn trưởng, thì trong đám trẻ con trong làng, có những chuyện đáng ngạc nhiên. Chẳng hạn, Laurent Lacaze, chỉ biết nói thổ ngữ, hiện đang học tiếng Pháp. Nhưng còn cái đáng ngạc nhiên hơn. Hãy nghe ông thôn trưởng nói:
"Một hôm tại nhà Lacaze, Jean-Marie Pomiès, một cậu bé 13 tuổi, đang đứng cách cái cửa sổ trổ ra sân gà vịt khoảng 2 mét. Cửa này cao 60cm, rộng 43cm, và cao cách mặt đất hơn 1 mét. Bỗng nhiên đứa trẻ nhìn qua cửa sổ đó thấy Đức Mẹ hiện ra trong sân gà vịt, thế là tôi thấy nó nhảy qua cửa sổ nhanh như một mũi tên, không đụng vào thành cửa sổ, và đáp xuống bằng chân trong sân gà vịt, rồi chạy theo 'đấng hiện ra'.
Cảnh tượng này làm tôi kinh sợ đến nỗi tôi ra về ngay, và khi về tới nhà, tôi nói với vợ tôi: 'Anh không thể nào tin vào những chuyện này được. Anh sẽ không trở lại đó nữa'".
Cha Cros có đưa ra những lời chứng về chính sự kiện đó. Ngài quả quyết rằng ngài đã khảo sát các nơi và thấy có những sự kiện "không thể giải thích theo cách tự nhiên được". Ngài thêm rằng các em bị ảo kiến đó còn có một quái trạng chung khác: chúng sợ những tràng hạt đã làm phép, và chỉ thích những tràng hạt mới chưa làm phép. Không đồ vật đã làm phép nào trao cho chúng mà được trả lại bao giờ.
Đức Cha Laurence đã nhận được những bài tường thuật xác thực và chi tiết về tất cả những sự kiện này. Ngày 12.7.1858 ngài trả lời cho cha sở Ossen:
"Tôi coi hai em bé Lacaze và Pomiès bị ảo kiến như bị bệnh thần kinh. Cần phải đối xử với chúng như vậy. Không có gì là siêu nhiên trong những cái chúng thấy được cả, tôi phán đoán như vậy chắc chắn không sai. Một Đấng ở trên trời không thể nói những lời vô nghĩa, không đùa giỡn, cũng không suồng sã. Nếu những trẻ em này nói hay làm những gì không xứng hợp, thì phải rầy la và đối xử nghiêm khắc với chúng".
Nhưng Đức Giám mục sẽ phải sửa đổi mệnh lệnh của mình trước khi được dân chúng đón nhận và tuân giữ. Những người bị ảo kiến ở Ossen còn tiếp tục những trò kì cục của họ một thời gian nữa. Càng ngày càng có thêm các chứng cớ cho rằng người ta theo phe các tiên tri trẻ, ngưỡng mộ chúng, nghe lời chúng. Người ta quì gối xuống khi đi ngang qua nhà Lacaze, để cầu nguyện với Đức Trinh Nữ. Người ta thích ngủ cùng phòng với các em có ảo kiến. Tại toà giảng, cha sở có nói về lá thư của Đức Giám mục, nhưng vô ích. Lá thư nói rằng cần phải cấm các trẻ em dưới 15 tuổi tới Hang Đá, và không cho phép những đứa khác liên lạc với những đứa bị ảo kiến. Người ta không chịu tin lời cha sở cho tới khi ngài đưa cho họ xem thấy lá thư. Em gái cha sở là Francoise Junca còn thêm: "Các làng lân cận còn ghen với làng Ossen. Còn chúng tôi, chúng tôi phải chịu trách nhiệm về việc này: anh tôi mất ngủ vì nó".
Trong câu nói trên, ta thấy có sự ghen tương của các làng khác đối với làng Ossen. Một sự ghen tương kiểu đó cũng xảy ra đối với làng Lộ Đức.
Một phụ nữ ở làng Omex, một làng lân cận khác, kể lại: "Một hôm tôi đứng trước Hang Đá. Các trẻ em bị ảo kiến ở Ossen và nhiều em khác ở Lộ Đức đang ở trong hốc đá, nơi ma quỷ hiện ra với chúng. Bỗng nhiên từ trong lỗ hổng phát ra một giọng nói rất nhỏ nhẹ, giống như giọng nói của một đứa trẻ dễ thương. Giọng đó nói: 'Trong thung lũng Batsurguère, và nhất là ở Ossen, có rất nhiều người dũng cảm, còn ở Lộ Đức thì chỉ toàn là đồ hạ tiện thôi'. Lúc đó tôi nói trước mặt mọi người: 'Người nào nói như thế thì còn ma quỷ hơn cả ma quỷ nữa. Đức Trinh Nữ không coi thường ai, càng không coi thường những người cần ăn năn hối cải'".
Những người chứng kiến bị dao động và chia rẽ nhau. Một phụ nữ làng Ossen cảm thấy mát ruột vì những lời nịnh nọt chị vừa nghe, đến nỗi chị muốn biến đổi phòng mình thành một nhà nguyện kính Đức Mẹ nếu ông chồng của chị không phản đối. Người đàn bà khốn khổ ấy cuối cùng bị điên và chết năm ấy.
Chúng tôi nói về những sự việc ấy đủ để người khác có thể đo lường được phần nào sự lan rộng những rối loạn do biết bao nhiêu trò ma quỷ như thế gây ra tại Lộ Đức và những làng kế cận, và để người khác hiểu được sự thận trọng mà vị Giám mục cần thiết phải có để nhận ra được phương hướng giải quyết trước tất cả những biểu hiện kì quái ấy của ma quỷ. Nếu ma quỷ muốn làm giảm uy tín việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette bằng cách trộn lẫn vào đó vô số những lần hiện ra giả hiệu kì quái, thì có thể nói ma quỷ đã gần đạt được mục đích của nó. May thay, Đức Cha Laurence đã không quá nghiêm khắc. Ngày 28.7.1858, ngài kí một lệnh chỉ thành lập một uỷ ban điều tra việc Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức. Nhưng điều đáng lưu ý ngay từ nguyên tắc là uỷ ban này đã chỉ định đích danh một mình Bernadette làm đối tượng cho việc điều tra có tính cách quyết định này.
Theo lệnh chỉ, vấn đề là không phải vô số các sự kiện mà chúng tôi đã sưu tập trong chương này. Dưới mắt của những người có đầu óc thì tất cả những chuyện đó chỉ là tưởng tượng, là khoác lác, là kì cục, và có thể la ma quái. Thấy chúng được sưu tập ở đây, độc giả có thể ngạc nhiên về số lượng của chúng, về những tiếng đồn, về sự lạ thường của chúng, và có thể nhờ phản tỉnh, quan niệm được những ấn tượng không đẹp về những chuyện xảy ra ở Lộ Đức. Tuy nhiên nếu độc giả suy tư về chuyện đó, thì độc giả sẽ chỉ xúc động nhiều hơn khi thấy bóng tối dày đặc như thế đã bị xua tan và ánh sáng tỏ hiện một cách hết sức đơn giản và dường như hết sức tự nhiên.
Uỷ ban của các Giám mục bắt đầu ngay công việc của mình. Vì mọi người đều nhận thấy sự đơn sơ, kiên trì, thẳng thắn và sự chân thực rất rõ ràng nơi Bernadette, và mặt khác vì những phép lạ xảy ra ở Hang Đá thời gian đó lần này được công nhận là phép lạ đích thực thật là kì diệu, nên chỉ trong vòng hơn 3 năm, Đức Cha Laurence đã long trọng công nhận những biến cố Lộ Đức y như chúng ta đã được biết đến qua cuộc sống của Bernadette.
Nhưng chắc chắn độc giả sẽ hiếu kì muốn biết những xảy đến cho đám người bị ảo kiến mà ma quỷ đã lợi dụng để khai thác trong toàn vùng Lộ Đức suốt nhiều tháng trời đó.
NHỮNG NGƯỜI ẢO KIẾN Ở OSSEN
Khi cha Cros điều tra lịch sử một cách hết sức tỉ mỉ vào năm 1878, thì ngài cũng có tìm hiểu những người đã bị ảo kiến ở Ossen ngày trước. 20 năm qua, họ đã trưởng thành một cách tự nhiên. Những kinh nghiệm của năm 1858 còn lại gì trong trí họ?
Không có gì hoặc hầu như không có gì. Họ đã trở nên những Kitô hữu rất tốt. Cả hai anh em Laurent Lacaze và Jean-Pierre Pomiès đều có tên trong số những người giúp lễ chính, khi có rước kiệu Thánh Thể trong họ đạo. Cha Cros có hỏi họ. Laurent Lacaze, người đầu tiên, nói với ngài rằng anh ta hầu như không còn nhớ gì về những việc làm và cử chỉ của mình hồi năm 1858 nữa. Anh ta nói:
"Con nhớ rằng con đi tới Hang Đá với những đứa trẻ khác, và con thấy một loại bóng đen, nhưng con không còn ý niệm là cái đó có chân tay hay không, là đàn ông hay đàn bà. Con không nhớ con đã làm gì trên đường từ Lộ Đức tới Ossen".
Đối với đa số những người còn nhớ rõ hơn một chút, thì "loại bóng đen" mà Laurent đã trông thấy hồi đó chỉ có thể là ma quỷ!
Đến lượt Jean-Pierre Pomiès, khi được cha Cros hỏi tới, anh tuyên bố:
"Con thường tới Hang Đá vì bị hấp dẫn bởi tiếng đồn về những chuyện phi thường tại đó. Trong thời gian lui tới đó, con được thị kiến 2 lần: lần thứ nhất con thấy trong hốc đá một bóng sáng lòa, ở giữa lại có một bóng đen khá dày. Bóng sáng đó không đỏ cũng không trắng, cao khoảng 1 mét. Con không thấy rõ hình dáng của nó. Thấy như vậy khoảng 15 phút. Lần thứ hai con cũng thấy như vậy, nhưng con rất kinh ngạc về những chuyện xảy ra cho cô bé cũng được thị kiến. Con quì gối giữa cô ấy và một cậu bé. Cả ba cùng thấy rõ cái bóng sáng đó. Bỗng nhiên cô bé đưa tay tới trước về phía bóng sáng đó, thì cây đèn cầy mà cô ta cầm trên tay đột nhiên biến mất, mà không biết là nó biến đi đâu. Chúng con rất là ngạc nhiên về điều ấy".
Như vậy là Jean-Pierre Pomiès cũng chỉ thấy một "bóng đen khá dày" với một bóng sáng không đỏ không trắng nhưng rất mạnh.
Người ta còn nhớ chính anh ta đã nhảy vèo một cái qua cửa sổ hẹp, nhảy ra rồi lại nhảy vào, với một sự khéo léo siêu nhân. Nhưng vào năm 1878, người ta có thể viết về anh ta và người đồng sự với anh ta là Laurent Lacaze như sau:
"Họ sống rất ngay thẳng và đạo hạnh. Ma quỷ gian trá đã lợi dụng sự ngây thơ của họ, nhưng cả hai không ai chịu làm tay sai cho Satan cả!".
Đó là chứng từ của cha Cros, sau khi đã thấy và đã nghe họ nói.
NHỮNG NGƯỜI ẢO KIẾN Ở LỘ ĐỨC
Cái khả năng quên đi nhanh chóng đó cũng được nhận thấy nơi vô số người đã bị ảo kiến tại Lộ Đức ngày trước.
Cha Cros không quên phỏng vấn họ. Ngài nhận thấy phần đông chỉ nhớ được một cách rất mơ hồ về những ảo kiến mà họ thấy trong các năm 1858-1859. Sau những vụ hiện ra đó ít lâu, cha phó ở Lộ Đức là Serrès, khi tiếp xúc thường xuyên với các trẻ em học giáo lý đã nhận xét rằng: phần lớn các trẻ em ấy lúc đó đã tới tuổi rước lễ lần đầu, chỉ còn nhớ một cách mơ hồ và lẫn lộn những gì đã hiện ra với chúng ở Hang Đá hay ở những chỗ khác. (Ở Lộ Đức cũng như ở nhiều địa phận khác tại Pháp, trẻ em rước lễ lần đầu khoảng 12 - 14 tuổi).
Nhưng cha Cros đã hỏi một vài người lớn bị ảo kiến, lớn hơn chúng 20 tuổi. Đây là câu trả lời của Alexandre-Francois L., một người ở trong số đó:
"Tôi không thích đi chơi vớ vẩn, và tôi giữ cái tính đó mãi. Vì thế, nếu các bạn bè không lôi kéo tôi, thì tôi đã không đến Hang Đá... Vì thế tôi cùng với họ leo lên cái hốc đá phía trên và tôi quì gối xuống cầu nguyện.
Lúc đó tôi thấy một thị kiến trắng như tờ giấy này: Đó là một thứ hình người, nhưng tôi không thấy rõ mặt mũi tay chân. Ngay khi những đứa trẻ nói lên, thì tôi không thấy nữa. Tôi bảo những người khác im lặng và thị kiến lại trở lại. Tôi thấy nó trở lại ít nhất 5 lần. Ai muốn tin thì tin, nhưng tôi đã thấy và thật là đẹp mắt".
Một người khác được cha Cros gọi là "người nổi tiếng nhất trong số những người bị ảo kiến ngày xưa", nay đã trở thành cha của bốn đứa con, tới lượt anh ta nói:
"Tôi đã chứng kiến một hay hai lần việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette, và tôi rất cảm xúc như bao nhiêu người khác. Nhưng tôi không nghĩ về nó nhiều, thì một ngày kia, khi đi dạo ở cạnh khu rừng với một đứa trẻ cùng tuổi, chúng tôi cùng đi xuống Hang Đá.
Khi ở đó cầu nguyện, tôi thấy trước mắt có một cái gì đó hình khuôn mặt người. Tôi bật cười rồi bật khóc, và người ta cho rằng tôi thấy thị kiến. Tôi nói với bạn tôi những gì tôi thấy.
Các phụ nữ tới tìm tôi tại nhà và dẫn tôi tới Ribère. Một vài lần tôi không thấy gì cả. Những lần khác, tôi cũng thấy như trước, và tôi kêu lên: Hãy quì gối xuống! Hãy hôn đất!, vì tôi sợ. Tôi trông thấy cái hiện ra đó đi từ cây này sang cây khác trong đồng cỏ.
Tôi yêu cầu người ta đưa tràng hạt của họ cho tôi, và tôi nhúng những tràng hạt đó xuống suối Gave, vì ý tưởng đó đến với tôi như vậy.
Một hôm, chỉ có một mình tôi tại Hang Đá, và tôi trông thấy thị kiến. Vị linh mục, người đã cho trồng những cây thánh giá trên đỉnh đồi Ger, tới đó và bảo tôi: 'Hãy ra khỏi đó đi! Cái con trông thấy thì nghịch hẳn với sự hiện ra thực sự'. Và tôi bỏ đi.
Những đứa trẻ khác nhăn mặt lại như tôi, và chúng la hét. Nhưng tôi không biết chúng la hét gì. Tôi sợ. Tôi chỉ tới đó một mình vào ban ngày. Ban đêm tôi không dám đi nếu các phụ nữ không đến tìm tôi.
Họ tin rằng tôi trông thấy Đức Trinh Nữ. Thỉnh thoảng vào lúc 10 giờ, 10 giờ rưỡi, chúng tôi trở về. Các phụ nữ hỏi tôi: 'Mày thấy gì vậy?'. Tôi trả lời: 'Đức Trinh Nữ!'. Thực ra tôi thấy một khuôn mặt đàn ông. Khuôn mặt này thay đổi thường xuyên. Thỉnh thoảng nó có râu. Một lần tôi trông thấy nhân vật đó mặc đồ trắng, tôi không nhớ nhận xét tay chân của ông ta.
Tất cả những cái đó hiện giờ lẫn lộn với nhau. Tôi không thể nói nó là cái gì..."
Đó là tất cả những gì cha Cros đã sưu tập được một cách chính xác về tất cả các thị kiến cách đây 20 năm. Nói chung, tất cả những người ảo kiến cũ đều rất quả quyết về hai điểm này: Một, là không ai thúc đẩy hay xúi giục họ nguỵ tạo ra những thị kiến cả, nó đến với họ là do họ, hoặc do ma quỷ - chúng tôi nói dựa theo rất nhiều người khác nữa; hai, là cảnh sát, ông cò, hiến binh, tuần phiên luôn luôn chống lại việc làm không tốt ấy của họ.
KẾT LUẬN
Chúng tôi không biết kết luận gì khác với kết luận của cha Cros, là người đã nghiên cứu kĩ lưỡng toàn bộ hồ sơ này, mà chúng tôi đã trích dẫn phần nào trong đó. Ngài tin chắc rằng Satan thực sự là tâm điểm tất cả những biểu hiện ấy, vì tại đó có một sự hội tụ, một thứ tự, một mưu chước, không thể là một đặc tính của một người nào trong số những nhân vật đã từng đóng một vai trò trong đó. Giống như trong một bài hợp xướng cổ, chúng ta nghe thấy tiếng hát, còn người điều khiển ta không trông thấy thì không ai khác hơn là ma quỷ. Người điều khiển buổi hoà nhạc là Satan. Đó là mấu chốt để giải thích một cách hợp lý những chuyện quái đản mà chúng ta đã thấy. Chỉ vậy thôi, Satan không thể làm gì khác hơn là để móng vuốt của nó vào những bố trí khéo léo nhất của nó. Nhờ ơn Chúa, nên luôn luôn có sự khác biệt giữa những người bị ảo kiến - dù là phụ nữ, thiếu nữ, cậu bé hay cô bé - được biểu hiện ra thời đó, với Bernadette rất an bình và trầm tĩnh, khác biệt đến nỗi không ai có thể lầm lẫn được, và sự phân biệt thiện ác, chân giả được thực hiện chính xác.
Chúng ta hãy đưa ra thẩm định cuối cùng của cha Cros mà chúng tôi cũng lấy làm thẩm định cho mình:
"Chúng tôi đã từng chứng minh cho thấy làm sao chứng cớ của linh thánh lại chính là kết quả của sự bất lực nơi những kẻ phản kháng mạnh mẽ nhất: những kẻ phản kháng dù là chính quyền hay ngoài chính quyền, không ai có thể chặn đứng biến cố đang xảy ra, hay làm chậm bước tiến của nó. Dưới mắt họ, biến cố chỉ là Bernadette, và Bernadette không là gì cả. Đám mây những người ảo kiến tan rã, lập tức người ta không hề nói tới nó nữa. Ngôi sao của người thị kiến chân thực đã chiếu sáng thâu qua đám mây ấy, và chính đám mây ấy lại được dùng để thẩm định sự thuần khiết của ánh sáng đó một cách chính xác hơn.
Vì thế sự phản kháng của hoả ngục cũng như sự phản kháng của con người đều bị thất bại. Có thời Satan được những người đạo hạnh trợ tá cho nó, vì họ đã bị yêu thuật của nó lừa phỉnh: không có gì đáng sợ hơn có thể tưởng tượng được. Tuy nhiên, chính đám mây này dù đen tới đâu, thì công trình của Thiên Chúa vẫn xuyên thấu. Sự bảo hộ của ma quỷ dù có năng lực tới đâu cũng trở thành vô ích đối với những người ảo kiến, và khi những khuôn mặt nhăn nhó đã biến mất, thì gương mặt của Bernadette vẫn chiếu sáng như trước, nhưng chiếu sáng bằng sự chân thành, bằng sự bình an đã trở thành duyên dáng hơn".
Ngày kỉ niệm 100 năm vừa chấm dứt ở Lộ Đức vào đầu năm 1959, là một bằng chứng của sự vinh quang từ nay sẽ bao quanh tên của cô bé Bernadette Soubirous khiêm nhường, là người đã thấy Đức Trinh Nữ năm 1859! Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng: Bernadette, một cô nông dân thấp hèn, cũng như cha sở họ Ars là con của nông dân, đã kết thúc cuộc đời tại tu viện Nevers. Vào giây phút cuối đời, cô đã phải chiến đấu với ma quỷ, cũng như cha sở họ Ars đã phải chiến đấu suốt cuộc đời ngài.
Trong giờ hấp hối, cô đã tỏ ra trong giây lát một nỗi sợ hãi lớn lao, và một trong những nữ tu giúp đỡ cô đã nghe cô nói một cách rất rõ ràng: "Satan hãy xéo đi!".
Và vị thánh nhỏ này ít phút sau đó đã tìm lại được tất cả sự bình thản của mình, và đã chết trong một niềm bình an lớn lao đầy chiến thắng!
CHƯƠNG III
CHỨNG QUỶ NHẬP
Chúng ta vừa đọc thấy những thí dụ điển hình nổi tiếng nhất về việc ma quỷ quấy nhiễu con người. Trước khi đề cập đến những trường hợp quỷ nhập khác hẳn với những quấy nhiễu đó, chúng tôi nghĩ cần phải trình bày một vài cách giải thích có tính cách lý thuyết về sự kiện quỷ nhập.
MỘT SỰ KIỆN LẠ THƯỜNG
Có lẽ không có sự kiện nào lạ thường hơn chứng quỷ nhập. Vô số kinh nghiệm của con người đã chứng tỏ một sự kiện như thế là có thực. Trước khi Chúa Giêsu đến trần gian, chắc chắn từ lâu đã có những người bị quỷ nhập rồi. Chính Chúa Giêsu đã từng gặp rất nhiều trường hợp quỷ nhập, sách Tin Mừng bảo đảm với chúng ta điều đó. Giáo Hội thời nguyên thuỷ cũng gặp rất nhiều trường hợp quỷ nhập. Trong số các chức thánh của hàng giáo sĩ có thiết lập chức trừ quỷ, đó là một bằng chứng rõ ràng chứng tỏ điều ấy. Trong các chương kế tiếp, chúng tôi dự định sẽ đưa ra những thí dụ đáng kinh ngạc, càng mới càng tốt, về những hiện tượng quỷ nhập. Vả lại, thần học Công giáo đã đặt nặng vấn đề này, đến nỗi đã nghiên cứu thành một lý thuyết hoàn chỉnh về sự kiện quỷ nhập, còn sách Các phép của Giáo Hội La Mã, một bộ phận chính thức trong tác vụ giáo sĩ đã cho biết những dấu hiệu giúp nhận ra những hiện tượng nào là quỷ nhập thực sự, và đưa ra những phương cách chữa trị, được gọi một cách đơn giản là các phép trừ quỷ mà chúng ta sắp bàn tới.
Về những gì liên quan đến bản chất và nguyên nhân của chứng quỷ nhập, chúng tôi không thể chọn được một cuốn sách chỉ nam nào khác chắc chắn và chính xác hơn tác phẩm của Đức Cha Saudreau: L'État mystique... et les faits extraordinaires de la vie spirituelle (Tình trạng thần bí... và những sự kiện lạ thường trong đời sống thiêng liêng) (xb lần 2, Paris, Amat, 1921, chương 22, tựa đề Những sự kiện ngoại nhiên có tính ma quỷ).
BẢN CHẤT CHỨNG QUỶ NHẬP
Đôi khi người ta so sánh chứng quỷ nhập với việc Nhập Thể chỉ vì có một tương tự nào đó. Chứng quỷ nhập là một bắt chước, và theo từ ngữ mà chúng ta đã dùng, là một "trò khỉ" của Satan, có thể nói là một hình thức méo mó của mầu nhiệm Nhập Thể. Đức Cha Saudreau nói: "Chứng quỷ nhập không bao giờ tới mức độ hoá hồn", nghĩa là ma quỷ không bao giờ thay thế được linh hồn của người bị quỷ nhập, nó không làm cho thân xác người đó sống động được, nhưng không biết bằng cách nào nó lại xâm chiếm thể xác, cư ngụ trong thân xác, hoặc tại não bộ, hoặc ở trong lòng của nạn nhân. Vì thế nó làm cho linh hồn của nạn nhân không còn làm chủ được thể xác và tay chân mình nữa. Nó làm cho nét mặt nạn nhân có những biểu lộ kì dị tương ứng với việc làm của nó, nghĩa là nó biểu lộ sự điên dại, giận dữ, đầu óc kiêu căng, ý đồ của nó, hoặc biểu lộ đau khổ khi bị người ta dùng phép trừ quỷ! Dường như ma quỷ dùng mắt nạn nhân để nhìn, dùng miệng nạn nhân để nói, đến độ dẫu nạn nhân là một người tế nhị, có giáo dục đàng hoàng, vẫn thốt ra một thứ ngôn ngữ thường là tục tĩu, bỉ ổi, thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ đối với nạn nhân ấy. Vì ma quỷ rất đông, mà mỗi con quỷ có một tính nết riêng, nên chúng biểu lộ trên nạn nhân những tính nết riêng biệt của từng con quỷ, đến độ khi có nhiều quỷ trong nạn nhân, thì người ta có thể đoán được con quỷ nào đang hoạt động.
Tuy nhiên, hành động của ma quỷ vẫn bị lệ thuộc vào bản chất và tính nết của nạn nhân. Nó cũng phải dùng những cách nói, cách xử sự, cách hành động quen thuộc của nạn nhân nữa.
Không phải lúc nào ma quỷ cũng hiện diện trong người của nạn nhân. Nó muốn ở trong nạn nhân lúc nào thì ở. Nó gây nên những rối loạn bệnh hoạn nơi nạn nhân. Nhờ các phép trừ quỷ, một người bị quỷ nhập có thể được khỏi bệnh tạm thời, để rồi sau đó lại bị ma quỷ chiếm lại. Khi ở tình trạng bình thường, người bị quỷ nhập cũng giống y như mọi người. Người ta không cho rằng người bị quỷ nhập là chủ thể tạo ra những biểu hiện dị thường như người ta thấy trong một cơn khủng hoảng của nạn nhân. Chính các cơn khủng hoảng cũng luôn luôn mãnh liệt như nhau. Trong một số trường hợp, nạn nhân vẫn giữ được trọn vẹn lương tâm mình. Nhưng y không thể giữ được những điệu bộ vặn vẹo, khoa chân múa tay hay những lời nói mà một "kẻ" khác làm hoặc nói trong y, và những cái đó vẫn là xa lạ đối với y. Nhiều khi ma quỷ làm nạn nhân ngủ để y không biết gì về những chuyện xảy ra nơi y, do đó, y không còn nhớ gì cả. Ma quỷ ra vào rất thường xuyên nơi thân xác nạn nhân, một cách nào đó nó đi dạo từ đầu đến chân y, làm cho một cánh tay hay chân cứng đơ như một thanh sắt mà không làm cho tay hay chân kia bị gì cả.
Mặt khác, không phải mọi con quỷ đều hành động theo cùng một cách, vì bọn chúng không con nào giống con nào. Người viết tiểu sử của thánh Martin - một người trừ quỷ tài ba của thế kỷ thứ 4 - đã nhận xét như thế.
Không phải là phi lý mà người viết tiểu sử thánh Martin tin rằng tất cả các thần linh của dân ngoại đều là ma quỷ, nhưng ông cho rằng có một sự khác biệt rất lớn giữa thần Mercure, là một con quỷ hoạt bát, nhanh nhẹn, láu lỉnh, kiên trì, và thần Jupiter mà ông đánh giá là thô kệch và đần độn: Jovem brutum et hebetem esse dicebat. Cũng vậy, theo Jean Cassien thì cha Serenus có nói: "Không phải con quỷ nào cũng độc ác như nhau, điên dại như nhau, mạnh mẽ và tinh quái như nhau". Về sau, chúng ta sẽ thấy quỷ kiêu ngạo là Satan, quỷ hà tiện có lẽ là Belzebuth, và quỷ ô uế có tên là Isacaron, trong một trường hợp quỷ nhập mà chúng ta sẽ tìm hiểu. Và còn có những con quỷ lười biếng, vô độ, phạm thượng... Không có gì ngăn cản các con quỷ có những "chuyên môn" này hay "chuyên môn" kia trong chiều hướng ác, hay trong những tật xấu khác. Không phải con quỷ nào cũng có một quyền lực như nhau. Có những con quỷ bị phép trừ quỷ đuổi đi dễ dàng, hoặc không trở lại nữa. Có những con cầm cự lâu dài, ngoan cố trở lại, hoặc trở đi trở lại hoài. Đức Cha Saudreau nhận xét: "Khi những con quỷ thuộc loại 'bét' quấy phá, thì chỉ cần đọc một vài kinh, làm một vài việc đạo đức hay nói một vài lời cầu nguyện thì cũng đủ khiến chúng phải chấm dứt".
Trái lại, trong những trường hợp quỷ nhập nổi tiếng nhất, vị trừ quỷ phải kiên trì chiến đấu, có lẽ là lúc phải chiến đấu với những tên đầu sỏ của hoả ngục.
Chúng tôi sẽ dành ra một chương đặc biệt để kể về một trường hợp quỷ nhập, mà sau khi nỗ lực trừ quỷ trong 6 năm trường, với rất nhiều biến chứng hồi hộp, tới đầu năm 1959 này vẫn chưa trừ được (tác giả viết cuốn này vào năm 1959).
NGUYÊN NHÂN BỊ QUỶ NHẬP
Lương tri của quần chúng có khuynh hướng cho rằng nguyên nhân hàng đầu khiến người ta bị quỷ nhập là những lầm lỗi của họ. Hoàn toàn không phải vậy. Các trường hợp bị quỷ nhập tương đối hiếm thấy và cũng rất khác nhau. Theo giáo sư Lhermite, mà chúng tôi sẽ trích dẫn sau này, thì "có nhiều trường hợp quỷ nhập hơn chúng ta tưởng", điều đó không nhất thiết có nghĩa là có nhiều người tội lỗi hơn. Nếu ma quỷ tự do phá hoại con người, thì nhân loại sẽ bị đảo lộn, con người không còn làm chủ định mệnh của mình, và ma quỷ sẽ chuyển hướng được những công trình của Thiên Chúa thực hiện nơi con người ra khỏi mục đích của Ngài. Thực tế tự nó không sao hiểu được, và dẫu ma quỷ có quyền năng tới đâu thì thực sự chúng vẫn là "những con chó bị xiềng". Dù ma quỷ có quấy nhiễu như trường hợp của cha sở họ Ars, dù con người có bị quỷ nhập, thì vẫn không có chuyện gì xảy ra mà không do Thiên Chúa cho phép. Ma quỷ chỉ hành động nơi chúng ta trong mức độ mà Thiên Chúa - Đấng nắm quyền tối thượng - cho phép như đã nói trong sách Gióp. Chính trường hợp của Gióp, bị ma quỷ quấy nhiễu là một bằng chứng rõ ràng chứng tỏ rằng không thể giải thích những thử thách đó là do lầm lỗi của nạn nhân. Trong trường hợp của cha sở họ Ars có thể lại còn rõ hơn nữa. Khi tấn công con người, ma quỷ có lý do của nó. Lý do đó chúng ta có thể đoán ra được.
Nói chung, chứng quỷ nhập là những "trò quỷ quái" rất ly kỳ, y như những trò quỷ quái mà chúng tôi đã kể và sẽ còn kể nữa, là những chứng cớ chứng tỏ có thế giới ngoại nhiên mà nhiều người không còn tin là có thật nữa. Trong những trường hợp xác định, Thiên Chúa để mặc cho con quỷ này hay con quỷ kia kiêu ngạo, hay muốn giết người là để phá huỷ cái chiến thuật của chúng, cái chiến thuật chung mà Baudelaire đã diễn tả bằng câu văn nổi tiếng này: "Cái quỷ quyệt nhất của ma quỷ là làm cho người ta tin rằng nó không hiện hữu".
Baudelaire sinh năm 1821 và chết yểu vào năm 1867. Đúng vào thời ông đưa ra câu nói trên, thì ma quỷ đã làm sai chiến thuật đó vì nó đã lộ mặt ra ở Ars, Lộ Đức, Lyon, Alsace và nhiều nơi khác, khiến cho câu nói dối "ma quỷ không hiện hữu" hay "không có ma quỷ" không được người ta tin nữa.
Nhưng không phải lúc nào cũng có thể nói những quấy nhiễu của ma quỷ, hay trầm trọng hơn nữa là chứng quỷ nhập đều là do lỗi lầm của nạn nhân mà ra. Tuy nhiên những lỗi lầm đó chính là nguyên nhân gần của thứ tai hoạ này. Đức Cha Saudreau đã kể ra nhiều trường hợp như thế trong quá khứ. Ngài còn nói thêm về một sự kiện vừa xảy ra mà ngài biết:
"Chúng tôi biết một trường hợp vừa xảy ra, có thể hiện nay vẫn còn. Đó là một người sau khi cầu nguyện với thần Mercure, thì bị tai hoạ tương tự như thế xảy tới. Người đó đọc kinh ấy là theo lời khuyên của một bà già tự xưng mình là bà lang chữa bệnh".
CÁC PHÙ PHÉP
Chúng ta sẽ nói đến nhiều trường hợp quỷ nhập mà nguyên nhân khởi đầu là một lá bùa. Về điểm này, Đức Cha Saudreau quả quyết dứt khoát như thế: "Một trong những nguyên nhân thông thường nhất khiến ma quỷ quấy nhiễu là bùa ngải". Và Đức Cha xác định rằng "bùa ngải là những bí tích của ma quỷ".
Ma quỷ hành động qua "những phù phép", và bí mật của những phù phép đó chỉ được tỏ lộ ra cho những người theo phe nó. Trong những dân tộc vẫn còn theo ngoại giáo, ít khi người hành nghề thầy pháp hay phù thuỷ lại không có quyền hành hay ưu thế trong xã hội. Mọi người đều ghét nhưng cũng đều sợ và đều phải nhờ vả hắn. Hắn có những quyền năng mà người ta cho là siêu nhiên. Hắn được coi như có quyền trên bệnh tật, trên sức mạnh thiên nhiên, trên cả thời tiết khí hậu.
Trong các xứ theo Kitô giáo từ lâu đời, nghề thầy pháp cũng không hoàn toàn biến mất. Trong những vùng thôn quê, có những cá nhân có những quyền năng huyền bí và lớn lao. Những quyền lực này chính là "bùa ngải", "phù chú", "thư ếm"... Rất nhiều người cho rằng tin vào những thứ đó chắc chắn là mê tín. Điều đó thật tai hại! Không thể chứng minh rằng những tác động mà người ta gán cho các thứ phù phép đó tất cả đều là giả dối. Trong mọi trường hợp, sách các phép nhìn nhận quyền năng của bùa ngải là có thật, và yêu cầu giáo sĩ chiến đấu với chúng. Sách các phép cũng có những kinh nguyện chống lại bùa ngải. Dường như sau khi ma quỷ lập ra những nghi thức dành cho nó, và để đề cao những phù phép đó, ma quỷ buộc phải ra tay hành động khi ông thầy pháp đã làm đúng những hình thức mà nó đã qui định. Người ta quả quyết với chúng tôi là tại các miền quê nước Pháp, loại phù phép quỷ quái này rất thịnh hành.
Trong những cuốn sách như Le Dragon Rouge (Con Rồng Đỏ) và Grand Albert có những công thức ma thuật được dùng để hại những người họ ghét hay ghen. Không phải lần nào thầy pháp "vẽ bùa" thì lá bùa cũng đều hiệu nghiệm cả. Rất nhiều diễn biến xảy ra khi trừ quỷ được giải thích theo cách đó. Do tác dụng tốt đẹp của vị trừ quỷ, ma quỷ phải bỏ đi, nhưng nó không bỏ hẳn con mồi. Người ta bảo nó tới với ông thầy pháp đã điều khiển nó và than phiền về những cú đòn mà nó phải chịu, thế là ông thầy ra lệnh để nó tiếp tục công việc bị dở dang. Đức Cha Saudreau đã nhận xét rất rõ ràng về điều này. Ngài viết:
"Sau khi vị trừ quỷ đọc lời nguyện và làm những nghi thức thánh, con quỷ bị mất phần lớn sức mạnh của nó, nhưng nó sẽ tìm lại được sức mạnh mới nhờ những thực hành ma thuật của ông thầy pháp. Đó là điều nó nhìn nhận khi bị bó buộc trả lời cho vị trừ tà hỏi nó".
Bùa ngải có tác dụng thực sự và tác dụng này chỉ có thể là của ma quỷ. Đức Cha Saudreau đã nhận thấy điều đó khi ngài viết: "Nguyên nhân hầu hết của những trường hợp quỷ ám nổi tiếng đều là bùa ngải. Chẳng hạn như trường hợp của Madeleine de la Palude và của Louise Capel ở Marseille, trường hợp của các nữ tu dòng Ursule ở Loudun, của các nữ tu dòng tế bần ở Louviers".
Nhưng không phải tất cả các bùa ngải đều hiệu nghiệm như nhau, vì những hình thức được dùng để luyện bùa càng tội lỗi bao nhiêu thì những bùa ngải đó càng hoạt động mạnh bấy nhiêu. Qua các thời đại, đã có và vẫn còn các hình thức phù phép dùng sự phạm thánh để luyện bùa như xúc phạm đến Mình Thánh Chúa chẳng hạn, hay cử hành những "thánh lễ đen" (messe noire). Vào thế kỷ 17, trong những vụ án nổi tiếng, người ta khám phá ra rằng bùa ngải được luyện bằng việc giết các trẻ em, bằng những tội lỗi phản tự nhiên hay bằng những "thánh lễ đen".
Trong những trường hợp được Đức Cha Saudreau vừa kể, "những người luyện bùa là những linh mục khốn nạn, để luyện bùa, họ đã xúc phạm đến Mình Thánh Chúa một cách kinh tởm". Cuối cùng, có thể tin rằng giữa các thầy pháp và những người luyện bùa cũng có một phẩm trật ghê tởm, phẩm trật này chỉ cho những người đồi bại nhất, bất lương nhất được phép "huy động" những tên quỷ phụ tá đáng sợ của Lucifer, hay đích thân Lucifer, nếu người ta có thể nói như thế.
Về những điểm mũi nhọn của tác động ma quái này, chúng tôi chỉ có những phỏng đoán thôi. Nhưng chắc chắn có và còn những "giao ước" ký kết với Satan. Dường như điều đó đã được chứng tỏ rõ ràng.
NHỮNG MẦU NHIỆM ĐEN TỐI
Sau khi nói về hai nguyên nhân đầu tiên của chứng quỷ nhập: là lầm lỗi của người bị quỷ nhập, hay thường hơn là những bùa ngải người ta đã luyện để hãm hại nạn nhân, Đức Cha Saudreau không nghĩ rằng ngài đã kể ra hết được những cách giải thích có thể có về nguyên nhân chứng quỷ nhập. Vẫn có những trường hợp không thuộc hai loại mà chúng ta nói tới.
Việc quỷ quấy nhiễu và chứng quỷ nhập có thể là và đôi khi chắc chắn là một thử thách mà Thiên Chúa cho phép xảy ra, như trong trường hợp của thánh Gióp hay cha sở họ Ars, chẳng phải do lỗi lầm của người bị quỷ quấy nhiễu hay bị quỷ nhập, mà cũng chẳng do bùa ngải gì cả. Ma quỷ xin Thiên Chúa cho phép nó hành động và Chúa đã ban cho nó phép đó. Đối với các ngài, đó là một thử thách như bao nhiêu thử thách khác, nhưng tệ hơn nhiều. Tuy nhiên nó sẽ chuyển thành sự xấu hổ cho Satan và cho tính kiêu ngạo của nó. Con Quỷ Cào Sắt dù trở thành "bạn bè" với cha sở Ars, làm sao nó có thể hãnh diện về sự thất bại của nó nơi ngài! Cuối cùng nó cũng không thể không bộc lộ sự ghen ghét và tức giận của nó! Cha sở Ars đã giật nhiều linh hồn ra khỏi tay nó. Nó không ngừng quấy rối ngài, nhưng không thể thắng nổi ngài.
Sau này chúng tôi sẽ trưng dẫn một trường hợp: một con quỷ được phép nhập vào "thân chủ" của nó, nhưng lại không ra khỏi người đó được khi nó muốn ra. Đó là trường hợp của Antoine Gay, đáng cho chúng ta khảo cứu một cách chi tiết sau này. Nhưng Đức Cha Saudreau kể một trường hợp rất tương tự của cô Nicole Aubry ở Vervins, theo ngài thì trường hợp quỷ nhập này làm cho cả nước Pháp xúc động (1565). Cô bị quỷ nhập không phải vì bùa. Khi bị trục xuất, những con quỷ phải miễn cưỡng khai rằng trường hợp này xảy ra là do Thánh Ý Chúa, để biểu hiện quyền năng trừ quỷ của đạo Công giáo, và để cho người theo giáo phái Calvin trong vùng có lý do để trở về đạo Chúa. Những con quỷ này còn nói chúng rất đau khổ khi phải nhập vào phụ nữ này và phải nói nhiều điều bất lợi cho chúng. Trường hợp của Antoine Gay cũng y như vậy. Trong trường hợp của Nicole Aubry, quả là có một số lớn người theo giáo phái Calvin trở lại.
Trong một số trường hợp quỷ nhập, người ta thấy lời của thánh Augustinô rất đúng: Thiên Chúa thích biến điều ác thành điều thiện, hơn là tiêu diệt điều ác đó hoàn toàn. Trong lịch sử, có nhiều tâm hồn đã lợi dụng những đau khổ do chứng quỷ nhập để đạt tới một trình độ thánh thiện cao. Đức Cha Saudreau nói: "Chị Marie des Vallees bị quỷ nhập vì bùa ngải, nếu chị không phải chịu cái thử thách nặng nề như một cuộc tử đạo này, thì chắc chắn chị không đạt được một mức độ anh hùng cao như thế, khiến chị có biệt danh là 'bà thánh xứ Contance'" (1590-1656). Ai cũng biết trường hợp quỷ nhập của cha Surin, kéo dài 31 năm và thử thách này khiến cha đạt được những công đức rất lớn.
Người ta biết có nhiều trường hợp mà phép trừ quỷ không có hiệu lực. Chính ma quỷ bắt buộc phải thú nhận rằng chúng sẵn sàng ra khỏi nạn nhân, vì phép trừ quỷ làm chúng đau khổ lắm, nhưng vì Thiên Chúa không cho phép nên chúng không ra khỏi nạn nhân được.
Một trường hợp nổi tiếng lịch sử mà chúng tôi đã nói tới là trường hợp của Madeleine de Palud, một phụ nữ bị quỷ nhập ở Marseille, những phép trừ quỷ khiến cho con quỷ tên Asmodée và hai con quỷ vô danh khác ra khỏi nạn nhân vào năm 1611, nhưng vì Thiên Chúa cho phép, nên vẫn còn một con quỷ ở lại tên là Belzébuth, nó muốn ra lắm nhưng vẫn cứ bị giam hãm trong thân xác của phụ nữ này.
Sau này, trong một trường hợp tương tự, chúng tôi sẽ trưng dẫn một thí dụ gây kinh ngạc xảy ra mới đây, trong đó, phép trừ quỷ đã làm cho ma quỷ phải nới lỏng sự chi phối của nó đối với nạn nhân. Chẳng hạn như một phụ nữ bị quỷ nhập, bị ma quỷ cản trở không cho đi xưng tội hay rước lễ, thỉnh thoảng nhờ phép trừ quỷ chị ta lại làm được việc đó, nhưng con quỷ vẫn không bị đuổi ra, hoặc bị đuổi ra rồi lại trở lại. Nhưng trong trường hợp này, sau khi hiểu tình trạng của mình và biết được lợi ích thiêng liêng có thể rút ra được từ đó, nạn nhân bèn chấp nhận tình trạng ấy. Chị biết rằng ma quỷ ở trong mình như một con thú ở trong lồng, một con thú giận dữ, nhưng rốt cuộc nó không thể gây ra cho chị một điều dữ nào. Đức Cha Saudreau viết:
"Vì vậy, người bị quỷ nhập tiếp tục chịu đau khổ, nhưng đau khổ của họ sẽ hết sức ích lợi cho Giáo Hội. Con quỷ không làm gì được ai ngoài linh hồn mà nó đang bất đắc dĩ phải thánh hóa, vì thế, có biết bao linh hồn yếu đuối thoát khỏi những quyến rũ của nó."
Một tác giả viết tiểu sử của thánh Gioan Êuđê mới đây, là cha Boulay, tuyên bố rằng vào thời của cha, năm 1907, có trên 30 người đã chấp nhận làm nạn nhân theo kiểu đó để cứu rỗi các linh hồn. Khi trưng dẫn chuyện này, Đức Cha Saudreau còn nói: "Chúng tôi còn biết nhiều người quỷ nhập khác như thế trong nhiều địa phận khác nhau, mà cha Boulay không biết, cũng không gồm trong số trên 30 người này".
Một người trừ quỷ đương thời rất thành thạo đã xác định với chúng tôi y như vậy, rằng có những người "hy sinh chịu quỷ nhập" đã dâng những đau khổ của họ cho Chúa để cầu nguyện cho hàng giáo sĩ thời đại đang cần những đau khổ đó biết bao!
Vả lại, đối với những tâm hồn phi thường này, chúng ta đừng tưởng rằng họ không được đền bù. Thường thì hoàn toàn trái lại. Đức Cha Saudreau kết luận:
"Khi ma quỷ nhập vào một người tín hữu, Thiên Chúa thường ban phép cho người này nhận được những ơn trợ lực phi thường từ trời cao, như một đối trọng cân bằng với những thử thách phi thường mà hoả ngục bắt người đó phải chịu. Thông thường, nếu có những thị kiến về ma quỷ thì cũng có những thị kiến về thiên đàng, nếu ma quỷ làm cho người đó đau khổ thì thiên thần bản mệnh của họ sẽ an ủi và thêm sức cho họ. Những vị thánh mà họ tôn sùng, những thiên thần mà họ kêu cầu, đôi khi ngăn cản không để ma quỷ làm hại họ, và một cách rất quyền năng giúp đỡ họ làm những việc đức hạnh để làm cho kẻ thù suy yếu, đồng thời thúc đẩy họ tiến tới hoàn hảo".
NHỮNG MẦU NHIỆM ĐEN TỐI (tt)
Tóm lại những trường hợp quỷ nhập là những trường hợp ở đầu mút của một thế lực bao la lan rộng khắp vũ trụ tâm linh: Cuộc chiến của thiện chống ác, của thành Thiên Chúa chống với thành của Satan.
Trong bối cảnh đó, quỷ nhập chỉ là một màn đặc biệt của một cuộc hỗn chiến lớn lao giữa các thần. Chính trong tính cách hữu hình này mà chứng quỷ nhập mới có lý do hiện hữu của nó. Nếu thực sự "cái quỷ quyệt nhất của ma quỷ là làm cho chúng ta tin rằng nó không có, không hiện hữu" thì đối với nó, không có một mâu thuẫn nào rõ rệt hơn, không có một phi lý nào dễ thấy hơn là những biểu hiện của nó trong sự kiện quỷ nhập.
Có những trường hợp quỷ nhập không thấy được, trong đó Satan không phải tỏ hiện ra, nhưng thực sự lại hiện diện nhiều hơn lúc nào hết, lúc đó nó thổi vào trong những tấm lòng đã thuận theo nó những ý định kinh tởm nhất. Những trường hợp đó đáng sợ hơn những trường hợp khác rất nhiều. Đó chính là trường hợp của một tông đồ hầu như không bao giờ được ghi trong sách Phúc Âm mà không có danh từ "tên phản bội" viết kèm theo! Thật ra, có lẽ ông ta không hề kêu cầu Satan. Nhưng Phúc Âm thánh Gioan đã dùng những từ thích hợp để diễn tả rằng "sau khi ăn miếng bánh trong bữa tiệc ly, Satan nhập vào hắn!".
Và thánh Augustinô giải thích việc ma-quỷ-nhập-vào đó rằng: "Nó nhập vào người đã phó mình cho nó để chiếm hữu người đó một cách hoàn toan hơn".
PHƯƠNG THUỐC CHỮA TRỊ
Chứng quỷ nhập không có phương thuốc chữa trị sao? Thiên Chúa đã bỏ mặc tạo vật của Ngài dưới quyền Satan mà không cấp cho họ đủ sự trợ giúp để họ có thể thoát khỏi nanh vuốt của nó sao?
Rõ ràng là không thể như thế được. Không có sự tiền định cho ai chịu điều ác hay sa hoả ngục cả.
Phương thuốc mà Thiên Chúa muốn để chữa trị chứng quỷ nhập là phép trừ quỷ, tiếng Pháp là Exorcisme, rút ra từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là cầu khẩn. Để trử quỷ thì có những luật rất chính xác. Việc đầu tiên phải làm là tìm hiểu để biết chắc chắn rằng đó là một trường hợp quỷ nhập chứ không phải là một bệnh tật tự nhiên. Về việc này, nhờ một lập luận đơn giản, ta có thể suy ra phương cách sau đây: nếu thấy trong con người của nạn nhân có hiện diện một trí tuệ khac với trí tuệ của y, thì đó là một hiện tượng quỷ nhập chứ không phải là bệnh tật. Lát nữa chúng ta sẽ nói tới những chi tiết rõ ràng mà sách các phép Rôma có ghi về điểm cốt yếu này. Nhưng các tác giả đều nhất trí nhìn nhận rằng nói chung những bước đầu của chứng quỷ nhập rất khó phân biệt.
Từ xa xưa, ma quỷ biết rằng các phép trừ quỷ được sử dụng thường xuyên trong Giáo Hội có một quyền năng khủng khiếp trên bọn chúng, khiến chúng đau khổ về thể lý hay về tâm lý, tức đau khổ vì kiêu ngạo. Muốn tránh những phép trừ quỷ đó, chúng phải cố gắng che đậy hàng tuần, hàng tháng không cho người ta khám phá ra nạn nhân bị quỷ nhập. Sau này chúng tôi sẽ đưa ra một thí dụ cho thấy bình thường việc trừ quỷ chỉ bắt đầu thực hiện sau 3 năm. Dường như mục đích của Satan là làm cho người ta tưởng rằng người bị quỷ nhập mắc bệnh điên, để y bị cầm hãm trong một bệnh viện tâm thần, nhờ vậy tránh được mọi can thiệp có tính cách tâm linh. Vào thế kỷ 17, sách lược này của ma quỷ đã bị cha Surin tố giác. Và sách các phép, nơi qui tụ kinh nghiệm ngàn đời của Giáo Hội, đã ghi một cách chính xác như sau: "Ma quỷ có thói quen trả lời dối trá và chỉ tỏ cho thấy sự hiện diện của chúng một cách bất đắc dĩ, để khiến vị trừ tà ngưng công việc trừ quỷ lại, hay làm cho mọi người tin rằng bệnh nhân không phải bị quỷ nhập".
Ngày nay, ma quỷ dễ dàng thực hiện cái sách lược im lặng và dấu diếm nào biết bao, vì rất nhiều bác sĩ, cả bác sĩ có đạo, cũng không chấp nhận bệnh nhân có khả năng bị quỷ nhập, và chủ trương chữa trị bệnh nhân bằng những phương pháp tự nhiên không tác dụng gì trên ma quỷ cả. Điều quan trọng là phải giữ được sự trung dung đúng mức, đừng quá vội tin là quỷ nhập bao lâu giả thuyết cho là một bệnh tự nhiên chưa bị gạt bỏ, và cũng đừng chậm trễ sử dụng những phương thuốc siêu nhiên mà Giáo Hội đề nghị khi đã biết chắc chắn đó là quỷ nhập.
Cần phải biết nghi ngờ về sự hiện diện của ma quỷ nơi bệnh nhân khi thấy có những triệu chứng tuy không thể kết luận dứt khoát, nhưng rất đáng lưu ý, để có thể kiểm soát chặt chẽ hơn đối tượng đang bị nghi ngờ. Đức Cha Saudreau khi trích dẫn bác sĩ Hélot, một bác sĩ chuyên môn thời của ngài (cuốn Névroses et Possessions, Le diagnostic: bệnh thác loạn thần kinh và chứng quỷ nhập, Cách chẩn đoán) có đưa ra những dấu hiệu sau đây:
Bệnh nhân bị co giật, khiến ta có thể nhận ra có một trí tuệ khác với trí tuệ của bệnh nhân, và có lúc bệnh nhân bình thường, có lúc bất thường xen kẽ nhau.
Bệnh nhân có những cử động dị thường luôn luôn đi kèm với sự tác động kéo dài như: nhảy, múa, mất thăng bằng, bò lê dưới đất, đập phá, đau đớn, té ngã mà không có nguyên nhân rõ rệt, vặn cổ, vặn gáy....
Bệnh nhân có những biến chứng, đau đớn không chịu nổi, đột nhiên được chữa lành bằng nước thánh, bằng dấu thánh giá, bằng Mình Thánh Chúa,...
Bệnh nhân đột nhiên bị mất cảm giác, giác quan và cảm tính, và có thể lấy lại được trong chốc lát nhờ cầu nguyện.
Bệnh nhân kêu la giống như thú vật, bị buộc phải tru tréo lên một cách vô ý thức, nghĩa là sau đó bệnh nhân không còn nhớ gì nữa.
Khi nhìn một người bình thường, bệnh nhân lại thấy người đó dị thường, hay thấy người đó là quỷ.
Bệnh nhân tự nhiên nổi giận khi thấy những vật dụng đã được làm phép, hay khi thấy một linh mục, hay khi đi ngang qua một nhà thờ mà thấy người ta muốn vào.
Bệnh nhân không thể ăn uống hay gìn giữ được những đồ ăn thức uống đã được làm phép.
Tất cả những dấu hiệu đó dù xảy ra riêng rẽ hay đồng thời, chỉ là những triệu chứng. Chúng phải xảy ra lúc bệnh nhân tỉnh thức. Khi thấy những triệu chứng đó, điều quan trọng là phải can đảm và bạo dạn. Những phép trừ quỷ là một trận chiến phải đánh, và trận chiến này có thể cam go và kéo dài. Không được lùi bước trước những buồn phiền mà trận chiến này có thể gây ra. Sách Các Phép đã nói rất rõ: "Ma quỷ gây trở ngại được chừng nào hay chừng ấy để cản trở bệnh nhân lãnh nhận phép trừ quỷ".
Đương nhiên cần phải tham vấn một hay nhiều y sĩ, bàn luận sự việc với họ, và phải bảo đảm là họ vừa có khả năng vừa khôn ngoan, nghĩa là họ không chống đối sự hiện hữu của chứng quỷ nhập vì một thành kiến không hợp lý, để rồi cuối cùng họ từ chối hay bác bỏ. Bác sĩ Hélot có nói về một vài đồng nghiệp của ông: "Họ có tai để mà giả điếc!".
Hiển nhiên là có những bất tiện khi không có lý do hợp lý mà lại nhận công tác trừ quỷ, vì như thế là trình bày tôn giáo của mình một cách bất lợi. Nhưng còn nhiều bất lợi hơn nữa khi phải hoãn lại vô thời hạn việc trừ quỷ khi không còn phương cách nào khác nhằm nâng đỡ những nạn nhân của ma quỷ đó nữa. Không phải chỉ có thể xác nhận nạn nhân bị nguy hiểm mà cả linh hồn họ nữa nếu không có ai tới giúp họ khi còn có thể được. Khi đã kết luận rằng cần phải trừ quỷ, thì lúc đó bổn phận của ta là phải tiến hành ngay, bằng cách cầu nguyện và ăn chay để chuẩn bị, và dùng tất cả những phương tiện mà Giáo Hội đương dùng. Cũng đừng quên rằng vấn đề bây giờ không còn là muốn can thiệp hay không cũng được.
Trong luật dân sự có trường hợp tội phạm là "không giúp đỡ người đang gặp nguy hiểm", cũng vậy, theo thần học, ai có trách nhiệm đối với tâm hồn người khác mà lại không can thiệp để cứu giúp người đang bị Satan hãm hại, người đó có tội. Đó là ý kiến của Đức Cha Saudreau, ngài viết: "Vì thế, khi bàn đến những vấn đề này, các nhà thần học đã chính thức tuyên bố rằng người nào có trách nhiệm đối với các linh hồn mà không trừ quỷ cho người bị quỷ nhập thì mắc tội trọng. Như vậy, hiển nhiên là chống đối việc trừ quỷ hay ngăn cản không cho người khác cứu giúp những người đang gặp nguy hiểm về tâm linh cũng như thể chất khủng khiếp như thế, cũng là một tội trọng".
NHỮNG DẤU HIỆU XÁC NHẬN
Bây giờ chúng ta nói đến những dấu hiệu mà sách Các Phép đã đưa ra như những dấu hiệu chắc chắn của chứng quỷ nhập. Nói chung, những dấu hiệu này là những dấu hiệu chứng tỏ có một trí tuệ nào đó chắc chắn khác với trí tuệ của nạn nhân đang hiện diện trong y. Trong Sách Các Phép những dấu hiệu đó là:
Bệnh nhân nói tiếng lạ, hay hiểu được người nói tiếng đó.
Bệnh nhân nói cho biết những chuyện ở xa hay còn trong vòng bí mật.
Bệnh nhân biểu lộ những khả năng vượt quá tuổi tác hay vượt quá điều kiện của mình, như lơ lửng trên không mà không bám hay dựa vào đâu cả, đi lộn ngược đầu trên vòm nhà hay trần nhà, vẫn khư khư bất động bất chấp những nỗ lực đẩy hay kéo của những người mạnh hơn hợp lại, ...
Những thí dụ khác nhau đó không phải là Sách Các Phép ghi nguyên văn như thế, mà là do giới có thẩm quyền giải thích ra.
Vả lại, khi trừ quỷ, vị linh mục được Giám mục cho phép trừ quỷ một cách chính thức, và công khai hoặc bán công khai - vì trừ quỷ một cách riêng tư thì tất cả mọi Kitô hữu đều được phép - sẽ nhanh chóng nhận ra rằng mình đang đối diện với một đối thủ rất thông minh, thường có những phản ứng bất ngờ, rất khác với những phản ứng mà bệnh nhân vẫn có trong tình trạng bình thường. Quả thật trong thân xác của một phụ nữ bị quỷ nhập, và qua miệng của phụ nữ này, Satan luôn luôn nói về mình với tư cách một người đàn ông, tự xưng mình bằng những từ ngữ khoa trương - mà chúng ta sẽ có những thí dụ sau - tiết lộ những chuyện bí mật, tự nguyện hoặc miễn cưỡng trả lời những câu hỏi được đặt ra, nhất là khi người ta nhân danh Thiên Chúa, nhân danh Đức Kitô hay đặc biệt hơn nhân danh Đức Trinh Nữ để ra lệnh cho nó phải trả lời.
Người trừ quỷ không bao giờ được lùi bước, không bao giờ được mất kiên nhẫn và can đảm, nhưng điều rất quan trọng là phải chuẩn bị hết sức bằng cầu nguyện và hãm mình, sẵn sàng lao mình vào một cuộc chiến rất cam gi với ma quỷ. Cuộc chiến đấu chống lại Satan không phải là một chuyện tầm thường. Trái lại, đó là một chuyện nghiêm trọng và rất cảm động. Người trừ quỷ có thể chắc chắn rằng ma quỷ sẽ tìm cách trả thù bằng những đòn tấn công của nó. Nhưng vị đó tự an ủi mình bằng cách nghĩ mình là người đứng về phe Thiên Chúa và Đức Kitô, chống lại mọi quyền lực của sự dữ. Đối với người trừ quỷ, điều chắc chắn là vị đó nhờ công việc của mình có thể lãnh nhận được những ân sủng cao siêu, dẫu rằng vị đó có quyền "coi bổn phận của mình như một phương thế thánh hoá hữu hiệu nhất mà Thiên Chúa Quan Phòng dành cho mình" (Saudreau)
Đằng khác, đừng quên rằng vị trừ tà không phải chỉ có bổn phận chữa bệnh nhân khỏi chứng quỷ nhập, mà còn phải hướng dẫn người đó đi tới sự thánh thiện nữa. Nếu bệnh nhân cần phải hối cải, thì không gì có thể kềm chế quyền lực và sự thống trị của Satan một cách chắc chắn bằng sự hối cải thực tâm và lâu bền của bệnh nhân, người mà ma quỷ đã ra sức chiếm hữu. Nếu bệnh nhân không cần hối cải, thì bệnh nhân cần tiến tới trên con đường nhân đức. Tật xấu hay những khuyết điểm của bệnh nhân là những điểm tựa cho ma quỷ quấy rối, và ngược lại những hành vi nhân đức do bệnh nhân thực hiện với sự giúp đỡ của vị trừ quỷ, là bảo đảm chắc chắn nhất cho sự thất bại của ma quỷ.
GIÁO LUẬT
Trước khi chấm dứt chương nói lý thuyết về hiện tượng quỷ nhập, thiết tưởng nên kể ra đây những qui định của Giáo Luật liên quan tới việc trừ quỷ. Trong cuốn Codex juris ecclesiastici (sách luật của Giáo sĩ), có ba điều luật từ 1151 đến 1153:
Điều 1151: "Cho dẫu có quyền năng trừ quỷ, nếu không nhận được phép đặc biệt và khẩn cấp của Đấng Bản Quyền tức Đức Giám mục của mình, thì không ai có thể trừ quỷ một cách hợp pháp cho những người bị quỷ nhập".
Đấng Bản Quyền chỉ nên ban phép này cho linh mục có đạo đức, khôn ngoan và không có gì đáng trách trong cách sống; và vị linh mục này chỉ được thi hành việc trừ quỷ sau khi đã xem xét chăm chú và cẩn thận và đã nhận thấy một cách chắc chắn đối tượng mình trừ quỷ là thực sự bị quỷ nhập.
Điều 1152: Các thừa tác viên hợp pháp có thể thi hành phép trừ quỷ không chỉ cho các tín hữu hay tân tòng mà còn cho những người ngoài Công giáo hay đã bị vạ tuyệt thông nữa".
Điều 1153: "Khi thi hành phép trừ quỷ trong lễ rửa tội, trong lúc truyền phép Thánh Thể, hay khi chầu phép lành, thì vị trừ quỷ phải chính là thừa tác viên hợp pháp làm các nghi lễ đó".
Điều luật này muốn nói rằng: Nếu trong những trường hợp cần kíp người nào cũng có thể rửa tội cho người khác được, thì trong việc trừ quỷ công khai, chính thức và hợp pháp, chỉ có những thừa tác viên rửa tội long trọng - nghĩa là rửa tội với tất cả những lễ nghi do Giáo Hội lập ra, trong đó có nghi thức trừ quỷ - và những thừa tác viên cử hành Truyền Phép hay cử hành Chầu Phép Lành, mới được phép trừ quỷ một cách hợp pháp, công khai và chính thức với phép của Giám mục mà thôi.
Thật thế, Giám mục không bao giờ ban quyền trừ quỷ một cách long trọng cho ai ngoài những linh mục đã được tuyển chọn kỹ lưỡng về khả năng trừ quỷ và tư cách sống của vị đó
CHƯƠNG IV
ANTOINE GAY
MỘT TRƯỜNG HỢP QUỶ NHẬP RẤT ĐẶC BIỆT
NGUỒN TÀI LIỆU CỦA CHÚNG TÔI
Hơn bao giờ hết, chúng tôi cảm thấy cần phải đưa ra những nguồn tài liệu mà chúng tôi dùng để tường thuật những câu chuyện dường như không có thực mà chúng tôi sẽ trình bày trong chương này.
Trước hết là tác phẩm Le possédé qui glorifia L'Immaculée (người bị quỷ nhập làm rạng danh Đức Mẹ Vô Nhiễm). Đề tựa cuốn sách quả hơi khó hiểu. Tác giả là J.H. Gruninger, người Lyon, là chỗ quen biết với chúng tôi, đã viết cuốn đó năm 1952 nói về cuộc đời đau khổ của Antoine Gay. Để viết cuốn này, ông mượn tài liệu trong một số cuốn sách mỏng của Victor de Stenay, xuất bản năm 1896 tại nhà của Delhomme và Briguet ở Lyon. V. Stenay là tên tác giả của ông Blanc, chủ tịch của hội Saint-Francis-de-Sales ở Lyon. Để viết cuốn sách mỏng này, ông Blanc đã dựa theo cuốn sổ ghi chép của ông Houzelot, một nhà điêu khắc ở Paris. Công việc của ông khiến ông thường có ở Lyon cả một lô thư từ, biên bản và các bản tường trình do chính ông sưu tập liên quan tới trường hợp quỷ nhập của Antoine Gay, đến cuộc đời cha Chiron, là người đã hết sức chăm sóc Gay, do cha Zophyrin Gandon viết, và cả những ghi nhớ cũng như các chứng tá của rất nhiều người đã quen biết Antoine Gay.
Người ta đã từng say sưa tranh luận về trường hợp của Gay. Rất nhiều nhân chứng cho rằng việc ông bị quỷ nhập không còn gì phải nghi ngờ nữa, cần phải làm phép trừ quỷ để chữa cho ông. Nhưng vẫn có những nghi ngờ, bài bác sinh ra đến nỗi giáo quyền không làm phép trừ quỷ cho ông. Có những lý lẽ rất rõ ràng để tin rằng điều đó sẽ không xảy ra nếu không có phép đặc biệt của Thiên Chúa. Tác giả - của tác phẩm mà chúng ta sẽ phân tích - tin chắc rằng những thử thách của Antoine Gay có lý do của nó, lý do đó là cái mà trong trường hợp của Hélène Poirer chúng tôi gọi là "có mục đích tính" (finalité)
Có thể nói rằng trong một thời đại mà con người hay nghi ngờ và cứng lòng tin, thì mục đích của trường hợp Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức với Bernadette chẳng hạn là để chứng tỏ cho con người thấy có thế giới siêu nhiên, đồng thời để đáp lại câu nói của Baudelaire vẫn hay được trưng dẫn và nhắc lại: "Cái quỷ quyệt nhất của ma quỷ là làm cho chúng ta tin rằng nó không hiện hữu".
Sự quỷ quyệt này có hại cho chúng ta. Ma quỷ không muốn gì khác hơn là được hoạt động giữa loài người mà loải người không biết nó hiện diện hay hoạt động gì cả. Nhưng Thiên Chúa không cho phép ma quỷ làm được điều đó. Ngài ra lệnh cho nó phải lộ mặt ra bất chấp nó muốn hay không. Những sự kiện chúng tôi tường thuật trong cuốn sách này là những bằng chứng xác nhận điều đó.
TIỀN SỬ
Antoine Gay sinh ngày 31.5.1790 tại Lantenay thuộc tỉnh Ain. Ông được rửa tội ngay hôm sau và qua chứng thư rửa tội của ông, chúng tôi được biết cha ông là một viên thư lại của nhà vua tại Lantenay, một làng nhỏ của xã Brénod, quận Nantua. Khi còn nhỏ, ông được học rất ít, nhưng lớn lên ông lại trở thành một tay thợ mộc cừ khôi, và sau thời gian quân dịch dưới thời Napoléon I, ông định cư ở Lyon. Ông là một người khá điển trai, cao lớn, tóc nâu, gương mặt hiền dịu với những nét đều đặn và bình thản. Trên quan điểm tôn giáo, có thể nói rằng những khủng hoảng do cuộc cách mạng 1789 gây ra không ảnh hưởng gì tới ông. Ông rất đạo đức, ngay từ thời niên thiếu ông đã có ý định đi tu. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì, ý định đó đã được thực hiện rất trễ: Lúc ông được 46 tuổi, tức năm 1836, ông mới vào tu viện Trappe ở Aiguebelle. Tại đó ông được làm một thầy dòng trợ sĩ (frère-convers). Nhưng ông không được ở lại tu viện nữa khi ông mắc một chứng bệnh thần kinh mà người ta không xác định ngay được bản chất đích thực của nó. Những người quen biết với Antoine Gay sau này tin chắc rằng bệnh thần kinh của ông không gì khác hơn là bệnh quỷ nhập. Một hôm con quỷ ở trong ông thú nhận rằng nó đã cư ngụ trong con người ông trên 15 năm mà không ai hay biết, chính đương sự cũng không biết gì hơn ai.
Tuy nhiên, từ khi ra khỏi tu viện Trappe, những dấu hiệu bị quỷ nhập đã lộ ra nhiều lần rõ rệt. Năm 1837, Antoine Gay đã hết sức đau khổ, vì biết có ma quỷ đang ở trong người ông.
CÁC BẰNG CHỨNG
Đương nhiên chúng tôi sẽ đưa ra những bằng chứng ngay. Tài liệu của chúng tôi viết thế nào thì chúng tôi trình bày như vậy.
Trước hết, chúng tôi có biên bản sau đây được ghi trong tác phẩm của Gruninger. Biên bản này do cha Burnoud, cựu bề trên tu hội thừa sai ở La Salette, gởi lên cho Đức Cha Ginoulhiac, lúc đó là Giám mục Grenoble:
"Trong ba buổi họp kéo dài từ một đến hai tiếng, chúng tôi bàn luận để cứu xét về trường hợp của ông Gay, người Lyon. Chúng tôi cho rằng rất có thể ông ta bị quỷ nhập. Ý kiến của chúng tôi:
Căn cứ trên sự việc là ông đã nói cho chúng tôi nhiều điều bí mật mà con người không thể nào biết được.
Căn cứ trên những dấu hiệu bên ngoài là ông ta không đồng ý khi chúng tôi đọc một vài công thức và lời nguyện trong sách Các Phép "bằng tiếng Latinh". Chắc chắn là ông Gay không biết tiếng Latinh, nên khi cứu xét những hoàn cảnh đã khiến ông ta vặn vẹo người, chúng tôi chỉ có thể cho rằng những vặn vẹo đó là do sự hiện diện của một trí tuệ cao hơn, hay của một cái gì siêu nhiên trong đó.
Căn cứ trên một vài câu trả lời của ông ta khi chúng tôi hỏi bằng tiếng Latinh. Những câu hỏi đó cho chúng tôi thấy cái trí tuệ đang trả lời chúng tôi bằng tiếng Pháp qua miệng của ông Gay.
Căn cứ trên rất nhiều biên bản đã được viết bởi những người đáng kính và đáng tin, tất cả đều chứng nhận ông Gay có một đức tin vững chắc, là người đức hạnh và chân thật. Nếu những lời chứng đó là xác thực, thì ông Gay đã không đóng kịch như thế. Và như vậy là ông ta bị quỷ nhập.
Tuy nhiên, người ta lưu ý điều này là trong biên bản, cha Burnoud chỉ kết luận với một "xác xuất" rất lớn thôi. Tuy vậy, cha vẫn tiếp tục công việc của mình. Trong một lá thư của ông Houzelot viết cho ông Blanc, có những dòng chữ này: "Tôi có gặp cha Burnoud khi cha làm quản hạt ở Vinay. Cha tuyên bố với tôi rằng: sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng trường hợp của ông Gay, cha quả quyết rằng ông ta thực sự bị quỷ nhập".
BIÊN BẢN Y HỌC
Và đây là một biên bản do một y sĩ viết, đề ngày 12.11.1843, và mang chữ ký của bác sĩ Pictet:
"Chúng tôi ký tên dưới đây là Bác sĩ Y khoa, ngụ tại đường Croix-Rousse, chứng nhận rằng ông Gay đã được cha Collet và cha Nicod, cha sở ở thành phố này, đưa tới để chúng tôi khám bệnh, theo lời thỉnh cầu của Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Lyon. Sau bốn tháng khám nghiệm hằng ngày một cách rất thận trọng, trong tất cả mọi hoàn cảnh và vào bất kỳ giờ giấc nào, như ở nhà thờ, trong thánh lễ, khi cùng đi chặng đàng thánh giá với ông, khi nói chuyện công khai và riêng tư, tại bàn ăn, lúc đi đường... chúng tôi không thể tìm ra một biến chứng nhỏ nhất nào về thể lý cũng như tâm lý. Trái lại, ông ta có một sức khoẻ hoàn toàn cả thể chất lẫn tinh thần, có phán đoán và lý trí chính xác ít thấy, điều đó chứng tỏ ông không có một biến chứng nhỏ nào, ngay cả khi có những khủng hoảng lạ thường xảy ra một cách bất ngờ và thường xuyên trong con người ông ta. Những khủng hoảng đó phát sinh từ một nguyên nhân huyền bí không thể giải thích một cách tự nhiên bằng những phương tiện khoa học của chúng tôi. Chính cái hữu thể huyền bí đó đã hoạt động bằng thể xác của ông, nói bằng miệng của ông, độc lập với ý muốn của ông.
Ngoài ra, chúng tôi xác nhận rằng: khi đã tự đặt mình vào địa vị của ông Gay, tự đồng hoá với ông, bằng cầu nguyện, bằng việc dẹp bỏ chính mình, tạm gác qua một bên khoa học cũng như lý trí của mình, để cầu xin Chúa Thánh Thần trợ giúp, thì chúng tôi vẫn tin chắc rằng cái tình trạng lạ thường ấy chỉ có thể là chứng quỷ nhập. Và chúng tôi càng tin chắc điều đó hơn khi gặp riêng ông Gay lần đầu tiên, lần đó cái trí tuệ lạ thường ấy nói với chúng tôi bằng miệng của ông, biết rõ tận đáy lương tâm của chúng tôi, nói lai lịch đời sống chúng tôi từ năm 12 tuổi, nói cho chúng tôi nghe những chuyện riêng tư mà chỉ có Thiên Chúa, cha giải tội và chúng tôi biết với nhau thôi. Và chúng tôi làm chứng rằng sự việc này đã xảy ra nhiều lần như thế với nhiều người khác nữa, trong số đó có nhiều người đã trở lại đạo".
TẠI SAO LẠI KHÔNG TRỪ QUỶ CHO ÔNG GAY ?
Với một biên bản rõ ràng như thế, người ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy toà Tổng Giám mục Lyon lại không kết luận rằng phải làm phép trừ quỷ cho ông ta. Thật vậy, bất chấp mọi xác nhận, giáo quyền không bao giờ trừ quỷ cho ông cả. Khi xét những hoàn cảnh đã xảy ra, người ta bó buộc phải giả thiết rằng Thiên Chúa không muốn cho quỷ xuất ra khỏi nạn nhân. Quả thật, con quỷ chính cư ngụ trong cơ thể ông Gay luôn luôn khẳng định như thế. Nó không ngừng tuyên bố, chắc chắn là có chút ít huênh hoang đúng như bản tính của nó, rằng: "Trường hợp quỷ nhập này là lạ thường nhất chưa từng xảy ra bao giờ".
Lạ thường ở chỗ nào? Ở chỗ quỷ trong thân xác đó để làm theo lệnh của Chúa, người ta có thể nói như thế. Nó vâng lời Thiên Chúa, và chính vì thế mà Thiên Chúa không cho phép con người đuổi nó ra.
Trong một lá thư của ông Houzelot gửi cho ông Blanc mà chúng tôi đã trưng dẫn, có viết:
"Tôi thấy các linh mục đặt ra những câu hỏi rất khúc mắc cho ma quỷ, thế mà nó giải đáp được ngay tức khắc. Chính các linh mục thú nhận như vậy... Tôi thấy con quỷ khóc lóc khi nó bị ép buộc phải khai ra những sự thật của đạo Chúa Giêsu Kitô, hoặc phải cho biết những ý kiến hay những bằng chứng về quỷ nhập. Nó nói: 'Nỗi đau khổ lớn nhất mà Thiên Chúa có thể gây ra cho ta là bắt buộc ta phải phá huỷ công trình của mình'".
Vì thế người ta biết chắc chắn rằng Thiên Chúa không bao giờ cho phép trừ quỷ trong trường hợp này. Có thể nói rằng, khi một con quỷ bị bắt buộc ở trong một thân xác để vâng lời Thiên Chúa toàn năng, thì Thiên Chúa thật bất công nếu Ngài bắt nó phải chịu đau khổ vì phép trừ quỷ.
Dẫu sao, sự thật vẫn là ông Gay không bao giờ được trừ quỷ, đang khi tất cả những người sống chung quanh ông có đủ bằng chứng không thể chối cãi rằng ông bị quỷ nhập.
MỘT VÀI DIỄN BIẾN
Đừng tưởng rằng những nhân chứng có thẩm quyền về hiện tượng tâm linh dị thường này không ưa Antoine Gay, hay coi thường ông. Trái lại, người ta tin chắc rằng ông rất đạo hạnh và có nhiều công đức, biên bản của bác sĩ Pictet là một bằng chứng. Vào mùa thu năm 1843, bạn bè của ông Gay đưa ông về tu viện Trappe ở Aiguebelle, nơi ông đã từng sống 7 năm về trước. Trước tiên, người ta xin cha tu viện trưởng trừ quỷ cho ông, nhưng ngài không nhận làm, lấy cớ rằng ngài thuộc giáo phận Valence đang khi ông Gay thuộc giáo phận Lyon. Tuy vậy, cha Tu viện trưởng vẫn tin chắc rằng ông bị quỷ nhập, nên gởi ông tới người bạn của ngài làm tuyên uý cho các Frère Privas, thuộc giáo phận Viviers kế bên. Gay ở đó 22 ngày. Thời gian này, ông đã tỏ ra rất nhiều dấu hiệu bị quỷ nhập. Nhưng cuối cùng ông lại phải trở về Lyon mà không hề được ai trừ quỷ cho.
Từ 1844 đến 1847, người ta thấy ông trong thành phố này, ở số 72 đường Macchabées, gần nhà thờ thánh Irénée. Thỉnh thoảng, người ta thấy ông lang thang trên các công viên, khua chân múa tay và nói những lời kì cục. Một hôm, vì bị tố giác là điên, ông bị đưa tới bệnh viện tâm thần Antiquaille và ở đó 3 tháng. Nhưng nhờ sự can thiệp tốt bụng của Bossan, một kiến trúc sư tương lai, nổi tiếng ở Fourvière, mà ông được ra khỏi đó. Nhưng vẫn chưa được trừ quỷ. Năm 1845, có hai linh mục đáng kính đã tận tình giới thiệu ông Gay lên Đức Tổng Giám Mục là Hồng Y Bonald. Ngài đón tiếp ông rất nồng hậu, và hứa sẽ cứu xét vấn đề một cách ân cần. Nhưng không hiểu tại sao, sự việc lại ngưng tại đó, không có gì khả quan hơn.
CHA CHIRON
Cuộc đời Antoine Gay bắt đầu một khúc quanh khi ông có người bảo hộ mới. Đó là cha Marie-Joseph Chiron, một linh mục thánh thiện, mà cuộc đời đã được linh mục Zéphyrin Gandon viết thành sách, với lời tựa của Đức Cha Hurault, Giám mục Viviers.
Cha Chiron là người luôn luôn được giáo phận Viviers nhắc tới với lòng kính mến. Cha được chỉ định đặc biệt phụ trách trường hợp của Gay. Vì cha đã thành lập một hội chuyên chăm nom săn sóc những người mắc bệnh tâm thần. Cha không bao giờ cho rằng Gay bị điên cả, mà chắc chắn ông bị quỷ nhập. Và cha quyết định sẽ tận tâm nâng đỡ ông trong mức độ mà Thiên Chúa cho phép.
Thời gian đó, Gay gia nhập dòng ba thánh Phanxicô, lấy tên là Joseph-Marie.
Năm 1850, cha Chiron cùng với ông tới tu viện Vernat-les-Bains ở giáo phận Perpignan để giới thiệu ông lên Đức Giám mục tại đó hầu xin phép trừ quỷ cho ông, nhưng cuối cùng cũng chẳng được, luôn luôn vì những lý do không được tiết lộ, nhưng chắc chắn là phù hợp với giả thiết mà chúng tôi đã nói: Ma quỷ ở đó là để "vâng theo lệnh Chúa".
Trong cuộc hành trình này có xảy ra một sự kiện khiến chúng ta biết chút ít về thế giới huyền bí của ma quỷ.
MA QUỶ CÃI NHAU Ở PERPIGNAN
Ở Perpignan, cha Chiron còn phụ trách một phụ nữ bị quỷ nhập đã 20 năm, có 3 đứa con. Cả giáo xứ đều trông thấy chị ta chạy với một tốc độ nhanh kinh khủng, và được nâng lên khỏi mặt đất khoảng 2 bộ (tức khoảng hơn nửa thước). Chúng ta sẽ gặp lại - trong một chương sau - một thành tích như thế của một phụ nữ bị quỷ nhập khác.
Đang khi cha Chiron ở trong nhà người phụ nữ kia thì người ta dẫn đến với cha một cô gái đáng thương biệt danh là Chiquette, nhưng tên thực của cô là Francoise. Cô Chiquette 36 tuổi, bị câm. Nhưng con quỷ nhập vào cô tên là Madeste, đâu có câm! Và một cuộc cãi lộn khủng khiếp chưa từng thấy xảy ra giữa Madeste và Isacaron, con quỷ đang ở trong người ông Gay. Đích thân cha Chiron kể lại như sau:
"Madeste vừa gặp Isacaron thì một cuộc đối thoại khủng khiếp nổ ra giữa hai thiên thần sa ngã. Hai con quỷ của hai người quỷ nhập giống như hai con chó điên. Chúng nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ mà chúng tôi không hiểu gì cả. Về sau, nhờ Isacaron phiên dịch buổi tranh cãi đó, tôi mới biết là chúng cãi nhau vì vấn đề hơn thua, xem trong hai đứa, đứa nào lớn hơn. Chúng nguyền rủa nhục mạ nhau. Hai đứa sẵn sàng đí đến chỗ đánh nhau, khiến tôi phải thường xuyên nhảy vào can thiệp.
Phải nói rằng hai người bị quỷ nhập chưa bao giờ gặp nhau, nhưng hai con quỷ ở trong hai người đó đã biết rõ nhau. Trong những ngày kế tiếp, chúng còn cãi lộn với nhau 6 lần, lần nào cũng khủng khiếp, vẫn nói cái thứ tiếng xa lạ ấy. Nhưng những lần sau có nhiều người chứng kiến".
Những sự kiện này đã gây cho cha Chiron một ấn tượng rất mạnh. Ít lâu sau, trong một lá thư gửi cho Đức Cha Clermont-Ferrand, cha đã trình bày những sự kiện đó một cách chi tiết và kết luận một cách rất chí lý: "Nếu không có chứng quỷ nhập, thì người ta không thể cắt nghĩa được những sự kiện như thế".
Chúng tôi cũng hoàn toàn đồng ý như vậy. Nhưng sự việc này xảy ra cho chúng ta thấy không phải lúc nào ma quỷ cũng thực sự hoà thuận với nhau, điều này quả đáng ngạc nhiên!
Antoine Gay và cha bảo trợ của ông lại trở về Lyon chờ đến hết mùa hè để đi La Salette.
THỜI GIAN Ở HỌ ARS
Danh tiếng cha sở họ Ars rất lớn, và họ Ars rất gần với Lyon đến nỗi không thể không ngạc nhiên nếu Antoine Gay không được đem tới trình diện cha sở Ars. Quả thật, năm 1853, ông đã tới Ars và kéo dài cuộc hành hương tại đó 15 ngày. Ông tới đó là do vâng lời Đức Tổng Giám Mục Lyon, tức Hồng Y Bonald, chính ngài nói với ông Goussard, một trong những người thân thuộc của Gay: "Ông hãy dẫn ông ta tới gặp cha sở họ Ars, và hãy ở lại đó ít ngày với cha". Ông Houzelot, vốn vẫn luôn luôn lưu tâm tới trường hợp của Gay, cũng đi với ông. Lúc đó là cuối tháng 11. Chúa Nhật kế tiếp là 4.12.1853, họ Ars nhỏ bé này cử hành trọng thể lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Nên nhớ rằng tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội lúc đó chưa được công bố, mà sẽ công bố vào ngày 8.12.1854.
Lúc đó một biến cố bất ngờ xảy ra. Người ta thấy Antoine Gay quỳ gối dưới chân bức tượng Đức Trinh Nữ, tay khoanh lại, mắt đầy lệ. Bỗng từ miệng anh phát ra một tuyên bố long trọng. Hiển nhiên tuyên bố này phải phát xuất từ con quỷ đang ở trong con người anh, vì Antoine Gay không có đủ trình độ thần học để có thể tự phát một bài diễn từ gây ấn tượng mạnh như vậy.
MA QUỶ CA TỤNG ĐỨC MARIA
"Lạy Đức Maria! Lạy Đức Maria! Ngài là tuyệt tác của bàn tay Thiên Chúa, là tác phẩm cao cả nhất mà Thiên Chúa đã tạo nên.
Là tạo vật vô song, Ngài khiến cho mọi thần dân trên trời phải thán phục. Mọi người đều tôn vinh Ngài, và nhìn nhận Ngài là Mẹ của Đấng Tạo Hóa. Vinh quang của Ngài cao hơn các thiên thần, cao hơn tất cả Triều Thần trên trời. Ngài ngồi gần Thiên Chúa. Ngài là đền thờ của Thiên Chúa. Ngài đã cưu mang trong lòng tất cả những gì mạnh mẽ nhất, cao cả nhất, quyền năng nhất và khả ái nhất!
Ôi Maria! Ngài đã đón nhận Đấng tạo dựng nên Ngài ngay trong cung lòng trinh nữ của Ngài. Ngài là Đấng vừa Đồng Trinh vừa là Mẹ, nên không ai có thể so sánh được với Ngài. Sau Thiên Chúa, Ngài là người cao cả nhất. Ngài là người Phụ Nữ mạnh mẽ. Chỉ một mình Ngài thôi cũng đủ đem lại vinh quang cho Thiên Chúa hơn tất cả mọi thần dân trên trời hợp lại.
Nơi Ngài, không hề có một bợn nhơ. Ước gì tất cả những ai nói rằng Ngài không phải là Trinh Nữ, không phải là Mẹ Thiên Chúa, đều bị nguyền rủa. Ngài là Đấng thụ thai không một tỳ vết. Ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Ôi Maria! Tôi ca tụng Ngài! Nhưng tất cả những lời ca tụng Ngài đều bay lên tới Thiên Chúa là tác giả của mọi sự thiện hảo! Sau trái tim của Người Con chí thánh của Ngài, thì không có gì có thể so sánh được với trái tim của Ngài! Ôi trái tim nhân hậu! Ôi trái tim dịu dàng! Ngài không hề bỏ rơi những kẻ vô ơn nhất, những kẻ tội lỗi nhất trong đám người hay chết này! Trái Tim Ngài đầy ngọt ngào đối với những người khốn nạn chỉ xứng đáng chịu hình phạt. Chính Ngài đã nhận lãnh cho họ ân huệ và tình thương xót! Những kẻ tội lỗi ghê tởm nhờ Ngài mà ăn năn hối cải.
Ôi! Phải chi những người sống trên trái đất này nhận biết Ngài! Phải chi họ cảm mến được sự âu yếm, quyền năng, lòng nhân hậu của Ngài, thì không một người nào bị hư mất! Tất cả những ai chạy đến với Ngài với hết lòng trông cậy, và liên tục cầu khẩn Ngài thì bất kỳ họ ở trong tình trạng nào, thì Ngài cũng cứu họ và chúc lành cho họ muôn đời... Tôi bị bắt buộc phải hạ mình dưới chân Ngài và xin lỗi Ngài về tất cả những sỉ nhục mà tôi đã bắt nạn nhân này phải chịu đựng!
Hôm nay là một trong những ngày lễ long trọng nhất của Ngài hằng năm. Tôi xin thú nhận rằng Con Chí Thánh của Ngài đã buộc tôi phải nói rằng ngày lễ này là ngày lễ long trọng nhất trong tất cả các ngày lễ mừng kính Ngài"
Isacaron, con quỷ ô uế, đã nói như thế qua miệng của Antoine Gay. Lời lẽ của nó đã được ông Houzelot ghi lại, và nhờ ông mà chúng tôi có được những lời lẽ ấy. Và sau khi con quỷ bị bắt buộc phải tuyên xưng như thế, chúng tôi hiểu rõ hơn rằng: 5 năm sau, khi được cô Bernadette hỏi tên, Đức Maria đã nói: "Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội".
Cha Toccanier là người phụ tá cho cha sở họ Ars cũng có mặt lúc Isacaron tuyên xưng những lời tán tụng Đức Maria đáng ghi nhớ ấy.
Ông Houzelot nảy ra ý nghĩ yêu cầu con quỷ đọc lại chậm hơn những gì nó vừa nói để ông ghi lại, và Isacaron đồng ý. Cha Toccanier không thể dấu được xúc động: Cha nói với những người có mặt tại đó về bài tuyên xưng ấy của ma quỷ: "Người ta không thể tìm thấy một diễn từ hay như vậy ngoài những tác phẩm của các Giáo Phụ". Cuối cùng, cha muốn tranh luận thần học với con quỷ này một cách nghiêm chỉnh vào một hôm khác, và cha vẫn còn ngạc nhiên về những câu trả lời đầy quả quyết của ma quỷ trong một thứ thần học hoàn toàn chính thống của Giáo Hội.
VẪN CHƯA ĐƯỢC TRỪ QUỶ
Chúng ta đừng quên rằng Antoine Gay đến Ars để được giải phóng khỏi nỗi đau khổ của mình. Cha sở thánh thiện ở Ars có những quyền năng mà ngài đã từng áp dụng trên người khác như ta đã thấy trong một chương trước, liệu ngài có sử dụng quyền năng ấy trên Antoine Gay không?
Hôm đó, cha Viannây phải tiếp rất nhiều khách nên rất khó gặp ngài. Dầu vậy, Antoine Gay vẫn được đưa đến gặp ngài nhiều lần. Ngài kêu người ta dẫn ông vào nhà xứ. Một buổi chiều, trong phòng riêng, cha sở bỗng nhiên thấy Antoine Gay sấp mình xuống dưới chân ngài như thể có một quyền năng vô hình nào đó thình lình vật ông ta xuống. Nhưng đồng thời ông ta đưa quả đấm ra và nói với ngài bằng một giọng đe dọa: "Viannây! Mi là một tên ăn trộm! Mi đã cướp khỏi tay chúng ta những linh hồn mà chúng ta đã mất bao nhiêu công lao cám dỗ!".
Nghe những lời ấy, cha sở thánh thiện chỉ làm trên đầu Gay một dấu Thánh giá rất lớn. Ngài nghe thấy con quỷ thốt ra một tiếng kêu giận dữ.
Tuy nhiên, ngài đã quyết định phải làm phép trừ quỷ cho Gay. Vì cha sở tin rằng ngài phải có bổn phận đối với mọi người bị quỷ nhập. Vì thế, theo lời yêu cầu của ngài, cha Goussard đã trở về Lyon để xin Đức Hồng y Bonald cho phép trừ quỷ. Đức Hồng Y Tổng Giám mục trả lời:
"Cha sở Ars không cần phải xin phép tôi. Ngài đương nhiên biết rằng tôi phải cho phép ngài. Hay là lúc đó ngài muốn xin với Đức Cha địa phận Belley".
Không chậm trễ, cha Toccanier viết thư cho Đức Cha Chalandon, lúc đó làm Giám mục Belley. Đức Cha vội vàng cho phép ngay. Tuy nhiên, việc trừ quỷ lại một lần nữa bị hoãn lại, và cuối cùng bị huỷ bỏ. Tại sao? Cha sở Ars nghĩ rằng tốt hơn nên làm phép trừ quỷ một cách rất trang trọng ở Fourvière, tại đền thờ Đức Trinh Nữ.
Nhưng thời gian trôi qua mà không có một quyết định nào về việc này cả. Antoine Gay lại được đưa về Lyon mà vẫn chưa được giải phóng khỏi người bạn đồng hành bất dắc dĩ kia. Cho tới bây giờ, người ta không khỏi nghĩ rằng Thiên Chúa không muốn giải phóng cho người bị quỷ nhập này vì 2 lý do: thứ nhất là qua sự thử thách này, Antoine Gay không ngừng được thánh hóa, và thứ hai là con quỷ ở trong ông phải hoàn tất bổn phận đã được áp đặt cho nó. Chúng ta hãy xét cái lý do thứ hai trước đã.
MỘT TRANG SÁCH CỦA THÁNH GRIGNON DE MONFORT
Nhiều người ngạc nhiên khi thấy một con quỷ như con quỷ đã nhập vào Antoine Gay bị bó buộc phải khiêm nhượng, tại Ars hay bao nhiêu lần nữa ở những nơi khác, suốt 40 năm hiện diện trong con người đau khổ này: tại Ars, nó phải ca tụng Đức Trinh Nữ một cách rất long trọng. Tất cả những điều đó khiến ta nhớ lại trang sách sau đây của thánh Grignon de Monfort, trong cuốn khảo luận nổi tiếng của ngài Về lòng sùng kính đích thực đối với Đức Trinh Nữ (De la vraie Dévotion à la Sainte Vierge). Khi nói về sự thù nghịch giữa Đức Maria và Satan, thánh nhân viết:
"Thiên Chúa không bao giờ tạo nên một mối thù ghét nào không thể hoà giải được, kéo dài và càng ngày càng gia tăng tới cùng, như mối thù ghét giữa Đức Maria với Satan, giữa con cái và tôi tớ của Đức Trinh Nữ với con cái và những kẻ đồng loã với Lucifer; đến nỗi kẻ thù đáng sợ nhất trong các kẻ thù mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên để chống lại ma quỷ chính là Đức Maria, Mẹ của Thiên Chúa. Ngay trong vườn Địa Đàng, mặc dầu Đức Maria chưa được tạo dựng, ngài mới chỉ có trong ý tưởng của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã gán cho ngài một sự thù ghét lớn lao đối với kẻ thù khốn kiếp của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban cho ngài biết bao kỷ xảo để khám phá ra sự gian trá của con rắn xưa, biết bao sức mạnh để chiến thắng nó, để quật ngã và đè bẹp sự kiêu căng vô đạo của nó, đến nỗi nó thù ghét ngài không phải chỉ hơn tất cả các thiên thần và loài người, mà theo một ý nghĩa nào đó, còn thù ghét ngài hơn cả Thiên Chúa nữa. Không phải vì cơn giận, sự thù ghét và quyền năng của Thiên Chúa thì vô cùng lớn lao hơn cơn giận, sự thù ghét và quyền năng của Đức Mẹ vì những hoàn hảo đó của Đức Mẹ có giới hạn, mà trước tiên là vì Satan rất kiêu ngạo nên cảm thấy vô cùng đau khổ khi bị chiến thắng và bị phạt bởi một nữ tỳ nhỏ bé và khiêm nhượng của Thiên Chúa, sự khiêm nhượng của ngài còn sỉ nhục nó nhiều hơn là quyền năng của Thiên Chúa; và thứ hai là vì Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria một quyền năng chống lại ma quỷ rất to tát đến nỗi chỉ một lời thở than của ngài cũng làm cho chúng sợ hơn là những lời cầu xin của tất cả các thánh, hay chĩ một lời đe doạ của ngài đối với chúng cũng làm cho chúng lo lắng hơn là tất cả những đau khổ khác, chúng đã phải miễn cưỡng thú nhận như vậy qua miệng những người bị quỷ nhập" (Sách đã dẫn, số 52).
Đó chẳng phải là chính những gì chúng ta vừa nghe qua miệng của Antoine Gay, cũng là miệng mà con quỷ Isacaron dùng để nói sao?
Nhưng chúng ta cần phải nghe chính con quỷ này nói trong chức năng mà Chúa Quan Phòng đã trao cho nó.
MỘT CUỘC CHIẾN ĐẤU THÊ THẢM
Rất nhiều người đã từng nghe Antoine Gay nói, và luôn luôn xác nhận rằng họ nhận xét thấy có một sự lưỡng diện kỳ lạ nơi ông. Sự lưỡng diện này không phải chỉ là 2 mặt giữa ông ta và con quỷ đã ám ông, mà là giữa những cách nói khác nhau của chính con quỷ.
Người ta phân biệt được dễ dàng giọng nói của Antoine Gay khi nói tự nhiên. Ông ta luôn luôn nói bằng một giọng dịu dàng, hiền hậu, chậm rãi, không bao giờ bỏ thói quen lễ độ của ông.
Trong số 3 con quỷ cư ngụ trong người ông, con quỷ chính là Isacaron. Nó nói bằng một giọng cụt ngủn, hống hách, đam mê và uy quyền. Nó xưng mày tao với mọi người, không nể nang ai, không phân biệt ai với ai cả, dẫu là người có phẩm vị cao trong Giáo Hội.
Chỉ trong lời nói của nó, người ta có thể phân biệt được 2 âm vực hoàn toàn khác nhau. Khi nó nói với tư cách ma quỷ, thì nó biểu lộ sự tức giận bằng cách nghiến răng, phát ra những lời lộng ngôn kinh tởm. Cần thiết phải xảy ra như thế để người ta phân biệt được ai nói.
Sự xấu xa ghê tởm của nó được phản ảnh trên nét mặt bệnh nhân, khiến cho những người ở gần đều cảm thấy khiếp sợ. Đó là âm vực thứ nhất, âm vực của hoả ngục, người ta có thể gọi như vậy.
Nhưng khi nó phải thi hành cái bổn phận mà Thiên Chúa bắt buộc nó phải làm, nghĩa là khi nó phải nói với tư cách vâng lời Thiên Chúa, và đóng đúng vai trò của nó, thì không phải nó chỉ nói đúng quan niệm chính thống của Giáo Hội, mà còn nói bằng một giọng dịu dàng, trôi chảy, hùng biện, đôi khi rất là tuyệt vời.
Trong cùng một cuộc đối thoại, người ta thấy con quỷ và nạn nhân thay phiên nhau nói, và họ nhận ra một cuộc chiến đấu kinh khủng xảy ra trong tinh thần và tâm hồn của Antoine Gay.
Chẳng hạn như ông ta vừa mới nói, vừa mới than van về tình trạng của mình, biểu lộ những bằng chứng về lòng đạo đức chân thành của mình, thì bỗng nhiên Isacaron chen vào, nói ngay bằng miệng của ông, không có một chuyển tiếp nào cả. Lúc đó, giọng nói đổi ngay, trở thành khàn khàn, và tuôn ra những tiếng kêu la, chửi rủa, thoá mạ. Lời nói đang ngọt ngào khiêm nhượng, bỗng nhiên trở thành chua chát, cay độc, tục tĩu!.
MA QUỶ THÚ NHẬN
Những điều đáng ngạc nhiên và ít thấy cho tới lúc đó, là ma quỷ xác nhận về sứ mạng đã được uỷ thác cho nó, mà nó phải chu toàn vì muốn hay không.
Không phải chỉ một lần thoảng qua mà là 10 lần mỗi ngày, ma quỷ phải lập đi lập lại tuyên xưng này:
"Ôi! Tôn sư Tối Thượng! Tôi bó buộc phải ca tụng Ngài. Mọi tạo vẫt đều bắt buộc phải nhìn nhận Ngài, nhìn nhận quyền năng, lòng nhân từ, và cả sự công bằng khủng khiếp của Ngài!
Tôi đây, Isacaron, thủ lãnh của các quỷ thần ô uế, bó buộc phải theo lệnh của Đấng Tối Cao, đọc cho người ta viết lại tất cả những điều sau đây".
Trong thời gian này, các thính giả, nhất là ông Houzelot, không ngừng ghi lại những gì con quỷ nói. Và nó lại tiếp tục:
"Vì thế, tôi bị trở thành một công cụ để giáo hoá con người, đang khi tôi hăng say làm cho họ hư mất!
_ Tôi bó buộc phải nói những điều dường như làm cho những người thông thái nhất phải ngạc nhiên: tôi phải nói với họ về vinh quang của Đấng Toàn Năng, về sự hổ thẹn và ngượng ngập của Hoả ngục.
_ Đấng mà trước mặt Ngài mọi người trên trời đều phải quỳ gối, ý muốn của Đấng đó là: tôi - quỷ Isacaron, đang chiếm hữu thân xác của Antoine Gay này - tôi phải nói bằng miệng ông ta, hành động bằng tay chân ông ta, tôi nhăn mặt kinh tởm, tôi kêu những tiếng khủng khiếp, tôi bị Thiên Chúa bắt buộc hằng ngày phải đưa ra những bằng chứng biểu lộ rằng người này bị quỷ nhập.
_ Ôi Tôn sư cao cả! Ngài làm tôi đau đớn biết bao! Ngài buộc tôi phá huỷ sức mạnh của tôi, thành trì của tôi! Thật là khốn nạn cái lúc tôi nhập vào thân xác này! Tôi không ngờ rằng tôi lại bị ép buộc làm việc cho vinh quang của Đấng Tối Cao, làm việc để cho các tâm hồn ăn năn trở lại".
Người ta có rất nhiều bằng cớ chứng tỏ Isacaron muốn thoát khỏi bổn phận của nó, muốn các giáo sĩ làm phép trừ quỷ để cho phép nó ra khỏi, nhưng rất tiếc cho nó là họ đã không làm điều ấy.
Một hôm, người ta nói về cha De Ravignan trước mặt Gay. Lúc đó cha đang phụ trách các buổi giảng thuyết ở nhà thờ Chính Tòa, sau cha Lacordaire. Con quỷ kêu lên bằng miệng của ông Gay:
"Đó là một người! Đó là một linh mục! Mi hãy nói với ông ấy dâng thánh lễ để giải phóng cho người bị quỷ nhập này, và để Thiên Chúa tước bỏ cái quyền hành mà ta đang sử dụng trên thân xác này trước khi nó được giải phóng".
MA QUỶ GIẢNG ĐẠO ĐỨC
Đây là một câu chuyện được Sư huynh Bề Trên các trường học Công giáo tại Feurs (Loire) kể lại. Khi đi từ Lyon tới Clermont-Ferrand với Antoine Gay, cha Chiron có viết thư cho sư huynh rằng cha sẽ dừng lại tại Feurs với một người bị quỷ nhập.
Và đây, cha đã tới. Sư huynh và toàn thể cộng đoàn nhìn chằm chằm vào người bạn đường của cha. Họ thấy gì? Một người rất điềm đạm, rất đứng đắn, thậm chí rất nhã nhặn. Sư huynh không tin vào mắt mình. Ngài nói nhỏ vào tai cha Chiron: "Cha chẳng nói với tôi rằng cha có đem theo một người bị quỷ nhập sao?".
Nhưng khi sư huynh vừa nói lên ý nghĩ đó, thì "ông bạn rất tốt" kia bỗng đổi nét mặt. Sư huynh viết: "Miệng sùi bọt, mắt nảy lửa, ông ta nói bằng một giọng khiến tôi xanh mặt: 'Bộ mi không nhìn thấy ta sao?'. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ chết giấc nếu cha Chiron không trấn an tôi".
Hầu như luôn luôn như vậy. Khi người ta ít ngờ tới nhất, thì ông Gay đáng thương này bỗng chốc vặn vẹo người tới mức độ không thể tin được, vật mình xuống đất, quay người như chong chóng mà không bao giờ bị mất thăng bằng. Ông ta vốn là một người nặng kí, thế mà bỗng chốc trở nên nhẹ nhàng và mềm dẻo lạ thường. Một hôm, ông ta vung mạnh chân trái lên đầu một người nói chuyện với ông, người này tầm vóc rất cao, rồi lại để chân xuống đất nhẹ nhàng như một tay nhào lộn giỏi nhất trong một gánh xiếc.
Nhưng khi người ta mong được thấy những cảnh điên dại, thì lại có một sự thay đổi mới lạ xảy ra. Đôi mắt Gay đầy lệ. Giọng nói của con quỷ dịu dàng hẳn. Cũng cái miệng phát ra những lời nguyền rủa lúc nãy, bây giờ bắt đầu giảng một bài như sau:
"Kẻ ác không được hạnh phúc. Nếu người ta đầy ắp những tư tưởng lo cho chính mình, thì người ta cũng đầy ắp tinh thần của ma quỷ. Chính nhờ chiều hướng ích kỷ đó mà chúng tôi mới làm cho con người hư mất được.
Thiên Chúa dùng con người để thử thách con người. Các người bị sầu khổ ư? Hãy nhận điều đó như là một ân huệ! Thập giá đáng cho tất cả mọi người yêu thích hơn hết! Thiên Chúa đã vác thánh giá để cứu rỗi con người, và Ngài cũng để những người mà Ngài yêu mến cùng vác thánh giá với Ngài!
Thế gian tưởng rằng sự khiêm nhượng là yếu đuối, là bất lực. Còn ta, ta nói rằng khiêm nhượng là quyền năng và là sự cao cả!
Nếu các ngươi biết nỗi bất hạnh của những người sa hoả ngục thế nào, thì các ngươi sẽ trở nên thánh hết tất cả. Không có một ngôn ngữ nào có thể diễn tả được những đau khổ của những người bị luận phạt. Không một trí óc con người nào có thể hiểu nổi những nỗi khổ đau đó!
Người nào yêu thương chính mình hơn Thiên Chúa, sẽ không được Thiên Chúa yêu thương!
Thiên Chúa cho phép mặt trái của cuộc đời xảy ra để con người được ích lợi về tâm linh, để làm cho con người trở về với chính mình, và trở về với Ngài.
Đừng bao giờ quên rằng thánh giá đáng yêu, đáng thích hơn danh dự!
Cần phải hiểu rằng cuộc đời ngắn ngủi, và người ta phải chịu đựng những đau khổ trong tinh thần thống hối, và coi những đau khổ đó như là đến từ Thiên Chúa.
Người ta không thể yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu thương người lân cận mình. Hạnh phúc cho ai biết bỏ tất cả vì Thiên Chúa!
A! Phải chi con người có thể nhìn thấy một tâm hồn ở trong tình trạng ân sủng đẹp đẽ biết chừng nào!
Hạnh phúc không ở dưới trần gian này: người nào chiếm hữu được Thiên Chúa là chiếm hữu được tất cả!
Người giàu phải là người quản lý săn sóc cho người nghèo. Thiên Chúa đã giao của cải trong tay người giàu để họ giúp đỡ đồng loại. Họ là những nhà kinh doanh của Thiên Chúa.
Người giàu phải tự coi thường mình và tuân theo những lời giáo huấn của Chúa Cứu Thế. Ngài đã nói: 'Người giàu khó được cứu rỗi hơn con lạc đà chui qua lỗ kim'".
Nhưng điều kỳ lạ là Isacaron đã không nói tất cả những lời nói xây dựng đó sớm hơn sự việc nó giận dữ, nói báng bổ Thiên Chúa, nguyền rủa các tạo vật của Ngài và nguyền rủa chính mình. Nó đã từng kêu lên:
"Khốn cho những kẻ kiêu ngạo! Khốn cho ta, Isacaron! Chính sự kiêu ngạo, sự vô ơn, sự bất tuân phục đã biến ta thành một thiên thần phản loạn và bị trầm luân!".
MỘT VÀI SUY TƯ CỦA ISACARON
Chúng tôi xin kể ra một vài suy tư của Isacaron về một số chủ đề khác nhau.
* Về Philatô
"Philatô khi làm quan toà quả có biết rằng ông ta đang kết án một người vô tội. Tuy nhiên, ma quỷ đã thúc đẩy ông ta kết án vị Quan Toà tối thượng, Quan Toà của mọi quan tòa. Khi rửa tay, Philatô đã làm tay mình bị dơ bẩn thêm".
* Về Maria Mađalêna mà Tin Mừng nói rằng đã được Chúa chữa cho khỏi "bảy quỷ":
"Maria Mađalêna là một vị đại thánh mà người ta cần phải chạy đến với một sự tin cậy hoàn toàn. Ngay khi Bà được may mắn biết Thiên Chúa, thì sự thống hối của Bà rất lớn, nước mắt Bà chảy quá nhiều, đến nỗi không một con quỷ nào có thể làm Bà phạm tội trở lại. Bà là gương mẫu cho mọi hối nhân, họ phải coi Bà như trạng sư đặc biệt trước Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban ơn ưu đãi đặc biệt cho những ai kêu cầu Bà".
* Về việc nguyện ngẫm:
"Nếu các người suy ngẫm kỹ về cuộc đời của Đấng Cứu Thế và của Mẹ thánh Ngài, thì ta thách các người dám làm một lỗi lầm nhỏ nhất chống lại Thiên Chúa".
"Đói khát và sự chết không là gì cả! Chỉ có tội lỗi mới đáng sợ thôi".
* Về sự trọn hảo Kitô giáo:
Để trả lời cho một bà kia hỏi Isacaron: sự trọn hảo Kitô giáo hệ tại điều gì, và con đường nào dẫn tới sự trọn hảo ấy? Con quỷ trả lời:
"Hãy kinh tởm tội trọng. Đừng cố tình phạm tội nhẹ. Đừng quên mất Thiên Chúa đang hiện diện. Biết khiêm nhượng trong tất cả mọi ngày của cuộc đời, vì kiêu ngạo là tật xấu lớn nhất trong mọi tật xấu. Hãy làm gương sáng và khôn ngoan khuyên bảo người khác. Hãy ăn năn hối cải như Vị Tiền Hô yêu cầu. Và người nào đã thánh thiện rồi thì hãy cố gắng thánh thiện hơn nữa!".
* Cầu nguyện với Đức Maria:
Chúng ta hãy kết thúc phần châm ngôn có nguồn gốc dị thường này bằng lời cầu nguyện với Đức Maria, do quỷ Isacaron sáng tác và đọc lại:
LỜI CẦU NGUYỆN
"Ôi Đức Maria linh thiêng!
Con xin thưa với Mẹ,
Với lòng tín thác hoàn toàn.
Mẹ không hề bỏ rơi ai,
Mẹ quan tâm đến ơn cứu sống
Của con người biết bao!
Và Thiên Chúa không thể chối từ
Bất cứ điều gì Mẹ xin.
Hãy che chở con dưới quyền năng của Mẹ,
Nếu Mẹ thương chấp nhận
Lời cầu xin khiêm nhường của con,
Thì một cách nào đó,
Cả hoả ngục cũng không hại được con.
Mẹ là Bà chủ cai quản vận mệnh con,
Nếu Mẹ bỏ rơi con,
Con sẽ bị hư mất không phương cứu chữa.
Nhưng không, Mẹ rất nhân từ,
Đến nỗi không thể bỏ rơi
Những ai đã cậy trông nơi Mẹ.
Xin cầu cho con trước Thiên Chúa Ba Ngôi,
Thì chắc chắn con sẽ được cứu rỗi.
A! Con muốn có thể làm cho
Mọi người trên trái đất biết Mẹ.
Con muốn loan báo khắp nơi
Sự cao cả của Mẹ,
Lòng nhân từ và quyền năng của Mẹ.
Điều con không thể làm nhưng con muốn,
Là mọi thần thánh trên trời đều làm
Và mọi ma quỷ đều bị bắt buộc
Tuyên xưng rằng Mẹ là Tuyệt Tác của Đấng Hoá Công,
Mẹ nắm trong tay quyền năng của Thiên Chúa,
Mẹ rất đáng sợ đối với quỷ thần,
Và tất cả đều phải tuân phục Mẹ.
Mẹ là tạo vật vô song,
Chỉ một mình Mẹ vừa là mẹ vừa đồng trinh,
Mẹ đã ban cho nhân loại Đấng Cứu Thế.
Mẹ với thánh Giuse đứng riêng một hàng,
Mẹ đã được tôn lên cao
Hơn tất cả thiên thần và các thánh.
Mẹ quả thật là linh thiêng!
Con cậy trông nơi Mẹ,
Và tin vững chắc rằng:
Mọi quyền năng dưới địa ngục
Không thể nào thắng được con!
Ước gì được như vậy!
Tất cả các thiên thần và các thánh,
Sẽ ca tụng Mẹ đến muôn đời! Amen".
Người ta quả quyết với chúng tôi rằng, sau khi đọc kinh này, bỗng nhiên con quỷ trở nên ngạo mạn, và nói bóng gió về việc Antoine Gay đã bị giam hãm như một người điên trong vòng 3 tháng ở bệnh viện tâm thần Antiquaille, tại Lyon. Rồi nó kêu lên:
"Chúng nó sẽ vào các nhà thương điên tìm những người điên để nghe họ đọc một kinh như vậy!"
ĐOẠN KẾT CUỘC ĐỜI ANTOINE GAY
Cuộc đời của Antoine Gay hiển nhiên có thể nói là "ngoại hạng". Vào thế kỷ 17, có một trường hợp quỷ nhập rất cảm động được dùng làm phương tiện thánh hoá nạn nhân bằng những thử thách khủng khiếp nhất. Đó là trường hợp quỷ nhập cha Surin, dòng Tên, suốt 20 năm, sau khi cha trừ quỷ cho các nữ tu Ursule ở Loudun. Trường hợp của Antoine Gay hơi khác một chút, nhưng giống với trường hợp của cha Surin ở cái nét không thể chối cãi này, là người bị quỷ nhập được thánh hóa. Những năm cuối cùng của Antoine Gay xảy ra trong cảnh bị mọi người bỏ rơi, có thể còn khủng khiếp hơn bị quỷ nhập.
Cha Chiron, người rất lo lắng cho ông, đã chết từ năm 1852. Cha sở Thánh họ Ars, người quan tâm tới ông không kém, cũng lìa trần năm 1859. Sau khi cha sở Ars chết, Antoine Gay còn sống thêm 12 năm, và hầu như không còn ai tới giúp đỡ ông một cách liên tục nữa. Nhưng ông chấp nhận tất cả với lòng nhẫn nhục lạ lùng. Gia đình ông xấu hổ vì ông. Hai em gái ông thù nghịch với ông. Cô em gái út ngăn cản hai đứa con của mình không cho chúng tới thăm cậu. Tuy nhiên, Antoine Gay chỉ làm theo lòng nhân từ của mình, nên khi người em gái đó bị bệnh, ông đã cho bà ấy 200 franc. Đó là số tiền ông dùng để chữa bệnh. Con quỷ vẫn luôn ở trong ông. Ông phải chiến đấu dữ dội và không ngừng với kẻ thù dữ tợn của ông bằng đời sống cầu nguyện và thống hối nhiệm nhặt. Ông sống như một tu sĩ ở sa mạc ngày xưa: ăn chay, chỉ ăn bánh mì và uống nước lạnh, ngủ trên một tấm ván, mang thắt lưng gai để đền tội và sống theo kỷ luật.
Trong 6 tháng cuối cùng đời ông, ông sống trong căn nhà trọ nghèo nàn tại số 72 đường Macchabées, thuộc giáo xứ Saint Irénée. Có những người đạo đức và bác ái ở Lyon săn sóc ông, nhất là một bà nọ rất cảm thông với ông, từng ở bên cạnh ông hằng giờ. Những cuộc thăm viếng này đã an ủi ông, vì khi có mặt một vài người thì ma quỷ đỡ hành hạ ông hơn.
Nhưng một thử thách mới đang chờ đợi ông, một thử thách mà người ta sẽ thấy tương tự như trong những trường hợp quỷ nhập mới xảy ra sau này: Đó là con quỷ Isacaron đang làm chủ thân xác ông không muốn cho ông xưng tội như ông vẫn muốn. Isacaron rất cương quyết. Nó tuyên bố với ông rằng ông không thể xưng tội được trước khi lãnh phép trừ quỷ. Tại sao nó lại đòi hỏi như thế? Dường như con quỷ này bị Thiên Chúa Quan Phòng bắt buộc phải ở đó, như chúng ta đã thấy, để "làm theo lệnh Chúa", và vai trò này đối với nó là một cực hình đặc biệt. Vì thế nó muốn được làm phép trừ quỷ để thoát khỏi cực hình này. Nhưng vì không có ai làm phép trừ quỷ như ý nó muốn, nên nó quyết định ít ra là làm hư mất linh hồn của nạn nhân khốn khổ mà nó không thể nào ra khỏi được, bằng cách cản trở không cho nạn nhân này lãnh các phép bí tích. Vì thế, nó xác định với ông:
"Mi không thể nào xưng tội được trước khi ta ra khỏi thân xác mi!". Nó còn nói thêm: "Chưa từng có một vụ quỷ nhập như thế này, và sẽ không bao giờ có một vụ tương tự như thế nữa!". Chúng ta cũng dễ dàng tin như thế.
Quả thật, một lần, con quỷ ngăn cản Antoine Gay suốt 3 tuần không cho ông đi dự lễ ngày Chúa nhật. Một hôm, cha Perrier đến tìm ông, có ông Blanc cùng đi. Ngày trước, khi cha Perrier ở tại một tu viện của dòng Tên ở Lalouvesc, cha đã biết Antoine Gay tại đó. Nay cha vừa được bổ nhiệm tới một nhiệm sở ở Lyon. Khi đi thăm người bị quỷ nhập, ý định của cha là tạo điều kiện để ông xưng tội. Nhưng vào dịp này, Isacaron lại tuyên bố một lần nữa là nó sẽ không cho ông xưng tội trước khi nó được ra khỏi ông. Hai người chờ đợi và hy vọng vô ích. Bao lâu họ còn hiện diện ở đó, thì Gay hoàn toàn không nói được một lời nào.
Năm 1869, Antoine Gay được 79 tuổi, ông có trở về Lantenay, nơi chôn nhau cắt rốn của ông, một vài tuần lễ, để điều chỉnh những vấn đề về thừa kế, khiến ông phải gặp mặt gia đình ông. Trong một lá thư gửi cho bà T. ở Lyon, người vẫn thỉnh thoảng đến thăm ông, người ta đọc thấy những dòng chữ thảm thiết: "Tại đây, con quỷ còn hiểm độc với tôi hơn là ở Lyon. Tôi muốn người ta cầu nguyện nhiều cho tôi, vì cuộc đời tôi sắp kết thúc rồi. Tôi không biết khi nào tôi mới trở về Lyon được: luôn luôn vẫn có những cản trở, thế gian đứng về cùng một phe với ma quỷ. Tôi càng lúc càng đau khổ hơn. Xin bà gởi lời thành kính khiêm nhường của tôi tới cha Perrier. Bà hãy nói với ngài rằng tôi xin ngài cầu nguyện cho tôi và đừng quên tôi khi dâng thánh lễ".
Trong phần tái bút, có ghi chú thêm: "Con quỷ khốn nạn Isacaron nói với tôi: 'Hãy trả lời lẹ lẹ lên!'".
Sau khi viết lá thư đó, Antoine Gay trở lại Lyon. Ông lập tức lâm vào tình trạng thê thảm: khi đi ngang qua ông, người ta lắc đầu thương hại. Họ nghe thấy ông nói: "Tôi không thể nào ở trong cái túp lều khốn nạn của tôi nữa!". Kẻ thù bên trong ông không để cho ông được yên thân nữa. Ông khóc lóc hoài. Tuy nhiên, đức tin của ông vẫn nguyên vẹn. Ông nói: "Tôi chỉ biết kêu cầu sự cứu giúp của Đức Trinh Nữ và thánh Giuse". Trong khi cuộc chiến tranh 1870-1871 xảy ra, con quỷ loan tin qua miệng của ông rằng ông sẽ bị đau khổ hơn bao giờ hết. Isacaron bắt ông phải khoanh tay lại trong nhiều giờ, không cho ông đổi tư thế. Ông thấy cuộc đời của ông sẽ kết thúc một cách nhanh chóng. Ngày 4.6.1871, bà T., người phụ nữ đầy tình thương vẫn thỉnh thoảng đến thăm ông, trông thấy ông rất đau khổ, đã ở bên cạnh ông khoảng một tiếng rưỡi. Ông lập đi lập lại là giờ chết của ông đã đến gần rồi, thế mà ông vẫn chưa được giải thoát khỏi con quỷ đó. Đã 2 tháng nay ông không thể đi lễ được vì quá yếu.
Cha sở họ đạo Saint Irénée, ở gần nhà ông, đã được bà T. báo cho biết về tình trạng của ông. Một lần nữa, cha thử giúp ông xưng tội. Hôm đó là ngày 13.6, ngày lễ kính thánh Antôn Pađua. Mọi cố gắng đều vô ích. Isacaron nói: "Không thể cho xưng tội được trước khi làm phép trừ quỷ". Vì thế, Antoine Gay bị câm không xưng tội được do áp lực của ma quỷ. Cha sở bèn ban phép giải tội và xức dầu cho người hấp hối, và ông đã nhận tất cả những bí tích này với lòng đạo đức sâu xa. 15 phút sau, ông tắt thở, trước sự hiện diện của cha sở, là người đã chứng kiến tới giây phút cuối cùng của ông. Người Kitô hữu dũng cảm này đã sống gần nửa thế kỷ trong xiềng xích và trong sự gắn bó bất đắc dĩ với tên đầu xỏ của Hoả ngục.
Giấy khai tử của Antoine Gay được ghi lại trong sổ tử của họ đạo Saint Irénée với chú thích như sau:
"Năm 1871, ngày 14.6, tôi đã làm lễ an táng theo nghi thức Giáo Hội cho Antoine - Louis Gay, chết ngày 13.6, thọ 81 tuổi. Ký tên Chazelle, cha phó".
Trong số những người biết rõ ông và tỏ ra thiện cảm với ông, ngoài những người mà chúng tôi đã kể, như cha Chiron, cha sở họ Ars, cha Perrier, cha Toccanier, còn có những người nổi tiếng như cha Collin, vị sáng lập tu hội các cha Mariste, cha Chevrier, sáng lập tu hội Prado, và nhiều người khác nữa.
CHƯƠNG V
NHỮNG TRƯỜNG HỢP QUỶ NHẬP
Ở THẾ KỶ 19 VÀ 20
TẠI ARS
Chương này đề cập đến một số trường hợp quỷ nhập xảy ra vào hậu bán thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20.
Chúng ta lại bắt đầu từ Ars. Nhưng bây giờ cha sở thánh họ Ars không còn được coi là nạn nhân những vụ quấy nhiễu của ma quỷ nữa, mà là người dùng quyền lực của những nghi thức trừ quỷ trong Giáo Hội để đuổi quỷ.
Trước tiên là một sự kiện do anh Jean Picard, người làm nghề đóng móng ngựa trong làng làm chứng và cung khai trước toà án phong thánh.
Một phụ nữ bị quỷ nhập được chồng chị dẫn đến Ars. Chị tỏ ra rất giận dữ và thốt ra những tiếng ú ớ. Không ai hiểu được chị ta muốn nói gì. Sau khi tiếp xúc xem xét chị, cha sở Ars biết chị bị quỷ nhập, và tuyên bố phải dẫn chị đến gặp Đức Giám Mục địa phận. Bỗng nhiên chị ta lại nói được và nguyền rủa:
_ Được! Được! Là tạo vật mà giở mặt hả? A! Phải chi ta có quyền năng của Đức Giêsu Kitô thì ta sẽ tống các ngươi xuống hoả ngục hết!
_ Được! Cha Viannây nói ngay, mày biết Đức Giêsu Kitô. Tốt lắm! Hãy dẫn bà này tới chân bàn thờ!
Bốn người đàn ông sấp tới bất chấp chị ta kháng cự, họ đưa chị tới chỗ cha sở vừa nói.
Lúc đó, cha Viannây rút cái thánh tích lớn mà cha vẫn để trong túi ra, cha đặt thánh tích lên đầu chị bị quỷ nhập, chị ta quỳ xuống như người chết rỗi. Nhưng chỉ lát sau, chị trỗi dậy và chạy nhanh ra khỏi nhà thờ. Một giờ sau, chị trở lại, rất bình tĩnh, lấy tay chấm nước thánh để làm dấu thánh giá, rồi quỳ gối xuống. Chị đã được hoàn toàn chữa lành. Chị còn ở lại Ars với chồng chị ba ngày nữa, nêu gương sáng bằng tư cách và lòng đạo đức của mình cho tất cả những người tới đó hành hương.
Như vậy, tác động của cha sở họ Ars quả là hữu hiệu phi thường!
Trường hợp sau đây cũng tương tự như vậy. Lần này cũng lại là một phụ nữ, nhưng có người con trai của chị đi theo. Cả hai đều từ những vùng lân cận của xứ Cermont-Ferrand tới. Người phụ nữ đã bị đau khổ 40 năm nay vì cái chứng bệnh mà người ta đoán rằng chứng quỷ nhập. Ngay tại Ars, chị đã tỏ ra có nhiều dấu hiệu khá rõ ràng. Chị vừa nhảy múa vừa ca hát gần nhà thờ suốt một buổi. Nếu chỉ có thế, thì chỉ là bệnh mất trí đơn giản. Nhưng dấu hiệu quan trọng là khi người ta cho chị uống một vài giọt nước thánh thì bỗng nhiên chị nỗi xung lên và đập phá tường nhà thờ.
Một linh mục ngoại quốc ở đó thấy tội nghiệp chị, nên dẫn chị vào nhà xứ bằng con đường mà cha Viannây vẫn đi. Cha thánh bỗng xuất hiện, cha chỉ ban phép lành cho chị, lúc đó miệng chị ta đang đầy máu. Lập tức, người phụ nữ đáng thương này trở nên hoàn toàn bình thản, những đau khổ khủng khiếp mà chị phải chịu đựng bao nhiêu năm nay không còn trở lại nữa!
Trường hợp thứ ba là người từ giáo phận Avignon tới. Người ta dẫn tới cha sở họ Ars một cô giáo trẻ có những dấu hiệu bị quỷ nhập, theo lệnh của Đức Giám Mục, vị này đã đích thân nghiên cứu trường hợp quỷ nhập này. Cô được một cha phó họ đạo thánh Phêrô ở Avignon và bà Bề trên dòng nữ Phanxicô ở Orange dẫn tới. Họ tới Ars vào buổi tối ngày 27.12.1857. Sáng hôm sau, cô được dẫn tới phòng thánh lúc cha sở đang mặc áo lễ để cử hành thánh lễ. Nhưng lập tức cô giáo bị quỷ nhập la lên và tìm cách chạy trốn:
_ Ở đây đông người quá! Cô ta kêu lên.
_ Phải rồi! Đông người quá! Cha sở lập lại. Được rồi, người ta sẽ ra hết!
Cha sở ra dấu cho mọi người ra hết, chỉ còn lại một mình cha đối diện với Satan. Mới đầu, người ta chỉ nghe thấy có một tiếng động khó diễn tả nhưng rất lớn vang lên trong nhà thờ. Rồi có một giọng nói phát ra. Cha phó ở Avignon đứng gần cửa, nên nghe được cuộc đối thoại sau đây:
_ Mày có muốn dứt khoát ra khỏi người này hay không? Cha Viannây hỏi.
_ Muốn!
_ Tại sao?
_ Vì tôi đang ở với một người đàn ông mà tôi không thích.
_ A! Mày không thích tao à? Cha sở hỏi bằng một giọng mỉa mai.
_ Không! Con quỷ đáp với một giọng chói tai và tức giận.
Nhưng, hầu như ngay lúc đó, cánh cửa lại mở. Tất cả mọi người đều thấy cô giáo trẻ khóc lên vì sung sướng, và từ đó về sau, cô trầm tĩnh và đơn sơ, lòng biết ơn lộ trên nét mặt. Cô đã được chữa lành. Nhưng bỗng chốc một tâm tình sợ hãi xâm chiếm cô, cô quay trở lại với cha Viannây và nói:
_ Con sợ nó trở lại!
_ Không đâu con! Thánh nhân nói với cô. Ít ra là không thể trở lại ngay được!
Quả thật cô giáo đã trở lại xứ sở của cô, tiếp tục dạy học tại thành phố Orange. Và nó không trở lại nữa.
Một thí dụ khác đáng nhớ về tác động của cha Viannây đối với Satan. Hôm đó là buổi chiều ngày 23.1.1840, một phụ nữ người Haute-Loire, thuộc vùng ngoại ô của Puy, đến quỳ gối trước toà giải tội của cha sở Thánh họ Ars. Nhưng khi cha bảo chị xưng tội, thì bỗng nhiên người ta nghe thấy một giọng the thé và lớn tiếng kêu lên:
_ Tôi chỉ phạm có một tội thôi, và ai muốn ăn cái trái cây đẹp đẽ ấy thì tôi sẽ chia phần cho! Hãy giơ tay lên và giải tội cho tôi. A! Tôi thường tới đây xưng tội với cha, và cha đã từng giơ tay giải tội cho tôi một vài lần rồi!
Cha Viannây hiểu rằng cha đang đối diện với ma quỷ. Nhưng muốn chắc ăn hơn, cha hỏi nó bằng tiếng Latinh những câu hỏi ghi trong Sách Các phép:
_ Tu qui es? (Mày là ai?)
_ Magister Caput (Là thủ lãnh bậc thầy). Quỷ trả lời như thế rồi tiếp tục nói bằng ngôn ngữ bình thường. Nó la lên:
_ A! Tên mặc áo đen kia, mi làm ta đau khổ biết bao! Lúc nào mi cũng nói rằng mi sẽ ra đi, tại sao mi lại không cút đi?... Có những tên mặc áo đen làm ta đau khổ không kém gì mi!
_ Tao sẽ viết thư cho Đức Giám Mục để xin phép trục xuất mày ra. Cha sở trả lời như thế!
_ Được! Ta sẽ làm mi run tay không viết được. Ta sẽ bắt mi, ta mạnh hơn mi mà!... Còn mi, mi chưa chết à? Nếu không có con mẹ khốn kiếp ấy ở trên trời kia (chỉ Đức Maria) thì chắc chắn ta đã tóm được mi! Nhưng bà ta che chở cho mi, cùng với con Rồng to lớn ấy ở cửa nhà thờ của mi (rõ ràng là chỉ thánh Micae)... Hãy nói đi, tại sao ban sáng mi thức dậy sớm thế? Mi vâng lời tên mặc áo dài tím à? (tức Đức Giám Mục). Tại sao mi giảng đơn sơ thế? Điều đó khiến mi bị coi là một tên dốt nát. Tại sao mi không giảng cho oai phong như ở trong các thành phố?
Những câu thoá mạ còn tiếp tục như thế rất lâu, sỉ nhục các Giám Mục và các Linh mục. Nhưng Satan bất đắc dĩ phải nhìn nhận cha sở Ars là một đầy tớ đích thực của Thiên Chúa.
Đức cha Trochu khi kể lại cuộc đấu khẩu này, không nói nó kết thúc ra sao, nhưng chúng ta có thể giả thiết rằng nó phãi kết thúc bằng sự thất bại của Satan như những cuộc chiến đấu khác.
Người ta ghi nhận rằng trong trường hợp này vừa có sự quỷ nhập nơi người phụ nữ, vừa có sự quấy nhiễu của ma quỷ đối với cha sở Ars.
Cuối cùng, chúng ta hãy nghe chuyện cha Viannnây chữa lành cho một phụ nữ bị quỷ nhập vào một ngày chót của đời cha. Hôm đó là ngày 25.7.1859. Hôm nay là ngày cha phải nằm liệt giường để không bao giờ trỗi dậy nữa. Vào khoảng 8 giờ tối, người ta dẫn đến với cha một cách không phải là dễ dàng "một phụ nữ bị coi là quỷ nhập". Chồng chị đi với chị, và cùng với chị vào nhà xứ. Cha Viannây gặp họ tại đó. Chuyện gì xảy ra? Người ta không biết chính xác. Nhưng điều chắc chắn là chị ta được chữa khỏi.
Một số lớn nhân chứng đứng ở cửa nhà xứ và bỗng chốc thấy chị đi ra, tự do và sung sướng. Nhưng một người trong đám nhân chứng đó nói: "Người ta nghe thấy trong sân một tiếng động y như tiếng cành cây bị gãy đột ngột. Tiếng động ấy đã làm cho những người chứng kiến sợ hãi". Ông Oriol còn nói trong lời cung khai của ông: "Mà khi tôi vào nhà xứ sau kinh chiều, tôi thấy cây cơm cháy vẫn còn y nguyên".
Một lần nữa, việc quấy nhiễu và việc quỷ nhập lại đồng thời xảy ra.
HAI ĐỨA TRẺ BỊ QUỶ NHẬP Ở ILLFURTH
Chúng ta hãy rời khỏi xứ Ars là nơi vừa cho chúng ta thấy khá nhiều trường hợp bị quỷ nhập đến từ nhiều xứ trên đất nước Pháp. Bây giờ chúng ta hãy sang vùng Alsace. Cha sở Ars, vừa qua đời ngày 4.8.1859. Những sự kiện quỷ nhập mà chúng ta sắp nghe, xảy ra ở Illfurth trong khoảng từ 1864 đến 1869. Illfurth ở cách Altkirch 7 km tại hợp lưu sông Ill và sông Largue, và nằm trên kênh đào nối sông Rhône với sông Rhin, ở quận Mulhouse. Thời đó là một thị trấn lớn có khoảng 1200 dân.
Nạn nhân của ma quỷ trong vùng này là hai anh em: một đứa tên là Thiébaut Burner, 9 tuổi, còn đứa kia tên là Joseph mới 7 tuổi. Vào cuối năm 1864, cả hai đứa đều có những triệu chứng bệnh hoạn khiến cho các bác sĩ phải hoang mang. Vào tháng 9.1865, có những hiện tượng hoàn toàn bất thường xuất hiện. Chẳng hạn cả hai đứa, nếu nằm ngửa, thì chúng có thể xoay đi xoay lại như những con bông vụ sống, với một tốc độ không thể tin được. Nhưng không phải chỉ có thế: đôi khi chúng đói mà ăn không no. Bụng chúng phồng to lên vô chừng. Chúng nói rằng trong dạ dày chúng có một cái gì giống như một trái cam, và có một con vật sống động di chuyển trong người từ trên xuống dưới.
Hơn thế nữa, thỉnh thoảng, nếu chúng ngồi trên một cái ghế dựa, thì cả ghế được một bàn tay vô hình nào đó nâng lên với chúng, rồi lơ lửng trên không mà chẳng có một lý lẽ nào rõ rệt giải thích được. Như chúng tôi đã nói ở trước, theo Đức Cha Saudreau, thì đó là những dấu hiệu báo cho biết đó là chứng quỷ nhập. Tại Illfurth, có rất nhiều người thấy những dấu hiệu đó, kể cả những người nghiêm chỉnh và có học thức, nếu không có chứng cứ thì không dễ gì tin được những chuyện lố lăng như những chuyện mà người ta kể cho chúng tôi đây. Chúng tôi đã trưng dẫn trong tác phẩm của J.H. Gruninger một đoạn văn dài ở chương trước. Ông này chứng nhận rằng trong số những người chứng kiến những sự việc ở Illfurth, có cha ruột của ông, và cha ông rất thường kể lại những gì đã xảy ra. Và cả vùng đó người ta đều biết chuyện này.
Trong một giáo phận có nhiều thành phần trí thức như giáo phận Strasbourg, ý tưởng cho rằng đây là một trường hợp quỷ nhập không thể nảy ra một cách nhanh chóng trong đầu óc của một số người Công giáo cũng như linh mục. Người ta tìm cách làm sáng tỏ vấn đề. Người ta thử trừ quỷ cho hai đứa trẻ, và trong khi trừ quỷ, họ yêu cầu ma quỷ cho biết tên của chúng.
Cách đây mấy trang, chúng ta đã đọc thấy cha sở họ Ars trong một trường hợp tương tự đã đọc những lời hỏi tên ghi trong sách Các phép: Tu qui es? (Mày là ai?). Trong trường hợp này, khi bị hỏi tên, ma quỷ thấy đối diện với chúng không phải là một quyền năng mạnh mẽ như quyền năng của vị thánh nhân họ Ars, nên trong một thời gian dài, chúng từ chối không chịu xưng tên ra. Nhưng rồi ngưởi ta cũng biết trong mỗi đứa trẻ có ít nhất hai con quỷ. Hai con quỷ nhập vào đứa lớn, Thiébaut, tự xưng là Ypès và Oribas. Còn trong đứa kia, có một con tên là Zolalethiel, nhưng con quỷ còn lại người ta không bao giờ biết được tên của nó.
Những dấu hiệu cho biết chứng quỷ nhập ghi trong Sách Các phép đã được kiểm chứng trong trường hợp của hai đứa trẻ này, vì chúng nói được nhiều thứ tiếng rất khác nhau, hay ít ra chúng có thể trả lời những câu hỏi được hỏi bằng tiếng Latinh, tiếng Anh, Pháp, Đức, hay bằng thổ âm vùng đó. Việc nói được các thứ tiếng chưa học là một dấu chỉ có sức thuyết phục. Một dấu chỉ khác: chúng rất ghét nước thánh, nói chung là không sao sửa chữa được việc chúng ghét những vật đã được làm phép. Dấu chỉ thứ ba: chúng có thể tiên báo trước những biến cố sắp xảy ra. Người ta có thay phiên nhau ở bên cạnh hai đứa trẻ bị quỷ nhập đó cũng vô ích. Chúng tỏ ra có một tầm hiểu biết rất cao so với tuổi tác và học vấn của chúng. Không một câu hỏi nào chúng không trả lời được, dẫu là những câu hỏi rất khó hoặc rất rắc rối. Rõ ràng sự hiểu biết này không phải là tự nhiên. Chúng thuộc loại ngoại nhiên. Nhưng tất cả mọi hoàn cảnh đều có khuynh hướng chứng tỏ rằng sự hiểu biết đó không phải của các thiên thần, mà thực sự là của ma quỷ.
Chẳng bao lâu cả miền Alsace đều biết những sự kiện ấy. Tiếng đồn vang tới tận Paris. Theo yêu cầu của giáo luật, Toà giám mục Strasbourg cho mở cuộc điều tra. Theo yêu cầu của toà tỉnh trưởng tỉnh Haut-Rhin, quận trưởng quận Mulhouse cũng ra lệnh cho đội trưởng hiến binh Werner viết một bài tường trình về những sự kiện đã xảy ra.
Werner bèn tới tận nơi. Nếu anh ta có tiên kiến thì tiên kiến đó hẳn là bất lợi. Anh tin chắc chắn rằng, giữa thế kỷ 19 này, việc tin vào ma quỷ là một chuyện không thể chấp nhận được. Nhưng anh ta đã tỉnh ngộ ngay khi anh ta tới tận nơi. Chắc chắn là ở Illfurth có xảy ra những chuyện vượt quá tầm hiểu biết của anh.
Về phía mình, từ lâu Giáo quyền đã đi đến kết luận cần phải có, như phải làm phép trừ quỷ cho hai đứa trẻ. Trong thời gian đó, chúng vẫn lớn lên. Đến năm 1869, thì những trò ma quỷ đó đã kéo dài được 5 năm. Thiébaut đã được 14 tuổi, còn đứa em được 12 tuổi.
Việc trừ quỷ được thực hiện làm hai lần, nghĩa là trừ quỷ đứa này xong mới tới đứa kia.
TRỪ QUỶ CHO THIÉBAUT
Việc trừ quỷ được thực hiện ở cô nhi viện Saint Charles ở Schiltigheim. Về việc này, chúng tôi có bài tường thuật trong một cuốn sách: Cuốn Aux prises avec Satan: Les Possédés d'Illfurth (Đương đầu với Satan: những người bị quỷ nhập ở Illfurth), của các tác giả Suter, cha sở Eichhoffen ở Alsace, và Francois Gaquère, tiến sĩ văn chương và thần học, và cha Arras (Ed. Marie-Médiatrice, à Genval, Belgique, 1957).
Trước tiên, ta thấy đứa trẻ bị quỷ nhập tỏ ra rất ghét những vật đã được làm phép, mặc dù nó sinh ra trong một gia đình Kitô giáo và được giáo dục về đức tin hẳn hoi. Tác phẩm đó có viết:
"Đối với nó, nhà thờ là một cái chuồng heo, nước thánh là một thứ nước ghê tởm, các linh mục là những cái váy đen, các nữ tu săn sóc bệnh nhân là những đống rác, người Công giáo là đồ đểu, các trẻ em là những con chó nhỏ".
Ma quỷ dùng miệng đứa trẻ để nói. Khi ma quỷ biểu lộ sự hiện diện của nó, thì đứa trẻ giống như một người xuất thần, bị lả đi như chết. Lúc khác nó như một cậu bé điển trai, mặc dù xanh xao, u sầu và có điệu bộ của một đứa trẻ bất hạnh.
Tại viện mồ côi, nơi người ta dẫn nó tới, nó tỏ ra điềm tĩnh, chỉ chơi và đi dạo trong sân. Chưa bao giờ nó học tiếng Pháp, thế mà nó trả lời cho các khách tham quan bằng một thứ tiếng Pháp hoàn hảo không chê được, và trả lời bằng cả tiếng Latinh nếu người ta hỏi nó bằng thứ tiếng này, mặc dù nó chưa bao giờ dùng cũng như chưa bao giờ học thứ tiếng này. Nó tự do đi khắp nơi, trừ nhà nguyện. Khi nó đi gần nơi thánh này, cho dù người ta bịt mắt nó để nó không biết người ta dẫn nó đi đâu, thì nó vẫn cứng người lại, sủa lên như chó, và từ chối tiến tới. Lúc đó gương mặt của nó trông rất ghê tởm. Nếu người ta rảy nước thánh lên người nó, thì nó co rúm lại như một con sâu bị đạp lên, và nó chỉ trở lại bình thản nếu người ta để cho nó được đi chỗ khác. Ngày được chọn để làm phép trừ quỷ là ngày 3.10.1869. Cần phải dùng sức mạnh để cưỡng ép đứa trẻ tới nhà nguyện.
Tại đó, nó được trói vào một cái ghế bành, và có ba người đàn ông giữ chặt lấy nó. Đó là các ông Schrantzer, Hausser, và anh giữ vườn André. Nó được đặt trên một tấm thảm, trước bàn cho rước lễ, gương mặt hướng về nhà tạm. Đôi má nó có sắc đỏ như bị lên cơn sốt. Miệng nó sùi bọt chảy xuống tận đất. Nó quay qua quay lại đủ hướng, y như nó đang ở trên một cái vỉ nướng, còn mắt thì tìm chỗ nào có cửa để ra. Người làm phép trừ quỷ là cha Souquat, được Đức Cha Raess, Giám mục Strasbourg uỷ quyền. Ngay giây phút đầu, cha cảm thấy ngần ngại, vì nghe thấy từ miệng đứa trẻ mà cha vừa mới biết, thốt lên một cách hung tợn bằng một giọng khàn khàn và dữ dằn:
" Hãy cút khỏi mặt tao! Hãy ra khỏi đây tên đểu giả kia!".
Bị sững sờ và hầu như mất hết bình tĩnh, vị linh mục trừ quỷ được nhiều giáo sĩ cao cấp và các nữ tu vây quanh, đã trấn tĩnh lại và bắt đầu đọc kinh cầu các thánh. Tới câu "Thánh Maria. Cầu cho chúng con", con quỷ thốt ra những tiếng kêu dễ sợ: "Hãy ra khỏi cái chuồng heo này, tên đểu giả kia. Ta không muốn", nó rên rỉ như thế. Nó lập lại những lời rên rỉ đó mỗi khi nghe kêu cầu một vị thánh. Nhất là càng kêu to hơn khi tới câu: "Các thánh thiên thần và Tổng lãnh thiên thần, cầu cho chúng tôi!". Một lát sau, khi linh mục trừ quỷ đọc: "Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi cạm bẫy ma quỷ", thì đứa bé bị quỷ nhập rùng mình và run rẩy cả tay chân. Nó rú lên dữ tợn, đồng thời vặn vẹo thân mình dữ dội, đến nỗi ba người đàn ông phải mệt lắm mới dành được nó.
Kinh cầu các thánh chấm dứt, vị linh mục tới trước mặt nó và tiếp tục đọc các kinh trong sách các phép.
Nó không ngừng kêu lên: Hãy ra khỏi cái chuồng heo này, tên đểu giả kia!". Nhưng khi linh mục đọc tới câu bằng tiếng Latinh "Gloria Patri, et Filio,..." (Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con...), thì con quỷ kia kêu lên bằng miệng đứa trẻ vốn không biết tiếng Latinh: "Ta không muốn!". Câu đó được giải thích như sau: "Ta không muốn tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Trước khi đọc Tin Mừng thánh Gioan trên nó, như sách Các phép truyền phải đọc, linh mục làm một dấu thánh giá trên nó, và liên tiếp trên trán, trên miệng, trên trái tim, khiến cho nó lại rống lên nhiều lần nữa. Đứa trẻ tìm cách cắn vào tay cha Souquat. Lúc đó cha bắt đầu cuộc đối thoại sau đây bằng tiếng Đức:
_ Hỡi thần của tối tăm, con rắn bị đạp đầu! Ta, linh mục của Thiên Chúa, nhân danh Thiên Chúa, ta ra lệnh cho mi phải nói mi là ai?
_ Chuyện đó không can hệ gì tới mi cả, tên đểu giả! Ta muốn nói thì mới nói!
_ Đó đúng là thái độ và lời nói kiêu kỳ của mi mà mi đã dùng để nói với Đấng Toàn Năng khi Ngài đuổi mi ra khỏi Thiên đàng. Nhưng ta lập lại điều này, Satan, mi hãy ra khỏi đây, hãy ra khỏi nhà thờ này! Mi không thuộc về Nhà của Thiên Chúa, mà thuộc về bóng tối!
_ Không, Satan kêu lên, ta không muốn. Giờ ta chưa đến!
Việc trừ quỷ đã kéo dài 3 tiếng rồi. Vị linh mục đã hết sức mệt mỏi và đổ mồ hôi. Cha bèn tạm ngưng nghi thức. Ngay khi đứa trẻ ra khỏi nhà nguyện, nó hoàn toàn điềm tĩnh trở lại.
Ban tối, nó nói điều suy nghĩ này với cha Schrantzer, người đã đưa linh mục trừ quỷ tới bằng xe.
_ A! Cha đã trao cho ông ấy một tấm ảnh! Nó nói.
_ Cho ai vậy? Cha hỏi.
_ Tất nhiên cho ông lái xe!
Quả thật, cha đã cho ông lái xe một tượng ảnh của thánh Bênêđictô, nhưng chắc chắn Thiébaut không thể trông thấy cử chỉ đó của cha. Vì thế cha hỏi lại:
_ Làm sao con biết điều đó? Nếu không phải như thế thì con đã làm gì?
_ Nếu không có tượng ảnh đó thì con đã lật đổ xe, cả người lẫn ngựa. Con đã chạy tới ngay bên cạnh!
_ Vậy hãy nói, chúng ta đã làm cho con rất khổ sở: con có biết ai đã ban phép lành cho con không?
_ Biết chắc chắn, ông ta đã đuổi mất một trong những người chủ của chúng tôi...
Quả thật, trước đó nhiều năm, cha Souquat đã đuổi quỷ ra khỏi một căn nhà. Nhưng làm sao đứa trẻ này biết được điều đó?
Những chi tiết nhỏ này giúp cha Souquat xác định rõ hơn điều cha đã chắc chắn, là Thiébaut đã thực sự bị quỷ nhập.
Vì thế, cha chuẩn bị màn thứ hai.
CUỘC TẤN CÔNG CUỐI CÙNG
Hôm sau, thứ hai 4.10.1869, vào lúc 2 giờ trưa, phép trừ quỷ lại được thực hiện với sự hiện diện của những nhân chứng ngày hôm trước.
Người ta buộc chặt đứa bé vào cái ghế bành màu đỏ và bắt nó mặc một cái áo trói (thường dùng cho người điên). Ma quỷ vẫn luôn luôn muốn biểu lộ sự có mặt của nó. Nên bỗng nhiên người ta thấy chiếc ghế bành cùng với đứa trẻ bay lên trên không, bất chấp ba người lực lưỡng cố gắng níu giữ lại, khiến họ bị xô nhào sang bên trái cũng như bên phải. Cùng lúc đó, đứa trẻ bị quỷ nhập rống lên ghê rợn và miệng nó phóng nước bọt ra.
Tuy nhiên, người ta cũng kéo nó xuống được, và bắt đầu nghi thức trừ quỷ. Hai tiếng đồng hồ trôi qua, sau khi đọc kinh cầu các thánh và những kinh nguyện mở đầu trong sách Các phép, linh mục trừ quỷ đứng dậy và một lần nữa kêu gọi ma quỷ:
_ Hỡi thần ô uế, lúc này giờ của mi đã đến, nhân danh Giáo Hội Công giáo, nhân danh Thiên Chúa, và nhân danh ta, là linh mục của Thiên Chúa, ta ra lệnh cho mi phải nói các ngươi có bao nhiêu đứa?
_ Điều đó không liên can gì tới mi cả, thằng đểu!
_ Đó là những lời nói kiêu ngạo mà mi và những người ở hoả ngục cứ ngoan cố nói hoài! Mi thuộc về vực sâu chứ không phải thuộc về ánh sáng! Hãy trở lại đó đi, hỡi thần ô uế!
_ Ta không muốn trở lại đó, ta muốn đi chỗ khác!
_ Này Satan! Ta ra lệnh cho mi nói cho ta biết tụi mi có bao nhiêu đứa?
_ Chúng ta chỉ có 2 thôi!
_ Mi tên gì?
_ Oribas.
_ Còn đứa kia?
_ Ypès.
_ Được! Hỡi các thần ô uế! Ta ra lệnh cho các ngươi phải ra khỏi nhà của Thiên Chúa: các ngươi không được làm gì ở đây cả. Hỡi các thần của hư mất! Hãy ra khỏi đây: ta ra lệnh cho các ngươi nhân danh Bí tích Thánh Thể! ...
_ Ta không muốn ra! Thằng đểu, mi không có quyền hành gì cả. Giờ ta chưa tới!
Vị linh mục một lần nữa lại nhễ nhại mồ hôi, ngài run rẩy. Những người chứng kiến cũng xúc động không kém, thậm chí sợ hãi nữa. Tuy nhiên, cha Souquat lại tiếp tục cuộc chiến. Cầm một cây thánh giá, cha đứng giơ trước mặt người bị quỷ nhập và nói:
_ Hỡi Satan khốn kiếp, mi không dám nhìn thẳng vào hình ảnh này, và mi quay mặt đi để khỏi phải trông thấy, mi thách thức linh mục. Ta ra lệnh cho mi, hãy ra khỏi đây, và hãy trở về hoả ngục là nơi dành cho mi!
_ Ta không muốn đi, con quỷ kêu lên, ở đó không tốt.
_ Đúng ra mi phải vâng lời Thiên Chúa, nhưng mi đã tự gây bất hạnh cho mi. Mi thích làm thần tối tăm hơn. Hãy rút lui ra khỏi ánh sáng, và hãy cút vào trong bóng tối đã được dọn sẵn cho mi!
_ Giờ ta chưa đến, ta không đi!
Vị trừ quỷ cầm cây đèn cầy đã được Đức Thánh Cha làm phép, và nói nhấn mạnh:
_ Hỡi Satan kiêu căng, ta đặt cây đèn cầy này trên đầu mi để chỉ cho mi con đường xuống hoả ngục. Ở đây là ánh sáng của Giáo Hội Công giáo, còn mi là thần của tối tăm. Phải, hãy trở về hoả ngục để gặp các đồng chí của mi.
_ Ta ở lại đây, vì ở đây thì tốt, còn ở hoả ngục không tốt.
Để kết thúc, vị linh mục cầm trong tay một bức tượng Đức Trinh Nữ Maria, và nói:
_ Mi có thấy Đức Trinh Nữ Maria không? Một lần nữa, Ngài sẽ đạp dập đầu mi! Ngài sẽ ghi và in trên ngực mi danh hiệu Giêsu và Maria để những danh hiệu đó sẽ thiêu đốt mi đời đời... Vậy, mi không nhượng bộ phải không? Ta đã ra lệnh cho mi nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Giáo Hội Công giáo, nhân danh Đức Thánh Cha, nhân danh Bí tích Thánh Thể. Mi vẫn giả điếc trước lời của linh mục. Này Satan, bây giờ chính Mẹ của Thiên Chúa ra lệnh cho mi! Ngài ra lệnh cho mi ra khỏi đây! Hỡi thần dơ bẩn, hãy trốn khởi Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội! Ngài ra lệnh cho ngươi phải đi!
Lúc đó, cả cộng đoàn tham dự đọc kinh Hãy nhớ (Memorare) bằng tiếng Latinh. Bỗng nhiên, bằng một giọng trầm trầm cương quyết, con quỷ kêu lên:
_ Được, ta sẽ đi!
Lúc đó, đứa trẻ đáng thương bị quỷ nhập vặn vẹo mình như một con giun bị người ta đạp trúng. Mọi người nghe thấy một tiếng rắc khô khan. Đứa trẻ duỗi người ra, cúi xuống và bất tỉnh. Con quỷ đã ra khỏi.
Cảnh tượng ấy khiến những người ở đó vốn đã sợ hãi lại hốt hoảng thêm. Trước đây một chút, họ trông thấy khuôn mặt Thiébaut đỏ bừng, đầy vẻ đe doạ và giận dữ, và họ đã nghe những câu trả lời đầy kiêu căng của Satan.
Bây giờ thì đứa trẻ đang ngủ thiếp đi, ngủ một tiếng đồng hồ. Ma quỷ đã ra khỏi nó. Khi người ta đưa ảnh Chúa Kitô đến trước mặt nó, hoặc rảy nước thánh trên người nó, nó không còn phản ứng nữa. Nó để cho người ta bồng nó vào phòng của nó một cách dễ dàng. Sau một thời gian ngắn, nó thức dậy, dụi mắt, và tỏ ra hết sức ngạc nhiên khi trông thấy chung quanh nó biết bao người mà nó không quen. Cha Schrantzer, người mới nói chuyện với nó hôm trước, hỏi nó:
_ Con có nhận ra cha không?
_ Không, con không biết cha!
Mẹ nó cũng có mặt ở đó. Chị ta reo lên vui mừng. Thằng Thiébaut của chị trước đây bị quỷ làm cho điếc, bây giờ lại nghe được bình thường, và nó đã được chữa khỏi quỷ nhập. Tất cả những người chứng kiến đều tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội một quyền năng cao cả như thế. Người mẹ và đứa trẻ trở về Illfurth với hy vọng rằng đứa em bị quỷ nhập cũng sẽ tới phiên được chữa lành sớm.
TRỪ QUỶ CHO JOSEPH
Điều kỳ lạ là khi trở về nhà, Thiébaut không còn nhớ gì nữa. Bốn năm vừa qua sống trong tình trạng bị quỷ nhập đã bị xoá khỏi ký ức. Nó không còn nhận ra cha sở của nó, cha Brey, một linh mục rất đạo đức, mà người ta đã so sánh với cha sở thánh họ Ars, và như người ta nói, cha cũng bị ma quỷ quấy nhiễu như ngài. Nó không nhớ là đã thấy toà thị trưởng mới. Nó đưa cho em nó những bức ảnh đã làm phép mà nó đem từ Strasbourg về. Nhưng Joseph ném xuống đất và nói:
_ Mày giữ lấy cho mày đi! Tao không thích mấy cái đó!
_ Nó có bị điên không má? Thiébaut hỏi mẹ.
Người ta tránh không nói cho nó biết trước đây nó cũng bị tình trạng như thế. Nó không nhớ gì nữa cả.
Thứ tư 6.10.1869, đứa em bị quỷ nhập kêu lên:
_ Hai đồng chí của tao - người ta hiểu nó nói đến Oribas và Ypès, hai con quỷ đã bị đuổi ra khỏi Thiébaut - đều là những thằng nhát gan. Hiện tại tao là chủ và là người mạnh nhất. Tao sẽ không ra khỏi đây trước 6 năm. Tao sẽ chọc quê mấy ông thầy tu.
Ông Tresch, làm thị trưởng, và là một Kitô hữu rất tốt, hỏi nó:
_ Mày mạnh thế à?
_ Đương nhiên, nó nói, ta thích ở đây. Ta đang sống trong cái tổ chim rất là ấm áp. Ta chỉ rời khỏi đây khi nào ta muốn.
Tuy nhiên, không để lâu, cha Brey đã xin toà Giám mục cho phép trừ quỷ. Đang khi Thiébaut lại trở thành đứa trẻ ngoan ngoãn như ngày xưa, đi nhà thờ và đi học, xưng tội và rước lễ đàng hoàng, không còn nhớ 4 năm bị quỷ nhập nữa, thì tình trạng của Joseph càng ngày càng tệ đi. Cuối cùng, phép trừ quỷ của toà Giám mục đã về tới, cha sở ấn định ngày trừ quỷ là ngày 27.10. Tuy nhiên chuyện này được giữ kín để tránh tình trạng người ta kéo tới xem đông quá. Hôm đó là Chúa nhật, chỉ có một vài nhân chứng được mời tới dự. Và nghi thức trừ quỷ được cử hành tại nhà nguyện của nghĩa trang Burnkirch, cách làng khoảng 15 phút đi bộ. Hiện diện tại đó có ông thị trưởng Tresch, cha mẹ đứa trẻ, thầy giáo, ông trưởng nhà ga, cô giáo trường nữ sinh, giáo sư Lachemann, ông Spies và ông Martinot.
Vào lúc 6 giờ sáng, khi thánh lễ bắt đầu, thì đứa trẻ bị quỷ nhập bắt đầu giậm chân và nghiêng người xuống đủ mọi phía. Người ta phải trói chân trói tay nó lại. Chưa đọc xong các kinh dưới chân bàn thờ thì đứa trẻ đã tự cởi trói được, và đá những sợi dây trói đó lên tới chỗ cha làm lễ. Ông Martinot phải giữ chặt nó lại trên đầu gối của ông. Nó bắt đầu kêu lên những tiếng ú ớ, sủa ăng ẳng như chó con, kêu ủn ỉn như lợn con. Tuy nhiên, nó giữ được bình thản từ kinh "Thánh, Thánh, Thánh..." cho đến hết lễ.
Sau khi cởi áo lễ, mặc áo surplis và dây các phép (stola), cha sở bắt đầu làm phép trừ quỷ. Khi tới phần đối thoại với quỷ theo nghi thức, cha Brey ra lệnh cho nó nói có bao nhiêu con quỷ trong đứa nhỏ. Nó trả lời khô khốc: "Mi không cần biết điều đó!". Cha sở lại tiếp tục, nó nói ra tên Ypès, là một trong những con quỷ đã nhập vào anh đứa bé.
Trong khi đọc Tin Mừng Gioan, thằng nhỏ bị quỷ nhập kêu lên: "Tao sẽ không đi đâu cả!". Và nó chửi rủa vị trừ quỷ như tát nước. Vị này vẫn tiếp tục công việc suốt 3 tiếng đồng hồ. Các tham dự viên bắt đầu chán và nản. Nhưng cha sở, mặc dù chính cha đã hết sức mệt rồi, mồ hôi ra nhễ nhại, cha cũng khuyến khích họ đừng bỏ cuộc. Trong thời gian đó, ông thị trưởng Tresch giữ đứa nhỏ. Mệt quá, ông ta phải chuyển nó cho giáo sư Lachemann, thấy vậy, con quỷ kêu lên:
_ Mi cũng ở đây hả, thằng mũi tẹt?
Trong thời gian đó, cha sở quỳ gối trước bàn thờ, cầu nguyện một lát, và hứa sẽ làm tuần chín ngày tạ ơn nếu việc trừ quỷ thành công.
Từ trên bàn thờ xuống, cha sở nói với đứa trẻ:
_ Nhân danh Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, ta khẩn thiết truyền cho mi ra khỏi đứa trẻ này!...
Satan tức giận trả lời:
_ Làm sao bây giờ, tên kia đã cầu cứu tới cái Bà Vĩ Đại ấy của hắn! Kìa, ta buộc phải ra khỏi thôi!
Nghe những lời đó, cả cộng đoàn tham dự cảm thấy xúc động sâu xa. Tất cả đều hiểu rằng đứa trẻ sắp được chữa lành, mà nguyên nhân là do Đức Trinh Nữ Maria. Cha sở lặp lại lệnh truyền vừa rồi. Con quỷ bèn la lên:
_ Ta đi, ta sẽ nhập vào một đàn heo!
_ Mi phải vào hoả ngục! Vị linh mục ra lệnh.
_ Ta muốn nhập vào một đàn ngỗng! Nó năn nỉ.
_ Mi phải vào hoả ngục! Linh mục lập lại, mỗi lần đều nói lại lời ra lệnh theo đúng chỉ dẫn của sách Các phép.
_ Tao không biết đường đi tới đó! Satan nói. Ta sẽ nhập vào một bầy cừu!
_ Mi phải vào hoả ngục!
_ Bây giờ thì tình thế bắt buộc ta phải ra đi! Con quỷ thét lên.
Sau những lời này, đứa trẻ quay sang phải rồi sang trái, đồng thời duỗi ra, phùng má lên, và co giật lần cuối cùng rồi ngã xuống, đồng thời đột nhiên trở nên im lặng và bất động. Người ta cởi trói cho nó, tay của nó thõng xuống như không còn sinh lực, đầu ngửa về phía sau. Nhưng tình trạng đó chỉ kéo dài trong chốc lát. Rồi người ta thấy nó vươn vai như một người tỉnh giấc, nó mở to đôi mắt mà trước đó đã nhắm tịt suốt buổi lễ trừ quỷ, và tỏ ra ngạc nhiên thấy mình trong nhà nguyện với những người chung quanh.
Ngay từ đầu, con quỷ đã nói: "Nếu ta buộc phải ra đi, ta sẽ đánh dấu sự ra đi của ta bằng cách phá huỷ một cái gì đó". Quả thật, người ta thấy xâu chuỗi trên cổ đứa trẻ và sợi dây có thánh giá ở ngực bị đứt thành từng khúc. Tuy nhiên, nó lại không làm đứt được những sợi dây trói chân trói tay đứa trẻ.
Tất cả những người hiện diện đều ngạc nhiên về cảnh tượng vừa xảy ra. Họ hát bài Tạ ơn Thiên Chúa (Te Deum), kinh cầu Đức Mẹ, và kinh Lạy Nữ Vương (Salve Regina). Lời kinh bị ngắt ra vì những tiếng khóc nức nở. Cha Brey cảm thấy như bị tê liệt vì xúc động và nước mắt.
Chứng từ duy nhất cho thế giới! Ở làng Illfurth, gần công trường, trong một cái vườn, tại địa điểm nhà của hai đứa trẻ bị quỷ nhập nay đã bị phá hủy, vẫn còn một công trình kỷ niệm để ghi nhớ lâu dài những sự kiện chúng ta vừa nói tới. Đó là một cái cột cao có nổi lên rải rác những ngôi sao, trên đỉnh có tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Trên bệ, người ta đọc thấy một câu viết bằng tiếng Latinh, mà chúng tôi dịch ra như sau:
"Muôn đời ghi nhớ việc chữa lành cho hai em Thiébaut và Joseph Burner bị quỷ nhập, nhờ lời cầu bầu của Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, năm của Chúa 1869".
Công trình này được dựng lên năm 1872 nhờ sự quyên góp, ngày nay vẫn còn được bảo tồn cẩn thận.
TRƯỜNG HỢP CỦA HÉLÈNE POIRIER
Trước khi đề cập đến trường hợp lạ lùng của một phụ nữ bị bùa mê ở Plaisance trong chương sau, chúng tôi muốn kể sơ qua một vài trường hợp khác. Trước hết là trường hợp của Hélène Poirier.
Bà này, một phụ nữ rất tốt, đã phải trải qua những thử thách khủng khiếp. Bà sống tới 80 tuổi, mất năm 1914. Cha Champault đã kể lại chi tiết những bất hạnh do ma quỷ gây ra cho bà trong một cuốn sách tựa đề Une possédée contemporains (một phụ nữ bị quỷ nhập thời hiện đại, 1834-1914) (Paris, Téqui). Tác giả đã tuỳ nghi sử dụng một tài liệu chính xác và đầy đủ. Lúc đó cha Champault điều khiển một tu hội ở Gien (Loiret) chính cha đã chứng kiến tận mắt phần lớn những sự kiện mà cha kể lại. Ngoài ra, cha còn có trong tay tài liệu rất phong phú của hai cha sở kế tục nhau phụ trách họ đạo Coullons, là họ đạo của người bị quỷ nhập. Cuối cùng, chính bà này đã giúp việc cho cha Champault trong nhiều năm, và cha vẫn giữ liên lạc với bà cho tới khi bà mất.
Hélène Poirier là ai? Là một cô gái tốt lành ở miền quê làm nghề buôn vải. Không ai hiểu tại sao Thiên Chúa lại cho phép ma quỷ quấy phá cô gái liêm chính này liên tục không dứt như vậy. Cô bị quỷ ám ảnh và chiếm hữu liên tiếp. Hai từ này (ám ảnh và chiếm hữu) chỉ những mức độ biểu hiện khác nhau của ma quỷ. Nếu người ta có thể gán cho những sự kiện loại này "khả-năng-có-một-mục-đích" (finalité) nào đó, mà không có nó thì Thiên Chúa đã không cho phép chúng xảy ra, thì có lẽ là Thiên Chúa Quan Phòng muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng: nếu để cho ma quỷ hoạt động tự do, chúng sẽ gây ra những nguy hiểm đáng sợ mà chúng tôi đã trình bày. Chúng ta biết rằng ma quỷ không được phép làm tất cả mọi chuyện. Thật là may mắn cho loài người khốn khổ chúng ta.
Hãy trở lại với Hélène Poirier. Có thể nói là cuộc đời cô được dệt bằng những trò hiếp đáp của ma quỷ, bằng những trận đòn nhục nhã, bằng những lần bị nhấc bổng lên khỏi mặt đất,...
Cô ta bị ma quỷ chiếm hữu (hiểu theo nghĩa đen) ít nhất là hai lần, trong vòng 6 năm. Cả hai lần, cô đều được lãnh nhận phép trừ quỷ. Giữa khoảng thời gian này, cô rơi vào tình trạng bị ám ảnh với những mức độ khác nhau. Theo một nghĩa nào đó, cô là nạn nhân của ma quỷ, là người tử đạo vì sự độc ác của nó trong phần lớn đời sống của cô.
Đằng khác, nơi cô ứng nghiệm những gì mà Đức Cha Saudreau đã dạy chúng ta, chẳng hạn như sự can đảm và kiên nhẫn của nạn nhân quỷ nhập có thể trở thành những nguồn ân sủng siêu việt cho họ.
Trong phần thứ hai cuộc đời cô, Hélène Poirier được Thiên Chúa thưởng cho những an ủi lạ lùng, xảy ra song song với những tấn công của ma quỷ, đó là sự can thiệp của Thiên Thần bản mệnh, cho cô thấy những thị kiến về Đức Trinh Nữ và chính Chúa Giêsu.
Để hiểu được ma quỷ quấy rối cô hung bạo thế nào, chúng ta phải đối diện với vô số sự kiện, mà đây chỉ là một cái nhìn bao quát.
Khi còn sống với mẹ trong cảnh nghèo khổ cùng cực, Hélène đã phải chịu những cú bạt tai, đấm đá, và cả những mưu toan thắt cổ cô của những kẻ thù vô hình này, trước con mắt bất lực của mẹ cô. Đó không phải là những ảo ảnh tưởng tượng, vì mặt mũi và tay chân cô phải mang những dấu vết của những đối xử tàn tệ đó, đôi khi tồn tại suốt nhiều tuần lễ.
Ma quỷ tỏ hiện ra với cô dưới những hình thức xấu xa gớm ghiếc nhất. Nó đè lên người cô bằng sức mạnh của nó, nó quẳng cô xuống dưới đất - như thế vô số lần - nó táng vào mặt cô nhiều cú bạt tai.
Rất nhiều lần nó nâng cô lên khỏi mặt đất: những lần đó luôn luôn có một sức mạnh vô hình nắm lấy tóc cô, lôi cô đi khắp phòng của cô, kéo cô lên khỏi mặt đất, để rồi ném cô xuống đất, nửa sống nửa chết dưới gầm giường. Thậm chí có lần cô bỗng nhiên bị nắm đầu và bị đem lên bay trên các nhà cửa lân cận ở độ cao khoảng 40 mét.
Ban đêm, có những chuyện xảy đến cho cô giống như đã xảy ra cho cha sở họ Ars: một con quỷ lay động dữ dội những tấm màn ở giường cô, làm cho các thanh treo màn di chuyển ồn ào từ bên này sang bên kia theo cả hai chiều, cứ như vậy cả mấy tiếng đồng hồ. Hélène kêu cứu. Người ta chạy tới phòng cô. Phải có 20 người trông thấy những tấm màn ở giường quay vòng vòng như đã nói. Và người ta đã kể tên các nhân chứng đó để chúng ta không còn nghi ngờ về tính thực tế của sự kiện.
Dẫu Hélène Poirier được thánh hoá nhờ bao nhiêu đau khổ ấy, thì ít gì cũng phải có một người trong chúng ta sẽ cầu xin Thiên Chúa đừng dẫn mình tới sự thánh thiện bằng con đường khủng khiếp và man rợ như thế.
HAI TRƯỜNG HỢP QUỶ NHẬP KHÁC
Trong cuốn sách viết về những đứa trẻ bị quỷ nhập ở Illfurth, cha Francois Gaquère có kể hai trường hợp bị quỷ nhập khác, với ít chi tiết hơn rất nhiều. Hai trường hợp này xảy ra sau một thời gian ngắn. Chúng tôi chỉ kể lại những trường hợp này một cách sơ lược thôi.
Trước tiên là trường hợp của một thiếu nữ Phi Châu, thuộc dòng giống da đen Nam Phi, tên là Claire-Germaine Cèle, ở Natal (Nam Phi), 17 tuổi, hai lần bị quỷ nhập và hai lần được chữa khỏi. Lần thứ nhất được chữa khỏi nhờ phép trừ quỷ ngày 10.9.1906, và lần thứ hai ngày 24.4.1907. Cô thiếu nữ thổ dân này được rửa tội từ hồi nhỏ và được các nữ tu dòng truyền giáo giáo dục. Gia đình cô bị khủng hoảng bởi sự bất hòa: trong gia đình thường xảy ra những cuộc cãi lộn. Cô bé yếu ớt tỏ ra rất thất thường: sau khi rước Chúa lần đầu, cô đã sớm bỏ bê lãnh nhận các phép Bí tích. Đôi mắt cô trông thấy một bóng đen. Ban đêm cô ngủ không yên. Người ta nghe thấy cô khóc như người điên: "Tôi bị mất linh hồn rồi! Tôi đã xưng tội và rước lễ phạm sự thánh rồi! Tôi đã treo cổ tự tử!". Một hôm, cô ta cho cha Erasme, một linh mục thừa sai, xem một cái phiếu, mà cô nói rằng trong đó cô đã tự bán mình cho ma quỷ. Ngày 20.8.1906, cô tỏ ra đau khổ hơn bình thường. Cô nghiến răng, sủa như một con chó và kêu cứu. Cô nói với chị cô:
"Chị ơi! Hãy kêu cha Erasme tới! Em muốn xưng tội và thú nhận tất cả. Nhưng hãy lẹ lên, vì ma quỷ muốn giết em. Nó đang chế ngự em. Em không còn một vật gì đã làm phép cả, em đã làm mất tất cả các ảnh đeo mà chị cho rồi!".
Tới đây, người ta có thể nghĩ rằng đó chỉ là những khủng hoảng do việc sa sút về trí tuệ thôi. Nhưng thật ra có nhiều triệu chứng rất rõ cho thấy đó là chứng quỷ nhập. Germaine sợ sệt tất cả những đồ vật đã được làm phép, cô đẩy chúng ra xa và nói rằng chúng thiêu đốt cô. Cô biết được những chuyện ở xa và bí mật. Cô đều hiểu được mọi thứ tiếng mà người ta nói với cô, cô có thể lập lại những công thức rất dài bằng tiếng Latinh ở trong sách Các phép. Cô còn sửa sai những ai bị lầm lẫn khi đọc những công thức đó. Con quỷ ở trong người cô rất lắm chuyện, nó thích nói ra những cách cư xử thân mật, cũng như những tội lỗi bí mật của những người tới xem, khiến cho đa số bị mắc cỡ phải chạy trốn. Nó tỏ ra giận dữ khi người ta kêu cầu thánh danh Giêsu hay Maria.
Đối với nạn nhân, nó làm cho cô đủ mọi hành động độc ác. Khi thì nó kéo cô lên trên không khí mà không một sức mạnh nào có thể cầm giữ lại được, khi thì nó làm cho lồng ngực và bụng cô phình to lên, khi thì làm cho cái đầu của cô có một bề ngoài trông rất quái đản, đôi má của cô cũng phồng to lên như hai quả bóng, cổ thì dài ra, và một cái bướu hiện lên trông dễ sợ. Dưới lớp da của cô, có một cục tròn nổi lên và chạy khắp tay chân cô. Những lần khác cô ta trườn trên mặt đất như một con rắn, vừa trườn vừa phóng lưỡi ra. Nhưng chỉ cần rảy nước thánh hay có một linh mục ban phép lành cũng đủ làm mọi hành động tàn nhẫn đó ngưng lại ngay. Tuy nhiên, cảnh tượng cũng như hậu quả của trường hợp quỷ nhập này đã ảnh hưởng một cách cụ thể tới rất nhiều người. Một số người chứng kiến đã trở lại với Chúa, và một số rất lớn đã tăng trưởng lòng đạo đức của mình lên.
Nạn nhân được trừ quỷ hai lần đều có kết quả, điều đó chứng tỏ quyền năng của các kinh nguyện trong Giáo Hội. Lần trừ quỷ sau do chính Đức Giám Mục Henri Delalle làm, ngài là người Apremont, gần Metz, xứ Lorraine, ngài thuộc dòng Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Trong khi cử hành nghi thức trừ quỷ, có xảy ra một biến cố mà nếu không có nhiều người làm chứng thì khó mà tin được. Sau nghi thức cầu nguyện dài hai tiếng rưỡi, cô gái bị quỷ nhập bỗng nhiên bay cao lên 2 mét, và nói với vị Giám Mục đang ngạc nhiên: "Này ông Giám Mục, tại sao ông lại nhìn tôi ngạc nhiên thế? Ông hãy bắt chước tôi xem!". Cùng lúc đó, nó phát ra một tiếng cười ghê rợn làm các người hiện diện đứng tim! Dẫu sao, cuối cùng cô bé đã được chữa khỏi. Sau đó cô sống một đời sống tốt đẹp, và 6 năm sau cô chết vì một chứng bệnh ở ngực, ngày 14.3.1913. Con quỷ không trở lại với cô lần nào nữa. Thử thách của cô cũng chấm dứt như của các em ở Illfurth. Các em không bị ma quỷ hành hạ nữa, nhưng cả hai đều chết yểu: Thiébaut chết lúc 16 tuổi, còn người em là Joseph, chết năm 1882, lúc được 25 tuổi.
CÁC NỮ TU BỊ QUỶ NHẬP TẠI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ PHÁT DIỆM
Trường hợp quỷ nhập thứ hai mà cha Gaquère kể lại là một trường hợp quỷ nhập tập thể. Những sự kiện này được ghi lại trong một tập sách nhan đề Bullotin de la Société des Missions étrangères de Paris (Tập san của Hội Thừa sai Paris ở ngoại quốc), in tại Hồng Kông vào những năm 1949-1950. Tác giả những bài này là Đức Cha Cooman, đã từng làm Giám mục phó Thanh Hóa. Các trường hợp quỷ nhập này đã xảy ra ở Phát Diệm, thuộc tỉnh Ninh Bình, miền bắc Việt Nam vào năm 1924-1925.
Nạn nhân đầu tiên là một tập sinh thuộc dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm, một dòng tu địa phương. Khi mới bắt đầu xảy ra, thì có những tiếng động dữ dội, và dường như có một bàn tay vô hình giáng xuống người của chị Maria Diện, lúc đó đang làm tập sinh, và có những hòn đá từ đâu ném tới, hoặc những cây gậy đánh vào người không phải chỉ một mình chị Diện, mà còn đánh cả những người tới cứu chị nữa.
Việc bách hại này từ đâu đến vậy? Trong các trường hợp quỷ nhập, không phải lúc nào cũng biết được nguồn gốc. Sau này chúng tôi sẽ đưa ra những thí dụ về nguồn gốc rõ ràng của chứng quỷ nhập: những thầy pháp có kí kết những giao ước với ma quỷ có thể can thiệp hay nhúng tay vào chuyện này. Trong trường hợp của Germaine Cèle mà chúng ta vừa nghe kể sơ lược có nguyên nhân là cô đã rước lễ một cách không nên, phạm sự thánh. Đối với hai em bị quỷ nhập ở Illfurth, người ta phỏng đoán là do một phụ nữ bị nghi là phù thuỷ đã cho các em ăn một trái táo có bùa phép. Trong trường hợp của chị Maria Diện, thì có một thanh niên 20 tuổi, tên Minh, khi hành hương tới chùa Đền Sòng, một chùa ngoại đạo nổi tiếng, để xin các "thần linh" giúp hỏi cô gái này về làm vợ. Ngày 22.9.1924, con quỷ vừa đánh đập chị Diện ở mặt và miệng, vừa tuyên bố:
"Đây là lần thứ tư người ta tới chùa để hỏi mi về làm vợ! Vì thế, cuối cùng ta phải bắt mi". Sự hành hạ kì cục này xảy ra liên tục trong gần 2 năm, gây sợ hãi cho các tập sinh, có những tiếng động ghê rợn, có những vật được ném tới không biết từ đâu: đá, gỗ, khoai, chai rỗng, hay có những tiếng chim hót, ngựa hí, còi xe hơi kêu, hoặc có những tiếng đôm đốp ở cửa, tiếng cười ghê rợn, hay có những tiếng khóc lóc thổn thức nghe não nuột, hay những tiếng rầm rầm. Nói chung, có tất cả những gì chúng ta đã gặp trong trường hợp ma quỷ quấy phá cha sở thánh họ Ars.
Nhưng điều khủng khiếp nhất là các tập sinh khác cũng tới phiên bị phá phách nữa. Trong tu viện như có một sự truyền nhiễm kì cục. Tự nhiên các tập sinh lại thi nhau trèo lên những cây cau trong vườn, một loại cây cao từ 8 đến 10 mét. Muốn tránh trò leo trèo này, người ta phải để các cây thánh giá nho nhỏ ở thân các cây cau. Có sự kiện các tập sinh tự nhiên trốn ra khỏi nhà dòng một cách vô ý thức, mà sau đó không còn nhớ gì cả. Nhưng sự hiện diện của ma quỷ trong các tập sinh được biểu lộ rõ rệt nhất qua việc biết các thứ tiếng, và biết những chuyện bí mật một cách không thể giải thích theo tự nhiên được. Cuối cùng phải đi đến quyết định làm phép trừ quỷ. Không dưới 14 người bị quỷ nhập. Điều này khiến người ta nghĩ tới trường hợp quỷ nhập có tầm cỡ lịch sử của các nữ tu dòng Ursule ở Loudun vào thế kỷ 17.
Cuộc chiến đấu để trừ quỷ kéo dài và cam go. Con quỷ ra khỏi, nhưng sau đó trở lại một cách dữ tợn hơn. Do đó, những vị làm phép trừ quỷ phải hết sức kiên trì. Tháng 12.1925, nhà tập Phát Diệm mới tìm lại được sự bình an vĩnh viễn. Năm 1949, khi kể lại những sự kiện này, Đức Cha Cooman đã lưu ý rằng có một sự bình an tốt đẹp và những tâm tình sốt sắng luôn luôn được biểu lộ nơi các chị dòng Mến Thánh Giá này.
Trong số những người bị quỷ nhập, có 3 người đã trở thành những bà bề trên tuyệt hảo của tu viện. Chính chị Maria Diện, người đầu tiên bị quỷ nhập, về sau đã thực hiện hoàn hảo chức năng của một vị tập sư ở tu viện Thanh Hóa. Và chị đã qua đời ngày 6.8.1944 trong những tâm tình đạo đức cao siêu nhất.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top