GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
123
Chương VI:
HỌC THUYẾT VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
Thời lượng: 8 giờ tín chỉ (5 lý thuyết, 1 thảo luận, 1 tự học, 1 kiểm tra)
Mục tiêu của người học cần đạt được về kiến thức và kĩ năng:
- Nắm vững 5 đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
- Hiểu được sự hoạt động của quy luật giá trị và giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản
độc quyền
- Nắm được nguyên nhân ra đời, biểu hiện cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước
- Đánh giá được vai trò và hạn chế lịch sử của chủ nghĩa tư bản
I. Chủ nghĩa tư bản độc quyền
1. Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc
quyền
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C. Mác và Ph. Ăngghen đã dự báo
rằng: tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất
phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền.
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử mới
của thế giới, V.I. Lênin đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa
tư bản độc quyền, đồng thời Người nêu ra năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản độc quyền.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do
những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật
đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.
- Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất
hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát... đã tạo ra sản lượng lớn gang thép
với chất lượng cao; phát hiện ra hoá chất mới như axít sunphuaric (H
2
SO
4
), thuốc nhuộm;
máy móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay; phát triển
những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay và đặc biệt là đường
sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
124
xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao
động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.
- Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật
kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy ngày càng
mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất
quy mô lớn.
- Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy
mô tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà
tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập
trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm
phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập
trung tư bản.
- Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ
thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho
sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
Từ những nguyên nhân trên, V.I. Lênin khẳng định: "Tự do cạnh tranh đẻ ra tập
trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại
dẫn tới độc quyền"1.
2. Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
a) Tập trung sản xuất và sự hình thành độc quyền
- Cạnh tranh
- Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật
- Khủng hoảng kinh tế
Ngoài những nguyên nhân trên đây, sự phát triển của các tổ chức tín dụng tư bản
chủ nghĩa trở thành đòn bẩy thúc đẩy mạnh mẽ tập trung tư bản, tập trung sản xuất, thúc
đẩy hình thành các công ty cổ phần có quy mô hết sức to lớn.
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển như:
Anh, Pháp, Mỹ, tích tụ và tập trung tư bản, tập trung sản xuất đã đến mức rất cao. Các xí
nghiệp lớn chỉ chiếm khoảng 1% tổng số các xí nghiệp nhưng chiếm 3/4 tổng số hơi nước
và điện lực, gần1/2 tổng số công nhân và sản xuất ra gần một nửa tổng sản phẩm. Theo
1 V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.27, tr. 402.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
125
V. Lênin, tập trung sản xuất cao độ sẽ dẫn thẳng đến độc quyền. "...tự do cạnh tranh đẻ ra
tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định,
lại dẫn tới độc quyền"1. Độc quyền là sự liên minh giữa các nhà tư bản để chi phối việc
sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nhằm thu được siêu lợi nhuận
Các hình thức tổ chức độc quyền
Tổ chức độc quyền là sự liên minh giữa những nhà tư bản lớn để nắm trong tay
phần lớn những năng lực sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một ngành, một địa
phương; cho phép liên minh này giữ vai trò quyết định đến quá trình sản xuất và lưu
thông của ngành, địa phương đó.
Những liên minh tư bản độc quyền, thời kỳ đầu xuất hiện theo sự liên kết dọc, tức
là liên kết các xí nghiệp trong cùng một ngành dưới những hình thức độc quyền như
Cacten, Xanhdica, Tơ rớt.
Cacten là hình thức tổ chức độc quyền mà các xí nghiệp tư bản thành viên ký kết
với nhau các hiệp định để thoả thuận với nhau về giá cả, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh
toán... Tuy nhiên, các xí nghiệp tư bản thành viên tham gia vẫn độc lập về sản xuất.
Xanhdica là hình thức tổ chức độc quyền mà trong đó các nhà tư bản không chỉ
liên minh với nhau trong việc tiêu thụ sản phẩm, mua nguyên vật liệu... (việc mua bán
sản phẩm do một ban quản trị chung đảm nhiệm) mà còn thoả thuận với nhau cả về sản
lượng hàng hoá cung ứng trên thị trường. Do đó, khả năng chi phối giá cả thị trường của
Xanhdica cao hơn Cacten.
Tơ-rớt là hình thức tổ chức độc quyền mà các nhà tư bản thành viên tham gia Tờ-
rớt hoàn toàn mất độc lập về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Việc sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm do Hội đồng quản trị đảm nhiệm. Các nhà tư bản thành viên trở thành cổ đông,
quyền lợi và nghĩa vụ của họ do tỷ lệ vốn mà họ đóng góp vào Tờ-rớt quyết định.
Công-xooc-xi-om. Đây là tổ chức độc quyền vừa dựa trên sự liên kết dọc, vừa dựa
trên sự liên kết ngang, có quy mô rất lớn. Tham gia Công-xooc-xi-om có cả Cácten,
Xanhdica, Tơ-rớt. Do đó, sự tồn tại của hình thức tổ chức độc quyền này vững chắc hơn
Cácten, Xanhdica, Tơ-rớt. Do đa dạng hoá sản phẩm, Công-xoóc-xi-om hạn chế được rất
nhiều rủi ro trong kinh doanh.
Do có sức mạnh kinh tế to lớn, các tổ chức tư bản độc quyền có khả năng định giá
bán cao hơn giá cả sản xuất (giá cả độc quyền cao) và định giá mua dưới giá cả sản xuất
(giá cả độc quyền thấp) nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
1 V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.27, tr.402
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
126
- Mặc dù độc quyền ra đời từ cạnh tranh tự do nhưng sự xuất hiện các tổ chức độc
quyền không thủ tiêu được cạnh tranh mà tồn tại song song với cạnh tranh. Những hình
thức cạnh tranh chủ yếu là:
+ Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau;
+ Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền;
+ Cạnh tranh giữa tổ chức độc quyền và tổ chức không độc quyền;
+ Cạnh tranh giữa các tổ chức không độc quyền.
Trên cơ sở quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, các quy luật kinh tế của chủ nghĩa
tư bản vẫn hoạt động và phát huy tác dụng. Quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá
cả độc quyền; quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao.
Đối với từng hàng hoá, giá cả độc quyền tách rời giá trị nhưng tổng:
giá cả = giá trị
Do có thể định giá cả độc quyền, lợi nhuận của các nhà tư bản độc quyền giờ đây
không thuần tuý là lao động không được trả công của công nhân, mà còn bao gồm cả một
phần lao động của các tầng lớp xã hội khác ở trong nước và ở các nước thuộc địa. V.
Lênin đã chỉ ra là, độc quyền có xu hướng kìm hãm tiến bộ kỹ thuật. Điều này đã ảnh
hưởng xấu đến nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, ở nhiều nước tư bản phát triển, nhà
nước cũng phải hạn chế độc quyền bằng các đạo luật chống độc quyền, hoặc chống hạn
chế cạnh tranh. Do đó, hiện tượng độc quyền thuần tuý của một công ty (monopoly) được
thay thế bằng sự thống trị của vài ba công ty độc quyền (oligopoly). Trong một số ngành,
lĩnh vực, một nhóm công ty độc quyền (polypoly) giữ vai trò thống trị. Sự xuất hiện của
phương thức độc quyền mới này vừa hạn chế được cạnh tranh vô chính phủ, vừa hạn chế
được tiêu cực của tình trạng độc quyền thuần tuý.
Từ những năm giữa thế kỷ XX trở lại đây, sự thống trị của độc quyền có biểu hiện
mới: sự xuất hiện của các công ty độc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của
các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
nền kinh tế tăng lên. Điều đó xuất phát từ những lý do chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, do phân công lao động xã hội phát triển, các công ty độc quyền rất cần
các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vệ tinh cho mình trong việc cung cấp các chi tiết sản
phẩm. Điều đó có ý nghĩa rất to lớn trong việc giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm.
Thứ hai, trong giai đoạn hiện nay, thị trường chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố:
kinh tế, chính trị, xã hội... nên dễ biến động, thay đổi. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại
có khả năng thích ứng rất tốt với những thay đổi đó. Do quy mô nhỏ, các doanh nghiệp
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
127
vừa và nhỏ dễ tìm kiếm thị trường mới, tìm kiếm những "khoảng trống" ngay trong thị
trường của các nước tư bản phát triển.
Thứ ba, tiến bộ về công nghệ trong giai đoạn hiện nay diễn ra hết sức nhanh
chóng. Điều đó làm cho việc đổi mới công nghệ của các công ty lớn rất khó khăn vì phải
chịu chi phí rất lớn. Trong khi đó, việc đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ dễ dàng hơn rất nhiều. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thành lập mới có thể tiếp thu
ngay được công nghệ hiện đại nhất.
Thứ tư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có rất nhiều ưu thế trong tạo việc làm cho
người lao động, một vấn đề bức xúc với hầu hết các quốc gia. Các doanh nghiệp vừa và
nhỏ không cần vốn lớn nên dễ thành lập và cũng không nhất thiết phải sử dụng công nghệ
hiện đại. Vì vậy, khả năng tạo việc làm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất to lớn.
Như vậy, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên không phải là xu
hướng phi tập trung hoá, hoàn toàn không mâu thuẫn với tích tụ và tập trung sản xuất.
Đây chính là biểu hiện mới của tích tụ và tập trung sản xuất trong giai đoạn hiện nay.
b) Tư bản tài chính và bộn đầu sỏ tài chính
Cùng với quá trình tích tụ và tập trung trong sản xuất là quá trình tích tụ và tập
trung tư bản trong lĩnh vực ngân hàng. Khi tích tụ và tập trung tư bản trong ngân hàng đạt
đến trình độ nhất định, tổ chức độc quyền trong ngân hàng được hình thành.
Sự hình thành tổ chức độc quyền ngân hàng gắn liền với vai trò mới của ngân
hàng. Từ chỗ là trung tâm phát hành và quản lý tiền tệ, là trung tâm thanh toán, ngân
hàng có thêm chức năng kiểm soát và giám sát các hoạt động kinh tế do các tổ chức độc
quyền ngân hàng có sức mạnh rất lớn, nắm được phần lớn tư bản tiền tệ của xã hội.
Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng có thể nắm rất chắc tình tình hoạt động của các
doanh nghiệp và chi phối các hoạt động đó.
Giữa tư bản độc quyền ngân hàng và tư bản độc quyền công nghiệp cũng có mối
quan hệ kinh tế mới.
Tư bản độc quyền
ngân hàng
Tư bản độc quyền
công nghiệp
Tư bản tài chính
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
128
Tư bản tài chính là tư bản xuất hiện trên cơ sở tập trung sản xuất; là sự thâm nhập
hay "dung hợp" lẫn nhau giữa các tổ chức độc quyền ngân hàng và các tổ chức độc quyền
công nghiệp.
Tư bản tài chính phát triển ngày càng mạnh và có thế lực kinh tế rất lớn. Trong tư
bản tài chính có một nhóm nhỏ gồm những nhà tư bản giàu có nhất, có thế lực mạnh nhất
gọi là đầu sỏ tài chính.
Đầu sỏ tài chính thống trị nền kinh tế bằng chế độ "tham dự".
Cứ như vậy, chỉ cần vài tỷ đô la, các nhà tư bản tài chính có thể chi phối được
hàng trăm tỷ đô la của tư bản xã hội. Vì vậy tư bản tài chính, đặc biệt là đầu sỏ tài chính,
có đủ khả năng chi phối không những các hoạt động kinh tế, mà còn chi phối cả các
chính sách kinh tế, chính sách đối nội, đối ngoại của nhà nước tư sản. Đó cũng chính là
vai trò của tư bản tài chính.
Hiện nay, tư bản tài chính có biểu hiện mới. Đó là sự thay đổi trong các hình thức
tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài chính.
- Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học - công nghệ, cơ cấu các
ngành kinh tế của các nước tư bản phát triển có những thay đổi quan trọng: khu vực dịch
vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP; các ngành kinh tế có hàm lượng khoa học
cao xuất hiện... Do đó, tư bản tài chính còn là sự liên kết, dung hợp của tư bản độc quyền
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, làm xuất hiện các tập đoàn tài chính mới như: ngân hàng
- công nghiệp - quân sự; ngân hàng - công nghiệp - xây dựng - dịch vụ.
Công
ty mẹ
Công
ty con
Công
ty con
Công
ty con
Cty
Cháu
Cty
Cháu
Cty
Cháu
Cty
Cháu
Cty
Cháu
Cty
Cháu
Cty
Cháu
Cty
Cháu
Cty
Cháu
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
129
- Cơ chế thống trị của tư bản tài chính cũng có những thay đổi quan trọng. Hình
thức công ty cổ phần trở nên phổ biến hơn, số lượng cổ phiếu phát hành lớn hơn, mệnh
giá nhỏ hơn... làm cho người lao động, kể cả lao động làm thuê cũng có thể mua được cổ
phiếu, trở thành các cổ đông.
- Trong giai đoạn hiện nay, các tập đoàn tài chính các nước còn liên kết với nhau
để thành lập các tổ chức tài chính quốc tế nhằm chi phối đời sống kinh tế quốc tế như:
Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á
(ADB) ...
c) Xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị nhằm mục đích bóc lột giá trị thặng dư. Đến
thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu kinh tế.
Ở các nước tư bản phát triển đã tích luỹ được nhiều tư bản, nhưng lại không tìm được
nơi đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước. Trong khi đó ở các nước kinh tế kém phát triển
lại có nguồn tài nguyên dồi dào, sức lao động rẻ nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật. Vì vậy,
xuất khẩu tư bản trở thành một nhu cầu tất yếu để nâng cao tỷ suất và khối lượng giá trị
thặng dư....
Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức: xuất khẩu tư bản trực tiếp
(đầu tư trực tiếp-FDI) và xuất khẩu tư bản gián tiếp (đầu tư gián tiếp).
Từ sau chiến tranh thế giới Thứ hai trở lại đây, xuất khẩu tư bản có biểu hiện mới: xuất
khẩu tư bản vẫn là cơ sở của độc quyền quốc tế sau chiến tranh nhưng quy mô, chiều
hướng và kết cấu của xuất khẩu tư bản đã có bước phát triển mới.
Chiều hướng xuất khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt. Trước chiến tranh
thế giới Thứ hai, xuất khẩu tư bản chủ yếu là từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển sang
các nước thuộc địa. Nhưng từ sau chiến tranh thế giới Thứ hai cho đến cuối thập niên 80
của thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản chủ yếu diễn ra giữa các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển với nhau.
Sau chiến tranh thế giới Thứ hai, một số nước và lãnh thổ có vị trí hết sức quan
trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ như Đài-Loan, Hồng- Công, Sinh-ga-po, Hàn-
Quốc cũng đã tiếp nhận được lượng tư bản nước ngoài rất lớn và nhờ đó đạt được trình
độ phát triển kinh tế khá cao.
Từ cuối thập niên 80 trở lại đây, dòng tư bản chảy vào các nước đang phát triển
tăng lên rõ rệt, một số nước trong Tổ chức xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các nước hoặc
lãnh thổ công nghiệp mới cũng tham gia xuất khẩu tư bản. Như vậy, xuất khẩu tư bản
không còn là đặc quyền của các nước tư bản phát triển nữa.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
130
d) Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế
Quá trình xuất khẩu tư bản không ngừng phát triển cả về quy mô và trình độ. Mối
quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài trở nên chặt chẽ hơn. Sự
cạnh tranh giữa các tập đoàn tư bản độc quyền giữa các nước trở nên khốc liệt. Sự thoả
hiệp, sự liên minh với nhau giữa các tổ chức tư bản độc quyền các nước là một tất yếu
khách quan. Từ đây các hình thức tổ chức độc quyền quốc tế như Công-xooc-xi-om quốc
tế, Công-gơ-lô-mê-rat quốc tế... ra đời. Ngày nay người ta gọi chúng là các công ty xuyên
quốc gia, TNCs (Trans National Coporations).
Các liên minh độc quyền quốc tế phân chia nhau thế giới về kinh tế: phân chia thị
trường, nguồn nguyên liệu, khu vực ảnh hưởng. Khi tương quan lực lượng giữa các liên
minh độc quyền thay đổi, tất yếu sẽ dẫn đến cuộc đấu tranh giữa các liên minh đó để chia
lại thế giới về kinh tế.
Từ sau chiến tranh thế giới Thứ hai, do tính toàn cầu của nền kinh tế thế giới ngày
càng tăng, sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế có bước
phát triển mới. Để bảo vệ lợi ích của mình, các liên minh độc quyền quốc tế sử dụng các
nhà nước nhằm chi phối các tổ chức kinh tế khu vực. Năm 1948, "Liên minh than thép
Châu Âu" và sau đó là "Cộng đồng kinh tế Châu Âu", "Thị trường chung Châu Âu" ra
đời. Trong các tổ chức quốc tế đó, tư bản độc quyền Châu Âu hoàn toàn chi phối. Sau đó,
hàng loạt các tổ chức kinh tế khu vực khác xuất hiện. Hiện nay, thế giới có hai tổ chức
kinh tế khu vực có quy mô cực kỳ to lớn: Liên minh Châu Âu (EU) và Diễn đàn kinh tế
Châu Á - Thái bình Dương (APEC). Các tổ chức và các định chế kinh tế mang tính toàn
cầu như: Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế
giới (WB)... có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế quốc tế. Trong các tổ chức kinh tế đó,
các tập đoàn tư bản độc quyền quốc tế giữ vai trò rất quan trọng.
Để chống lại ảnh hưởng của các tập đoàn tư bản độc quyền quốc tế và hỗ trợ nhau
trong quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế, các nước đang phát triển cũng thành lập
các tổ chức kinh tế khu vực. Hàng loạt các tổ chức kinh tế khu vực khác được thành lập
như: Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Hiệp định buôn bán ưu đãi Nam Á
(SAPTA), Hiệp ước thương mại Mercosur Nam Mỹ (SCCM) .
e) Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nhu cầu về nguyên liệu, năng lượng càng
lớn. Hơn nữa, thị trường sản phẩm đầu ra là điều kiện sống còn của chủ nghĩa tư bản.
Đến giai đoạn độc quyền, do sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, thị trường nội địa
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
131
trở nên hết sức chật hẹp. Để tồn tại và thực hiện mục tiêu lợi nhuận độc quyền cao, việc
độc chiếm các lãnh thổ bên ngoài trở thành tất yếu.
Vào đầu thế kỷ XX, việc phân chia thế giới về lãnh thổ căn bản đã hoàn thành.
Nhưng do tác động của quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, các nước đế
quốc ra đời muộn hơn, phát triển nhanh chóng bởi những thành tựu khoa học kỹ thuật đã
vượt lên so với các nước tư bản già, tiến hành đấu tranh để chia lại thị trường thế giới đã
chia xong. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918 và lần thứ hai 1939-1945
chính là xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu đó. Như vậy, phân chia thế giới về mặt lãnh
thổ và tiến hành chiến tranh để phân chia lại thế giới là đặc điểm quan trọng của chủ
nghĩa tư bản độc quyền.
Hiện nay, mặc dù hệ thống xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ nhưng các lực lượng xã hội
chủ nghĩa, các lực lượng dân chủ và hoà bình trên thế giới và ở ngay trong lòng các nước
tư bản vẫn là sức mạnh to lớn ngăn chặn chiến tranh đế quốc. "Trong quan hệ quốc tế,
hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các
dân tộc và các quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi
phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của
quốc gia; tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết
quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác"1. Mặc dù bản chất
không thay đổi nhưng chủ nghĩa tư bản hiện đại đang phải tìm cách thích ứng với điều
kiện lịch sử mới.
Để tồn tại và thực hiện mục tiêu lợi nhuận độc quyền cao, các nước đế quốc đã
thực hiện chế độ thực dân kiểu mới thay cho chế độ thực dân cũ. Chế độ thực dân kiểu
mới được thực hiện thông qua việc trao trả "độc lập" cho các thuộc địa cũ, xây dựng
chính quyền tay sai, "viện trợ" kinh tế, quân sự cho các nước này...
Từ năm đặc điểm trên đây có thể rút ra kết luận: chủ nghĩa tư bản hiện đại về mặt kinh tế
là sự thống trị của tư bản độc quyền; về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại, nếu định nghĩa một cách vắn tắt, đó là chủ nghĩa tư bản
độc quyền. Nếu định nghĩa một cách đầy đủ thì chủ nghĩa tư bản hiện đại là tích tụ và tập
trung sản xuất cao độ dẫn đến độc quyền; là sự xuất hiện của tư bản tài chính và sự thống
trị của nó; xuất khẩu tư bản ngày càng có vai trò quan trọng; sự hình thành các liên minh
độc quyền quốc tế và việc phân chia thế giới về mặt kinh tế; các cường quốc đế quốc chia
1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của.Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1996,
tr.17
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
132
nhau thế giới về lãnh thổ và cuộc đấu tranh để phân chia lại thế giới đã phân chia xong.
3. Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ
nghĩa tư bản độc quyền
a) Quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự do.
Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, trái lại nó còn làm
cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa những
người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong giai đoạn chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh
Các loại cạnh tranh sau
Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc quyền.
Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối, thôn tính các xí nghiệp ngoài độc
quyền bằng nhiều biện pháp như: độc chiếm nguồn nguyên liệu, nguồn nhân công,
phương tiện vận tải, tín dụng, hạ giá có hệ thống... để đánh bại đối thủ.
Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại cạnh tranh này có
nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong một ngành, kết thúc bằng
một sự thoả hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên cạnh tranh; cạnh tranh giữa các tổ
chức độc quyền khác ngành có liên quan với nhau về nguồn nguyên liệu, kỹ thuật...
Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những nhà tư bản tham gia
cácten, xanhđica cạnh tranh với nhau để giành thị trường tiêu thụ có lợi hoặc giành tỷ lệ
sản xuất cao hơn. Các thành viên của tờrớt và côngxoócxiom cạnh tranh với nhau để
chiếm cổ phiếu khống chế, từ đó chiếm địa vị lãnh đạo và phân chia lợi nhuận có lợi hơn.
b) Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ nghĩa tư
bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó không vượt
ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng, phát triển những
xu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng hoá nói chung, làm
cho các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá và của chủ nghĩa tư bản có những
biểu hiện mới.
- Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc
quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
133
không có nghĩa là trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị không còn hoạt
động. Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó
là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là chiếm
đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong toàn
bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Như vậy,
nếu như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị biểu hiện thành
quy luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị biểu hiện
thành quy luật giá cả độc quyền.
- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị thặng dư biểu
hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc,
các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận
độc quyền cao. Do đó quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là hình thức biểu hiện của
quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở
các xí nghiệp độc quyền; một phần lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp
không độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do
thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi cả một phần lao động tất
yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước
thuộc địa, phụ thuộc.
Như vậy, sự biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là sự phản ánh quan hệ thống trị và bóc
lột của tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã hội tư bản và trên toàn thế
giới.
II. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
a) Nguyên nhân ra đời
- Sự mâu thuẫn giữa tư liệu sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Tích tụ, tập trung tư bản càng lớn dẫn đến tích tụ, tập trung sản xuất càng cao .
- Trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất khiến cho nhà nước phải đại biểu cho
toàn xã hội về quản lý sản xuất.
- Tồn tại nhiều ngành sản xuất đòi hỏi vốn đầu tư lớn buộc nhà nước phải can
thiệp. Trong quá trình đó, nhà nước dùng chính sách để xoa dịu mâu thuẫn XH.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
134
- Các nhà nước tư sản kết hợp với nhau để điều tiết quan hệ chính trị, kinh tế quốc
tế .
b) Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
- Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp của các tổ chức độc quyền tư
nhân và nhà nước tư sản, trong đó nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
- Chủ nghĩa tư bản độc quyển nhà nước can thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm
bảo vệ lợi ích của tư bản độc quyền.
- Nhà nước trở thành chủ sở hữu tư bản khổng lồ, dùng quân đội, cảnh sát để trấn
áp xã hội.
- Chủ nghĩa tư bản độc quyển nhà nước điều tiết quá trình kinh tế, can thiệp vào
tất cả các khâu: sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng.
2. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
a) Sự kết hợp về con người giữa tổ chức độc quyền và bộ máy nhà nước
V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng với
công nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của ngân hàng và công nghiệp với
chính phủ: "Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ ngân
hàng, ngày mai là bộ trưởng"1.
Sự kết hợp về nhân sự thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Chính các đảng
phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực
tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước. Cùng với các đảng phái tư sản, là
các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau, thí dụ: Hội Công nghiệp toàn quốc Mỹ,
Tổng Liên đoàn công nghiệp Italia, Liên đoàn các nhà kinh tế Nhật Bản, Liên minh Liên
bang công nghiệp Đức, Hội đồng quốc gia giới chủ Pháp, Tổng Liên đoàn công thương
Anh... Các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa
cho chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Các hội chủ này hoạt động thông qua các đảng
phái của giai cấp tư sản, cung cấp kinh phí cho các đảng, quyết định về mặt nhân sự và
đường lối chính trị, kinh tế của các đảng, tham gia vào việc thành lập bộ máy nhà nước ở
các cấp. Mặt khác, chúng còn lập ra các uỷ ban tư vấn bên cạnh các bộ nhằm "lái" hoạt
động của nhà nước theo chiến lược của mình. Vai trò của các hội lớn đến mức mà dư
luận thế giới đã gọi chúng là những chính phủ đằng sau chính phủ, một quyền lực thực tế
đằng sau quyền lực của chính quyền. Thông qua các hội chủ, một mặt các đại biểu của
các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau;
1 V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.31, tr. 275.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
135
mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ
chức độc quyền, giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành
những người đỡ đầu các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này (còn gọi là sự kết
hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ
quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
b) Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước
Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền có
nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ
nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự
tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở
hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội.
Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho hoạt
động của bộ máy nhà nước, mà gồm cả những doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp
và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông vận tải, giáo dục, y
tế, bảo hiểm xã hội... trong đó ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất.
Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng
doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân
bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phần của các doanh nghiệp tư nhân; mở rộng doanh
nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân...
Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng sau:
Một là, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Điều này liên quan đến những ngành sản xuất cũ không đứng
vững được trong cạnh tranh và có nguy cơ thua lỗ, cũng như các ngành công nghiệp mới
nhất đòi hỏi vốn đầu tư lớn và trình độ nghiên cứu khoa học, thiết kế và thử nghiệm cao
được nhà nước đầu tư phát triển.
Hai là, giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi để đưa vào
những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.
Ba là, làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế tư bản chủ nghĩa theo những chương
trình nhất định. Cùng với việc nhà nước thực hiện kinh doanh thì thị trường nhà nước
cũng hình thành. Sự hình thành thị trường nhà nước với việc nhà nước chủ động mở rộng
thị trường trong nước bằng việc bao mua sản phẩm của các xí nghiệp độc quyền thông
qua những hợp đồng được ký kết đã giúp tư bản tư nhân khắc phục được một phần khó
khăn trong thời kỳ khủng hoảng thừa, góp phần bảo đảm cho quá trình tái sản xuất được
diễn ra bình thường. Các hợp đồng ký kết với nhà nước giúp cho các tổ chức độc quyền
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
136
tư nhân vừa tiêu thụ được hàng hoá vừa bảo đảm lợi nhuận ổn định, vừa khắc phục được
tình trạng thiếu nhiên liệu, nguyên liệu chiến lược.
Sự tiêu thụ của nhà nước được thực hiện qua những đơn đặt hàng của nhà nước,
quan trọng hơn cả là các đơn đặt hàng quân sự do ngân sách chi mỗi ngày một tăng. Các
hợp đồng này bảo đảm cho các độc quyền tư nhân kiếm được một khối lượng lợi nhuận
lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi nhuận của việc sản xuất các loại hàng hoá đó cao hơn hẳn tỷ
suất lợi nhuận thông thường.
c) Sự can thiệp của nhà nước tư sản vào các quá trình kinh tế
Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước là sự điều tiết quá trình kinh tế. Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình
thành một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy
quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Sự điều tiết kinh tế của nhà
nước được thực hiện dưới nhiều hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những
lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý, bằng cả ưu đãi và
trừng phạt; bằng những giải pháp chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế hoạch tổng
thể phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm xã hội... và
bằng cả các giải pháp ngắn hạn.
Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nét nhất sự điều tiết
kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Chúng bao gồm nhiều lĩnh vực như
chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát, chính sách về tăng trưởng kinh
tế, chính sách xã hội, chính sách kinh tế đối ngoại. Các công cụ chủ yếu của nhà nước tư
sản để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế như ngân sách, thuế, hệ thống
tiền tệ - tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hoá hay chương trình hoá kinh tế
và các công cụ hành chính - pháp lý. Tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của
từng nước, trong từng thời kỳ và sự vận dụng các học thuyết kinh tế, sự điều tiết kinh tế
của nhà nước tư sản có các mô hình thể chế kinh tế khác nhau như "mô hình trọng cầu",
"mô hình trọng cung", "mô hình trọng tiền"... Những học thuyết kinh tế quan trọng đã
được vận dụng vào sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đó là
học thuyết Kênxơ (J. Keynes - 1854-1946) chiếm vị trí thống trị từ những năm1940 đến
1970 của thế kỷ XX, sau đó là học thuyết kinh tế của P.A. Samuelson đang là cơ sở lý
luận cho sự điều tiết vĩ mô của nhà nước và quản lý vi mô của các doanh nghiệp.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
137
III. Đánh giá chung về vai trò và giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản
1. Vai trò của chủ nghĩa tư bản độc quyền đối với sự phát triển của nền sản xuất xã
hội
Những thành tựu của chủ nghĩa tư bản đạt được trong sự vận động đầy mâu thuẫn
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn: chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh và
chủ nghĩa tư bản độc quyền mà nấc thang tột cùng của nó là chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước.
Trong suốt quá trình phát triển, nếu chưa xét đến hậu quả nghiêm trọng đã gây ra
đối với loài người thì chủ nghĩa tư bản cũng có những mặt tích cực đối với phát triển sản
xuất. Đó là:
- Chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại.
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng loài người khỏi "đêm trường trung
cổ" của xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp chuyển sang
phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện
đại. Dưới tác động của quy luật giá trị thặng dư và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng
hóa, chủ nghĩa tư bản đã làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng của cải khổng lồ
hơn nhiều xã hội trước cộng lại.
- Phát triển lực lượng sản xuất.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ công lên kỹ
thuật cơ khí, sang tự động hóa, tin học hóa và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển
của kỹ thuật vầ công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám
phá và chinh phục thiên nhiên của con người.
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới
mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều
rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất tập trung
với quy mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc, mối liên hệ
kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ... làm cho các quá
trình sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống,
thành một quá trình sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, những thành tựu chủ nghĩa tư bản đạt được trong sự vận động đầy mâu
thuẫn. Điều đó thể hiện ở hai xu hướng trái ngược nhau là xu thế phát triển nhanh chóng
và xu thế trì trệ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
138
V.I. Lênin nhận xét: sự phát triển nhanh chóng và sự trì trệ thối nát là hai xu thế
cùng song song tồn tại trong nền kinh tế của chủ nghĩa đế quốc. Đó chính là một biểu
hiện quan trọng thuộc bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Ngày nay, bản chất này
biểu hiện rất nổi bật.
Xu thế phát triển nhanh của nền kinh tế biểu hiện ở chỗ: sau Chiến tranh thế giới
lần thứ hai, đặc biệt là vào những năm 50, 60 thế kỷ XX, trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa thế giới đã xuất hiện thời kỳ tăng trưởng với tốc độ cao hiếm thấy. Trong thời gian
từ 1948-1970, Mỹ, Anh, Pháp, Cộng hoà liên bang Đức, Italia, Canađa, Nhật Bản... có tỷ
suất tăng trưởng bình quân trong tổng giá trị thu nhập quốc dân đạt 5,1%. Đồng thời, việc
nâng cao hiệu quả lao động sản xuất cũng rất rõ rệt.
Nguyên nhân của xu thế đó là:
+ Yêu cầu nội tại và xu hướng tăng nhanh tốc độ phát triển lực lượng sản xuất do
sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
+ Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có những nhân tố kích thích phát triển.
+ Việc mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
+ Đặc biệt là tác dụng kích thích của hai hệ thống kinh tế thế giới.
Xu thế trì trệ của nền kinh tế hay xu thế kìm hãm mà V.I.Lênin đã chỉ ra có
nguyên nhân cơ bản là do sự thống trị của độc quyền. Độc quyền đã tạo ra những nhân tố
ngăn cản sự tiến bộ kỹ thuật và phát triển sản xuất như: quy định giá cả độc quyền, hạn
chế sản lượng và mua phát minh kỹ thuật. Ngày nay, các nhân tố gây trì trệ vẫn còn tồn
tại và tiếp tục tác động.
Sự tồn tại song song của hai xu thế trong chủ nghĩa tư bản một mặt nói lên rằng
chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn còn sức sống, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn có
thể tự điều chỉnh và trong giới hạn nhất định nó còn có thể thích ứng với nhu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy xã hội tư bản phát triển. Song, mặt khác, điều đó
cũng nói lên rằng, chủ nghĩa tư bản đang vấp phải những giới hạn nhất định, mâu thuẫn
cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn chưa giải quyết được.
2. Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản
a) Những biểu hiện mới về năm đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền:
Tập trung sản xuất và hình thức độc quyền mới: Sự xuất hiện các công ty độc
quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ nên đã diễn ra
quá trình hình thành những sự liên kết giữa các độc quyền theo cả hai chiều dọc và ngang
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
139
ở trong và ngoài nước. Từ đó, những hình thức tổ chức độc quyền mới đã ra đời. Đó là
các consơn (concern) và các cônglômêrát (conglomerate).
Consơn: Đó là tổ chức độc quyền đa ngành, thành phần của nó có hàng trăm xí
nghiệp có quan hệ với những ngành khác nhau và được phân bố ở nhiều nước. Trong số
500 công ty lớn nhất của Mỹ có tới 94% là loại consơn so với 49% năm 1949. Điển hình
về tính đa ngành là consơn GMC (General Motor Corporation) năm 1988 có doanh số là
121,085 tỷ USD. Ngoài ngành sản xuất ôtô chiếm từ 80-90% tổng giá trị sản phẩm, GMC
còn thâu tóm những xí nghiệp sản xuất đồ điện thông dụng như môtơ, tuabin, đầu máy
điêzen, máy giặt, máy hút bụi và một số mặt hàng khác.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến độc quyền đa ngành là: trong điều kiện cạnh tranh
gay gắt giữa các độc quyền và sự biến động nhanh chóng của thị trường thì việc kinh
doanh chuyên môn hoá hẹp dễ bị phá sản. Hơn nữa, hình thức độc quyền đa ngành còn là
kết quả của sự chuyển hoá, thay thế các tờrớt để đối phó với luật chống độc quyền ở hầu
hết các nước tư bản chủ nghĩa (luật này cấm độc quyền 100% mặt hàng trong một
ngành).
Cônglômêrát: là hình thức tổ chức độc quyền xuất hiện từ những năm 60 của thế
kỷ XX. Đó là sự kết hợp vài ba chục những hãng vừa và nhỏ không có bất kỳ sự liên
quan nào về sản xuất hoặc dịch vụ cho sản xuất. Mục đích chủ yếu của các cônglômêrát
là chiếm đoạt lợi nhuận bằng kinh doanh chứng khoán. Do vậy phần lớn các cônglômêrát
dễ bị phá sản nhanh hoặc chuyển thành các consơn. Tuy nhiên một bộ phận các
cônglômêrát vẫn tồn tại vững chắc bằng cách kinh doanh trong lĩnh vực tài chính trong
những điều kiện thường xuyên biến động của nền kinh tế thế giới.
Ở các nước tư bản phát triển ngày càng xuất hiện nhiều công ty vừa và nhỏ, chiếm
hơn 90% tổng số hãng có đăng ký, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Trong những ngành mới như tin học, chất dẻo, điện tử, các hãng nhỏ chiếm tỷ lệ
tuyệt đối (ở Mỹ các hãng nhỏ chiếm 90% tổng số hãng trong lĩnh vực này).
Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do:
Thứ nhất, việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ cho phép tiêu chuẩn
hoá và chuyên môn hoá sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia công, nhất là trong
các ngành sản xuất ôtô, máy bay, cơ khí, dệt...
Các công ty lớn và các hãng nhận gia công (doanh nghiệp vừa, nhỏ) hình thành
một hệ thống gắn bó với nhau bởi hàng loạt mối quan hệ: người mua, người bán, người
vay và người cho vay, bởi những phương tiện sản xuất chung, cùng nhau chia sẻ công
việc, bí quyết sản xuất...
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
140
Nhìn bề ngoài, có người gọi hiện tượng trên là "phi tập trung hoá" và cho rằng,
luận điểm của V.I. Lênin về tích tụ và tập trung dẫn tới độc quyền không còn đúng nữa.
Thực ra, đó chính là biểu hiện của độc quyền dưới một dạng mới, thể hiện ở chỗ là: các
hãng, công ty vừa và nhỏ phụ thuộc vào các consơn và cônglômêrát về nhiều mặt. Sự
kiểm soát của độc quyền được thực hiện dưới những hình thức mới thông qua quan hệ
hợp tác giữa tư bản độc quyền lớn với các hãng vừa và nhỏ, thông qua quan hệ hợp tác
giữa các độc quyền lớn nhằm mở rộng khả năng kiểm soát sản xuất nói chung, tiến bộ
khoa học và công nghệ nói riêng.
Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh của nó. Đó là: nhạy cảm
đối với thay đổi trong sản xuất; linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị trường; mạnh
dạn đầu tư vào những ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm; dễ đổi mới trang thiết bị kỹ thuật
mà không cần nhiều chi phí bổ sung, có thể kết hợp nhiều loại hình kỹ thuật để sản xuất
ra những sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện kết cấu hạ tầng hạn chế...
Ngoài ra, độc quyền cũng xuất hiện cả ở những nước đang phát triển. Đó là kết
quả của sự thâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào các nước này và sự ứng dụng
những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại khiến cho chỉ một xí nghiệp hay một công
ty cũng đủ sức mạnh chi phối việc sản xuất và tiêu thụ của cả một ngành mới ra đời ở
một nước đang phát triển và tới mức độ nhất định có thể bành trướng ra bên ngoài.
Các tổ chức độc quyền ra đời luôn luôn có xu hướng bành trướng quốc tế. Trong
điều kiện hiện nay, xu hướng vận động của chúng là trở thành các công ty xuyên quốc gia
và liên minh với nhà nước hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đó là biểu
hiện mới của độc quyền và là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa trong điều kiện lịch sử mới.
- Sự thay đổi các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài chính
Do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt là các ngành
thuộc "phần mềm" như dịch vụ, bảo hiểm... ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Thích ứng với
sự biến đổi đó, hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài chính đã thay đổi.
Ngày nay, phạm vi liên kết và xâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công
nghiệp được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập đoàn tư bản tài chính thường tồn tại
dưới hình thức một tổ hợp đa dạng kiểu: công - nông - thương - tín - dịch vụ hay công
nghiệp - quân sự, dịch vụ quốc phòng... Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh
vi hơn và phức tạp hơn.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
141
Cơ chế thị trường của tư bản tài chính cũng biến đổi, cổ phiếu có mệnh giá nhỏ
được phát hành rộng rãi, khối lượng cổ phiếu tăng lên, nhiều tầng lớp dân cư mua cổ
phiếu kéo theo đó là "chế độ tham dự" được bổ sung thêm bằng "chế độ uỷ nhiệm", nghĩa
là những đại cổ đông được "uỷ nhiệm" thay mặt cho đa số cổ đông có ít cổ phiếu quyết
định phương hướng hoạt động của công ty cổ phần. Chủ sở hữu tư bản lớn giờ đây vừa
khống chế trực tiếp vừa khống chế gián tiếp đối với tư bản thông qua biến động trên thị
trường tài chính, buộc các nhà quản lý phải tuân theo lợi ích của chúng.
Để vươn ra địa bàn thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hoá đời sống kinh
tế, toàn cầu hoá kinh tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc
gia và xuyên quốc gia thực hiện việc điều tiết các consơn và cônglômêrát, xâm nhập vào
nền kinh tế của các quốc gia khác. Sự ra đời của các trung tâm tài chính của thế giới như
Nhật Bản, Mỹ, Đức, Hồng Kông, Xingapo... là kết quả hoạt động của các tập đoàn tài
chính quốc tế. Dù biểu hiện dưới hình thức nào, có sự thay đổi cơ chế thống trị ra sao,
bản chất của tư bản tài chính cũng không thay đổi.
Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản
Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có những biến đổi lớn.
Thứ nhất, trước kia luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển
sang các nước kém phát triển (chiếm tỷ trọng trên 70%). Nhưng những thập kỷ gần đây
đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Tỷ
trọng xuất khẩu tư bản giữa ba trung tâm tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu
tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy vào
Mỹ làm cho luồng xuất khẩu tư bản vào các nước đang phát triển giảm mạnh (năm 1996
chỉ còn 16,8%, hiện nay khoảng 30%).
Sở dĩ có sự chuyển hướng đầu tư như vậy là do:
- Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy vọt trong
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều ngành
công nghiệp mới ra đời và phát triển thành các ngành mũi nhọn như: ngành công nghệ
sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới, ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại
dương... Sự xuất hiện những ngành mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời
gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch lớn.
- Ở các nước tư bản phát triển đã diễn ra sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất:
phát triển các ngành có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao và hàm lượng vốn lớn.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
142
- Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển vì ở các
nước đang phát triển có kết cấu hạ tầng lạc hậu, tình hình chính trị kém ổn định, tỷ suất
lợi nhuận của tư bản đầu tư không còn cao như trước.
Thứ hai, chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò của các công
ty xuyên quốc gia (TNCs) trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI). Chẳng hạn vào những năm 90 của thế kỷ XX, các TNCs đã chiếm
tới 90% luồng vốn FDI. Mặt khác đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các
nước đang phát triển mà nổi bật là NIEs châu Á.
Thứ ba, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, có sự đan xen giữa xuất khẩu tư
bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những
hình thức mới như BOT (xây dựng - kinh doanh - chuyển giao), BT (xây dựng - chuyển
giao) sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn bán hàng hoá, dịch vụ,
chất xám không ngừng tăng lên.
Thứ tư, sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ
dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.
Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát triển không
làm cho đặc điểm và bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi, mà chỉ làm cho hình thức và
xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức tạp hơn.
- Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh của chủ nghĩa tư bản: xu
hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hoá
nền kinh tế.
Sức mạnh và phạm vi bành trướng của TNCs tăng lên thúc đẩy xu hướng quốc tế
hoá, toàn cầu hoá kinh tế và sự phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa chúng với nhau, đồng
thời thúc đẩy việc hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế.
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế lại diễn ra xu hướng khu vực hoá kinh tế,
hình thành nhiều liên minh kinh tế khu vực như: Liên minh châu Âu (EU) từ ngày 1-1-
1999 gồm 15 nước và cho ra đời đồng tiền chung châu Âu (EURO) với sự tham gia của
11 quốc gia. Tại Tây bán cầu, Mỹ đang xúc tiến thành lập khối thị trường chung châu Mỹ
(dự định hoàn tất vào năm 2010) bằng cách từng bước mở rộng khối Mậu dịch tự do Bắc
Mỹ (NAFTA gồm: Canađa, Mêhicô và Mỹ) đến Nam Mỹ.
Việc phân chia thế giới về kinh tế cũng có sự tham gia của một loạt nước đang
phát triển nhằm chống lại sức ép của các cường quốc tư bản chủ nghĩa. Đó là việc thành
lập tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), thị trường chung vùng chóp nón Nam
Mỹ (MERCOSUR) gồm 4 nước: Brazin, Achentina, Urugoay, Paragoay... Ngày càng có
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
143
nhiều nước tham gia vào các Liên minh mậu dịch tự do (FTA) hoặc các Liên minh thuế
quan (CU).
Tư bản độc quyền quốc tế là thế lực đang chi phối quá trình toàn cầu hoá thông
qua các tổ chức kinh tế quốc tế và đang ra sức hạn chế sự phát triển của các tổ chức khu
vực.
- Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình thức
cạnh tranh và thống trị mới
Tuy chủ nghĩa thực dân đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dân mới đã suy
yếu, nhưng các cường quốc tư bản chủ nghĩa, khi ngấm ngầm, lúc công khai, vẫn tranh
giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện "chiến lược biên giới mềm", ra sức
bành trướng "biên giới kinh tế" rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước
kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công nghệ đi đến sự lệ thuộc về chính trị vào các
cường quốc.
Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng lại được
thay thế bằng những cuộc chiến tranh thương mại, những cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn
giáo mà đứng trong hoặc núp sau các cuộc đụng độ đó là các cường quốc đế quốc.
Tóm lại, dù có những biểu hiện mới, chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn là chủ nghĩa
tư bản độc quyền. Những biểu hiện mới đó chỉ là sự phát triển của năm đặc điểm cơ bản
của chủ nghĩa tư bản độc quyền mà V.I. Lênin đã vạch ra từ những năm đầu thế kỷ.
b) Biểu hiện mới trong sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
- Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư bản độc quyền là nhằm khắc
phục những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho sự phát
triển kinh tế - xã hội nhằm tăng trưởng kinh tế, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của chủ
nghĩa tư bản.
- Để điều tiết kinh tế, nhà nước tư bản độc quyền đã tổ chức bộ máy điều tiết. Bộ
máy đó gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt nhân sự có sự tham gia của
những đại biểu của tập đoàn lớn và các quan chức nhà nước. Đồng thời, bên cạnh bộ máy
này còn có hàng loạt các tiểu ban được tổ chức dưới những hình thức khác nhau, thực
hiện "tư vấn" với hy vọng "lái" đường lối theo mục tiêu riêng của các tổ chức độc quyền.
Cùng với bộ máy điều tiết là các công cụ điều tiết các loại, như công cụ hành
chính, pháp luật, chính sách và các đòn bẩy kinh tế, nhằm thực hiện các mục tiêu chiến
lược đã được hoạch định.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
144
- Cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là: cơ chế kết
hợp thị trường tự do cạnh tranh với tính năng động của tư bản độc quyền tư nhân. Trên
phương diện kinh tế, những điểm quan trọng nhất của cơ chế điều tiết mới là:
+ Hạn chế sự quan liêu hoá nhà nước bằng cách xem xét lại hệ thống luật kinh tế,
đơn giản hoá thủ tục hành chính và xây dựng các đạo luật mới thích hợp với cơ chế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước.
+ Xác định lại sự trợ cấp của nhà nước đối với một số ngành, một số xí nghiệp.
+ Thực hiện tư nhân hoá khu vực kinh tế nhà nước nhằm tăng năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp và khắc phục sự hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà
nước.
+ Nới lỏng sự điều tiết của nhà nước, xoá bỏ những quy định của nhà nước có thể
dẫn đến hạn chế sự cạnh tranh trên thị trường.
+ Xác định lại các thứ tự ưu tiên trong chính sách kinh tế, hướng chủ yếu vào sự
tăng trưởng lâu dài, tiến bộ khoa học và công nghệ, giảm chi tiêu ngân sách cho nhu cầu
xã hội, chống lạm phát, giảm thuế để khuyến khích kinh doanh.
+ Tăng cường sự phối hợp chính sách kinh tế giữa các nước trong những lĩnh vực
có tầm quan trọng đối với sự ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Nổi bật hơn cả trong những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước là việc thực hiện các chính sách xã hội.
- Phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt, mềm dẻo hơn, phạm vi rộng hơn,
thể hiện như sau:
+ Điều tiết bằng chương trình và kế hoạch.
+ Điều tiết cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường thông qua hợp đồng, đồng thời
hỗ trợ các ngành truyền thống cần được tiếp tục duy trì và những ngành mũi nhọn với
công nghệ cao.
+ Điều tiết tiến bộ khoa học và công nghệ bằng tăng chi ngân sách cho nghiên cứu
và phát triển, đề xuất các hướng ưu tiên phát triển công nghệ, tài trợ cho nghiên cứu ứng
dụng của các công ty tư nhân.
+ Điều tiết thị trường lao động bằng cách đào tạo và đào tạo lại, khuyến khích phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để thu hút người thất nghiệp, thực hiện bảo hiểm thất
nghiệp, nhà nước còn can thiệp vào các hợp đồng lao động...
+ Điều tiết thị trường tài chính, tiền tệ, chống lạm phát, điều tiết giá cả.
+ Điều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại, hệ thống tài chính, tiền tệ quốc tế.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
145
3. Giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản
Bên cạnh mặt tích cực nói trên, trong quá trình phát triển, chủ nghĩa tư bản đã gây
ra những hậu quả nặng nề cho loài người: hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu và hàng
trăm cuộc chiến tranh cục bộ khác; chạy đua vũ trang và ô nhiễm môi trường; nạn đói
nghèo và bệnh tật của hàng trăm triệu người, nhất là ở các nước chậm phát triển...
Giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất
với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mặc dù chủ nghĩa tư bản
ngày nay đã có điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhưng
không thể khắc phục được mâu thuẫn này.
Mâu thuẫn cơ bản nói trên biểu hiện thành những mâu thuẫn cụ thể sau đây:
a) Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động
Mâu thuẫn này thể hiện sự phân cực giàu - nghèo và tình trạng bất công xã hội
tăng lên. Sự bần cùng hoá tuyệt đối lẫn tương đối của giai cấp công nhân vẫn đang tồn
tại. Tuy đại bộ phận tầng lớp trí thức và lao động có kỹ năng đang có việc làm được cải
thiện mức sống và gia nhập vào tầng lớp trung lưu, nhưng vẫn không xoá được sự phân
hoá giàu - nghèo ngày càng sâu sắc.
Thu nhập của 358 người giàu nhất thế giới lớn hơn thu nhập hàng năm của hơn
45% dân số thế giới. Tình trạng công nhân, người lao động thất nghiệp ngày càng tăng.
Trong xã hội tư bản ngày nay, sự bất bình đẳng và các tệ nạn xã hội vẫn tồn tại
một cách phổ biến: sự suy đồi về xã hội, văn hoá và đạo đức ngày càng trầm trọng.
b) Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc
Ngày nay, mâu thuẫn này đang chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước chậm phát
triển bị lệ thuộc với những nước đế quốc thành mâu thuẫn giữa các nước và tầng lớp
thượng lưu giàu có ở phương Bắc với các nước và các tầng lớp nghèo khổ ở phương
Nam. Nếu so sánh thu nhập thời kỳ 1930-1993 ta thấy khoảng cách giàu nghèo của hai
nhóm nước này tăng 280%. GDP của 550 triệu dân châu Phi chỉ bằng GDP của nước Bỉ
(10 triệu dân). Nhiều tài liệu công bố trên các phương tiện truyền thông đã chỉ rõ các
nước thứ ba không những bị vơ vét cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà còn mắc
nợ không thể nào trả được. Hàng năm, các nước chậm phát triển vay nợ phải trả cho các
nước chủ nợ số tiền lãi từ 130 đến 150 tỷ USD.
Chính vì thế, trong những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới thứ ba bị trì trệ, suy
thoái. Điều này cũng đã được Ngân hàng Thế giới khẳng định: ở châu Phi, Mỹ Latinh,...
hàng trăm triệu người đã nhận thấy, đi cùng với tăng trưởng là sự suy tàn về kinh tế, phát
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
146
triển nhường chỗ cho suy thoái; ở một vài nước Mỹ Latinh, GNP theo đầu người hiện nay
thấp hơn so với 10 năm trước đây. Trong nhiều nước châu Phi, nó còn thấp hơn cách đây
20 năm"... một thế giới mà trong đó từ 20 năm nay ở châu Phi, từ 9 năm nay ở Mỹ Latinh
mức sống không ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vùng khác tiếp tục tăng
lên tuy có chậm hơn, đó là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được".
c) Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa ba trung
tâm kinh tế, chính trị hàng đầu của thế giới tư bản, giữa các tập đoàn tư bản xuyên quốc
gia
Mâu thuẫn này có phần dịu đi trong thời kỳ còn tồn tại sự đối đầu giữa hai hệ
thống thế giới tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, nay có chiều hướng diễn biến phức
tạp sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Một mặt, sự phát triển của xu thế toàn cầu hoá và
của cách mạng khoa học và công nghệ khiến các nước đó phải liên kết với nhau. Mặt
khác, do tác động của quy luật phát triển không đều và lợi ích cục bộ của giai cấp thống
trị ở mỗi nước, các nước đó đã trở thành đối thủ cạnh tranh với nhau, tranh giành quyền
lực và phạm vi ảnh hưởng trên thế giới, nhất là giữa ba trung tâm Mỹ, Nhật Bản và Tây
Âu. Biểu hiện của mâu thuẫn giữa các nước ấy trước hết là cuộc chiến tranh thương mại,
chiến tranh về đầu tư kỹ thuật, tài chính cũng như sự cạnh tranh giữa TNCs dưới nhiều
hình thức.
d) Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội
Mâu thuẫn này là mâu thuẫn xuyên suốt thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng bản chất thời đại
không hề thay đổi. Loài người vẫn ở trong giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Do đó, mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại một cách khách quan.
Trong thực tế, mâu thuẫn này biểu hiện trong mưu đồ của thế lực đế quốc lợi dụng
sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở một số nước để đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liệt bằng
mọi thủ đoạn (không loại trừ sự can thiệp bằng quân sự) nhằm xoá bỏ các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại.
Nhưng do điều kiện quốc tế có những thay đổi, do giữa một số nước xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa đã thiết lập quan hệ chính thức về mặt nhà nước, có quan hệ
vừa hợp tác vừa đấu tranh về nhiều mặt cho nên mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản ngày nay biểu hiện chủ yếu bằng "diễn biến hoà bình" và chống "diễn biến
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
147
hoà bình". Tuy hình thức biểu hiện có khác trước, nhưng đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa tư bản vẫn là cuộc đấu tranh rất quyết liệt diễn ra trên phạm vi toàn thế giới.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay - với những thành tựu đáng kể của nó, là sự chuẩn bị
tốt nhất những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Nhưng bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn phải thông qua
cuộc cách mạng xã hội. Dĩ nhiên, cuộc cách mạng xã hội sẽ diễn ra bằng phương pháp
nào - hoà bình hay bạo lực, điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử - cụ
thể của từng nước và bối cảnh quốc tế chung trong từng thời điểm, vào sự lựa chọn của
các lực lượng cách mạng.
Câu hỏi ôn tập:
1. Trình bày những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền? Đặc
điểm nào giữ vai trò quyết định nhất? Vì sao?
2. Phân tích mối quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh, sự biểu hiện của quy luật
giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền?
3. Phân tích nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước? Biểu hiện trong giai đoạn hiện nay?
4. Trình bày những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và
cơ chế điều tiết của nó?
5. Trình bày những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước?
6. Phân tích thành tựu và giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top