Chương 5
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
83
Chương V:
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Thời lượng: 10 giờ tín chỉ (7 lý thuyết, 2 thảo luận, 1 tự học)
Mục tiêu của người học cần đạt được về kiến thức và kĩ năng:
- Nêu được công thức và mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
- Nắm được khái niệm hàng hóa sức lao động và bản chất tiền công trong CNTB
- Hiểu được quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong xã hội tư bản
- Hiểu được bản chất tuần hoàn và chu chuyển tư bản, các hình thái tuần hoàn của
tư bản công nghiệp
- Nắm được khái niệm tỉ suất khối lượng giá trị thặng dư và hai phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư
- Hiểu được thực chất của sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản và tích lũy
tư bản
- Hiểu được các hình thái biểu hiện của tư bản và giá trị thặng dư
- Phân tích được bản chất của chủ nghĩa tư bản
I. Sự chuyển hóa của tiền tệ thành tư bản
1. Công thức chung của tư bản
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng thời cũng là hình thức biểu
hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất
định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những
điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác.
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn thì tiền được coi là tiền thông thường, vận
động theo công thức H - T - H. Ở đây, tiền chỉ là phương tiện để đạt tới mục đích bên
ngoài lưu thông. Hình thức lưu thông hàng hóa này thích hợp với nền sản xuất nhỏ của
những người thợ thủ công và nông dân.
Tiền được coi là tư bản, vận động theo công thức T - H - T, tức là sự chuyển hóa
của tiền thành hàng hóa rồi hàng hóa lại chuyển hóa ngược lại thành tiền.
Điểm giống nhau của công thức lưu thông hàng hóa giản đơn và công thức lưu
thông của tư bản là cả hai sự vận động đều do hai giai đoạn đối lập nhau là mua và bán
hợp thành, đều có hai nhân tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng, hai mối quan hệ kinh
tế là người mua và người bán.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
84
Điểm khác nhau: lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu với việc bán H - T và kết
thúc bằng việc mua T - H. Điểm xuất phát và kết thúc đều là hàng hóa, tiền đóng vai trò
trung gian. Ngược lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng việc mua T - H, kết thúc bằng
việc bán H - T. Tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc của quá trình, hàng chỉ
đóng vai trò trung gian. Tiền ở công thức này không phải chi ra mà là ứng ra rồi thu về.
Mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu,
nên hàng hóa trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Còn mục đích của công thức
chung của tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm.
Vì nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động đó trở nên vô nghĩa. Do
đó số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra. Nên công thức vận động chung đầy đủ của
tư bản là T - H - T'. Trong đó T' = T + ΔT. Số tiền trội ra so với số tiền đã ứng ra (ΔT)
C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản.
Vậy, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thông tư bản là
sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư. C. Mác gọi là công thức T - H - T' là công thức
chung của tư bản, vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng
khái quát đó. Dễ dàng nhận thấy trong thực tiễn là tư bản thương nghiệp với hoạt động
mua vào, bán ra đắt hơn rất phù hợp với công thức trên. Tư bản công nghiệp vận động
phức tạp hơn nhưng cũng trải qua những giai đoạn T - H và H - T'. Vận động của tư bản
cho vay lấy lãi được rút ngắn bởi công thức T - T'. C. Mác chỉ rõ: "Vậy, T - H - T' thực
sự là công thức chung của tư bản, đúng như nó trực tiếp thể hiện ra ở trong lĩnh vực lưu
thông"1.
2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
Trong công thức T - H - T', trong đó T' = T + ΔT. Vậy ΔT do đâu mà có. Các nhà
kinh tế học tư sản đã chứng minh rằng quá trình lưu thông đẻ ra giá trị thặng dư nhằm
mục đích che dấu nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản. Thực chất trong lưu thông, dù
trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị mới, do đó không
tạo ra giá trị thặng dư.
Trường hợp trao đổi ngang giá chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ tiền thành
hàng và từ hàng thành tiền còn tổng giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên
tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, về mặt giá trị sử dụng thì cả
hai bên đều có lợi vì có được những hàng hóa thích hợp với nhu cầu của mình.
Trường hợp trao đổi không ngang giá có thể có 3 trường hợp xảy ra như sau:
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H 1993, tập 23, tr 234.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
85
Thứ nhất, giả sử có một nhà tư bản bán hàng hóa cao hơn giá trị 10%, giá trị hàng
hóa của anh ta là 100 đồng, bán được 110 đồng, thu về 10 đồng giá trị thặng dư. Trong
thực tế, không có nhà tư bản nào mà chỉ đóng vai trò người bán mà lại không phải là
người mua các yếu tố để sản xuất ra hàng hóa. Vì thế đến lượt mua, nhà tư bản đó sẽ lại
phải mua hàng hóa cao hơn giá trị 10%, vì vậy, 10% thu được khi bán sẽ mất đi khi đóng
vai trò là người mua.
Thứ hai, giả sử có một nhà tư bản mua hàng hóa thấp hơn giá trị 10%, đến khi bán
hàng hóa theo giá trị thu được 10% giá trị thặng dư. Trong trường hợp này, cái mà anh ta
thu được do mua rẻ sẽ mất đi khi anh ta là người bán vì phải bán thấp hơn giá trị thì các
nhà tư bản khác mới mua. Ở đây, giá trị thặng dư cũng không được sinh ra do hành vi
mua rẻ.
Thứ ba, trong xã hội, có một số hành vi lừa lọc bao giờ cũng mua được rẻ, bán
được đắt. Giả sử mua được rẻ 5 đồng và bán đắt 5 đồng, tạo ra được 10 đồng giá trị thặng
dư do trao đổi không ngang giá. Số tiền này kiếm được là do lừa gạt người khác. Xét
chung cả xã hội, giá trị thặng dư mà nhà tư bản này kiếm được là do nhà tư bản khác mất
đi. Đo đó, tổng số giá trị hàng hóa trong xã hội không tăng lên. C. Mác đã chỉ rõ: "Lưu
thông hay trao đổi hàng hóa, không sáng tạo ra một giá trị nào cả"1.
Trở lại vấn đề ngoài lưu thông, có thể xem xét 2 trường hợp sau:
- Ở ngoài lưu thông, nếu người trao đổi vẫn đứng một mình với hàng hóa của anh
ta thì giá trị của hàng hóa đó không hề tăng lên.
- Ở ngoài lưu thông, nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm một giá trị mới cho
hàng hóa thì phải bằng lao động của mình. Chẳng hạn, người thợ giày đã tạo ra một giá
trị mới bằng cách lấy da thuộc để làm ra giày. Đôi giày có giá trị lớn hơn da thuộc là do
đã thu hút nhiều lao động hơn. Đến đây, C. Mác đã khẳng định: "Vậy tư bản không thể
xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất
hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông. Đây chính là mâu thuẫn
của công thức chung của tư bản"2. Để giải quyết mâu thuẫn này, C. Mác chỉ rõ phải lấy
những qui luật nội tại của lưu thông hàng hóa làm cơ sở.
3. Hàng hóa sức lao động và tiền công trong chủ nghĩa tư bản
a) Hàng hóa sức lao động
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H 1993, tập 23, tr 246.
2 Sdd tr 249.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
86
Để làm biến đổi giá trị của số tiền cần phải chuyển hóa thành tư bản không thể xảy
ra trong bản thân số tiền đó, mà chỉ có thể xảy ra từ hàng hóa được mua vào (T - H), đó
là một thứ hàng hóa đặc biệt mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường: hàng hóa sức lao
động. Theo C. Mác: "Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể
một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người
phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích"1.
- Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
+ Người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ sức lao động
của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
+ Người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư
liệu sinh hoạt, để tồn tại, buộc phải bán sức lao động để sống.
- Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động: Hàng hóa sức lao động cũng như mọi
hàng hóa khác đều có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng.
+ Giá trị hàng hóa sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực
sống của con người. Vì vậy, muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người lao động phải tiêu
dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định để ăn, mặc, ở, học nghề,... và thỏa mãn
những nhu cầu của gia đình thì sức lao động mới được tái sản xuất một cách liên tục.
+ Là hàng hóa đặc biệt nên giá trị sức lao động còn bao hàm cả yếu tố tinh
thần và lịch sử. Tức là người lao động phải được thỏa mãn nhu cầu vật chất, văn hóa, tinh
thần. Những nhu cầu này phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, địa lý.
Lượng giá trị hàng hóa sức lao động được đo bằng ba bộ phận sau đây:
Một là, giá trị tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức
lao động, duy trì đời sống của người công nhân.
Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái của
người công nhân.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động được thể hiện ra trong quá trình tiêu
dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá trình tiêu dùng
hàng hóa sức lao động là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó, đồng thời là quá
trình tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động. Phần lớn hơn
đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của
hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là tạo ra giá
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H 1993, tập 23, tr 254-256.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
87
trị mới lớn hơn bản thân nó. Đây chính là chìa khóa để giải thích mâu thuẫn của công
thức chung của tư bản. Tính chất đặc biệt này của hàng hóa sức lao động trở thành điều
kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.
b)Tiền công trong chủ nghĩa tư bản
Việc thừa nhận lao động là hàng hóa dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luận
sau đây:
Thứ nhất, nếu lao động là hàng hóa và nó được trao đổi ngang giá thì nhà tư bản
không được lợi nhuận (giá trị thặng dư). Điều này phủ nhận sự tồn tại thực tế của qui luật
giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, nếu hàng hóa lao động được trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng
dư cho nhà tư bản thì phải phủ nhận qui luật giá trị.
Và lao động là một thứ hàng hóa, vì vậy, nó có giá trị. Lao động là thực thể và là
thước đo nội tại của giá trị, nhưng bản thân lao động thì không có giá trị, vì thế lao động
không phải là hàng hóa. Cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chính là sức lao động. Do
đó, tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động: Bản chất của
tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động
hay giá cả của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá cả của lao động.
Hình thức biểu hiện trên đây đã gây ra sự nhầm lẫn do những thực tế sau đây:
Một là, đặc điểm của hàng hóa sức lao động là không tách rời khỏi người bán. Nó
chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua. Vì thế, nhà tư bản
trả giá trị cho lao động.
Hai là, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có
tiền sinh sống, họ cũng tưởng rằng mình bán lao động, nhà tư bản bỏ tiền ra để có lao
động nên cũng nghĩ rằng cái họ mua là lao động.
Ba là, lượng của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản
phẩm sản xuất ra. Điều đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao
động.Tiền công đã che đậy dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao
động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao động
không được trả công. Do đó tiền công che đậy bản chất bóc lột của nhà tư bản.
Hai hình thức của tiền công trong chủ nghĩa tư bản:
- Tiền công theo thời gian: là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít hay nhiều
tùy theo thời gian lao động của công nhân được tính theo thời gian dài hay ngắn. Giá cả
của một giờ lao động là thước đo mức tiền công tính theo thời gian.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
88
- Tiền công tính theo sản phẩm: là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ
thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân
đã sản xuất ra hoặc công việc đã hoàn thành. Đơn giá tiền công được xác định bằng
thương số giữa số tiền công trung bình của công nhân trong một ngày với số lượng sản
phẩm trung bình mà công nhân sản xuất ra trong một ngày.
- Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
+ Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản. Tiền công được dùng để tái sản xuất sức lao động nên tiền
công danh nghĩa phải được chuyển hóa thành tiền công thực tế.
+Tiền công thực tế được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ
mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.
Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nó biến động theo quan hệ cung cầu
về hàng hóa sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh
nghĩa không thay đổi nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng hoặc giảm thì tiền
công thực tế cũng sẽ tăng hoặc giảm.
Xu hướng chung của nhà tư bản là không muốn nâng cao mức tiền công trung
bình mà là hạ thấp mức tiền công ấy. Trong quá trình phát triển, tiền công danh nghĩa có
xu hướng tăng lên nhưng không theo kịp mức tăng của giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch
vụ. Vì vậy, tiền công thực tế của công nhân có xu hướng hạ thấp.
II. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong xã hội tư bản
1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất
ra giá trị thặng dư
a) Quá trình sản xuất giá trị sử dụng
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị,
hơn nữa, cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất
giá trị thặng dư, trước hết, nhà tư bản phải sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó, vì giá
trị sử dụng là vật mang giá trị và giá trị thặng dư.
Vậy, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất
ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C. Mác viết: Với tư cách là sự
thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một
quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá
trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là
hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
89
b) Quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản
Quá trình sản xuất trong xí nghiệp tư bản đồng thời là quá trình nhà tư bản tiêu
dùng sức lao động và tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua, nên nó có các đặc điểm:
Một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản, giống như những
yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất;
Hai là, sản phẩm được làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không thuộc về
công nhân.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi của
một nhà tư bản làm ví dụ. Nó là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng
và quá trình lớn lên của giá trị hay là quá trình sản xuất giá thị thặng dư.
Giả định để sản xuất 10 kg sợi, cần 10 kg bông và giá 10 kg bông là 10 $. Để biến
số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc là 2
$; giá trị sức lao động trong một ngày là 3 $ và ngày lao động là 12 giờ; trong một giờ lao
động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5 $; cuối cùng giả định trong quá
trình sản xuất, sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6 giờ, thì
nhà tư bản phải ứng ra là 15 $ và giá trị của sản phẩm mới (10 kg sợi) mà nhà tư bản thu
được cũng là 15 $. Như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm đủ bù đắp
lại giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động tất yếu, thì chưa sản xuất ra
giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.
Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức lao động
mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra cho nhà tư bản
là hai đại lượng khác nhau, mà nhà tư bản đã tính đến trước khi mua sức lao động. Nhà tư
bản đã trả tiền mua sức lao động trong một ngày (12 giờ). Việc sử dụng sức lao động
trong ngày đó là thuộc quyền của nhà tư bản.
Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động
12 giờ trong ngày như đã thoả thuận thì:
Chi phí sản xuất
Giá trị sản phẩm mới (20 kg sợi)
- Tiền mua bông (20 kg): 20$
- Tiền hao mòn máy móc: 4$
- Tiền mua sức lao động trong một ngày:
3$
Tổng cộng 27$
- Giá trị của bông được chuyển vào sợi: 20$
- Giá trị của máy móc được chuyển vào sợi: 4$
- Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra
trong 12 giờ lao động: 6$
Tổng cộng: 30$
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
90
Như vậy, toàn bộ chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra là 27 $, còn giá trị của sản
phẩm mới (20 kg sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12 giờ lao động là 30$. Vậy 27 $
ứng trước đã chuyển hoá thành 30$, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3$. Do đó tiền tệ
ứng ra ban đầu đã chuyển hoá thành tư bản.
Từ sự nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể rút ra những kết luận
sau đây:
Một là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20 kg sợi), chúng ta thấy có
hai phần: Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà được bảo
toàn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ (trong ví dụ là 24 $). Giá trị do lao
động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất gọi là giá trị mới (trong ví
dụ là 6 $). Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động
cộng với giá trị thặng dư.
Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình sản xuất ra
giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức
lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.
Hai là, ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia thành hai phần: phần
ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động
của mình gọi là thời gian lao động cần thiết và lao động trong khoảng thời gian đó là lao
động cần thiết. Phần còn lại của ngày lao động gọi là thời gian lao động thặng dư, và lao
động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.
Ba là, sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta nhận thấy
mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết: việc chuyển hoá của tiền
thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ
có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá
sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hoá đặc biệt đó trong sản xuất, tức là ngoài
lĩnh vực lưu thông để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư
bản mới chuyển thành tư bản.
Việc nghiên cứu giá trị thặng dư được sản xuất ra như thế nào đã vạch rõ bản chất
bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Nhưng trong điều kiện hiện nay, do sự phát triển của công
ty cổ phần, mà trong đó một bộ phận nhỏ công nhân cũng có cổ phiếu và trở thành cổ
đông, đã xuất hiện quan niệm cho rằng không còn bóc lột giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư
bản ngày nay đã thay đổi bản chất. Dựa vào đó, một số học giả tư sản đưa ra thuyết "Chủ
nghĩa tư bản nhân dân". Song, trên thực tế, công nhân chỉ có một số cổ phiếu không đáng
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
91
kể, do đó họ chỉ là người sở hữu danh nghĩa mà không có vai trò chi phối doanh nghiệp,
phần lớn lợi tức cổ phần vẫn nằm trong tay các nhà tư bản, thu nhập của công nhân chủ
yếu vẫn là tiền công và tiền lương.
2. Bản chất của tư bản, tư bản bất biến và tư bản khả biến
a) Bản chất của tư bản
Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể đưa ra định nghĩa:
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của
công nhân làm thuê. Bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó
giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
b) Tư bản bất biến và tư bản khả biến
Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển vào
sản phẩm, tức là không thay đổi đại lượng giá trị của nó, được C.Mác gọi là tư bản bất
biến, và ký hiệu là C.
Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì lại khác. Một mặt, giá trị của nó biến
thành các tư liệu sinh hoạt của người công nhân và biến đi trong tiêu dùng của công nhân.
Mặt khác, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá
trị thặng dư. Như vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã không ngừng chuyển
hoá từ đại lượng bất biến thành một đại lượng khả biến, tức là đã tăng lên về lượng trong
quá trình sản xuất.
Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao
động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về đại lượng, được
C. Mác gọi là tư bản khả biến, và ký hiệu là V.
Như vậy, tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra
giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó, vì nó chính
là bộ phận tư bản đã lớn lên.
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động thể hiện trong hàng hoá đã giúp C.
Mác xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. C. Mác là người đầu
tiên chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Sự phân chia đó dựa vào vai trò
khác nhau của các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư, do đó nó
vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ có lao động của công nhân làm thuê
mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
92
3. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Tư bản cố định và tư bản lưu động
a)Tuần hoàn của tư bản (Ba giai đoạn vận động của tư bản và sự biến hoá hình
thái của tư bản)
Tư bản công nghiệp vận động theo công thức:
TLSX
T - H ... SX ... H' - T'
SLĐ
Giai đoạn thứ nhất: T - H
Mỗi tư bản đều xuất hiện trước hết dưới hình thức tiền tệ. Đó là tư bản tiền tệ. Nhà
tư bản dùng tiền mua một loại hàng hoá nhất định, gồm tư liệu sản xuất và sức lao động,
tiền phải có số lượng đủ lớn. Quá trình lưu thông đó có thể trình bày như sau:
TLSX
T - H
SLĐ
Hành vi mua (T - H) không đơn thuần là sự chuyển hoá một món tiền thành hàng
hoá, mà tư bản đã bước vào giai đoạn đầu tiên trong vận động của mình. Chức năng của
tư bản tiền tệ là chuyển hoá thành các yếu tố sản xuất. Trước đó, nhà tư bản có tư bản
dưới hình thái tiền tệ, bây giờ, tư bản mà anh ta có về số lượng giá trị không thay đổi,
nhưng về hình thái thì đã là tư bản sản xuất.
Giai đoạn thứ hai: ... S X ...
Ở giai đoạn này, các hàng hoá đã mua được tiêu dùng, tức tiến hành sản xuất.
Hình thái của tư bản giờ đây là tư bản sản xuất.
Chức năng của tư bản sản xuất là tạo ra giá trị thặng dư. Sau một quá trình sản
xuất, một hàng hoá mới H' được tạo ra, khác về giá trị sử dụng và cả lượng giá trị so với
giá trị các hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất. Hàng hoá mới này đã mang trong nó giá
trị thặng dư, nên nó là tư bản hàng hoá.
Kết thúc giai đoạn thứ hai, tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá. Giai đoạn
này có thể trình bày như sau:
TLSX
H ... S X ... H'
SLĐ
Chức năng của tư bản sản xuất là, thông qua lao động của công nhân, sáng tạo ra
giá trị và giá trị thặng dư (H - H').
Giai đoạn thứ ba: H' - T'
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
93
Hình thái của tư bản giờ đây là hàng hoá, trong đó chứa đựng giá trị thặng dư.
Hàng hoá được sản xuất ra trong giai đoạn thứ hai nhà tư bản cần phải bán đi để thu tiền
về. Quá trình lưu thông đó có thể trình bày như sau: H' - T'.
Chức năng của tư bản hàng hoá là thông qua việc bán hàng hoá đã sản xuất ra để:
một là, hoàn lại cho nhà tư bản dưới hình thái tiền tệ số tư bản đã bỏ ra lúc đầu để sản
xuất; hai là, thực hiện giá trị thặng dư đã được sáng tạo ra trong quá trình sản xuất.
Lần thứ ba tư bản thay đổi hình thái tồn tại của nó. Tư bản lại trở lại hình thái tư
bản tiền tệ. Nhưng bây giờ, số tiền của nhà tư bản đã lớn hơn số lượng ban đầu. Mục đích
thu về giá trị thặng dư của các nhà tư bản đã đạt được.
Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả 3 giai đoạn, ta có công thức sau
đây:
TLSX
T - H ... S X ... H' - T' (...)
SLĐ
Trong 3 giai đoạn đó, có 2 giai đoạn diễn ra trong lưu thông và 1 giai đoạn diễn ra
trong sản xuất. Nhưng cả 3 giai đoạn kết hợp chặt chẽ với nhau. Nếu một trong 3 giai
đoạn bị ngừng trệ, thì toàn bộ sự vận động của tư bản bị phá hoại.
Sự vận động của tư bản T - H ... S X ... H' - T' là sự vận động có tính chất tuần
hoàn: từ hình thái tiền đầu tuần hoàn quay lại hình thái tiền cuối tuần hoàn; quá trình đó
tiếp tục lặp lại không ngừng.
Vậy, tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần
lượt mang ba hình thái và thực hiện ba chức năng để rồi quay trở về hình thái ban đầu
với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng lên.
Các hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp :
Trong vận động liên tục của tư bản, mỗi hình thái của tư bản đều có thể trở thành
điểm bắt đầu và kết thúc của một vòng tuần hoàn, tạo nên các hình thái khác nhau của
tuần hoàn tư bản.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ: T - H...SX... H' -T'
Điểm mở đầu và kết thúc của tuần hoàn là tiền tệ. Điều này cho thấy, tư bản trước
hết xuất hiện dưới hình thái tiền tệ; tích luỹ tiền tệ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ cho thấy, mục đích của vận động tư bản là tiền tệ, là
giá trị thặng dư. Sự giống nhau về chất giữa T và T' làm cho điểm kết thúc của chu kỳ
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
94
này trở thành điểm mở đầu của chu kỳ mới; vận động của tư bản liên tục và không có
giới hạn.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất: SX... H' - T' - H ... SX'
Điểm mở đầu và kết thúc của tuần hoàn là sản xuất. Điều này làm cho người ta
lầm tưởng rằng, mục đích của vận động tư bản là sản xuất; hàng hoá và tiền tệ chỉ là
những yếu tố trung gian.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất lại chỉ rất rõ rằng, nguồn gốc của sản xuất mở rộng
là kết qủa của quá trình sản xuất trước đó, tức là lao động của công nhân tích luỹ lại; lưu
thông là điều kiện của sản xuất.
Tuần hoàn của tư bản hàng hoá: H' - T' - H ... SX - H"
Hàng hoá là điểm mở đầu và kết thúc của tuần hoàn tư bản. Nhưng H', H" không
phải là hàng hoá thông thường, mà mang giá trị thặng dư, tức là tư bản hàng hoá. Trong
tuần hoàn của tư bản hàng hoá, vận động của tư bản được biểu hiện bằng vận động của
hàng hoá.
Trong tuần hoàn của tư bản hàng hoá, tiền tệ và sản xuất chỉ là điều kiện cần thiết
của lưu thông hàng hoá. H' - T' bao gồm hành vi trao đổi nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng sản xuất và hành vi trao đổi nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Do đó, tuần
hoàn của tư bản hàng hoá không chỉ phản ánh vận động của tư bản cá biệt, mà còn có thể
được sử dụng để nghiên cứu vận động của tư bản xã hội.
Trong các loại tư bản, chỉ có tư bản công nghiệp (với nghiã các ngành sản xuất vật
chất) mới có hình thái tuần hoàn đầy đủ gồm ba giai đoạn, tư bản lần lượt mang lấy và
trút bỏ ba hình thức của nó. Tư bản công nghiệp là hình thức tư bản duy nhất không chỉ
chiếm đoạt giá trị thặng dư mà còn tạo ra giá trị thặng dư. Cho nên, chính tư bản công
nghiệp quy định tính chất tư bản chủ nghĩa của sản xuất.
Tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoá không phải là những loại tư bản
độc lập, mà chúng chỉ là những hình thái chức năng đặc thù của tư bản công nghiệp.
Trong cuộc tuần hoàn của tư bản công nghiệp, giai đoạn thứ hai (khi tư bản công nghiệp
mang hình thức tư bản sản xuất) là giai đoạn có ý nghĩa quyết định. Trong giai đoạn ấy,
hàng hoá, giá trị và giá trị thặng dư được sản xuất ra (tư bản sản xuất biến thành tư bản
hàng hoá). Trong hai giai đoạn kia, không sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, mà chỉ có
sự thay đổi hình thức tư bản (tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất và tư bản hàng hoá
biến thành tư bản tiền tệ).
b) Chu chuyển của tư bản
Thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
95
Tuần hoàn của tư bản nói lên sự biến hoá hình thái của tư bản qua các giai đoạn
lưu thông và sản xuất. Nhưng tư bản không phải biến hoá hình thái một lần rồi dừng lại,
mà nó vận động không ngừng. Sự lặp đi lặp lại của tuần hoàn tư bản một cách định kỳ
gọi là chu chuyển của tư bản.
Chu chuyển của tư bản nói lên tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm. Thời
gian tư bản thực hiện được một vòng tuần hoàn gọi là thời gian chu chuyển của tư bản.
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi nhà tư bản ứng tư bản ra
dưới một hình thái nào đó cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ấy, có kèm theo giá trị
thặng dư. Vì tuần hoàn của tư bản bao gồm cả quá trình sản xuất và quá trình lưu thông,
nên thời gian chu chuyển của tư bản cũng bao gồm cả thời gian sản xuất và thời gian lưu
thông cộng lại.
Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Nó
bao gồm: thời gian lao động (thời gian duy nhất tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho nhà
tư bản), thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất.
Thời gian lưu thông của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.
Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra
hàng hoá, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông bao gồm cả thời
gian mua và thời gian bán, trong đó thời gian bán thường dài hơn thời gian mua vì bán
khó khăn hơn mua.
Tốc độ chu chuyển của tư bản trong một thời gian nhất định (1năm) được đo bằng
số vòng chu chuyển. Số vòng chu chuyển của tư bản bằng tỷ lệ giữa đơn vị đo thời gian
chu chuyển (1 năm) và thời gian một vòng chu chuyển của tư bản.
Với một lượng tư bản nhất định và trình độ bóc lột nhất định, khối lượng giá trị
thặng dư mà nhà tư bản thu được còn tuỳ thuộc tốc độ vận động của tư bản. Thời gian
của một vòng tuần hoàn càng ngắn tức là tốc độ vận động của tư bản càng cao và ngược
lại. Do đó, nhà tư bản tìm mọi cách rút ngắn thời gian chu chuyển.
Thời
gian chu
chuyển
của tư
bản
Thời gian
sản xuất
Tính chất của ngành sản xuất
Thời gian
lưu thông
Trình độ khoa học - công nghệ
Thời gian dự trữ sản xuất
Điều kiện thị trường
Khoảng cách từ nơi sản xuất đến
thị trường
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
96
c) Tư bản cố định và tư bản lưu động
Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận với thời gian chu chuyển khác nhau, do đó
ảnh hưởng đến toàn bộ thời gian chu chuyển của tư bản. Căn cứ vào sự khác nhau trong
phương thức chu chuyển về mặt giá trị của các bộ phận đó, tư bản sản xuất được phân
chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
Tư bản cố định là bộ phận tư bản được sử dụng toàn bộ vào quá trình sản xuất
nhưng giá trị của nó chỉ chuyển từng phần vào sản phẩm. Đó là phần tư bản dùng để làm
nhà xưởng và kiến trúc khác cần cho kinh doanh, mua máy móc và thiết bị.
+ Tư bản cố định do nhà tư bản bỏ ra một lần, nhưng giá trị của nó thì trở về tay
nhà tư bản từng phần một dưới hình thức tiền tệ. Các yếu tố của tư bản cố định thường
phục vụ sản xuất nhiều năm, hàng năm giá trị của nó chỉ chuyển một bộ phận nhất định
vào sản phẩm; phần còn lại vẫn bị cố định trong tư liệu lao động, phần này không ngừng
giảm xuống cho tới khi nó chuyển hết giá trị vào sản phẩm. Thời gian mà tư bản cố định
chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài hơn thời gian một vòng tuần
hoàn.
+ Trong qúa trình sử dụng, tư bản cố định bị hao mòn đi. Có hai loại hao mòn: hao
mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là sự hao mòn về giá trị sử dụng đi đôi với sự hao mòn về giá
trị của tài sản cố định do quá trình sử dụng hoặc do sự phá huỷ của tự nhiên gây ra. Hao
mòn hữu hình làm cho máy móc thiết bị hỏng dần và đi đến hỏng phải thay thế. Phần giá
trị hao mòn này được chuyển vào giá trị hàng hoá, và nhà tư bản sẽ thu hồi lại sau khi
bán hàng. Dù vậy, trong quá trình hoạt động, tư bản cố định cần phải được bảo quản, sửa
chữa để kéo dài tuổi thọ.
Hao mòn vô hình là hao mòn thuần tuý về giá trị của tài sản cố định, là sự giảm
giá trị, thậm chí bị loại bỏ do xuất hiện máy móc mới tốt hơn, rẻ hơn, có công suất cao
hơn.
Để khôi phục tư bản cố định đã hao mòn phải lập quĩ khấu hao tài sản cố định. Sau
từng kỳ bán hàng hoá, người ta trích ra một số tiền bằng mức độ hao mòn tư bản cố định
bỏ vào quĩ khấu hao. Quỹ khấu hao dùng để đổi mới tư bản cố định, nhưng trước khi làm
việc đó, nó có thể được sử dụng để kinh doanh hoặc cho vay...
Để hạn chế hao mòn hữu hình các tài sản cố định cần được bảo quản, sửa chữa
thường xuyên; để tránh hao mòn vô hình, tài sản cố định cần được sử dụng hết công suất,
thu hồi nhanh tư bản cố định.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
97
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản khi tham gia vào quá trình sản xuất chuyển
giá trị một lần vào sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động, nguyên
liệu, nhiên liệu và các vật liệu phụ, tức là phần tư bản dùng để mua những tư liệu sản
xuất không thuộc tư bản cố định.
Sự phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động là đặc điểm riêng của
tư bản sản xuất. Sự phân biệt giữa tư bản cố định và tư bản lưu động là chỉ có tính chất
tương đối. Có những tư liệu sản xuất khi thì là tư bản cố định, khi lại là tư bản lưu động.
Điều đó là tuỳ thuộc vào chức năng của nó trong quá trình sản xuất.
Các nhà kinh tế chính trị tư sản chỉ thừa nhận việc phân chia tư bản thành tư bản
cố định và tư bản lưu động và cách phân loại này không chỉ ra được vai trò khác nhau của
các bộ phận tư bản trong việc sáng tạo ra giá trị thặng dư. Nhờ phân chia tư bản thành tư
bản bất biến và tư bản khả biến, C. Mác đã làm rõ được nguồn gốc, bản chất của giá trị
thặng dư. Thực ra, đó là hai cách phân chia khác nhau của cùng các yếu tố sản xuất. Xét
theo nguồn gốc tạo ra giá trị và giá trị thặng dư thì tư bản được chia thành tư bản bất biến
(c) và tư bản khả biến (v); còn khi xem xét về phương thức chu chuyển giá trị thì tư bản
được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
3. Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
Sau khi vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, C. Mác nghiên cứu trình độ
và quy mô của sự bóc lột, tức là nghiên cứu tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Tỷ
suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến
cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.
Nếu ký hiệu m' là tỷ suất giá trị thặng dư, thì m' được xác định bằng công thức:
m' =
v
m x 100%
Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng số giá trị mới do sức lao động tạo ra, thì
công nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm đoạt bao nhiêu. Tỷ suất giá trị thặng
dư còn chỉ rõ, trong một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng dư mà người công
nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu làm
cho mình. Do đó, có thể biểu thị tỷ suất giá trị thặng dư theo một công thức khác:
m' =
t' x 100%
Trong đó: t' là thời gian lao động thặng dư; t là thời gian lao động tất yếu
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
98
Tỷ suất giá trị thặng dư nói lên trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân
làm thuê, nó chưa nói rõ quy mô bóc lột. Để phản ánh quy mô bóc lột, C. Mác sử dụng
phạm trù khối lượng giá trị thặng dư.
- Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản
khả biến đã được sử dụng.
Nếu ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư, thì M được xác định bằng công
thức: M = m'. V
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng, vì trình
độ bóc lột sức lao động càng tăng.
4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì vậy, các nhà
tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát
có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản
xuất giá trị thặng dư tương đối.
a) Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều kiện
thời gian lao động tất yếu không thay đổi, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư gọi
là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ
là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng công thức sau đây:
m'=
4
4 x100% = 100%
Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu
không thay đổi, vẫn là 4 giờ. Do đó tỷ suất giá trị thặng dư là:
m' =
4
6 x 100% = 150%
Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất
yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư
tăng lên. Trước đây tỷ suất giá trị thặng dư là 100%, thì bây giờ là 150%.
Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có
những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của
người lao động quyết định. Vì công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để
phục hồi sức khoẻ. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
99
công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất
yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao
động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể
chất và tinh thần của người lao động.
Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không
cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã
kéo dài hàng thế kỷ.
b) Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động
và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi
sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã
tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang
phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bóc lột giá trị thặng dư
tương đối.
Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong
điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao
động thặng dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất
yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Do đó tỷ suất giá trị thặng dư là:
m' =
4
4 x 100% = 100%
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3
giờ lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình.
Do đó tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5
giờ là thời gian lao động thặng dư. Do đó bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m' =
3
5 x 100% = 166%
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.
Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao
động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu
phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những
tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
100
được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân hay tăng năng suất lao động trong các ngành
sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị
thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và
của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản
đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình
độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng
kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là
để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ
lao động. Ngày nay, việc tự động hoá sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên,
nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động
cơ bắp.
c) Giá trị thặng dư siêu ngạch
Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt
nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giảm giá trị cá biệt của
hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu
ngạch.
Xét từng trường hợp, thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, xuất
hiện và mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện
tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư
bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng.
C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng
năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một
bên dựa vào tăng năng suất lao động xã hội).
Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể
hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được.
Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối với toàn
bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số các nhà tư bản
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
101
có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư
bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà
tư bản.
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất
thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn
thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của
hàng hoá.
5. Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản
xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích
và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư
bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hoá với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó
cũng chỉ vì nhà tư bản muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích đó: tăng
cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao
động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.
Sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Nội
dung của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột công nhân
làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ
nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa
tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng làm
cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư
bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao
hơn.
Trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:
Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng
giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao
động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại có đặc điểm là chi phí lao động sống
trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao
động sống hơn.
Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi
lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao động
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
102
trí tuệ tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp. Do đó lao động trí tuệ, lao
động có trình độ kỹ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất ra giá
trị thặng dư. Chính nhờ sử dụng lực lượng lao động ngày nay mà tỷ suất và khối lượng
giá trị thặng dư đã tăng lên rất nhiều.
Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trên phạm vi quốc tế
ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hoá, trao đổi
không ngang giá. Lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản chủ nghĩa phát triển bòn rút
từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên gấp bội. Sự cách biệt
giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng và đang trở thành mâu thuẫn
nổi bật trong thời đại ngày nay. Các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã bòn rút chất
xám, huỷ hoại môi sinh, cũng như cội rễ đời sống văn hoá của các nước lạc hậu, chậm
phát triển.
III. Sự chuyển hóa của giá trị thặng dư thành tư bản - tích lũy tư bản
1. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản
Tái sản xuất nói chung được hiểu là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại một cách
liên tục. Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được lặp lại với qui mô như cũ.
Loại tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuất nhỏ và đặc trưng của nền sản xuất nhỏ.
Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với qui mô lớn hơn, thường
gắn với nền sản xuất lớn và là đặc trưng của nền sản xuất lớn. Nét điển hình của chủ
nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng. Muốn vậy, phải biến một bộ phận của giá trị thặng
dư thành tư bản phụ thêm. Sự chuyển hóa trở lại của giá trị thặng dư thành tư bản gọi là
tích lũy tư bản. Thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư
thành tư bản, hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.
Chẳng hạn năm thứ nhất qui mô sản xuất là 80c + 20v + 20m. Giả định 20m không
bị nhà tư bản tiêu dùng cá nhân mà được phân thành 10m cho tích lũy và 10m cho tiêu
dùng cá nhân. Phần 10m dùng tích lũy được phân thành 8c + 2v thì qui mô sản xuất của
năm sau sẽ là 88c + 22v + 22m (nếu m' vẫn như cũ). Như vậy, vào năm thứ hai, qui mô
tư bản bất biến và khả biến đều tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên tương ứng.
Nghiên cứu tích lũy tư bản và tái sản xuất mở rộng cho phép rút ra kết luận vạch
rõ hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Thứ nhất: Nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư và chiếm tỉ lệ
ngày càng cao trong toàn bộ tư bản. Trong quá trình tái sản xuất, lãi (m) cứ được nhập
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
103
vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn. Do đó, lao động của công nhân trong quá khứ lại
trở thành phương tiện để bóc lột chính người công nhân.
Thứ hai: Quá trình tích lũy làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa trở
thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa vì nền sản xuất tư bản dẫn đến kết quả là nhà tư
bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân, mà còn là người sở hữu
hợp pháp lao động không công đó.
Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là qui luật kinh
tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản - qui luật giá trị thặng dư.
Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản không ngừng làm cho tư bản của mình
tăng lên bằng cách tích lũy. Những nhân tố ảnh hưởng đến qui mô tích lũy được chia làm
2 trường hợp:
Trường hợp 1: khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì qui mô của tích lũy phụ
thuộc vào tỉ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư thành hai quĩ: quĩ tích lũy và quĩ tiêu
dùng của nhà tư bản.
Trường hợp 2: nếu tỉ lệ phân chia đó đã được xác định thì qui mô tích lũy phụ
thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Trường hợp này khối lượng giá trị thặng dư phụ
thuộc vào 4 nhân tố sau đây:
Một là, trình độ bóc lột sức lao động bằng nhiều biện pháp: tăng cường độ lao
động, kéo dài ngày lao động, cắt giảm tiền công.
Hai là, trình độ năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật
chất để biến m thành T nên làm tăng qui mô tích lũy.
Ba là, sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng. Trong quá
trình sản xuất, tư liệu lao động, máy móc thiết bị tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất
nhưng giá trị của chúng lại chỉ bị khấu hao từng phần. Mặc dù đã mất dần giá trị nhưng
trong thời gian hoạt động, máy vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt động này
được coi như phục vụ không công. Tư liệu càng hiện đại thì sự chênh lệch giữa tư bản
được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng càng lớn. Do đó, sự phục vụ không công càng lớn.
Nhà tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ ngày càng nhiều, vì
vậy, qui mô tích lũy ngày càng lớn.
Bốn là, qui mô của tư bản ứng trước: với trình độ bóc lột không thay đổi thì khối
lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó, qui mô của tư
bản ứng trước, nhất là v ngày càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được ngày
càng cao, dẫn đến tăng thêm qui mô tích lũy tư bản.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
104
2. Tích tụ và tập trung tư bản
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển như:
Anh, Pháp, Mỹ, tích tụ và tập trung tư bản, tập trung sản xuất đã đến mức rất cao. Các xí
nghiệp lớn chỉ chiếm khoảng 1% tổng số các xí nghiệp nhưng chiếm 3/4 tổng số hơi nước
và điện lực, gần1/2 tổng số công nhân và sản xuất ra gần một nửa tổng sản phẩm. Theo
V.Lênin, tập trung sản xuất cao độ sẽ dẫn thẳng đến độc quyền: "Tự do cạnh tranh đẻ ra
tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định,
lại dẫn tới độc quyền".2
Tích tụ và tập trung sản xuất vẫn tiếp tục diễn ra với quy mô ngày càng lớn làm
cho độc quyền có bước phát triển mới. Trước hết, đó là sự hình thành tổ chức độc quyền
mới Công-gơ-lô-mê-rát. Đây là hình thức tổ chức độc quyền đa ngành, thâu tóm nhiều
công ty, xí nghiệp thuộc những ngành công nghiệp khác nhau. Công-xoóc-xi-om và
Công-gơ-lô-mê-rát phát triển vượt ra ngoài phạm vi quốc gia trở thành các công ty độc
quyền quốc tế. Hiện nay trên thế giới, Công -gơ -lô -mê -rát có quy mô hết sức to lớn, có
chi nhánh ở nhiều nước, có số vốn hàng trăm tỷ đô la, sử dụng hàng vạn công nhân. Tích
tụ và tập trung tư bản dẫn đến độc quyền: Độc quyền là sự liên minh giữa các nhà tư bản
để chi phối việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nhằm thu được siêu lợi nhuận.
3. Cấu tạo hữu cơ của tư bản
Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản
Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về
mặt quy mô, mà còn không ngừng biến đổi trong cấu tạo của nó. C. Mác phân biệt cấu
tạo kỹ thuật, cấu tạo giá trị và cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Về mặt hình thái hiện vật, mỗi tư bản đều bao gồm tư liệu sản xuất và sức lao
động để vận dụng những tư liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số
lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó trong quá trình sản xuất gọi là cấu
tạo kỹ thuật của tư bản. Quan hệ này có tính tất yếu về mặt kỹ thuật, do trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định.
Để biểu thị cấu tạo kỹ thuật của tư bản, người ta thường dùng các chỉ tiêu như số
năng lượng hoặc số lượng máy móc do một công nhân sử dụng trong sản xuất, ví dụ 100
kw điện/1 công nhân, 10 máy dệt/1 công nhân.
2 V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.27, tr.402
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
105
Cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Điều đó biểu thị ở số lượng tư liệu sản xuất mà một công nhân sử dụng
ngày càng tăng lên.
Về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia thành hai phần: tư bản bất biến (c) và tư bản
khả biến (v). Tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và số lượng giá trị của tư bản
khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất gọi là cấu tạo giá trị của tư bản. Ví dụ, một tư bản
mà đại lượng của nó là 12.000$, trong đó giá trị tư liệu sản xuất là 10.000$, còn giá trị
sức lao động là 2.000$, thì cấu tạo giá trị của tư bản đó là 10.000$: 2000$ = 5: 1 .
Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói
chung, những sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những sự thay đổi
trong cấu tạo giá trị của tư bản. Để biểu hiện mối quan hệ đó, C.Mác dùng phạm trù cấu
tạo hữu cơ của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật của tư
bản quyết định và phản ánh những sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật đó.
Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày
càng tăng, do đó cấu tạo giá trị của tư bản phản ánh cấu tạo kỹ thuật của tư bản cũng tăng
lên, nên cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu
cơ của tư bản biểu hiện ở chỗ tư bản bất biến tăng tuyệt đối và tương đối, còn tư bản khả
biến có thể tăng tuyệt đối, nhưng cũng có thể giảm xuống một cách tương đối.
Như vậy, quá trình tích luỹ tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản. Cấu
tạo hữu cơ của tư bản tăng lên có ảnh hưởng trực tiếp đến nạn thất nghiệp trong chủ
nghĩa tư bản. Hậu quả của tích luỹ tư bản dẫn đến thất nghiệp và bần cùng hoá giai cấp
vô sản.
- Thất nghiệp: Nguyên nhân của nạn nhân khẩu thừa tương đối:
Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên điều đó có nghĩa là tỷ lệ của tư bản khả biến với tư
bản bất biến giảm xuống, tuy nhiên lượng tuyệt đối của tư bản khả biến có thể tăng lên.
Tư bản khả biến là quỹ tiền lương quyết định số cầu về sức lao động. Vì vậy, trong
những điều kiện khác không thay đổi thì số cầu về sức lao động cho một tư bản nhất định
sẽ giảm xuống.
Tiến bộ kỹ thuật trước hết tác động vào bộ phận tư bản tích luỹ, nên thu hút một
lượng công nhân ít hơn so với tích luỹ trong điều kiện trước đây. Tiến bộ kỹ thuật cũng
tác động cả đến bộ phận tư bản cũ, khi tư bản cố định của nó hao mòn hết phải đổi mới tư
bản cố định, do đó giãn thải một số công nhân.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
106
Trong quá trình tích luỹ tư bản, khi thì thu hút công nhân khi thì giãn thải công
nhân, nhưng sự thu hút và giãn thải đó không khớp với nhau về không gian, thời gian và
quy mô, do đó sinh ra một số người không có việc làm, bị thất nghiệp.
Như vậy, cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên trong quá trình tích luỹ tư bản là
nguyên nhân chủ yếu trực tiếp gây ra nạn nhân khẩu thừa tương đối. Nhân khẩu thừa
tương đối là sản phẩm, đồng thời là điều kiện phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hình thức tồn tại của nhân khẩu thừa tương đối.
Một là, nhân khẩu thừa lưu động là hình thức thất nghiệp tạm thời, phổ biến ở các
trung tâm công nghiệp. Tính chất lưu động của nó thể hiện ở chỗ công nhân bị thải ở nơi
này, lúc này, thì lại tìm được việc làm ở nơi khác, lúc khác. Nói chung số công nhân này
chỉ mất việc làm từng lúc.
Hai là, nhân khẩu thừa tiềm tàng gồm những người ở nông thôn hàng năm chỉ làm
việc trong nông nghiệp rất ít thời gian, nhưng không tìm được việc làm trong công
nghiệp.
Ba là, nhân khẩu thường ngừng trệ bao gồm những người thường xuyên bị thất
nghiệp, thỉnh thoảng mới tìm được việc làm với tiền công rất thấp, sống nay đây mai đó,
tạo thành tầng lớp dưới đáy của xã hội.
Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đội quân thất nghiệp
ở các nước tư bản không chỉ bao gồm lao động giản đơn, mà cả lao động phức tạp và lao
động trí tuệ. Việc tuyển lao động chủ yếu từ những người lao động trẻ tuổi, còn những
công nhân ở những xí nghiệp với kỹ thuật lạc hậu, khi bị sa thải, không có hy vọng tìm
được việc làm mới.
- Sự bần cùng hoá giai cấp vô sản:
Quá trình tích luỹ tư bản dẫn đến tích luỹ của cải, sự giàu có về một cực - về phía
giai cấp tư sản, và tích luỹ sự thất nghiệp bần cùng về cực đối lập - về phía giai cấp vô
sản Quy mô và tốc độ tích luỹ càng tăng, thì giai cấp tư sản càng giàu lên nhanh chóng,
còn giai cấp vô sản càng bị thất nghiệp và bần cùng. Đó là quy luật chung của tích luỹ tư
bản.
Như vậy, quá trình tích luỹ tư bản là quá trình bần cùng hoá giai cấp vô sản. Bần
cùng hoá giai cấp vô sản biểu hiện dưới hai hình thức là bần cùng hoá tương đối và bần
cùng hoá tuyệt đối.
Bần cùng hoá tương đối giai cấp vô sản được biểu hiện ở tỷ trọng thu nhập của
công nhân trong thu nhập quốc dân giảm xuống, mặc dù thu nhập tuyệt đối có thể tăng
lên; còn tỷ trọng thu nhập của giai cấp tư sản trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng lên.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
107
Bần cùng hoá tương đối giai cấp vô sản không phụ thuộc vào thu nhập và mức
sống của giai cấp công nhân mà phụ thuộc vào sự chênh lệch về mức tăng thu nhập giữa
hai giai cấp vô sản và tư sản.
Bần cùng hoá tuyệt đối giai cấp vô sản biểu hiện ở mức sống của công nhân bị
giảm sút so với trước. Sự giảm sút này xảy ra không chỉ trong trường hợp tiêu dùng cá
nhân bị giảm xuống tuyệt đối, mà cả khi tiêu dùng cá nhân tăng lên, nhưng mức tăng đó
chậm hơn mức tăng của nhu cầu do hao phí sức lao động nhiều hơn.
Mức sống của công nhân giảm sút không chỉ do tiền lương thực tế giảm, mà còn
do sự giảm sút của toàn bộ những điều kiện có liên quan đến đời sống vật chất và tinh
thần của công nhân như mối đe doạ thường trực của nạn thất nghiệp, cường độ lao động,
điều kiện môi trường lao động, nhà ở và cả điều kiện chính trị - xã hội nữa.
Trong điều kiện hiện nay, có ý kiến cho rằng ở các nước tư bản phát triển, giai cấp
công nhân không còn bị bần cùng hoá tuyệt đối nữa. Bần cùng hoá tuyệt đối giai cấp vô
sản được hiểu là mức sống của giai cấp công nhân giảm sút so với trước. Nhưng mức
sống là một phạm trù lịch sử, phát triển theo sự phát triển của nền văn minh. Cùng với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống của xã hội nói chung và của giai cấp công
nhân nói riêng tất yếu tăng lên. Tuy nhiên, ở các nước tư bản không phải mọi người đều
sống sung túc, mà một số người có mức sống cao, trong khi đó không ít người sống dưới
mức tối thiểu. Cái hố ngăn cách người giàu và người nghèo trong xã hội ngày càng rộng
ra.
Cũng cần lưu ý rằng sự bần cùng hoá tuyệt đối giai cấp vô sản chỉ là một xu
hướng, bởi lẽ có những nhân tố chống lại sự giảm sút mức sống của công nhân, đó là
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi tăng tiền công, cải thiện điều kiện làm việc.
IV. Các hình thái biểu hiện của tư bản và giá trị thặng dư
1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
a) Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa
Để sản xuất hàng hoá cần phải chi phí một lượng lao động nhất định.
Giá trị hàng hóa W = C+V+M
Đối với nhà tư bản, để sản xuất hàng hoá, họ chỉ cần ứng ra một số tư bản để mua
tư liệu sản xuất và sức lao động (v). Chi phí đó gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa,
ký hiệu là k (k=c+v).
Vậy, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí tư bản để sản xuất ra hàng hoá
cho nhà tư bản.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
108
Chi phi sản xuất tư bản chủ nghĩa K = C + V
Về chất, chi phí nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá được đo bằng sự hao phí về
tư bản; còn giá trị hàng hoá là chi phí thực tế để sản xuất ra nó, được đo bằng sự hao phí
lao động. Về lượng, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa nhỏ hơn giá trị hàng hoá: (c+v)
(c+v+m).
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là một phạm trù kinh tế khách quan trong xã hội
tư bản. Nhưng sự tính toán chi phí để bù đắp lại tư liệu sản xuất và sức lao động trong
tiến trình sản xuất là yêu cầu tất yếu đối với bất kỳ xã hội nào, nhất là trong nền kinh tế
thị trường. Đối với mọi chủ thể sản xuất kinh doanh, chi phí này là giới hạn thực sự của
lỗ lãi, là mấu chốt của thành bại trong cạnh tranh, do đó đây là vấn đề quan tâm thường
xuyên của các doanh nghiệp.
b) Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận: Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa, nên sau khi bán hàng hoá bằng giá trị, nhà tư bản không chỉ bù lại đủ số tư bản
đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền lời. Số tiền lời này gọi là lợi nhuận, ký hiệu là P.
Lợi nhuận là giá trị tăng thêm khi được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra,
là kết quả hoạt động của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Thực chất, lợi nhuận và giá trị thặng dư chỉ là một, lợi nhuận chẳng qua chỉ là một
hình thái thần bí hoá của giá trị thặng dư. C. Mác viết: "Giá trị thặng dư, hay là lợi nhuận,
chính là phần giá trị dôi ra ấy của giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là
phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá so với số lượng lao
động được trả công chứa đựng trong hàng hoá"1.
Khi giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận, thì giá trị của hàng hoá
G = c + v + m chuyển hoá thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi
nhuận G = k + p.
Vì lợi nhuận thu được sau khi bán hàng hoá, nên lượng lợi nhuận có thể không
nhất trí với lượng của giá trị thặng dư, mà nó có thể lớn hơn hay nhỏ hơn giá trị thặng dư.
"Lợi nhuận và giá trị thặng dư chỉ là một. Lợi nhuận chẳng qua là hình thái thần bí
hoá của giá trị thặng dư, hình thái mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất nhiên
phải đẻ ra"1. Giá trị thặng dư là nội dung bên trong được tạo ra trong quá trình sản xuất,
còn lợi nhuận là hình thái chuyển hoá của giá trị thặng dư biểu hiện ra bên ngoài, trong
lưu thông.
1 C. Mác-F. Anghen Toàn tập, NXB CTQG, H, 1994, T25, p.I, tr.74.
1 C.Mác. Tư bản. Tập 3, phần1, NXB ST, H.- Tiến bộ, M. 1988,tr. 45.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
109
Lượng lợi nhuận sở dĩ thường không nhất trí với lượng giá trị thặng dư là do cung
cầu trên thị trường ảnh hưởng đến giá cả, làm cho giá cả lên xuống xung quanh giá trị.
Nhưng xét chung toàn xã hội, tổng số giá cả vẫn nhất trí với tổng số giá trị hàng hoá, nên
tổng số lợi nhuận cũng bằng tổng số giá trị thặng dư.
Tỷ suất lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận
Các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận, mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi
nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư với tổng số tư bản ứng
trước, ký hiệu là p'.
p' = (%)
c+v
Trong thực tế, người ta thường tính tỷ suất lợi nhuận hàng năm bằng tỷ lệ phần
trăm giữa tổng số lợi nhuận thu được trong năm với tổng số tư bản ứng ra trong năm đó.
P
p' hàng năm = (%)
K
Tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư khác nhau cả về lượng và về chất. Về
lượng, tỷ suất lợi nhuận bao giờ cũng nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư. Về chất, tỷ suất giá
trị thặng dư biểu hiện mức độ bóc lột của chủ tư bản đối với lao động, còn tỷ suất lợi
nhuận nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản.
Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản. Một nhà
bình luận người Anh đã viết về sự thèm khát lợi nhuận trong xã hội tư bản là: "Tư bản
ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay có quá ít lợi nhuận, chẳng khác gì
giới tự nhiên ghê sợ chân không. Lợi nhuận mà thích đáng thì tư bản trở thành can đảm;
lợi nhuận mà bảo đảm được 10%, thì người ta có thể dùng được tư bản ở khắp nơi; bảo
đảm được 20% thì nó hăng máu lên; bảo đảm được 50% thì nó táo bạo không biết sợ là
gì; bảo đảm được 100% thì nó chà đạp lên tất cả mọi luật lệ của loài người; bảo đảm
được 300%, thì nó chẳng từ một tội ác nào mà không dám phạm, thậm chí có thể bị treo
cổ nó cũng không sợ"1.
Tỷ suất lợi nhuận phụ thuộc vào tỷ suất giá trị thặng dư, cấu tạo hữu cơ của tư bản,
tốc độ chu chuyển tư bản, việc sử dụng tiết kiệm tư bản, điều kiện thị trường.
1 C.Mác, Tư bản, Tập1, phần 2,St.H - Tiến bộ, M. tr.315.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
110
2. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất
a) Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp cùng một ngành,
sản xuất cùng một loại hàng hoá. Mục đích của sự cạnh tranh này là giành ưu thế trong
sản xuất để có ưu thế trong tiêu thụ và thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả của cạnh
tranh là giá trị cá biệt cuả hàng hoá chuyển hoá thành giá trị thị trường.
Giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản xuất ra trong
một khu vực nào đó.
Tổng giá trị cá biệt
Giá trị thị trường =
Tổng số hàng hoá
Trên thực tế, giá trị thị trường là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất
ra trong điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong số
những sản phẩm của khu vực này.
Quá trình hình thành giá trị thị trường là quá trình tự phát, do cạnh tranh giữa các
nhà tư bản trong phạm vi một ngành gây ra. Nội dung chủ yếu của cạnh tranh là các nhà
tư bản tìm cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, phấn đấu giảm giá trị cá biệt
hàng hoá của mình xuống thấp hơn giá trị xã hội, để trên cơ sở đó mà thu được lợi nhuận
siêu ngạch.
b) Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá
cả sản xuất.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh trong các
ngành khác nhau, nhằm giành nơi đầu tư có lợi nhất. Mục đích của cạnh tranh là để tìm
nơi đầu tư có lợi và phân phối lại giá trị thặng dư giữa các nhà tư bản. Kết quả của cạnh
tranh là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và chuyển hoá giá trị thành giá cả sản
xuất.
Ví dụ:
Ngành
SX
Cấu tạo tư
bản
m' m giá trị
HH
P' Giá cả
SX
Chênh lệch
Da
Dệt
Cơ khí
70c+30v
80c+20v
90c+10v
100%
100%
100%
30
20
10
130
120
110
20%
20%
20%
120
120
120
-10
0
+10
Tổng số 240c+60v 100% 60 360 20% 360 0
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
111
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ suất lợi nhuận bằng nhau của tư bản đầu tư vào
các ngành khác nhau.
Sự san bằng tỷ suất lợi nhuận của các ngành và hình thành tỷ suất lợi nhuận bình
quân dẫn đến kết qủa là, các tư bản bằng nhau đều thu được một lượng lợi nhuận bằng
nhau, gọi là lợi nhuận bình quân, ký hiệu làp.
Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận mà một tư bản có một lượng nhất định thu được
căn cứ theo tỷ suất lợi nhuận bình quân, không kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như thế
nào.
p = p' x k
c) Sự chuyển hóa của giá trị hàng hóa thành giá cả sản xuất
Khi tỷ suất lợi nhuận bình quân hình thành thì giá trị của hàng hoá chuyển hoá
thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất của hàng hoá bằng chi phí sản xuất của hàng hoá
cộng với lợi nhuận bình quân.
Giá cả sản xuất = k + p.
Giá cả sản xuất chỉ là hình thái biểu hiện của giá trị hàng hoá. Đối với từng ngành
sản xuất, giá cả sản xuất có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị của nó, nhưng nếu xem xét
tất cả các ngành sản xuất trong xã hội, thì tổng giá cả sản xuất của hàng hoá bằng tổng
giá trị của chúng.
Khi giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất thì qui luật giá trị có hình
thức biểu hiện là qui luật giá cả sản xuất; qui luật giá trị thặng dư có hình thức biểu hiện
là qui luật lợi nhuận bình quân.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, qui mô sản xuất càng được tăng cường cả chiều
rộng và chiều sâu, tức là vừa tăng thêm số lượng tư liệu sản xuất và công nhân sử dụng,
vừa tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản. Do số lượng công nhân làm thuê tăng lên cùng với
việc nâng cao mức độ bóc lột, nên tất yếu làm tăng khối lượng lợi nhuận. Nhưng mặt
khác, do cấu tạo hữu cơ tư bản tăng lên, nên lượng giá trị thặng dư lại giảm đi một cách
tương đối so với tổng tư bản, vì vậy tỷ suất lợi nhuận lại giảm xuống. Như vậy là, việc
nâng cao kỹ thuật của các nhà tư bản là nhằm mục đích thu thật nhiều lợi nhuận, nhưng
kết quả cố gắng của họ lại là tỷ suất lợi nhuận hạ thấp xuống.
Tuy nhiên, sự giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận chỉ là một xu hướng, vì có những
nhân tố ngăn cản. Đó là việc tăng cường bóc lột công nhân làm thuê, hạ thấp giá trị sức
lao động, hạ giá cả các yếu tố tư bản bất biến và những lợi thế do thương mại quốc tế
đem lại.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
112
3. Sự phân chia giá trị thặng dư giữa các tập đoàn tư bản
a) Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp
Tuần hoàn tư bản công nghiệp:
T - H ... SX ... H' - T'
Khi có thương nhân ứng tư bản tiền tệ ra để đảm nhiệm việc chuyển hoá hàng hoá
thành tiền thay cho các nhà tư bản công nghiệp, nhằm mục đích thu lợi nhuận thì tư bản
xuất hiện.
Vậy, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra để
phục vụ quá trình lưu thông của tư bản công nghiệp và hoạt động độc lập trong lĩnh vực
lưu thông.
Tư bản thương nghiệp ra đời từ tư bản công nghiệp và vừa phụ thuộc vào tư bản
công nghiệp, vừa độc lập với nó.
+Vai trò của tư bản thương nghiệp
Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua - bán nên lượng tư bản ứng vào lưu
thông và chi phí lưu thông sẽ nhỏ hơn khi những người sản xuất trực tiếp đảm nhiệm
chức năng này.
Tạo điều kiện cho người sản xuất có thể tập trung thời gian chăm lo việc sản xuất,
giảm dự trữ sản xuất, nhờ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị thặng dư.
+ Nhờ có tư bản thương nghiệp, thời gian lưu thông được rút ngắn, chu chuyển tư
bản tăng nhanh, nhờ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm.
+ Nhờ có tư bản thương nghiệp, hàng hoá được sản xuất ra sẽ phù hợp hơn với
nhu cầu thị trường, hợp thị hiếu người tiêu dùng.
Lợi nhuận thương nghiệp
Giả sử có một tư bản công nghiệp là 1000.
SX: 900 : 720C + 180V + 180M = 1080
1000
LT: 100
180M
Tỷ suất lợi nhuận P' = ----------- = 18%
1000
Khi nhà tư bản thương nghiệp xuất hiện và ứng tư bản 100 (giả định chi phí lưu
thông bằng không; giá cả = giá trị). Lúc này, nhà tư bản công nghiệp chỉ phải đầu tư tư
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
113
bản 900. Do đó, nhà tư bản công nghiệp sẽ bán hàng hoá cho nhà tư bản thương nghiệp
với giá cả là: 720c + 180v + (900 x 18%) = 720c + 180v + 162m = 1062.
Nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hoá theo đúng giá trị và thu được: lợi nhuận
thương nghiệp = 1080 - 1062 = 18(m). Lợi nhuận của nhà tư bản thương nghiệp chính là
một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất.
Vậy, lợi nhuận thương nghiệp là một bộ phận của giá trị thặng dư do công nhân
công nghiệp làm thuê taọ ra mà nhà tư bản công nghiệp chia cho nhà tư bản thương
nghiệp.
Chi phí lưu thông và lao động thương nghiệp
Quá trình lưu thông hàng hoá đòi hỏi phải có những chi phí nhất dịnh gọi là chi
phí lưu thông. Có hai loại chi phí lưu thông: chi phí tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu
thông và chi phí lưu thông thuần tuý.
Chi phí tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông là những chi phí để tiếp tục quá
trình sản xuất trong lưu thông. Đây là những chi phí có tính chất sản xuất, liên quan đến
việc bảo tồn và di chuyển giá trị sử dụng của hàng hoá.
Lao động của công nhân thương nghiệp đảm nhiệm những việc này là lao động
sản xuất, tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Những giá trị này được tính vào giá trị hàng
hoá. Do đó, chi phí để tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông được tính thêm vào giá
trị hàng hoá. Vì vậy, số công nhân này cũng bị bóc lột như công nhân công nghiệp và giá
trị thặng dư của họ tạo ra cũng tham gia vào sự hình thành lợi nhuận bình quân cho tư
bản ứng ra trong lĩnh vực lưu thông.
Chi phí lưu thông thuần tuý là những chi phí chỉ liên quan tới việc mua bán hàng
hoá, làm biến đổi hình thái giá trị của hàng hoá. Đó là những chi phí về sổ sách, kế toán,
thư từ, điện báo, quảng cáo, xây cửa hàng, thuê người bán hàng. Những chi phí này đã
tạo ra dịch vụ thương mại, một loại hàng hoá phi vật thể, do đó cũng được tính vào tổng
giá giá trị hàng hoá. Vì thế, lao động thương nghiệp làm thay đổi hình thái giá trị hàng
hoá cũng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Tư bản ứng ra cho lưu thông hàng hoá sẽ được
thu hồi trong giá cả dịch vụ.
Vì lao động của nhân viên thương nghiệp cũng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư nên
họ cũng bị các nhà tư bản thương nghiệp bóc lột. Sức lao động của họ cũng là hàng hoá,
thời gian lao động của họ cũng chia làm hai phần: thời gian lao động cần thiết và thời
gian lao động thặng dư. Trong thời gian lao động cần thiết, họ cung ứng được một lượng
dịch vụ, mà giá trị của nó ngang bằng với giá trị sức lao động của họ. Trong thời gian lao
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
114
động thặng dư, họ cung ứng được một lượng dịch vụ, mà giá trị của nó chính là giá trị
thặng dư thuộc về nhà tư bản thương nghiệp.
b) Tư bản cho vay và lợi tức
- Bản chất của tư bản cho vay: Dưới chủ nghĩa tư bản, luôn xuất hiện nhu cầu vay
tiền và nhu cầu cho vay tiền. Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ của nhà tư bản sở hữu tạm
thời cho các nhà tư bản khác sử dụng và thu về với một lượng lớn hơn.
- Đặc điểm của tư bản cho vay:
+ Quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng.
+ Tư bản cho vay là một loại hàng hoá đặc biệt: Người bán không mất quyền sở
hữu và người mua đem sử dụng thì giá trị sử dụng và giá trị của nó không mất đi, giá trị
tăng lên; giá cả không do giá trị quyết định, mà do giá trị sử dụng quyết định.
+ Tư bản cho vay vận động theo công thức T - T'.
- Lợi tức và tỷ suất lợi tức
+ Lợi tức
Tiền cho vay đối với nhà tư bản sở hữu là tiền nhàn rỗi nhưng đối với nhà tư bản
chức năng lại là tiền hoạt động. Trong thực tế, tư bản cho vay vận động theo công thức:
TLSX
T - T - H ... S X ... H' - T' - T'' ( T< T''< T')
SLĐ
Khi tiền chuyển từ người cho vay sang người đi vay thì nó chưa đẻ ra lợi nhuận,
mà chỉ khi người đi vay sử dụng tiền đó vào việc kinh doanh mới tạo được lợi nhuận.
Nhưng vì nó là tư bản đối với cả hai người, nên lợi nhuận do nó tạo ra phải được phân
chia cho cả hai người và lợi tức chính là phần lợi nhuận được phân chia ấy.
Như vậy, lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay trả
cho nhà tư bản cho vay với tư cách là kẻ sở hữu tư bản. Phần còn lại của lợi nhuận bình
quân nằm trong tay các nhà tư bản công, thương nghiệp trực tiếp kinh doanh, gọi là lợi
nhuận doanh nghiệp.
Lợi tức đã tạo ra cái bề ngoài giả dối, tựa hồ như là sản vật tự nhiên của quyền sở
hữu tư bản; còn thu nhập của chủ xí nghiệp thì cũng gây ra một ảo tưởng, tựa hồ thu nhập
đó là sự trả công "lao động" cho nhà tư bản có chức năng đã lãnh đạo và kiểm soát công
việc của công nhân làm thuê trong xí nghiệp của mình. Thật ra, cũng như lợi tức, thu
nhập của chủ xí nghiệp không phải do công việc quản lý xí nghiệp tạo ra, mà là một phần
giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
115
Khi lợi nhuận được phân chia thành lợi tức và lợi nhuận doanh nghiệp, các nhà tư
bản hoạt động bằng tư bản mà họ sở hữu cũng phải căn cứ vào mức lợi tức để quyết định
hoạt động của mình. Họ chỉ kinh doanh khi lợi nhuận cao hơn hoặc bằng mức lợi tức.
Khi lợi nhuận nhỏ hơn mức lợi tức, họ sẽ ngừng kinh doanh, rút tư bản ra cho vay.
+ Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền
tệ cho vay trong một thời gian nhất định, thường là một năm.
z
z' = x 100%, trong đó z' là tỷ suất lợi tức, k là tư bản cho vay.
k
Trong những điều kiện thông thường, giới hạn cao nhất của tỷ suất lợi tức là tỷ
suất lợi nhuận bình quân, vì lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân. Thông thường,
tỷ suất lợi tức thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Tỷ suất lợi tức không có giới hạn tối
thiểu, nó nằm trong khoảng lớn hơn 0 và nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Trong giới
hạn đó, tỷ suất lợi tức lên xuống phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu về tư bản cho vay và
biến động theo chu kỳ của sản xuất.
Với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, tỷ suất lợi tức có xu hướng giảm xuống.
Xu hướng đó xuất hiện do hai nguyên nhân: một là, tỷ suất lợi nhuận bình quân có xu
hướng giảm xuống; và hai là, cung về tư bản cho vay tăng nhanh hơn cầu về nó.
Các hình thức của tư bản cho vay:
+ Tín dụng thương nghiệp
Tín dụng thương nghiệp là tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh mua
bán chiụ hàng hoá của nhau.
Đối tượng của tín dụng thương nghiệp không phải là tiền tệ mà là hàng hoá.
Nhưng thực chất của tín dụng thương nghiệp là cho vay tiền, vì người mua chịu hàng hoá
sẽ phải trả tiền chứ không phải trả hàng; mua chịu hàng hoá sẽ phải trả tiền nhiều hơn
mua trả tiền ngay, tức là trả tiền kèm theo lợi tức.
Công cụ của tín dụng thương nghiệp là thương phiếu. Thương phiếu là một loại
giấy nợ có hình thức qui định chặt chẽ, người giữ thương phiêú có quyền đòi người ký nợ
trả số tiền ghi trên phiếu theo thời hạn qui định. Đến hạn đó, người mua, kẻ phát thương
phiếu phải thanh toán bằng tiền mặt.
+ Tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa ngân hàng với các nhà tư bản và
với các hộ gia đình.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
116
Tín dụng ngân hàng khác tín dụng thương nghiệp ở chỗ, đối tượng của nó không
phải là hàng hoá, mà là tư bản tiền tệ. Tín dụng ngân hàng do ngân hàng thực hiện. Ngân
hàng là doanh nghiệp kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người
cho vay. Ngân hàng thu hút tư bản và thu nhập để rỗi lại rồi đem cho vay. Các nhà tư
bản, các hộ gia đình vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng bao gồm nghiệp vụ nhận gửi và nghiệp vụ cho
vay, nghiệp vụ trung gian tín dụng. Nghiệp vụ nhận gửi thu hút tiền vào quỹ bằng cả tiền
gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn, tạo nên nguồn vốn cho vay chủ yếu của ngân
hàng. Nghiệp vụ cho vay được thực hiện bằng nhiều cách: chiết khấu kỳ phiếu thương
nghiệp, cho vay có bảo đảm hay không có bảo đảm. Các hình thức cho vay có thể là: cho
vay bằng tiền mặt, phát hành séc, mở tài khoản cho vay, phát hành kỳ phiếu ngân hàng.
Ngoài nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng còn có các hoạt động kinh doanh khác như:
chuyển tiền, nghiệp vụ thu - chi hộ, nghiệp vụ uỷ thác, nghiệp vụ mua - bán hộ để thu hoa
hồng. Đặc biệt, các ngân hàng hiện đại còn có một hoạt động rất quan trọng là nghiệp vụ
chứng khoán, mua-bán các chứng khoán hay kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tập trung tư bản và phân phối tư bản đó theo yêu
cầu nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản. Tín dụng ngân hàng phát triển đã tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho sản xuất và lưu thông hàng hoá và cho sự phát triển của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa.
c) Công ty cổ phần tư bản giả và thị trường chứng khoán
Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn của nó được hình thành bằng cách phát
hành cổ phiếu.
Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá, ghi nhận sự đóng góp vốn vào công ty cổ
phần và quyền được hưởng lợi tức cổ phần (hay cổ tức). Có hai loại cổ phiếu: cổ phiếu
thông thường và cổ phiếu đặc quyền. Lợi tức cổ phần phụ thuộc vào doanh lợi hàng năm
của công ty. Khi công ty bị thua lỗ, cổ tức sẽ không còn, giá trị cổ phiếu sẽ giảm.
Tổng số giá cả cổ phiếu phát hành khi thành lập công ty thường lớn hơn tổng số tư
bản thực tế bỏ vào công ty ấy. Hiệu số giữa hai đại lượng đó gọi là lợi nhuận sáng lập.
Lợi nhuận sáng lập là một trong những nguồn làm giàu quan trọng của các nhà tư bản
lớn.
Người mua cổ phiếu gọi là cổ đông. Cổ đông có các quyền lợi là được tham dự
Đại hội cổ đông (cơ quan quyền lực cao nhất) để bầu ra Hội đồng quản trị; được hưởng
lợi tức cổ phần; được ưu tiên ghi mua nếu công ty phát hành thêm cổ phiếu; được cấp
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
117
thêm cổ phần mới nếu công ty nhập quĩ dự trữ vào vốn. Trường hợp công ty phá sản, cổ
đông chỉ được hoàn trả sau các chủ nợ theo tỷ lệ cổ phần đã góp.
Ngoài cổ phiếu, công ty có thể phát hành thêm trái phiếu để vay tiền. Trái phiếu là
chứng khoán có giá chứng nhận người cho vay. Khác với cổ phiếu, trái phiếu được
hưởng lợi tức cố định và được hoàn trả lại vốn cho người mua sau một thời gian nhất
định đã được qui định trên trái phiếu. Người mua trái phiếu không phải là cổ đông, mà là
người cho vay.
Cổ phiếu và các chứng khoán khác đều có thể được mua bán trên thị trường chứng
khoán. Cổ phiếu đem bán không phải là bán theo mệnh giá ghi trên cổ phiếu, mà là bán
theo giá cả thị trường gọi là thị giá cổ phiếu. Thị giá cổ phiếu là giá bán cổ phiếu trên thị
trường. Thị giá cổ phiếu phụ thuộc vào nhiều yếu tố: cung - cầu cổ phiếu, mức lợi tức cổ
phần, lợi tức ngân hàng, đầu cơ, tác động tâm lý, những biến động về chính trị, xã hội...
Trong trường hợp các yếu tố phi kinh tế mang tính ổn định, thị giá cổ phiếu được xác
định như sau:
Lợi tức cổ phần
Thị giá cổ phiếu = -------------------------------
Tỷ suất lợi tức ngân hàng
Thí dụ: một cổ phiếu có cổ tức mỗi năm là 50.000đ, tỷ suất lợi tức ngân hàng (lãi
suất) là 5%/năm, thì :
50.000đ/năm
Thị giá cổ phiếu = ---------------- = 1.000.000đ
5%/năm
Tư bản giả và thị trường chứng khoán
Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức chứng khoán có giá và mang lại thu
nhập cho người sử hữu các chứng khoán đó.Trên thực tế có hai loại chứng khoán phổ
biến: cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành và trái phiếu.Trái phiếu cũng có hai loại: trái
phiếu công ty và doanh nghiệp. Trái phiếu là chứng khoán có giá chứng nhận khoản tiền
vay nợ của doanh nghiệp đối với người mua chúng (kể cả trái phiếu chính phủ).
Thị trường chứng khoán là thị trường mua bán, chuyển nhượng các chứng khoán
có giá nhằm mục đích kiếm lời. Chứng khoán là giấy chứng nhận có quyền lợi nhất định
về những vật có giá trị (như tiền bạc, hàng hoá, tài sản khác). Chứng khoán bao gồm: cổ
phiếu, trái phiếu, công trái, kỳ phiếu và các chứng từ khác.
Thị trường chứng khoán có thể được phân chia theo những tiêu thức khác nhau.
Theo đối tượng mua bán, thị trường chứng khoán được chia thành thị trường cổ phiếu, thị
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
118
trường trái phiếu. Theo cơ chế vận hành, thị trường chứng khoán gồm có thị trường sơ
cấp, thị trường thứ cấp; Theo các quy định của chính phủ, thị trường chứng khoán chia
thành thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Thị trường chứng khoán rất nhạy cảm với những thay đổi về kinh tế, chính trị, xã
hội. Do đó, thị trường chứng khoán có thể được coi là "phong vũ biểu" của nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán có những vai trò to lớn đối với tăng trưởng kinh tế.
Những vai trò chủ yếu của thị trường chứng khoán: là công cụ khuyến khích dân chúng
tiết kiệm và đầu tư; là phương tiện để huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn; là đòn
bẩy kích thích các doanh nghiệp làm ăn tốt hơn; điều hoà các kênh vốn trong nền kinh tế
quốc dân.
Tuy vậy, thị trường chứng khoán cũng có những khuyết tật, có thể tác động xấu tới
sự phát triển kinh tế, xã hội, như: lừa đảo, đầu cơ, thúc đẩy phân hoá giàu nghèo... Những
rối loạn trên thị trường này sẽ ảnh hưởng rất xấu tới đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của
đất nước. Do đó, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường này đặc biệt cần thiết.
d) Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa
Sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện trong nông nghiệp muộn hơn trong
thương nghiệp và công nghiệp. Quan hệ đó được hình thành bằng hai con đường cơ bản:
Một là, thông qua cải cách, dần dần chuyển kinh tế địa chủ phong kiến sang kinh
doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa, sử dụng lao động làm thuê. Đó là con đường của các
nước Đức, Nga Sa hoàng, Italia, Nhật.
Hai là, thông qua cách mạng dân chủ tư sản xoá bỏ kinh tế địa chủ phong kiến. Đó
là con đường của nước Pháp. Hoặc là giải phóng nông nghiệp khỏi xiềng xích của chế độ
nông nô và phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đó là con đường của nước Mỹ.
Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là thừa
nhận quyền sở hữu ruộng đất của địa chủ. Do đó, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
nông nghiệp phản ánh mối quan hệ giữa ba giai cấp: các nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp phải thuê ruộng đất của địa chủ và mua sức lao động của công nhân nông nghiệp;
địa chủ là người sở hữu ruộng đất, thu địa tô đất đai; công nhân nông nghiệp làm thuê
cho nhà tư bản, bị cả tư sản và địa chủ bóc lột.
Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa
Khi thuê ruộng đất, nhà tư bản phải trả cho địa chủ một khoản tiền nhất định, gọi
là địa tô.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
119
Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp trước hết cũng phải thu được lợi nhuận bình
quân. Bởi vậy, địa tô mà nhà tư bản trả cho địa chủ phải là bộ phận giá trị nằm ngoài lợi
nhuận bình quân, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Nguồn gốc của lợi nhuận siêu ngạch trong
nông nghiệp không phải là đất đai, mà là vẫn là lao động của con người. Công nhân nông
nghiệp là người bán sức lao động cho nhà tư bản và họ cũng tạo ra giá trị thặng dư.
Vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài số lợi nhuận
bình quân của tư bản đầu tư trong nông nghiệp, do công nhân nông nghiệp tạo ra và nộp
cho chủ ruộng với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất.
Cũng như địa tô phong kiến, cơ sở của địa tô tư bản chủ nghĩa là quyền sở hữu về
ruộng đất, là sự thực hiện về mặt kinh tế của quyền sở hữu đó. Địa tô tư bản chủ nghĩa
vừa biểu hiện quan hệ bóc lột của chủ ruộng đất và nhà tư bản đối với công nhân nông
nghiệp, vừa biểu hiện quan hệ giữa chủ ruộng và nhà tư bản trong việc chia nhau giá trị
thặng dư bóc lột được của công nhân nông nghiệp làm thuê.
Các hình thức địa tô
- Địa tô chênh lệch
Trong công nghiệp, giá cả sản xuất chung của hàng hoá là do những điều kiện sản
xuất trung bình quyết định; còn trong nông nghiệp, giá cả sản xuất chung của nông sản
phẩm lại do những điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định. Do đó, tư bản đầu tư vào
những ruộng đất có điều kiện thuận lợi cho năng suất cao hơn, chi phí thấp hơn thì khi
bán hàng hoá theo giá cả sản xuất chung sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch chuyển hoá
thành địa tô, gọi là địa tô chênh lệch.
Vậy, địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, thu
được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi. Nó là số chênh lệch giữa giá
cả sản xuất chung của nông phẩm được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất
xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất trung bình và tốt. Nó được sinh ra do
độc quyền kinh doanh ruộng đất nhưng vì có độc quyền sở hữu ruộng đất nên được trả
cho địa chủ dưới hình thức địa tô.
Địa tô chênh lệch bao gồm:
Địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kiện tự nhiên
thuận lợi. Địa tô chênh lệch I liên quan đến độ tốt xấu của ruộng đất và vị trí của đất đai.
Trong trường hợp, độ màu mỡ khác nhau, trên những mảnh đất có độ màu mỡ
trung bình và tốt, địa chủ sẽ thu được địa tô chênh lệch I.
Ví dụ:
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
120
Loại
ruộng
đất
Chi
phí tư
bản
Lợi
nhuận
bình quân
Sản
lượng
(tạ)
Giá cả sản xuất
cá biệt
Giá cả
sản xuất chung
Địa tô
chênh
1 tạ tổng sản lượng 1 tạ tổng sản lượng lệch
Xấu
T.bình
Tốt
100
100
100
20
20
20
3
4
5
40
30
24
120
120
120
40
40
40
120
160
200
0
40
80
Địa tô chênh lệch I có thể được hình thành do vị trí thuận lợi của đất đai. Ví dụ:
Loại
ruộng đất
Chi phí
tư bản
Lợi nhuận
bình quân
Chi phí
vận chuyển
Giá cả sản
xuất cá biệt
Giá cả sản
xuất chung
Địa tô
chênh lệch
Gần thị
trường
Xa thị
trường
100
100
20
20
0
30
120
150
150
150
0
30
Địa tô chênh lệch II là địa tô thu được trên những ruộng đất được dùng thêm nhiều
tư liệu sản xuất và lao động hơn trên cùng một diện tích. Địa tô chênh lệch II xuất hiện
khi nông nghiệp phát triển theo hướng thâm canh.
Lần
đầu
tư
Tư
bản
đầu tư
Lợi
nhuận
bình quân
Sản
lượng
(tạ)
GCSX
cá biệt
1 tạ
GCSX
chung
1 tạ
GCSX
chung toàn
bộ SP
Địa tô
chênh
lệch
1
2
100
100
20
20
4
5
30
24
30
30
120
150
0
30
Trong thời hạn hợp đồng, lợi nhuận siêu ngạch sẽ thuộc về nhà tư bản; hết thời
hạn hợp đồng, địa chủ nâng mức địa tô để thu lợi nhuận siêu ngạch đó. Bởi vậy, nhà tư
bản muốn thuê ruộng đất trong thời hạn dài, còn địa chủ muốn cho thuế ruộng đất trong
thời hạn ngắn.
Địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II đều là lợi nhuận siêu ngạch, hình thành
do hiệu quả đầu tư khác nhau của những tư bản như nhau. Chỉ khác là, một loại do đầu tư
trên những thửa ruộng có điều kiện khác nhau (quảng canh), một loại do hiệu quả những
lần đầu tư khác nhau trên cùng một thửa ruộng (thâm canh), còn giá cả sản xuất chung
vẫn do giá cả sản xuất của tư bản đầu tư có hiệu quả thấp nhất quyết định.
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
121
Do đó, nhà tư bản tìm mọi cách bòn rút đất đai, không chú ý đến cải tạo đất đai và
làm cho độ màu mỡ của đất đai ngày càng giảm.
- Địa tô tuyệt đối
Khi nghiên cứu địa tô chênh lệch, chúng ta giả định là người thuê ruộng đất xấu
chỉ thu về chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân và không phải nộp tô. Nhưng
trong thực tế, người thuê ruộng dù ruộng đất tốt hay xấu, đều phải nộp địa tô cho chủ
ruộng. Đó là địa tô tuyệt đối.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nông nghiệp lạc hậu hơn công nghiệp cả về kinh tế
lẫn kỹ thuật. Cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp.
Cho nên, nếu trình độ bóc lột ngang nhau, thì một tư bản ngang nhau đầu tư vào nông
nghiệp sẽ bóc lột được nhiều giá trị thặng dư hơn trong công nghiệp. Nhưng chế độ độc
quyền tư hữu ruộng đất đã không cho phép tư bản tự do di chuyển vào nông nghiệp, do
đó ngăn cản việc hình thành lợi nhuận bình quân chung giữa công nghiệp và nông
nghiệp. Và như vậy, phần lợi nhuận siêu ngạch của nông nghiệp so với công nghiệp đó
được giữ lại và dùng để nộp địa tô tuyệt đối cho chủ ruộng. Ví dụ:
Ngành đầu tư Chi phí tư
bản
Tỷ suất giá
trị thặng dư
Giá trị
thặng dư
Lợi nhuận
bình quân
Lợi nhuận
siêu ngạch
Công nghiệp
Nông nghiệp
80c +20v
60c +40v
100%
100%
20
40
20
20
0
20
Do cấu tạo hữu cơ của tư bản đầu tư nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp nên
tư bản đầu tư vào nông nghiệp sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch là 20. Bộ phận lợi nhuận
siêu ngạch đó trả cho địa chủ được gọi là địa tô tuyệt đối.
Vậy, địa tô tuyệt đối là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình
quân, hình thành nên do cấu tạo hữu cơ tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công
nghiệp, mà bất cứ nhà tư bản thuê ruộng đất nào cũng phải nộp cho địa chủ.
Lợi nhuận siêu ngạch trong nông nghiệp không bị san bằng đi do độc quyền kinh
doanh. Nhưng muốn sử dụng ruộng đất thì nhà tư bản phải thuê ruộng đất của địa chủ.
Với tư cách là chủ sở hữu đất đai, địa chủ thu phần lợi nhuận siêu ngạch đó. Như vậy, địa
tô tuyệt đối gắn liền với chế độ độc quyền tư hữu ruộng đất.
Ngoài hai loại địa tô cơ bản trên, còn có những địa tô khác như địa tô về cây đặc
sản, địa tô về đất xây dựng, địa tô về hầm mỏ, địa tô về rừng núi. Tuy là địa tô thu được
trên những đất đai phi nông nghiệp, nhưng đều dựa trên cơ sở địa tô nông nghiệp. Chúng
GVC.ThS. Nguyễn Thị Trâm - Tháng 8/2009
122
cũng đều bao gồm cả địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối. Trong số đất đai trên, có
những loại đất có thể trồng những loại cây cho sản phẩm quí hiếm hoặc có giá trị cao,
hay có những khoáng sản đặc biệt có giá trị, thì địa tô của những đất đai đó sẽ rất cao, gọi
là địa tô độc quyền. Nguồn gốc của địa tô độc quyền cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá
cả độc quyền cao của sản phẩm thu được trên ruộng đất ấy, mà nhà tư bản phải nộp cho
địa chủ, người sở hữu những đất đai đó.
Giá cả ruộng đất
Nếu không kể đến những kiến trúc và những cải tiến kỹ thuật do con người đầu tư
(xây dựng và sửa chữa các công trình tưới ruộng, tiêu thuỷ, bón phân) thì bản thân ruộng
đất không có giá trị vì nó không phải là sản phẩm của lao động. Mặc dù ruộng đất không
có giá trị nhưng nó vẫn là đối tượng mua bán (do ruộng đất bị những kẻ chiếm hữu nó
chiếm làm của riêng), và do đó nó có giá cả.
Giá cả ruộng đất là một số tiền mà nếu gửi vào ngân hàng thì tiền lãi của nó bằng
số địa tô do ruộng đất đó đem lại. Ví dụ: một đám ruộng mỗi năm đem lại 300 đô la địa
tô, và giả sử tỷ suất lợi tức gửi tiền vào ngân hàng là 4%, trong trường hợp đó, giá mảnh
ruộng ấy là 7.500 đô la (300/4%). Như vậy, giá cả ruộng đất cũng chỉ là địa tô tư bản hoá.
Câu hỏi ôn tập:
1. Trình bày hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu
ngạch? Ý nghĩa của vấn đề này trong việc luận giải trình độ bóc lột công nhân làm thuê?
2. Phân tích quá trình tuần hoàn và chu chuyển tư bản? Ý nghĩa của vấn đề này
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay?
3. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận, tỉ suất lợi nhuận là gì? Những khái
niệm này che dấu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa như thế nào?
4. Phân biệt địa tô chênh lệch I, địa tô chênh lệch II, địa tô tuyệt đối? Vận dụng lý
luận địa tô trong thu thuế sử dụng đất ở Việt Nam hiện nay?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top