chuong 2 Lich Su Dang

Chương II

Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền

(1930 - 1945)

I. Đảng lãnh đạo Phong trào cách mạng 1930-1935

1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10-1930. Luận cương chính trị của Đảng

Sau Hội nghị thành lập Đảng, cương lĩnh và điều lệ của Đảng được bí mật đưa vào quần chúng. Phong trào cách mạng phát triển mạnh và tiến dần lên cao trào. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng vừa thành lập đã bước ngay vào một cuộc thử thách toàn diện trên cương vị đội tiên phong lãnh đạo cuộc đấu tranh mới của dân tộc. Tháng 4-1930, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản ở Mátxcơva (Liên Xô), Trần Phú về nước hoạt động. Tháng 7-1930, Trần Phú được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng và được phân công cùng Ban Thường vụ chuẩn bị cho Hội nghị thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương. Giữa lúc đó một số uỷ viên Trung ương lâm thời của Đảng bị địch bắt. Một số uỷ viên mới được bổ sung.

Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930 Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Nghị quyết "Về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng" và Điều lệ Đảng; thảo luận bản Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng). Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng được thành lập gồm 6 uỷ viên, trong đó Ban Thường vụ có: Trần Phú, Ngô Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, do Trần Phú làm Tổng Bí thư. Hội nghị còn thông qua các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ...

Ban Chấp hành Trung ương nhận định Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930 do Nguyễn ái Quốc chủ trì đã lập đảng với tên gọi là Việt Nam cộng sản Đảng chưa bao gồm được Cao Miên và Lào. Ban Chấp hành Trung ương quyết định "bỏ tên Việt Nam cộng sản Đảng mà lấy tên Đông Dương cộng sản Đảng".

Hội nghị đánh giá Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Hội nghị hợp nhất thông qua đã "chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu", Ban Chấp hành Trung ương quyết định phải dựa vào nghị quyết của Quốc tế Cộng sản để hoạch định cương lĩnh, chính sách và kế hoạch của Đảng mà chỉnh đốn nội bộ, làm cho Đảng bônsêvích hoá. Hội nghị đã thảo luận Dự án Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương. Luận cương xác định:

Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là

"một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa"*.

Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc "cách mạng tư sản dân quyền", "có tính chất thổ địa và phản đế". "Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng". Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục "phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa".

Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải "tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để" và "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập". Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau: "có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa". Luận cương nhấn mạnh: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền", là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.

Về lực lượng cách mạng, Luận cương xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân có số lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác ngoài công nông như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.

Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương nhấn mạnh "Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản".

Về phương pháp cách mạng, Luận cương khẳng định để đạt được mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công nông thì phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường "võ trang bạo động". Vì vậy, lúc thường thì phải tuỳ theo tình hình mà đặt khẩu hiệu "phần ít", "phải lấy những

sự chủ yếu hàng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường

* Các đoạn trích Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) đều theo

Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 1998, t.2, tr. 88 - 103.

cách mạng". Đến lúc có tình thế cách mạng "Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông". Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, "phải tuân theo khuôn phép nhà binh".

Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương .

Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã vạch ra nhiều vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược cách mạng. Tuy nhiên, do nhận thức giáo điều và máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, lại hiểu biết không đầy đủ về tình hình đặc điểm của xã hội, giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng "tả" của Quốc tế Cộng sản và một số đảng cộng sản trong thời gian đó, nên Ban Chấp hành Trung ương đã không vạch rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam bị nô dịch với đế quốc thực dân Pháp xâm lược và tay sai của chúng, do đó không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp, về cách mạng ruộng đất, không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai. Luận cương chưa đánh giá đúng mức vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, cường điệu mặt hạn chế của họ, chưa thấy được khả năng phân hoá và lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc. Từ nhận thức hạn chế như vậy, Ban Chấp hành Trung ương đã phê phán gay gắt quan điểm đúng đắn trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Hội nghị hợp nhất thông qua. Đó là một quyết định không đúng. Sau này trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là đến Hội nghị lần thứ VIII của Ban Chấp hành Trung ương (5-1941), Đảng đã khắc phục được những hạn chế đó và đưa cách mạng đến thành công.

2. Phong trào cách mạng những năm 1930-1935

Những năm 1929-1933, khi Liên Xô đang đạt được những kết quả lớn trong công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, thì ở các nước tư bản chủ nghĩa nổ ra một cuộc khủng hoảng kinh tế trên quy mô lớn.

Cuộc khủng hoảng lan nhanh đến các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam. Thực dân Pháp lại tăng cường vơ vét, bóc lột để bù đắp những hậu quả của cuộc khủng hoảng ở chính quốc. Vì thế nền kinh tế Việt Nam sa sút nghiêm trọng.

Kể từ cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930) thực dân Pháp tiến hành một chiến dịch khủng bố ở khắp nơi, gây nên một không khí chính trị căng thẳng, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp và bè lũ tay sai phát triển gay gắt hơn. Điều đó càng đẩy nhân dân ta tiến nhanh trên con đường vùng lên đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt hơn với kẻ thù.

Giữa lúc đó Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng được hệ thống tổ chức thống

nhất và cương lĩnh chính trị đúng đắn, đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta chống đế quốc và tay sai. Đảng đã nhanh chóng phát triển tổ chức cơ sở của mình trong nhiều nhà máy, xí nghiệp, khu mỏ, đồn điền ở nông thôn và thành phố. Những tổ chức quần chúng của Đảng như công hội, nông hội, đoàn thanh niên cộng sản, hội phụ nữ, hội cứu tế được xây dựng ở nhiều nơi.

Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, phong trào đấu tranh của quần chúng trên

đà phát triển từ năm 1929, đã bùng lên mạnh mẽ khắp cả ba miền: Bắc, Trung, Nam.

Từ tháng 1 đến tháng 4-1930 là bước khởi đầu của phong trào. Nhiều cuộc bãi công của công nhân đã nổ ra liên tiếp ở nhà máy xi măng Hải Phòng, hãng dầu Nhà Bè (Sài Gòn), các đồn điền Phú Riềng, Dầu Tiếng, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thủy... Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra ở nhiều địa phương như Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh... Truyền đơn, cờ đỏ búa liềm của Đảng Cộng sản xuất hiện trên các đường phố Hà Nội và một số địa phương khác. Những cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động chống đế quốc và phong kiến tay sai, trong đó giai cấp công nhân đóng vai trò tiên phong, là màn đầu của một cao trào cách mạng mới ở Việt Nam do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo.

Từ tháng 5-1930, phong trào phát triển thành cao trào. Ngày 1-5-1930, lần đầu tiên nhân dân ta kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Từ thành phố đến nông thôn ở cả ba miền đất nước xuất hiện nhiều truyền đơn, cờ đỏ búa liềm, mít tinh, bãi công, biểu tình, tuần hành, v.v.. Đấu tranh của công nhân nổ ra trong các xí nghiệp ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai, Cẩm Phả, Vinh, Bến Thủy, Sài Gòn, Chợ Lớn, v.v.. Đấu tranh của nông dân cũng nổ ra ở nhiều địa phương thuộc các tỉnh Thái Bình, Hà Nam, Kiến An, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Bình Định, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bến Tre, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một, Long Xuyên, Cần Thơ, Trà Vinh....

Sau ngày 1-5, làn sóng đấu tranh tiếp tục dâng cao. Riêng trong tháng 5-1930, trong cả nước có 16 cuộc đấu tranh của công nhân, 34 cuộc đấu tranh của nông dân, 4 cuộc đấu tranh của học sinh và dân nghèo thành thị.

Từ tháng 6 đến tháng 8-1930 đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh trong đó có 22 cuộc của công nhân, 95 cuộc của nông dân. Nổi bật nhất là cuộc tổng bãi công của toàn thể công nhân khu công nghiệp Bến Thủy - Vinh (8-1930), đánh dấu "một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh kịch liệt đã đến"1.

ở nông thôn Nghệ An và Hà Tĩnh, nhiều cuộc đấu tranh quy mô lớn của nông dân dưới hình thức biểu tình có vũ trang tự vệ đã nổ ra, như cuộc biểu tình của 3.000 nông dân Nam Đàn (30-8-1930), kéo lên huyện lỵ đưa yêu sách, phá cửa nhà lao, giải thoát cho những người cách mạng bị địch bắt; cuộc biểu tình của 20.000 nông dân Thanh Chương (1-9-1930), bao vây và đốt huyện đường; cuộc biểu tình của 3.000 nông dân Can Lộc (7-9-1930) kéo lên huyện lỵ, đốt giấy tờ, sổ sách, phá nhà lao... Từ Nam Đàn,

Thanh Chương, Can Lộc, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ra nhiều

1. Báo Người lao khổ, cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Trung kỳ, số 13 ngày 18-9-1930.

huyện khác thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.

Tháng 9-1930 phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao với những hình thức đấu tranh quyết liệt, quần chúng vũ trang tự vệ, biểu tình thị uy vũ trang, tiến công vào cơ quan chính quyền địch ở địa phương. Đế quốc Pháp và tay sai điên cuồng đàn áp. Cuộc biểu tình của 8.000 nông dân Hưng Nguyên ngày 12-9-1930 bị địch dùng máy bay ném bom giết chết 171 người. Riêng ở Nghệ An có 393 người bị giết trong 7 cuộc biểu tình. Như lửa đổ thêm dầu, phong trào cách mạng bùng lên dữ dội.

Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai ở nhiều huyện bị tê liệt, ở nhiều xã bị tan rã. Trước tình hình đó, các tổ chức đảng ở địa phương chủ động lãnh đạo các ban chấp hành nông hội ở thôn, xã (thôn bộ nông, xã bộ nông) đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở nông thôn. Những "khu đỏ" tự do hình thành ở nhiều vùng nông thôn thuộc các huyện Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Diễn Châu (Nghệ An), Can Lộc, Đức Thọ, Thạch Hà, Nghi Xuân, Hương Khê (Hà Tĩnh). Trên thực tế trong các "khu đỏ" tự do đó, một chính quyền cách mạng của nông dân theo hình thức các uỷ ban tự quản theo kiểu Xôviết đã ra đời. Đó là những "Xôviết nông dân" do giai cấp công nhân lãnh đạo, thực hiện chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với quần chúng lao động. Trong các "khu đỏ", chính quyền cách mạng đã thực hiện các biện pháp cách mạng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

- Về chính trị: ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân; quần chúng được tự do hội họp, tham gia giải quyết các vấn đề xã hội, xóa bỏ các luật lệ bất công và vô lý của đế quốc và tay sai, thực hiện chuyên chính với bọn tay sai phản động, giữ vững trật tự trị an, chống địch khủng bố, v.v..

- Về kinh tế: chia lại ruộng đất công một cách hợp lý, thực hiện giảm tô, xóa nợ, tịch thu quỹ công đem chia cho dân nghèo, bãi bỏ các thứ thuế vô lý như thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế muối; tổ chức đắp đê phòng lụt, tu sửa cầu cống, giúp đỡ nhau trong sản xuất, v.v..

- Về văn hóa, xã hội: bài trừ mê tín dị đoan như bói toán, ma chay, xóa bỏ các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, trộm cắp, tổ chức học chữ quốc ngữ, đọc sách báo cách mạng; phát huy tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau giải quyết khó khăn trong đời sống, trong đấu tranh cách mạng, v.v..

Tuy mới thành lập ở một số xã, thời gian tồn tại ngắn ngủi song chính quyền Xôviết đã tỏ rõ bản chất cách mạng và tính ưu việt của nó. Từ khi chính quyền Xôviết ra đời, cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra càng gay go và quyết liệt hơn. Quần chúng cách mạng kiên quyết đấu tranh để bảo vệ chính quyền Xôviết, còn địch thì ra sức khủng bố, quyết dìm cách mạng trong bể máu.

Tháng 9-1930, khi Xô viết nông dân đã thành lập ở một số xã ở Nghệ An và cuộc đấu tranh của quần chúng đang bị kẻ địch khủng bố một cách tàn bạo, Ban Thường vụ Trung ương Đảng gửi thông tri cho Xứ ủy Trung kỳ vạch rõ chủ trương bạo động riêng lẻ trong vài địa phương lúc bấy giờ là quá sớm vì chưa đủ điều kiện. Trách nhiệm của Đảng là phải tổ chức quần chúng chống khủng bố, giữ vững lực lượng cách mạng, "duy trì kiên cố ảnh hưởng của Đảng, của Xôviết trong quần chúng để đến khi thất bại thì ý

nghĩa Xôviết ăn sâu vào trong óc quần chúng và lực lượng của Đảng và Nông hội vẫn duy trì"1.

Trung ương Đảng chỉ thị cho các cấp bộ Đảng phải dựa vào sức mạnh của quần chúng, đồng thời phải đẩy mạnh phát triển các đội tự vệ để bảo vệ quần chúng đấu tranh. Trong cao trào cách mạng của quần chúng, nhất là ở Nghệ-Tĩnh, đội tự vệ đỏ được thành lập nhiều nơi. Đây là mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang nhân dân do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo.

Khi phong trào lên tới đỉnh cao nhất, xuất hiện khuynh hướng "tả", nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, "do đó thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng, hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa cũng vậy, và cho tới cả những người địa chủ, có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia, để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế

quốc Pháp..."2.

Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về vấn đề thành lập Hội phản đế đồng minh, nêu lên tư tưởng chiến lược cách mạng đúng đắn của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, coi việc đoàn kết toàn dân thành một lực lượng thật rộng rãi, lấy công-nông làm hai động lực chính, là một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, "... giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật

đông, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công"1. Chỉ thị phê phán những nhận

thức sai lầm trong Đảng là đã tách rời vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, nhận thức không đúng về vấn đề đoàn kết dân tộc, về vai trò của hội phản đế đồng minh trong cách mạng ở thuộc địa.

Tuy nội dung bản chỉ thị này phù hợp với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được nêu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, song quan điểm và chủ trương đúng đắn về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, về đại đoàn kết dân tộc, "tổ chức toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật lớn" vẫn chưa trở thành tư tưởng chủ đạo của Ban Chấp hành Trung ương lúc đó. Hội phản đế đồng minh Đông Dương chưa được thành lập trong thực tế. Không đầy một tháng sau khi ra bản chỉ thị trên, ngày 9-12-1930 trong bức thư gửi cho các đảng bộ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng lại tiếp tục nhấn mạnh chủ trương đấu tranh giai cấp, tiếp tục phê phán những "sai lầm của Hội nghị hiệp nhất là sai lầm rất lớn và rất nguy hiểm", có nhiều điều không đúng với chủ trương của Quốc tế Cộng sản và nêu trách nhiệm "nặng nề" của Ban Chấp hành Trung ương là phải "sửa đổi những sự sai lầm trong công việc của Hội nghị hiệp nhất", "là phải thực hành đối

với công việc như lúc bắt đầu mới tổ chức ra Đảng vậy"2.

Hoảng sợ trước sức mạnh của quần chúng và uy tín của Đảng Cộng sản ngày một lên cao, đế quốc Pháp và tay sai tập trung lực lượng đàn áp. Từ tháng 5 đến tháng 12-

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr. 83, 228.

1. Sđd, tr. 227.

2. Sđd, tr. 233.

1930, có 649 nông dân bị giết, 83 nhà cách mạng bị tử hình, 237 người bị kết án lao động khổ sai chung thân, 306 người bị kết án đi đày suốt đời, 696 người bị kết án 3.390 năm tù với 790 năm quản thúc. Riêng nhà tù ở Vinh có 1.359 tù chính trị bị giam cầm, tra tấn.

Đi đôi với chính sách khủng bố trắng, chúng còn sử dụng những thủ đoạn lừa bịp về chính trị, tổ chức rước cờ vàng, nhận thẻ quy thuận, cưỡng bức quần chúng ra đầu thú. Tháng 1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về việc đế quốc Pháp buộc dân cày ra "đầu thú", vạch rõ thủ đoạn hiểm độc đó của kẻ thù và đề ra các biện pháp hướng dẫn quần chúng đấu tranh chống lại.

Nguyễn ái Quốc lúc đó đang hoạt động ở nước ngoài, nhưng luôn theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước. Người góp ý kiến với Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong việc lãnh đạo phong trào quần chúng, trong công tác đảng và tổ chức các hội quần chúng. Người đề nghị với Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân... giúp đỡ phong trào đấu tranh của nhân dân ta.

Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và sự chỉ dẫn của Nguyễn ái Quốc, nhân dân ta nêu cao ý chí đấu tranh chống khủng bố trắng và mọi thủ đoạn lừa bịp nham hiểm của kẻ thù, bảo vệ Nghệ - Tĩnh đỏ, duy trì lực lượng và phong trào quần chúng.

Thực tiễn đấu tranh cách mạng quyết liệt với kẻ thù là trường học rèn luyện và phát triển của Đảng. Nhiều quần chúng ưu tú trong giai cấp công nhân, nông dân, trí thức yêu nước đã gia nhập Đảng. Đến tháng 3-1931, Đảng đã có 2.400 đảng viên là những chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, luôn luôn nêu cao khí tiết cách mạng, gắn bó với quần chúng. Đảng thực sự là đội tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân trên bán đảo Đông Dương.

Sự trưởng thành của Đảng còn gắn liền công tác lãnh đạo đấu tranh với công tác xây dựng Đảng về mặt tổ chức và tư tưởng. Trung ương Đảng đã có nhiều chỉ thị về việc chăm lo chấn chỉnh các ban xứ ủy, chú trọng tăng cường thành phần công nhân vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng và đi sâu vào các xí nghiệp, đồn điền để xây dựng tổ chức cơ sở Đảng. Trung ương Đảng cũng phê phán và uốn nắn những lệch lạc hữu khuynh và "tả" khuynh của các đảng bộ địa phương như theo đuôi quần chúng trong đấu tranh, tách rời việc tổ chức xây dựng Đảng với việc lãnh đạo đấu tranh hàng ngày......

Từ đầu năm 1931, sự khủng bố của kẻ thù ngày càng dữ dội. Thêm vào đó, nạn đói xảy ra rất nghiêm trọng. Phong trào đấu tranh của quần chúng gặp nhiều khó khăn và giảm sút dần. Tư tưởng hoang mang dao động xuất hiện trong quần chúng và cả một số đảng viên. Trong cuộc đấu tranh sinh tử giữa cách mạng và phản cách mạng, khi phong trào cách mạng gặp khó khăn sự dao động về lập trường tư tưởng xuất hiện trong Đảng là điều không sao tránh khỏi, nhưng chỉ là số ít, "còn thì giai tầng nào mặc dầu, nhưng đa số đồng chí hết sức trung thành, hiến thân cho Đảng đến giọt máu cuối

cùng"1. Xứ ủy Trung kỳ đã không nhận rõ điều đó nên đã đề ra chủ trương "thanh trừ trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ" ra khỏi Đảng. Chủ trương thanh Đảng sai lầm và "tả" khuynh đó được đề ra giữa lúc địch đang khủng bố dữ dội làm cho Đảng và phong trào cách mạng thêm khó khăn. Tháng 5-1931, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị nghiêm khắc phê phán chủ trương sai lầm về thanh Đảng của Xứ ủy Trung kỳ và vạch ra phương hướng đúng đắn về xây dựng Đảng.

Sự khủng bố ác liệt của kẻ địch đã làm cho phần lớn các cơ sở tổ chức của Đảng và quần chúng bị tan vỡ. Nhiều cán bộ lãnh đạo và đảng viên ưu tú của Đảng từ Trung ương đến cơ sở bị địch bắt. Lực lượng của Đảng bị tổn thất nặng nề. Xôviết, phong trào quần chúng dần dần lắng xuống.

Cao trào cách mạng 1930-1931, mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ-Tĩnh là trận thử thách đầu tiên và toàn diện của quần chúng công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhằm chống lại bọn đế quốc và phong kiến. Cao trào cách mạng đó đã tỏ rõ tinh thần chiến đấu hy sinh oanh liệt và năng lực cách mạng sáng tạo của nhân dân lao động Việt Nam. Tuy bị đế quốc và phong kiến tay sai dìm trong biển máu, nhưng nó có ý nghĩa và tác dụng hết sức to lớn trong lịch sử của Đảng và của dân tộc ta. "Không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930-1931, trong đó công nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình, thì không thể

có cao trào những năm 1936-1939"1. Đó thực sự là cuộc tổng diễn tập đầu tiên, chuẩn bị

cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.

Cao trào cách mạng 1930-1931 để lại cho Đảng ta những kinh nghiệm bước đầu "về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với phong trào đấu tranh của nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; kết hợp phong trào cách mạng ở nông thôn với phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu

tranh vũ trang, v.v."2.

Những năm 1931-1935 là một giai đoạn đấu tranh cực kỳ gian khổ nhằm chống khủng bố trắng, khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng.

Đứng trước cao trào cách mạng của quần chúng, đế quốc Pháp và tay sai đã cấu kết với bọn phản động thẳng tay khủng bố hòng dập tắt phong trào cách mạng nước ta và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương.

Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù

đày. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và địa phương lần lượt bị địch phá vỡ. Toàn bộ Ban Chấp hành Trung ương bị bắt, "không còn lại một uỷ viên Trung ương

1. Sđd, 1999, t.3, tr. 157.

1. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 38 - 39.

2. Trường Chinh: Đời đời nhớ ơn Các Mác và đi theo con đường Các Mác đã vạch ra, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1968, tr. 52.

nào"3. Tháng 4-1931 Tổng Bí thư Trần Phú bị địch bắt tại Sài Gòn. Tháng 6-1931, Nguyễn ái Quốc bị đế quốc Anh bắt giam ở Hương Cảng. Theo niên biểu thống kê Đông Dương, từ năm 1930 đến năm 1933, thực dân Pháp đã bắt giam 246.532 người. Tòa án các cấp của chính quyền thực dân liên tục tổ chức các phiên tòa để xét xử các đảng viên cộng sản. Năm 1930-1931, ở Bắc Kỳ, địch đã xét 1.094 án, trong đó có 164 án tử hình, 114 án khổ sai, 420 án đày biệt xứ. Tháng 5-1933, ở Sài Gòn, địch xử 8 án tử hình, 19 án tù chung thân, gần 100 án khổ sai, đày đi biệt xứ.

Thực dân Pháp còn thi hành nhiều thủ đoạn nham hiểm về chính trị và xã hội để lừa bịp quần chúng. Tháng 6-1931, chúng nặn ra cái gọi là "ủy ban điều tra" để nghiên cứu tình hình và đề ra dự kiến cải cách chế độ thuộc địa. Năm 1933, Pháp đưa Bảo Đại ở Pháp về nước với một chương trình mà bộ máy thực dân tuyên truyền rùm beng là một cuộc cải cách lớn của chính phủ Nam triều, lập nội các mới, cải tổ giáo dục sơ học, cải tổ ngành tư pháp bản xứ.

Trong cuộc đọ sức cực kỳ nguy hiểm đối với kẻ thù, Đảng đã kiên trì giữ vững đường lối cách mạng. Trong nhà tù đế quốc, cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn. Các đảng viên của Đảng nêu cao khí tiết của người cộng sản, kiên quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng. Bằng trí tuệ và kinh nghiệm hoạt động cách mạng của mình, lại được ủng hộ của các tổ chức cách mạng quốc tế, với sự giúp đỡ tận tình của luật sư Lôdơbai cùng một số luật sư tiến bộ người Anh, Nguyễn ái Quốc thoát khỏi nhà tù thực dân. Tổng Bí thư Trần Phú bị địch tra tấn rất dã man, chết đi sống lại nhiều lần, song luôn luôn giữ vững khí tiết cách mạng. Trước khi hy sinh, đồng chí còn căn dặn các đồng chí của mình trong tù "hãy giữ vững chí khí chiến đấu!". Nằm trong xà lim án chém, Nguyễn Đức Cảnh vẫn tập trung trí tuệ, tranh thủ viết bản tổng kết công tác vận động công nhân để truyền lại kinh nghiệm đấu tranh cho các đảng viên của Đảng. Người thanh niên cộng sản Lý Tự Trọng trước lúc hy sinh khẳng khái nói thẳng trước mặt quân thù: "con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng". Những đảng viên cộng sản trong các nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Vinh, Hải Phòng, Côn Đảo, v.v., bí mật thành lập các chi bộ đảng trong nhà tù. Các tù chính trị đấu tranh chống khủng bố, chống chế độ nhà tù hà khắc, đòi cải thiện sinh hoạt... Cuộc đấu tranh phản đối án tử hình Lý Tự Trọng nổ ra ở Khám Lớn (11-1931) gây náo động cả thành phố Sài Gòn. Anh chị em tù ở Hỏa Lò tuyệt thực phản đối vụ án tử hình Nguyễn Đức Cảnh. Cuộc đấu tranh chống chế độ nhà tù hà khắc ở Kon Tum đã diễn ra đẫm máu... Trước tinh thần đấu tranh kiên quyết của anh chị em tù chính trị, địch buộc phải thay đổi ít nhiều chế độ lao tù dã man. Chi bộ nhà tù còn tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cho đảng viên về lý luận Mác-Lênin, về đường lối cách mạng, về kinh nghiệm vận động cách mạng, tổ chức học quân sự, văn hóa, ngoại ngữ, v.v.. Nhiều tài liệu huấn luyện đảng viên được biên soạn ngay trong nhà tù như: Chủ nghĩa duy vật lịch sử , Gia đình và Tổ quốc, Lịch sử tóm tắt ba tổ chức quốc tế (chủ yếu là Quốc tế Cộng sản), Những vấn đề cơ bản của cách mạng Đông Dương. Một số tác phẩm của Mác và

của Lênin như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Tư bản, Làm gì? Bệnh ấu trĩ "tả

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr. 332.

khuynh" trong phong trào cộng sản, Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội, trong cách mạng dân chủ v.v., được dịch tóm tắt ra tiếng Việt.

Các chi bộ đảng trong nhà tù còn ra báo bí mật để phục vụ việc học tập và đấu tranh tư tưởng. ở nhà tù Hỏa Lò, có các tờ báo Đuốc đưa đường và Con đường chính. ở Côn Đảo, có báo Người tù đỏ và tạp chí ý kiến chung. Các đảng viên cộng sản ở nhà tù Hỏa Lò và Côn Đảo đã phê phán những quan điểm sai lầm về chính trị, tổ chức và phương pháp hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng, làm cho hàng ngũ của Việt Nam Quốc dân Đảng bị phân hóa. Một số người đã chuyển sang hàng ngũ Đảng Cộng sản.

Nhà tù của đế quốc với những người cộng sản thật sự trở thành một trường học cách mạng, một trận tuyến đấu tranh với kẻ thù, một nơi rèn luyện thử thách cán bộ của Đảng. Nhận định về hoạt động của Đảng trong nhà tù, Hồ Chí Minh nói: "Biến cái rủi thành cái may, các đồng chí ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngăn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại nó đã trở nên một thứ lửa thử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng càng thêm cứng rắn. Mà

kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua"1.

Bảo vệ và khôi phục hệ thống tổ chức Đảng là một cuộc đấu tranh rất gian khổ và quyết liệt của Đảng trong những năm 1931-1935. Tuy địch khủng bố, đánh phá ác liệt nhưng nhiều tổ chức cơ sở của Đảng vẫn được duy trì ở Hà Nội, Sơn Tây, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, Cao Bằng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, v.v..

Đầu năm 1932, trước tình hình các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hầu hết ủy viên các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ bị địch bắt và nhiều người anh dũng hy sinh, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí hoạt động ở trong và ngoài nước tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng, công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương, và các chương trình hành động của Công hội, Nông hội, Thanh niên cộng sản đoàn.

Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 15-6-1932 khẳng định: "Kinh nghiệm hai năm tranh đấu dạy ta rằng con đường giải phóng độc nhất chỉ là con đường võ trang tranh đấu của quần chúng thôi"1. Phương hướng chiến lược của cách mạng là: "Công nông Đông Dương dưới quyền chỉ đạo của Đảng Cộng sản sẽ nổi lên võ trang bạo động thi hành cho được những nhiệm vụ sau này của cuộc cách mạng phản đế và điền địa, rồi sẽ cùng nhau giỏi bước tiến lên để đạt xã hội chủ nghĩa"2. Để chuẩn bị cho cuộc võ trang bạo động sau này, Đảng phải đề ra và lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành những quyền lợi thiết thực hàng ngày, rồi dần đưa quần chúng tiến lên đấu tranh cho những yêu cầu chính trị cao hơn, thực hiện sự kết hợp giữa những yêu cầu

khẩn cấp trước mắt với những nhiệm vụ căn bản của cuộc cách mạng phản đế và điền

địa. Những yêu cầu chung trước mắt của đông đảo quần chúng được vạch ra trong

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr. 3- 4.

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.4, tr. 10, 12.

Chương trình hành động là:

1. Đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước và ra nước ngoài.

2. Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình.

3. Bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác.

4. Bỏ các độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối.

Chương trình hành động của Đảng còn đề ra những yêu cầu cụ thể riêng cho từng giai cấp và tầng lớp nhân dân như công nhân, nông dân, binh lính, tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, dân nghèo thành thị, thanh niên, phụ nữ, các dân tộc thiểu số... Chương trình hành động vạch rõ: phải ra sức tuyên truyền rộng rãi các khẩu hiệu đấu tranh của Đảng, phải mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, ra sức củng cố và phát triển các đoàn thể cách mạng của quần chúng, nhất là Công hội và Nông hội... Đặc biệt cần phải "gây dựng một đoàn thể bí mật, có kỷ luật nghiêm ngặt, cứng như sắt, vững như đồng, tức Đảng Cộng sản để hướng đạo quần chúng trên con đường giai cấp chiến

đấu"1.

Chủ trương đấu tranh trước mắt do Đảng vạch ra trong Chương trình hành động năm 1932 phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Nhờ vậy, phong trào cách mạng của quần chúng và hệ thống tổ chức của Đảng từng bước được khôi phục.

Dựa theo chương trình hành động, các tổ chức cơ sở của Đảng đã lợi dụng các hình thức tổ chức hợp pháp như các hội cày, cấy, gặt hái, đá bóng, đọc sách báo, hiếu hỉ để tập hợp quần chúng. Phong trào đấu tranh của quần chúng lao động dần dần được nhen nhóm lại. Năm 1932, ở Đông Dương có 230 vụ xung đột giữa công nhân với bọn chủ, năm 1933 có 244 vụ. Riêng ở miền Bắc, từ năm 1931 đến năm 1935 có 551 vụ. Đáng chú ý là các cuộc bãi công của công nhân làm đường xe lửa, của công nhân nhà in ácđanh, Textơlanh, Ôpiniông ở Sài Gòn, công nhân đồn điền cao su Dầu Tiếng. Một số cuộc bãi công khác cũng đã nổ ra ở Huế, ở Phnôm Pênh, ở Phôngchiu (Lào)... ở một số nơi đấu tranh của nông dân đã nổ ra như Hóc Môn (Gia Định), Khánh Hòa, Ninh Thuận, Cao Bằng, Lạng Sơn... ở Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Viêng Chăn (Lào) còn có những cuộc bãi chợ... "Một điều đặc sắc là đa số trong các cuộc tranh đấu của quần chúng do Đảng chỉ huy... đều được thắng lợi hoặc

hoàn toàn, hoặc từng phần, khiến cho công nông thêm hăng hái tranh đấu"1.

Một số đảng viên cộng sản tranh thủ khả năng đấu tranh hợp pháp để tham gia cuộc tranh cử vào hội đồng thành phố Sài Gòn trong những năm 1933-1935, lợi dụng diễn đàn công khai để tuyên truyền cổ động quần chúng đấu tranh theo khẩu hiệu từng phần của Đảng. Trên báo chí hợp pháp, một số đảng viên của Đảng tiến hành cuộc đấu

tranh về quan điểm triết học và quan điểm nghệ thuật.

1. Sđd, tr. 14.

1. Sđd, 2002, t.5, tr. 17.

Cuộc đấu tranh khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng ta được Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Pháp và các đảng cộng sản khác hết sức giúp đỡ. Quốc tế Cộng sản đã góp nhiều ý kiến và đã tiếp tục đưa những cán bộ ưu tú được bồi dưỡng đào tạo ở Liên Xô về nước để tăng cường sức lãnh đạo của Đảng. Một số đảng viên cũng lần lượt trở về gây cơ sở Đảng ở vùng biên giới nước ta và Lào. Dần dần, nhiều cơ sở của Đảng được phục hồi ở Bắc, Trung, Nam, nhiều tỉnh ủy đã được lập lại.

Đầu năm 1934, được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập do Lê Hồng Phong đứng đầu, hoạt động như một ban chấp hành trung ương lâm thời, tập hợp các cơ sở đảng mới xây dựng lại trong nước thành hệ thống, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, chuẩn bị triệu tập Đại hội Đảng.

Nhờ sự cố gắng phi thường của Đảng ta, được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, đến cuối năm 1934 đầu năm 1935 hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục. Các xứ ủy Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ lần lượt được lập lại, Xứ ủy Lào thành lập vào tháng

9-1934. Để tiện cho việc liên lạc và chỉ đạo phong trào, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng cho thành lập Ban chấp ủy Nam Đông Dương. Ban chỉ huy ở ngoài đã liên lạc chỉ đạo được các xứ ủy. Những chỉ thị của Ban chỉ huy ở ngoài về công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo phong trào quần chúng được phổ biến xuống các cơ sở đảng. Tờ Bônsêvích, cơ quan lý luận của Đảng được phát hành rộng trong toàn Đảng. Số lượng đảng viên tuy chưa bằng năm 1930, song cơ sở của Đảng đã lan rộng thêm nhiều nơi. Phong trào quần chúng lại tiếp tục vươn lên. Trong thời gian này, Nguyễn ái Quốc, sau khi thoát khỏi nhà tù của đế quốc Anh ở Hương Cảng đã sang Liên Xô để học tập và nghiên cứu... Sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng là cơ sở để tiến tới Đại hội lần thứ I của Đảng.

3. Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng tháng 3-1935

Đầu năm 1935, sau khi hệ thống tổ chức của Đảng được xây dựng và chắp nối lại từ cơ sở đến Trung ương, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng quyết định triệu tập Đại hội Đảng. Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc). Dự Đại hội đầu tiên này có 13 đại biểu đại diện cho các tổ chức Đảng trong nước và ngoài nước.

Đại hội nhận định tình hình trong nước và quốc tế, khẳng định thắng lợi của cuộc đấu tranh để khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức Đảng. Tuy vậy, lực lượng Đảng chưa phát triển mạnh ở các vùng tập trung công nghiệp, công nhân gia nhập Đảng còn ít, hệ thống tổ chức Đảng chưa thật thống nhất, sự liên hệ giữa các cấp bộ của Đảng chưa chặt chẽ, v.v..

Đại hội đề ra ba nhiệm vụ trước mắt:

1. Củng cố và phát triển Đảng, tăng cường phát triển lực lượng Đảng ở các xí nghiệp, nhà máy, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng. Đồng thời, phải đưa nông dân lao động và trí thức cách mạng đã qua rèn luyện thử thách vào Đảng, Đảng phải chăm lo tăng cường các đảng viên ưu tú xuất thân từ công nhân vào các cơ quan

lãnh đạo của Đảng. Để bảo đảm cho Đảng luôn thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ cần thường xuyên phê bình và tự phê bình, đấu tranh trên cả hai mặt, chống "tả" khuynh và hữu khuynh, giữ vững kỷ luật Đảng.

2. Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, chú ý các dân tộc thiểu số, phụ nữ, binh lính... củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng như Đoàn thanh niên cộng sản, Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Cứu tế đỏ; lập Mặt trận thống nhất phản đế. Đại hội chỉ rõ: "Đảng mạnh là căn cứ vào ảnh hưởng và thế lực của Đảng trong quần chúng... muốn đưa cao trào cách mạng mới lên tới trình độ cao, tới toàn quốc vũ trang bạo động, đánh đổ đế quốc phong kiến, lập nên chính quyền Xôviết, thì trước hết cần phải thâu phục quảng đại quần chúng. Thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm,

căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời..."1.

3. Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, thành trì của cách mạng thế giới và ủng hộ cách mạng Trung Quốc....

Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, các dân tộc ít người, về công tác mặt trận phản đế, đội tự vệ, và cứu tế đỏ.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng gồm 9 uỷ viên chính thức và 4 uỷ viên dự khuyết, trong đó có Lê Hồng Phong, Đình Thanh, Võ Nguyên Hiến, Nguyễn ái Quốc, Ngô Tuân, Hoàng Đình Giong..., do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng, đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương, chuẩn bị điều kiện để Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới. Song "chính sách Đại hội Ma Cao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong nước lúc bấy giờ"2, chưa thấy được nguy cơ của chủ nghĩa phátxít trên

thế giới và khả năng mới của cuộc đấu tranh chống phátxít và chống phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình, nên đã không đề ra được một chủ trương chính sách phù hợp với tình hình mới. Thiếu sót này được nhanh chóng khắc phục tại các hội nghị về sau của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Qua bốn năm đối đầu quyết liệt với khủng bố đẫm máu của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, Đảng vẫn tồn tại và nhanh chóng được khôi phục. Bản lĩnh chính trị của Đảng, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phẩm chất và khí tiết cộng sản, ý chí chiến đấu của cán bộ, đảng viên và tinh thần cách mạng của quần chúng đã thể hiện sáng ngời trong trận thử thách quyết liệt này.

Cuộc khủng bố trắng của kẻ thù không thể phá nổi trận địa cách mạng của Đảng đã được xây dựng trong cao trào cách mạng năm 1930. Ngược lại, Đảng vẫn đứng vững, cơ sở Đảng và cơ sở chính trị quần chúng vẫn tồn tại cũng như mối liên hệ giữa

Đảng và quần chúng luôn luôn được duy trì. Trải qua cuộc đấu tranh sống mái với kẻ

1. Sđd, 2002, t.5, tr. 26.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr. 155.

thù, Đảng nhanh chóng trưởng thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm đấu tranh quý báu. Đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng được rèn luyện và sàng lọc. Với bản lĩnh chính trị vững vàng và ý chí chiến đấu kiên cường, không những Đảng đã khắc phục được những khó khăn trước mắt, hàn gắn nhanh những vết thương, chuẩn bị lực lượng tốt cho cuộc đấu tranh trong giai đoạn tiếp theo.

II. Đảng lãnh đạo Phong trào dân chủ

(1936-1939)

1. Nguy cơ chiến tranh của chủ nghĩa phátxít. Đại hội lần thứ VII

của Quốc tế Cộng sản

Hậu quả trầm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929-1933 và tình trạng tiêu điều tiếp theo trong các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.

ở một số nước, giai cấp tư sản lũng đoạn không muốn duy trì nền thống trị bằng chế độ dân chủ tư sản đại nghị như cũ, nên đã âm mưu dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ trang, chuẩn bị phát động một cuộc chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phátxít xuất hiện và thắng thế ở một số nơi, như phátxít Hítle ở Đức, phátxít Phrăngcô ở Tây Ban Nha, phátxít Mútxôlini ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật Bản. Chế độ độc tài phátxít được thiết lập là một nền chuyên chính khủng bố công khai của những thế lực phản động nhất, sôvanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính. Chúng xóa bỏ mọi quyền tự do dân chủ tư sản cổ truyền, đàn áp tiêu diệt mọi lực lượng và tổ chức chính trị đối lập, thực hành chính sách xâm lược, bành trướng và nô dịch các nước khác. Tập đoàn phátxít cầm quyền ở Đức, ý và Nhật đã liên kết với nhau thành khối "Trục", ráo riết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới. Chúng nuôi mưu đồ tiêu diệt Liên Xô, thành trì cách mạng thế giới, hy vọng đẩy lùi phong trào cách mạng vô sản đang phát triển mạnh mẽ trong nước chúng. ở Pháp các thế lực phản động tập hợp trong tổ chức Thập tự lửa (Croix de feu) gồm khoảng 20.000 tên có vũ trang, âm mưu lật đổ chế độ đại nghị dân chủ, thiết lập nền độc tài phátxít. Nguy cơ chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.

Trước tình hình đó, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva (tháng 7-

1935) dưới sự chủ trì của G.Đimitơrốp. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do

Lê Hồng Phong dẫn đầu.

Đại hội xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phátxít. "Ngày nay trong nhiều nước tư bản chủ nghĩa quần chúng lao động trước mắt phải lựa chọn một cách cụ thể không phải giữa nền chuyên chính vô sản với chế độ dân chủ tư bản mà là chế độ dân chủ tư sản với

chủ nghĩa phátxít"1. Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới lúc này chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chủ nghĩa xã hội, mà là chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình.

Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó, giai cấp công nhân các nước trên thế giới phải thống nhất hàng ngũ của mình, lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phátxít và chiến tranh phátxít.

Đại hội chỉ rõ đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.

Chủ trương mới do Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản vạch ra phù hợp với yêu cầu chống chủ nghĩa phátxít và chiến tranh, nguy cơ lớn nhất đối với vận mệnh của các dân tộc lúc bấy giờ. Nghị quyết của Đại hội giúp cho Đảng ta trong việc phân tích đúng đắn tình hình mới, từ đó đề ra chủ trương chiến lược và sách lược cách mạng phù hợp với tình hình mới.

Trong thời gian này, các đảng cộng sản đã ra sức phấn đấu lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống chủ nghĩa phátxít. Mặt trận nhân dân Tây Ban Nha, Mặt trận thống nhất chống phátxít của nhân dân Trung Quốc lần lượt được thành lập. Đặc biệt, Mặt trận nhân dân Pháp chống phátxít thành lập từ tháng 5-1935 do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt, đã giành được thắng lợi vang dội trong cuộc tổng tuyển cử năm 1936, đưa đến sự ra đời một chính phủ tiến bộ, Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp. Thắng lợi đó đã tạo ra không khí chính trị thuận lợi cho cuộc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân các nước trong hệ thống thuộc địa của đế quốc Pháp trong đó có Đông Dương.

ở nước ta, hậu quả kéo dài của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tác động sâu sắc không những đến đời sống của những giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động, mà còn đến cả những nhà tư sản, địa chủ hạng vừa và nhỏ. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn ra sức vơ vét bóc lột và khủng bố, phong trào đấu tranh của nhân dân ta, làm cho bầu không khí chính trị và kinh tế hết sức ngột ngạt. Mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải cách dân chủ. Đảng Cộng sản Đông Dương đã phục hồi sau một thời kỳ đấu tranh cực kỳ gian khổ, kịp thời lãnh đạo nhân dân ta bước vào một thời kỳ mới.

2. Chủ trương mới của Đảng

Tháng 7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ban Chỉ huy ở ngoài họp Hội nghị tại Thượng Hải (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập. Hội nghị quyết định cử đồng chí Hà Huy Tập về nước để khôi phục các tổ chức Đảng ở trong nước. Xuất phát từ đặc điểm tình hình Đông Dương và thế giới, vận dụng Nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị xác định cách mạng ở Đông Dương

vẫn là "cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền của công

1. G. Đimitơrốp: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1961, tr. 219.

nông bằng hình thức Xôviết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa"1. Song xét rằng cuộc vận động quần chúng hiện thời cả về chính trị và tổ chức chưa tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công nông, giải quyết vấn đề điền địa.

Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Đảng phải nắm lấy những yêu cầu đó để phát động quần chúng đấu tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này. Hội nghị chỉ rõ kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Từ đó Hội nghị xác định những nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình; "lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi chính để bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân

tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ"1.

"Mặt trận nhân dân phản đế là cuộc liên hợp hết các giai cấp trong toàn dân tộc bị áp bức đang tranh đấu đòi những đều quyền lợi hằng ngày cho toàn dân, chống chế độ thuộc địa vô nhân đạo, để dự bị điều kiện cho cuộc vận động dân tộc giải phóng được phát triển"2.

Để cô lập và chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng, đòi các quyền dân chủ, dân sinh, không những phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, "ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp", mà còn đề ra khẩu hiệu "ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp" để cùng nhau chống lại kẻ thù chung là bọn phátxít ở Pháp và bọn phản động thuộc địa.

Hoàn cảnh mới, chủ trương mới đòi hỏi phải có một đường lối tổ chức mới. Vì vậy, Hội nghị chủ trương phải chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp.

Trong khi tranh thủ mở rộng các hình thức tổ chức đấu tranh công khai và hợp pháp, tránh sa vào chủ nghĩa công khai, mà phải giữ vững nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt động bí mật của Đảng, giữ vững mối quan hệ giữa bí mật và công khai, hợp pháp với không hợp pháp và phải bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức Đảng bí mật đối với những tổ chức và hoạt động công khai hợp pháp.

Tháng 10-1936, Trung ương Đảng được tổ chức lại do đồng chí Hà Huy Tập làm

Tổng Bí thư.

Cùng với việc đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi, đấu tranh đòi các quyền dân chủ, dân sinh, Ban Chấp hành Trung ương

Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ,

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2000, t.6, tr. 139.

1, 2. Sđd, tr. 144, 151.

phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông Dương. Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng 10-1936, Đảng nêu một quan điểm mới: "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng". Vì rằng, tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước hết tập trung đánh đổ đế quốc, rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa. Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch liệt, đồng thời vì muốn tăng thêm lực lượng tranh đấu chống đế quốc, cần phải phát triển cuộc cách mạng điền địa. "Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn

thắng"1. Đó là nhận thức mới phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh cách mạng đầu

tiên của Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.

Mặt trận nhân dân phản đế do Đảng đề ra là cuộc liên hiệp các giai cấp trong các dân tộc ở Đông Dương đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày, chống lại chế độ thuộc địa vô nhân đạo của thực dân Pháp, chuẩn bị điều kiện cho cuộc vận động dân tộc phát triển. Những người cộng sản Đông Dương chính là con cháu của các dân tộc ở Đông Dương - một xứ thuộc địa. Đảng Cộng sản Đông Dương là đảng duy nhất lãnh đạo toàn dân ta đấu tranh giành độc lập tự do, nên được nhân dân thừa nhận quyền lãnh đạo duy nhất. Vì vậy, Đảng cần phải phấn đấu là "đảng của dân chúng bị áp bức, đội tiền phong cho

cuộc dân tộc giải phóng"2.

Các Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong năm 1937 và 1938 đã tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược với mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, đã đặt ra nhiệm vụ chính trị cụ thể của cách mạng trong một hoàn cảnh cụ thể, biết tập hợp rộng rãi những lực lượng chính trị dù là bé nhỏ, bấp bênh, tạm thời, sử dụng các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, phù hợp với mục tiêu cụ thể nhằm động viên hàng triệu quần chúng lên trận tuyến đấu tranh cách mạng, chuẩn bị tiến lên những trận chiến đấu cao hơn, thực hiện mục tiêu chiến lược của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.

Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm 1936 trở đi khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn. Song thực tiễn cách mạng diễn ra phong phú hơn, sinh động hơn, đòi hỏi Đảng phải theo dõi, bổ sung và hoàn chỉnh từng bước các chủ trương và biện pháp đấu tranh. Trên tinh thần đó, các Hội nghị lần thứ ba (tháng 3-1937) và lần thứ tư (tháng 9-1937) đã đi sâu hơn về công tác tổ chức của Đảng, quyết định phải chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp

được đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa, chống phátxít,

1, 2. Sđd, tr. 152, 156.

đòi tự do, cơm áo, hòa bình.

Tháng 3-1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị toàn thể nhấn mạnh vấn đề lập mặt trận thống nhất dân chủ, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị chủ trương phải sử dụng mọi hình thức để liên hiệp thật rộng rãi các tầng lớp dân chủ, các đảng phái. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, Đảng chủ trương phải đấu tranh khắc phục những tư tưởng "tả" khuynh, cô độc hẹp hòi và những tư tưởng hữu khuynh trong việc nhận thức và chấp hành đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh không phù hợp với nhiệm vụ chính trị mới. Hội nghị nhắc nhở phải kiên quyết, triệt để chống bọn tờrốtkít ở Đông Dương.

Hội nghị còn quyết định củng cố những cơ sở Đảng đã có, lập thêm cơ sở mới, chú trọng phát triển Đảng ở thành phố, ở các vùng công nghiệp tập trung và các vùng đồn điền, phải chấn chỉnh, củng cố các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, phải giữ đúng nguyên tắc trong quan hệ giữa bộ phận hoạt động bí mật và bộ phận hoạt động công khai của Đảng: "Bí mật với công khai là làm cho công tác của Đảng được thống nhất và chóng phát triển, vô luận công khai hay bí mật đều phải phục

tùng cơ quan chỉ huy của Đảng"1. Hội nghị bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí

thư của Đảng thay đồng chí Hà Huy Tập.

Cuối năm 1938, từ Liên Xô, Nguyễn ái Quốc trở lại Trung Quốc. Người chú ý theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở Đông Dương. Người nhắc nhở Trung ương Đảng cần nắm vững nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng ở Đông Dương lúc này là đấu tranh đòi thực hiện các quyền tự do, dân chủ đơn sơ và cải thiện đời sống, đấu tranh để Đảng được hoạt động hợp pháp; không nên đưa ra những khẩu hiệu quá cao như độc lập dân tộc để đề phòng âm mưu của phátxít Nhật lợi dụng khẩu hiệu đó. Đảng phải tổ chức một mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi, mặt trận ấy không phải chỉ có nhân dân lao động tham gia mà còn phải lôi cuốn cả giai cấp tư sản dân tộc, không phải chỉ có người Đông Dương mà còn có cả những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương nữa. Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. "Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của

Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo"2. Đảng phải đấu tranh không khoan

nhượng chống tư tưởng bè phái, phải chú ý tổ chức học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đảng viên.

Tháng 3-1939, Đảng ra bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc, nêu rõ họa phátxít đang đến gần, Chính phủ Pháp hiện đã nghiêng về phía hữu, đang ra sức bóp nghẹt tự do dân chủ, tăng cường bóc lột nhân dân và ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Tuyên ngôn kêu gọi các tầng lớp nhân dân phải thống nhất hành động hơn nữa trong việc đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh đế quốc.

Mặc dù bọn cầm quyền thực dân đẩy mạnh đàn áp, khủng bố, những cuộc biểu dương

1. Sđd, tr. 359.

2. Sđd, tr. 508.

lực lượng của đông đảo quần chúng không tổ chức được như những năm trước, nhưng phong trào đấu tranh của quần chúng công nhân và nông dân vẫn tiếp tục nổ ra, nhất là các cuộc đấu tranh của nông dân, tiểu thương chống lại chính sách tăng thuế. Số lượng tuy giảm nhiều, nhưng trình độ tổ chức và lãnh đạo các cuộc đấu tranh lại cao hơn.

Tháng 7 năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích, nhằm rút kinh nghiệm về những sai lầm, thiếu sót của các đảng viên hoạt động công khai trong hoạt động tranh cử ở Hội đồng quản hạt Nam Kỳ (4-1939). Tác phẩm đã vượt qua giới hạn của vấn đề tranh cử, đi vào phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ Đông Dương, một vấn đề chính trị trung tâm của Đảng lúc đó. Tác phẩm Tự chỉ trích chẳng những có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh để khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về xây dựng Đảng, về công tác vận động thành lập mặt trận thống nhất rộng rãi trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.

3. Đảng lãnh đạo phong trào dân chủ, dân sinh (1936-1939)

Chủ trương mới của Đảng phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng bức thiết của quần chúng, làm dấy lên trong cả nước một phong trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi hướng vào mục tiêu trước mắt là tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.

Nắm cơ hội Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp quyết định sẽ thả một số tù chính trị, thi hành một số cải cách xã hội cho lao động ở các thuộc địa Pháp và cử một ủy ban điều tra thuộc địa đến Đông Dương, Đảng phát động một phong trào đấu tranh công khai của quần chúng, mở đầu bằng một hình thức vận động lập "ủy ban trù bị Đông Dương đại hội" nhằm thu thập nguyện vọng quần chúng, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương. Hưởng ứng chủ trương của Đảng, quần chúng sôi nổi tổ chức các cuộc míttinh, hội họp để đề ra các bản "dân nguyện" gửi cho phái bộ điều tra của Chính phủ Pháp sắp sang Đông Dương.

Trong một thời gian ngắn, ở khắp các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, nông thôn đã lập ra các "ủy ban hành động" để tập hợp quần chúng. Riêng ở Nam Kỳ đã có 600 ủy ban hành động. Phong trào Đông Dương Đại hội là một hình thức phôi thai của Mặt trận thống nhất nhân dân Đông Dương. Trước đà phát triển mạnh mẽ của phong trào "Đông Dương đại hội" và do sức ép của phong trào quần chúng ở Pháp, chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp đã phải trả lại tự do cho một số tù chính trị, ra nghị định ngày làm 8 giờ cho công nhân và hàng năm công nhân được nghỉ 10 ngày có lương. Nhưng liền đó, thực dân Pháp lại ra lệnh giải tán ngay các ủy ban hành động, cấm cuộc vận động "Đông Dương đại hội" hòng dập tắt phong trào đấu tranh của quần chúng.

Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của Chính phủ Pháp là Gôđa (Godard) đi kinh lý Đông Dương và tiếp đó là Bơrêviê (Brévié) sang nhận chức toàn quyền Đông Dương, Đảng vận động hai cuộc biểu dương lực lượng quần chúng rộng lớn dưới danh nghĩa "đón rước", míttinh, biểu tình, đưa đơn "dân nguyện". Công nhân và nông dân là lực

lượng đông đảo và hăng hái nhất trong các cuộc biểu dương lực lượng này.

Mặc dù thực dân Pháp cố tìm cách ngăn chặn. Nhưng nhờ khéo lợi dụng các hình thức đấu tranh hợp pháp nên từ năm 1936 đến giữa năm 1939 phong trào quần chúng đấu tranh theo những khẩu hiệu đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống đã phát triển liên tục, rộng rãi khắp cả thành thị và nông thôn suốt ba năm.

Ngoài các yêu sách chung như: tự do hội họp, tự do đi lại, tự do báo chí, tự do tổ chức, bỏ thuế thân, thả hết tù chính trị, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp còn đưa ra những yêu sách riêng của mình. Công nhân đòi tự do lập nghiệp đoàn, đòi tăng lương, bớt giờ làm, đòi thi hành luật lao động, thực hiện bảo hiểm xã hội, chống đuổi thợ, chống đánh đập, cúp phạt... Nông dân đòi chia lại ruộng công cho hợp lý, chống sưu cao, thuế nặng, chống phù thu lạm bổ, đòi cải cách hương thôn, đòi giảm tô, giảm tức... Tiểu thương, tiểu chủ đòi giảm thuế môn bài, thuế chợ, thuế hàng hóa... công chức đòi tăng lương; học sinh đòi mở thêm trường học, phụ nữ đòi quyền lợi như đàn ông, làm việc ngang nhau, tiền lương ngang nhau.

Những cuộc bãi công, biểu tình, bãi chợ, bãi khóa đã nổ ra trong nhiều thành phố và vùng công nghiệp như: Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Bến Thủy, Hòn Gai, Cẩm Phả... Chỉ trong sáu tháng cuối năm 1936, đã có đến 242 cuộc đấu tranh của công nhân, lôi kéo hàng vạn người tham gia, lớn nhất là cuộc tổng bãi công thắng lợi của công nhân than Hồng Gai (tháng 11-1936). Năm 1937 là năm phong trào công nhân cao nhất, có gần 400 cuộc bãi công, vang dội nhất là cuộc bãi công của công nhân xe lửa Trường Thi (tháng 7-1937), được công nhân xe lửa miền Nam Đông Dương bãi công phối hợp. Năm 1938, có trên 130 cuộc bãi công và 6 tháng đầu năm 1939 có khoảng 50 cuộc bãi công. So với các năm trước, các cuộc bãi công năm 1938 và năm 1939 có tổ chức chặt chẽ hơn, khẩu hiệu đấu tranh chính xác và trình độ tổ chức, lãnh đạo của các tổ chức Đảng vững vàng hơn.

Phong trào đấu tranh của nông dân cũng phát triển khắp Bắc, Trung, Nam. Mỗi năm có hàng trăm cuộc đấu tranh, nhất là các cuộc đấu tranh đòi khất thuế, chống các hủ tục ở hương thôn, chống nạn cường hào áp bức nhũng nhiễu. Năm 1938, ở Nam Kỳ có những cuộc đấu tranh của nông dân đi "mượn" lúa của chủ ruộng để cứu đói. Nông dân Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, tổ chức nhiều cuộc biểu tình chống dự án thuế mới của Viện dân biểu Trung Kỳ. Hầu hết các cuộc đấu tranh của nông dân đều do Đảng tổ chức và lãnh đạo.

Cùng với phong trào đấu tranh sôi nổi của công nhân và nông dân, tiểu thương ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, và một số thành phố, thị xã khác đã bãi chợ đòi giảm thuế môn bài, thuế hàng hóa.

Dựa vào lực lượng quần chúng đông đảo, Đảng liên hiệp hoạt động với những người Pháp dân chủ trong chi nhánh Đảng Xã hội Pháp ở Hà Nội, tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế lao động (ngày 1-5-1938) tại khu Đấu xảo Hà Nội. Mặc dù bọn cầm quyền Pháp không cho phép tụ tập đông đảo và biểu tình ngoài đường phố, nhưng lần đầu tiên, một cuộc míttinh công khai có đến 25.000 người tham dự, bao gồm các tầng lớp và giai

cấp: nông dân, công nhân, tiểu thương, thợ thủ công, trí thức, phụ nữ, v.v., đứng theo hàng ngũ chỉnh tề, có phù hiệu, có biểu ngữ riêng của từng giới. Trước khi kéo đến địa điểm míttinh, các đoàn người diễu qua các đường phố, biểu tình hô vang các khẩu hiệu cách mạng. Thay nhau lên diễn đàn có cả người Việt và người Pháp, trong đó có đại diện nhóm Tin Tức (nhóm hoạt động công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương), đại diện chi nhánh Đảng Xã hội Pháp ở Đông Dương và đại diện các giới công nhân, nông dân, tiểu thương, trí thức, phụ nữ. Quần chúng dự míttinh giương cao cờ đỏ, cùng hát bài Quốc tế ca (L' International) hô các khẩu hiệu đòi tự do lập hội ái hữu, nghiệp đoàn, đòi ban hành, thi hành triệt để luật lao động, đòi giảm thuế, chống phátxít, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ hòa bình, chống nạn sinh hoạt đắt đỏ. Cùng ngày hôm đó ở Sài Gòn, bộ phận công khai của Đảng cũng tổ chức được cuộc míttinh lớn có hàng nghìn người tham dự với những khẩu hiệu tương tự ở Hà Nội.

Cuộc biểu dương lực lượng quần chúng trong ngày Quốc tế lao động năm 1938 là một thắng lợi nổi bật về hoạt động của Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Đó là kết quả của một quá trình vận động chính trị sâu rộng trong quần chúng, đồng thời cũng là biểu hiện của sự trưởng thành của Đảng Cộng sản Đông Dương về nghệ thuật huy động, tổ chức quần chúng trong đấu tranh, kể cả tranh thủ những người Pháp dân chủ, phân hóa, cô lập bọn phản động đang cầm quyền ở Đông Dương và bè lũ tay sai của chúng.

Cùng với việc lãnh đạo các cuộc đấu tranh về kinh tế, chính trị. Đảng chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền cổ động, đặc biệt là trên lĩnh vực hoạt động báo chí công khai, để tăng cường ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng. Lợi dụng khả năng xuất bản hợp pháp lúc đó, các báo chí tiếng Việt và tiếng Pháp của Đảng, của Mặt trận Dân chủ Đông Dương và các đoàn thể quần chúng ra đời: Tin tức, Nhành lúa, Thời thế, Thời báo, Bạn dân, Đời nay, Kinh tế, Tân văn, Dân mới, Phổ thông, Lao động (Le Travail), Tranh đấu (La Lutte), Tập hợp (Rassemblement), Tiền phong (Avant garde), Tiến lên (En Avant), Tiếng nói của chúng ta (Notre Voix)... Tuy không có tờ nào tồn tại được lâu do sự kiểm duyệt gắt gao của thực dân cầm quyền, nhưng tờ này bị đóng cửa thì tờ kia lại nối tiếp ra đời. Đặc biệt là tờ Dân chúng, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng, lần đầu tiên công khai xuất bản ở Sài Gòn, mỗi ngày từ 5.000 đến 15.000

bản.

Báo chí của Đảng và Mặt trận Dân chủ đã tập trung phản ánh tình cảnh đau khổ, bị áp bức, bóc lột của các tầng lớp nhân dân do bọn phong kiến và tay sai; nêu lên những nguyện vọng của quần chúng trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; phổ biến tin tức và kinh nghiệm đấu tranh của quần chúng; hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi các quyền lợi dân chủ, dân sinh; tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, chống mọi thủ đoạn của kẻ thù vu cáo, xuyên tạc Đảng Cộng sản; đấu tranh phê phán các luận điệu cực "tả" của "tờrốtkít" chống lại chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng.

Trong thời kỳ này, Đảng còn xuất bản nhiều tập sách chính trị phổ thông để giới thiệu chủ nghĩa Mác-Lênin và chính sách mới của Đảng. Cuốn Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) tố cáo tội ác của đế quốc và phong kiến đối với nông dân và nêu lên vai trò quan trọng của nông dân trong cách

mạng nước ta. Cuốn Chủ nghĩa Các Mác của Hải Triều in và phát hành năm 1938. Một số cuốn sách giới thiệu về Liên Xô, về cách mạng Trung Quốc, về Mặt trận nhân dân Pháp, Mặt trận nhân dân Tây Ban Nha được ra mắt bạn đọc.

Mạng lưới phát hành sách báo được tổ chức rộng khắp. Tòa soạn và cơ quan phát hành sách báo của Đảng còn là nơi quần chúng liên hệ với Đảng, là đầu mối liên lạc giữa bộ phận công khai và bộ phận bí mật, là nơi chắp mối của các đảng viên mới ra tù, là nơi liên lạc của Đảng với cán bộ hoạt động ở nước ngoài. Để mở rộng hoạt động trên mặt trận báo chí công khai, lôi cuốn những người làm báo tiến bộ trong phong trào vận động dân chủ, thực hiện chủ trương của Đảng, Hội nghị báo chí Trung Kỳ được tổ chức (tháng 5-1938), tiếp đó là Hội nghị báo chí Bắc Kỳ (tháng 6-1938). Trong điều kiện một nước thuộc địa, mọi quyền tự do, dân chủ bị bóp nghẹt, phát động và tổ chức được mặt trận đấu tranh công khai và rộng lớn trên lĩnh vực báo chí là một thắng lợi lớn của Đảng.

Hội truyền bá quốc ngữ ra đời. Từ cuối năm 1937, phong trào truyền bá quốc ngữ phát triển mạnh, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia, giúp cho quần chúng lao động có thể đọc được sách báo. Các hình thức tổ chức cũng phát triển rộng rãi, bao gồm các hội tương tế, hội ái hữu. Bên cạnh các hội công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, cứu tế, còn có những tổ chức đơn sơ, không có điều lệ như hội thể thao, hội đọc sách báo, ban ca nhạc, ban học tối, hội buôn, hội hiếu, hội hỷ, hội cày, hội cấy, hội gặt, hội lợp nhà...

Trên cơ sở phong trào quần chúng, trong những năm 1937-1938, Đảng còn lợi dụng khả năng hợp pháp để tổ chức tham gia các cuộc tranh cử vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Viện dân biểu Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương. Đây là một cơ hội tốt để Đảng mở rộng công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng, lợi dụng diễn đàn công khai của địch để vạch trần chính sách thuộc địa phản động của thực dân Pháp, bênh vực quyền lợi của quần chúng, tranh thủ lôi cuốn các nhân sĩ tiến bộ vào cuộc đấu tranh chống phản động thuộc địa, đòi các quyền tự do, dân chủ.

Trong cuộc tuyển cử Viện dân biểu Trung Kỳ năm 1937, Đảng liên hệ với những người tiến bộ trong hàng ngũ tri thức, trong số các nhà tư sản dân tộc, địa chủ cấp tiến, vận động họ ra ứng cử chung trong danh sách của Mặt trận dân chủ. Hầu hết những người ứng cử của Mặt trận dân chủ đã trúng cử và những người có cảm tình với Mặt trận dân chủ đã được bầu giữ các chức viện trưởng, viện phó của viện. Nhờ kết hợp khéo léo với đấu tranh của quần chúng bên ngoài nghị viện, các nghị viên Mặt trận dân chủ ở Viện dân biểu Trung Kỳ đã bác bỏ được dự án tăng thuế của đế quốc Pháp đưa ra trong phiên họp tháng 9 năm 1938. Đây cũng là một sự kiện hiếm có ở một nước thuộc địa.

Từ giữa năm 1939 trở đi, Chính phủ Pháp nghiêng hẳn về phía hữu, và phátxít hóa. ở Đông Dương, bọn thực dân Pháp quay ra đàn áp quyết liệt phong trào dân chủ. Đảng chỉ thị cho bộ phận hoạt động công khai nhanh chóng chuẩn bị để rút vào hoạt

động bí mật, tránh tổn thất do bắt bớ, khủng bố của thực dân Pháp. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9-1939), Đảng liền chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược cho phù hợp với thời kỳ chiến tranh và cách mạng. Thời kỳ vận động dân chủ kết thúc.

Cuộc vận động dân chủ của Đảng Cộng sản Đông Dương trong những năm

1936-1939 thực sự là một cuộc đấu tranh cách mạng sôi nổi, có tính quần chúng rộng rãi nhằm thực hiện mục tiêu trước mắt là chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Về cơ bản, các khẩu hiệu cách mạng của Đảng trong thời kỳ này đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ. Cao trào cách mạng đó đã diễn ra trên tất cả các mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng với các hình thức đấu tranh rất phong phú và linh hoạt: bãi công, bãi chợ, bãi khóa, biểu tình, mít tinh, báo chí và lợi dụng cả nghị trường của địch. Các hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp, công khai và bí mật... đều được sử dụng phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, hỗ trợ cho nhau. Tuy vậy, Đảng vẫn luôn luôn có ý thức lấy các tổ chức bí mật làm nòng cốt, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức hoạt động công khai và chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với mọi thủ đoạn đánh phá của kẻ thù, nhanh chóng chuyển bộ phận hoạt động công khai vào hoạt động bí mật khi điều kiện hoạt động công khai không còn nữa.

Qua cuộc vận động dân chủ rộng lớn, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và nâng cao trong quần chúng. Chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối chủ trương cách mạng của Đảng được công khai tuyên truyền phổ cập trong tất cả các giai cấp và tầng lớp nhân dân ở nông thôn và đô thị, đồng bằng và miền núi. Tổ chức Đảng được củng cố và phát triển. Số đảng viên của Đảng ngày càng thêm đông. Đến tháng 4-1938, toàn Đảng có 1.597 đảng viên hoạt động bí mật và hơn 200 đảng viên hoạt động công khai. Số hội viên trong các tổ chức quần chúng công nhân, nông dân, phụ nữ, học sinh,

cứu tế là 35.009 người1. Đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người được

Đảng tập hợp, giác ngộ và rèn luyện với nhiều hình thức khác nhau. Mặt trận dân chủ đã hình thành trong thực tiễn là "sự liên hiệp các lớp nhân dân các đảng phái tấn bộ để chống phátxít và chế độ thuộc địa phản động, là một hình thức đặc biệt của Mặt trận phản đế rộng rãi"2.

Cao trào dân chủ 1936-1939 là cuộc chuẩn bị lực lượng cho giai đoạn cách mạng

1939-1945. Qua cao trào đó, Đảng đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ đông đảo, dày dạn trong đấu tranh, trưởng thành về tư tưởng chính trị và tổ chức và tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới:

- Nắm vững hoàn cảnh cụ thể của cách mạng trong mỗi thời kỳ để xác định đúng kẻ thù và nhiệm vụ chính trị cụ thể trước mắt để huy động đến mức cao nhất lực lượng cách mạng và tiến bộ lên trận tuyến đấu tranh, triệt để khai thác những chỗ yếu của kẻ thù, tập trung ngọn lửa đấu tranh nhằm giành thắng lợi lớn mà so sánh lực lượng lúc đó

cho phép, chuẩn bị điều kiện tiến lên giành những thắng lợi lớn hơn về sau.

1, 2. Sđd, tr. 374 và 627.

- Phân tích chính xác thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các đảng phái chính trị, thực hiện một liên minh dân chủ rộng rãi, kết hợp đúng đắn sự liên minh bên dưới với liên minh bên trên, lấy liên minh bên dưới - liên minh công nông làm nền tảng, xây dựng một mặt trận thống nhất rộng rãi phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù.

- Sử dụng khéo léo các hình thức tổ chức và đấu tranh, kết hợp công khai với bí mật, hợp pháp với không hợp pháp, kết hợp các mặt đấu tranh kinh tế, chính trị, văn hóa, kết hợp đấu tranh của quần chúng với đấu tranh nghị trường, kết hợp tuyên truyền với tổ chức đấu tranh... giành thắng lợi trong từng cuộc đấu tranh, trong từng mặt trận, tiến lên giành thắng lợi lớn nhất cho cách mạng.

III. Đảng lãnh đạo Phong trào giải phóng dân tộc, khởi nghĩa giành chính quyền (1939-1945)

1. Chính sách thống trị thời chiến của Pháp - Nhật ở Đông Dương

Ngày 1-9-1939, phátxít Đức tiến công Ba Lan, hai ngày sau Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phátxít Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Đế quốc Pháp vào vòng chiến. Chính phủ Đalađiê (Daladier) thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Ngày 4-1-1940, Toàn quyền Đông Dương Catơru (George Catroux) tuyên bố: "Chúng ta đánh toàn diện và mau chóng vào các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải tiêu diệt cộng sản thì Đông Dương mới được yên ổn và trung thành với nước Pháp. Chúng ta không có quyền không thắng". Bộ máy đàn áp được tăng cường, lệnh thiết quân luật được ban bố. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội ái hữu, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người.

Tháng 6-1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Tháng 6-

1941, Đức tiến công Liên Xô. ở Đông Dương bọn thực dân Pháp thi hành một chính sách thời chiến rất phản động. Chúng phátxít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nghìn cuộc khám xét bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Chúng ban bố lệnh tổng động viên, thực hiện chính sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Hơn 7 vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn. Chính sách phản động trên đây của thực dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào một cảnh sống ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp và tay sai càng trở nên gay gắt hơn.

Tháng 9-1940, phátxít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và cấu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân ta, làm cho nhân dân ta phải chịu cảnh "một

cổ hai tròng".

2. Chủ trương chiến lược mới của Đảng

Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai mới bùng nổ, Đảng kịp thời rút vào hoạt động bí mật và chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng các đô thị. Ngày 29-9-1939, Trung ương Đảng gửi toàn Đảng một thông báo quan trọng nêu rõ: "Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng"1.

Tháng 11 năm 1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ sáu tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Dự Hội nghị có Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần... Hội nghị nhận định: trong điều kiện lịch sử mới, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng Đông Dương. "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận

da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập"2. Vì vậy, tất cả mọi vấn đề cách

mạng, kể cả vấn đề ruộng đất cũng phải nhằm mục đích ấy mà giải quyết. Khẩu hiệu "cách mạng ruộng đất" phải tạm gác lại và thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô cao, chống cho vay lãi nặng, tịch thu ruộng đất của bọn thực dân đế quốc và bọn địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc đem chia cho dân cày nghèo.

Để thực hiện nhiệm vụ trung tâm ấy, Hội nghị chủ trương tập hợp mọi lực lượng chống đế quốc và tay sai vào mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy tên là Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dương nhằm chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phátxít, đánh đổ đế quốc Pháp và bè lũ tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương. Hội nghị chủ trương đem khẩu hiệu thành lập chính phủ Liên bang cộng hòa dân chủ Đông Dương thay cho khẩu hiệu thành lập chính quyền công nông.

Hội nghị nhấn mạnh Đảng phải kiên quyết tập trung mũi nhọn đấu tranh của quần chúng vào việc chống đế quốc và tay sai, chuẩn bị những điều kiện tiến tới làm cuộc bạo động cách mạng để giải phóng dân tộc. Hội nghị đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng về mọi mặt, tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động, làm cho Đảng đủ sức gánh vác nhiệm vụ lịch sử nặng nề trước thời cuộc mới. Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương đánh dấu sự thay đổi cơ bản về chiến lược cách mạng và mở ra một thời kỳ đấu tranh mới, thời kỳ trực tiếp xúc tiến chuẩn bị lực lượng để khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

Sau Hội nghị, nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt như Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Võ Văn Tần đều lần lượt bị bắt, nhưng Nghị quyết của Trung ương Đảng được truyền xuống nhiều cấp ủy Đảng.

Tháng 6-1940, phátxít Đức đánh chiếm nước Pháp. Nhân cơ hội đó, phátxít Nhật

đã nhanh chóng xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, dâng Đông

Dương cho Nhật. Vốn có truyền thống anh hùng bất khuất, nhân dân ta kiên cường và

1, 2. Sđd, tr. 756, 536.

liên tiếp đứng dậy chống Pháp-Nhật. ở một số địa phương, quần chúng cách mạng có khuynh hướng muốn khởi nghĩa vũ trang.

Ngày 27-9-1940, nhân khi quân Pháp ở Lạng Sơn bị Nhật đánh bại phải rút chạy qua đường Bắc Sơn-Thái Nguyên, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương nổi dậy khởi nghĩa, chiếm đồn Mỏ Nhài, làm chủ châu lỵ Bắc Sơn. Cuộc khởi nghĩa tuy không phát triển rộng rãi, nhưng có tiếng vang lớn. Nó thức tỉnh đồng bào cả nước và đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân ta từ hình thức đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sau cuộc khởi nghĩa, Đội du kích Bắc Sơn được thành lập.

ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ở nhiều nơi. Theo chủ

trương của Xứ ủy Nam kỳ, một kế hoạch khởi nghĩa vũ trang được gấp rút chuẩn bị.

Tháng 11 năm 1940, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Tham dự Hội nghị có Trường Chinh, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh Hội nghị khẳng định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là chuẩn bị lãnh đạo cuộc "võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập"1.

Hội nghị quyết định duy trì và củng cố đội du kích Bắc Sơn và đình chỉ chủ trương phát động khởi nghĩa ở Nam Kỳ. Để kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Đảng, Hội nghị cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Trường Chinh được phân công làm Quyền Bí thư Trung ương Đảng.

Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc đình chỉ kế hoạch khởi nghĩa ở Nam Kỳ chưa được triển khai thì cuộc khởi nghĩa đã nổ ra đêm 23-11-1940. Quân khởi nghĩa đánh chiếm nhiều đồn bốt và tiến công nhiều quận lỵ. Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều địa phương và ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, mở các phiên tòa để trừng trị bọn phản cách mạng... cuộc khởi nghĩa bị đế quốc Pháp và tay sai đàn áp đẫm máu và thất bại.

Khói lửa của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chưa tan, ngày 13-1-1941, một cuộc binh chiến đã nổ ra ở đồn Chợ Rạng thuộc huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An do Đội Cung chỉ huy. Nhưng cuộc nổi dậy này đã bị thực dân Pháp dập tắt nhanh chóng.

Ba cuộc nổi dậy trên đây là những đòn tiến công trực diện vào nền thống trị của thực dân Pháp. Đó là "những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương"1.

Tình hình quốc tế và trong nước diễn ra ngày càng khẩn trương. Nguyễn ái Quốc quyết định trở về nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng. Ngày 28-

1-1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Người bí mật trở về Tổ quốc và ở lại Pác

Bó thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Tại đây, Người bắt tay thí điểm chính sách

đoàn kết dân tộc để cứu nước, mở lớp huấn luyện để đào tạo cán bộ, khẩn trương chuẩn

1. Sđd, 2000, t.7, tr. 58.

1. Sđd, tr. 109.

bị cho hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tháng 5-1941, với tư cách đại diện cho Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Pác Bó (Cao Bằng). Dự Hội nghị có Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt, cùng một số đại biểu của Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ và đại biểu tổ chức đảng hoạt động ở ngoài nước.

Hội nghị nhận định rằng Chiến tranh thế giới đang lan rộng, phátxít Đức đang chuẩn bị đánh Liên Xô và chiến tranh ở khu vực Thái Bình Dương sẽ bùng nổ. Chiến tranh sẽ làm cho các nước đế quốc bị suy yếu; Liên Xô nhất định thắng và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển nhanh chóng, cách mạng nhiều nước sẽ thành công và một loạt nước xã hội chủ nghĩa sẽ ra đời.

Trên cơ sở phân tích thái độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp Hội nghị nêu rõ ở nước ta mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc phátxít Pháp-Nhật. "Cần phải thay đổi chiến lược. Sự thay đổi về kinh tế, chính trị Đông Dương, sự thay đổi thái độ, lực lượng các giai cấp Đông Dương, buộc Đảng ta phải thay đổi chính sách cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nguyện vọng chung của toàn thể nhân dân Đông Dương...". Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật "không phải riêng của giai cấp vô sản và dân cày, mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông Dương", "cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp "dân tộc giải phóng", vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách

mạng dân tộc giải phóng"2. Hội nghị chủ trương: "Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta

là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật... nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"1. Vì vậy, Hội nghị tiếp tục đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu,

tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày" thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.

Căn cứ vào hoàn cảnh mới của thế giới và Đông Dương, Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, cốt làm sao để thức tỉnh tinh thần dân tộc ở các nước Đông Dương. Trên tinh thần đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng: Việt Nam độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở sự ra đời mặt trận ở mỗi nước, sẽ tiến tới thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh. Hội nghị nhấn mạnh rằng các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều cùng chịu ách thống trị

của đế quốc Pháp-Nhật, cho nên các dân tộc ở Đông Dương phải đoàn kết thống nhất

2. Sđd, tr. 118, 119.

1. Sđd, tr. 112, 113.

lực lượng đánh đuổi kẻ thù chung. Song, nói đến vấn đề dân tộc lúc này là nói đến sự tự do, độc lập của mỗi dân tộc. Vì thế, Đảng phải hết sức tôn trọng và thi hành đúng chính sách "dân tộc tự quyết" đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật thì "Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tuỳ ý theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc quốc gia tùy ý". "Sự tự do

độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng"1. Riêng đối với Việt Nam, Hội

nghị chủ trương sẽ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ.

Hội nghị quyết định phải xúc tiến ngay công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng và hình thức tổ chức thích hợp, tiến hành xây dựng căn cứ địa. Nghị quyết Hội nghị ghi rõ: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù..." . Trong những hoàn cảnh nhất định "với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự

thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn"2.

Hội nghị đặc biệt coi trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng. Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức do Trường Chinh làm Tổng Bí thư.

Sau Hội nghị, Nguyễn ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp-Nhật. Người viết: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng"1.

Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự thay đổi chiến lược cách mạng được vạch ra từ Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939). Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.

3. Đảng lãnh đạo phong trào chống Pháp - Nhật, chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang (1940-1945)

Từ giữa năm 1941 trở đi, tình hình trong nước và thế giới tiếp tục diễn ra rất căng thẳng. Tháng 6-1941, phát xít Đức bội ước, tiến công Liên Xô. Tháng 12-1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. ở Đông Dương, Pháp-Nhật tiếp tục đẩy mạnh khủng

bố phong trào cách mạng quần chúng và đàn áp Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 26-

1, 2. Sđd, tr. 113, 131-132.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr. 198.

8-1941, thực dân Pháp xử bắn Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai tại Hóc Môn, Gia Định. Lê Hồng Phong hy sinh trong nhà tù Côn Đảo. Nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng của Đảng và Mặt trận Việt Minh bị Pháp-Nhật bắt giam hoặc giết hại trong thời gian đó. Tháng 8-1942, Nguyễn ái Quốc trên đường đi công tác ở Trung Quốc cũng bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giữ hơn một năm (từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943). Trước quân thù tàn bạo, các chiến sĩ cộng sản đã nêu cao ý chí kiên cường bất khuất và tin tưởng vững chắc vào thắng lợi tất yếu của cách mạng.

Tháng 12-1941, Trung ương Đảng ra chỉ thị về công tác tổ chức, tăng cường kiện toàn các tổ chức đảng và phát triển tổ chức quần chúng bằng nhiều hình thức thích hợp. "Tổ chức của Đảng cần phải chặt chẽ và nghiêm ngặt. Còn những tổ chức quần chúng cần phải rộng rãi, nhẹ nhàng"1. Chỉ thị nhắc nhở đảng viên phải "tỉnh táo nhận xét tình thế, một khi thời cuộc biến đổi, những điều kiện mới xuất hiện, vấn đề giành chính

quyền đã đặt ra trước mắt, thì phải lập tức thay đổi những hình thức tổ chức cho thích hợp với phong trào tranh đấu giải phóng đặng kịp thời triệu tập quần chúng chung quanh Đảng đánh đuổi quân cướp nước Pháp, Nhật"2.

Cũng trong tháng 12-1941, Trung ương ra thông cáo Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng. Thông cáo chỉ rõ các đảng bộ địa phương cần phải vận động nhân dân đấu tranh chống địch bắt lính, bắt phu, chống cướp đoạt tài sản của nhân dân, đòi tăng lương, bớt giờ làm cho công nhân, củng cố và mở rộng các đội tự vệ cứu quốc, thành lập các tiểu tổ du kích để tiến lên thành lập đội du kích chính thức, mở rộng cơ sở quần chúng và lực lượng vũ trang ở các khu du kích tiến lên phát động khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng và các chỉ thị tiếp theo, các cấp bộ đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng tổ chức đảng và các tổ chức cứu quốc của quần chúng, phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng ở cả nông thôn và đô thị, xây dựng các căn cứ địa cách mạng, tiến hành vũ trang cho quần chúng cách mạng, củng cố và phát triển lực lượng du kích.

Ngày 25-10-1941 Việt Minh công bố Tuyên ngôn với đồng bào cả nước: "Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời". Bản Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm có 44 điều cụ thể để thực hiện hai điều cơ bản mà toàn thể đồng bào mong ước là làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dân Việt Nam được sung sướng tự do. Chương trình Việt Minh vừa ích nước vừa lợi dân, nên được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Cơ sở Việt Minh lần lượt được xây dựng ở nhiều địa phương. Tại Cao Bằng, có nhiều xã và tổng hầu như toàn dân đã tham gia vào hội cứu quốc. Năm 1941, Nguyễn ái Quốc quyết định thành lập đội vũ trang ở Cao Bằng để thúc đẩy việc phát triển cơ sở chính trị và chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là ở các huyện Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, phong trào vũ trang toàn dân phát triển mạnh

mẽ. Cao Bằng đã trở thành một căn cứ địa cách mạng, một địa bàn điển hình về xây

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 218 và 229.

dựng và phát triển lực lượng, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Đội du kích Bắc Sơn được duy trì và đổi tên là Cứu quốc quân. Để chống lại âm mưu càn quét của thực dân Pháp, Thường vụ Trung ương Đảng chỉ đạo Cứu quốc quân bám sát quần chúng, kiên trì cuộc chiến đấu chống địch khủng bố, giữ gìn lực lượng, cổ vũ phong trào quần chúng trong cả nước. Sau 8 tháng hoạt động gian khổ, một bộ phận Cứu quốc quân vượt ra khỏi vòng vây của địch, rút lên biên giới phía Bắc, nhưng giữa đường đi bị địch phục kích, Cứu quốc quân bị tổn thất nặng. Bộ phận Cứu quốc quân còn lại đã phân tán lực lượng hoạt động tại chỗ, tích cực mở rộng địa bàn, vận động quần chúng, phát triển cơ sở chính trị.

Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị và từng bước xây dựng lực lượng vũ trang, thành lập căn cứ địa cách mạng, Đảng tích cực chăm lo xây dựng Đảng và củng cố tổ chức đảng, khắc phục bè phái, làm cho hàng ngũ Đảng được thống nhất và trong sạch. Để cung cấp cán bộ cho phong trào yêu nước đang phát triển, Đảng mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày nhằm đào tạo cán bộ về chính trị, quân sự, binh vận. Thực hiện chỉ thị của Đảng, nhiều cán bộ đảng viên bị địch bắt giam trong các nhà tù Sơn La, Chợ Chu, Buôn Ma Thuột đã vượt ngục về địa phương tham gia lãnh đạo phong trào.

Từ sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phong trào cách mạng nước ta đang trên đà phát triển. Trên thế giới, quân đội Xô viết đang chuyển sang phản công quân Đức trên nhiều mặt trận và giành thắng lợi lớn trong trận Xtalingrát (2-

1943). Phong trào chống phátxít của nhân dân các nước Pháp, Italia, Nam Tư, Bungari, Tiệp Khắc*, Anbani, Trung Quốc, Triều Tiên, Miến Điện**, Philíppin đang trên đà phát triển. Điều kiện khách quan thuận lợi cho các dân tộc nổi dậy giành độc lập ngày càng đến gần.

Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) bàn việc mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến việc chuẩn bị khởi nghĩa. Hội nghị nhận xét rằng phong trào Việt Minh đã phát triển, song phong trào ở đô thị còn yếu. Phong trào công nhân không được mạnh và rộng rãi tương xứng với vị trí của giai cấp đó, đồng thời còn thiếu một "phong trào cách mạng quốc gia tư sản và

phong trào thanh niên học sinh"1.

Hội nghị đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong trào quần chúng rộng rãi và đều khắp, đặc biệt chú trọng đến công tác công vận, xây dựng cơ sở cách mạng trong công nhân, nhất là ở các thành phố lớn, nhằm chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa trong tương lai có thể nổ ra ở những trung tâm đầu não của quân thù, làm cho chúng bị tê liệt, bảo đảm cho cuộc khởi nghĩa lan rộng trong cả nước. Đồng thời

phải chú trọng mở rộng phong trào cách mạng trong thanh niên, học sinh, trí thức, nhằm

* Nay tách thành hai nước: Séc và Xlôvakia.

** Nay là Mianma.

1. Sđd, tr. 290.

làm cho cuộc khởi nghĩa mang tính chất toàn dân.

Hội nghị chủ trương xúc tiến cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương để khoét sâu thêm mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù bằng cách tranh thủ bắt tay có điều kiện với những ngoại kiều ở Đông Dương có tinh thần chống phátxít Pháp-Nhật, chủ yếu là những người Pháp thuộc phái Đờ Gôn và Hoa kiều chống Nhật.

Nhận định về chiều hướng phát triển của phong trào cách mạng dưới ách thống trị của Pháp-Nhật, Hội nghị cho rằng "phong trào cách mạng Đông Dương có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao". Hội nghị quyết định phải khẩn trương hơn nữa trong việc chuẩn bị khởi nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám (tháng 5-1941) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phải "đặt mình vào tình thế khẩn cấp", coi việc "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong

giai đoạn hiện tại"1. Hội nghị vạch ra một kế hoạch thúc đẩy việc chuẩn bị đầy đủ về

mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa sắp đến.

Về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị nhấn mạnh rằng chính sách lập mặt trận của Đảng càng rộng thì vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải vững chắc. Cho nên cần phải kịp thời củng cố Đảng về mọi phương diện, làm cho Đảng được mạnh mẽ và trong sạch, phải đề phòng bọn khiêu khích chui vào Đảng, nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật của đảng

viên.

Từ năm 1943 đến 1945, phong trào cách mạng phát triển ngày càng mạnh và đều khắp. ở Bắc Kỳ, hầu hết các đảng bộ địa phương đã lãnh đạo xây dựng được các tổ chức cứu quốc ở hầu khắp các vùng ở nông thôn và đô thị. Tại Hà Nội, tổ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học, đường phố. Nhiều cuộc bãi công đòi tăng lương của công nhân đã nổ ra ở Hà Nội, Hải Phòng, Uông Bí, Nam Định... Phong trào đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu, chống bắt phu, bắt lính, chống thu thóc tạ... lôi cuốn nông dân tham gia ngày càng đông đảo. Phong trào Việt Minh ở các tỉnh miền Trung cũng trên đà phát triển mạnh trong nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị...

ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng phục hồi, hệ thống tổ chức đảng được xây dựng lại ở nhiều địa phương. Tổ chức Việt Minh đã có cơ sở ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh. Hàng chục cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra tại Sài Gòn.

Phong trào thanh niên, học sinh, trí thức ở thành phố bắt đầu phát triển khiến cho bọn đế quốc phátxít Pháp-Nhật lo sợ. Bên cạnh thủ đoạn bạo lực đàn áp, chúng tích cực dùng nhiều thủ đoạn chính trị, văn hóa rất xảo quyệt để ngăn chặn phong trào thanh niên, trí thức. Phátxít Nhật ra sức tuyên truyền thuyết "Đại Đông á", thuyết "Khu vực thịnh vượng chung". Chúng mở trường dạy tiếng Nhật, tổ chức triển lãm, chiếu phim, phát hành báo chí gây tâm lý sợ Nhật và phục Nhật.

Đảng đã đẩy mạnh hoạt động chống lại những nọc độc văn hóa tư tưởng phản

động của Pháp-Nhật và tay sai, tuyên truyền đường lối cứu nước của Đảng, cổ vũ quần

1. Sđd, tr. 298.

chúng lên trận tuyến cách mạng. Báo chí cách mạng là một vũ khí sắc bén trong công tác này. Đảng và Việt Minh cho xuất bản các báo: Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền phong, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập, v.v.. Trong các nhà tù các chiến sĩ cách mạng cũng cho ra báo Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ Chu), Dòng sông Công (Bá Vân)...

Trên văn đàn công khai lúc đó xuất hiện xu hướng cải lương, bi quan, yếm thế. Một số tác phẩm tiến bộ, thể hiện tinh thần yêu nước, nhưng chưa có phương hướng đấu tranh rõ rệt. Đảng chủ trương phái cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa để gây một phong trào văn hóa tiến bộ, sử dụng các hình thức công khai hoặc nửa công khai để tập hợp các nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ...

Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam. Bản đề cương khẳng định văn hóa là một trong ba mặt trận cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nhiệm vụ của các nhà văn hóa yêu nước và cách mạng là phải chống lại văn hóa nô dịch, ngu dân của bọn phátxít và tay sai, tiến tới xây dựng trong tương lai một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.

Cuối năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức và các nhà hoạt động văn hóa vào trận tuyến đấu tranh vì một nền văn hóa mới, vì sự nghiệp chống Pháp-Nhật, giành độc lập, tự do.

Đảng vận động và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước và tiến bộ thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam (tháng 6-1944), một chính đảng của tư sản dân tộc và trí thức yêu nước, tiến bộ. Đảng này tham gia Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt động, góp phần mở rộng thêm khối đại đoàn kết dân tộc, làm thất bại âm mưu chia rẽ và lôi kéo tư sản dân tộc và trí thức của phátxít Nhật và tay sai.

Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt, lính Pháp và lê dương. Từ Trung ương đến các địa phương đều có tổ chức ban binh vận. Đảng đã cử người liên lạc với những người thuộc phái tả của Đảng Xã hội Pháp trong quân đội lê dương, trong công chức Pháp ở Việt Nam và cả những người Pháp thuộc phái Đờ Gôn ở Đông Dương để thực hiện một liên minh chống phátxít. Song do bản chất thực dân ngoan cố và sợ Nhật của những người theo phái Đờ Gôn nên chủ trương liên minh đó của Đảng không có kết quả.

Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng rất chú trọng xây dựng và phát triển các căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang. ở trung tâm Bắc Sơn-Vũ Nhai, Cứu quốc quân tích cực tiến hành công tác tuyên truyền vũ trang, gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên... lực lượng cứu quốc quân phát triển thêm một trung đội.

Về phía trung tâm Cao Bằng, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ. Khu căn cứ được mở rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Các đoàn xung phong Nam tiến hoạt động mạnh, phát triển cơ sở chính trị quần chúng trong các dân tộc thiểu số, đánh thông đường liên lạc bằng một hành lang chính trị nối liền hai khu căn cứ Cao

Bằng và Bắc Sơn-Võ Nhai (cuối năm 1943), chuẩn bị cho sự ra đời khu giải phóng Việt

Bắc về sau.

Từ giữa năm 1944, tình hình trong nước và trên thế giới phát triển mau lẹ. Cuộc chiến tranh chống phátxít sắp bước vào giai đoạn kết thúc, Quân đội Xôviết đang phản công quân Đức trên nhiều mặt trận. Căn cứ vào chủ trương của Đảng, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa và ra lời kêu gọi nhân dân "sắm vũ khí! đuổi kẻ thù chung!". Không khí chuẩn bị cho khởi nghĩa sôi nổi trong khu căn cứ.

Tháng 10-1944, đế quốc Pháp mở cuộc càn quét lớn vào Vũ Nhai (Thái Nguyên), cấp ủy đảng địa phương phát động quần chúng khởi nghĩa ngoài kế hoạch của Trung ương, làm cho lực lượng cách mạng ở đây gặp nhiều khó khăn, có nguy cơ bị tổn thất lớn. Ban Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời phê phán hoạt động thiếu cân nhắc, làm bộc lộ lực lượng quá sớm, tự hãm mình vào thế bị cô lập. Trung ương Đảng quyết định phải chuyển hướng hoạt động ngay để bảo toàn lực lượng.

ở Cao - Bắc - Lạng, trong không khí cách mạng sục sôi, cấp ủy địa phương gấp rút chuẩn bị phát động chiến tranh du kích trong phạm vi ba tỉnh. Lúc đó, Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở lại Cao Bằng. Người kịp thời quyết định đình chỉ việc phát động chiến tranh du kích trên quy mô rộng lớn đó vì điều kiện trong cả nước chưa chín muồi, giúp cho Cao - Bắc - Lạng tránh khỏi những tổn thất lớn. Người chỉ rõ: "Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự.

Phải tìm một phương thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên"1.

Tiếp đó, Người ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, xác định nguyên tắc tổ chức, phương thức hoạt động và phương châm tác chiến của lực lượng vũ trang, hoạt động theo phương châm chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến. Người nhấn mạnh: "Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân". Đội có nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, vận động nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sắp đến. Với vai trò là đội quân đàn anh, đội còn có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang của địa phương, giúp đỡ việc huấn luyện và trang bị vũ khí làm cho các đội này cùng trưởng thành và cùng phối hợp hành động trong hoạt động quân sự. Đội phải vận dụng lối đánh du kích mau lẹ, linh hoạt, bí mật, bất ngờ. Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân của Hồ Chí Minh có giá trị như một cương lĩnh quân sự tóm tắt của Đảng.

Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp tổ chức ra đời ở huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Mấy ngày sau, đội đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phai Khắt (ngày 25-12-1944) và Nà Ngần (ngày 26-12-1944)

thuộc tỉnh Cao Bằng. Phát huy thắng lợi đầu tiên, đội đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền,

1. Dẫn theo Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1969, tr. 132.

kết hợp chính trị và quân sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng trong cả nước.

Phong trào cách mạng mở rộng đòi hỏi tăng cường đội ngũ cán bộ lãnh đạo và phát triển đảng viên. Đảng bí mật tổ chức cho một số cán bộ, đảng viên của Đảng đang bị giam trong các nhà tù vượt ngục, trở về địa phương hoạt động. Ngày 24-5-1944, Hoàng Văn Thụ, một cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng bị địch xử bắn. Đảng quyết định kết nạp lớp đảng viên Hoàng Văn Thụ. Nhiều người ưu tú trong phong trào Việt Minh được kết nạp vào Đảng.

Tình hình thời cuộc lúc này rất khẩn trương. Tháng 10-1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc, thông báo chủ trương của Đảng về việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân. Bức thư nêu rõ: "Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!"1.

4. Đảng lãnh đạo cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa giành chính quyền (tháng 3-1945 - tháng 8-1945)

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô đang truy kích phátxít Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước ở Đông Âu và tiến như vũ bão về phía Béclin. Số phận của phátxít Đức sắp kết liễu. ở Tây Âu, Anh - Mỹ đã mở mặt trận thứ hai, đổ quân lên đất Pháp và tiến về phía Tây nước Đức quốc xã. Công nhân Pari nổi dậy, nước Pháp được giải phóng, Chính phủ Đờ Gôn về Pari.

ở mặt trận Thái Bình Dương, phátxít Nhật cũng rất nguy khốn. Quân Anh đánh lùi quân Nhật ở Miến Điện. Quân Mỹ đổ bộ lên Philíppin. Đường biển đến các căn cứ ở Đông Nam á của Nhật bị quân Đồng minh khống chế. Sống chết Nhật cũng phải giữ lấy con đường bộ duy nhất nối liền từ Mãn Châu xuyên qua Đông Dương xuống Đông Nam á. Nhật rất lo sợ về việc quân Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương, cắt quân Nhật trên lục địa Viễn Đông thành hai khúc.

Lực lượng thực dân Pháp theo phái Đờ Gôn ở Đông Dương ngóc đầu dậy, hoạt động ráo riết, chuẩn bị đón thời cơ khi quân Đồng minh đổ bộ lên Đông Dương sẽ đánh Nhật nhằm khôi phục lại quyền thống trị của chúng trên bán đảo này. Mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ở Đông Dương càng trở nên gay gắt. "Cả hai quân thù Nhật- Pháp đều đang sửa soạn tiến tới chỗ tao sống mày chết, quyết liệt cùng nhau"1.

Tình thế thất bại của phátxít Nhật ở Thái Bình Dương buộc chúng phải làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương và trừ mối họa bị quân Pháp đánh vào sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ lên Đông Dương, đồng thời giữ cầu nối liền các thuộc

địa của chúng. Ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng, lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr. 505, 506.

1. Lê Duẩn: Ngọn cờ giải phóng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1955, tr. 46.

Quân Pháp chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng.

Dự đoán trước tình hình Nhật sắp sửa lật Pháp ở Đông Dương, Tổng Bí thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), ngay trước lúc Nhật nổ súng. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Toàn bộ những nhận định cơ bản về tình hình và chủ trương mới của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng được thể hiện tập trung trong bản Chỉ thị lịch sử đó.

Bản chỉ thị nhận định rằng cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi (chính trị khủng hoảng do cuộc đảo chính gây ra, nạn đói ghê gớm và chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt).

Chỉ thị xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phátxít Nhật, vì vậy phải thay khẩu hiệu "đánh đuổi phátxít Nhật-Pháp" bằng khẩu hiệu "đánh đuổi phátxít Nhật" và đưa ra khẩu hiệu "thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương" để chống lại chính phủ bù nhìn Việt gian thân Nhật.

Chỉ thị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa nhằm động viên mau chóng quần chúng lên trận địa cách mạng, tập dượt quần chúng tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Muốn vậy, phải thực hiện những hình thức tuyên truyền và đấu tranh cao hơn và mạnh bạo hơn như tuyên truyền xung phong có vũ trang, biểu tình tuần hành thị uy, bãi công chính trị, tổ chức quần chúng đánh phá các kho thóc để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc, tổ chức bộ đội, du kích, thành lập căn cứ địa cách mạng, phát động du kích chiến tranh ở những nơi có điều kiện.

Phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa. Đó là phương pháp duy nhất của dân tộc để đóng vai trò chủ động trong việc đánh đuổi quân Nhật và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi có đủ điều kiện.

Chỉ thị cũng dự kiến những hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật đã bám chắc, tiến sâu trên đất ta và quân Nhật đã kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần. Chỉ thị còn nêu rõ rằng, dù sao ta vẫn không được ỷ lại vào người và tự bó tay mình trong khi tình thế biến chuyển thuận lợi, mà phải nêu cao tinh thần dựa vào sức mình là chính.

Bản chỉ thị ngày 12 -3-1945 thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh với khẩu hiệu

"Đánh đuổi phátxít Nhật" thay cho khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật, Pháp" trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung và hình thức.

Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.

ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành lập ủy ban dân tộc giải phóng ở nhiều làng. Chính quyền cách mạng tịch thu ruộng đất thuộc đồn điền Táctaranh (Tartarin), chia cho nông dân nghèo và những gia đình có công với cách mạng. Đội du kích Bắc Giang được thành lập. ở Hưng Yên, đội tự vệ chiến đấu đánh chiếm đồn Bần, thu toàn bộ vũ khí của địch. ở Quảng Ngãi, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Ba Tơ. Đội du kích Ba Tơ được thành lập. Đây là đội vũ trang thoát ly đầu tiên do Đảng tổ chức và lãnh đạo ở miền Trung.

Hàng ngàn chiến sĩ cách mạng bị địch giam giữ trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò, Buôn Ma Thuột, Hội An... nhân cơ hội Nhật-Pháp bắn nhau đã vượt ngục ra ngoài hoạt động.

Ngày 16 tháng 4 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức Uỷ ban giải phóng Việt Nam.

Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên, ngày 15-5-

1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang), do Trường Chinh chủ trì. Hội nghị nhận định: tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Hội nghị chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân, xây dựng các chiến khu trong cả nước, phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, mở trường đào tạo cán bộ quân sự và chính trị.

Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên Quang). Người chỉ thị phải gấp rút chuẩn bị Đại hội quốc dân. Người cũng chỉ thị thành lập "khu giải phóng". Ngày 4-6-

1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. ủy ban lâm thời khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.

Các cuộc nổi dậy của quần chúng và các cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang diễn ra liên tiếp. Chính quyền cách mạng ở nhiều địa phương lần lượt ra đời. Nhiều chiến khu mới được xây dựng như chiến khu Vần - Hiền Lương ở vùng giáp giới

hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái, chiến khu Đông Triều (Quảng Yên), chiến khu Hoà - Ninh

- Thanh, chiến khu Vĩnh Tuy và Đầu Rái (Quảng Ngãi)... Các căn cứ địa cách mạng là bàn đạp để phát triển lực lượng cách mạng, là hậu phương của các lực lượng vũ trang, là ngọn cờ hiệu triệu và cổ vũ phong trào cách mạng cả nước.

Thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, mở rộng căn cứ địa cách mạng để thúc đẩy mạnh mẽ việc chuẩn bị lực lượng tiến lên tổng khởi nghĩa, là điểm độc đáo và sáng tạo của Đảng ta trong tiến trình lãnh đạo chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở một nước vốn là thuộc địa.

Cùng với khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, thực hiện chiến tranh du kích ở những nơi có điều kiện, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ. Trong toàn quốc đã nổ ra nhiều cuộc míttinh, biểu tình, diễn thuyết xung phong ở các chợ, bến đò, xí nghiệp, trường học, rạp chiếu bóng. ở nhiều địa phương, quần chúng cách mạng đã cảnh cáo bọn quan lại, tổng lý cường hào cố ý chống lại cách mạng, trừng trị bọn Việt gian. ở nhiều thị xã, thành phố và ngay cả Hà Nội, các đội danh dự Việt Minh ra sức hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ gian, táo bạo trừ khử một số tên tay sai đắc lực của địch, kích thích tinh thần cách mạng của quần chúng.

Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hơn 2 triệu đồng bào chết đói. Hàng triệu người khác sống ngắc ngoải. Đó là hậu quả của chính sách bóc lột, vơ vét tàn bạo của bọn phátxít Nhật - Pháp.

Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu "phá kho thóc, giải quyết nạn đói". Chủ trương đó đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của quần chúng. Trong một thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng, "thổi bùng ngọn lửa căm thù trong đông đảo nhân dân và phát động quần chúng vùng dậy với khí thế cách mạng hừng hực tiến tới

tổng khởi nghĩa giành chính quyền"1.

Cao trào chống Nhật, cứu nước không những động viên được đông đảo quần chúng công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức mà còn lôi kéo cả tư sản dân tộc và một số địa chủ nhỏ. Binh lính, cảnh sát của chính quyền Trần Trọng Kim cũng dao động, một số ngả theo cách mạng hoặc ủng hộ cách mạng. Một số lý trưởng, chánh tổng, chánh phó tổng, tri phủ, tri huyện và cả một số tỉnh trưởng cũng tìm cách liên lạc với Việt Minh... Bộ máy chính quyền thống trị nhiều nơi tê liệt.

Các tổ chức cứu quốc, các đội tự vệ cứu quốc được thành lập ở nhiều thôn xóm và phố phường. Khắp nơi quần chúng nô nức tự vũ trang. Không khí sửa soạn tiến nhanh tới khởi nghĩa sục sôi trong cả nước.

Trong thời kỳ gấp rút chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Đảng rất coi trọng cuộc đấu tranh

để thống nhất đường lối, tăng cường sự nhất trí về tư tưởng và hành động trong Đảng.

1. Sđd, tr. 47.

Trung ương Đảng đã phát hiện kịp thời và phê phán nghiêm khắc quan điểm mơ hồ, lệch lạc chớm nở trong một số cán bộ, đảng viên ở miền Trung khi nêu chủ trương là lợi dụng và cải tổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, nuôi hy vọng giành độc lập bằng con đường thương lượng với Nhật. Chủ trương đó không nhằm đúng vào kẻ thù chính trước mắt cần tập trung đánh đổ là phátxít Nhật và bè lũ tay sai, đi chệch mục tiêu khởi nghĩa giành chính quyền do Đảng vạch ra. Trung ương Đảng cũng phê phán tư tưởng "tả" khuynh và hữu khuynh của một số cán bộ đảng viên hoạt động ở Nam Kỳ, trong các nhóm Tiền phong và Giải phóng; kêu gọi các đồng chí đó hãy kíp gạt bỏ thành kiến, đi vào đường lối của Đảng.

Đồng thời Trung ương Đảng kiên quyết vạch trần những thủ đoạn lừa bịp của phátxít Nhật và các đảng phái chính trị tay sai Nhật, những luận điệu khiêu khích phá hoại của bọn tơrốtkít, làm cho cán bộ và nhân dân thấy rõ đối với Nhật chỉ có một cách là toàn dân đoàn kết, cầm vũ khí chiến đấu, mới tự quyết định được số phận của mình trong những ngày khởi nghĩa sắp đến.

Chiến tranh thế giới thứ hai đi đến hồi kết thúc. ở châu Âu, tháng 5-1945, Quân đội Liên Xô đã tiêu diệt hoàn toàn bọn phátxít Đức tại sào huyệt của chúng và buộc chúng đầu hàng vô điều kiện. Tại châu á, tháng 8-1945, Quân đội Liên Xô tiến công như vũ bão, đánh bại hơn 1 triệu quân Quan Đông tinh nhuệ của Nhật tại Mãn Châu. Chính phủ Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh không điều kiện. Chính phủ Trần Trọng Kim do hoang mang cực độ. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam gục ngã. Tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện. Tuy nhiên quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa Đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí phátxít Nhật. Vì thế vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh. Phải gấp rút hành động, không được do dự, lừng chừng. Trước tình thế vô cùng khẩn cấp và thuận lợi đó, Đảng kịp thời quyết định tổng khởi nghĩa.

Ngày 12-8-1945 Uỷ ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu. Ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Tân Trào, gồm đại biểu các đảng bộ trong nước và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài. Hội nghị quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền từ tay phátxít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân dân! Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải chộp lấy những căn cứ chính (cả ở các đô thị) trước khi quân Đồng minh vào, thành lập uỷ ban nhân dân ở những nơi đã giành được quyền làm chủ...

Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền. Về đối nội, sẽ lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp - Anh và Mỹ - Tưởng, hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều

kẻ thù trong một lúc; phải tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân các nước trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Trung Quốc.

Hội nghị còn quyết định các vấn đề về công tác vận động quần chúng, đào tạo, sử dụng và phân phối cán bộ và các vấn đề về công tác Đảng. Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bổ sung thêm một số uỷ viên.

Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày16-8-1945 Đại hội quốc dân cũng họp tại Tân Trào. Về dự Đại hội có khoảng 60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng cứu quốc, các dân tộc, các tôn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại hội nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Sự có mặt của Hồ Chí Minh đem lại cho các đại biểu dự Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân một niềm tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa và tiền đồ tươi sáng của cách mạng nước ta. Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước:

"Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!"1.

Hưởng ứng chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và lời hiệu triệu của Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước, triệu người như một nhất tề nổi dậy, với tinh thần cách mạng tiến công liên tục và dũng cảm, với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập.

Từ ngày 14-8-1945 trở đi, các đơn vị Giải phóng quân lần lượt tiến công các đồn Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, v.v., hỗ trợ quần chúng tiến lên giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Ngày 16-8-1945, một đơn vị Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy kéo về bao vây, tiến công quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên. Cũng từ ngày 14 đến ngày 18-8 ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và miền Nam, quần chúng cách mạng đã nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và huyện. Ngày 18 tháng 8 nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam đã giành được chính quyền ở tỉnh lỵ.

Tại Hà Nội, ngày 17-8 Đảng bộ Hà Nội bí mật huy động quần chúng trong các tổ chức cứu quốc ở nội và ngoại thành, chủ yếu là công nhân, thanh niên và tự vệ cứu quốc để biến cuộc míttinh của Tổng hội viên chức thành cuộc míttinh kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh, hăng hái tham gia khởi nghĩa. Cuộc míttinh liền biến thành một cuộc biểu tình tuần hành, rầm rộ diễu qua các phố đông người, tiến đến trước phủ toàn quyền cũ, nơi viên tư lệnh quân Nhật đóng, rồi chia thành từng toán nhỏ, đi cổ động chương trình

Việt Minh khắp các phố.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr. 554.

Sau cuộc biểu dương lực lượng, thành uỷ Hà Nội nhận định chúng ta đã có đủ điều kiện để có thể quyết định phát động tổng khởi nghĩa.

Sáng ngày 19-8, quần chúng rầm rộ kéo đến quảng trường Nhà hát thành phố để dự cuộc míttinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức. ủy ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Quần chúng cách mạng chia thành nhiều đoàn đi chiếm phủ khâm sai, tòa thị chính, trại bảo an binh, sở cảnh sát và các công sở của chính quyền bù nhìn. Binh lính đứng về phía cách mạng. Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi nghĩa, hơn một vạn quân Nhật ở Hà Nội tê liệt, không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân dân.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19-8 tạo điều kiện thuận lợi lớn cho quá trình tổng khởi nghĩa đang tiếp diễn trong cả nước.

Ngày 23-8, ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế huy động quần chúng nông dân từ các huyện đã giành được chính quyền ở ngoại thành, kết hợp với công nhân, nhân dân lao động, thanh niên và các tầng lớp khác trong nội thành xuống đường biểu dương lực lượng. Quần chúng lần lượt chiếm các công sở không vấp phải sức kháng cự nào.

ở Nam Kỳ, được tin Hà Nội và Tân An (tỉnh khởi nghĩa thí điểm của Xứ ủy) đã về tay Việt Minh, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa chiếm Sài Gòn và các tỉnh. Trong đêm 24-8 các lực lượng khởi nghĩa của công nhân, nông dân, thanh niên với gậy tầm vông vót nhọn và giáo mác, từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25-8, hơn 1 triệu người biểu tình tuần hành thị uy. Quân khởi nghĩa chiếm các công sở quan trọng. Quân Nhật hoàn toàn tê liệt, không dám kháng cự. Bọn phản cách mạng ở sở mật thám Catina chống cự yếu ớt, nhưng bị đè bẹp. Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh chóng. Mọi sinh hoạt trong thành phố đều giữ được bình thường.

Thắng lợi của khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị khác đập tan các cơ quan đầu não của kẻ thù có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng trong phạm vi cả nước.

Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng thời cơ nên Cách mạng

Tháng Tám đã giành được thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu. Chỉ trong vòng 15 ngày (từ

14 đến 28-8) cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước về tay nhân dân.

Ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và ủy ban dân tộc giải phóng về đến Hà Nội. Ngày 28-8-1945, ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tuyên bố tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một chính phủ thể hiện chính sách đoàn kết rộng rãi của Đảng đối với các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước, các nhân sĩ tiến bộ. Nhiều ủy viên Việt Minh trong Chính phủ đã tự nguyện rút khỏi Chính phủ, tạo điều kiện để mời thêm nhiều nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia "Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân

tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân"1.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 2002, t.6, tr. 160.

Ngày 30-8-1945, một cuộc míttinh gồm hàng vạn người tham gia ở Ngọ Môn, thành phố Huế, chứng kiến Bảo Đại đọc lời thoái vị và giao nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba Đình. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Trước cuộc míttinh của hàng chục vạn đồng bào thủ đô, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Bản tuyên ngôn nêu rõ:

"Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do"1.

"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"2.

Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị tư tưởng lớn và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đó là thiên anh hùng ca chiến đấu và chiến thắng, chứa chan sức mạnh và niềm tin, tràn đầy lòng tự hào và ý chí đấu tranh của nhân dân ta trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.

IV. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa và kinh nghiệm lịch sử

Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phátxít Nhật đã bị Liên Xô và Đồng minh đánh bại, quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã. Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy nên đã giành được thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu.

Cách mạng Tháng Tám là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Trong quá trình đó, Đảng đã xây dựng được một lực lượng chính trị hùng hậu; từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng và đùm bọc, có chỗ đứng chân ngày càng vững chắc trong căn cứ địa cách mạng, giữ vai trò nòng cốt, xung kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Đảng Cộng sản Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám. Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

Trong 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng, biết bao đảng viên cộng

1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 2002, t.3, tr. 555, 557.

sản và quần chúng cách mạng đã hy sinh oanh liệt. Hồ Chí Minh nói: "Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ, và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc. Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay.

Tất cả chúng ta phải noi theo các gương anh dũng, gương chí công vô tư ấy, mới xứng đáng là người cách mạng"1.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ trên đất nước ta, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân độc lập, tự do, người làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập và tự do. Đảng Cộng sản Việt Nam từ chỗ phải hoạt động bí mật, không hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, "Chẳng những giai cấp lao động mà nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách

mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc"2.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do.

Về mặt quốc tế, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc.

Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh và đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Nó chứng tỏ rằng: ở thời đại chúng ta, một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo

hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa. Cuộc cách mạng đó quan hệ mật

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 2002, t.6, tr. 159 - 160.

2. Sđd, tr. 159.

thiết với cách mạng vô sản ở "chính quốc", nhưng không lệ thuộc vào cách mạng ở "chính quốc". Trái lại, nó có thể giành được thắng lợi trước khi giai cấp công nhân "chính quốc" lên nắm chính quyền.

Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc. Những kinh nghiệm chính là:

Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ

chống đế quốc và chống phong kiến.

Con đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng đã xác định cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ thể như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản động cho nông dân nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất. Phân tích mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc phátxít Nhật - Pháp và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công - nông

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi có đạo quân chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đạo quân chủ lực này được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng và lớn mạnh vượt bậc trong tổng khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng. Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi.

Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù

Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phátxít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phátxít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Như vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.

Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng

một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân

Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.

Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ

Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở nước ta. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho tổng khởi nghĩa thắng

lợi.

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phátxít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...). Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác - Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền

Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Điều đó đòi hỏi Đảng phải biết vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng.

Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và trong sạch. Đảng biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấu

tranh.

Với những yếu tố như trên và được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh mặc dù chỉ có

5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #hjghj