chương 3.
CHƯƠNG 3: MÔI TRƯỜNG THƯƠNG MẠI VÀ ĐẦU TƯ TOÀN CẦU
I. Môi trường thương mại toàn cầu
1. Lợi ích và các lý thuyết về thương mại quốc tế
1.1. Lợi ích từ thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt động kinh doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán, hoặc trao đổi hàng hóa và dịch vụ vượt ra khỏi biên giới các quốc gia. Trong những thập kỷ vừa qua, khi xu hướng toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, thương mại quốc tế đóng vai trò ngày càng tăng đối với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Thương mại quốc tế mở ra cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp và người tiêu dùng trên toàn thế giới. Nhờ có thương mại quốc tế mà các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, đáp ứng không chỉ cho thị trường nội địa mà cho cả thị trường nước ngoài. Thương mại quốc tế mang lại cho người tiêu dùng tại các nước sự lựa chọn đa dạng hơn về hàng hóa và dịch vụ. Chẳng hạn, do có khí hậu lạnh nên Phần Lan không trồng được bông. Tuy nhiên, Phần Lan vẫn có thể bán giấy và các sản phẩm khác từ gỗ (là mặt hàng sẵn có tại Phần Lan) sang Hoa Kỳ và dùng số tiền mua được để mua bông từ nước này. Do vậy mà người dân Phần Lan vẫn có bông để sử dụng. Tuy Hoa Kỳ là nước giàu tài nguyên rừng nhưng những sản phẩm gỗ của Phần Lan có thể thích hợp với người tiêu dùng Hoa Kỳ về mặt giá cả, hoặc có thể giải quyết sự thiếu hụt trên thị trường Hoa Kỳ. Việc nhập khẩu những mặt hàng này từ Phần Lan còn giúp cho các công nhân Hoa Kỳ có thể chuyển sang làm việc ở những ngành khác với mức lương cao hơn. Hay trường hợp Ecuador xuất khẩu hoa hồng sang Hoa Kỳ vì có lợi thế về điều kiện khí hậu và chi phí nhân công rẻ hơn nhiều so với việc trồng loại hoa này tại Hoa Kỳ (tại bang Florida). Còn Hoa Kỳ lại có lợi thế hơn Ecuador về sản xuất và xuất khẩu máy vi tính. Thương mại tự do cũng mang lại lợi ích cho những người xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ vào Ecuador. Khi mà nền kinh tế của Ecuador ngày càng mạnh lên nhờ xuất khẩu được hoa hồng, người dân nước này có thể mua được nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Các nhà kinh tế lập luận rằng về dài hạn tự do thương mại sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của người dân khắp nơi trên thế giới.
Những lập luận kinh tế xung quanh những lợi ích và chi phí của tự do hóa thương mại về hàng hóa và dịch vụ không phải là những lập luận mang tính hàn lâm trừu tượng. Lý thuyết về thương mại quốc tế đã định hình nên chính sách kinh tế của nhiều quốc gia trong vòng 50 năm qua. Đó chính là động lực đằng sau việc hình thành Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các tổ chức thương mại khu vực ví dụ như Liên minh Châu Âu (EU) và Hiệp định thương mại tự do Bắc Hoa Kỳ (NAFTA). Đặc biệt, thập kỷ 90 của thế kỷ trước chứng kiến toàn thế giới vận động mạnh mẽ về hướng tự do hóa nhiều hơn. Do đó, điều quan trọng là chúng ta phải hiểu được những lý thuyết thương mại đó là gì và tại sao chúng lại thành công trong việc định hình chính sách kinh tế của nhiều nước trên thế giới cũng như hiểu được môi trường trong đó các doanh nghiệp quốc tế cạnh tranh gay gắt với nhau.
1.2. Các lý thuyết về thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế đã ra đời cách đây hàng ngàn năm. Nhưng phải đến thế kỷ 15 thì mới xuất hiện những nỗ lực nhằm giải thích nguồn gốc và những lợi ích từ thương mại quốc tế. Trong phần này ta sẽ nghiên cứu lần lượt về quan điểm của chủ nghĩa trọng thương và tiếp đó là lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith. Từ quan điểm của A.Smith, hai lý thuyết khác tiếp tục được xây dựng và phát triển, đó là lý thuyết về lợi thế so sánh của nhà kinh tế học người Anh David Ricardo trong thế kỷ 19 và lý thuyết Heckscher-Ohlin, một công trình nghiên cứu sâu hơn lý thuyết của D.Ricardo của hai nhà kinh tế học người Thụy Điển là Eli Heckscher và Bertil Ohlin trong thế kỷ XX.
Các lý thuyết của Smith, Ricardo và Heckscher-Ohlin giúp giải thích mô hình của thương mại quốc tế đang diễn ra trong nền kinh tế thế giới. Một số khía cạnh của mô hình này có thể hiểu được một cách dễ dàng. Khí hậu thuận lợi và các nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào giải thích tại sao Ghana lại xuất khẩu hạt ca-cao, Brazil xuất khẩu cà phê và Ả rập Xê-út xuất khẩu dầu thô. Tuy vậy, một phần rất lớn của mô hình thương mại quốc tế mà chúng ta quan sát được khó giải thích hơn nhiều. Ví dụ, tại sao Nhật Bản xuất khẩu các loại ô tô, hàng điện tử dân dụng và máy công cụ? Và tại sao Thụy Sĩ xuất khẩu các loại hóa chất, dược phẩm, đồng hồ đeo tay và đồ nữ trang? Lý thuyết của David Ricardo về lợi thế so sánh đưa ra một cách giải thích về sự khác biệt giữa các quốc gia về năng suất lao động. Lý thuyết Heckscher-Ohlin chi tiết hơn khi nhấn mạnh tới sự tương tác giữa các tỷ lệ yếu tố sản xuất (bao gồm đất đai, lao động và vốn) sẵn có tại các quốc gia khác nhau với tỷ lệ yếu tố sản xuất cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa cụ thể. Sự giải thích này dựa trên giả thuyết rằng các quốc gia có mức độ dồi dào các yếu tố sản xuất khác nhau. Tuy nhiên, những kiểm nghiệm về tính đúng đắn của lý thuyết này lại cho thấy rằng đó không phải là những giải thích luôn luôn đúng cho các mô hình thương mại diễn ra trên thực tế.
Một trong những câu trả lời cho sự thất bại của lý thuyết Heckscher-Ohlin để giải thích các mô hình thương mại trên thực tế chính là lý thuyết về vòng đời sản phẩm của tác giả Raymond Vernon (Mỹ). Lý thuyết này cho rằng trong giai đoạn ban đầu của vòng đời, hầu hết các sản phẩm mới đều được sản xuất và xuất khẩu từ những quốc gia mà tại đó chúng được phát minh. Tuy nhiên, khi một sản phẩm mới được chấp nhận rộng rãi trên thị trường quốc tế, quá trình sản xuất sẽ bắt đầu diễn ra ở các nước khác và cuối cùng sản phẩm đó có thể sẽ được xuất khẩu trở lại chính quốc gia phát minh đầu tiên.
Cũng theo mạch lập luận tương tự như vậy, trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước, một số nhà kinh tế học mà điển hình là Paul Krugman, một giáo sư kinh tế, đã phát triển một lý thuyết mà sau đó được biết tới như là lý thuyết mới về thương mại. Lý thuyết này nhấn mạnh rằng trong một số trường hợp, các quốc gia chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm đặc thù không phải bởi vì sự khác biệt về mức độ dồi dào các nhân tố sản xuất, mà bởi vì trong một số ngành nhất định thị trường thế giới chỉ có thể chấp nhận và cho phép một số lượng hạn chế các công ty có thể tham gia vào (ví dụ ngành công nghiệp chế tạo máy bay chở khách dân dụng). Trong những ngành như vậy, các công ty thâm nhập thị trường trước sẽ có khả năng thiết lập cho mình một lợi thế cạnh tranh mà các công ty gia nhập sau đó khó có thể đạt được. Do vậy, mô hình thương mại thực tế diễn ra giữa các quốc gia có thể một phần là do năng lực của các công ty thuộc một quốc gia giành được những lợi thế của người đi trước.
Không dừng lại ở đó, trong các công trình nghiên cứu liên quan tới lý thuyết thương mại mới, tác giả Michael Porter (người Mỹ) đã đưa ra lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia. Lý thuyết này cố gắng giải thích tại sao một nước cụ thể lại đạt được những thành công quốc tế trong một ngành nhất định. Bên cạnh lý do vì sự ưu đãi hay mức độ dồi dào của các nhân tố sản xuất, Porter đã chỉ ra tầm quan trọng của các nhân tố quốc gia ví dụ như nhu cầu trong nước, và các đối thủ cạnh tranh trong nước trong việc giải thích sự thống trị của một quốc gia trong sản xuất và xuất khẩu một sản phẩm cụ thể.
1.2.1 Chủ nghĩa trọng thương
Lý thuyết đầu tiên giải thích về thương mại quốc tế là nghiên cứu của chủ nghĩa trọng thương, khởi đầu tại nước Anh vào giữa thế kỷ 16. Nội dung cơ bản nhất của chủ nghĩa này khẳng định rằng vàng và bạc là phương tiện chính đánh giá sự giàu có của quốc gia và giữ vai trò trọng yếu giúp cho hoạt động buôn bán giữa các nước trở nên sôi động. Vào thời kỳ đó, vàng và bạc là tiền tệ trong trao đổi thương mại giữa các quốc gia; một quốc gia có thể thu được vàng và bạc về nhờ việc xuất khẩu hàng hóa. Ngược lại, nhập khẩu hàng hóa từ các nước khác sẽ khiến cho các kim loại quý này rời khỏi quốc gia đó. Do vậy, tư tưởng chủ đạo của chủ nghĩa trọng thương cho rằng cần phải duy trì trạng thái thặng dư thương mại, tức là xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu để mang lại lợi ích tốt nhất cho một nước. Khi một nước tích lũy được nhiều vàng bạc thì sự giàu có, uy tín, và quyền lực của nước đó cũng sẽ tăng lên. Thomas Mun, một tác giả theo tư tưởng trọng thương người Anh đã viết năm 1630: Phương tiện phổ dụng từ đó làm tăng sự giàu có và ngân khố của chúng ta chính là hoạt động ngoại thương, trong đó ta phải luôn tuân theo nguyên tắc: hàng năm bán cho những người bên ngoài một lượng giá trị nhiều hơn những gì chúng ta tiêu dùng của họ.
Nhất quán với tư tưởng này, chủ nghĩa trọng thương ủng hộ sự can thiệp của chính phủ nhằm đạt được thặng dư trong cán cân thương mại. Các nhà trọng thương không cho rằng kim ngạch thương mại lớn là một ưu điểm mà họ đề xuất các chính sách nhằm tối đa hóa xuất khẩu và tổi thiểu hóa nhập khẩu. Để đạt được điều này, nhập khẩu phải được hạn chế bởi các biện pháp như thuế quan và hạn ngạch, trong khi xuất khẩu sẽ được trợ cấp.
Nhà kinh tế học cổ điển David Hume (người Xcốt-len) đã chỉ ra một sự thiếu nhất quán cố hữu trong học thuyết trọng thương vào năm 1752. Ông đưa ra lập luận bằng ví dụ quan hệ buôn bán giữa hai nước Anh và Pháp. Giả sử Anh có cán cân thương mại thặng dự trong buôn bán với Pháp (do xuất khẩu sang Pháp nhiều hơn nhập khẩu từ Pháp), và theo đó là một lượng vàng bạc sẽ di chuyển vào nước Anh. Điều này khiến cho lượng cung tiền trong nước ở Anh sẽ tăng mạnh và gây ra lạm phát ở nước này. Tuy nhiên, tại Pháp, dòng vàng bạc chảy ra ngoài đất nước sẽ gây tác động ngược lại. Lượng cung tiền tại Pháp sẽ giảm xuống, và giá cả tại nước này cũng sẽ giảm theo. Sự thay đổi này trong mối tương quan giữa giá cả tại Anh và giá cả tại Pháp sẽ khuyến khích người dân Pháp mua ít hàng hóa của Anh hơn (bởi vì đã trở nên đắt đỏ hơn) còn người dân Anh sẽ mua nhiều hàng hóa của Pháp hơn (vì trở nên rẻ hơn). Kết quả dẫn đến cán cân thương mại của Anh sẽ bị xấu đi còn cán cân thương mại của Pháp sẽ được cải thiện. Hiện tượng này sẽ diễn ra cho đến khi nào thặng dư thương mại của Anh không còn nữa. Như vậy, theo Hume, trong dài hạn không quốc gia nào có thể duy trì được thặng dư trong cán cân thương mại và do vậy vàng bạc cũng không thể tích lũy mãi như các nhà trọng thương đã dự tính.
Nhược điểm của chủ nghĩa trọng thương là đã nhìn nhận thương mại như một trò chơi có tổng bằng không (zero-sum game – nghĩa là lợi ích mà một nước thu được chính bằng thiệt hại mà nước khác mất đi.) Hạn chế này đã được các lý thuyết của Adam Smith và David Ricardo ra đời sau đó chỉ rõ và khẳng định thương mại là một trò chơi có tổng lợi ích là số dương (positive-sum game –tất cả các nước đều thu được lợi ích.) Đáng tiếc là tư tưởng của thuyết trọng thương không hề bị mất đi. Các nhà trọng thương mới (neo-mercantilists) cân bằng sức mạnh chính trị với sức mạnh kinh tế và sức mạnh kinh tế với thặng dư trong cán cân thương mại. Những nhà phê bình lập luận rằng nhiều nước đã áp dụng chiến lược trọng thương mới được đưa ra để đồng thời nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Ví dụ, những người chỉ trích cho rằng Trung Quốc theo đuổi chính sách trọng thương mới bằng cách giữ giá trị đồng Nhân dân tệ của họ ở mức giá thấp so với đồng Đôla Hoa Kỳ một cách có chủ đích nhằm bán được nhiều hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ hơn, và do đó tích lũy được một lượng lớn thặng dư thương mại và dự trữ ngoại hối khổng lồ.
1.2.2. Lý thuyết về Lợi thế tuyệt đối
Trong cuốn sách nổi tiếng của mình xuất bản năm 1776 với nhan đề “Sự giàu có của các quốc gia“, Adam Smith đã đưa ra quan điểm phản bác lại nhìn nhận của chủ nghĩa trọng thương cho rằng thương mại là một trò chơi có tổng lợi ích bằng không. Smith lập luận rằng các quốc gia khác nhau chính là về khả năng sản xuất các hàng hóa một cách có hiệu quả và theo ông, một nước có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất một sản phẩm khi mà nước đó sản xuất sản phẩm đó một cách hiệu quả hơn so với nước khác. Vào thời kỳ của Smith, người Anh là những nhà sản xuất hàng dệt hiệu quả nhất trên thế giới với sự ưu việt hơn hẳn về các quy trình chế tạo. Trong khi đó, nhờ sự kết hợp của khí hậu thuận lợi, đất đai phì nhiêu, và kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ, người Pháp lại là những người sản xuất rượu vang hiệu quả nhất. Như vậy, có thể nói rằng người Anh có được lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng dệt, trong khi người Pháp lại có lợi thế tuyệt đối về sản xuất rượu vang.
Theo Smith, các nước nên chuyên môn hóa vào sản xuất những sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh và sau đó trao đổi những hàng hóa đó lấy những hàng hóa sản xuất bởi những nước khác.Lập luận cơ bản của Adam Smith là một quốc gia không bao giờ nên tự sản xuất những hàng hóa mà thực tế có thể mua được từ các nước khác với chi phí thấp hơn. Và bằng cách chuyên môn hóa sản xuất những hàng hóa mà một nước có lợi thế tuyệt đối, cả hai nước sẽ thu được lợi ích khi tham gia vào thương mại quốc tế.
Ví dụ phân tích tác động của thương mại diễn ra giữa hai nước là Ghana và Hàn Quốc với một số giả định sau:
- Ghana và Hàn Quốc cả hai đều có cùng một lượng các nguồn lực và những nguồn lực này có thể được sử dụng để sản xuất một trong hai sản phẩm là gạo hoặc cacao.
- Tại mỗi nước có sẵn 200 đơn vị nguồn lực và Ghana phải tốn 10 đơn vị nguồn lực để sản xuất ra một tấn cacao và tốn 20 đơn vị nguồn lực để sản xuất ra một tấn gạo. Như vậy, Ghana sẽ có thể sản xuất ra được 20 tấn cacao khi không sản xuất gạo hoặc 10 tấn gạo khi không sản xuất cacao hoặc là số lượng kết hợp của gạo và cacao ở giữa hai mức sản lượng trên. Những sự kết hợp về sản lượng gạo và cacao khác nhau mà Ghana có thể sản xuất được biểu diễn trên đường GG’ trong Hình vẽ….. Đây được xem là đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) của Ghana.
- Tương tự như vậy, giả sử rằng, tại Hàn Quốc phải tốn 40 đơn vị nguồn lực để sản xuất một tấn cacao và chỉ tốn 10 đơn vị nguồn lực để sản xuất một tấn gạo. Như vậy, Hàn Quốc sẽ có thể sản xuất tối đa 5 tấn cacao khi không sản xuất gạo, 20 tấn gạo khi không sản xuất cacao, hoặc là số lượng kết hợp của cả cacao và gạo nằm giữa hai mức sản lượng kia. Những sự kết hợp về sản lượng gạo và cacao khác nhau mà Hàn Quốc có thể sản xuất được biểu diễn trên đường KK’ trong Hình 5.1. Đây được xem là đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) của Hàn Quốc. Có thể thấy rõ là Ghana có lợi thế tuyệt đối về sản xuất cacao (vì tại Hàn Quốc phải tốn nhiều nguồn lực hơn để sản xuất cacao so với ở Ghana.) Tương tự như vậy, Hàn Quốc có lợi thế tuyệt đối về sản xuất gạo.
Trường hợp khi không có nước nào trao đổi buôn bán với nhau: Mỗi nước sử dụng một nửa nguồn lực của mình có được để sản xuất gạo và nửa còn lại dùng để sản xuất cacao. Và đồng thời mỗi nước sẽ phải tiêu dùng lượng hàng hóa mà nước đó sản xuất ra. Ghana có thể sản xuất 10 tấn cacao và 5 tấn gạo (biểu diễn bằng điểm A trên Hình 3.1), trong khi Hàn Quốc có thể sản xuất ra 10 tấn gạo và 2,5 tấn cacao. Khi không có thương mại, mức sản xuất kết hợp của cả hai nước sẽ là 12,5 tấn cacao (10 tấn của Ghana cộng 2,5 tấn của Hàn Quốc) và 15 tấn gạo (5 tấn của Ghana cộng 10 tấn của Hàn Quốc). Nếu mỗi nước chuyên môn hóa vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối rồi sau đó trao đổi với nhau hàng hóa mà nước đó thiếu, Ghana sẽ sản xuất được 20 tấn cacao còn Hàn Quốc sẽ sản xuất được 20 tấn gạo. Như vậy, bằng cách thực hiện chuyên môn hóa, sản lượng của cả hai hàng hóa đã tăng lên. Sản lượng của cacao tăng từ 12,5 tấn lên 20 tấn, trong khi sản lượng gạo tăng từ 15 tấn lên 20 tấn. Mức tăng về sản lượng thu được từ việc thực hiện chuyên môn hóa là 7,5 tấn cacao và 5 tấn gạo. Bảng 3.1 sẽ tóm tắt những con số này.
Bằng cách tham gia vào hoạt động thương mại và trao đổi 1 tấn cacao lấy 1 tấn gạo, các nhà sản xuất ở cả hai quốc gia có thể tiêu dùng một lượng nhiều hơn cacao và gạo. Giả sử rằng Ghana và Hàn Quốc trao đổi cacao và gạo trên cơ sở 1:1; có nghĩa là giá của 1 tấn cacao ngang bằng với giá của 1 tấn gạo.
Nếu Ghana quyết định xuất khẩu 6 tấn cacao sang Hàn Quốc và nhập khẩu về 6 tấn gạo thì lượng tiêu dùng cuối cùng của nước này sẽ gồm 14 tấn cacao và 6 tấn gạo. So với trường hợp khi chưa chuyên môn hóa và tham gia vào thương mại thì lượng tiêu dùng tăng thêm 4 tấn cacao và 1 tấn gạo. Tương tự đối với Hàn Quốc, lượng tiêu dùng cuối cùng của nước này sẽ gồm 6 tấn cacao và 14 tấn gạo, tức là tăng thêm 3,5 tấn cacao và 4 tấn gạo. Như vậy, nhờ có chuyên môn hóa và thương mại, sản lượng của cả cacao và gạo đều được tăng lên và người tiêu dùng ở cả hai nước được tiêu dùng nhiều hơn. Do đó, chúng ta có thể thấy rõ rằng thương mại là một trò chơi có tổng lợi ích là một số dương; và thương mại mang lại lợi ích ròng cho tất cả các nước tham gia.
1.2.3. Lý thuyết về Lợi thế so sánh
David Ricardo đã đưa lý thuyết của Adam Smith tiến xa thêm một bước nữa bằng cách khám phá ra xem điều gì sẽ xảy ra khi một quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất tất cả các mặt hàng. Lý thuyết của Smith về lợi thế tuyệt đối gợi ý rằng một nước như vậy sẽ không thu được lợi ích gì từ thương mại quốc tế. Trong cuốn sách “Những nguyên lý của kinh tế chính trị“ viết năm 1817 của mình, Ricardo đã chứng minh rằng trường hợp đó sẽ không diễn ra. Theo lý thuyết của Ricardo về lợi thế so sánh, hoàn toàn hợp lý khi một nước chuyên môn hóa vào sản xuất những hàng hóa mà nước đó sản xuất một cách hiệu quả hơn và mua về những hàng hóa mà nước đó sản xuất kém hiệu quả hơn so với các nước khác, ngay cả khi điều đó có nghĩa là mua hàng hóa từ những nước khác mà mình có thể tự sản xuất hiệu quả hơn. Điều này dường như trái với tư duy thông thường của mọi người, tính logíc của lập luận này có thể được minh chứng bằng một ví dụ đơn giản như sau.
Giả sử rằng Ghana hiệu quả hơn trong việc sản xuất cả hai mặt hàng cacao và gạo; có nghĩa là Ghana có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai mặt hàng. Tại Ghana, phải tốn 10 đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 tấn cacao và 13 1/3 đơn vị nguồn lực để sản xuất ra 1 tấn gạo. Như vậy, với 200 đơn vị nguồn lực có sẵn, Ghana có thể sản xuất ra 20 tấn cacao khi không sản xuất gạo, 15 tấn gạo khi không sản xuất cacao, hoặc bất kỳ lượng kết hợp nào ở giữa và nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) của nước này (đường GG’ trong Hình 3.2). Tại Hàn Quốc, giả sử để sản xuất ra 1 tấn cacao phải tốn 40 đơn vị nguồn lực, còn để sản xuất 1 tấn gạo phải tốn 20 đơn vị nguồn lực. Như thế Hàn Quốc có thể sản xuất ra 5 tấn cacao khi không sản xuất gạo, 10 tấn gạo khi không sản xuất cacao hoặc bất kỳ lượng kết hợp nào của hai sản phẩm ở giữa hai số lượng trên và nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nước này (đường KK’ trong Hình 3.2). Chúng ta lại giả sử trong trường hợp không có thương mại giữa hai nước, mỗi nước sẽ sử dụng một nửa số đơn vị nguồn lực sẵn có để sản xuất từng sản phẩm. Như vậy, không có thương mại, Ghana sẽ sản xuất 10 tấn cacao và 7,5 tấn gạo (điểm A trong Hình 3.2), trong khi Hàn Quốc sẽ sản xuất được 2,5 tấn cacao và 5 tấn gạo (điểm B trong Hình 3.2).
Khi mà Ghana có lợi thế tuyệt đối về sản xuất cả hai sản phẩm, tại sao nước này vẫn nên tham gia trao đổi với Hàn Quốc? Câu trả lời là: mặc dù Ghana có lợi thế tuyệt đối về sản xuất cả hai sản phẩm, nước này lại chỉ có lợi thế so sánh trong sản xuất cacao: Ghana có thể sản xuất cacao 4 lần nhiều hơn so với Hàn Quốc, nhưng chỉ có thể 1,5 lần nhiều hơn trong sản xuất gạo. Như vậy, Ghana sản xuất cacao hiệu quả hơn một cách tương đối so với sản xuất gạo.
Không có thương mại, lượng cacao tổng cộng của hai nước là 12,5 tấn (10 tấn của Ghana và 2,5 tấn của Hàn Quốc) và lượng gạo tổng cộng cũng là 12,5 tấn (7,5 tấn của Ghana và 5 tấn của Hàn Quốc). Trong trường hợp này, mỗi nước phải tự tiêu dùng những gì hai nước sản xuất ra. Bằng cách tham gia vào thương mại, hai nước có thể gia tăng tổng lượng sản xuất của cả gạo và cacao, và người tiêu dùng ở hai nước cũng sẽ sử dụng một lượng nhiều hơn của cả hai sản phẩm.
Những lợi ích từ thương mại
Ta hình dung rằng Ghana khai thác lợi thế so sánh trong sản xuất cacao để tăng sản lượng sản phẩm này từ 10 tấn lên 15 tấn. Lượng cacao này sẽ tốn hết 150 đơn vị nguồn lực, như vậy còn 50 đơn vị nguồn lực sẽ dành để sản xuất được 3,75 tấn gạo (điểm C trong Hình 3.2). Trong khi đó, Hàn Quốc chuyên môn hóa vào sản xuất gạo và làm ra được 10 tấn gạo. Như vậy, sản lượng tổng cộng của cả hai sản phẩm đều đã tăng lên. Trước khi có chuyên môn hóa, sản lượng tổng cộng là 12,5 tấn cacao và 12,5 tấn gạo. Bây giờ là 15 tấn cacao và 13,75 tấn gạo (3,75 tấn của Ghana và 10 tấn của Hàn Quốc). Điều này được minh họa trong Bảng 3.2.
Không chỉ có sản lượng sản xuất ra cao hơn mà cả hai nước còn có thể thu lợi từ thương mại. Nếu Ghana và Hàn Quốc trao đổi cacao và gạo theo tỷ lệ 1:1, và mỗi nước lựa chọn trao đổi 4 tấn xuất khẩu đổi lấy 4 tấn nhập khẩu, cả hai nước sẽ có thể tiêu dùng nhiều cacao và gạo hơn so với khi chưa thực hiện chuyên môn hóa và trao đổi (xem Bảng 3.2).
Như vậy, nếu Ghana trao đổi 4 tấn cacao với Hàn Quốc đổi lấy 4 tấn gạo, nước này sẽ vẫn còn 11 tấn cacao, nhiều hơn 1 tấn so với trước khi có thương mại. Với 4 tấn gạo có được từ trao đổi với Hàn Quốc, Ghana sẽ có tổng cộng 7,75 tấn gạo, nhiều hơn 0,25 tấn so với khi chưa có chuyên môn hóa. Tương tự như vậy, sau khi trao đổi 4 tấn gạo với Ghana, Hàn Quốc sẽ còn 6 tấn gạo, nhiều hơn 1 tấn so với trước khi chuyên môn hóa. Thêm vào đó, với 4 tấn cacao có được từ trao đổi, Hàn Quốc sẽ có tổng cộng nhiều hơn 1,5 tấn so với trước khi có thương mại. Như vậy, lượng tiêu dùng về gạo và cacao đã tăng lên ở cả hai quốc gia và đó là kết quả của việc chuyên môn hóa và trao đổi.
Thông điệp cơ bản của lý thuyết về lợi thế so sánh là sản lượng tiềm năng của thế giới sẽ lớn hơn nhiều trong điều kiện thương mại tự do không bị hạn chế (so với trong điều kiện hạn chế về thương mại). Lý thuyết của Ricardo gợi ý rằng người tiêu dùng ở tất cả các quốc gia sẽ được tiêu dùng nhiều hơn nếu như không có hạn chế trong thương mại giữa các nước. Điều này diễn ra ngay cả khi các quốc gia không có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất bất kỳ hàng hóa nào. Nói một cách khác, so với lý thuyết về lợi thế tuyệt đối lý thuyết về lợi thế so sánh khẳng định một cách chắc chắn hơn nhiều rằng thương mại là một trò chơi có tổng lợi ích là một số dương trong đó tất cả các nước tham gia đều thu được lợi ích kinh tế. Như vậy, lý thuyết này đã cung cấp một cơ sở hợp lý cho việc khuyến khích tự do hóa thương mại và cho đến nay, lý thuyết của Ricardo vẫn chứng tỏ sức thuyết phục khi thường được xem là vũ khí lập luận chủ yếu cho những ai ủng hộ cho thương mại tự do.
Những hạn chế và các giả thiết đi kèm hai lý thuyết của A.Smith và D.Ricardo
Kết luận về thương mại tự do mang lại lợi ích cho tất cả là một khẳng định còn nặng tính chủ quann khi được rút ra từ một mô hình đơn giản như ở phần trên. Mô hình đơn giản đó đi kèm với nhiều giả thiết phi thực tế:
1. Giả thiết về một thế giới giản đơn trong đó chỉ có 2 quốc gia và 2 loại hàng hóa trong khi đó trên thực tế, có rất nhiều quốc gia và vô số hàng hóa khác nhau.
2. Giả thiết về chi phí vận tải bằng không giữa các quốc gia là sự bất hợp lý rõ ràng.
3. Giả thiết về giá cả các nguồn lực sản xuất là ngang bằng nhau tại các quốc gia khác nhau cũng không có tính thực tiễn. Đồng thời mô hình cũng chưa đề cập tới tỷ giá hối đoái, chỉ đơn giản giả định rằng cacao và gạo có thể trao đổi với nhau theo tỷ lệ 1:1.
4. Giả thiết về các nguồn lực sản xuất có thể dễ dàng di chuyển giữa các ngành sản xuất trong phạm vi một quốc gia là không phù hợp vì trên thực tế, trường hợp đó không phải lúc nào cũng diễn ra.
5. Giả thiết về hiệu suất không đổi theo quy mô, có nghĩa là việc chuyên môn hóa tại Ghana và Hàn Quốc không ảnh hưởng tới số lượng nguồn lực cần thiết để sản xuất ra 1 tấn cacao hay 1 tấn gạo. Tuy nhiên, trên thực tế tồn tại cả hai trường hợp hiệu suất tăng dần và hiệu suất giảm dần theo mức độ chuyên môn hóa. Khối lượng nguồn lực đòi hỏi để sản xuất một mặt hàng có thể tăng hoặc giảm khi một nước chuyên môn hóa vào sản xuất mặt hàng đó.
6. Giả thiết rằng mỗi nước có một lượng nguồn lực sản xuất không đổi và thương mại tự do không thay đổi hiệu quả sử dụng các nguồn lực của từng nước cũng là một hạn chế. Bởi vì giả thiết mang tính tĩnh này không cho phép những thay đổi về số lượng nguồn lực sản xuất của một nước cũng như những thay đổi về tính hiệu quả một nước sử dụng các nguồn lực của mình khi thương mại tự do diễn ra.
7. Mô hình cũng đã đưa ra giả thiết cho rằng không có tác động của thương mại lên sự phân phối thu nhập trong phạm vi một nước.
Với những giả thiết ở trên, liệu kết luận rằng thương mại tự do có lợi cho tất cả có thể mở rộng ra cho thế giới thực tế với nhiều quốc gia, nhiều mặt hàng, chi phí vận tải hiện hữu, các tỷ giá hối đoái biến động, tính bất di bất dịch của các nguồn lực trong nước, hiệu suất thay đổi theo mức độ chuyên môn hóa sản xuất, và những biến động khác? Mặc dù mức độ mở rộng chi tiết của lý thuyết về lợi thế so sánh vượt ra khỏi phạm vi nghiên cứu của cuốn sách này, các nhà kinh tế học đã cho thấy rằng kết quả cơ bản rút ra từ mô hình giản đơn ở trên có thể được khái quát hóa cho một thế giới bao gồm nhiều quốc gia sản xuất nhiều mặt hàng khác nhau.7 Dù có nhiều thiếu sót trong mô hình của của Ricardo, nghiên cứu đã gợi ý là mệnh đề cơ bản rằng tất cả các nước sẽ xuất khẩu những hàng hóa mà họ sản xuất có hiệu quả nhất sẽ được xác minh thông qua số liệu thống kê.8
Mở rộng lý thuyết của David Ricardo
Chúng ta cùng xem xét tình huống xảy ra khi nới lỏng ba giả thiết xác định ở phần trên trong mô hình lợi thế so sánh giản đơn. Dưới đây ta sẽ nới lỏng các giả thuyết rằng các nguồn lực có thể di chuyển một cách tự do từ một ngành sản xuất hàng hóa này sang ngành sản xuất hàng hóa khác trong phạm vi một quốc gia, giả thuyết hiệu suất không đổi theo quy mô, và giả thiết về thương mại không làm thay đổi khối lượng nguồn lực sản xuất của đất nước hoặc hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực đó.
Nguồn lực không linh động
Trong mô hình so sánh giản đơn về Ghana và Hàn Quốc, chúng ta giả thiết rằng những người sản xuất (nông dân) có thể dễ dàng chuyển đổi đất đai từ trồng cây cacao sang trồng lúa gạo, và ngược lại. Cho dù giả thiết này đúng với một số nông sản, nhưng các nguồn lực sản xuất không phải lúc nào cũng dễ dàng chuyển đổi từ sản xuất một hàng hóa này sang sản xuất hàng hóa khác. Ví dụ, áp dụng chế độ thương mại tự do đối với một nước phát triển cao như là Hoa Kỳ thường ngụ ý rằng nước này sẽ sản xuất ít những sản phẩm có hàm lượng lao động cao như là hàng dệt may, và sản xuất nhiều những sản phẩm có hàm lượng tri thức cao như là phần mềm máy tính hoặc các sản phẩm công nghệ sinh học. Mặc dù về tổng thể cả quốc gia sẽ được lợi nhờ việc chuyển đổi này nhưng những nhà sản xuất hàng dệt may sẽ chịu thiệt hại. Một công nhân ngành dệt may khó có thể có đủ trình độ để viết phần mềm cho một công ty máy tính. Do vậy, chuyển đổi sang chế độ thương mại tự do có nghĩa là người công nhân đó có thể sẽ bị thất nghiệp hoặc phải chấp nhận một công việc kém hấp dẫn khác như làm việc trong một cửa hàng bán đồ ăn nhanh. Và cũng từ đó, những người phải gánh chịu những chi phí thiệt hại hoặc công việc của họ bị đe dọa do thương mại tự do đem lại thường là những người phản đối việc áp dụng chế độ thương mại này mạnh mẽ nhất ngay tại các nước phát triển. Tại những nước đó, chính phủ thường giảm bớt tác động của giai đoạn chuyển đổi sang chế độ thương mại tự do bằng cách giúp đỡ việc đào tạo lại những người mất việc làm do hậu quả của quá trình này. Những thiệt hại gây ra bởi xu hướng vận động tới chế độ thương mại tự do chỉ là hiện tượng xảy ra trong ngắn hạn mà thôi, trong khi những lợi ích giành được từ thương mại một khi quá trình chuyển đổi diễn ra thuận lợi vừa lớn lao lại vừa lâu bền.
Hiệu suất giảm dần
Mô hình lợi thế so sánh giản đơn được phát triển dựa trên quy luật hiệu suất không đổi theo mức độ chuyên môn hóa. Theo quy luật này thì số đơn vị nguồn lực cần thiết để sản xuất một đơn vị sản phẩm (gạo hay cacao) ở mỗi nước được giả thiết là không thay đổi tại bất kỳ điểm nào trên đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) của nước đó. Như ta đã giả thiết là để sản xuất 1 tấn cacao ở Ghana luôn phải tốn 10 đơn vị nguồn lực đầu vào. Tuy nhiên, sẽ là gần với thực tế hơn nếu giả thiết rằng hiệu suất sẽ giảm dần theo mức độ chuyên môn hóa. Hiệu suất giảm dần theo mức độ chuyên môn hóa diễn ra khi cần nhiều đơn vị nguồn lực hơn để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm tăng thêm. Nếu như chỉ cần 10 đơn vị nguồn lực là đủ để tăng thêm sản lượng cacao của Ghana từ 12 lên 13 tấn, thì có thể sẽ phải cần tới 11 đơn vị nguồn lực để tăng sản lượng cacao từ 13 lên 14 tấn, cần 12 đơn vị nguồn lực để tăng sản lượng từ 14 lên 15 tấn, và cứ như vậy tăng dần lên. Hiệu suất giảm dần thể hiện bằng một đường PPF lồi cho Ghana (như Hình 3.3), hơn là một đường thẳng như trong Hình 3.2.
Giả thiết hiệu suất giảm dần có tính thực tiễn cao vì hai lý do sau. Thứ nhất, không phải tất cả các nguồn lực đều có chất lượng như nhau. Khi một nước cố gắng tăng sản lượng của một loại sản phẩm, nước đó phải dựa trên các nguồn lực biên mà năng suất của chúng không lớn như những đơn vị nguồn lực được sử dụng đầu tiên. Kết quả là nhiều nguồn lực phải huy động hơn để sản xuất ra cùng một lượng tăng thêm của sản lượng. Ví dụ ta biết rằng trên thực tế một số diện tích đất năng suất hơn một số diện tích đất khác. Khi Ghana cố gắng gia tăng sản lượng cacao của mình, nước này sẽ phải tận dụng ngày càng nhiều hơn các diện tích đất vốn kém phì nhiêu hơn những diện tích đất được sử dụng từ ban đầu. Khi mức sản lượng trên một đơn vị diện tích đất đai giảm xuống, Ghana sẽ phải sử dụng nhiều diện tích đất hơn để sản xuất ra thêm 1 tấn cacao.
Lý do thứ hai dẫn tới hiệu suất giảm dần là các hàng hóa khác nhau có tỷ lệ sử dụng các nguồn lực cũng khác nhau. Cùng hình dung một ví dụ như sau: giả sử ngành trồng cây cacao sẽ sử dụng nhiều đất đai và ít lao động hơn trồng lúa, và Ghana đang cố gắng chuyển các nguồn lực từ sản xuất gạo sang sản xuất cacao. Khi chuyển đổi, ngành lúa gạo sẽ giải phóng theo tỷ lệ lượng lao động nhiều tương đối và lượng diện tích đất đai ít tương đối cho việc sản xuất cacao một cách hiệu quả. Để hấp thu các nguồn lao động và đất đai tăng thêm đó, ngành trồng cacao sẽ phải chuyển đổi sang các phương thức sản xuất thâm dụng lao động. Tác động của việc chuyển đổi này là hiệu quả sử dụng lao động của ngành sản xuất cacao sẽ giảm xuống, và như vậy hiệu suất sẽ lại giảm dần.
Hiệu suất giảm dần cho thấy rằng các quốc gia khó có khả năng thực hiện chuyên môn hóa tới mức độ như trong mô hình giản đơn của Ricardo đưa ra ở phần trước. Hiệu suất giảm dần theo mức độ chuyên môn hóa gợi ý rằng lợi ích thu được từ việc chuyên môn hóa thường sẽ về số không (cạn hết) trước khi quá trình chuyên môn hóa kết thúc. Trên thực tế, hầu hết các quốc gia không chuyên môn hóa mà thay vào đó là sản xuất một loạt các sản phẩm khác nhau. Tuy nhiên, lý thuyết lợi thế so sánh cho rằng các nước nên chuyên môn hóa cho tới điểm tại đó lợi nhuận giảm dần vượt quá những lợi ích thu được từ thương mại. Như vậy, kết luận cơ bản ở đây là thương mại tự do không hạn chế sẽ mang lại lợi ích vẫn đúng, mặc dù vì lý do hiệu suất giảm dần, lợi ích thu được sẽ không lớn như trong trường hợp hiệu suất không đổi.
Các hiệu ứng động và Tăng trưởng kinh tế
Mô hình lợi thế so sánh giản đơn giả định rằng thương mại không làm thay đổi số lượng nguồn lực có sẵn tại mỗi quốc gia hay hiệu quả sử dụng nguồn lực của quốc gia đó. Giả thiết mang tính tĩnh này không tính đến những thay đổi mang tính động mà thương mại có thể mang lại. Nếu ta nới lỏng giả định này thì rõ ràng một nền kinh tế thực hiện thương mại tự do sẽ có khả năng thu được các lợi ích động dưới hai hình thức. Thứ nhất, thương mại tự do có thể làm gia tăng số lượng nguồn lực của một nước thông qua lượng tăng lên về lao động, vốn từ nước ngoài đáp ứng nhu cầu sử dụng trong nước. Thứ hai, thương mại tự do có thể cũng làm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực của một nước. Lợi ích này có thể bắt nguồn từ một số nhân tố, ví dụ hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, công nghệ, sức ép cạnh tranh từ mở rộng thương mại.
Những lợi ích động về cả khối lượng các nguồn lực của một nước cũng như mức hiệu quả mà các nguồn lực được sử dụng sẽ khiến cho đường giới hạn khả năng sản xuất của một nước dịch chuyển ra ngoài. Điều này được minh họa trong Hình 3.4, đường PPF1 dịch chuyển ra ngoài thành PPF2 là kết quả của những lợi ích động thu được từ thương mại tự do. Và do sự dịch chuyển ra ngoài đó, quốc gia trong Hình 3.4 có thể sản xuất nhiều hơn hai hàng hóa so với trước khi có thương mại tự do. Lý thuyết về lợi thế so sánh gợi ý rằng việc mở cửa một nền kinh tế thực hiện tự do thương mại không chỉ thu về những hình thức lợi ích tĩnh như đã đề cập ở phần trên mà còn thu về cả những lợi ích động có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. Nếu như vậy, thì ta có thể nghĩ rằng tự do hóa thương mại sẽ mang lại nhiều lợi ích như trên thực tế vẫn diễn ra.
1.2.4. Lý thuyết Heckscher – Ohlin
Lý thuyết của Ricardo nhấn mạnh rằng lợi thế so sánh xuất phát từ những sự khác biệt về năng suất lao động. Do vậy, liệu Ghana có hiệu quả hơn Hàn Quốc trong sản xuất cacao phụ thuộc vào mức độ hiệu quả sử dụng các nguồn lực của nước này. Ricardo nhấn mạnh tới năng suất lao động và lập luận rằng những sự khác biệt về năng suất lao động giữa các nước ngụ ý về lợi thế so sánh. Hai nhà kinh tế học người Thụy Điển là Eli Heckscher (vào năm 1919) và Bertil Ohlin (vào năm 1933) đã đưa ra cách giải thích khác về lợi thế so sánh. Họ chứng tỏ rằng lợi thế so sánh xuất phát từ những sự khác biệt trong độ sẵn có các yếu tố sản xuất.23
Bằng cách sử dụng khái niệm độ sẵn có các yếu tố hai tác giả muốn đề cập đến mức độ mà một nước có sẵn các nguồn lực như đất đai, lao động và vốn. Các nước có độ sẵn có các yếu tố khác nhau, và sự sẵn có các yếu tố khác nhau đó giải thích những sự khác biệt về giá cả các nhân tố; cụ thể, độ dồi dào của nhân tố càng lớn thì giá cả của nhân tố đó càng rẻ.
Lý thuyết Heckscher-Ohlin dự báo rằng các nước sẽ xuất khẩu những hàng hóa mà sử dụng nhiều hàm lượng những nhân tố dồi dào tại nước đó và nhập khẩu những hàng hóa mà sử dụng nhiều hàm lượng những nhân tố khan hiếm tại nước đó. Như vậy, lý thuyết H-O cố gắng giải thích mô hình của thương mại quốc tế mà ta chứng kiến trên thị trường thế giới. Giống như lý thuyết của Ricardo, lý thuyết H-O cho rằng thương mại tự do sẽ mang lại lợi ích. Tuy nhiên, khác với lý thuyết của Ricardo, lý thuyết H-O lại lập luận rằng mô hình thương mại quốc tế được xác định bởi sự khác biệt về mức độ sẵn có của các nhân tố sản xuất hơn là bởi sự khác biệt về năng suất lao động.
Lý thuyết H-O dễ dàng được minh chứng trên thực tế. Ví dụ như nước Hoa Kỳ trong một thời gian dài là một nước xuất khẩu lớn trên thế giới về hàng nông sản, và điều này phản ánh một phần về sự dồi dào khác thường của Hoa Kỳ về diện tích đất có thể canh tác. Hay ngược lại, Trung Quốc nổi trội về xuất khẩu những hàng hóa được sản xuất trong những ngành thâm dụng lao động như là dệt may và giày dép. Điều này phản ánh mức độ dồi dào tương đối của Trung Quốc về lao động giá rẻ. Nước Hoa Kỳ, vốn không có nhiều lao động giá rẻ, từ lâu đã là nước nhập khẩu chủ yếu những mặt hàng này. Lưu ý rằng, mức độ sẵn có ở đây là tương đối, không phải con số tuyệt đối; một nước có thể có số lượng tuyệt đối các nhân tố đất đai và lao động nhiều hơn hẳn so với nước khác, nhưng lại chỉ có mức độ dồi dào tương đối một trong hai yếu tố đó mà thôi.
Nghịch lý Leontief
Lý thuyết H-O được xem là một trong các lý thuyết có mức độ ảnh hưởng rộng lớn trong kinh tế học quốc tế. Hầu hết các nhà kinh tế học đều thích áp dụng lý thuyết này hơn so với lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo bởi vì nó sử dụng ít giả thiết đơn giản hóa hơn. Và cũng vì lý do có tầm ảnh hưởng lớn, lý thuyết này được kiểm chứng bởi nhiều kiểm tra thực nghiệm khác nhau. Bắt đầu bằng nghiên cứu được công bố vào năm 1953 bởi Wassily Leontief (người đạt giải Nobel về kinh tế học vào năm 1973), nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã đặt vấn đề về tính đúng đắn của lý thuyết H-O.24 Vận dụng lý thuyết H-O, Leontief dự đoán rằng, bởi vì nước Hoa Kỳ dồi dào tương đối về vốn so với các nước khác nên nước Hoa Kỳ sẽ là nước xuất khẩu những mặt hàng thâm dụng vốn và nhập khẩu những mặt hàng thâm dụng lao động. Nhưng nghiên cứu thực nghiệm của công cho thấy một kết quả bất ngờ là ông phát hiện rằng hàng hóa xuất khẩu của Hoa Kỳ lại là hàng hóa kém thâm dụng vốn so với hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ. Vì kết quả này trái với những gì mà lý thuyết H-O đã dự báo, nó đã được biết đến với tên gọi Nghịch lý Leontief.
Không ai khẳng định chắc chắn tại sao ta lại quan sát được nghịch lý Leontief. Một giải thích được đưa ra là nước Hoa Kỳ có lợi thế đặc biệt trong sản xuất những sản phẩm mới hoặc những hàng hóa chế tạo với những công nghệ có tính đổi mới. Những sản phẩm đó có thể được xem là có mức thâm dụng vốn thấp hơn so với những sản phẩm sử dụng công nghệ đã có thời gian chín muồi và trở thành thông dụng cho sản xuất hàng loạt. Do vậy, nước Hoa Kỳ có thể xuất khẩu những hàng hóa sử dụng nhiều lao động có kỹ năng và tinh thần doanh nghiệp sáng tạo, ví dụ như các phần mềm máy tính, trong khi đó lại nhập khẩu các sản phẩm chế tạo công nghiệp nặng vốn dĩ sử dụng một lượng lớn vốn đầu tư. Một vài nghiên cứu thực nghiệm cũng có xu hướng ủng hộ nhận định này.25 Tuy nhiên, những kiểm nghiệm lý thuyết H-O sử dụng dữ liệu cho một số lượng lớn các nước lại có xu hướng khẳng định sự tồn tại của nghịch lý Leontief.
Điều này đẩy các nhà kinh tế vào thế tiến thoái lưỡng nan. Họ thích sử dụng lý thuyết H-O về các nền tảng lý thuyết, nhưng đó lại là một cách dự đoán không chắc chắn về các mô hình thương mại đang diễn ra trên thế giới. Mặt khác, lý thuyết H-O có nhiều hạn chế, lý thuyết về lợi thế so sánh của Ricardo, trên thực tế còn dự báo các mô hình thương mại với độ chính xác cao hơn. Giải pháp tốt nhất cho tình thế khó xử này có lẽ là quay trở lại với ý tưởng của Ricardo là các mô hình thương mại chủ yếu được xác định bởi những sự khác biệt giữa các nước về năng suất lao động. Do đó, một người có thể lập luận rằng nước Hoa Kỳ xuất khẩu máy bay chở khách và nhập khẩu hàng dệt may không phải vì sự sẵn có các yếu tố sản xuất của nước này đặc biệt thích hợp vớingành sản xuất máy bay và không thích hợp với ngành dệt may, mà bởi vì nước Hoa Kỳ tương đối hiệu quả hơn trong việc chế tạo máy bay so với sản xuất hàng dệt may.
Một giả thiết quan trọng trong lý thuyết H-O là công nghệ tại các quốc gia là tương tự nhau. Điều này có lẽ không sát với thực tế. Những sự khác biệt về công nghệ có thể sẽ dẫn tới sự khác biệt về năng suất lao động, yếu tố sẽ định hướng các mô hình trao đổi trong thương mại quốc tế.27 Và cũng như vậy, sự thành công của Nhật Bản trong xuất khẩu ô tô trong các thập niên 1970 và 1980 không chỉ dựa trên mức độ sẵn có tương đối của vốn mà còn cả trên sự phát triển của công nghệ chế tạo hiện đại của nước này, yếu tố giúp cho Nhật Bản đạt được mức năng suất cao hơn trong chế tạo ô tô so với các nước khác cũng có sự dồi dào về vốn. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm gần đây đã gợi ý rằng cách giải thích mang tính lý thuyết này có thể đúng.28 Nghiên cứu mới chứng minh rằng một khi những sự khác biệt trong công nghệ giữa các nước được kiểm soát, các nước sẽ thực sự xuất khẩu những hàng hóa thâm dụng các yếu tố sản xuất dồi dào trong nước và nhập khẩu những hàng hóa thâm dụng các yếu tố sản xuất khan hiếm trong nước. Nói cách khác, một khi tác động của sự khác biệt về công nghệ lên năng suất lao động được kiểm soát thì lý thuyết H-O dường như sẽ đạt được sức mạnh dự báo.
1.2.5. Lý thuyết về vòng đời sản phẩm
Raymond Vernon là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về vòng đời sản phẩm vào giữa thập kỷ 1960 của thế kỷ trước.29 Lý thuyết của ông dựa trên những quan sát thực tế là trong suốt thế kỷ XX một tỷ lệ rất lớn các sản phẩm mới của thế giới đã được phát triển bởi các công ty Hoa Kỳ và được tiêu thụ ban đầu tại thị trường Hoa Kỳ (ví dụ như sản xuất ô tô ở quy mô công nghiệp, máy thu hình, máy ảnh chụp lấy ngay, máy photocopy, máy tính cá nhân, và các chíp bán dẫn). Để giải thích thực tế này, Vernon lập luận rằng sự thịnh vượng và quy mô của thị trường Hoa Kỳ đã mang lại cho các công ty Hoa Kỳ một động lực rất lớn đề phát triển các sản phẩm tiêu dùng mới. Thêm vào đó, chi phí nhân công cao ở Hoa Kỳ cũng khiến cho các công ty Hoa Kỳ có lý do để sáng chế ra các quy trình công nghệ tiết kiệm chi phí sản xuất.
Nếu chỉ vì lý do các sản phẩm được phát triển bởi một công ty của Hoa Kỳ và được bán lần đầu tiên ở thị trường Hoa Kỳ mà suy ra rằng sản phẩm đó bắt buộc phải được sản xuất tại nước Hoa Kỳ thì là chưa thuyết phục. Sản phẩm đó hoàn toàn có thể được sản xuất ở nước ngoài, những nơi có chi phí sản xuất thấp hơn và sau đó xuất khẩu trở lại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Vernon đã lập luận rằng hầu hết các sản phẩm mới ban đầu đều được phát triển tại nước Hoa Kỳ. Một điều rõ ràng là các công ty tiên phong ở đây, trên cơ sở cân nhắc những biến động và rủi ro đi liền với việc giới thiệu một sản phẩm mới, luôn tin rằng sẽ tốt hơn nếu nơi sản xuất ở gần với nơi tiêu thụ cũng như gần với trụ sở chính, nơi đưa ra các quyết định của các công ty. Hơn nữa, nhu cầu đối với hầu hết các sản phẩm mới thường không phụ thuộc vào yếu tố giá cả như thế nào mà phụ thuộc vào các yếu tố phi giá cả như kiểu dáng, mẫu mã, tính năng, sự tiện dụng, v.v…. Do vậy, các công ty phát minh có thể tính giá thành bán ra khá cao đối với các sản phẩm mới, và yếu tố này khiến cho nhu cầu đòi hỏi đi tìm kiếm một nơi sản xuất với chi phí thấp tại một nước khác không còn cần thiết.
Vernon đã đi theo hướng lập luận rằng ở giai đoạn đầu trong vòng đời của một sản phẩm mới điển hình, khi nhu cầu đang bắt đầu tăng cao một cách nhanh chóng ở Hoa Kỳ thì nhu cầu tại các nước tiên tiến khác chỉ giới hạn ở một số nhóm khách hàng có thu nhập cao mà thôi. Do nhu cầu ban đầu tại các nước tiên tiến khác còn hữu hạn như vậy nên các công ty chưa thấy cần thiết phải đầu tư vào sản xuất tại các nước này, nhưng vẫn thấy cần thiết phải xuất khẩu một số sản phẩm từ Hoa Kỳ sang các thị trường đó.
Theo thời gian, nhu cầu đối với sản phẩm mới sẽ tăng dần tại các nước phát triển khác ngoài Hoa Kỳ (ví dụ như Anh, Pháp, Đức và Nhật Bản) cho đến khi các nhà sản xuất tại đó thấy đã đến lúc phải tiến hành sản xuất để phục vụ cho thị trường nước mình. Thêm nữa, các công ty Hoa Kỳ cũng có thể sẽ thiết lập các dây chuyền sản xuất tại các nước phát triển có nhu cầu đang tăng nhanh và như vậy, quá trình sản xuất tại các nước này bắt đầu hạn chế bớt tiềm năng xuất khẩu từ nước Hoa Kỳ.
Khi thị trường ở Hoa Kỳ và một số nước phát triển khác trở nên bão hoà thì sản phẩm mới cũng đạt tới mức độ tiêu chuẩn hoá, và giá cả bắt đầu trở thành vũ khí cạnh tranh chủ yếu trên thị trường. Khi điều này xảy ra, những cân nhắc về chi phí bắt đầu đóng một vai trò lớn hơn trong quá trình cạnh tranh. Các nhà chế tạo tại các nước phát triển nơi mà chi phí lao động thấp hơn so với chi phí lao động tại Hoa Kỳ (ví dụ như tại các nước Ý, Tây Ban Nha) bây giờ có thể sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
Nếu các sức ép về chi phí trở nên mạnh hơn nữa thì quá trình cũng sẽ không dừng ở đó. Chu kỳ theo đó nước Hoa Kỳ đánh mất lợi thế của mình cho các nước phát triển khác có thể được tiếp tục lặp lại một lần nữa, khi các nước đang phát triển (ví dụ như Thái Lan) bắt đầu có được những lợi thế sản xuất so với các nước phát triển. Do vậy, chu kỳ của sản xuất toàn cầu sẽ theo trật tự: bắt đầu từ Hoa Kỳ chuyển sang các nước phát triển khác và tiếp đó là từ những nước này chuyển sang các nước đang phát triển.
Theo thời gian, kết quả của những xu hướng này đối với các mô hình trao đổi của thương mại thế giới là một nước xuất khẩu sản phẩm sẽ trở thành một nước nhập khẩu khi quá trình sản xuất được tập trung tới những địa điểm ở nước ngoài có chi phí sản xuất thấp hơn. Hình 4 mô tả quá trình tăng trưởng của sản xuất và tiêu dùng theo thời gian tại nước Hoa Kỳ rồi sang các nước phát triển khác và sau đó là sang các nước đang phát triển.
Đánh giá lý thuyết Vòng đời sản phẩm
Xét về khía cạnh lịch sử, lý thuyết vòng đời sản phẩm dường như là một sự giải thích khá chính xác các mô hình trao đổi trong thương mại quốc tế. Mô hình này khái quát trình tự từ khâu nghiên cứu và phát triển tới khâu sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm mới sẽ diễn ra tuần tự từ nước phát triển cao chuyển sang các nước phát triển thấp hơn tới các nước đang phát triển theo xu hướng tìm tới địa điểm có chi phí sản xuất thấp hơn.
Tuy nhiên, lý thuyết về vòng đời sản phẩm vẫn có những hạn chế của nó. Xem xét từ quan điểm nhận thức của người Châu Á và người Châu Âu thì lập luận của Vernon dường như là một quan điểm mang tính vị kỷ dân tộc khi cho rằng hầu hết các sản phẩm được phát minh tại Hoa Kỳ. Mặc dù, có thể đúng là trong suốt giai đoạn nền kinh tế Hoa Kỳ chiếm lĩnh vị trí thống trị trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1975, nhưng không phải điều đó là luôn luôn đúng và vẫn luôn luôn tồn tại những trường hợp ngoại lệ. Những ngoại lệ này dường như ngày càng trở nên phổ biến hơn trong thời gian gần đây. Điều này diễn ra cùng với hoạt động sản xuất phân tán trên toàn cầu, với các bộ phận cấu thành của một sản phẩm mới được sản xuất ở các địa điểm khác nhau trên thế giới mà tại đó có sự kết hợp các chi phí nhân tố và kỹ năng là thuận lợi nhất, sau đó được lắp ráp tại một địa điểm, rồi được phân phối, giới thiệu và tiêu thụ đồng thời tại nhiều thị trường khác nhau thay vì theo tuần tự như lý thuyết của Vernon đề cập. Ví dụ như thiết bị điều khiển video-game, máy tính xách tay, máy ảnh kỹ thuật số được giới thiệu đồng thời tại các thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản cũng như ở một số nước Châu Âu phát triển khác. Như vậy, lý thuyết của Vernon có thể là rất hữu dụng trong việc giải thích mô hình thương mại quốc tế trong một giai đoạn ngắn mà nền kinh tế Hoa Kỳ chiếm vị trí thống trị trên toàn cầu, nhưng những sự phù hợp của nó đối với thế giới hiện đại ngày nay rất hữu hạn.
1.2.6. Lý thuyết thương mại mới
Lý thuyết thương mại mới bắt đầu nổi lên từ thập kỷ 1970 của thế kỷ XX khi mà một số nhà kinh tế đặt vấn đề về giả thuyết hiệu suất giảm dần theo chuyên môn hoá trong lý thuyết về thương mại quốc tế. Theo họ, tồn tại trường hợp hiệu suất tăng dần trong một số ngành kinh tế và lợi ích kinh tế nhờ quy mô chính là một trong các trường hợp đặc biệt của hiệu suất tăng dần. Đây là một trong các yếu tố ảnh hưởng tới mô hình thương mại quốc tế.
Lợi ích kinh tế nhờ quy mô là hiện tượng giảm chi phí đơn vị kết hợp với sản lượng đầu ra tăng cao. Nếu như thương mại quốc tế mang lại kết quả là một nước chuyên môn hoá vào sản xuất một sản phẩm nhất định, và nếu có được lợi ích kinh tế nhờ quy mô trong việc sản xuất sản phẩm này thì khi đó sản lượng đầu ra sẽ tăng lên, và chi phí đơn vị sẽ giảm xuống. Trong trường hợp đó, sẽ xuất hiện lợi ích tăng dần đối với việc chuyên môn hoá chứ không phải là lợi ích giảm dần. Nói cách khác, khi một nước sản xuất nhiều hơn, do đạt được lợi ích kinh tế theo quy mô, năng suất lao động sẽ tăng lên và các chi phí đơn vị sẽ giảm xuống.
Lợi ích kinh tế nhờ quy mô có thể xuất phát từ một số nguồn sau: khả năng dàn trải chi phí cố định cho một sản lượng đầu ra lớn, hoặc khả năng một số lượng lớn các nhà sản xuất tận dụng những nhân công và thiết bị chuyên biệt có năng suất lao động cao hơn các nguồn lực thông thường. Lợi ích kinh tế nhờ quy mô là nguồn quan trọng để giảm chi phí sản xuất trong nhiều ngành khác nhau, từ sản xuất phần mềm máy tính, tới sản xuất ô tô, từ dược phẩm tới ngành công nghiệp vụ trụ. Lấy ví dụ, hãng Microsoft thu được lợi ích kinh tế nhờ quy mô bằng cách dàn trải các chi phí cố định trong phát triển hệ điều hành Windows mới, con số đó vào khoảng 5 tỷ đôla Hoa Kỳ, lên khoảng 250 triệu hoặc nhiều hơn số lượng các máy tính cá nhân cuối cùng sẽ được cài đặt hệ điều hành mới này. Tương tự như vậy, các công ty sản xuất ô tô cũng thu được lợi ích kinh tế nhờ quy mô bằng cách sản xuất với số lượng lớn các loại ô tô từ một dây chuyền chế tạo trong đó mỗi công nhân có một nhiệm vụ chuyên môn hóa cao.
Lý thuyết mới về thương mại cũng lập luận rằng nếu mức sản lượng đầu ra cần thiết để đạt được tính lợi ích kinh tế nhờ quy mô đủ lớn đại diện cho một phần đáng kể của tổng nhu cầu thế giới đối với sản phẩm đó thì thị trường thế giới có thể chỉ hỗ trợ được cho một số hữu hạn các công ty đóng tại một số ít các nước tham gia vào sản xuất mặt hàng này. Những công ty tham gia vào thị trường thế giới đầu tiên sẽ là những công ty giành được lợi thế mà các công ty khác khó lòng có được. Do vậy, một công ty chỉ có thể thống trị trong xuất khẩu một sản phẩm đặc thù mà tính lợi ích kinh tế theo quy mô đóng vai trò quan trọng, và mức sản lượng cần thiết để đạt được tính lợi ích theo quy mô này đại diện cho một phần chủ yếu của tổng sản lượng thế giới, bởi vì đó sẽ là nền tảng cho công ty đầu tiên bước vào ngành công nghiệp.
Về cơ bản, lý thuyết thương mại mới đã nêu ra hai điểm quan trọng: Thứ nhất, thông qua tác động lên lợi ích kinh tế nhờ quy mô, thương mại có thể làm gia tăng mức độ đa dạng của các hàng hóa cung cấp tới người tiêu dùng và giảm bớt chi phí trung bình trên một sản phẩm. Thứ hai, trong những ngành sản xuất khi mà sản lượng làm ra đòi hỏi đạt được tính lợi ích kinh tế nhờ quy mô đại diện cho một tỷ trọng đáng kể tổng nhu cầu của thế giới, thì thị trường toàn cầu chỉ có thể hỗ trợ và tạo điều kiện cho một số ít các công ty tham gia vào mà thôi. Do vậy, thương mại thế giới trong một số sản phẩm nhất định sẽ được thống trị bởi các quốc gia có các công ty là những người đi đầu trong lĩnh vực sản xuất đó.
Tăng độ đa dạng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất
Khi các nước trao đổi thương mại với nhau, các thị trường quốc gia đơn lẻ được kết hợp thành một thị trường thế giới rộng lớn hơn. Các công ty có thể đạt được lợi ích kinh tế nhờ quy mô trên cơ sở thị trường được mở rộng đó. Theo lý thuyết thương mại mới, mỗi nước sẽ có điều kiện để chuyên môn hóa vào sản xuất một nhóm các sản phẩm nhất định mà trong trường hợp không có thương mại khó có thể xảy ra. Đồng thời bằng cách nhập khẩu những sản phẩm nước đó không sản xuất từ những nước khác, một nước có thể đồng thời vừa tăng mức độ đa dạng của sản phẩm cho người tiêu dùng, vừa giảm chi phí của những hàng hóa đó. Như vậy là thương mại đã tạo cơ hội cho các bên cùng có lợi ngay cả khi các nước không hề có sự khác biệt về mức độ sẵn có các nguồn lực hay công nghệ.
Lợi ích kinh tế nhờ quy mô, Lợi thế của người đi trước và Mô hình của thương mại quốc tế
Lý thuyết thương mại mới cũng cho rằng mô hình thương mại mà chúng ta quan sát trên thực tế nền kinh tế thế giới có thể là kết quả của việc đạt được lợi ích kinh tế nhờ quy mô và lợi thế của người đi trước. Những lợi thế của người đi trước là những lợi thế về mặt chiến lược và kinh tế mà những người thâm nhập đầu tiên của một ngành có được. Khả năng giành được lợi thế kinh tế nhờ quy mô lớn hơn so với những người gia nhập sau đó, và như vậy lợi ích thu về từ một cấu trúc chi phí thấp, là một lợi thế của người đi trước hết sức quan trọng. Lý thuyết thương mại mới lập luận rằng đối với những sản phẩm mà lợi thế kinh tế nhờ quy mô là hết sức quan trọng và đại diện một tỷ trọng đáng kể cho nhu cầu của thế giới, thì người gia nhập trước vào ngành đó có thể giành được lợi thế chi phí theo cấp độ mà những người gia nhập sau gần như không có khả năng đuổi kịp. Do vậy, mô hình thương mại mà ta quan sát được đối với những sản phẩm đó phản ánh những lợi thế của người đi trước. Các nước có thể chiếm ưu thế trong xuất khẩu những hàng hóa nhất định bởi vì lợi ích kinh tế nhờ quy mô là rất quan trọng đối với quá trình sản xuất của họ, mang lại cho họ lợi thế của người đi trước.
Nghiên cứu về ngành sản xuất máy bay chở khách thương mại cho thấy rằng lợi ích kinh tế nhờ quy mô trong ngành này đối với bắt nguồn từ khả năng dàn trải chi phí cố định trong tổng chi phí phát triển một sản phẩm mới trên một sản lượng đầu ra lớn. Trên thực tế, để phát triển chiếc siêu máy bay A380 với 550 chỗ ngồi, hãng Airbus đã tiêu tốn khoảng 14 tỷ đôla Hoa Kỳ. Để bù đắp lại chi phí khổng lồ đó và hòa vốn trong kinh doanh loại máy bay này, Airbus sẽ phải bán được ít nhất 250 chiếc A380. Nếu như hãng có thể bán được 350 chiếc thì đây sẽ là một khoản đầu tư có lời. Tuy nhiên, tổng nhu cầu dự báo trong vòng 20 năm tới đối với dòng siêu máy bay này ước tính vào khoảng từ 400 đến 600 chiếc. Nghĩa là, thị trường toàn cầu chỉ có thể tạo điều kiện thu được lợi nhuận cho một nhà sản xuất dòng sản phẩm này và Airbus sẽ là hãng đầu tiên sản xuất siêu máy bay 550 chỗ đạt được lợi ích kinh tế nhờ quy mô. Những nhà sản xuất tiềm năng khác, ví dụ như hãng Boeing, sẽ không có cơ hội tham gia vào thị trường này bởi họ không có được lợi thế kinh tế nhờ quy mô mà hãng Airbus sẽ đạt được. Bằng cách đi tiên phong trong lĩnh vực thị trường siêu máy bay trở khách, Airbus sẽ giành được lợi thế của người đi trước dựa trên việc đạt được lợi ích kinh tế nhờ quy mô, những yếu tố mà đối thủ cạnh tranh của hãng khó có thể theo kịp và kết quả là EU sẽ trở thành nhà xuất khẩu hàng đầu về siêu máy bay chở khách.
Những ý nghĩa của Lý thuyết thương mại mới
Lý thuyết thương mại mới có những ý nghĩa quan trọng. Lý thuyết này gợi ý rằng các nước có thể thu được lợi ích từ hoạt động thương mại ngay cả khi không có sự khác biệt về sự sẵn có các nguồn lực sản xuất hay công nghệ. Thương mại cho phép một nước chuyên môn hóa vào sản xuất những sản phẩm nhất định, đạt được lợi ích kinh tế nhờ quy mô và giảm chi phí sản xuất, đồng thời mua những sản phẩm mà trong nước không sản xuất từ nước vốn cũng chuyên môn hóa vào sản xuất những sản phẩm khác. Bằng cơ chế này, mức độ đa dạng của các sản phẩm dành cho người tiêu dùng sẽ tăng lên trong khi chi phí sản xuất trung bình cho những sản phẩm đó giảm xuống, kéo theo mức giá bán cũng giảm theo, từ đó giải phóng các nguồn lực để sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ khác.
Lý thuyết cũng gợi ý rằng một nước có thể thống trị trong xuất khẩu một loại hàng hóa chỉ đơn giản là vì nước đó đủ may mắn để có được một hoặc một vài công ty trong số những công ty đầu tiên tham gia vào sản xuất hàng hóa đó. Do có khả năng đạt được lợi ích kinh tế nhờ quy mô, những công ty đi đầu trong một ngành sẽ ngăn cản sự gia nhập của những công ty khác sau đó. Khả năng của những người đi đầu trong việc thu lợi từ hiệu suất tăng dần đã tạo ra rào cản cho việc gia nhập ngành.
Lý thuyết thương mại mới có mâu thuẫn với lý thuyết H-O, vốn cho rằng một nước sẽ thống trị trong xuất khẩu một sản phẩm khi nước đó đặc biệt được ưu đãi về những yếu tố sản xuất cần thiết được sử dụng nhiều trong chế tạo sản phẩm đó. Những người ủng hộ lý thuyết thương mại mới lại lập luận rằng nước Hoa Kỳ là nhà xuất khẩu chính về máy bay chở khách thương mại không phải bởi vì nước này có được những ưu đãi về các nguồn lực sản xuất đòi hỏi trong chế tạo máy bay mà bởi vì một trong những công ty đầu tiên gia nhập ngành công nghiệp này, hãng Boeing, là một công ty của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, lý thuyết thương mại mới không hề mâu thuẫn với lý thuyết về lợi thế so sánh. Lợi ích kinh tế nhờ quy mô giúp gia tăng năng suất lao động. Vì thế lý thuyết này xác định được một nguồn gốc quan trọng của lợi thế so sánh.
1.2.7. Lý thuyết về Lợi thế cạnh tranh quốc gia: Mô hình kim cương của Porter
Vào năm 1990, giáo sư Michael Porter của Trường Kinh doanh Harvard đã cho xuất bản những kết quả của một nỗ lực nghiên cứu chuyên sâu nhằm tìm hiểu tại sao một số nước lại thành công còn một số khác lại thất bại trong cạnh tranh quốc tế. Porter và các cộng sự đã nghiên cứu tổng cộng 100 ngành tại 10 quốc gia khác nhau. Giống như những người ủng hộ thuyết thương mại mới, công trình của Porter được định hướng bởi niềm tin rằng các lý thuyết hiện tại về thương mại quốc tế chỉ chỉ ra được một phần của câu chuyện. Đối với Porter, nhiệm vụ cốt yếu là giải thích được tại sao một quốc gia đạt được sự thành công quốc tế trong một ngành cụ thể. Tại sao Nhật Bản rất giỏi trong ngành chế tạo ô tô? Tại sao Thụy sĩ xuất sắc trong sản xuất và xuất khẩu các thiết bị chính xác và các loại dược phẩm? Tại sao Đức và Hoa Kỳ làm rất tốt trong ngành công nghiệp hóa chất? Những câu hỏi này khó thể trả lời được một cách dễ dàng bằng lý thuyết H-O, và lý thuyết về lợi thế so sánh sẽ nói rằng Thụy Sĩ xuất sắc về sản xuất và xuất khẩu các thiết bị chính xác bởi vì nước này sử dụng các nguồn lực của mình rất hiệu quả trong những ngành đó. Mặc dù điều này có thể là chính xác, nhưng lại không giải thích được tại sao Thụy Sĩ năng suất hơn về ngành đó so với các nước khác như Anh, Đức, hoặc Tây Ban Nha. Porter đã cố gắng giải vấn đề nan giải này.
Porter đã xây dựng lý thuyết về bốn thuộc tính lớn của một quốc gia hình thành nên môi trường cạnh tranh cho các công ty tại nước đó, và những thuộc tính này thúc đẩy hoặc ngăn cản sự tạo ra lợi thế cạnh tranh của quốc gia đó (xem Hình 3.4). Những thuộc tính đó là:
- Điều kiện về các yếu tố sản xuất – vị thế của một nước về các yếu tố sản xuất ví dụ như nguồn lao động có kỹ năng hoặc cơ sở hạ tầng cần thiết để cạnh tranh trong một ngành cụ thể.
- Các điều kiện về cầu – nhu cầu trong nước đối với hàng hóa hoặc dịch vụ của một ngành.
- Các ngành hỗ trợ và liên quan – sự hiện diện hoặc không sẵn có của các ngành hỗ trợ và liên quan có năng lực cạnh tranh quốc tế.
- Chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành – các điều kiện quản lý các công ty được tạo ra, tổ chức, và quản trị như thế nào và bản chất của đối thủ cạnh tranh trong nước.
Porter đề cập về bốn thuộc tính này như là bốn yếu tố cấu tạo nên mô hình kim cương. Ông lập luận rằng các công ty có khả năng thành công cao nhất trong những ngành hoặc các phân ngành trong đó mô hình kim cương được thuận lợi nhất. Ông cũng cho rằng mô hình kim cương là một hệ thống tương tác và củng cố lẫn nhau. Tác động của một thuộc tính sẽ phụ thuộc vào tình trạng của các thuộc tính khác. Ví dụ, theo Porter thì các điều kiện về cầu thuận lợi sẽ không mang lại lợi thế cạnh tranh trừ khi tình hình cạnh tranh nội bộ ngành đủ để khiến công ty phải phản ứng lại các điều kiện đó.
Porter cho rằng có hai yếu tố nữa có thể chi phối tới mô hình kim cương của quốc gia theo những cách thức quan trọng khác nhau: đó là cơ hội và chính phủ. Những cơ hội xảy đến, ví dụ những phát minh sáng tạo lớn, có thể tái cấu trúc lại ngành và mang lại cơ hội cho các công ty của một nước vượt lên những công ty khác. Chính phủ, bằng cách lựa chọn các chính sách của mình, có thể làm giảm đi hoặc cải thiện lợi thế quốc gia. Ví dụ, các quy định có thể điều chỉnh các điều kiện về cầu của quốc gia, các chính sách chống độc quyền có thể tác động tới mức độ cạnh tranh nội bộ ngành, và các khoản đầu tư của chính phủ vào giáo dục đào tạo có thể thay đổi điều kiện về các yếu tố sản xuất.
Điều kiện các yếu tố sản xuất
Điều kiện về các yếu tố sản xuất chính là trọng tâm của lý thuyết H-O. Khi mà Porter không đề xuất bất cứ nội dung gì hoàn toàn mới, nhưng ông đã thực sự phân tích kỹ các đặc tính của các yếu tố sản xuất. Ông thừa nhận sự phân cấp của các yếu tố sản xuất, phân biệt giữa các yếu tố cơ bản (ví dụ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý và nhân khẩu học) và các yếu tố tiên tiến (ví dụ, hạ tầng truyền thông, lao động có kỹ năng và trình độ cao, các thiết bị nghiên cứu, và bí quyết công nghệ). Ông lập luận rằng các yếu tố tiên tiến đóng vai trò hết sức quan trọng trong lợi thế cạnh tranh. Không giống như các yếu tố cơ bản được ưu đãi một cách tự nhiên, các yếu tố tiên tiến lại là sản phẩm của sự đầu tư của các cá nhân, các công ty và của chính phủ. Do vậy, các khoản đầu tư của chính phủ vào đào tạo cơ bản và nâng cao, bằng cách cải thiện trình độ kiến thức và kỹ năng chung của dân chúng cũng như kích thích nghiên cứu tiên tến tại các cơ sở giáo dụng cấp cao, có thể giúp nâng cấp các yếu tố tiên tiến của một nước.
Mối quan hệ giữa các yếu tố tiên tiến và cơ bản là mối quan hệ phức hợp. Các nhân tố cơ bản có thể cung cấp lợi thế ban đầu mà sau đó sẽ được củng cố và mở rộng thông qua đầu tư vào các yếu tố tiên tiến. Ngược lại, bất lợi về các yếu tố cơ bản có thể tạo ra những áp lực phải đầu tư vào các yếu tố tiên tiến. Một ví dụ rõ ràng nhất về hiện tượng này là về Nhật Bản, một nước không có nhiều đất trồng trọt và các nguồn khoáng sản, tuy nhiên thông qua đầu tư đã tạo lập được một sự dồi dào rất lớn các yếu tố tiên tiến. Porter lưu ý rằng đội ngũ kỹ sư lành nghề đông đảo ở Nhật Bản (phản ánh thông qua tỷ lệ số lượng người tốt nghiệp có bằng kỹ sư trên bình quân đầu người hơn hẳn bất kỳ nước nào) là nhân tố chủ chốt dẫn tới sự thành công của Nhật Bản trong nhiều ngành công nghiệp chế tạo.
Các điều kiện về Cầu
Porter nhấn mạnh tới vai trò của cầu trong nước trong việc giúp nâng cao lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Thông thường, các công ty thường tỏ ra nhạy cảm nhất với những nhu cầu của những khách hàng ở gần với họ nhất. Do đó, những đặc điểm của nhu cầu thị trường trong nước đặc biệt quan trọng trong việc định hình các thuộc tính của các sản phẩm được chế tạo trong nước và trong việc tạo ra sức ép cho sự sáng tạo đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm. Porter lập luận rằng các công ty của một nước giành được lợi thế cạnh tranh nếu những người tiêu dùng trong nước của họ có được sự sành sỏi và đòi hỏi cao. Những người tiêu dùng như vậy sẽ tạo ra một sức ép lên các công ty trong nước phải đáp ứng những tiêu chuẩn cao về chất lượng sản phẩm cũng như phải sản xuất ra những mẫu mã sản phẩm mới. Một ví dụ về khía cạnh này đó là sự phát triển trong ngành thiết bị liên lạc không dây. Theo nghiên cứu của Porter, chính sự sành sỏi và yêu cầu cao của những người tiêu dùng tại khu vực bán đảo Scandinavia đã giúp thúc đẩy hãng Nokia của Phần Lan và Erricson của Thụy Điển phải đầu tư vào công nghệ điện thoại di động từ rất lâu trước khi nhu cầu về điện thoại này xuất hiện tại các nước phát triển khác. Trường hợp của Nokia sẽ được nghiên cứu sâu hơn trong phần Tiêu điểm quản trị.
Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan
Thuộc tính lớn thứ ba trong lợi thế cạnh tranh quốc gia về một ngành là sự hiện diện của các ngành hỗ trợ và liên quan có sức cạnh tranh quốc tế. Những lợi ích của việc đầu tư vào các yếu tố sản xuất tiên tiến bởi các ngành hỗ trợ và liên quan có thể sẽ lan tỏa sang một ngành, từ đó giúp ngành này đạt được một vị trí cạnh tranh vững mạnh trên thế giới. Sức mạnh của Thụy Điển trong các sản phẩm thép chế biến (ví dụ vòng bi và dụng cụ cắt gọt) đã dựa trên sức mạnh của nước này trong ngành công nghiệp thép đặc biệt. Năng lực dẫn đầu về công nghệ trong ngành công nghiệp bán dẫn của Hoa Kỳ đã cung cấp nền tảng cho sự thành công của nước Hoa Kỳ trong chế tạo máy vi tính cá nhân và một số sản phẩm điện tử công nghệ cao khác. Tương tự như vậy, sự thành công của Thụy Sĩ trong ngành dược phẩm có liên quan chặt chẽ đến những thành công trên thị trường quốc tế của nước này về ngành công nghiệp nhuộm công nghệ cao.
Một kết quả của quá trình này là các ngành thành công trong phạm vi một quốc gia có xu hướng tập hợp với nhau thành các cụm gồm các ngành có liên quan. Đây là một trong những kết quả có tính lan tỏa đáng chú ý nhất trong nghiên cứu của M.Porter. Một trong những cụm như vậy mà Porter đã xác định được đó là ngành dệt may của Đức. Ngành này bao gồm các ngành chế biến bông, len, sợi tổng hợp chất lượng cao, máy khâu, và một loạt các máy móc liên quan tới ngành dệt. Những cụm ngành như vậy là rất quan trọng bởi vì những kiến thức giá trị có thể lưu chuyển giữa các công ty trong cùng một cụm về mặt địa lý, mang lại lợi ích cho tất cả các công ty khác cùng nằm trong cụm đó. Các luồng kiến thức sẽ lưu chuyển khi nhân viên di chuyển giữa các công ty trong phạm vi một khu vực địa lý và khi các hiệp hội ngành quốc gia tập hợp nhân công từ các công ty khác nhau tại các cuộc hội thảo chuyên đề.
Chiến lược, cấu trúc công ty và đối thủ cạnh tranh
Thuộc tính thứ tư của lợi thế cạnh tranh quốc gia trong mô hình của M.Porter đề cập về nội dung chiến lược, cấu trúc và đối thủ cạnh tranh trong phạm vi một quốc gia. Ở đây, Porter chỉ ra hai điểm quan trọng. Thứ nhất, các quốc gia khác nhau được đặc trưng bởi các triết lý quản lý khác nhau giúp hoặc không giúp được gì cho họ trong việc tạo dựng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Porter đã nêu ví dụ về sự phổ biến của các kỹ sư trong giới quản lý cấp cao tại các công ty của Đức và Nhật Bản. Ông cho rằng lý do của hiện tượng này là do các công ty tại hai nước này chú trọng nhấn mạnh vào cải tiến các quy trình sản xuất và thiết kế sản phẩm. Ngược lại, Porter cũng chỉ ra sự phổ biến của những người có hiểu biết về lĩnh vực tài chính trong giới lãnh đạo của nhiều công ty Hoa Kỳ. Ông liên hệ điều này với sự thiếu quan tâm của các công ty Hoa Kỳ tới việc cải tiến các quy trình sản xuất và thiết kế sản phẩm. Theo ông sự thống trị của tài chính dẫn tới sự quá chú trọng vào việc tối đa hóa lợi nhuận tài chính trong ngắn hạn. Và một hậu quả của của những triết lý quản trị này là sự thua cuộc về năng lực cạnh tranh của Hoa Kỳ trong các ngành công nghiệp dựa trên nền tảng cơ khí, những ngành mà trong đó các vấn đề về quy trình chế tạo và thiết kế sản phẩm hết sức quan trọng (ví dụ như ngành công nghiệp chế tạo ô tô).
Điểm thứ hai mà Porter chỉ ra trong nội dung này là sự liên hệ chặt chẽ giữa mức độ cạnh tranh mãnh liệt trong nước và sự sáng tạo và trường tồn của lợi thế cạnh tranh trong một ngành. Mức độ cạnh tranh mạnh mẽ trong nước khiến các công ty phải tìm kiếm các cách cải tiến hiệu quả sản xuất, từ đó làm cho họ trở nên có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đối thủ cạnh tranh trong nước tạo ra sức ép cho sự cải tiến, sáng tạo, nâng cao chất lượng, giảm chi phí và đầu tư vào việc nâng cấp các yếu tố tiên tiến. Tất cả những điều này giúp việc tạo ra các công ty có sức mạnh cạnh tranh ở tầm thế giới. Porter trích dẫn trường hợp của Nhật Bản: Không ở đâu vai trò của các đối thủ cạnh tranh trong nước lại rõ rệt như tại Nhật Bản, nơi mà đó là một cuộc chiến tổng lực với nhiều công ty thất bại trong việc tìm kiếm lợi nhuận. Với mục tiêu nhấn mạnh vào khía cạnh thị phần, các công ty Nhật Bản liên tục nỗ lực không ngừng vượt hẳn lẫn nhau. Tỷ trọng thị phần biến động rất lớn. Quá trình này được đề cập đến rất nhiều trên mạng lưới báo chí kinh doanh. Thứ tự xếp hạng chi tiết đo lường xem những công ty nào quen thuộc nhất với các sinh viên tốt nghiệp đại học. Tỷ lệ ra đời của các sản phẩm và sự phát triển quy trình mới diễn ra không ngừng nghỉ.
Một điểm tương đồng về tác hiệu quả kích thích của mức độ cạnh tranh trong nước có thể được minh họa bằng sự nổi lên của hãng Nokia của Phần Lan trên thị trường thế giới về các thiết bị điện thoại không dây. Để biết chi tiết, xem phần Tiêu điểm quản trị.
Đánh giá lý thuyết của M.Porter
Porter khẳng định rằng mức độ thành công mà một nước có khả năng đạt được trên thị trường thế giới về một ngành nhất định là một hàm số của sự kết hợp các thuộc tính: điều kiện các yếu tố sản xuất, các điều kiện về cầu trong nước, các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan, và các đối thủ cạnh tranh trong nước. Theo ông, sự hiện diện của tất cả bốn thuộc tính là yêu cầu để hình thành lên mô hình kim cương nhằm thúc đẩy năng lực cạnh tranh (mặc dù vẫn tồn tại những ngoại lệ) và ông cũng khẳng định rằng chính phủ có thể can thiệp tới từng thuộc tính trong số bốn thuộc tính thành phần của mô hình kim cương – một cách tích cực hoặc tiêu cực. Điều kiện về yếu tố sản xuất có thể bị ảnh hưởng bởi các khoản trợ cấp, các chính sách đối với thị trường vốn, các chính sách đối với giáo dục, v.v…. Chính phủ có thể xác lập nhu cầu nội địa thông qua các tiêu chuẩn sản phẩm nội địa hoặc bằng các quy định bắt buộc hoặc ảnh hưởng tới nhu cầu của người mua hàng. Chính sách của chính phủ có thể tác động tới các ngành hỗ trợ và liên quan thông qua các quy định và ảnh hưởng tới đối thủ cạnh tranh thông qua các công cụ như quy định trên thị trường vốn, chính sách thuế, và luật chống độc quyền.
Như vậy, theo lý thuyết của M.Porter, các nước nên xuất khẩu những sản phẩm của những ngành mà tại đó cả bốn thành phần của mô hình kim cương có điều kiện thuận lợi, và nhập khẩu trong những lĩnh vực tại đó các thành phần không có điều kiện thuận lợi. Liệu điều này có đúng hay không? Lý thuyết của M.Porter vẫn cần được kiểm chứng bằng nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác nhau. Nội dung phân tích của của lý thuyết chủ yếu dựa trên những tổng kết thực tiễn, nhưng điều này cũng hoàn toàn có thể phát biểu cho các lý thuyết thương mại mới, lý thuyết về lợi thế so sánh, và lý thuyết H-O. Có lẽ chính xác nhất là từng lý thuyết này, vốn lẽ là các nghiên cứu bổ sung lẫn nhau, chỉ giải thích một phần về mô hình của thương mại quốc tế mà thôi.
2. Sự can thiệp của chính phủ đến hoạt động thương mại quốc tế
2.1. Các căn cứ cho sự can thiệp của chính phủ vào thương mại quốc tế
Những căn cứ cho việc chính phủ can thiệp vào hoạt động thương mại quốc tế thường chia làm hai nhóm: các căn cứ có mục đích kinh tế và các căn cứ liên quan tới chính trị. Những căn cứ liên quan tới chính trị thường đề cập tới việc bảo vệ quyền lợi của các nhóm lợi ích nhất định trong một quốc gia và được đánh đổi bởi quyền lợi của các nhóm khác. Còn các căn cứ có mục đích kinh tế cho việc can thiệp của chính phủ thường nhằm mang mang lại lợi ích cho cả người sản xuất, người tiêu dùng cũng như thúc đẩy sự phát triển thịnh vượng cho cả quốc gia.
2.1.1. Căn cứ liên quan tới chính trị
Những lập luận chính trị ủng hộ sự can thiệp của chính phủ gồm có duy trì số lượng việc làm, bảo vệ các ngành công nghiệp được xem là thiết yếu đối với an ninh quốc gia, các biện pháp trả đũa đối với sự cạnh tranh không bình đẳng từ nước ngoài, bảo vệ người tiêu dùng khỏi các sản phẩm “nguy hiểm”, thực hiện các mục tiêu xa hơn trong chính sách đối ngoại, và thúc đẩy sự tiến bộ về quyền con người cho các cá nhân tại các nước xuất khẩu.
Bảo vệ việc làm và các ngành sản xuất trong nước
Có lẽ lập luận chính trị chung nhất cho sự can thiệp của chính phủ vào thương mại quốc tế là sự cần thiết của việc bảo vệ việc làm và các ngành sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh không bình đẳng từ nước ngoài. Một ví dụ là việc áp dụng thuế nhập khẩu đối với sản phẩm thép nhập khẩu của chính quyền tổng thống George W. Bush hồi tháng 3/2002 chính là để phục vụ mục đích này. Lý do khá rõ ràng là bởi vì nhiều nhà sản xuất thép của Hoa Kỳ có cơ sở sản xuất tại các bang mà tổng thống Bush cần thắng trong cuộc tái bầu cử vào năm 2004. Việc áp đặt thuế nhập khẩu này đã đẩy giá bán thép tăng lên đối với người tiêu dùng Hoa Kỳ, như các hãng sản xuất ô tô, khiến sản phẩm của họ trở nên kém cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới.
Động cơ chính trị cũng là nguyên nhân bên trong của việc hình thành Chính sách nông nghiệp chung (CAP) của Liên minh Châu Âu (EU). Chính sách này được hình thành nhằm bảo vệ những người nông dân có quyền lực chính trị mạnh tại nhiều nước Châu Âu thông qua hình thức hạn chế hàng nhập khẩu và đảm bảo mức giá bán ra. Tuy nhiên, mức giá cao do CAP lại khiến cho người tiêu dùng Châu Âu phải chịu thiệt thòi nhiều.
Bảo vệ An ninh quốc gia
Các nước thường lập luận rằng cần thiết phải bảo vệ các ngành sản xuất được xem là thiết yếu đối với an ninh quốc gia của mình. Thực tế này diễn ra đối với cả nhập khẩu và xuất khẩu. Các ngành liên quan tới quốc phòng thường nhận được sự quan tâm như vậy (ví dụ: hàng không vũ trụ, điện tử tiên tiến, chất bán dẫn, v.v…). Mặc dầu không còn phổ biến như trước kia, nhưng hiện nay cách lập luận kiểu này vẫn được vận dụng. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, những người ủng hộ việc bảo hộ ngành sản xuất chất bán dẫn của Hoa Kỳ khỏi sự cạnh tranh từ bên ngoài lập luận rằng hiện nay các chất bán dẫn là một thành phần quan trọng trong các sản phẩm quốc phòng và sẽ là rất nguy hiểm nếu dựa chủ yếu vào các nhà cung cấp nước ngoài về những sản phẩm này. Lĩnh vực nông nghiệp cũng thường nhận được sự bảo hộ từ các chính phủ với lý do đảm bảo anh ninh lương thực bởi vì một quốc gia nhập khẩu lương thực có thể bị nạn đói đe dọa khi chiến tranh xảy ra.
Trả đũa thương mại
Một số lập luận cho rằng các chính phủ nên sử dụng những cảnh báo can thiệp vào chính sách thương mại như là một công cụ mặc cả nhằm giúp mở rộng thị trường nước ngoài và ép buộc các đối tác thương mại “tuân theo luật chơi”. Chính phủ Hoa Kỳ đã sử dụng những cảnh báo trừng phạt thương mại trong nỗ lực ép chính phủ Trung Quốc thực thi các luật về quyền sở hữu trí tuệ tại nước họ. Sự lỏng lẻo trong việc thực thi các luật này đã dẫn tới tình trạng vi phạm bản quyền hàng loạt và ở quy mô lớn ở Trung Quốc, khiến cho các công ty của Hoa Kỳ như Microsoft bị thiệt hại hàng trăm triệu đôla một năm do doanh số bán sụt giảm. Sau khi chính phủ Hoa Kỳ đe dọa áp đặt một mức thuế nhập khẩu lên tới 100% đối với một loạt các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc, đồng thời sau các cuộc đàm phán khá gay gắt của quan chức hai nước, chính phủ Trung Quốc đã chấp thuận thắt chặt hiệu lực thực thi của các quy định về quyền sở hữu trí tuệ tại nước này.
Nếu như những căn cứ với động cơ chính trị cho việc can thiệp của chính phủ là hiệu quả thì có thể sẽ mang lại kết quả là tự do hóa thương mại tăng lên và đi kèm với đó là các lợi ích về mặt kinh tế. Tuy vậy, đây là một chiến lược mạo hiểm. Một quốc gia bị gây áp lực có thể sẽ không chịu khuất phục mà thay vào đó sẽ phản ứng với việc áp đặt thuế quan trừng phạt bằng cách dựng lên các rào cản thương mại của riêng mình. Đó cũng chính là trường hợp chính phủ Trung Quốc đe dọa thực hiện khi phía chính phủ Hoa Kỳ gây sức ép, mặc dù cuối cùng thì phía Trung Quốc cũng đồng ý thực hiện theo yêu cầu. Tuy vậy, nếu như một chính phủ không chịu chấp thuận thì kết cục sẽ là các rào cản thương mại cao hơn ở khắp nơi và thiệt hại kinh tế cho tất cả các bên là không tránh khỏi.
Bảo vệ người tiêu dùng
Nhiều chính phủ từ lâu đã đặt ra những quy định nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi những sản phẩm không an toàn. Tác động gián tiếp của những quy định như vậy thường là hạn chế hoặc cấm việc nhập khẩu các sản phẩm như vậy. Ví dụ vào năm 2003, một số nước gồm Nhật Bản, Hàn Quốc đã quyết định cấm việc nhập khẩu thịt bò của Hoa Kỳ sau chỉ có một trường hợp bệnh bò điên bị phát hiện tại bang Washington. Lệnh cấm này xuất phát từ động cơ bảo vệ người tiêu dùng khỏi những sản phẩm được xem là không an toàn. Và việc Nhật Bản và Hàn Quốc chiếm tỷ trọng khá cao trong doanh thu hàng năm về xuất khẩu thịt bò của Hoa Kỳ (khoảng 2 tỷ đôla Mỹ) nên lệnh cấm đã gây tác động mạnh tới các nhà sản xuất thịt bò tại Hoa Kỳ. Sau hai năm, cả hai nước cũng đã bãi bỏ lệnh cấm, mặc dù áp đặt những yếu cầu hết sức khắt khe đối với thịt bò nhập khẩu từ Hoa Kỳ nhằm giảm thiểu rủi ro nguy cơ từ thịt bò nhiễm bệnh (như Nhật Bản đã yêu cầu rằng tất cả thịt bò nhập khẩu đều phải có nguồn gốc từ những con bò có tuổi dưới 21 tháng).
Một ví dụ khác là việc Liên minh Châu Âu đã cấm bán và nhập khẩu thịt bò có sử dụng hoóc-môn tăng trưởng. Lệnh cấm này cũng xuất phát từ nhu cầu bảo về người tiêu dùng Châu Âu khỏi các hậu quả về sức khỏe có thể có khi ăn các loại thịt từ các động vật chăn nuôi có sử dụng hoóc-môn tăng trưởng. Xung đột về việc nhập khẩu thịt bò sử dụng hoóc-môn tăng trưởng vào thị trường EU cũng thể hiện một xu hướng mới đang xuất hiện. Bên cạnh việc sử dụng hoóc-môn để thúc đẩy sự tăng trưởng của động vật nuôi và sản xuất thịt, công nghệ sinh học đã chứng tỏ rằng có thể tạo ra sự biến đổi gen cho các loại cây trồng để có thể kháng lại các loại thuốc diệt cỏ phổ dụng, tạo ra các loại prôtêin là các loại thuốc trừ sâu tự nhiên, sinh trưởng nhanh cải thiện mùa màng, hoặc chống lại các điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Một giống cà chua biến đổi gen có một gen chống lạnh cấy thêm vào bộ gen và nhờ vậy có thể được trồng tại các vùng có khí hậu lạnh hơn so với hiện nay.
Những thành tựu khoa học về công nghệ biến đổi gen đã gặp phải sự chống đối mạnh mẽ từ các nhóm người tiêu dùng, đặc biệt là tại Châu Âu. Nỗi lo sợ về việc sử dụng tràn lan các loại hạt giống ngô biến đổi gen có thể mang lại những tác động có hại và không lường trước được đến sức khỏe con người hoặc có thể dẫn tới hiện tượng “ô nhiễm gen”. (Một ví dụ của hiện tượng ô nhiễm gen là khi sử dụng rộng rãi các loại cây trồng tạo ra chất kháng sâu tự nhiên có thể sẽ kích thích sự tiến hóa của các loài “siêu sâu bọ” có khả năng đề kháng với tất cả các loại thuốc trừ sâu hiện có). Những sự lo lắng như vậy đã khiến Áo và Lúc-xem-bua loại ra khỏi danh sách được nhập khẩu, kinh doanh hoặc sử dụng các chất hữu cơ biến đổi gen. Thái độ chống lại các thực phẩm biến đổi gen cũng rất mạnh tại một số nước châu Âu khác, đáng chú ý nhất là tại Đức và Thụy Sĩ. Do vậy, dường như là Tổ chức thương mại thế giới (WTO) sẽ không tránh khỏi phải tham gia vào các xung đột giữa những người muốn mở rộng thị trường của mình bằng các loại sản phẩm sinh học biến đổi gen, ví dụ hãng Monsanto, và những ai muốn hạn chế việc này, ví dụ như Áo và Lúc-xem-bua.
Đẩy mạnh các mục tiêu trong chính sách đối ngoại
Các chính phủ đôi khi sử dụng chính sách thương mại để hỗ trợ cho các mục tiêu chính sách đối ngoại của mình. Một chính phủ có thể cho một nước khác hưởng các quy chế thương mại ưu đãi nếu muốn tăng cường quan hệ với nước đó. Chính sách thương mại cũng đã một vài lần được sử dụng để gây sức ép hoặc trừng phạt “những nước đơn độc” không tuân thủ theo luật pháp hoặc tiêu chuẩn quốc tế. I-rắc đã phải vật lộn với lệnh cấm vận thương mại sau khi bị liên quân của Liên hợp quốc đánh bại trong cuộc chiến Vùng Vịnh lần I năm 1991 cho tới khi các quân đội các nước dẫn đầu là Hoa Kỳ xâm chiếm nước này vào năm 2003. Về lý thuyết thì những sức ép như vậy có thể sẽ thuyết phục những quốc gia đơn độc thay đổi con đường của mình, hoặc gấp rút thay đổi chính phủ cầm quyền. Trong trường hợp I-rắc, những lệnh cấm vận được xem là một cách bắt quốc gia này tuân thủ các nghị quyết của Liên hợp quốc. Nước Hoa Kỳ từ lâu cũng đã duy trì lệnh cấm vận thương mại chống lại Cu-Ba. Mục đích chính của lệnh cấm vận này là làm suy yếu Cu-Ba với hy vọng rằng hậu quả của khó khăn về kinh tế sẽ dẫn tới sự sụp đổ của chính quyền cộng sản của nước này và được thay thế bằng một chính phủ hướng về dân chủ hơn (cũng như ủng hộ Mỹ). Nước Hoa Kỳ hiện cũng đang áp đặt lệnh cấm vận thương mại đối với I-ran và Li-bi, hai quốc gia bị cáo buộc ủng hộ chủ nghĩa khủng bố chống lại lợi ích của nước Hoa Kỳ và chế tạo vũ khí hủy diệt hàng loạt. Vào cuối năm 2003, lệnh cấm vận đối với Li-bi dường như đã đạt được kết quả khi đất nước này tuyên bố sẽ hủy bỏ chương trình chế tạo vũ khí hạt nhân, và chính phủ Hoa Kỳ đã đáp lại bằng cách nới lỏng lệnh cấm vận.
2.1.2. Căn cứ kinh tế cho sự can thiệp của Chính phủ
Với sự phát triển của lý thuyết thương mại mới và chính sách thương mại chiến lược, các căn cứ kinh tế cho sự can thiệp của chính phủ đã trải qua giai đoạn phục hưng trong những năm gần đây. Cho tới đầu thập kỷ 1980, hầu hết các nhà kinh tế học thấy rất ít lợi ích của sự can thiệp của chính phủ và đều ủng hộ mạnh mẽ chính sách tự do thương mại. Nhưng quan điểm này đã thay đổi cùng với sự phát triển của chính sách thương mại chiến lược.
Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ
Luận cứ về bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ đến nay được xem là luận cứ kinh tế lâu đời nhất cho sự can thiệp của chính phủ. Nhà kinh tế học Alexander Hamilton đã đề xuất ra lập luận này vào năm 1872. Theo đó, nhiều nước đang phát triển có được lợi thế so sánh tiềm năng trong việc chế tạo nhưng các ngành công nghiệp chế tạo ban đầu không thể cạnh tranh với các ngành công nghiệp đã hình thành từ lâu tại các nước phát triển. Để tạo điều kiện cho ngành công nghiệp chế tạo có được chỗ bám trên thị trường, luận cứ này cho rằng, chính phủ cần tạm thời hỗ trợ cho các ngành công nghiệp mới (bằng thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu và trợ cấp) cho đến khi những ngành này phát triển đủ mạnh để có thể đương đầu với cạnh tranh quốc tế.
Lập luận này có sức hấp dẫn rất lớn đối với chính phủ các nước đang phát triển trong suốt 50 năm qua, và hiệp định GATT đã công nhận luận cứ về ngành công nghiệp non trẻ là một lý do hợp pháp cho chủ nghĩa bảo hộ. Tuy vậy, nhiều nhà kinh tế học vẫn chỉ trích cách lập luận này vì hai lý do. Thứ nhất, việc bảo hộ ngành chế tạo khỏi sự cạnh tranh từ bên ngoài sẽ chẳng mang lại ích lợi gì trừ phi sự bảo hộ giúp ngành đó trở nên hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nhiều trường hợp thực tế cho thấy bảo hộ dường như mang lại rất ít tác dụng mà chỉ thúc đẩy sự phát triển không hiệu quả của các ngành công nghiệp và chẳng đem lại chút hy vọng gì vào khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bra-xin là một ví dụ, nước này đã xây dựng một ngành công nghiệp ô tô lớn thứ 10 trên thế giới đằng sau các hàng rào thuế quan và hạn ngạch. Tuy nhiên, đến khi các hàng rào này không còn nữa vào cuối thập niên 1980, thì hàng nhập khẩu đã tăng mạnh và ngành công nghiệp đã buộc phải đối mặt với một thực tế là sau 30 năm bảo hộ, ngành ô tô của Bra-xin là một trong những ngành kém hiệu quả tại quốc gia này.
Thứ hai, luận cứ về ngành công nghiệp non trẻ dựa chủ yếu trên một giả thuyết rằng các công ty không thể đầu tư có hiệu quả trong dài hạn bằng cách vay tiền từ thị trường vốn trong nước hoặc quốc tế. Kết quả là các chính phủ được yêu cầu phải trợ cấp cho các khoản đầu tư dài hạn. Với sự phát triển của thị trường vốn toàn cầu trong vòng 20 năm qua, giả thiết này không còn chính xác như trước kia được nhìn nhận nữa. Ngày nay, nếu một nước đang phát triển có lợi thế so sánh tiềm năng về một ngành công nghiệp chế tạo, các công ty trong nước đó nên được tạo điều kiện có thể vay vốn từ các thị trường vốn để tài trợ cho các dự án đầu tư cần thiết. Với các khoản hỗ trợ vốn, các công ty tại nước đó sẽ có động lực chịu đựng các khoản lỗ lúc ban đầu để có thể thu lợi về lâu dài mà không cần đòi hỏi sự bảo hộ của chính phủ. Rất nhiều công ty của Đài Loan và Hàn Quốc đã làm như vậy trong các ngành như dệt may, chất bán dẫn, máy công cụ, thép, và đóng tàu. Do đó, với điều kiện thị trường vốn toàn cầu hoạt động hiệu quả, chỉ những ngành nào đòi hỏi sự bảo hộ của chính phủ sẽ là những ngành không đáng đầu tư.
Theo đuổi chính sách thương mại chiến lược
Lập luận về chính sách thương mại chiến lược có hai thành phần. Thứ nhất, lập luận này cho rằng bằng các hành động thích hợp, một chính phủ có thể giúp làm tăng thu nhập quốc dân nếu chính phủ đó có thể đảm bảo ở một mức độ rằng một hoặc một số công ty có khả năng giành được lợi thế của người đi đầu trong một ngành là các công ty trong nước chứ không phải là công ty nước ngoài. Theo đó, chính phủ nên sử dụng các khoản trợ cấp để hỗ trợ cho các công ty triển vọng đang rất năng động trong một ngành công nghiệp đang nổi lên. Những người ủng hộ lập luận này đã chỉ ra rằng chính nhờ lượng tiền hỗ trợ mà chính phủ Hoa Kỳ dành cho hãng Boeing trong hoạt động R&D trong hai thập kỷ 1950 và 1960 có thể đã giúp hãng này vươn lên thành một hãng hàng đầu thế giới về chế tạo máy bay chở khách. Lập luận tương tự cũng được đưa ra khi giải thích sự thống lĩnh của Nhật Bản trong lĩnh vực sản xuất các màn hình tinh thể lỏng (sử dụng trong các máy tích xách tay). Mặc dù những màn hình này được phát minh tại Hoa Kỳ, nhưng chính phủ Nhật Bản, hợp tác với các công ty điện tử lớn, đã xác định ngành này là ngành được đầu tư hỗ trợ nghiên cứu vào cuối thập kỷ 1970 và đầu thập kỷ 1980. Kết quả là các công ty của Nhật Bản chứ không phải các công ty của Hoa Kỳ là những công ty cuối cùng đã giành được những lợi thế của người đi đầu trên thị trường này.
Thành phần thứ hai của lập luận về chính sách thương mại chiến lược là chính phủ có thể thu được lợi khi can thiệp vào một ngành bằng cách giúp đỡ các công ty trong nước vượt qua những rào cản ra nhập ngành do các công ty nước ngoài vốn đã giành được lợi thế của người đi đầu tạo dựng lên. Lập luận này nhấn mạnh sự hỗ trợ của các chính phủ cho tập đoàn Airbus Industries, đối thủ cạnh tranh chủ yếu của hãng Boeing. Được thành lập năm 1966 dưới dạng một liên minh gồm bốn công ty của Anh, Pháp, Đức và Tây Ban Nha, hãng Airbus lúc bắt đầu đi vào sản xuất vào giữa thập kỷ 1970 chỉ chiếm được khoảng 5% thị phần thị trường máy bay phản lực thương mại của thế giới. Cho đến năm 2006, thị phần đó đã lên tới 45% và đe dọa trực tiếp sự thống trị của hãng Boeing trên thị trường này. Làm thế nào mà Airbus đạt được thành quả này? Theo như lập luận từ phía Hoa Kỳ thì câu trả lời là khoản trợ cấp 15 tỷ đôla Hoa Kỳ mà chính phủ các nước Anh, Pháp, Đức và Tây Ban Nha đã dành cho Airbus.Nếu không có khoản trợ cấp đó, hãng Airbus sẽ không thể nào thâm nhập được vào thị trường này.
Nếu như những lập luận trên là đúng, chính phủ các nước sẽ có căn cứ hợp lý để can thiệp vào thương mại quốc tế. Các chính phủ nên nhằm vào các lĩnh vực công nghệ cao vốn rất quan trọng cho tương lai và sử dụng trợ cấp hỗ trợ cho sự phát triển của việc ứng dụng và thương mại hóa các công nghệ đó. Hơn nữa, chính phủ cũng cần cung cấp các khoản trợ cấp xuất khẩu cho đến khi các công ty trong nước thiết lập được những lợi thế của người đi đầu trên thị trường thế giới. Sự hỗ trợ của chính phủ sẽ là chính đáng nếu như sự hỗ trợ đó giúp cho các công ty trong nước vượt qua được những lợi thế của người đi đầu mà các đối thủ cạnh tranh nước ngoài có được và có khả năng trở thành đối thủ tiềm tàng trên thị trường thế giới (giống như trong ví dụ về hãng Airbus và các công ty chế tạo chất bán dẫn). Trong trường hợp này, sự kết hợp giữa bảo hộ thị trường nội địa và trợ cấp thúc đẩy xuất khẩu sẽ là cần thiết.
2.2.Các công cụ chính sách Chính phủ sử dụng can thiệp đến hoạt động thương mại
Các chính phủ thường sử dụng bảy công cụ chính sách để can thiệp tới hoạt động thương mại, đó là: thuế quan, trợ cấp, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER), yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa, các biện pháp hành chính và thuế chống bán phá giá.
Thuế quan là công cụ truyền thống nhất của chính sách thương mại và là công cụ mà GATT và WTO thành công nhất trong việc cắt giảm. Tuy nhiên việc cắt giảm thuế quan trong những thập kỷ gần đây thường đi kèm với sự gia tăng của các hàng rào phi thuế quan, ví dụ như trợ cấp, hạn ngạch, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, và thuế chống bán phá giá.
THUẾ QUAN
Thuế quan là một loại thuế đánh lên hàng nhập khẩu (hoặc xuất khẩu). Thuế quan có hai loại: Thuế đặc định (thuế theo lượng – specific tariff) được tính bằng một khoản cố định trên mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu (ví dụ 3 đôla Hoa Kỳ đối với mỗi thùng dầu thô); Thuế theo giá trị (Ad-valorem tariff) được tính theo tỷ lệ dựa trên giá trị của hàng nhập khẩu. Trong hầu hết các trường hợp, thuế quan đánh trên hàng nhập khẩu nhằm để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh từ nước ngoài bằng cách làm tăng giá bán của hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, thuế quan cũng mang lại nguồn thu cho Chính phủ. Cho tới khi thuế thu nhập được áp dụng, ngân sách của chính phủ Hoa Kỳ được đóng góp chủ yếu bởi thuế quan.
Một điều quan trọng để hiểu rõ về thuế quan là xem xét ai được lợi và ai chịu thiệt khi sử dụng công cụ này. Chính phủ sẽ là người được lợi vì thuế quan mang lại thu nhập cho ngân sách Chính phủ. Các nhà sản xuất trong nước cũng sẽ là những người được lợi bởi vì thuế quan sẽ làm tăng chi phí của hàng hóa nước ngoài nhập khẩu. Người tiêu dùng là người chịu thiệt bởi vì họ phải trả tiền nhiều hơn cho những hàng hóa nhập khẩu nhất định. Ví dụ, vào tháng 3 năm 2002, Chính phủ Hoa Kỳ đã áp đặt một khoản thuế theo giá trị với mức thuế từ 8 đến 30% lên các mặt hàng thép nhập khẩu từ bên ngoài. Mục đích của việc này là nhằm bảo vệ các nhà sản xuất thép trong nước khỏi sự cạnh tranh của thép nhập khẩu giá rẻ. Tuy nhiên, tác động của việc này đã làm tăng giá thép và sản phẩm thép tại Hoa Kỳ từ 30 đến 50%. Một số người tiêu dùng sử dụng sản phẩm thép của Hoa Kỳ, bao gồm từ những nhà chế tạo thiết bị tới các hãng sản xuất ô tô, đã phản đối việc áp dụng trên và cho rằng thuế quan đánh trên thép nhập khẩu sẽ làm tăng chi phí sản xuất của họ khiến họ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trong từng trường hợp lợi ích thu về của chính phủ và các nhà sản xuất nội địa lớn hơn hay nhỏ hơn thiệt hại của người tiêu dùng phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau như mức độ đánh thuế, mức độ quan trọng của hàng nhập khẩu đối với người tiêu dùng trong nước, số lượng việc làm được giữ lại trong ngành được bảo hộ, v.v…. Trong trường hợp của ngành thép kể trên, nhiều người cho rằng thiệt hại của người tiêu dùng vượt xa những lợi ích mà những người sản xuất thu được. Vào tháng 11 năm 2003, WTO đã ra tuyên bố rằng mức thuế mà Hoa Kỳ đánh vào thép nhập khẩu đã vi phạm các nguyên tắc của WTO, và do vậy chính phủ Hoa Kỳ đã bãi bỏ thuế này vào tháng 12 cùng năm.
Một cách tổng quát, phân tích về kinh tế đã rút ra hai kết luận về tác động của thuế quan đối với hàng nhập khẩu. Đầu tiên, thuế quan rõ ràng phục vụ lợi ích của các nhà sản xuất trong nước và không có lợi cho người tiêu dùng. Trong khi thuế quan bảo vệ người sản xuất khỏi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, thì hạn chế về lượng cung cũng đồng thời làm tăng giá cả trong nước. Ví dụ, theo một nghiên cứu các nhà kinh tế học Nhật Bản đã tính toán rằng việc đánh thuế lên các hàng hóa như thực phẩm, Hoa Kỳ phẩm, và các hóa phẩm khác nhập khẩu vào Nhật Bản khiến cho một người tiêu dùng nước này phải trả thêm hàng năm một khoản tiền tương đương 890 đôla Hoa Kỳ do giá cả tăng lên. Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy thuế nhập khẩu làm cho người tiêu dùng phải chịu một khoản chi phí đáng kể do mức giá cả của hàng hóa tăng lên.
Thứ hai, thuế nhập khẩu làm giảm hiệu quả tổng thể của toàn bộ nền kinh tế bởi vì khoản thuế này sẽ khuyến khích các công ty nội địa sản xuất những sản phẩm mà theo lý thuyết có thể được sản xuất một cách hiệu quả hơn ở nước ngoài. Kết quả dẫn đến các nguồn lực không được sử dụng một cách hiệu quả. Ví dụ tại Hàn Quốc, thuế đánh lên gạo nhập khẩu đã kéo theo sự gia tăng sản xuất gạo tại nước này, tuy nhiên, trồng lúa gạo ở đây lại là một cách sử dụng không có hiệu nguồn quả đất đai. Nếu Hàn Quốc mua gạo từ các các nước có chi phí thấp hơn và tận dụng đất đai có được để làm những việc khác, ví dụ như trồng các loại thực phẩm vốn không thể được trồng hiệu quả hơn ở các nước khác hoặc dùng làm đất thổ cư hoặc các mục đích công nghiệp khác thì sẽ có ý nghĩa hơn nhiều.
Đôi khi thuế quan cũng được đánh lên hàng xuất khẩu của một nước tuy nhiên thuế xuất khẩu rất ít khi được sử dụng so với thuế nhập khẩu. Nhìn chung, thuế xuất khẩu có hai mục tiêu: đầu tiên là để mang lại nguồn thu cho ngân sách chính phủ, và thứ hai là để giảm khối lượng xuất khẩu của một ngành, thường vì các lý do chính trị. Ví dụ, vào năm 2004, Trung Quốc áp đặt một mức thuế lên hàng dệt may xuất khẩu. Mục đích cơ bản của việc này là giảm bớt tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may từ Trung Quốc, từ đó là giảm căng thẳng với các đối tác thương mại khác.
TRỢ CẤP
Trợ cấp là khoản tiền mà chính phủ trả cho nhà sản xuất trong nước. Các khoản trợ cấp có thể có nhiều hình thức gồm có các khoản hỗ trợ bằng tiền mặt, các khoản vay với lãi suất thấp, các khoản giảm thuế, hay là chính phủ tham gia mua cổ phần tại các công ty trong nước. Bằng cách giảm các chi phí sản xuất, các khoản trợ cấp giúp cho các nhà sản xuất trong nước theo hai cách: (1) cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu và (2) giành thêm thị phần tại các thị trường xuất khẩu. Theo WTO, các nước đã chi khoảng 300 tỷ đôla Hoa Kỳ cho các khoản trợ cấp vào năm 2005, trong đó, riêng 21 quốc gia phát triển đã chi hết 250 tỷ đôla Hoa Kỳ.
Nông nghiệp có xu hướng là một trong những lĩnh vực thu hút các khoản trợ cấp từ chính phủ lớn nhất tại hầu hết các quốc gia. Vào giữa thập niên 2000, Liên minh Châu Âu (EU) đã chi khoảng 44 tỷ Euro hàng năm (tương đương khoảng 55 tỷ đôla Mỹ) cho các khoản trợ cấp nông sản. Cũng không kém về quy mô, vào tháng 5/2002, tổng thống G.W.Bush đã ký một đạo luật thông qua khoản trợ cấp 180 tỷ đôla cho các nông dân Hoa Kỳ trong vòng 10 năm. Năm 2005, khoản trợ cấp nông sản của Hoa Kỳ đã lên tới chừng 23 tỷ đôla. Nhật Bản cũng là nước từ lâu đã thực hiện trợ cấp nông sản cho các nhà sản xuất trong nước.
Các khoản trợ cấp phi nông nghiệp thường thấp hơn nhiều so với trợ cấp nông nghiệp nhưng vẫn là những con số đáng kể. Ví dụ, các khoản trợ cấp trước kia dành cho hai hãng Boeing và Airbus đã giúp cho hai hãng này giảm được chi phí phát triển các mẫu máy bay chở khách mới. Trong trường hợp của Boeing, các khoản trợ cấp được thực hiện dưới dạng các khoản tín dụng thuế dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) hoặc số tiền mà Lầu Năm Góc sử dụng để phát triển công nghệ quốc phòng và sau đó được chuyển giao cho các dự án hàng không dân dụng. Còn trong trường hợp của Airbus thì các khoản trợ cấp lại dưới dạng các khoản cho vay của chính phủ với mức lãi suất thấp hơn mặt bằng của thị trường.
Lợi ích chính của các khoản trợ cấp sẽ thuộc về các nhà sản xuất trong nước khi mà sức cạnh tranh của họ trên thị trường quốc tế tăng lên như là một kết quả của các khoản trợ cấp đó. Những người theo thuyết chính sách thương mại chiến lược ủng hộ các khoản trợ cấp nhằm giúp cho các công ty trong nước chiếm lĩnh được vị trí thống trị trong những ngành mà lợi thế kinh tế nhờ quy mô là yếu tố quan trọng và thị trường thế giới không đủ lớn để mang lại lợi nhuận cho nhiều hơn một vài công ty (ngành hàng không vũ trụ, chất bán dẫn là hai ngành như vậy). Theo lập luận này, các khoản trợ cấp sẽ giúp một công ty đạt được lợi thế của người đi trước trong một ngành đang nổi lên (giống như các khoản trợ cấp của chính phủ Hoa Kỳ dưới dạng các khoản đầu tư vào R&D được cho là đã giúp cho hãng Boeing). Nếu như đạt đuợc điều này thì các lợi ích khác đối với nền kinh tế trong nước ngoài lượng việc làm và nguồn thu từ thuế còn là một công ty tầm cỡ thế giới có thể được tạo lập. Tuy nhiên, các khoản trợ cấp mà chính phủ phải trả lại thường thu được từ việc đánh thuế các cá nhân cũng như các công ty trong nước.
Vẫn còn nhiều tranh cãi về liệu lợi ích quốc gia mà các khoản trợ cấp mang lại có lớn hơn những chi phí mà quốc gia đó phải bỏ ra thực hiện trợ cấp. Trên thực tiễn, nhiều khoản trợ cấp không thành công trong việc gia tăng sức cạnh tranh quốc tế của các nhà sản xuất trong nước. Mà ngược lại, những khoản trợ cấp này lại có xu hướng bảo vệ cho sự không hiệu quả và thúc đẩy sự dư thừa trong sản xuất. Ví dụ như các khoản trợ cấp nông nghiệp, như trợ cấp cho trồng bông đã nghiên cứu trong tình huống mở đầu chương, (1) cho phép những người nông dân không hiệu quả có thể tiếp tục sản xuất, (2) khuyến khích các nước sản xuất quá mức nhu cầu về các nông sản được trợ cấp, (3) khuyến khích các nước sản xuất những sản phẩm mà đáng nhẽ ra có thể được sản xuất rẻ hơn ở nơi khác, sau đó nhập khẩu về, và do đó (4) giảm quy mô của thương mại quốc tế về hàng nông sản. Một nghiên cứu ước tính rằng nếu như các nước phát triển bỏ các khoản trợ cấp nông nghiệp thì thương mại hàng nông sản trên toàn cầu sẽ tăng hơn mức trước tới 50% và thế giới sẽ thu thêm được một khoản tiền là 160 tỷ đôla Hoa Kỳ. Một nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng nếu loại bỏ tất cả các hàng rào trong thương mại hàng nông sản (cả thuế nhập khẩu và các khoản trợ cấp) thì thu nhập của toàn thế giới sẽ tăng thêm 182 tỷ đôla Hoa Kỳ. Lượng tăng này xuất phát từ việc sử dụng hiệu quả hơn diện tích đất nông nghiệp.
HẠN NGẠCH NHẬP KHẨU VÀ HẠN CHẾ XUẤT KHẨU TỰ NGUYỆN (VER)
Hạn ngạch nhập khẩu là hạn chế trực tiếp về số lượng một số hàng hóa được nhập khẩu vào một nước. Hạn chế này thường được thực hiện dưới dạng ban hành các giấy phép nhập khẩu cho một nhóm các cá nhân hoặc công ty. Ví dụ, Hoa Kỳ áp dụng hạn ngạch đối với pho-mát nhập khẩu theo đó chỉ các công ty thương mại được cho cấp phép mới được tham gia nhập hàng và hàng năm chỉ được phân bổ một khối lượng pho-mát nhập khẩu tối đa nhất định. Trong một số trường hợp thì quyền nhập khẩu và bán hàng lại được trao trực tiếp cho chính phủ của nước xuất khẩu, ví dụ như trường hợp nhập khẩu đường của Hoa Kỳ. Thỏa thuận quốc tế về áp đặt hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may, Hiệp định đa sợi (MFA), đã hết hiệu lực từ tháng 12/2004.
Một hình thức kết hợp thường thấy giữa hạn ngạch và thuế quan được biết đến đó là hạn ngạch thuế quan (tariff rate quota). Theo hình thức này thì một mức thuế quan thấp hơn sẽ được áp dụng cho lượng hàng hóa nhập khẩu trong giới hạn của hạn ngạch so với lượng hàng nhập khẩu vượt khỏi hạn ngạch. Ví dụ, một mức thuế theo giá trị là 10% được đánh lên gạo nhập khẩu vào Hàn Quốc trong hạn mức 1 triệu tấn, còn lượng gạo vượt ra khỏi hạn mức 1 triệu tấn đó sẽ chịu mức thuế suất cao hơn hẳn là 80%. Như vậy, nếu Hàn Quốc nhập khẩu 2 triệu tấn gạo thì 1 triệu tấn sẽ chịu thuế suất 10% còn 1 triệu tấn còn lại chịu thuế suất 80%. Hạn ngạch thuế quan được áp dụng nhiều trong nông nghiệp với mục đích hạn chế lượng nhập khẩu vượt quá hạn mức cho phép.
Một hình thức khác của hạn ngạch nhập khẩu là Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER). Đó là cách quy định một mức hạn ngạch được áp dụng bởi nước xuất khẩu, và thường là theo yêu cầu của chính phủ nước nhập khẩu. Một trong những ví dụ nổi tiếng trong lịch sử về VER là hạn chế về số lượng ô tô xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ của các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản vào năm 1981. Trước sức ép từ chính phủ Hoa Kỳ, Nhật Bản đã phải cam kết hạn chế lượng ô tô xuất khẩu sang thị trường này ở số lượng không vượt quá 1,68 triệu chiếc một năm. Định mức này đã được nâng lên thành 1,85 triệu chiếc vào năm 1984. Đến năm 1985, đáng lẽ thỏa thuận này hết hiệu lực pháp lý nhưng chính phủ Nhật Bản vẫn giữ nguyên mức 1,85 triệu chiếc do lo ngại các căng thẳng về thương mại có thể phải đối mặt nếu tăng con số này lên.
Cũng giống như thuế quan và trợ cấp, cả hạn ngạch nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER) đều mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất nội địa dựa trên việc hạn chế sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. Một hạn ngạch nhập khẩu hoặc VER luôn làm tăng giá bán trong nước của hàng nhập khẩu. Khi thị phần của hàng nhập khẩu được giới hạn ở một tỷ lệ phần trăm nhất định bởi việc áp dụng hạn ngạch và VER thì kéo theo mức giá sẽ tăng lên tương ứng với mức cung từ bên ngoài bị giới hạn đó. Trường hợp hạn chế xuất khẩu tự nguyện đối với ô tô Nhật Bản đề cập ở trên đã làm tăng giá bán của mặt hàng này tại thị trường Hoa Kỳ. Theo một nghiên cứu của Ủy ban thương mại liên bang Hoa Kỳ, hạn chế xuất khẩu tự nguyện đối với ô tô đã khiến người tiêu dùng Hoa Kỳ phải trả thêm khoảng 1 tỷ đôla Hoa Kỳ mỗi năm trong khoảng thời gian từ năm 1981 đến 1985. Khoản tiền này sẽ chảy vào túi của các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản dưới hình thức giá bán cao hơn. Lợi nhuận phụ trội mà các nhà sản xuất thu được khi mức cung bị giới hạn một cách giả tạo bởi hạn ngạch nhập khẩu được gọi là tiền thuê hạn ngạch (quota rent).
Nếu như ngành sản xuất trong nước không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu thì hạn ngạch nhập khẩu có thể làm tăng giá đối với cả hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu. Điều này trên thực tế đã xảy ra trong ngành sản xuất đường của Hoa Kỳ khi mà hạn ngạch thuế quan trong một thời gian dài đã hạn chế lượng đường mà các nhà sản xuất nước ngoài có thể bán trên thị trường nước Hoa Kỳ. Theo một nghiên cứu, các hạn ngạch nhập khẩu đã làm cho giá đường ở Hoa Kỳ cao hơn tới 40% so với mức giá thế giới. Các mức giá cao hơn đó chuyển hóa thành lợi nhuận nhiều hơn cho các nhà sản xuất đường của Hoa Kỳ, những người vốn đã thực hiện vận động hành lang đối với các chính trị gia để giữ được các thỏa thuận hấp dẫn đó. Họ lập luận rằng nếu như hệ thống hạn ngạch của đường bị loại bỏ thì việc làm của nước Hoa Kỳ trong ngành đường sẽ mất về tay các nhà sản xuất nước ngoài.
YÊU CẦU VỀ HÀM LƯỢNG NỘI ĐỊA
Một yêu cầu về hàm lượng nội địa là cách qui định một tỷ lệ nào đó của hàng hóa phải được sản xuất trong nước. Yêu cầu này có thể được biểu hiện dưới dạng hàm lượng vật chất (ví dụ 75% của các phần linh kiện của sản phẩm phải được sản xuất trong nước) hoặc dưới dạng tỷ lệ giá trị (ví dụ 75% giá trị của sản phẩm phải được sản xuất trong nước). Các nước đang phát triển thường sử dụng hình thức này để chuyển đổi nền sản xuất của họ từ chế tạo các sản phẩm được lắp ráp giản đơn với thành phần được sản xuất ở nhiều nước khác nhau sang sử dụng các linh, phụ kiện được chế tạo trong nước. Biện pháp này cũng đã từng được các nước phát triển sử dụng trong nỗ lực nhằm bảo vệ lượng việc làm của nước mình, cũng như bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước sức ép cạnh tranh từ bên ngoài. Đạo luật Mua hàng của Hoa Kỳ quy định rằng các cơ quan của chính phủ Hoa Kỳ cần phải ưu tiên đối với việc mua các sản phẩm do Hoa Kỳ sản xuất khi đưa các hợp đồng mua thiết bị tham gia đấu thầu trừ khi các sản phẩm nước ngoài có lợi thế hơn hẳn về giá cả. Đạo luật này cũng chỉ rõ rằng một sản phẩm được xem là “của Mỹ” nếu như 51% giá trị nguyên liệu được sản xuất tại Hoa Kỳ. Con số này thể hiện một yêu cầu về hàm lượng địa phương. Nếu một công ty nước ngoài, hoặc một công ty Hoa Kỳ muốn giành được hợp đồng cung cấp thiết bị cho một cơ quan của chính phủ Hoa Kỳ thì phải đảm bảo rằng ít nhất 50% giá trị của sản phẩm phải được chế tạo tại Hoa Kỳ.
Các quy định về hàm lượng địa phương cung cấp một biện pháp bảo vệ đối với những nhà sản xuất linh phụ kiện trong nước giống như với cách mà các hạn ngạch nhập khẩu mang lại: đó là hạn chế sự cạnh tranh từ nước ngoài. Các tác động kinh tế tổng thể của các biện pháp này cũng tương tự nhau: mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất trong nước, nhưng những hạn chế nhập khẩu làm tăng giá của các phụ kiện nhập khẩu. Đến lượt mình, giá phụ kiện tăng được chuyển sang cho người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng dưới hình thức các mức giá bán ra cuối cùng cao hơn. Vì vậy, giống như tất cả các chính sách thương mại khác, các yêu cầu về hàm lượng địa phương/nội địa đều có xu hướng mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất chứ không phải cho người tiêu dùng.
BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH
Bên cạnh các công cụ chính sách thương mại chính thức, các chính phủ thuộc nhiều hình thái khác nhau đôi khi sử dụng các biện pháp hành chính hay các chính sách không chính thức để hạn chế nhập khẩu và thúc đẩy xuất khẩu. Các biện pháp hành chính là các quy định có tính quan liêu được tạo ra nhằm gây khó khăn cho hàng nhập khẩu khi thâm nhập vào một nước. Người ta cho rằng Nhật Bản là quốc gia bậc thầy trong việc sử dụng các rào cản thương mại loại này. Trong những thập kỷ gần đây, hàng rào thuế quan và phi thuế quan chính thức của Nhật Bản nằm trong mức thấp nhất trên thế giới. Tuy nhiên, những người chỉ trích chỉ ra rằng những hàng rào hành chính phi chính thức của nước này đối với hàng nhập khẩu đã bù đắp cho mức thuế quan thấp quá mức cần thiết. Hãng chuyển phát nhanh liên bang (Federal Express) của Hoa Kỳ ban đầu cũng tốn rất nhiều thời gian để mở rộng dịch vụ giao hàng chuyển phát nhanh của mình sang thị trường Nhật Bản bởi vì những nhân viên kiểm tra hải quan của Nhật luôn mở một tỷ lệ rất lớn các gói hàng chuyển phát nhanh nhằm kiểm tra tài liệu văn hóa phẩm đồi trụy, một việc gây ra sự chậm trễ cho các gói hàng “chuyển phát nhanh” nhiều ngày liền. Tuy vậy, Nhật Bản không phải là nước duy nhất sử dụng các biện pháp như trên. Nước Pháp cũng đã từng yêu cầu tất cả các máy quay video nhập khẩu phải đi qua một cửa hải quan riêng vừa xa vừa được trang bị và phục vụ kém nhằm gây khó dễ. Và quy định này đã khiến cho máy quay video của Nhật đứng ngoài thị trường Pháp cho tới khi một thỏa thuận về hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER) được đàm phán giữa hai nước. Cũng giống như các công cụ khác trong chính sách thương mại, các biện pháp hành chính mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất và gây thiệt hại cho người tiêu dùng, những người bị ngăn cản không cho tiếp cận với các sản phẩm nước ngoài có thể ưu việt hơn.
Các chính sách chống bán phá giá
Trong bối cảnh thương mại quốc tế, bán phá giá được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau như là việc bán hàng hóa tại thị trường nước ngoài tại mức giá dưới mức chi phí sản xuất hoặc dưới mức giá “hợp lý” của thị trường. Có sự khác biệt giữa hai định nghĩa này: mức giá “hợp lý” của thị trường của một hàng hóa thường được cho là lớn hơn mức chi phí sản xuất của hàng hóa đó vì bao gồm cả một mức lợi nhuận “hợp lý”. Bán phá giá được xem là một cách để các công ty giải tỏa khả năng sản xuất dư thừa tại thị trường nước ngoài. Một số hành động bán phá giá được coi là hành vi bán phá giá tấn công (predatory behavior) khi các nhà sản xuất sử dụng phần lớn lợi nhuận thu được từ thị trường nội địa để trợ cấp cho việc giảm giá bán tại thị trường nước ngoài nhằm mục đích loại bỏ các đối thủ cạnh tranh bản địa khỏi thị trường. Và khi đạt được mục đích này rồi, công ty bán phá giá tấn công sẽ lại tăng giá lên và thu về lợi nhuận đáng kể.
Các chính sách chống bán phá giá được xây dựng để trừng phạt những công ty nước ngoài liên quan tới hành động này. Mục tiêu duy nhất là nhằm bảo vệ các nhà sản xuất nội địa khỏi sự cạnh tranh bất bình đẳng từ các công ty nước ngoài. Mặc dù các chính sách chống bán phá giá là khác nhau giữa các nước, nhưng phần lớn đều tương tự với những chính sách được sử dụng tại nước Hoa Kỳ. Nếu như một công ty nội địa tin rằng một công ty nước ngoài đang bán phá giá trên thị trường Hoa Kỳ, công ty đó có thể đệ đơn kiện lên hai cơ quan chính phủ là Bộ Thương mại và Ủy ban thương mại quốc tế. Hai cơ quan này sẽ tiến hành điều tra vụ việc và nếu như những gì được kiện lên là đúng, Bộ Thương mại có thể sẽ áp đặt một mức thuế chống bán phá giá lên hàng nhập khẩu vi phạm của phía nước ngoài. Những loại thuế quan đặc biệt này có thể khá cao và kéo dài tới tận 5 năm.
3. Sự phát triển của hệ thống thương mại thế giới
Nhiều lập luận kinh tế ủng hộ mạnh mẽ hệ thống thương mại tự do. Tuy nhiên, cho dù chính phủ nhiều nước đều nhận thấy giá trị của luận cứ này nhưng họ lại không muốn đơn phương giảm bớt các rào cản thương mại vì sợ rằng các nước khác có thể không thực hiện những điều tương tự. Trên thực tế, tình huống trên đã xảy ra trong quan hệ thương mại giữa hai nước láng giềng là Bra-xin và Ác-hen-ti-na. Bản chất của vấn đề chính là do thiếu lòng tin của các bên. Sự bế tắc trên có thể được giải quyết nếu như cả hai nước tiến hành đàm phán về các nguyên tắc kiểm soát thương mại qua biên giới cũng như việc cắt giảm hàng rào bảo hộ giữa hai nước. Nhưng liệu ai sẽ là người giám sát các chính phủ để đảm bảo rằng họ tuân thủ theo đúng các nguyên tắc thương mại? Và ai sẽ là người áp đặt lệnh cấm vận lên chính phủ vi phạm? Cả hai chính phủ có thể thiết lập một cơ quan giám sát độc lập hoạt động với tư cách của một trọng tài. Cơ quan trọng tài này có thể giám sát thương mại giữa hai nước, đảm bảo rằng không bên nào đánh lừa bên kia và sẽ áp đặt lệnh trừng phạt/cấm vận lên quốc gia nào vi phạm luật chơi.
Trong lúc dường như không một chính phủ nào muốn thỏa hiệp về chủ quyền quốc gia theo một thỏa thuận như vậy, kể từ Thế chiến II một định chế thương mại quốc tế đã ra đời và phát triển mang những đặc tính như đã kể trên. Trong vòng 50 năm đầu tiên, định chế này được biết dưới tên Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT). Kể từ năm 1995, hiệp định này đã chuyển đổi thành Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong phần này, chúng ta sẽ cùng xem xét sự phát triển và hoạt động của cả GATT và WTO.
1.1. Từ thời kỳ của A.Smith tới Đại suy thoái ở Hoa Kỳ (1929-1933)
Lý thuyết kinh tế về thương mại tự do được đề cập tới từ cuối thế kỷ 18 với các nghiên cứu của Adam Smith và David Ricardo. Thương mại tự do dưới dạng chính sách của chính phủ lần đầu tiên được áp dụng ở Liên hiệp Anh vào năm 1846, khi Quốc hội Anh thay thế Luật hạn chế nhập khẩu ngô vào nước này (gọi tắt là Đạo luật về ngô). Đạo luật này áp đặt một mức thuế quan cao đối với mặt hàng ngô nhập khẩu với mục tiêu làm tăng thu nhập của ngân sách chính phủ và bảo hộ những người nông dân trồng ngô của Anh. Kể từ những năm 1820 khi David Ricardo là một thành viên thì tại của Quốc hội Anh hàng năm luôn có những đợt vận động ủng hộ tự do thương mại. Tuy nhiên, bảo hộ nông nghiệp chỉ được rút bỏ sau khi diễn ra một cuộc tranh luận kéo dài về tác động của mùa màng thất bát ở Anh kết hợp sự đe dọa của nạn đói tại Ai-len. Phải đối mặt với những khó khăn và khổ cực của dân chúng, Quốc hội Anh đã thay đổi lại quan điểm vốn không thay đổi từ lâu.
Trong khoảng thời gian khoảng 80 năm sau đó, nước Anh, với tư cách là một cường quốc thống trị thương mại lúc đó, đã thúc đẩy tiến trình tự do hóa hoạt động này; còn chính phủ Anh chỉ có tiếng nói rất yếu ớt. Các đối tác thương mại lớn của Anh không đáp lại chính sách của Anh về đơn phương thực hiện tự do hóa. Lý do duy nhất để nước Anh duy trì chính sách của mình trong một thời gian dài vì nước này là quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới lúc đó, nên nếu chiến tranh thương mại xảy ra thì phần thiệt hại sẽ lớn hơn so với lợi thu về hơn bất kỳ nước nào khác.
Cho đến thập kỷ 1930, những nỗ lực của Anh trong việc thúc đẩy tự do hóa thương mại đã bị chôn vùi khi xảy ra cuộc Đại suy thoái kinh tế. Nguồn gốc của cuộc Đại khủng hoảng chính là do sau Thế chiến thứ nhất vào năm 1918 nền kinh tế thế giới không thể phục hồi lại như ban đầu. Mọi thứ trở nên tồi tệ hơn vào năm 1929 với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Hoa Kỳ và kéo theo đó là của hệ thống ngân hàng nước này. Các vấn đề về kinh tế lại càng phức tạp thêm khi vào năm 1930 Quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật Smoot-Hawley nhằm dựng lên một bức tường thuế quan rất cao đối với hàng nhập khẩu. Hầu hết tất cả các ngành của Hoa Kỳ đều hưởng lợi từ hàng rào thuế quan này. Nhưng có một khía cạnh phi lý của hàng rào thuế quan Smoot-Hawley là nước Hoa Kỳ lúc đó đang có cán cân thanh toán thặng dư và là nước chủ nợ lớn nhất trên thế giới. Đạo luật Smoot-Hawley đã có tác động tàn phá tới việc làm ở nước ngoài. Các nước khác phản ứng với hành động của nước Hoa Kỳ bằng cách cũng nâng cao hàng rào thuế quan của nước mình. Ngay lập tức xuất khẩu của Hoa Kỳ sụt giảm nhanh chóng và thế giới trượt sâu hơn vào cuộc Đại khủng hoảng.
1.2. Giai đoạn 1947-1979: GATT, Tự do hóa thương mại và Tăng trưởng kinh tế
Những tổn hại về kinh tế gây ra bởi các chính sách “lợi ta hại người” mà đạo luật Smoot-Hawley mở đầu đã tạo ra một sự ảnh hưởng sâu rộng lên các tư tưởng và thể chế kinh tế trên thế giới thời kỳ sau Thế chiến thứ II. Nước Hoa Kỳ nổi lên với tư cách cường quốc thắng trận và cả là nước thống trị về mặt kinh tế. Sau sự sụp đổ hoàn toàn trong cuộc Đại suy thoái, các ý kiến trong Quốc hội Hoa Kỳ đã chuyển mạnh sang hướng ủng hộ tự do thương mại. GATT đã được thành lập với sự dẫn đầu của Hoa Kỳ vào năm 1947.
GATT là một hiệp định đa phương với mục tiêu tự do hóa thương mại bằng cách loại bỏ các thuế quan, trợ cấp, hạn ngạch nhập khẩu và những hàng rào tương tự. Số lượng thành viên của GATT đã tăng từ 19 tới hơn 120 nước kể từ khi được thành lập năm 1947 cho tới khi được tiếp nối bằng Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 1995. GATT không cố gắng đạt được sự tự do hóa thương mại chỉ bằng một lần cắt giảm, điều vốn dĩ là không thể xảy ra. Thay vào đó, việc cắt giảm thuế quan được rải ra trong suốt tám vòng đàm phán. Vòng đàm phán cuối cùng, vòng Uruguay, bắt đầu từ năm 1986 và kết túc vào tháng 12/1993. Trong các vòng đàm phán này, việc cắt giảm thuế quan lẫn nhau được đàm phán giữa tất cả các nước thành viên, những nước sau đó đã cam kết không tăng thuế nhập khẩu lên quá mức cam kết. Những quy định của GATT được đảm bảo có hiệu lực bằng một cơ chế giám sát lẫn nhau. Nếu như một nước cho rằng nước đối tác vi phạm quy định của GATT, nước này có thể yêu cầu cơ quan điều hành GATT đóng tại Geneve (Thụy Sĩ) điều tra. Nếu cơ quan này của GATT thấy rằng sự khiếu nại là đúng sự thật, các nước thành viên có thể sẽ được yêu cầu gây sức ép nước vi phạm phải thay đổi chính sách của mình. Nhìn chung, những sức ép như vậy đủ để khiến cho nước vi phạm phải thay đổi chính sách của họ. Còn nếu không chấp thuận, nước đó sẽ bị khai trừ khỏi GATT.
Trong những năm đầu, GATT hoạt động rất thành công. Mức thuế quan trung bình đã giảm gần 92% tại Hoa Kỳ trong khoảng thời gian từ vòng đàm phán Geneve năm 1947 đến vòng đàm phán Tokyo năm 1973-79. Phù hợp với những lập luận lý thuyết đưa ra bởi D.Ricardo, sự vận động hướng tới tự do thương mại theo hệ thống của GATT rõ ràng đã kích thích tăng trưởng kinh tế. Từ năm 1953 đến năm 1963, thương mại thế giới đã tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 6,1%, tổng thu nhập của thế giới tăng trưởng với mức tăng trung bình là 4,3%/năm. Giai đoạn từ năm 1963 đến 1973 thì tốc độ tăng còn tốt hơn với mức tăng trung bình 8,9%/năm đối với thương mại toàn cầu và 5,1%/năm đối với tổng thu nhập thế giới.
1.3. Giai đoạn 1980-1993: Các xu hướng bảo hộ
Trong giai đoạn thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990, hệ thống thương mại thế giới vốn được dựng lên bởi GATT rơi vào tình thế căng thẳng khi sức ép từ xu hướng bảo hộ gia tăng trên khắp thế giới. Ba nguyên nhân có thể xem là lý do dẫn đến tình trạng này trong thập kỷ 1980. Đầu tiên phải kể đến là sự thành công trong kinh tế của Nhật Bản đã dẫn tới những căng thẳng trong hệ thống thương mại thế giới. Khi GATT được thành lập, nước Nhật vẫn còn đang trong tình trạng bị tàn phá bởi chiến tranh. Tuy nhiên, đến đầu thập kỷ 1980, nước này đã trở thành nền kinh tế đứng thứ hai thế giới với tổng kim ngạch xuất khẩu rất lớn. Sự thành công của Nhật Bản trong các ngành công nghiệp như chế tạo ô tô và chất bán dẫn có lẽ cũng đủ để gây ra căng thẳng trong hệ thống thương mại thế giới. Tình trạng này còn trầm trọng hơn bởi quan điểm rộng rãi tại phương Tây cho rằng mặc dù có hàng rào thuế quan và trợ cấp rất thấp, thị trường Nhật Bản vẫn đóng lại đối với hàng nhập khẩu và đầu tư nước ngoài bởi các rào cản thương mại hành chính.
Thứ hai, hệ thống thương mại thế giới bị ảnh hưởng bởi thâm hụt thương mại triền miên của nền kinh tế lớn nhất thế giới là nước Hoa Kỳ. Mặc dầu, mức thâm hụt này đạt mức cao nhất vào năm 1987 với hơn 170 tỷ đô-la, cho đến cuối năm 1992, mức thâm hụt hàng năm vẫn ở khoảng 80 tỷ đô-la Hoa Kỳ. Từ khía cạnh chính trị, vấn đề trở nên trầm trọng hơn vào năm 1992 khi mức thâm hụt trong thương mại với Nhật Bản, vốn được xem là nước không tuân thủ luật chơi chung trên thị trường thế giới, thêm 45 tỷ đô-la Hoa Kỳ. Hậu quả của việc thâm hụt cán cân thương mại của Hoa Kỳ là dẫn tới những điều chỉnh hết sức chật vật trong các ngành như sản xuất xe hơi, máy công cụ, chất bán dẫn, thép và ngành dệt, những ngành mà các nhà sản xuất trong nước đang mất dần thị phần vào tay các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Tình trạng thất nghiệp tăng cao đã lại làm dấy lên nhu cầu đòi hỏi phải bảo hộ các ngành sản xuất nội địa trước hàng nhập khẩu trong quốc hội Hoa Kỳ.
Lý do thứ ba dẫn tới xu hướng bảo hộ nhiều hơn là do có nhiều nước đã tìm được cách tránh được các quy định của GATT. Các hạn chế xuất khẩu song phương, VER, đã làm các thỏa thuận của GATT trở nên kém hiệu lực, do cả hai phía nước nhập khẩu và nước xuất khẩu đều không khiếu nại lên cơ quan điều hành của GATT tại Geneve – và không có khiếu nại thì cơ quan này cũng chẳng can thiệp được điều gì. Các nước xuất khẩu đồng tình với việc áp dụng VER nhằm tránh những mức thuế quan nhập khẩu mang tính trừng phạt cao. Một trong những ví dụ nổi tiếng là việc áp dụng hạn chế xuất khẩu tự nguyện VER trong ngành sản xuất xe hơi giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản. Theo đó, các nhà sản xuất Nhật Bản đã chấp thuận hạn chế lượng xe xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ như là một cách để giảm bớt căng thẳng thương mại giữa hai nước. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), 13% lượng hàng nhập khẩu của các nước phát triển vào năm 1981 là theo sự điều chỉnh của các hàng rào phi thuế quan như là VER. Cho tới năm 1986, con số này đã tăng lên thành 16%. Mức tăng cao nhất trong lĩnh vực này thuộc về Hoa Kỳ với trị giá nhập khẩu chịu tác động bởi các rào cản phi thuế quan (chủ yếu là hình thức VER) đã tăng thêm 23% từ năm 1981 cho đến năm 1986.
1.4. Vòng đàm phán Uruguay và Tổ chức thương mại thế giới WTO
Trước xu thế tăng lên của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, vào năm 1986 các nước thành viên của GATT đã khởi động vòng đàm phán thứ tám nhằm giảm các mức thuế quan, vòng đàm phán Uruguay (lấy tên địa điểm diễn ra tại Uruguay). Đây là vòng đàm phán khó khăn nhất, chủ yếu là vì đây cũng là vòng đàm phán nhiều tham vọng nhất. Cho tới thời điểm đó, các quy tắc của GATT mới chỉ áp dụng cho thương mại hàng hóa. Trong vòng Uruguay, các nước thành viên cố gắng mở rộng thêm các nguyên tắc áp dụng cho thương mại dịch vụ, đồng thời tìm cách ban hành các quy định điều tiết sự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, giảm trợ cấp trong nông nghiệp, cũng như củng cố cơ chế thực thi và giám sát của GATT.
Vòng đàm phán Uruguay kéo dài trong vòng bảy năm trước khi đạt được một thỏa thuận chung vào ngày 15/12/1993. Thỏa thuận này bắt đầu có hiệu lực từ 1/7/1995. Vòng Uruguay bao gồm các quy định sau:
1. Thuế quan đối với hàng công nghiệp sẽ phải giảm xuống hơn một phần ba, và đối với hàng chế tạo thì mức cắt giảm sẽ là hơn 40%.
2. Mức thuế suất trung bình được các nước phát triển áp dụng đối với hàng chế tạo sẽ phải giảm xuống dưới mức 4% theo giá trị, mức thấp nhất trong lịch sử hiện đại.
3. Trợ cấp nông sản sẽ phải cắt giảm một cách đáng kể.
4. Các quy tắc về thương mại công bằng và tiếp cận thị trường của GATT được mở rộng đối với cả nhiều loại hình dịch vụ.
5. Các quy tắc của GATT cũng được mở rộng nhằm tăng cường bảo vệ cho bằng sáng chế (patent), bản quyền (copyright) và nhãn hiệu thương mại (trademark) (quyền sở hữu trí tuệ).
6. Các rào cản đối với thương mại hàng dệt may sẽ được giảm đáng kể trong vòng 10 năm.
7. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập để thực thi các thỏa thuận của GATT.
Các dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ
Về lâu dài, việc mở rộng các quy tắc của GATT sang các lĩnh vực dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ là một bước tiến đặc biệt quan trọng. Cho tới năm 1995, các quy tắc của GATT mới chỉ áp dụng đối với các hàng hóa công nghiệp (cả hàng chế tạo và thành phẩm). Vào năm 2005, thương mại dịch vụ trên thế giới đã đạt tới mức doanh thu 2.415 tỷ đôla Hoa Kỳ (so với doanh thu của thương mại thế giới về hàng hóa là 10.120 tỷ đôla Mỹ). Và cuối cùng thì việc mở rộng các quy tắc của GATT cũng đã vươn tới các lĩnh vực thương mại quan trọng này đã tạo ra một sự gia tăng mạnh mẽ cả về thị phần và quy mô của thương mại dịch vụ trong tổng thương mại toàn cầu. Việc các quy tắc của GATT mở rộng sang lĩnh vực bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ sẽ tạo điều kiện cho các công ty công nghệ cao tham gia kinh doanh tại các nước đang phát triển, nơi mà các quy tắc quy định về những quyền này có hiệu lực thực thi rất kém.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Việc phân loại và tăng cường các quy tắc của GATT cũng như việc thành lập ra Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã mang lại một sự hứa hẹn về hiệu quả thực thi tốt hơn của các chính sách và quy tắc của GATT. WTO hoạt động giống như một tổ chức bao trùm bao gồm cả GATT và hai cơ quan mới, một về dịch vụ và một về quyền sở hữu trí tuệ. Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) của WTO chính là nhân tố tiên phong trong việc mở rộng các hiệp định tự do thương mại về các lĩnh vực dịch vụ. Còn Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) của WTO lại là một nỗ lực để thu hẹp khoảng cách về cách thức và mức độ mà quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ trên toàn thế giới cũng như cung cấp các quy tắc quốc tế chung về vấn đề này. vWTO cũng đảm trách việc phân xử các tranh chấp thương mại cũng như giám sát chính sách thương mại của các nước thành viên. Trong khi WTO cũng hoạt động dựa trên nguyên tắc đồng thuận giống như GATT trước đó, nhưng trong phạm vi giải quyết tranh chấp, các nước thành viên không còn có thể phong tỏa việc áp dụng các phán quyết trọng tài. WTO sẽ tự động áp dụng các phán quyết của ban trọng tài về các tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trừ khi có sự đồng thuận cùng bãi bỏ các phán quyết đó. Những nước mà ban trọng tài ra phán quyết là đã vi phạm quy tắc của WTO có thể yêu cầu kháng cáo lên một cơ quan thường trực, nhưng phán quyết vẫn có tính ràng buộc. Nếu bên vi phạm không tuân theo những đề xuất của ban trọng tài, các đối tác thương mại sẽ có quyền bù đắp hoặc, cách cuối cùng, là áp dụng (một cách tương xứng) những trừng phạt thương mại. Tất cả các khâu thủ tục đều phải tuân thủ các giới hạn về thời gian rất chặt chẽ. Do vậy, có thể xem WTO đã được trang bị thêm một thứ mà GATT chưa từng có được – đó là công cụ thực thi hiệu lực.
WTO: Kinh nghiệm cho đến nay
Cho tới thời điểm năm 2009, WTO đã có 153 thành viên, bao gồm cả Trung Quốc, nước gia nhập tổ chức này vào cuối năm 2001. 25 quốc gia khác, bao gồm LB Nga và Ucraina, vẫn đang đàm phán để gia nhập vào tổ chức này. Kể từ khi thành lập cho đến nay WTO vẫn là tổ chức hàng đầu trong nỗ lực thúc đẩy tự do hóa thương mại trên toàn cầu. Những người sáng tạo ra tổ chức này diễn tả hy vọng rằng cơ chế thực thi mà WTO có được sẽ khiến cho tổ chức này hiệu quả hơn trong việc ban hành các quy tắc điều chỉnh thương mại toàn cầu so với GATT trước đó. Niềm hy vọng lớn lao là WTO sẽ nổi lên như là một cơ quan ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp đồng thương mại trong tương lai, đặc biệt trong các lĩnh vực như dịch vụ. Kinh nghiệm cho tới nay cho thấy là đáng khích lệ, mặc dù có sự thất bại của vòng đàm phán của WTO tại Seattle vào cuối năm 1999 và sự tiến triển hết sức chậm chạp của vòng đàm phán thương mại tiếp theo là Vòng Doha đã gây ra những sự hoài nghi về hướng đi trong tương lai của tổ chức này.
WTO với vai trò giám sát toàn cầu
Thập kỷ đầu tiên của WTO đã cho thấy rằng cơ chế giám sát và xây dựng chính sách của tổ chức này đã mang lại những tác động tích cực. Trong giai đoạn từ năm 1995 đến đầu năm 2007, đã có hơn 360 tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên được đệ trình lên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Số lượng này đem so sánh với con số 196 trường hợp được giải quyết trong vòng gần ½ thế kỷ tồn tại của GATT sẽ thấy được sự khác biệt đáng kể. Trong số các trường hợp đệ trình lên WTO, ba phần tư đã được giải quyết bằng hình thức tư vấn không chính thức giữa các nước tranh chấp. Việc giải quyết các trường hợp còn lại đòi hỏi các trình tự thủ tục chính thức, nhưng phần lớn cũng đã được giải quyết thành công. Nhìn chung, các nước liên quan đều áp dụng các đề xuất của WTO. Thực tế là các nước đang sử dụng WTO đại diện cho một phiếu bầu lòng tin quan trọng trong thủ tục giải quyết tranh chấp của tổ chức này.
Mở rộng các hiệp định thương mại
Như đã giải thích ở phần trước, Vòng đàm phán Uruguay của GATT đã mở rộng các quy tắc thương mại toàn cầu sang điều chỉnh cả lĩnh vực thương mại dịch vụ. Tổ chức WTO đã được trao vai trò trung gian cho các thỏa thuận thương mại trong tương lai nhằm mở ra thương mại toàn cầu về dịch vụ. WTO cũng được khuyến khích mở rộng ra bao trùm cả các quy định điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, lĩnh vực mà GATT chưa từng động đến. Hai ngành đầu tiên được nhắm tới cho quá trình mở cửa và cải cách là ngành viễn thông và ngành dịch vụ tài chính toàn cầu.
Vào tháng 2/1997, WTO đã làm trung gian để các nước thỏa thuận mở cửa thị trường viễn thông của mình cho cạnh tranh từ bên ngoài, cho phép các nhà cung cấp nước ngoài được quyền mua cổ phần trong các công ty viễn thông trong nước và thiết lập một bộ các nguyên tắc chung về cạnh tranh công bằng. Theo hiệp ước này, 68 nước chiếm hơn 90% tổng doanh số của ngành viễn thông thế giới đã cam kết bắt đầu mở cửa thị trường của mình cho bên ngoài vào cạnh tranh cũng như tuân thủ các quy tắc chung về cạnh tranh bình đẳng trong lĩnh vực viễn thông. Hầu hết các thị trường lớn nhất thế giới, bao gồm Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu (EU) và Nhật Bản đã hoàn toàn tự do hóa kể từ 1/1/1998, khi mà hiệp ước này bắt đầu có hiệu lực.
Điều này được tiếp nối vào tháng 12/1997 khi hiệp định tự do hóa thương mại qua biên giới các dịch vụ tài chính, và thực tế bao trùm hơn 95% thị trường dịch vụ tài chính của thế giới. Theo hiệp định này, vốn bắt đầu có hiệu lực kể từ 1/3/1999, 102 nước cam kết mở cửa ở các mức độ khác nhau các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, và khu vực bảo hiểm cho các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Cũng giống như với hiệp định về viễn thông, các hiệp định này cũng bao gồm không chỉ các hoạt động thương mại qua biên giới mà còn cả các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. 70 quốc gia đã đồng ý giảm phần lớn hoặc loại bỏ hẳn các rào cản đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực dịch vụ tài chính của họ. Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu (EU), với những ngoại lệ rất nhỏ, đã gần như mở cửa hoàn toàn cho đầu tư của các ngân hàng, công ty bảo hiểm và công ty chứng khoán nước ngoài. Tham gia một phần vào hiệp định này, các nước châu Á cũng đã nhượng bộ đáng kể khi lần đầu tiên cho phép các công ty tài chính nước ngoài có thể tham gia vào khu vực tài chính của mình.
WTO tại Seattle: Liệu có phải là một bước ngoặt?
Vào cuối tháng 11/1999, đại diện từ các nước thành viên của WTO đã gặp nhau tại thành phố Seattle, bang Washington (Mỹ) với mục tiêu khởi động một vòng đàm phán mới – dưới tên gọi “Vòng đàm phán Thiên niên kỷ” – nhằm giảm mạnh hơn nữa các rào cản đối với các hoạt động và đầu tư qua biên giới. Trong chương trình nghị sự của cuộc gặp này nổi bật lên nỗ lực tập hợp các nước đồng ý tiến tới việc cắt giảm các hàng rào đối với thương mại hàng nông sản cũng như thương mại và đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ.
Những kỳ vọng này đã vấp phải những khó khăn không lường trước được của thực tế. Cuộc đàm phán đã kết thúc vào ngày 3/12/1999 mà không đạt được thỏa thuận nào. Bên trong các phòng họp, vấn đề là không có khả năng đạt được sự đồng thuận về các mục tiêu căn bản cho vòng đàm phán tiếp theo. Trở ngại lớn nhất đó là sự va chạm giữa Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu (EU) về việc liệu có thể xác nhận mục tiêu loại bỏ một cách cơ bản các khoản trợ cấp xuất khẩu nông sản. Hoa Kỳ thì muốn ưu tiên loại bỏ các khoản trợ cấp đó trong khi EU lại không sẵn sàng làm như vậy với các lý do có truyền thống lâu đời thực hiện trợ cấp cho nông dân cũng như sức mạnh chính trị của các hoạt động vận động hành lang của các trang trại. Một trở ngại khác liên quan tới nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc đưa “các quyền lao động cơ bản” vào trong luật của hệ thống thương mại thế giới. Hoa Kỳ muốn WTO cho phép các chính phụ áp thuế đối với hàng nhập khẩu từ các nước mà Hoa Kỳ cho rằng không tuân thủ thực tiễn lao động công bằng. Các đại diện từ các nước đang phát triển phản ứng dữ dội đối với đề xuất này, cho rằng đó đơn giản chỉ là nỗ lực của Hoa Kỳ tìm cách về mặt pháp lý hạn chế hàng nhập khẩu từ các quốc gia nghèo hơn.
Trong lúc các cuộc tranh cãi tại các phòng họp diễn ra hết sức gay gắt thì các sự kiện diễn ra bên ngoài đã thu hút sự chú ý của truyền thông toàn cầu. Các cuộc đàm phán của WTO đã đóng vai trò thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của rất nhiều tổ chức đa dạng khác nhau từ các nhà hoạt động môi trường, các nhóm nhân quyền cho tới các tổ chức công đoàn. Vì nhiều lý do khác nhau, những tổ chức này phản đối tự do hóa thương mại. Tất cả các tổ chức này lập luận rằng WTO là một cơ quan không dân chủ đang tiến hành chiếm đoạt quyền tự chủ của các quốc gia thành viên và ra các quyết định quan trọng đằng sau các cánh cửa đóng kín. Họ tranh thủ cuộc họp tại Seattle để lên tiếng phản đối và đã được truyền thông thế giới ghi lại. Các nhà môi trường bày tỏ lo lắng về tác động có thể có của tự do thương mại đối với hàng nông sản lên tốc độ phá rừng trên toàn cầu. Họ cho rằng mức thuế thấp đối với gỗ xẻ từ các nước đang phát triển sẽ kích thích nhu cầu tiêu dùng và sẽ đẩy nhanh tốc độ chặt hạ các diện tích rừng nguyên sinh, đặc biệt tại các quốc gia như Malaysia và Indonesia. Họ cũng nêu lên tác động nguy hại mà các quy định của WTO ảnh hưởng tới các chính sách về môi trường. Ví dụ, WTO mới gần đây đã cấm một đạo luật của Hoa Kỳ vốn yêu cầu lưới bắt tôm cần phải có gắn thêm thiết bị để cho phép các loài rùa biển đang có nguy cơ tuyệt chủng có thể thoát được. WTO đã nhận định đây là một hình thức phân biệt đối xử đối với các nhà nhập khẩu nước ngoài không có các loại lưới đó. Các nhà môi trường thì lại cho rằng cần thiết phải có đạo luật đó để bảo vệ các loại rùa khỏi sự tuyệt chủng.
Các nhà hoạt động nhân quyền nhìn nhận các quy định của WTO đã đặt ngoài vòng pháp luật khả năng của các quốc gia trong việc cấm hàng nhập khẩu từ các nước sử dụng lao động trẻ em hoặc có điều kiện lao động nguy hiểm. Tương tự như vậy, các tổ chức công đoàn phản đối các đạo luật thương mại cho phép nhập khẩu từ các nước có mức lương thấp coi đó như là nguyên nhân dẫn tới tình trạng thất nghiệp tại các nước có mức lương cao. Họ củng cố vị thế của mình bằng việc đưa ra lập luận rằng người lao động tại Hoa Kỳ đang mất dần việc làm vào tay hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia đang phát triển mà tại đó không có đầy đủ các tiêu chuẩn về lao động.
Những người ủng hộ WTO và tự do hóa thương mại gạt bỏ những mối lo lắng đó và liên tục chỉ ra rằng sự tồn tại của WTO là để phục vụ cho lợi ích của các nước thành viên chứ không phải phá hoại chúng. Tổ chức WTO thiếu khả năng bắt buộc các nước thành viên hành động đối với điều mà quốc gia đó phản đối. WTO có thể cho phép quốc gia thành viên áp đặt các mức thuế trả đũa đối với những nước không tuân thủ các nguyên tắc của WTO, nhưng điều này chính là hạn chế quyền lực của WTO. Hơn nữa, những người ủng hộ cũng cho rằng, chính các nước giàu mới là những nước thông qua các đạo luật chặt chẽ về môi trường, luật về kiểm soát các tiêu chuẩn lao động chứ không phải các nước nghèo. Theo quan điểm của họ, tự do thương mại, thông qua việc nâng cao mức sống tại các nước phát triển, sẽ dẫn tới việc thông qua các đạo luật trên tại những nước này. Họ tin rằng, việc sử dụng các quy định thương mại để cố gắng áp đặt những thực tiễn đó lên các nước đang phát triển sẽ dẫn tới sự phản ứng thất sách (từ chính các nước này).
Nhiều đại diện từ các nước đang phát triển, chiếm tới 110 nước trong tổng số 153 thành viên của WTO, cũng từ chối quan điểm của các nhà môi trường và những người ủng hộ nhân quyền và các quyền lao động. Các nước nghèo, vốn phụ thuộc vào xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thoát khỏi đói nghèo, lo sợ rằng các nước giàu sẽ sử dụng các mối quan tâm về môi trường, quyền con người, và các vấn đề liên quan tới lao động để dựng lên hàng rào đối với các sản phẩm từ thế giới đang phát triển. Những nước này tin rằng những nỗ lực đưa các quy định về môi trường, hoặc các tiêu chuẩn lao động vào các hiệp định thương mại trong tương lai sẽ chẳng mang lại gì nhiều ngoài các hàng rào thương mại dưới cái tên khác. Nếu như điều này xảy ra, họ cho rằng tác động sẽ là đẩy các nước đang phát triển vào vòng xoáy của nghèo đói và nợ nần.
Những gì diễn ra tại Seattle là rất đáng lưu ý bởi vì những sự kiện đó có thể là những bước ngoặt lớn. Trong quá khứ, các cuộc đối thoại về thương mại trước đó thường được tiến hành trong phạm vi hẹp với sự quan tâm của một số ít các nhà kinh tế học, chính trị gia và một số doanh nhân nhất định. Sự kiện tại Seattle đã cho thấy các vấn đề xung quanh xu hướng toàn cầu về tự do hóa thương mại đã chuyển dịch sang vị trí trung tâm của sự nhận thức đại chúng. Những bàn cãi về sự xứng đáng của tự do thương mại và toàn cầu hóa đang trở thành dòng tranh luận chính. Do đó, liệu tự do hóa hơn nữa có xảy ra không phụ thuộc vào tầm quan trọng của ý kiến đông đảo tại các nước như nước Hoa Kỳ gắn liền với những vấn đề như quyền con người và các tiêu chuẩn lao động, an ninh việc làm, các chính sách môi trường và chủ quyền quốc gia. Điều đó cũng phụ thuộc vào khả năng những người ủng hộ tự do thương mại có thể diễn đạt lập luận của mình một cách rõ ràng và thuyết phục rằng, về lâu dài, thương mại tự do là cách tốt nhất để thúc đẩy các tiêu chuẩn lao động đầy đủ, mang lại nhiều việc làm hơn, và góp phần bảo vệ môi trường.
1.5. Tương lai của WTO: Những vấn đề còn tồn tại và Vòng đàm phán Đô-ha
Còn rất nhiều việc phải giải quyết trong thương mại quốc tế . Bốn vấn đề lớn đang là trọng tâm của chương trình nghị sự của WTO hiện nay là sự gia tăng các chính sách chống bán phá giá, mức độ bảo hộ cao trong nông nghiệp, sự thiếu hụt các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại nhiều quốc gia, và sự tăng cao liên tục của mức thuế suất đối với các sản phẩm phi nông nghiệp và dịch vụ tại nhiều nước.
Các biện pháp chống bán phá giá.
Các biện pháp chống bán phá giá nở rộ trong suốt thập kỷ 1990. Các quy tắc của WTO cho phép các quốc gia áp đặt thuế chống bán phá giá lên hàng hóa nước ngoài được bán rẻ hơn so với giá tại thị trường nước xuất khẩu, hoặc thấp hơn mức chi phí sản xuất, khi các nhà sản xuất trong nước có thể chứng minh rằng họ đang chịu thiệt hại. Tuy nhiên, khái niệm khá mơ hồ về những gì cấu thành lên “bán phá giá” đã chứng tỏ là một kẽ hở để nhiều nước khai thác nhằm theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ.
Giữa giai đoạn từ năm 1995 đến giữa năm 2006, các thành viên WTO đã báo cáo thực hiện khoảng 2.938 các hành động chống bán phá giá lên tổ chức này. Ấn Độ là nước đứng đầu trong việc đề xuất các hành động chống bán phá giá, khoảng 448 trường hợp; EU khoảng 345 trường hợp trong cùng giai đoạn, và Hoa Kỳ khoảng 366 trường hợp. Các hành động chống bán phá giá dường như chỉ tập trung vào một khu vực nhất định của nền kinh tế ví dụ như các ngành sản xuất kim loại cơ bản (ví dụ nhôm, thép), hóa chất, nhựa, và các thiết bị điện, thiết bị máy móc. Những lĩnh vực này chiếm khoảng 70% tổng số tất cả các hành động chống bán phá giá được báo lên WTO. Bốn khu vực này kể từ năm 1995 đặc trưng bởi các giai đoạn cạnh tranh khốc liệt và dư thừa năng lực sản xuất, dẫn tới giá bán và lợi nhuận thấp (hoặc thua lỗ) cho các công ty trong các ngành này. Do vậy, không có gì là bất hợp lý, khi giả thiết rằng mức độ cao của các hành động chống bán phá giá trong những ngành này thể hiện một nỗ lực của những nhà sản xuất bị bao vây trong việc sử dụng các tiến trình chính trị tại nước của họ nhằm tìm kiếm sự bảo hộ khỏi những đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài, những đối tượng mà họ cáo buộc đang tham gia vào quá trình cạnh tranh không công bằng. Trong khi một số cáo buộc này có thể có giá trị của nó, quá trình này có thể được chính trị hóa khi đại diện của các doanh nghiệp và những người làm công của họ vận động hành lang các quan chức chính phủ để bảo vệ công việc trong nước khỏi “sự cạnh tranh không công bằng từ nước ngoài” và các quan chức chính phủ, quan tâm tới nhu cầu giành được phiếu bầu trong các cuộc bầu cử trong tương lai, bắt buộc đẩy mạnh các hành động chống bán phá giá. WTO rõ ràng rất quan tâm tới xu hướng này, cho rằng nó phản ánh các xu hướng bảo hộ dai dẳng và thúc ép các nước thành viên tăng cường các quy định điều chỉnh việc áp đặt thuế chống bán phá giá. Mặt khác, kể từ khi WTO ra tín hiệu rằng chống bán phá giá có được tập trung trong Vòng Đô-ha, thì số lượng các hành động chống bán phá giá đã giảm xuống ít nhiều.
Chủ nghĩa bảo hộ trong nông nghiệp
Một tập trung gần đây khác của WTO là các mức thuế nhập khẩu cao và trợ cấp trong lĩnh vực nông nghiệp của nhiều nước. Mức thuế cao đối với các nông sản nhìn chung cao hơn rất nhiều so với mức thuế suất đối với hàng chế tạo hoặc dịch vụ. Ví dụ, trong giai đoạn giữa thập kỷ đầu tiên của thế kỷ mới, mức thuế suất bình quân đối vơi sản phẩm phi nông nghiệp là 4,2% tại Canada, 3,8% tại EU, 3,9% tại Nhật Bản, và 4,4% tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đối với nông sản, mức thuế suất bình quân là 21,2% tại Canada, 15,9% tại EU, 18,6% tại Nhật Bản và 10,3% tại Hoa Kỳ.39 Ý nghĩa ở đây là người tiêu dùng tại những nước này đang phải trả một mức giá cao hơn cần thiết so với nông sản nhập khẩu từ nước ngoài, khiến họ sẽ có ít tiền hơn để dành cho các hàng hóa và dịch vụ khác.
Trong lịch sử, mức thuế suất nhập khẩu cao đối với các nông sản phản ánh đòi hỏi bảo vệ ngành nông nghiệp trong nước và các cộng đồng nông nghiệp truyền thống khỏi sự cạnh tranh từ bên ngoài. Bên cạnh thuế nhập khẩu cao, người sản xuất nông nghiệp còn thu lợi từ các khoản trợ cấp đáng kể từ chính phủ. Theo các ước tính của OECD, các khoản trợ cấp của chính phủ trung bình chiếm khoảng 17% tổng chi phí sản xuất nông nghiệp của Canada, 21% tại Hoa Kỳ, 35% tại EU, và 59% tại Nhật Bản. Tổng cộng, các nước thuộc nhóm OECD tiêu tốn khoảng 300 tỷ USD hàng năm để trợ cấp cho sản xuất nông nghiệp.
Không có gì là bất ngờ khi sự kết hợp của hàng rào thuế nhập khẩu cao và các khoản trợ cấp lớn đã gây bóp méo hoạt động sản xuất cũng như hoạt động thương mại quốc tế đối với hàng nông sản. Tác động ròng chính là làm tăng giá bán của các sản phẩm đó khi tới tay người tiêu dùng, giảm khối lượng thương mại hàng nông sản, và khuyến khích sự sản xuất dư thừa những sản phẩm nhận được nhiều trợ cấp (trong đó các chính phủ thường mua các lượng dư thừa đó). Vì lý do thương mại toàn cầu về hàng nông sản hiện nay chiếm khoảng 10,5% tổng lượng thương mại hàng hóa, tức vào khoảng 750 tỷ USD một năm, WTO lập luận rằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan và trợ cấp sẽ thúc đẩy mạnh mẽ tổng mức thương mại trong lĩnh vực này, giảm giá đến tay người tiêu dùng, và gia tăng mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu bằng cách giải phóng các nguồn lực đầu tư và tiêu dùng cho các mục đích sử dụng năng suất và hiệu quả hơn. Theo các dự báo của IMF, loại bỏ hàng rào thuế quan và trợ cấp đối với nông sản sẽ làm gia tăng lợi ích kinh tế toàn cầu lên thêm 128 tỷ USD hàng năm. Các nghiên cứu khác lại đưa ra con số lên tới 182 tỷ USD.
Những người bảo vệ lớn nhất của hệ thống đang tồn tại này chính là các nước phát triển cao trên thế giới. Họ muốn bảo hộ khu vực nông nghiệp của mình khỏi sự cạnh tranh của các nhà sản xuất có chi phí thấp từ các nước đang phát triển. Ngược lại, các nước đang phát triển đã và đang tăng cường gây sức ép đòi hỏi những cải cách giúp cho những người sản xuất của họ có thể tiếp cận nhiều hơn vào các thị trường được bảo hộ tại các nước phát triển. Những ước tính cho thấy rằng chỉ riêng việc loại bỏ tất cả trợ cấp nông sản tại các nước OECD đã có thể mang lại cho các nước đang phát triển khoản lợi ích lớn gấp ba lần tổng tất cả các khoản hỗ trợ mà họ hiện nay đang nhận từ các nước OECD. Nói cách khác, tự do hóa thương mại hàng nông sản sẽ giúp tăng nhanh mức tăng trưởng kinh tế tại các nước nghèo và giúp giảm bớt tình trạng đói nghèo trên toàn cầu.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Một vấn đề khác hiện đang trở nên ngày càng quan trọng đối với WTO đó là vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Hiệp định thành lập WTO trong vòng đàm phán Uruguay năm 1995 cũng bao gồm một hiệp định bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (hiệp định TRIPS). Các quy định của TRIPS yêu cầu các thành viên WTO phải cấp và đảm bảo hiệu lực cho các bằng bằng sáng chế (patent) trong ít nhất 20 năm và bản quyền sáng tác (copyright) trong vòng 50 năm. Các nước giàu phải tuân thủ các quy định này trong vòng 1 năm, còn các nước nghèo, những nước tại đó việc bảo vệ những quyền trên còn yếu, thì được gia hạn trong vòng 5 năm. Với những nước nghèo nhất thì thời gian thi hành là trong vòng 10 năm (kể từ ngày phê chuẩn TRIPS). Nền tảng cho thỏa thuận này là niềm tin mạnh mẽ của những quốc gia tham gia ký kết hiệp định cho rằng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thông qua bằng sáng chế, nhãn hiệu thương mại (trademark), bản quyền sáng tác đóng vai trò nhân tố hết sức quan trọng trong hệ thống thương mại quốc tế. Sự bảo hộ không đầy đủ đối với quyền sở hữu trí tuệ sẽ làm giảm động lực tiến hành phát minh. Bởi vì phát minh chính là động cơ trung tâm của tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống, lập luận trên thể hiện là một thỏa thuận đa phương về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là cần thiết.
Nếu không có một thỏa thuận như vậy, người ta lo sợ rằng những người sản xuất tại một nước, ví dụ như Ấn Độ, có thể tung ra thị trường những sản phẩm bắt chước những phát minh được cấp bằng sáng chế xuất phát từ một nước khác, ví dụ nước Hoa Kỳ. Điều này có thể ảnh hưởng tới thương mại quốc tế theo hai cách. Thứ nhất, nó làm giảm các cơ hội xuất khẩu sang Ấn Độ của những nhà phát minh ban đầu tại Hoa Kỳ. Thứ hai, xét ở mức độ mà Ấn Độ có thể xuất khẩu những sản phẩm bắt chước, vi phạm bản quyền phát minh sang các nước khác nữa, thì khi đó, cơ hội xuất khẩu của các nhà sản xuất có bản quyền của Hoa Kỳ tại những thị trường này cũng sẽ giảm xuống. Đồng thời, ta cũng có thể lập luận rằng, khi mà quy mô thị trường dành cho những người sản xuất có bản quyền bị thu hẹp lại thì động lực để họ tiếp tục theo đuổi những phát minh tốn kém và nhiều rủi ro cũng sẽ giảm xuống. Và tác động ròng sẽ là ít các phát minh hơn cho nền kinh tế thế giới cũng như mức tăng trưởng thấp hơn.
Những điều tương tự như trên đã và đang xảy ra trong ngành sản xuất dược phẩm trong đó các công ty dược phẩm của Ấn Độ sao chép các loại thuốc có bản quyền được phát minh ở nước khác. Vào năm 1970, chính phủ Ấn Độ đã chấm dứt công nhận bằng sáng chế cho các loại thuốc nhưng lại quyết định tiếp tục tôn trọng các bằng sáng chế quá trình. Điều này đã cho phép các công ty của Ấn Độ chế tạo ngược lại các loại dược phẩm của phương Tây mà không phải trả các khoản phí bản quyền. Kết quả của chính sách này là thị phần của các công ty dược phẩm nước ngoài tại Ấn Độ giảm từ 75% năm 1970 xuống còn khoảng 30% vào năm 2000. Theo thỏa thuận TRIPS của WTO, Ấn Độ đã đồng ý áp dụng và thực thi chế độ bằng sáng chế cho đến năm 2005.
Tiếp cận thị trường đối với hàng hóa phi nông nghiệp và dịch vụ
Mặc dù WTO và GATT đã tiến được những bước dài trong việc cắt giảm mức thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm phi nông nghiệp nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Cho dù hầu hết các nước phát triển đã hạ mức thuế suất của họ đối với các sản phẩm công nghiệp xuống mức trung bình 3,8%, nhưng vẫn tồn tại các trường hợp ngoại lệ. Đặc biệt, khi mức thuế suất trung bình thì rất thấp nhưng mức thuế suất cao vẫn được duy trì đối với một số hàng nhập khẩu nhất định khi vào thị trường các nước phát triển, khiến hạn chế mức độ tiếp cận thị trường và tăng trưởng kinh tế. Ví dụ, Úc và Hàn Quốc, cả hai nước đều là thành viên OECD, vẫn có mức thuế ràng buộc tương ứng là 15,1% và 26,4% đối với hàng nhập khẩu là các thiết bị vận tải (thuế suất ràng buộc là mức thuế suất cao nhất có thể được áp dụng một cách thường xuyên, nhưng không phải luôn luôn được áp dụng). Trong khi đó, mức thuế suất ràng buộc đối với các thiết bị vận tải vào thị trường Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản chỉ ở các mức tương ứng là 2,7%, 4,8% và 0%. Một lĩnh vực đặc thù cần quan tâm là các mức thuế suất cao đối với hàng nhập khẩu được lựa chọn từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển.
Thêm vào đó, thuế nhập khẩu đánh lên các dịch cũng vẫn còn ở mức rất cao so với mức đánh lên các hàng công nghiệp. Mức thuế suất trung bình đánh lên dịch vụ kinh doanh và tài chính nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ là 8,2%, vào thị trường EU là 8,5% và vào thị trường Nhật Bản là 19,7%.45 Trong điều kiện giá trị thương mại dịch vụ qua biên giới đang tăng lên, việc cắt giảm các mức thuế suất trên hy vọng sẽ mang lại các khoản lợi nhuận đáng kể.
WTO mong muốn hạ thuế suất xuống mức thấp hơn nữa và giảm phạm vi áp dụng các mức thuế suất cao. Mục tiêu cuối cùng là giảm mức thuế suất xuống còn mức 0%. Mặc dầu, mức thuế này dường như là quá tham vọng và ảo tưởng, nhưng tới nay đã có tới 40 quốc gia thành viên đã cắt giảm thuế suất xuống mức 0% đối với hàng công nghệ thông tin và điều này tạo điều kiện tốt cho việc cắt giảm ở các nước khác. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng, việc cắt giảm mức thuế suất nhập khẩu bình quân xuống mức 0 sẽ mang lại lợi nhuận rất lớn. Một ước tính của các nhà kinh tế học thuộc Ngân hàng Thế giới (WB) đã cho rằng các thỏa thuận thương mại toàn cầu rộng hơn xuất phát từ vòng đàm phán Đô-ha sẽ gia tăng thu nhập của toàn thế giới thêm 213 tỷ USD cho tới năm 2015, trong số đó có 109 tỷ USD sẽ thuộc về các nước nghèo. Một nghiên cứu khác của tổ chức OECD lại đưa ra một con số vào khoảng 300 tỷ USD hàng năm.
Nhìn xa hơn, mục tiêu của WTO còn là cắt giảm thuế quan đối với hàng phi nông sản nhập khẩu vào thị trường các nước đang phát triển. Nhiều nước trong nhóm này sử dụng lý lẽ bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ để tiếp tục áp đặt mức thuế nhập khẩu cao; tuy vậy, cuối cùng thì các mức thuế suất cao này cũng sẽ giảm xuống để những nước này có thể thu được lợi ích nhiều hơn từ hoạt động thương mại quốc tế. Ví dụ, tại Ấn Độ, mức thuế suất ràng buộc đối với thiết bị vận tải lên tới 53,9%, còn tại Braxin là 33,6%, bằng cách nâng giá hàng nội địa, đã giúp bảo hộ các ngành nội địa không hiệu quả và hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế thông qua việc giảm thu nhập thực tế của người tiêu dùng, những người phải trả nhiều tiền hơn cho các thiết bị vận tải cũng như các dịch vụ liên quan.
Vòng đàm phán mới: Vòng Đô-ha
Các vụ kiện chống bán phá giá, thương mại đối với hàng nông sản, việc thực hiện hiệu quả hơn đối với luật sở hữu trí tuệ, và mở rộng khả năng tiếp cận thị trường là bốn vấn đề chủ yếu mà WTO muốn giải quyết trong các cuộc họp ở Seattle vào năm 1999. Tuy nhiên, những cuộc đàm phán đó đã đi trệch đường lối chủ đạo. Đến cuối năm 2001, WTO một lần nữa cố gắng khởi động một vòng đàm phán mới giữa các nước thành viên nhằm mục đích tạo ra môi trường tự do thông thoáng hơn cho hoạt động thương mại toàn cầu và đầu tư quốc tế. Đó là vòng đàm phán diễn ra tại Đô-ha (Ca-ta). Không giống như cuộc họp đã diễn ra tại Seattle, tại Doha, các nước thành viên đã đồng ý đặt ra một lộ trình cụ thể và dự kiến ban đầu sẽ kéo dài đàm phán trong vòng 3 năm, nhưng trên thực tế đã diễn ra lâu hơn và khó có thể kết thúc trong thời gian ngắn. Lộ trình này bao gồm cả việc cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp và dịch vụ, rồi xóa bỏ trợ cấp nông nghiệp, giảm thiểu rào cản đối với hoạt động đầu tư giữa các quốc gia, và hạn chế việc sử dụng luật chống bán phá giá. Một số thỏa hiệp khó khăn đã đạt được để đi đến một hiệp định chung trong lộ trình đàm phán. EU và Nhật Bản đã rất quan tâm đến vấn đề về trợ cấp nông nghiệp mà họ đã sử dụng rất rộng rãi để có được sự ủng hộ về mặt chính trị của những người nông dân. Hoa Kỳ đã phải nhượng bộ trước áp lực từ các quốc gia khác khi đàm phán để điều chỉnh lại các quy định về chống bán phá giá mà Hoa Kỳ đã sử dụng để bảo vệ các nhà sản xuất thép của mình trước sự cạnh tranh từ nước ngoài. EU phải từ bỏ nỗ lực của mình trong việc đưa các vấn đề về môi trường vào trong các buổi thảo luận về thương mại, chủ yếu là vì áp lực từ các nước đang phát triển nhận ra những chính sách bảo vệ môi trường của EU giống các rào cản thương mại núp dưới một cái tên khác. Trong chương trình, không có một điều khoản nào đề cập đến việc gắn kết thương mại với các tiêu chuẩn lao động của một quốc gia.
Các quốc gia có ngành công nghiệp dược phẩm phát triển đều đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của các nước châu Phi, châu Á, và các nước Hoa Kỳ La-tinh về các vấn đề liên quan đến bằng phát minh, sáng chế dược phẩm. Cụ thể, có một điều khoản trong hiệp định nói rằng các quy định về quyền sở hữu trí tuệ của WTO “không và không nên ngăn cản các nước thành viên áp dụng các biện pháp nhằm bảo vệ sức khỏe công đồng”. Điều này đảm bảo cho các nước nghèo trên thế giới có thể tự sản xuất hoặc mua dược phẩm để chống lại các bệnh hiểm nghèo như AIDS và dịch sốt rét.
Rõ ràng là, thỏa thuận trong chương trình nghị sự là một chuyện, còn đạt được thỏa thuận trong một hiệp định lại là chuyện khác. Tuy nhiên, thỏa thuận này mang lại lợi ích cho một số người, bao gồm các nhà sản xuất nông sản có chi phí thấp ở các nước đang phát triển và các nước phát triển như Úc và Hoa Kỳ. Nếu vòng đàm phán thành công, các nhà sản xuất nông nghiệp ở các quốc gia này sẽ nhìn thấy thị trường tiềm năng rộng mở cho sản phẩm của họ. Các nước đang phát triển cũng có lợi khi không có điều khoản liên quan đến tiêu chuẩn lao động, những tiêu chuẩn mà nhiều quốc gia phát triển đã sử dụng như một rào cản thương mại. Các quốc gia nghèo đói và kém phát triển cũng được hưởng lợi từ sự thâm nhập của hàng hóa dược phẩm rẻ tiền. Theo hiệp định này, rõ ràng là cũng có những nước chịu thiệt hại, trong đó có cả người nông dân ở EU và Nhật Bản, các nhà sản xuất thép ở Hoa Kỳ, các nhà hoạt động vì môi trường, và các hãng dược phẩm ở các nước phát triển. Những đối tượng chịu thiệt hại này sẽ vận động hành lang đối với Chính phủ của họ trong nhiều năm để đảm bảo rằng hiệp định cuối cùng sẽ có lợi cho họ nhiều hơn. Nhìn chung, nếu có thành công, vòng đàm phán Doha có thể tăng đáng kể phúc lợi kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Ngân hàng Thế giới ước tính là nếu Vòng đàm phán Doha thành công, đến năm 2015, thu nhập toàn cầu sẽ tăng hơn 500 tỉ USD/năm, trong đó có 60% thu nhập tăng thêm được dành cho các nước nghèo, nhờ đó sẽ giúp cho 144 triệu người thoát khỏi đói nghèo.
Vòng đàm phán vẫn đang diễn ra, và vẫn luôn bị ngắt quãng và chậm trễ so với kế hoạch. Cuộc gặp ở Cancun, Mexico vào tháng 9 năm 2003 đã thất bại chủ yếu là do không có sự thống nhất về việc làm thế nào để giảm trợ cấp nông nghiệp và thuế quan; EU, Hoa Kỳ, Ấn Độ và các nước khác thể hiện sự không sẵn sàng giảm thuế quan và trợ cấp cho những người nông dân có sức mạnh chính trị ở đất nước họ, trong khi đó Brazil và một số nước Tây Phi khác lại muốn tự do hóa thương mại càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, vào đầu năm 2004, cả Hoa Kỳ và EU đều muốn khởi động lại vòng đàm phán một lần nữa, và đến giữa năm 2004, hai quốc gia có vẻ đã đồng ý sẽ cắt giảm thuế quan và trợ cấp nông nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết và không biết đến khi nào Vòng đàm phán Doha mới kết thúc.
II. Môi trường đầu tư toàn cầu
1. Lợi ích và các lý thuyết về đầu tư quốc tế
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào cơ sở để sản xuất và/hoặc bán một sản phẩm ở một nước khác. Khi doanh nghiệp tiến hành FDI, nó sẽ trở thành một công ty đa quốc gia. Có hai hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chính. Hình thức đầu tiên là đầu tư mới tức là thành lập một doanh nghiệp hoàn toàn mới ở một nước khác. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài thứ hai liên quan đến việc mua lại hoặc sáp nhập với một công ty đã tồn tại ở nước ngoài. Mua lại có các hình thức: mua lại một phần nhỏ (khi doanh nghiệp nước ngoài sở hữu từ 10% đến 49% cổ phiếu có quyền biểu quyết của doanh nghiệp nội địa), mua lại phần lớn (doanh nghiệp nước ngoài sở hữu từ 50% đến 99%) và mua lại toàn bộ (doanh nghiệp nước ngoài sở hữu 100%).
Trong phần đầu của chương này, chúng ta đã nghiên cứu một vài học thuyết nhằm giải thích mô hình hoạt động thương mại giữa các quốc gia. Những học thuyết này tập trung vào việc tại sao các quốc gia lại xuất khẩu một số sản phẩm và nhập khẩu những sản phẩm khác. Không có học thuyết nào trong số này giải thích được tại sao một doanh nghiệp lại quyết định đầu tư trực tiếp vào các cơ sở sản xuất ở nước ngoài, hơn là xuất khẩu sản phẩm được sản xuất trong nước mình sang nước đó hoặc tiến hành cấp lixăng (chuyển quyền sử dụng) cho một thực thể cư trú ở một nước khác để thực thể này tiến hành sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp và doanh nghiệp sẽ nhận lại phí cấp phép.
Mục tiêu trung tâm của chúng ta là tìm ra các nguyên nhân cơ bản về mặt kinh tế là nền tảng cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các doanh nghiệp thường coi xuất khẩu và FDI như là những hoạt động có thể thay thế lẫn nhau. Ví dụ, khi quyết định thâm nhập vào thị trường Bắc Hoa Kỳ, công ty sản xuất ô tô Toyota của Nhật Bản đã phải lựa chọn giữa việc xuất khẩu và đầu tư trực tiếp vào các cơ sở sản xuất tại Bắc Hoa Kỳ. Mặc dù ban đầu Toyota đã cung cấp sản phẩm cho thị trường Bắc Hoa Kỳ thông qua xuất khẩu, nhưng càng về sau công ty càng chuyển sang sử dụng hình thức FDI. Hiện nay công suất sản xuất ô tô của Toyota ở Bắc Hoa Kỳ lên tới 1,45 triệu xe một năm. Trong chương này, chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu những điều kiện tác động làm cho các công ty, chẳng hạn như Toyota, chọn FDI thay vì xuất khẩu. Chúng ta sẽ cùng xem xét các học thuyết khác nhau liên quan đến những điều kiện này.
Những học thuyết này cũng cần giải thích được tại sao một doanh nghiệp lại thích tiến hành hoạt động FDI hơn hoạt động Lixăng (chuyển quyền sử dụng). Hoạt động Lixăng diễn ra khi một doanh nghiệp nội địa- là công ty cấp lixăng- cho phép một công ty nước ngoài- doanh nghiệp nhận lixăng- được quyền sản xuất hàng hóa, sử dụng quy trình sản xuất, sử dụng nhãn hiệu thương mại hoặc thương hiệu của công ty cấp lixăng. Để đổi lại cho việc chuyển giao những quyền này, công ty cấp lixăng sẽ thu phí lixăng trên mỗi sản phẩm được bán ra hoặc trên tổng doanh thu của công ty nhận lixăng. Ưu điểm của lixăng so với FDI là doanh nghiệp cấp lixăng không phải trả chi phí cho việc thâm nhập thị trường nước ngoài, doanh nghiệp nhận lixăng sẽ làm điều này. Đồng thời doanh nghiệp cấp lixăng cũng không phải gánh chịu rủi ro liên quan tới việc mở cửa thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, mặc dù có những điểm hấp dẫn như trên, nhiều doanh nghiệp vẫn miễn cưỡng khi thực hiện các thỏa thuận lixăng trực tiếp và thích thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn. Đâu là nguyên nhân cơ bản về mặt lý thuyết cho quyết định này? Chúng ta sẽ trả lời câu hỏi này, và như chúng ta sẽ thấy, nhu cầu về quyền kiểm soát là một nhân tố quan trọng đưa đến quyết định này.
Trước tiên chúng ta sẽ xem xét tầm quan trọng ngày càng gia tăng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nền kinh tế thế giới. Tiếp đó chúng ta sẽ nghiên cứu các học thuyết được sử dụng để giải thích cho hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang là dạng FDI được tiến hành trong cùng ngành mà công ty hoạt động tại nước chủ đầu tư. Vụ Cemex mua lại RMC của Anh là một ví dụ về FDI theo chiều ngang. Sau khi xem xét FDI theo chiều ngang, chúng ta sẽ nghiên cứu các học thuyết giải thích cho đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc là hình thức đầu tư trực tiếp vào một ngành cung cấp các đầu vào cho hoạt động trong nước của một công ty, hoặc có thể là đầu tư trực tiếp vào một ngành ở nước ngoài giúp tiêu thụ các sản phẩm đầu ra của hoạt động trong nước của một công ty. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét ý nghĩa của các học thuyết đối với thực tiễn kinh doanh.
Lợi ích của đầu tư nước ngoài
Lợi ích của FDI đối với nước nhận đầu tư
TÁC ĐỘNG TỚI CHUYỂN GIAO NGUỒN LỰC
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tác động tích cực đến nước nhận đầu tư bằng việc cung cấp các nguồn vốn, công nghệ và nguồn lực quản lý mà nước nhận đầu tư không có và vì thế sẽ giúp thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước nhận đầu tư. Việc chuyển giao vốn, công nghệ và các nguồn lực quản lý cũng là một nhân tố rất quan trọng trong hoạt động mua lại công ty máy xúc Samsung của Volvo.
Vốn
Nhờ hiệu quả của sản xuất quy mô lớn và sức mạnh tài chính, rất nhiều MNEs có thể tiếp cận các nguồn lực tài chính mà các công ty nước nhận đầu tư không tiếp cận được. Những nguồn vốn này có thể là nguồn trong nội bộ công ty, hoặc nhờ uy tín của mình, các MNEs lớn có thể dễ dàng huy động từ thị trường vốn hơn các doanh nghiệp của nước nhận đầu tư. Đây chính là một lợi ích được Chính phủ Ai-len cân nhắc đến khi đưa ra chính sách chủ động tiếp cận nguồn vốn FDI trong những năm 1990.
Công nghệ
Như đã biết, vai trò cốt yếu của tiến bộ công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế đã được khẳng định. Công nghệ có thể thúc đẩy phát triển kinh tế và công nghiệp hóa. Công nghệ có hai dạng và cả hai đều có giá trị. Công nghệ có thể nằm trong một quy trình sản xuất (ví dụ như công nghệ thăm dò, chiết xuất và tinh chế dầu) hoặc có thể nằm trong một sản phẩm (ví dụ như máy tính cá nhân). Tuy nhiên, rất nhiều nước thiếu các nguồn lực và kỹ năng cần thiết cho việc phát triển các sản phẩm và quy trình công nghệ riêng có ở bản địa. Điều này đặc biệt đúng với những quốc gia kém phát triển. Những quốc gia này phải phụ thuộc rất nhiều vào những nước công nghiệp phát triển về phần lớn những công nghệ cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. FDI có thể cung cấp cho họ những công nghệ này. Thêm vào đó, ngay cả những nước phát triển cũng thu được lợi ích từ luồng công nghệ đi kèm với FDI vào nước họ. Ví dụ, cơ sở công nghệ của Ai-len đã được nâng cấp nhờ dòng vốn đầu tư vào nước này từ các công ty đa quốc gia có công nghệ phát triển cao như Microsoft, Intel, và Dell.
FDI không phải là con đường duy nhất để tiếp cận công nghệ hiện đại. Một phương thức khác là cấp phép sử dụng công nghệ của các MNEs nước ngoài. Đặc biệt, chính phủ Nhật Bản từ lâu đã ưa chuộng phương thức này. Chính phủ Nhật Bản tin rằng, với hoạt động FDI, công nghệ rốt cuộc vẫn được kiểm soát bởi các MNE nước ngoài. Hệ quả là, các doanh nghiệp Nhật bản địa rất khó phát triển công nghệ của riêng mình (có thể tốt hơn các công nghệ có được thông qua FDI) vì họ không tiếp cận được với công nghệ cơ bản. Với cách nghĩ này, trước đây chính phủ Nhật đã kiên quyết yêu cầu công nghệ phải được chuyển giao cho Nhật thông qua những thỏa thuận cấp phép sử dụng công nghệ (li-xăng), thay vì có được công nghệ thông qua hoạt động FDI. Lợi thế của việc cấp phép sử dụng công nghệ đó là sau khi trả phí cấp phép, các doanh nghiệp của nước nhận đầu tư có thể trực tiếp tiếp cận với công nghệ có giá trị.
Tuy nhiên, lựa chọn cấp phép sử dụng công nghệ lại không hấp dẫn đối với các MNEs. Khi cấp phép sử dụng công nghệ cho các công ty nước ngoài, một MNE có thể gặp rủi ro với việc tạo ra một đối thủ cạnh tranh trong tương lai, giống như trường hợp của rất nhiều doanh nghiệp Mỹ đã phải trả giá đắt cho bài học này ở Nhật. Vì tình trạng căng thẳng này, phương thức chuyển giao công nghệ – qua li-xăng hay FDI- có thể là nội dung đàm phán chính giữa một MNE và chính phủ nước nhận đầu tư. Liệu các MNEs có đạt được điều mình muốn hay không sẽ phụ thuộc vào sức mạnh tương đối trong đàm phán giữa công ty này và chính phủ nước nhận đầu tư. Thêm vào đó, rất khó có thể chuyển giao các công nghệ sử dụng thỏa thuận li-xăng, đặc biệt là khi công nghệ này phức tạp và để vận hành công nghệ đòi hỏi có nhiều kinh nghiệm. Trong trường hợp này, đầu tư trực tiếp thường được ưa chuộng hơn li-xăng.
Nhiều bằng chứng nghiên cứu cho thấy các công ty đa quốc gia thường chuyển giao công nghệ quan trọng khi họ đầu tư ở nước ngoài. Ví dụ, một nghiên cứu về FDI ở Thụy Điển đã chỉ ra rằng các công ty nước ngoài đã tăng số lượng việc làm và năng suất chung của các doanh nghiệp Thụy Điển mà họ mua lại, chứng tỏ các hoạt động chuyển giao công nghệ đáng kể đã diễn ra (công nghệ thường giúp nâng cao năng suất). Một nghiên cứu khác về FDI được tiến hành bởi Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) cũng đã cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư một số lượng vốn đáng kể cho hoạt động R&D ở nước mà họ đầu tư vào, như vậy, họ không chỉ chuyển giao công nghệ tới những nước này mà họ còn nâng cấp công nghệ đó hoặc tạo ra công nghệ mới ở đây.12
Quản lý
Kỹ năng quản lý nước ngoài có được thông qua hoạt động FDI cũng có thể tạo ra những lợi ích quan trọng cho nước nhận đầu tư. Các nhà quản lý nước ngoài được đào tạo các kỹ thuật quản lý mới nhất có thể giúp tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ sở tại nước nhận đầu tư, cho dù những cơ sở này có được thông qua việc mua lại hay thông qua đầu tư mới. Đây chính là một nhân tố trong thương vụ Volvo mua lại công ty máy xúc của Samsung, khi các nhà quản lý của Volvo bắt tay vào việc cải tiến các cơ sở và nâng cao hiệu quả của bộ phận mà họ mua lại (xem phần Tiêu điểm Quản lý). Các tác động tràn có lợi cũng nảy sinh khi các nhân sự địa phương được đào tạo để nắm giữ các vị trí quản lý, tài chính và kỹ thuật trong công ty con của một MNE nước ngoài rời khỏi công ty này và thành lập một doanh nghiệp bản địa. Những lợi ích tương tự cũng có thể nảy sinh nếu các kỹ năng quản lý cấp cao của một MNE nước ngoài thúc đẩy các nhà cung cấp, phân phối và các đối thủ cạnh tranh địa phương cải tiến và nâng cấp các kỹ năng quản lý của chính họ.
Các lợi ích của FDI có thể giảm đi đáng kể nếu những vị trí quản lý và những công việc kỹ năng cao trong các công ty con lại được dành cho công dân của nước chủ đầu tư. Tỷ trọng các vị trí quản lý và có kỹ năng cao dành cho lao động của nước nhận đầu tư có thể là một nội dung đàm phán chính giữa một MNE muốn thực hiện FDI với chính phủ của nước nhận đầu tư. Trong những năm gần đây, hầu hết các MNEs, dưới sức ép của chính phủ nước nhận đầu tư trong vấn đề này, đã đồng ý dành một tỷ trọng lớn các vị trí quản lý và các công việc có kỹ năng cao cho công dân của nước nhận đầu tư.
Các lý thuyết về đầu tư nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang
FDI theo chiều ngang là hoạt động đầu tư vào cùng ngành mà một công ty đang hoạt động tại nước chủ đầu tư. Chúng ta cần tìm hiểu tại sao các công ty gặp chọn việc mua lại hay thiết lập các đơn vị kinh doanh ở nước ngoài, khi vẫn có các phương thức thay thế như xuất khẩu và lixăng. Khi các nhân tố khác ngang bằng, FDI sẽ trở thành phương thức tốn kém và rủi ro hơn so với xuất khẩu và lixăng. FDI tốn kém hơn vì công ty đầu tư phải chịu các chi phí xây dựng các cơ sở sản xuất ở nước ngoài hoặc chi phí mua lại một doanh nghiệp nước ngoài. FDI rủi ro vì những rắc rối gắn với quá trình hoạt động kinh doanh của các công ty trong một nền văn hoá khác với những “luật chơi” rất khác biệt. So với những công ty bản địa, một công ty đến từ một nền văn hoá bên ngoài do không biết về đặc điểm văn hoá ở nước nhận đầu tư có thể mắc phải những lỗi đắt giá. Trong khi đó, nếu tiến hành xuất khẩu, công ty sẽ không cần phải chịu các chi phí đầu tư như trong FDI, đồng thời các rủi ro liên quan tới quá trình bán hàng hoá ở nước ngoài sẽ được giảm thiểu nhờ sử dụng những đại lý bán hàng địa phương. Tương tự như vậy, khi lixăng bí quyết của mình, công ty cũng không phải chịu các chi phí và rủi ro như trong FDI. Vậy tại sao rất nhiều công ty lại ưa chuộng FDI hơn xuất khẩu và lixăng?
Câu trả lời nhanh là: Bởi vì các nhân tố khác không ngang bằng! Trên thực tế, có rất nhiều nhân tố có thể ảnh hưởng và làm thay đổi tính hấp dẫn tương đối của hoạt động xuất khẩu, lixăng và FDI như chi phí vận chuyển, sự không hoàn hảo của thị trường, cạnh tranh, hành vi chiến lược và lợi thế địa điểm riêng. Dưới đây, chúng ta sẽ đi sâu xem xét các nhân tố này.
CHI PHÍ VẬN CHUYỂN
Nếu chi phí vận chuyển được tính vào tổng chi phí sản xuất thì việc vận chuyển các sản phẩm trên một quãng đường dài sẽ làm giảm lợi nhuận của công ty. Điều này đặc biệt đúng đối với những sản phẩm có tỷ trọng giữa giá trị và trọng lượng thấp và có thể được sản xuất ở hầu như tất cả các địa điểm (ví dụ như xi măng, đồ uống có ga,…). Với những sản phẩm như vậy, so với FDI và lixăng, mức độ hấp dẫn của hoạt động xuất khẩu giảm đi. Do đó, bản thân nhân tố chi phí vận chuyển nói riêng có thể giúp lý giải tại sao Cemex đã tiến hành phương thức FDI mà không lựa chọn xuất khẩu (xem tình huống mở đầu chương). Tuy nhiên, với những sản phẩm có tỷ lệ giữa giá trị và trọng lượng cao thì chi phí vận chuyển lại chỉ là một thành phần rất nhỏ trong tổng chi phí (ví dụ như: linh kiện điện tử, máy tính cá nhân, thiết bị y tế, phần mềm máy tính…). Trong những trường hợp đó, chi phí vận chuyển hầu như không có tác động tới mức độ hấp dẫn tương đối của xuất khẩu, lixăng và FDI.
SỰ KHÔNG HOÀN HẢO CỦA THỊ TRƯỜNG (LÝ THUYẾT NỘI BỘ HOÁ)
Sự không hoàn hảo của thị trường đã góp phần quan trọng giúp lý giải tại sao các công ty ưa chuộng phương thức đầu tư FDI hơn là xuất khẩu và lixăng. Sự không hoàn hảo của thị trường là các nhân tố ngăn cản thị trường hoạt động một cách hoàn hảo. Cách lý giải FDI từ trên cơ sở thị trường không hoàn hảo này được hầu hết các nhà kinh tế lựa chọn.16 Trong các nghiên cứu về kinh doanh quốc tế, cách tiếp cận FDI dựa trên sự không hoàn hảo của thị trường thường được nhắc đến với tên gọi lý thuyết nội bộ hoá.
Đối với hoạt động FDI theo chiều ngang, sự không hoàn hảo của thị trường sẽ phát sinh trong hai trường hợp: khi có những cản trở đối với dòng chảy tự do của sản phẩm giữa các quốc gia, và khi có những cản trở đối với việc chuyển nhượng các bí quyết. (Lixăng là một cơ chế để chuyển nhượng các bí quyết). Những cản trở đối với dòng chảy tự do của sản phẩm giữa các quốc gia sẽ làm giảm khả năng sinh lợi của hoạt động xuất khẩu một cách tương đối so với FDI và lixăng. Trong khi những cản trở đối với việc chuyển nhượng các bí quyết sẽ làm gia tăng khả năng sinh lợi của FDI một cách tương đối so với lixăng. Do đó, theo lý giải xuất phát từ sự không hoàn hảo của thị trường thì FDI sẽ được ưa chuộng hơn khi có những cản trở khiến cho cho hoạt động xuất khẩu cũng như chuyển nhượng các bí quyết trở nên khó và/hoặc tốn kém hơn.
Những cản trở đối với hoạt động xuất khẩu
Các chính phủ là những nguồn chính tạo ra những cản trở đối với dòng chảy tự do của sản phẩm giữa các quốc gia. Thông qua việc đánh thuế đối với các hàng hoá nhập khẩu, chính phủ đã làm gia tăng chi phí của hoạt động xuất khẩu một cách tương đối so với FDI và lixăng. Tương tự như vậy, chính phủ có thể hạn chế lượng hàng hoá nhập khẩu thông qua việc ban hành hạn ngạch, từ đó làm tăng tính hấp dẫn của FDI và lixăng. Ví dụ như, chính những mối quan ngại về việc Quốc hội Hoa Kỳ có thể áp dụng các biện pháp bảo hộ và hạn ngạch nhập khẩu ô tô từ Nhật Bản đã phần nào tạo động cơ cho làn sóng FDI của các công ty ô tô Nhật Bản vào thị trường nước này trong giai đoạn những năm 1980. Đối với các công ty ô tô của Nhật, những nhân tố trên đã làm giảm tính sinh lợi của hoạt động xuất khẩu và gia tăng tính sinh lợi của FDI. Tương tự như vậy, hoạt động đầu tư của các công ty ô tô phương Tây ở Nga trong đầu những năm 2000 một phần có động cơ là các rào cản thuế cao đối với ô tô nhập khẩu vào quốc gia này.
Những cản trở đối với việc chuyển nhượng các bí quyết
Lợi thế cạnh tranh của nhiều công ty có được từ những bí quyết công nghệ, marketing hay quản lý của những công ty này. Bí quyết công nghệ có thể cho phép một công ty tạo ra một sản phẩm tốt hơn, ví dụ như bí quyết công nghệ của Nokia đã tạo cho công ty này một vị thế cạnh tranh mạnh trên thị trường thiết bị điện thoại không dây toàn cầu. Ngoài ra, các bí quyết công nghệ có thể giúp cải thiện quy trình sản xuất của công ty so với quy trình của các đối thủ cạnh tranh. Ví dụ như trường hợp của Toyota, rất nhiều quan điểm cho rằng lợi thế cạnh tranh của công ty này có được từ hệ thống sản xuất tuyệt vời mà công ty này sở hữu. Bí quyết marketing có thể cho phép một công ty định vị sản phẩm của mình tốt hơn trên thị trường. Có thể nói, lợi thế cạnh tranh của những công ty như Kellogg, H.J. Heinz và Procter & Gamble bắt nguồn từ bí quyết marketing của họ. Bí quyết quản lý cùng với các yếu tố như cơ cấu tổ chức, quan hệ con người, hệ thống kiểm soát, hệ thống xây dựng kế hoạch, quản lý hàng tồn kho… có thể cho phép một công ty quản lý tài sản của mình một cánh hiệu quả hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Ví dụ như, Cemex đã sử dụng bí quyết công nghệ của mình để quản lý tốt hơn nhu cầu khách hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như sử dụng các kiến thức về marketing để xây dựng uy tín của mình trên thị trường như một công ty rất coi trọng khách hàng (xem tình huống mở đầu chương).
Nếu xem xét các bí quyết (chuyên môn) như một tài sản cạnh tranh thì lợi nhuận thu được từ tài sản này càng nhiều khi thị trường sử dụng các bí quyết này càng lớn. Áp dụng vào trường hợp của Nokia, ta có thể thấy rằng thông qua việc bán các thiết bị điện thoại không dây trên khắp thế giới, công ty có thể thu được lợi nhuận lớn hơn nhiều so nếu chỉ kinh doanh sản phẩm ở riêng thị trường Phần Lan. Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét riêng yếu tố này thì cũng không thể giải thích được tại sao Nokia lại tiến hành FDI (công ty có các cơ sở sản xuất trên khắp thế giới). Trên thực tế, để Nokia lựa chọn phương thức FDI thì phải có hai điều kiện được thoả mãn. Thứ nhất là, chi phí vận chuyển và/hoặc những cản trở đối với xuất khẩu phải đủ lớn để xuất khẩu không còn là một lựa chọn của công ty. Thứ hai, phải có lý do để Nokia không thể bán được các bí quyết về các sản phẩm không dây cho các nhà sản xuất nước ngoài. Thông thường, vì lixăng là cơ chế chính để các công ty chuyển nhượng các bí quyết của mình, cho nên chắc hẳn phải có những lý do để Nokia không sẵn sàng lixăng cho một công ty nước ngoài sản xuất và cung cấp các thiết bị điện thoại di động của công ty. Khi những nhân tố khác ngang bằng, lixăng có thể sẽ là lựa chọn hấp dẫn với các công ty như Nokia bởi vì công ty sẽ không phải chịu các khoản chi phí và rủi ro như khi tiến hành FDI mà vẫn có thể thu được lợi nhuận cao từ các bí quyết dưới dạng phí lixăng.
Các lý thuyết về kinh tế ủng hộ ba lý do giải thích tại sao thị trường thường không hoạt động hiệu quả với vai trò là một cơ chế tạo điều kiện cho việc chuyển nhượng các bí quyết, hay giải thích tại sao lixăng kém hấp dẫn hơn so với khi mới xuất hiện. Thứ nhất, lixăng có thể dẫn đến khả năng công ty bị mất bí quyết của mình cho các đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Ví dụ như vào những năm 60, RCA đã lixăng công nghệ vô tuyết màu hàng đầu của mình cho một số công ty Nhật Bản, bao gồm Matsushira và Sony. Tại thời điểm đó, RCA đã nhìn nhận lixăng như một cách thức để thu được khoản lợi lớn từ bí quyết công nghệ của mình ở thị trường Nhật Bản mà không phải chịu chi phí và rủi ro như đầu tư FDI. Tuy nhiên, Matsushita và Sony đã nhanh chóng thâu tóm và sử dụng công nghệ của RCA để thâm nhập vào thị trường nước Hoa Kỳ và cạnh tranh trực tiếp với RCA. Kết quả là, RCA hiện nay chỉ là một công ty nhỏ trên sân nhà trong khi đó, Matsushita và Sony lại nắm được thị phần lớn hơn nhiều.
Thứ hai, lixăng không mang lại cho một công ty quyền kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động sản xuất, marketing và chiến lược ở nước ngoài. Đây có thể là điều kiện cần để khai thác những lợi thế từ bí quyết nhằm thu lợi nhuận. Đối với hoạt động lixăng, quyền kiểm soát đối với các hoạt động và chiến lược trên được chuyển cho bên nhận lixăng để đổi lấy phí lixăng. Tuy nhiên, công ty tiến hành lixăng có thể mong muốn duy trì sự kiểm soát đối với các hoạt động này vì những lý do liên quan đến chiến lược cũng như vận hành. Ví dụ như, một công ty có thể muốn các công ty con nước ngoài của mình định giá và tiến hành bán sản phẩm một cách mạnh mẽ để kìm hãm hoạt động của đối thủ cạnh tranh nhưng bên nhận lixăng, vì cần thu lợi nhuận, có thể không muốn thực hiện những hoạt động chỉ nhằm giúp cho bên lixăng. Có thể thấy được điều này trong trường hợp của Kodax. Kodax đã sử dụng các chi nhánh ở Nhật Bản để tấn công mạnh vào đối thủ cạnh tranh toàn cầu là Fuji Film. Ý tưởng phía sau chiến lược này của Kodax là khiến cho Fuji phải bận rộn với việc phòng vệ ở thị trường nước mình, do đó giảm khả năng tấn công mạnh mẽ trên thị trường Hoa Kỳ. Trong khi công ty con ở Nhật Bản thuộc sở hữu toàn phần của Kodak phải chấp nhận thực hiện theo định hướng chiến lược như trên của công ty thì một bên nhận lixăng có thể không tuân theo sự áp đặt như vậy, bởi vì việc áp dụng chiến lược này sẽ khiến bên nhận lixăng thu được mức lợi nhuận thấp, thậm chí là thua lỗ.
Bên cạnh đó, một công ty có thể mong muốn kiểm soát hoạt động của một thực thể nước ngoài nhằm mục đích tận dụng sự khác biệt về chi phí nhân tố giữa các nước, qua đó công ty chỉ cần sản xuất một phần sản phẩm cuối cùng ở một quốc gia nhất định trong khi nhập khẩu những phần khác từ những quốc gia nơi sản phẩm được sản xuất với mức chi phí thấp hơn. Thế nhưng, bên nhận lixăng có thể không chấp nhận sự dàn xếp như vậy bởi điều đó sẽ giới hạn sự tự chủ của họ. Như vậy, khi công ty muốn kiểm soát chặt chẽ đối với một thực thể nước ngoài thì FDI theo chiều ngang được ưa chuộng hơn so với lixăng.
Thứ ba, bí quyết của một công ty có thể không phù hợp với lixăng. Điều này đặc biệt đúng đối với bí quyết quản lý và marketing. Lixăng việc sản xuất một sản phẩm cụ thể cho một công ty nước ngoài là một việc, thế nhưng việc lixăng cách thức hoạt động kinh doanh của một công ty – cách thức công ty quản lý các quy trình và tiêu thụ các sản phẩm lại - là một điều hoàn toàn khác. Chúng ta sẽ xem xét trường hợp của Toyota. Toyota là một công ty được biết đến với lợi thế cạnh tranh trong ngành ô tô toàn cầu bắt nguồn từ khả năng quản lý tổng thể quy trình thiết kế, điều hành, sản xuất và bán sản phẩm. Nói cách khác, lợi thế cạnh tranh bắt nguồn từ bí quyết quản lý và tổ chức của công ty. Toyota là công ty tiên phong phát triển một quy trình sản xuất mới - quy trình sản xuất tinh gọn. Quy trình này đã cho phép công ty sản xuất ra những sản phẩm ô tô với chất lượng cao hơn với mức chi phí thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh toàn cầu của công ty.17 Mặc dù Toyota có những sản phẩm đã được lixăng, thế nhưng lợi thế cạnh tranh của công ty này bắt nguồn chính từ bí quyết quản lý và quy trình. Những bí quyết này rất khó quy định rõ ràng và hầu như không thể nêu cụ thể trong một hợp đồng lixăng đơn giản. Những bí quyết này trải rộng trên toàn bộ tổ chức, được phát triển qua nhiều năm mà không thuộc về riêng bất kỳ một cá nhân nào. Các kỹ năng của Toyota nằm trong văn hóa tổ chức của công ty mà văn hóa là nhân tổ không thể chuyển quyền sử dụng được. Vì vậy, khi Toyota chuyển hướng khỏi chiến lược xuất khẩu truyền thống, công ty đã theo đuổi chiến lược FDI thay vì lixăng cho các công ty nước ngoài. Cemex cũng thực hiện chiến lược tương tự như Toyota. Vì bí quyết nằm trong các kỹ năng quản lý và quy trình tổ chức nên các bí quyết của Cemex liên quan tới công nghệ, marketing và quản lý của công ty cũng khó có thể được chuyển qua một hợp đồng lixăng. Do đó, FDI là cách thức hợp lý để Cemex mở rộng hoạt động trên phạm vi quốc tế.
Tất cả những điều được đề cập ở trên đã chỉ ra rằng hoạt động của thị trường với vai trò là một cơ chế chuyển nhượng các bí quyết sẽ thất bại và FDI có khả năng sinh lợi nhiều hơn so với lixăng khi một trong những điều kiện dưới đây xuất hiện: (1) khi một công ty sở hữu những bí quyết có giá trị nhưng lại không thể bảo vệ một cách đầy đủ qua một hợp đồng lixăng, (2) khi một công ty kiểm soát chặt chẽ một thực thể nước ngoài để từ đó tối đa hóa thị phần và thu nhập ở quốc gia đó, và (3) khi các kỹ năng và bí quyết của một công ty không thể đưa thành các quy định để tiến hành lixăng.
HÀNH VI CHIẾN LƯỢC
Một lý thuyết khác được sử dụng để giải thích cho hoạt động FDI được xây dựng dựa trên quan điểm cho rằng dòng FDI phản ánh sự cạnh tranh chiến lược giữa các công ty trên thị trường toàn cầu. Phiên bản ban đầu của lập luận này được F.T. Knickerbocker đưa ra. F.T. Knickerbocker đã nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và cạnh tranh trong những ngành độc quyền nhóm.18 Độc quyền nhóm là một ngành có một số lượng hạn chế các công ty lớn (ví dụ như một ngành trong đó 4 công ty nắm giữ 80% thị trường nội địa). Một đặc điểm cạnh tranh quan trọng của những ngành này là sự phụ thuộc lẫn nhau của những công ty tham gia. Hoạt động của một công ty có thể gây ảnh hưởng ngay lập tức tới những đối thủ cạnh tranh chính và buộc những công ty này phải có những hành động tương tự. Nếu một công ty trong độc quyền nhóm giảm giá bán, thì hành động này có thể làm giảm thị phần của các đối thủ cạnh tranh, do đó buộc các công ty này cũng phải giảm giá tương tự để duy trì thị phần. Vì thế, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các công ty trong độc quyền nhóm dẫn tới các hành vi bắt chước, cụ thể là các đối thủ cạnh tranh thường bắt chước ngay những gì mà một công ty trong nhóm thực hiện.
Hành vi bắt chước có thể có nhiều dạng trong độc quyền nhóm. Một công ty tăng giá thì các công ty khác cũng theo sau; một công ty mở rộng năng lực hoạt động thì các công ty đối thủ cũng bắt chước theo để không phải ở vị trí bất lợi trong tương lai. Knickerbocker đã lập luận rằng những kiểu hành vi bắt chước như vậy làm nên đặc điểm của FDI. Xem xét một độc quyền nhóm tại Hoa Kỳ trong đó có ba công ty A, B và C đang thống trị thị trường. Công ty A thành lập một công ty con ở Pháp. Công ty B và C cho rằng nếu hoạt động đầu tư của A thành công thì các sản phẩm xuất khẩu của hai công ty sẽ bị đánh bật ra khỏi thị trường Pháp và tạo cho A lợi thế của người tiên phong. Thêm vào đó, công ty A có thể sẽ tìm thấy những tài sản cạnh tranh ở thị trường Pháp và đem những tài sản này trở về thị trường Hoa Kỳ để đánh bật B và C ra khỏi mảnh đất của mình. Với những khả năng trên, hai công ty B và C đã quyết định theo công ty A và thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở Pháp.
Các nghiên cứu về hoạt động FDI của các công ty Hoa Kỳ trong giai đoạn những năm 1950 và 60 đã chỉ ra rằng các công ty trong các ngành độc quyền nhóm có xu hướng bắt chước hoạt động FDI của nhau. Hiện tượng tương tự liên quan tới hoạt động FDI cũng xuất hiện ở các công ty Nhật trong những năm 1980. Ví dụ như Toyota và Nissan đã phản ứng với hoạt động đầu tư của Honda ở Hoa Kỳ và Châu Âu bằng cách tự tiến hành FDI ở hai thị trường này. Gần đây, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các mô hình hành vi chiến lược trong độc quyền nhóm toàn cầu có thể lý giải cho hoạt động FDI trong ngành sản xuất lốp toàn cầu. Lý thuyết của Knickerbocker có thể được mở rộng ra bao gồm cả khái niệm cạnh tranh đa điểm. Cạnh tranh đa điểm nảy sinh khi nhiều công ty đối đầu với nhau tại các thị trường khu vực, thị trường quốc gia hoặc các ngành khác nhau. Các lý thuyết kinh tế cho thẩy rằng, giống như những người chơi cờ sử dụng các mẹo để dành lợi thế, các công ty sẽ cố gắng theo đuổi từng động thái của các đối thủ trên các thị trường khác nhau để kiểm soát hoạt động của nhau. Điều này sẽ giúp các công ty đảm bảo rằng đối thủ của mình sẽ không giành được vị trí chủ đạo trên một thị trường, từ đó sử dụng những khoản lợi nhuận tạo ra ở đó để tài trợ cho những chiến lược tấn công cạnh tranh ở các thị trường khác. Ví dụ như Kodax và Fuji Photo Film Co., đã cạnh tranh với nhau trên khắp thế giới. Nếu Kodax tham gia vào một thị trường nước ngoài nào đó thì Fuji cũng theo bước kịp thời. Fuji cảm thấy cần phải theo đuổi Kodax để đảm bảo rằng Kodax không nắm được vị trí chủ đạo ở một thị trường nước ngoài, từ đó có thể giúp Kodax giành được lợi thế cạnh tranh tại thị trường khác. Và ngược lại, Kodax cũng đã theo sát Fuji khi công ty của Nhật Bản này thâm nhập vào một thị trường nước ngoài.
Mặc dù lý thuyết Knickbocker và sự mở rộng của lý thuyết này có thể lý giải các hành vi FDI bắt chước của các công ty trong các ngành độc quyền nhóm nhưng lại không giải thích được tại sao công ty đầu tiên quyết định tiến hành FDI chứ không xuất khẩu hay lixăng. Trong khi đó, cách lý giải từ góc độ không hoàn hảo của thị trường đã chỉ ra hiện tượng này. Lý thuyết về sự bắt chước cũng không tiếp cận vấn đề liệu FDI có hiệu quả hơn so với xuất khẩu hay lixăng trong mở rộng hoạt động ra nước ngoài hay không. Một lần nữa, cách tiếp cận từ sự không hoàn hảo của thị trường cũng xem xét vấn đề hiệu quả. Vì những lý do trên, nhiều nhà kinh tế học đã ủng hộ cách tiếp cận này mặc dù hầu hết họ đều đồng ý rằng những lý giải mà lý thuyết về sự bắt chước cũng đóng một vai trò quan trọng trong câu chuyện về FDI.
VÒNG ĐỜI SẢN PHẨM
Lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Raymond Vernon được mô tả ở phần đầu chương này cũng được sử dụng để lý giải cho hoạt động FDI. Theo Vernon, thông thường chính những công ty tiên phong cung cấp một sản phẩm ở thị trường nội địa cũng tiến hành hoạt động FDI để sản xuất sản phẩm tiêu dùng ở thị trường nước ngoài. Ví dụ như Xerox là công ty đầu tiên giới thiệu sản phẩm máy photo ở Hoa Kỳ và cũng chính Xerox đã xây dựng các nhà máy sản xuất ở Nhật (Fuji-Xerox), Anh (Rank-Xerox) để cung cấp cho những thị trường này. Theo quan điểm của Vernon, các công ty tiến hành FDI ở những giai đoạn cụ thể trong vòng đời của một sản phẩm mà họ là nhà cung cấp đầu tiên. Các công ty này sẽ đầu tư vào những nước tiên tiến khác khi nhu cầu nội địa ở những nước đó tăng lên đủ lớn để khuyến khích hoạt động sản xuất trong nước (giống như trong trường hợp Xerox đã đầu tư). Sau đó, họ chuyển hoạt động sản xuất sang các nước đang phát triển khi sự tiêu chuẩn hoá sản phẩm và sự bão hoà của thị trường làm gia tăng áp lực chi phí và sự cạnh tranh về giá. Lúc đó, hoạt động đầu tư vào các nước đang phát triển, nơi có mức chi phí lao động thấp hơn, được coi là cách thức đầu tư để giảm chi phí tốt nhất.
Lý thuyết của Vernon cũng có những đóng góp nhất định. Các công ty tiến hành đầu tư vào một nước khác khi nhu cầu của nước này tạo điều kiện khuyến khích hoạt động sản xuất nội địa, đồng thời họ cũng đầu tư vào những địa điểm có chi phí thấp (ví dụ như vào các nước đang phát triển) khi áp lực về chi phí gia tăng. Tuy nhiên, lý thuyết của Vernon đã không lý giải được tại sao trong những trường hợp đó việc tiến hành FDI mang lại khả năng sinh lợi cho công ty hơn hoạt động xuất khẩu hàng hoá hay lixăng sản xuất sản phẩm cho một công ty ở nước ngoài. Nếu chỉ bởi vì nhu cầu ở nước nhận đầu tư đủ lớn để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất nội địa, thì cũng không thể khẳng định rằng việc đầu tư sản xuất là lựa chọn có khả năng sinh lợi cao nhất. Trên thực tế, việc sản xuất ở nước chủ nhà và xuất khẩu sang thị trường nước ngoài vẫn có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho công ty (thông qua tận dụng lợi thế về quy mô - lợi thế hình thành khi công ty cung cấp sản phẩm phục vụ thị trường toàn cầu từ một địa điểm sản xuất). Ngoài ra, công ty cũng có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn khi lixăng cho một công ty nước ngoài để sản xuất ra sản phẩm nhằm tiêu thụ trên thị trường nước đó. Lý thuyết vòng đời sản phẩm đã bỏ qua những lựa chọn này mà thay vào đó chỉ đơn giản cho rằng khi thị trường của một nước có dung lượng đủ lớn để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất ở nước đó thì hoạt động FDI sẽ diễn ra. Chính điều này đã làm giảm khả năng lý giải và áp dụng của lý thyết này đối với hoạt động kinh doanh vì nó không xác định được rõ khi nào việc đầu tư ra nước ngoài là có lợi cho các công ty đầu tư.
LỢI THẾ ĐỊA ĐIỂM RIÊNG
Nhà kinh tế học người Anh, John Dunning, cho rằng, bên cạnh rất nhiều các nhân tố được bàn luận ở trên, những lợi thế về địa điểm riêng cũng có thể giúp lý giải bản chất và hướng của hoạt động FDI. Theo Dunning, lợi thế địa điểm riêng là những lợi thế nảy sinh từ việc sử dụng các nguồn lực hoặc tài sản sẵn có gắn liền với một địa điểm cụ thể ở nước ngoài và cũng là những lợi thế có giá trị khi công ty kết hợp chúng với các tài sản riêng có của mình (ví dụ như các bí quyết công nghệ, marketing hoặc quản lý của công ty). Dunning thừa nhận quan điểm về của lý thuyết nội bộ hoá cho rằng thất bại thị trường khiến cho một công ty khó tiến hành lixăng các tài sản riêng của mình (bí quyết). Do đó, theo ông, sự kết hợp những tài sản hay nguồn lực gắn với một địa điểm với những tài sản riêng của công ty thông thường đòi hỏi công ty phải tiến hành hoạt động FDI. Để có được sự kết hợp đó, công ty phải thiết lập các cơ sở sản xuất ở nơi có các tài sản hay nguồn lực đó. (Dunning đã gọi đây là mô hình chiết trung).
Một trong những ví dụ điển hình minh chứng cho lập luận của Dunning là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, như dầu mỏ và các loại khoáng sản khác. Đây là những nguồn lực thuộc về những địa điểm nhất định. Dunning đã gợi ý rằng một công ty cần phải tiến hành FDI để khai thác được những tài sản nước ngoài đó. Chính điều này đã lý giải tại sao hoạt động FDI đã được tiến hành bởi rất nhiều các công ty dầu mỏ trên thế giới, vốn là những công ty phải đầu tư vào những nơi có nguồn dầu mỏ để từ đó kết hợp được những kiến thức về công nghệ và quản lý của mình với những nguồn lực có giá trị đó. Một ví dụ khác đó là nguồn nhân lực có giá trị, cụ thể như nguồn lao động có kỹ năng cao với mức chi phí thấp. Chi phí và kỹ năng của lao động ở mỗi nước là khác nhau. Chính bởi nguồn lao động này không được coi là nguồn lực di chuyển trên phạm vi quốc tế cho nên, theo Dunning, việc các công ty đặt các cơ sở sản xuất của mình ở những nơi mà chi phí và kỹ năng của người lao động địa phương phù hợp nhất với quy trình sản xuất cụ thể của mình là hợp lý.
Tuy nhiên, những gợi ý trong lý thuyết của Dunning vượt ra ngoài những nguồn lực cơ bản như nguồn tài nguyên khoáng sản hay nguồn lao động. Chúng ta hãy xem xét trường hợp của Silicon Valley – trung tâm của ngành công nghiệp máy tính và bán dẫn trên thế giới. Rất nhiều các công ty máy tính và bán dẫn lớn trên thế giới như Apple Computer, Applied Materials và Intel đã có mặt ở ngay bên cạnh nhau trong khu vực Silicon Valley ở California này. Vì lẽ đó, hầu hết những hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm quan trọng trong ngành máy tính và bán dẫn đã diễn ra ở đây. Theo lập luận của Dunning, kiến thức về thiết kế và sản xuất máy tính cũng như các sản phẩm bán dẫn được tạo ra ở Silicon Valley không có ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Khi được thương mại hoá, các kiến thức này lan truyền trên khắp
các nơi, thế nhưng địa điểm hàng đầu về việc tạo ra những kiến thức trong ngành máy tính và sản phẩm bán dẫn vẫn là Silicon Valley. Theo ngôn ngữ của Dunning, điều này có nghĩa là Silicon Valey có lợi thế địa điểm riêng trong việc tạo ra những kiến thức liên quan tới ngành máy tính và bán dẫn. Lợi thế này một phần bắt nguồn từ sự tập trung nguồn lực trí tuệ ở mức độ cao và một phần từ mạng lưới liên lạc phi chính thức cho phép các công ty được hưởng lợi từ quá trình tạo ra kiến thức mới của nhau. Các nhà kinh tế học gọi các “tác dụng tràn” kiến thức đó là các nhân tố ngoại vi và theo một lý thuyết có uy tín khác thì các công ty có thể được hưởng lợi từ những nhân tố ngoại vi này khi đặt địa điểm gần với nguồn sinh ra chúng.
Trong trường hợp này, việc các công ty máy tính và bán dẫn nước ngoài đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và (có thể) các cơ sở sản xuất tại đây là có lý. Các công ty này có thể tìm hiểu và tận dụng những kiến thức mới có giá trị trước những công ty có trụ sở tại nơi khác và nhờ đó có được lợi thế cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.26 Các dẫn chứng cho thấy các công ty máy tính và bán dẫn của Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đang tiến hành đầu tư vào khu vực Silicon Valley bởi vì họ mong muốn được hưởng lợi từ những nhân tố ngoại vi nảy sinh tại đây. Một số khác cho rằng chính mong muốn tiếp cận được với kiến thức công nghệ mang tính chất địa điểm riêng của các công ty công nghệ sinh học của Hoa Kỳ đã thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp của các công ty nước ngoài vào ngành này ở Hoa Kỳ. Do đó, lý thuyết của Dunning dường như là một sự bổ sung hữu ích cho những học thuyết được đề cập ở trên, vì nó giúp lý giải cách thức các nhân tố địa điểm ảnh hưởng tới hướng của FDI.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) theo chiều dọc
FDI theo chiều dọc gồm có hai dạng: FDI theo chiều dọc qua liên kết lùi và FDI theo chiều dọc qua liên kết tiến. FDI theo chiều dọc qua liên kết lùi là hoạt động đầu tư vào một ngành ở nước ngoài cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho các quy trình sản xuất nội địa của doanh nghiệp. Trong lịch sử, hầu hết hoạt động FDI theo hình thức này được tiến hành trong ngành công nghiệp khai khoáng, ví dụ như khai thác dầu khí, khai thác mỏ boxit, mỏ thiếc và đồng. Mục tiêu đặt ra của các hoạt động đầu tư như vậy là cung cấp các nguyên liệu đầu vào cho các hoạt động hạ nguồn của công ty, ví dụ như tinh lọc dầu mỏ, luyện và tạo ra hợp kim nhôm, thiếc. Royal Dutch/Shell, British Petroleum (BP), RTZ, Consoliated Gold Field và Alcoa chính là những ví dụ cổ điển về những công ty đa quốc gia tiến hành hoạt động FDI theo chiều dọc qua liên kết lùi như vậy.
Trong khi đó, FDI theo chiều dọc qua liên kết tiến là hoạt động đầu tư vào một ngành ở nước ngoài giúp tiêu thụ các đầu ra của các quy trình sản xuất trong nước của công ty. So với FDI qua liên kết lùi, FDI qua liên kết tiến ít phổ biến hơn. Một ví dụ về áp dụng phương thức này là trường hợp của Volkswagen. Khi Volkswagen thâm nhập thị trường nước Hoa Kỳ, công ty đã mua lại một số lượng lớn những đại lý thay vì phân phối ô tô của mình thông qua các đại lý độc lập của Hoa Kỳ.
Với cả hai phương thức FDI theo chiều dọc và FDI theo chiều ngang thì câu hỏi cần phải trả lời là tại sao một công ty lại chịu mọi khó khăn và chi phí để thiết lập các hoạt động kinh doanh của mình ở một quốc gia khác? Ví dụ như, tại sao các công ty xăng dầu như BP và Royal Dutch/Shell lại đầu tư theo chiều dọc qua liên kết lùi vào sản xuất dầu ở nước ngoài? Luận điểm về các lợi thế địa điểm riêng đã giúp lý giải về hướng của hoạt động FDI đó, cụ thể là các công ty đa quốc gia hội nhập theo chiều dọc đầu tư vào nơi có nguyên liệu thô. Tuy nhiên, luận điểm này không làm rõ được tại sao các công ty này lại không nhập khẩu các nguyên liệu do các nhà sản xuất địa phương khai thác được, cũng như tại sao các công ty như Volkswagen thấy cần phải lại xây dựng mạng lưới kinh doanh sản phẩm của riêng mình trên những thị trường nước ngoài khi mà về mặt lý thuyết, dường như việc dựa vào các đại lý nước ngoài sẽ ít tốn kém hơn? Có hai câu trả lời cơ bản cho dạng câu hỏi này. Một là luận điểm về hành vi chiến lược và hai là cách tiếp cận dựa trên sự không hoàn hảo của thị trường.
HÀNH VI CHIẾN LƯỢC
Theo lý thuyết kinh tế, thông qua liên kết theo chiều dọc và giành quyền kiểm soát các nguồn nguyên liệu thô, một công ty có thể làm gia tăng các rào cản ra nhập và đẩy những đối thủ cạnh tranh mới ra khỏi ngành.30 Các hành vi chiến lược như vậy liên quan đến FDI theo chiều dọc nếu như các nguyên liệu được tìm thấy ở nước ngoài. Một trong những ví dụ nổi tiếng diễn ra vào những năm 1930, khi các công ty Bắc Hoa Kỳ (như Alcoa) là những công ty đi đầu trong hoạt động luyện nhôm – một sản phẩm được tách ra từ quặng boxit. Mặc dù boxit là một khoáng sản thông dụng, nhưng hàm lượng nhôm trong boxit lại rất nhỏ, vì thế hầu như việc khai thác và luyện nhôm đối với các công ty là không có lợi. Trong suốt những năm 1930, chỉ có duy nhất một mỏ boxit nằm trên đảo Caribe thuộc Trinidad với trữ lượng lớn và hàm lượng nhôm phù hợp và đủ kinh tế để khai thác và luyện được phát hiện trên thế giới. Alcoa và Alcan đã tiến hành liên kết lùi theo chiều dọc và giành quyền sở hữu mỏ quặng này. Chính hoạt động này đã tạo ra một rào cản gia nhập vào ngành công nghiệp nhôm đối với các đối thủ cạnh tranh tiềm năng, bởi vì các đối thủ này không thể tiếp cận với nguồn boxit chất lượng cao vốn đã thuộc sở hữu của Alcoa và Alcan. Tất cả những công ty đã tham gia vào ngành công nghiệp này đã phải sử dụng nguồn boxit chất lượng thấp hơn so với Alcan và Alcoa và do đó gặp bất lợi hơn về chi phí. Tình trạng này còn tiếp tục diễn ra cho tới những năm 1950 và 1960, khi các mỏ chất lượng cao khác được tìm ra ở Australia và Indonesia.
Tuy nhiên, các cơ hội thiết lập các rào cản gia nhập thông qua hoạt động FDI theo chiều dọc như trên hầu như không đủ để lý giải cho hoạt động đầu tư dạng này này giữa các công ty đa quốc gia trên thế giới. Trong hầu hết những ngành công nghiệp khai thác, các mỏ khoáng sản không mang tính tập trung như trong trường hợp các mỏ boxit vào những năm 1930 và đã có rất nhiều những mỏ mới được phát hiện. Do đó, bất kỳ nỗ lực nào nhằm độc quyền tất cả trữ lượng nguyên liệu thô sẽ rất tốn kém nếu không nói là không thể.
Một nhánh khác của cách lý giải hoạt động FDI theo chiều dọc trên cơ sở hành vi chiến lược là coi hoạt động đầu tư này như một nỗ lực nhằm phá vỡ những rào cản được thiết lập bởi những công ty đã kinh doanh tại một quốc gia (chứ không phải để xây dựng các rào cản đối với việc gia nhập). Điều này có thể giúp lý giải quyết định thiết lập hệ thống bán hàng riêng của Volkswagen khi thâm nhập thị trường ô tô Bắc Hoa Kỳ. Tại thời điểm đó, GM, Ford và Chrysler đều đã có một vị trí trên thị trường với mạng lưới bán hàng của mình. Volkswagen thấy rằng cách thức duy nhất để tiếp cận nhanh chóng với thị trường Hoa Kỳ là xúc tiến sản phẩm của mình mạng bán hàng thuộc sở hữu của công ty.
SỰ KHÔNG HOÀN HẢO CỦA THỊ TRƯỜNG
Giống như trường hợp của FDI theo chiều ngang, hoạt động FDI theo chiều dọc cũng được lý giải một cách khái quát hơn theo cách tiếp cận dựa trên sự không hoàn hảo của thị trường.31 Học thuyết về sự không hoàn hảo của thị trường đưa ra hai cách lý giải về FDI theo chiều dọc. Cũng như đối với FDI theo chiều ngang, cách lý giải đầu tiên được đưa ra trên quan điểm cho rằng có nhiều trở ngại đối với việc chuyển nhượng các bí quyết thông qua cơ chế thị trường. Cách lý giải thứ hai dựa trên quan điểm các hoạt động đầu tư vào các tài sản chuyên biệt sẽ khiến cho các công ty đầu tư gặp phải nhiều rủi ro và những rủi ro này chỉ có thể giảm đi thông qua hoạt động FDI theo chiều dọc.
Các trở ngại đối với việc chuyển nhượng các bí quyết
Chúng ta hãy xem xét trường hợp của các công ty chế biến dầu mỏ như British Petroleum và Royal Dutch/Shell. Về mặt lịch sử, các công ty này đã theo đuổi chiến lược FDI theo chiều dọc qua liên kết lùi để từ đó có được nguồn nguyên liệu dầu thô cung cấp cho các cơ sở lọc dầu ở Anh và Hà Lan. Khi hoạt động này diễn ra vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, cả Anh và Hà Lan đều không có nguồn cung dầu mỏ nội địa. Vậy tại sao các công ty này không nhập khẩu dầu từ các công ty ở những nước có nguồn cung dầu dồi dào như Ả Rập Xê Út và Cô-oétt?
Ban đầu, không có một công ty Ả Rập Xê Út hay Cô-oét nào có đủ chuyên môn kỹ thuật để tiến hành tìm kiếm và khai thác dầu. Do đó, BP và Royal Dutch/Shell phải phát triển bí quyết công nghệ để tiếp cận với nguồn dầu mỏ. Tất nhiên, nếu chỉ có duy nhất điều này thì cũng không thể lý giải được nguyên nhân tại sao các công ty lại tiến hành FDI, vì khi BP và Shell đã phát triển được các bí quyết kỹ thuật cần thiết thì những công ty này cũng có thể lixăng bí quyết này cho các công ty của Ả Rập Xê út và Cô oét. Tuy nhiên, như chúng ta thấy trong trường hợp FDI theo chiều ngang thì lixăng với vai trò là một cơ chế cho việc chuyển nhượng các bí quyết lại có thể khiến công ty rơi vào tình trạng khó khăn. Giả sử các công ty chế biến dầu mỏ thực hiện lixăng kỹ thuật khai thác của mình cho các công ty của Ả Rập Xê Út và Cô-oét thì họ sẽ phải đối mặt với rủi ro bị mất những bí quyết công nhệ này cho các công ty đó - những những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng trong tương lai. Khi nắm được các bí quyết, các công ty Ả Rập Xê Út và Cô-oét có thể sẽ phát triển hoạt động tìm kiếm và khai thác dầu sang những khu vực khác của thế giới, từ đó cạnh tranh trực tiếp với BP và Royal Dutch/Shell. Vì lẽ đó, sẽ hợp lý hơn đối với BP và Royal Dutch/Shell khi họ tiến hành hoạt động FDI theo chiều dọc qua liên kết lùi, tự khai thác dầu mỏ thay vì lixăng những bí quyết công nghệ rất có giá trị của mình cho các công ty địa phương.
Từ những ví dụ trên, có thể thấy rằng FDI theo chiều dọc qua liên kết lùi sẽ diễn ra khi một công ty có kiến thức và khả năng khai thác các nguyên liệu thô ở một quốc gia khác và tại quốc gia đó không có các nhà sản xuất hiệu quả có thể cung cấp nguyên liệu cho công ty đó.
Đầu tư vào các tài sản chuyên biệt
Theo một nhánh khác của luận điểm dựa trên sự không hoàn hảo của thị trường thì FDI theo chiều dọc sẽ diễn ra khi một công ty phải đầu tư vào các tài sản chuyên biệt – là những tài sản có giá trị phụ thuộc vào nguồn đầu vào của một nhà cung cấp nước ngoài. Trong bối cảnh này, một tài sản chuyên biệt là tài sản được tạo ra nhằm thực hiện một nhiệm vụ cụ thể và giá trị của tài sản sẽ giảm đi đáng kể khi thực hiện nhiệm vụ khác với nhiệm vụ đặt ra ban đầu. Chúng ta sẽ xem xét trường hợp của một nhà máy luyện nhôm được thiết kế và xây dựng với nhiệm vụ chế biến quặng bôxít và sản xuất nhôm. Trên thực tế, quặng bôxít ở mỗi mỏ có sự khác nhau về hàm lượng và thành phần hóa chất. Bản thân mỗi loại quặng cần được chế biến theo cách riêng. Nếu tiến hành chế biến một loại bôxít ở một nhà máy được thiết kế cho một loại khác thì sẽ làm tăng tổng chi phí sản xuất từ 20 tới 100%.32 Do đó, giá trị mang lại của khoản đầu tư vào một nhà máy luyện nhôm phụ thuộc vào sự sẵn có của loại quặng bôxít phù hợp.
Giả sử rằng một công ty nhôm của Hoa Kỳ đang đứng trước quyết định đầu tư vào một nhà máy luyện nhôm để chế biến một loại quặng nhất định. Cũng giả định rằng loại quặng này chỉ được cung cấp bởi một công ty khai thác mỏ của Australia tại một mỏ quặng bôxit duy nhất. Việc sử dụng một loại quặng khác cho nhà máy tinh luyện sẽ làm gia tăng chi phí sản xuất của công ty lên ít nhất 20%. Vì lẽ đó, giá trị của khoản đầu tư phụ thuộc vào giá quặng bôxít mà công ty của Hoa Kỳ phải trả cho công ty Australia. Nhận thức được vấn đề này, khi một công ty Hoa Kỳ đã đầu tư vào một nhà máy mới thì không gì có thể ngăn cản công ty Australia tăng giá quặng bôxít? Khi đã tiến hành đầu tư, công ty của Hoa Kỳ sẽ bị khóa chặt vào mối quan hệ với nhà cung cấp của Australia. Công ty Australia có thể tăng giá bôxít với nhận thức rằng nếu mức tăng tổng chi phí sản xuất thấp hơn 20% thì công ty Hoa Kỳ sẽ vẫn tiếp tục mua nguyên liệu từ công ty này. (Nghĩa là chỉ khi tổng chi phí tăng nhiều hơn 20% thì công ty Hoa Kỳ mới có lợi hơn khi mua nguyên liệu từ một nhà cung cấp khác).
Công ty của Hoa Kỳ có thể giảm được mức độ rủi ro từ việc nhà cung cấp Australia tăng giá nguyên liệu một cách cơ hội bằng cách mua lại nhà cung cấp này. Nếu như có thể mua được công ty Australia hay mỏ quặng bôxít trên thì công ty Hoa Kỳ sẽ không phải lo ngại về việc giá nguyên liệu sẽ tăng sau khi họ đầu tư xây dựng nhà máy tinh luyện. Nói cách khác, công ty Hoa Kỳ sẽ thu được lợi ích kinh tế khi đầu tư FDI theo chiều dọc. Trên thực tế, những cân nhắc này đã khiến nhiều công ty sản xuất và chế biến nhôm theo đuổi hoạt động FDI theo chiều dọc - tới mức mà một tỷ lệ lớn tổng lượng quặng bôxít được chuyển nhượng giữa các công ty liên kết theo chiều dọc.33
2. Can thiệp của chính phủ vào đầu tư quốc tế
Các công cụ chính sách và FDI
Trước khi giải quyết vấn đề quan trọng về việc thương lượng giữa một công ty đa quốc gia và nước chủ đầu tư, chúng ta cần thảo luận những công cụ chính sách mà chính phủ một quốc gia sử dụng để điều chỉnh họat động FDI của các công ty đa quốc gia. Cả nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư đều có một hệ thống công cụ chính sách mà chúng ta sẽ lần lượt xem xét sau đây.
CHÍNH SÁCH CỦA NƯỚC CHỦ ĐẦU TƯ
Bằng việc lựa chọn các chính sách, các nước chủ đầu tư có thể khuyến khích hay hạn chế FDI của các công ty trong nước. Chúng ta sẽ tìm hiểu các chính sách để khuyến khích FDI ra nước ngoài trước tiên, những chính sách này bao gồm bảo hiểm rủi ro ở nước ngoài, hỗ trợ vốn, ưu đãi thuế, và các áp lực chính trị. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét những chính sách nhằm hạn chế FDI ra nước ngoài.
Khuyến khích FDI ra
Nhiều quốc gia chủ đầu tư có những chương trình bảo hiểm do chính phủ tài trợ nhằm bảo hiểm cho những loại rủi ro chính khi đầu tư ra nước ngoài. Các rủi ro có thể được bảo hiểm qua những chương trình ngày bao gồm: bị trưng thu (quốc hữu hóa) tài sản, rủi ro chiến tranh, và việc không chuyển được lợi nhuận về công ty mẹ. Những chương trình này đặc biệt hữu ích trong việc khuyến khích các công ty đầu tư vào những nước bất ổn về chính trị.25 Hơn nữa, một số nước phát triển còn có những quỹ hoặc ngân hàng đặc biệt cung cấp tín dụng cho các công ty muốn đầu tư sang các nước đang phát triển. Để khuyến khích FDI, nhiều nước còn xóa bỏ việc đánh thuế hai lần đối với thu nhập được tạo ra ở nước ngoài (nghĩa là thuế đánh vào thu nhập ở cả nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư). Cuối cùng và quan trọng nhất, nhiều nước chủ đầu tư (trong đó có Mỹ), đã dùng ảnh hưởng chính trị để thuyết phục các nước nhận đầu tư nới lỏng những hạn chế đối với FDI vào. Ví dụ, trước sức ép trực tiếp của Hoa Kỳ, Nhật đã nới lỏng những hạn chế chính thức đối với FDI vào trong những năm 1980. Giờ đây, trước sức ép lại càng tăng từ Hoa Kỳ, Nhật đã tiến thêm một bước nới lỏng cả các rào cản phi chính thức đối với FDI vào. Một trong số các công ty hưởng lợi từ xu thế này là Toys “R” Us. Sau 5 năm tích cực vận động hành lang của công ty và của các quan chức Hoa Kỳ, công ty đã mở cửa hàng bán lẻ đầu tiên ở Nhật vào tháng 12 năm 1991. Đến năm 2000, Toys “R” Us đã có hơn 150 cửa hàng ở Nhật, và công ty con ở Nhật, nơi công ty nằm phần vốn chi phối, đã được niêm yết trên thị trường cổ phiếu Nhật.
Hạn chế FDI ra
Hầu hết các nước chủ đầu tư, trong đó có Hoa Kỳ, đều có đôi lúc thực hiện kiểm soát ở mức độ nhất định hoạt động FDI ra. Một chính sách phổ biến là giới hạn dòng vốn chảy ra nước ngoài vì những lo ngại về cán cân thanh toán. Từ đầu những năm 1960 đến năm 1979, Anh đã thực hiện những quy định quản lý ngoại hối giới hạn số vốn mà một công ty có thể chuyển ra khỏi nước mình. Mặc dù mục tiêu chính của những chính sách đó là nhằm cải thiện cán cân thanh toán của Anh, mục tiêu quan trọng thứ hai chính là khiến các công ty Anh khó khăn hơn khi thực hiện FDI.
Thêm vào đó, các quốc gia cũng có khi sử dụng thuế để cố khuyến khích các công ty trong nước đầu tư ở thị trường nội địa. Mục tiêu ẩn sau những chính sách này là tạo ra việc làm cho trong nước, thay vì ở các nước khác. Chính sách này từng được Anh sử dụng, theo đó hệ thống thuế doanh nghiệp tiên tiến của nước này áp mức thuế suất đối với phần thu nhập từ nước ngoài của các công ty Anh cao hơn đối với thu nhập từ nội địa. Luật thuế đó đã khuyến khích các công ty Anh đầu tư trong nước.
Cuối cùng, các nước đôi khi ngăn cấm các công ty trong nước đầu tư vào một số quốc gia nhất định vì lý do chính trị. Những hạn chế này có thể là chính thức hoặc phi chính thức. Ví dụ, có những quy định chính thức cấm các công ty Hoa Kỳ đầu tư vào những nước như Cuba và Iran, những nước mà hệ tư tưởng và hoạt động chính trị bị coi là đi ngược lại quyền lợi của Hoa Kỳ. Tương tự, trong những năm 1980, các áp lực không chính thức cũng được khai thác để ngăn các công ty Hoa Kỳ đầu tư vào Nam Phi. Trong trường hợp này, mục tiêu là nhằm để gây sức ép buộc Nam Phi thay đổi hệ thống pháp luật phân biệt chủng tộc, và sự thay đổi này đã diễn ra vào đầu những năm 1990.
CHÍNH SÁCH CỦA NƯỚC NHẬN ĐẦU TƯ
Các nước nhận đầu tư áp dụng chính sách được thiết kế để vừa hạn chế vừa khuyến khích FDI vào trong nước. Như phần đầu chương này đã chỉ ra, trước kia, hệ tư tưởng chính trị quyết định loại hình và phạm vi của các chính sách này. Đến thập niên cuối của thế kỷ XX, nhiều nước đã nhanh chóng thoát khỏi việc cứ gắn chặt với một quan điểm cực đoan, ngăn cấm phần lớn FDI, và hướng đến việc kết hợp các mục tiêu thị trường tự do với chủ nghĩa dân tộc thực dụng.
Khuyến khích FDI vào
Việc các chính phủ đưa ra những ưu đãi thu hút đầu tư các công ty nước ngoài đã trở nên ngày càng phổ biến. Những ưu đãi đó thể hiện dưới nhiều hình thức, nhưng hay gặp nhất là các ưu đãi thuế, cho vay lãi suất thấp, và trợ cấp. Động cơ của các ưu đãi này là mong muốn giành lấy FDI từ các nước cạnh tranh thu hút đầu tư tiềm năng khác. Ví dụ, trong những năm 1990, chính phủ Anh và Pháp đã cạnh tranh nhau để đưa ra các ưu đãi cho Toyota đầu tư vào nước họ. Ở Hoa Kỳ, chính phủ các bang cũng cạnh tranh nhau nhằm thu hút FDI. Kentucky đưa ra gói ưu đãi trị giá 112 triệu USD nhằm thuyết phục Toyota xây dựng một nhà máy lắp ráp ô tô ở đó. Gói ưu đãi này bao gồm giảm thuế, đầu tư của bang vào cơ sở hạ tầng, và các khoản tín dụng với lãi suất thấp.
Hạn chế FDI vào
Chính phủ các nước nhận đầu tư sử dụng một hệ thống đa dạng các biện pháp kiểm soát nhằm hạn chế FDI theo cách này hay cách khác. Hai cách phổ biến nhất là hạn chế quyền sở hữu và các yêu cầu về hoạt động. Hạn chế quyền sở hữu có thể thể hiện dưới nhiều hình thức. Ở một số nước, các công ty nước ngoài không được đầu tư vào những lĩnh vực nhất định. Ví dụ, ở Thụy Điển đó là ngành thuốc lá và khai khoáng, ở Braxin, Phần Lan và Marốc là một số ngành khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhất định. Trong những ngành khác, quyền sở hữu của nước ngoài vẫn có thể được phép nhưng một tỷ lệ lớn nhất định vốn cổ phần của công ty con phải do các nhà đầu tư trong nước nắm giữ. Ở Hoa Kỳ, vốn nước ngoài trong một hãng hàng không bị hạn chế không quá 25%. Ở Ấn Độ, các công ty nước ngoài không được phép sở hữu các doanh nghiệp truyền thông cho tới tận năm 2001, và từ năm 2001 thì nới lỏng các quy định cho phép sở hữu nhưng quá không quá 26% cổ phần của một tờ báo.
Lý do cho việc giới hạn quyền sở hữu gồm 2 phần. Một là, một số lĩnh vực nhất định bị loại trừ ra khỏi danh mục cho phép nước ngoài đầu tư vì lý do an ninh hoặc cạnh tranh. Đặc biệt, ở những nước chậm phát triển, nhiều người lo rằng các công ty trong nước sẽ không thể phát triển nếu không hạn chế sự cạnh tranh từ nước ngoài bằng sự kết hợp của thuế quan nhập khẩu cao và việc kiểm soát FDI.
Hai là, hạn chế quyền sở hữu dường như được dựa trên niềm tin rằng chủ sở hữu trong nước sẽ giúp tối đa hóa lợi ích về chuyển giao nguồn lực và tạo việc làm của FDI cho nước nhận đầu tư. Cho tới tận đầu những năm 1980, chính phủ Nhật vẫn cấm hầu hết các hình thức FDI nhưng cho phép liên doanh giữa các công ty Nhật và công ty đa quốc gia nước ngoài nếu như công ty nước ngoài có công nghệ có giá trị. Chính phủ Nhật rõ ràng là tin rằng những thỏa thuận như vậy sẽ đẩy nhanh việc lan tỏa công nghệ có giá trị từ công ty nước ngoài vào nền kinh tế Nhật.
Các yêu cầu về hoạt động cũng có thể có nhiều hình thức. Yêu cầu về hoạt động là những biện pháp kiểm soát các hoạt động của công ty con của một MNE ở nước nhận đầu tư. Phổ biến nhất, đó là tỷ lệ nội địa hóa, tỷ lệ xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, và mức độ tham gia của nhân lực nước sở tại trong bộ máy quản lý cao cấp. Giống như với việc hạn chế quyền sở hữu, logic nằm sau các yêu cầu về hoạt động là những quy định như thế sẽ giúp tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu chi phí FDI đối với nước nhận đầu tư. Hầu như tất cả các nước đều áp dụng một số hình thức yêu cầu hoạt động nếu phù hợp với mục tiêu của họ. Tuy nhiên, những biện pháp này phổ biến ở các nước chậm phát triển hơn là ở những nước công nghiệp phát triển28. Ví dụ, một nghiên cứu cho thấy khoảng 30% các công ty con của MNEs Hoa Kỳ ở những nước chậm phát triển gặp phải các yêu cầu này, trong đó tỷ lệ tương tự ở những nước tiên tiến chỉ là 6%.
Quá trình hình thành và xu hướng đầu tư toàn cầu
Khi nghiên cứu đầu tư trực tiếp nước ngoài, việc phân biệt giữa dòng FDI (the flow of FDI) và lượng FDI lũy kế (the stock of FDI) là rất quan trọng. Dòng FDI liên quan tới giá trị FDI được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm). Lượng FDI lũy kế là tổng giá trị lũy kế của các tài sản thuộc sở hữu nước ngoài tại một thời điểm cụ thể. Chúng ta cũng nói về các dòng FDI ra, là dòng FDI ra khỏi một quốc gia, và các dòng FDI vào, là dòng FDI được chuyển vào một quốc gia.
CÁC XU HƯỚNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Trong 30 năm qua chúng ta đã chứng kiến một sự gia tăng đáng kể của cả dòng FDI và lượng FDI lũy kế trong nền kinh tế thế giới. Dòng FDI ra trung bình hàng năm đã tăng từ 25 tỷ USD năm 1975 lên đến mức kỷ lục 1,2 nghìn tỷ USD vào năm 2000, trước khi giảm xuống mức được ước tính là 620 tỷ USD trong năm 2004. Trong suốt giai đoạn này, dòng FDI đã tăng nhanh hơn mức tăng trưởng của thương mại thế giới và sản lượng thế giới. Ví dụ, từ năm 1992 tới năm 2004, tổng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tất cả các quốc gia tăng lên khoảng 260% trong khi giá trị thương mại thế giới tăng lên khoảng 100% và tổng sản lượng thế giới tăng lên 32%. Hệ quả của sự gia tăng mạnh mẽ dòng FDI là lượng FDI lũy kế trên phạm vi toàn cầu tính đến năm 2003 đã vượt quá 8,1 tỷ USD. Có ít nhất là 61.000 công ty mẹ và 900.000 các công ty con ở các thị trường nước ngoài, sử dụng khoảng 54 triệu lao động nước ngoài và tạo ra tổng giá trị chiếm khoảng 1/10 GDP toàn cầu. Các công ty con nước ngoài của các công ty đa quốc gia có doanh số bán hàng toàn cầu ước tính vào khoảng 17,6 nghìn tỷ USD, gấp gần 2 lần giá trị xuất khẩu toàn cầu ở mức 9,2 nghìn tỷ USD.
FDI đã tăng trưởng nhanh hơn thương mại và sản lượng thế giới do một số nguyên nhân. Trước hết, mặc dù các rào cản thương mại nói chung đã giảm bớt trong vòng 30 năm qua, tuy nhiên các doanh nghiệp kinh doanh vẫn phải lo ngại những áp lực của chủ nghĩa bảo hộ. Các nhà quản lý cấp cao coi FDI như một cách để tránh các rào cản thương mại trong tương lai. Đồng thời, phần lớn sự gia tăng gần đây của FDI được thúc đẩy bởi những thay đổi về mặt kinh tế và chính trị đang xảy ra ở nhiều quốc gia đang phát triển trên thế giới. Sự chuyển hướng chung sang các thể chế chính trị dân chủ và các nền kinh tế thị trường tự do (mà chúng ta đã thảo luận trong chương 2) đã khuyến khích sự gia tăng của FDI. Trên khắp các nước Châu Á, Đông Âu và Châu Mỹ Latinh, tăng trưởng kinh tế, việc dỡ bỏ sự điều tiết của chính phủ về kinh tế, các chương trình tư nhân hóa đã mở rộng cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài; đồng thời việc xóa bỏ nhiều hạn chế đối với hoạt động FDI đã làm cho các quốc gia này trở nên hấp dẫn hơn đối với các công ty đa quốc gia nước ngoài. Theo Liên Hợp Quốc, trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2003, khoảng 94% trong số 1.885 thay đổi về những quy định điều chỉnh đầu tư trực tiếp nước ngoài là theo hướng tạo thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mong muốn tạo điều kiện thuận lợi hơn cho FDI của các chính phủ cũng được phản ánh qua sự gia tăng đáng kinh ngạc số lượng các hiệp định đầu tư song phương được thiết kế nhằm khuyến khích và bảo hộ hoạt động đầu tư giữa hai nước. Đến năm 2003, có tới 2,265 các hiệp định kiểu này được ký kết liên quan tới hơn 160 quốc gia, và gấp 12 lần so với con số 181 hiệp định đã có tính đến năm 1980.
Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới cũng có tác động tích cực đến khối lượng FDI. Các doanh nghiệp như Cemex hiện nay coi toàn bộ thị trường thế giới như thị trường của mình, và các doanh nghiệp này đang tiến hành FDI với mong muốn tạo được sự hiện diện đáng kể tại nhiều khu vực trên thế giới. Vì một số lý do mà chúng ta sẽ phân tích trong phần sau của cuốn sách này, nhiều doanh nghiệp hiện nay tin rằng việc có các cơ sở sản xuất gần các khách hàng chủ yếu của mình là điều quan trọng. Và điều này cũng tạo ra áp lực làm gia tăng FDI.
Sụt giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài: Giai đoạn 2001-2004
Trái ngược với xu hướng dài hạn, trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2004, giá trị FDI sụt giảm gần 50%, từ 1,2 nghìn tỷ USD xuống chỉ còn khoảng 620 tỷ. Sự giảm sút rõ rệt nhất nằm trong mức độ của hoạt động mua lại và sáp nhập qua biên giới, đây là hình thức chủ yếu của các dòng FDI trên phạm vi toàn cầu kể từ những năm 1980. Trong năm 2000, năm đỉnh cao, có đến 7.900 các hợp đồng mua lại và sáp nhập qua biên giới với tổng giá trị lên tới 1,1 nghìn tỷ USD. Tổng số lượng và giá trị của các vụ giao dịch giảm dần qua từng năm trong ba năm tiếp theo. Trong năm 2003, chỉ có 4.200 vụ giao dịch mua lại và sáp nhập qua biên giới với giá trị 241 tỷ USD được thực hiện. Sự sụt giảm chung về cả số lượng và giá trị của FDI ở các nước phát triển là rõ rệt nhất.
Sự giảm sút các dòng FDI trong giai đoạn 2001-2004 có thể chỉ là tạm thời. Sự sụt giảm này dường như phản ánh ba diễn biến: (1) sự giảm sút chung trong tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới; (2) sự không chắc chắn ngày càng gia tăng trong mối quan hệ địa chính trị giữa các quốc gia sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ; và (3) sự đổ vỡ của bong bóng thị trường chứng khoán ở Hoa Kỳ đã làm hạn chế khả năng của nhiều công ty trong việc huy động thêm vốn để tài trợ cho các hoạt động FDI tham vọng, đặc biệt là các vụ mua lại và sáp nhập. Sự gia tăng FDI trong giai đoạn 1999-2000 là kết quả của bong bóng thị trường chứng khoán cuối những năm 1990, và khi nhìn lại thì thì sự gia tăng này chỉ đại diện cho một mức đỉnh điểm không bền vững trong ngắn hạn của hoạt động FDI. Như đã lưu ý, phần lớn hoạt động FDI trong giai đoạn này được tiến hành dưới hình thức mua lại và sáp nhập, và nhiều trong số đó được tài trợ thông qua việc phát hành các cổ phiếu mới trên các thị trường chứng khoán thế giới. Với tình trạng đình trệ của các thị trường chứng khoán toàn cầu, cách thức tiến hành hoạt động FDI như trên dường như sẽ không sớm lặp lại.
Tuy nhiên, các cuộc điều tra do Liên Hợp Quốc và các tổ chức khác tiến hành đã cho thấy rằng phần lớn các tập đoàn đều lên kế hoạch tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong vài năm sắp tới. Các động cơ nền tảng cho xu hướng FDI trong dài hạn vẫn tiếp tục tồn tại. Các công ty đa quốc gia đã và đang tiến hành hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để thâm nhập các thị trường quốc gia hoặc để thiết lập các cơ sở sản xuất chi phí thấp nhằm phục vụ các thị trường trong khu vực hoặc thị trường toàn cầu, và những động cơ này chắc chắn sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng. Trong số các quốc gia dường như sẽ thu được lợi ích từ sự gia tăng dòng FDI vào trong thập kỷ tới, Trung Quốc có thể có mức độ gia tăng cao nhất. Trung Quốc đã là nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất trong số các quốc gia phát triển trong gần một thập kỷ nay, và xu hướng này vẫn tiếp diễn trong năm 2004 khi quốc gia này nhận được mức FDI kỷ lục lên tới 62 tỷ USD từ các công ty đa quốc gia.
HƯỚNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Về mặt lịch sử, FDI chủ yếu được tiến hành giữa các nước phát triển trên thế giới do doanh nghiệp của những nước tiên tiến tiến hành đầu tư vào các thị trường của những nước tiên tiến khác. Hoa Kỳ thường là đích đến ưa thích cho các dòng FDI vào. Xu hướng này được tiếp tục vào cuối những năm 1990 khi Hoa Kỳ vẫn giữ vị trí nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất. Năm 2000, Hoa Kỳ lại là quốc gia tiến nhận FDI lớn nhất, chiếm tới 314 tỷ USD trong 1,2 nghìn tỷ FDI toàn cầu, trong khi Liên minh Châu Âu là khu vực tiếp nhận FDI lớn nhất với 671 tỷ USD dòng FDI vào. Tuy nhiên, cho tới năm 2004, tổng FDI vào Hoa Kỳ và EU giảm xuống tương ứng là 121 tỷ USD và 165 tỷ USD, phản ánh sự giảm sút trong hoạt động kinh tế. Về mặt lịch sử, Hoa Kỳ đã là một đích đến hấp dẫn cho FDI do có thị trường nội địa lớn và giàu có, nền kinh tế ổn định và năng động, một môi trường chính trị thuận lợi, và mức độ mở của quốc gia đối với FDI. Các nhà đầu tư vào Hoa Kỳ bao gồm các công ty có trụ sở tại Vương quốc Anh, Nhật Bản, Đức, Hà Lan và Pháp. Dòng vốn đầu tư vào Hoa Kỳ tăng lên tới 121 tỷ USD trong năm 2004 và dường như sẽ còn tiếp tục hồi phục.
Mặc dù các nước phát triển vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dòng FDI vào nhưng FDI vào các quốc gia đang phát triển cũng đã gia tăng. Từ năm 1985 đến năm 1990, dòng FDI vào các nước đang phát triển trung bình hàng năm là 27,4 tỷ USD, bằng 17,4% tổng dòng FDI toàn cầu. Trong khoảng từ giữa đến cuối những năm 1990, nhìn chung dòng FDI vào các nước đang phát triển nằm trong khoảng từ 35% đến 40% tổng dòng FDI, trước khi giảm xuống mức khoảng 25% trong những năm 2001-2002 và sau đó lại tăng lên tới 44% trong năm 2004. Phần lớn dòng FDI vào các nước đang phát triển gần đây có đích đến là các nền kinh tế mới nổi ở khu vực Nam Á, Đông Á, và Đông Nam Á. Sự gia tăng này chủ yếu có động cơ là tầm quan trọng ngày càng tăng của Trung Quốc với tư cách là một nước tiếp nhận FDI. Nguyên nhân của luồng đầu tư mạnh mẽ vào Trung Quốc được phân tích trong phần Tâm điểm Quốc gia ở phía sau.
Châu Mỹ Latinh nổi lên như một khu vực quan trọng tiếp theo cho dòng FDI vào thế giới thứ ba. Năm 2000, tổng lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực này đạt khoảng 86 tỷ USD, và mức đầu tư này được giữ vững trong năm 2001 trước khi giảm xuống còn 53 tỷ USD trong năm 2002, 44 tỷ USD năm 2003, và tăng trở lại tới 69 tỷ USD trong năm 2004. Phần lớn hoạt động đầu tư này tập trung vào Mexico và Brazil và như một sự đáp lại đối với các cải tổ trong khu vực, bao gồm việc tư nhân hóa các ngành công nghiệp, tự do hóa các quy định quản lý FDI, và tầm quan trọng gia tăng của các khu vực mậu dịch tự do trong khu vực như MERCOSUR và NAFTA. Ngược lại, Châu Phi là nơi nhận được dòng FDI vào thấp nhất trên thế giới, chỉ khoảng 20 tỷ USD trong năm 2004. Sự yếu kém của Châu Phi trong việc thu hút đầu tư một phần phản ánh tình trạng bất ổn về mặt chính trị, các cuộc xung đột vũ trang, và những thay đổi thường xuyên trong chính sách kinh tế của khu vực này.
Một cách khác nhằm nghiên cứu tầm quan trọng của dòng FDI vào là biểu diễn nó dưới dạng phần trăm của tổng vốn đầu tư cố định. Tổng vốn đầu tư cố định là tổng lượng vốn đầu tư vào các nhà máy, kho hàng, tòa nhà văn phòng và các hạng mục tương tự. Khi những yếu tố khác không thay đổi, vốn đầu tư vào một nền kinh tế càng gia tăng thì càng hứa hẹn nhiều triển vọng tăng trưởng của quốc gia đó trong tương lai. Xem xét theo cách này thì FDI có thể được coi như một nguồn vốn đầu tư quan trọng và là một nhân tố quyết định đến tốc độ tăng trưởng của một nền kinh tế trong tương lai. Hình 7.3 thể hiện các dòng FDI vào dưới dạng tỷ lệ phần trăm trên tổng vốn đầu tư cố định ở các nền kinh tế phát triển và đang phát triển từ năm 1992 đến năm 2003. Trong suốt giai đoạn 1992-1997, FDI chiếm khoảng 4% tổng vốn đầu tư cố định ở các nước phát triển và 8% ở các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1998-2003, con số này là 12,5% trên toàn thế giới, cho thấy rằng FDI đã trở thành một nguồn vốn đầu tư ngày càng quan trọng trong các nền kinh tế trên thế giới.
Những số liệu gộp này không cho thấy được các điểm khác biệt quan trọng giữa các nước. Chẳng hạn như, trong năm 2003, dòng FDI vào chiếm khoảng 75% tổng vốn đầu tư cố định ở Ireland và 20% ở Chilê, nhưng chỉ chiếm 4% ở Ấn Độ và 0,6% ở Nhật Bản. Điều này cho thấy rằng FDI là một nguồn quan trọng của vốn đầu tư và do đó là nhân tố quan trọng của tăng trưởng kinh tế đối với hai quốc gia đầu tiên chứ không phải với hai quốc gia phía sau. Những sự khác biệt này có thể được lý giải bằng một số nguyên nhân, bao gồm sự dễ dàng và độ hấp dẫn đầu tư đã được biết tới của một quốc gia. Khi các quy định nặng nề làm hạn chế các cơ hội cho đầu tư nước ngoài ở những quốc gia như Nhật Bản hay Thái Lan, những quốc gia này có thể làm hại chính mình khi hạn chế khả năng tiếp cận của mình đối với các dòng vốn đầu tư cần thiết.
NGUỒN VỐN FDI
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Hoa Kỳ trở thành nước có lượng vốn FDI đầu tư ra nước ngoài lớn nhất thế giới. Vị trí dẫn đầu này của Hoa Kỳ vẫn được duy trì trong khoảng thời gian cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000. Những nước chủ đầu tư FDI lớn khác bao gồm Anh, Pháp, Đức, Hà Lan và Nhật Bản. Nhóm 6 nước này chiếm khoảng 60% tất cả các dòng FDI ra trên thế giới trong giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2003 và chiếm 63% tổng lượng vốn FDI lũy kế toàn cầu năm 2003. Như được dự báo, chính những nước này cũng chiếm giữ những vị trí hàng đầu trong nhóm các quốc gia có các công ty đa quốc gia lớn nhất thế giới.
Trong 100 công ty đa quốc gia lớn nhất thế giới năm 2003, có 27% là các công ty của Hoa Kỳ, 14% của Pháp; 12% của Đức; 12% của Anh và 7% là của Nhật Bản. Nếu xét trên góc độ tổng lượng FDI lũy kế toàn cầu thì 25% lượng vốn này thuộc về các công ty Hoa Kỳ, 14% thuộc các công ty của Anh, 8% thuộc các công ty của Pháp, 8% Đức, 5% của Hà Lan và 4% thuộc về các công ty của Nhật Bản.13 Những quốc gia này luôn nắm vị trí thống trị bởi lẽ chúng là những quốc gia phát triển nhất với nền kinh tế lớn nhất thế giới trong phần lớn giai đoạn hậu chiến và do đó, những quốc gia này trở thành nước chủ nhà của rất nhiều những công ty tư bản hóa nhất và lớn nhất thế giới. Rất nhiều trong số những quốc gia này có lịch sử lâu dài với vai trò của quốc gia thương mại và luôn luôn tìm kiếm những thị trường nước ngoài để mở rộng hoạt động kinh tế của mình. Chính vì vậy, không có đáng ngạc nhiên khi các công ty có trụ sở đóng ở các quốc gia này là những người tiên phong trong các xu hướng đầu tư nước ngoài.
HÌNH THỨC FDI: MUA LẠI HAY ĐẦU TƯ MỚI
FDI có thể được tiến hành dưới dạng đầu tư vào một cơ sở hoàn toàn mới, hoặc mua lại hay sáp nhập với một công ty đã có ở nước nhận đầu tư. Dữ liệu cho thấy đa số các hoạt động đầu tư qua biên giới được thực hiện dưới hình thức sáp nhập và mua lại hơn là đầu tư mới. Theo ước tính của Liên hợp quốc, có khoảng từ 40 đến 80% tổng dòng FDI vào dưới dạng sáp nhập và mua lại trong giai đoạn 1998 - 2003. Cụ thể như năm 2001, tổng dòng FDI vào theo hình thức này là 78%, tới năm 2003 là 49%.14 Tuy nhiên, các dòng FDI vào các quốc gia đang phát triển có sự khác biệt rất lớn so với dòng FDI vào các quốc gia phát triển. Chỉ khoảng 1/3 lượng FDI vào các nước đang phát triển là theo hình thức mua lại và sáp nhập qua biên giới. Tỷ lệ sáp nhập và mua lại thấp như trên đơn giản phản ánh thực tế là có ít các công ty mục tiêu để mua lại ở các quốc gia đang phát triển hơn so với ở các nước phát triển.
Tại sao các công ty khi quyết định tiến hành FDI lại ưa chuộng hình thức mua lại những tài sản sẵn có hơn là đầu tư mới? Có một số lý do như sau:
Thứ nhất, thời gian tiến hành sáp nhập và mua lại rõ ràng ngắn hơn so với đầu tư mới. Đây là một cân nhắc quan trọng trong thế giới kinh doanh hiện đại khi các thị trường phát triển với tốc độ rất nhanh chóng. Có nhiều công ty rõ ràng tin rằng nếu họ không mua lại một công ty mục tiêu đáng mong muốn thì các đối thủ cạnh tranh toàn cầu của họ sẽ thực hiện điều đó. Trường hợp của công ty Cemex đã minh họa cho điều này (xem tình huống mở đầu chương). Cemex là công ty xi măng lớn thứ 3 thế giới và cũng là công ty đa quốc gia lớn nhất Mexico. Sự vươn lên của Cemex tới vị trí này trên trường quốc tế chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy một thập kỷ và chủ yếu là nhờ vào hình thức mua lại. Nếu như Cemex dựa vào đầu tư mới thì có lẽ công ty này sẽ không thể trở nên lớn mạnh nhanh chóng như vậy.
Thứ hai, các công ty nước ngoài được mua lại bởi lẽ các công ty này sở hữu những tài sản chiến lược có giá trị như sự trung thành với nhãn hiệu, mối quan hệ với khách hàng, thương hiệu hay patăng, các hệ thống phân phối, các hệ thống sản xuất và những tài sản tương tự. Việc mua lại các tài sản có giá trị đó sẽ dễ dàng và có thể ít rủi ro hơn cho nhà đầu tư so với việc tạo lập nên các tài sản đó thông qua đầu tư mới. Việc Cemex mua lại công ty sản xuất xi măng Southland có trụ sở tại Houston với giá 2,5 tỷ đô la Hoa Kỳ là một trong những ví dụ điển hình thể hiện rõ điều này. Cemex mong muốn nhanh chóng thâm nhập vào thị trường xây dựng ở Hoa Kỳ và hệ thống sản xuất và phân phối của Southland đã giúp cho Cemex đạt được mục đích này.
Thứ ba, các công ty tiến hành mua lại bởi vì họ tin rằng họ có thể làm tăng tính hiệu quả của các đơn vị được mua lại thông qua chuyển giao vốn, công nghệ hay kĩ năng quản lý. Chúng ta xem xét lại ví dụ của công ty Cemex. Công ty này đã phát triển hệ thống thông tin tốt nhất trong ngành xi măng toàn cầu, hệ thống này đã giúp công ty đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng (xem chi tiết tại tình huống mở đầu chương). Cemex đã có thể tăng hiệu quả hoạt động của các đơn vị được mua lại, ví dụ như công ty Southland, thông qua việc chuyển giao các bí quyết công nghệ cho các đơn vị này sau khi mua lại. Như vậy, chúng ta có thể thấy có những luận điểm thuyết phục ưa chuộng ủng hộ hoạt động sáp nhập và mua lại so với đầu tư mới. Tuy nhiên, nhiều vụ mua lại và sáp nhập đã không đạt được mức lợi nhuận như dự kiến.
SỰ CHUYỂN DỊCH ĐẦU TƯ SANG LĨNH VỰC DỊCH VỤ
Trong suốt hai thập kỷ qua, cơ cấu FDI theo lĩnh vực đã chuyển hướng mạnh mẽ từ các ngành công nghiệp khai khoáng và sản xuất sang dịch vụ. Vào năm 1990, chỉ khoảng 47% tổng lượng FDI ra lũy kế là trong các ngành dịch vụ, nhưng đến năm 2003 tỷ lệ này đã tăng lên đến 67%. Chúng ta cũng có thể nhận thấy xu hướng tương tự như vậy trong cơ cấu đầu tư theo hình thức sáp nhập và mua lại qua biên giới, theo đó các ngành dịch vụ đóng vai trò lớn hơn. Cơ cấu vốn FDI vào các ngành dịch vụ cũng thay đổi. Cho đến gần đây, FDI tập trung vào các dịch vụ thương mại và tài chính. Tuy nhiên, những ngành dịch vụ như điện, nước, viễn thông và kinh doanh (như dịch vụ tư vấn công nghệ thông tin) cũng trở nên ngày càng quan trọng.
Sự chuyển dịch sang ngành dịch vụ chịu ảnh hưởng của bốn nhân tố sẽ tiếp tục hiện diện một thời gian nữa. Thứ nhất, sự chuyển dịch này phản ánh bước chuyển dịch chung từ các ngành sản xuất sang dịch vụ diễn ra ở rất nhiều các nước phát triển. Đầu những năm 2000, ngành dịch vụ đóng góp tới 72% tổng GDP của những nền kinh tế phát triển và tới 52% của những nền kinh tế đang phát triển. Thứ hai, nhiều ngành dịch vụ không thể được trao đổi trên phạm vi quốc tế bởi lẽ những dịch vụ này cần được tạo ra ở ngay nơi tiêu dùng. Ví dụ như trường hợp của công ty Starbucks. Với hoạt động kinh doanh dịch vụ của mình, Starbucks không thể cung cấp những cốc cà phê sữa nóng cho các khách hàng ở Nhật Bản từ những cửa hàng của mình ở Seattle. Vì vậy, công ty đã phải mở các cửa hàng ở Nhật. FDI là một phương thức cơ bản để các công ty mang các dịch vụ của mình sang thị trường nước ngoài. Thứ ba, nhiều nước đã tự do hóa cơ chế quản lý hoạt động FDI trong ngành dịch vụ. Cuối thập kỷ 1990, WTO đã thiết kế những thỏa thuận mang tính toàn cầu nhằm dỡ bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư qua biên giới trong các ngành dịch vụ viễn thông và tài chính.
Sự tự do hoá này đã tạo điều kiện cho các dòng FDI vào lớn. Sau khi Braxin tiến hành tư nhân hóa công ty viễn thông của nước này vào cuối những năm 1990, đồng thời dỡ bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư của các chủ đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này, FDI vào lĩnh vực viễn thông của Braxin đã tăng vọt.
Cuối cùng, sự phát triển của mạng lưới viễn thông toàn cầu hoạt động trên cơ sở mạng Internet đã cho phép một số các công ty cung cấp dịch vụ tái định vị một số hoạt động sáng tạo có giá trị của mình tại các nước khác nhằm tận dụng các chi phí nhân tố có lợi. Ví dụ như công ty Procter & Gamble đã chuyển một số hoạt động kế toán của mình sang Philipin – là nơi các kế toán viên được đào tạo theo chuẩn mực kế toán của Hoa Kỳ nhưng lại có mức lương thấp hơn rất nhiều. Cũng vì những lý do trên mà Dell đã xây dựng những trung tâm trợ giúp của mình ở Ấn Độ. Tương tự như vậy, cả Microsoft và IBM hiện tại đều có những cơ sở phát triển và thử nghiệm phần mềm ở nước này. Vì thế, mã phần mềm được viết ra trong ngày làm việc ở Microsoft có thể được chuyển ngay sang Ấn Độ để kiểm tra vào thời điểm khi những người viết mã phần mềm ở Microsoft đang ngủ. Như vậy, khi những nhân viên này tới làm việc vào sáng hôm sau thì mã đã được kiểm tra, các lỗi đã được xác định và họ có thể bắt đầu sửa các lỗi đó. Thông qua việc đặt các cơ sở kiểm tra ở Ấn Độ, Microsoft có thể làm việc với đoạn mã của mình trong suốt 24 giờ một ngày, từ đó giúp công ty rút ngắn thời gian phát triển sản phẩm phần mềm mới.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 3:
1. Thương mại tự do là gì? Thương mại tự do có công bằng không?
2. Vì sao các chính phủ lại can thiệp vào thương mại quốc tế?
3. Các nguyên tắc hoạt động của tổ chức WTO là gi? Vai trò của tổ chức WTO tới thương mại toàn cầu?
4. Theo bạn, xu hướng sử dụng các rào cản trong thương mại quốc tế như thế nào?
5. Năm 2004, dòng vốn FDI vào Ireland chiếm 24% tổng vốn cố định của quốc gia này, còn dòng vốn vào Nhật Bản chỉ chiếm 0,6%. Hãy cho biết sự khác biệt trong dòng vốn này ở hai nước.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top