chuong 1 choong khoan

Choòng khoan là loại dụng cụ phá huỷ đất đá tạo

thành lỗ khoan.

1.1.Phương pháp phân loại choòng khoan:

Do đặc điểm cơ lý của đất đá và sự đa dạng của

phương pháp khoan cũng như yêu cầu về kỹ thuật địa

chất, kỹ thuật thi công nên choòng khoan được chế

tạo theo nhiều kiểu khác nhau về cấu trúc và nguyên

lý phá huỷ. Chính vì vậy công tác phân loại choòng

cũng được thực hiện theo các quan điểm khác nhau:

+ Căn cứ vào cấu tạo, choòng được chia ra:

- Choòng cánh dẹt

- Choòng chóp xoay

- Choòng kim cương

+ Căn cứ vào công dụng, choòng được chia ra:

- Choòng phá mẫu

- Choòng lấy mẫu

- Choòng có công dụng đặc biệt (choòng mở

lỗ, choòng bậc, choòng doa rộng, choòng để khoan

định hướng,...)

+ Căn cứ vào cấu tạo lỗ thoát nước, choòng được

chia ra:

- Choòng có nước chảy đều

- Choòng có vòi phun thuỷ lực

+ Căn cứ vào tính chất cơ lý của đất đá, choòng

được chia ra:

- Choòng mềm

- Choòng trung bình

- Choòng cứng và các loại choòng liền kề

(choòng mài mòn và ít mài mòn).

Về mặt cấu trúc, một choòng khoan gồm có 3 bộ

phận chính là phần lắp nối, phần hoạt động và phần

dẫn dung dịch. Riêng choòng chóp xoay có thêm một bộ

phận đặc thù đó là hệ thống ổ tựa của chóp xoay.

- Phần lắp nối là phần nối giữa choòng khoan và

phần dưới của cột cần, truyền năng lượng trực tiếp

cho phần hoạt động. Phần lắp nối được tiện ren

(trong hoặc ngoài).

- Phần hoạt động: Là phần trực tiếp tác dụng lên

bề mặt đáy. Đất đá bị phá huỷ bởi các răng dạng nêm

lưỡi cắt, răng hợp kim cứng định hình hoặc hạt kim

cương và chúng được bố trí theo các mặt tiếp xúc với

đáy và thành lỗ khoan nhằm tạo thành lỗ khoan có

hình dạng và đường kính nhất định.

- Hệ thống dẫn dung dịch: Được bố trí ở các

khoảng trống giữa các chân choòng với các vòi dẫn

dung dịch xuống đáy nhằm làm sạch đáy và làm mát

choòng.

Căn cứ vào vận tốc dòng dung dịch qua khỏi vòi

phun (vj) ta chia ra 2 loại:

Choòng có hệ thống rửa thường nếu vj < 70m/s

Choòng có vòi phun thuỷ lực nếu vj ³ 70 ¸

130m/s

1.2. Các loại choòng khoan trong khoan dầu khí.

1.2.1. Choòng cánh dẹt:

+ Phạm vi sử dụng : Choòng cánh làm việc theo

nguyên lý cắt - vỡ, thường được dùng trong đất đá

mềm hoặc dẻo. Không được sử dụng trong khoan tuabin

vì mô men phá huỷ lớn.

+ Các loại choòng cánh và cấu tạo.

Căn cứ vào số cánh mà choòng được phân ra các

loại choòng 2 cánh, 3 cánh và 4 cánh.

Phía trên cùng tiện ren để nối với cần khoan.

Mặt trước và mặt bên đều được gắn hợp kim để tăng độ

cứng của choòng. Lỗ thoát nước hướng chất lỏng từ

cột cần khoan chảy trực tiếp lên đáy được bố trí ở

khoảng cách 2/3 bán kính tính từ tâm choòng khoan.

Sự bố trí vòi phun đảm bảo lệch dòng chất lỏng về

phía trước lưỡi cắt chút ít nhằm đảm bảo làm sạch

đáy và làm mát tốt nhất. Tốc độ khoan sẽ tốt lên nếu

tạo cho vòi phun đạt tốc độ ³ 70 ¸130m/s.

+ Vật liệu chế tạo choòng.

Choòng cánh được chế tạo từ thép có kết cấu hàm

lượng các bon trung bình. Thân và cánh được sản xuất

theo kiểu rèn hoặc dập: Thân bằng thép các bon không

hợp kim. Hàm lượng Cacbon từ 0,35 ¸ 0,4%. Cánh

choòng bằng thép hợp kim với Crom, Silic, Măngan.

Thông thường khi chế tạo, cánh được hàn vào thân

choòng, cũng có khi được rèn liền khối với thân.

Cánh choòng được trám hợp kim Rêlit để tăng khả năng

chống mòn.

1.2.2. Choòng kim cương:

+ Phạm vi sử dụng: Làm việc theo nguyên lý cắt -

vỡ, dùng trong đất đá có độ cứng từ trung bình đến

rất cứng, trong các loại đất đá như sa thạch,

đôlômít, đá vôi và các loại đá mà hiệu suất khoan

của choòng chóp xoay đạt thấp. Dùng được cho tất cả

các phương pháp khoan. Tuy nhiên khoan bằng động cơ

đáy phù hợp nhất vì đạt được vận tốc quay cao.

+ Cấu trúc và sự phân loại choòng kim cương.

Thông thường cấu trúc của 1 choòng kim cương gồm

có các phần chính như: đầu nối ren để nối với cần

khoan, lõi thép và khuôn đấu.

Trên bề mặt khuôn đấu có gắn các hạt kim cương

(xem hình vẽ). Trong đó khuôn đấu là bộ phận quan

trọng nhất nó phải có hệ số dãn nở nhiệt và độ mài

mòn gần giống với kim cương để tránh hiện tượng bong

tróc các hạt kim cương khỏi khuôn đấu. Và cuối cùng

là bộ phận dẫn dung dịch được bố trí thích hợp giữa

các bề mặt đáy được gắn kim cương theo những hình

dạng khác nhau.

Căn cứ vào cách gắn các hạt kim cương và kích

thước các hạt kim cương mà người ta phân ra 3 loại

chính:

- Choòng kim cương 1 lớp (khoan trong đá đồng

nhất).

- Choòng kim cương nhiều lớp (khoan trong đá nứt

nẻ).

- Choòng kim cương thấm nhiễm (khoan trong đá

nứt nẻ).

Ngoài ra người ta còn có cách phân loại như:

Choòng kim cương được gắn lưỡi cắt là kim cương tự

nhiên, loại choòng có lưỡi cắt PDC hay kim cương đa

tinh thể và cuối cùng là lưỡi cắt TSP hay kim cương

đa tinh thể bền nhiệt (Độ chịu nhiệt của PDC £

8000

C, loại TSP có độ ổn định nhiệt tốt hơn).

+ Tính chất của kim cương:

Là khoáng vật cứng nhất trong tự nhiên (cấp

Xii), nhiệt độ nóng chảy là 36500

C. Kim cương bị

grafit hoá ở 14500

C. Đơn vị đo khối lượng của kim

cương là Cara (1 cara = 0,2053 g). Kích thước các

hạt kim cương được gắn vào choòng thay đổi từ 2-12

hạt/cara.

Đặc điểm của kim cương là rất cứng nhưng dòn,

không chịu được va đập và nhiệt độ đáy cao. Kim

cương được dùng để chế tạo choòng kim cương thường

là kim cương nhân tạo vì giá thành rẻ hơn kim cương

tự nhiên.

+ Sử dụng choòng kim cương:

Việc có quyết định chọn và sử dụng choòng kim

cương hay không phải căn cứ vào nhiều yếu tố, trong

đó yếu tố giá thành là rất quan trọng. Những trường

hợp sau đây sẽ là căn cứ để có thể sử dụng choòng

kim cương thay cho choòng chóp xoay:

- Khi tuổi thọ chóp xoay quá ngắn do mòn các ổ

lăn, răng hoặc gãy răng.

- Khi tốc độ khoan quá nhỏ (£1,5m/h), do tỷ

trọng của dung dịch khoan lớn hoặc do thiếu công

suất thuỷ lực của thiết bị khoan.

- Khi fgk £ 6" mà tuổi thọ của choòng chóp xoay

bị hạn chế.

- Khi độ nghiêng tăng lên trong khoan định hướng

hoặc tải trọng lên choòng bị hạn chế.

- Trong khoan tuabin có số vòng quay lớn và đất

đá phù hợp sẽ hiệu quả hơn so với khoan Roto.

Tuy nhiên trong đá rắn chắc và nứt nẻ, các loại

đá chứa đá lửa hoặc pirit sẽ không phù hợp với

choòng kim cương.

Nếu sử dụng hợp lý 1 choòng kim cương có thể

thay thế được tới 15 choòng chóp xoay.

Trước khi bắt đầu khoan bằng choòng kim cương

cần phải doa thân lỗ khoan, lấy hết các mảnh vụn đất

đá và kim loại lên khỏi đáy. Vì thế trước khi khoan

kim cương trong 2 hay 3 hiệp khoan bằng choòng chóp

xoay cuối cùng, cần phải thả ống mùn để lấy hết các

vụn kim loại và đá. ống mùn được lắp trên choòng

trong khoan Roto và trên tuabin trong khoan tuabin.

Trong trường hợp cần doa lỗ khoan và bơm rửa thêm

cần phải khoan hiệp khoan đặc biệt có sử dụng ống

mùn.

1.2.3. Choòng chóp xoay:

1.2.3.1.Phạm vi sử dụng và ưu nhược điểm của choòng

chóp xoay:

Trong công tác khoan dầu khí choòng chóp xoay

được sử dụng rộng rãi nhất chiếm tỷ lệ trên 90%.

Dùng được trong mọi loại đất đá có độ cứng và tính

chất khác nhau.

Choòng chóp xoay có những ưu điểm nổi bật là:

- Diện tích tiếp xúc với đáy nhỏ nhưng độ dài

của mép làm việc lại lớn vì vậy hiệu suất phá đá

cao.

- Các chóp xoay lăn trên đáy nên ít bị mài mòn

hơn choòng cánh.

- Mômen quay choòng nhỏ.

Tuy nhiên nhược điểm là thời gian làm việc của ổ

tựa chóp xoay thường ngắn, các răng choòng kém cứng

vững, nhất là những choòng có đường kính nhỏ.

Hiện người ta chế tạo các loại choòng 1, 2, 3, 4

chóp, riêng loại 3 chóp xoay là phổ biến nhất.

1.2.3.2.Cấu tạo của choòng 3 chóp xoay:

Choòng 3

chóp xoay gồm 4 phần chính đó là thân choòng, phần làm việc, hệ thống

ổ tựa và hệ thống rửa.

- Thân choòng: Tuỳ theo cấu tạo mà thân choòn

được chia ra 2 nhóm: Nhóm thân liền và nhóm thâ

rời.

* Nhóm thân liền (Nhóm A): thân được đúc liề

khối, các chân choòng (trên đó được lắp chóp xoay

được hàn vào thân. Phần trên thân có tiện ren bê

trong.

* Nhóm thân rời (Nhóm B): thân choòng được tạ

thành bằng cách hàn các chân lại. Trên chân choòn

có lắp các chóp xoay. Phía trên thân choòng tiện re

ngoài để lắp với cột cần khoan.

Choòng nhóm A có đường kính f345¸490mm.

Choòng nhóm B có đường kính f76¸320mm.

- Phần làm việc (bao gồm chóp xoay, các răng củ

chóp xoay).

Chóp xoay vừa quay quanh trục của choòng đồng

thời quay quanh trục của chóp xoay và bị trượt khi

quay nên vừa có tác dụng đập vừa có tác dụng cắt hữu

hiệu đối với đất đá mềm.

Chính vì thế để tăng hiệu quả cắt và tăng tốc độ

khoan trong đá mềm người ta sẽ bố trí các chóp xoay

lệch trục so với trục của choòng. Các răng của

choòng được chế tạo theo những hình dạng khác nhau.

Cụ thể loại răng thép (choòng răng phay) để khoan

trong đá mềm có tốc độ quay cao. Bề mặt răng đều

được phủ lớp Cacbuavonfram để tăng độ cứng và chống

mòn. Các loại choòng khoan trong đá mềm có răng dài,

nằm xa nhau để tạo điều kiện tăng chiều sâu cắm ngập

vào đất đá và phá vỡ các mảng lớn. Các choòng khoan

trong đất đá cứng trung bình và nửa cứng thì các

răng bố trí gần nhau hơn. Răng cũng có các góc hơi

lớn hơn để có thể chịu tải trọng lớn đủ để thắng sức

kháng nén của đá. Đối với đất đá cứng thì choòng cần

phải có răng vững chắc, nằm gần nhau, chóp xoay lớn

để có thể chịu tải trọng lớn. Ngày nay nhờ tiến bộ

của ngành luyện kim và hình dạng các răng nhọn định

hình cho phép người ta chế tạo ra được các loại

choòng phù hợp với phần lớn các loại đất đá khi

khoan. (Ví dụ dạng cầu, dạng quả trứng, dạng đầu

đạn, dạng hình chóp, dạng lưỡi đục, dạng thìa múc

đặt biệt vv.).

- Hệ thống ổ tựa chóp xoay:

ổ tựa chóp xoay có 3 loại đó là

ổ bi cầu hoặc bi đũa hở, ổ bi cầu

hoặc bi đũa kín và loại ổ đỡ ma sát

(còn gọi là vòng trượt)

Chức năng của từng loại ổ đỡ

là: Bi cầu có tác dụng chịu tải

trong chiều trục và tải trọng hướng

tâm (hướng tải trọng về phía đỉnh chóp). Song chịu

tải trọng chiều trục là chính. Ngoài ra còn có tác

dụng hãm chốt trên trục. Bi cầu là ổ tựa không thể

thiếu trong choòng chóp xoay. Một chóp xoay có từ 1

đến 2 ổ bi cầu. Bi đũa chịu lực hướng tâm là chủ yếu

và có tác dụng truyền tải trọng cho lưỡi cắt. Vòng

trượt có thể thay cho bi đũa và làm tăng thể tích

côn, tăng độ vững chắc của ngõng trục.

- Hệ thống cách ly và bôi trơn các ổ tựa chóp

xoay:

Các ổ bi cầu và bi đũa hở không được bôi trơn

thường có thời gian làm việc ngắn, tuổi thọ giảm,

chúng được làm mát và bôi trơn chủ yếu nhờ nước rửa

(khí nén hoặc dung dịch).

Các ổ bi cầu và bi đũa kín được bôi trơn bởi các

loại mỡ nhờ hệ thống cách ly đặc biệt có tuổi thọ

cao ít nhất bằng tuổi thọ của các răng choòng. Hệ

thống bôi trơn gồm có một hốc chứa mỡ, một cơ cấu bù

trừ bằng màng cao su và một đường ống dẫn kín. Cơ

cấu bù trừ làm cân bằng áp lực trong ổ lăn giữa áp

lực của dung dịch khoan và áp lực mỡ được tra vào từ

khi chế tạo. Vòng cách ly được chế tạo từ loại vật

liệu đặc biệt chịu nhiệt, chịu mài mòn dưới áp suất

cao.

- Hệ thống vòi rửa thuỷ lực:

Được bố trí trong thân

choòng với các đường dẫn dung

dịch tới đáy nhằm đáp ứng yêu

cầu làm sạch đáy và làm mát

choòng khoan.

Có 2 loại cấu trúc hệ thống

dẫn dung dịch: Loại choòng 3

chóp xoay thông thường chỉ có

một lỗ thông chất lỏng vào

trục dụng cụ. Chất lỏng rửa

bên trong các chóp xoay có

hiệu quả

kém hơn các tia. Hệ thống rửa thường có lỗ rửa được

thiết kế ở giữa tâm choòng với hình dạng và tiết

diện khác nhau: Lỗ tròn, tam giác hoặc kiểu 3 lỗ

liền kề.

Dòng chất lỏng qua lỗ rửa đập trực tiếp xuống

các chóp xoay sau đó mới tới đáy để cuốn theo các

mảnh vụn đất đá. Vận tốc trung bình khi ra khỏi vòi

phun Vj£ 70m/s.

- Hệ thống rửa kiểu vòi phun thuỷ lực là hệ

thống rửa có hiệu quả tốt nhất. Hệ thống này gồm 3

vòi phun được bố trí giữa các chóp xoay (hình vẽ).

Có thể điều chỉnh tia với hiệu quả cực đại bằng cách

thay đổi đường kính vòi phun. Dòng chảy rối có hiệu

quả với vận tốc đạt khoảng từ 80 ¸ 150 m/s. Các tia

không những có tác dụng rửa sạch các chóp xoay mà

còn có tác dụng làm nguội và tống thoát mùn khoan

một cách nhanh chóng ra khỏi không gian vành xuyến.

Có thể nối dài các vòi phun làm tăng hiệu quả làm

sạch đáy giếng. Các vòi phun được chế tạo từ hợp kim

chống mòn, có thể được thay mới theo cách tháo lắp

răng Ren với bề mặt đáy của choòng khoan.

1.2.3.3.Qui luật phá huỷ của choòng chóp xoay:

Choòng chóp xoay phá đá nhờ 2 chuyển động:

- Chuyển động tịnh tiến từ trên xuống do tác

dụng của áp lực chiều trục.

- Chuyển động quay do tác dụng của Roto hoặc

tuabin.

Trong quá trình làm việc các chóp xoay của

choòng quay xung quanh trục của mình và xung quanh

trục của choòng. Khi quay xung quanh trục của mình,

các chóp xoay lúc thì tỳ 1 răng lúc thì tỳ 2 răng

lên đáy lỗ khoan. Vì vậy trong quá trình quay các

chóp xoay sẽ có sự dịch chuyển lên xuống và tác dụng

va đập từng phần lên đáy. Nhờ thế mà chóp xoay tác

dụng lên đáy cả tải trọng tĩnh lẫn tải trọng động.

Tuỳ theo hình dạng của chóp xoay và vị trí tương đối

giữa trục của choòng và trục của chóp xoay mà tác

dụng của răng choòng lên đất đá ở đáy là đập thuần

tuý hoặc đập cộng với cắt.

Trong quá trình quay xung quanh trục của mình và

trục của choòng, các chóp xoay thực hiện một chuyển

động phức tạp.

* Choòng có tác dụng đập thuần tuý:

Là choòng có đường sinh của chóp xoay trùng với

trục tức thời MN hay đỉnh của côn trùng với tâm lỗ

khoan (có hệ số trượt = 0).

Choòng khoan chạy trục:

Chóp có thể đơn côn hoặc đa côn. Trường hợp đơn

côn nhưng có đỉnh vượt ra ngoài hay hụt vào trong

tâm lỗ khoan đều được gọi là choòng chạy trục. Loại

choòng này ngoài tác dụng đập còn có hiện tượng

trượt vuông góc với đường sinh. Khoảng chạy trục f

càng lớn thì trượt càng nhiều. Nếu chóp đa côn, hiện

tượng trượt được xem xét cho từng côn riêng rẽ. Côn

nào có đỉnh nằm ở tâm sẽ không có hiện tượng trượt

và ngược lại.

* Choòng lệch trục:

Choòng lệch trục là choòng mà trục của chóp xoay

và trục của choòng không giao nhau, nhằm tăng cường

hệ số trượt K (dọc + ngang)

Tóm lại: Dựa vào đặc tính phá huỷ của choòng ta

có thể phân ra 3 nhóm: Choòng có tác dụng đập thuần

tuý, choòng đập + cắt và choòng có tác dụng đập +

cắt + dọc.

Khi nghiên cứu sự làm việc của choòng ta cần

quan tâm tới các khả năng trượt ngẫu nhiên và trượt

cưỡng bức.

· Choòng tự làm sạch: Sự cần thiết tăng hệ số

trượt và thể tích côn sẽ dẫn đến sự xâm nhập lẫn

nhau giữa các chóp. Nghĩa là hàng răng của chóp này

đi vào rãnh giữa 2 hàng răng của chóp kia ngăn ngừa

sự lấp nhét mùn khoan ở các choòng này. Hiện tượng

đó được gọi là tự làm sạch.

· Hệ số phủ (h): Là tỷ số giữa tổng chiều dài

của các răng của 1 chóp tiếp xúc với đáy lỗ khoan ở

một thời điểm nào đó và bán kính của choòng khoan.

Với choòng thường dùng có h = 1,2 ¸ 1,5

Đất đá càng mềm, dẻo thì dùng choòng có hệ số phủ

càng lớn và ngược lại.

+ Phương pháp phân loại choòng chóp xoay:

Để đáp ứng với sự đa dạng của điều kiện địa chất

ở các nước người ta chế tạo ra rất nhiều những loại

choòng có đặc tính làm việc phù hợp.

Theo GOCT người ta phân ra 4 loại chính là: mềm,

trung bình, cứng và rắn tương ứng với các ký hiệu

chữ cái là: M, C, T và K. Bên cạnh đó còn chế tạo ra

các loại choòng liền kề để phù hợp với điều kiện đất

đá cứng mềm và mài mòn xen kẹp.

Cụ thể theo GOST - 20692-75 được thể hiện ở bảng

dưới đây (bảng 1). Ngoài các ký hiệu được nêu trong

bảng còn các ký hiệu khác như:

B: Các ổ đỡ rãnh lăn,

H: Một ổ đỡ trượt, các ổ đỡ còn lại là ổ đỡ có

rãnh lăn,

A: ổ đỡ trượt,

U: Choòng có nước rửa thường,

G: Choòng có vòi phun thuỷ lực,

P: Choòng khoan thổi khí, v.V....

1.2.4. Các loại choòng đặc biệt:

+ Choòng đầu nhọn: Dùng để khoan chuyển đường

kính từ lớn sang nhỏ, khoan phá nút xi măng trong

ống chống, dùng để cứu sự cố (ha)

+ Choòng lệch tâm: Dùng để khoan mở lỗ nhánh

trong trường hợp cần có lỗ khoan đường kính lớn hơn

đường kính đã cho (hb)

+ Choòng lưỡi xoắn: Dùng để khoan xiên giếng

khoan trong trường hợp khoan bằng phương pháp khoan

roto có sử dụng máng nghiêng (hc)

+ Choòng doa rộng: Là loại choòng dùng để mở

rộng đường kính thân lỗ khoan. Thường có 2 loại:

Loại cấu tạo cánh để doa trong đất đá mềm, loại bằng

chóp xoay để doa trong đất đá cứng (h.D)

+ Choòng khoan mẫu: Là loại choòng phá huỷ đất

đá ở đáy theo hình vành khăn sát thành lỗ khoan để

lại mẫu lõi ở giữa: Choòng lấy mẫu có nhiều kiểu cấu

trúc khác nhau. Loại lưỡi cắt choòng kim cương loại

4 chóp xoay có độ cứng cũng rất khác nhau phù hợp

với từng loại đất đá khoan qua. Choòng khoan mẫu

được lắp phía dưới của ống mẫu bằng ren (h12)

1.3. Phương pháp lựa chọn choòng khoan.

Do tính chất rất khác nhau về độ cứng, độ mài

mòn của đất đá cũng như sự đa dạng, phong phú về

chủng loại nên việc lựa chọn được choòng thật phù

hợp cho từng đối tượng đất đá là công việc rất khó

khăn và hầu như không thể.

ở đây ta chia ra 2 trường hợp:

1.3.1.Đối với lỗ khoan thăm dò:

Cột địa tầng mới chỉ là dự kiến sơ bộ các tính

chất cơ lý của đất đá (chưa hiểu rõ) và sự thay đổi

đột ngột của chúng thường gây rất nhiều khó khăn cho

việc sử dụng choòng. Việc lựa chọn choòng ở đây hoàn

toàn mang tính chất giả định. Vì vậy phải kết hợp

chặt chẽ với sự phán đoán của kỹ thuật địa chất để

làm cơ sở lựa chọn chủng loại hợp lý. Trong trường

hợp này các chủng loại choòng cần được chuẩn bị

nhiều hơn để đề phòng mọi trường hợp phát sinh bất

ngờ.

1.3.2.Đối với các giếng khoan khai thác:

Cột địa tầng đã biết trước một cách khá chính

xác về tính chất cơ lý, độ cứng và bề dày các lớp

đất đá. Vì thế ta có thể chủ động lựa chọn được

choòng phù hợp. Đối với một loại đất đá cụ thể ở

chiều sâu nhất định có thể có nhiều loại choòng có

khả năng phá huỷ tốt. Vì vậy công việc nghiên cứu

mang tính so sánh được thực hiện ở giếng khoan đầu

tiên sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho phép thực

hiện ở những giếng khoan khai thác tiếp theo đạt

được hiệu quả cao về thời gian khoan cũng như kinh

tế. ở đây ta xem loại choòng khoan hợp lý nhất là

choòng cho phép đạt giá thành 1m khoan thấp nhất

trong điều kiện kỹ thuật tốt.

Sau đây là những ví dụ để so sánh trong việc lựa

chọn choòng phù hợp với địa tầng khoan qua:

Ta đã biết, giá thành 1m khoan được tính như

sau; (Gm):

Gm =

Gc + Gh (tc + tnt)

h ; VND/m

Trong đó:

Gm - Giá thành 1m khoan

Gc - Giá thành của choòng

G - Giá thành 1 giờ làm việc của thiết bị khoan

tc - Thời gian khoan thuần tuý

tnt - Thời gian nâng thả

h - Số lượng m khoan được

1.4. Phương pháp loại bỏ choòng khoan hợp lý:

Việc loại bỏ choòng khoan hợp lý có ý nghĩa kinh

tế kỹ thuật rất lớn. Giá thành 1m khoan phụ thuộc

phần lớn vào mức độ hợp lý của việc thay choòng đúng

thời điểm.

Việc giảm thời gian làm việc của choòng trên đáy

cho phép tăng được tốc độ cơ học cực đại, nhưng việc

thay choòng lại không thể căn cứ vào tốc độ cơ học

được mà phải căn cứ vào tốc độ hiệp (vh) sao cho vh

đạt cực đại.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #anhhung