Chương 1:SAU TRẬN LŨ
Nỗi kinh hoàng, thứ mà sẽ không bao giờ chấm dứt trong hai mươi tám năm tới–mà cho dù nếu nó có chấm dứt–thì nó sẽ cũng bắt đầu lại, theo những gì tôi biết hay có thể nói, với một con thuyền được làm từ một tờ giấy báo trôi lênh đênh trên rãnh nước mưa.
Con thuyền trôi lảo đảo, dũng cảm bước qua một vòng xoáy nước vô cùng nguy hiểm rồi tiếp tục trôi tới đường Witcham hướng về phía cột đèn giao thông nằm ở ngay ngã tư của đường Jackson và Witcham. Cây đèn tín hiệu giao thông không hề phát sáng vào buổi chiều ngày hôm đó của mùa thu năm 1957, cũng như những ngôi nhà gần đây. Ta nói suốt cả một tuần liền, trời mưa rất lớn và không những vậy, hai ngày trước đó, gió thổi ở đây vô cùng mạnh. Và hầu như cả khu vực Derry đều đã bị mất điện, và cho đến tận bây giờ, điện vẫn chưa hề lên.
Một cậu bé mặc một chiếc áo mưa màu vàng và mang một đôi boot cao su chống nước màu đỏ, vui vẻ mon men chạy theo con thuyền bằng giấy của mình. Cơn mưa tầm tã vẫn chưa hề dứt nhưng cuối cùng cũng đã bớt đi được một chút. Những giọt mưa rơi tí tách trên chiếc mũ trùm đầu của chiếc áo mưa, nghe như tiếng mưa rơi trên mái hiên vậy... một âm thanh nghe thật ấm áp và dễ chịu. Đứa trẻ trong chiếc áo mưa màu vàng đó tên là George Denbrough. Cậu sáu tuổi. Anh trai của George, tên là William, được rất nhiều học sinh của trường tiểu học Derry biết tới (và kể cả những giáo viên, những người không dám dùng biệt danh để gọi cậu ta) với cái tên là Bill Cà Lăm. Trong lúc George đang mải mê đùa vui với con thuyền của mình thì Bill phải nằm ở nhà vì bệnh cảm cúm. Vào mùa thu năm 1957, tám tháng trước khi những điều khủng khiếp bắt đầu và hai mươi tám năm trước khi cuộc chiến cuối cùng xảy ra, Bill Cà Lăm chỉ mới có mười tuổi thôi.
Bill đã làm ra một con thuyền bằng giấy, cái mà George hiện đang chơi cùng dưới mưa. Cậu ta ngồi trên giường, tựa lưng vào chiếc gối êm ái và tập trung xếp thành chiếc thuyền cho George trong lúc mẹ cậu đang chơi bản nhạc Für Elise của Beethoven trên cây đàn piano trong phòng khách. Còn ngoài trời thì cứ mưa liên tục, những giọt mưa đó cứ thế rơi lã chã trên cửa sổ phòng Bill không ngừng nghỉ.
Còn khoảng ba phần tư đường và vài tòa nhà nữa là George tới được ngã tư và gặp cây đèn giao thông đã chết kia. Hiện giờ, đường Witcham đang bị chặn và không một chiếc xe nào được phép đi qua. Nằm ngổn ngang trên con đường đó là những thiết bị dùng để phòng ngừa cây cối chết vì giá rét và bốn cái thanh chắn màu cam. Và trên mỗi thanh chắn đó có để dòng chữ DERRY DEPT. OF PUBLIC WORKS. Còn ở ngoài xa kia, nước mưa đã tràn ra khỏi các rãnh nước bị tắc nghẽn bởi những cành cây khô, đất đá và hàng đống những chiếc lá vàng đã rụng. Cơn mưa lớn này làm cho đường phố ngập khắp nơi, nước mưa tràn lên lề đường và gây biết bao nhiêu phiền phức–tất cả những mớ hỗn độn này xuất hiện vào ngày thứ ba của cơn mưa. Và cho đến chiều hôm thứ tư, những thứ linh tinh trên con đường đó đều bắt đầu trôi đi theo dòng nước qua tới ngã tư của đường Jackson và Witcham, y như là những chiếc bè thu nhỏ trôi lềnh bềnh trên dòng nước hung dữ. Vì thế nên vào ngay thời điểm đó thì nhiều người ở Derry bắt đầu lấy câu chuyện về con thuyền của Noah để nói đùa với nhau. Nhưng dù sao đi nữa thì bộ phận công trình công cộng cuối cùng cũng đã mở đường Jackson để cho xe ra vô thành công, nhưng còn đường Witcham thì... đành phải bó tay vì họ không tài nào làm được. Vì thế nên, từ nơi những chiếc thanh chắn đang dựng đứng cho tới tận trung tâm thị trấn, không một chiếc xe nào có thể đi qua con đường Witcham này.
Nhưng rồi tất cả mọi người đều đồng ý rằng những điều tồi tệ nhất đã kết thúc. Mực nước của dòng sông Kenduskeag đã dâng lên nhưng không hề tràn khỏi bờ ở khu vực Barrens và nó ở chừng vài inches dưới cạnh bê tông của con kênh Canal kết nối với dòng sông, giúp nước được lưu thông và chảy tới tận trung tâm thị trấn. Và ngay lúc này, một nhóm người–Zack Denbrough, ba của George và Bill, đứng giữa hai đứa trẻ– đang dời đi những túi cát mà họ đã bỏ đi ngày hôm trước trong sự vội vàng và hoảng hốt. Chắc là do hồi hôm qua, nước lũ và những thiệt hại lớn do nó gây ra đã được dự báo là gần như chắc chắn sẽ xảy ra và không thể nào tránh được. Nhưng trời Phật biết rằng nó đã xảy ra trước đó rồi–trận lũ kinh hoàng của năm 1931 thực sự là một thảm họa và nó đã gây ra biết bao nhiêu là tổn thất lên tới hàng triệu đô la và đã cướp đi hai chục sinh mạng vô tội. Dù sao đi nữa thì chuyện đó cũng đã qua lâu rồi, nhưng cho đến tận bây giờ vẫn còn nhiều người nhớ tới nó để kể lại và hù những người khác trong thị trấn. Một trong những nạn nhân của trận lũ kinh hoàng đó đã được tìm thấy cách đây hai mươi lăm dặm về phía đông, ở Bucksport. Một vài con cá đã ăn mất hai con mắt, cắn đứt ba ngón tay, dương vật và rỉa gần hết bàn chân của người đàn ông xấu số này. Và hơn hết, trên hai bàn tay của ông ta vẫn còn nắm chặt chiếc vô lăng của chiếc xe hơi hãng Ford.
Còn hiện giờ, dòng sông đang dần rút đi và cho đến khi con đập mới xây Bangor Hydro chặn được dòng chảy ở thượng nguồn thì con sông mới trở nên bớt nguy hiểm, theo như Zack Denbrough, người làm việc cho công ty Bangor Hydroelectric nói. Những trận lũ lụt trong tương lai giờ đây có thể "tự lo" cho chúng. Nhưng vấn đề quan trọng nhất cần phải được giải quyết ngay bây giờ là phải làm cho cả thị trấn có điện trở lại và sau đó tất cả mọi người sẽ phải cố quên đi chuyện này. Ở Derry, quên đi những thảm họa và những bi kịch như thế này là chuyện thường tình và nó gần như trở thành một dạng "nghệ thuật", nhưng tôi chắc chắn một điều là Bill sẽ luôn đi tìm hiểu và sẽ luôn phát hiện ra hàng loạt những thảm họa kinh hoàng và những bi kịch mà đã bị người dân ở Derry cố tình lãng quên suốt một thời gian dài.
George dừng lại ở phía xa những cái thanh chắn đó và đứng bên cạnh một khe nước trên đường Witcham. Khe nước này chạy theo một đường chéo hoàn hảo. Điểm kết thúc của nó nằm ở bên hông đường phía xa; và từ nơi George đứng, khe nước chạy tuốt xuống ngọn đồi khoảng chừng bốn mươi feet về phía tay phải. Cậu bé cười to–một giọng cười thể hiện rõ sự hồn nhiên, vui tươi và sung sướng của một đứa trẻ đang vui đùa dưới mưa vào một buổi chiều tà–trong lúc dòng nước chảy xiết mang con thuyền giấy vào cái ghềnh nước mà đã được hình thành bởi những vết nứt trên con đường. Dòng nước chảy mạnh mẽ và liên tục trong khe, đưa con thuyền của cậu bé từ cạnh này sang cạnh kia của con đường. Vì dòng chảy quá mạnh và quá nhanh nên George phải luôn chạy hết tốc lực để theo kịp con thuyền. Cậu bé hì hục chạy theo, nước mưa bên dưới đôi chân cậu văng tung tóe khắp nơi cùng với bùn đất. Không một ai có thể ngờ rằng, George đang chạy tới tử thần, nơi cái chết đau thương của chính mình sẽ diễn ra. Vào khoảng thời gian vui đùa đó, cái cảm giác lấp đầy bên trong người cậu bé thật rõ ràng và đơn giản: đó chính là tình yêu và sự mến thương của cậu dành cho người anh trai... và kể cả sự tiếc nuối khi Bill không có mặt ở đây để chơi cùng với mình. Đương nhiên khi trở về nhà, George sẽ cố gắng diễn tả lại buổi chiều ngày hôm đó cho Bill mặc dù cậu ta biết rằng mình vốn không đủ khả năng cho Bill thấy được hoàn toàn những gì cậu đã thấy. Nhưng nếu như hai người thay thế vị trí cho nhau thì có lẽ Bill sẽ làm được như thế. Bill rất giỏi trong việc đọc và viết, tuy chỉ mới có 6 tuổi thôi nhưng George biết được đó không phải là lý do duy nhất vì sao Bill toàn nhận được điểm A trong những bài kiểm tra hoặc vì sao rất nhiều thầy cô yêu thích những bài văn của Bill. Kể ra chỉ là một phần của lý do thôi. Thực chất, Bill rất giỏi trong việc nhìn nhận sự vật.
Con thuyền trôi nhanh trên khe nước, tuy nó chỉ là một tờ giấy được bứt ra từ phần quảng cáo của tờ báo Derry News, nhưng giờ đây George tưởng tượng nó là một con thuyền PT trong một bộ phim nói về chiến tranh mà cậu đã xem ở rạp Derry cùng với Bill vào sáng thứ bảy. Đột nhiên, hình ảnh diễn viên John Wayne chiến đấu với nhân vật The Japs trong một bộ phim mang tên The Fighting Seabees xuất hiện trong đầu cậu bé. George chạy theo, thích thú nhìn con thuyền mình trôi nhanh đi và dùng mũi của nó để rẽ nước sang hai bên. Một lúc sau, con thuyền giấy trôi tới rãnh nước ở hông bên trái của đường Witcham. Một dòng nước nhỏ trong veo như một dòng suối chảy qua vết nứt trên con đường lúc này, tạo ra một vòng xoáy nước to, và ôi không! Dường như con thuyền đó sắp bị lật úp và nhấn chìm. Nó cứ nghiêng qua nghiêng lại nhiều lần khiến cậu bé thảng thốt, nhưng một vài giây sau, bằng cách nào đó, con thuyền giữ thăng bằng lại được, rồi lại tiếp tục trôi tới ngã tư trong sự reo hò của George. Cậu bé cứ thế tiếp tục chạy theo con thuyền nhỏ. Cùng lúc đó, một cơn gió mạnh và hung dữ của tháng mười thổi qua trên đầu cậu bé, rung lắc những tán lá trên cây nghe xào xạc và đưa những chiếc lá vàng khô đã rụng cuốn theo nó.
2
Ngồi thoải mái trên chiếc giường êm ái, đôi má của Bill nóng và đỏ bừng lên (mặc dù cơn sốt của cậu cuối cùng đã thuyên giảm). Bill chỉ vừa mới làm xong chiếc thuyền bằng giấy thôi–nhưng đến khi George định cầm lấy nó thì Bill ngay lập tức giựt đi và để nó xa khỏi tầm tay George. "Kh-khoan đã, anh vẫn chưa làm xong đâu, Georgie. B-bây giờ đi lấy cho anh s-sáp paraffin đi."
"Đó là cái gì vậy, anh Hai? Nó ở đâu hở anh?"
"Nó ở trê-trên kệ dưới t-tầng hầm đó. Nó nằm trong cái hộp g-ghi là Gulf. Mang nó cho anh, cùng với m-một con dao, một cái t-tô và một hộp diêm."
George vâng lời anh trai và bắt đầu đi tìm những thứ đó. Cậu bé có thể nghe rõ tiếng mẹ cậu chơi đàn piano, không phải bản Für Elise huyền thoại của Beethoven mà là bài gì đó mà cậu không thích nghe cho lắm–bài gì mà nghe thật là khô khan và buồn phiền; George còn có thể nghe được tiếng mưa rơi tí tách liên tục trên cửa sổ nhà bếp nữa. Những âm thanh này nghe thật dễ chịu, nhưng cái suy nghĩ về tầng hầm đó thực sự không dễ chịu tí nào. George rất ghét tầng hầm, và cậu ta không bao giờ thích bước xuống dưới đó, bởi vì cậu luôn tưởng tượng có thứ gì đó vô cùng đáng sợ đang đợi cậu ở bên dưới trong bóng tối. Đương nhiên, điều đó nghe thật là buồn cười, ba mẹ cậu ai cũng nói như thế và kể cả Bill cũng nói như vậy. Nhưng mà...
Geogre vẫn không thích tầng hầm tí nào. Không những vậy, việc mở cánh cửa tầng hầm ra và bật đèn lên cậu cũng không hề thích nữa. Đó là bởi vì cậu ta luôn có một ý nghĩ này trong đầu–nhưng vì cho rằng nó quá ngu ngốc nên cậu không dám kể cho ai nghe–là trong lúc cậu ta lấy tay mò tới công tắc đèn để bật lên thì đột nhiên có một bàn tay gớm ghiếc đầy móng vuốt nhẹ nhàng đặt lên cổ tay của cậu rồi sau đó bất thình lình kéo cậu ta xuống dưới tầng hầm tối tăm, âm u, ẩm thấp và đầy mùi hôi thối đó, rồi cuối cùng nó đóng và khóa cửa lại để nhốt cậu ở dưới đây.
Ý nghĩ này thật là ngu ngốc! Trên đời này làm gì có thứ đầy lông lá và móng vuốt nhọn hoắt và cực kỳ khát máu thế kia. Trên đời này không có quái vật dữ tợn, mà chỉ có những kẻ điên loạn giết người hàng loạt mới đáng sợ mà thôi–nhiều lúc biên tập viên Chet Huntley cũng hay nói về những thứ như vậy trên thời sự lắm–và tất nhiên là trên thế giới này cũng có những tên cộng sản tâm thần và cũng hay đi hại người khác. Nhưng mà cái ý nghĩ chết tiệt này vẫn còn mắc kẹt ở trong đầu cậu. Trong lúc George đang mò tới công tắc đèn với tay phải của mình (còn tay trái của cậu thì đang bám chặt lấy khung cửa), thì mùi hôi thối từ tầng hầm trở nên nồng nặc hơn bao giờ hết, đối với cậu, cái mùi hôi đó như muốn bao trùm cả thế giới vậy. Những mùi hôi xuất phát từ bùn đất, bụi bẩn và mùi ẩm mốc xuất phát từ cây khô, hoa héo đã hòa hợp với nhau cùng với cái mùi mà ta nói khi ngửi thì không thể nào nhầm vào đâu được, đó là cái mùi đặc trưng mà "thúi de sầu luôn" của một con quái vật dữ tợn, và chắc chắn chỉ có lũ quái vật mới có cái mùi thúi như vậy thôi. Đó là cái mùi của một cái gì đó rất kinh dị mà George không diễn tả được nên cậu ta gọi tạm đó là mùi của Nó. Và cậu ta có cảm giác rằng có một con quái vật đang lẩn trốn bên dưới và nó sẵn sàng leo lên cầu thang để vồ vào mặt rồi ăn thịt cậu. Một con quái vật khát máu và hung dữ, nó có thể ăn bất cứ thứ gì cũng được, nhưng George tin chắc món ăn yêu thích nhất của nó chính là máu tươi và thịt sống của những đứa trẻ ngây thơ vô tội.
George đã mở được cánh cửa tầng hầm vào sáng hôm đó và đang dùng một tay để mò công tắc đèn trong lúc tay kia của cậu bám chặt vào khung cửa. Đôi mắt của cậu nheo lại, còn đầu lưỡi thì thè ra một chút từ mép miệng giống như là rễ cây đang đi tìm nguồn nước cho mình ở một vùng đất khô cằn và hạn hán. Cảm thấy kì cục? Chắc chắn rồi! Nhìn kìa, Georgie sợ bóng tối và quái vật! Đúng là cái đồ nhát cáy!
Âm thanh của cây đàn piano vang lên từ phòng khách. Giai điệu và âm thanh của những phím đàn nghe thật du dương và mềm mại. Và chúng dường như không thuộc về thế giới này, những âm thanh đó nghe như xuất phát từ một thế giới khác, một thế giới xa xôi nào đó...
Những ngón tay của George cuối cùng tìm thấy công tắc! A!
George bật lên–
–và chẳng có gì xảy ra hết. Đèn không hề sáng.
Ôi má ơi, cúp điện!
Ngay lập tức, cậu rút tay mình ra khỏi bóng tối như rút tay ra khỏi một cái rổ chứa đầy rắn. George bước lùi ra khỏi cánh cửa, tim cậu đập loạn nhịp. Đương nhiên là điện đã mất từ lâu rồi–chỉ mấy giây trước đó thôi, cậu ta quên mất rằng nhà mình đang bị cúp điện. Lạy hồn! Giờ sao đây? Hổng lẽ giờ cậu ta phải chạy vào phòng và nói với anh Hai mình là cậu không lấy được cái hộp sáp đó chỉ vì nhà bị cúp điện và cậu ta sợ có thứ gì đó sẽ lôi mình xuống tầng hầm hôi thối trong lúc cậu đang đứng trên cầu thang và mải mê mò công tắc đèn, một thứ gì đó không phải là một kẻ giết người hàng loạt biến thái hay là một tên cộng sản tâm thần nào đó, mà là một sinh vật kinh tởm và ghê gớm hơn nhiều? Một sinh vật nhớp nhúa mà có khả năng biến hình và thích ăn thịt trẻ con? Một sinh vật mà có khả năng phóng đại kích thước của chính nó? Những người khác sau khi nghe xong chuyện này, chắc chắn sẽ cười như mấy con chó điên bị ve cắn. Nhưng nếu là Bill thì chắc chắn cậu ấy sẽ không cười, mà trở nên vô cùng bực mình bởi em trai mình. Và thế nào Bill cũng sẽ nói câu như thế này: "M-mày lớn rồi, Georgie. Đừng có nh-nhát như thỏ đế nữa... Giờ nói anh mày ng-nghe coi, mày có c-còn muốn con thuyền này nữa h-hay không?"
Trong lúc suy nghĩ một hồi thì Bill gọi cậu từ phòng ngủ của mình: "Bộ mày ch-chết ngoài kia rồi hả, Juh-Georgie?"
"Dạ hong. Em đang đi tìm mấy thứ mà anh Hai cần đây nè," George đáp. Cậu bé chà mạnh vào cánh tay của mình, cố gắng làm cho hết bị nổi da gà. "Tại nãy em khát nước quá nên sẵn tiện vào nhà bếp rót chút nước để uống đó mà."
"Vậy thì l-lẹ lên!"
Nghe anh trai nói xong, George ráng bước xuống bốn bậc thang tới kệ đựng đồ, tim của cậu đập mạnh, mạch máu bên trong cổ nghe đập thình thịch thật rõ, lông phía sau gáy như muốn dựng đứng, đôi mắt cậu đỏ hoe vì nóng bừng lên, còn đôi bàn tay thì lạnh buốt như tuyết. George nhìn đằng sau và run lên vì sợ cánh cửa phía sau cậu sẽ tự động đóng và khóa lại bất thình lình và chặn đi ánh sáng duy nhất chiếu từ cửa sổ nhà bếp tới cầu thang tầng hầm. Và ngay sau đó, George sẽ nghe tiếng của Nó, một thứ âm thanh của một thứ gì đó mà nó khủng khiếp hơn những kẻ giết người hàng loạt và những tên cộng sản điên rồ trên thế giới này, và nó còn đáng sợ hơn cả The Japs, Attila, The Hun và tất cả thể loại ma quỷ trong những bộ phim kinh dị ăn khách nữa. Nó, sẽ gầm lên dữ dội–cậu ta sẽ nghe được những tiếng gầm gừ đó vài giây trước khi Nó vồ lấy cậu và moi móc ruột, gan, phèo, phổi ra khỏi cơ thể.
Cái mùi của tầng hầm hôm nay phải nói là là thối hơn những ngày trước, chắc là do trận lũ. Ngôi nhà của gia đình Denbrough nằm ở trên đường Witcham, gần đỉnh của ngọn đồi nên tránh được những gì tệ nhất của trận lũ, nhưng ở đó vẫn có những vũng nước đọng cực kỳ bẩn từ từ rỉ xuống tầng hầm thông qua lớp đá bên ngoài ở phần dưới cùng của căn nhà. Cái mùi đó nghe thật khó chịu và kinh tởm, khiến bạn phải bịt mũi lại nếu như xuống đây.
George vừa nhìn vừa lướt qua những món đồ trên kệ nhanh nhất có thể–một vài cái hộp xi đánh giày Kiwi cũ kĩ và vài miếng giẻ rách dùng để đánh giày, một cái đèn bão đã hư, hai chai nước lau kính Windex dùng sắp hết, một cái hộp đựng sáp đánh bóng xe Turtle Wax. Vì một lý do gì đó mà cái hộp Turtle Wax dễ dàng thu hút cậu bé, khiến cậu ta phải dành ra khoảng ba mươi giây chỉ để nhìn hình chú rùa in trên cái nắp hộp với ánh mắt như bị thôi miên. Sau đó, George quăng nó sang một bên... A! Nó đây rồi, một cái hộp hình vuông có để chữ Gulf.
George lập tức cầm lấy nó và chạy một mạch lên cầu thang nhanh nhất có thể, cậu ta chợt nhận ra phần áo sơ mi dài xuống thắt lưng của mình bị lộ ra ngoài và tin chắc rằng nó là thứ sẽ khiến cậu thất bại trong việc chạy trốn. Cụ thể là cái thứ mà ở dưới tầng hầm đang cho cậu ta gần thoát khỏi nơi đó, nhưng ngay sau đó, Nó sẽ nắm lấy phần áo sơ mi dài xuống thắt lưng của cậu rồi nhanh chóng kéo cậu xuống dưới đó và–
Lên tới được nhà bếp, cậu ta đóng cửa tầng hầm lại một cách nhẹ nhàng nhưng không khép. George dựa lưng vào cánh cửa với đôi mắt nhắm tịt, mồ hôi mồ kê đổ khắp hai cánh tay và vầng trán, chiếc hộp sáp paraffin được nắm chặt trong lòng bàn tay.
Âm thanh của cây đàn piano bỗng dừng lại, và giọng nói của mẹ cậu vang lên: "Georgie, bộ con không thể đóng cửa tầng hầm thật khép sao? Lần sau con có xuống dưới đó thì nhớ đóng cửa thật chặt vào nhe con."
"Dạ con nhớ rồi," cậu bé đáp.
"Georgie... Thằng bất tài," Bill nói vọng ra từ phòng ngủ của mình với giọng thật trầm để mẹ cậu không thể nghe thấy.
George cười thầm. Nỗi sợ hãi đã hoàn toàn biến mất; nó bước ra khỏi tâm trí của cậu bé dễ dàng như một cơn ác mộng của một người đàn ông chấm dứt ngay sau khi ông ta vừa tỉnh dậy với cơ thể lạnh toát và ướt sũng, miệng thở hổng hển; người đàn ông sau đó tự gãi đầu và nhìn xung quanh mình để chắc chắn rằng không có chuyện gì xảy ra hết, rồi sau đó bắt đầu quên nó dần đi. Một nửa của cơn ác mộng bỗng dưng biến mất đúng lúc ông ta đặt hai bàn chân mình xuống dưới đất; ba phần tư của nó tự động biến đi mất vào lúc ông bước ra khỏi phòng tắm; rồi nguyên cả một cơn ác mộng trôi vào sự quên lãng vừa lúc ông ta mới ăn sáng xong. Tất cả đều biến mất... nhưng nếu như gặp lại nó một lần nữa, tất cả nỗi sợ hãi của ông sẽ lại được nhớ tới.
Con rùa đó, George suy nghĩ trong lúc bước tới cái tủ, nơi có chứa hộp diêm. Hình như mình thấy nó ở đâu rồi thì phải.
Nhưng không một ai trả lời nên cậu thôi suy nghĩ về nó.
George lấy được hộp diêm từ cái tủ kia, một con dao từ giá treo của nó (trên tay cậu cầm cán dao cẩn thận và không để mũi dao chĩa vào mình đúng lời ba dạy), và một cái tô nhỏ từ cái tủ để trong phòng ăn. Rồi cậu bé trở lại phòng Bill.
"Là-làm gì mà l-lâu thế hở? Đúng là c-cái đồ lề mề," Bill Cà Lăm nói với George, sau đó cậu dẹp những thứ linh tinh trên bàn ngủ sang một bên, trong đó gồm: một cái ly thủy tinh, một bình nước, một hộp giấy Kleenex, sách vở, một chai Vicks VapoRub–cái mùi xuất phát từ đờm trong họng và nước mũi của Bill lan tỏa khắp phòng. Ở đó còn có một cái radio Philco đời cũ nữa, và nó đang chơi nhạc của Little Richard chứ không phải nhạc của Chopin hay Bach... Bài hát nghe thật nhẹ nhàng, nó nhẹ nhàng tới nỗi làm cho chính Little Richard phải xao xuyến. Nhưng mẹ của hai cậu, người đã học chơi nhạc piano cổ điển ở Juilliard, rất ghét nhạc rock and roll. Bà không đơn thuần chỉ là ghét thôi đâu, bà ta còn cho rằng nó là một sự sỉ nhục đối với nền âm nhạc.
1 2 3 »
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top