Chuong 1
Xích Tu Long hạ giới phá Tống
Đại Bàng điểu giáng phàm cứu dân
Vào cuối đời Đường thiên hạ đại loạn, giặc giã nổi dậy khắp nơi, dân tình khổ cực. Sớm thì dân thuộc về nhà Lương, chiều thì dân lại thuộc về nhà Tần, dân chúng chẳng biết theo ai, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ!
Thuở ấy tại núi Tây Nhạc Hoạ có ông Trần Đoàn tức Hi Di tiên sinh ở ẩn trong núi, dày công tu luyện trở nên một vị tiên cao đạo, đức dày.
Hi Di tiên sinh cưỡi lừa đi ngang qua cầu Thiên Hán chợt thấy một đám mây ngũ sắc bay ngang qua. Ông biết ngay điềm lành đem đến cho dân chúng, vội ngước mặt lên trời nhìn sững hồi lâu rồi buông một chuỗi cười khoái trá đến nỗi ngã nhào xuống đất lúc nào không hay mà cứ vẫn cười ngặt nghẽo!
Mọi người thấy thế lấy làm lạ xúm lại xung quanh tiên sinh hỏi nguyên do. Ông bảo:
- „Ha, ha...Ai bảo đời này không có vui hiền? Chỉ có một thai mà sinh hạ những hai rồng cơ đấy".
Mọi người ngơ ngác không hiểu gì cả, nhưng câu nói của tiên ông đầy ý nghĩa, vì ông biết rằng hiện nay tại dinh Giáo mã của quan Tư đồ Triệu Hoàng Ân, có phu nhân là Đỗ Thị vừa sinh được một người con trai tên là Khuông Dẫn. Khuông Dẫn, vốn là Thích Lịch Đại Tiên người của Thiên giới xuống phàm trần đầu thai nên có hào quang chiếu sáng và mây lành che chở.
Sau này Trịnh Khuông Dẫn lớn lên, sở trường sử dụng cây roi, chỉ với hai bàn tay trắng mà thu phục các châu quận, lập nên cơ nghiệp hơn ba trăm năm, xưng quốc hiệu là Đại Tống, đóng đô tại Biện Lương.
Kể từ khi Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn mở mang bờ cõi truyền ngôi cho đến đời vua Huy Tông, tổng cộng là tám đời vua (Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Yết Tông, Thần Tông và Huy Tông).
Vua Huy Tông vốn là người thượng giới, do Trường Mi Đại Tiên giáng thế nên tính tình ưa thích những việc thần tiên, xưng hiệu Đạo Quân Hoàng Đế. Lúc bấy giờ thiên hạ thái bình, nhà nhà an lạc, gươm giáo cất kỹ vào kho, lại nhờ mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, thiên hạ ấm no.
Thật quả là:
Khải hoàn đất Thuấn trời Nghiêu
Chúng dân no đủ, kinh triều yên vui
Mưa hoà, gió thuận khắp nơi
Chẳng ai còn nhớ tới thời can qua
Chắc ai cũng thừa hiểu bên Tây Trúc là nơi cực lạc. Hôm ấy tại chùa Lôi Âm, Phật Tổ Như Lai ngự tại Cửu phẩm liên đài, hai bên có bốn vị Đại Bồ Tát, tám vị Đại Kim Cương, năm trăm vị La Hán, ba nghìn vị Yết Đế, cùng chư vị Hộ pháp thánh thần chầu chực để nghe Phật Tổ giảng du diệu pháp chân kinh.
Khi giảng đến chỗ tuyệt hay, người ta có cảm tưởng như mùi hoa thơm bay khắp mọi nơi, chẳng khác châu ngọc gieo vãi khắp cõi hồng trần.
Trong lúc ai nấy đang chăm chú lãnh giáo, bỗng dưới liên đài có một vị Tinh quân là sao Nữ Thổ Bức (con dơi cái) chẳng biết vô tình hay hữu ý, phát ra một tiếng trung tiện (rắm) khá to, tuy vậy, Phật Tổ Như Lai là bậc đại từ đại bi nên không thèm để ý đến việc vô lễ ấy. Nhưng trên liên đài có một vị Hộ pháp Thần Kỳ tên là Đại Bàng Kim Sĩ Minh Vương đôi mắt bỗng ngời lên ánh giận dữ, lòng đầy phẫn nộ. Hộ pháp không thể tha thứ cho hành động vô lễ của vị Nữ Thổ Bức này được, bèn quạt cánh bay thẳng xuỗng mổ Nữ Thổ Bức chết tươi, khiến linh hồn nữ Tinh quân rời khỏi chùa Lôi Âm, bay qua Đông Độ đầu thai, làm con gái gã họ Vương.
Về sau người con gái họ Vương này được gả cho Tần Cối, nên mới có dịp hại kẻ trung lương để trả cái mối thù sâu nặng này.
Chuyện này sẽ nói sau, bây giờ quay lại chuyện tại chùa Lôi Âm, Phật Tổ Như Lai thấy sự tình như vậy đưa mắt nhìn Đại Bàng Kim Sinh than thở:
- Ngươi đã thọ giáo cùng ta, sao không giữ việc quy y ngũ giới lại hành động hung ác như vậy? Thế thì ngươi đành phải trải qua một giai đoạn nhân quả, nghĩa là ngươi phải xuống hồng trần để trả cho xong cái oan trái ấy, rồi mãn kiếp lại tiếp tục tu hành cho thành chánh quả.
Đại Bàng Kim Sinh cúi đầu vâng pháp chỉ bay vọt ra khỏi chùa Lôi Âm bay thẳng qua Đông Độ đầu thai.
Nói về việc tu hành của Trần Đoàn tiên sinh. Ông chỉ có ngủ mà rốt cuộc thành tiên, nên người thế gian thường nói:
"Trần Đoàn nhất hốt khốn thiên niên".
Ngày kia tiên sinh đang ngủ tại giường mây, hai tiểu đồng của ông là Thanh Phong và Minh Nguyệt bàn với nhau:
- Thầy ta đã ngủ rồi, biết chừng nào thầy ta dậy? Chi bằng chúng tar a núi dạo chơi một chập cho vui.
Rồi cả hai đằng vân ra đi dạo qua không biết bao nhiêu là cụm núi, hưởng thú nước Nhược non Bồng.
Khi hai người đến Bàn Xà Thạch bỗng thấy một bàn cờ, Thanh Phong như nhớ lại việc gì liền hỏi Minh Nguyệt:
- Sư đệ, còn nhớ ai đánh cờ ở chỗ này không?
Minh Nguyệt đáp:
- Tôi còn nhớ năm ấy có Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn đi Quảng Tây, băng ngang qua đường này, sư phụ ta thấy thế vội hô phong nổi lên một trận gió rước người lên núi đánh cờ, thắng cờ, người được hai trăm lượng bạc rồi ép Thái Tổ làm giấy bán đứt núi Hoạ Sơn này. Trong lúc ấy có Tiểu Thanh Long là Sài Vinh và Ngoạ Hồ Tinh là Trịnh Ân cùng đứng ra làm chứng. Về sau Triệu Khuông Dẫn lên ngôi báu, sư phụ ta mang văn khổ ấy xuống kinh đô chúc mừng và yêu cầu cho dãy núi này từ nay về sau không phải đóng thuế cho nên bàn cờ tàn này đến nay vẫn còn.
Thanh Phong gật đầu khen:
- Sư đệ nhớ dai thật, thôi bây giờ đang lúc rảnh rỗi, chúng ta hãy cùng đánh cờ chơi cho khuây khoả.
Hai người ngồi xuống vừa sắp cờ xong, bỗng nghe trên chín tầng không có tiếng ồn ào vang động. Cả hai ngửa mặt lên trời trông thấy phía Tây Bắc có hắc khí kéo đầy trời bay thẳng qua hướng Đông Nam.
Thanh Phong biến sắc mặt bảo:
- Nguy tai! Tôi sợ trời nghiêng đất sụp rồi sư đệ ơi!
Rồi cả hai vội vã chạy thẳng về, vừa vào đến sân đã quỳ xuống kêu lớn:
- Thầy ôi! Hãy thức dậy ngay, vì hình như trời nghiêng đất sụp rồi thầy ạ!
Hi Di tiên sinh đang ngủ ngon lành bỗng nghe hai đồ đệ gọi thất thanh, giật mình thức dậy chạy ra ngoài động, ngửa mặt nhìn lên trời xem mây và bảo:
- Đám mây quả là điềm dữ, kẻ trần gian sẽ không tránh khỏi vận sát kiếp.
Thanh Phong và Minh Nguyệt thấy thầy ra vẻ lo âu vội chắp tay thưa:
- Tại sao có điềm dữ dằn như vậy xin thầy giải thích cho chúng con việc nhân quả ra làm sao, vì chúng con còn mê muội chưa thấu rõ.
Tiên sinh trầm giọng nói:
- Hai người tu hành còn ít ỏi, hiểu sao cho nổi, để ta giải thích cho mà nghe.
Ngừng lại giây lát, lão tổ bắt đầu kể:
- Nguyên trong lúc Tết Nguyên đán, vua Huy Tông làm lễ tế Nam Giao có viết sớ tâu cùng Ngọc Hoàng. Khi viết đến "Ngọc Hoàng Đại Đế", thay vì chấm chữ Ngọc mà chấm lầm ở chữ Đại, cho nên trở thành bốn chữ "Vương Hoàng Khuyển đế". Vì vậy khi đọc sớ, Ngọc Hoàng thấy vậy giận lắm phán bảo:
- "Vương Hoàng khả khứ, khuyển đế nan nhiêu".
Ngài liền sai Xích Tu Long (tức rồng râu đỏ) xuống trần đầu thai nơi Bắc Địa, tại Nữ Chân Quốc, phù Hoàng Long để sau này đánh phá bờ cõi Trung Nguyên, phá tan giang sơn nhà Tống làm cho dân tình khốn khổ.
Hai tiên đồng lại hỏi:
- Thưa thầy, nếu vậy hắc khí xông lên đầy trời ấy là Xích Tu Long đi đầu thai đó sao?
Lão Tổ lắc đầu đáp:
- Không phải thế đâu, đó là Phật Tổ Như Lai vì sợ con Xích Tu Long xuống trần thế không ai trừ nổi nên vội sai Đại Bàng Điểu xuống để giữ gìn giang san nhà Tống cho đủ mười tám đời vua.
Nói đến đây, Hi Di tiên sinh giơ tay chỉ lên trời nói:
- Con Đại Bàng Điểu đã bay gần tới kia kìa, hai đứa bay hãy coi sóc trong động, để ta theo dõi xem hắn đầu thai tại xứ nào cho biết.
Dứt lời tiên sinh vội đạp tường vân bay theo Đại Bàng Điểu thì thấy nó sà xuống sông Hoàng Hà chín khúc.
Hoàng Hà chín khúc là con sông chạy quanh co ước chừng đến chín nghìn dặm. Thuở trước đời Đông Tấn có ông Hứa Chân Quân chém chết con giao long ở đấy, nên sau con giao long này hoá ra một vị tú tài cải tên là Thuận Lang, vào làm rể ông Cổ Thứ Sử ở đất Trường Sa. Về sau bị ông Hứa Chân Quân bắt được cột hắn tại cây đại thọ gần cái giếng phía Nam thuộc về tỉnh Giang Tây. Vợ hắn là nàng Cổ thị sau đi tu tại núi Ô Long, sanh đặng ba đứa con. Ông Hứa Chân Quân chém chết hai đứa, còn đứa thứ ba thoát khỏi, chạy xuống mé sông Hoàng Hà, về sau tu hành đắc đạo tự xưng là Thiết Bối Cù Vương.
Ở đây, con Thiết Bối thường thường hoá ra một bạch y Tú Sĩ tập trung loài tôm cá huấn luyện thành binh tướng lập nên trận đồ gần bên chân núi.
Vì vậy, khi Đại Bàng Điểu vừa bay đến chợt trông thấy đã biết ngay là yêu quái. Đại Bàng Điểu đáp xuống mổ một cái thật mạnh trúng con mắt phía bên phải văng tròng mắt ra, máu chảy đầm đìa. Con Thiết Bối đau quá, hét lên thảm thiết, rồi chạy lùi xuống tận đáy sông Hoàng Hà trốn tránh. Còn lũ binh tôm tướng trạch thấy thế cũng cả kinh chạy trốn không dám ho hoe, chỉ riêng có một tên là Đoàn Ngư Tinh tính khí ương ngạnh, ỷ mình có sức mạnh chẳng biết sợ ai. Hắn vung cặp song ngạc sáng ngời nhìn Đại Bàng Điểu quát to như sấm nổ:
- Yêu quái kia, ngươi ở đâu dám đến đây hành hung như vậy?
Hắn vừa nói dứt câu đã bị Đại Bàng Điểu mổ một cái trúng ngay giữa đỉnh đầu chết không kịp ngáp. Linh hồn nó bay thẳng qua Đông Độ đầu thai, sau hắn là Vạn Sĩ Hoa, mưu hại Nhạc Phi trong ngục ở Phong Ba đình để trả mối hận thù ấy.
Nhưng đây là việc về sau, bây giờ xin nhắc đến chuyện ông Trần Đoàn xem thấy sự tình vội thở dài than:
- Than ôi! Nghiệt súc đã bị đày xuống phàm trần mà còn hung hãn như vậy thì chắc chắn oan oan sẽ tương báo chẳng biết chừng nào cho xong.
Than xong lão tổ nương mình nương theo vầng mây bạc tiến sát Đại Bàng Điểu.
Khi Đại Bàng bay đến tỉnh Hà Nam phủ Tương Châu, liền xà cánh xuống đậu trên nóc nhà kia, rồi chỉ một lát sau không tìm thấy bóng Đại Bàng Điểu đâu nữa. Trần Đoàn bèn hoá ra một nhà sư, tay cầm gậy vào nhà hỏi thăm, mới hay nhà này là một Viên ngoại họ Nhạc tên Hoà, vợ là Diêu An Nhân, tuổi đã bốn mươi vừa sinh được một mụn con trai, bọn tôi tớ trong nhà chạy ra báo hỉ mừng rỡ vô cùng, còn ông Nhạc Hoà nay đã năm mươi tuổi mới được một mụn con trai nên càng vui mừng hơn nữa, ông ta thắp nhang khấn vái tạ ơn trời đất tứ phương.
Khi Trần Đoàn hoá thân thành nhà sư già vào đến trước cửa vừa trông thấy người lão bộc, vội cúi đầu xá một vái rồi nói:
- Tôi là kẻ tu hành, đi lỡ đường bụng đói, đến cầu một bữa cơm chay, xin người làm phúc.
Người lão bộc chắt lưỡi than thở:
- Thật rủi cho hoà thượng quá. Nhà viên ngoại của tôi xưa nay thường hay làm phúc, dù cho đôi mươi người lỡ bước như hoà thượng đến đây cũng sẵn sang giúp đỡ tận tình, ngặt vì hôm nay bà chủ tôi mới sinh con nên bếp núc không được tinh khiết, vậy xin lão sư phụ đến nhà khác.
Trần Đoàn Lão tổ lại nói:
- Tôi là khách từ phương xa tới đây, cũng còn chút việc cần muốn gặp gia chủ, nhờ ông vào nói hộ, không biết có được chăng?
- Thế thì lão sư phụ hãy ngồi đây chờ tôi một lát để tôi vào thưa với Viên ngoại xem sao.
Người lão bộc vội vã chạy vào nhà chắp tay thưa cùng Viên ngoại:
- Có một nhà sư vào nhà mình xin một bữa cơm chay.
Viên ngoại cau mày bảo:
- Ông đã có tuổi mà sao không hiểu biết gì cả vậy? Hôm nay trong nhà ta sinh sản uế tạp, còn người ta là nhà tu hành nếu để cho người ta mất sự tinh khiết có phải tội ấy nhà mình phải mang với trời phật không?
Người lão bộc chạy ra thuật lại lời của Viên ngoại, Trần Đoàn thản nhiên bảo:
- Ông làm ơn thưa lại với Viên ngoại rằng, việc ấy không can chi, nếu có tội lỗi chỉ tôi xin hứng chịu.
Lão bộc lại trở vào phân trần cùng Viên ngoại lần nữa, Viên ngoại bảo:
- Không phải tôi tiếc một bữa cơm chay, nhưng vì tôi thấy việc bất tiện nên mới từ chối.
Người lão bộc khẩn khoản:
- Xin Viên ngoại hãy xem xét lại, vì chỗ này là nơi hoang thôn dã địa không có quán xá gì thì người ta biết tìm nơi nào mà lót dạ? Hơn nữa lời xưa có nói: "xuất tiểu bất toa tội" thì Viên ngoại đã làm phúc chẳng lẽ lại mang tội sao?
Suy nghĩ hồi lâu, Viên ngoại gật đầu bảo:
- Ngươi nói có lý lắm, thôi hãy ra mời người ta vào đây.
Người lão bộc mừng rỡ chạy ra nắm tay nhà sư dắt vào nhà trong. Viên ngoại trông thấy Trần Đoàn Lão Tổ râu tóc bạc phơ, dung mạo cốt cách khác người phàm, liền bước ra tiếp đón một cách lễ phép.
Sau khi an toạ, Viên ngoại lên tiếng:
- Chẳng phải tôi muốn chối từ, xong chỉ vì tôi quá ngại ngùng về việc vợ tôi mới sinh sản chỉ sợ làm phiền các vị tu hành đó thôi.
Trần Đoàn Lão Tổ cười xoà nói:
- Phàm làm việc lành tuy không ai rõ, nhưng trời đất thì biết ngay. Chẳng hay Viên ngoại tên họ là chi?
Nhạc Hoà đáp:
- Tôi họ Nhạc tên Hòa, ông bà tôi tự bao đời nay vẫn ở xứ Tương Châu này, nơi đây là xóm Hiếu Đễ, làng Vĩnh Hoà. Chỉ vì tôi có ít mẫu đất cùng chút đỉnh sản nghiệp nên người ta gọi tôi là Viên ngoại đó thôi, còn tính danh của hoà thượng là gì? Hiện tu ở chùa nào xin cho tôi biết với.
Trần Đoàn Lão Tổ nói:
- Tôi biệt hiệu là Hi Di tiên sinh thường tiêu dao khắp bốn bể, nay tình cờ đến đây gặp trong nhà có việc sinh sản thì cũng là cái duyên hiếm có đấy, chẳng hay Viên ngoại có vui lòng bồng thằng bé mới lọt lòng ấy ra đây cho tôi xem thử, như rủi có yêu ma quấy phá, tôi sẽ có cách ếm giúp giùm cho.
Nhạc Hoà lấy làm vui mừng, nhưng lại tỏ vẻ ngại ngùng:
- Nếu được như vậy thì còn gì quý hoá cho bằng. Song tôi chỉ ngại uế tạp có thể xâm phạm đến đấng tam quan thì cả tôi lẫn hoà thượng đều mang tội đấy chứ chẳng phải chơi đâu.
Lão Tổ lắc đầu:
- Không hề chi đâu, chỉ cần lấy dù che cho nó thì không can gì cả.
- Thế thì hay lắm, vậy hoà thượng hãy ngồi đây để tôi vào nói với vợ tôi đã.
Nhạc Hoà liền gọi gia đinh bảo soạn một mâm cơm chay cho tử tế, đoạn vào nhà trong hỏi bà An Nhân:
- Mẹ con có được mạnh giỏi không?
Bà ta đáp:
- Nhờ ơn Trời Phật phù hộ, mẹ con tôi vẫn mạnh giỏi vô sự, ông xem thằng bé con chúng ta ra thế nào?
Viên ngoại bồng thằng bé vào trong lòng âu yếm rồi bảo vợ:
- Có một nhà sư đến cầu chay, tu hành đã lâu năm biết phép ếm trừ ma quái, ông ta có bảo bồng thằng bé ra cho ông xem nếu có bề gì ông ta sẽ ếm trừ giùm cho.
Bà An Nhân khoả tay:
- Sợ e con mình chưa được sạch sẽ có thể mắc tội với trời phật đấy.
- Tôi cũng đã tỏ ý kiến ấy rồi nhưng ông ta bảo chỉ cần lấy dù che cho nó rồi bồng ra thì không can gì cả.
Bà An Nhân nghe nói mừng rỡ vội gọi gia đinh đem dù vào che cho đứa bé rồi trao cho Viên ngoại bồng ra nhà ngoài.
Lão Tổ trông thấy tướng mạo đứa bé tỏ lời khen ngợi và hỏi:
- Đã đặt tên cho nó chưa?
- Cháu mới sinh còn chưa kịp đặt tên.
- Vậy thì tôi đặt tên nó giùm cho, ông có bằng lòng không?
Nhạc Hoà gật đầu tỏ ý hài lòng:
- Được lão đặt tên cho nó thì còn gì hân hạnh cho bằng.
Lão Tổ nói:
- Tôi xem tướng mạo của nó khá khôi ngô, chắc chắn sau này lớn lên sẽ "viễn cử cao phi vạn lý", nên tôi muốn đặt tên nó là Phi tự là Bàng Cử, chẳng biết Viên ngoại có bằng lòng không?
Nhạc Hoà tạ ơn rối rít ra vẻ vui mừng khôn xiết.
Sau đó Lão Tổ sợ ở đây gió máy nên bảo Viên ngoại bồng đứa bé trả lại cho mẹ nó.
Cơm chay đã dọn lên, Viên ngoại đứng dậy mời Lão Tổ, Lão Tổ lại nói:
- Hiện tôi có người đồng đạo cùng đi, cũng cầu chay như tôi, người ấy có bảo rằng: "Nếu có vị thí chủ nào hảo tâm thì phải tin cho nhau biết để cùng hưởng, để tôi đi tìm kiếm mới được!"
Dứt lời Lão Tổ từ từ bước ra khỏi nhà, Viên ngoại nối gót tiễn chân và dặn:
- Nếu tìm thấy vị đồng đạo đó, xin sư phụ sớm quay lại đây kẻo tôi mong.
Cù Vương rửa hận, dâng lũ lụt
Vương viên ngoại nhận nuôi Nhạc Phi
Sau một thời gian ẩn trốn dưới sông Hoàng Hà tu luyện hơn mấy mươi năm trời, con Giao long tinh mới tự xưng Thiết Bối Cù Vương, ngỡ là tài ba đã lỗi lạc, sức lực hơn người, dè đâu bị Đại Bàng Điểu mổ mù một con mắt, oán hận thấu chín tầng mây không thể nào nguôi được, vì vậy về sau hắn không từ bỏ một thủ đoạn độc ác nào, ấy cũng tại thiên số và một phần do Đại Bàng Điểu gây ra.
Trần Đoàn Lão Tổ biết rõ huyền cơ, sợ Đại Bàng đầu thai xuất hiện chốn phàm trần không người bảo hộ, nếu có bề gì sẽ không ai phò trợ cho giang sơn Nhà Tống, vì vậy Trần Đoàn Lão Tổ phải thân hành đến nơi săn sóc đứa hài nhi cùng đặt tên cho hắn vì hắn chính là hiện thân của Đại Bàng Điểu.
Sau khi Lão Tổ kiếu từ Nhạc Hoà, vừa bước ra khỏi nhà chợt thấy bên giếng nước có hai cái chum lớn, vốn là của Nhạc Hoà mới mua về tính để nuôi cá chơi, song chưa kịp đổ nước. Lão tổ cầm cây gậy chỏ vào hai chiếc chum, giả vờ bảo:
- Hai cái chum này vẽ vời đẹp quá!
Vừa nói Lão tổ vừa âm thầm niệm chú hoạ phù vào hai cái chum ấy rồi kiếu từ ra đi. Nhạc Hoà cũng theo chân Lão tổ tiễn đưa ra khỏi cửa.
Lão tổ quay lại nói:
- Tôi là người đã xuất gia tu hành, không khi nào dám nói dối. Như tôi đi đến chỗ khác gặp vị thí chủ nào hảo tâm thì tôi sẽ ở lại đó thụ hưởng, xin Viên ngoại khỏi phải chờ đợi mất công.
Nhạc Hoà nói:
- Nếu lão sư tìm được đồng đạo thì trở lại đây ở chơi cùng với tôi vài bữa nhé!
- Vâng, xin cảm ơn, nhưng có một điều tôi cần nói cho Viên ngoại rõ, như trong ba hôm nữa mà con ông vô sự thì thôi, bằng có điều chi trắc trở, ông hãy bảo bà bồng đứa bé vào trong cái chum này mới có thể bảo toàn tính mạng được, xin ông hãy nhớ lấy lời tôi.
- Vâng, tôi sẽ vâng lời chỉ giáo!
Lão tổ từ tạ rồi bước ra khỏi ngõ biến mất dạng.
Nhạc Hoà trong lòng vui mừng như hoa nở, đến ngày thứ ba khắp nhà treo đèn kết hoa, bạn hữu khắp nơi đến chúc mừng. Viên ngoại bày tiệc thiết đãi ăn uống vui vẻ.
Một số bạn bè ông nói:
- Viên ngoại hãy bảo bà nhà bồng cháu nhỏ ra đây cho chúng tôi xem thử.
Viên ngoại vào nhà nói cho vợ là An Nhân hay, rồi lấy chiếc dù che cho đứa bé bồng ra cho chúng bạn xem.
Mọi người trông thấy đứa bé trán rộng, miệng vuông, mũi ngay mắt sáng, ai nấy đều tấm tắc ngợi khen. Bỗng trong đám bạn bè có một chàng trai chạy đến nắm tay đứa bé bảo:
- Thằng bé này dễ thương quá nhỉ!
Nói chưa dứt lời, bỗng thấy thằng bé khóc thét lên. Chàng trai vội nói với Nhạc Hoà:
- Có lẽ thằng bé đòi bú đấy.
Nhạc Hoà vội vã bế đứa bé vào nhà trong ngay. Mọi người nhìn chàng trai tỏ lời trách móc:
- Viên ngoại đã nửa đời mới sanh được một mụn con trai coi bằng vàng ngọc, thế mà chú làm cho nó khóc, cả nhà không yên, mất cả sự vui vẻ.
Nói rồi hỏi thăm bọn gia nhân xem đứa bé đã nín chưa, mới hay đứa bé vẫn khóc hoài không chịu bú, bạn bè buồn bã lục tục kéo nhau ra về.
Thấy con khóc hoài không chịu nín, ông Nhạc Hoà buồn rầu than thở. Cuối cùng ông sực nhớ lời của nhà sư căn dặn: trong vòng ba hôm nếu có điều gì bất trắc thì phải bồng đứa bé bảo vào trong cái chum kia thì tự nhiên bình yên vô sự.
Ông ta vội bảo vợ bồng đứa bé để vào trong chum ngay, nhưng bà An Nhân phải thay quần đổi áo cho đứa bé và lót nệm vào trong rồi mới yên dạ bồng con vào.
Thì lạ thay, khi bà ta bồng đứa bé vào trong chum thì bỗng dưng trời long đất lở, nước lụt ào đến mênh mông như biển cả, người vật khắp thôn đều trôi theo dòng nước lũ.
Dòng nước này là do con Thiết Bối Cù Vương mang mối hận thù cùng với Đại Bàng Điểu khi trước. Nay nghe Đại Bàng đầu thai nhà Viên ngoại họ Nhạc nên đem binh tôm tướng cá đến làm gió làm mưa dâng nước giết hại người vật trọn một hôm. Quả là một hành động phạm đến luật thiên đình. Ngọc Hoàng thấy thế vội sai Đồ Long Lực Sĩ đón tại Hoa Long đài chém chết con quái ấy. Nhưng hồn linh của nó vẫn chưa hết giận, bay thẳng vào Đông Độ đầu thai. Đó chính là Tần Cối. Về sau hắn dùng mười hai tấm kim bài, triệu Nhạc Phi về triều rồi hãm hại tại Phong Ba đình để trả mối thù xưa, nhưng việc này sau sẽ nói.
Bây giờ xin nhắc lại việc đứa bé Nhạc Phi theo lời dặn của vị lão sư được bồng vào trong cái chum đã hoạ phù, trấn ếm, nên mới khỏi chết, còn ông Nhạc Hoà cũng nắm vành chum nương theo dòng nước. Bà An Nhân bồng con ngồi trong chum nước mắt chảy ròng ròng than thở:
- Ôi! Tai hoạ gì mà xảy đến bất ngờ như thế này!
Nhạc Hoà cũng cất tiếng than:
- Số trời đã định vậy, bà hãy ráng mà gìn giữ lấy con, tôi xin gửi lại cho bà, cố mà nuôi dưỡng nó để sau này còn một chút nối dõi tông đường thì tôi có chết cũng ngậm cười nơi chín suối.
Vừa dứt lời trăng trối, Nhạc Hoà vuột tay trôi theo dòng nước còn mẹ con bà An Nhân ngồi trong cái chum, dòng nước cuốn tới làng Kỳ Lân, xứ Hà Bắc, cách kinh thành chừng ba mươi dặm.
Nơi đây có một nhà Viên ngoại họ Vương tên Minh, vợ là Hà thị, vợ chồng trạc tuổi ngũ tuần. Ngày kia vào buổi sớm mai, Vương Minh gọi gia đinh vào bảo:
- Chúng bay hãy đến kinh thành đón thầy bói về đây cho ta xem một quẻ. Tên gia đinh Vương An thưa:
- Con xin vâng lời đi đón thầy bói, nhưng nếu may mắn gặp người sáng sủa chẳng nói làm chi, bằng gặp phải người đui tối đi đứng chậm chạp, hơi đâu Viên ngoại chờ, chẳng biết Viên ngoại đón thầy bói về làm gì mà gấp vậy?
Vương Viêng ngoại nói:
- Chỉ vì đêm qua ta nằm chiêm bao nên muốn mời thầy về đoán mộng xem sao.
Vương An vui vẻ đáp:
- Tưởng bói khoa thì con không biết chứ đoán mộng thì con rành lắm, nhưng có ba điểm không thể nào bàn được.
- Ba điểm gì mà người bảo không thể bàn được?
- Thưa viên ngoại, phàm nằm mộng vào lúc canh một, canh hai và canh tư, canh năm thì thấy trước quên sau không thể nào đoán trúng được, nếu chiêm bao vào canh ba thì bàn mới thiệt.
Vương Minh gật đầu đáp:
- Phải rồi, hồi lúc canh ba ta trông thấy lửa cháy đỏ rực lưng trời, rồi giật mình thức dậy không biết là điềm lành hay điềm dữ.
Vương An đáp ngay không nghĩ:
- Thế thì con xin chúc mừng cho Viên ngoại đấy, vì hễ thấy lửa cháy ắt gặp quý nhân.
Vương Minh tỏ vẻ không tin:
- Làm sao mi biết được ta sẽ gặp quý nhân? Ta đoán chắc ngươi vì lười biếng nên khéo kiếm chuyện để lừa ta phải vậy không?
Vương An nghiêm sắc mặt, lễ phép nói:
- Thưa viên ngoại, con đâu dám xảo ngôn lộng ngữ. Chỉ vì khi trước con đi với Viên ngoại xuống huyện nộp thuế, lúc đi ngang qua hàng sách có mua một quyển sách giải mộng. Nếu Viên ngoại không tin thì con đem ra cho Viên ngoại xem.
Dứt lời, hắn chạy vào trong nhà lấy ra một quyển sách giải mộng bìa vàng lật ra từng trang một cho Viên ngoại xem, thì quả nhiên trong ấy nói y như lời hắn không sai.
Tuy vậy, Vương Minh vẫn nửa tin nửa ngờ, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng la hét om sòm. Viên ngoại biến sắc mặt, giục Vương An chạy ra xem.
Một lát sau Vương An vào thưa:
- Không biết nước lụt ở đâu mà cuốn trôi đồ đạc đến đây nhiều lắm, tiếng la ồn ào ấy chính là tiếng thiên hạ tranh nhau vớt đồ đấy.
Vương Minh nghe nói vội đi cùng Vương An ra xem thì quả nhiên thấy nước lụt cuốn trôi không biết bao nhiêu mà kể, ông chắt lưỡi than thở cho tai trời ách nước đã làm cho bà con lâm cảnh khốn cùng.
Chợt Vương An trông thấy xa xa có vật gì trôi bồng bềnh mà loài chim Oanh lại bay quấn quýt theo vật ấy hình như để che chở vậy.
Vương An trỏ về phía ấy chỉ cho Viên ngoại xem và bảo:
- Vật kia là gì mà chim Oanh lại bao quanh nhiều đến thế?
Vương Minh cũng lấy làm lạ chăm chú nhìn theo vật ấy, chỉ trong chốc lát vật ấy trôi giạt vào bờ. Thì ra là một cái chum lớn bên trong có người đàn bà bồng đứa trẻ.
Than ôi! Thiên hạ lo vớt đồ đạc, túi tham con người không đầy có ai nghĩ đến việc cứu người!
Vương An chạy đến thì bầy chim Oanh bay mất hết, hắn gọi Viên ngoại nói lớn:
- Đây chẳng phải là quý nhân là gì, thưa Viên ngoại.
Viên ngoại bước đến nhìn thì thấy một phu nhân đang bồng đứa hài nhi trên tay rồi nói với Vương An:
- Người này là ai mà ngươi lại bảo là quý nhân?
Vương An thưa:
- Người này bồng con trôi trong dòng nước lụt mà không chết thì không phải là quý nhân là gì? Cổ nhân có nói "Lãm nạn bất tử tắc hữu hậu lộc", hơn nữa người này lại có bầy chim Oanh bay theo che chở thì chắc chắn thằng bé này về sau phải là một kỳ nhân trong thiên hạ vậy.
Vương Minh gật đầu cho là phải, vội bước đến nhìn người đàn bà, cất tiếng hỏi:
- Hỡi người kia, ngươi ở đâu mà trôi nổi đến nơi đây?
Nhưng hỏi đi hỏi lại đôi ba lượt bà vẫn không đáp, Vương Minh lấy làm lạ nhủ thầm:
- "Hay là mụ này điếc chăng?"
Nhưng ông có biết đâu bà An Nhân mới sinh có ba ngày mà bị sóng gió dập vùi khiến toàn thân mê man không biết gì cả.
Vương An thấy thế liền chõ miệng vào lu hét lên:
- Hỡi bà kia, bà có điếc không mà Viên ngoại tôi hỏi đôi ba lần vẫn không đáp?
Bấy giờ bà An Nhân mới nghe văng vẳng bên tai có tiếng người liền quay mặt ngó lại, đôi mắt bà bỗng tuôn trào nước mắt. Bà khẽ hỏi:
- Đây chẳng phải là chốn âm ty sao?
Vương An thấy bà ta hỏi ngớ ngẩn như vậy cũng cười xoà còn Viên ngoại hiểu ngay bà ta chỉ vì quá hôn mê chứ không phải điếc nên giục Vương An chạy vào nhà bên cạnh xin chén nước trà nóng cho bà ta uống. Trong giây lát hồi tỉnh lại, Viên ngoại mới hỏi:
- Đây không phải là âm ty như bà lo sợ mà là xứ Hà Bắc tại làng Kỳ Lân đây, còn bà nguyên ở xứ nào mà trôi giạt đến đây?
Bà An Nhân vừa khóc vừa đáp:
- Tôi là người ở Tương Châu, huyện Thang Âm, làng Vĩnh Hoà, thôn Hiếu Đễ. Bị nước lụt cuốn trôi, không biết hiện chồng tôi trôi giạt nơi nào, sự nghiệp gia sản của tôi trôi hết theo dòng nước rồi, một mình tôi bồng con trôi nổi đến đây mong người ra tay tế độ, vớt người trầm luân.
Nói dứt lời bà ta khóc oà khiến thầy trò viên ngoại động lòng thương xót.
Tuy thế Vương Minh cũng lo ngại, kề tai nói nhỏ với Vương An.
- Tại sao người này ở xa xôi quá mà có thể trôi đến đây thật là một việc lạ lùng không thể nào tưởng tượng nổi.
Vương An nói:
- Viên ngoại hãy làm phúc cứu mẹ con người này đem về nuôi dưỡng kẻo tội nghiệp.
Viên ngoại gật đầu rồi bước tới bảo bà An Nhân:
- Tôi là Vương Minh, nhà cũng gần đây, nếu bà không chê, tôi xin đem bà về ở đỡ nhà tôi một thời gian, tôi sẽ sai người dò thăm tin tức chồng bà để giúp đỡ cho gia đình bà được đoàn viên sum họp, bà có bằng lòng không?
Bà An Nhân cúi đầu đáp:
- Ân công có lòng nhân đức như vậy, ơn ấy sánh bằng người sinh thành, tôi vô cùng cảm kích.
Vương Minh bảo Vương An đỡ bà An Nhân ra khỏi chum rồi dìu về nhà. Mọi người thấy thế bụm miệng cười thầm, họ bảo "Lão Viên ngoại này là kẻ điên rồ, không thiếu chi đồ đạc đáng giá lại không vớt về làm của mà vớt gì mụ ấy về nhà để ăn hại".
Vương An chạy về trước báo cho vợ Vương Minh là Viện Quân hay, nên khi bà An Nhân vừa đến nhà thì bà Viện Quân ra đón mời trọng vọng.
Sau khi vào nhà, bà An Nhân tỏ hết sự tình hoạn nạn cho mọi người nghe, ai nấy đều tỏ ý thương hại. Bà Viện Quân vội bảo gia đinh dọn một cái phòng riêng rất tươm tất cho bà An Nhân nghỉ.
Bà Viện Quân đối đãi rất thân mật và cung kính, còn Viên ngoại Vương Minh thì lo sai người dò la tin tức gia đình của Viên ngoại họ Nhạc.
Bọn gia đinh trở về báo:
- Hiện nay nước đã rút cả rồi nhưng chúng tôi không tìm thấy ông Viên ngoại họ Nhạc lẫn người nhà ông ta đâu cả.
Bà An Nhân nghe tin ấy khóc sướt mướt, bà Viện Quân phải khuyên giải mãi mới thôi. Từ đấy hai người đối đãi với nhau thân mật như chị em ruột thịt.
Biết Vương viên ngoại không có con, một hôm bà An Nhân khuyên nhủ bà Viện Quân nên cưới cho Viên ngoại một nàng thiếp vì trong ba điều hiếu thì việc có con nối dòng là hệ trọng nhất.
Bà Viện Quân cho là phải nên cưới một nàng thiếp cho chồng ngay. Quả nhiên cách năm sau sinh được một đứa con trai đặt tên là Vương Qưới. Vương Minh cảm tạ bà An Nhân đã đưa ý kiến hay nên hôm nay mới có kẻ nối dõi.
Thế rồi ngày tháng trôi qua như thoi đưa, thấm thoát Nhạc Phi lên bảy tuổi còn Vương Qưới cũng được sáu năm tròn. Vương Viên ngoại bèn đón thầy về dạy cho hai trẻ học.
Trong lúc ấy có hai ông bạn họ Thang và họ Trương cũng đem con là Thang Hoài và Trương Hiển đến xin học. Nhưng trong việc học hành này chỉ có Nhạc Phi là cố công dùi mài kinh sử thôi, còn ba trò kia đến trường chỉ lo chơi bời tụ tập với nhau rượt quyền đánh võ. Ông thầy lại chỉ quở phạt qua loa, nên mấy trò ấy lại càng coi thầy không ra gì, lắm lúc thầy muốn đánh mắng, nhưng ngặt nỗi chúng là con cưng của người ta không thể đánh được, tức mình quá đành bỏ đi mất.
Sau đó Vương Minh tiếp tục đón thầy khác về dạy bảo nhưng thầy nào cũng chịu không nổi, Vương Minh không biết tính sao đành nói với bà An Nhân:
- Nay cháu nó đã lớn tuổi rồi nếu ở luôn đây bất tiện lắm, hiện tôi có mấy căn phố, chi bằng chị đem con ra ở đó thấy tiện hơn, không biết chị nghĩ sao?
Bà An Nhân chắp tay thưa:
- Tôi xin đa tạ anh chị đã có lòng cứu giúp mẹ con tôi, nay lại còn tính việc cho tôi được ở riêng thì tiện lắm.
Vương Viên ngoại bèn sắm sửa vật dụng sẵn sàng chọn ngày lành tháng tốt cho bà An Nhân dời chỗ đến đó may vá kiếm ăn qua ngày.
Một hôm, bà An Nhân nói với Nhạc Phi:
- Nay con đã bảy tuổi rồi, chẳng nên chơi bời hư thân mất nết, phải tập làm ăn cho quen. Mẹ sắm cái rựa và đôi giỏ đây, ngày mai con lên rừng kiếm củi nhớ.
Nhạc Phi cúi đầu vâng lời mẹ, rồi sáng sớm hôm sau, cơm nước xong, Nhạc Phi quảy giỏ lên vai từ biệt mẹ lên đường.
Khi đi, Nhạc Phi không quên dặn mẹ:
- Không có mặt con ở nhà, xin mẹ hãy đóng cửa lại, chớ nên tiếp xúc với ai mà sinh chuyện lôi thôi đấy.
Bà mẹ Nhạc Phi vốn con nhà thế phiệt danh gia, chồng chết một lòng theo con, nên nghe con dặn bảo như vậy liền đóng cửa lại ở trong nhà than thở một mình:
- Phải chi cha nó còn, thì nay ắt đã đón thầy về dạy nó học hành có đâu phải đi đốn củi cực khổ như vậy
Còn Nhạc Phi tuy vâng lời mẹ đi đốn củi nhưng thật ra không biết có nơi nào có củi mà đi, đành liều nhắm mắt đưa chân lần đến chỗ thổ sơn, nhưng nhìn xem bốn bề không có củi.
Cậu leo dần lên trên đỉnh núi. Nơi đây vắng vẻ vô cùng mà củi lại không có bao nhiêu, chỉ thấy đá dựng trập trùng và nhiều cây đại thụ to đến hai ba người ôm không xuể.
Nhạc Phi lần sang trái núi bên kia chợt thấy bảy tám đứa trẻ đang vui vầy chơi với nhau. Trong đó có hai đứa ở gần nhà Vương Viên ngoại tên là Trương Tiểu Ất và Lý Tiểu Nhi nên chúng quen mặt, vừa trông thấy Nhạc Phi chúng đã reo lên:
- Kìa Nhạc Phi, cậu đi đâu đó?
Nhạc Phi đáp:
- Ta vâng lời mẹ đi hái củi đấy.
- Hừ, hái củi làm gì cho nhọc sức, hãy ở đây chơi với anh em ta một lúc có hơn không?
Nhạc Phi lắc đầu đáp:
- Ta đã vâng lời mẹ đi hái củi, hơi đâu mà chơi với các ngươi.
Một tên lớn nhất trong bọn trợn mắt quát:
- Thật ngươi cứng đầu không chịu chơi với chúng ta phải không? Nếu vậy đừng trách chúng ta sao độc ác đấy nhé.
Vừa nói, hắn vừa giơ nắm đấm lên ra vẻ hăm doạ Nhạc Phi, nhưng Nhạc Phi vẫn thản nhiên đáp:
- Chúng bay đừng cậy đông bắt nạt, ai kia chớ Nhạc Phi này đời nào biết sợ ai.
Trương Ất vung tay hùng hổ:
- Ngươi không sợ chúng ta, há chúng ta lại sợ ngươi sao?
Lý Nhi lại xem vào:
- Thôi đừng nói nhiều với hắn nữa vô ích, hãy tặng cho hắn ít thụi cho hắn biết mặt chúng ta.
Dứt lời, tám đứa trẻ áp tới vây quanh Nhạc Phi đấm đá túi bụi, nhưng Nhạc Phi không hề nao núng, hai tay cậu gạt ngang qua một cái, cả bọn ngã nhào ra bốn bên, đứa thì u đầu, đứa trầy da, đứa lở trán. Rồi Nhạc Phi bỏ chạy mất.
Khiếp sợ trước sức mạnh của Nhạc Phi, tám đứa trẻ đứng dậy chửi rủa om sòm nhưng không dám chạy theo chỉ doạ sẽ về mách bà An Nhân.
Châu Đồng dốc lòng tạo anh tài
An Nhân dạy con sống trung hiếu
Nhạc Phi gánh hai giỏ đầy ắp củi về nhà nhưng vừa bước vào nhà đã thấy bà An Nhân nghiêm sắc mặt, trách mắng:
- Mẹ bảo con đi đốn củi chứ mẹ có bảo con đi đánh nhau với người ta đâu? Để cho người ta đến nhà mách với mẹ thì xấu hổ cho nhà ta biết bao nhiêu? Con lại đi hái củi khô thế này tất nhiên phải leo trèo, rủi ro trượt chân té ngã chết đi thì biết lấy ai nuôi mẹ trong lúc tuổi già xế bóng này?
Nhạc Phi thấy mẹ giận dữ, vội quì lạy, thưa:
- Con mới lỡ lần đầu tiên, mong mẹ tha thứ cho, con nguyện ngày mai sẽ không hái củi khô nữa.
Bà An Nhân thấy con mình biết hối lỗi rất cảm thương vội bước tới đỡ dậy và an ủi:
- Thôi ngày mai con cũng khỏi phải đi đốn củi nữa, vừa rồi mẹ tìm được vài bộ sách, để ngày mai mẹ bắt đầu dạy con.
Thế rồi qua ngày hôm sau bà An Nhân đem sách ra giảng dạy cho con. Nhạc Phi vốn có tư chất thông minh nên bài nào cũng chỉ đọc qua vài lần là thuộc làu ngay.
Bà An Nhân còn cố dành dụm tiền nong đưa cho Nhạc Phi bảo đi ra chợ mua giấy về tập viết, nhưng Nhạc Phi sợ tốn tiền vội tỏ lời từ chối:
- Thưa mẹ, con đã có giấy mực sẵn sàng để tập viết rồi xin mẹ chớ lo.
Bà mẹ lấy làm lạ không biết con mình tìm đâu ra giấy mực nhưng bà cũng làm thinh để xem sao, thì thấy Nhạc Phi lấy khay đem xuống mé sông xúc cát đem về, đoạn bẻ một nhành dương liễu mang vào thưa với mẹ:
- Thưa mẹ, đây không phải giấy mực để tập viết là gì? Đã khỏi tốn tiền mà lại dùng không bao giờ hết có hơn không?
Bà An Nhân mừng rỡ khen con mình sáng ý, hèn bảo:
- Thế thì hay lắm, mẹ khá khen cho con đấy.
Rồi bà cầm tay con tập viết, chẳng bao lâu Nhạc Phi viết thạo. Từ đó Nhạc Phi cứ ở nhà chăm lo học tập không một giây phút nào xao lãng.
Lại nói đến chuyện con Vương Viên ngoại là Vương Quới mới lên sáu tuổi mà khí lực mạnh mẽ khác thường. Một hôm cậu đi cùng tên gia đinh Vương An ra sau vườn chơi, khi đến chỗ Bá Huê đình chợt thấy trên ghế có một bàn cờ, cậu hỏi Vương An?
- Cái gì đây mà trên mặt mỗi cái đều có mỗi chữ vậy?
Vương An giải thích:
- Đây chính là cờ tướng dùng cho hai người đấu trí với nhau để tiêu khiển, trong cuộc chơi này sẽ có kẻ thắng, người bại, một cuộc chơi cao thượng và vui thú nhất trần đời:
Vương Quới lại hỏi:
- Ăn thua bằng cách nào?
Vương An mỉm cười bảo:
- Việc ăn thua rất đơn giản, nghĩa là hễ bên nào giết được tưởng bên kia là kẻ ấy thắng, ngược lại bên nào bị mất tướng tức là bên ấy thua.
Vương Quới ngẫm nghĩ giây lát rồi bảo:
- Vậy thì có khó chi đâu. Ta với ngươi hãy thử chơi một bàn xem sao.
Vương An gật đầu rồi bắt đầu sắp lại vị trí các.quân cờ, đoạn giao cho Vương Quới cầm quân đỏ còn hắn thì cầm quân đen.
Vương An nói:
- Cậu hãy đi trước đi.
Vương Quới ra vẻ suy nghĩ rồi cười ha hả bảo:
- Nếu ta đi trước thì ngươi phải thua rồi.
Vương An lấy làm lạ:
- Sao tôi lại thua?
Vương Quới bèn cầm ông tướng của mình ăn phắt ông tướng của Vương An đi rồi nói lớn:
- Thế không phải ngươi thua rồi sao?
Vương An cười xoà đáp:
- Đánh cờ gì mà lạ lùng vậy? Thôi để tôi dạy cách đánh cho.
Vương Quới ngắt lời quát:
- Thế ngươi khinh ta không biết đánh cờ sao?
Dứt lời, Vương Quới xách luôn bàn cờ vụt lên đầu Vương An.
Bị cú đánh bất ngờ nên Vương An không kịp đề phòng, cạnh bàn cờ đập vào đầu bể một miếng da, máu tuôn lai láng, Vương An ôm đầu vừa chạy vừa kêu trời, còn Vương Quới vẫn không hết giận, ra sức rượt theo.
Vương An chạy đến hậu đường, Vương Viên ngoại biết chuyện cả giận trỏ vào mặt con, quát mắng:
- Tên súc sinh kia, sao mi còn nhỏ mà tính tình lung hăng đến thế?
Vừa nói, ông ta đánh Vương Quới hai tát tai nẩy lửa, cậu vội vã chạy vào phòng mếu máo nói với mẹ.
- Mẹ ơi, cha đánh con gần chết đây này!
Bà Viện Quân thấy vậy vội bảo gia đinh đem bánh tới cho con ăn rồi dỗ dành lắm Vương Quới mới nín. Kế thấy Vương Viên ngoại hầm hầm sắc giận chạy thẳng vào phòng, bà Viện Quân bênh con vội đứng cản trước cửa phòng, Viên ngoại trợn mắt hét lớn:
- Thằng nghiệt súc ấy chạy đi đâu rồi?
Bà Viên ngoại quá thương xót thằng bé bị đánh nên nắm ngay vạt áo chồng khóc lóc:
- Lâu nay ông than thở không có con trai nối dõi tông đường, may nhờ bà An Nhân khuyên bảo tôi đi tìm vợ bé cho ông mới sinh được một mụn con, thế mà nay ông nỡ lòng nào muốn giết chết con đi sao? Như ông muốn giết nó, xin hãy giết chết tôi trước đã.
Vừa khóc, bà ta vừa liều lĩnh ngã nhào vào mình Vương Viên ngoại. Bọn đày tớ gái phải xúm lại đỡ bà dậy dìu thẳng vàn phòng khuyên giải.
Còn Vương Minh thì không nguôi cơn giận, ông ta hằn học:
- Đúng là con hư tại mẹ, ngày sau nó không ra gì là tại mụ đó thôi.
Dứt lời ông ta hờn dối bỏ ra nhà ngoài trong lòng hậm hực không yên, bỗng thấy tên gia đinh vào báo:
- Dạ có Trương Viên ngoại đến thăm, hiện người còn đứng nhà ngoài.
Vương Minh phất tay ra hiệu bảo:
- Hãy mời tiên sinh vào.
Trương Viên ngoại bước vào thấy nét mặt bạn mình hơi buồn vội hỏi:
- Nếu tôi đoán không lầm thì chắc hiền đệ có việc chi bất bình, nên khí sắc không vui phải không?
Vương Minh gật đầu đáp:
- Trương huynh đoán quả không sai, chỉ vì Vương Quới con của đệ mới tí tuổi đầu mà tính tình hung hăng ngỗ ngược quá, dạy dỗ không được nên mới đem lòng phiền muộn như vậy.
Trương Viên ngoại cũng thở dài nói:
- Ối thôi! chính thằng con tôi là Trương Hiển nó cũng không khác gì. Nhân lúc tôi đang có bệnh phong thấp không thể đi bộ được nên phải sắm con ngựa để tiện việc đi lại. Vậy mà cả ngày nó bắt con ngựa cưỡi chạy khắp nơi, đạp đổ đồ đạc của người ta làm tôi phải bồi thường lại còn bị mất mặt vì thằng con khó bảo. Hôm qua nó lại cho ngựa dẫm phải người, tôi phải chạy tiền cơm tiền thuốc tốn kém mấy lượng bạc mới yên chuyện. Tôi giận quá đánh nó ít roi để răn dạy, chẳng ngờ mẹ nó bệnh con gây chuyện cãi cọ với tôi, thành thử tôi bực mình qua đây chơi cho khuây khỏa.
Câu chuyện vừa đến đây, bỗng bên ngoài có người dáng hấp tấp vừa bước vào vừa thở hôn hển. Thì ra người nảy chính là Thang Văn Trọng, trên mặt hiện lên đầy vẻ giận dữ không biết vì đâu.
Hai nhà Viên ngoại vội chào đón và hỏi:
- Việc chi mà trông sắc mặt hiền đệ có vẻ giận dữ như vậy. Thang Viên ngoại đáp:
- Chẳng giấu chi các tôn huynh, chỉ vì thằng Thang Hoài con tôi nó quá ngỗ nghịch, ngày nào nó cũng đến căn phố của vợ chồng Kim Lão ở trước nhà tôi phá phách. Nhà người ta làm bánh bán nó đã hung hăng lôi hết bánh của người ta ra ăn lại còn hăm dọa đánh đập họ nữa, tôi phải bồi thường và năn nỉ mãi vợ chồng Kim Lão nể mặt mới cho êm chuyện. Ai ngờ đêm hôm qua nó vác đá chất vào cửa. Khi vợ chồng Kim Lão mở cửa ra bị đá đè tý nữa thì toi mạng. Vợ chồng Kim Lão đến khóc lóc với tôi tôi phải đánh nó ít roi để răn dạy và bồi thường cơm thuốc cho người ta. Chàng dè mẹ bênh con giằng co cãi lộn với tôi, hai huynh nghĩ thử có tức không?
Cả hai đều cười xoà đáp:
- Thế thì chúng ta cũng cùng chung một cảnh ngộ cả.
Rồi thuật lại chuyện Vương Quới và Trương Hiển cho Thang Viên ngoại nghe. Ba người thở vắn than dài cảm thấy mình bất lực trong việc dạy dỗ con cái.
Trong lúc đàm đạo bỗng có gia nhân vào báo:
- Có Châu Đồng tiên sinh ở Hiệp Tây đến thăm.
Cả ba mừng rỡ vội chạy ra đón vào rót nước mời uống. Vương Minh hỏi:
- Đã lâu rồi không gặp tiên sinh lòng hằng mong nhớ, nay tiên sinh ở tận Đông Kinh không quản đường xa, cực nhọc đến đây thăm, đệ thật lòng cảm kích vô cùng.
Châu Đồng nói:
- Tôi nay tuổi đã già yếu nên lâu nay vẫn nương náu với Lưu gia tại Phủ thành. Tôi cũng có chút ít ruộng nương tại đây nên đến đây trước là thăm ruộng, sau là thăm các bạn bè rồi phải về gấp.
Vương Minh nói:
- Lâu ngày vắng mặt, nay đại huynh đã đến đây thì hãy ở chơi ít hôm cho thoả tình bằng hữu, vội gì mà về gấp vậy?
Rồi bảo gia đinh làm cơm thết đãi. Ba ông Viên ngoại cùng Châu Đồng chén tạc chén thù, có vẻ rất tương đắc.
Rượu được vài tuần, Vương Minh hỏi Châu Đồng:
- Tiên sinh cách biệt hơn hai mươi năm rồi, chẳng hay gia quyến hiện ở nơi nào?
Châu Đồng đáp:
- Vợ tôi qua đời đã lâu, còn con tôi thì theo người học trò cũ của tôi là Lưu Tuấn Nghĩa đi đánh giặc Phiên cũng chết trận cách đây ít lâu. Về sau, Lưu Tuấn Nghĩa cũng bị bọn gian thần hãm hại nên nay tôi tứ cố vô thân, còn các hiền đệ năm nay con cái thế nào?
Ba ông Viên ngoại nghe hỏi cùng thở dài:
- Ba anh em tôi, mỗi người đều có một đứa con trai nhưng chúng ương ngạnh quá không thể nào dạy dỗ được, thật là một việc đáng buồn.
Rồi ai nấy đều thuật lại việc hư đốn của con mình cho Châu Đồng nghe. Châu Đồng nói:
- Mấy cháu cũng đã lớn tuổi rồi, sao không mời thầy dạy dỗ nó.
- Có chứ, chúng tôi đã đón rất nhiều thầy về dạy chúng nhưng ông nào cũng bỏ đi mất hết, phần vì chúng không chịu học, phần vì chúng xấc xược chẳng coi thầy ra gì.
Châu Đồng bĩu môi:
- Chỉ vì mấy ông thầy ấy chẳng biết cách dạy dỗ nên mới xảy ra tình trạng ấy, tôi không phải khoe tài chứ tôi mà được ở đây dạy chúng nó, xem chúng nó có dám không nghe lời tôi không.
Ba ông Viên ngoại nghe nói mừng rỡ như bắt được
của, nói:
- Nếu vậy xin đại huynh ở lại đây dạy dỗ lũ cháu cho nên người, thì ơn này chúng tôi tạc dạ ghi xương.
Châu Đồng ngẫm nghĩ giây lâu rồi gật đầu, nói:
- Được tôi cũng vì tình anh em, bè bạn nhận lời ở lại đây dạy dỗ chúng nó xem sao.
Cơm nước xong, hai ông Trương, Thang ra về vui mừng vô hạn. Một tên gia đinh chạy đến nói với Vương Quới:
- Hôm nay ông nhà ta có mời một ông thầy đến dạy học đấy, sắp tới chắc các cậu không thể chơi bời hung hăng như trước được đâu.
Vương Quới nghe nói vội chạy đi tìm Thang Hoài và Trương Hiển chúng bàn với nhau, chuẩn bị đoản côn, thước sắt để đánh lão thầy mới.
Hôm sau, ba ông Viên ngoại dắt con đến cho chúng lạy ra mắt thầy. Châu Đồng bảo:
Ba ông hãy về nghỉ đi, để chúng nó cho tôi dạy dỗ.
Ba người từ biệt về rồi, Châu Đồng gọi Vương Quới lên bảo giở sách ra đọc thử.
Vương Quới trợn mắt đáp:
- Khách chưa đọc, lẽ nào chủ nhân lại đọc trước sao?
- Ông ăn nói bất thông như vậy thì làm thầy ai được?
Dứt lời Vương Quới rút cây thước sắt ra nhắm đầu Châu Đồng đánh xuống, nhưng Châu Đồng đã lanh lẹn tránh khỏi, rồi một tay bắt cây thước sắt, một tay nắm lưng Vương Quới vật xuống lấy roi đánh túi bụi.
Vương Quới là con nhà giàu có từ bé chưa từng bị ăn đòn bao giờ, nay bị mấy roi đau quá, đành chịu phép cho Châu Đồng dạy dỗ, còn Thang Hoài và Trương Hiển thấy thế cũng sợ hãi, vội giấu hết binh khí không dám ngỗ nghịch như trước nữa.
Thế là từ đấy ba đứa trẻ vâng phục lời thầy lo học tập không dám xao lãng.
Nhạc Phi nghe Châu Đồng đến dạy học nên thường lẻn đến nấp sau vách tường nghe giảng, lòng cậu hâm mộ vô cùng.
Bữa nọ có tên tá điền Vương Lão đến xin ra mắt Châu Đồng và nói:
- Tôi làm ruộng của tướng công suốt mười năm, nhưng đến nay mới gặp được tướng công. Tuy vậy, năm nào bán lúa, tôi vẫn để dành bạc, nay nghe Tướng công ở đây nên tôi đến xin Tướng công tính giùm cho để tôi hoàn số bạc lại cho Tướng công.
Châu Đồng nói:
- Ngươi quả là một kẻ tâm phúc ít ai bì kịp.
Rồi ông gọi Vương An dọn mâm cỗ thết đãi người tá điền. Châu Đồng lại hỏi Vương Lão:
- Thế mùa màng năm nay ra sao?
Vương Lão thưa:
- Mấy năm trước hoa màu cũng thường, duy có năm nay chẳng biết tại sao lúa trổ hai bông, tôi đoán đó là điểm tốt cho Tướng công đấy.
Châu Đồng gật đầu:
- Người đoán đúng lắm, lúa trổ hai bông thì chắc chắn ta sắp được gặp quí nhân rồi, thôi thế ngày mai ta với ngươi đi xem thử.
Cơm nước xong xuôi Vương Lão nghỉ lại một đêm, sáng ra Châu Đồng gọi ba trò lại, căn dặn:
- Ta đi có việc cần, các trò hãy ở nhà cố gàng làm bài rồi ta về chấm chữa cho.
Ba người học trò vâng dạ, Châu Đồng thay quần áo đi thăm ruộng.
Chờ cho Châu Đồng đi khỏi, Nhạc Phi bước vào trường. Vương Quới trông thấy mừng rỡ nắm tay Phi giới thiệu cùng Trương Hiển và Thang Hoài:
- Đây là anh Nhạc Phi, người mà cha tôi thường ca ngợi cho là thông minh nhất đời đấy. Nay thầy ta đi vắng lại ra đề để lại bảo chúng ta phải cố gắng làm cho xong, chi bằng mượn anh Nhạc Phi làm hộ, hai anh nghĩ sao?
Hai người kia đều gật đầu tán thưởng.
Nhạc Phi tỏ ý khiêm nhường:
- Tôi chỉ sợ làm không trúng ý của thầy.
Ba người cùng bước tới nắm tay Nhạc Phi.
- Chúng tôi đã nghe tiếng anh nhiều rồi, chớ có khiêm nhường, hãy làm hộ cho chúng tôi đi, chúng tôi tin chắc bài anh làm, thầy tôi không thể chê được đâu.
Vương Quới còn sợ Nhạc Phi từ chối bỏ về nên dắt Nhạc Phi vào thư phòng và căn dặn:
- Nếu anh có đói thì đã có món ăn tôi để sẵn trên gác đó.
Nói rồi đóng cửa khoá chặt nhốt Nhạc Phi ở trong rồi cả ba chạy đi chơi mất hút.
Nhạc Phi lục lại xem các văn bài của ba người đã làm lâu nay để xem tâm khí của họ như thế nào, đoạn lục lại xem các thi văn của Châu Đồng.
Xem văn của Châu Đồng, Nhạc Phi thích chí vỗ bàn nói lớn:
- Nhạc Phi này mà được người này chỉ giáo thì lo chi ngày sau chẳng nên danh?
Dứt lời chàng đứng phắt dậy lấy bút đề ngay tám câu thơ trên vách rồi ra về chẳng đợi bọn Vương Quới quay lại.
- Được tiên sinh cho gọi đến thì còn gì hân hạnh cho bằng, chẳng biết tiên sinh có điều gì chỉ giáo?
Châu Đồng thấy Nhạc Phi tướng mạo khôi ngô, tuổi còn nhỏ mà ăn nói lễ phép, cử chỉ đoan trang nên đem lòng thương mến ngay. Ông bảo Vương Quới kéo ghế mời Nhạc Phi ngồi rồi hỏi:
- Bài thơ trên vách kia có phải cậu viết không?
Nhạc Phi sợ hãi đáp:
- Tiểu tử còn thơ dại nên nhất thời cuồng vọng, xin tiên sinh tha tội.
Châu Đồng lại hỏi:
- Cậu đã có biệt hiệu gì chưa?
- Thưa, thuở mới chào đời, có một tiên sinh đến chơi đặt cho danh hiệu là Bàng Cử.
Châu Đồng gật đầu khen:
- Danh hiệu như thế là hay lắm rồi, còn văn học thì được thầy nào dạy cho?
Nhạc Phi thưa:
- Chỉ vì nhà quá nghèo nên mẹ tiểu tử phải mua sách về dạy và lấy cát bỏ vào khay tập viết cho đỡ tốn tiền.
Ngẫm nghĩ hồi lâu, Châu Đồng nói:
- Cậu về thưa với thân mẫu, mời bà đến đây cho ta hầu chuyện nhé.
Nhạc Phi lắc đầu:
- Không thể được, mẹ cháu là góa phụ, đâu có thể đi như thế được?
Châu Đồng nói:
- Cậu nói đúng lắm, chính ta đã lỡ lời rồi?
Rồi cho gọi Vương Quới vào bảo:
- Trò về thưa với thân mẫu là, nay ta muốn mời bà An Nhân đến đây bàn chút việc học hành cho Nhạc Phi, vậy xin mời lịnh đường đến đây cho có bạn với bà.
Vương Quới vội chạy đi mời bà Viện Quân, Châu Đồng lại bảo Nhạc Phi:
- Ta đã cho mời bà Viện Quân đến, vậy cậu có bằng lòng về thưa với lệnh đường đến đây cho ta thưa chuyện không?
Nhạc Phi vâng lời về thưa với mẹ:
- Châu tiên sinh muốn mời mẹ đến thưa chuyện, người cũng có mời bà Viện Quân đến cho mẹ có bạn, chẳng biết mẹ có vui lòng đến đó không?
Bà An Nhân gật đầu đáp:
- Nếu có bà Viện Quân thì mẹ cũng đến đó thử xem Châu tiên sinh dạy việc gì cho biết.
Rồi bà ta lập tức thay quần áo đi cùng Nhạc Phi thẳng đến nơi tiên sinh Châu Đồng dạy học.
Vừa đến nơi, đã thấy bà Viện Quân có mặt, bước ra tiếp đón nồng hậu.
Sau khi mọi người an toạ, Châu Đồng nói với bà An Nhân:
- Hôm nay tôi mời bà đến đây chỉ vì tôi thấy lệnh lang tướng mạo phương phi, tâm trung xán lạn nên đem lòng mến thương muốn đem tài sở học của mình truyền đạt lại cho cháu. Vậy xin bà cho Nhạc Phi làm con nuôi tôi chẳng biết bà có bằng lòng không?
Bà An Nhân nghe nói lắc đầu, sa nước mắt đáp:
- Khi tôi sinh nó ra mới được ba ngày thì bị nạn lụt khủng khiếp, trong lúc lâm nguy, chồng tôi phó thác nó cho tôi nuôi dưỡng, may nhờ có ân công là vợ chồng Vương Viên ngoại ra tay cứu giúp, ơn ấy mẹ con tôi chưa trả được. Hơn nữa tôi chỉ có một chút con nối dòng họ Nhạc nên việc ấy khó vâng lời, xin tiên sinh chở chấp.
Châu Đồng phân trần:
- Lẽ ra tôi không nên hỏi vậy, nhưng trong văn thơ thấy lệnh lang có chí khí lớn, ngày sau ắt nên danh vọng, tiếc thay không có thầy hay dạy dỗ, cung như ngọc kia không được giũa mài cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi. Chẳng phải tôi dám khoe tài, song tôi đã từng dạy hai đứa học trò làm nên danh phận, chỉ vì rủi ro bị kẻ gian thần hãm hại. Nay nhận lời của Vương viên ngoại dạy ba đứa này xét ra chí khí thua kém Nhạc Phi xa. Nếu được bà ưng thuận, tôi chỉ gá tiếng là dưỡng phụ mà thôi, chớ không dám cải danh diệt tính. Còn việc xưng hô cha con là để cho tăng phần thân mật, tôi mới có thể đem hết bình sinh sở học truyền đạt lại cho cháu và sau này tôi có cười hạc quy tiên thì có người chôn cất là đủ rồi, xin bà hãy an tâm.
Bà An Nhân còn suy tính chưa biết nên trả lời bằng cách nào cho phải thì Nhạc Phi đã chạy ra, chắp tay thưa với Châu Đồng:
- Nếu kết tình phụ tử mà không phải thay tên, đổi họ thì con xin ưng thuận, vậy xin gia gia hãy ngồi lại cho con tạ lễ.
Dứt lời, Nhạc Phi quỳ lạy tám lạy.
Nhạc Phi hành động như vậy chẳng phải là không tuân lời mẹ song cũng vì chàng ái mộ tài học của Châu tiên sinh đã lâu, muốn cho người giáo huấn thi thơ, thụ truyền võ nghệ. Ngờ đâu trong tám lạy ấy mà sau này Nhạc Phi làm đến chức Võ Xương Khai Quốc Công, Thái Tử Thiếu Bảo, Tổng Đốc bình lương, thống thuộc văn võ Đô Đốc Đại Nguyên Soái. Nhưng đó là chuyện của mấy chục năm sau. Hãy quay lại chuyện Nhạc Phi quỳ lạy nhận dưỡng phụ.
Lạy xong, Nhạc Phi còn làm lễ lạy vợ chồng Vương Viên ngoại và mẹ chàng nữa. Bà An Nhân nửa buồn nửa vui, nhưng vì con bà đã ưng thuận bà cũng đành phải chấp thuận theo.
Vợ chồng Vương Viên ngoại sai bày tiệc đãi đằng, mời cả Trương Đạt, Thang Văn Trọng đến dự rồi ai về nhà nấy.
Hôm sau Nhạc Phi vào trường học, Châu Đồng cho bốn trò kết nghĩa anh em, ai nấy đều tỏ cho cha mẹ mình hay, các ông bà ấy thảy đều mừng rỡ.
Từ đó Châu Đồng đem hết mười tám môn võ nghệ truyền đạt cho Nhạc Phi, chàng sẵn có khiếu thông minh hơn người nên tiếp thu rất chu đáo.
Ngày tháng thoi đưa, bóng thiều quang thấm thoắt, hạ hết thu sang, Nhạc Phi đã lên mười ba tuổi, mấy anh em cũng đều ở lại thư phòng, sớm tối chăm lo học tập, chẳng bao lâu ai nấy đều võ nghệ tinh thông, văn chương uyên bác.
Một hôm vào tiết tháng ba, khí trời mát mẻ, Châu Đồng gọi Nhạc Phi vào, bảo:
- Hôm nay thầy bận đi thăm một người bạn là ông Chí Minh trưởng lão ở tại Lịch Tuyền, con hãy ở nhà cùng với mấy anh em đừng xao lãng học tập nhé?
Nhạc Phi thưa:
- Đường đi từ đây đến Lịch Tuyền xa xôi lại vắng vẻ, gia gia đi một mình e bất tiện, chi bằng cho chúng con đi với và để thăm tiên sinh luôn thể.
Châu Đồng gật đầu vui lòng, rồi năm thầy trò sắm sửa hành trang lên đường thẳng đến Lịch Tuyền.
Đường đi phải băng qua nhiều khu rừng rậm rạp, cây cối um tùm, chim kêu vượn hú trên cành, càng tăng thêm cảnh vắng vẻ của rừng sâu.
Khi đi qua một hòn núi nhỏ, Châu Đồng trông thấy nơi ấy địa thế rất đẹp, bên đứng lại ngắm nghía hồi lâu rồi hỏi:
- Chẳng biết chỗ này là đất của ai?
Vương Quới thưa:
- Nơi đây là đất của phụ thân con, nếu thầy xem phong cảnh này có hợp ý thì sau này thầy có quy tiên, chúng con sẽ đem thầy đến đây làm nơi an giấc.
Nhạc Phi lườm Vương Quới một cái và nói:
- Gia gia tôi đang sống thế này mà sao anh dám loạn ngôn như vậy?
Châu Đồng khoả tay:
- Không hề chi, người đời ai mà khỏi chết? Nếu sau này thầy có mãn phần rồi, các con đem xác thầy đến chỗ này chôn cất thì thầy mãn nguyện vô cùng.
Đi chẳng bao lâu nữa, gia trang của trưởng lão Chí Minh đã hiện ra trước mặt, tuy không đồ sộ nguy nga lắm song cũng rộng rãi mát mẻ, nấp dưới lùm cây cổ thụ hoa quả tốt tươi trông ngoạn mục lắm.
Châu Đồng gõ cửa, một tiểu đồng từ bên trong chạy ra vái chào, Châu Đồng bảo:
- Phiền cháu vào thưa lại với tiên sinh Chí Minh răng có người ở Hiệp Tây tên là Châu Đồng đến thăm.
Tiểu đồng cúi đầu vâng dạ rồi chạy thẳng vào trong, chỉ trong chốc lát đã thấy trưởng lão Chí Minh chống gậy bước ra tiếp đón niềm nở.
Mọi người vào nhà, trưởng lão mời ngồi đãi trà nước, có hai học trò đứng hầu hai bên.
Trong lúc đàm đạo văn chương, trưởng lão Chí Minh liếc thấy Nhạc Phi tướng mạo khôi ngô, cốt cách phi phàm, ông ta tấm tắc khen thầm rồi ông gọi tiểu đồng đem thức ăn lên thết đãi.
Đêm hôm ấy, thầy trò Châu Đồng nghỉ lại ở gia trang, rạng ngày sau mới từ tạ ra về. Trưởng Lão nằng nặc mời ở lại dùng cơm rồi mới cho đi. Khi tiểu đồng bưng trà lên, Châu Đồng vui miệng hỏi:
- Tôi có nghe người ta đồn rằng ở đây có suối Lịch Tuyền dùng nước suối ấy nấu trà uống ngon lắm phải không?
Trưởng lão đáp:
- Đúng đấy, nước trong suối Lịch Tuyền mà dùng nấu nước trà uống thì ngon tuyệt, nước ấy nếu đem rửa mặt thì mắt mờ sẽ sáng ngay. Lâu nay hễ có khách, tôi vẫn dùng nước ấy nấu nước trà đãi, ngờ đâu gần đây có một con quái không biết từ đâu đến, thường ngày nó hay phun một thứ khói độc làm hôn mê, nên không ai dám bén mảng đến đó nữa.
Châu Đồng chắt lưỡi than:
- Thế thì tại tôi vô duyên nên đến đây gặp trở ngại không được dùng nước Lịch Tuyền.
Nhạc Phi nghe nói nghĩ thầm:
"Quả nước Lịch Tuyền quí giá như vậy thì dù con quái vật ấy có lợi hại đến đâu ta cũng quyết đến đó lấy nước cho kỳ được. Hay là tiên sinh Chí Minh tìm cách nói đùa chăng? Nhất định phen này ta phải đến đó lấy nước đem về để gia gia ta rửa mặt mới được.
Nghĩ đoạn, Nhạc Phi hỏi tiểu đồng thăm dò đường đi đến suối Lịch Tuyền, rồi bưng chén trà lớn đi thẳng ra phía sau am.
Đi quanh co hồi lâu, chàng trông thấy tại cửa núi có một vòi nước phun ra nước trong vắt, phía trên có một tảng đá lớn bên trên có khắc một hàng chữ:
- "Lịch Tuyền kỳ phẩm".
Đây chính là bút tích của ông Tô Đông Pha viết, bên trong vòi nước ấy có một động đá, trong động ló ra một chiếc đầu rắn khổng lồ, đôi mắt rắn sáng chói như hai chiếc đèn pha, miệng rắn há hốc ra để lộ mấy hàm răng gớm ghiếc, nước bọt từ trong miệng rắn nhỏ xuống từng giọt một màu trắng đục.
Nhạc Phi lẩm bẩm:
- Con quái xà này từ đâu đến đây phá rối, để ta giết quách cho thiên hạ nhờ.
Nói đoạn, chàng để chén xuống, nhặt một viên đá lớn nhắm ngay đầu rắn ném một cái thật mạnh. Viên đá trúng ngay chính giữa đỉnh đầu rắn, nhưng không thấy con rắn nao núng gì cả, nó liền phun ra một chất khói lam, đồng thời há miệng thè chiếc lưỡi đỏ loét, quăng mình tới mổ Nhạc Phi, nhưng chàng đã lanh lẹ tránh khỏi, với tay nắm lấy đuôi rắn chàng toan vụt một cái, nhưng lạ thay, Nhạc Phi xem kỹ lại thì trong tay cái đuôi rắn biến đâu mất mà chỉ có một cây thương láng bóng, trên cán có chạm một hàng chữ "Lịch Tuyền Thần Mâu".
Nhạc Phi mừng rỡ khôn xiết, chàng xách chén cầm thương chạy thẳng về am. Kể lại mọi chuyện cho Châu Đồng nghe, ai nấy đều mừng rỡ. Trưởng Lão Chí Minh nói:
- Cây thương "Lịch Tuyền thần mâu" này là vật báu của thần linh nay đã về tay lệnh lang ắt sau này sẽ được đăng đài bái tướng đấy chứ chẳng chơi đâu.
Ngừng giây lát, trưởng lão nói:
- Sẵn đây tôi có cuốn sách binh thư bí truyền trong đó có truyền đầy đủ thương pháp và cách bày binh bố trận nữa, nhưng sách này chỉ người nào có binh khí thần linh mới có thể dùng được, nay lệnh lang đã có duyên như vậy tôi xin trao sách ấy cho, hãy xem trong ấy cố mà luyện tập, bây giờ tôi phải trở về ở tại Ngũ Đài sơn, chắc có lẽ khó mà gặp mặt nhau được. Chí Minh trưởng lão nói, hai mươi năm về sau, học trò tôi là Đạo Duyệt sẽ đến tại Kim Sơn để gặp lệnh lang, mong lang hãy nhớ lời tôi dặn và xin cáo biệt ngay đây.
Châu Đồng nói:
Nói vậy thì tôi làm lỗi với tiên sinh rồi.
Trưởng lão nói:
- Không phải, đó là do nơi tiền định có tội gì đến ngài đâu?
Nói đoạn Chí Minh trưởng lão vào phòng lấy cuốn binh thư giao cho Châu Đồng, rồi Châu Đồng giao cho Nhạc Phi cất giữ. Thầy trò từ biệt xuống núi về nhà.
Sáng hôm sau, Châu Đồng hỏi Thang Hoài:
- Ngươi muốn học môn gì?
Thang Hoài đáp:
- Con thấy Nhạc huynh múa thương tốt lắm, nên con cũng muốn học thương.
Thế là Châu Đồng dạy thương pháp cho Thang Hoài. Còn Trương Hiển lại bảo:
- Thương thì tốt lắm, nhưng con lại muốn sử dụng thứ vũ khí gì đã đâm lại móc lại được nữa cơ. Vũ khí ấy chính là câu liêm thương đây, để ta vẽ kiểu cho con đến thợ rèn đặt làm một cái đem về ta dạy cho.
Vương Quới lại bảo:
- Thưa thày, con chỉ muốn sử dụng cây đại đao thôi vì đại đao chém chết được nhiều mạng hơn.
Châu Đồng biết Vương Quới là kẻ dũng phu nên cười thầm và nói:
- Được nếu con thích đại đao thì thầy sẽ dạy cho.
Từ đó về sau hễ hai ngày học văn thì một ngày luyện võ. ông Châu Đồng trước kia là người làm đến chức Đầu mục, cai quản tám mươi ngàn cấm quân tại Đông Kinh nên võ nghệ cao cường, ông đã từng dạy người học trò xuất chúng tên là Lưu Tuấn Nghĩa, nay lại có Nhạc Phi tuổi còn nhỏ mà có sức mạnh phi thường, ông ta vô cùng hoan hỉ, đem hết mười tám môn võ nghệ truyền đạt cho Nhạc Phi, nếu so sánh với hai người học trò trước kia, Nhạc Phi còn hơn gấp bội.
Một hôm Vương Viên ngoại cùng Châu Tiên sinh đi dạo chơi giải buồn, bỗng có lý trưởng sở tại đến ra mắt và thưa:
- Huyện đường ta sắp có cuộc khảo thi võ nghệ, tôi cũng muốn hiển vinh cho làng xóm nên đã đem tên bốn vị tiểu tướng công đến đăng vào xin ứng thí, vậy nay bổn chức xin tin cho chư vị biết để sắm sửa vào ngày rằm tháng này tựu trường.
Vương Minh cau mày nhìn lý trưởng bảo:
- Ông muốn đem con cháu chúng tôi ra ứng thí, ít ra cũng phải cho chúng tôi biết trước đã chớ, phỏng như chúng nó chưa đủ tư cách ra thí võ với người thì sao?
Châu Đồng xen vào nói:
- Chẳng hề chi đâu, tôi xét ra ông lý đây làm như vậy là tốt bụng và thịnh tình, tuy đồ đệ tôi còn nhỏ tuổi, nhưng trò nào cũng đủ tư cách ra tỷ thí với người cả rồi.
Châu Đồng lại căn dặn ba ông Viên ngoại về sắm sửa cho con mình đi thi võ. Hôm sau về trường, lại gọi các trò đến bảo:
- Các con hãy chuẩn bị áo quần tử tế và mang theo vũ khí sở trường đúng ngày rằm tháng này, đến trường thi võ đấy nhé!
Vương Quới, Thang Hoài, Trương Hiển vâng lời vội trở về nhà ngay, Châu Đồng lại bảo Nhạc Phi về thưa với thân mẫu sắm sửa đồ đạc lên đường.
Nhạc Phi thưa:
- Chắc khoa này con không đi được, xin hẹn lại khoa khác.
Châu Đồng ngạc nhiên:
- Tại sao vậy?
- Thưa gia gia, riêng phận con nghèo nàn rách rưới lấy chi sắm được ngựa và áo quần để đi với người ta? Vì vậy con xin chờ khoá sau thì hơn.
Châu Đồng suy nghĩ giây lâu, gọi Nhạc Phi bảo:
- Thôi con hãy vào phòng lấy chiếc áo Tố Bạch của ta đem về thưa cùng lệnh đường sửa chữa lại cho vừa mà mặc. Con nhớ lấy cả dây Hồng Lan nữa nhé. Còn ngựa thì không lo gì, con cứ việc lấy con ngựa của ta mà dùng.
Nhạc Phi bước vào phòng lãnh áo rồi bước ra lạy tạ trở về nhà thưa lại với mẹ. Bà An Nhân vui mừng khôn xiết.
Hôm sau, Châu Đồng đang ngồi xem sách bỗng nghe phía trước có tiếng động, vội nhìn ra thì thấy Thang Hoài đến. Anh ta xúng xính trong bộ quần áo mới cưỡi con ngựa ô, lưng đeo cung tiễn trông oai vệ lắm. Chàng lạy thầy một lạy và thưa:
- Xin thầy xem con ăn mặc thế này đi ứng thí với người ta có được không?
Châu Đồng gật đầu khen ngợi, rồi Vương Quới và Trương Hiển cũng lần lượt đến làm lễ thầy, người nào cũng nai nịt chỉnh tề, lưng đeo cung tiễn trông ra dáng con nhà võ lắm.
Châu Đồng bảo:
- Ba trò hãy về thưa lại với phụ thân, đến ngày ấy cứ việc tự nhiên đến trường thi, đừng đợi ta làm gì, miễn khi đến tỉnh thành, chúng tạ gặp mặt nhau là đủ rồi.
Ba trò vừa bái tạ ra về thì Nhạc Phi đến, ông Châu Đồng vỗ vai chàng bảo:
- Ngày mai ta sẽ sang dùng cơm bên nhà con rồi cùng đi luôn.
Nhạc Phi lấy làm ái ngại:
- Nhà con nghèo nàn biết lấy chi đãi gia gia cho xứng đáng!
- Con chớ nên ngại việc ấy, chúng ta đã kết tình phụ tử thì có gì dùng nấy mới thân mật chứ.
Nhạc Phi về thưa lại với mẹ, rồi sáng hôm sau, khi cơm nước xong xuôi, Châu Đồng cùng Nhạc Phi dắt nhau xuống tỉnh thành. Nơi đây thiên hạ đông đảo, nhan nhản những phòng trà quán rượu có đủ hạng người, náo nhiệt và vui vẻ vô chừng. Cha con Nhạc Phi ghé vào tiệm uống trà nghỉ mát, còn ba ông Viên ngoại là người giàu có, nên vào ngay tửu lầu gọi những thức ăn cao lương mỹ vị thết đãi bạn bè đồng thời cho người đi tìm Châu Đồng và Nhạc Phi.
Làng Kỳ Lân, Châu Đồng nhận nghĩa tử
Suối Lịch Tuyền, Nhạc Phi được thần mâu
Nhạc Phi vừa ra khỏi thư phòng thì bọn Vương Quới cũng kịp về nhà.
Châu Đồng bước vào phòng không để ý mọi việc xung quanh, chỉ cúi đầu suy nghĩ:
"Lúa trổ hai bông là một chuyện lạ lùng, chẳng lẽ trong cái thôn bé nhỏ, hẻo lánh thế này lại có quí nhân sao?".
Đang suy nghĩ, bỗng thấy ba cuốn vở để trước mặt Châu Đồng bèn giở ra xem, thì lạ thay, văn bài của ba người học trò mình hôm nay từ lý rất thông, nét chữ lại sắc sảo tiên sinh nghĩ thầm:
"Lẽ nào ba đứa này học hành lại mau tấn tới đến thế Hay là thời vận ta may mắn nên chúng mau giỏi chăng?".
Châu Đồng lại đem những bài cũ của học trò ra so sánh thì thấy các bài cũ chẳng thông suốt tý nào cả nên lại nghĩ:
"Hay là trong khi ta đi vắng, ở nhà chúng nó mượn ai làm cũng nên, nhưng kẻ nào làm đây phải là người tài giỏi, chí khí hơn người, để ta hỏi xem cho biết".
Nghĩ đoạn Châu Đồng gọi Vương Quới hỏi:
- Khi ta đi vắng, có ai đến thư phòng không?
Vương Quới thưa:
- Thưa thầy, con không thấy ai đến đây cả.
Đang lúc ngờ vực. Châu Đồng vụt nhìn lên trên vách thấy bài thơ của Nhạc Phi, vội bước đến xem. Bài thơ viết:
Phục thầy, hạ bút đôi câu
Công hầu, khanh tướng biết đâu mà cười
Tâm trong Tiêu Hán sẵn rồi
Còn chờ cảnh ngộ rạng ngời Đẩu Ngưu
Anh hùng chí cả noi theo
Rồng mây gặp hội, thỏa điều ước mong
Công danh hai chữ chưa xong
Tiếu đàm thiên hạ, bận tâm làm gì.
Thơ tuy chẳng hay lắm song thi pháp đáng khen, lại có khí chất anh hùng, cuối cùng lại đề rõ danh tự Nhạc Phi. Châu Đồng mới biết đây là người mà ông Vương Viên ngoại khen là kẻ thông minh hiếm có trên đời.
Châu Đồng trợn mắt nhìn Vương Quới quát mắng:
- Rõ ràng có Nhạc Phi đến thư phòng viết thơ trên vách đây sao các ngươi lại chối quanh? Hèn chi ba bài văn của chúng bay hôm nay khác xa, đúng là Nhạc Phi làm hộ cho chúng bay rồi. Thôi hãy đi mời hắn đến đây cho ta bảo gấp.
Vương Quới cúi đầu vâng dạ rồi chạy thẳng đến nhà Nhạc Phi bảo:
- Lúc nãy anh đến thư phòng chúng tôi chơi, nhưng không biết anh viết những gì trên vách mà thầy cho đi mời anh. Chắc thế nào thầy tôi cũng đánh anh đấy.
Bà An Nhân nghe nói thì kinh hãi, nhưng khi nghe Vương Quốc nói: "Thầy bảo đi mời" thì lòng mới bớt lo. Bà bảo Nhạc Phi.
- Con có qua thì phải hết sức lễ phép với người nhé!
Nhạc Phi chắp tay:
- Con xin vâng lời mẹ, con quyết không khi nào làm phiền lòng mẹ đâu.
Rồi Nhạc Phi theo chân Vương Quới đến thư phòng ra mắt Châu Đồng. Sau khi xá bốn vái, Nhạc Phi đứng tránh một bên chắp tay thưa:- Được tiên sinh cho gọi đến thì còn gì hân hạnh cho bằng, chẳng biết tiên sinh có điều gì chỉ giáo?
Châu Đồng thấy Nhạc Phi tướng mạo khôi ngô, tuổi còn nhỏ mà ăn nói lễ phép, cử chỉ đoan trang nên đem lòng thương mến ngay. ông bảo Vương Quới kéo ghế mời Nhạc Phi ngồi rồi hỏi:
- Bài thơ trên vách kia có phải cậu viết không?
Nhạc Phi sợ hãi đáp:
- Tiểu tử còn thơ dại nên nhất thời cuồng vọng, xin tiên sinh tha tội.
Châu Đồng lại hỏi:
- Cậu đã có biệt hiệu gì chưa?
- Thưa, thuở mới chào đời, có một tiên sinh đến chơi đặt cho danh hiệu là Bàng Cử.
Châu Đồng gật đầu khen:
- Danh hiệu như thế là hay lắm rồi, còn văn học thì được thầy nào dạy cho?
Nhạc Phi thưa:
- Chỉ vì nhà quá nghèo nên mẹ tiểu tử phải mua sách về dạy và lấy cát bỏ vào khay tập viết cho đỡ tốn tiền.
Ngẫm nghĩ hồi lâu, Châu Đồng nói:
- Cậu về thưa với thân mẫu, mời bà đến đây cho ta hầu chuyện nhé.
Nhạc Phi lắc đầu:
- Không thể được, mẹ cháu là góa phụ, đâu có thể đi như thế được?
Châu Đồng nói:
- Cậu nói đúng lắm, chính ta đã lỡ lời rồi?
Rồi cho gọi Vương Quới vào bảo:
- Trò về thưa với thân mẫu là, nay ta muốn mời bà An Nhân đến đây bàn chút việc học hành cho Nhạc Phi, vậy xin mời lịnh đường đến đây cho có bạn với bà.
Vương Quới vội chạy đi mời bà Viện Quân, Châu Đồng lại bảo Nhạc Phi:
- Ta đã cho mời bà Viện Quân đến, vậy cậu có bằng lòng về thưa với lệnh đường đến đây cho ta thưa chuyện không?
Nhạc Phi vâng lời về thưa với mẹ:
- Châu tiên sinh muốn mời mẹ đến thưa chuyện, người cũng có mời bà Viện Quân đến cho mẹ có bạn, chẳng biết mẹ có vui lòng đến đó không? .
Bà An Nhân gật đầu đáp:
- Nếu có bà Viện Quân thì mẹ cũng đến đó thử xem Châu tiên sinh dạy việc gì cho biết.
Rồi bà ta lập tức thay quần áo đi cùng Nhạc Phi thẳng đến nơi tiên sinh Châu Đồng dạy học.
Vừa đến nơi, đã thấy bà Viện Quân có mặt, bước ra tiếp đón nồng hậu.
Sau khi mọi người an toạ, Châu Đồng nói với bà An Nhân:
- Hôm nay tôi mời bà đến đây chỉ vì tôi thấy lệnh lang tướng mạo phương phi, tâm trung xán lạn nên đem lòng mến thương muốn đem tài sở học của mình truyền đạt lại cho cháu. Vậy xin bà cho Nhạc Phi làm con nuôi tôi chẳng biết bà có bằng lòng không?
Bà An Nhân nghe nói lắc đầu, sa nước mắt đáp:
- Khi tôi sinh nó ra mới được ba ngày thì bị nạn lụt khủng khiếp, trong lúc lâm nguy, chồng tôi phó thác nó cho tôi nuôi dưỡng, may nhờ có ân công là vợ chồng Vương Viên ngoại ra tay cứu giúp, ơn ấy mẹ con tôi chưa trả được. Hơn nữa tôi chỉ có một chút con nối dòng họ Nhạc nên việc ấy khó vâng lời, xin tiên sinh chở chấp.
Châu Đồng phân trần:
- Lẽ ra tôi không nên hỏi vậy, nhưng trong văn thơ thấy lệnh lang có chí khí lớn, ngày sau ắt nên danh vọng, tiếc thay không có thầy hay dạy dỗ, cung như ngọc kia không được giũa mài cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi. Chẳng phải tôi dám khoe tài, song tôi đã từng dạy hai đứa học trò làm nên danh phận, chỉ vì rủi ro bị kẻ gian thần hãm hại. Nay nhận lời của Vương viên ngoại dạy ba đứa này xét ra chí khí thua kém Nhạc Phi xa. Nếu được bà ưng thuận, tôi chỉ gá tiếng là dưỡng phụ mà thôi, chớ không dám cải danh diệt tính. Còn việc xưng hô cha con là để cho tăng phần thân mật, tôi mới có thể đem hết bình sinh sở học truyền đạt lại cho cháu và sau này tôi có cười hạc quy tiên thì có người chôn cất là đủ rồi, xin bà hãy an tâm.
Bà An Nhân còn suy tính chưa biết nên trả lời bằng cách nào cho phải thì Nhạc Phi đã chạy ra, chắp tay thưa với Châu Đồng:
- Nếu kết tình phụ tử mà không phải thay tên, đổi họ thì con xin ưng thuận, vậy xin gia gia hãy ngồi lại cho con tạ lễ.
Dứt lời, Nhạc Phi quỳ lạy tám lạy.
Nhạc Phi hành động như vậy chẳng phải là không tuân lời mẹ song cũng vì chàng ái mộ tài học của Châu tiên sinh đã lâu, muốn cho người giáo huấn thi thơ, thụ truyền võ nghệ. Ngờ đâu trong tám lạy ấy mà sau này Nhạc Phi làm đến chức Võ Xương Khai Quốc Công, Thái Tử Thiếu Bảo, Tổng Đốc bình lương, thống thuộc văn võ Đô Đốc Đại Nguyên Soái. Nhưng đó là chuyện của mấy chục năm sau. Hãy quay lại chuyện Nhạc Phi quỳ lạy nhận dưỡng phụ.
Lạy xong, Nhạc Phi còn làm lễ lạy vợ chồng Vương Viên ngoại và mẹ chàng nữa. Bà An Nhân nửa buồn nửa vui, nhưng vì con bà đã ưng thuận bà cũng đành phải chấp thuận theo.
Vợ chồng Vương Viên ngoại sai bày tiệc đãi đằng, mời cả Trương Đạt, Thang Văn Trọng đến dự rồi ai về nhà nấy.
Hôm sau Nhạc Phi vào trường học, Châu Đồng cho bốn trò kết nghĩa anh em, ai nấy đều tỏ cho cha mẹ mình hay, các ông bà ấy thảy đều mừng rỡ.
Từ đó Châu Đồng đem hết mười tám môn võ nghệ truyền đạt cho Nhạc Phi, chàng sẵn có khiếu thông minh hơn người nên tiếp thu rất chu đáo.
Ngày tháng thoi đưa, bóng thiều quang thấm thoắt, hạ hết thu sang, Nhạc Phi đã lên mười ba tuổi, mấy anh em cũng đều ở lại thư phòng, sớm tối chăm lo học tập, chẳng bao lâu ai nấy đều võ nghệ tinh thông, văn chương uyên bác.
Một hôm vào tiết tháng ba, khí trời mát mẻ, Châu
Đồng gọi Nhạc Phi vào, bảo:
- Hôm nay thầy bận đi thăm một người bạn là ông Chí Minh trưởng lão ở tại Lịch Tuyền, con hãy ở nhà cùng với mấy anh em đừng xao lãng học tập nhé!
Nhạc Phi thưa:
- Đường đi từ đây đến Lịch Tuyền xa xôi lại vắng vẻ, gia gia đi một mình e bất tiện, chi bằng cho chúng con đi với và để thăm tiên sinh luôn thể.
Châu Đồng gật đầu vui lòng, rồi năm thầy trò sắm sửa hành trang lên đường thẳng đến Lịch Tuyền.
Đường đi phải băng qua nhiều khu rừng rậm rạp, cây cối um tùm, chim kêu vượn hú trên cành, càng tăng thêm cảnh vắng vẻ của rừng sâu.
Khi đi qua một hòn núi nhỏ, Châu Đồng trông thấy nơi ấy địa thế rất đẹp, bên đứng lại ngắm nghía hồi lâu rồi hỏi:
- Chẳng biết chỗ này là đất của ai?
Vương Quới thưa:
Nơi đây là đất của phụ thân con, nếu thầy xem phong cảnh này có hợp ý thì sau này thầy có quy tiên, chúng con sẽ đem thầy đến đây làm nơi an giấc.
Nhạc Phi lườm Vương Quới một cái và nói:
- Gia gia tôi đang sống thế này mà sao anh dám loạn ngôn như vậy?
Châu Đồng khoả tay:
- Không hề chi, người đời ai mà khỏi chết? Nếu sau này thầy có mãn phần rồi, các con đem xác thầy đến chỗ này chôn cất thì thầy mãn nguyện vô cùng.
Đi chẳng bao lâu nữa, gia trang của trưởng lão Chí Minh đã hiện ra trước mặt, tuy không đồ sộ nguy nga lắm song cũng rộng rãi mát mẻ, nấp dưới lùm cây cổ thụ hoa quả tốt tươi trông ngoạn mục lắm.
Châu Đồng gõ cửa, một tiểu đồng từ bên trong chạy ra vái chào, Châu Đồng bảo:
- Phiền cháu vào thưa lại với tiên sinh Chí Minh rằng có người ở Hiệp Tây tên là Châu Đồng đến thăm.
Tiểu đồng cúi đầu vâng dạ rồi chạy thẳng vào trong, chỉ trong chốc lát đã thấy trưởng lão Chí Minh chống gậy bước ra tiếp đón niềm nở.
Mọi người vào nhà, trưởng lão mời ngồi đãi trà nước, có hai học trò đứng hầu hai bên.
Trong lúc đàm đạo văn chương, trưởng lão Chí Minh liếc thấy Nhạc Phi tướng mạo khôi ngô, cốt cách phi phàm, ông ta tấm tắc khen thầm rồi ông gọi tiểu đồng đem thức ăn lên thết đãi.
Đêm hôm ấy, thầy trò Châu Đồng nghỉ lại ở gia trang, rạng ngày sau mới từ tạ ra về. Trưởng Lão nằng nặc mời ở lại dùng cơm rồi mới cho đi. Khi tiểu đồng bưng trà lên, Châu Đồng vui miệng hỏi:
- Tôi có nghe người ta đồn rằng ở đây có suối Lịch Tuyền dùng nước suối ấy nấu trà uống ngon lắm phải không?
Trưởng lão đáp:
- Đúng đấy, nước trong suối Lịch Tuyền mà dùng nấu nước trà uống thì ngon tuyệt, nước ấy nếu đem rửa mặt thì mắt mờ sẽ sáng ngay. Lâu nay hễ có khách, tôi vẫn dùng nước ấy nấu nước trà đãi, ngờ đâu gần đây có một con quái không biết từ đâu đến, thường ngày nó hay phun một thứ khói độc làm hôn mê, nên không ai dám bén mảng đến đó nữa.
Châu Đồng chất lưỡi than:
Thế thì tại tôi vô duyên nên đến đây gặp trở ngại
không được dùng nước Lịch Tuyền.
Nhạc Phi nghe nói nghĩ thầm:
"Quả nước Lịch Tuyền quí giá như vậy thì dù con quái vật ấy có lợi hại đến đâu ta cũng quyết đến đó lấy nước cho kỳ được. Hay là tiên sinh Chí Minh tìm cách nói đùa chăng? Nhất định phen này ta phải đến đó lấy nước đem về để gia gia ta rửa mặt mới được.
Nghĩ đoạn, Nhạc Phi hỏi tiểu đồng thăm dò đường đi đến suối Lịch Tuyền, rồi bưng chén trà lớn đi thẳng ra phía sau am.
Đi quanh co hồi lâu, chàng trông thấy tại cửa núi có một vòi nước phun ra nước trong vắt, phía trên có một tảng đá lớn bên trên có khắc một hàng chữ:
- "Lịch Tuyền kỳ phẩm".
Đây chính là bút tích của ông Tô Đông Pha viết, bên trong vòi nước ấy có một động đá, trong động ló ra một chiếc đầu rắn khổng lồ, đôi mắt rắn sáng chói như hai chiếc đèn pha, miệng rắn há hốc ra để lộ mấy hàm răng gớm ghiếc, nước bọt từ trong miệng rắn nhỏ xuống từng giọt một màu trắng đục.
Nhạc Phi lẩm bẩm:
- Con quái xà này từ đâu đến đây phá rối, để ta giết quách cho thiên hạ nhờ.
Nói đoạn, chàng để chén xuống, nhặt một viên đá lớn nhắm ngay đầu rắn ném một cái thật mạnh. Viên đá trúng ngay chính giữa đỉnh đầu rắn, nhưng không thấy con rắn nao núng gì cả, nó liền phun ra một chất khói lam, đồng thời há miệng thè chiếc lưỡi đỏ loét, quăng mình tới mổ Nhạc Phi, nhưng chàng đã lanh lẹ tránh khỏi, với tay nắm lấy đuôi rắn chàng toan vụt một cái, nhưng lạ thay, Nhạc Phi xem kỹ lại thì trong tay cái đuôi rắn biến đâu mất mà chỉ có một cây thương láng bóng, trên cán có chạm một hàng chữ "Lịch Tuyền Thần Mâu".
Nhạc Phi mừng rỡ khôn xiết, chàng xách chén cầm thương chạy thẳng về am. Kể lại mọi chuyện cho Châu Đồng nghe, ai nấy đều mừng rỡ. Trưởng Lão Chí Minh nói:
- Cây thương "Lịch Tuyền thần mâu" này là vật báu của thần linh nay đã về tay lệnh lang ắt sau này sẽ được đăng đài bái tướng đấy chứ chẳng chơi đâu.
Ngừng giây lát, trưởng lão nói:
- Sẵn đây tôi có cuốn sách binh thư bí truyền trong đó có truyền đầy đủ thương pháp và cách bày binh bố trận nữa, nhưng sách này chỉ người nào có binh khí thần linh mới có thể dùng được, nay lệnh lang đã có duyên như vậy tôi xin trao sách ấy cho, hãy xem trong ấy cố mà luyện tập, bây giờ tôi phải trở về ở tại Ngũ Đài sơn, chắc có lẽ khó mà gặp mặt nhau được. Chí Minh trưởng lão nói, hai mươi năm về sau, học trò tôi là Đạo Duyệt sẽ đến tại Kim Sơn để gặp lệnh lang, mong lang hãy nhớ lời tôi dặn và xin cáo biệt ngay đây.
Châu Đồng nói:
- Nói vậy thì tôi làm lỗi với tiên sinh rồi.
Trưởng lão nói:
- Không phải, đó là do nơi tiền định có tội gì đến ngài đâu?
Nói đoạn Chí Minh trưởng lão vào phòng lấy cuốn binh thư giao cho Châu Đồng, rồi Châu Đồng giao cho Nhạc Phi cất giữ. Thầy trò từ biệt xuống núi về nhà.
Sáng hôm sau, Châu Đồng hỏi Thang Hoài:
- Ngươi muốn học môn gì?
Thang Hoài đáp:
- Con thấy Nhạc huynh múa thương tốt lắm, nên con cũng muốn học thương.
Thế là Châu Đồng dạy thương pháp cho Thang Hoài. Còn Trương Hiển lại bảo:
- Thương thì tốt lắm, nhưng con lại muốn sử dụng thứ vũ khí gì đã đâm lại móc lại được nữa cơ.
- Vũ khí ấy chính là câu liêm thương đây, để ta vẽ kiểu cho con đến thợ rèn đặt làm một cái đem về ta dạy cho.
Vương Quới lại bảo:
- Thưa thày, con chỉ muốn sử dụng cây đại đao thôi vì đại đao chém chết được nhiều mạng hơn.
Châu Đồng biết Vương Quới là kẻ dũng phu nên cười thầm và nói:
- Được nếu con thích đại đao thì thầy sẽ dạy cho.
Từ đó về sau hễ hai ngày học văn thì một ngày luyện võ. ông Châu Đồng trước kia là người làm đến chức Đầu mục, cai quản tám mươi ngàn cấm quân tại Đông Kinh nên võ nghệ cao cường, ông đã từng dạy người học trò xuất chúng tên là Lưu Tuấn Nghĩa, nay lại có Nhạc Phi tuổi còn nhỏ mà có sức mạnh phi thường, ông ta vô cùng hoan hỉ, đem hết mười tám môn võ nghệ truyền đạt cho Nhạc Phi, nếu so sánh với hai người học trò trước kia, Nhạc Phi còn hơn gấp bội.
Một hôm Vương Viên ngoại cùng Châu Tiên sinh đi dạo chơi giải buồn, bỗng có lý trưởng sở tại đến ra mắt và thưa:
- Huyện đường ta sắp có cuộc khảo thi võ nghệ, tôi cũng muốn hiển vinh cho làng xóm nên đã đem tên bốn vị tiểu tướng công đến đăng vào xin ứng thí, vậy nay bổn chức xin tin cho chư vị biết để sắm sửa vào ngày rằm tháng này tựu trường.
Vương Minh cau mày nhìn lý trưởng bảo:
- Ông muốn đem con cháu chúng tôi ra ứng thí, ít ra cũng phải cho chúng tôi biết trước đã chớ, phỏng như chúng nó chưa đủ tư cách ra thí võ với người thì sao?
Châu Đồng xen vào nói:
- Chẳng hề chi đâu, tôi xét ra ông lý đây làm như vậy là tốt bụng và thịnh tình, tuy đồ đệ tôi còn nhỏ tuổi, nhưng trò nào cũng đủ tư cách ra tỷ thí với người cả rồi.
Châu Đồng lại căn dặn ba ông Viên ngoại về sắm sửa cho con mình đi thi võ. Hôm sau về trường, lại gọi các trò đến bảo:
- Các con hãy chuẩn bị áo quần tử tế và mang theo vũ khí sở trường đúng ngày rằm tháng này, đến trường thi võ đấy nhé!
Vương Quới, Thang Hoài, Trương Hiển vâng lời vội trở về nhà ngay, Châu Đồng lại bảo Nhạc Phi về thưa với thân mẫu sắm sửa đồ đạc lên đường.
Nhạc Phi thưa:
- Chắc khoa này con không đi được, xin hẹn lại khoa khác.
Châu Đồng ngạc nhiên:
- Tại sao vậy?
- Thưa gia gia, riêng phận con nghèo nàn rách rưới lấy chi sắm được ngựa và áo quần để đi với người ta? Vì vậy con xin chờ khoá sau thì hơn.
Châu Đồng suy nghĩ giây lâu, gọi Nhạc Phi bảo:
- Thôi con hãy vào phòng lấy chiếc áo Tố Bạch của ta đem về thưa cùng lệnh đường sửa chữa lại cho vừa mà mặc. Con nhớ lấy cả dây Hồng Lan nữa nhé. Còn ngựa thì không lo gì, con cứ việc lấy con ngựa của ta mà dùng.
Nhạc Phi bước vào phòng lãnh áo rồi bước ra lạy tạ trở về nhà thưa lại với mẹ. Bà An Nhân vui mừng khôn xiết.
Hôm sau, Châu Đồng đang ngồi xem sách bỗng nghe phía trước có tiếng động, vội nhìn ra thì thấy Thang Hoài đến. Anh ta xúng xính trong bộ quần áo mới cưỡi con ngựa ô, lưng đeo cung tiễn trông oai vệ lắm. Chàng lạy thầy một lạy và thưa:
- Xin thầy xem con ăn mặc thế này đi ứng thí với người ta có được không?
Châu Đồng gật đầu khen ngợi, rồi Vương Quới và Trương Hiển cũng lần lượt đến làm lễ thầy, người nào cũng nai nịt chỉnh tề, lưng đeo cung tiễn trông ra dáng con nhà võ lắm.
Châu Đồng bảo:
- Ba trò hãy về thưa lại với phụ thân, đến ngày ấy cứ việc tự nhiên đến trường thi, đừng đợi ta làm gì, miễn khi đến tỉnh thành, chúng tạ gặp mặt nhau là đủ rồi.
Ba trò vừa bái tạ ra về thì Nhạc Phi đến, ông Châu Đồng vỗ vai chàng bảo:
- Ngày mai ta sẽ sang dùng cơm bên nhà con rồi cùng đi luôn.
Nhạc Phi lấy làm ái ngại:
- Nhà con nghèo nàn biết lấy chi đãi gia gia cho xứng đáng!
- Con chớ nên ngại việc ấy, chúng ta đã kết tình phụ tử thì có gì dùng nấy mới thân mật chứ.
Nhạc Phi về thưa lại với mẹ, rồi sáng hôm sau, khi cơm nước xong xuôi, Châu Đồng cùng Nhạc Phi dắt nhau xuống tỉnh thành. Nơi đây thiên hạ đông đảo, nhan nhản những phòng trà quán rượu có đủ hạng người, náo nhiệt và vui vẻ vô chừng. Cha con Nhạc Phi ghé vào tiệm uống trà nghỉ mát, còn ba ông Viên ngoại là người giàu có, nên vào ngay tửu lầu gọi những thức ăn cao lương mỹ vị thết đãi bạn bè đồng thời cho người đi tìm Châu Đồng và Nhạc Phi.
Xem Nhạc Phi trổ tài thiện xạ
Phục tài, tri huyện Lý gả con
Ngờ có con ngựa quen buộc ở ngoài quán nước, bọn gia đinh mới tìm được thầy trò ông Châu Đồng khẩn khoản mời ông về chỗ các Viên ngoại, nhưng ông Châu Đồng từ chối và bảo:
- Người về nói với ba trò ta, cơm nước cho xong rồi đến trường thi chờ sẵn, để đến lúc nhập trường cho mặt, khi nghe kêu đến tên Nhạc Phi hãy bảo còn đi sau nhé.
Ba trò hiểu ý riêng của thầy nên cơm nước xong kéo nhau đến trường thi. Từ bốn phương tám hướng, các thí sinh kéo đến rầm rập, ai ai cũng vọng tưởng hai chữ công danh.
Sau ba hồi trống báo hiệu, quân lính đến sắp hàng hai bên giáo đường, gươm giáo cầm trong tay rất nghiêm trang. Phía trước cửa, ông thơ lại tay ôm quyển sổ cao giọng xướng danh. Các võ sinh lần lượt vào trường thi, ai nấy đều cung mã chỉnh tề.
Châu Đồng ngồi uống trà nóng, lắng tai nghe trong trường thi tiếng cung lắp tên, kêu lắc cắc, tiếng tên bay vo vo hồi lâu, bỗng ông buông tiếng cười dài.
Nhạc Phi ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao gia gia lại cười?
Châu Đồng đáp:
- Thế con không nghe gì cả sao? Tiếng cung bắn bôm bốp, tiếng tên bay vo vo mà không nghe tiếng trống chiêng chi cả, chẳng phải buồn cười sao?
Quan huyện gọi đến tên Nhạc Phi đôi ba phen vẫn không thấy ứng tên, ông gọi đến Thang Hoài rồi Vương Quới và Trương Hiển, ba trò dõng dạc bước vào trường thi, còn ba ông Viên ngoại đứng ngoài thấp thỏm nhìn xem con mình liệu có chiếm được bảng vàng hay không?
Quan Huyện Lý Xuân thoáng thấy ba trò này tướng mạo và cử chỉ có khác hơn những võ sinh kia nên ông rất ưng ý.
Sau khi làm lễ xong, quan Huyện hỏi:
- Trong bọn các trò còn tên Nhạc Phi sao không đến?
Thang Hoài chắp tay thưa:
- Nhạc huynh chúng tôi hãy còn đi sau.
Ông ta gật đầu:
- Thế thì bây giờ khảo thí ngươi trước.
Thang Hoài đứng bên tấm bia, chàng cảm thấy thi cử gì mà bia dựng gần quá làm sao đo được tài cán của mình nên vội lên tiếng xin dựng bia xa thêm nữa.
Huyện quan cười gằn bảo:
- Bia dựng xa đến sáu mươi bước, hồi mai đến giờ các võ sinh bắn sai hết, chắc gì trò bắn trúng mà bảo dựng xa thêm nữa?
Thang Hoài vẫn khăng khăng:
- Nhưng sức tiểu sinh bắn có thừa, xin cứ việc dời bia ra xa.
Huyện quan truyền dời ra xa tám chục bước. Trương Hiển đứng ngoài lớn tiếng xen vào:
- Đối với chúng tôi như thế vẫn còn gần lắm.
Huyện quan truyền đem bia xa hàng trăm bước.
Vương Quới lại nói:
- Vẫn còn gần lắm, dời xa nữa cơ.
Quan Huyện Lý Xuân mỉm cười sai quân dời bia ra xa đến hai trăm bước. Bấy giờ ba người mới bắt đầu phi ngựa trương cung trổ tài.
Thang Hoài bắn trước, kế đến là Trương Hiển rồi mới đến Vương Quới, tiếng cung bay vun vút hòa lẫn với tiếng chiêng trống vang dậy. Mọi người đứng chung quanh cất tiếng khen nức nở.
Quan Huyện cũng đứng nhìn không chớp mắt và nghĩ thầm:
- "Không biết ba trò này là đồ đệ của ai mà thiện xạ đến nỗi không bắn sai mũi nào cả".
Ông hỏi bọn Vương Quới:
- Ai dạy các trò cung tiễn ấy?
Vương Quới bước đến thưa:
- Tiên sinh chúng tôi dạy đấy!
- Nhưng tiên sinh trò là ai mới được chứ?
- Dạ tiên sinh tôi là sư phụ.
Thấy Vương Quới trả lời quanh quất, quan Huyện cười ha hả:
- Tuy ngươi võ nghệ cao cường song ăn nói còn thật thà lắm. Ta muốn hỏi sư phụ ngươi tên gì cơ.
Thang Hoài bước tới lễ phép thưa:
- Thầy chúng tôi là người ở Hiệp Tây tên là Châu Đồng.
Quan huyện Lý Xuân gật đầu lia lịa:
- Thế thì thầy là người bạn thân thiết của ta đấy. Đã lâu không gặp mặt, chẳng biết bây giờ người có đi cùng các trò đến đây không?
Thang Hoài thưa:
- Thầy tôi đang ngồi uống trà bên quán gần đây.
Quan huyện Lý Xuân bèn sai người mời Châu Đồng đến. Giây phút sau Châu Đồng và Nhạc Phi đến, quan huyện thân hành ra tận cổng đón rước nồng hậu.
Sau khi đã phân chủ khách an tọa, quan Huyện nói:
- Lâu nay tiên sinh mở trường dạy học trong huyện tôi, sao không đến thăm tôi?
Châu Đồng đáp:
- Chẳng phải tôi coi nhẹ tình bằng hữu đâu, song ở đây người ta thường hay thưa kiện thì bạn thân không nên đến cửa quan, e rằng quốc pháp không được nghiêm minh có phương hại đến tư cách một ông quan, chi bằng đừng đến thì hay hơn.
Quan Huyện gật đầu:
- Tiên sinh quả là người nhìn xa, trông rộng.
Châu Đồng hỏi:
- Chúng ta cách biệt đã lâu, không biết lão đệ hiện nay được mấy cháu?
Quan Huyện đáp:
- Vợ đệ đã qua đời để lại một cháu gái, nưy được mười sáu tuổi. Chẳng hay tẩu tẩu năm nay có mạnh giỏi không, xin nói cho tôi mừng.
Châu Đồng thở dài:
- Vợ tôi qua đời lâu rồi.
- Thế con cái ra sao?
Châu Đồng giơ tay ngoắt Nhạc Phi đến bảo:
- Con hãy làm lễ ra mắt thúc phụ con đi.
Nhạc Phi vâng lời bước ra lễ bái quan Huyện Lý Xuân, ông ta thoáng thấy chàng tướng mạo phi phàm, cốt cách đoan trang, liền hỏi:
- Chẳng hay đại huynh sinh lệnh lang hồi nào mà tôi không hay biết?
Châu Đồng cười đáp:
- Lệnh ái thì lão đệ thân sinh, còn trẻ này là minh linh chi tử, tên hắn là Nhạc Phi, vậy xin lão đệ hãy khảo thí xem trình độ cung tiễn của hắn ra thế nào?
Quan huyện nói:
- Mấy trò kia của đại huynh dạy còn hay giỏi dường ấy, huống chi hắn là con của đại huynh thì cần chi phải khảo hạch?
Châu Đồng tỏ vẻ không bằng lòng:
- Đây là quốc gia lựa chọn anh tài, chẳng nên vị tình, nếu làm như vậy thì làm thế nào cho lòng người khâm phục?
Quan huyện vội truyền dựng bia lên, Nhạc Phi xin dời bia ra xa hơn nữa.
Quan huyện hỏi:
- Chẳng hay sức bắn của lệnh lang được mấy chục bước?
Châu Đồng ngỏ lời:
- Trẻ tuy còn nhỏ song thần lực mạnh mẽ, sức bắn gần ba trăm bước.
Quan huyện phục thầm, nhưng lòng chưa tin, bèn cho quân dời bia ra xa hai trăm tám chục bước. Nhạc Phi bước xuống thềm cưỡi ngựa khai cung. Chàng bắn luôn chín mũi đến trúng đích, tiếng trống đang vang dậy một góc trời, mọi người vỗ ta không ngớt.
Người lính kiểm bia đến chắp ta thưa với quan huyện:
- Tiểu tướng công này bắn hay lắm, chín mũi tên ấy lấy ra, chỉ có một lỗ rách mà thôi.
Quan huyện hỏi Châu Đồng:
- Năm nay lệnh lang được bao nhiêu tuổi và đã kết nghĩa châu trần đâu chưa?
Châu Đồng lắc đầu:
- Năm nay cháu nó mới lên mười sáu nên chưa vội định thân.
Quan huyện nghe nói mừng thầm, vội tỏ lời hơn thiệt:
- Đệ thấy cháu nó nên người nên muốn gả con gái của đệ cho cháu, xin đại huynh nghĩ tình bằng hữu, chớ có từ chối. Vậy ý đại huynh thế nào xin cho đệ biết mà mừng với.
Châu Đồng ra vẻ băn khoăn đáp:
- Nếu lão đệ có lòng đoái tưởng đến con tôi, thì còn gì hân hạnh bằng. Nhưng thiết tưởng kẻ nghèo hèn mà kết duyên với bậc cao sang, e không xứng đáng?
Quan huyện trầm giọng bảo:
- Chúng ta là bạn thâm giao từ thuở bé đến giờ, việc tiền nong, địa vị có nghĩa gì với chúng ta? Đại huynh cần gì phải khiêm nhường. Miễn đại huynh không chê thì sáng mai đây tôi xin viết canh thiếp giao cho đại huynh ngay.
Châu Đồng vội gọi Nhạc Phi, bảo chàng lạy mừng nhạc phụ rồi từ tạ trở ra cùng các viên ngoại trở về nhà.
Rạng ngày hôm sau, quan huyện lo xong việc quan vội viết canh thiếp sai một tên nha lại cưỡi ngựa thẳng đến làng Kỳ Lân trao cho Châu Đồng, thưa rằng:
- Tôi vâng lệnh lão gia đến đây dâng canh thiếp của tiểu thư cho ngài thâu nạp.
Châu Đồng vui mừng tiếp lấy hai tay rồi trao lại cho Nhạc Phi và nói:
- Đây là canh thiếp của Lý Tiểu thư, con hãy cất giữ cho cẩn thận.
Nhạc Phi đem canh thiếp về dâng cho mẹ, bà An Nhân mừng rỡ khôn cùng vội để lên bàn thờ thắp nhang đốt đèn làm lễ ông bà rồi mới lấy canh thiếp giở ra xem. Bà thấy Lý Tiểu thư cũng cùng sinh ra một năm, một tháng, một ngày, một giờ như con mình bà lấy làm lạ, nghĩ thầm:
- "Hay là hai trẻ có lương duyên trong kiếp trước, nên trời cho đi đầu thai một lượt chăng".
Nghĩ vậy, bà xếp canh thiếp cất vào nơi kín đáo.
Trong lúc Nhạc Phi trở về nhà, Châu Đồng lo sắm chút lễ vật gói vào một miếng giấy đỏ trao cho viên nha lại và khiêm nhường bảo:
- Tôn huynh chẳng ngại đường sá xa xôi, lặn lội đến đây lại phải trở về gấp, không kịp cơm nước gì. Vậy xin tôn huynh hãy niệm tình thâu nhận chút lễ mọn này để cho lòng tôi được thỏa nguyện.
Lão nha lại giả vờ từ chối lia lịa, nhưng tay thì đón lấy lễ vật bỏ vào túi từ tạ về ngay.
Hôm sau Châu Đồng sắm sửa lễ vật gọi Nhạc Phi vào bảo:
- Con hãy cùng cha qua bên huyện để tạ ơn nhạc phụ con nhé.
Nhạc Phi tuân lệnh theo Châu Đồng thẳng đến dinh, gửi danh thiếp vào huyện đường. Quan huyện vội vã ra tận ngoài cổng đón cha con Nhạc Phi vào trà nước, đãi đằng trọng thể.
Sau khi Nhạc Phi làm lễ tạ ơn nhạc phục xông xuôi, quan huyện bảo gia đinh dọn tiệc đãi đằng vị thông gia, đồng thời dọn thêm một mâm phía ngoài cửa.
Châu Đồng biết ý, vội khỏa tay nói:
- Cha con tôi đi bộ đến đây chẳng mang theo kẻ tùy tùng, xin lão đệ khỏi lo điều ấy.
Quan huyện Lý Xuân vừa hớp xong ngụm rượu, cất tiếng thân mật:
- Nay hiền tế nó sang viếng thăm, tôi muốn cho hắn vật gì để tỏ tình phụ tử, song không biết cho vật gì cho xứng, sẵn nhà có thừa con ngựa tốt, để tôi cho rể đi đỡ chân.
Châu Đồng cười ha hả:
- Thế còn gì quí hóa cho bằng. Nhạc Phi nó đang thao luyện võ nghệ mà thiếu con ngựa, nay lão đệ cho nó thì quả là làm một việc hợp tình, hợp nghĩa vô cùng.
Hai ông thông gia cùng chén tạc chén thù tưởng không có gì tương đắc cho bằng. Bỗng thấy gia đinh dắt con ngựa đến có thắng yên cương, quả là con tuấn mã hiếm có trên đời.
Châu Đồng trỏ con ngựa bảo Nhạc Phi:
- Ngựa này là của nhạc phụ con tặng đấy, con có thích không?
Lý Xuân thấy Nhạc Phi ra vẻ thờ ơ không đáp, vội hỏi:
- Nếu con không thích con ngựa này, thì con ra ngoài chuồng, tùy con lựa một con vừa ý.
Nhạc Phi cúi đầu tạ ơn rồi cùng gia đinh đi chọn ngựa, nhưng chàng xem qua cả chuồng có hằng mười mấy con mập mạp mà chàng chẳng thích con nào cả.
Chàng trở vào thưa lại:
- Những con ngựa ấy to lớn, mập mạp thật, nhưng chỉ để cho những bậc giàu có nhàn nhã tra yên, gắn lạc cho đẹp để cưỡi đi chơi chứ không phải loại ngựa dùng đến để xông pha nơi tên đạn, dẹp loạn phò nguy, an bang tá quốc, dựng nên nghiệp cả, nên con không chọn được con nào ưng ý.
Lý Xuân lắc đầu, lè lưỡi:
- Nếu tìm hạng ngựa ấy thì e nội xứ ngày khó mà tìm được.
Trong khi ấy bỗng nghe phía bên kia vách có tiếng ngựa hí vang rền, tiếng hí khác với ngựa thường, ai nấy đều ngạc nhiên. Nhạc Phi vội nói:
- Con ngựa ấy mới là ngựa vừa ý con, nhưng không biết ngựa ấy của ai?
Châu Đồng chau mày hỏi:
- Con chưa thấy ngựa, chỉ nghe nó hí sao con biết nó tốt?
Nhạc Phi đáp không cần nghĩ ngợi:
- Thưa gia gia, cứ theo tiếng hí của nó cũng có thể biết được nó đủ sức xông pha ngoài trận mạc.
Lý Xuân cất tiếng khen:
- Quả vậy, hiền tế nghe tiếng ngựa giỏi lắm. Ngựa ấy là của tên gia thuộc Châu Thiên Lộc mua tận bên Bắc Địa, trong vòng một năm nay nó cứ vượt chuồng chạy về với chủ đã năm sáu phen rồi. Con ngựa ấy, ở đây không ai trị nổi nó nên mới nhốt riêng một chuồng bên kia.
Nhạc Phi thưa:
- Vậy xin nhạc phụ cho phép con được xem ngựa, và thử cưỡi nó ra sao?
Quan huyện Lý Xuân gật đầu:
- Ta chỉ sợ hiền tế không trị nổi nó mà mang hại vào thân, chứ nếu hiền tế dùng được thì ta sẵn sàng tặng cho ngay.
Nhạc Phi theo tên giữ ngựa ra chưa đến chuồng, tên giữ ngựa đã quay lại căn dặn:
- Xin tiểu tướng công hãy cẩn thận mới được, vì con ngựa này đã làm hại nhiều người rồi.
Nhạc Phi thản nhiên bước đến, chàng thấy con ngựa này cao lớn và hết sức hung dữ. Nhạc Phi phải tránh né lanh lẹ lắm mới thoát khỏi đôi vó độc hiểm của con vật, rồi trở qua một bước giơ tay nắm chặt lấy chiếc bờm ghì xuống đánh cho một hồi. Quả là "mềm nắn, rắn buông", con ngựa tỏ ra hiền lành, cúi đầu chịu thuần phục.
Nhạc Phi báo hiếu cho dưỡng phụ
Thảo khấu Ngưu Cao, kết anh em
Nhạc Phi dắt con ngựa ra ngoài chỗ trống trải ngắm nghía hồi lâu, quả con ngựa không có điểm nào đáng chê bai được cả. Thân nó cao gần một trượng, bốn móng tròn vo, đầu thon mắt ngời lên như thủy tinh, lưng rộng, đuôi thon đẹp đẽ muôn phần, chỉ có bộ lông nó lem luốc không biết là sắc lông gì.
Nhạc Phi gọi tên giữ ngựa đến bảo:
- Ngươi hãy đem con ngựa này xuống ao tắm rửa sạch sẽ cho ta.
Tên giữ ngựa lè lưỡi lắc đầu ra vẻ sợ hãi không dám lại gần. Nhạc Phi biết ý bèn đem hàm thiếc khớp miệng ngựa lại, tên giữ ngựa mới dám dắt đi tắm.
Khi tắm rửa sạch sẽ, Nhạc Phi mới thấy con ngựa ấy sắc kim, chàng mừng rỡ vô cùng, dắt đến tạ ơn nhạc phụ.
Quan huyện Lý Xuân cho đem yên cương thắng vào, ông ngắm đi ngắm lại tấm tắc khen con tuấn mã hiếm có trên đời. Ông Châu Đồng cũng nói:
- Đúng là "vật các hữu chủ", ta mừng cho con được vinh hạnh làm chủ con vậy quí giá ấy.
Sau đó cha con Châu Đồng từ giã quan huyện Lý Xuân ra về. Quan huyện cùng lên ngựa tiễn khách ra khỏi thành mới trở lại.
Trên đường về, Châu Đồng bảo Nhạc Phi:
- Sao con không cho nó chạy nước đại xem thế nào?
Nhạc Phi vâng lời, thúc hai chân vào hông và ra roi, thức thì con ngựa cất bốn vó chạy như bay. Châu Đồng cũng cố thúc ngựa đuổi theo, nhưng không tài nào theo kịp.
Về đến nhà, Nhạc Phi vội vã đem ngựa về trình cho mẹ hay, chàng nói:
- Nhạc phụ con tặng cho con ngựa để gọi là chút tình phụ tử.
Bà An Nhân mừng rỡ và cảm ơn Châu tiên sinh đã có lòng nâng đỡ con mình.
Hôm ấy Châu Đồng về đến nhà, bỗng nghe trong mình bứt rứt khó chịu, đôi mắt hoa lên, trong đầu nhức nối, đứng ngồi không yên. Nhạc Phi hay tin, vội đến hầu hạ suốt ngày đêm không rời nửa bước. Chàng hết sức chạy thuốc thang, nhưng bệnh tình dưỡng phụ mỗi ngày một trầm trọng. Mấy cha con các vị viên ngoại cũng đến góp phần chăm sóc song vẫn không hiệu quả.
Châu Đồng bảo Nhạc Phi đem chiếc rương của mình ra soạn đồ đạc cho ông xem rồi ông sa nước mắt nói:
- Chư viên ngoại ôi, hôm nay tôi đã đến ngày tận số rồi, lẽ ra trước phút lâm chung tôi phải có món gì đáng giá tặng cho Nhạc Phi để gọi là chút tình phụ tử trong giờ phút sinh ly tử biệt này. Song tôi chỉ là kẻ phiêu bạt giang hồ chỉ có vài bộ quần áo để dành làm hậu sự mà thôi.
Ba ông viên ngoại đồng thanh đáp:
- Xin tôn huynh hãy an dưỡng tấm thân, đừng lo nghĩ gì cả. Dầu cho tôn huynh có bề gì, chúng tôi nỡ lòng nào để cho một mình Nhạc Bàng Cử lo liệu hay sao?
Châu Đồng lại quay qua nói với Vương viên ngoại:
- Tôi thấy phía Đông Nam núi Lịch Tuyền có hòn núi nhỏ cao ráo, tôi muốn an giấc tại đó, mà Vương Quới bảo đó là đất của hiền đệ, vậy hiền đệ hãy vui lòng để cho tôi nằm ở đó nhé?
- Được lắm, chúng tôi sẵn sàng vâng theo lời tôn huynh chỉ dạy.
Châu Đồng giơ tay ra hiệu bảo Nhạc Phi lạy tạ rồi điểm một nụ cười trên đôi môi khô héo. Ông ta nấc lên mấy cái rồi trút hơi thở cuối cùng.
Lúc bấy giờ vào đời Tuyên Hòa năm thứ mười một, ngày mười bốn tháng chín. Châu Đồng hưởng thọ được bảy mươi chín tuổi. Nhạc Phi thương tiếc nằm lăn ra khóc sướt mướt, ai nấy đều rơi lụy thương cho con người tài ba lìa bỏ cõi trần.
Ba ông viên ngoại lo tẩm liệu và đón nhà sư đến làm lễ thất trai, thất tuần xong mới đem đến núi Lịch Tuyền mai táng.
Nhạc Phi lo cất nhà mồ và ngày đêm ở đó gìn giữ. Ba ông viên ngoại cũng sai con mình đến đó bầu bạn với Nhạc Phi cho khuây lãng.
Ngày tháng đi nhanh như bóng câu qua cửa, mới đây mà đã đến tháng ba rồi. Trong tiết thanh minh, ba ông viên ngoại mang hương hoa, trà quả đến núi Lịch Tuyền trước là viếng thăm phần mộ, sau khuyên giải Nhạc Phi.
Ba ông viên ngoại nói:
- Nay Bàng Cử còn mẹ già ở nhà không ai nuôi dưỡng, ở đây mãi như vậy sao tiện? Hãy sắm sửa về nhà ngay mới phải.
Nhưng Nhạc Phi vì quá thương Châu Đồng nên không chịu về. Vương Quới nói:
- Cha không nên khuyên giải làm gì vô ích, để chúng con làm một kế, nhất định Nhạc Phi phải về ngay.
Dứt lời, Vương Quới quật ngã cây cột, Trương Hiền xô mái, Thang Hoài bẻ kèo, chỉ trong nháy mắt phá tan căn nhà. Túng thế, Nhạc Phi mới chịu trở về.
Ba ông viên ngoại nói:
- Chúng ta về trước, ba con hãy ở lại cùng về với Bàng Cử cho có bầu có bạn.
Dứt lời cả ba đều tung mình lên ngựa dời khỏi núi Lịch Tuyền. Vương Quới bảo gia đinh mang rượu ra uống cho giải buồn.
Thang Hoài vừa nâng chén vừa nói:
- Lâu nay bác ở nhà trông đợi, hôm nay Nhạc đại huynh trở về chắc là bác mừng lắm đấy.
Trương Hiền nói:
- Thầy ta vội khuất bóng bỏ lại anh em ta văn võ vẫn còn tầm thường lắm nên không dám mộng tưởng đến hai chữ công danh, riêng có Nhạc đại huynh thì chắc chẳng chóng thời chầy cũng chiếm được bảng vàng làm vẻ vang dòng họ.
Nhạc Phi thở dài nói:
- Nay dưỡng phụ ta qua đời rồi, ta còn lòng nào mơ tưởng đến công danh nữa!
Vương Quới nói:
- Đại huynh mà còn vô tâm vọng tưởng như vậy thì anh em tôi đây còn mong tưởng gì đến việc ấy?
Bốn anh em đang trò chuyện, bỗng nghe bên ngoài có tiếng động. Vương Quới lật đật bước ra xem thì thấy một người từ trong đám lau chui ra vẻ mặt lơ láo, chàng vội nhảy đến chộp lấy cánh tay quát hỏi:
- Ngươi là ai? Lén lút trong bụi này để làm gì?
Tên ấy run lẩy bẩy sụp lạy lia lịa, miệng van lạy:
- Xin đại vương tha tội cho.
Nhạc Phi thấy thế vội bước tới quát Vương Quới:
- Hãy buông người ta ra ngay. Dọa làm gì cho người ta sợ hãi đến thế?
Rồi chàng ôn tồn hỏi người ấy:
- Anh em ta nhân dịp thanh minh đi tảo mộ sao ngươi lại gọi là đại vương?
Tên ấy nhìn thẳng vào mặt Nhạc Phi hồi lâu mới nói:
- Thế ra chư vị tướng công là người đi chơi thanh minh sao? Thế mà tôi cứ tưởng...
Bấy giờ người ấy mới hết sợ, vội chui vào bụi rậm gọi đồng bọn bước ra. Cả bọn có đến hai mươi người, kẻ mang gói, người quảy đồ ai nấy đều cúm rúm ra vẻ sợ hãi lắm.
Tất cả đều đồng thanh bảo bọn Nhạc Phi:
- Chư vị tướng công chớ nên chơi lâu chốn này vì phí trước đây là xóm Loạn Thảo Cang có kẻ cướp nguy hiểm. Chỗ ấy trước đây yên ổn lắm, nhưng chẳng hiểu tại sao gần đây lại có ăn cướp chặn đường người qua, kẻ lại. Hiện giờ bọn chúng còn đang chặn một tốp người đi buôn, toan cướp của, chúng tôi thấy thế sợ quá vội lẻn qua đây trốn tránh, lại gặp chư vị ngỡ là đồng bọn với kẻ cướp nên mới sợ hãi đến thế.
Nhạc Phi hỏi:
- Thế các người định đi đâu vậy?
- Thưa chúng tôi là người đi buôn muốn đến Hoàng huyện.
Nhạc Phi bảo:
- Từ đây đến Hoàng huyện đường sá trống trải lắm rồi, các người cứ việc đi đi, không sao đâu.
Bọn khách buôn nghe nói mừng rỡ vội bái biệt lên đường. Nhạc Phi quay lại bảo ba anh em:
- Thôi, chúng ta sửa soạn đi về cho sớm.
Vương Quới thưa:
- Thưa đại huynh, từ bén đến giờ tiểu đệ chưa từng thấy tên ăn cướp ra thế nào cả, sẵn dịp này anh em ta đến đó xem cho biết.
Nhạc Phi nói:
- Quân ăn cướp, hắn cũng là người, nhưng lòng dạ độc ác tàn bạo, không muốn làm ăn lương thiện, chỉ biết ẩn núp chốn núi non rừng rậm để cướp giật của người khác, như vậy có tốt gì mà đi xem cho bẩn mắt?
Vương Quới vẫn năn nỉ:
- Thì đại huynh hãy cho tiểu đệ đi xem một chuyến thử nào!
Trương Hiền cũng muốn đi nên vội xen vào:
- Nếu có đi thì chúng ta bẻ mỗi ngà một nhánh cây để hộ thân, chẳng lẽ bốn anh em ta sợ chúng nó sao?
Thang Hoài cũng muốn đi nên nói khích:
- Chốn ấy dù có thiên binh vạn mã chúng ta cũng chẳng sợ thay, huống hồ một lũ ăn cướp thì việc gì mà chúng phải lo ngại? Hơn nữa chúng ta toàn là những tay hào kiệt mà đã nghe người ta mắc nạn há lại làm ngơ đi sao? "Thấy điều nghĩa không làm sao gọi là anh hùng hảo hán?".
Nhạc Phi đang lúc buồn bực không muốn can dự việc gì cả, song thấy ba người bạn đều cương quyết như vậy, chàng nghĩ thầm:
- "Ba người đã muốn như vậy, nếu ta không chiều lòng, ta sẽ bị khinh là hèn nhát".
Nghĩ đoạn, chàng bảo kẻ tùy tùng mang hành lý về trước, còn mấy anh em mỗi người đi bẻ một nhánh cây vừa cầm tay rồi cùng thẳng đến Loạn Thảo Cang.
Đến nơi, chợt thấy một tên ăn cướp mặt đen như than, thân hình to lớn lạ thường đang ngồi chễm chệ trên con ngựa ô, hai tay cầm song đoản đao. Hắn mặc áo giáp thiết tỏa liên hường, đầu đội thiết khôi, đứng hiên ngang giữa đường chặn một tốp khách buôn độ mười lăm người.
Tên cướp trợn mắt hét lên:
- Hãy gom góp hết tiền bạc nộp cho ta thì mới mong ta tha chết cho.
Bọn khách buôn run lẩy bẩy quỳ mọp hai bên đường năn nỉ:
- Nhờ đại vương bao dung, chúng tôi toàn là kẻ đi làm thuê làm mướn, tay làm hàm nhai, trong túi rỗng không biết lấy chi nạp cho đại vương?
Tên ăn cướp cười to lên như quỉ hú và trầm giọng:
- Nếu các người nhất định không chịu nạp tiền thì chớ trách ta sao ra tay độc ác.
Nhạc Phi thấy thế quay lại khẽ bảo:
- Mấy anh em hãy đứng đây để một mình ta đến đó trước, xem sự thể ra sao đã.
Thang Hoài nói:
- Tôi xem tên ăn cướp kia dữ dằn lắm, mà huynh trưởng không có khí giới trên tay làm sao chống cự lại nó?
Nhạc Phi thản nhiên đáp:
- Ta sẽ dùng lời lẽ thuyết phục hắn, chừng nào không được mới dùng đến võ lực. Lúc ấy các đệ sẽ xông đến tiếp chiến chứ lo gì.
Dứt lời, Nhạc Phi ung dung bước đến trước mặt tên ăn cướp ôn tồn gọi:
- Kìa hảo hán, xin hãy vị tình tôi mà tha cho bọn người khốn khổ kia một lần đi.
Tên cướp quay sang trông thấy Nhạc Phi tướng mạo phương phi, mặt đẹp như hoa, ra dáng một thư sinh, hắn há hốc mồm cười khanh khách:
- Hà hà... Chính bản thân người cũng vậy, hãy trao tiền cho ta gấp, bằng không thì phải chịu chung số phận như bọn người kia.
Nhạc Phi vẫn không chút giận dữ, chàng mỉm cười đáp:
- Tôi biết lắm, tục ngữ có câu: "Ở nước nhờ nước, ở rừng nhờ rừng. Làm nghề chi phải thời nghiệp ấy". Tôi đã đi qua đây tất nhiên phải chuẩn bị nạp tiền rồi, cần gì phải đòi hỏi nữa?
Tên cướp lộ vẻ ngạc nhiên nhìn thẳng vào mặt Nhạc Phi hồi lâu rồi dịu giọng:
- Hay lắm, thế mới đúng là người biết điều chứ.
Nhạc Phi tiếp:
- Chẳng giấu chi, tôi vốn là kẻ buôn bán lớn, đoàn xe chở hàng hóa hãy còn đi sau, đợi một tí nữa xe đến tôi dâng hàng hóa và vàng bạn cho, còn bọn người này toàn là những kẻ khốn nhổ, tiền bạc có bao nhiêu mà hảo hán phải nhọc công đòi hỏi?
Tên cường đạo nghe Nhạc Phi nói êm tai, ngỡ thiệt phất tay ra hiệu cho phép bọn khách buôn đi qua.
Cả bọn mừng rỡ lạy tạ rồi vội vã chạy thẳng một mạch không dám ngoái cổ lại.
Đứng đợi hồi lâu không thấy, tên cướp hỏi Nhạc Phi:
- Xe chở hàng của ngươi đâu, sao lâu đến thế? Ngươi có bao nhiêu tiền trong túi hãy mang trao trước đây đã.
Nhạc Phi cười gằn đáp:
- Theo tôi còn có ba đứa tùy tùng nữa, chẳng biết chúng có bằng lòng trao tiền cho ông không.
Tên cướp xoe tròn đôi mắt hét:
- Ba đứa nào, chúng ở đâu mà không ra đây?
Nhạc Phi đưa tay trỏ Vương Quới, Trương Hiển và Thang Hoài đang đứng ngoài xa, bảo:
- Ba đứa kia kìa, nếu ngươi thắng được chúng, ta sẽ trao hàng hóa tiền bạc cho ngươi, bằng không thì đừng mơ ước hão huyền.
Tên cướp nổi giận xung thiên, hét:
- Nếu có đánh thì đánh với ngươi chứ ta đường đường thế này lại đánh với kẻ tùy tùng ngươi sao? Hừ, ngươi dám cả gan vuốt râu cọp ư? Được, ta sẽ cho ngươi biết tay ta, nhưng ta có thiết đoản trong tay còn nhà ngươi tay không, có thắng cũng chẳng anh hùng gì.
Dứt lời, hắn treo thiết đoản trên lưng ngựa rồi nhảy xuống đất dùng hai tay không nhắm ngay mặt Nhạc Phi đấm một quả thật mạnh quyết hạ ngay đối thủ ngay tại chỗ. Nhưng Nhạc Phi vẫn xem thường, chàng không đưa ta ra đỡ mà chỉ tránh qua một bên khiến tên cướp đánh hụt, quả đấm vụt vào không khí phát lên một tiếng "vù" nghe ghê rợn.
Tên cướp đánh hụt giận quá, hắn xoay mình vận hết thần lực bồi thêm một quả nữa. Nhạc Phi cũng chẳng thèm đỡ gạt, chàng phóng mình né sang bên tả khiến tên cướp mất thăng bằng, thừa dịp chàng đá một ngọn cước, tên cướp văng nhào ra xa.
Anh em Vương Quới đứng đằng xa thấy thế cùng vỗ tay khen ngợi, khiến tên cướp lồm cồm ngồi dậy vừa xấu hổ vừa tức giận, hắn rút gươm giơ lên toan tự vẫn.
Nhạc Phi vội nhảy tới ôm chặt hắn lại, hỏi:
- Hảo hán làm cái gì là vậy?
Tên cướp nói trong tiếng nghẹn:
- Từ xưa tới nay ta chưa bao giờ bị thảm hại đến nước này, ta nhục nhã quá còn sống làm sao được nữa.
Nhạc Phi khuyên nhủ:
- Sao hảo hán lại nóng nảy thế? Chỉ vì ngươi bị mất thăng bằng nên té ngã chứ chúng ta đã giao đấu với nhau đâu? Đừng liều mình như vậy, chết oan mạng lắm.
Tên cướp bị Nhạc Phi nắm chặt cố sức vùng vẫy mà không nhúc nhích nổi, hắn biết đối phương có thần lực phi phàm nên vội hỏi:
- Chẳng biết tôn huynh danh tính là chi, quê quán ở đâu xin cho đệ biết với.
Nhạc Phi vội đáp:
- Ta họ Nhạc tên Phi, hiện ngụ tại làng Kỳ Lân.
- Tôn huynh là người ở làng Kỳ Lân?
- Phải đấy.
- Thế tôn huynh có biết ông Châu Đồng không?
Nhạc Phi ngạc nhiên buông tên cướp ra nhìn thẳng vào mặt hắn đáp:
- Ông ấy chính là dưỡng phụ tôi, nhưng tại sao ngươi biết mà hỏi?
Tên cướp gật đầu mấy cái và nói:
- Hèn chi võ nghệ tôn huynh cao cường cũng phải. Tôi có ngờ đâu tôn huynh lại là con của Châu tiên sinh, sao tôn huynh không nói trước để cho tôi thất lễ như vậy?
Dứt lời, hắn quì xuống lạy Nhạc Phi và xin lỗi. Nhạc Phi vội cúi xuống đỡ dậy rồi cùng nhau ngồi xuống đất chuyện vãn.
Tên cướp nói:
- Chẳng giấu chi tôn huynh, tôi chính là người ở Hiệp Tây tên Ngưu Cao, cha tôi vốn xuất thân nhà võ. Lúc người sắp qua đời có dặn bảo mẹ tôi phải đem con đi tìm ông Châu Đồng thọ giáo thì sau này con mới nên danh phận được. Vì thế mẹ con tôi lìa bỏ quê hương đi tìm cho gặp mặt Châu tiên sinh.
Dọc đường tôi hỏi thăm người ta mới biết tiên sinh hiện ở làng Kỳ Lân thuộc Hoàng huyện nên tôi lần đến đây, bỗng gặp một bọn cướp đón đường. Tôi đánh chết thằng đầu đảng của nó, đoạt lấy khôi giáp và ngựa, còn dư đảng của chúng tôi đuổi đi hết.
Sau đo tôi thấy ở đây địa thế hiểm trở, lại có con đường đi qua tấp nập khách buôn nên thầm nghĩ:
"Nếu như may mắn gặp được Châu tiên sinh mà trong mình không có một xu, biết lấy chi nuôi sống để theo đuổi học hành?"
Nên tôi thừa dịp ở đây đón khách qua đường đoạt chút ít tiền bạc, trước là để nuôi miệng, sau là có dư làm lễ ra mắt thầy. May thay gặp tôn huynh ở đây, xin tôn huynh hãy theo tôi ra mắt mẹ tôi đặng mẹ con tôi cùng theo tôn huynh đến bái kiến tiên sinh cho tiện.
Nhạc Phi nghe qua lấy làm cảm kích, chàng đáp:
- Thế thì hay lắm, song tôi còn mấy người anh em bạn kia, để tôi gọi qua đây giới thiệu cho biết mặt.
Ngưu Cao dẫn anh em Nhạc Phi đến một hang đá gặp mẹ già và kể lại câu chuyện vừa xảy ra cho me. Bà ta mừng rỡ vội bước ra tiếp và mời anh em Nhạc Phi vào động.
Sau khi mời an tọa, bà ta bày tỏ gia cảnh chẳng khác nào lời bày tỏ của Ngưu Cao lúc nãy.
Nhạc Phi nghe nói động lòng gạt lệ, thưa:
- Dưỡng phụ của tôi đã lìa trần từ hôm tháng chín năm ngoái.
Ngưu mẫu nghe nói lấy làm đau xót, bà nước mắt than:
- Tôi vâng lời di chúc của tiên phu tôi, chẳng ngại đường xa muôn dặm tìm cho được tiên sinh; chẳng may đến đây tiên sinh đã qua đời, thật tôi vô phúc quá. Con tôi chắc bị thất giáo, còn mong chi hai chữ công danh.
Nhạc Phi khuyên nhủ:
- Xin lão mẫu bớt cơn phiền muộn, thật ra tài ba của tôi chẳng bằng dưỡng phụ tôi thật, song tôi cũng được người truyền dạy ít nhiều. Vậy nay lão mẫu đã đến đây rồi thì xin hãy về nhà tôi tá túc cho Ngưu đệ tiện bề luyện văn, tập võ với anh em chúng tôi.
Ngưu mẫu nghe nói thì vô cùng sung sướng, đổi buồn làm vui tỏ lời cảm tạ Nhạc Phi rối rít.
Ngưu Cao đỡ mẹ lên ngựa rồi cùng bọn Nhạc Phi trở về Vương gia trang.
Đến nơi Ngưu mẫu làm lễ ra mắt bà An Nhân rồi mời ba ông viên ngoại đến tỏ bày hoàn cảnh của mình. Ai nấy cũng đều cảm kích thương mến con người biết tầm sư học đạo.
Sau đó chư viên ngoại truyền dọn cơm mời mẹ con Ngưu Cao rồi để Ngưu mẫu ở chung với bà An Nhân cho có bạn sớm khuya trò chuyện.
Ngưu mẫu chọn ngày lành tháng tốt cho Ngưu Cao lạy Nhạc Phi kết nghĩa anh em rồi theo Nhạc Phi luyện tập văn chương và võ nghệ.
Một hôm, năm anh em Nhạc Phi đang thao luyện võ trong vườn Vương gia trang, Vương Quới thoáng thấy có kẻ rình xem, chàng bước ra trỏ mặt người ấy quát lớn:
- Ngươi ở đâu? Đến nhà người ta dòm ngó điều chi?
Người ấy giật mình bước vào vòng tay tay thi lễ đáp:
- Tôi là Lý trưởng sở tại đến đây có việc quan, nhưng thấy chư vị đang thao luyện võ nghệ, sợ quấy rầy chư vị nên đứng đây chờ đợi, sẵn xem chơi chớ chẳng phải kẻ gian phi.
Vương Quới lại hỏi:
- Việc quan là việc gì?
- Thưa có văn thư của Tiết Đạt Đô Viện sứ là Lưu đại nhân ở Tương Châu gửi đến.
Nói rồi trịnh trọng đưa tờ văn thư cho Nhạc Phi. Nhạc Phi giở ra đọc rồi mừng rỡ nói với mọi người: Ngài Đô Viện sứ triệu tập các võ sĩ phải tề tựu đến tỉnh để khảo thí. Khi đậu rồi mới đến kinh đô tranh tài giành chức Võ Trạng nguyên.
Quan huyện Từ Nhân mơ thấy cọp
Năm trang hảo hán trổ võ công
Ngưu Cao sốt ruột nói với Nhạc Phi:
- Ngày mai Nhạc huynh lên huyện cố nói với Nhạc lệnh đường ghi tên cho ngu đệ được kháo thí!
Hôm sau một mình một ngựa, Nhạc Phi đến ra mắt nhạc phụ và thưa:
- Chúng con sắp đến Tương Châu khảo thí, song trong bọn chúng con có người anh em bạn tên Ngưu Cao ngày trước không đi ứng thí nên không có tên trong danh sách thí sinh, vậy nhờ nhạc phụ ghi thêm tên người ấy vào để anh ấy được đi cùng chúng con luôn thể.
Ông huyện Lý Xuân gật đầu rồi gọi nha lại biên thêm tên Ngưu Cao và nói:
- Như hiền tế có đến Tương Châu ứng thí thì ta sẽ viết cho một phong thư mang đến trình cho người bạn ta tên Từ Nhân, người ấy làm quan thanh liêm chánh trực có tiếng, được ông Đô Viện yêu mến vô cùng. Phòng khi có gặp điều chi trở ngại thì ông ta sẽ giúp đỡ cho.
Nhạc Phi cúi đầu cảm tạ rồi lãnh thư ra về.
Khi về đến sân nhà Vương viên ngoại, chàng mừng rỡ reo lên:
- Tên của Ngưu Cao được ghi vào sổ rồi. Ngày mai chúng ta cùng đi xuống tỉnh ứng thí vui quá!
Mấy anh em đi dọc đường nói nói, cười cười, chỉ có Nhạc Phi sắc mặt buồn bã vì chàng nghĩ thầm:
- Ông bà ta ở huyện Thang Âm, ta phải phiêu bạt mười mấy năm ở xứ người.
Chàng càng nghĩ càng đau lòng, nước mắt nhỏ ròng ròng.
Vừa bước vào thành Tương Châu, Nhạc Phi đã thấy một cửa tiệm phía trước có đề hàng chữ mạ vàng: :Giang Chấn Tử An Ngự Khánh Thương Điếm".
Bọn Nhạc Phi gò cương lại rồi xuống ngựa bước vào.
Chủ tiệm Giang Chấn Tử từ trong chạy ra niềm nở đón mời, bọn gia nhân kẻ xách hộ hành lý, kẻ dắt ngựa, riêng phần ông ta thì dắt năm anh em Nhạc Phi lên lầu dùng cơm.
Nhạc Phi hỏi Chấn Tử:
- Bây giờ là mấy giờ rồi?
- Thưa, bây giờ đã đúng giờ ngọ.
Nhạc Phi suy nghĩ giây lâu rồi lẩm bẩm:
- Thổi để mai đi cũng được.
Chấn Tử tò mò hỏi:
- Chẳng hay chư vị định đi đâu mà có ý gấp vậy?
Nhạc Phi đáp:
- Có thư gửi đến huyện này, do ta mang đến.
Chấn Tử gật đầu:
- Tuy bây giờ đã đúng ngọ, nhưng trong huyện hãy còn làm việc, vì ông huyện này đến làm quan tại đây đã hơn chín năm, có tiếng là thanh liêm chánh trực. Nghe đâu có tin đồn đổi đi chỗ khác, nhưng dân chúng quá thương mến, kêu nài ở lại đấy.
Nhạc Phi lại hỏi:
- Không biết đường từ đây đến huyện gần hay xa?
Chấn Tử đáp:
- Không xa mấy, chư vị đi thẳng chừng trăm bước rồi rẽ qua phía Nam thì trông thấy nha môn ngay.
Nhạc Phi thò tay vào bọc lấy thư rồi cùng bốn anh em đi thẳng đến huyện đường.
Nói qua ông huyện Từ Nhân đêm qua nằm mộng trông thấy một điềm chiêm bao không biết lành dữ thế nào, lấy làm lo ngại bèn gọi các đề lại tới và bảo:
- Đêm hô qua ta thấy một điềm chiêm bao rất lại nên kinh hãi, chẳng hay trong huyện đường nài có ai biết đoán mộng hay không?
Một viên thơ lại tên Bá Hiển bèn lên tiếng thưa:
- Tôi đoán mộng hay lắm, chẳng hay lão gia trông thấy chi vậy?
Quan huyện Từ Nhân nói:
- Vào khoảng canh ba ta thấy năm cọp năm sắc nhảy bổ vào phòng chộp ngay cổ ta, ta thất kinh giật mình thức dậy, mồ hôi toát ra ướt cả áo, chẳng biết điềm ấy lành dữ thế nào?
Bá Hiểu vui vẻ đáp:
- Thế thì xin mừng cho lão gia gặp điềm lành đấy. Xưa Châu Văn Vương cũng chiêm báo thấy gấu xông vào phòng mà có được ông Khương Tử Nha...
Bá Hiểu vừa nói đến đây, quan huyện bỗng đập bàn nạt lớn:
- Ngươi đừng nói bậy! ta là hạng người tầm thường, sao ngươi dám đem so sánh với bậc thánh hiền?
Bà Hiểu sợ hãi làm thinh không dám nói thêm nữa, bỗng có quân canh vào báo:
- Có năm người võ sĩ đến huyện đường xin ra mắt lão gia, để trao thư của quan huyện Lý Xuân gửi đến, hiện họ còn đứng ngoài đợi lệnh.
Quan huyện lập tức truyền quân canh mời vào. Năm người vào làm lễ xong, Nhạc Phi lấy thư trao ra.
Quan huyện Từ Nhân tiếp lấy thư, và thoáng thấy tướng mạo năm võ sĩ ấy vạm vỡ khôi ngô, nghĩ thầm:
- "Ta nằm chiêm bao trông thấy năm cọp, tượng trưng cho năm người này chăng?"
Quan huyện xem thư xong gật đầu:
- Được rồi, các ngươi hãy về nghỉ, để ta bảo Trung Quân Hồng Tiên giúp đỡ các ngươi trong việc này cho.
Bọn Nhạc Phi cúi đầu tạ ơn rồi cùng nhau ra về.
Qua hôm sau, anh em Nhạc Phi đến ra mắt Hồng Trung Quân xin khảo thí. Hồng Tiên quay lại hỏi hai bên tả hữu:
- Những võ sĩ này đã có lễ vật gì chưa?
- Thưa, không thấy ai mang lễ vật gì đến cả.
Nhạc Phi nghe nói vội chắp ta thưa:
- Kẻ võ sinh này lâu nay chưa biết qui củ thế nào nên không mang lễ vật theo, vậy xin ngài để tôi sai gia nhân về sắm sửa mang đến sau.
Hồng Tiên gằn giọng:
- Không được, ta bảo cho ngươi biết, lúc nào ngươi mang lễ vật đến ta sẽ khảo hạch cho, còn bây giờ không có hãy rút lui ngay, đừng xin xỏ uổng công vô ích.
Nhạc Phi tức giận bảo ra ngoài bàn bạc cùng anh em, bỗng thấy ông huyện Từ Nhân đi kiệu đến, mấy anh em Nhạc Phi vội bước xuống ngựa đến hầu.
Ông huyện Từ Nhân hỏi:
- Sao mấy anh em không đến Hồng Trung Quân cho người khảo hạch?
Nhạc Phi thưa lại mọi chuyện, ông huyện Từ Nhân bảo:
- Vậy thì các ngươi hãy theo ta đến ngay quan đầu tỉnh xin ứng thí.
Năm anh em vâng lời theo quan huyện đến viên môn gửi đơn vào xin ra mắt. Giây phút sau có người ra mời quan huyện vào. Quan huyện là lễ xong, quan đầu tỉnh Lưu Đô Viện mời ông ngồi. Ông huyện Từ Nhân thưa:
- Hiện có năm tên võ sinh ở Hoàng Huyện đến xin đại nhân khảo hạch cung mã, chẳng biết đại nhận có bằng lòng thu nhận không?
Ông Lưu Đô Viện nghe nói vội sai Kỳ bài quan ra mời năm người vào ngay. Bọn Nhạc Phi vội bước vào quì lạy. ông Lưu Đô Viện trông thấy tướng mạo năm người khôi ngô tuấn tú trong lòng mừng thầm, lại thấy Hồng Trung Quân bước vào.
Vừa thoáng thấy bọn Nhạc Phi, Hồng Trung Quân liền bẩm với quan đầu tỉnh:
- Năm tên này cung mã hãy còn tầm thường, phải về tập luyện thêm, khoa sau sẽ đến ứng thí. Sao chúng dám đến đây kêu nài với ngài, chẳng lẽ chúng dám khinh thường hạ quan đến thế?
Ông huyện Từ Nhân lớn tiếng nói:
- Đó chỉ là vì năm người này không đem lễ vật đến lo lót nên bị đuổi về chứ gì? Ta thiết tưởng ba năm mới có một kỳ thi, ai mà không vọng tưởng. Xin đại nhân xét lại kẻo tội nghiệp cho kẻ hậu sinh.
Hồng Tiên vẫn nằng nặc bẩm:
- Quả thật năm tên này tôi đã khảo xét rồi, võ nghệ tầm thường trói gà không chặt, sao ông lại dám cáo buộc tôi như vậy? Nếu ông bảo năm tên này võ nghệ cao cường thì thử hỏi chúng có dám tỉ võ cùng tôi không?
Nối đến đây Hồng Tiên nhìn bọn Nhạc Phi ra vẻ hằn học.
Nhạc Phi dõng dạc đáp:
- Nếu thượng quan cho phép thì tôi xin tuân theo vậy.
Ông Lưu Đô Viện thấy thế bèn cho phép hai người tỉ thí bộ chiến.
Hồng Tiên ra vẻ dương dương tự đắc sai quân về lấy binh khí Tam Cổ Thác Thiên Ngại đem đến rồi ông ra thế Ngũ Hổ Cầm Dương đứng hiên ngang giữa đấu trường lớn tiếng bảo Nhạc Phi:
- Ngươi có giỏi thì nhảy vào đây tỉ thí với ta xem nào.
Nhạc Phi chẳng chút sợ hãi, tay cầm Lịch Tuyền Thương mâu áp dụng thế Đơn Phụng Triều Tiên, thân chàng bay xẹt lại như con én liệng rồi nói:
- Xin thượng quan chớ chấp nhé.
Dứt lời chàng tiến sát người Hồng Tiên, lão ta đang cơn tức giận lập tức vận hết thần lực đánh xuống một nhát quyết đập nát thây Nhạc Phi lập tức. Nhưng Nhạc Phi tránh khỏi một cách dễ dàng khiến mọi người đứng xung quanh ai nấy đều khâm phục võ nghệ của chàng.
Hồng Tiên nổi giận sôi gan tránh sang một bên rồi quất ngang một roi, Nhạc Phi tung mình lên không rồi đáp xuống như một chiếc lá rơi. Chàng muốn đánh trả lại một thương nhưng lại nghĩ thầm:
- "Ta tỉ thí với lão để người ta trông thấy trình độ võ thuật của mình chứ ta có thù oán chi với lão mà ra độc thủ".
Nghĩ vậy nên chàng tránh né hồi lâu rồi thối lui ra sau. Hồng Tiên thấy thế mừng rỡ reo lên:
- Thế là ngươi thua rồi.
Vừa reo Hồng Tiên vừa lao mình tới nhằm vào giữa lưng Nhạc Phi giáng xuống một roi định kết liễu đời chàng. Nhạc Phi nổi giận quay lại lấy thương gạt ngang một cái khiến lão ta bị giật lùi nửa bước, chàng thừa thế lấy cán thương đánh vào mình Hồng Tiên một cái rất nhẹ nhàng, nhưng Hồng Tiên mất thăng bằng nên ngã nhào xuống đất, binh khí rời khỏi tay văng ra xa. Quan quân đứng xung quanh đều vỗ tay khen Nhạc Phi võ nghệ cao cường.
Hồng Tiên vừa lồm cồm đứng dậy đã bị ông Lưu Đô Viện chỉ vào mặt, quát mắng:
- Võ nghệ của của ngươi kém cỏi như vậy mà làm quan Trung Quân sao được?
Rồi truyền quân lột áo đuổi khỏi nha môn tức khắc, đồng thời bảo bọn Nhạc Phi lần lượt biểu diễn cung mã cho ông xem.
Bốn anh em Vương Quới, Thang Hoài, Trương Hiển và Ngưu Cao đều biểu diễn cưỡi ngựa bắn cung hết sức điêu luyện, khiến mọi người vỗ tay rầm rộ, ông Đô Viện cũng tấm tắc khen thầm. Đến lượt Nhạc Phi ra biểu diễn thì tài cao xuất chúng khiến ông Đô Viện lòng như nở hoa. Ông bước tới vỗ vai Nhạc Phi bảo:
- Có phải ông là người ở Hoàng huyện không?
- Thưa đại nhân, nguyên tiểu sinh ở huyện Thang Âm làng Vĩnh Hòa xóm Hiếu Đễ. Nhưng khi mẹ tôi mới sinh tôi được ba ngày thì bị nước lụt, cả làng bị thủy tai, nhà cửa trôi hết. Mẹ tôi bồng tôi chui vào một cái chum lớn, nước trôi qua Hoàng huyện, nhờ có ân công tôi là Vương Minh cứu vớt cho mẹ con tôi tá túc từ bấy đến nay, lại nhờ có dưỡng phụ tôi là Châu Đồng truyền dạy văn võ cho năm anh em tôi mới được như ngày hôm nay. Xin quan lớn vui lòng cho giấy để anh em tôi được vào Đông Kinh thi hội. Nếu mai sau có đặng thành danh thì khi trở về quê cũ, ơn nghĩa của quan lớn rất cao dày.
Ông Lưu Đô Viện nghe Nhạc Phi phân tỏ đầu đuôi, lấy làm cảm kích và mừng rỡ vô cùng, bảo:
- Các ngươi được Châu tiên sinh dạy bảo hèn chi võ nghệ rất cao siêu. Lâu nay bổn quan đã từng nghe danh ông Châu Đồng văn võ tài toàn, và triều đình cũng đã cho đến thỉnh cầu đôi ba phen mà ông không chịu ra làm quan. Vậy các ngươi hãy về sửa soạn để ta giới thiệu ra kinh đô lập công danh.
Nói đến đây, ông quay lại bảo quan huyện Từ Nhân:
- Quan huyện hãy về điều tra kỹ quê quán của Nhạc Phi và tìm cho ra cái nền nhà cũ ấy ở đâu, để ta xuất bạc cho hắn xây cất lại nhà cửa, trở về quê cũ. Ta chắc Nhạc Phi sau này sẽ trở nên một danh nhân chớ chẳng không.
Quan huyện Từ Nhân chắp tay từ tạ rồi dẫn bọn Nhạc Phi trở về huyện đường, mở tiệc thết đãi và bảo:
- Ta đã sửa soạn nhà cửa thì cháu phải lo sắp đặt đưa lệnh đường trở về quê nhà.
Nhạc Phi tạ ơn rồi cùng mấy anh em trở về nơi quán trọ tính tiền cơm trả cho chủ tiệm, mới từ giã trở về nhà.
Nhạc Phi thuật lại hết đầu đuôi cho mẹ nghe, bà An Nhân vô cùng mừng rỡ. Mấy anh em cũng về thưa lại cho cha mẹ hay rằng Nhạc Phi được quan trên giúp đỡ cho trở về quê cũ. Mấy ông viên ngoại nghe nói nửa vui nửa buồn. Khi thấy Nhạc Phi đến, ông Vương Minh động lòng, sa nước mắt nói:
- Bàng Cử ôi, khi Châu tiên sinh còn sống thường bảo rằng: Sau này muốn cho bọn trẻ nên danh thì không nên rời xa Bàng Cử, thế mà hôm nay cháu trở về quê cũ, thì làm sao ta rời bỏ cho đành?
Nhạc Phi thưa:
- Chỉ vì Lưu đại nhân ân dày nghĩa trọng nên cháu chẳng dám trái lời. Nay cháu đành phải cách biệt thúc bá cùng chư huynh đệ, thật chẳng đành lòng, nhưng cháu chẳng biết tính làm sao cho vẹn toàn cả.
Ngẫm nghĩ hồi lâu, Trương viên ngoại nói:
- Ta có cách làm cho anh cháu chẳng phải xa cách nhau.
Thang viên ngoại hỏi vội:
- Cách gì vậy?
Trương viên ngoại thong thả nói:
- Chúng mình đây không phải có năm trai bảy gái gì, vậy thì của cải mỗi người nên chia làm hai phần, một phần để lại cho gia nhân ở lại coi sóc ruộng nương, còn bao nhiêu mang đến Thang Âm huyện ở với Bàng Cử. Con mình ngày sau được nên danh phận, chúng mình chẳng được vinh hiển hay sao?
Các ông viên ngoại đồng thanh nói"
- Ý kiến ấy hay lắm, vậy thì chúng ta nên thu xếp đi.
Nhạc Phi thưa:
- Gia sản của chư thúc bá quá lớn lao mà thu xếp như vậy e bất tiện chăng? Vậy xin chư thúc bá hãy suy tính lại.
Các ông viên ngoại đồng thanh đáp:
- Chúng ta đã quyết định như vậy rồi, Bàng Cử chớ lo.
Sáng sớm hôm sau, Nhạc Phi tạ từ mẫu thân xuống Hoàng huyện ra mắt nhạc phụ. Quan huyện Lý Xuân hỏi:
- Hiền tế đến Tương Châu thi cử thế nào?
Nhạc Phi thuật lại đầu đuôi câu chuyện, chàng không quên nói rõ việc Trung Quân đòi hối lộ và cuối cùng chàng được tỉ thí rồi được Lưu công giúp đỡ xây cất nhà cửa để trở về sống ở quê hương. Nhạc Phi đứng dậy chắp tay thưa:
- Mọi việc được may mắn và vinh hiển như hôm nay đều do công ơn của nhạc phụ, nên nay con đến để tạ ơn.
Quan huyện Lý Xuân nói:
- Hiền tế chớ nên nghĩ vậy, đây là nhờ ơn Lưu công nên hiền tế được về quê hương lập lại sự nghiệp của ông bà, ơn ấy rất trọng. Vậy ta muốn gửi lời hiền tế về thưa lại với lệnh đường rõ ý nguyện của ta.
Ngưng một lúc, quan huyện tiếp:
- Ta muốn cho ái nữ ta về cùng lệnh đường cho có mẹ có con và để người dạy dỗ. Bảy ngày nữa là ngày Hoàng đạo, ta muốn đưa nó về quê con rồi làm lễ thành thân. Người ta thường nói "an cư mới lạc nghiệp", ta muốn hiền tế thu xếp ổn thỏa việc nhà trước lúc lên đường tìm lập sự nghiệp công danh.
Nhạc Phi cưới vợ, về quê cũ
Huynh đệ chờ thời, lập công danh
Nghe quan huyện Lý Xuân nói vậy, Nhạc Phi không khỏi bối rối trong lòng. Chàng thưa:
- Tiểu tế nhà nghèo, mọi thứ chưa sắm sẵn, sợ việc nghênh hôn quá gấp, không kịp ngày; xin nhạc phục cho hoãn lại để con xuống kinh kỳ hội thí rồi trở về nghênh hôn được không ạ?
Ông huyện Lý Xuân nói:
- Ta nay tuổi đã già, không con nối nghiệp, còn hiền tế thì đi xa. Nếu may ra thi đậu làm quan bổ đi nơi khác lại càng trở nên bất tiện hơn nữa. Chi bằng sẵn dịp trở về quê cũ nên nghênh hôn luôn thể là phải. Lòng ta đã định, hiền tế chớ nên từ chối, phải về sắm sửa, đến ngày ấy ta đưa con ta đến.
Nhạc Phi từ tà ra về đến làng Kỳ Lân trông thấy các viên ngoại đang bàn luận chuyện dời qua Thang Âm. Mấy ông vừa thấy Nhạc Phi vào vội hỏi:
- Bàng Cử đã từ tạ nhạc phụ rồi sao?
- Vâng, người hay tin cháu sắp trở về cố hương nên tính đưa tiểu thư cùng về cho tiện.
- Thếthì hay lắm đấy.
Nhạc Phi thở dài:
- Chư vị thúc bá nghĩ xem, nhà cháu thì nghèo, mà việc nghênh hôn gấp rút như vậy làm sao cháu biện liệu chu đáo được.
- Ồ, việc gì chớ việc ấy cháu khỏi lo, chúng ta sẽ mỗi người góp một tay lo liệu chu tất. Cháu hãy về thưa lại với lệnh đường nên dọn đến đây để bố trí tân phòng rộng rãi hơn.
Nhạc Phi tạ ơn ra về thưa lại cho mẹ hay, bà An Nhân lấy làm vừa ý vội sắp sửa dọn sang nhà Vương viên ngoại ngay.
Vương viên ngoại có tiếng là người mau tay, nhanh miệng, nên vội vã thúc gia đinh quét dọn trong ngoài, treo hoành, phủ trướng, treo kèn kết hoa, trang hoàng rực rỡ. Thiếp mời gửi đi khắp nơi, khách xa gần đến chúc mừng chật ních cả trong ngoài, đúng là lễ nghênh hôn của con nhà quyền quí.
Hôm ấy quan huyện Lý Xuân bệ vệ trong chiếc áo rộng thùng thình, theo sau là kẻ khiêng, người xách đưa dâu đến nhà Vương viên ngoại.
Họ nhà tra ra tiếp đón trọng thể, pháo nổ liên hồi, hai cô phù dâu đỡ tiểu thư đi thẳng vào tân phòng cùng Nhạc Phi làm lễ bái tại trời đất và lễ động phòng hoa chúc.
Sau khi chàng rể bái tạ nhạc phụ, chư viên ngoại cùng hai họ vào bàn tiệc.
Rượu được vài tuần, quan huyện Lý Xuân đứng dậy nói:
- Hiền tế hãy còn trẻ tuổi, nếu có việc chi sơ suất mong chư vị vui lòng dạy bảo. Nay sắp về quê, đáng lẽ tôi tiễn nó vài dặm đường mới phải, song công việc nha huyện hiện nay bề bộn bỏ đi chẳng tiện, nên sẵn đây tôi gửi gắm con rễ tôi cho chư viên ngoại và xin cáo từ luôn thể.
Chư viên ngoại biết có giữ lại cũng không được, nên phải đưa tiễn ông trở về huyện đường. Hôm sau Nhạc Phi đi với mấy anh em xuống huyện tạ ơn ngài.
Ông huyện sai bày tiệc thiết đãi, mấy anh em đồng môn ăn uống vui vẻ. Tiệc xong ông ta căn dặn:
- Hiền tế cùng các cháu có xuống kinh thành thi hội, kết quả ra sao sẽ cho ta biết sớm kẻo ở nhà ta trông tin đấy!
Mấy anh em cùng vâng dạ rồi từ tạ ra về.
Về đến làng Kỳ Lân, trông thấy nhà Vương viên ngoại tấp nập kẻ trong người ngoài lo dọn gia tài của ba viên ngoại chất lên xe lừa và xe tay đầy ắp, tính có hơn trăm xe vẫn chưa hết.
Khi sắp đặt đâu đó an bài, năm nhà vừa gái vừa tra hơn trăm người cùng khởi hành một lượt. Xe chở đồ đạc đi trước, người thủng thỉnh đi sau, rầm rộ nhắm Thang Âm thẳng đến. Trong đó có kẻ được về quê, có người lại phải cách xa quê nhà nhưng cuộc chia tay thật là vui vẻ, không đượm một chút u buồn.
Cứ ngày đi, đêm lại tìm chỗ nghỉ ngơi, qua ngày thứ ba, mặt trời đã lặn mà đoàn người vẫn còn lững thững chốn hoang vu, xung quanh không thấy nhà cửa chi hết. Nhạc Phi bèn thúc ngựa đến gọi mấy anh em bảo:
- Chúng ta mải lo việc đi cho mau đến, nên quên lo liệu chốn nghỉ ngơi. Ta còn phải đi đến bốn mươi dặm đường nữa mới có xóm nhà mà xe cộ ta bề bộn như vậy, trời lại sắp tối, không thể nào đến đó kịp. Còn nơi đây hoang dã, chỗ đâu cho mấy bà cùng thúc bá nghỉ lưng? Vậy anh em hãy phân nhau đi tìm kiếm quanh đây xem có chỗ nào tạm trú được qua đêm nay không?
Thang Hoài và Trương Hiển thúc ngựa chạy đi tìm kiếm hồi lâu mới trở lại thưa:
- Nơi đây quả là chống hoang dã, bọn đệ đã đi xa hàng mười dặm vẫn không thấy nhà cửa chi hết, chỉ có phía Tây cách đây ba dặm có một cái miếu sơn thần thổ địa, tuy đã hư hại song vẫn còn một đôi chỗ nghỉ ngơi được. Ngặt nỗi là trống trải lắm và không có chỗ nấu cơm ăn.
Vương Quới nói:
- Chẳng hề chi, ta có đem theo đủ thực phẩm, gạo thóc lại sẵn có chảo nồi, cứ việc đến đó rồi sai người đi kiếm củi về nấu cơm ăn đỡ một đêm cũng được.
Ngưu Cao lại xen vào:
- Hay lắm, hay lắm. Cứ việc đến đó nấu cơm lẹ đi chớ tôi đói bụng lắm rồi.
Nhạc Phi bảo Thang Hoài đi trước dẫn đường, còn chàng lo đốc thúc gia đinh đẩy xe, dắt lừa đến miếu thổ địa.
Đến nơi, chàng bảo đẩy những xe chở đồ đạc sắp hàng hai bên. Các bà An Nhân, Viện Quân cùng Lý tiểu thư và bọn a hoàn xúm xít nhau nghỉ trước điện.
Phía sau điện lại có vài ba căn nhà trống trải, bên trong có mấy chiếc quan tài hư mục rã rời mỗi nơi một mảnh, gần bên đó có dấu vết một căn nhà bếp nhưng bếp lò đã bể nát, cỏ bìm mọc phủ lên gần lấp mất.
Vương Quới và Ngưu Cao bụng đã đói như cào nên đốc thúc gia đinh dọn dẹp sạch sẽ, đứa thì lượm gạch chất làm ông táo, đứa thì xách nước, nổi lửa nấu cơm. Khi cơm dọn thì trời vừa chạng vạng.
Chư viên ngoại cùng gia quyến ngồi vào mâm. Bữa cơm ngoài trời tuy đạm bạc nhưng đầy thân mật và ngon đáo để, ai nấy đều ăn xong cả mà Ngưu Cao vẫn còn ngồi uống rượu tì tì.
Nhạc Phi đến bảo:
- Ngưu đệ không nên uống rượu thái quá vậy. Nơi đây là chốn đồng hoang cỏ dại lại trống trải lạnh lẽo, rủi đêm khuya gió máy thì biết tính sao? Hãy ráng đến Thang Âm yên ổn rồi muốn uống bao nhiêu cũng được.
Ngưu Cao vâng lời không dám uống rượu nữa, chỉ ăn cơm mà thôi.
Sau khi dọn dẹp tươm tất, chư viên ngoại và mấy bà đều an nghỉ hết, Nhạc Phi bèn kêu mấy anh em ra ngoài căn dặn:
- Bây giờ Thang và Trương hiền đệ phải nai nịt sẵn sàng ra phía sau miếu canh phòng, còn Vương hiền đệ canh phòng phía tả, Ngưu hiền đệ phía hữu. Chúng ta chớ nên sơ suất nhé.
Ngưu Cao tỏ vẻ bất bình, càu nhàu:
- Đi miết cả ngày mệt nhọc, trông cho đến chỗ nghỉ ngơi cho khỏe để mai còn đi nữa. Ở đây là chỗ không người trước sau vắng vẻ, đại ca sợ nỗi gì mà bắt chúng tôi canh phòng cho mệt xác? Các hiền huynh cứ đi nghỉ hết đi, có điều gì Ngưu Cao này chịu cho.
Nhạc Phi mỉm cười vỗ vai Ngưu Cao bảo:
- Vẫn biết vậy, nhưng ở đời việc gì cũng nên đề phòng trước là hay hơn. Nghèo khó thì chẳng lo chi chứ vàng bạc của chư viên ngoại hằng mấy xe thế này không lo sao được? Vả lại trên đường đi nếu có điều gì sơ suất, có phải người ta chê cười chúng mình là không đáng mặt anh hùng không? Vì vậy anh em phải nghe lời tôi, canh phòng cho nghiêm ngặt. Riêng tôi giữ phía trước, nếu có thiên binh vạn mã đến ta cũng chẳng nao núng. Tôi mong cho đi đến nơi về đến chốn, bình yên mới an dạ.
Ngưu Cao nói:
- Thôi được rồi, cứ để phía hữu đấy cho đệ canh giữ cho.
Chàng nói vậy sợ mếch lòng Nhạc Phi chứ trong bụng lại thầm nghĩ:
- Trong lúc thái bình như vầy, trộm cướp đâu mà đại huynh khéo lo xa cho vất vả!
Rồi Ngưu Cao dắt ngựa qua phía hữu buộc vào cây cột, đoạn dựa lưng vào vách ngủ ngon lành.
Khi bốn anh em đi rồi, Nhạc Phi đóng cửa và bưng cái lư hương bằng đá chặn lại cho chặt chẽ, tay cầm Lịch Tuyền thương đi rảo ra phía trước.
Đêm hôm ấy là đem hăm ba, không có trăng, bầu trời tối đen như mực, ngửa bàn tay không thấy.
Vừa bước qua đầu canh hai, bỗng nghe có tiếng người lao xao và tiếng ngựa hí rộn ràng, rồi phía trước có tiếng quát to như sấm:
- Hãy bao vậy đừng để cho Nhạc Phi thoát khỏi.
Nhạc Phi nghĩ thầm:
- "Ta có gây thù kết hận với ai đâu, sao có người gọi đích danh ta và quyết tính hãm hại như vậy?".
Chàng trố mắt nhìn xem, đoàn người ngựa mỗi lúc một đến gần, đèn đuốc sáng choang, chàng mới rõ đây là bộ hạ của Hồng Tiên làm quan Trung Quân. Vốn tên này xuất thân là tướng cướp, ông Lưu Thế Quang thấy nó có sức khỏe hơn người lại có đôi chút võ nghệ nên cho làm đến chức Trung Quân. Nhưng tính tham lam hay ăn hối lộ và ghen ghét kẻ hiền tài nên vừa rồi tỉ võ với Nhạc Phi bị cách chức đuổi về, hắn vô cùng căm tức liền thu thập bọn lâu la cũ cùng bới hai con là Hồng Văn, Hồng Võ theo dõi Nhạc Phi để báo thù.
Nhạc Phi nghĩ thầm:
- "Ta nên thủ thế là hơn. Ta cố giữ chặt cửa lớn, còn các phía kia đã có mấy anh em, chắc chúng nó không thể phá được. Đánh một hồi không thắng được thì chúng phải bỏ đi thôi".
Nghĩ đoạn, chàng gò ngựa cầm thương mắt đăm đăm nhìn ra phía trước để đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra.
Phía bên trái Ngưu Cao đang mê man trong giấc ngủ bỗng nhiên nghe tiếng động giật mình thức dậy. Chàng mở choàng mắt nhìn thẳng ra ngoài trông thấy đèn đuốc sáng lòa, vội đưa tay lên dụi mắt, miệng lẩm bẩm:
- "Đại huynh ta quả là người cao kiến, có bọn cướp đến rồi, nhưng chúng nó biết đâu bọn ta đã chuẩn bị đến kinh đô để giựt chức trạng võ đây, chúng bay vuốt râu cọp mà toi mạng đấy. Thôi để ta ra thử sức với bọn này một trận cho chúng biết tay".
Nghĩ đoạn Ngưu Cao tung mình lên lưng ngựa, ta cầm song giản xông ra quát lớn:
- Quân đạo tặc lại dám cả gan đến chốn này? Quả thật chúng bay tới số rồi!
Vừa hét, Ngưu Cao vừa múa cây giản vun vút, xông vào đám đông như đến chỗ không người. Bọn lâu la Hồng Tiên đứa thì vỡ đầu, đứa thì gãy tay chết nằm la liệt, máu chảy lênh láng.
Vương Quới đứng canh giữ phía bên trái trông thấy quân cướp đến, chàng còn đang suy tính. Chợt thấy Ngưu Cao xông ra chém giết vô số nên thầm nghĩ:
- "Ta cũng nên ra tay gấp kẻo để Ngưu Cao nó giết hết thì uổng lắm".
Nghĩ vậy, chàng vung cây Kim bối đao giục ngựa xông ra chém lia chém lịa, đầu quân cướp rụng như sung. Chợt nghe phía sau có tiếng hét lanh lảnh rồi một người cưỡi ngựa ô tay cầm Tam Thất Thiên Ngại xông ra, người này không ai khác chính là Hồng Tiên, một ông quan vừa bị giáng chức, lột áo đuổi về.
Hồng Tiên đối địch với Ngưu Cao, còn hai con hắn Hồng Văn và Hồng Võ thì chống cự với Vương Quới.
Ngưu Cao chỉ vào mặt Hồng Tiên mắng:
- Tên cướp kia, đã được đại huynh ta tha cho một phen rồi, nay còn đến đây nạp mạng nữa sao?
Vừa mắng chàng vừa xáp tới đánh túi bụi, bên kia Vương Quới cũng thét:
- Hôm nay ta để một trong hai đứa bay sống sót thì không phải là anh hùng.
Nhạc Phi đứng bên trong nghe vậy biết ngay các hiền đệ đã xông ra rồi, nên vội xô đổ chiếc lư đá, thúc ngựa xông ra. Thang Hoài và Trương Hiển thì vội vã quay vào miếu phi báo:
- Bọn cướp đã đến ngoài kia, nhưng xin cả nhà hãy yên tâm, chúng không làm gì nổi chúng con đâu.
Dứt lời, cả hai giục ngựa xông ra, một người cầm Câu liêm thương, một người cầm Lang ngân thương đánh bài "tẩu thạch phi sa". Không một tên cướp nào thoát khỏi.
Hồng Võ đang đánh với Vương Quới liếc thấy cha mình không cự nổi Ngưu Cao bèn nhảy qua trợ chiến, để lại một mình Hồng Văn chống cự với Vương Quới nên chỉ qua lại vài hiệp đã bị Vương Quới chém một đao ngã nhào xuống ngựa. Bên kia Ngưu Cao cũng đánh trúng Hồng Võ một giản nát óc.
Hồng Tiên thấy hai đứa con mình đều chết hết trong lòng nóng như lửa đốt, đem hết sức bình sinh ra liều tử chiến với Ngưu Cao. Hai người đang giao chiến thì thấy Nhạc Phi đến hét lớn:
- Tên Hồng Tiên kia, ngươi còn nhớ Nhạc Phi này không?
Hồng Tiên trong lúc bối rối lại thấy có Nhạc Phi đến, trong lòng kinh hãi toan tẩu thoát để bảo toàn tính mạng, chẳng ngờ Trương Hiển vừa đến đâm một giáo ngã nhào xuống ngựa. Thang Hoài bồi thêm một đao nữa, toàn thân lão ta bất động.
Bọn lâu la thấy chủ trại mình chết rồi, liền bỏ chạy tán loạn. Ngưu Cao và Vương Quới đuổi theo mặc sức chém giết. Nhạc Phi thấy thế lớn tiếng gọi:
- Thôi, chư đệ hãy dừng tay. Hãy tha cho bọn chúng, chớ nên chém giết nữa!
Hai người đang hăng máu nên không nghe, cứ đuổi theo chém giết không biết bao nhiêu mà kể. Nhạc Phi phải dùng kế gọi lớn:
- Còn một tốp ăn cướp đến nữa kia kìa, chư hiền đệ hãy trở lại cho mau.
Hai người nghe vậy lật đật quay ngựa trở về. Vừa trông thấy mặt, Nhạc Phi đã trách mắng:
- Sao chưa đệ không chịu nghe lời tôi như vậy? Tội lỗi là ở tên cầm đầu chứ chúng là lâu la đã sợ chạy thì giết làm gì tội nghiệp! Hơn nữa chúng ta giết nhiều như vậy án mạng để lại cho người địa phương này khổ cực biết bao.
Sau đó mấy anh em trở về miếu, trong thấy bọ gia nhân chạy nấp mỗi đứa một nơi, mặt mày dáo dác, còn mấy ông viên ngoại cùng Lý tiểu thư đều tán đởm kinh hồn, toàn thân run lẩy bẩy.
Vừa thấy bọn Nhạc Phi về, ai nấy đều vui mừng xúm lại hỏi:
- Bọn ăn cướp đâu rồi?
- Thưa, chúng đã sợ hãi chạy cả rồi.
Các ông, các bà nghe nói mới hoàn hồn, lẩm bẩm vái tạ Trời Phật đã phù hộ cho tai qua, nạn khỏi.
Nhạc Phi ngước mắt nhìn trời rồi bảo:
- Trời gần sáng rồi mà ta giết người, thây bỏ đầy đường biết tính sao đây? Nếu người ta biết mình giết bọn cướp thì không sao, nhưng dù sao chuyện này đến quan quyền thì khó tránh được sự lôi thôi lắm.
Vương Quới nói:
- Chúng ta cứ việc bỏ đi quách, thân nhân chúng có muốn thưa kiện cũng chả biết ai mà thưa.
Nhạc Phi vẫn lo ngại:
- Xác chết thì nhiều quá, e rằng quan địa phương này tra xét thì nguy tai.
Ngưu Cao nói:
- Chư huynh đừng lo, việc này dễ ợt. Chúng ta cứ việc gom những thây chết ấy vào miếu rồi chất củi đốt hết, thần quỉ tìm cũng chẳng được huống chi là người.
Thang Hoài và Trương Hiển cùng vỗ tay khen:
- Ngưu Cao tính kế ấy hay lắm.
Nhạc Phi phì cười:
- Ngưu đệ khi trước ở tại Loạn Thảo Cang chặn đường giết người rồi đốt thây quen rồi chứ gì?
Mọi người đều cười xòa rồi mấy anh em cùng bọn gia đinh chia ra mạnh ái nấy vác thây chết đem về chất trong miếu.
Sau khi chất củi sẵn sàng, cho một mồi lửa cháy cất lên cao ngất trời rồi mới bỏ đi. Chỉ trong giây lát, nơi đây thành một đống tro tàn không còn trông thấy dấu vết gì cả.
Khi mọi người đến Thang Âm huyện, mấy anh em vào trình báo danh tính cho môn lại biết và xin ra mắt quan huyện.
Môn lại vào bẩm, quan huyện lập tức cho mời vào. Trà nước xong xuôi, Nhạc Phi kể lại việc ông Lý Xuân gả con gái cho mình, và hiện nay chàng trở về quê cũ có cả các ông viên ngoại theo mình.
Ông huyện Từ Nhân nói:
- Thế thì hay lắm, nhưng các vị đây quá bất ngờ, huyện đường không chuẩn bị đủ phòng the, e sẽ thất lễ chăng?
Năm anh em cùng thưa:
- Dạ chẳng dám làm phiền ngài, để mấy anh em tôi cất thêm ít căn nhà nữa để ở cũng xong.
Ông huyện Từ Nhân nói:
- Bây giờ điều cần nhất là phải lo sắp đặt chỗ ở cho mấy viên ngoại nghỉ ngơi.
Nói rồi, ông huyện từ lập tức lên ngựa thẳng đến lành Vĩnh Hòa, xóm Hiếu Đễ. Ông giơ tay chỉ một ngôi nhà mới cất nói với Nhạc Phi:
- Sau khi xét qua bản đồ tôi được biết miếng đất này là của họ Nhạc khi trước, nên có bẩm cùng ông Lưu Đô Viện rõ. Ông ta đã xuất bạc chuộc lại và sai thợ cất nhà, vậy nay hiền khiết hãy dọn về đây mà ở.
Nhạc Phi cảm kích vô cùng, ông huyện Từ còn dặn dò thêm mọi việc rồi mới trở về nhà.
Chỉ trong ngày hôm ấy, Nhạc Phi sai gia đinh dọn đồ đạc đến và mời gia quyến cùng đến đó ở.
Bà An Nhân về đến quê hương rồi, trong lòng xúc động, nước mắt nhỏ ròng ròng nói:
- Xưa kia sự nghiệp giàu có, cửa nhà khang trang, nay về thấy nhà cửa chật hẹp, và chẳng thấy mặt chồng đâu cả thì còn gì đau đớn cho bằng.
Bà Viện Quân khuyên giải mãi bà vẫn không nguôi, Nhạc Phi thưa:
- Xin mẹ bớt cơn phiền muộn, tuy nhà cửa chật hẹp, nhưng con sẽ lo cất thêm rộng lớn, việc ấy chẳng khó gì, xin mẹ an tâm.
Rồi bày tiệc ăn mừng, khánh thành nhà mới.
Ngày hôm sau Nhạc Phi cùng chư huynh đệ đến tạ ơn quan huyện Từ Nhân rồi dắt nhau ra tỉnh thành xin vào bái kiến ông Đô Viện.
Bọn Nhạc Phi quỳ lạy lễ tạ ơn ông Lưu Công, quan huyện Từ Nhân bẩm lại việc mấy anh em Nhạc Phi đã có chỗ ở yên ổn rồi.
Lưu Công nói:
- Mấy anh em không nỡ lìa nhau nên dời đến ở một chỗ, thật là tình bằng hữu quá đậm đà, trên đời này ít kẻ bì kịp. Thôi quan huyện hãy trở về nha môn đi, để bọn hiền khiết ở lại đây, ta còn có việc dặn bảo.
Quan huyện Từ Nhân ra về rồi, Lưu Công cho gọi Nhạc Phi vào đóng cửa lại, hỏi:
- Chừng nào hiền khiết xuống kinh kỳ ứng thí?
Nhạc Phi đáp:
- Thưa, ngày mai này, tiểu sinh sắm sửa khởi hành.
Lưu Công ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói nhỏ:
- Hôm trước ta có gửi thư cho ông Lưu Thú Tông Trạch nhờ ông ta giúp đỡ ngươi trong việc thi cử, nhưng ta sợ ông ta mắc nhiều việc có thể bỏ qua, nên nay ta muốn đưa ngươi một lá thư nữa đem đến trao tận tay ông ta trong ngày ấy mới được.
Nói rồi ông lấy bút mực ra viết thư trao cho Nhạc Phi và nhét vào tay chàng năm mươi lượng bạc, bảo:
- Hiền khiết hãy mang số bạc này làm lộ phí.
Nhạc Phi lãnh bạc và thư, lạy tạ rồi trở về huyện ngay. Quan huyện Từ Nhân nắm tay chàng bảo:
- Ta chẳng có chi tặng cháu, vậy ta hứa trong lúc cháu vắng mặt, ta sẽ giúp đỡ, đùm bọc cho gia quyến cháu. Cháu hãy ra đi chớ lo chi đến việc ở nhà.
Nhạc Phi cùng chư huynh đệ bái tạ ra về thưa cùng các viên ngoại:
- Anh em chúng con đi về kinh thi hội kỳ này không muốn đem kẻ tùy tùng theo làm gì cho phiền phức, nên anh em định cùng đi cho thong thả.
Rồi lo sắm sửa đồ hành lý, sáng sớm hôm sau anh em vào từ biệt các viên ngoại. Nhạc Phi còn dặn dò Lý tiểu thư và lạy mẹ rồi cùng nhau đi thẳng đến Trường An. Ngày đi đêm nghỉ, đi mãi hai ngày sau mới đến nơi.
Nhạc Phi gọi mấy anh em căn dặn:
- Đây là chốn kinh thành, không phải như trong làng xóm mình đâu, nên mọi việc cần phải thận trọng lắm và tránh mọi cử chỉ vô lễ kẻo mang vạ vào thân đấy.
Ngưu Cao cau mày nói:
- Nếu vậy con người ở chốn kinh thành hung dữ, hay ăn thịt người ta lắm sao?
- Không phải vậy đâu. Tôi nói thế có nghĩa là chốn này không thiếu chi hạng vương tôn công tử, nếu ta có cử chỉ lỗ mãng, sinh chuyện lôi thôi thì khó bề giải cứu.
Vương Quới nói:
- Không hề chi đâu, huynh trưởng hay lo xa vậy, chớ anh em mình vào thành rồi chẳng thèm hơn thua với ai hết thì việc gì mà sợ?
Thang Hoài xen vào:
- Nhưng đại huynh đề phòng trước là phải lắm, phàm việc gì chúng mình cũng phải khiêm nhường là hay hơn hết.
Năm người giục ngựa buông cương, kẻ trước người sau, chẳng mấy chốc đã đến trước cửa thành. Bỗng từ phía sau, có người ra sức chạy bộ tiến đến nắm lấy vạt áo Nhạc Phi vừa thở vừa nói:
- Ối, ông Nhạc Phi ôi, ông hại tôi nhiều lắm rồi, chẳng lẽ bây giờ ông lại không ngó ngàng gì đến tôi sao?
Nhạc Phi quay lại nhìn kỹ người này chính là Giang Chấn Tử, chủ tiệm ở tại Tương Châu.
Nhạc Phi hỏi:
- Lý do gì mà ông bảo chúng tôi báo hại mình?
Chấn Tử nói:
- Chẳng giấu chi ông, khi trước tại tỉnh Tương Châu, ông có ghé vào tiệm tôi nghỉ ngơi mấy ngày. Khi ông đi rồi, có Hồng Tiên dẫn một số lâu la đến tiệm tôi tìm ông không thấy, hắn hằn học bảo rằng vì ông mà hắn bị cách chức quan nên mang mối hận thù.
Thế là nó ra lệnh cho lâu la đập phá cửa tiệm tôi tan tành, còn đánh tôi một trận nhừ tử.
Nhạc Phi nói:
- Vậy ông định bắt đền chúng tôi vì chuyện đó hay sao?
Giang Chấn Tử phân trần:
- Sau vụ đó, vợ chồng tôi phải dắt díu nhau lên đây làm ăn. Gặp các ông đây, tôi muốn mời mấy ông vào quán tôi nghỉ ngơi.
Tông Lưu Thủ khảo hạch võ sinh
Văn võ song toàn, chưa gặp vận
Năm anh em nối gót đến tiệm Giang Chấn Tử chọn một căn phòng rộng rãi nghỉ ngơi.
Nhạc Phi hỏi Chấn Tử:
- Ngươi ở đây có biết dinh ông Tông Trạch Lưu Thú không?
Chấn Tử đáp:
- Ở đây ai mà không biết nha môn ông Tông Lưu Thú!
Rồi giơ tay trở ra bên ngoài, tiếp:
- Cứ việc đi thẳng đường này chừng bốn năm dặm thì tới.
Chàng lại hỏi:
- Chẳng biết giờ này ông ta đã thăng đường chưa?
Chấn Tử ra chiều suy nghĩ rồi đáp:
- Ông ấy phần quán xuyến việc quân, phần thì lo lắng việc dân, không biết chừng giờ này ông vẫn còn tại triều đình lo bàn việc nước chưa về nhà đâu.
Nhạc Phi mở gói hành lý ra lấy phong thư gói lại tử tế, Thang Hoài thấy thế hỏi:
- Đại huynh sắp sửa đi đâu đấy?
- Hiền đệ không biết sao? Lúc ra đi, ông Lưu Đô Viện có gửi một phong thư bảo mang đến trao cho ông Tông Lưu Thú, vừa rồi hỏi thăm người chủ tiệm cho biết rằng ông ta quyền thế lắm, chắc chắn phen này anh em ta có chỗ nương nhờ rồi. Để tôi đi trao thư cho ông ta ngay mới được.
Ngưu Cao nói:
- Vậy thì mấy anh em mình cùng đi với nhai cho vui chớ.
Nhạc Phi lắc đầu:
- Không tiện đâu hiền đệ ạ. Ta nói thiệt, tính hiền đệ lỗ mãng, đến đó rủi hiền đệ sinh sự thì có thể họa lây đến ta.
Ngưu Cao giơ tay cả quyết:
- Không sao đâu, đệ hứa không nói năng gì cả, chỉ đứng trước cửa nha môn đợi đại huynh mà thôi.
Nhưng Nhạc Phi vẫn còn e ngại cứ lắc đầu mãi, không bằng lòng cho Ngưu Cao đi.
Vương Quới nói:
- Nếu Ngưu đệ muốn đi thì đại huynh hãy cho bọn đệ cùng đi cả, sẽ ngăn cản không cho Ngưu đệ sinh chuyện. Hơn nữa đệ có nghe nói dinh ông Tông Lưu Thú chạm trổ khéo lắm, cũng muốn đến đó xem cho biết.
Nhạc Phi gật đầu và căn dặn:
- Cũng được, nhưng có đi thì phải thận trọng lắm mới được. Nếu xảy ra ra chuyện gì lôi thôi thì nguy hiểm lắm đấy.
Năm anh em sửa soạn khăn áo chỉnh tề, gọi Chấn Tử vào bảo:
- Chúng ta đếm nha môn ông Tông Lưu Thú, một lúc rồi về ngay nhé.
Sau khi khóa cửa phòng, năm anh em đi bộ thẳng đến dinh ông Tông Lưu Thú. Quả thật là một dinh thự nguy nga và cổ kính, công trình kiến trúc hết sức to lớn và đẹp mắt.
Bọn Nhạc Phi còn đang tha thẩn trước cửa cổng thì đã thấy một người lính từ trong dinh bước ra. Nhạc Phi nhanh miệng hỏi:
- Thưa, không biết đại lão gia đã thăng đường chưa?
Người lính đáp:
- Quan lớn đã vào triều từ hồi sớm mai đến giờ vẫn chưa thấy về.
Nhạc Phi quay lại nói với anh em:
- Nếu vậy, anh em mình về nghỉ rồi mai sẽ đến.
Bọn Nhạc Phi trở về độ nửa dặm đường bỗng thấy phía trước người ta chạy qua lại xôn xao, hỏi ra mới biết ông Tông Lưu Thú đi chầu về.
Anh em đứng nép bên lề đường thì thấy quân lính khiêng một chiếc kiệu đẹp đẽ, phía trên ngồi chễm chệ một ông quan đại thần, một chiếc lọng che đầu phủ bóng mát, trước sau có quân lính theo hầu trông rất uy nghi.
Bọn Nhạc Phi bèn quay trở lại đi theo sau kiệu.
Về đến dinh, chẳng bao lâu đã nghe vang lên ban hồi trống báo hiệu cho mọi người biết rằng, quan lớn ra thăng đường. Ngoài nha môn quan kỳ bài chạy tới, chạy lui rộn ràng, nào là đem đơn từ giấy tờ cho ngài phê, nào là phát tờ phê cho đương sự.
Quan lớn hí hoáy phê chuẩn hồi lâu, bổng ngước mặt lên bảo quan kỳ bài:
- Hễ thấy có tên võ cử nào ở huyện Thang Âm tên là Nhạc Phi đến xin ra mắt thì phải cho vào lập tức nhé.
Viên kỳ bài chấp tay dạ ran rồi chạy ra ngoài ngong ngóng. Ấy cũng nhờ có thư tiến cử của Lưu Đô Viện nên ông ta mới biết đến cái tên Nhạc Phi, hằng trông con người ấy đến xem thử có phải là nhân tài xuất chúng y như lời trong thư không, đặng ông tiến cử cùng triều đình dùng trong lúc quốc gia hữu sự này, hay là Lưu Đô Viện ăn của hối lội của kẻ giàu tiến cử bừa bãi chăng?
Nhạc Phi đứng ngoài nhìn vào thấy tôn đường nghiêm chỉnh, ông Tông Lưu Thú ngồi trên bàn cao có kẻ tả hữu đứng hầu trông oai phong lẫm liệt, trong lòng chàng hồi hộp vô cùng.
Thang Hoài khẽ nói với Nhạc Phi:
- Vị đại thần đi chầu mới về mà không kịp nghỉ, lại thăng đường ngay, thế thì quả là một vị quan mẫn cán!
Nhạc Phi cũng lấy làm lạ, phụ họa:
- Ừ nhỉ, đi triều kiến thiên tử từ canh năm đến giờ, đáng lẽ phải nghỉ ngơi đôi chút chớ sao lại ra thăng đường vội vậy? Chắc có việc gì gấp lắm thì phải.
Anh em đang bàn luận phiếm, bỗng thấy viên kỳ bài quan cầm giấy tờ từ trong bước ra. Nhạc Phi bàn với mấy người:
- Sẵn dịp ta gặp viên kỳ bày này xin vào dâng thư cho tiện, nhưng ta mặc đồ tang lễ e có thất lễ với người chăng? Thôi để ta đổi áo của Trương hiền đệ nhé.
Nói rồi, Nhạc Phi lập tức cởi áo đổi cho Trương Hiển và căn dặn mấy người:
- Nếu ta vào hầu công việc êm xuôi thì chẳng nói chi, bằng có điều chi bất trắc, các đệ đứng ngoài này chớ nóng nảy, cứ việc làm thinh để một mình ta tùy cơ ứng biến, lo liệu cho xong thì thôi.
Thang Hoài thấy chuyện khó khăn quá, tỏ vẻ chán nản nói với Nhạc Phi:
- Thôi đại huynh ạ, chúng ta cứ lấy tài mà thi cử, đừng trao thư nhờ vả ai tiến cử làm chi. Làm như vậy mai sau dù có công thành danh toại sao khỏi mang tiếng rằng nhờ người ta đỡ đầu mới nên danh phận.
Nhạc Phi đáp:
- Hiền đệ chớ nên chán nản, để ta lo liệu chớ nên cản trở mà hỏng cả đại sự.
Dứt lời, Nhạc Phi đứng im chờ cho viên kỳ bài bước ra, chàng vái một vái và dõng dạc nói:
- Tôi là võ sinh ở Thang Âm huyện tên Nhạc Phi đến xin yết kiến đại lão gia.
Viên kỳ bài niềm nở đáp:
- Vâng, đạo lão gia có lòng trông đợi công tử, xin công tử đứng dậy, tôi vào bẩm báo rồi ra ngay lập tức.
Hắn vội vàng chạy vào phi báo:
- Bẩm lão gia, đã có tên võ sinh ở huyện Thang Âm đến xin yết kiến rồi, hiện còn đứng ngoài cổng chờ lệnh.
- Hãy cho hắn vào ngay.
- Vâng, xin tuân lệnh.
Thấy Nhạc Phi vào, quan Lưu Thú Tông Trạch nhìn chàng từ đầu đến chân rồi tươi cười hỏi:
- Ngươi đến đây hồi nào?
- Bẩm đại quan, tiểu sinh mới đến hôm qua.
Rồi chàng dâng hai tay bức thư của Lưu Đô Viện, ông Tông Lưu Thú vội tiếp lấy bóc ra xem. Rồi chẳng biết nghĩ sao, ông biến đổi sắc mặt, đập bàn quát lớn:
- Kìa Nhạc Phi, ngươi tốn bao nhiêu tiền mới có được bức thư này? Hãy thú thật thì ta tha cho, bằng ngoan cố ta gia hình lập tức.
Mấy anh em Nhạc Phi đứng ngoài trông ngóng, nghe thấy bên trong có tiếng nạt nộ la lối om sòm, ai nấy đều phập phồng lo sợ chẳng biết lành dữ thế nào.
Ngưu Cao nghiến răng kèn kẹt rồi nói lớn:
- Tôi đoán chắc dữ nhiều lành ít, sợi nguy tai đấy. Để tôi xông vào cướp huynh trưởng ra, nếu chúng có rượt theo, mấy anh em ra sức ngăn cản lại nghe không?
Thang Hoài thấy Ngưu Cao nóng nảy, vội nắm tay can:
- Không nên, để xem cớ sự thế nào đã. Làm càn như vậy xảy ra to chuyện đấy chứ chẳng chơi.
Trước thái độ giận dữ của ông Lưu Tông Thú, Nhạc Phi vẫn thản nhiên không có chút gì sợ hãi. Chàng bình tĩnh đáp:
- Bẩm đại quan, cha tôi người gốc ở Thang Âm huyện, xóm Hiễu Đễ. Mẹ tôi sinh tôi ra mới được ba ngày thì bị nước sống Hoàng Hà dâng cao tràn ngập như biển cả. Nạn thủy tai này đã làm nhà cửa của cải trôi hết, cha tôi cũng bị chôn vùi dưới lớp trùng dương. Nhờ mẹ tôi bế ngồi vào trong cái chum nên khỏi chết, nhưng lại bị trôi thẳng đến Hoàng huyện. Nhờ viên ngoại Viên Minh cứu vớt nuôi nấng mẹ con tôi. Khi tôi lên bảy tuổi lại may mắn gặp ông Châu Đồng người ở Hiệp Tây nhận làm con nuôi và truyền dạy nghề văn, nghiệp võ.
Khi tôi đến tỉnh ứng thí, ông Lưu Đô Viện thấy tôi là kẻ hàn sĩ nên đem lòng thương mến hỏi rõ tông tích và giúp tôi xây cất nhà cửa trở về cố hương. Vì thế đến hôm tôi sắp đến kinh kỳ thi hộ có đến biệt ngài để lên đường, ngài lấy năm mươi lượng bạc cho tôi làm lộ phí, lại trao một phong thư dặn mang đến dâng cho đại lão gia, nhờ lão gia giúp đỡ cho điều kiện xuất thân; chứ nghèo khổ như tôi, cơm không đủ ăn, tiền của đâu mà mua thư tiến cử?
Ông Tông Trạch thấy Nhạc Phi nói một hơi không vấp, lời lẽ lại thật thà, chân chất nên ngồi bấm trán nghĩ thầm:
- Đúng rồi, trước đây ta đã từng nghe danh Châu Đồng văn hay xuất chúng, võ nghệ siêu quần, đã mấy phen nhà nước cho người đi triệu thỉnh mà ông không chịu ra làm quan, chỉ vui theo thú giang hồi ẩn dật. Nay tên Nhạc Phi này bảo là con nuôi ông ấy chắc võ nghệ cao cường đấy chớ chẳng phải không đâu.
Tuy nghĩ vậy nhưng ông ta muốn thấy rõ hơn nên bảo Nhạc Phi:
- Thế thì bây giờ ngươi hãy theo ta ra ngoài giáo trường, biểu diễn cung mã xem trình độ võ thuật của ngươi đã đến bực nào cho biết.
Dứt lời quan Lưu Thú đứng dậy bước đi, Nhạc Phi cũng nối gót đi theo đến giáo trường.
Nơi đây có dựng bia sẵn sàng, hai bên quân lính đứng giàn hàng trông nghiêm chỉnh lắm. Ông Tông Trạch ngồi trên khán đài cao, lớn tiếng gọi Nhạc Phi bảo:
- Ngươi hãy đến chỗ treo cung, lựa một cái cho vừa tay bắn thử ta xem nào.
Nhạc Phi cúi đầu vâng dạ rồi bước đến giàn treo cung, lựa đi lựa mãi hết bó cung mà chàng chẳng thấy cây cung nào vừa tay chàng cả nên bước ra thưa:
- Những cây cung này yếu lắm, tiểu sinh sợ bắn chẳng được xa mà có thể gãy cung là khác.
- Thế thì sức ngươi dùng cây cung nặng độ mấy trăm cân?
- Bẩm thượng quan, tiểu sinh thường dùng cây cung nặng trên hai trăm cân và bắn xa lối chừng hai trăm bước.
Ông Lưu Tông Thú nghe Nhạc Phi nói, nửa tin nửa ngờ nên ông bảo:
- Được rồi, nếu vậy để ta cho quân lính về khiêng cây thần cung của ta nặng những ba trăm cân đến đây, thử xem ngươi có gương nổi không?
Nhạc Phi đáp:
- Nếu đại quan nhân cho phép, tiểu sinh cũng xin vô lễ giương thử.
Một lát sau người ta thấy tám tên lính ì ạch khiêng cây thần cung vào giáo trường để trước mặt Nhạc Phi. Rồi tiếp theo là hai tên lính khác khiêng ống tên bước vào.
Nhạc Phi ung dung bước tới cầm cây cung trông rất nhẹ nhàng, chàng lắp tên bắn luôn chín mũi trúng ngay vào hồng tâm, ai nấy đều vỗ tay tán thưởng.
Ông Tông Trạch lấy làm vui lòng, hỏi:
- Ngươi thường dùng món binh khí gì?
Nhạc Phi mạnh dạn đáp:
- Món binh khí nào tiểu sinh cũng sử dụng được cả, song tiểu sinh thường dùng chuyên cây thương.
Tông Trạch nghe nói vội sai quan kỳ bài về khiêng cây Điểm cang thương của ông ra cho Nhạc Phi biểu diễn.
Nhạc Phi vâng lệnh lãnh thương bước xuống thềm múa tung chẳng khác rồng bay phượng lượn. Chàng đánh tiếp ba mươi sáu thế phiên thân và trổ bảy mươi ngón biến hóa khiến người xem lóa mắt kinh hồn.
Quân sĩ trông thấy thương pháp của chàng khen không ngớt. Ông Tông Trạch cũng chăm chú nhìn không chớp mắt, ông không ngờ một thiếu niên trẻ tuổi như chàng mã võ nghệ siêu quần đến thế.
Nhạc Phi biểu diễn đường thương xong, chàng bước ra trông người vẫn khỏe khoắn như thường, không thấy mệt. Chàng đặt nhẹ cây thương vào chỗ cũ rồi bước lên thềm quy đợi lệnh.
Tông Trạch cất tiếng khen võ nghệ của Nhạc Phi thật là đúng bậc anh hùng xuất chúng, nhưng ông còn muốn biết qua mưu lược của chàng nên cất tiếng hỏi:
- Nếu như triều đình trọng dụng ngươi, phong ngươi làm tướng thì cách dụng binh của người thế nào?
Nhạc Phi đáp:
- Việc dùng binh là một vấn đề mưu lược nói sao cho cùng, vậy để tiểu sinh dâng lên đại nhân một bài thi để đại nhân xem có thể suy ra mà nhận xét được trình độ dụng binh của tiểu sinh.
Dứt lời, Nhạc Phi lấy bút viết nhanh tám câu dâng lên. Nguyên văn bài thi như sau:
Lệnh truyền, quân sĩ thi hành
Công minh thưởng phạt, đội hình nghiêm trang
Tướng tài trọng dụng mưu hơn,
Lên cao phòng khốn, xuống thường phòng sâu
Quân đi tề chỉnh trước sau
Sinh linh coi trọng, lọ cầu hư danh
Nguyên nhung, quốc biến, khi cần
Qyuết tâm đem lại thanh bình, du ca.
Xem xong, Tông Trạch bước xuống thềm đỡ Nhạc Phi dậy và nói:
- Ta đã nghĩ lầm hiền khiết nhờ đút lót để có lá thư tiến cử, nay mới rõ hiền khiết văn võ tài toàn.
Rồi sai quan đem ghế đến mời Nhạc Phi ngồi. Nhạc Phi khiêm tốn từ chối:
- Tiểu sinh đâu dám ngồi với đại lão gia.
Tông Trạch nắm tay chàng nói:
- Hiền khiết chớ nên khiêm nhường quá, hãy ngồi lại đây bàn về binh pháp nghe chơi.
Nhạc Phi xin thất lễ rồi khép nép ngồi xuống ghế. Lính hầu đem trà nước đến, Tông Trạch niềm nở mời chàng rồi hỏi:
- Võ nghệ của hiền khiết tưởng ít ai bì kịp, song chẳng biết phép điều binh khiển tướng cùng binh thư đồ trận, hiền khiết có được thông tuệ không?
Nhạc Phi cả quyết:
- Bẩm đại nhân, điều ấy tiểu sinh đã thuộc nằm lòng, song thiết tưởng binh thư đồ trận trong sách vở chẳng qua là phần lý thuyết, chỉ lấy đó làm căn bản mà thôi. Chứ đến lúc thực hành thì không nhất thiết y sách mà phải thiên biến vạn hóa cho phù hợp với thực tế.
Thấy Nhạc Phi không cho binh thư đồ trận là bảo bối nên Tông Trạch có ý không bằng lòng, nên hỏi vặn lại:
- Nói như vậy những binh thư đồ trận của thánh hiền đời xưa để lại chẳng lẽ vô dụng sao?
Nhạc Phi đáp:
- Bẩm đại nhân, theo sự hiểu biết của tiểu sinh thì phép hành binh xưa nay nhất định phải theo qui củ, nghĩa là bày binh bố trận trước rồi mới đánh. Nhưng khi ra trận tiền, nếu nhất nhất như vậy thì không khỏi có điều bất tiện, vì trong chiến trận, đối phương đâu có để cho mình tùy ý lựa chọn chỗ lập trận thế, mà hễ gặp đâu phải giao phong ở đó. Bởi vậy địa hình lúc đó có khi khác xa với lý thuyết. Có chỗ rộng rãi, có chỗ eo hẹp, có chỗ hiểm yếu núi non che chở, có chỗ lại trống trải binh sĩ không thể ẩn thân. Có khi gặp khe sông, có khi vào bụi rậm, nếu giáo điều áp dụng những trần đồ nhất định như trong sách vở chẳng là bất tiện lắm sao? Phương chi chiến thuật ngày nay khác với xưa nhiều, nên phép hành binh phải tùy cơ ứng biến. Mưu sâu, chước lạ phải sẵn sàng, "dĩ hư vị thiệt, dĩ thiệt vị hư", làm cho tướng giặc đoán không nổi hành động của ta mới mong thắng địch. Gặp khi gấp rút như bị địch công kích bất ngờ hay tràn đến bủa vây tứ bề thì lúc ấy thời gian đâu mà lập trận thế? Vậy phép dùng binh cốt phải cần mẫn, lanh trí, lanh mắt, tùy lúc tùy thời mà biến hóa vô lường.
Lúc đầu Tông Trạch nghe không bằng lòng lập luận của Nhạc Phi, nhưng khi nghe chàng trình bày một hồi, quan Lưu Thú gật đầu khen phải và nói:
- Quả là tài thế an bang, đáng mặt rường cột nước nhà. Lưu Tiết Đạt thật có mắt tinh đời, xét người chẳng sai. Nhưng có một điều đáng tiếc là hiền khiết ra ứng thí khoa này rủi ro quá. Phải chi hiền khiết để ba năm nữa sẽ ra, hay ra trước đây ba năm thì phúc cho nhà nước và tốt cho hiền khiết biết bao nhiêu.
Nhạc Phi nghe nói lấy làm ngạc nhiên, chàng chẳng hiểu nguyên do thế nào vội hỏi:
- Đại nhân nói thế nghĩa là gì? Tiểu sinh ngu muội không hiểu gì cả, xin đại nhân vui lòng giải thích cho tiểu sinh rõ.
Tông Trạch nói:
- Điều ấy làm sao hiền khiết hiểu thấu. Nguyên trước đây mấy ngày, có Tiểu Vương Lương Sài Quế đến đây triều kiến thiên tử và tuyên bố với mọi người rằng khoa này người quyết ra tranh chức Võ trạng. Y vốn dòng dỗi Sài Thế Tông nhà Châu là Sài Vinh, bạn thân thiết với đức Thái Tổ thánh triều ta, lâu nay y nhậm chức Phan Vương ở tỉnh Điền Nam thuộc châu Nam Ninh nên triều đình kiêng nể Tiểu vương lắm.
Khoa này, thánh thượng đã xuống chỉ sai bốn vị giáo khảo, một là Thừa tướng Trương Bàng Xương, hai là Binh bộ Đại Đường Vương Đạt, ba là Hữu Quân Đô đốc Trương Tuấn và bốn là lão đây. Sài Quế hay được tuy nhiên ấy vội sắm bốn phần lễ vật rất hậu và viết bốn bức thư mang đến cho các vị giám khảo để chấm cho ông ta đậu chức Võ trạng lần này. Ba vị kia đều thâu nhận lễ vật cả rồi và quyết khoa này để cho Sài Vương giật giải. Riêng một mình ta không chịu nhận lễ vật, nhưng một mình ta thiểu số làm sao thăng nổi ba vị kia.
Nhạc Phi chắp tay thưa:
- Cúi xin đại lão gia đứng ra chủ trương việc này cho tiểu sinh nhờ.
Tông Trạch nói:
- Trong lúc quốc gia hữu sự, muốn chọn người tài để ta tế thế an bang thì lẽ tất nhiên phải lấy lẽ công bằng mà lựa chọn thì mới tìm ra anh tài. Nhưng hiền khiết cũng biết, thần thế của Phan Vương to lớn biết chừng nào, và nhất là ông ta lại chính là dòng dõi Sài Thế Tông nên việc này xem ra khó bề xoay chuyển. Nhưng dù sao ta cũng phải ráng hết sức xem sao.
Ngừng một lát, Tông Trạch tiếp:
- Hôm nay ta muốn lưu hiền khiết ở lại trong dinh để đàm đạo sâu hơn về văn chương, võ nghệ, song còn sợ miệng lưỡi thế gian dễ gieo rắc lời thị phi, vậy thì hiền khiết hãy lui về nghỉ rồi sau sẽ liệu.
Nhạc Phi lạy tạ ơn Tông Lưu Thú rồi lui ra. Anh em đứng ngoài đang ngóng trông, bỗng thấy chàng bước ra, ai nấy mừng rỡ xúm lại hỏi:
- Sao đại huynh ở trong ấy lâu thế? Ồ, sao xem thần sắc có vẻ kém vui, hay là bị ông Tông Lưu Thú quở trách điều chi rồi?
Nhạc Phi lắc đầu:
- Không phải thế đâu các hiền đệ ạ. Ông ta đã khảo hạch cung tiễn và binh pháp tôi, rồi người đem lòng quý mến. Để về nhà trọ tôi sẽ kể lại đầu đuôi cho mà nghe, chỗ này không phải là chỗ nói chuyện.
Anh em cùng nhau về đến nhà trọ thì trời vừa tối sẩm. Người chủ tiệm đã dọn rượu thịt lên mời năm vị võ sinh dùng bữa.
Ai nấy ngồi lại ăn uống vui vẻ lắng nghe Nhạc Phi kể lại đầu đuôi câu chuyện ra mắt ông Tông Lưu Thú. Chàng kể rõ từng ly từng tý, duy chỉ có việc Vương Sài Quế ra tranh chức Võ trạng thì chàng không đề cập đến vì sợ trong mấy anh em có người nóng nảy sinh ra chuyện lôi thôi. Tuy vậy trong lòng chàng không yên, sắc mặt lộ vẻ buồn bã khiến bốn người bạn lấy làm ngạc nhiên, nhưng không rõ nguyên cớ.
Sáng hôm sau, điểm tâm xong, bỗng thấy người chủ tiệm bước lại thưa:
- Lúc nãy quan lớn Tông Lưu Thú có sai người mang rượu thịt qua đây cho chư vị ăn uống và gửi lời rằng, ngài muốn mời chư vị vào dinh để đãi tiệc, song sợ thiên hạ gièm pha, xúc xiểm nên phải gửi gắm như vậy, xin chư vị chớ chấp.
Nhạc Phi nói:
- Vậy thì ngươi làm ơn dọn ra cho anh em ta vui say một bữa cho thỏa thích.
Chủ tiệm Chấn Tử gọi mấy tên tửu bảo vào sắp đặt cỗ bàn rồi đem thức ăn của ông Tông Lưu Thú dọn lên. Ngưu Cao trông thấy bàn tiệc đầy ắp những đồ cao lương mỹ vị, rượu ngon đầy mấy ché, chàng thèm nhỏ nước dãi, chẳng đợi ai mời và cũng chẳng cần mời ai hết, cứ việc bước tới lấy cái bát lớn rót ra uống lấy uống để chẳng biết mấy chục bát mà kể.
Vương Quới thấy vậy vừa cười vừa nói:
- Ồ, Ngưu đệ này uống rượu khan như vậy rủi say mèm thì mất vui rồi! Chi bằng chúng ta phải ra một hiệu lệnh rồi mọi người cùng uống mới vui chớ.
Thang Hoài gật đầu:
- Ý kiến ấy hay lắm, cứ việc ra lệnh đi, chúng tôi sẽ tuân theo mà thi hành.
Vương Quới lại nói:
- Tiệc này là là của Tông Đại Nhân vì mến đại huynh ta mà ban cho chúng ta hưởng chung, vậy nên cử huynh trưởng làm chủ tọa, và Trương ca thì ra lệnh.
Thang Hoài nói:
- Được lắm. Trương ca cứ việc xướng lệnh đi.
Trương Hiển nói:
- Thật tình tôi chẳng biết ra lệnh gì trong tiệc rượu này cho xứng đáng. Tôi chỉ muốn đến phiên người nào thì phải nhắc lại tên một vị anh hùng xưa, mà vị anh hùng ấy phải có tửu lượng cao mới được đấy nhé. Nếu người ấy mà đáng mặt anh hùng thì anh em ta mỗi người uống một chén để chào mừng, bằng không đáng mặt anh hùng thì người xướng danh sẽ bị phạt ba chén.
Anh em đều vỗ tay tán thành. Vương Quới vội rót một chén trao cho Trương Hiển. Trương Hiển tiếp lấy uống cạn chén rượu và nói:
- Chén này là chén của Quan Vân Trường đơn đao phó hội, ấy có phải là anh hùng uống rượu không?
Thang Hoài khen:
- Phải, quả thật là anh hùng. Anh em mình nên kính ngài mỗi người một chén đi.
Ai nấy đều nâng cốc uống cạn một hơi, rồi Trương Hiển lại rót ra một chén trao cho Thang Hoài, nói:
- Bây giờ đến lượt Thang đệ đây. Hãy nhận lấy và cho biết tên vị anh hùng xưa.
Thang Hoài tiếp lấy uống cạn và nói:
- Chén này là chén của Lưu Qui say chém rắn, có phải là vị anh hùng uống rượu không?
Anh em đều cho là phải, mỗi người kính một chén. Bây giờ đến lượt Vương Quới, chàng tự rót một chén bưng giơ cao lên và nói:
- Chén này là chén Hồng Môn hội yến của Sở Bá Vương. Vậy có thể gọi là anh hùng uống rượu được không?
Trương Hiển bắt bẻ:
- Sở Bá Vương anh hùng thật, song trong cuộc hội yến ấy sao chẳng bắt Lưu Cái chém đi, để chỉ về sau vì y mà binh cơ bại hoại, nước nhà ta nát, đến nỗi không còn chỗ dung thân? Ấy là thấp trí, phải phạt ba chén mới được.
Bây giờ đến lượt Ngưu Cao. Chàng chỉ cười xòa nói:
- Tích xưa chuyện cũ đệ đều mù tịt. Song nếu đệ uống một hơi cạn hết hai loại bát lớn mà chẳng nhăn mày nhíu mặt gì cả thì các huynh có gọi là anh hùng uống rượu không?
Anh em cùng cười rộ lên vui vẻ. Ngưu Cao y lời uống một hơi hết sạch hai bát rượu lớn.
Đến phiên Nhạc Phi, chàng vui vẻ nói:
- Chư hiền đệ đã rút chuyện anh hùng uống rượu đời nhà Hán, Ngụy cùng Tam quốc, bây giờ để ta rút chuyện thánh đời nhà Tống nói cho mấy hiền đệ nghe.
Dừng một lát, hớp một ngụm rượu, chàng tiếp:
- Năm Thiệu Hi đời Chân Tông Hoàng Đế có Trương Lạc thết đại yến cho mời hết thảy bá quan cùng anh hùng đến uống rượu. Có con ông Tể tướng Tào Bô là Tào Vĩ cũng đến dự phó yến. Trong lúc mọi người đang ăn uống vui vẻ bỗng thấy Tào vĩ bỏ đi đâu mất, mọi người lấy làm lạ. Chưa kịp hỏi nguyên do thì đã thấy Tào vĩ từ ngoài bước vào, tay xách thủ cấp tướng giặc ném giữa phòng tiệc rồi ngồi lại ăn uống như thường. Như vậy có đang cho là bậc anh hùng không?
Anh em đều khen:
- Đại huynh thuật tích ấy nghe sướng tai lắm.
Ngưu Cao là kẻ dốt nát nên ngồi giữa đám người bàn kinh luận sử chàng chẳng biết chi cả, nên đề nghị:
- Mấy hiền huynh biết tích xưa chuyện lạ, còn tôi thì không biết gì cả. Thôi bây giờ để tôi làm trò "xại mại" giúp cuộc rượu cho tăng phần vui nhộn nhé.
Vương Quới nói:
- Hay lắm. Ngưu đệ cứ việc khởi sự đi.
Rồi anh em cùng đánh tửu, kết cuộc Ngưu Cao cũng thua, bị phạt liên miên, nhưng anh ta đâu có sợ. Bị phạt uống nhiều chừng nào thì anh chàng càng khoái chừng ấy, cười to như sấm nổ.
Anh em ai nấy đều ăn uống vui vẻ, chỉ một mình Nhạc Phi mãi lo lắng chuyện tiểu Lương Vương ra tranh Võ trạng, không biết rồi đây giáo khảo có tư vị làm cho chàng lỡ bước công danh không? Nếu kết quả phũ phàng như vậy thì biết đến ngày nào mới nên danh phận với đời?
Vì nghĩ vậy nên chàng buồn, uống rượu hơi nhiều, đầu óc choáng váng phải bỏ ra trước ghế nằm cho cho mát rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.
Mấy anh em ở trong này tiếp tục ăn uống và nói:
- Lạ thật! Mọi khi Nhạc đại huynh uống rượu với anh em mình thì hay đàm văn, luận võ với mọi người, cớ sao hôm nay lại ít nói quá vậy? Hay là có việc gì buồn riêng mà không cho anh em ta biết chăng?
Vì vậy, anh em chẳng còn vui, phần thì đã uống nhiều rượu nên dần dần đi nghỉ hết chỉ còn một mình Ngưu Cao ngồi lại tha hồ uống mãi.
Một lát sau Ngưu Cao giật mình ngước mặt lên thấy trong phòng vắng hoe mới biết mọi người đã đi ngủ hết nên nghĩ thầm:
- "Mấy anh em đã đi ngủ hết thì Ngưu Cao này sẽ được tự do phóng túng khỏi bị ai kềm giữ nữa. Ta sẽ đi ra ngoài dạo chơi thong thả cho sướng".
Hàng ngày Ngưu Cao bị anh em kềm chế nên chẳng dám buông tuồng theo tính thô lỗ của mình được, nay chàng đi tự do một mình rất đỗi mừng rỡ. Chàng chạy xuống lầu bảo chủ tiệm Chấn Tử:
- Mấy anh tôi đã quá chén nên ngủ hết, phiền ông đừng làm mọi người kinh động. Tôi đi ra ngoài một lát rồi về ngay đấy nhé.
Chấn Tử tưởng thật nên bước theo chỉ đường:
- Tướng công hãy đi về phía Đông này sẽ gặp đồng không mát mẻ lắm.
Ngưu Cao nghe lời, đi thẳng qua hướng Đông, vừa đến ngã ba, chàng dừng chân ngẫm nghĩ:
- '"Bây giờ ta nên đi đường nào để tìm chỗ vui đây".
Đang suy tính, bỗng thấy hai người từ xa đi lại. Một người mình cao chín thước mặc y phục màu trắng, còn người kia hơi thấp hơn một tý, mặc áo màu đỏ, vừa đi vừa chuyện trò.
Khi đến gần, Ngưu Cao nghe thấy người mặc áo đỏ nói:
- Tôi nghe đồn tại chùa Tướng Quốc bên Biện Kinh này vui vẻ lắm.
Người áo trắng đáp:
- Thế thì chúng mình cùng đến đó chơi đi.
Ngưu Cao nghe nói vậy, chàng nghĩ:
- "Đúng rồi, lâu nay ta cũng có nghe tiếng chùa Tướng Quốc ở Đông Kinh này là chốn phồn hoa, nhưng chưa biết đường đi. Sẵn dịp này ta theo họ cho tiện".
Nghĩ đoạn, chàng đi theo hai người ấy, hồi lâu mới đến chùa Tướng Quốc. Nơi đây cửa hàng bày biện san sát, buôn bán chằng thiếu món chi, kẻ qua người lại tấp nập. Cũng có hạng giàu sang vương tôn quần áo lòe loẹt, cũng có hạng nghèo khổ cơ hàn, cũng có người quê mùa cục mịch. Xe cộ qua lại như mắc cửi, thật là một cảnh phồn hoa vui vẻ chưa từng thấy.
Ngưu Cao cứ lần bước theo hai người kia đi hết chỗ này đến chỗ khác, vừa xem vừa thích thú lẩm bẩm: "Vui thế này mà mấy anh em ta cứ giam mình trong nhà trọ, thật là phí quá!". Bỗng trông thấy phía trước người ta đứng chật ních, hai người kia đưa tay gạt thiên hạ mà vào. Mọi người chẳng ai nói gì, nhưng cũng nhường đường cho họ.
Chùa Tướng Quốc, kể chuyện anh hùng
Chốn giáo trường, Nhạc Phi tranh trạng
Ngưu Cao theo hai người ấy xen vào giữa đám đông thì thấy có một người đứng trên ghế cao nói thao thao bất tuyệt, thì ra người ấy đang kể một tích truyện xưa. Lời kể chuyện hết sức hấp dẫn khiến cho mọi người đứng xung quanh im phăng phắc lắng nghe, vô cùng thích thú.
Người kể truyện ấy thấy hai người kia và Ngưu Cao bước vào thì niềm nở mời:
- Xin ba vị tướng công ngồi tạm đây chơi.
Hai người kia ngồi xuống liền chứ không thèm khiêm nhường gì cả, Ngưu Cao thấy vậy cũng ngồi xuống đó mà nghe.
Người kể chuyện đến tích Kim Thương Đao Mã đời Bắc Tống, rồi đến lúc Thái Tông ngự giá đến Ngũ Đài sơn dâng hương bị Phan Nhân Mỹ dẫn dụ đến xem Tú Linh Bài, nhìn thấy bên U Châu tại Thúc Trang lầu của Tiêu Thái hậu có hào quang ngũ sắc hiện ra.
Thái Tông bèn phán:
- Trẫm muốn đi xem Thúc Trang lầu, chẳng biết có đi được không?
Phan Nhân Mỹ tâu:
- Bệ hạ giàu có bốn biển, muốn đi xem chỗ nào mà không được, sá gì chỗ U Châu mà đi xem không được. Xin cứ hạ chỉ sai Phan Long đến chỗ đó bảo chúng nó dọn đi chỗ khác để cho bệ hạ đến xem thì khó chi.
Khi đó có Khai Tống Kim Đao Lão Lệnh Công là Dương Nghiệp bước ra tâu:
- Xin chớ nên đi. Bệ hạ là vạn thặng chí tôn lại đi vào hang cọp thế sao?
Thái Tông nói:
- Trẫm đánh lấy đất Thái Nguyên người Liêu đã vỡ mật kinh hồn, ai còn dám ho he gì nữa mà ngại?
Phan Nhân Mỹ lại thừa thế tâu:
- Sao Dương Nghiệp dám vô lễ cản trở thánh giá như vậy? Bây giờ phải bắt giam cha con y lại, đợi lúc trở về sẽ mang ra trị tội.
Thái Tông gật đầu khen phải, truyền bắt cha con Dương Lệnh Công giam hết rồi hạ chỉ sai Phan Long đem thánh chỉ qua Tiêu bang. Thiên Khánh Lương lãnh chỉ rồi, bèn sai quân sư Tác Lý Mã Đạt vào nghị kế.
Tác Lý Mã Đạt nóii:
- Chúa công hãy thừa cơ này mà dụng kế tập trung hết quân của bảy mươi hai cù lao về cho đủ trăm vặn rồi mai phục bốn phía, đợi cho Tống Thái Tông đến phủ U Châu, như vậy có lo gì Nam Triều thiên hạ chẳng về tay chúa công?
Lương Vương cả mừng bèn y theo kế ấy mà làm. Sau khi khoản đãi Phan Long, lập tức dời đi chỗ khác để chờ thánh giá ngự đến thì đón vào.
Phan Long trở về phục chỉ, Thái Tông liền dẫn các đại thần dời Ngũ Đài sơn đi qua U Châu. Lương Vương ra nghênh tiếp vào thành. Chưa kịp ngồi bỗng nghe xung quanh la ó vang dậy, binh phục vậy chặt U Châu, mũi kim chen vào cũng không lọt. May nhờ có Bắc Lý Tinh San Vương là Hồ Tất Hiến giấu chiếu chỉ trong mình chạy thẳng ra ngoài nói dối với Thiên Khánh Vương:
- Xin để tôi về kinh sư lấy ngọc tỷ và đem hết đất Trung Nguyên đến dâng cho chúa công.
Nhờ vậy mới lừa ra khỏi vòng vây chạy được thẳng về Hưng Châu triệu thỉnh chín cha con Dương Lệnh Công dẫn binh qua U Châu mới giải vây được. Ấy là "tám cọp phá U Châu, Dương gia làm tướng" là vậy đó.
Người giảng chuyện nói đến đây chấm dứt một câu chuyện. Người áo trắng liền thò tay vào túi lấy ra hai đỉnh bạc trao cho người giảng truyện và bảo:
- Tôi rất cảm ơn tướng công.
Dứt lời, hai người đứng dậy dắt tay nhau ra đi. Ngưu Cao cũng lẽo đẽo đi theo sau lưng, chàng nghĩ thầm:
- Chẳng biết tại sao hai người họ lại cho người giảng truyện nhiều bạc như vậy?
Chính người áo đỏ đi trước cũng thắc mắc quay lại hỏi:
- Sao huynh lại cho tên giảng truyện đến hai đỉnh bạc mà còn gọi là ít? Chắc dù sao người xứ này họ cũng cho mình là "hơi khác người" đấy.
Người áo trắng nói:
- Hiền đệ chẳng nghe hắn nói chuyện tiên tổ của anh chính người đó sao? Tổ tông của anh ngày xưa, trăm vạn Quân Trung chẳng có ai đánh lại, hắn đã biết ca tụng thì mời đĩnh bạc cũng đáng cho, đừng nói chi hai đĩnh.
Người áo đỏ gật đầu lia lịa khen phải.
Bây giờ Ngưu Cao mới hiểu ra, chàng lẩm bẩm:
- "À thì ra người ta tán dương cha ông của hắn nên chi hắn khoái chí quăng bạc ra không tiếc. Nếu như họ đề cập đến tổ tông ta thì ta biết lấy tiền đâu mà cho họ đây?".
Đang suy nghĩ, bỗng nghe người áo trắng vỗ vai người áo đỏ bảo:
- Họ nhóm họp một đám đông nữa kia kìa. Chúng ta đến đó xem chơi.
Rồi hai người lần đến ngay. Ngưu Cao cũng theo sát gót. Thì ra đây cũng là đám giảng truyện như hồi nãy.
Ba người bước vào cũng được mời ngồi tử tế. Người giảng này đang kể truyện Thuyết Đường, nói đến hồi Đường Vương Lý Thế Dân đánh trận Ngũ Long, đại hội tại Gia Tỏa sơn n có viên đại tướng mà thiên hạ gọi là anh hùng thứ bảy họ La tên Thành, vâng lệnh quân sư là Từ Mậu Công, có một mình mà bắt được Lạc Dương Vương là Vương Thế Xung, Sở Châu Nam Dương Vương là Châu Xáng Trương, Châu Bạch Ngư Vương là Cao Đàm Thánh, Minh Châu Hạ Minh vương là Đậu Kiến Đước, Tào Châu Tống Nghĩa Vương là Mạnh Hải Công.
Người giảng truyện vừa nói đến đây, bỗng người áo đỏ đứng dậy vỗ tay khen hay rồi thò vào túi lấy ra bốn đĩnh bạc cho và bảo:
- Tôi là khách đi đường, tiền bạc đem theo chẳng có bao nhiêu, kinh dâng chút đỉnh, xin anh chớ chê ít nhiều.
- Dạ, xin cảm ơn ông, dám đâu chê nhiều ít!
Rồi hai người từ biệt ra đi. Ngưu Cao cũng lúc thúc chạy theo sau. Chàng thầm nghĩ:
- Chắc người giảng truyện này lại ca tụng tổ tông của họ nên hắn mới cho tiền.
Tuy vậy, Ngưu Cao vẫn không biết hai người ấy.
Nguyên người áo trắng ấy họ Dương tên Tái Hưng, là cháu mấy đời của Dương Nghiệp. Còn người áo đỏ kia là cháu mấy đời của của La Thành tên là La Diên Khánh.
Lúc ấy Dương Tái Hưng hỏi La Diên Khánh:
- Sao hiền đệ cho hắn tới bốn đỉnh bạc?
La Diên Khánh đáp:
- Chớ hiền huynh không nghe hắn nêu cao tài năng dũng mãnh của tổ tông đệ sao? Ông tổ của đệ chỉ có một mình mà án ngữ nơi góc núi bắt được năm vị Phan Vương, chứ không phải của huynh tới chín người bảo hộ có một vị hoàng đế mà không tròn nhiệm vụ. Xét ra ông tổ của đệ giỏi hơn tổ tông của huynh nên đệ phải cho nhiều hơn hai đỉnh bạc chớ sao!
Dương Tái Hưng biến sắc mặt giận dữ quát:
- Ngươi dám coi thường tổ tông của ta sao?
La Diên Khánh trâm giọng:
- Chẳng phải tôi dám coi thường, nhưng tôi chỉ nói một sự thật hiển nhiên đó thôi!
Dương Tái Hưng hằn học:
- Được rồi. Nếu ngươi nói vậy, ta với ngươi trở về nhà đội mũ mang giáp, lên ngựa hẳn hoi thẳng ra tiểu giáo trường tỉ thí võ nghệ. Nếu ai hơn thì ở lại tranh chức Võ trạng, còn ai thua thì cút cho rồi chờ khoa sau sẽ đi ứng thí.
La Diên Khánh gật đầu:
- Được lắm! Tôi xin vui lòng lĩnh giáo.
Rồi hai người dắt nhau bỏ đi mất. Ngưu Cao đứng một mình vừa cười vừa nói lẩm bẩm:
- "May quá. Có ta đến đây nghe chúng nói mới biết, chứ nếu không thì khoa Trạng võ này, chắc hai thằng khốn ấy giựt mất của Nhạh đại huynh ta rồi".
Ngưu Cao vội vã chạy thẳng về quán trọ, nhưng thấy mấy anh em còn đang ngủ vùi, chàng nghĩ thầm:
- "Thôi ta cũng chẳng cần gọi mấy anh em dậy làm chi. Để ta đi cướp chức Trạng võ đem về dâng cho đại huynh ta cũng được".
Nghĩ đoạn, chàng rón rén lấy song giản giấu trong mình rồi xuống bảo người chủ tiệm:
- Anh hãy dắt con ngựa tôi ra để tôi đi có việc cần. Nhớ thắng yên lạc đầy đủ nhé.
Giang Chấn Tử vâng lời dắt ngựa ra cho Ngưu Cao. Chàng tung mình nhảy lên lưng ngựa phóng nước đại. Chàng cho ngựa chạy miết nhưng không biết đường nào cả. Chợt thấy hai lão già đang ngồi trước cửa nói chuyện, Ngưu Cao bèn gò cương ngồi chễm chệ trên lưng ngựa lớn tiếng gọi:
- Lão già kia, muốn đến tiểu giáo trường phải đi ngả nào?
Câu hỏi cộc lốc vô lễ ấy khiến hai ông già cảm thấy bực mình, không trả lời chỉ nhìn sững Ngưu Cao. Ngưu Cao cau mày hỏi vặn:
- Sao chẳng nói mau còn chần chừ gì nữa?
Hai lão già càng bực mình hơn nữa, liền giả lơ không đáp nửa lời. Ngưu Cao lại sừng sộ:
- Hai lão già này quả thật là ương ngạnh lạ đời. Ta có việc đi gấp, nêu không ắt không dung mạng đấy.
Một ông già lên tiếng nói:
- Người đâu mà ngang ngược thế kia. May mà mi gặp chúng ta đây già cả chẳng thèm hơn thua làm gì, chứ gặp phải trai tráng thì nãy giờ đã xảy ra đám đánh lộn to chuyện rồi. Thôi, cũng không chấp nhứt làm gì, để ta chỉ đường cho. Từ đây đi thẳng phía Đông, gặp con đường rẽ sang phía Nam vài trăm bước thì đến tiểu giáo trường.
Ngưu Cao nói:
- Chỉ có vậy mà làm như quan trọng lắm. Cái lão già này, nãy giờ không chịu chỉ phắt cho mau còn nói lôi thôi cho mệt. Nếu ta không sợ đại huynh ta thì ta cho một giản chắc đầu lìa khỏi cổ rồi.
Vừa nói, chàng vừa giục ngựa đi thẳng đến giáo trường.
Đến nơi, trông thấy hai người đang đánh nhau rất quyết liệt, Ngưu Cao trỏ vào mặt hai người nạt lớn:
- Chức Trạng võ là của đại huynh ta, sao hai đứa bay dám cả gan đến đây giành giựt? Hãy xem cây giản của ta đây.
Vừa nói, Ngưu Cao vừa nhắm ngay đầu Dương Tái Hưng đánh xuống một giản. Dương Tái Hưng vội tung thương gạt ra rồi bảo La Diên Khánh:
- Chẳng biết thằng khùng này ở đâu mà đến đây hành động lạ đời vậy? Thôi, hai ta dầu sao vẫn là anh em, đừng tỉ võ với nhau nữa, để cùng nhau chọc thằng này một trận cho vui.
La Diên Khánh gật đầu ưng thuận rồi vung thương đâm Ngưu Cao, Ngưu Cao vừa đỡ thì bên kia Dương Tái Hưng đâm lại một thương. Ngưu Cao phải đỡ trên, đỡ dưới, đỡ trước, đỡ sau nhưng vẫn bị hai người đánh đâm lia lịa khiến chàng phát quýnh lên.
Từ ngày Ngưu Cao bước ra khỏi cửa đến nay chưa từng gặp tay hảo hán, hôm nay gặp phải Dương Tái Hưng và La Diên Khánh là hai kẻ anh hùng vô địch, sức mạnh như thần thì làm sao Ngưu Cao đánh lại nổi. May nhờ hai người này chỉ đánh bằng cách chọc ghẹo để làm trò cười chơi chứ nếu thật tình ra tay thì Ngưu Cao ắt khó toàn tính mạng.
Ngưu Cao lính quýnh vùng la lớn:
- Nếu đại huynh không đến kịp thời thì chức Trạng võ chắc bị người khác đoạt mất rồi!
Nghe Ngưu Cao nói, hai người càng tức cười hơn nữa. La Diên Khánh nói:
- Thằng điên này nó gọi đại huynh nào ở đâu, hay là có tay hảo hán nào đây chăng? Vậy thì anh em mình giữ nó ở đây để đợi cái tên đại huynh của hắn đến xem thử thế nào cho biết.
Dứt lời, hai người càng vây chặt Ngưu Cao không cho tẩu thoát.
Bấy giờ tại quán trọ, Nhạc Phi thức giấc dậy trông thấy ba người kia đang ngủ, còn Ngưu Cao thì chẳng biết đi đâu mất, bèn gọi tất cả dậy hỏi, nhưng cả ba người đều ngơ ngác đáp:
- Bọn đệ ngủ có hay biết gì đâu!
Bốn anh em vội vã chạy xuống hỏi người chủ tiệm, Chấn Tử đáp:
- Ngưu tướng công cưỡi ngựa đi rồi.
Nhạc Phi hỏi vội:
- Đi lâu mau rồi?
- Thưa, Ngưu tướng công đi độ hơn một canh giờ rồi.
Nhạc Phi quay lại bảo Vương Quới:
- Vương đệ hãy xem thử binh khí của Ngưu đệ còn đây không?
Vương Quới chạy vào xem xét rồi chạy ra bảo:
- Cặp giản treo trên vách mà bây giờ chẳng thấy đâu cả.
Nhạc Phi biến sắc mặt nói với Giang Chấn Tử:
- Không xong rồi! Xin ông hãy dắt hết mấy con ngựa của anh em tôi ra đây, còn mấy anh em ta phải nai nịt cho sẵn sàng, binh khí cầm tay ra đi gấp. Nếu không có việc gì thì thôi, bằng nó có gây họa thì anh em ta cứu hắn rồi trốn luôn cho tiện.
Sau đó ngựa đã thắng đủ yên cương, ai nấy đều nai nịt chỉnh tề. Nhạc Phi hỏi Giang Chấn Tử:
- Ông thấy Ngưu Cao đi đường nào không?
- Tôi thấy Ngưu tướng công cưỡi ngựa đi qua hướng Đông.
Bốn anh em vội tung mình lên ngựa phóng thẳng về hướng Đông. Đi đến ngã ba bỗng thấy hai ông già đang ngồi nói chuyện trước cửa, Nhạc Phi bèn xuống ngựa bước tới xá một vái và lễ phép hỏi:
- Thưa lão trượng, chẳng hay lão trượng có thấy một người cao lớn, mặt mũi đen đúa cưỡi con ngựa ô đi ngang qua ngả này không?
Lão già không đáp mà hỏi lại:
- Người đen đúa ấy là gì với tướng công?
- Dạ, hắn là em của tiểu sinh.
Ông già ra vẻ ngạc nhiên hỏi:
- Tướng công ra vẻ con nhà tư văn, ăn nói khiêm nhường lễ độ, sao có người em lại lỗ mãng cộc cằn quá vậy?
Rồi lão ta bèn đem việc Ngưu Cao hỏi thăm đường thuật lại đầu đuôi cho Nhạc Phi nghe và nói:
- May mà gặp lão đây chứ như gặp ai thì họ đã chỉ trật đi đường khác rồi. Nghe y nói đi đến giáo trường. Tướng công muốn đi tìm kiếm thì hãy đi thẳng về hướng Đông rồi rẽ sang phía Nam độ vài trăm bước thì trông thấy giáo đường ngay.
Nhạc Phi tạ ơn rồi cùng anh em lên ngựa đi theo con đường do ông lão chỉ dẫn.
Khi đến gần giáo trường, bỗng nghe tiếng Ngưu Cao la lớn:
- Nếu đại huynh không đến kịp thời thì chức Trạng võ chắc sẽ bị chúng đoạt mất.
Nhạc Phi quất ngựa chạy vào thì thấy Ngưu Cao mặt mày thất sắc, miệng chảy nước dãi lòng thòng, tay cầm song giản vừa chống cự với đối phương vừa thở hổn hển.
Bên kia một người áo trắng, cưỡi con ngựa ngựa bạch tay cầm trường thương tướng mạo phương phi, sắc mạnh như thần, còn người áo đỏ cũng chẳng kém phần dũng mãnh. Cả hai bao vây Ngưu Cao vào giữa khiến chàng ngăn đỡ không kịp. Nhạc Phi ra hiệu cho anh em đứng lại, một mình giục ngựa xông vào, kêu lớn:
- Hai người kia hãy dừng tay!
Dương Tái Hưng và La Diên Khánh thấy thế vội bỏ Ngưu Cao quay thương nhắm Nhạc Phi đâm tới một lượt.
Nhạc Phi bèn vung cây Lịch Tuyền thương đánh ập xuống một cái chạm phải hai cây thương đối phương vang lên một tiếng kêu chói tai. Hai mũi thương của Tái Hưng và Diên Khánh không chịu nổi sức mạnh cây thần thương nên chúi xuống đất.
Nhạc Phi thừa thế vội dùng tay bắt đầu thương đối phương, ngón võ này gọi là "bại thương", không thể nào giải nổi.
Cả hai kinh hồn vội lui ra sau ba bước nhìn sững Nhạc Phi từ đầu đến chân rồi nói:
- Khoa thi này giải Trạng võ chắc sẽ về tay người này rồi, hai ta trở về cho xong.
Dứt lời, hai người giục ngưạ chạy dài. Nhạc Phi vội chạy theo gọi lớn:
- Nhị vị hảo hán, hãy dừng lại nói rõ danh tính cho tôi biết với.
Hai người quay lại đáp:
- Hai chúng tôi là Sơn Hậu Dương Tái Hưng và Hồ Quảng La Diên Khánh. Khoa Trạng võ này chúng tôi xin nhường lại cho tiên sinh, hẹn sau này sẽ gặp lại.
Dứt lời cả hai người phi ngựa đi mất. Nhạc Phi cho ngựa quay lại giáo trường, thấy Ngưu Cao còn đang thở hổn hển, vội hỏi:
- Tại sao hiền đệ lại đánh nhau với họ vậy?
Ngưu Cao cau mày:
- Sao đại huynh hỏi lạ vậy? Tiểu đệ đánh với chúng chỉ vì muốn đoạt chức Trạng võ cho đại huynh đấy thôi. Nhưng chẳng ngờ hai tay hảo hán này nó dữ dằn quá độ, đánh không lại. May đại huynh đến kịp thời đánh thắng chúng, vậy thì Trạng võ đã thuộc về tay đại huynh rồi.
Nhạc Phi thấy Ngưu Cao quá ngây thơ bèn cười xòa nói:
- Cảm ơn hiền đệ đã có lòng tốt với ta, song muốn giựt được chức Trạng võ ấy phải tỉ võ với hết thảy thiên hạ anh hùng, nếu không ai địch nổi mới được chớ đâu chỉ có hai ba người giành riêng với nhau?
Ngưu Cao giự nẩy người trố mắt nhìn Nhạc Phi nói:
- Nói vậy tôi ra sức đánh với hai tên ấy suốt nửa ngày mệt muốn đứt hơi chẳng là vô ích sao?
Anh em đều cười rộ rồi cùng nhau trở về quán trọ.
Sáng hôm sau, vừa điểm tâm xong, Thang Hoài, Vương Quới, Trương Hiển cùng nói với Nhạc Phi:
- Lâu nay bọn đệ muốn mua mỗi người một thanh gươm song chưa mua được. Hôm qua thấy hai người ấy đều có gươm mang theo, Ngưu đệ cũng đã có rồi. Vậy đại huynh chịu phiền đi với anh em, mỗi người mua một thanh mang chơi cho oai.
Nhạc Phi gật đầu đáp:
- Các hiền đệ nói cũng phải, song ta chẳng có tiền dư nên lâu nay không đề cập đến.
Vương Quới đáp:
- Không hề chi. Đại huynh chỉ xuất tiền mua một thanh cho đại huynh thôi, còn phần bọn đệ, mỗi người đều có chuẩn bị tiền bạc sẵn rồi.
- Thế thì hay lắm, chúng ta đi nào.
Sau khi đóng cửa phòng và dặn dò chủ tiệm, mấy anh em dắt nhau ra chợ, dọc theo đường lớn vào xem khắp các tiệm bán binh khí. Nhưng toàn là gươm thường, không vừa ý cái nào cả.
Nhạc Phi nói:
- Ở đây gươm xấu quá, hãy đi qua bên đường nhỏ kia xem có thanh nào tốt không?
Rồi dắt mấy anh em cùng rẽ sang cong đường nhỏ vào một tiệm kia, thấy có trưng bày rất nhiều đồ cổ, lại treo trướng liễn viết tên những bậc tiền bối có tên tuổi trong hàng võ nghệ, trên vách treo mười mấy thanh gươm.
Chủ tiệm trông thấy Nhạc Phi bước vào vội đứng dậy niềm nở hỏi:
- Chẳng hay chư vị tướng công muốn mua vật chi?
Nhạc Phi đáp:
- Ở đây có đao tốt hay gươm tốt xin cho coi thử.
- Dạ có chứ.
Vừa nói, chủ tiệm vừa lấy ra một thanh gươm sáng ngời trao cho Nhạc Phi. Chàng tiếp lấy xem kỹ hồi lâu rồi trả lại cho hắn, nói:
- Gươm này dùng không được. Có cây nào khác tốt hơn xin mang ra cho tôi xem thử.
Chủ tiệm lấy thanh khác, chàng cũng lắc đầu không vừa ý. Rồi lấy ra hàng loạt bảy tám cây nữa, mà cây nào cũng bị Nhạc Phi chê cả.
Nhạc Phi nói:
- Như có cây nào thiệt tốt thì đem ra, bằng không thì thôi, đừng đem ra mất công. Nếu không có thì chúng tôi xin cáo biệt vậy.
Người chủ tiệm cau mày nói:
- Mấy thanh đao, kiếm này mà tướng công không vừa ý thanh nào sao? Thế thì đao, kiếm thế nào mới vừa ý tướng công?
Nhạc Phi nói:
- Những đao kiếm này chỉ dùng cho những hàng vương tôn công tử đeo cho oai thôi, chứ anh em tôi mua là để dùng khi ra trận mạc, an bang định quốc. Vì vậy như có thanh nào tốt thì giá cả bao nhiêu tôi cũng chẳng nài.
Ngưu Cao lại xen vào nói:
- Có thang gươm nào tốt cứ việc đem ra đây, đắt rẻ bao nhiêu tôi cũng trả đủ, chớ có ai trả thiếu anh đâu mà anh làm bộ kỳ vậy?
Người chủ tiệm ngắm nhìn kỹ tướng mạo bọn Nhạc Phi rồi nói:
- Chư vị tướng công muốn thứ cho thật tốt thì tôi có một cây, song tôi để tại nhà chứ không ở đây. Tôi sẽ nhờ em tôi đưa chư vị tướng công về nhà tôi xem có được chăng?
Nhạc Phi hỏi:
- Chẳng hay nhà ở gần hay xa?
- Gần lắm, phía trước kia kìa.
- Thế thì hay lắm, chúng ta sẽ đến đó xem thử nào.
Rồi anh em Nhạc Phi kiếu từ chủ tiệm đi them người em, chỉ trong chốc lát đã đến ngay.
Sau khi mời anh em Nhạc Phi ngồi xuống uống nước xong, người ấy nói:
- Trước khi xem gươm báu, xin chư vị cho biết tính danh.
Nhạc Phi giới thiệu:
- Tôi là người ở Trung Châu, huyện Thang Âm, họ Nhạc tên Phi, còn mấy em tôi đây ở Hoàng huyện. Người này tên Thang Hoài, người kia tên Vương Quới, người kia tên Trương Hiển ...
Ngưu Cao xen vào nói tiếp:
- Còng tôi đây chính tên Ngưu Cao, đã có miệng thì tự xưng cũng được, chẳng cần phải nhờ ai giới thiệu.
Nhạc Phi nói với chủ nhà:
- Xin lỗi ông, em tôi tuy tính tình có hơi nóng nảy song tình nghĩa, xin ông chớ chấp.
Người chủ nhà khen ngợi:
- Tôi chưa thấy người nào ăn nói thuần hậu như tướng công, và tôi cũng đã từng nghe danh tướng công nhiều rồi.
Nhạc Phi vừa muốn hỏi lại danh tính của chủ nhà, nhưng chưa kịp hỏi, người ấy đã đứng dậy nói:
- Xin chư vị vui lòng ngồi đây đợi một lát, tôi vào nhà lấy gươm báu ra đây cho chư vị xem.
Dứt lời người ấy bước vào nhà trong. Nhạc Phi ngồi ngước mắt nhìn lên trên vách thấy treo thơ phú nhiều lắm, chàng xem qua hai câu liễn cái rồi bảo với anh em:
- Người này chắc là họ Châu.
Thang Hoài hỏi:
- Sao đại huynh biết?
Nhạc Phi mỉm cười:
- Cứ xem hai câu liễn treo kia thì rõ chứ khó gì đâu.
Anh em trố mắt nhìn mãi hai câu liễn vẫn không thấy chữ Châu đâu cả nên ra vẻ ngơ ngác. Nhạc Phi liền giải thích:
- Liễn kia viết: "Liễu dinh xuân thí mã hổ tương gia đàm binh". Vậy thì quả là thời Đường, Lý Tấn vương tặng Châu Đức Oai rồi, nên ta đoán chắc người này là họ Châu.
Ngưu Cao nói:
- Chẳng biết phải vậy hay không, để ông ta ra đây mình hỏi lại thì rõ.
Nói vừa dứt lời thì thấy chủ tiệm cầm gươm ra để trên ghế nói:
- Chư vị vào đây mà chẳng được ngồi hậu chuyện, thật có lỗi quá. Xin chư vị miễn chấp.
Nhạc Phi hỏi:
- Xin ông vui lòng cho chúng tôi biết danh tính với.
- Dạ tôi họ Châu, tên Tam Húy.
Mấy anh em nghe nói đều khen Nhạc Phi:
- Thiệt đại huynh quả là bậc thần thánh rồi.
Châu Tam Húy xưng tên họ xong liền đứng dậy mời Nhạc Phi xem gươm. Nhạc Phi cũng đứng dậy lễ phép tiếp lấy gươm xem xét hồi lâu rồi trịnh trọng để lên ghế nói:
- Xin ông hãy cất đi.
Châu Tam Húy ngạc nhiên:
- Sao tướng công xem mà không trả giá? Hay là gươm này cũng không vừa ý chăng?
Nhạc Phi đáp:
- Vật quí vô song, dù bao nhiêu tiền bạc cũng không thể sánh nổi, tôi không dám mơ tưởng.
Nói xong xin kiếu từ ngay. Châu Tam Húy liền mời lại hỏi:
- Tướng công biết gì về lai lịch cây gươm này, xin nói cho tôi biết với, sao lại bỏ đi vội vậy?
Nhạc Phi ngồi lại chưa kịp mở miệng, Tam Húy đã tiếp:
- Nguyên trước kia, ông tôi là võ quan trong triều nên mới có thanh gươm này để lại nó đến nay kể đã ba đời rồi, đến đời tôi đây thì theo đuổi nghiệp văn chương nên cây gươm trở thành vô dụng đối với tôi. Ông tôi trước khi chết có dặn lại rằng: "Sau này nếu có người nào biết gốc tích cây gươm này thì chỉ cho không mà thôi, chứ không được bán. Nay tiên sinh biết ngay nó là gươm báu, vậy xin nói cho tôi nghe thử có được không?
Nhạc Phi khiêm nhường đáp:
- Tiên sinh đã bảo thì tôi cũng xin nói những điều tôi biết về lai lịch thanh bảo kiếm này, dầu đúng, dầu sai, xin tiên sinh cũng bỏ quá cho.
Châu Tam Húy nói:
- Tiên sinh cứ chỉ giáo, quả thật tôi vô cùng hồi hộp. Có lẽ hôm nay cây gươm báu đã gặp chủ rồi chăng?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top