21. Thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ


 Tôi sẽ khép lại cuốn sách này bằng việc chia sẻ một số hiểu biết
mà tôi đã đạt được trong quá trình thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ. Cụ
thể, tôi sẽ đưa ra lời khuyên về cách mà những cá nhân muốn thử
thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ như một triết lý sống của họ có thể thu
được lợi ích tối đa từ phép thử này với nỗ lực và sự thất vọng ít nhất
có thể. Tôi cũng sẽ mô tả một số điều bất ngờ cũng như niềm vui
đang chờ đợi những ai muốn trở thành người Khắc kỷ.
Lời khuyên đầu tiên của tôi dành cho những ai muốn thử làm
theo chủ nghĩa Khắc kỷ là thực tập cái mà tôi gọi là chủ nghĩa Khắc
kỷ trầm lặng: Tôi nghĩ bạn sẽ làm tốt nếu giữ bí mật chuyện bạn
đạng thực hành Khắc kỷ. (Đây có lẽ là chiến lược của riêng tôi, có
thể tôi đã dùng chiến thuật này nếu tôi không có duyên trở thành
một giảng viên về chủ nghĩa Khắc kỷ.) Bằng cách thực hành chủ
nghĩa Khắc kỷ trầm lặng, bạn có thể đạt được những lợi ích của nó
đồng thời tránh được một cái giá phải trả khá lớn: sự trêu chọc và
chế giễu của bạn bè, người thân, hàng xóm và đồng nghiệp của
bạn.
Tôi xin nói thêm rằng, khá dễ để thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ
một cách lặng lẽ: Chẳng hạn, bạn có thể tham gia vào tưởng tượng
tiêu cực mà không cần phải trở nên uyên thâm hơn. Nếu chuyện
thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ của bạn đạt thành tựu, thì bạn bè,
người thân, hàng xóm và đồng nghiệp của bạn có thể nhận thấy một
sự khác biệt ở bạn - một sự thay đổi tốt hơn - nhưng họ có lẽ sẽ bị
thôi thúc muốn đi tìm lời giải đáp cho sự thay đổi. Nếu họ tìm gặp
bạn, với vẻ mặt khó hiểu, và hỏi bí mật của bạn là gì, bạn có thể
chọn tiết lộ sự thật đen tối cho họ biết: rằng bạn là một người Khắc
kỷ trầm lặng.
Lời khuyên tiếp theo của tôi dành cho những ai muốn trở thành
người Khắc kỷ là đừng cố gắng để thành thạo tất cả các kỹ thuật
Khắc kỷ cùng một lúc mà hãy bắt đầu với một kỹ thuật và khi đã
thành thạo nó thì mới chuyển sang kỹ thuật khác. Và theo tôi, một kỹ
thuật tốt để bắt đầu thực hành là tưởng tượng tiêu cực. Vào những
lúc rảnh rỗi trong ngày, hãy cố gắng suy ngẫm về sự ra đi của bất cứ
thứ gì mà bạn coi trọng trong cuộc đời. Kiểu trầm tư mặc tưởng này
có thể tạo ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ trong cách nhìn của bạn
về cuộc sống. Nó có thể khiến bạn nhận ra, dù chỉ là trong thoáng
chốc, bạn may mắn biết nhường nào - bạn phải biết ơn biết bao
nhiêu thứ, gần như bất kể hoàn cảnh sống của bạn ra sao.
Theo kinh nghiệm của tôi, tập tưởng tượng tiêu cực hằng ngày
cũng giống như thêm muối vào thức ăn. Một đầu bếp chỉ cần đầu tư
một lượng thời gian, năng lượng và tài năng ít ỏi để thêm muối vào
thức ăn, dẫn đến hương vị của hầu hết món ăn mà anh ấy thêm
muối vào sẽ đậm đà, thơm ngon hơn. Cũng giống như vậy, mặc dù
thực hành tưởng tượng tiêu cực đòi hỏi khoảng thời gian, năng
lượng và tài năng chẳng đáng là bao, những ai thực hành nó sẽ thấy
khả năng thưởng thức cuộc sống của họ tăng lên đáng kể. Bạn có
thể thấy mình, sau khi tưởng tượng tiêu cực, chấp nhận chính cuộc
đời này, mà chỉ ít lâu trước đó bạn đã phàn nàn rằng cuộc đời này
không đáng sống.
Có một điều mà tôi đã khám phá ra trong việc thực hành chủ
nghĩa Khắc kỷ, đó là ta dễ dàng quên thực hành tưởng tượng tiêu
cực và hệ quả là không làm liên tục trong suốt nhiều ngày hoặc
thậm chí nhiều tuần. Tôi nghĩ mình biết lý do tại sao điều này xảy ra.
Bằng cách thực hiện tưởng tượng tiêu cực, chúng ta làm tăng sự
thỏa mãn với hoàn cảnh sống của ta, nhưng để đạt được cảm giác
thỏa mãn này, điều tự nhiên cần làm chỉ đơn giản là tận hưởng cuộc
sống.
Quả thật, rõ ràng là thật bất thường khi một người nào đó đang
thỏa mãn với cuộc sống lại dành thời gian nghĩ về những chuyện tồi
tệ có thể xảy ra. Tuy nhiên, các nhà Khắc kỷ sẽ nhắc chúng ta rằng
tưởng tượng tiêu cực, bên cạnh việc khiến chúng ta cảm kích sâu
sắc đối với những thứ ta có, có thể giúp chúng ta tránh bám chấp
vào những thứ mà ta trân quý. Hệ quả là, thực hành tưởng tượng
tiêu cực trong những thời kỳ hạnh phúc cũng quan trọng như những
thời kỳ khó khăn.
Tôi đã cố gắng biến việc tưởng tượng tiêu cực mỗi tối trước khi đi
ngủ thành thói quen của mình, như một phần của bài tập "suy tưởng
trước giờ đi ngủ" được mô tả trong Chương 8, nhưng cuộc thử
nghiệm này đã thất bại. Vấn đề của tôi là tôi có xu hướng ngủ rất
nhanh ngay sau khi ngả lưng xuống giường; đơn giản là tôi không
có thời gian để mà tưởng tượng. Thay vào đó tôi tập lấy thói quen
tưởng tượng tiêu cực (và nhìn chung để đánh giá sự tiến bộ của tôi
như một người Khắc kỷ) trong khi lái xe đi làm. Bằng cách này, tôi
đã biến khoảng thời gian nhàn rỗi thành khoảng thời gian có ích,
được sử dụng một cách đích đáng.
Sau khi thành thạo về tưởng tượng tiêu cực, một người mới tập
Khắc kỷ nên tiến tới trở thành người thành thạo trong việc ứng dụng
sự tam phân quyền kiểm soát, được mô tả trong chương 5. Theo
các nhà Khắc kỷ, chúng ta nên tiến hành phân loại, trong đó phân
biệt giữa những thứ ta không thể kiểm soát, những thứ mà ta có
toàn quyền kiểm soát, và những điều mà chúng ta chỉ có chút quyền
kiểm soát chứ không thể kiểm soát hoàn toàn; và khi phân biệt điều
này, chúng ta nên tập trung chú ý đến hai loại sau. Cụ thể là, chúng
ta sẽ lãng phí thời gian và khiến mình lo lắng không cần thiết nếu cứ
bận tâm đến những việc mà ta không thể kiểm soát.
Nhân đây, tôi cũng khám phá ra rằng, việc áp dụng phép tam
phân quyền kiểm soát, bên cạnh việc giúp tôi quản lý những nỗi lo
lắng của mình, nó còn là một kỹ thuật hiệu quả để xoa dịu những nỗi
lo lắng của những người không theo phái Khắc kỷ xung quanh tôi,
mà những lo lắng của họ có thể phá vỡ sự bình thản của tôi. Khi
người thân và bạn bè chia sẻ với tôi về những nguồn cơn gây phiền
muộn, lo lắng trong cuộc sống của họ, hóa ra những thứ họ lo lắng
thường lại nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Phản ứng của tôi trước
những trường hợp như vậy là chỉ cho họ thấy điều này: "Anh có thể
làm được gì trong tình huống này? Không có gì cả! Vậy thì tại sao
anh vẫn cứ lo lắng về chuyện đó? Nó nằm ngoài tầm tay của anh,
vậy nên đừng phí công lo lắng." (Và nếu tôi đang có hứng thú, tôi sẽ
đưa thêm một trích dẫn từ Marcus Aurelius sau lời nhận xét cuối
cùng này: "Đừng làm những việc vô nghĩa.") Điều thú vị là mặc dù
một số người được mô tả là kiểu người dễ lo lắng, nhưng khi tôi thử
áp dụng điều này, phản ứng của họ trước lôgic của phép tam phân
quyền kiểm soát gần như luôn luôn là: Nỗi lo của họ bị xua tan, dù là
chỉ trong một khoảng thời gian ngắn.
Là người mới làm quen với chủ nghĩa Khắc kỷ, bạn sẽ muốn, là
một phần của việc trở nên thông thạo trong việc áp dụng phép tam
phân quyền kiểm soát, để thực hành nội tại hóa những mục tiêu của
bạn. Chẳng hạn, thay vì đặt mục tiêu giành chiến thắng trong một
trận tennis, bạn hãy coi việc chuẩn bị cho trận đấu một cách tốt nhất
có thể và cố gắng hết sức trong trận đấu là mục tiêu của mình. Bằng
cách thường xuyên nội tại hóa các mục tiêu, bạn có thể giảm thiểu
(nhưng có lẽ không thể xóa bỏ được hẳn) một nguồn cơn gây ra
nhiều đau khổ trong cuộc sống của bạn: cảm giác không đạt được
một số mục tiêu.
Trong việc thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ, bạn cũng sẽ muốn kết
hợp áp dụng phép tam phân quyền kiểm soát với việc trở thành một
người tin vào thuyết định mệnh về quá khứ và hiện tại - chứ không
phải tương lai. Mặc dù bạn sẽ sẵn sàng nghĩ về quá khứ và hiện tại
để học hỏi những thứ có thể giúp bạn ứng phó tốt hơn với những
chướng ngại cản trở sự bình thản của bạn trong tương lai, nhưng
bạn sẽ từ chối dành thời gian cho mấy cái suy nghĩ "giá mà, phải
chi" về quá khứ và hiện tại. Bạn sẽ nhận ra rằng vì quá khứ và hiện
tại không thể thay đổi, cho nên thật vô nghĩa khi ta cứ ước chúng
khác đi. Bạn sẽ cố gắng hết sức để chấp nhận quá khứ, bất kể nó
như nào, và cố hết sức để đón nhận hiện tại, bất kể nó có ra sao.
Như chúng ta thấy, người khác là kẻ thù trong cuộc chiến giành
sự bình thản của chúng ta. Chính bởi lý do này mà các triết gia Khắc
kỷ đã dành thời gian để phát triển các chiến lược ứng phó với kẻ thù
này và đặc biệt là những chiến lược để ứng phó với những lời lăng
mạ từ phía những người mà chúng ta kết giao. Một trong những tiến
bộ thú vị nhất trong việc thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ của tôi là tôi
đã thay đổi từ một người khiếp sợ trước những lời sỉ nhục, lăng mạ
thành một chuyên gia sành sỏi về lĩnh vực lăng mạ. Một lý do là, tôi
trở thành một nhà sưu tập những lời lăng mạ. Tôi đã phân tích và
phân loại những lời lăng mạ. Thứ hai, tôi mong đợi bị người ta xúc
phạm vì nó cho phép tôi có cơ hội để thành thạo trong "trò chơi lăng
mạ" của mình. Tôi biết điều này nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng một hệ quả
của việc thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ là người ta sẽ tìm kiếm các
cơ hội để áp dụng các kỹ thuật Khắc kỷ vào cuộc sống. Tôi sẽ bàn
nhiều hơn về hiện tượng này dưới đây.
Một trong những điều khiến cho chúng ta khó ứng phó với những
lời lăng mạ là chúng thường xảy ra một cách bất ngờ. Bạn đang nhẹ
nhàng nói chuyện với một người và - bùm! - anh ta nói câu gì đó,
mặc dù nó có thể không có ý xúc phạm, nhưng lại dễ gây hiểu
nhầm. Chẳng hạn, gần đây khi tôi đang nói chuyện với một đồng
nghiệp về cuốn sách mà anh ấy đang viết. Anh ta nói rằng trong
cuốn sách này, anh ta sẽ bình luận về một số tài liệu chính trị mà tôi
đã xuất bản. Tôi rất vui vì anh ấy biết đến công trình của mình và sẽ
đề cập về nó, nhưng sau đó anh ta lại buông ra lời phê phán: "Tôi
đang cố đưa ra quyết định," anh ta nói, "liệu, để đáp lại những điều
ông đã viết, tôi có nên mô tả ông là kẻ xấu xa hay chỉ đơn giản là kẻ
ấu trĩ không."
Hãy hiểu rằng những nhận xét kiểu đó không hiếm thấy ở giới
học giả. Chúng tôi là những kẻ thích gây sự một cách đáng thương.
Chúng tôi muốn người khác không chỉ biết đến công việc, tác phẩm,
công trình của mình mà còn phải ngưỡng mộ nó và, hơn thế nữa là
làm theo những kết luận mà chúng tôi đã rút ra. Vấn đề là các đồng
nghiệp cũng đang kiếm tìm sự ngưỡng mộ và tôn trọng đó. Và kết
quả là, phải luôn có những sự mâu thuẫn ở mọi giảng đường, giới
học giả thường xuyên tham gia vào mấy trò công kích nhau. Những
lời chỉ trích mỉa mai là điều bình thường cũ rích, còn những lời xúc
phạm thì đầy rẫy.
Vào cái thời mà tôi còn chưa biết đến chủ nghĩa Khắc kỷ, tôi sẽ
cảm nhận được cảm giác đau nhói của lời châm chọc này và có thể
sẽ nổi giận. Tôi sẽ quyết liệt bảo vệ công trình của mình và sẽ cố
gắng hết sức để tung đòn đáp trả. Nhưng vào chính ngày hôm đó,
do bị thu phục bởi các nhà Khắc kỷ, tôi đã khôn ngoan đáp trả lời
lăng mạ này đúng theo nguyên tắc của phái Khắc kỷ, cùng với óc
hài hước tự cười cợt chính mình: "Tại sao anh lại không tả luôn rằng
tôi là kẻ vừa xấu xa và ấu trĩ nhỉ?" Tôi hỏi.
Tự cười vào chính mình đã trở thành cách đáp trả thông thường
của tôi trước những lời lăng mạ. Khi ai đó chỉ trích tôi, tôi đáp rằng
vấn đề thậm chí còn có thể tồi tệ hơn so với anh ta tưởng. Chẳng
hạn, nếu có ai đó nói rằng tôi là kẻ lười biếng, tôi sẽ đáp lại rằng
việc tôi hoàn thành xong bất cứ việc gì đó là một điều kỳ diệu. Nếu
ai đó buộc tội tôi có cái tôi lớn, tôi đáp rằng thường thì phải mất kha
khá thời gian tôi mới nhận thức được sự tồn tại của người khác trên
hành tinh này. Những lời đáp trả như vậy có vẻ phản tác dụng khi
nói ra, theo một nghĩa nào đó thì tôi đang xác nhận những lời chỉ
trích của kẻ lăng mạ tôi. Nhưng bằng cách đưa ra những phản hồi
như vậy, tôi cho kẻ lăng mạ tôi hiểu rõ rằng tôi đủ tự tin vào bản thân
để miễn nhiễm trước mấy lời lăng mạ của anh ta; đối với tôi, chúng
chỉ là một chuyện bỡn cợt cho vui mà thôi. Hơn nữa, bằng cách từ
chối tham gia trò lăng mạ - bằng cách từ chối ăn miếng trả miếng
với kẻ lăng mạ - tôi tỏ thái độ rõ ràng rằng tôi đặt bản thân mình cao
hơn hành vi đó. Việc tôi từ chối tham gia trò chơi lăng mạ có thể sẽ
gây khó chịu cho kẻ lăng mạ hơn là tấn công lại anh ta.
Nổi giận là một trong những điều tồi tệ nhất chúng ta có thể làm
khi người khác chọc tức ta. Rốt cuộc, cơn giận sẽ trở thành một
chướng ngại lớn cho sự bình thản của chúng ta. Các nhà Khắc kỷ
nhận ra rằng tức giận là thứ đối lập với niềm vui và nó có thể hủy
hoại cuộc sống của chúng ta nếu ta cho phép nó muốn làm gì thì
làm. Trong quá trình quan sát những cảm xúc của mình, tôi đã chú ý
kỹ đến sự tức giận và nhờ đó mà phát hiện được một vài điều về nó.
Trước hết, tôi trở nên ý thức đầy đủ về mức độ tổn tại độc lập của
cơn giận bên trong tôi. Nó có thể ngủ yên giống như một con vi rút,
nó chỉ tỉnh lại và làm tôi khổ sở những lúc tôi ít ngờ tới nhất. Thí dụ,
tôi có thể đang ở lớp tập yoga cố gắng làm đầu óc mình trống rỗng,
không suy nghĩ, khi không biết từ đâu, tôi thấy trong lòng trào lên nỗi
tức giận về một số chuyện đã xảy ra nhiều năm trước.
Hơn nữa, tôi đã rút ra kết luận rằng Seneca đã sai lầm khi cho
rằng việc bộc lộ sự tức giận không mang lại niềm vui nào cả. Đây là
vấn đề với sự tức giận: Người ta cảm thấy tốt khi trút giận và cảm
thấy khó chịu khi phải kìm nén nó. Quả thật, khi sự tức giận của
chúng ta là chính đáng - khi ta tự tin rằng mình đúng và cái người
mà ta đang giận là sai trái - thì nổi nóng sẽ cho ta một cảm giác
tuyệt vời và cho người sai trái với ta biết rằng ta đang giận họ. Nói
cách khác, tức giận cũng giống như bị muỗi đốt: Không gãi ngứa sẽ
khiến bạn thấy khó chịu và bạn cảm thấy đã khi gãi. Tất nhiên, vấn
đề của bị muỗi đốt là sau khi bạn gãi chỗ ngứa, bạn thường ước
rằng mình đừng gãi: Sự ngứa ngáy quay trở lại, ngứa dữ dội hơn,
và khi gãi ngứa, chỗ vết muỗi cắn của bạn có thể bị nhiễm trùng.
Điều tương tự cũng đúng với cơn giận: Dù bạn thấy đã khi xả giận,
nhưng sau đó bạn có thể sẽ hối hận vì làm vậy.
Trút giận (hay tốt hơn, giả vờ tức giận) với mục tiêu nhằm thay
đổi hành vi của người khác là một chuyện: Con người chắc chắn
phản ứng với sự giận dữ. Thế nhưng, điều tôi khám phá ra là phần
lớn cơn giận mà tôi xả ra không thể được giải thích theo lối đó. Thí
dụ, khi tôi đang lái xe, thi thoảng tôi cũng tức giận - tôi nghĩ đó là
cơn giận chính đáng - trước những người lái xe kém, và đôi lúc tôi
còn quát họ. Vì cửa kính của xe tôi và xe họ đều đóng kín nên họ
chẳng thể nghe được tôi nói gì và không thể đáp lại sự tức giận của
tôi bằng cách không lặp lại hành động này trong tương lai. Cơn giận
này dù chính đáng nhưng lại hoàn toàn vô ích. Bằng cách trút giận,
tôi chẳng thu được gì ngoài việc làm xáo trộn sự bình thản của
chính mình.
Trong những trường hợp khác, dù tôi có lý do chính đáng để giận
một người nào đó, nhưng vì hoàn cảnh mà tôi không thể bộc lộ cơn
giận trực tiếp với anh ta, vì vậy thay vào đó tôi thấy mình đang nghĩ
xấu về anh ta. Một lần nữa, những cảm xúc giận dữ đó thật chẳng đi
tới đâu: Chúng khiến tôi khổ sở nhưng không ảnh hưởng gì đến cái
người mà tôi giận. Quả thực, có thể những cảm xúc ấy còn đang
góp phần vào thiệt hại mà người kia gây ra cho tôi. Thật là lãng phí!
Nhân đây tôi cũng phát hiện ra việc rèn luyện chủ nghĩa Khắc kỷ
đã giúp tôi giảm bớt tần suất nổi giận trước những tài xế khác: Tần
suất tôi la hét quát tháo có lẽ chỉ còn một phần mười so với khi xưa.
Nó cũng giúp tôi giảm số lượng suy nghĩ đen tối về những người có
lỗi với tôi từ ngày xưa. Và khi những suy nghĩ đen tối này có nhiễm
vào tôi, chúng không còn kéo dài như trước.
Vì cơn giận có những đặc tính này - vì nó có thể nằm im lìm trong
chúng ta và bởi vì việc trút giận khiến ta thấy sung sướng - ta sẽ khó
mà chế ngự cơn giận, và học cách vượt qua nó là một trong những
thách thức lớn nhất mà người thực hành Khắc kỷ phải đối diện.
Nhưng có một điều mà tôi phát hiện ra, đó là bạn càng suy nghĩ về
cơn giận và hiểu được nó thì bạn càng dễ dàng kiểm soát nó. Tôi
tình cờ đọc bài luận của Seneca về sự tức giận trong khi đang ngồi
đợi ở phòng khám của bác sỹ. Bác sỹ trễ giờ kinh khủng, khiến tôi
phải ngồi đợi trong phòng chờ gần một tiếng. Tôi có quyền nổi giận,
và nếu như là tôi trước đây, khi chưa thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ,
tôi gần như chắc chắn sẽ nổi trận lôi đình. Nhưng bởi vì tôi đã chiêm
nghiệm về cơn giận trong suốt một giờ nên tôi thấy mình không thể
nào giận nổi.
Tôi cũng nhận thấy việc sử dụng óc hài hước để đối phó với cơn
giận cũng khá hữu dụng. Cụ thể là, tôi đã tìm được một phương
cách tuyệt vời để tránh nổi giận, đó là tưởng tượng bản thân mình là
một nhân vật trong một vở kịch ngớ ngẩn: Vở kịch không cần phải
có ý nghĩa, diễn viên trong đó cũng chẳng cần có tài năng, và công
lý, nếu có xảy ra, thì cũng chỉ là tình cờ. Thay vì để cho mình nổi
giận trước các sự kiện đó, tôi thuyết phục bản thân cười nhạo
chúng. Quả thực, tôi cố gắng nghĩ theo cách mà nhà soạn kịch ngớ
ngẩn trong tưởng tượng có thể khiến mọi thứ trở nên lố bịch hơn
nữa.
Tôi chắc chắn rằng Seneca đã đúng khi ông coi thật nhiều tiếng
cười là cách phản hồi chính xác cho những điều khiến ta rơi nước
mắt." Seneca cũng nhận xét rằng "người không bao giờ kìm chế
tiếng cười của bản thân thì khôn ngoan hơn những kẻ không kìm
chế những giọt nước mắt của anh ta, vì tiếng cười biểu lộ cảm xúc
một cách hết sức dịu dàng," và cho rằng "chẳng có điều gì quan
trọng, chẳng có thứ gì là nghiêm túc cũng như khốn khổ, trong cả
cuộc đời này."
Bên cạnh việc khuyên chúng ta tưởng tượng về những chuyện tồi
tệ xảy đến với ta, như chúng ta đã thấy, các nhà Khắc kỷ còn
khuyên chúng ta gây ra những chuyện tồi tệ do việc thực hiện
chương trình tình nguyện chịu khổ của chúng ta. Chẳng hạn Seneca
khuyên chúng ta thỉnh thoảng sống như thể ta là người nghèo, và
Musonius khuyên chúng ta làm những việc khiến bản thân cảm thấy
không thoải mái. Làm theo lời khuyên này đòi hỏi mức độ tự kỷ luật
bản thân lớn hơn so với thực hành các kỹ thuật Khắc kỷ khác.
Những chương trình tự nguyện chịu khổ do đó phù hợp nhất cho
"những người Khắc kỷ cấp cao".
Tôi đã thử nghiệm chương trình tự nguyên chịu khổ. Tôi không
thử đi chân trần như Musonius gợi ý, mà chỉ thử những việc ít khó
hơn, chẳng hạn như ăn mặc phong phanh vào thời tiết mùa đông,
không bật máy sưởi trong xe ô tô vào mùa đông, và không dùng
điều hòa vào mùa hè.
Tôi cũng bắt đầu ghi danh học các lớp yoga. Yoga đã cải thiện sự
cân bằng và tính linh hoạt của tôi, nhắc nhở tôi về tầm quan trọng
của việc vui chơi và làm tôi ý thức sâu sắc rằng tôi gần như có rất ít
quyền kiểm soát đối với những ý nghĩ trong tâm trí tôi. Nhưng bên
cạnh việc mang lại những lợi ích này kia cho tôi, yoga còn là một
nguồn tuyệt vời mang lại sự khó chịu tự nguyện. Trong lúc tập yoga,
tôi vặn mình vào những tư thế không thoải mái hoặc có lúc đến gần
với sự đau đớn. Chẳng hạn, tôi sẽ bẻ cong chân cho đến khi chúng
gần chuột rút và sau đó thả lỏng ra một chút. Giáo viên yoga của tôi
chưa từng nói về sự đau đớn; thay vào đó, cô ấy nói về những tư
thế làm phát sinh "quá nhiều cảm giác." Cô ấy dạy tôi cách "hít vào"
vị trí bị tổn thương, mà tất nhiên điều này là bất khả thi về mặt sinh
lý nếu những gì tôi đang trải nghiệm là chuột rút ở chân chẳng hạn.
Ấy thế nhưng kỹ thuật này lại rất hiệu quả.
Một nguồn gây khó chịu khác - và phải thừa nhận nó cũng là một
nguồn đem lại niềm vui và sự giải trí cho tôi - là chèo thuyền. Ít lâu
sau khi tôi bắt đầu thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ, tôi học chèo
thuyền đua và kể từ đó bắt đầu tham gia cuộc đua thuyền. Những
tay chèo thuyền chúng tôi phải tiếp xúc với sự nóng, ẩm vào mùa hè
và gió, lạnh, thậm chí cả tuyết vào mùa xuân và thu. Thỉnh thoảng
chúng tôi bị nước bắn tung tóe. Chúng tôi còn bị phồng giộp và chai
da. (Gọt giũa mấy vết chai da là một hoạt động yêu thích của những
tay chèo thuyền nghiêm túc.)
Bên cạnh việc là nguồn cơn gây ra sự khó chịu về thể chất, chèo
thuyền còn gây ra sự không thoải mái về tâm lý. Cụ thể là, chèo
thuyền mang đến cho tôi một danh sách những nỗi sợ hãi mà tôi
phải vượt qua. Chiếc thuyền mà tôi chèo khá là bấp bênh; quả thật,
nếu được tạo cơ hội, họ sẽ vui mừng mà ném một tay chèo thuyền
xuống nước. Tôi phải nỗ lực rất nhiều để vượt qua nỗi sợ bị lật
thuyền (bằng cách vẫn sống sót qua ba vụ lật thuyền). Rồi từ đó, tôi
tiếp tục vượt qua những nỗi sợ khác, bao gồm nỗi sợ chèo thuyền
lúc sáng sớm tinh mơ khi trời còn tối, nỗi sợ bị đẩy ra xa khỏi bến
tàu khi đang đứng trên thuyền, và nỗi sợ chèo ra giữa hồ, cách bờ
gần nhất hàng trăm mét, trên một chiếc thuyền nhỏ (đã ba lần phản
bội tôi).
Bất cứ khi nào bạn thực hiện một hoạt động có khả năng bị thất
bại trước sự chứng kiến của công chúng, bạn có thể trải nghiệm
cảm giác bồn chồn. Tôi đã đề cập ở trên rằng kể từ khi thực hành
Khắc kỷ, tôi đã thành một người đi sưu tập những lời lăng mạ. Và tôi
cũng trở thành người đi sưu tập cảm giác hồi hộp, bồn chồn nữa.
Tôi thích tham gia vào những hoạt động mang lại cho tôi cảm giác
hồi hộp, chẳng hạn như đua thuyền, đơn giản vì nhờ thế mà tôi có
thể thực tập ứng phó với chúng. Rốt cuộc thì những cảm xúc đó là
một phần quan trọng của nỗi sợ thất bại, như thế bằng cách xử lý
chúng, tôi đang nỗ lực vượt qua nỗi sợ thất bại của mình. Vài giờ
trước khi cuộc đua bắt đầu, tôi cảm nhận được cảm giác bồn chồn
hồi hộp thật mãnh liệt. Tôi cố hết sức để biến chúng thành lợi thế
cho mình: Chúng làm tôi tập trung vào cuộc đua phía trước. Một khi
cuộc đua đã bắt đầu, tôi sung sướng khi nhận thấy cảm giác bồn
chồn hồi hộp mất đi.
Tôi cũng tìm kiềm cảm giác hồi hộp ở những nơi khác. Chẳng
hạn, sau khi bắt đẩu thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ, tỏi quyết định
học chơi một nhạc cụ, việc mà trước giờ tôi chưa từng làm. Nhạc cụ
mà tôi chọn là đàn banjo. Sau vài tháng theo học, giáo viên hỏi liệu
tôi có muốn tham gia buổi hòa nhạc do các học viên của ông ấy tổ
chức không. Lúc đầu tôi từ chối lời đề nghị này; nghe chẳng có gì
vui khi bạn có nguy cơ bị mất mặt khi chơi đàn banjo trước một
nhóm người lạ. Nhưng sau đó tôi nhận ra đây là một cơ hội tuyệt vời
để tự làm bản thân khó chịu về mặt tâm lý hòng đối diện - và hy
vọng làm nó biến mất - nỗi sợ thất bại của bản thân. Và tôi đồng ý
tham gia.
Buổi biểu diễn là sự kiện gây căng thẳng nhất mà tôi từng trải qua
trong một thời gian dài. Tôi không sợ đám đông; tôi có thể bước vào
một lớp có sáu mươi sinh viên tôi chưa từng gặp, mà không hề cảm
thấy lo lắng và bắt đầu giảng bài cho họ. Nhưng sự kiện lần này lại
khác. Trước buổi biểu diễn, tôi có cảm giác bồn chồn. Không chỉ
vậy, tôi còn rơi vào trạng thái biến đổi ý thức mà trong đó thời gian bị
bóp méo và các định luật vật lý dường như ngừng hoạt động.
Nhưng để tóm tắt câu chuyện thì, tôi đã sống sót qua buổi biểu diễn.
Những cảm giác bồn chồn hồi hộp dồn dập mà tôi trải nghiệm
trong một cuộc đua thuyền hay trong buổi biểu diễn đàn banjo, tất
nhiên, là một triệu chứng của lo lắng, và điều này dường như đối lập
với các nguyên tắc của người Khắc kỷ rằng hãy cố hết sức tránh
làm bản thân lo lắng. Quả thật, nếu một mục tiêu của chủ nghĩa
Khắc kỷ là đạt được sự bình thản, thì chẳng phải là tôi nên cố gắng
hết sức tránh những hoạt động gây ra lo lắng sao? Chẳng phải tôi
nên lánh xa chúng thay vì đi sưu tập những cảm giác bồn chồn hồi
hộp?
Không hề. Chẳng hạn, khi khiến bản thân lo lắng bằng cách tham
gia buổi diễn đàn banjo, tôi đã ngăn chặn được nhiều lo lắng trong
tương lai. Bây giờ, khi đối mặt với một thử thách mới, tôi có được
một chút lý do tuyệt vời mà tôi có thể sử dụng: "So với buổi biểu
diễn đàn banjo, thử thách mới này chẳng là gì cả. Tôi đã sống sót
qua thử thách đó, bởi vậy chắc chắn tôi cũng sẽ sống sót qua thử
thách lần này." Nói cách khác, bằng cách tham gia buổi hòa nhạc, tôi
đã tạo cho bản thân khả năng miễn dịch khá lớn trước những nỗi lo
lắng trong tương lai. Tuy nhiên, sự miễn dịch này sẽ mất dần tác
dụng theo thời gian, và tôi sẽ cần tăng miễn dịch lại bằng một liều
cảm giác bồn chồn khác.
Khi làm những việc khiến bản thân khó chịu về thể chất lẫn tinh
thần, tôi xem bản thân - hay, một phần của bản thân tôi - như một
đối thủ trong một trò chơi. Đối thủ này - "cái tôi khác" của tôi - đang
ở trong chế độ lái tự động theo tiến hóa: Anh ta chẳng muốn điều gì
khác ngoài sự thoải mái và tận dụng mọi cơ hội để có được lạc thú.
"Cái tôi khác" của tôi thiếu khả năng tự kỷ luật bản thân; khi bạn để
yên cho anh ta tự đưa ra quyết định thì anh ta sẽ luôn chọn con
đường dễ nhất trong cuộc sống và kết quả là không hơn gì một kẻ
chạy theo lạc thú có đầu óc đơn giản. Anh ta cũng là kẻ hèn nhát.
"Cái tôi khác" đó không phải là bạn của tôi; trái lại anh ta bị xem như,
theo lời của Epictetus, "một kẻ thù đang rình rập."
Để giành chiến thắng trong cuộc thi với cái tôi khác của mình, tôi
phải giành áp chế đối với anh ta. Để làm điều này, tôi phải khiến anh
ta trải qua sự khó chịu, không thoải mái mà anh ta có thể dễ dàng né
tránh, và tôi phải ngăn không cho anh ta trải nghiệm lạc thú mà anh
ta có thể tận hưởng. Khi anh ta sợ làm việc gì đó, tôi phải ép buộc
anh ta đối diện với những sợ hãi của mình và vượt qua chúng.
Tại sao lại tham gia trò chơi chống lại cái tôi khác của bản thân?
Một phần để đạt được khả năng kỷ luật bản thân. Và tại sao khả
năng kỷ luật bản thân lại đáng sở hữu? Bởi vì những người sở hữu
nó có khả năng định đoạt những việc họ làm với cuộc đời họ. Còn
những ai thiếu khả năng kỷ luật bản thân thì con đường mà họ đi
qua cuộc đời này sẽ được quyết định bởi người khác hay một điều
gì khác, và do đó, họ có nguy cơ sống lầm đường lạc lối.
Tham gia trò chơi chống lại cái tôi khác của bản thân cũng giúp
tôi rèn giũa con người mình. Tôi nhận ra, ngày nay người ta có thể
nhếch mép cười mỉa khi nói về chuyện rèn giũa con người, nhưng
đấy là một hoạt động mà các triết gia Khắc kỷ hết lòng ủng hộ và
muốn giới thiệu cho những ai ao ước có một cuộc sống tốt đẹp.
Một lý do khác để tham gia trò chơi chống lại cái tôi khác của bản
thân là trò đó rất thú vị, hơi bất ngờ nhỉ. Nó khá là thú vị khi bạn "ghi
một điểm" trong trò chơi này bằng cách, chẳng hạn, vượt qua được
một nỗi sợ. Các triết gia Khắc kỷ đã nhận ra điều này. Epictetus, như
ta thấy ở chương 7, nói về cái lạc thú có được từ việc bản thân
chúng ta từ chối nhiều thú vui. Tương tự thế, Seneca nhắc chúng ta
rằng mặc dù việc chịu đựng một điều gì đó có thể là khó chịu, nhưng
nếu chịu đựng được thì ta sẽ hài lòng về bản thân.
Khi tôi tham gia đua thuyền, nhìn bên ngoài có vẻ như tôi đang cố
gắng đánh bại những tay chèo khác, nhưng trên thực tế tôi đang
tham gia vào một cuộc đua quan trọng hơn rất nhiều: cuộc đua với
cái tôi khác của tôi. Anh ta không muốn học cách chèo thuyền. Anh
ta không muốn tập luyện, thay vào đó anh ta thích dành thời gian
vào buổi sáng tinh mơ để ngủ nướng trên một chiếc giường ấm áp.
Anh ta không muốn chèo thuyền đến điểm xuất phát của cuộc đua.
(Thật vậy, trên đường tới đó, anh ta liên tục than vãn về việc anh ta
cảm thấy mệt mỏi ra sao.) Trong suốt cuộc đua, anh ta muốn bỏ
chèo và để các tay chèo khác giành chiến thắng. ("Chỉ cần anh bỏ
cuộc," anh ta sẽ nói bằng một giọng quyến rũ nhất có thể, "mọi đau
đớn thể xác sẽ chấm dứt. Thế thì tại sao lại không từ bỏ? Nghĩ xem
anh sẽ cảm thấy dễ chịu biết nhường nào!")
Thật kỳ lạ, nhưng các đối thủ của tôi trong một cuộc đua lại đồng
thời cũng là đồng đội của tôi trong một cuộc đua quan trọng hơn
nhiều với cái tôi khác của tôi. Để tranh đua với nhau, chúng ta đồng
thời đều đang đua với chính mình, mặc dù không phải tất cả chúng
ta đều ý thức được mình đang làm việc này. Để tranh đua với nhau,
chúng ta phải chiến thắng được bản thân mình - chiến thắng những
nỗi sợ, tính lười biếng của chúng ta, sự thiếu kỷ luật bản thân của
ta. Và người ta hoàn toàn có thể thất bại trong cuộc đua với những
tay chèo thuyền khác - thực sự về chót - nhưng trong quá trình nỗ
lực lại giành được chiến thắng trong cuộc đua với cái tôi khác của
anh ta.
Như chúng ta đã thấy, các nhà khắc kỷ khuyên ta đơn giản hóa
lối sống. Cũng giống như các chương trình tự nguyện chịu khổ khác,
đơn giản hóa lối sống là một quá trình tốt nhất là nên dành cho
những người Khắc kỷ đẳng cấp cao. Như tôi đã lý giải, một người
mới làm quen với chủ nghĩa Khắc kỷ có lẽ sẽ muốn tránh thu hút sự
chú ý. Nếu bạn bắt đầu ăn mặc tuềnh toàng, mọi người sẽ để ý.
Tương tự thế, người ta sẽ chú ý nếu bạn vẫn đang lái chiếc xe cũ kĩ
đó hoặc - kinh dị! - bỏ xe hơi để đi xe buýt hay đạp xe đạp. Người ta
sẽ nghĩ tới những tình huống xấu nhất: sắp phá sản, hay có lẽ bạn
đang ở giai đoạn đầu của bệnh tâm thần. Và nếu bạn giải thích với
họ rằng bạn đã vượt qua được cái ham muốn gây ấn tượng với
người khác, những người bị thu hút bởi cái vỏ bên ngoài của con
người, bạn sẽ chỉ khiến cho vấn đề trở nên tệ hơn.
Khi tôi bắt đầu thử nghiệm lối sống đơn giản, tôi phải mất một
thời gian mới quen dần với việc này. Chẳng hạn, khi một ai đó hỏi tôi
về chiếc áo thun mà tôi đang mặc mua ở đâu và tôi đáp rằng tôi mua
nó ở cửa hàng đồ cũ, tôi thấy có chút xấu hổ. Sự cố này khiến tôi
đánh giá cao cách ứng phó của Cato trước những cảm giác như
vậy. Như chúng ta đã thấy, Cato ăn mặc lập dị như một dạng bài tập
huấn luyện: Ông ta muốn dạy bản thân "chỉ xấu hổ trước những điều
đáng xấu hổ." Do đó ông đã phá lệ khi làm những việc sẽ khiến bản
thân ông thấy xấu hổ, đơn giản để ông ta có thể luyện tập vượt qua
những cảm giác như thế. Dạo gần đây tôi đang cố gắng thi đua với
Cato về điều này.
Kể từ khi trở thành người khắc kỷ, những ham muốn của tôi đã
thay đổi chóng mặt: Tôi không còn thèm muốn nhiều thứ mà trước
đây tôi từng xem là điều thiết yếu để sống một cách đàng hoàng. Hồi
xưa tôi ăn mặc chải chuốt, lịch lãm bao nhiêu thì giờ đây tủ quần áo
của tôi, nói một cách dễ hiểu nhất, lại rất thực dụng: Tôi có một
chiếc cà vạt và một chiếc áo khoác thể thao mà tôi có thể tặng cho
ai đó nếu họ cần; may là họ ít khi xin. Tôi từng ước mình tậu được
một chiếc xe hơi mới, nhưng khi chiếc xe hơi 16 tuổi của tôi gần đây
bị hỏng, tôi đã thay nó bằng một chiếc xe có tuổi đời 9 năm, một việc
mà một thập kỷ trước tôi chẳng thể nào tưởng tượng nổi mình có
thể làm. (Nhân đây tôi xin nói luôn, chiếc xe hơi "mới" có hai thứ mà
chiếc xe cũ của tôi thiếu: một cái khay giữ cốc nước và một đài phát
thanh còn hoạt động được. Mừng thay!) Có một thời tôi hiểu được
tại sao ai đó lại muốn sở hữu một chiếc đồng hồ Rolex; còn bây giờ
hành vi ấy như đánh đố tôi. Tôi thường có ít tiền hơn nhu cầu của
mình; bây giờ điều này không còn là vấn đề nữa, một phần bởi vì tôi
muốn rất ít thứ mà tiền có thể mua được.
Tôi đọc được rằng nhiều đồng bào Mĩ của tôi đang gặp rắc rối về
tài chính. Đáng tiếc là họ có khuynh hướng tiêu xài hết hạn mức thẻ
tín dụng và khi điều này vẫn không thỏa mãn được ham muốn mua
sắm của họ thì họ vẫn cứ tiếp tục tiêu xài. Ai đó có thể cho rằng
nhiều người trong số họ sẽ trở nên giàu có thay vì bị khánh kiệt - và
sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều nếu như họ phát triển được khả năng
tận hưởng những niềm vui đơn giản của cuộc đời.
Tôi đã trở thành một kiểu khách hàng dị thường. Chẳng hạn, khi
đi đến một trung tâm thương mại, tôi không mua đồ; thay vào đó tôi
ngó nghiêng mọi thứ xung quanh và tôi thấy bất ngờ trước tất cả
những món đồ mà họ đang bán mà tôi không chỉ không cần tới mà
còn chẳng thể nào tưởng tượng nổi bản thân mình lại khao khát
chúng. Thú vui duy nhất của tôi ở một trung tâm mua sắm là quan
sát những vị khách khác đang làm gì ở đó. Tôi đồ rằng đa số bọn họ
đến trung tâm mua sắm không phải vì có một thứ gì đó mà họ cần
mua. Thay vào đó họ đến với hy vọng rằng làm như vậy sẽ khơi dậy
một ham muốn về thứ gì đó mà trước khi đi mua sắm họ không có.
Nó có thể là một khao khát mua một cái áo len cashmere, hoặc điện
thoại di động mẫu mới nhất.
Tại sao lại làm mọi cách để khơi dậy một ham muốn? Vì nếu họ
khơi dậy ham muốn, họ có thể tận hưởng được cảm giác vui thú khi
dập tắt ham muốn đó bằng cách mua món đồ họ cần. Tất nhiên, đó
là một cảm giác hưng phấn, không liên quan gì đến hạnh phúc về
lâu dài của họ cũng như việc chơi heroin không liên quan gì hạnh
phúc đến lâu dài của một người nghiện heroin.
Nói thế chứ, tôi xin bổ sung thêm là lý do mà tôi ít ham muốn đối
với chuyện mua sắm không phải vì tôi ý thức đấu tranh chống lại sự
nảy sinh ham muốn. Trái lại, những ham muốn ấy chỉ đơn giản là
ngừng xuất hiện trong tâm trí tôi - hoặc ở mức độ nào đó, chúng
không còn xuất hiện thường xuyên như trước đây. Nói cách khác,
khả năng hình thành ham muốn của tôi đối với hàng hóa tiêu dùng
có vẻ như bị teo đi.
Điều gì đã mang đến tình trạng này? Nhờ rèn luyện chủ nghĩa
Khắc kỷ, tôi nghiệm ra một cách sâu sắc rằng đạt được những điều
mà mọi người trong vòng tròn xã hội của tôi khao khát và làm việc
chăm chỉ để có được, về lâu về dài, chẳng tạo nên khác biệt gì trong
mức độ hạnh phúc của tôi và hoàn toàn không góp phần mang lại
cho tôi một cuộc sống tốt đẹp. Cụ thể là, nếu có được một chiếc xe
hơi mới, một tủ quần áo đẹp, một chiếc đồng hồ Rolex, và một ngôi
nhà lớn hơn, tôi tin chắc rằng mình sẽ chẳng vui hơn so với hiện tại
- và thậm chí còn ít vui hơn.
Là một người tiêu dùng, dường như tôi đã có duyên tao ngộ với
một điều gì đó thần thánh vĩ đại. Và có vẻ như từ sau nhân duyên
này tôi sẽ không thể nào quay lại với chủ nghĩa tiêu thụ mù quáng
mà tôi từng lấy làm thích thú nữa.
Bây giờ cho phép tôi mô tả về một tác dụng phụ đầy bất ngờ của
việc rèn luyện chủ nghĩa Khắc kỷ. Là một người Khắc kỷ, bạn sẽ liên
tục chuẩn bị tinh thần để đối diện với gian khổ bằng cách, chẳng hạn
như, tham gia vào hoạt động tưởng tượng tiêu cực hoặc tự nguyện
gây ra sự khó chịu cho bản thân. Nếu khó khăn không đến, bạn có
thể khởi sinh một kiểu thất vọng tò mò. Bạn có thể thấy bản thân
mình đang mong rằng kỹ năng Khắc kỷ của bạn sẽ được thử thách
để bạn có thể biết liệu mình có thực sự có những kỹ năng quản lý
khó khăn mà bạn đã nỗ lực để đạt được hay không. Nói cách khác,
bạn giống như một lính cứu hỏa rèn luyện các kỹ năng cứu hỏa
trong nhiều năm trời nhưng chưa từng được gọi đi chữa cháy một
vụ hỏa hoạn nào hoặc giống như một cầu thủ bóng đá, mặc dù
siêng năng luyện tập suốt mùa giải, nhưng chưa bao giờ được cho
ra sân đá chính thức.
Về phương diện này, nhà sử học Paul Veyne đã nhận xét rằng
nếu chúng ta cố gắng thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ, "một cuộc sống
bình lặng thực sự là đáng lo ngại vì chúng ta không biết được liệu
mình vẫn giữ được sự mạnh mẽ trong trường hợp bão tố nổi lên
không." Tương tự vậy, theo Seneca, khi một ai đó cố hãm hại một
người đàn ông khôn ngoan, ông ta thực tế còn chào đón nỗ lực ấy,
vì những lời xúc phạm chẳng thể làm tổn thương ông ta mà trái lại
còn có thể giúp ông: "Cho đến giờ... có phải từ những lần quằn quại
vì những lúc bị hoàn cảnh hoặc người khác vùi dập mà anh ta coi
những tổn thương đó là có lợi cho mình, vì qua đó anh ta tìm được
phương tiện để biến mình thành một nhân chứng sống và thử thách
đạo đức của mình." Seneca cũng cho rằng một người Khắc kỷ có
thể chào đón cái chết, vì nó đại diện cho bài kiểm tra cuối cùng, thử
thách tột cùng chất Khắc kỷ của anh ta.
Mặc dù tôi không còn luyện tập chủ nghĩa Khắc kỷ từ rất lâu rồi,
tôi khám phá thấy trong mình một khao khát được thử thách kỹ năng
Khắc kỷ của bản thân. Tôi đã đề cập đến mong muốn bị người khác
xúc phạm của mình: Tôi muốn thử xem liệu mình sẽ đáp lại những
lời lăng mạ đó theo đúng cách của người Khắc kỷ hay không.
Tương tự, tôi cũng đặt bản thân vào những tình huống thử thách
lòng can đảm và ý chí của mình, một phần để biết liệu tôi có vượt
qua được những bài kiểm tra đó không. Và trong khi tôi đang viết
cuốn sách này, một sự cố đã xảy đến, cho tôi một sự hiểu biết sâu
săc về cái ham muốn được thử thách của người Khắc kỷ.
Sự cố mà ta đang bàn bắt đầu xảy ra khi tôi để ý thấy có những
tia sáng dọc theo ngoại vi tầm nhìn của tôi mỗi lần tôi chớp chớp
mắt trong một căn phòng tối. Tôi đã đi khám bác sĩ mắt và được
thông báo rằng tôi bị rách võng mạc, và để ngăn võng mạc của tôi
không bị bong, tôi nên phẫu thuật bằng laser. Y tá đã chuẩn bị tinh
thần cho tôi làm phẫu thuật bằng cách giải thích rằng bác sỹ sẽ liên
tục bắn một chùm tia laser rất mạnh vào võng mạc của tôi. Cô ấy hỏi
liệu tôi đã từng xem một buổi biểu diễn ánh sáng chưa và nói rằng
những gì tôi sắp chứng kiến là một cảnh tượng tuyệt vời hơn thế
nhiều. Sau đó bác sỹ bước vào phòng và bắt đầu bắn laser vào mắt
tôi. Những tia sáng đầu tiên thực sự mãnh liệt và đẹp đẽ, nhưng rồi
một điều bất ngờ đã xảy ra: Tôi không còn nhìn thấy những chùm
ánh sáng được nữa. Tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng cồm cộp của
máy bắn laser nhưng không nhìn thấy gì. Quả thật, khi họ tắt máy
laser, tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy qua con mắt được phẫu
thuật là một đốm màu tím bao phủ toàn bộ tầm nhìn của tôi. Tôi
nhận ra rằng có điều gì đó không ổn trong quá trình phẫu thuật - có
thể máy laser gặp trục trặc - và tôi có thể bị mù một bên mắt.
Chắc chắn là ý nghĩ này khiến tôi lo lắng nhưng sau đó, tôi phát
hiện thấy mình còn có một ý nghĩ khác nữa, hoàn toàn bất ngờ: tôi
thấy mình đang suy ngẫm xem tôi sẽ phản ứng như thế nào trước
việc bị mù một con mắt. Cụ thể là, liệu tôi có thể ứng phó với chuyện
này theo đúng phong cách của một người Khắc kỷ hay không? Nói
cách khác, tôi phản ứng trước khả năng bị mù một bên mắt bằng
cách phóng đại nguy cơ mất thị lực! Phản ứng này có lẽ lạ lẫm đối
với các bạn; và nó vẫn vô cùng kỳ lạ đối với tôi. Tuy thế, đấy là cách
phản ứng của tôi, và khi đáp ứng theo cách này, tôi rõ ràng đang trải
nghiệm được một hiệu ứng phụ dễ đoán của việc rèn luyện chủ
nghĩa Khắc kỷ (và một số người sẽ bảo điều đó là xằng bậy).
Tôi đã thông báo với y tá rằng tôi không thể nhìn thấy gì ở bên
mắt đang được phẫu thuật. Cuối cùng cô ấy nói với tôi - tại sao cô
ấy không nói trước cho tôi biết? - điều này là bình thường và thị lực
của tôi sẽ trở lại trong vòng một giờ. Đúng thế thật, và kết quả là tôi
bị tước đi cơ hội thử thách kỹ năng Khắc kỷ của mình - mà tôi nghĩ
là đáng mừng thay.
Trừ phi một cái chết đột ngột ngăn chặn điều này, còn không thì
trong khoảng một thập kỷ nữa, tôi sẽ phải đối diện với một thử thách
cam go đối với kỹ năng Khắc kỷ của tôi. Tôi sẽ ở vào độ tuổi giữa
sáu mươi; nói cách khác, tôi sẽ đứng trước ngưỡng cửa của tuổi
già.
Trong suốt cuộc đời, tôi luôn tìm kiếm những tấm gương sáng,
những người đang ở giai đoạn tiếp theo của cuộc đời mà tôi nghĩ là
họ đang ứng phó tốt với giai đoạn đó. Khi bước sang độ tuổi năm
mươi, tôi bắt đầu xem xét những người ở độ tuổi bảy mươi và tám
mươi mà tôi biết trong một nỗ lực tìm kiếm một hình mẫu thần
tượng. Tôi phát hiện ra, tìm một người ở nhóm tuổi này nhưng đóng
vai hình tượng tiêu cực thì rất dễ; tôi cho rằng mục tiêu của tôi là
nên tránh đi vào vết xe đổ như họ. Mặc dù, những tấm gương tích
cực có vẻ hiếm hoi.
Khi tôi tìm đến những người ở độ tuổi bảy mươi và tám mươi mà
tôi biết và xin lời khuyên về cách ứng phó với sự khởi đầu của tuổi
già, họ đưa ra lời khuyên giống nhau có khuynh hướng gây khó chịu
cho bạn: "Đừng có già đi!" Trừ phi người ta tìm ra được loại thuốc
"suối trường xuân", cách duy nhất để tôi có thể làm theo lời khuyên
này là tự sát. (Sau đó tôi đã nhận ra rằng đây chính xác là những gì
họ khuyên tôi nên làm, mặc dù họ nói theo cách gián tiếp. Tôi chợt
nhận ra rằng lời khuyên đừng có già của họ lặp lại lời nhận xét của
Musonius rằng "Người có phúc không phải người có cái chết đến
chậm mà là người ra đi thanh thản.")
Có khả năng khi tôi ở vào độ tuổi bảy mươi hay tám mươi tôi
cũng sẽ đi đến kết luận, giống như những người cao tuổi mà tôi biết
dường như đã kết luận, rằng thà không tồn tại còn hơn là phải chịu
đựng tuổi già. Nhưng cũng có thể những người xem tuổi già là gánh
nặng chỉ có thể tự đổ lỗi cho bản thân vì cảnh ngộ của họ mà thôi:
Khi còn trẻ, họ đã bỏ bê không chuẩn bị cho tuổi già. Nếu họ dành
thời gian để chuẩn bị đầy đủ cho bản thân họ - đặc biệt, nếu họ bắt
đầu rèn luyện chủ nghĩa Khắc kỷ - thì chúng ta có tưởng tượng là họ
sẽ không còn thấy tuổi già là gánh nặng; thay vào đó, họ có thể xem
nó như một trong những giai đoạn phấn khích nhất của cuộc đời,
như lời tuyên bố của Seneca, một giai đoạn "đầy niềm vui nếu người
ta biết cách tận dụng nó."
Trong khi tôi đang viết cuốn sách này, người mẹ tám mươi tám
tuổi của tôi bị đột quỵ và tôi đã đưa bà đến một viện dưỡng lão. Cơn
đột quỵ đã làm suy yếu phần cơ thể bên trái của bà đến nỗi bà
không còn khả năng tự mình ra khỏi giường. Không chỉ thế, bà cũng
mất khả năng tự nuốt, nên việc bà ăn thức ăn bình thường và uống
chất lỏng bình thường sẽ gây nguy hiểm, vì chúng có thể đi xuống
khí quản và gây ra một cơn viêm phổi có khả năng dẫn đến tử vong.
Thức ăn của bà phải được xay nhuyễn, và những chất lỏng mà bà
uống phải được làm cô đặc lại.
Khá dễ hiểu, mẹ tôi không hài lòng với ngã rẽ của cuộc đời bà, và
tôi thì cố hết sức để khích lệ bà. Nếu tôi sùng đạo, tôi có thể đã cố
gắng làm mẹ vui lên bằng cách câu nguyện với ba hoặc cầu nguyện
cho bà, hoặc bằng cách nói với bà rằng tôi đã sắp xếp để hàng chục
hay thậm chí hàng trăm người tiếp tục cầu nguyện giúp bà. Mặc dù
trong chuyện này, tôi thấy những lời động viên khích lệ hay nhất mà
tôi phải đưa ra là một lời khuyên Khắc kỷ rõ ràng cho mẹ. Chẳng
hạn, bà sẽ nói với tôi rằng hoàn cảnh của bà sao mà khổ quá
chừng, và tôi sẽ trích dẫn lời của Marcus: "Vâng, họ nói rằng cuộc
sống giống môn đấu vật hơn là khiêu vũ."
"Hoàn toàn chính xác," bà sẽ thì thầm đáp lại.
Bà sẽ hỏi tôi bà cần phải làm gì để có thể đi lại được. Tôi nghĩ bà
hẳn là sẽ không thể đi bộ được nữa nhưng không nói gì. Thay vào
đó, tôi động viên bà (chứ không thuyết giảng về chủ nghĩa Khắc kỷ)
nội tại hóa các mục tiêu của bà về chuyện đi lại: "Điều mẹ cần tập
trung bây giờ là cố gắng hết sức khi người ta tập vật lý trị liệu cho
mẹ."
Bà sẽ than phiền về chuyện cánh tay trái của bà mất hầu hết
chức năng, và tôi sẽ động viên mẹ thực hiện bài tưởng tượng tiêu
cực: "Ít ra thì mẹ vẫn còn khả năng nói chuyện," tôi sẽ nhắc bà.
"Trong mấy ngày đầu tiên sau khi bị đột quỵ, mẹ chỉ có thể nói lầm
bầm. Trước đó, mẹ thậm chí chẳng cử động nói cánh tay phải và vì
thế mẹ không thể tự ăn, nhưng bây giờ thì mẹ có thể làm được.
Thực sự thì mẹ có rất nhiều điều để mà biết ơn."
Bà sẽ lắng nghe phản ứng của tôi và, sau một hồi suy nghĩ, bà
thường sẽ đáp lại một cách quả quyết: "Mẹ biết mình phải làm gì
rồi." Bài tập tưởng tượng tiêu cực dường như giúp giảm bớt nỗi đau
khổ của bà, dù chỉ là tạm thời.
Hết lần này đến lần khác trong suốt giai đoạn này, cách mà
những nguyên tắc của chủ nghĩa Khắc kỷ giúp một người đương
đầu với những thách thức của tuổi già và bệnh tật khiến tôi vô cùng
ấn tượng, rất tự nhiên và phù hợp.
Tôi đã nói ở trên rằng chứng đột quỵ khiến mẹ tôi sẽ gặp nguy
hiểm nếu uống nước bình thường, chưa được cô đặc. Hiển nhiên, bị
từ chối cho uống nước khiến mẹ tôi bắt đầu thèm nước. Bà sẽ nài nỉ
xin một ly nước, "Đừng đặc quá nhưng phải từ vòi nước nhé." Tôi sẽ
từ chối yêu cầu này và giải thích lý do, nhưng ngay khi tôi nói xong,
bà sẽ lại tiếp tục, "Mẹ chỉ xin một ly nước thôi mà!" Tôi thấy mình
đang ở vào vị trí của một đứa con thương mẹ nhưng phải liên tục từ
chối yêu cầu đơn giản của mẹ già - một ly nước.
Sau khi phải chịu đựng lời năn nỉ của mẹ tôi một thời gian, tôi hỏi
y tá nên làm gì trong trường hợp này. "Anh hãy cho bà ấy mấy cục
đá để mút," cô ấy nói. "Nước đá sẽ tan chậm nên bà ấy sẽ ít bị nguy
hiểm hơn."
Vì lời khuyên này mà tôi trở thành người giao đá cho mẹ tôi, mỗi
lần đến thăm tôi lại mang cho bà một cốc đá. ("Người giao đá đến
rồi!" Tôi sẽ nói câu ấy khi đến phòng bà.) Tôi sẽ đút một viên đá vào
miệng bà, và trong khi ngậm viên đá, bà sẽ nói với tôi rằng viên đá
mới tuyệt vời làm sao. Mẹ tôi, thời trẻ từng là một người sành sỏi về
những loại đồ ăn thức uống hảo hạng, bây giờ lại trở thành người
say mê mấy viên đá lạnh. Một thứ mà cả cuộc đời bà đã xem
thường - đối với bà, một viên đá chỉ đơn giản là thứ mà bạn dùng để
làm lạnh đồ uống giờ lại trở thành thức uống đáng giá - và giờ đây
mang lại cho bà niềm vui mãnh liệt. Bà rõ ràng là yêu thích viên đá
này nhiều hơn cả một người sành ăn thưởng thức rượu sâm banh
cổ điển.
Nhìn mẹ mút mấy viên đá một cách ngon lành, trong lòng tôi
thoáng chút ganh tị. Tôi nghĩ, chẳng phải cuộc đời sẽ tuyệt diệu lắm
sao khi một viên đá nhỏ cũng có thể khiến ta sung sướng quá
chừng? Tôi từng cho rằng một mình sự tưởng tượng tiêu cực khó
mà cho phép tôi trân quý tột cùng mấy viên đá lạnh giống như mẹ
tôi; bất hạnh thay, có khi cần một cơn đột quỵ xảy đến thì tôi mới có
thể làm được điều đó. Song việc quan sát mẹ mút đá lạnh đã dạy
cho tôi một bài học. Nó khiến tôi nhận thức được một điều khác mà
tôi toàn xem thường: khả năng nốc cạn một cốc to nước lạnh vào
một ngày hè nóng nực.
Trong một lần đi thăm mẹ, tôi tình cờ gặp một quý ông lớn tuổi
đang ngồi xe lăn được một người chăm sóc đẩy đi. Khi tôi đến gần,
người chăm sóc đã thu hút sự chú ý của tôi và chỉ vào ông ấy mà
nói, "Người này cũng là một giáo sư." (Hóa ra mẹ tôi đã kể cho tất
cả mọi người về tôi.)
Tôi dừng lại và chào hỏi người bạn đồng đạo này, hóa ra, ông đã
nghỉ hưu một thời gian trước đó. Chúng tôi trò chuyện một lúc,
nhưng trong lúc chuyện trò, tôi bị ám ảnh vì ý nghĩ rằng trong vài
thập kỷ tới thôi tôi cũng có thể lặp lại cuộc trò chuyện này. Đến lúc
đó, tôi sẽ là người ngồi trên xe lăn và sẽ có một vài giáo sư trẻ tuổi
đứng trước mặt tôi, dành đôi ba phút trong ngày làm việc bận rộn
của anh ta để tán gẫu với một ông giáo sư già về hưu.
Đã đến lúc, tôi tự nhủ, và tôi phải làm những việc có thể để chuẩn
bị cho điều này.
Như chúng ta đã thấy, mục tiêu của chủ nghĩa Khắc kỷ là đạt
được sự bình thản. Độc giả tất nhiên sẽ muốn biết liệu việc thực
hành chủ nghĩa Khắc kỷ có giúp tôi đạt được mục tiêu này hay
không. Hỡi ôi, nó không giúp tôi đạt được sự bình thản hoàn hảo.
Tuy nhiên, nó giúp tôi sống bình thản hơn rất nhiều so với trước đây.
Đặc biệt là tôi đã có sự tiến bộ lớn trong việc chế ngự những cảm
xúc tiêu cực của mình. Tôi ít khi nổi giận như trước đây, và khi tôi
thấy mình trút giận lên người khác, tôi sẵn sàng hơn trong việc xin
lỗi họ so với trước đây. Tôi không chỉ khoan thứ hơn xưa trước
những lời lăng mạ mà còn phát triển được một sự miễn dịch gần
như tuyệt đối trước những câu lăng mạ thường gặp.
Tôi cũng ít lo lắng hơn xưa về những tai họa có thể xảy ra với tôi
và đặc biệt là về cái chết của tôi - mặc dù thử thách thật sự cho điều
này, theo lời của Seneca, sẽ là khi tôi sắp trút hơi thở cuối cùng.
Tuy nhiên, tôi xin nói thêm là mặc dù tôi có thể chế ngự được
những cảm xúc tiêu cực của mình, tôi cũng không thể diệt trừ chúng
tận gốc; tôi cũng không muốn thế. Tuy nhiên tôi rất vui mừng vì đã
tước đi sức mạnh của những cảm xúc đó dù khi xưa chúng từng tác
động lên tôi.
Một sự thay đổi lớn về tâm lý đã diễn ra kể từ khi tôi bắt đầu thực
hành chủ nghĩa Khắc kỷ. Đó là tôi ít bất mãn hơn so với trước đây.
Dường như nhờ rèn luyện tưởng tượng tiêu cực mà tôi thấy biết ơn
sâu sắc những thứ mình nhận được. Chắc chắn là vẫn còn câu hỏi
rằng liệu tôi có thể tiếp tục trân quý cuộc đời nếu như hoàn cảnh
sống của tôi thay đổi hoàn toàn không; biết đâu chừng, một cách vô
thức, tôi đã lại bám lấy những điều mà tôi quý trọng, vậy thì tôi sẽ
tan nát cõi lòng khi mất đi những điều ấy. Tất nhiên tôi sẽ không biết
được câu trả lời cho câu hỏi này cho đến khi cuộc đời thử thách kỹ
năng Khắc kỷ của tôi.
Một khám phá khác của tôi trong việc luyện tập chủ nghĩa Khắc
kỷ có liên quan đến niềm vui. Thứ niềm vui mà các nhà Khắc kỷ
quan tâm có thể được mô tả như một kiểu niềm vui phi đối tượng -
một niềm vui không phải vì bất kỳ đối tượng cụ thể nào, mà nó
hướng đến tất cả mọi điều. Nó đơn giản là một niềm vui vì có thể
tham dự vào cuộc sống. Đó là sự trực nhận to lớn rằng mặc dù mọi
điều này không nhất thiết phải xảy ra, nhưng nó lại đang diễn ra -
một cách màu nhiệm, diễn ra với đầy đủ vẻ huy hoàng tráng lệ.
Và nhân đây tôi muốn nói để các bạn biết luôn là chuyện thực
hành chủ nghĩa Khắc kỷ của tôi không giúp tôi trải nghiệm được thứ
niềm vui trọn vẹn, không thể nào dập tắt; điều đó còn xa vời lắm. Tôi
cũng không có được một thứ niềm vui cao cấp hơn mà một nhà hiền
triết Khắc kỷ có thể trải nghiệm, một niềm vui vì nhận ra rằng niềm
vui của ông ta không thể bị phá vỡ bởi những sự kiện bên ngoài.
Nhưng chuyện rèn luyện chủ nghĩa Khắc kỷ của tôi có vẻ khiến tôi
nhạy cảm hơn trước những niềm vui thi thoảng lại bùng phát.
Thật là lạ, nhưng khi bắt đầu trải nghiệm những đợt bùng phát ấy,
tôi cũng không biết nên làm gì với chúng. Tôi nên đón nhận những
cảm xúc vui sướng của mình hay giữ khoảng cách với chúng? Quả
thực, tôi có nên hành xử như một người lớn điềm đạm, cố gắng dập
tắt cảm xúc không? (Kể từ lúc đó tôi đã phát hiện rằng không phải
chỉ có mình tôi hoài nghi những cảm xúc vui mừng.) Rồi sau đó tôi
nhận ra thật là ngu ngốc khi làm bất cứ điều gì khác ngoài việc đón
nhận chúng. Và vì thế tôi cứ vui mừng thôi.
Tôi nhận ra, những lời nhận xét trên làm tôi có vẻ tự mãn kinh
khủng và thích khoe khoang. Hãy an tâm là việc thực hành chủ
nghĩa Khắc kỷ không yêu cầu mọi người phải chạy đi khắp nơi để
khoe với người khác rằng họ hạnh phúc biết bao vì đang còn sống
hay huênh hoang về sự tuôn trào niềm vui mà họ đã trải qua gần
đây; quả thật, các nhà Khắc kỷ chắc chắn sẽ không khuyến khích
những hành động này. Vậy thì tại sao tôi lại kể cho bạn nghe về
trạng thái tinh thần của tôi? Vì nó trả lời cho câu hỏi mà bạn chắc
chắn sẽ hỏi: Liệu chủ nghĩa Khắc kỷ có giao cho ta những món quà
tâm lý như nó đã hứa hay không? Trong trường hợp của tôi là có,
còn hơn cả sự thỏa mãn nữa. Dù bày tỏ quan điểm như vậy, nhưng
trong tương lai tôi sẽ cố gắng hết sức để khiêm tốn khi đưa ra
những đánh giá công khai với mọi người về trạng thái tinh thần của
bản thân.
Mặc dù là một người thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ, tôi cũng xin
thú nhận rằng, trong những đoạn kết thúc cuốn sách này, tôi đã có
một số nghi ngại về triết lý này.
Theo các nhà Khắc kỷ, nếu đang tìm kiếm sự bình thản thì tôi cần
từ bỏ những mục tiêu khác mà một người cùng hoàn cảnh với tôi
thường có, chẳng hạn như sở hữu một chiếc xe hơi đời mới đắt tiền
hoặc sống trong căn nhà trị giá một triệu đô la. Nhưng điều gì xảy ra
nếu tất cả những người khác thì đúng còn các nhà Khắc kỷ thì sai?
Có khả năng một ngày nào đó tôi sẽ nhìn lại đời mình và sẽ gọi đó là
"giai đoạn Khắc kỷ của tôi" để rồi trở nên rối trí vả chán nản, mất hết
tinh thần. "Tôi đang nghĩ gì à?" tôi sẽ tự hỏi bản thân. "Giá mà tôi có
thể lấy lại những năm tháng đó!"
Tôi không phải là người Khắc kỷ duy nhất đang chứa chấp những
hoài nghi đó. Chẳng hạn, trong bài luận về sự bình thản, Seneca đã
có một cuộc trò chuyện tưởng tượng với Serenus, một người Khắc
kỷ có những mối nghi ngờ về chủ nghĩa Khắc kỷ. Khi Serenus còn
sống giữa những người có hệ giá trị bình thường - chẳng hạn, sau
khi ông ta dùng bữa tối trong một ngôi nhà "nơi mà người ta thậm
chí còn giẫm phải những viên đá quý và sự giàu có phơi bày ở mọi
ngóc ngách của căn nhà" - ông phát hiện ra trong mình "một sự day
dứt và hoài nghi thầm lặng không biết liệu còn có một cuộc sống
khác tốt hơn thế này nữa không." Những nhận xét trên cho thấy rõ
rằng tôi cũng mang trong lòng cảm giác "day dứt thầm lặng" này.
Đành rằng nói thế cũng chả ích gì, những người nghĩ rằng danh
tiếng và tài sản đáng giá hơn sự bình thản chiếm số lượng áp đảo
hơn những người, như bản thân tôi, cho rằng sự bình thản thì quý
giá hơn rất nhiều. Liệu tất cả những người khác đó có thể phạm sai
lầm không? Từ góc nhìn đó thì tất nhiên tôi chính là người đang mắc
sai lầm!
Đồng thời, tôi biết, nhờ vào nghiên cứu về ham muốn của tôi, hầu
như không có ngoại lệ, các triết gia và các nhà tư tưởng tôn giáo,
những người đã chiêm nghiệm về cuộc sống và lối sống của người
bình thường, đều đi đến kết luận rằng đại đa số mọi người đang
phạm sai lầm trong lối sống của họ. Các nhà tư tưởng này cũng có
xu hướng bị cuốn hút trước sự bình thản như một thứ gì đó vô cùng
quý giá đáng theo đuổi, mặc dù nhiều người trong số họ không đồng
tình với các triết gia Khắc kỷ về phương cách tốt nhất để theo đuổi
nó.
Khi tôi bắt đầu nghĩ lại về chủ nghĩa Khắc kỷ, việc thực tập hiện
tại của tôi là nhắc nhở rằng chúng ta đang sống trong một thế giới
mà sự chắc chắn chỉ có thể có trong toán học mà thôi. Nói cách
khác, chúng ta đang sống trong một thế giới mà bất kể bạn làm gì,
bạn cũng có thể phạm sai lầm. Điều này có nghĩa là mặc dù đúng là
tôi có thể phạm phải sai lầm khi thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ,
nhưng tôi cũng thể phạm sai lầm nếu tôi bác bỏ chủ nghĩa Khắc kỷ
để chạy theo những triết lý sống khác. Và tôi cho rằng sai lầm lớn
nhất mà nhiều người mắc phải là hoàn toàn không có triết lý sống
nào. Những người này đang dò dẫm lần mò để đi qua cuộc đời bằng
cách làm theo những thúc giục của sự lập trình tiến hóa của họ,
bằng cách vồn vã truy tìm những gì mang lại cảm giác khoái sướng
và tránh xa những thứ gây khó chịu. Bằng cách này, họ có thể có
một cuộc sống thoải mái hoặc thậm chí một cuộc đời đầy ắp lạc thú.
Tuy nhiên, vẫn còn đó câu hỏi là liệu họ có thể có một cuộc sống tốt
hơn bằng cách quay lưng lại với sự lập trình tiến hóa của họ và thay
vào đó dành thời gian và năng lượng để đạt được một thứ triết lý
sống. Theo các triết gia Khắc kỷ, câu trả lời cho câu hỏi này là một
ai đó có thể có được cuộc sống tốt đẹp hơn - một cuộc sống có lẽ
chứa đựng ít sự thoải mái và khoái lạc, nhưng niềm vui thì lại nhiều
hơn đáng kể.
Tôi đồ rằng trong những thập kỷ tới (nếu tôi sống lâu đến thế) bất
kỳ hoài nghi nào của tôi về chủ nghĩa Khắc kỷ cũng sẽ sụp đổ cùng
với quá trình lão hóa sẽ mang đến nhiều điều khó khăn. Các kỹ
thuật của chủ nghĩa Khắc kỷ có thể cải thiện cuộc sống khi mọi việc
còn đang tốt đẹp, nhưng chính những lúc mà sự việc chuyển biến
xấu đi thì hiệu quả của những kỹ thuật này sẽ trở nên rõ ràng nhất.
Nếu tôi thấy chủ nghĩa Khắc kỷ có lợi ích cho thập kỷ thứ sáu của
cuộc đời tôi thì, tôi có khả năng không thể sống thiếu nó trong trong
thập kỷ thứ tám hoặc thứ chín. Trừ phi tôi là một kẻ bất bình thường,
những thử thách lớn nhất trong cuộc đời vẫn đang còn ở phía trước.
Tôi nghĩ rằng mình sẽ rất vui mừng vì đã phát triển được một sự
hiểu biết và cảm kích đối với chủ nghĩa Khắc kỷ trước khi đương
đầu với những thử thách đó.
Nếu có một bằng chứng cho thấy chủ nghĩa Khắc kỷ (hoặc một
số triết lý sống khác) là thứ triết lý "đúng đắn" thì thật tuyệt. Không
may là, bằng chứng mà các triết gia Khắc kỷ đưa ra lại thiếu sức
thuyết phục, và một bằng chứng thay thế thì lại chưa có. Trong
trường hợp thiếu bằng chứng như vậy, chúng ta phải hành động
dựa trên xác suất. Đối với một kiểu người nhất định - tức là đối với
một người đang ở hoàn cảnh nào đó với một kiểu tính cách nào đó -
có nhiều lý do để tin rằng chủ nghĩa Khắc kỷ đáng để thử. Thực
hành chủ nghĩa Khắc kỷ không cần nhiều sự cố gắng; quả thực, nó
không tốn mấy công sức so với những nỗ lực mà con người ta có
thể phí phạm do thiếu triết lý sống. Người ta có thể thực hành chủ
nghĩa Khắc kỷ mà không cần phải trở nên uyên thâm hơn, và người
ta có thể thử luyện tập nó một thời gian rồi từ bỏ và cũng chẳng thiệt
gì khi cố gắng. Nói cách khác, bạn chẳng mất gì nhiều khi thực hành
chủ nghĩa Khắc kỷ như một thứ triết lý sống của bạn, và thứ bạn đạt
được thì có thể là rất nhiều.
Quả thật, theo Marcus, chúng ta có thể có được một cuộc sống
hoàn toàn mới thông qua việc thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ.  

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #khắckỷ