cho vay giữa các nhtm và dịch vụ ngân hàng
Bài Thảo Luận
Nhóm: 10
Môn: Quản trị tác nghiệp ngân hàng thương mại
Đề tài: Tìm hiểu thực trạng cho vay giữa các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng
Giáo viên hướng dẫn: Đặng Minh Nguyệt
Nhận xét: Về cơ bản, đã trình bày tương đối đầy đủ nội dung, tuy nhiên theo cô nên bổ sung them một số giải pháp cho vấn đề này nữa. Như vậy là đáp ứng những nd cơ bản của câu hỏi này
1. Thị trường liên NH (interbank market) là nơi mà các TCTD có thể cho vay lẫn nhau để bù đắp sự thiếu hụt vốn tạm thời. Các khoản vay trên thị trường này phần lớn là các khoản vay có kỳ hạn dưới một tuần, chủ yếu là vay qua đêm. Cũng có các khoản vay có kỳ hạn dài hơn, nhưng chiếm tỷ lệ không lớn
Với ngân hàng VCB cũng không phải ngoại lệ, trong 100,000 tỷ đồng cho vay các TCTC khác thì kỳ hạn dưới 1 tháng lên đến 92,000 tỷ đồng (hơn 90%).
Nguồn http://vietstock.vn
· Mục đích của vay liên NH là để đáp ứng nhu cầu thanh khoản tạm thời, cân đối vốn trong ngắn hạn hay đáp ứng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại thời điểm đó.
· Các NH thỏa thuận cho nhau vay chủ yếu dựa trên quan hệ tín chấp và khoản vay sẽ được hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
· Tại Việt Nam, nghiệp vụ này cũng được các NHTM sử dụng với thời hạn vay liên NH không quá 01 năm (theo quy định mới nhất của NHNN tại Thông tư 21/2012/TT-NHNN).
2. Thực trạng hoạt động cho vay giữa các ngân hàng
2.1 Hoạt động cho vay giữa các ngân hàng trước thông tư 21
· Tuy nhiên, thị trường liên NH tại Việt Nam đã mất đi ý nghĩa vốn có, các NH cho vay theo dây chuyền, NH này vay vốn từ thị trường liên NH và cho NH khác vay lại với lãi suất cao hơn, thậm chí đây còn là nguồn vốn để các NH sử dụng vào các mục đích trung và dài hạn (cho vay, đầu tư) . Việc cho vay lẫn nhau không vì mục đích đáp ứng thanh khoản tạm thời và dự trữ bắt buộc khiến lãi suất liên NH tăng cao (có lúc lên tới 30% – 35%/năm) ảnh hưởng tới lãi suất cho vay và quan trọng hơn, là rủi ro tiềm ẩn từ việc cho vay theo dây chuyền.
· Không ít nhà băng khi huy động được tiền từ dân cư đi cho vay ồ ạt. Sau đó, họ phải 'nhặt' từ liên ngân hàng để đắp.
· Cho vay dễ dãi giữa các Ngân hàng: nhìn nhận thời gian qua ngân hàng nợ lẫn nhau và cho nhau vay vô tội vạ. Ngân hàng rất chặt chẽ với doanh nghiệp (trên thị trường một), nhưng giữa nhà băng với nhau lại quá thoáng (thị trường 2), cần bao nhiêu cho vay bấy nhiêu, miễn trả lãi suất.Một phần nguyên nhân của tình trạng này, là các ngân hàng đang tự "hiểu lầm" về cái gọi là ngân hàng không thể phá sản, không thể đổ vỡ nên cho nhau vay dễ dãi.
· Ngân hàng trầy trật đòi nợ nhau: Không chỉ đau đầu vì khối nợ xấu hàng trăm nghìn tỷ đồng của doanh nghiệp, các ngân hàng còn đứng ngồi không yên vì nợ đọng trên thị trường liên ngân hàng.Thời gian qua, nhiều ngân hàng quá khó khăn về thanh khoản nên đã vay trên thị trường hai bằng mọi giá, trong khi không thể cạnh tranh huy động tại thị trường một dẫn đến mất khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng bạn và bội tín
Biểu đồ dưới đây thể hiện tình trạng cho vay ròng các TCTD của những ngân hàng hoạt động mạnh trên thị trường liên ngân hàng 6 tháng đầu năm nay(2012)
Đơn vị: Triệu đồng
Nguồn:http://vietstock.vn
· Phải có tài sản đảm bảo mới được vay:. ngân hàng lớn vẫn yêu cầu các ngân hàng nhỏ khi vay liên ngân hàng phải có tài sản thế chấp là vàng, ngoại tệ, đặc biệt không nhận thế chấp bằng trái phiếu dù là trái phiếu của chính ngân hàng cho vay phát hành.Đồng thời, các ngân hàng cũng chỉ cho vay với hạn mức không quá 50% tài sản thế chấp, thấp hơn cả hạn mức khi ngân hàng cho khách hàng vay ngắn hạn.Tuy nhiên, không phải cứ có tài sản đảm bảo là an toàn tuyệt đối, nếu tài sản đảm bảo là bất động sản với tình hình thị trường bất động sản ảm đảm như hiện nay thì rất khó có thể bán tài sản thế chấp để thu hồi nguồn tiền cho vay về
· Ngân hàng ngại cho vay lẫn nhau: Từ chối hoặc chỉ cho vay nếu có tài sản đảm bảo(điều chưa có tiền lệ từ trước đến nay), một số ngân hàng có vốn nhàn rỗi ngày càng khắt khe hơn khi cấp tiền cho nhà băng nhỏ trên thị trường liên ngân hàng. Nguyên nhân là thời gian vừa qua, thị trường liên ngân hàng đã xuất hiện nợ xấu. Các nhà băng vay nhau song chây ỳ trả nợ, thậm chí chưa có khả năng trả - điều chưa có tiền lệ trong ngành ngân hàng, ngay cả giai đoạn khó khăn 2008
· Nợ xấu liên ngân hàng gia tăng:Để giảm bớt thua thiệt, đã có ngân hàng đi vay trên TT2 để cho vay ra TT1 với lãi suất cao hơn. Và, khi khách hàng mắc nợ quá hạn, lập tức bất ổn dồn lại, rồi bùng lên, khiến những ngân hàng này không thanh toán được nợ vay thanh khoản đáo hạn, báo hại ngân hàng chủ nợ bị đẩy vào tình trạng bị động cân đối nguồn vốn. Nợ xấu cho vay liên ngân hàng từ đó phát sinh và cứ thế gia tăng.
2.2 Nội dung thông tư 21
Với tình trạng lộn xộn, các ngân hàng cho nhau vay dễ dãi dẫn đến các khoản nợ xấu có xu hướng ra tăng trên thị trường liên NH khiến cho thị trường này không khác gì thị trường thông thường. Chính vì vậy để siết lại kỷ cương trên thị trường liên ngân hàng NHNN đã ban hành Thông tư 21/2012/TT-NHNN quy định đi vay, cho vay, mua, bán giấy tờ có giá giữa các TCTD, chi nhánh NH nước ngoài chính thức có hiệu lực từ 1/9. Có thể nói, việc ban hành Thông tư 21 là hành động mạnh mẽ của NHNN trong việc chấn chỉnh hoạt động của thị trường LNH vốn nhiều bất cập thời gian qua.
Nội dung chính của Thông tư 21:
· TCTD, chi nhánh NH nước ngoài không được gửi tiền, nhận tiền gửi (trừ tiền thanh toán) tại TCTD, chi nhánh NH nước ngoài khác.
· Hoạt động cho vay và đi vay liên NH chỉ được thực hiện thông qua trụ sở chính của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài và được dùng để bù đắp thiếu
hụt tạm thời dự trữ bắt buộc, khả năng chi trả và cân đối vốn trong ngắn hạn.
· Thời gian giao dịch theo quy định dưới 1 năm. Lãi suất cho vay, mua, bán giấy tờ có giá do các TCTD, chi nhánh NH nước ngoài tự thỏa thuận.
· Tuy nhiên, trong trường hợp hoạt động có diễn biến bất thường, NHNN sẽ quy định lãi suất cho vay liên NH để các tổ chức thực hiện. Các giao dịch cho vay, đi vay và mua, bán có kỳ hạn phải được lập thành hợp đồng và TCTD, chi nhánh NH nước ngoài phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro theo quy định hiện hành
· Thông tư 21 cũng quy định các TCTD muốn được giao dịch liên NH phải không có các khoản nợ quá hạn đối với các giao dịch từ 10 ngày trở lên tại thời điểm thực hiện giao dịch (đối với bên đi vay).
2.2.3 Tác động của thông tư 21 đến hoạt động cho vay giữa các ngân hàng
- Sự ra đời của Thông tư 21/2012/TT-NHNN (có hiệu lực từ 1-9-2012) được xem là một hành động của NHNN để lập lại trật tự 'chợ' liên ngân hàng. Ngay trong tuần đầu tiên áp dụng, doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng đã sụt giảm rất mạnh, gần 50% cả bằng VND lẫn USD so với các tuần liền trước. Tuần thứ hai, doanh số đã tăng trở lại nhưng vẫn ở mức thấp rõ rệt.Lãi suất liên ngân hàng đã giảm một cách rõ rệt.Có ba nguyên do chính có thể đặt ra.
· Một là, với cơ chế mới, ngân hàng nào có nợ quá hạn từ 10 ngày trên liên ngân hàng sẽ không được tham gia giao dịch đi vay, lượng thành viên và nhu cầu vay theo đó bị giảm.
· Hai là nguyên do mang tính kỹ thuật, khi các khoản tiền gửi trên liên ngân hàng bị chuyển thành tiền vay, các tổ chức tín dụng bị hổng đi một phần để tính cho các tỷ lệ khả năng chi trả theo quy định tại Thông tư 13, một phần nhu cầu giao dịch phải “khựng” lại để cân đối.
· Ba là, bên cho vay thận trọng khi thực hiện khung pháp lý mới, quan ngại trước những rủi ro có thể phát sinh.
Lãi suất VND trên liên ngân hàng một năm trở lại đây
(đơn vị: %, nguồn: MSB)
- Mấu chốt trên thị trường liên NH là giải quyết thanh khoản, trong khi thời gian qua nhiều NHTM đã “quên” vấn đề này khi sử dụng liên NH là kênh kinh doanh vốn chủ yếu.Vì thế mới có chuyện NH A cho NH B vay; NH B cho NH C vay lãi suất cao hơn; NH C lấy vốn cho khách hàng vay trung, dài hạn…Hình thức cho vay dây chuyền này dẫn đến rủi ro dây chuyền cho cả hệ thống khi một NHTM, chẳng hạn NH C gặp khó khăn về thanh khoản do lãi suất thị trường biến động, kéo theo nhiều NHTM khác cùng khó khăn. Vì vậy, Thông tư 21qui định hoạt động cho vay và đi vay liên NH chỉ được thực hiện trong trường hợp để bù đắp thiếu hụt tạm thời dự trữ bắt buộc, khả năng chi trả và cân đối vốn trong ngắn hạn.Điều này sẽ hướng hoạt động liên quan trở về bản chất là nơi hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM.
- Việc thực hiện Thông tư 21 làm cho ngay chính các ngân hàng thương mại cũng phải “soi” nhau kỹ khi thực hiện giao dịch, hay ngay cả môi trường giữa các ngân hàng thương mại cũng đã tiềm ẩn rủi ro. Thực tế, rủi ro và nghi ngờ lẫn nhau đã có trên thị trường liên ngân hàng từ cuối năm 2011, khi lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện cơ chế phải bảo đảm, thế chấp trong giao dịch sau khi xuất hiện các khoản tiền gửi không thu hồi được đúng hạn. Giá trị của một môi trường giao dịch có độ tin cậy cao nhiều năm qua đã không còn nguyên vẹn.
- Với tình hình như vậy thị trường liên ngân hàng hình thành hai nhóm: nhóm “uy tín” gồm các “nhà giàu”, có tài sản đảm bảo; phần còn lại là nhóm “mất uy tín” với các đơn vị yếu thanh khoản, thiếu tài sản đảm bảo và đương nhiên, họ gần như thành kẻ chầu rìa nhưng vẫn mang danh ở trong cái “chợ” ấy-thị trường liên ngân hàng. Điều này làm cho các ngân hàng có tính thanh khoản kém sẽ khó tiếp cận được với nguồn vốn vay
- Với một môi trường có những đổi thay như vậy, thị trường liên ngân hàng trở nên chặt chẽ và tăng độ an toàn hơn trước – mục đích mà Ngân hàng Nhà nước hướng đến khi thay đổi bản chất của nó. Song mặt trái là, các dòng chảy sẽ bớt đi sự thông thoáng, kịp thời bởi vướng phải sự dò xét và cẩn trọng trong những tình huống trên. Vai trò điều hòa tiết hỗ trợ thanh khoản, cân đối vốn giữa các thành viên của thị trường liên ngân hàng theo đó cũng bị hạn chế nhất định.
LỜI MỞ ĐẦU
Nhìn chung các Ngân hàng thương mại hiện nay đều cung cấp hai nhóm dịch vụ, đó là: dịch vụ truyền thống và dịch vụ ngân hàng mới phát triển trong những năm gần đây.
Các dịch vụ truyền thống có thể kể đến như: trao đổi ngoại tệ, chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại, nhận tiền gửi, dịch vụ thanh toán, bảo quản vật có giá, cung cấp dịch vụ ủy thác, tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Các dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây bao gồm: cho vay tiêu dùng, tư vấn tài chính, quản lý tiền, dịch vụ cho thuê thiết bị, cho vay tài trợ dự án, bán các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các kế hoạch hưu trí, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp dịch vụ tương hỗ và trợ cấp, các dịch vụ ngân hàng hiện đại ( dịch vụ tư vấn tài chính cá nhân, dịch vụ ngân hàng trực tuyến, dịch vụ ngân hàng điện tử mobile banking, phone banking, Internet banking, home banking…)
I. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng
- Các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng
- Các tổ chức nhận tiền gửi: được tổ chức dưới các hình thức: ngân hàng thương mại, hiệp hội tiết kiệm và cho vay, ngân hàng tiết kiệm tương trợ (Multual saving bank), liên hiệp tín dụng (Credit Union).
- Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng: đó là các loại công ty bảo hiểm, công ty tái bảo hiểm và các quỹ trợ cấp các dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm nhằm mục đích phân tán và chia sẽ rủi ro trong nền kinh tế.
- Các đối tượng có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng
- Chính phủ: Các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế – xã hội: đây là những khách hàng quan trọng nhất của dịch vụ tài chính trên cả hai phương diện cung và cầu các nguồn tài chính. Trong điều kiện hội nhập, các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài chính ngày càng nhiều, đồng thời chính họ cũng trở thành lực lượng cung cấp động lực cho sự phát triển dịch vụ tài chính của các ngân hàng.
- Dân cư: tầng lớp dân cư tham gia vào thị trường tài chính thông qua việc sử dụng hiệu quả hơn lợi ích từ sự phát triển của thị trường dịch vụ ngân hàng như các hình thức gửi tiền, mua chứng chỉ tiền gửi, tín dụng tiêu dùng, tín dụng trả góp, vay vốn lập doanh nghiệp, du học, nhu cầu cá nhân, thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng,…
- Giá cả của dịch vụ tài chính
- Môi trường pháp lý
II. Xu hướng phát triển của dịch vụ ngân hàng
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là xu hướng hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức đã tạo ra những lực đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển của khu vực tài chính trên phạm vi toàn cầu. Nhu cầu về các dịch vụ tài chính nói chung và dịch vụ ngân hàng gia tăng mạnh mẽ. Cùng với đó là sự cải tổ nhanh chóng về chất lượng của các dịch vụ dựa trên khoa học kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là sự phát triển của mạng lưới công nghệ thông tin, mạng internet trên toàn cầu đã cho ra đời các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Trong năm 2012, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tạo nên những bước phát triển đột phá cho dịch vụ ngân hàng sẽ là một xu hướng tất yếu.
Xu hướng thứ nhất là phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại. Gắn liền với sự phát triển công nghệ hiện đại là các dịch vụ ngân hàng hiện đại như dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ ngân hàng bán lẻ, các dịch vụ bảo hiểm, tư vấn…sự phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại, không phải hoàn toàn là sự thay thế các dịch vụ truyền thống, mà chỉ là sự kế thừa thậm chí là nâng cấp, cải tiến.
Đặc biệt là xu hướng khai thác dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Đây là một xu thế tất yếu của ngành ngân hàng Việt Nam khi mà hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu cầu tiện ích của người dân ngày càng đa dạng thì các NHTM đều đang cố gắng mở rộng thị phần, tiếp cận một lượng lớn người dân chưa biết đến các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Hơn nữa dịch vụ ngân hàng bán lẻ trên thực tế đem lại nguồn doanh thu cao, ít rủi ro cho các ngân hàng. Trên thực tế các NHTM ở Việt Nam cũng đã bước đầu tập trung khai thác thị trường bán lẻ thông qua việc mở rộng mạng lưới hoạt động nhằm cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến các cá nhân, hộ gia đình các doanh nghiệp nhỏ và vừa; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ ngân hàng, phát triển các loại dịch vụ mới, đa tiện ích như internet banking, home banking, PC banking, mobile banking….
Xu hướng thứ 2: Phát triển dịch vụ công nghệ
Theo đánh giá của các chuyên gia ngân hàng, những năm gần đây, trước thực trạng tốc độ tăng trưởng tín dụng chững lại, áp lực cạnh tranh khốc liệt đang khiến cho các ngân hàng phải tăng cường đầu tư về công nghệ nhằm mở rộng mạng lưới kênh phân phối, nâng cao chất lượng dịch vụ (dịch vụ thẻ, ngân hàng điện tử...) để tìm lại đà tăng trưởng.
Công nghệ thông tin đóng vai trò cốt lõi để các ngân hàng bán lẻ đẩy mạnh thị phần của mình. Thông qua việc phát triển các dịch vụ mới như ATM, internet banking, mobile banking,…các ngân hàng không chỉ giảm thiểu chi phí hoạt động mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ.
Xu hướng thứ 3: Tổ chức lại kênh phân phối cho sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Hiện nay, hệ thống các chi nhánh của ngân hàng đang là kênh phân phối truyền thống cung cấp tới khách hàng các dịch vụ khách hàng cá nhân riêng lẻ. Bên cạnh đó, cũng xuất hiện những kênh phân phối mới thông qua sự trợ giúp của công nghệ thông tin như ATM, Mobile Banking...với nhiều ưu điểm về thời gian và mức phí. Đa dạng hoá kênh phân phối là việc lựa chọn một hoặc một số kênh phân phối nhằm tạo ra một hệ thống kênh phân phối hỗn hợp, bổ khuyết lẫn nhau trong hoạt động, nhằm tăng cường khả năng phục vụ khách hàng, tăng cường khả năng quan tâm tới từng khách hàng (cá nhân hoá dịch vụ), giảm mức phí và giảm bớt công việc cho nhân viên tại hệ thống chi nhánh. Hơn nữa, việc thiết lập và gắn kết các kênh phân phối mới sẽ tạo ra khả năng cho các chi nhánh bán lẻ đem lại, từ đó tăng năng suất lao động.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng có một trong những đặc tính là nhanh tàn lụi, không thể lưu trữ, nên việc xây dựng các kênh phân phối (mạng lưới bán hàng) trở thành một vấn đề hết sức trọng yếu trong kinh doanh ở các ngân hàng. Xu hướng của các ngân hàng hiện này vẫn là tiếp tục củng cố các kênh phân phối truyền thống, bao gồm: (1) Hệ thống các Chi nhánh; (2) NH Đại lý (Thường được áp dụng đối với các NHTM chưa có chi nhánh) và phát triển kênh phân phối hiện đại với ưu thế về nhiều mặt, bao gồm: các chi nhánh tự động hóa hoàn toàn, chi nhánh ít nhân viên, ngân hàng điện tử, ngân hàng qua mạng.
Xu hướng thứ 4: chọn lọc dịch vụ, kiểm soát rủi ro
Sau khủng hoảng, những vấn đề được nhiều nhà quản trị, các nhà lập pháp quan tâm nhất là vấn đề về quản lý rủi ro, hiệu quả hoạt động và nâng cao hiểu biết về hoạt động ngân hàng. Điều này cũng xuất phát từ bối cảnh thực tế là một trong những nguyên nhân gây ra đổ vỡ ngân hàng là khâu quản lý rủi ro. Do đó trong thời gian tới, xu hướng tập trung hóa quản trị rủi ro và cơ cấu lại danh mục dịch vụ sẽ được các ngân hàng đặc biệt quan tâm.
III. Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng
1. Những thành tựu mà dịch vụ ngân hàng đã đạt được
Trong những năm gần đây, các NHTM ở nước ta đã có những bước tiến mạnh mẽ trong việc phát triển các dịch vụ ngân hàng. Ngay từ đầu những ngày đầu của năm 2010, chiến lược trong cuộc đua cạnh tranh dịch vụ được các NHTM cổ phần áp dụng là đưa ra sản phẩm dịch vụ mới nhằm thu hút khách hàng.
Nếu như trước đây, hoạt động dịch vụ tín dụng của các NHTM chiếm từ 85-90% tổng doanh thu, 10-15% còn lại từ hoạt động thu phí dịch vụ thì hiện nay, cơ cấu này đã dần thay đổi theo hướng 60-65% từ hoạt động tín dụng và 35-40% từ hoạt động dịch vụ.
Các ngân hàng đã và đang triển khai mạnh mẽ dịch vụ ngân hàng trực tuyến, dịch vụ ATM cung cấp những tiện ích về rút tiền, chuyển khoản, thanh toán dịch vụ, cho vay qua thẻ, thu đổi ngoại tệ…Các dịch vụ ngân hàng như: nghiệp vụ thẻ, kinh doanh ngoại hối, chiết khấu, chuyển tiền, kiều hối, tư vấn,… đang được các NHTM đầu tư cả về công nghệ, máy móc thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực, hoạt động marketing, quảng bá thương hiệu, gây dựng uy tín…cho phát triển đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng tăng.
Nói đến dịch vụ ngân hàng, ta chú ý nhiều hơn đến dịch vụ ngân hàng mới phát triển, cụ thể hơn là dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Đại đa số các NHTM trong nước đã có dịch vụ Internet Banking, Home Banking, SMS Banking, Mobile Banking… Các ngân hàng không ngừng nỗ lực cải tiến, đổi mới các dịch vụ hiện đại nhằm cung cấp cho các khách hàng của mình những dịch vụ tốt nhất, bên cạnh đó cũng là để tăng cường sức cạnh tranh đối với những ngân hàng khác.
Tháng 3 năm 2012, Ngân hàng TMCP Đông Nam Á SeABank vừa đưa vào sử dụng 2 điểm ngân hàng tự động (AutoBank) tại SeABank Lê Thái Tổ (Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) và SeABank Lê Lai (Quận 1, TP Hồ Chí Minh).
Đây là dịch vụ Ngân hàng tự động hiện đại nhất Việt Nam, được tích hợp đầy đủ các tính năng giao dịch ngân hàng cơ bản và cập nhật hàng loạt công nghệ mới nhất đạt tiêu chuẩn quốc tế. Dịch vụ này cho phép người sử dụng thực hiện hoàn toàn tự động các giao dịch gửi tiền, rút tiền, đổi tiền từ USD sang tiền đồng Việt Nam, truy vấn thông tin đa phương tiện, giao dịch ngân hàng trực tuyến và hỗ trợ dịch vụ khách hàng.
2. Những hạn chế của dịch vụ ngân hàng trong thời gian gần đây
Bên cạnh những thành tựu mà dịch vụ ngân hàng có được thì vẫn còn những hạn chế như:
- Sản phẩm dịch vụ còn đơn điệu, chưa tạo cơ hội cho khách hàng tiếp cận dịch vụ ngân hàng, chưa khai thác được các phân đoạn thị trường. Số lượng khách hàng sử dụng các dịch vụ dịch vụ ngân hàng điện tử còn ở mức khiêm tốn. Khảo sát do comScore tiến hành được công bố ngày 9/3/2011 cho thấy số người sử dụng ngân hàng điện tử ở Việt Nam đã tăng 35%, từ 701.000 lên 949.000. Đây vẫn là con số rất khiêm tốn so với tốc độ tăng trưởng của thị trường internet và điện thoại di động, lại càng nhỏ hơn so với tỷ lệ dân số.
- Chất lượng dịch vụ do các ngân hàng Việt Nam cung cấp (thể hiện ở tốc độ xử lý nghiệp vụ, độ an toàn, chính xác, tính tiện lợi) chưa cao, thủ tục giao dịch còn rườm rà, phức tạp,…
Lấy một ví dụ đối với các máy thanh toán POS. Trên thế giới, thiết bị chấp nhận thẻ thanh toán (POS) được sử dụng rất phổ biến. Ở Việt Nam, POS cũng bắt đầu được một số hãng taxi, các siêu thị ứng dụng. Tuy nhiên, số lượng còn hạn chế, tính tiện lợi chưa cao. Dạo qua một “điển hình tiên phong” cài đặt POS là Siêu thị Big C, hiện có tới hàng chục quầy thanh toán nhưng chỉ có một số quầy đặt POS. Khách hàng muốn thanh toán bằng thẻ ATM thì phải tìm hiểu trước và nhớ tìm cho đúng vị trí có POS. Việc thực hiện thanh toán còn mất khá nhiều thời gian, khiến khách hàng kém thích thú với loại hình thanh toán này.
Đã xảy ra tình huống khách hàng sau một thời gian chờ đợi, đến lượt mình, muốn thanh toán qua thẻ thì quầy lại không cài đặt POS, ngại phải vác hàng sang quầy thanh toán khác nên đành chấp nhận trả tiền mặt.
- Hoạt động kinh doanh phát triển mới nặng về số lượng, chưa đi vào chất lượng
Hiện nay, số lượng cây ATM được mở ra ngày càng nhiều. Tuy nhiên, chất lượng máy cũng như dịch vụ mà máy cung cấp cho khách hàng lại chưa đạt hiệu quả. Khách hàng chẳng còn xa lạ với hiện tượng máy ATM bị lỗi, gặp trục trặc khi giao dịch. Nhiều tình huống dở khóc dở cười với các máy ATM. Năm 2011, trên báo giáo dục Việt Nam có bài: “phát điên vì hàng loạt máy ATM ở Hà Nội bị tê liệt”. Rất nhiều khách hàng đã không thể thực hiện giao dịch rút tiền tại rất nhiều cây rút tiền của các ngân hàng. Khi đút thẻ vào máy ATM, thực hiện tất cả các thao tác, máy báo chờ giao dịch rất lâu và kết quả là không giao dịch được do ATM lỗi thiết bị.
- Hệ thống khung pháp lý điều chỉnh hoạt động dịch vụ ngân hàng còn nhiều hạn chế, thiếu cơ sở pháp lý cho việc cung cấp dịch vụ mới và chưa phù hợp với sự thay đổi của thị trường dịch vụ ngân hàng đang được tự do hóa.
IV. Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển dịch vụ ngân hàng
· Nâng cao chất lượng dịch vụ
Trước hết các NHTM cần đa dạng hóa sản phẩm, bởi đây là điểm mạnh và mũi nhọn để phát triển dịch vụ ngân hàng. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải tập trung vào những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có đặc điểm nổi trội nhằm tạo ra sự khác biệt hóa.
Thứ hai là cần đầu tư công nghệ mới, tạo cơ hội cho các ngân hàng trong nước bắt kịp với các ngân hàng nước ngoài.
· Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, của khoa học kỹ thuật, dịch vụ ngân hàng không ngừng được cải tiến, dịch vụ ngân hàng hiện đại đã ra đời. Các ngân hàng có thể đưa ra thị trường những dịch vụ hoàn toàn mới hoặc cung cấp những dịch vụ truyền thống theo phương thức mới có hàm lượng công nghệ cao. Dịch vụ ngân hàng hiện đại được hiểu bao gồm những dịch vụ ngân hàng truyền thống được nâng cấp, phát triển trên nền tảng công nghệ hiện đại và những dịch vụ hoàn toàn mới được cung cấp nhằm đem lại những tiện ích mới cho người sử dụng.
· Nâng cao năng lực quản trị điều hành và phát triển nguồn nhân lực
· Nâng cấp và khai thác hệ thống công nghệ hiện đại
· Hoàn thiện bộ máy tổ chức
Nhận xét:
Đây là vấn đề đang gây tranh luận nhiều, đây là chủ đề quan trọng
Về cơ bản nội dung tương đối đầy đủ, nhóm làm thêm kỹ hơn về dịch vụ tín dụng cá nhân nữa
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top