Bộ chính trị: Trung quốc
Chính sách chung _ Bô Chính Tri:
1. Chính sách đối ngoại chung của Việt Nam từ Đại hội X đến nay
Thế giới trong thế kỷ 21 tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó lường. Toàn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xẩy ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp.
Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất nhiều thách thức. Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau.
Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.” Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghãi giàu mạnh”. Báo cáo Chính trị xác định: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và phương châm nêu trên, Đại hội XI đã đề ra những định hướng lớn cho công tác đối ngoại thời gian tới. Trong đó, định hướng tổng thể, bao trùm là nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu, cụ thể:
(i) Về quan hệ song phương: Tiếp tục phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, Việt Nam sẽ ưu tiên phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới, đồng thời nỗ lực làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đối tác chủ chốt.
(ii) Là thành viên ASEAN: Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố vai trò quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương
(iii) Về ngoại giao đa phương: Với phương châm là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu, đặc biệt là Liên Hợp quốc.
Việt Nam sẽ tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là vấn đề biến đổi khí hậu.
(iv) Về biên giới lãnh thổ: thúc đẩy giải quyết những vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
(v) Về các lĩnh vực khác: Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ đối ngoại đảng với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và các đảng khác, tiếp tục coi trọng và nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân.
Những phát triển mới quan trọng :
Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị hội nhập sâu rộng, đường lối đối ngoại của Đại hội XI đã có một số phát triển mới, quan trọng để phù hợp với nhiệm vụ mới và tình hình mới, cụ thể là:
Lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Lợi ích quốc gia - dân tộc là lợi ích tối cao của gần 90 triệu nhân dân Việt Nam và hơn 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài.
Hội nhập quốc tế trở thành định hướng đối ngoại lớn, lấy hội nhập kinh tế là trọng tâm và mở rộng sang các lĩnh vực khác: chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa-xã hội và ở mọi cấp độ song phương, khu vực, đa phương và toàn cầu.
Từ chủ trương “là bạn và đối tác tin cậy” của Đại hội IX, Đại hội XI bổ sung thêm Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Xây dựng cộng đồng ASEAN trở thành một trọng tâm đối ngoại. Đại hội XI khẳng định Việt Nam là thành viên ASEAN, cam kết phấn đấu cùng các nước xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN.
Các hoạt động đối ngoại sẽ được triển khai đồng bộ, toàn diện trên cơ sở phát huy tiềm lực của mọi lực lượng và thực thi trên mọi kênh, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trên mặt trận đối ngoại.
2. Chính sách với Trung Quốc:
Kể từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt - Trung phát triển nhanh chóng và sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả hai bên. Đến nay, hai nước đã ký nhiều hiệp định cấp Chính phủ và các văn kiện hợp tác khác, đặt cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác lâu dài giữa hai nước. Trao đổi đoàn ở trung ương và địa phương ngày càng tăng, hàng năm hai bên trao đổi trên 100 đoàn ở cấp lãnh đạo các bộ, ngành và địa phương, đoàn thể quần chúng, góp phần tăng cường hiểu biết và mở rộng hợp tác giữa hai nước.
Quan hệ chính trị
Các cuộc gặp gỡ giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước được duy trì đều đặn hàng năm. Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 5/2008, hai bên nhất trí phát triển “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” theo phương châm 16 chữ "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” , đồng thời nhất trí thiết lập đường dây nóng giữa lãnh đạo cấp cao hai nước tạo cơ sở cho quan hệ hai nước phát triển ổn định, lâu dài trong thời gian tới. Hai bên đã chuẩn bị nhiều hoạt động thiết thực và có ý nghĩa trong năm 2010 - dịp kỷ niệm 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt – Trung và là “Năm Hữu nghị Việt-Trung”.
Trong các chuyến thăm, Lãnh đạo cấp cao hai nước nhấn mạnh tình hữu nghị Việt-Trung là tài sản quý báu của hai nước và nhân dân hai nước, cần được hết sức giữ gìn và không ngừng vun đắp; khẳng định sẽ làm hết sức mình để đưa quan hệ đó ngày càng sâu sắc hơn, tin cậy hơn, cùng ủng hộ lẫn nhau trong sự nghiệp đổi mới, cải cách mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
- Quan hệ giữa các ngành quan trọng như ngoại giao, an ninh, quốc phòng được tiếp tục tăng cường với việc ký các thỏa thuận hợp tác.
- Quan hệ giữa các địa phương hai bên cũng được tăng cường với nhiều hình thức đa dạng và thiết thực như trao đổi đoàn các cấp, ký kết các văn bản hợp tác, cùng nhau tổ chức hội thảo, triển lãm...
3. Vấn đề Biển Đông:
3.1. Muc tiêu, nhiêm vu:
Về nhiệm vụ của công tác đối ngoại, cụ thể là vấn đề chủ quyền lãnh thổ, văn kiện Đại hội XI nêu rõ: ”bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”. Điểm mới trong phần đối ngoại của văn kiện Đại hội XI là xác định khía cạnh an ninh khi nêu rõ nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn tại của một quốc gia. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ luôn luôn là một trong những nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia.
3.2.Chính sách:
Trong những định hướng lớn của công tác đối ngoại, Báo cáo Chính trị Đại hội XI có một định hướng cụ thể: “Thúc đẩy giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác biên giới, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển”. Đây cũng là một phát triển mới trong đường lối đối ngoại của Đảng. Lần đầu tiên Văn kiện Đại hội Đảng có một định hướng riêng về giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ và xây dựng, phát triển tuyến biên giới với các nước láng giềng. Trong định hướng này, Văn kiện của Đảng cũng chỉ rõ, cơ sở để giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ phải có cả “nguyên tắc ứng xử ở khu vực”. Hiện nay, ở Đông Nam Á nói riêng, châu Á-Thái Bình Dương nói chung, có nhiều nguyên tắc ứng xử của khu vực. Một trong những điển hình của các nguyên tắc này là Tuyên bố về cách ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) mà ASEAN đã ký với Trung Quốc năm 2002.
Liên quan quy chế pháp lý của các vị trí (hình thái địa chất) ở Hoàng Sa, Trường Sa, qua các báo cáo ranh giới ngoài, nhiều học giả kết luận là Việt Nam không coi các vị trí ở Hoàng Sa, Trường Sa là các đảo và do đó không có các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, mà chỉ có tối đa 12 hải lý lãnh hải. Đây là bước điều chỉnh trong quan điểm của Việt Nam đối với các vùng biển và cũng phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển 1982. Thực tế, các vị trí nói chung ở Hoàng Sa, Trường Sa đa số không có đời sống kinh tế riêng, nên theo Công ước luật biển, thì chúng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Hầu như mọi nước Asean ven Biển Đông đều thống nhất với quan điểm này. Nó tạo thành lập trường chung của Asean – tất nhiên khác với lập trường của Trung Quốc.
3.3. Đánh giá tổng quát:
1. Việt Nam đã tích cực các biện pháp giải quyết tranh chấp 1 cách hòa bình.
a. Khi nắm giữ chức Chủ tịch ASEAN vào năm 2010, Việt Nam đã đưa vấn đề tranh chấp và đảm bảo hòa bình, an ninh, tự do hàng hải ở Biển Đông trở thành vấn đề quốc tế hóa, được tất cả các nước trong và ngoài khu vực ủng hộ, quan tâm thảo luận và cam kết cùng nhau có trách nhiệm.Thành công lớn của Việt Nam trong năm 2010 là đưa Mỹ và Nga tham gia Cấp cao Đông Á (EAS) và việc hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) với 8 nước có Nga và Mỹ tham gia đã tạo thêm điều kiện thuận lợi lớn cho việc xây dựng cộng đồng ASEAN với 3 trụ cột và đặc biệt là xây dựng được những tiếng nói đồng thuận về sự cần thiết phải duy trì hòa bình, ổn định khu vực; thúc đẩy các bên liên quan đi đến triển khai Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về ứng xử ở Biển Đông (DOC) để hướng tới xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).
b. Thêm vào đó, Việt Nam tích cực tham gia các hoạt động song phương giải quyết tranh chấp với Trung Quốc.
2. Việt Nam đã thành công trong việc kiềm chế, không sử dụng vũ lực
a. Trước những hành động mang tính khiêu khích của Trung Quốc cả trên biển và về mặt truyền thông, Chính phủ Việt Nam vẫn giữ bình tĩnh và đề cao nguyên tắc giải quyết các xung đột, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.
b. Ngày 17 tháng 6 năm 2011, Mỹ và Việt Nam đã ra thông cáo chung sau vòng Đối thoại về chính trị, an ninh-quốc phòng Việt-Mỹ lần thứ 4 diễn ra tại Washington D.C., kêu gọi "duy trì hòa bình, ổn định, an toàn và tự do lưu thông hàng hải tại Biển Đông" và "không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp".
3. Việt Nam đã tích cực tham gia các diễn đàn đa phương
a. Việt Nam là một thành viên tích cực và thiện chí trong các diễn đàn đa phương như: EAS, ARF,… là một đóng góp không kém phần quan trọng thể hiện sự đoàn kết trong khối ASEAN.
b. Việc tham gia các diễn đàn đa phương này của Việt Nam không phải nhằm mục đích để làm gia tăng căng thẳng trong vấn đề biển Đông mà ngược lại, có tác dụng “xuống thang” xung đột.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top