Tiệm Đồ Cổ Á Xá 3-4

Quyển 3 - Chương 1: Rìu Thiên Việt

Cổ vật trong tiệm đồ cổ Á Xá,

mỗi một thứ đều có câu chuyện của riêng mình,

cất giữ rất nhiều năm,

không có ai lắng nghe,

nhưng chúng đều đang chờ đợi.

1

Thành Khai Phong, năm 951.

Triệu Khuông Nghĩa, vừa mới mười hai tuổi, đang lang thang trên đường phố ở Biện Kinh, lúc này đang là cuối năm, nhưng vì cục thế triều đình rối loạn, con phố vốn phồn hoa này chỉ lác đác vài ngườI đi lại.

Triệu Khuông Nghĩa kéo chặt lại chiếc áo khoác trên người, với cái lạnh thấu xương mùa đông, chiếc áo khoác bông của cậu có vẻ hơi mỏng mảnh. Triệu Khuông Nghĩa nhìn thấy một quý công tử khoác áo hồ cừu, cưỡi con ngựa lớn vừa băng qua vừa quát tháo, bất chợt nhìn theo với ánh mắt ngưỡng mộ.

(Loại áo khoác làm bằng da cáo, là loại đắt tiền sang trọng)

Cha cậu tuy đã chuyển từ Lạc Dương về Biện Kinh, nhậm chức quan Thánh đô chỉ huy sứ, nhưng phép nhà nghiêm ngặt, anh trai cậu hai năm TRước bỏ nhà ra đi tìm con đường riêng, vậy mà còn không mang đủ lộ phí. Nghe nói anh cậu trên đường dầm mưa dãi nắng, nếm đủ gian khổ, lần này về nhà, Triệu Khuông Nghĩa có thể cảm nhận rõ ràng sự thay đổi của ông anh trai mình.

Tuy tuổi đời kém anh trai tới mười hai năm, nhưng Triệu Khuông Nghĩa không nghĩ rằng mình nên được anh trai chăm lo. Cậu biết anh mình không phải loại cá tép trong ao, dù cha cậu có từng chế giễu sự sùng kính mù quáng ấy, cậu vẫn luôn nghĩ mình đúng.

Anh cả về không đi nữa, hơn nữa tướng quân Quách Uy mà anh cả vẫn theo hầu, vài năm trước đã khoác áo hoàng bào, lên làm hoàng đế. Anh cả là một trong những thuộc hạ có công đưa hoàng đế lên ngôi, tất nhiên sẽ tiền đồ vô lượng, được đề bạt lên chức Đông Tây ban hàng thủ. Nghe nói ông anh sắp sửa được điều động ra ngoài đóng quân, làm Chỉ huy sứ, trở thành tướng lĩnh cầm quân một vùng rồi.

Tuy Triệu Khuông Nghĩa còn nhỏ tuổi, nhưng được học chữ đọc sách từ rất sớm, cũng hiểu chuyện nổi loạn liên miên mấy năm gần đây, chỉ trong có mấy chục nĂm ngắn ngủi, đã thay tới ba triều đại, năm hoàng đế, nơI nơi họa binh đao không ngừng, dân chúng lầm than. Nếu có người ngăn được biến loạn, thiên hạ được thái bình thì tốt biết bao.

Triệu Khuông Nghĩa đang nghĩ ngợi mông lung, cho đến khi có luồng gió lạnh thổi táp vào mặt, mới chợt giật mình, nhớ ra hôm nay ra ngoài là để mua quà mừng anh cả lên chức. Nhưng mấy hàng đồ cổ cậu vừa đi qua, hoặc là không có đồ gì tốt, hoặc là chê cậu nhỏ tuổi ăn mặc lôi thôi mà không thèm đón tiếp. Triệu Khuông Nghĩa vẫn không bỏ cuộc, tiếp tục đi tìm, lát sau cậu tới một con ngõ không lấy gì làm nổi bật, nhác trông thấy một cửa hàng không lớn, trên tấm biển khắc nạm vàng hai chữ triện, nhìn rất cổ kính.

"Á Xá?" Triệu Khuông Nghĩa lẩm bẩm đọc đôi con chữ, bỗng cảm thấy cái tên rất thanh nhã. Tên cửa hàng đặc biệt hơn rất nhiều những Bác cổ Trai, Bách Bảo Phường mà ban nãy cậu đi qua, cảm thấy hứng thú, Triệu Khuông Nghĩa bước vào.

Bài trí trong cửa tiệm khiến cậu hơi ngạc nhiên, không quá mức hoa mỹ, mà chỉ thấy khắp nơi bày rương hòm, như thể chưa mở cửa kinh doanh, hoặc như sắp đóng cửa luôn rồi.

Triệu Khuông Nghĩa mừng thầm trong lòng, nếu cửa hàng này sắp đóng hẳn, thì biết đâu cậu lại bới được đồ gì hay. Nghĩ tới đó, cậu liền hắng giọng hỏi: "Chủ tiệm? Ở đây còn bán đồ nữa không?"

Một cậu bé khoảng mười một, mười hai tuổi bước ra từ phía sau một chiếc rương cỡ lớn, nhìn thấy cậu khách, liền cười trừ xin lỗi: "Hôm nay chủ tiệm không có nhà, tôi không bán đồ được".

Tuy Triệu Khuông Nghĩa cũng chỉ mười hai tuổi, nhưng cậu là con nhà quân nhân thế gia, từ nhỏ đã tập võ, nên người dong dỏng cao, nhìn như một thiếu niên mười lăm, mười sáu tuổi. Còn cậu bé xuất hiện trước mặt cậu thì gầy gò nhỏ bé, chỉ cần nghe giọng nói đã biết sức khỏe không tốt, cộng thêm gương mặt xanh xao kém sắc, có thể dễ dàng nhận ra cậu ta bị suy nhược từ nhỏ. Trong tiệm đốt lò lửa, ấm áp như mùa xuân, nhưng cậu bé mặc một chiếc áo hồ cừu trắng, khiến cho gương mặt càng trắng bệch như tờ giấy.

Cậu bé thấy Triệu Khuông Nghĩa nhìn mình chằm chằm, cũng không thấy phiền, chỉ cười tít mắt nói: "Cậu mà đến sớm vài ngày thì tốt, tôi đòi chủ tiệm dẫn đi lên Thái Sơn ngắm cảnh, nên mới chuẩn bị đóng cửa. Cậu biết Thái Sơn không? Phải rồi, tôi còn định tiện thể đi ngắm biển, thấy trong sách nói biển là nơi trăm sông đổ về, chắc phải hùng vĩ lắm!" Hẳn là cậu bé đang vui lắm, dù nói với người lạ, cũng nói huyên thuyên được lúc lâu.

Triệu Khuông Nghĩa nghĩ bụng Biện Kinh cách Thái Sơn xa thế, mà cách biển còn chẳng biết mấy ngàn dặm, có lẽ cậu bé không còn sống trên đời được bao lâu nữa, nên chủ tiệm mới cho cậu đi. Nghĩ vậy, cậu liền cảm thấy rất thông cảm với cậu bé, liền ở lại trong tiệm để nói chuyện.

Cậu bé thường ngày rất ít khi có bạn bè cùng lứa, nên rất sung sướng, kéo Triệu Khuông Nghĩa tới ngồi trên chiếc ghế làm bằng gỗ trắc chưa kịp cất vào hòm, rồi nhanh nhẹn đun ấm nước, pha một ấm trà ngon, rồi không biết kiếm đâu ra một ít bánh uống trà nhìn rất tinh tế.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người sở hữu vật này luôn gặp những điều may mắn khó tin!

Triệu Khuông Nghĩa đi lại cả buổi sáng giữa mùa đông, lúc này uống vài ngụm trà nóng, từ cổ họng vào tận đáy lòng, cảm giác ấm áp thoải mái. Cậu nói vài câu chuyện phiếm với cậu bé, nhận ra cậu bé tuy còn ít tuổi nhưng học thức sâu rộng, nói đến đâu cũng trích dẫn kinh điển đến đó, cậu thầm thán phục.

"À phải rồi, cậu định mua gì?" Cậu bé phủi vụn bánh trên tay, tò mò hỏi. Lúc này cậu rất có cảm tình với vị khách hàng nhỏ tuổi của mình, chủ tiệm đã nói, bán đồ cổ cần phải tùy duyên, bây giờ cậu muốn bán đồ cổ, chắc không quá đáng chứ?

Triệu Khuông Nghĩa cũng không bán khoăn nhiều, nói luôn mình muốn mua quà tặng anh cả, mừng anh lên chức. Ban đầu cậu không hy vọng cậu bé có thể tìm được thứ gì cho mình, nhưng cậu bé trầm ngâm một lúc rồi nhảy xuống khỏi ghế, từ chiếc hòm bên cạnh lôi ra một chiếc hộp gấm dài nặng trịch.

"Đây là gì vậy?" Triệu Khuông Nghĩa chỉ nhìn thấy hoa văn dây leo nạm vàng bạc trên thân hộp gấm là biết thứ này có giá không rẻ. Cậu hơi chột dạ, sờ lên túi bạc trong người, nghĩ bụng có khi mình không mua nổi chiếc hộp. Chỉ nhìn tấm áo hồ cừu trên người cậu bé, rồi còn ấm trà chén trà, là biết đồ trong cửa tiệm này thuộc hàng vô giá, Triệu Khuông Nghĩa hơi hối hận vì đã ở lại.

Cậu bé không nói gì, chậm rãi mở hộp gấm, lộ ra một chiếc rìu bằng ngọc rất đẹp. Chiếc rìu làm toàn bộ bằng bạch ngọc sáng bóng, không có lấy một vết sứt sẹo, cũng không có một hoa văn thừa nào, rất cổ kính sang trọng, lại cảm thấy có khí lạnh toát ra, vô cùng uy nghiêm. Chiếc rìu không lớn, chỉ dài bằng cẳng tay. Triệu Khuông Nghĩa vừa thấy đã không thể rời mắt, trong lòng dâng lên một cảm giác khó diễn tả bằng lời.

"Phủ, sách Thuyết Văn Giải Tự" giải thích chữ "phủ" (chiếc rìu) bên trên là "phụ", bên dưới là "cân", "phụ" là chỉ người cha trong nhà. "Cân" là dụng cụ để chặt, cũng chỉ dụng cụ hành hình. "Phụ" và "cân" ghép vào nhau ý chỉ quyền uy của người cha trong nhà, có quyền thưởng phạt". Cậu bé từ tốn cất tiếng, "Anh cả như cha, tặng rìu ngọc cho anh cả, không gì thích hợp hơn".

Triệu Khuông Nghĩa nghe xong cũng động lòng, cậu thấy chiếc rìu ngọc này không giống những thứ đồ mỹ nghệ điêu khắc của thời gian gần đây, liền hỏi: "Chiếc rìu ngọc này lai lịch ra sao?"

Cậu bé khẽ mỉm cười nói: "Đây là chiếc rìu ngọc, đồ làm bằng ngọc, không phải thứ mà gia đình bình thường có được".

"Ý cậu là...", Triệu Khuông Nghĩa hơi nheo mắt, "Rìu ngọc chắc là một thứ đồ tế lễ, chẳng lẽ lại là của vị vua chúa nào?" Tuy miệng nói vậy, nhưng trong lòng cậu bắt đầu thấy ngán, cậu cứ nghĩ cậu bé kia đặc biệt thế nào, hóa ra chẳng khác gì những tay bán đồ giỏi bịa đặt.

"Không sai, sau khi có khái niệm "quốc", thì có từ "quân phụ", hoàng đế chính là người cha của mọi con dân, nên dụng cụ hành hình mà hoàng đế dùng để cai trị đất nước gọi là "vương phủ". Mà chữ "vương" thông với chữ "ngọc", nên "ngọc phủ" (rìu ngọc) chính là quyền bính của một quốc gia". Cậu bé cười híp mắt, "Theo sách "Lục Thao" ghi chép Chu Vũ Vương có một chiếc rìu, lưỡi rộng tám tấc, nặng tám cân, cán dài hơn năm thước, tên là "Thiên Việt". "Phủ việt" thời thượng cổ không chỉ là binh khí chiến trận, mà còn là tượng trưng cho quân quyền và quyền thống trị. Chiếc rìu ngọc này, chính là rìu Thiên Việt mà Chu Vũ Vương dùng để hiệu lệnh thiên hạ".

Triệu Khuông Nghĩa không thể hiện gì trên nét mặt, thực ra là cậu không biết phải nói gì nữa. Cậu bé kia có bịa chuyện cũng nên bịa cái gì dễ tin một chút chứ? Chu Vũ Vương? Cậu ta nghĩ cậu là ai?

Có vẻ cậu bé không hề nhìn thấy vẻ mặt cứng đờ của Triệu Khuông Nghĩa, vẫn tiếp tục cười tít mắt nói: "Chúng ta đánh cược, chỉ cần cậu cầm được chiếc rìu ngọc này, tôi sẽ tặng luôn cho cậu". Cậu bé nói rất khẳng khái, bởi cậu biết chiếc rìu ngọc này chỉ có chân mệnh thiên tử mới cầm lên nổi, những người khác chỉ cần cầm trên tay, thì trong khoảnh khắc cổ tay sẽ mềm nhũn một cách khó hiểu, cho dù là đại lực sĩ mạnh mẽ cỡ nào cũng vậy. Cậu bé vẫn nhớ trong lòng chuyện này, nên hôm nay mới đem ra để kiểm nghiệm lại, tiện thể cũng để trêu đùa người bạn mới.

Triệu Khuông Nghĩa nghe xong trợn tròn mắt, chiếc rìu ngọc này cũng chỉ nặng có vài cân, đánh cược kiểu này hình như hơi coi thường cậu! Nhưng cậu cảm thấy mình có đánh cược với cậu bé cũng chả mất gì, liền không khách sáo nữa, lấy chiếc rìu ngọc từ trong hộp gấm ra, cầm chơi trên tay.

Sau thời gian một tuần trà, Triệu Khuông Nghĩa đem rìu cất lại vào hộp, ngẩng đầu nhìn cậu bé với ánh mắt dò xét.

Nụ cười của cậu bé đã cứng đờ nơi khóe miệng, tuy rằng có vẻ rất không muốn, nhưng cậu cũng thoải mái đưa hộp gấm cho Triệu Khuông Nghĩa.

Triệu Khuông Nghĩa không ngờ cậu bé kia thực sự có thể vô tư tặng luôn chiếc rìu ngọc cho mình, cậu định không lấy, nhưng lại nghĩ cậu bé hào phóng như thế, đánh cược chắc chỉ làm cho có lệ, có lẽ chiếc rìu này vốn không đáng giá đến thế. Triệu Khuông Nghĩa nhìn thấy cậu bé cúi đầu uống trà, có vẻ hoang mang, liền không làm phiền nữa, lấy túi bạc trong người mình đặt hết lên bàn trà, rồi ôm hộp gấm, sung sướng trở về. Trước lúc đi cậu còn nghe loáng thoáng thấy cậu bé kia lẩm bẩm gì như "chân mệnh thiên tử", nhưng cũng không để ý nữa.

Cậu bé không biết uống bao nhiêu trà, mới giật mình nhận ra người kia đã đem rìu Thiên Việt đi, còn lúc này, gã chủ tiệm ngồi trước mắt cậu đang nhìn túi bạc trên bàn, nghĩ ngợi điều gì đó.

"Chủ tiệm, ờ... rìu Thiên Việt hôm nay bị cháu bán mất rồi...". Cậu bé lắp bắp giải thích, người kia để lại tiền, coi như là bán đi... Rõ ràng là bán quá rẻ. "Nhưng mà không phải chú nói rằng người nào cầm được rìu Thiên Việt thì là thiên tử sao? Bán rẻ cho thiên tử chắc không sao đâu nhỉ? Ô, chết thật, nếu cậu ta đem làm quà tặng anh trai, lúc ấy anh trai cậu ta không, nhấc được rìu Thiên Việt lên thì buồn cười lắm... ha ha...".

Gã chủ tiệm trông chỉ khoảng hai mươi tuổi, còn rất trẻ, nhưng gương mặt trầm tĩnh, không hợp lắm với vẻ ngoài của gã. Gã lại mặc một chiếc áo Hán phục màu đen cũ, trông giống như nhân vật bước ra từ tranh cổ vậy. Gã nhìn cậu bé một lát, rồi thở dài nói: "Tuy rằng chiếc rìu Thiên Việt này chỉ có thiên tử mới cầm được, nhưng tương truyền năm xưa sau khi Chu Vũ Vương chế được chiếc rìu này liền phong ấn nó lại, cháu biết vì sao không?"

"Vì sao vậy?" Cậu bé bắt đầu cảm thấy mình làm sai việc gì, nên rất bất an.

"Bởi vì chiếc rìu ngọc tượng trưng cho quyền lực này, có một ma lực khiến người ta trở nên đa nghi, rất ít người có thể chống lại được.,.". Giọng nói gã chủ tiệm thấp dần, cuối cùng tan vào trong hương trà phảng phất nơi cửa tiệm.

Triệu Khuông Nghĩa vừa về đến nhà bèn đem rìu ngọc đi biếu anh trai, quả đúng như cậu dự liệu, ông anh cả vô cùng thích thú, vừa nhìn thấy đã không nỡ rời tay, lập tức tìm dây buộc để đeo rìu lên người.

Triệu Khuông Nghĩa rất vui vì anh trai mình thích chiếc rìu Thiên Việt này, bèn kể lại lai lịch chiếc rìu, không quên thêm mắm dặm muối. Triệu Khuông Dận nghe kể chỉ cười ha hả, không mấy chú tâm. Anh ta tất nhiên không tin cậu em mới mười hai tuổi của mình vừa đi ra ngoài đã mua được cho mình chiếc rìu Thiên Việt của Chu Vũ Vương, đó chẳng qua là mấy lời nói khoác của người bán hàng mà thôi. Nhưng anh ta vẫn vui vẻ, dù sao cũng là tấm lòng của em trai mình.

Hơn nữa chiếc rìu ngọc này, quả thật rất hợp mắt anh ta. Còn hàm nghĩa của chiếc rìu Thiên Việt mà cậu em trai có nhắc tới, càng khiến anh ta ngấm ngầm để ý.

Rìu, tượng trưng cho quyền bính ư?

Triệu Khuông Dận giấu ánh mắt tinh nhanh của mình, xoa đầu Triệu Khuông Nghĩa, hỏi thăm mấy câu dạo này học hành thế nào, rồi mới ôm chiếc rìu sung sướng rời đi.

Triệu Khuông Nghĩa khẽ thở phào, dù cậu biết những lời cậu bé kia nói có phần hoang đường, nhưng khó tránh khỏi có chút lo lắng, lỡ có gì bất ngờ xảy ra thì sao. Nhưng rõ ràng cậu nhìn thấy anh trai mình cầm chiếc rìu ngọc trên tay một lúc lâu cũng không thấy bỏ ra, vậy thì chỉ có thể cho rằng cậu bé kia ngay từ đầu đã muốn tìm lý do để tặng chiếc rìu Thiên Việt này đi.

Anh cả nói chiếc rìu này chất ngọc sáng bóng, hiển nhiên không phải là món đồ tầm thường. Triệu Khuông Nghĩa ngẫm nghĩ một hồi, quyết định ngày mai sẽ xin mẹ thêm ít bạc nữa, số bạc lẻ hôm nay mang đi rõ ràng không đủ để mua chiếc rìu Thiên Việt này.

Tiện tay vơ lấy chiếc hộp gấm vẫn nằm trên bàn để cất đi, Triệu Khuông Nghĩa nhác trông thấy miếng vải gấm lót dưới đáy hộp bị cong lên một góc, mặt trong hình như có chữ viết. Cậu đưa tay cầm vào miếng phải rồi bóc ra, đến khi nhìn thấy dòng chữ trên đó, cậu sững người.

"Rìu Thiên Việt, rìu của Chu Vũ Vương, do Khương thái sư Khương Tử Nha chế tác, truyền rằng kẻ không có thiên mệnh thì không thể cầm lên. Vũ Vương từng vì chiếc rìu này mà giận chém bạn thân, sau rất hối hận, nói rằng kẻ cầm chiếc rìu này sẽ có lòng nghi kỵ rất lớn, hại đến người xung quanh, năm Vũ Vương thứ 20 phong ấn".

Triệu Khuông Nghĩa đọc đi đọc lại vài lần, rồi bật cười thành tiếng, coi như là trò đùa. Cậu đã cho rằng những gì cậu bé kia nói là bịa ra, nên miếng vải gấm này càng làm cậu tin chắc hơn vào phán đoán của mình.

Dù nói thế nào, làm giả được đến mức này, cậu cũng vô cùng khâm phục gã chủ tiệm đứng sau lưng cậu bé. Ngày mai phải nhớ đi gặp người này mới được. À đấy, phải xin mẹ thêm ít bạc nữa chứ...

Triệu Khuông Nghĩa tính toán cặn kẽ, nhưng hôm sau khi cậu ôm miếng gấm và một túi bạc nặng trịch tới được con ngõ nhỏ, thì cửa tiệm mang tên Á Xá đã không còn. Trong căn nhà trống trơn, ngoài bụi bặm và những vết kê hòm vẫn còn trên sàn nhà ra, thì chẳng còn lại gì.

Bao nhiêu rương hòm như thế, chỉ trong có một đêm mà đã chuyển đi hết rồi?

Dù trong lòng Triệu Khuông Nghĩa nghi hoặc, nhưng cậu cũng biết gã chủ tiệm phải đưa cậu bé bệnh nặng đi du ngoạn, dù cậu muốn tìm cũng không tìm được. Thế là cậu không nghĩ nhiều nữa, tiện tay cất miếng vải gấm vào trong chiếc rương đựng đồ tạp nham trong thư phòng mình, mấy hôm sau thì quên tiệt.

Không phải cậu không muốn tìm cơ hội cho người khác cầm thử rìu Thiên Việt của anh trai mình xem sao, nhưng chiếc rìu đó ông anh gần như chẳng để rời người, không tìm được cơ hội thử nghiệm, dần dần rồi Triệu Khuông Nghĩa cũng quên.

Thế nhưng, sau một thời gian, việc mà tưởng chừng như cậu đã quên, lại bỗng nhiên quay về.

Anh trai cậu không lâu sau đi đến Hoạt Châu làm chức Phó chỉ huy sứ, trên chiến trường kiêu dũng thiện chiến. Trong thư gửi về nhà sau này của Triệu Khuông Dận, có đặc biệt nhắc tới việc chiếc rìu Thiên Việt mà Triệu Khuông Nghĩa tặng, trong lúc nguy cấp đã cứu mạng anh ta một phen. Triệu Khuông Nghĩa không nghĩ gì nhiều, thậm chí còn cho rằng nếu cậu tặng anh trai một thanh đao tốt, có khi tác dụng trên chiến trường còn lớn hơn.

Hoàng đế mới lên ngôi của vương triều Đại Chu là Quách Uy không có con, nên nhận đứa cháu họ Sài Vinh của ông ta làm con nuôi, trở thành người sẽ kế vị ngôi báu. Thái tử Sài Vinh sau cuộc chiến này rất coi trọng Triệu Khuông Dận, điều anh ta về bên mình, tháng chức làm Mã trực quân sứ của phủ Khai Phong. Từ một phó quan ở địa phương được thăng luôn lên làm trọng thần ở kinh kỳ, Triệu Khuông Nghĩa biết anh trai mình đang phất như diều gặp gió, mà năm đó ông anh trai mới hai mươi bảy tuổi.

Mười lăm tuổi, cậu đứng ở cổng thành, nhìn anh trai mình cưỡi ngựa trắng đội mũ sắt về kinh, cảm thấy vô cùng xa lạ, hiển hiện một thứ sát khí và bá khí được rèn luyện ở chiến trường, khiến người khác nhìn đã thấy sợ.

"Nhi đệ, từ khi được đệ tặng cho chiếc rìu Thiên Việt này, đại ca đệ đúng là toàn gặp may mắn đấy!" Triệu Khuông Dận xuống ngựa, nói với Triệu Khuông Nghĩa một cách hào sảng. Khi anh ta còn phiêu dạt bên ngoài, từng có lúc cơm không có mà ăn, suýt thì chết đói trên đường. Vậy mà chỉ sau ba năm ngắn ngủi, anh ta đã ở chức vụ cao nhất, cậu không thể không cảm thán rằng chuyện đời thật khó đoán.

Đây là lần thứ hai Triệu Khuông Nghĩa nghe anh trai mình nhắc tới rìu Thiên Việt, cậu hơi sững người, nhưng rồi cũng nở nụ cười chân thành. Người ta đều thế cả, luôn cần tìm cho bản thân một chỗ dựa nào đó. Triệu Khuông Nghĩa không nghĩ ngợi nhiều, chỉ vỗ lên con ngựa trắng của Triệu Khuông Dận một cách ngưỡng mộ.

Triệu Khuông Dận nhìn em trai, hơi trầm ngâm một chút rồi nói: "Nhị đệ, đệ không còn nhỏ tuổi nữa, ngày trước ta sợ trên chiến trường không thể lo cho đệ được, nên mới không đem đệ theo. Bây giờ đại ca.về kinh thành rồi, đệ đi theo ta. Đệ có đồng ý không?"

Triệu Khuông Nghĩa sung sướng gật đầu lia lịa.

Nhưng anh em họ Triệu không ai ngờ được rằng, cái chức Mã trực quân sứ ở phủ Khai Phong, Triệu Khuông Dận không làm được lâu. Hoàng đế Quách Uy cuối năm ấy bệnh nặng nằm liệt giường, khó khăn lắm mới qua được đến năm mới, nhưng không có tiến triển gì, năm thứ ba sau khi lên ngôi, ông đã băng hà, con nuôi Sài Vinh kế vị ngay trước linh cữu.

Ngay sau đó, biên quan liên tiếp có cấp báo, Sài Vinh phải ngự giá thân chinh. Triệu Khuông Nghĩa cũng đi theo anh cả ra chiến trường, tận mắt nhìn thấy, khi hữu quân thất bại, thậm chí một vài tướng lĩnh bắt đầu trốn chạy, anh cả Triệu Khuông Dận của cậu dồn sửc cứu nguy ở trận chiến Cao Bình, xoay chuyển thế cục.

Triệu Khuông Nghĩa vừa sùng kính vừa tự hào, trên chiến trường nhuộm đỏ máu, anh cả giống như một ngọn núi sừng sững, ai cũng cảm thấy là chỗ dựa vô cùng vững chãi. Thậm chí anh trai còn được lòng người hơn cả hoàng đế khoác long bào.

Trong khoảnh khắc ấy, như có ma xui quỷ khiến, Triệu Khuông Nghĩa chợt nhớ tới lời viết trên miếng gấm.

"Rìu Thiên Việt, rìu của Chu Vũ Vương, do Khương thái sư Khương Tử Nha chế tác, truyền rằng kẻ không có thiên mệnh thì không thể cầm lên...".

2

QUẢNG CÁOAdskeeper

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Năm 960, dịch quán Trần Kiều.

Triệu Khuông Nghĩa đội trời mưa tuyết phi ngựa về dịch trạm, còn chưa đến tuổi đội mũ, cậu đã theo anh trai rong ruổi sa trường được ba, bốn năm nay rồi. Kinh qua chiến tranh gột rửa, cậu đã hết những nét non nớt trên gương mặt, trải mấy phen sống chết, cậu đã gặp hiểm nguy không sợ hãi, thành một người điềm tĩnh chắc chắn. Nhưng giờ đây cậu lại hơi lo lắng, đôi tay cầm dây cương ngựa hình như đang hơi run lên.

(Thời xưa con trai đến hai mươi tuổi thì làm lễ đội mũ, đánh dấu sự trưởng thành)

Kéo cương dừng ngựa trước một tòa nhà có mái Yết Sơn, Triệu Khuông Nghĩa nhảy xuống ngựa, đưa dây cương cho người hầu, hít thật sâu một hơi không khí lạnh cóng, rồi mới bước trên tuyết đi vào nhà.

(nhà dốc xuống lưng chừng thì đổi hướng, dốc choãi rangoài hơn)

Đây là một khoảng sân không lớn lắm, giữa sân trồng một cây hòe cổ thụ, cành cây khô màu nâu cong queo rủ xuống, bên trên đắp một lớp tuyết dày trắng xóa. Anh trai cậu khoác áo khoác hồ cừu đứng dưới gốc hòe, quay lưng về phía cậu, ngẩng đầu nhìn chăm chăm lên trời, tay vẫn chà vào chiếc rìu Thiên Việt theo thói quen.

Triệu Khuông Nghĩa định tới chào, thì phát hiện ra trên áo anh trai đã có một lớp tuyết, chắc là đã đứng đó rất lâu.

Cũng phải, việc mà họ đang cần đối diện, thật khó lựa chọn, phải đích thân anh trai cậu suy nghĩ quyết định. Triệu Khuông Nghĩa nghĩ vậy, rồi cũng đứng ở đó, nhìn lưng anh trai mình, đứng ngây ra đó mãi.

Mới qua vài năm, anh trai cậu đã lên chức Điện tiền đô điểm kiểm, nắm giữ quân thân vệ, thực sự trở thành kẻ dưới một người trên vạn người. Mà lúc này, Sài Vinh bệnh nặng qua đời, lên kế vị là đứa con nhỏ mới bảy tuổi. Vua yếu tôi mạnh, trong những năm tháng hỗn chiến thời Ngũ Đại Thập Quốc này, mỗi khi xuất hiện tình trạng đó, thì kẻ mạnh luôn lên thay thế kẻ yếu.

Triệu Khuông Nghĩa nhìn rìu Thiên Việt trong tay anh trai mình với ánh mắt phức tạp, chín năm trước, cậu đâu thể ngờ được, lời nói đùa ấy lại có ngày thành hiện thực.

"Hòe, tức là "hoài" (nhớ mong). Mong người ở xa tới đây, muốn cùng bàn mưu đấy". Một giọng nói nho nhã từ tốn cất lên, cùng với tiếng bước chân lạo xạo trong tuyết.

Triệu Khuông Nghĩa nhìn về phía phát ra tiếng nói, thì thấy người tới là Triệu Phổ, chưởng thư ký của anh trai. Triệu Phổ là mưu sĩ được anh trai cậu tín nhiệm nhất, nhưng không đọc nhiều sách, tự nhận là chỉ cần đọc nửa bộ "Luận Ngữ" cũng có thể trị thiên hạ. Triệu Khuông Nghĩa rất kinh ngạc: với học thức của gã này, mà nói được cả đoạn chú thích của Trịnh Huyền trong mục "Triều Sĩ", thiên "Thư Quan", sách "Chu Lễ", có vẻ gã này không hề trầm lặng như vẻ bên ngoài, mọi chi tiết nhỏ nhặt gã đều đã tính toán trong đầu.

("Chu Lễ": sách kinh điển Nho giáo, giảng về lễ nghĩa, chế độ quan lại... Trịnh Huyền là học giả đời Hán, viết chú cho các sách kinh điển)

"Đứng dưới gốc cây, đợi người khác tới để bàn việc, nơi đây đúng là hợp cảnh". Triệu Khuông Dận đeo chiếc rìu Thiên Việt trên tay vào dây đai, quay đầu lại nhìn hai người thân cận một văn một võ của mình, cười nói: "Đã chuẩn bị xong cả chưa?"

Triệu Khuông Nghĩa và Triệu Phổ đồng thanh đáp "rồi", trên gương mặt trẻ tuổi không giấu nổi sự hưng phấn, nếu việc này thành, cuộc đời họ sẽ thay đổi hoàn toàn, nhưng nếu việc này bại, họ sẽ muôn kiếp không được siêu sinh.

Triệu Khuông Dận thì không hề lo trước nghĩ sau như bọn họ, anh ta chỉ cười nhẹ: "Nhớ lúc Thế Tông đánh phía Bắc, từng bắt được một thẻ gỗ, trên viết "Điểm kiểm làm thiên tử", xem ra đúng là ý trời".

Triệu Phổ biết điều tiếp lời mấy câu, Triệu Khuông Nghĩa thì cười thầm trong bụng. Ông Thế Tông mà anh trai cậu nói chính là Chu Thế Tông Sài Vinh, vị vua vừa băng hà cách đây không lâu, năm xưa viên Điện tiền đô điểm kiểm là Trương Vĩnh Đức, có hiềm khích với anh trai cậu. Họ chỉ cần bày một kế nhỏ, làm một tấm thẻ gỗ giả, là khiến Trương Vĩnh Đức bị Thế Tông nghi kỵ, bị bãi miễn chức Điểm kiểm, Triệu Khuông Dận mới lên được chức đó. Nhưng bây giờ nhìn lại, kế sách họ bày ra hồi đó hóa ra lại có tính tiên đoán thật.

Triệu Khuông Nghĩa đoán ra được suy nghĩ của Triệu Khuông Dận, biết là anh ta muốn lợi dụng kế đó lần nữa để coi như thuận ý trời, cậu bèn vội chắp tay nói: "Đến ngày xuất quân, sẽ phong Điểm kiểm làm thiên tử. Đệ sẽ cho người tung tin này trong quân đội ngay". Triệu Phổ dù đa mưu túc trí nhưng không đủ hiểu anh trai cậu. Anh trai cậu cực kỳ coi trọng danh tiếng của bản thân, sẽ tuyệt đối không chủ động đi chiếm ngôi, mà phải có một cơ hội thật xác đáng. Triệu Khuông Nghĩa đã nhanh chóng khiến việc này trở nên rõ ràng.

Triệu Khuông Dận sờ tay lên rìu Thiên Việt, gật đầu với em trai một cách hài lòng.

Triệu Khuông Nghĩa hiện giờ không còn gọi là Triệu Khuông Nghĩa nữa, vài tháng trước, trong cuộc binh biến Trần Kiều, anh trai cậu đã thuận lợi khoác hoàng bào lên người, lên ngôi làm vua. Vì kỵ húy, cậu đổi tên thành Triệu Quang Nghĩa, cậu em út Triệu Khuông Mỹ cũng đổi thành Triệu Quang Mỹ. Chỉ có điều cậu em út năm nay mới mười hai tuổi, chẳng có việc gì cần nhờ đến, nên vẫn ở Khai Phong, chỉ có Triệu Quang Nghĩa đi theo Triệu Khuông Dận nam chinh bắc chiến.

(Năm Hiển Đức thứ 7, nhà Hậu Chu, vùng Trấn Châu và Định Châu cấp báo có quân Bắc Hán và Liêu xâm phạm, triều đình không tra xét đúng sai, cử luôn Mộ Dung Diên Chiêu và Triệu Khuông Dận đem quân kháng địch. Triều đình thiết yến tiệc tiễn Triệu Khuông Dận ở ngoài thành Biện Lương, đến chiều tối khi quân đội tới dịch trạm Trần Kiều, dưới mưu kế của Triệu Quang Nghĩa và Triệu Phổ, Triệu Khuông Dận phát động binh biến, mặc hoàng bào lên ngôi, quay về kinh thành, đổi quốc hiệu là Đại Tống. Sử gọi là "binh biến Trần Kiều")

Vì việc lên ngôi gấp gáp, bộ trang phục đại diện cho sự tôn quý của đế vương vẫn chưa kịp may xong, anh trai vẫn mặc khôi giáp của tướng quân như mọi khi, nhưng phong thái đế vương thì khiến người khác nhìn thấy là phải cúi mình bái phục.

Triệu Quang Nghĩa cảm thấy anh trai đã thay đổi, đó là điều bình thường. Thân phận đã khác, tất nhiên tính cách, khí chất cũng phải thay đổi theo, hơn nữa đâu chỉ có mình anh trai của cậu thay đổi, Triệu Quang Nghĩa cũng phải thay đổi thái độ của mình khi đứng trước mặt anh trai. Dù họ là anh em, nhưng giờ còn là vua tôi nữa.

Nhưng đôi lúc, Triệu Quang Nghĩa cũng thấy nhớ ngày xưa, những lúc có thể cười đùa thoải mái với anh trai mình.

"Nhị đệ, đang nghĩ gì thế?" Triệu Khuông Dận dặn dò xong việc chính sự, cho mọi người lui, thì phát hiện ra em trai mình đang nghĩ ngợi mông lung, bèn vơ lấy chiếc rìu Thiên Việt bên người, đưa ra vỗ vỗ vào vai cậu.

"Không có gì, tối qua đệ hơi mất ngủ một chút thôi". Triệu Quang Nghĩa dở khóc dở cười, cậu biết anh trai mình rất thích chiếc rìu Thiên Việt kia, nhưng thế không có nghĩa là người khác cũng thích. Cậu nghe đâu mấy hôm hước vì một chuyện mà anh trai cậu cả giận, tiện tay vớ lấy chiếc rìu Thiên Việt ném, vị quan gây chuyện bị đánh bay mất răng cửa. Bây giờ đám bề tôi khi có tấu sớ đều phải đảm bảo khoảng cách an toàn, sợ tai bay vạ gió.

Triệu Khuông Dận thấy em trai mình đang dán mắt vào chiếc rìu Thiên Việt, bèn tỏ ra không có chuyện gì, hỏi: "Nhị đệ, trẫm còn chưa hỏi đệ, chiếc rìu ngọc này là đệ mua được từ nhà nào đấy?"

Triệu Quang Nghĩa hơi giật mình, thoáng cái mà đã chín năm trôi qua, vì sao anh trai tự nhiên lại nhớ tới việc này? Triệu Khuông Dận khẽ hắng giọng nói: "Không nhớ thì thôi, trẫm cũng chỉ tiện mồm hỏi thôi mà".

"Không, thần đệ vẫn nhớ là mua của nhà nào". Triệu Quang Nghĩa lắc đầu. "Bởi vì tên của cửa tiệm đó rất đặc biệt, nên thần đệ vẫn không quên".

"Ồ? Đệ nói đi". Triệu Khuông Dận gặp đúng khẩu vị.

"Tiệm đó tên là Á Xá, ý nói là đồ cổ không biết nói, không thể kể chuyện". Triệu Quang Nghĩa vừa nói vừa cẩn thận quan sát nét mặt của anh trai.

Triệu Khuông Dận lẩm nhẩm cái tên Á Xá mấy lần, gật đầu tán thán: "Chủ tiệm chắc phải là một nhã sĩ, khi nào có thời gian nhị đệ phải đưa trẫm đến thăm đấy".

Triệu Quang Nghĩa thầm giật mình, anh trai mình dù gì cũng là vua một nước, mà lại phải nói là "đi thăm"? Nhưng cậu không kịp nghĩ nhiều, vội nói: "Hoàng huynh, cửa tiệm đó ngay hôm sau đã dọn đi, đệ cũng chưa gặp chủ tiệm bao giờ, chiếc rìu ngọc này là bởi vì tiệm đó đang dọn đi gấp, nên đệ mua rẻ được từ tay một cậu giúp việc thôi". Cậu không tốn lời giải thích về chuyện cá cược với cậu bé năm xưa, trong tiềm thức cậu cảm thấy việc này không được nói với anh trai, cả chuyện miếng gấm dưới đáy hộp cũng không được nói.

Triệu Khuông Dận thở dài tiếc nuối, nhưng rồi nghĩ lại, nếu cửa tiệm đó không cần chuyển đi gấp, thì năm ấy em trai đem có chút tiền trong người, làm sao mà mò được thứ đồ tốt như thế này? Nghĩ vậy, Triệu Khuông Dận cũng thấy thoải mái. Anh ta sờ lên chiếc rìu Thiên Việt trong tay, bỗng nói: "Nhị đệ, đệ thấy Nghĩa Xã thập huynh đệ nên xử trí ra sao?"

Triệu Quang Nghĩa nghiêm nét mặt lại, Nghĩa Xã thập huynh đệ là một tổ chức lập ra trong hệ thống Điện Tiền Ti, cách làm này anh trai cậu học theo cách lập xã trong quân của Chu Thái Tổ Quách Uy. Mục đích tất nhiên là để lôi kéo và kết giao những quan viên cao cấp trong quân đội, phát triển thế lực của bản thân. Nghĩa Xã thập huynh đệ tất nhiên cũng đã phát huy vai trò quan trọng của mình trong vụ binh biến trước kia, hô khẩu hiệu "điểm kiểm làm thiên tử", đưa Triệu Khuông Dận lên làm thiên tử Đại Tống.

Nay những người này lại trở thành tâm bệnh của Triệu Khuông Dận, bây giờ những người này có thể đưa Triệu Khuông Dận lên làm thiên tử, vậy thì ngày sau nếu họ nắm giữ binh quyền, ắt cũng có thể lập người khác làm vua, thậm chí là tự mình lên ngôi. Cho dù họ không có ý đồ đó, thì cũng có lúc thuộc hạ của họ có ý đó.

Triệu Quang Nghĩa cẩn trọng cất lời: "Hoàng huynh vừa mới lên ngôi báu, nếu như làm chuyện cất cung tốt, giết chó săn, thì sẽ khiến mọi người thất vọng". Triệu Quang Nghĩa cảm thấy việc này không nên làm sớm quá như thế, anh trai vừa mới lên ngôi có vài tháng, căn cơ còn chưa ổn định, nếu như động vào đám thân tín ấy, thì những người khác sẽ nghĩ thế nào? Cho dù như Lưu Bang giết hại công thần, thì chẳng phải cũng là chuyện sau khi lên ngôi vài năm sao?

(Chim bay đã hết thì cất cung tốt, thỏ đã chết thì giết chó săn, ý nói vua lên ngôi bạc đãi công thần)

Triệu Khuông Dận cũng biết Triệu Quang Nghĩa nói không sai, nhưng nếu như đám kia phát triển đủ thế lực của bản thân, đến lúc đó mới xuống tay e là khó thành. Triệu Khuông Dận từ trong quân đội mà đi lên, cũng chỉ mất có vài ba năm. Giờ đang là lúc khắp nơi chinh chiến, việc tướng lĩnh lập chiến công là chuyện quá dễ dàng. Triệu Khuông Dận không nghe được câu trả lời mình muốn nghe, hơi sầm mặt xuống, nhưng rồi cũng gật đầu nói: "Giường của mình sao để kẻ khác ngủ ngon trên đổ được, việc này ta bàn sau. Nhưng nhị đệ này, cái chức Điện tiền đô điểm kiểm, ta giao cho người khác không yên tâm, đệ nhận đi".

Dù là việc đã nằm trong dự liệu từ lâu, nhưng Triệu Quang Nghĩa vẫn không khỏi giật mình thon thót, không hiểu sao tự dưng lại nghĩ tới tấm thẻ gỗ tiên tri viết dòng "điểm kiểm làm thiên tử", mí mắt cậu giật lên. Để giấu biểu cảm đó, cậu vội vàng cúi đầu, ra khỏi chỗ ngồi, quỳ xuống tạ ơn.

Nghe được từ "bình thân", cậu mới đứng dậy, nhìn thấy Triệu Khuông Dận vẫn sa sầm mặt mày, trên tay mân mê chiếc rìu Thiên Việt, rõ ràng vẫn đang lo nghĩ chuyện Nghĩa Xã thập huynh đệ.

Triệu Quang Nghĩa lẳng lặng cáo lui, về thư phòng của mình, lục lọi cả đêm, cuối cùng tìm được một miếng vải gấm cũ nát nằm trong một chiếc rương đựng đồ tạp, dòng chữ trên đó vẫn vô cùng rõ ràng.

"Rìu Thiên Việt, rìu của Chu Vũ Vương, do Khương thái sư Khương Tử Nha chế tác, truyền rằng kẻ không có thiên mệnh thì không thể cầm. Vũ Vương từng vì chiếc rìu này mà giận chém bạn thân, sau rất hối hận, nói rằng kẻ cầm chiếc rìu này sẽ có lòng nghi kỵ rất lớn, hại đến người xung quanh, năm Vũ Vương thứ 20 phong ấn".

Lòng nghi kỵ ư? Triệu Quang Nghĩa không biết có phải do mình cả nghĩ quá không, chiếc rìu Thiên Việt này chỉ là đồ bịa ra thôi mà? Vì sao... Cậu nắm chặt tấm vải gấm trong tay, bỗng chốc lòng rối như tơ vò.

3

Năm 973, điện Thùy Củng.

"Choang!" Triệu Khuông Dận ném mạnh bản tấu xuống bàn, một chiếc bát chân xanh in hoa rơi xuống đất, một tiếng vỡ giòn tan vang lên, nước canh trong bát bắn ra tung tóe, bắn cả lên chiếc áo bào the đỏ thêu rồng mây kim tuyến, để lại những vết lốm đốm.

Nhưng không có một người hầu nào dám tới thu dọn, trong điện Thùy Củng lúc này chỉ có Triệu Quang Nghĩa. Chàng cúi gằm mặt, bản tấu mà anh trai chàng đang xem là do chàng dâng lên, tất nhiên chàng biết vì sao nhà vua phẫn nộ.

Thực ra không phải việc gì to tát lắm, chỉ là Lôi Hữu Lân, con trai Thương Châu tư hộ Lôi Đức Tương tố cáo mấy việc như Trung thư đường hậu quan Hồ Tán, Lý Khả Độ ăn hối lộ, chủ bạ huyện Thượng Thái là Lưu Vĩ ngụy tạo lý lịch để có chức quan... Thực ra từng việc lẻ đó lặt vặt đến mức chẳng thể báo được lên hoàng thượng, nhưng nếu dồn hết làm một, thì rõ ràng đang chỉ thẳng vào người đứng đằng sau mọi chuyện, tể tướng Triệu Phổ.

Nếu không có Triệu Phổ bao che, không thể có kẻ dám khi quân phạm thượng, dùng quyền thế để thu lợi riêng được.

Triệu Quang Nghĩa cúi đầu nhìn những mảnh bát vỡ vẫn còn đang lăn lóc dưới đất, thầm nghĩ bụng, có lẽ ngày xưa anh trai chàng tín nhiệm Triệu Phổ, thậm chí đối xử với gã như với người nhà, còn hay đến nhà gã chơi, gọi vợ của Triệu Phổ là "chị dâu". Nhưng qua thời gian, người ta cũng sẽ thay đổi.

Năm xưa khi anh trai chàng mới lên ngôi được một năm, nghe theo kế sách của Triệu Phổ, chén rượu thả binh quyền, giải quyết hòa bình yên ấm sự kiện võ tướng chuyên quyền, thu lại quân quyền về tay mình. Anh trai chàng bổ nhiệm Triệu Phổ làm tể tướng, nhưng không hẳn đã là dưới một người trên vạn người. Triệu Khuông Dận lập Khu Mật Sứ để quản lý quân sự, lập chức Tam Ti Sứ để quản lý tài chính, khiến cho chức vụ tể tướng vốn dĩ thống lĩnh toàn bộ nay trở thành người phụ trách những sự vụ hành chính hàng ngày. Ngoài ra, ông ta còn đặt chức Tham Tri Chính Sự, Khu Mật Phố Sứ và Tam Ti Phó Sứ để làm cấp phó cho ba chức trên, kiềm chế ràng buộc nhau, hạn chế quyền hạn của tể tướng xuống mức thấp nhất, có thể thấy lòng nghi kỵ dành cho Triệu Phổ lớn đến mức nào.

(Theo ghi chép và khảo cứu, có lẽ chuyện này diễn ra sau khi Triệu Khuông Dận lên ngôi khoảng 2, 3 năm. Vua cho mời các tướng lĩnh như Thạch Thủ Tín, Cao Hoài Đức, Vương Thẩm Kì, Trương Lệnh Đạc... uống rượu, vừa khuyên nhủ vừa dọa dẫm, để các tướng trao lại binh quyền)

Nhưng cho dù đề phòng như vậy, rốt cuộc cũng vẫn không yên tâm.

Những mảnh vỡ trên đất đã dừng lắc lư, Triệu Quang Nghĩa cúi xuống nhặt mảnh vỡ cầm trên tay, chậm rãi dọn dẹp. Việc này thực ra không cần chàng phải làm, nhưng chàng sợ nếu mình không làm gì, thì phải nói. Chẳng thà làm tí việc còn hơn là nói sai điều gì đó.

Có những lúc anh trai rất rộng lượng, Triệu Quang Nghĩa nghĩ vậy. Con trai của Chu Thế Tông Sài Vinh, không bị giết mà còn được phong làm Trịnh Vương. Nên biết rằng những khai quốc công thần cũng phải đợi sau khi chết mới được phong vương, anh trai nói nước Đại Tống sau này sẽ không có vương gia khác họ, nhưng người đầu tiên phá lệ chính là thằng nhóc họ Sài kia. Có lẽ vì thằng nhóc đó không có gì nguy hiểm? Thục hậu chủ Mạnh Sưởng, sau khi đầu hàng cũng được phong chức quan tử tế, đến khi hết tuổi mà chết được truy phong tước vương. Còn tay Lý Dục của Nam Đường ở phía nam, mấy hôm trước triệu hắn tới thành Biện Kinh Khai Phong, hắn thác bệnh không đi. Rượu mời không uống muốn uống rượu phạt, chắc không bao lâu nữa sẽ đem quân đi đánh Nam Đường, sớm muộn gì hắn cũng thành "hậu chủ", rồi đến Khai Phong làm một người khách nhàn tản.

Cũng có nghĩa là, anh trai rất khoan dung với những người không mang lại sự đe dọa. Nhưng với những người có khả năng đe dọa thì... giường của mình sao để kẻ khác ngủ yên được... Nghĩa Xã thập huynh đệ, Triệu Phổ... tiếp theo sẽ là ai?

Tay của Triệu Quang Nghĩa vừa run, mảnh vỡ sắc nhọn cứa vào ngón trỏ, lập tức chảy máu. Chàng nắm chặt ngón tay lại, kiềm chế những sóng gió trong lòng.

Hình như chàng, đứng quá gần anh trai, đã tới khoảng cách khiến anh trai chàng nghi kỵ rồi. Dù chàng tin vào tình cảm anh em của hai người, nhưng khi ngẩng đầu lên, nhìn thấy anh trai đang mân mê chiếc rìu Thiên Việt trong tay, thì vẫn cảm thấy như có luồng khí lạnh thấu xương xộc vào trong lòng. Miếng vải gấm trong người chàng, từ khi tìm lại được đến nay, chưa bao giờ rời người, dòng chữ trên đó chàng đã học thuộc làu làu, khắc ghi sâu trong tâm can.

"Kẻ cầm chiếc rìu này sẽ có lòng nghi kỵ rất lớn, hại đến người xung quanh...".

"Truyền ý chỉ của trẫm, giao cho Ngự sử đài điều tra, nếu thật là như vậy, trừng trị nghiêm". Giọng nói lạnh lùng của Triệu Khuông Dận vang lên, "Ngoài ra, cho Tham tri chính sự Tiết Cư Chính, Lã Dư Khánh lên đô đường, cùng bàn chuyện quân chính đại sự với tể tướng".

Triệu Quang Nghĩa quỳ lạy nhận chỉ, ngón tay áp lên nền gạch lạnh lẽo, vết thương đau nhói. Chàng biết, anh trai mình đã công khai thể hiện sự không tín nhiệm với Triệu Phổ rồi, chức tể tướng của Triệu Phổ cùng lắm làm thêm một, hai tháng nữa thôi.

Hại đến người xung quanh, nay hai cánh tay đã chặt mất một, còn chàng thì sao...

Năm 976.

Ánh nến lung linh, hương thơm phảng phất, Triệu Quang Nghĩa rót đầy một chén rượu Bồ Trung cho Triệu Khuông Dận, loại rượu ông ta thích nhất. Rượu Bồ Trung bắt nguồn từ rượu Bồ Châu, từ thời Bắc Chu đã nổi danh thiên hạ, đến thời Tùy Đường vẫn không thay đổi. Triệu Khuông Dận một khi đã uống rượu thì chỉ uống loại này.

Triệu Quang Nghĩa nhìn Triệu Khuông Dận nâng chén uống cạn, chợt lo lắng khuyên can: "Hoàng huynh, huynh vẫn còn đang bệnh, uống rượu hại người đấy".

Triệu Khuông Dận xua tay nói: "Không sao, chỉ bị phong hàn thôi. Chẳng mấy khi bị ốm để trốn việc vài ngày, gọi đệ tới uống rượu, đệ đừng làm ta mất hứng".

Triệu Quang Nghĩa cười, anh trai chăm lo chính sự và yêu dân, ba năm trước Triệu Phổ thôi chức, việc lớn nhỏ trong triều đều do Triệu Khuông Dận đích thân hỏi han, đủ biết là vất vả thế nào. Thấy anh trai sắc mặt vui vẻ, chàng không khuyên can nữa, lại rót đầy thêm cho một chén.

Chén này thì Triệu Khuông Dận không vội uống, lúc này đêm đã về khuya, ông và Triệu Quang Nghĩa mỗi người ngồi xếp bằng ở một đầu bàn, hai anh em cùng ngồi với nhau thân mật thế này, cũng là khoảnh khắc rất hiếm gặp trong mấy năm gần đây. Triệu Khuông Dận ngửi hương rượu thơm lừng, khẽ cười nói: "Hai anh em ta đã nhiều năm không được thân mật thế này rồi".

Triệu Quang Nghĩa nghe trong câu nói của anh trai mình không tự xưng là "trẫm", ngữ khí cũng rất thân mật, bèn thả lỏng sự cảnh giác thường trực trong lòng, cười tự nhiên rồi đưa chén lên nói: "Cũng phải, hôm nay không say không về".

Bao nhiêu năm nay không có ai dám cười nói vô tư trước mặt ông ta như thế, Triệu Khuông Dận cũng rất vui vẻ, hai người chén thù chén tạc, uống một trận thoải mái. Hai anh em đều là mãnh tướng rèn luyện trên chiến trường, bình thường uống không biết say, nhưng từ ngày Triệu Khuông Dận lên làm hoàng đế, rất ít khi uống rượu thoải mái, mới được ba tuần rượu đã bắt đầu ngấm hơi men.

"Nhớ năm xưa kết giao với Thế Tông, trẫm bây giờ chăm lo cho con ông ta, cũng coi như không phụ ơn tri ngộ của ông ta rồi...". Hơi rượu đã lên, lời cũng đã mở, Triệu Khuông Dận bắt đầu kể lể chuyện xưa.

Triệu Quang Nghĩa rót đầy chén cho ông ta, nghe nhưng không cho là vậy. Anh trai giữ lại con của Sài Vinh mà không giết, đó là để mua danh chuốc tiếng, thu phục lòng người. Một đứa bé bảy tuổi tất nhiên là rất dễ dàng khống chế, giả sử thằng bé ấy năm xưa là một người trưởng thành, thì e rằng bây giờ xương cốt cũng mục rồi.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

"Những huynh đệ trong Nghĩa Xã, trẫm đều cho họ làm Tiết độ sứ, cho họ vinh hoa phú quý, tích cóp cho tiền bạc, đủ tự mình mua vui, cho con cháu không phải nghèo đói. Làm quan chẳng phải cũng vì những thứ đó sao? Một chén rượu thôi! Chỉ cần một chén rượu là đủ giải quyết mối lo lớn trong lòng trẫm". Triệu Khuông Dận nói tới việc chén rượu thả binh quyền năm xưa, vô cùng đắc ý.

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười rót rượu tiếp, những tướng lĩnh đó bên ngoài thì cảm kích rơi nước mắt, nhưng bên trong có vừa ý hay không thì chàng không biết. Những kẻ đó đều là nhân vật hào kiệt trên chiến trường, trong ngàn vạn người mới chọn ra được, vậy mà sau khi chén rượu thả binh quyền, chỉ biết cởi giáp về quê. Làm nam nhi, ai chẳng muốn quyết trận sống mái ở nơi sa trường? Dù là da ngựa bọc thây, cũng tốt hơn làm một phú ông rỗi việc bây giờ. Nhưng giờ này kẻ đem quân xuất chinh đều là quan văn, dù tránh được cảnh võ tướng chuyên quyền, nhưng quan văn chỉ toàn nói chuyện binh trên giấy, đâu biết đánh trận?

"Ôi, Triệu Phổ, Triệu Phổ... Trẫm coi hắn như cánh tay phải trái, bất kể việc lớn bé đều cho hắn quyết. Nhưng hắn báo đáp trẫm thế nào? Năm xưa quan lại cần gặp trẫm, Triệu Phổ lại dám xem trước bản tấu, biết trong tấu chương không dám nói xấu chính sự thì mới cho lên điện. Hắn còn đặt một chiếc bình gốm ở giữa Thị Sự Các, các biểu tấu trong ngoài triều, cái nào hắn không định nhận thì không thèm báo lên, vứt thẳng vào trong bình gốm để đốt. Tấu chương của Lôi Hữu Lân năm xưa, nếu không phải do Quang Nghĩa đệ đích thân đưa lên, e là trẫm đến nay vẫn bị bưng bít!" Triệu Khuông Dận nói tràng dài rồi bắt đầu cáu giận, uống rượu như uống nước.

Triệu Quang Nghĩa vẫn cười rót rượu, chàng biết đêm nay anh trai chỉ cần có người để dốc bầu tâm sự, nhiệm vụ của chàng là lắng nghe, chứ không phải là phụ họa. Nói dai ắt thành nói dại, đó là nguyên tắc xử thế mà mấy năm nay chàng tổng kết ra. Hơn nữa vụ Triệu Phổ, nếu xét một cách nghiêm khắc thì không phải lỗi ở mình Triệu Phổ. Việc tham ô nhận hối lộ, vào năm Khai Bảo thứ sáu, Ngô Việt vương Tiền Lưu vì muốn được sống yên ổn, đã từng sai người đến tận nơi đưa thư cho Triệu Phổ, hối lộ mười bình hạt dưa bằng vàng, bị anh trai chàng vô tình đi qua bắt gặp. Khi đó Triệu Phổ đã sợ tới run rẩy tay chân, nhưng anh trai chàng thì lại nói đùa rất nhẹ nhàng, rồi còn khuyên Triệu Phổ nhận lấy món lễ vật hối lộ đó nữa.

Nếu không có anh trai dung túng, Triệu Phổ sao có thể có quyền lực lớn đến mức đấy được? Anh trai thật đúng là giỏi thủ đoạn, trong lòng nghi kỵ Triệu Phổ, nhưng không muốn phá hỏng cái tiếng là khoan dung của bản thân, nên mới ra tay khiến Triệu Phổ phải tự hủy hoại danh dự. Đến khi sự việc không thể nhẫn nhịn được nữa, khi Triệu Phổ tự mình khiến cho trăm quan tức giận, thì mới bãi chức của gã. Thủ đoạn của đế vương, quả là uy trời khó đoán.

Triệu Quang Nghĩa biết sau khi Triệu Phổ thất thế thì chàng chính là kẻ vướng mắt nhất trong triều rồi, nhưng mấy năm qua chàng đều hết sức cẩn trọng, lại giỏi đoán thánh ý của Triệu Khuông Dận, nên tới giờ vẫn chưa có việc gì lớn lắm.

Lúc này Triệu Khuông Dận đã uống say tám phần, đưa tay lấy chiếc rìu Thiên Việt luôn luôn đeo bên hông ra, đặt lên bàn, cười và thấp giọng nói: "Quang Nghĩa, trẫm nói cho đệ biết một bí mật, liên quan đến chiếc rìu ngọc mà đệ tặng cho trẫm này".

Triệu Quang Nghĩa giật mình, cảm thấy tấm vải gấm trong người mình bỗng như nặng ngàn cân, đè nghiến lên lồng ngực.

Lúc này đã là nửa đêm, trong tòa điện mờ ảo, Triệu Khuông Dận không chú ý đến gương mặt cứng đờ của em trai mình, tiếp tục cười bí hiểm: "Chiếc rìu ngọc này, nói không chừng đúng là rìu Thiên Việt của Chu Vũ Vương đấy! Nhiều năm trước trẫm đã phát hiện ra, chiếc rìu ngọc này, chỉ có trẫm mới cầm được, cho người khác cầm vào thì cổ tay đều mềm nhũn, không giữ nổi lấy một nhịp thở".

Triệu Quang Nghĩa nghe xong quên luôn cả thở, chàng đột nhiên nhớ chuyện nhiều năm trước, khi cậu bé kia mở chiếc hộp gấm ra, trên mặt lộ rõ vẻ đang chơi khăm. Thì ra, thì ra chiếc rìu Thiên Việt này đúng là không phải ai cũng cầm lên được. Đúng là chỉ có chân mệnh thiên tử mới cầm nổi...

"Trẫm khi đó đã cảm thấy chiếc rìu này lạ, nghĩ kỹ lại, có lẽ chỉ có thiên tử mới cầm được chiếc rìu ngọc tượng trưng cho quyền bính của thiên hạ này". Triệu Khuông Dận không phải kẻ ngốc nghếch, ít nhiều cũng đã đoán ra điều kỳ lạ của chiếc rìu. Phàm là kẻ có vận mệnh lớn, đều hay tin vào thiên mệnh. Ông ta uống một ngụm rượu, bỗng nhiên thở dài nói: "Ngoài Đức Tú mất sớm ra, Đức Chiêu, Đức Lâm, Đức Phương trẫm đều tìm cơ hội để thử nghiệm, ba đứa chúng đều không cầm được chiếc rìu Thiên Việt này. Ôi, chẳng lẽ thái tử của trẫm còn chưa ra đời?"

Triệu Quang Nghĩa nghe xong ngẩn người, Đức Chiêu, Đức Lâm, Đức Phương là ba con trai của anh trai chàng, không ngờ bao năm nay anh trai không chọn phong thái tử, là vì lý do này. Triệu Quang Nghĩa không kiềm chế nổi ánh mắt mình nhìn sang chiếc rìu ngọc bên cạnh, chàng không quên được, năm xưa chàng nhấc chiếc rìu Thiên Việt này rất nhẹ nhàng cũng như anh trai mình vậy.

Triệu Khuông Dận thấy Triệu Quang Nghĩa nhìn rìu Thiên Việt không rời mắt, cho rằng chàng không tin vào lời ông ta nói, bèn lập tức cười: "Quang Nghĩa, nếu không tin, đệ cầm thử xem?" Nổi đoạn, ông ta cầm chiếc rìu Thiên Việt lên tay, đưa cán rìu cho chàng.

Câu nói của Triệu Khuông Dận, chỉ là tiện mồm nói ra, nhưng đối với Triệu Quang Nghĩa thì như tiếng sét giữa trời nắng.

Bảo chàng cầm chiếc rìu Thiên Việt? Thăm dò sao? Năm xưa khi chàng mua chiếc rìu Thiên Việt này về, chắc chắn đã cầm trong tay chơi, chẳng lẽ anh trai chàng vẫn canh cánh trong lòng? Nên hôm nay mới bày bữa tiệc Hồng Môn này?

(Năm xưa Hạng Vũ bày tiệc ờ Hồng Môn mời Lưu Bang, mục đích là để nhân cơ hội giết chết Lưu Bang. Sau này "tiệc Hồng Môn" dùng để chỉ bữa tiệc có ẩn ý đồ giết người)

Sài Vinh, Nghĩa Xã thập huynh đệ, Triệu Phổ... giờ thì cuối cùng cũng đến lượt chàng?

Triệu Quang Nghĩa nhìn chiếc rìu ngọc trắng muốt sáng loáng dưới ánh nến, trong lòng dội lên từng cơn sóng dữ. Bên tai văng vẳng tiếng thúc giục của Triệu Khuông Dận, Triệu Quang Nghĩa đưa tay về phía cán rìu Thiên Việt, tim gan như sắp vỡ ra. Chàng biết việc này thực ra rất dễ xử lý, chỉ cần ngay lúc cầm chiếc rìu Thiên Việt lên, giả vờ như cổ tay mềm nhũn không cầm nổi, là có thể xóa bỏ mọi nghi ngờ của anh trai.

Nhưng khi chiếc rìu lạnh như băng đặt vào trong lòng bàn tay, chẳng hiểu sao đầu óc chàng trống rỗng, thậm chí không biết đôi tay của anh trai mình đã bỏ ra khỏi rìu từ lúc nào.

Đến khi định thần trở lại, chàng sợ hãi ngẩng đầu lên, vừa lúc bắt gặp gương mặt biểu cảm hết sức phức tạp của anh trai.

Thôi xong rồi, cứ theo tâm tư của anh trai chàng, thì chàng không sống nổi qua đêm nay.

Triệu Quang Nghĩa cũng không hiểu từ đâu nảy ra ý định, trong vô thức chàng giơ chiếc rìu Thiên Việt trong tay lên, chém về phía người đối diện.

Trên bình phong, bóng nến rung lắc lên, cùng với tiếng của vật nặng rơi xuống đất, là một vũng máu tươi đổ lên trên, sau đó là sự im lặng chết chóc.

4

Năm 2012.

"Nói vậy, người bị lòng nghi kỵ điều khiển, thực ra là Triệu Khuông Nghĩa? Chứ không phải Triệu Khuông Dận?" Bác sĩ nghe xong câu chuyện về rìu Thiên Việt, cứ xuýt xoa mãi không thôi. Cơ thể của anh vẫn bị Phù Tô chiếm giữ, lúc này vẫn ở trạng thái linh hồn. Chủ tiệm tìm cho anh một con người gỗ bằng gỗ ngô đồng. Gỗ ngô đồng là loại gỗ nhẹ nhất, truyền thuyết kể rằng phượng hoàng đậu trên cây ngô đồng, đương nhiên gỗ ngô đồng có linh khí nhất. Con rối gỗ ngô đồng được làm rất tinh xảo, các khớp đều cử động được, thân thể trống rỗng, được đeo một sợi dây chuyền ngọc Thủy Thương vào. Truyền thuyết nói rằng làm vậy có thể giữ linh hồn cho anh con rối gỗ này chỉ to bằng bàn tay, gã chủ tiệm cho vào trong túi áo cũng rất thuận tiện.

"Đúng vậy, Triệu Khuông Dận thực ra có để lại lời hẹn kim quỹ (tủ vàng), di chiếu trong kim quỹ nói rõ Triệu Khuông Nghĩa sẽ kế thừa ngôi vị". Lúc này chủ tiệm đang ở trong một khoảnh rừng ở ngoại ô hoang vắng, trong tay gã cầm một chiếc hộp gấm hoa văn dây leo nạm vàng bạc, trong hộp gấm đương nhiên chính là chiếc rìu Thiên Việt dẫn tới chuyện huynh đệ tương tàn kia.

"Hả? Hóa ra lời hẹn kim quỹ không phải do Triệu Khuông Nghĩa tự bịa ra sao?" Bác sĩ cũng có chút kiến thức lịch sử, tất nhiên chỉ giới hạn ở những gì đọc được trong sách giáo khoa mà thôi.

"Triệu Khuông Nghĩa bị lòng nghi kỵ điều khiển, trong bóng nến tiếng rìu đã giết chết anh trai mình, sau đó sợ ngôi vua không vững, giết luôn cả em trai mình là Triệu Khuông Mỹ, Triệu Đức Phương không lâu sau đó qua đời, cái chết không rõ ràng. Lý Dục thời Triệu Khuông Dận còn sống thì chẳng làm sao, sau này Triệu Khuông Nghĩa kế vị rồi thì Lý Dục bị ép phải tự sát. Đó mới thực sự là lòng nghi kỵ nổi lên, gây họa tới người xung quanh...". Gã chủ tiệm chậm rãi kể lại, nghe rất bình thản. Đối với gã, chuyện đó là chuyện của ngàn năm trước rồi, năm xưa chiếc rìu Thiên Việt ra khỏi Á Xá, sau đó gã cố ý lấy lại, và chiếc rìu Thiên Việt được phong ấn trong Á Xá cả ngàn năm.

"Chiếc rìu Thiên Việt này là một trong những món đồ cổ đế vương có thể phá yếm khí của mười hai đồng nhân sao? Nhưng sao lại đến đây? Ở đây không có kiệt thạch mới phải chứ?" Bác sĩ cũng không biết chủ tiệm đưa anh đi đâu. Anh nằm suốt bên trong túi áo của chủ tiệm, không thể ngọ nguậy, mười lăm phút trước mới được lôi ra, đặt lên vai chủ tiệm, anh mới nhìn thấy cảnh tượng quanh mình.

"Phá yếm khí cũng phải có trình tự, phá giải Càn Khôn đại trận cần phải làm từ từ, mỗi tháng chỉ được chôn một món đồ cổ. Tháng Giêng còn gọi là Chính Dương, rìu là quyền bính của một đất nước, chôn ở mắt trận, chắc là có thể áp chế được yếm khí". Chủ tiệm chậm rãi giải thích, phá trận thì dễ, bày trận mới khó. Năm xưa Tần Thủy Hoàng lập bảy tấm kiệt thạch cũng phải mất vài năm, nên gã không vội vàng gì. Gã không tin cả một Càn Khôn đại trận mà Phù Tô có thể nhanh chóng lập xong.

Bác sĩ nhìn không biết chủ tiệm làm động tác gì, dưới chân gã xuất hiện một cái hang tối đen. Chủ tiệm đem cả rìu Thiên Việt lẫn chiếc hộp gấm ném xuống cái hang tối tưởng như không có đáy, rất lâu sau cũng không thấy có âm thanh vọng lại.

Gã chủ tiệm thở phào, toàn thân đã được thả lỏng, gã phẩy phẩy tay, phía dưới chân lại trở lại bình thường.

Bác sĩ không nói lời nào, trong tiềm thức cảm thấy cho dù anh có hỏi đi nữa, thì cũng chẳng hiểu nổi vừa xảy ra chuyện gì. Nhưng thấy chủ tiệm đã thở phào nhẹ nhõm, anh biết chiếc rìu Thiên Việt đã có tác dụng. Bác sĩ thử động đậy cánh tay của con rối, chỉ cố nhấc được cổ tay lên, anh bị nhốt vào trong một con rối không cử động được, quả thật là khó chịu.

Hình như chủ tiệm cảm nhận được sự bất an cùa bác sĩ, liền đưa tay điều chỉnh tư thế của con rối, để anh ngồi vững chãi hơn trên vai gã.

Rìu Thiên Việt gây ra chuyện huynh đệ tương tàn... đứng giữa những bông tuyết bay tứ tán, gã chủ tiệm cười nhạt.

Trước khi chôn rìu Thiên Việt xuống đất, không lấy ra cho anh em Phù Tô và Hồ Hợi cầm thử, thật đáng tiếc...

Quyển 3 - Chương 2: Độc Ngọc Phật

1

Năm 465.

Thác Bạt Hoằng chỉnh lại chiếc áo bào trên người, cậu vẫn thích chiếc áo khoác Hồ phục ống tay hẹp của dân tộc Tiên Ti, đơn giản lại tiện dụng, nhưng hoàng hậu thích Hán phục, hôm nay khi cho người gọi cậu vào tấn kiến, người hầu gái đã khoác cho cậu chiếc áo nhà nho ống tay rộng này.

À không, không còn là hoàng hậu nữa, mà là hoàng thái hậu.

Thác Bạt Hoằng nhìn cánh cổng lớn của Phật đường, ngập ngừng dừng bước.

Thác Bạt Hoằng ba tuổi đã được phong làm hoàng thái tử, năm nay mới mười hai tuổi. Phụ hoàng Thác Bạt Tuấn mấy ngày trước lâm bệnh qua đời, ngày mai là lễ đăng cơ của cậu rồi.

Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng là một cậu bé anh dũng và rất thông thái, Thác Bạt Hoằng biết, làm hoàng đế triều Ngụy là phải gánh vác trọng trách lớn đến đâu.

Vì sao phụ hoàng mới hai mươi sáu tuổi mà đã nhẫn tâm bỏ rơi cậu, Thác Bạt Hoằng cúi đầu, nghĩ ngợi mông lung.

Triều Ngụy có tập tục là lập con thì giết mẹ, để đề phòng ngoại thích can dự vào chính sự, năm xưa Thác Bạt Hoằng ba tuổi được lập làm thái tử, mẫu phi của cậu liền được ban cho một dải lụa trắng. Thác Bạt Hoằng vẫn nhớ như in, ánh mắt vừa tự hào vừa quyến luyến lại vừa có đôi phần oán hận của mẫu phi.

Mẫu phi của cậu chỉ có một, nên dù Thác Bạt Hoằng vẫn gọi Phùng hoàng hậu là mẫu hậu, nhưng trong lòng cậu không thừa nhận tên gọi đó.

Thật là tốt quá, mình có thể gọi cô ta là thái hậu rồi.

Thác Bạt Hoằng tự cười mình.

"Hoằng Nhi, con đến rồi à?" Trong Phật đường vẳng ra tiếng phụ nữ dịu dàng như nước.

Thác Bạt Hoằng giật mình, trong vô thức cậu chỉnh lại áo bào, rồi mới nhẹ nhàng đẩy cánh cửa lớn của Phật đường, mùi gỗ đàn hương xộc vào mũi.

Cánh cửa Phật đường mở ra, đập vào mắt cậu là bóng dáng một phụ nữ tuyệt đẹp. Phùng Kỷ đang quỳ thẳng trước tượng Phật, mặc chiếc áo tang màu trắng toát, tay rộng vạt ngắn, bên dưới mặc chiếc váy dài, bên ngoài còn thêm một chiếc váy ngắn bó eo, càng làm hiện rõ vòng eo nhỏ nhắn một cách hoàn hảo. Mái tóc mây của nàng chỉ đơn giản là dùng một sợi dây thừng màu trắng buộc lại, thả ra đằng sau, cài thêm một bông hoa vải trắng, vài lọn tóc rủ xuống vẫn còn vết đen quăn do bị đốt.

Thác Bạt Hoằng thu ánh mắt lại, hôm qua theo tập tục của tộc Tiên Ti, khi đem những quần áo phụ hoàng dùng lúc còn sống ra đốt, Phùng Kỷ xông vào đám cháy, định đi luôn cùng phụ hoàng. May có Thượng Tà, là tổng quản nội thị vẫn phục vụ hoàng tộc từ thời Thái Võ đế phát hiện ra, mới kịp thời cứu nàng, nếu không chắc chắn sẽ không đơn giản chỉ bị đốt mất mấy lọn tóc.

Khi ấy Thác Bạt Hoằng thực ra không hề bất ngờ, tình cảm thắm nồng như đôi uyên ương giữa phụ hoàng và Phùng hậu cậu là người gần gũi nhất, cậu đều nhìn thấy cả. Nhưng cậu mãi không thể coi Phùng Kỷ là mẫu hậu của mình được.

Không quên được mẫu phi của mình là một chuyện. Còn chuyện nữa là Phùng Kỷ không lớn tuổi hơn cậu là bao. Tổ phụ của nàng là vị hoàng đế cuối cùng của tiền triều Bắc Yên, sau khi bị nhà Ngụy lật đổ, nàng trở thành con gái kẻ tội nghịch, từ nhỏ phải vào cung phục dịch, lúc mẫu phi mới mất, cậu ưng ý nên giữ nàng lại bên mình làm đại cung nữ. Nhưng với một người mà mười một tuổi đã trở thành quý nhân của phụ hoàng, mười bốn tuổi đã lên ngôi báu hoàng hậu, Thác Bạt Hoằng thực sự không biết nên mừng cho nàng vì chưa sinh con cho phụ hoàng, hay cảm thấy một kẻ thủ đoạn cao siêu như vậy nên sinh một thái tử, để rồi được ban cho cái chết theo tục của triều Ngụy thì hơn.

Ẩn hiện trong ký ức xa xôi, ở giữa đám hoa phù dung, một gương mặt xinh đẹp lướt qua... Thác Bạt Hoằng thoáng chốc mơ màng, vẫn còn cho rằng nàng vẫn là một cung nữ ngây thơ hầu hạ cậu, còn cậu vẫn là một đứa trẻ chưa hiểu chuyện đời.

"Hoằng Nhi bái kiến thái hậu". Thác Bạt Hoằng giấu tâm tư phức tạp của mình đi, ngoan ngoãn quỳ lạy nàng.

Cánh cửa lớn của Phật đường đằng sau cậu chậm rãi đóng lại, đem hết ánh nắng đi chỗ khác, cả Phật đường trở nên lạnh lẽo hơn.

"Hoằng Nhi, đứng dậy đi, sau này con sẽ là hoàng đế của triều Ngụy, không cần phải quỳ trước mặt người nào nữa". Phùng Kỷ trẻ tuổi mà đầy sự cảm thán, tiếng nói như tiếng chim họa mi bồng bềnh bất định văng vẳng trong Phật đường trống trải.

Thác Bạt Hoằng đứng dậy, tiến lên mấy bước, nhìn Phùng Kỷ đang quỳ trên một tấm đệm, và còn một tấm đệm khác dành cho cậu đặt bên cạnh nàng, liền hỏi vặn thách thức: "Vậy Phật tổ có nhận một lạy của ta không?"

Phùng Kỷ thở dài một tiếng, khẽ cúi đầu, lẩm nhẩm một câu xưng tội, rồi ngẩng đầu lên, ánh mắt biết cười nhìn Thác Bạt Hoằng, nhẹ nhàng cười nói: "Phật tổ không phải là người, tất nhiên là nhận một lạy của con được".

Khi nhìn thấy dung nhan của Phùng Kỷ, Thác Bạt Hoằng lập tức nín thở. Dung mạo của Phùng Kỷ là tuyệt thế vô song, nếu không thì không thể chỉ mới mười một tuổi đã khiến phụ hoàng phá lệ cho vào hậu cung. Hiện tại nàng đang ở thời kỳ đẹp nhất trong cuộc đời người phụ nữ, lại thêm một chút yếu mềm của việc nhà có tang, mấy sợi tóc rủ lưa thưa bên tai, đôi mắt phượng vẫn còn chút ửng hồng sau khi khóc, gương mặt thanh thoát nhưng xanh xao, dù Thác Bạt Hoằng nhìn quen rồi cũng chẳng thể nhìn thẳng, trong lồng ngực có một thứ cảm xúc kỳ lạ đang nảy mầm, nó đang mọc lên, không thể ngăn nổi. Thác Bạt Hoằng vội vàng quỳ xuống chiếc đệm trước mặt, thành kính dập đầu trước tượng Phật. Phụ hoàng của cậu sùng tín Phật giáo, thậm chí xây hẳn một hang đá Vân Cương, nên Thác Bạt Hoằng không lạ lẫm gì với chuyện lễ Phật, có điều cậu chưa từng đến Phật đường này bao giờ nhưng trong lúc vội vàng, cậu cũng không có thời gian để đắn đo nhiều.

"Hoằng Nhi, ngày mai con lên ngôi làm vua, Phật đường này cũng sẽ thuộc về con". Phùng Kỷ bình thản nói.

Thác Bạt Hoằng nghe thấy có ý khác trong lời, ngơ ngác ngẩng đầu lên, bất chợt nhìn thấy tượng Phật đặt trong khám, liền không nén khỏi sững người.

Chẳng vì nguyên nhân gì khác, vì cậu nhìn thấy rõ ràng, đằng sau làn khói hương, tượng Phật cao chỉ khoảng một thước lại bị nứt. Một vết nứt không thể cứu chữa chạy ngang cổ, khiến cho đầu tượng rời khỏi thân, cho dù vẫn cố đặt ở vị trí cũ, thì vẫn thấy một sự quái dị khó lòng hình dung. Gương mặt của tượng Phật vẫn hiền lành thánh thiện, nhưng vết nứt sâu thì dữ dội khó tả.

Chưa từng thấy ai đi thờ tượng Phật bị nứt cả.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Tin nóng: Rolex giảm giá đến 90% đồng hồ bản sao dịp kỷ niệm

Thác Bạt Hoằng nghi hoặc nhìn ra xung quanh, thì nhận ra trong Phật đường rộng lớn này, chỉ có mỗi bức tượng Phật ngọc bị nứt được thờ.

"Bức tượng Ngọc Phật này, ngọc lấy từ núi Độc Sơn, nên gọi là Độc Ngọc Phật. Độc Ngọc là một trong "tứ đại ngọc", khai thác ở Nam Dương, theo ghi chép thì đã khai thác từ cuối đời Thương. Bức tượng Độc Ngọc Phật này từ nhiều năm trước có người dâng lên cho Thái Võ đế". Phùng Kỷ tay lần chuỗi tràng hạt gỗ tử đàn, hơi lim dim mắt, nhỏ nhẹ giải thích. Gương mặt nàng tuyệt đẹp, phảng phất nét từ bi, khiến nàng trông càng giống Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi.

"Thái Võ đẾ?" Thác Bạt Hoằng nghe xong hơi sững sờ, Thái Võ đế là ông nội của phụ hoàng, là cụ nội của cậu, là hoàng đế nổi tiếng nhất của triều Ngụy từ ngày khai quốc đến nay. Có thể nÓi triều Ngụy dưới tay Thái Võ đế, cuối cùng đã thống nhất phương Bắc, kết thúc cục diện phân tranh mười sáu nước kéo dài hơn trăm năm, đứng ngang hàng được với Lưu Tống phương Nam, hình thành cục thế Nam Bắc triều, triều Ngụy từ đó cũng được người phương Nam gọi là Bắc Ngụy. Thái Võ đế uy danh vang xa, trong đó sự kiện gây chấn động với người Nam nhất là mệnh lệnh "Thái Võ đế diệt Phật".

Trong thời kỳ thống trị của Thái Võ đế, tất cả tăng ni dưới năm mươi tuổi đều phải hoàn tục, tranh Phật tượng Phật cùng kinh Phật đều bị phá hủy thiêu đốt, thậm chí rất nhiều tăng ni cao tuổi ngoan cố bị giết hại, trong ngoài triều Ngụy đều cấm ngặt nhắc tới Phật giáo. Việc làm này tuy Thác Bạt Hoằng không tán đồng, nhưng cũng hiểu dụng ý của Thái Võ đế. Bắc Ngụy vừa mới thống nhất phương Bắc, các nơi chinh chiến nhiều năm, trăm nghề cần được khôi phục, đương nhiên chẳng dư dả tiền bạc lương thực để đi cung phụng đám tăng ni không biết trồng cấy. Dù Phật pháp cũng có tác dụng cho việc cai trị ngu dân, nhưng một số tăng lữ nói lời quá đà, vượt lên trên cả phép vua, Thái Võ đế là ngườI sát phạt quyết đoán, đương nhiên không thể chấp nhận.

Một Thái Võ đế như vậy, mà vẫn có kẻ dám dâng tượng Độc Ngọc Phật? Có lẽ là dâng từ trước khi ban lệnh diệt Phật? Thác Bạt Hoằng tỏ vẻ hiểu ra, nhìn bức tượng Phật nứt toác, nghĩ bụng chắc hẳn là do Thái Võ đế làm hỏng.

Phùng Kỷ rõ ràng là biết Thác Bạt Hoằng đang nghĩ gì, khẽ cười một tiếng rồi nÓi: "Tượng Phật này, là sau khi Thái Võ đế ban lệnh diệt Phật, có một chàng trai trẻ đưa cho người". Phùng Kỷ chìm vào trong ký ức xa xôi, năm xưa nàng cũng còn nhỏ tuổi, nhưng cảnh tượng đó thì vẫn nhớ như in, "NgườI đó nói với Thái Võ đế rằng, lệnh diệt Phật làm quá mạnh tay, sẽ phải chỊu báo ứng của trời. Nếu thờ phụng bức Độc Ngọc Phật này, cÓ lẽ có thể cứu vãn được nghiệp chướng mà Thái Võ đế tạo ra".

"Như thế...". Thác Bạt Hoằng không biết nói sao, cậu đương nhiên là biết sau khi lờI đó nói xong sẽ có chuyện gì xảy ra. "Sau đó bức tượng Độc Ngọc Phật này bị ném nên vỡ ra?"

Phùng Kỷ khe khẽ gật đầu, thở dài một tiếng rồi nói: "Chàng trai đó nhìn bức tượng Phật đầu rời khỏi cổ dưới đất, tỏ ra tiếc nuối nói, vì trên người Thái Võ đế có sát khí vô thượng, nên nghiệp báo này chỉ có thể đổ lên đầu hậu duệ của người. Sau này tất cả những ngườI kế thừa ngôi vua triều Ngụy đều không thể sống thọ được."

Thác Bạt Hoằng giương to đôi mắt, việc này quá hoang đường. Nhưng cậu chợt nhớ ra phụ hoàng mình mới hai mươi sáu tuổi đã mất, đôi môi mấp máy định nói gì đó, nhưng rồi lại không nói gì cả.

Phùng Kỷ lần tràng hạt trên tay, trong lờI nói có đôi chút hoang mang: "Chàng TRai trẻ khi đó bị Thái Võ đế hạ lệnh giam vào tử lao, nhưng trước khi hành hình lại biến mất không rõ nguyên nhân. Thái Võ đế nổi trận lôi đình, bởi vì sự việc quá kỳ lạ nên tượng Độc Ngọc Phật được ông nội của con, cũng tức là Cảnh Mục đế lén đem về".

Thác Bạt Hoằng hít một hơi sâu đầy khó khăn, mùi gỗ đàn hương rất ngọt ngào, bỗng chốc lại khiến cậu cảm thấy khó thở. Cậu biết Cảnh Mục đế khi còn đang làm thái tử thì chết đột ngột, lúc đó mới hai mươi ba tuổi, nên phụ hoàng cậu sau khi lên ngôi mới truy phong làm Cảnh Mục đế.

"Hoằng Nhi, ai gia hôm nay gọi con đến không phải vì chuyện gÌ khác". Phùng Kỷ lại thở dài buồn bã, "Nghiệp báo này như một lời nguyền, ứng nghiệm vào hai đời rồi, dù con không tin, thì cũng nên cẩn trọng một chút".

Thác Bạt Hoằng nghĩ lại chuyện phụ hoàng sau khi lên ngôi, bèn lập tức bãi bỏ lệnh diệt Phật của Thái Võ đế, bất chấp quốc khố trống rỗng, vẫn hạ lệnh xây hang đá Vân Cương, chắc chắn là muốn chuộc lại lỗi lầm. Thác Bạt Hoằng khẽ cất giọng nổi vâng, nhưng trong lòng thì có vẻ không tin lắm.

Chỉ là trùng hợp thôi.

Khi Thác Bạt Hoằng đã cáo tội xong và lui ra, còn nghe được Phùng Kỷ bỗng nhiên dặn dò một câu: "Hoằng Nhi, con không còn nhỏ nữa, ngày mai sau lễ đăng cơ, ai gia sẽ chọn cho con vài cô gái nhà tử tế".

"... Đa tạ thái hậu lo lắng". Thác Bạt Hoằng kìm nén cảm giác phiền muộn khó tả bỗng dưng dâng lên trong lòng, cúi đầu cảm tạ.

"Người sống trên đời, như ở giữa đám cây gai nhọn. Tâm không động, người không vọng động, không động thì không bị tổn thương. Hễ tâm động thì người vọng động, tổn thương đến thân, đau đến xương cốt, vậy nên cảm nhận được nỗi khổ của thế gian...". Tiếng niệm mơ hồ của Phùng Kỷ, theo nhip cốc cốc của tiếng gõ mõ, chầm chậm tan biến sau cánh cửa Phật đường đang từ từ khép lại.

Thác Bạt Hoằng đứng lặng ngoài cửa, lẩm nhẩm đọc đi đọc lại câu kệ đó, rồi ngây ngườI ra.

2

Năm 467.

Thác Bạt Hoằng cúi đầu nhìn đứa bé sơ sinh nằm trong bọc tã, có một cảm giác không thực, sức nặng trong lòng ít đến mức có thể khiến người ta quên mất, đứa bé nhỏ yếu đến mức có lẽ cậu chỉ cần mẠnh tay một chút là có thể bóp vụn.

Cậu năm nay mới mười bốn tuổi, nhưng đã có con trai.

Thác Bạt Hoằng biết, với tộc Tiên Ti mà nổi, lớn bằng tuổi này đã có con là chuyện thường, phụ hoàng cũng cÓ cậu vào năm mườI bốn tuổi. Thác Bạt Hoằng nhìn Lưu quý nhân nằm trên giường, gương mặt thanh tú nhưng không giấu nổi vẻ mệt mỏi, nhìn thấy biểu cảm phức tạp của nàng. Cậu biết, ở triều Đại Ngụy này, phụ nữ trong hậu cung đều có một tâm lý hết sức mâu thuẫn. Vừa muốn được hoàng đế sủng ái, vừa lo sợ mình có mang. Nếu sinh ra con gái còn được, còn lỡ mà sinh ra con trai, mà đứa con lại được vua ưu ái, thì chắc chắn phải theo tập tục của triều Ngụy, lập con thì giết mẹ.

Chẳng ai tình nguyện chết, cho dù là vì đứa con của mình.

Thác Bạt Hoằng lại nhớ tới ánh mắt không nói nên lời của mẫu phi khi mình được lập làm thái tử.

Nhìn Lưu quý nhân, thấy hơi giống ai đó, Thác Bạt Hoằng lẩm nhẩm một câu xin lỗi trong lòng, nếu đứa trẻ trong lòng cậu có thể bình an sống tới hai tuổi, thì sẽ trở thành thái tử của cậu. Nhưng trước đó không nên cho hai mẹ con gần gũi nhau quá thì tốt hơn. Cậu không muốn con trai mình có ký ức đau khổ như mình.

Dặn dò các cung nữ chăm lo chu đáo cho Lưu quý nhân, Thác Bạt Hoằng tự mình bế con ra khỏi phòng, bắt gặp Phùng Kỷ, nàng vẫn ngồi ở điện kế bên từ nãy.

Phụ hoàng đã qua đời được hai năm, Phùng Kỷ vẫn để tang theo tục của người Hán, xiêm y trắng toát, mặc một chiếc áo giao lĩnh ngắn tay thẳng, trên cổ thêu hoa bằng tơ bạc, dưới eo thắt một dải lụa to bản, làm nổi lên vòng eo nhỏ nhắn, phía dưới mặc chiếc váy dài làm bằng một loại lụa mềm mại, rủ xuống đất, tạo nên từng lớp xếp chồng lên nhau. Đôi mắt đẹp như tranh, phảng phất chút buồn trên gương mặt, không cần son phấn, nàng vẫn diễm lệ vô cùng.

(Áo có hai vạt chéo, khi mặc vắt chéo rồi buộc dây bên hông, không có cúc cài)

Thác Bạt Hoằng dừng bước một lát, bởI vì đang bế con nên không thể hành lễ như mọi khi, chỉ hơi cúi đầu nói: "Bái kiến thái hậu".

Phùng Kỷ bỏ chén trà men trắng hoa xanh xuống, động tác rất thanh nhã, ánh mắt nhìn ngay vào đứa bé trong lòng Thác Bạt Hoằng, rất tự nhiên đưa tay về phía cậu, nhẹ nhàng nói: "Nào, cho ai gia xem nào".

Thác Bạt Hoằng tiến lên vài bước, liền ngửi thấy mùi gỗ đàn hương trên người nàng, bất chợt hơi khựng lại. Cậu biết nàng vẫn luôn ở trong Phật đường, ăn chay niệm Phật cho phụ hoàng, nhưng không ngờ cả người nàng đều đã thấm đẫm mùi gỗ đàn hương.

Phùng Kỷ tự ý đỡ lấy đứa bé, thằng bé hình như thấy mùi đàn hương trên người nàng hơi hắc, liền lo lắng khua khua cánh tay bé xíu, khóc oe oe.

Thác Bạt Hoằng vội vàng đỡ lấy đứa bé, lùi ra sau vài bước, quả nhiên đứa trẻ hình như cảm nhận được hơi ấm quen thuộc, liền lập tức nín khóc.

Đôi mắt tuyệt đẹp của Phùng Kỷ thoáng qua chút thất vọng, rồi sau đó lại nở nụ cười: "Có vẻ như đứa trẻ này không có duyên với ai gia rồi, thôi vậy". Một mình trong Phật đường, lại ăn chay niệm Phật, hồi ức vợ chồng ân ái ngày xưa lại càng rõ ràng, Phùng Kỷ vốn là muốn nuôi đứa bé này, nhưng xem tình hình này thì sợ là không được rồi.

Thác Bạt Hoằng hơi nhăn mày, không kìm lòng được, khuyên nàng: "Thái hậu, người cũng nên chú ý sức khỏe". Năm nay cậu mới mười bốn tuổi, cho dù thiên phú thông minh, nhưng nắm quyền bính cả một quốc gia, quả thực là hơi quá sức. Hai năm trước, khi cậu mới lên ngôi, quyền lớn trong triều đình rơi vào tay Xa kỵ tướng quân Ất Hồn. Ất Hồn có lòng phản trắc, thường cố ý hiểu sai chiếu chỉ của cậu để giết những kẻ đối nghịch. Chỉ trong hơn bốn mươi ngày, ông ta từ Xa kỵ tướng quân thăng chức lên làm Thái úy, Lục thượng thư sự, cuối cùng là làm chức Thừa tướng, ngôi cao hơn cả vương gia, một tay che trời, hoàn toàn chẳng coi hoàng đế nhỏ tuổi ra gì.

Cậu không cam tâm để kẻ khác đè nén, nhưng không thể không thừa nhận bản thân mình đấu không lại được với Ất Hồn. Cuối cùng là Phùng Kỷ - người quanh năm niệm kinh trong Phật đường phải ra tay, lặng lẽ quan sát mọi hành động của Ất Hồn, rồi bí mật bày kế bất ngờ, khép Ất Hồn vào tội mưu phản để giết đi, nhanh như sét đánh không kịp bịt tai, sau đó tuyên bố tự mình lên triều nghe chính sự. Dù mỗi khi bãi triều nàng đều về nghỉ trong Phật đường trống trải, nhưng mọi chính lệnh của triều Đại Ngụy, đều do nàng phát ra.

Thác Bạt Hoằng cười khổ trong lòng, dù cậu được một tay nàng dạy dỗ, nhưng dù xét về mưu kế hay về chí hướng, đều không thể so với nàng.

Phùng Kỷ như thể nhìn thấu tâm can cậu, tay lần vòng tràng hạt gỗ đàn hương, nhẹ nhàng nói: "Hoằng Nhi, con yên tâm, chỉ cần con có năng lực, thì triều Đại Ngụy này vẫn thuộc về con". Phùng Kỷ dịu dàng nhìn Thác Bạt Hoằng, nay đã trở thành một thiếu niên tuấn tú, nàng hơi có đôi chút mơ màng, năm xưa khi Thác Bạt Tuấn mới gặp nàng, cũng chỉ ở tầm tuổi này, mà Thác Bạt Hoằng lại có thần thái rất giống phụ hoàng, người nàng ngày đêm nhung nhớ dường như lại hiện ra nguyên vẹn trước mặt, Phùng Kỷ bất giác ngây người.

Thác Bạt Hoằng bắt gặp ánh mắt nàng, tim bỗng đập nhanh, rồi liền thở dài cảm khái. Cậu biết nàng đang nhìn cậu để nhớ về phụ hoàng. Cậu đang định nói câu gì đó, thì đã thấy ánh mắt nàng trở lại, quay mặt đi như không có chuyện gì.

Lần nào cũng vậy, nàng là người tiến tới gần, rồi người rời ra xa cũng vẫn là nàng.

Cánh tay của Thác Bạt Hoằng bất chợt hơi siết chặt, đứa bé trong bọc tã có vẻ hơi khó chịu, bắt đầu ngọ nguậy. Thác Bạt Hoằng giật mình, lập tức lỏng tay một chút.

"Hoằng Nhi, đã đặt tên cho đứa bé chưa?" Phùng Kỷ cầm chén trà đã hơi nguội lên, nhấp một ngụm tự nhiên như không.

"Cử kỳ hoành cương, đặt tên là Thác Bạt Hoành đi!" Thác Bạt Hoằng chậm rãi nói.

(Dựng nền kỷ cương lớn (chữ trích trong lời tựa sách "Kinh Thư"), chữ "hoằng" đọc giống (cùng đọc là héng) nhưng viết khác với chữ Hoằng của Thác Bạt Hoằng (cha).)

"Thác Bạt... Hoành?" Đôi mày thanh tú của Phùng Kỷ hơi nhăn lại, cảm thấy tên hai cha con dùng chữ đồng âm có vẻ không ổn lắm. Nhưng Thác Bạt Hoằng đã nói thế, nàng cũng không thể ép cậu không có nổi cái quyền tự do đặt tên con, đành khẽ gật đầu nói: "Tên hay lắm, nếu đứa trẻ sống qua được hai tuổi, ai gia sẽ đích thân dạy dỗ nó".

Thác Bạt Hoằng thấy Phùng Kỷ đứng dậy, biết rằng trong lời nói của nàng có ý là, hai năm nữa nàng sẽ trả lại đại quyền trong triều cho cậu.

Trong lúc đó, chàng không rõ mình sung sướng nhiều hơn hay thất vọng nhiều hơn.

"Tài và sắc, người ta không bỏ được, cũng như trên lưỡi đao có mật ngọt, chẳng đủ cho một bữa, mà nếm vào thì còn đứt lưỡi...". Tiếng nói rầu rầu của Phùng Kỷ cùng với mùi gỗ đàn hương lướt qua bên tai cậu, đến tận khi bóng dáng yêu kiều của nàng đã khuất sau một góc rẽ ở hành lang.

Thác Bạt Hoằng bế đứa bé trong bọc, đứng thất thần.

3

Năm 470.

"Hoàng thượng tỉnh rồi! Hoàng thượng tỉnh rồi!"

Thác Bạt Hoằng khó khăn lắm mới tỉnh dậy sau cơn hôn mê, thì nghe thấy tiếng hô hoán ầm ĩ của người hầu ở bên giường. Cảm thấy cổ họng khô rát, Thác Bạt Hoằng đoán chắc mình đã hôn mê một thời gian, do truyền nhiễm bệnh mủ.

"Hoàng thượng, người vừa mới tỉnh, xin đừng vội". Một tiếng nói già cỗi cất lên bên giường, vừa nói vừa đỡ Thác Bạt Hoằng ngồi dậy, lót một tấm đệm ra sau lưng chàng một cách thuần thục.

Thác Bạt Hoằng ngẩng đầu, nhận ra là Nội thị tổng quản Thượng Tà, bất giác mỉm cười: "Thượng công công, trẫm không sao, ông cũng mau đi nghỉ đi". Thượng Tà phục vụ trong cung từ thời Thái Võ đế, từ nhỏ chàng đã được ông chăm sóc, trong lòng vẫn coi ông là bậc trưởng bối, nhìn thấy ông trở nên tiều tụy hẳn đi vì thức đêm, chàng không nén nổi sự lo lắng.

Thượng Tà đắp chăn cho Thác Bạt Hoằng, rồi chỉ sang bên cạnh chàng nói: "Già này không mệt, nhưng thái tử điện hạ, cứ trông cho người suốt không chịu ngủ, vừa rồi không chịu nổi nên ngủ thiếp đi bên cạnh người rồi".

Lúc này Thác Bạt Hoằng mới nhìn thấy trên long sàng của mình có một đứa bé, trên gương mặt bầu bĩnh còn vương chút nỗi buồn lo, dù trong giấc ngủ cũng không an lành, đôi tay nhỏ bé đang nắm chặt lấy áo của Thác Bạt Hoằng. Thác Bạt Hoằng sợ bi kịch của mình lại tái diễn trên đứa con trai, nên ngay sau khi Thác Bạt Hoành ra đời, chàng đã cho rời khỏi Lưu quý nhân. Mà Tiểu Hoành từ nhỏ đã không chịu được mùi đàn hương trên người Phùng Kỷ, nên cậu bé đã được Thác Bạt Hoằng nuôi nấng. Năm ngoái khi Tiểu Hoành được hai tuổi, được lập làm thái tử, mẹ đẻ của cậu là Lưu quý nhân được ban cho cái chết, Phùng Kỷ cũng giữ lời hứa, đưa Tiểu Hoành về nuôi, và trả lại triều chính cho Thác Bạt Hoằng.

"Hoàng thượng, tiểu thái tử luôn chăm sóc cho người, mủ trên người hoàng thượng cũng do điện hạ tự mình hút ra". Thượng Tà dâng lên một bát thuốc mới sắc, sợ Tiểu Hoành vừa mới được chợp mắt đã bị gọi dậy nên cố ý nói thật thấp giọng.

Thác Bạt Hoằng cảm thấy ấm áp trong lòng, đỡ lấy bát thuốc uống cạn, chẳng cảm thấy bát thuốc đó đắng nữa. Chàng trả lại chiếc bát không, phẩy tay ra hiệu cho Thượng Tà: "Thượng công công, các ông lui ra đi, ta phải nghỉ ngơi một lát". Chàng biết nếu mình không ngủ thì Thượng Tà sẽ không lui ra.

Thác Bạt Hoằng nằm xuống, nhìn con trai đang toàn tâm toàn ý nằm bên mình, chàng đưa cánh tay ra ôm cậu bé vào lòng.

Khi tỉnh lại lần nữa, Thác Bạt Hoằng nhận thấy tình hình sức khỏe của mình đã tốt lên nhiều. Đến khi mở mắt ra, chàng bắt gặp một đôi mắt trong trẻo đang nhìn chằm chằm vào mình. Khi thấy chàng tỉnh, đôi mắt ấy lộ rõ vẻ vui mừng.

"Phụ hoàng!" Tiểu Hoành toét miệng cười, Thượng công công quả nhiên không lừa cậu, phụ hoàng đúng là đã tỉnh!

QUẢNG CÁOAdskeeper

Máy hút bụi giảm giá 50% nhân dip tết 2020 chỉ 690k

Làm sạch nhà khi bạn đi vắng, chỉ với 690k xài vĩnh viễn.

Thác Bạt Hoằng cũng vui vẻ xoa đầu Tiểu Hoành, mớ tóc lòa xòa mềm mềm thật thích. "Hoằng Nhi, mấy ngày nay con đều ở chỗ phụ hoàng, đã xin phép nghỉ học chỗ thái hậu chưa?"

Tiểu Hoành nghe phụ hoàng nhắc tới Phùng Kỷ, liền sầm mặt lại, khịt mũi một cái nói: "Thái hậu bây giờ còn chẳng có thời gian để ý đến cô nữa!"

("Cô" là từ tự xưng của thái tử, cũng như vua xưng "trẫm")

Bàn tay đang xoa đầu Tiểu Hoành dừng lại, Thác Bạt Hoằng rất ít khi thấy con mình nói với giọng điệu đó, nhăn mày lại: "Sao con lại nói thái hậu như thế? Có biết trên dưới nữa không?"

Tiểu Hoành hình như bị kích động, đôi mắt lập tức mở trừng trừng, cất giọng giận dữ: "Cô không biết trên dưới? Vậy thì bà ấy biết trên dưới à? Lén lút ở với nam nhân trong hậu cung, thái hậu của một nước làm vậy là biết trên dưới?"

Câu nói đó như tiếng sét giáng xuống đầu Thác Bạt Hoằng, đầu óc chàng trống rỗng, chàng nghe thấy tiếng của chính mình đang hoang mang cất lên: "Câu này ai dạy con nói?" Phải, rất nhiều người không thích chàng và Phùng Kỷ sống yên ổn với nhau, thường hay mớm lời nói xấu, để lợi dụng sự đấu đá mà thu về chút lợi riêng. Hoành Nhi còn nhỏ như vậy, thì đã biết gì?

"Dạy dỗ gì chứ? Cô tự mình trông thấy! Nam nhân đó là Lý Dịch, em của Nam bộ thượng thư Lý Phu, trước đây cô từng gặp hắn trong buổi dạ yến cung đình, nhưng không biết hắn và thái hậu có quan hệ như vậy!" Tuy Tiểu Hoành mới ba tuổi, nhưng lớn lên trong cung, những việc cần hiểu thì đều hiểu, những việc không cần hiểu cũng đều hiểu. Hơn nữa việc này diễn ra ngay trong cung điện của thái hậu, chẳng bí mật gì lắm, tộc Tiên Ti không quá xem trọng lễ nghĩa liêm sỉ, cho dù Phùng Kỷ có sùng bái Hán tộc, cũng chỉ là mặc đồ người Hán, niệm kinh Phật mà thôi. Trong mọi hành vi cử chỉ, chẳng có chút giữ lễ nào kiểu con gái người Hán. Chỉ có điều những người hầu hạ trong cung, không hiểu vì sao đều nhất loạt giấu diếm phụ hoàng cậu việc này.

Tiểu Hoành mách xong, nghênh nghênh cái đầu lên tỏ vẻ cáu giận, thì thấy phụ hoàng vừa khỏi bệnh đã lặng lẽ đứng dậy, gọi người hầu đến rửa mặt thay áo cho mình. Gương mặt tuấn tú không có biểu cảm gì, nhưng toàn thân toát ra một thứ sát khí đáng sợ. Tiểu Hoành hơi hiểu ra vì sao không ai dám nói đến bí mật của Phùng Kỷ trước mặt phụ hoàng, bởi vì không ai dám chịu đựng cơn thịnh nộ của thiên tử. Nhưng Tiểu Hoành cũng có chuyện không hiểu, phụ hoàng cậu như vậy, không chỉ vì mỗi chuyện Phùng Kỷ dâm loạn hậu cung.

Nhìn Thác Bạt Hoằng rảo bước ra ngoài, Tiểu Hoành ngồi trên giường ngây ra một lúc, rồi giật mình nhớ ra, vội vàng gọi người hầu mau chóng đến thay áo cho cậu, rồi xỏ giày lon ton chạy đuổi theo sau. Nhưng khi cậu chạy đến cung điện của thái hậu, thì chỉ thấy máu me đầy đất, phụ hoàng của cậu cầm một thanh kiếm sắc, đứng sừng sững ở đó, đầu mũi kiếm vẫn còn nhỏ xuống những giọt máu chưa khô. Lý Dịch nằm trên đất, trên ngực có một nhát đâm lớn, đã tắt thở.

Tiểu Hoành mặt trắng bệch, lúc này cậu mới nhận ra, gương mặt của Lý Dịch có đôi phần giống với phụ hoàng, đều trẻ tuổi và tuấn tú, đôi mắt sâu thẳm. Tiểu Hoành run bắn người, trong tiềm thức cậu cảm thấy mình đã phát hiện ra một bí mật kinh khủng, nên không bước vào trong điện, chỉ sợ hãi đứng dưới cửa sổ bên ngoài điện.

Lúc này Phùng Kỷ đang tụng kinh trong Phật đường, nghe người hầu thông báo liền vội vàng tớỉ, khi nhìn thấy xác của Lý Dịch, lập tức dừng bước. Nàng không còn mặc đồ tang trắng toát như ba năm trước, mà mặc một chiếc váy dài đỏ thêu kim tuyến, thắt dải đai to bản màu vàng trên hông, ống tay và gấu váy thướt tha chuyển động liên tục theo bước đi của nàng, thật quý phái cao sang không gì sánh được. Trên mặt nàng thoa một lớp phấn nhạt, kể cả Thác Bạt Hoằng cũng chưa từng bao giờ nhìn thấy nàng đẹp như thế, trong khoảnh khắc bất chợt lặng người, nhưng lập tức nhớ ra nàng trang điểm lộng lẫy là vì ai, liền càng phẫn nộ.

Lúc này Phùng Kỷ đã nhìn rõ tình hình trong điện, gương mặt thanh tú thoáng qua chút phẫn hận, nhưng lại nhanh chóng che giấu đi một cách hoàn hảo. Nàng nhìn thanh kiếm sắc dính máu vẫn trên tay Thác Bạt Hoằng, nhẹ nhàng nói: "Hoàng thượng mới qua cơn bệnh nặng, vì sao không nghỉ ngơi cho khỏe, lại đến chỗ ai gia làm gì?"

Thác Bạt Hoằng nắm chặt kiếm trong tay, thực ra chàng không nên kích động như thế, rõ ràng là chỉ cần tìm một sơ hở nào đó rồi từ từ tính toán, không lo Lý Dịch không chết.

Chàng thực sự chỉ muốn đến xem xem Lý Dịch là kẻ như thế nào, nhưng khi nhìn thấy gã đàn ông trẻ tuổi có đôi phần giống chàng, thì không nén nổi lửa giận bừng bừng trong lòng.

Rõ ràng, người giống phụ hoàng nhất, không phải chàng sao?

Rõ ràng, trong đám hoa phù dung, người tìm thấy nàng đang khóc không phải là chàng sao?

Rõ ràng, người nàng muốn dựa dẫm đầu tiên, không phải chàng sao?

Vì sao không thể là chàng?

Thác Bạt Hoằng nghe thấy giọng nói lạnh lùng của mình cất lên: "Nam bộ thượng thư Lý Phu nhận hối lộ bị tố giác, Lý Dịch vừa nãy không chịu thừa nhận, buông lời bất kính với trẫm, trẫm nhất thời nóng giận, lỡ tay giết hắn".

Phùng Kỷ nhíu đôi mày lá liễu, cất giọng có chút giễu cợt: "Hoàng thượng quả là mọi việc tùy tâm, chẳng lẽ coi Ngự sử đài là bày ra cho vui? Ai gia không yên tâm khi giao triều Đại Ngụy vào tay bệ hạ, xem ra ngày mai ai gia vẫn cứ lên triều nghe chính sự thì hơn".

Thác Bạt Hoằng cứng đờ người, biết là việc hôm nay làm quá tay, trong cơn giận, Phùng Kỷ đòi thu lại đại quyền triều chính mà nàng mới bàn giao được một năm.

Phùng Kỷ ngồi xuống, vẫn dáng vẻ thanh nhã, bất chấp áo váy sang trọng bị máu làm bẩn, nhẹ nhàng lấy tay vuốt mắt cho Lý Dịch vừa chết, rồi đứng dậy bỏ đi, chẳng có chút gì lưu luyến.

"Người có lòng ái dục, giống như cầm đuốc đi ngược gió, rồi sẽ bỏng tay...". Vạt váy dính đầy máu của Phùng Kỷ để lại những vết loang lổ trong điện, chầm chậm khô dần trong tiếng lẩm nhẩm đọc kinh của nàng, biến thành những vệt máu xấu xí.

Thác Bạt Hoằng loạng choạng, như bị bỏng tay, cơ thể vừa qua cơn bệnh không thể giữ nổi thanh trường kiếm trong tay, rơi xuống đất vang lên tiếng leng keng, vang vọng không dứt trong tòa điện trống.

4

Năm 471.

"Người điên rồi!" Phùng Kỷ dùng một tay đẩy cánh cửa lớn của điện Chấp Chính, trừng mắt giận dữ nhìn Thác Bạt Hoằng ngồi sau bàn sách.

Chiếc bút lông trên tay Thác Bạt Hoằng vẫn không hề run rẩy, tiếp tục viết nốt câu kinh Phật, như nước chảy mây trôi rồi mới buông bút ngẩng đầu lên, mỉm cười nhìn Phùng Kỷ không mời mà đến. Chàng nhận ra rằng Phật tổ đúng là một cõi an lành, từ năm ngoái chàng đã buông bỏ, không còn lo chuyện thế tục, toàn tâm lễ Phật, lòng chàng đã bình thản hơn nhiều. Dù gặp lại nàng, cõi lòng chàng cũng chẳng còn gợi lên một gợn sóng nào nữa, chỉ còn nhìn nữ nhân đứng trước mặt mình bằng ánh mắt nhìn cái đẹp thuần túy.

Phùng Kỷ ngạc nhiên vì ánh mắt của chàng, từ lâu nàng đã quen gã trai trẻ kia nhìn nàng với ánh mắt lúc thì ngưỡng mộ lúc thì cháy bỏng, chứ chưa từng nghĩ chàng có thể nhìn nàng bằng ánh mắt bình thản an lành kia. Phùng Kỷ lúc này mới nhớ ra, Thác Bạt Hoằng đã mười tám tuổi, còn hai năm nữa là có thể làm lễ đội mũ theo phong tục người Hán, nhưng chàng trai ngồi đằng kia, giờ đã là vị đế vương thần thái hơn người, giống như Thác Bạt Tuấn nhiều năm về trước vẫn ở bên nàng.

Phùng Kỷ sửa lại mấy lọn tóc lòa xòa xuống mặt vì ban nãy đi nhanh quá, cố gắng để giọng nói mình được bình tĩnh, nàng hít một hơi sâu, nhưng không thể che giấu nổi sự tức giận trong lòng: "Hoàng thượng, năm nay người mới mười tám tuổi, vì sao lại muốn nhường ngôi?"

Thác Bạt Hoằng di tay xuống tờ kinh Phật vừa ráo mực, mỉm cười nói: "Triều chính có thái hậu lo, trẫm yên tâm".

Hơi thở của Phùng Kỷ nghẹn lại trong lồng ngực, hắn đang oán trách nàng không giao lại triều chính ư? Nhưng kẻ tự tiện giết chết nam sủng của nàng, chính là chàng mà? Chẳng lẽ nàng không được xả giận? Nàng định đem những câu đó ra hỏi, nhưng bắt gặp ánh mắt bình lặng như mặt nước của Thác Bạt Hoằng, nàng biết cho dù mình có hỏi, hắn cũng không trả lời. Phùng Kỷ nghiến chặt răng, tiếng nói như rít qua kẽ răng mà ra, nói rành rọt từng tiếng một: "Người yên tâm trao ngôi vua cho Thác Bạt Hoành ư? Thái tử mới bốn tuổi thôi".

Thác Bạt Hoằng vẫn mỉm cười nói: "Chẳng phải còn thái hậu sao?" Chàng cúi xuống, che đi thần sắc trong mắt. Bốn tuổi và mười tám tuổi có gì khác nhau? Chàng muốn làm một thái thượng hoàng nhàn tản, ra khỏi cái hoàng cung đã cầm tù nửa đời người của chàng, bên ngoài trời mây rộng lớn, vì sao chàng cứ phải bám riết lấy những thứ không thuộc về mình?

Ngôi vua từ trước giờ vẫn không thuộc về chàng.

Quyền thế từ trước giờ vẫn không thuộc về chàng.

Nàng... từ trước giờ cũng không thuộc về chàng.

Phùng Kỷ nắm chặt lấy tràng hạt gỗ đàn hương trong tay, cất giọng lạnh lùng: "Ai gia hỏi người lần cuối, người kiên quyết muốn nhường ngôi ư?"

"Phải". Thác Bạt Hoằng lại ngẩng đầu lên, cười bình thản.

Đôi mắt phượng của Phùng Kỷ bỗng sắc lạnh, nàng buông một câu: "Vậy sau này người chớ hối hận". Nói đoạn quay người bỏ đi. Thác Bạt Hoằng lặng người nhìn theo nàng một lúc, rồi tự cười mình, tiếp tục cầm bút viết kinh Phật.

Tháng Tám, ánh nắng chan hòa, trời xanh không một gợn mây. Trong lễ nhường ngôi, Thác Bạt Hoằng tự tay dắt Thác Bạt Hoành mới bốn tuổi lên đại điện, rồi bế cậu bé ngồi lên ngai vàng. Thác Bạt Hoằng biết mình chắc chắn không phải hoàng đế trẻ tuổi nhất trong lịch sử, nhưng chắc chắn là thái thượng hoàng trẻ tuổi nhất.

Phùng Kỷ đứng một bên, mặc chiếc áo bào thêu hình phượng màu đỏ tía, thờ ơ lạnh nhạt, đôi môi mỏng mím chặt.

Thác Bạt Hoằng không hề để ý tới nàng, mà chỉ đứng bên cạnh ngai vua, xoa đầu con trai, nhẹ nhàng thấp giọng hỏi: "Hoành Nhi, sao lại khóc?"

Tiểu Hoành nước mắt giàn giụa, kéo vạt áo của Thác Bạt Hoằng nghẹn ngào nói: "Phụ hoàng không cần cô nữa...".

"Sao ta lại không cần Hoành Nhi nữa? Chỉ vì phụ hoàng mệt rồi, Hoành Nhi nhất định là hiểu cho phụ hoàng phải không?" Thác Bạt Hoằng tắt nụ cười, chàng biết việc làm này của mình là rất thiếu trách nhiệm, nhưng trong cung, chàng chỉ là đồ bày cho đẹp, cần gì phải tự chuốc nỗi nhục vào mình? Không phải chàng không có đòi hỏi về quyền thế, có điều chàng không thể làm tốt như Phùng Kỷ. Những tranh chấp giữa các thế lực trong triều, chàng không thể hiểu hết vì tính cách chàng quá đơn giản. Mấy năm nay những xung đột ấy tuy không lớn, nhưng nếu để lâu thì ắt sẽ trở thành việc không thể cứu vãn. Phùng Kỷ chỉ cần một con rối, vậy thì Thác Bạt Hoành nhỏ tuổi hẳn sẽ càng hợp ý của nàng hơn.

"Phụ hoàng...". Thác Bạt Hoằng vẫn khóc lóc không chịu buông tay, những việc khác cậu bé không hiểu, nhưng cậu biết rõ, từ nay về sau, phụ hoàng sẽ rời khỏi cung. Từ nhỏ cậu đã được phụ hoàng nuôi nấng, cho dù từ hai tuổi trở đi được Phùng Kỷ dạy dỗ, nhưng nàng không đòi cậu ở cùng, buổi tối cậu vẫn về với phụ hoàng. Nếu phụ hoàng ra khỏi cung, cậu sẽ phải làm thế nào?

Thác Bạt Hoằng lấy tay áo lau khô nước mắt trên gương mặt nhỏ bé của Tiểu Hoành, rồi lại chậm rãi gỡ những ngón tay bé xíu đang níu vạt áo chàng, rất cương quyết, quỳ một gối xuống bên cạnh ngai vàng. Từ góc này có thể nhìn thấy Phùng Kỷ ở bên kia, đôi mắt phượng như đang bốc lửa.

Phải rồi, mấy năm trước, nàng từng dạy chàng rằng, ngoài Phật tổ ra, chàng không phải quỳ trước bất cứ ai.

Nhưng lần này thì khác, chàng không phải hoàng đế nữa, quỳ lạy đấng quân vương tự mình chọn ra, thì có gì không đúng?

Thác Bạt Hoằng nâng vạt áo long bào của Tiểu Hoành lên, chậm rãi cúi đầu, thành kính hôn lên vạt áo.

"Tham kiến hoàng thượng".

Chàng đã giao đất nước lại cho cậu, tuy không phải là bây giờ, nhưng chàng tín, triều Đại Ngụy sẽ hưng thịnh dưới tay Tiểu Hoành.

"Tham kiến hoàng thượng!!" Quần thần dưới điện lũ lượt quỳ xuống, tiếng hô tham bái vang trời.

Trong cả đại điện, chỉ có một mình Phùng Kỷ vẫn đứng, quan sát mọi việc, thần sắc khó tả.

Trong ống tay áo nàng có nhét một tờ giấy mà nội thị lấy từ thư phòng Thác Bạt Hoằng ra, trên đó viết lặp đi lặp lại có một câu.

"Ái dục sinh ưu phiền, ưu phiền sinh sợ hãi, nếu rời xa ái dục, chẳng ưu phiền chẳng sợ hãi".

Nếu rời xa ái dục, chẳng ưu phiền chẳng sợ hãi?

Phùng Kỷ vò nát tờ giấy trong tay áo, gương mặt thanh tú thoáng qua một nét phẫn uất.

Chàng sẽ phải hối hận...

5

Năm 472.

Thác Bạt Hoằng chắp tay sau lưng, ngắm hồng mai nở trong tuyết, thần thái tự nhiên.

Từ khi chuyển ra ngoài cung, Thác Bạt Hoằng luôn trong trạng thái được thư giãn thoải mái nhất, lần đầu tiên chàng thấy vận mệnh thực sự nằm trong bàn tay mình. Chàng đóng cửa không tiếp khách, hoàn toàn thoát khỏi triều đình, hàng ngày chỉ đi chép kinh, ngắm cảnh sân vườn, cuộc sống an nhàn tự tại. Tuy chàng mới mười chín tuổi, đáng lý ra là không quen với cuộc sống quá an nhàn này, nhưng chàng lại thích thú vô cùng với nó.

"Thái thượng hoàng, Thượng công công trong cung tới, nói có việc gấp cầu kiến". Người hầu đứng ngoài cửa bẩm báo. Tuy thái thượng hoàng đã nói là không gặp ai, nhưng họ đều là những người già theo hầu thái thượng hoàng, biết rằng không được vô lễ với Thượng công công.

Thác Bạt Hoằng giật mình, rồi liền quay người đi về phía tiền sảnh, chàng biết nếu là chuyện bình thường, Thượng Tà sẽ không tới làm phiền chàng. Chàng đi trong hành lang càng lúc càng nhanh, dự cảm không lành đang dần lớn lên.

"Thái thượng hoàng!" Thượng Tà đi đi lại lại ở tiền sảnh, lúc gặp Thác Bạt Hoằng/ liền chạy đến trước mặt, lo lắng nói: "Thái thượng hoàng, hoàng thượng được thái hoàng thái hậu gọi vào để dạy học, không biết hoàng thượng gây chuyện gì khiến thái hoàng thái hậu không vui, nên bị nhốt trong phòng chứa củi đã hai ngày ba đêm rồi! Nghe đâu thái hoàng thái hậu không cho hoàng thượng ăn gì".

Thác Bạt Hoằng nghe xong thì sững người, chàng chưa bao giờ nghĩ Phùng Kỷ cổ thể đối xử khắc nghiệt như vậy với Tiểu Hoành, năm nay thằng bé mới năm tuổi, giờ lại đang là lúc trời đông giá rét, đừng nói là hai ngày ba đêm, bị nhốt trong phòng củi nửa canh giờ thôi là đã không chịu được rồi, lại còn chưa được ăn uống gì...

Thác Bạt Hoằng cảm thấy máu trong người chảy ngược hết lên, mặc kệ mình đang mặc thường phục, mái tóc cũng chỉ buộc qua loa ra phía sau, xe ngựa còn không kịp chuẩn bị, gọi người mang cho con ngựa rồi phi thẳng về phía hoàng cung.

Thượng Tà run run chống gậy, trong lòng bất an, nhìn dấu chân ngựa trên tuyết trắng, thở dài một tiếng.

Tiểu Hoành nằm co ro trong phòng củi tối tăm ẩm thấp, nhìn chiếc bánh thịt trong tay ngao ngán, nhưng vẫn cố ăn lấy một miếng.

Thực ra Phùng Kỷ chẳng làm gì cậu, nhưng Tiểu Hoành không ưa bà ta, việc gì cũng cố ý làm trái. Giờ thì bị "đày" đến phòng củi để hối cải, nhưng đây cũng là một cơ hội tốt.

Tiểu Hoành phồng mồm lên cố nuốt miếng bánh, nghĩ bụng nhân dịp này để gọi phụ hoàng đến thăm cậu. Từ dịp quốc yến đầu năm, đã cả tháng nay cậu chưa gặp phụ hoàng rồi! Hơn nữa phụ hoàng thành tâm hướng Phật, cậu sợ phụ hoàng lỡ mà xuất gia làm sư thì hỏng. Hơn nữa cậu không nói dối, Phùng thái hậu không đưa cơm cho cậu, nhưng không cấm người hầu đưa cơm cho cậu mà. Cậu ở chỗ thái hậu hai ngày ba đêm, Thượng công công không biết sự thể ra sao, có nói quá lên cũng không trách được!

Nghe thấy tiếng người nội thị giả tiếng mèo kêu bên ngoài để báo tin, Tiểu Hoành mau chóng dúi cái bánh ăn dở vào đống củi khô trong góc phòng, lấy tay tát mạnh vào mặt, rồi nằm co quắp lại dưới đất.

Khi Thác Bạt Hoằng mở cửa phòng củi, thì thấy con trai mình đang nằm dưới đất lạnh rất đáng thương, co ro co quắp, chắc vì sốt nên mặt đỏ hồng lên, tấm thân bé nhỏ thỉnh thoảng run lên vì lạnh. Thác Bạt Hoằng trong lòng xót xa, vội đi vào bế Tiểu Hoành lên ôm trong lòng, lập tức ra khỏi đó, quay về tẩm cung gọi thái y đến chữa trị.

"Phụ hoàng... cuối cùng người cũng đến thăm cô rồi...". Tiểu Hoành mở mắt quyến luyến nhìn phụ hoàng đã lâu không gặp.

"Phải, phụ hoàng đến rồi". Thác Bạt Hoằng nghe giọng cậu bé khàn khàn, lại càng xót xa, cánh tay ôm cậu siết chặt hơn.

Tiểu Hoành dụi vào lòng phụ hoàng, lạnh lạnh, mới giật mình nhận ra Thác Bạt Hoằng không mặc áo hồ cừu, chắc vì vừa nghe tin cậu đã vội vã chạy tới. Tiểu Hoành vừa thương nhưng vừa hài lòng, ngẩng mặt lên cầu khẩn: "Phụ hoàng... xem ra cô không thích hợp để làm vua rồi, phụ hoàng về làm vua của triều Đại Ngụy được không?"

Đúng vậy, đó là nguyện vọng của tiểu hoàng đế mấy ngày nay, cậu ghét cung điện lạnh lẽo, ghét chiếc long sàng trống trải, cậu càng ghét người đàn bà hàng ngày cậu phải gặp. Cậu muốn được như ngày xưa, dù hàng ngày phải tới chỗ Phùng Kỷ để học, nhưng hàng ngày cũng đều có phụ hoàng ở bên.

Thác Bạt Hoằng bước vào tẩm điện ấm áp, nhẹ nhàng đặt Tiểu Hoành lên giường, chàng lấy tay lau vết than trên mặt cậu bé, nén sự tức giận trong lòng, nhỏ nhẹ nói: "Hoành Nhi, con nghĩ làm hoàng đế là trò trẻ con sao? Con đã là hoàng đế của triều Đại Ngụy rồi, không thể thay đổi được".

Tiểu Hoành thất vọng chu mỏ lên.

Thác Bạt Hoằng dùng tay ủ ấm cho tay cậu, mắt chàng ánh lên, chàng nói kiên quyết: "Nhưng lần này ta sẽ làm lưỡi đao của con. Phật nói: buông đao giết người, lập tức thành Phật. Vì con của ta, ta rời bỏ Phật Tổ, lại cầm lại đao kiếm được không?"

Tiểu Hoành há hốc mồm, việc này... tại sao lại khác hẳn những gì cậu dự liệu?

Năm 476.

Thác Bạt Hoằng nhảy phắt xuống ngựa ngay ngoài cửa cung, đưa dây cương cho thị vệ, tay cầm mũ giáp, sải bước đi vào trong cung. Chàng vẫn là thái thượng hoàng, nên không cần bỏ kiếm khi vào cung, cũng không cần đợi cho gọi mới được vào.

Thác Bạt Hoằng lâu ngày mới nhìn lại cung cấm, trong lòng không khỏi một nỗi nhớ nhà. Tuy hồi trước mười tám tuổi, chàng vẫn coi đây là cái phòng giam. Nhưng năm năm nay cầm quân đánh trận, khiến chàng vô cùng nhung nhớ nơi đây. Nhìn những cung nữ nội thị lần lượt quỳ lạy khi chàng đi qua, trên gương mặt họ là sự sùng bái và kính sợ thật lòng, Thác Bạt Hoằng mỉm cười hài lòng.

Năm năm trước, nhận ra rằng nhường ngôi cũng không khiến chàng có được tự do thực sự, Thác Bạt Hoằng bèn quyết định mình phải đứng lên vì con trai. Nếu chàng đã không thể tranh chấp với Phùng Kỷ trong triều đình, vậy thì chàng chuyển mục tiêu sang quân đội.

Là một hoàng đế của tộc Tiên Ti, Thác Bạt Hoằng dù lớn lên dưới tay phụ nữ trong thâm cung, nhưng chưa từng bỏ bê cung tên binh pháp. Lúc này chàng mới thực sự hiểu ra, muốn người khác không coi thường mình, thì mình phải có thực lực mạnh mẽ. Vừa may chàng đã nhường ngôi cho Thác Bạt Hoành, nếu vẫn còn làm hoàng đế, chàng chắc chắn không thể tự mình đem quân ngự giá thân chinh được. Trong năm năm nay, bên ngoài thì chàng nam chinh bắc chiến mở mang bờ cõi, bên trong thì cũng vì thế lực của mình đã lớn mạnh, chàng có cơ hội thị sát chỉnh đốn quan lại trong nước, đề bạt người hiền tài. Dốc sức lo liệu việc trong việc ngoài như vậy, về lâu về dài ắt sẽ xây dựng được một thiên hạ thái bình an định cho Tiểu Hoành. Năm nay chàng mới hai mươi ba tuổi, tương lai vẫn rất dài.

Thác Bạt Hoằng càng nghĩ càng thấy hùng tâm vạn trượng, chàng không phải là người có dã tâm lớn, chàng chỉ muốn bảo vệ người duy nhất chàng quan tâm. Đợi Tiểu Hoành lớn rồi, có thể dần dần giao việc nước cho cậu.

Thác Bạt Hoằng nhớ ra con trai mình năm nay đã chín tuổi, lần này xuất chinh, đã hơn một năm chưa được gặp cậu bé, không biết cậu có ăn uống tốt không, vóc dáng đã cao lên nhiều chưa. Thác Bạt Hoằng đi càng lúc càng nhanh, nhưng đúng lúc chàng sắp ra khỏi hành lang thì một nội thị từ bên cạnh bước ra, quỳ lạy trước mặt chàng, cung kính nói: "Bẩm thái thượng hoàng, thái hoàng thái hậu cho mời".

Thác Bạt Hoằng hơi nheo mắt lại, chần chừ trong chốc lát, rồi gật đầu nói: "Dẫn đường đi".

Đi theo người nội thị, xuyên qua hành lang quanh co, Thác Bạt Hoằng cũng không rõ mình được đưa đi đâu. Trong năm năm qua chàng rất ít khi về, cung điện cũng đã xây sửa lại, lúc này đang ở giữa mùa hạ, trăm hoa khoe sắc, Thác Bạt Hoằng ngắm nhìn cảnh vật và lòng khoan khoái. Người nội thị đi tận tới trước lương đình trong vườn hoa phù dung mới dừng lại.

Thác Bạt Hoằng nhìn bóng dáng yêu kiều đang đun rượu ngắm hoa trong lương đình, con tim bất chợt đập mạnh.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Người đàn bà này, cho dù chàng đã đứng ở phía đối địch với nàng, tuy chàng từ lâu đã tự nghiền vụn mọi ảo tưởng về nàng, nhưng trong khoảnh khắc nhìn thấy nàng, chàng vẫn không thể lừa dối con tim mình.

Tự mình đem quân chinh chiến, cũng chỉ vì muốn tránh nàng.

Thác Bạt Hoằng len lén thở dài, bước lên bậc thềm, đi từng bước tới lương đình.

Nghe thấy tiếng khôi giáp cọ xát lạch cạch, Phùng Kỷ quay đầu lại, nhìn thấy một chàng trai trẻ anh tuấn tay cầm mũ khôi, người mặc giáp bạc, khôi ngô tuấn tú, trên gương mặt chứa đầy khí thế tung hoành uy phong được rèn rũa qua binh lửa, đang bước tới dưới ánh mặt trời. Bộ khôi giáp phản xạ ánh nắng chói mắt khiến người khác không thể nhìn thẳng, uy vũ như một vị thiên tướng hạ phàm.

Phùng Kỷ hơi nheo đôi mắt phượng lại, lòng quyết tâm đã chắc chắn bỗng bị dao động mạnh, nhưng rồi lập tức lại được nén xuống.

Thác Bạt Hoằng lúc này ngẩng đầu lên, nhìn Phùng Kỷ mặc chiếc váy xanh đứng giữa đám hoa phù dung, còn kiều diễm hơn hoa, năm tháng không để lại nhiều dấu vết trên gương mặt nàng, nàng vẫn đẹp không ai sánh nổi. Thác Bạt Hoằng chợt mơ màng, dường như nghĩ rằng mình về lại khi lần đầu tiên gặp nàng hồi nhiều năm trước. Khi đó nàng cũng mặc một chiếc váy cung nữ màu xanh, nấp trong lùm hoa phù dung ngồi khóc...

Bây giờ thực ra vẫn vậy.

Khóe miệng nàng rõ ràng đang cười, nhưng gương mặt thì như sắp sửa khóc.

Thác Bạt Hoằng nhìn rõ, trên gương mặt nàng, đeo một chiếc mặt nạ, che đi sự dịu dàng, biến thành sự mưu mô và lạnh lùng.

Chàng biết, chỉ cần chàng muốn, chỉ cần chàng với tay ra, là có thể gỡ bỏ chiếc mặt nạ đó của nàng, nhìn thấy lại nàng của ngày xưa. Chàng cũng biết, chỉ cần nàng muốn, chỉ cần nàng đưa tay ra, là cũng sẽ gỡ bỏ được chiếc mặt nạ nghiêm nghị của chàng.

Nhưng họ đều không làm gì cả.

Ngay sau khi ánh mắt gặp nhau, họ đều tránh ánh mắt của người kia đi.

Nàng vẫn đeo chiếc mặt nạ đó, còn chàng vẫn nắm chặt đôi bàn tay mình.

Phùng Kỷ biết, chiếc mặt nạ nàng đeo có thể gỡ ra rất dễ, nhưng nàng cũng biết, nếu đeo mặt nạ lâu quá, thì chính nàng cũng không biết phải gỡ nó ra thế nào nữa. Đến cả gương mặt dưới lớp mặt nạ, dần dần cũng biến thành hình dáng của mặt nạ, con người trước đây của nàng không thể tìm lại được nữa.

Nàng nghe thấy mình vừa khẽ cười vừa nói: "Hoằng Nhi, về rồi à, uống cùng ta một chén rượu được không?"

Phùng Kỷ biết, chàng trai anh tuấn trước mặt sẽ không từ chối, chàng điên cuồng si mê nàng, kể cả đến giờ vẫn vậy.

Tộc Tiên Ti không giống như Hán, cha con anh em lấy cùng vợ cũng không có gì lạ. Năm xưa chỉ cần nàng mở lời, là có thể dễ dàng dùng tình yêu để điều khiển vị vua trẻ tuổi.

Nhưng nàng không muốn dùng thủ đoạn đó để đối phó với chàng, nàng muốn một vị vua hoàn mỹ có thể thay thế cho Thác Bạt Tuấn. Nàng sắp xếp phi tử cho chàng, nhìn con trai chàng ra đời, hy vọng có thể nhìn thấy một vị đế vương manh mẽ ra đời, đưa đế quốc của Thác Bạt Tuấn để lại trở nên hưng thịnh.

Nhưng nàng thất vọng, chàng lại đi lễ Phật? Đi nhường ngôi? Thậm chí đem quân đi đánh trận?

Một vị vua như vậy, thì chẳng cần nữa.

Nàng sẽ tiếp nhận đất nước của Thác Bạt Tuấn. Bởi vì đất nước này vốn thuộc về tổ phụ của nàng, nay nó thuộc về nàng, nàng sẽ chẳng cho ai nữa.

Phùng Kỷ nhìn thấy Thác Bạt Hoằng bỏ mũ khôi trong tay xuống, ngồi xuống trước mặt nàng. Nàng vén cao tay áo, tự mình rót rượu cho chàng, nhìn chàng chậm rãi uống cạn chén rượu độc mà nàng đã chuẩn bị, không để lại giọt nào.

Nhìn chàng bỗng nhiên trợn mắt, ngạc nhiên nhìn nàng, bên khóe miệng không ngừng rỉ ra máu tươi, bỗng nhiên Phùng Kỷ thấy trái tim như bị kim đâm, đau đớn như người uống rượu độc của nàng.

Thì ra, nàng đã thay đổi.

Kẻ không muốn từ bỏ triều chính là nàng, kẻ rơi vào vòng xoáy quyền lực cũng là nàng.

Chỉ vì cuộc đời nàng chẳng còn gì khác ngoài quyền lực, nên mới không chịu buông tay.

Cũng như khi tượng Phật đã vỡ nứt, thì không còn là tượng Phật nữa.

Cũng như nàng, từ lâu đã không còn là Bồ Tát hiền từ năm xưa, dưới sự hung hãn của thời gian, nàng đã biến thành Tu La.

(Đúng ra là A Tu La (dịch từ Asura), ác thần trong truyền thuyết An Độ, đối nghịch với Phật)

Phùng Kỷ sửa lại mấy sợi tóc bên tai, u buồn cảm thán: "Phật nói đời người có bảy cái khổ, sinh, lão, bệnh, tử, ghét mà phải ở bên nhau, yêu mà phải biệt ly, cầu mà chẳng được...".

Năm 476, Bắc Ngụy Hiến Văn đế Thác Bạt Hoằng bị thái hoàng thái hậu Phùng Kỷ giết hại, hưởng dương hai mươi ba tuổi.

Hôm sau, Thác Bạt Hoành nén cơn giận trong lòng, đợi Phùng Kỷ hiệu kiến trong Phật đường. Cậu lại giống như phụ hoàng mười một năm trước, đẩy cánh cửa lớn của Phật đường, nhìn thấy tượng Độc Ngọc Phật bị nứt dài ở cổ.

Năm 493, Thác Bạt Hoành dời đô về Lạc Dương, bắt đầu xây dựng hang đá Long Môn nổi tiếng.

(Di sản văn hóa thế giới, tạo thời Bắc Ngụy và mở rộng quy mô vào các đời sau này, bao gồm hệ thống chùa chiền, tượng Phật, bia đá... rất có giá trị lịch sử và văn hóa)

Năm 499, Bắc Ngụy Hiếu Văn đế Thác Bạt Hoành bị mắc bạo bệnh chết, năm đó mới ba mươi ba tuổi.

Lời nguyền của tượng Phật, vẫn tiếp tục kéo dài...

6

Năm 2012, hang đá Long Môn, Lạc Dương.

"Òa... thật là tráng lệ quá...". Đêm tối đen như mực, một gã trẻ tuổi mặc chiếc áo sơ mi đen thêu hoa văn rồng đỏ đứng dưới bức tượng Phật trong động Tân Dương Trung. Nhưng câu vừa rồi thì không phải do gã nói.

Trên vai gã chủ tiệm là một con búp bê thỏ bằng vải, chính là bác sĩ. Anh cảm thấy con rối gỗ ngô đồng thật bất tiện, nghĩ tới hình một thân xác trong phim hoạt hình, nghĩ rằng với tình trạng này của mình, sử dụng con rối vải mềm mại sẽ dễ điều khiển hơn, nên mới bắt chủ tiệm tìm búp bê vải để thử. Tuy chú thỏ dễ thương mềm mại này khiến anh hơi cạn lời, nhưng dù sao thì cũng có thể điều khiển được động tác tay chân của nó, so với con rối gỗ ngô đồng không động đậy được, thì anh hài lòng lắm rồi.

(Nguyên văn là "nghĩa hài" chỉ thân xác để tử thần nhập vào tạm thời, từ dùng trong phim hoạt hình Bleach)

Có điều nếu là sư tử hoặc hổ cho dũng mãnh hơn một tí thì tốt, bác sĩ có vẻ không chịu nổi việc mình ngọ nguậy cái tai dài thượt của con thỏ. Nhưng rất mau chóng, anh bị câu chuyện của gã chủ tiệm vừa kể thu hút sự chú ý, "Chủ tiệm này, tượng Phật trong tay anh chính là Độc Ngọc Phật hả? Có thật là có lời nguyền kỳ dị vậy không?"

Trong chiếc hộp gấm trong tay chủ tiệm, một bức tượng Phật bằng ngọc nằm im lặng, vùng cổ có khảm nạm vòng vàng, che đi vết nứt đáng sợ một cách hoàn hảo, nhìn trông giống như tượng Phật đeo vòng trang sức vàng vậy. Chủ tiệm bình thản cúi nhìn nói: "Đúng vậy, từ sau Thái Võ đế, các hoàng đế Bắc Ngụy không ai sống qua nổi tuổi tráng niên. Hiếu Văn đế Thác Bạt Hoành đã coi như sống lâu nhất rồi, bởi vì ông chăm chính sự, yêu dân chúng, lại xây dựng hang đá Long Môn. Thực ra ông xây hang Long Môn không phải vì bản thân mình, mà để cầu phúc cho phụ hoàng. Vậy nên Thác Bạt Hoành sau khi chết mới đặt thụy hiệu là Hiếu".

"Tượng Độc Ngọc Phật đã nhiễm lời nguyền của đế vương, nên chắc có thể trấn áp được càn khôn thiên tử khí ở đây". Chủ tiệm khẽ thở dài, năm xưa gã dâng tượng Phật cho Thái Võ đế nhà Bắc Ngụy không phải vì mục đích này. Nhưng ngọc tuy là vật lành, ngọc vỡ lại là thứ tà vật, tượng Phật ngọc bị vỡ lại càng xấu, mọi thứ nhân từ được tô vẽ bề ngoài, đều ẩn chứa sự đen tối bên trong.

Bác sĩ nhìn chủ tiệm chôn tượng Độc Ngọc Phật trong động Tân Dương Trung như lần trước chôn rìu Thiên Việt, bất giác lẩm bẩm hỏi: "Rìu Thiên Việt đại diện cho sự nghi kỵ của thiên tử, vậy thì Độc Ngọc Phật đại diện cho cái gì?"

Gã chủ tiệm trầm ngâm một hồi lâu, rồi mới khẽ thở dài: "Đời người có bảy cái khổ, sinh, lão, bệnh, tử, ghét mà phải ở bên nhau, yêu mà phải biệt ly, cầu mà chẳng được... Cho dù là đế vương, thì cũng là người trong cõi trần, chẳng thể thoát khỏi bảy nỗi khổ của nhân gian...".

Quyển 3 - Chương 3: Long Văn Đạc

1

Vẫn như mọi khi, tấm biển viết chữ tiểu triện và cánh cửa chạm hoa cổ kính vẫn đem lại một cảm giác lịch sử xưa cũ.

Lục Tử Cương đứng trước cửa Á Xá, có đôi chút mơ màng.

Lần cuối anh đến tiệm đồ cổ này, đã là hai tháng trước, trong trí nhớ của anh lần lượt xuất hiện những đoạn ký ức không phải của anh. Dù theo chủ nghĩa vô thần, Lục Tử Cương cũng phải hoài nghi có lẽ mình thực sự là kiếp sau của Lục Tử Cương đời Minh.

Nếu không vì sao anh lại trùng họ trùng tên như thế? Vì sao lại có được Ngô đao? Tại sao tự dưng anh lại biết kỹ thuật làm ngọc?

Lục Tử Cương day day lên huyệt Thái Dương đang hơi đau nhức, từ khi Ngô đao dính máu của Hồ Hợi, không hiểu có phải ảo giác của anh hay không, mà anh thấy cơ thể mình có gì đó là lạ, thỉnh thoảng lại có cảm giác bất an bồn chồn.

Khi đưa Ngô đao cho anh, chủ tiệm đã dặn dò kỹ là không được để đao dính máu. Nhưng trong ký ức của kiếp trước, Hạ Trạch Lan làm đầu bếp sử dụng Côn đao, chắc chắn là không tránh khỏi dính máu...

Lục Tử Cương nghĩ, đang yên đang lành thì gã chủ tiệm gọi điện thoại, anh từ xa tít phải đi máy bay tới, cũng có phần là muốn hỏi chuyện này.

Lục Tử Cương hít một hơi sâu, đưa tay đẩy cánh cửa lớn chạm hoa, một mùi hương trầm xộc lên mũi, đi tận vào trong lòng, khiến anh khoan khoái. Bày biện trong tiệm không khác gì so với lần trước anh đến, có lẽ do hiệu ứng tâm lý, Lục Tử Cương nhớ lại chuyện kỳ lạ lần trước trong Á Xá, khiến anh nhìn thấy đồ cổ gì trong này cũng cảm thấy không yên lòng.

"Đến rồi à?" Giọng nói đều đều của chủ tiệm cất lên trong tiệm, Lục Tử Cương nhìn về phía giọng nói, thấy gã chủ tiệm bước ra từ phòng trong sau tấm bình phong bằng ngọc, trên vai còn có một con thỏ bằng vải rất đáng yêu, đôi tai dài rủ xuống trước ngực chủ tiệm, cảnh tượng này càng nhìn càng thấy không ăn nhập gì.

Lục Tử Cương trợn tròn mắt, nhìn gã chủ tiệm thản nhiên đi qua trước mặt, rồi đun nước pha trà rất thuần thục. Đến khi hương trà đã lấn át hương trầm, Lục Tử Cương mới sực tỉnh ra, ngại ngùng hắng giọng rồi nói: "Chủ tiệm này, tôi cũng đang có việc muốn hỏi anh".

Cẩn thận lôi ra thanh Ngô đao từ trong túi vẫn luôn đeo bên mình, Lục Tử Cương do dự đôi chút rồi mới nói: "Lần trước vì không cẩn thận, thanh đao này đã dính máu...". Tiếng nói của anh càng lúc càng nhỏ, như một đứa trẻ đang đợi gã chủ tiệm trách mắng.

Không thể trách Lục Tử Cương có thái độ như thế, bởi vì trong những ký ức tiền kiếp tự dưng xuất hiện, gã chủ tiệm như một bậc thầy, nếu không anh cũng không thể chỉ vì nghe lời nói của gã có gì không lành mà phải bay ngay từ Bắc Kinh tới.

"Là máu của cậu sao?" Chủ tiệm không đón lấy Ngô đao, mà đưa chén trà men xanh lục vẽ hoa vàng cho anh.

"Không phải...". Lục Tử Cương vội để thanh đao xuống, lấy hai tay đỡ chén, nhấp một ngụm trà thơm, rồi nói: "Là máu của thiếu gia Hồ Hợi kia, dính vào lúc hắn ta dùng sách Vong Linh để chiêu hồn". Lục Tử Cương không nói tiếp nữa, vì anh thấy đôi mày của chủ tiệm rõ ràng phải nheo lại vì câu nói của anh.

Chẳng lẽ đúng là đã phạm vào điều cấm kỵ? Lục Tử Cương bắt đầu thấy sợ hãi, anh nhận ra đôi tay đang đỡ chén trà men xanh lục vẽ hoa vàng của mình bất giác run lên, vội vàng đặt chén trà quý giá xuống quầy.

Chủ tiệm cũng chỉ nhăn mày trong một khoảnh khắc, rồi gã bình thản trở lại, nói: "Việc này không trách cậu được, không sao đâu". Nghĩ mọi việc đều là số mệnh, gã có ngăn cản nữa cũng vô ích.

Không sao ư? Lục Tử Cương định hỏi tiếp, nhưng trực giác cho biết, dù anh có hỏi thì chủ tiệm cũng chưa chắc đã trả lời. Anh thu lại thanh Ngô đao, lại cầm chén trà lên uống, lúc này mới bình tâm trở lại, cảm thấy hương trà tràn ngập vị giác, tấm tắc mấy câu rồi mới nói: "Chủ tiệm, anh gọi tôi đến có việc gì thế?" Lục Tử Cương vừa nói, vừa đưa mắt nhìn về con thỏ vải trên vai chủ tiệm, cảnh tượng quái dị này vẫn khiến anh không thể quen nổi.

Chủ tiệm lấy một hộp gấm nhỏ từ trong quầy ra, chỉ bé bằng bàn tay, sau khi mở ra, bên trong là một miếng đồng bé bằng đầu ngón tay, một đầu thẳng, một đầu có cái khuyên hình tròn, trên miếng đồng có màu xanh gỉ, cho thấy niên đại đã khá lâu.

Lục Tử Cương nheo mắt lại, rồi lập tức sán vào quan sát cho kỹ. Anh chơi với cổ vật nhiều năm, vừa nhìn đã biết là cái gì. "Đây là một cái lưỡi đồng? Không biết là bộ phận của quả chuông nào?"

"Đây là lưỡi đồng của một cái đạc Long Văn". Chủ tiệm ngừng lại một chút, rồi giải thích: "Đạc là một nhạc cụ thời cổ đại, giống như cái chuông hơi lớn một chút, hình dáng như chiếc thanh la, nhưng cổ lưỡi, thời cổ dùng khi tuyên bố chính giáo và pháp lệnh, cũng là nhạc cụ thời cổ, thịnh hành vào thời kỳ Xuân Thu cho đến đời Hán. Khi lắc sẽ phát âm thanh, căn cứ vào vật liệu của lưỡi đạc mà chia làm hai loại là "kim đạc" và "mộc đạc", có lưỡi đồng thì là kim đạc, có lưỡi gỗ thì là mộc đạc".

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người sở hữu vật này luôn gặp những điều may mắn khó tin!

Lục Tử Cương ngẩng đầu lên, cảm thấy kỳ lạ, những kiến thức cơ bản đó đâu phải là anh không biết, vì sao chủ tiệm còn tốn thời gian giải thích làm gì? Lục Tử Cương chớp chớp mắt, nghĩ chắc mình hoa mắt rồi, nếu không tại sao anh lại thấy con thỏ vải trên vai chủ tiệm đang ngọ nguậy? Lục Tử Cương định thần trở lại, rồi nói: "Chủ tiệm, cái lưỡi đồng này có lai lịch ra sao? Chiếc đạc Long Văn có lưỡi đồng này đâu rồi?"

"Chiếc đạc đó, hiện tại chắc là đang ở phòng số 12 của Bảo tàng Quốc Gia". Chủ tiệm nói rất chắc chắn, cứ như mình tận mắt nhìn thấy rồi. Gã đưa ra một tờ giấy: "Tôi muốn đổi ba món đồ cổ này lấy nó".

Lục Tử Cương cầm lấy tờ giấy, tay vừa chạm vào, anh đã giật mình, chất giấy trắng, thớ giấy dày mịn, còn có hoa văn mây in chìm, có thể nói là hàng thượng phẩm của giấy Tuyên. Anh không kịp nghĩ xem mẩu giấy Tuyên này từ đâu ra thì lại tiếp tục bị tên của ba món đồ cổ viết bằng chữ Lệ trên giấy làm cho sốc nặng.

(Giấy Tuyên: giấy của vùng Tuyên Châu, thư pháp và quốc họa Trung Quốc thường dùng giấy này. Ở Việt Nam các hàng bán gọi là giấy Xuyến (Xuyến chi).)

(Thể chữ của thời Hán, hình dáng hơi bẹt)

Chủ tiệm cũng đoán được phản ứng của anh, vẫn bình tĩnh vừa uống trà vừa đợi anh định thần lại, thỉnh thoảng còn đưa tay sờ lên con thỏ vải trên vai.

Cho dù Lục Tử Cương biết trong Á Xá cất giữ vô số đồ quý hiếm, nhưng nhìn thấy ba cái tên trên, không khỏi khiến anh hoảng hồn. Anh cười nhăn nhó: "Chủ tiệm à, anh khiến tôi khó xử quá, tôi chỉ là nghiên cứu viên thực tập, tôi không quyết định được".

"Vậy thì tìm người quyết định được để thương lượng". Chủ tiệm thổi chén trà nóng trong tay, bình thản nói: "Lấy vật đổi vật, quá hợp lý. Chiếc đạc Long Văn đó chẳng qua là một thứ đồ cổ không có gì nổi bật, là cấp độ mà nhà nước có thể đem giao dịch. Hơn nữa tôi có thể đưa một trong ba món cho cậu trước, coi như đặt cọc. Nhưng tôi yêu cầu trước cuối tháng phải đưa đạc Long Văn cho tôi, không thì giao dịch sẽ bị hủy".

Lục Tử Cương biết điều, không hỏi cái đạc Long Văn kia lai lịch ra sao. Dù sao chủ tiệm cũng không có nghĩa vụ giải thích, mà ba món đồ cổ được viết trên giấy Tuyên kia, chọn bừa ra bất cứ cái nào cũng đủ để đổi lấy đạc Long Ván rồi.

Anh uống trà, trầm ngâm một lúc lâu, rồi mới gật đầu: "Tôi sẽ cố. Nhưng chiếc lưỡi đồng này tốt nhất là để tôi mang đi luôn, dù sao thì sau khi lắp được vào đạc Long Văn rồi, mới đem đi cho các chuyên gia bên trên giám định để kết luận được."

Chủ tiệm thoải mái gật đầu, lấy một chiếc hộp gấm trong tủ quầy ra, đưa cả cho Lục Tử Cương cùng với chiếc hộp gấm đựng lưỡi đồng, cuối cùng dặn dò một câu; "Nhớ đấy, gắn lưỡi vào đạc Long Văn thì không vấn đề gì, nhưng đừng bao giờ lắc để nó kêu đấy".

Lục Tử Cương nhíu mày ngạc nhiên, nhưng cũng chẳng quá để ý, sau khi kiểm tra món đồ cổ trên tay, liền vội vàng đi.

Gần như lập tức, ngay san khi Lục Tử Cương đi, con thỏ trên vai chủ tiệm ngồi thẳng dậy, đôi tai dài bắt đầu đung đưa: "Này chủ tiệm, cái đạc đó là thứ gì? Lại là món đồ của đế vương à?"

Chủ tiệm cầm chiếc chén men xanh lục vẽ hoa vàng mà Lục Tử Cương vừa dùng lên, cẩn thận lấy nước rửa sạch, rồi để lại chỗ cũ, xong mới nói: "Đồ đồng thau, vào thời kỳ đồ đồng, chỉ có người tôn quý nhất mới được sử dụng. Đồ tế lễ đồng thau lại càng được người ta cho là vật trung gian để giao tiếp với thần linh, những đồ đồng phát ra được âm thanh như chung, não, chinh, đạc, thuần ư, câu diệu..., trở thành công cụ của riêng người bề trên, dùng vào các hoạt động như ban bố chính lệnh, điều hành quân đội, tấu nhạc yến tiệc, tế lễ... "Đạc" là đồ chuyên dùng để ban bố chính giáo pháp lệnh".

Bác sĩ biết chủ tiệm chưa nói xong nên nhẫn nại lắng nghe. Những ngày anh không còn cơ thể, có vẻ vô cùng thoải mái, không cần thức khuya dậy sớm, cũng chẳng cần đến cơ quan quẹt thẻ, hàng ngày cùng chủ tiệm dọn dẹp, bảo dưỡng những thứ đồ cổ kỳ quái, anh học thêm được nhiều điều. Chỉ có một việc duy nhất bác sĩ không hài lòng là anh không thể ăn được nữa, nếu không thì "kỳ nghỉ" này có dài hơn nữa cũng được.

"Biết vua Trụ nhà Thương không? Chiếc đạc Long Văn mà tôi cần đó, là của ông ta. Chiếc đạc đó có năng lực làm người khác phải nghe theo mệnh lệnh của mình, vua Trụ mỗi khi ban bố chính lệnh, đều lắc chiếc đạc đó. Nghe đồn cái này là đến từ tay Đát Kỷ". Sau khi rửa tay, gã chủ tiệm lại châm thêm nước nóng vào ấm trà.

"Òa! Thảo nào anh dặn dò thằng cha Lục Tử Cương không được lắc cái đạc đó! Nói như thế tức là nếu cậu ta lắc đạc, thì chẳng hóa ra có thể khiến người khác phải nghe theo mình sao?" Bác sĩ ngưỡng mộ đố kỵ vô cùng, đúng là một món đồ thần thánh! "Thứ tốt như thế... à không, thứ yêu nghiệt đó, tại sao anh không mang về Á Xá?"

Cậu nghĩ mình là Pháp Hải à? Còn đòi thu phục yêu nghiệt... Chủ tiệm thầm rủa trong bụng, rồi uống một ngụm trà và nói: "Cậu cho rằng Á Xá có thể lấy hết mọi vật trong thiên hạ à? Nói linh tinh. Chiếc đạc Long Văn này gây ra thiên hạ đại loạn, Chu Vũ Vương diệt Thương là vì trước đó đã ăn trộm được chiếc đạc Long Văn này. Chu Vũ Vương từng nói, chiếc đạc Long Văn này tuy rất hay, nhưng lại là thứ ma quỷ khiến người ta sa ngã, bèn lệnh cho Khương Tử Nha phong ấn nó. Từ đó chiếc đạc Long Văn trở thành một thứ đồ cổ bình thường, cho đến hơn ngàn năm sau, khi phong ấn của Khương Tử Nha mất dần, chiếc đạc này lại đến tay Dương Quảng, khi ấy còn đang làm hoàng tử".

"Dương Quảng? Cái này tôi biết, chính là Tùy Dạng đế, người bày mưu thể soán đoạt ngôi vị thái tử của anh trai mình, gây chiến trận liên miên".

Bác sĩ như chợt hiểu ra, "Thảo nào, Tùy Văn đế thống nhất thiên hạ, đâu u tối đến mức đi phế thái tử, thì ra có nguyên nhân khác! Nhưng triều Tần và triều Tùy rất giống nhau, đều từ loạn thế thống nhất thiên hạ, sau đó được hai đời là đã dứt, nhà Hán và nhà Đường sau này thì lại đều là thời thịnh thế hiếm có. Xem ra Tùy Dạng đế và Hồ Hợi đều là những kẻ phá gia chi tử...".

Khó lắm bác sĩ mới nói được chút ít, nên cứ thao thao bất tuyệt, một lúc lâu sau mới phát hiện ra gã chủ tiệm đang không để tâm lắm, bèn quay lại chủ đề cũ: "Chủ tiệm này, chiếc lưỡi đồng sao lại tách ra khỏi chiếc đạc Long Văn?"

"À, Dương Quảng lạm dụng đạc Long Văn, gây họa cho trăm họ. Nhưng ông ta là hoàng đế, một tay che trời, tôi thì trong lúc gấp gáp không tìm được đồ nhái để thay thế, nên đành thay cái lưỡi bên trong". Chủ tiệm kể lể qua loa.

"Oa...". Bác sĩ bắt đầu tự tưởng tượng thêm, tên hôn quân Dương Quảng sau khi phát hiện ra cái đạc không dùng được nữa, thì liền bị quân khởi nghĩa ở các nơi lật đổ triều Tùy. Phải công nhận rằng, chiêu này của chủ tiệm "trâu bò" hơn chiêu của Chu Vũ Vương, tách lưỡi đồng ra khỏi đạc, là giảm thiểu được nguy cơ bị người đời sau lợi dụng lần nữa. Nhưng lần này đòi Lục Tử Cương lắp lưỡi trở lại, tuy là để trấn áp Càn Khôn đại trận, nhưng ai có thể đảm bảo sẽ không xảy ra bất ngờ gì?

Bác sĩ không quên, Phù Tô đang sử dụng cơ thể của mình, chính là muốn thống nhất thiên hạ.

Chủ tiệm có vẻ đã nhìn thấu tâm tư của bác sĩ, gã bình thản nói: "Mọi việc đều là mệnh, chúng ta hãy cứ ngồi yên quan sát xem".

2

Hồ Hợi gỡ chiếc mặt nạ quỷ vàng xuống khỏi mặt, tần ngần một lát, rồi hạ quyết tâm bước vào thư phòng.

Con chim đỏ đậu trên chiếc giá phía bên cạnh đang ăn thịt bò khô, nghiêng nghiêng đầu nhìn chủ nhân, từ ngày anh trai chủ nhân tới, chủ nhân không còn ở trong hầm mộ tám tối ẩm thấp nữa. Phải, đó là một dấu hiệu tốt.

Hồ Hợi khẽ gõ cửa thư phòng mấy cái, đợi người trong phòng đồng ý mới đẩy cửa đi vào.

Dưới ô cửa sổ hướng nắng, Phù Tô mặc bộ đồ rộng rãi ở nhà, vẫn giữ thóen ngồi xếp bằng giống như kiếp trước. Ánh nắng chiếu tràn lên gương mặt tuấn tú, dát một vòng sáng vàng kim lên người hắn, khiến hắn trông càng cao quý lạ thường.

Hồ Hợi đứng lặng.người nhìn, tuy dung mạo của hoàng huynh trước mặt hắn đã khác, nhưng khí phách vẫn như xưa, cho dù đang ngồi trong một căn phòng hiện đại, cũng khiến Hồ Hợi ngỡ như hơn hai ngàn năm trước. Hồ Hợi bước lên trước một bước, rồi lập tức dừng lại. Hắn cúi xuống nhìn ngọn tóc bị ánh nắng đốt cháy khô, liền lầm lũi quay lại chỗ nắng không chiếu tới.

Phải rồi, hắn không còn là Tần Nhị Thế muốn làm gì thì làm nữa, hắn chỉ là một vong hồn vất vưởng nơi nhân thế.

Đợi lúc Phù Tô bỏ cuốn sách trong tay xuống nhìn, Hồ Hợi mới định thần, kể tỉ mỉ lại một lượt những việc hắn nhìn thấy qua chiếc mặt nạ quỷ vàng.

"Đạc Long Văn có thể khiến người khác nghe theo mệnh lệnh?" Phù Tô sờ tay lên cằm, đôi mắt lim dim. Hắn chưa bao giờ nghi ngờ về sự tồn tại của những thứ đồ kỳ quái đó, bởi vì thời kỳ Hạ Thương Chu xa xôi vẫn được người ta gọi là thời đại thần thoại, dù là thứ gì cũng không kỳ lạ.

"Thứ đồ này nếu được hoàng huynh sử dụng, thì sẽ không bị lãng phí". Hồ Hợi cẩn thận cất lời.

Từ khi Phù Tô đồng ý chuyển từ căn chung cư cũ kỹ của bác sĩ ra ở với Hồ Hợi, Hồ Hợi liền lập tức mua một căn hộ lớn sang trọng. Dù sao trong hơn hai nghìn năm nay, số đồ cổ hắn tích cóp cũng không ít hơn gã chủ tiệm, chỉ có điều hắn thích để hết số đồ cổ đó trong ngôi mộ cổ hắn ở, cũng không hiểu gì lắm về đồ cổ, hắn chọn đại ra một vài món nhìn ưng mắt đem bán là đủ.

Phù Tô nhìn hoàng đệ của mình, cười như không cười, cho dù đã ở cùng nhau mấy tháng, hắn vẫn cảm thấy mái tóc bạch kim và đôi con ngươi đỏ màu máu nhìn rất tức mắt. Lặng lẽ nhìn ra chỗ khác, Phù Tô nhếch mép cười: "Đã nghe thấy hai vị vua sử dụng đạc Long Văn ngày xưa là ai rồi chứ, có ai có kết cục tốt đẹp không?"

Hồ Hợi hơi giật mình, hai vị vua mà gã chủ tiệm nhắc tới, một người là Thương Trụ vương, một người là Tùy Dạng đế, đều là vua mất nước, đến thụy hiệu cũng mang nghĩa bạo ngược, rất ít hoàng đế xứng đáng với thụy hiệu ấy. Hồ Hợi ấp úng không biết nói gì, chỉ biết đứng buông thõng hai tay. Từ nhỏ, hắn đã chẳng ngẩng mặt lên nổi trước hoàng huynh, không ngờ sau hơn hai nghìn năm hắn vẫn vậy.

("Thụy hiệu" là tên đặt sau khi chết để cúng, "Trụ" là tàn bạo, "Dạng" là bỏ lễ nghĩa, xa dân chúng)

Phù Tô thấy vậy lắc đầu cười nói: "Đến phụ hoàng của chúng ta còn có thể bị chỉ trích là bạo quân, thực ra hai người này cũng không hẳn là u tối đến mức như sử sách ghi chép, đều là kết quả của sự bôi nhọ trong đời sau". Phù Tô chỉ vào đống sách sử bên cạnh, mấy ngày nay ngoài lúc đến bệnh viện làm việc như thường, thì hắn ngồi đây đọc sách sử.

"Đế Tân văn võ song toàn, ông ta đem quân thống nhất tộc Đông Di ở vùng Đông Nam, nhưng cái giá phải trả cũng rất lớn. Tù nhân của tộc Đông Di quá nhiều, không thể trấn áp nổi. Lại thêm việc ông ta dụng binh quanh năm, quốc lực suy kiệt, dân chúng oán thán, Chu Vũ Vương thừa cơ tấn công, một lượng lớn tù nhân cũng quay giáo chống lại, kết quả là nhà Thương mất nước". Phù Tô tổng kết sự thật lịch sử mà hắn đọc trong mấy ngày nay, từ vô vàn lời nói rút ra, để đưa ra nhận định xác thực nhất. Đế Tân là tên của Thương Tru vương, thời vương triều Ân Thương, họ Doanh là quý tộc lớn giàu sang vô cùng, nên những điều bí mật, hắn cũng biết đôi chút, sự thật không phải như sách Thượng Thư nói.

Hồ Hợi lặng lẽ cúi đầu nghe, hắn biết hoàng huynh không cố ý dạy dỗ hắn một cách vui vẻ, mà chỉ vì đã quen với việc tư duy tìm tòi. Nếu kẻ đó có chí hướng giống hoàng huynh hắn, thì hiện giờ người đứng đây đã không phải là hắn rồi.

"Còn về Dương Quảng... hừ!" Phù Tô cười khinh miệt. "Lý Thế Dân cũng giết anh em, bắt ép cha, nhưng tại sao lại không bị đời sau chửi rủa?"

Phù Tô bình thường rất nhẹ nhàng, chẳng mấy khi có cái giọng khinh thường như thế, Hồ Hợi cũng bị coi như giết anh em, bắt ép cha, trên trán hắn toát mồ hôi lạnh. Tuy nói một cách chính xác thì hắn không phải chịu trách nhiệm về cái chết của Tần Thủy Hoàng, việc Phù Tô bị hại cũng do một tay Triệu Cao làm, nhưng Hồ Hợi cũng biết tiếng xấu trong sử sách của hắn không phải do đời sau cố tình bịa đặt.

Phù Tô có vẻ như không phát hiện ra sự bất thường của Hồ Hợi, vẫn tự nhiên cầm cuốn sách sử bên cạnh lên, mở đúng đến trang cần đọc: Sách "Tùy Thư" khen Dương Quảng phía Nam bình Ngô Hội, phía Bắc đuổi Hung Nô, trong số anh em, ông ta nổi trội nhất. Năm mười ba tuổi, Dương Quảng được ủy nhiệm làm tổng quản Tinh Châu, năm mười tám tuổi vào triều làm Ung Châu mục, năm hai mươi tuổi được phong tướng quân, đem quân nam tiến, tiêu diệt triều Trần, thống nhất Giang Nam. Sau đó ông ta lôi kéo lòng người, hóa giải được rất nhiều cách biệt về chính trị và văn hóa. Tiếp đó lại đem quân bắc tiến đánh bại Đột Quyết, vậy là sau thời kỳ Nam Bắc Triều, Nam Bắc đã thực sự thống nhất, nếu không thì lấy đâu ra thời thịnh trị nhà Đường. Sau khi Dương Quảng lên ngôi, lại mở ra chế độ khoa cử để tuyển chọn quan viên, được áp dụng tới cả ngàn năm. Ông ta còn sửa đổi đơn vị đo lường, ban hành bộ luật Đại Nghiệp, phát triển con đường tơ lụa, vạn nước triều công. Nếu nhìn nửa đời trước của Dương Quảng, thì có thể gọi là minh quân. Chỉ nhìn niên hiệu ông ta đặt là Đại Nghiệp, cũng đủ thấy chí lớn rồi".

QUẢNG CÁOAdskeeper

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Quét nhà không tốn công sức chỉ với 690k - Bảo hành 12 tháng

Hồ Hợi càng nghe càng thấy mặt nóng bừng, hắn cũng hai mươi tuổi lên ngôi, nhưng chẳng biết gì về chính sự, sau khi cố nhúng tay vào mấy việc làm cho hỏng bét, hắn liền mặc kệ luôn. Bản thân hắn từ nhỏ chẳng được dạy dỗ gì, còn Dương Quảng thì được Tùy Văn đế Dương Kiên ra sức đào tạo, vì sợ lại xảy ra cảnh tướng lĩnh nắm quyền cướp ngôi như Bắc Chu. Chỉ có điều Tùy Văn đế chắc cũng không thể ngờ nổi, cho dù là con đẻ của mình, nhưng khi đã có quân đội và uy danh, thì cũng không cam chịu đứng dưới kẻ khác.

(Tướng Bắc Ngụy là Vũ Văn Thái có quyền hành lớn, sau khi Vũ Văn Thái chết, cháu trai là Vũ Văn Hộ ép Tây Ngụy Cung đế phải nhường ngôi cho Vũ Văn Giác (con thứ ba của Vũ Văn Thái), lập ra nhà Bắc Chu)

"Cứ nói là Dương Quảng dời đô về Lạc Dương, phải xây dựng công trình thổ mộc quá nhiều, nhưng dời đô về phía Đông là có lợi cho việc cai trị thiên hạ. Trường An ở vùng Tây Vực, quyền lực không vươn ra được Trung Nguyên, nền Lạc Dương tới thời Tống vẫn là trung tâm kinh tế văn hóa. Còn kênh đào Kinh Hàng, thì là công trình giao thông lớn nối liền Nam Bắc, nói về ảnh hưởng, thực không thua kém Vạn Lý Trường Thành của phụ hoàng đâu!"

Phù Tô vô cùng cảm khái, tuy miệng nói vậy, nhưng trong lòng hắn thực sự cho rằng kênh đào Kinh Hàng còn hữu dụng hơn cả Vạn Lý Trường Thành, chỉ có điều phụ hoàng tuy đã ra đi từ lâu, nhưng sự tôn kính của hắn không hề giảm sút.

Tùy Dạng đế cho xây kênh đào Kinh Hàng, cũng hao tổn tài lực như xây Vạn Lý Trường Thành, những công trình lớn lợi nước lợi dân ấy, ai cho xây cũng không được lòng người, nhưng đời sau vừa mắng chửi vừa tiếp tục cho cải tạo, đủ thấy là thế nào. Có điều thành bại đều ở một việc đấy cả, kênh đào Kinh Hàng hơn năm nghìn dặm chỉ làm trong sáu năm là xong, quốc khố của nhà Tùy hao tổn nghiêm trọng, tài lực cạn kiệt, dẫn tới họa lớn.

Hồ Hợi nghe mà đỏ mặt tía tai, cảm thấy câu nào của hoàng huynh cũng như có gai, lời nào của hoàng huynh cũng như đâm hắn, bèn kiên quyết ngẩng đầu lên, quay trở lại chủ đề ban nãy: "Hoàng huynh, chiếc đạc Long Văn đó có cần nữa không?"

Phù Tô bình tĩnh nhìn Hồ Hợi tóc bạc mắt đỏ, một lúc mới gật đầu: "Cần, sao lại không cần? Đệ đi lấy đi, nhớ phải cẩn thận". Âm điệu của Phù Tô lại trở lại như cũ, không nhanh không chậm, bình thản tự nhiên.

"Vâng". Hồ Hợi hít một hơi sâu, rồi quay người đi.

Phù Tô thì không đọc tiếp được cuốn sử trên tay nữa, đôi mắt nhìn ra nhành cây đang lên mầm xanh ngoài cửa sổ, nhìn sắc xuân nở rộ đầu cành, thẫn thờ một lúc lâu chẳng dứt.

3

Lục Tử Cương cẩn thận mở chiếc hộp gấm phía bên phải, lộ ra chiếc đạc Long Văn cổ kính bên trong.

Chuyện giao dịch lấy vật đổi vật của chủ tiệm, không hề dễ làm chút nào, thủ tục rất là rắc rối.

Thông qua các kiểu giám định như kiểm tra X quang, phân tích quang phổ huỳnh quang, giám định nhiệt quang khuôn đất, các chuyên gia đều đưa ra kết luận, chiếc đạc Long Văn này có thể là hàng giả cổ, được làm vào thời kỳ phong trào giả cổ lên cao đời Thanh. Bởi vì nó quá mới, đến gỉ xanh của đồng cũng chỉ nổi trên bề mặt. Đồ đồng thau không thể giám định đồng vị carbon 14c như đồ gốm, nhưng sau khi dùng hàng loạt máy móc chính xác để giám định, các chuyên gia đồng ý lấy vật đổi vật theo ý chủ tiệm.

Chiếc đạc này được giữ mãi trong bảo tàng, vì hiện còn tồn lại rất ít "đạc", nhưng bảo tàng cũng mãi chưa quyết được nên làm thế nào với nó, bởi vì đạc Long Văn chưa thể xếp vào hàng bảo vật cấp quốc gia, còn lâu mới đủ tư cách để vào gian trưng bày của viện. Giờ thì giải quyết xong một món đồ nhàn rỗi. Tuy mọi người không hiểu tại sao chủ tiệm lại dùng ba món đồ cổ giá trị ngất ngưởng để đổi lấy chiếc đạc Long Văn này, nhưng rồi đều nghĩ chắc chiếc đạc này là của tổ tiên truyền lại hay gì đó.

Lục Tử Cương không đem chiếc lưỡi đồng của chủ tiệm đưa cho anh ra, anh xin chiếc lưỡi đồng là vì hứng thú nhất thời thôi, nghĩ lại lần trước trong Á Xá anh ghép Vô Tự Bi, lần này hẳn là phải suy nghĩ cho kỹ. Hơn nữa, chủ tiệm rất coi trọng chiếc đạc Long Văn này, những máy móc hiện đại càng không giám đinh ra, Lục Tử Cương lại càng hiếu kỳ. Anh chắc chắn chiếc đạc này có chỗ nào đó thần kỳ, nên càng không dám tự tiện lắp lưỡi đồng cho nó trước mặt mọi người, đành phải đợi sau khi tan ca, lén lút chui vào phòng thí nghiệm của mình.

Lục Tử Cương đeo găng tay, cầm chiếc đạc to bằng bàn tay, lật lên xem, quả nhiên bên trong chiếc đạc rỗng không, dưới đáy có một bộ phận dùng để nối.

Lục Tử Cương cố định chiếc đạc vào giá, rồi lại mở chiếc hộp gấm nhỏ bên tay trái, lấy lưỡi đồng ra, dùng dụng cụ lắp lưỡi đồng vào một cách thật nhẹ nhàng, sau đó yên lặng đợi vài phút.

Không có gì xảy ra cả, Lục Tử Cương cầm chiếc đạc trong tay, ngây người ra ngắm nghía hoa văn rồng tinh tế trên thân đạc, do dự không biết có nên lắc đạc để thử không.

Tuy rằng chủ tiệm có nhắc nhở anh không được lắc chiếc đạc Long Văn, nhưng ngày xưa cũng từng nhắc anh không được để Ngô đao dính máu đó thôi! Ngô đao của anh dính máu tươi từ lâu rồi, cũng không thấy xảy ra chuyện gì mà!

Lục Tử Cương là người rất cẩn thận, cái nghề này cần có đức tính ấy, nên anh cầm đạc Long Văn nghĩ đi nghĩ lại, mãi vẫn chưa đưa ra được kết luận.

"Nếu ta là ngươi, ta sẽ không lắc đạc Long Văn đâu". Bỗng có một giọng nói đột ngột cất lên trong phòng thí nghiệm.

Lục Tử Cương giật bắn mình, suýt thì đánh rơi luôn đạc Long Văn xuống đất. Anh run run đặt chiếc đạc xuống tấm vải mềm, rồi mới ngẩng đầu nhìn về phía kẻ lần thứ hai không mời mà đến.

Thiếu gia Hồ Hợi vẫn mặc chiếc áo khoác có mũ màu trắng, gương mặt tuấn tú vẫn xanh xao, mái tóc trắng bạc được buộc ra sau gáy, đôi mắt đỏ rực đang nhìn chằm chằm vào đạc Long Văn trước mặt.

Lục Tử Cương nhớ lại đêm hỗn loạn của mấy tháng trước, khi anh tỉnh lại với ký ức kiếp trước, anh nhìn thấy Hồ Hợi tay cầm khóa Trường Mệnh đã vỡ làm đôi. Trong phút chốc đầu óc anh hỗn loạn, trong vô thức cảm thấy Hồ Hợi chính là chuyển thế của Hạ Trạch Lan mà kiếp trước anh si mê, khiến anh bối rối vô cùng.

Nhưng mấy ngày này, sau khi bình tĩnh lại, Lục Tử Cương cũng cảm thấy bình thường. Mọi việc kiếp trước như một giấc mộng lớn, thái độ với gã chủ tiệm của anh thay đổi, ít nhiều là vì gã chủ tiệm bao năm nay vẫn là một người, nhưng Lục Tử Cương không cho rằng Hồ Hợi đứng trước mặt anh là Hạ Trạch Lan, dù sao vẫn là hai người hoàn toàn khác nhau. Hạ Trạch Lan đã chết rồi, trở thành một vết hằn trong đáy lòng anh kiếp trước, chẳng thể xóa, chẳng thể dứt bỏ. Anh sẽ hoài niệm, anh sẽ nhớ, nhưng anh không phải là Lục Tử Cương của kiếp trước.

Định thần trở lại, Lục Tử Cương cất giọng bất cần, nói với Hồ Hợi tự tiện ra vào khu vực cấm của bảo tàng: "Vì sao không được lắc?" Lục Tử Cương vẫn giữ thái độ như xưa với hắn, tuy anh biết thiếu gia đây hẳn phải có bí mật lớn lắm, nhưng anh không có hứng thú tìm hiểu.

Hồ Hợi cũng chẳng buồn bịa chuyện lừa anh, huống hồ hắn còn là công tử của Đại Tần, thậm chí đã từng làm hoàng đế, tất nhiên chẳng cần vì một việc nhỏ này mà phải hao tổn tâm trí, nên chỉ nhướng mày lên cất giọng bình bình: "Chẳng lẽ cái tên giao cho ngươi chiếc lưỡi đồng này không dặn ngươi là không được lắc đạc sao?" Hồ Hợi nói rất chắc chắn, bởi vì hắn nhìn thấy mọi việc qua chiếc mặt nạ quỷ vàng.

Lúc này thì Lục Tử Cương đã hoàn toàn muốn bỏ cuộc, đến Hồ Hợi cũng nói vậy, thì chắc là hắn cũng phải biết gì đó. Lục Tử Cương thấy đôi mắt Hồ Hợi vẫn dán vào chiếc đạc, đôi con ngươi đỏ rực không giấu diếm ngọn lửa bên trong, anh liền bật ra câu hỏi: "Chẳng lẽ ngươi cũng đến vì chiếc đạc Long Văn này? Không được, chiếc đạc Long Văn này có chủ rồi".

Hồ Hợi biết hết chuyện giao dịch giữa anh và chủ tiệm, tuy không nhìn rõ chủ tiệm đã đưa Lục Tử Cương ba món đồ cổ ở cấp độ nào, nhưng hắn cũng tự tin rằng mình có thể đưa ra nhiều đồ cổ hơn nữa để cạnh tranh. Vậy nên Hồ Hợi lấy từ trong người mình ra một thứ giống như khăn tay, ném về phía Lục Tử Cương: "Đây là giá ta đưa ra để đổi lấy đạc Long Văn".

Tấm lụa mỏng vẽ lướt trên không trung một đường tuyệt đẹp, rồi như cánh bướm múa lượn, rơi đúng vào tay Lục Tử Cương. Lục Tử Cương vừa cảm thấy tay chạm được vào chiếc khăn, thì sắc mặt liền thay đổi.

Anh từng nhìn thấy loại áo đơn "tố sa" khai quật trong khu mộ Mã Vương Đôi thời Hán, sợi tơ lụa cực mảnh, tổng diện tích phải khoảng 2,6m2, chỉ nặng 49gr, chưa đến một lạng, sau khi gấp có thể bỏ vào hộp diêm, đây là thứ đồ thủ công mà kể cả công nghệ hiện đại cũng không thể làm ra được. Áo "tố sa" có mắt đan thưa, nên bán trong suốt, còn tấm vải lụa trên tay anh thì thêu rất kín, có màu trắng bạc, cầm lên như không có gì, trên đó còn có mùi xông hương rất đậm. Dù mắt nhìn của Lục Tử Cương rất tốt, nhưng nhất thời cũng không dám xác định tấm vải lụa giản dị trên tay mình có lai lịch ra sao. Điều khiến anh bực tức nhất, đó là trên tấm vải quý thế này lại có chữ viết.

Sách "Mặc Tử" có viết: "Thư chi trúc bạch, lũ chi kim thạch" (viết vào trúc và vải, khắc vào kim loại và đá), vải lụa dành cho quý tộc viết chữ và vẽ tranh, còn dân gian không mua được lụa, nên viết trên thẻ tre. Thời Hán tuy đã phát minh ra giấy, nhưng mọi người đều biết là "lụa quý giấy hèn", dùng giấy để viết chữ, phần lớn là người dân không mua được vải lụa, quý tộc cung đình thì vẫn quen dùng vải lụa. Trên tấm vải lụa anh đang cầm, có viết sáu hàng chữ Tần triện.

Tần triện, hay là "tiểu triện", là loại chữ được giản hóa từ đại triện mà thành, sản sinh ở nước Tần thời kỳ cuối Chiến Quốc, lưu hành vào đời Tần và khoảng đầu thời Tây Hán, là loại chữ Tần Thủy Hoàng dùng để tiến hành chính sách "xa đồng quỹ, thư đồng văn" (xe cùng một cỡ, viết cùng loại chữ) sau khi thống nhất sáu nước. Bởi vì thời Xuân Thu Chiến Quốc, các nước sử dụng chữ viết khác nhau, không tiện cho việc thống trị, nên mới lệnh cho thừa tướng Lý Tư tiến hành thống nhất. Đời sau quen gọi thể chữ đó là "tiểu triện", thực ra cũng như tên gọi "Hán lệ", gọi là Tần triện sẽ làm rõ hơn ý nghĩa của nó.

Chữ Tần triện đường nét tròn đầy trôi chảy, kết cấu chặt chẽ, mỗi nét bút đều thẳng tắp mạnh mẽ. Lục Tử Cương cầm tấm lụa trong tay ngây ra một lúc, rồi mới định thần, đọc chữ Tần triện trên đó.

Nếu là người bình thường, e là chỉ có thể nhận ra vài chữ đơn giản trên tấm lụa mà thôi, nhưng Lục Tử Cương thông kim bác cổ, nghiên cứu nhiều về văn khắc thời Tần, nhanh chóng đọc xong nội dung sáu hàng chữ trên tấm lụa, anh lập tức cứng cả họng lại, không tìm lại nổi tiếng nói của mình nữa.

Hồ Hợi rất hài lòng với vẻ mặt của Lục Tử Cương, đồ cổ là thứ hắn thấy hàng đống trong mộ cổ, cứ chọn bừa vài cái là cũng đủ đập vào mặt người khác. Hồ Hợi rất sung sướng sau khi cảm thấy đã chiến thắng khi đọ của cải, nên cũng rất rộng lượng cho phép Lục Tử Cương không trả lời ngay, hắn chỉ nhếch mép giục: "Thế nào? Dùng để đổi lấy đạc Long Ván, ngươi đồng ý chứ?"

Đôi tay cầm tấm lụa của Lục Tử Cương hơi rim lên, anh không nhịn được nữa, phải hỏi dồn: "Chiếc đạc Long Văn này có gì đặc biệt? Vì sao các người đều muốn có nó?"

Hồ Hợi không trả lời câu hỏi, chỉ hơi nheo mắt lại.

Lục Tử Cương biết là hắn dùng sự im lặng để từ chối trả lời, anh vẫn vò tấm lụa trong tay, rồi lại cúi đầu nhìn lại sáu hàng chữ Tần triện trên đó, cuối cùng anh kiên quyết lắc đầu: "Hồ thiếu gia, tôi xin nhận tấm lòng của anh, nhưng giao dịch của tôi với chủ tiệm đã xong rồi, tôi nhất quyết không thể thất tín được".

Tuy Lục Tử Cương có phần không cam lòng, nhưng anh nói rất kiên định. Một phần là vì không muốn lỡ hẹn với gã chủ tiệm, dù sao thì tiền đặt cọc cũng đã đưa, món đồ cổ giao cho anh cũng đã được bảo tàng cất giữ rồi, mấy hôm nữa là đem ra làm triển lãm chuyên đề rồi. Nhưng một phần nữa là vì tuy anh thấy đồ cổ của Hồ thiếu gia hoàn toàn có thể cầm được, nhưng cảm giác có vẻ sẽ có hậu quả khôn lường. Nói cho cùng, Lục Tử Cương vẫn cảm thấy gã chủ tiệm đáng tin cậy hơn gã Hồ thiếu gia hư hỏng này.

Hồ Hợi nghe xong, đôi mắt đỏ nheo lại, đối với hắn mà nói, hắn đã cho Lục Tử Cương đủ cơ hội để lựa chọn rồi, nhưng anh đang thách thức tính nhẫn nại của hắn. Hồ Hợi chẳng muốn tốn nước bọt thêm với anh, nếu tên này đã không muốn uống rượu mời, vậy thì hắn cũng không ngại cho uống rượu phạt.

Lục Tử Cương vừa nhìn thấy Hồ Hợi sa sầm mặt mày tiến lại, phản ứng đầu tiên của anh là ôm chặt lấy chiếc đạc Long Văn trước mặt. Sao anh lại quên được, gã này chẳng phải hạng tử tế gì, hồi xưa trong sân bàn cờ Lục Bác, tên này từng nhìn thảm kịch xảy ra trước mặt mà mặt không biến sắc. Lục Tử Cương lập tức cảm thấy hối hận, đáng ra anh phải báo cảnh sát ngay khi phát hiện ra Hồ Hợi đột nhập, chứ không phải ngồi nói chuyện dông dài với hắn.

Đối với Hồ Hợi, sự cản trở của Lục Tử Cương chẳng hề có tính uy hiếp, hắn giật lại đạc Long Văn một cách nhanh chóng. Trong khi Lục Tử Cương lấy điện thoại ra định gọi cảnh sát, thì một ý nghĩ điên khùng nảy ra trong đầu hắn.

"Keng...".

Hồ Hợi khẽ lắc cổ tay, đạc Long Văn trong tay hắn phát ra âm thanh giòn tan như tiếng chuông, vang vang trong phòng thí nghiệm rộng lớn.

Khi Lục Tử Cương đã nhận ra tiếng của chiếc đạc Long Văn, anh quên luôn việc gọi cảnh sát, kinh ngạc ngẩng đầu lên, trợn mắt nhìn chiếc đạc trong tay Hồ Hợi. Đã bảo là cấm được lắc đạc rồi mà? Tên kia!!!

"Không được gọi cảnh sát". Hồ Hợi ra lệnh cho Lục Tử Cương, giờ đây hắn đã có đạc Long Văn trong tay, đương nhiên là có thể điều khiển hành vi của người khác. Không phải là hắn sợ đối phương báo cảnh sát, cũng không phải hắn sợ cảnh sát, nhưng dù sao bớt phiền phức cũng tốt hơn.

"Được". Lục Tử Cương thấy vẫn còn cơ hội thương lượng, bèn gật đầu đồng ý rồi nói, "Nhưng anh phải bỏ chiếc đạc Long Văn xuống đã".

Khóe miệng của Hồ Hợi còn chưa kịp nhếch lên thì đã cứng đơ lại. Người bị điều khiển mà vẫn còn hạch sách được sao? Hồ Hợi im lặng trong chốc lát, rồi lại lắc chiếc đạc trong tay, nhân khi tiếng vang còn chưa dứt, hắn vội vàng nói: "Đưa Ngô đao của ngươi cho ta".

Lục Tử Cương lại tròn mắt nhìn mà cạn lời, Hồ thiếu gia này ban nãy vẫn còn có vẻ là nói chuyện được, sao tự nhiên não bộ chập mạch thế này?

Hồ Hợi nhìn chiếc đạc Long Văn mà không dám tin rằng đã lắp lưỡi đồng vào đạc Long Văn rồi, tại sao vẫn không thể ra lệnh cho người khác? Hay là cách dùng của hắn không đúng?

Sau đó, Hồ Hợi bắt đầu thử mọi cách, liên tục lắc chiếc đạc Long Văn, tiếng đạc văng vẳng không dứt. Ban đầu Lục Tử Cương còn nghi hoặc chưa biết làm sao, cuối cùng thì tìm một cái ghế ngồi xuống, tay chống cằm, nhìn màn tấu hài trăm năm khó gặp của Hồ thiếu gia.

Giờ thì Lục Tử Cương hiểu rồi, thế này mà gọi là không được lắc ư? Chủ tiệm và Hồ thiếu gia này coi anh là đồ ngốc rồi! Hồ thiếu gia lại còn đang lắc điên cuồng kia kìa! Nhưng có điều, tiếng nhạc của chiếc đạc Long Văn này đúng là rất hay.

Trong lúc Hồ Hợi đang không biết phải làm gì, bỗng hắn thấy có một vệt xanh bay vụt qua mặt, mu bàn tay phải đau nhói, không cầm nổi chiếc đạc Long Văn nữa. Phía bên kia cũng là tiếng hô ngạc nhiên của Lục Tử Cương, nhưng không ai nghe thấy tiếng chiếc đạc Long Văn rơi xuống đất.

Hồ Hợi đưa mắt nhìn, mới phát hiện ra vệt xanh ban nãy là một chú chim ba chân màu xanh, màu lông xanh biếc, thân thể nhanh nhẹn, chỉ có điều mấy chiếc lông đuôi tuyệt đẹp mọi khi đã gãy, phía đuôi mất một mảng, trong lòng Hồ Hợi biết rõ, đó là chiến công của chim Minh Hồng nhà mình.

Thật đáng tiếc, đáng ra hắn phải mang con chim đỏ nhà mình tới, thay vì cho nó ở nhà ăn thịt bò khô.

Hồ Hợi nhìn theo chim Tam Thanh đang ngậm chiếc đạc Long Văn bay về phía góc phòng thí nghiệm, nó chậm rãi đậu lên một cánh tay đang vươn ra, ngoan ngoãn bỏ chiếc đạc Long Văn cắp trên mỏ xuống bàn tay gã kia.

"Chủ tiệm? Sao anh cũng... đến đây?" Thực ra Lục Tử Cương muốn hỏi "Sao anh cũng vào được đây". Anh đặt tay lên trán một cách bất lực, anh nhận ra mình bây giờ có thể hoàn toàn bình thản đối mặt với mọi sự việc kỳ quái rồi.

"Tôi sợ để lâu sinh biến, nên đến giao dịch sớm cho xong". Chủ tiệm liếc nhìn tấm lụa đặt ữên bàn của Lục Tử Cương, nhìn thấy sáu hàng chữ Tần triện trên đó, thầm rủa tên công tử kia vẫn ăn tàn phá hại như hơn hai nghìn năm trước, hắn lấy ra từng này đồ mà không thèm chớp mắt lấy một cái. Hơn nữa ngày trước gã viết chữ Hán lệ là để cho Lục Tử Cương dễ đọc, đâu có như tên Hồ Hợi kia cố tình viết Tần triện để khoe mẽ. Nhưng chữ Hồ Hợi viết dù sao cũng đẹp hơn hai nghìn năm trước nhiều rồi, có thể thấy hắn cũng bỏ không ít công sức luyện tập.

Chủ tiệm chỉ cho Lục Tử Cương xem hai chiếc hộp gấm đặt bên cạnh, bình thản nói: "Đây là hai món đồ cổ còn lại như đã giao hẹn, cậu kiểm tra xem".

Lục Tử Cương vội vàng xua tay: "Không cần, không cần kiểm tra, tôi tin chủ tiệm". Lục Tử Cương chỉ mong sao hai ông thánh này mau chóng đi ra ngoài, còn chuyện đồ cổ thì anh tin chủ tiệm không phải là người chơi xấu.

Hồ Hợỉ nhìn con thỏ vải không biết đâu ra trên vai chủ tiệm, có vẻ trầm ngâm, rồi như hiểu ra, gật đầu nói: "Phải rồi, ngươi chỉ dụ ta ra đây thôi, ta biết ngươi đã phát hiện ra công dụng của chiếc mặt nạ quỷ vàng, nhưng sao vẫn treo trong phòng, thì ra là kế dụ địch".

Đôi tai con thỏ vải nhúc nhích, có vẻ như đang sợ hãi. Chủ tiệm dùng bên tay đang không cầm đồ gì vỗ lên chú thỏ, nhìn thấy Hồ Hợi định lôi chiếc khăn vàng của Trương Giác ra, gã bèn nói: "Chẳng lẽ ngươi không muốn có chiếc đạc Long Văn này nữa sao?"

Hồ Hợi hừ một tiếng: "Chiếc đạc Long Văn này là đồ giả, ta ban nãy đã thử rồi". Lúc này hắn cũng không còn sợ Phù Tô trách tội, dù sao đem chiếc đạc giả này về cũng vô dụng.

Chủ tiệm mỉm cười: "Đây là đồ thật. Có điều cái lưỡi đồng mà ta đưa Lục Tử Cương thì không phải". Gã vừa nói, vừa tháo chiếc lưỡi đồng trong đạc Long Văn ra, rồi rút trong người ra một miếng gỗ.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Làm sạch nhà khi bạn đi vắng, chỉ với 690k xài vĩnh viễn.

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

"Ơ? Chẳng lẽ đạc Long Văn là một cái mộc đạc? Chứ không phải là kim đạc?" Lục Tử Cương nhìn chiếc lưỡi gỗ trong tay chủ tiệm không rời được mắt.

"Đúng thế, năm xưa Dương Quảng dùng đạc Long Văn để xây công trình thổ mộc, hại đến người dân trăm họ, tôi đã dùng chiếc lưỡi gỗ khác để thay chiếc này, chiếc lưỡi thay thế kia theo năm tháng dần bị mục nát rồi". Chủ tiệm vẫn bình thản, lắp chiếc lưỡi gỗ vào đạc Long Văn.

Lúc này Hồ Hợi mới hiểu ra là mình sai ở đâu, thì ra là như vậy, thảo nào rõ ràng trước đây chủ tiệm nói đã thay chiếc lưỡi khác rồi, mà hắn vừa nãy nhìn chiếc đạc Long Văn trước khi Lục Tử Cương lắp lưỡi đồng thì bên trong không có gì cả.

Lúc này chim Tam Thanh bỗng nhiên dang cánh vỗ hai cái, tiếng kêu cất lên lanh lảnh khiến Hồ Hợi bất giác ngẩng đầu lên, rồi ngay sau đó hắn nghe thấy một tiếng lắc nhạc cụ du dương kỳ lạ vang lên.

"Keng...".

Rõ ràng chỉ có một tiếng, nhưng dường như kéo dài không dứt, vang mãi bên tai hắn.

"Hãy quên việc ta xuất hiện ở đây đi, quay về với Phù Tô, hãy giả vờ như đang giúp hắn, nhưng ngấm ngầm báo cáo với ta mọi động tĩnh của Phù Tô thông qua mặt nạ quỷ vàng". Một tiếng nói lành lạnh xuyên qua lớp lớp sương mù, đi thẳng vào trong não hắn, cho dù Hồ Hợi cố gắng chống lại trong vô thức, nhưng cũng chỉ có thể giãy giụa chốc lát, rồi liền trở lại bình tĩnh.

"Rõ". Hồ Hợi đáp lại một tiếng, rồi như một cái máy, vò chiếc khăn vàng trong tay, một giây sau đã biến mất.

Lục Tử Cương trợn mắt há mồm không nói được câu nào, anh quay đầu lại, muốn chủ tiệm cho anh một lời giải thích hợp lý, nhưng anh chỉ kịp nhìn thấy cổ tay chủ tiệm khẽ lắc lên một cái.

"Keng...".

Tiếng của đạc Long Văn lại vang lên.

"Quên việc xảy ra sau khi tôi lắc đạc Long Văn ban nãy đi, cậu đã hoàn thành giao dịch với tôi rồi".

Khi Lục Tử Cương định thần trở lại, anh phát hiện ra trong phòng thí nghiệm chỉ còn lại mình anh và hai chiếc hộp gấm để góc phòng.

Anh cứ cảm thấy mình hình như quên mất việc gì đó, ôm đầu nghĩ mãi, mà không cách nào nhớ ra nổi.

4

"Nói như vậy, mọi việc đều là do anh sắp xếp à?" Bác sĩ nhìn chiếc hố sâu xuất hiện trước mặt, cảm thấy tiếc nuối thở dài: "Chiếc đạc Long Văn tốt như thế, mà lại phải chôn xuống mắt trận sao? Này chủ tiệm, sao anh không dùng chiếc đạc Long Văn để điều khiển Phù Tô? Bắt hắn trả lại cơ thể cho tôi có phải tốt không."

Đôi tay cầm chiếc hộp gấm đựng đạc Long Văn của chủ tiệm hơi run, gã khẽ thở dài một hơi rồi mới chậm rãi nói: "Không phải tôi không muốn đòi lại cơ thể cho cậu, nhưng Phù Tô... không thể dễ dàng bị lừa thế đâu".

Trên đời này, kẻ hiểu rõ Phù Tô nhất chính là gã, lần này gã có thể lừa được Hồ Hợi, cũng bởi vì Phù Tô không để ý tới Hồ Hợi mà thôi, nếu không thì đâu có dễ dàng thế?

Bác sĩ nghe xong cũng thở dài, cho dù anh cảm thấy tên Phù Tô này có bệnh tự mãn cao, nhưng không thể coi hắn như thiếu niên tuổi mới lớn được. Đó là người kế thừa được Tần Thủy Hoàng ra sức đào tạo, dù hắn chết bất đắc kỳ tử, nhưng tâm kế thì cao hơn hẳn người thường. Bác sĩ đã cố nén ý muốn kêu ca của mình xuống, nhưng vẫn không cam tâm, lắc lắc đôi tai thỏ: "Có vậy thì cũng không cần thiết phải chôn đạc Long Văn mà? Dùng đồ cổ khác để thay thế không được sao?"

"Đây là thứ đồ ma quái. Bởi vì có được nó quá dễ dàng, người ta thường sẽ không trân trọng, lâu dần rồi người ta còn nghĩ đó là điều đương nhiên". Chủ tiệm cầm hộp gấm, nửa như cười nửa như không: "Thương Trụ vương và Tùy Dạng đế, thời còn trẻ đều là những quân vương hiếm có của ngàn năm, nhưng khi lên làm vua, điều tệ hại nhất chính là nghĩ mình là "thiên tử", nghĩ người khác phục tùng mình là điều đương nhiên".

"Mà lòng người thì luôn thay đổi, không thể nào bị khống chế mãi được". Chủ tiệm khẽ thở dài, "Cho dù là đạc Long Văn chuyên dùng để điều khiển người khác, cũng không có tác dụng gì".

Bác sĩ không phản bác thêm câu nào nữa, cúi đầu cùng chủ tiệm nhìn đạc Long Văn được chôn vào mắt trận, rồi nền đất lại trở về nguyên dạng.

"Nói thế tức là đạc Long Văn chỉ là đồ giả?" Phù Tô đang tự đánh cờ Lục Bác, bộ cờ hắn dùng lại chính là bộ lấy từ trong khu nhà cờ Lục Bác ra, một quân Hiêu có một vết nứt, đã được ai đó dùng vàng nạm lại cẩn thận.

"Phải, đệ đã thử rất nhiều lần, mới phát hiện ra là không có tác dụng". Hồ Hợi cúi gằm mặt, trong vô thức vẫn cảm thấy mình quên điều gì đó, nhưng tiếng nói trong đầu hắn vẫn không ngừng nói với hắn, không nhớ ra cũng chẳng sao đâu.

"Ồ, chắc là đạc Long Văn đã mất tác dụng rồi". Xem ra Phù Tô hoàn toàn không băn khoăn gì, chỉ phẩy tay nói: "Tạm thời không có việc gì nữa, đệ làm gì thì làm đi".

Hồ Hợi kính cẩn hành lễ với Phù Tô, lui ra khỏi thư phòng, nhẹ nhàng khép cửa lại.

Phù Tô tiện tay ném sáu cây đũa ra, rồi di chuyển quân cờ Lục Bác trên bàn theo số đũa hướng mặt cong lên trên.

"Thành hiêu nhi mâu, hô ngũ bạch ta". Phù Tô lẩm nhẩm đọc, đưa tay lật một quân cờ lên, trên đó vẫn dùng mực đỏ viết tên Hồ Hợi trên đó.

(Trích trong bài "Chiêu hồn". "Mâu" nghĩa là thắng tuyệt đối, "ngũ bạch" nghĩa là ném đũa được năm mặt trắng quay lên, có thể tùy ý ăn quân của đối thủ. Đại ý cả câu là "Quân Hiêu thắng tuyệt đối, nên mới hô lớn "ngũ bạch" để mừng chiến thắng." Về cờ Lục Bác, xin xem lại chương 6, tập 2)

Phù Tô cầm quân cờ lên cười nhạt một tiếng, rồi lại nhặt chuẩn xác một quân cờ khác trên bàn cờ lên, quả nhiên, trên đó dùng mực đỏ viết ba chữ.

Lục Tử Cương.

"Xem ra ván cờ này còn chưa đánh xong đâu...". Phù Tô cúi xuống đặt hai quân cờ trở lại bàn, sau đó nở một nụ cười chờ đợi.

"Tất Chi, lâu rồi không đánh cờ với ngươi, ta bỗng thấy nhớ quá...".

Quyển 3 - Chương 4: Câu Đai Ngọc

1

Năm 190, thành Lạc Dương.

Cậu bé chín tuổi Lưu Hiệp kiễng chân trèo lên cánh cửa gỗ đã được bịt kín bằng các thanh gỗ, từ lỗ thủng to bằng nắm tay, cậu nhìn cảnh tượng hỗn loạn bên ngoài, không biểu cảm gì.

Cung điện đẹp đẽ ngày trước đã biến thành địa ngục trần gian, chỉ vì Đổng tướng quốc kiên quyết đòi dời đô khỏi Trường An.

Lưu Hiệp không hiểu tại sao Đổng tướng quốc lại bắt cậu vứt bỏ nơicậu lớn lên từ bé, nhưng cậu nhớ sự điên cuồng khát máu trong đôi mắt kẻ đó, cùng với vài vị sĩ đại phu muốn cản trở đã phải nằm dưới chân cậu, và máu tươi chảy từ thanh trường kiếm xuống.

Tuy mới chín tuổi, nhưng cậu cũng biết Đổng Trác không nhất thiết phải cần có cậu, cũng như hoàng huynh nửa năm trước bị đầu độc chết trước mặt cậu. Nếu không nghe lời, Đổng tướng quốc có thể giết cậu mà không cần chớp mắt, rồi chọn ra trong đám tông thất một người biết nghe lời để làm hoàng đế.

Thuận theo thì sống, chống lại thì chết.

Cho dù chưa có ai nói với Lưu Hiệp câu đó, nhưng cậu hiểu ra rất nhanh, sau đó trở nên càng lúc càng trầm lặng và nghe lời.

Cậu chỉ muốn được sống.

Lưu Hiệp lặng lẽ nhìn khói đen bốc lên phía xa, chỉ nhìn phương hướng cũng biết đó là điện Đức Dương, chính điện của Nam Cung. Trong điện đó rộng đến mức chứa được cả vạn người, xung quanh có hào nước, có bệ ngọc cột châu, cậu vẫn nhớ hồi nhỏ thích được lén chạy ra đó để ngắm hình tiên nữ được đục trên cột trụ vàng. Điện Đức Dương cao lớn hùng vĩ, theo lời ba hoa của đám thị vệ, thì đứng tận thành Yêm Sư cách Lạc Dương hơn bốn mươi dặm vẫn có thể nhìn thấy điện Đức Dương và cổng Chu Tước cao vút tầng mây. Hồi đó cậu nghĩ chắc đám thị vệ muốn cậu vui lòng mà thôi, nhưng giờ đây thì không nhịn được, cậu phải tưởng tượng trong lòng. Không cần biết những lời đó là thật hay giả, nếu để những đám quân đóng gần Lạc Dương, lên tiếng đòi đánh Đổng Trác nhưng lòng dạ khó lường như Viên Thiệu, Tôn Kiên... nhìn thấy khói đen từ cung điện bị đốt, không biết họ sẽ có tâm trạng gì.

Lưu Hiệp bị nhốt trong vườn Nam Uyển ngoài thành Lạc Dương, đây là nơi vui chơi yêu thích nhất của phụ hoàng Hán Linh đế, cũng là khu vườn lớn nhất xa hoa nhất, những khu Hiển Dương Uyển, Hiển Minh Uyển, Linh Côn Uyển xung quanh đều không bằng. Lưu Hiệp nhìn bậc thềm phủ đầy rêu xanh mà cậu từng rất thích, nhưng máu đỏ đã chảy tràn trên rêu xanh, dần dần phủ kín hết màu sắc cũ, cuối cùng do nhiều người giẫm lên mà biến thành màu đen xám kinh tởm.

Dòng kênh nước bao quanh những khu tắm trần giữa cung đình lầu gác, dòng nước xanh năm xưa, giờ đây nổi dập dềnh trên đó không phải là những mỹ nữ yến tiệc thâu đêm nói cười vui vẻ đang chèo thuyền nữa, mà là những thi thể chết không nhắm mắt, cảnh tượng thảm khốc đó khiến Lưu Hiệp thậm chí không đủ sức để rời mắt đi.

(Khu tắm trần thời Hán Linh đế, hay gọi là "lõa vịnh quán", là nơi Hán Linh đế ăn chơi thác loạn cùng các cung nữ)

Cậu chợt nghĩ, lỡ mình một ngày nào đó trở thành một trong số kia, nghĩ đến đó cậu cảm thấy lạnh buốt sống lưng.

Không, cậu chỉ muốn được sống.

Cậu biết thời cuộc bây giờ không ra gì, cho dù cậu là thiên tử, thì trong mắt kẻ kia cũng chẳng khác gì một con chó, có thể tùy ý giam trong cung điện, đến cả quân lính canh phòng cũng đang đi cướp giật vàng bạc châu báu, chẳng còn ai nhớ đến cậu. Nhìn mặt trời chiều đỏ như máu phía chân trời, Lưu Hiệp mới nhớ ra, gần một ngày rồi mà chưa có ai cho mình ăn.

"Bệ hạ...", tiểu thái giám hầu hạ bên cạnh nghe thấy tiếng chém giết bên ngoài, lắp bắp định khuyên tiểu hoàng đế của mình đừng xem nữa, nhưng bị Lưu Hiệp lườm một cái, bèn thôi không nói gì.

Phải, họ bị giam ở đây mấy hôm rồi, đám quân lính chẳng thèm coi Lưu Hiệp là vua, không cho họ ăn uống gì, còn đòi họ đổi vàng bạc châu báu lấy đồ ăn, giờ thì đồ đạc trên người họ bị lấy đi sạch rồi. Đám quân lính thấy không còn gì moi được nữa, bèn lấy gỗ đóng kín cửa lại, dù sao thì biết chắc họ không ra ngoài được rồi, tự mình thì đi cướp bóc. Tiểu thái giám tự thấy mình không có gan để nhìn cảnh tượng bên ngoài, nhưng mà cũng cần phải có người nhòm ra, để biết đâu có ai nhìn thấy họ...

Lưu Hiệp rời mắt đi, cậu không hề muốn nhìn cảnh tượng đó nhưng cậu vẫn phải ép mình nhìn, và còn ép mình phải nhớ hết mọi thứ nữa. Nếu không thì cậu sợ mình sẽ đi phản kháng, đi đấu tranh mất.

Cảm giác đói bụng rất khó chịu, Lưu Hiệp lấy tay xoa xoa cái bụng lép kẹp, đã hoàn toàn không còn nghe thấy tiếng bụng sôi réo nữa, cậu cũng không biết Đổng Trác vứt cậu ở đây là do sợ cậu bị kẻ khác cướp đi, hay là muốn có một lý do chính đáng để trừ bỏ cậu.

Khi cậu hít một hơi sâu, rồi kiễng chân lên nhìn ra ngoài một lần nữa, bỗng nhiên thấy ngoài cửa điện có một người đang đứng không rõ từ bao giờ. Gã đó mặc một chiếc áo thâm vạt quấn bó, ống tay rộng, chiếc xiêm đen rủ xuống chân trông rất thanh nhã, từ góc nhìn của Lưu Hiệp, không thể thấy được gương mặt gã đó, chỉ có điều cảm thấy hơi kỳ quái, trong thời kỳ binh lửa này, vẫn còn có người áo không dính chút bụi, thật là hiếm có.

Lưu Hiệp cũng không nghĩ nhiều được nữa, cậu bị giam nơi hẻo lánh, ít người qua lại, khó khăn lắm mới gặp được một người còn sống, bèn vội vã cất tiếng gọi: "Tiên sinh! Tiên sinh!"

Quả nhiên người đó không bỏ đi, nhưng cũng không nói gì.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người sở hữu vật này luôn gặp những điều may mắn khó tin!

Lưu Hiệp liếm đôi môi khô khốc, cậu đói muốn chết, thấy người kia không nói gì, lại vội vã gọi: "Tiên sinh, có thức ăn không? Ta có vật có thể đổi được...". Cậu ngại không muốn xưng là trẫm, bởi cái danh thiên tử của cậu vốn là một trò cười rồi.

Bên ngoài vẫn không có động tĩnh gì, Lưu Hiệp chán nản nhún vai, trong thời loạn này, đồ ăn còn quý trọng hơn cả vàng bạc châu báu, làm sao người kia có thể tùy tiện cho cậu được? Lưu Hiệp thò tay vào trong áo, định mò lấy ra chiếc túi nhỏ mà cậu chưa từng bỏ ra khỏi người, nhưng rồi chẳng mò được gì, cậu thấy hoang mang. Chiếc túi vốn là đựng ngọc tỉ truyền quốc làm bằng ngọc bích Hòa Thị, là đồ mà hoàng huynh trước khi chết đã trân trọng gửi cậu, cậu vẫn luôn cẩn thận cất kỹ trong người, kể cả khi Đổng Trác đòi, cậu cũng giả vờ ngây ngô để che giấu đi. Nhưng vào hôm qua, sau khi bị đám binh lính cướp bóc, cậu đã chẳng còn gì nữa.

Thứ võ lực mạnh mẽ dã man ấy, thứ đao kiếm dính đầy máu ấy... Lưu Hiệp không hiểu lắm, chẳng phải binh lính nên bảo vệ cho cậu hay sao?

Thế nào là thiên tử? Lưu Hiệp vẫn nhớ, trong thiên "Quý công", sách "Lã Thị Xuân Thu" mà thái phó cho cậu xem có một chương viết: "Thiên hạ phi nhất nhân chi thiên hạ dã, thiên hạ chi thiên hạ dã" (Thiên hạ không phải là thiên hạ của một người, thiên hạ là của thiên hạ).

Lưu Hiệp mím môi lại, không nói nữa, vấn đề thiên hạ là của ai, giờ đây rõ ràng không quan trọng bằng vấn đề của cái bụng cậu, nhưng cậu đã không còn vật gì để trao đổi nữa rồi.

Đúng lúc ấy, cậu bỗng nhiên ngửi thấy một mùi thơm hấp dẫn. Nghiêng đầu nhìn, Lưu Hiệp ngạc nhiên nhìn cánh tay rất đẹp thò qua khe hở trên cửa, mà khiến cậu ngạc nhiên hơn, là chiếc bánh nướng trong bàn tay đó.

Như thể sợ người kia thay đổi ý định, Lưu Hiệp chẳng còn lo cho thể diện hoàng gia nữa, cũng chẳng nghĩ xem trên chiếc bánh đó cổ độc hay không, vội vã giật lấy cho vào mồm, ăn như hổ đói. Tiểu thái giám hầu hạ bên cạnh cũng chạy tới, đưa cho cậu một cốc nước. Tuy họ bị nhốt trong điện, không có đồ ăn, nhưng nước thì không thiếu.

Gã áo đen đó không chỉ cho họ chiếc bánh, mà còn tiếp tục đưa rất nhiều đồ ăn vào qua lỗ hở trên cửa, có cả bánh bao và thịt muối. Lưu Hiệp và mấy tiểu thái giám chia nhau ăn, bụng không còn đói khát nữa. Lưu Hiệp nhìn ít bánh bao và thịt muối còn lại, hơi tiếc nuối nói: "Ta no rồi, tiên sinh có cần những cái này không?"

Một tiếng thở dài vang ra từ bên ngoài, một giọng nói nhẹ nhàng cất lên: "Không cần, cậu giữ lấy đi".

Lưu Hiệp vui mừng, từng này thức ăn đủ để cậu trụ được vài hôm rồi, nhưng ngay lập tức cậu nhớ ra, liền cung kính nói, có chút ngượng ngùng: "Ơn cho bữa cơm của tiên sinh, Bá Hòa xin ghi tạc trong lòng, xin hỏi họ tên tiên sinh, không biết có thể cho biết không?"

Tuy Lưu Hiệp mới chín tuổi, nhưng cũng đã thấy đủ nhân tình thế thái. Năm xưa Hàn Tín nhận một bữa cơm, sau đó còn báo đáp bà cụ giặt vải ngàn lượng vàng, Lưu Hiệp cho rằng cho dù hôm nay không thể báo đáp người ta, cũng nên để sau này đền đáp. Nghe giọng mà đoán, thì gã kia là một nam nhân trẻ tuổi. Lưu Hiệp lục lọi trong trí nhớ, đoán là mình chưa từng nghe thấy giọng người này trước đây.

"Không cần đâu, cậu chịu khổ rồi". Không rõ có phải cậu nói vừa ý người kia không, chỉ thấy cánh tay thanh tú lại thò vào trong, hiền từ xoa đầu cậu.

Mấy ngày này Lưu Hiệp sợ hãi đủ đường, giờ mới là lần đầu tiên cảm nhận được sự quan tâm từ người lớn, dù sao cậu cũng là một đứa trẻ chưa đầy mười tuổi, vừa cảm thấy sự ấm áp trên đầu, liền xúc động rơi lệ, nước mắt lặng lẽ chảy giàn giụa.

Cánh tay đó xoa đầu an ủi cậu một lát, rồi lại đưa vào một chiếc túi gấm nhìn rất quen mắt. Lưu Hiệp đỡ lấy túi, há hốc mồm, vừa khóc vừa mở túi ra, thì thấy trong túi chính là ngọc tỉ truyền quốc - ngọc bích Hòa Thị mà cậu bị lấy mất. Cậu vội vã lau nước mắt, lật đi lật lại ngọc tỉ một cách đầy kinh ngạc. Đây là ngọc bích Hòa Thị của cậu? Hình như hơi lạ? Cảm giác chất ngọc không được sáng bóng như hồi xưa.

Lưu Hiệp nén sự nghi hoặc lại trong lòng, là thật hay giả cũng không quan trọng, ngọc bích Hòa Thị trong tay cậu vốn là vô dụng, chẳng bao lâu sau rồi cũng bị người khác cướp mất.

Gã đàn ông ngoài cửa không thấy cậu nói gì, lại thở dài một tiếng, nói: "Thôi, ta tặng cậu vật khác vậy". Nói đoạn, lại đưa một món đồ qua khe cửa, lần này thì bên ngoài không bọc gì cả.

Lưu Hiệp đón lấy món đồ, thì phát hiện ra đó là một chiếc móc câu đai bằng ngọc.

Câu đai, là đồ móc bên đai lưng của quý tộc và văn nhân võ sĩ thời cổ, thời xưa còn gọi là "tê tỉ". Chất liệu, hình dạng, kích cỡ và hoa văn của câu đai, có thể đại diện cho chính người đeo. Chiếc câu đai bằng ngọc của Lưu Hiệp đã bị người khác lấy mất rồi, giờ đây cậu chỉ buộc một nút thắt đơn giản bằng đai áo, trông thật thảm thương. Lưu Hiệp cầm chiếc câu đai ngọc trong tay, phát hiện ra chiếc câu đai này có hình một con rồng, đầu và đuôi rồng đều uốn hình móc câu, điêu khắc cổ điển mà nhã nhặn, trên chất ngọc trắng có mấy vạch màu đỏ tía như máu, cảm giác không chỉ gây ngạc nhiên, mà như hút hồn người nhìn. Lưu Hiệp nhìn mấy vệt đỏ trên ngọc, nghĩ bụng chắc chiếc câu đai này cũng phải lâu năm rồi.

"Chủ nhân đầu tiên của câu đai ngọc này, tương truyền là Tây Bá Hầu Cơ Xương, cũng chính là Chu Văn Vương sau này".

Giọng nói của người đó trầm trầm vang lên từ ngoài cửa. Tiếng chém giết phía xa đã không còn nghe rõ, tâm hồn của Lưu Hiệp đã bị chiếc câu đai ngọc thu hút không dứt được.

"Này cậu bé, cậu muốn nhất là thứ gì?" Gã kia bình thản hỏi.

Lưu Hiệp còn chẳng hề nghĩ ngợi gì, lập tức trả lời dứt khoát: "Muốn sống".

"Tương truyền rằng chiếc câu đai ngọc này có thể khơi dậy dã tâm lớn nhất của con người". Gã đó khẽ thở dài, chậm rãi nói: "Hãy sống cho tốt...".

Lưu Hiệp hơi thất thần một lát, đến lúc định thần lại, thì không còn thấy bóng dáng người mặc áo đen bên ngoài cửa nữa, mà có một nhóm binh lính kéo tới, đang cậy cánh cửa điện bị đóng kín.

"Bệ hạ, thần cứu giá chậm trễ, để bệ hạ chịu khổ rồi" Trong đám binh lính quỳ ngoài cửa điện, Lưu Hiệp nhận ra vài người rất quen, đều là đệ tử thế gia nhà Hán, bất đắc dĩ mới phải phục vụ Đổng Trác chuyên quyền, nhưng trong lòng thì vẫn trung thành với cậu, chỉ cần không động tới giới hạn của họ thôi. Ví như họ chỉ có thể đảm bảo an toàn cho cậu, không thể trực tiếp đối đầu với Đổng Trác, dù sao đằng sau họ vẫn còn có rất nhiều tông thất nhà Hán.

Lưu Hiệp nắm chặt chiếc câu đai ngọc trong tay, có lẽ vì mấy ngày nay khó khăn lắm mới được bữa ăn no, cậu tỉnh táo lạ thường. Cậu chọn ra một người cậu thấy quen mặt nhất, đi tới bên người đó, đưa ngọc bích Hòa Thị trên tay ra. Người đó hai tay đỡ lấy, mở ra xem, bỗng nhiên thất sắc, ngẩng đầu nhìn Lưu Hiệp không biết phải làm gì.

Lưu Hiệp tuy không cao, nhưng kẻ kia đang quỳ bên cạnh, cậu cũng vừa đủ với tới tai của người đó. Cậu nói rất nhỏ, từng chữ một: "Đem thứ này vứt cho đám được gọi là trung thần đang ở ngoài cửa kia, Viên Thiệu, Tôn Kiên, Hàn Phức, tùy ngươi chọn".

Người đó lơ ngơ nhìn cậu, vẫn chưa hiểu vì sao lại thế.

Lưu Hiệp bóp chặt vai anh ta, nhếch mép nói: "Nhị đào sát tam sĩ...".

Năm xưa Án Tử dùng hai trái đào mà giết ba dũng sĩ, nay cậu dùng một khối ngọc Hòa Thị chẳng ai biết là thật hay giả, chẳng lẽ lại không mượn đao giết người được hay sao?

Hãy sống cho tốt... Lưu Hiệp nắm chặt lấy câu đai ngọc trong tay.

2

Năm 199.

"Rầm!"

Tào Phi vừa đến bên ngoài thư phòng liền nghe thấy một tiếng động lớn, hình như tiếng một thứ gì đó bị ném xuống sàn. Cậu ta chần chừ, cánh tay định đẩy cửa phòng liền dừng lại, cậu biết dạo này tâm trạng của phụ thân không tốt lắm.

Đại ca lớn hơn cậu mười tuổi, hai năm trước bất ngờ chết ở trận chiến Uyển Thành, sau chuyện đó phụ thân thỉnh thoảng hay nổi cáu. Lại cộng thêm gần đây liên tục xảy ra chuyện, mấy hôm trước thì bỗng nhiên có vụ "y đới chiếu", càng khiến lửa giận của phụ thân bị đẩy lên cao điểm.

(Chiếu thư được giấu trong đai áo. Lưu Hiệp (Hán Hiến Đế) mâu thuẫn với Tào Tháo sau khi bị ép dời đô về Hứa Huyện, liền gửi mật chiếu trong đai áo cho Đổng Thừa. Đổng Thừa bàn mưa cùng một số đại thần khác (trong đó có Lưu Bị) để giết Tào Tháo, nhưng sự việc bại lộ)

Thằng nhóc con Lưu Hiệp mà dám chơi trò này? Dám hạ "y đới chiếu" âm mưu giết hại phụ thân cậu?

Tào Phi lạnh Lùng nhếch mép cười, tuy năm nay cậu mới mười hai tuổi, nhưng sinh ra thời loạn, huynh trưởng thì mất sớm, cậu buộc phải ép mình dùng tư duy của người lớn để suy nghĩ.

Người trong thiên hạ đều nói phụ thân cậu ép thiên tử để ra lệnh cho chư hầu, đó là vì họ đố kỵ. Lưu Hiệp trong tay ai cũng vậy mà thôi, trước là Đổng Trác, sau là Tào Tháo. Hơn nữa Tào Phi tự thấy, Lưu Hiệp trong tay họ, có ăn có mặc, có thể diện, ở cuối thời Đông Hán này, anh hùng đuổi hươu này một con hươu hấp dẫn như vậy mà được họ phụng dưỡng tử tế, không giết hại đã là rất nhân từ rồi.

(Lấy ý trong "Sử ký": Tần mất con hươu, thiên hạ cùng đuổi (Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục chi), ở đây "hươu" ý chỉ ngôi vị thiên tử)

Có lẽ vì nuôi tốt quá, nên con hươu này quên mất là ai đang nuôi nó.

Tào Phi cười bất cần, chỉnh trang lại y phục, khẽ gõ cửa, đợi phụ thân trong phòng trả lời, mới cung kính đẩy cửa vào.

Nhân lúc cúi đầu hành lễ, Tào Phi nhìn quanh một vòng, phát hiện ra thư phòng không lộn xộn như cậu tưởng tượng, chỉ có một chiếc chặn giấy hình kỳ lân bằng ngọc xanh nằm một gốc, bị vỡ mất một miếng, nằm nghiêng nghiêng trong xó nhà đến tội nghiệp.

Tào Phi thấy hơi xót của, vì cậu nhớ chiếc chặn giấy hình kỳ lân bằng ngọc xanh này là thứ mà ngày xưa anh trai cậu thích nhất, nhưng không dám lấy món đồ yêu thích của phụ thân, nên chỉ có thể tìm cơ hội cầm nghịch một lát.

"Phi Nhi, con có biết chuyện mấy ngày nay không?" Một giọng nói rất uy nghiêm cất lên, Tào Phi ngẩng đầu lên thì nhìn thấy trên án thư đang trải bức chiếu thư viết trên đai áo của Lưu Hiệp, không rõ là dùng máu của tên thái giám nào để viết, máu tươi ngấm thành màu đỏ thẫm, có cảm giác hơi đáng sợ.

"Trẫm nghe cái lớn của nhân luân, thì cha con là trước hết; sự khác biệt của tôn ti, thì vua tôi là nặng nhất. Gần đây quyền thần là giặc Tháo, xuất thân quan lại, tham lấy chức quan phò tá, thực là có tội lừa vua...".

Tào Phi lẩm nhẩm đọc, nhìn thấy hai chữ "giặc Tháo", mí mắt giật lên, rồi vội cắn răng ép mình đọc tiếp. Một dải đai áo, vừa hẹp vừa chỉ dài có từng ấy, chẳng viết nổi bao nhiêu chữ. Cái "y đới chiếu" này nhiều lắm cũng chỉ khoảng trăm chữ, Tào Phi đọc một loáng là hết.

Cậu sắp xếp ngôn từ một chút, rồi hắng giọng một tiếng, nói: "Tên Xa kỵ tướng quân Đổng Thừa có chết cũng chưa hết tội". Người được huyền cho y đới chiếu là Đổng Thừa, cũng là đương kim quốc cữu, con gái Đổng Thừa là Đổng phi, người được Lưu Hiệp sủng ái nhất. Sau khi xảy ra vụ "y đới chiếu", Tào Tháo trong cơn cả giận đã giết cả nhà Đổng Thừa, sau đó vẫn chưa nguôi giận, còn cầm kiếm xông vào trong cung, giết chết Đổng phi đang mang thai năm tháng ngay trước mặt Lưu Hiệp.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Máy hút bụi giảm giá 50% nhân dip tết 2020 chỉ 690k

"Ồ? Vậy Đổng phi...". Tào Tháo nheo mắt lại, có ý hướng dẫn cho Tào Phi suy nghĩ, ông bắt đầu đào tạo Tào Phi thành người kế nhiệm mình. Con cả của ông là Tào Ngang vốn rất xuất sắc, văn võ song toàn, thông minh mẫn tiệp, lại lớn hơn đám Tào Phi, Tào Chương, Tào Thực tới hơn chục tuổi, tránh được khỏi việc tranh chấp quyền kế thừa. Nhưng Tào Ngang đã chết thảm, ông buộc phải đào tạo người kế nhiệm lại từ đầu.

"Giết gà doạ khỉ. Nhổ cỏ tận gốc. Tốt." Tào Phi nhận xét ngắn gọn, trong ánh mắt nhìn phụ thân, cậu không hề che giấu sự sùng kính, "Còn tâm trạng của thánh thượng thì sợ rằng không thể nguôi ngoai trong sớm chiều được, nếu con mà có chị gái thì tốt."

Trong ánh mắt sắc như hổ của Tào Tháo, có chút suy tư.

Tào Phi cúi đầu không nói, cậu thầm trách mình nhất thời đắc ý mà lỡ lời. Cậu tuy không có chị gái nhưng có em gái. Chắc phụ thân không định đợi em gái lớn hơn một chút là đưa vào trong cung chứ? Tào Thi lén nhìn lên, phát hiện ra phụ thân đang lấy tay gõ vào chữ " giặc" trong "y đới chiếu", bất giác thấy kinh sợ. Cậu biết phụ thân là người vui giận khó đoán, nhưng dù là ai, bị người khác chỉ thẳng mặt mà mắng là "giặc" cũng đều không thể cười trừ mà cho qua được.

Tào Phi là người nhanh trí, liếc qua thấy bị tịch thu cùng với " y đới chiếu" là một chiếc câu dai ngọc hình dáng cổ kính, vội vàng nói: "Trang Tử nói, ăn cắp cái móc câu thì chết, ăn cắp cả nước thì làm chư hầu, ở môn hộ của chư hầu ta thấy có điều nhân nghĩa."

Tào Tháo sững người, rồi liền vỗ tay cười lớn: "Trộm câu thì phải chết, trộm nước thì phong hầu. Hay! Hay!"

Tào Phi biết câu nói của cậu đã nói trúng trọng tâm, cũng rất đắc ý, gương mặt trẻ con chẳng thể giấu nổi tâm trạng, cái miệng nhỏ nhoẻn cười sung sướng.

Tào Thào càng nhìn đứa con mình càng thấy thích, tiện tay chỉ vào chiếc câu đai ngọc nói: "Thưởng cho con đấy, kẻo sau này con lại trộm từ chỗ lão phu mất."

Tào Phi lặng người, rồi liền sung sướng, biết rằng tuy đây chỉ là một món quà nhỏ, nhưng liên hệ với câu nói ban nãy, thì thật ra là rất có thâm ý. Hai tay cậu đưa ra cung kính đỡ lấy câu đai ngọc, trịnh trọng cúi đầu nói: "Vâng".

Chiếc câu đai ngọc lạnh ngắt đặt vào tay, Tào Phi cẩn thận co bàn tay đang run lên vì vui sướng vào trong ống tay áo. Bỗng nhiên tận đáy lòng cậu dâng lên một sự tự tin khó diễn tả, dường như mình đang có một mục tiêu và dã tâm to lớn. Khi cậu nhìn lại chiếc chặn giấy hình kỳ lân ngọc xanh vỡ nứt dưới chân, không còn chút cảm giác nuối tiếc nào nữa.

Lúc này bỗng cậu chợt nghĩ, may mà anh trai đã không còn...

3

Năm 204, Nghiệp Thành.

Chân Mật nhìn gương đồng, sửa lại phần tóc mai lòa xòa, muốn chải chuốt lại một chút, nhưng nhìn dung nhan tiều tụy trong gương, chẳng thấy lên nổi chút tinh thần nào.

Người ngựa của quân Tào Tháo đã vây kín tòa nhà của họ Viên, dù ông ta đã hạ lệnh không được phép vô lễ với người trong nhà họ Viên, nhưng Chân Mật hiểu rất rõ số phận nào đang đợi nàng.

Tào Tháo và bố chồng nàng là Viên Thiệu năm xưa từng rất thân thiết, nhưng bởi vì quần hùng đuổi hươu, chinh chiến quanh năm mà trở thành kẻ tử thù, những gia quyến như nàng, thực ra đâu có khác gì đám gia súc, người ta giết lúc nào thì giết.

Từ hơn một tháng trước, phu quân nàng là Viên Hi cùng với em trai Viên Thượng trốn khỏi Nghiệp Thành, lòng nàng cũng đã nguội lạnh. Trong thời loạn, phận người con gái như cây bèo nổi, chỉ biết xuôi theo dòng nước, chẳng thể nào làm chủ số mệnh của mình được.

Nàng cũng không hận Viên Hi chồng mình, một gã đàn ông có thể vứt bỏ cả mẹ mình, chẳng lẽ còn trông mong hắn lo được cho vợ hay sao?

Chân Mật cười khổ, lý trí nàng biết quyết định của Viên Hi đã là lựa chọn tốt nhất rồi. Gia quyến là phụ nữ ở lại trong thành thì không nguy hiểm đến tính mạng. Tào Tháo xưa nay vẫn tử tế với đàn bà con gái, nhưng tuyệt đối không cho phép con ruột của Viên Thiệu được sống trên đời này. Vậy nên Viên Hi và em trai buộc phải bỏ trốn, mà trong thời loạn này, đàn ông còn khó lòng sống sót, làm sao đem theo nàng được.

Chắc là, đời này không có ngày gặp lại rồi.

Chân Mật ngơ ngẩn nhìn bóng mình trong gương, có người vào trong phòng mà cũng không biết, cho đến khi người đó chạm lên mái tóc nàng, nàng mới nhìn vào đôi mắt người đó trong gương, không biết phải biểu cảm ra sao.

"Con bé ngốc, đừng nghĩ ngợi nữa". Lưu phu nhân cầm chiếc lược bí bằng vàng trên bàn trang điểm lên, chải tóc cho Chân Mật từng chút một, bà biết con dâu mình đang nghĩ gì, nhưng bà không thể để nàng tiếp tục nghĩ ngợi được. Chỗ dựa của người phụ nữ chính là chồng, mà chồng bà là Viên Thiệu thì đã chết, các con trai thì đang trên đường chạy trốn, nên người duy nhất Lưu phu nhân còn có thể dựa dẫm được, chỉ còn có đứa con dâu trước mặt bà thôi.

Giang Nam thì có nhị Kiều, Hà Bắc Chân Mật yêu kiều kém đâu!

(Chỉ hai mỹ nhân Tiểu Kiều và Đại Kiều ở Đông Ngô)

Câu nói được lưu truyền rộng rãi này không hề nói quá. Lưu phu nhân chưa gặp Đại Kiều và Tiểu Kiều, nhưng cho dù bà sớm tối đều gặp Chân Mật, cũng vẫn bị sắc đẹp của nàng thu hút, không thể rời mắt được. Hơn nữa Chân Mật đang trong độ tuổi đẹp nhất của người phụ nữ, giờ đây nàng thần sắc tiều tụy, màu da càng nhợt nhạt, đôi mắt đẹp mơ màng như tranh thủy mặc, trong lúc bối rối nàng lại có một vẻ yếu đuối khó nói nên lời, khiến người ta thương, người ta muốn bảo vệ, người ta chỉ hận không được ôm nàng trong lòng, không để nàng phải chịu thêm tổn thương nào nữa.

Lưu phu nhân vốn dĩ muốn Chân Mật chải đầu trang điểm cẩn thận, nhưng giờ đây bà cảm thấy bộ dạng này của nàng càng có sức hút hơn, nên lại lưỡng lự.

Đàn bà dựa vào đàn ông, cũng như dây leo bám vào cây, cây này đổ rồi thì bám sang cây khác, có gì không được? Lưu phu nhân cũng tự biết mình tuổi già kém sắc, nếu không thì bà tự mình ra trận chắc là không hề do dự.

Dù sao, sống sót mới là mục đích cuối cùng. Để sống sót được mà phải trả giá một chút, thì Lưu phu nhân cũng coi đó là những điều đương nhiên.

Bây giờ trở ngại duy nhất chính là tình cảm của Chân Mật dành cho Viên Hi.

Lưu phu nhân múa mép kêu gọi Chân Mật, nhưng nàng vừa nghĩ đến chuyện người mình phải khom lưng hầu hạ là Tào Tháo, người xấp xỉ tuổi bố chồng nàng, là đã không thể chấp nhận được. Lưu phu nhân bỗng nhiên bỏ chiếc lược vàng trong tay xuống, không khuyên nhủ gì nữa, căn phòng trở nên im ắng, bên ngoài văng vẳng tiếng cướp bóc chém giết, tiếng kêu khóc, khiến sắc mặt Chân Mật lại trắng bệch thêm.

Nàng lập tức nhận ra rằng, nếu không phải vì mình được gả vào nhà họ Viên, nếu không được bảo vệ cẩn trọng tới tận bây giờ, thì nàng có lẽ cũng như những người phụ nữ ngoài kia, tan cửa nát nhà, chết không toàn thây.

Chân Mật len lén đưa tay đặt lên bụng, thực ra chết không đáng sợ, nhưng nàng hơi cảm thấy có vẻ cơ thể mình khang khác lúc trước. Nhưng Viên Hi mới bỏ đi được một tháng, nàng chưa thể biết mình có mang đứa con của anh ta hay không.

Lưu phu nhân thì không hề chú ý đến hành động nhỏ của Chân Mật, bà ghé vào tai Chân Mật, thấp giọng nói: "Ta nghe nói người đem quân đến đây là Tào Phi, con thứ của Tào Tháo...".

Sau đó bà không nói rõ nữa, bà tin rằng Chân Mật hiểu mình nói gì. So với Tào Tháo đã đến tuổi trung niên, Lưu phu nhân tin rằng Chân Mật chắc chắn sẽ chọn Tào Phi mới vừa mười tám tuổi. Hơn nữa Tào Phi chưa có vợ con gì, hiện giờ đang là người kế nhiệm được Tào Tháo tin tưởng nhất, thực sự thì như thái tử họ Tào rồi.

Chân Mật ấn lên bụng mình, chầm chậm nhìn chính mình trong gương đang gật đầu. Nàng thấy Lưu phu nhân đang vui vẻ định trang điểm cho mình, bèn lắc đầu ngăn lại: "Thế này là được rồi". Trong tiềm thức, nàng không muốn mình trang điểm quá nhiều. Giờ không phải là ngày ra ngoài, lần trang điểm đầy đủ duy nhất của nàng đã dành cho phu quân nàng rồi.

Lưu phu nhân hiểu sai ý của nàng, trong lòng thầm khen ngợi nàng dù chỉ trang điểm chút ít cũng đã đẹp đến rung động lòng người rồi. Bà cho hộ vệ tìm Tào Phi qua phủ nói chuyện, là vợ của Viên Thiệu, chút thể diện này bà vẫn còn đòi được. Bà đưa Chân Mật tới đại đường để chờ, không lâu sau, bèn nhìn thấy một chàng trai trẻ anh tuấn, trên người mặc khôi giáp, đang rảo bước qua cánh cửa đã vỡ nát. Lưu phu nhân vỗ vai Chân Mật đang quỳ dưới chân bà, ý rằng nàng không cần phải quá sợ hãi.

Chân Mật không dám ngẩng đầu lên, nàng chỉ nhìn thanh trường kiếm vẫn còn rỏ máu trên tay Tào Phi, lòng nghĩ nếu phu quân mình mà chưa rời đi, liệu máu trên thanh trường kiếm có phải của chàng không.

Lưu phu nhân và Tào Phi nói gì đó, Chân Mật không nghe lọt, nàng như một con rối gỗ, bị Lưu phu nhân nâng cằm lên, rồi bỗng nhìn thấy ánh mắt ngạc nhiên và ái mộ của Tào Phi.

À... cái bộ dạng này, nàng nhìn thấy nhiều lắm rồi, gần như mọi người đàn ông nhìn thấy nàng đều có điệu bộ đó, cả phu quân nàng cũng không ngoại lệ.

Chân Mật ngây người ra nghĩ, rồi cảm thấy chẳng có gì hay ho. Cuộc sống như thế này, có thực là cuộc sống nàng mong muốn?

Tào Phi hình như đang luống cuống tìm thứ gì đó trên người, Chân Mật đoán chắc anh ta đang tìm một món tín vật có thể đại diện cho thân phận bản thân, hiện giờ trong Nghiệp Thành đang rất hỗn loạn, anh ta không thể ở đây được lâu, nên đành phải để lại một món tín vật chỗ nàng, nếu như ai đó định vô lễ với nàng, thì ắt sẽ nhìn thấy mà phải thôi.

Đang nghĩ ngợi mông lung, thì một chiếc câu đai ngọc hình rồng được đưa tới trước mặt nàng, khi nàng biết vật này là thứ anh ta luôn mang theo người, hai má nàng đỏ ửng lên vì tức giận. Tuy nàng đã chấp nhận số phận, nhưng một tín hiệu quá trần trụi thế này, nàng thực sự là... thực sự là...

Tào Phi đúng là không có ý gì khác, trên người anh ta không còn thứ gì làm tín vật được nữa. Nói thực lòng, ẩn ý của Lưu phu nhân, anh ta hiểu, ở Nghiệp Thành này không có ai dám cướp người từ tay anh ta, nhưng người duy nhất cần đề phòng chính là phụ thân Tào Tháo. Vậy nên để tránh cho sự việc này xảy ra, anh ta liền nhớ tới chiếc câu đai ngọc. Đó là đồ vật nhiều năm trước phụ thân cho anh, chắc là nếu phụ thân nhìn thấy thì cũng hiểu ý.

Tào Phi nhìn thấy đôi tai Chân Mật đỏ lừ, lại càng muốn được nâng gương mặt nàng lên ngắm nhìn, nhưng dù sao ở đây cũng còn người khác. Tào Phi khẽ ho một tiếng, dúi câu đai ngọc vào tay Chân Mật, sau đó dặn dò quân lính canh gác không được làm phiền tới họ, rồi lưu luyến mãi mới rời đi. Nghiệp Thành còn cần phải trấn áp vài hôm, Tào Phi dù muốn trốn việc cũng không được.

Chân Mật cầm chiếc câu đai ngọc vẫn còn ấm hơi người, bỗng nhiên dâng lên một khao khát. Nàng phải sống sót, không chỉ sống sót, mà còn phải sinh đứa con của Viên Hi một cách danh chính ngôn thuận.

Nàng sẽ cho gã đàn ông coi nàng như đồ chơi kia phải hối hận.

4

Năm 221, Lạc Dương.

Hai tay Tư Mã Ý khoanh vào trong ống tay áo, đứng cúi gằm mặt ở một góc thư phòng. Y không biết Tào Phi cho gọi là có dụng ý gì, năm ngoái Tào Phi vừa mới cướp ngôi nhà Hán tự lên làm vua, rất nhiều việc của triều nhà Ngụy cần phải làm, là Thượng thư hữu bộc xạ, y rất bận rộn, không có thời gian để lãng phí.

Nếu Tào Phi đã vẫn im lặng không nói gì, Tư Mã Ý bèn bắt đầu lẩm nhẩm lại các việc trong đầu, để dò đoán ý vua. Đại lễ thụ thiện để nhà Ngụy lên thay nhà Hán đã diễn ra thành công, khách khứa như tam công cửu khanh, hầu tước quý tộc tướng lĩnh quân đội cho đến Thiền Vu Hung Nô đến mừng cũng tới vài vạn người. Đến nay Tư Mã Ý vẫn nhớ, bộ dạng bất lực đáng thương của Lưu Hiệp khi bị bắt phải quỳ xuống, dâng ngọc tỉ truyền quốc và cả vạn dặm non sông cho Tào Phi.

("Thiện" là nhường ngôi, lễ thụ thiện là lễ nhận nhường ngôi vua)

Nghe nói đến thụy hiệu dành cho Lưu Hiệp, Tào Phi cũng đã chuẩn bị xong, lấy chữ "Hiến", Hán Hiến đế, thật quá hợp.

Khóe miệng Tư Mã Ý cong lên đầy ẩn ý, thực ra chuyện Tào Phi cướp ngôi Hán, không phải là một chiêu cao minh gì cho lắm. Thậm chí Tư Mã Ý còn có thể tưởng tượng rằng, chiêu trò nhường ngôi này, sau này sẽ trở thành một trò chơi chính trị, người ta sẽ không ngừng học theo, làm mạnh hơn, rồi dần dà trở thành hình mẫu cố định. Chỉ cần vua yếu bề tôi mạnh, thì trò nhường ngôi này sẽ liên tục diễn ra. Mà cái gốc họa này là do Tào Phi tự tay tạo ra.

Trái tim của Tư Mã Ý đập mạnh, không thể ngăn nổi, y biết nếu Tào Tháo lên ngôi trước khi chết, thì sẽ không có kết quả đó, dù sao thiên hạ của họ Tào là do một tay Tào Tháo giành được, nó giống như Tần Thủy Hoàng thống nhất sáu nước và Hán Cao Tổ đánh thắng trong cuộc chiến Hán Sở tranh hùng, đều dùng vũ lực để nói mọi chuyện. Chỉ tiếc rằng, Tào Tháo cả đời giữ lễ vua tôi, không ngờ sau khi chết thì con trai là Tào Phi không đợi nổi tới một năm, đã bóc nốt tấm vải che chắn cuối cùng đi rồi.

Một vương triều yếu đuối như thế, y thực sự có ý muốn tự mình xô đổ nó...

Đôi tay trong ống tay áo của Tư Mã Ý hơi run lên, y khác với người thường, góc quay của cổ lớn hơn người khác nhiều, nên có thể thấy mọi thứ phía sau, đó là tướng "sói trực", là biểu hiện của dã tâm to lớn.

Tào Tháo tin thuật xem tướng, nên cả đời không trọng dụng Tư Mã Ý, nhưng y lại bắt quan hệ rất tốt rất kịp thời với Tào Phi, trở thành bề tôi thân cận nhất của Tào Phi, cũng trở thành kỳ tích thăng quan nhanh nhất trong triều đại Tào Ngụy.

Thực ra cũng không có gì kỳ lạ, Tư Mã Ý tự nhận mình học rộng hiểu nhiều, không hề kém Ngọa Long Phượng Sồ, Tào Phi cũng rất dựa dẫm vào y. Trong chốc lát, Tư Mã Ý điểm lại hết một lượt những chuyện gần đây xảy ra trong triều, rồi lại liếc thấy Tào Phi đang cầm chơi một chiếc câu đai ngọc có hình dáng cổ kính, bỗng nhiên y hiểu ra mọi chuyện.

(Ngọa Long chỉ Gia Cát Lượng, Phượng sồ chỉ Bàng Thống, hai quân sư hàng đầu của Lưu Bị)

Chiếc câu đai ngọc này, là di vật của Chân hậu.

(Trên thực tế, Chân Mật khi còn sống chưa được phong hậu mà chỉ được phong làm Chân phu nhân, chỉ khi Tào Duệ lên ngôi mới truy phong là Chân hậu)

Chuyện Chân hậu bị Tào Phi ban cho cái chết, tuy có sự uẩn khúc, nhưng cũng chưa có đại thần nào không biết điều dám đứng ra chất vấn cả. Dù gì, Quách hoàng hậu hiện là người quản lý hậu cung, đang được sủng ái, còn Chân hậu

Hơn nữa, Tư Mã Ý nghe nói, Chân hậu sau khi được ban cái chết, thì phải lấy tóc che mặt, lấy cám gạo nhét vào mồm, để sau khi chết không ai thấy mặt, thậm chí không cho cơ hội được mở mồm tố khổ với Diêm Vương nữa. Tào Phi đã cạn tình nghĩa đến mức đó, Tư Mã Ý đoán rằng nguyên nhân ắt không phải do hậu.cung tranh sủng đấu đá lẫn nhau, e rằng vẫn còn có chuyện khuất tất khác.

Chẳng lẽ lại như lời đồn đang lan truyền trong cung, Tào Thực và Chân hậu có mối tình chị dâu em chồng?

Việc đó chẳng phải việc gì kỳ lạ, Chân hậu được ban cho cái chết thì hết chuyện, còn Tào Thực tranh giành ngôi vị kế nhiệm thì cũng đã thất thế, chẳng gây ra được sóng to gió lớn gì nữa, cũng chẳng đáng để Tào Phi phải bực dọc thế kia.

Chẳng lẽ hối hận vì đã ban cho Chân hậu cái chết? Nên mới cầm di vật của Chân hậu để nhớ nhung?

Tư Mã Ý lập tức phủ nhận luôn nghi ngờ đó, nếu nhớ nhung Chân hậu thì gọi y đến làm gì? Tư Mã Ý tiếp tục nghĩ đến những chi tiết khác, thì bỗng nhiên run người, nhớ ra thái độ của Tào Phi với Tào Duệ mấy ngày nay...

Tào Duệ là con của Chân hậu, là con cả của Tào Phi, lớn hơn những đứa khác vài tuổi, đã chắc chắn là người kế thừa vương triều Tào Ngụy rồi. Nhưng Tào Phi vẫn chưa lập cậu ta làm thái tử, sau khi Chân hậu chết, hoàn cảnh của Tào Duệ I lại càng đặc biệt. Tư Mã Ý vốn dĩ cho rằng cho dù Chân hậu không chung thủy, thì cũng không lay chuyển được vị trí của Tào Duệ, nhưng y chợt nhớ ra, năm mà Tào Phi nhận Chân hậu, thì Tào Duệ ra đời, mà Chân hậu vốn là con dâu của Viên Thiệu, chẳng lẽ...

"Trọng Đạt quả là thông minh". Tào Phi dù vẫn đang cầm chơi chiếc câu đai ngọc trong tay, nhưng không hề bỏ qua hành động của người còn lại trong phòng. Khi anh ta cảm thấy hơi thở của Tư Mã Ý có phần nặng nề hơn, liền đoán ra ngay y đã đoán được nội tình. Không thể trách anh ta không nói thẳng, bởi chuyện nghi ngờ con mình không phải con đẻ là chuyện quá khó để nói ra.

(Tên tự của Tư Mã Ý, thời xưa gọi tên tự là tỏ ý kính trọng)

Tào Phi thực tình không trách Chân Mật mang đứa con người khác, phụ thân Tào Tháo của anh ta thích vợ người khác, thậm chí còn đem con người khác về làm con nuôi, nên ít nhiều cũng ảnh hưởng tới quan niệm của Tào Phi. Tào Tháo sủng ái một trong những đứa con nuôi là Hà Yến, khiến Tào Phi phải ghen tị, thời còn trẻ đã không ít lần nhạo báng Hà Yến là "con giả". Nhưng Hà Yến chỉ là trường hợp đặc biệt, Tào Phi khá thân thiết với hai người anh em nuôi khác là Tần Lãng và Tào Chân, nên nếu ngay từ đầu Chân Mật nói rõ với anh ta, thì Tào Phi cũng hoàn toàn thoải mái coi Tào Duệ như con ruột của mình, nhưng cũng nhất quyết không đào tạo cậu ta thành người thừa kế.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Tư Mã Ý nhìn vẻ mặt khó ở của Tào Phi, ngẫm nghĩ một lát là nắm được vấn đề mấu chốt. Nếu Tào Phi biết chắc Tào Duệ không phải là con ruột của anh ta, thì còn có gì mà phải suy nghĩ? Cứ điều cậu ta ra khỏi đô thành, mặc kệ sống chết ra sao là xong. Nhưng khó là ở chỗ, không ai biết cậu ta có phải là con của Tào Phi hay không, sinh con thiếu tháng cũng là chuyện thường gặp, e rằng đến cả Chân hậu cũng không thể xác định được cậu ta là con ai.

Tư Mã Ý nhớ lại dung mạo của Tào Duệ, cậu ta mi thanh mục tú, giống hệt Chân hậu, nhìn bề ngoài không thể biết là con ai được.

Việc này quả thực rất hóc búa. Nếu Tào Phi vẫn còn một đứa con khác tầm tầm tuổi đó, thì chẳng thà giết nhầm còn hơn bỏ sót, để đứa khác lên làm người thừa kế. Nhưng giờ đây ngoài Tào Duệ ra, những đứa con khác còn quá nhỏ tuổi, sau này có thành người được không vẫn còn chưa rõ.

Nên điểm mấu chốt là, phải chứng thực được Tào Duệ có phải con đẻ của Tào Phi hay không? Ngược lại thì sao? Có thể chứng thực Viên Hi có phải cha ruột của Tào Duệ hay không?

Tư Mã Ý trầm ngâm một lúc rồi nói: "Bệ hạ, có thể trích cốt nhận thân".

Cụm từ "trích cốt nhận thân" cách đây không lâu đã từng lưu hành mạnh mẽ. Cuốn "Cối Kê tiên hiền truyện" của Tạ Thừa, em của Tạ phu nhân nhà Tôn Quyền viết, từng ghi chép chuyện lấy máu của em trai nhỏ lên hài cốt anh trai để nhận diện.

"Trích cốt nhận thân" là để chỉ việc lấy máu người sống nhỏ lên hài cốt người chết rồi quan sát xem máu có thấm vào không. Nếu thấm vào xương thì tức là có quan hệ huyết thống như cha mẹ, con cái, anh em; còn nếu không thì không có.

Hơn chục năm trước, Viên Hi và em là Viên Thượng bị giết chết ở Liêu Đông, nơi chôn hài cốt không khó tìm.

Tào Phi đã dùng cách này từ xưa rồi, vừa nghe bèn thở dài nói: "Đừng nhắc tới cách này, Viên Hi, Viên Thượng cùng vài tùy tùng khác được chôn cùng một chỗ, không phân biệt nổi nữa". Tào Phi nói mơ hồ, thực ra là không muốn nói với vị cận thần mình tin tưởng nhất kia, rằng anh ta đã từng đem máu của Tào Duệ nhỏ lên hài cốt của mấy người kia rồi, kết quả là đều thấm hết.

Quá là hoang đường, chẳng lẽ mấy người đó đều là bố của Tào Duệ? Đều có quan hệ họ hàng? Sau đó anh ta làm vài thí nghiệm nữa, chứng minh rằng chuyện của Tạ Thừa viết chỉ là chuyện bịa đặt. Chỉ tiếc là anh ta không thể tự kể chuyện xấu trong nhà ra được, nếu không thì đã phải phản bác ngay tên Tạ lang trung kia rồi.

Tư Mã Ý vốn định nói là hài cốt lẫn lộn cũng không sao, chỉ cần thấm vào xương của một người, là có thể nhận ra quan hệ cha con. Nhưng nhìn sắc mặt tối sầm của Tào Phi, y liền biết rằng cách này đã dùng rồi, và chắc chắn là không có đáp án chính xác.

Thân làm bề tôi, cần phải chia sẻ nỗi lo với thiên tử. Tư Mã Ý nhanh chóng phân tích chuyện lợi hại, cũng biết chuyện hôm nay chỉ là vì Tào Phi muốn kể lể mà thôi, chứ không muốn y nói nhiều. Hơn nữa các vị công tử vẫn còn nhỏ tuổi Tào Phi đương tuổi tráng niên, chuyện chọn thái tử không cần gấp gáp.

Tư Mã Ý khuyên nhủ một hồi, lời lẽ rất hợp tình hợp lý, sắc mặt của Tào Phi cũng đỡ hơn nhiều. Tào Phi cũng chỉ muốn nói chuyện với Tư Mã Ý mà thôi, chứ trong lòng cũng đã quyết quan sát thêm vài năm nữa. Tư Mã Ý nói một hồi, rồi bất chợt ánh mắt hướng về chiếc câu đai ngọc mà Tào Phi đang cầm trên tay, chiếc câu đai ngọc có chất ngọc sáng mịn, dưới ánh nến nhảy nhót, nó tỏa ra thứ ánh sáng khiến người nhìn không thể rời mắt.

Trộm câu thì chịu chết, trộm nước thì phong hầu.

Tư Mã Ý là người đọc thuộc Thi Thư, rất mau chóng liên hệ tới hai câu này, một việc có động cơ rất xấu, nếu được phóng đại đến mức vô hạn, thì có thể biến thành chính nghĩa, mà chính nghĩa thì mãi mãi là do kẻ thắng viết ra. Vì thế mới xảy ra những kết quả hoàn toàn khác nhau như "trộm câu thì chịu chết, trộm nước thì phong hầu".

Trước buổi đêm nay, Tư Mã Ý tuy có ý bất trung, nhưng cũng biết thời cơ chưa chín muồi, nên nén lòng lại. Nhưng đêm nay y lại nghe được một bí mật của hoàng gia, trong lòng liền xao động. Chưa có ngôi thái tử, đây là chỗ rất dễ để ra tay.

Tư Mã Ý cố thể hoàn toàn hình dung ra, nếu như những đứa con nhỏ của Tào Phi bị chết trẻ, chỉ còn một mình Tào Duệ, thì cho dù Tào Phi có nghi ngờ huyết thống con mình thế nào, cũng không thể nói ra bên ngoài được, chỉ đành phải chấp nhận cho Tào Duệ kế vị. Phải, đối với Tào Phi mà nói thì đây là hành động miễn cưỡng, để không làm loạn huyết thống dòng họ Tào, trước lúc chết chắc Tào Phi sẽ dặn dò người thân tín, không để cho Tào Duệ sinh ra người kế vị, cuối cùng là ép Tào Duệ phải chọn người kế thừa ngôi lớn trong số con cháu của anh em...

Tư Mã Ý cụp mắt xuống, cẩn trọng giấu đi ánh nhìn sắc sảo.

5

Năm 2012.

"Tư Mã Ý độc địa thật... Mấy đứa con nhỏ của Tào Phi đều chết trẻ không rõ nguyên nhân. Con trai của Tào Duệ không đứa nào lớn được, sau đó thì đúng như theo kế hoạch của ông ta, chọn ra Tào Phương trong tông thất làm người kế vị."

Bác sĩ vẫn "cosplay" con thỏ đồ chơi, anh cũng đã quen với đôi tai dài rủ xuống, chỉ có điều là thỉnh thoảng nó hơi vướng tầm nhìn. Bây giờ anh đang cùng chủ tiệm chọn ra món đồ cổ đế vương đủ đẳng cấp, thực ra cũng chỉ để nghe chủ tiệm kể chuyện mà thôi. "Nói như vậy thì chiếc câu đai ngọc sau này rơi vào tay Tư Mã Ý?"

Chủ tiệm lấy chiếc câu đai ngọc từ trong hộp gấm ra, vừa Hùng vải mềm cẩn thận lau chùi, vừa chậm rãi nói: "Tư Mã Ý thực sự không hề lấy được chiếc câu đai này". Mấy vạch đỏ trên câu đai ngọc, nhìn như vệt máu thật, đẹp đến bàng hoàng.

"Hả? Mà cũng đúng, con trai ông ta mới gọi là "trâu bò"! Người ta có câu "dã tâm của Tư Mã Chiêu, người đi đường đều biết" cơ mà". Xem ra chiếc câu đai ngọc này đúng là đồ cổ của đế vương rồi, nghe chuyện anh kể, nó cũng qua tay bao nhiêu hoàng đế rồi còn gì! Hán Hiến đế Lưu Hiệp, Ngụy Văn đế Tào Phi, còn Chân Mật sau khi có chiếc câu đai ngọc, con trai là Ngụy Minh đế Tào Duệ chắc chắn cũng đã sờ vào... Chậc chậc, tiếc thật, nếu như Tào Tháo được sờ vào thì tốt, cho tới lúc chết mà ông ta cũng chưa được thử làm hoàng đế lần nào!"

"Trong bài "Nhượng huyện tự minh bản chí lệnh", Tào Tháo nói, nếu quốc gia không có ta, thì không biết bao kẻ xưng vương bao người xưng đế. Ông ta nói mình chinh chiến cả đời để ngăn cho người khác xưng vương xưng đế, thì sao lại tự xưng đế được?" Chủ tiệm tỉ mẩn lau sạch câu đai ngọc, cất trở lại trong hộp gấm, mỉm cười nói: "Ông ta là gian hùng hay là anh hùng, mỗi người đều có đánh giá của riêng mình. Nhưng trong tình hình ấy mà ông ta vẫn có thể không xưng đế, tôi nghĩ thế là đủ để thể hiện thái độ của ông ta rồi".

Bác sĩ cũng phải gật gù đồng ý, dù gì thì hai người còn lại cùng thời kỳ đó là Lưu Bị và Tôn Quyền đều lần lượt xưng đế, có thể nếu Tào Tháo sống lâu hơn một chút thì cũng không tránh khỏi việc xưng đế, nhưng lịch sử rất kỳ diệu, không để lại bất cứ không gian tưởng tượng nào ở kết quả của nó cả, nên cái gọi là đóng nắp quan tài rồi mới đánh giá chính là như vậy.

Nhưng nói đến chuyện đóng nắp quan tài rồi mới đánh giá, bác sĩ lập tức đã nghĩ tới vụ "trích cốt nhận thân" trong câu chuyện. Đây là chuyên ngành của anh, nên lập tức nổi hứng lên, bắt đầu thao thao bất tuyệt, phổ cập kiến thức y học.

"Tào Duệ cũng may mắn, may mà Viên Hi được chôn cùng với vài người nữa, nếu không thì xui xẻo rồi. Hồi xưa tôi có từng nói chuyện vài lần với một cậu pháp y, cậu ta nói thi thể con người sau một thời gian dài sẽ mục rữa, cuối cùng là chỉ còn lại xương cốt, trên bề mặt cũng mục hết rồi, đừng nói là máu, ngay cả giọt nước cũng thấm vào được. Còn cái trò nhỏ máu nhận người thân mà phim ảnh hay có, thì càng vớ vẩn. Thực tế là máu của những người xa lạ cứ nhỏ vào cùng một bát thì không bao lâu sau đều hòa làm một hết, nhỏ máu nhận người thân hoàn toàn không có cơ sở khoa học".

Bác sĩ đang nói hăng hái, rồi cũng phải liếc sang nhìn chủ tiệm. Anh vẫn chưa từ bỏ ý định lấy mấy ống máu của chủ tiệm đi làm thí nghiệm. Nhưng anh cúi đầu nhìn hình dáng đồ chơi buồn cười của mình hiện tại, lại thở dài bất lực.

Nhưng bác sĩ cũng nghĩ thoáng, lập tức quên luôn chút phiền muộn vừa rồi, rồi liền nhớ ngay ra một chuyện: "Chết rồi, chủ tiệm, có phải chiếc câu đai ngọc này không được tùy tiện sờ vào không? Sao tôi thấy anh ban nãy hình như cầm nó lên?"

Chủ tiệm đóng nắp hộp lại, chậm rãi nói: "Đã là người thì đều có dã tâm, chiếc câu đai ngọc này chỉ là một bước ngoặt, để khơi gợi dã tâm lớn nhất của con người. Nhưng nếu khống chế được, thì chẳng có gì đặc biệt nữa. Năm xưa tôi đã đánh tráo khối ngọc Hòa Thị của Lưu Hiệp, trong lòng cảm thấy có lỗi, mới tặng cho hắn chiếc câu đai ngọc này. Dã tâm hồi đó của hắn chỉ là muốn sống sót, tuy sau này hắn từng làm việc mạo hiểm, nhưng cuối cùng cũng được chết tử tế, cũng coi như là toại nguyện".

Gã chủ tiệm từ từ nhớ lại, rồi có chút hoang mang, gã cũng không rõ năm xưa mình làm thế là đúng hay sai nữa. "Vì thế không thể cho kẻ dã tâm có thế lực, không thể cho kẻ ngu muội có binh khí sắc", câu nói này rất có lý.

(Trích thiên "Chủ thuật huấn, sách Hoài Nam Tử")

"Chủ tiệm, chủ tiệm, dã tâm của anh là gì?"

Tiếng hỏi dồn của bác sĩ cắt đứt mạch hồi tưởng của chủ tiệm, chủ tiệm cầm lấy đôi tai mềm mại của chú thỏ bông, rồi bỏ chú thỏ vào trong túi hành lý, mỉm cười nói: "Không còn sớm nữa, chúng ta đi phong tỏa mắt trận thôi".

"Phạm quy rồi! Phạm quy nhé! Không muốn trả lời câu hỏi thì cũng không thể dùng cách này được!"

Quyển 3 - Chương 5: Định Bàn Châu

1

Năm 10, huyện Nam Đốn.

Lưu Tú cầm tiền tiêu vặt mà anh trai cho, chạy lăng xăng ngoài chợ. Bây giờ cậu cũng coi như là có gia sản kếch xù rồi theo lý mà nói thì thích gì cũng mua được, nhưng khó là ở chỗ khoản tiền kếch xù của cậu, dân buôn thúng bán mẹt không dám nhận.

Từ khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán lập ra nhà Tân liền hạ lệnh ngừng thông hành tiền Ngũ Thù, chuyển sang dùng ba loại tiền mới của triều Tân, là Đại Tuyền, Khế Đao và Kim Thác Đao. Tiền Đại Tuyền được đúc, trọng lượng chỉ tương đương với khoảng hai đến ba lần tiền Ngũ Thù, nhưng lại bằng giá của mười đồng Ngũ Thù, nên chẳng có hàng quán nào muốn nhận. Còn như Khế Đao ăn năm trăm Thù, Kim Thác Đao ăn năm nghìn Thù, thì chắc ai mù mắt mới chịu nhận thứ tiền tệ lỗ vốn này.

Nhưng chú của Lưu Tú là Tiêu huyện lệnh, bổng lộc đều phát bằng loại tiền người dân không thể tiêu thụ này, phụ thân của Lưu Tú đã qua đời, cậu và hai người anh đều do chú nuôi nấng. Anh cả Lưu Diễn trượng nghĩa khinh tài, tuy tiêu xài nhiều, nhưng sản nghiệp của cha để lại cũng tương đối sung túc, tiền tiêu vặt của ông chú cho mấy anh em, anh ta đều thoải mái cho hết các em, còn mình thì tính sau.

Lưu Tú đem đồng Kim Thác Đao ra ngắm nghía, thầm nghĩ nếu không quan trọng giá trị của nó, chỉ nhìn bên ngoài thôi, đồng tiền này cũng rất đặc biệt.

Đồng Kim Thác Đao này do một đồng tiền đồng và một thân đao ghép thành, rất giống như một tổ hợp giữa tiền đao thời Chiến Quốc và tiền Ngũ Thù thời Hán, đúc bằng đồng thau. Trên dưới đồng tiền sử dụng kỹ thuật thác kim, dùng vàng nạm vào hai chữ "nhất đao" khắc chìm tuyệt đẹp, trên thân đao thì đúc ba chữ "bình ngũ thiên", nên dân gian vẫn gọi là "nhất đao bình ngũ thiên", nghĩa là một đồng Kim Thác Đao bằng với năm nghìn đồng Thù.

Năm nghìn Thù đấy! Lưu Tú nhăn cả mặt lại, thế là tương đương với gia sản kếch xù rồi, phải biết rằng hiện giờ tuy chính trị bất ổn, lòng dân dao động, nhưng một cân thịt đắt cắt cổ cũng chỉ có giá hai mươi tiền, một chiếc áo bào vải cũng chỉ bốn, năm trăm tiền, ở cái huyện này năm trăm Thù là mua được cả một căn nhà kha khá rồi!

Nhưng vấn đề là, Kim Thác Đao giá trị to lớn thế, mà cậu không tiêu được!

Lưu Tú cầm đồng tiền Kim Thác Đao trong tay, muốn khóc không khóc nổi, cậu đã đi loanh quanh trong chợ rất lâu rồi, chẳng có ai muốn nhận đồng tiền đó của cậu, cho dù cậu muốn đổi rẻ cũng chẳng ai buồn đáp lời.

Việc này cũng trong dự liệu cả, nếu không thì sao anh cả nhà cậu lại có thể tùy tiện vứt cho cậu năm nghìn Thù để tiêu pha được, rõ ràng là làm khó cậu.

Vương Mãng cướp ngôi Hán, lập triều Tân, danh không chính ngôn không thuận, rồi những cải cách chính sách mới ban hành sau đó lại càng khiến mọi người khó hiểu, không ai thi hành nổi. Tiền tệ phát hành ra, không có ai dùng, người ta vẫn lén lút dùng tiền Ngũ Thù. Buổi sáng hôm ấy, Lưu Tú nhìn thấy có người dùng, tất nhiên nhiều nhất là Ngũ Thù Nguyên Thú do thời Hán Vũ đế phát hành, loại tiền Tử Kiềm làm từ đồng tím này được mọi người thích hơn cả, nó đáng giá hơn tiền Ngũ Thù bình thường một chút.

Lưu Tú nhìn ngó lung tung trong chợ, trong lòng không khỏi có chút đố kỵ.

Tính về xuất thân, cậu là cháu chửi đời của Hán Cao Tổ Lưu Bang, tuy rằng xét theo thông lệ phong tước, đến đời cậu đã chẳng còn nổi chút vinh dự hoàng tộc nào, đã không còn tước để phong nữa rồi. Đến ông chú cũng chỉ làm được chức huyện lệnh nhỏ nhoi, mà cũng phải dựa vào sức lực thật sự của mình. Giờ đây Vương Mãng cướp ngôi, họ lại càng mất đi thân phận danh dự quý tộc. Nhưng anh cả của cậu luôn luôn tự nhận mình là chính thống nhà Hán, cực kỳ bài xích và bất mãn với triều Tân Mãng, gần đây thậm chí còn bắt đầu phát tán hết gia sản, kết giao với người tài giỏi để mưu đồ, có vẻ rất muốn làm được chút việc gì đó.

Lưu Tú năm nay mới mười sáu tuổi, cũng coi như trưởng thành rồi, hồi nhỏ đi du học ở Trường An, đã trải nhiều chuyện đời. Lần này về, cậu cũng đang quan sát chút tâm tư đó của anh trai. Cậu có lòng muốn khuyên can, nhưng anh trai hơn cậu chục tuổi, anh cả cũng như cha, cậu thực sự không biết phải nói thế nào.

Vừa suy nghĩ phiền muộn vừa đi quanh, Lưu Tú bỗng nhận ra mình đã đến cuối chợ, chỉ lác đác có vài người đang bày hàng bên đường, cậu liền tiện thể ngó vào, thì phát hiện ra có một gánh hàng bày vài món đồ, xem ra là đồ cổ, trông rất đáng xem.

Lưu Tú thấy hứng thú liền ngồi xổm xuống, đưa tay cầm lật qua lật lại xem. Có vài thứ bát chén bằng gốm, có mấy thứ trông như tiền Tần Bán Lượng lưu hành thời Tần, mấy chiếc tước bằng đồng, một cặp ngọc bội hình chim xanh, vài cuốn sách thẻ tre... Lưu Tú nhìn thấy một chiếc bàn tính được vứt bừa trong đống đồ cổ, bỗng nhớ ra mấy món nợ trong nhà mình, bèn muốn mua một chiếc bàn tính về tính thử.

(Chén rượu thời cổ, có ba chân)

Những thứ khác không nói, nhưng việc tiêu pha của anh trai dạo này thực sự có phần hơi quá.

Lưu Tú cầm thử chiếc bàn tính lên, cảm thấy chất gỗ bàn tính có phần kém. Nhưng trong từng hàng rãnh hình cong chạy dọc trên bàn gỗ, là những viên hạt châu tròn bóng đáng yêu, trông như dùng ngọc xanh mài thành. Ở mỗi một rãnh, viên châu đầu tiên khác màu với bốn viên còn lại, được làm bằng bạch ngọc, một viên tương đương với năm số. Lưu Tú thử gẩy châu, cảm thấy chất ngọc mượt mà, cậu rất thích thú.

(Bàn tính thời cổ đặt các viên châu (dùng hạt đậu hoặc viên đá) vào trong rãnh trên bản gỗ làm con tính, chứ chưa dùng hạt xuyên qua thanh trượt như về sau này)

"Bàn tính này bao nhiêu tiền?" Lưu Tú lắc lắc chiếc bàn tính trong tay, các hạt châu va vào nhau kêu leng keng rất vui tai. Lưu Tú ngẩng đầu nhìn chủ hàng, mới phát hiện ra chủ hàng mặc một chiếc áo bào màu đen. Trong "Chu Lễ" màu đen là màu chính tông và tôn quý nhất, mà thời nhà Tần cũng coi màu đen là quý, triều Hán cũng chú trọng màu đen áo của quan lại đều màu đen. Thực ra Lưu Tú biết sở dĩ vải đen đắt như vậy, bởi vì màu đen là màu thẫm, khi nhuộm cần phải trải qua hơn chục công đoạn, thậm chí là những công đoạn phức tạp hơn nữa mới hoàn thành. Ngược lại, vì sao dân thường toàn mặc màu trắng, cũng bởi vì màu trắng không phải nhuộm, giá cả rẻ nhất.

Lúc này Lưu Tú mới thấy gã nam nhân mặc đồ đen còn rất trẻ, trông đầy vẻ thư sinh, mặt mũi tuấn tú, khiến ai nhìn vào cũng thấy dễ chịu.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người đen đủi hay nghèo khó sẽ đổi đời ngay lập tức nhờ điều này

Chắc vì nhà cửa suy vi, nên đành phải đem đồ trong nhà ra bán... Lưu Tú cảm thấy có chút đồng cảm, nên có ý muốn mua đồ của gã để giúp. Nhưng vừa nghĩ đến chuyện mình chỉ có mỗi một đồng Kim Thác Đao là cậu lại đau đầu, cậu đành phải rào trước luôn: "Tại hạ chỉ có một đồng Kim Thác Đao, không biết có dùng được không?"" Vừa nói, Lưu Tú vừa lấy đồng Kim Thác Đao ra.

Ánh mắt của gã chủ hàng trẻ tuổi chỉ nhìn lướt qua đồng Kim Thác Đao, rồi lập tức mỉm cười nói: "Chiếc bàn tính này hơi lỗi một chút, hay thôi đừng mua".

Lưu Tú hơi nhíu mày, cầm bàn tính trong tay lật qua lật lại xem kỹ, nhưng không thấy có bất cứ vết lỗi nào, bèn nghĩ gã không muốn nhận đồng Kim Thác Đao, cậu đưa luôn cả đồng rồi nói: "Không cần trả tiền thừa đâu". Nói rồi lập tức cầm bàn tính, đứng dậy đi ra. Cậu tính toán rất rõ, chiếc bàn tính tuy nhìn đẹp, nhưng nhiều lắm thì cũng khoảng một trăm tiền. Đồng Kim Thác Đao này tuy hơi khó tiêu thụ, nhưng chắc chắn là đáng tiền hơn một trăm tiền nhiều.

Tự cảm thấy mình vừa làm được một việc tốt, Lưu Tú thấy thoải mái tinh thần, ít nhiều cũng hiểu ra vì sao anh trai mình rất trượng nghĩa khinh tài, cảm giác đó thực sự rất hay.

Đằng sau cậu, gã chủ hàng lặng lẽ nhìn đồng tiền Kim Thác Đao, một hồi lâu sau mới thở dài nói: "Thôi đành...".

2

Lưu Tú cầm chiếc bàn tính về Thung Lăng, tất nhiên là bị người nhà cười nhạo.

Không phải vì Lưu Tú dùng Kim Thác Đao đổi lấy một chiếc bàn tính tầm thường, mà vì chiếc bàn tính này đúng là đã hỏng!

Lưu Tú lấy tay gẩy rãnh gỗ ở giữa bàn tính, có một viên châu không thể gẩy nổi, khiến cậu xấu hổ quá hóa giận. Ai cũng biết con tính thì phải gẩy được, nhưng lại có một viên không gẩy được, thế thì còn ai cần bàn tính này làm gì nữa?

Lưu Tú cũng chả thể trách nổi chủ hàng, bởi vì rõ ràng gã đã nói bàn tính này có lỗi, nhưng cậu không nghe, cứ vứt tiền đó rồi cầm về. Lưu Tú cảm thấy ánh mắt anh hai nhìn mình rất lo lắng, có lẽ là sợ cậu cũng như anh cả, tàn phá hết gia sản.

Lưu Tú bị soi một hồi, ngại quá, cầm bàn tính quay trở về phòng mình, cậu muốn nạy viên hạt châu bị kẹt ra, lấy đá mài mài nhỏ đi, thì chắc là vẫn dùng được. Viên châu đó trắng muốt, không một tì vết, trơn mịn như mỡ đông, không rõ có phải do ảnh hưởng tâm lý không, mà Lưu Tú cảm thấy viên châu đó đẹp hơn những con tính khác nhiều.

Ồ, có lẽ là do nó to hơn một cỡ?

Lưu Tú tìm đủ mọi cách, đều không thể nào nạy viên đó ra được, trừ phi phải phá hỏng cái rãnh bàn tính. Lưu Tú mầy mò đến toát mồ hôi, không hiểu nổi chiếc bàn tính này được làm bằng gì, viên châu đó to như thế mà cũng nhét được vào rãnh, thực là vô lý. Cuối cùng tìm đủ mọi cách, cậu cũng chỉ có thể khiến viên châu đó quay tại chỗ mà thôi.

Chẳng lẽ thực sự phải tháo rời chiếc bàn tính này ra?

Lưu Tú vừa nghĩ đến đổ, thì bỗng nghe thấy một giọng con gái lanh lảnh vang lên trong phòng, cất lên một cách biếng nhác: "Ta khuyên cậu nên bỏ ý định đó đi".

Lưu Tú giật hết mình, vội quay đầu lại, mới thấy trên giường cậu có một người đẹp áo trắng ngồi dựa trên đó, gương mặt như hoa như nguyệt, đẹp như một bức tranh thủy mặc, suối tóc đen dài không buộc lên, cứ để mặc cho chảy tràn xuống, trông có vẻ uể oải lười nhác.

Nhìn chằm chằm vào người lạ một lúc, Lưu Tú mới nhận ra mình như thế là quá kém lễ độ với người đẹp, liền vội đứng dậy hỏi: "Cô... cô là ai?"

"Ta là viên châu trong tay cậu". Người đẹp áo trắng đưa tay áo lên, che miệng ngáp dài một cái. Đôi mắt hạnh hoa hơi lim dim, nhìn chăm chú vào chiếc bàn tính Lưu Tú vẫn cầm trên tay, khẽ nhếch khóe miệng cười giễu cợt: "Tên nhóc không biết gì, một đồng Kim Thác Đao mà cướp được ta về đây, quá rẻ cho cậu rồi!"

Lưu Tú há hốc mồm, người đẹp áo trắng này thực sự là viên hạt châu trong bàn tính của cậu ư? Từ nhỏ Lưu Tú đã nghe rất nhiều truyện thần tiên, nên ngạc nhiên thì ngạc nhiên chứ cậu không sợ, cậu còn cảm thấy hứng thú liền giải thích: "Kim Thác Đao đáng tiền lắm đấy, hơn nữa cái bàn tính này có dùng được đâu! Tính ra thì ta chịu thiệt chứ". Lưu Tú thấy lời nói của đối phương không hề nặng nề sách vở, nên cậu cũng nói chuyện thoải mái theo.

Người đẹp áo trắng nghe xong, đôi mày lá liễu dựng ngược, hừ một tiếng: "Tên nhóc dốt nát! Đây là bàn tính do Phạm Thiếu Bá chế ra, bản thể của ta chính là viên Định Bàn Châu kia, Kim Thác Đao à... hừ!" Người đẹp áo trắng hơi nheo mắt, lẩm nhẩm tính: "Kim Thác Đao này e rằng chả được mấy năm là ngừng phát hành, à, chắc trăm ngàn năm sau sẽ trở thành đồ sưu tầm giá trị liên thành, kể ra Vương Mãng thiết kế tiền tệ cũng khá đấy, nhưng hiện tại thì nó còn lâu mới so được với Định Bàn Châu".

Phạm Thiếu Bá? Lưu Tú sững sờ, tuy cậu đọc sách không nhiều, nhưng Phạm Lãi, tự là Thiếu Bá, điều này thì cậu biết. Đó là nhân vật truyền thuyết thời Xuân Thu, từng phò tá Việt vương Câu Tiễn đánh bại nước Ngô xưng bá thời Xuân Thu, sau đó thì từ quan ra đi. Nghe đâu sau đó tự xưng là Đào Chu Công, ba lần buôn bán trở thành nhà giàu có, lại có ba lần gia tài khánh kiệt, đó là tổ nghề của mọi nhà buôn. Nếu nói chiếc bàn tính này của Phạm Lãi, thì không đến mức vô lý.

Tính ra, Phạm Thiếu Bá qua đời đã hơn năm trăm năm, thứ đồ có linh khí tu thành hình thể linh trí, cũng đủ thấy nó quý giá thế nào. Lưu Tú cười nhăn nhó, kính cẩn để chiếc bàn tính lên bàn, lúc này cậu nhớ lại vẻ mặt của gã chủ hàng, mới biết là mình hiểu nhầm ý của gã. vốn định bảo là sẽ trả lại chiếc bàn tính nhưng nhìn người đẹp áo trắng, Lưu Tú lại bỗng thấy không nỡ. Cậu mím môi lại, rồi nói rất thẳng thắn: "Nhưng bàn tính thì đã mua về rồi, cái đạo buôn bán là trọng chữ tín, chẳng nhẽ bán rồi lại đòi?"

Người đẹp áo trắng lại trở lại bộ dạng ngái ngủ, bĩu môi nói: "Thôi, ta ngủ ở đâu cũng như nhau, nếu không phải tên nhóc này định phá giường của ta, ta cũng chẳng thèm xuất hiện làm gì!" Nói dứt, nàng ta biến thành một dải khói xanh, bay về bàn tính trên bàn, chỉ thấy viên Đinh Bàn Châu lóe lên ánh sáng, rồi trở lại bình thường.

Lưu Tú nhìn chăm chăm vào bàn tính một hồi lâu, vẫn không dám nói gì cả. Mọi việc vừa nãy giống như ảo giác, cho dù cậu có kể lại với người khác, e rằng cũng chẳng ai tin. Lưu Tú đánh, lau sạch bàn tính một cách cẩn thận, rồi đặt ở một góc bàn sách, nơi mình có thể với tới được ngay.

Từ ngày hôm đó, Lưu Tú có thêm thói quen mới, đó là ngồi kể lể những chuyện lặt vặt với chiếc bàn tính. Cậu biết như thế là thất lễ, nhưng cậu không thể coi chiếc bàn tính này là đồ vật bình thường được nữa. Cậu cũng biết mỹ nhân áo trắng kia chắc là đang ngủ, nhưng cậu vẫn nóng lòng muốn gặp nàng lần nữa, còn lén lút đặt tên cho nàng là Châu Nhi.

Hôm đó, Lưu Tú vẫn theo thói quen, ngồi kể lể với bàn tính, thở dài nói: "Châu Nhi, đại ca ta định bán hết nhà cửa ông cha để lại, cô nói xem phải làm thế nào?" Thực sự Lưu Tú không còn ai để tâm sự nữa, anh cả và anh hai thì ngày ngày cãi nhau, ba người chị đều đã đi lấy chồng, còn chỗ ông chú thì dù sao cũng có khoảng cách thế hệ, cho dù có muốn khuyên giải, thì cũng không coi một thiếu niên còn chưa làm lễ đội mũ như cậu ra gì.

Căn nhà cũ ấy đầy những ký ức tuổi thơ của cậu, Lưu Tú không hiểu, vì sao anh cả có thể thật sự lâm vào bước đường khuynh gia bại sản này. Từ khi biết viên Định Bàn Châu có linh khí, Lưu Tú không dám chạm vào nó nữa, nhưng lúc này cậu đang hoang mang, nhìn viên châu lấp lánh ánh sáng trắng, cậu bất giác đưa tay ra chạm khẽ vào.

"Thằng nhóc dốt nát này, người cũ không đi, thì người mới không tới, có gì mà khó xử?"

Trong khoảnh khắc tiếng nói lanh lảnh cất lên, Lưu Tú vội vã quay người, lại thấy người đẹp áo trắng giống như lần trước xuất hiện, dựa hờ vào giường, một tay chống lên trán, dưới lớp áo trắng, vẫn nhận ra thân hình yểu điệu, khiến Lưu Tú thất thần. Một lúc sau cậu mới cười khổ: "Nhưng căn nhà này mà bán đi, người hầu hạ đi hết, thì ta phải đi làm ruộng mới nuôi sống bản thân được".

"Việc này dễ thôi, ta dạy cậu cách buôn bán, đảm bảo cậu trở thành người giàu nhất thiên hạ!" Người đẹp áo trắng vừa nhắc tới chuyện buôn bán là đã hết luôn vẻ ngái ngủ mỗi khi đôi mắt mở tròn, nàng hoạt bát hẳn lên, giống như một đóa quỳnh bỗng dưng nở rộ, hớp hồn người khác.

Lưu Tú hơi ngẩn người, nhưng rồi lập tức lắc đầu. Người ta nói là "sĩ nông công thương", dân buôn trong thời buổi này chẳng qua cũng chỉ cao hơn những ngành nghề thuộc loại "hạ cửu lưu" có một chút. Thương nhân giàu đến mấy cũng không được phép mặc gấm vóc lụa là, cũng không được đi xe ngựa quá sang trọng, không được làm quan, không được tự đứng tên để mua đất ruộng, hơn nữa bắt buộc phải kê khai tài sản và nộp thuế nặng cho triều đình. Nếu khai báo không thành thật mà bị phát giác, thì sẽ bị tịch thu hết tài sản, còn bị phạt đi lính vùng biên một năm. Có thể nói đám nhà buôn chính là một quả thị mềm mà ai cũng bóp được, cho nên dù Lưu Tú có khốn khó đến mấy, suy nghĩ trong đầu vẫn chỉ là đi làm ruộng, chứ không trở thành đám con buôn.

(Chín nghề được cho là thấp kém, gồm có: thầy cúng, gái điếm, đồng cốt, đánh mõ, cắt tóc, kèn trống, con hát, ăn mày, bán kẹo)

Nhìn Châu Nhi chán ngán bĩu môi, rồi lại lấy tay che miệng ngáp ngắn ngáp dài, Lưu Tú không muốn nàng lại lập tức quay trở về viên châu để ngủ như lần trước, liền vội nói: "Châu Nhi đừng bực mình, ta thực sự không nỡ bán ngôi nhà ông cha để lại mà! Đại ca ta bừa bãi quá!" Lưu Tú hơi có chút bất mãn, anh em thì phải có tôn ti, nên trước mặt anh cả, cậu đương nhiên không dám nói nhiều, có điều dù sao cậu cũng không thích những chuyện anh trai mình làm.

"Có gì mà không được? Cậu có biết "buông bỏ" nghĩa là gì không?" Người đẹp áo trắng không có chút phản ứng nào với cái tên mới của mình, cố gắng để mắt không díp lại, mỉm cười nói: "Bỏ được, cứ bỏ đi rồi sẽ được. Cũng có nghĩa là nếu muốn được thứ gì đó, thì ắt sẽ phải bỏ đi thứ khác. Đại ca của cậu rất rõ, anh ta muốn được người khác ủng hộ, thì phải từ bỏ tài sản của mình. Đôi bên cùng có lợi, chuyện giao dịch này tốt đấy chứ?"

"Cô... cô nói là...". Lưu Tú hơi bất ngờ, cậu không thể coi chuyện này như một cuộc giao dịch được. Anh trai cậu rõ ràng vẫn hay tự ví mình như Mạnh Thường Quân, có ba nghìn môn khách trong nhà...

"Cậu coi thường nhà buôn, rất nhiều người coi thường nhà buôn, nhưng mọi chuyện trên đời này, đều có thể coi như một cuộc giao dịch". Những ngón tay trắng và mảnh dẻ của Châu Nhi chạm lên đôi môi đỏ, nàng cười tít mắt: "Sao nào? Học theo ta, hãy làm một nhà buôn hoàn mỹ! Có lẽ cậu sẽ trở thành người chí cao vô thượng đấy".

Lưu Tú lắc đầu quầy quậy, ý nghĩ thương nhân là hạ tiện đã ăn sâu vào đầu cậu, không thể thay đổi được. Nhưng đúng là cậu học hành chậm chạp, du học Trường An bao nhiêu năm mà chẳng có chút tiến bộ nào. Khi cậu định nói gì để giải thích, thì nhận ra trong phòng chỉ còn một mình mình, Châu Nhi thấy cậu không có hứng thú gì, bèn không lãng phí thêm chút thời gian nào nữa, lập tức trốn vào trong Định Bàn Châu để ngủ tiếp.

Khẽ thở dài một tiếng, Lưu Tú lau sạch bụi bám trên bàn tính, nghĩ bụng từ ngày mai chắc cậu sẽ phải học cách làm ruộng rồi.

3

Từ ngày căn nhà ở Thung Lăng bán mất, Lưu Tú cùng hai anh trai chuyển về sống dưới căn nhà lợp cỏ, cũng tạm đủ để ba anh em sống. Tất nhiên Lưu Diễn, anh cả của Lưu Tú không ở cùng họ, anh ta tìm lại người đã mua căn nhà của họ, thuê lại, bề ngoài thì trông mọi thứ vẫn như cũ, tiếp tục dùng căn nhà cũ để chiêu đãi họ hàng thân thích và các hiệp khách giang hồ, còn Lưu Tú và anh hai Lưu Trọng thì ở trong căn nhà lợp cỏ nhỏ bé.

Tuy anh hai Lưu Trọng không thể ngăn cản Lưu Diễn bán căn nhà cũ đi, nhưng anh ta vẫn còn giữ được rất nhiều đồ cổ trong nhà, lần lượt đem đi bán. Lưu Tú nhìn thấy anh hai như vậy, bỗng nhiên nhớ lại gã chủ hàng mà lần trước cậu đòi mua chiếc bàn tính, thật giống với anh hai của cậu hiện giờ! Quả thực là chuyện đời khó đoán.

Tất nhiên Lưu Tú nhất quyết sẽ không đứng ra bán những món đồ cổ kia, dù sao cậu cũng có chút tính thư sinh, không chịu được cảnh ra chợ bán hàng bị người ta bình phẩm, bị người ta chê bai. Vì vậy cậu đành ngoan ngoãn cầm cuốc đi làm ruộng, không có cách nào khác. Cậu bắt đầu hiểu rằng, nếu thời cuộc đã loạn, trong tay có nhiều nhà cửa, tiền bạc, đồ cổ đến mấy cũng vô ích, đến lúc khó khăn, thì một miếng ngọc bội thượng hạng cũng không đổi nổi lấy một bữa cơm cứu mệnh.

Việc cậu hàng ngày ra ruộng cày cấy, người đầu tiên cảm thấy khó coi chính là anh trai cả, anh ta liền dúi cho cậu nhiều tiền, vỗ ngực nói tiền không đủ thì cứ đến tìm anh. Nhưng Lưu Tú thì không thiếu tiền, chỉ có điều thường ngày nếu bảo cậu đi kết giao với hào sĩ, rồi ngồi phê phán chuyện triều chính, thì cậu không rảnh rỗi đến thế. Dưới ánh nắng gắt cuốc đất đổ mồ hôi, lại khiến cho cậu được thấy bình an, thấy ngọt ngào, sung sướng hơn việc vất vả ôm đống sách khó hiểu kia đọc. Lưu Diễn thấy rất khó chịu với đứa em cam tâm làm nông dân của mình, thường hay chế giễu cậu kém cỏi, nhưng mỗi khi như vậy, Lưu Tú chỉ cười ngờ nghệch, chứ chẳng nghĩ ngợi gì. Còn anh hai thì quan sát cậu một thời gian dài, sau đó hai người nói chuyện với nhau rất lâu, rồi cũng không kêu ca gì cậu cả.

Châu Nhi của cậu không còn xuất hiện nữa, Lưu Tú rất muốn gặp nàng, rất muốn nghe cái giọng nói biếng nhác của nàng, nhưng Lưu Tú cũng có nguyên tắc của mình, nếu cậu đã chắc chắn mình không đi buôn, thì sẽ không dễ dàng chịu nghe lời.

Năm tháng như thoi đưa, thoáng chốc mà Lưu Tú đã làm nông dân được mười năm, cơ thể mỏng manh giờ đã rắn rỏi, người cao tám thước, mày râu đã rậm, nước da trắng nhợt giờ đã sang màu bánh mật khỏe khoắn, trên tay đã nổi chai.

Tính cách trước kia có phần hung hăng, thì trong những ngày tháng lao động, đã được mài giũa trở thành cẩn thận ôn hòa. Lại cộng thêm việc từ nhỏ đã đi du học ở Trường An, chàng vẫn mang một vẻ thư sinh trầm tĩnh an lành, không giống như những nông phu khác.

Vì chàng chăm chỉ cày cuốc tưới bón, nên mảnh ruộng của chàng hoa màu thu hoạch tốt, gia sản cũng khấm khá. Năm nay chàng đã hai mươi sáu tuổi, ở tuổi này những nhà khác thì con cái cũng có thể ra đồng làm ruộng được rồi. Bà con lối xóm gần như ai cũng từng mai mối cho chàng, nhưng chàng vẫn chưa nhận lời, thoái thác là phải có anh trai quyết định. Anh trai cả Lưu Diễn thì rất khó gặp, hàng ngày hành tung thần bí chẳng biết đi đâu, còn anh hai Lưu Trọng thì mở được một cửa hàng trên huyện, rất ít quan tâm tới cậu.

Vì sao không thành thân? Bản thân Lưu Tú cũng không rõ, ở nơi sâu thẳm nhất trong trái tim chàng, vẫn còn lưu một bóng giai nhân áo trắng, dù đã mười năm trôi qua, nhưng chẳng mờ đi chút nào.

Chàng thật quá ngốc nghếch.

Thỉnh thoảng, Lưu Tú cũng tự cười mình. Trong lòng chàng đang chờ đợi gì, ngay chính chàng cũng không biết nữa. Nhưng chàng biết, chàng không muốn nghe theo lời bà mối mà cưới bừa một cô con gái nhà nông chưa từng gặp mặt. Tuy giờ đây chàng ngày nào cũng ra ruộng làm việc đồng áng, nhưng từ trong lòng chàng không thừa nhận mình chỉ là một nông phu bình thường.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Rất nhiều người đang đặt mua chiếc Rolex bản sao giảm giá đến 90%

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Từ khoảng ba năm trở lại đây, thiên tai đói kém, nạn châu chấu hoành hành, khắp nơi nổi lên mấy chục đạo quân khởi nghĩa như quân Lục Lâm, quân Xích Mi, quân Đồng Mã... Chiến tranh bốn bề, dân không sống nổi, không khí bất an ấy dần dần cũng đã lây lan tới gần Thung Lăng. Lưu Tú cắt hết lúa mạch trên đồng, trữ vào trong kho, xong rồi cũng bắt đầu ưu tư.

Anh cả Lưu Diễn của chàng nuôi rất nhiều tân khách, rất có danh tiếng, giờ thiên hạ đại loạn, lại càng có nhiều người mộ tiếng mà tìm tới. Bởi vì số người tăng mạnh, tiền với lương thảo-trong tay Lưu Diễn thì có hạn, việc tiếp đón những hào sĩ giang hồ ngày một khó khăn. Có người thì bắt đầu lén lút làm những việc không quang minh chính đại như đánh nhau cướp bóc, có kẻ tệ hơn còn công khai lấy danh nghĩa Lưu Diễn để chống lại quan phủ. Đám nha dịch thì như bầy kiến, ngửi thấy mùi là mò đến tìm nhà họ Lưu để gây khó dễ, cửa hàng của anh hai bị quấy nhiễu đến mức phải đóng cửa đã đành, thậm chí đến Lưu Tú cũng không được tha. Lương thực nhà Lưu Tú tích trữ được, quá nửa là bị đám nha dịch lấy mất, nếu cứ tiếp tục thế này, chỉ e sau này chẳng giữ nổi chút nào.

Lưu Tú bất chợt nắm chặt bàn tính trong tay, chàng đã quen mang theo bàn tính này ữong người, thỉnh thoảng lấy ra chà tay mấy cái lên Định Bàn Châu. "Châu Nhi, cô nói xem ta phải làm gì đây?" Lưu Tú lẩm bẩm một mình, lời nói vừa dứt thì chàng đã có chút xấu hổ, chàng đã qua tuổi đội mũ, sao vẫn cứ như hồi bé, chẳng có chủ kiến gì?

Nhưng trong bao năm nay, Lưu Tú đã quen với việc không có tiếng trả lời nào, bèn tự hỏi tự trả lời: "Bọn nha dịch đã đến đòi, thì số ngũ cốc này chẳng có hàng nào dám mua nữa. Đành phải vận chuyển về Tân Dã, còn có thể đi về theo anh rể hai, tránh tình hình hỗn loạn bên phía đại ca vậy...". Lưu Tú vừa nói, vừa bỗng nhiên cảm thấy viên Định Bàn Châu dưới tay mình chuyển động. Tim chàng đập mạnh, Lưu Tú nín thở, quả nhiên ngay lập tức chàng nghe thấy một tiếng nói ngái ngủ quen thuộc.

"Hả? Cuối cùng cũng đã nghĩ thông rồi à? Không làm nông phu nữa hả?"

Lưu Tú nhìn về nơi có tiếng nói, thấy Châu Nhi đang tựa vào cửa kho, hình như vừa mới tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, mắt vẫn lờ đờ. Hình như với nàng, thời gian ngừng trôi, không để lại bất cứ dấu tích nào, vẫn phong thái phi phàm, áo trắng tinh khôi, đẹp như băng ngọc. Trái tim Lưu Tú bỗng nhiên nhói lên, hình như cuối cùng đã hiểu ra điều gì đó, nhưng chàng không kịp nghĩ kỹ, gương mặt nho nhã đã rạng rỡ ra luôn, chàng khẽ cười nói: "Châu Nhi, ta chỉ tạm thời không làm ruộng thôi, bán ngũ cốc đi, khai xuân năm tới vẫn sẽ tiếp tục".

Châu Nhi lấy tay áo che miệng, đôi mắt lại lim dim, ngáp dài một cái, rồi nói một cách lười nhác: "Tên nhóc dốt nát, thời buổi này, chỉ cần cậu đi chỗ khác, thì mảnh ruộng với căn nhà này sẽ bị người ta chiếm ngay, cậu còn muốn năm sau trồng cấy tiếp? Thật là ngây thơ".

Lưu Tú nghe xong cứng họng, nhưng không thể không thừa nhận rằng lời nói ấy rất hợp lý. Giờ đang thời loạn, khế ước nhà đất cũng chỉ là mảnh giấy vụn, ai cầm đao kiếm sắc hơn thì người đó lên làm đại ca thôi. Lưu Tú vẫn nghĩ sau mười năm mình đã trưởng thành hơn nhiều, nhưng Châu Nhi vẫn cứ gọi "tên nhóc dốt nát" như ngày xưa, làm chàng tức đỏ mặt tía tai, chàng lắp bắp hỏi: "Vậy... vậy cô bảo phải làm thế nào?"

Châu Nhi mỉm cười, bỗng chốc tứ phía như bừng sáng, cả căn nhà kho tầm thường như trở nên rực rỡ lạ thường vì nụ cười của nàng. Nàng nói chắc nịch: "Ta cho rằng kế hoạch đó rất tốt, đem ngũ cốc đến Tân Dã để bán. Nhưng ta sẽ dạy cậu cách làm, trong cái đạo buôn bán có rất nhiều học vấn đấy!"

"Việc này... chắc không tính là buôn bán...". Lưu Tú kháng nghị yếu ớt, nhưng nhìn thấy Châu Nhi đã hết ngái ngủ, hoạt bát hẳn lên, chàng cuối cùng cũng thôi không kháng nghị nữa.

Dù sao chàng cũng phải tới Tân Dã bán lúa, có Châu Nhi cùng đi, chẳng phải là một chuyện tốt sao?

Lưu Tú thu dọn đồ đạc, những thứ không đem đi được thì tìm một chỗ chôn sâu xuống. Châu Nhi cũng không về Định Bàn Châu để nghỉ ngơi như mọi khi nữa, mà đang rất hào hứng truyền thụ đạo buôn bán cho chàng. Lưu Tú vốn dĩ không coi trọng nghề buôn, cho rằng những thương nhân chẳng phải lao động vất vả gì, chỉ đem hàng hóa từ nơi này sang nơi khác là kiếm được bộn tiền trở nên giàu có. Nhưng qua lời kể sinh động của Châu Nhi, chàng cũng bắt đầu thay đổi suy nghĩ.

Vận chuyển hàng hóa đi giao dịch thì gọi là "thương" ngồi một chỗ bán hàng gọi là "cổ". Từ "thương nhân" bắt đầu được sử dụng vào đầu thời Chu, bởi vì thương nghiệp đời Thương vô cùng phồn vinh, di dân của triều Thương giỏi việc buôn bán, nên những di dân của nhà Thương đi làm việc buôn bán được người nhà Chu gọi chung là "thương nhân", ở thời Chu, danh xưng này có ý khinh miệt, coi như là loại hèn kém. Vậy nên cho dù thương nhân có giàu nhất thiên hạ, cũng không ai coi trọng, việc này có lẽ bắt nguồn từ đây.

Suốt dọc đường, Lưu Tú làm theo chỉ dẫn của Châu Nhi, sắp xếp xe ngựa chở lúa, thuê phu xe, tránh đạo tặc, lo lót cho đám sai dịch... Chỉ có mười mấy ngày, mà mệt hơn khi chàng đi làm ruộng nhiều. Chàng hiểu ra vì sao thương nhân lại có thù lao, bởi vì họ cũng phải vất vả, đòi thù lao là việc đương nhiên.

Khó khăn lắm mới đến Tân Dã, Lưu Tú vốn định nghỉ ngơi ở nhà anh rể, thì bị Châu Nhi bắt ra ngoài nghe ngóng tin tức. Việc buôn bán quan trọng nhất là tin tức từ các nơi, Lưu Tú cũng tốn chút công sức, nghe được ở đại đô thị Uyển Thành giá lúa lên cao, nếu đem lúa đến đó bán, thì còn được lãi thêm gấp đôi.

Lưu Tú sung sướng, tính rằng mình hoàn toàn có thể liên hệ được nhà buôn ở Uyển Thành, sau đó chàng về quê thu mua ngũ cốc để bán lại. Chàng cũng đã thay đổi hẳn cách nghĩ, khi thu mua lúa của bà con làng xóm, chàng có thể đẩy giá thu mua cao lên một chút, cao hơn nhiều so với giá cửa hàng lương thực ở Thung Lăng mua, vậy thì việc này có lợi cho bà con, có lợi cho chàng, đôi bên cùng thắng, tội gì không làm?

Lưu Tú cho rằng mình ngày xưa đúng là quá cứng nhắc, nếu như nghĩ thông sớm hơn, chàng có thể giúp nhiều người làm giàu hơn. Chàng rất phấn khích, đem suy nghĩ của mình nói cho Châu Nhi, thì nàng lại nhíu mày nói: "Đừng nóng ruột, cậu không thấy chuyện Uyển Thành cần mua lượng lớn thóc lúa, tin tức này rất có ẩn ý hay sao?"

Lưu Tú ngẩn người, rồi lập tức chau mày lại: "Cũng phải, nếu giá lúa ở Uyển Thành bị đẩy lên cao quá, thì ở Thung Lăng đã có người mua lúa bán lại từ lâu rồi. Vậy có nghĩa là, giá lúa mới chỉ lên cao gần đây thôi, căn nguyên chắc chắn là có người thu mua số lượng lớn, mới khiến giá cả nhảy vọt, vậy người đó vì sao lại thu mua lương thực số lượng lớn, chắc có lẽ là đang lập mưu khởi binh tạo phản...". Lưu Tú vốn là người rất thông minh, sau khi được Châu Nhi chỉ bảo, chàng rất có kiến giải về chuyện buôn bán, chàng từng bước một tiến hành suy luận, và cũng đoán ra được chân tướng.

"Cậu nói không sai, có vẻ như ở Uyển Thành có người đang mộ lính, nên mới cần trữ lương". Ánh mắt Châu Nhi sáng lên, cũng có phần ngạc nhiên vì sự thông minh dĩnh ngộ của Lưu Tú, người này học hành thì chẳng có chỗ nào giỏi giang, nhưng với việc buôn bán thì có thể nói là bảo một biết mười. Châu Nhi rất vui mừng vì cảm thấy mình đã tìm ra được một mầm non tiềm năng. Dù có hoang phí chục năm trời, nhưng trong số bao nhiêu người đi qua đi lại trước mặt nàng, chỉ có mỗi chàng tìm ra nàng trong đống đồ cổ có lẽ đúng là có duyên phận thật.

"Vậy... còn đi Uyển Thành nữa không? Hay là cứ đem lúa bán luôn ở Tân Dã là xong". Lưu Tú cỏ phần không an tâm, nơi kia nói dễ nghe một chút thì là quân khởi nghĩa, nói khó nghe một chút thì là đám phản tặc. Nếu như dám phản tặc không cướp tiền, mà cướp thóc lúa của chàng, thì chẳng phải là vốn bỏ ra mất hết sao? Không ngờ Lưu Tú bây giờ đã suy nghĩ giống như một thương nhân thực sự rồi.

Châu Nhi nhếch khóe miệng, nói một cách hơi khinh khỉnh: "Trông cái bộ dạng của cậu kìa, năm xưa Phạm Thiếu Bá đem người con gái trong lòng mình dâng cho nước Ngô, đổi lấy mười năm được nghỉ ngơi cho nước Việt, cuối cùng Việt vương nếm mật nằm gai, ba ngàn quân Việt đánh bại nước Ngô, làm nên bá nghiệp thời Xuân Thu. Năm xưa Lã Bất Vi, chỉ một lần buôn bán đồ lạ, mà đưa được Tần Trang Tương vương lên ngôi vua nước Tần, lại đem con hát nhà mình tặng cho Tần vương, tới tận giờ vẫn có người nghi ngờ thân phận của Doanh Chính. Lã Bất Vi sau đó làm đến chức thừa tướng nắm giữ triều chính nước Tần trong ba mươi lăm năm, một tay che cả bầu trời, đến Tần Thủy Hoàng cũng không dám tự tiện làm gì. Hai vị đó mới là những thương nhân thành công nhất, cậu phải học thêm nữa đi".

Lưu Tú hiểu ra chút vấn đề, liền ngạc nhiên hỏi:"Chẳng nhẽ Châu Nhi cô quen ông Lã Bất Vi đó sao?"

Châu Nhi vươn vai lười biếng, một tay chống cằm, khẽ cười, lòng đầy hoài niệm: "Đúng thế, ông ấy cũng từng là chủ nhân của Định Bàn Châu".

Lưu Tú có chút thất thần, bối rối không biết nói sao. Chủ nhân của Định Bàn Châu đến giờ chàng chỉ biết có hai người, mà đều là những người rất nổi tiếng. Chàng có chút xấu hổ, cũng đã hiểu vì sao mười năm nay Châu Nhi không nói lời nào, coi chàng như không tồn tại. Một kẻ muốn làm nông phu dưới quê, thì đúng là không có tiền đồ gì cả.

Châu Nhi không nhận ra tâm tư của Lưu Tú, lại tiếp tục dạy bảo: "Cậu có biết người đời coi thường thương nhân, là bắt đầu từ đâu không?"

Lưu Tú là người đọc sách, câu hỏi này không làm khó chàng được, chàng liền đáp ngay: "Tần từ sau khi sử dụng Thương Ưởng biến pháp thì coi trọng nông nghiệp coi thường thương nghiệp, cho rằng nông là gốc, thương là ngọn. Lã Bất Vi cũng từng viết tới bốn thiên "Thượng Nông" trong "Lã Thi Xuân Thu", đề xướng ra cách nói đó. Từ sau thời Hán Vũ đế thì càng nặng nề".

Châu Nhi cười khinh bỉ: "Nông là gốc, thương là ngọn, không thể hiểu như vậy được, thực chất của gốc và ngọn cũng không phải như vậy. Lấy ví dụ, một đất nước giống như một cái cây lớn khỏe mạnh, vậy thì nông nghiệp chính là bộ rễ của cái cây đó, thương nghiệp chính là cành lá của cây. Một cái cây không có bộ rễ tất nhiên là không thể sống, nhưng có cây nào khỏe mạnh mà cành lá khô héo không? Tuy Lã thừa tướng không thể công khai chỉ trích chính sách Thương Ưởng để lại, nhưng bản thân ông là một nhà buôn hàng đầu, đương nhiên phải hiểu đạo lý đó. Nhưng sau này đến Hán Vũ đế, để thực thi chính sách ngu dân mà đã cố tình bóp méo khái niệm ấy, đổi lộn cả gốc lẫn ngọn".

Lưu Tú nghe xong Châu Nhi nói thì há hốc mồm, tuy cảm thấy hơi có chút cãi cùn, nhưng không thể không công nhận là cũng có chút đạo lý.

Châu Nhi cười, không nói tiếp nữa, cũng không hy vọng chàng ngay lập tức có thể thay đổi cách nghĩ thâm căn cố đế của mình. Nàng quay lại chủ đề ban nãy: "Cảnh giới cao nhất của cái đạo buôn bán là bán những gì người ta thích. Trước mắt cậu có một cơ hội cực tốt, thứ mà người ta cần, vừa hay cậu lại đang có, chi bằng thử đi".

Lần này Lưu Tú không hỏi nữa, mà bắt đầu suy nghĩ cẩn trọng. Nhìn bề ngoài thì có vẻ những tay hào cường trong Uyển Thành đang cần lương thực, đúng là chàng có, đem ra giao dịch được, nhưng Châu Nhi không thể đơn giản nói về chuyện này:

Hào cường khởi nghĩa, thì thiếu thứ gì? Thiếu lương thực, thiếu vũ khí, thiếu người... thực sự là thiếu nhiều thứ quá. Vậy thì, nghĩ theo chiều ngược lại, ngoài lương thực ra, chàng còn có thể cung cấp thứ gì? Chàng đọc sách không nhiều, không có mấy học thức, tuy có cái danh là cháu chín đời của Lưu Bang, nhưng trong nhà lại không có tiền... Từ từ, chàng vừa nghĩ đến cái gì nhỉ? Cháu chín đời của Lưu Bang?

Châu Nhi nhìn thấy vẻ mặt như chợt hiểu ra mọi chuyện của Lưu Tú, thầm nhủ người này quả nhiên là người có thể đào tạo được. "Phải rồi, họ thiếu một cái danh nghĩa để khởi nghĩa được danh chính ngôn thuận, có một người là tông thất nhà Hán gia nhập, họ hẳn phải trải chiếu ra đón".

Lưu Tú có chút chần chừ, chàng không hề nghĩ rằng mình sẽ bị cuốn vào cuộc chiến, nhưng chàng nhìn thấy đôi mắt chờ đợi của Châu Nhi, liền mạnh dạn gật đầu.

Nếu hai đời chủ nhân trước của Châu Nhi đều nổi danh một thời, vậy thì chàng tuyệt đối không thể đi sau người khác được!

4

Một tháng sau, Lưu Tú ở Uyển Thành, Lưu Diễn ở Thung Lăng, anh rể hai của Lưu Tú là Đặng Thần ở Tân Dã lần lượt khởi binh, trong đó đại ca Lưu Diễn chiêu mộ được con em họ Lưu và môn khách tổng cộng bảy tám ngàn người, thanh thế lớn hơn cả.

Trong cuộc đời Lưu Tú, từ sau khi học vỡ lòng lúc sáu tuổi, trải qua chục năm học hành vất vả, rồi chục năm sau đó lao động cần cù trên đồng ruộng, chứ chưa từng tiếp xúc với việc tác chiến đánh trận. Nhưng Châu Nhi nói với chàng rằng mọi thứ hết sức đơn giản.

Mọi việc trên đời này đều có thể dùng đạo buôn bán để giải quyết.

Chàng không biết đánh trận, không sao, chàng có thể khiến người biết đánh trận xông lên trận tiền, sau đó đem quan tước và tiền của cho họ. Chàng không có vũ khí, không sao, chàng có thể tìm đến người biết rèn vũ khí, dùng vàng bạc châu báu để trao đổi. Chàng dần dần thừa nhận, thương nhân chính là những người không gì không thể làm. Trong lòng mỗi người đều có thứ gì đó họ cần, chỉ cần tìm ra thứ đó, là có thể đem đổi lấy thứ mình cần. Hơn nữa cho dù mình không có thứ đối phương cần, thì sau một hồi giao dịch, cũng có thể lấy được từ chỗ người khác, cái chuỗi lợi ích to lớn này, dần dần rồi sẽ biến thành một thứ to lớn hơn nữa còn Lưu Tú thì là kẻ chủ đạo ẩn thân ở giữa.

Bỏ được, chỉ cần biết bỏ, là sẽ có được.

Lưu Tú tôn thờ câu nói Châu Nhi dạy chàng, kiến nghị anh cả Lưu Diễn tìm một chỗ dựa lớn hơn. Bởi vì quân khởi nghĩa của họ tuy rất kiêu dũng, nhưng không thể đơn độc chống lại quân đội triều đình. Lưu Diễn chọn quân Lục Lâm. Lưu Diễn tài năng xuất chúng, giết địch chém tướng, chỉ trong vòng hai năm, đã leo lên ghế cao trong quân Lục Lâm, đồng thời cũng gây ra không ít áp lực cho những bè đảng khác.

Châu Nhi đã cảnh cáo cho Lưu Tú, Lưu Tú cũng khuyên nhủ anh trai cả, nhưng tiếc là Lưu Diễn không chịu nghe người khác khuyên, coi lời nói chân thành của Lưu Tú như gió thoảng bên tai. Lưu Tú cũng chỉ biết im lặng, tự mình lo cho cẩn thận, ẩn mình thật kỹ, trong mắt người khác chàng là một kẻ nhát gan sợ sệt.

Quan hệ giữa Châu Nhi và Lưu Tú cũng ngầm thay đổi, không còn là Châu Nhi chỉ đạo một phía nữa, Lưu Tú thỉnh thoảng cũng đưa ra những phán đoán cực hay, khiến Châu Nhi phải nhìn chàng với con mắt khác.

Chàng trai này, so với hai đời chủ nhân trước của nàng, thì quả là tiến bộ quá nhanh. Châu Nhi có lúc cũng phải thấy khâm phục, vì sao lại có người sau chục năm học hành, chục năm làm nông phu, mà đến khi làm thương nhân vẫn như cá gặp nước thế này?

À không, thực ra nói một cách nghiêm túc, thì Lưu Tú không phải là thương nhân, mà là một người làm chính trị.

Lưu Diễn đánh đâu thắng đó, thanh danh trong quân đội càng lúc càng cao. Để áp chế uy phong của Lưu Diễn, các lãnh đạo quân Lục Lâm đã liên danh để đưa một người họ Lưu vô danh là Lưu Huyền lên làm hoàng đế. Lưu Huyền tính ra còn là anh họ của anh em Lưu Diễn, vốn chỉ là một chân thuộc quan, một hoàng đế không có căn cơ không có thực lực như vậy, rất thích hợp để làm một con rối ngồi ở ngôi cao.

Lưu Diễn vì lo cho đại cục, nên phải đồng ý cùng lập Lưu Huyền làm vua, đổi niên hiệu làm Thủy Nguyên, gọi là Canh Thủy đế.

Lưu Tú bắt đầu thấy mọi việc có vẻ gì đó không đúng, nhưng chàng tạm thời cũng không thể xoay chuyển tình thế được. Đồng thời chàng cũng nhận ra rằng, thực lực của họ vẫn còn thiếu rất nhiều, nếu không thì chàng đã hoàn toàn có thể đưa anh mình lên làm vua, chứ không phải bị động

Trận thắng Côn Dương này, lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh, đã thay đổi hẳn tương quan thực lực giữa quan quân và quân khởi nghĩa. Lưu Tú, người tạo nên kết quả này, khiến tất cả mọi người đều phải nhìn với con mắt khác. Đồng thời, Lưu Diễn cũng phá tan Uyển Thành với trọng binh triều đình canh giữ, rồi nhanh chóng đưa Canh Thủy đế dời đô về Uyển Thành.

"Đại ca của cậu nguy hiểm rồi". Châu Nhi kết luận như vậy sau khi nghe được tin tức vừa rồi.

Lưu Tú tái mặt, chàng và anh trai lần đầu tiên chia nhau ra hành động, chàng phụ trách giữ Côn Dương, anh trai chàng thì phụ trách đánh Uyển Thành, vốn định là hai người cùng hỗ trợ cho nhau, nhưng cuối cùng thì anh trai chàng vẫn không sửa nổi bản tính thích thể hiện, giờ đây dưới một người trên muôn người, chắc chắn sẽ gây ra cái nhìn thù địch của các tập đoàn lợi ích trong quân Lục Lâm.

"Này... cậu quyết định thế nào?" Châu Nhi cảm thấy tò mò hỏi.

Lưu Tú gần như không hề do dự, trả lời: "Tôi sẽ đi Uyển Thành ngay".

Châu Nhi nhíu mày, hơi ngạc nhiên: "Cậu vừa mới được Côn Dương, không muốn yên lòng quân sĩ đã sao?"

Lưu Tú gẩy bàn tính trong tay, nói bình thản: "Cô từng nói, phải bỏ thì mới được, trong lòng tôi, đại ca mãi mãi là người tôi không thể bỏ được".

Châu Nhi thấy thái độ thản nhiên và giọng nói dứt khoát của chàng, nàng hơi lặng người.

Trong suy nghĩ của những chủ nhân trước kia của nàng, mọi thứ đều có thể vứt bỏ, dù là người con gái mình yêu, là gia đình, hay họ hàng bạn bè... Thậm chí là nàng, người đã giúp họ...

Châu Nhi biết, Lưu Tú chắc chắn là rất rõ một chuyện, đó là chỉ cần còn Lưu Diễn, thì Lưu Tú sẽ không có chỗ để vươn lên, con người như Lưu Diễn trời sinh ra đã luôn thu hút ánh nhìn của người khác, Lưu Tú chỉ có thể sống dưới bóng của anh ta mà thôi. Chẳng nhẽ chàng không hề có suy nghĩ gì? Chàng vẫn giữ bản tâm bất biến của mình ư?

Chính người luôn ở bên cạnh Lưu Tú như nàng, là người biết rõ chàng nói thật lòng, tuyệt nhiên không có chút gì giả dối.

Nhìn Lưu Tú anh tuấn mạnh mẽ, Châu Nhi cảm thấy chàng rất đáng tin, chàng có một thứ khí chất khiến người khác tin tưởng. Một chàng trai văn võ song toàn, thần thái phi phàm, liệu người con gái như thế nào mới có được chàng?

Lòng Châu Nhi rối bời, chồi non vẫn cất giấu trong tim bỗng nhiên mọc lên như cây măng tre sau cơn mưa, khiến nàng không kịp đề phòng.

Nhưng nàng chưa kịp nghĩ nhiều, thì một cơn ác mộng ập tới.

Khi Lưu Tú biết tin đại ca Lưu Diễn của mình bị giết, chàng sững sờ. Chàng chấp nhận được việc anh cả chàng phải da ngựa bọc thây trên chiến trường, nhưng tuyệt nhiên không chấp nhận được chuyện bị người của chính mình đâm đằng sau lưng. Tội kháng chỉ ư? Chàng quyết không tin!

Châu Nhi dựa hờ vào giường, đóng cuốn sách trên tay lại, cười chế nhạo: "Ngu xuẩn. Chim hết cất cung, thỏ hết giết chó là phải, nhưng chim còn chưa hết, thỏ còn chưa chết cơ mà! Tên Lưu Huyền đó thực sự là ngu xuẩn!" Hơn nữa hắn ra tay nhanh quá. Châu Nhi nhìn thấy Lưu Tú đã chuẩn bị xong hành trang, chàng đang chuẩn bị khởi hành tới Uyển Thành.

Lưu Tú bóp chặt trán mình, dù đang đau đớn quằn quại cũng ép đầu óc mình phải tỉnh táo suy nghĩ. Chàng đã đánh giá Lưu Huyền quá cao, cứ nghĩ hắn sẽ lợi dụng đại ca chàng để lấy được thiên hạ xong rồi mới tính tiếp, nên chàng không phòng bị gì mấy. Không ngờ hắn lại ra tay nhanh đến như vậy. Hắn không sợ những người dưới quyền hắn chán nản ư?

"Cậu định làm gì? Kêu gọi thủ hạ rời bỏ Canh Thủy đế, tự mình dựng cờ nổi dậy?" Châu Nhi lim dim đôi mắt hoa hạnh, nhìn một bên gương mặt tuấn tú của Lưu Tú nghĩ ngợi. Mới đấy thôi mà nàng đã ở bên chàng trai này mười hai năm rồi, chàng từ một cậu thiếu niên đã biến thành một trang nam tử đầu đội trời chân đạp đất. Không hiểu vì sao, Châu Nhi bỗng nhiên hơi mơ hồ, Lưu Tú năm nay đã hai mươi tám tuổi rồi, vậy mà vẫn không có người con gái nào bên cạnh...

Lưu Tú cúi đầu, chau mày lại, tự mình lẩm bẩm: "Mình cần phải... nghĩ cho kỹ...".

Châu Nhi nén những suy nghĩ miên man trong đầu mình xuống, bây giờ không phải là lúc.

Lưu Tú quyết định chọn cách giả vờ để đối phó.

Chàng lập tức đến Uyển Thành, chủ động từ bỏ quân đội trong tay, vạch rõ ranh giới với Lưu Diễn, không hề có chút đau khổ nào của người em mất anh, cũng chẳng thấy có vẻ gì là để tang anh trai, cả ngày chỉ uống rượu mua vui, không tham dự chính sự. Chàng còn nói trận chiến Côn Dương là công lao của thủ hạ mình, thậm chí chủ động tuyên bố "Làm quan phải tới Chấp Kim Ngô, lấy vợ phải được Âm Lệ Hoa".

Chấp Kim Ngô, ngang với cửu khanh, là thống soái tối cao của quân thủ vệ kinh đô, Lưu Tú biểu thị hùng tâm của mình chỉ đến có vậy. Còn Âm Lệ Hoa là mỹ nữ nổi tiếng ở thành Tân Dã, Lưu Tú công khai bày tỏ lòng ái mộ của mình.

Chỉ có điều, không một ai có thể hiểu những nỗi lòng chua chát của chàng khi nói ra hai câu đó.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Bỏ được, có bỏ, thì mới được. Cũng có nghĩa là, muốn có được cái gì đó, thì phải bỏ những thứ khác đi.

Đạo lý này, năm chàng mười sáu tuổi đã hiểu rất rõ, chỉ là không ngờ rằng, chàng lại thấu hiểu sâu sắc đến vậy.

Châu Nhi nhìn thấy hết mọi việc chàng làm, biết chàng bề ngoài thì uống rượu mua vui, nhưng lúc về nhà thì không ăn một miếng thịt, mỗi ngày thức dậy, gối đều ướt đẫm nước mắt. Người con gái tên là Âm Lệ Hoa, tất nhiên là đẹp, nhưng thứ mà Lưu Tú nhắm tới, là gia thế hiển hách của nàng ta.

Gia tộc họ Âm là dòng dõi danh tướng Quản Trọng thời Xuân Thu, cuối thời Tần đầu thời Hán, gia tộc họ Âm dời đến Tân Dã. Hơn nữa gia tộc họ Âm không chỉ có xuất thân hiển hách, mà còn là nhà giàu số một trong vùng, địa vị và tài sản thậm chí có thể ngang hàng với những vị vua chư hầu thời phân phong.

Châu Nhi biết, Lưu Tú đang tìm chỗ dựa cho chính mình. Tuy Lưu Tú là cháu chín đời của Lưu Bang, nhưng không có chút căn cơ nào, nói cho cùng thì cũng chỉ là một anh nông phu mà thôi.

Quả nhiên, đến chuyện hôn nhân đại sự của bản thân, cũng có thể đem ra giao dịch.

Châu Nhi thầm cảm thán, vừa tự khen mình đào tạo ra được một thương nhân hàng đầu, lại vừa âm thầm tiếc nuối.

Trên đời này, đúng là không có chuyện có được tất cả. Có điều cô Âm Lệ Hoa kia, e rằng cũng sẽ lại biến thành vật cống nạp cho mưu đồ chính trị...

"Không nỡ bỏ đi à?" Nếu Lưu Tú không bận rộn với việc cầu hôn, thì gặp cảnh này nhất định là sẽ phải ngạc nhiên tột độ. Bởi vì lúc này người xuất hiện trong phòng chàng, chính là gã chủ hàng năm xưa. Mười hai năm đã trôi qua, gương mặt gã vẫn như xưa chẳng có chút thay đổi nào.

"Có gì mà không bỏ được?" Châu Nhi uể oải ngáp dài một cái, "Chính ta đã dạy cậu ta cách để trở thành một thương nhân hoàn hảo. Đem thứ mình có vứt bỏ đi, để đổi lấy thứ có giá trị hơn. Mọi thứ đều có thể đem đổi, đến cả người thân, hôn nhân, sinh mạng của mình...".

Châu Nhi vẫn còn định nói tiếp nhưng lại không nói nữa.

Nếu cứ thế này, nếu có một ngày tình thế bức bách, thì liệu chàng cũng sẽ giống như hai người chủ trước, đem nàng ra đổi chác hay không?

Hoặc là, nàng không muốn nhìn thấy chàng lấy vợ sinh con...

Gã chủ hàng cầm chiếc bàn tính lên, lắc lắc mấy cái trong tay, nhếch mép cười: "Cô nói xem, nếu ta đem cô ra đổi ngọc tỉ truyền quốc ngọc bích Hòa Thị của hắn, thì liệu hắn có đổi không?"

Châu Nhi liếc gã một cái, hừ một tiếng: "Không cần phải thử, ta không muốn biết câu trả lời...".

"Thực ra, trong lòng cô từ lâu đã có câu trả lời rồi, không phải thế sao?" Chủ tiệm bình thản cười nói, cất bàn tính vào trong người, nhẹ nhàng đẩy cửa đi ra.

Tháng Sáu năm Canh Thủy thứ nhất, Lưu Tú cưới Âm Lệ Hoa làm vợ.

Tháng Chín năm Canh Thủy thứ nhất, Lưu Tú đưa Âm Lệ Hoa về Tân Dã, một mình đi tới Lạc Dương, tính chuyện thu phục vùng đất Hà Bắc.

Tháng Giêng năm Canh Thủy thứ hai, để liên thủ với Chân Định vương, chỉ sau khi cưới Âm Lệ Hoa được nửa năm, Lưu Tú đã viết giấy cho vợ xuống làm thiếp, cưới con gái của nhà họ Quách ở Chân Định là Quách Thánh Thông.

Năm Canh Thủy thứ ba, tức là năm 25, Lưu Tú đã chiếm nhiều châu quận, có trăm vạn đại quân, được các tướng lĩnh ủng hộ, lên ngôi hoàng đế ở đình Thiên Thu, phía nam thành Cao, Hà Bắc, đổi niên hiệu làm Kiến Vũ, vẫn đặt quốc hiệu là Hán, lịch sử gọi là Hậu Hán hoặc Đông Hán.

Từ đó, tấm màn lớn của triều đại Đông Hán đã được kéo ra...

5

Năm 2012.

"Hả? Thế có nghĩa là chiếc bàn tính đó thực ra là của Hán Quang Vũ đế?" Bác sĩ ngạc nhiên, đôi tai thỏ lại lắc lư, "Hơn nữa trong đó còn có một mỹ nữ tuyệt thế đang ngủ? Vậy mà anh cũng chôn sao?"

Mấu chốt chắc là nằm ở câu sau. Chủ tiệm mỉm cười: "Không sao, dù sao cô ấy cũng ngủ hai nghìn năm nay rồi, chuyển xuống đất ngủ thì cũng có khác gì đâu". Đợi sau khi phá được trận pháp, lại đào cô ấy lên cũng chả sao. Hơn nữa, trong hai nghìn năm nay, Châu Nhi chưa từng tỉnh lại lần nào, chủ tiệm định vứt luôn nàng ta đi, xem nàng ta có tỉnh dậy nữa không.

"...". Bác sĩ không cam lòng, lắc lắc đôi tai thỏ, khẽ nói: "Nghe nói cái tên Lưu Tú đó thực ra là rất ngược đời! Trong vài năm thôi đã lên làm vua, hơn nữa sau khi lên ngôi, không hề giết không hề đuổi một công thần nào, phải nói là rất biết cách cân bằng! Có lẽ là Châu Nhi dạy dỗ tốt, dùng trí tuệ của thương nhân để làm hoàng đế, chà chà! Chắc đây là truyện để khuyến khích thanh niên phấn đấu rồi!"

Chủ tiệm không đáp lại sự phấn khích của bác sĩ, chỉ nhíu mày, liếc thấy phía sau lưng của chú thỏ là một chiếc Ipad, màn hình đang hiển thị bài viết về cuộc đời của Lưu Tú.

Bác sĩ hắng giọng mấy tiếng, tắt chiếc Ipad đằng sau đi, cất chiếc bút cảm ứng vào trong túi phía trước bụng thỏ, vờ như không có chuyện gì, chuyển chủ đề: "Nhưng mà kể ra thì anh cũng kiếm được món hời từ chỗ Lưu Tú còn gì! Sau đó lấy chiếc bàn tính yêu thích của người ta mà không nói tiếng nào, thế là bắt nạt người khác à?"

Chủ tiệm lau sạch từng viên châu một, bình thản nói: "Tôi làm theo nguyện vọng của Châu Nhi, cô ấy muốn đi, tôi mới đem cô ấy đi. Còn chỗ Lưu Tú, tôi để lại vài lạng vàng, cũng đủ bù cho giá trị đồng Kim Thác Đao rồi. Hắn ta không thiệt đâu".

"...". Bác sĩ có thể tưởng tượng, năm xưa khi Lưu Tú tìm khắp nơi không thấy Định Bàn Châu đâu, rồi lại nhìn thấy mấy lạng vàng, chắc là vẻ mặt phải hay lắm.

Chủ tiệm khẽ đặt tay lên viên Định Bàn Châu không tháo được, chìm vào suy tư.

Thực ra câu trả lời của câu hỏi năm xưa, gã và Châu Nhi đều biết.

Đừng nói là ngọc tỉ truyền quốc ngọc bích Hòa Thị, cho dù là ngôi vua, Lưu Tú chắc chắn sẽ đổi.

Nhưng điều đó có ý nghĩa gì?

Châu Nhi vẫn không thể cùng chàng sống đến đầu bạc răng long, không thể sinh con cho chàng, số mệnh hai người không đi với nhau...

Chủ tiệm cúi mặt, khẽ thở dài nói: "Bỏ và được ư...".

Quyển 3 - Chương 6: Hổ Cốt Thiếp

1

Tống Việt tỉnh dậy sau cơn mê man, cảm thấy phía gáy đau nhức dữ dội, mất một lúc sau mới định thần trở lại.

Chuyện gì vậy? Ban nãy anh bị xe tông phải không nhỉ? Chẳng lẽ là được đưa đến bệnh viện rồi? Tống Việt nhìn khoảng trắng xóa trước mặt mình, tay đỡ lấy gáy, cố gắng ngồi dậy.

Anh vẫn nhớ mình đến phỏng vấn ứng tuyển ở văn phòng luật sư Tần Thị, trên đường về có một chiếc xe con vượt đèn đỏ lao tới, anh không tránh kịp, âm thanh cuối cùng nghe thấy trong đầu là tiếng phanh xe chói tai và tiếng kêu la của những người xung quanh.

Thử cảm nhận những chỗ khác trên cơ thể, Tống Việt nhận ra mình vẫn còn may mắn, chỉ trừ chỗ đau sau gáy, những chỗ khác đều không có gì bất thường. Xem chừng chỉ là bị ngã thôi, trong cái rủi vẫn còn cái may.

"Tỉnh rồi à? Có chỗ nào thấy khó chịu không?"

Một tiếng nói trầm trầm cất lên bên giường bệnh, làm Tống Việt giật mình. Theo phản xạ anh quay đầu nhìn, nhưng vì quay đầu hơi nhanh quá, anh lại chóng mặt, mắt hoa lên, một lúc sau mới nhìn rõ người kia.

Nhưng khi anh nhìn rõ được người kia là ai, thì lại giật bắn mình, đôi môi run rẩy, hai tiếng "sếp Tần" như biến mất khi vừa thoát khỏi miệng. Khi anh cất tiếng mới phát hiện ra cổ họng mình như bị mài bằng giấy ráp, khản đặc không thể nói nổi.

Tống Việt lúc này mới nhận ra mình đang ở một phòng bệnh đơn, một phòng xa hoa chắc phải đến một nghìn tệ một ngày trở lên. Một người bình dân từ nhỏ như anh đã bao giờ nhìn thấy cảnh tượng xa hoa này, nghĩ bụng chẳng lẽ tay tài xế xe con đâm phải anh là người rất giàu có? Nhưng đó không phải vấn đề. Vấn đề là tại sao người đang bên giường bệnh của anh lại là Tần Mặc, tổng giám đốc văn phòng luật sư Tần Thị?

Tần Mặc là nhân vật hàng đầu được công nhận trong ngành, chưa đến ba mươi tuổi đã có văn phòng luật sư riêng, có quan hệ với rất nhiều ngành nghề khác, trong ngành này anh ta rất nổi tiếng. Tần Thị không giống như những văn phòng luật sư có số má khác, họ thích tuyển người mới, nên Tống Việt vừa nhận được chứng chỉ luật sư, liền đến đó phỏng vấn xin việc, nhưng anh không thể ngờ nổi sau khi bị xe đâm mở mắt ra là thấy Tần Mặc. Theo lý mà nói anh vẫn chưa phải là nhân viên của Tần Mặc mà? Hơn nữa hình như ngã tư nơi xảy ra tai nạn cũng cách văn phòng Tần Thị rất xa...

Mọi sự hoang mang nghi ngờ trong lòng Tống Việt đều thể hiện hết ra trên mặt, Tần Mặc đều thấy hết. Anh hơi nhíu mày, đưa tay ấn nút gọi trên đầu giường, trong lúc đợi bác sĩ đến anh tranh thủ hỏi: "Ai đánh cậu, có nhìn rõ mặt người đó không?"

Đánh? Tống Việt càng thấy khó hiểu, lần này thì anh tìm lại được giọng nói của mình, cất tiếng một cách khó khăn: "Không phải tôi bị tai nạn giao thông sao?"

Sau khi anh nói, Tần Mặc sững người, đến lúc bác sĩ y tá xông vào đẩy anh ra một bên anh vẫn không có phản ứng gì nhìn chằm chằm vào Tống Việt, như thể nhìn thấy một con quái vật.

Tống Việt tỏ ra rất áp lực với ánh mắt đó, nhưng anh vẫn quay lại trả lời câu hỏi của bác sĩ. Một lúc sau, trong phòng bệnh còn xuất hiện hai người mặc quân phục cảnh sát, Tống Việt cố nén cơn đau đầu, nhìn Tần Mặc trao đổi với hai viên cảnh sát, nhìn vẻ mặt nghiêm trọng của họ, khiến Tống Việt cảm thấy đây không phải một vụ tai nạn bình thường.

Cô y tá treo một bình truyền dịch cho Tống Việt, bác sĩ cũng làm vài cuộc kiểm tra, đến khi anh quay lại phòng bệnh, thì hai viên cảnh sát đã đi, Tần Mặc đang ngồi trong phòng bệnh đợi, vẻ mặt rất nghiêm trọng, câu hỏi đầu tiên sau khi ngẩng đầu lên nhìn anh lại là: "Rốt cục anh là ai?"

"Tống Việt". Tống Việt không đến nỗi quên cả tên của mình, trả lời không chút do dự. Anh nhớ lại đoạn đối thoại của hai người khi trước, bỗng cười phá lên: "Sếp Tần, không phải anh nghĩ tôi bị người khác nhập vào sau khi xảy ra tai nạn đấy chứ?"

"Cậu quen tôi?" Tần Mặc ngạc nhiên nhướn mày lên.

Tống Việt cảm thấy có chút bối rối, hôm nay anh được Tần Mặc phỏng vấn xong, chẳng nhẽ Tần đại thiếu gia lại hay quên đến thế, mới đấy mà đã quên ngay sao? Nhưng đối diện với ánh mắt như quét X quang của Tần Mặc, Tống Việt vẫn thành thực ữả lời: "Hôm nay tôi vừa tới văn phòng luật sư Tần Thị để phỏng vấn xin việc, tất nhiên là biết anh".

"Phỏng vấn?" Tần Mặc nghe xong đờ người, nhìn Tống Việt như đang nghĩ một câu hỏi rất khó, một lúc sau mới nhăn nhó cười nói: "Cậu cho rằng năm nay là năm bao nhiêu?"

"Không phải năm 2008 à?" Tống Việt cảm thấy câu hỏi của anh ta thật bó tay, anh cũng rất không quen với việc anh ta nói chuyện với mình theo thái độ của hai người bạn. Anh vẫn nhớ rất rõ trong cuộc phỏng vấn mấy tiếng trước, vẻ mặt Tần Mặc nghiêm túc đến cứng đờ.

Tần Mặc không nói gì, cầm lấy điện thoại trên tủ đầu giường, bấm mấy cái trên màn hình, rồi đặt trước mặt anh. Tống Việt thầm nhủ quả đúng là người có tiền, điện thoại nhìn xịn thật! Lại còn là màn hình cảm ứng? Anh vẫn cứ nghĩ chiếc Nokia N85 mình mua mấy hôm trước là loại xịn nhất rồi chứ!

Nhưng câu lẩm bẩm đó vừa cất lên được một nửa thì đã ngưng luôn, Tống Việt trố mắt nhìn ngày tháng hiện trên màn hình điện thoại, năm 2012? Điên rồi!

2

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người đen đủi hay nghèo khó sẽ đổi đời ngay lập tức nhờ điều này

Tống Việt há hốc mồm, Tần Mặc cũng không biết nói gì. Bác sĩ mau chóng được gọi đến, lại tiến hành một loại kiểm tra rắc rối cho Tống Việt, sau đó kết luận anh bị chứng mất trí nhớ chọn lọc. Kiểu mất trí nhớ này là do não bộ chấn thương, dẫn đến việc người bệnh không thể nhớ ra sự việc trong một khoảng thời gian nhất định, tức là chỉ nhớ chuyện cũ chứ không nhớ chuyện hiện tại. Rất rõ ràng, hiện tại Tống Việt bị mất ký ức của khoảng thời gian bốn năm.

Nhưng với Tống Việt mà nói, dường như anh chỉ ngủ một giấc, mở mắt tỉnh dậy, đã trôi qua bốn năm.

Olympic Bắc Kinh anh không được xem, World cup Nam Phi anh cũng chỉ được nghe Tây Ban Nha đoạt cúp, còn hình như đến cuối năm nay thì tận thế... Điều đó không quan trọng lắm, Tống Việt cúi xuống dùng thử chiếc Iphone 4S trong tay mình một cách hơi ngượng ngập, mới biết là chiếc Iphone màn hình cảm ứng tân tiến này là của chính mình. Trong danh bạ có quá nửa số người là anh không biết, trong lòng Tống Việt dâng lên một sự hoang mang. Cứ như có ai đó chưa được sự cho phép của anh đã sử dụng cơ thể anh trong bốn năm.

"Bác sĩ nói anh có thể ra viện được rồi, não bộ không có cục máu đông hay vết chấn thương nào, bác sĩ kiến nghị anh tốt nhất là trở về môi trường quen thuộc, sẽ có lợi cho việc khôi phục trí nhớ". Tần Mặc vừa dặn dò Tống Việt, vừa lấy điện thoại ra dặn trợ lý giúp Tống Việt làm thủ tục xuất viện.

Môi trường quen thuộc? Bố mẹ thì đều ở quê, trên thành phố này anh chỉ có một căn nhà thuê chung với bạn, nhưng anh cảm thấy bản thân mình sau bốn năm mà vẫn còn thuê chung nhà thì có vẻ không phải. Bởi vì anh thấy chiếc áo veston Tần Mặc đưa cho anh là hàng hiệu nổi tiếng, bán ở nơi nổi bật nhất trong plaza. Chiếc veston này bằng giá tiền mấy tháng thuê chung căn nhà kia rồi.

Cúi đầu xác nhận quần mình đang mặc và áo khoác đúng là một bộ xong, Tống Việt mới run run mặc lên người, có một cảm giác không chân thực.

Tỉnh được một thời gian rồi, phía sau gáy được tiêm thuốc giảm đau cũng đỡ đau rồi. Tống Việt ra khỏi bệnh viện cùng Tần Mặc, khi đi qua cửa lớn, anh còn bất chợt nhìn bóng mình phản xạ trên tấm kính.

Đúng là mặt của anh rồi, bốn năm không quá dài, anh hiện giờ cũng không khác nhiều so với khi vừa tốt nghiệp đại học bốn năm trước. Nhưng kiểu tóc và quần áo thì đều gây cho người khác cảm giác trưởng thành nhờ tôi luyện trong xã hội. Tống Việt cảm thấy anh hiện tại nếu nét mặt cương nghị nghiêm túc thêm chút nữa, thì rất giống Tần Mặc...

Ngồi trong xe BMW của Tần Mặc, Tống Việt không nhịn được phải nhìn ngó xung quanh, kết quả là anh bị một câu nói của Tần Mặc làm cho suýt ngất: "Đừng nhìn nữa, đây là xe của cậu". Tần Mặc thoáng thấy vẻ mặt cứng đờ của Tống Việt, hiểu nhầm ý, liền kiến nghị: "Hay là cậu lái đi?"

Tống Việt lắc đầu, anh nhớ là mình chưa có bằng lái. Tất nhiên, ký ức của anh không được đầy đủ, vậy có nghĩa là trong bốn năm qua, anh không chỉ đã thi lấy bằng mà còn mua BMW?

Trời đất ơi! Anh biết là luật sư kiếm tiền rất nhiều, nhưng có luật sư nào trong lúc mới đi làm mà không phải làm trợ lý bị vắt sức đâu? Anh đã làm gì vậy?

Ngồi nhấp nhổm ở ghế lái phụ, Tống Việt nhìn thành phố ngoài cửa kính xe, phát hiện ra sau bốn năm, thành phố này cũng trở nên xa lạ, rất nhiều nhà cao ốc anh chưa từng thấy đã thay thế cho những căn nhà cũ, xe cộ đông đúc chật chội, một loáng sau họ đã kẹt giữa đường.

Có vẻ Tần Mặc rất quen với cảnh tắc đường này, bình tĩnh nhích từng chút một theo dòng xe cộ phía trước. Tống Việt chợt nhớ ra câu mà Tần Mặc nói lúc anh tỉnh dậy, sờ lên chỗ gáy vẫn đau ê ẩm, nghi hoặc hỏi: "Vết thương của tôi... là bị người khác đánh?"

"Phải, lúc đó cậu đang gọi điện cho tôi để nói về vụ án vừa tiếp nhận". Bàn tay cầm vô lăng của Tần Mặc hơi nắm chặt lại một chút, cố gắng nén lửa giận trong lòng.

Tống Việt im lặng, anh biết luật sư rất dễ đắc tội với người khác, nhưng việc xảy ra với chính mình, thì không thể dễ dàng cười trừ mà bỏ qua được. Anh cười một cách miễn cưỡng nói: "Có lẽ đối phương chỉ muốn cảnh cáo tôi, nếu không thì đã không chọn lúc tôi gọi điện để ra tay".

Đôi tay nắm chặt của Tần Mặc lại thả lỏng ra, rất hài lòng vì tuy Tống Việt mất ký ức của bốn năm, nhưng đầu óc bình tĩnh tỉnh táo thì không mất đi: "Cậu về nhà nghỉ mấy hôm đi, đợi khỏe lại thì đi làm tiếp".

"Không cần, ngày mai tôi đi làm, cứ thế này tôi cũng không nghỉ được". Tống Việt cảm thấy để anh ở nhà không cho làm gì thì anh điên mất, "Hơn nữa không phải bác sĩ bảo là tôi phải đến nơi môi trường quen thuộc mới khôi phục trí nhớ sao? Tôi nghĩ là trong bốn năm qua, thời gian tôi ở văn phòng luật sư nhiều hơn ở nhà nhiều".

Câu nói này tất cả các sếp đều thích nghe, cho dù Tần Mặc hiện giờ tâm trạng không được tốt lắm, nhưng cũng phải mỉm cười. Lúc này dòng xe cộ đang bắt đầu chậm chạp tiến lên,

Tần Mặc nhìn thấy có chỗ trống, đánh tay lái gọn ghẽ rẽ vào một khu nhà ở cao cấp: "Thôi được, tám giờ sáng mai tôi qua đón cậu".

Lúc này Tống Việt mới biết anh và Tần Mặc cùng ở một khu, anh biết luật sư cao cấp trong văn phòng luật Tần Thi được đãi ngộ rất tốt, còn được giải quyết vấn đề nhà cửa nữa, anh chỉ không ngờ bản thân mình lại làm ăn tốt đến mức này.

Nhìn Tần Mặc khóa xe, đưa chìa khóa cho mình rồi lên thang máy, Tống Việt cũng ngoan ngoãn đi theo sau, không nói tiếng nào, đi đến tận cửa nhà của Tần Mặc, Tần Mặc nhìn thấy Tống Việt định vào nhà mình, mới bất lực chỉ sang cửa đối diện nói: "Cậu đúng là không nhớ gì rồi, cậu ở gian đối diện".

"Ồ...". Tống Việt tìm được chìa khóa ở trong túi áo, quay lại thử, quả nhiên là mở được.

Tần Mặc nheo mắt nhìn Tống Việt đi vào, kiên nhẫn đợi một lát, sau khi thấy không có gì bất thường mới đóng cửa phòng.

Anh cảm thấy Tống Việt sau khi mất trí nhớ, tính cách hoàn toàn khác trước...

Tối nay Tống Việt ngạc nhiên tột độ về việc mình có một nơi ở không nhỏ chút nào ở cái thành phố tấc đất tấc vàng này, anh mở chiếc máy tính vừa tân tiến vừa xa lạ và cảm thấy vô cùng may mắn vì mật khẩu vẫn như xưa, Tống Việt mất cả tối để lục lọi xem bốn năm qua đã xảy ra những chuyện gì, tiếc là phòng của anh hình như đã thuê nhân viên dọn theo giờ, dọn dẹp sạch không còn hạt bụi, chẳng còn mấy thứ khiến anh nhớ lại được gì cả.

Lịch sử Chat của QQ và MSN sạch tinh, xem ra mọi khi anh dùng máy tính ở cơ quan là chính. Tin nhắn trong điện thoại cơ bản cũng chỉ là tin quảng cáo và tin nhắn rác, nghĩ lại thì có lẽ là do gọi điện là chính.

Tối đó, Tống Việt lên mạng tìm hiểu hết những chuyện lớn xảy ra trong ngoài nước vào bốn năm qua. Qua nửa đêm, khi cơn buồn ngủ ập đến, thuốc giảm đau trong người cũng đã hết tác dụng, Tống Việt uống mấy viên thuốc giảm đau do bác sĩ kê cho cũng không thấy có tác dụng, anh bị cơn đau hành hạ, nửa tỉnh nửa mê, trời vừa sáng đã mò dậy luôn.

Ăn tạm vài lát bánh mì, Tống Việt mở tủ quần áo ra, rồi lại lập tức bị cả một tủ đồ làm cho choáng váng. Bây giờ anh rất muốn ra ngân hàng kiểm tra tài khoản của mình, liệu có bị âm chưa?

Nhưng anh cũng biết, những thứ hoa lệ bề ngoài là không thể tránh khỏi, làm việc ở một nơi cao cấp như văn phòng luật sư Tần Thị, mỗi ngày không được mặc quần áo lặp lại hôm trước là văn hóa của công ty. Chọn bừa một bộ suit màu xám bạc không nổi bật, đứng trước gương thắt chiếc cà vạt kẻ, Tống Việt nhận ra rằng quần áo đẹp đến đâu cũng không che nổi vẻ tiều tụy của anh. Còn ai xui xẻo được như anh, vừa nhắm mắt rồi mở mắt đã đánh mất luôn bốn năm tuổi trẻ.

Đứng trước gương tự cười giễu mình, đúng tám giờ Tống Việt mở cửa, bắt gặp luôn Tần Mặc đi từ căn nhà đối diện ra.

"Chào, hôm nay đi xe tôi". Tần Mặc gật đầu với anh, rồi đi trước về phía thang máy.

Tống Việt đi cùng anh xuống bãi đỗ xe, nhìn thấy hai người khác cũng đang đợi thì mới biết, thì ra sếp Tần tương đối gần gũi, không phải anh được đãi ngộ đặc biệt gì mà được đi làm cùng, có vẻ như cùng ghép xe đi chung với nhân viên là truyền thống của Tần Thị.

Nhưng Tống Việt phát hiện ra, hai người đi cùng xe với họ là những người góp cổ phần ở Tần Thị, hơn nữa có vẻ rất thân quen với anh, vừa gặp mặt đã quan tâm hỏi han vết thương hôm qua ra sao. Tống Việt còn chưa biết phải trả lời ra sao, may mà Tần Mặc đã nhanh chóng chuyển chủ đề, có vẻ như không muốn người khác biết hiện trạng của anh.

Mấy người mau chóng bàn sang chuyện vụ án họ đang làm, Tống Việt lặng lẽ nghe, biết rằng Tần Mặc cố tình gợi chuyện đó, bởi vì nghe nói vụ này cũng đã qua tay anh. Chỉ có điều một vụ án dân sự về chuyện chia tài sản sau ly hôn rất bình thường, tuy con số có vẻ lớn, nhưng cũng không thể đẩy anh đến bước bị người khác hành hung để cảnh cáo được.

Rất nhanh chóng Tống Việt đã phát hiện ra vì sao Tần Mặc lại ghép xe đi buổi sáng, bởi vì giao thông thành phố thực sự quá khó khăn, rõ ràng chỉ cách văn phòng cổ mười phút đi xe, vậy mà bị tắc gần một tiếng trên đường. Nhưng trong một tiếng đồng hồ đó, mấy người bọn họ cũng không rảnh rỗi, đã lấy máy tính ra giải quyết vài vụ, viết được mấy lá thư tố cáo gửi đi.

Tống Việt cả đêm không ngủ, nhìn bên ngoài cũng biết hình của anh rất tệ, nên anh có giữ im lặng thì cũng không ai thấy có gì ngạc nhiên. Trong dòng xe cộ chậm chạp di chuyển, bốn người tính giờ để chín giờ có mặt tại tòa nhà của văn phòng luật sư Tần Thị. Văn phòng luật sư Tần Thi nằm ở tầng mười sáu đến tầng mười tám của tòa nhà, Tống Việt không biết nơi làm việc của mình ở đâu, may mà Tần Mặc nói đi cùng với anh, Tống Việt bèn tự nhiên đi lên tầng mười tám, rồi giật mình nhận ra tên mình đặt trước cửa một văn phòng.

Tống Việt chỉ chỉ, không tin vào mắt mình, Tần Mặc chậm rãi gật đầu. Tống Việt lại càng thấy sợ, anh còn hẳn một văn phòng riêng ở Tần Thị ư?

Thôi được, liên hệ với việc mình có căn nhà sang trọng và xe BMW, thì việc có một văn phòng làm việc riêng cũng không có gì lạ. Tống Việt lơ ngơ đẩy cửa phòng, bên trong gọn gàng sạch sẽ, cũng không khác phòng làm việc bình thường khác. Tống Việt ngồi lên chiếc ghế bọc da, vẫn còn chưa lấy lại tinh thần để mở máy tính ra xem tình hình, thì điện thoại trên bàn đổ chuông.

"Anh Tống, em là Trương Quan, trợ lý của anh, em vào được chứ?" Một giọng thanh niên cất lên trong điện thoại, chắc bởi vì Tần Mặc đã nói tình hình của anh, nên vừa nhấc máy cậu ta đã nhanh chóng giới thiệu bản thân.

Tống Việt tất nhiên là không từ chối, hiện giờ anh đang rất cần một người tới phổ cập kiến thức cho anh, mà Tần Mặc thì rõ ràng không có thời gian, dù gì cũng là giám đốc văn phòng luật, hôm qua tự mình tới viện đưa anh ra cũng đã là tốt lắm rồi. Trương Quan là một cậu luật sư thực tập, gương mặt rất trẻ, nhìn là biết sinh viên mới tốt nghiệp. Cậu này vóc dáng rất cao, tay chân dài ngoẵng, nhưng làm việc thì rất nhanh nhẹn, cũng không rõ Tần Mặc nói gì với cậu ta, cậu ta không hỏi gì nhiều, vừa tới đã đưa cho Tống Việt một cốc cà phê đen đậm, rồi lại ra ngoài ôm một chồng hồ sơ dày cộp, đặt lên bàn làm việc của Tống Việt.

"Anh Tống, đây là những vụ anh xử lý sau khi vào văn phòng làm việc, sếp Tần bảo em tìm hết ra cho anh xem một lượt, có khi anh lại nhớ được gì đó". Trương Quan rất hay chuyện, mồm mép lanh lợi, nhanh chóng sắp xếp lại chồng hồ sơ cao nửa mét, rồi tìm tập cũ nhất ra đặt trước mặt Tống Việt.

Tống Việt nhìn thời gian, thì là năm 2008, chắc là vụ đầu tiên anh giải quyết sau khi vào đây làm việc, liền lập tức thấy hứng thú. Anh biết đây là cách đơn giản nhất để tìm hiểu bốn năm công tác của anh, bèn không đắn đo gì, vùi đầu vào giở hồ sơ.

Càng xem càng kinh ngạc, tất cả hồ sơ đều đã được chỉnh lý ngay ngắn, Tống Việt ban đầu chỉ tập trung vào vụ án, dần dần thì bị ghi chép phiên tòa trong hồ sơ thu hút hết sự chú ý. Theo như trong hồ sơ, năm 2009 anh mới bắt đầu nhận án riêng, còn trước đó thì đều làm trợ lý cho các luật sư khác. Trong ghi chép phiên xử án sau khi anh đã độc lập nhận án, có thể thấy tài năng biện hộ rất cao siêu của anh, chất vấn và biện luận đều đúng trọng tâm, đơn giản nhưng mạnh mẽ. Tống Việt gần như không dám tin những lời như vậy là do mình nói ra/ anh không có chút ký ức nào cả.

Xem hồ sơ hết cả một ngày, Tống Việt thấy đầu óc quay quay, càng lúc càng cảm thấy bốn năm qua như có ma quỷ nhập vào người, anh liền gạt đống hồ sơ trên bàn sang một bên, nhìn Trương Quan từ nãy vẫn giở hồ sơ cùng anh, hỏi: "Trương Quan, cậu năm ngoái tới làm việc phải không?" Điều này thì dễ đoán, nhìn là biết Trương Quan là một sinh viên ra trường còn chưa tiếp xúc nhiều với xã hội.

Thấy Trương Quan gật đầu, Tống Việt tiếp tục hỏi: "Cậu vừa đến là đã làm việc với tôi luôn? Vậy thì trong mắt cậu, tôi là người thế nào?"

Trương Quan từ nãy vẫn thoải mái thì bây giờ lại do dự, câu này không dễ trả lời! Nhưng cậu ta biết bây giờ mà không nói tức là tự tìm đường chết, bèn nghĩ ngợi một lúc rồi nói: "Anh Tống là người được mọi người kính trọng". Cậu ta nói xong thì dừng một lúc, thấy Tống Việt nhíu mày, vội nói tiếp: "Tất nhiên mọi người kính trọng năng lực của anh Tống. Nhưng bình thường thì anh không bao giờ cười, cũng không nói chuyện phiếm với bọn em bao giờ, luôn luôn làm theo phép công. Mọi người hay nói với nhau rằng anh Tống là kẻ nghiện công việc".

Tống Việt cạn lời, tập hồ sơ ban nãy Trương Quan lấy ra chỉ là một phần, sau đó lại lấy ra rất nhiều hồ sơ nữa, nhìn là đủ biết trong bốn năm qua anh tiếp nhận rất nhiều án, mà hiệu suất công việc của anh rất cao, nên nếu như vậy thì việc anh leo lên được vị trí ngày hôm nay cũng không phải chuyện bất ngờ quá.

Nhưng như thế thì thật vô lý! Tính cách chỉ biết đến công việc này rõ ràng không phải của anh!

QUẢNG CÁOAdskeeper

Chuyên gia chỉ mặt đâu là "khắc tinh" của bệnh cao huyết áp!

Máy hút bụi giảm giá 50% nhân dip tết 2020 chỉ 690k

Trương Quan nhìn thấy Tống Việt không còn lạnh băng như ngày xưa nữa, bèn mạnh dạn nói chuyện phiếm. Cậu vốn là người thích nói, bây giờ được "mở máy", Tống Việt lại càng được biết thêm nhiều thông tin. Tống Việt vừa biết mình đã trở thành người góp cổ phần cho kế hoạch phát triển của Tần Thị, chỉ cần đợi đến đại hội cổ đông cuối tháng này là có thể xác nhận tư cách cổ đông.

Đây đương nhiên không phải là nguyên nhân anh bị người khác đánh, những kẻ ghen ăn tức ở lòng dạ đen tối chắc không dùng đến trò bạo lực bẩn quá mức đơn giản này, mà phải dùng những âm mưu hiểm độc hơn mới đúng.

Tống Việt lại mở xem lại vụ án mà anh đang tiếp nhận, chẳng có ai có động cơ gây án. Dù sao anh cũng chỉ là luật sư dân sự, không động tới những vụ án hình sự, nhưng khi anh đọc hết những ghi chép phiên xử án xong thì lại không dám chắc nữa. Bởi vì trong phòng xử án anh rất độc miệng, đến bản thân anh còn không chịu nổi, nữa là đương sự?

Hay là có tay nào mới ra tù? Tìm anh để trả thù? Vụ án dân sự thông thường là sẽ hòa giải bên ngoài tòa án, cho dù có vào tù thì cũng có thời gian rất ngắn. Tống Việt nói suy nghĩ của mình cho Trương Quan nghe, hai người liền bắt đầu sàng lọc các vụ án, vừa làm được một lúc thì Tần Mặc đẩy cửa bước vào, nói là lấy được hình ảnh camera ghi được khi xảy ra vụ án từ phía cảnh sát.

Tống Việt biết Tần Mặc chắc chắn là bỏ rất nhiều công sức, nếu không phía cảnh sát đã không hành động nhanh như vậy. Ba người cùng nhìn vào những hình ảnh trên màn hình máy tính. Thời gian vụ án vào lúc buổi chiều, có người qua đường, Tống Việt nhìn trên màn hình thấy mình vừa gọi điện thoại vừa đi tới, sau đó nhìn rất rõ có một bóng người lao ra từ phía bên cạnh, dùng gậy gỗ đánh anh vào sau đầu, rồi lập tức chạy thoát.

Camera giám sát không có âm thanh, nhưng Tống Việt xem xong cũng cảm thấy đau nhức sau gáy. Tiếp theo đó vẫn còn một phần ghi hình nữa, ba người lại lặng lẽ xem, nhìn Tống Việt nằm bất tỉnh nhân sự trong đoạn clip. Bỗng nhiên Tống Việt cảm thấy có gì đó không đúng, nhưng nếu bảo anh nói chỗ nào sai thì anh không biết phải nói gì.

Đến khi nhìn thấy Tần Mặc xuất hiện trong đoạn clip ghi hình, thì hình ảnh mới dừng lại, Tần Mặc thấy ánh mắt nghi ngờ của Tống Việt, chỉ tay vào điện thoại nói: "May mà có tính năng đinh vị, hơn nữa khi cậu và tôi nói chuyện, cậu có nói vị trí của mình cho tôi biết".

"Kẻ tình nghi đội mũ, không thể nhìn thấy mặt, sau khi xảy ra chuyện em có hỏi mấy người bán hàng quanh đó, nhưng không ai chú ý đến có kẻ khả nghi nào". Trương Quan rõ ràng là hôm qua cũng có đến hiện trường một lần, tiếc rằng dân số lưu động trong thành phố quá lớn, không thể tiếp tục điều tra được, "Chiếc gậy gỗ tìm được trong thùng rác ở gần đó, nhưng không lấy được dấu vân tay, manh mối đứt rồi".

"Vì thế Tống Việt cậu mấy hôm nay đừng có đi lại một mình". Tần Mặc ra quyết định. Trong nhiều năm làm luật sư của anh, cũng không phải chưa từng gặp trường hợp báo thù, nhưng lần này người bị hại là nhân viên anh rất coi trọng, hơn nữa lại xảy ra đúng vào lúc anh đang gọi điện, nên phải điều tra ra sự thật.

3

Thế là Tống Việt được sắp xếp chu đáo, hàng ngày sếp Tần Mặc tự mình đưa đón, còn những việc vặt khác do Trương Quan phụ trách hoàn toàn, anh chỉ việc vùi đầu vào đống hồ sơ để tìm lại ký ức.

Một tuần sau đó, không có việc ngoài ý muốn nào xảy ra, Tống Việt cũng đã thuộc nằm lòng mọi vụ án qua tay anh trong bốn năm, hôm đó, là ngày anh ra biện hộ ở tòa án.

"Anh Tống, anh ổn không? Có cần điều người khác thay anh không?" Sau khi Trương Quan quen với Tống Việt rồi, lời ăn tiếng nói bắt đầu có phần cá mè một lứa. Nếu so sánh, thì cậu ta thích Tống Việt sau khi mất trí nhớ hơn, bởi vì con người Tống Việt trước kia không tùy tiện nói cười, trông như một người máy chỉ biết làm việc.

"Không cần, tôi ứng phó được". Tống Việt sắp xếp tài liệu trong tay, tuy anh mất bốn năm ký ức, nhưng kiến thức pháp luật học trong trường thì hoàn toàn không hề mất, hơn nữa cả tuần anh ngồi đọc ghi chép phiên xử án, những vụ án dân sự hay xuất hiện cũng chỉ có chuyện tranh chấp tài sản, không phải ly hôn thì là tranh tài sản thừa kế, chẳng có mấy thứ gì mới lạ. Tuy anh không tự tin mình sẽ làm nhanh gọn được như ngày xưa, nhưng không đến nỗi không giải quyết nổi.

"Ơ? Anh Tống này, anh hôm nay không đeo cái nhẫn ngón cái đó sao?" Trương Quan thấy Tống Việt đã sắp xếp xong chuẩn bị đi, lập tức nhắc nhở. Nhưng vừa nói dứt thì cậu nhớ ra là Tống Việt không nhớ chuyện gì cả, liền chủ động tới bên cạnh anh, kéo ngăn bàn làm việc, lấy ra một chiếc hộp gấm nhỏ, "Anh có một thói quen, đó là chiếc nhẫn ngón cái này lúc nào tới phòng xử án anh cũng đem theo".

Tống Việt hơi ngẩn người ra, có một vật may mắn cũng không có gì lạ, ví dụ như hồi còn đi học mỗi khi kiểm tra anh chỉ dùng một cây bút để làm bài, quả thật việc này cũng giống phong cách của anh. Nhưng điều khiến anh ngẩn người ra là, chiếc nhẫn này anh vẫn có ấn tượng.

Bốn năm trước, không lâu trước khi anh tới Tần Thị tham gia phỏng vấn, anh có tìm được nó ở một tiệm đồ cổ. Đó là một chiếc nhẫn ngón cái có hình gồ lên, trên đó còn có một rãnh cong, chất liệu bằng xương, bởi vì niên đại đã xa, nên có màu nâu nhạt, chủ tiệm nói là làm bằng xương hổ. Thực ra là chất liệu gì anh cũng không để ý lắm, anh thử đeo chiếc nhẫn này, sau đó thì không có cách nào tháo ra được, cũng may giá thành không đắt, nên lúc đó anh không để ý lắm, mua luôn.

Tống Việt nhớ lại, hình như lúc ý anh đeo chiếc nhẫn đó đến tham gia phỏng vấn ở văn phòng luật sư Tần Thị, lúc ấy Tần Mặc còn tò mò hỏi lai lịch chiếc nhẫn. Sau đó đến lúc tai nạn xe hơi, chắc chắn là anh vẫn đeo nhẫn.

Thì ra sau vụ tai nạn, anh tháo được chiếc nhẫn này ra?

Không hiểu vì sao Tống Việt cảm thấy việc mình mất đi ký ức bốn năm là có liên quan đến chiếc nhẫn cổ quái này, nên khi Trương Quan đưa nhẫn cho anh, anh liền từ chối, thậm chí không sờ vào nó, bảo Trương Quan để lại chỗ cũ. Trương Quan tuy rằng thấy hơi kỳ lạ, nhưng cũng không nói gì, còn nghĩ chắc do Tống Việt không có ấn tượng gì với chiếc nhẫn.

Phiên tòa tiến hành rất thuận lợi, tuy nói một cách chính xác thì Tống Việt mới lần đầu tiên ra bào chữa, nhưng cũng không xảy ra vấn đề gì, bản án đã được anh bào chữa thắng.

Tống Việt để ý thấy Trương Quan tỏ ra kinh ngạc, liền hỏi cậu ta, bởi vì dạo này cậu ta đã thân vớỉ anh, nên có gì nói đấy luôn, cậu tỏ ra ngạc nhiên vì Tống Việt thay đổi phương pháp chất vấn và biện luận.

Trương Quan lấy võ hiệp ra so sánh cho có hình tượng, nói Tống Việt bình thường vẫn dùng kiếm pháp của Tây Môn Xuy Tuyết, võ công trong thiên hạ chỉ có nhanh thì mới không phá được, trực tiếp tấn công, đánh thẳng vào trung tâm. Còn bây giờ thì Tống Việt lại giống Quách Tĩnh, luyện tập nội công, lấy sức để thắng, lấy đức để phục người.

Tống Việt nghe xong giật giật khóe mắt, cái kiểu so sánh linh tình gì đây. Nhưng anh cũng phải thừa nhận rằng cách so sánh đó rất trực quan. Tống Việt đã quen với hồ sơ vụ án bốn năm qua, tất nhiên biết trên phiên tòa phải dùng lời lẽ sắc sảo thế nào thì mới giành thắng lợi nhanh chóng, nhưng như thế thì cũng hơi thiếu tình người.

Làm người vẫn nên khéo léo một chút, sức mạnh của ngôn từ còn hơn cả đao kiếm, thậm chí còn đáng sợ hơn đao kiếm, vết thương do nó gây ra là không thể nhìn thấy, nhưng cũng khó chữa lành hơn.

Mà điều mấu chốt là, kẻ giỏi chiến trận thì chết vì binh đao, kẻ giỏi bơi lội thì chết ở dưới nước, thanh đao mang tên "ngôn từ" đó là một thanh đao hai lưỡi, không chỉ biết chém người khác, mà còn có thể hại bản thân. Tống Việt biết mình bị người khác ám hại, có thể cũng vì họa từ miệng ra.

Cũng chẳng hiểu bốn năm qua anh nghĩ gì, về lý mà nói tính anh không độc miệng như vậy, nhưng mấy ngày này anh lần lượt tìm hiểu những sự việc trong bốn năm qua, anh lại bắt đầu thấy hoang mang. Bởi vì đồ đạc trong phòng đều sắp xếp theo thói quen của anh, đến cả các folder trong máy tính cũng vậy, nên tìm tài liệu rất tiện.

Nghĩ mãi cũng không nghĩ ra là vì sao, Tống Việt trở lại văn phòng, tươi cười chào hỏi đồng nghiệp, sau đó hơi bối rối khi thấy họ tỏ vẻ lạ lẫm, anh vội vàng chạy về phòng làm việc của mình. Đã cả tuần lễ rồi, chẳng lẽ họ vẫn còn chưa quen hay sao? Chẳng lẽ sau này anh lại phải làm bộ mặt lầm lì ư?

Uể oải mở máy tính, Tống Việt nhìn thấy clip ghi hình camera giám sát trên desktop, anh liền cứ thế mở lên, tua đi tua lại để xem. Anh nhìn bóng dáng của kẻ tình nghi, cố gắng nhớ lại chút dấu vết gì, nhưng càng xem, mặt anh lại càng khó coi.

Khi Tần Mặc đẩy cửa vào, nhìn thấy Tống Việt ngồi sau màn hình máy tính, sa sầm mặt mày, trong thoáng chốc còn tưởng anh đã tìm lại được ký ức bốn năm qua, bỗng nhiên cảm thấy tiếc nuối.

Phải biết rằng từ ngày Tống Việt đi làm ở văn phòng này, anh được công nhận là "núi băng", chẳng có qua lại gì nhiều với người khác, chỉ có mỗi chút giao lưu với vị sếp này, mà chắc cũng chỉ vì Tần Mặc là chủ của cái văn phòng luật này mà thôi, anh rõ ràng là một kẻ nghiện công việc đến điên cuồng. Tất nhiên nhân viên như thế cũng là loại Tần Mặc rất thích, nên trong bốn năm qua không ngừng cất nhắc anh. Nhưng khi các vụ án Tống Việt tiếp nhận ngày một nhiều, thì Tần Mặc lại bắt đầu cảm thấy không vừa ý. Ngành luật sư này, cần nhất là mối quan hệ, hơn nữa hôm nay có thể bào chữa cho hai bên đối lập, nhưng ngày mai họ cũng có thể mời nhau tới giúp đỡ.

Cái miệng của Tống Việt rất dễ đắc tội người khác, nên Tần Mặc cũng không dám để anh tiếp xúc với khách hàng lớn, đành để anh phụ trách các án dân sự. Chứ nếu để Tống Việt xử lý mấy vụ án hình sự, có khi đã bị người ta chém cho mấy dao rồi. Anh đặc biệt chú ý bản ghi chép phiên xử ngày hôm nay, bỗng phát hiện ra rằng Tống Việt sau khi mất trí nhớ không chỉ thay đổi về tính cách, mà kỹ xảo tranh tụng trên tòa cũng thay đổi. Anh giành thắng lợi một cách trọn vẹn, đối thủ phải tâm phục khẩu phục, không có chút oán thán nào, rất phù hợp với tôn chỉ "hòa khí sinh tài" của Tần Mặc.

Luật sư không đắc tội với người khác là cực hiếm, phải hiểu rằng nghề luật sư này sinh ra là để đắc tội với người khác.

Tất nhiên, Tống Việt trước đây thì hơi quá đáng quá.

Tần Mặc vẫn còn đang tiếc nuối, nhưng bước chân thì không dừng lại, đi tới xem màn hình máy tính của Tống Việt, ngạc nhiên khi nhìn thấy trên màn hình bật đoạn ghi hình của camera giám sát: "Sao rồi? Cậu tìm ra được gì rồi?"

Tống Việt chỉ vào những người đi qua đi lại trên màn hình, thấp giọng nói: "Chỗ tôi bị đánh cách công ty không xa, nhưng đến lúc anh chạy được tới thì cũng phải mất năm phút, vậy mà trong năm phút đó, bao nhiêu người đi qua, không có một ai tới kiểm tra tình hình, cùng lắm là gọi 110 báo cảnh sát".

Lần đầu tiên Tống Việt nhìn đã cảm thấy có gì đó sai sai, bây giờ thì anh đã hiểu ra. Giữa ban ngày ban mặt, kẻ tình nghi hành hung người, không có ai tới ngăn cản đã đành rồi, vậy mà lại còn để anh nằm đó mặc kệ sống chết? Như thế thì quá đáng quá!

Tần Mặc thì lại hơi sững người, sau đó cười nhăn nhó: "Tống Việt này, xem ra cậu vẫn còn chưa khôi phục trí nhớ, bây giờ người làm việc tốt ít lắm, đặc biệt là ở thành phố này của chúng ta. Hơn nữa... nói ra thì, việc này cũng có nguyên nhân do cậu nữa".

Tống Việt ớ người, thế này là thế nào?

Tần Mặc nhìn một lượt phòng làm việc của Tống Việt, mấy ngày này Tống Việt vẫn xem các vụ án của bốn năm qua, nên hồ sơ vẫn để nguyên đó. Tần Mặc tìm một hồi, lôi ra một túi hồ sơ ở phía dưới cùng của chồng hồ sơ, đưa cho Tống Việt: "Cậu tự mình xem đi".

Tống Việt cầm lấy hồ sơ, là của năm 2008, vụ án đúng vào lúc anh mới vào Tần Thị, bởi vì lúc đó anh chỉ là trợ lý của luật sư khác, nên không phải luật sư bào chữa chính, trong ghi chép phiên xử án không có tên anh, vì thế lúc trước Tống Việt mới không xem. Anh nghi hoặc mở hồ sơ ra, lập tức Tống Việt hiểu ý của Tần Mac.

Thực chất đây là một vụ án rất đơn giản, bị cáo và nguyên cáo nảy sinh va chạm ở một nơi nào đó, nguyên cáo bị gãy chân, yêu cầu bị cáo bồi thường viện phí. Nhưng một vụ án nhỏ như vậy, mà kết thúc của nó thì không đơn giản chút nào. Bởi vì ghi chép của phía cảnh sát bị mất, nên bị cáo đã lật lại lời khai, nói rằng mình đi qua đường có lòng tốt mới đỡ nguyên cáo dậy. Bị cáo còn thông báo cho một số trang mạng quen biết, sự việc này liền được phóng đại lên, lại còn thêm mấy tờ báo nhảy vào như thể họ sợ thiên hạ không đại loạn, chẳng mấy chốc mà vụ việc trở nên phức tạp.

Tống Việt cầm tập hồ sơ mà không biết làm gì, anh không biết mình lúc ấy đóng vai trò gì, bởi vì trong hồ sơ không nhắc nhiều đến tên anh, nhưng nhớ tới những ghi chép trong bốn năm qua, thì anh là người phải dùng mọi cách để đạt mục đích.

"Chúng ta là luật sư bên bị, hồi ấy cũng chịu ảnh hưởng không ít, luật sư năm đó phụ trách vụ này, sau khi kết án đã chuyển sang văn phòng luật khác làm việc". Tần Mặc lật hồ sơ, chỉ vào một bản photo trong đó nói: "Vụ này cuối cùng là chúng ta thất bại, tất nhiên đây là chuyện bình thường. Dù sao thì đúng là bị cáo đã đâm vào người kia, nhưng không ai ngờ có thể gây ra ảnh hưởng lớn đến thế. Bên nguyên và bên bị đã đạt được thỏa thuận, trên cơ sở bị cáo bồi thường thiệt hại, đôi bên ký thỏa thuận không được tiết lộ những tin tức liên quan tới vụ án cho báo chí".

"Như vậy tức là không còn ai biết được sự thật nữa sao?" Tống Việt sững người, thỏa thuận này rõ ràng là để che đậy cho bị cáo. Một kẻ dối trá, lại thoát khỏi chỉ trích của dư luận, đã thế còn có vẻ như phải bồi thường oan.

Tần Mặc không nói gì nhiều, chỉ chậm rãi nói một câu: "Tống Việt, chúng ta là luật sư".

Tống Việt im lặng, ngành luật sư này, từ khi anh chọn học luật, đã hiểu rất rõ. Đó chính là, bất kể người được mình bào chữa có tội hay không có tội, đều phải tranh thủ được quyền và lợi ích cao nhất. Nếu xét theo tiêu chuẩn đó, thì vụ án này quả thực rất thành công, nhưng...

"Không ai ngờ ảnh hưởng của nó lại lớn đến vậy". Tần Mặc vỗ vai an ủi Tống Việt, "Mấy tháng trước cũng có phóng viên đăng tin lại vụ này, phỏng vấn bí thư ủy ban Chính pháp, đã công khai hoàn toàn tình tiết vụ án, chỉ tiếc là đã không còn ai quan tâm đến sự thật ra sao nữa. Trong thời đại thông tin, những thứ thu hút phải là những sự kiện xấu xa, sự chú ý của dư luận cũng thay đổi chóng mặt, sự thật là gì, rất ít người chịu đi khai quật lại".

Cổ họng Tống Việt tắc nghẹn, anh không thể biết bản thân mình bốn năm trước phải đối diện thế nào với vụ án này, phần ký ức về chuyện này trong đầu anh là hoàn toàn trống rỗng.

Nhưng nếu thời gian quay trở lại bốn năm trước, thì anh sẽ lựa chọn thế nào?

Đó là một câu hỏi không thể trả lời.

Đúng là luật sư thì phải nói sự thật, nhưng cũng được phép lựa chọn chỉ nói một phần sự thật.

Tống Việt thở mạnh một hơi, bắt đầu nói: "Tôi cho rằng, người đó đến đánh tôi, có khi là vì muốn tự tôi phải trải qua cảm giác cô độc khi bị bỏ mặc giữa đường. E rằng anh luật sư Lý phụ trách vụ này cũng gặp chuyện tương tự".

Tần Mặc nghe xong vội vàng gọi điện hỏi, sau đó lại gọi thêm mấy cú điện thoại nữa, quả nhiên thở dài nói: "Không sai, anh Lý cũng gặp chuyện tương tự như cậu, cả bị cáo cũng thế. Còn thẩm phán thụ lý vụ này thì không sao, có lẽ bởi vì đã chuyển sang thành phố khác, nên không tìm được".

Gương mặt của Tống Việt không hề giãn ra vì được giải tỏa nghi vấn, mà lại còn càng trở nên nặng nề.

Tần Mặc không nói gì, anh biết làm cái nghề này, đạo đức chính là một bậc cửa phải vượt qua.

Tống Việt ngày xưa làm việc quá mức mạnh mẽ nhanh gọn, còn Tống Việt bây giờ, rõ ràng là cần phải suy nghĩ lại.

Đã làm rõ được ý đồ của kẻ tình nghi, đối phương chỉ muốn dạy cho họ một bài học chứ không có ý định làm gì, Tống Việt không còn thấp thỏm lo sợ như trước nữa.

Nhưng dường như trong tim có một cái dằm đâm phải, làm cách nào cũng không nhổ ra nổi.

Như vậy cũng tốt, có thể nhắc nhở mình giới hạn khi làm việc sau này.

Tống Việt giải quyết thuận lợi rất nhiều vụ án, trở thành cổ đông mới của văn phòng luật sư Tần Thị, diện tiếp xúc cũng rộng hơn trước nhiều.

Hôm đó, anh nhận được cuộc điện thoại của Trương Quan, nói là có người đến tìm anh, nhưng không có hẹn trước. Trương Quan còn thêm một câu là, người đó rất kỳ quái.

Tống Việt lúc này cũng đang rỗi rãi, liền bảo Trương Quan dẫn người đó vào, lát sau đã thấy có người đẩy cửa vào, Tống Việt lập tức nhìn thấy một gã trẻ tuổi mặc áo sơ mi đen thêu hình rồng.

Hình như hơi quen, trước đây gặp ở đâu rồi thì phải? Khi Tống Việt định đưa danh thiếp và chào hỏi, thì người đó đã xua tay từ chối nói: "Tôi không đến nhờ anh tư vấn luật, tôi đến để mua lại một món đồ từ chỗ anh".

"Là đồ gì?" Tống Việt ngạc nhiên, không hiểu ý của gã đó.

"Một chiếc nhẫn ngón cái". Gã đó chậm rãi nói: "Ngẫm ra thì thứ đó bây giờ cũng không có tác dụng với anh nữa rồi, hãy bán lại cho tôi đi".

Tống Việt lúc này mới nhớ ra, người này chắc là chủ tiệm đồ cổ mà bốn năm trước anh mua chiếc nhẫn ngón cái đó, lúc ấy gã mặc bộ đồ Trung Sơn thêu rồng đỏ, giờ thì đổi kiểu quần áo rồi! Tống Việt rất phản cảm với chiếc nhẫn ngón cái đó, giữ không được vứt không xong, cho thì cũng không dám, cứ cất trong ngăn kéo không động vào, nghe nói vậy anh lập tức đem ra đưa cho chủ tiệm.

Chủ tiệm cũng không lôi thôi, lấy ra mấy tờ nhân dân tệ đặt lên bàn của anh, rồi lấy chiếc hộp gấm đựng nhẫn định đi.

Tống Việt vội vàng hỏi: "Này chủ tiệm, chiếc nhẫn này lai lịch thế nào?" Anh không dám chắc cuộc sống bất thường của anh trong bốn năm qua là do chiếc nhẫn gây ra, nhưng nếu không hỏi cho rõ thì anh cảm thấy bứt rứt.

Chủ tiệm quay đầu lại, nửa cười nửa như không, nhìn anh nói: "Anh có biết nhẫn ngón cái dùng làm gì không? Loại nhẫn này cổ đại gọi là "thiếp", dùng để ngắm bắn cung. Xuất hiện từ đời Thương, là dụng cụ để xạ thủ giữ dây cung khi săn bắn. Tuy nó không phải hung khí như đao kiếm, nhưng cũng là thứ giúp cho việc hung, nên có sát khí lớn".

Tống Việt nghe xong lặng người, cảm thấy lời của chủ tiệm có ẩn ý. Nghề luật sư này, chẳng phải cũng như chiếc nhẫn đó sao?

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

"Hơn nữa chiếc nhẫn này Chu Vũ Vương Cơ Phát dùng khi khai sáng triều đại nhà Chu, nên nó có thể khiến người đeo nó chứa đầy sát khí, đưa ra những phán đoán có lợi cho bản thân mình nhất".

Tống Việt không biết phải nói sao, nhưng trong lòng anh thì có chút không phục. Trước giờ đám bán đồ cổ đều giỏi khua môi múa mép, anh là luật sư, cũng là nghề dựa vào miệng lưỡi, vậy mà để gã nói cho không còn biết đối đáp ra sao, thực sự là một việc khó chấp nhận.

"Không cần phải lo, trước đây anh đeo nhẫn vào rồi không tháo ra được, đó có lẽ là vì sát khí còn tồn đọng trong nhẫn ảnh hưởng tới tính cách của anh, nhưng sau vài năm sử dụng, chắc nó cũng đã cạn kiệt rồi". Gã chủ tiệm chậm rãi nói. Trên mặt gã tất nhiên chẳng tỏ ra chút hối lỗi nào, chiếc hổ cốt thiếp này chọn đúng anh ta, không phải là ngẫu nhiên, trong tính cách của anh ta, lý tính và cảm tính đều quá mạnh mẽ, rất dễ lầm đường lạc lối, chủ tiệm cho rằng chiếc hổ cốt thiếp này thực ra không có quá nhiều ảnh hưởng.

Cũng như con rắn dụ dỗ Eva ăn trái cấm trong vườn Địa Đàng, cho dù không có con rắn tội lỗi đó dụ dỗ, thì sớm muộn gì Eva cũng vẫn ăn.

Chỉ là vấn đề thời gian thôi.

Nhưng chuyện như vậy cuối cùng là tốt hay là xấu, chẳng ai biết được. Dù sao theo như lời kể trong "Kinh Thánh", tuy Adam và Eva lén ăn trái cấm, nhưng cuối cùng là sản sinh ra loài người, sai lầm nhất thời cũng không nói lên được điều gì.

Biết sai mà sửa, không gì tốt đẹp hơn.

Tống Việt bây giờ, đã là một luật sư rất tốt, chẳng phải thế sao?

4

Đi ra khỏi tòa nhà, chủ tiệm cúi đầu giống như đang cầm chơi chiếc nhẫn, thực ra là lấy tay nhẹ nhàng ấn con thỏ bông đang từ từ bò ra ngoài từ trong túi áo.

"Cho xem một chút đi mà! Có ai phát hiện ra đâu!" Giọng nói tò mò đến phát cuống của bác sĩ phát ra từ trong túi áo, rõ ràng là không chịu nằm yên được một lát.

"Có người đang nhìn". Gã chủ tiệm thủng thẳng trả lời, nhưng nhìn thấy chú thỏ bông lại tiếp tục bò ra, gã cũng không buồn nhét trở lại túi nữa.

"Vẫn là tên Hồ Hợi chứ ai!" Bác sĩ nhác thấy trong góc tối ở con ngõ có bóng người, bởi vì có mái tóc màu trắng bạc nên rất gây chú ỷ. Vừa hay mấy ngày này gần đó có một cuộc triển lãm truyện tranh cỡ lớn, những người xung quanh nhìn thấy màu mắt và màu tóc kỳ quái cũng nhiều rồi, nên không ai để ý. Có điều chú chim đỏ trên vai hắn, nhỏ nhắn đáng yêu, thỉnh thoảng lại có hành động tình nghịch, tổ hợp soái ca với chim cảnh thì rất dễ gây chú ý, ai cũng muốn ngoái nhìn. Bác sĩ còn nhìn thấy xung quanh có rất nhiều người lấy điện thoại ra chụp từ xa, "Này, cậu thiếu gia này đến đây làm gì nhỉ? Không phải là đi theo dõi chúng ta chứ? Không đúng, không phải là anh đã thu lại đạc Long Văn từ tay Hồ Hợi rồi sao? Anh gọi hắn đến à?"

"Chắc hắn đến là vì chiếc hổ cốt thiếp này".

Gã chủ tiệm chà lên chiếc nhẫn trong tay, mỉm cười: "Tuy rằng hắn bị tôi khống chế bằng đạc Long Văn, nhưng cũng không thể đánh rắn động cỏ được. Đao tốt thì chắc chắn lưỡi đao phải bén". Nói đoạn, chủ tiệm quay đầu, hướng về phía Hồ Hợi, cầm hổ cốt thiếp vẫy vẫy, hiển nhiên là hắn nhìn thấy hết mọi hành động của chủ tiệm, sầm nét mặt xuống, rồi mở chiếc ô đen trong tay ra che lên đầu, rảo bước bỏ đi.

Bác sĩ ngẩng đầu nhìn mặt trời chói chang, cảm thấy rất kỳ lạ: "Không phải chứ? Vị thiếu gia đây lại sợ phơi nắng như các cô gái sao?"

Chủ tiệm nhìn theo bóng dáng Hồ Hợi đi dưới nắng, cho đến khi hắn đã khuất sau góc phố, không còn nhìn thấy đâu nữa mới chậm rãi nói: "Bởi vì hắn không được tiếp xúc với ánh mặt trời".

"Hả? Hắn là ma cà rồng à mà sợ ánh mặt trời? Có phải sau này lúc nào cần đối phó với hắn thì phải chuẩn bị tỏi và thánh giá không?" Bác sĩ vừa lảm nhảm, vừa chợt nhớ ra một chuyện, sung sướng nói: "Đúng rồi, ngọc Thủy Thương được làm thành hình chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập tự giá, vậy thì tên Hồ Hợi đó tự chuốc lấy phiền phức rồi nhỉ?"

Tuy tâm trạng chủ tiệm không tốt, nhưng vừa nghe xong kịch bản của bác sĩ, cũng không khỏi nhếch mép cười.

"Ma cà rồng là loài sinh vật cấp thấp, không đáng nhắc tới. Trước giờ anh không tò mò sao? Áo Xích Long chỉ có hai chiếc, một chiếc tôi đang mặc, còn một chiếc thì chôn theo Phù Tô ở lăng Tần Thủy Hoàng, vậy thì vì sao Hồ Hợi sống được đến bây giờ?"

"Ơ? Không phải vì hắn ăn được thuốc trường sinh bất lão à?" Lúc này bác sĩ mới cảm thấy lạ, anh nghĩ một hồi, vẫn không hiểu: "Thế thì kỳ lạ thật, nhìn mái tóc trắng và con ngươi màu đỏ của hắn... Tên Hồ Hợi này dùng cách thức kỳ quái nào nữa à?"

Chủ tiệm bất giác đưa tay sờ lên vết thương ghê rợn ở trên cổ, thở dài nói: "Tôi và hắn đều uống thuốc trường sinh bất lão, nhưng khác nhau ở chỗ, tôi chết một lần rồi, giống như người đã chết vậy, phải nhờ cả vào áo Xích Long để giữ cho cơ thể không bị thối rữa. Còn Hồ Hợi thì vẫn sống, tuy thuốc trường sinh bất lão là linh dược, có thể khiến người uống giữ mãi tuổi thanh xuân, nhưng đầu tóc thì vẫn bạc trắng như người già, đôi mắt đỏ chắc cũng như vậy. Còn việc không được để mặt trời chiếu vào, thì cũng có thể tưởng tượng được. Hắn là người đáng ra phải chết lâu rồi, lại không có áo Xích Long hỗ trợ, âm khí rất nặng, tất nhiên không thể chịu nổi thứ dương khí cực mạnh như mặt trời chiếu vào. Tuy hắn đã đem nửa chiếc áo Xích Long sửa thành áo khoác gió, nhưng không thể như tôi mặc áo quanh năm suốt tháng được, hiệu quả không được rõ ràng như thế".

Tuy bác sĩ là người xuề xòa không kỹ tính, nhưng cũng nghe ra được nỗi buồn bã trong lời nói của chủ tiệm. Anh chợt nhận ra, vì sao khi chủ tiệm nhìn theo bóng dáng Hồ Hợi, ánh mắt lại phức tạp như vậy.

E rằng trên đời này, người cổ thể được gọi là đồng bệnh tương lân với gã chủ tiệm, cũng chỉ có một mình Hồ Hợi. Hai người đều từng chìm nổi trong ngày tháng của hơn hai nghìn năm, đã nhìn thấy hết sự đổi thay của nhân thế. Bác sĩ bỗng thấy, trường sinh bất lão chẳng phải việc tốt đẹp gì, mỗi chỗ chỉ ở được vài năm, rồi phải vội vã bỏ đi ngay trước khi những người xung quanh kịp nghi ngờ. Cứ phải tự mình nhìn những người thân quen già đi, cuối cùng chỉ biết làm bạn với đồ cổ...

Bác sĩ lặng lẽ lấy đôi tai thỏ đặt lên tay chủ tiệm, để kéo sự chú ý của gã về mình.

Cho dù gã chủ tiệm cô độc đến mấy, cũng đừng có đi tìm Hồ Hợi làm bạn.

Ờ, tên Phù Tô chiếm cơ thể của anh nữa, tên đó thì càng không nên mơ tới!

Phù Tô bỏ cuốn sách y học trên tay xuống, xoa bóp vùng mi tâm đang đau nhức. Dù có ký ức của bác sĩ, nhưng y học là vô cùng, bác sĩ cũng mới chỉ ở trình độ sơ cấp, những thứ cần học thực sự là quá nhiều. Ví dụ như cách khâu ngoại khoa có tới vài chục cách, mỗi cách đều phải phán đoán dựa vào tình trạng bệnh nhân, còn phải luyện tập chăm chỉ trước giường phẫu thuật nữa. Phù Tô là kẻ có xu hướng theo chủ nghĩa hoàn mỹ, bất kể chuyện gì cũng muốn làm thật tốt, vì thế nên mới mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần.

Một chén trà Bích Loa Xuân vừa mới pha được đặt bên cạnh, Phù Tô ngửi hương trà, cảm thấy đầu đỡ đau hơn một chút. Hơi ngước mắt lên nhìn Hồ Hợi đứng bên, Phù Tô lấy tay cầm chén trà, dùng nắp chén gạt mấy lá trà nổi trên mặt nước, nhẹ nhàng nói: "Không lấy được hổ cốt thiếp hả?"

"Thần đệ lỗ mãng nên không lấy được". Hồ Hợi cúi đầu, như một đứa trẻ làm sai chuyện gì đang đợi người lớn mắng. Thực ra hắn không phải là không có cơ hội lấy hổ cốt thiếp, nhưng hắn đã sống hơn hai nghìn năm, dù phần lớn thời gian là ngủ vùi trong hầm mộ, nhưng cũng biết thời đại này đã khác xưa, tâm nguyện của hoàng huynh e rằng khó đạt được. Ngược lại, hắn cảm thấy, sống cùng với hoàng huynh, hàng ngày nhìn hoàng huynh tới bệnh viện đi làm, hai người sống như hai anh em bình thường, cũng là một lựa chọn tốt.

Phù Tô liếc nhìn hắn, nửa cười nửa như không, rồi không nói gì, chỉ cúi đầu thổi trà cho nguội, khẽ nhấp một ngụm.

Hồ Hợi đã toát mồ hôi ướt lưng áo, dù hoàng huynh không nói một tiếng nào, nhưng thứ khí thế tỏa ra từ hắn thật đáng sợ, khiến Hồ Hợi thậm chí không dám thở mạnh. Hắn luôn cảm thấy hoàng huynh hơi kỳ lạ, dù nói là định lập lại Càn Khôn đại trận, nhưng mấy tháng này, Phù Tô ngày ngày đều đi làm bình thường như bác sĩ, còn chẳng hề ra đến tỉnh ngoài lần nào, Hồ Hợi cảm thấy hơi bất an.

Là do không tin tưởng hắn, hay do đang mưu tính gì khác?

Nhìn thằng em vô dụng toát mồ hôi trên trán, Phù Tô xua tay nói: "Không sao, tối nay ăn vịt quay nhé, ta ngại ra ngoài quá, đệ gọi họ ship đến đi".

Hồ Hợi hơi ngớ người ra một chút, tuy hắn cảm thấy dạo này hoàng huynh mình ngày càng không chịu ra ngoài, nhưng cũng không làm phật ý hoàng huynh, nhấc điện thoại gọi order.

Phù Tô chạm tay lên khối ngọc Hòa Thị trên bàn, hơi nheo mắt, lẩm bẩm nói: "Mới thu thập được sáu món đồ cổ đế vương ư? Chưa vội... chưa vội...".

Quyển 3 - Chương 7: Xúc Xắc Ngà

1

Năm 422, đô thành Kiến Khang.

Lưu Dụ khó khăn lắm mới mở được mắt, đôi mắt hoa lên khiến ông ta mất một lúc lâu mới nhìn rõ mình hiện đang ở trong tẩm cung, chứ không phải giữa đám loạn quân trong cơn ác mộng.

Là hoàng đế khai quốc của triều Lưu Tống Nam Triều, Lưu Dụ đã ngoài sáu mươi tuổi, nổi tiếng vì tiết kiệm, không thích yến ẩm du ngoạn, cũng không trang trí cho cung điện ngựa xe của mình, tất cả gấm vóc vàng bạc đều đưa về kho tàng cả. Tẩm cung của ông, trên tường chỉ treo bức trướng bằng vải thô, đèn lồng bằng vải sợi và cây phất trần làm từ dây gai, trông giống như nhà dân bình thường, chẳng qua là phòng rộng hơn nhiều lần thôi.

Giờ đây Lưu Dụ cảm thấy tẩm cung như vậy quá trống trải, đến việc gọi người hầu cũng khó khăn.

Gọi một lúc, cổ họng ông khô rát không nói được tiếng nào nữa. Lưu Dụ muốn cáu mà không có sức để cáu, mà trước lúc ngủ ông ta đuổi hết thái giám cung nữ hầu hạ ra ngoài rồi, giờ còn biết trách ai?

Có lẽ, thời giờ của ông đã sắp hết rồi?

Lưu Dụ thở dốc, nhắm mắt lại.

Có lẽ ai khi sắp rời khỏi thế giới này, trong đầu cũng sẽ hiện ra những việc diễn ra trước kia trong cuộc đời, ông cũng không ngoại lệ.

Khi ông mới đến cõi đời này, mẹ ông đã mất vì khó đẻ. Ông sinh ra đã khắc mẹ, bị thầy bói nói là cao số, Lưu Kiều cha ông thậm chí còn định chôn sống ông. May mà Lưu Vạn chú ông thấy ông đáng thương, mới đưa về nhà, người thím nuôi nấng ông đến lớn, ông cũng có tên hồi bé, gọi là Ký Nô.

Ký Nô Ký Nô, chỉ là một tên nô bộc được gửi nuôi, ai ngờ được một tên nô bộc như thế, mà giờ đây trở thành hoàng đế đứng trên muôn người?

Lưu Dụ chầm chậm mở đôi mắt đã mờ đục, cố gắng nắm chặt tay phải. Trong lòng bàn tay của ông, là con xúc xắc đã theo ông nhiều năm.

Sau khi trưởng thành, cuộc sống của ông càng khó khăn, lại còn phải nuôi hai đứa em, cuộc sống quẫn bách khiến ông ham mê cờ bạc, con xúc xắc này ông tìm được ở một tiệm đồ cổ, lại đảm bảo cho ông hễ đánh là thắng! Một lần thua duy nhất là thua một tay cường hào ở địa phương, cũng là do trúng phải kế của người khác, nhưng ông cũng nhớ lại lời gã chủ tiệm đồ cổ nói lúc mua con xúc xắc này.

"Cuộc đời chính là một canh bạc, anh có muốn chơi không?"

Lưu Dụ run run đưa tay lên, viên xúc xắc được đưa ra trước mắt.

Đây là một viên xúc xắc bằng ngà voi, đã bắt đầu ngả màu vàng, bóng loáng lên. Trên mặt xúc xắc còn có từng vệt dài như sợi tóc, đó là vân ngà có trên đồ làm bằng ngà voi, thớ vân ngà dài, có thể đoán rằng viên xúc xắc này khá lâu năm rồi. Viên xúc xắc này là xúc xắc sáu mặt, hình lập phương, mỗi mặt có số lỗ từ một đến sáu, hai mặt "đối nhau cộng lại đều bằng bảy.

Lưu Dụ say sưa ngắm nhìn viên xúc xắc trong tay, dường như cả linh hồn ông đều đang quỳ dưới con xúc xắc ấy.

Cả đời Lưu Dụ chinh chiến, từ ngày tham gia khởi nghĩa vào năm Long An thứ ba, bên trong thì dẹp yên chiến loạn, tiêu diệt những thế lực cát cứ, khiến cho phương Nam kết thúc cuộc biến loạn kéo dài hơn trăm năm, quy về một mối; bên ngoài thì dồn sức Bắc phạt, thôn tính các nước Hoàn Sở, Tây Thục, Nam Yên, Hậu Tần... Nhưng không ai biết, những chiến công hiển hách ấy, thực ra phần lớn quyết sách quan trọng đều nhờ vào con xúc xắc này.

Mỗi khi không thể quyết định được, Lưu Dụ đều ném xúc xắc trong tay, dùng điểm số trên xúc xắc để đưa ra quyết sách. Hơn ba mươi năm nay, không có ngoại lệ.

Đúng vậy, từ sau vụ thua bạc thảm hại ấy, ông đã sửa chữa lỗi lầm. Cứ đánh bạc là thắng, vậy thì mỗi một ngã rẽ trong cuộc đời, mỗi một quyết định được đưa ra, chẳng phải đều là đánh bạc sao?

Không sai, đó mới là chân lý mà gã chủ tiệm nói! Cuộc đời chính là một canh bạc! Ông ta dùng con xúc xắc này, để trở thành con bạc lớn nhất, thành công nhất. Ông ta giành được cả thiên hạ!

Lưu Dụ cười không ra tiếng, ý thức bắt đầu mất dần. Không! Không thể được! Thái tử Lưu Nghĩa Phù vẫn còn nhỏ! Còn chưa thể trấn áp được triều thần!

Lưu Dụ cố gắng ngồi dậy, con xúc xắc trượt khỏi tay rơi xuống đất, lăn đi lốc cốc.

Thái giám đứng ngoài nghe thấy tiếng động, vội đẩy cửa vào, thì lập tức kinh sợ thất sắc.

"Bệ hạ!"

Không lâu sau, trong hoàng cung vang lên tiếng chuông Lục Cung, Nam Triều Tống Vũ đế Lưu Dụ băng hà.

2

Lưu Dụ lặng lẽ đứng trong một góc tẩm cung, nhìn thi thể của mình được khoác lên bộ áo mũ hoàng đế đã được chuẩn bị sẵn.

Những kẻ ra người vào trên mặt đầy ưu tư, các đại thần quỳ rạp xuống đất dập đầu khóc lóc, mấy đứa con trai của ông chạy đến bên giường nước mắt lã chã.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Đồng Hồ Bản Sao

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Ông... chết rồi sao?

Lưu Dụ là người theo chủ nghĩa vô thần, nhưng ngay tại lúc này, không thể không tin chuyện hồn ma luân hồi như luận điệu của đám nhà sư đạo sĩ.

Bâygiờ ông là ma sao? Có phải lát nữa sẽ có Hắc Bạch Vô Thường đến lôi hồn ông xuống địa phủ không? Nghĩ thôi cũng biết, kẻ trực tiếp hoặc gián tiếp chết dưới tay ông nhiều vô số kể, cho dù ông là hoàng đế cũng chẳng thể lên cõi Tây phương cực lạc được.

Lưu Dụ lại thấy tâm trạng rất thoải mái, bởi ông cảm nhận được một sự giải thoát. Giờ đây ông không còn cảm giác bị cơ thể già cỗi giam cầm nữa, cơ thể đã nhẹ nhàng hơn hẳn, mắt nhìn đã rõ hơn hẳn. À, ông còn nhìn thấy ở một góc xa xa, con xúc xắc ngà voi của ông nằm yên trên đất, có lẽ là những người đi ra đi vào vô tình đá nó ra đó, không ai để ý đến nó nữa.

Nhìn một hồi, Lưu Dụ không nỡ để con xúc xắc yêu quý của mình bị vứt lăn lóc một chỗ như thế, ông bước tới, tuy biết rằng hồn ma không thể chạm được vào vật thể, nhưng vẫn cúi người xuống.

Trong khoảnh khắc ngón tay chạm vào con xúc xắc ngà, Lưu Dụ giật mình, rồi cầm con xúc xắc kẹp trên ngón tay.

Thật kỳ lạ, chẳng phải linh hồn đều là hư ảnh, không thể tiếp xúc với đồ vật sao? Lưu Dụ cúi đầu nhìn lại mình, đầu tiên là thấy đôi tay dài trắng.

Đây là ông? Lưu Dụ lặng người nhìn đôi cánh tay trẻ trung của mình, cánh tay tràn đầy sức sống dưới ánh nắng mặt trời.

Không phải hồn ma thì sợ ánh nắng chiếu vào sao?

Lưu Dụ liền đi thẳng ra khỏi tẩm cung, cả người như ngập trong ánh nắng, cảm nhận sự ấm áp nơi ánh dương chiếu tới, thư thái đến mức muốn cảm thán đôi câu.

"Ngươi là ai? Tại sao lại ở đây?"

Một giọng nói lúc thì thô ráp lúc thì lanh lảnh, đặc trưng của thời kỳ vỡ tiếng cất lên. Lưu Dụ quay đầu nhìn, thì nhận ra người đi tới là Lưu Nghĩa Long, đứa con trai thứ ba của ông.

Tuy tuổi ông đã sắp tròn hoa giáp, nhưng các con trai thì đều còn rất trẻ. Thời tráng niên Lưu Dụ đi chinh chiến khắp nơi, đến khi tương đối yên ổn rồi mới quan tâm tới vấn đề người nối dõi. Vì vậy con trai lớn nhất của ông là thái tử Lưu Nghĩa Phù cũng mới mười bảy tuổi, đó chính là nguyên nhân vì sao trước khi chết Lưu Dụ không yên tâm.

Còn Lưu Nghĩa Long đang đứng trước mặt ông hiện nay, thì chỉ nhỏ hơn anh trai mình một tuổi, mới tròn mười sáu. Đôi mắt thiếu niên đã khóc đến sưng đỏ, Lưu Dụ vẫn còn lờ mờ nhớ rằng đứa con thứ ba của mình sức khỏe không tốt lắm, chắc là ra ngoài cho thoáng. Nghĩ đến đó, trên gương mặt liền nở một nụ cười hiền từ, điều này là rất hiếm hoi đối với một người tính tình nóng nảy như Lưu Dụ.

Lưu Nghĩa Long thì lại cảm thấy nụ cười này cực kỳ nhức mắt, tiếp tục nghiêm giọng nói: "Ngươi là tiểu thái giám ở đâu? Vì sao lại ngây người ra ở đây?"

Tiểu thái giám? Lưu Dụ sững người, lập tức nhớ ra vấn đề nằm ở đâu.

Ông ta đã chết! Là ma rồi! Vì sao vẫn có người nhìn thấy?

Lưu Dụ bất giác cúi đầu nhìn xuống, lúc này ông đang đứng bên hồ sen phía sau tẩm cung, trên mặt nước biếc gợn sóng dập dờn, ông nhìn thấy một thiếu niên.

Dung mạo này, hình như rất quen thuộc.

Đó chính là ông hồi mười bốn tuổi.

Lưu Nghĩa Long nhíu chặt mày, nhìn chằm chằm vào cậu thiếu niên kỳ lạ.

Trông kỳ lạ, không phải vì chiếc áo vải thô của ông đang mặc. Lưu Dụ rất tiết kiệm, đường đường là hoàng cung của một nước mà ông làm cho không khác gì một cái nhà dưới quê, chứ đừng nói đến đám bề tôi. Lưu Nghĩa Long vẫn nhớ trước khi cậu rời khỏi đô thành để nhận đất phong Kinh Châu, hàng ngày cùng các anh em đến thỉnh an phụ hoàng, đều chỉ được mặc trang phục thường, không ai dám mặc lễ phục trang trọng.

Đến tận bây giờ, Lưu Nghĩa Long vẫn rất chú ý phép tắc, trang phục trên người hết sức bình thường, không ai tìm được chỗ nào đặc biệt cả. Vậy nên cậu thiếu niên kia cho dù ăn mặc quá đỗi giản dị, thì Lưu Nghĩa Long cũng hoàn toàn không cảm thấy có gì không ổn.

Kỳ lạ là ở chỗ, tướng mạo của cậu thiếu niên kia.

Lưu Nghĩa Long ít khi soi gương, nhưng cậu có hai anh trai và bốn em trai, cậu thiếu niên này khoảng tầm tuổi tứ đệ Lưu Nghĩa Khang của cậu, tướng mạo cũng giống đến năm, sáu phần. Nếu không phải vì cậu chắc chắn tứ đệ mình đang ở bên giường phụ hoàng, thì có khi cậu đã nghĩ rằng thiếu niên trước mặt mình là tứ đệ mặc bộ đồ khác.

Nên sau khi nhìn rõ tướng mạo của cậu thiếu niên kia, Lưu Nghĩa Long không còn cho rằng đó là tiểu thái giám ở cung nào nữa, thậm chí trong lòng cậu còn hiện ra một suy đoán cực kỳ hoang đường nhưng lại hợp lý.

Cậu bé này, chẳng lẽ là con riêng của phụ hoàng? Bởi vì thân phận của mẫu phi không thể công khai, nên mới nuôi trong hậu cung? Trí nhớ của Lưu Nghĩa Long rất tốt, khi cậu vừa bước vào tẩm cung là đã thấy cậu thiếu niên kia đứng ngây người ở góc nhà, nhưng cách khá xa nên không để ý.

Đến trước cả các hoàng tử trực canh bên ngoài điện, nếu không phải là thái giám thì phải là người luôn luôn ở trong này. Không ngờ lúc lâm chung phụ hoàng còn cho gọi cậu thiếu niên này tới bên mình...

Lưu Nghĩa Long càng nghĩ càng thấy suy đoán của mình chính xác, ánh mắt cũng trở nên hết sức phức tạp.

Bản thân Lưu Nghĩa Long đối với phụ hoàng, thực sự là oán hận nhiều hơn sùng kính. Hai năm trước, cậu mới mười bốn tuổi đã được phong làm Nghi Đô vương, nhậm chức Trấn Tây tướng quân, Kinh Châu thứ sử, phải rời khỏi đô thành Kiến Khang. Cũng không chỉ mỗi mình cậu, trừ đại ca làm thái tử, thì nhị ca Lưu Nghĩa Chân hồi mười hai tuổi đã được phong làm Quế Dương huyện công, đóng ở Quan Trung Trường An, các em trai khác cũng được phong đất. Mục đích chẳng phải để cho các hoàng tử sàn sàn tuổi nhau không uy hiếp đến địa vị của thái tử hay sao?

Phụ hoàng nghĩ cho thái tử đại ca, vậy ai nghĩ cho bọn họ? Tuổi còn nhỏ mà đã bị phái đi đến nơi xa lạ, đám quan viên bên dưới, bề ngoài thì vô cùng cung kính, nhưng thực tế thì các quý tộc lớn có ai coi những hoàng tử xuất thân nghèo hèn ra gì, họ ngấm ngầm không tuân lệnh. Cảm giác đó, thực sự khó nói thành lời.

Lưu Nghĩa Long nghĩ rằng người được phụ hoàng đặc biệt ưu đãi chỉ có một mình thái tử. Tuy cậu bất bình, nhưng dù sao cũng là huynh trưởng, cậu có thể nuốt nỗi tức giận này được, chỉ không ngờ rằng, vẫn còn có một người khác nữa!

"Khốn thật! Chuyện gì thế này?" Cậu thiếu niên từ nãy vẫn ngơ ngác ở bên bờ ao, cuối cùng cũng bật ra một câu quát lớn, mà có vẻ hoàn toàn chẳng hợp gì với vóc dáng của cậu.

Lưu Nghĩa Long vừa nghe xong, tự nhiên chân mềm nhũn, suýt chút nữa thì quỳ mọp xuống đất. Bởi vì câu cửa miệng đó, cái ngữ khí đó, giống y hệt với phụ hoàng của cậu!

Dù từ bé đã sợ phụ hoàng, nhưng Lưu Nghĩa Long cũng chỉ nhũn chân một tẹo rồi lập tức đứng vững. Chẳng phải vì gì khác, bởi vì giọng nói rõ ràng còn trẻ con kia. Hơn nữa, phụ hoàng của cậu đã băng hà rồi. Lưu Nghĩa Long hít một hơi thật sâu, cố gắng làm cho tâm trạng của mình được bình tĩnh, hỏi nhẹ nhàng: "Cậu là ai?"

Bởi vì xét về tuổi, Lưu Nghĩa Long xác định cậu kia là em mình, nên giọng nói có phần hơi kẻ cả. Nhưng cậu thiếu niên kia quay đầu lại, nhìn cậu với vẻ mặt kỳ dị, thời gian lâu đến mức Lưu Nghĩa Long còn nghĩ xem liệu mặt cậu ta có nở ra bông hoa nào được không.

Lưu Dụ thực sự muốn tìm một hòn đá để đập cho thằng ngốc kia một cái. Ông là ai? Là "ông già" của nó!

Nhưng rồi lập tức Lưu Dụ cũng nhớ ra, bộ dạng hiện tại của ông, đến bản thân ông còn không dám tin, nữa là người khác? Sợ rằng ông mà nói xong, thì sẽ bị con trai mình tống giam vì tội xúc phạm hoàng tộc.

Chẳng lẽ sau khi chết ông lại hồi phục cơ thể mình khi mười bốn tuổi? Vậy thì thi thể đang nằm trong tẩm cung kia là ai?

Lưu Nghĩa Long nhìn vẻ mặt rất phức tạp của cậu thiếu niên, nghĩ rằng chắc cậu ta khó nói thân phận của mình, bèn gật đầu tỏ vẻ cảm thông: "Tuy thân phận của cậu không tiện công khai, nhưng nếu cậu và ta đã là huynh đệ, thì cũng nên giúp đỡ nhau, ít ra cũng cho ta biết tên để xưng hô chứ".

Lưu Dụ nghe xong lập tức ngẩn người ra tại chỗ, thằng nhóc này, hiểu lầm gì đây?

Nhưng sau đó thì ông cũng hiểu ra, lập tức sa sầm mặt mày, nếu như theo tính cách trước kia của ông thì đã nổi cơn lôi đình rồi, nhưng hiện giờ nghĩ kỹ thì cũng đành phải nhẫn nhịn một chút vậy.

Nói ra, ban nãy khi quần thần tràn vào tẩm cung, cũng có mấy người len lén nhìn về phía ông, lúc ấy ông vừa trải qua sự sống cái chết, còn đang lơ mơ nên không để ý. Hiện giờ nhớ lại, Lưu Dụ liền hiểu tại sao không có ai đuổi ông ra ngoài, thì ra đều nghĩ rằng ông là con riêng của chính ông!

Lưu Nghĩa Long vẫn rất nhẫn nại chờ đợi, đôi mắt vẫn đang nhìn chằm chằm vào từng biểu hiện nhỏ trên gương mặt cậu thiếu niên.

Một lúc lâu sau, đôi môi cậu bé mới nở nụ cười đau khổ, chầm chậm nói: "Ký Nô, anh gọi tôi là Ký Nô là được rồi".

Ký Nô? Quả nhiên là họ Lưu?

Lưu Nghĩa Long lập tức khẳng định suy đoán của mình, sau đó lại chau mày vì cái tên của cậu bé.

Lại gọi là Ký Nô ư? Kẻ nô bộc được gửi nuôi? Không có chữ "Nghĩa" trong tên như anh em của cậu, tức là cậu thiếu niên này không có tư cách được đưa vào tộc phả. Hơn nữa cái tên đặt tùy tiện kia, có thể là vì mẫu phi của cậu ta có thân phận thấp kém.

Lưu Nhĩa Long hít một hơi sâu, lúc này cậu mới nhớ ra, mình đã rời tẩm cung hơi lâu quá, nếu vẫn còn ở đây, sợ có kẻ khác soi mói. Cậu cười đầy thiện ý với cậu thiếu niên: "Chắc cậu cũng biết lâu rồi, ta là tam ca của cậu, chỗ riêng tư thì cậu cứ gọi là tam ca thôi".

Lưu Dụ giật giật khóe miệng, không có cách nào đi gọi con trai mình là tam ca được, như thế thì quả thực là thách thức tính kiên nhẫn của ông. Thế là ông liền gắt: "Tam ca cái gì? Ta gọi ngươi là Xa Nhi là được".

Lưu Nghĩa Long sững sờ, cái tên Xa Nhi hồi nhỏ chỉ có phụ hoàng mới gọi cậu, bởi vì năm xưa khi cậu ra đời là lúc phụ hoàng đang đi chinh chiến, mẫu phi Hồ tiệp dư sinh ra cậu ở trên xe, nên cái tên Xa Nhi mới đi theo cậu. Phụ hoàng chỉ khi nào vui mới gọi tên hồi nhỏ của cậu, mọi ngày nếu gặp thì đều như các anh em khác, gọi theo số thứ tự là hết.

Lưu Nghĩa Long định cất lời từ chối cách xưng hô không có trên dưới đó, nhưng rồi lại cười cho qua. Cậu thiếu niên này tính tình ngay thẳng, chắc chắn là vì phụ hoàng không cho cậu tiếp xúc nhiều với những mặt tối, còn tên hồi nhỏ của cậu thì hẳn là cậu ta biết do phụ hoàng nói. Liệu có phải cậu bé này biết rằng, cậu là tam hoàng tử mà mẫu phi bị ban cho cái chết, là một người bị ruồng bỏ?

Lưu Nghĩa Long nắm chặt tay, nhưng rồi cũng không nói ra câu hỏi cậu day dứt bao lâu này. Cậu mỉm cười nhẹ nhàng: "Ký Nô, chúng ta hãy đi tiễn phụ hoàng đã".

Nghe tới cái tên từ xa xưa được chính con trai mình gọi ra, Lưu Dụ cũng cảm thấy rất bối rối. Hơn nữa ông không muốn đi vào cho lắm, nhìn thi thể của mình chẳng phải là trải nghiệm dễ chịu gì, nhưng quả thật ông cũng không thể cứ đứng đực ra đây được, biết đâu người tiếp theo phát hiện ra ông lại bắt ông vì nghĩ ông là thích khách thì sao? Dù sao hiện tại ông cũng không hề có thân phận gì cả.

Không suy nghĩ nữa, đi theo Lưu Nghĩa Long trở vào trong tẩm cung, lúc này Lưu Dụ mới có thời gian để quan sát thần thái của mọi người. Ban nãy tuy đã đứng ở đây khá lâu, nhưng vì mới trải qua chuyện sống chết, nên hoàn toàn chẳng có tâm trạng đi quan sát người khác. Nhưng hiện giờ thì đã khác, chắc rằng không có nhiều người có thể chứng kiến những chuyện xảy ra sau khi mình đã chết, Lưu Dụ không quỳ xuống, mà chọn một góc, đứng tò mò nhìn ra tứ phía.

Ô? Không ngờ tướng quân Tạ Hối bình thường hay bới lỗi của ông giờ lại đau lòng khóc lóc đến thế? Là con cháu họ Tạ, một trong hai dòng họ Vương và Tạ, là dòng sĩ nhân Đông Tấn, Tạ Hối trẻ tuổi anh tuấn, là khai quốc công thần của nhà Lưu Tống Nam Triều, tuy còn trẻ tuổi nhưng đã là mưu thần đệ nhất của Lưu Dụ. Cuối đời Đông Tấn, hắn từng theo Lưu Dụ đi Bắc phạt thu phục Trung Nguyên, mười kế sách thì có tới chín là của hắn, tầm quan họng của hắn đối với Lưu Dụ không thua gì Gia Cát Lượng đối với Lưu Bị. Giúp Lưu Dụ thu phục được quá nửa vùng Trung Nguyên, nhưng đến lúc Lưu Dụ lên ngôi, hắn cũng mới chỉ ngoài hai mươi tuổi, thật là bậc anh hùng trẻ tuổi. Hiện giờ hắn cai quản việc quân của bảy châu, một mình điều khiển cấm quân, quyền nghiêng triều dã, bởi vì tuổi tác thích hợp, nên Tạ Hối được Lưu Dụ cho làm cố mệnh đại thần của thái tử Lưu Nghĩa Phù.

(Chỉ vị đại thần mà hoàng đế trước khi băng hà gửi gắm việc sau này cho)

Nhưng Lưu Dụ nheo mắt lại, không bỏ qua việc Tạ Hối lấy ra một chiếc khăn để lau mắt từ trong tay áo, mà trong chiếc khăn đó thì rõ ràng có gói miếng gừng tươi...

Tâm trạng của Lưu Dụ lập tức đi xuống dữ dội, ông quan sát tỉ mỉ, phát hiện ra những người dùng cách này không hề ít, thậm chí có cả hoàng tử, đứa út Lưu Nghĩa Quý mới bảy tuổi đang được mẫu phi ôm trong lòng, đôi tay giấu trong tay áo của người đàn bà đó, đang lặng lẽ véo Lưu Nghĩa Quý, để bắt cậu bé phải khóc thành tiếng.

Lưu Dụ đờ đẫn nhìn mọi việc trước mắt, đến cả thái tử Lưu Nghĩa Phù, đứa con ông ta sủng ái nhất, truyền cho cả ngôi vua, mà cũng đang khóc suông, trên mặt chẳng có lấy một chút đau thương nào. Còn những đứa con khác, cho dù có đứa đang khóc, thì e rằng cũng khóc bởi chưa biết cuộc đời nó đi về đâu, chứ không phải khóc vì một phụ hoàng không thân thiết lắm như ông.

Lưu Dụ tự cười mình, rồi ánh mắt dừng ở Lưu Nghĩa Long đang quỳ tại hàng thứ ba, tuy cậu không đến mức khóc nức nở thành tiếng, nhưng nỗi buồn trên gương mặt rất chân thành, mắt cậu đỏ hoe, không có chút nào là giả dối. Lưu Dụ bất giác nhớ lại Xa Nhi trong ký ức của mình, nhưng thực sự không có ấn tượng gì.

Cả đời ông ta chinh chiến, đi trên lưỡi đao lưỡi kiếm, vốn chẳng có mấy lúc rảnh rỗi, nếu không thì đã chẳng đến nỗi trên bốn mươi tuổi mới sinh con. Mà sau khi lên ngôi thì ông càng bận rộn, ông chỉ làm hoàng đế được có ba năm. Thời gian ở cùng con cái của ông ít ỏi đến đáng thương.

Cứ như thể mới chỉ chớp mắt một cái, chúng nó đã lớn, đã có suy nghĩ riêng, đã không còn dùng ánh mắt sùng bái để nhìn vị hoàng đế già yếu của chúng nữa.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Làm sạch nhà khi bạn đi vắng, chỉ với 690k xài vĩnh viễn.

Lưu Dụ nắm chặt con xúc xắc ngà trong tay, lẩm bẩm một mình: "Đây là cảnh tượng mà ngươi muốn ta thấy sao? Đây là việc mà ngươi muốn ta hối cải sao? Vì giang sơn này, ta đã phải bỏ đi bao nhiêu ư?"

3

Tang lễ của hoàng đế bao gồm một loạt các nghi thức phiền hà, phong tục thay đổi từ việc hậu táng thời Tần Hán cho đến thành mai táng đơn giản thời Ngụy Tấn, tang lễ của Lưu Dụ không làm quá rầm rộ. Nhưng dù sao vẫn là tang lễ của một đế vương, một số nghi lễ cổ kế thừa của chế độ nhà Hán, như chế độ ngũ phục, để tang ba năm, hội táng...

Những lễ nghi phức tạp rườm rà cùng những trật tự tang lễ rất nghiêm ngặt, nào là chiêu hồn, phát tang, đặt linh cữu, châm hương, khâm liệm, trị tang, cư tang... từng việc một phải làm, tuy có quan viên phụ trách riêng, mà cũng đủ khiến văn võ bá quan mệt thở không ra hơi. Nhưng bởi khi Lưu Dụ lên ngôi thì cũng đã gần sáu mươi tuổi, nên chế độ tang lễ, quan quách, phong thụ cho đến đồ tùy táng cũng đều được chuẩn bị rục rịch từ cách đây mấy năm, không đến nỗi phải gấp gáp quá.

"Thận chung truy viễn" là quan niệm sinh tử truyền thống của Nho gia, tuy Lưu Dụ không đọc nhiều sách vở, nhưng những đại thần của ông thì có rất nhiều người xuất thân thế gia đại tộc, nên tang lễ làm rất cẩn thận, tuy không đủ đau buồn, nhưng cũng đủ trang nghiêm.

((Lúc sống) phải cẩn thận chuyện sau khi chết, phải lo nghĩ xa)

Tham gia tang lễ của chính mình là một cảm giác rất đặc biệt, e là không nhiều người có cảm giác đó. Lưu Dụ mặc một bộ đồ tang, ẩn trong đoàn người, nhìn thần thái mọi người mà như có suy nghĩ gì đó. Đương nhiên, phần lớn sự chú ý của ông là dồn vào những đứa con trai mình.

Tất nhiên, "thân phận" của ông đã được Lưu Nghĩa Long giới thiệu rồi. Đám con trai nhiều lắm thì cũng mới mười mấy tuổi đầu của ông, không biết cách che giấu tình cảm thực sự của mình, trừ có Lưu Nghĩa Quý nhỏ tuổi nhất là tò mò giương đôi mắt to tròn ra nhìn ông rất lâu, còn lại đều lạnh lùng hoặc tỏ vẻ khinh bỉ.

Thôi được, mấy đứa con của ông vốn dĩ cũng chẳng thân thiết gì với ông, mà từ lúc còn nhỏ tuổi, ông đã phong vương cho đi các nơi, anh em ít khi gặp nhau, cũng chẳng thể bảo có nhiều tình cảm được, chẳng qua là gật đầu chào nhau một cái. Bỗng nhiên Lưu Dụ cảm thấy lạnh lẽo, cảnh tượng một gia đình quây quần ăn bữa cơm đoàn viên, đã là ký ức cũ kỹ của bao nhiêu năm trước rồi? Mười năm? Hai mươi năm? Hay ba mươi năm?

Thẫn thờ tham gia cho hết tang lễ của mình, rồi nhìn con cả Lưu Nghĩa Phù lên ngôi hoàng đế cũng bằng thái độ vô cảm, Lưu Dụ tạm ở trong vương phủ ở đô thành Kiến Khang của Lưu Nghĩa Lóng, hàng ngày có mỗi việc uống trà ngắm cảnh.

Bởi vì Lưu Dụ rất tiết kiệm, nên vương phủ của Lưu Nghĩa Long cũng chẳng có đồ đạc xa hoa gì, nhưng đây vốn là căn nhà của một gia đình quý tộc thời Ngụy Tấn, nên rất thanh nhã yên tĩnh, cũng là một nơi đặc biệt.

Lưu Dụ thảnh thơi ngồi trong lương đình, vắt vẻo trên lan can, chẳng chú ý đến hình tượng chút nào, nhìn mặt hồ gió thổi gợn sóng lăn tăn, có đôi chút biếng nhác.

Ông ta giống như chiếc bánh xe không ngừng chạy suốt mấy chục năm nay, cuối cùng cũng có thể dừng lại nghỉ ngơi, nên cho dù ông có một cơ thể trẻ trung, nhưng tâm hồn thì rất già cỗi.

Lúc này trời cũng đã vào mùa hạ, những bông hoa trong vườn đang đua nở, trên cành lá đã xanh mướt mắt. Lưu Dụ bao ngày phải nằm giường, đã lâu lắm rồi không được thấy cảnh đẹp như thế này, nên ông ngắm nhìn say sưa.

Lưu Nghĩa Long đứng từ xa nhìn thấy "cậu em" đang ngẩn người trước hồ nước, bất chợt mỉm cười. Cũng may mà mấy ngày này có người bầu bạn, cậu mới không đến nỗi quá buồn. Đô thành này thực sự chẳng để lại cho cậu chút ký ức đẹp đẽ nào, mẫu phi của cậu, tuổi thơ của cậu, phụ hoàng của cậu đều lần lượt ra đi ở nơi đây, còn hiện giờ thì cậu quyết định, sau chuyến trở về lần này, cậu sẽ không quay lại thêm lần nào nữa, có lẽ sống đến già ở Kinh Châu là một quyết định không tồi.

Nhưng trước khi đi, Lưu Nghĩa Long vẫn muốn hỏi cậu bé kia sau này dự định gì, trong mấy ngày nay, cậu cũng hiểu cậu bé kia không còn ai để dựa dẫm nữa ngoài cậu, điều đó khiến cậu rất không yên tâm nếu để cậu bé ở lại đô thành.

"Xa Nhi, cậu chuẩn bị về Kinh Châu à?" Lưu Dụ chỉ cần nhìn lướt qua con trai mình là đoán được cậu ta định nói gì. Dù tiếp xúc không nhiều, những đám nhóc này cũng mới chỉ mười mấy tuổi, số cơm chúng ăn còn chẳng nhiều bằng số muối ông đã ăn! Có điều, vẫn còn chưa qua bốn mươi chín ngày cơ mà, sao lại vội vã đi thế? Lưu Dụ hơi bực mình, trong giọng điệu có phần hơi cáu gắt, ông hỏi: "Luôn bây giờ?"

Lưu Nghĩa Long cười khổ, cậu biết mình đi quá vội vã, nhưng cậu phải nói sao đây? Nhớ lại cảnh tượng hôm nay nhìn thấy trong cung, lại nghĩ đến những lời đàm luận lén lút của đám triều thần, Lưu Nghĩa Long cảm thấy mặt nóng bừng, thực sự muốn lập tức rời khỏi đô thành, đi càng xa càng tốt.

Lưu Dụ chau mày, đứa con thứ ba của ông sức khỏe hơi kém, đang vào tuổi ăn tuổi lớn, thân hình cao lêu đêu, gầy guộc như thể trên người chẳng được mấy lạng thịt. Hiện giờ cậu còn mặc bộ đồ tang trắng toát, càng khiến cho gương mặt trắng bệch đến tiều tụy. Trong lòng Lưu Dụ trào dâng nỗi thương con, ông chỉ vào chiếc đôn gỗ bên cạnh nói: "Ngồi đi, uống trà". Người tì nữ vẫn đứng chờ hầu hạ từ nãy lập tức đi vào trong lương đình, nhanh nhẹn pha trà.

Lưu Nghĩa Long mấy hôm nay cũng quen với bộ dạng chỉ trỏ ra lệnh của cậu thiếu niên rồi, tuy trong lòng không khỏi có chút bực mình vì cậu ta chẳng có tôn ti lớn bé gì, nhưng cậu lại không khỏi cảm thấy hình như có cảm giác rất quen thuộc. Dù lúc này cậu bé kia ngồi vắt vẻo trên lan can để chỉ tay năm ngón, nhưng rất có khí thế, khiến người khác phải làm theo mệnh lệnh của cậu. Khi Lưu Nghĩa Long đã ngồi lên chiếc ghế đôn gỗ, cậu mới nhận ra chính mình cũng lại tuân theo mệnh lệnh rồi, cậu đành nhăn nhó cười không biết làm thế nào.

"Nào, uống chén trà nóng đi, tuy trời đã nóng, nhưng không được coi thường sức khỏe đâu". Lưu Dụ rất tự nhiên dùng lời lẽ của bề trên để dạy dỗ.

"Được". Lưu Nghĩa Long cũng rất tự nhiên cầm lấy chén trà trước mặt, tuy trong lòng không phục, nhưng thực ra cậu cũng đã quen ứng xử như vậy với cậu bé.

Thật đúng là quái dị, ai mới là anh đây? Hơn nữa vì sao cậu lại có cảm giác sợ sệt như khi đang đứng trước phụ hoàng vậy?

Lưu Nghĩa Long uống một ngụm trà, nước trà ấm nóng chảy qua cổ họng, hơỉ ấm thoáng chốc đã lan ra toàn thân, lập tức khiến cậu thư thái hẳn.

"Rồi, bây giờ thì, nói đi". Lưu Dụ gõ gõ tay lên miệng chén, khẽ hừ lên một tiếng: "Vậy là đã xảy ra chuyện gì?"

Lưu Nghĩa Long cầm chén trà trong tay, ngửi hương trà vẫn còn chưa tan hết, biết rằng cho dù cậu không nói, thì cậu thiếu niên kia cũng sẽ biết.

Bởi vì chắc là chẳng bao lâu sau, việc này sẽ lan truyền khắp đô thành...

Lưu Dụ nheo mắt, ở cách rất xa cũng có thể nghe thấy tiếng đàn hát cười đùa vọng lại từ phía ngự hoa viên, đến khi ông nhìn thấy người đứng giữa đám đông là ai, liền không nén nổi cơn giận, nắm chặt bàn tay, chỉ hận không thể lập tức xông tới đánh cho thằng con bất hiếu một trận.

Ông mới chết được bao lâu? Chưa đến một tháng! Thằng con bất hiếu đã lập tức đàn hát chơi bời trong ngự hoa viên! Ông còn nhớ mang máng, khi ông lâm trọng bệnh, từng có người đến can gián, nói rằng thái tử thường xuyên đi ra ngoài chơi, ngồi thuyền rồng đem quân đến hồ Thiên Uyên, ngồi trên hồ vui chơi, đàn ca nhảy múa, cho tới tận gần sáng, cũng chưa thấy về cung nghỉ ngơi, qua đêm luôn trên thuyền rồng.

Khi ấy ông còn cho rằng có kẻ muốn gièm pha thái tử, trong ấn tượng của ông, đứa con trai cả là người thông minh tài giỏi, giỏi cưỡi ngựa bắn cung, thông hiểu âm nhạc, tuy không phải người kế thừa thực sự lý tưởng, nhưng cũng có thể trở thành một vị vua trung hưng.

Kết quả lại là ông vẫn luôn nhìn nhầm người!

Trong thời gian để tang mà vô lễ đến vậy, thật đúng là trò cười!

Nhìn kìa! Thằng ranh kia đã nhìn thấy họ, vẫn không thấy xấu hổ mà che giấu đi! Đã thế lại còn đứng đó sung sướng vẫy tay với họ, gọi họ cùng tham gia!

Lưu Dụ không kìm nén được bắt đầu mắng chửi, Lưu Nghĩa Long đứng bên cạnh thấy không hay, liền ôm lấy ông để ngăn ông xông vào gây chuyện.

Dù đại ca của cậu có thất đức, thì bây giờ cũng là vua của một nước, có quyền sinh sát trong tay, tin chắc rằng đại ca cậu cũng không ngại ngần mà mượn cơ hội này để trấn áp mấy thằng em trai. Hơn nữa cậu bé này lại chẳng có thân phận địa vị gì, rất có thể sẽ trở thành con gà đáng thương trong câu "giết gà dọa khỉ".

Lưu Dụ giãy giụa một hồi lâu, phát hiện ra đứa con thứ ba của mình tuy trông thì gầy gò nhưng quả thật là khỏe. Không, có lẽ là do cơ thể hiện giờ của ông quá nhỏ.

Vừa thở dốc, Lưu Dụ vừa gạt mạnh tay của Lưu Nghĩa Long ra, rồi hùng hổ đi ra ngoài hoàng cung, chẳng thèm để ý xem Lưu Nghĩa Long giải thích thế nào với đứa con bất hiếu kia.

Một hoàng đế như vậy, sớm muộn gì cũng bị người ta lôi xuống, thì chẳng thà để tự tay ông lôi xuống!

Lưu Dụ bỗng dưng hiểu ra vì sao đến giờ ông vẫn còn sống, là bởi vì ông cần phải sửa chữa một sai lầm của bản thân, cần một lần đánh bạc cuối cùng.

Bỗng nhiên ông dừng bước, thò tay lấy ra con xúc xắc chưa bao giờ rời khỏi người mình. Xúc xắc có sáu mặt tất cả, ngoài thái tử bỏ đi không tính, thì ông cũng có sáu đứa con trai.

Nếu ông đã không thể lựa chọn, thì hãy để xúc xắc ngà lựa chọn, ném ra được số nào thì cộng thêm một, đó sẽ là quyết định cuối cùng của ông.

Lẩm nhẩm nói vấn đề mình cần quyết định, rồi Lưu Dụ ném con xúc xắc ngà xuống đất.

Xúc xắc lăn lốc cốc một hồi, rồi cũng dừng lại.

Lưu Dụ ngồi xuống, nhìn con số trên mặt xúc xắc, nhìn mãi không nói tiếng nào.

"Ký Nô? Thì ra cậu ở đây à? Ơ? Con xúc xắc ngà voi này quen quá, có phải là con xúc xắc mà phụ hoàng rất yêu thích không?" Lưu Nghĩa Long đi qua những lùm cây lùm hoa, tới nơi tò mò cúi xuống hỏi.

Lưu Dụ ngẩng đầu, nhìn cậu mỉm cườỉ đầy ẩn ý.

"Có muốn làm vua không?"

Lưu Nghĩa Long sững sờ nhìn cậu thiếu niên đang chơi xúc xắc trước mặt, cậu không thể tin nổi mình vừa nghe thấy điều gì. Cậu bất chợt nhìn xung quanh một lượt, tuy đã về đến vương phủ của cậu, cũng đã ngăn hết tả hữu ở bên ngoài, nhưng câu nói vừa rồi của cậu thiếu niên kia mà truyền ra ngoài, thì e rằng cậu lập tức sẽ bị tống vào đại lao, chết không cổ chỗ chôn.

"Yên tâm, không ai nghe thấy đâu". Lưu Dụ hơi bĩu môi, nhìn đứa con thứ ba của mình một cách đắn đo. Tuy xúc xắc ngà đã chọn cậu bé này làm người kế thừa của ông, nhưng Lưu Dụ vẫn không hài lòng lắm. Có điều khi nghĩ đến đứa con ông hài lòng nhất là thái tử, thì cũng đành thở dài chịu thua. Thực ra ngoài thái tử Lưu Nghĩa Phù ra, thì ông ưng nhất là con thứ hai Lưu Nghĩa Chân, nhưng cậu ta hình như lại càng thích cầm kỳ thi họa hơn... Thôi được, xúc xắc ngà chưa bao giờ chọn sai... Lưu Dụ chuyển con xúc xắc sang bên tay kia, uể oải nói: "Thằng ranh Lưu Nghĩa Phù làm như vậy, chắc chắn sẽ gây ra sự bất mãn cho các đại thần, ngôi vua của nó không ngồi được lâu nữa đâu. Chẳng lẽ cậu giương mắt nhìn những kẻ khác thừa cơ soán đoạt ngôi vua ư?"

Lưu Dụ quả nhiên cảm thấy mình đã đến tuổi "nhi nhĩ thuận", tính cách đã ôn hòa hơn nhiều rồi. Nếu cứ như tính cách của ông hồi trẻ, thì chắc đã xách đao tới chém thằng con bất hiếu kia làm đôi rồi. Nhưng ông cũng phải nghĩ cho cơ nghiệp mình một tay xây dựng, Tạ Hối vốn là nhân vật ông lựa chọn ra trong ngàn vạn người, muốn để cho thái tử dùng làm tể tướng, nhưng Lưu Nghĩa Phù quá vô dụng, không thể áp chế được Tạ Hối, vậy thì Tạ Hối sẽ trở thành kẻ nguy hiểm nhất.

(Cách nói của Khổng Tử, "lục thập nhi nhĩ thuận", tức là đến sáu mươi tuổi thì lời nói đều xuôi tai, tính cách đã ôn hòa)

Muốn khống chế mãnh hổ, thì phải có khí thế cao hơn mãnh hổ, nếu không con hổ dữ đó sẽ quay lại cắn, đặc biệt là trong lúc chiến loạn vừa mới được bình định có vài năm.

Lưu Nghĩa Long tất nhiên cũng hiểu ẩn ý mà cậu bé kia chưa nói ra, mấy hôm nay cậu cũng gặp Tạ Hối vài lần, nhìn thấy gương mặt tuấn tú của hắn không còn sự cung kính ôn hòa như ngày xưa nữa, thay vào đó là một phong thái rất khó hình dung. Lưu Nghĩa Long trầm ngâm một hồi, rồi cẩn trọng nói: "Tình hình không đến nỗi tệ như thế chứ?"

Hai nhà Vương Tạ quyền nghiêng triều đình, những vương hầu khanh tướng nổi tiếng một thời như Tạ An, Vương Đạo đều từ hai nhà này ra cả, nhưng đều giữ phép tắc của sĩ tộc, không bao giờ có hành động soán đoạt ngôi báu, dù rằng nói theo cách nào đó, thì họ còn có quyền thế và danh vọng hơn cả hoàng đế.

Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến Lưu Dụ yên tâm giao binh quyền cho Tạ Hối, tộc quy của những danh môn vọng tộc là rất nghiêm ngặt, thậm chí lớn hơn cả sức cuốn hút của ngôi vua. Nhưng Lưu Dụ cảm thấy con người cao ngạo như Tạ Hối, chí hướng cao xa, không phải là kẻ an lòng ở một xó, tuyệt đối không chấp nhận một hoàng đế chỉ biết ăn chơi nhảy múa cưỡi lên đầu mình, nếu tự mình không soán đoạt ngôi vua, thì cũng hoàn toàn có thể đưa người khác lên ngôi.

Thấy Lưu Nghĩa Long chần chừ không quyết, Lưu Dụ mỉm cười nói một cách rất nhẫn nại: "Đây là một canh bạc cậu lấy phần đời còn lại của mình để cá cược vào khả năng lên ngôi vua, cậu có chơi canh bạc này không?" Lưu Dụ cười rất tự tin, bởi vì đối với một con bạc như ông, đây là một sự hấp dẫn không thể chối từ.

Nhưng ông lại thấy Lưu Nghĩa Long chầm chậm lắc đầu, nói: "Không, ta không chơi".

"Sao cơ?" Lưu Dụ đứng bật dậy, đập bàn một cách nóng nảy, chén trà trên bàn rung lên. Lưu Dụ kìm nén để không chửi thằng con thứ ba của mình một trận, nói liên hồi như bắn pháo: "Ta... không, ám bộ của phụ hoàng để lại, ta có thể đưa cho cậu nắm giữ! Cậu nên biết đó là một lực lượng đáng sợ thế nào! Chắc chắn có thể tăng thêm cơ hội cho cậu!"

"Không, ta không muốn". Lưu Nghĩa Long tiếp tục từ chối, lần này giọng cậu đã kiên quyết hơn.

"Vì sao? Nếu cậu làm hoàng đế, đại ca và nhị ca cậu có thể được sống sót!" Lưu Dụ tức mình không thể đập nát luôn cái bàn, nếu như mọi việc theo kế hoạch của ông, nếu được sắp xếp cẩn thận, thì Lưu Nghĩa Long có thể thuận lợi lên ngôi, còn phế đế Lưu Nghĩa Phù và Lưu Nghĩa Chân thì có thể yên ổn sống nốt phần đời còn lại.

"Việc đó có liên quan gì đến ta?" Lưu Nghĩa Long bình thản nhìn cậu thiếu niên đang kích động trước mắt, không hiểu tại sao cậu ta lại phản ứng dữ dội đến vậy. Anh em của cậu ư? Vớ vẩn, cậu vốn chẳng hề coi hai người kia là anh em, và chắc rằng họ cũng chẳng coi cậu là em trai. Lưu Nghĩa Long cảm thấy mình đã ở đô thành quá lâu, lâu đến mức có những việc đang phát triển theo hướng không bình thường. Cậu đứng dậy, bình tĩnh tuyên bố: "Ngày mai khởi hành về Kinh Châu, nếu cậu muốn đi theo ta thì đi".

Lưu Dụ ngây người nhìn theo bóng dáng gầy gò của Lưu Nghĩa Long đang rời khỏi phòng, không dám tin, ngồi sụp xuống.

Ông hoàn toàn không nghĩ được là sẽ có tình huống này xảy ra, ông là một con bạc, nên không thể ngờ được có người lại khác mình, không muốn đánh bạc.

Con xúc xắc ngà nằm lặng lẽ trên bàn, dưới ánh đèn dầu phản chiếu ánh sáng dịu nhẹ.

Nó thật là hấp dẫn, thậm chí có thể nắm giữ số mệnh của rất nhiều người.

Nhưng... nếu như có người không muốn động vào nó thì sao...

4

Lưu Dụ không ở lại đô thành, mà theo Lưu Nghĩa Long về Kinh Châu. Ông vẫn liên tục nghĩ ngợi, chẳng nhẽ mình thực sự đã sai rồi sao?

Ám bộ chỉ nhận thủ lệnh và tín vật, nên Lưu Dụ vẫn có thể điều khiển, thông qua ám bộ, cho dù ông ở tận Kình Châu, cũng có thể kịp thời tìm hiểu được những việc ông ta cần biết.

Bởi vì ông đã băng hà, bốn trấn ở Hà Nam đang rục rịch định nổi dậy, sau một thời gian trấn áp, đám Tạ Hối cũng đã làm xong việc quân binh, có thể rảnh tay để xử lý tên hôn quân chỉ biết ăn chơi nhảy múa kia rồi. Lưu Dụ phân tích tin tình báo các nơi, liền nhận ra đám Tạ Hối cũng có mắt nhìn như ông, cũng nhắm tới Lưu Nghĩa Long, còn hoàng tử thứ hai là Lưu Nghĩa Chân thì là người bị loại ra đầu tiên.

Nghe đâu có một hôm khi Lưu Nghĩa Chân đang uống rượu cùng mấy viên quan khác, từng hứa rằng sau này cậu ta lên ngôi vua sẽ phong hai người Tạ Linh Vận và Nhan Diên Chi làm tể tướng, Thích Tuệ Lâm làm đô đốc Tây Dự Châu.

Rất mau chóng, đám Tạ Hối liền dâng biểu tấu Lưu Nghĩa Chân tội kích động chia rẽ, phỉ báng chính trị.

Lưu Nghĩa Phù tức giận, tất nhiên là không có chút cảm tình gì với thằng em thứ hai có thể dòm ngó ngôi báu của mình, liền giáng chức cho đi Lịch Dương, ba quan viên kia thì bị điều đi các nơi khác. Có lẽ như vậy vẫn chưa khiến Lưu Nghĩa Phù yên tâm, không lâu sau giáng Lưu Nghĩa Chân xuống làm thường dân, đưa đến giam cầm ở Tân An.

Còn Lưu Dụ khi nhận được tin tức liền hiểu, bọn Tạ Hối sắp sửa ra tay với Lưu Nghĩa Phù rồi.

Hoàng đế thì sao? Đứng ở đỉnh núi cao nhất dốc nhất, nếu đứng không vững thì đến lúc ngã xuống, bởi vì đứng quá cao, nên sẽ thê thảm hơn bất cứ ai khác, thậm chí chết không có chỗ chôn.

Lưu Dụ không nói gì nhiều, mà đem hết tin tình báo ông ta nhận được bày cả lên bàn của Lưu Nghĩa Long.

Nhìn nét mặt trấn tĩnh của con trai thứ ba nhà mình, Lưu Dụ bỗng nhiên nhận ra, không phải cậu ta không biết gì.

Có thể mọi việc này, đều nằm trong tầm kiểm soát của cậu ta, bề ngoài không tranh giành gì, nhưng những thứ thuộc về cậu ta, cuối cùng cũng sẽ về tay cậu ta.

Lưu Dụ hơi nheo mắt lại, có chút hoang mang.

"Ta như thế này khiến cậu thất vọng?" Lưu Nghĩa Long bỏ cây bút trong tay xuống, ngẩng đầu nhìn cậu thiếu niên đang thất thần, về Kinh Châu đã hơn hai năm, có thể lúc đầu cậu kiên quyết từ chối là thật lòng, nhưng theo thời gian, cậu cũng khó tránh khỏi việc nảy ra những suy nghĩ không thể kiềm chế.

Phải, vì sao cậu không thể ngồi lên ngôi cao đó? Vì sao cậu lại bị phụ hoàng ghét bỏ? Vì sao cậu nhất định phải làm một vương gia nhàn tản?

Một khi đã xác định được mục tiêu, cậu sẽ không lùi bước.

Ám bộ phụ hoàng để lại cho ư? Vì sao cậu phải dùng họ? Chỉ cần bày vài thủ đoạn, là cậu có thể ngồi yên chờ đợi quả chín rơi vào túi áo mình.

"Khốn thật! Vì sao lại làm vậy? Chẳng lẽ cậu không biết kết cục của đại ca, nhị ca cậu sẽ rất thê thảm ư?" Bỗng nhiên Lưu Dụ hiểu được nét mặt của Lưu Nghĩa Long là có ý gì, lập tức phát cáu, nếu làm theo sắp xếp của ông, thì đã không mất kiểm soát như thế này rồi!

Lưu Nghĩa Long, người ngồi sau án thư kia, cũng đã mười tám tuổi, đã hết những ngây thơ của hai năm trước, đôi mắt sáng như sao kia, trải qua hai năm rèn luyện, đã rất có khí thế. Cậu nhìn thiếu niên trước mặt, như nghĩ điều gì, cậu thiếu niên tự gọi mình là Lưu Ký Nô kia, gương mặt vẫn như hai năm trước, không có chút thay đổi nào. Hơn nữa khi cậu có ý điều tra, thì tra ra rằng trong hậu cung của phụ hoàng trước kia, hoàn toàn không có bất cứ dấu hiệu nào về sự tồn tại của cậu thiếu niên đó.

Mà điều khiến cậu kinh hãi nhất, là cậu hỏi được ở dưới quê, thì ra tên hồi nhỏ của phụ hoàng, chính là Lưu Ký Nô...

Cậu thiếu niên này, dù từ thần thái giọng điệu cho đến cử chỉ, càng nhìn càng thấy giống phụ hoàng, đến cả câu cửa miệng lúc cáu giận và hành động đập bàn cũng không thể lẫn vào đâu được. Liên tưởng tới việc cậu thiếu niên này xuất hiện đúng lúc phụ hoàng băng hà, vậy thì cậu có thể cho rằng, cậu thiếu niên tên là Lưu Ký Nô này, chính là phụ hoàng?

Không, suy đoán đó buồn cười quá.

Lưu Nghĩa Long cố kìm nén sự hoang mang trong lòng mình, nhưng khi bắt gặp ánh mắt chứa đầy sự uất ức và thất vọng của cậu bé kia, quả tim của cậu cũng không khỏi đập mạnh một cái, cậu hít một hơi thật sâu, nhẹ nhàng nói: "Chẳng phải cậu muốn ta ngồi lên ngai vàng sao? Chẳng phải hiện giờ ta đang làm rất tốt sao?"

"Nhưng vì sao cậu không quan tâm đến sự an nguy của anh em?" Lưu Dụ lửa giận bừng bừng, nghĩ tới việc đứa con thứ ba yêu quý của mình đã làm những gì, ông như sắp phát điên. Ông hiểu quá rõ đám quyền thần Tạ Hối sẽ làm gì ở bước tiếp theo, đám người đó chắc chắn sẽ ra tay trừ bỏ mọi mối nguy cơ.

Ánh mắt Lưu Nghĩa Long rất bình tĩnh, trên gương mặt là vẻ kiên định, cậu chậm rãi nói từng chữ: "Đợi khi ta lên ngôi, ta sẽ bắt chúng phải trả giá".

Lưu Dụ nhìn đứa con thứ ba đã trưởng thành, bỗng nhiên cảm thấy sự mệt mỏi ập tới.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Phải rồi, vì sao ông lại không biết, mọi việc đó đều là do sắp xếp của Lưu Nghĩa Long. Vì ngại dư luận, cậu ta không thể tự mình ra tay đối phó với anh trai, bèn dùng kế mượn dao giết người, đợi bọn Tạ Hối phế vua giết chúa, cậu sẽ lên ngôi một cách danh chính ngôn thuận. Lưu Dụ hoàn toàn có thể tưởng tượng ra, vài năm sau khi Lưu Nghĩa Long lên ngôi, khi đã hoàn toàn nắm được quyền bính, cậu sẽ viện lý do báo thù cho anh em, để chém giết đám quyền thần Tạ Hối, để đưa bè phái của mình vào thay.

Quả không hổ là người được xúc xắc ngà lựa chọn...

Lưu Dụ nhắm mắt, ánh nắng bên ngoài rọi qua cửa sổ chiếu lên người ông, nhưng ông chẳng cảm thấy chút ấm áp nào, chỉ thấy toàn thân lạnh ngắt.

Con người ta từ khi sinh ra, mỗi một lựa chọn đều là một canh bạc.

Khác nhau ở chỗ, có người thắng nhiều, có người thua nhiều.

Như thế chính là khác biệt, có người trở thành kẻ thất bại, có người trở thành kẻ thắng cuộc.

Nhìn bề ngoài, có vẻ Lưu Dụ chính là kẻ thắng cuộc điển hình, nhưng thực ra có những lúc, đến chính Lưu Dụ cũng không hiểu nổi mình đã thắng hay đã thua.

Nếu ông không làm hoàng đế, bây giờ có lẽ đã có một gia đình đầy đủ, con cháu đầy nhà, chứ không phải cảnh đám con cái cầm đao ghè nhau như bây giờ...

Thư phòng yên lặng chết chóc, Lưu Nghĩa Long bỗng giật mình kinh sợ, bởi vì cậu nhìn thấy cậu thiếu niên trước mặt mình đang dần trở nên trong suốt, chầm chậm tan dần vào ánh nắng.

Lưu Nghĩa Long lập tức bật dậy đưa tay ra tóm lấy cậu bé, nhưng ngón tay xuyên qua cơ thể cậu ta, không cầm vào được.

"Phụ... phụ hoàng!" Lúc này Lưu Nghĩa Long không còn nghi ngờ gì nữa, cậu thiếu niên cổ quái kia chính là phụ hoàng của cậu! Cậu nghĩ đến chuyện mình giở thủ đoạn ngay dưới mắt phụ hoàng, liền sợ đến mức toàn thân run rẩy.

Trong thư phòng, giọng nói lành lạnh của Lưu Dụ vang lên, hình bóng của cậu thiếu niên biến thành những đốm sáng, chậm rãi tan vào không trung.

"Đời người chính là một canh bạc, vậy nên chẳng có ai thắng mãi mà không thua...".

"Đã là đánh bạc, thì phải chuẩn bị tâm lý, sẽ mất đi những thứ vốn thuộc về mình".

"Ta đã thắng được một số thứ, nhưng ta cũng thua mất rất nhiều..."

"Mong rằng... con đừng hối hận...".

"Cạch!" Lưu Nghĩa Long định thần trở lại, phát hiện ra trong thư phòng chỉ có một mình cậu, một viên xúc xắc ngà đã ngả vàng rơi trên đất, nảy lên mấy cái, lăn lốc cốc trên nền nhà...

Năm 424, bọn Tạ Hối, Từ Tiện Chi sai trung thư xá nhân là Hình An Thái giết vua ở đình Kim Xương, Thiếu đế chết năm mười chín tuổi. Bọn Tạ, Từ lại sai người đi giết Lưu Nghĩa Chân ở Tân An, dẫn theo trăm quan tới Giang Lăng, nghênh đón Nghi Đô vương Lưu Nghĩa Long về kinh lên ngôi, chính là Tống Văn đế.

Năm 426, Văn đế giết bọn Từ Tiện Chi, Phó Lượng, tự dẫn đại quân tới Giang Tây thảo phạt Tạ Hối. Tạ Hối bại trận, bị giết với tội giết vua mưu phản.

Lúc này, Tống Văn đế Lưu Nghĩa Long mới hai mươi tuổi đã nắm hết quyền hành, mở ra thời kỳ thế nước hùng mạnh nhất thời kỳ Đông Tấn Nam Bắc Triều, sử gọi là "Nguyên Gia chi trị".

5

Năm 2012.

Bác sĩ nằm dưới nắng, phơi cơ thể thỏ bông của mình, làm một món đồ chơi bằng vải, muốn sạch sẽ thì cũng phải tắm, có điều mỗi lần tắm xong là toàn thân ướt nhẹp khó chịu, cơ thể nặng nề hơn gấp mấy lần, khiến anh đứng lên cũng khó khăn.

Vì thế mỗi lần chủ tiệm tắm xong cho anh, anh liền nằm dưới nắng cho tới khi khô hẳn.

Bên này có vẻ như phơi đủ rồi, bác sĩ vất vả quay người lại, nằm sấp trên đất để ánh nắng chiếu vào phía lưng.

Cuộc sống thỏ bông rảnh rỗi quá mức này, bác sĩ cũng đã quen. Nhưng anh chép cái miệng thỏ, vốn là một người ham ăn, mấy tháng nay đều không ăn được chút gì, anh cảm thấy rất khó chịu.

Thật nhớ món bánh bao canh gạch cua của cửa tiệm bên kia đường! Nhớ bánh xốp Ngô Sơn đầu phố! Lại còn món súp ngô quế hoa Tây Hồ trước cổng viện nữa!

À, vừa nghe hình như thấy có chuyển phát nhanh gửi tới, kỳ lạ thật, chủ tiệm lại biết đi mua đồ à? Hoặc là, ai đã gửi đồ cho chủ tiệm?

Lòng hiếu kỳ của bác sĩ trỗi dậy, mặc kệ việc mình còn chưa phơi khô hẳn, bò bằng tứ chi từ ban công vào trong quầy, vừa hay bắt gặp chủ tiệm đang ngây người nhìn một chiếc hộp gấm.

"Đây là đồ của ai gửi tới? Ô? Là một con xúc xắc?" Chiếc hộp gấm không lớn, bác sĩ nhìn thấy ngay thứ đồ trong đó. Đó là một con xúc xắc rất bình thường, chất liệu có màu vàng nhạt, chắc là làm bằng ngà voi. Bác sĩ nghiêng đầu nhìn lên hóa đơn dán trên gói đồ, nhìn vào dòng địa chỉ người gửi, cảm thấy rất quen thuộc.

"Địa chỉ này... đây chẳng phải là bệnh viện chỗ tôi làm sao?" Bác sĩ thất thanh, trong bệnh viện này bây giờ có ai quen biết gã chủ tiệm? Câu trả lời chẳng phải quá rõ rồi sao? Bác sĩ lập tức đề cao cảnh giác, đi quanh chiếc hộp gấm trên mặt quầy, sợ bên trong có đồ nguy hiểm gì như lựu đạn chẳng hạn. "Con xúc xắc này là Phù Tô gửi tới? Hắn muốn gì đây?"

Chủ tiệm thấy bác sĩ đã làm cho mặt quầy ướt sũng, bèn phải kéo anh lên, dùng cặp để cặp đôi tai thỏ treo ra ngoài ban công phơi nắng và hong gió luôn. Vừa lau mặt quầy, chủ tiệm vừa kể lại câu chuyện của con xúc xắc ngà, sau đó than thở: "Con xúc xắc ngà này tôi vẫn cất ở trong quầy đánh dấu chữ "Thiên", đợt trước cứ tìm nó mãi, không ngờ lại được gửi về đây".

"Tên Phù Tô này hóa ra còn là một tên trộm!" Bác sĩ liền nổi cáu, nhưng bây giờ anh đang bị cặp trên dây phơi, chỉ có thể lắc qua lắc lại cái thân thỏ tròn ung ủng của mình.

"Chắc không phải Phù Tô lấy đi, có lẽ là con chim Minh Hồng khi đánh nhau với chim Tam Thanh đã tiện thể cắp đi". Gã chủ tiệm mím môi, hai con Minh Hồng và Tam Thanh đánh nhau không chỉ có một lần, sau khi Minh Hồng bị thua một lần, thỉnh thoảng lại tìm thời cơ đến để đánh nhau với Tam Thanh, tuy chúng cũng biết chú ý không phá hoại Á Xá, nhưng vẫn thường khiến mọi thứ rối tung lên. Chủ tiệm còn nghĩ có nên tìm cho Tam Thanh một phòng riêng để làm phòng đấu võ không.

Bác sĩ hừ một tiếng, cảm thấy khó hiểu: "Nghe anh vừa nói lai lịch của xúc xắc ngà, anh từng kể cho hắn rồi phải không? Con chim đỏ ấy chắc là không phải vì tức khí mà cắp viên xúc xắc đi, chắc chắn nó biết viên xúc xắc là món đồ cổ đế vương, nên muốn phá hoại kế hoạch của anh!" Bác sĩ càng nói càng cảm thấy mình phân tích đúng, anh khoanh tay trước ngực tỏ vẻ tức giận. Anh vẫn biết chủ tiệm tháng này chưa đi chôn đồ cổ để phá trận, bởi vì chưa tìm được thứ đồ cổ đế vương thích hợp. Nhưng bác sĩ bỗng đưa mắt nhìn hộp gấm trên mặt quầy, tò mò hỏi: "Kỳ lạ nhỉ, nếu như Phù Tô muốn ngăn cản anh phá trận, vì sao lại gửi trả lại con xúc xắc ngà này cho anh? Chẳng lẽ là đồ giả?"

"Không phải đồ giả". Đôi mắt chủ tiệm cụp xuống, hít thở sâu một hơi: "Hắn đang muốn hỏi tôi, có dám đánh cược không...".

"Đánh cược?" Bác sĩ nghe xong càng thấy khó hiểu, anh giãy giụa nhảy xuống khỏi dây phơi.

Chủ tiệm đưa tay với lấy viên xúc xắc ngà trong hộp gấm, cảm giác vẫn trơn bóng mịn màng như hơn ngàn năm về trước: "Thực ra khi đứng ở những ngã rẽ cuộc đời, mỗi người đều phải đưa ra lựa chọn quyết định. Bất kể là chọn con đường nào, nhiều năm sau nhìn lại cũng đều sẽ hối hận. Bởi vì không ai biết chọn con đường còn lại thì sẽ có kết quả ra sao, và cũng không thể biết được".

"Sau đó thì lại tưởng tượng có lẽ lựa chọn còn lại của năm xưa tốt hơn thì sao? Đúng là lòng người tham lam không đáy!" Bác sĩ bĩu môi, không cảm thấy có gì lạ.

"Vì thế thực ra chẳng hề có chuyện đánh cược hay không đánh cược". Chủ tiệm vân vê viên xúc xắc đã lâu lắm mới thấy lại, rồi lại để trở lại hộp gấm, "Thế gian đâu thể tròn đôi ngả..."

(Trích thơ của Đạt Lai Lạt Ma đời thứ VI Tsangyang Gyatso: "Thế gian đâu thể tròn đôi ngả, không phụ Như Lai chẳng phụ nàng")

Bác sĩ lặng lẽ nhìn hành động của gã, trầm ngâm một hồi lâu, bỗng nhiên cất tiếng: "Tôi cảm thấy hắn không phải có ý đó đâu!"

Chủ tiệm đang định cất hộp gấm đi bỗng dừng tay, nhưng gã chưa quay đầu lại.

"Chắc hắn đang nhắc nhở anh, đừng nên hối hận với con đường hôm nay anh lựa chọn...". Đôi tai thỏ của bác sĩ rủ xuống, có phần chán nản. Chủ tiệm hiểu rõ Phù Tô, làm sao mà không nhìn ra ý của hắn. Chẳng qua gã không muốn nói, để anh khỏi lo mà thôi.

Chủ tiệm cất hộp gấm đi, quay lại cầm đôi tai thỏ của bác sĩ lên, tiếp tục lôi anh ra treo lên dây phơi cho khô.

"Nếu lựa chọn con đường nào cũng phải hối hận, vậy thì còn do dự làm gì? Chỉ cần không hổ với bản tâm là được".

Quyển 3 - Chương 8: Vu Chấn Ngưỡng

1

Năm 209, Tần Nhị Thế Hồ Hợi năm thứ nhất, làng Trung Dương, ấp Bái Phong.

Lưu Doanh mới ba tuổi, chân đi giày cỏ, trên mình mặc áo vải gai rách rưới, trong tay cầm một quả thông vừa nhặt được trong rừng, lẫm chẫm bước đi trong núi.

Thực ra cậu không muốn đi một mình trong khu rừng vắng vẻ này, nhưng cha cậu lâu lắm không về nhà, mẹ cậu nhiều ngày trước một mình đi tìm cha. Sau đó mẹ cậu rất ít về nhà, cho dù có về cũng là để lấy tiền với lương thực rồi đi tiếp. Hàng xóm nói cha cậu lén thả tù nhân, phạm vào tội lớn, nên mới trốn trong núi không dám về nhà.

Nhưng cha cậu không phải là đình trưởng sao?

Lưu Doanh bặm môi, quyết định tự mình đi tìm cha, tuy chị cậu nói ngọn núi cha ẩn nấp cách nhà rất xa, nhưng cậu vẫn lén chạy ra ngoài.

Lúc này đang là giữa mùa hạ, tuy trong rừng cũng râm mát, nhưng vẫn oi bức khó chịu. Quệt mồ hôi trên mặt, Lưu Doanh cảm thấy cổ họng khát khô, cậu bèn thè lưỡi ra liếm mấy giọt mồ hôi ở bàn tay, không bỏ phí giọt nào.

Mằn mặn, hình như càng khát hơn...

Nhìn ra xung quanh, Lưu Doanh bỗng thấy ở khoảnh rừng phía trước hình như có người ngồi, cậu rảo bước đôi chân ngắn cũn đi tới, nhìn thấy người đó tay cầm một chiếc bát "vu", cúi đầu nhìn chăm chú.

Bởi vì người đó ngồi bệt xuống đất, nên Lưu Doanh dễ dàng nhìn được vào trong chiếc bát vu, trống không, chẳng có gì trong đó cả.

"Vu" là đồ để đựng cơm đựng nước, cái này Lưu Doanh biết, vì cậu cũng có một chiếc bát vu. Nhưng chiếc vu này rất tinh xảo, đánh sơn mài, trong lòng vu thì sơn màu đỏ tươi rói, bên ngoài là màu đen cao quý, còn dùng sơn đỏ để vẽ hoa văn hình mây. Hai màu đen đỏ thời bấy giờ là những màu cao quý, cho dù Lã Trĩ mẹ cậu là con nhà khá giả, của hồi môn đem về cũng đắt tiền, nhưng Lưu Doanh chưa bao giờ nhìn thấy chiếc bát vu đẹp đến thế.

Nhưng cho dù nó tinh xảo đến mức ai nhìn cũng không thể rời mắt, thì đối với Lưu Doanh hiện tại nó chẳng thể quý bằng một bát nước. Cậu nhìn người đó dò xét từ trên xuống dưới, thì thấy người đó bẩn thỉu nhem nhuốc, chẳng rõ là đi lang thang bên ngoài bao lâu rồi, so với chiếc vu sơn mài sạch tinh tươm trong tay thì quả là một trời một vực. Người đó tóc tai rối bù, lại đang cúi đầu, nên không nhìn rõ mặt, nhưng Lưu Doanh cho rằng người đó không lớn tuổi. Bởi vì chị cậu có nói tuổi của cậu gọi là tuổi "thùy thiều" (tóc để chỏm), mái tóc để xõa tùy ý, chị gái nói đợi khi nào cậu lớn lên thì mới chải búi tóc lên, mới gọi là "cập quan" (đội mũ).

Lưu Doanh hơi thất vọng, bởi vì cậu nhìn thấy người kia ngoài chiếc bát vu sơn mài ra, trên người chẳng còn đồ đạc gì. Sờ lên cái bụng kêu réo, Lưu Doanh cảm thấy tốt nhất là mình đi về nhà, may ra thì chạy về kịp lúc chị gái làm bánh buổi tối. Xem ra cha cậu nói đúng, hùng tâm tráng chí lớn đến đâu, cũng phải quỳ dưới chân những việc ăn uống ngủ nghỉ tầm thường.

Trước khi đi, Lưu Doanh còn tử tế nói với người kia: "Mau về nhà đi, trong núi có yêu quái ăn thịt người đấy!"

Cậu bé Lưu Doanh cất giọng trẻ con, vừa nói dứt thì một trận gió thổi qua, khiến cậu run lên, cậu càng thêm sợ. Khi cậu quyết chí ra đi tìm cha, cậu rất tự tin, giờ thì thối chí rồi, lại nhớ lại câu nói của chị gái, khiến cậu run rẩy.

Hơn nữa, bỗng nhiên cậu lại có một ý nghĩ, liệu người ngồi trước mặt kia có phải yêu quái không?

Lưu Doanh cứng đờ người, muốn bỏ đi nhưng không biết vì đói khát hay vì sợ hãi mà không nhấc chân lên nổi, cứ giương mắt nhìn người kia chầm chậm ngẩng đầu lên.

Khi nhìn thấy gương mặt người kia, Lưu Doanh càng sợ hãi, người đó còn trẻ tuổi, gương mặt thanh tú, trông rất thư sinh. Nhưng trên cổ gã đó có một vết thương còn chưa lành, hình như bị ai đó chém một đao, vết thương ghê rợn lộ ra từ bộ quần áo rách rưới, không có cách gì che đậy được.

Lưu Doanh cảm thấy yêu quái trong núi không thể nào lại đến bước đường cùng này được, thời Tần Nhi Thế chính trị tàn bạo làm loạn thiên hạ, lưu dân các nơi nổi dậy, có thể gã gặp chuyện gì đó nên mới trốn vào trong núi. Lưu Doanh tuy còn nhỏ tuổi, nhưng thường ngày chị gái dạy dỗ cậu cẩn thận, cậu liền đề nghị rất tử tế: "Anh không có chỗ nào ở à? Hay về nhà em cũng được".

Đôi mắt của gã nam nhân trẻ tuổi trông như đã chếtnghe thấy câu nói của Lưu Doanh, mới chớp chớp mấy cái, nhếch khóe miệng lênnói ra mấy tiếng: "Không cần, xin đa tạ". Tiếng nói khản đặc khó nghe, như thể đã lâu lắm gã không nói.

Lưu Doanh nghe thấy gã nói, lòng hiếu kỳ chiến thắng nỗi sợ, chỉ vào chiếc bát vu sơn mài trên tay gã đó nói: "Chiếc vu này của anh à?" Không thể trách Lưu Doanh nghi ngờ được, bởi vì gã này trông rách nát như thế, mà lại cầm một chiếc vu sơn mài quý giá đến vậy, đúng là rất kỳ lạ.

Gã trẻ tuổi không trả lời, mà hỏi lại: "Cậu bé có biết "đồ sơn" là gì chăng?"

Lưu Doanh nghiêng đầu, những người xung quanh cậu nói năng không văn vẻ như thế, nhưng dù sao cậu cũng hiểu người đó nói gì. Cái gì là "đồ sơn"? Cậu nghi hoặc lắc đầu. "Đồ sơn" là một thứ rất thần kỳ, vừa nhẹ vừa chắc chắn, sáng bóng đẹp đẽ, rất quý giá.

"Vùng cao có cây sơn, vùng thấp có cây dẻ... Ngu Thuấn làm đồ đựng thức ăn, chặt gỗ rừng để làm, mài hết vết cắt đi, quét mực sơn lên trên... Vua Vũ làm đồ tế, nhuộm mực đen bên ngoài, vẽ sơn đỏ bên trong...". Có lẽ vì tìm lại được cảm giác nói chuyện, người đó càng nói càng lưu loát, tiếng nói cũng càng lúc càng lớn. Tuy giọng vẫn khàn khàn, nhưng tiếng nói mạnh mẽ, theo gió núi vang lên trong rừng, nghe loáng thoáng có tiếng vọng lại.

Thực ra mười câu thì có chín câu là Lưu Doanh nghe không hiểu, nhưng cậu cảm thấy tiếng nói trầm bổng rất hay, liền quên luôn cơn đói khát, chớp chớp đôi mắt to tròn chăm chú lắng nghe.

"Có biết Chu Dịch không?" Gã trẻ tuổi bỗng chuyển chủ đề, hỏi lại cậu. Nhưng gã cũng không hy vọng cậu bé Lưu Doanh mới hai, ba tuổi có thể trả lời được câu hỏi, hơi dừng lại một chút rồi gã tiếp tục nói: "Chu Dịch có bát quái, Càn ba liền, Khôn sáu đoạn, Chấn chén ngửa, Cấn bát úp, Ly giữa rỗng, Khảm giữa đầy, Đoài khuyết trên, Tốn đứt dưới. Tám câu đó không đơn giản chỉ để nhớ hình dáng của quẻ tượng đâu".

Lưu Doanh nghe chẳng biết có hiểu hay không, lễ phép không chen ngang.

"Chu Văn Vương Cơ Xương không chỉ viết ra quái từ và hào từ, mà còn chế tạo ra những vật tượng trưng cho bát quái nữa". Gã trẻ tuổi khẽ thở dài, lấy tay chà lên chiếc bát vu sơn mài trên tay, "Đây chính là vu Chấn Ngưỡng".

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Đồng Hồ Bản Sao

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

(Vu Chấn ngưỡng vừa có nghĩa là "quẻ Chấn có hình dáng giống chiếc vu để ngửa", vừa dùng chỉ luôn tên chiếc vu là Chấn Ngưỡng)

"Vu Chấn Ngưỡng?" Lưu Doanh không hiểu, chỉ nhắc lại, chiếc vu sơn mài này xem ra là rất quý, nhưng không ngờ lại có cái tên cổ quái như vậy.

"Tượng quẻ của quẻ Chấn, trông giống như một chiếc vu đặt ngửa. Quẻ Chấn mà ra, thì lay chuyển đến cái gốc của đất nước...". Bỗng nhiên giọng nói của gã trẻ tuổi khản đặc trở lại, gã che tay lên miệng ho mạnh mấy tiếng.

Có lẽ vì vết thương trên cổ chưa khỏi hẳn, Lưu Doanh vẫn còn nhìn thấy có máu rỉ ra từ vết thương kinh khủng kia. Chiếc vu sơn mài trên tay gã cũng không còn cầm vững nữa, rơi xuống đất, lăn lông lốc đến trước mặt Lưu Doanh.

"Anh... anh không sao chứ?" Lưu Doanh nhặt chiếc vu lên, định trả lại cho gã trẻ tuổi, nhưng cậu bỗng cảm thấy tay mình nặng trịch, suýt thì đánh rơi chiếc bát vu. Cậu cúi đầu nhìn, thì thấy trong chiếc vu bỗng nhiên có đầy nước sạch!

Lưu Doanh ngạc nhiên tột độ không nói nên lời, rõ ràng chiếc vu ban nãy lúc trong tay gã kia vẫn trống rỗng, vì sao vừa cầm lên đã đầy nước?

Gã trẻ tuổi nhìn vu Chấn Ngưỡng trong tay Lưu Doanh, vẻ mặt phức tạp, một hồi lâu sau mới thở dài nói: "Đối xử tốt với nó, đừng để nó rơi xuống đất nữa".

"Hả?" Lưu Doanh ngạc nhiên ngẩng đầu, thì thấy gã trẻ tuổi đã đứng dậy, loạng choạng đi vào sâu hơn trong rừng.

2

Lưu Doanh cầm chiếc vu, đuổi theo gã trẻ tuổi một đoạn, thì không còn nhìn thấy bóng dáng gã đâu nữa. Cúi đầu nhìn bát vu đầy nước, Lưu Doanh nhịn một lúc, rồi cuối cùng cũng cúi đầu thử nhấp một ngụm.

Nước mát rượi, Lưu Doanh chớp chớp mắt, bưng bát nước uống ừng ực hết sạch.

Nhưng nước trong bát vu lại đầy lên, lại là một vu nước đầy, Lưu Doanh kinh ngạc. Dù còn ít tuổi nhưng cậu cũng biết một chiếc bát vu bình thường không thể tự sinh ra nước được.

Chẳng lẽ ban nãy gã trẻ tuổi cúi đầu thất vọng nhìn chiếc vu, là bởi vì trong tay hắn chiếc vu không thể ra nước được?

Lưu Doanh không có thời gian để nghiên cứu chuyện này, chị gái cậu đã tìm đến, định bụng lôi cậu về cho một trận đòn, Lưu Doanh vội vàng đưa chiếc vu sơn mài trong tay cho chị.

Cũng thật kỳ quái, chỉ cần chiếc vu trong tay Lưu Doanh thì sẽ đầy nước, nhưng trong tay chị gái Lưu Lạc, thì lại trở thành một chiếc bát vu bình thường.

Lưu Lạc năm nay đã chín tuổi, chững chạc hơn những bé gái bình thường, Lưu Doanh đem chuyện mình gặp gã trẻ tuổi kia lắp bắp kể lại, cô bé cũng biết chiếc vu kia có lai lịch không tầm thường, bèn dặn em trai mình cất đi, không được kể cho ai biết.

"Đến cả cha mẹ cũng không được nói à?" Lưu Doanh nghiêng đầu hỏi.

"Đợi cha mẹ về nhà đã...". Lưu Lạc xoa tay lên mái tóc mềm mại của cậu em trai, cũng nghĩ là việc này phải nói với cha mẹ một tiếng.

Hai chị em nghĩ thì rất hay, nhưng hiện thực thì rất tàn khốc. Chẳng bao lâu sau, liền có tin tức truyền tới, nói rằng Lưu Bang, cha của hai chị em, chém rắn trắng khởi nghĩa ở núi Mang Đãng, tạo phản rồi!

Thực ra từ khi Trần Thắng, Ngô Quảng khởi nghĩa ở hương Đại Trạch, thiên hạ này đã đại loạn rồi. Lưu Bang có quan hệ rất rộng ở huyện Bái, rất nhiều bằng hữu nghe tin đều kéo tới theo, hai chị em Lưu Lạc, Lưu Doanh cũng có hàng xóm giúp chăm lo. Cuộc sống vẫn tiếp tục, chỉ có điều Lưu Doanh có thêm một bí mật nhỏ, thỉnh thoảng lại lôi chiếc vu sơn mài ra ngắm, uống mấy ngụm nước trong mát, là vui vẻ suốt mấy ngày.

Cha của hai chị em không về nhà nữa, mẹ thì thỉnh thoảng về rồi lại đi ngay, trong mấy năm sau, đôi lúc hai chị em vẫn nghe tin về cha. Nào là tiến quân vào Hàm Dương, rồi tiệc Hồng Môn, rồi phong Hán vương ở Ba Thục... sau đó là trận đại bại ở Bành Thành.

Huyện Bái hỗn loạn, nghe nói Bá vương Hạng Vũ sắp sửa tắm máu huyện Bái, lời đồn lan truyền khắp nơi, chẳng ai biết thực sự đã xảy ra chuyện gì, mỗi người nói một phách. Lưu Lạc lúc này đã mười hai tuổi, len lén đem Lưu Doanh sáu tuổi trốn vào trong rừng, hai chị em vội vã đi trốn, không đem theo nhiều lương khô, càng chẳng đem theo nước. May mà Lưu Doanh vẫn ôm theo chiếc vu, hai chị em không đến nỗi chết khát trong rừng.

Lưu Doanh nhớ mang máng, khoảnh rừng nơi họ ở hiện tại chính là nơi năm xưa cậu gặp gã trẻ tuổi nọ. Hai chị em giúp nhau trốn trong rừng mấy hôm, cuối cùng thì thấy một cỗ xe ngựa.

Khi cha rời nhà đi, Lưu Doanh còn bé, không nhớ mặt mũi cha ra sao nữa. Nhưng Lưu Lạc thì vẫn còn ấn tượng, nên sung sướng kéo em trai ra phía trước. Thì ra sau khi đại bại ở Bành Thành, Lưu Bang bèn về huyện Bái để đón người nhà cùng đi trốn, nhưng vợ Lã Trĩ và cha của ông đã thất tán trong cơn loạn lạc. Ông chạy về nhà một chuyến, không tìm thấy con, vốn nghĩ là đã lạc mất, không ngờ lại gặp giữa đường.

Tình thế cấp bách, chẳng có thời gian cho họ khóc lóc, quan thái bộc của Lưu Bang là Hạ Hầu Anh vội vã xuống ngựa, bế hai chị em lên xe, rồi lại đánh ngựa chạy vội đi.

Hạ Hầu Anh là bạn tốt của Lưu Bang, tuy năm xưa Lưu Doanh còn nhỏ, nhưng vẫn rất nhớ bộ râu rậm của Hạ Hầu Anh, nên gọi ông là "chú râu rậm". Còn về cha mình, Lưu Doanh liếc nhìn, thấy người cha xa lạ ấy đang sa sầm mặt mày, có vẻ rất tức giận, không còn chút vui mừng nào như lúc gặp gỡ ban nãy nữa.

Chắc là vì thua trận... Lưu Doanh không dám chọc giận cha mình, cơ thể nhỏ bé của cậu co ro lại trong lòng chị, tất nhiên, chiếc vu sơn mài vẫn cầm chặt trong tay.

Kể cũng kỳ lạ, xe ngựa chạy rất xóc, nhưng bát vu đầy nước thì chẳng hề sánh ra ngoài giọt nào.

Tốt quá, lát nữa có thể đưa cho cha uống, chắc là cha rất khát. Lưu Doanh vui vẻ nghĩ vậy.

Lưu Lạc thì không chú ý đến điều này, cô bé rất nhạy cảm, nhận ra người cha lâu ngày không gặp của mình không hề I hiền từ như cô tưởng tượng, hơn nữa lúc này đang chạy trốn gấp gáp như vậy, e rằng họ đang bị cuốn vào vòng nguy hiểm. Loáng thoáng nghe thấy đằng xa có tiếng vó ngựa rầm rập cùng tiếng hò hét, Lưu Lạc hơi hối hận vì đã lên xe, nhưng cô bé chẳng thể làm được gì, chỉ biết ôm chặt lấy đứa em trai trong lòng.

Lưu Doanh không biết tâm trạng phức tạp của chị gái mình, chỉ chú ý đến chiếc bát vu trong tay, không rõ sau bao lâu, bỗng nhiên Lưu Doanh cảm thấy có một lực đẩy rất mạnh, trời đất quay cuồng, cậu văng ra khỏi xe ngựa rơi xuống đất, lăn mấy vòng rồi mới lơ ngơ chống một tay đứng dậy.

Chị gái cậu cũng văng khỏi xe nằm bên cạnh cậu, trên lưng còn có vết chân lớn, rõ ràng là vừa bị người khác đá khỏi xe.

Là ai? Chú râu rậm đang đánh ngựa phía trước, trên xe rõ ràng chỉ có một mình cha!

Lưu Doanh nhanh chóng ngẩng đầu lên nhìn về phía xe ngựa, chỉ thấy cha đang lạnh lùng ngồi trên xe, biểu cảm trên mặt mờ mờ không rõ.

"Cạch!"

Chiếc bát vu Lưu Doanh cầm trên tay rơi xuống đất, nước trong bát đổ ra một ít, trên nền cát khô khốc vung vãi ra những vệt nước, trông như nước mắt của ai chảy xuống.

Lưu Doanh không có ấn tượng gì nhiều với cha, nhưng trong mấy năm nay, chị gái và hàng xóm không ngừng nói chuyện cha cậu anh minh thần võ thế nào, uy vũ hơn người thế nào, là trang hảo hán người khác khâm phục tin tưởng thế nào. Vì thế nên lúc đó Lưu Doanh hoàn toàn không hiểu chuyện gì đã xảy ra, đến khi cậu ngơ ngác nhặt chiếc bát vu lên, nhìn thấy nước trong bát chỉ còn hơn nửa, mới cảm thấy như đánh mất thứ gì đó.

Không chỉ mất một chút nước trong bát vu bị đổ ra ngoài.

Chú râu rậm dừng xe, cãi nhau với cha cậu, rồi lại bế chị em Lưu Doanh lên xe.

Sau đó cha cậu lại đạp hai chị em xuống để giảm gánh nặng hòng mau chạy thoát.

Cứ như thế lặp lại ba lần.

Lưu Doanh đã hoàn toàn đờ đẫn, Lưu Lạc cũng đã thôi không khóc, chỉ ôm chặt lấy em trai mình trong lòng.

Hạ Hầu Anh cãi nhau to với Lưu Bang, Lưu Bang mấy lần rút kiếm đe dọa Hạ Hầu Anh đừng có lo cho con ông ta, Hạ Hầu Anh thấy vậy liền bế hai chị em đặt luôn lên ngựa của mình, rồi quất ngựa phi nước đại đi.

Lưu Doanh lơ mơ, không biết làm cách nào mình đến được Huỳnh Dương, nhưng một lúc lâu sau, nhờ ánh mắt quan tâm của chị gái mình, cậu mới hồi phục thần trí.

Hai chị em nhìn nhau không nói gì, nỗi đau thương trong lòng không thể dùng lời để diễn tả. Cứ như thể nếu không ai nhắc đến, thì chuyện vừa rồi coi như không diễn ra vậy.

Nước trong bát vu không thể đầy như ngày xưa nữa, luôn chỉ ra được hơn nửa bát, Lưu Doanh đoán rằng có lẽ là do mình làm rơi vu một lần.

Nhưng nước trong chiếc vu đó đại diện cho cái gì? Cậu không hiểu, chỉ cảm thấy khi uống nước trong vu, không còn ngọt mát như trước, chỉ thấy vô vị, chẳng khác gì thứ nước bình thường khác.

Cha ở tạm Huỳnh Dương, ngoài chú râu rậm ra, không còn ai biết ngày hôm đó cha đã vô tình vô nghĩa ném hai chị em xuống như thế nào. Thuộc hạ của cha rất đông, lúc rỗi rãi Lưu Doanh tình cờ gặp vài người, đều cung kính gọi cậu là đại công tử. Lưu Doanh chưa bao giờ gặp cảnh tượng đó, lúc đầu cảm thấy không quen lắm, nhưng sau đó gặp nhiều rồi cũng quen dần.

Đại công tử thì sao? Trong lòng cha chẳng phải cũng chỉ là một gánh nặng sẵn sàng bị vứt bỏ sao?

Chị gái hình như vì sợ hãi mà không ra khỏi cửa, nghe đâu cha đã bắt đầu tìm mối lái cho chị, dùng hôn nhân liên kết với thế lực khác, đúng là biết tận dụng hết mọi thứ có thể.

Chỉ có Lưu Doanh sáu tuổi là được nghe rất nhiều chuyện, bởi vì nhiều người coi cậu là một đứa trẻ, dù sao nghe xong cũng không hiểu. Nhưng Lưu Doanh cảm thấy mình bỗng chốc đã trưởng thành, trở nên lầm lì ít nói, nụ cười cũng đã biến mất, phần lớn thời gian đều ngồi ôm chiếc vu, lặng im không nói gì.

Rất nhiều người đều nghĩ rằng chiếc vu đó là đồ của mẹ cậu, nên không ai để ý.

Hôm đó, cậu nhìn thấy cha dẫn các tướng ra ngoài thành đón tiếp, chen nhau đốn về một tướng quân vũ dũng, thân mặc khôi giáp, cậu nhìn rất quen.

Lưu Doanh đứng ngây người ở một nơi không xa lắm, hình như cảm nhận được ánh mắt của gã, gã tướng quân trẻ tuổi khi đi ngang qua cậu, nhìn thấy cậu đang ôm trong lòng chiếc vu sơn mài chỉ còn hơn nửa bát nước, hơi dừng lại rồi mỉm cười với cậu.

"Từ ngày từ biệt trong rừng, đã ba năm rồi, đại công tử vẫn khỏe chứ?"

Lưu Doanh không có cơ hội để nói gì với gã tướng quân ấy, cha cậu hình như rất nóng lòng muốn nói chuyện với gã, kéo gã đi luôn.

Cúi đầu nhìn chiếc vu sơn mài trên tay, trên mặt nước trong phản chiếu gương mặt của cậu, cậu nhìn thấy trên mặt nước sóng sánh là những con sóng trong mắt mình.

Cậu bắt đầu đi dò la về gã tướng quân.

Thì ra gã tên là Hàn Tín, không có cha mẹ, nghe nói thời trẻ đi lang thang khắp nơi, chịu nhiều khổ cực, thời còn ở Hoài Âm từng bị một đám vô lại đùa bỡn, phải chui qua háng chúng. Sau này từng đi theo Hạng Vũ, làm một thị vệ cầm kích dưới trướng ông ta, bởi vì không được trọng dụng, nên mới quay sang đầu quân cho Lưu Bang cha cậu.

Tất nhiên không dễ dàng mà có được chức quan, gã chỉ làm một lính canh kho, thậm chí vô duyên vô cớ còn bị kết tội chết vì mưu phản. Nếu không có câu tự biện hộ trước lúc hành hình, khiến cho Hạ Hầu Anh lúc ấy đang giám trảm cảm thấy đây là người phi thường, thì danh tướng này đã kết thúc cuộc đời lúc đó.

Tuy sau này Lưu Bang không trọng dụng gã, nhưng gã có quan hệ mật thiết với thừa tướng Tiêu Hà. Nhưng Hàn Tín trong quân đội Hán mãi không được trọng dụng, đã chọn cách ra đi, khiến Tiêu Hà phải đuổi theo dưới đêm trăng, câu chuyện trở thành giai thoại trong quân Hán.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Top mẫu đồng hồ bản sao cao cấp Rolex - Đang giảm giá đến 90%

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Sau đó, phong chức đại tướng quân.

Từ đó, chiến thần vô địch!

Lưu Doanh lặng nghe người xung quanh đang kể lể về chuyện của Hàn Tín, có người ngưỡng mộ, có người sùng bái, có người khinh miệt, có người thì mặc kệ.

Lưu Doanh còn bé, nhưng cậu cảm thấy, một người biết nhẫn nhịn chờ thời mới là đàn ông thực thụ, cho dù bị người khác đạp xuống nơi bùn nhơ thấp hèn nhất, cũng có thể đứng dậy đội trời đạp đất.

Cậu rất muốn tìm cơ hội để hỏi gã, chiếc vu Chấn Ngưỡng này là thế nào, tiếc rằng cha cậu không thể cho đại tướng quân dưới quyền mình đi gặp con trai mình được, ngày hôm sau cậu được phong làm vương thái tử, đưa đi Quan Trung. Nghe nói việc phòng thủ ở Huỳnh Dương được giao cả cho Hàn Tín, lập tức như bị phù phép, chuyển bại thành thắng. Các vùng Ung Khâu, Ngoại Hoàng lần lượt được quân Hán cướp lại, lập tuyến phòng thủ ở vùng Huỳnh Dương, Thành Cao, Lạc Dương.

Phòng tuyến này, Hạng Vũ đến tận lúc chết cũng không bước qua nổi một bước.

Máu và sự tàn khốc của chiến tranh, bị khóa chặt bên ngoài phòng tuyến này. Ngày tháng của Lưu Doanh ở Quan Trung rất bình lặng, mẹ cậu đã về, nhưng bà như một người khác hẳn. Cha cậu có thêm một người thiếp gọi là Thích Cơ, cậu có thêm một em trai tên là Lưu Như Ý. Cha cậu coi như báu vật, còn mẹ cậu thì như đang gặp quân giặc.

Lưu Doanh chẳng hề ghen tị, tình yêu của người như cha cậu, mạnh mẽ như lửa, nhìn thì rất sáng rất ấm, nhưng đến gần thì sẽ bị ngọn lửa vô tình thiêu đốt. Cũng như hôm ấy, rõ ràng lúc gặp nhau vui mừng khôn xiết, vậy mà lát sau đã đạp người khác xuống vực sâu.

Tin tức về chiến sự ở tiền phương liên tục được đưa về, trong vòng ba năm, Hàn Tín lần lượt diệt Ngụy, chiếm Triệu, uy hiếp Yên, bình định Tề... đến tận Cai Hạ để quyết chiến với Hạng Vũ.

Diệt Sở!

Gã Hàn Tín đó ra chiến trường là không một lần thất bại! Đó mới thực sự gọi là bách chiến bách thắng! Quốc sĩ vô song!

Quan Trung vui mừng hò reo, nhưng cũng có những lời lạc điệu, đồn rằng Hàn Tín muốn đem quân tự lập, xưng vương xưng đế.

Lưu Doanh không cảm thấy có gì không ổn, cơ nghiệp của cha có thể nói là một tay Hàn Tín giành lấy cho, cha cậu thì làm được gì? Sau trận đại bại ở Bành Thành, tước binh quyền của Hàn Tín, phong gã làm tướng quốc, bắt gã tự đi mộ lính để đánh Tề. Còn ngay trước trận quyết chiến Cai Hạ, Lưu Bang bị quân Sở đánh thua to, nếu không có Hàn Tín ra sức cứu, cha cậu đã chết không chỗ chôn thây rồi.

Tin tức lại truyền tới, binh quyền của Hàn Tín lại bị tước, rồi gã được phong Sở vương.

Lưu Doanh không hiểu nổi, vì sao gã lại nghe lời cha cậu như vậy? Không tự mình lên làm vua?

Trong đêm cha cậu lên ngôi, cậu bưng chiếc vu sơn mài chứa hơn nửa bát nước, lẩm bẩm cất tiếng hỏi. Chị cậu đã lấy chồng từ lâu, cậu có thói quen nói chuyện với chiếc bát vu.

"Làm vua thì có gì tốt đâu?" Một giọng nói từ bên ngoài cửa sổ vọng vào, một giọng khàn khàn quen thuộc.

Lưu Doanh giật mình đứng dậy, lập tức mở cửa sổ. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, vị đại tướng quân vang danh thiên hạ đang mặc một bộ đồ đơn giản, tay chống kiếm, phong thái uy nghi, đứng ngoài cửa sổ.

"Tướng... tướng quân! Sao ngài lại ở đây?" Lưu Doanh sợ hãi, tuy cậu mới chín tuổi, nhưng cũng biết nếu người khác phát hiện ra cậu đã về Quan Trung, thì chắc chắn sẽ có trận sóng gió nổi lên.

"Tôi đến gặp đại công tử lần cuối". Vị tướng quân trẻ tuổi thong dong hành lễ, rồi đứng dậy nhìn Lưu Doanh, trong đôi mắt phượng là ánh mắt phức tạp.

Lưu Doanh cúi đầu nhìn bản thân mình, nhờ sự nỗ lực của mẹ và của Trương Lương, thậm chí phải mời bốn vị học sĩ ẩn mình ở núi Thương Sơn tới, cha mới không đổi Lưu Như Ý làm thái tử. Cậu vẫn là hoàng thái tử của Đại Hán, trên người mặc bộ lễ phục đen cao quý nhất. Lưu Doanh ngẩng đầu, cảm thấy vị tướng quân trẻ tuổi này hình như đang nhìn cậu để tưởng nhớ đến người khác.

"Tướng quân, Doanh này không xứng". Lưu Doanh buồn bã, cậu chỉ là một đứa trẻ bình thường, đầu óc chậm chạp, thậm chí không thông minh lanh lợi bằng em trai Lưu Như Ý mới sáu tuổi của cậu.

"Làm vua thì có gì tốt đâu?" Gã tướng quân trẻ tuổi lại nhắc lại lời nói ban nãy, lần này thì kèm theo chút giọng điệu giễu cợt, "Cha ông ấy đã không coi ông ấy là con, vợ ông ấy đã không coi ông ấy là chồng, con ông ấy đã không coi ông ấy là cha, ông ấy sẽ nghi ngờ tất cả mọi người xung quanh, không tin ai cả, cuối cùng là chết trong cô độc".

"Đối với ông ấy mà nói, đó là sự trừng phạt".

Tuy lúc này đã vào hạ, nhưng Lưu Doanh bỗng thấy lạnh toát. Những lời ấy như một lời nguyền, quẩn quanh trong lòng cậu, lại khiến cậu không thể không thừa nhận, về cơ bản thì gã không nói sai. Cậu ít nhiều cũng biết những việc trước kia, khi hai quân đối đầu nhau ở suối Quảng Vũ, Hạng Vũ đã từng dùng tính mạng ông nội và mẹ cậu để uy hiếp phụ hoàng, nhưng phụ hoàng lại nói: "Nếu định làm thịt, thì ta xin một bát canh".

"Vậy... tướng quân... vì sao ngài vẫn... giúp cha ta?" Lưu Doanh lắp bắp hỏi. Cậu đột nhiên phát hiện ra, thời gian đã trôi qua sáu, bảy năm, nhưng người đó vẫn trẻ trung như hồi cậu gặp trong rừng, không hề có chút thay đổi nào.

"Ta phải đi đây". Gã tướng quân trẻ tuổi khẽ nhếch môi nói, rồi định quay người bỏ đi.

Lưu Doanh bỗng nóng ruột, cậu có rất nhiều việc muốn hỏi, cũng lờ mờ cảm thấy sau lần này e rằng không còn gặp lại được nữa. "Tướng quân, ngài trả ơn bà lão giặt vải, một bát cơm trả ngàn vàng, việc đó không có gì phải bàn. Nhưng vì sao ngài không trừng phạt kẻ đã lăng nhục ngài, lại còn cho hắn làm chức trung úy?"

Tướng quân trẻ tuổi dừng bước, bình tĩnh trả lời: "Nỗi nhục đó chẳng có gì không tốt, nó khiến tôi nhìn rõ thân phận mình".

Gã quay đầu lại, nhìn chiếc vu sơn mài trên tay Lưu Doanh, chậm rãi nói: "Người có biết "đồ sơn" là gì không?"

Lưu Doanh lắc đầu, năm xưa cậu từng được hỏi câu đó, nhưng đến giờ cậu vẫn không biết câu trả lời.

"Bên ngoài thì tinh xảo hoa lệ, lấy sơn đen để sơn, đảm bảo không mục nát, nhưng suy cho cùng, bản chất của nó vẫn là gỗ". Tướng quân trẻ tuổi thở dài một tiếng, rồi lại rảo bước tiếp tục đi về phía bóng tối, tiếng nói đứt đoạn theo gió truyền tới.

"Đừng nắm giữ quá khứ quá chặt, nhưng, người nắm giữ hiện tại thế nào?"

Lưu Doanh nghe xong, đôi tay bưng bát vu hơi thả lỏng ra, rồi sau đó lại ôm chặt chiếc vu.

3

Lưu Doanh vẫn chưa có cơ hội hỏi vì sao trong chiếc vu lại có nước, cậu cũng có dự cảm rằng, dù mình có hỏi cũng không có câu trả lời.

Năm đó, Lưu Doanh có thêm một em trai, tên là Lưu Hằng.

Lần này thì mẫu hậu không bận tâm lắm, bởi vì mẫu phi của cậu em này là Bạc Cơ không được sủng ái, người duy nhất mà bà đề phòng là Thích phu nhân mà thôi.

Lưu Doanh lại cảm thấy cậu em trai này hơi đáng thương, nghe nói phụ hoàng chỉ sủng hạnh Bạc Cơ có một đêm, dù có biết cô ấy có thai, cũng chẳng hề hỏi han gì. Lưu Doanh cho người đem cho một ít đồ, tuy không thể tự mình thăm nom, nhưng dù gì cũng là em trai mình.

Từ ngày ở tách khỏi cha mẹ, chị gái đi lấy chồng, Lưu Doanh lại càng coi trọng tình thân. Còn vị Hàn tướng quân mà cậu ngưỡng mộ, lúc gặp lại, chẳng còn cảm giác thân quen nào nữa, Lưu Doanh cảm thấy gã thực sự đã đi rồi, cho dù Hàn tướng quân hiện giờ có tướng mạo giống hệt gã.

Ngày tháng trôi qua dần, Lưu Doanh vẫn tỏ ra ngẩn ngơ chậm chạp, lạnh lùng bàng quan xem phụ hoàng và mẫu hậu tranh đấu, chẳng nói lời nào.

Cậu không coi trọng cái địa vị thái tử của mình. Nếu có thể, thậm chí cậu muốn làm một nông phu bình thường.

Nước trong chiếc vu Chấn Ngưỡng, ngày một vơi dần đi, có điều cậu không để ý.

Thậm chí cậu cho rằng, nước trong vu chắc là đại diện cho hy vọng của cậu. Hồi nhỏ, cậu muốn có được rất rất nhiều thứ, nhưng cậu luôn thất vọng. Sự hy vọng dần dần khô cạn, rồi biến thành tuyệt vọng.

Năm cậu mười sáu tuổi, phụ hoàng băng hà, cậu ngơ ngác ngồi lên ngôi vua, quốc gia đại sự đều do một tay mẫu hậu thao túng. Cậu cũng mừng vì nhẹ gánh.

Dù sao cậu cũng không hiểu lắm. Có thừa tướng Tiêu Hà, thì chắc chắn sẽ không xảy ra nổi loạn lớn.

Có điều năm ngoái mẫu hậu và Tiêu Hà cùng hợp mưu giết chết Hàn Tín ở trong nhà treo chuông trong cung Trường Lạc, Lưu Doanh biết đó không phải là Hàn tướng quân thật, nhưng nghe tin cậu cũng kinh ngạc khôn cùng.

Cậu biết mẫu hậu đã thay đổi, nhưng không ngờ lại trở thành một người xa lạ như vậy.

"Hoàng huynh, xem chữ của thần đệ viết thế nào?" Lưu Như Ý đã mười lăm tuổi, hai tay dâng lên một cuốn sách thẻ tre, đưa tới trước mặt Lưu Doanh. Lưu Như Ý thừa hưởng quá nửa tướng mạo của mẹ là Thích phu nhân, tuy còn ít tuổi nhưng mặt mũi thanh tú, đôi mắt hoa hạnh như nịnh nọt, khiến ai cũng không nỡ trách mắng.

Lưu Như Ý vốn được phong đến đất Triệu, nhưng lại bị thái hậu ra chiếu gọi về Trường An. Lưu Doanh sợ mẫu hậu gây khó dễ, bèn tự mình ra ngoài thành Trường An đón tiếp, đưa Lưu Như Ý thẳng đến tẩm cung của mình, cùng ăn cùng ngủ, không cho mẫu hậu có cơ hội ra tay. Lưu Như Ý cũng biết trong kinh thành này hiện nay người duy nhất cứu được cậu chính là vị hoàng đế ca ca trước mặt cậu đây, nên cậu càng dựa dẫm vào anh trai.

Lưu Doanh cầm cuốn thẻ tre của Lưu Như Ý, xem bừa một chút rồi khen: "Đẹp lắm". Thực ra cậu không hứng thú với những thứ này, nhìn Lưu Như Ý gầy gò dù đã mặc áo bào dày dặn, Lưu Doanh nheo mày lại nói: "Như Ý, đệ nên cùng trẫm dậy sớm đi luyện bắn cung".

Nhìn bên ngoài trời đổ tuyết lớn, Lưu Như Ý run run, mấy hôm nay cùng lắm là cậu dậy sớm cùng Lưu Doanh, trên bãi bắn cậu chỉ đứng nhìn. Trong điện đốt lò sưởi, ấm áp như mùa xuân, nếu không phải vì tính mạng đang bị đe dọa, làm sao cậu lại chịu dậy sớm để luyện bắn cung? Lưu Như Ý đã thân quen với Lưu Doanh, biết hoàng đế ca ca của mình lòng dạ tốt, nên cậu cố tình tỏ ra trẻ con. Nói cho cùng, cậu chẳng qua là một tiểu công tử sinh ra trong nhung lụa. Vì thế cậu lắc đầu quầy quậy từ chối, bày ra đủ trò mèo ăn vạ, khiến Lưu Doanh phải chịu.

Có lúc Lưu Doanh còn cảm thấy Lưu Như Ý mười lăm tuổi mà chẳng hiểu biết bằng Lưu Hằng tám tuổi, có lẽ năm xưa phụ hoàng chuyên bị cậu ta phỉnh phờ bằng chiêu ăn vạ này.

Thị vệ đưa cơm tới, Lưu Doanh cầm đũa ăn thử từng món trước. Đó không phải vì cậu kỹ tính, mà vì sợ cơm canh có vấn đề. Dù là người hầu thử độc cậu cũng không tin, phải tự mình thử.

Lưu Như Ý nhìn thấy, càng cảm kích trong lòng.

Lưu Doanh ăn mấy miếng xong, không thấy có gì bất thường, mới gật đầu ra hiệu cho Lưu Như Ý là có thể ăn được rồi.

Lưu Như Ý lại chỉ sang một bên hỏi: "Hoàng huynh, cái vu sơn mài đầu giường kia, vì sao bên trong lúc nào cũng có nửa bát nước?"

Lưu Doanh nhìn theo ngón tay của Lưu Như Ý, ánh nhìn dừng lại ở chiếc vu Chấn Ngưỡng đầu giường. Cậu lặng lẽ một hồi lâu, rồi từ từ chuyển chủ đề, không trả lời câu hỏi.

Lưu Như Ý lè lưỡi, rồi không để ý nữa.

Hôm sau, khi Lưu Doanh ngủ dậy, nhìn thấy Lưu Như Ý nằm cạnh mình vẫn ngủ say sưa, không nỡ đánh thức cậu, lẳng lặng dậy tự mình đi tập bắn cung. Khi về đến nơi, thì thấy những thị vệ hầu hạ ngoài cửa điện không còn một ai.

Trong lòng cậu dâng lên một luồng khí lạnh toát, Lưu Doanh kêu lớn tên của Lưu Như Ý, cậu chạy vội vào trong điện, thì lập tức nhìn thấy chiếc vu Chấn Ngưỡng lăn trên mặt đất.

Trong chiếc vu trống không, nước đã chảy ra hết, còn Lưu Như Ý hôm qua vẫn còn đang nhõng nhẽo bên cạnh cậu, thì thất khiếu chảy máu, tắt thở trên giường.

"Hoàng nhi, con có nghe không đấy?" Lã Trĩ đập tay lên án thư, giận tím mặt nhìn Lưu Doanh ngồi xếp bằng trước mặt, cầm chiếc bát vu sơn mài lên uống ừng ực từng ngụm rượu.

Sau khi Lưu Như Ý chết, Lã Trĩ vui mừng khôn xiết, đem hết mọi uất hận và sự đè nén bấy lâu nay đổ hết lên đầu Thích Cơ. Lưu Doanh bị bắt tới xem cảnh tra tấn dã man, không ngờ sau khi nhìn xong sợ hãi quá mà sinh bệnh nặng, hơn một năm sau mới dần hồi phục. Sau đó cậu ngày ngày say rượu, dùng chính chiếc vu năm xưa bị bôi thuốc độc nhằm giết chết Lưu Như Ý để uống rượu.

Lã Trĩ nhìn cảnh đó vừa ngứa mắt vừa chán ngán, nhưng bà nghĩ thân phận của mình không thể đi cướp cái bát vu sơn mài của con trai mình.

Tuy bà đã là người phụ nữ tôn quý nhất của triều Đại Hán, khoác bộ bào phục hoa lệ nhất, cài cây trâm vàng tinh xảo nhất, trang điểm cầu kỳ nhất, nhưng về bản chất, bà vẫn là một bà nông dân ở huyện Bái.

Vậy nên bà rất chú ý đến cử chỉ của mình, có điều đa số thời gian là bà không khống chế nổi bản tính của mình.

Có lẽ nên sai một gã thị vệ tìm cơ hội quẳng chiếc bát vu đó đi.

Lã Trĩ biết con trai bà đang rất bất mãn với bà, nhưng bà không làm khác được nữa. Kinh nghiệm bao năm khiến bà hiểu rằng, đàn bà phải có quyền lực thì mới an toàn được. Ít ra thì quyền lực cũng không như đàn ông, vài năm hay mười mấy năm sau, bỗng một ngày tỉnh dậy, liền vứt bỏ bà như vứt một chiếc giày.

Bà không hối hận vì ra tay tàn độc với mẹ con Thích Cơ, nhưng bà hối hận vì bắt đứa con mềm yếu của mình chứng kiến cảnh tượng lúc đó.

Lã Trĩ hít thở sâu mấy hơi cho bình tĩnh lại, ngồi thẳng người lên, dùng giọng điệu ra lệnh nói chậm rãi: "Hoàng nhi, con sắp làm lễ đội mũ rồi, nên chọn một cô gái để làm hoàng hậu đi".

Lưu Doanh không trả lời, thậm chí trên mặt chẳng có biểu hiện gì, tiếp tục vớỉ lấy hũ rượu bên mình rót vào chiếc vu.

Lã Trĩ cũng không trông mong cậu có phản ứng gì, tiếp tục nói: "Yên Nhi là cô gái tốt, ai gia rất hài lòng, tháng sau hãy chọn ngày làm đám cưới đi".

Lưu Doanh uống hết rượu trong vu, nghe xong lập tức sặc rượu, ho lên vài tiếng, nhìn Lã Trĩ mà không dám tin.

Yên Nhi là ai? Là con gái của chị gái cậu! Là cháu gái của cậu! Năm nay mới mười hai tuổi! Mẫu hậu của cậu điên rồi sao?

Lã Trĩ thì lại rất hài lòng vì thấy con mình đã có vẻ mặt khác, nhưng không có nghĩa là bà cho phép cậu được phản đối quyết định của mình. Cuối cùng bà nhăn nhó nhìn chiếc bát vu tức mắt trong tay Lưu Doanh, rồi đứng dậy về cung.

Lưu Doanh nhìn chiếc vu trống không trong tay mình, từ ngày em trai Lưu Như Ý chết, nước trong vu ngày càng ít đi.

Lòng trong của chiếc vu sơn màu đỏ tươi bóng đẹp, vẫn còn vương vài giọt rượu, chầm chậm chảy dọc xuống đến đáy chiếc vu, rồi một chút nước chầm chậm dâng lên.

Thứ nước này vô cùng đắng chát, phải pha thêm rượu vào mới uống được.

Lưu Doanh cười hơi nhăn nhó, ban nãy mẫu hậu không hỏi ý kiến của cậu, mà chỉ đang thông báo cho cậu thôi.

Uống cạn hết thứ hỗn hợp gồm nước và chút rượu trong vu, Lưu Doanh lau vệt nước trên mép, cười bất lực.

Cậu không dám không cưới, đến giờ trong giấc mơ hàng đêm của cậu, vẫn thấy thảm cảnh của Thích phu nhân. Thủ đoạn của mẫu hậu quả là tàn nhẫn, vì sao người mẹ hiền từ năm xưa, lại biến thành ma quỷ như bây giờ?

"Đệ... đệ... làm sao thế?" Một giọng nói nhẹ nhàng cất lên bên tai, quen thuộc đến mức khiến Lưu Doanh suýt rơi lệ.

"Chị... Chị ơi!" Lưu Doanh gục trên án thư liền bò dậy, nhìn người chị đã lâu không gặp của mình. Lưu Lạc sau khi lấy chồng, ít khi ra ngoài, Lưu Doanh chẳng mấy khi gặp mặt. Nhưng trên gương mặt có phần tiều tụy, cậu vẫn có thể nhìn thấy tình yêu thương dành cho cậu như hồi còn nhỏ. Kéo tay áo của Lưu Lạc, Lưu Doanh cảm thấy mình như bám được vào một cọng rơm cứu mạng, khẩn cầu: "Chị ơi, chị đi nói với mẫu hậu, không thể để Yên Nhi cưới em được".

Đôi mắt Lưu Lạc đẫm lệ, nếu cô có thể chọn lựa, chắc chắn cũng sẽ không để cho con gái mình phải đi vào nơi thâm cung như tù ngục, nhưng cô đâu có cách nào! Vị mẫu hậu đó của họ, có khi nào chịu nghe người khác khuyên can? "Đệ đệ, em nghe chị nói. Em nhất quyết không được từ chối, bên ngoài lời đồn đại đã lan đi khắp nơi, nếu em không lấy Yên Nhi, sau này Yên Nhi cũng đừng nghĩ đến chuyện gả cho người khác. Gả vào trong cung, chí ít còn tốt hơn không gả đi được...".

Nghe những lời kể lể của Lưu Lạc, tất thảy đều bộc lộ sự lo lắng cho con gái mình, Lưu Doanh từ từ thả lỏng tay, buông vạt áo của chị trong tay cậu xuống.

Đúng vậy, chị cậu lấy chồng từ sớm, đã có gia đình của riêng mình, không thể chỉ lo nghĩ cho mình cậu như xưa nữa...

"Đệ đệ, chị chưa bao giờ cầu xin em điều gì, năm đó chị dắt em vào rừng chạy nạn...".

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Làm sạch nhà khi bạn đi vắng, chỉ với 690k xài vĩnh viễn.

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Lưu Doanh nở một nụ cười còn khó coi hơn khóc, khó khăn gật đầu đồng ý: "Trẫm hiểu rồi, trẫm nghe lời chị vậy".

Việc cậu chuyển cách xưng hô từ "em" sang "trẫm", Lưu Lạc chợt nhận ra điều gì đó. Nhưng sau khi cô nghe Lưu Doanh nhận lời, liền thở phào nhẹ nhõm, vui vẻ đi ra ngoài.

Lưu Doanh đau đớn cầm bát vu lên, không hề nhận ra chiếc vu đã không còn ra chút nước nào nữa.

Cậu tiếp tục uống từng ngụm rượu lớn.

Phải, cậu có thể bảo vệ Yên Nhi, tuy cậu không thể thực sự làm chồng của Yên Nhi, nhưng có cái danh hoàng hậu rồi, thì cũng có thể đảm bảo cho cả đời cô ấy bình an.

Nhưng vì sao không ai nghĩ cho cậu...

Trong lúc đau khổ, Lưu Doanh càng uống nhiều, trong cơn mê man, câu nói năm xưa lại văng vẳng trong đầu.

Làm vua thì có gì tốt đâu?

Cha ông ấy đã không coi ông ấy là con, vợ ông ấy đã không coi ông ấy là chồng, con ông ấy đã không coi ông ấy là cha, ông ấy sẽ nghi ngờ tất cả mọi người xung quanh, không tin ai cả, cuối cùng là chết trong cô độc.

Đó là sự trừng phạt...

Lưu Doanh đau khổ nằm co ro, cậu chẳng làm gì cả, vì sao lại phải thừa hưởng sự trừng phạt này?

Trong đại điện trống trải tịch mịch, hoàng đế trẻ tuổi nhà Đại Hán vẫn say rượu nằm ngủ như mọi ngày. Một thị vệ ngó nghiêng vào một hồi lâu, cuối cùng lật đật chạy vào, nhặt chiếc bát vu trống trơn dưới đất lên, cất vào trong người, lặng lẽ bỏ đi.

4

Năm 188, quán trà ở Trường An.

Hai vị công tử trẻ tuổi đang lặng lẽ uống trà, nghe những người khách xung quanh đang nói nhỏ với nhau chuyện Lã hậu chuyên quyền sau khi Hán Huệ đế bất ngờ băng hà.

Vị công tử trẻ tuổi mặc áo trắng khẽ thở dài, cố nói thấp giọng xuống: "Tiên sinh, đa tạ người ra tay cứu giúp".

Công tử trẻ tuổi mặc áo đen nhếch mép cười, chỉ vào chiếc bát vu sơn mài trên bàn nói: "Nếu không nhìn thấy thứ này bị đem bán, ta cũng không nghĩ ra chuyện phải đi gặp cậu". Thì ra gã thị vệ năm xưa phụng mệnh của Lã Trĩ, lấy chiếc bát vu từ chỗ Lưu Doanh, nhưng không đập vỡ nó, mà vì thấy chiếc bát tinh xảo, mới lén lút đem ra khỏi cung để bán, thế nên chiếc bát vu mới lưu lạc trong dân gian.

Công tử áo đen uống một ngụm trà, nheo mắt lại nói: "Cậu đã chịu vứt bỏ ngôi vị chí tôn thiên hạ, ta giúp cậu một lần thì có gì không được?"

Lưu Doanh lặng lẽ thở dài, cậu biết vị công tử trước mặt mình thần thông quảng đại, năm nay cậu đã hai mươi ba tuổi, nhưng gã vẫn trẻ trung như hồi họ gặp nhau hai mươi năm trước. Hai người ngồi với nhau, cậu thậm chí trông còn già dặn hơn gã một chút. Lưu Doanh không nhắc lại chuyện xưa nữa, có thể thoát khỏi cái vực sâu ăn thịt người ấy, cậu chẳng còn mong muốn gì khác. Còn ngôi hoàng đế, cậu cho rằng em trai Lưu Hằng có thể kế thừa, có điều Lưu Hằng liệu có lên ngôi được hay không, thì cậu không có khả năng can thiệp, và cũng không muốn can thiệp nữa.

Lưu Doanh cầm chiếc vu sơn mài trên bàn lên, tò mò hỏi: "Chiếc vu Chấn Ngưỡng này có lai lịch thế nào? Vì sao lúc đầu tôi cầm lên thì có nước, rồi dần dần lại khô cạn hết?"

Công tử áo đen bỏ chén trà xuống, bình thản nói: "Có biết Chu Văn Vương Cơ Xương không?"

Lưu Doanh gật đầu, cậu vẫn mang máng nhớ chuyện năm xưa, chiếc vu Chấn Ngưỡng này có liên quan đến Chu Dịch do Chu Văn Vương viết.

"Có biết Bá Ấp Khảo không?"

Lưu Doanh lại gật đầu. Bá Ấp Khảo là con trai của Văn Vương Cơ Xương, khi Cơ Xương còn là Tây Bá Hầu, truyền thuyết kể rằng Trụ vương ném Bá Ấp Khảo vào vạc dầu, nấu thịt thành canh rồi ban cho Cơ Xương. Dù Cơ Xương biết đây là canh nấu từ thịt của Bá Ấp Khảo, nhưng vì bị Trụ vương uy hiếp, mà vẫn phải uống. Đây là một truyền thuyết vô cùng tàn khốc thê thảm.

"Chu Văn Vương dùng chiếc vu gỗ để uống bát canh thịt đó, đau đớn tột cùng. Để nhắc nhở mối huyết thù to lớn này, ông luôn đem theo chiếc vu gỗ bên người, lại sợ nó mục nát mất, nên sau này quét sơn đen lên...".

Lưu Doanh như cảm thấy tay bị bỏng, lập tức bỏ chiếc vu Chấn Ngưỡng trên tay xuống bàn, không nói lời nào.

"Chính là chiếc vu Chấn Ngưỡng này. Nghe truyền rằng chỉ có chân mệnh thiên tử cầm lên thì trong vu mới xuất hiện nước. Mà nước trong vu này, chính là tình thân trong lòng của cậu...".

Sau đó không cần nói tiếp, Lưu Doanh cũng đoán ra.

Nước mát trong chiếc vu bị đổ ra nhiều lần, nước đổ ra không thể lấy lại... nên mới khiến cậu ra đi đầu không ngoảnh lại.

Tình thân cũng giống như làn nước trong, trông như có như không, không được người ta trân trọng, ngày thường lúc uống vào cũng không có cảm nhận gì, khiến con người ta không thèm chú ý đến. Nhưng nếu lâu ngày không uống, lại ngọt mát như nước cam lộ. Nhưng một khi đã uống cạn thì...

Rất lâu sau, Lưu Doanh mới thu lại ánh mắt, mở miệng hỏi: "Tiên sinh, ta đời này đã không còn ước nguyện nào khác, chỉ mong có thể theo hầu bên cạnh tiên sinh".

Ánh mắt công tử áo đen trở nên hiền hòa, không còn đằng đằng sát khí như khi còn giữ chức tướng quân năm đó, gật đầu đáp: "Cũng được, cậu theo ta, đi tìm một người, có lẽ phải tìm rất lâu đấy..."

"Đồng ý".

5

Năm 2012.

"Nói như vậy, thực ra Hán Huệ đế đó vẫn chưa chết phải không!" Sau khi nghe hết câu chuyện, bác sĩ vẫy vẫy đôi tai dài. Đã lâu lắm rồi anh chưa được ăn gì, nên nhờ gã chủ tiệm mua cho anh một gói sô cô la, giờ đang cố gắng đổ những viên kẹo sô cô la ra bàn. Không ăn được, thì ngắm vậy!

"Không, hắn chết rồi". Gã chủ tiệm bình tĩnh lau chiếc bát vu trong tay, hơi cúi đầu xuống nhìn. Đồ sơn mài thời đó đa phần chỉ có hai màu đen và đỏ, cũng vì ngày xưa đây là hai màu sắc tôn quý nhất. Màu đỏ tươi sáng mà không thô tục, màu đen thâm trầm mà không ảm đạm, hai màu phối hợp với nhau, càng thêm phần rực rỡ. Mặc dù chiếc bát vu sơn mài này ngoài vân mây bên ngoài bát ra thì không còn bất cứ hoa văn nào khác, nhưng vẫn trầm mặc cổ kính, đúng là thứ hiếm có khó tìm.

Bác sĩ nghe vậy bỗng sững người, những viên kẹo sô cô la trong tay rơi xuống lộp độp, vung vãi khắp quầy, còn cổ mấy viên rơi xuống đất, lăn lông lốc mấy vòng.

Gã chủ tiệm đặt chiếc vu Chấn Ngưỡng xuống, khom lưng nhặt từng viên kẹo sô cô la lên, gom lại đống kẹo trên mặt quầy thành một đống cạnh người bác sĩ.

"Xin lỗi". Bác sĩ lí nhí xin lỗi. Anh không cách nào tưởng tượng nổi gã chủ tiệm trong thời gian nghìn năm qua, đã lần lượt tiễn đưa từng người bạn của mình như thế nào. Nhìn họ già đi theo thời gian, nhìn họ từ những thiếu niên biến thành xương trắng... bác sĩ chợt có chút thương cảm, có lẽ đến ngày nào đó, anh và chủ tiệm cũng có kết cục như vậy.

"Vì sao phải xin lỗi? Là người ai chẳng phải chết". Chủ tiệm không để bụng, nhoẻn miệng cười, cầm một viên kẹo sô cô la lên, lấy khăn tay ra lau, rồi tiện tay bỏ vào mồm.

"Tôi xin lỗi vì làm rơi kẹo sô cô la thôi!" Bác sĩ liền lập tức cãi cùn.

Chủ tiệm mỉm cười: "Sô cô la ngon lắm đấy!"

"... Đáng ghét thật!"

Quyển 3 - Chương 9: Quạt Ngũ Minh

1

Năm 1371, ngoài chùa Hoàng Giác.

Chu Nguyên Chương giận dữ nhìn khoảnh rừng tối om, những ngự tiền thị vệ bên cạnh bị ông ta quát tháo một trận, bao nhiêu người thế này mà không canh nổi một tên hòa thượng.

"Mau tìm đi! Hắn chưa chạy xa đâu!" Chu Nguyên Chương tức tối, tên hòa thượng đó đã bị thương, mà trong đêm tối tăm, nếu có đuốc sáng là nhìn thấy ngay.

Đám thị vệ vội vàng dập hết đuốc, chú tâm vào trong cánh rừng tối tám để xem có chút ánh sáng nào không.

Chu Nguyên Chương nhìn về phía khu rừng yên tĩnh, nghe tiếng xào xạc của gió thổi qua cành lá, chầm chậm nhíu mày.

Ông ta mãi mãi không quên cảnh tượng mình nhìn lén được trong điện Già Lam thời còn trẻ.

Một làn khói nến lơ thơ bay lên từ cây nến thơm, tụ lại trên không trung thành hình dáng một người con gái dung nhan tuyệt mỹ, vì nghe lén được lời nói của nàng, mà ông ta mới có vinh quang ngày hôm nay, trở thành chủ tể của cả thiên hạ.

Ông ta đã trở thành người cao quý nhất trong thiên hạ, vì sao người con gái đó vẫn không chịu xuất hiện để gặp ông ta?

Tất cả đều là vì tên hòa thượng đó!

Chu Nguyên Chương hoàn toàn không biết, tên tiểu hòa thượng mà ông ta nói, tuy nhỏ tuổi hơn ông ta rất nhiều, nhưng xét về thứ bậc, thì là sư huynh của ông ta.

Hoặc là ông ta vẫn biết, nhưng không thèm để ý.

Bởi vì hiện giờ ông ta đã là hoàng đế, là thiên hạ chí tôn không còn là hòa thượng nữa. Ngay cả sư phụ ông ta ngày xưa, cũng tuyệt nhiên không dám nói chuyện thứ bậc với ông ta.

Trong lúc đang kích động, Chu Nguyên Chương bỗng nhác thấy một làn khói nến bay qua ở cách đó không xa, vội vàng định chỉ huy thị vệ đuổi theo. Nhưng khi ông ta vừa cất lời, thì phát hiện ra thị vệ quanh mình hình như đều muốn lấy công chuộc tội nên đã chạy hết cả vào rừng để lục lọi, không còn ai ở lại nữa.

Chu Nguyên Chương đang định nổi cơn thịnh nộ thì lại kìm nén cơn giận, chuyện của Chúc, càng ít người biết càng tốt. Còn tên tiểu hòa thượng đã thương tích đầy mình kia, chẳng lẽ một người đã trải trăm trận chiến như ông ta lại không đối phó nổi?

Nghĩ đến đó, Chu Nguyên Chương bèn nắm chặt thanh đao lá liễu trên tay, chạy đuổi về phía có ánh nến.

Trong khu rừng đường núi gập ghềnh, ánh nến lúc ẩn lúc hiện đằng sau tán cây rậm rạp, giống như một đám yêu tinh đang nhảy nhót. Chu Nguyên Chương càng đuổi theo càng thấy sợ, ánh nến vẫn giữ khoảng cách nhất định với ông ta, tốc độ của ông ta không hề chậm, chẳng lẽ một tên hòa thượng đang trọng thương sắp chết lại chạy nhanh được như thế?

Khi Chu Nguyên Chương bắt đầu nghĩ đó là lửa ma trơi, định dừng lại gọi đám thị vệ đến, thì ánh nến đó bất ngờ dừng lại.

Ánh nến vàng ấm áp lặng lẽ tỏa sáng trong khu rừng tám tối, nghĩ đến người con gái tuyệt sắc trong ký ức, trái tim Chu Nguyên Chương đập mạnh, ông ta như bị trúng tà, gạt cành lá ra, chầm chậm đi tới.

Nhưng đến càng gần, Chu Nguyên Chương càng kinh sợ, bởi vì lúc này ông ta đã nhìn rõ, bên cạnh cây nến thơm, là một con rồng đỏ đang bay lơ lửng trên không.

Trong đêm tối, cây nến thơm bị con rồng đỏ ngậm trong miệng, thân rồng không ngừng lay động.

Trong khoảnh khắc, Chu Nguyên Chương nghĩ tới vô số truyền thuyết thần thoại, chẳng lẽ ông ta đúng là chân long thiên tử?

Kìm nén sự hoảng sợ cũng như phấn khích trong lòng, Chu Nguyên Chương tiến thêm vài bước, mới nhìn rõ con rồng đỏ đó không phải là rồng thật, mà được thêu trên ống tay áo màu đen. Nền đen chỉ đỏ, bởi vì kỹ thuật thêu rất cao siêu, nên thoạt nhìn trông như thật vậy.

Con rồng đỏ sống động như thật, thân rồng cuốn quanh cánh tay phải của gã kia, đuôi rồng được thêu chạm đúng lên vai phải, còn đầu rồng thì thêu ở cửa tay áo phải, trông như thể nó có thể cưỡi mây bay đi bất cứ lúc nào. Khi gió đêm không ngừng thổi ống tay áo gã kia, nhìn từ xa thì thấy thân rồng không ngừng lay động.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Cách chữa hôi miệng nhanh nhất không phải ai cũng biết!

Lập tức Chu Nguyên Chương vừa thất vọng vừa thở phào, tâm trạng phức tạp bỗng chốc biến thành cơn thịnh nộ, quát tháo với gã kia không hề khách khí: "Ngươi là kẻ nào? Sao dám tự tiện mặc long bào? Ngươi có biết đó là tội phải chém đầu không?" Chu Nguyên Chương rất tức giận, so với con rồng đỏ trên áo bào đen của gã kia, thì rồng trên long bào của ông chẳng qua trông như chó lợn, không thể so được với gã.

Đứng trước cơn giận ngút trời của thiên tử, gã kia đứng trong bóng tối chỉ khẽ cười một tiếng, hỏi lại: "Vậy ông là ai? Ai cho ông quyền lực, để được mặc long bào?"

Câu nói đó như một tiếng sét, đánh thẳng vào đầu Chu Nguyên Chương, khiến ông ta sững sờ.

Từ ngày làm hoàng đế đến nay, trong nơi sâu thẳm nhất của trái tim ông ta, chính là cảm giác tự ti không thể nào dập tắt nổi.

Ông ta từng làm ăn mày, rồi lại đi làm thầy tu, nhưng giờ đây ông ta đã trở thành hoàng đế của triều Đại Minh.

Đám quần thần trước mặt ông vẫn vâng vâng dạ dạ, ai biết trong lòng họ có đang ra sức cười nhạo ông hay không? Hoặc có đang bày mưu tính kế để thay vua khác hay không?

Vì thế ông ta mới cần cây nến thơm đó, cần mượn sức mạnh phi phàm, mới yên tâm được.

Chu Nguyên Chương hít một hơi sâu, rồi mới nhận ra, cái gã vốn không nên xuất hiện ở đây, cả gương mặt gã chìm trong bóng tối. Theo lý mà nói, nến đang trên tay gã, nhưng lại hoàn toàn không chiếu sáng được mặt gã, điều đó là hết sức vô lý. Nhìn cây nến dù trong gió đêm thổi mạnh vẫn cứ điềm nhiên cháy sáng, Chu Nguyên Chương đoán, có lẽ gã này mới là chủ nhân thực sự của cây nến thơm, chứ không phải tên tiểu hòa thượng ngốc nghếch kia.

Chính vì như vậy, gã mới thản nhiên mặc bộ áo có rồng đỏ kia.

Nhớ lại trước đây rất nhiều lần ông ta thử cầm cây nến trong tay, nhưng tự dưng đều bị nến đốt vào tay, Chu Nguyên Chương bỏ tay ra khỏi cán cây đao lá liễu đeo bên hông, chắp tay thành khẩn: "Trùng Bát không biết, mạo phạm đến tiên sinh. Nhưng cây nến thơm này Trùng Bát mong mỏi từ lâu, mong tiên sinh rộng lòng ban cho".

(Tên gọi dưới quê của Chu Nguyên Chương là Trùng Bát, sau mới đổi là Nguyên Chương)

Ánh nến nhảy nhót lên, nhưng chắc chắn không phải vì gió thổi.

"Cây nến này không có duyên với ông, chớ nên cưỡng cầu". Người khuất trong bóng tối kia chậm rãi nói. Chu Nguyên Chương lúc này mới phát hiện ra, giọng nói của người đó rất trẻ, chắc còn chưa qua tuổi đội mũ.

Chu Nguyên Chương tuyệt đối sẽ không bỏ qua cơ hội tốt thế này, ông ta không dám tự xưng là trẫm, từ kẽ răng rít ra từng chữ: "Tiên sinh nếu cần đem cây nến này đi, Trùng Bát đương nhiên sẽ không thể giữ lại, nhưng còn tiểu hòa thượng kia...". Ông ta cố tình kéo dài giọng, thấy hài lòng khi cây nến đang cháy bỗng nhiên run rẩy.

"Vậy ông muốn thế nào?" Trong lời nói của gã đó hơi có chút vô vọng.

"Đều do tiên sinh định đoạt". Chu Nguyên Chương trả lời rất thoải mái. Nhưng ý tứ trong lời nói thì quả là hơi vô lại, ý rằng chúng ta đều là người hiểu lý lẽ, mọi việc cũng phải công bằng mà! Đem cây nến đi cũng được, nhưng phải đem thứ gì đó tương đương ra đổi chứ!

Lời nói của Chu Nguyên Chương thì mạnh dạn chắc chắn, nhưng thực ra tim đang đập thình thịch. Trong bóng tối không nhìn thấy sắc mặt gã kia, càng khiến ông ta phải suy diễn, ánh nến run rẩy giống như sự bồn chồn bất an trong lòng ông ta. May mà thời gian giày vò ông ta không dài, một lát sau, gã kia bèn thở dài một tiếng, lấy từ trong người ra một vật nhỏ dài đưa ông ta.

Nhờ ánh nến, Chu Nguyên Chương nhìn thấy đó là một chiếc quạt giấy, nhưng nan quạt có màu trắng ngà rất khác thường. Ông ta tự nhiên đón lấy chiếc quạt, đặt vào tay cảm thấy nặng hơn tưởng tượng rất nhiều, nan quạt mịn màng mát lạnh, ai cầm vào cũng thích không nỡ rời tay.

"Đây là...".

"Ban đầu, quạt không phải là thứ để quạt gió cho mát, mà là thứ đồ tượng trưng cho quyền lực, làm bằng cây lau, là quạt nghi trượng để người bề trên thể hiện địa vị và đặc quyền của chính mình". Gã kia từ tốn kể, giọng nói trong trẻo trong gió đêm nghe thật mơ hồ, "Quạt Ngũ Minh, do vua Thuấn làm ra. Đã nhận ngôi truyền lại của Nghiêu, cần nghe nhiều nhìn rộng, cầu người hiền để phò tá mình, nên làm ra quạt Ngũ Minh".

"Này, tiên sinh, tuy Trùng Bát học thức không nhiều, nhưng cũng biết quạt Ngũ Minh phải là một chiếc quạt tròn rất lớn. Còn đây chỉ là một chiếc quạt giấy gấp!" Chu Nguyên Chương kìm nén sự bất mãn trong lòng, chậm rãi mở chiếc quạt trong tay ra. Nan quạt nặng nề, mặt quạt làm bằng lụa dát vàng, vô cùng cao sang. Khi quạt đã mở ra, một chữ "Minh" vuông vức xuất hiện trước mặt Chu Nguyên Chương.

Cả chiếc quạt to như vậy mà chỉ có một chữ Minh, đằng sau không có gì. Nhưng Chu Nguyên Chương vô cùng thích thú, bởi vì vương triều ông ta dựng lên lấy quốc hiệu là Minh.

"Ngũ Minh, nghĩa là năm phương đều sáng. Chiếc quạt Ngũ Minh này tất nhiên không phải chiếc quạt nguyên bản, chỉ là nan quạt được chế từ những nan quạt còn lại của quạt Ngũ Minh thôi. Người cầm chiếc quạt Ngũ Minh này có thể làm rõ lời người khác nói là thật hay giả, ta nghĩ, chiếc quạt Ngũ Minh này còn hợp ý ông hơn là cây nến Nhân Ngư". Gã đó điềm tĩnh nói.

"Thần kỳ vậy sao?" Tim Chu Nguyên Chương đập mạnh. Vẫn nói lòng người khó đoán, nay điều ông cần nhất, chính là cần biết liệu những người xung quanh mình có nói sao làm vậy hay không. Mắt vừa nhìn lên, Chu Nguyên Chương lập tức liền hỏi gã kia: "Cái này là thật hay giả? Tôi phải thử mới được. Tiên sinh, xin hỏi tiên sinh là ai?"

Trong bóng tối, gã kia cười bất lực: "Tại hạ chỉ là một nhà buôn đồ cổ".

Chu Nguyên Chương ngớ người ra một lúc, câu trả lời này không nằm trong phạm vi tưởng tượng của ông ta. Hơn nữa quạt Ngũ Minh trong tay không thấy gì lạ, chẳng có bất kỳ thay đổi nào. Hơi nhíu mày lại, Chu Nguyên Chương tiếp tục hỏi: "Vậy tiên sinh tới đây làm gì?"

Người đó khẽ thở dài: "Chỉ để lấy nến Nhân Ngư thôi..."

Chu Nguyên Chương vẫn chăm chú nhìn quạt Ngũ Minh, lần này thì ngạc nhiên vì nhận ra chữ Minh trên mặt quạt đang chầm chậm ẩn khỏi lớp lụa dát vàng!

Vậy tức là nếu nói thật thì quạt không có phản ứng gì, còn nếu nói dối thì chữ Minh sẽ biến mất ư?

Vậy thì ban nãy gã nói thật, còn bây giờ thì là nói dối?

Chu Nguyên Chương vội ngẩng đầu, thì thấy gã đã đi từ lâu, nhìn ra phía xa, ánh nến như bị con rồng đỏ cắp lấy, từ từ đi vào trong bóng tối.

"Bệ hạ! Bệ hạ! Đã bắt được tiểu hòa thượng đó rồi!" Đám ngự tiền thị vệ mướt mát mồ hôi chạy tới bẩm báo, trong lúc chúng không để ý thì đã để lạc mất cả hoàng đế, khiến chúng sợ tới hồn bay phách tán. May mà bệ hạ còn chưa đi xa.

Chu Nguyên Chương lại nhìn lại, thì đã thấy ánh nến ấy hoàn toàn lẩn vào trong khu rừng tăm tối, không còn thấy đâu nữa.

Sung sướng lúc lắc chiếc quạt trong tay, Chu Nguyên Chương rất vui vẻ xua tay: "Thôi, thả hắn về chùa Hoàng Giác, đối đãi cho tử tế!"

2

Năm 1390, hoàng cung ở phủ ứng Thiên.

Chu Doãn Văn chậm rãi bước ra khỏi đại bản đường, đi qua cửa trung tả, xuyên qua điện Hoa Cái. Đại điện này giống như một cái lương đình, tứ phía đều có mái chìa ra, mái tròn dát vàng, cậu đợi trong đó một lúc, cuối cùng là nhìn thấy cánh cửa lớn của điện Phụng Thiên mở ra, các vương công đại thần vừa bãi triều đổ ra bên ngoài.

Nhìn bọn họ kẻ thì hoảng sợ, kẻ thì khép nép, kẻ thì lo lắng, Chu Doãn Văn cảm thán trong lòng.

Hoàng tổ phụ gần đây đã xử lý Lý Thiện Trường với tội danh mưu phản. Dù Chu Doãn Văn mới mười bốn tuổi, nhưng cũng biết ông già bảy mươi bảy tuổi ấy sau khi giao lại vị trí thừa tướng về ở ẩn, chỉ ở nhà an tâm dưỡng già, tuyệt đối không có ý đồ mưu phản gì cả. Nhưng cách đây không lâu, Lý Thiện Trường bị người hầu tố giác mà bị giết, liên lụy đến mấy vị hầu tước quyền cao chức trọng, qua điều tra của cẩm y vệ, vụ này bới ra ngày một dài thêm, đến nay có tới hơn ba vạn quan viên dính dáng đến chuyện này rồi.

Nghe nói đao của đao phủ đã quăn cả lưỡi, máu tươi chảy trên pháp trường đã thấm xuống nền gạch, không thể gột sạch được, thậm chí trời mưa tuyết lớn cũng không che nổi thảm trạng này, tuyết rơi xuống đất đều bị nhuộm thành màu đỏ thẫm.

Khắp trên dưới triều đình của đế quốc Đại Minh đều im như ngậm tăm, đây không phải là lần đầu tiên, vụ án Hồ Duy Dung mười năm trước đã khiến hơn vạn rưỡi người bị giết. Còn giờ đây vụ Lý Thiện Trường còn liên quan đến nhiều người hơn, chẳng ai rõ cơn lôi đình của thiên tử sẽ còn kéo dài bao lâu, nghe nói các đại thần mỗi ngày lên triều đều dặn dò người nhà trước, có thể bước ra khỏi cửa là sẽ không về được nữa.

Chu Doãn Văn từ nhỏ đã được cha là Chu Tiêu dạy dỗ cẩn thận, mọi lời nói cử chỉ đều học theo cha, cậu tin rằng nhân đức mới là cách cai trị thiên hạ, việc làm này của hoàng tổ phụ, trong lòng cậu thực sự không thể đồng tình nổi.

Tất nhiên cha cậu cũng không thể đồng tình, cậu có nghe nói hôm qua vì vụ Lý Thiện Trường này mà cha cậu cãi lại hoàng tổ phụ trong ngự thư phòng. Cậu vốn không muốn dây dưa gì với chuyện lần này, nhưng hôm nay trên đại bản đường lại thiếu đi vài học trò, trong đó có bạn thân Trình Thông của cậu, khiến cậu không thể ngồi yên được nữa.

Đợi khi các đại thần bãi triều đã ai về nhà nấy, Chu Doãn Văn đã xác định được hôm nay trong buổi chầu sớm không có đại thần nào bị chém đầu, liền đoán chắc tâm trạng của hoàng tổ phụ hôm nay khá tốt. Yên tâm rồi, cậu quay đầu đi về phía ngự thư phòng. Các thái giám cung nữ dọc đường gặp đều nghiêng mình hành lễ với cậu, đến các thị vệ cũng không có ai dám ngăn cản cậu. Những người đi lại trong cung như bọn họ có vẻ càng hiểu rõ những biến động ở triều đình, đến cả những cao quan quý tộc đều không có gì đảm bảo, nữa là những người thấp kém bọn họ.

Chu Doãn Văn thuận lợi đi thẳng một mạch đến ngự thư phòng, canh ngoài cổng là thái giám Nhi Nhiếp mà hoàng tổ phụ tin tưởng nhất, Chu Doãn Văn nhỏ nhẹ chào hỏi, vị thái giám rất thích thái độ của cậu, nhẹ nhàng đưa cậu đi trước vào trong phòng đợi, rồi mới rảo bước chạy đi thông báo. Chu Doãn Văn đứng ngoài chiếc bình phong vải gấm đỏ gắn ngọc, lờ mờ nghe thấy tiếng hoàng tổ phụ trong thư phòng, không lâu sau Nhi Nhiếp liền chạy ra, gật đầu với cậu.

Chu Doãn Ván quan sát, cảm thấy Nhi Nhiếp rất bình thản, liền biết hôm nay tâm trạng của hoàng tổ phụ thực sự đang vui, lúc này mới thật yên tâm để đi vào thỉnh an hoàng tổ phụ.

Năm nay Chu Nguyên Chương đã sáu mươi ba tuổi, sắp đến tuổi "tri thiên mệnh" rồi, nhưng nhìn vẻ ngoài vẫn rất sáng suốt, mọi việc đều tự mình làm. Chu Doãn Văn thinh an xong ngẩng đầu nhìn, thì thấy cha mình quả nhiên cũng đang ở trong ngự thư phòng, còn hoàng tổ phụ ngồi sau án thư thì trong tay vẫn cầm chiếc quạt, mặc kệ hiện giờ đang là mùa đông lạnh giá, cũng không rời khỏi tay.

"Doãn Văn, cháu đến đúng lúc lắm". Chu Nguyên Chương chậm rãi phe phẩy chiếc quạt trong tay, gió quạt khiến chòm râu ông ta khẽ đung đưa, đôi mắt hơi lim dim, nhìn thật bình thản và hiền hòa. Nhưng những ai quen thuộc với ông ta đều biết, vị chủ nhân của đế quốc Đại Minh không hề vô hại như vẻ bề ngoài. Ông ta chậm rãi nói: "Năm nay cháu đã mười bốn tuổi, học ở đại bản đường lâu rồi, cũng nên biết chút ít những chuyện trên triều, cháu thấy vụ Lý Thiện Trường thế nào?"

Đây là câu hỏi cực khó trả lời, nhưng Chu Doãn Văn đã chủ động tới đây, thì đã chuẩn bị sẵn cho việc hoàng tổ phụ nhắc tới chuyện này. Nhìn thấy ánh mắt lo lắng của cha, Chu Doãn Văn vẫn bình tĩnh trả lời: "Việc làm của hoàng tổ phụ chắc là có lý của mình, chỉ có điều liên lụy đến quá nhiều người, sợ rằng trái đạo thiên hòa".

Bàn tay đang phe phẩy quạt của Chu Nguyên Chương hơi dừng lại, đôi mắt lim dim mở to dần, không biết là vui hay giận.

Lúc này Chu Doãn Văn đã nhìn thấy một thứ không nên xuất hiện đang ở trên ngự án.

Đây là cung điện xa hoa nhất của đế quốc Đại Minh, phía bên trên là đấu củng tinh xảo cùng thiên hoa tảo tỉnh nạm vàng, trên cột tròn và lớp mái đôi đều có rồng vàng quấn quanh, dưới chân là thảm lông dài của Ba Tư, trên bàn bày đầy những thứ đồ đạc giá trị ngất ngưởng như nghiên mực đất nung của Giáng Châu, bút Bành Thị của Hồ Châu, còn có ống bút sứ thanh hoa Hồng Vũ được nung từ thời Hồng Vũ..., nhưng ở nơi như thế này, mà lại có một nhánh cây gai đặt trên ngự án, hoàn toàn không hề ăn nhập với nhau chút nào.

(Đấu củng: kết cấu kèo đỡ mái của kiến trúc cổ. Thiên hoa: chỉ trần nhà. Tảo tỉnh: một dạng thức trang trí trần nhà, làm trần hõm ngược lên trên như cái giếng ngược, trang trí bên trong)

QUẢNG CÁOMgid

Một người có thể kiếm về 65 triệu đồng bằng cách sử dụng ứng dụng

Olymp Trade

Đừng chỉ sống dựa vào tiền lương. Học cách giao dịch

Olymp Trade

Tại sao vật này lại xuất hiện ở đây? Chắc chắn là hoàng tổ phụ sai người lấy về. Nhưng hoàng tổ phụ tại sao lại cho người đi tìm thứ này? Chắc hẳn là để muốn nói điều gì.

Chu Doãn Ván vốn là người rất thông minh, tất nhiên sẽ không cho rằng hoàng tổ phụ muốn bắt kẻ nào đó phải cõng gai thỉnh tội, nghĩ ngợi một lúc cũng ra đáp án.

Chu Nguyên Chương vẫn để ý nét mặt của Chu Doãn Văn, thấy vậy bèn hỏi: "Có nhìn ra thâm ý của thứ này không?"

Thái tử Chu Tiêu đứng bên cạnh cảm thấy căng thẳng, ông và phụ hoàng vừa mới bãi triều, còn chưa nói đến chuyện này. Tất nhiên là ông hiểu ý của phụ hoàng, nhưng con trai ông thì vẫn còn trẻ tuổi, ông sợ cậu trả lời sai.

Chu Doãn Văn cất tiếng trả lời rất nho nhã: "Nhánh cây gai mà tổ phụ hoàng chọn này, chắc là đại diện cho đế quốc Đại Minh. Hiện nay đất nước mới dựng, gốc rễ chưa vững, gai góc mọc khắp nơi. Ý của tổ phụ hoàng là, nên nhổ bỏ hết gai trên thân cây gai này, để phụ thân con dễ dàng cầm trên tay mà không bị thương". Tiếng nói còn chưa vỡ giọng của cậu thiếu niên nghe vẫn rất trẻ con, nhưng cũng khiến người nghe cảm thấy rất dễ chịu.

Thái tử Chu Tiêu đến giờ mới cất được quả tim trở lại lồng ngực, đứng dậy cung kính nói: "Phụ hoàng suy nghĩ thấu đáo, nhi thần thật cảm kích".

Chu Nguyên Chương không hề chú ý đến thái độ của Chu Tiêu, mà gấp quạt lại, chỉ chỉ vào Chu Doãn Văn đang đứng cách xa: "Doãn Văn, có phải cháu vẫn còn điều muốn nói?"

Doãn Văn cúi xuống, nắm chặt bàn tay, hòng dùng sự đau để đem lại sức mạnh cho mình. Cậu nghe thấy giọng nối run run của mình vang lên trong đại điện: "Hoàng tổ phụ, nhưng làm sao người biết cái người chặt đi là gai góc mà không phải là những nhánh cây, hoặc thậm chí cả cành cây lớn mà sau này có thể mọc lên?"

Thái tử Chu Tiêu quá đỗi kinh ngạc, sau đó thì tâm trạng trở nên lẫn lộn, ông vừa lo lắng lại vừa tự hào.

Dù sao những lời lẽ này, cũng chỉ có thể được nói ra từ một thiếu niên còn chưa biết sợ quyền uy.

Chu Nguyên Chương không hề nổi giận, ngược lại còn rất hài lòng nhìn đứa cháu đứng giữa điện đường, không trả lời câu hỏi của cậu, mà lại hỏi lại một câu khác: "Hôm nay cháu đến đây, là vì phụ thân của cháu? Hay là vì những quan viên kia? Hay vì mục đích gì khác?"

Cơ thể Chu Doãn Văn hơi cứng đờ lại, tất nhiên cậu có thể nói là lo sợ cha mình chọc giận hoàng tổ phụ, cũng có thể nói là không nhẫn tâm nhìn thấy hoàng tổ phụ giết nhiều người mà trái đạo thiên hòa, thậm chí còn có thể dùng đủ mọi đạo lý trong "Tứ thư", "Ngũ kinh" ra để phản đối ông ta. Nhưng cậu bỗng nhiên nhớ đến một câu mà cha cậu từng nói với cậu.

Đừng bao giờ nói dối trước mặt hoàng tổ phụ.

Vì thế, Chu Doãn Văn cúi đầu, thành thực thừa nhận: "Trình Thông, bạn đồng song của cháu hôm nay không đến đại bản đường để đi học...".

Chu Nguyên Chương chầm chậm mở quạt ra, có vẻ rất hài lòng với câu trả lời của cháu mình, hơi nhếch mép lên, gật đầu nói: "Trẫm biết rồi, ngày mai sẽ cho cậu ta quay lại lớp học". Nói đến đây, ông ta dừng lại một chút, rồi mới trịnh trọng nói tiếp: "Còn việc cháu hỏi làm thế nào phân biệt được gai góc và cành cây, rồi sẽ có ngày trẫm cho cháu biết".

Chu Doãn Văn nghe xong giật mình, lập tức hiểu rằng lời nói của hoàng tổ phụ vẫn còn có ý khác, ngơ ngác ngẩng đầu lên nhìn cha mình, hai cha con đều nhìn thấy ánh sáng giống nhau trong mắt nhau.

3

Năm 1398, ngự thư phòng.

Chu Doãn Văn ngồi sau ngự án, tâm trạng rối bời, anh biết sẽ có ngày mình ngồi ở vị trí này, nhưng không ngờ ngày ấy lại đến nhanh như vậy.

Chu Tiêu cha anh khao khát chiếc ghế này đã hai mươi lăm năm, nhưng sáu năm trước đã bị bệnh mà qua đời. Tổ phụ hoàng gạt hết mọi lời dị nghị, lập anh làm hoàng thái tôn. Sau khi ông băng hà cách đây không lâu, ngôi vua của đế quốc Đại Minh đã rơi lên đầu anh.

Chu Doãn Văn năm nay mới hai mươi mốt tuổi, cảm thấy đôi vai mình rất nặng nề, anh còn trẻ như vậy, làm sao có thể gánh vác cả một đế quốc như hoàng tổ phụ được?

Chu Doãn Văn nhìn chiếc quạt gấp đang nằm lặng lẽ trên ngự án, trước khi qua đời, hoàng tổ phụ đã đem hết lai lịch và sự thần bí của chiếc quạt này nói cho anh. Điều này cũng khiến anh hiểu vì sao hoàng tổ phụ chắc chắn những người ông ta giết lại là gai chứ không phải cành cây.

Chỉ có điều, anh không muốn dùng chiếc quạt Ngũ Minh này đến thế.

Từ nhỏ anh đã lớn lên trong cung, nhìn thấy quá nhiều sự lừa lọc đấu đá. Những người ở đây nói dối đã thành bản năng bởi vì có nhiều lúc, không nói dối thì không thể sống được. Hơn nữa, có những khi cho dù có nói thật, thì cũng bị người khác cho là nói dối.

Biết được người khác nói thật hay nói dối, biết được chân tướng của mọi việc, liệu đó là hạnh phúc hay là sự bất hạnh?

Chu Doãn Văn nhớ đến hoàng tổ phụ, cảm thấy cả đời ông sống không hề vui vẻ.

"Minh Triết, cậu có muốn biết những lời người khác nói là nói dối hay nói thật hay không?" Chu Doãn Văn ngẩng đầu, nhìn sang Trình Thông đang giúp anh phê duyệt tấu chương. Minh Triết là tên tự của anh ta, lấy ý trong sách "Trung Luận", "minh triết chi sĩ viết thông" (kẻ minh triết thì gọi là "thông").

Trình Thông tuổi tác cũng bằng Chu Doãn Văn, cha anh ta vốn là tham tri chính sự ở bộ Lại, có can hệ tới vụ án Lý Thiện Trường, nếu không nhờ lần đó Chu Doãn Văn lấy hết dũng khí đi xin cho, thì anh ta và người nhà e rằng đã sớm trở thành oan hồn. Hơn nữa sau khi Chu Doãn Văn lên ngôi, còn phong cho anh ta làm nội các thị độc, tuy chức quan không cao, nhưng có thể trực tiếp hầu hạ ở ngự thư phòng. Vinh dự đó không làm cho Trình Thông trở nên kém lễ độ, ngược lại anh ta càng thêm phần cẩn trọng. Anh ta trầm ngâm một lát, rồi bỏ bản tấu trong tay xuống, cung kính nói: "Bệ hạ, tạm chưa nói đến chuyện nước trong quá thì không có cá, thì làm sao để phán đoán được lời nói dối đây? Nếu vi thần biết vùng Hà Bắc đại hạn, mà báo lên là mọi chuyện đều tốt, đó là nói dối. Nhưng nếu vi thần không biết Hà Bắc đại hạn, nhưng quan lại dưới quyền cứ báo lên là mọi chuyện đều tốt, vi thần đem tấu chương đó trình lên cho bệ hạ, vậy tính là nói thật hay nói dối?"

Tuy Trình Thông nói hơi vòng vo, nhưng Chu Doãn Văn nghe xong cũng lặng người, bỗng như sực tỉnh.

Thảo nào hoàng tổ phụ giết nhiều người đến thế, thực tế cũng không thể có nhiều người dám khi quân đến vậy. Ngoài việc hoàng tổ phụ giết các công thần khai quốc khác họ để giết gà dọa khỉ ra, những người khác phần lớn đều chết oan, hơn nữa việc dối trên lừa dưới vốn là quy tắc ngầm trên quan trường rồi.

Chỉ có điều vì hoàng tổ phụ có thời gian khốn khó thời trẻ, căm hận đám tham quan ô lại đến tận xương tủy, luôn luôn có cảm giác không thể tin tưởng đám quan lại, điều này thì cho dù có làm hoàng đế rồi cũng không thể thay đổi được. Trong triều đình đế quốc Đại Minh, quan viên chính thất phẩm mà bổng lộc một tháng cũng chỉ được có bảy thạch năm đấu. Chu Doãn Văn cũng từng tò mò đi hỏi, thì một thạch gạo lộc cũng chỉ tương đương với năm tiền, thế tức là hai thạch gạo lộc mới bằng một lạng bạc, ít ỏi quá mức. Quan lại còn phải nuôi cả một gia đình, gồm cả người hầu người giúp việc, làm quan đã đến bước đường này, không làm liều thì không thể sống nổi.

Cho dù việc nghiêm trị tham quan của hoàng tổ phụ là chưa từng có xưa nay, trước các hình phạt tàn khốc như lột da nhồi cỏ, mà đám tham quan vẫn cứ như cỏ dại đốt hết lại mọc lên. Vì sao lại như vậy?

Chu Doãn Văn đang nghĩ ngợi mông lung, nhưng Trình Thông thì không đồng ý với chuyện mất tập trung trong khi làm việc của anh, mới chỉnh lại y phục, rồi cung kính tiến ngôn: "Bệ hạ, về chuyện của Yên vương điện hạ, cũng nên quyết định rồi".

Nở một nụ cười khó khăn, Chu Doãn Văn nghĩ bụng, khi hoàng tổ phụ vung đao chém giết các công thần khác họ, thì lại thoải mái phong đất cho các vương gia. Thời còn sống hoàng tổ phụ phong tới hai mươi lăm phiên vương, trong đó hai mươi tư người đều là chú của anh. Chính bởi vì công thần võ tướng đều bị giết hết, nên quân quyền rơi vào tay các phiên vương, gần như mỗi phiên vương đều có quân đội riêng của mình, quyền cao chức trọng, trở thành tông chủ của một tiểu đế quốc. Còn anh bây giờ giống như một con cừu non bị vây giữa bầy sói, cho dù tường bao quanh Minh Thành của phủ Ứng Thiên xây cao xây chắc đến cỡ nào cũng vô ích.

Chú tư là Yên vương Chu Lệ được phong phủ Thuận Thiên ở Yên Kinh, ba đứa con trai ông ta thì ở lại phủ Ứng Thiên trong đô thành, bề ngoài thì nói là ở đây để tới đại bản đường đi học, nhưng nói trắng ra thì là ở đây làm con tin. Mấy hôm trước Yên vương Chu Lệ dâng biểu tấu, nói mình lâm bệnh nặng, cầu xin Chu Doãn Văn thả ba đứa con mình về phiên địa, để trước lúc chết ông ta được gặp chúng lần cuối.

Có nên đồng ý với ý nguyện của Chu Lệ hay không, việc I này trong triều vẫn đang tranh luận, Thượng thư bộ Binh là Tề Thái luôn chủ trương giữ ba đứa con của Yên vương làm con tin, dùng để kiềm chế mọi hành động của Yên vương. Còn Thái thường tự khanh Hoàng Tử Trừng thì lại cho rằng giữ ba người ấy cũng như đã đưa cho Chu Lệ nắm đằng chuôi, có thể trở thành cái cớ để ông ta khởi binh. Lúc này Trình Thông đang nhắc nhở anh, đến lúc phải ra quyết định rồi, kéo dài càng lâu tình hình càng phức tạp.

Chu Doãn Văn nhìn Trình Thông đưa bản tấu tới trước mặt mình, tự cười bản thân.

Trước đây anh không biết vì sao hoàng tổ phụ lại chọn mình làm người kế thừa, bất luận xét về phương diện nào, chú tư Chu Lệ của cậu cũng giống hoàng tổ phụ hơn, dù là điều hành quân đội hay làm chính sự cũng đều rất quyết đoán. Hoàng tổ phụ lại trực tiếp truyền ngôi cho anh, cho dù chú hai chú ba có qua đời, thì theo lý mà nói cũng phải để chú tư lên ngôi mới đúng.

Sau này biết đến sự tồn tại của quạt Ngũ Minh, cậu mới hiểu sự lựa chọn của hoàng tổ phụ, chắc chắn hoàng tổ phụ đã biết chú tư không phải là người thành thật. Hơn nữa giờ nhớ lại, thì quả là trùng hợp, khi hoàng tổ phụ còn chưa qua đời, hai người chú lớn tuổi hơn chú tư vẫn đang tuổi tráng niên mà đã ra đi trước cả hoàng tổ phụ.

Chu Doãn Văn càng nghĩ càng buồn, hoàng tổ phụ có chiếc quạt Ngũ Minh này, có lẽ là như hổ mọc thêm cánh. Nhưng chiếc quạt Ngũ Minh trong tay anh, thì lại chẳng có ích gì. Bởi vì cho dù không dùng quạt Ngũ Minh, anh cũng biết chú tư nói dối là mình đang bệnh nặng, nhưng chẳng ai có thể nói cho anh biết là phải làm thế nào.

"Minh Triết, giúp trẫm thảo một chiếu thư, nói là trẫm cho phép ba anh em họ đi về hầu bệnh, sau đó phái Tả bố chính sứ Bắc Bình là Trương Văn cùng với Chỉ huy sứ Tạ Quý thay trẫm đi thăm bệnh". Trên mặt Chu Doãn Văn có chút vẻ đùa cợt, nghĩ bụng không ngờ chú tư là người trước nay nghiêm túc đến vậy mà cũng buộc phải giả bệnh, anh bất chợt cũng thấy mừng thầm. Nhưng rồi anh nhanh chóng thu lại nụ cười, anh cũng chỉ biết bày ra mấy trò cố tình trêu chọc đó thôi, chứ đứng trước cả một bầy sói đang chực ăn, anh chẳng có cách nào nữa cả.

Hoàng tổ phụ ơi! Một chiếc quạt biết phân biệt lời nói thật giả, coi như vẽ gấm thêm hoa, chứ đâu thể cứu người những lúc thế này...

4

Năm 1402, ngự thư phòng.

Chu Doãn Văn ngồi một mình sau ngự án, đôi mắt thất thần. Các cung nữ thái giám bên ngoài đang vội vã bỏ đi, thỉnh thoảng còn vọng tới tiếng khóc và tiếng cãi vã, trong cung điện mọi ngày vẫn yên ắng thì giờ đây trông thật thê thảm, đôi lúc vẫn còn nghe thấy tiếng chém giết và tiếng đao kiếm chạm nhau ở ngoài xa.

Xem ra mình thực sự không thích hợp để làm vua rồi, gương mặt tuấn tú của Chu Doãn Văn đang lộ ra nụ cười tự giễu cợt, anh đã ngồi trên ngai vàng bốn năm, xem tình hình này thì đến lúc phải thay người khác rồi.

Từ bốn năm trước, anh đã đấu tranh bằng mọi cách với chú tư Chu Lệ của mình, đến giờ này, anh không thể không khâm phục đối phương.

Đang suy nghĩ lại về cuộc đời hai mươi lăm năm nay của mình, thì Chu Doãn Văn nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp bên ngoài, vừa ngẩng đầu lên thì nhìn thấy Trình Thông chạy tới với vẻ mặt lo lắng, còn chưa hành lễ, đã lập tức vội vàng bẩm báo: "Bệ hạ! Tào quốc công Lý Cảnh Long và Cốc vương Chu Huệ đã mở cửa Kim Xuyên, đón tên gian tặc Yên vương vào thành rồi!"

Chu Doãn Văn nghe xong nhưng nụ cười trên mặt không hề tắt, anh vẫn cười gật đầu: "Thảo nào trẫm nghe thấy tiếng chém giết bên ngoài đã ngừng, thì ra là vì nguyên nhân này".

Trinh Thông kinh ngạc khi thấy biểu hiện của anh, nhìn ra tứ phía, thấy thư phòng đã sạch trơn không còn món đồ cổ nào, ngạc nhiên nói: "Bệ hạ! Thế này... thế này..." Rồi lập tức hiểu ra, ở bên ngoài anh nhìn thấy đám thái giám cung nữ đang túi to túi nhỏ trốn ra khỏi cung, lập tức nổi giận: "Đám nô tì này! Thật là! Thật là!" Anh ta là người nho nhã, cho dù vừa ngạc nhiên vừa tức giận, cũng không thốt ra được một câu chửi mắng nào.

Chu Doãn Ván xua tay nói: "Trẫm bảo họ đem đồ đạc rời khỏi đây đấy, chú tư không khoan dung được với người khác, cần gì phải bắt họ cùng lên đường với trẫm".

Trình Thông giật mình, biết Chu Doãn Văn đã nghĩ đến cái chết trong đầu, anh tiến lên một bước nói: "Bệ hạ! Người cũng đi đi! Lúc này trong thành đang đại loạn, bệ hạ có thể trốn đến chỗ các phiên vương khác...".

Chu Doãn Văn mỉm cười đưa tay ngăn Trình Thông lại, bình thản nói: "Một con cừu, dù đi đến đâu cũng sẽ làm mồi cho sói. Thoát từ miệng con sói này để vào miệng con sói khác, thì có gì khác nhau đâu?" Anh không đợi Trình Thông khuyên nhủ tiếp, đã hỏi: "Minh Triết, cậu nói xem có phải ta không hợp để làm vua không?"

Trình Thông lặng người, bởi vì trong khi nói câu đó, Chu Doãn Văn còn bỏ luôn cả cách tự xưng là trẫm đi.

Nhìn vị hoàng đế trẻ tuổi ngồi sau ngự án, trong nụ cười có chút yếu đuối, Trình Thông lo lắng: "Bệ hạ!"

"Đừng có nói dối đấy! Ta có thể biết được cậu đang nói thật hay nói dối đấy nhé". Chu Doãn Văn cầm chiếc quạt trên ngự án lên, nửa cười nửa như không, trong ngự thư phòng này những gì có thể đem đi, cậu đều thưởng hết cho các thái giám cung nữ, chỉ để lại ở đây duy nhất một thứ, là chiếc quạt Ngũ Minh này.

Trình Thông nghiêm sắc mặt nói: "Bệ hạ, vi thần sẽ luôn nói thật với bệ hạ". Anh ta thấy Chu Doãn Văn không đuổi mình đi, lại còn nói chuyện với anh ta, sự sợ hãi trong lòng dần dần trở nên an định, anh ta trở lại vẻ bình tĩnh thường ngày. Anh ta chỉnh đốn bộ triều phục xộc xệch, lại cung kính tiến ngôn như những khi hỏi đáp hàng ngày: "Bệ hạ thi hành chế độ chính trị nhân từ, năm Kiến Văn thứ nhất số án tù bộ Hình báo lên đã giảm ba phần so với thời Thái Tổ, năm Kiến Văn thứ hai, xuống chiếu cho giảm thuế khóa ở các vùng Tô, Tùng, Gia, Hồ, mỗi mẫu nộp không quá một đấu, muôn dân đều ca tụng. Lại tổ chức lại sáu bộ...".

Trong thư phòng, giọng nói thanh thoát của Trình Thông cất lên êm ả, trong này như một thế giới hoàn toàn tách biệt với hoàng cung đang ồn ào hỗn loạn ngoài kia.

Chu Doãn Văn lặng lẽ nghe Trình Thông nói về thành tích chính trị của mình, sau khi ngự thư phòng trở lại yên ắng, anh bất giác thở dài nói: "Ngắn quá... Chỉ có bốn năm...".

"Phải, ngắn quá. Hơn nữa nguyên nhân chủ yếu nhất là, đức Thái Tổ đã để lại cho bệ hạ một nhành cây đã chặt hết gai, nhưng người không ngờ rằng, nhành cây không có gai góc bảo vệ, thì sẽ dễ dàng bị người khác cướp đi". Đứng trong ngự thư phòng trống trải, Trình Thông nói hết những lời trước kia không dám nói. Trước đây Chu Doãn Văn từng nói với Trình Thông về việc nhành cây gai, chuyện ấy mang lại cho anh ta rất nhiều cảm xúc.

Chu Doãn Văn lặng người nhìn quạt Ngũ Minh trong tay, anh không cần mở quạt cũng biết Trình Thông đang nói thật.

Trình Thông đã tự nói rõ như vậy, Chu Doãn Văn cũng chưa từng nghi ngờ những lời anh ta nói có nửa câu nào là dối trá. Cả những nho thần bên cạnh anh nữa, đều cương trực không a dua, lời lẽ ngay thẳng, trong bốn năm qua, Chu Doãn Văn chưa từng một lần mở quạt Ngũ Minh.

"Bệ hạ, vẫn còn thời gian, xin người hãy đi ngay...". Trình Thông thấy Chu Doãn Văn có vẻ hơi buông xuôi, liền lập tức khuyên nhủ, "Cho dù... không muốn làm con cừu, cũng có thể không làm mà...".

Chu Doãn Văn hiểu ý của anh ta, đôi mắt hơi lóe lên chút m ánh sáng, nhưng rồi nhanh chóng dập tắt.

Từ nhỏ anh đã được nuôi nấng trong cung, được cho là người kế vị từ lâu, hàng ngày đều học "Tứ thư" "Ngũ kinh" và cương yếu trị quốc, không biết nếu không làm hoàng đế thì mình sẽ làm gì.

Trình Thông thì lại tóm lấy tia sáng vừa nãy, tiếp tục khuyên nhủ: "Bệ hạ, vóc người của chúng ta đều na ná nhau, lát nữa người hãy mặc triều phục của thần, ở cửa góc phía Tây có người hầu của thần đang đợi".

"Vậy còn cậu?" Chu Doãn Văn không nhận lời, mà hỏi lại.

"Lát nữa thần sẽ đốt luôn cung điện này, tự khắc sẽ không ai nhận ra mặt của thần nữa". Trình Thông nói rất tự nhiên, coi như chuyện sống chết chẳng quan trọng gì. Sự thực là, anh ta cảm thấy có thể tận trung với vị hoàng đế bệ hạ trẻ tuổi này, đã là phúc phận tu mấy kiếp mới có.

Chu Doãn Văn khẽ cười, lắc đầu nói: "Không, tôi vẫn còn việc cần cậu làm. Cậu lại đây".

Nói đoạn, anh chậm rãi mở quạt Ngũ Minh trong tay ra.

Chu Lệ ngồi trên lưng ngựa, vẻ mặt đắc ý, cố tình ghìm chặt dây cương cho ngựa đi chậm lại, từ từ đi qua trước mặt những quan viên đang quỳ mọp dưới đất.

Cảm giác này thật là tuyệt vời!

Nhìn đô thành phủ Ứng Thiên không một chút phòng bị nào, mở toang cửa đón ông ta, nếu không phải vì vẫn còn chú ý đến hình tượng nghiêm trang lạnh lùng của mình, Chu Lệ chắc đã phải phá lên cười rồi hét lớn: "Cuối cùng ta cũng tới rồi!"

À, không, có lẽ bây giờ phải hô là: "Cuối cùng trẫm cũng tới rồi!"

Chu Lệ đang tự ăn mừng trong lòng, ánh mắt nhác thấy di ngay sau mình là con trai thứ Chu Cao Hú, chứ không phải con trai trưởng Chu Cao Xí.

Trong lần dẹp loạn này, người bỏ nhiều sức nhất chính là Chu Cao Hú, con trai thứ của ông ta. Vào thời khắc cuối cùng khi ông ta sắp sửa quyết định lấy Trường Giang chia lãnh thổ với Chu Doãn Văn, thì con trai thứ hai của ông đem quân tới, vượt sông đánh một trận. Công lao này cực lớn, vì vậy Chu Lệ lúc lâm trận cũng hứa với anh ta, nói rằng đại ca Chu Cao Xí nhiều bệnh tật, nếu có được thiên hạ, thì sẽ lập anh ta làm thái tử.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Chu Lệ đương nhiên biết câu nói đó chỉ để dỗ dành con trai, bất cứ triều đại nào, việc phế lập thái tử đều động đến gốc rễ của đất nước, nếu sau này con cả Chu Cao Xí không có sai lầm gì lớn, thì ngôi vua phải truyền cho anh ta.

Còn lời hứa kia, hẳn chỉ là nói dối.

Cả đời Chu Lệ đã nói dối vô số lần, mẫu phi của ông ta xuất thân thấp kém, ông ta liền nói với người ngoài rằng Mã hoàng hậu đẻ ra ông. Trước mặt phụ hoàng ông ta đều lựa lời phụ hoàng thích để nói, cũng rất hay hứa hẹn với thuộc hạ. Nói một câu nói dối với con trai mình, ông ta cũng không cảm thấy có gánh nặng tâm lý nào. Chu Lệ vừa lạnh lùng nghĩ vậy, vừa nhìn con thứ Chu Cao Hú đi liền ngay sau mình, vì phấn khích mà mặt mũi đỏ hồng, ông ta mỉm cười tỏ ý khen ngợi.

Chu Cao Hú nhìn thấy ánh mắt của cha, lại càng tưởng nhầm, nên càng kích động.

Chu Lệ đang định khen ngợi anh ta mấy câu, thì nghe thấy phía trước có âm thanh hỗn loạn, ông ta bực dọc quay lại, thì ngạc nhiên phát hiện ra ở phía xa có một cột khói đen bốc lên, đó là hướng của hoàng cung!

Lập tức vung roi xua ngựa, Chu Lệ phi thẳng đến đó, gọi người đến dập lửa. Không cần cho người điều tra, ông ta cũng biết đó chắc chắn là đứa cháu vô dụng Chu Doãn Văn của mình tự thiêu. Ông ta không muốn đứa cháu mình chết như vậy, ông còn muốn mình phải được thằng cháu nhường ngôi vua một cách đường đường chính chính, bắt nó thừa nhận sai lầm của bản thân, có thế thì cuộc dẹp loạn kéo dài bốn năm ròng rã mới được sử sách ghi là cuộc chiến chính nghĩa.

Nhưng nhìn ngọn lửa ngút trời đang bốc lên, Chu Lệ nghiến chặt răng. Hoàng cung đều làm bằng gỗ, chỉ cần đồt lửa là khó có thể dập nổi.

Tất cả mọi người đã bó tay, chỉ biết lặng nhìn hoàng cung hùng vĩ tráng lệ chìm trong biển lửa, không ai nói gì, nhưng đều cảm thấy ngọn lửa này đã đốt sạch đế quốc Đại Minh của thời đại cũ.

Chu Lệ sai người đi tìm tung tích Chu Doãn Văn, không tìm thấy gì, mọi câu trả lời đều cho thấy rất có thể Chu Doãn Văn đang ở trong cung điện bị thiêu rụi kia.

"Phụ vương! Có người nói là chuyển lời hộ Kiến Văn đế"". Ngọn lửa cháy hết cả ngày, khi lửa sắp tắt trong ánh chiều tà, Chu Cao Hú lôi một người đi tới. Bè phái của Yên vương từ lâu đã không còn gọi Chu Doãn Văn là bệ hạ nữa, mà chỉ gọi là Kiến Văn đế.

Chu Lệ nhìn người đó, nhận ra đó là một chàng trai trẻ tuổi mặc triều phục lục phẩm, nhớ lại một chút, ông ta liền nhớ ra người này chính là nội các thị độc rất thân cận với Chu Doãn Văn, có tên là Trình Thông. Lúc này anh trông thật thảm hại, triều phục xộc xệch, có lẽ là do trước khi dẫn anh vào, Chu Cao Hú đã lục soát trên người xem có đem theo vũ khí sắc nhọn gì không. Chu Lệ hơi nheo mắt, không giận nhưng có uy, nói: "Ồ? Cậu ta muốn gửi lời gì?"

"Yên vương điện hạ, xin hãy cho tả hữu lui ra, những lời tôi sắp nói đây tốt nhất là không nên truyền tới tai người khác". Trình Thông giằng tay khỏi gọng kìm của Chu Cao Hú, thần thái ung dung. Anh cúi đầu chỉnh đốn lại triều phục, cẩn thận và nghiêm trang.

Chu Lệ cũng chẳng sợ một văn nhân trói gà không chặt như anh có thể uy hiếp tới ông ta, cho thuộc hạ lui hết, Chu Cao Hú không muốn đi cũng bị đuổi, rồi mới nhìn chàng trai trẻ đứng một cách rất trấn tĩnh trước mặt mình, ánh mắt rơi xuống chiếc quạt anh ta cầm trên tay, bỗng nhiên cảm thấy rất quen thuộc, ông ta nhận ra đó là chiếc quạt mà phụ hoàng luôn đem theo người.

Chắc lại là một tên đến dâng báu vật để cầu an lành. Chu Lệ nghĩ tới đám vương hầu quan lại mở cổng thành đón mình mơ tưởng đến công lao đưa ông ta lên ngôi, ánh mắt không khỏi có phần khinh bỉ, tô ra không buồn để ý: "Nói đi"

Trình Thống không để ý đến vẻ mặt của ông ta, vẫn bình tĩnh đem toàn bộ lai lịch và khả năng thần kỳ phân biệt được lời nói thật giả của quạt Ngũ Minh kể hết một lượt.

Chu Lệ mấy lần biến sắc mặt, giờ ông ta mới biết vì sao phụ hoàng đến chết cũng không ưa ông ta, thì ra là vì chiếc quạt Ngũ Minh này! Thảo nào đại ca Chu Tiêu lại thành thật đến thế, không nói dối bao giờ, chắc chắn là vì biết bí mật của chiếc quạt Ngũ Minh, ông ta còn tưởng tính anh trai mình từ nhỏ đã vậy cơ!

Ông ta cũng là kẻ bề trên, tất nhiên phải hiểu chiếc quạt Ngũ Minh này có ý nghĩa to lớn thế nào. Lúc này, ông ta không còn kiềm chế được nỗi vui sướng trong lòng, cười ha hả: "Minh Triết có công lớn, khanh muốn gì nào? Đợi khi trẫm chính thức lên ngôi, sẽ trọng thưởng cho khanh!" Vừa nói ông ta vừa lấy chiếc quạt Ngũ Minh trên tay Trình Thông một cách không chút khách sáo, trong lòng đang nghĩ bí mật to lớn này, đương nhiên không thể để người thứ hai biết, ắt phải tìm cơ hội để khiến chàng trai trẻ trước mặt ông ta hoàn toàn im miệng.

Chỉ có người chết rồi, mới thực sự giữ được bí mật.

Lúc này, cung điện ở phía không xa đã cháy sắp hết, có thị vệ đến báo, trong đám cháy phát hiện ra một thi thể, không gần nhận ra nổi có phải là Kiến Văn đế hay không nữa.

Chu Lệ chậm rãi mở chiếc quạt trong tay ra, hỏi Trình Thông: "Minh Triết, khanh có biết thi thể đó là của cháu ta hay không?"

Trình Thông đứng thẳng người, cười nhạt có chút ngạo nghễ: "Yên vương điện hạ, người có biết bệ hạ biết rõ bí mật của quạt Ngũ Minh, nhưng vì sao trong bốn năm làm vua của mình, bệ hạ chưa từng một lần mở quạt Ngũ Minh ra không?"

Chu Lệ nhăn mày, không trả lời, trong lòng ông ta không cho là vậy, tuyệt nhiên không tin được Chu Doãn Văn có bảo bối này trong tay mà có thể nhẫn nhịn không dùng. Trình Thông nhìn sâu vào mắt ông ta, khóe miệng nhếch cười nhạt, hình như đang chế giễu sự tự tin của ông ta, cũng như đang nhạo báng sự ngu dốt của ông ta, chậm rãi nói: "Bởi vì chỉ có người thích nói dối, mới nghi ngờ người khác không biết họ nói thật hay nói dối".

Chu Lệ nghe xong sững sờ, lập tức sự xấu hổ và giận dữ tràn lên trong lòng như sắp nhấn chìm ông ta, không còn nghĩ đến hình tượng gì nữa, ông ta lớn tiếng nạt nộ: "Nói mau! Có phải Chu Doãn Văn đang trong cung hay không?" Ông ta nói xong bèn dán chặt mắt vào quạt Ngũ Minh, chuẩn bị kiểm tra xem Trình Thông nói thật hay nói dối.

Nhưng Trình Thông vốn không định trả lời câu hỏi đó, anh lao thẳng vào tường phía nam của cung điện.

Các thị vệ đứng bên đều không ngờ nổi anh ta có hành động đột ngột ấy, không ai kịp ngăn anh lại.

Chu Lệ lạnh lùng nhìn nội các thị độc trẻ tuổi gục xuống bên tường nam, từ kẽ răng rít ra một câu: "Lục soát!"

5

Năm 2013.

"À... Gã Chu Lệ này quên một điều, cho dù có quạt Ngũ Minh biết phân biệt thật giả, thì người khác vẫn có thể từ chối trả lời câu hỏi!" Con thỏ bông mà bác sĩ trú ngụ nay đã được khoác một chiếc áo bông đỏ dày, tuy anh bây giờ chỉ là đồ chơi, không thể cảm nhận được cái lạnh của mùa đông, nhưng bên ngoài trời đã đổ tuyết, cũng nên mặc cho hợp cảnh chứ! Nhưng nút áo hình như hơi chặt, vì mặc chiếc áo bông mà con thỏ vải đã tròn lẳn, bác sĩ khó khăn lắm mới bò được từ mặt quầy đến trước mặt chủ tiệm, ra hiệu cho gã giúp anh tháo cúc chiếc áo bông ra.

Tuy không hiểu làm sao con thỏ bông lại cảm thấy bí thở được, nhưng chủ tiệm cũng tạm bỏ chiếc quạt gã đang lau chùi trên tay xuống, giúp bác sĩ tháo cúc áo.

"Phù, giờ mới thấy hình như thoải mái hơn rồi". Bác sĩ lắc lắc đôi tai thỏ, tiếp tục bình luận câu chuyện vừa nghe được. "Chắc Minh Thành Tổ Chu Lệ sau này cũng đem theo chiếc quạt Ngũ Minh, không bao giờ rời khỏi người nhỉ? Thảo nào ông ta giống hệt Chu Nguyên Chương cha mình, đều là kẻ thích chém giết, đầu đời Minh cũng chỉ có bốn năm dưới thời Minh Huệ Đế Chu Doãn Văn là quan lại còn sống yên ổn, những lúc khác thì đều là núi thây biển máu! Chu Lệ còn phát minh ra trò tru di mười họ, kinh hơn cả chu di chín họ! Đúng là ghê thật!"

Chủ tiệm không bình luận gì, gã không cho rằng mọi việc đó đều bắt đầu từ chiếc quạt Ngũ Minh mà gã đưa cho Chu Nguyên Chương. Cho dù không có quạt Ngũ Minh, thì việc chém giết vẫn xảy ra. Cũng như câu nói cuối đời của Trình Thông, chỉ có người thích nói dối, mới nghi ngờ không biết người khác đang nói thật hay nói dối. Những đồ vật khác nhau, trong tay những người khác nhau, thì sẽ có tác dụng khác nhau. Trong tay Chu Doãn Văn, chiếc quạt Ngũ Minh này chỉ là một chiếc quạt gấp bình thường.

Thấy chủ tiệm mãi không nói gì, bác sĩ không nhẫn nại được nữa, nói ra câu hỏi lớn nhất trong lòng: "Này chủ tiệm! Hán Huệ đế Lưu Doanh được anh bày cho cách giả chết để cứu ra, chuyện của quạt Ngũ Minh anh biết rồ như thế, vậy thì Minh Huệ đế Chu Doãn Văn có phải cũng được anh cứu rồi không? Ồ, hình như hai người này đều lấy chữ Huệ làm thụy hiệu, trùng hợp thật!"

Chủ tiệm vẫn không nói gì, lại cầm quạt Ngũ Minh trong hộp gấm lên lấy vải lụa lau tỉ mẩn.

"Chủ tiệm! Anh đừng làm cụt hứng người khác chứ! Chu Doãn Văn là một trong số ít những hoàng đế không có ghi chép về ngày mất, sau này Chu Lệ phái Tam bảo thái giám Trịnh Hòa ra biển, nghe nói là để tìm tung tích của Chu Doãn Văn. Vậy cuối cùng là ông ta có chết không?" Không có câu trả lời, bác sĩ cảm thấy rất ngứa ngáy.

Chủ tiệm lúc này mới chậm rãi mở chiếc quạt Ngũ Minh ra, trên lớp vải lụa dát vàng cao quý xa hoa, một chữ "Minh" vuông vức chầm chậm hiện ra.

"Ồ? Muốn biết câu trả lời à? Vậy cậu muốn nghe lời nói thật? Hay là lời nói dối?"

"..."

Quyển 3 - Chương 10: Miễn Tử Bài

1

Ở nơi mây khói mịt mù, không biết gã đã đi lại quẩn quanh trong bao lâu, mãi đến khi nghe thấy một âm thanh rất đỗi quen thuộc gã mới chầm chậm quay người lại.

"Tất Chi, ngươi xem câu này lý giải như nào?". Sau câu nói ấy, cảnh vật bốn bề bỗng trở nên rõ ràng, gã nhìn ra người đó đang đứng trên thềm gác, khoác trên người một bộ áo đen tôn quý, tay cầm một cuốn sách tre. Ánh nắng chiếu rọi lên toàn thân người ấy, chói lóa đến mức gã không mở nổi mắt, cũng không nhìn rõ được khuôn mặt của người ấy.

"Câu nào ạ?" Gã nghe thấy bản thân hỏi lại, đồng thời cúi đầu nhìn xuống. Bởi, dù gã không nhìn rõ mặt của đối phương, nhưng cũng có thể xác định được người đó là ai.

Ngoài Phù Tô ra chẳng còn ai gọi gã là Tất Chi một cách thân mật như thế.

Gã đang nằm mơ ư? Trong những năm tháng xa xôi ấy, gã vẫn thường hầu cạnh Phù Tô, hai người cùng nhau luận bàn học vấn.

"Tử viết: Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi". Người đó nhìn vào cuốn thẻ tre trong tay, thong thả đọc.

"Trích từ thiên "Thái Bá", sách "Luận Ngữ"". Gã không vội trả lời ngay, mà hỏi ngược lại: "Phu tử lý giải câu này như thế nào?"

"Phu tử giải nghĩa câu này như sau, có thể khiến bách tính đi theo con đường do ý vua đề ra, nhưng không cần cho họ biết tại sao". Phù Tô đọc đến đó liền thở dài, "Nhưng ta thấy giải thích như vậy không thỏa đáng".

Phu tử trong câu nói của Phù Tô chính là Thuần Vu Việt, một nhà Nho lớn. Gã tiến lên vài bước, nhìn vào cuốn sách tre, văn tự trên đó đều thuộc thể chữ Triện Tần hàm chứa ý vị sâu xa. Có điều văn bản hồi ấy không dùng dấu câu, gã cũng không tài nào nhớ nổi lúc ấy bản thân đã trả lời như thế nào, đành dựa vào lý giải của bản thân, đáp rằng: "Có lẽ dấu ngắt câu không đúng. Thần thấy câu này nên đọc là: Dân khả sử, do chi, bất khả sử, tri chi."

Mắt Phù Tô chợt lóe lên tia sáng, vỗ cuốn sách tre vào lòng bàn tay, khen hay: "Đúng vậy! Đối với bách tính, nếu họ làm được việc gì thì hãy để cho họ làm. Nếu bách tính không làm được thì phải dạy cho họ biết phải làm thế nào!"

Gã chưa hẳn tán đồng, bởi nếu chỉ dựa vào cách suy đoán này, xem ra không được chuẩn xác. Việc ngắt câu như thế nào đã thành hẳn một ngành học, hai cách nói trên, dù cách nói nào cũng có thể luận giải ra, nhưng phải xem ý bề trên lựa chọn thế nào.

Gã của ngày xưa ấy, e rằng cũng vui vẻ thuận theo lựa chọn của Phù Tô như vậy. Chỉ là không ngờ rằng ước mơ vẫn còn chưa thực hiện được đã vỡ tan.

"Tất Chi, ngươi đúng là cận thần đắc lực của ta, đợi khi ta lên ngôi, đảm nhận chức thừa tướng này không ai khác ngoài ngươi...".

Lời hứa ngày xưa, vang lên bên tai tựa như tiếng vọng trong phim, xa dần xa dần, cuối cùng chẳng còn nghe thấy nữa.

Gã chủ tiệm mở mắt, phát hiện ra mình đang ngủ gục trên quầy của tiệm Á Xá.

Sự việc vừa rồi đối với gã chủ tiệm mà nói quả thực là chuyện khó gặp, bởi cơ thể hiện tại của gã đã rất khó xảy ra tình huống ngủ say.

Nhìn ra vật bị mình tận dụng làm gối là chú thỏ bông, gã chủ tiệm không kìm nổi liền chọc chọc tay vào người cậu ta, chẳng có chút phản ứng nào, chắc cậu ta cũng ngủ say rồi. Cảm thấy bầu không khí hơi lạnh, như có linh tính mách bảo, gã chủ tiệm nhìn ra ngoài cửa sổ thấy trời đang đổ mưa tuyết, đây là chuyện chưa từng thấy trong mấy chục năm nay ở thành phố phương nam này. Gã chủ tiệm nhìn chăm chú một lúc, bỗng có cảm giác không gian và thời gian bị đảo loạn, cảm thấy dường như bản thân lại rơi vào mộng tưởng, một lúc lâu sau mới nhớ ra cho thêm vài viên than vào chiếc lò đất nung cạnh người, ngủ đến mức cứng dại cả người, gã chủ tiệm đứng dậy hoạt động nhẹ.

Sao lại mơ về chuyện xưa cũ như vậy? Xem ra chủ tiệm gần đây vì chuyện đồ cổ của đế vương mà tẩu hỏa nhập ma mất rồi.

Chủ tiệm mỉm cười tự giễu, bước vòng qua bức bình phong bằng ngọc vào gian bên trong.

Chú thỏ bông bị ép đến bẹp cả đi khó khăn lắm mới lồm cồm bò dậy, nhảy mấy cái, rũ mình trên quầy, bác sĩ mãn nguyện phát hiện ra mình đã phục hồi được hình dáng tròn lẳn của mình, ơ, không đúng, cơ thể ban đầu của anh đâu có béo thế này! Đôi tai thỏ của bác sĩ cụp xuống, nhìn trận tuyết lớn ngoài cửa sổ, trên khuôn mặt ngô ngố đáng yêu thoáng có nét lo âu.

Tháng này thoắt cái đã đến cuối tháng, nhưng gã chủ tiệm vẫn chưa mang cổ vật nào của đế vương ra để trấn yểm Càn Khôn đại trận.

Thực ra nói không thì cũng không chính xác, bác sĩ nhìn thấy gã chủ tiệm mang ra tấm Vô Tự Bi, nhưng chắc do nó đã bị vỡ làm hai mảnh nên dù có chôn vào mắt trận cũng không có phản ứng gì. Còn bức Tứ Quý Đồ, tay họa sĩ ngày ngày đến lâm mô kia sống chết cũng không để gã chủ tiệm mang bức họa đó đi. Đậu xanh rau má! Bức Tứ Quý Đồ ấy có phải đồ của hắn đâu! Hắn có quyền gì khóc lóc, làm loạn lên, lại còn đòi sống đòi chết!

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Đồng Hồ Bản Sao

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Bác sĩ bấm bấm nhẩm tính mấy ngón tay không có đốt của mình, phát hiện đồ cổ của đế vương tính đến nay đã dùng mất chín thứ, cũng có nghĩa là phải có thêm ba thứ nữa mới đủ. Đồ cổ trong tiệm Á Xá tuy nhiều, nhưng những thứ xứng tầm gọi là đồ cổ của đế vương, mà liền một lúc phải lấy ra tận mười hai món, quả thực chẳng phải việc dễ dàng gì.

Bác sĩ thấy lo thay cho chủ tiệm, tuy sắc mặt gã chủ tiệm luôn bình lặng, nhưng bác sĩ đã phát hiện ra có chuyện không ổn. Gã chủ tiệm hôm nay như người mất hồn, cứ ngây người ra rồi ngủ quên lúc nào không hay. Tuy ngủ không lâu, nhưng chuyện như vậy hiếm khi xảy ra.

Thỏ bông lăn lộn trên quầy, khi gã chủ tiệm đi từ gian trong ra, bắt gặp cảnh tượng làm nũng đáng yêu ấy, nét mặt cũng dịu xuống phần nào.

"Ơ? Anh định đi ra ngoài à?" Bác sĩ ngóc đầu dậy, không khỏi ngạc nhiên khi thấy gã chủ tiệm mặc một chiếc áo khoác nỉ bên ngoài áo Xích Long. Chiếc áo này rất thời thượng, không giống phong cách của chủ tiệm chút nào!

"Này, cậu ở nhà trông nhà". Gã chủ tiệm chỉ dặn dò một câu đơn giản, đúng lúc sắp rời đi, bỗng thấy trên vai hơi nặng, ngoảnh đầu nhìn sang mới phát hiện ra thỏ bông đã nhảy tót lên vai, thỏ bông nhảy mạnh quá nên không đứng vững, trượt xuống cánh tay gã. May lúc sắp rơi xuống đất, gã chủ tiệm móc ngón tay vào lớp áo bông của thỏ bông nên anh mới không "hôn" đất.

"Tôi cũng muốn đi!". Bác sĩ nói liền một hơi rồi cứ thế mặc kệ tất cả, giãy giụa giữa không trung.

Gã chủ tiệm thở dài, dựa theo kinh nghiệm mà phán đoán, nếu gã từ chối thỉnh cầu của bác sĩ, thì đợi đến khi gã về tiệm sẽ bị bác sĩ càu nhàu đến chết mất. Xem ra kế hoạch nhân lúc bác sĩ ngủ say trốn ra ngoài đổ bể rồi. Gã chủ tiệm nhét thỏ bông vào túi áo khoác, bất lực dặn dò rằng: "Nhớ kỹ không được động đậy, cũng không được lên tiếng".

"Biết rồi, việc ý cần anh nhắc sao!" Bác sĩ đắc ý cười he he, kéo hai cái tai dài đang lộ ra ngoài túi áo vào trong, cẩn thận vắt ra sau đầu giấu kỹ.

2

Lục Tử Cương vừa xuống taxi liền thấy rét run cầm cập, vội vàng quấn chặt lại chiếc áo phao. Theo lý mà nói anh ở miền Bắc vốn đã quen với khí hậu gió tuyết thế này, nhưng quả thực mùa đông ở miền Nam khắc nghiệt hơn, trận tuyết này chẳng thua kém gì ở miền Bắc cả!

"Tiểu Lục, bên này". Người đàn ông trung niên xuống taxi cùng Lục Tử Cương không co ro như anh, vẫy anh đi theo lối này.

"Đến ngay đây!" Lục Tử Cương bước bước lớn đuổi theo, lần này anh cùng giáo sư Đường tới Hàng Châu công tác, nghe đâu mấy hôm trước có một ông lớn trong giới sưu tầm bệnh chết, để lại vô số đồ cổ, thư họa, con cháu của ông ta không thể bảo tồn được liền công khai phát giấy mời, tính mở một buổi đấu giá chuyển nhượng tư nhân. Dẫu sao việc sưu tầm đồ cổ bây giờ cũng không phải cứ có tiền là chơi được, đồ gốm mà va chạm sứt vỡ thì một xu cũng không đáng, tranh chữ càng khó giữ gìn, phải kiểm soát nhiệt độ, độ ẩm, còn phải chống mối mọt. Người không có lòng nhẫn nại và sự say mê không thể hết lòng nhiệt tình với đồ cổ được.

Vì vậy giấy mời vừa phát ra, giới chơi đồ cổ kéo tới từng đàn như ong vỡ tổ, ngay cả Viện bảo tàng quốc gia cũng bị kinh động. Quỹ quyên góp của Viện bảo tàng hiện nay cũng có trợ cấp hồi quỹ, vẫn có thể chi ra một ít phúc lợi, cũng có thể đem lại cho viện chút danh tiếng, vậy nên lần này giáo sư Đường cũng tới tham dự.

Giáo sư Đường tên đầy đủ Đường An Thế, là giáo sư được viện bảo tàng quốc gia mời về, chuyên nghiên cứu thư họa biệt danh "Đường nửa thước". Ý nói một trục cuốn thư họa chỉ cần mở ra nửa thước, giáo sư Đường cũng có thể phân biệt được thật giả. Danh hiệu này có phần phô trương, nhưng cũng đủ thấy địa vị của giáo sư Đường trong giới đồ cổ. Lần này nghe nói số lượng thư họa trong tay ông lớn giới đồ cổ vừa qua đời ấy không hề ít, vì vậy giáo sư Đường mới tới. Còn về Lục Tử Cương, gần một năm nay đều học cách phục chế thư họa cổ, lãnh đạo thấy anh chăm chỉ chịu khó, có thể gánh vác trọng trách, liền phái anh đến làm trợ thủ cho giáo sư Đường.

Hai người họ lúc này đã ở trong khu vực nội thành Hàng Châu, Lục Tử Cương theo sau giáo sư Đường, phát hiện họ đang ở ngoài cửa một khách sạn suối nước nóng quy mô kha khá, hai bên đường đỗ đầy những siêu xe. Cuộc bán đấu giá tư nhân lần này diễn ra trong ba ngày, mà hôm nay họ đến đã là buổi cuối cùng. Lục Tử Cương không cho rằng họ đến trễ, bởi đồ tốt nhất định được dành lại đưa ra vào ngày cuối cùng, huống chi nếu không phải đồ cổ đạt tiêu chuẩn thì Viện bảo tàng quốc gia của họ cũng sẽ không cất công sưu tầm.

Bước vào trong sảnh lớn ấm cúng của khách sạn, Lục Tử Cương thấy mình như được sống lại, trong lúc theo sát giáo sư Đường vào hội trường trên tầng thượng, anh ta cố ý đưa mắt nhìn quanh.

"Cậu có người quen tới đây không?", giáo sư Đường chú ý đến hành động nhỏ này của Tử Cương, cười hỏi.

"Ừm, tôi có quen chủ một tiệm đồ cổ ở đây...". Lục Tử Cương nói nửa chừng thì gượng cười, sao có thể gặp gã chủ tiệm Á Xá ở đây được cơ chứ. Bởi cảm giác thần kỳ mà tiệm đồ cổ Á Xá đem lại cho anh, những thứ đồ cổ tầm thường vốn dĩ không thể sánh bì.

"Ồ, biết đâu lại gặp, dù sao cũng là người bản địa". Giáo sư Đường thuận miệng nói, chứ không để tâm lắm. Hôm nay cũng đã là ngày cuối cùng của cuộc bán đấu giá, những người không đủ đẳng cấp thì không thể nhận được giấy mời tới dự vào ngày cuối cùng này được. Giáo sư Đường cũng chẳng bận tâm đến chuyện đó, lúc này ông ta đã nhận ra vài người quen, liền tươi cười tới hàn huyên.

Lục Tử Cương ngoái trước ngoái sau, cũng thấy không gặp thì tốt hơn, còn tay Hồ thiếu gia càng không nên tới. Nếu gã chủ tiệm xuất hiện, điều ấy chứng tỏ đồ cổ ở đây quả thực cổ quái, anh cũng không muốn chuốc thêm phiền phức, như vậy quả có phần đáng sợ. Nhớ lại lần trước ở cùng gã chủ tiệm còn có sự xuất hiện của tay Hồ thiếu gia, Ngô đao, Vô Tự bi, đạc Long Văn, trận cờ Lục Bác ở căn nhà cổ lần trước anh còn suýt bị người ta giết hại!

Lục Tử Cương rùng mình, anh vội gạt đi những ý nghĩ về hồi ức đen tối đó. Giáo sư Đường đang trò chuyện với mấy người bạn, Lục Tử Cương cũng không tiện xen vào, thế nên tự mình đi thăm dò xung quanh. Cuộc bán đấu giá này bài trí không tệ, cũng ra khí chất cổ kính. Trên bàn còn bày những vật trang trí thường được đặt trên Bách Bảo các, tuy chỉ là đồ mô phỏng nhưng cũng vô cùng tinh xảo, mang đến cho người ta một cảm giác xa hoa mà không phô trương. Lượng người tham gia cuộc bán đấu giá này cũng không đông, chỉ độ bảy, tám mươi người, đa phần là người trung niên và người già, hiếm lắm mới thấy vài hậu bối trẻ tuổi, chắc cũng chỉ là "hàng đính kèm" như anh, được trưởng bối dắt tới xem cho biết mà thôi.

Lục Tử Cương tham quan một vòng hội trường, cuối cùng cũng bắt gặp một người quen, chính là Trần Diểu gặp ở trận cờ Lục Bác lần trước, anh ta nắm trong tay một bảo tàng tư nhân, chuyên sưu tầm thư tịch cổ. Lục Tử Cương vừa bắt gặp ánh mắt của anh ta liền tránh đi, đối phương rõ ràng cũng nhận ra người quen nhưng không hề có ý muốn nhận mặt, rõ ràng cũng muốn quên đi quãng hồi ức ấy. Lục Tử Cương cũng chẳng bận tâm, lúc này anh đang chú ý tới một góc của hội trường, nơi bày đầy đồ ăn. Sáng nay anh ta vội đón chuyến bay nên chưa kịp ăn gì, liền thong thả bước tới. Trong lòng vẫn đang thầm mừng rằng vé máy bay anh tự đặt khéo đúng giờ, muộn thêm chút nữa, e rằng sẽ không thể hạ cánh vì trận tuyết ở Hàng Châu lớn quá.

Vừa mới gắp được mấy cái bánh lên đĩa, Lục Tử Cương ngoảnh đầu lại, liền thấy gã chủ tiệm đồ cổ Á Xá đang dựa vào cửa sổ, nhắm mắt tĩnh tâm. Lúc nãy do góc nhìn hạn chế, đối phương lại bị tấm rèm dày che khuất nên anh ta mới không nhìn ra gã chủ tiệm. Lục Tử Cương lúc này sững sờ, gã chủ tiệm Á Xá cũng ở đây ư? Chứng tỏ đồ cổ ở buổi đấu giá này quả thực kỳ quái? Lúc này anh lập tức quay đầu đi liệu có an toàn không?

3

"Tề vương.... Tề vương?"

Gã mở to mắt, phát hiện ra mình đang ở trong doanh trướng đại quân, trời đã khuya, ngọn đèn đồng Phượng Ngư trên chiếc bàn sơn đen trước mặt lập lòe như đang nhảy nhót, ánh đèn mờ ảo khiến dung mạo người đối diện cũng trở nên mơ hồ.

Gã lại nằm mơ ư? Tề vương? Đang gọi gã sao?

"Tề vương, Vũ Thiệp đó đã đi rồi..." Người đối diện thấy gã đã hoàn hồn, bắt đầu hồi báo việc quân.

Nghe những lời này, cách đấy không xa còn vọng lại tiếng binh sĩ giậm chân đi tuần đều tăm tắp, trong đầu gã dần gợi lại chút ký ức xa xưa.

Chắc lúc này gã đang hóa thân thành Hàn Tín, khoảng năm 203 trước Công nguyên, khi đã bình định được sáu nước, được Lưu Bang phong làm Tề vương. Hạng Vũ bí mật phái Vũ Thiệp đến du thuyết, muốn khuyên gã liên hợp với nước Sở phản lại Hán, hứa sẽ trao cho ba phần thiên hạ. Đương nhiên gã nghiêm nghị từ chối.

Thực ra, mục tiêu ban đầu của gã lúc ấy chỉ là muốn phò tá một người trong hoàng tộc nhà Tần để lật đổ Nhị Thế Hồ Hợi, nhưng hắn lại sát hại huynh trưởng của mình, khiến gã không còn lựa chọn nào khác. Gã đành phải đầu quân cho Hạng Vũ, rồi đến Lưu Bang, về sau Hạng Vũ lại tắm máu thành Hàm Dương, chuyện này đã đưa sự bất mãn của gã đối với Hạng Vũ lên đến đỉnh điểm, như vậy sao gã có thể hợp tác với hắn được chứ.

"Tề vương, tại hạ từng học được thuật xem tướng, cũng biết chút ít". Người đối diện đột nhiên chuyển chủ đề, hạ thấp giọng.

Gã lấy lại tâm trí, thấy có phần mơ hồ với đoạn ký ức này. Gã sống trên thế gian này quả thực lâu quá rồi, gã đã gặp biết bao nhiêu người, trải qua biết bao nhiêu chuyện, nói những điều gì, tất cả đều mặc cho bánh xe thời gian xoay vần đến mức vỡ vụn. Gã ấn mạnh hai bên huyệt Thái Dương, mất một lúc gã mới nhớ ra người này tên là Khoái Triệt, biện sĩ đất Phạm Dương, là mưu thần dưới trướng của gã.

"Thuật xem tướng?" Gã nghe thấy mình hỏi bằng giọng cười giễu cợt, "Thuật xem tướng của tiên sinh như thế nào?"

"Người, có người sang kẻ hèn, chỉ cần nhìn vào kết cấu khung xương. Buồn hay vui, phải xem sắc mặt. Việc thành hay bại, phải xem có quyết đoán hay không. Căn cứ ba điểm này để xem tướng, có thể nói là không chệch đi đâu được". Khoái Triệt vươn người ra trước, nét mặt đầy ẩn ý.

Lúc này gã mới nhìn rõ khuôn mặt đang nhìn thẳng vào gã của Khoái Triệt, một lúc sau mới chậm rãi nói tiếp: "Tướng mặt của Tề vương, cao nhất chỉ được phong đến chức chư hầu, lại còn phải lo họa sát thân... Nhưng kỳ lạ, sống lưng của Tề Vương điện hạ lại vô cùng cao sang... Hai cái đối nghịch nhau, lạ kỳ thay...".

Gã nheo nheo mắt, nếu năm ấy Phù Tô đăng cơ thuận lợi, việc trở thành vương công chư hầu chắc chắc không chỉ dừng ở lời nói suông, gã vốn dĩ cũng xuất thân từ thế gia đại tộc. Còn về chuyện lo họa sát thân? Gã cũng từng trải qua một lần rồi.

Gã hít một hơi thật sâu, nghe những lời ngon ngọt của vị mưu thần nổi danh nhờ tài biện luận này, bắt đầu chuyển sang khuyên gã dấy binh tự lên ngôi. Nhưng gã cũng phải thừa nhận rằng, trong suốt cuộc đời dài đằng đẵng của mình, bây giờ chính là thời điểm gã gần với ngôi vị hoàng đế nhất. Chỉ cần gã muốn, ắt có thể lên ngôi, đúng là đơn giản như vậy đấy.

Nhưng, gã không muốn.

"... Diệt Nguy, chiếm Triệu, uy hiếp Yên, bình định Tề, công lao của điện hạ không ai sánh bằng, thưởng không thể thưởng thêm, phong không thể phong thêm nữa. Nếu về Sở, thì Sở vương sẽ không tin, nếu quy Hán, thì Hán vương sẽ lo sợ. Điện hạ tuy làm bề tôi, nhưng lại có uy thế lấn át cả quân chủ, danh tiếng cao hơn cả thiên hạ, thuộc hạ vô cùng lo lắng...".

Có lẽ vì Lục Tử Cương quá tinh mắt, gã chủ tiệm mở mắt tỉnh dậy khỏi giấc mộng hỗn độn, nhìn Lục Tử Cương với ánh mắt có chút ngạc nhiên, hơi nhếch môi nói: "Không ngờ cậu cũng tới đây".

"Vâng, tôi vừa đáp máy bay lúc chiều, còn tính mai rảnh đến tiệm thăm anh". Lục Tử Cương hoang mang giải thích, tự thấy ngại ngùng xấu hổ trước ý nghĩ chợt nảy ra, nhưng ngay sau đó anh cảm thấy vô cùng tò mò. "Chủ tiệm, chuyến này anh tới đã nhắm trúng món đồ nào chưa? Kể tôi nghe xem nào! Để tôi có thể nói với giáo sư Đường một câu, tránh việc cạnh tranh giá cả". Thực ra nội dung cuộc hàn huyên giữa Đường An Thế và đám người quen kia cũng chủ yếu là có lời trước với nhau. Danh mục hàng sưu tầm đưa ra tại buổi đấu giá đã có ghi trên thiệp mời, dù có đánh tiếng trước thế này thì cũng không thể làm nhụt chí cạnh tranh của những người tham gia đấu giá, nhưng chí ít cũng có thể dự trù trước sự việc.

Lông mày gã chủ tiệm hơi giật giật, khi còn chưa kịp nói gì, bỗng như cổ linh tính mách bảo, gã ngoái nhìn ra cửa hội trường, mặt có chút biến sắc.

Lục Tử Cương dõi theo ánh mắt của chủ tiệm, mặt anh cũng biến sắc theo. Bởi anh vừa nhìn thấy chính là Hồ thiếu gia, người anh không muốn gặp nhất, khuôn mặt lạnh lùng không biểu cảm tiến vào trong hội trường. Mái tóc dài trắng bạc, hai con ngươi màu đỏ kỳ quái, lại thêm con chim màu đỏ đậu trên vai, tuyệt đối không thể nhận nhầm. Nếu như lúc nãy ý niệm muốn rời khỏi đây của Lục Tử Cương chỉ là ý nghĩ thoáng qua, thì giờ đây anh thực sự muốn đi khỏi đây. Cứng họng không nên lời, bởi anh biết rằng sự việc sắp xảy ra ở đất Hàng Châu này thật sự không phải chuyện đùa!

Nhưng kỳ lạ ở chỗ vị thiếu gia họ Hồ này cũng là đi theo người khác tới, người đàn ông trung niên đi phía trước anh ta nho nhã đĩnh đạc, tay chống một cây batoong, chắc chân ông ta có tật không tiện đi lại. Lục Tử Cương nhận ra ông ta chính là giám đốc một viện bảo tàng ở Hàng Châu, trước đây từng gặp mặt ở một vài cuộc hội nghị. Đi sát bên phải ông giám đốc bảo tàng này là một thanh niên trẻ.

Lục Tử Cương nhíu mày, bởi anh trông mặt người này rất quen, cố nhớ lại, hình như người này có quan hệ dây mơ rễ má gì đó rất thân thiết với gã chủ tiệm, chính là vụ cây bút Bạch Trạch lần trước, anh ta cũng bị triệu hồi về kiếp trước, hình như là một bác sĩ.

Ông giám đốc bảo tàng đó đến chào hỏi mấy người quen trước, nhưng không nán lại mà cứ tiến về góc hội trường nơi gã chủ tiệm và Lục Tử Cương đang đứng. Lục Tử Cương vội đặt đĩa bánh xuống, lau tay, nhưng anh lại thấy ông giám đốc bảo tàng đó không phải tiến về phía mình.

"Ha ha, chủ tiệm, quả nhiên cậu cũng ở đây, lần này tôi đã nhắm trúng bộ chén sứ men xanh khắc hoa cổ, không được tranh với tôi đâu đấy!"

Ông giám đốc cười sảng khoái, cũng chẳng cần gã chủ tiệm có đồng ý hay không, liền quay người đi chào hỏi hàn huyên với những người khác. Hành động này của ông giám đốc chứng tỏ ông ta cực kỳ coi trọng gã chủ tiệm, kéo theo ánh mắt nghi hoặc của một vài người xung quanh. Chỉ là gã chủ tiệm trông trẻ trung quá nên họ cũng không để tâm mấy.

Giám đốc bảo tàng cũng vì quá căng thẳng, ông ta hôm nay còn cố ý đến Á Xá trước một chuyến, nhưng tiệm chẳng có ai. Ông ta cuống cả lên, vốn định dẫn gã chủ tiệm đi cùng một chuyến, tiện trên đường đi mượn cớ tình cảm xưa cũ mà không tranh giành cổ vật với ông ta. Nhưng lúc chuẩn bị rời khéo thay gặp ngay bác sĩ và Hồ Hợi. Ông giám đốc biết chủ tiệm và bác sĩ là bằng hữu tốt, nên cũng chẳng suy xét nhiều, ba người liền cùng nhau tới. Ông ta không biết rằng thân xác này của bác sĩ đã sớm được thay một linh hồn khác vào, giờ đã không còn là anh bác sĩ đơn thuần thuở ban đầu.

Ông giám đốc chỉ nói một câu rồi đi, nhưng Phù Tô và Hồ Hợi lại không bỏ đi cùng ông ta. Gã chủ tiệm nhìn Phù Tô trước mặt mình, cảm xúc hỗn độn, khẽ than một câu: "Không ngờ ngài cũng tới".

QUẢNG CÁOAdskeeper

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Máy hút bụi giảm giá 50% nhân dip tết 2020 chỉ 690k

Lục Tử Cương nghe câu này thấy thật lạ. Câu này anh cũng vừa nói xong, nhưng giờ gã chủ tiệm tuy cũng nói câu y hệt nhưng lại có ẩn ý phức tạp mà không thể diễn tả thành lời. Lục Tử Cương xoa xoa hai bàn tay, thấy hai tay bắt đầu toát mồ hôi, có phải anh tránh mặt đi thì tốt hơn?

Phù Tô nghe vậy cười nói: "Chỉ là muốn gặp ngươi, không có ý gì khác". Phù Tô nói tới đây thì hơi ngập ngừng, ánh mắt dồn lên chiếc tai thỏ lộ ra khỏi túi áo khoác của gã chủ tiệm, nụ cười trên môi bỗng thêm vài phần sâu xa, "Tính ra chúng ta cũng gần một năm rồi chưa gặp nhau".

"Gần một năm rồi ư?" Gã chủ tiệm trợn tròn mắt, khái niệm thời gian đối với gã không giống như với những người khác. Một năm đối với gã mà nói, không phải một quãng thời gian dài. Ở trong Á Xá, thời gian nửa như ngừng trôi, nửa như trôi qua rất nhanh, lần gặp mặt quyết liệt lần trước giữa gã chủ tiệm và Phù Tô không khác nào mới diễn ra cách đây một cái chớp mắt. Định thần lại, chủ tiệm nhìn hướng về phía ông giám đốc bảo tàng đang đứng đằng xa, hơi hất hàm lên hỏi: "Ngài quen ông giám đốc viện bảo tàng à?"

"Không quen, người mà ông ta quen hình như là cái thân xác này mà thôi. Nhưng ngươi không cần lo lắng, thực ra cho dù hôm nay ta không đi cùng ông giám đốc bảo tàng, ta cũng có thể vào được chỗ này. Chỉ là khéo gặp thôi". Lời Phù Tô nói quả không sai, bởi trong giới đồ cổ này Hồ Hợi cũng là người có thế lực, chỉ là tấm thiệp mời cỏn con, hắn hoàn toàn có thể lo liệu được. Phù Tô nói chuyện không khác so với người bình thường, chỉ còn dùng một ít cổ ngữ, tất nhiên là không tiện sử dụng trong tình huống bình thường, nhập gia tùy tục vậy.

Hồ Hợi đứng bên mí mắt cụp xuống, trán hơi giật giật. Có lẽ chính hoàng huynh của hắn cũng không nhận ra bản thân hôm nay rất nhiều lời, khác hoàn toàn so với mọi khi.

Lục Tử Cương chỉ đứng ở bên cạnh cũng đã có thể cảm nhận được ở đây sát khí đằng đằng, đến nhiệt độ hình như cũng đột ngột giảm đi vài độ, khiến người khác phải lạnh gáy. Anh vừa định kiếm cớ rút lui, bỗng nghe thấy trong đại sảnh vang lên một đoạn nhạc, MC lên sân khấu mời các vị khách vào trong sảnh ngồi, tuyên bố buổi đấu giá sắp bắt đầu. Lục Tử Cương đi tìm giáo sư Đường, trong lòng mừng thầm vì bản thân đã thoát khỏi tâm bão, nhưng không ngờ giáo sư Đường đang nói chuyện với ông giám đốc bảo tàng, chỉ thiếu nước hai người đó ngồi cùng với nhau. Ông giám đốc bảo tàng vẫy gã chủ tiệm lại ngồi cùng, theo sau gã chủ tiệm là anh chàng bác sĩ và Hồ thiếu gia. Hàng ghế của giáo sư Đường và ông giám đốc đã hết chỗ trống, Lục Tử Cương đành phải ngồi chung hàng ghế sau với gã chủ tiệm và hai người kia, đúng là khóc không thành tiếng, đành cúi đầu lật giở danh sách các món đồ sưu tầm được đem ra đấu giá.

Sau khi lên sân khấu, MC có đôi lời mở đầu chương trình, tiếc thương tưởng niệm về ông chủ quá cố của bộ sưu tập đồ cổ, đồng thời hoan nghênh sự có mặt của các vị khách quý, sau đó cũng không dài dòng nữa mà đi luôn vào chủ đề chính. Mười món cổ vật sưu tầm đầu tiên đem ra đấu giá đều được chỉ rõ là có thể dành cho sưu tầm cá nhân, ông giám đốc bảo tàng và giáo sư Đường tuy đều thấy những món đồ này giá trị không tồi nhưng vẫn hơi kém. Hai người họ đều đã ngấm ngầm trao đổi, được biết hôm nay có tổng cộng mười lăm món đồ được đưa ra đấu giá, năm món đồ tiếp sau mười món đồ này mới là bảo vật cấp quốc gia. Năm món cổ vật đó, những kẻ tầm thường dù có mua nổi cũng không thể bảo tồn được, bởi vậy mới đem ra đấu giá giữa các bảo tàng với nhau. Thế nhưng chút kinh phí mà bảo tàng có thể chi trả đương nhiên không thể đọ với tư nhân, vì vậy mười món đồ đầu tiên có thể hét giá trên trời, còn năm món đồ cổ cấp bảo vật quốc gia sau có khi cộng gộp giá vào cũng không bằng một món trước.

Tâm lý của ông giám đốc bảo tàng khá vững vàng, bởi ông ta đến đây rồi mới biết buổi đấu giá đã có sắp đặt như vậy, còn khen gia đình này sắp xếp hết sức ổn thỏa. Như vậy ông ta không cần lo lắng gã chủ tiệm sẽ tranh giành cổ vật với ông ta nữa rồi, bởi bộ chén sứ men xanh khắc hoa cổ nhất định nằm trong số năm bảo vật cấp quốc gia kia.

Đến món cổ vật đấu giá thứ tư, chính là một chiếc nghiên đất nung màu xanh mai cua từ thời nhà Minh, ông giám đốc bảo tàng chưa thấy gã chủ tiệm giơ bảng đấu giá một lần nào, không kiềm nổi nghi hoặc mới ngoái lại sau hỏi: "Chủ tiệm, sao thế, chưa thấy thứ nào vừa mắt hả?"

Gã chủ tiệm chỉ gật đầu, không trả lời.

Ông giám đốc bảo tàng hỏi xong liền tự vỗ vào trán, thầm nghĩ bản thân đúng là vui quá hóa hồ đồ rồi. Đồ vật trong tiệm Á Xá đâu phải ông ta chưa từng nhìn qua, riêng những thứ bày ở kệ tủ bên ngoài đã có giá trị liên thành rồi, nghiên đất nung tuy là đồ tốt, nhưng xét đến chiếc nghiên Đoan Châu vân hoa mai đời Tống mà gã chủ tiệm tùy tiện dùng hàng ngày trên quầy hàng trong tiệm Á Xá, thì sao gã ta có thể ưng chiếc nghiên này được cơ chứ?

Ông giám đốc bảo tàng lặng lẽ quay đầu lên, không dám dương dương tự đắc nữa, không thấy sắc mặt của gã chủ tiệm tệ lắm đấy ư? Chắc chắn là vì năm món đồ sưu tầm đó không mở bán cho giới tư nhân nên gã có chút mất hứng...

Sắc mặt của gã chủ tiệm quả thực không tốt, nhưng nguyên nhân tuyệt đối không như ông giám đốc bảo tàng nghĩ.

Lục Tử Cương ngồi ở ghế ngoài cùng, nhưng cứ cố nhoài người về phía trước, thì thầm thỉnh giáo giáo sư Đường ở hàng ghế trên. Giáo sư Đường vốn thích làm thầy kẻ khác, lúc này lại không phải màn đấu giá của món đồ mà bảo tàng nhắm trúng nên vui vẻ giải đáp, nhưng sao càng giải đáp càng thấy đồng chí Tiểu Lục này chẳng có chút kiến thức căn bản gì cả? Đến nghiên đất nung có mấy lỗ cũng không biết. Lục Tử Cương tất nhiên không đến mức gà mờ như thế, nhưng nếu anh không tìm chủ đề nào đó để bắt chuyện, chắc anh sẽ bị ánh mắt của anh bác sĩ ngồi cạnh gã chủ tiệm xuyên thủng mất! Dù anh biết rõ ánh mắt ấy không phải dành cho anh!

Nhưng may mà tay thiếu gia họ Hồ kia ngồi cách xa anh nhất, theo Lục Tử Cương thấy, tay thiếu gia họ Hồ đó là nhân vật còn nguy hiểm hơn gã chủ tiệm hàng nghìn hàng vạn lần.

Có điều, tay Hồ thiếu gia ngạo mạn này hôm nay sao ngoan ngoãn thế nhỉ! Một câu cũng không nói, thật kỳ lạ...

4

"Tề vương điện hạ!". Gã tính lại sau một phút lơ đãng, đột nhiên phát hiện ra mình đang đứng ở trên tường thành, cách đó không xa đội quân của gã đang đuổi đánh lẫn nhau. Đương nhiên, đây chỉ là đánh trận giả chứ không giết thật, bởi đây không phải chiến trường, chỉ là tập trận thường ngày.

Gã từ từ nhắm mắt, không mở ra để xác nhận khung cảnh trước mặt bây giờ không phải ảo giác, dám chắc quá nửa gã lại đang nằm mơ.

"Tề vương điện hạ, những lời thuộc hạ tâu lên người hôm nọ, điện hạ đã có phán quyết chưa ạ?", giọng nói đang lải nhải bên tai gã lúc này, gã từng nghe thấy trước đây không lâu, nên không cần quay đầu lại xác nhận cũng biết người đang đứng sau lưng chính là tay biện sĩ Khoái Triệt.

Gã một tay cầm cờ lệnh, một tay gõ chầm chậm lên bức tường thành xanh xám. Tại sao cứ liên tục hồi tưởng về sự việc xảy ra vào thời điểm này?

"Chim đã bay thì cất cung tốt, thỏ đã chết thì giết chó săn, dịch đã tan thì hại công thần. Hán vương cũng không phải người bao dung độ lượng, xin điện hạ suy xét!". Khoái Triệt lời nói nghiêm túc, thành tâm khuyên nhủ.

Gã giơ cờ lệnh lên cao, vẫy vẫy mấy cái, tiếng trống quân liền nổi lên từng hồi dài ngắn khác nhau, các binh sĩ dưới chân thành nghe lệnh liền dừng lại, nhanh chóng thay đổi thế trận một cách ngay ngắn.

"Điện hạ, trong mắt đế vương, công thần sinh ra đã có tội, ai lại để cho công thần có năng lực làm phản cơ chứ? Các bậc đế vương đề phòng công thần như phòng kẻ trộm, không có ngoại lệ". Khoái Triệt thật lòng không hiểu nổi tại sao vị Tề vương này lại trung thành một cách ngu muội đến thế? Vương hầu khanh tướng đâu phải sinh ra đã vậy, nếu đổi vị trí cho nhau, Khoái Triệt hắn cũng có tinh binh cường tướng không kém gì, công lao cái thế như vậy, hoàn toàn có thể khai chiến một trận.

"Không có ngoại lệ...ư....". Gã lẩm nhẩm trong miệng, người gã nghĩ tới trong lòng không phải Lưu Bang, mà là một người khác.

"Tất Chi..".

Gã chủ tiệm mở mắt, phát hiện xung quanh tiếng người đấu giá huyên náo, gã mất một phút định thần lại mới nhận ra đang tham gia buổi đấu giá thì đánh mất thần trí.

"Tất Chi? Ngươi sao thế?". Phù Tô ngồi bên cạnh hỏi han quan tâm, thậm chí còn định đưa tay ra sờ trán gã chủ tiệm xem có bị sốt không.

Gã chủ tiệm lạnh lùng chặn tay Phù Tô lại, điềm tĩnh lắc đầu, cũng không giải thích gì thêm.

Liên tục mơ về việc cũ, chẳng lẽ gã vì lo việc thu hồi lại vật ấy mà loạn trí rồi sao?

Nếu không tính đến sự gián đoạn xảy ra ở chỗ gã chủ tiệm, buổi đấu giá diễn ra trôi chảy, thuận lợi cho đến hết món đồ sưu tầm thứ mười, cả dãy ghế của họ không một ai giơ bảng ra giá. Trong mắt những người khác, chuyện này lại là bình thường không thể bình thường hơn, bốn người ở hàng ghế này, vị nào cũng chỉ tầm ngoài hai mươi tuổi, nhìn qua là biết đến xem cho vui.

Đương nhiên, Lục Tử Cương đúng là chỉ đến cho đủ số lượng, nhưng những người kia thì không. Gã chủ tiệm vốn không coi mấy món đồ cổ sưu tầm này ra gì, Phù Tô là nhân vật thâm sâu khó lường không biết chủ ý ra sao, còn Hồ Hợi lại yêu cầu cao, những món đồ cổ không có chút linh khí nào này đối với hắn chẳng đáng một xu.

Chú thỏ bông mang linh hồn bác sĩ đã sớm không còn ngoan ngoãn nằm trong túi áo của gã chủ tiệm mà lén ló đầu ra ngoài. Nhưng anh không hề nhìn về phía mấy món đồ đấu giá trên sân khấu, mà nhìn chằm chằm vào Phù Tô đang ngồi sát bên.

Nói một cách chính xác, anh đang nhìn chằm chằm vào thân xác của chính mình.

Mặc dù không chấp tay trộm "chim câu chiếm tổ ác là" này, nhưng bác sĩ cũng không thể không thừa nhận rằng khí chất của tay này khác hẳn so với anh.

Khoác trên người cả bộ đồ hàng hiệu, nhìn qua đủ biết điều kiện hơn người. Khó có thể không chú ý đến khí chất ngút trời toát lên trên khuôn mặt không đeo kính ấy, nhưng hắn rất giỏi kiềm chế, không cố ý khoe khoang, chỉ lẳng lặng ngồi ở đó, tư thế sang trọng như bậc bề trên.

Lại hồi tưởng về bản thân mình ngày trước, đúng là hai con người hoàn toàn trái ngược! Tâm trạng bác sĩ trở nên buồn bã tột độ, ánh mắt càng lúc càng đong đầy thù hận.

Đương nhiên, cho dù ánh mắt chú thỏ bông có căm phẫn đến mức nào đi chăng nữa, thì trông cũng rất đáng yêu. Hai chiếc tai dài của bác sĩ cụp xuống, thề rằng khi về tiệm sẽ đòi gã chủ tiệm thay cho anh ta thân xác một chú hổ bông, không thì cũng phải là khủng long T-Rex! Này, thực ra rô bốt siêu nhân Gundam cũng được đó...

Suy nghĩ của bác sĩ cũng chẳng có tác dụng gì, bởi Phù Tô còn chẳng thèm liếc nhìn anh đến nửa cái, hoàn toàn không coi đối thủ này ra gì.

Trong lúc đợi MC tuyên bố món đồ đấu giá tiếp theo, ông giám đốc bảo tàng vốn tinh thần thoải mái thong thả lúc nào bỗng ngồi thẳng dậy, giáo sư Đường cũng không thèm để ý đến mấy câu hỏi kiến thức căn bản của Lục Tử Cương nữa, nắm chặt tờ giấy mời trong tay. Mặt sau giấy mời của mỗi người đều có ghi số, lúc ra giá chỉ cần giơ trực tiếp giấy mời lên là được.

Năm món đồ sưu tầm còn lại đều đã định trước chỉ dành cho các bảo tàng, chỉ những ai có mã số đặc biệt trong tay mới có thể ra giá, vì vậy bầu không khí không còn huyên náo như trước, hơn nữa còn diễn ra rất nhanh, hiển nhiên là đại diện của các viện bảo tàng đều đã ngầm thương lượng từ trước. Ông giám đốc bảo tàng mang về cho mình bộ chén men xanh khắc hoa cổ mà ông đã nhắm trúng từ trước, giáo sư Đường thu về một bức "Càn Long hoàng đế thích hổ đồ" do Lang Thế Ninh đời Thanh vẽ, ba món đồ còn lại cũng lần lượt được ngã giá.

MC chỉ nói mấy câu bế mạc đơn giản, buổi đấu giá kết thúc. Những người đấu giá thành công cầm thiệp mời tới gặp người phụ trách để đổi đồ, những người khác lần lượt ra về, chẳng mấy chốc hội trường đã vắng bóng người. Giáo sư Đường và ông giám đốc bảo tàng vẫn chưa đứng dậy, họ muốn tuân theo quy trình chính thức nên hẳn không vội vã. Giáo sư Đường vừa nói gì đó, ánh mắt bỗng dừng lại ở một điểm, hai mày chau lại.

"Ơ? Kia không phải là cậu Trần ư? Sao cậu ta lại đến phòng nghỉ nhỉ?". Ông giám đốc bảo tàng cũng phát hiện ra chuyện lạ này, phòng nghỉ nằm kế bên hội trường, buổi đấu giá này, hậu nhân của ông lớn giới sưu tầm đồ cổ quá cố cũng tới rồi, chỉ là chưa xuất hiện mà thôi.

Lục Tử Cương tròn xoe mắt, người mà hai ông nhắc đến anh cũng quen, chính là Trần Diểu, người đang nắm giữ một bảo tàng tư nhân. Lục Tử Cương đâu phải chàng ngốc, lao tới nói nhỏ vào tai giáo sư Đường: "Ở buổi đấu giá, người này không ra giá một lần nào, anh ta rất có thực lực, không thể về tay không được". Lục Tử Cương quan sát tỉ mỉ như vậy cũng vì lúc nãy anh quá rảnh rỗi. Hơn nữa ở đây, ngoài gã chủ tiệm và mấy người này ra, anh chỉ quen đúng một người.

Lúc này gã chủ tiệm đang ngồi cạnh Lục Tử Cương bỗng đứng phắt dậy, đi qua mặt anh, đi thẳng về phía phòng nghỉ mà Trần Diểu đang đi vào. Đương nhiên, gã chủ tiệm vừa đi, Phù Tô và Hồ Hợi ngồi bên cũng đồng loạt đi theo.

Ông giám đốc bảo tàng gõ cây ba toong xuống đất, giận dữ nói: "Hỏng bét! Chủ nhà này chắc chắn còn đồ cất ở đáy rương không mang ra đấu giá!", nói xong liền đứng dậy, tập tễnh đuổi theo gã chủ tiệm. Giáo sư Đường chắc chắn cũng không để mình tụt lại phía sau, lập tức đuổi theo. Lục Tử Cương thấy trong lòng bứt rứt không yên, vốn dĩ mình Trần Diểu đi không ai để ý, còn họ tận sáu người rầm rập tiến đến, chắc chắn sẽ khiến mọi người chú ý. May mà lúc này mọi người trong hội trường đã ra về gần hết rồi, nên cũng không gây ra sóng gió gì lớn.

Phòng nghỉ thực ra không nhỏ, sau khi mở cửa, bên trong rộng cỡ tầm một phòng họp, còn có một chiếc bàn dài. Trần Điểu vốn đang bí mật tận hưởng nhãn quan độc đáo của mình, đang làm quen với một cô gái trong phòng nghỉ, bỗng phát hiện cửa mở, có năm người đang lần lượt tiến vào.

"Hay lắm! Anh Trần, anh muốn ăn mảnh hả? Bị chúng tôi bắt quả tang rồi nhá!". Ông giám đốc bảo tàng cười nhăn nhở, đắc ý ngồi đối diện với Trần Diểu.

Trần Diểu cười gượng, gãi gãi mũi, than thở rằng: "Tôi đây cũng đâu có biết còn đồ không đem ra bán mà! Thế nên mới tới hỏi".

"Là đồ gì vậy?" Giáo sư Đường sau khi ngồi xuống, cũng cảm thấy rất tò mò. Nhưng ông ta suy nghĩ rất chu toàn, lịch sự đưa danh thiếp cho cô gái kia trước, trao đổi danh tính.

Cô gái này họ Trương, không phải hậu nhân của ông lớn giới sưu tầm đồ cổ quá cố, mà là một luật sư. Cô ta khoảng hơn ba mươi tuổi, mặt trái xoan, dáng vẻ chững chạc. Trần Diểu nghe vậy liền xị mặt ra, anh ta nói chuyện với cô luật sư kia cũng không được việc gì, anh ta còn tưởng đấy là hậu nhân của ông lớn chủ bộ sưu tập đồ cổ quá cố đó! Xem ra đối phương không chịu lộ mặt rồi.

"Ơ? Trông nét mặt anh kìa, rốt cuộc là đồ gì vậy?" Ông giám đốc bảo tàng cũng bắt đầu nổi hứng, bọn họ đều đã từng nhìn qua rất nhiều đồ cổ, thứ có thể khiến con người như Trần Diểu thất vọng đến mức như vậy, rốt cuộc là thứ đồ cổ gì? "Chắc không phải quyển nhạc phổ cổ "Cao sơn lưu thủy" nào đó chứ?". Ông giám đốc hỏi đùa, bởi Trần Diểu vốn mê mẩn các loại sách cổ, đương nhiên cầm phổ cũng thuộc số đó.

Lúc họ đang tán gẫu với nhau, cô luật sư Trương đã đứng dậy đi về phía nhóm người gã chủ tiệm để trao danh thiếp, đây đều là nghi thức giao tiếp xã hội, bọn họ đều không mấy để ý.

Trần Diểu day day mặt, lấy lại bình tĩnh, than rằng: "Đó là một tấm Miễn Tử Bài".

"Miễn Tử Bài?". Cả giám đốc bảo tàng lẫn giáo sư Đường đều đồng thanh thốt lên.

Miễn Tử Bài là cách nói dân gian của tầng lớp dân thường, đúng ra phải gọi là "đan thư thiết khoán" hoặc "đan thư thiết khế", là tín vật vua chúa ngày xưa ban cho công thần để hưởng đãi ngộ đời đời hoặc để miễn tội. Vì dùng mực đỏ viết chữ (đan thư) lên trên tấm thẻ sắt (thiết khoán) nên mới gọi là "đan thư thiết khoán". Hơn nữa để chống giả mạo, người ta cắt tấm thẻ làm đôi, triều đình và chư hầu mỗi bên giữ một nửa. Lệnh bài xuất hiện sớm nhất từ thời Hán Cao Tổ Lưu Bang, các đời vua về sau tiếp tục duy trì, dần trở thành một loại tặng phẩm thưởng cho các công thần và chư hầu. Trong nhạc kịch, huyền kỳ, tiểu thuyết dân gian cũng nhiều lần mô tả, bởi tấm thẻ bài này có quyền miễn tội chết nên tục gọi là Miễn Tử Bài.

Tuy rằng trong lịch sử có vô số Miễn Tử Bài được phân phát, nhưng theo năm tháng, những chiếc Miễn Tử Bài này hoặc bị vỡ, hoặc bị thất truyền, hoặc sau khi sử dụng bị hoàng thất thu hồi, vì vậy những chiếc còn lưu truyền lại không nhiều. Đến nay chiếc Miễn Tử Bài có niên đại sớm nhất là chiếc lệnh bài sắt của vua Tiền Lưu nước Ngô Việt thời Ngũ Đại.

Nghĩ đến đây, giáo sư Đường không khỏi đắc ý, bởi chiếc Miễn Tử Bài của vua Tiền Lưu hiện đang nằm trong viện bảo tàng quốc gia. Ông ta liền nói bằng giọng điệu huênh hoang: "Chiếc thẻ bài "đan thư thiết khế" này dùng chữ bạc vào thời nhà Lương, đến thời Tùy dùng chữ làm bằng vàng, thời Minh phỏng theo thời Đường mà làm. Anh Trần, anh từng nhìn qua tấm Miễn Tử Bài đó chưa? Hình dáng thế nào?"

Lục Tử Cương dành nửa tâm trí nghe họ nói chuyện, một nửa tâm trí đang chú ý đến động tĩnh của gã chủ tiệm. Anh thấy cô luật sư Trương lấy ra một tập hồ sơ đưa cho chủ tiệm, gã xem qua một lượt rồi gật đầu. Họ đang làm gì vậy? Lục Tử Cương không dám đánh động, hai mắt cố căng ra theo dõi đến muốn lồi cả ra.

Lúc ấy anh ta nghe thấy Trần Diểu thấp giọng hỏi một cách thần bí: "Đan thư thiết khế có từ đời nào?"

Giám đốc bảo tàng cười nói: "Hay cho Trần Diểu nhà anh, lại còn muốn thử chúng tôi. Trong "Hán thư" có ghi chép, sau khi Hán Cao Tổ Lưu Bang đăng cơ, "lại cùng công thần cắt thẻ làm tin, ban đan thư thiết khế, rương vàng phòng đá, cất giữ ở trong tông miếu". Cụm từ "đan thư thiết khế" bắt nguồn từ đó. Chỉ là về sau người đời hay gọi là "khoán"".

Trần Diểu gật gù, nét mặt ánh lên sắc khí thâm sâu khó lường, chậm rãi nói: "Tuy tôi chưa từng được nhìn thấy tấm Miễn Tử Bài của ông lớn chủ bộ sưu tập đồ cổ, nhưng tôi từng được một người bạn kể cho nghe, tấm thẻ Miễn Tử Bài đó chính là "đan thư thiết khế"".

"Thật không?", ông giám đốc và giáo sư Đường đều giật mình, lắc đầu không tin.

Tấm "đan thư thiết khế" thật, chính là một trong những chiếc được Lưu Bang đích thân ban thưởng, cách bây giờ cũng đã hơn hai nghìn năm, về căn bản là không thể tồn tại được. Khi Lưu Bang đại sát công thần, ngay cả hậu nhân của những công thần ấy cũng không còn thì sao có thể truyền lại được? Vụ làm giả này đến Lục Tử Cương cũng không tin, nhưng lúc này anh nhìn về phía kia của phòng nghỉ, cô luật sư Trương kia lấy ra một chiếc hộp gấm, đưa cho gã chủ tiệm. Sau khi gã chủ tiệm mở hộp xác nhận xong liền ký vào bản hồ sơ. Lục Tử Cương cảm thấy sợ hãi, bởi từ góc nhìn của anh ta vừa khéo có thể thấy được nằm lù lù bên trong hộp gấm là một miếng sắt có hoa văn đã rỉ sét.

Không đời nào... lộ liễu như vậy chứ...

Lục Tử Cương há hốc miệng, đến khi anh ta định thần lại thì thấy ba người trong đó có gã chủ tiệm đã rời khỏi phòng nghỉ, luật sư Trương ngồi cạnh ông giám đốc bảo tàng, mỉm cười nghe họ tranh luận không ngớt. Lục Tử Cương mở miệng định nói lại thôi. Thôi coi như anh ta.chưa thấy gì, hơn nữa gã chủ tiệm bọn họ rời đi đồng nghĩa với rắc rối cũng rời đi.

Chỉ là anh thật sự rất tò mò, tấm thẻ sắt trong hộp gấm đó liệu có phải Miễn Tử Bài trong truyền thuyết hay không? Lục Tử Cương tò mò đến xoắn xít tâm can.

5

Trên tường thành xa xa, lá cờ gắn lông chim bay phấp phới trong gió, quan binh và dân chúng đứng đầy hai bên đường nghênh đón gã trở về. Gã ngồi thẳng trên lưng ngựa, trong nhịp đi rung lắc, gã quan sát tỉ mỉ trang phục của đám quan binh và dân chúng, mới nhận ra hiện tại là khung cảnh năm đó gã tiến vào thành Hàm Dương dự lễ đăng cơ của Lưu Bang. Áo giáp mũ trụ của quan binh cũng khá chỉnh tề, nhưng vũ khí trên tay người có người không, dân chúng tuy ăn mặc sạch sẽ, nhưng sau khi trải qua cuộc sống bấp bênh do sự bạo ngược của Tần Nhị Thế và thế sự chiến loạn gây ra, ai cũng gầy gò vàng vọt.

Nhưng trong mắt họ ánh lên những tia sáng lấp lánh, đó chính là niềm hy vọng vào cuộc sống hòa bình ổn định.

Mặc dù đã rất lâu rồi gã chưa phải trải qua thời kỳ loạn thế, nhưng khi nhìn thấy những ánh mắt tràn đầy kỳ vọng này, gã không khỏi bồi bồi xúc động.

Nhưng lòng nhiệt huyết này, trong chớp mắt đã nguội lạnh, bởi gã biết rằng, đây là khung cảnh của hơn hai nghìn năm trước.

Đoàn ngựa lần lượt tiến về phía trước trên con đường lớn, trước khi tiến vào trong cổng thành không xa, có một người từ trong đám quần thần thong thả đi tới. Người này để ria dài, mũi cao thanh tú, trán hơi dô, nhiều năm trước từng được lọt vào mắt xanh phụ thân của Lã Hậu, được khen là có tướng mặt rồng.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Gã vội bước xuống ngựa, chẳng còn cách nào nhớ ra tâm trạng của mình lúc ấy như nào, chỉ biết tuân theo Chu lễ hành lễ quỳ bái.

Đương nhiên, đây chỉ là hành động nể mặt đối phương trước toàn thể dân chúng quần thần, chứ cho dù người trước mặt đã đăng cơ cũng không nhận nổi của gã một lạy.

Quả nhiên Lưu Bang vội vã chạy lên trước, đỡ lấy cánh tay gã, cười lớn rồi dẫn gã vào trong đại điện.

Đám công thần xúm quanh gã tất thảy đều không có sự tự giác của bậc thần tử, kẻ tùy tiện cười nói, kẻ gân cổ lớn tiếng, kẻ thì thậm thụt nói chuyện riêng. Ánh mắt gã lạnh lùng bàng quan, phát hiện ra nụ cười trên môi Lưu Bang cũng có phần gượng gạo, hiển nhiên trong lòng bất mãn tột độ với việc này, chỉ là vẫn cố che giấu chưa bộc phát ra thôi.

Không biết bắt đầu từ khi nào nghi thức đăng cơ lại trở nên mông lung, hư ảo, âm thanh xung quanh cũng hỗn độn, mơ hồ, gã đứng đó mà đầu óc mơ màng như ngớ ngẩn, không biết bản thân đang mơ hay đây chính là hiện thực.

Gã đã từng vô số lần mơ tới cảnh tượng này, nhưng bây giờ, kẻ đứng trên thềm son kia lại không phải là người mà gã mong đợi.

Cũng không biết thời gian đã trôi được bao lâu, bỗng có một câu nói truyền tới tai hắn vô cùng rõ ràng. "Thiên hạ đã định, lệnh cho Tiêu Hà sắp luật lệnh, Hàn Tín chỉnh quân phép, Trương Thương đặt chương trình, Thúc Tôn Thông chế thống lễ nghi, Lục Giả soạn "Tân Ngữ"". Giọng của hoàng môn lệnh thật đanh thép, mỗi khi từng cái tên ấy được xướng lên, người có tên đó liền bước ra hàng, đứng khom mình cúi đầu dưới thềm son. Gã cũng như một con rối, đứng sau lưng Tiêu Hà.

(Hoàng môn lệnh: một chức quan thời nhà Hán)

Gã năm ấy rốt cuộc vì lý do gì lại quyết định bỏ đi? Rõ ràng lúc mới bắt đầu gã còn rất muốn làm điều gì đó thiết thực cho những người dân lưu lạc mất nhà mất cửa kia cơ mà.

Ký ức có chút hỗn loạn, gã cúi đầu suy nghĩ, bỗng thấy tay nặng nặng, một miếng sắt có ghi chữ đỏ bằng chu sa rơi vào lòng bàn tay gã.

""Bệ hạ cắt thẻ làm tin, ban đan thư thiết khế, đặt trong rương vàng phòng đá, cất trong tông miếu..."

Gã từ từ nhắm mắt lại.

Đúng vậy, chính là bắt đầu từ lúc ấy...

Gã chủ tiệm bưng hộp gấm trên tay, nhìn dòng người qua lại trong sảnh lớn khách sạn, không khỏi bồi hồi mà thở dài một tiếng.

Xem ra thứ này có ý nghĩa với gã hơn gã tưởng tượng.

Gã chủ tiệm ngoảnh lại, nhìn chằm chằm Phù Tô đang đi bên cạnh gã từ nãy.

Đây kỳ thực là một góc độ kỳ quái, bởi trong ký ức xa xôi ấy, người luôn đuổi theo sau lưng của đối phương là gã, trước giờ luôn tuân thủ đạo quân thần, chủ động lùi ra sau nửa bước.

Từ trước tới giờ chưa từng có chuyện đứng ngang hàng như này xảy ra.

Gã chủ tiệm không khỏi có chút thất thần, nhưng gã nhanh chóng lấy lại thần sắc, ung dung nói: "Thứ này vốn thuộc về thần, thần chỉ lấy lại mà thôi".

Ánh mắt Phù Tô chợt lóe lên, năm ngoái khi hai người gặp lại nhau, hắn từng nghe gã chủ tiệm nhắc tới chuyện năm đó, nghe giọng liền đoán ra lai lịch của tấm Miễn Tử Bài này. Chính là tấm "đan thư thiết khế"cho chính tay Lưu Bang ban cho Hàn Tín ư?

Tuy Phù Tô chưa cất lời, nhưng gã chủ tiệm đã hiểu được nghi vấn trong lòng hắn, liền gật đầu xác nhận: "Không sai, chính là thẻ bài do Lưu Bang làm ra. Năm đó đan thư thiết khế của các vị vương hầu khác không có tác dụng đặc xá tội chết, riêng chiếc ban cho thần mới có. Thần sớm biết hắn đã hận thần lâu lắm rồi".

"Nếu là ta, chắc chắn sẽ không đối đãi với ngươi như vậy". Phù Tô than thở đầy tiếc nuối.

Gã chủ tiệm bặm môi, lần này gã không thốt nên lời. Tấm Miễn Tử Bài trong tay gã, cũng thuộc số đồ cổ của đế vương. Nhưng thứ đồ cổ này lại tượng trưng cho sự phản bội của bậc đế vương.

Lời hứa của bậc đế vương, trước nay đều là một tờ giấy trắng, cho dù có dùng loại sắt bền nhất đúc thành, cũng sẽ dễ dàng bị phá hủy.

Người đời vẫn nói, huynh đệ có thể chung hoạn nạn, nhưng không thể cùng hưởng phúc. Năm ấy, khi tấm đan thư thiết khế này được ban thưởng, nó còn mới tinh, bóng loáng, thanh đồ đao của Lưu Bang đã giáng xuống.

Vì vậy sau này "đan thư thiết khế" không còn được gọi là một loại khế ước mang tính chất trói buộc hai bên, mà dùng chữ "khoán" thay cho "khế", mang ý giao dịch một chiều nhiều hơn.

Còn sự phản bội của bậc đế vương, thực ra không hẳn là "phản", mà là "bội".

Đáng sợ nhất là loại người ngoài mặt lúc nào cũng niềm nở đon đả, nhưng thực ra đang ngấm ngầm mài đao sắc.

Lưu Bang ban cho mỗi vị công thần nửa tấm đan thư thiết khế, sau đó lưu lại cho mình một nửa còn lại, cất giữ trong rương vàng ở phòng đá. Ngoài mặt thể hiện sự hòa mục không đổi, nhưng thực chất không khác nào xương cá mắc họng, chực đợi sau khi nước nhà an định, sẽ lần lượt ra tay trừ khử từng cái tên ghi trên tấm Miễn Tử Bài kia.

Tấm thẻ này cán bản không phải miễn tội chết, mà là ép phải chết.

Có lẽ năm đó gã còn quá trẻ, tuy đã sớm nhìn ra bản chất của Lưu Bang, vốn định rời đi, nhưng lại không đành lòng. Tấm Miễn Tử Bài trong tay gã, tuy trong những năm tháng dài đằng đẵng của cuộc đời mình, gã có thể vô số lần đem nó về tiệm Á Xá, nhưng gã cứ cố tình làm ngơ, cho đến ngày hôm nay bất đắc dĩ phải thu về.

Gã chủ tiệm không muốn nghĩ xem ẩn đằng sau câu nói này của Phù Tô còn có thâm ý gì khác, gã cảm thấy chú thỏ bông trong túi áo đang ngọ nguậy chỉ chực trèo ra ngoài, gã chủ tiệm liền lấy tay ấn bác sĩ vào lại túi áo, mặt điềm nhiên như không, lạnh lùng nói: "Thần đi trước đây".

Phù Tô cũng không nói gì, thấy gã ăn mặc phong phanh, liền gỡ chiếc khăn len cashmere đang quấn ở cổ, tận tình quấn cho gã. Ánh mắt Phù Tô dồn vào chiếc áo khoác nỉ xám trên người gã chủ tiệm, phát hiện ra đây chính là chiếc áo hắn mặc năm ngoái khi sống nhờ tại Á Xá, nụ cười trên gương mặt anh tuấn càng thêm sâu xa.

Gã chủ tiệm mấp máy môi, nhưng rồi cũng không nói lời nào, cũng không cự tuyệt ý tốt của đối phương, lặng lẽ ra về.

Hồ Hợi nắm chặt hai bàn tay, cuối cũng không nhẫn nhịn nổi mà tiến lên trước vài bước: "Hoàng huynh, tấm Miễn Tử Bài đó không phải cũng là đồ cổ của đế vương ư? Sao lại để gã dễ dàng mang đi như thế?" Hôm nay Hồ Hợi đến, hắn còn tưởng hoàng huynh cuối cùng cũng chịu ra tay ngăn chặn kế hoạch của gã chủ tiệm, cuối cùng hoàng huynh lại không làm gì cả.

Phù Tô hơi nhếch mép, trả lời như không có chuyện gì: "Nếu đệ rất muốn một thứ gì đó, vậy thì cứ để nó ra đi, đợi khi nó quay lại tìm đệ, nó sẽ mãi mãi nằm gọn trong lòng bàn tay đệ".

".........."

Quyển 3 - Chương 11: Thanh Trấn Khuê

1

Phù Tô nhìn đăm đăm vào cuốn sách tre trên tay, nhưng tâm trí lại không đặt vào đó.

Hắn một lần nữa ngước lên trông ra phía ngoài cửa điện không chút động tĩnh, cố gắng trấn áp những cảm xúc thăng trầm của bản thân.

Hôm nay, chính là ngày cậu thiếu niên đó đến tấn kiến hắn.

Tuy phụ vương không nói gì, nhưng Phù Tô hiểu rõ, đây là nhân tài mà phụ vương đã chọn lựa kỹ lưỡng, chuẩn bị để dành riêng cho hắn.

Chỉ có điều đã phong cho cậu thiếu niên đó chức Thượng khanh, nhưng chẳng nói chẳng rằng đuổi cậu ta tới đây làm hầu đọc cho hắn, kiểu giày vò lúc nâng lên cao khi hạ xuống thấp như này, khó đảm bảo rằng cậu ta sẽ không oán trách gì.

Phù Tô cúi đầu, vò vò cuộn sách tre trong tay, nhẹ cong môi cười.

Đúng vậy, đây lại là một phép thử của phụ vương, nếu hắn có thể thu phục được cậu thiếu niên này, như vậy hắn sẽ có thêm một cánh tay đắc lực. Nếu không thể thu phục, phụ vương ắt sẽ cho rằng hắn không có năng lực thừa kế ngôi vị. Nếu làm vua, vậy chắc chắn phải có khả năng kiểm soát thần tử, nếu không sao lại được gọi là "vua" cơ chứ?

Phải biết rằng, hoàng đệ luôn chú ý đến hắn.

"Công tử, Cam thượng khanh đến". Tiếng thông báo trầm ấm của nội thị Cố Tồn truyền vào từ phía ngoài cửa điện.

Trước khi nghe thấy Cố Tồn bẩm báo, Phù Tô không hề nghe thấy tiếng sột soạt của tay áo, chứng tỏ Cố Tồn đã đứng ở ngoài khá lâu, cố tình thông báo chậm trễ.

Hay lắm, không hổ danh là nội thị theo hầu hắn từ nhỏ, hoàn toàn lĩnh hội được tâm ý của hắn. Phù Tô khép hờ mắt, giấu đi nụ cười nơi đáy mắt. Hắn buộc lại cuốn sách tre, kéo tay áo với tay lấy một cây bút lông do Mông tướng quân tặng, chấm một ít mực, nâng cổ tay, viết lên trên thẻ tre.

Không cứng ngắc, rin rít như khi dùng thanh tre chấm dầu đen viết chữ, viết chữ bằng cây bút làm từ lông thỏ này trơn tru như nước chảy, Phù Tô đã dự cảm thấy rằng loại bút lông này sẽ dấy lên làn sóng cải cách mạnh mẽ như thế nào trong lịch sử thư pháp. Bút thể mà hắn hiện dùng, nét chữ đã không còn thô đều một lượt như Triện thể, mà biến hóa uyển chuyển dựa theo thế di chuyển của ngòi bút.

Phù Tô cảm thấy trong lòng thư thái, viết liền vài câu trong thiên "Đại Tông Bá" trích sách "Chu lễ", chậm rãi nói: "Tuyên".

"Rõ". Cố Tốn đứng ngoài cửa điện nghe thấy liền đi.

Không lâu sau, Phù Tô nghe thấy tiếng ngọc bội va vào nhau leng keng vọng vào từ ngoài điện.

Trong thiên "Kinh giải" sách "Lễ ký" có nói: Bước đi ắt có tiếng ngọc bội, lên xe ắt có âm lục lạc. Người quân tử có thân phận phải đeo ngọc bội, nghe tiếng ngọc leng keng ngoài điện vang vọng từ xa đến gần, có thể nghe ra người đang đi không thong thả cũng chẳng vội vã, hiển nhiên không vì phải đợi chờ quá lâu mà có vẻ đang không có bất kỳ chút thiếu kiên nhẫn nào.

Phù Tô ngừng bút, nhưng không vội bỏ xuống, cho dù kẻ đó đã bước vào trong điện, hành lễ vái chào với hắn, hắn cũng không mảy may phản ứng.

Âm thanh trong điện cũng lắng lại theo kẻ mới đến, trở nên tĩnh lặng, ngọc bội không còn vang lên tiếng leng keng, Phù Tô chỉ nghe thấy tiếng thở đều đều của đối phương, hắn điềm tĩnh viết tiếp cuốn sách tre.

Hay lắm, hắn thích nhất là người thông minh.

Mãi đến khi thẻ tre cuối cùng được viết đầy chữ, Phù Tô mới dừng bút, hài lòng ngắm nhìn nét chữ của chính mình, lúc này hắn mới từ từ ngẩng đầu lên.

Hình ảnh cậu thiếu niên đang đứng thẳng trong điện kia phản chiếu lên con mắt của hắn. Nói cậu ta là thiếu niên, kỳ thực vẫn chưa tới tầm ấy, chiều cao chỉ nhỉnh hơn đứa trẻ còn để tóc trái đào một chút, trông ra chỉ tầm tám, chín tuổi. Một thiếu niên còn chưa đến tuổi làm lễ buộc tóc lại khoác trên mình bộ quan phục sang trọng của bậc thượng khanh, khác nào đứa con nít lén mặc trộm quần áo của người lớn, thế nhưng cái mặt non choẹt búng ra sữa kia lại chứa đựng sự điềm tĩnh và kiêu ngạo, thật khiến người khác phải phì cười.

Phù Tô đưa tay vuốt vuốt lông mày, mượn động tác này để che đi nụ cười. Cậu thiếu niên này quả thực có thể kiêu ngạo, mới mười hai tuổi đã một mình đi sứ sang nước Triệu, giúp cho nước Tần không tốn một binh một tốt nào cũng có được đất Hà Gian. Năng lực này, cho dù có tự đề cao bản thân, hắn cũng không dám đảm bảo có thể thực hiện được.

"Ngồi đi". Phù Tô giơ tay chỉ chỉ vào chiếc án kỷ bên cạnh, cậu thiếu niên hơi cúi người, ngồi xuống không chút phản đối.

"Cam thượng khanh, nhà ngươi có điều gì bất mãn với ta chăng?" Phù Tô nhếch mép nhìn cậu thiếu niên, không hề khách khí hỏi thẳng. Tổ phụ của cậu thiếu niên là Cam Mậu, từng giữ chức Tả thừa tướng nước Tần, nhưng vì bị kẻ khác bài xích mà chạy khỏi Tần, sau chết ở Ngụy. Hắn rất muốn biết, cậu thiếu niên này cổ tình cảm như thế nào đối với nước Tần.

Hắn muốn làm rõ xem cậu thiếu niên này có thể thuần phục được hay không, nếu chỉ là con sói hoang không thể thuần phục, hắn sẽ không phí thời gian dạy dỗ.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người đen đủi hay nghèo khó sẽ đổi đời ngay lập tức nhờ điều này

"Thần không có gì bất mãn". Cậu thiếu niên cúi gằm đầu, vô cùng nghiêm túc, điềm tĩnh đáp lại.

"Vậy từ mai trở đi, hàng ngày vào giờ Mão, nhập cung hầu đọc, ngươi có ý kiến gì không?" Phù Tô nói chậm lại, thực ra hắn không hơn cậu thiếu niên này mấy tuổi, sau khi học lớp vỡ lòng, người có ảnh hưởng lớn nhất tới hắn tất nhiên chính là phụ vương, nên dù ở phương diện nào, hắn cũng vô tình hoặc cố ý mô phỏng theo người. Ví dụ như cách nói chậm rãi này, cũng là học từ phụ vương của hắn. Mặc dù giọng nói chưa đủ già dặn, nhưng lại có khí thế áp chế không thể diễn tả đối với người khác.

"Xin tuân theo ý chỉ của công tử". Cậu thiếu niên theo lệ nhận lệnh, nhưng không chút miễn cưỡng, thậm chí sau khi trả lời xong, cậu đứng dậy bước nhanh tới bên cạnh Phù Tô, cung kính nói rằng, "Thần có thể hầu đọc cho công tử luôn từ hôm nay, chữ của công tử thật đẹp". Câu nói thấm đẫm sự cung kính ấy của cậu ta mới tự nhiên làm sao, ngay sau đó cậu ta ngồi cạnh Phù Tô như thể đã rất thân thuộc, cầm cuốn sách tre lên, đọc cẩn thận, tỉ mỉ.

Hành động này của cậu thiếu niên khiến cho Phù Tô cứng họng, hắn vốn định thị uy vớỉ cậu ta, nhưng rõ ràng cậu ta ra dáng hơn hắn.

"Sách công tử vừa chép là trích từ thiên "Đại Tông Bá" sách "Chu lễ"". Cậu thiếu này quả nhiên học rộng nhớ lâu, chỉ xem mấy câu, đã đoán ra được nguồn dẫn, bỗng cậu ta chuyển chủ đề: "Có phải công tử đang cảm thán điều gì?"

Phù Tô ngẩng đầu, phát hiện cậu thiếu niên đang nhìn vào chiếc tủ sách sau lưng hắn. Phù Tô không cần quay đầu lại, cũng biết cậu thiếu niên này đang để ý đến thứ gì.

Nằm tĩnh lặng trong hộp gấm đặt trên tấm lụa đen tôn quý kia, chính là miếng ngọc Thanh Trấn Khuê.

"Dùng ngọc khuê xanh lễ phương đông". Cậu thiếu niên từ tốn đọc những chữ ghi trên sách tre bằng chất giọng trẻ con trong trẻo, "Chế ngọc thành lục thụy, dùng để an định quốc gia. Vua cầm Trấn Khuê. Trấn, tức là yên ổn, nhờ vậy tứ phương an định".

(Lục thụy chỉ sáu đồ tế lễ bằng ngọc, gồm bích, tông,khuê, hổ, chương, hoàng; đại diện cho tứ phương và trời đất. Trong đó khuê đạidiện cho phương đông)

Ngọc Trấn Khuê, phần đầu khắc theo hình dáng bốn ngọn núi lớn, ngọc cao hai tấc. Thiên tử khi đăng cơ tay cầm Trấn Khuê, dùng nó để an đinh tứ phương. Ngọc Trấn Khuê màu xanh, có thể coi là lễ khí đại diện cho thiên tử. Ánh mắt của cậu thiếu niên một lần nữa không thể kiềm chế mà chuyển từ cuốn sách tre sang miếng ngọc Thanh Trấn Khuê, cậu ta dường như có thể nhận ra chữ Triện khắc trên miếng ngọc Thanh Trấn Khuê, đây chính là miếng ngọc Trấn Khuê thiên tử đời đời lưu truyền từ thời nhà Chu.

(Mục "Thiên ti nhạc", thiên "Xuân quan", sách "Chu lễ" viết: "Phàm nhật nguyệt thực, tứ trấn ngũ nhạc băng". Trinh Huyền chú rằng: "Tứ trấn, là bốn ngọn núi lớn, tức núi cối Kê của Dương Châu, Nghi Sơn của Thanh Châu, Y Vô Lư của u Châu, Hoắc Sơn của Đới Châu".

Một tấc tương đương 20 centimet)

Sao một vật quan trọng như vậy, lại nằm ở chỗ công tử Phù Tô? Chả lẽ Tần vương có được nó, sau đó ban thưởng cho công tử chăng?

Cậu thiếu niên nghĩ tới đó, đôi mắt trong veo hơi nheo lại. Nói như vậy, Tần Vương đã có ý xác định người kế tục mình là ai?

Phù Tô không ngoái đầu lại, cũng không trông xem biểu cảm của cậu thiếu niên kia như nào. Miếng ngọc Thanh Trấn Khuê đó là hắn cố tình đặt ở đây, là để cho cậu thiếu niên thấy trong tương lai hắn sẽ danh chính ngôn thuận lên ngôi.

Tuy phụ vương đã ban Thanh Trấn Khuê cho hắn, nhưng xét cho cùng vẫn chỉ là một trong những phép thử của đế vương, ví dụ khiến cho các vị hoàng đệ của hắn ganh tức đến nổ đom đóm mắt, rồi tìm mọi cách chơi xấu hắn, nhưng điều này cũng không ngăn được hắn lợi dụng thứ đồ tế này, cáo mượn oai hùm một phen.

Phù Tô lại lấy ra một quyển sách tre trống, chậm rãi mở ra trên bàn, lại cầm cây bút lông thỏ lên, miệng hỏi: "Khuê là gì? Nghiệt là gì?"

(Cây nêu ngày xưa dùng đo bóng mặt trời để tính thời gian)

"Khuê giả, song thổ dã. Nghiệt giả, tự mộc dã. Dĩ thổ khuê thuỷ nghiệt chi pháp trắc thổ thâm, trắc nhật ảnh, chính tứ thời, dĩ cầu địa trung. Trần khuê trí nghiệt, chiêm tình quỹ địa, thử nãi lập quốc chi căn bản dã". Cậu thiếu niên sau khi ngẩn người ra một hồi, liền trả lời rành rọt. Khuê và Nghiệt xa xưa là hai đồ vật rất đỗi bình thường, nhưng hai thứ đồ vật này là hai dụng cụ cần thiết để đo lường đất đai, thời gian trước khi xây dựng thành trì. Lâu dần, chúng được nâng cấp thành đồ vật mang ý nghĩa tượng trưng cao quý, thậm chí còn có cách nói "ngọc khuê kim nghiệt".

(Chữ Khuê do hai bộ Thổ tạo thành, chữ Nghiệt do chữ Tự ghép với bộ Mộc tạo thành. Lấy phép thổ khuê thủy nguyệt để đo đất sâu, đo bóng nắng, làm rõ bốn mùa, tính toán vị trí. Bày khuê đặt nghiệt, xem sao đo đất đó là gốc rễ của việc lập quốc vậy)

Phù Tô bắt đầu đặt bút viết, không hề mảy may nghi hoặc cậu ta một dạ hai lòng, chỉ nghe theo cậu ta và hỏi tiếp: "Vậy khuê nghiệt là gì?"

Cậu thiếu niên lần này không trả lời ngay, bởi ý nghĩa của một từ không chỉ nằm ở vỏ ngoài mặt chữ, tỉ như "độ lượng", tỉ như "quyền hành", lại tỉ như "thằng mặc", vân vân. Cậu ta nhìn Phù Tô đang viết một cách nho nhã, lặng đi một khắc mới chậm rãi nói tiếp: "Pháp độ, quy tắc".

(Độ lượng vừa mang nghĩa đo lường độ dài ngắn, vừa mang nghĩa là bao dung. Quyền hành: quyền là quả cân, hành là cán cân, quyền hành còn có nghĩa phái sinh là quyền lực. Thằng mặc: thằng là dây thừng, m là mực, người xưa dùng dây thừng để đo chiều dài rồi dùng mực để đá dấu; nghĩa bóng là mực thước)

Phù Tô không chớp mắt lấy một cái, hỏi dồn: "Vậy pháp độ là gì? Quy tắc là gì? Là lời của vua cha? Là lời của kẻ trí? Hay là lời của thánh nhân?"

Cậu thiếu niên nghe vậy liền hốt hoảng, cậu vốn không ngờ sẽ bị hỏi vặn như vậy. Dẫu cho cậu có thể thao thao bất tuyệt cả nửa canh giờ về vấn đề này, nhưng cậu biết, điều công tử muốn, không phải những lời dông dài này.

Thấy bên cạnh hồi lâu không có tiếng trả lời, Phù Tô rất hài lòng về phản ứng của cậu thiếu niên, hắn vẫn không ngẩng đầu lên, chỉ nhẹ nhàng dặn dò: "Thượng khanh hôm nay hãy về trước, ngày mai giờ Mão, hãy đến đúng giờ".

Câu này nói ra nhẹ như mây bay, nhưng lại có uy lực khiến người khác không thể khước từ.

Cậu thiếu niên lúc này mới biết mình đã vượt quá giới hạn, lời công tử vừa nói đã chỉ rõ hôm nay cậu ta nhập cung để thử việc mà thôi, cậu hôm nay vẫn chưa có tư cách ngồi ờ đây. Cậu thấy mồ hôi mình toát ra nhễ nhại trong lớp áo lụa, cung kính khấu đầu cáo biệt.

Khi cậu thiếu niên quay bước đi ra khỏi điện, Phù Tô không hề ngẩng đầu lên. Đợi đến khi cuốn sách tre trên bàn được viết đến thẻ cuối cùng, Phù Tô mới gác bút, thở ra một hơi dài.

Có thể gieo rắc vào lòng đối phương một hạt giống mang tên "nghi hoặc", hôm nay hắn đã phát huy rất tốt.

Sớm muộn hạt giống này cũng sẽ mọc rễ, nhú mầm, cuối cùng sẽ phát triển thành một cái cây cao lớn chọc trời, sau này không cổ cách nào nhổ đi được.

Phù Tô xoa xoa chiếc cằm nhẵn nhụi, khí chất điềm tĩnh giả tạo trên gương mặt tuấn tú còn non nớt ấy bỗng chốc biến mất hoàn toàn, để lộ ra vẻ dương dương tự đắc.

Không phí công hắn tập luyện biết bao lần....

2

Phù Tô tuy đang xem tin tình báo việc quân, nhưng phân nửa sự chú ý của hắn vẫn đang dồn vào cậu thiếu niên đang chỉnh lý sách tre bên cạnh.

Cậu thiếu niên ngoài mặt cung kính, trong lòng lại kiêu ngạo này, đã trở thành hầu đọc của hắn được một quãng thời gian rồi. Càng tiếp xúc nhiều, Phù Tô càng kinh ngạc trước những kiến thức uyên bác của cậu ta, càng tò mò không biết cậu học được từ ai. Cứ nghĩ đến lời bàn tán xì xào trong cung gần đây, tuy hắn biết có kẻ rắp tâm tung tin đồn nhảm, nhưng trong lòng Phù Tô vẫn không thể thoải mái.

Nói cho cùng, tuổi hắn còn nhỏ, cũng chưa suy nghĩ sâu xa được như thế.

Huống hồ, nếu thực sự muốn biến một người trở thành tâm phúc của mình, thì không cần thiết phải che giấu suy nghĩ của mình trước mặt đối phương.

Chỉ có điều, biết mở lời như nào đây?

Phù Tô giả vờ lật giở cuốn tin báo việc quân, đây là tin cấp báo do ngựa chạy ngày đêm không ngưng nghỉ mang về dâng lên Tần vương Doanh Chính, Tần vương sẽ sai người sao chép lại một bản, bản đầu tiên gửi tới chỗ của hắn. Không phải mong chờ người còn chưa làm lễ buộc tóc như Phù Tô công tử có thể làm được điều gì hơn người, chỉ là muốn âm thầm bồi dưỡng khả năng chấp chính của hắn mà thôi.

Đúng lúc không kiềm nổi mà chuyển hướng mắt nhìn từ cuốn sách tre chép đầy chữ sang cậu thiếu niên đang ngồi bên cạnh mình, Phù Tô đột nhiên phát hiện cậu thiếu niên ấy cũng quay đầu sang, hai ánh mắt gặp nhau. Phù Tô cố gắng không để vì giật mình mà trốn tránh, nhìn lại cậu ta chằm chằm.

Khuôn mặt non nớt của cậu thiếu thiên giữ vẻ trầm tĩnh, cậu chỉ nhẹ nhàng hỏi: "Nếu công tử muốn hỏi về lời đồn đại ở trong cung thì cứ việc hỏi".

Cơ hội tốt như vậy, Phù Tô đúng là cầu còn chẳng được. Chàng đặt cuốn sách tre trong tay xuống, thấp giọng hỏi: "Ta nghe người ta đồn rằng ngươi từng là môn khách của tên tội đồ Lã Bất Vi, có chuyện này không?"

Cậu thiếu nhiên hơi nhếch môi, chậm rãi hỏi: "Công tử tin là thật? Lúc Lã tướng chết, thần được mấy tuổi? Làm gì có chuyện đến làm môn khách?"

Phù Tô tự biết rằng lời đồn đại này hết sức hoang đường, nhưng không có lửa làm sao có khói, hắn nhân cơ hội hỏi dồn về nghi vấn bấy lâu nay trong lòng mình: "Tổ phụ của khanh từng rời nước Tần, đất phong bị tịch thu, vậy... khanh sống ở đâu?" Phù Tô đắn đo từng câu từng chữ, chỉ sợ có điều mạo phạm.

Nhưng cho dù có cẩn thận đến đâu, cậu thiếu niên nghe vậy, nét mặt bỗng đanh lại. Hai tay đang buông dọc theo thân người nắm chặt lại, cậu cúi gằm mặt xuống, cố che giấu cảm xúc nơi đáy mắt. "Sau khi tổ phụ qua đời, nhà cửa họ Cam bị tịch thu, muôn đời không được phục hồi. Thần may mắn được sư phụ thu nhận dạy dỗ mới có ngày hôm nay".

"Sư phụ?" Phù Tô nhướn mày, không giấu diếm sự tò mò của mình về người sư phụ trong lờỉ kể của cậu thiếu niên. Có thể dạy dỗ một cậu bé trở thành thượng khanh của nước Tần, bản thân người này còn tài năng kinh người đến nhường nào?

Cậu thiếu niên bặm chặt môi như đang do dự chuyện gì, một lúc sau mới khó nhọc cất tiếng: "Sư phụ của thần... từng là môn khách của Lã tướng... chỉ là người tiêu diêu tự tại, luyện đan bốc thuốc mà thôi".

Phù Tô sững sờ, giờ hắn mới biết những lời đồn đại đó đúng là cũng có chút căn cứ. Lúc này hắn mới để ý, cậu thiếu niên này luôn miệng gọi Lã Bất Vi là Lã tướng, xem ra tuy không dây dưa trực tiếp, nhưng cậu ta tuyệt đối không phải hạng đạp thấp trèo cao. Nhìn thần sắc cậu thiếu niên không giấu nổi sự căng thẳng, Phù Tô không đành lòng liền cười nói: "Không sao, năm đó dưới trướng của Lã tướng có đến ba nghìn môn khách, đa số đều là góp mặt cho có mà thôi". Hắn nói dứt lời lại thấy có gì đó không đúng, nói vậy há chẳng phải bảo sư phụ nhà người ta là loại không ra gì?

Quả nhiên sắc mặt của cậu thiếu niên càng thêm nặng nề, Phù Tô cũng không tiện hỏi kỹ hơn về sư phụ của cậu ta. Nhưng biết rằng có một người như vậy cũng được, chỉ cần bẩm báo lên phụ vương, chắc chắn sẽ tra ra. Phù Tô cũng mặt dày coi như những lời trước đó không tồn tại, dù sao phụ vương vô số lần truyền lời răn dạy để hắn hiểu, thân làm bậc bề trên chính là cần có một cái mặt da dày như tường thành.

"Sư phụ ngươi có mình ngươi là đồ đệ thôi à?" Phù Tô thề, hắn chỉ là không chịu nổi bầu không khí ngột ngạt trong điện, thuận miệng hỏi, tuyệt đối không phải muốn nói mấy lời sáo rỗng như vậy.

Nét mặt của cậu thiếu niên trở lại bình thường, cung kính đáp: "Trước khi sư phụ của thần đến Tần, từng có thu nhận một đệ tử. Thần từng nghe sư phụ kể vài lần, nhưng chưa từng gặp, vị sư huynh đó chắc đang ở nước Triệu".

Ánh sáng lóe lên nơi đuôi mắt Phù Tô chiếu vào cuốn sách tre báo tin việc quân, cười nhạt nói: "Triệu quốc, đã thành dĩ vãng rồi". Nói xong liền đưa cuốn sách tre cho cậu thiếu niên kia.

Mặt cậu ta hơi biến sắc, vội vàng đón lấy cuốn sách, đọc tỉ mỉ

Nhân lúc nước Triệu thiên tai liên miên, nước Tần đem quân tấn công, Võ An Quân Lý Mục dẫn quân nghênh chiến. Lý Mục trấn thủ biên cương nhiều năm, từng nhiều lần đánh thắng quân Tần, Vương Tiễn không trực tiếp chĩa mũi nhọn vào hắn mà dùng kế ly gián để chia rẽ hắn và Triệu vương. Lý Mục công cao hơn chủ, trong lòng Triệu vương vốn cố định kiến, ngay khi trúng kế ly gián, Triệu vương tước quyền cầm binh của Lý Mục. Lý Mục trước sự công kích của đại quân nước Tần, không nhận quân lệnh, từ chối giao lại binh quyền. Hành động này càng khiến Triệu vương bất an, liền hạ lệnh sai người âm thầm đến bắt Lý Mục, cướp lấy hổ phù.

"Triệu vương khác nào tự chặt đi cánh tay của mình! Võ An Quân vì trung thành mà gặp họa". Phù Tô gõ gõ ngón trỏ xuống mặt bàn, bắt đầu suy nghĩ có nên triệu vị danh tướng cái thế Lý Mục này đến không. Nhưng chuyện này, e rằng phụ hoàng cũng sẽ suy xét tới. Bốn vị danh tướng thời kỳ chiến quốc loạn thế gồm có Khởi, Tiễn, Pha, Mục, tức Bạch Khởi, Vương Tiễn, Liêm Pha, Lý Mục. Tần và Triệu mỗi nước có hai người, nhưng Bạch Khởi đã chết, chỉ còn lại Vương Tiễn và Lý Mục... Thôi vậy, lúc này chắc cũng đã muộn rồi, uy thế của Lý Mục ở nước Triệu còn lớn hơn Triệu vương, Triệu vương không xuống tay thì thôi, một khi ra tay ắt không khác nào sét đánh.

Cho dù có ngu xuẩn như Triệu vương, e rằng cũng hiểu được đạo lý đêm dài lắm mộng.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Rolex đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Ngay hôm nay giảm giá 90% chiếc đồng hồ rolex bản sao này

Phù Tô lại nhìn cậu thiếu niên bên cạnh mình, đúng lúc cậu ta đã đọc xong sách tre, ngẩng đầu lên, hai ánh mắt lại gặp nhau, liền hiểu được suy nghĩ của đối phương với sự việc này không khác nhau là mấy, cả hai đều tiếc thương khi nghĩ đến tương lai của vị danh tướng đó.

Sẽ không có ai nói Vương Tiễn bỉ ổi, kế ly gián từ lâu đã được sử dụng nhiều như cơm bữa, hai người họ lại ở hai chiến tuyến khác nhau, Vương Tiễn chỉ đơn giản là dùng vàng bạc châu báu mua chuộc tên gian thần Quách Khai, tránh cho binh sĩ nước Tần gặp nạn binh đao, đây là công lớn. Hơn nữa, nếu Triệu vương Triệu Thiên cũng tín nhiệm Lý Mục như Tần vương tín nhiệm Vương Tiễn, e rằng đã không xảy ra việc này.

Cậu thiếu niên có chút xuống tâm trạng, cậu vuốt nhẹ đường vân trên cuốn sách tre, hạ thấp giọng than rằng: "Pháp độ là gì? Quy tắc là gì? Là lời của vua cha? Là lời của kẻ trí? Hay là lời của thánh nhân?..."

Phù Tô nghe vậy bỗng sững sờ, hắn không ngờ, câu mà hắn nói trong buổi gặp gỡ đầu tiên, cậu thiếu niên vẫn luôn ghi nhớ trong lòng.

"Quy tắc, phân làm quy tắc thiên đạo và quy tắc nhân đạo. Nước chảy chỗ trũng, mặt trời mặt trăng các vì sao mọc phía đông lặn phía tây, đó chính là quy tắc thiên đạo, không phải thứ con người có thể thay đổi được. Chúng ta không nên đòi hỏi". Phù Tô quay người lại, cầm hộp ngọc Thanh Trấn Khuê lên, đặt trên bàn. Hắn muốn chạm vào miếng ngọc thanh Trấn Khuê nhưng kiềm chế thu tay lại, nắm chặt bàn tay. Hắn chưa làm vua, vì vậy vẫn chưa có tư cách gì để cầm miếng ngọc Thanh Trấn Khuê này lên.

"Còn việc dụng binh như nào, trưng thu thuế như nào, đúc tiền như nào, đây chính là quy tắc nhân đạo".

"Nếu như vậy, quy tắc, nên là lời của vua cha".

Phù Tô hít một hơi thật sâu, cúi đầu nhìn chăm chăm vào miếng ngọc Thanh Trấn Khuê, nói: "Thiên hạ loạn thế đã lâu, nên có người lập ra quy tắc mới".

Hắn không nói rõ, nhưng ẩn ý trong câu nói, cậu thiếu niên cũng lĩnh hội được.

Nước Hàn đã diệt vong, nước Triệu sớm muộn cũng vậy, nước Tần nhất thống sáu nước, ngày đó sắp đến rồi.

Quy tắc của thế gian này, đương nhiên do người ở vị trí cao nhất đặt ra!

3

Phù Tô ở yên trong điện, đợi tin chiến báo mới nhất của tiền phương. Kinh Kha hành thích Tần vương, tuy không thành công, nhưng khiến Tần vương nổi cơn thịnh nộ, chấn động thiên hạ. Tần vương Doanh Chính phái đại tướng quân Vương Tiễn, huy động quân đội đánh phá nước Yên. Còn ngày đô thành Kế của nước Yên sụp đổ cũng là chuyện sớm muộn mà thôi.

Cho dù đã gần một năm trôi qua, nhưng mỗi khi nhớ lại thời khắc nguy cấp hôm đó ở đại điện cung Hàm Dương, Phù Tô đều cảm thấy sợ hãi.

Khi Kinh Kha mang thủ cấp của Phàn Ư Kỳ cùng với bản đồ của vùng Đốc Kháng nước Yên dâng lên phụ vương, ai ngờ hắn giấu kiếm ở trong bản đồ. Mà theo lệnh của Tần vương, đại thần khi lên triều không được phép mang theo binh khí, tình hình lúc ấy vô cùng hỗn loạn. Tuy rằng trong tay phụ vương có kiếm, còn có rất nhiều thần tử liều mạng xông ra che chắn, nhưng cũng phải đến khi Kinh Kha bị trọng thương do bảy tám nhát kiếm, hắn mới ngã gục xuống đất.

Phù Tô sờ sờ cổ tay phải, hắn lúc ấy cũng xông ra theo phản xạ, nhưng người đứng sau lưng hắn cứ níu cổ tay hắn lại bằng được. Hắn hoàn toàn không thể ngờ rằng, ẩn trong cơ thể gầy gò kia lại chứa đựng một sức mạnh lớn lao như vậy.

Mãi đến khi Kinh Kha bị phanh thây, người đó vẫn không buông tay hắn ra.

Phù Tô cười một cách khổ sở, có lẽ người bỉ ổi nhất là hắn mới phải. Sức lực của một cậu thiếu niên mười mấy tuổi có thể lớn đến đâu? Nếu hắn thực sự muốn thoát ra, thì sao lại không được?

Là hắn trong phút giây đã suy nghĩ quá nhiều.

Nếu phụ vương thực sự bị đâm chết, vậy thì hắn sẽ lên ngôi... Đây là điều cậu thiếu niên nghĩ đến trong khoảnh khắc đó sao? Vậy nên mới không chịu để hắn lao vào chỗ nguy hiểm.

Sau khi sự việc xảy ra cậu thiếu niên còn đặc biệt đến thỉnh tôi trước mặt phụ vương, đổ hết trách nhiệm không xông ra hộ giá lên người mình, tình nguyện chịu phạt.

Hắn không thể giải thích được điều gì, càng không thể nói ra.

Chỉ có thể ngậm miệng làm thinh.

Ngoài cửa điện vọng vào tiếng ngọc bội va vào nhau leng keng quen thuộc, không đợi đối phương lên tiếng, Phù Tô tranh nói trước: "Tất Chi, vào đi".

"Công tử, Kế Kinh của nước Yên đã bị phá, Yên vương Hỷ và công tử Đan tháo chạy đến Liêu Đông, sau khi trốn ở Diễn Thủy, Yên vương Hỷ chặt đầu công tử Đan dâng lên Tần vương", vẫn còn chưa bước vào trong điện, giọng nói trong trẻo của cậu thiếu niên đã vọng vào, rõ ràng cậu ta đang nôn nóng không chờ đợi được.

Phù Tô nghe vậy liền cau mày, tuy hắn hận thái tử Đan thấu xương, nhưng hai người bọn họ ai cũng vì chủ nấy mà thôi, cho nên cũng không cảm thấy hành vi, việc làm của đối phương có gì sai. Giết người quan trọng nhất trong vòng vây của kẻ địch để giải nguy là biện pháp thô bạo nhưng đơn giản nhất trong chính trường. Nếu để thái tử Đan thành công, thì dù hiện nay hắn lên ngôi vua, nước Tần cũng sẽ chỉ như một nắm cát rời rạc.

Dẫu sao hắn vẫn còn quá trẻ, mà nước Tần độc bá thiên hạ đã trở thành cái gai trong mắt của nhiều người, nếu phụ vương tiến về phía Tây thật, vậy thì cho dù là mấy nước đã bị tiêu diệt, cũng sẽ lập tức dựng cờ nổi dậy.

Một nhân tài có tầm nhìn độc đáo như vậy, lại chết dưới tay chính phụ vương Yên vương Hỷ của mình, thật khiến người ta phải sụt sùi tiếc thương. Phù Tô nhớ lại nhiều năm về trước, hắn cũng tiếp xúc vài lần với thái tử Đan khi y đang làm con tin ở nước Tần, vậy mà giờ đây vật còn, người mất, không khỏi ngậm ngùi.

Ai cũng sẽ đến lúc phải chết, nhưng nhân gian phồn hoa như này, ai mà không lưu luyến cơ chứ?

Phù Tô nghĩ đến việc phụ vương mấy năm gần đây bắt đầu triệu mời đạo sĩ khắp nơi, hắn không khỏi thở dài. Hắn cũng đâu ngờ, sư phụ người hầu đọc của mình cũng là một đạo sĩ, tuy người đó chỉ nán lại trong cung một năm rồi đi ngao du khắp nơi, nhưng có lẽ người tiến cung mà hắn không để ý năm đó, lại dẫn đến tình cảnh mất kiểm soát như hiện nay cũng như sau này.

Tuy chỉ là một thoáng thẫn thờ, nhưng trong đầu Phù Tô đã diễn ra cả trăm dòng suy nghĩ, cả nghìn cảm xúc hỗn độn, dù vậy biểu cảm trên khuôn mặt tuấn tú của hắn không có chút thay đổi.

Hắn đã quen với việc che giấu suy nghĩ của mình trước mặt người khác, dần trở thành một bản năng, cho dù người đối diện với hắn là người thân cận như người hầu đọc.

Còn cậu thiếu niên trước mặt cũng dần thay đổi theo năm tháng. Cậu không còn lúc nào cũng lầm lầm sắc mặt, cố chấp giữ lấy sự cao ngạo của bản thân, mà ngũ quan đã trở nên hiền hòa hơn, nụ cười cũng thân thiện hơn, bất luận ai lần đầu gặp mặt, cũng sẽ cảm thấy đây là một chàng trai tuấn tú, đem lại cho người khác cảm giác dễ gần đến khó tả. Chỉ có Phù Tô mới biết, cậu thiếu niên kia giống hắn, cũng đã học được cách đeo lên cho mình một chiếc mặt nạ, chọn giấu từng chút từng chút tâm tư vào tận đáy lòng.

Phù Tô đón lấy cuốn sách tre cậu thiếu niên đưa cho mình, cẩn thận xem qua một lượt, khi ngẩng đầu lên hắn phát hiện cậu thiếu niên đang nhìn chăm chăm vào chiếc hộp đựng miếng ngọc Thanh Trấn Khuê trên án kỷ, cau mày hỏi: "Tất Chi, có gì không ổn à?"

Miếng ngọc Thanh Trấn Khuê này, kể từ lần trước hắn đặt chiếc hộp lên trên án kỷ, thì không đặt lại chỗ cũ nữa. Bây giờ hắn vẫn lén chạm vào miếng ngọc Thanh Trấn Khê lạnh như băng mỗi khi không có ai ở cạnh.

Cậu thiếu niên cắn môi, do dự giây lát, cuối cùng vẫn mở miệng nói: "Luật pháp nước Tần, quần thần khi lên hầu điện, không được mang theo binh khí dù chỉ một tấc. Các vị lang trung mang theo binh khí, đều phải để lại trước dưới điện, không có chiếu chỉ không được lên. Quy tắc do chính Tần vương đề ra, lại suýt hại chết chính người. Quy tắc này, biết phải đặt ra thế nào đây?"

Phù Tô đặt cuốn sách tre xuống, trầm tư hồi lâu trong làn khói nhẹ vấn vít tỏa ra từ lò xông hương.

Nghi vấn này tồn tại trong lòng cậu thiếu niên đã lâu, vì đã được mở lời, nên cậu liền thao thao nói tiếp: "Theo như lời quân báo, các vương quân đại thần của nước Yên, ngoài thái tử Đan ra, tất cả đều giữ được tính mạng. Lúc diệt bốn nước Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tần vương cũng không hề loạn sát, đây là hành động nhân nghĩa của Tần vương. Sáu nước giờ chỉ còn lại nước Tề yếu ớt, ngày nhất thống thiên hạ sắp tới, nhưng thần e rằng giới quý tộc sáu nước không cam tâm chịu hàng, sau này ắt gây họa". Cậu ngập ngừng, sau đó từng chữ thốt ra nặng trịch: "Ngai vàng tưới thẫm máu tươi, Tần vương nên để những người đổ biết rằng, một là thuần phục, hai là chết!"

Trong mắt Phù Tô xẹt qua một ý nghĩ, hắn cũng từng thầm nghĩ đến vấn đề này. Nhưng phụ vương không hề đại khai sát giới, việc này đến Thuần Vu Việt xuất thân là đại Nho sĩ cũng phải tán đồng. Nội dung trọng tâm của tư tưởng Nho gia chính là tư tưởng "nhân nghĩa lễ" do Khổng Tử đề ra, Phù Tô cũng rất tán đồng ba chữ này. Hắn thường xuyên tranh luận cùng cậu thiếu niên, tiện gặp một chủ đề nghị luận như hôm nay, Phù Tô suy nghĩ hồi lâu, khóe miệng hơi hé nụ cười, rất hài lòng vì cậu thiếu niên đã bắt đầu học được cách nghi ngờ.

Nghi ngờ tất cả những quy tắc tồn tại trên thế gian này, vậy mới có thể tự lập ra quy luật của riêng mình, đây là một tín hiệu của sự trưởng thành.

Trong tim mỗi người, đều có một miếng ngọc Thanh Trấn Khuê của riêng mình.

Chỉ là có một vài người sẽ sao chép y nguyên hình trạng của người khác, có một vài người lại thích tự mình mài giũa.

Nội thị Cố Tồn bước vào trong điện, bưng lên hai bát canh hạt sen vẫn còn bốc hơi nóng, nhẹ nhàng đặt lên án kỷ, rồi lui bước ra ngoài không một tiếng động.

Phù Tô nhìn bát canh hạt sen còn bốc hơi nóng, cầm thìa khuấy đều, ngắm nhìn những hạt sen trắng nõn nà chìm nổi trong chiếc bát sơn mài, Phù Tô cười cười hỏi: "Tất Chi, ngươi có biết trận chiến Trường Bình của Bạch Khởi không?"

Cậu thiếu niên sững người, sau đó gật đầu và ngồi xuống bên cạnh Phù Tô. Hai người họ trước giờ vốn không câu nệ tôn ti, nên cậu thiếu niên cũng rất tự nhiên bê bát canh hạt sen còn lại lên, mặc kệ canh còn nóng, đích thân thử một ngụm, sau đó mới đặt chiếc bát đã thử qua xuống trước mặt Phù Tô.

Đây không phải ỷ đặc sủng lộng quyền, mà là đang thử độc cho Phù Tô.

Dù cậu thiếu niên đã thực hiện hành động này vô số lần, nhưng trong lòng Phù Tô không khỏi tự giễu. Hầu đọc gì chứ, hóa ra chỉ là người thử độc?

(Trong tiếng trung, hai từ "thị độc" (hầu đọc) và "thí độc" (thử độc) có âm đọc giống nhau)

Việc làm này, đương nhiên đã được các nội thị khác làm trước khi dâng lên. Nhưng cậu thiếu niên luôn thấy không an tâm, mỗi lần Phù Tô khuyên giải đều mặc kệ, toàn cãi rằng cậu theo sư phụ học đủ loại kỹ nghệ từ nhỏ, đã tiếp xúc với nhiều loại thảo dược, độc dược.

Phù Tô càng nghĩ càng thấy bồn chồn bất an, cho đến khi cậu thiếu niên đã uống hết hơn nửa bát canh hạt sen còn lại, hắn mới lấy lại tinh thần, quay lại chủ đề lúc trước: "Bạch Khởi đứng đầu trong bốn vị danh tướng thời loạn chiến quốc, chính là nhờ trận chiến Trường Bình. Trong chiến dịch ấy, Bạch Khởi đại phá quân Triệu, giết hơn bốn mươi vạn quân Triệu, chấn động thiên hạ. Tuy trận đại chiến ấy làm tăng thêm uy vũ của đại Tần ta, nhưng chẳng có ích lợi gì cho sự nghiệp nhất thống thiên hạ".

Bạch Khởi một đời cầm quân trăm trận trăm thắng, đã tiêu diệt hơn một trăm vạn quân của sáu nước, tấn công khoảng chín mươi tòa thành trì của sáu nước, chưa từng bại trận, được nước Tần và cả các nước khác phong làm chiến thần. Thậm chí có thể nói rằng, Bạch Khởi không khác nào một vị thần của nước Tần, so với Tần vương mà nói chỉ có hơn chứ không có kém, Phù Tô dám nghi ngờ chiến lược mà Bạch Khởi đề ra, nếu việc này bị truyền ra ngoài, chắc chắn sẽ dấy lên một cơn sóng lớn.

Nhìn cậu thiếu niên cầm bát canh mà mặt trầm tư, Phù Tô cũng không nói hết ý. Bởi hắn biết, cậu thiếu niên sẽ lĩnh hội được tâm ý của hắn.

Quả nhiên không lâu sau, cậu thiếu niên buồn bã than rằng: "Hóa ra là vậy".

Phù Tô gật đầu hài lòng. Bạch Khởi giết hơn bốn mươi vạn quân, cố nhiên sẽ khiến nước Triệu sau thời hưng thịnh rơi vào cảnh suy yếu, cùng quẫn, nhưng cũng sẽ khiến các nước khác có lòng cáo khóc thương thỏ, mượn cớ cùng căm thù kẻ địch chung. Hơn bốn mươi vạn binh sĩ đầu hàng ấy nếu biết trước kết cục vẫn phải chết, thì liệu còn ai cam tâm vứt giáo đầu hàng? Dù có chết, cũng phải lôi theo kẻ chịu chết chung.

Vì vậy trong một quãng thời gian rất dài, mỗi khi nước Tần đi chinh phạt các nước khác, đều gặp phải sự chống trả vô cùng quật cường.

"Chẳng trách...". Cậu thiếu niên lẩm bẩm, và cũng hiểu ra tại sao mỗi lần Tần vương Chính diệt được một nước lại không giết sạch các vương công đại thần, chính là nghĩ cho đại nghiệp thống nhất thiên hạ.

"Việc làm ấy của phụ vương, tuy trong tương lai gần sẽ để lại hiểm họa, nhưng nếu nước Tần ta tiếp tục lớn mạnh, thì giới quý tộc còn sót lại của sáu nước không đáng lo ngại". Phù Tô ôn tồn, lời nói toát lên vẻ điềm nhiên vô cùng.

Trong mắt cậu thiếu niên vẫn thoáng có chút lo lắng, nhưng cậu ta không nói gì nữa, mà im lặng uống từng ngụm từng ngụm đến cạn bát canh hạt sen, xong mới ngẩng đầu lên, quay sang Phù Tô cười nói: "Canh này không độc, có thể dùng".

Phù Tô lúc này mới bưng bát lên, uống một ngụm canh đã nguội, tuy ngoài mặt không bận tâm đến, nhưng thực ra trong lòng rất không thoải mái.

Tên tiểu tử này, hắn không phải cố tình không cho ta dùng canh nóng đấy chứ, cố ý chơỉ xấu ta à?

4

Phù Tô đứng giữa sân bắn, trước tiên hắn đeo chiếc nhẫn làm bằng xương mà người hầu đọc đưa cho vào ngón tay cái, tiếp đó đón lấy chiếc cung làm bằng gỗ tử sam và một mũi tên lông chim cắt, hai chân đứng rộng bằng vai, nghiêng người quay vai trái căn vị trí bia, mắt hơi nheo lại, thần khí bình tĩnh.

Nâng tay, lắp tên, kéo cung, bắn tên, từng động tác đều vô cùng điêu luyện tự nhiên, tao nhã đẹp mắt như đang biểu diễn, từng cái giơ tay co chân đều toát lên khí chất phi phàm.

"Soạt". Mũi tên hướng trúng hồng tâm, xuyên thủng bia, Phù Tô không cần ra xác nhận cũng biết lực bắn đủ để đầu mũi tên xuyên qua bia lộ ra sau một đoạn.

"Bạch thỉ". Cậu thiếu niên đang đứng sau lưng Phù Tô liền dâng lên một ống mũi tên.

Phù Tô chụm ba mũi tên lại với nhau, ba mũi tên nối tiếp nhau lao đi vun vút, mũi nào cũng bắn trúng, mũi tên sau bắn xuyên qua mũi trước, trông xa không khác nào một mũi tên.

"Tam liên". Trong tiếng hô của cậu thiếu niên pha chút tán thưởng, đồng thời liếc nhìn cậu bé đang đứng khép nép sợ sệt cạnh sân bắn, ánh mắt lạnh lùng mang tính chất cảnh cáo.

Phù Tô lại lấy một mũi tên khác, lắp tên lên dây cung, chăm chú ngắm bắn hồi lâu rồi mới từ từ thả tay phóng tên.

Mũi tên này bắn hướng lên trên cao, đầu và đuôi mũi tên không bay theo cùng một đường, tốc độ không hề nhanh, bay đều đều ổn định về phía trước, cuối cùng cũng xuyên trúng vào hồng tâm.

"Diệm chú". Ngữ khí của cậu thiếu niên không giấu nổi sự thán phục, hai cách bắn cung trước đó cậu ta cũng làm được, nhưng tiễn pháp "diệm chú" này là khó nhất. Do tốc độ của mũi "bạch thỉ" và "tam liên" trước đó rất nhanh, nên không bị ảnh hưởng bởi hướng gió. Còn khi bắn mũi "diệm chú", người bắn phải xác định được góc bắn, có sự phán đoán hướng gió chính xác, cậu thiếu niên tự thấy bản thân vẫn chưa thể thực hiện được một cách hoàn mỹ như vậy.

"Tương xích". Phù Tô bình thản nói, đuôi mắt liếc nhìn qua cậu bé vừa đứng lại gần mình hơn một chút, nhưng hắn nhanh chóng thu ánh mắt lại chứ không nán lại nhìn.

Tương xích, ý nói quân thần cùng bắn, nhưng thần tử không được đứng ngang hàng với vua mà phải lùi lại một thước. Cậu thiếu niên đứng phía sau cách Phù Tô một thước, lắp tên giương cung, mô phỏng lại hoàn toàn động tác của Phù Tô. Dây cung bật một phịch dứt khoát, mũi tên rời cung lao về phía trước, bắn trúng tâm bia một cách gọn ghẽ.

"Hay lắm". Phù Tô mỉm cười khen ngợi.

Cậu thiếu niên cung kính thu cung đứng thẳng, tiếp tục dâng lên cho Phù Tô bốn mũi tên.

Xạ (bắn cung) trong lục nghệ của người quân tử gồm ngũ xạ, lần lượt là: bạch thỉ, tam liên, diệm chú, tương xích và tỉnh nghi. Tỉnh nghi chính là bắn một lúc bốn mũi tên, Phù Tô thu cung đứng thẳng, cậu thiếu niên nhìn vị trí của bốn mũi tên trên bia, trên dưới trái phải vừa khéo xếp thành chữ "tỉnh".

"Kỹ thuật bắn cung của công tử quá tuyệt diệu, Tất Chi xin bái phục". Cậu thiếu niên nói xong liền vẫy vẫy tay, thị vệ một bên đang chực đến chỗ cái bia để lấy mười mũi tên ghim ở trên tâm bia. Nhưng trước khi tên thị về kịp chạy ra, cậu bé luôn đứng quan sát đã chạy ra phía đó trước, cố gắng kiễng chân lên nhổ từng mũi tên xuống, sau đó lon ton chạy lại.

Phù Tô thấy vậy mỉm cười, cầm một ống đựng tên, đưa cho cậu thiếu niên và bảo: "Quân tử không tranh gì, nếu buộc phải tranh thì chỉ có thi bắn cung. Vái nhau mà ra bắn, xong thì mời rượu, đó là việc tranh đua của quân tử vậy. Tất Chi, đến lượt ngươi đó".

Cậu thiếu niên bĩu môi, cũng không thèm nhắc công tử nhà mình nói những lời cậu ta cũng biết, đã thế còn cố ý nói lớn tiếng, nghĩ cũng biết là muốn nói cho ai nghe thấy.

Cậu thiếu niên cầm cây cung làm bằng gỗ hoàng dương lên, đổi vị trí với Phù Tô, vừa định giương cung bắn thì Phù Tô bên cạnh lại đưa tay ra chủ động giúp cậu chỉnh tư thế, tiện thể hướng dẫn cậu phải dùng lực như thế nào, căng dây ở đâu, làm thế nào mới có thể bắn ra một mũi tên vừa có lực vừa chuẩn xác.

Cậu thiếu niên hơi chau mày, cho dù kỹ thuật bắn cung của cậu không bằng công tử, nhưng cũng không phải người mới học, đâu đến mức như này?

Nghĩ lại dạo gần đây mỗi khi lên lớp, Phù Tô đều đọc sách rất to, chắc chắn là có liên quan đến cậu bé suốt ngày đứng nghe lén ngoài cửa rồi.

Nhưng tiểu công tử Hồ Hợi bị Tần vương hạ lệnh không cho phép đọc sách, luyện chữ, tập võ, đây là điều trong cung này ai ai cũng biết, đại công tử làm vậy tuy không phải là làm trái ý chỉ của Tần vương, nhưng nếu bị người khác bắt thóp, chắc chắn chẳng hay ho gì.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

"Công tử... người phạm quy rồi...", nhân lúc Phù Tô ghé sát lại để hướng dẫn tư thế, cậu thiếu niên khẽ giọng khuyên nhủ.

"Quy tắc? Quy tắc là do ai nói ra?" Phù Tô cong môi cười, giọng điệu đầy châm biếm. Hắn đã hết cái tuổi sùng bái vua cha, bắt đầu nghi ngờ từng mệnh lệnh của phụ vương, tuy không thể công khai phản kháng, nhưng vẫn có thể làm những việc ngoài mặt thì tuân thủ, bên trong thì âm thầm trái lại. Bởi phía dưới có quá nhiều tai mắt, Phù Tô cũng không giải thích gì nhiều, chỉ khẽ nói: "Nó là em trai ta".

Cậu thiếu nên không nói gì thêm, khuôn mặt cứng đơ đơ mặc cho Phù Tô biến cậu ta thành giáo cụ trực quan.

Cậu bé đang ôm đống mũi tên đứng gần đó rón rén lại gần thêm chút nữa.

Phù Tô ngồi trong doanh trướng, vừa dùng khăn vải lau chùi thanh kiếm đồng Ngọc Thủ đã theo hắn bao năm nay, vừa chốc chốc liếc nhìn chàng thanh niên đang cúi đầu trầm tư bên cạnh hắn.

"Tất Chi, ngươi về Hàm Dương đi, ta ở đây đã có Mông tướng quân chăm sóc rồi, không sao đâu". Phù Tô chăm chú nhìn những hoa văn quả trám chìm trên thân kiếm.

Thời gian như dòng nước chảy, cậu thiếu niên năm nào nay đã là thanh niên, phụ vương của hắn đã lên chức phụ hoàng, còn từ công tử thành đại công tử, nhưng lúc ở cùng Tất Chi, hắn không xưng là "cô" mà hạ xuống xưng "ta". Phù Tô vuốt vuốt thanh kiếm, nhoẻn miệng cười, hắn biết người hầu đọc của hắn đang suy nghĩ điều gì.

Hôm nay có thư nhà từ Hàm Dương gửi tới, báo Cam thị Tuyên Dương vương bệnh nặng, triệu con trai về chăm sóc. Tất Chi lại không an tâm để chàng lại một mình ở Thượng Quận, cho nên mới tiến thoái lưỡng nan.

Phù Tô thấy chàng thanh niên cứ ủ dột mãi không chịu lên tiếng, liền than một câu rằng: "Chuyện này phải trách ta, nếu ta thuận theo phụ hoàng, thì đã không bị đày tới đây, hại ngươi phải đi cùng chịu khổ".

"Đại công tử hãy chặt đầu Tất Chi đi". Trên khuôn mặt tuấn tú của cậu thanh niên thoáng nở một nụ cười khổ sở. Trong một bữa tiệc rượu sau khi Thủy Hoàng đế về cung Hàm Dương, Thuần Vu Việt cho rằng chế độ quận huyện của Thủy Hoàng đế đề ra không thỏa đáng, kiến nghị tuân theo chế độ phân phong trong Chu lễ. Lời đề nghị này bị Lý Tư bác bỏ và khiến Thủy Hoàng đế không vừa lòng, trực tiếp dẫn đến việc Thuần Vu Việt bị bãi chức. Thân làm đệ tử, Phù Tô vì việc này mà dâng tấu, kịch liệt phản đối, liền bị Thủy Hoàng đế phái đến Thượng Quận làm giám quân cho đại quân của tướng Mông Điềm.

Ánh mắt Phù Tô dồn vào miếng ngọc Thanh Trấn Khuê đang nằm im lìm trên án kỷ, như có linh cảm, hắn thở dài than rằng: "Pháp độ là gì? Quy tắc là gì? Là lời của vua cha? Là lời của kẻ trí? Hay là lời của thánh nhân?"

Cậu thanh niên vẫn giữ vẻ rầu rĩ, cặp lông mày thanh tú nhíu lại gần nhau.

Phù Tô hắng giọng, lạnh lùng cười nói: "Quy tắc, vốn là để một vài người tuân theo, để một số người khác phá bỏ. Nhưng nếu người không có khả năng phá vỡ quy tắc lại đi khiêu chiến với quy tắc, ắt sẽ rơi vào cảnh thịt nát xương tan".

"Đại công tử....", chàng thanh niên lo lắng cắt lời, trong tiếng gọi chứa đầy nỗi bất an.

Phù Tô huơ huơ tay, nén cảm xúc lại, bình thản nói: "Tất Chi chuyến này về Hàm Dương, cũng tiện thể giúp ta điều tra động tĩnh ở Hàm Dương. Ta bị chôn chân ở Thượng Quận, không có tai mắt, đúng là bất lợi trăm bề".

Trên mặt chàng thanh niên ánh lên vô vàn cảm xúc, cuối cùng biến thành thở dài, cậu cúi đầu cung kính thành khẩn vái lạy. "Điện hạ, xin hãy bảo trọng...".

Phù Tô gật đầu, biết rằng chàng thanh niên kia chỉ khi nào cực kỳ trịnh trọng, mới gọi hắn là "điện hạ".

Nhìn chàng thanh niên lùi bước ra khỏi doanh trướng, trông theo mãi đến khi bóng dáng y đã khuất khỏi tầm mắt, Phù Tô bất chợt thảng thốt.

Người bạn hầu đọc chính tay phụ hoàng tặng cho hắn này, đã theo sát bên hắn như hình như bóng, nửa bước không rời biết bao năm.

Thời gian quen biết y, đã dài hơn quãng thời gian không quen y rồi.

Phù Tô khẽ mỉm cười, lau kiếm xong hắn đút kiếm vào bao, với tay lấy miếng ngọc Thanh Trấn Khuê.

Cong cong ngón trỏ, gõ gõ lên bề mặt lạnh như băng của miếng ngọc, lắng nghe những thanh âm trong trẻo của ngọc phát ra, Phù Tô tự lẩm bẩm: ""Anh bạn già hỡi, giờ ta chỉ còn lại mình ngươi thôi..."

5

Phù Tô mở mắt, ngửi mùi hương nguyệt kỳ thanh tịnh nhẹ nhàng, nhìn lên trần nhà trắng muốt, trong lòng cảm thấy mông lung.

Hắn lúc này mới tỉnh ngộ, lần biệt ly trong doanh trướng, hóa ra lại là lần cuối cùng hắn được gặp Tất Chi.

Quy tắc... đúng là rất khó phá vỡ hay sao? Hắn thất bại, Hồ Hợi cũng thất bại...

"Hoàng huynh, huynh tỉnh rồi?" Hồ Hợi vẫn luôn túc trực ở đầu giường, thấy hắn mở mắt, lập tức nhoài người ra hỏi han.

"Ừ". Phù Tô đáp lại cụt lủn, nhắm mắt, rồi mới dần dần tỉnh táo trở lại.

Hồ Hợi dập tắt lửa trong chiếc lò Bác Sơn đang đốt hương nguyệt kỳ bên cạnh, sau đó mở cửa sổ, tắt điều hòa để không khí tươi mới ở bên ngoài tràn vào phòng, thấy trong mắt hoàng huynh mình nổi lên những vằn đỏ, hắn không khỏi lo lắng. Nguyệt kỳ hương có thành phần chính là nguyệt lân hương chuyên dùng cho vua chúa thời Đường, thêm vào một phần tam nại, hoắc hương, cảo bản là sẽ chế thành một loại hương liệu kỳ dị có thể điều khiển giấc mơ. Chỉ có điều khi dùng, sẽ lại một vài tác dụng phụ, rất dễ gây ra suy nhược tinh thần.

Phù Tô hít một hơi mát lạnh, tinh thần khá lên một chút. Hắn gần đây không ngừng dùng nguyệt kỳ hương trong giấc mơ chính là để tác động đến giấc mơ về Tất Chi, muốn gã nhớ lại những sự việc trong quá khứ. Giấc mộng vừa nãy, có lẽ Tất Chi cũng cùng hắn trải nghiệm lại từ đầu?

Chỉ là... Phù Tô thở dài rồi nhắm mắt, dù có dùng nguyệt kỳ hương, phần đời mà hắn có thể nhớ lại được quá ngắn ngủi.

Đúng vậy, hắn còn có gì để oán hận nữa đây? Cuộc đời của Tất Chi đã kéo dài hơn hai ngàn năm, còn phần thời gian của hắn, đối với Tất Chi mà nói chỉ là mười mấy năm ít ỏi mà thôi.

"Hoàng huynh?" Môi Hồ Hợi khẽ run run, hắn lo lắng gọi.

Phù Tô khua khua tay, ý bảo bản thân không sao cả, một lúc sau mới chầm chậm mở miệng: "Đem miếng ngọc Thanh Trấn Khuê cho cậu ta đi".

Hồ Hợi nghe vậy kinh hãi, tuy hoàng huynh không nói rõ "cậu ta" là ai, nhưng hắn sao có thể nhận nhầm được?

Dù trong lòng có vô số nghi vấn, nhưng Hồ Hợi vẫn gật đầu nói: "Vâng, thưa hoàng huynh".

Bác sĩ dựng đôi tai thỏ của mình lên, nhìn miếng ngọc Thanh Trấn Khuê trong chiếc hộp vừa được chuyển phát nhanh đến đầy nghi ngờ, gã chủ tiệm vừa nói cho cậu biết món đồ này quý giá đến nhường nào. Nhớ lại chuyện mang chiếc Miễn Tử Bài về từ buổi đấu giá lần trước, bác sĩ thắc mắc hỏi: "Này chủ tiệm, sao tôi thấy, cái tên Phù Tô đó hình như đang giúp anh trấn yểm Càn khôn đại trận thì phải? Vô duyên vô cớ để anh mang Miễn Tử Bài về, giờ còn gửi món đồ cổ đế vương thứ mười một đến đây nữa!"

Gã chủ tiệm vuốt nhẹ bề mặt trơn láng lạnh như băng của miếng ngọc Thanh Trấn Khuê, trong giấc mộng mấy ngày nay gã liên tục mơ về ký ức thời xa xưa ấy, khiến gã không khỏi nhớ về miếng ngọc Thanh Trấn Khuê này, nhất thời không nghe rõ lời của bác sĩ.

Cho đến khi bác sĩ hỏi lại một lần nữa, chủ tiệm mới khẽ than thở: "Bởi người ấy biết tôi rất khó hạ quyết tâm chôn món đồ cổ thứ mười hai của đế vương này xuống đất, nên mới quyết đưa đủ số đồ cổ còn lại cho tôi".

"Món đồ cổ đế vương thứ mười hai? Anh tìm thấy rồi sao? Là gì?" bác sĩ hấp tấp hỏi dồn.

Gã chủ tiệm nhìn xuống, tay khẽ chạm vào chiếc áo Xích Long trên người gã.

Bác sĩ lúc đầu còn không hiểu gì, nhưng sau giây lát chợt hiểu ra, tròn mắt kinh ngạc.

Quyển 3 - Chương 12: Đỉnh Ô Kim

1

Mây đen che kín mặt trời, cơn cuồng phong nổi lên cuốn theo trận tuyết lớn đổ xuống, Thang Viễn xuống xe bus, có một cô lớn tuổi tốt bụng cùng trên xe gọi cậu vào căn nhà phía đối diện tránh gió tuyết nhưng cậu từ chối, siết chặt lại chiếc áo phao trên người, xác nhận hai xiên kẹo hồ lô và bánh ngọt trên người vẫn chưa rơi mất, rồi đội mũ trùm kín đầu đi ra ngoài trời gió tuyết.

"Ái dà! Người lớn nhà nào mà ác thế, bắt thằng bé một mình đi ra ngoài...". Tiếng làu bàu của bà cô bị gió tuyết thổi bạt đi, dần dần chỉ còn nghe thấy loáng thoáng. Thang Viễn lau tuyết bám trên mặt, lập tức gương mặt nhỏ bé đỏ ửng lên như trái táo vì lạnh.

Mỗi lần lên phố đi chợ cậu đều than thở vì sao mình lại ở một nơi hẻo lánh thế này, nhưng Thang Viễn chỉ dám giận mà không dám nói, chính cậu là người muốn ra ngoài, chẳng như vị tổ tông thần tiên thoát tục trong nhà cậu kia, mà dù sao cậu cũng không dám cho vị tổ tông đó ra ngoài!

Lại đội trời tuyết men theo đường núi đi một hồi lâu, Thang Viễn chỉ là một cậu bé mười tuổi, nhưng dù một mình đi đường núi cậu cũng không hề sợ hãi, thậm chí còn rất thông thuộc địa hình nơi đây. Cho dù tuyết lớn chắn tầm nhìn, cậu vẫn dễ dàng tránh được những ổ voi giữa đường hoặc những tảng đá sắc nhọn. Cậu đi sâu vào trong khu rừng thêm mười mấy phút nữa, sau khi đi vòng qua khu rừng rậm, Thang Viễn đã nhìn thấy một góc mái của căn nhà nhỏ quen thuộc dưới tán cây hòe đã lộ ra.

Căn nhà nhỏ này nhìn rất bình thường, giống như căn nhà tường trắng mái đỏ mà nông dân bình thường hay dựng trong núi. Chỉ có điều vì đã lâu năm, nên ngói trên mái nhà đã bay màu, tường trắng cũng đã xỉn lại, nhìn có vẻ như lâu lắm không có người đến ở.

Sau khi nhìn thấy căn nhà nhỏ, Thang Viễn không giảm tốc độ, mà còn chạy nhanh hơn, khi sắp sửa đâm sầm vào hàng rào bên ngoài căn nhà, cậu mới đưa tay ra chống lên hàng rào, cơ thể loắt choắt nhanh nhẹn nhảy phắt qua rào, hai chân đáp đất nhẹ nhàng.

"Mười điểm!" Thang Viễn khua nắm tay lên, ưỡn ngực tự hào.

Sau đó lại một tiếng "bộp" vang lên, cậu cúi đầu nhìn, lập tức nhăn nhó lại, cậu vội vàng nhặt cây kẹo hồ lô lên, ban nãy cậu nhảy mạnh quá nên rơi xuống đất. May mà lúc mua cậu đã bảo người bán hàng gói một lớp giấy bản bên ngoài, nên cái kẹo mới không dính bẩn.

Thang Viễn rũ sạch tuyết bám trên đầu, trên người, rồi mới đẩy cửa đi vào. Trời tuyết mờ mịt bị nhốt bên ngoài sau cánh cửa gỗ, khiến cậu lập tức cảm thấy ấm áp. Cậu vừa đi vào trong nhà, vừa cởi áo, nào áo phao, áo khoác, găng tay, áo giữ nhiệt... Khi cậu ra đến sân sau nhà, thì trên người chỉ còn mỗi cái may ô với quần cộc.

Thang Viễn cầm hai xiên kẹo hồ lô và túi bánh ngọt, ngắm nhìn cảnh sắc mà dù cậu nhìn bao nhiêu lần vẫn phải cảm thán, rồi lật đật trở lại trong nhà. Hiện giờ đang giữa mùa đông, mà phía sân sau ấm áp như mùa xuân, giống như trên trời cổ một tấm kính vô hình chụp xuống, ngăn cách hoàn toàn với cái giá lạnh ngoài kia. Trong vườn hoa cỏ mọc xanh mướt, trăm hoa đua nở, thật không khác gì cảnh sắc mùa hè.

Cái hậu hoa viên này với căn nhà ngói kia chẳng hợp nhau tí nào, nó giống như bỗng nhiên đi từ hoang mạc phía bắc đến vườn cảnh Tô Châu, những hòn giả sơn, cây cầu nhỏ bắc qua lạch nước, những mái lương đình, những gác mái, tuy đều nhỏ nhắn, nhưng không thiếu thứ gì, có thể thấy chủ nhân rất dụng công xây dựng. Thậm chí bên dưới lương đình, còn có một khe nước suối, đang bốc hơi nước nghi ngút, nhìn như tiên cảnh.

"Bánh Trôi, con về rồi à?" Khi Thang Viễn đang nhìn ngắm một chú ong mật hút mật ở nhụy hoa mẫu đơn, thì một giọng nói nhẹ nhàng cất lên khiến cậu giật mình.

"Tôi không phải là bánh trôi! Là Thang Viễn! Thang Viễn! Mau gọi tôi là Thang Viễn! Nếu không tôi sẽ không đưa ông kẹo hồ lô đâu!" Thang Viễn nhảy lên, đi qua cây cầu nhỏ bắc trên lạch nước, trèo lên hòn giả sơn, nhìn thấy trong lương đình có một chàng trai trẻ tuổi đang ngồi quay lưng lại với cậu, đang đánh cờ vây. Người đó mặc chiếc áo đạo sĩ bằng the màu xanh đậm của thời cổ, cổ giao lĩnh, ống tay lớn, bốn phía có hoa văn cuốn màu xanh, nhìn kỹ thì trên áo còn thêu tám quẻ Chu Dịch, sắp xếp theo một cách rất kỳ bí.

Người này có mái tóc đen dài, đến gần nhìn thì còn thấy mái tóc ấy hơi có ánh màu xanh. Phần lớn mái tóc chỉ được búi tạm một cách lỏng lẻo, dùng ba chiếc trâm ngà cài đại lên, rủ xuống trước ngực, mượt mà như một súc lụa thượng hạng. Nghe tiếng bước chân mỗi lúc một gần của Thang Viễn, anh ta cũng quay đầu lại.

Chàng trai trẻ nhìn rất tuấn tú, da trắng, lông mày dài, thanh tú như một bức tranh thủy mặc trang nhã, chỉ có điều ở giữa đôi lông mày lại có một cái sẹo đỏ thẫm khá ghê rợn, phá hỏng hết cả gương mặt, người khác nhìn vào phải xuýt xoa tiếc nuối, mà anh ta luôn nhắm mắt, rõ ràng mắt có tật, đã bị mù.

"Bánh Trôi, cái kẹo hồ lô trên tay con sắp chảy hết rồi". Anh ta tiếc nuối than thở.

"Ái dà!" Thang Viễn lập tức tỉnh lại, sức nóng ở hậu hoa viên chẳng khác gì mùa hè, chiếc kẹo hồ lô đã đóng băng, nhưng đường bên ngoài vẫn nhanh chóng bị chảy, lớp giấy bản bên ngoài bị đường chảy dính lại.

Vị đạo sĩ trẻ tuổi khẽ mỉm cười, như là nhìn thấy được thật, lấy một xiên kẹo hồ lô trên tay Thang Viễn ra một cách chính xác, thò ra ngoài lương đình.

Vị trí của lương đình là ở rìa ngoài cùng của khoảng sân, bên ngoài vẫn là những bông tuyết lớn đang bay tán loạn, chiếc kẹo hồ lô theo tay người cầm, như vừa chọc thủng lớp che chắn vô hình, lập tức phơi ra ngoài trời đang hơn âm hai mươi độ C.

Thang Viễn vừa nhìn theo đã lập tức mở to mắt, cậu lật đật chạy tới phía bên kia chiếc bàn đá ngồi xuống, bỏ bánh trái trong tay xuống bàn, rồi cũng học theo vị đạo sĩ trẻ tuổi, lấy chiếc kẹo hồ lô của cậu phơi ra phía ngoài lương đình, sau khi đếm từ một đến mười, mới lấy vào, bóc lớp giấy bản bên ngoài ra, quả nhiên chiếc kẹo hồ lô đã đông cứng trở lại.

"Chiêu này hay thật! Ông quả là một tên tham ăn có trình độ!" Thang Viễn cắn quả táo gai trên cùng, vì quả táo gai đã bị đông cứng lại, mồm cậu không nhai được, nên đành liếm lớp đường bên ngoài. "Này! Ông kể chuyện đi, ngồi không chán quá! Ở chỗ thâm sơn cùng cốc này chẳng bắt được tín hiệu tivi, trời thì đổ tuyết lớn quá!"

Vị đạo sĩ trẻ tuổi rất thoải mái với Thang Viễn, không thèm để ý đến cách ăn nói theo kiểu cá mè một lứa của cậu, còn tốt bụng sửa cho cậu: "Bánh Trôi, con nên gọi ta là sư phụ".

Thang Viễn khịt khịt mũi liên tục: "Không! Khi nào ông không gọi tôi là Bánh Trôi nữa, tôi sẽ gọi ông là sư phụ!"

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người đen đủi hay nghèo khó sẽ đổi đời ngay lập tức nhờ điều này

Vị đạo sĩ trẻ tuổi cười nhẹ nhàng: "Khi ta tìm được con, trông con tròn trắng rất đáng yêu, không phải là giống bánh trôi sao?"

"Nhưng bây giờ tôi lớn rồi!" Thang Viễn bực tức gặm cái kẹo hồ lô trong mồm, cậu cằn nhằn.

"Này... chẳng phải con muốn nghe kể chuyện sao? Vậy thì ta kể cho con nghe chuyện ngày xưa ta nhận đệ tử...". Đạo sĩ trẻ tuổi lấy chiếc kẹo hồ lô về, bóc lớp giấy bản bên ngoài, mọi động tác đều rất nho nhã, "Ngày xưa, ờ... từ rất rất lâu rồi, đại đệ tử mà ta thu nhận, là người nước Triệu".

"Người nước Triệu? Bây giờ chỉ có người Trung Quốc thôi chứ!"

"Ấy... đã bảo là từ rất lâu rồi mà. Khi đó vẫn còn nước Triệu".

"Nước Triệu? Ông nghĩ tôi không đi học nên không biết gì à? Những sách trong thư phòng của ông, quyển nào tôi đọc được là đọc hết rồi nhé! Chỉ có Chiến Quốc thất hùng mới có Triệu thôi! Đó là bao nhiêu năm trước rồi hả?"

"À, thực ra sau khi Tần bị diệt, dòng dõi nước Triệu cũng vẫn tự xưng vương, nhưng rồi bị Hàn Tín tiêu diệt... Ồ, lại lạc đề rồi, không phải con muốn nghe kể chuyện sao? Cứ so đo như thế thì sao ta kể tiếp được?"

"Được được rồi, ông tiếp tục đi, đại sư huynh của tôi là người nước Triệu, rồi sao nữa?" Thang Viễn hừ một tiếng, miễn cưỡng đồng ý để nghe tiếp. Lúc này cậu lại phát hiện ra đường trên kẹo hồ lô bắt đầu chảy tiếp, cậu lại thò chiếc kẹo hồ lô ra ngoài lương đình. Kẹo hồ lô nhanh chóng bị tuyết phủ lên, quả táo gai cùng với bông tuyết lung linh dường như trở thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo.

Hờ! Đây mới là cách ăn kẹo hồ lô đúng đắn nhất! Cách ăn kẹo ngày xưa của cậu quả là không ăn thua!

Dáng điệu ăn kẹo hồ lô của đạo sĩ trẻ tuổi cũng rất nho nhã, lấy móng tay vạch hai nhát trên xiên kẹo hồ lô đã đông cứng, quả táo gai trên cùng ngoan ngoãn cắt thành bốn miếng, bay lên không trung. Anh bắt dính ngay một miếng bỏ vào miệng, vừa từ tốn ăn kẹo, vừa chậm rãi kể: "Năm xưa sư phụ con đi qua nước Triệu, đại sư huynh của con mới chỉ là một đứa trẻ, nó mời ta ăn một chiếc kẹo hoa quế, ta cho rằng đứa bé này rất có tiền đồ, liền thu nhận làm đại đệ tử".

Thang Viễn cảm thấy cạn lời, có thế mà cũng nhận được đệ tử? Một viên kẹo hoa quế mà đã lừa được một sư phụ "oách" thế này à? Đại sư huynh của cậu thật là may mắn! Không, phải nói thật là gian trá mới đúng! Thang Viễn cắn một miếng kẹo hồ lô, thúc giục: "Sau đó thì sao?"

"Sau đó? Sau đó ta phát hiện ra hắn lòng dạ bất chính, nên không dạy hắn nữa, ta rời khỏi nước Triệu, vân du đến Tần".

"Ơ này này, đúng là thờỉ đại Chiến Quốc à? Sau đó thì sao?" Tiếp tục bịa đi! Thang Viễn nghĩ bụng như vậy, nhưng không so đo làm gì. Chỉ là truyện kể thôi mà!

"Sau đó? Ta đến nước Tần, nhặt được một đứa bé đáng thương, liền thu nhận làm nhị đệ tử".

"Ồ, sau đó nữa?"

"Không còn sau đó nữa!" Đạo sĩ trẻ tuổi tỏ ra vô tội: "Không phải ta nói là ta kể chuyện thu nhận đệ tử ngày xưa ư? À, thực ra sau này ta còn nhận rất nhiều đệ tử, nhưng ta thấy Bánh Trôi con có vẻ không muốn nghe chi tiết cho lắm".

Thang Viễn ôm mặt thất vọng, cảm thấy đòi tay này kể chuyện đúng là một lựa chọn sai lầm. Ai cần biết đại sư huynh, nhị sư huynh là người nước nào?

Đạo sĩ thấy Thang Viễn cuối cùng đã thôi không hỏi, mới giãn đôi mày ra tỏ vẻ hài lòng, rồi bắt đầu thưởng thức chiếc kẹo hồ lô.

Thang Viễn thì không thích thú lắm với thứ chua chua ngọt ngọt này, ăn được hai quả thì thôi không ăn nữa, nhìn đạo sĩ trẻ tuổi đánh chén ngon lành, trong lòng cậu cảm thấy chán ngán. Cho nên đến khi đạo sĩ trẻ tuổi ăn đến miếng táo cuối cùng và mặt biến sắc, Thang Viễn lập tức cười trên đau khổ của người khác: "Sao nào? Ăn phải sâu rồi hả?"

Đạo sĩ trẻ tuổi chầm chậm nhè quả táo gai trong miệng ra, nhắm mắt lại, hơi run run, lẩm bẩm nói: "Nổi gió rồi..."

Nổi gió? Trong kết giới này làm gì có gió? Thang Viễn nghi hoặc nhìn ra ngoài lương đình, sợ hãi khi nhận ra gió tuyết bên ngoài đã mạnh thêm mấy phần, cánh rừng đối diện cũng không còn nhìn thấy gì nữa...

2

Bác sĩ thò đầu ra khỏi túi áo khoác của chủ tiệm, cơn cuồng phong trên đỉnh Dịch Sơn thổi mạnh khiến đôi tai thỏ lắc lư tứ tung, anh không dám bò ra ngoài nhiều, nếu không rất dễ bị gió thổi bay cả người.

Chủ tiệm không nói lời nào, đi men theo đường Dương Xa cũ, hay người dân ở đây vẫn gọi là Ngự Lộ, chậm rãi tiến bước, bác sĩ thì càng lúc càng sốt ruột. Một tháng nay, anh không ngừng khuyên chủ tiệm, để gã bỏ ý định lấy áo Xích Long làm đồ cổ đế vương cuối cùng để trấn yểm Càn Khôn đại trận, nhưng trong hơn ba chục ngày nay, chủ tiệm không tìm nổi một món đồ cổ đế vương nào để thay thế.

(Sau khi thống nhất sáu nước, Tần Thủy Hoàng đi xe dê kéo lên Dịch Sơn, sai Lý Tư soạn văn khắc bia đá, nên con đường đó gọi là Dương Xa (xe dê kéo).)

Áo Xích Long là do Tống Huy Tông Triệu Cật tự tay vẽ, là chiếc áo thần kỳ có thể giúp người mặc bảo vệ cơ thể không bị thối rữa, chỉ cần chủ tiệm cởi bỏ áo Xích Long thì sẽ nhanh chóng thối rữa mà chết...

"Khốn kiếp, vẫn còn chưa đòi được cơ thể lại cho tôi cơ mà! Sao có thể cho anh chết dễ dàng thế được?" Bác sĩ lẩm bẩm.

"Yên tâm, tôi sẽ nghĩ cách khiến ngài ấy trả lại cơ thể cho cậu". Chủ tiệm cười hiền lành.

Nhưng vấn đề quan trọng không phải là thế! Bác sĩ cáu, nhưng rồi anh nhận ra, chủ tiệm đã đi vào trong một hang núi, nếu không bên ngoài gió rít từng cơn, chủ tiệm cũng chẳng thể nghe thấy anh làu bàu. Bác sĩ lắc lắc đôi tai thỏ dính đầy bụi bặm, nhìn quanh thấy hang núi có nhiều khe đá, rất hẹp và dài, anh nói: "Ta đi vào đâu rồi?"

"Đây là hang Tổ Long, vì Tần Thủy Hoàng khi lên Dịch Sơn có vào hang này mà có tên như vậy". Chủ tiệm ôn tồn nói, cúi đầu bước đi chậm chạp trong hang.

Bác sĩ cảm thấy nặng nề, anh biết chủ tiệm định đi đâu, mấy hôm nay anh đã thử tìm trên mạng. Chủ tiệm đã tìm mười một nơi chôn đồ cổ đế vương trước đó, nơi còn thiếu chính là đỉnh núi Dịch Sơn, nơi Tần Thủy Hoàng lập tấm kiệt thạch đầu tiên.

Dịch Sơn chính là ngọn núi nổi tiếng gần quê hương Khổng Tử, trong thiên "Tận Tâm thượng" sách "Mạnh Tử" viết: "Khổng Tử lên Đông Sơn mà thấy nước Lỗ nhỏ bé, lên Thái Sơn mà thấy thiên hạ nhỏ bé". Đông Sơn nhắc trong đó chính là ngọn Dịch Sơn này. Tần Thủy Hoàng chọn nơi đây để đặt tấm kiệt thạch đầu tiên, cũng bởi vì vị trí địa lý rất đắc địa của nó.

Đã hơn hai nghìn năm trôi qua rồi, núi Dịch Sơn vẫn sừng sững đứng đây, có điều đã trở thành công viên phong cảnh cấp 4A quốc gia. Bởi lúc này đang giữa mùa đông, trên núi gió to trời rét, nên không có du khách nào khác. Chủ tiệm đi xuyên qua hang Tổ Long chật hẹp, ở cửa ra phía Đông Bắc nhìn thấy một cây thái bình, cây thái bình này tương truyền rằng do ngòi bút của Hàn Tương Tử - một trong bát tiên, rơi xuống mà thành, còn chỗ này được gọi là Thông Thiên Ngọc tỉnh, chỉ vừa một người đứng.

Tiếp tục tiến lên là nhìn thấy đỉnh Ngũ Hoa, đỉnh núi chính của Dịch Sơn, chỗ này từng được gọi là "một bước tới trời", ngọn núi do năm tảng đá lớn đứng ôm lấy nhau, tảng lớn nhất hiểm trở nhất có tên là đá Sáp Thiên, trên đỉnh hẹp như lưỡi dao. Chủ tiệm ngẩng đầu nhìn một hồi lâu, cuối cùng không trèo lên trên nữa, mà tìm một chỗ tránh gió, ngồi xếp bằng nhắm mắt.

Bác sĩ biết gã chắc là đang đợi Phù Tô xuất hiện, nên không nói gì, bám lấy túi áo của chủ tiệm, nhìn về phía cửa hang Tổ Long, không chớp mắt.

Không biết qua bao lâu, đỉnh núi Dịch Sơn bỗng nhiên nổi trận cuồng phong, tóc mai của gã chủ tiệm bay tán loạn, gã chầm chậm mở mắt ra, khẽ than thở: "Nổi gió rồi...".

3

Thang Viễn một tay chống cằm, nhìn gió tuyết bên ngoài lương đình, nhìn rất lâu, cũng không thấy cơn cuồng phong bạo tuyết này có gì lạ, dù sao cũng không thổi được tới chỗ cậu.

Thu ánh mắt lại, Thang Viễn mới nhận ra gương mặt vị đạo sĩ trẻ tuổi hơi nặng nề, không còn vẻ nhàn nhã ung dung ban nãy nữa, thậm chí còn quên cả việc ăn món kẹo hồ lô mà hôm nay chính anh ta đòi ăn.

Thang Viễn cố nén sự bất an trong lòng, cười hề hề: "Này! Ông có ăn kẹo hồ lô nữa không? Không ăn thì tôi ăn đấy!"

Đạo sĩ trẻ tuổi nghe xong giật mình, như tỉnh dậy từ một cảnh giới nhập định nào đó, ngay sau đó liền há mồm theo phản xạ, một miếng táo gai ngoan ngoãn rơi xuống mồm anh ta.

Quả là một tên tham ăn! Thang Viễn bó tay, cúi đầu nhìn bàn cờ vây trên bàn đá, cậu thấy khó hiểu vì sao tên đạo sĩ mù này lại tự đánh cờ vây được với chính mình, tuy bàn cờ này được khắc lên chiếc bàn đá phẳng, đạo sĩ cũng có thể rờ được vào những giao điểm làm lõm xuống, quân cờ cũng làm quân đen hình vuông, quân trắng hình tròn rồi, nhưng đánh cờ như thế thì tốn sức đến mức nào? Thang Viễn đang nghĩ vậy, thì bỗng thấy ban nãy vì mình đặt bừa túi bánh xuống bàn nên có mấy quân cờ bị đẩy đi lung tung. Thang Viễn nghiêng nghiêng đầu nhớ lại bàn cờ ban nãy khi cậu vào có nhìn liếc qua, để dịch túi bánh ra chỗ khác, đưa tay ra xếp lại, rất nhanh chóng cậu đã đưa bàn cờ trở về trạng thái ban đầu, không sai chút nào.

Đạo sĩ trẻ tuổi không ngăn cản hành động của Thang Viễn, thực ra là anh ta không hề để ý đến việc bàn cờ có bị xê dịch đi hay không.

Nhưng Thang Viễn thì rất để ý đến sự im lặng bất thường của anh ta, cậu cố gắng gợi chuyện: "Này! Đợi sau khi tuyết ngừng rơi, có thể dạy tôi làm thế nào tạo được kết giới oách thế này không?"

Đạo sĩ trẻ tuổi bĩu môi chê trách: "Bánh Trôi con còn không gọi ta là sư phụ, sao còn đòi ta dạy cho con?" Đạo sĩ ai oán vô cùng, nghĩ lại những đệ tử trước kia anh ta thu nhận, có ai mà không cung kính vâng lời? Thời gian thấm thoắt, tại sao đến bốn chữ "tôn sư trọng đạo" mà bây giờ cũng không còn ai biết nữa vậy?

"Đã bảo là trao đổi bình đẳng rồi mà! Ông không gọi tôi là Bánh Trôi nữa thì tôi sẽ gọi ông là sư phụ! Ông còn chê bai gì nữa, thật đúng là! Tôi nói ra một lời nặng tựa chín đỉnh!" Thang Viễn đập bàn, cậu mới là người phải ai oán chứ! May mà nơi thâm sơn cùng cốc này ngoài cậu và đạo sĩ ra không còn ai khác, nếu không thì cái tên Bánh Trôi chắc chắn sẽ bị lan truyền. Không được, trước khi cái tên này trở thành tai họa theo cậu cả đời, cậu phải kịp thời sửa chữa ngay!

"Một lời chín đỉnh...". Rõ ràng đạo sĩ trẻ tuổi đang có cảm xúc vì mấy chữ này, anh ta ăn thêm một miếng táo gai rồi thở dài: "Bánh Trôi, con có biết "đỉnh" là cái gì không?"

"Đỉnh?" Thang Viễn nghĩ ngợi, cậu quá dễ dàng để đối phương đánh lạc hướng, "Đỉnh không phải là đồ đồng thau à? Cái đó to lắm, có ba chân, rất nặng". Thang Viễn khua tay múa chân diễn tả, tỏ ý rằng cái thứ đó có chứa cả cậu bên trong vẫn còn thừa chỗ.

"Ồ? Vậy con biết nó dùng để làm gì không?" Đạo sĩ trẻ tuổi tiếp tục án từng miếng táo gai, hứng chí hỏi tiếp.

"Cái này chắc là có ý nghĩa tượng trưng gì đó? Nghe bảo là trọng khí quốc gia gì gì mà". Thang Viễn nghiêng đầu, nhớ lại kiến thức đọc được trong sách, trả lời không chắc chắn lắm.

Cuối cùng đạo sĩ trẻ tuổi cũng tìm thấy chút cảm giác được làm thầy, chỉnh áo ngồi ngay ngắn, có chút hơi trịnh trọng. Anh ta chậm rãi nói: "Đỉnh, thực ra ban đầu là dùng để nấu thức ăn"

Cái mặt bánh bao của Thang Viễn tối sầm lại, biết ngay tên tham ăn này nói ba câu là quay lại chuyện ăn mà. Thấy anh ta sắp ăn hết xiên kẹo hồ lô, cậu liền đưa xiên kẹo của mình dúi vào tay anh ta.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Chàng trai 23 tuổi trở thành triệu phú nhờ mẹo kiếm tiền khó tin

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Đạo sĩ trẻ tuổi cũng không chê bai, đón lấy ăn tiếp, vừa ăn vừa nói rành rọt: "Nên biết thời kỳ đồ đồng thực sự là thời kỳ "dân dĩ thực vi thiên", người trong một gia tộc, một bộ lạc đều cùng nhau ăn cơm, nên cái đỉnh mới to như thế. Nhưng chỉ có trưởng tộc mới có quyền phân chia thức ăn, lâu dần đỉnh mới trở thành tượng trưng cho quyền lực".

(Dân coi chuyện ăn uống là trời, coi chuyện ăn uống là quan trọng nhất)

"Ồ? Vậy là bọn tham ăn chinh phục thế giới à?" Thang Viễn thất vọng, cậu chạy ra ngoài lâu quá nên giờ hơi khát nước, bèn tiện tay ngắt một chiếc lá sen, gấp thành hình cái phễu, cúi xuống múc một ít nước từ suối nước nóng bốc hơi nghi ngút lên.

"Nhưng đỉnh không chỉ có hai tác dụng đó, nó còn là dụng cụ hành hình nữa". Đạo sĩ trẻ tuổi có vẻ chán kiểu cắt từng miếng ra ăn rồi, liền ăn luôn cả quả, phồng cả má lên, phá hỏng hoàn toàn hình tượng thế ngoại cao nhân mà anh ta đóng giả ban nãy.

"Dụng cụ hành hình?" Thang Viễn cầm lá sen chớp chớp mắt, quên hẳn chuyện uống nước, nước trong lá sen chảy hết xuống người cậu.

"Đúng thế, đó là dụng cụ để nấu người". Đạo sĩ trẻ tuổi nói rất thản nhiên, giọng điệu cứ như đang nói "hôm nay thời tiết không được tốt", miệng nhai rôm rốp quả táo gai đã đông cứng. "Người đứng ở vị trí chí cao vô thượng, thích ban hy vọng cho người khác, cũng thích tước đi quyền sống của người khác. "Đại quyền sinh sát", cụm từ này khái quát rất đầy đủ. Vì thế đỉnh là một thứ rất mâu thuẫn, vừa là dụng cụ để nấu nướng thức ăn, vừa là dụng cụ để nấu người, thứ vừa cho người ta sống vừa cho người ta chết như thế là rất hiếm có".

"Thực sự...". Thang Viễn thấy hứng thú với lời nói của đạo sĩ trẻ tuổi, cậu liền giục: "Nào, ông kể chuyện về cái đỉnh đi".

"Ờ, sau này đỉnh trở thành tượng trưng cho thiên hạ. Tất cả vua chúa đều dốc tài lực quốc gia ra để đúc những chiếc đỉnh to hơn tinh xảo hơn, thể hiện quyền lực của mình. Đầu đời nhà Hạ, Đại Vũ chia thiên hạ làm chín châu, và tập trung chín chiếc đỉnh ở đô thành của vương triều Hạ, biểu thị thống nhất chín châu. Vì thế, cửu đỉnh trở thành đồ tế lễ của thiên tử các triều khi làm lễ tế trời".

"Òa, nghe có vẻ oách đấy! Tiếp tục tiếp tục nào! Sau đó chín chiếc đỉnh đó thế nào?"

"Sau này triều nhà Hạ bị nhà Thương diệt, cuối cùng là nhà Chu lấy thiên hạ, tiếp tục có cửu đỉnh, rồi đến cuối đời nhà Chu, ờ, đại khái là năm nào tháng nào thì ta quên rồi, nhưng mà là đời Tần Vũ vương, Tần Vũ vương đòi phải xem bằng được chín cái đỉnh đó, mới cho Cam Mậu làm tướng quân, thảo phạt nước Hàn, tiến thẳng tới Lạc Dương, tiêu diệt triều Chu".

"Ồ? Người này giỏi ghê nhỉ? Không đúng, tôi nhớ người thống nhất sáu nước là Tần Thủy Hoàng mà? Không phải là Tần Vũ vương đâu!"

"Phải, Tần Vũ Vương dũng mãnh hiếu thắng, cho rằng mình đã vô địch thiên hạ, nhìn thấy cửu đỉnh, bèn hỏi các đại lực sĩ theo hầu bên cạnh mình xem có nâng được đỉnh lên không. Trong đó có một tay tiến lên nâng đỉnh, tính hiếu thắng của Tần Vũ vương lại trỗi dậy, cũng muốn thử nâng xem sao. Thử một cái là hỏng, ông ta là vua, không phải là đại lực sĩ, cái đỉnh đồng nó nặng lắm chứ! Chà... đổ đánh rầm một cái, tối hôm đó ông ta chết". Đạo sĩ trẻ tuổi kể chuyện như thể mình thấy tận mắt, lắc đầu than thở, tiếc nuối vô cùng.

"Ái dà...". Thang Viễn nhăn mặt, cứ như cậu mới là người bị đỉnh rơi vào đầu, nghe đã thấy đau rồi, "Sau đó thì sao? Chiếc đỉnh đó làm chết Tần Vũ vương, thì chắc phải đập vỡ ra để chịu tội chứ?"

Đạo sĩ trẻ tuổi đặt que xiên của kẹo hồ lô đã ăn hết lên bàn, nói phẫn uất: "Sao như thế được? Đó là một trong cửu đỉnh rất cao quý! Tên Tần Vũ vương dở hơi đó, hắn tự tìm cái chết đó thôi, lúc ấy còn có người loan tin rằng đó là báo ứng vì hắn diệt nhà Chu, thách thức mệnh trời, lại đi truy cứu hỏi tội đại lực sĩ bên cạnh Tần Vũ vương, cùng với tên Cam Mậu xúi bẩy Tần Vũ vương vào đất Chu xem đỉnh. Cam Mậu nghe tin liền không về nước Tần, trốn sang nước khác, bị tước hết tước vị".

"Cam Mậu?" Thang Viễn nghe đạo sĩ trẻ tuổi lần thứ hai nhắc tới cái tên này, nên cậu chú ý.

"Ồ, đó không phải là trọng tâm". Đạo sĩ trẻ tuổi xua xua tay, mở túi bánh ngọt trên bàn, nhón một miếng ăn, "Nhưng sau đó thì em của Tần Vũ vương là Tần Chiêu Tương vương lên ngôi, tiêu diệt hẳn Đông Chu, đem chín cái đỉnh mang về Hàm Dương. Nhưng khi đi qua sông Tứ Thủy ở Bành Thành, đã rơi một cái đỉnh xuống sông. Sau này, sau khi thống nhất sáu nước, Tần Thủy Hoàng đi tuần ở Tứ Thủy cũng có sai người xuống vớt, nhưng không vớt được gì".

"Ớ? Ông không định nói với tôi rằng, chiếc đỉnh bị rơi mất chính là chiếc đỉnh đã làm chết Tần Vũ vương chứ? Không thì sao lại trùng hợp vậy?" Thang Viễn bỗng cảm thấy hình như mình phát hiện được gì đó.

Đạo sĩ trẻ tuổi gật đầu: "Không sai, những điều ta nói ban nãy chỉ là nói cho người ngoài nghe thôi, chiếc đỉnh đã đè chết Tần Vũ vương ấy, vương thất nước Tần đương nhiên không thể để nó tồn tại, có một thỏa thuận ngầm là cho nó biến mất một cách hợp lý".

"Ồ, chính trị cũng thật là giả dối, rõ ràng muốn đập vỡ nó, nhưng lại không dám, đành phải tìm cớ để làm mát nó". Thang Viễn làu bàu mấy tiếng, có phần coi thường nghệ thuật chính trị lắm mưu mô quỷ kế kia, "Vậy bây giờ ở Tứ Thủy, cái đỉnh đó vẫn còn chứ?"

Đạo sĩ trẻ lắc đầu nói: "Không còn! Khi đó ta thấy không ai cần chiếc đỉnh đó nữa, bèn lấy về nhà, cho vào lò nung, nung chảy hết đồng ra, lấy một ít trong đó pha thêm vàng đen, cuối cùng nó trở thành một chiếc đỉnh nhỏ để ta luyện đan".

"...". Thang Viễn há hốc mồm, cậu muốn bới lông tìm vết mà không biết phải bới từ đâu, vị sư phụ này của cậu có vấn đề về thần kinh à? Bây giờ bỏ chạy liệu còn kịp không nhỉ?

Nhưng Thang Viễn nhìn sân vườn bốn mùa hoa nở, lại nhìn cảnh tượng cuồng phong bạo tuyết kỳ dị cách lương đình có gang tấc, nghĩ bụng người có năng lực lên trời xuống đất thế này, sống được mấy ngàn năm chắc cũng không khó nhỉ?

Nghĩ đến đây, Thang Viễn liền thấy ngứa ngáy trong lòng, cậu cảm thấy vị sư phụ ngộ nghĩnh này không phải vô duyên vô cớ mà nhắc tới đỉnh luyện đan Ô Kim, bèn tò mò hỏi: "Vậy hiện giờ chiếc đỉnh Ô Kim đang ở đâu?"

Ngón tay đang nhón bánh ngọt của đạo sĩ trẻ tuổi dừng khựng lại, anh ta cố gắng nghĩ ngợi hồi lâu, rồi mới hoang mang nói: "Chẳng biết là mất đâu rồi ấy...".

"..."

4

Bác sĩ cũng không rõ chủ tiệm đã ngồi trên đỉnh núi bao lâu rồi, mấy ngày qua, anh phát hiện ra thỉnh thoảng chủ tiệm lại rơi vào trạng thái ngủ say. Việc này nếu xảy ra ở người bình thường, anh sẽ cho rằng đó là bệnh chức năng thần kinh, nhưng vấn đề là chủ tiệm không phải người bình thường!

Vì vậy dù anh biết rằng lo lắng cũng bằng thừa, nhưng sự bất an trong lòng vẫn dâng lên như cơn nước triều không thể ngăn lại nổi, mà khi anh nhìn thấy hai người lần lượt đi vào trong hang Tổ Long, tâm trạng bất an lại lập tức dâng lên đến đỉnh điểm.

Chủ tiệm mở mắt, bình tĩnh chăm chú nhìn Phù Tô tiến đến sát mặt mình, không nói gì.

"Ta biết ngay là ngươi sẽ ở đây". Trên mặt Phù Tô vẫn nở nụ cười hiền hòa, ánh mắt hắn nhìn sang con thỏ bông trong túi áo chủ tiệm, sau đó lại khẽ cười bảo với chủ tiệm: "Có thể nói chuyện với ngươi không? Một mình thôi".

Chủ tiệm gật đầu, đứng dậy, mặc kệ bác sĩ đang giãy giụa, đưa con thỏ bông cho Hồ Hợi đứng đằng sau Phù Tô.

"Cái quái gì đây! Chủ tiệm! Anh điên rồi! Anh đem giao tôi cho thằng cha này, hắn quay người một cái là có thể vứt tôi xuống vực đấy!" Bác sĩ cáu lên, ai không biết tên Hồ thiếu gia này cực kỳ nghe lời anh hắn? Hắn chỉ mong linh hồn anh tiêu tán luôn, để Phù Tô tiếp tục chiếm đoạt cơ thể anh mà sống tiếp.

Hồ Hợi nghe xong, thân thể cứng đờ, vốn định từ chối nhưng không thể nói ra nổi câu nào, chỉ biết ngây người, đón lấy con thỏ bông, thậm chí còn tìm một góc ngồi để tránh cho gió thổi vào con thỏ bông hắn đang cầm. Chim Minh Hồng đậu trên vai Hồ Hợi giật mình, đập cánh mấy cái, nó nghi ngờ không rõ chủ nhân của mình có bị đặt nhầm dây thần kinh nào không.

Ô? Nghe lời nhỉ? Bác sĩ giờ mới nhớ ra, chủ tiệm đã từng dùng đạc Long Văn với Hồ Hợi, chắc mệnh lệnh ở cấp độ này vẫn có thể điều khiển hắn được. Nhưng làm thế ngay trước mặt anh trai người ta liệu có sao không nhỉ?

Bác sĩ bất giác nhìn Phù Tô, vừa đúng lúc gặp ánh mắt lạnh lùng của hắn, anh chợt run lên. Khi định nhìn lại lần nữa, thì anh thấy hắn đã thôi không nhìn, mà cùng chủ tiệm đi về phía đá Sáp Thiên trên đỉnh Ngũ Hoa.

Bác sĩ còn chưa kịp tiếc nuối vì không được đi nghe lén, thì bỗng sợ hãi nhận ra mình đã bị một cánh tay trắng toát lạnh băng xách đôi tai thỏ lôi ra ngoài, anh nhìn xuống dưới chân, bên dưới là khe núi bị tầng tầng lớp lớp sương núi che phủ, sâu không nhìn thấy đáy.

Cha nó chứ! Chủ tiệm trao trứng cho ác rồi! Bác sĩ bây giờ ngay cả giãy giụa còn không dám, chứ đừng nói đến chuyện hô to cầu cứu, chỉ sợ kích động tên Hồ thiếu gia xấu tính, hắn mà buông tay một cái thì anh không còn gặp lại chủ tiệm luôn, ờ... tuy rằng hình như đồ chơi nhồi bông có rơi xuống thì cũng chẳng chết được?

Con chim đỏ tò mò bay lên, đối với nó mà nói, gió núi to đến mức này vẫn chẳng thấm tháp vào đâu, vẫn có thể bay rất bình thường. Bác sĩ tức giận nhướn đôi mày bằng vải nhung lên, thật là muốn đập cho con chim tò mò ngu ngốc này một cái.

May thay thời gian thử thách không kéo dài được bao lâu, Hồ Hợi hơi nheo đôi mắt đỏ lại một chút, rồi lại xách bác sĩ trở vào trong, vứt cho con chim đỏ đang rất tò mò.

"Cho mày chơi này, đừng làm hỏng là được". Hồ Hợi nói một cách tùy ý.

Quỷ quái! Không làm hỏng là được? Bác sĩ vô cùng tức giận, nhưng một con thỏ bông rõ ràng không phải là đối thủ của con chim đỏ kia, nó có được một món đồ chơi, liền cắp đôi tai thỏ của bác sĩ lên bay lung tung.

Thôi được... Thực ra đã quen cảm giác chóng mặt khi đi tàu lượn trong công viên rồi, thì thấy trải nghiệm đó cũng vui ra phết... Cuối cùng bác sĩ trèo được lên lưng con chim đỏ, cảm thấy mình như nhân vật chính trong thế giới kỳ ảo, có thể điều khiển được con "thú cưỡi" này rồi.

Bác sĩ cúi đầu nhìn xuống đỉnh núi, trong lớp sương núi có bóng dáng mờ mờ của hai người, tiếc là, hoàn toàn không nghe được hai người họ nối gì.

Sau khi đã xác nhận bác sĩ đang được "chăm sóc" rất tốt, chủ tiệm không nhìn sang đó nữa, ánh mắt lại tập trung vào Phù Tô, chậm rãi hỏi: "Nghĩ kỹ chưa?"

Phù Tô cười hơi nhăn nhó: "Qua bao nhiêu năm, Tất Chi ngươi vẫn rất hiểu tạ". Phù Tô liếc nhìn Hồ Hợi đang đứng ở cách đó không xa, khẽ cười: "Khống chế Hồ Hợi, bắt hắn đem hết mọi việc ta làm trong những ngày qua báo cáo với ngươi hả?"

"Không, tuy ban đầu không dám khẳng định, nhưng nhờ phúc của ngài, mấy ngày này, những chi tiết nhỏ nằm sâu trong ký ức mà thần dường như đã quên, đều được lật lại từng thứ một, mới khiến thần chắc chắn vậy". Chủ tiệm nói rất bình thản, nhưng sâu trong mắt là một sự dịu dàng.

"Ồ?" Phù Tô cười, gương mặt tuấn tú không hề có chút bối rối nào, hắn vốn cũng không hy vọng trò dùng hương nguyệt kỳ vặt vãnh của hắn qua được mắt chủ tiệm.

"Thần vẫn nhớ, năm xưa ngài hay lén xem "Hoàng Đế Nội Kinh"". Trên môi chủ tiệm nở một nụ cười, những hồi ức đó đối với gã thật quý báu. Bởi vì quá coi trọng, nên mới không nỡ lấy ra để nhớ lại, nó giống như bong bóng xà phòng đẹp đẽ nhưng mỏng manh dưới ánh nắng, chỉ cần chạm nhẹ là đã vỡ tan.

"Không trị lúc đã bệnh, phải trị lúc chưa bệnh; không trị lúc đã loạn, phải trị lúc chưa loạn". Phù Tô nói ra tư tưởng quan trọng nhất trong "Hoàng Đế Nội Kinh", thở dài nói: "Ngươi chắc chắn cũng đã đọc rồi, nếu không tại sao lại không lo lắng về việc ta muốn lật ngược thiên hạ này lên?"

Chủ tiệm không trả lời câu hỏi của hắn, mà đưa tay sờ lên con rồng đỏ bên vai phải, bình tĩnh nói: "Người ta cứ hay nói mình không thể tự quyết định, thực ra chỉ vì không muốn vứt bỏ những thứ mình đang có, cũng không muốn buông bỏ những thứ mình muốn có. Có lẽ, đó chính là lòng tham".

Phù Tô hiểu ý của gã, cười tự nhạo: "Tất Chi, ngươi yên tâm vậy sao? Không sợ ta có lòng tham sao?"

"Không thể khuyên giải được, đành phải để ngài tự tỉnh ngộ. Trong thời gian một năm qua, thần nghĩ ngài đã nhìn rõ rồi". Chủ tiệm thu tay lại, trên ngón tay tự dưng có vết thương do một loại sợi mảnh sắc cắt phải, gã cũng không lãng phí giọt máu đó, bôi thẳng lên thân con rồng đỏ. Đôi mắt sống động như thật của con rồng đỏ lóe lên tia sáng, rồi lập tức lại tối trở lại.

Phù Tô không để ý đến tình tiết đó, mà vịn tay vào đá núi, nhìn xuống phía dưới. Lúc này sương núi đã giảm, cơn cuồng phong thổi bớt đi một chút, lộ ra cảnh tượng nguy nga tráng lệ bên dưới chân núi. Phù Tô nhìn ngắm một hồi lâu, rồi mới lẩm bẩm nói: "Nghĩ năm xưa, chắc phụ hoàng cũng đứng ở đây nhìn ngắm cảnh này... Nghĩ năm xưa... đã qua hơn hai nghìn năm rồi, ta cũng thực sự tự do rồi".

Quả tim đang treo ngược của chủ tiệm cũng đã được cất trở lại chỗ cũ.

Gã đánh thắng canh bạc rồi.

Dù kết quả này đã được gã dự liệu từ trước, nhưng vi sao trong thời khắc thực sự phải đối mặt, gã lại buồn bã hơn tưởng tượng nhiều đến thế?

Phù Tô lấy ra một chiếc đỉnh nhỏ trong người, chủ tiệm nhìn theo, mới nhận ra chiếc đỉnh nhỏ này trông rất quen, nó chính là đỉnh Ô Kim mà gã đã lấy ba món đồ cổ để đổi cho ông giám đốc bảo tàng, sau này gã không thể tìm thấy nó đâu nữa. Chủ tiệm cũng không truy cứu chuyện vì sao đỉnh Ô Kim lại rơi vào tay Phù Tô, Hồ Hợi có bút Bạch Trạch, muốn ra vào Á Xá của gã cũng chỉ là chuyện quá dễ dàng. "Cái đỉnh này...".

"Càn Khôn đại trận đã trấn yểm mất mười một mắt trận rồi, vậy chỗ này ta cũng tiện thể đánh bạc xem". Phù Tô ngừng lại một chốc, rồi hít một hơi sâu nói tiếp: "Nhân khi ta còn chưa đổi ý".

Chủ tiệm cầm lấy chiếc đỉnh Ô Kim, mí mắt cụp xuống che đi ánh mắt rối loạn của gã.

5

Thang Viễn lấy lá sen múc lại một ít nước suối nóng, uống mấy ngụm, rồi lấy mu bàn tay quệt sạch nước trên mép, mới nhận ra ông sư phụ tham ăn của mình vẻ mặt có vẻ nghiêm trọng.

"Sao thế? Lại có gì sai sai nữa à?" Thang Viễn thấy run rẩy, chỉ sợ ngay một giây sau sư phụ tham ăn bảo kẹo hồ lô không đủ, bắt cậu đi mua hai xiên nữa về.

Đạo sĩ trẻ tuổi nhíu mày, đưa luôn tay ra ngoài kết giới cảm nhận hơi thở của thế giới bên ngoài, bấm đốt tay nhẩm tính, thở dài nói: "Càn Khôn đại trận có biến".

"Càn Khôn đại trận? Lại là gì nữa thế? Sao có vẻ oách thế?" Hai mắt Thang Viễn sáng lên, rồi ngay một giây sau thì biến thành hai hòn bi ve, vì cậu bỗng thấy phía sau lưng đạo sĩ, hơi nước bốc lên từ suối nước nóng bỗng ngưng tụ trên không trung biến thành hình hài một cô gái. Hơi nước trở nên rõ hình dần, rất nhanh chóng có thể nhìn thấy đó là một cô gái dung nhan tuyệt sắc, thân hình khói trắng mờ ảo như tuyết, gương mặt đẹp tựa tranh thủy mặc, đôi môi mỏng vẽ ra một nụ cười có ý giễu cợt, hai mắt trống rỗng vô hồn nhưng lại có một sức hấp dẫn mà không từ ngữ nào diễn tả được.

Thang Viễn tuy còn ít tuổi, nhưng cũng biết nếu trên đời này có yêu ma quỷ quái, thì chắc chắn là đang xuất hiện trước mặt cậu rồi. Nhìn nửa thân dưới của cô gái đó hóa ra lại là một chiếc đuôi rắn dài, Thang Viễn sợ hãi không nói nên lời, trong cổ họng phát ra tiếng kêu ú ớ, đầu óc cậu hoàn toàn trống rỗng.

Cô gái đó đưa đôi tay trắng ngần như ngọc của mình ra, bám lên vai của sư phụ tham ăn, cúi đầu nhìn vào cổ của anh ta một cách vô cùng lả lơi.

Thang Viễn đỏ cả mặt, cậu không muốn nhìn cảnh hot này, nhưng dường như nó có ma lực, cậu giương mắt nhìn từ trong miệng cô gái lả lơi kia bỗng hiện ra hai cái răng nhọn hoắt, cắn phập vào cổ sư phụ cậu.

Thang Viễn thất kinh đứng bật dậy, định lao tới cứu sư phụ, nhưng dường như bị ai đó giữ lại, toàn thân không có chút sức lực nào nữa.

Ngoài sức tưởng tượng của cậu, hoàn toàn không có cảnh máu me nào, sư phụ tham án còn không hề động đậy, rất bình thản mặc kệ cho cô gái kia hút linh khí trên người anh ta, cái đuôi rắn to lớn ở nửa thân dưới cô ta quẫy loạn trong vườn hoa, khiến vườn hoa bài trí tỉ mỉ bỗng chốc biến thành một đống tang hoang.

Có lẽ là rất lâu sau đó, hoặc có lẽ chỉ trong khoảnh khắc, yêu tinh rắn đã ăn xong, lại tan biến vào trong làn hơi của suối nước nóng. Lúc này Thang Viễn mới tìm lại được giọng nói của mình, lắp bắp hỏi: "Thế... thế này là... là thế nào?"

"À không có gì, đó là con rắn thuốc ngày xưa ta nuôi, nó tu luyện lại từ đầu, tâm trí không được tỉnh táo ấy mà". Gương mặt đạo sĩ trẻ tuổi hơi xanh xao, nhưng anh ta chẳng để ý, vẫy tay một cái, hoa cỏ bị quật đổ trong vườn hoa lại nở rộ, những hòn giả sơn bị xô đẩy lại được dựng lên, như chưa hề xảy ra chuyện gì.

Rắn thuốc? Vậy vì sao nửa thân trên lại là một cô gái tuyệt sắc? Thang Viễn cảm thấy chân mình bắt đầu mềm nhũn, cậu chỉ là một cậu bé mười tuổi bình thường thôi! Cậu không chịu nổi cuộc đời đầy sóng gió này! Thang Viễn bám vào bàn đá để ngồi xuống, bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc xem mình có nên đi học tiểu học hay gì không, mặc dù những sách này cậu đã đọc xong từ vài năm nay.

"Ồ, ban nãy nổi đến đâu rồi nhỉ? À phải, Càn Khôn đại trận, có biết vì sao năm xưa Tần Thủy Hoàng lại đi tuần du thiên hạ không? Bởi vì Đông Nam có thiên tử khí, ta bèn đặt Càn Khôn đại trận, nếu trận pháp đại thành, cả vùng Trung Nguyên sẽ nằm dưới sự khống chế của Thủy Hoàng Đế, đế quốc Đại Tần chắc chắn sẽ vững vàng muôn đời không đổ". Đạo sĩ trẻ tuổi xuýt xoa, ôi một thời tuổi trẻ dại khờ đã ra đi không trở lại! Năm xưa anh ta cũng từng nhiệt huyết như vậy.

"Chém gió kiểu này lạnh quá...", Thang Viễn bới móc, "Chẳng phải triều Tần đến Nhị Thế là mất nước rồi sao? Còn đòi muôn đời không đổ?"

"Chẳng phải vì Tần Thủy Hoàng còn chưa lập đủ kiệt thạch đã chết rồi sao! Ban đầu ta cũng nghĩ Càn Khôn đại trận chưa bày xong thì hơi đáng tiếc, nhưng sau đó phát hiện ra tên đại đệ tử của ta lòng dạ bất chính, con nói xem, người nước Triệu nằm vùng ở nước Tần, ngầm bày mưu diệt Tần thì cũng là chuyện thường, nhưng đâu có cần thiết phải khiến người trong thiên hạ cùng chịu tội?" Đạo sĩ trẻ tuổi lắc đầu phản đối, phủi vụn bánh ngọt trên tay đi, thất vọng nói, "Nhưng hắn tu tập đã cao, dù là ta thì năm xưa cũng không thể biết nổi là đã giết được hắn chưa, nên sau đó ta mới sửa đổi Càn Khôn đại trận, dùng tám cái đỉnh còn lại biến thành trận Phong Thần giam cầm hắn, dụ hắn vào cửa Tử ở trong trận pháp, cuối cùng... thiên hạ đã thái bình".

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Làm sạch nhà khi bạn đi vắng, chỉ với 690k xài vĩnh viễn.

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Thang Viễn nhìn vẻ mặt vui mừng của đạo sĩ trẻ tuổi, bất giác cảm thấy nổi hết da gà. Thủ đoạn thanh lọc môn hộ đó quả là độc ác! Khiến người ta sống không được, chết không xong, bị hành hạ hơn hai nghìn năm? Thang Viễn bỗng cảm thấy mình nhận ông ta làm sư phụ thì quá mạo hiểm. Liếm đôi môi khô khốc vì căng thẳng, Thang Viễn lo lắng hỏi: "Vậy ông ban nãy nói Càn Khôn đại trận cổ biến... là thế nào?"

Đạo sĩ trẻ tuổi nhăn mày lại, vết sẹo giữa đôi mày trông càng hung tợn. "Thật kỳ lạ... Muốn phá giải trận Phong Thần, thì phải thu thập đủ mười hai món đồ cổ đế vương, trấn yểm ở mắt trận. Mười hai món đồ cổ đế vương đâu có dễ tìm! Vậy là kẻ nào..."

Đạo sĩ đột ngột dừng lời, Thang Viễn lập tức như hiểu ra điều gì, nhìn ra phía ngoài lương đình, thấy cơn gió tuyết mù trời và mây đen dày đặc ban nãy cứ như thể bị ông trời thu lại hết, trong phút chốc đã hoàn toàn biến mất. Chỉ còn lại tuyết trắng mênh mông trên mặt đất, và ánh nắng rực rỡ tỏa xuống từ ưên ườỉ.

"Trận đó... đúng là bị phá rồi...".

Thang Viễn há hốc mồm, thế chẳng phải có nghĩa là tên tử thần nào đó bị giam cầm suốt hơn hai nghìn năm, giờ đã bị người ta thả ra rồi sao?

6

Chủ tiệm và Phù Tô cùng kề vai đứng trên đỉnh Dịch Sơn, nhìn sương núi tan hết, cuồng phong đã ngừng, cảnh tượng thật bình yên, phía xa còn xuất hiện một cầu vồng rực rỡ.

Phù Tô nhắm mắt, hắn vốn là kẻ nên quen với việc đứng trên cao, nhưng giờ đây mắt nhìn cảnh đẹp non sông này, hắn lại cảm thấy hơi chóng mặt. Lát sau, hắn lại mở mắt ra, ngắm nhìn một hồi lâu, rồi khẽ thở dài nói: "Tất Chi, việc này kết thúc, cho dù không hề muốn, nhưng ta cũng nên trả cơ thể này cho chủ nhân ban đầu của nó rồi".

Chủ tiệm hơi run lên, định nói gì đó, nhưng chỉ hé môi một chút.

Phù Tô tự cười chính mình: "Nói ra không sợ Tất Chi chê cười, thực ra ta sớm đã nhìn rõ thời đại này vận hành ra sao rồi, nên đã bỏ ý đồ dùng Càn Khôn đại trận. Nhưng kéo dài cả một năm trời, thực ra vì ta tham lam thế giới phồn hoa này". Hắn ngập ngừng, tuy rất khó khăn, nhưng rồi cũng nói tiếp, "Nhưng những gì không thuộc về ta, thì cuối cùng cũng không phải của ta, hãy thay ta xin lỗi anh ta...".

Chủ tiệm thấy hắn nói xong rồi lập tức định quay về, liền kéo tay áo hắn theo phản xạ: "Đại công tử...".

"Tất Chi, cuối cùng ngươi cũng chịu gọi ta là đại công tử...". Phù Tô không quay đầu lại, cảm thán vì đầy hoài niệm. Từ ngày hắn tỉnh dậy, chủ tiệm vẫn gọi hắn là "điện hạ" một cách khách sáo.

Chủ tiệm ngừng lại, rồi nói lí nhí: "Thần có thể tìm giúp ngài một cơ thể thích hợp".

Phù Tô hơi sững người lại, nhưng rồi chỉ bình thản nói: "Không cần dỗ ta, linh hồn ta không ổn định, nếu tiếp tục thay thân xác, chỉ cần có chút xíu không thích hợp thôi, là lập tức hồn tiêu phách tán...".

Chủ tiệm cúi đầu, khẽ nói: "Cơ thể của thần dùng được".

Phù Tô chầm chậm quay đầu lại, gương mặt tuấn tú không có chút thái độ gì, hắn cứ nhìn chăm chăm vào chủ tiệm, một hồi lâu mới nói ra hai tiếng: "Thật chứ?"

Chủ tiệm lại cườỉ, trinh trọng gật đầu nói: "Thần đã sống hơn hai nghìn năm, đủ rồi".

Lần này Phù Tô không nói gì.

Không đồng ý.

Đương nhiên, cũng không phản đối.

7

Bác sĩ mở mắt ra, hơi ngơ ngác nhìn trần nhà trắng toát. Không phải anh đang cưỡi chim đỏ bay trên trời rất vui vẻ sao? Còn định kéo lông con chim đỏ để bảo nó bay thấp một chút, tốt nhất là có thể lén nghe được xem Phù Tô và chủ tiệm đang nói chuyện gì, vì sao chớp mắt đã ở nơi khác rồi?

Lập tức, bác sĩ bỗng nhiên ngồi bật dậy khỏi giường, kinh ngạc nhìn đôi tay mình.

Là tay của con người, không còn là đôi tay trông như quả dưa mềm mềm của đồ chơi nữa, hơn nữa trên ngón trỏ của bàn tay phải còn có vết chai lâu năm, đó là dấu vết của việc thường xuyên cầm dao mổ.

Đó là tay của anh!

Khi bác sĩ nhận ra điều này, liền vội vàng nhìn ra xung quanh, phát hiện ra mình đang ở trong nhà mình. Anh xông vào phòng vệ sinh, thấy mình đúng là đã trở về cơ thể cũ rồi, bèn sung sướng toét miệng cười. Nhưng niềm vui sướng đó không kéo dài được quá ba giây. Vì sao anh không biết gì, tự nhiên lại trở về với cơ thể của mình? Chủ tiệm đâu?

Vớ vội quần áo lao ra khỏi cửa, từ đằng xa anh nhìn thấy Á Xá, sự bất an trong lòng bác sĩ mỗi lúc một lớn, anh loạng choạng chạy tới đẩy cánh cửa chạm hoa nặng trịch ra, khi nhìn thấy quang cảnh bên trong phòng, mới thở phào nhẹ nhõm.

Đồ đạc trong tiệm Á Xá không thay đổi gì, tượng binh mã sơn màu đứng ngoài cửa, đèn cung Trường Tín sáng mãi không tắt, chiếc lư Bác Sơn nạm hình rồng vàng quanh năm tỏa hương trầm Kỳ Nam... tất cả mọi thứ đều ở đây, đến vị trí đặt đồ cũng không hề thay đổi chút nào. Ban nãy bác sĩ chạy vội quá, nên giờ phải nằm trên chiếc ghế dựa bằng gỗ tếch để thở, một lúc sau mới cảm thấy có gì đó không ổn.

Nếu như mọi ngày, chắc chắn chủ tiệm đã biết là anh đến, dù có bận đến mấy cũng sẽ phải đi ra từ buồng trong rồi. Bác sĩ ngồi dậy, gọi lớn: "Chủ tiệm? Chủ tiệm! Anh ở đâu đấy?"

Ngoài tiếng vọng của giọng anh ra, trong Á Xá hoàn toàn im ắng.

Bác sĩ sắp phát điên vì cảm giác bất an trong lòng, đang định đi vòng ra sau bình phong ngọc để vào trong tìm, thì nghe thấy tiếng cọt kẹt của cánh cửa gỗ chạm hoa, bác sĩ lập tức quay lại.

"Chủ tiệm... Ơ? Sao lại là anh?" Bác sĩ ngạc nhiên nhìn Lục Tử Cương xách va li đi từ ngoài vào.

Lục Tử Cương tháo chiếc khăn quàng trên cổ, cười nói: "Chủ tiệm gửi thư cho tôi, bảo tôi trông hàng hộ anh ấy".

Bác sĩ như bị sét đánh trúng, kinh ngạc đứng sững người một lúc lâu, rồi mới rặn ra từng chữ qua kẽ răng: "Vậy anh ta... có nói là... bảo anh trông hàng bao lâu không?"

Lục Tử Cương nhún vai nói: "Anh ta không nói, nên tôi mới thôi việc ở Bảo tàng quốc gia".

Quả tim của bác sĩ như rơi xuống hố băng.

Ở sâu dưới lòng đất tại một nơi không ai biết, trong một hầm mộ rất nguy nga tráng lệ, không khí ngưng đọng hơn hai nghìn năm bỗng nhiên lưu động, chiếc quan tài to lớn được đặt thờ ở chính giữa, bỗng nhiên có tiếng động...

Mỗi một món đồ cổ trong Á Xá đều có câu chuyện của mình, rất nhiều năm nay không có ai nghe. Bởi vì, chúng đều không biết nói...

Quyển 3 - Chương 13: Nói về hoàng đế

Chủ đề của "Tiệm đồ cổ Á Xá" tập 3, là nói về mười hai món đồ cổ của hoàng đế.

"Hoàng", thời cổ nghĩa là trời, là ánh sáng, vì ánh sáng ban sự sống cho muôn loài nên gọi là hoàng (sáng chói).

"Đế", là chúa của sinh vật, là nguồn của sự hưng vượng, vì có công sinh dưỡng nên gọi là đế (gốc rễ).

Hoàng ở trên, đế ở dưới, hoàng đế thời cổ nghĩa là trời đất, từ "hoàng đế" này nói với chúng ta rằng, trời đất là chúa của muôn vật, còn hoàng đế là đại diện cho trời đất ở nhân gian.

Hoàng đế, trong lịch sử, là một khái niệm rất đặc biệt.

Có thể nói trên tòa kim tự tháp quyền lực, hoàng đế chính là người đứng trên đỉnh nhọn của nó.

Cúi nhìn chúng sinh, sở hữu quyền lực và tài sản vô hạn, có thể tùy ý quyết định sự sống cái chết và vận mệnh của người khác.

Nhưng đứng càng cao, có nghĩa là nguy hiểm càng lớn.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Cách chữa hôi miệng nhanh nhất không phải ai cũng biết!

Không có một hoàng đế nào nghĩ tòa kim tự tháp dưới chân mình rất an toàn, có lẽ chỉ thừa hay thiếu một công đoạn nào đó, tòa kim tự tháp có vẻ kiên cố kia sẽ lập tức sụp đổ.

Vì vậy các hoàng đế đều luôn cảm thấy bất an, đến cả người nhà mình cũng không thể tin tưởng được.

Sự cô đơn khi đứng trên đỉnh cao nhất, cũng chỉ có hoàng đế mới cảm nhận được, không ai có thể cùng san sẻ.

Đúng là cô gia quả nhân.

Bởi vậy, hoàng tộc cũng là một gia tộc đặc biệt, xoay quanh ngôi vua cửu ngũ chí tôn, tranh đấu, nghi ngờ, âm mưu, đố kỵ, toan tính... chẳng bao giờ hết.

Cho dù là người không hề thèm khát chút gì cái ngôi vua ấy, cũng sẽ bởi vì thân phận của mình mà bị rơi vào vòng xoáy đó, muôn kiếp không được siêu sinh.

Tình thân, tình bạn, tình yêu của anh em, cha con, vợ chồng, đều trở nên xa xỉ.

Vì thế năm xưa Lưu Tử Loan mới mười tuổi, trước khi bị giết từng khóc rằng, nguyện kiếp sau không sinh ra trong gia đình đế vương.

Từ xưa tới nay, trong hơn hai nghìn năm lịch sử phong kiến Trung Quốc, tổng cộng có hơn bốn trăm vị đế vương.

Đó là những người đặc biệt trong những năm tháng đó, cũng là những người mà ở thời đại hiện nay chúng ta không thể tiếp xúc cũng như không thể hiểu được.

Vì sao người học võ lại dễ dàng coi thường mạng người, bởi vì họ có võ lực mạnh hơn những người thường, tự cho mình cao hơn người khác một bậc.

Vì thế Tảo Địa Tăng ở chùa Thiếu Lâm có từng nói, học một môn tuyệt kỹ Thiếu Lâm, thì buộc phải học một môn Phật pháp để hóa giải sát khí.

(Hay còn gọi là "nhà sư quét rác", một nhân vật trong tiểu thuyết "Thiên Long Bát Bộ" của nhà văn Kim Dung, một nhà sư có võ công cái thế, nhưng sống ẩn mình trong chùa Thiếu Lâm, làm công việc quét dọn sân của Tàng Kinh các)

Cũng như khi đã có đao kiếm, thì phải có thêm vỏ, để tránh làm chính mình bị thương.

Chỉ là, khi có võ lực và binh khí sắc bén rồi, tính cách con người ta cũng sẽ thay đổi.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Vậy nếu có quyền lực tối thượng thì sao?

Thực ra trong lịch sử, có một số thảm họa đẫm máu không phải do những kẻ xấu gây ra.

Kẻ xấu chỉ có thể làm những việc xấu nhỏ bé, bởi vì cho dù là kẻ xấu, chúng cũng có lương tâm, cũng sẽ phải giật mình.

Còn những tội lỗi tày trời, đa phần đều do những kẻ giương cao ngọn cờ vì nước vì dân gây ra.

Họ tự cho mình là vì chúng sinh trong thiên hạ, dùng quyền hành của mình để làm những việc "tốt" được coi là lợi nước lợi dân.

Nhưng họ chẳng bao giờ nhìn thấy, vì một bức chiếu chỉ, có thể khiến bao nhiêu người dân thường phải rơi vào cảnh nước sôi lửa bỏng.

Có lẽ đó là vì hoàng đế đứng quá cao không thể thấy rõ, vì một quyết định của ông ta, mà dưới chân kim tự tháp xảy ra những chuyện gì.

Vì thế hôn quân thì nhiều, minh quân lại chẳng có bao nhiêu.

Chuyện trong thế gian này đều có một sự cân bằng kỳ lạ, có kẻ vì ngai vàng mà đánh nhau chảy máu vỡ đầu, có người lại chỉ sợ mình tránh không kịp.

Nhưng ở trong xã hội phong kiến mà thiên hạ là của hoàng tộc, có rất nhiều hoàng đế buộc phải kế vị.

Những hoàng đế đó không hề giỏi việc cai trị quốc gia, mà lại có rất nhiều sở thích khác.

Ví dụ như Tống Huy Tông Triệu Cật vẽ tranh cực tài giỏi, ví dụ như Minh Hy Tông Chu Do Hiệu rất thích làm tượng gỗ, ví dụ như Lương Vũ đế Tiêu Diễn không thích làm hoàng đế mà thích làm hòa thượng...

Nếu số phận không bắt phải làm hoàng đế, Triệu Cật có lẽ đã là một nhà thư họa lưu danh thiên cổ, chứ không phải là vị vua bị tù đày của Bắc Tống, chết nơi đất khách quê người, mất hết danh dự.

Chu Do Hiệu có thể đã trở thành một nhà điêu khắc để lại vô số tác phẩm tinh xảo, chứ không bị đám gian thần che mắt, thậm chí chết vì uống "thuốc tiên".

Tiêu Diễn có thể đã trở thành vị cao tăng đắc đạo, chứ không phải bị chết đói ở Đài Thành.

Trong hai mươi tư câu chuyện ở hai tập "Tiệm đồ cổ Á Xá trước", cũng đã từng nói đến đồ cổ của hoàng đế.

Ví dụ như Vô Tự Bi của nữ hoàng Võ Tắc Thiên, Tứ Quý Đồ của hoàng đế nghệ thuật Tống Huy Tông, còn có cả ngọc tỉ truyền quốc ngọc bích Hòa Thị.

Ngay cả công tử Phù Tô nho nhã điềm đạm cũng không thể thoát khỏi dây trói của ngôi vua, và ngôi vua cũng từng là khát vọng của thiếu gia Hồ Hợi.

Là người đứng trên đỉnh cao nhất của kim tự tháp, nên những sự tích xung quanh hoàng đế rất đáng để nghiên cứu.

"Tiệm đồ cổ Á Xá" tập 3 tập trung viết về mười hai món đồ cổ đế vương, mỗi câu chuyện tôi đều dành rất nhiều tâm huyết.

Sự nghi kỵ mà rìu Thiên Việt gây ra, sự tàn khuyết mà Độc Ngọc Phật che đậy, sự khống chế mà đạc Long Văn dự báo, dã tâm mà câu đai ngọc thể hiện, sự giữ - buông mà Định Bàn Châu lựa chọn, dục vọng mà Hổ Cốt thiếp đem lại, tài vận mà xúc xắc ngà xoay vần, tình thân mà vu Chấn Ngưỡng đổ đi, lời nói dối mà quạt Ngũ Minh vạch ra, sự trung thành mà Miễn Tử Bài xóa bỏ, những quy tắc mà Thanh Trấn Khuê dựng nên, quyền uy mà đỉnh Ô Kim nung nấu...

Tôi đã chọn ra mười hai món đồ cổ đế vương mà tôi muốn viết nhất và cả ngụ ý ẩn chứa bên trong đó nữa, tất nhiên không phải chỉ có mười hai món đồ này, trong các câu chuyện sau này sẽ có thể còn tiếp tục xuất hiện những món đồ cổ đế vương khác nữa.

"Tiệm đồ cổ Á Xá" tập 3 rất ít đề cập đến tình yêu, bởi vì đã nhắc đến quyền lực, thì tình yêu sẽ biến chất.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Làm sạch nhà khi bạn đi vắng, chỉ với 690k xài vĩnh viễn.

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Tình yêu nam nữ đơn thuần, chỉ tồn tại khi đôi bên bình đẳng, hoặc tồn tại ở cái tuổi mà hai người còn chưa ý thức được về sự khác biệt.

Chỉ cần họ nhận ra trong hai người có một người bị yếu thế hoàn toàn, thì tình yêu đó sẽ bị pha tạp thêm nhiều loại tình cảm phức tạp khác.

Tất nhiên thứ tình yêu bị méo mó đó cũng đã được miêu tả trong chương "Độc Ngọc Phật" và "Câu Đai Ngọc", còn tình yêu trong "Định Bàn châu" thì còn chưa kịp nảy nở đã bị bóp nghẹt...

Trong phần kết, "Tiệm đồ cổ Á Xá" tập 3 đã giới thiệu nhân vật mới, và sự biến động trong cốt truyện chính.

"Tiệm đồ cổ Á Xá" tập 4 sẽ bắt đầu đi tìm chủ tiệm mất tích, à... Á Xá trong lúc vắng gã chủ tiệm... chắc là sẽ vô cùng hỗn loạn đây... Lục Tử Cương với bác sĩ xem chừng chẳng đáng tin lắm... (Ông giám đốc lâu ngày chưa được xuất hiện thì đang cười thầm: cuối cùng cũng đợi được đến giờ phút này rồi! Hà hà hà hà...)

Mỗi một món đồ cổ trong Á Xá đều cổ câu chuyện của mình, rất nhiều năm nay không có ai nghe. Bởi vì, chúng đều không biết nói...

Tôi phải chân thành cảm ơn những người giúp đỡ "Tiệm đồ cổ Á Xá" rất nhiều, tổng biên tập Dương Tiểu Tà, tổng giám sát Hoành Đao, các biên tập văn học Lộ Biên, Tiểu Oai, còn có biên tập mỹ thuật Dương Quang, Yvon... Bộ truyện tranh cải biên từ "Tiệm đồ cổ Á Xá" cũng cần cảm ơn sự ủng hộ to lớn của tổng biên tập Lão Trư, chủ biên Xuy Sa, còn có phụ trách Âm Âm đã bỏ công sức để chỉ đạo.

Tất nhiên còn phải cảm ơn Hiểu Bạc, đến nay tiệm đồ cổ A Xá đã mở được ba năm, từ tranh minh họa đến tranh bộ, rồi đến truyện tranh, việc hợp tác với anh ngày một tốt đẹp, chúng ta hãy cùng cố gắng.

Cuối cùng tôi xin cảm ơn sự ủng hộ của các độc giả, sự trưởng thành của Á Xá không tách rời sự quan tâm của các bạn. Nếu bạn thích câu chuyện này, thích cửa tiệm này, thích chủ tiệm, thì xin hãy tiếp tục chờ đợi!

Á Xá mỗi cuốn mười hai câu chuyện, mỗi tháng một câu chuyện, mỗi năm một cuốn sách, hẹn gặp lại vào tháng Năm năm sau.

17 tháng 3 năm 2013

Huyền Sắc

Quyển 3 - Chương 14: Phụ lục

Dòng thời gian của chủ tiệm

Năm 230 trước CN, công tử Hồ Hợi chào đời, Tần Thủy Hoàng bắt đầu đại nghiệp thống nhất sáu nước.

Năm 221 trước CN, Tần Thủy Hoàng thống nhất sáu nước, xưng là Thủy Hoàng đế.

Năm 214 trước CN, Hồ Hợi ham hưởng lạc, xây dựng một khu đình viện theo mô hình bàn cờ Lục Bác (Cờ Lục Bác).

Năm 210 trước CN, Tần Thủy Hoàng chết trong khi tuần du, Triệu Cao dùng bút Bạch Trạch để sửa di chiếu, Phù Tô bị giết. Gã chủ tiệm bị lừa vào lăng Tần Thủy Hoàng, bị giết (Bút Bạch Trạch).

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Đồng Hồ Bản Sao

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Năm 209 trước CN, Lưu Doanh có được một chiếc vu sơn mài luôn đầy nước (Vu Chấn Ngưỡng).

Năm 207 trước CN, triều Tần sụp đổ, Hồ Hợi "chết" (Chiếc Cân Đồng).

Năm 202 trước CN, loạn lạc cuối thời Tần, gã chủ tiệm đổi tên là Hàn Tín, quyết chiến với Hạng Vũ ở Cai Hạ, Hạng Vũ tự vẫn ở bên bờ Ô Giang (Ngu Mỹ Nhân).

Năm 202 trước CN, Lưu Bang lên ngôi lập nhà Đại Hán, chẻ trúc ghi thề, ban cho công thần đan thư thiết khế (Miễn Tử Bài).

Năm 130 trước CN, hoàng hậu Trần A Kiều bị phế truất, về ở trong cung Trường Môn.

Năm 124 trước CN, Hoắc Khứ Bệnh lấy được một chiếc gương đồng từ chỗ bà dì (Gương Ngư Văn).

Năm 110 trước CN, gã chủ tiệm mua được một con rối bằng gỗ ngô đồng (Rối Vu cổ).

Năm 10, Lưu Tú dùng đồng Kim Thác Đao đổi lấy một chiếc bàn tính ở một gánh hàng, viên Định Bàn Châu trên đó không di chuyển được (Định Bàn Châu).

Năm 186, cuối đời Hán, gã chủ tiệm làm thầy dạy học ở nhà họ Chu, dạy hai học trò là Chu Du và Chu Cẩn (Lược Lưu Thanh).

Năm 190, Hán Hiến đế Lưu Hiệp bị cầm tù, lúc sắp chết đói, thì được cho mấy chiếc bánh và một miếng câu đai bằng ngọc (Câu Đai Ngọc).

QUẢNG CÁOAdskeeper

Máy hút rác thông minh đang cháy hàng ngày tết, giảm còn 690k

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Năm 422, khi Lưu Dụ trút hơi thở cuối cùng, đã bỏ con xúc xắc luôn giúp cho ông ta đánh bạc thắng xuống (Xúc Xắc Ngà).

Năm 448, Thái Võ đế nhà Bắc Ngụy thu được một bức tượng Phật đã nứt, phong trào diệt Phật làm quá gắt, phải chịu báo ứng khiến con cháu sau này đều chết sớm (Độc Ngọc Phật).

Năm 560, Cao Trường Cung có được một chiếc mặt nạ quỷ vàng, đánh đâu thắng đó (Mặt Nạ Vàng).

Năm 600, Dương Quảng khi ấy còn làm hoàng tử đã có được chiếc đạc Long Văn (Đạc Long Văn).

Năm 705, vị nữ hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc nhắm mắt xuôi tay, trong lăng tẩm của bà có một chiếc bài vị Vô Tự Bi khắc bằng đá Thọ Sơn (Vô Tự Bi).

Năm 951, từ tiệm Á Xá, Triệu Khuông Nghĩa mười hai tuổi có được chiếc rìu Thiên Việt mà chỉ thiên tử mới cầm được, sau đó phát hiện ra chiếc rìu này anh trai Triệu Khuông Dận cũng cầm được (Rìu Thiên Việt).

Năm 1100, thời Tống, Á Xá đặt ở Biện Lương Khai Phong. Gã chủ tiệm gặp Tống Huy Tông Triệu Cật. Áo Xích Long được thêu thêm rồng, Tứ Quý Đồ nhận chủ nhân (Tứ Quý Đồ).

Năm 1348, cuối thời Nguyên, gã chủ tiệm tìm thấy một cây nến quen thuộc trong một ngôi chùa nhỏ.

Năm 1370, ngôi chùa đó được đổi tên là chùa Hoàng Giác, nhưng nến thì thiếu mất một cây quan trọng nhất (Nến Nhân Ngư).

Nám 1371, ngoài chùa Hoàng Giác, Chu Nguyên Chương thôi không đuổi theo nến Nhân Ngư nữa, nhờ đó mà có được chiếc quạt có thể phân biệt lời nói thật và lời nói dối (Quạt Ngũ Minh).

Năm 1532, những năm Gia Tĩnh triều Minh, Á Xá ở Tô Châu, Lục Tử Cương và Hạ Trạch Lan gặp nhau. Lục Tử Cương ở lại Á Xá, có được Ngô đao.

Năm 1542, Á Xá chuyển đến kinh thành, Lục Tử Cương và Hạ Trạch Lan lại gặp nhau, Côn Ngô đao trùng phùng. Cung biến năm Nhâm Dần, Hạ Trạch Lan vì liên lụy mà chết. Khóa Trường Mệnh được hoàn thành.

Nám 1552, Lục Tử Cương bị chém đầu vì đắc tội với hoàng đế (Côn Ngô đao).

Năm 1673, những năm Khang Hy đời Thanh, Á Xá ở kinh thành, gã chủ tiệm giả làm con hát để tránh lệnh cạo đầu. Gã hẹn mua bản thảo của Hồng Tháng, ngăn ông bán Hề Mặc (Mực Đình Khuê).

Năm 1945, Cảnh Lăng (mộ của Khang Hy) bị trộm, chiếc chén Cửu Long tùy táng không biết đã mất đâu (Chén Cửu Long).

Năm 2008, Á Xá chuyển đến một con phố buôn bán cũ ở Hàng Châu, một tối nọ bác sĩ đã mở cánh cửa của Á Xá.

Năm 2010, gã chủ tiệm và bác sĩ đi tìm chiếc áo ngọc sợi vàng còn lại, mà đã đi vào địa cung Tần lăng (Áo Xích Long).

Năm 2010, "Tiệm đồ cổ Á Xá" tập 1 xuất bản.

Năm 2011, Hồ Hợi phát hiện ra kiếp sau của hoàng huynh hắn.

Năm 2011, gã chủ tiệm và bác sĩ đi Ai Cập, tìm được cuốn sách Vong Linh có thể triệu hồi những vong linh viễn cổ (Sách Vong Linh).

Năm 2012, Phù Tô chiếm cơ thể của bác sĩ, chủ tiệm bắt đầu thu thập mười hai món đồ cổ đế vương để trấn áp Càn Khôn đại trận.

Năm 2013, câu chuyện về Á Xá vẫn còn tiếp tục... Dòng thời gian hai nghìn năm của chủ tiệm vẫn đang đợi bổ sung dần dần.

Quyển 4 - Chương 1: Váy Chức Thành

Cổ vật trong tiệm đồ cổ Á Xá,

mỗi một thứ đều có câu chuyện của riêng mình,

cất giữ rất nhiều năm,

không có ai lắng nghe,

nhưng chúng đều đang chờ đợi.

1

Năm 694, Phòng Châu.

Lý Khỏa Nhi giận dữ ngồi xổm ở hoa viên trong hậu viện. Cô bé mười tuổi ăn vận như một cậu con trai, áo đen vải thô, tóc rẽ sang hai bên, trên đỉnh đầu túm thành hai túm giống như hai chiếc sừng dê, tóc tai chải chuốt cũng giống như con trai. Nếu như người khác nhìn thấy chắc chắn sẽ khen thầm một câu đứa bé này đẹp quá, lanh lợi có phước giống như đồng tử theo hầu Quan Âm Bồ Tát.

Khi Lý Trọng Nhuận tìm tới đây, bắt gặp một đứa bé dù bẩn thỉu nhưng lại toát ra nét vô cùng đáng yêu. Cậu không nén được bật cười, cảm thấy tiểu muội của mình quả thực vô cùng thú vỊ Mặc dù cậu chỉ hơn Lý Khỏa Nhi hơn hai tuổi nhưng năm nay đã có dáng dấp của một cậu thiếu niên, thân hình cao hơn Lý Khỏa Nhi nhiều, dễ dàng nhấc bổng cô bé đang ngồi dưới đất này lên.

Lý Khỏa Nhi giật mình, giãy giụa một hồi, thấy đó là huynh trưởng mình bèn vang giọng gọi: "Trọng Chiếu ca ca!".

Lý Trọng Nhuận sợ cô bé ngã nên vội buông tay, đỡ cô bé đứng yên trên mặt đất, chau mày nói: "Ta đã nói với muội bao nhiều lần rồi, ta đã đổi tên thành Lý Trọng Nhuận. Trước đây muội còn nhỏ ta không yêu cầu muội. Hôm nay là sinh nhật muội, muội cũng mười tuổi rồi, sau này phải chú ý thay đổi cách gọi đấy".

Lý Khỏa Nhi chưa từng thấy anh trai mình nghiêm túc như thế này bao giờ. Lý Trọng Nhuận vốn là dòng dõi con nhà đế vương, vừa sinh ra đã được phong là hoàng thái tôn, mặc dù sau này đã bị giáng làm thứ dân như phụ thân nhưng bẩm sinh đã có khí chất hoàng gia, trưởng thành theo năm tháng, càng khiến người khác không thể coi thường.

Lý Trọng Nhuận quả thật hơi tức giận, cậu biết nếu mình không nặng lời e rằng tiểu muội nghịch ngợm tinh quái này sẽ chỉ coi là những lời gió thoảng qua tai như trước đây mà thôi. Nhưng cậu nghiêm mặt chưa được bao lâu đã phát hiện ra khuôn mặt đáng yêu trắng sáng như ngọc của tiểu muội đã xị xuống. Cậu hét thầm một tiếng "Hỏng rồi", quả nhiên thấy trong đôi mắt long lanh kia như có một làn hơi nước mờ ảo và nước mắt bắt đầu rơi lã chã. Mặc dù biết mười phần thì có tới chín phần là giả vờ khóc nhưng như thế cũng đủ khiến lòng cậu thắt lại, cậu vội ôm cô bé như con khỉ con này vào lòng nhẹ nhàng an ủi.

"Trọng Chiếu ca ca là tên đáng ghét... hu hu...", ngày hôm nay Lý Khỏa Nhi vốn đã có nhiều phiền muộn bây giờ giống như đã tìm được ngọn nguồn để trút giận liền túm lấy áo của Lý Trọng Nhuận mà khóc òa lên.

Lý Trọng Nhuận vô cùng ăn năn, vỗ vỗ bờ vai gầy nhỏ của tiểu muội, thở dài giải thích: "Tiểu muội, muội đang trách cha mẹ hôm nay không tổ chức sinh nhật cho muội à? Hôm nay người trong kinh thành tới, cha mẹ không có tâm trạng đâu mà bày vẽ cho muội". Đâu chỉ không có tâm trạng, Lý Trọng Nhuận nghĩ tới cảnh phụ thân nghe thấy tin có sứ giả từ kinh thành đến thì chẳng còn dũng khí bước ra khỏi cửa đón tiếp, lo lắng đi đi lại lại trong phòng, có lẽ thậm chí còn muốn tự tử. Mỗi lần có người từ kinh thành tới là vở kịch này lại diễn, cũng may có mẫu thân nhẫn nại ở bên khuyên bảo nếu không phụ thân không thể gắng gượng được qua bao nhiêu năm như vậy.

Lý Khỏa Nhi đương nhiên biết rõ người từ kinh thành tới là có ý gì, ngay lập tức tiếng khóc cũng nhỏ đi vài phần, trong vòng tay huynh trưởng, cô bé khóc thút thít hỏi chuyện: "Tại sao... tại sao không được gọi là Trọng Chiếu ca ca nữa? Tại sao phải đổi tên chứ?".

Lý Trọng Nhuận nghe xong sững người nhưng bật cười. Có lẽ do song thân luôn không để tâm tới đám trẻ này nên khi trước lúc cậu đổi tên, phụ thân chỉ tiện miệng nói một câu, cậu đồng ý, cô em gái Tiểu Tiên Huệ dù không hiểu nhưng cũng âm thầm đồng ý, chỉ có Tiểu Khỏa Nhi khăng khăng không chịu đổi xưng hô, cậu cũng lơ là không nói cho cô bé nguyên nhân. Lý Trọng Nhuận không đáp mà hỏi ngược lại: "Tiểu Khỏa Nhi, tại sao lại kiên trì không đổi xưng hô thế? Tỉ tỉ của muội đã đổi xưng hô từ lâu rồi".

Lý Khỏa Nhi nghe thấy Lý Trọng Nhuận nhắc tới tên Lý Tiên Huệ, cô bé lại càng giận dữ hơn, định giãy giụa ra khỏi vòng tay huynh trưởng nhưng huynh trưởng khỏe hơn. Lý Khỏa Nhi giằng co một hồi, đành ngoan ngoãn giữ yên tư thế cũ, hậm hực nói: "Đừng đổi tên mà, đổi tên rồi giống như đổi cả ca ca vậy".

Lý Trọng Nhuận im bặt tiếng cười, không ngờ tâm tư của tiểu muội lại nhạy cảm như vậy, mặc dù trong lòng không cho là như vậy nhưng vẫn kiên nhẫn giải thích: "Tại sao muội lại nghĩ như thế? Ca ca vẫn ở đây còn gì? Chỉ là đổi cách xưng hô thôi".

"Không giống! Tiên Huệ tỉ tỉ từng nói, cái tên là món quà đầu tiên cha mẹ ban cho con cái, là sự tồn tại vô cùng quan trọng". Lý Khỏa Nhi ngước đầu lên, giọng phản bác đanh thép. Trên khuôn mặt nhỏ nhắn của cô bé vẫn còn vệt nước mắt, bây giờ đôi mắt đỏ như thỏ con đang trợn trừng, nhưng lại vô cùng đáng yêu. Không lâu sau cô bé lại òa khóc, tâm trạng vô cùng tồi tệ nói: "Nhưng tên của Tiên Huệ tỉ tỉ hay như vậy, muội chỉ được gọi là Khỏa Nhi... Trọng Chiếu ca ca, có phải muội được nhặt về không?".

Hóa ra đây mới là trọng điểm, Lý Trọng Nhuận nghe xong dở khóc dở cười, rút chiếc khăn tay trong người ra, cúi đầu cẩn thận lau sạch vệt nước mắt và đất bẩn trên mặt Lý Khỏa Nhi, trịnh trọng nói: "Khỏa Nhi, muội được mẫu thân sinh ra trên đường đến Phòng Châu, lúc ấy chúng ta chẳng có lấy một tấm tã lót, phụ thân đã cởi áo trên người ra đích thân bọc muội lại, vì thế muội mới tên là Khỏa Nhi, thực ra đấy chính là thể hiện tình yêu của cha mẹ dành cho muội rồi".

Nghe giọng nói dịu dàng của huynh trưởng, Lý Khỏa Nhi từ từ ngừng khóc, mở to đôi mắt trong veo mới được gột rửa bằng nước mắt, không nói gì cả.

Hóa ra cô bé được sinh ra vào lúc chẳng ai mong đợi, cô vốn không thể nào so bì được với Tiên Huệ tỉ tỉ mà... Khỏa Nhi, Khỏa Nhi... mỗi lần gọi tên cô liệu có phải phụ thân sẽ nhớ lại quãng thời gian bi thảm khốn khó trong quá khứ không?

Lý Khỏa Nhi xụ mặt xuống, ánh sáng trong đôi mắt từ từ tối sầm lại.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Tin nóng: Rolex giảm giá đến 90% đồng hồ bản sao dịp kỷ niệm

Lý Trọng Nhuận không phát hiện ra tâm trạng của cô bé còn tồi tệ hơn trước, thấy cô bé cuối cùng cũng yên tĩnh lại câu liền dắt tay cô bé tới chái nhà thay quần áo. Hôm nay là sinh nhật lần thứ mười của tiểu muội, dù gì cũng không thể để tiểu muội ăn vận như nam nhi được nữa. Hơn nữa từ nay về sau cũng không được như vậy, nếu không tiểu muội ngày một lớn, án mặc như vậy còn ra thể thống gì nữa?

Trong lòng nghĩ như vậy nhưng khi lên tiếng Lý Trọng Nhuận lại tiếp tục nói chủ đề cũ: "Ta đổi tên không phải vì không tôn trọng món quà cha mẹ dành cho mình, mà bởi vì tên của ta trùng âm với tên mới của hoàng tổ mẫu, vì kỵ húy nên phải đổi". Hoàng tổ mẫu của họ có tên là Chiếu, cái tên đồng âm như vậy đương nhiên phải đổi đi rồi.

Lý Khỏa Nhi lần này không hỏi tiếp nữa, mặc dù cô bé chưa từng gặp vị hoàng tổ mẫu này nhưng qua những lời nói của phụ thân mẫu thân cô bé cũng đã cảm nhận được sâu sắc sự uy hiếp của hoàng tổ mẫu. Lý Khỏa Nhi suy nghĩ kỹ lưỡng một hồi, cô phát hiện ra huynh trưởng nhà mình đổi tên từ bốn năm trước, vậy có nghĩa là vị hoàng tổ mẫu này đã xưng đế bốn năm trước rồi.

Hóa ra nữ tử cũng có thể làm hoàng đế.... Suy nghĩ này cũng chỉ vụt qua trong đầu Lý Khỏa Nhi, tuổi nhỏ như cô bé vẫn chưa thể tưởng tượng được cô của tương lai sẽ gần với vị trí này như thế nào, gần tới mức chạm tay là với tới. Cô của bây giờ quan tâm tới những chuyện khác hơn.

Lý Khỏa Nhi ngoan ngoãn đi theo huynh trưởng xuyên qua hậu viện, hoa viên trong hậu viện này đã biến thành vườn rau, mẫu thân của cô cũng đích thân ra vườn trồng ít rau xanh để bổ sung cho bữa ăn. Nơi bọn họ ở còn tồi tàn hơn, miễn cưỡng có thể coi là mấy gian nhà rách nát có thể chắn gió che mưa, có thêm hai nô bộc từ trong cung tới nữa. Có điều bây giờ người từ kinh thành tới, hai người nô bộc đã ra tiếp đón, Lý Trọng Nhuận đích thân xuống bếp đun nước nóng, sau đó tìm mấy bộ quần áo sạch sẽ rồi trở về chái nhà.

Nhưng cậu không ngờ phản ứng của tiểu muội lại dữ dội như vậy, nhìn thấy quần áo trong tay cậu liền quay ngoắt mặt đi, lạnh lùng nói: "Muội không mặc".

Lý Trọng Nhuận kiên nhẫn dỗ dành: "Khỏa Nhi ngoan nào, bộ quần áo này rất sạch sẽ, hơn nữa hôm nay muội cũng mười tuổi rồi, lẽ nào sau này đều mặc quần áo nam nhi sao? Muội có muốn được gả đi không đấy?".

Lý Khỏa Nhi nghiến răng hạ giọng nói: "Muội không mặc đồ cũ của người khác". Cô bé nói xong khóe mắt đã đỏ hoe, nhưng lần này dù có nói gì cũng nhất định không để nước mắt rơi xuống, cô ngoan cường ngẩng đầu lên, cố nén dòng lệ.

Lý Trọng Nhuận sững người, lúc này cậu mới nhớ ra mình đang cầm quần áo của Lý Tiên Huệ trong tay. Cả nhà họ bị giáng xuống Phòng Châu, mặc dù không bị giam cầm nhưng cũng không được tùy tiện xuất đầu lộ diện ở bên ngoài, đương nhiên cũng cấp cho bọn họ chút ngân lượng. Tiền mua quần áo bị những kẻ xấu xa nuốt mất, đến tay họ chỉ còn lại chút xíu, nên đâu có đủ tiền mua nổi quần áo mới. Có lúc trong những ngày đông giá lạnh căm căm thậm chí họ còn chẳng có đủ quần áo chống chọi với cái lạnh.

Lý Trọng Nhuận không cho rằng Lý Khỏa Nhi đang nổi giận vô cớ, khi còn nhỏ cậu từng được sủng ái vô vàn, vào ngày cậu đầy tháng, Cao Tông tổ phụ đã đại xá thiên hạ, khi cậu một tuổi liền đích thân phong cậu làm hoàng thái tôn, mở phủ phong quan tước. Mặc dù ký ức thuở ấu thơ đã không còn rõ ràng nhưng Lý Trọng Nhuận biết phụ thân của mình đã từng làm hoàng đế, nếu không phải hoàng tổ mẫu thì bây giờ có lẽ cậu là thái tử điện hạ tôn quý nhất của đường triều, và tiểu muội của cậu cũng là công chúa được cậu yêu thương nhất.

Suy nghĩ này mới vụt lên trong đầu, Lý Trọng Nhuận đã phải ép bản thân chôn giấu nó ở nơi sâu nhất trong lòng mình.

Không được nghĩ tới, lòng người không được quá tham vọng nếu không sẽ bị dục vọng nuốt chửng. Cả nhà cậu bây giờ đang sống bình an yên ổn, như thế là tốt hơn bất cứ thứ gì. Mấy năm trước Lục bá phụ của cậu - thái tử bị phế Lý Hiền phải tự vẫn mà chết ở Ba Châu, trong đó có nội tình gì còn ẩn giấu hay không thì Lý Trọng Nhuận không muốn nghĩ cũng không dám nghĩ.

Đưa tay vuốt mái tóc mềm mượt của tiểu muội, Lý đương nhiên có quần áo mới sẽ cho đứa lớn mặc trước, đến khi không mặc vừa nữa sẽ để lại cho đứa nhỏ, nhưng Lý Khỏa Nhi lại không bao giờ mặc lại quần áo cũ của Lý Tiên Huệ, hai đứa nhỏ này giống như sinh ra đã đối nghịch nhau. Lý Trọng Nhuận không ngờ hai đứa còn so bì nhau về chuyện này nữa.

Nhìn kỹ lại bộ đồ nam ni trên người Lý Khỏa Nhi, tâm trạng u ám của Lý Trọng Nhuận như được quét sạch, khóe miệng mỉm cười, cậu nói: "Khỏa Nhi, muội không mặc quần áo cũ của Tiên Huệ, sao lại chịu mặc quần áo cũ của ta?". Trước đây cậu không chú ý, bây giờ mới phát hiện ra quần áo trên người tiểu muội rất quen mắt, chắc là quần áo cũ mấy năm trước của cậu.

Lý Khỏa Nhi lập tức ngại ngùng, ấp úng nói: "Trọng... ca ca và Tiên Huệ tỉ không giống nhau...", lần này cô bé đã nhớ phải đổi cách xưng hô, không nói ra mấy từ đó nữa.

Lý Trọng Nhuận hài lòng mỉm cười, dấp ướt khăn tay lau sạch mặt mũi chân tay cho tiểu muội. Lý Tiên Huệ từ nhỏ đã tự lập, còn Lý Khỏa Nhi do cậu chăm từ nhỏ đến lớn, những việc này cậu đều làm quen rồi.

Sau khi lau sạch sẽ cho Lý Khỏa Nhi, Lý Trọng Nhuận mỉm cười với cô bé: "Khỏa Nhi, ca ca muốn nhìn muội mặc đồ nữ nhi, mặc cho ca ca ngắm được không?".

Lý Khỏa Nhi mím chặt đôi môi hồng hào, giận dữ nhìn chiếc váy hoa liễu áo ngó sen màu xanh lục trên giường, một lúc lâu sau mới miễn cưỡng gật đầu.

Lý Trọng Nhuận khẽ thở dài trong lòng, thầm nghĩ sau này nhất định phải nghĩ cách kiếm một bộ váy áo xinh đẹp nhất cho Tiểu Khỏa Nhi.

2

Năm 698, Lạc Dương

Lý Khỏa Nhi bất an kéo kéo chiếc váy xanh lót màu vàng nhạt lên, sau khi cả nhà trở về Lạc Dương, chiếc váy ngắn eo cao bó ngực này do ca ca Lý Trọng Nhuận của cô đặc biệt dẫn hai tỉ muội tới phường thêu xuất sắc nhất Lạc Dương đặt may. Trên tà váy còn thêu hình hoa sen, từng khóm từng cụm, có tới bảy tám tầng tà váy, từ trong ra ngoài, từ dài tới ngắn, giống như từng lớp từng lớp cánh hoa sen; hơn nữa vải xếp lớp mà không rườm rà, trái lại rất nhẹ nhàng khiến cho mỗi bước chân đi như có từng làn sóng gợn theo, giống như bước bước nở hoa sen. Trên hai cánh tay của cô còn khoác một tấm khăn choàng bằng lụa màu hồng phấn, màu sắc hài hòa với màu hoa sen trên tà váy, năm nay Lý Khỏa Nhi mười bốn tuổi, dáng dấp đã có nét uyển chuyển, mặc bộ này càng khiến cô thướt tha hơn.

Từ nhỏ tới lớn, cô chưa từng mặc bộ váy nào đẹp như thế này, hơn nữa còn là váy mới! Không phải váy cũ mà tỉ tỉ đã từng mặc!

Mặc dù cô cảm thấy Lý Tiên Huệ đi đằng trước mình đang mặc chiếc váy tay lỡ màu vàng kim, vạt áo đối xứng màu thiên thanh cũng rất đẹp, nhưng cô đã mãn nguyện lắm rồi. Len lén đưa mắt nhìn lên phía trước đã thấy bóng lưng vạm vỡ, anh tuấn của huynh trưởng nhà mình. Hôm nay Lý Trọng Nhuận mặc y phục liền thân màu tím, eo thắt đai ngọc, phối với đai Điệp Tiếp Thất Sự, đầu đội khăn vấn La Sa màu đen, chân đi ủng lục hợp màu đen có họa tiết Như Ý, cậu thiếu niên ngọc thụ lâm phong vừa tròn mười bảy, cho dù đi trên phố cũng đã đủ thu hút ánh mắt nhìn của tất cả mọi người.

(Một loại thắt lưng thịnh hành vào thời Đường Tống, trên đó có treo những đồ vật nhỏ, chỉ quan lại mới được dùng)

Lý Khỏa Nhi không biết gia đình mình bị hoàng tổ mẫu gọi tới Đông Đô Lạc Dương là có ý gì, nhưng thấy phụ thân mẫu thân mặt mày hớn hở, huynh trưởng đang mặc y phục trên người chỉ có hoàng tử mới được mặc, có thể thấy đây là một việc vui mừng.

Lỷ Khỏa Nhi trong lòng nhẹ nhõm bắt đầu thăm dò cung điện xung quanh, sau khi hoàng tổ mẫu của cô xưng đế liền lấy Lạc Dương làm đô thành, gọi là Đông Đô. Cung điện ở Đông Đô Lạc Dương nghe nói giống Đại Minh Cung ở Trường An, cũng có cung điện hình chữ Ao, trước đây là Minh Đường Càn Nguyên điện, còn gọi là Vạn Tượng Thần Cung. Hai bên Đông Tây là cung điện cao lớn giống như chim đang sải cánh bay, điện đường cao vút sừng sững chọc thẳng vào mây xanh. Sau khi vào thành Lạc Dương, Lý Khỏa Nhi luôn ngóng nhìn về nơi này, cuối cùng hôm nay cũng được vào cung, cô không nỡ chớp mắt, chỉ sợ nhìn thiếu chỗ này chỗ kia là chẳng thể nhìn thấy được nữa.

Lý Tiên Huệ quan sát cô nãy giờ khẽ chau mày, dừng lại vài bước nhỏ giọng đe nẹt bên tai cô: "Khỏa Nhi, đừng diễn bộ dạng quê mùa như thế nữa, sau này chúng ta còn phải sống ở đây đấy". Ngụ ý của Lý Tiên Huệ là nếu muốn ngắm nhìn thì sau này có thể ngắm thỏa thích.

Lý Khỏa Nhi giật mình che miệng hỏi: "Hả? Sau này chúng ta sống ở đây?".

Lý Tiên Huệ bị bộ dạng ngốc nghếch của Lý Khỏa Nhi làm cho tức chết, lén lút bẹo chút thịt mềm ở eo cô bé, khẽ quở trách: "Muội này! Tối qua chỉ biết chăm chăm mặc chiếc váy xanh của muội thôi, quả nhiên những lời phụ thân dặn dò không lọt vào tai chút nào".

Lý Khỏa Nhi vốn sợ bị cù léc nên luôn miệng xin tha, mặc dù hai tỉ muội từ nhỏ đã đối nghịch nhau nhưng dù sao tuổi tác tương đương nên nhiều năm trôi qua tình cảm trở nên tốt đẹp, còn đôi ba ngày lại có một trận cãi cọ nhỏ là điều khó tránh khỏi. Lý Trọng Nhuận đi trước nghe thấy tiếng cười đùa của hai tỉ muội, quan tâm quay lại nhìn xem sao rồi lại bật cười quay đầu đi.

Không phải tối qua Lý Khỏa Nhi không chú ý nghe, chỉ là không để tâm mà thôi, bây giờ nhớ lại lập tức miệng lưỡi lanh lợi đáp trả: " Sau này Tiên Huệ tỉ chưa chắc đã sống ở đây đâu. Muội nhớ phụ thân nói, hình như định gả tỉ cho con trai nhà Vũ gia mà".

Lý Tiên Huệ nghe vậy liền đỏ bừng mặt, nhưng cũng biết đây là việc có thể xảy ra. về gã Vũ Diên Cơ nhà Vũ gia được hứa hôn với cô kia, mấy ngày trước cô cũng lén lút nhờ huynh trưởng xem giúp xem thế nào, được đánh giá rất cao nên cô cũng yên lòng. Nhưng Lý Tiên Huệ không quen với vẻ mặt thoải mái trêu đùa thế này của Lý Khỏa Nhi bèn đáp trả: "Khỏa Nhi muội cũng đừng lo lắng, con trai nhà Vũ gia còn nhiều lắm, chắc chắn phụ thân có thể chọn một người tốt cho muội".

Lý Khỏa Nhi bĩu môi, không coi đó là chuyện cần quan tâm. Dụng ý liên hôn của phụ thân với gia tộc Vũ gia ai cũng thấy rõ, nhưng nếu cô không hài lòng chắc chắn sẽ không gả đi! Cô tin huynh trưởng sẽ bảo vệ cô.

Trong không khí đùa vui như thế này, tâm trạng căng thẳng nghiêm túc của mọi người cũng nhẹ nhõm hơn nhiều, đi xuyên qua cung điện tường vàng ngói ngọc nguy nga, đến Tây Uyển Thượng Dương cung tuyệt mỹ. Thượng Dương Cung có đường dẫn nước từ nguồn vào, chảy luồn qua cung, trong hoa viên nở đầy những loại hoa nổi tiếng và quý hiếm, rực rỡ tuyệt mỹ, nghe nói bốn mùa quanh năm trong hoa viên này không bao giờ thiếu sắc màu, cho dù trong những ngày đông giá rét cũng sẽ cắt tỉa tỉ mẩn, chứ đừng nói bây giờ đương là giữa mùa hè. Bên trong thập lục viện của Thượng Dương Cung có một biển nhân tạo, trong biển còn có tiên sơn cao hơn mặt nước cả trăm thước, giả sơn nhấp nhô, khiến người xem phải tấm tắc khen tuyệt vời. Trên nóc hành lang có cối xay chạy bằng sức nước, đưa nước biển từ biển nhân tạo lên nóc hành lang, rót vào khung hành lang, bên khung hành lang đục lỗ, dòng nước chảy xuống theo mái hành lang, tạo thành rèm nước nhân tạo nhỏ giọt, lấp lánh long lanh dưới ánh mặt trời chiếu soi. Bước đi giữa hành lang, bên tai vang lên tiếng nước nhỏ giọt, ngửi hương hoa thơm ngây ngất rung động tâm can, chân bước trên những phiến đá ngọc thạch xanh mát rượi nhìn ngắm phong cảnh Thượng Dương Cung bên ngoài qua tấm rèm nước, quả thật là một nơi phong nhã tránh nắng tuyệt vời giữa mùa hạ.

Cả đời này của Lý Khỏa Nhi chưa từng được ngắm nhìn phong cảnh hoa lệ tuyệt mỹ như vậy, cô kinh ngạc một hồi mới phát hiện ra Lý Tiên Huệ cũng không khá hơn mình là mấy, đôi môi hồng hơi há ra, còn mắt thì không chớp. Lý Khỏa Nhi chẳng có thời gian mà cười nhạo tỉ tỉ, lúc này cô phát hiện nữ giới trong cung đều mặc trang phục đủ màu của nữ quan, xinh đẹp diễm lệ, dung nhan điểm tô gò má ửng hồng, tóc mềm như mây bồng bềnh. Mỗi khi có hai, ba nữ quan hoặc quý nhân y phục lộng lẫy đi qua, luôn có làn gió mang theo mùi hương quyến rũ khiến người ta ngây ngất.

Một người từ nhỏ tới lớn chỉ được mặc đồ vải thô ở nhà rách nát như Lý Khỏa Nhi cảm thấy mình giống như rơi vào một giấc mộng đẹp hoa mỹ mông lung, ngay cả đôi chân cũng mềm nhũn.

Sau khi đi xuyên qua hành lang rèm nước, bước lên cây cầu bắc qua mặt nước, đến một thủy các bốn mặt để trống, nước bao quanh, giữa những tấm màn che đang phấp phới bay lên, một người phụ nữ tôn quý đang ngồi ở chính giữa. Lý Khỏa Nhi chưa kịp nhìn kỹ diện mạo người ấy thì đã bị Lý Tiên Huệ bên cạnh kéo xuống quỳ sụp dưới đất.

Nén nhịn cơn đau ở đầu gối, bên tai vang lên tiếng phụ thân nước mắt tuôn trào nói gì đó với người phụ nữ kia, Lỷ Khỏa Nhi biết đó chắc chắn là hoàng tổ mẫu của cô.

Cô lại chẳng có hứng thú nghe xem họ nói gì, len lén ngước mắt nhìn lên, cô nhìn thấy người phụ nữ đó chân đi hài gấm mũi phượng vểnh cao, đưa ánh mắt lên cao thêm chút nữa cô nhìn thấy vạt áo bằng sợi kim tuyến cao quý xa xỉ vô cùng, bên trên dùng sợi bạc phác họa ra từng tầng mây mù, đường nét thêu dệt đều cực kỳ tinh tế tỉ mỉ, từng cơn gió nhẹ thổi qua, tà áo rộng ấy giống như từng đợt sóng lấp lánh trong vắt của biển nhân tạo bên cạnh, gợn lên từng đợt sóng nhấp nhô.

Từng đợt sóng màu vàng màu bạc khiến Lý Khỏa Nhi nhìn hoa cả mắt.

Có lẽ đã một lúc lâu trôi qua, mà cũng có thể chỉ trong chốc lát, giọng nói du dương ấm áp của nữ quan lọt vào tai cô.

"... Lý Khỏa Nhi tướng mạo thanh tú nội tâm thông minh, phong làm An Lạc công chúa..."

A... quả nhiên cô đang nằm mơ, cô hy vọng mình chẳng bao giờ tỉnh dậy.

3

Năm 701, Lạc Dương.

Quả nhiên cô đang nằm mơ, hơn nữa còn là một cơn ác mộng.

Lý Khỏa Nhi nắm lấy tay áo Lý Trọng Nhuận với vẻ không tin, lắp ba lắp bắp hỏi: "Ca ca... huynh nói... huynh nói cái gì?".

Lý Trọng Nhuận âu yếm vuốt ve mái tóc vẫn chưa chải gọn của Lý Khỏa Nhi, dịu dàng nói: "Sau này ca ca không thể chăm sóc cho muội nữa rồi, phải biết chăm sóc bản thân cho tốt". Bỗng nhiên bị hạ chỉ ban phải chết, đương nhiên Lý Trọng Nhuận không thể chấp nhận, nhưng cho dù không cam tâm tình nguyện, thì cậu cũng biết mình không thể kháng chỉ. Đành phải chỉnh đốn lại tâm trạng, cầu xin mấy vị công công giám sát cho cậu một chút thời gian để cáo biệt với tiểu muội.

Lý Khỏa Nhi sững sờ nhìn vị huynh trưởng sắc mặt đau khổ trước mặt mình, cô nhớ lại tình hình hỗn loạn trong phủ ban nãy, chắc chắn chuyện này không phải chuyện đùa, bất chợt như cảm thấy mình rơi xuống hố băng, toàn thân run rẩy. Cô như phát điên, lập tức đứng dậy kéo tay Lý Trọng Nhuận: "Ca ca! Chúng ta mau trốn đi! Chúng ta về Phòng Châu được không? Muội không cần những thứ này! Không cần những thứ này!". Cô vừa nói vừa giật hết trang sức lộng lẫy xa xỉ trên người mình ném leng keng xuống đất.

Lý Trọng Nhuận không nhúc nhích, giữ chặt cánh tay đang định giật áo của tiểu muội. Có lẽ vì đã chấp nhận sự thật nên Lý Trọng Nhuận bình thản hơn nhiều, thậm chí còn cố nở nụ cười, nói: "Khỏa Nhi, từ lâu chúng ta đã không thể quay về được nữa rồi".

Lý Khỏa Nhi đứng chôn chân tại chỗ, toàn thân lạnh toát, hơi ấm tỏa ra từ bàn tay huynh trưởng nhưng cô biết hơi ấm này đang càng lúc càng xa dần. Cô run rẩy lập cập hỏi lại: "Tại... tại sao?".

QUẢNG CÁOMgid

Một người có thể kiếm về 65 triệu đồng bằng cách sử dụng ứng dụng

Olymp Trade

Đừng chỉ sống dựa vào tiền lương. Học cách giao dịch

Olymp Trade

Lý Trọng Nhuận hờ hững đáp: "Hoàng tổ mẫu ra ý chỉ, nói ta và Diên Cơ phỉ báng triều chính, đáng thương cho Tiên Huệ thôi...".

"Tiên Huệ tỉ... Tiên Huệ tỉ cũng...". Lý Khỏa Nhi hoàn toàn sững sờ, Vũ Diên Cơ là phu quân của Tiên Huệ tỉ. Trước đây cô cũng nghe được một vài tin đồn, chẳng qua bọn họ chỉ lén lút buột miệng than phiền hai tên nam sủng của hoàng tổ mẫu là Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông... Lý Khỏa Nhi toàn thân lạnh toát, cháu trai, cháu gái ruột và cháu rể cũng không bằng hai tên nam sủng đó sao?

Rốt cuộc bọn họ là gì chứ? Khi yêu thích thì có thể phong làm hoàng thái tôn, lúc không thích thì bị giáng đi nơi rất xa, khi nhớ ra lại gọi về, lúc ghét bỏ lại khống chế sự sống chết của họ trong lòng bàn tay như bóp chết một con kiến sao?

Bọn họ là người! Không phải con sâu cái kiến!

"Phụ thân đâu? Phụ thân không nói gì sao?". Lý Khỏa Nhi như nắm được cái cọc cứu mạng, túm lấy tay áo Lý Trọng Nhuận, khẩn thiết hỏi. Nhưng sự chờ đợi của cô đã bị cái lắc đầu bất lực của Lý Trọng Nhuận đẩy vào bóng tối.

Đúng vậy, sao cô lại quên mất chứ, phụ thân của cô, khi bị biếm tới Phòng Châu ngay cả một tên thái giám từ kinh thành tới cũng khiến ông sợ hãi muốn tự sát. Bây giờ mặc dù đã được phong là hoàng thái tử nhưng sự nhu nhược từ trong xương cốt làm sao có thể thay đổi được. Lý Khỏa Nhi nghiến răng, vừa nói vừa đi ra ngoài: "Vậy để muội đi nói với hoàng tổ mẫu, hoàng tổ mẫu quý muội như vậy cơ mà..."

Lần này Lý Trọng Nhuận đã giữ chặt được cô, cậu dở khóc dở cười khuyên bảo: "Khỏa Nhi, trong lòng muội cũng biết rõ, bà ấy chẳng qua chỉ tỏ vẻ thế thôi, hơn nữa bà ấy hạ lệnh ba cho cái chết không chỉ vì sự bất mãn của ta với huynh đệ nhà họ Trương, mà là không có chỗ cho ta dung thân nữa rồi". Lý Trọng Nhuận ngập ngừng, cậu cũng vô cùng hối hận, không nên mất kiềm chế một cách đầy khinh suất như vậy. Bởi vì sự ưu tú của cậu nên cục thế trong triều bắt đầu có sự thay đổi lạ lùng, có rất nhiều thần tử âm thầm tìm đủ lý do để thăm dò cậu. Và vì bất kể từ phương diện nào đi nữa, cậu cũng là người kế thừa chính thống, cho nên nhất thời đã quá mức đắc ý, xem ra đã phạm vào cái vảy ngược của hoàng tổ mẫu. Lý Trọng Nhuận biết những việc này không thể nói với Lý Khỏa Nhi nên cuối cùng vẫn nhẫn nhịn, cậu thở dài: "Chỉ thương cho Tiên Huệ, muội ấy mới là người bất hạnh bị liên lụy. Vì vậy việc này muội đừng để bị cuốn vào, hãy cứ làm An Lạc công chúa vô sầu vô lo được không?".

Cuối cùng Lý Khỏa Nhi không nhịn được nữa mà gục đầu vào lòng huynh trưởng bật khóc nức nở.

"Nghe lời, Tiểu Khỏa Nhi của ta, sẽ luôn luôn mặc những bộ xiêm y đẹp nhất, sống cuộc đời hạnh phúc nhất, làm công chúa đẹp nhất của Đại Đường..."

Những chuyện xảy ra sau đó vô cùng hỗn loạn, giống như từng mảnh ghép bất kể Lý Khỏa Nhi cố gắng nhớ lại thế nào cũng không thể ghép thành hồi ức hoàn chỉnh được. Cô bị người ta cưỡng ép phải rời xa huynh trưởng của mình giống như một con rối, cho dù cô ra sức không muốn buông tay, những móng tay dài cào đến xước cả tay của huynh trưởng nhưng cũng bị người ta gỡ ra từng ngón một.

Đến khi cô khôi phục lại ý thức đã là sáng sớm ngày hôm sau, cô bị thị nữ thay cho bộ đồ tang màu trắng muốt, rửa mặt, chải tóc. Trên giá y phục của cô vẫn treo hai bộ đồ.

Một bộ là váy xanh biếc có lớp lót màu vàng nhạt của cô, bộ kia là chiếc váy tay lỡ họa màu vàng kim, vạt áo đối xứng màu xanh của Lý Tiên Huệ. Hai bộ y phục này đều là Lý Trọng Nhuận mua cho hai tỉ muội khi hai người đến Lạc Dương năm đó, cũng là lần đầu tiên họ được mặc bộ váy áo lộng lẫy như vậy.

Chỉ là cho dù y phục có đẹp đến mấy, năm đó sau khi từ Thượng Dương Cưng trở về, hai tỉ muội không hẹn mà cùng cởi ra, cất dưới đáy tủ và khóa lại.

Bởi vì hoàng tổ mẫu đã ban cho họ những bộ y phục và trang sức đẹp hơn, không thể nào tưởng tượng nổi, đẹp tới mức hai bộ y phục này đều trở thành tối tăm ảm đạm, thậm chí nếu vẫn cứ tiếp tục mặc nó sẽ khiến họ mất đi thân phận.

Chớp mắt một cái, ba năm đã trôi qua, dù là bộ váy nào đi nữa Lý Khỏa Nhi cũng không thể mặc vừa nữa. Bởi vì thân hình của cô đã trưởng thành, không còn là một thiếu nữ mười bốn, mười lăm tuổi nữa. Nhưng cô vẫn cất giữ một cách hết sức trân trọng bộ váy đó, vì nó có ý nghĩa vô cùng lớn lao với cô.

Lý Tiên Huệ cũng như vậy.

Nhắm chặt mắt lại, Lý Khỏa Nhi đứng trước giá y phục mơ hồ nhớ lại bộ dạng bất tài nhu nhược tối qua của phụ vương, thậm chí còn định để cô thay Lý Tiên Huệ tiếp tục liên hôn với Vũ gia? Nhưng có tác dụng gì chứ? Ngay cả cháu ruột của mình hoàng tổ mẫu cũng coi như cỏ rác mà thôi.

Phẫn nộ và bi thương tới cực điểm lại khiến Lý Khỏa Nhi bình tĩnh lại.

Cô sớm đã không còn là cô gái nhỏ chỉ biết khóc biết làm nũng năm xưa nữa, ba năm sống ở Lạc Dương cô đã học được quá nhiều, quá nhiều điều.

Nước mắt là sự an ủi của kẻ yếu nhưng lại là vũ khí của kẻ mạnh, vì thế cô không định sẽ thường xuyên sử dụng nó.

Lý Khỏa Nhi cắn chặt môi dưới, trước khi chết Lý Tiên Huệ bảo hầu gái mang bộ váy đó giao cho cô, là muốn nhắn nhủ điều gì?

Cảm giác khi Lý Khỏa Nhi dùng tay vuốt ve chiếc áo tơ trơn bóng như chạm vào một mảng băng lạnh.

Y phục quả thực là sự tồn tại vô cùng kỳ lạ, trong sách "Thuyết văn" có giải nghĩa, y tức là vật che thân. Ban đầu chẳng qua cũng chỉ là để che chắn cơ thể, che những chỗ nhạy cảm. Nhưng giống như tất cả mọi vật vậy, y phục dần dần cũng có đẳng cấp, chia nhiều tầng lớp, có nhiều màu sắc, mang ý nghĩa mới, có một số màu sắc còn cấm thường dân sử dụng.

Thực ra thứ phân đẳng cấp không phải là quần áo, mà là con người.

Nhưng làm sao cô có thể cam tâm được chứ?

Trên khuôn mặt xinh đẹp nhưng xanh xao của cô nở một nụ cười kinh động tâm phách, cô cúi người ôm chặt hai bộ y phục vào lòng.

Cô thầm thề trong lòng, nhất định cô sẽ mặc bộ y phục đẹp nhất xa hoa nhất trên đời này, giành lại tất cả những thứ mà huynh trưởng và tỉ tỉ xứng đáng có được.

Thực ra, màu sắc cô thích nhất chính là màu vàng tươi...

"Trọng Chiếu ca ca....", tiếng khóc thút thít bị kìm nén vang lên trong phòng, cuối cùng nhỏ dần đến lúc không thể nghe thấy được...

4

Năm 706, Trường An.

Lý Khỏa Nhi vịn tay nữ quan, chậm rãi bước đi trên cầu hình vòng cung của điện Lân Đức trong cung Đại Minh, cúi đầu nhìn đám người đang luyện tập ca múa ở quảng trường lớn bên ngoài cửa điện.

Điện Lân Đức tọa lạc ở khoảng đất cao nằm ở phía Tây đầm Thái Dịch thuộc cung Đại Minh, là điện đường yến tiệc nổi tiếng nhất của Trường An, ở đây thường xuyên tổ chức các hoạt động biểu diễn ca múa nhạc yến tiệc cung đình hoặc hội kiến sứ giả. Điện Lân Đức thực ra là một tổ hợp kiến trúc, chia thành ba điện chính và mấy nhóm lầu gác, trước điện và dưới hành lang có thể chứa hơn ba nghìn người ngồi, các quan viên trong triều đều lấy làm vinh dự khi có thể tham gia yến tiệc ở điện Lân Đức.

Lần này Lý Khỏa Nhi đặc biệt tới xem các vũ nữ diễn tập vì nghe nói Thượng phục cục mãi mới làm ra được một bộ vũ phục đặc biệt. Chỉ thấy năm trăm vũ nữ ở đây đầu đội mũ màu vàng, trên người mặc áo đơn sắc, biến hóa theo tiết tấu điệu nhạc, tổng cộng có mười sáu kiểu biến hóa. Lý Khỏa Nhi dừng chân đứng xem, thấy y phục trên người các vũ nữ không có gì đặc biệt, thậm chí còn đơn điệu, nhưng nhạc tấu tới điệp khúc thứ hai, tiếng nhạc thay đổi, điệu khúc hào hùng, các vũ nữ tập trung ở sân khấu, thay y phục trong nháy mắt, để lộ ra hình bông hoa lớn màu sắc bắt mắt trên thân trước. Vì năm trăm người nghe theo tiếng trống cùng làm một động tác giống nhau, nên nhìn từ vị trí của Lý Khỏa Nhi thấy vô cùng rung động.

"Công chúa, chẳng qua trên người họ mặc một chiếc áo dạng lồng đơn sắc, nhanh chóng rút từ cổ áo cho vào trong bụng mà thôi". Một nữ quan vẽ lông mày bằng than màu xanh đen đứng bên cạnh nhỏ nhẹ đánh giá.

"Điệu múa này còn đẹp hơn nhiều so với điệu múa xoay của nữ tử người Hồ kia". Lý Khỏa Nhi mỉm cười nhưng không có hứng xem tiếp, nàng tiếp tục men theo chiếc cầu cong đi về phía hậu điện của điện Lân Đức. Bởi vì ti y của Thượng phục cục vừa mới truyền tin tới, váy Chức Thành đã hoàn thành, biết nàng đang ở điện Lân Đức nên đã phái người mang tới.

(Ti y: Nơi may y phục cho hoàng đế hoặc các phi tần)

Trên dung nhan tuyệt mỹ của nàng nở một nụ cười đắc ý.

Chiếc váy Chức Thành này tiêu tốn một trăm vạn tiền để chế thành, cố thể nói là vô cùng xa xỉ, không dám nói sau này không có chiếc váy nào như thế nữa, nhưng chắc chắn chưa từng có cổ nhân nào có cả.

Nàng từng thề rằng, mình phải mặc bộ y phục đẹp nhất xa xỉ nhất trên đời này.

Từ ngày phụ hoàng đăng cơ tới giờ, trăm sự đều nghe theo nàng, nàng biết đây là sự hối lỗi vì cái chết của huynh trưởng và tỉ tỉ.

Phụ hoàng ban cho nàng phường Kim Thành, nàng liền xây dựng công trình quy mô lớn, phòng ốc viện phủ, bất luận về mặt quy mô kiến trúc hay mức độ tinh xảo đều vượt qua hoàng cung.

Phụ hoàng không cho nàng hồ Côn Minh trong cung, nàng tự xây hồ Định Côn trong phủ, giữa hồ có một ngọn núi đá nhô lên mô phỏng Hoa Sơn, từ đỉnh núi có một thác nước chảy xuống giữa hồ. Bên cạnh có một dòng suối trong, dùng ngọc thạch đắp thành bờ, hai bên bờ trồng kín các loại kỳ hoa dị thảo, hương thơm nồng nàn, dưới đáy suối được ghép hoàn toàn bằng ngọc thạch san hô, dưới ánh trăng càng trở nên trong vắt, khiến mọi người đều tưởng rằng đó là Dao Trì trên thiên đình.

Nàng tự mở phủ phong chức quan, quyền thế áp đảo, gắn mức giá cho từng tước vị quan của quốc gia, công khai rao bán, bất kể là kẻ giết người, nát rượu, hay nô bộc, con hát, chỉ cần nạp đủ ba mươi vạn tiền là có thể lập tức được phong quan. Nàng còn thường xuyên đích thân viết chiếu thư ân xá, mang vào cung, một tay che đi văn tự trên lệnh, một tay túm lấy tay phụ hoàng ký tên lên đó. Phụ hoàng mỉm cười ký tên điểm chỉ cho nàng, ngay cả nội dung sắc lệnh cũng không đọc.

Thậm chí có lần nàng yêu cầu phụ hoàng phong nàng làm hoàng thái nữ, mặc dù phụ hoàng không làm theo ý nàng nhưng cũng không trách móc gì nàng.

Nàng không ngừng khiêu chiến với giới hạn của phụ hoàng, để xem ông ta rốt cuộc có thể nhường nhịn nàng đến bước nào.

Nàng biết các đại thần trong triều lén lút nói nàng làm xằng làm bậy thế nào, nhưng như thế thì sao chứ?

Cả thiên hạ này vốn nên thuộc về hoàng huynh của nàng! Bây giờ hoàng huynh của nàng không còn nữa, hà cớ gì nàng phải để dành nó cho người khác! Váy Chức Thành thì sao? Sẽ có một ngày nàng khoác lên mình cổn phục màu vàng tươi dành cho thái tử lên thiết triều!

Dục vọng của con người vốn dĩ không có giới hạn, cho dù đã có những thứ tốt đẹp nhưng vẫn muốn thứ tốt đẹp hơn. Lý Khỏa Nhi cũng không biết bản thân mình rốt cuộc mong muốn điều gì, cung điện hùng vĩ xa hoa đến mấy đối với nàng mà nói đều không ấm áp bằng khi còn sống trong căn nhà rách nát thuở ấu thơ. Nếu thời gian có thể quay trở lại, nàng thà mặc chiếc áo bông rách nát trước đây còn hơn cẩm y ngọc thực bây giờ.

Lại nhớ về chuyện xưa, tâm trạng Lý Khỏa Nhi có phầnđi xuống, khi nàng bước vào lầu Uất Nghi bên cạnh điện Lân Đức, nàng vẫy tay, lệnh cho các cung nữ theo hầu lui xuống trước, nàng muốn yên tĩnh một mình.

Có lẽ chiếc váy Chức Thành đáng giá một trăm vạn tiền trong truyền thuyết có thể khiến nàng tạm thời bình tĩnh lại.

Cho đến khi nàng lên tới tầng ba của lầu Uất Nghi thì loáng thoáng nghe thấy trong phòng vọng ra tiếng người nói chuyện.

Lý Khỏa Nhi chau mày không vui, ti y của Thượng phục cục đương nhiên biết khi thay đồ nàng không thích có người ở bên cạnh nên ban nãy đã đứng đợi ở cửa lầu Uất Nghi. Bây giờ trên lầu là kẻ nào?

Nhưng cảm giác không vui khi bị làm phiền này trong chốc lát đã biến thành hứng thú, Lý Khỏa Nhi dùng dải lụa màu đỏ choàng ở cánh tay giữ lấy miếng ngọc bội trên eo tránh phát ra âm thanh theo bước chân nàng, nhẹ nhàng bước về phía trong phòng. Bước lại càng gần càng nghe rõ có hai người đàn ông đang nói chuyện, Lý Khỏa Nhi cũng không vội vã bước vào mà đứng ở bên ngoài lắng nghe.

"Đây là trường quay nào vậy? Cách bài trí sắp xếp kiểu cổ đại giống thật quá đi mất! Cái ấm vàng này lẽ nào làm bằng vàng thật à? Không ngờ nặng thế!". Người đàn ông này khẽ kêu lên, Lý Khỏa Nhi nheo đôi mắt hạnh lại, không biết "trường quay" vừa thốt ra từ miệng người đó nghĩa là gì.

"Anh đừng cắn thế chứ! Để tôi xem nào. Ồ, trọng lượng thế này, trình độ điêu khắc thế này chắc chắn là hàng thật rồi". Giọng người đàn ông khác có phần trầm ổn hơn. Lý Khỏa Nhi bật cười. Đây là hoàng cung Đại Đường, mỗi đồ vật đều vô cùng xa xỉ, làm gì có chuyện dùng đồ giả?

"Rốt cuộc đây là nơi nào? Cậu nói dùng cái la bàn nát này là có thể quay về quá khứ tìm chủ tiệm, nhưng tôi chỉ muốn quay về một tháng trước thôi. Này không phải chúng ta đen đủi đến mức quay về quá khứ xa hơn đấy chứ?". Lời nói của gã đàn ông đầu tiên vẫn khiến người ta nghe mà không hiểu.

"Chuyện này cũng có khả năng, e là chúng ta đã về thời Đường".

"Thời Đường? Sao cậu lại khẳng định như vậy?".

"Thực ra tôi có thể nhìn ra từ đồ dùng. Người thời Tần đều ngồi dưới chiếu, đến Nam Bắc triều mới bắt đầu thịnh hành ngồi thả chân xuống đất, vì thế từ bàn ghế có thể nhận ra đây là cách bài trí thời Đường Tống. Còn các đồ gốm sứ bày trên Bách Bảo Các, đường nét đồ gốm sứ đời Tống đơn giản, màu sắc đơn nhất, tạo hình gốm sứ tròn đầy thế này chính là đặc điểm gốm sứ thời Đường. Nhìn cái gương đồng trên bàn này đi, gương đồng thời Đường phần lớn là hình tròn, còn thời Tống phần lớn là hình tim gà, hình khiên, hình chuông hình đỉnh, hình cái lò...", giọng nam tử trầm ổn đều đều vang lên. Về những lời đánh giá cách bài trí đồ dùng trong phòng, Lý Khỏa Nhi hơi ngạc nhiên, không ngờ người này lại có kiến thức đến như vậy. Có điều thời Tống là thời đại nào? Là nước Tống của Nam Bắc triều ư?

"Được rồi được rồi... bây giờ cho dù là thời Đường... chúng ta xuyên khôngà? Liệu có gặp được chủ tiệm thời Đường không?".

"Để tránh thay đổi lịch sử, tốt nhất vẫn không nên gặp mặt anh ta. Xét cho cùng chủ tiệm luôn có ký ức, không giống những người khác... Này, nhìn tốc độ chỉ hướng của la bàn Lạc Thư Cửu Tinh tốt nhất chúng ta không nên đi đâu hết. Ê này, đừng tùy tiện động chạm đồ đạc của người khác thế chứ! Có thể ở nơi xa xỉ thế này không phải người giàu thì cũng là quyền quý, thôi đừng gây thêm phiền phức nữa. Đúng rồi, chiếc váy trên giá kia cũng đừng động vào".

Lý Khỏa Nhi biết người này đang nhắc tới váy Chức Thành do Thượng phục cục làm, nàng vốn định đứng ngoài nghe thêm chút nữa nhưng lúc này tay đã đẩy cánh cửa khắc hoa, nàng thấy tiếng tranh cãi trong đó im bặt.

Lý Khỏa Nhi khoác lại dải lụa choàng đỏ, giữa tiếng ngọc bội kêu vang, Lý Khỏa Nhi chậm rãi bước qua tấm bình phong khắc đá vân mẫu sắc màu, trên mặt là biểu cảm nghiêm khắc, nhưng khi nhìn thấy hai gã đàn ông trong phòng thì thần thái chuyển sang vô cùng kinh ngạc.

Bởi vì nàng chưa bao giờ nhìn thấy phục trang được cắt may như thế này. Hai gã đàn ông tự tiện xuất hiện ở đây, một người đứng một người ngồi, đều rất trẻ, chắc độ tuổi cũng tương đương nàng mà thôi, tướng mạo anh tuấn, nhưng điều khiến nàng nhìn không thuận mắt chính là mái tóc ngắn. Quần áo bọn họ mặc bó sát người, phác họa những đường nét thon dài của chân tay một cách hoàn mỹ, cho dù là Hồ phục cũng chưa từng có kiểu dáng thế này, đơn giản nhưng toát ra vẻ nhanh nhẹn. Trên mũi gã đang đứng còn đeo một đồ vật kỳ lạ, trong suốt như miếng gương thủy tinh.

Lý Khỏa Nhi thấy vô cùng mới mẻ, cũng không trách mắng họ không hành lễ, hơn nữa ánh mắt thản nhiên như thế này đã lâu lắm rồi nàng chưa từng bắt gặp. Hơn nữa lần này còn là hai người.

Gã đang ngồi thấy nàng bước vào, nhìn nàng từ trên xuống dưới thăm dò, sau đó bình tĩnh đứng dậy khẽ cúi người về phía nàng hành lễ: "Tham kiến công chúa".

Cổ Lý Khỏa Nhi hơi nhướn lên, người này hành lễ cũng không tồi, chỉ là có chút mới lạ, có lẽ mới được người ta dạy bảo. Nghe giọng nói Lý Khỏa Nhi nhận ra người này chính là người có giọng trầm ổn ban nãy.

Mặc dù ngoài mặt Lục Tử Cương thể hiện rất bình tĩnh, nhưng sau lưng đã bắt đầu túa ra mồ hôi. Nhìn phục sức trên quần áo của vị mỹ nữ thời Đường này cậu đã đoán ra đây là công chúa Đại Đường, chỉ là các công chúa nổi tiếng của Đại Đường có quá nhiều, nên cậu không suy đoán tỉ mỉ hơn được. Hơn nữa, vị công chúa này nhìn cũng chỉ khoảng mới hai mươi tuổi, nhưng vẻ hung hăng và ngạo khí toát ra từ xương cốt quả thực khiến người khác không thể không cúi đầu.

Bác sĩ đứng bên cũng bắt chước động tác của Lục Tử Cương, hành lễ qua loa. Không nhận được sự hồi đáp của công chúa, cả hai người đều không dám ngẩng đầu lên.

Cũng may thời Đường không thịnh hành quỳ xuống hành lễ, chỉ cần cúi người hành lễ. Nếu như đến khoảng sau thời Nguyên, hai người họ e rằng không quen cũng phải quen thôi.

Len lén nhìn la bàn Lạc Thư Cửu Tinh trong tay, Lục Tử Cương vui vẻ yên tâm khi thấy tốc độ của kim la bàn khá tốt, có lẽ sẽ nhanh chóng về vị trí cũ thôi. Một khi kim chi về vị trí đường chữ thập Thiên Đạo thì bọn họ có thể quay trở lại hiện tại. Cũng may lần này vận khí rất tốt, không cần ở thời cổ đại quá lâu, công chúa đại Đường thì ai cũng hung hãn cả!

Đang lơ đãng Lục Tử Cương lại phát hiện công chúa Đại Đường này đi về phía bác sĩ đứng bên cạnh mình, hơn nữa còn đưa tay ra.

Hành động này lập tức khiến Lục Tử Cương toát mồ hôi lạnh.

Bác sĩ vẫn mù mờ, không hiểu vị công chúa Đại Đường này có ý đồ gì, anh nhìn nàng với vẻ khó hiểu. Anh cao hơn công chúa một cái đầu, vì thế khi đứng thẳng người là nhìn xuống đối phương. Bàn tay thơm nồng ấm áp đặt dưới cằm anh khiến anh không thoải mái chút nào, nếu không phải vì đã biết đây là thời đại mình không thân thuộc, thì anh sớm đã chẳng nể mặt mà lùi lại. Thấy vị công chúa này không ngờ còn đưa tay lên vuốt mặt anh, sau cùng dừng lại ở chiếc kính cận, bác sĩ mới vỡ lẽ, có khi nàng công chúa này chưa từng thấy kính nên mới tò mò.

Hai người nghe thấy công chúa chậm rãi nói: "Tháo vật này ra".

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Bây giờ bác sĩ lại do dự, nhỡ may chiếc kính của anh lưu lạc lại thời đại này, nghìn năm sau bị các nhà khảo cổ học khai quật được, trở thành văn vật gì đó thì phải làm sao? Nhưng thấy bộ dạng không lùi bước của công chúa, bác sĩ đành ngoan ngoãn tháo kính ra, nhưng không đưa cho công chúa mà cứ cầm chặt trong tay. Lý Khỏa Nhi sững sờ nhìn gã đàn ông này, ký ức bị chôn giấu mãi trong lòng bỗng như mầm non đội đất vươn lên, trưởng thành mạnh mẽ.

Giống quá... không, không phải giống về ngũ quan, mà chính là khí chất dịu dàng nho nhã... không ngờ lại giống hệt hoàng huynh của nàng..."Cười một cái", Lý Khỏa Nhi lại tiến lên trước một bước, lần này hai người họ dường như đã đứng sát chặt vào nhau.

Lần này bác sĩ không còn gì để làu bàu nữa, anh cảm thấy mình giống như đang bị người ta trêu ghẹo vậy? Có điều ngay giây sau đó anh nhớ tới sở thích của các công chúa Đại Đường, lập tức da gà nổi khắp người. Diễm phúc này anh vô phúc hưởng thụ rồi, cũng may đúng lúc anh nhìn Lục Tử Cương cầu cứu thì anh ta kéo anh một cái, tách anh khỏi vị công chúa Đại Đường này. Cùng lúc đó cảm giác choáng váng quen thuộc cũng ập tới.

Lý Khỏa Nhi chau mày, nhìn trong phòng chỉ còn độc một mình nàng, đưa mắt tìm kiếm xung quanh nhưng không thấy bất cứ dấu tích nào của hai gã đàn ông kia, giống như họ hoàn toàn biến mất vào không khí.

Nếu không phải ngón tay nàng còn vương lại hơi ấm khi chạm vào má đối phương ban nãy thì có lẽ nàng đã nghĩ mình bị chứng cuồng loạn giữa ban ngày rồi.

Là âm hồn của hoàng huynh tới tìm nàng sao? Thật là tò mò quá....

Nàng mơ mơ màng màng bước ra khỏi lầu Uất Nghi, nữ quan theo hầu lập tức bước lên đón nàng, ân cần dò hỏi: "Công chúa, chiếc váy Chức Thành đó người có vừa ý không?".

Lý Khỏa Nhi sững lại, lúc này nàng mới nhớ ra mình chưa hề nhìn chiếc váy đó lấy một lần. Nhưng nàng không muốn giải thích với người khác nên đành xốc lại tâm trạng, hờ hững đáp: "Không hợp ý bản cung, Thượng phục cục làm lại cái khác đi".

Nàng nói vô cùng nhẹ nhàng, chẳng hề coi chiếc váy đáng giá một trăm vạn tiền là gì trong mắt nàng. Người cung nữ có hàng lông mày màu xanh đen đứng bên cũng không lấy làm ngạc nhiên, ti y của Thượng phục cục sau nhận lệnh cũng đang ngẫm nghĩ xem rốt cuộc không hợp ý công chúa ở điểm nào. Cung nữ thận trọng hỏi: "Công chúa, vậy chiếc váy Chức Thành kia xử lý thế nào?".

Bây giờ Lý Khỏa Nhi cũng chẳng muốn xem nữa, nàng tùy ý vung tay: "Ngươi mang đi xử lý đi, ta nghe nói ngươi có mối giao hảo với một gã chủ tiệm đồ cổ. Cứ treo trong tiệm của gã là được rồi".

Cung nữ lập tức cảm tạ, nàng đã hầu hạ Lý Khỏa Nhi từ lâu, đương nhiên nhận ra tâm trạng nàng không tốt, nên biết điều không nói nhiều lời. Lý Khỏa Nhi thở một hơi sâu, nhắm mắt dưỡng thần, lúc mở mắt ra nàng lại trở lại làm công chúa Đại Đường khí chất bức người.

5

Năm 2013, tiệm đồ cổ Á Xá.

Bác sĩ đợi cơn choáng váng giày vò trôi qua liền lập tức mở mắt, yên tâm khi phát hiện ra cách bài trí quen thuộc xung quanh. Anh bóp trán đứng dậy, giận dữ trách móc Lục Tử Cương: "Sao lại về thời Đường thế? Cái la bàn nát này có ổn không hả? Không phải đã nói chỉ về một tháng trước thôi sao?".

Lục Tử Cương ngồi trên ghế gỗ sưa, di di huyệt Thái Dương hơi đau: "Chẳng phải tôi đã nói rồi sao, chiếc la bàn Lạc Thư Cửu Tinh này sâu xa lắm, trên mặt la bàn có năm mươi hai tầng, tầng nhiều nhất cũng có ba trăm tám mươi tư ô, anh nói xem làm sao tôi hiểu cách vận hành nó trong một chốc một lát được?".

"Phù... cũng may là trở về bình an rồi. Nói như thế tức là lần sau chúng ta vẫn phải chờ vận may hả". Bác sĩ nằm bò ra quầy, cảm thấy ngày tháng tìm được gã chủ tiệm thật xa xôi vô vọng.

"Có gì cũng phải đợi một tháng sau, cái la bàn Lạc Thư Cửu Tinh này đâu phải ngày nào cũng dùng được, mỗi tháng đều phải tính toán thời điểm đặc thù mới có thể khởi động". Lục Tử Cương ban nãy sợ toát mồ hôi lạnh, phải hít thở sâu hồi lâu mới hồi lại được.

Bác sĩ cứ cảm thấy trên mũi mình vẫn vấn vương mùi thơm nồng nàn trên người vị công chúa kia, anh sán lại bên cạnh lư Bác Sơn ngửi một hồi lâu, mới xua được mùi thơm đó đi.

"Này vị công chúa ban nãy là công chúa nào của Đại Đường? Thái Bình công chúa? Cao Dương công chúa?".

"Tôi cảm thấy chiếc váy treo trên giá họa tiết mây Như Ý ở trong phòng quen mắt lắm..." Lục Tử Cương chìm vào suy nghĩ sâu xa.

Bác sĩ mới vừa rơi vào chuyến du hành thời gian đầu tiên nên khá hưng phấn, không cảm nhận được nguy cơ suýt chút nữa phải ở lại quá khứ làm nam sủng nên vẫn vô cùng hồ hởi muốn tìm hiểu thêm: "Nghe nói thời Đường phải béo mới là đẹp, đúng không? Vị công chúa ban nãy không béo chút nào, thân hình cũng rất đẹp".

Lục Tử Cương lừ mắt nhìn anh, đáp một cách khinh bỉ: "Thời Dương Quý Phi mới thịnh hành tiêu chuẩn béo mới là đẹp... hơn nữa đó là mũm mĩm, không phải béo phì!".

Bỗng nhiên Lục Tử Cương nhớ ra điều gì nên đứng dậy đi vào gian trong của Á Xá. Bác sĩ cũng tò mò đi sau, theo Lục Tử Cương đi trên hành lang dài trong Á Xá, thấy anh ta mở cửa từng gian phòng một, cuối cùng dừng lại trước cửa một gian, bác sĩ thấy Lục Tử Cương đứng ở ngoài cửa nên bất giác đẩy lưng cậu ta, chen vào trong.

"Cậu nhìn cái gì thế? Đây là....". Đột nhiên bác sĩ không nghe thấy giọng mình nữa, chỉ biết sững người nhìn chiếc váy treo trên giá ở trong phòng, hồi lâu không lên tiếng.

Trong phòng không bật đèn, chỉ có ánh sáng đang phát ra từ viên dạ minh châu to bằng nắm tay trên nóc nhà. Và trên giá treo quần áo đặt dưới viên dạ minh châu đang treo một chiếc váy đẹp tuyệt trần, một vẻ đẹp khó diễn tả được bằng ngôn ngữ.

"Sách "Tư trị thông giám" có ghi chép, An Lạc công chúa có váy Chức Thành, trị giá trăm vạn tiền, hoa cỏ chim muông nhiều như hạt kê, khi nhìn thẳng lúc nhìn nghiêng, dưới ánh mặt trời, trong bóng tối, mỗi lúc có một màu sắc khác". Giọng Lục Tử Cương yếu ớt vang lên trong bóng tối, ngập ngừng một hồi mới tiếp tục nói: "Người ban nãy chúng ta gặp có lẽ là đệ nhất mỹ nhân thời Đường tiếng tăm lừng lẫy, An Lạc công chúa. Haizz, cô công chúa này chỉ sống đến hai mươi lăm tuổi là bị giết". Lục Tử Cương nói rất thản nhiên, vì dù cảm thấy đáng tiếc nhưng trong lịch sử danh tiếng của vị công chúa này xấu xa đến mức ai ai cũng biết. Mặc dù không biết thật giả thế nào nhưng cuối cùng nàng vẫn bị gắn cái tội danh "giết cha".

Bác sĩ lặng người nhìn hồi lâu mới tìm lại được thần trí của mình. Ban nãy trong căn phòng hoa lệ đó, chiếc váy Chức Thành này nhìn không thực sự hút mắt, nhưng bây giờ trong căn phòng không có bất cứ thứ gì nổi bật này, chiếc váy Chức Thành lại khiến người ta không thể rời mắt. Chiếc váy Chức Thành này được bảo quản vô cùng hoàn hảo, cho dù đã nghìn năm trôi qua nhưng vẫn lộng lẫy tuyệt mỹ như thuở ban đầu. Chiếc váy được dệt bằng lông trăm loài chim, mặt váy hiện lên muôn vàn hình thái của trăm loài chim, màu sắc thay đổi theo sự di chuyển của ánh mắt, trăm loài chim này dường như được ban cho sự sống, sống động như thật, đúng là tay nghề tinh xảo hơn cả tự nhiên.

"Đúng là bại gia mà... đây là chiếc váy đáng giá trăm vạn tiền đấy". Bác sĩ tấm tắc khen ngợi.

"Còn bại gia hơn nữa là, theo sử sách ghi lại, nàng ta làm hẳn hai chiếc váy Chức Thành". Lục Tử Cương cũng tám nhảm theo.

"Hai chiếc?", bác sĩ đi một vòng quanh chiếc giá treo, nghi ngờ hỏi: "Ở đây chỉ có một chiếc".

"Chỉ có một chiếc được bảo tồn lại thôi". Lục Tử Cương nhún vai: "Váy Chức Thành của An Lạc công chúa cũng được gọi là váy bách điểu, đã tạo nên cơn sốt thời trang trong giới thượng lưu ở Trường An, tất cả phụ nữ đều dùng lông vũ của chim muông và lông da của thú quý để làm váy áo, kết quả khiến chim và muông thú ngoài thành Trường An không còn bóng dáng. Sau đó Đường Huyền Tông buộc phải thiêu chiếc váy Chức Thành của An Lạc công chúa trước cung Đại Minh. Có thể chiếc bị thiêu là một trong hai chiếc này".

"Bại gia... quá...". Trăm vạn tiền đã bị đốt cháy như thế đấy. Bác sĩ cảm thấy kho từ vựng của mình vô cùng thiếu hụt, chỉ biết không ngừng làu bàu "bại gia", "Mà gã chủ tiệm làm hẳn một phòng đơn cho chiếc váy Chức Thành này, không phải nó có vấn đề gì đấy chứ?".

Lục Tử Cương nhún vai, không lấy làm ngạc nhiên: "Anh tưởng cổ vật gì trong Á Xá cũng đều bất thường chắc, đây chẳng qua chỉ là một chiếc váy mà thôi, để nó ở phòng riêng e rằng vì nó quá đắt...".

"Cũng phải...", bác sĩ bỗng dưng thấy có lẽ mình đã nghĩ ngợi quá nhiều.

Hai người chiêm ngưỡng tấm tắc một hồi, nhưng xét cho cùng vẫn là hai người đàn ông nên chẳng có quá nhiều hứng thú với món trang phục xa xỉ này. Lục Tử Cương cũng sợ mở cửa phòng lâu quá sẽ ảnh hưởng tới độ ẩm trong phòng, không tốt cho việc bảo quản chiếc váy nên cùng bác sĩ rời đi luôn.

Trong phòng trở về vẻ u ám vốn có, chỉ có ánh sáng của viên dạ minh châu le lói chiếu rọi lên chiếc váy Chức Thành.

Không biết bao lâu trôi qua, cửa phòng bị đẩy ra không một tiếng động, một bóng đen bước vào, nhanh chóng gỡ chiếc váy trên giá cho vào trong túi sau đó lướt đi rất nhanh. Cả quá trình diễn ra không quá ba giây.

Viên dạ minh châu trên nóc nhà nhấp nháy hai cái rồi đột nhiên chìm vào bóng tối mãi mãi...

Quyển 4 - Chương 2: Ngọc Ông Trọng

1

Năm 1057, nhà thái học của phủ Khai Phong.

Một dải gồm, góc Đông Bắc cổng Chu Tước của nội thành phủ Khai Phong chính là nơi phồn hoa nhất, náo nhiệt nhất Đông Kinh. Nơi đây vì có dòng sông Thái chảy qua nên tạo thành một khúc quanh hết sức ưu nhã, thế nên được đặt tên là vịnh Thái Hà.

Vịnh Thái Hà rất phồn hoa, nơi đâu cũng có thể thấy các loại kiến trúc hàng quán, càng kỳ lạ hơn là, nơi đây đồng thời có cả cống viện, nhà thái học, quốc tử giám, giáo phường, y quán, kỹ viện, sòng bạc, từ thượng cửu lưu cho tới hạ cửu lưu, hầu như đều tập trung ở khu vực này, phong cảnh độc đáo khiến nơi đây trở thành khu vực giàu có nổi tiếng nhất Đông Kinh.

("Cửu lưu" là cách gọi gộp các phái Nho gia, Đạo gia, Âm Dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung Hoành gia, Tạp gia, Nông gia)

Vương Tuấn Dân vừa mới bước vào độ tuổi đội mũ, cùng bạn thân là Sơ Ngu Thế chầm chậm bước ra từ học phủ thâm nghiêm bên bờ nam vịnh Thái Hà, hòa vào đám người náo nhiệt dưới ánh trăng ở vịnh Thái Hà.

Vương Tuấn Dân mười bảy tuổi đã vào nhà thái học, trở thành thái học sinh của học phủ cao cấp nhất này. Đương nhiên, nếu không phải mười hai năm trước Phạm đại nhân Phạm Trọng Yêm đưa ra cải cách Khánh Lịch tân chính, xây dựng nhà thái học Tích Khánh viện, thì bây giờ không biết chàng còn đang học Thi Thư ở đâu nữa.

(Khánh Lịch tân chính: tức cải cách chính trị tiến hành vào những năm Khánh Lịch (1041-1048) thời Tống Nhân Tống triều Bắc Tống Trung Quốc)

Nhà thái học có nơi ăn ở, chỉ cần đóng đủ học phí thì bao gồm cả ăn ở trong đó. vất vả ba năm đèn sách ở nhà thái học, đây là lần đầu tiên Vương Tuấn Dân bị người ta lôi ra ngoài để du ngoạn vịnh Thái Hà nổi tiếng này, bỗng chốc bị cảnh tượng đông đúc náo nhiệt vui như trẩy hội làm cho sững sờ. Trong đám đông còn nhìn thấy rất nhiều người vận áo liền bằng vải tơ trắng, tay áo rộng cổ tròn như bọn họ, đây là thái học phục của thái học sinh. Vương Tuấn Dân tình mắt phát hiện ra có mấy học tử mặc thái học phục ngang nhiên đi vào thanh lâu kỹ viện, bất giác cảm thấy bức bách thay họ, hận một nỗi không thể thay đi bộ đồ trắng trên người.

Nhưng chàng cũng biết thời thế bây giờ là như vậy, ngoài phố chợ thường xuyên lưu truyền những câu chuyện về tài tử giai nhân quấn quýt, đau lòng. Phần lớn những tác giả không rõ tên ấy đều là bạn học của chàng.

"Khang Hầu, đang nghĩ gì thế?". Sơ Ngu Thế đã đi được mấy bước mới phát hiện ra người bên cạnh không đi theo mình nên bất giác quay đầu lại gọi.

"À, Hòa Phủ, chỉ là đang nghĩ ngày mai thi thượng xá rồi mà bây giờ chúng ta vẫn còn ra ngoài chơi, không hay lắm".

(Thượng xá: Thời Tống thái học chia thành nội xá, ngoại xá và thượng xá, học sinh dựa vào thời hạn và điều kiện nhất định để lần lượt thi lên)

Vương Tuấn Dân và Sơ Ngu Thế có quan hệ tốt nhất hai người không chỉ là đồng hương mà còn là bạn cùng phòng.

"Cậu học ngu người rồi à, ra ngoài hít thở không khí có tác dụng cho ngày mai phát huy tốt chứ". Sơ Ngu Thế cầm chiếc quạt gấp trong tay đập vào vai chàng, bộ dạng chẳng quan tâm.

Vương Tuấn Dân chần chừ một lát, cuối cùng không muốn làm bạn mất hứng nên rảo bước đi theo.

Trong nhà thái học chia ra làm tam xá, cụ thể là ngoại xá, nội xá và thượng xá. Học sinh mới vừa vào nhà thái học sẽ được học tập ở ngoại xá, trải qua kỳ thi riêng mỗi tháng một lần và thi chung một năm một lần đạt yêu cầu, sẽ do học quan quan sát và đánh giá hành vi cử chỉ hàng ngày, người đạt yêu cầu có thể được vào ở nội xá, trở thành nội xá sinh. Nội xá sinh hai năm thi một lần, người ưu tú sẽ được vào thượng xá. Còn thượng xá sinh hai năm một lần đều có thể tham gia bình chọn, phải được nhiều bình chọn loại ưu thì mới có thể trở thành thượng đẳng thượng xá sinh, được nhận chức quan. Nếu có một môn đạt loại trung bình, thì sẽ là trung đẳng thượng xá sinh, miễn kỳ thi của bộ Lễ, tiếp nữa là hạ đẳng thượng xá sinh, miễn thi khoa cử.

Có thể nói, trong nhà thái học, ngoại xá, nội xá và thượng xá trực tiếp chia học sinh thành ba cấp thượng, trung, hạ. Hơn thế thượng xá không phải ai cũng có thể vào được, thượng xá sinh hầu như là đỉnh cao nhất trong kim tự tháp thái học, bọn họ đương nhiên nhận được sự chỉ đạo của những học quan cần mẫn nhất, ưu tú nhất trong nhà thái học, ở nơi tốt nhất, thư phòng đẹp nhất, ở trong nhà thái học lúc nào cũng hếch mũi lên trời.

Áo vải trắng liền thân của thái học phục là kiểu áo nam dáng dài liền thân gấu áo có đường vắt ngang, từ trên xuống dưới rất đơn giản, nhìn không có gì khác biệt với kiểu áo của các sĩ tử bình thường, nhưng trên đường vắt ngang màu đen có đường viền màu thẫm không rõ ràng. Tất cả mọi người trong thành Đông Kinh đều biết, chỉ có học sinh của nhà thái học mới có thể mặc kiểu áo dáng dài có viền mép như thế, lại còn dùng màu sắc không bắt mắt để phân đẳng cấp của thái học sinh.

Vương Tuấn Dân cúi đầu nhìn phần viền màu chàm ở gấu áo đó, nhớ ra trước đó là màu xanh lam, hiện tại là màu chàm, hy vọng sau không lâu nữa thì có thể đổi thành màu nhìn có vẻ nền hơn nhưng lại đại diện cho sự vinh quang của thượng xá sinh là màu xanh cổ vịt.

Đương lúc nghĩ ngợi miên man, Vương Tuấn Dân cũng không để ý đến ánh mắt của người đi đường, hai ngườỉ bọn họ vốn dĩ tướng mạo đường hoàng, thân hình nổi bật, lại mặc thái học phục đại diện cho nội xá, cực kỳ bắt mắt. Đại bộ phận học sinh của nhà thái học đều là con em nhà quyền quý, nếu không cũng là những học tử xuất sắc hàng đầu được tiến cử, vào nội xá của nhà thái học, tuy vẫn chưa phải là thượng xá, nhưng cũng được coi là đã đặt nửa chân lên ngưỡng cửa của triều đình. Cho nên hai người bọn họ đi trên đường, thỉnh thoảng lại bị hứng trọn ánh mắt lúc thì ghen tỵ lúc thì ngưỡng mộ của người đi đường.

Vương Tuấn Dân cùng Sơ Ngu Thế đi xuyên qua không biết bao nhiêu con ngõ nhỏ, đến khi chàng phát giác xung quanh vắng lặng, thì mới chú ý ra rằng họ đã ở trong một con ngõ rất vắng vẻ. Chỉ là rồ ràng nơi này vẫn là phụ cận của vịnh Thái Hà, vì những tiếng rao bán ồn ào lẫn tiếng ăn nhậu kia vẫn vẳng lại hết sức rõ ràng từ nơi không xa.

Trái lại trong con ngõ này lại có không ít cửa hiệu, phần lớn là đồ cổ và thư họa. Vì ngành này có luật thép là "không xem màu dưới ánh đèn" cho nên sau khi màn đêm buông xuống liền lần lượt đóng cửa tiệm, còn lúc ban ngày hẳn là rất náo nhiệt. Chỉ là ở đây đã đóng cửa hết rồi còn đến làm gì?

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người đen đủi hay nghèo khó sẽ đổi đời ngay lập tức nhờ điều này

Vương Tuấn Dân đang định hỏi thì thấy trước cửa một tiệm đồ cổ đèn lồng vẫn sáng, dưới ánh đèn mờ ảo chàng chỉ kịp nhìn thấy trên tấm biển cửa tiệm có hai chữ "Á Xá" thì bị Sơ Ngu Thế kéo tuột vào trong tiệm.

Chưa kịp nhìn rõ cách bài trí trong tiệm thì Vương Tuấn Dân đã ngửi thấy một mùi thơm thấm vào ruột gan, ngọt ngào mà không chán ngán, mát lành dễ chịu, giống như có thể gột rửa được mọi thứ vẩn đục trong nội tâm chàng, khiến tâm trạng của chàng lập tức dễ chịu hẳn lên. Tiệm đồ cổ này thật xa xỉ, mặc dù không biết mùi thơm này là loại hương liệu nào, nhưng chắc chắn không phải thứ rẻ tiền.

Vương Tuấn Dân chủ động đưa tay sờ túi tiền dắt ở eo, phụ thân chàng chẳng qua chỉ là một phán quan nhỏ ở phủ Khai Phong, ăn bổng lộc sống qua ngày, còn phải chăm lo trên dưới, cho chàng học ở nhà thái học đã là cực hạn rồi. Nói gì tới trong nhà còn ba tiểu đệ chưa lớn, chàng cũng phải tiết kiệm mới phải. Bởi vì quyết tâm không muốn mua đồ nên Vương Tuấn Dân lại tình tâm được để thưởng thức cổ vật trong tiệm, vừa ngắm vừa tấm tắc khen ngợi.

Trong tiệm bài trí tao nhã, dễ chịu, các loại đồ cổ được sắp xếp hợp lý, không có cảm giác chờ giá cao mới bán như ở chợ, ngược lại giống như bước vào căn phòng lớn của nhà giàu có, mỗi một cổ vật đều hoa lệ, quý giá, có giá trị liên thành.

Sơ Ngu Thế không thảnh thơi như Vương Tuấn Dân, hắn lập tức lao tới chỗ đặt cổ vật thư phòng, bới bới chọn chọn. Ngoài một số thứ như ngọc bội, quạt, thái học sinh bọn họ đều thích những vật trong thư phòng ngày ngày có thể dùng tới, nói gì tới trong tiệm đồ cổ thường có những cổ vật thư phòng được văn nhân sĩ tử dùng rồi, chẳng ai biết thật giả, nhưng trước kỳ thi có thể mua về làm vật may mắn, phù hộ thi đỗ các môn, đối với Sơ Ngu Thế mà nói còn có ích hơn việc ôn lại sách vở.

"Chủ tiệm! Vật chiều nay tôi mới xem, chén rửa bút bằng bạch ngọc vân mây mà Lý Bạch đã dùng, có còn không?". Sơ Ngu Thế vội vã móc ngân phiếu trong ngườỉ ra: "Lần này tôi đủ tiền rồi".

Vương Tuấn Dân đứng bên không biết nên phản ứng thế nào, mặc dù cổ vật trong tiệm này nhìn qua đều không tồi, cổ hương cổ sắc, cổ vật bán ở đây cũng có niên đại, nhưng chén rửa bút mà Lý Bạch đã dùng cũng hơi quá nhỉ? Có điều chàng cũng biết tính của bạn mình có khuyên cũng không khuyên nổi, dù sao nhà Sơ Ngu Thế cũng có tiền, cũng chẳng quan tâm tới chút chi phí này.

Mặc dù nghĩ như vậy, nhưng Vương Tuấn Dân cũng chẳng thể có thiện cảm với gã chủ tiệm đồ cổ này, từ lúc gã bước ra từ gian trong, chàng liền rời mắt đi, không quan tâm tới việc trả giá nữa mà thờ ơ nhìn qua kệ bày đồ cổ bên cạnh.

Ánh mắt chàng bỗng nhiên bị một miếng ngọc hình người trong góc thu hút. Chàng tò mò bước lại gần, phát hiện ra đó là một miếng ngọc Ông Trọng chỉ to bằng ngón tay cái.

Ngọc Ông Trọng là loại ngọc bội xua đuổi tà ma, Ông Trọng vốn là một đại lực sĩ thời Tần Thủy Hoàng, tên Nguyễn Ông Trọng, tương truyền sức lực vô hạn, vũ lực hơn người, Tần Thủy Hoàng lệnh cho Nguyễn Ông Trọng đem quân đóng giữ Lâm Thao, uy danh chấn động nước Hung Nô. Sau khi Nguyễn Ông Trọng chết Tần Thủy Hoàng đã cho đúc tượng đồng, đặt ở ngoài Tư Mã môn của cung Hàm Dương. Người Hung Nô đến Hàm Dương triều kiến thiên tử, từ xa nhìn thấy tượng đồng này còn tưởng là Nguyễn Ông Trọng thật, không dám lại gần.

(Sách sử của Việt Nam có chép, vốn dĩ Ông Trọng tên thật là Lý Thân, còn gọi là Lý Ông Trọng, người ở làng Chèm, Từ Liêm, Hà Nội. Ông Trọng người cao hai trượng ba thước, lúc ít tuổi đến hương ấp làm lực dịch, bị trưởng quan đánh, bèn bỏ sang nước Tần, làm quan đến chức Tư lệ hiệu úy. Thủy Hoàng lấy được thiên hạ, bèn sai ông đem quân đóng giữ đất Lâm Thao (một huyện thuộc tỉnh Cam Túc ngày nay), uy danh chấn động nước Hung Nô. Khi tuổi già về làng rồi chết. Thủy Hoàng cho ông là người kỳ lạ, đúc đồng làm tượng để ở cửa Tư Mã ở Hàm Dương, bụng tượng chứa được mấy chục người, ngầm lay thì chuyển động được, Hung Nô tưởng đó là hiệu úy còn sống, không dám đến xâm phạm)

Vì vậy người đời sau đúc Ông Trọng thành tượng đồng hoặc điêu khắc thành người đá, đặt ở miếu trước cung và trước lăng mộ để trừ tà. Dần dần, người thế gian bắt đầu đeo ngọc Ông Trọng để trừ tà, ngọc Ông Trọng và Tư Nam bội, Cương Mão rất thịnh hành ở thời Hán, đều được gọi là "trừ tà tam bảo".

"Khổng Tử không bàn đến bốn điều: quái dị, dũng lực, phản loạn, quỷ thần", Vương Tuấn Dân vốn không tin những điều này, nhưng cảm thấy miếng ngọc Ông Trọng màu trắng được điêu khắc rất mộc mạc, tự nhiên, nên không kìm được cầm lên để ngắm nghía cho kỹ.

(Trích thiên "Thuật nhi", sách "Luận Ngữ")

Miếng ngọc Ông Trọng này áp dụng phong cách chạm khắc thời Đại Hán gọi là Hán bát đao, phong cách cổ điển chất phác mà súc tích. Vài nhát dao đơn giản là chạm trổ ra được dung nhan người thanh niên, ánh ngọc sáng bóng, có nét rắn rỏi, cương nghị thu hút tâm hồn. Lỗ thủng của miếng ngọc này hình chữ nhân, từ đỉnh đầu cho tới phần bụng, chia làm hai bên ở phần eo, dây tua màu đỏ thể hiện hình chữ nhân cũng được xỏ từ đỉnh đầu thò ra hai bên eo rồi buộc lại, như thế khi đeo ngọc Ông Trọng có thể đứng thẳng, lỗ xuyên hình chữ nhân thế này cũng là một ký hiệu rõ ràng của ngọc Ông Trọng thời Đại Hán.

Vương Tuấn Dân vuốt ve không dứt được, miếng ngọc Ông Trọng này có niên đại đã từ lâu, dây tơ mặc dù còn mới nhưng trên thân miếng ngọc có vô số vết nứt, còn bị ngấm màu đỏ như máu, nhìn giống như máu tươi của ngọc ông Trọng, có cảm giác kỳ lạ khó diễn tả thành lời.

"Ai da, Khang Hầu, sao cậu lại xem thứ này?". Sơ Ngu Thế đã mua xong chén rửa bút, ôm hộp gấm đi ra, thấy miếng ngọc Ông Trọng trong tay Vương Tuấn Dân liền kêu lên.

"Làm sao?". Vương Tuấn Dân chau mày, ánh mắt nhìn lên gã chủ tiệm đi bên cạnh, giật mình khi thấy khí chất đối phương không hề giống người bình thường. Người này mặc cổ phục thời Tần Hán, áo thâm rộng, bó lấy thân, vạt áo màu đen thả dài tới bàn chân, càng tôn lên khuôn mặt đẹp như ngọc của gã, chẳng khác nào nhân vật phong nhã bước ra từ bức tranh cổ. Khí chất nho nhã này cho dù là Thái thường bác sĩ của nhà thái học cũng không sánh được, huống gì gã còn chưa búi tóc, nhìn cái là biết vẫn chưa đến hai mươi tuổi.

(Thái thường bác sĩ: Một chức quan cổ, quản lý việc tế tự của Thái thường tự, tương đương quan thất phẩm)

"Miếng ngọc Ông Trọng này nghe đồn mang lại vận hạn cho người đeo đấy". Giọng Sơ Ngu Thế nói đầy khoa trương: "Trương Soái Chính, cậu biết chứ? Chính là gã luôn tranh chức học dụ nội xá với cậu, đợt trước không tin tà ma đi mua miếng ngọc Ông Trọng này về, liên tiếp đen đủi, ngay cả chức học dụ nội xá cũng bị cậu tranh rồi, sau đó đành phải trả lại miếng ngọc Ông Trọng này đấy".

Chức học dụ nội xá là lựa chọn một trong những người ưu tú nhất trong các nội xá sinh, khi học quan không có thời gian rảnh rỗi thì học dụ nội xá sẽ thay họ chỉ bảo bài vở cho các nội xá sinh khác. Vương Tuấn Dân là học dụ nội xá, mỗi tháng đi phát tiền trợ cấp thì mới tới báo danh, từ trước tới giờ không để tâm xem ai tranh giành với mình. Có điều Trương Soái Chính chàng cũng có chút ấn tượng, xét cho cùng người ưu tú trong nội xá sinh cũng chỉ có mấy người đó, đều được liệt vào danh sách dự bị lên thượng xá, cho dù Vương Tuấn Dân không để tâm những chuyện đó thì cũng biết mấy người này.

Nhưng trọng tâm không phải chuyện này, Vương Tuấn Dân không để tâm tới lời khuyên can của Sơ Ngu Thế, chàng chìa tay về phía gã chủ tiệm im lặng nãy giờ: "Miếng ngọc Ông Trọng này bán thế nào?".

Gã chủ tiệm cười thản nhiên, nói: "Bạn cậu đã nói miếng ngọc này mang lại vận xui, sao cậu vẫn muốn mua?".

"Thật sự mang lại vận xui cho người đeo sao?". Vương Tuấn Dân chau mày lại, chàng tưởng gã chủ tiệm này có thể bốc phét một cái chén rửa bút bình thường thành vật thi nhân từng dùng thì đương nhiên sẽ bịa ra các kiểu lai lịch cổ quái kỳ dị để bán miếng ngọc Ông Trọng này đi chứ.

Nhưng gã chủ tiệm không trả lời thẳng vào câu hỏi của chàng mà tiếp tục nói: "Ngọc vốn là đá, tích tụ thiên địa linh khí mà sinh ra ngọc, qua tay người thợ đẽo gọt tỉ mỉ trở thành vật trang sức. Ngọc bội có thể trừ tà, cũng nhờ vào ngọc hấp thu linh khí của trời đất. Nhưng vì ngọc gánh đỡ các tai nạn thay cho chủ nhân, nên linh khí hao tổn gây ra rạn nứt thậm chí vỡ vụn. Ngọc có linh tính, nhưng ngược lại cũng có tà tính, ngọc vỡ rất dễ gây ra những thứ chẳng lành".

Gã không nói miếng ngọc Ông Trọng này sẽ mang lại vận xui cho người đeo nhưng từng câu từng chữ đều đang ám chỉ.

Vương Tuấn Dân cúi đầu nhìn miếng ngọc Ông Trọng trong tay, chàng biết những vết rạn trên thân ngọc không phải hoa văn của đá vốn có, mà là vết rạn thực sự, thậm chí ngay cả màu đỏ cũng ngấm vào rất sâu.

Nhưng chàng rất thích nó, phải làm sao bây giờ? Ngọc khí và người cũng phải xem duyên phận, trong cửa tiệm ngập tràn đồ cổ quý giá này chàng chỉ đưa mắt nhìn một cái đã ngắm trúng nó, là muốn chiếm hữu nó, giống như bẩm sinh nó vốn thuộc về mình vậy.

"Miếng ngọc Ông Trọng này bán thế nào?". Vương Tuấn Dân bắt đầu băn khoăn xem số tiền mình có thể dùng là bao nhiêu, sau khi làm học dụ nội xá chàng có một phần trợ cấp.

Gã chủ tiệm mỉm cười, nói tùy ý: "Nếu cậu muốn có vậy thì cầm đi. Đối xử tốt với nó là được, nếu thực sự ghét bỏ thì nhất định không được tùy tiện vứt đi".

Vương Tuấn Dân vui mừng cảm tạ, lập tức đeo miếng ngọc vào eo, cảm thấy tối nay ra ngoài thật đúng đắn.

Sau khi ra khỏi Á Xá, Sơ Ngu Thế vẫn phàn nàn vài câu, nói miếng ngọc này tà ma lắm, dặn chàng phải cẩn thận.

Nhưng Vương Tuấn Dân không hề để tâm, nếu đã thích một vật gì đó đương nhiên sẽ thích tất cả những thứ thuộc về nó.

Bất kể là ưu điểm hay khuyết điểm.

2

Hôm sau là thi thượng xá, Vương Tuấn Dân cảm thấy khá tốt, chàng nộp bài là biết chắc mình sẽ thi được lên thượng xá. Nhưng Sơ Ngu Thế bên cạnh đang bò lên bàn thở dài, rõ ràng không chắc chắn gì cả.

Vương Tuấn Dân suy nghĩ về kế hoạch cuộc đời mình, năm nay chàng vào được thượng xá của nhà thái học, trong một năm thì không thể tốt nghiệp được, kỳ thi năm nay thì không kịp rồi. Cũng may bây giờ hai năm có một kỳ thi, chàng có thể đợi kỳ thi vào hai năm sau.

Vừa nghĩ ngợi vừa thu dọn bút, mực trên bàn, Vương Tuấn Dân cảm thấy có người dừng lại trước mặt chàng, ngẩng đầu lên thì phát hiện ra là Trương Soái Chính. Người này đang nhìn xuống eo chàng với thần thái hết sức lạ lùng, chắc chắn là nhận ra miếng ngọc Ông Trọng này.

Hai người mặc dù là quan hệ cạnh tranh nhưng chưa từng nói chuyện với nhau bao giờ. Vương Tuấn Dân cũng không biết nên chào hỏi cậu ta thế nào, còn Trương Soái Chính cũng không dừng lại lâu, mà chỉ nhìn chàng một cái rất lâu rồi quay người rời đi.

"Khang Hầu cậu không sao chứ? Hôm nay thi cử không có gì bất thường đấy chứ?". Sơ Ngu Thế bước tới quan tâm hỏi han, thấy sắc mặt bạn mình vẫn như thường mới yên tâm nói: "Không xảy ra chuyện gì bất ngờ là được rồi, haizzz, sao cậu lại nghĩ không thông mà ngắm trúng miếng ngọc Ông Trọng này chứ?".

"Cậu làm bài thế nào?". Vương Tuấn Dân biết bạn mình thích càm ràm, nếu không chuyển chủ đề e rằng cậu ta sẽ nói cả tiếng không ngừng.

"Khó nói lắm". Sơ Ngu Thế thở dài, cầm quạt gấp gõ vào lòng bàn tay, cúi đầu than thở: "Thôi, nếu không vào được thượng xá thì tôi về nhà học y. Cậu biết đấy tôi thích đọc sách y nhất....".

Vương Tuấn Dân vỗ vai cậu ta, cũng cảm thấy bất lực, con người ai cũng có số mệnh của mình.

Không lâu sau, cổ bảng danh sách công bố những người thi đỗ từ nội xá lên thượng xá, quả nhiên Vương Tuấn Dân thi đỗ thượng xá sinh, còn cái tên Sơ Ngu Thế không xuất hiện trên bảng danh sách. Vương Tuấn Dân còn chú ý thấy tên Trương Soái Chính ở ngay cạnh tên mình, có thể thấy học quan đánh giá hai người không thua kém nhau là bao.

Có thể chuyển vào thượng xá là tiến gần với kế hoạch của bản thân thêm một bước, Vương Tuấn Dân lấy làm vui mừng lắm. Nhưng phải xa bạn thân Sơ Ngu Thế lại khiến niềm vui này nhạt đi vài phần. Sơ Ngu Thế lại chẳng hề để tâm, nói gia đình vẫn tiếp tục để cậu ta học thái học, lý tưởng học y của cậu ta tiếp tục bị đẩy lùi lại.

Thượng xá sinh đều có một phòng riêng, Vương Tuấn Dân đã thay áo dài có viền mép màu xanh cổ vịt, ít bị người khác làm phiền nên càng vùi đầu vào học hành, trong kỳ này ở thượng xá chàng đã lờ mờ đứng vị trí đầu bảng, chỉ là chàng ít giao du đi lại trong thượng xá nên danh vọng không bằng Trương Soái Chính.

Vương Tuấn Dân cũng không để tâm, lúc rảnh rỗi chàng thường bị Sơ Ngu Thế kéo ra ngoài uống trà, về nhà thăm phụ mẫu và các tiểu đệ, thậm chí ngay cả chức học dụ thượng xá cũng không tranh với Trương Soái Chính, mà hoàn toàn tập trung vào kinh sử điển tích, quên cả bản thân. Nháy mắt đã hơn một năm trôi qua, sắp tới kỳ thi thượng xá bình khảo hai năm một lần rồi.

Phải biết là những phu tử chấm bài thi của thượng xá bình khảo đều là trọng thần trong triều đình, chỉ cần phát huy xuất sắc trong bài thi, để lại ấn tượng cho họ, như thế khi tham gia kỳ thi khoa cử sắp tới chàng sẽ nhận được sự giúp đỡ rất lớn. Trong lòng mỗi người trong thái học đều ngầm hiểu như vậy, trên thực tế mỗi lần thi thượng xá bình khảo trong thái học tổ chức trước kỳ thi khoa cử, cũng tương đương với tiểu khoa cử, người giành được thứ hạng tốt, chỉ cần phát huy bình thường thì chắc chắn sẽ có tên trên bảng khoa cử.

Vương Tuấn Dân càng ngày càng nỗ lực học hành, đêm nào cũng là người chăm chỉ cuối cùng ở phòng học.

Đêm nay, chàng vừa làm xong một bài văn, dụi dụi mắt xong chàng dùng tay phải đã mỏi rã rời vuốt ve miếng ngọc Ông Trọng theo thói quen.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Giảm giá 90% tất tần tật mẫu Rolex bản sao hot nhất thị trường

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Đây đã là hành động vô ý thức của chàng, bắt đầu từ ngày mua ngọc Ổng Trọng về nó chưa từng rời xa chàng nửa bước, mỗi lần đầu ngón tay chạm vào vân ngọc bóng mượt của miếng ngọc, đều khiến tâm trạng mệt mỏi phiền não của chàng bình tâm lại ngay lập tức. Giống như bất luận chàng học hành muộn thế nào cũng luôn có người ở bên chàng vậy.

Vương Tuấn Dân nhắm mắt lại, dùng đầu ngón tay vẽ theo vết rạn trên ngọc Ông Trọng, miếng ngọc tốt như thế này không ngờ lại bị người ta vu cho là mang lại vận xui cho chủ nhân? Trên thực tế từ lúc chàng đeo miếng ngọc Ông Trọng này, đã thuận lợi thi vào thượng xá, chức quan của phụ thân dù không thể nói là thăng cao nhưng cũng đủ chi tiêu cho cả gia đình, có thể nói cuộc đời thuận buồm xuôi gió.

Cứ miên man nghĩ, cộng thêm mấy ngày không được nghỉ ngơi đầy đủ nên Vương Tuấn Dân cứ thế mà ngủ vùi, cho đến lúc đột nhiên cảm thấy cơn đau thấu tim gan dội lên từ tay phải.

"A, khụ khụ". Vương Tuấn Dân giật mình tỉnh giấc giữa cơn mơ, kinh hãi phát hiện ra mình đang ở giữa biển lửa, cơn đau khiến chàng vừa tỉnh dậy chính là lúc ngọn lửa đang liếm vào tay áo phải của chàng. Chàng vội vã phẩy lửa xung quanh, lăn lộn trên mặt đất để dập lửa trên người, cánh tay phải đau đớn và nhiệt độ giống như đang ở dung nham địa ngục khiến chàng tỉnh táo nhận ra mình không phải đang nằm mơ. Chàng muốn lớn tiếng kêu cứu nhưng vừa mở miệng đã bị sặc khói rồi có cảm giác khó thở ngay sau đó.

Tại sao lại như vậy? Chàng chỉ ngủ có một giấc tại sao tỉnh dậy lại sắp bị thiêu sống đến nơi?

Có lẽ nào chàng vẫn đang nằm mơ?

Ý thức dần dần rời xa, trong cơn mê man Vương Tuấn Dân lờ mờ cảm thấy có người đang cố sức lôi chàng ra ngoài, nhưng sức người ấy quá bé nhỏ, giống như ốc sên di chuyển vậy.

Là ai thế? Lẽ nào là bạn học ở phòng học? Nhưng chàng nhớ rõ chỉ có mình chàng học khuya ở phòng học thôi mà.

Tay chân Vương Tuấn Dân mềm nhũn, không còn chút sức lực nào, cảm thấy mình như một mớ phiền toái. Chàng mở miệng định bảo người đó cứ đi đi mặc kệ chàng, nhưng chưa kịp nói gì chàng đã chìm vào bóng đen.

3

"Ai da, Khang Hầu cậu phải nhìn thông suốt, chủ bộ đại nhân của nhà thái học cũng không truy cứu trách nhiệm của cậu, cậu phải chịu khó dưỡng thương đi". Sơ Ngu Thế nhìn Vương Tuấn Dân nằm tĩnh dưỡng trên giường bệnh, nghĩ lại vẫn thấy sợ, hỏa hoạn to như vậy nhưng bạn thân mình chỉ bị thương ở tay phải, thật là thoát chết trong gang tấc.

Có điều nhìn sắc mặt lạnh như băng của chàng, Sơ Ngu Thế thở dài an ủi: "Tay phải cậu bị thương, mặc dù không bị thương vào gân cốt nhưng kỳ thi thượng xá bình khảo và thi khoa cử tháng sau cũng không tham gia được rồi. Đừng để tâm, cậu vẫn còn trẻ, hai năm sau còn có cơ hội mà".

"Đều là lỗi của tôi". Vương Tuấn Dân nhắm mắt lại, cổ họng chàng vì hít phải nhiều khói nên giọng cũng lạc đi. Thực ra chàng không để tâm tới việc không tham gia thi cử được, một mình có thể thoát thân trở về từ bờ cõi sống chết thì đối với những việc khác cũng thấy nhẹ nhàng hơn nhiều. Mặc dù ban nãy chủ bộ đại nhân tới thăm chàng có đùa rằng cuối cùng bọn họ có thể nhân cơ hội này để xây dựng lại phòng học, nhưng Vương Tuấn Dân suýt chút nữa gây ra họa lớn vẫn thấy hối hận vô cùng, chàng vô thức nắm lấy miếng ngọc Ông Trọng đặt ở bên gối.

Sơ Ngu Thế hiểu rõ chàng, mắt đảo một vòng, trầm giọng nói với vẻ nghiêm trọng: "Thực ra thế này Khang Hầu ạ, chuyện này tôi thấy rất kỳ lạ. Phòng học lúc đó chỉ có mình cậu. Nếu do ngọn đèn dầu trên bàn cậu gây ra hỏa hoạn, vậy làm sao cậu chỉ bị thương một cánh tay phải thôi? Sớm đã thành than rồi chứ?".

"Chỉ có mình tôi?" Vương Tuấn Dân sững lại, vội vã truy hỏi: "Tôi nhớ có người cứu tôi ra, người ấy sao rồi?".

"Hả? Cậu nói Trương Soái Chính á? Cậu ta không sao, nghe nói lúc cậu ta xông vào thì phát hiện ra cậu ở cửa thư phòng, chỉ bị xém tí tóc với vạt áo thôi". Giọng Sơ Ngu Thế đầy vẻ hoài nghi: "Khang Hầu, đừng trách tôi nghĩ nhiều, thượng đẳng thượng xá sinh chỉ có một người, chỉ có cậu mới đủ sức cạnh tranh với Trương Soái Chính. Liệu có phải cậu ta ra tay hãm hại cậu không? Để cậu bị thương không thể tham gia bình khảo, ít nhất cũng khiến cậu hoảng loạn tinh thần. Sau đó thấy lửa cháy nghiêm trọng nên mới vào cứu cậu? Nếu không làm gì trùng hợp tới mức nửa đêm vẫn ở đó?".

Ở cửa? Không phải ở cạnh bàn sao? Vương Tuấn Dân sững sờ, lúc sau mới phát hiện ra bạn mình đang nói thuyết âm mưu rất hùng hồn, nên khẽ phản bác: "Hòa Phủ, cậu đừng nói linh tinh. Lần này may mà có Trương huynh, đợi tôi dưỡng thương khỏi rồi sẽ đi bái tạ cậu ta".

Sơ Ngu Thế ngượng ngùng cười cười, ánh mắt dừng lại trên tay trái Vương Tuấn Dân, giật mình nói: "Tôi biết rồi, chắc chắn do miếng ngọc Ông Trọng này cậu mới đen đủi như vậy. Mau vất nó đi".

Tay trái Vương Tuấn Dân run rẩy, sau đó mỉm cười thiếu tự nhiên: "Nói linh tinh gì thế? Tôi mệt rồi, cậu cũng về ôn bài đi, mấy hôm tới là thi nội xá rồi đấy".

Sau khi đẩy Sơ Ngu Thế đi, Vương Tuấn Dân không nghỉ ngơi ngay mà cúi đầu nhìn miếng ngọc Ông Trọng trong tay.

Có lẽ do chàng lăn lộn giãy giụa trong biển lửa, có lẽ do gần ngọn lửa quá phải chịu nhiệt độ quá cao, nên các vết rạn nứt trên miếng ngọc Ông Trọng càng nhiều hơn. Những vết ngấm sâu giống như máu tươi càng khiến miếng ngọc Ông Trọng trông thảm hại vô cùng.

Chàng thực sự rất yêu thích miếng ngọc này, thậm chí ngay cả trên mặt nó có bao nhiêu vết nứt, ở chỗ nào, nhắm mắt lại chàng vẫn nhớ rõ. Đầu ngón tay lướt qua những vết rạn tích lũy trên miếng ngọc, Vương Tuấn Dân vẫn đeo nó ở bên eo.

Kỳ thi thượng xá bình khảo năm nay, Trương Soái Chính giành được đánh giá cao nhất.

Vương Tuấn Dân luôn muốn trực tiếp cảm tạ ơn cứu mạng của Trương Soái Chính, nhưng lại sợ ảnh hưởng tới việc học hành của cậu ta, vì vậy cứ đợi đến sau khi kết thúc thi khoa cử mới mang lễ tạ tới phòng riêng của cậu ta.

Thực ra phòng riêng của Trương Soái Chính ở chếch đối diện, nhưng đây là lần đầu tiên Vương Tuấn Dân gõ cửa.

Lúc Trương Soái Chính mở cửa, Vương Tuấn Dân thấy cậu ta đang thu dọn đồ đạc, không giống như tạm thời về nhà ở mấy hôm mà đã cho tất cả sách vở trên giá đặt vào rương hòm.

"Huynh định... chuyển đi à?". Vương Tuấn Dân hỏi trong vô thức, ngay sau đó nhớ ra tên tự của Trương Soái Chính, liền mỉm cười nói: "Chúc mừng Bất Nghi huynh, lần này chắc chắn có tên trên bảng vàng". Thu dọn đồ đạc kỹ lưỡng thế này không phải là thi hỏng sau này không học ở thái học nữa thì chính là thi quá tốt sau này không cần học nữa. Mặc dù Vương Tuấn Dân không giỏi ăn nói nhưng đương nhiên chàng cũng không cho rằng Trương Soái Chính sẽ thi hỏng.

Nói đùa sao, thượng đẳng thượng xá sinh làm sao thi hỏng được chứ? Cứ nghĩ tới bản thân ngay cả kỳ thi cũng không tham gia được, Vương Tuấn Dân bất chợt thần sắc tối sầm, nhưng vẫn gắng gượng tinh thần, thành khẩn cảm ơn: "Hôm đó may mà có Bất Nghi huynh cứu giúp, mấy hôm trước sợ làm phiền nên hôm nay tôi mới tới cảm tạ". Nói xong liền đưa lễ tạ.

Trương Soái Chính đương nhiên chối từ, khéo léo nói: "Cứu người là việc nghĩa không thể không làm, đổi lại là người khác trong đó tôi cũng vẫn cứu, Khang Hầu không cần làm vậy. Huống hồ lúc tôi phát hiện thì Khang Hầu đã ở cửa rồi, việc tôi làm chỉ là sức mọn mà thôi".

"Ở cửa?" Vương Tuấn Dân ngẩn người, Sơ Ngu Thế trước đó có nhắc chàng chuyện này, chàng cũng tưởng rằng bạn mình nhớ nhầm nên không để tâm. Nhưng lúc này đương sự nhắc lại lần nữa, khiến Vương Tuấn Dân không thể nghi ngờ.

Lẽ nào người đó là do mình nảy sinh ảo giác giữa biển lửa? Chủ bộ đại nhân cũng nói không có ai khác bị thương, trong ngọn lửa như vậy nếu có người khác cứu chàng chắc chắn cũng bị lửa thiêu bị thương không nhẹ.

Vương Tuấn Dân nén sự nghi hoặc trong lòng, kiên quyết yêu cầu Trương Soái Chính nhận lấy lễ tạ. Thực ra bọn họ đều là người đọc sách, có tặng cũng chẳng phải vàng bạc châu báu gì, mà chỉ là mấy quyển sách đơn lẻ mà Vương Tuấn Dân đặc biệt đổi được. Nói đáng tiền thì cũng không đáng lắm, nhưng có tiền cũng không mua được.

Trương Soái Chính thoái thác không được đành miễn cưỡng nhận lấy. Ánh mắt cậu ta liếc thấy miếng ngọc Ông Trọng ở eo Vương Tuấn Dân, bèn làm bộ nói chuyện phiếm: "Khang Hầu, cậu đừng trách tôi nhiều lời, miếng ngọc Ông Trọng này tôi cũng từng không tin tà ma nên đeo nó một dạo, thực sự việc gì cũng không thuận. Có lần đi đường suýt chút nữa bị xe ngựa đâm vào, nếu không phải con ngựa đúng lúc đó vấp phải hòn đá ngã xuống trước thì không chừng tôi đã bị con ngựa điên đó xéo gãy cổ".

Trương Soái Chính vừa nói vừa thấy kinh hồn, rõ ràng nghĩ lại vẫn thấy sợ: "Bây giờ mặc dù cậu miễn cưỡng giữ được mạng nhưng xét cho cùng lại lỡ mất kỳ thi khoa cử lần này. Trước đây triều Thái tổ mỗi năm thi một khoa cho đế triều Chân Tông hai năm một khoa, sau này không chừng ba năm một khoa hoặc thậm chí dài hơn".

Vương Tuấn Dân mím môi, cũng không biết phải nói gì. Đúng lúc này có bạn học khác tới thăm, mối quan hệ của Trương Soái Chính trong nhà thái học này là tốt nhất, Vương Tuấn Dân thấy không có cách nào hòa nhập được với bọn họ nên cáo từ.

Về tới phòng riêng của mình Vương Tuấn Dân sờ miếng ngọc Ông Trọng đeo ở eo, khi ngón tay lướt trên những vết rạn nứt, trong đầu lại vụt lên những lời Trương Soái Chính nói, trong lòng không tránh khỏi dấy lên những khúc mắc.

Miếng ngọc Ông Trọng đã bị thương như thế này thì cũng không hợp đeo hàng ngày rồi.

Cuối cùng chàng tiếc nuối vuốt ve miếng ngọc, sau đó đặt nó vào cái hộp sơn bên cạnh, hoàn toàn không phát hiện ra sắc ngọc của miếng ngọc Ông Trọng vốn bóng mịn bỗng dưng tối hẳn lại....

Kỳ thi khoa cử thi đình công bố danh sách ngay sau đó, Trương Soái Chính đỗ giáp khoa, đủ vào hàng tiến sĩ, nhưng không đỗ trạng nguyên. Học trưởng của bọn họ là Lưu Huy đỗ thủ khoa.

Vị học trưởng năm nay mới hai mươi bảy tuổi này, cũng là một truyền kỳ trong nhà thái học, người này hành văn trau chuốt, hoa mỹ, dùng nhiều điển cố thành phong cách, được người thế gian ca tụng, mấy năm trước đã trở thành danh sĩ kinh thành. Nhưng kỳ thi trước người chủ trì thi tiến sĩ là Âu Dương Tu lại căm ghét phong cách văn chương hào nhoáng này, ông ta đề xướng phong cách mộc mạc, bình dị. Nghe nói trong kỳ thi khoa cử đó Âu Dương Tu bình đọc văn chương, bài thi đương nhiên không đề tên nhưng ngay lập tức ông ta nhận ra văn phong của Lưu Huy, liền cầm bút đỏ phê từ đầu đến cuối. Lưu Huy thi không đỗ kiên quyết nghỉ ở thái học, về quê dùi mài đèn sách, trải nghiệm nỗi khổ dân gian, hành văn dần dần chân thành mộc mạc, cuối cùng trong kỳ thi năm nay được ngự khảo quan Âu Dương Tu khen ngợi đánh giá, một bước giành thủ khoa.

Vương Tuấn Dân có được bài văn trạng nguyên mà người khác chép lại, đọc đi đọc lại nghiên cứu nhiều lần, cũng thấy hổ thẹn không bằng.

Sơ Ngu Thế tham gia kỳ thi nội khảo thứ hạng cũng không lý tưởng, cậu ta nghỉ ở thái học, về nhà đọc sách y. Người xung quanh thấy cậu ta quá ngốc nghếch nhưng trong lòng Vương Tuấn Dân lại thấy ngưỡng mộ cậu ta.

Có thể tìm được việc mình thích thú và kiên trì làm nó đến cùng, ở một góc độ nào đó rất đáng khâm phục rồi.

Vương Tuấn Dân lòng không tạp niệm, vùi đầu học hành. Chỉ là lần này không chăm chăm đọc sách nữa mà ngoài thời gian đọc sách cậu cố gắng đi nhiều nơi hơn. Thiên "Nho hiệu" sách "Tuân Tử" có viết: "Văn chỉ nhi bất kiến, tuy bác tất mậu; kiến chi nhi bất tri, tuy thức tất vọng; tri chi nhi bất hành, tuy đôn tất khốn". Chàng dần dần tự thân trải nghiệm những điều trong sách viết, chứ không đơn giản là tìm hiểu về mặt chữ nghĩa.

(Dịch nghĩa: Chỉ nghe nói mà không tận mắt chứng kiến thì tuy kiến thức có rộng nhưng tất có sai lầm; có chứng kiến mà không tìm hiểu, thì tuy biết nhưng tất có xằng bậy; chỉ biết mà không thực hành, thì tuy có chăm chỉ nhưng tất gặp khó khăn)

4

Thoáng cái đã hai năm trôi qua, đợt thi thượng xá bình khảo lần này đương nhiên Vương Tuấn Dân là thượng đẳng thượng xá sinh duy nhất, sau đó kỳ thi khoa cử Tân Sửu năm Gia Hựu thứ sáu đã tới trong sự kỳ vọng của mọi người.

Vương Tuấn Dân đã hai mươi lăm tuổi, ở trong nhà thái học cũng xếp hàng độ tuổi khá cứng rồi, nếu năm nay chàng không thi đỗ thì sẽ nghỉ ở thái học, làm chức sư gia tầm thường, hoặc ở lại thái học làm học chính hoặc học lục bình thường, nhận mức bổng lộc cỏn con. Các tiểu đệ ở nhà đều đã lớn, những món cần chi tiêu càng ngày càng nhiều lên, chàng không thể nào tiếp tục là gánh nặng của gia đình được nữa. Huống hồ chàng luôn lấy cớ dùi mài kinh sử, không lấy vợ, cũng vì lo rằng gia đình không lo nổi tiền sính lễ.

(Học chính và học lục: Là học quan trực thuộc Quốc tử giám thời Tống Nguyên Minh Thanh, phụ trách quản lý quy củ và kiểm tra kỷ luật của trường học)

Lúc thu dọn dụng cụ trường thi, Vương Tuấn Dân mở hộp sơn ra, nhìn thấy miếng ngọc Ông Trọng đã bị chàng bỏ quên từ lâu, cầm trong tay một lúc cuối cùng chàng vẫn lấy nó ra, đặt trong hộp dụng cụ học tập.

Kỳ thi hội thuận buồm xuôi gió đúng như Vương Tuấn Dân dự đoán, khi làm bài thi xong chàng biết mình chắc chắn có tên trên bảng, còn về thứ hạng thế nào lại do ông trời sắp đặt.

Mệt mỏi ngủ trong thư phòng hai ngày, trước khi danh sách thi đình công bố, Vương Tuấn Dân dự tính về thăm nhà. Sau khi ra ngoài cửa chàng bỗng thấy mỗi một người đi qua chàng đều âm thầm chỉ chỉ trỏ trỏ. Từ trước đến giờ chàng không giao du với ai, đương nhiên cũng không để tâm tới họ, nhưng trong nhà thái học, các học tử khi gặp chàng đều nhìn chàng với ánh mắt kỳ lạ, khiến chàng ngờ vực mà chậm bước lại, tiếng bàn tán cũng dần dần vang tới tai chàng.

"Nghe có người nói Vương Tuấn Dân này là trạng nguyên kỳ thi năm nay đấy".

"Có thể, Vương Khang Hầu là người đứng đầu thượng xá thái học mà".

"Vậy cũng không đúng... bảng vàng còn chưa công bố, tiếng tăm đã đồn xa thế này, tôi e tám phần có người không muốn cậu ta trúng cử".

"Cũng phải, nếu như chủ trì đại nhân để tránh phiền phức hoặc cảm thấy Vương học trưởng cố tình phô trương thanh thế lại gạt cậu ta ra thật đấy chứ".

"Còn gì nữa. Chủ trì đại nhân của kỳ thi Tân Sửu năm nay là Giới Phủ đại nhân Vương An Thạch, ông ấy ghét nhất là những kẻ mua danh chuốc tiếng, lần này có người thảm rồi".

Vương Tuấn Dân nghe những lời vừa ngưỡng mộ, lại ghét bỏ hay cười nhạo ấy, giống như có người đang vô hình đánh vào đầu mình một cú, trong đầu cứ ong ong trống rỗng, suýt chút nữa không có sức mà đứng.

Chàng nghiến răng không muốn mất mặt trước người khác, gắng gượng lê thân về phòng riêng của mình.

Cả người lạnh băng ngồi trước bàn học hồi lâu, Vương Tuấn Dân mới giơ tay lên vuốt mặt, thấy tay mình ướt đẫm, cũng không biết là mồ hôi mặt hay mồ hôi tay.

Không khiến người khác ghét là kẻ tầm thường, đương nhiên chàng hiểu đạo lý này. Nhưng vấn đề chắc chắn do chàng, nếu không tại sao người ta chỉ đồn tin về chàng, chứ không đi đồn người khác?

Kỳ thi hai năm trước, tình hình của Trương Soái Chính cũng như chàng bây giờ, nhưng hoàn toàn không có ai đồn đại gì về cậu ta cả.

Vì thế... tất cả đều công cốc rồi sao? Tình hình thế này, người bình thường đều không để chàng đỗ tiến sĩ đâu nhỉ?

Áp lực lớn lao dồn nén mấy năm trong lòng đã hoàn toàn bộc phát, Vương Tuấn Dân gần như đánh cược được ăn cả ngã về không ở kỳ thi lần này. Gần hai mươi năm vất vả đèn sách lẽ nào là vô ích sao? Có lẽ do ảo giác, tiếng bàn tán bên ngoài càng lúc càng lớn, ồn ào khiến chàng hoa mắt chóng mặt.

Vương Tuấn Dân tinh thần suy sụp không thể khống chế được sự phẫn nộ trong lòng nữa, chàng đứng dậy gạt đổ tất cả đồ dùng trên bàn, bỗng chốc vang lên những tiếng loảng xoảng giòn tan trong phòng, nhưng lại khiến tiếng bàn tán bên ngoài im bặt.

Vương Tuấn Dân thở hổn hển ngã ngồi ra ghế, đuôi mắt liếc nhìn miếng ngọc Ông Trọng quen thuộc bị đánh đổ đang xoay tròn trước mắt chàng.

Con người vào những lúc yếu đuối nhất luôn vô ý muốn oán trời trách người. Vương Tuấn Dân nhớ ngay tới lời đồn về vận xui mà miếng ngọc mang lại, lại nhớ tới bản thân hai năm qua chẳng xảy ra chuyện gì, chỉ có lúc thi cử mới để miếng ngọc vào trong hộp đồ dùng, kết quả... kết quả như thế này....

Mặc dù biết chuyện này chẳng hề liên quan tới miếng ngọc Ông Trọng nhưng nếu ai ai cũng giữ được bình tĩnh thì trên đời chẳng tồn tại thành ngữ "giận cá chém thớt" làm gì.

Vương Tuấn Dân cúi người nhặt miếng ngọc Ông Trọng lên, định cầm ném nó vào tường để trút giận, nhưng khi lòng bàn tay chạm vào chất ngọc nhẵn nhụi thì xúc cảm bị lãng quên từ lâu lập tức khiến chàng tỉnh táo trở lại.

Chàng hít một hơi sâu, từ từ mở lòng bàn tay ra, cúi đầu nhìn miếng ngọc Ông Trọng nằm lặng lẽ trong tay mình.

Dây tơ của miếng ngọc đã bị ố bẩn, vẫn còn lem nhem vết cháy xém. Từ sau trận hỏa hoạn đó chàng cũng không hề nghĩ tới chuyện thay dây cho nó. Vương Tuấn Dân vuốt ve miếng ngọc với vẻ nhung nhớ, cảm thấy miếng ngọc vốn mát lạnh này đang hòa hợp với nhiệt độ cơ thể mình.

Có lẽ do vừa bị rơi xuống đất nên miếng ngọc có thêm vài vết nứt so với ký ức. Vương Tuấn Dân khẽ thở dài, tâm trạng kích động cuối cùng cũng bình tĩnh lại, chàng nhặt hộp sơn lên, đặt miếng ngọc trong tay mình vào đấy, rồi dọn dẹp hết đồ đạc lung tung dưới đất.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Cũng phải, chàng vẫn là phải rời đi, ở lại nơi đây chẳng phải khiến người ta chê cười sao? Các học quan nhìn thấy chàng e rằng cũng không thoải mái, đợi bảng vàng công bố rồi đến từ biệt họ sau vậy.

Thật là... đáng tiếc đã phụ sự kỳ vọng của chủ bộ đại nhân rồi...

Tâm trạng chán nản thu dọn tay nải, Vương Tuấn Dân về nhà giữa ánh mắt của bao người, đóng cửa không tiếp khách, vùi đầu vào ngủ. Mấy ngày trôi qua trong vô tri vô giác, cho đến ngày công bố bảng vàng, chàng nghe thấy khắp phố vang lên tiếng kèn trống bắn pháo ăn mừng, sắc mặt rất khó coi. Cũng không biết bao lâu trôi qua, bỗng nhiên chàng nghe thấy tiếng pháo nổ ngoài cổng, lại có người xông vào cửa nhà chàng lớn tiếng chúc mừng: "Đỗ rồi! Đỗ rồi! Đại thiếu gia đỗ rồi!".

Mọi chuyện xảy xa quá đột ngột, đến khi Vương Tuấn Dân hoàn toàn tĩnh trí thì chàng đã thi đình xong, ngắm hết phố uống xong rượu, không biết đã mấy ngày trôi qua rồi.

"Khang Hầu, coi như cậu tỉnh rồi". Sơ Ngu Thế bật cười, cậu ta cảm thấy bạn mình thực sự quá buồn cười. Có điều đặt ở vị trí ấy mà nói, nếu hôm nay cậu ta cũng có thể có được vinh dự này thì e rằng biểu hiện của bản thân cũng không khá hơn bạn mình là bao.

"Tôi... thực sự đỗ trạng nguyên rồi?". Vương Tuấn Dân vẫn không dám tin, nhưng lờ mờ trong ký ức, chàng thật sự tới tiền điện cảm tạ thánh thượng, với thân phận là thám hoa sứ, chàng cùng hai vị thiếu niên đồng bảng khác được dạo chơi và thưởng hoa ở ngự viên, tham dự tiệc thám hoa ở vườn hạnh. Cảnh tượng chúc rượu đan xen giống như những bức tranh không rõ nét, khiến người say sau tiệc rượu là chàng khó mà xâu chuỗi chúng lại với nhau được.

"Đúng đúng đúng, nhất giáp là vị trí đầu tiên, không phải trạng nguyên thì là gì nữa? Vương thủ khoa à". Sơ Ngu Thế đưa cho chàng bát canh giã rượu vừa mới sắc, nheo mắt cười nhìn vị tân khoa trạng nguyên này. "Lần này may mà có Lâm Xuyên tiên sinh, nếu không phải ông ấy ngắm trúng bài văn cậu viết, ra sức đề cử thì e rằng cái danh trạng nguyên cũng nguy hiểm".

Vương Tuấn Dân một hơi uống hết bát canh giã rượu hơi đắng, cơn đau đầu đã dịu đi rất nhiều. Lâm Xuyên tiên sinh chính là Vương An Thạch Vương đại nhân, Vương Tuấn Dân vẫn cảm thấy không vui vì những lời ra tiếng vào trước kỳ thi, nên chau mày nói: "Chẳng phải làm khó Lâm Xuyên tiên sinh rồi sao?".

"Không có gì, Khang Hầu à, cậu là chân tài thực học, trước đây có người cố ý truyền tin hại cậu, bây giờ khác nào được ông trời định mệnh đâu, những lời đồn lại trở thành những câu chuyện đẹp". Sơ Ngu Thế nói với vẻ không để tâm. Ánh mắt cậu ta dừng lại bên chiếc hộp sơn đang mở bên cạnh nhìn thấy ngay miếng ngọc Ông Trọng từng khiến cậu ta có ấn tượng sâu sắc, nên bất mãn nói: "Khang Hầu, sao cậu vẫn giữ miếng ngọc Ông Trọng này? Suýt chút nữa cậu bị thiêu chết, rồi lại bị những lời đồn làm hại, còn thiếu nước chết là xong. Người học hành coi trọng nhất chính là danh tiếng và tính mạng, cả hai thứ cậu đều suýt mất, lẽ nào không phải là vận xấu do miếng ngọc Ông Trọng này mang lại sao? Tôi thấy, vẫn nên nhẫn tâm mới được".

Vương Tuấn Dân ngóc đầu lên, chàng vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo, lời của cậu bạn thân chàng cũng đã nghe thấy, nhưng đầu óc vẫn chậm chạp chưa thể lý giải được. Một hồi sau chàng mới ngập ngừng: "Hay là... trả lại cho gã chủ tiệm đồ cổ ấy..."

"Còn trả gã ta làm gì? Để miếng ngọc Ông Trọng này tiếp tục hại người à? Thôi đi, cậu không nỡ vứt thì để tôi làm thay". Sơ Ngu Thế lập tức cầm lấy miếng ngọc, quyết tâm giúp bạn thân thoát khỏi nỗi ám ảnh vận xui.

"Chuyện này...", Vương Tuấn Dân muốn gọi bạn lại, nhưng bất chợt tự hỏi lòng, lẽ nào chàng không có ý định vứt bỏ miếng ngọc Ông Trọng này sao? Thừa nhận đi, trên thực tế chàng cũng thấy vận đen bám đuôi mình, chỉ là không muốn tự tay vứt miếng ngọc này đi, không muốn làm người xấu mà thôi.

Vì thế, chàng lặng lẽ nhìn bạn thân bước ra khỏi cửa, đôi mắt từ từ nhắm lại.

Đúng vậy, chàng đã là tân khoa trạng nguyên rồi.

Phải ngủ một giấc thật ngon, khi tỉnh dậy cuộc đời chàng sẽ hoàn toàn khác với trước đây.

Thực ra Sơ Ngu Thế muốn đập tan miếng ngọc này ra, nhưng cũng sợ miếng ngọc tà ma này sẽ bám lấy mình vì thế sau khi ra khỏi Vương gia, cậu ta liền tìm một ngõ nhỏ, tiện tay vứt miếng ngọc ở đấy.

Sau khi Sơ Ngu Thế vừa ngân nga hát vừa bỏ đi không lâu, một chàng trai mặc áo dài màu đen kiểu thời Tần Hán đi tới và dừng lại, cúi người nhặt miếng ngọc Ông Trọng lên.

Gã nhẹ nhàng dùng tay lau những vết bụi bẩn bám trên miếng ngọc Ông Trọng, nhìn trên thân ngọc có thêm vài vết nứt, gã khẽ thở dài.

"Đồ ngốc, ngươi đỡ nạn cho người ta nhưng lại bị hiểu nhầm thành vật xui, thật là tại sao phải khổ như vậy chứ..." Chàng trai dường như đang đối thoại với miếng ngọc Ông Trọng nhưng cũng giống như đang tự nói thầm với mình. Một lúc sau chàng trai đột nhiên ngẩng đầu lên nhìn về phía đầu ngõ.

Không một bóng người..

Quả nhiên là gã đa nghi sao?

5

Năm 2013.

"Ối giời ơi, suýt chút nữa bị chủ tiệm ngày xưa phát hiện ra chúng ta đang nhìn trộm", bác sĩ thở phì phò, ban nãy vừa làm một chuyến du hành vượt thời gian khiến anh mệt nhoài nằm vật ra sàn nhà Á Xá, trong đầu vẫn còn ong ong.

"May mà la bàn dịch chuyển kịp thời". Lục Tử Cương cũng không khá khẩm hơn là bao, anh đang đứng với lấy hai chai nước lọc.

Bác sĩ ngồi dậy đón lấy một chai uống một liền mấy ngụm, lúc này mới có tinh thần cười hê hê: "Đây là lần đầu tôi thấy chủ tiệm mặc đồ cổ trang, lần trước chúng ta xuyên không về thời Đường có gặp được gã đâu".

"Sau này phải chú ý, chủ tiệm vẫn luôn có ký ức, nếu anh ấy có ấn tượng về chúng ta không chừng lịch sử sẽ xuất hiện nhiều ngã rẽ, tội của chúng ta sẽ to lắm đấy". Lục Tử Cương nhẫn nại dặn dò giải thích.

"Biết rồi, biết rồi", bác sĩ tùy tiện đáp. Đối với anh mà nói gã chủ tiệm mất tích kia mới là gã chủ tiệm thực sự, gã chủ tiệm trong quá khứ không liên quan tới ký ức của anh, nói gì tới bạn bè của gã. "Đúng rồi, ban nãy chủ tiệm cầm thứ gì trong tay thế?".

Lục Tử Cương tinh mắt và rất nhanh nhẹn, nên nhớ lại đáp: "Có lẽ là ngọc Ông Trọng".

"Ngọc Ông Trọng?".

"Đúng vậy, tôi còn nhớ kiếp trước khi tôi ở Á Xá, chủ tiệm từng nói chuyện này với tôi. Miếng ngọc Ông Trọng vốn là vật tùy thân trừ tà của Hán Vũ đế, sau này lưu truyền qua tay nhiều người, mặc dù vết nứt khắp thân nhưng không giống những miếng ngọc bình thường khác bị tà vật xâm chiếm, nó vẫn có thể bảo vệ chủ nhân tránh khỏi vận xui".

Lục Tử Cương uống một ngụm nước, tiếp tục nói: "Nhưng đáng tiếc là, mỗi người có được miếng ngọc Ông Trọng này đều tưởng rằng nó mang lại vận xui, sau này chủ tiệm đều nói trước với họ là miếng ngọc nứt này sẽ mang lại xui xẻo, những người kia miệng nói không để tâm nhưng rồi đều vứt bỏ nó. Con người luôn là vậy, mãi chẳng thể nhìn thấu chân tướng sự việc. Nhìn phục sức của những người trên phố có lẽ là giai đoạn trung kỳ thời Bắc Tống. Chủ nhân của miếng ngọc Ông Trọng thời ấy có lẽ là một trạng nguyên. Haizzz, sau khi vứt miếng ngọc đi chưa đầy hai năm bệnh điên bùng phát rồi chết. Sau khi chết còn bị người ta vu cáo cho có quan hệ mờ ám với gái thanh lâu. Cuối cùng quỷ oan bám lấy thân, mất cả tính mạng, thanh danh bị hủy hoại. Thật đáng tiếc cho miếng ngọc Ông Trọng đã vì hắn mà thêm nhiều vết nứt".

Lục Tử Cương năm đó là thợ khắc ngọc nổi danh trong thiên hạ, đương nhiên vô cùng yêu thích ngọc khí, nhớ tới miếng ngọc Ông Trọng thương tích đầy mình, Lục Tử Cương khó tránh khỏi việc bị ảnh hưởng bởi ân oán từ kiếp trước, giọng điệu cũng bực tức hơn.

"Hả? Sao chủ tiệm không nói thật với khách chứ?". Bác sĩ không hiểu.

Lục Tử Cương lập tức nhìn bác sĩ với ánh mắt như thể nhìn mấy tên dở người: "Bán miếng ngọc nát lại còn tâng bốc dùng miếng ngọc này có thể tránh nạn, người ta không coi anh là gian thương chắc? Có tên ngốc mới tin".

Bác sĩ tỏ vẻ tin lời, hứng chí đứng dậy nhìn khắp xung quanh: "Ở đâu thế? Miếng ngọc Ông Trọng này là đồ tốt, tôi cũng muốn!".

Lục Tử Cương vặn chặt nắp chai, nở nụ cười khinh bỉ, nói thản nhiên: "Ai mà biết được! Có lẽ ở góc nào đó trong Á Xá... cũng có thể vẫn đang lang thang trong tay những người khác nhau...".

Quyển 4 - Chương 3: Thiên Như Ý

1

Năm 1390, dốc Trích Lưu, huyện Câu Dung, phủ Ứng Thiên.

Lý Định Viễn được đại nha hoàn Tì Bà ôm trong lòng mơ mơ màng màng đi qua hoa viên của phủ quốc công, đến Tuyên viên nơi ông nội cậu đang ở.

Mặc dù chưa tỉnh ngủ đã tới thỉnh an ông nội, có phần thất lễ, nhưng Lý Định Viễn trước giờ luôn được chiều chuộng, đương nhiên không có ai dám nói cậu nửa lời.

Lý Định Viễn năm nay mới mười tuổi, mặc dù chưa thực sự hiểu chuyện nhưng cũng biết ông nội mình là một người không hề tầm thường. Người đầu tiên đứng dưới hoàng đế triều Minh chính là ông nội Lý Thiện Trường của cậu, trước đây được phong làm Tả tướng quốc, đứng đầu trong bách quan. Dùng câu "dưới một người trên vạn người" để nói về ông nội cậu thật không sai một chút nào.

Chuyện trong triều đình Lý Định Viễn không rõ, nhưng cậu biết ông nội mình có chín con trai, mười lăm cháu trai, mười hai cháu gái, nhưng ông quý nhất chỉ có mình cậu. Ngay cả nhị thúc lấy vợ là công chúa cũng chưa từng đòi hỏi đãi ngộ gì đặc biệt trước mặt ông nội. Ngoài cả nhà nhị thúc sống trong phủ công chúa ra, các thúc bá và anh chị em họ đều sống trong nhà chính của Lý gia ở Cửu Giang Giang Tây, chỉ có mình cậu được nuôi dưỡng bên cạnh ông nội.

Một mình được chiều chuộng vô cùng, ngoài việc cảm thấy phiền não vì ít được gặp cha mẹ ra, Lý Định Viễn cũng an tâm hưởng thụ thứ cuộc sống hủ bại của con em nhà quyền quý. Ngay cả việc tới thỉnh an ông nội mỗi sáng cậu đều thực hiện trong lúc nửa tỉnh nửa mơ cho có lệ.

Ông nội cậu sống trong phủ Quốc công chính tông, quy chế của sảnh đường là sảnh đường của quan nhất, nhị phẩm, năm gian chín giá, khí thế hùng mạnh. Lý Định Viễn hơi hé mắt, lập tức bị ánh sáng phản chiếu trên ngói pha lê rọi vào chói mắt, lại uể oải nhắm lại.

Đi thêm một lúc nữa, cảm nhận được hơi thở của Tì Bà cố tình thả lỏng, Lý Định Viễn cũng ngửi thấy mùi hương an thần nồng đậm nên biết là đã tới thư phòng của ông nội. Cậu dụi mắt, vốn định làm nũng ông nội như mọi ngày, ông nội sẽ ôm lấy cậu với vẻ mặt bất lực, thậm chí ngay cả khi cậu giật râu của ông, ông cũng sẽ chiều chuộng để mặc cho cậu nghịch.

Chỉ là vòng tay ấm áp quen thuộc mọi ngày không hề xuất hiện, Lý Định Viễn hồ đồ mở to mắt nhìn, thấy ông nội đang sầm mặt lại, tay đang cầm cốc trà men đỏ, ngồi trên ghế quan mạo bằng gỗ sưa có lưng tựa và tay vịn, ánh mắt nghiêm nghị nhìn cậu.

"Nhìn bộ dạng hư đốn của cháu xem, có ra thể thống gì không?".

Lý Thiện Trường là nhân vật cấp nguyên lão từ những năm Chí Chính thứ mười ba dưới thời Nguyên Thuận đế đã bắt đầu ở bên Chu Nguyên Chương đánh dẹp thiên hạ, mặc dù làm những việc bình thường như khi Tiêu Hà làm cho Lưu Bang thời Hán, đều là phụ trách công tác hậu phương như việc quân chính nội vụ chung chung, tốt xấu gì cũng đi qua vô số chiến trường biển máu. Mặc dù hai mươi hai năm trước đã sáng suốt phòng thân cáo lão rút khỏi quan trường, nhưng vẻ uy nghiêm vẫn không hề thua kém năm xưa. Bình thường ở nhà trước mặt cháu yêu của mình, ông thường có ý cất giấu tính cộc cằn khó chịu của mình đi, nhưng bây giờ lại chẳng có tâm trạng để che giấu, cái nhìn uy nghiêm bức khí như sóng thần, đang đổ dồn về phía Lý Định Viễn.

Tì Bà đang ôm Lý Định Viễn cũng sợ hãi, cả người run lên, suýt chút nữa không bế nổi thập tam thiếu gia trong lòng, biết ý liền quỳ xuống đất.

Vì đại nha hoàn quỳ xuống nên Lý Định Viễn thuận theo thế đứng thẳng trên mặt đất. Cậu lại chẳng hề bị sợ hãi trước vẻ mặt của ông nội, tự mình chỉnh trang lại y phục trên người cho gọn gàng, chỉnh tề, lúc này mới bước lên trước vài bước, biết phép tắc quỳ xuống trước mặt Lý Thiện Trường, miệng nói thỉnh an rồi bái lạy.

Bài lễ nghi này Lý Định Viễn nắm rất rõ, mỗi lần đón Tết hoặc có lễ cậu đều nhìn thấy các thúc bá cùng anh chị em họ mỗi người mỗi ngày đều làm một lần. Mặc dù cậu thực sự chưa từng nghiêm túc làm thế này bao giờ, nhưng nhìn thấy người khác làm nhiều lần như vậy dù sao cũng có thể học được điệu bộ. Sở dĩ Lý Định Viễn được Lý Thiện Trường nhìn nhận và đối xử khác biệt, đương nhiên không chỉ vì cậu rất đáng yêu, Lý Thiện Trường thích thú hơn cả chính là con mắt nhanh nhẹn của cậu, cảm thấy cậu bé giống mình nhất. Vì vậy ngay cả khi đặt tên cho cậu, ông cũng không tuân theo quy tắc cái tên phải là chữ đơn thuộc bộ thảo đầu, mà đặt ra cái tên phóng khoáng này.

Lý Định Viễn ngoan ngoãn dập đầu, cũng không đứng dậy, cứ ngoan ngoãn quỳ trước mặt Lý Thiện Trường, ngẩng đầu nhìn ông với ánh mắt vô tội.

Lý Thiện Trường nhìn đôi mắt long lanh trên khuôn mặt non nớt của cháu mình, chẳng được bao lâu đã phải đầu hàng, khí thế tích trữ bao lâu giống như vỡ đê sông Hoàng Hà, ào ào chảy hết. Ông thở dài, kéo đứa cháu lên, xoa trán cậu bé với vẻ yêu thương: "Viễn Nhi, là do hôm nay tâm trạng ông không tốt, không đập đầu vào đâu đấy chứ? Ông nghe thấy "bốp" một tiếng đấy". Trong mắt người ngoài Lý Thiện Trường là một Tuyên Quốc công nói một là một nói hai là hai, chỉ cần ông sầm mặt lại thì cả đám người đều phải lục tục quỳ xuống, nếu đám người ấy nhìn thấy cảnh vị công khanh hàng đầu này cúi mình như thế e rằng sẽ trợn tròn mắt lên mất.

Đôi mắt to tròn của Lý Định Viễn đảo đảo, trong lòng thầm ghét tính khí của ông nội, mấy hôm trước vừa giày vò đám hộ vệ bên cạnh mình, bây giờ lại bắt đầu giày vò cậu sao? Thế này không được rồi, ngày mai phải gọi cả tứ ca và lục ca tới đồng cam cộng khổ, dù sao bọn họ cũng ở ngay phủ công chúa bên cạnh đây thôi.

Lý Thiện Trường hiểu rõ cháu mình như lòng bàn tay, chỉ cần nhìn biểu cảm của cậu là đoán được tên nhóc này đang nghĩ cái gì: "Lại định đi giá họa cho Tiểu Tứ và Tiểu Lục hả?". Về những đứa cháu khác, Lý Thiện Trường từ trước tới giờ luôn gọi thẳng thứ tự, thậm chí còn không thể nhớ được tên của một số cháu. Vì vậy đối với Lý Định Viễn mà nói, quả thực ông đối xử rất khác.

Tứ ca và Lục ca của Lý Định Viễn đều là anh họ, tên là Lý Phương và Lý Mậu, đều là con của người con trai thứ Lý Kỳ và công chúa Lâm An, năm nay đã là thiếu niên mười ba, mười bốn tuổi rồi, làm sao có thể cùng kiến thức, suy nghĩ như Lí Định Viễn mười tuổi được. Mẫu thân của họ - Lâm An công chúa là trưởng nữ của Chu Nguyên Chương, trước đây Lý Thiện Trường vô cùng an tâm vì cô con dâu công chúa này, ông cảm thấy Chu Nguyên Chương dù có tàn hại công thần nguyên lão thế nào đi nữa, thì tuyệt đối không thể ra tay với thông gia, vì vậy cũng rất gần gũi hai đứa cháu này. Đương nhiên, mức độ gần gũi cũng khác biệt với Lý Định Viễn.

Lý Thiện Trường xoa xoa cái trán ửng hồng của cậu, trái tim mềm nhũn, giọng nói cũng mềm mỏng hơn: "Đều là do ông không tốt, Viễn Nhi muốn gì nào? Ông đền cho cháu". Giọng nói chan chứa sự xót thương và nỗi đau khó nói nhưng lại được che giấu rất tốt.

Trong lòng Lý Định Viễn không có gì để nói, thầm nghĩ biết ngay là như vậy mà! Ông nội quả là không biết xấu hổ! Chỉ thích lấy đồ vật ra nịnh cho cậu vui! Có điều cậu hẹp hòi tính toán một hồi, vẫn quyết định thử xem sao: "Ông ơi, cháu muốn cái tráp đồng kia".

Cái tráp đồng kia là món bảo vật Lý Định Viễn mong muốn có từ lâu rồi. Trước đây cũng từng nịnh nọt thử rất nhiều lần, nhưng ông nội chỉ cho cậu mượn xem chứ không hề tặng cho cậu. Những bảo vật khác thì cậu muốn gì ông cũng tặng cho, lâu dần cái tráp đồng này trở thành chấp niệm trong lòng Lý Định Viễn, cậu cũng không biết mình thực sự thích cái tráp đồng này hay chỉ vì giận dỗi mà muốn có cho bằng được.

"Được".

"Nếu ông nội không muốn cho thì thôi... Sao cơ? Ông đồng ý rồi?". Lý Định Viễn mở to mắt ngạc nhiên.

"Không Hầu, đi lấy cái tráp đồng lại đây cho Viễn Nhi". Khó mà bắt gặp biểu cảm kinh ngạc thế này của cậu bé nên Lý Thiện Trường rất vui. Ông giơ tay một cái là lập tức có người vào thư phòng mang cái tráp đồng ra, đặt vào tay Lý Thiện Trường.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Đồng Hồ Bản Sao

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Lý Định Viễn nhìn chằm chằm vào chiếc tráp đồng mà mình đã mong muốn từ lâu, không rời mắt được. Cái tráp đồng này không giống tráp đồng bình thường, mặc dù chỉ to bằng lòng bàn tay nhưng nhìn trên bề mặt hoa văn khắc tinh xảo vẫn còn một lớp gỉ đồng dày là biết vật này có niên đại không hề nhỏ. Nắp của tráp đồng được làm bằng ngọc lưu ly, dưới nắp lưu ly màu xanh lục nửa trong suốt kia có thể nhìn thấy lờ mờ bên trong tráp đồng đặt cố định một miếng ngọc Như Ý màu trắng. Điều khiến Lý Định Viễn mê mẩn chính là cái tráp đồng này không thể mở ra được! Cái nắp ngọc lưu ly được gắn khít hoàn toàn, nếu muốn cầm miếng ngọc Như Ý trên tay để chơi đùa chỉ có cách đập tan cái nắp ngọc lưu ly đáng giá kia đi mà thôi.

Cho dù Lý Định Viễn có là người coi tiền bạc như bùn đất đi chăng nữa thì cũng biết tuyệt đối không thể làm cái việc hủy hoại bảo vật như thế được. Cậu vẫn không hiểu tại sao lại có người đặt miếng ngọc Như Ý vào trong tráp đồng rồi gắn lại, lẽ nào có cách khác mở cái tráp đồng này sao? Nhưng các chỗ khác cũng đều gắn kỹ không có kẽ hở, mỗi lần Lý Định Viễn lấy chơi đều phải trả lại mà không tìm được cách nào thành công, càng khiến cậu tò mò muốn mở bằng được cái tráp này.

Nhưng khi ông nội đích thân đặt cái tráp đồng vào trong lòng cậu, Lý Định Viễn lại chẳng hề vui sướng phát cuồng như cậu tưởng tượng, mà ánh mắt lại chuyển từ cái tráp đồng sang nhìn ông nội, cậu hỏi ông với vẻ nghiêm túc chưa từng thấy: "Ông nội, đã xảy ra chuyện gì thế?".

Nét mặt hiền từ của Lý Thiện Trường hơi sững lại, sau đó cười nói: "Không sao, chỉ là gần đây ta khá bận, Viễn Nhi tới biệt thự Thang Sơn chơi vài ngày được không? Cái tráp đồng này cứ tạm thời để ở chỗ cháu mấy hôm, đợi cháu về rồi ta sẽ lấy lại nó".

Lý Định Viễn phùng hai cái má béo múp lên, ôm chặt cái tráp đồng với vẻ mặt không cam tâm. Cậu biết ông nội không nói thật với mình, cũng biết mặc dù ông yêu chiều mình nhưng tuyệt đối không cho phép cậu phản bác lại chuyện ông đã quyết định.

Lý Thiện Trường lưu luyến vỗ đầu cậu bé, điềm tĩnh quay sang dặn dò người bên cạnh: "Luật Địch, ta giao Viễn Nhi cho ngươi đấy". Chàng thanh niên gầy gò bên cạnh lập tức quỳ xuống dưới đất.

Lý Định Viễn thấy chàng thanh niên đáp lời xong liền đứng dậy bế cậu lên, khiến cậu bất ngờ quay lại nhìn. Đại nha hoàn Tì Bà không đi cùng cậu sao? Chỉ có Luật Địch đi cùng? Mặc dù cậu biết ở bên cạnh ông nội Luật Địch có địa vị rất cao, nhưng toàn bộ chuyện này có điều gì đó kỳ quái khó nói nên lời.

Tì Bà đã đưa bọc đồ thu dọn sẵn cho Luật Địch, sau đó chân tay nhanh nhẹn cởi bỏ bộ đồ lụa là gấm vóc trên người cậu như là áo lót vạt đối xứng hoa văn hoa cỏ, thay bằng áo vải nâu xám như đứa trẻ bình thường. Còn tháo hết các loại trang sức quý báu cậu đeo trên người, chỉ để lại miếng ngọc bội Tí Thìn màu trắng không bắt mắt đeo ở bên hông.

(Ngọc bội Tí Thìn là loại ngọc bội trang sức ngụ ý may mắn cát tường điêu khắc hình con chuột (Tí) và con rồng (Thìn) đan xenlẫn nhau)

Lý Định Viễn trợn mắt há miệng, đến lúc phản ứng lại cậu định mắng Tì Bà thì đã bị Luật Địch ôm vào lòng, nhanh chóng rời khỏi theo lối hậu viện. Tì Bà cũng cung kính hành lễ với Lý Thiện Trường sau đó cầm quần áo của Lý Định Viễn rời đi.

Lý Thiện Trường nhắm nghiền mắt lại, thở một hơi dài: "Động Tiêu, ngươi nói xem nếu lão phu chết sớm hơn liệu có thể đảm bảo an toàn cho cả nhà không?".

"Quốc công gia....". Một người đàn ông trung niên bước ra từ sau bình phong, bi thảm quỳ gục xuống dưới đất.

"Quả nhiên con người luôn tham lam, ai chẳng muốn sống yên ổn chứ?". Lý Thiện Trường thở dài: "Lúc Viễn Nhi ra đời, ta cũng muốn sống thêm vài năm, đợi nhìn nó trưởng thành. Nhưng hết năm này tới năm khác, càng nhìn nó ta càng không nỡ ra đi. Haizz, lão phu chẳng sợ chết nhưng lão phu chết bây giờ hoàng thượng cũng sẽ cho rằng lão phu tự sát vì sợ tội. Gia đình Kỳ Nhi có thể được giữ mạng, nhưng Viễn Nhi... lão phu thực sự không nỡ....".

"Quốc công gia, người còn có đan thư thiết khế được ban tặng, có thể miễn chết hai lần cho người, miễn chết một lần cho con cái....". Động Tiêu không cam tâm nhắc nhở.

"Đan thư thiết khế? Là người nào đã ban cho lão phu? Nếu người ấy đã có thể ban tặng đương nhiên cũng có thể thu hồi". Lý Thiện Trường chẳng cảm thấy may mắn chút nào, ông đã quá hiểu ông bạn già ngồi trên ngai vàng kia, giống như người kia cũng thấu hiểu mình như vậy thôi.

Động Tiêu đang định khuyên thêm một hai câu thì nghe thấy có tiếng hỗn loạn ngoài tiền viện, lờ mờ vang lên tiếng bước chân đều tăm tắp.

"Không ngờ còn điều động cả ngự lâm quân, thật là đánh giá cao lão phu quá". Lý Thiện Trường cười khinh miệt, điềm nhiên chỉnh sửa lại mũ áo. Còn Động Tiêu cũng đứng thẳng người ngay sau lưng ông, thần sắc hoảng hốt ban nãy đã mất đi thay vào đó là vẻ mặt lạnh lùng không chút biểu cảm.

2

Lý Định Viễn được Luật Địch ôm trong lòng, vừa rời khỏi Tuyên Quốc công phủ theo lối cửa ngách, đã nhìn thấy từng đội ngự lâm quân rảo bước tiến vào. Từng đám giáp trụ và giáo sắt hừng hực tỏa ra sát khí khiến Lý Định Viễn rùng mình, nỗi sợ hãi từ trong lòng dâng lên khó mà kiềm chế được.

Bởi vì cậu phát hiện ra hướng đám ngự lâm quân này đi chính là tiến vào Tuyên Quốc công phủ.

"Đừng nhìn". Luật Địch ấn cái đầu nhỏ của Lý Định Viễn, hạ giọng nhắc nhở.

"Không nhìn càng khiến người khác nghi ngờ". Lý Định Viễn thẳng thắn phản bác lại. Cậu đã vô cùng quen thuộc đám thị vệ nha hoàn bên cạnh ông nội, đương nhiên sẽ không khách khí với chúng.

Luật Địch sững sờ, trận thế lớn thế này mặc dù dân chúng đi qua đều cúi đầu câm như hến, nhưng ai cũng tò mò len lén nhìn. Dù sao nơi xảy ra chuyện cũng là Quốc công phủ, đó là một nơi dường như không thể nào sụp đổ được.

Ngay giây sau Lý Định Viễn sợ hãi suýt chút nữa kêu lên thành tiếng, bởi vì cậu nhìn thấy Tì Bà lén la lén lút chạy ra từ cửa ngách, trong lòng ôm một đứa bé chừng bảy tám tuổi. Quần áo trên người nó rõ ràng là vừa được cởi ra từ người cậu, thoạt nhìn giống hệt cậu. Tì Bà hoảng sợ nhìn đám ngự lâm quân cách đó không xa, sau đó lập tức ôm đứa bé chạy về hướng ngược lại, còn đám ngự lâm quân cũng phát hiện ra Tì Bà, nên nhanh chóng phái một tiểu đội đuổi theo.

Lúc này cho dù Lý Định Viễn có ngu ngốc đến mấy cũng hiểu ra được rằng ông nội đã xảy ra chuyện, nếu không làm sao có thể để Tì Bà làm chuyện "lấy mắt cá giả hạt ngọc" thế này được?

"Ta phải quay về". Lý Định Viễn nghiến răng giãy giụa. Nhưng Luật Địch ôm chặt lấy cậu, cố gắng nhanh chóng rời khỏi khu này mà không bị ai phát hiện, len lỏi trong từng con phố to ngõ nhỏ của Ứng Thiên phủ.

"Thập tam thiếu gia, đây là ý của Quốc công gia". Luật Địch vừa đi vừa hạ giọng khuyên bảo: "Lần này e rằng Quốc công gia lành ít dữ nhiều".

Ngón tay Lý Định Viễn bấu chặt vào cái tráp đồng, lực mạnh đến nỗi sắp bật cả móng tay cậu ra. Cậu hy vọng mọi chuyện chỉ là do ông nội nghĩ nhiều, nhưng đám ngự lâm quân dáng điệu vội vã trên phố và đám cẩm y vệ mặc áo Phi Ngư, eo giắt Tú Xuân đao, đều khiến sắc mặt Lý Định Viễn càng lúc càng trắng bệch. Ở Ứng Thiên phủ này đám cẩm y vệ chính là ma quỷ khiến trẻ em ngừng khóc trong đêm. Mặc dù ba năm trước đã xóa bỏ cẩm y vệ, nhưng trên thực tế đó chỉ là văn bản bề ngoài mà hoàng đế dùng để xoa dịu đám đại thần mà thôi. Ngoài triều, đám cẩm y vệ vẫn mặc cẩm y dạ hành, ngấm ngầm thu thập các loại tin tình báo.

Lý Định Viễn nghiến răng dùng hết sức lực bản thân mới miễn cưỡng lên tiếng: "Ngươi cũng đừng gọi ta là thập tam thiếu gia nữa, cứ gọi thẳng là...Tiết Nhi đi". Lý Tiết vốn là tên phụ thân đặt cho cậu dựa theo quy tắc bộ thảo đầu. Nhưng sau đó ông nội lên tiếng, dùng cái tên Lý Định Viễn đưa vào gia phả, vì vậy không ai biết cái tên này.

Luật Địch gật đầu, trong lòng thầm khen ngợi không hổ danh là thập tam thiếu gia mà Quốc công gia yêu chiều nhất, cổ thể nhanh chóng điều chỉnh tâm trạng, còn chỉ ra được điểm sơ hở. Luật Địch rẽ trái rẽ phải trong ngõ rồi không biết kiếm đâu ra một cỗ xe ngựa, đặt Lý Định Viễn vào trong. Không nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài, tuổi nhỏ như Lý Định Viễn càng hoảng hốt hơn, nhưng cậu vẫn kiềm chế không làm ồn. Luật Địch vòng vo trong thành như vậy đến tối mịt mới tới một căn nhà rách nát.

Nghe Luật Địch nói đây là căn nhà dân do ông nội cậu mua từ lâu, nhiều năm rồi không sửa chữa gì, cũng vì sợ người ta nghi ngờ. Sau khi Lý Định Viễn ăn qua loa chút thức ăn, Luật Địch nói ra ngoài nghe ngóng tin tức của Quốc công phủ, Lý Định Viễn cũng rất lo lắng nên nổi cậu ở một mình cũng không sao và để Luật Địch đi. Mặc dù Luật Địch không yên tâm nhưng cũng biết nếu tùy ý tìm một người tới chăm lo thập tam thiếu gia thì sẽ có nguy cơ bại lộ. Anh ta cũng biết bây giờ ở bên cạnh Lý Định Viễn là trách nhiệm của mình, nhưng lòng trung thành với quốc công gia bao năm qua khiến anh ta đứng ngồi không yên.

Cuối cùng Luật Địch vẫn đi, còn Lý Định Viễn ôm cái tráp đồng ngồi co ro run rẩy trong căn nhà rách nát tối om.

Cậu không dám châm đèn, vì nếu lúc này căn nhà rách nát bao năm không có người ở bỗng nhiên có bóng người, chắc chắn khiến đám cẩm y vệ sục sạo khắp nơi kia cảm thấy lạ lùng.

Cậu cứ lặng lẽ ngồi trong bóng đêm, nhớ tới ông nội nhớ tới bố mẹ, nhớ tới thúc bá, nhớ tới huynh đệ tỉ muội, nhớ tới những tháng ngày hạnh phúc trước đây, con tim dần dần trở nên lạnh lẽo.

Nhìn mặt trời mọc lên rồi lặn xuống mấy lần như vậy, Lý Định Viễn biết rằng Luật Địch mãi mãi không quay trở về nữa rồi.

"Đừng....đừng bỏ ta lại một mình". Cậu lẩm bẩm, cuối cùng trước mặt tối sầm, cậu chìm vào hôn mê.

Chiếc tráp đồng rơi xuống dưới giường, cái nắp lưu ly đáng giá liên thành va phải nền đá xanh, tiếng vỡ giòn tan vang lên thành nghìn mảnh. Bạch ngọc Như Ý trong tráp lăn ra, tỏa ra thứ ánh sáng trắng dịu dàng dưới ánh trăng.

"Lý Thiện Trường bị định tội tòng phạm với Hồ đảng, thân là nguyên huân quốc thích, biết mưu phản nhưng không báo, nghi ngờ quan sát, trong lòng mưu đồ hai mặt, đại nghịch bất đạo, liên lụy tới vợ, con, em, cháu tổng hơn bảy mươi người phải chết. Hoàng đế tự tay thảo chiếu thư luận tội, truyền lời như vậy, nay bố cáo thiên hạ "Chiêu thị gian đảng tam lục"..."

(Hồ đảng tức là bè phái của thừa tướng đương triều Hồ Duy Dung. Tháng Giêng năm Hồng Vũ thứ mười ba (1380) Hồ Duy Dung bị tố cáo mưu phản, Minh Thành Tổ lập tức giết cả nhà Hồ Duy Dung, truy cứu và giết hại đến hơn một vạn người. Mười năm sau có người tố cáo Lý Thiện Trường có quan hệ trong vụ mưu phản của Hồ Duy Dung, lúc đó dù đã 77 tuổi, đã nhiều năm cáo lão về quê cũng không thoát, cả nhà hơn 70 mạng người đều bị giết)

Giọng nữ trong veo vang lên trong căn nhà rách nát, một nữ đồng chừng mười tuổi tóc búi kiểu sừng dê, đang nghiêng đầu đọc từng chữ trên bản bố cáo trong tay. Trên chiếc giường bên cạnh cô bé là một nam đồng mặt mũi tiều tụy đang đắp chiếc chăn cũ nát, ngồi dựa lưng vào tường, đôi môi khô nứt đã mím chặt thành một đường thẳng.

Chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi Lý Định Viễn đã gầy rộc đi, đôi má phính đã hóp lại, cằm cũng nhọn hơn, hoàn toàn biến thành bộ dạng khác, cho dù là người thân cũng khó mà lập tức nhận ra được đây là thập tam thiếu gia được Quốc công gia yêu chiều nhất.

Nghe nói hôm đó ông nội của cậu bị hoàng đế ban cho tấm lụa trắng tự thắt cổ, người thân của cậu bị bắt từ tận Giang Tây Cửu Giang về, ba hôm trước đã bị chém đầu thị chúng, cậu gắng gượng đi xem toàn bộ quá trình, nhìn những người thân của mình lần lượt rơi đầu xuống đất, máu chảy thành sông. Hơn bảy mươi người? Đâu chỉ hơn bảy mươi người? Các đại thần và hầu tước có liên quan tới gia đình cậu đều bị liên lụy, nghe nói hoàng thượng mượn cớ này nhổ cỏ tận gốc, các công thần và người thân bị giết tổng cộng hơn ba vạn người. Ứng Thiên phủ giống như được bao bọc bởi làn sương mù âm u màu máu, cả kinh thành tản mát mùi máu tanh khiến người ta khó thở, hồi lâu cũng không tan đi được.

"Tiết Nhi, cậu có phải lại đói rồi không? Chỗ ta có bánh bao đó". Nữ đồng đặt bản bố cáo xuống, tiện tay xoa xoa cái bụng nhỏ của Lý Định Viễn.

"Như Ý, ta không đói". Lý Định Viễn gượng cười với nữ đồng, trong ánh mắt lạnh lẽo lóe lên một tia ấm áp. Vì đợi Luật Địch nên cậu đã hôn mê mấy ngày liền trong căn nhà này, lúc tỉnh dậy thì gặp Như Ý. Cô bé xinh xắn đáng yêu và trắng như ngọc, nhưng trên người lại mặc bộ đồ nam nhi bình thường, tuy vậy cử chỉ ăn nói đều toát lên phong thái. Lý Định Viễn cho rằng Như Ý cũng giống như mình, đều là hậu duệ nhà quan nào đó bị liên lụy mà bỏ trốn, nếu không một nữ đồng mười tuổi con nhà dân thường làm sao có thể biết chữ? Hơn nữa cậu hỏi cô họ gì nhưng cô không trả lời, có lẽ họ của cô không phổ thông như họ Lý của cậu.

Cậu ốm mấy ngày qua may mà có Như Ý ân cần chăm sóc, cứ nghĩ tới gia đình cô bé vì gia đình mình mà tan cửa nát nhà, Lý Định Viễn càng nghĩ càng cảm thấy áy náy. Nhưng nỗi áy náy ấy rất nhanh chóng biến thành thù hận.

Đúng thế, ông của cậu không làm sai bất cứ chuyện gì! Người sai chính là người ngồi trên ghế rồng kia.

"Tiết Nhi, có phải cậu không vui vì cái tráp đồng bị vỡ không?". Như Ý đưa chiếc tráp đồng tới trước mặt Lý Định Viễn, e dè hỏi.

"Không phải". Lý Định Viễn đưa mắt nhìn cái tráp đồng mình mang từ nhà đi, nhưng chẳng còn chút yêu thích như trước đây nữa. Cái nắp lưu ly đã bị vỡ, bạch ngọc Như Ý bên trong không biết đã đi đâu, cũng không rõ đã lăn vào chốn nào, hay là lúc họ không ở nhà đã có người vào lấy cắp. Cậu nhớ mang máng lúc mình bệnh nặng cái tráp bị cậu đánh rơi xuống đất, nhưng những chuyện này đã không còn quan trọng nữa. "Như Ý, đọc lại bố cáo cho ta nghe".

Như Ý gật đầu, lén lút cất cái tráp đồng vào một góc khuất, khuôn mặt để lộ nụ cười đắc ý.

Lý Định Viễn không chú ý tới động tác nhỏ của Như Ý bởi vì giọng nói trong vắt của đối phương lại vang lên.

"Lý Thiện Trường bị định tội tòng phạm với Hồ đảng, thân là nguyên huân quốc thích, biết mưu phản nhưng không báo, nghi ngờ quan sát, trong lòng mưu đồ hai mặt, đại nghịch bất đạo..."

Lý Định Viễn nắm chặt tay, đôi mắt đỏ ngầu.

Đại nghịch bất đạo... đại nghịch bất đạo... không ngờ lại nói ông của cậu đại nghịch bất đạo! Vậy cậu sẽ đại nghịch bất đạo cho ông ta xem!

3

Năm 1398.

Lý Định Viễn chắc chắn mình đã cắt đuôi được đám cẩm y vệ phía sau, lại cố tình đi lòng vòng vài vòng nữa, lúc này mới trèo tường vào một căn nhà vắng lặng.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Ngay hôm nay giảm giá 90% chiếc đồng hồ rolex bản sao này

Top mẫu đồng hồ bản sao cao cấp Rolex - Đang giảm giá đến 90%

Đây sớm đã không còn là căn nhà rách nát mà Luật Địch sắp đặt cho chàng hồi đầu nữa, tám năm trước khi mới bắt đầu chàng và Như Ý sống rất vất vả, hai đứa trẻ trên người không có tiền, ngay cả đồ ăn thức uống quần áo cũng không có. Miếng ngọc bội Tí Thìn trên người chàng đem đi đổi cũng chỉ được một chút ngân lượng rồi nhanh chóng tiêu hết. Sau đó may mà Như Ý đào được một cái hòm ở sân sau của căn nhà nát, bên trong chứa đầy ngân phiếu và vàng lá, nhờ vậy tình hình mới khá hơn. Tám năm qua, cả hai người cải trang làm những đứa trẻ tới Ứng Thiên phủ cậy nhờ người thân nhưng không có kết quả, chuyển đi chuyển lại mấy nơi. Mặc dù biết rõ kinh thành đã trở thành nơi chết chóc nhưng Lý Định Viễn không hề có ý định rời xa nơi này.

Tám năm trước, chàng đã biết người thân của mình không không phải toàn bộ đều bị giáng tội chết, nhị bá và hai vị đường huynh của mình do là người thân của Lâm An công chúa nên được hoàng đế mở cho con đường sống, nhưng bọn họ không được ở lại trong kinh thành, chỉ có thể sống ở Giang Phố ngoại ô Ứng Thiên phủ, không lâu sau bị ép di cư tới huyện Nam Xương, Giang Tây. Lâm An công chúa cũng đi theo, nhưng Lý Định Viễn biết nhị bá và công chúa chắc chắn đồng sàng dị mộng, cả gia đình nhỏ cũng bằng mặt nhưng không bằng lòng. Chuyện giận cá chém thớt cho dù biết là không khôn ngoan nhưng về chuyện tình cảm khó mà nhẫn nhịn được.

Chàng không dám đi nhận gia đình nhị bá, bởi chàng biết bên ấy chắc chắn có cẩm y vệ theo sát, dù cho tướng mạo của chàng bây giờ đã khác hoàn toàn với vẻ mũm mĩm xưa kia. Đứa trẻ cũng đã biến thành thiếu niên, nhưng chỉ cần gia đình nhị bá có thái độ khác lạ với chàng thì kết cục sẽ dẫn tới họa sát thân mà thôi.

Huống hồ, chàng còn phải ở lại Ứng Thiên phủ, báo thù cho gia đình mình!

Nhớ tới hành động ám sát đêm nay không thành, Lý Định Viễn lại nổi sát khí phừng phừng. Không nóng vội, lần này đã tiến bộ hơn lần trước rồi, lần sau sẽ cố gắng hơn. Chàng ôm vết thương ở eo, dưới ánh trăng sáng nhanh nhẹn đi tới dưới bóng cây, chỉ nghe thấy một tiếng ""kẽo kẹt" vang lên, cửa sổ sáng ánh đèn được mở ra, giọng nữ giới lạnh lùng cất lên: "Vào đi".

Lý Định Viễn rụt cổ, chắc là Như Ý giận rồi, bây giờ mà còn làu bàu cái gì mà nam nữ thụ thụ bất thân thì e rằng Như Ý sẽ nổi giận lôi đình ngay lập tức... Sát khí trên người chàng thiếu niên bay biến hết, chàng cúi đầu khom lưng không chút chí khí đẩy cửa đi vào phòng.

Đây là một khuê phòng vô cùng đơn giản, trong phòng không có nhiều đồ đạc bày biện gì cả, điểm sáng duy nhất chính là thiếu nữ đang một tay chống cằm ngồi trước bàn. Dung nhan nàng đẹp như tranh, ngũ quan thanh tú, mặc dù cài trâm gỗ mặc váy vải thô nhưng chẳng thể che giấu nổi sắc đẹp của nàng, đặc biệt là làn da trắng mịn màng như ngọc, dưới ánh đèn dầu hoàng hôn càng khiến chàng hoa mắt.

Cho đến khi thiếu nữ trợn trừng đôi mắt xinh đẹp như muốn đâm xuyên chàng một nhát, Lý Định Viễn mới phát hiện ra mình lại ngây người nhìn Như Ý rồi, chàng lập tức cúi đầu che giấu, đúng lúc nhìn thấy đôi chân thiếu nữ lộ ra dưới gầm bàn.

Đó là đôi chân trời ban, thiếu nữ mấy năm qua cùng chàng bôn ba khắp đông tây, nên không bó chân. Nhưng đây cũng là điểm khiến Lý Định Viễn hài lòng nhất, vì Như Ý không bó chân nên cho dù nàng rất xinh đẹp cũng rất ít người tới cầu thân. Nếu có người cứ bám mãi không dứt thì chiêu cuối cùng chính là chuyển nhà. Đương nhiên chàng tuyệt đối không chê gì Như Ý cả, thỉnh thoảng cũng vô ý nhìn thấy đôi chân trời ban của nàng, đôi chân ngọc ngà hoàn mỹ ấy thực sự đẹp tới mức khiến người ta rung động tâm hồn.

Lý Định Viễn cũng không biết mình xuất phát từ tâm lý gì, bắt đầu từ tám năm trước, từ giây phút giới thiệu Như Ý với người ngoài, chàng không hề muốn đóng giả làm huynh muội chút nào.

Bọn họ cũng đâu phải huynh muội chứ.

Chàng đã nhìn chân trần của nàng, thì chàng phải chịu trách nhiệm chứ nhỉ? Đợi mối thù của chàng báo xong, chàng nhất định sẽ trịnh trọng tới hỏi cưới!

Như Ý nheo mắt nhìn khuôn mặt Lý Định Viễn đang từ từ đỏ ửng trước mặt nàng, bỗng dưng cảm thấy cái tên tiểu tử này chẳng hề hối lỗi gì cả. Nàng đứng dậy trực tiếp lột áo dạ hành trên người chàng ra, xé toạc băng vải trước ánh mắt kinh ngạc của chàng, đến khi nhìn thấy vết thương nghiêm trọng, nàng bất chợt sững sờ.

"Ta đã tự xức thuốc xử lý rồi". Lý Định Viễn biết Như Ý lo lắng cho mình nên khẽ giọng giải thích. Nếu vẫn còn chảy máu thì e rằng không thể tránh được đám cẩm y vệ.

Như Ý chậm rãi cài áo lại cho chàng, cúi đầu nói: "Tại sao cứ như vậy? Ông ta đã bảy mươi tuổi rồi, không sống được bao lâu nữa. Huynh còn trẻ, ông ta không thể sống hơn huynh được".

Đôi mắt Lý Định Viễn trở lên sắc lạnh, chàng nắm chặt tay: "Điều đó không giống nhau".

"Báo thù... quan trọng như vậy sao?". Như Ý ngẩng đầu lên, trên khuôn mặt xinh đẹp như hoa của nàng là thần sắc mơ hồ bất định.

"Rất quan trọng".

"Rất quan trọng". Lý Định Viễn nói từng tiếng một. Mỗi một tiếng nói ra đều chậm rãi và nặng nề, giống như đang thuyết phục Như Ý, cũng giống như đang thuyết phục chính bản thân mình. "Ta không thể nào tham gia thi cử bởi vì tất cả sĩ tử tham dự đều phải điều tra hộ tịch tổ tông ba đời, thậm chí ngay cả tư cách tham gia thi ta cũng không có, muốn vào cung làm thị vệ cũng không được. Tòng quân cũng là một cách nhưng ta vào quân đội để có được chút danh vọng cũng cần rất nhiều năm. Ta vốn định quan sát thế cục của Ứng Thiên phủ một thời gian, giúp những đại thần có ý đồ khác, nhưng ba năm trước ngay cả vị khai quốc cuối cùng là Lục công tước Phùng Thắng cũng bị giết rồi, triều đình trên dưới đều nhu nhược hết đỗi, ta thấy bọn họ ngay cả đánh một cái rắm trong buổi lên triều có lẽ cũng không dám".

Như Ý chau mày, cũng không biết có phải vì cách so sánh thô thiển của Lý Định Viễn hay bởi vì bao năm qua chàng không hề thay đổi quyết tâm.

Đôi mày thanh tú của thiếu nữ khẽ chau lại dưới ánh đèn, cả khuôn mặt là thần sắc bất an bao trùm càng khiến trái tim Lý Định Viễn mềm nhũn. Chàng và Như Ý cùng nhau lớn lên, mặc dù không biết thân phận thật của nàng nhưng chàng cũng có thể đoán ra thân thế của nàng nhất định rất hiển hách. Năm mười một tuổi, chàng phát hiện ra con đường học hành thi cử không khả thi chút nào, vì vậy đã đi khắp nơi tìm cao nhân bái sư học võ. Sau khi Như Ý biết được nguyện vọng của chàng, nàng đã đưa cho chàng một bộ bí kíp võ công và giải đáp từng chút một vào những lúc chàng thấy bế tắc, sau đó còn tìm cho chàng thanh kiếm Thanh Minh vô cùng sắc bén. Các tướng lĩnh theo Chu Nguyên Chương chinh phạt Nam Bắc cũng không thiếu các võ lâm cao thủ, Lý Định Viễn thấy Như Ý không muốn nói, chàng cũng không hỏi kỹ về thân thế của nàng.

"Nguyện vọng của huynh vẫn là báo thù sao? Cụ thể tới mức độ nào? Người đó bị huynh đích thân ra tay giết chết? Hay là... Đại Minh hoàn toàn sụp đổ?" Như Ý khẽ mấp máy đôi môi đỏ, ngữ khí thản nhiên, nhưng những lời nói ra đủ khiến nàng phải chịu cực hình.

Mặc dù Lý Định Viễn biết xung quanh phòng không còn ai khác nhưng vẫn căng thẳng tới mức khiến chàng rùng mình. Chàng tưởng tượng một lúc rồi lẩm bẩm: "Tự tay giết ông ta còn quá nhẹ cho ông ta, ông ta đã giết cả nhà ta, ta càng muốn con cháu đời sau của ông ấy tự tàn sát lẫn nhau.... Điên đảo vương triều này, ta biết lượng sức mình chắc chắn không thể làm được, nhưng nếu có thể khiến sự thống trị của ông ta xuất hiện những tên loạn tử khó xơi... ha ha, quả là hoang tưởng".

"Mặc dù nói là hoang tưởng nhưng trên thực tế trong lòng huynh rất muốn phải không?" Như Ý bực mình cười nhạo chàng.

Lý Định Viễn trịnh trọng gật đầu, điều này quả thực là nguyện vọng của chàng.

Ông nội chàng, phụ mẫu song thân, thúc bá huynh đệ tỉ muội... tất cả đều chết oan chỉ trong một đêm, tám năm qua hầu như chàng chưa từng được ngủ một giấc yên ổn, mỗi lần nhắm mắt lại là dường như nhìn thấy những oan hồn người thân đang la hét với chàng, mỗi lần đều tỉnh dậy trong cơn ác mộng giữa vũng máu. Chàng vẫn còn sống, nhưng lại chịu giày vò trong đau khổ, thù hận giống như độc trùng đang gặm nhấm xương cốt chàng, bất cứ lúc nào cũng gặm nhấm linh hồn chàng, mãi mãi chẳng thể nào an bình được.

Trong tám năm qua chàng đã từng nghĩ vô số lần, nếu như ông nội không để Luật Địch đưa chàng đi vào giây phút cuối, để chàng cùng chết với gia đình, không chừng sẽ hạnh phúc hơn một chút.

Nhưng chàng không thể chết đi một cách yếu đuối như thế được, ông nội bảo vệ để chàng trốn thoát, mặc dù không muốn chàng làm gì, chỉ đơn giản là tiếp tục sống mà thôi, nhưng chàng không thể giả vờ bình yên như chưa từng có chuyện gì xảy ra cả.

Cho dù những ngày tháng sau này phải chìm đắm trong vũng bùn hận thù không thể nào rút ra được, chàng cũng phải nghiến răng mà tiếp tục kiên trì.

Nghĩ tới đây Lý Định Viễn thấy lạnh sống lưng giống như rơi xuống hố băng, ban nãy chàng còn nghĩ đợi mình báo thù xong rồi sẽ hỏi cưới Như Ý. Nhưng thù hận ấy có thể dễ dàng báo được sao? Như Ý của chàng có thể đợi được mấy năm? Làm sao chàng nỡ, làm sao chàng nhẫn tâm kéo nàng xuống vũng bùn nhơ nhớp này chứ....

Trái tim Lý Định Viễn giống như có một lưỡi cưa sắc, cứ cưa đi cưa lại, đau đớn thấu tâm can.

Tại sao tối nay Như Ý lại hỏi chàng rõ ràng như vậy, có phải nàng đã chán ghét cuộc sống thế này rồi không? Có phải nàng đã suy nghĩ tới việc buông bỏ chàng, để đi tìm cuộc sống mới cho riêng mình?

Lý Định Viễn trong lòng trăm mối tơ vò, ngẩng đầu lên đúng lúc bắt gặp Như Ý đang nhìn chàng chằm chằm.

Khóe môi thiếu nữ nở nụ cười lưu luyến, tay đưa lên nhẹ nhàng vuốt má chàng, cười nhạt: "Nguyện vọng của chàng sẽ thực hiện được..."

Lý Định Viễn cúi mặt cụp mi, che đi ánh mắt không nỡ của chàng.

Nàng nói câu này chắc là hoàn toàn tuyệt vọng với chàng rồi...

4

Lý Định Viễn trở về phòng mình như người mất hồn chàng không ngủ mà ngồi trong bóng đêm, nhìn ánh đèn phát ra từ căn phòng chếch đối diện của Như Ý, cứ ngây người ngồi đó.

Nàng cũng không ngủ...

Lý Định Viễn không dám nghĩ nhiều, sợ rằng bản thân mình không chịu nổi cảm giác giày vò này mà làm ra những chuyện khiến bản thân mình hối hận cả đời. Bất kể Như Ý quyết định thế nào chàng cũng phải chấp nhận mới đúng.

Chân trời đã nổi lên những vệt trắng như bụng cá, cho đến khi cảm giác tê mỏi từ hai chân truyền tới Lý Định Viễn mới phát hiện ra mình đã ngồi không suốt một đêm, chàng đứng dậy vận động cơ thể đã cứng đơ, vừa thay được bộ dạ hành trên người thành quần áo bình thường, chuẩn bị ra ngoài lấy nước vệ sinh rồi làm bữa sáng thì thấy Như Ý đẩy cửa bước ra, sau đó rời khỏi nhà bằng cửa sau.

Phản ứng đầu tiên của chàng là lo lắng cho sự an toàn cho Như Ý, mặc dù trời đã lờ mờ sáng nhưng trên phố vẫn vắng người qua lại, nơi họ sống cũng là nơi tốt xấu lẫn lộn, nên chàng không do dự gì mà đi theo nàng ngay.

Có thể hồi nhỏ Như Ý thường xuyên mắt thấy tai nghe vì vậy biết các huyệt vị, có hiểu biết về võ công, nhưng chưa từng đích thân rèn luyện, do vậy Lý Định Viễn bám theo rất dễ dàng.

Từ xa nhìn theo bóng hình yểu điệu của Như Ý lúc ẩn lúc hiện trong làn sương sớm, Lý Định Viễn không tránh khỏi hồ nghi trong lòng.

Sáng sớm mỗi ngày Như Ý đều nhân lúc chàng chưa tỉnh mà ra ngoài sao? Kéo dài bao lâu rồi? Đi làm gì? Hay là... đi gặp ai?

Sự nghi ngờ của Lý Định Viễn chưa kéo dài bao lâu đã có đáp án, sắc mặt chàng trắng bệch khi nhìn thấy Như Ý đi về phía một nam nhân trong góc phố.

Chàng đứng cách khá xa, nghe không rõ Như Ý nói gì Với gã nam nhân kia, nhưng có thể nhìn thấy gã ấy mặc áo Phi Ngư, eo dắt Tú Xuân đao.

Không ngờ là cẩm y vệ!

Lý Định Viễn tưởng rằng mình đang nằm mơ, nên dùng sức cấu mạnh vào đùi mình, chàng tuyệt vọng phát hiện ra mọi thứ đều là thật.

Cẩm y vệ... ngay cả tư cách đứng ra tranh giành hay chất vấn, thậm chí kiểm tra đối phương cũng không có tư cách.

Lý Định Viễn vẫn ôm hy vọng, có lẽ tên cẩm y vệ đó sẽ làm điều bất lợi với Như Ý, nhưng thấy hai người giao tiếp rất thân thuộc, chàng biết chắc chắn họ không phải lần đầu gặp nhau.

Lý Định Viễn loạng choạng bước đi trong lòng đã chết lặng, chàng không hề chú ý tới vào lúc chàng quay người bước đi, tên cẩm y vệ đã nhìn thẳng về phía chàng, ánh mắt như đang suy nghĩ điều gì.

"Cô quyết định rồi chứ?". Gã cẩm y vệ thu ánh mắt lại, giọng điềm tĩnh hỏi.

Như Ý mỉm cười yếu ớt, xót xa nói: "Chẳng có cách nào khác... đó là nguyện vọng của huynh ấy..."

"Thật là một kẻ si tình..."

Lý Định Viễn đờ đẫn đứng trong sân, cũng không bước vào phòng, chàng muốn đợi Như Ý về để hỏi cho rõ ràng.

Nhưng chàng đứng từ sáng sớm cho tới hoàng hôn, cũng không nghe thấy tiếng mở cửa vang lên nữa. Tiếng huyên náo ồn ào từ chợ bên ngoài lại trở về yên tĩnh khi mặt trời lặn xuống, Lý Định Viễn bỗng nhiên có linh cảm.

Giống như tám năm trước chàng đợi Luật Địch, Như Ý mãi mãi chẳng quay về nữa.

Từng đợt gió đêm lạnh thấu xương thổi qua, cả ngày chẳng có lấy một giọt nước vào bụng khiến Lý Định Viễn dường như bị gió thổi lung lay nhưng cũng khiến chàng tỉnh táo vài phần.

Không đúng, chắc chắn Như Ý đã xảy ra chuyện rồi, nếu không không thể có chuyện nàng biến mất không một lời từ biệt với chàng thế này.

Lý Định Viễn hối hận sáng nay mình đã bỏ đi như vậy, nếu Như Ý xảy ra chuyện gì cả đời này chàng không thể nào tha thứ cho mình được.

Nhanh chóng vào trong phòng thay bộ đồ dạ hành, vừa cầm kiếm Thanh Minh lên chàng nghe thấy ngoài sân có động tĩnh. Chàng tưởng Như Ý về rồi nên lập tức phi thân ra, nhưng khi thấy người vừa tới chàng lập tức rút kiếm ra cố thủ.

Người vừa đến chính là gã cẩm y vệ chàng nhìn thấy sáng nay, dưới ánh trăng áo Phi Ngư càng hoa lệ và quý giá, nhưng lại toát ra vẻ lạnh lùng. Trước đó chưa từng nhìn rõ mặt gã, bây giờ Lý Định Viễn nhìn với thành kiến trong lòng, nhưng không thể không thừa nhận gã nam tử trẻ tuổi này có dung mạo thanh tú, chẳng hề giống với cẩm y vệ tâm địa tàn độc, ngược lại giống những gã công tử phong lưu hơn.

"Như Ý đâu?". Sau lưng gã không có ai, trái tim Lý Định Viễn chùng hẳn xuống. Nhưng chàng cảm thấy gã không phải đến bắt mình, nếu không sao lại tới một mình?

"Ta đến lấy cái tráp đồng". Gã không trả lời mà nói thẳng mục đích đến đây của mình.

"Tráp đồng?" Lý Định Viễn sững người, ngập ngừng một hồi mới nhớ ra cái tráp đồng gã nói là thứ gì, chính là cái tráp đồng năm xưa chàng mang đi từ Lý gia. Chàng đã không thích nó từ lâu, nhưng Như Ý lần nào chuyển nhà cũng mang theo, hơn nữa còn yêu quý nó lắm, nhưng rất ít khi để chàng bắt gặp.

"Ngươi cần thứ ấy để làm gì?". Lại một trận gió đêm thổi tới, tà áo Phi Ngư của đối phương bay lên phấp phới, Lý Định Viễn nhìn thấy vạt áo dài màu đen gã mặc bên trong áo Phi Ngư, lờ mờ còn nhìn thấy thân rồng màu đỏ tía, những tấm vảy rồng trên đó còn đang phát sáng...

Chắc chắn là do chàng hoa mắt, nếu không còn ai dám mặc long bào nữa? Cho dù là cẩm y vệ cũng không được.

Gã kia lạnh lùng cười nhạt, sau đó thở dài một câu: "Không ngờ ngươi lại không biết... không ngờ lại không biết...".

"Ta không biết cái gì?". Lý Định Viễn giật thót trong lòng, cố ý truy hỏi cho rõ.

"Vào thời Thủy Hoàng đế đời Tần, có chuyện kể rằng: Đông Nam có khí thiên tử, vì thế ghét du ngoạn phía Đông. Thủy Hoàng đế du ngoạn đến Kim Lăng, quan sát thấy nơi này có địa thế long mạch, rồng cuộn hổ ngồi, địa hình hiểm trở, vương khí rất thịnh, nên đã đào sông Tần Hoài để xả long khí, đây chính là nguồn gốc chữ "Tần" trong sông Tần Hoài của phủ Ứng Thiên".

Chuyện gì với chuyện gì thế này? Lý Định Viễn không hiểu gã nhắc tới chuyện này có dụng ý gì, nhưng từ nhỏ chàng được yêu chiều, ông nội cũng không hy vọng chàng xuất chúng hơn người vì vậy cũng không ép chàng đọc sách, luyện chữ. Sau khi tan cửa nát nhà, càng không có điều kiện học hành, cuộc sống của chàng đều bị lấp đầy bởi việc luyện võ báo thù. Người này lẩm bẩm vài câu đã khiến chàng có hứng thú, mặc dù cảm thấy chuyện này không liên quan gì tới Như Ý, nhưng cũng khó mà kiềm chế được việc dỏng tai lên nghe.

Gã cẩm y vệ trẻ tuổi liếc nhìn chàng một cái, tiếp tục điềm nhiên nói: "Thực ra năm đó Thủy Hoàng đế không chỉ đào sông Tần Hoài, mà còn gọt núi Thiên Ân, chôn một bảo vật dưới chân núi".

"Bảo vật?". Lý Định Viễn chau mày, trong tiềm thức bắt đầu cảm thấy bất an.

"Thời Tam quốc, Tôn Quyền đào đất ở Kim Lăng, vô tình đào được một cái tráp đồng, dài hai thước bảy, đậy bằng nắp lưu ly. Trong đó có một viên bạch ngọc Như Ý, cán cầm đều được khắc hình rồng, hổ và ve, không biết được nguồn gốc từ đâu. Sai người đi hỏi Hồ Tông, Hồ Tông nói: "Tần hoàng đế cho rằng Kim Lăng có khí thiên tử, san bằng núi đồi, chôn bảo vật này, để cắt đứt vương khí, nắp này là như vậy chăng?".

"Tráp đồng!" Lý Định Viễn sững sờ, lẽ nào cái tráp đồng của chàng có nguồn gốc như thế này? Kiếm cầm trong tay đã rơi xuống, đầu mũi kiếm cắm xuống đất, đỡ cho chàng vẫn đứng được ở đây.

Khóe môi gã cẩm y vệ trẻ tuổi nhếch lên cười khinh miệt: "Như Ý.... Ngươi biết vì sao là Như Ý không? Như Ý, tên Phạn là Aniruddha, thời Tần gọi là Như Ý. Thân có thể dài ba thước, nếu lưng có vết ngứa tay không với tới, thì dùng để gãi, đúng như ý người, cổ xưa gọi là "Như Ý". Nhưng thiên Như Ý do vương khí ngưng tụ thành có thể thực sự làm theo ý người, bao năm qua những ước nguyện ngươi nói với Như Ý, có điều nào không được như ý nguyện?".

Lý Định Viễn giống như bị người ta đánh vào đầu một gậy, loạng choạng lùi về sau mấy bước, suýt chút nữa đã ngã vật xuống đất.

Ký ức xa xưa dần hiện lên trong đầu chàng.

Tám năm trước trong căn nhà rách nát đó, một cậu bé trước khi chìm vào hôn mê đã nhìn thấy cảnh tượng cuối cùng đó là chiếc nắp lưu ly của cái tráp đồng rơi xuống đất vỡ tan. Cậu bé lẩm bẩm đừng bỏ rơi cậu một mình với miếng bạch ngọc Như Ý đang tỏa ra ánh sáng óng ánh kia... và khi cậu tỉnh lại thì nhìn thấy một bé gái.

Cảnh tượng thay đổi, vẫn trong căn nhà rách nát ấy cô gái thương xót xoa đầu chàng trai: "Tiết Nhi, cậu muốn gì?".

Cậu bé xoa cái bụng nhỏ đang sôi lên, mặt mày nhăn nhó: "Ta không muốn đói bụng..."

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

"Ta biết ở đâu có ngân lượng rồi". Cô gái nở nụ cười, dẫn cậu bé đi đào hòm tiền mà ông nội để lại cho cậu trong căn nhà rách nát, hai đứa trẻ ngồi thừ người ra nhìn từng cọc ngân phiếu và vàng lá.

Khung cảnh lại thay đổi, khi cô bé và cậu bé lớn thêm một tuổi, cậu bé đang giận dữ xé nát "Tứ Thư", "Ngũ Kinh" trong tay, cô gái đứng bên ung dung nhìn hành động của cậu, đợi tâm trạng cậu bình tĩnh lại, mới bước tới vỗ vai, dịu giọng hỏi: "Tiết Nhi, huynh muốn gì?".

Cậu bé vuốt mặt, hậm hực nói: "Đọc sách không ổn, ta không có hộ tịch chính đáng, ngay cả đăng ký thi đồng sinh cũng không được. Nhưng nếu luyện võ ta lại không tìm được sư phụ giỏi, những thứ mà võ quan dạy chẳng qua chỉ là mấy chiêu hù dọa tăng cường sức khỏe mà thôi".

Cô bé mỉm cười: "Chỗ ta có bí kíp võ công, có thể tìm cho huynh một thanh kiếm khiến huynh hài lòng...". Cô bé dẫn cậu bé đi vào trong rừng, tới một hang động đào được một cuốn bí kíp võ công tuyệt thế và thanh kiếm Thanh Minh chém sắt thành bùn.

Những cảnh tượng trong hồi ức cứ lướt qua đầu từng khung cảnh một, những thứ lớn như tiền bạc hay bí kíp võ công, những thứ nhỏ như tấm áo mới hay bữa ăn ngon miệng, tám năm sống bên nhau chỉ cần Lý Định Viễn mở miệng Như Ý sẽ luôn nở nụ cười thản nhiên trên môi, nhẹ nhàng hoàn thành tất cả những việc chàng yêu cầu.

Trước đây chàng luôn cho rằng Như Ý thực sự quá thông minh, hiền thục... nhưng bây giờ... người này lại nói Như Ý là cái chuôi bạch ngọc Như Ý? Vì thế mới hoàn thành mọi nguyện vọng của chàng?

Chuyện này thực sự quá vớ vẩn!

Nhưng... thực sự chàng không hề có chút hoài nghi nào sao?

Như Ý chưa bao giờ nói chuyện của nàng, chưa bao giờ yêu cầu hay có bất cứ lời oán thán nào với chàng, chưa bao giờ... chưa bao giờ khiến chàng thất vọng...

Lẽ nào... những chuyện này là thật?

Lý Định Viễn đột nhiên nhớ tới tối qua, nhớ tới nụ cười đầy vẻ quyến luyến của Như Ý, chàng bất chợt kinh hãi.

Chàng lại mong muốn điều gì với Như Ý?

Đúng rồi, chàng kiên trì muốn báo thù... bao nhiêu năm qua, bất kể Như Ý hỏi bao nhiêu lần chàng đều một mực muốn báo thù...

Lý Định Viễn ném thanh kiếm Thanh Minh trong tay xuống, không để tâm tới thanh kiếm sắt chàng vô cùng yêu thương rơi xuống bùn đất. Chàng điên cuồng túm lấy vạt áo của gã kia, lòng như lửa đốt truy hỏi gã: "Như Ý đâu? Nàng ở đâu? Ngươi muốn cái tráp đồng làm gì?".

Gã kia không để tâm tới việc bị chàng cưỡng ép, chỉ thản nhiên nói: "Như Ý thấy ngươi bị thương nên không thể nhẫn nhịn được nữa. Tối qua ta đã ngầm bảo vệ ngươi, ngươi ngốc nghếch như vậy cô ấy sợ lần sau ngươi không thể quay về được nữa. Cô ấy luôn bị phong ấn trong tráp đồng, được ngươi vô tình đánh vỡ nắp lưu ly mở phong ấn ra, vừa khôi phục vương khí vừa cùng ngươi trưởng thành. Chỉ đáng tiếc, cái chuôi bạch ngọc Như Ý tốt như vậy".

"Ý ngươi là....?" Lý Định Viễn nghe như sét đánh ngang tai.

"Ngươi định làm cho ai xem cái vẻ mặt như vậy?". Những lời của gã này đầy mỉa mai châm biếm: "Dạng người như ngươi ta đã gặp nhiều rồi, cho dù Như Ý có nói với ngươi sự thật thì e rằng ngươi cũng không thay đổi sự lựa chọn của mình. Không chừng còn đưa ra những nguyện vọng khó xử hơn cho cô ấy. Sao? Lẽ nào ta nói không đúng à?".

Lý Định Viễn vẫn nắm chặt vạt áo của đối phương, cánh tay nổi cả gân xanh vì dùng sức, nhưng chàng không thốt lên nổi một câu phản bác.

Đúng vậy, chàng có tư cách gì mà giận dữ?

Một nỗi hoảng sợ dâng lên trong lòng Lý Định Viễn, lẽ nào bản thân chàng thực sự như lời gã kia nói, sau khi biết thân phận thực sự của Như Ý sẽ càng lợi dụng nàng?

Thù hận... Như Ý... rốt cuộc bên nào quan trọng hơn...

Một quả cân cứ lắc qua lắc lại bất định trong tim chàng, những người thân chết thảm và nụ cười cụp mi của Như Ý cứ thay nhau xuất hiện trong đầu, Lý Định Viễn sợ hãi phát hiện ra bản thân chàng thực sự không biết lựa chọn ra sao.

Nội tâm của chàng, Như Ý đã nhìn thấu rồi sao?

Vì vậy nàng mới quyết định như thế này?...

"Như Ý nàng ấy....". Lý Định Viễn khó khăn tìm lại giọng nói của mình, nhưng chỉ nói được bốn tiếng rồi lại chẳng biết phải nói thêm gì nữa.

"Ta tới lấy cái tráp đồng, là muốn cho cô ấy một nơi ngủ ngon". Gã cẩm y vệ trẻ tuổi giơ tay đẩy Lý Định Viễn đang đơ như khúc gỗ ra, chau mày chỉnh lại áo Phi Ngư trên người, sau khi chắc chắn tấm áo bên trong không bị lộ ra ngoài mới gẩy gẩy những hạt bụi vốn không tồn tại trên áo đi, thản nhiên nói: "Ngươi đã mong muốn điều gì ta không biết, nhưng cô ấy tự nguyện làm gãy thân mình, long khí của Ứng Thiên phủ hoàn toàn bị đứt gãy. Mặc dù triều Đại Minh này có thể vẫn còn tiếp diễn nhưng vài năm tới nơi này sẽ không còn là kinh đô nữa". Gã lướt nhìn xung quanh một lượt, cuối cùng nhìn về một nơi nào đó, miệng tiếp tục nói: "Hơn nữa sau này, cũng sẽ không còn là đô thành nữa".

Nói xong gã cũng mặc kệ Lý Định Viễn đang ngã ngồi ra đất, đi thẳng vào phòng của Như Ý lấy cái tráp đồng đã vỡ nắp, nhanh nhẹn rời đi.

Hoàn toàn không thèm để ý đến tiếng gào khóc xé ruột xé gan vọng ra từ trong sân.

5

"Hóa ra, Nam Kinh không thể làm thủ đô chính là như thế này à?". Bác sĩ nhìn chàng thiếu niên trong sân đau đớn sống không bằng chết, liền nói nhỏ với Lục Tử Cương bên cạnh mình. Bọn họ đến không sớm nhưng những gì cần nghe cũng đã nghe được tương đối. Cảm thấy xót thương không ngớt cho chàng thiếu niên khổ mệnh và Thiên Như Ý cố chấp kia. Ai đúng ai sai vốn chẳng thể nào phân định được, xét cho cùng mối thù diệt môn cũng không thể một câu nói đơn giản là có thể xóa đi được. Tính cách của Thiên Như Ý cũng cứng cỏi như vậy, thà làm ngọc vỡ chứ không làm ngói lành. Thà dốc sức hoàn thành nguyện vọng của chàng thiếu niên chứ không chịu ở bên cạnh chàng nhìn chàng mạo hiểm hết lần này tới lần khác.

"Từ góc độ khoa học thì không thể nói như thế được, nhưng rất tà môn. Nam Kinh từ thế kỷ III tới nay trước sau đã có mười triều đại hoặc chính quyền như Đông Ngô, Đông Tấn, nhà Tống của Nam Triều, Tề, Lương, Trần, Nam Đường, Minh, Thái Bình Thiên Quốc, Trung Hoa Dân Quốc lập quốc ở Nam Kinh, nhưng không có thời nào lâu dài cả. Chúng ta bây giờ đang ở thời đại triều Minh Chu Nguyên Chương, không lâu sau con trai ông ta là Chu Lệ sẽ dời đô về Bắc Kinh rồi". Lục Tử Cương rờ cằm, cảm khái nói: "Có lẽ thực sự do Tần Thủy Hoàng đã xả long khí chặt đứt long mạch, nếu không một nơi rồng cuộn hổ ngồi thế này không có lý do gì mỗi triều đại xây dựng ở đây đều rất đoản mệnh giống như bị lời nguyền vậy. Đương nhiên trừ triều Minh ra, có điều nếu Chu Lệ không dời đô thì không chừng cũng nguy hiểm".

Bác sĩ nghe Lục Tử Cương nói mà lạnh cả sống lưng, vội vã thúc giục: "La bàn lại sai thời gian, chúng ta mau về đi. Mà này sao gã chủ tiệm còn làm cả cẩm y vệ vậy? Mặc bộ Phi Ngư đẹp trai thế! Có điều sao tôi cảm thấy ban nãy gã chủ tiệm hình như phát hiện ra chúng ta rồi?".

"Chắc là chưa phát hiện ra đâu... nếu không anh ấy có lẽ đã tới đây xem xét", Lục Tử Cương nói nhưng cũng không tự tin, anh cúi đầu nhìn la bàn trong tay, phát hiện ra kim la bàn chuyển động không nhanh, có lẽ một lúc nữa mới về vị trí được.

"Còn bao lâu nữa? Tôi không muốn tiếp tục bám cửa sổ ở đây đâu, nhỡ may tên nhóc kia đi vào đây thì chúng ta phải giải thích thế nào?... A?".

Bỗng dưng bác sĩ hạ giọng kêu lên khiến Lục Tử Cương ngẩng đầu lên, đúng lúc nhìn thấy chàng thiếu niên đang cầm ngang thanh kiếm sắc, định tự tử. Bác sĩ không chịu được những cảnh tượng coi thường mạng sống như thế này nên lập tức định lao ra ngăn cản, còn Lục Tử Cương lại kéo chặt tay anh lại, trầm giọng nghiêm túc nói: "Anh quên rồi à? Trước khi xuất phát tôi đã nói với anh như thế nào? Không được can thiệp vào lịch sử đã xảy ra".

"Nhưng...", bác sĩ cuống tới mức mặt mày đỏ gay, anh muốn cao giọng ngăn cản hành vi tự sát của chàng thiếu niên, nhưng lời còn chưa dứt đã thấy chàng thiếu niên múa thanh kiếm trong không trung, ngay lập tức lao nhanh ra khỏi cửa. Bác sĩ sững sờ, không hiểu: "Cậu ta làm sao vậy?".

"Đuổi theo hỏi cho rõ ràng. Cậu ta có lẽ cảm thấy gã chủ tiệm đang nói dối cậu ta, nhưng với kinh nghiệm của tôi thì những lời chủ tiệm nói chắc chắn là sự thật". Lục Tử Cương nhún vai,thả lỏng người. Bất kể cậu thiếu niên này sau cùng có tự sát hay không, nhưng ít nhất điều ấy cũng không xảy ra trước mặt họ. Hơn nữa, nói thật là cậu thiếu niên này đã trở thành lịch sử cổ xưa rồi, bọn họ chỉ là người đứng xem thôi.

Lục Tử Cương nhìn sắc mặt lo lắng trùng trùng của bác sĩ, trong lòng có nhiều nỗi lo ẩn giấu.

Anh hoàn toàn có thể coi mỗi lần xuyên không giống như đang xem một bộ phim Holography, nhưng bác sĩ có thể làm được điều này không?

"Cậu nói xem, cậu thiếu niên kia sau này sẽ thế nào?" Bác sĩ đẩy gọng kính trên mũi với vẻ băn khoăn khó xử.

Ánh sáng trắng trên la bàn đã bắt đầu, Lục Tử Cương bình thản nói: "Dù sao đối với chúng ta mà nói cậu ta đã chết từ lâu rồi".

Quyển 4 - Chương 4: Tiền Vô Bội

1

Năm 1066, Biện Kinh, Khai Phong.

Vầng thái dương vẫn chưa hoàn toàn mọc lên hẳn, bầu trời phía đông chỉ mới nhuộm một lớp ráng màu đỏ, tiếng gà gáy đã bắt đầu xuyên qua làn sương mù sáng sớm, vang vọng trong thành Biện Kinh. Tiếng chuông sớm trong các chùa chiền cũng lần lượt vang lên vào lúc này, trong nháy mắt phố phường yên tĩnh đã rộn ràng huyên náo, lục tục xuất hiện dân chúng dậy sớm.

Hầu Phương Kiệt dụi mắt, dựa vào tường cung tạm biệt đám bạn đồng liêu lũ lượt như cá đi ra khỏi cửa cung, cậu đang đợi bạn thân là Địch Vịnh trực đêm. Địa điểm trực đêm của bọn họ khác nhau, cậu chỉ là một trong những thị vệ trực ở Càn Nguyên môn, còn Địch Vịnh trực ở Thùy Củng điện nơi hoàng đế nghe triều chính, có thể thấy tiền đồ vô lượng.

Có điều chuyện này cũng không lạ, Địch Vịnh có một ông bố tốt, chính là Vũ Khúc Tinh - Địch Hán Thần - Địch Thanh của Đại Tống. Mặc dù Địch Thanh đã qua đời nhiều năm, nhưng người ta đã từng làm Khu mật phó sứ, chức vụ ấy là chức vụ cao nhất các võ tướng Đại Tống có thể đạt được từ trước đến giờ. Tất cả mọi người đều biết Đại Tống trọng văn khinh võ, cuối cùng cũng vì các quan văn toàn triều hợp lực chèn ép, Địch Thanh chết trong sự uất ức.

Hầu Phương Kiệt thở dài, mỗi một hán tử trong lòng đều có giấc mộng anh hùng kiến công lập nghiệp huyết chiến trên sa trường, mà Địch Thanh chính là tấm gương hồi nhỏ của cậu, chỉ là danh tướng đầu chưa bạc nhưng đã không gánh nổi sự nghi kỵ của người đời, thật khiến người ta thổn thức không nguôi.

Đang nghĩ ngợi mông lung, cửa cung một lần nữa vang lên kẽo kẹt, một nam tử trẻ tuổi tuấn tú ngời ngời đẩy cửa bước ra, tia nắng đầu tiên chiếu rọi trên người chàng, xung quanh chàng như được bao bọc bởi một lớp ánh sáng màu vàng nhạt, khiến người ta nhìn theo mà ngộp thở.

Đúng là không để cho người khác con đường sống.

Hầu Phương Kiệt vừa ghen tị vừa ngưỡng mộ âm thầm nghiến răng.

Địch Thanh là đệ nhất soái ca nổi danh bốn biển của Đại Tống, nhưng hồi trẻ ông chịu tội thay huynh trưởng, bị thích chữ lên mặt nên mới bị người ta gọi là Diện Niết tướng quân. Mỗi khi xung phong vào trận địa trên chiến trường Địch Thanh đều bắt chước Lan Lăng Vương hơn bốn trăm năm trước đeo mặt nạ quỷ, không phải vì muốn che đi hình xăm trên mặt, mà bởi vì ông ấy đẹp trai quá mức.

Nói ra mới nhớ, Địch Thanh còn là mỹ nam tử thứ hai tự cổ tới giờ đeo mặt nạ mới có thể ra chiến trường. Từ đó có thể thấy Diện Niết tướng quân năm xưa phong thái thế nào. Còn vị Vũ Tương Công này cho dù làm tới chức quan Khu mật phó sứ cũng không dùng thuốc tẩy đi chữ xăm trên mặt, cho dù hoàng đế đích thân khuyên bảo cũng không hề thay đổi, đây cũng là một điều luyến tiếc từ người có địa vị cao như hoàng đế cho tới người có địa vị thấp như tiểu thương, sai dịch.

Vì thế Hầu Phương Kiệt hoàn toàn hiểu được tại sao Địch Vịnh được phân bổ tới trực ban ở Thùy Củng điện, dù sao thì đây cũng là Địch Hán Thần tái thế sống sờ sờ ra đấy.

Lúc này trong làn gió xuân mát rượi Địch Vịnh đã chầm chậm bước tới, đôi mày chàng như núi xa, ánh mắt chàng như ngôi sao lạnh, cho dù là người khó tính kén chọn đến mấy cũng không tìm ra bất cứ khiếm khuyết nào trên ngũ quan của chàng. Trên người chàng vận bộ giáp y giống như những thị vệ khác, mặt ngoài là lụa, bên trong là vải gai màu xanh đen, giáp y dùng màu xanh lục để vẽ thành hình lá giáp, viền gấm đỏ, thắt đai da đỏ, chân chặt, eo giắt hoàn đao. Bộ đồ này bó thân, tay áo hẹp có tính thực dụng cao nhưng khi chàng mặc lại tỏa ra khí thế ngời ngời, càng làm tôn lên thân hình cao ráo lẫn sự anh tuấn vũ dũng của chàng.

Hầu Phương Kiệt vô số lần khinh bỉ bản thân tại sao lại làm bạn với tên này, đi bên cạnh mỹ nam tử thế này áp lực thực sự rất lớn. Nhưng đây cũng chính là nguyên nhân từ nhỏ đến lớn Địch Vịnh bị cô lập, thực sự là vì những người tâm chí không kiên định thì không thể nào chịu được.

Có điều một người bẩm sinh đã vô tư như Hầu Phương Kiệt cũng chỉ chửi thầm trong bụng cho có lệ là liền hết oán trách, ngáp một cái, hỏi: "Tư Đào, sáng nay đi án gì? Đậu viên nhuyễn ở Hiếu Nhân phường? Bánh đậu ở phố Quan Kiều? Bánh tứ sắc ở Thái Bình phường? Canh mì tiết ở ngõ Miếu Cảng? Hay là bánh nướng dì Trư ở cầu Chúng An..."

Thực ra thị vệ đại nội ở trong cung sau ca trực đều có cơm ăn, nhưng đám con nhà quan lại như bọn họ đương nhiên không muốn đi ăn thứ cơm mãi không đổi món ấy. Biện Kinh Khai Phong vô cùng phồn hoa, chỉ cần trong túi có tiền thì muốn án thứ gì đều không thành vấn đề. Hầu Phương Kiệt nói một tràng tên các món ăn, trong chốc lát cơn buồn ngủ cũng bay biến đi, nước dãi bắt đầu ứa ra.

Địch Vịnh nhìn sắc mặt thèm thuồng nhỏ dãi đến nơi của bạn mình, khóe môi lạnh lùng nhếch lên, khẽ thở dài: "Tới Thanh Phong lâu đi, hôm nay ta mời, đã làm khó huynh đổi ca trực cùng ta".

Thanh Phong lâu là một tửu lâu rất cổ tiếng ở Biện Kinh, không chỉ đơn giản là kinh doanh về đêm, mà điểm tâm buổi sáng còn quy tụ các món ăn vặt ở thành Biện Kinh, món gì cũng có. Hầu Phương Kiệt xoa xoa cái bụng rỗng tuếch của mình, cười cười: "Hứ, nói những lời này là lại thành xa lạ đấy. Ta với huynh vốn là huynh đệ, làm sao ta có thể nhìn huynh ngày ngày chịu giày vò được". Những lời cậu nói mặc dù rất đứng đắn nhưng vẫn có vẻ trêu chọc.

Nhắc tới chuyện này, cho dù là người tính cách lạnh lùng như Địch Vịnh cũng thở hắt một hơi bực bội hiếm có.

Trên thực tế, chàng vốn trực ở Thùy Củng điện vào ban ngày, hầu như ngày nào cũng lộ diện trước mặt hoàng đế, còn có thể đứng ngoài điện nghe các triều thần bàn luận chính sự, rõ là một chức vụ một bước lên mây xanh. Nhưng không thể chịu nổi cảnh mỗi lần trực xong về nhà đều bị mọi người trên phố vây lại, cảnh tượng cuồng loạn ấy càng ngày càng ác liệt, cuối cùng chàng đành cứng đầu đi xin đổi lịch trực, quả nhiên bây giờ thanh tịnh hẳn.

"Hừ, ai bảo công chúa Bảo An chỉ rõ muốn người như huynh làm phò mã của nàng, hoàng thượng còn gọi huynh là "hình mẫu lý tưởng", ai chẳng muốn tận mắt chứng kiến "hình mẫu lý tưởng" nổi tiếng gần xa do đích thân hoàng đế phong chứ?". Hầu Phương Kiệt còn cười nhạo trên "nỗi đau" của người khác.

Địch Vịnh chán chẳng buồn tiếp chuyện cái tên thích châm chọc người khác thế này, bởi chàng biết cho dù mình không đáp lời, một mình Hầu Phương Kiệt cũng có thể nói cười rất vui.

Hầu Phương Kiệt cũng hiểu tính tình của Địch Vịnh nên cũng không hy vọng chàng có phản ứng gì, tay đặt lên vai chàng cười khì: "Thế nào? Cảm giác được công chúa để mắt tới như thế nào?".

Địch Vịnh mặt mày không chút biểu cảm, bởi vì chàng biết đây thuần túy là một chuyện không thể xảy ra.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Cách chữa hôi miệng nhanh nhất không phải ai cũng biết!

Công chúa Bảo An là trưởng nữ của Cao hoàng hậu, tôn quý vô cùng, làm sao có thể được gả cho một người là ngũ phẩm đông thượng các môn sứ như chàng? Vì vậy ngay từ ban đầu chàng chưa từng tham lam nghĩ ngợi, đợt trước hoàng đế đích thân vời chàng vào gặp, ý nọ ý kia là muốn ban hôn cho chàng và quận chúa, để chàng làm quận mã.

Đây đã là vinh dự không gì sánh được, chàng không có ý kiến gì. Chỉ là hôn nhân đại sự không phải thứ chàng muốn, chàng thà bằng giống như phụ thân mình, dấn thân nơi sa trường huyết chiến nơi biên ải.

Hầu Phương Kiệt và Địch Vịnh đi về phía phố lớn Tây Giác Lâu ở phía tây thành, vừa đi vừa nhớ tới cảnh tượng hoành tráng khi Địch Vịnh lên phố, bất giác bật cười: "Huynh nên thấy may mắn vì những cô nương kia đều ném cho huynh trâm hoa chứ không phải hoa quả, nếu không sớm muộn lại có thảm kịch nhân gian nhìn chết Vệ Giới".

(Vệ Giới (286-312): tự là Thúc Bảo, người An Ấp Hà Đông, là nhà huyền học, quan viên của triều Tấn, là một trong tứ đại mỹ nam thời cổ đại. Vệ Giới vì tướng mạo xuất chúng, đi đâu cũng bị người khác ngắm nhìn, dẫn đến căng thẳng tâm lý mà bệnh chết, từ đó có câu thành ngữ "nhìn chết Vệ Giới")

Khuôn mặt tuấn tú của Địch Vịnh tối sầm lại mấy phần, trong lòng đang cân nhắc xem có nên làm một cái mặt nạ bằng đồng giống phụ thân hay không, nhưng như thế quá khoa trương giữa thành Biện Kinh này, ngược lại sẽ làm trò cười cho người ta.

Hầu Phương Kiệt sán lại, hạ giọng cố ý làm ra vẻ thần bí: "Có biết không? Giữa phố phường đang đồn rằng Địch đại soái ca không thích trâm hoa, mà đang đợi người trong lòng dâng tặng một đóa".

Nam nhân thời này thích trâm hoa, đây đã là một phong tục tập quán của xã hội thượng lưu. Mỗi dịp đại lễ quan trọng hoàng đế đều ban tặng hoa cho các đại thần, loại trâm hoa được ban tặng còn dựa vào phẩm vị khác nhau mà có sự khác biệt. Hơn nữa, ở các nơi khác nhau, vào những mùa khác nhau, phục sức khác nhau phải kết hợp thế nào đều có yêu cầu nghiêm ngặt, ví dụ riêng hoa lụa đã có mấy chục loại và sắc màu, ví dụ khi gặp sứ giả nước ngoài không được đeo hoa sợi vàng, thậm chí có lúc cánh hoa ít nhiều cũng thể hiện ý nghĩa này ý nghĩa kia.

Từ trước tới nay Địch Vịnh luôn khinh bỉ tập tục nặng mùi son phấn thế này, bất kể mọi lúc chàng đều kiên quyết không nhận trâm hoa, trong số đồng liêu có người thấy khó coi nên lúc riêng tư châm biếm phụ thân chàng xuất thân bần hàn, gia giáo tầm thường, không hiểu lễ tiết.

Có điều Địch Vịnh cũng biết bản thân mình khác biệt quá mức. Những lời nói gió bay thế này chàng chẳng bao giờ để tâm. Huống hồ phụ thân của chàng quả thực xuất thân không tốt, còn từng bị dùng hình, bị xăm chữ, cũng đâu phải hậu nhân gì của Lương Quốc Công Địch Nhân Kiệt, có chuyện gì không thể khiến người khác nói được? Vì vậy những lời của Hầu Phương Kiệt ban nãy chàng coi như chuyện đùa, nét căng thẳng trên khuôn mặt tuấn tú cũng bớt đi vài phần, nhưng trái lại thể hiện sự dịu dàng mà người bên cạnh khó khăn lắm mới thấy được. Hầu Phương Kiệt càng ra sức tán chuyện nhảm.

Hai người sát vai nhau đi qua Hữu Dịch môn, đến Tây Nam trên phố Tây Giác Lâu, men theo phố Dõng Lộ tương đối rộng rãi, đi qua Khai Phong phủ, Điện Tiền ti, Thượng Thư sảnh ở phố lân cận. Trước cửa nha môn nghiêm trang thế này đã lác đác xuất hiện quan viên tới sớm, có người quen còn lên tiếng chào hỏi hàn huyên đôi câu với hai người. Địch Vịnh vốn không giỏi ăn nói, hơn nữa kết bạn cũng không rộng rãi, phần lớn mọi người đều mỉm cười nói chuyện với Hầu Phương Kiệt. Bọn họ đi tới đầu cầu Long Tân là nhìn thấy một tòa nhà cao lớn hoa lệ.

Thanh Phong lâu rất có danh tiếng ở thành Biện Kinh lại gần với nhiều nha môn quan phủ, rất nhiều quan viên thích tới nơi này nghỉ ngơi trò chuyện. Bước vào trong cánh cửa lớn có lan can điêu khắc hoa sơn màu sặc sỡ, trên bức tường của đại sảnh bên tay phải có treo một bài thơ của Tư Mã Quang "Cùng Tôn Khí ở Thanh Phong lâu". Mặc dù ánh dương mới nhô lên, nhưng trong Thanh Phong lâu đã rộn ràng náo nhiệt, Hầu Phương Kiệt biết Địch Vịnh không thích bị người ta vây quanh, nếu ngồi ở đại sảnh e rằng người người sẽ liếc nhìn, vì thế lên hẳn phòng riêng trên tầng ba.

Hầu Phương Kiệt tùy ý gọi mấy món đồ ăn sáng mình muốn ăn, còn chưa đợi được thức ăn lên đã thấy có người hầu bước vào, thông báo với bọn họ có người muốn làm phiền. Hầu Phương Kiệt làu bàu có lẽ là người quen nào đó thấy bọn họ lên đây nên muốn tới ghép bàn, thấy Địch Vịnh không ý kiến gì bèn gật đầu.

Một lúc lâu sau có người đẩy cửa bước vào. Người này mặc áo chùng thâm bó thân tay áo rộng thời Tần Hán, chiếc áo bào dài màu đen càng khiến khuôn mặt gã khôi ngô tuấn tú hơn, mái tóc dài chưa búi lên mà buông xõa sau tai, giống hệt nhân vật phong nhã bước ra từ những bức tranh cổ. Nhân vật thế này mặc dù không tuấn tú như Địch Vịnh nhưng cũng khiến người ta gặp mà khó quên. Hầu Phương Kiệt nhớ ngay ra thân phận của đối phương nên đứng dậy tiếp đón.

"Trời! Hôm nay gió thổi hướng nào thế này? Không ngờ lại gặp được huynh, thật trùng hợp quá!". Hầu Phương Kiệt làm như quen thân kéo đối phương ngồi vào bàn mình, sau đó giới thiệu với Địch Vịnh: "Đây là chủ tiệm một tiệm đồ cổ, ở phía vịnh Thái Hà, trước đây tôi từng mua đồ ở tiệm của huynh ấy".

Địch Vịnh gật đầu, coi như đã chào hỏi. Bản tính chàng trước nay lạnh lùng, thực ra cũng bởi vì nếu chàng quá giỏi biểu đạt thiện ý sẽ khiến xung quanh chàng không còn được thanh tịnh, vì vậy chàng thà cô độc một chút còn hơn.

Chỉ là, gã chủ tiệm này hàn huyên đôi câu với Hầu Phương Kiệt xong lại nhìn về phía Địch Vịnh, chậm rãi nói: "Tại hạ sắp rời khỏi Biện Kinh, dạo trước trong tiệm có nhận được một đồ vật, tại hạ nghĩ nếu không thể trả lại cho chủ cũ thì vẫn nên giao cho người kế tục nó".

"Sao? Á Xá sắp đóng cửa à?". Hầu Phương Kiệt giật mình, bỗng dưng cảm thấy có chút lưu luyến. Thôi vậy, cửa tiệm này đã mở được mấy năm rồi, có điều gã chủ tiệm này hình như vẫn cứ trẻ trung như vậy...

"À, đã đến lúc về quê rồi". Gã chủ tiệm cười nhạt, cũng không giải thích nhiều, lấy trong người ra một chiếc khăn gấm, đặt lên bàn sau đó từ từ mở ra.

Trong chiếc khăn gấm có một đồng tiền đồng nằm ngay ngắn.

Giây phút Địch Vịnh nhìn thấy đồng tiền đồng, đồng tử hơi co lại, đôi môi mỏng mím lại thành một đường thẳng.

"Đây là... ", Hầu Phương Kiệt ngạc nhiên một hồi, sau đó xoa cằm nghi ngờ hỏi: "Lẽ nào, đây là Hoàng Tống cửu điệp triện trong truyền thuyết?".

Hoàng Tống cửu điệp triện là một loại tiền đồng quý giá nhất trong số tiền Hoàng Tống Thông Bảo được phát hành trong những năm niên hiệu Hoàng Hựu thời Tống Nhân Tông, mặc dù chỉ là tiền đồng phát hành hơn mười năm trước nhưng vì hiếm có nên trên thị trường đã có giá trên trời, căn bản chẳng thể mua được, về cửu điệp triện, chính là dựa trên cơ sở là tiểu triện, nét bút gấp xếp nhiều lần, lượn vòng gấp khúc. Mỗi một chữ được gấp xếp bao nhiêu lần được quyết định bởi số nét đơn giản hay phức tạp, sở dĩ gọi là cửu điệp không phải vì chỉ được lặp lại chín lần, mà coi chín là con số cuối cùng, ý chỉ nét bút được gấp xếp nhiều lần.

Hầu Phương Kiệt xoa tay cười khì: "Chủ tiệm, huynh vội vã đem đồng Hoàng Tống cửu điệp hiện tới đây làm gì? Mặc dù đồng cửu điệp triện này rất đáng giá nhưng huynh đệ tôi cũng không thiếu chút tiền này".

Cậu liếc nhìn Địch Vịnh, có ý muốn giành miếng tiền đồng này, tự mình cất giữ. Dù sao cậu cũng đâu có lấy không, chắc chắn phải trả tiền rồi.

Gã chủ tiệm trẻ tuổi nheo đuôi mắt lại, khiến cả khuôn mặt bỗng chốc trở nên khó hiểu. Gã không nói gì cả, chỉ đưa tay lật đồng Hoàng Tống cửu điệp triện.

Hầu Phương Kiệt kinh ngạc và thất vọng, nghiến răng chỉ vào đồng Hoàng Tống cửu điệp triện: "Đồ giả! Đây chắc chắn là đồ giả! Làm gì có đồng tiền nào mà hai mặt đều là chính diện? Đây rõ ràng là đồ giả!".

Gã chủ tiệm bật cười với vẻ sâu xa khổ dò: "Huynh chắc chắn không? Huynh có chắc chắn chưa từng có đồng tiền xu nào không có mặt sau?".

"Ta chắc...", giọng Hầu Phương Kiệt kẹt ngay trong cổ họng, bởi vì đột nhiên cậu nhớ ra quả thực là có, hơn nữa cậu còn nhớ vô cùng rõ ràng chuyện này, hầu như có thể kể ngược kể xuôi được.

2

Niên hiệu Hoàng Hựu, Diện Niết tướng quân Địch Thanh Địch Hán Thần lãnh quân dẹp phản loạn Lưỡng Quảng, do hình thế hiểm trở, nên đến trước một ngôi miếu thề với Phật rằng, tung một trăm đồng xu lên, nếu mặt trước hướng lên trên, mặt sau hướng xuống dưới, thì có thể bảo đảm toàn quân đại thắng. Sau khi ông bước ra khỏi miếu, vung tay trước toàn quân, một trăm đồng tiền rơi xuống, không ngờ thực sự tất cả các đồng tiền xu đều hướng mặt trước lên trên, tất cả đều ồ lên kinh ngạc.

Địch Thanh lệnh cho thuộc hạ lấy một trăm cái đinh sắt, tùy ý đóng bẹp trăm đồng tiền đồng, tuyên bố đợi khải hoàn sẽ đem tiền cảm tạ thần linh, tu sửa miếu tự, đúc lại tượng vàng. Vì thế toàn quân khí thế ngút trời, đánh bại quân phản loạn. Sau khi khải hoàn, mọi người nhìn lại trăm đồng tiền đồng này, hóa ra đều là tiền hai mặt không có mặt sau (tiền Vô Bội).

Chuyện này đã được lưu truyền trong nhân gian rất lâu không ai không phục tài trí mưu lược của Vũ Tương Công Hầu Phương Kiệt một dạo cũng quên mất câu chuyện này nhớ lại trước đó gã chủ tiệm nói muốn trả lại đồng tiền xu này cho người kế tục, lập tức sáng mắt lên.

"Đây chính là đồng Vô Bội Tiền trong truyền thuyết? Sao chỉ còn có một đồng thế này? Không phải lúc đó có một trăm đồng sao?".

"Đồng tiền này không chỉ có thể bói mệnh mà còn có thể mua mệnh". Giọng gã chủ tiệm trẻ tuổi trầm ấm nho nhã, khiến người nghe bất giác toàn thân run rẩy.

"Chuyện bói mệnh ta hiểu, rất nhiều người bói toán bằng cách tung đồng xu, Vũ Tương Công cũng từng lợi dụng điểm này. Nhưng... mua mệnh?". Hầu Phương Kiệt nghi ngờ hỏi lại, cậu chưa từng nghe chuyện này.

"Huynh từng được nhận tiền áp tuế chưa? Chữ "tuế" và chữ "tụy" phát âm giống nhau, vì thế tương truyền rằng tiền áp tuế có thể trấn áp được tà ma. Vãn bối nhận được tiền áp tuế từ trưởng bối có thể bình an trải qua một tuổi đó. Người đời cho rằng tặng tiền áp tuế cho trẻ nhỏ là để có thể dùng tiền áp tuế hối lộ đám yêu ma quỷ quái khi chúng muốn hại trẻ nhỏ". Khóe môi gã chủ tiệm trẻ tuổi nhếch lên một đường cong, mỉm cười sâu xa: "Đây chính là mua mệnh".

(Tiền áp tuế: Tiền mừng tuổi.

Chữ "tuế" và chữ "tụy": Trong tiếng Trung chữ (tuế: tuổi) và (tụy: tà ma) phát âm giống nhau)

"Hơ... hồi nhỏ tiền áp tuế hằng năm của ta cứ nhận được là lập tức tiêu hết ngay... ta có thể bình an lớn lên thế này thật sự phải cảm ơn Phật rồi..."Hầu Phương Kiệt nghe mà lạnh sống lưng, cậu không hề biết hóa ra tiền áp tuế còn có ý đồ như vậy.

"Đồng tiền Vô Bội này do Vũ Tương Công đặc chế, nghe nói sau đó ông phát một trăm đồng tiền Vô Bội cho thuộc hạ, có thể mua mệnh, ngăn họa".

Gã chủ tiệm thong thả đứng dậy, bình thản nói với Địch Vịnh ngồi im lặng từ đầu tới cuối: "Tại hạ ngẫu nhiên có được đồng tiền Vô Bội này, nên trả lại cho Địch công tử, công tử vẫn nên mang theo đồng tiền Vô Bội bên mình thì tốt hơn". Nói xong cũng không màng tới Hầu Phương Kiệt ân cần níu kéo, gã thong thả đẩy cửa rời đi.

Người hầu ở Thanh Phong lâu biết bọn họ có chuyện cần nói nên ngoài ấm trà mang lên từ đầu, cũng không mang điểm tâm lên. Đợi người này rời đi, họ mới vào phòng nhanh chóng bày điểm tâm ra bàn.

Hầu Phương Kiệt thấy Địch Vịnh mặt mày không chút biểu cảm cũng không để tâm lắm, đợi đám người hầu trong quán lui xuống mới lấy khăn gấm bọc đồng tiền lại dúi vào tay Địch Vịnh, làu bàu dặn dò: "Nếu người ta đã nói phải mang theo bên mình, thì lát nữa tìm sợi dây luồn vào rồi đeo lên cổ đi".

Địch Vịnh đón lấy chiếc khăn gấm, tự mình cười nhạo, bình tĩnh nói: "Hàng ngày ta làm nhiệm vụ trong đại nội, làm gì có lúc nào nguy hiểm tới tính mạng chứ?".

Mặc dù nói cạnh vua như cạnh hổ dữ, nhưng Đại Tống trước giờ không giết người vô tội, bất kể là quan văn không bị chém đầu, quan võ dù dễ bị nghi kỵ nhưng cũng không phải không có thể diện, cho dù là bách tính dân thường cũng không dễ bị vu oan. Hoàng đế quan gia khiêm nhường, có lễ độ, Địch Vịnh thực sự không biết có lúc nào mình phải dùng tới đồng tiền Vô Bội này hay không.

Mặc dù chàng nghĩ rất thấu đáo nhưng trong lời nói lại toát ra vẻ buồn phiền vì chí hướng không được thể hiện. Hầu Phương Kiệt đương nhiên là nghe ra, chỉ đành dùng lời hay ý đẹp mà vỗ về thôi. Thực sự mà nói, Địch Thanh Địch Hán Thần và Lan Lăng Vương đều tuấn tú tới mức phải đeo mặt nạ ra trận, cuối cùng cũng bị đế vương nghi kỵ, lịch sử luôn có sự trùng hợp khiến người ta bất lực.

Trong lòng Hầu Phương Kiệt vừa suy nghĩ xa lắc xa lơ lại vừa moi ruột moi gan tìm lời an ủi Địch Vịnh. Địch Vịnh lại ra hiệu cho cậu im lặng, Hầu Phương Kiệt đang thắc mắc thì nghe thấy tiếng nói chuyện vọng ra từ phòng bên cạnh.

Cách âm của các phòng ở Thanh Phong lâu không tốt lắm, nhưng cũng chẳng có ai đến bàn chuyện cơ mật ở nơi này cả, giọng hai người nói chuyện trong phòng bên canh không to lắm nhưng đối với những người luyện võ tai mắt nhanh nhạy như Địch, Hầu thì lại nghe thấy rất rõ ràng.

Trước đó hai người họ đã nói gì Địch Vịnh không để tâm, nhưng không ngờ bọn họ lại nói tới chuyện Đường mạnh, Tống yếu.

Luận điểm này cũng lưu truyền nhiều trong các phố, triều Tống tự do ngôn luận nên luôn có người cứ lợi dụng điểm này. Chỉ là sau khi thái tổ hoàng đế dùng tiệc rượu tước binh quyền, địa vị của võ tướng giảm đi rất nhiều, đây cũng là nguyên nhân chính khiến cha của Địch Vịnh là Địch Thanh bị chèn ép dữ dội dẫn tới kết thúc cuộc đời trong uất ức.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Mỗi đêm, bạn sẽ bị mất 1kg, nếu bạn làm điều này trước khi ngủ!

Rất nhiều người đang đặt mua chiếc Rolex bản sao giảm giá đến 90%

(Tiệc rượu tước binh quyền: xin xem lại chương"Rìu Thiên Việt", "Tiệm đồ cổ Á Xá" tập 3)

Rất nhiều người cho rằng, triều Tống bây giờ không thể bì được với triều Đường binh hùng tướng mạnh. Hôm nay đúng lúc gã chủ tiệm đồ cổ trả lại tiền Vô Bội của phụ thân chế tác, Địch Vịnh mới có cảm giác uất ức khó nói ra, muốn nghe xem những người khác đánh giá thế nào.

Chỉ nghe thấy giọng một người không thể kiềm chế nổi mà đập bàn: "Đại Tống nhu nhược đã lâu, đánh trận không thắng nổi, cho dù có thắng cũng phải bồi thường, rõ là một quãng lịch sử ô nhục của dân tộc! Lục Tử, sao cậu lại chỉnh la bàn về thời đại này? Nhìn đã thấy tức giận!".

Bàn tay đang giữ cốc trà của Địch Vịnh nổi gân xanh. Câu này dù không phải nói trước mặt chàng nhưng chàng lại có cảm giác như bị người ta tát cho một cái, hai má đau điếng.

Lúc này phòng bên cạnh lại vang lên một giọng nói trầm ấm điềm tĩnh khác: "Đánh nhau? Chủ yếu xem xem đánh nhau vì cái gì. Đám người ngoại tộc kia ra sức một trận cũng chẳng qua vì muốn giành được gốm sứ, tơ lụa, lá trà của Trung Nguyên, mở cửa giao lưu thị trường là có thể giải quyết vấn đề này. Không chết ai, lại cổ thể trao đổi gốm sứ, tơ lụa lá trà, vậy còn ai đánh nhau nữa? Giống như thương nhân mở cửa hàng sẽ có bọn lưu manh tới thu phí, anh đưa tiền cho tôi hay đợi bọn lưu manh đập tan tành cửa hàng của anh ra rồi mới đưa tiền? Anh không thể giết sạch đám lưu manh kia, vì thế chỉ cần không phải cá chết lưới rách, thì biết sẽ phải làm thế nào để đưa ra lựa chọn".

Địch Vịnh nghe xong sững sờ cả người, chàng đúng là không hề suy nghĩ từ góc độ này. Nhưng suy nghĩ từ đại cục thì đúng là như vậy.

Thời Hán Vũ Đế nhờ nền chính trị thịnh vượng thời Hán Văn đế và Hán Cảnh đế nên quốc khố dư dả, quân phí đại chiến Hung Nô cũng được cấp dồi dào, thuế góp chinh chiến hàng năm cũng khiến bách tính dân thường hao tài tốn của, vô cùng cực khổ, ngay cả Hán Vũ Đế đến những năm cuối đời cũng từng hối hận.

Hơn nữa dân tộc du mục kia quả thực khó mà vây bắt sạch sẽ, giống như người này nói, thương gia vốn không có thực lực tuyệt đối để đám lưu manh biến mất, hơn nữa đáng sợ hơn là cho dù có giải quyết được đám lưu manh này thì vẫn còn đám tiếp theo.

Giọng nói trầm ổn kia lại tiếp tục vang lên: "Thực ra các triều đại quan trọng nhất là kinh tế, về đại thể chỉ cần bách tính có thể ăn no uống no thì sẽ không có xuất hiện động loạn liên tiếp. Ví dụ Tần Thủy Hoàng sửa Trường Thành, tôi tính bởi vì ông ta tính toán rằng, tiền phí sửa Trường Thành còn tiết kiệm hơn phí nuôi quân, hơn nữa còn không có hiểm họa binh quân trong tay không phục, tại sao lại không làm? Nhưng quân thần triều Tống lại phát hiện ra cách tiết kiệm hơn, không cần tu sửa Trường Thành, nộp phí bảo vệ là xong".

"Minh ước Thiền Uyên được ký kết thời Chân Tông, triều Tống mỗi năm cho Khiết Đan ba mươi vạn quan tiền. Nghe thì thấy nhiều, nhưng anh có biết quốc khố triều Tống thu nhập bao nhiêu không? Triều Tống lúc này mỗi năm thu nhập nhẹ nhàng cũng cả trăm triệu quan, ba mươi vạn quan tiền chỉ tương đương 0,3% thu nhập tài chính một năm thôi, Tống Chân Tông chỉ để lọt qua kẽ tay một chút tiền tiêu vặt là có thể dẹp được đám ăn mày, vậy còn ai không bỏ tiền ra mua bình an chứ? Chúng ta có thiếu tiền đâu!".

"Hơn nữa, triều Tống bồi thường chỉ muốn đưa bạc trắng và vải lụa, từ trước tới giờ không lấy tiền đồng làm đồ bồi thường, thậm chí còn hạn chế tiền đồng lưu thông ra ngoài. Bởi vì triều Tống thiếu đồng, giá trị của tiền đồng không theo kịp với giá trị của nguyên liệu đồng, cuối cùng lạm phát ngân phiếu dẫn tới lạm phát kinh tế, thực ra sau này triều Tống bị sập do nguy cơ kinh tế. Vì thế học kinh tế thực sự rất quan trọng...".

Địch Vịnh ngồi nghe rất chăm chú, những cách nói này cho dù hàng ngày chàng được nghe triều ở điện Thùy Củng rồi nhưng vẫn cảm thấy rất mới mẻ, nói gì tới trong đó còn có rất nhiều từ mới chàng nghe không hiểu. Chỉ là... sập? Giang sơn triều Tống đang rực rỡ thế này, người kia đang nói linh tinh gì thế?

Đôi mày đẹp của Địch Vịnh chau lại, chàng đứng dậy. Mặc dù chàng cảm thấy đối phương nói rất có lý nhưng lại có cảm giác lý thuyết suông xa rời thực tế, trong chốc lát chàng không nắm bắt được thứ suy nghĩ này, chỉ muốn kết giao với hai vị nhân huynh đó. Bọn họ có thể nói chuyện với nhau, ví dụ làm sao bọn họ biết được thông tin cơ mật như số liệu thu nhập tài chính cụ thể. Ví dụ lạm phát kinh tế là cái gì, nguy cơ kinh tế là cái gì. Làm sao mà triều Tống sẽ sập....

Hầu Phương Kiệt cùng nghe cao luận của hai vị nhân huynh kia nhưng chỉ thấy mới mẻ thôi, thấy Địch Vịnh sầm mặt bước đi cũng vội đuổi theo. Vị huynh đệ này của mình bộ dạng sắp đi báo thù đến nơi, ăn nói không hợp nhau là đánh thẳng tay luôn.

Chỉ là sự lo lắng của Hầu Phương Kiệt có phần thừa thãi, Địch Vịnh bảo người hầu gõ cửa bước vào thì nghe thấy một tiếng thở dài của người hầu.

Trên chiếc bàn vuông trong phòng kín có mấy đĩa đồ ăn sáng đã ăn được kha khá, nửa bát nước đậu còn thừa vẫn đang bốc khói, nhưng không thấy nửa bóng người bên bàn.

Địch Vịnh chau mày, đây chính là phòng bên cạnh phòng của chàng, lúc chàng bước sang đây hoàn toàn không nghe thấy tiếng bước chân rời đi, rốt cuộc chuyện này là sao? Cửa sổ trong phòng được đóng ngay ngắn, nếu bọn họ nhảy từ tầng ba xuống thì bên dưới chắc chắn đã vang lên tiếng la hét từ lâu rồi.

Lúc này bên tai chàng vang lên giọng nói đáng thương của người hầu: "Hầu thiếu gia, ngài có quen hai người này không? Bọn họ vẫn chưa trả tiền!".

Một bàn đồ ăn sáng cũng không đáng bao nhiêu tiền, Hầu Phương Kiệt cũng có chút quen biết với đám người hầu này, cậu đành chấp nhận, ngoan ngoãn đưa tay vào túi vừa lấy tiền ra vừa lẩm bẩm: "Thiếu gia ta đây không có bạn bè nào ăn bữa bá vương thế này đâu, mà thôi, vì mấy lời bàn luận kia, chút tiền này không là gì cả. Thiếu gia ta coi như cho ăn mày. Ta cũng đâu có thiếu tiền".

3

Ở đế đô, con cháu gia đình quan lại nếu không phải những kẻ ăn chơi không cầu thăng tiến, vậy thì chỉ có hai con đường văn, võ để lựa chọn. Nếu lựa chọn làm quan văn, không có học thức thì nhờ quan hệ để mua chức quan; có học thức thực sự thì vào nhà thái học, thi khoa cử, vào Hàn lâm viện. Nếu lựa chọn làm võ tướng vậy thì đi theo những con đường như làm thị vệ ở điện tiền, rèn luyện trong quân đội, phong quan. Địch Vịnh nhờ bóng phụ thân mình là Vũ Tương Công, vốn có thể có số má trước mặt hoàng đế, làm vài năm ở ngự tiền là có thể được điều vào cấm quân rèn luyện, lấy chút danh tiếng là có thể kết thân với quận chúa rồi.

Nhưng Địch Vịnh lại xin ra vị trí tiền tuyến nhất của Tây Bắc.

Nếu chàng đã dám thỉnh cầu, hoàng đế đương nhiên sẽ đồng ý. Huống hồ mặc dù Vũ Tương Công Địch Thanh chết có phần uất ức, nhưng đối với đương kim thánh thượng mà nói, ông cũng là nhân vật hoàng đế sùng bái thời niên thiếu nên sớm đã hạ lệnh khi tiên hoàng chết sẽ dời mộ Vũ Tương Công về tùy táng ở lăng Vĩnh Hậu. Được hậu ái như thế này đương nhiên cũng có cái nhìn khác về Địch Vịnh con ông.

Vì vậy Địch Vịnh thuận lợi đến thành Hoàn Châu trong ánh mắt khó hiểu của người trên người dưới ở Biện Kinh.

Đường Hoàn Khánh thống lĩnh Khánh Châu, Hoàn Châu, Mân Châu, Ninh Châu và Càn Châu; lấy Khánh Châu là trung tâm, Hoàn Châu ở phía Tây Bắc của Khánh Châu, có thể nói nơi đây là điểm đầu tiền tuyến đối mặt với Tây Hạ. Đường Hoàn Khánh trước đây từng được Chủng Thế Hoành, Phạm Trọng Yêm bố trí tỉ mỉ, lớn nhỏ tổng cộng có mười thành trì và sơn trại phối hợp lẫn nhau, nhìn rất kiên cố không gì phá vỡ nổi. Nhưng Địch Vịnh tới đây quan sát kỹ càng, càng tìm hiểu càng thấy kinh sợ.

Minh ước Thiền Uyên đã giúp hai nước Tống Liêu không chiến tranh hơn một trăm năm, nhưng tên đại lưu manh Liêu quốc được dẹp yên như vậy, Tây Hạ vùng lên sau này đương nhiên không chịu lạc hậu. Trước khi Phạm Văn Chính Công - Phạm Trọng Yêm nhậm chức Thiểm Tây kinh lược phủ an chiêu thảo phó sứ, quân Tống và quân Tây Hạ trước sau đã đánh nhau mấy trận ở Tam Xuyên Khẩu, Hảo Thủy Xuyên, quân Tống đều bị quân Tây Hạ đánh cho không còn mảnh giáp, thương vong nặng nề. Mặc dù bây giờ đã tốt hơn trước rất nhiều nhưng sau khi Phạm Văn Chính Công đi, không ai có thể cứu vãn được tình hình quân Tống rệu rã cả.

Đúng thế, ai còn muốn đánh trận chứ? Cùng lắm thì bồi thường chút tiền thôi.

Địch Vịnh đứng trên tường thành ở Thanh Bình Quan, nhìn cát vàng đang cuộn lên phía chân trời, gần như đã che khuất mặt trời nhưng không thể nào chôn vùi được những lá cờ chiến bay phấp phới của hùng binh Tây Hạ ở ngoài thành.

Giờ này khắc này, Địch Vịnh bỗng dưng nhớ tới đoạn bình luận chàng nghe được ở Phong Thanh lâu, chợt cảm thấy vô cùng châm biếm.

Đúng thế, không có gì sai cả, đám tiền lẻ lọt qua kẽ tay quả thực có thể dẹp yên bọn ăn xin, nhưng về lâu về dài đám ăn xin được cho ăn đến béo ních đẫy đà, béo cũng béo rồi, muốn nhiều tiền hơn thì làm thế nào?

Địch Vịnh nhắm nghiền đôi mắt, bàn tay đang bám vào tường thành trở nên kiên định vững chãi hơn.

Cho đến bây giờ, chàng cũng không hề hối hận về lựa chọn của mình.

Hiện tại chàng đang ở biên cương Thanh Bình Quan, nơi đây phía đông cách sơn trại Quỷ Thông hai mươi lăm dặm, phía tây cách thành An Biên bốn mươi dặm, phía nam cách thành Hưng Bình ba mươi dặm, phía Bắc cách Hiểm Đạo Khẩu Bô hai mươi bảy dặm, là cứ điểm thành lũy quan trọng của thành Hoàn Châu. Nhưng lúc này, đại tướng Tây Hạ Nhân Đa Hãn dẫn đầu ba vạn người ngựa đánh giết tới đây, mà Thanh Bình Quan vẻn vẹn chỉ có ba nghìn người trấn giữ.

Cách đây một khắc, chàng đã dẫn binh sĩ đánh lùi đợt tấn công đầu tiên của đối phương, nhưng Địch Vịnh biết, đó chỉ là màn thăm dò mà thôi. Lần sau, quân địch sẽ vung Liêu đao sắc bén sáng quắc, chứ không dễ dàng đẩy lùi như bây giờ.

Hầu Phương Kiệt nhét kiếm vội vàng đi tới, ngoắc tay Địch Vịnh kéo về phía sau, miệng lo lắng làu bàu: "Tư Đào, tường thành này vốn không cao, huynh đứng đó nếu như bị tên bắn coi như xong đời rồi". Nói đây là tường thành vẫn còn quá khoa trương, theo như Hầu Phương Kiệt thấy đây chỉ là ụ đất nhỏ, ngay cả Thanh Phong lâu còn cao hơn đây.

Nghĩ tới đây Hầu Phương Kiệt lập tức nổi giận, không đến biên cương thì không biết, đến rồi mới biết nơi đây lạc hậu tới mức nào. Cậu cũng không phải chưa từng hối hận chỉ vì kích động trong giây lát nên đòi đi theo Địch Vịnh tới đây, nhưng trong gia tộc của mình cậu chỉ là con của người vợ lẽ không có gì nổi bật, muốn nổi bật hơn người quả thực không còn nơi nào có thể kiến công lập nghiệp nhanh hơn chiến trường.

Mọi thứ đều có nguy hiểm, muốn được báo đáp nhiều hơn thì phải có sự chuẩn bị tâm lý trả giá bằng tất cả.

Vì vậy Hầu Phương Kiệt nhìn thông mọi thứ, trước khi chết có thể giết được mấy tên Tây Hạ tùy táng, như thể cũng không uổng phí cả đời này. Chỉ là cậu liếc mắt nhìn Địch Vịnh không chút biểu cảm đứng bên cạnh, thầm than một tiếng đáng tiếc. Địch tiểu soái ca nổi danh cả triều Tống này đang đứng thẳng như một cây giáo dài, vì trận chém giết trước đó khiến sát khí đang bao quanh chàng, nửa bên áo giáp bị máu kẻ địch nhuộm đỏ, ngay cả khuôn mặt tuấn tú cũng dính vài giọt máu. Thậm chí có một giọt máu còn bắn vào khóe mắt chàng, càng làm tăng thêm vẻ sát khí lạ lùng khó diễn tả bằng lời. Nếu để đám thiếu nữ tặng trâm hoa mà biết Địch tiểu soái ca bị thương tổn ở đây khéo cả thành Biện Kinh sẽ bị nhấn chìm trong nước mắt mất.

Trái tim Hầu Phương Kiệt rất rộng mở, cho dù vào lúc tồn vong nguy cấp đầu óc vẫn có thể tưởng tượng miên man. Bỗng nhiên lúc này nghe thấy Địch Vịnh gọi mình một tiếng "Giới Thịnh", Hầu Phương Kiệt lập tức nghiêm túc trở lại, Địch Vịnh rất ít khi gọi tên tự của cậu, bởi vì bình thường đều là cậu nói chuyện, Địch Vịnh vốn chẳng hề tiếp lời.

Thấy Địch Vịnh lấy tấu sớ đã viết sẵn trong áo giáp ra, trầm giọng nổi: "Giới Thịnh, huynh cầm tấu sớ của ta tới thành Khánh Châu cầu viện".

"Huynh đi! Ta ở lại giữ thành!" Hầu Phương Kiệt nói ngay không cần suy nghĩ.

"Huynh giữ thành? Huynh có thể cầm cự tới lúc ta dẫn quân cứu viện về không? Hơn nữa làm gì có chủ tướng nào rời đi lúc lâm trận?". Trong đôi mắt phong nhã của Địch Vịnh lộ ra nét cười hiếm có: "Khánh Châu của đường Hoàn Khánh tiếp giáp với Hoàn Châu, nếu Hoàn Châu thất thủ, Khánh Châu cũng gặp nguy. Thanh Bình Quan đang bị bao vây, e rằng thành An Biên, lũy La Câu, lũy A Nguyên, lũy Chu Đài đều đã đắm chìm, vì vậy huynh buộc phải đi thẳng tới thành Khánh Châu, hiểu không?".

Thật là khó khăn lắm mới nghe thấy tên tiểu tử này nói một hơi nhiều lời như vậy, Hầu Phương Kiệt chau mày nhưng không nhận tấu sớ mà phản biện: "Nếu ta tới lũy Thông Quy, lũy Huệ Đinh cầu viện thì sao? Gần hơn nhiều so với đi thành Khánh Châu".

"Mấy nơi đó có được bao nhiêu binh sĩ? Liệu có ai bỏ thành lũy của mình đến nơi này cứu viện?". Địch Vịnh hướng tầm mắt về đại quân Tây Hạ phía xa xa, giờ đúng lúc ngừng chiến nghỉ ngơi, binh sĩ hai bên đều rất hiểu nhau không ai công kích mà thu dọn thi thể binh sĩ bỏ xác trên chiến trường thuộc về bên mình.

Địch Vịnh kế thừa truyền thống luyện binh của phụ thân, binh lính dày công rèn luyện đương nhiên sẽ mạnh hơn quân đội bình thường, chỉ là thời gian chàng tới thành Hoàn Châu chưa dài, nên đám binh lính này tuyệt đối không thể lấy một địch mười được. Ánh mắt Địch Vịnh kiên định, ngữ khí sắc bén: "Hầu phó tướng, không nên lãng phí thời gian nữa, đi chọn hai mươi người, phi ngựa nhanh tới thành Khánh Châu".

Nghe thấy bạn thân thay đổi cách xưng hô, Hầu Phương Kiệt mím chặt môi, biết nhiệm vụ này mình không nhận không được. Quân lệnh như sơn, cậu là phó tướng của Địch Vinh, đương nhiên không thể kháng lệnh.

Địch Vịnh thấy Hầu Phương Kiệt đón nhận tấu sớ xong, lại lấy ở thắt lưng ra một con hổ bằng gốm Ni Hưng Khâm Châu vừa trong lòng bàn tay, bình thản nói: "Huynh giữ hộ ta thứ này, ta sợ lúc chiến đấu giữ thành sẽ làm vỡ mất".

Hầu Phương Kiệt thờ ơ cầm lấy, cậu đã sớm biết huynh đệ mình lúc rời kinh thành ở thắt lưng đã có thêm con hổ gốm vui vẻ này, còn tưởng là cô nương nhà nào tặng nữa, còn từng trêu đùa không ít lần. Bây giờ thấy Địch Vịnh vào lúc này còn nhớ tới thứ này, Hầu Phương Kiệt đoán chắc vật này do người khác tặng. Có điều giờ phút này cậu cũng không có tâm trạng trêu đùa, cậu tùy ý đút vào trong kính hộ tâm, hỏi lại với vẻ không yên tâm: "Đồng tiền Vô Bội đâu? Huynh có đeo bên người thường xuyên không đấy?".

Chuyện này có tiền lệ sẵn, Diện Niết tướng quân Địch Thanh đã từng đem tiền Vô Bội chia cho thuộc hạ, Hầu Phương Kiệt sợ Địch Vịnh đầu óc đơn giản, đem bảo bối ấy tùy tiện tặng người khác. Mặc dù thật giả chưa bàn đến, nhưng xét cho cùng vẫn là mong an tâm.

Địch Vịnh lôi một sợi dây đỏ trong cổ ra, bên dưới đeo đồng tiền Vô Bội. Hầu Phương Kiệt thấy chính là đồng Hoàng Tống cửu điệp triện mới yên tâm. Thời cơ chiến đấu thay đổi trong chốc lát, cậu không phí lời thêm nữa mà lên trước ôm chặt Địch Vinh, áo giáp hai người va vào nhau thành tiếng lẻng xẻng, sau đó nghiến răng quay đầu ra đi, đi chọn binh sĩ phá vòng vây chuẩn bị tất cả mọi chuyện.

Mặc dù hai người đã tranh luận một hồi về việc ai ở ai đi, nhưng chuyện phá vòng vây là một việc vô cùng nguy hiểm. Tiểu đội hai mươi người vốn chỉ như một đàn kiến nhỏ trên chiến trường, phải xem đối phương có chịu mắt nhắm mắt mở hay không mà thôi.

Địch Vịnh đứng trên tường thành cũng ngẩn ngơ một hồi, sau đó thong thả gọi thuộc hạ tới, bố trí làm thế nào để chống lại đợt tấn công tiếp theo của Tây Hạ và quan trọng nhất là che chắn cho Hầu Phương Kiệt thoát khỏi vòng vây. Dùng binh thần tốc, rất nhanh chóng đã thương thảo xong mọi chuyện chúng quân đợi sẵn ở trong cửa thành, Hầu Phương Kiệt ngồi lên ngựa đội sẵn mũ giáp, tiện tay đưa cho Địch Vịnh một chiếc mặt nạ quỷ bằng đồng xanh.

"Này, ta tìm được trong hành lý của huynh. Đây là mặt nạ của Vũ Tương Công à? Đội vào đi, uy danh của Vũ Tương Công cũng được lưu truyền rộng rãi với người Tây Hạ, ít nhiều cũng có thể trông cậy".

Hầu Phương Kiệt nheo mắt cười, chẳng hề có chút căng thẳng khi sắp đối mặt với sinh tử, tùy ý như đang thảo luận với Địch Vịnh hôm nay đi đâu ăn cơm ở thành Biện Kinh vậy. Cậu tin rằng sinh tử có số trời định, quá lo lắng và băn khoăn đều là thứ cảm xúc thừa thãi, cứ cố gắng hết sức mình, không buồn không hối hận là xứng đáng rồi.

Cho dù là Địch Vịnh cũng không thể không phục sự bình tĩnh phóng khoáng lúc nào của bạn thân, chàng im lặng đón lấy mặt nạ đeo lên mặt, cũng giấu luôn sắc mặt của mình đằng sau tấm mặt nạ ấy.

4

Bên ngoài thành vang lên tiếng trống chiến đấu đinh tai nhức óc.

"Giết!" Theo tiếng la hét là cửa thành hé mở một nửa, Địch Vịnh phi ngựa dẫn đầu xông lên.

Trong cát vàng bay mù mịt là từng đám khói đen ngùn ngụt, xộc vào mũi đều là thứ không khí mang theo mùi máu tanh, bên tai vang lên đều là những tiếng chém giết và tiếng kêu thảm thiết trước khi chết, đây giống như cơn ác mộng vĩnh viễn không thể nào thức tỉnh được.

"Hự...... ", Địch Vịnh chỉ cảm thấy phổi mình như sắp nổ tung đến nơi, bao nhiêu lâu rồi chàng chưa uống nước? Đã ba canh giờ chưa? Hay là năm canh giờ rồi?

Vầng thái dương bị mây đen che kín đã nhú trở lại, Địch Vịnh hơi hoảng loạn vì ánh mặt trời khúc xạ trên đao kiếm, không thể nào kiềm chế được nên nhắm nghiền mắt lại, dường như cơn gió cuồng loạn thấu xương vang lên bên tai, chàng nghiêng người theo phản xạ, tay phải cầm đao vung mạnh một cái. Kèm theo đó là tiếng lưỡi đao sắc lẹm đâm vào cơ thể người, đối phương rú lên một tiếng, Địch Vịnh giơ chân đạp mạnh một cái, đạp đối phương bay xuống dưới tường thành.

"Hự...", thực sự không muốn mở mắt ra, cứ muốn chìm vào bóng tối như thế này, bao nhiêu lâu rồi chàng chưa ngủ? Một ngày? Hay là hai ngày?

Một mũi tên có đầu bằng lông vũ xé gió lao lên từ phía dưới tường thành, Địch Vịnh nghiêng đầu tránh được mũi tên đó, chật vật mở mắt ra. Mũi tên đâm vào đống cỏ phía sau lưng chàng, ngay lập tức có binh sĩ rút mũi tên ra, lên dây cung bắn mũi tên đó trở lại.

Vũ khí của bọn họ đã cạn kiệt, chỉ có thể dùng cách này để duy trì chiến đấu. Dùng đao của người Tây Hạ, tên của người Tây Hạ, chỉ cần có thể chiến đấu thì không chịu dễ dàng ngã xuống.

Tường thành Thanh Bình Quan đã tan nát không còn gì, những binh sĩ còn cố sức đứng dậy chiến đấu đều đang huyết chiến với đám quân Tây Hạ đang trèo lên. Địch Vịnh đã không nhớ nổi đây là lần thứ mấy chống đỡ đợt tấn công của quân Tây Hạ nữa, đám quân Tây Hạ này giống như châu chấu giết mãi không hết, giết chết loạt này lại có loạt khác ùn ùn kéo đến.

Chiếc mặt nạ vốn đeo trên mặt không biết đã bị quân địch chém bay từ lúc nào, thậm chí đối phương còn để lại một vết đao trên má chàng.

Xem ra bản thân mình thực sự hủy hoại thanh danh của phụ thân rồi, ngay cả một chiếc mặt nạ cũng không bảo vệ nổi.

Có điều, tại sao phải dùng mặt nạ chứ?

Trên chiến trường thực sự chẳng có ai kịp để tâm tới đối phương trông như thế nào.

Không biết mình đã giết ai, hoặc là, không biết ai đã giết mình.

"Hự...", Địch Vịnh lần nữa chém bay một tên Tây Hạ, bản thân suýt chút nữa bị đối phương lôi xuống dưới thành. Chàng chỉ cảm thấy đôi tay mình tê liệt sắp không thuộc về mình nữa, khắp người đâu đâu cũng là vết thương đao kiếm, hoàn toàn gắng gượng nhờ hơi thở. Thanh đao trên tay đã cong lưỡi, chàng cúi người nhặt thanh loan đao của quân Tây Hạ lên, ngẩng đầu nhìn tình hình bốn phía xung quanh.

Ba nghìn binh sĩ trong tay bây giờ có thể đứng trên tường thành chưa đầy một trăm người.

Địch Vịnh thở một hơi sâu, chàng sớm đã đoán được chiến sự sẽ phát triển tới bước này, vì thế cũng không có quá nhiều cảm xúc. Cũng may trước đó Hầu Phương Kiệt đã thoát được vòng vây, chàng cũng yên tâm phần nào. Nếu như cậu bạn thân thông minh thêm chút nữa, chàng không có cách nào lừa cậu ta thuận lợi như vậy.

Khánh Châu cách Hoàn Châu hơn hai trăm dặm, khi Hầu Phương Kiệt đi mỗi người mang theo hai con ngựa để thay đổi, nếu thuận lợi nửa ngày có thể tới thành Khánh Châu. Nhưng khó ở chỗ, thành Khánh Châu có chịu phái quân cứu viện hay không?

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Hơn nữa Hoàn Châu có nhiều thành lũy sơn trại gần nhau bị chiếm đóng, quân cứu viện ít ỏi thì chẳng khác nào tìm đến cái chết. Nếu phái cả đoàn cứu viện đi nhỡ may trúng kế điệu hổ ly sơn của đối phương... Khác với Hoàn Châu, thành Khánh Châu là nơi biên cương trọng yếu, một khi thất thủ quân Tây Hạ có thể men theo đường Hoàn Khánh đánh thẳng tới Biện Kinh, thì Đại Tống sẽ gặp nguy.

Vì thế, từ giây phút phát hiện quân Tây Hạ, Địch Vịnh đã biết mình phải đối mặt với một trận tử chiến.

Chàng lệnh cho Hầu Phương Kiệt thoát vòng vây không chỉ vì sự riêng tư của mình muốn bảo toàn tính mạng cho bạn thân, mà quan trọng hơn là muốn để cho thuộc hạ binh sĩ niềm tin và hy vọng. Bọn họ cầu viện rồi, có thể lúc sau sẽ có quân cứu viện tới giúp đỡ, vì thế chỉ cần bọn họ có thể kiên trì tiếp tục kiên trì thêm chút nữa....

Mỗi người đều ôm hy vọng đẹp đẽ như vậy, Địch Vịnh lại không hề thấy hối hận vì đã lừa gạt thuộc hạ.

Trái phải đều là chết, vậy thì lựa chọn chiến đấu đến giây phút cuối cùng hay cúi đầu cầu xin tha mạng rồi vẫn chết?

Tại sao không chết một cách có ý nghĩa?

Tại sao không có ai ý thức được rằng Đại Tống đang rơi vào tình cảnh nguy hiểm như thế nào?

Tại sao không ai cảm nhận được đám hổ sói xung quanh đều đang giương đôi mắt rực lửa bao vây chúng ta?

Tại sao không ai biết rằng bọn họ đang ngồi trên một chiếc thuyền hoa vừa nguy hiểm lại thủng lỗ chỗ? Đang từ từ chìm xuống đáy biển, mà đám người ngồi trên ấy vẫn đang vui vẻ uống rượu hát ca vô ưu vô lo?

Trong lồng ngực phừng phừng lửa giận, Địch Vịnh lần nữa vác đao chém bay tên lính Tây Hạ vừa trèo lên tường thành, bây giờ chàng chẳng còn phong thái của đệ nhất mỹ nam Đại Tống như trước đây nữa, khắp người đầy máu tươi, giống như ác quỷ bò lên từ âm phủ.

Cơ thể đang tuân theo bản năng cứ chém từng đao, nhưng trong đầu lại hiện lên lời nói khiến chàng để tâm từ lâu.

Bỏ tiền mua bình an...

Không phải chàng không tán đồng quan điểm của người đó, góc độ nhìn vấn đề của mỗi người khác nhau, có lẽ người ấy đã sống quá lâu trong thời thanh bình nên đã quên mất dưới mặt hồ phẳng lặng là những cơn sóng ngầm hung hãn. Không chỉ có người đó, mà nhiều người ở thành Biện Kinh đều tưởng rằng thế gian này ca múa thanh bình, quốc thái dân an.

Chim trên trời đang cất tiếng véo von, vui vẻ nô đùa trong rừng làm sao có thể biết được bầy sói trong rừng dưới chân họ đang tranh đấu đời đời để giành lấy địa bàn chính là khu rừng này.

Rừng xanh đổi chủ, chim muông cầm thú chọn cây mà ở lại, nhưng đám sói cô đơn đã mất đi nhà của mình chỉ cần máu còn chảy trong huyết quản đều không muốn thoi thóp trên đời này!

Chàng nhất định phải bảo vệ lãnh thổ Đại Tống! Nếu không từ nay về sau bản đồ Đại Tống càng ngày càng nhỏ, cuối cùng diệt vong...

A... Phật Tổ ơi... con nguyện hiến tế sinh mạng của con... nếu ngài nghe thấy tiếng khẩn cầu của con... hy vọng ngày ấy đừng đến quá nhanh...

Sợi dây đỏ đã đứt, Hoàng Tống cửu điệp triện trên cổ Địch Vịnh lượn một đường cong hoàn mỹ trên không rồi rơi từ tường thành xuống vũng bùn, nẩy lên hai cái cuối cùng nằm lặng lẽ giữa vũng máu.

Ánh nắng chính ngọ chiếu trên mặt đồng tiền, không có bất cứ chữ triện nào cả.

Là mặt sau...

Gió nổi lên, mang theo cát vàng bụi mù khắp trời, cuối cùng từng hạt từng hạt cát phủ lên đồng tiền xu, chôn vùi nó...

Niên hiệu Trị Bình năm thứ ba, tháng Chín, năm Nhâm Ngọ, đại tướng Tây Hạ Nhân Đa Hãn dẫn ba vạn tinh binh công phá thành Hoàn Châu, tấn công rất lâu nhưng không hạ được. Con trai Vũ Tương Công - Địch Vịnh huyết chiến ba ngày, ba nghìn binh sĩ chống lại hơn vạn quân Tây Hạ, cuối cùng vì tường sập mà chiến bại. Ba nghìn quân không ai lùi bước, một lòng hy sinh cho tổ quốc. Trận huyết chiến chưa từng có trong hơn một trăm năm qua, khắp nước đều chấn động.

Di tấu của Địch Vịnh truyền tới Biện Kinh, chín chữ viết nên huyết thư. Mặc dù dẫn lại danh ngôn của Hán Vũ Đế nhưng vẫn vô cùng khí phách!

"Phạm ngã Đại Tống giả, kỳ viễn tất tru!"

"Kẻ nào phạm Đại Tống ta, dù xa đến mấy cũng đuổi cùng giết tận!"

5

Nhiều năm sau, Hàu Phương Kiệt đã già cả đang nằm nghỉ ngơi trong sân, đứa cháu trai mới năm tuổi tới, nâng vật trong tay lên như muốn tặng bảo vật.

"Ông ơi, ông ơi! Ông nhìn này, bên trong con hổ gốm lại có một đồng tiền xu!". Đứa cháu nói đến đây mới nhớ ra con hổ gốm là bảo bối vô cùng quý giá của ông nội, nên vội vã phân bua: "Là do đệ đệ không cẩn thận lúc lấy trong hộp ra, không cầm chắc đã đánh rơi xuống đất vỡ rồi...".

Đứa bé không nói tiếp nữa bởi vì ông nội đã giật lấy con hổ gốm trong tay cậu, sững sờ nhìn đồng tiền xu bên trong con hổ gốm đã vỡ làm đôi.

Đứa trẻ khóc ầm ĩ một hồi, thấy ông nội yêu quý mình nhất lần này không quan tâm tới mình nữa, đành lật đật chạy đi tìm cha mẹ.

Ánh dương những ngày trời thu đã không còn rừng rực nữa nhưng mồ hôi lại túa ra ướt đẫm toàn thân Hầu Phương Kiệt.

Lúc này ông mới biết tại sao năm đó khi mình phá vòng vây, rõ ràng cảm nhận được mình bị đao sắc chém vào nhưng sau khi thoát khỏi vòng vây lại phát hiện ra bản thân không hề có vết thương nào.

Hóa ra là như vậy... hóa ra huynh ấy sớm đã có lòng lấy cái chết để bảo vệ tổ quốc...

"Tư Đào...".

Lúc đứa bé kéo người lớn tới làm chỗ dựa, muốn giành lại con hổ gốm, thì phát hiện ra ông nội mình đã mãi mãi khép lại đôi mắt.

Đồng tiền xu vỡ đôi ấy nằm chặt trong lòng bàn tay ông.

Không ai có thể lấy ra được.

Quyển 4 - Chương 5: Ti Nam Tiêu

1

Năm 219 trước công nguyên, năm thứ hai mươi tám thời Tần Thủy Hoàng.

Hồ Hợi mới mười một tuổi đang ngồi sau án kỷ, cúi đầu nhìn một chiếc thìa gỗ đặt trên án, dưới chiếc thìa gỗ này còn có một miếng gỗ bóng loáng ở giữa, xung quanh khắc rất nhiều phương vị.

Hồ Hợi thử quay chiếc thìa, bất kể chiếc thìa quay mấy vòng, cán thìa vẫn cố định dừng lại ở một hướng. Hồ Hợi thấy thú vị bèn hỏi: "Phu tử, vật này là vật gì?".

Trong một góc khuất của điện có một bóng người cao lớn đứng thẳng, khuôn mặt đối phương ẩn trong bóng tối khiến người ta không nhìn rõ tướng mạo và biểu cảm. Chỉ nghe thấy người đó nói đều đều: "Vật này gọi là Ti Nam, thìa gỗ thì gọi là tiêu, bên trong tiêu có nam châm, phần cán của Tỉ Nam, luôn chỉ về phía nam". Giọng người này trầm thấp nhưng hơi chói, cộng thêm cố ý nhấn nhá để giữ một giọng điệu không cao không thấp, khiến người khác nghe thấy vô cùng khó chịu.

Hồ Hợi đã quen với giọng điệu của đối phương, hắn chỉ cảm thấy ánh dương bên ngoài chiếu vào trong điện hơi chói mắt, nên nheo đôi mắt lại lẩm bẩm: "Ti Nam Ti Nam, Ti nghĩa là nắm quyền gánh vác, phương Nam không phải chỉ phương hướng bình thường, Ti Nam... nhưng chiếc thìa gỗ này vốn đâu phải chỉ về phía nam, mà là phía đông... phu tử, Ti Nam tiêu này chắc chắn không phải là đồ vật bình thường?".

Mặc dù Hồ Hợi tuổi còn nhỏ nhưng hắn cũng biết phu tử không hay bắt chuyện này chủ động mang món đồ tới trước mặt hắn chắc chắn không phải vật tầm thường. Mặc dù chiếc thìa gỗ màu vàng đất nhìn bình thường không có gì đặc biệt chỉ là cực kỳ bóng bẩy, sáng láng, nhìn một cái là biết đã có niên đại rất lâu.

"Thiên "Thuyết quái", sách "Chu dịch" viết: "Thánh nhân ngồi quay mặt về phương Nam mà nghe cả thiên hạ", từ cổ đã coi cửa hướng Bắc, lưng hướng Nam, từ xưa thiên tử chư hầu gặp quần thần hoặc khanh đại phu gặp quan cấp dưới, đều ngồi mặt hướng về phía Nam".

Triệu Cao nói tới đây liền ngừng lại, đôi mắt gian tà quyến rũ ẩn giấu trong bóng tối lóe sáng lên loang loáng, mới bình thản nói tiếp: "Ngôi đế quay mặt về hướng nam, cổ đại gọi là đế vị. Món Ti Nam tiêu này do vương cung nước Triệu thu được, người khác cho rằng vật này đã mất linh thiêng, nhưng thần lại cho rằng vật này chỉ vào vị trí của đế quân".

"A! Hèn gì cán thìa chỉ về phía Đông". Hồ Hợi vỗ tay cười lớn, bởi vì phụ hoàng Tần Thủy Hoàng của hắn đang đi Thái Sơn tuần tra phương Đông, làm lễ phong thiện tế trời đất, chính là hướng Đông. Hồ Hợi gảy chơi Ti Nam tiêu trước mặt không chịu buông tay, ngây ngô ngẩng đầu lên hỏi: "Phu tử, tại sao không dâng vật này lên phụ hoàng?".

Khóe môi Triệu Cao từ từ nhếch lên nở nụ cười nhạt trong bóng tối, giọng điệu vẫn đều đều: "Bệ hạ cầu thuốc trường sinh bất lão, đâu có thể cho phép vật này tồn tại? Nếu có một ngày Ti Nam tiêu không chỉ về bệ hạ nữa mà chỉ về phía một trong những huynh đệ của công tử, vậy thì phải làm sao?".

Bàn tay Hồ Hợi đang quay chiếc thìa chợt dừng lại, chiếc thìa gỗ quay mấy vòng trên miếng gỗ, vẫn dừng lại đúng hướng Đông không sai một li một tấc.

"Thần đã tra hết các điển cố, đoán rằng Ti Nam tiêu này có lẽ là đồ thuộc sở hữu của Thương Trụ vương. Chính vì ngày đó vật này thường chỉ về hướng Tây, Thương Trụ vương mới giam giữ Tây Bá Hầu Cơ Xương, giết con trưởng Bá Ấp Khảo. Chỉ là Thương Trụ vương vẫn không đủ nhẫn tâm, nên em trai Bá Ấp Khảo là Cơ Phát diệt Thương, sử sách gọi là Chu Vũ vương". Triệu Cao nói những lời này rất chậm, nhưng mỗi từ đều rất rõ ràng, đảm bảo có thể lọt vào tai Hồ Hợi không sót một chữ nào.

Tâm lý non nớt của Hồ Hợi nổi lên cơn lạnh đủ để gặm nhấm xương cốt, nhưng lại giống như bị ma nhập, cứ quay cái thìa gỗ trước mặt hết lần này tới lần khác...

"Vật này... không những có thể... chỉ hướng đế vị... mà còn..."

Hồ Hợi giật mình tỉnh giấc mộng, hắn ngây người nhìn trần nhà màu trắng, hồi lâu vẫn không tỉnh táo trở lại.

Rốt cuộc sau đó phu tử đã nói gì? Bất kể mơ tới cảnh tượng này mấy lần nhưng những lời về sau vẫn mơ hồ không rõ, cứ ngắt quãng không liền mạch... giống như đã lãng quên một chuyện vô cùng quan trọng vậy....

Xem ra, quả thực hắn đã ngửi mùi hương Nguyệt Kỳ quá lâu có thể ảnh hưởng tới mộng cảnh, càng ngày càng nhớ lại những tháng năm đã quá xa xôi trong hồi ức.

Bởi vì hắn thực sự không muốn tỉnh dậy.

Hồ Hợi chống người ngồi dậy, đôi mắt đỏ nhìn xung quanh căn phòng một lượt, quả nhiên vẫn giống như trước khi hắn chìm vào giấc ngủ, vẫn lạnh lẽo như vậy.

Lại một lần nữa, hắn bị hoàng huynh bỏ rơi.

Hắn lại một mình.

Cho dù đã nửa năm trôi qua, nhưng hắn vẫn không chịu chấp nhận sự thật này, mỗi ngày đều chìm trong hương Nguyệt Kỳ không thể dứt ra được.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người đen đủi hay nghèo khó sẽ đổi đời ngay lập tức nhờ điều này

Minh Hồng đang đậu trên giá quần áo ở đầu giường nhắm mắt ngủ say, có lẽ cũng vì mùi hương Nguyệt Kỳ nồng đậm trong phòng. Cũng không rõ cái thứ này có thể mơ thấy gì.

Hồ Hợi nghiêng đầu ngây ra một hồi lâu, mới đứng dậy dập tắt hương triện đang cháy, bật điều hòa lên để thay đổi không khí. Lúc mùi hương trong phòng bớt nồng hơn, con chim đỏ nhỏ cũng lắc lắc đầu tỉnh dậy. Nó dùng mỏ rỉa lông vũ, tự thấy không còn điểm gì để chê nó mới đập cánh bay lên, đậu ngay ngắn trên vai thiếu gia nhà mình, chủ động áp má mong được vuốt ve.

(Hương triện: một loại hương dùng bột hương nén thành hình chữ triện)

Hồ Hợi đưa tay vuốt lông chim mấy cái, lông vũ mềm mượt lướt qua ngón tay, cũng xoa dịu phần nào trái tim xốc nổi của hắn.

"Chỉ còn ngươi vẫn bên cạnh ta...". Hồ Hợi lẩm bẩm, đôi lông mày màu bạc cụp xuống che đi đôi mắt màu đỏ.

Con chim đỏ nghiêng đầu với bộ dạng dễ thương, thấy chủ nhân đi về phía bàn liền nhanh nhảu nhảy lên trước, dùng cái mỏ nhọn mổ cái thìa gỗ kỳ lạ trên bàn. Cái thìa gỗ không ngừng chuyển động trên miếng gỗ bóng bẩy, dường như không có ý định dừng lại.

Hồ Hợi sững người đứng bên cạnh bàn, từ lần đầu tiên khi hắn bắt đầu giấc mơ đó, hắn đã tìm lại Ti Nam tiêu từ trong cổ mộ. Nhưng Ti Nam tiêu căn bản không chỉ một phương hướng nào cả.

Có thể thời đại này đã không còn đế vương thực sự, cũng có thể chính là hoàng huynh đã hoàn toàn từ bỏ ý định xưng đế rồi. Đây cũng là nguyên nhân hoàng huynh mất tích sao?

Hồ Hợi nắm chặt bàn tay, hắn đã đợi nửa năm, thậm chí sợ hoàng huynh đột ngột xuất hiện ở cửa nhà nên nửa năm qua hắn rất ít khi rời khỏi đây, sợ bỏ lỡ mất.

Nhưng hình như, mọi thứ đều chỉ do hắn tự nguyện mà thôi.

Con chim đỏ đang hào hứng mổ Ti Nam tiêu, bỗng dưng thấy chủ nhân cầm cái ô đen bên cạnh rảo bước nhanh ra ngoài cửa. Nó vội vàng vỗ cánh đuổi theo trước khi cửa đóng.

Cả người cả chim đều không chú ý đến Ti Nam tiêu đang quay túc tắc trên bàn, đột nhiên tốc độ chậm dần rồi dừng lại...

2

Năm 218 trước công nguyên, năm thứ 29 thời Tần Thủy Hoàng.

Hồ Hợi trong bộ dạng thiếu niên đang một tay chống cằm, một tay tùy ý nghịch Ti Nam tiêu trước mặt, cảm thấy chẳng có chút ý nghĩa gì khi lần nào Ti Nam tiêu cũng dừng ở hướng Tây.

Phụ hoàng đã đi tuần ở phía Đông về, lúc này chắc đang ở noãn các xử lý chính sự, còn hoàng huynh hôm nay e rằng cũng không đọc sách trong thư phòng mà sẽ đi theo để ngồi nghe bên cạnh. Ngay cả phu tử cũng đang hầu hạ bên cạnh hoàng, giống như lần trước đi tuần ở phía Đông.

Có lẽ lần sau hắn cũng có thể cầu xin phụ hoàng đưa mình đi?

Ti Nam tiêu vẫn quay túc tắc trên miếng gỗ bóng bẩy, tạo thành một vòng bóng tròn lưu lại. Tôn Sóc hầu hạ bên cạnh thấy tâm trạng hắn vui vẻ nên hạ giọng cười nhẹ: "Công tử thích Ti Nam tiêu này nhất, ngày nào cũng phải chơi một lúc".

Hồ Hợi ngồi thẳng người lên, đôi mắt tinh nhanh nheo lại, giọng trầm xuống hỏi không rõ vui buồn: "Biểu hiện rõ ràng thế cơ à?". Mặc dù hắn vẫn còn nhỏ tuổi nhưng đã có dáng dấp công tử, khuôn mặt nhỏ nghiêm nghị đã có vài phần khí thế uy nghiêm.

Tôn Sóc từ nhỏ đã theo hầu Hồ Hợi nên hiểu rõ tính cách của tiểu công tử, mặc dù biết Ti Nam tiêu này có cách sử dụng sâu xa nhưng vẫn cung kính cúi đầu bẩm báo: "Cung điện của công tử ít người có thể tùy tiện ra vào, ngoài thần ra không có ai biết".

Hồ Hợi lặng lẽ nhìn Ti Nam tiêu dừng lại ở hướng Tây một lần nữa, nhưng không đưa tay ra quay nó.

Hắn là tiểu công tử mà phụ hoàng yêu chiều nhất, không chỉ vì tháng hắn chào đời là tháng phụ hoàng thôn tính được nước Hàn, bắt đầu đại nghiệp thống nhất các nước; cũng không chỉ vì hắn tuấn tú đáng yêu, mà là hắn biết phải làm thế nào để lấy lòng phụ hoàng, biết mình nên đóng vai nào mà đối phương muốn. Sau hắn cũng có vài vị đệ đệ ra đời, nhưng phụ hoàng bận rộn chiến sự và nội chính, đến nhìn một cái cũng lười không đi, nói gì tới việc phân chia thứ tự lớn nhỏ cho chúng. Vì thế trong cung Hàm Dương tiểu công tử danh chính ngôn thuận được yêu thương nhất chỉ có hắn.

Hắn biết phụ hoàng chỉ cần một hình mẫu cha hiền con hiếu, nếu hắn không làm tốt thì hoàn toàn có thể thay thế bằng người khác, dù sao hắn vẫn còn hơn hai mươi huynh đệ khác dự bị.

Vì vậy hắn chỉ có thể cố gắng hết mình. Phụ hoàng không cho hắn đọc sách luyện chữ, không cho hắn tập võ bắn tên, hắn chỉ có thể nghe lén bên ngoài thư phòng của hoàng huynh, đứng nhìn bên ngoài sân tập võ của hoàng huynh. Những động tác nhỏ này phụ hoàng có thể chấp nhận được, hắn vẫn luôn thăm dò giới hạn của phụ hoàng.

Nhưng hắn đã quá dựa dẫm vào Ti Nam tiêu này rồi, bởi vì hắn có thể thông qua nó để biết chính xác vị trí của phụ hoàng.

Hồ Hợi sững người ngay tại trận.

Trước đây Hồ Hợi quá nhỏ nên hoàn toàn không biết dụng ý sâu xa của Ti Nam tiêu, hắn chỉ đơn thuần ngưỡng mộ phụ hoàng, mỗi ngày quay Ti Nam tiêu vài lần, xác định vị trí của phụ hoàng là có thể tưởng tượng ra phụ hoàng đang ở tòa cung thất nào hoặc đi tuần ở nơi nào ngoài cung, đang hết lòng vì dân hay đang tế bái trời đất. Nếu ở khoảng cách gần hắn sẽ khéo léo xuất hiện ở đường mà phụ hoàng buộc phải đi qua, diễn một vở cha hiền con hiếu hoàn hảo. Đây cũng là nguyên nhân khiến phụ hoàng sủng ái hắn nhất trong hơn hai mươi huynh đệ.

Lần này phụ hoàng đi tuần phía đông trở về, hắn từng nghe Tôn Sóc truyền lại tin rằng, ở Bác Lãng Sa từng có hậu duệ của thừa tướng nước Hàn sai khiến một đại lực sĩ ném một quả chùy sắt nặng năm mươi cân ám sát phụ hoàng, may mà phụ hoàng đã có phòng bị từ trước, tất cả xe ngựa đều chuẩn bị giống nhau. Thích khách không thể nào phân biệt được đâu là xe phụ hoàng ngồi, cuối cùng may mà ném vào xe phụ, một phen hú vía.

Nhưng nếu tên hậu duệ nước Hàn tên Trương Lương đó có được Ti Nam tiêu này thì sao? Hành tung của phụ hoàng chẳng phải sẽ hoàn toàn bị bại lộ sao?

Phụ hoàng có thể chấp nhận thứ này tồn tại trên đời sao? Hồ Hợi sợ toát mồ hôi.

Mặc dù tuổi nhỏ nhưng không có nghĩa hắn ngây thơ ấu trĩ như bề ngoài. Nghĩ sâu xa hơn, tại sao phu tử của hắn là Triệu Cao lại tặng cho hắn vật này - một vật nếu bị phụ hoàng phát hiện sẽ mang tới tai họa ngập đầu?

Vương cung nước Triệu thu được... Triệu Cao...

Hồ Hợi nhớ lại những lời Triệu Cao nói khi tặng Ti Nam tiêu cho cậu, tên Triệu Cao này vốn không phải võ tướng, nhưng lại đội mũ võ quan kiểu Triệu Vũ Linh vương có hai dây buộc màu đen hai dải mũ đằng sau thẳng đứng.

(Đây là kiểu mũ dành cho quan võ, tương truyền do TriệuLinh vương phỏng theo mũ của người Hồ chế ra)

Một tên cận thần có thể đội mũ võ quan của Triệu vương, mà người này lại họ Triệu, lẽ nào là trùng hợp thôi?

Như thế có thể hoàn toàn suy đoán rằng, Ti Nam tiêu này vốn dĩ thuộc về Triệu Cao, còn Triệu Cao có lẽ là con em hoàng thất nước Triệu, bởi vì từ sớm đã dựa vào Ti Nam tiêu để nhận ra phụ hoàng chính là chân mệnh thiên tử nên mới cam tâm phục tùng như vậy.

Nhưng tại sao bây giờ hắn không dùng nữa? Mà còn tặng cho Hồ Hợi?

Tôn Sóc đứng bên lo lắng nhìn Hồ Hợi, không hiểu tại sao sắc mặt tiểu công tử lại thay đổi thất thường trong chốc lát như vậy.

"Tôn Sóc", một hồi lâu sau Hồ Hợi mới lên tiếng phá vỡ bầu không khí tịch mịch trong điện, giọng hắn vì căng thẳng nên trở nên khàn khàn: "Cất Ti Nam tiêu đi, đừng để ta nhìn thấy".

"...Tuân lệnh".

3

Hồ Hợi mở choàng mắt, cảnh tượng đập vào mắt không còn là điện thất màn che phấp phới hương đốt hòa quyện nữa, mà là xã hội hiện đại người xe như nước, ồn ào náo nhiệt.

Chiếc ô đen trên đầu đã ngăn phần lớn ánh mặt trời nóng như thiêu đốt, nhưng ánh nắng vẫn khiến cơ thể hắn hơi khó chịu.

Tiếng còi xe đinh tai nhức óc vang lên không ngừng, Hồ Hợi mới nhận ra mình đang đứng ngây người ở giữa đường, hắn vội rảo bước vào đường dành cho người đi bộ, đứng trong góc râm dưới tòa nhà chọc trời. Người đi đường xung quanh đều chú ý đến con chim đỏ trên vai và mái tóc dài màu bạc lộ ra bên ngoài chiếc mũ của gã, liên tục quay đầu lại, nhưng cũng chỉ đến thế. Phần lớn mọi người đều không liếc nhìn ngang dọc mà vội vã đi vào phố lớn, ngõ nhỏ, bọn họ đều có cuộc sống của mình, cùng lắm chỉ liếc nhìn người lạ đôi ba cái mà thôi.

Nhưng xã hội thế này khiến Hồ Hợi không thích ứng được, khiến hắn hiểu được một cách sâu sắc thế nào là hoàn toàn không ăn nhập.

Nếu không phải hoàng huynh sau khi tỉnh dậy nhất định phải sống ở thành phố này tiếp tục nghề nghiệp của tên bác sĩ kia, thì chắc chắn hắn đã khuyên hoàng huynh chuyển đến sống ở một nơi cách biệt với thế giới.

Hồ Hợi nhắm đôi mắt màu đỏ lại, nhớ tới khung cảnh vừa mới nhớ lại. Nhưng trên thực tế, ngay cả diện mạo của Tôn Sóc thế nào hắn cũng không còn nhớ nổi. Dung nhan của phụ hoàng, của Triệu Cao cũng dần dần trở nên nhạt nhòa theo năm tháng dài đằng đẵng, ngay cả hình dạng trước đây của hoàng huynh hắn cũng không nhớ rõ lắm.

Thời gian thật sự là một thứ đáng sợ, nó khiến mọi sự vật sự việc trên thế gian này hoàn toàn thay đổi.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Top mẫu đồng hồ bản sao cao cấp Rolex - Đang giảm giá đến 90%

Máy hút bụi giảm giá 50% nhân dip tết 2020 chỉ 690k

Hắn kiên trì như thế này rốt cuộc có đáng hay không?

Hoàng huynh bỏ rơi hắn, có nghĩa là không còn cần hắn nữa...

Vậy hắn sống tạm bợ trên thế gian này rốt cuộc còn có ý nghĩa gì?

Hồ Hợi giương chiếc ô đen lên, chậm rãi đi men theo con phố thương mại đi vào trong.

Hắn quyết định tiếp tục cố gắng giành lại một lần nữa.

Lục Tử Cương kinh ngạc chớp mắt, nghi ngờ cái tên tự nhiên đẩy cửa bước vào đứng trước mặt mình đây là ảo ảnh.

Hồ Hợi cụp chiếc ô đen lại, chậm rãi nói với đại diện chủ tiệm Á Xá đang há hốc miệng kinh ngạc kia: "Tôi muốn mượn dùng la bàn Lạc Thư Cửu Tinh".

"Sao anh biết... à, không đúng! Chỗ tôi làm gì có cái la bàn gì như anh nói!" Lục Tử Cương gãi mũi, nói dối trắng trợn.

Hồ Hợi liếc nhìn chiếc mặt nạ vàng vẫn treo trên tường, cảm thấy gã chủ tiệm giao cái tiệm đồ cổ này cho hai gã không đáng tin là bác sĩ và Lục Tử Cương quả thực là đang tàn phá thiên vật. Mặc dù nửa năm không bước chân ra khỏi nhà nhưng hắn vẫn có thể dùng mặt nạ vàng lén quan sát những gì xảy ra ở đây.

Đương nhiên, hắn cũng không cần thiết phải nói chuyện này ra.

Lục Tử Cương thấy Hồ Hợi tóc bạc mắt đỏ chậm rãi ngồi xuống trước quầy, nhất cử nhất động đều đang thể hiện "thế nào là hoàn mỹ", bất chợt cảm nhận được khí thế áp bức dồn tới. Thứ cảm giác ngay cả hít thở cũng cảm thấy ngột ngạt khiến Lục Tử Cương cảm thấy không tự nhiên. Liếc nhìn Hồ Hợi có vẻ biết hết mọi chuyện, Lục Tử Cương đành nói thật: "Quả thực có la bàn đó, anh mượn làm gì? Mượn đi tìm hoàng huynh của anh?".

Nói tới đây Lục Tử Cương ngừng lại, suy nghĩ sắp xếp lại từ ngữ, e dè nói: "Bác sĩ đã trở về cơ thể của mình, có lẽ hoàng huynh của anh...". Lục Tử Cương không nói tiếp, bởi vì cậu phát hiện ra sắc mặt của Hồ Hợi rất khó coi, khuôn mặt vốn không có huyết sắc bây giờ trắng bệch như một tờ giấy.

"Tôi biết". Trái lại Hồ Hợi bình tĩnh bất ngờ. Mình hắn chịu đựng nửa năm, tình hình xấu nhất thế nào cũng đã suy nghĩ vô cùng thông suốt. Những tháng ngày trước đây không có hoàng huynh hắn vẫn sống được, vì thế hắn chỉ muốn biết chân tướng sự việc, cắt đứt nỗi niềm nhung nhớ của mình mà thôi.

Lục Tử Cương nhún vai xòe tay, bất lực nói: "Mặc dù mục tiêu của chúng ta giống nhau, đều là tìm người. Nhưng la bàn Lạc Thư Cửu Tinh một tháng chỉ có thể khởi động một lần, hơn nữa còn dựa vào may mắn, không chắc có thể xuyên không về nửa năm trước. Ngày đẹp đã tính sẵn trong tháng này lại gặp đúng lúc bác sĩ có ca phẫu thuật gấp nên bị lỡ mất. Nếu tháng sau anh vẫn chưa thay đổi ý định thì chúng ta có thể kết bạn".

Hồ Hợi chậm rãi gật đầu.

"Vì thế, để lại số liên lạc chứ? Đợi tôi tính toán ngày lành giờ tốt tháng sau có thể khởi động, mới liên lạc với anh được". Lục Tử Cương đã không cảm thấy ngột ngạt như ban nãy nữa, ánh mắt liếc nhìn toàn thân Hồ Hợi, cảm thấy cái tên Hồ thiếu gia này không chắc đã có điện thoại.

"Không cần. Tôi sẽ đến tìm cậu". Hồ Hợi móc trong túi ra hai món đồ, đặt lên trên quầy, thản nhiên nói: "Đây là quà cảm ơn".

Ánh mắt Lục Tử Cương bị thu hút ngay lập tức, hồi lâu mới đưa tay ra ghép hai mảnh vật lại với nhau.

Đây là chiếc khóa trường mệnh bằng ngọc trắng bị vỡ.

"Sư phụ, người chắc chắn là nơi này chứ?".

Đối diện cửa tiệm Á Xá, có hai bóng người một lớn một nhỏ đang ngồi xổm dưới chân tường thì thầm nói chuyện. Đứa nhỏ người ngợm bẩn thỉu, giống như ăn mày. Lượng người qua lại trên phố thương mại rất đông, người qua đường chốc chốc lại ném vài đồng tiền xu xuống trước mặt họ. Nhưng nếu có người hơi chú ý tới một thanh niên tóc dài quần áo rách rưới đang cúi đầu bên cạnh đứa bé, có lẽ lòng thương cảm sẽ lớn hơn, không chừng lại móc túi ném thêm cho họ vài đồng tiền.

Haizzz, một đứa trẻ bị lừa bán và một thanh niên mắt mù tướng xấu, có nên đăng lên weibo tổ chức hoạt động cứu trợ không? À, thanh niên này còn đang chơi với rắn? Có phải là nghệ nhân đường phố không? Con rắn trắng nhìn yêu quá.

"Sư phụ, sư phụ! Người có nghe con nói không đấy?", Thang Viễn không có khái niệm tôn ti thầy trò, nhéo tai sư phụ làu bàu bất mãn.

Người thanh niên rút tay từ cái giỏ rắn đeo trước người ra, tùy ý ngẩng đầu lên. Đúng giây phút đó, bên cạnh đã có người đi đường nhìn rõ mặt anh ta, bỗng chốc có tiếng xuýt xoa vang lên.

Không bẩn thỉu như quần áo trên người, dung nhan của người thanh niên trẻ tuổi này rất sạch sẽ, thần sắc tuấn tú, mi dài da trắng, vô song xuất chúng như một bức tranh thủy mặc thanh tú, trang nhã. Chỉ là giữa ấn đường của anh ta có một vết thương màu đỏ sậm hung dữ, hoàn toàn phá hoại tướng mạo, khiến người ta thấy xót thương, hơn nữa trên đôi mắt có che một tấm vải đen, chắc chắn mắt có vấn đề, đã mù rồi.

Nhưng một chàng trai như thế này cho dù có ngồi tùy tiện ở góc tường, khắp người bụi bẩn, tóc dài chấm đất, cũng không thể che đi vầng hào quang khí chất khác người. Có người chú ý tới tấm áo rách nát trên người anh ta, đó là một bộ đạo phục kỳ lạ, không nhìn rõ đạo bào trên người vốn có màu thế nào nữa, ống tay rộng cổ giao lĩnh, còn thêu tám quẻ của Chu Dịch, sắp xếp theo một phương pháp thần bí.

"Nhị sư huynh của con không ở đây". Đạo nhân trẻ tuổi khẽ thở dài, khó giấu được sự thất vọng trên gương mặt, "Ta đã bảo ngày chúng ta xuống núi không phải là ngày lành tháng tốt, phải đợi bốc quẻ bói đã, mà con không chịu đợi, hầy".

"Cái gì? Không ở đây á? Người chắc chắn?". Thang Viễn bỗng dưng nổi giận lôi đình, hai thầy trò họ đâu có dễ dàng gì? Từ trong núi đi bộ mất hơn nửa năm mới tới thành phố lớn này, tốn công muôn vàn khổ cực, những gì trải qua có thể sánh ngang Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh rồi! Kết quả lại bảo với cậu người muốn tìm không có ở đây?

Thang Viễn cuống quýt truy hỏi: "Người nhìn kỹ chưa? Trong tiệm không phải có hai người sao? Đều không phải sư huynh của con à?".

Thang Viễn biết mặc dù sư phụ không mở mắt nhưng chắc chắn là có thể nhìn thấy được. À, nói một câu thời thượng thì, có lẽ dùng cái gì linh thức cảm nhận được.

"Đều không phải mà". Vuốt ve tiểu bạch xà đang bò từ trong giỏ ra quấn lấy ngón tay, đạo nhân trẻ tuổi rất thất vọng. Sau khi anh ta cảm nhận được Phong Thần trận phong ấn Triệu Cao bị phá, phản ứng đầu tiên không phải là đi tìm hiểu tình hình, mà là muốn tìm người khác để rũ bỏ trách nhiệm. Dù sao thì anh ta bản tính lười biếng, sớm đã không còn nhiệt huyết như hồi trẻ nữa. Không cần nghĩ nhiều anh ta đã quyết định, người có thể tiếp nhận mớ rác rưởi này chính là nhị đệ tử của mình.

Không sai, anh ta luôn biết nhị đệ tử của mình còn sống nhưng không để đối phương biết sự tồn tại của mình.

Thang Viễn sốt ruột giật giật mái tóc dài đã lâu không cắt của anh ta, tính nết khó chiều làu bàu: "Vậy bây giờ chúng ta làm thế nào? Hứ, còn tưởng gặp được nhị sư huynh sẽ được ăn đại tiệc nữa".

"Đành quay về thôi, nửa năm qua không xảy ra chuyện gì, chắc sẽ không có chuyện gì ngoài dự kiến đâu. Thiên đạo tất có nguyên tắc xoay vần". Đạo nhân trẻ tuổi khẽ hắng giọng, rất vô trách nhiệm khi tỏ ra anh ta chẳng quan tâm điều gì cả.

"Ý người là... chúng ta... về theo đường... cũ?"

Thang Viễn rít từng tiếng qua kẽ răng, toàn thân cảm thấy cực kỳ khó chịu, vốn cậu không nên ôm hy vọng gì ở gã sư phụ rẻ tiền này, đến tìm nhị sư huynh chưa từng gặp mặt. E rằng ông ấy cũng muốn quẳng mớ rắc rối khó nhằn nào đó. Bây giờ không quẳng đi được thì phủi tay coi như không có chuyện gì? Cứ kệ cho mớ rắc rối rớt bịch xuống đất cũng không quan tâm?

Hơn nữa suốt dọc đường bọn họ ngồi ô tô hoặc đi bộ từng quãng một tới đây! Bi thảm hơn là cái tên sư phụ ham ăn này cứ vừa đi vừa ăn! Hơn nữa, lại còn không mang đủ tiền! Thật là thanh liêm! Bọn họ còn chưa từng ở nhà nghỉ! Chỗ họ ngủ nhiều nhất chính là nằm dưới gầm cầu vượt! Bây giờ lại nói với cậu là đi về theo đường cũ!

Thang Viễn cảm thấy mình thực sự bước nhầm lên thuyền giặc, ở tuổi của cậu đáng nhẽ ngày ngày cắp sách đến trường vô ưu vô lo chứ không phải đi theo gã sư phụ thần kinh có vấn đề lưu lạc bốn phương thế này.

Đạo nhân trẻ tuổi chớp chớp đôi mắt vô tội, thở dài bằng giọng điệu bất lực: "Không có cách nào khác mà Bánh Trôi, ai biết được mấy chục năm gần đây đi đến đâu, làm cái gì cũng cần một thứ tên là chứng minh thư, không có nó một tấc cũng khó đi ấy chứ! Con tưởng ta muốn ẩn cư trong núi sao? Chẳng được ăn thứ gì..." Những lời than phiền cuối cùng nhỏ dần dưới ánh mắt giận dữ của tên đồ đệ, cuối cùng biến thành nước bọt nuốt ngược vào trong.

"Chẳng phải tám trăm năm trước người đã không ăn ngũ cốc rồi sao? Còn nhớ nhung ăn uống làm gì!". Thang Viễn tức giận gầm lên.

Tiếng gầm của tiểu Thang Viễn khiến Hồ Hợi vừa bước chân ra khỏi Á Xá ở đối diện cũng chú ý nhìn về phía ấy một cái, nhưng sau đó giương ô đen rời đi không để tâm lắm.

Chỉ là vừa đi được hai bước hắn bỗng nhiên nhớ ra gã thanh niên trẻ tuổi có khuôn mặt đang bất lực vì bị đứa trẻ túm cổ kia hình như rất quen.

Hồ Hợi quay đầu lại nhìn, góc tường vốn có hai người một lớn một nhỏ giờ đã không còn ai, ngay cả tiền xu dưới đất cũng bị nhặt đi, biến mất hoàn toàn.

4

Năm 210 trước công nguyên, năm thứ 37 thời Tần Thủy Hoàng.

Hồ Hợi đã hai mươi tuổi, đang ngồi một mình trong xe, trước mặt hắn có một chiếc hộp gấm chưa mở, bên trong chiếc hộp gấm chính là Ti Nam tiêu.

Từ sau khi Tôn Sóc chết, Hồ Hợi đã đổi mấy lượt người hầu, người nào cũng bị hắn gọi là Tôn Sóc, đáng tiếc không có ai có thể giống như Tôn Sóc thuở ban đầu, chăm sóc hắn đến nơi đến chốn. Chiếc Ti Nam tiêu này trước đây do hắn bảo Tôn Sóc cất đi, nhưng lần này trước khi theo phụ hoàng đi tuần, người hầu bây giờ của hắn lúc dọn dẹp kho riêng đã phát hiện ra, hắn cũng tiện tay đem theo. Chỉ là đem theo mà thôi, hắn còn chưa từng mở ra một lần.

Bởi vì hắn đã dần dần nhận ra sự khác biệt giữa mình và hoàng huynh lớn thế nào. Cho dù phụ hoàng có băng hà chắc chắn hoàng huynh sẽ là người kế vị ngôi vua. Mặc dù hoàng huynh bây giờ bị điều tới biên cương Thượng Quận đi sửa Trường Thành, nhưng các đại thần trong triều đình không bị mù, ngoài việc chưa chính thức ban chiếu xác lập đại hoàng huynh làm thái tử ra, Phù Tô luôn được bồi dưỡng là người kế vị.

Hồ Hợi càng ngày càng thấu hiểu phụ hoàng của mình, sự ngưỡng mộ khâm phục khi còn non trẻ dần dần chuyển hóa thành khinh miệt, xem thường. Mặc dù bề ngoài hắn không biểu lộ gì nhưng hắn biết phụ hoàng đã ngày càng già đi. Không lập hoàng huynh làm thái tử, đó là vì phụ hoàng vẫn nghĩ rằng mình có thể cầu được thuốc trường sinh bất lão, điều khiển giang sơn Đại Tần ngàn vạn năm. Đày hoàng huynh ra biên cương sửa Trường Thành, nói dễ nghe là để hoàng huynh rèn luyện trong quân đội, trên thực tế chẳng phải vì phụ hoàng sợ lúc mình đi tuần, hoàng huynh ở Hàm Dương mua chuộc lòng người để đăng cơ sớm sao?

Phụ hoàng bây giờ sợ chết, sợ bị con trai cướp quyền.

Một người nếu có điều lo sợ vậy thì người đó không phải là thần, cũng không phải sự tồn tại không thể chạm vào.

Khóe môi Hồ Hợi nhếch lên khinh miệt, hắn không phải không muốn ngồi lên vị trí đó, cũng không phải không muốn nắm giữ ngọc bích Hòa thị - biểu tượng quyền lực trong tay, nhưng hắn cũng phải thừa nhận rằng, hoàng huynh thích hợp hơn hắn.

Mấy năm qua, hắn không ngừng ngấm ngầm thăm dò, tỉ thí, lòng tự tin vốn không mạnh mẽ lại bị đả kích thương tích đầy mình, muốn ngồi lên bảo tọa ấy đã trở thành chấp niệm cả đời này của hắn, nhưng hắn biết mình chỉ đơn thuần muốn chiến thắng hoàng huynh mà thôi.

Một lúc sau đội xe dừng lại, hắn đứng dậy lên trước xe của phụ hoàng thỉnh an, nhưng bị người hầu cung kính từ chối. Hồ Hợi quay về xe của mình với mớ hồ nghi, đôi mày chau lại.

Nếu hắn nhớ không nhầm đã hai ngày không thấy phụ hoàng lộ mặt. Nhưng nghe nói phụ hoàng ngồi trên xe mát đằng trước xe của hắn, do nội thị thân tín theo hầu. Mỗi lần đi tới nơi nghỉ ngơi đều dâng cơm lên, bách quan tùy tùng vẫn đứng bên ngoài xe bẩm tấu công việc lên phụ hoàng trong xe vẫn phê hạ tấu chương như bình thường.

Hắn từng xem qua nét chữ, đúng là bút tích của phụ hoàng, nhưng hai ngày liên tiếp không gặp phụ hoàng, hơn nữa đến giọng nói cũng chưa nghe thấy điều này làm Hồ Hợi hơi lo lắng. Dẫu sao thì trước đó phụ hoàng vẫn luôn có bệnh.

Đúng thế, phụ hoàng có mạnh mẽ đến mấy thì vẫn là một người bình thường, sẽ bị ốm, sẽ già đi, sẽ chết đi....

Hồ Hợi chà mạnh vào mép hộp gấm, quyết ý mở hộp ra, nhưng phương hướng Ti Nam tiêu đang chỉ khiến hắn giật mình sững sờ.

Đó là hướng Tây Bắc.

Đoàn xe của họ đều đi thẳng theo hướng từ Đông sang Tây, cho dù phụ hoàng cố ý bày trận giả thì cũng không nên ra khỏi phạm vi của đội xe mới đúng.

Có lẽ do Ti Nam tiêu đã không dùng từ lâu nên bị hỏng rồi? Hồ Hợi không tin nên quay thêm mấy lần, nhưng lần nào Ti Nam tiêu dừng lại đều chỉ hướng Tây Bắc.

Thượng Quận! Hoàng huynh bị đẩy đi đày ở Thượng Quận chẳng phải hướng Tây Bắc sao?

Trong lồng ngực Hồ Hợi như có tảng băng lạnh, hoàng huynh đã ngấm ngầm trở thành đế quân, vậy phụ hoàng thì sao?

Hai ngày liên tục không nghe thấy tiếng nói, lẽ nào... đã cưỡi hạc về Tây phương?

Suy nghĩ này vừa nhen nhóm lên trong đầu Hồ Hợi liền cảm thấy như có tiếng nổ tung, trong khoảnh khắc thậm chí y ngay cả cảnh tượng trước mắt cũng không nhìn thấy nữa. Mặc dù từ lâu đã sớm dự liệu ngày này sẽ đến, nhưng không ngờ lại đến nhanh như vậy.

Thậm chí hắn còn đi xuống xe ngựa, chính sức lực đến ngự xa của phụ hoàng để tìm bằng chứng cũng không có, cứ ngồi bệt ở đó, há hốc miệng thở hổn hển.

Đó là phụ hoàng của hắn, mặc dù trong lòng hắn vẫn ẩn chứa nỗi giận dữ nhưng đó là người yêu chiều hắn từ nhỏ đến lớn, là người luôn bảo vệ hắn lớn lên....

Trong cơn vô tri vô giác, xe ngựa lại bắt đầu nghiêng ngả tiến về phía trước. Có lẽ thời gian đã trôi qua rất lâu, cũng có thể chẳng bao lâu, Hồ Hợi cứ ngồi ngây người ôm cái hộp gấm ánh mắt thất thần, cho đến khi một giọng nói đều đều vang lên:

"Xem ra, thiếu gia đã biết chuyện gì xảy ra rồi".

Đôi mắt của Hồ Hợi dần dần lấy lại được tiêu cự, bấy giờ mới phát hiện không biết từ lúc nào, Triệu Cao đã lên xe ngựa của hắn. Sắc trời bên ngoài đã tối, trong xe cũng đã thắp đèn. Triệu Cao vẫn mặc chiếc áo thâm hoa văn vảy cá ngũ sắc, đầu đội chiếc mũ võ quan có hai dây buộc màu đen, hai dải mũ đằng sau thẳng đứng, cho dù mấy năm nay gã đã trở thành người tin cậy bên cạnh phụ hoàng, cũng hoàn toàn không để lộ một chút nào vẻ hống hách kiêu ngạo, trái lại mặt ngày càng không biểu cảm, khiến người ta vừa nhìn thấy là đã ớn lạnh.

Lúc này Hồ Hợi mới ý thức được Triệu Cao vừa nói gì với mình, bỗng chốc mồ hôi lạnh túa ra. Hắn há miệng nhưng cổ họng khô rát ngứa ngáy, ngay cả một chút âm thanh cũng không thốt lên được.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Triệu Cao cũng không để tâm, vẫn tiếp tục chất giọng đều đều đặc trưng, lạnh nhạt mà đi thẳng vào vấn đề: "Mười hôm trước hoàng thượng bệnh nặng, đã viết một bức thư tay gửi cho đại công tử, nhưng bức thư này vẫn nằm trong tay thần, chưa gửi đi".

Hồ Hợi rùng mình, nhìn ông ta với vẻ không dám tin, nhưng hoàn toàn không nghi ngờ tính thật giả trong lời nói của ông ta. Bởi vì Triệu Cao bây giờ là Trung đông phủ lệnh kiêm giữ ấn, vì thế mọi văn thư đều phải qua tay ông ta đóng dấu, muốn can thiệp vào là điều hoàn toàn có thể.

Dưới ánh đèn nhảy nhót chiếu rọi, khuôn mặt của Triệu Cao càng tăm tối khó đoán, ông ta nhìn Hồ Hợi một lúc rồi đều đều nói: "Ngụ ý của hoàng thượng muốn đại công tử kế vị".

Hồ Hợi cảm thấy đây là một việc đương nhiên, từ lâu hắn đã biết rõ như vậy, chẳng phải sao? Mặc dù trong lòng buồn rầu không vui, nhưng lại thở phào nhẹ nhõm không thể phủ nhận. Sau đại loạn, thích hợp nhất là nghỉ ngơi lấy sức, Đại Tần được một người coi trọng học thuyết Nho gia cai trị nhất định sẽ càng thêm quốc thái dân an.

Triệu Cao cúi đầu ngắm nghía đôi tay chăm dưỡng vô cùng hoàn mỹ của mình, tiếp tục nói giọng bình thản: "Bây giờ chưa có ai biết chuyện này, đại quyền thiên hạ trong tay thần, thần muốn vị công tử nào lên ngôi hoàng đế thì vị công tử ấy có thể lên. Điều khiển người khác và bị người khác điều khiển, sao có thể đánh đồng như nhau được?".

Hồ Hợi sợ hãi giật mình, cái hộp gấm cầm trong tay không chắc, rơi ngay xuống đầu gối hắn. Ti Nam tiêu rơi ra từ hộp gấm lăn trên chiếu trúc vài vòng rồi lăn tới đúng bên cạnh Triệu Cao.

Tương lai Đại Tần vừa được hình thành trong đầu ngay lập tức vỡ tan thành bọt bụi, Hồ Hợi vô cùng thông minh, đương nhiên hiểu được ngụ ý sâu xa đằng sau những gì Triệu Cao nói, công tử theo phụ hoàng đi tuần du chỉ có một mình hắn.

Không có ai có thể giữ được lý trí trong tình hình như thế này, Hồ Hợi cũng không ngoại lệ.

Hắn đã không thể nào kiềm chế nổi mà bắt đầu tưởng tượng nếu hắn đăng cơ... nhưng hắn không tưởng tượng ra được, cảnh tượng hoàng huynh cúi rạp trước mặt hắn xưng "thần", đây hoàn toàn là chuyện không thể xảy ra!

Hồ Hợi mún chặt môi, một hồi lâu mới tìm lại được giọng mình, hắn rì rầm: "Phế huynh trưởng để tự lập, là bất nhân; không tuân theo chiếu mệnh của phụ hoàng, là bất hiếu; bản thân hiểu biết nông cạn, miễn cưỡng đăng cơ, là bất năng. Người trong thiên hạ đâu phải những kẻ đần độn mà không biết được bên trong có nội tình? Phải giải thích với người trong thiên hạ thế nào? Phải báo cáo với liệt tông liệt tổ ra sao?".

Đôi mắt gian xảo của Triệu Cao sáng lóe lên, thần thái ung dung tự tin: "Hợi Nhi, người sẽ toại nguyện như thần mong muốn".

"Phu tử cho dù có ép ta cũng vô ích, không cần nhiều lời". Hồ Hợi từ chối vô cùng khó khăn, quả thực hắn biết chuyện Triệu Cao nói có thể thành công phân nửa, nhưng hắn bắt buộc phải nghĩ đến rằng, nếu làm như vậy sau này hắn phải đối mặt với hoàng huynh của mình thế nào. Hoặc nếu khi gặp lại nhau, có thể chính là cục diện xung đột đao binh, không chết không thôi.

Lần này Triệu Cao không nói gì, ông ta nhặt Ti Nam tiêu rơi bên cạnh mình lên, lấy miếng gỗ trong hộp gấm ra, bày lại trên bàn sau đó đưa tay quay nó.

Ti Nam tiêu quay túc tắc, Hồ Hợi thẫn thờ nhìn theo bóng nó, hắn bất chợt mở to đôi mắt vẻ mặt không tin khi Ti Nam tiêu dừng lại.

Bởi vì cán của Ti Nam tiêu lần này không còn chỉ về hướng Tây Bắc nữa, mà chỉ về phía hắn.

Hồ Hợi không tín, hắn quay cái thìa gỗ mấy lần, bất kể hắn quay thế nào, thay đổi vị trí ra sao Ti Nam tiêu vẫn thay đổi theo vị trí cơ thể hắn.

"Phu tử... ông đã làm chuyện gì?". Mồ hôi Hồ Hợi túa ra như tắm. Hắn đã đoán Triệu Cao đã làm gì đó, sợ rằng lúc phụ hoàng viết di thư tay cho Phù Tô, phu tử đã can thiệp vào. Hoàng huynh của hắn... không phải đã chết thật đấy chứ? Hồ Hợi vẫn ôm một tia hy vọng, mong mỏi ngước đầu nhìn phu tử của hắn.

"Ta đã làm chuyện gì à?" Triệu Cao nhíu mày suy nghĩ, ông ta hơi ngả người về phía trước, áp sát đệ tử mình yêu quý nhất, chậm rãi nói từng chữ một: "Ta không trưng cầu ý nguyện của công tử, mà là thông báo".

Hồ Hợi nhìn Triệu Cao chằm chằm, hắn chỉ cảm thấy lúc này trong xe tối tăm, phu tử giống như một tên ác quỷ vừa bò lên từ địa ngục.

Trong cơn hoảng loạn và cảm xúc sợ hãi nhấn chìm hắn, Hồ Hợi đột nhiên nhớ tới một chuyện không liên quan.

Bao nhiêu năm qua, phu tử của hắn hình như chẳng hề thay đổi tướng mạo....

5

Mặt trời đã ngả về phía Tây, đèn neon rực rỡ sắc màu đã được thắp sáng trong một số cửa hàng trên con phố thương mại sầm uất.

Hồ Hợi đã gập ô lại, chậm rãi bước trên đường về nhà. Con chim đỏ không đợi được nên đã bay về nhà ăn mồi sớm, dù sao cửa sổ ở nhà vẫn luôn mở, nó có thể tìm được đường về nhà.

Có điều, tại sao hắn lại nhớ tới cảnh tượng ấy chứ? Đó là cơn ác mộng bao nhiêu năm qua hắn luôn từ chối nhớ lại.

Về ấn tượng của hắn bây giờ với phu tử, đó chính là gương mặt nhàu nát như ác quỷ dưới ánh đèn mờ tối.

Hồ Hợi cúi đầu cắn móng ngón cái ở bàn tay trái, tâm trạng bồn chồn sắp khiến hắn phát điên đến nơi.

Không được, không thể tiếp tục dùng hương Nguyệt Kỳ nữa, không nhớ lại được chút ít gì về ký ức của hắn và hoàng huynh, ngược lại lần nào cũng nhớ tới chuyện của phu tử.

Đúng vậy, đã là những chuyện trong quá khứ rồi, người ấy, sớm đã hóa thành tro bụi.

Hồ Hợi tiếp tục cúi đầu bước đi, hắn phát hiện ra trong tầm mắt mình xuất hiện một đôi giày da màu đen sáng bóng, cứ chặn thẳng ngay trước mặt hắn.

Hồ Hợi chau mày, hắn ghét cái thế giới hỗn loạn này thế đó, chắc chắn lại là một tên lưu manh không có mắt nào đó chặn đường gây sự. Hắn không thèm ngước đầu lên nhìn mà đi vòng sang bên cạnh.

Nhưng người ấy cũng đổi phương hướng, tiếp tục chặn trước mặt hắn không nhường đường.

Hồ Hợi lạnh lùng ngước đầu lên nhìn, ngay giây phút ấy hắn sững sờ ngay tại trận.

Hắn sớm đã quên đi khuôn mặt của người ấy, nhưng trong khoảnh khắc gặp lại, ký ức bị phong ấn bao năm giống như chiếc hộp ma quỷ Pandora bỗng nhiên bị mở ra, quét qua đầu óc của hắn trong giây lát.

Người ấy vẫn có đôi mắt gian tà, nói chuyện vẫn dùng cái giọng đều đều không điểm nhấn.

"Ồ, tìm được cậu rồi". Ông ta nói.

TIỆM ĐỒ CỔ Á XÁ

Quyển 4 - Chương 6: Dấu Sừng Tê

1

Yên.

Họ Cơ là họ đứng đầu trong tám họ lớn thời thượng cổ là họ của hoàng đế, là họ của hoàng tộc thời Chu, vô cùng tôn quý. Mặc dù chi họ của Cơ Thanh không phải là dòng họ hoàng thất chính thống thời Chu, nhưng đến nay cũng vẫn là vương tộc của nước Yên thuộc một trong thất hùng thời Chiến Quốc.

Một dòng trực hệ vương tộc nước Yên chân chính, theo tập tục lấy tên nước làm họ, còn các chi vẫn tiếp tục họ Cơ.

Cơ Thanh chỉ nhỏ hơn Yên Đan ba ngày tuổi, cả hai là anh em họ, được Yên vương Hỉ đích thân đặt tên cho. Đan và Thanh là màu đỏ thẫm và màu xanh, là hai loại màu sắc thường dùng trong hội họa, lại lần lượt là màu chu sa và khoáng thạch xanh, nên không dễ phai màu, sử gia dùng sổ đỏ để ghi công lao, dùng sổ xanh để ghi sự việc, trong từ cổ đan thanh có nghĩa là sử sách.

Từ đó có thể thấy Yên vương Hỉ đã gửi gắm rất nhiều hy vọng ở con trai và cháu mình. Lúc Cơ Thanh ra đời, mẫu thân vì sinh khó nên qua đời, Yên hậu thương xót cậu tuổi nhỏ mồ côi nên đón cậu vào cung chăm sóc. Không lâu sau phụ thân của cậu lấy kế mẫu, người phụ nữ này đối xử với Cơ Thanh như con ruột của mình, sau này đẻ thêm cho cậu mấy đệ đệ muội muội nữa, cả nhà hòa thuận vui vẻ.

Vì Cơ Thanh và Yên Đan từ nhỏ đã lớn lên cùng nhau, hai người vốn tuổi tác tương đồng, lại là anh em họ, cùng với tuổi tác lớn dần lên, lời ăn tiếng nói và cử chỉ càng ngày càng giống nhau. Điểm khác biệt duy nhất chính là đôi mày của Yên Đan quá mềm mại, giống Yên hậu, đều là hai hàng lông mày mảnh dẻ. Còn Cơ Thanh lại có đôi mày lưỡi mác, hướng thẳng về phía tóc mai, cả người có cảm giác giống như một lưỡi đao sắc lẹm mạnh mẽ.

Lúc Cơ Thanh năm tuổi, phụ thân của cậu nhờ người tìm được một đôi sừng tê giác hiếm có. Tất cả các sừng tê giác đều là phía trước thì đặc phía sau thì rỗng, tức là hướng về phía sừng nhọn là đặc, phía sau đều là rỗng. Phụ thân của Cơ Thanh dùng phần thân giữa rỗng của sừng để làm thành một đôi cốc sừng tê quý giá, còn hai đầu của sừng tê nhọn đặc lại tìm đại sư khắc cho hai anh em họ mỗi người một con dấu riêng.

Hai con dấu sừng tê có màu đỏ thẫm, nghe nói sừng tê màu đỏ thẫm càng ngày càng hiếm thấy, e là loại tê giác có sừng tê màu đỏ thẫm này vài năm nữa sẽ tuyệt chủng. Con dấu sừng tê có mùi thơm nhẹ, nghe nói có thể giúp người đeo trấn tĩnh, loại trừ mệt mỏi. Ngoài đầu nhọn dùng thủ pháp điêu khắc lập thể để lần lượt khắc thành cái núm ấn hình con ly và con hổ ra, trên thân con dấu không có bất cứ hình điêu khắc nào thừa, khiến hai con dấu sừng tê này toàn thân trơn bóng, sáng sủa, giống hai miếng huyết ngọc. Đặc biệt là Yên Đan dù đã từng thấy nhiều bảo vật kỳ lạ hiếm có cũng yêu thích không rời tay, thường xuyên đeo bên mình, lúc nào cũng vuốt ve trong tay.

Khi còn nhỏ Cơ Thanh cũng giống như Yên Đan, vô cùng yêu thích con dấu sừng tê thuộc về mình, nhưng ngày một lớn lên, cậu cũng biết thân phận của mình và Yên Đan khác nhau, vì thế hai con dấu ngoài dấu đóng khác nhau ra, nhìn bề ngoài không có gì khác biệt cả, Cơ Thanh cũng rất ít ngắm nghía trước mặt người khác nữa.

Thân là hoàng tộc nước Yên, từ nhỏ Cơ Thanh không thiếu đồ ăn cái mặc, quen được người khác xu nịnh, đi theo bên cạnh thái tử Yên Đan, cũng được luyện võ rèn chữ như vậy, không có chuyện gì không thuận lợi. Cơ Thanh từng cho rằng, mình là người hạnh phúc nhất trên thế giới này.

Rất nhiều người trong đó có cậu, đều nhận định chắc chắn rằng Yên Đan chính là vị vua tiếp theo của nước Yên.

Nhưng thực tế lại giáng một gậy vào đầu họ.

Trước khi Yên Đan và Cơ Thanh chào đời, Yên vương Hỉ vừa kế vị tưởng rằng sau chiến tranh Trường Bình nước Triệu quân lực rỗng tuếch binh lực giảm sút, nên mặc cho thuộc hạ phản đối, vẫn xuất binh đánh Triệu, kết quả bị Liêm Pha dẫn quân vây thành. Từ đó Yên vương Hỉ co rúm người lại, không dám tùy ý xuất chiến.

Nước Yên nằm ở Đông Bắc, dân chúng nhanh nhẹn dũng mãnh, nhưng đáng tiếc đất đai không màu mỡ như Trung Nguyên, quốc lực trước giờ luôn yếu mỏng. Cùng với sự chinh phạt không ngừng của nước Tần mấy năm qua, liên tiếp chiếm thành của Ngụy, Triệu, cho dù là nước Yên ở cách xa nước Tần nhất cũng phấp phỏng hoang mang, lo lắng bất an.

Vì thế khi Cơ Thanh và Yên Đan được mười hai tuổi, một chuyện ập đến như trời xanh dậy sấm.

Yên vương Hỉ muốn đưa Yên Đan tới thành Hàm Dương nước Tần làm con tin.

Ban đầu, để chắc chắn có thể thực hiện lời thề ước, mọi người sẽ trao đổi cho nhau vật quý giá để thế chấp, sau này phát triển thành để đảm bảo có thể ký kết liên minh, giữa các nước phải trao đổi với nhau những nhân vật quan trọng như người trong vương tộc hoặc thái tử, thế tử. Nhưng nếu một quốc gia có ưu thế tuyệt đối thì không cần trao đổi, mà chỉ là một phía mà thôi.

Yên Đan còn có hai em trai nhưng tuổi tác còn nhỏ, cậu không thể trốn được trách nhiệm to lớn này.

Cơ Thanh rất đồng cảm với Yên Đan nhưng không thể lý giải được yêu cầu mà Yên Đan đưa ra.

Yên Đan đồng ý tới nước Tần, nhưng yêu cầu duy nhất là Cơ Thanh đi cùng.

"Tại sao nhất định muốn đệ đi cùng?". Cơ Thanh mím môi, đôi mày lưỡi mác ưa nhìn cũng chau lại, vẻ không cam tâm lộ rõ trên khuôn mặt nhỏ.

Người Tần như lang sói, đâu chỉ khiến trẻ nhỏ khóc thét trong đêm, mà ngay cả ở Kế Thành nước Yên xa xôi cách Hàm Dương đô thành nước Tần cả nghìn dặm sự tồn tại của nước Tần chẳng khác gì đầm rồng hang hổ.

Yên Đan ngồi ngay ngắn trước mặt Cơ Thanh, nhìn khuôn mặt giống mình gần như y đúc, khóe môi mỏng khẽ nói: "Vương tộc nước Yên ăn mặc hàng ngày chẳng phải do con dân nước Yên dâng lên sao. Con dân nước Yên chịu đổ máu nơi sa trường, ta chỉ lấy thân làm con tin, làm gì có mặt mũi nào mà thoái thác?".

Cơ Thanh nghe Yên Đạn nói vậy bèn đỏ bừng mặt, mặc dù cảm thấy có chỗ không đúng nhưng lại chẳng thể thốt lên một lời phản bác.

"Lang Hiên, đệ lo lắng cho người thân à? Đi cùng cô". Yên Đan phẩy tay áo đứng dậy, dẫn Cơ Thanh xuất cung đi về trạch viện nhà họ Cơ.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người sở hữu vật này luôn gặp những điều may mắn khó tin!

(Cách tự xưng khiêm nhường của các vua chư hầu thời cổ)

Cơ Thanh lặng lẽ đứng bên ngoài cửa sổ, nhìn phụ thân và kế mẫu cùng các em cười đùa, cảnh tượng vui vẻ hòa thuận ấy lại khiến cậu cảm thấy mình giống như người ngoài.

"Lang Hiên, đệ nên trưởng thành rồi". Yên Đan đứng sau lưng cậu, khẽ nói.

"Tại sao phải trưởng thành?" Cơ Thanh nhắm nghiền mắt lại, luôn cảm thấy cảnh tượng trong nhà kia quá chói mắt.

"Trưởng thành không nằm ở chỗ đệ đã làm lễ đội mũ chưa, mà ở chỗ có sáng suốt hay không. Thứ nhất, nên biết rằng thế giới này nếu thiếu đi đệ thì mặt trời vẫn mọc ở phía Đông lặn ở phía Tây, nước vẫn chảy từ cao xuống thấp. Không có gì thay đổi".

"Có thứ nhất, vậy thứ hai, thứ ba thì sao?".

"Theo ta tới Hàm Dương, sau này ta sẽ nói cho đệ biết".

"... Vâng".

Ngày rời khỏi Kế Thành, Cơ Thanh không lưu luyến như mình tưởng tượng.

Có lẽ là cảnh tượng cậu nhìn thấy hôm đó, có lẽ là do câu nói Yên Đan nói bên tai mình, Cơ Thanh biết cho dù mình ra đi, thậm chí chết đi, người thân sau cơn đau buồn vẫn tiếp tục sống mà thôi. Giống như phụ thân sau khi mẫu thân qua đời lại có kế mẫu xuất hiện vậy.

Ngồi trên xe ngựa, Cơ Thanh nhìn qua kẽ hở của rèm cửa phấp phới, nhìn tường thành của Kế Thành dần dần xa, người thân tới tiễn biệt cũng từ từ biến thành những hạt cát nơi chân trời, rồi chẳng nhìn thấy nữa. Cậu quay đầu cảm giác lẫn lộn nhưng lại kinh ngạc khi phát hiện ra Yên Đan đang chậm rãi cởi dây mũ huyền quan trên đầu.

Bởi vì lần này đi không biết bao nhiêu năm nên hai huynh đệ họ mặc dù chưa tới tuổi nhưng đã làm lễ đội mũ trước. Nhưng Cơ Thanh phát hiện ra vị đường huynh này không phải không quen với việc đội mũ trên đầu, mà vẫn tiếp tục cởi tấm áo dài trên người ra.

Khi hai người rời đi, Yên vương Hỉ đã tổ chức lễ tiễn long trọng, vì thế bộ đồ Yên Đan mặc trên người là bộ lễ phục thân trên màu đen, thân dưới màu trắng, còn bộ trên người Cơ Thanh có sự khác biệt, không được mặc màu đen tôn quý, mà mặc bộ lễ phục màu xanh, áo xiêm vàng thấp hơn một bậc.

"Điện hạ, muốn thay xiêm y?". Lần này đi Hàm Dương Cơ Thanh đi với thân phận thị tòng của Yên Đan, vì vậy mặc dù vẫn chưa quen lắm nhưng cậu nhập vai rất nhanh.

Khóe môi Yên Đan khẽ cười, cởi bộ lễ phục trên người ra, chỉ mặc bộ y phục vải gai màu trắng bên trong: "Không phải đệ đã từng hỏi ta, tại sao muốn đệ đi cùng?".

"Tại sao?". Cơ Thanh ngẩng đầu lên, đây là câu hỏi vẫn luôn đau đáu trong lòng cậu.

Yên Đan đưa tay qua chiếc bàn nhỏ giữa hai người, chạm vào hàng lông mày lưỡi mác của đường đệ, nhìn chằm chằm nói: "Bắt đầu từ hôm nay, đệ là Yên Đan, ta là Cơ Thanh".

Cơ Thanh nghe xong đơ người ra như phỗng, cho đến khi cảm thấy giữa đôi mày có lưỡi đao lạnh toát áp lại gần, cậu mới sực tỉnh. Cậu không dám nhúc nhích, chỉ biết sững sờ nhìn đôi mày lưỡi mác của mình bị Yên Đan dùng dao găm tỉ mỉ cạo đi, lông mày rơi xuống trước mặt cậu, có vài sợi bay vào mắt, Cơ Thanh nhắm chặt mắt lại vì không quen.

"Ngẩng đầu... đưa tay...."

Trong xe ngựa, chỉ có giọng nói bình tĩnh của Yên Đan vang lên hết lần này tới lần khác, từ nhỏ Cơ Thanh đã không có cách nào phản kháng lại mệnh lệnh của đường huynh, chỉ biết nhắm mắt tuân theo. Cậu ngấm ngầm cảm thấy Yên Đan đang hầu hạ mình cởi y phục, mặc y phục, trước mặt tối sầm, Cơ Thanh kinh ngạc khi thấy vị đường huynh thái tử được hầu hạ chăm sóc từ cái ăn cái mặc từ nhỏ không ngờ còn biết hầu hạ người khác.

Trong không khí dễ chịu thế này, Cơ Thanh cũng đang tìm kiếm dụng ý của đường huynh thái tử trong đầu.

Con tin từ trước đến giờ là kiếp người bi thảm nhất thời kỳ Chiến Quốc. Từ nhỏ ăn sung mặc sướng chễm chệ trên cao, nhưng bỗng dưng rơi xuống bùn lầy. Hèn chi nhất định bắt cậu đi cùng, mục đích là vì muốn tráo đổi thân phận. Nhưng cũng là kiếp người gập ghềnh lên xuống nhất trong lịch sử, nếu có thể trải qua những tháng ngày làm con tin, thuận lợi về nước, vậy thì chuyện đăng cơ lên ngôi vua không còn gì để tranh cãi, ví dụ như Việt vương Câu Tiễn, giống như phụ thân của Tần vương trẻ tuổi bây giờ, Tần Trang Tương vương.

Vì thế, vị đường huynh thái tử thông minh của cậu lại không phải không làm tròn trách nhiệm, mà là hầu hạ bên cạnh. Muốn cậu chịu đựng nhục nhã? Muốn cậu làm lá chắn tên cho huynh ấy?

Con tin, đó là rơi vào cảnh cửu tử nhất sinh, cho dù cuối cùng mình có chết, đường huynh cũng có thể lén lút quay về nước Yên, tiếp tục cuộc đời làm thái tử của huynh ấy.

Lông mi rơi vào mắt hơi đau khiến cậu có cảm giác muốn rơi lệ đến nơi.

Ngọc bội đeo ở eo vang lên tinh tang, giọng nói trầm thấp của Yên Đan đột nhiên vang lên bên tai cậu: "Lang Hiên, có biết điều thứ hai lần trước ta định nói là gì không?".

Lông mi Cơ Thanh động đậy, cậu cân bằng lại cảm xúc rồi thốt lên hai tiếng: "Không biết".

"Trưởng thành không nằm ở chỗ đệ đã làm lễ đội mũ chưa, mà ở chỗ có sáng suốt hay không. Thứ nhất, nên biết rằng thế giới này nếu thiếu đi đệ cũng không có gì thay đổi. Thứ hai, cần biết rằng trên thế giới này luôn có một số việc bất luận đệ cố gắng thế nào cũng chẳng làm gì được, không biết làm thế nào".

Đây là muốn ám thị cho cậu sao? Cơ Thanh cắn môi dưới, một hồi lâu sau mới thốt được vài chữ qua kẽ răng: "Tuân lệnh".

Giọt lệ nơi khóe mắt bị Cơ Thanh ép ngược trở lại, cậu mở đôi mắt vẫn đau nhức, chiếc mũ huyền quan trên đầu nặng tựa nghìn cân, đè lên người khiến cậu cúi xuống nhìn bộ lễ phục trên đen dưới trắng ban nãy Yên Đan mặc, nhìn một hồi lâu.

Cơ Thanh ngẩng đầu lên, nhìn Yên Đan đối diện đã thay bộ y phục màu đen pha đỏ của người hầu, cậu thấy khí chất của đường huynh đã biến mất, cúi mặt nghe lời giống như một người hầu bình thường không có gì nổi bật. Ánh mắt Cơ Thanh bất chợt liếc nhìn con dấu sừng tê bên hông Yên Đan, trong lòng dâng lên nỗi oán giận khó nổi, cậu nghiến răng: "Điện hạ, nếu thân phận đã hoán đổi, vậy dấu sừng tê có đổi không?". Cậu vừa nói vừa tìm con dấu sừng tê mang theo bên mình hàng ngày trong tay áo bộ y phục vừa thay ra.

Yên Đan cất con dấu sừng tê bên hông vào lòng, điềm tĩnh nói: "Không sao. Đệ nên gọi ta là gì?".

"... Minh Cơ". Cơ Thanh nghĩ rất lâu mới nhớ ra tên tự của Yên Đan. Đan Minh Cơ, Thanh Lang Hiên... Tên tự của hai người cũng đặt giống nhau. Nhưng bây giờ Cơ Thanh vô cùng căm hận sự giống nhau ấy.

"Tốt".

Cơ Thanh không nói thêm gì nữa, cậu ngồi tê dại trong xe ngựa, nghe tiếng vó ngựa bên ngoài cậu biết chiếc xe ngựa này đang chạy không ngừng về phía Hàm Dương, chạy về phía tương lai bi thảm mà cậu không biết nhưng lại có thể đoán ra được.

Còn cậu, chẳng làm gì được, cũng không biết làm thế nào.

2

Nước Tần.

Cuộc đời Cơ Thanh đã xuất hiện bước chuyển ngoặt to lớn vào năm cậu mười hai tuổi.

Cậu trở thành thái tử nước Yên, tới Hàm Dương làm con tin, ngày tháng trở về quê hương mênh mông vô tận.

Hàm Dương rộng hơn Kế Thành nhiều lần, còn cung Hàm Dương nổi tiếng xa gần lại càng rộng lớn vô biên khí thế hùng vĩ, khiến người ta có ảo giác bản thân mình quá nhỏ bé khi đứng dưới tường thành nguy nga. Khi Cơ Thanh nhìn thấy Tần vương Chính trẻ tuổi cậu càng cảm thấy người này có uy thế trấn áp người khác của bậc đế quân làm chủ thiên hạ.

Cơ Thanh cúi đầu, có ý so sánh Yên Đan và Tần vương Chính trước mặt mình, nhưng ngay sau đó lại không nhịn được cười.

Yên Đan? Người ấy bây giờ đã là một người hầu, ngay cả chính điện của cung Hàm Dương cũng không được vào. Còn cậu, mới là Yên thái tử bây giờ.

Bởi vì từ nhỏ lớn lên cùng Yên Đan, cho nên Cơ Thanh có thể bắt chước cách ăn nói, cử chỉ của đối phương rất thành thục, suốt dọc đường những người hầu khác ít nhiều cũng nhận ra điểm bất thường nhưng không ai dám nói ra. Tất cả mọi người đều hiểu rằng, đây là một chuyện chẳng làm gì được, cũng không biết làm thế nào.

Yên Đan không muốn làm con tin, vậy thì chỉ có cậu thay thế, ai bảo cậu là người thích hợp nhất chứ?

Cơ Thanh hít một hơi sâu loại bỏ tạp niệm, hành lễ của hạ thần khấu kiến Tần vương Chính.

Trên thực tế, vị Tần vương Chính giam cầm mẫu hậu của mình, giết chết hai đệ đệ khác cha, ép cha đỡ đầu Lã Bất Vi tự vẫn, luôn bị bên ngoài đồn đại là người vô cùng tàn bạo này lại không làm khó Cơ Thanh cho lắm. Chỉ tùy ý hỏi thăm đôi câu rồi cho người dẫn cậu đi. Khóe mắt Cơ Thanh liếc nhìn từng tập sách thẻ tre chất trên án kỉ của Tần vương Chính, cậu tự cười nhạo chính mình.

Đúng thế, Tần vương Chính ngày ngày phải giải quyết trăm công nghìn việc, làm sao có thể quan tâm tới con tin nước Yên như cậu?

Nước Yên là quốc gia cách Tần xa nhất trong Chiến Quốc thất hùng, Phạm Tuy từng khuyên Tần vương kết giao xa thì chọn Tề, Sở, tấn công gần thì chọn Hàn, Nguy. Đã chiếm được Hàn, Nguỵ thì Tề, Sở sao có thể tồn tại? Sách lược viễn giao cận công nổi tiếng này còn chẳng hề nhắc đến nước Yên của bọn họ, trong mắt họ vốn đâu có nước Yên.

Việc đưa con tin như cậu tới Hàm Dương, nổi ra thì phần lớn là muốn xoa dịu con tim của Yên vương Hỉ mà thôi...

Dân chúng Hàm Dương chất phác, mười người đi đường có tới sáu bảy người mang theo đao kiếm, vũ khí, võ phong mạnh mẽ, dân nước cậu thật không thể sánh được. Rất hiếm người ăn vận xa hoa, người nào cũng rảo bước đi nhanh, tuyệt đối không có người nhàn tản dạo bước trên đường phố. Cơ Thanh chỉ tùy tiện nhìn một cái, rồi hạ rèm xe xuống, mơ mơ hồ hồ đi tới phủ của con tin. Cuộc đời sau này của cậu chỉ có thể quanh quẩn trong chốn này thôi.

Trên thực tế cậu vẫn có thể tự do ra vào phủ con tin, chỉ là mỗi lần cậu ra ngoài đều có vệ binh nước Tần đi theo sau, nhìn bề ngoài giống như đang bảo vệ sự an nguy của cậu nhưng trên thực tế là giám sát mọi hành vi động tác. Có cảm giác nhất cử nhất động đều bị vô số con mắt theo dõi, giống như bị cỏ nhọn đâm sau lưng khiến Cơ Thanh vô cùng khó chịu.

Hơn nữa năm nay cậu mới mười hai tuổi, Tần vương Chính lại không thể bố trí bất cứ phu tử nào dạy cậu học hành, thậm chí muốn đọc sách cũng cần tự sai người đi mua, hơn nữa mỗi bộ sách thẻ tre trước khi đến được tay cậu đều kinh qua nhiều cấp kiểm tra.

Cuộc sống như thế này giống như đang chìm trong đầm lầy, thực sự khiến người ta từ từ chìm sâu xuống bùn, cho đến khi chết ngạt.

Cơ Thanh càng ngày càng lầm lì ít nói, nhưng Yên Đan dường như cách vài ngày lại chuồn ra khỏi phủ con tin tiêu dao qua ngày trên mọi phố lớn ngõ nhỏ của Hàm Dương rất nhanh đã học được khẩu âm Hàm Dương, hòa nhập kết giao với rất nhiều người. Nhìn thấy Yên Đan như cá gặp nước Cơ Thanh luôn không nhịn được chua xót nghĩ, nếu như cậu không biến thành con tin, thì có phải cũng vô ưu vô lo như thế không? Lại hoặc là vẫn sống cuộc sống nhàn tản giàu có của thế tử ở Kế Thành. Nhưng giống như Yên Đan đã nói, đời người luôn có những chuyện, không thể làm gì được, cũng không biết làm thế nào.

Cơ Thanh đã quen với việc phải sửa lông mày hàng tháng, còn Yên Đan cũng từ từ dùng các loại nước thảo dược để thay đổi dung mạo của mình. Có lúc Cơ Thanh nhìn thấy khuôn mặt gầy gò không nổi bật ấy cũng khiến cậu ngây người ĩa.

Thời gian dần trôi, bọn họ cũng không giống nhau nữa, bất kể là dung mạo thân hình hay tính cách cử chỉ.

QUẢNG CÁOMgid

Một người có thể kiếm về 65 triệu đồng bằng cách sử dụng ứng dụng

Olymp Trade

Đừng chỉ sống dựa vào tiền lương. Học cách giao dịch

Olymp Trade

Cơ Thanh trở nên lạnh lùng thâm trầm, cậu càng ngày càng quen với thân phận con tin, và những tháng ngày sống ở Kế Thành nhiều năm trước lâu tới mức giống như chuyện xảy ra từ kiếp trước.

Cậu cảm thấy mình chính là thái tử nước Yên.

Nhưng ngày ngày tối tối, dưới ánh đèn dầu tù mù, cậu lấy con dấu sừng tê luôn mang theo bên mình ra, dùng đầu ngón tay vuốt ve những đường nét gấp khúc trên đó, tự nói với thân hết lần này tới lần khác, cậu là Cơ Thanh, tự Lang Hiên.

3

Chớp mắt cậu đã trải qua nhiều năm ở thành Hàm Dương.

Cho dù đãi ngộ rất kém, Tần vương Chính cũng không bớt xén đồ ăn của Cơ Thanh, cậu đã trở thành chàng thiếu niên nhanh nhẹn tuấn tú. Chỉ là mỗi lần cậu nhìn vào chiếc gương đồng sửa lông mày, cậu luôn nghĩ giá như đôi mày lưỡi mác của mình vẫn còn có lẽ sẽ khiến cậu tuấn tú thêm vài phần.

Trong những năm qua, đầu tiên là đại tướng nước Tần Nội sử Đằng tấn công nước Hàn, bắt sống Hàn vương An, nước Tần đặt quận Dĩnh Xuyên trên đất Hàn, nước Hàn diệt vong. Sau đó kế phản gián của nước Tần có hiệu quả, Triệu vương Thiên tự chặt tay mình, danh tướng một đời là Lý Mục bị chết thảm dưới kiếm của vị vua mình phò tá, Vương Tiễn đại phá quân Triệu, bắt sống Triệu vương Thiên, nước Tần đã thu nước Triệu vào bản đồ của mình, đặt quận Hàm Đan, nước Triệu diệt vong.

Tình thế ngày càng căng thẳng, không ai có thể chống đỡ được mũi nhọn muốn thống nhất thiên hạ của nước Tần. Thành Hằm Dương trên dưới hừng hực ý chí chiến đấu, tin thắng lợi liên tiếp được truyền đi.

Vì đã sống ở Hàm Dương nhiều năm nên thi thoảng Cơ Thanh cũng được mời tham gia một số hoạt động do các quan cấp cao của nước Tần tổ chức. Chỉ là nước Tần không tổ chức nhiều yến tiệc như nước Sở, mà phần lớn là săn bắn vào hai dịp xuân thu. Đất Yên, Triệu do thường xuyên giao chiến với người Hồ phương Bắc nên giỏi săn bắn cưỡi ngựa. Trước đây Cơ Thanh thân làm thế tử tôn quý, mặc dù chưa từng đích thân ra chiến trường nhưng mắt thấy tai nghe nhiều rồi nên cũng có thân thủ xuất chúng. Tuy vậy xét cho cùng cậu vẫn còn nhỏ tuổi, lực cánh tay không đủ khỏe nên thành tích săn bắn không lý tưởng, huống hồ rất nhiều người đâu có để cho cậu thuận lợi săn bắn. Cơ Thanh cũng biết giá trị tồn tại của mình chính là để đám vương tôn công tử quý tộc nhà Tần cười nhạo mua vui mà thôi.

Ban đầu Cơ Thanh cũng giận dữ phản kháng, nhưng cậu phát hiện ra mình càng biểu hiện như vậy đám người đó càng hưng phấn, cậu sẽ càng bị lăng mạ tủi nhục hơn. Vì vậy cậu dần dần học được cách không quan tâm, tê dại đi, quả nhiên phản ứng nhạt nhẽo ấy khiến đám người kia cảm thấy vô vị, dần dần chuyển mục tiêu khác, như thế mới khiến Cơ Thanh an nhiên tiếp tục sinh tồn ở thành Hàm Dương này.

Nhưng cho dù cố ép bản thân giảm thiểu sự tồn tại của mình, Cơ Thanh cũng không nén được mà muốn đi nghe ngóng tình hình tiền tuyến. Vào ngày săn bắn, cậu nghe được đám con cháu của mấy nhà quân huân thế gia lớn giọng bàn luận chuyện nước Triệu diệt vong, tiếng cười huyên náo chói tai ấy khiến cậu buồn bã trong lòng.

Nước Hàn và nước Triệu đã diệt vong, nước Triệu lại tiếp giáp nước Yên, từ Hàm Đan đi về phía Đông Bắc không xa chính là vương đô Kế Thành nước Yên, nếu quân Tần hung hãn vậy nước Yên sao có thể giữ được?

Yên Đan phải gánh vác những chuyện này, phải suy nghĩ những chuyện này đâu rồi? Thái tử Yên Đan thực sự kia mấy năm qua hành tung ẩn dật, nếu không phải phát tiền tiêu vặt hàng tháng có thể gặp huynh ấy một lần, Cơ Thanh còn tưởng người này sớm đã tháo chạy khỏi Hàm Dương rồi.

Càng nghĩ tâm trạng càng tồi tệ, nên cậu chẳng về phủ con tin nữa, Cơ Thanh hoang mang bước đi lung tung trên những con phố ở Hàm Dương. Có lẽ vì mấy năm qua cậu khá an phận nên đám vệ binh giám sát theo sau cậu cũng giảm đi một nửa. Bây giờ chỉ còn lại hai tên. Đi loanh quanh như cậu bây giờ vẫn trong phạm vi chấp nhận được nên không ai lên trước ngăn cản cậu cả.

Cơ Thanh mơ hồ không biết bản thân mình đang nghĩ gì, thực ra khuôn mặt người thân trong ký ức cũng đã nhạt nhòa, có lẽ bây giờ cậu xuất hiện trước mặt người thân e rằng bọn họ cũng không nhận ra, dù sao thì cậu đã đi bao nhiêu năm rồi...

Không biết đã đi lang thang bao lâu, cho đến khi sắc đêm buông xuống Cơ Thanh mới sực tỉnh. Lúc này cậu phát hiện ra mình đang đứng trước một tiệm cháo tên là "Lâm Ký". Hàm Dương chỉ có một cửa tiệm bán đồ ăn nước Yên, nhìn chữ tiểu triện xiêu vẹo trên tấm biển, Cơ Thanh mới nhớ ra Yên Đan từng nhắc tới nơi này, hơn nữa mấy năm trước còn thường xuyên mua canh đậu ngọt của tiệm này về cho cậu. Chỉ là lúc đó cậu đã bắt đầu xa lánh Yên Đan, coi như không nhìn thấy canh đậu ngọt đặt trên bàn cậu mỗi tối, dần dần, canh đậu ngọt cũng không xuất hiện nữa.

Mang theo tâm trạng khó tả, Cơ Thanh dừng chân trước cửa tiệm cháo này. Đang mơ hồ thì thấy một bóng người vén rèm bước ra, lúc này ánh trăng rực rỡ càng làm nổi bật làn da trắng muốt, mái tóc đen tuyền của giai nhân, duyên dáng yêu kiều. Chính trong khoảnh khắc ấy, tiếng huyên náo xung quanh dường như bị rút hết khỏi nơi đây, trong đầu Cơ Thanh liên tục vang lên một bài thơ cậu từng được nghe thời thơ ấu.

"Nguyệt xuất hạo hề, giảo nhân liễu hề! Thư yểu kiểu hề, lao tâm tiệu hề!

Nguyệt xuất hạo hề, giảo nhân hão hề! Thư ẩu thảo hề, lao tâm thảo hề!"

(Bài thơ "Nguyệt xuất" trong "Thi kinh", Tạ Quang Phát dịch: "Trăng lên sáng đẹp bầu trời, Yêu kiều tha thướt dáng người đẹp xinh, Làm sao giải nỗi u tình? Nhọc nhằn tấc dạ riêng mình khổ đau. Trăng lên sáng đẹp nơi nơi, Thướt tha kiều diễm, dáng người xinh thay! Nỗi sầu sao được giãi bày? Nhọc nhằn đau khổ đọa đày lòng ta.")

Cơ Thanh lập tức hiểu ngay tại sao Yên Đan thích chạy tới tiệm cháo này, nữ tử này e là còn nhỏ tuổi hơn bọn họ, không phải Yên Đan đã phải lòng người ta từ lâu rồi chứ?

Mặc dù chỉ là suy đoán nhưng Cơ Thanh lại khẳng định chắc chắn. Bởi vì cả hai huynh đệ họ từ nhỏ lớn lên với nhau, bất kể từ tướng mạo hay những đồ vật yêu thích, từ trước tới giờ đều giống nhau. Giống như phụ thân của cậu khi làm đồ vật cho hai người cũng thường làm một đôi, ví dụ như con dấu sừng tê.

Cơ Thanh mỉm cười bước vào tiệm cháo, nói chuyện rất tự nhiên với cô chủ nhỏ, dễ dàng hỏi được thân phận của đối phương. Phụ thân của cô là binh sĩ nước Tần, còn mẫu thân là nữ tử nước Yên, mẫu thân mất sớm còn phụ thân vẫn đang phục binh, vì vậy cô học được tay nghề của mẫu thân, mở tiệm cháo này. Vì chỉ có quý tộc mới có thể có tên có họ, nên những nữ tử bình dân chưa có chồng như cô chỉ có thể kế tục họ của phụ thân, người xung quanh đều gọi cô là Lâm Nữ.

Lâm Nữ vừa mỉm cười nói chuyện, vừa bưng lên một bát canh đậu ngọt bốc khói nghi ngút. Canh đậu ngọt này dùng nước vo gạo và đậu đỏ hầm nhừ, không cần cho thêm bất cứ loại dấm nào, ngọt thanh thơm mát. Cơ Thanh chỉ nhấp một ngụm đã không kiềm chế được mà đỏ hoe mắt.

Đây là món ăn chính của người trên kẻ dưới ở nước Yên. Mặc dù cậu thân là thế tử tôn quý, mỗi bữa đều có món ăn ngon hơn, nhưng cũng vì thời thơ ấu thèm muốn vị ngọt thanh này nên thường xuyên yêu cầu người hầu làm cho mình ăn.

Đã... đã lâu lắm rồi không được ăn vị ngon thế này.

Đậu ngọt thơm mềm tràn vào từng kẽ răng, Cơ Thanh cố ép những ký ức đã lãng quên của bản thân ùa về trước mặt. Một nỗi nhớ nhà không kiềm chế được, giống như thủy triều đang cuốn cả người cậu đi, nước mắt cũng rơi xuống không gì ngăn nổi.

Chắc chắn Lâm Nữ đã bắt gặp cảnh tượng thế này rất nhiều lần nên cô ân cần đi vào phòng trong, một lúc sau lại bưng ra một đĩa bánh hấp vừa ra lò.

Cơ Thanh đã kiềm chế được cảm xúc của bản thân nên cảm thấy hơi ngại ngùng. Lúc này cậu mới thể hiện vài phần xấu hổ bất an của chàng thiếu niên, ngay cả ngẩng đầu lên nhìn Lâm Nữ cũng không dám, cậu quét sạch hết bát canh đậu ngọt và đĩa bánh hấp vừa mang ra.

Buông bát xuống, cậu còn định nói thêm mấy câu với Lâm Nữ nhưng liếc thấy hai thị vệ đi theo cậu đã đứng bên ngoài cửa tiệm, nhắc nhở cậu nên quay về rồi.

"Công tử xưng hô thế nào?". Lâm Nữ thấy cách ăn vận của Cơ Thanh có lẽ đoán ra thân phận của cậu không thấp kém nên gọi cậu một tiếng "công tử", chứ không hề có ý bôi nhọ thân phận của cậu.

Cơ Thanh sững người, bỗng dưng có thứ cảm xúc lạ lẫm đang lan tỏa trong lồng ngực.

Năm xưa, Yên Đan có phải cũng từng rơi vào tình huống thế này?

Ngay cả người con gái mình yêu thích nhất cũng không thể nói cho nàng ấy biết mình thực sự là ai.

Cơ Thanh cụp mắt xuống, khóe miệng nở nụ cười chua chát, giọng trầm thấp chậm rãi nói: "Ta... là Yên thái tử Đan".

Từ khi ăn bát canh đậu ngọt của Lâm Nữ, Cơ Thanh như biến thành một người khác, ngày ngày không còn sầm mặt lại nữa, hầu như mỗi tối đều xuất hiện đúng giờ ở tiệm cháo Lâm Ký, chỉ vì muốn ăn một bát canh đậu ngọt và nói vài câu với Lâm Nữ.

Đã từ lâu trong những buổi nói chuyện, Cơ Thanh đã biết Yên Đan và Lâm Nữ có quen biết nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức khách quen thôi. Yên Đan không nói cho Lâm Nữ biết tên họ của huynh ấy, thậm chí cũng không dùng tên tự của mình để thay thế. Lúc biết được Cơ Thanh ngoài mặt mỉm cười nhưng trong lòng lại lạnh lùng hậm hực. cẩn thận tới mức này cũng không muốn dùng tên giả để lừa gạt Lâm Nữ, có thể thấy vị đường huynh thái tử của cậu quả nhiên rất coi trọng Lâm Nữ.

Cơ Thanh tới tiệm cháo Lâm Kỷ rất nhiều lần nhưng chưa lần nào gặp Yên Đan, dần dần cũng không coi vị đường huynh đang uy hiếp mình nữa.

Chỉ dựa vào bộ dạng gầy nhom vàng vọt của Yên Đan bây giờ, Lâm Nữ để ý tới huynh ấy mới lạ. Hơn nữa nếu sau này Yên Đan khôi phục lại danh phận Yên thái tử, cũng chắc chắn không thể lấy một nữ tử bình dân làm vương hậu được.

Còn cậu sau khi về nước Yên là có thể khôi phục lại tự do. Mặc dù có thể thân phận thái tử sẽ bị đệ đệ giành lấy, vì từng thay thế thân phận của Yên Đan nên ở Kế Thành có thể cậu sẽ không được Yên Đan cho phép, vậy thì cậu sẽ đi tới nơi khác ở nước Yên để ẩn cư, thậm chí đi tới những nước khác cũng được. Chỉ cần cậu và Lâm Nữ, dựa vào nhau mà sống.

Chỉ cần nghĩ tới tương lai như vậy là Cơ Thanh đã kích động tới mức đi đi lại lại trong phòng.

Với cậu mà nói, những thứ như ăn sung mặc sướng, nhà cao cửa rộng đều chỉ là một cái lồng xa hoa mà thôi. Cậu thực sự không muốn gặp phải những chuyện chẳng làm gì được cũng không biết phải làm thế nào nữa, cậu muốn làm chủ cuộc đời của mình.

Chỉ là bây giờ cậu vẫn là thân phận con tin bị giam lỏng thì căn bản không thể mang lại hạnh phúc cho Lâm Nữ.

Con tim Cơ Thanh bắt đầu linh hoạt hơn, cậu trằn trọc băn khoăn nhiều đêm, cuối cùng đã viết thư cho Tần vương Chính khẩn cầu quay về nước Yên, sau nhiều lần sửa đi chữa lại, mới trịnh trọng cho người gửi tới cung Hàm Dương.

Mấy ngày hôm sau Cơ Thanh đều quyến luyến ở tiệm cháo Lâm Ký, cậu muốn tìm cơ hội nói rõ thân phận của mình cho Lâm Nữ, muốn có mỹ nhân ở bên. Chỉ là mỗi lần mân mê dấu sừng tê trong tay áo, nhìn dung nhan mỉm cười như hoa của Lâm Nữ, cậu lại cảm thấy rất khó mở lời.

Đúng vậy, cứ đợi thêm đã, đợi đến lúc cậu được về nước, cậu sẽ nói hết sự thật với Lâm Nữ.

Lần thứ năm cân bằng lại cảm xúc của mình, Cơ Thanh bước ra từ tiệm Lâm Ký, chậm rãi thả bước trên con đường quen thuộc đi về phủ con tin. Cậu tưởng rằng đêm nay sẽ giống như vô số đêm trước, chẳng có chuyện gì xảy ra cả, nhưng khi cậu nhìn thấy cánh cửa lớn của phủ con tin, thì phát hiện ra dấu sừng tê trong tay áo đã không cánh mà bay.

Tại sao lại như thế? Rõ ràng lúc đi ra khỏi tiệm Lâm Ký vẫn còn!

Cơ Thanh lo lắng lục tìm trong tay áo, hai tên thị vệ giám sát thấy vậy bèn đi tới hỏi xem có cần giúp đỡ không.

Mồ hôi lạnh túa ra sau gáy Cơ Thanh, cậu tuyệt đối không thể để người khác lấy được dấu sừng tê này, nếu không cậu phải giải thích thế nào về chuyện mình có con dấu khắc tên người khác? Sự tồn tại của cậu ở nước Yên cũng không khó tìm kiếm, chỉ cần người ta có ý đồ sẽ nhanh chóng cảm nhận được có vấn đề trong chuyện này.

Cơ Thanh đi ngược lại vờ như không có chuyện gì, nhưng thực chất trong lòng nóng như lửa đốt. Cậu vừa lo lắng tìm kiếm trên đường đã đi qua xem có dấu sừng tê không, vừa tưởng tượng hậu quả đánh mất dấu sừng tê trong đầu sẽ như thế nào.

Cậu thực sự quá sơ suất, trên người Yên Đan mang con dấu sừng tê khác, vốn đã là một hành động vô cùng ngu ngốc, nhưng đó cũng là vì chí ít còn để lại bằng chứng thể hiện thân phận sau này. Con dấu sừng tê của cậu ngoài việc mang lại cho cậu vô số hậu họa ra, nó vốn chẳng có ích lợi gì. Cậu nên mài nhẵn con dấu từ lâu, hủy hoại hoàn toàn.

Chỉ là cậu không thể ra tay được, cậu luôn nghĩ đấy là vật cuối cùng có thể chứng minh mình vẫn là Cơ Thanh, có thể nhắc nhở mình rốt cuộc mang họ gì mang tên gì bất cứ lúc nào. Nếu như hủy mất rồi, giống như hủy đi chính bản thân cậu vậy.

Cơ Thanh rẽ vào một góc phố, nhìn thấy một cậu thiếu niên chừng mười ba mười bốn tuổi, đang đứng ở góc tường nhìn người đi lại trên phố, giống như đang chờ ai đó. Ánh mắt Cơ Thanh nhìn ngay ra trong tay cậu ta đang nắm thứ gì đó, bên ngoài kẽ tay lộ ra sợi dây kết màu đỏ, chính là nút kết tường vân cậu vô cùng quen thuộc.

Cơ thể phản ứng nhanh hơn đại não, Cơ Thanh rảo bước đi tới nhưng đúng lúc cậu thiếu niên ấy quay lại nhìn về phía cậu, nhìn rõ tướng mạo của người ta xong Cơ Thanh lập tức như rơi xuống động băng.

Cậu thiếu niên chỉ mặc áo thâm vân kẻ ngang màu xanh lục với ống tay rộng không hề bắt mắt, mặt mũi như tranh, thân hình đứng thẳng phơi phới như cây trúc sau mưa.

Trước đây rất lâu Cơ Thanh đã gặp cậu ở đại điện, khi ấy cậu thiếu niên vẫn còn là hài đồng nhưng đã lập công lớn cho Đại Tần và được phong làm thượng khanh, ăn nói đĩnh đạc trước sự chứng kiến của vạn người. Nhưng sau đó cậu chấp nhận trở thành bạn học của đại công tử Phù Tô, kín kẽ làm cái bóng của Phù Tô, nhưng vẫn khiến người khác không thể coi thường.

Lúc này hai người đã nhìn thấy nhau, Cơ Thanh muốn quay đầu bỏ đi nhưng đã quá muộn nên đành miễn cưỡng hành lễ, coi như chào hỏi.

"Yên thái tử hành tung vội vã, phải chăng là đánh rơi thứ gì đó?"

Cậu thiếu niên cũng đáp lễ lại, khóe miệng mỉm cười sâu xa khó đoán với Cơ Thanh.

Lúc này Cơ Thanh đã lấy lại tinh thần, điềm tĩnh gật đầu: "Là một con dấu sừng tê, là món đồ của đường đệ ta".

"Quả thực ta có nhặt được một con dấu sừng tê. Quan hệ của Yên thái tử và đường đệ thật khiến người khác hâm mộ". Cậu thiếu niên mặc áo thâm xòe tay ra, trong lòng bàn tay như ngọc của cậu ấy là con dấu sừng tê màu đỏ rượu nằm lặng lẽ.

Đôi mày Cơ Thanh giật giật khi nghe những lời ám chỉ của cậu, nhưng vẫn giữ điềm tĩnh, dù sao cũng chưa có ai từng nhìn thấy con dấu sừng tê thứ hai. Cơ Thanh mỉm cười tự nhiên, nói: "Khi ta rời Kế Thành đường đệ vẫn còn nhỏ, không nỡ rời xa nên mang vật này đi bầu bạn. Ta từng thề rằng, ngày về Kế Thành cũng là ngày trả lại vật này cho chủ".

Cậu không biết năm xưa khi mình theo Yên Đan rời đi, Yên Đan đã làm thế nào để che giấu sự biến mất của cậu, nhưng cậu tin rằng đối phương đa mưu túc trí chắc chắn sẽ xử lý tốt những kẽ hở trong chuyện này. Chỉ là khi Cơ Thanh nhắc đến tuổi nhỏ, cậu nhớ tới khi mình và Yên Đan rời Kế Thành, có lẽ độ tuổi cũng tương đương với cậu thiếu niên trước mặt được phong làm thượng khanh mà thôi.

Quả nhiên, người với người thật khác nhau.

Trong lòng mỉm cười cay đắng bao nhiêu, Cơ Thanh lấy lại con dấu sừng tê từ tay cậu thiếu niên, nghĩ rằng nói càng nhiều càng sai nên trịnh trọng cảm ơn đối phương rồi ra về.

Cậu thiếu niên mặc áo thâm nhìn theo bước chân có phần hoảng hốt của Yên thái tử, đôi mắt khẽ nheo lại. Con dấu sừng tê này e rằng có nội tình khác, cậu có nên dành thời gian để điều tra không?

Trong lúc mông lung suy nghĩ, cậu thiếu niên mặc áo thâm cảm thấy có hai cặp mắt đang nhìn mình, còn có tiếng thảo luận lờ mờ vọng tới nữa.

"Ê ê ê? Người kia... không phải là chủ tiệm hồi trẻ đó chứ? Trời ơi, nhìn dễ thương quá".

"Anh be bé cái mồm thôi, bị phát hiện là không hay đâu! Nghe nói cái dấu sừng tê kia là sừng tê màu đỏ thẫm của quần thể tê giác châu Á. Trời ơi! Sừng tê giác châu Á nghe nói đã tuyệt chủng ở Trung Nguyên vào thời Hán rồi, sau đó hoàn toàn tuyệt chủng trên địa cầu, ngay cả hoàng đế Càn Long cũng chưa từng nhìn thấy sừng tê giác châu Á thật sự. Chế phẩm sừng tê thời Minh Thanh hoàn toàn do nhuộm màu bắt chước màu cổ xưa mà ra. Trời đất ơi...".

".... Sao tôi cảm thấy giọng cậu còn to hơn giọng tôi nữa thế?".

Cậu thiếu niên chau mày, cảm thấy khẩu âm của hai người này không giống với giọng điệu của nhân sĩ sáu nước khác, hơn nữa còn ăn nói lung tung. Đợi đến khi cậu quay đầu lại xem xét thì không tìm thấy người vừa nói đâu nữa.

Cậu thiếu niên nắm chặt bàn tay, xem ra phải chỉnh đốn lại việc bảo vệ của thành Hàm Dương mới được.

4

Cơ Thanh về phủ con tin trong tâm trạng khấp khởi, cậu cất con dấu sừng tê mất rồi lại tìm được trong ngăn kéo ở đầu giường, không đeo bên mình nữa.

Không lâu sau Tần vương Chính cũng hồi đáp khẩn cầu về nước Yên của cậu, có viết: "Sử nhật tái trung, thiên vũ túc, lệnh ô bạch đầu mã sinh giác, trù môn mộc tượng sinh nhục túc, nãi đắc quy".

Cơ Thanh mặt mày tái xanh, Tần vương Chính vốn không có ý định đồng ý với khẩn cầu của cậu, còn nói cái gì mà nếu như ngày mai mặt trời mọc đằng tây rồi đi về chính giữa, nếu trời đổ mưa gạo, quạ đen mọc đầu trắng, ngựa mọc sừng, tượng gỗ ở cửa bếp mọc ra chân bằng thịt thì mới cho cậu về Yên. Năm chuyện này vốn không thể xảy ra, cũng có nghĩa là cả đời này không thể nào về quê hương được.

Sự đả kích quá lớn khiến Cơ Thanh nhiều ngày liên tiếp không có tinh thần ra ngoài, cho đến tối ngày thứ năm, cậu mới nhớ ra đã nhiều ngày mình chưa tới tiệm cháo Lâm Ký.

Trong lòng thầm nghĩ nếu mãi mãi không thể về đất Yên, vậy liệu có thể cầu xin thứ thấp hơn? Nếu cứ bị nhốt ở thành Hàm Dương như thế này, cậu cũng không thể không thành thân được? Cậu lựa chọn Lâm Nữ không nổi bật, không chừng Tần vương Chính còn yên tâm phần nào.

Chỉ là cách nghĩ có phần an ủi thế này khiến bản thân Cơ Thanh cũng không chịu nổi bản thân không có chí lớn.

Có điều, cậu còn có thể làm gì khác được? Cậu chỉ là con tin bị giam lỏng, chẳng phải sao?

Tâm trạng Cơ Thanh cực kỳ tồi tệ, nhưng cậu không ngờ rằng mới chỉ có năm ngày không đến tiệm cháo Lâm Ký, thứ đón đợi chàng lại là tờ giấy niêm phong dán trên cửa.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Chuyện này là thế nào? Cơ Thanh vội vã hỏi dò hàng xóm xung quanh, được biết hai ngày trước Lâm Ký bị điều tra và niêm phong, tội danh là thông đồng với địch phản quốc, Lâm Nữ bị bắt đi với tội danh gián điệp nước Yên, không biết là thật hay giả nhưng chắc chắn không thể quay về được nữa.

Cơ Thanh nghe như sét đánh ngang tai, hoàn toàn không hiểu tại sao lại xảy ra chuyện này. Từ khi thực hiện biến pháp Thương Ưởng trở lại đây, các hình phạt của nước Tần nổi danh tàn bạo, nghiêm khắc, ngay cả bản thân Thương Ưởng cũng bị xe kéo đến chết, nói gì đến tội phản quốc nữa. Cơ Thanh khẩn cầu hai tên thị vệ đi theo cậu nghe ngóng chút thông tin, nhưng một trong hai tên lại nhìn cậu cười sâu xa, ngầm ám chỉ cậu đừng có khuấy vũng nước bẩn này lên nữa.

(Biến pháp Thương Ưởng là cuộc cải cách quy mô lớn về chính trị, quân sự, kinh tế... do Thương Ưởng đề xuất ở nước Tần thời chiến Quốc, được thi hành hai lần vào các năm 356 TCN và 350 TCN)

Đây là... Tần vương Chính đang thể hiện sự bất mãn vì cậu viết thư khẩn cầu xin về Yên?

Một cảm giác bất lực từ trong xương cốt tràn ra khắp người Cơ Thanh, cậu không biết mình đã đi về phủ con tin như thế nào nữa.

Một mình đứng trong sân hồi lâu, cậu nghĩ tới hàng loạt cách có thể cầu xin, nhưng cảm thấy hy vọng cứu được Lâm Nữ rất mong manh.

Bất kể là ai cầu xin, chỉ cần Tần vương Chính muốn Lâm Nữ chết, chẳng qua chỉ đơn giản như bóp chết một con kiến mà thôi.

Cơ Thanh đi loanh quanh không mục đích trong phủ con tín rộng mênh mông, ma xui quỷ khiến thế nào cậu lại đi tới khu nhà bên cạnh của đám người hầu sinh sống, bỗng dưng cậu rất muốn gặp Yên Đan. Đúng thế, Yên Đan cũng thích Lâm Nữ, huynh ấy không thể cứ nhìn nàng đi chết như vậy được, huynh ấy thông minh như vậy chắc chắn sẽ có cách.

Thế nhưng khuôn mặt tràn đầy hưng phấn của cậu trở nên lạnh ngắt khi cậu đẩy cánh cửa gỗ bước vào.

Cậu ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc.

Yên Đan đã lâu không gặp bây giờ đang nằm giữa vũng máu, bụng dưới bị đâm bởi một con dao găm sắc nhọn. Thậm chí y không còn sức bò lên giường, cũng không có sức để tự xử lý vết thương. Cũng không rõ y đã nằm ở đây bao lâu, nhưng không ngờ vẫn còn tỉnh táo, nghe thấy tiếng Cơ Thanh đẩy cửa bước vào y còn mở to đôi mắt, niềm vui thể hiện rõ qua ánh mắt.

"Trời ơi... sao không gọi người?" Cơ Thanh vội vã lao tới, chân tay lóng ngóng muốn giúp đường huynh cầm máu.

"Đừng... làm ầm lên". Yên Đan ho nhẹ mấy tiếng, khóe miệng rỉ ra một dòng máu tươi. Cơ Thanh sững người, biết ngay chuyện bị thương của Yên Đan không hề đơn giản, nếu không huynh ấy đã sớm gọi người tới cứu.

Con người này làm sao vậy? Tại sao lại giương mắt lên đợi chết chứ? Nếu không phải bản thân mình chợt nảy ra ý nghĩ tới thăm huynh ấy, thì chẳng phải huynh ấy cứ lặng lẽ nằm đó chết trong im lặng sao? vết thương ở bụng dưới của Yên Đan thực sự quá nặng, hơn nữa đã qua mất thời gian cứu chữa tốt nhất, Cơ Thanh biết nếu cậu rút con dao này ra, vậy thì Yên Đan sẽ nhanh chóng chết vì mất máu quá nhiều. Trên thực tế lúc này y còn tỉnh táo mở mắt đã là một kỳ tích rồi.

Cơ Thanh tìm được trong phòng một ấm nước không biết đã để bao lâu, cậu nâng đầu Yên Đan lên, cho y uống vài ngụm nước. Ánh trăng sáng lạnh lẽo luồn qua khung cửa sổ rọi lên gương mặt Yên Đan, Cơ Thanh không nhẫn tâm nhìn máu tươi trên mặt đường huynh nên lấy tay áo nhẹ nhàng lau vết máu trên đó đi.

Khuôn mặt Yên Đan trước giờ luôn dùng nước cỏ để che giấu bây giờ cũng bị lau sạch, để lộ ra khuôn mặt rất giống Cơ Thanh, nhưng lại là khuôn mặt xanh xao gầy gò.

Cơ Thanh rối bời trong lòng, cậu khẽ giọng hỏi: "Rốt cuộc... đã xảy ra chuyện gì?".

Yên Đan gượng cười, thở dài: "Là ta đã liên lụy tới Lâm Nữ..."

"Minh Cơ! Huynh là gián điệp?". Cơ Thanh sững sờ, cùng lúc mọi chuyện xảy ra đã sáng tỏ trong khoảnh khắc. Hèn chi Yên Đan tự nguyện làm người hầu, hèn chi huynh ấy học khẩu âm Hàm Dương rất nhanh, hèn chi huynh ấy rất ít khi xuất hiện, hèn chi huynh ấy thay đổi dung mạo của mình- hóa ra huynh ấy trao đổi thân phận không phải vì muốn bản thân cậu thay huynh ấy chịu sự nhục nhã, mà với thân phận người hầu huynh ấy có thể thuận lợi thăm dò tin tức hơn mà thôi!

"Tại sao không nói thẳng với đệ?". Cơ Thanh vừa cảm thấy an ủi lại thấy đau lòng, an ủi là vì thái tử đường huynh không phải là kẻ tiểu nhân tham sống sợ chết, đau lòng là vì bản thân lại chẳng hề giúp ích được chuyện gì.

Yên Đan mỉm cười, hạ giọng nói: "Lang Hiên, bắt đệ rời khỏi Kế Thành đã là... có lỗi với đệ. Huống hồ đệ đã thay thân phận của ta... triều Tần trên dưới đều đang nhìn vào đệ, nhất định không... thể có sai sót".

Cơ Thanh sững sờ, nghĩ tới mấy hôm trước mình làm vài chuyện ngốc nghếch. Liên tục tới tiệm cháo Lâm Ký, dâng thư xin về nước Yên, đánh rơi dấu sừng tê lại bị thượng khanh thiếu niên nhặt được....

Đôi tay Cơ Thanh đang ôm Yên Đan cũng run rẩy theo, cậu nấc nghẹn: "Đều là lỗi của đệ... đều là lỗi của đệ..."

"Đừng khóc... Lang Hiên. Pháp luật Tần viết, quần thần thị vệ trên điện, không được mang theo binh khí... các lang quan mang theo binh khí, đều đứng dưới điện, không có chiếu chỉ không được lên điện. Sau khi đệ về Yên, hãy tìm một dũng sĩ, ám sát Tần vương Chính trên triều, đây là thời cơ tốt nhất... chỉ cần Tần vương Chính chết.... Đại Tần vô chủ... mối nguy của nước Yên sẽ được giải quyết..."

Yên Đan ú ớ nói ra suy nghĩ của mình cùng những tình báo mình điều tra được, hận không thể đích thân tiễn Tần vương Chính về trời, trở thành mối hận suốt đời.

"Nhưng... nhưng đệ làm sao về Yên được?". Cơ Thanh hoang mang lo sợ.

Yên Đan thở dài trong im lặng, cảm thấy quả thực mình đã bảo vệ đường đệ quá mức chu đáo, từng ly từng tí một, bình thường chuyện gì cũng không cho đệ ấy biết, rõ ràng là sai lầm. Lúc này cũng không còn cách nào khác, Yên Đan đành vực dậy tinh thần, giao cho Cơ Thanh những mối quan hệ ở nước Tần mà bao năm qua mình sắp xếp, nói cho cậu biết phải đóng giả làm nô bộc rời khỏi Hàm Dương thế nào, đi con đường nào, đi tìm ai đón....

Nói xong, lại bảo Cơ Thanh lấy con dấu sừng tê y luôn mang theo bên mình ra, im lặng một hồi mới chậm rãi nói: "Lang Hiên, thực ra đệ vẫn còn một sự lựa chọn nữa".

"Là sao?".

"Quay về thân phận cũ của đệ, trốn khỏi Hàm Dương, nói Yên thái tử Đan đã chết ở Hàm Dương". Đôi mắt Yên Đan đã mơ màng, hít thở khó khăn, đã sắp hấp hối đến nơi.

"Minh Cơ!". Đôi mắt Cơ Thanh nhỏ lệ nhưng không biết phải nói gì. Ngay cả nằm mơ cậu cũng muốn quay về thân phận cũ của mình, nhưng giờ này phút này lại cảm thấy nó không còn quan trọng nữa. Nhưng để cậu đi mưu sát Tần Vương Chính... "Đệ... đệ không làm được...". Cơ Thanh thấp thỏm bất an, cậu tầm thường như vậy, ngày ngày chỉ biết giận trời trách người, làm sao có thể gánh vác trọng trách lớn như vậy?

"Lang Hiên... đệ còn nhớ lần trước... ta nói thứ nhất, thứ hai?". Yên Đan nói.

Cơ Thanh sững sờ, nhưng nhanh chóng tiếp lời: "Trưởng thành không nằm ở chỗ đệ đã làm lễ đội mũ chưa, mà ở chỗ có sáng suốt hay không. Thứ nhất, nên biết rằng thế giới này nếu thiếu đi đệ cũng không có gì thay đổi. Thứ hai, cần biết rằng trên thế giới này luôn có một số việc bất luận đệ cố gắng thế nào cũng chẳng làm gì được, không biết làm thế nào..."

"Thứ ba... thứ ba... cho dù biết có một số việc... chẳng làm gì được, không biết làm thế nào... cho dù thiên mệnh như vậy... cũng phải cố gắng hết sức... chiến đấu một phen....". Yên Đan nói hết sức thê lương, sau đó, đột ngột ngừng thở.

Cơ Thanh ngồi giữa vũng máu, cho đến khi trời tối hẳn mới mặc chiếc áo dài lấm tấm vết máu về phòng mình.

Cậu lấy con dấu sừng tê của mình ở ngăn kéo đầu giường ra, đồng thời đặt con dấu sừng tê đầy vết máu lên bàn.

Suốt bao năm qua đây là lần đầu tiên hai con dấu sừng tê đặt cạnh nhau.

Cơ Thanh nhìn chằm chằm vào hai con dấu, mắt không chớp.

Rốt cuộc cậu là ai? Cậu là Cơ Thanh? Hay là Yên Đan?

Lần này, cậu có thể lựa chọn thân phận của mình chứ không phải người khác giúp cậu lựa chọn.

Một hồi rất lâu sau, cậu cầm một trong hai con dấu lên, dùng vật nặng đập nát nó ra.

Quyển 4 - Chương 7: Bồ Đề Tử

1

Năm 1932, Bắc Bình.

Ngụy Trường Húc đang ngồi xổm trong Trung Hoa thư cục của Lưu Ly Xưởng, vừa giở cuốn sách trong tay, vừa chống tai lắng nghe đám chủ tiệm kia nói chuyện.

Lưu Ly Xưởng vào sáng sớm thường không bán hàng, cho nên đám chủ tiệm kia ăn sáng, rồi xách lồng chim, đến tụ tập nói chuyện bên ngoài Trung Hoa thư cục. Có lúc, nói chuyện thời cuộc căng thẳng, có lúc lại bàn chuyện Bắc Kinh rốt cuộc đã bị chính phủ Dân Quốc thủ tiêu tư cách thủ đô, tên cũng đổi thành Bắc Bình, lại thỉnh thoảng trút sự phẫn nộ vào đám quỷ Tây Dương tóc vàng lông đỏ đó. Đến khi mặt trời lên cao thì họ đều bị nhân viên nhà mình gọi về.

Đúng thế, Lưu Ly Xưởng là phố đồ cổ phồn hoa nhất thành Bắc Kinh, từ những năm Thuận Trị thời Thanh Sơ, nơi đây chính là nơi tụ tập của quan viên người Hán, sau này hội quán của các vùng trên toàn quốc cũng đều xây ở vùng phụ cận, quan viên, sĩ tử lên kinh ứng thí cũng thường tụ tập ở chợ bán sách này, họp chợ dần dần biến thành phố phường, đến cả thư cục, cửa hiệu đồ cổ ở cửa trước và miếu Thành Hoàng cũng đều chuyển qua đây.

Người ta đều nói "hoàng kim lúc loạn thế, đồ cổ lúc thịnh thế", chứng kiến cuối thời nhà Thanh là thời loạn thế nổ ra, người đến Lưu Ly Xưởng cầm cố đồ cổ đổi lấy tiền lũ lượt không dứt. Ngụy Trường Húc ngày ngày đều nhìn như vậy, phát hiện đám chủ tiệm sáng sớm đến đây nói chuyện phiếm ngày càng ít, biểu cảm trên gương mặt mọi người cũng ngày càng ngày nghiêm trọng. Hiện tại thời cuộc khó khăn, nhìn thấy Nhật Bản chiếm ba tỉnh miền Đông, áp sát Quan Nội, rất nhiều người lặng lẽ dọn dẹp sạp hàng, xuống miền Nam tránh nạn.

(Vùng phía trong Sơn Hải Quan)

Buổi nói chuyện ngày hôm nay của những ông chủ này, tâm trạng cũng không hào hứng, nói nhăng cuội vài câu, rồi ai nấy tản đi. Ngụy Trường Húc không nghe được tin tức gì, bèn vứt vài đồng xu xuống, tóm tờ báo giấy trong tay đi về phía Tây Nam của Lưu Ly Xưởng. Người trên phố thưa thớt, ngõ phố ngày trước đông đúc náo nhiệt là thế trở nên lạnh lẽo tiêu điều, trên gương mặt mỗi người đi đường biểu cảm đều ẩn hiện một nét hoảng hốt bất an. Trong thành Bắc Kinh cách đó không xa còn có thể nghe thấy dăm tiếng súng rời rạc, cũng không biết là cánh lính tráng xung đột, hay là súng ống của dân chúng cất giấu. Có lẽ mấy tiếng súng này đã lấy đi sinh mệnh của vài người, nhưng không có ai vì thế mà mặt đổi sắc, mọi người đều không hẹn mà cùng cúi gằm mặt, tăng tốc bước chân.

Đi xuyên qua mấy ngõ phố quen thuộc, Ngụy Trường Húc đẩy cánh cửa lớn của Á Xá ra, vừa bước một bước vào bên trong, liền có một đứa trẻ chui tọt vào trong lòng cậu, lấy đi tờ "Bắc Bình nhật báo" trong tay cậu.

"Tô Nghiêu, cậu có thể đọc được mấy chữ hả? Còn không phải vẫn nhờ anh đọc cho cậu sao?" Ngụy Trường Húc bĩu môi, không thèm so đo với đối phương.

Ngụy Trường Húc năm nay chín tuổi, lúc nhỏ trong nhà cũng có chút tài sản. Nhưng trong thời loạn lạc, càng là gia tộc giàu có lại càng bị sa sút ghê gớm. Vào năm Ngụy Trường Húc lên sáu, nhà tan cửa nát, cậu ta lưu lạc đầu đường xó chợ làm ăn mày, suýt chút nữa thì chết đói. May mà cậu chủ tiệm đồ cổ này đã phát thiện tâm cứu cậu, thấy cậu có chút hứng thú và hiểu biết về đồ cổ, bèn giữ cậu lại làm đồ đệ.

Còn Tô Nghiêu nhỏ hơn cậu ba tuổi, cái năm Ngụy Trường Húc vừa mới tới tiệm Á Xá, Tô Nghiêu vẫn còn là một đứa trẻ quấn tã. Cậu chủ nói đứa trẻ này là gã nhặt được trong thời loạn, nhưng Ngụy Trường Húc vẫn thầm cảm thấy đứa trẻ này tám, chín phần là con rơi của gã chủ tiệm. Bởi vì gã chủ tiệm quá thiên vị, cho dù Tô Nghiêu tuổi còn nhỏ, nhưng cái kiểu yêu chiều rõ ràng đến mức khiến cậu cũng phải ngứa mắt! Nhìn mà xem! Chiếc khóa Trường Mệnh bằng bạch ngọc đeo trên cổ đứa trẻ này từ khi còn nhỏ tới giờ, vừa nhìn là biết nó có giá trị liên thành rồi! Cậu còn chưa từng đeo món đồ nào quý giá như thế!

Ngụy Trường Húc vừa nhìn đứa trẻ mới sáu tuổi nằm bò trên chiếc bàn bằng gỗ huỳnh đàn nhẩm chữ đọc báo, vừa hậm hực đủ kiểu. Cậu mang bữa sáng mua về đặt ở bên cạnh Tô Nghiêu, lúc này sau bức bình phong Vân Mẫu một thanh niên tuổi chừng hai mươi rẽ ra, chính là chủ tiệm của tiệm đồ cổ Á Xá này.

Người này quanh năm mặc một chiếc áo Trung Sơn màu đen, trên thân áo có một con rồng thêu bằng chỉ đỏ sống động như thật, nằm ngoan ngoãn vắt trên vai phải của gã, phần đầu nhìn cực kỳ ngang ngạnh. Ngụy Trường Húc cho dù nhìn bao nhiêu lần, đều cảm thấy cực kỳ hút mắt. Bao năm qua cậu chưa từng thấy cậu chủ mặc bất kỳ chiếc áo nào khác, kể cả mùa thu hay đông, khi ra ngoài, cùng lắm chỉ khoác thêm một chiếc áo choàng mà thôi.

Nhìn thấy chủ tiệm thấm ướt khăn lau, lau sạch sẽ bàn tay nhỏ của Tô Nghiêu, rồi lại đặt chiếc bánh có nhân vào trong chiếc đĩa sứ Tế Hồng, dùng con dao nhỏ bằng bạc cắt đều chằn chẵn thành sáu miếng, lại rót sữa đậu nành từ trong vò ra, dùng chiếc bát sứ Thanh Hoa múc thật đầy rồi đặt cạnh tay Tô Nghiêu. Chuỗi động tác đó làm cực kỳ thuần thục tự nhiên, khiến Ngụy Trường Húc nhìn thấy mà đỏ mắt.

Được rồi, cậu không nên tranh sủng với một thằng nhỏ kém cậu ba tuổi, càng huống hồ thằng nhóc trắng như bông tuyết này cũng là do cậu chăm sóc từ nhỏ. Ngụy Trường Húc ngoan ngoãn đi rửa tay, cầm lấy một chiếc bánh, vừa ăn vừa hăng hái kể: "Hôm nay những người đó nói đến chuyện trận cháy ở trong hoàng cung trước đây, cậu chủ, cậu có ấn tượng không?".

Gã chủ tiệm đang ngồi đun một bình nước trên bếp lò nhỏ, nghe nói thì hơi trầm ngâm, rồi chậm rãi đáp: "Đó là chuyện chín năm về trước, ban đầu bắt đầu cháy từ Thần Vũ môn, cháy từ Nam sang Bắc. Sau này không biết tại sao Đại Phật điện phía sau Trung Chính điện cũng bốc lửa. Ngọn lửa đó cháy đến tận buổi tối, nghe nói tổng cộng thiêu hết hơn một trăm gian điện các trong hoàng cung, cháy hết bao nhiêu đồ cổ quý báu". Giọng nói của gã chủ luôn đều đều, thản nhiên như thế, nhưng nói đến câu cuối cùng, rõ ràng cũng không che giấu được nỗi nuối tiếc và sự phẫn nộ trong ngữ khí câu nói, đôi mắt phượng cũng lim dim.

Ngụy Trường Húc lại hứng chí tiếp lời nói: "Cháu sinh ra vào chính năm ấy, mẹ cháu bị lửa làm kinh động thai, nên cháu bị sinh non! Nghe nói khi ấy có người cứu hỏa, nhìn thấy trong đám cháy ở Trung Chính điện, có rất nhiều người hoặc là tuấn tú hoặc là xinh đẹp chạy từ trong đám cháy ra, đều nói đó là những cổ vật lâu đời đã tu luyện thành tính, hóa hình mà chạy ra!".

Cách nói này tự lưu truyền trên đường phố, nhưng Tô Nghiêu nghe thấy lần đầu tiên, lập tức ngước cái đầu nhỏ đang dúi vào tờ báo lên, đôi mắt to trắng đen rõ ràng bỗng chốc nhìn chằm chằm Ngụy Trường Húc, hy vọng cậu kể nhiều thêm một chút.

Gã chủ tiệm thì lại cụp mắt xuống, khom lưng dùng cái kẹp gắp than để khều than củi trong chiếc bếp lò nhỏ, nói với vẻ chẳng để tâm: "Đều là những tin đồn do những cung nhân chuyên ăn cắp tài sản do mình canh giữ phao ra bên ngoài, cháu thấy đám cháy này làm sao mà cháy được? Hồi ấy bảo bối trong cung tuồn ra bên ngoài, thậm chí đến những khách hàng của Lưu Ly Xưởng còn có thể đặt mua trước đồ bảo bối trong cung, đến hạt châu trên mũ phượng của hoàng hậu, chiếc chuông vàng trăm cân của Thọ Hoàng điện đều có thể mua về trong tay, không kiêng dè gì cả. Cuối cùng, náo loạn quá lớn, trong cung phải điều tra, bấy giờ mới dứt khoát cho một mồi lửa, nói thác là những đồ cổ bị thất lạc đó đều bị lửa đốt cháy sạch sẽ, coi đấy là thật thì không có cách nào điều tra ra chứng cứ".

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Đồng Hồ Bản Sao

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Ngụy Trường Húc bĩu môi, kỳ thực điều này những người có tri thức cũng có thể nhìn ra, đến hoàng đế cũng dẫn đầu mê đắm đồ cổ, dột từ nóc dột xuống, những người khác còn không học đòi theo sao?

Tô Nghiêu thấy không còn chuyện gì để hóng nữa, bèn chuyển sự chú ý sang tờ báo trong tay, một lúc sau lại ngẩng đầu lên, lúng túng gọi: "Anh Húc, bán đấu giá? Bán đấu giá nghĩa là gì hả?"

Ngụy Trường Húc sán lại đọc, liền tức tối, đập bàn phẫn nộ nói: "Cái lũ súc sinh khuyết tật này! Còn muốn bán đấu giá những cổ vật trong hoàng cung nữa! Định kiếm tiền mua máy bay à? Đây là do tên khốn kiếp nào nghĩ ra vậy? Đúng là chả còn lý lẽ gì nữa!" Đến một đứa trẻ chín tuổi như cậu còn biết, việc này tuy nói là bán đấu giá công khai, nhưng kỳ thực là muốn bán những báu vật quốc gia ấy cho người ngoại quốc.

Thật là nực cười! Đến đồ vật của tổ tiên mình còn chẳng giữ nổi, còn có thể kỳ vọng giữ Tổ quốc sao?

"Cậu chủ! Cậu nói xem phải làm thế nào?" Ngụy Trường Húc nhìn gã chủ tiệm vẫn luôn ở bên cạnh với một vẻ cầu xin, hoàng cung của bảy năm trước đã sửa thành Cố Cung, rồi sau đó mở triển lãm công khai, cậu cũng đã đi xem được mấy lần. Những báu vật quốc gia vừa tinh xảo đẹp đẽ vừa quý giá đó, cậu thấy rằng một món cũng không thể thiếu được! Càng huống hồ bây giờ những báu vật ấy còn chẳng thuộc về hoàng thất nữa, mà thuộc về toàn thể quốc gia!

Gã chủ tiệm vẫn lạnh nhạt nhìn ấm nước nhỏ trên lò than nhỏ bằng đất sét đỏ, đợi đến khi nước sôi, mới bình tĩnh xách xuống, pha một chén Đại Hồng Bào ba phần đỏ bảy phần xanh. Ngửi mùi trà thơm, gã chủ tiệm ngẩng đầu lên, đón lấy hai ánh mắt kỳ vọng của một lớn một nhỏ, không kìm được nhếch khóe môi cười nói: "Yên tâm, lần bán đấu giá này bất thành. Không đọc thấy báo chí đều ra sức tuyên truyền sao? Nếu như dám bán đấu giá bảo vật quốc gia, cánh học sinh sẽ không đồng ý trước tiên. Ta dự đoán, tiếp sau đó sẽ là tuần hành phản đối".

Ngụy Trường Hức tạm an tâm vài phần, sinh viên đại học của thành Bắc Kinh này đều là những người nhiệt tình sục sôi, hơi một tí là có hoạt động diễu hành, lại thêm dư luận tô vẽ trên báo chí, e là việc này không thành được.

Gã chủ tiệm nhấp một ngụm trà màu vàng trong, thở dài một tiếng nói: "Chỉ là ngọn lửa chiến tranh đó sớm muộn gì cũng cháy tới nơi này, những món đồ đó nếu không muốn bị hủy ở nơi đây, đại khái phải di chuyển về miền Nam thật nhanh thôi".

Ngụy Trường Húc và Tô Nghiêu nhìn nhau. Không giống với ánh mắt hoang mang của Tô Nghiêu, Ngụy Trường Húc lại trong lòng như gương sáng, biết cậu chủ nhà mình giống với người khác, có tám phần là đang nghĩ xem có xuống miền Nam tránh nạn hay không.

Trong lòng Ngụy Trường Húc, cậu chủ luôn liệu việc như thần.

Hoạt động bán đấu giá quả nhiên vì vấp phải sự phản đối kịch liệt và diễu hành thị uy của giới học sinh sinh viên mà chết yểu, nhưng sóng gió mới lại nổi lên. Nghe phong thanh rằng cổ vật trong Cố Cung sẽ phải di chuyển xuống miền Nam, một phe cho rằng hành động lần này chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng càng nhiều người hơn lại cảm thấy thà làm ngọc nát còn hơn làm ngói lành, di dời cổ vật xuống phía Nam khuấy động lòng người, lại là hành vi nhà có tang từ bỏ đất cát không màng.

Ngụy Trường Húc đọc được những tay văn nhân đánh trận bằng miệng trên báo, nói mấy câu gì mà "Tịch mịch không thành tại, thương hoàng cổ đổng thiên" (Vắng vẻ giữa thành không, Hốt hoảng cổ vật dời), cậu chỉ hận trong bụng mình chẳng có bao nhiêu chữ nghĩa, nếu không sẽ vung bút lên mà chửi mắng bọn họ. Kẻ không chịu làm gì chính là đám binh sĩ quân phiệt đó! Những cổ vật căn bản chẳng có lỗi lầm gì! Dựa vào cái gì mà ở đây phải cùng tiêu vong với tòa thành Bắc Kinh đó?

Rốt cuộc là mạng người quan trọng? Hay là những cổ vật đó quan trọng?

Có lẽ với những người khác nhau sẽ có đáp án khác nhau.

Nhưng Ngụy Trường Húc tuy còn nhỏ mà cũng biết những đồ cổ văn vật trong Cố Cung đó, không thể dùng lý lẽ thông thường mà bàn luận được.

Đó là di sản được truyền lại qua mấy ngàn năm của dân tộc Trung Hoa.

Là văn hóa của dân tộc này.

Tuyệt đối không thể để người ta cướp đi hoặc tiêu hủy!

"Cậu chủ, cháu muốn đi lính!" Ngụy Trường Húc đắn đo rất nhiều ngày, cuối cùng nắm chặt bàn tay, nói với vẻ kiên định.

Tô Nghiêu nghiêng đầu nhìn cậu với vẻ mờ mịt, trong khái niệm của cậu nhóc, vẫn còn chưa ý thức được đi lính là một chuyện đáng sợ đến chừng nào.

Gã chủ tiệm bỏ chung trà bằng sứ Thanh Hoa trong tay xuống, xoa đầu Ngụy Trường Húc, cười cười nói: "Cháu mới chín tuổi, người ta không nhận cháu đâu".

"Nhưng mà..." Ngụy Trường Húc cũng biết đây là lời nói thật, hận không thể lớn ngay trong chốc lát.

"Đừng vội, ta biết tâm tư của cháu, sẽ giúp cháu đạt được tâm nguyện". Gã chủ tiệm cười cười với vẻ cao thâm khó dò, san phẳng những nỗi xáo động và không cam tâm trong lòng Ngụy Trường Húc một cách kỳ diệu.

2

Không lâu sau đó, khi thời tiết ở thành Bắc Kinh bắt đầu chuyển sang lạnh, gã chủ tiệm dẫn bọn trẻ đến Cố Cung một chuyến.

Vì thời cuộc ngày càng ác liệt, nên rất ít người đến Cố Cung tham quan. Hoàng cung vốn có tường đỏ ngói xanh lá cây vàng son chói lọi, dưới sự bao phủ của khói lửa chiến tranh, nhìn trông lại lạnh lẽo tiêu điều đến vô cùng. Đi xuyên qua Thần Vũ môn, chỉ có dòng xe chuyển những hòm gỗ và bông nối dài liên miên không dứt. Ngụy Trường Húc lúc này tận mắt chứng kiến, mới biết chuyện quốc bảo chuyển về miền Nam đã là chuyện đã rồi, không khỏi mừng rỡ trong lòng.

Cậu không hiểu những chuyện lòng vòng của chính trị, cũng không quản những món đồ này phải chuyển về miền Nam rốt cuộc là vì nguyên nhân gì. Nhưng chỉ Cần những món quốc bảo tinh xảo tuyệt trần này có thể bảo tồn, tránh khỏi chiến tranh, là cậu đã thấy mãn nguyện rồi.

Chỉ là đồ cổ văn vật chuyển về miền Nam không phải là việc dễ dàng như trong tưởng tượng, mà là một công trình cực kỳ to lớn. Hoàng đế triều Thanh từ thời Khang Hy trở đi đã mắc chứng cuồng sưu tập ở trình độ mạnh mẽ siêu cấp, các con cháu kế vị ông ta cũng lũ lượt bắt chước, thậm chí còn ghê gớm hơn. Cho nên, bảo vật ở Cố Cung thực sự nhiều không đếm xuể. Đồ cổ chuyển về miền Nam cũng không thể đem đi toàn bộ, chỉ có thể lựa chọn những món đồ trân quý nhất. Đồ cổ đại khái phân ra thành vài nghìn loại như đồ gốm, đồ ngọc, đồ đồng, tự họa, ấn chương, như ý, bình hít thuốc, quạt gấp, triều châu, đồ điêu khắc từ ngà voi, đồ sơn, đồ pha lê, nhạc cụ, khôi giáp, nghi trượng... Thư tịch sách vở cũng rất nhiều, ví dụ đủ mọi loại thư tịch phức tạp như "Tứ Khố Toàn Thư" của Văn Uyên Các lưu trữ, "Tứ Khố Hội Yếu" của Ly Tảo Đường cất giữ, "Thiện Bản Phương Chí", còn có các loại "Tạng Kinh", "Phật Kinh", các hồ sơ của Quân Cơ Xứ, bản lý lịch tấu sớ, "Khởi Cư Chú", ngọc điệp, bản đồ... nhiều không đếm xuể.

Ngụy Trường Húc dẫn theo Tô Nghiêu vừa đi vừa nghe gã chủ tiệm giảng giải như thể đồ báu trong nhà mình, cảm thấy đầu óc bắt đầu đau nhức. Đến khi cậu khó khăn lắm mới đến được đích, thì cậu nhìn thấy những nhân viên làm việc trong Cố Cung đã bắt đầu xếp những món cổ vật đã được phân loại vào trong hòm.

Còn tại sao gã chủ tiệm lại đến nơi này, cũng là vì khi đóng gói cần tới kinh nghiệm của người trong ngành, mấy vị nhà buôn đồ cổ của Lưu Ly Xưởng được mời đến, giới thiệu một cách ti mỉ cho các nhân viên công tác rằng đồ cổ chất liệu gì cần thùng đóng gói như thế nào, ở giữa cần nhồi thêm thứ gì khác ngoài chất liệu bông tơ ra, lợi dụng một cách hợp lý những khe hở như thế nào... Mà để báo đáp, mấy nhà buôn đồ cổ này đều phải cùng đồ cổ của Cố Cung di chuyển xuống phía Nam, vẫn là an toàn yên ổn hơn là tự một mình trên đường rất nhiều. Chí ít sẽ không cần ra bên ngoài tự mình kiếm vé tàu xe hoặc là vé thuyền.

Ngụy Trường Húc và Tô Nghiêu là hai đứa trẻ. Gã chủ tiệm không an tâm để bọn chúng đơn độc ở lại cửa tiệm nên mới dẫn đến, chỉ cần chúng ngoan ngoãn ngồi một bên không làm loạn là sẽ không có ai để ý tới. Ngụy Trường Húc trái lại cũng không cam tâm ngồi ngốc nghếch như thế, dẫn cái đuôi Tô Nghiêu đi giúp mấy việc vặt như đưa dây thừng, bưng bông gòn, trấu, đưa dao kéo... cũng hiểu chuyện không va vào những đồ cổ quý giá đó, sợ không cẩn thận làm vỡ, thì bán chúng cũng chẳng đền nổi.

Ngụy Trường Húc nhanh mồm nhanh miệng lại lanh lẹ chăm chỉ, Tô Nghiêu thì nhút nhát và ngoan ngoãn, hai đứa trẻ nhanh chóng đã giành được sự yêu quý của mọi người, mà mấy ngày sau Ngụy Trưởng Húc cũng được phép có thể giở những món đồ cổ chưa đóng gói ra xem. Đương nhiên cho dù là những món đồ cổ bị thải loại thì cậu cũng không được tùy ý đem đi, nhưng chỉ cần nhìn một chút thôi cũng không vấn đề gì.

Ngày hôm nay, cậu giở ra một hòm hạt vòng rất lớn. Cậu cầm mấy chuỗi đi hỏi gã chủ tiệm, mới biết đó là một hòm Bồ Đề Tử.

"Bồ Đề Tử? Là những quả do cây bồ đề trong sân của Anh Hoa điện kết thành?" Ngụy Trường Húc nhớ đến cây bồ đề rậm rạp sum suê đó, vào mùa hè, giống như một cái ô lớn màu xanh lá cây che rợp tất cả. Do cậu thường nghe các chủ tiệm của các hiệu đồ cổ nói chuyện nên hiểu biết rất nhiều, cậu biết câu chuyện Thích Ca Mâu Ni tĩnh tọa bảy ngày bảy đêm dưới gốc cây bồ đề, tu thành chính quả đốn ngộ thành Phật. Cũng biết trong từ ngữ của nhà Phật, bồ đề có nghĩa là giác ngộ.

"Không phải, Bồ Đề Tử là một loại quả do một loại cỏ Xuyên Cốc kết thành, sản sinh ở vùng núi tuyết. Bồ Đề Tử có rất nhiều chủng loại, thích hợp nhất là dùng làm tràng hạt". Gã chủ tiệm đưa tay nhón lấy một viên Bồ Đề Tử, quan sát tỉ mỉ nói, "Cháu nhìn tràng hạt này xem, trên bề mặt có những đốm đen phân bố rất đều, ở giữa còn có một vòng tròn lõm, giống như các vì sao nâng mặt trăng lên, toàn thể hạt Bồ Đề Tử trở thành thế "chu thiên tinh đẩu", "chúng tinh chầu nguyệt", vì thế mới đặt tên là Tinh Nguyệt Bồ Đề Tử. Đây cũng là một trong bốn viên Bồ Đề Tử lớn nhất".

"A? Món đồ quý giá như thế này, sao lại không đóng thùng cùng đem đi?" Ngụy Trường Húc vừa nghe xong là cuống lên, ngày ngày cậu lật xem những món đồ cổ bị thải loại đó, cũng bắt nguồn từ tâm lý này, luôn cảm thấy tất cả những món đồ cần mang đi không nên vứt lại món nào cả.

Gã chủ tiệm nghịch viên Bồ Đề Tử trong tay Ngụy Trường Húc, lãnh đạm nói: "Hòm Bồ Đề Tử này trước đây ta cũng từng thấy rồi, có lẽ là cất giữ trong cung bao năm qua, còn chưa được xâu thành chuỗi. Đây là Ngân Tuyến Bồ Đề, Phật Nhãn Bồ Đề, Phượng Nhãn Bồ Đề, Thiên Ý Bồ Đề,... ừm, tuy chủng loại rất nhiều, cũng rất hiếm có, có lẽ từng được cao tăng trì chú, nhưng Bồ Đề Tử lại là một loại hạt của thực vật, chỉ cần loại cỏ Xuyên Cốc này chưa chết hết, thì sẽ có càng nhiều hạt Bồ Đề Tử được kết thành, sẽ không quý giá mấy". Gã chủ thần sắc lạnh nhạt, trong ngữ khí còn mang chút ý vị tiêu điều không nói thành lời, gã đứng dậy, nhìn những cổ vật văn vật đang được đóng vào hòm ấy, thở dài nói: "Nhưng cháu nhìn những đồ gốm sứ kia xem, bí pháp chế tác nay đã thất truyền, những món đồ trang trí bằng ngọc, sư phụ điêu khắc ngọc đã qua đời. Đó mới là những trân phẩm truyền thế thực sự, vỡ một món là mất đi một món..."

"Cái này...". Ngụy Trường Húc cắn cắn môi dưới, đang muốn nói chặng đường này sẽ không xảy ra vấn đề gì chứ, nhưng cậu cũng biết nói như vậy là tự lừa mình dối người. Trong những ngày này, tất cả những người đang bận rộn ở cố Cung sắc mặt đều nghiêm trọng căng thẳng, cho dù biết con đường phía trước rất mờ mịt, cũng phải cẩn thận hết sức lần mò tiến về phía trước.

Gã chủ tiệm chỉ là ngẫu nhiên cảm khái, rất nhanh chóng đã bình tĩnh trở lại. Gã xoa đầu Ngụy Trường Húc, biết rằng đứa trẻ này yêu thích cổ vật đến độ tẩu hỏa nhập ma rồi, nên đổi mặt khuyên giải, nói: "Nhà Phật nói có sáu con đường luân hồi, con người cuối cùng cũng phải chết đi, đồ vật cũng sẽ phải tiêu vong, cho nên tất cả đều phải nhìn lạnh nhạt một chút. Những chuyện mà sức mình không làm được, thì chỉ cần tận tâm tận lực là được".

Ngụy Trường Húc nghe ra trong câu nói này bao hàm nỗi tang thương, cậu ngẩng đầu lên, phát hiện gã chủ tiệm đang nhìn chăm chú vào Tô Nghiêu đang nâng cổ tịch lật giở ở phía không xa. Khoảnh khắc này, trong mắt của chủ tiệm, có một sự phức tạp mà cậu không nhìn ra được, cho đến nhiều năm về sau khi cậu nhớ lại cảnh tượng này, đều là tham ngộ mà không thấu. Tuy đã được lạnh lùng cảnh báo rằng chiếc hòm lớn Bồ Đề Tử này không thể mang đi, nhưng Ngụy Trường Húc cũng không từ bỏ, cậu cố chấp đi tìm viện trưởng, được sự cho phép, cậu cùng Tô Nghiêu bắt đầu một chuỗi nhiệm vụ. Hai đứa bọn cậu dùng giấy gấp những chiếc túi hình vuông, thả vào bên trong một hạt Bồ Đề Tử, khi niêm phong mỗi một hòm ván vật, đều thành kính thả vào một túi giấy như vậy, cầu nguyện cho những hạt Bồ Đề Tử này có thể phù hộ số đồ cổ này không gặp chuyện gì ngoài ý muốn. Chúng còn dành thời gian rảnh rỗi để xâu những hạt Bồ Đề Tử thành vòng đeo tay, phát cho mỗi nhân viên công tác một chuỗi, cầu nguyện nó có thể phù hộ họ đi đường bình an.

Ngụy Trường Húc tự mình đeo chuỗi Thái Dương Bồ Đề màu nâu, Tô Nghiêu là chuỗi Tuyết Thiền Bồ Đề màu trắng, chủ tiệm lại đeo một chuỗi Kim Chung Bồ Đề.

Sau đó, ngày mùng 6 tháng 2 năm 1933, một loạt văn vật đồ cổ đầu tiên của Cố Cung chính thức đóng lên xe khởi hành.

Cho dù ngay từ khi bắt đầu, Ngụy Trường Húc đã biết chặng đường này sẽ không đi suôn sẻ được, nhưng cậu cũng không ngờ nó lại trắc trở đến thế. Thậm chí bọn họ còn chưa ra khỏi kinh thành, những chiếc xe chở đồ cổ vừa đi ra khỏi cổng Cố Cung liền bị đám học sinh vẫn luôn canh ở cổng bao vây lại. Khó khăn lắm mới chật vật di chuyển đến ga tàu hỏa, không khí càng lúc càng trở nên mất kiểm soát. Có những học sinh cấp tiến thậm chí còn nằm thẳng trên đường ray, để ngăn cản quốc bảo rời khỏi Bắc Kinh, giám đốc viện bảo tàng nói hết nước hết cái, phát biểu diễn giảng một hồi mới khuyên nhủ họ rời đi được. Lại vì trước đó trên báo chí tuyên huyền rầm rộ chuyện đưa quốc bảo về miền Nam, nên khi tàu hỏa đi ngang qua Dư Châu, thì có thổ phỉ lúc ẩn lúc hiện muốn cướp quốc bảo, kết quả là những kẻ liều lĩnh này đã thực sự nổ súng đánh một trận với quân đội địa phương, phát hiện không xơ múi được gì, mới không cam tâm bỏ đi.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Bỏ 2 phút đọc rồi làm theo, huyết áp ổn định đến già

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Hai đoàn tàu chở văn vật đến tận ngày thứ tư mới khó khăn đến được Hạ Quan ở Nam Kinh, sau đó lại có mệnh lệnh nói phải vận chuyển cổ vật đến Lạc Dương và Tây An. Những ông chủ hiệu đồ cổ khác cùng tàu hỏa xuống miền Nam đều lần lượt đem theo đồ đạc của mình rồi bỏ đi. Ngụy Trường Húc biết chủ tiệm có lẽ cũng sẽ như vậy nhưng cậu lại không muốn đi một chút nào.

Cậu vẫn chưa nhìn thấy những món quốc bảo đó yên ổn thì sao có thể dễ dàng rời đi?

Tuy cậu không nói một tiếng nào, nhưng gã chủ tiệm vẫn nhìn thấu tâm tư của cậu, giữ cậu và Tô Nghiêu ở lại.

"Sao cậu chủ lại tự mình đi nhỉ?" Tô Nghiêu kéo áo của Ngụy Trường Húc, cực kỳ không vui, cái miệng nhỏ dẩu lên đến mức có thể treo được chai xì dầu vào đó.

"Ngoan, cậu chủ đi xử lý đồ cổ của Á Xá, cậu chủ sẽ quay về thôi". Ngụy Trường Húc trái lại rất vui, cậu có thể ở lại. Cậu cẩn thận đặt chiếc khóa Trường Mệnh bằng bạch ngọc trên cổ Tô Nghiêu vào trong áo của nó, của cải không nên để lộ ra ngoài, đặc biệt là trong thời buổi hỗn loạn này.

3

Cổ vật của Cố Cung vẫn luôn để tại nhà ga Hạ Quan Nam Kinh, đến tận mấy tuần sau đó, mới dùng thuyền vận chuyển đến Thượng Hải. Thời gian này văn vật của Cố Cung Bắc Kinh trước sau mất năm lần vận chuyển mới tới hết, bao gồm cả đồ cổ ở Di Hòa Viên và Quốc Tử Giám. Ngụy Trường Hức vì giành được sự tín nhiệm của nhân viên công tác, đã có thể giúp đỡ công việc, cùng với Tô Nghiêu hai đứa làm những việc có thể giúp được. Đợi đến khi con số cuối cùng của đám cổ vật văn vật thống kê xong, tất cả mọi người đều không còn lời nào để nói.

Tổng cộng 19.557 hòm, hàng triệu món văn vật, cổ vật.

Ngụy Trường Húc bị con số này làm cho chấn động dữ dội một lúc, đây vẫn là số văn vật cổ vật mà mọi người đã chọn lựa ra, không món nào không phải báu vật vô giá. Nhưng hiện tại cậu hoàn toàn không có cách nào nhìn số bảo bối la liệt trước mắt này, trong một nhà kho cực lớn, là những hòm gỗ xếp ngay ngắn chất đầy, trong không khí tràn ngập mùi bụi và mùi bông khiến người ta rất khó chịu, nhưng trong lòng Ngụy Trường Húc không tránh khỏi cảm thấy một nỗi bi ai không tên.

Rốt cuộc một dân tộc sắp sa sút đến bước nào, mới bị ép buộc thực hiện một cuộc di cư văn hóa thanh thế lớn lao đến dường này?

Mà rốt cuộc đến lúc nào, số bảo vật này mới có thể tránh được số kiếp bị bụi mờ che phủ, được lau chùi sạch sẽ như mới rồi bày trong viện bảo tàng cho người khác thưởng thức chiêm ngưỡng?

Cậu... còn có thể nhìn thấy cảnh tượng đó không... Cậu có thể đảm bảo cho những báu vật này tiếp tục tồn tại trên thế gian không thất thoát một món không...

"Anh Húc?" Tô Nghiêu nhạy cảm quan sát thấy tâm tình sa sút của Ngụy Trường Húc, bất an kéo kéo góc áo của cậu. Tô Nghiêu đã đổi sang áo vải gai thô, tuy vẫn trắng trẻo sạch sẽ, nhưng do lưu lạc nhiều ngày qua nên đã gầy đi rất nhiều, khuôn mặt vốn tròn trĩnh như trứng gà đã gầy thành cằm nhọn.

"Đừng sợ, chúng ta sẽ thắng mà". Ngụy Trường Húc ôm Tô Nghiêu vào trong lòng, lẩm nhẩm tự nói với mình.

Giống như đang thuyết phục đối phương, lại càng giống như đang thuyết phục chính bản thân.

Nhưng hiện thực vĩnh viễn tàn khốc hơn tưởng tượng rất nhiều.

Có người bắt đầu cố ý phát tán tin đồn, nói viện trưởng Dịch Bồi Cơ tiên sinh tự mình ăn trộm những cổ vật vận chuyển từ kinh thành về đem bán cho người ngoại quốc. Một đồn mười, mười đồn trăm, nên có người cũng cho là thật. Sự tình cứ thế càng đồn càng ly kỳ giống thực, đến chính phủ Nam Kinh cũng cho trát tòa, đòi viện kiểm sát chọn ngày để mở cuộc xét xử. Nỗi cay đắng thời gian này thế nào không cần phải nhắc tới, có mấy người liên lụy bị bỏ tù, không có nơi nào mà kêu oan, rất lâu sau mới được phóng thích.

Mấy tháng sau chủ tiệm đến Thượng Hải tìm bọn chúng, nhưng cũng không đả động gì tới việc rời đi, mà chỉ ở lại tham dự vào công tác bảo quản văn vật.

Thời gian chớp mắt một cái đã ba năm trôi qua, chính phủ Nam Kinh cuối cùng đã sửa sang xong nhà kho của Triều Thiên Cung, văn vật cổ vật của Cố Cung cũng từ Thượng Hải quay về Nam Kinh. Lúc này Ngụy Trường Húc đã thành thiếu niên, thân hình cao gầy vẫn còn không ngừng cao lên, Tô Nghiêu cũng sắp tròn mười tuổi, lại càng nhút nhát hướng nội. Bọn họ cùng đám cổ vật văn vật sau khi thuận lợi đến Nam Kinh, liên tục thêm một năm nữa để chỉnh đốn công việc, khi tất cả mọi người đều cho rằng đã có thể yên ổn trở lại, thì Ngụy Trường Húc đã mười bốn tuổi thậm chí còn nảy sinh suy nghĩ sẽ rời đi nhập ngũ, nhưng năm 1937 lại không hề phẳng lặng như vậy.

Năm Dân Quốc thứ 26, cũng tức là ngày mùng 7 tháng 7 năm 1937, sự biến Lư Câu Kiều, Bắc Bình thất thủ.

Ngày 13 tháng 8 sau đó, Thượng Hải xảy ra sự biến Mười ba tháng Tám, Thượng Hải thất thủ.

Chiến tranh đã bùng cháy đến sát sạt Nam Kinh, có lúc ngẩng đầu lên nhìn bầu trời, đều có thể nhìn thấy những đám mây đen nặng nề nơi chân trời giống như bất lúc nào cũng có thể đè xuống, đè chặt đến mức khiến người ta không thể nào thở được.

Ngày thứ hai của sự biến Mười ba tháng Tám ở Thượng Hải, Bảo tàng Cố Cung đã đưa ra quyết định, tiếp tục di dời văn vật, loạt văn vật đầu tiên nhanh chóng chuyển sang tỉnh Tràng Sa vào sáng sớm ngày 14. Khi đó gã chủ tiệm muốn bảo Ngụy Trường Húc và Tô Nghiêu rời khỏi Nam Kinh cùng với lô văn vật đầu tiên, nhưng Ngụy Trường Húc biết chủ tiệm chắc chắn không chịu đi trước, nên ương ngạnh ở lại cùng gã. Văn vật lần lượt di dời, nhưng về đại thể tổng cộng chia làm ba con đường, đường phía Nam tiến về Hán Khẩu vận chuyển qua tỉnh Tràng Sa cuối cùng đến An Thuận, đường ở giữa thì đi đến Nghi Xương rồi chuyển sang Trùng Khánh cuối cùng đến Lạc Sơn, đường phía Bắc thì đi qua Từ Châu, Trịnh Châu rồi đến Tây An. Bọn Ngụy Trường Húc cuối cùng chọn ngồi tàu hỏa đi lên phương Bắc, nghe nói lô đi đường giữa gồm hơn chín nghìn hòm văn vật cuối cùng dừng lại ở Nam Kinh đến ngày 8 tháng 12, mãi sau mới bắt được con tàu mang tên Hoàng Phố, rời khỏi Nam Kinh.

Mà năm ngày sau, Nam Kinh thất thủ, quân Nhật đã gây nên vụ thảm sát Nam Kinh khiến cả thế giới kinh hãi.

Rốt cuộc thì phải ở trong bóng tối chờ đợi bao lâu nữa, mới có thể đón bình minh?

Ngụy Trường Húc và Tô Nghiêu chen chúc trong kẽ hở của thùng xe tải, thân hình vô thức lắc lư theo nhịp chòng chành của thùng xe. Bây giờ là mùa xuân năm 1939, bọn họ đã trải qua một chặng đường muôn vàn gian khổ, sau khi đoàn tàu chở văn vật rời khỏi Nam Kinh hai năm trước, mới đến Từ Châu đã gặp ngay không quân Nhật Bản ném bom tập kích, may mà tàu hỏa vẫn bám vào đường ray hỏng, mới tránh được một kiếp nạn này. Khi qua Trịnh Châu cũng chịu một trận đánh bom, may mà tuy kinh hãi nhưng không nguy hiểm gì, không có chút tổn thất nào. Sau khi qua Trịnh Châu lại chuyển sang Tây An, cuối cùng chuyển đi Bảo Kê, lại vì quân Nhật ném bom quá dữ dội nên buộc phải di chuyển tiếp. Kết quả là từ Bảo Kê đến Hán Trung chỉ có một trăm kilomet đường núi Tần Lĩnh mà họ phải đi mất gần ba tháng. Lại trên đường vượt qua Tần Lĩnh, bọn họ gặp phải thổ phỉ và sói hoang, mấy phen nguy hiểm, Ngụy Trường Húc cảm giác rằng nếu đi lính chẳng qua cũng chỉ đến thế mà thôi.

Nghe nói văn vật cổ vật trên hai con đường còn lại cũng chẳng gió lặng sóng dừng, con đường thủy đến Trùng Khánh đó, khi đi qua Tam Hiệp suýt chút nữa thì lật thuyền chìm xuống sông. May mà thời khắc cuối cùng cánh thuyền phu có kinh nghiệm đã đảo ngược tình thế. Còn con đường chuyển đi Tràng Sa cũng khó khăn trùng trùng, suýt chút nữa bị quân Nhật đánh bom, cuối cùng quyết định chuyển văn vật sang khu vực Nga My Lạc Sơn.

Bọn Ngụy Trường Húc cũng đi về hướng đất Thục (Tứ Xuyên), chỉ là họ đi từ đường bộ rồi đi vào Tứ Xuyên.

Lý Bạch từng có thơ rằng: "Thục đạo nan, nan vu thướng thanh thiên". Ngụy Trường Húc vốn tưởng rằng đường đi vượt qua núi Tần Lĩnh đã đủ gian nan hiểm trở rồi, kết quả là đến sạn đạo đi vào Tứ Xuyên, cậu mới biết thế nào gọi là đường đi vào đất Thục khó.

(Dịch nghĩa: Đường đi vào đất Thục khó, khó hơn cả đilên trời xanh)

Cái gọi là đường vào đất Thục thực chất là sạn đạo, tức là ở giữa hai vách núi sừng sững có đục một lỗ hổng, trong lỗ hổng này cắm những cột đá hoặc là cột gỗ, bên trên lại bắc ngang ván gỗ hoặc ván đá. Loại sạn đạo chật hẹp này chịu tải trọng có hạn, đội xe tiến lên phía trước với vận tốc cực kỳ chậm. Một đoạn sạn đạo hai dặm, một lần đi về phải mất đến hai, ba ngày, Ngụy Trường Húc hỏi thăm dân quê ven đường, nếu với vận tốc như này bọn họ muốn tới Nga My, tính ra chí ít cũng phải đi sáu tháng trời.

"Anh Húc, cơ thể anh đã đỡ hơn chưa?". Tô Nghiêu đã mười ba tuổi hoàn toàn có dáng vẻ của một thiếu niên, chiếc áo khoác quân đội đang mặc đã bị sờn trên đường đi đến mức cũ nát không thể cũ nát hơn, nhưng gương mặt cậu vẫn trắng trẻo như thế, lúc này khuôn mặt tràn ngập vẻ lo lắng ân cần dùng tay sờ lên trán của Ngụy Trường Húc.

Cả một mùa đông lạnh lẽo đều bị giày vò giữa núi rừng Tần Lĩnh, cơ thể của Ngụy Trường Húc dù có khỏe hơn thì cũng không chống chọi nổi. Tô Nghiêu hơi lo lắng sốt ruột, thậm chí còn có chút oán hận bản thân. Nếu như Ngụy Trường Húc không cố chấp bắt cậu mặc áo của cậu ta, thì sao có thể bị lạnh đến mức thảm hại như thế này? Nghĩ đến đây, Tô Nghiêu lại cởi chiếc áo khoác quân đội trên người ra. Mặc kệ sự phản đối của Ngụy Trường Húc liền bọc cậu ta lại thành một nắm. "Anh Húc, anh ngồi xuống trước đã, em đi tìm cậu chủ, xem xem chỗ cậu ấy có thể lấy thuốc không?".

Ngụy Trường Húc muốn giữ lại không cho Tô Nghiêu chạy lung tung, bọn họ có thể vẫy xe tải xin ngồi nhờ là đã được người khác quan tâm lắm rồi, không thấy người khác đều đang phải dùng chân để đi bộ phía dưới sao? Nhưng chung quy thì cậu vẫn là đang bị bệnh, còn Tô Nghiêu hành động lanh lẹ, cậu giơ được tay ra thì đã chẳng tóm được thứ gì.

Thằng nhóc này... Ngụy Trường Húc chẳng còn cách nào khác đành nhắm mắt, cơ thể nóng rẫy khiến đầu óc cậu ngưng suy nghĩ tiếp. Trong lúc mơ mơ màng màng, dường như cậu nghe thấy có người cao giọng gọi, sau đó là tiếng còi xe chói tai, cơ thể cậu dường như không chịu khống chế mà rung lắc dữ dội, cậu kinh ngạc mở mắt, thì nhìn thấy chiếc xe mình đang ngồi đang xông ra khỏi sạn đạo, lao đầu đâm xuống vực sâu dưới núi!

May mà Tô Nghiêu đã xuống xe rồi!

Khoảnh khắc đó, Ngụy Trường Húc lại có suy nghĩ như thế vụt lóe lên trong đầu.

Có lẽ tiềm năng của con người bộc phát trong lúc sinh tồn, Ngụy Trường Húc mau chóng đưa ra phán đoán, nếu như cậu lập tức nhảy xuống, nói không chừng còn có thể may mắn vớ được thanh gỗ bên dưới sạn đạo. Nhưng động tác đầu tiên của cậu lại là ném chiếc hòm trên xe xuống. Cậu nhớ lúc leo lên xe cậu từng quét ánh mắt qua số hiệu phân loại trên những chiếc hòm một lượt theo thói quen, là chữ "Kinh", đó chính là Kinh bộ trong "Tứ Khố Toàn Thư". Đã là sách, thì không sợ va đập, nhưng chỉ sợ bị rơi xuống sông, chỉ cần nước ngấm vào là hỏng bét.

Ba hòm sách rất nặng, nhưng trong quá trình rơi xuống, Ngụy Trường Húc cũng không biết là sức lực trong lúc gặp cảnh khốn cùng của mình tăng vọt, hay là trời cao khéo xoay vần, trước khi chiếc xe tải đâm xuống sông, ba hòm sách đã bị cậu vứt lại trên bờ. Cũng chẳng có thời gian mà nhìn xem tài xế xe tải có kịp nhảy ra khỏi xe hay không, cậu nhắm chuẩn một khoảng cây cỏ xanh tốt rậm rạp rồi lách người nhảy về phía đó.

Cảnh tượng cuối cùng Ngụy Trường Húc nhìn thấy, là chuỗi Phật châu bằng hạt Bồ Đề Tử đeo trên tay bị cành cây làm đứt, những hạt Phật châu tung tóe khắp trời, dưới bầu trời xanh biếc bao phủ một bầu không khí khiến người ta an lòng, cậu thả lỏng tinh thần, rồi sau đó không biết gì nữa.

4

"Tại sao không để tôi cứu người? Đứa trẻ này nó vẫn còn sống đấy!"

"Anh như thế này là làm thay đổi lịch sử đó! Nếu như anh không dùng la bàn để đến thời gian này, người này nói không chừng sẽ phải chết đi. Nếu anh cứu cậu ta, sẽ sinh ra hiệu ứng cánh bướm, một chuỗi sự việc sau đó sẽ phát sinh biến đổi, dẫn đến lịch sử thay đổi, trách nhiệm này, anh gánh được không?"

"Tôi là bác sĩ! Trách nhiệm chính là cứu người! Sao tôi có thể khoanh tay đứng nhìn được?"

"Anh phải suy nghĩ đến đại cục, nếu mỗi lần đều như thế này, tôi cảm thấy chúng ta đừng dùng la bàn Lạc Thư Cửu Tinh nữa".

"... Cậu thế này là uy hiếp tôi đúng không?"

"Đây không phải là uy hiếp, mà là nói thực lòng".

"Cậu!"

Hai người này là ai? Tại sao lại cãi nhau? La bàn Lạc Thư Cửu Tinh? Cái tên này sao nghe lại quen tai vậy?

Ngụy Trường Húc chỉ tỉnh lại có ý thức trong một nháy mắt, rồi lại hoa mắt chóng mặt rơi vào bóng tối. Trải qua một thời gian dài như cả một đời, cậu mới cảm giác được nỗi đau đớn lan truyền khắp mọi ngóc ngách cơ thể mình.

Còn biết đau, tức là mình vẫn còn sống.

Ngụy Trường Húc cắn chặt răng cảm nhận từng bộ phận trên cơ thể mình, chân của cậu có lẽ bị gãy rồi, may mà phút cuối Tô Nghiêu đắp chiếc áo khoác quân đội bọc cậu lại khiến phần bụng, ngực của cậu không bị tổn thương nhiều. Đúng là ông trời phù hộ.

Cũng không biết ba hòm sách đó có bị tổn hại gì không.

Trong lúc mơ mơ màng màng, Ngụy Trường Húc lờ mờ cảm thấy mình được người ta khiêng qua khiêng lại, rồi được cho uống mấy viên thuốc và tiêm mấy mũi. Đến khi cậu có thể mở mắt ra, lập tức nhìn thấy gương mặt nhỏ sưng đỏ lên vì khóc của Tổ Nghiêu.

Gã chủ tiệm đang đứng bên cạnh biết Ngụy Trường Húc vẫn chưa nói được, nhưng từ trong ánh mắt của gã đã lĩnh hội được điều cậu muốn biết nhất là gì, bèn vỗ nhè nhẹ lên đầu cậu, an ủi nói: "Ba hòm sách đó không một quyển nào bị ngấm nước cả. đúng là may mà có cháu. Chân cháu cũng không việc gì, có điều phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Có người cứu cháu, là ai cháu có chút ấn tượng nào không? Chúng ta không tìm thấy người ấy, phải cảm ơn người ta mới được".

Trong đầu lóe lên những mảnh ghép cãi cọ, Ngụy Trường Húc lắc lắc đầu với vẻ không hiểu nổi, trên thực tế những lời đó cậu nghe mà không hiểu gì cả.

Gã chủ tiệm cau mày, vách đá núi cực kỳ nguy hiểm, bọn họ đã đi một vòng lớn, sau một ngày mới xuống được bãi cát ngầm bên dưới chân vách núi. Khi đó tài xế cũng đã tử vong, còn Ngụy Trường Húc đã nằm ngay ngắn trên bãi cát, phần chân bị gãy đã được băng bó tử tế, còn nối xương rất chuẩn, băng bó cũng vô cùng kỹ lưỡng khiến không bị dẫn đến mất máu quá nhiều, số sách vở rơi vãi trên bãi cát cũng được người nào đó nhặt lại từng quyển một và xếp thành chồng ngay ngắn, thậm chí còn phân loại thứ tự theo nguyên bản. Nếu không phải là người làm việc ở viện bảo tàng, thì căn bản là không thể làm được điều này. Hơn nữa thậm chí đến ba hạt Bồ Đề Tử Tô Nghiêu nhét trong hòm sách và cả chuỗi hạt Bồ Đề Thái Dương bị bung ra cũng được tìm thấy không thiếu một hạt nào.

Tất cả đều rất kỳ quái, nhưng gã chủ tiệm cũng không nghĩ nhiều, thấy Ngụy Trường Húc cố gắng nâng mí mắt lên, bèn dặn dò cậu phải chịu khó nghỉ ngơi.

Đường còn dài lắm.

Đúng thế, đường thực sự rất dài, cho đến mùa thu năm nay, bọn họ mới đến Kiếm Môn Quan hùng cứ ở nơi đỉnh cao chót vót. Sau đó gián tiếp chuyển từ Thành Đô đến núi Nga My, sau đó nữa lại ở liền bảy năm trời.

"Chân lý chính nghĩa tất nhiên sẽ chiến thắng cường quyền của chúng ta, cuối cùng đã được chứng minh... Thiên hoàng Nhật Bản đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện...".

Trong tiếng sóng loẹt xoẹt, phát ra tin tức khiến người ta chấn động, nhất thời tiếng reo hò và tiếng khóc thút thít do quá mức vui mừng trong căn phòng vang lên không ngớt bên tai, Ngụy Trường Húc nhắm chặt mắt lại, còn có chút không dám tin đây là sự thực.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Ở trong bóng tối một thời gian quá dài, khi ánh sáng ùa tới đột ngột, cậu run rẩy và không dám tin theo bản năng.

"Anh Húc! Chúng ta có thể quay về rồi!" Tô Nghiêu vui mừng lao đến phía Ngụy Trường Húc. Cậu đã mười chín tuổi, đã là một người trưởng thành rồi, Ngụy Trường Húc cũng không kìm được lao đến phía đối phương, từ trên ghế dựa ngã lăn trên mặt đất, đau đớn làm cho cậu tỉnh táo trở lại.

Đây không phải giấc mơ! Đây là sự thực!

"Ừ, chúng ta có thể về rồi". Ngụy Trường Húc nén nỗi vui sướng như điên trong lòng xuống, quay đầu lại nhìn những hòm gỗ chất đầy trong sân chùa, nói một cách lý trí: "Nhưng sẽ không đi ngay đâu, chí ít cũng phải ở lại thêm hai năm, đợi tình hình trong nước ổn định đã". Năm nay cậu đã hai mươi hai tuổi, đã hoàn toàn là một người lớn rồi, cũng có thể nhanh chóng phân tích ra tình hình tốt xấu thế nào.

Tô Nghiêu lại cẩn thận dìu Ngụy Trường Húc đứng dậy, vì sự cố trên sạn đạo năm đó, cơ thể của Ngụy Trường Húc vẫn còn mầm bệnh, cuộc sống trên núi kham khổ nên chẳng được bồi bổ đầy đủ, thế nên ngày càng gầy yếu. Những năm qua Tô Nghiêu vẫn luôn đối xử với cậu như là đối với một bảo vật mong manh dễ vỡ, hơn nữa sau khi chủ tiệm rời đi, bọn họ lại càng nương tựa dựa dẫm vào nhau.

"Cậu chủ... có lẽ sẽ không cùng về với chúng ta đâu nhỉ?". Nhớ đến chủ tiệm, Tô Nghiêu cúi thấp đầu, cắn chặt môi.

Ngụy Trường Húc bấm vào vai của cậu, cũng không nói gì.

Bảy năm trước, sau khi họ đặt chân lên núi Nga My, gã chủ tiệm liền ra đi, ba năm trước mới lặng lẽ quay về thăm họ một chuyến. Lúc này Ngụy Trường Húc hồi tưởng lại, mới phát hiện tướng mạo của gã chủ tiệm vẫn không có bất kỳ khác biệt nào so với hơn mười năm trước, hiện tại nếu như ở cùng với họ, cảm giác còn trẻ hơn cả bọn họ.

"Đừng nghĩ nữa, chúng ta vẫn nên ăn mừng một chút đi!" Ngụy Trường Húc đứng dậy đẩy cánh cửa sổ ra, để ánh nắng mặt trời đã lâu không thấy chiếu lên gương mặt, rồi thở ra một hơi thật dài.

Rất nhanh, rất nhanh nữa là nguyện vọng của cậu có thể thực hiện được rồi.

Trên thực tế con đường quay về cũng chẳng hề dễ đi như trong tưởng tượng.

Thiên hoàng Nhật Bản tuy đã ký tên vào điều ước đầu hàng vô điều kiện, nhưng quân phiệt Nhật Bản trong nước vẫn không cam tâm rút lui như thế. Lại thêm tình hình trong nước thay đổi nhanh chóng, hai đảng Quốc Dân Đảng và Cộng Sản Đảng lại tranh đấu với nhau, cục thế bỗng chốc trở nên rối rắm mơ hồ.

Văn vật đồ cổ chỉnh lý rõ ràng rành mạch, vì không còn nỗi lo bị tập kích thả bom, cho nên văn vật quay về Nam Kinh đều tập trung ở Trùng Khánh, đến hai năm sau mới khởi hành. Dọc đường đi cũng không ngừng xảy ra sự cố, may mà trong đội bọn họ không có ai thương vong, đi xuống phía dưới Trường Giang, đến thẳng Nam Kinh. Bảo tàng Cố Cung ở Bắc Bình đã được thành lập vào ngày 10 tháng 10 năm Dân Quốc thứ 14, cuối cùng sau 22 năm lẻ 2 tháng, tất cả văn vật đồ cổ phải di dời đã về chung một chỗ.

Chiến tranh trong nước vẫn chưa kết thúc, nhưng Ngụy Trường Húc không còn quá lo lắng. Dẫu sao đều là trong nước tranh chấp, cũng tuyệt đối không nguy hại đến di sản của tổ tiên. Mỗi ngày cậu đều vùi đầu vào chỉnh lý những văn vật có giá trị liên thành đó, ngoài những lúc nhàn rỗi ra, đều cảm thán mười lăm năm điên đảo bôn ba này. Cho dù là cổ vật đi con đường nào, hành trình đều phải vượt qua hơn một vạn hai nghìn kilomet. Mà hàng triệu cổ vật này, cũng kinh qua chặng đường vạn dặm lại chẳng hề có một món thất thoát hoặc hư hỏng, thật là đáng quý, đáng được coi là một kỳ tích.

Vì ngày đêm lao lực, cơ thể của Ngụy Trường Húc ngày càng suy yếu, mỗi lần Tô Nghiêu khuyên nhủ cậu nghỉ ngơi, cậu cũng không thèm chú ý.

Cuối năm 1948, bắt đầu rải rác có văn vật bị chia thành lô rồi vận chuyển đến Đài Loan. Ngụy Trường Húc không ngăn cản, cũng không có cách nào ngăn cả, cậu chỉ là một nhân viên quản lý quèn. Hơn nữa chia ra thì có thể thế nào? Cậu biết những văn vật này sẽ nhận được sự đối xử tử tế, cho dù bị phân cách hai bờ eo biển.

Cũng có người khuyên cậu nên rời đại lục đến Đài Loan, nhưng cậu không nhận lời, vẫn ở lại Triều Thiên Cung ở Nam Kinh, chỉnh lý những văn vật đồ cổ còn sót lại, Tô Nghiêu cũng luôn âm thầm ở bên cậu.

Cho đến mùa thu năm sau, lá ngô đồng lần nữa chuyển sắc đỏ, nhưng cậu lại biến thành một người cô đơn.

5

Gã chủ tiệm lại một lần nữa xuất hiện trước mặt cậu, vẫn trẻ trung như thế.

Ngụy Trường Húc run rẩy bờ môi, đặt chiếc khóa Trường Mệnh bằng bạch ngọc vào tay gã.

"Cậu ta ra đi như thế nào?". Giọng nói của gã chủ tiệm rất bình tĩnh, giống như đã sớm biết Tô Nghiêu sẽ xảy ra sự cố.

"Trên cầu thang... ngã xuống...". Ngụy Trường Húc nhắm mắt, dường như còn có thể nhìn thấy tình cảnh tối ngày hôm đó, "Kho rất tối... vì sợ xảy ra hỏa hoạn... cho nên không thắp đèn dầu... cậu ấy... cậu ấy bước hụt một cái..."

"Ừ, lại không đến hai mươi tư tuổi. Cậu ấy có lẽ không phải chịu đau đớn gì đó mà đi, vẫn còn tốt". Gã chủ tiệm lạnh nhạt nói, trong ngữ khí mang một nỗi buồn không thể nói thành lời. Gã cúi nhìn chiếc khóa Trường Mệnh trong tay, ngước mắt lên nhìn Ngụy Trường Húc một hồi lâu, buồn bã thở dài nói: "Cảm ơn cậu đã chăm sóc cậu ấy, tuy chỉ là nhân tiện. Hiện tại chiến tranh đã kết thúc, tâm nguyện của cậu... có lẽ đã đạt được rồi chăng?".

Ngụy Trường Húc hoang mang mơ hồ, không thể hiểu lời của gã chủ tiệm rốt cuộc là có ý gì. Cậu nhìn một vòng tứ phía nhà kho đã được sắp xếp chỉnh tề giống như ngộ ra điều gì liền thanh thản nhắm mắt lại.

Trước mặt gã chủ tiệm, chỉ còn lại một đống áo quần, gã cúi xuống nhặt lên một hạt Bồ Đề Tử bằng cỡ hạt óc chó trong đống áo quần.

Đó là một hạt Kim Cương Bồ Đề, là chủng loại quý nhất danh giá nhất trong các loại Bồ Đề Tử.

Kim Cương, với ý nghĩa là cứng rắn vô song, không gì bẻ gãy được, có thể đẩy lui phá hủy tất cả sức mạnh tà ác. Mà Kim Cương Bồ Đề Tử còn có đẳng cấp phân cánh, loại thường thấy đều là năm, sáu cánh, hình giống như hạt óc chó, phân cánh càng nhiều thì càng trân quý. Hạt Bồ Đề Tử trong tay gã chủ tiệm, là hạt Kim Cương Bồ Đề Tử hai mươi hai cánh chỉ tồn tại trong truyền thuyết. Bề mặt màu nâu đỏ còn có dấu vết bị lửa sém qua, hiện tại đã thành vết nứt loang lổ.

"Hai mươi sáu năm trước, Đại Phật điện sau Trung Chính điện bốc cháy, ngươi đã gắng gượng chút nguyện lực cuối cùng để chuyển thế đầu thai, hóa thành hình người..."

"Đến nay tâm nguyện bảo vệ cổ vật đã hoàn thành, ta đã chọn được nơi hương hỏa thịnh vượng, để ngươi được cúng dường nhiều hơn, trùng tu lại nguyện lực..."

Từ đó, không còn ai nhìn thấy nhân viên quản lý tên Ngụy Trường Húc đó nữa, những người quen biết đều cho rằng anh ta vì chuyện ngoài ý muốn của em trai mà đau lòng bỏ đi.

Quyển 4 - Chương 8: Mũ Giải Trãi

1

Năm 1 trước Công Nguyên, Trường An.

Mùa hạ vừa mới đến, ánh nắng màu vàng kim chiếu xuyên qua những kẽ hở của lá cây, thành những mảng lốm đốm trên mặt đất. Tiếng côn trùng rỉ rả vang lên từng đợt trong những đình viện hoang vắng, gợi một cảm giác an lạc hiền hòa.

Vương Yến rón ra rón rén xách một hộp cơm, khi đi qua hành lang của đình viện, phát hiện một chú bướm sắc màu rực rỡ bị vướng vào mạng nhện, đang giãy giụa sắp chết. Tuy có vài sợi mạng nhện bị nó giằng đứt, nhưng vẫn còn hơn nửa đôi cánh của nó chưa giãy thoát ra ngoài.

Khẽ gọi nhỏ một tiếng, Vương Yến nhìn trái nhìn phải, rồi nhặt một đoạn cành cây gãy trong đám cỏ lên, cứu chú bướm đáng thương đó ra khỏi đám mạng nhện.

Nhìn thấy chú bướm loạng choạng bay xa, Vương Yến mới nhớ ra mình còn phải mang cơm cho phụ thân, nên phải xách váy và rảo bước chân thật nhanh.

Vương gia là một đại gia tộc, gia tộc này lớn tới mức người ta khó mà tưởng tượng nổi, hết thảy cũng chỉ vì thái hoàng thái hậu đương triều là họ Vương.

Năm đó, sự kiện đầu tiên sau khi Hán Thành đế lên ngôi, chính là gia phong tấn tước cho bá phụ của Dương Bình hầu là Vương Phượng làm Đại tư mã Đại tướng quân kiêm Thượng thư lệnh. Đây chính là một chức quan còn lợi hại hơn cả chức thừa tướng, thật sự có thể nói là dưới một người mà trên vạn người. Rất nhanh chóng, Hán Thành đế lại chỉ trong một ngày phong cho năm vị thúc bá nhà họ Vương tước hầu. Vương gia trong thời gian ngắn trở thành quý tộc mới của thành Trường An, quyền khuynh triều dã, không ai dám đối đầu. Cuối cùng, toàn bộ anh em họ Vương đều được phong hầu, con cháu của tộc Vương thị đều chia nhau nắm quyền bính. Dần dần, chức quan của thành Trường An đều không đủ phân chia, đến quan liêu của các địa phương, đa phần đều mang họ Vương.

Vương gia trở thành họ tộc lớn nhất đương triều, phủ viện trạch đệ của họ Vương xây dựng tầng lớp hùng điệp, kéo dài mấy dặm trong thành Trường An, hậu viện thê thiếp thành bầy, nô bộc ngàn vạn. Huynh đệ họ Vương coi trong cung là trạch viện nhà mình, tùy ý ra vào tá túc. Còn có con cháu họ Vương tự ý đục xuyên tường thành Trường An, dẫn nước sông ngoài thành chảy vào trong phủ, để cấp nước cho việc chèo thuyền trong ao hồ cực lớn trong đình viện. Thậm chí, có người còn xây dựng lâu đài gác cao trong đình viện, kiểu dáng kích cỡ y hệt Bạch Hổ điện trong cung Vị Ương, khi những việc vi phạm nghiêm trọng cuối cùng cũng kết thúc, Hán Thành đế cũng chẳng đưa ra bất cứ xử phạt nào. Những quan chức quý tộc trong thành Trường An này đều biết, có thể chọc đến họ Lưu, chứ không thể chọc giận họ Vương. Vì vương hầu họ Lưu đều phân phong ở các vùng chứ không ở Trường An, nhưng những người họ Vương thì lại đều có dây mơ rễ má với gia tộc họ Vương lớn kia.

Ở gia tộc họ Vương xa xỉ hào nhoáng vô độ trụy lạc sa đọa này, Vương Yến cảm thấy cha nàng sống như thể một kẻ lạc loài. Vì ông nội nàng qua đời từ rất sớm, chưa kịp được phân phong lên tới tước hầu, cho nên phụ thân của Vương Yến là người sống thanh bần nhất, từ nhỏ đã sống lưu lạc trong gia đình của các thúc bá. Có lẽ vì ăn nhờ ở đậu, nên phụ thân nàng làm người khiêm nhường cung kính nghiêm trang cẩn thận, sống đơn giản không chút câu nệ, sau khi được chia nhà ở riêng thì nhận nuôi dưỡng mẫu thân và chị dâu ở góa, đối đãi với con của huynh trưởng còn tốt hơn với con mình. Lại thêm ông kiên nhẫn hiếu học, tôn trưởng nhường ấu, khiêm nhường lễ độ, giữa đám công tử bột của họ Vương, mau chóng trở thành một tấm gương, tiếng lành đồn xa.

Vương Yến biết rất nhiều người đều khen ngợi phụ thân nàng, nhưng nàng cũng có thể nhìn ra có những người khen ngợi là thật lòng thật ý, có những người lại ngầm lộ sự trào phúng mỉa mai. Gia đình nàng quả thực là thanh bần nghèo khổ, cho dù phụ thân nàng làm quan tới chức Đại tư mã, nhưng bổng lộc và thưởng tứ đều ngang với thuộc hạ hoặc đám bình dân. Vương Yến năm nay đã chín tuổi, trên người chẳng có lấy nổi một món trang sức, trước đây, khi quan lại cấp dưới đến nhà bái kiến phụ thân nàng, mẫu thân nàng còn bị họ tưởng lầm là nô tì của nhà họ Vương, cổ thể thấy mẫu thân của nàng ăn vận giản dị đến mức nào.

Tay phải xách hộp cơm đã hơi ê mỏi, Vương Yến đổi hộp cơm sang tay trái, dùng tay phải xách gấu váy. Bộ váy áo màu xanh đậm này của nàng vì muốn tiết kiệm chút tiền, may dài rộng hơn vóc người nàng, nên tạm thời tà váy bị quệt đất, không thuận tiện đi đường. Người thường xuyên mang cơm cho phụ thân đều là mẫu thân, nhưng từ khi nhị ca của nàng qua đời, phụ thân và mẫu thân mâu thuẫn triệt để, mẫu thân không còn cư xử vui vẻ với phụ thân nữa.

Nhớ lại nhị ca - người thương yêu mình nhất, gương mặt nhỏ của Vương Yến lại thoáng hiện lên vẻ thê lương khổ não. Cho dù đã hơn nửa năm trôi qua, nhà họ từ đất được phong Tân Đô chuyển về Trường An rồi, nhưng Vương Yến vĩnh viễn không quên được sự kiện đó.

Bởi vì Hán Thành đế băng hà, tân đế lên ngôi, gia tộc ngoại thích mới - Phó thị cũng chiếm ưu thế. Gia tộc Phó thị muốn sao chép lại sự huy hoàng của Vương thị, đương nhiên điều đầu tiên cần phải xử lý chính là mấy người đứng đầu gia tộc Vương thị. Phụ thân của Vương Yến buồn rầu từ chức, đến ẩn cư ở đất phong của ông là Tân Đô. Tuy rời xa sự phồn hoa của Trường An, cả nhà họ cũng đã quen với cuộc sống thanh bần kham khổ này, nhưng có người lại không quen.

Đến chó cũng ỷ thế hiếp người, đừng nói là người.

Mẫu thân xưa nay bản tính nhu nhược, hậu viện của phụ thân rất giản đơn, nàng và bốn vị huynh trưởng đều do một mẹ sinh ra, cho nên căn bản mẫu thân không cần thi triển thủ đoạn gì để cai quản. Nhưng gia nô bên cạnh phụ thân, trước mặt phụ thân thì thái độ vâng vâng dạ dạ, nhưng quay người một cái là sắc mặt hung hăng điêu ngoa. Đến khi chuyển đến Tân Đồ, vì cách xa Trường An, xung quanh đều là thường dân bách tính, hắn càng lúc càng điêu ngoa quá quắt. Nhị ca nàng Vương Hoạch một lần gặp phải cảnh gia nô đó ức hiếp bách tính, suỹt chút nữa thì ép chết một người phụ nữ vô tội, nỗi phẫn nộ tích tụ đã lâu liền bộc phát tại chỗ, một quyền vung lên, tên gia nô đó ngã lăn dưới đất, không may phần đầu bị va vào gạch đá, liền mất mạng tức thì.

Kỳ thực nói đến cùng, đây cũng chẳng phải là chuyện to tát gì. Ở triều Đại Hán, nô tì là tài sản của chủ nhân. Trong nhà có bao nhiêu nô tì, cũng được coi là tài sản như trâu ngựa dê ghi chép vào trong hộ tịch, đều phải nộp thuế. Chuyện này cũng giống như đánh vỡ một cái bát ăn trong nhà, vỡ thì thôi, ai quản anh không cẩn thận đánh vỡ, hay là cố ý đánh vỡ. Càng huống hồ gã gia nô đó căn bản là đáng chết, khi Vương Yến nghe thấy chuyện này, cũng chỉ lặng người đi một lúc, cũng không coi là chuyện lớn.

Nhưng trong mắt phụ thân nàng, đây là một chuyện tày đình. Ông trách mắng Vương Hoạch, và không chỉ dùng những từ ngữ khó nghe, mà là dùng đủ mọi lời lẽ thánh nhân mà Vương Yến nghe chẳng hiểu nổi câu nào. Mắng đến mức Vương Hoạch vốn dĩ vì lỡ tay giết người đã hối hận muôn phần, tối ngày hôm đó đã ôm hận tự vẫn.

Đến giờ, Vương Yến vẫn còn nhớ buổi tối hôm đó, phụ thân của nàng thà tin những lời phiến diện của kẻ khác, chứ không chịu tin con trai của mình, vẫn kiên trì đạo lý Khổng Mạnh của ông, trừng ác khuyến thiện.

Thế nhưng, thế nào là thiện thế nào là ác? Không sát sinh thì là thiện sao? Thờ ơ bàng quan là thiện sao? Đại nghĩa diệt thân là thiện sao?

Kết quả lại là nhờ chuyện nhị ca đền mạng cho gia nô mà phụ thân nàng nhận được sự chú ý của đám quý tộc quan cao ở thành Trường An đó, họ lũ lượt đề nghị xin cho ông trở lại. Không lâu sau, cả nhà quay về Trường An. Nhưng Vương Yến chẳng vui chút nào, lần này là dùng tính mạng của nhị ca đổi lấy, nàng thà chẳng về còn hơn.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Cách chữa hôi miệng nhanh nhất không phải ai cũng biết!

Vì chuyện của nhị ca, mẫu thân đóng cửa không ra ngoài, ba vị huynh trưởng và phụ thân bất hòa với nhau, đám người hầu trong vương phủ cũng sợ hãi hoang mang, không dám gần gũi với nhà bọn họ, sợ sẽ bị các huynh trưởng đem ra trút giận, cho nên chuyện đưa cơm cho phụ thân, cũng chỉ có nàng có thể làm.

2

Vương Yến đi xuyên qua đình viện vắng vẻ, đến thư phòng của phụ thân, gõ cửa một cách thuần thục, nhận được sự cho phép bèn đẩy cửa bước vào, khom lưng đặt hộp cơm trên án kỷ, không ngạc nhiên khi nhìn thấy phụ thân đang cầm một chiếc mũ và ngắm nghía.

Đó là một chiếc mũ Giải Trãi.

Từ nhỏ, Vương Yến và phụ thân đã rất thân thiết, nàng cũng biết chiếc mũ Giải Trãi đó là của phu tử của phụ thân tặng người. Truyền thuyết nói, Giải Trãi là một loại thần thú, khi Nghiêu làm hoàng đế, đã nuôi con Giải Trãi trong cung, nó có thể phân biệt được thiện ác tốt xấu, khi phát hiện ra quan viên gian tà, nó liền dùng sừng trên đầu để húc kẻ đó ngã, sau đó nuốt hắn vào bụng. Ở thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, nghe nói Sở Văn vương từng có một con Giải Trãi, sau đó phỏng theo hình dáng của nó chế thành chiếc mũ đội trên đầu, thế nên mũ Giải Trãi trở thành thời thượng ở nước Sở. Sau này quan ngự sử chấp pháp triều Tần đều đội mũ Giải Trãi, nhà Hán kế thừa chế độ thời Tần cũng như vậy, vì vậy dân gian gọi đó là chiếc mũ của pháp luật, là mũ đội đầu của người chấp pháp.

Phụ thân của Vương Yến không phải là quan ngự sử, cho nên chiếc mũ Giải Trãi này ông chưa từng đội, vẫn chỉ để trưng bày trong thư phòng, nhằm nhắc nhở mình nhất định phải phân biệt rõ ràng cong thẳng, trừng ác khuyến thiện. Trước đây, khi nhìn thấy chiếc mũ Giải Trãi này, Vương Yến vẫn luôn sinh lòng kính trọng, nhưng từ khi nhị ca qua đời, nàng lại cảm thấy nực cười, chỉ là không thể hiện ra ngoài mà thôi.

"Yến Nhi". Vương Mãng bỏ chiếc mũ Giải Trãi trong tay xuống, hiền từ vẫy tay với Vương Yến. Vương Mãng nuôi một bộ râu rất đẹp, nhìn rất có khí chất nho nhã của người đọc sách, hơn nữa vì tính cách ôn hòa khiêm cung, nên toàn thể con người luôn khiến người khác nảy sinh cảm giác thân thiện dễ gần.

Vương Yến ngoan ngoãn quỳ bên cạnh phụ thân, ngước mặt lên dịu dàng yên lặng mỉm cười.

Vương Mãng xoa xoa mái tóc của nàng một cách ôn hòa, thở dài nói: "Phu nhân nuôi dạy con rất tốt, nếu không phải đương kim thánh thượng không ham nữ sắc, lão phu nhất định phải nghĩ cách đưa con tiến cung".

Vương Yến khép rèm mi, nhìn chằm chằm vào vết bẩn do gấu váy của mình dính bùn quết trên đấy, trong lòng không tán thành. Phụ thân nàng đúng là hồ đồ, năm nay nàng mới chín tuổi, vẫn còn xa mới đến tuổi cập kê. Mà đương kim thánh thượng đã hai mươi lăm tuổi, đừng nói thánh thượng không ham nữ sắc chỉ chuyên sủng Đại tư mã hiện thời, cho dù có thích nữ sắc, thì cũng chẳng ngắm đến con nhãi như nàng!

(Chính là câu chuyện tình đồng tính giữa Hán Ai đế và Đổng Hiền nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc)

Từ sau khi con trai thứ hai tự vẫn, vợ và con đều xa lánh ông, Vương Mãng cũng chỉ có thể nói chuyện cùng với con gái, mà không để tâm xem con gái nghe có hiểu hay không.

Vương Yến cảm thấy cực kỳ vô vị, cụp mắt nhìn ngó lung tung, mới phát hiện chiếc mũ Giải Trãi trên án kỷ đã không cánh mà bay, thay vào đó là một con dê nhỏ màu trắng to bằng lòng bàn tay!

Không tin nổi, nàng ra sức chớp chớp mắt mấy cái, Vương Yến cơ hồ tưởng mình đang nằm mơ, giọng nói lải nhải của phụ thân bên tai không ngừng truyền đến, nhưng trong lòng rõ ràng lại nghe thấy một giọng nói khác.

"Nha đầu, ngươi có thể nhìn thấy bản tôn sao?"

Vương Yến kinh ngạc nhìn con dê nhỏ bỗng nhiên xuất hiện trên án kỷ, chính xác mà nói, đây cũng không phải là con dê nhỏ.

"Con gái, sao thế?". Biểu cảm lạ lùng của con gái khiến Vương Mãng cảnh giác, vội vàng nhìn theo ánh mắt của nàng, phát hiện con gái đang nhìn chiếc mũ Giải Trãi bên tay của ông.

"Không... không có gì ạ". Vương Yến phát giác phụ thân của mình căn bản không nhìn thấy con dê nhỏ bỗng nhiên xuất hiện đó, bèn hiếu kỳ hỏi, "Phụ thân, Giải Trãi... có hình dáng như thế nào?"

"Giải Trãi, là dê thần, thân thì giống dê, đầu giống kỳ lân, trên trán có một chiếc sừng". Vương Mãng hiếm khi thấy con gái hỏi han ông, bèn lấy toàn bộ nhẫn nại ra giải thích.

Có thân hình giống dê, đầu giống kỳ lân, trước trán có một chiếc sừng... Vương Yến vừa nghe phụ thân nói, vừa đối chiếu với hình dạng của con dê nhỏ kia, càng nhìn lại càng kinh hãi. Đây rõ ràng chính là một con Giải Trãi!

"Con có biết chữ "Thiện" không? Chữ Thiện có phần đầu của chữ Dương (dê), Giải Trãi có thể phân biệt thiện ác đúng sai, nên là dê thần đó". Vương Mãng không nhớ là đã từng kể cho Vương Yến nghe về lai lịch của mũ Giải Trãi, thế nên lại kể lại tường tận một lượt, nhưng không chú ý tới con gái mình nghe mà hồn vía để ở đâu.

"Ông ta nói không sai. Hơn nữa người có thể nhìn thấy bản tôn, đều là người tột cùng lương thiện". Con Giải Trãi đó chớp chớp đôi mắt đen lay láy, Vương Yến lại có thể nhìn thấy trong đó có một nét cười.

Nhưng Vương Yến lại cảm thấy rợn tóc gáy, nàng không thấy mình có thể nhìn thấy thần thú là một chuyện tốt, nếu không tại sao trước đây nàng chưa từng thấy, mà lại đúng ngày hôm nay mới có thể nhìn thấy? Nàng... đâu phải là người tột cùng lương thiện gì đó.

Thế nhưng, tại sao phụ thân lại không nhìn thấy Giải Trãi? Đến người cũng không phải là người tột cùng lương thiện hay sao?

"Phụ thân ngươi là kẻ giả vờ lương thiện, nên hắn coi bản tôn như không tồn tại".

Thấy Giải Trãi có thể biết được suy nghĩ trong lòng mình, Vương Yến có hơi hãi hùng, nhưng thoắt cái lại nghĩ, đối phương đã là thần thú, chút chuyện thần thông này đã coi là gì? Nhưng nghe thấy đối phương nói phụ thân mình là giả vờ lương thiện, thì lại có chút không vui.

Con Giải Trãi đó cười hi hi một tiếng, tiếp tục nói: "Cha ngươi lúc nhỏ đối với trưởng bối cũng có chút khiêm nhường cung kính, nên mới có được tiếng thơm. Hắn say mê danh tiếng, nên đè nén bản tính của bản thân. Như thế có nghĩa là vì danh tiếng mới làm việc thiện, không phải là thật sự lương thiện, mà là giả vờ lương thiện".

Vương Yến ngây như phỗng, nàng không muốn tin lời của Giải Trãi, nhưng mỗi tiếng nó nói đều đâm thẳng vào trái tim nàng.

Tại sao phụ thân lại luôn giữ sự thanh bần? Tại sao phụ thân phải giữ thân thanh khiết? Tại sao phụ thân thà ép chết con trai mình... cũng phải có được sự ngợi khen của người đời?

Tất cả của tất cả, đều là mua danh chuốc tiếng sao?

"Cái thiện của một người, đối với người khác cũng có thể gọi là ác. Bản tôn thấy ngươi cứu con bươm bướm kia, nhưng chú nhện vất vả giăng tơ, há chẳng phải vì ngươi mà chết đói sao? Cùng là sinh linh trong thế gian, nhện xấu còn bướm đẹp, ngươi hà cớ gì cứu bướm mà hại nhện? Nếu chẳng phải bướm gần chết, mà là muỗi sa mạng nhện, thì ngươi làm như thế nào? Là cứu hay là không cứu?"

Vương Yến bị Giải Trãi hỏi hết câu này đến câu khác, hỏi đến mức tâm trí điên đảo, cũng không biết mình đã cáo biệt phụ thân rời đi như thế nào.

Nàng chỉ nhớ rằng, buổi chập tối đầu hạ này, khi nàng loạng choạng đi vào hành lang, vô tình liếc thấy chiếc mạng nhện rách đó, chỉ còn sót lại một ít tơ nhện bay phất phơ tán loạn trong gió.

3

Con thần thú Giải Trãi chỉ một mình nàng có thể thấy đó, đã trở thành ác mộng của Vương Yến.

Nó thường xuyên xuất hiện không một tiếng động xung quanh nàng, tuy không thể trao đổi với nàng nữa, nhưng ánh mắt sâu thẳm đen láy đó, luôn khiến nàng rét run. Khiến nàng trước mỗi lần làm một việc gì đó, đều suy nghĩ cân nhắc vài lần, là thiện hay là ác.

Nhưng giày vò như thế không được bao lâu, Vương Yến hiểu ra, nàng không phải thần Phật, cũng chẳng phải thánh nhân, thì sao có thể tận thiện tận mỹ? Nàng cố gắng hết sức có thể để coi sự tồn tại vào bất cứ lúc nào của Giải Trãi thành không tồn tại, nhưng vì một câu nói của đối phương, chút tình cảm tôn kính đối với phụ thân trong lòng nàng đã bị sứt mẻ không ít.

Mùa hạ năm nay, Hán Ai đế tuổi trẻ qua đời, lại chưa có con cái, Đại tư mã Đổng Hiền luôn được Hắn Ai đế chuyên sủng cũng xuống suối vàng cùng hoàng đế. Phụ thân của Vương Yến lại nhậm chức Đại tư mã lần nữa, lập Trung Sơn vương còn nhỏ tuổi làm hoàng đế, tân đế bằng tuổi với nàng.

Quân vương nhu nhược mà thần tử mạnh mẽ, cho dù Vương Yến không hiểu chuyện triều chính, cũng biết phụ thân mình chắc chắn là một tay che cả bầu trời.

Nhưng phụ thân nàng xưa nay luôn chú trọng thanh danh, cái tiếng một tay che cả bầu trời này, đương nhiên không để rơi vào tay người khác để họ nắm được thóp của mình. Nghe nói phụ thân nàng trên thì đền ơn ban thưởng cho vương công quý tộc, dưới thì chăm sóc vỗ về bách tính bình dân đủ cả người cô quả lẫn con côi, nơi gặp tai nạn thì dẫn đầu quyên góp tiền của cứu trợ, được trên dưới trong triều ngoài dã khen ngợi, đều ngợi ca là Chu Công tái thế. Việc thiện, ai có thể làm được đến thế? Huống hồ là vị trí đó của phụ thân, có lúc ông chỉ cần ra hiệu, tự nhiên sẽ có người trước ngã xuống người sau tiến lên đua nhau làm việc thay ông.

Vương Yến vẫn lặng lẽ sống trong tòa nhà cũ nát đơn sơ, cùng với mẫu thân làm việc nội trợ, thỉnh thoảng cũng ngẩn ngơ nhìn chiếc mũ Giải Trãi xuất hiện biến mất như thần như quỷ. Thời gian trôi nhanh tựa nước chảy, qua kẽ tay rồi biến mất.

Tân đế nháy mắt đã mười hai tuổi, đã đến tuổi kết hôn thành thân theo sách "Chu lễ". Vương Yến nghe nói phụ thân phát chiếu thư, tuyển chọn con cháu của danh môn trong thiên hạ, để chọn ra người làm hoàng hậu. Hơn nữa để tránh hiềm nghi, còn cố ý gạch tên của nàng trước mặt nhiều người. Kết quả hành động lần này trái lại gây nên sự phản đối mạnh mẽ của người đời, rất nhiều quan viên đều cảm thấy như thế không công bằng, mỗi ngày đều có người đến trước cửa đại điện hoặc cửa vương phủ dâng thư.

Vương Yến vốn dĩ cảm thấy lần này phụ thân làm đúng, nàng đâu muốn vào cung làm hoàng hậu. Nhưng khi nhìn thấy ánh mắt nửa cười nửa không của Giải Trãi trên tấm nệm bồ đoàn, nàng bỗng kinh hoảng.

Đây lại là thủ đoạn của phụ thân sao?

Khi nàng nghe thấy tiếng hô vang dội của đám người bên ngoài sân "Cầu mong công nữ làm mẫu nghi thiên hạ", nàng mới biết, cái ngôi hoàng hậu này, mình vẫn thực sự phải làm.

Kỳ thực Vương Yến không muốn bị gả đi, nàng cũng từng có chút ảo tưởng về phu quân của mình, nhưng chưa từng nghĩ người đó sẽ là hoàng đế. Nhưng nàng lại không thể không gả đi, ở nhà, đại ca Vương Vũ phản đối phụ thân, cảm thấy phụ thân một mực làm vậy chắc chắn sẽ đắc tội với tân đế, muốn ngầm giúp đỡ đưa người bên họ nhà ngoại của hoàng đế về kinh. Nhưng tin tức bị lộ, đại ca của nàng bị phụ thân dùng thủ đoạn ghê gớm bắt giam vào ngục, đích thân ban cho một ly rượu độc. Hơn nữa còn đem chuyện này đổ lên đầu họ ngoại của hoàng đế, mượn cớ cất một mẻ lưới quét sạch bọn họ. Thái độ trong triều đối với chuyện này lại thành phụ thân vì đại nghĩa diệt thân, chí công vô tư.

QUẢNG CÁOMgid

Một người có thể kiếm về 65 triệu đồng bằng cách sử dụng ứng dụng

Olymp Trade

Đừng chỉ sống dựa vào tiền lương. Học cách giao dịch

Olymp Trade

(Để ngăn ngừa ngoại thích mới của Hán Bình đế can dự triều chính, tranh quyền với mình, Vương Mãng chi tôn mẹ đẻ Bình đế là Vệ cơ làm Trung Sơn Hiếu vương thái hậu, còn hai người cậu của Bình đế là Vệ Bảo và Vệ Huyền làm Quan nội hầu ở lại nước Trung Sơn, đóng đô ở Lư Nô không cho tới Trường An)

Cho nên, Vương Yến không thể không gả, bởi vì đây chắc chắn là sự kỳ vọng của phụ thân.

Phụ thân đã giành được quyền lực ngang với hoàng đế, thế thì, cho dù bản thân không thể ngồi ở vị trí đó, cũng muốn cho con cháu mang dòng máu của mình ngồi lên đó.

Thế nhưng, đời này, khi Vương Yến lần đầu từ đầu đến chân đều tô điểm phục sức trâm vàng bội ngọc, và được trang điểm lộng lẫy nhất trong cuộc đời ngồi trong cung Vị Ương, nàng cũng biết rằng, nàng sẽ không sinh được đứa con làm hoàng đế.

Bởi vì, hoàng đế căn bản không cho nàng lại gần.

Xem ra cách nghĩ của phụ thân, đối phương cũng hiểu cặn kẽ rồi.

Giống như Hán Vũ đế Lưu Triệt anh minh thần võ, cũng có nhũ danh là Lưu Trệ, con cháu hoàng tộc cũng giống dân gian, nhũ danh đều được đặt khá là thô lậu, hy vọng sẽ dễ nuôi.

Trước khi Lưu Khản được Vương Mãng đặt tên là Lưu Khản thì có tên là Lưu Ky Tử. Không phải với hàm ý là sao Ky trong các vì tinh tú, mà là chữ Ky có nghĩa là cái sọt để đựng lúa hay đựng rác. Có điều may mà có cái tên Lưu Dã Trư của Hán Vũ đế trước đó, nên hắn thực sự vẫn khá hài lòng với cái tên "Lưu Ky Tử" của mình.

(Còn đọc là Cơ)

Nhưng bây giờ hắn lại tên là Lưu Khản, cái tên này còn là của người mà hắn căm ghét nhất đặt cho. Lưu Khản tức là Lưu Chém, người đó liệu có phải muốn chém hắn không? Căn bản đó là một cái tên chẳng có ý nghĩa vui vẻ yên ổn gì! Bây giờ xem ra hắn từ tên gọi đến hoàng hậu, đều là một tay ông ta sắp đặt, hắn có thể vui vẻ yên ổn được không?

(Chữ Khản tên của Hán Bình đế nghĩa là "vui vẻ", đồng âm với chữ Khản có nghĩa là "chém")

Lưu Khản sống rất buồn bực uất ức trong cung, đương nhiên cũng mặt nặng mày nhẹ với Vương Yến. Vương Yến ngay ngày thứ hai sau khi được gả vào trong cung, cũng rửa hết lớp trang điểm, trút bỏ xiêm y trang trọng nặng nề, mặc lại quần áo cũ giản dị. Đám cung nữ đều nhắc nhở nàng như thế sẽ không được hoàng đế yêu thích, nhưng Vương Yến vẫn rất thờ ơ. Hoàng đế chán ghét nàng, là vì phụ thân nàng. Nàng không thể thay đổi xuất thân của mình, cho nên cho dù nàng trang điểm ăn vận đẹp hay không, cũng chẳng có gì khác biệt, lại hà tất gì phải khiến bản thân sống không thoải mái?

Huống hồ có phụ thân nàng, những cung nữ của hậu cung này, có ả nào là dám lén lút bò lên long sàng của hoàng đế? Trừ phi kẻ đó không muốn sống nữa. Ngay cả bản thân tiểu hoàng đế, cũng sợ đến nỗi không dám tự phong phu nhân, nạp mỹ nhân.

Hơn nữa, Vương Yến thấy vị tiểu hoàng đế này, dù có tâm cũng không có lực.

Lưu Khản bằng tuổi nàng, cơ thể không được khỏe, thường xuyên mắc các chứng như đau tim, đau ngực, hít thở không thông... nghe nói là bệnh bẩm sinh từ trong bào thai. Đại để, đây cũng là nguyên nhân mà phụ thân nàng lựa chọn Lưu Khản trong số con cháu nhà họ Lưu. Tuổi tác còn nhỏ, cơ thể thì yếu ớt lắm bệnh, căn bản không đem lại cho ông chút uy hiếp nào.

Nhìn thấy hoàng đế thiếu niên giả bộ lạnh lùng cứng rắn mà thực chất là hư yếu, thậm chí lắm lúc cãi nhau với nàng, mới cãi được nửa chừng đã vỗ ngực thở hổn hển, dường như gió thổi là ngã, khiến cho Vương Yến không kìm được dấy lên sự thương xót cảm thông từ tận đáy lòng, cũng không thèm để tâm đến đối phương làm mặt lạnh, luôn đối đãi dịu dàng, chăm sóc cẩn thận.

Vì từ nhỏ đã quen với sự cô lập, Vương Yến không cho đám cung nữ lại gần phục vụ, tất cả những chuyện mà nàng có thể làm thì nàng đều cố gắng tự làm. Từ khi nhị ca của nàng chết, phụ thân và mẫu thân chưa nói với nhau lời nào, phụ thân cũng rất nhanh chóng nạp thêm thị thiếp, nhưng Vương Yến chưa bao giờ thừa nhận con cái của những thị thiếp đó sinh ra là em của mình, cũng chưa từng giả vờ đối xử tử tế. Nàng chăm sóc Lưu Khản như em trai của mình, bất kể đối phương có lạnh lùng trào phúng, hăng hái mỉa mai thế nào, hay hừ mũi ra sao, nàng đều tận tâm tận lực.

"Không phiền hoàng hậu động tay". Đây là câu cửa miệng của Lưu Khản. Nhưng Vương Yến lại luôn coi như không nghe thấy, tận tình chăm sóc tất cả mọi chuyện ăn mặc ngủ nghỉ của Lưu Khản như chăm sóc người thân. Lưu Khản là con em hoàng tộc, vốn dĩ cũng là đấng nhân tài, tuy tuổi còn nhỏ, sức khỏe yếu, nhưng đã hơi có chút phong độ tư thái. Có lúc Vương Yến buộc đai áo cho hắn, đều không kìm được nhìn hắn đến ngây ngẩn.

Thiên hạ sao lại có người đẹp đến vậy?

Thân hình gầy guộc của thiếu niên căn bản không có cách nào gánh được bộ cổn phục hoàng đế dày và nặng, chỉ thể hiện được hai phần uy nghiêm của hoàng tộc, càng lại khiến người ta không khỏi nảy sinh một thứ cảm xúc thương xót.

Đây là chồng của nàng, là ông trời của nàng.

Vương Yến ngày càng tận tâm tận lực, tuy nàng biết rằng phụ thân có lẽ không thể ra tay nhanh đến vậy đối với hoàng đế trẻ tuổi, nhưng tất cả những thứ phải bỏ vào miệng, nàng đều đích thân kiểm tra, sau khi nếm thử trước rồi mới đưa đến trước mặt Lưu Khản.

Lưu Khản cũng chẳng phải là lòng dạ sắt đá, trong quá trình sống chung ngày qua ngày, hoàng đế và hoàng hậu trẻ tuổi giống như hai thiếu niên vừa mới quen biết, tình cảm ngày càng thắm thiết.

Chỉ là trong ba năm Vương Yến được gả vào trong cung, sức khỏe Lưu Khản ngày càng xấu đi. Thái y lệnh và nhiều vị đại phu hội chẩn là chứng đau tim, chứng bệnh này cho dù được phụng dưỡng cơm vàng áo ngọc, thì rốt cuộc cũng khó mà trị dứt. Vương Yến bưng bát thuốc, theo lệ tự mình nếm trước một miếng, rồi lại đưa kề bên miệng Lưu Khản đang bệnh nằm trên giường; mà Lưu Khản lại xua tay, hất bát thuốc xuống đất vỡ tan tành.

Vương Yến sắc mặt không đổi, gọi cung nữ tới thu dọn, dặn dò thiện phòng lại đun một bát thiện dược đem lên.

"Xì, thằng nhãi này chắc là nghi ngươi hạ độc, ngươi không giải thích à?" Giải Trãi lười biếng cuộn tròn một cái trên chiếc giường mềm xa hoa và êm ái, vẫn tùy ý buông lời châm biếm mỗi khi Vương Yến và Lưu Khản ở cạnh nhau. Theo nó thấy, Vương Yến có lòng tốt với Lưu Khản như vậy thật là thừa thãi, nàng rõ ràng có thể sống vui vẻ thoải mái hơn, không quản Lưu Khản sống chết, càng huống hồ gã Lưu Khản này đâu có đón nhận tình cảm ấy.

Vương Yến biết mình giải thích cũng chẳng ích gì, Lưu Khản vốn dĩ sống trong một môi trường gian khó, buộc phải đa nghi, lại thêm cơ thể bệnh tật ngày càng trầm họng, tính khí cũng ngày càng thô lỗ nóng nảy. Ngồi trước giường, nhìn Lưu Khản ho đến xé gan xé phổi, Vương Yến chỉ biết lặng lẽ đi châm một nén nhang an thần. Nhìn thấy Lưu Khản dần dần yên tĩnh trở lại rồi chìm vào giấc mộng trong khói nhang vấn vít, Vương Yến mới hơi nhẹ nhõm.

"Người trong thiên hạ chỉ biết đến vương công, mà không biết đến bệ hạ". Giải Trãi nén nhỏ giọng, bắt chước giọng điệu của tiểu thái giám coi sóc phòng ngủ, nói xong tự mình còn cảm thấy thích thú, liền bật cười hi hí.

(Vương công: cha vợ vua, tức Vương Mãng)

Vương Yến lườm nó một cái, biết đồ quỷ này chẳng phải là thần thú có thể phân biệt được thiện ác gian tà gì cả, mà chính là nó sợ thiên hạ không loạn. May mà cũng chỉ có một mình nàng có thể nhìn thấy, nếu không không chừng sẽ còn động trời đến thế nào nữa. Có điều, sự may mắn này, nàng chẳng thà mình không có còn hơn. Vừa nghĩ ngợi lại vừa đi đến trước giường đắp chăn cho Lưu Khản, Vương Yến bỗng nghe thấy ngoài điện có tiếng người hô hoán.

Không muốn Lưu Khản khó khăn lắm mới ngủ được lại bị thức giấc, Vương Yến cau mày đi ra ngoài điện, để ngăn đám cung nữ và thái giám gây ồn ào. Tuy nàng mới chưa đến mười sáu tuổi, nhưng đã làm hoàng hậu ba năm, dẫu trên người không mặc bất cứ thứ gấm vóc lụa là nào, trên đầu cũng chỉ là tùy tiện cài một cây trâm san hô phượng hoàng, nhưng khi nàng đứng ở đó, khí độ toàn thân đều khiến người ta không dám coi thường. Vương Yến thấy đám cung nữ yên lặng trở lại, bèn nhỏ giọng, không vui hỏi: "Có chuyện gì mà hốt hoảng như thế?".

"Bẩm hoàng hậu, có thích khách!". Đám cung nữ sợ sệt quỳ sụp dưới đất, bẩm báo một lượt tin tức vừa nghe được.

Hàng lông mày thanh tú của Vương Yến lại càng nhăn hơn. Nói chính xác thì kẻ đột nhập vào cung không phải là thích khách, mà là kẻ trộm. Có tên trộm trà trộn vào trong cung thái hoàng thái hậu, lục lọi tẩm điện thành một đống hỗn loạn. Nhưng cô tổ mẫu của Vương Yến luôn dẫn đầu tiết kiệm, tên trộm đó đã có khả năng trà trộn vào trong cung, thì hà cớ gì lại chạy vào cung điện nghèo túng nhất? Lẽ nào thứ tên trộm đó muốn lấy lại là bảo vật đặc biệt bên cạnh thái hoàng thái hậu? Vương Yến bỗng nghĩ đến ngọc tỉ truyền quốc và ngọc bích Hòa thị ở bên cạnh cô tổ mẫu, mới đặc biệt hỏi xem có bị mất thứ gì không, sau khi nhận được đáp án, nàng mới an tâm gật đầu.

(Cô tổ mẫu tức bà nội của Lưu Khản, vợ của Hán Nguyên đế là Vương Chính Quân)

Dặn dò đám thị vệ phải lấy hết tinh thần ra canh gác xong, Vương Yến vừa trầm ngâm vừa đi trở lại vào bên trong điện, chỉ là vừa mới quay người qua tấm màn dày, liền nghe thấy trong điện truyền đến tiếng nói chuyện. Trong điện chỉ có Lưu Khản đang ngủ say, còn có thể có ai đang ở đây? Sau hồi sửng sốt, Vương Yến nhớ ra tên trộm đó, suýt chút nữa đã thất thanh hốt hoảng hô hoán. Nhưng nàng lại sợ tên trộm đó đã khống chế Lưu Khản, đành cưỡng ép bản thân tập trung tinh thần để lắng nghe.

Chỉ nghe một giọng nam trong trẻo nói: "... Cậu nói giờ đang là triều Hán à? Ừ, cũng đúng, nơi này đến một bộ bàn ghế cũng chẳng có. Nơi này cũng chẳng có chủ tiệm... Ồ? Gì cơ! Con dê nhỏ trên chiếc giường mềm kia còn sống à? Sao đầu nó lại giống kỳ lân thế? Hơn nữa trên trán còn có sừng! Thần linh ơi! Đây là loại thần thú gì thế? Cũng từ trong "Sơn Hải kinh" chạy ra hả?"

Vương Yến sững người, trái tim đang treo lơ lửng không biết tại sao đã đậu xuống. Tuy con Giải Trãi đó luôn kỳ quái, nhưng nó nói người có thể nhìn thấy nó phải là người tột cùng lương thiện, và nàng vẫn tin tưởng điều này.

Lúc này lại một giọng nam trầm ổn hơn cất tiếng nói: "Nhỏ tiếng chút đi, không nhìn thấy trên giường còn có người đang ngủ sao? Còn muốn đánh thức đối phương để thị vệ đến tóm chúng ta à? Còn nữa, cái gì mà con dê nhỏ? Sao tôi không nhìn thấy gì?".

"... Cậu không nhìn thấy à? Được thôi, có lẽ là một loại thần thú kỳ quái gì đó từ trong "Sơn Hải kinh" chạy ra, đừng để ý đến nó... Ối? Người nằm trên giường kia bị bệnh tim bẩm sinh đó! Này, nhìn dáng vẻ cậu ta đi, môi, mũi, gò má đều đã tím tái cả rồi, chắc chắn vẫn thường xuyên có triệu chứng khó thở hoặc là ngất xỉu".

"Anh còn muốn chữa trị cho cậu ta chắc?"

"Không có cách nào chữa được, bệnh này phải về thời hiện đại, chỉ cần làm một cuộc phẫu thuật nhỏ là có thể giải quyết, nhưng ở thời đại này..."

Vương Yến dùng tay nắm lấy áo ở trước ngực, khó chịu đến mức không thể diễn tả thành lời, hai người phía sau nói gì, nàng đều không nghe rõ. Nàng không biết hai người đó có lai lịch ra sao và tại sao một trong số họ lại có thể nhìn thấy Giải Trãi, nhưng nàng có thể nghe ra, bệnh của Lưu Khản không lạc quan chút nào.

Lặng lẽ lau khô nước mắt, đợi đến khi tĩnh trí trở lại, Vương Yến mới phát hiện trong tẩm điện đã lấy lại sự yên tĩnh. Nàng rón rén đi vào bên trong, quả nhiên phát hiện ngoài Lưu Khản đang ngủ say ra, trong điện không còn bất cứ người nào.

Giải Trãi như có suy tư đang nằm bò trên giường mềm, đối mặt với ánh mắt chất chứa bao nghi vấn của Vương Yến, nó chậm rãi ngáp một cái.

4

Chuyện kẻ trộm lọt vào cung Vị Ương ồn ào xôn xao một thời gian, cuối cùng vẫn phải lắng xuống.

Thời tiết ngày càng lạnh, sức khỏe Lưu Khản cũng ngày càng kém, thường xuyên suốt đêm không ngủ được, khí sắc mau chóng trở nên xám xịt. Đến nửa cuối năm nay, các yến hội trong cung liên miên không ngừng, Lưu Khản vắng mặt mấy lần, một ngày nọ lúc dậy khỏi giường được, mặc Vương Yến khuyên can, cố gắng chống chọi với bệnh tật xuất hiện trong buổi yến tiệc hiện tại.

Vương Yến có thể lý giải được sự mạnh mẽ của Lưu Khản, rốt cuộc thì hắn cũng là vua một nước, hiện tại đến sức lực để lên triều cũng chẳng có, yến hội trong cung đều là phụ thân nàng giúp hắn chủ trì. Cô tổ mẫu thân là thái hoàng thái hậu vì tuổi tác đã cao, từ lâu đã không xuất hiện trong bất kỳ yến hội nào trong cung, mà Phó thái hậu vì tranh quyền thất bại, cũng sống trong hậu cung lâu ngày, đóng cửa không ra ngoài. Vương Yến cũng thường chăm sóc Lưu Khản, rất hiếm khi xuất hiện trong hoàn cảnh này. Thực tế ở triều Hán, phụ nữ có thể nắm quyền lực rất lớn, nếu nàng muốn can dự vào triều cương, lên triều nghe chính sự cũng không thành vấn đề gì, càng huống hồ là tham gia một buổi yến hội như thế này. Vương Yến vẫn không yên tâm, cuối cùng cũng thay một bộ lễ phục, cùng Lưu Khản tham dự yến hội.

Phụ thân vẫn ôn hòa văn nhã, khiêm cung lễ độ như xưa, thậm chí còn chủ động đứng dậy chúc rượu Lưu Khản, thái độ ân cần thân thiết.

Ánh mắt của tất cả mọi người trong điện đều tập trung vào người vị hoàng đế thiếu niên ở vị trí cao nhất, nhưng không có người nào đứng dậy nói một câu rằng cơ thể của hoàng đế vốn dĩ không thích hợp uống rượu.

Vương Yến ngồi ở vị trí thấp hơn Lưu Khản, biết bộ cổn phục nặng nề đó gần như đang ép vụn cơ thể của hắn, nhìn bàn tay yếu ớt của hắn đang cầm ly rượu mà vẫn không ngừng run lẩy bẩy, không biết tại sao bỗng nhớ lại rất nhiều năm về trước, một buổi chiều mùa hạ nào đó, con bướm xinh đẹp đang sắp chết giãy giụa trong mạng nhện đó.

Vương Yến chậm rãi đứng dậy, đi đến bên cạnh Lưu Khản, đón nhận ánh mắt kinh ngạc sửng sốt của văn võ bá quan, vô cùng tự nhiên cầm chén rượu trong tay Lưu Khản, ngọt ngào mỉm cười nói: "Phụ thân, long thể hoàng đế không khỏe, chén này bản cung xin uống thay". Nói đoạn ngửa đầu một hơi uống cạn.

Chén rượu đặt lên án kỷ phát ra một tiếng vang nho nhỏ mà giòn giã, gương mặt vốn xinh đẹp thanh tú của Vương Yến bị hơi rượu kích thích, hai gò má ửng hồng, giống như thoa một lớp son phấn lên vậy. Nàng nhìn phụ thân không tỏ thái độ gì ở dưới bậc thang, rồi lại nhìn Lưu Khản bên cạnh hai mắt đang tỏa ra một niềm vui vẻ hiếm thấy, biết rằng lựa chọn ngày hôm nay của mình là chính xác.

Tất cả mọi người có mặt ở đó đều biết, ly rượu này không thể có độc, phụ thân của nàng cho dù muốn Lưu Khản chết, cũng tuyệt đối không dùng phương pháp xuẩn ngốc này để bị người đời chỉ trích. Phụ thân nàng có lẽ chỉ là muốn cảnh cáo một lần Lưu Khản đang có vọng tưởng giãy giụa, uống một ly rượu, có thể khiến Lưu Khản ốm yếu sẽ đau đớn giày vò thêm mấy ngày, hơn nữa vẫn còn phải bịt mũi để nuốt nỗi nhục này xuống. Nhận được lần dạy dỗ này, Lưu Khản hẳn sẽ ngoan ngoãn nằm trong tẩm điện, không còn muốn xuất hiện trước mặt bách quan nữa.

Nhưng nàng giúp hắn giải vây, cho dù phải mạo hiểm va chạm với phụ thân nàng. Lần đầu tiên nàng tỏ rõ lập trường của mình, trước ánh mắt của văn võ bá quan đầy triều.

Vương Yến cụp mắt cắn môi mỉm cười tự giễu, hắn là chồng của nàng mà, nàng sao có thể vứt bỏ hắn được?

Yến tiệc kết thúc trong một bầu không khí kỳ lạ, Vương Yến về đến tẩm điện rồi vừa ngồi trước gương đồng gỡ trâm cài trên tóc, vừa suy tư có nên dán cáo thị tìm danh y khắp thiên hạ không? Rốt cuộc thì thái y trong cung này không chừng đều là thuộc hạ của phụ thân, ngộ nhỡ bệnh tình của Lưu Khản là bị chẩn đoán sai.

Quan tâm thì sẽ rối loạn.

Vương Yến nhìn thấy chiếc trâm hoa chạm khắc pha lê tím bị ném vỡ trên mặt đất, lần đầu tiên nếm trải cảm giác do dự.

"Ngỗ nghịch với phụ thân, ngươi đúng là bất hiếu". Giọng nói nhạo báng của Giải Trãi từ trên giường truyền tới, nó rõ ràng không ra khỏi tẩm điện nửa bước, nhưng dường như tận mắt nhìn thấy tất cả mọi việc.

Đã là bất hiếu, thế chẳng phải nàng không còn là người tột cùng lương thiện sao? Nhưng tại sao nàng vẫn có thể nhìn thấy Giải Trãi? Vương Yến đã quen với việc coi như Giải Trãi không tồn tại, nhưng vẫn không nhịn được phản bác trong lòng.

"Thiện ác không dễ dàng phân biệt như thế". Giải Trãi chớp chớp đôi mắt đen lay láy, thong thả nói tiếp: "Cái thiện của một người này lại là ác với một người khác".

Trái tim của Vương Yến như bị đâm một cái đau nhói, nàng bỗng nhớ ra, nhị ca và đại ca nhà mình trước sau đều bị phụ thân không chút lưu tình ép chết, đến con ruột của mình còn đối đãi lòng dạ sắt đá như thế...

Giống như bị niệm chú, lời của Giải Trãi vừa mới dứt, thì nghe thấy tiếng kêu hốt hoảng của đám cung nữ từ phía bên chính điện truyền sang. Sự hỗn loạn này thường xuyên xuất hiện trong cung Vị Ương, chắc chắn là Lưu Khản lại bị ngất xỉu.

Đúng thế, thanh thế lần này xem ra khá nghiêm trọng, lại loáng thoáng vang lên tiếng khóc thút thít của đám cung nữ.

Dường như đã có một loại dự cảm nào đó, Vương Yến khom lưng nhặt chiếc trâm hoa chạm trổ pha lê tím bị gẫy thành mấy đoạn trên mặt đất, lòng như tro tàn.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Ngày Bính Ngọ, tháng Mười Hai, năm Nguyên Thủy thứ năm, Lưu Khản vì bệnh tình tái phát, chết trong cung Vị Ương, thọ mười lăm tuổi, thụy là Hiếu Bình hoàng đế.

Đóa hoa mang tên tình yêu trong lòng Vương Yến vừa mới chớm nở thì đã bị vận mệnh vô tình lạnh lùng bẻ gãy, mau chóng tàn lụi thành tro bụi.

Nàng mới mười lăm tuổi đã trở thành thái hậu, chỉ là người lên ngôi hoàng đế lần này không phải con trai của nàng mà là một đứa trẻ hai tuổi do phụ thân nàng chọn lựa trong số con cháu họ Lưu.

Vương Yến cảm thấy có lẽ mình may mắn, nếu trước đây phụ thân lựa chọn một đứa trẻ không chút từng trải, thế thì nàng cũng chẳng thể được gả cho Lưu Khản. Tuy chỉ có thời gian ba năm ngắn ngủi, nhưng nàng lại cảm thấy đó là ba năm sống vui vẻ nhất trong cuộc đời này của nàng.

Cho dù thân phận đã lên tới vị trí chí cao, nhưng Vương Yến không lựa chọn can dự triều chính. Nàng biết nàng thực sự có thiện tâm, nhưng cũng có sự sáng suốt của riêng mình. Có lúc có thiện tâm, lại chưa chắc những việc thiện bản thân làm cũng là việc thiện đối với người khác. Câu nói mà đồ quỷ Giải Trãi đó thường nói không phải là vô nghĩa. Nàng lạnh lùng nhìn phụ thân mình sau ba năm ẩn nhẫn, cuối cùng đã không nhịn được phế truất vị hoàng đế con nít đó, tự mình làm thay.

Phụ thân nàng vì áy náy nên phong nàng làm Hoàng Hoàng thất chủ, nàng đóng chặt cửa điện, chỉ giữ lại vài cung nữ hầu hạ, không gặp bất cứ người nào, sống cuộc sống khép kín.

Kỳ thực cuộc sống của nàng cũng không phải là nhàm chán, mỗi khi Giải Trãi nhàn rỗi đến phát chán, cũng thường nói chuyện phiếm, kể chuyện cho nàng nghe. Tương truyền Hán Cao Tổ Lưu Bang chém rắn trắng khởi nghĩa, con rắn trắng đó cũng là một loại linh vật, biết nói tiếng người, nó nói Lưu Bang rồi sẽ bị báo ứng, chém đầu nó rồi, nó sẽ cướp đầu nhà Hán, chém đuôi nó, nó sẽ cướp đuôi nhà Hán. Kết quả, Lưu Bang một kiếm chém con rắn trắng từ giữa thành hai đoạn, cho nên triều Hán chắc chắn sẽ xuất hiện vấn đề ở thời kỳ giữa.

Vương Yến lại không coi câu chuyện này của con Giải Trãi thành mấy lời nói tùy tiện, nàng cũng biết phụ thân mình cướp ngôi nhà Hán căn cơ không vững, sớm muộn gì cũng bị con cháu họ Lưu cướp lại quyền bính về tay.

Trên thực tế, Vương Yến biết phụ thân mình tuy có dã tâm, nhưng giả vờ lương thiện đã thành thói quen, và cũng thực sự muốn làm việc thiện. Phụ thân nàng những hòng thông qua phục chế chế độ Chu Lễ thời Tây Chu, kỳ vọng khôi phục một quốc gia đã có lễ chế bị lễ nhạc băng hoại, thế nên thi hành nền chính trị mới hoàn toàn mô phỏng chế độ triều Chu.

Nhưng chế độ lễ trị là chế độ đã bị đào thải, chế độ pháp trị của Tần Thủy Hoàng, chế độ Nho trị của Hán Vũ đế có thể thống nhất thiên hạ, phụ thân nàng đúng là giả vờ lương thiện đến cực điểm, lại không biết rằng mình thực thi chế độ lễ trị, là mang vô vàn tổn hại đến cho trong triều ngoài dã và dân chúng bách tính. Giống như là phóng sinh rùa xanh thì thả nó xuống nước, vốn là lòng tốt nhưng lại hóa thành việc ác.

Vương Yến lạnh lùng nhìn phụ thân đi vào đường cùng, biết mình cho dù có nói gì đi nữa cũng chẳng khuyên nổi.

Thời gian cũng chẳng kéo dài được bao lâu, khi quân khởi nghĩa lật đổ triều Tân, xông vào cung Vị Ương, phóng hỏa đốt hoàng cung, Giải Trãi đứng ở đỉnh đầu con hạc đồng trước điện tiền, nhìn Vương Yến đầu không ngoảnh lại đi vào trong biển lửa.

"Ngươi có hối hận không?" Trong đôi mắt thâm sâu của Giải Trãi phản chiếu ngọn lửa ngùn ngụt. Vương Yến lúc này đương vào độ tuổi tươi đẹp nhất của đời con gái, cuộc đời nàng mười mấy năm trước sống trong cảnh thanh bần khổ cực, mà mười mấy năm sau tuy sống trong hoàng cung xa hoa nhất, thì vẫn cô độc lạnh lẽo như vậy.

Bước chân Vương Yến không hề ngừng lại, hối hận sao?

Có lẽ nàng chọn lựa đứng về phía Lưu Khản hơi sớm một chút, sẽ mang đến tai họa càng sớm hơn cho Lưu Khản, nhưng nàng vẫn không hối hận về quyết định năm đó.

Tuy nàng không có cách nào phân biệt được trên thế gian này thế nào là thiện thế nào là ác, nhưng nếu như bảo nàng quay về buổi chiều mùa hạ năm đó, cho dù bảo nàng lựa chọn lại nàng vẫn cứ chọn bươm bướm. Bởi vì nó giãy giụa sắp chết khiến nàng canh cánh trong lòng, cho dù nàng nên đứng về phía con nhện đi chăng nữa. Nhưng đáng tiếc, năng lực của nàng, cũng chỉ có thể cứu vớt được một con bươm bướm nhỏ mà thôi...

Bóng hình tha thướt của Vương Yến bị ngọn lửa cao nhanh chóng nuốt chửng, Giải Trãi nhìn chằm chằm vào biển lửa đó, chìm vào nỗi trầm ngâm vô tận.

Trong cuộc đời dài đằng đẵng này của nó, có rất nhiều người không nhìn thấy nó, có một số người có thể nhìn thấy nó, cũng có người từ có thể nhìn thấy nó chuyển sang không nhìn thấy, nhưng chưa từng có ai có thể như Vương Yến, khiến nó phải nhìn theo nàng rời đi.

Nghe theo bản tâm, chính là tột cùng lương thiện.

Người con gái này, từ lúc sinh ra đến lúc chết đi, đều giữ được cái tâm tột cùng lương thiện sao?

Giải Trãi khéo léo nhảy xuống từ đỉnh đầu con hạc đồng cao ngất ngưởng, trên thế gian này, lại vắng đi một người có thể nhìn thấy nó.

Nó lắc người một cái, nhẹ nhàng tìm thấy chiếc mũ Giải Trãi bị phủ đầy bụi trong một góc nhà kho, lười biếng ngáp một tiếng, rồi lại lăn vào trong mũ, chìm vào giấc ngủ dài...

5

Năm 2013.

"Ô? Nói như thế, thiếu niên chúng ta vừa nhìn thấy là Hán Bình đế Lưu Khản?". Bác sĩ nằm trên chiếc ghế dài bằng gỗ sưa trong Á Xá, cầm điện thoại vào mạng tra tư liệu, "Vương Mãng soán ngôi nhà Hán, còn có người nói Vương Mãng chính là con rắn trắng mà Lưu Bang chém chết chuyển thế, cho nên mới có tên là Mãng. Khi Lưu Bang khởi nghĩa chém rắn trắng từ giữa thành hai đoạn, mà nhà Tây Hán và Đông Hán vừa hay tròn hai trăm năm. Ái chà chà, thật thần kỳ, con rắn trắng đó không phải có quan hệ bà con gì với Bạch Lộ chứ..."

Lục Tử Cương không thèm chú ý đến bác sĩ lảm nhảm, anh cũng đang tra tư liệu.

Thân dê, đầu kỳ lân, trên trán có độc một chiếc sừng... đó là Giải Trãi? Hơn nữa tại sao rõ ràng anh không nhìn thấy gì, mà bác sĩ lại nhìn thấy? Lẽ nào lời đồn chỉ cổ người tột cùng lương thiện mới có thể nhìn thấy Giải Trãi là thật?

Lục Tử Cương cười cười, cái gì là tột cùng lương thiện chứ, đáng nhẽ phải nói là đồ ngốc có tâm địa thuần khiết mới đúng chứ? Đó mới là tính cách phù hợp với bác sĩ. Hơn nữa lời đồn về thú một sừng, phương Đông phương Tây đều có, hơn nữa đều nhất quán lạ lùng, thú một sừng đều có thể phân biệt thiện ác phải trái, thích những thiếu nữ có cơ thể và tâm hồn thuần khiết.

Có điều, chẳng phải trên thế gian này chỉ có đồ ngốc mới thực sự có trái tim thuần khiết mà không có toan tính riêng sao?

Toan tính riêng của Lục Tử Cương...

Lục Tử Cương nắm chặt thứ trong lòng bàn tay, nếu bác sĩ nhìn về phía bên này, thì sẽ cảm thấy vạn phần quen thuộc.

Bởi đó chính là thứ bác sĩ đã đeo hai mươi tư năm.

Chiếc khóa Trường Mệnh bằng bạch ngọc đã được khảm vàng.

Quyển 4 - Chương 9: Giáo Khuất Lô

1

Lục Tử Cương nghịch miếng ngọc trong lòng bàn tay trái, sau một lúc im lặng thì cầm bút vẽ ra từng phiến lá khô trên phần vân màu nâu vàng của miếng ngọc thô Hòa Điền, tuy mới chỉ phác vài nét đơn giản, nhưng ý vị gió thu se sắt đã lập tức phủ đầy khối ngọc.

Sau khi vẽ lá khô xong, Lục Tử Cương ngừng lại giây phút, mấy lần cầm bút lên rồi lại hạ bút xuống, cuối cùng vẫn không hạ bút.

Anh vô thức cầm con dao bên canh tay lên, ngắm khối ngọc trong tay, hơi dùng sức, mũi dao rạch lên khối ngọc chẳng khác gì cắt đậu phụ.

Bắt đầu từ mấy ngàn năm trước, công cụ của thợ chạm ngọc là một loại máy mài được gọi là "thủy đăng". Bàn mài là một đồ vật có hình tròn, sau khi xoay thì dùng một loại lực ma sát đều đặn bắt đầu mài ngọc. Tuy đã mấy nghìn năm, phương thức máy mài tự động từ dùng sức người đã cải tiến thành dùng điện năng, nhưng các thợ khắc ngọc vẫn dùng loại bàn mài với các loại kích thước để mài ngọc, trừ Lục Tử Cương.

Dao của anh, vì thiếu mất Côn đao chuyên gọt đá, cho nên chỉ có thể điêu khắc được một số đồ ngọc cỡ nhỏ.

Anh của kiếp này chưa từng học qua bất cứ kỹ xảo điêu khắc này, nhưng từ khi ký ức của tiền kiếp quay về, chỉ cần anh cầm lấy dao, cơ thể liền có thể chạm khắc ngọc như thể có ý thức tự chủ. Khi mới bắt đầu còn có chút thô sơ, nhưng sau khi luyện tập mấy chục khối ngọc thô, cảm giác tay của anh càng lúc càng thuần thục, đến mức mỗi lúc không cầm khối ngọc thô trong lòng bàn tay thì cơ thể liền thấy khó chịu.

Từng phiến từng phiến lá khô vàng cuộn lại xuất hiện dưới nét dao khắc, tiếp theo Lục Tử Cương còn không cả vẽ phác thảo, hoàn toàn dựa vào cảm giác tiếp tục khắc. Đèn cung Trường Tín trong Á Xá cứ nhảy nhót lấp loáng, rồi lại lóe sáng lạ thường, nhưng chẳng cản trở tầm nhìn khắc ngọc của Lục Tử Cương. Rất nhanh, dưới những phiến lá khô tiêu điều rụng xuống, xuất hiện một góc của tòa kiến trúc kiểu cổ, một hàng rèm châu rủ xuống, dưới rèm châu vừa hay lộ ra một bàn tay trắng nõn và thon dài, đang buồn bã vô hạn vuốt ve lan can, trên rèm châu dường như còn đọng vài giọt sương thanh khiết mà yên ả.

Tuy chỉ là một phác họa của bàn tay, nhưng vẫn có thể khiến người ta nhìn không chớp mắt và đặt tiêu cự của cái nhìn vào nơi đó, chỉ muốn vén rèm châu lên, nhìn mỹ nhân nấp đằng sau đó rốt cuộc có nhan sắc khuynh thành đến thế nào.

Lục Tử Cương phủi những mẩu vụn trên miếng ngọc thô, nhìn chăm chú hồi lâu, mới xoay miếng ngọc lại, khắc thêm một bài từ "Trường Tín thu từ" của Vương Xương Linh: "Kim tình ngô đồng thu diệp hoàng, châu liêm bất quyển dạ lai sương. Hắc lung ngọc chẩm vô nhan sắc, ngọa thính Nam cung thanh lậu trường".

(Bản dịch của Lam Giang: "Giếng ngọc cành khô rụng lá vàng, Buông rèm đêm đã lạnh hơi sương. Lò hương, gối ngọc vô duyên quá, Lắng giọt đồng rơi xiết đoạn trường")

Dao cực kỳ sắc bén, nhưng hai mươi tám chữ này Lục Tử Cương lại viết rất uyển chuyển thanh tú mỹ lệ, dính liền kéo dài, sau cùng lại khắc thêm lạc khoản Tử Cương ở phần cuối cùng theo thói quen. Khối ngọc được điêu khắc xong vẫn chưa được đánh bóng, nhưng dưới ánh đèn màu vàng đã ánh lên một cảm giác mơ hồ tang thương mà khó hiểu.

Lục Tử Cương ngẩn ngơ nhìn ngắm khối ngọc mới ra lò này một hồi lâu, rồi lại cười tự giễu cợt mình, vứt nó vào trong chiếc sọt tre ở dưới tủ quầy, nghe thấy một tiếng động đanh giòn do đồ ngọc va đập. Trong chiếc sọt tre đó đã tích những món đồ ngọc bán thành phẩm, đều là những bài tập mà Lục Tử Cương luyện tay mấy ngày hôm nay. Nếu như có người nhìn thấy, sẽ không kìm được mắt sáng rỡ lên, nói không chừng còn bình phẩm là những món đồ điêu khắc này phỏng theo kiểu khắc của Tử Cương rất khéo.

Rửa sạch hai tay xong, lại xử lý lau dọn đám bụi ngọc rớt trên tủ quầy, lau sạch dao rồi bỏ vào trong người, bấy giờ Lục Tử Cương mới cầm lấy chiếc khóa Trường Mệnh trên miếng vải gấm, nhắm mắt lại ve vuốt những đường vân trên bề mặt, dựa vào đằng sau chiếc ghế để gà gật.

Cũng không biết bao lâu đã trôi qua, đến tận lúc bác sĩ mang theo bữa tối đẩy cửa bước vào, mùi thơm của bánh bao trộn với mùi nước sát trùng của bệnh viện, lẫn trong gió thu se lạnh, rồi xuyên thẳng qua mùi nhang đen ở trong tiệm Á Xá ập vào mặt Tử Cương.

"Tháng này là hôm nay sao? Còn chút thời gian, chúng ta ăn nhanh rồi còn lên đường". Bác sĩ động tác lanh lẹ mở hộp thức ăn ra, thành thục tìm đôi đũa anh thường dùng trong tủ quầy của Á Xá, gắp bánh bao rồi bắt đầu ăn.

Lên đường cái gì, dùng ở nơi này thật sự được hay sao? Góc trán Lục Tử Cương nhăn lại hai cái, cũng không có bới móc bác sĩ ăn nói không kiêng dè, đeo chiếc khóa Trường Mệnh trong tay lên cổ xong xuôi, rồi vùi đầu ăn sạch sẽ hộp bánh bao thuộc về mình.

Động tác của hai người rất nhanh, bác sĩ đem hộp thức ăn ra ngoài vứt, lại giơ tay lên nhìn đồng hồ: "Liệu cần đợi thêm một lúc rồi mới có thể đi không? Tôi có thể ngủ thêm một lúc nữa không? Ca phẫu thuật hôm nay tôi đứng hơn tám tiếng đồng hồ, đúng là mệt chết đi được".

Lục Tử Cương nhìn bác sĩ đã nằm lăn ra chiếc ghế dài bằng gỗ sưa một cách rất mất hình tượng, trầm giọng nói: "Không được ngủ, lần này chúng ta phải thay y phục". Nói đoạn liền đứng dậy đi vào gian trong của Á Xá, một lát sau đã lấy hai bộ y phục và hai bộ tóc giả.

"Ái chà! Chơi Cosplay à? Không dùng được không? Mỗi lần chúng ta ngược dòng thời gian đều chỉ nán lại có một lúc, còn cải trang làm gì? Hơn nữa, mục tiêu của chúng ta không phải là tìm về mấy tháng trước sao? Sao cậu chắc chắn là lần này chúng ta lại quay trở lại mấy trăm năm trước, thậm chí còn lâu hơn nữa?". Bác sĩ càm ràm, nhưng không từ chối đề nghị thay trang phục, trái lại còn hứng chí cởi bộ đồ thoải mái ra, được sự hướng dẫn của Lục Tử Cương bèn mặc chiếc áo dài rộng rãi bằng vải xanh thẳng tắp lên người.

"Cho dù là thời gian rất ngắn, cũng cần làm thật hoàn mỹ, tôi không muốn ở trên phố lớn lại bị người ta nhìn như thể đồ điên hay quái vật". Lục Tử Cương nửa thật nửa vờ oán trách nói.

Bác sĩ lại hoàn toàn không phát giác lần này Lục Tử Cương lại dự tính chuẩn xác như thế rằng họ sẽ vượt thời gian về niên đại nào, vì phục sức của mỗi thời đại cũng khác nhau, mà Lục Tử Cương đưa cho bác sĩ rõ ràng là phục sức ở giai đoạn giữa thời nhà Minh. Bác sĩ chỉ lờ mờ cảm thấy có chút kỳ quái, nhưng anh cũng không kịp nghĩ sâu xa, liền nghe thấy bên trong Á Xá truyền đến một hồi tiếng chim kêu và chí chóe quen thuộc.

"Tam Thanh và Minh Hồng lại cãi nhau à?". Bác sĩ đau lòng đến mức méo xệch miệng, nhưng lại chẳng hề có ý xông vào bên trong để bênh vực cho Tam Thanh nhà mình. Đùa cái gì chứ, đó là cuộc chiến cấp bậc hai con thần điểu, anh chỉ là một người phàm, xông vào chẳng phải là muốn tìm chỗ chết sao? "Tay Hồ Hợi đó đi đâu nhỉ? Mà không thấy đến đem con chim nhà hắn về?"

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người đen đủi hay nghèo khó sẽ đổi đời ngay lập tức nhờ điều này

"Tôi cũng không biết". Lục Tử Cương tự đội tóc giả lên đầu, kể từ lần trước Hồ Hợi nói lần sau sẽ đến để cùng dùng la bàn Lạc Thư Cửu Tinh thì không còn thấy xuất hiện nữa.

Minh Hồng một tháng trước mất hồn mất vía bay đến Á Xá, vừa nhìn là biết đã bị lạc chủ nhân nhà nó. Lục Tử Cương cũng chẳng phải sơn thần, không có phương thức liên hệ với Hồ Hợi, đành nuôi con chim Minh Hồng này. Còn như nó muốn đánh lộn với Tam Thanh, anh đã chia riêng cho chúng một gian phòng đơn, trong phòng không đặt thứ gì cả, để mặc cho chúng đánh nhau đến mức trời long đất lở.

Mới bắt đầu bác sĩ cũng rất lo lắng, nhưng về sau phát hiện Tam Thanh và Minh Hồng thế lực bằng nhau, nhiều lắm cũng chỉ là rụng vài cái lông, cũng không phàn nàn nữa, thậm chí còn nhàn nhã thu nhặt lông của bọn chúng, dùng tiền đồng trong Á Xá làm thành mấy quả cầu lông chim.

Bác sĩ được Lục Tử Cương giúp đội xong bộ tóc giả, trên đầu còn đội một chiếc mũ Tứ Phương Bình Định, gỡ kính xuống, soi vào trong gương, đúng là có cảm giác giống thư sinh. Cầm lấy điện thoại chụp tự sướng mấy cái, còn gửi cho vòng tròn bạn bè để khoe, bấy giờ bác sĩ mới phát hiện Lục Tử Cương đang cầm cái la bàn ngơ ngẩn: "Sao vậy? La bàn xảy ra vấn đề gì à?",

(Loại mũ bốn góc đều vuông, thường được các thư sinh đời Minh đội)

"Không có gì". Lục Tử Cương hít vào một hơi thật sâu, im lặng khẽ điều chỉnh mấy ô trên la bàn.

Bác sĩ không nghi ngờ gì Lục Tử Cương, vứt điện thoại sang một bên, vì những đồ dùng khoa học kỹ thuật sau khi xuyên không hoàn toàn không thể dùng được nữa do lý do từ trường. Nếu không, anh thực sự muốn đem điện thoại di động về thời cổ chụp mấy tấm ảnh, để lưu làm kỷ niệm cũng được. Giống như trước đây, bác sĩ vừa im lặng phản ứng lại vừa cùng Lục Tử Cương ấn tay lên chiếc la bàn.

2

Sau một cơn ngất xỉu quen thuộc, thoạt đầu bác sĩ ngửi thấy một mùi cây cỏ tươi mới khó thể diễn tả thành lời, lá phổi đã bị ô nhiễm bởi khói bụi thành thị lập tức được tái sinh.

Chỉ là anh vẫn còn chưa mở mắt ra để xác nhận mình đã đến đâu thì đã cảm thấy một thanh đao lớn tấn công xuống hai đầu gối, anh lập tức đứng không vững ngã lăn vào trong bụi cây, phía sau lưng còn bị người ta dùng đao chặn lại một cách thô bạo, bộ tóc giả vừa mới đội xong cũng bị người ta giật xuống, để lộ ra mái tóc ngắn mấy phân của bọn họ.

Bác sĩ chật vật mở to hai mắt ở giữa bụi cây, bất ngờ phát hiện tình cảnh của Lục Tử Cương cũng chẳng khá hơn mình là bao, cũng bị mấy binh sĩ cổ đại có trang bị vũ khí bắt giữ. Mà chiếc la bàn trong tay Lục Tử Cương còn bị rơi xuống đất, bị một binh sĩ nhặt lấy. Bác sĩ hoảng loạn không biết làm thế nào, ngộ nhỡ họ không lấy lại được la bàn, thế chẳng phải là không quay về được ư?

Chính vào lúc này, bác sĩ nghe thấy binh sĩ đang bắt giữ minh cao giọng bẩm báo: "Báo cáo phu nhân! Đã bắt được hai tên gian tế giặc lùn!".

Ngay sau khi câu nói như gầm rú này vừa dứt, bác sĩ liền cảm thấy một bóng đen che cả thái dương, chụp xuống đầu anh.

Anh giãy giụa ngẩng đầu lên, nhìn thấy một cô gái vận quân trang, tư thế anh hùng hào sảng, tay cầm một chiếc giáo có tua ngù màu đỏ, đang cúi đầu nhìn xuống bọn họ bằng ánh mắt sắc bén.

Bác sĩ xoa xoa cái đầu gối đã bị dập xuống đến mức tụ cả máu, nghe Lục Tử Cương giải thích lai lịch của họ với cô gái mặc quân trang kia. Ngữ điệu và giọng của Lục Tử Cương khi nói có chút khác biệt với giọng phổ thông hiện đại, giống như mang một loại khẩu âm kỳ lạ, nhưng ít nhiều bác sĩ nghe vẫn có thể hiểu được, chỉ là không ngờ anh ta lại nói năng lưu loát như vậy.

Địa điểm bọn họ xuất hiện không phải trong thành trấn phồn hoa giống như mấy lần trước, mà là ở một khu ngoại thành hoang vắng, phía xa xa còn nhìn thấy cờ xí rợp trời, có thể ngửi thấy rất nhiều mùi vị tanh mặn như gió biển. Bác sĩ nhìn không ra rốt cuộc mình đã đến niên đại nào, bèn đưa mắt nhìn sang thiếu nữ trẻ tuổi đang nói chuyện cùng Lục Tử Cương.

Thiếu nữ đó nhìn cũng khoảng hơn hai mươi tuổi, mắt hạnh da trắng, ngũ quan thanh tú, dáng vóc có thể khoảng trên một mét bảy mươi, quân trang toàn thân một màu đen càng phác ra rõ đường nét yểu điệu của nàng, nếu quay về thời hiện đại, đây tuyệt đối là một người mẫu minh tinh được người người hâm mộ, còn hiện tại cho dù không tô son trát phấn, nhưng cũng không giấu nổi khuôn mặt và vóc dáng của nàng.

Bình thường không phải là bác sĩ ít khi gặp những cô gái xinh đẹp, nhưng một cô gái trẻ trung như thế này mà còn là người đứng đầu binh sĩ, thì không kìm nổi ngắm nhiều hơn một chút.

Đám binh sĩ xung quanh lập tức trừng mắt giận dữ với bác sĩ, trong tích tắc có người dùng thân hình chắn tầm nhìn của anh, bác sĩ vội vàng giơ hai tay lên ra hiệu mình không có ác ý.

Vương Anh cũng nghe thấy xáo động phía bên đó, nhưng chỉ nhìn qua mà không bận tâm.

Hai người lai lịch bất minh này, nếu theo lệ thường thì phải vứt vào đại lao rồi dùng hình phạt nghiêm khắc để tra khảo, nhưng nàng nhìn thấy họ hai tay trắng trẻo nhỏ nhắn yếu ớt, người này lại còn nói giọng Quan Thoại của khu vực kinh kỳ, nói đến phong cảnh sự vật trong kinh đều rành rẽ, lại nói mình là nhân sĩ Tô Châu, đổi sang nói tiếng Ngô Nông cũng nói cực kỳ thành thục, nên cũng gác xuống vài phần cảnh giác.

Chỉ là Vương Anh cũng không vì thế mà tin được bọn họ, hiện tại giặc lùn gần biển, cũng không phải đều là người Nhật Bản, kể từ khi triều đình hủy bỏ việc buôn bán triều cống, chấp hành cấm biển, có rất nhiều người Trung Quốc cam tâm tình nguyện mạo hiểm gia nhập giặc lùn, tiến hành giao thương trên biển, tổ chức tinh tráng để tự bảo vệ. Nói trắng ra chính là một loại hình thức sơn tặc thổ phỉ, đổi địa bàn, trở thành hải tặc. Chính là triều đình thích tự lừa mình dối người, vẫn dùng cách gọi giặc lùn để gọi gộp cả lại.

Nhưng Vương Anh nhìn thấy mái tóc ngắn trên đầu người này lại bĩu môi một cái, chưa nghe thấy tên giặc lùn nào có thói quen cắt tóc.

Chính vào lúc này, lại có một đội binh sĩ chạy tới, cung kính lễ độ nói với Vương Anh: "Phu nhân, tướng quân cho mời".

Vương Anh chau đôi mày liễu lại nhưng không nói nhiều, khoát tay chỉ hai người Lực Tử Cương và bác sĩ, nói: "Dẫn đi".

Tuy không giải trừ được hiềm nghi hai người bọn họ là gian tế, nhưng đãi ngộ vẫn tốt hơn trước một chút, Lục Tử Cương kiếm cớ nói chiếc la bàn đó là vật dụng để tìm bảo địa phong thủy của bọn họ, nhưng cũng không có ai làm khó anh mà trả la bàn trở lại. Bác sĩ thấy vậy vội vàng nhỏ giọng hỏi: "Sao thế? Bao giờ chúng ta có thể quay về?".

Lục Tử Cương vừa đi vừa cúi thấp đầu nhìn chiếc la bàn, hồi lâu cười khốn khổ nói: "Có thể vừa nãy bị rơi, kim chỉ của la bàn tốc độ chạy quay lại có hơi chậm một chút, chúng ta có thể phải ở đây đợi thêm một thời gian".

"Phải đợi thêm một thời gian à? Nơi này là triều đại nào, nơi nào? Sao phụ nữ lại cầm quân được? Xem ra cũng không giống với Hoa Mộc Lan hay là Dương môn nữ tướng nhỉ!". Bác sĩ vừa nghe thấy la bàn còn có thể sử dụng được, chỉ cần đợi thêm một lúc nữa, cũng không quá lo lắng, chuyển sang tò mò về niên đại họ đang sống.

"Nhìn cách ăn mặc của những binh sĩ này, áo dài tới đầu gối, tay áo hẹp, chần bông gạo, màu sắc là màu đỏ, cho nên lại gọi là "hồng bạng yêu" (áo khoác đỏ). Đây là phục sức điển hình của binh sĩ triều Minh. Huống hồ bọn họ nghi ngờ chúng ta là giặc lùn, thế thì quá bán rơi vào những năm Gia Tĩnh triều Minh, hơn nữa nghe khẩu âm của họ, nơi này có lẽ là thuộc vùng Sơn Đông". Lục Tử Cương nói liền một hơi nhiều như vậy, đoán ra đến bảy tám phần về địa điểm thời gian họ đang ở, khiến bác sĩ nhìn bằng đủ mọi ánh mắt sùng bái.

"Thế cậu đoán xem, cô gái đó rốt cuộc là ai". Bác sĩ hất hàm chỉ chỉ người phụ nữ vận quân trang đi phía trước mặt bọn họ, anh không tin Lục Tử Cương lại thần thông như vậy.

"Kỳ thực rất khó đoán". Lục Tử Cương nhếch khóe môi cười cười, "Thích Kế Quang Thích Nguyên Kính chính là xuất thân từ vùng Sơn Đông, mười bảy tuổi đã kế thừa lệnh cha, kế tục chức Đăng Châu vệ chỉ huy thiêm sự, đây là chức quan chính tứ phẩm, cũng coi như là con nhà quan cao. Còn phu nhân của ông ấy trong lịch sử cũng có tên tuổi hiển hách, phụ thân là tổng binh đại nhân, tướng môn hổ nữ. Tương truyền Vương thị tập võ từ nhỏ, múa thương vung gậy, khi nổi giận, đến Thích Nguyên Kính cũng không phải là đối thủ của phu nhân". Bởi vì bình luận sau lưng, nên giọng của Lục Tử Cương cũng cố hết sức nén xuống thấp nhất có thể, nhưng rõ ràng cậu vẫn nhìn thấy Vương Anh gần ngay trước mặt đã giảm chậm bước chân đi một chút.

"Lợi hại thế sao? Anh có chắc chắn là cô ấy không?" Đó chính là anh hùng chống giặc lùn Thích Kế Quang đó! Cứ cho là Thích đại tướng quân nhường nhịn bà xã, thì cũng quá là đáng sợ... Bác sĩ nuốt nước bọt, cảm thấy mình hiện tại vẫn còn sống sót mà đủ râu tóc thì rõ ràng là đã được ông trời ưu ái.

"Tôi vừa mới hỏi thử, bây giờ là năm Gia Tĩnh thứ ba mươi ba, Thích Nguyên Kính hai mươi sáu tuổi, có lẽ đã là Sơn Đông đô chỉ huy thiêm sự, là quan võ chính tam phẩm, có thể nói là quan lớn vùng biên cương rồi. Một lát nữa nếu gặp người ta, cậu đừng có mà nhào đến xin ký tên gì đó, mất mặt lắm". Lục Tử Cương không yên tâm dặn dò, chủ yếu là cái tay bác sĩ này rất kỳ quặc.

"Xem cậu nói kìa..." Bác sĩ oán hận, nhưng anh bỗng nhiên sững người nói, "Năm Gia Tĩnh, Lục Tử này, Lục Tử Cương kia chẳng phải cũng sống vào những năm Gia Tĩnh sao?".

Bàn tay Lục Tử Cương cầm chiếc la bàn run rẩy một lúc, sau cùng mới bình tĩnh nói: "À, tiền kiếp của tôi, có lẽ hai năm trước đã bị xử trảm rồi".

"Thật khéo quá..." Bác sĩ nhất thời không biết nói gì, vì anh xưa nay đều cho rằng tiền kiếp của mình chẳng có liên hệ gì với mình, cũng không coi Phù Tô chính là mình, cho nên phân định rất rõ ràng. Cho dù mấy lần xuyên không đến thời kỳ Chiến Quốc, cũng không có chút gì không thích ứng, và cũng không muốn gặp Phù Tô của thời đó làm gì. Nhưng tình hình của Lục Tử Cương và anh hình như có chút khác nhau, chỉ là cụ thể khác nhau thế nào thì anh cũng không nói rõ được.

Có lẽ là vì bác sĩ và Lục Tử Cương hai người không gây nên uy hiếp nào, cứ đi đi mãi, những binh sĩ áp giải hai người cũng đã bắt đầu trò chuyện.

Bọn họ là thuộc hạ làm việc dưới trướng của Thích phu nhân, đương nhiên là sẽ sùng bái cô ta, nói cái gì mà tướng quân và phu nhân nhà ta đánh nhau, lại không đánh lại phu nhân, nổi giận chuyển xuống ở trong quân doanh, mấy ngày liền đều không có tin tức, lần này mời phu nhân đến quân doanh, e là sẽ thị uy với phu nhân một trận.

Bác sĩ nghe thấy những lời chuyện trò này, cảm thấy toàn bộ thế giới quan của mình đều vỡ vụn rồi, tướng quân anh hùng Thích Kế Quang uy vũ manh mẽ được miêu tả trong sách lịch sử đó, lại sợ vợ sao? Còn bị đuổi ra khỏi cửa nhà? Còn phải nhờ thuộc hạ chống lưng?

Có lẽ không thèm coi hai người ra gì, hoặc là vội vã góp vui nên họ đã hoàn toàn bị quên mất, đi đến nửa canh giờ sau, bác sĩ và Lục Tử Cương đã cùng bọn họ đi vào trong quân doanh, thậm chí còn vào hẳn trong đại trướng trung quân.

Chỉ thấy trong đại hướng trung quân là lớp lớp áo giáp bạc chen chúc, vào khoảnh khắc Vương Anh tiến vào trong, chúng tướng đồng loạt đứng dậy, khí thế kinh qua sa trường đó đã được mặc sức giải phóng bằng hết, âm thanh lạnh lẽo của khôi giáp và binh khí va chạm vào nhau gần như xé thủng màng nhĩ của bác sĩ. Anh liều mạng nhìn qua kẽ hở của đám người vào chính trung tâm của đại trướng trung quân, quả nhiên nhìn thấy một người đàn ông trẻ tuổi thân cao chừng một mét tám mấy đang đứng ở đó, toàn thân mặc bộ áo giáp màu bạc tỏa sáng lấp lóa, nhìn rất uy võ hiên ngang, thậm chí còn giương thanh đao sắc bén về phía Vương Anh.

"Gọi ta tới đây làm gì?" Giọng nói lạnh lùng ung dung không chút cấp bách của Vương Anh vang lên trong đại trướng, không có nửa phần khiếp sợ, thậm chí còn mang theo sát khí bức người.

Bác sĩ mở to đôi mắt, đây là tiết mục bạo hành gia đình à?

Một sự im lặng chết chóc bao trùm khắp đại trướng trung quân, ánh mắt của tất cả mọi người đều rơi vào thân hình vị tướng quân trẻ tuổi đó.

Chỉ nghe người đó im lặng một lúc, rồi nói với giọng điệu hết sức dễ chịu: "Mời... phu nhân duyệt binh!".

Bác sĩ: "..."

3

Những chuyện ngoài lề của Thích thiếu tướng quân và phu nhân lại lần nữa trở thành chuyện cười trong quân doanh, vì mô hình sống chung của hai vị này đã bị bọn họ dõi theo suốt tám năm. Trái lại không có ai chê cười Thích thiếu tướng quân sợ vợ, chẳng qua chỉ là xôn xao dò đoán lần hai sau vợ chồng sẽ giao chiến với nhau lúc nào, hoặc là Thích thiếu tướng quân lúc nào mới có thể dọn về ở chỗ của phu nhân.

Mới đầu bác sĩ cũng hoàn toàn không thể thích ứng được với bầu không khí thoải mái và nhạo báng này, đây là thời đại phong kiến lễ giáo nghiêm trang sao? Sao cảm giác chẳng khác gì thời hiện đại? Có điều cho dù anh không thích ứng thì vẫn cần ở lại thêm một thời gian nữa.

QUẢNG CÁOMgid

Một người có thể kiếm về 65 triệu đồng bằng cách sử dụng ứng dụng

Olymp Trade

Đừng chỉ sống dựa vào tiền lương. Học cách giao dịch

Olymp Trade

Và Lục Tử Cương xác nhận rằng cho dù bọn họ ở thời cổ đại một thời gian rất dài, thì quay về hiện tại cũng chẳng qua chỉ là một khoảnh khắc mà thôi, bác sĩ an tâm mà sống tiếp trong quân doanh. Dẫu sao thì bọn họ cũng chẳng cần ra thao trường, chỉ là giúp đỡ làm một số việc vặt, đối với bác sĩ mà nói lại có một loại cảm giác giống như đang ở trên phim trường.

Lục Tử Cương đổi tên là Hạ Tử Lục, vì cái tên "Lục Tử Cương" này vẫn khá là nổi tiếng ở thời đại này, còn bác sĩ lại hơi có kiến nghị với cái tên mới đổi của mình.

"Tại sao tự tiện nói tên tôi là Y Sinh hả? Họ Y tên Sinh? Cậu dám trực tiếp đăng ký tên cho tôi à!" Bác sĩ đặt cái bàn chải tắm cho ngựa xuống, bóp bóp phần vai ê mỏi, nhỏ giọng phản đối Lục Tử Cương.

(Trong tiếng Trung, Y Sinh có nghĩa là bác sĩ)

"Tôi là nghĩ cho anh, ngộ nhỡ anh lưu tại tên tuổi trong sử sách thì sao? Cha mẹ anh còn dám đặt cho anh một cái tên giống hệt danh nhân lịch sử không? Anh tưởng ai cũng mạnh mẽ như cha tôi à?" Lục Tử Cương lời lẽ trang nghiêm chính nghĩa, ở một mức độ nào đó mà nói, cha anh cũng có thể coi là lợi hại, anh không phải sinh ra đã ngậm ngọc trong miệng, trên người cũng chẳng có khắc dấu Tử Cương, tại sao cha anh lại đặt cho anh cái tên Lục Tử Cương này?

Bác sĩ suy nghĩ một lát, cũng cảm thấy Lục Tử Cương nói rất có lý, đành buồn phiền tiếp tục làm việc. Hai người tuy chỉ là làm việc vặt, nhưng trên thực tế vẫn có người giám sát, Lục Tử Cương đã nói căn cứ tốc độ di chuyển của kim la bàn, chí ít bọn họ cũng phải ở lại đây vài ngày. Chỉ là sau nửa ngày, bác sĩ đã bắt đầu nhớ nhung đến điều hòa nhiệt độ và điện thoại di động của thời hiện đại...

Một hồi tù và chói tai xuyên qua quân doanh hòa bình vọt lên bầu ười, bác sĩ vốn đã gà gật buồn ngủ lập tức tỉnh táo trở lại, nhìn các binh sĩ vội vã chạy nhưng không hề hoảng loạn trong quân doanh, bèn tùy tiện hỏi một câu: "Thế này là thế nào?"

"Có giặc lùn bên bờ đó!". Tiểu binh nọ chỉ vào ngọn lửa báo hiệu đang cháy ngút trời ở phía xa, rõ ràng đã coi đó là bình thường, nhưng sau đó tiếng tù và ngắt từng quãng ngắn truyền tới, gã lại thay đổi sắc mặt nói, "Quy mô của giặc lùn lần này rất lớn, ngươi nhanh tay lên, ta sắp phải tập hợp đội hình!"

Bác sĩ nhìn tên tiểu binh đó chạy đến đội ngũ sắp xuất chinh, kinh ngạc vô cùng, lần đầu tiên ý thức được rằng mình không phải đang ở trong thời đại hòa bình. Ở nơi đây, những tiểu binh nhìn mới chỉ chừng mười mấy tuổi, cũng phải cầm đao kiếm nặng nề, để bảo vệ quốc gia không bị xâm phạm.

Vì thân phận nhạy cảm, nên có lệnh không cho phép bác sĩ và Lục Tử Cương đi lại lung tung xung quanh, còn bị bốn tên sĩ tốt trông chừng. Quân doanh có một nửa binh sĩ ra ngoài đánh trận trở nên vắng vẻ lạnh lẽo hơn rất nhiều, lại thêm chẳng có ai có nổi tâm tình mà đi buôn chuyện về Thích thiếu tướng quân, còn Thích thiếu phu nhân cũng toàn thân võ trang, tay cầm giáo, đứng sừng sững trong đại trướng quân doanh, im lặng đợi chờ kết quả trận chiến.

Cảnh tượng như thế, hiển nhiên đã không ngừng xảy ra trong những năm này, đám binh sĩ tuy trong lòng lo lắng, nhưng trên mặt vẫn là thần sắc bình tĩnh như trước. Bác sĩ lại đẩy đẩy Lục Tử Cương không biết đang nghĩ ngợi gì, không nhịn được lại hỏi: "Sẽ không xảy ra chuyện gì chứ?".

Lục Tử Cương cười cười nói: "Không đâu, quân của Thích gia trăm trận trăm thắng, chút quấy nhiễu thường ngày này, không đáng phải nói đâu. Huống hồ trọng điểm của chống giặc lùn nằm ở vùng Chiết Giang, mấy năm nay quân Thích gia chỉ là luyện binh ở Sơn Đông, năm sau mới điều chuyển đến đóng ở Đài Châu Chiết Giang".

Giọng Lục Tử Cương nói rất nhỏ, nhưng lời vừa nói ra khỏi miệng đã thấy có chút hối hận, vì cậu rõ ràng cảm giác được một binh sĩ đang giám sát họ vừa cau mày một cái. Sau đó, cho dù bác sĩ có bám lấy hỏi thêm về mấy vấn đề lịch sử, thì Lục Tử Cương cũng cắn chặt răng, không tiết lộ thêm nửa lời.

Cho đến sáng ngày hôm sau, tin báo thắng trận mới bay về, cùng về với tin báo thắng trận còn có mấy trăm thương binh. Ngoài mấy đội binh sĩ hộ tống thương binh về ra, những tướng sĩ còn lại đều cùng Thích thiếu tướng quân tiếp tục thanh trừng sào huyệt giặc lùn, còn Thích thiếu phu nhân lại chủ trì đại cục, sắp xếp cùng quan quân y đi chữa trị cho thương binh.

Lục Tử Cương sểnh ra không để ý một cái, liền phát hiện bác sĩ đã biến mất, mà điều anh không ngờ là, bác sĩ đang bận rộn một cách vui vẻ sung sướng trong lán thương binh.

"Anh đang làm cái gì đấy?" Lục Tử Cương mặt mày sầm sì tóm lấy cánh tay bác sĩ.

"Cứu người đó". Bác sĩ quệt vết máu bắn trên khuôn mặt, nói với vẻ rất thản nhiên.

"Chúng ta đến chỗ này không phải là để cứu người". Lục Tử Cương trầm giọng nói.

Bác sĩ nhìn Lục Tử Cương chằm chằm, hiếm hoi lắm mới thu lại gương mặt tươi cười: "Cậu vẫn canh cánh trong lòng chuyện tôi cứu người kia ở thời Dân Quốc lần trước đúng không?"

Lục Tử Cương im lặng trong giây lát, rồi thành thực gật đầu nói: "Không sai. Anh không nên cứu cậu ta".

"Nó vẫn là một đứa trẻ mười lăm, mười sáu tuổi! Nếu là thời hiện đại, chẳng qua chỉ là học sinh trung học mà thôi! Cậu nhìn những binh sĩ này xem, họ cũng chỉ mới mười mấy hai mươi tuổi, cậu đặt tay lên tim mà tự hỏi, liệu cậu có thể lòng dạ sắt đá không?"

Có lẽ là vì nhớ lại tình hình bi thảm khi đó, có lẽ vì bản thân đang đứng ở lán thương binh đầy rẫy thương binh bệnh tật dẫn đến tâm trạng trở nên nóng nảy, ngữ khí của bác sĩ trở nên gay gắt hơn rất nhiều.

Lục Tử Cương cau chặt đôi mày, mãi một lúc lâu sau mới thở ra một hơi, chậm rãi nói: "Đúng thế, tôi thực sự không có cách nào lòng dạ sắt đá được, cho nên khi đó không có ngăn anh rũ tay đứng nhìn. Nhưng nếu như chúng ta không đi tìm chủ tiệm, thì sẽ không xuất hiện ở đó. Chúng ta thực sự đã can thiệp vào lịch sử, đây là sự thực. May mà xem ra đoạn phim nhỏ này không ảnh hưởng là mấy đối với thế giới hiện đại, vì khả năng lần trước chúng ta chỉ cứu một người vô danh tiểu tốt. Nhưng lần này thì sao? Ngộ nhỡ anh cứu một nhân vật quan trọng buộc phải chết đi trong lịch sử này, lịch sử sẽ xuất hiện bước ngoặt, ai sẽ chịu trách nhiệm đây?".

Những lời ẩn ý phía sau Lục Tử Cương không nói hết, lần trước bọn họ trực tiếp xuất hiện trong tẩm cung của Hán Bình đế triều Hán, cũng may ông trời phù hộ, nếu bác sĩ chữa khỏi căn bệnh tim bẩm sinh của Lưu Khản, thì chẳng phải là lịch sử đã thay đổi hoàn toàn rồi sao?

Bác sĩ lạnh lùng hất tay Lục Tử Cương ra: "Giặc lùn giết người là muốn cướp tài sản của bách tính, binh sĩ giết người là để bảo vệ tổ quốc, giết người cần động cơ, nhưng cứu người xưa nay chưa bao giờ cần lý do".

Lục Tử Cương đành bó tay nhìn bác sĩ vùi đầu nắn lại xương cho một binh sĩ, ánh mắt của những người xung quanh như đâm như dùi vào anh, khiến anh khó lòng ngồi yên. Những người khác nghe không hiểu hai người bọn họ tranh cãi điều gì, nhưng đều có thể lĩnh ngộ được rằng anh đang ngăn cản bác sĩ cứu bọn họ. Y quan đi theo quân đội chỉ có thể chữa trị đơn giản những vết ngoại thương tàn bạo, làm sao có thể đánh đồng được với bác sĩ ngoại khoa hiện đại đã từng được giáo dục tốt. Cho dù anh chỉ là bác sĩ ngoại lồng ngực chứ không phải là bác sĩ ngoại chấn thương, nhưng y thuật cũng hơn quan quân y mấy bậc.

Ánh mắt của thương binh trong lán thương bệnh binh khiến Lục Tử Cương không thể ung dung tự tại nổi, lại giống như họ nhìn thấy toàn bộ toan tính riêng tư trong lòng anh, khiến anh phải rời đi trong hoảng hốt. Đến khi anh ra khỏi lán, thì nhìn thấy Vương Anh toàn thân quân trang đen tuyền đang đứng ngoài lán, yên lặng chờ anh.

"Ta không biết hai người có lai lịch như thế nào, cũng không biết hai người có mâu thuẫn gì". Vương Anh lạnh nhạt nói, tua ngù màu đỏ buộc trên cây giáo ở bên tay phải bay bay theo gió nhẹ, "Con người tồn tại trong thế gian này, tất có mâu thuẫn, khó lòng tránh khỏi. Nhưng ở quân doanh, ngươi hãy tôn trọng sự hy sinh vì bảo vệ quốc thổ của các chiến sĩ".

4

Lục Tử Cương ngẩn ngơ đứng trước doanh trướng, rất lâu sau mới sực tỉnh. Vương Anh đã bỏ đi từ lâu, rất nhiều binh sĩ đến đến đi đi đều bận rộn không có thời gian đâu mà để ý Lục Tử Cương đứng ở đó, cho đến khi mặt trời lên đỉnh đầu, trước quân doanh mới truyền đến từng hồi tiếng người, chính là Thích thiếu tướng quân ca khúc khải hoàn.

Trên dưới quân doanh vang dậy tiếng hoan hô, các binh sĩ "anh nuôi" đã chuẩn bị tiệc ăn mừng, mùi thịt thơm lừng bay khắp quân doanh. Bấy giờ Lục Tử Cương mới cảm giác bụng hơi đói, đang nghĩ cách đi đâu để lĩnh đồ ăn, thuận tiện thì xin hộ bác sĩ một phần. Tuy anh không thể tán thành với hành động của đối phương nhưng rõ ràng anh cũng chẳng thể ngăn nổi.

Chính vào lúc này, Lục Tử Cương lại bị người sau lưng gọi lại.

"Tử Cương... Lục Tử Cương?" Trong giọng nói của người đó tràn ngập sự ngạc nhiên.

Lục Tử Cương quay đầu lại theo phản xạ tự nhiên, rồi lập tức hối hận. Anh không biết tướng mình rốt cuộc có giống hệt với kiếp trước không, vì gương đồng soi ký ức kiếp trước nhìn khá nhòe. Nhưng nhìn ánh mắt vạn phần kinh ngạc của người đó, là anh đã biết đáp án.

"Ngươi là Lục Tử Cương?". Người đó toàn thân máu me bê bết, nhưng không giấu nổi thân hình và phong thái anh tuấn thần võ, chính là Thích thiếu tướng quân đại danh lẫy lừng. Hắn vừa về đến quân doanh là vội vàng chạy đến lán thương binh để coi sóc thuộc hạ bị thương, kết quả phát hiện ra người bị tình nghi là gian tế đó đang dốc sức cứu chữa cho thương binh, khó tránh khỏi có chút hứng thú với ngườỉ đồng hành của anh ta, nhưng lại chẳng ngờ đó lại là người mình quen biết.

Thích thiếu tướng quân bỗng nhiên thu lại vẻ kinh ngạc lẫn nghi ngờ trên mặt, kéo Lục Tử Cương sang một doanh trướng hơi vắng vẻ hơn bên cạnh, nhìn chằm chằm anh, nghi hoặc hỏi: "Tử Cương... không phải là huynh bị... hành quyết rồi sao?"

Tử Cương hít vào một hơi thật sâu, từ trong hồi ức kiếp trước xa xôi đã bị bụi bặm phong bế, tìm ra được chút liên quan với Thích thiếu tướng quân, nhếch khóe môi cười khổ nói: "Xem ra... bệ hạ không nỡ để tài nghệ của tôi bị thất truyền".

Quan địa phương thì khó làm, đạo lý trên đời đến nay, mỗi khi phải lên kinh để báo cáo đều phải biếu xén quan kinh kỳ rất nhiều quà cáp, nhớ lúc ban đầu Thích thiếu tướng quân lên kinh, cũng từng đến tiệm Á Xá mua trang sức cho Thích thiếu phu nhân, khi ấy Lục Tử Cương tên tuổi đã vang dội thiên hạ, nhưng vẫn giúp việc trong tiệm Á Xá, vài lần thế là thành quen biết. Cây giáo Khuất Lô trong tay Vương Anh, chính là do Lục Tử Cương bới ra trong kho của Á Xá năm xưa, Thích thiếu tướng quân mua về làm quà tặng phu nhân.

Tuy lý do Lục Tử Cương đưa ra có hơi kỳ quặc, nhưng tính tình của thánh thượng vốn dĩ cũng khó mà đoán được, hơn mười năm rồi chưa thiết triều, một lòng cầu tiên học đạo, lý do khi đó muốn xử tử Lục Tử Cương lại càng kỳ quái, cho nên Thích thiếu tướng quân cũng không ngẫm nghĩ kỹ mà tin ngay. Hắn nhìn mái tóc ngắn ngủn của Lục Tử Cương rất lâu, tâm trạng hơi vui vẻ liền hỏi: "Sao thế? Nhất thời nghĩ không thông, muốn cạo tóc đi tu à?"

Lục Tử Cương cũng không biết giải thích thế nào về mái tóc ngắn của mình, bực bội phản kích, nói: "Cạo tóc đi tu cũng còn tốt hơn mời phu nhân duyệt binh".

Thích thiếu tướng quân chẳng ngờ cảnh tượng quẫn bách của mình đã bị người ta nhìn thấy, nếu là thuộc hạ cũng chẳng sao, dù sao chức vị của hắn cũng cao hơn họ, cũng chẳng sợ bọn họ ngầm chê cười sau lưng, nhưng đổi lại là người bên cạnh, hắn không nhịn được phân bua đôi câu: "Phu nhân vì ta mà chịu khổ rất nhiều, nam tử hán đại trượng phu đương nhiên là phải thương yêu vợ".

Lục Tử Cương đọc thông lịch sử, biết Thích thiếu tướng quân này tuy cũng có thể coi là "con em cán bộ cao cấp" trong những năm Gia Tĩnh triều Minh, nhưng lại không thực sự là gã "cao-soái-phú". Vì hắn phải tự mình nuôi quân luyện quân, lại còn phải lo lót cho quan trên kinh kỳ. Thích thiếu phu nhân đem hết của hồi môn cho hắn, còn coi sóc việc nhà, thậm chí ở Đài Châu mấy năm sau này, còn dùng thân nữ nhi để ra chiến trường bảo vệ bách tính cả thành, thật xứng gọi là kỳ nữ hiếm có trong lịch sử.

("Cao - soái - phú": ngôn ngữ mạng, chỉ nam thanh niên cao to, đẹp trai và giàu có, tiêu chuẩn lý tưởng của đàn ông hiện tại)

Nghĩ tới cô gái tay cầm giáo đứng kiên cường trong ánh bình minh, Lục Tử Cương không kìm được nói: "Thiếu tướng quân, hãy đối tốt hơn nữa với phu nhân nhé...". Anh không biết bác sĩ có thể cứu được tính mạng của người khác hay không, vì trong mắt anh, những thương binh đó đều đã là người thiên cổ rồi. Nhưng anh thực sự không nhẫn tâm để thiếu phụ dám yêu dám hận đó bị tổn thương, cho dù anh biết mình nói nhiều thêm một câu, cũng không thể thay đổi chút nào.

Thích thiếu tướng quân nghe vậy lập tức nhìn anh bằng ánh mắt cảnh giác: "Đó là phu nhân của ta, huynh chớ có nghĩ xiên xẹo!"

Lục Tử Cương hoàn toàn câm nín, anh thì có thể có ý nghĩ xiên xẹo gì chứ? Vương Anh rõ ràng đã trở thành nữ thần trong lòng toàn thể binh sĩ Thích gia, Thích thiếu tướng quân phải phòng ngừa cả một biển người đó!

"Ổ, đúng rồi, quên mất, huynh đã cắt tóc đi tu rồi". Thích thiếu tướng quân nhìn thấy chiếc khóa Trường Mệnh nằm trên cổ, trượt ra khỏi áo của Lục Tử Cương, nhớ ra chuyện cũ của Lục Tử Cương, vỗ vào vai anh, thở dài nói, "Người chết chẳng sống lại được, Tử Cương, nhìn thoáng hơn đi."

Lục Tử Cương còn tưởng là tâm tư giấu kín của mình đã bị người ta nhìn thấu, trong phút chốc như hóa đá tại chỗ, may mà anh lập tức phản ứng lại được, giả vờ cúi đầu nhìn chiếc khóa Trường Mệnh trên cổ, để che giấu sự thất thố trong ánh mắt mình.

5

Thích thiếu tướng quân thân gánh trọng trách, vừa mới đánh xong một ổ giặc lùn, có vô vàn chuyện cần phải làm, đương nhiên không thể đứng mãi ở đây buôn chuyện với Lục Tử Cương nữa. Nhưng được hắn xác nhận thân phận của Lục Tử Cương, chí ít họ cũng được đãi ngộ thoát khỏi giám sát, còn đặc biệt ra lệnh dành riêng cho họ một căn lều để nghỉ ngơi.

Lục Tử Cương lĩnh phần cơm cho bác sĩ về, sau khi hai người ngồi trong lán thương binh ăn trệu trạo xong bữa cơm, nghỉ ngơi được một lúc, bác sĩ liền bị gọi lên xem xét tình hình của thương binh. May mà anh cũng không đến mức bất cứ thương binh nào cũng phải đích thân chăm sóc, chỉ là cần chữa trị một số thương binh nặng mà các quan quân y đã bó tay. Lục Tử Cương không ngăn cản anh nữa, thậm chí còn ra tay giúp đỡ, dẫu sao chưa từng ăn thịt lợn thì cũng từng thấy lợn chạy, Lục Tử Cương đã từng xem phim về y học, ra tay hỗ trợ anh cũng hợp lý hơn những người cổ đại kia.

"Sao, nghĩ thông rồi à?" Bác sĩ cười hi hi, rõ ràng rất vui vẻ vì Lục Tử Cương đã có thể hồi tâm chuyển ý, có điều vẫn ngại ngùng giải thích, "Tuy chúng ta đang ở trong lịch sử, nhưng vận mệnh là nằm trong tay chúng ta. Tuy chúng ta đã tới nơi này, ngộ nhỡ những người trong lịch sử này chính là không được tuyệt mệnh thì sao?"

"Không có ai nói không thể thay đổi gì, đối với tôi mà nói, tôi quay về quá khứ, nhưng những người tôi đang gặp đều là người còn sống. Có lẽ đây chính là sự sắp đặt của Thượng Đế".

Lục Tử Cương băng một cánh tay thật chặt, nhìn thấy thương binh dưới tay anh yếu ớt "hự" một tiếng để biểu thị phản đối, bác sĩ vội vàng chạy qua băng bó cho thương binh. Lục Tử Cương đứng một bên, khổ sở lau mặt.

Không phải là sự sắp đặt của Thượng Đế, mà là anh muốn tới thời đại này, chỉ là... về mặt thời gian vẫn hơi sai lệch một chút...

"Đúng rồi, tại sao lần này vẫn không gặp chủ tiệm nhỉ". Bác sĩ bỗng nhớ ra trọng điểm của chuyến ngược dòng thời gian của bọn họ, "Chủ tiệm vẫn thường mở hiệu đồ cổ trong thành thị... cho nên trước đây chúng ta quay về quá khứ mới an toàn như thế, lần này nguy hiểm quá..."

"... Có lẽ là la bàn có vấn đề". Lục Tử Cương trả lời không mấy tự tin.

Bác sĩ dễ dàng tin ngay, lại lần nữa chăm chú chữa trị cho thương binh. Tuy anh là một bác sĩ ngoại khoa xuất sắc, nhưng không cũng không cổ cách nào 100% giành lại bệnh nhân từ tay thần chết, lại thêm thiết bị cấp cứu thời cổ đại còn thô sơ, thế nên một bộ phận thương binh nặng đã qua đời một cách đầy đáng tiếc. Bác sĩ cũng không quá đau buồn, chỉ là có một chút đáng tiếc, dẫu sao thì anh cũng đã cố gắng hết sức mình. Bác sĩ ngoại khoa cũng thường xuyên chứng kiến sự sống chết của con người, nhưng anh lại chưa từng vì chứng kiến quá nhiều mà cảm thấy chai sạn, trái lại vì biết được đằng sau sinh mệnh của mỗi con người còn là sự chăm sóc yêu thương của những người thân trong gia đình, cho nên càng dốc sức hơn.

Lục Tử Cương không nói thêm câu nào nữa, vì bản thân anh cũng chẳng có tư cách gì mà ngăn cản. Nếu không phải là anh động chân động tay với cái la bàn, thì bọn họ sẽ chẳng gặp phải tình huống này.

Bố trí cho những thương binh trầm trọng xong xuôi, còn có một số thương binh khác lục tục xếp hàng để bác sĩ khám cho, tất cả đều nhìn rất bình thường, cho đến khi bác sĩ ngẩng đầu lên lần nữa, mới phát hiện trước mặt anh lại là thiếu phụ toàn thân quân trang đen tuyền đó, vừa nghĩ đến Thích thiếu tướng quân tên tuổi lẫy lừng là liền lắp ba lắp bắp trước mặt cô ta, bác sĩ không tránh khỏi rụt rè, dè dặt hỏi: "Phu nhân, phu nhân cũng bị thương à?"

Hiện tại bọn họ đang ở lán thương binh, Vương Anh lại không hề bận tâm đến những ánh mắt đổ dồn lên người cô ta, đường hoàng giơ tay phải của mình ra: "Bắt mạch giúp ta".

Bác sĩ nhìn cánh tay thon dài đẹp đẽ đưa ra trước mặt mình đó, rất muốn giải thích cho cô ta biết sự khác biệt giữa y học hiện đại và y học truyền thống, tuy anh đã học rất nhiều về y học truyền thống, nhưng hoàn toàn không biết có bắt mạch được không?

Vương Anh cũng chẳng thúc giục. Tuy phu quân của nàng tòng quân ở nguyên quán Sơn Đông, thân quyến cũng có thể đi theo quân, nhưng bình thường nàng không ở trong quân doanh, mà sống ở trong thành trấn lân cận, nếu không phải hôm qua phu quân nàng tới "mời phu nhân duyệt binh" một chuyến, thì căn bản nàng cũng không ở lại nơi này. Nhưng tối qua giặc lùn xâm phạm tới mức gay cấn, nàng cũng không thể mạo hiểm rời đi, nên buộc phải ở lại.

Bác sĩ chăm chú quan sát sắc mặt của Vương Anh, bỗng nhiên có linh cảm tốt lành, bèn hỏi đối phương mấy câu về tình hình sức khỏe, trầm ngâm hồi lâu mới nói với vẻ không chắc chắn: "Tình hình này của phu nhân, rất giống với hỷ mạch. Đáng tiếc tôi lại học về kỹ thuật ngoại khoa, nên không thạo bắt mạch."

Quan quân y bên cạnh lập tức xin thay, tuy y thuật của gã không cao, nhưng có thể phân biệt được có hỷ mạch hay không. Trong một lúc, mọi người trong lán thương binh đều căng thẳng, Thích thiếu tướng quân và thiếu phu nhân tình cảm thắm thiết, nhưng vẫn chưa có con cái gì cũng là điều mọi người đều biết cả. Chỉ thấy gã quan quân y có chòm râu dê đó bắt mạch chẩn đoán hồi lâu, cuối cùng mặt mày rạng rỡ tuyên bố thiếu phu nhân đã có hỷ mạch, đã có hơn hai tháng rồi.

Mặc Vương Anh tính cách có cứng rắn kiên nghị không giống phụ nữ bình thường hơn đi chăng nữa, lúc này cũng không nén nổi gò má phớt hồng, cúi đầu mỉm cười.

Ngay lập tức có người hô lên phải đi báo tin mừng với Thích thiếu tướng quân, nhưng người đó còn chưa kịp chạy ra khỏi lán thương binh, thì hồi tù và thúc giục đã vang lên trên bầu trời quân doanh.

Vương Anh nghe thấy tiếng tù và báo hiệu không giống với bình thường sắc mặt liền biến đổi, chỉ nghe thấy có người xông vào doanh trướng, vội vã bẩm báo: "Thiếu phu nhân! Giặc lùn cùng lúc đổ bộ ở ba điểm huyện Mâu Bình, huyện Bồng Lai, huyện Văn Đăng! Thiếu tướng quân và đồng tri đại nhân đã lần lượt dẫn quân nghênh chiến, mời phu nhân về thành Đăng Châu để tạm lánh!"

(Đồng tri: một chức quan thời Minh Thanh, là cấp phó của tri phủ, vào hàng chính ngũ phẩm, mỗi phủ có hai người)

"Không được lãng phí binh lực". Vương Anh bình thản nói, "Ta ở đây, Nguyên Kính chẳng nhẽ vô dụng như thế, đến hang ổ của mình cũng để lũ giặc cướp sao?"

Mọi người trong lán thương binh đều rần rần vâng dạ, rất nhiều binh sĩ tự coi mình bị thương nhẹ, chỉ cần còn nhổm dậy được là đều đứng dậy, mặc khôi giáp lên người, chuẩn bị ra chiến trận bất cứ lúc nào, sĩ khí ngút trời.

6

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Làm sạch nhà khi bạn đi vắng, chỉ với 690k xài vĩnh viễn.

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Đây là một trận tử chiến, phía không xa không ngừng có những đám lửa báo hiệu bốc lên ngút trời.

Giặc lùn đổ bộ có quy luật, chúng phần nhiều từ trên biển, thuyền chạy trên biển tất cần dựa vào sức gió. Gió thổi theo mùa, lúc nào giặc lùn đi men theo bờ rồi đổ bộ, đại để sẽ đổ bộ ở đâu, về cơ bản quân Thích gia đều có thể đoán được khá sát.

Lúc gió Bắc nhiều, thì giặc lùn xâm lấn ở phía Nam là vùng Quảng Đông, lúc gió Đông Bắc nhiều, thì giặc lùn quấy nhiễu ở phía Bắc là vùng Phúc Kiến, khi gió Đông Bắc hoặc là gió hướng chính Đông nhiều, thì chia nhau xâm phạm Chiết Giang và Giang Tô, chỉ khi gió Đông Nam nhiều, mới trực diện tấn công Đăng Châu và Lai Châu của Sơn Đông. Hiện tại rõ ràng đã là sau tiết Trùng Dương, từ lâu đã không còn gió Đông Nam thổi, nhưng giặc lùn lại liên tục lên bờ, có thể thấy lần xâm phạm này không hề bình thường.

Bác sĩ cũng không có thời gian nghỉ ngơi nữa, thương binh ùn ùn không ngớt từ tiền tuyến được vận chuyển về, có những người thậm chí còn không kịp cứu chữa, mà đã tử vong ngay trên đường di chuyển, bác sĩ chưa bao giờ phải trải qua quá trình cấp cứu gian nan như thế, đến sau này toàn cơ thể đều trở nên tê liệt.

Lục Tử Cương ở bên cạnh bác sĩ, không rời nửa bước, chỉ sợ khi kim la bàn khôi phục bọn họ không ở cạnh nhau. Tử Cương cũng không bận rộn như bác sĩ, cho nên có chút thời gian rảnh rỗi chú ý tới, kỳ thực những người thương binh được bác sĩ cứu sống trước đó, phần lớn vì lại ra chiến trường hoặc là vết thương bị nhiễm trùng nặng, nên hết người này đến người khác đi xuống suối vàng.

Lẽ nào nói, vận mệnh rốt cuộc vẫn là vận mệnh, cho dù bọn họ đã làm chút đổi thay nho nhỏ, nhưng vẫn bị lịch sử sửa lại một cách vô tình?

Lục Tử Cương không thể cho phép bản thân nghĩ ngợi nhiều, nhưng vẫn là nghĩ tới một chuyện nào đó khiến anh ớn lạnh.

Cho nên khi anh bước vào bên trong đại trướng trung quân, không hề bất ngờ chút nào khi nhìn thấy Vương Anh đã mặc sẵn khôi giáp, đang ngồi trên ghế trịnh trọng lau chiếc giáo trong tay.

""Ngô Việt Xuân Thu, Câu Tiễn phạt Ngô ngoại truyện" cổ viết, Việt Vương mặc áo giáp Đường Di, giắt kiếm Bộ Quang, cầm giáo Khuất Lô, lấy tử sĩ lập thành trận địa 300 người". Lục Tử Cương chậm rãi nói, "Giáo mềm Khuất Lô, là hùng kích sánh ngang với kiếm của Can Tương. Khuất Lô là thợ khéo chuyên chế tạo cung nỏ và giáo mác thời cổ đại, có thể sánh ngang với Can Tương, từ đó có thể thấy được tiếng tăm của ông ta. Cây giáo Khuất Lô trong tay thiếu phu nhân chính là cây giáo do phu quân mua ở Á Xá năm xưa, khi đó tôi còn tò mò rằng một cô gái như thế nào mới ưa thích vật này".

(Can Tương là thợ rèn kiếm giỏi thời Xuân Thu, còn với vợ là Mạc Tà, hai thanh kiếm do họ rèn ra là Can Tương và Mạc Tà là những bảo kiếm bén nhất thiên hạ bấy giờ)

Vương Anh vẫn chưa nói gì, mà sau khi lau xong cây giáo sắc, bắt đầu chỉnh sửa tua ngù màu đỏ buộc trên cây giáo một cách gần như là long trọng.

Tua ngù buộc trên cây giáo kỳ thực cũng là yêu cầu của thực chiến, chứ không phải dùng để tô điểm. Vì khi giáo đâm vào hoặc là rút ra khỏi cơ thể của kẻ địch, đều có máu tươi bắn ra. Nhằm tránh bị máu bẩn bắn lên toàn thân trong chiến đấu, tránh thân giáo bị ươn trượt, cho nên tua ngù là không thể thiếu được, hơn nữa, độ dài ngắn của tua ngù ra sao cũng cần điều chỉnh. Mà tua ngù màu đỏ, là vì bị máu nhuộm quá nhiều lần, cho dù vốn dĩ là màu sắc gì cuối cùng cũng đều bị biến thành màu đỏ sậm.

"Nguyên Kính từng nói với ta, đây là một cây giáo không gì cứng bằng, không thể gãy được, có thể đâm xuyên qua bất cứ vật nào cản trở trước mặt nó, cho dù là kẻ địch hay là vận mệnh". Vương Anh buộc lại tua ngù đỏ xong, ngẩng đầu lên, ánh mắt nhìn thẳng vào Lục Tử Cương vừa xông vào đại trướng trung quân, "Ta rất thích nó, từ khi Nguyên Kinh tặng nó cho ta, ta từng cảm thấy rằng trên đời này không có gì có thể cản được điều ta muốn làm".

Lục Tử Cương không nói gì nữa, hóa ra Thích thiếu tướng quân sợ vợ là vì cây giáo Khuất Lô này sao? Xem ra nguồn cơn mối họa lại chính là anh rồi... Lục Tử Cương của kiếp trước sao lại nghĩ không ra, đem bán cây giáo Khuất Lô tai họa này đi chứ?

"Con người tồn tại trên thế gian này, tất có mâu thuẫn, không thể tránh khỏi". Vương Anh chậm rãi nhắc lại câu nói nàng đã từng nói trước đó không lâu, "Ta tuy có được cây giáo sắc bén nhất thế gian, nhưng cũng biết có một ngày sẽ có một chiếc khiên mà ta vĩnh viễn không đâm thủng được".

Nàng kiên nghị ngước cằm lên, do dự một chút rồi đứng dậy, bộ khôi giáp bằng thép phát ra tiếng va chạm của kim loại nghe đanh tai theo cử động của nàng.

"Nguyên Kính luyện binh, chẳng biết cúi đầu với quan kinh kỳ và đồng lõa với chúng, sẽ để lại vết nhơ như thế nào khi lịch sử phán xét chàng, nhưng chàng vẫn làm như vậy. Ta cũng biết chung sống với phu quân là phải mặt mày vui vẻ cử án tề mi, nhưng ta cũng vẫn làm như thế này".

"Ta biết chuyến này đi có thể sẽ mất đứa con, ta nên theo lời Nguyên Kính ngoan ngoãn quay về Đăng Châu, nhưng ta vẫn làm như thế".

"Cho nên không cần khuyên ta, là một cây giáo sắc bén, vận mệnh cả một đời, chỉ có thể là tiến lên phía trước".

Thích thiếu phu nhân mặc khôi giáp tay cầm giáo sắc, ánh mắt kiên định bước lên phía trước, toàn thân toát ra một luồng sát khí ác liệt.

"Nếu Nguyên Kính chết, ta cũng chẳng sống một mình".

Lục Tử Cương nghe vậy cảm thấy hơi buồn bã, lúc Vương Anh chuẩn bị bước ra khỏi đại trướng thì không kìm được, buột miệng hỏi: "Các người ra chiến trường... không sợ chết sao?".

Vương Anh không ngoảnh đầu lại, giọng nói mang theo sự thản nhiên của nàng lại chầm chậm bay trong gió muộn.

"Cho dù có ra chiến trường hay không, chẳng phải con người đều sẽ chết sao?"

7

Lục Tử Cương không biết Vương Anh có chiến thắng trở về hay không, vì ngay sau đó anh đã phát hiện kim la bàn sắp quay lại vị trí cũ, bèn vội vàng chạy về lán thương binh, kéo bác sĩ đến một góc khuất, hai người sau một hồi ngất xỉu quen thuộc, cuối cùng thuận lợi quay trở về trong Á Xá.

Trong cửa tiệm Á Xá vẫn còn thoảng mùi ngây ngấy của bánh bao, xem ra họ mới chỉ rời đi trong chớp mắt, nhưng sự thực họ đã ở mấy ngày trong quân doanh của triều Minh.

Hai người mệt mỏi cả thân xác lẫn tâm trí đến cực điểm, ai nấy đều tìm một cái ghế tựa rồi ngồi bệt xuống đó, trong một lúc không ai nói với ai câu nào.

"Đúng rồi, cái cô Thích thiếu phu nhân đó, sau này không sao chứ?". Bác sĩ dụi dụi mắt, tìm được cặp kính mình bỏ lại ở một bên, bỗng nhớ ra khi anh sắp sửa rời đi, hình như loáng thoáng nghe thấy có người bảo Thích thiếu phu nhân sẽ đích thân dẫn quân xuất chinh.

"Không sao... Trong lịch sử, cô ấy và Thích tướng quân đều sống rất lâu".

"Ồ, thế thì tốt, vợ chồng nhà họ đúng là khiến người khác ngưỡng mộ, con của họ chắc chắn sẽ rất trâu bò".

"Không... trên thực tế, Thích thiếu phu nhân cả đời không sinh con... Cô ấy có mang thai đứa này, chắc chắn cũng sảy thôi".

"Hả? Không phải thế chứ?"

"Hơn nữa vì cô ấy không thể sinh con, nên mười năm sau Nguyên Kính phải nạp thiếp, hai người vốn là cặp đôi thần tiên quyến lữ lại trở thành đồng sàng dị mộng, cuối cùng Thích thiếu phu nhân vẫn ly hôn... thà làm ngọc nát còn hơn ngói lành..."

Trong Á Xá lại một lần nữa rơi vào sự im lặng, hai người cùng nghĩ tới thiếu phụ mạnh mẽ cương quyết toàn thân quân trang đen tuyền tay cầm giáo sắc ấy. Rõ ràng đã là người qua đời từ mấy trăm năm trước, nhưng lại dường như đang sống trong tầm nhìn của họ, giơ tay ra một cái, là có thể chạm vào.

Lục Tử Cương cúi đầu ấn ấn vào chiếc khóa Trường Mệnh trên cổ qua lớp áo, chăm chú nhìn chiếc la bàn trong tay, trên mặt thoáng hiện lên một nét do dự không quyết...

Quyển 4 - Chương 10: Song Khiêu Thoát

1

Lục Tử Cương ngồi trước tủ quầy của Á Xá, mượn ánh sáng của đèn cung Trường Tín, nhìn cặp vòng hoa chạm rỗng khắc hoa chìm vừa mới ra lò đó.

Cặp vòng này sử dụng chất liệu ngọc Hòa Điền thượng hạng, nhìn kỹ thực ra có hai tầng, tầng mặt của vòng ngọc dùng đao công cực kỳ tinh tế tỉ mỉ, khắc một cành dải đồng quấn quýt, có thể nhìn thấy rõ cả những đường gân trên lá cây, còn cả những hạt sương đọng trên lá. Mà tầng thứ hai chính là bản thể chiếc vòng tròn trịa và bóng loáng, giữa hai tầng khéo léo dùng dải đồng để nối liền nhau, nhưng nếu khi đeo lên tay người, thì chỉ thấy một vòng dải đồng sống động như thật, có thể nói là kỹ thuật tuyệt đỉnh. Mà bên mặt trong của chiếc vòng, lại khắc ký tên Tử Cương nức tiếng gần xa.

(Dải đồng là hai cây một chính một phụ bám sống cùng nhau, với ngụ ý vợ chồng quấn quýt bên nhau)

Nhẹ nhàng đặt cặp vòng tay này lên miếng vải gấm, Lục Tử Cương day day cổ tay phải hơi ê mỏi của mình.

Anh gần như bỏ tất cả tích lũy của bản thân, dùng khối ngọc lớn để rèn luyện kỹ thuật chạm điêu khắc ngọc của mình, cuối cùng sau khi khắc hỏng mấy miếng ngọc, đã khắc ra được một đôi vòng ngọc tương đối vừa ý.

Lục Tử Cương nhìn chằm chằm đôi vòng ngọc, giống như đang nghĩ một vấn đề do dự chưa quyết, anh ngồi ngả người ra sau trên ghế dựa, giấu mặt mình ở nơi đèn cung Trường Tín không chiếu đến, ngồi bất động không nhúc nhích.

Trong Á Xá chỉ có cây nhang đen trong lư hương Long Bác Sơn bằng vàng ròng đang yên lặng nhả khói, những làn khói lượn lờ bay lên trong tĩnh lặng giữa bầu không khí.

Ngồi im lìm thật lâu thật lâu trong bóng tối, Lục Tử Cương cuối cùng cầm điện thoại di động lên, bấm một số điện thoại, đối phương qua một lúc lâu mới nghe máy. Vì Á Xá thực sự quá yên tĩnh, cho nên khi điện thoại kết nối, những tạp âm của bên kia cũng cùng lúc vang lên với giọng nói của đối phương.

"Lục Tử hả! Sao thế? Không phải hai tiếng nữa mới tới giờ sao?". Bác sĩ vẫn luôn nói lớn giọng như thế.

Lục Tử Cương cầm điện thoại cách xa ra một chút, nói với vẻ không tự nhiên: "Lần trước chẳng phải la bàn bị lỗi, chúng ta bị kẹt lại ở triều Minh mấy ngày mới về được sao? Để phòng ngừa chẳng may, vẫn nên tạm thời ngưng sử dụng, tôi cần tính lại một chút phương vị địa bàn trên la bàn đã".

"Thế cũng được! Lúc nào có thể dùng lại thì nhớ gọi tôi đấy! Vừa khéo tôi đang tăng ca bên cấp cứu nên cũng chẳng đi được". Bác sĩ trả lời rất dứt khoát, đi xuyên thời gian không gian là chuyện ở tầm to tát lớn lao, đương nhiên phải toàn vẹn thì mới có thể tiến hành, nếu không ngộ nhỡ một đi không trở lại, bác sĩ không muốn xa điều hòa không khí và điện thoại di động một chút nào cả. Hơn nữa, ngoài lý do chủ tiệm mấy tháng trước đột ngột không biết đi đâu nên lòng nóng như lửa đốt ra, hiện tại anh cũng dần dần nhìn thông rồi. Anh có thời gian, anh có thể bỏ ra được, thậm chí anh còn nghĩ đến việc sẽ dừng kỳ nghỉ phép của năm nay, đi đến những danh lam thắng cảnh trong nước, nói không chừng còn thực sự có thể tìm được manh mối gì đó.

Lục Tử Cương mặt không biểu cảm ngắt điện thoại, thở hắt ra một hơi rất dài, sau vài giây im lặng, liền bắt đầu hành động.

Lấy ra một bộ áo dài bằng vải xanh của thời Minh, rồi soi gương đeo tóc giả xong xuôi, cẩn thận đặt đôi vòng ngọc trên vải gấm vào một chiếc hộp gấm rồi nhét vào trong lòng. Chuẩn bị tất cả xong xuôi, Lục Tử Cương mới lôi la bàn Lạc Thư Cửu Tinh ra, tỉ mỉ dịch chuyển kim châm trên mặt la bàn.

Anh đã ghi nhớ góc độ trong lòng từ lâu rồi, cũng nhẩm hàng trăm hàng ngàn lần trong đầu, sao có thể dịch sai kim được, nhưng anh vẫn nín thở, lòng bàn tay toát mồ hôi.

Đúng thế, anh thực sự đã có những suy nghĩ không nên có.

La bàn Lạc Thư Cửu Tinh có năm mươi hai tầng, tầng nhiều nhất có 384 ô, nếu là người không hiểu, chắc chắn nhìn thấy hai mắt sẽ nổ đom đóm, còn Lục Tử Cương lúc bắt đầu cầm trong tay đã cảm thấy cực kỳ nhói tay.

Nhưng sau vài lần quay về quá khứ, anh đã nhớ góc độ dịch chuyển và triều đại trở về tương ứng, đã nắm được quy luật của nó. Cho nên, mấy tháng trước, anh thực sự có thể dẫn bác sĩ quay trở lại mấy tháng trước, tìm được xem rốt cuộc chủ tiệm ở đâu.

Nhưng anh đã không làm như vậy, nếu chủ tiệm trở về, anh đừng hòng được sử dụng la bàn Lạc Thư Cửu Tinh nữa.

Trong cuộc đời mỗi con người đều có chuyện cũ phải hối hận, anh cũng có chuyện muốn quay về quá khứ.

Lúc ban đầu, anh không hề có suy nghĩ này, chỉ là có ý tưởng làm thử vài lần để đảm bảo hơn, để bản thân dẫn bác sĩ đi qua đi lại giữa các triều đại. Vì anh biết, cho dù anh về quá khứ, thì đều không thể làm gì, mà chỉ có thể làm một người đứng bên quan sát, không thể thay đổi lịch sử. Nhưng sau khi bác sĩ cứu thiếu niên Dân Quốc nọ, anh không phát hiện có gì bất ổn cả, tuy ngoài miệng vẫn cứ là phản đối, nhưng cách nghĩ trong lòng lại dần dần thay đổi.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Đồng Hồ Bản Sao

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Cho nên trong lần xuyên không về quân doanh của Thích thiếu tướng quân tháng trước, Lục Tử Cương cũng mang tâm lý này, không thực sự quyết liệt ngăn cản bác sĩ cứu người.

Mà trở lại hiện tại được một tháng rồi, không có gì bất ngờ xảy ra cả, có lẽ những người họ đã cứu đó chỉ là những kẻ vô danh tiểu tốt trong lịch sử, căn bản sẽ không ảnh hưởng đến phương hướng của lịch sử.

Thế thì, anh có thể ôm chút hy vọng rồi chăng?

Lục Tử Cương bỏ tay khỏi kim la bàn, la bàn lóe lên một luồng ánh sáng trắng, mang theo nỗi thấp thỏm đầy mong chờ, anh chậm rãi nhắm mắt lại.

2

Năm thứ hai mươi mốt niên hiệu Gia Tĩnh triều Minh, kinh thành.

Hạ Trạch Lan ấn ấn vào túi thơm hơi gồ lên ở phần eo, trên gương mặt thanh tú không kìm được nở nụ cười rạng rỡ, vốn dĩ nhận lời Lý công công làm một bàn tiệc đồ ăn Tô Châu, nhưng cái gã mà phường Niễn Ngọc Tác muốn mời kia vì nàng nên đã bỏ đi trước, ngược lại nàng không cần nấu cơm nữa.

Không cần vất vả một buổi chiều mà cũng có thể nhận được khoản thù lao hậu hĩ, là ai thì cũng cảm thấy đúng là miếng bánh từ trên trời rơi xuống.

Nghĩ đến cái tên thợ ngọc hơi ngốc nghếch kia, ý cười bên khóe môi Hạ Trạch Lan lại càng sâu thêm. Có thể mời miễn phí một thợ ngọc có kỹ thuật cao siêu điêu khắc khối ngọc của nàng, thu hoạch hôm nay của nàng quả thực không nhỏ chút nào.

Hạ Trạch Lan đeo cái túi nhỏ bên trong có gói Côn Đao lên, từ sân nhỏ của phường Niễn Ngọc Tác đi ra. Tuy lần này không có người dẫn đường cho nàng, nhưng nàng vẫn dựa vào trí nhớ đi khỏi phường Niễn Ngọc Tác giống như mê cung này. Lúc đi ra qua Ngự Dụng Giám sát vách vẫn còn sáng đèn, nhìn thấy đám thợ thuyền đang chuẩn bị chế tác trước thời hạn các loại đèn Ngao Sơn, đèn hoa và đèn lồng xoay. Vào dịp từ hai mươi tư tháng Chạp đến mười bảy tháng Giêng hàng năm kinh thành đều tổ chức lễ hội đèn lồng, đèn lồng ngự dụng của toàn bộ kinh thành hoàng cung đều là do phường Ngự Dụng Đăng Tác phụ trách, tuy hiện tại vẫn còn hai tháng nữa mới đến cuối tháng Chạp, nhưng những người thợ này đã bắt đầu bận rộn.

Chỉ cần nhìn thấy những giấy đèn và lụa mỏng màu đỏ đó là đã khiến người ta khoan khoái từ tận đáy lòng. Hạ Trạch Lan nuông chiều bản thân dừng bước ngắm nghía một lúc, bấy giờ mới hài lòng quay người rời đi.

Giờ trời đã tối lại không có việc gì làm, thế thì quay về Thượng Thiện Giám là hợp lý nhất, Hạ Trạch Lan vừa đi vừa nghĩ. Trong các cung uyển của hoàng cung đều có một gian bếp nhỏ, người của Thượng Thiện Giám cũng dần dần thay phiên nhau đến làm việc ở các nhà bếp nhỏ. Buổi tối hôm nay có lẽ nàng đến lượt tới chỗ của Đoan phi nương nương, nhưng vì nhận việc của Lý công công, nên nàng đã đặc biệt đổi ca cho Ngọc Mai, giờ này quay về, nói không chừng cũng không cần làm phiền đến Ngọc Mai.

Nhẩm tính hai lạng bạc dư ra trong túi có thể mua thêm vài bộ đồ ấm cho mùa đông sắp tới, Hạ Trạch Lan rảo nhanh bước đi vào cánh cửa lớn của Ngự Dụng Giám, ở eo nàng còn giắt yêu bài của Thượng Thiện Giám, cho nên thủ vệ của Ngự Dụng Giám không làm khó nàng. Hạ Trạch Lan vừa mới bước chân qua bậu cửa của cánh cửa lớn Ngự Dụng Giám thì nhìn thấy có một người đứng xa xa ở đối diện bên kia đường, ánh mắt đối phương nhìn nàng rực sáng, cho dù nàng muốn làm lơ cũng không thể làm được.

Đó lại chính là gã thợ ngọc vừa mới bỏ đi mất ban nãy, hơn nữa rõ ràng là đang đợi nàng.

Hạ Trạch Lan lập tức đi qua đó, tò mò ngẩng đầu nhìn hỏi: "Lục đại sư, sao huynh lại ở đây? Có phải huynh muốn quay về tìm ti chính không?" Hạ Trạch Lan cảm thấy biểu cảm của đối phương rất kỳ quái, nàng cũng cảm giác quần áo đối phương đang mặc không phải là bộ ban nãy, chỉ là màu sắc na ná nhau thôi, nhìn kỹ thì hoàn toàn khác. Lẽ nào đã quay về thay bộ quần áo khác?

"Không cần gọi ta là Lục đại sư, gọi ta là Lục đại ca là được rồi. Ừm... ta.. "Người thợ ngọc trẻ tuổi nhất thời lóng ngóng, trên gương mặt tuấn tú bỗng nhiên đỏ hồng.

Hạ Trạch Lan ngẩn người ra một lúc, lúc nãy hai người ở riêng với nhau trong nhà bếp, cũng không thấy người này dễ dàng xấu hổ như thế! Nhưng ngay lập tức Hạ Trạch Lan liền phát hiện tư duy của mình có vấn đề, thế nào gọi là ở riêng với nhau, trai đơn gái chiếc, may mà không có ai nhìn thấy, nếu không danh tiết của nàng sẽ ra sao? Nàng lại nghĩ tới ban nãy nàng chủ động đi tới tìm hắn nói chuyện, bất chợt hai má cũng đỏ lựng lên. Ở nơi đông đảo mọi người, cho dù Hạ Trạch Lan có qua loa đại khái hơn đi chăng nữa thì cũng cảm thấy không ổn.

Ai bảo Thượng Thiện Giám đều không phải là phụ nữ mà là các ông chú, những gã đàn ông trẻ trung một chút mà nàng có thể tiếp xúc phần nhiều đều là thái giám, cho nên nàng không hề có khái niệm nam nữ thụ thụ bất thân.

Hai người đứng trước cửa lớn Ngự Dụng Giám nhìn nhau đỏ mặt cũng chẳng phải là chuyện gì ghê gớm! Hạ Trạch Lan cúi đầu định mau mau gật đầu chào hỏi rồi đi, nhưng không ngờ gã thợ ngọc lại mở miệng trước.

"Xa quê gặp người quen chính là một trong bốn chuyện vui lớn của đời người, cô nương có thể cho phép tại hạ mời một bữa được không? Vì... bữa cơm rang trứng của mười năm trước?"

Hạ Trạch Lan sững sờ, nhìn gã thợ ngọc có gương mặt tuấn tú trước mặt, càng nhìn lại càng thấy quen mắt, nhớ đến Á Xá mà hắn vừa nhắc tới, khẽ "a" lên một tiếng: "Huynh chính là tiểu ca ca nhà bên đó?"

Gã thợ ngọc trẻ trung chậm rãi gật gật đầu, ánh mắt trong veo chất chứa hàm nghĩa phức tạp mà Hạ Trạch Lan nhìn không thấu.

"Trời ạ, không ngờ lại trùng hợp như vậy!". Xác nhận thân phận của hai người rồi, Hạ Trạch Lan cũng không kìm nổi kinh ngạc than rằng duyên phận thật diệu kỳ, cũng hiểu được tại sao trước đó khi gã thợ ngọc nhìn thấy khối ngọc trên cổ nàng lại xúc động như vậy, còn chủ động đòi đem về để điêu khắc, hóa ra họ chính là người quen cũ!

Hai bên đã tỏ rõ thân phận, sự bối rối vừa nãy đã bị quét sạch trơn, Hạ Trạch Lan nghĩ một lúc, cảm thấy cơ hội hiếm có, dẫu sao nàng cũng đã đổi ca với Ngọc Mai, chẳng thà thư giãn một lúc, dẫu sao lần sau cũng có thể làm thay Ngọc Mai một lần.

Nhưng khi nàng gật đầu đồng ý thì biểu cảm trên gương mặt của gã thợ ngọc trẻ tuổi bỗng ưở nên cứng đờ.

Nhìn thấy hắn cuống quýt sờ tới sờ lui trên người, Hạ Trạch bèn hiểu ra, hắn thay y phục gấp như thế, không mang theo túi tiền.

Hạ Trạch Lan khóc dở mếu dở, như thế này mà cũng muốn mời khách sao? Nàng lườm hắn một cái, vỗ vỗ vào túi thơm giắt ở eo mình, khẳng khái nói: "Bữa này để muội mời đi!".

3

Địa điểm Ngự Dụng Giám của phường Niễn Ngọc Tác là ở phía Tây Nam bên ngoài cổng Tây Hoa, nơi đây sau năm trăm năm sau, chính là chỗ Lục Tử Cương thường xuyên dạo chơi trong thời gian thực tập ở Bảo tàng Quốc gia, Tây Đơn của kinh thành Bắc Kinh. Địa điểm của Ngự Dụng Giám rất rộng rãi, từ miếu Chân Võ của vành đai số hai Phục Hưng Môn Bắc Kinh, cho đến một vùng Tiền Môn, đều thuộc về phạm vi của Ngự Dụng Giám, phía Đông là Ngoại Khố và Đại Khố, phía Tây là Hoa Phòng Khố, phía Nam là Băng Ấm Khố, bên trái bên phải có bốn phường Mộc Tất Tác, Niễn Ngọc Tác, Đăng Tác và Phật Tác.

Lục Tử Cương còn nhớ hơn năm trăm sau anh từng đến miếu Quan Đế ở đường Tiền Môn Đông, đều là di chỉ cũ của Nam Khố thuộc Ngự Dụng Giám, liền cảm thấy thế sự đổi thay, thực sự khiến người ta khó lòng tin được.

Những gì hiện tại anh quan sát thấy, đều là những tòa kiến trúc cổ tinh tế và bắt mắt của những năm Gia Tĩnh triều Minh, còn những người đi ngang qua mình, đều đã là người thiên cổ. Theo lý mà nói anh đã xuyên thời gian được mấy lần, đáng nhẽ không có bất cứ cảm giác khó thích nghi nào, nhưng không có một lần nào anh nhàn tản tự tại đi dạo trên đường phố cổ đại giống như thế này, hơn nữa cảnh tượng còn không khớp với thành phố Bắc Kinh tương lai trong lòng mình, loại cảm giác này, thực sự không cổ cách nào diễn tả với người ngoài.

Lúc này đây, thậm chí Lục Tử Cương còn bắt đầu cảm giác nếu như mình và bác sĩ cùng đến thì tốt hơn, như thế còn có thể có đối tượng để châm chọc.

Nghĩ đến đây, Lục Tử Cương bất giác chuyển ngay lập tức ánh mắt nhìn xuống chân mình sang người thiếu nữ đi sau anh nửa bước chân.

Đúng thế, là thiếu nữ, tuy mười tám, mười chín tuổi đối với phụ nữ cổ đại đều có thể lấy chồng sinh con rồi, nhưng đối với Lục Tử Cương, cô ấy cũng mới chỉ là một cô gái vừa tốt nghiệp phổ thông. Trên thực tế, Lục Tử Cương cũng không có suy nghĩ đặc biệt gì với cô gái này, dẫu sao anh biết kiếp trước của mình từng dùng sinh mệnh để yêu thầm cô ấy, nhưng đối với anh của hiện tại, cũng chỉ là chuyện đã xảy ra trong một kiếp, giống như mình đang xem câu chuyện của người khác vậy.

Nhưng anh cũng thực sự thổn thức vì câu chuyện này. Từ đầu chí cuối, anh của kiếp trước đều không biết tên cô ấy, còn thiếu nữ cũng không biết đã từng có một người coi nàng là ánh sáng duy nhất trong cuộc đời. Điều này cũng trực tiếp dẫn đến bao năm nay, trong những giấc mơ không ngừng lặp đi lặp những cảnh tượng của kiếp trước, ngay cả một số chi tiết cũng đều nhớ đến rõ ràng, thậm chí kỹ thuật điêu khắc ngọc của kiếp trước cũng luyện thành trong thời gian mấy tháng. Điều này rõ ràng... giống như bị cưỡng ép chịu đựng một mảnh đời khác.

Sau khi vừa mới thôi việc và làm thay (chủ tiệm) ở Á Xá, anh cố ý đi tìm đại sư hỏi, rõ ràng khi bác sĩ tìm lại ký ức kiếp trước thì không như vậy, còn anh tại sao lại như thế này?

Đại sư sờ sờ cái đầu trọc lốc nhẵn bóng của ông, giải thích rằng vì bác sĩ chuyển thế với hồn phách không đầy đủ, cho nên không chỉ là mỗi lần chuyển thế đều sống không quá 12 tuổi, có khóa Trường Mệnh bảo vệ cũng chỉ có thể sống đến 24 tuổi, mỗi lần đầu thai đều là vận rủi liên miên, không chỉ là nhà tan cửa nát người chết thì cũng là vắn số đoản mệnh, nói theo cách nói thịnh hành giờ thì đó chính là sao chổi chuyển thế. Tình hình như thế thì tự nhiên sẽ không bị những oán niệm của kiếp trước bám lấy, khi nhìn thấy cảnh tượng của kiếp trước, cũng chỉ hời hợt như khói mây trôi qua mắt mà thôi.

Còn Lục Tử Cương nhớ lại kiếp trước như thế này, thực sự là oán niệm của kiếp trước cực kỳ mạnh, rất khó giải thoát. Lục Tử Cương thừa nhận điều đó đúng, vì anh đã từng nhìn thấy rất nhiều ví dụ, ví dụ như gã họa sĩ mỗi ngày đến Á Xá để vẽ một bức tranh như ngày hôm trước, như gã trạch nam yêu làm vườn mở một tiệm hoa bên góc phố, như đôi tình nhân sinh viên thỉnh thoảng lại đến Á Xá ngồi... Anh không biết còn có bao nhiêu người nhớ lại kiếp trước giống như anh, nhưng anh biết, nếu cho gã họa sĩ đó một cơ hội quay về quá khứ, hắn nhất định sẽ trực tiếp trao ngôi báu cho một người phù hợp, chứ không còn tham luyến ngai vàng cô độc lạnh lẽo đó nữa.

Nhưng tình hình của chính anh lại không giống với những người khác, thiếu nữ đằng sau lưng này kỳ thực là một lần chuyển thế của Phù Tô, vì hồn phách không đầy đủ, cho nên căn bản sẽ không có ký ức của chuyển thế. Cũng có nghĩa là, anh của kiếp trước chỉ có thể có một kiếp này mà thôi, nếu không thể viên mãn, thì chỉ có thể oán hận đến hết đời. Không thể giống như gã trạch nam mở cửa hàng hoa tìm lại người yêu của mình trong kiếp này.

Vì thế khi có la bàn Lạc Thư Cửu Tinh trong tay, một ý nghĩ không thể kiềm chế nổi đã từ từ sinh sôi trong lòng anh.

Kiếp trước của anh chỉ là một thợ ngọc, người anh yêu cũng chỉ là một trù nương bé nhỏ, sự sinh tồn hoặc tử vong của hai người, căn bản không thể thay đổi đến đường đi của bánh xe lịch sử. Tại sao anh không thể làm chút gì đó?

Lục Tử Cương của kiếp trước và thiếu nữ ngẫu nhiên gặp lại nhau ở Niễn Ngọc Tác, vì khối ngọc trước ngực cô ấy nên nhận ra bạn thanh mai trúc mã hồi nhỏ, bèn yêu cầu mang khối ngọc đi để chạm trổ. Có lẽ là trùng hợp, một khi ngọc rời người, thiếu nữ liền gặp phải cung biến năm Nhâm Dần tối hôm đó, vì liên lụy nên bị xử trảm.

Nếu như Lục Tử cương đem khóa Trường Mệnh trên cổ trả lại cho thiếu nữ này, thì liệu có đảm bảo cho nàng có thể sống bình an thêm mấy năm nữa không?

Nhưng những thứ tương đồng giữa hai người chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, nếu chỉ là khoảnh khắc thì còn không gây nhiễu loạn gì, thời gian dài ngộ nhỡ xảy ra loạn thì biết làm thế nào? Lục Tử Cương không dám khinh suất hành động. Anh chỉ muốn ngăn cản thiếu nữ bị cuốn vào vòng xoáy cung biến Nhâm Dần kinh động triều dã đó, nếu có thể thuận tiện làm mối cho cô và anh của kiếp trước, thì há chẳng phải có thể xua tan những oán niệm vẫn luôn đeo bám trong trí óc anh sao?

QUẢNG CÁOAdskeeper

Máy hút rác thông minh đang cháy hàng ngày tết, giảm còn 690k

Làm sạch nhà khi bạn đi vắng, chỉ với 690k xài vĩnh viễn.

Dẫu sao họ cũng chỉ là những nhân vật nhỏ trong lịch sử, chẳng phải vậy sao?

Cho nên anh khắc đôi vòng ngọc đó, muốn tìm cơ hội tặng cho thiếu nữ.

Vòng ngọc ở thời cổ đại, tương đương với nhẫn trng thời hiện đại. Thời Hán cổ "Định tình thi" viết rằng: "Hà dĩ chí khiết thoát, nhiễu oản song khiêu thoát" (Lấy gì để thể hiện tình cảm thắm thiết giữa hai ta, đeo một đôi vòng ngọc trên cổ tay). Trong đó hai chữ "khiết thoát" trích từ "Thi kinh": "Sinh tử khiết thoát, dữ tử thành thuyết. Chấp tử chi thủ, dữ tử giai lão", mà "khiêu thoát" có nghĩa là vòng tay, là tín vật các cặp tình nhân tặng nhau lúc hẹn ước.

(Trích bài thơ "Kích cổ", Tạ Quang Phát dịch: "Lúc tử sinh hay khi cách biệt, Chẳng bỏ nhau lời quyết thệ rồi. cầm tay nàng hẹn mấy lời, "Sống bên nhau mãi đến hồi già nua")

Anh của kiếp trước chỉ cần nhìn thấy kỹ thuật chạm khắc và dòng lạc khoản này thì sẽ biết được là do ai khắc. Có lẽ tuy không biết tại sao trên đời này lại có một bản thân thứ hai, nhưng anh của kiếp trước vẫn luôn trông coi tiệm Á Xá, có gì quý hiếm cổ quái mà chưa từng thấy đâu, tự nhiên cũng sẽ đoán ra thôi. Lục Tử Cương ấn ấn chiếc hộp gấm trong lòng, tâm tình hơi ổn, anh cũng ngăn cản thiếu nữ quay về cung làm việc, thế thì hiện tại chỉ cần tìm cơ hội đem đôi vòng ngọc này tặng cho nàng là đại công cáo thành rồi.

Trong lúc suy tư, Lục Tử Cương phát giác họ đã đi xuyên qua ngõ rất lâu rồi. Kinh thành xưa nay vẫn có cách nói đông giàu tây quý nam nghèo bắc hèn, phía Đông của hoàng thành thường là chỗ ở của thương nhân, phú quý ngút trời. Mà bách quan để tiện cho việc được tuyên triệu, thường tụ tập ở khu phía Tây thành. Phía Nam nghèo tức là từ Thiên Kiều ở Tiền Môn Ngoại cho đến Vĩnh Định Môn đều là nơi tụ tập của bách tính bình dân tam giáo cửu lưu, mà vùng từ Chung Cổ Lâu kéo sang phía Bắc cho đến Đức Thắng Môn đều là nơi ở của thân quyến của cung nữ và thái giám, những người này luôn bị người khác coi thường, vì thế mới gọi là bắc hèn. Lục Tử Cương biết hiện bọn họ đang ở khu vực phía Tây, đã đi vào chỗ nơi nơi đều là phủ đệ của quan cao, đâu đâu cũng là thâm trạch đại viện, cho dù có tửu lâu thì xem ra cũng cực kỳ cao cấp, có lẽ đến tiền thưởng cho tiểu nhị của quán họ cũng chẳng trả nổi.

Hạ Trạch Lan giới thiệu bản thân một cách đơn giản, Lục Tử Cương chí ít cũng biết họ của nàng rồi, nhưng khuê danh thì không tiện hỏi quá kỹ càng. Ở thời cổ đại, khi thực hiện tam thư lục lễ trước lúc đính hôn mới có thể hỏi đến tên tuổi, còn anh chỉ là một người đàn ông bên ngoài ngẫu nhiên gặp gỡ, đối phương chịu nể tình mời anh ăn một bữa cơm là đã không phù hợp với lễ giáo rồi.

(Tam thư là: sính thư, lễ thư và nghênh thư. Lục lễ là toàn bộ quá trình từ cầu hôn đến lúc kết hôn)

May mà ở triều Minh tuy quản chế với nữ giới rất nghiêm, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi các tiểu thư phu nhân của các gia tộc lớn, còn nữ giới của bình dân bách tính cũng phải vì kiếm sống mà xuất đầu lộ diện. Cho nên Lục Tử Cương và Hạ Trạch Lan gần như không sóng vai với nhau đi trên đường, cũng không gây nên sự chú ý của quá nhiều người.

Hạ Trạch Lan sau khi xóa bỏ nỗi thẹn thùng lúc đầu bèn bắt đầu giới thiệu phong cảnh kinh thành dọc đường, vì nàng biết anh chàng thợ ngọc trẻ tuổi bên cạnh mình vừa tới kinh thành chưa lâu.

Có người làm hướng dẫn viên, Lục Tử Cương cầu còn chẳng được, nhưng anh nghe mà cảm thấy có gì đó sai sai.

"Ai da, món chân giò lợn hầm tương của Thiên Phúc Trai làm quá ngấy và rất mặn, chắc chắn sẽ không hợp với khẩu vị người miền Nam chúng ta".

"Bánh nướng ngọt nhà này làm cũng khá, nhưng buổi sáng ra đến ăn thì khá ngon, còn buổi tối ăn bình thường".

"Món vịt quay của Hồng Phong lâu ngon, nhưng phải đặt trước một ngày mới được, hôm nay chắc chắn không kịp rồi".

"Món lẩu dê của Thái Đức Phúc cũng tạm, nhưng vị tanh vẫn còn nồng lắm, muội sợ huynh không quen".

Suốt dọc đường đi Lục Tử Cương toàn nghe Hạ Trạch Lan lải nhải đánh giá những quán ăn ven đường, cuối cùng cũng nghe ra, đây tuyệt đối chính là cùng ngành thì hay chê nhau... Hạ Trạch Lan vừa nói lại vừa cân nhắc trong lòng. Thỉnh thoảng nàng lén liếc khuôn mặt nghiêng khôi ngô sáng sủa của anh chàng thợ ngọc trẻ tuổi, bỗng nhớ ra tin đồn nghe được bên chỗ Lý công công trước đó. Nghe nói anh chàng thợ ngọc mới đến từ Tô Châu này, tuy đã hơn hai mươi tuổi, nhưng không có gia quyến đi cùng.

Không có gia quyến, lẽ nào là chưa lấy vợ?

Hạ Trạch Lan theo thói quen đưa tay lên sờ sờ khối ngọc ở cổ qua lần áo, trên tay lại trống rỗng, mới nhớ ra mình đã đưa khối ngọc cho người trước mắt để chạm khắc. Lại đưa tay sờ túi thơm giắt ở eo, Hạ Trạch Lan cắn răng nặn ra một nụ cười: "Lục đại ca, để thể hiện thành ý, muội mời huynh về nhà ăn cơm nhé!".

Lục Tử Cương sửng sốt vì được ưu ái, quả thực không biết con đường này đi như thế nào, cho đến khi anh đứng bên ngoài một quán ăn nhỏ đắt khách, rồi lại nhìn trái nhìn phải.

Chà... nếu như anh không nhớ nhầm, hơn năm trăm năm sau, chỗ này mở một cửa hàng KFC...

Mười năm trước Hạ Trạch Lan cùng cha mẹ vào kinh, khi đó tình cảnh gia đình nàng vẫn còn khấm khá, cha mẹ dùng tiền tích lũy mở một quán ăn nhỏ ở gần Tiền Môn, chủ yếu kinh doanh đồ ăn Tô Châu và đồ ăn Hoài Dương. Vì tay nghề chính thống, đồ ăn vừa ngon vừa rẻ nên cũng có chút tiếng tăm. Đáng tiếc cảnh đẹp chẳng dài lâu, cha nàng vì làm việc vất vả sinh bệnh nên đã sớm qua đời, mẹ nàng cũng bị đau buồn quá độ nên rời khỏi nhân gian, chỉ còn lại mình Hạ Trạch Lan trên đời.

Hạ Trạch Lan vốn nên làm theo di mệnh của cha mẹ, đưa quan tài về quê rồi ở lại Tô Châu, nhưng họ hàng phần nhiều xa cách, Hạ Trạch Lan cũng không muốn bị họ sắp đặt lấy mấy đám mù điếc, nên sau khi an táng cha mẹ liền quay trở lại kinh thành. Nàng một mình không quản lý được một quán ăn, nên cho thuê cửa tiệm, còn mình nhờ vào tài nghệ khéo léo mà được triệu vào làm trù nương của Thượng Thiện Giám. Vì song thân đã qua đời, không có ai quản chuyện hôn nhân của nàng, sống một mình tiêu dao tự tại biết bao nhiêu.

Đương nhiên, thường có những bà mối cạnh nhà nhiệt tình đến đàm phán giới thiệu, Hạ Trạch Lan luôn khéo léo từ chối, dẫu sao thì nàng một thân một mình ở kinh thành, không người thân thích, những bà cô đó thì có thể giới thiệu được mối gì tốt cho nàng chứ? Thà rằng ít mà chất, cho dù cả đời không lấy chồng thì cũng chẳng có gì không tốt, đây chính là điều mà Hạ Trạch Lan đã hạ quyết tâm từ lâu.

Chỉ là, hiện tại quyết tâm này, cũng có hơi hơi lung lay rồi.

Hạ Trạch Lan mặt không đổi sắc dẫn Lục Tử Cương đi vào quán ăn nhỏ mà nàng đã cho thuê, vì sắp tới giờ ăn tối, nên lượng khách khá nhiều, họ đi vào cũng không có mấy người để ý tới.

Lục Tử Cương theo nàng đi qua phòng ăn rồi vòng qua bếp một cách quen đường thuộc lối, sau đó lại đi vào một tiểu viện chật hẹp. Tiểu viện này chất đầy rau dưa đã phơi khô, rồi nấm hương, cà rốt xắt sợi và cải thảo đã cắt xếp thành chồng, còn có những xâu ngô màu vàng óng treo rủ xuống, hòa trộn thành một mùi thơm ấm tràn tới.

Hạ Trạch Lan thấy ánh mắt Lục Tử Cương hướng đến ngô, liền vội vàng giải thích: "Đây là "ngọc thục thử", từ nước ngoài nhập về, nghe nói rất dễ bảo quản, rất nhiều người kiếm ăn trên biển đều thích ăn thứ này. Đây là loại thực vật vừa dễ trồng lại có sản lượng cao, gần đây kinh thành cũng rất ưa chuộng, lúc nhàn rỗi muội cũng nghiên cứu một số món ăn mới từ "ngọc thục thử"".

Lục Tử Cương nghe mà sững người, mới nhớ ra ngô có nguồn gốc từ châu Trung Mỹ, là loại lương thực chủ yếu của người Ấn Độ, khi Colombo phát hiện ra đại lục châu Mỹ, rồi du nhập vào Trung Quốc trong những năm Gia Tĩnh, nhưng phải đến thời kỳ triều Thanh nó mới được trồng trên phạm vi rộng. Chính vì thời gian sinh trưởng của ngô và lúa mì vụ đông giao nhau, nên khu vực miền bắc phụ cận lưu vực sông Hoàng Hà, có thể trồng xen canh gối vụ với lúa mì vụ đông, đạt được một năm hai vụ, trở thành lương thực chủ yếu của dân số tầng lớp dưới, đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu mà dân số Trung Quốc mau chóng tăng trưởng sau thế kỷ XVIII. Cho nên, ngô còn được người trên thế giới gọi là một loại cốc ngoài ngũ cốc, có thể thấy được tầm quan trọng của nó.

Nghĩ đến đây, Lục Tử Cương không kìm được nói: "Ngô luộc chín rồi ăn hoặc là chiên lên ăn cũng rất ngon, hầm canh thịt hoặc cán thành mì ngô, tách hạt xào rau, hoặc là thêm dầu và bột mì làm thành bánh ngô rán cũng rất ngon".

"Hả?" Hạ Trạch Lan mời Lục Tử Cương về để làm cơm cho anh ăn, cũng là có ý để anh nếm thử loại ngọc thục thử quý hiếm này, kết quả đối phương lại còn am hiểu hơn cả nàng. Hạ Trạch Lan sau khi nản chí thì lại phấn chấn lại, hỏi cặn kẽ làm bánh ngô như thế nào, liền chọn hai bắp ngô rồi chui vào gian bếp nhỏ trong tiểu viện.

Lục Tử Cương cũng không bước vào trong nhà, mà đứng ở bên ngoài, giúp Hạ Trạch Lan làm một số việc vặt theo chỉ thị của nàng, như xách nước, lựa rau... Căn bếp nhỏ của Hạ Trạch Lan tuy có nhỏ hơn bếp của Niễn Ngọc Tác rất nhiều nhưng đồ dùng đều đầy đủ, trong đó chum vò rất nhiều, rõ ràng đều là của cải riêng tư của Hạ Trạch Lan.

Lục Tử Cương chưa từng biết nấu nướng lại cổ trình tự công đoạn rắc rối như thế, vì nhà bếp hiện đại đều là máy móc tự động hoặc là bán tự động, lúc này tận mắt chứng kiến cách nấu nướng của thời cổ, mới cảm thấy thần kỳ vô cùng. Đến lúc nấu cơm phải cho bao nhiêu củi cũng cần phải cẩn thận tỉ mỉ, bóng dáng thướt tha bận rộn trong nhà bếp đó, lại càng giống như đang chế tác một tác phẩm nghệ thuật, nhất cử nhất động đều tràn đầy sức hút khiến người ta không thể rời mắt, và mùi thơm nức mũi tỏa ra bốn phía càng khiến người ta vĩnh viễn khó quên.

Hai người kê một chiếc bàn tròn ở trong sân, đợi đến khi sắc trời hơi tối hẳn mới bày lên một bàn ăn khá là phong phú.

Bốn con cua sông đã được hấp chín đỏ au, sườn ngũ vị sốt cay, bánh ngô vàng ruộm giòn tan, lươn sốt tương đen, còn có một nồi đất hầm thịt cua viên hầm cách thủy, màu sắc hương vị đều đầy đủ, khiến người ta thèm rỏ dãi. Lục Tử Cương giúp nàng sắp bát đũa xong, liền ngồi ngay ngắn trước bàn ăn chịu đựng giày vò, lúc này anh mới nhớ ra mình đã vì căng thẳng trước lúc quay về quá khứ nên hôm nay chưa ăn tí gì vào bụng.

Hạ Trạch Lan rửa sạch tay, đi vào nhà thay bộ y phục đầy dầu mỡ ra, khi trở ra đã thay một bộ váy xanh lục, lại khoác ngoài một cái áo khoác bối tử tay rộng màu vàng phơn phớt, chỉ điểm xuyết một dải hoa đào màu hồng phớt ở trên vạt áo để trang trí, và cổ áo chạy thẳng xuống vạt áo, càng tôn lên vóc dáng thanh tú và gương mặt xinh đẹp của nàng, làn da không chút son phấn kiều diễm như hoa đào hoa mận, Lục Tử Cương nhất thời nhìn ngơ ngẩn.

Có một khoảnh khắc như thế, Lục Tử Cương bỗng hơi đố kỵ với bản thân của kiếp trước.

Xinh đẹp, dịu dàng, phóng khoáng, nấu ăn ngon. Một cô bạn gái như thế này ai mà chẳng muốn có! Thật sự là ra được phòng khách, vào được nhà bếp, vợ chồng hòa thuận.

Hạ Trạch Lan cũng chú ý tới ánh mắt nóng bỏng của anh chàng thợ ngọc trẻ tuổi, bước chân nàng hơi ngừng lại trong giây lát, rồi hạ thấp rèm mi, đặt một vò rượu nhỏ trong lòng xuống mặt chiếc bàn tròn. Khi ngẩng đầu lên đã lấy lại nụ cười mỉm mọi khi, chỉ là trên gò má mang theo sắc ửng hồng. "Đây là một vò rượu hoa quế muội xin từ chỗ Ngự Trà Phòng về, vừa khéo lại rất hợp với lúc ăn món cua viên này. Những người ở kinh thành này không thích ăn cua, chỗ này là bốn con cua đực của quán cơm phía trước bớt lại, bây giờ ăn là lúc vừa béo nhất, đúng là hời cho huynh rồi đấy".

Lục Tử Cương biết đây chỉ là những lời khách sáo của Hạ Trạch Lan, cua sông tháng Mười, chính là lúc đắt nhất trong một năm, bốn con cua này, một con cũng to hơn nắm đấm của một người đàn ông trưởng thành, giá tiền một con cũng còn đắt hơn cả những món ăn khác trên bàn này. Anh cũng không hỏi nhiều làm gì, cầm lấy vò rượu đó, mở lớp bùn niêm phong trên miệng vò ra, một mùi rượu thơm nồng lay động tâm can mau chóng bay khắp tiểu viện.

Rượu rót vào chén sứ trắng hiện rõ màu hổ phách, uống vào miệng có ví êm êm tươi mới, ngọt ngào mà thanh khiết, còn lẫn cả hương hoa quế, thơm nồng đến tận môi răng. Tuy ủ rượu là công việc của Lương Uấn Thử, nhưng Ngự Trà Phòng cũng quản cả trà rượu để dâng lên vua và dùng ban thưởng, vò rượu hoa quế nhỏ này cũng là do Hạ Trạch Lan may mắn giữ lại được. Nàng lại không phải là người thích uống rượu, cho nên mới giữ được đến tận bây giờ.

Nhìn biểu cảm tán thưởng một cách không chút giấu giếm và động tác nâng đũa như bay của chàng thợ ngọc trẻ tuổi, trái tim đầu bếp của Hạ Trạch Lan đã vui vẻ thực sự. Bữa cơm tối này của nàng tuy nhìn thì đơn giản, nhưng dầu thơm, tương ngọt, chao, xì dầu, dấm... sử dụng để nấu đều là tự tay nàng khéo léo chế ra, không kém gì đồ ngự dụng của Chưởng Hải Thử trong cung, những món ăn nấu ra cũng ngon hơn bình thường rất nhiều. Ví dụ như đĩa cua hấp kia, hước đó nàng vẫn luôn dùng vải ướt thấm đẫm rượu nếp rồi phủ lên, lại nuôi chúng mấy ngày, để cua xả hết những chất cặn bã trong cơ thể ra, vốn định để mỗi ngày ăn một con, kết quả lại gặp phải gã oan gia này, nên đành xử lý một thể. Trong lồng hấp còn lót lá sen và lá tía tô, trong bụng cua còn nhét ít hạt tiêu để khử tanh, lại thả thêm mấy bông hoa cúc cánh kim màu trắng vào lồng hấp, chỗ cua hấp hoa cúc này ở Hồng Phong lâu có thể bán đến ba lạng bạc trắng.

"Đắt đỏ như thế này, đúng là khiến cô nương phá sản rồi".

Hạ Trạch Lan sững người một lát, sau đó hận bản thân không thể chui ngay xuống gầm bàn, không ngờ nàng lại vô tình nói ra suy nghĩ của mình. Nàng vội vàng lấp liếm nói: "Lục đại ca, huynh đừng bận tâm, huynh giúp muội chạm khắc miếng ngọc đó, muội không trả nổi tiền công cho huynh, đành làm bữa cơm này để bày tỏ tâm ý".

Vào đầu thời Minh, sức mua của bạc vẫn còn khá mạnh, đến giữa thời Minh, một lạng bạc trắng đại khái có thể tương đương với hơn sáu trăm nhân dân tệ của thời hiện đại. Ba lạng bạc cũng gần bằng hai nghìn tệ rồi, đúng là đắt đỏ. Có điều thời cổ giao thông không thuận tiện, cua sông của sông Trường Giang vận chuyển đến kinh thành thực sự chẳng dễ dàng gì. Lục Tử Cương vừa sợ đến líu lưỡi vừa cảm thấy hôm nay mình đúng là có phúc ăn uống, anh dùng tay cầm một con cua thả vào đĩa của Hạ Trạch Lan, cười nói: "Đã nói khắc khối ngọc đó cho cô nương là để đền đáp bữa cơm rang của mười năm trước, bữa này là tại hạ đề nghị mời trước, thực sự thật xấu hổ vì đã để cô nương phải bận rộn rồi".

Hạ Trạch Lan mím mím môi, trong lòng nhen nhóm một nỗi mong chờ, liệu sau đây người ta còn mời nàng đi ăn một bữa không? Có qua có lại như thế này... nhưng nàng lại thấy chàng thợ ngọc trẻ tuổi dùng chiếc khăn bên cạnh lau sạch tay, rồi lấy một chiếc hộp gấm trong người ra một cách nâng niu trân trọng, đặt trước mặt nàng.

"Hạ cô nương, đây là quà tạ lễ bữa cơm này của tại hạ, nhưng hãy đợi tại hạ ra về rồi mới mở ra được không?". Lục Tử Cương nói cực kỳ nghiêm túc.

Hạ Trạch Lan ngước lên đón ánh mắt thâm trầm của anh, trái tim nhảy nhót uỳnh uỳnh trong lồng ngực, chỉ có thể gật đầu đồng ý.

Cứ nói cười như thế, khoảng cách giữa hai người tan chảy như băng tuyết, nhanh chóng phá vỡ luật lệ không nói chuyện khi ăn uống, vừa ăn uống vừa nói chuyện rôm rả. Hạ Trạch Lan rời khỏi Tô Châu đã nhiều năm, tự nhiên cũng mong biết thêm những chuyện về Tô Châu. Cồn Lục Tử Cương tuy không phải là hàng chính hiệu, nhưng do ký ức về kiếp trước của anh còn rõ mồn một trong lòng, nên trả lời những câu hỏi của Hạ Trạch Lan mà không có chút sơ hở nào, và vì trên thực tế anh cũng là người học rộng đa tài, nói năng đều xuất chúng hơn người bình thường, nên lại càng giống người đọc sách mà Hạ Trạch Lan ngưỡng mộ, càng khiến anh trở nên đẹp hơn trong mắt nàng.

Đợi đến khi sắc trời đã tối hoàn toàn, Hạ Trạch Lan châm thêm một ngọn đèn dầu trên chiếc bàn vuông, quán ăn ồn ào tiếng người bên ngoài tường bao của tiểu viện lại càng lại nổi bật sự tĩnh mịch vắng vẻ bên trong tiểu viện, Lục Tử Cương bỗng nhớ đến một vấn đề cấp bách.

Lúc trước anh đã từng lén nhìn tốc độ di chuyển của kim la bàn, tính toán đợi đến lúc kim chỉ quay về đường chữ thập Thiên Đạo chí ít cũng phải đợi đến lúc trời sáng, thế thì buổi tối hôm nay anh ngủ ở đâu?

Trên người không có lấy một quan tiền, không đến ở khách điếm được, lại chẳng có mặt mũi nào mà mượn tiền của Hạ Trạch Lan. Sau khi ăn một bữa toàn sơn hào hải vị cao cấp xong, anh càng không muốn ngủ trên hè phố. Lục Tử Cương suy nghĩ một hồi lâu, cuối cùng quyết định không cần thể diện một lần, uống rượu giả say.

Hạ Trạch Lan khóc dở mếu dở nhìn Lục Tử Cương liên tiếp không ngừng uống rượu hoa quế, cuối cùng sức người không thắng nổi sức rượu đã nằm nhoài ra bàn rồi ngủ mất. Nàng sao lại quên mất không dặn anh ta là rượu hoa quế này rất nặng chứ? Nàng đành thu dọn sạch sẽ một bàn ngổn ngang, sau đó miệng gọi Lục đại ca, Hạ Trạch Lan thử đưa tay lay lay đối phương, nhưng không hề có động tĩnh.

Ánh mắt rơi xuống chiếc hộp gấm còn sót lại trên mặt bàn, Hạ Trạch Lan cắn môi chần chừ một lát, sau cùng vẫn không kìm nổi đưa tay ra cầm lấy. Vào khoảnh khắc mở chiếc hộp gấm đó ra, Hạ Trạch Lan thở hắt ra một hơi lạnh. Cho dù ánh đèn vàng vọt, nàng cũng có thể nhìn ra đôi vòng đó được chạm khắc tinh xảo khéo léo như thế nào, hơn nữa một cặp vòng ngọc chạm rỗng đặt cạnh nhau, còn có ý nghĩa là nguyện làm cây liền cành. Cho dù là một kẻ ngốc, cũng có thể hiểu được tình ý mà đối phương khéo léo gửi gắm trong đó.

Không nén nổi cầm một chiếc vòng ngọc đeo thử vào tay, Hạ Trạch Lan nhìn rõ dấu lạc khoản Tử Cương bên trong vòng, hai má đỏ lựng lên một cách không tự chủ nổi, lẩm nhẩm tự nói: "Tử Cương... Lục Tử Cương...".

4

Lục Tử Cương bị những âm thanh hỗn tạp đánh thức, anh mơ hồ giây lát, mới phát hiện mình vốn định giả vờ say, kết quả lại là thật sự nằm nhoài ra bàn rồi ngủ trong tiểu viện. Khi anh đứng dậy, chiếc chăn dày khoác trên vai trượt xuống, gió thu đêm khuya lập tức khiến đầu óc đang còn hỗn độn của anh tỉnh táo trở lại.

Sắc trời tăm tối, chẳng có nổi một ánh sao le lói, chỉ có một ngọn đèn dầu đang chiếu sáng trên mặt bàn không ngừng nhảy nhót bất an trong cơn gió thu. Lục Tử Cương nghe thấy tiếng vó ngựa phi nhanh bên ngoài đường phố, không kìm được thấp thỏm trong lòng. Ước chừng giờ đã quá nửa đêm rồi, cung biến Nhâm Dần có lẽ đã kết thúc, những cung nữ ám sát hoàng đế Gia Tĩnh đó chắc chắn đã bị bắt cả, lẽ nào còn liên lụy đến người vô tội?

Lục Tử Cương bỗng nhớ ra, kiếp trước của anh tuy không biết tên thực sự của Hạ Trạch Lan, nhưng gã chủ tiệm từng nói với anh, trên tờ danh sách dán ở cổng hoàng thành đó, có tên của thiếu nữ.

Sắc mặt trắng bệch nhớ lại cảnh tượng của kiếp trước, cho dù trang giấy đó không thường xuyên xuất hiện trong hồi ức, nhưng Lục Tử Cương vẫn tìm ra nó trong sâu thẳm ký ức.

Quả thực là có một cái tên mang họ Hạ.

Khi đó, Hạ Trạch Lan chạm vào chiếc vòng ngọc tinh xảo trong hộp gấm, cũng chưa ngủ ngay. Nàng biết mình giữ chàng thợ ngọc trẻ tuổi đó ở lại qua đêm, chắc chắn sẽ bị những người nhìn thấy phỉ nhổ.

Nhưng thế thì đã sao? Chàng tặng cho nàng đôi vòng ngọc này, nàng cũng thích chàng, giữ lễ hay không, chỉ là chuyện giữa hai người, có liên quan gì đến người khác.

Chỉ là nàng thực sự không thể không biết đến liêm sỉ mà dìu chàng vào trong nhà nghỉ ngơi, chỉ có thể đắp cho chàng một chiếc chăn thật dày, rồi ngồi trong bóng tối suy nghĩ kỹ càng. Lúc đó nghe thấy động tĩnh trong sân, nàng bèn khoác áo bước ra ngoài, cúi đầu thẹn thùng muốn giải thích mình không đánh thức chàng dậy.

Nhưng trước khi nàng mở miệng, người đó đã xông đến trước mặt nàng, ấn chặt hai vai nàng, khẩn thiết hỏi: "Hạ cô nương, có phải cô nương tên là Hạ Trạch Lan không?".

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Hạ Trạch Lan cho rằng Lục Tử Cương biết được khuê danh của nàng từ chỗ chủ tiệm Á Xá, nhất thời lại càng thẹn thùng, trong lòng bối rối, chỉ có thể gật đầu loạn xị. Không ngờ, ngay sau đó tay nàng liền bị đối phương tóm, kéo đi ra ngoài tiểu viện. Hạ Trạch Lan kinh hoảng âm thầm kêu gào trong lòng, bấy giờ nàng cũng phát giác ra có nhiều thứ rất lạ, buổi tối kinh thành vẫn luôn yên tĩnh như chết chóc, chỉ những khi xảy ra chuyện lớn mới có thể vó ngựa vang liên hồi, mà khi họ vừa ra khỏi cổng của hậu viện, liền nghe thấy có người hô vang "Cẩm y vệ làm việc, người không phận sự tránh ra!", giọng nói từ quán ăn phía trước truyền tới.

Khi Hạ Trạch Lan nghe thấy giọng nói đó, toàn thân lạnh toát. Cẩm y vệ trong dân gian có nghĩa là địa ngục, hơn nữa nàng nhìn thấy thái độ như sắp gặp đại địch của Lục Tử Cương, liền biết đám cẩm y vệ đó tới vì nàng. Môi run run nàng hỏi mà không dám tin: "Xảy ra chuyện gì vậy?".

Lục Tử Cương vừa chật vật phân biệt đường đi trong bóng tối, vừa khẽ chửi. Cung biến Nhâm Dần là do mấy cung nữ không chịu nổi sự chuyên quyền của hoàng đế Gia Tĩnh, bèn phản kháng, kết quả là không giết chết được hoàng đế Gia Tĩnh, mà còn gặp rắc rối lớn. Hiện tại sự việc cung biến đã xảy ra, chắc chắn hoàng đế Gia Tĩnh đang nổi cơn lôi đình, đương nhiên sẽ điều tra triệt để toàn bộ cung nhân ở cung Đoan phi, Hạ Trạch Lan vốn phải trực ban thì lại không có ở đó, có người khác thay thế, đã bị hoàng đế Gia Tĩnh đang là con chim sợ cong, nghi thần nghi quỷ hạ lệnh bắt giữ.

Làm sao bây giờ? Thủ vệ ở kinh thành dày đặc, cẩm y vệ thì nhan nhản khắp nơi, cho dù Lục Tử Cương có dẫn được Hạ Trạch Lan chạy đến Á Xá tìm chủ tiệm, sau đó e rằng cũng không có cách gì bảo vệ nàng được. Mà chủ tiệm có lẽ đã quen với việc Phù Tô mỗi kiếp đều phải chết vì các loại tai nạn bất ngờ, giống như lúc Hạ Trạch Lan còn nhỏ trao cho nàng miếng ngọc là khoanh tay không quản nữa, hiện tại chắc chắn cũng không nhìn ngó thêm gì.

Dường như nghe thấy tiếng bước chân phía sau lưng, cẩm y vệ chỉ cần xông vào gian tiểu viện đó, là sẽ biết họ vừa mới chạy đi không được bao lâu, tấm chăn anh khoác trước đó vẫn còn hơi ấm. Lục Tử Cương hoang mang nhìn thế giới hơn năm trăm năm trước, một cảm giác bất lực từ tim anh tràn ra, khiến việc hít thở anh cũng thấy nặng nề.

"Lục đại ca... huynh chạy trước đi...". Hạ Trạch Lan thở hổn hển nhỏ giọng nói. Nàng băng tuyết thông minh, biết chắc chắn trong cung xảy ra chuyện, người cẩm y vệ tìm chắc chắn là nàng, chứ không phải Lục Tử Cương vừa mới vào kinh thành. Hạ Trạch Lan cảm thấy người trước mặt dừng bước chân, không khỏi cảm thấy thê lương.

Cũng phải thôi, kiếp này bọn họ vốn dĩ là có duyên mà không có phận.

Hạ Trạch Lan nghĩ một chút, rồi đưa chiếc hộp gấm vẫn ôm trong lòng ra. May mà tối nay nàng vẫn luôn ôm nó không rời tay cho nên mới có thể đem đi cùng. "Lục đại ca, đôi vòng này... vẫn là nên trả lại huynh..." Trong giọng nói của nàng mang theo sự luyến tiếc cực độ, nàng vô cùng thích đôi vòng chạm khắc tinh xảo này, càng thích hơn nữa tình ý hàm chứa của đôi vòng ngọc này.

"Hà dĩ chí khiết khoát, nhiễu oản song khiêu thoát".

Nhưng phút này giây này, nàng không thể không cứng rắn, chỉ có thể thầm than tạo hóa trêu ngươi.

Cảm thấy chiếc hộp gấm đã được người ta cầm lấy, Hạ Trạch Lan cúi đầu, không muốn bị đối phương nhìn thấy vẻ mặt sắp khóc của mình, nhưng phút sau đó nàng lại phát hiện hai bàn tay của mình bị người ấy nắm chặt lấy.

Lục Tử Cương lấy đôi vòng ngọc đó từ trong hộp gấm ra, động tác nhanh nhẹn, đeo lên hai cổ tay của nàng, trên cổ tay nhỏ nhắn trắng nõn nà đeo lên đôi vòng ngọc chạm rỗng cây dải đồng, càng làm nổi bật đôi bàn tay không được coi là mềm mại non tơ đó, nâng niu như châu báu.

"Hà dĩ chí khiết khoát, nhiễu oản song khiêu thoát..."

Nhìn đôi mắt kinh ngạc sửng sốt của Hạ Trạch Lan đang nhìn mình, Lục Tử Cương giơ tay lau những giọt nước mắt tràn ra ngoài khóe mi của nàng, thấp giọng hỏi: "Có đồng ý đi cùng huynh không? Rời khỏi nơi này?"

Anh không muốn lịch sử lặp lại lần nữa, anh phải đánh cược một lần.

Hạ Trạch Lan không biết Lục Tử Cương nói vậy có nghĩa gì, nhưng lại vô thức gật đầu. Rõ ràng đã biết tiếng vó ngựa của cấm y vệ đang lao đến sầm sập như sấm giật, nhưng trái tim nàng lại bình tĩnh trở lại, cho dù kết quả như thế nào, đôi vòng ngọc Song Khiêu Thoát này đã san phẳng nỗi không cam tâm trong lòng nàng.

Nàng im lặng nhìn chàng thợ ngọc trẻ tuổi móc ra một chiếc la bàn từ trong lòng, kéo tay nàng ấn lên la bàn, sau đó la bàn phát ra một luồng ánh sáng trắng chói mắt.

5

Tam Thanh và Minh Hồng đang đánh nhau ầm ĩ trong cửa tiệm Á Xá, Minh Hồng không muốn giam mình ở trong căn phòng tối tăm chật chội nữa, bèn mở khóa từ trong Á Xá bay ra ngoài, còn Tam Thanh thì nổi giận đùng đùng. Từ khi Minh Hồng đến đây, nó cảm thấy mình được trời trao cho sứ mệnh lớn lao và gian khổ là cai quản thằng nhãi Minh Hồng này, lúc này thấy Minh Hồng sắp trốn đi, đương nhiên đuổi theo không tha.

Hai con chim lại túm lấy nhau thành một mớ, may mà chúng đều có linh tính và trí tuệ, biết là đồ cổ trong Á Xá có giá trị liên thành lại không dễ chọc giận, cho nên cực kỳ kiềm chế, không làm vỡ hỏng vật gì.

"Binh!". Một âm thanh lớn đột ngột vang lên, khiến hai con chim đều sợ thót người, vội vàng tách nhau ra, lại thấy Lục Tử Cương đột nhiên xuất hiện trong Á Xá một đầu gối khuỵu xuống đất, chính là tiếng một nắm đấm của anh đấm xuống mặt đất.

Tam Thanh đậu xuống vai Lục Tử Cương, cái đầu nhỏ cọ cọ vào mặt anh như an ủi.

Lục Tử Cương ngồi phịch xuống sàn đất lạnh lẽo, vuốt ve lông vũ mềm mại của Tam Thanh, xoa dịu cảm xúc đau buồn trong tim, rất lâu sau vẫn không có cách nào bình tĩnh trở lại.

La bàn căn bản không có cách nào dẫn Hạ Trạch Lan cùng quay về hiện đại.

Anh không thể tưởng tượng nàng trơ mắt nhìn anh biến mất như thế nào, cơ thể anh biến thành nửa trong suốt, tuy nàng kinh ngạc, nhưng vẫn vui mừng nhìn anh, vì anh có thể trốn thoát mà vui mừng. Còn anh lại không có cách nào cả, cho dù anh có tóm tay nàng như thế nào, cuối cùng cũng chỉ sượt qua cổ tay nàng, đừng nói là hơi ấm bàn tay đó, đến chiếc vòng lạnh giá đó cũng chẳng thể chạm tới được.

Lục Tử Cương cứ thế lặng lẽ ngồi ngây ngốc rất lâu, cho đến khi sắc trời sáng tỏ, ông cụ ở hàng báo sát vách mở đài phát thanh, phát thanh viên giọng chuẩn sang sảng đọc tin tức buổi sớm.

"Ngày hôm qua ở thị trấn Yến Giao Bắc Kinh phát hiện một ngôi mộ cổ triều Minh, khai quật được một số đồ quý, trong đó có một cặp vòng ngọc chạm rỗng hình dải đồng, bên trong có thể thấy lạc khoản Tử Cương rất rõ nét, được các chuyên gia bước đầu nhận định là cặp vòng ngọc hiếm thấy do nghệ nhân chạm ngọc nổi tiếng thời Gia Tĩnh Lục Tử Cương chế tác..."

Lục Tử Cương kinh sợ tỉnh táo trở lại trong cơn mơ màng, vội vã loạng chà loạng choạng đứng dậy, móc điện thoại di động từ trong tủ quầy ra, tìm kiếm thấy một bài báo trên mạng. Khi anh nhìn thấy bức ảnh chụp đôi vòng đó, không khỏi lảo đảo ngồi xuống ghế dựa. Ngoài bị ngả màu do bị chôn trong đất ra, thì từ kiểu dáng đường hoa văn to nhỏ, không có gì khác biệt với đôi vòng ngọc Song Khiêu Thoát mà anh đã đem tặng ngày hôm qua.

Lục Tử Cương ôm đầu khẽ cười một tiếng, không bận tâm đến Tam Thanh đang quan tâm nhảy tới nhảy lui bên cạnh.

Anh không thay đổi lịch sử sao?

Không, ở một mức độ nào đó, vẫn là đã thay đổi.

Chỉ là... đây không phải là sự thay đổi mà anh muốn có...

Quyển 4 - Chương 11: Hương Hành Vu

1

Ngoài cửa sổ tuyết bay đầy trời, trong phòng luyện đan cổ kính đơn sơ vẫn ấm áp như mùa xuân.

Chủ tiệm ngồi trước lò luyện đan cao bằng nửa người, tập trung tinh thần nhìn chăm chú vào ngọn lửa dưới lò. Gã ngồi sát lại cực gần, ánh lửa phản chiếu lên má lên mặt gã, nếu đổi là người khác thì đã bị nóng đến mức không chịu nổi, nhưng trên mặt gã chẳng có một giọt mồ hôi nào chảy ra.

Một bàn tay trắng nõn từ sau lưng gã ló ra, ôm lấy cổ gã rồi kéo về phía sau, một giọng nói mang chút buồn bã truyền đến: "Đừng lại gần quá, ngộ nhỡ bị bỏng lửa thì làm thế nào?"

Gã chủ tiệm chớp chớp mắt, vỗ vỗ vào bàn tay đang níu trên vai gã, an ủi nói: "Không sao đâu, thì sẽ không cảm thấy đau".

"Chính vì ngươi không cảm thấy đau mới là có vấn đề". Một gương mặt đeo chiếc mặt nạ nửa mặt bằng bạc lộ ra khỏi bóng tối, tuy chỉ có nửa gương mặt lộ ra bên ngoài, nhưng vẫn có thể nhìn thấy sống mũi thẳng tắp, hai bờ môi có độ mỏng dày vừa vặn và phần cằm với đường nét tuyệt đẹp của đối phương.

Giọng nói của đối phương cũng êm ái dễ nghe: "Tại sao con người lại cảm thấy đau chứ? Là vì có thể cảm thấy đau, mới có thể bảo vệ tốt bản thân, lần sau sẽ không còn làm những chuyện tổn thương đến bản thân. Ví dụ như bị đao kiếm đâm phải, lần sau khi gặp đao kiếm đâm vào người thì sẽ phải biết cách tránh né. Đã từng bị lửa đốt nên đau, thì khi dùng lửa phải cách xa một chút. Ngươi như thế này không cảm giác được đau đớn, đợi đến khi bị lửa xém đến đầu ngón tay ngươi thì đã muộn mất rồi".

Gã chủ tiệm không còn cách nào đành dùng tay ấn ấn vào huyệt Thanh Minh giữa hai mắt, cùng với việc vứt bỏ được gánh nặng phục hồi đế quốc Đại Tần, Phù Tô ngày càng thích ứng với xã hội này, tính cách của hắn cũng ngày càng trở nên lạc quan vui vẻ hơn. Sau đó thì càng ngày càng thích dạy dỗ người khác, hơn nữa cũng ngày càng lắm lời.

Một năm trước khi bắt đầu rời khỏi Á Xá, gã thực sự muốn đem thân xác của mình đổi cho Phù Tô, nhưng người kia sao có thể đồng ý được? Cuối cùng bọn họ thương lượng một lúc, Phù Tô bèn trả lại thân xác cho bác sĩ, hồn phách thì nương nhờ trên miếng ngọc Thủy Thương, để gã đem đi tìm cơ thể thích hợp. Đương nhiên trong quá trình này, tỉ lệ có đến bảy phần là sẽ hồn bay phách tán.

Có lẽ thật sự là cơ duyên đã khiến gã không lâu sau tìm được một thanh niên trẻ tuổi chết do tai nạn giao thông, đáng tiếc là khuôn mặt lại bị bỏng một phần, nên không được coi là hoàn hảo vô khuyết. Nhưng Phù Tô cũng không phải là người câu nệ vẻ bề ngoài, chỉ là bình thường phải đeo mặt nạ nửa mặt, để tránh dọa người khác sợ.

Sau khi Phù Tô mượn xác hoàn hồn thành công, vì cơ thể này không thích hợp như cơ thể bác sĩ, thỉnh thoảng cũng có phản ứng chối bỏ giữa linh hồn và cơ thể, cho nên hơn nửa năm nay, gã chủ tiệm vẫn luôn chế tạo đan dược cho Phù Tô hy vọng có thể thuận lợi giải quyết vấn đề này.

"Nếu như... sư phụ vẫn còn sống thì tốt quá". Bị cưỡng ép ngồi lùi ra sau nửa mét, gã chủ tiệm nhìn lò đan lửa cháy bập bùng, không kìm được lẩm nhẩm tự nói với mình. Gã từ nhỏ theo học sư phụ không phải là luyện đan, mà là học về bách gia chư tử, nếu sư phụ ở đây, nói không chừng còn có thể luyện ra thuốc trường sinh bất lão... Chủ tiệm nhớ đến đây liền cười tự giễu mình một cái, cho dù sư phụ vẫn còn sống, có lẽ cũng chẳng luyện ra nổi. Linh khí giữa trời đất bây giờ cực kỳ hiếm hoi, những linh thảo linh dược thời cổ đại đó cũng đã tuyệt dấu, thì biết đi đâu gom nhặt những dược liệu để luyện đan đây? Gã từng đi khắp núi cao sông sâu, cũng chỉ tìm được mấy loại thuốc có thể miễn cưỡng cho vào đơn, còn thất bại mấy mất lò.

"Không sao cả, nếu lò này lại thất bại nữa, thì ngươi hãy cùng ta đi mọi nơi, cơ thể này của ta chí ít còn có thể gắng gượng được dăm ba năm nữa, ta đã rất mãn nguyện rồi".

Cuộc sống bình tĩnh hiền hòa như thế này, là điều trước đây hắn hoàn toàn không thể tưởng tượng ra nổi, hắn cố ý nói với một giọng điệu hết sức nhẹ nhàng thanh thản: "Trước đây vì không muốn để công việc của tên tiểu tử thối kia bị vứt bỏ, ta đã vất vả làm việc một năm, thực sự quá mệt mỏi. Gia thế của cơ thể này hình như cũng không tồi, hơn nữa cũng không cần làm việc... Ngươi có thể ra nước ngoài không? Cùng ta đi một vòng các nơi trên thế giới đi".

"Huống hồ ta đã xem những ghi chép trong lịch sử ấy, triều Mình triều Thanh sau này thực sự chẳng ra thể thống gì cả, cái tên họ Chu đó lại dẫn người ngoại tộc vào Trung Nguyên, mà tộc Mãn kia lại càng quái dị, cuối cùng lại bị đám người Man xâm lược, rất nhiều bảo vật châu báu đều bị cướp đi! Khi chúng ta đến những nơi trên thế giới, cũng phải nghĩ cách để đem chúng trở về".

Lần này chủ tiệm lại không chê Phù Tô nhiều lời nữa, gã nhìn ánh lửa nhảy nhót dưới lò luyện đan, nhất thời im lặng không nói gì cả.

Phù Tô cũng không nói gì nữa, hắn khoanh hai tay lại, im lặng ở bên cạnh chủ tiệm. Hắn chỉ là đọc được trong sách lịch sử, còn người bên cạnh hắn đây lại thực sự trải qua những năm tháng động loạn đó, Phù Tô rõ ràng không dám nghĩ kỹ, người này rốt cuộc làm thế nào sống được qua suốt hơn hai nghìn năm đó.

Trong phòng luyện đan luôn tĩnh lặng như thế, cho đến khi trong lò luyện đan nổ lên một tiếng động lớn, chủ tiệm mới nhảy lên, mở nắp lò ra bất chấp cả nắp lò còn nóng, gương mặt mang theo vẻ thất vọng nhìn đám đen sì bên trong lò luyện đan.

Phù Tô lại không bất ngờ, hắn kéo tay chủ tiệm nhúng vào chậu nước bên cạnh, để nước lạnh làm dịu những ngón tay đỏ rộp của gã, miệng ân cần nói: "Đừng như thế, Tất Chi, thiên mệnh như vậy, đừng nên cưỡng cầu".

QUẢNG CÁOAdskeeper

Người sở hữu vật này luôn gặp những điều may mắn khó tin!

Gã chủ tiệm cúi đầu nhìn những ngón tay của mình ngâm trong nước giây lát, rồi lại được Phù Tô kéo ra tỉ mỉ lau khô, bôi thêm một lớp dầu chồn chó. Đầu ngón tay của gã không hề có cảm giác đau đớn, nhưng vẫn cảm thấy trong trái tim có một lưỡi dao đang ngoáy tới ngoáy lui, đau đến mức cơ hồ gã không thốt nổi lên lời.

Nếu là một năm trước, có lẽ gã sẽ không cảm thấy như thế này, nhưng sống chung với Phù Tô sớm tối bên nhau một năm, những ký ức đã chôn giấu ở nơi sâu thẳm lại lần nữa tìm về. Phù Tô là vua của gã, gã nguyện luôn đứng ở phía sau Phù Tô, cho dù phải trả bất cứ giá nào.

Càng huống hồ, gã chỉ là muốn sống tiếp, cho dù là có tính mệnh của một người bình thường cũng chẳng sao cả, dẫu sao thì Phù Tô điện hạ của gã, đang trải qua những năm tháng đẹp nhất của đời người.

"Thần phải quay về một chuyến". Gã chủ tiệm bình thản nói. Sắp một năm rồi, khi ấy ra đi vội vã, sợ linh hồn Phù Tô tiêu tán, cũng không biết đến lúc nào bác sĩ mới có thể tỉnh lại, cho nên gã biến mất đột ngột chẳng để lại gì, cũng nên quay về để chào hỏi.

"Về Á Xá à? Được, ta cùng ngươi về".

Phù Tô thầm thở phào một hơi nhẹ nhõm, hắn sợ Tất Chi lại tốn công vô ích. Cá tính của người này nhìn bề ngoài thì tưởng chừng rất mềm mỏng, nhưng trên thực tế lại cứng cỏi đến mức mười trâu cũng chẳng kéo lại được.

Hắn sờ sờ cái mặt nạ trên mặt, cong khóe môi nói: "Ngươi nói xem chúng ta đi nước nào chơi trước tiên? Này, hay là trước tiên đi Hàn Quốc đi, ta muốn đi phẫu thuật thẩm mỹ, để đỡ phải đeo mặt nạ dọa trẻ con".

Khóe miệng của chủ tiệm co rút hai cái, Phù Tô ở trong bệnh viện một năm, biết phẫu thuật thẩm mỹ cũng khá phổ biến, nhưng gã thực sự không ngờ rằng thái tử điện hạ của Đại Tần lại có cái nhìn thoáng như vậy.

Gã liếc nhìn mái tóc sắp dài đến vai của Phù Tô, cười nói: "Ngài chẳng phải vẫn nói thân thể da tóc là cha mẹ ban cho, không dám hủy hoại sao? Còn muốn phẫu thuật thẩm mỹ? Ngài hãy cắt tóc đi trước đã rồi hẵng nói".

Bàn tay đang sờ mặt nạ của Phù Tô cứng đờ lại, rồi lập tức chạm vào mái tóc ngắn của gã chủ tiệm, tò mò nói: "Tất Chi, ngươi cắt tóc lúc nào vậy? Thời kỳ Dân Quốc à?"

"Có cơ hội rồi sẽ kể cho ngài nghe, chúng ta phải thu dọn để quay về đã". Chủ tiệm đổi chủ đề như thể không có chuyện gì, "Chúng ta phải về Á Xá để lấy một thứ".

"Hả? Thứ gì vậy?"

"Một cái la bàn".

"... Chúng ta ra nước ngoài cũng cần dùng la bàn để định vị sao? Hiện tại GPRS của điện thoại di động dẫn đường cũng rất dễ dùng mà".

"...Đó là GPS, điện hạ".

2

Bác sĩ bước ra khỏi tòa nhà lớn bệnh viện, ánh mặt trời chói lọi hiếm có vào mùa đông trên đỉnh đầu khiến anh vốn đã quen với ánh sáng trong nhà phải nheo mắt lại một lúc. Anh dừng bước chân, gỡ cặp kính xuống day day huyệt Thanh Minh phía trên sống mũi. Anh đang được vào làm bác sĩ chính thức, vừa mới giúp chủ nhiệm thực hiện một cuộc phẫu thuật lớn kéo dài suốt 15 tiếng đồng hồ, ăn tạm một chút đồ ăn, nghỉ ngơi trong phòng nghỉ một lúc, rồi cố gắng bò dậy.

Bởi vì hôm nay là thời gian đã hẹn.

Bác sĩ đeo lại cặp kính, lấy điện thoại ra một lần nữa xác nhận hôm nay đến lượt mình được nghỉ, bèn sải bước đi đến Á Xá.

Lần này la bàn có thuận lợi quay về một năm trước không? Anh thật sự muốn biết chủ tiệm bị Phù Tô đưa đi đâu, tại sao không có lấy một chút tin tức gì...

À... chớp mắt một cái mà đã gần một năm trôi qua...

Khi đến phố thương mại, từ rất xa bác sĩ đã nhìn thấy biển hiệu bên ngoài Á Xá, chẳng có gì khác so với ngày thường, nhưng anh biết, cho dù anh đẩy cánh cửa gỗ khắc hoa nặng nề đó bao nhiêu lần, đều không có cách nào nhìn thấy bóng hình quen thuộc đó.

Bước chân của bác sĩ bất giác chậm lại, sự mệt mỏi của cơ thể khiến tinh thần anh cũng khó mà tránh khỏi trở nên bi quan, có lúc anh cũng không biết sự kiên trì của mình rốt cuộc có đúng hay không, có lẽ chủ tiệm đã kết thúc sự chờ đợi đằng đẵng bao năm qua, cùng với người mà gã luôn mong chờ mai danh ẩn tích, sống một cuộc sống khác.

Nhưng... như thế lại chẳng phù hợp với tính cách của chủ tiệm, về tình về lý mà nói, chủ tiệm đều nên chào anh một câu, mà không phải không để lại một lời nào cứ thế không từ mà biệt.

Cho dù có thể nhìn một cái cũng được, cho dù không thể nói chuyện chỉ có thể đứng bên cạnh nhìn cũng được, anh nhất định phải xác định rằng chủ tiệm vẫn sống tốt trên thế giới này, cho dù về sau không gặp lại nhau cũng chẳng sao.

Bác sĩ lần nữa kiên định suy nghĩ của mình, tăng tốc bước chân tiến về phía Á Xá. Anh hít sâu một hơi đẩy cánh cửa lớn khắc hoa đó, chợt nhìn thấy một người mặc một bộ đồ Trung Sơn cũ kỹ, đang lặng lẽ ngồi đằng sau tủ quầy, nghe thấy tiếng động liền ngẩng đầu lên nhìn về phía anh.

Cảnh tượng như thế này, lại khiến bác sĩ có chút sửng sốt thất thần, nhưng sau khi nhìn kỹ dung mạo đối phương, lại không khỏi có chút hụt hẫng.

"Xin mời... vào". Lục Tử Cương thu lại nụ cười tươi đón chào giả tạo trên gương mặt, cẩn thận đặt cuốn sách trong tay xuống mặt tủ quầy. Đây là một cuốn sách cổ, tuy anh có ký ức của một kiếp, nhưng khi đọc cổ văn bằng chữ phồn thể thì vẫn hơi khó khăn.

"Đến rồi". Bác sĩ cũng không khách sáo với Tử Cương, ngồi trên chiếc ghế dựa hình mũ quan bằng gỗ sưa, một tay cầm bình trà trên quầy, rót trà thẳng vào trong miệng. Nước trà trong bình có độ ấm vừa phải, khiến cơ thể hơi cứng đờ vì lạnh cóng của bác sĩ ấm áp trở lại. Nhưng nói ra cũng kỳ quái, trong Á Xá này chưa bao giờ lắp điều hòa nhiệt độ, nhưng đông ấm hạ mát, cực kỳ thoải mái.

Lục Tử Cương bĩu môi dè bỉu thói uống trà thô lỗ của bác sĩ, thầm nghĩ tay này cũng được gã chủ tiệm kéo về ở bên cạnh dạy dỗ đủ ba, bốn năm rồi, sao không thể rèn luyện ra được một chút khí chất văn nhã nào? Tốt xấu thì cũng phải giống anh, nếu như đóng giả cũng có thể lòe được người ta chứ!

"Chẹp, không ngon bằng trà của chủ tiệm pha". Bác sĩ không hề biết gì về sự châm chọc trong lòng Lục Từ Cương, một hơi uống cạn nước trà trong bình trà, còn chẹp chẹp miệng bình phẩm.

Lục Tử Cương mặt đầy vạch đen, quyết định không thèm so đo với gã này nữa. Anh đặt cuốn sách khâu chỉ trở vào trong hộp gấm, lại sờ sờ lên chiếc khóa Trường Mệnh dưới lần áo, bình tĩnh tuyên bố: "Đúng rồi, từ sau này tôi định không dùng đến chiếc la bàn Lạc Thư Cửu Tinh nữa".

"A?". Bác sĩ sững người, vội vàng truy hỏi. "Cậu lại tìm ra loại la bàn đáng tin cậy hơn à? Thế thì tốt, đỡ cho chúng ta phải chao đảo qua các triều đại nữa. Này, tuy có thể nhìn thấy chủ tiệm trước đây thì đã rất tốt rồi, nhưng không thể đến trước mặt mà chào hỏi thì cũng rất đau khổ đấy!".

"Không có la bàn nào hết!". Lục Tử Cương quay người nhìn bác sĩ, thản nhiên nói.

"... Thế có cách khác để tìm tung tích của chủ tiệm à?" Bác sĩ đẩy đẩy cặp kính trên sống mũi, cảm giác thái độ Lục Tử Cương hôm nay có chút kỳ quái, dẫn đến nụ cười gương mặt anh cũng hơi cứng lại.

"Không có". Lục Tử Cương xua tay, biểu thị mình hết cách, "Kỳ thực từ khi bắt đầu, ý nghĩ muốn tìm chủ tiệm trở về đã không đúng rồi, chủ tiệm để lại lời nhắn cho tôi là bảo tôi giúp anh ấy coi sóc cửa tiệm, căn bản không cần phải đi tìm anh ấy quay về".

"... Câu này không phải là nói thực lòng". Bác sĩ thu lại nụ cười, dùng ánh mắt sắc bén nhìn chằm chằm Lục Tử Cương trước mặt, "Cậu đã làm gì?".

Lục Tử Cương mím chặt môi, nhớ đến đôi vòng ngọc Song Khiêu Thoát mà anh đã tỉ mỉ chạm khắc đó, bây giờ nói không chừng đang nằm trên bàn của một học giả nghiên cứu cổ vật nào đó cũng nên, chốn về cuối cùng chính là trong những tủ trưng bày của một viện bảo tàng nào đó. Trước mắt anh không ngừng xuất hiện nụ cười mỉm với mình trên gương mặt xinh đẹp thanh tú đó, giống như dao khắc vào trái tim anh, vĩnh viễn không thể phai mòn.

Anh không biết đây là cảm giác gì, nhưng anh cảm thấy mình tình nguyện nhớ nhung.

Thật là nực cười, anh vốn muốn giải trừ oán niệm kiếp trước vẫn đeo bám trong trí óc, kết quả hình như trái lại là tự làm tự chịu.

"Tôi chẳng làm cái gì cả". Lục Tử Cương hít vào một hơi thật sâu, hiếm khi mới mở lời khuyên nhủ, "Anh không phải cũng mới vào biên chế sao? Công việc và trách nhiệm của khoa ngoại lồng ngực cũng rất nặng nề, cho dù tôi không trải qua cũng có thể đoán ra được, một tháng nay anh đến Á Xá được mấy lần. Anh nhìn sắc mặt anh mà xem, có lẽ ở trong bệnh viện, nhìn anh còn giống bệnh nhân bệnh nặng hơn. Hãy quên chủ tiệm đi, hãy sống thật tốt vào. Anh ấy gần như là một người có thể làm được tất cả mọi việc, theo tôi thấy căn bản không cần phải lo lắng cho anh ấy. Nói không chừng một ngày nào đó, anh ấy sẽ bình yên vô sự mà quay về".

Bác sĩ cúi đầu nhìn xuống đôi tay mình, đôi bàn tay cho dù ngay cả khi rạch mổ mạch máu là cơ quan quan trọng nhất của cơ thể người cũng đều ổn định không gây ra sai sót, lúc này lại hơi run run.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Nhờ uống thứ này mỗi ngày, tôi đã hết khổ sở vì cao huyết áp

Ngay hôm nay giảm giá 90% chiếc đồng hồ rolex bản sao này

Lục Tử Cương kỳ thực có chút không lý giải nổi sự kiên trì của bác sĩ, cho dù là kiếp trước hay là kiếp này, chủ tiệm mà anh tiếp xúc, đều khiến anh ngưỡng mộ, căn bản không cần bất cứ người nào bầu bạn và cứu giúp.

"Không phải vậy".

Giọng nói của bác sĩ có chút mơ hồ, Lục Tử Cương sững ra một lúc, vô thức hỏi lại: "Không phải cái gì?".

Người đó đã đơn độc kiên cường sống hơn hai nghìn năm, tuy nhìn thì có vẻ không gì không làm được, nhưng thực sự nội tâm lại không cứng rắn mạnh mẽ như vậy. Cho dù vẫn luôn kiếm tìm chuyển thế của Phù Tô là nguyên nhân khiến chủ tiệm có thể chịu đựng tất cả, nhưng người đó từ trong đáy lòng cũng rất yêu thương những đồ vật chất chứa đủ mọi yêu thương vui buồn mà không thể kể lại được.

Nếu như... nếu như đến Á Xá cũng có thể phó thác cho người khác, thế thì nói rõ ràng là anh ấy thật sự nỡ vứt bỏ tất cả, rất có khả năng sẽ không quay về nữa...

Người ấy... kỳ thực căn bản giống như những cổ vật không thể nói năng đó, cho dù có khổ sở và đau buồn thế nào đi chăng nữa, cũng chỉ chôn vùi trong đáy lòng, sẽ không thổ lộ ra ngoài miệng...

"Không phải như anh nghĩ đâu". Bác sĩ lần nữa ngẩng đầu lên, giọng anh khi nói câu này to hơn rất nhiều, mang theo nỗi lo lắng đứng ngồi không yên.

Anh luôn cảm thấy chủ tiệm không từ mà biệt, sẽ rơi vào hiểm nguy khôn cùng, lại hoặc là nếu như Phù Tô xảy ra chuyện gì đó, chủ tiệm có khả năng sẽ không muốn tiếp tục sống nữa. Người ấy căn bản đã có suy nghĩ chán ghét thế giới. Bác sĩ càng nghĩ nhiều lại càng lo lắng sốt ruột, nhưng khi anh chạm phải ánh mắt hoang mang của Lục Tử Cương, bỗng không kìm được suy sụp.

Người này căn bản không hiểu gì về chủ tiệm, làm sao có thể giao lưu được! Nghĩ đến Lục Tử Cương bỗng muốn nghĩ đông nghĩ tây để từ chối đi tìm chủ tiệm, bác sĩ bỗng cảm thấy máu dồn lên, thẹn hóa quá giận đứng phắt dậy đập tay lên tủ quầy, không chút khách sáo chất vấn: "Tại sao cậu không muốn tìm chủ tiệm? Có phải vì chủ tiệm không ở đây, cậu có thể nuốt hết số cổ vật trong Á Xá không?"

Gương mặt anh tuấn của Lục Tử Cương bỗng biến sắc, ánh mắt lập tức trở nên sắc lẹm.

Đây rõ ràng là sỉ nhục anh! Nếu không phải đích thân chủ tiệm để lại lời nhắn nhờ anh đến coi sóc Á Xá, sao anh có thể từ chối công việc tiền đồ vô lượng, đãi ngộ hậu hĩ của bên bảo tàng quốc gia chứ? Con người này có tư cách gì mà chỉ trích anh?

Bác sĩ vừa nói xong thì cảm thấy mình đã nói sai, chỉ nhìn thấy Lục Tử Cương bặm môi, sắc mặt trắng bệch, toàn thân toát ra nộ khí, không nói một lời, anh cũng nhất thời không tìm được lời nào để hòa giải.

Đúng vào lúc bầu không khí trở nên cực kỳ bối rối, cánh cửa lớn khắc hoa mở ra "kẽo kẹt" một tiếng.

Một giọng nói the thé mang theo ý cười truyền đến: "Ôi chao, ở đây đang cãi cọ gì thế? Ai muốn nuốt hết Á Xá đấy? Xin hãy chuyển hết cổ vật về bảo tàng đi! Tôi quỳ xuống cầu xin đấy!"

Bác sĩ đưa tay lên ấn vào huyệt Thái Dương hơi đau nhức, thở dài một hơi nổi: "Đều là tôi nổi năng không suy nghĩ, chú giám đốc, chú đừng làm loạn thêm nữa. Không phải chú đi Côn Minh điều dưỡng sao? Bệnh đã khỏi chưa? Có cần qua bệnh viện cháu sắp xếp kiểm tra lại một lượt cho chú không?"

Người vừa bước vào chính là giám đốc viện bảo tàng đã lâu không tới Á Xá, ông chú nhìn qua thì già hơn năm trước rất nhiều, lần này ông đổi sang dùng một cây ba toong làm bằng gỗ muồng đen, lại cổ vài phần khí độ phong nhã mà người khác không có được.

"Chân cẳng là bệnh cũ thôi, không cần bận tâm". Ông giám đốc viện bảo tàng cười ha ha nói, cặp kính gọng vàng do ông ngẩng đầu lên mà chiếu ra một tia sáng kỳ dị, chỉ nghe thấy ông cười nói với Lục Tử Cương sau tủ quầy, "Tiểu Lục, sao lại biến thành cậu đứng quầy thế? Chủ tiệm đâu? Nào, đến kể cho chú nghe với".

Sắc mặt của Lục Tử Cương vì bị ông giám đốc ngắt quãng nên dịu đi một chút, nhưng anh vẫn nhìn bác sĩ, ánh mắt lãnh đạm.

Bác sĩ biết hôm nay có ông giám đốc này ở đây, thì đừng hòng bàn luận đến chuyện cái la bàn, huống hồ trạng thái tinh thần của anh thực sự cũng không tốt, nếu tiếp tục e rằng sẽ càng mắc lỗi thêm, đành thở dài nói: "Hôm sau tôi lại tới, tôi sẽ không thay đổi chủ ý về chuyện này". Nói đoạn thì không có chút ý muốn lưu lại nào nữa, quay người bỏ đi.

"Ồ? Chuyện gì thế Tiểu Lục? Mau kể đi!" Ông giám đốc rất thích buôn chuyện, giục giã một tràng.

Lục Tử Cương dõi theo bóng bác sĩ bên ngoài ô cửa sổ gỗ điêu khắc biến mất sau góc phố, nắm đấm vẫn luôn nắm chặt dưới tủ quầy mới chậm rãi thả lỏng.

Lục Tử Cương cúi đầu nhìn dấu móng tay hình bán nguyệt đâm vào lòng bàn tay, lạnh nhạt nói: "Không có chuyện gì to tát cả, thật đấy, đã giải quyết ngay rồi".

3

"Tất Chi, có thứ gì làm cho người ta lãng quên ký ức không?" Phù Tô cởi chiếc áo trường bào đang mặc trên người ra, đổi sang mặc áo sơ mi quần bò để ra ngoài, hỏi với vẻ không bận tâm.

"Có rất nhiều, nhưng thông thường đều khiến người ta quên sạch sẽ những chuyện cũ, giống như một đứa trẻ sơ sinh. Loại này thần rất ít dùng, nó giống với hại người hơn". Chủ tiệm lãnh đạm nói. Gã đã thu dọn đồ đạc xong xuôi, vốn định giúp Phù Tô thay áo, nhưng hắn từ chối. Ngẫm nghĩ thì cũng phải, điện hạ của gã tuy một năm nay cả khi chân bước ra khỏi cửa cũng mặc trường bào, nhưng trước đó cũng coi như đã từng sống trong xã hội hiện đại một thời gian, sao lại không thể mặc trang phục hiện đại chứ?

"Thế không có thứ gì có thể giúp người ta giữ lại phần lớn ký ức, chỉ chuyên quên đi một người đã từng xuất hiện trong sinh mệnh à?" Phù Tô thong thả cài nút áo sơ mi, động tác của hắn nhẹ nhàng linh hoạt, từ đầu tóc đến ngón tay đều thể hiện một vẻ ưu nhã khiến người ta phải tán thưởng.

Chủ tiệm lim dim hai mắt lại ngẫm nghĩ một chút, bấy giờ mới thành thực đáp: "Thực sự cũng có, trong hương Hành Vu có trộn vào tóc người nào đó, sau khi đốt hương cho người nào ngửi, thì có thể xóa đi dấu vết của người đó trong ký ức người này".

"Hương Hành Vu?". Phù Tô nhíu mày, "Đây là loại hương gì? Sao lại có công hiệu như vậy?"

"Phương Bắc hữu giai nhân, tuyệt thế nhi độc lập. Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc".

Giọng nói cao vút rồi hạ thấp đột ngột của gã chủ tiệm vang vọng trong phòng luyện đan, giống như trong lúc nói lại nhớ ra điều gì, hồi lâu sau mới cười nhạt nói: "Tuyệt thế mỹ nhân mà bài thơ này miêu tả, chính là Lý phu nhân của Hán Vũ đế".

Phù Tô đã đọc thuộc sách lịch sử, nghe thấy bèn cười nói: "Chính là người phụ nữ trước lúc bệnh chết cũng không cho Lưu Triệt nhìn thấy dung nhan của mình, để sau này Hán Vũ đế gặp mọi mỹ nhân trong thiên hạ vẫn nhớ nhung cô ta không quên, hóa ra là có thủ đoạn".

"Chính là Lý phu nhân đó. Sau khi cô ta chết, Hán Vũ đế ngẫu nhiên có gặp cô ta trong mộng, tặng cho Hán Vũ đế cây hương Hành Vu. Hán Vũ đế tỉnh dậy, đi tìm khắp nơi không thấy, nhưng ngửi thấy một mùi thơm, hương thơm kéo dài mãi không dứt".

"Kỳ thực đó không phải là Hán Vũ đế nằm mơ, mà là Vệ hoàng hậu vì muốn Hán Vũ đế quên đi Lý phu nhân đó, đã cố ý đốt hương Hành Vu. Chỉ là Lý phu nhân đó tính toán kín kẽ, sao có thể để cho Vệ hoàng hậu lấy được tóc của mình? Hán Vũ đế trải qua giấc mộng này, trái lại càng nhớ nhung như điên như cuồng".

"Thật là một vở kịch cung đấu khiến não người ta chịu một phen hồi lên sụt xuống. Này, nói như vậy, ngươi cũng có loại hương Hành Vu đó?"

Chủ tiệm bước tới chỉnh sửa cổ áo cho Phù Tô, rồi lại đưa chiếc áo len lông cừu bên tay ra: "Thần cũng chỉ có một mẩu nhỏ hương Hành Vu mà thôi, thời gian lâu ngày cũng đã hóa thành bụi. Trước đây, nếu như thần muốn ai đó quên thần, thì sẽ đốt cho người đó một lò hương Hành Vu, đồng thời tự thần cũng ngửi loại thuốc đã phối với hương Hành Vu thì sẽ không bị ảnh hưởng".

Phù Tô sờ sờ lên mái tóc chấm vai của mình, nửa đùa nửa thật cười nổi: "Thật khó xử quá, tóc của cơ thể này của ta cho dù có bỏ vào hương Hành Vu cho ngươi ngửi, cũng chẳng phải là thân thể thực sự của ta, ngươi cũng chẳng quên nổi ta".

Chủ tiệm cười trông càng giả hơn, gã còn không hiểu ý tứ của Phù Tô nữa sao? Hắn đã nói trắng ra như vậy, thì đương nhiên là cảnh cáo gã không được phép dùng với hắn rồi. Chủ tiệm đưa tay gỡ chiếc mặt nạ trên mặt Phù Tô xuống, rồi lại chải lại phần tóc mái quá dài của hắn, xõa xuống che nửa bên mặt bị bỏng.

Cái nhìn nóng rẫy vẫn luôn tồn tại, chủ tiệm khẽ thở dài, đón lấy đôi mắt nghiêm nghị của Phù Tô, đành cam kết, nói: "Thần hiểu sự lo lắng của điện hạ, điện hạ yên tâm, thần sẽ không đốt hương Hành Vu nữa đâu".

Phù Tô cười với vẻ hài lòng. Hắn thực sự lo sợ chủ tiệm sẽ làm cách gì đó để mệnh đổi mệnh, cuối cùng sẽ đốt một lò hương Hành Vu cho hắn, khiến hắn không còn nhớ chút gì về chủ tiệm.

Đối với một số người mà nổi, lãng quên có lẽ là một sự lựa chọn rất tốt, nhưng khi còn chưa rõ sự tình, thì khó tránh khỏi không công bằng.

Hô khẩu hiệu là vì muốn tốt cho người khác, nhưng lại thay người đó đưa ra phán quyết khi họ không biết rõ sự tình, việc này căn bản chính là có lòng tốt mà lại làm việc xấu.

Bác sĩ trong lòng buồn bực sau khi trở về nhà liền vùi đầu ngủ một giấc thật say, đến tận chiều mới tỉnh lại, liền bắt đầu quay mặt vào tường suy ngẫm về sai lầm của mình.

Đây là một thói quen anh đã tập được gần đây. Sau khi quay trở lại cơ thể của mình, tuy ký ức trong một năm bị linh hồn Phù Tô chiếm cứ vẫn còn, nhưng vì không phải là do anh đích thân trải nghiệm, cho nên phải không ngừng "tua lại" mới có thể đào sâu hơn ký ức của mình. Hơn nữa anh không ngờ rằng kỹ thuật phẫu thuật của Phù Tô lại còn cao thâm hơn anh rất nhiều, trong một năm này đã liên tục thực hiện mấy cuộc phẫu thuật lớn, thậm chí còn có cơ hội tham gia một cuộc phẫu thuật cấy ghép tim. Cũng chính nhờ những biểu hiện lạ thường của Phù Tô trước đó, anh mới có thể thuận lợi được vào biên chế.

Sau khi anh trở lại cơ thể của mình, tìm thấy mấy hàng chữ Phù Tô để lại trong ngăn kéo trong nhà. Đối phương thành khẩn xin lỗi vì chuyện đã cướp cơ thể, hơn nữa còn nói những kỹ thuật phẫu thuật đó coi như là bồi thường cho việc "tu hú chiếm tổ", đương nhiên, còn kèm theo tấm thẻ tài khoản ngân hàng với con số tăng vọt.

Nhằm nắm vững những kỹ thuật này, nửa năm nay, anh phải bỏ ra càng nhiều hơn, không chỉ là phải học một vài kiến thức chuyên ngành chuyên sâu, kỹ thuật phẫu thuật càng cần không ngừng luyện tập.

Cho nên, anh thường ngồi bên giường, đối mặt với bức tường màu trắng, tua đi tua lại những ký ức của mình trong bộ não. Mà anh của hiện tại lại phải suy ngẫm về cảm xúc mất khống chế ngày hôm qua.

Ngồi ngẩn người đối mặt với bức tường hơn nửa tiếng đồng hồ, bác sĩ tổng kết được ra rằng gần đây có lẽ vì áp lực quá lớn, nên anh phải đi ăn một bữa thịnh soạn thì mới giảm được áp lực, bèn lập tức thay quần áo lên phố thương mại ăn một bữa động viên mình mới được. Chỉ là khi anh ăn cơm một mình thì không thấy ngon miệng, cho nên trước đây, anh vẫn thường đi đến Á Xá kéo chủ tiệm cùng đi ăn, cho dù chủ tiệm ăn không nhiều, nhưng cảm giác có bạn đi cùng, có người lắng nghe anh lải nhải oán trách thì vẫn thật khác.

Lướt qua danh bạ điện thoại, phát hiện các đồng nghiệp của anh cơ bản đều đang trực ban ở bệnh viện, người không đi làm thì cũng bận ngủ bù, không có ai rảnh rỗi cả.

Ăn no đẫy bụng mà không cảm thấy ngon gì cả, bác sĩ vô thức lại đến trước cổng Á Xá, đợi đến khi anh đẩy cánh cửa lớn khắc hoa ra, nhìn thấy ánh mắt sửng sốt của Lục Tử Cương, mới thầm mắng một câu "sức mạnh của thói quen thật là đáng sợ".

Buổi sáng bọn họ vừa cãi cọ một trận, có lẽ như thế cũng chưa hẳn được coi là cãi cọ thực sự, nhưng bác sĩ cảm thấy không thể cứ làm căng mãi như vậy, nên trước tiên đi tới ngồi xuống đã. Anh thành thục lôi một chén trà từ trên giá xuống, tùy ý dùng tay lau qua, xách bình trà trên quầy lên rồi rót cho mình một chén trà.

Khóe miệng của Lục Tử Cương hơi co rút, chén trà bác sĩ lấy chính là chén Thố Hào Trản của lò gốm Kiến Diêu thời Bắc Tống. Màu sắc bóng loáng của chén Thố Hào Trản đen tuyền như sơn, bóng loáng như ngọc phỉ thúy màu đen, trên mặt men còn phân bố những đường gân nhỏ dày và đều, nhỏ xíu mà dài giống như những sợi lông thỏ trên mình thỏ, nhờ vậy mà được đặt tên, hơn nữa chiếc chén Thố Hào màu bạc trong tay bác sĩ là đắt giá và nổi tiếng nhất.

Loại chén trà này được dùng để điểm trà vào thời Tống, căn bản không phải dùng để pha trà. Nhưng Lục Tử Cương cũng biết nói chuyện cổ vật với loại người như bác sĩ căn bản chính là đàn gảy tai trâu, chỉ cần không đánh vỡ là được rồi. Lục Tử Cương lườm bác sĩ một cái rồi tiếp tục tập trung vào công việc thủ công trên tay mình.

(Điểm trà: là một phương pháp đun trà vào thời Tống)

"Đang làm cái gì đấy?" Bác sĩ uống xong mấy ngụm trà, xóa tan cái ngấy của dầu mỡ trong bụng, lại càng làm dịu nỗi bực bội trong lòng. Anh căn bản là da mặt đủ dày, lúc này thấy Lục Tử Cương không thèm đếm xỉa đến anh, lại còn tiến lên phía trước, hoàn toàn coi như chưa từng có chuyện gì xảy ra.

Lục Tử Cương thì lại chẳng có dây thần kinh thô như anh, bèn trả lời cứng ngắc: "Khắc hương triện".

Bác sĩ phát hiện lư hương đặt trước mặt Lục Tử Cương không phải là loại lư hương Bác Sơn có hình rồng bay bằng vàng ròng mà chủ tiệm thường dùng, mà là một lư hương nhỏ bằng gốm xanh tạo hình là một bông hoa sen lớn.

Bác sĩ quét ánh mắt nhìn bài trí trong tiệm một lượt, phát hiện không chỉ lư hương Bác Sơn vàng ròng không thấy tung tích đâu nữa, mà còn vài món đồ trang trí và đồ cổ quen mắt cũng biến mất. Anh không nén nổi truy vấn: "Thế cái lư Bác Sơn đâu? Sao không dùng nó?"

Lục Tử Cương chẳng buồn nhấc mí mắt lên, nói với giọng lạnh như băng: "Yên tâm, tôi không có gan bán hết chúng đi đâu". Đến khi nổi xong, đến chính anh cũng cảm thấy ngữ khí không đúng, nhưng không biết sửa chữa thế nào. Anh vẫn luôn giao tiếp với cổ vật, căn bản chẳng cần phải hiểu nhân tình thế thái gì đó, cho nên buổi sáng ngày hôm nay bị bác sĩ chất vấn một câu đó, mới khiến anh vô cùng bận tâm. Giống như bị dằm đâm phải, không biết phải rút ra như thế nào, không rút thì lại càng bị đâm đau hơn.

Bác sĩ thì đã quá quen với việc người bệnh và người thân vô lý làm ầm ĩ trong khi làm việc, chút tính khí trái khoáy của Lục Tử Cương đối với anh mà nói căn bản chẳng thành vấn đề gì. Có điều Lục Tử Cương không trả lời, bác sĩ cũng dần dần hồi tưởng lại, hình như trước đó có một lần anh đến Á Xá, thì nhìn thấy Lục Tử Cương đang thu dọn mấy món đồ cổ để cất vào gian nhà bên trong, có lẽ là sợ năng lực không bằng chủ tiệm, không khống chế được đám đồ cổ cổ quái này.

Có đến tám phần là lão tổ tông lư hương Bác Sơn đó giờ đang tức giận đến xì khói trong một chiếc hộp gấm chật hẹp tối tăm nào đó rồi.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Bác sĩ thầm giễu cợt trong lòng và thấy rất vui vì điều đó, vừa nhìn Lục Tử Cương cẩn thận từng chút một lấy một gói bột hương màu trắng ngà ra rải lên chiếc lò hương bằng gốm sứ xanh, vừa móc điện thoại di động ra để tìm kiếm từ "hương triện". Chậc, đây là xã hội thông tin rồi mà, ai còn yêu cầu người khác phải giải thích danh từ chuyên ngành chứ? Rất nhanh, bác sĩ đã xem xong một hai trang web, thì nhìn thấy Lục Tử Cương sau khi nén phẳng bột hương, rút từ trong hộp ra một loạt mười hai lọ hương nhỏ bằng sứ xanh hình hoa sen.

Những lọ hương nhỏ này mỗi cái chỉ cao khoảng một đốt ngón tay của ngón tay cái, tròn trĩnh nhìn cực kỳ đáng yêu. Lục Tử Cương lấy ra một cái đĩa hương sứ xanh cũng có hình cánh hoa sen, bắt đầu dùng thìa đong hương bằng tre đồng đỏ để múc bột hương từ trong ống hương ra, lượng bột hương mỗi loại lấy ra đều khác nhau, loại nhiều thì chỉ lớn bằng móng tay cái, loại nhỏ thì chỉ có một dúm.

Bác sĩ nhớ ra, trước đây anh cũng từng nhìn thấy chủ tiệm lấy bột hương, nhưng chưa từng thấy chủ tiệm làm hương triện bao giờ, khi đó chủ tiệm từng nói, vào thời Hán còn không có hương nén, chỉ có nghiền hương liệu thành bột hương. Nhìn bộ dụng cụ chế hương bằng sứ xanh chí ít phải có niên đại Bắc Tống này, nhưng nhìn thấy loại bột hương mà Lục Tử Cương cẩn thận nâng niu khi lấy ra, e là loại bột hương này còn cổ xưa hơn nữa.

Vì bột hương đều là dạng bột phấn, Lục Tử Cương sợ thổi một cái là bay mất bột hương, nên nín thở tập trung, gương mặt nghiêm túc.

Bác sĩ cũng bị biểu cảm của Tử Cương làm cho lây nhiễm, không dám thở lấy một hơi mạnh, nhưng cùng với việc từng lọ hương bị mở ra, thì mùi hương hoặc nhẹ nhàng, hoặc ngọt thơm, hoặc trang nghiêm hoặc xa xôi bay vào mũi, anh không kìm được hít vào một hoi thật sâu, rồi say đắm nhắm mắt lại.

Lúc đó, thìa đong hương trong tay Lục Tử Cương ngừng lại ở chỗ lọ hương cuối cùng, từ góc độ của anh, có thể thấy trên nắp lọ hương này còn dán một dòng chữ niêm phong nhỏ xíu. Anh chần chừ hồi lâu, ngước mắt lên nhìn bác sĩ trước mặt, qua một lúc mới kiên định suy nghĩ, đưa tay vặn nắp lọ hương này.

Tử Cương dùng thìa đong hương vét trong đáy lọ một lúc, mới moi ra một chút xíu ít đến mức đáng thương. Rồi nhân lúc bác sĩ cúi đầu vào mạng, lấy một sợi tóc từ trong hộp gấm ra, dùng kéo cắt thành từng mẩu nhỏ, và trộn vào trong bột hương.

Mười hai loại bột hương trộn lẫn trong đĩa hương, Lục Tử Cương lấy ra một cái ấn triện hương bằng đồng đỏ khắc chạm rỗng hình chữ Phúc theo thể triện, nhẹ nhàng đặt lên tàn hương đã gạt phẳng, sau đó lại múc mấy thìa bột hương đã điều chế xong đặt lên ấn triện hương, rồi dùng chiếc thìa đong hương nhỏ cẩn thận rốt bột hương vào trong chữ Phúc chạm rỗng đố. Cuối cùng cẩn thận lấy chiếc ấn triện hương ra, một chữ Phúc ngay ngắn xuất hiện trên lớp tàn hương.

"Ồ! Hình như rất đơn giản nhỉ!" Tuy đã đọc qua về quá trình làm triện hương trên điện thoại di động, nhưng tận mắt chứng kiến lại không giống nhau, bác sĩ nhìn thấy Lục Tử Cương làm rất trơn tru thành thạo, không khỏi hơi ngứa tay.

"Chẳng đơn giản tí nào đâu, lúc cầm hương triện tay không được run, nếu không chữ triện bằng hương mà bị gãy, thì một lần không thể đốt đến cuối cùng được". Nhìn thấy chữ Phúc hoàn hảo đó, tâm tình Lục Tử Cương cũng khá lên rất nhiều, bèn mở miệng giải thích.

Kỳ thực làm hương triện cũng là một phương thức huấn luyện tính ổn định của bàn tay, càng là những ấn triện hương có đường nét phức tạp lặp đi lặp lại, yêu cầu đối với người làm hương hiện càng cao, nếu không những chữ triện bằng hương rất nhỏ bị đứt gãy một vết, là coi như phí công vô ích. Năm đó, Lục Tử Cương vì muốn rèn luyện bàn tay của mình không bị run khi tu sửa các bức thư họa, nên đã làm hương triện rất nhiều lần. Nhưng khi anh nhìn thấy bác sĩ gương mặt đầy vẻ đắc ý thì bấy giờ mới nhớ ra nghề nghiệp của đối phương, bèn không nói nhiều nữa.

Bác sĩ cười hì hì gãi gãi cằm, bác sĩ ngoại khoa lồng ngực như anh, so với ai đó thì tay ai vững hơn? Không phải nói đùa đấy chứ?

Lục Tử Cương lấy một nén hương bên cạnh, châm lửa từ đèn cung Trường Tín, rồi đốt chữ hương triện trong lò hương. Một làn khói mờ mịt bắt đầu bốc lên, chầm chậm xoay tròn, lan ra, nhảy nhót, xoáy vòng... trong không khí, giống như có thứ gì đó vô hình đang thao túng làn khói này, khiến người ta không tự chủ được mà tập trung cái nhìn vào nó, nhìn đến như say như dại.

Lục Tử Cương cầm nắp lò hương bên cạnh, đậy lên lò hương. Nắp lò hương này là hình chiếc đài sen, vừa khéo ở mỗi đài sen đều có một lỗ hổng, chế tác cực kỳ tinh xảo đẹp mắt. Càng vì thời gian dùng lò hương này khá lâu, nên những lỗ hổng đó đều mang dấu vết bị hương hun ố vàng, nhìn qua càng giống những chóp nhỏ trên đài sen, sống động sắc nét. Sau khi đậy nắp lên lò hương, khói cũng không còn nồng mùi nữa, mà chia ra làm vài làn, vấn vít uốn lượn bốc lên, rồi nhanh chóng tan ra trong không khí.

Rất nhanh, một mùi hương không thể gọi tên nổi dần dần theo những làn khói này tản ra tứ phía. Bác sĩ cũng là người ngửi quen mùi thơm của trầm hương, nhưng lúc này lại cảm thấy, mùi hương này giống như đang lay động nơi sâu thẳm trong nội tâm của anh, nhất thời cứ thế ngây ngốc.

Lục Tử Cương cầm lấy một hạt hương đặt sát mũi mình rồi ngửi, vờ như không hề bận tâm, hỏi: "Anh có muốn quên thứ gì không?"

"Quên à?" Bác sĩ cảm thấy thần kinh căng thẳng lúc bình thường nhờ mùi thơm này mà được thả lỏng, ngờ nghệch ra trong khoảnh khắc, cũng không cảm thấy câu hỏi của Lục Tử Cương đột ngột. Trái lại anh còn ngẫm nghĩ một cách cẩn thận rồi mới đáp: "Thực sự là có điều muốn quên, ví dụ như cái chết thảm khốc của cha mẹ tôi, họ hàng thân thiết tranh nhau rút tiền, phải biết rằng khi tôi còn nhỏ, gần như cứ một hai năm là lại đổi sang ở nhờ nhà một người thân..." Bác sĩ nói một lúc, giống như những cảm xúc tiêu cực bị chôn vùi trong đáy lòng đều bị moi ra, một tay ấn lên trán muốn đem những hồi ức đó nhét trở lại, "Ừm, kỳ lạ... sao tôi cảm thấy có mùi gì như protein bị đốt cháy nhỉ..."

Lục Tử Cương nhìn thấy bác sĩ rơi vào trầm ngâm, rồi nặng nề ngả lên tủ quầy ngủ mất, không nén nổi thở dài.

"Mũi anh quả là thính, trong hương Hành Vu tôi có bỏ thêm tóc của chủ tiệm. Quên anh ấy đi... quên anh ấy sẽ tốt cho anh hơn. Con người chấp trước quá nhiều, cũng chẳng phải là một chuyện tốt. Huống hồ chuyện này trước đây chủ tiệm thường làm, có lẽ nếu như anh ấy có thể quay về, chắc chắn sẽ làm như vậy với anh. Tôi chỉ là thay anh ấy làm chuyện cần phải làm thôi. Thuận tiện dọn dẹp một chút những ký ức anh không muốn có, coi như là bồi thường..."

(Chấp trước: từ ngữ của Phật giáo, nghĩa là nắm lấy thứ chẳng đáng mà không buông bỏ được)

Lục Tử Cương ngửi viên hương trong tay mình, lẩm nhẩm tự nói cho mình nghe, kỳ thực càng giống với tự thuyết phục bản thân.

Anh cũng có người mà anh muốn quên, nhưng đáng tiếc là anh không có tóc của đối phương.

Anh biết bác sĩ tiếp tục như thế này sẽ biến thành thế nào, anh ấy sẽ càng ngày càng đánh mất cuộc sống bình thường, thậm chí không làm nổi công việc của mình.

Như vậy không ổn, công việc của bác sĩ là chữa bệnh cứu người, một lần run tay có lẽ sẽ đánh mất sinh mạng của một người. Cuộc cãi vã hôm nay đã xuất hiện dấu hiệu của sự mất khống chế như thế, càng kéo dài về sau, sớm muộn gì cũng xảy ra chuyện.

Như thế này, chẳng thà để anh hạ quyết tâm thay anh ấy.

Anh ấy và chủ tiệm vốn dĩ là hai đường thẳng song song, cho dù sự tréo ngoe của vận mệnh có khiến họ ngẫu nhiên gặp nhau, cũng là đến lúc ai đi đường nấy rồi.

Lục Tử Cương ngửi viên hương trong tay, đương nhiên sẽ bị ảnh hưởng của hương Hành Vu đã đốt, nhưng lúc này, anh lại có chút hối hận.

Liệu anh... có làm sai không?

Thôi bỏ đi, cho dù là sai, thì cũng không có cách nào vãn hồi rồi...

Trong cửa hiệu Á Xá, làn khói hương xoáy vòng ngoằn ngoèo tản mát ra trong tĩnh lặng, lạnh lẽo, quạnh hiu...

TIỆM ĐỒ CỔ Á XÁ

Quyển 4 - Chương 12: Niết La Bàn

1

Tam Thanh dùng chiếc mỏ nhọn chậm rãi thong thả rỉa lông ở sau người, thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn Minh Hồng đang nhàn nhã đậu trên xà nhà, hoàn toàn không đặt Lục Tử Cương đang rầu rĩ ở trong phòng vào tầm mắt.

Trong suốt một năm nay, Lục Tử Cương thoạt đầu bắt đầu ra sức diễn dịch và tính toán rốt cuộc la bàn Lạc Thư Cửu Tinh vận hành như thế nào, sau đó lại nảy sinh tâm tư khác, bắt đầu luyện tập kỹ thuật điêu khắc ngọc theo ký ức của kiếp trước, mà hiện tại, vì từ bỏ dùng la bàn tìm kiếm chủ tiệm, cũng không cổ bác sĩ thường xuyên lui tới cửa tiệm, nên Lục Tử Cương nhàn rỗi mới nhớ ra dành thời gian để kiểm tra một lượt những đồ cổ bên trong Á Xá, những thứ nên phơi phóng thì bỏ ra phơi phóng, những thứ nên khử mối mọt côn trùng thì phải đặt băng phiến, những thứ nên lau chùi thì bỏ ra lau bụi gì đó... Kết quả của một trận càn quét này, là phát hiện ra một vấn đề nghiêm trọng.

Trong căn phòng chứa chiếc váy Chức Thành, chỉ còn lại một giá nhỏ treo quần áo bằng gỗ Tử Đàn, chiếc váy Chức Thành vốn nên treo ở đó đã biến mất tăm mất dạng.

Nếu là món đồ cổ khác, Lục Tử Cương có thể còn cho rằng là được chủ tiệm cất đi, hoặc là bị chủ tiệm bán lại cho người có duyên, nhưng anh rõ ràng nhớ sau khi anh cùng bác sĩ quay ngược thời gian trở về triều Đường gặp công chúa An Lạc Lý Khỏa Nhi, đã đến căn phòng này nhìn thấy chiếc váy Chức Thành đứng đầu kim cổ đó. Mà bây giờ chỉ còn sót lại có mỗi cái giá treo quần áo trống rỗng!

Lục Tử Cương giống như một con thú bị giam cầm cứ bước đi lồng lộn trở qua trở lại trong gian phòng, sau khi quét ánh mắt nhìn thấy Tam Thanh, lại giống như vớ được một cọng rơm cứu mạng, xông tới sờ sờ vào xương sống của nó, hạ giọng nhẹ nhàng nhất có thể hỏi: "Tam Thanh à, mày có nhìn thấy cái váy Chức Thành ở đây không? Này, chính là cái váy dùng rất nhiều lông vũ của chim tạo thành ấy".

Tam Thanh lắc lắc đầu một cách vô tội, nó đương nhiên là biết cái váy đó, có điều nó vẫn luôn chán ghét việc con người dùng lông vũ của các loài chim làm đồ trang sức, cũng luôn nhìn không quen chiếc váy Chức Thành này, nên cực hiếm khi vào trong đó, cho nên nó cũng không biết chiếc váy này biến mất từ lúc nào. Minh Hồng đứng trên xà nhà thấy ánh mắt chất vấn của Lục Tử Cương chiếu vào nó, cũng vội vã lắc lắc đầu, tuy nó cũng cao ngạo khác thường, thế nhưng cả ngày đánh nhau với Tam Thanh đến mức lông của nó sắp trụi đến nơi rồi, lúc này người kia đang ở dưới mái nhà, thì làm sao có thể không cúi đầu?

Hàng lông mày đậm của Lục Tử Cương nhăn tít lại, bác sĩ chưa bao giờ vào gian trong của Á Xá, tay họa sĩ ngày ngày tới Á Xá cũng không có ý động vào bất cứ cổ vật trong gian phòng nào khác, thế thì... chiếc váy Chức Thành đó bị ai lấy trộm mất? Rốt cuộc là ai có khả năng đó? Trong Á Xá còn có thể mất trộm sao? Rõ ràng là điều chưa từng nghe thấy!

Day day góc trán đang đau nhói, Lục Tử Cương cảm giác một năm nay bản thân mình đã sống thực sự quá là tồi tệ. Quả nhiên chỉ có chủ tiệm mới có thể quản lý nổi Á Xá, hiện tại anh không dám đi kiểm tra kỹ lưỡng xem rốt cuộc Á Xá đã có bao nhiêu cổ vật bị mất tích, hoặc là cho dù anh có kiểm tra thì cũng không kiểm tra ra nổi, anh cũng chẳng có một tờ danh sách tất cả các cổ vật trong Á Xá.

Minh Hồng trên xà nhà ngoẹo đầu nhìn một lúc, bỗng nhiên giống như có linh cảm gì đó, dang rộng đôi cánh rồi từ trong phòng bay ra. Lần này Tam Thanh lại không đuổi theo, mà còn nhìn theo nó bay ra khỏi Á Xá, khẽ kêu hai tiếng biểu thị cuối cùng con chim ngớ ngẩn này cũng đi rồi, nó rất mãn nguyện.

Lục Tử Cương cũng chẳng muốn ngăn cản Minh Hồng, vốn dĩ con chim màu đỏ này tự mình bay đến, còn bây giờ lại tự mình bay đi, liệu có phải nó cảm nhận được rằng chủ nhân của nó đã quay về hay không?

Đứng trong căn phòng đáng nhẽ phải treo chiếc váy Chức Thành ngẩn người ra một lúc, Lục Tử Cương lại tìm một lượt ở những nơi có thể tìm trong Á Xá, nhưng cũng chẳng moi ra được chiếc váy Chức Thành đó, chỉ có thể cúi đầu ủ rũ đi ra khỏi gian trong, nhưng khi rẽ ra sau tấm bình phong thì lại nhìn thấy một người mà anh hoàn toàn không ngờ tới.

"Chủ tiệm! Anh quay về rồi!" Lục Tử Cương đứng như trời trồng tại chỗ, kinh ngạc vô cùng.

Chủ tiệm ngồi bên trong quầy, đang bưng một bình trà tử sa Cung Xuân của triều Minh để ủ ấm tay. Thần sắc gã dịu hòa lãnh đạm, động tác thong thả bình tĩnh, giống như biết bao ngày của những tháng trước kia, như thể chưa từng rời đi. Nhìn Lục Tử Cương từ gian trong bước ra, gã liền cong khóe môi lên vẽ thành một nụ cười mỉm, gật đầu nói: "Tôi chỉ là quay lại lấy một món đồ, vất vả cho cậu rồi Tử Cương".

Sắc mặt Tử Cương thay đổi mấy lần, cuối cùng vẫn khẽ thở dài một tiếng, buồn bã nói: "Chủ tiệm, Tử Cương đã phụ sự ủy thác của anh rồi".

"Ngồi xuống trước đã". Chủ tiệm lại không hề bận tâm, ra hiệu cho Lục Tử Cương ngồi xuống, rồi móc ra hai chén trà tử sa. Phù Tô quay về tìm Hồ Hợi rồi, cho nên gã mới có thời gian nghe Lục Tử Cương kể lại tình hình trong một năm qua.

Lục Tử Cương ngồi xuống trước tiên uống một chén trà nóng để ổn định lại tinh thần, rồi mới kể lại một lượt sự tình mình sử dụng la bàn Lạc Thư Cửu Tỉnh.

"Ồ? Tôi quay về là muốn lấy chiếc la bàn đó, các cậu đúng là to gan, cũng không sợ xuyên về quá khứ mà không trở lại được". Chủ tiệm hơi có hứng thú nhướn nhướn mày, "Nói đi, các cậu đã về những triều đại nào?"

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Đồng Hồ Bản Sao

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Lục Tử Cương thành thực kể lại trình tự du lịch vượt thời gian của một năm qua một lượt từ đầu đến cuối, đến lần cuối cùng anh đi tìm Hạ Trạch Lan cũng đều không bỏ sót. Trên thực tế, trong nội tâm Lục Tử Cương cũng chất chồng rất nhiều áp lực, không biết phải tìm ai để giãi bày, sự xuất hiện hợp thời điểm của chủ tiệm, khiến anh nhẹ nhõm triệt để, cũng không để ý rằng sẽ có hậu quả gì, mà dốc hết tâm tư kể ra.

Chủ tiệm nhìn thấy Lục Tử Cương nói xong thì mặt mày lộ biểu cảm thấp thỏm bất an, cũng không trách móc gì anh, trái lại mỉm cười nói: "Nếu như tôi không quay về, thì có phải tháng này cậu lại đến triều Minh một chuyến không?"

Lục Tử Cương sững người, anh định lắc đầu phủ nhận nhưng dưới ánh mắt sáng rực của chủ tiệm, anh không thể nói dối, đành gật gật đầu một cách chật vật. Sự thực, anh không thể tiếp nhận kết cục trước đó, nếu như anh trực tiếp dẫn Hạ Trạch Lan đi khỏi kinh thành sớm một chút thì sao? Có phải là có thể tránh được sự truy bắt của cẩm y vệ không? Hoặc là, có lẽ anh nên gặp gỡ Hạ Trạch Lan sớm một chút, triệt để khuyên cô nên rời khỏi Thượng Thiện Giám... Lục Tử Cương không có cách nào ngăn mình không nghĩ như vậy, cho dù chỉ có một phần vạn khả năng, thì anh vẫn muốn tiếp tục thử.

"Đồ ngốc ạ, nếu la bàn Lạc Thư Cửu Tinh dễ dùng như thế, thì tại sao tôi không dùng?" Nhìn thần sắc chấn động kinh ngạc lộ ra trên gương mặt Lục Tử Cương, chủ tiệm không kìm được cười khổ, "Ngay từ khi tôi có được la bàn Lạc Thư Cửu Tinh, đã không ngừng quay trở lại thời điểm trước khi Phù Tô chết. Nhưng cho dù tôi có dùng la bàn quay trở lại lịch sử bao nhiêu lần, cho dù có cứu sống được Phù Tô, thì điện hạ cũng nhanh chóng chết đi vì chuyện khác. Đây là điều hoàn toàn không thể thay đổi được, là lịch sử đã xảy ra".

Lục Tử Cương bỗng nhớ đến trước đó, anh và bác sĩ đã cứu sống rất nhiều binh sĩ trong quân doanh của Thích thiếu tướng quân, phần lớn người trong số đó đều vì chiến sự ngay sau đó mà mau chóng chết trận, khi đó anh cũng không nghĩ ngợi nhiều, lẽ nào nguyên nhân thực sự lại là lịch sử không thể quay ngược sao?

"Tôi luôn cho rằng mình làm vẫn còn chưa đủ, luôn cảm thấy lần sau mình sẽ làm càng tốt hơn". Chủ tiệm cúi đầu nhìn nước trà hơi đong đưa nhè nhẹ trong chén trà trên tay, trong lời nói pha lẫn một nỗi khổ sở chua chát không diễn tả được, "Nhưng mỗi lần nhìn ngài ấy chết đi trước mặt tôi vì đủ mọi nguyên nhân, cũng giống như là một cơn ác mộng vĩnh viễn không thể tỉnh lại, cuối cùng tôi chỉ có thể khuất phục, cất chiếc la bàn Lạc Thư Cửu Tinh đi, không còn dùng đến nó nữa".

Lục Tử Cương mặt trắng bệch, cuối cùng nhận thức được mình đã ngây thơ biết bao.

Đúng thế, lịch sử mãi mãi là lịch sử, những chuyện xảy ra rồi đã trở thành một sự thực đã xác định, cho dù anh có trả giá và nỗ lực đến thế nào đi chăng nữa, cũng không thể vãn hồi được.

Lục Tử Cương ngây ngốc một hồi, cuối cùng dùng tay lau mặt, ủ ê nói: "Chủ tiệm, có thể tôi còn làm một việc ngu ngốc nữa". Nói đoạn kể lại chuyện mình dùng hương Hành Vu với bác sĩ ra. Anh không thể che giấu, cũng không thể biện bạch cho mình được. Lục Tử Cương lờ mờ cảm giác trạng thái tinh thần trong quãng thời gian trước của mình có chút nguy hiểm, có lẽ là ngồi giữa quá nhiều cổ vật cổ quái và quý hiếm, không mất công sức mà có thể dễ dàng đi xuyên cổ chí kim, có thể tùy ý nắm giữ vận mệnh của người khác, khiến anh nảy sinh một ảo giác là không cổ gì không thể làm được. Anh cũng là người bình thường, không có cách nào kiểm soát bản thân khi đứng trước những cám dỗ lớn.

May mà chủ tiệm đã quay về kịp thời, nếu không nói không chừng anh sẽ còn làm ra những chuyện khiến mình còn phải hối hận hơn nữa.

Lục Tử Cương vừa nói, vừa chú ý đến thần sắc của chủ tiệm, nhưng lại không phát hiện ra bất cứ dấu vết gì, thậm chí chủ tiệm còn chẳng động đậy chút chân mày khóe mắt.

"Ồ, như vậy cũng tốt". Đợi Lục Tử Cương nói xong, chủ tiệm bèn thong thả gật gật đầu, "Như vậy cũng tốt, bác sĩ nên quay về cuộc sống của người bình thường. Cho dù cậu không sử dụng hương Hành Vu, thì tôi cũng sẽ cho cậu ấy dùng".

Lục Tử Cương nghe xong cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm, trái tim đang treo lơ lửng lại trôi xuống lồng ngực. Anh đã nói rồi mà, trong suốt hơn hai nghìn năm, không biết chủ tiệm đã dùng hương Hành Vu bao nhiêu lần rồi, không thấy trong lọ hương đó chỉ còn sót lại một chút xíu bột hương sao? Lần này đương nhiên cũng giống bao nhiêu lần trước đó, không có gì khác biệt cả.

Chủ tiệm vẫn mỉm cười như mọi khi, chén trà trong tay đưa lên miệng, nước trà nguội ngắt trôi vào miệng khiến lông mày gã khẽ cau lại một cái.

Im lặng nuốt thứ nước trà lạnh chát đó xuống cổ họng, chủ tiệm cười cười một cách bất lực.

Hóa ra tuy gã không thể cảm nhận được đau đớn hay không, nhưng vẫn có thể phân biệt được ấm áp hay là lạnh lẽo...

2

Phù Tô móc một chiếc chìa khóa sơ cua từ dưới tấm thảm ở cửa ra vào, mở cánh cửa căn hộ chung cư ra. Vào khoảnh khắc mở cửa đó, Phù Tô không kìm được dùng tay sờ sờ lên vị trí bị bỏng đã dùng tóc mái che nửa mặt đó, những nơi đầu ngón tay chạm vào đều là xúc cảm lồi lõm. Hắn không phải là một người quá bận tâm về vẻ bề ngoài, nhưng lúc này không khỏi nghĩ đến nếu như Hồ Hợi nhìn thấy một người xa lạ như thế, liệu có nhận ra hắn không.

Kỳ thực Phù Tô không thích thằng em nhỏ của mình một chút nào, từ nhỏ đã được phụ hoàng cực kỳ nuông chiều sinh hư, đến khi lớn lên lại còn soán ngôi của phụ hoàng, tuy đều là do Triệu Cao dạy dỗ xúi giục mà thành, nhưng hắn vì thế mà chết chính là một sự thực không thể thay đổi được. Chỉ là, hiện tại đến sự cố chấp khôi phục triều Tần hắn cũng đã buông bỏ rồi, thì còn có gì mà không thể tha thứ được cho thằng em trai máu mủ ruột rà này?

Dẫu gì, đã hơn hai nghìn năm trôi qua, chẳng phải sao? Đến Đại Tần trong ký ức đều đã tan thành tro bụi, thì có gì có thể chứng minh được họ đã từng tồn tại?

Chỉ có vỏn vẹn vài người mà thôi.

Trong căn chung cư là một khoảng yên lặng, Phù Tô đã ngửi thấy một mùi ẩm mốc do lâu ngày không có người ở, hắn thử bật công tắc đèn ở cạnh cửa ra vào, đèn không sáng. Có lẽ là rất lâu rồi không đóng tiền điện, nên bị cắt điện. Phù Tô cau mày, phát hiện bụi bặm trong nhà đã phủ một lớp dày, cửa sổ phòng khách cũng chẳng đóng chặt, sàn nhà ở sát cửa sổ bị mưa hắt vào ướt còn đọng lại thành vết, cũng là nguồn cơn của mùi ẩm mốc trong nhà.

Xem ra, Hồ Hợi đã mấy tháng nay không quay về rồi.

Phù Tô đi đến bên bàn, bên trên còn thắp một miếng hương triện Nguyệt Kỳ Hương cháy dở một nửa, nhưng trên bàn còn có một dấu vết hình vuông, độ dày mỏng của tàn hương ở chỗ này và chỗ bên cạnh hoàn toàn khác nhau, giống như vốn có một thứ gì đó đặt ở đây, sau đó lại bị người ta lấy đi.

Trong phòng không có bất kỳ dòng chữ hoặc là tin tức khác, quần áo trong tủ vẫn còn, không có dấu vết từng bị ai dọn dẹp, thậm chí chăn trên giường cũng chưa được gấp lại.

Khi ra khỏi cửa Hồ Hợi thường cầm một chiếc ô màu đen, cả căn hộ giống như là chủ nhân chỉ tùy ý ra ngoài một chuyến, sau đó thì không quay trở về nữa.

Nỗi nghi hoặc trong lòng Phù Tô càng lúc càng lớn, Hồ Hợi không dùng điện thoại di động, hắn cũng không biết phải liên lạc với đối phương bằng cách nào. Chỉ có lúc này, hắn mới cảm giác các phương thức thông tin liên lạc của xã hội hiện đại thật tiên tiến biết bao, nếu đổi lại là thời cổ đại, mấy tháng không có tin tức là chuyện rất bình thường, làm sao có thể một thời gian không liên lạc được lại cảm thấy khó chịu đến vậy? Cũng không biết một năm nay Hồ Hợi sống như thế nào... Nghĩ đến đây, Phù Tô không kìm được cảm thấy áy náy vì mình đã không từ mà biệt.

Đúng vào lúc này, Phù Tô nghe thấy tiếng vỗ cánh phành phạch, bèn nhìn theo phía tiếng động, thì thấy một con chim màu đỏ nhỏ chui vào qua khe hở của cửa sổ phòng khách. Phù Tô lập tức đến hỏi: "Minh Hồng, chủ nhân của ngươi đâu?"

Minh Hồng nghiêng đầu nhìn người lạ mặt đột nhiên xuất hiện trong nhà, nhưng không lao đến mổ cho mấy cái. Nó vội vã đập cánh lượn một vòng quanh nhà, không nhìn thấy bóng dáng của chủ nhân đâu cả, không kìm được kêu lên với vẻ buồn bã và lo lắng.

Phù Tô vừa nhìn thấy phản ứng như vậy của Minh Hồng, trái tim liền chùng xuống, rốt cuộc Hồ Hợi đã xảy ra chuyện gì, sao đến cả Minh Hồng cũng chẳng đem theo?

3

Hồ Hợi chỉ đơn giản là không biết ở nơi xa xôi ngàn dặm, có người đang lo lắng cho sự an nguy của hắn, còn hiện giờ hắn đang ở trong một đình viện cổ kính đơn sơ, ngẩng đầu ngước nhìn bầu trời sao sáng lấp lánh.

Một chiếc áo choàng lông da cáo nhẹ nhàng khoác lên vai bắn, Hồ Hợi thu ánh mắt lại, rồi lại chuyển sang nhìn người đàn ông đứng đằng sau hắn nửa bước, trong con ngươi màu đỏ vẫn ánh lên thần sắc không hiểu vì sao.

Người đó cung kính nghiêm cẩn cúi nửa lưng, vĩnh viễn cúi đầu, cẩn thận dè dặt đứng đằng sau hắn, không bao giờ nói bừa, luôn dốc lòng hầu hạ hắn, cuối cùng lại vì hiểu nhầm mà bị hắn tự tay giết chết.

Ký ức đã rất xa xưa rồi bỗng nhiên trở nên vô cùng rõ ràng tươi mới, đó là vì Hồ Hợi vĩnh viễn không thể quên được năm đó khi hắn biết vì mình hiểu lầm mà giết Tôn Sóc, Triệu Cao đã giải thích với một khuôn mặt thản nhiên như thế nào.

Ha, nói cái gì đó chính là bài học thứ hai mà y dạy cho hắn, dạy cho hắn biết làm thế nào để phân biệt trung thành hay là xảo trá...

Đúng thế, làm sao mà hắn quên được, toàn bộ nội thị theo hầu hắn đều được đặt tên giống với người này, là vì hắn sợ bản thân sẽ quên mất sai lầm mà mình đã từng phạm phải.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Rolex chơi lớn - Giảm đến 90% các loại đồng hồ bản sao cao cấp

Hàng trăm chiếc Rolex bản sao cao cấp được bán trong dịp giảm giá

"Tôn Sóc..." Hồ Hợi buồn rầu gọi, lại biết người trước mắt không phải đang sống thực sự, mà là hồn phách đang ngụ trên cái cân đồng, lại bị Triệu Cao nhặt được, dùng thuật "bù nhìn" làm ra một con rối hình người.

"Có nô tài ". Tôn Sóc cúi đầu thưa, trong đêm tối giọng nói vang lên nghe có chút xa xôi mơ hồ.

"Triệu Cao... rốt cuộc hắn muốn làm gì?" Hồ Hợi cuối cùng đã không nhịn được cất lời hỏi. Khi đó Triệu Cao xuất hiện trước mặt hắn, đối với hắn mà nói rõ ràng giống như một cơn ác mộng, nỗi sợ Triệu Cao ngấm vào xương tủy khiến hắn đi theo y một cách vô thức, không hề có chút phản kháng nào.

Ha, hắn cũng biết những người trong lịch sử đó đều viết về Triệu Cao như thế nào, cho rằng hắn ngu tối dối lừa, lại còn dám chỉ một con hươu trên triều đường, nói đó là một con tuấn mã.

Việc này nhìn thì tưởng chừng là một vở kịch nhảm nhí, để Triệu Cao dễ dàng phân biệt trên triều đường những kẻ nào theo hắn, những kẻ nào là miệng phục tâm không phục, những kẻ nào là kiên quyết không cúi đầu. Đây là thủ đoạn thăm dò trắng trợn và to gan, lại càng làm nổi bật sự kém cỏi của bọn tranh đảng khua môi múa mép chậm chạp lề mề.

Từ đấy cũng có thể nhìn ra tâm cơ và thủ đoạn của người này đáng sợ biết bao nhiêu. Cho nên khi Hồ Hợi ở trong tòa trạch viện giữa một vùng núi non hẻo lánh này giống như bị giam lỏng, thì càng như ve sầu mùa đông không dám lên tiếng cho dù Tôn Sóc ở bên cạnh ngày đêm hầu hạ rất thoải mái, nhưng hắn cũng ngày đêm lo lắng nơm nớp, cuối cùng không kìm được đã bật ra câu hỏi vào lúc này.

Đương nhiên, khi hắn hỏi câu này, cũng cảm giác kỳ thực Tôn Sóc không hề biết đáp án, hắn cũng chỉ là muốn tìm một người để nói chuyện mà thôi.

Kết quả không ngờ Tôn Sóc trầm ngâm trong giây lát, lại mở miệng nói: "Có lẽ chủ nhân có mưu đồ".

Hồ Hợi nghe thấy Tôn Sóc vốn là nội thị của mình, nhưng lại gọi Triệu Cao là "chủ nhân" một cách tự nhiên như thế, lập tức nổi giận cười nói: "Ồ? Ngươi đều biết cả ư? Nói thử ta nghe xem nào".

"Có lẽ là liên quan đến một cửa tiệm tên là "Á Xá"". Đêm đông lạnh lẽo, Tôn Sóc tuy chỉ là một con rối, nhưng vẫn có thói quen của loài người. Một trận gió lạnh ập đến, hắn chắp ống tay áo vào với nhau, rụt vai kiến nghị nói: "Tiểu công tử, chúng ta vẫn nên vào trong nhà nói đi".

"Không cần, ta khoác áo lông rồi, ngươi lại không sợ lạnh, vào trong nhà làm cái gì? Ta muốn đứng bên ngoài một lúc". Hồ Hợi hừ lạnh nói. Ở bên cạnh Tôn Sóc, hắn dường như quay trở lại làm tiểu công tử cao ngạo của triều Tần năm đó, luôn không muốn cho người khác thoải mái. "Ngươi tiếp tục nói đi, việc này thì liên quan gì tới cửa tiệm Á Xá đó?" Lẽ nào là Triệu Cao đã phát hiện ra thân phận của gã chủ tiệm? Hồ Hợi thoáng kinh sợ trong lòng, nghĩ đến vị hoàng huynh còn không rõ tung tích, lại càng lo lắng hơn nữa.

Tôn Sóc nhìn thấy tiểu công tử nhà mình không muốn vào trong nhà, cũng không cố khuyên nhủ nữa, mà mỉm cười bước lên phía trước nửa bước, vừa khéo đứng vào phương hướng chắn gió đêm, sau đó mới cúi đầu chậm rãi nói: "Việc này phải bắt đầu nói từ lịch sử của Á Xá".

"Lịch sử? Á Xá chẳng phải là một tiệm đồ cổ do gã chủ tiệm đó dựng nên sao? Còn có lịch sử gì nữa?" Hồ Hợi giơ tay lên thuận theo mái tóc màu bạc bị gió đêm thổi tán loạn tứ phía của mình, tùy ý nhét vào trong chiếc mũ của áo khoác.

"Không phải, trên thực tế, từ sư phụ Cam thượng khanh đã bắt đầu thu thập cổ vật rồi. Tương truyền môn phái của vị đạo trưởng đó rất thích thu thập những thần khí thời thượng cổ còn sót lại trong nhân gian. Mà sau những niên đại huyền thoại Viêm đế, Hoàng đế, đế Nghiêu, đế Thuấn, đế Vũ, linh khí trời đất ngưng tụ, những thần khí sót lại ở thế gian sản sinh ra ảnh hưởng rất lớn đối với người phàm, cho nên đã lập nên mấy kho báu ở các vùng của Trung Nguyên, phong ấn những thần khí này ở trong đó. Đương nhiên, thần khí cũng chỉ chiếm một bộ phận, rất nhiều đồ vật bị ký gửi linh hồn giống như thần hoặc là tự mình nảy sinh ra linh tính và trí tuệ, cũng thuộc về phạm trù cần phải phong ấn". Tôn Sóc thong thả nói, ngữ khí và giọng điệu đều ôn hòa bình tĩnh như xưa, khi nói đến mình, cũng chẳng hề mảy may xúc động.

"Kho báu?" Sức chú ý của Hồ Hợi lập tức bị hai từ này thu hút, đôi mắt đỏ không thể kìm chế nổi phóng ra một luồng ánh sáng chói lọi, "Nói như thế, thực sự còn có lý. Những thần khí thời thượng cổ đó đều cực khó bị làm tổn hại, cũng không có lý gì mà bỗng nhiên biến mất. Ta vốn tưởng rằng vì chủ nhân của chúng qua đời mà bị bụi mờ che phủ, hóa ra lại là vì nguyên nhân này!"

"Sách "Quảng Nhã" viết: Khố, xá dã. Nghĩa là nhà kho còn gọi là xá". Giọng Tôn Sóc ngừng lại một chút, giống như đang cho Hồ Hợi thời gian suy nghĩ, rồi sau đó mới chầm chậm nói tiếp, "Cho nên, Á Xá không chỉ là một cái tên cửa hiệu đơn giản, mà trong đó là một kho báu".

"Thì ra là như vậy", Hồ Hợi sững người, "ta còn tưởng rằng gã chủ tiệm đặt cái tên cửa hiệu này rất thi vị, vì rất nhiều cổ vật có câu chuyện mà không thể nói, cho nên căn nhà xếp đầy những cổ vật này mới gọi là Á Xá".

"Chữ Á một bên là bộ khẩu, một bên là chữ Á. Trong đó, bộ khẩu chỉ việc phát thanh, còn chữ Á bản nghĩa là đại nội trong cung thành. Chữ Xá có nghĩa là nhà kho, cho nên thuở ban đầu hai chữ Á Xá này, thực ra có nghĩa là kho riêng của hoàng đế, là chỉ những bảo vật này chỉ có thể nói chuyện khi ở trong cung thành. Những bảo vật đều có thể nói chuyện, có thể suy luận ra những thứ cất giấu trong cái kho đó đều là bảo vật tầm cỡ như thế nào. Đương nhiên, sau đó còn xây dựng mấy kho báu nữa, và cùng với việc triều đại Hạ Thương Chu Xuân Thu Chiến quốc thay đổi liên tục, cái tên Á Xá cũng trở nên ít người biết tới. Cho đến sư phụ của gã chủ tiệm lại khôi phục trở lại việc sưu tầm cổ vật, và sử dụng lần nữa cái tên này". Tôn Sóc kể lại những chuyện mình biết, khó tránh khỏi có xen lẫn những suy đoán của cá nhân, "Có lẽ gã chủ tiệm khi lưu lạc nhân gian hàng nghìn năm, cũng đã kế thừa ý chí của sư phụ gã, mới dùng Á Xá làm một cửa tiệm đồ cổ để che tai mắt người đời".

Hồ Hợi nhìn sang gã đàn ông đang cúi đầu khom lưng bên cạnh với thần sắc khó hiểu: "Tôn Sóc, sao ngươi lại biết nhiều như vậy?"

Tôn Sóc mỉm cười nói: "Tiểu công tử, nô tài vẫn luôn có thần trí, cũng sống hơn hai nghìn năm rồi. Huống hồ đám cổ vật cũng rất lắm chuyện, đặc biệt là những món đồ biết nói đó".

Hơi thở của Hồ Hợi ngưng một lúc, nghĩ đến chính mình đã tạo thành tai họa như thế này, lập tức không có lời nào để nói nữa. Hít thật sâu một hơi lạnh giá, hắn gượng gạo chuyển đề tài nói: "Á Xá chỉ là một trong số những kho báu sao? Hơn nữa cổ vật trong đó đều chưa bị phong ấn, khẩu vị của Triệu Cao không nhỏ như vậy. Mục đích của hắn là gì? Muốn bá chiếm những kho báu đó à?".

"Điều này nô tài cũng không biết. Chỉ là muốn tìm được những kho báu đó thì buộc phải dùng đến một cái la bàn". Tôn Sóc trả lời một cách đơn giản.

"La bàn?" Hò Hợi bỗng nhớ đến la bàn Lạc Thư Cửu Tinh trong Á Xá.

"Đúng thế, cái la bàn đó gọi là Niết La Bàn, truyền thuyết nói có thể xoay chuyển thời gian không gian, khiến một người đi ngược thời gian trên linh hồn, thực sự tái sinh". Tôn Sóc nói xong cũng không kìm nổi hơi xúc động, vì gã cũng muốn tái sinh, muốn đến phát điên phát dại, trong lời nói mang theo sự run rẩy hết sức rõ ràng.

"Chỉ là chiếc Niết La bàn này vì quá nghịch thiên, cho nên kim La bàn và La bàn đã bị tách ra cất giữ, đã không biết lưu lạc phương nào".

Hồ Hợi lim dim hai mắt, cảm thấy la bàn Lạc Thư Cửu Tinh trong Á Xá đúng là có thể đảo ngược thời gian không gian, nhưng không biết nó là kim la bàn của chiếc Niết La Bàn nói trên hay chính nó là một chiếc la bàn nữa. Lặng lẽ ghi nhớ tin tức tình báo này, Hồ Hợi nhìn thấy Tôn Sóc không nói gì nữa, bèn cau mày hỏi: "Gã Triệu Cao đó muốn tìm kho báu, bắt ta đến đây để làm gì?".

Tôn Sốc nghe xong liền cười khẽ: "Chủ nhân nói ông ấy đã may mắn tìm được nô tài, nên nói nợ nô tài một nguyện vọng".

"Nguyện vọng", Hồ Hợi ngẩn ngơ nhìn Tôn Sóc vẫn luôn cúi đầu cuối cùng đã ngẩng đầu lên. Sắc mặt của con rối đều vô cùng kỳ quái, tuy tướng mạo lờ mờ vẫn là nét mặt của Tôn Sóc vốn có, nhưng làn da của hắn lại trắng xanh, bất thình lình nhìn thấy giống như nhìn thấy một cỗ cương thi biết nói năng cử động.

"Vì nguyện vọng của nô tài, chính là được trở lại bên cạnh tiểu công tử...". Tôn Sóc vẫn mỉm cười một cách nhu hòa cung kính như xưa, nhưng nụ cười bên khóe môi lại vẽ thành một đường cong quái dị.

4

Cùng lúc ấy, đắm chìm dưới một khoảng trời sao, còn có hai người một lớn một nhỏ.

Vì đang ở trong một tiểu viện bốn mùa đều là mùa xuân, Thang Viễn chỉ mặc một chiếc áo T-shirt in hình Iron man, trước mặt trải một tấm bản đồ sao rất lớn, xung quanh chất một đống sách chiêm tinh lớn, đang vùi đầu vào học thuật chiêm tinh. Mà vị đạo nhân trẻ tuổi bên cạnh cậu vẫn mặc một chiếc áo đạo bào bằng vải lụa mỏng màu xanh đen, cúi đầu trầm ngâm.

"Nam bắc lưỡng tinh chính trực huyền, trung hữu bình đạo thượng thiên điền, tổng thị hắc tinh lưỡng tương liên, biệt hữu nhất ô danh tiến hiền...", Thang Viễn đang lật giở cuốn "Bộ Thiên Ca", đây là ấn bản bí mật của một tập thơ kể về tất cả thuật tinh tượng, thời cổ đại chỉ được các giám chính trong Khâm Thiên Giám đời đời truyền miệng, chứ chưa bao giờ truyền cho bên ngoài. Đương nhiên, đối với thời hiện đại mà nói, nó đã không còn được coi là bí truyền gì nữa, Thang Viễn bị sư phụ chỉ định học thuật chiêm tinh, nhập môn là phải đọc thuộc toàn bộ cuốn "Bộ Thiên Ca" này.

(Tạm dịch: Hướng Nam và hướng Bắc hai ngôi sao treo thẳng đứng, hai sao này nằm giữa hai sao Bình Đạo và Thiên Điền, hai ngôi sao đen này luôn được nối liền, còn một ngôi sao nằm riêng một góc tên là Tiến Hiền. Đây là đoạn thơ mô tả chòm sao Giác (tức chòm sao Xử Nữ).

Thuật tình tượng: Người xưa quan sát vị trí của các vì sao trên bầu trời để đoán điềm xấu tốt)

Điều này đối với Thang Viễn xưa nay chỉ xem một lần là nhớ mà nói thì cũng chẳng khó khăn gì, rất nhanh chóng cậu đã thuộc làu làu thơ về sao Tử Vi Viên, Thái Vi Viên, Thiên Thị Viên, đang bắt đầu đọc thuộc Nhị Thập Bát Tú. Chỉ là cậu phải vừa đọc thuộc "Bộ Thiên Ca" vừa đối chiếu với bản đồ sao, nói chung cũng phức tạp hơn một chút. Càng huống hồ ban đầu cậu phải đọc thuộc 88 chòm sao, bây giờ cậu phải chia lại bản đồ sao thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú, đau khổ chả khác gì phế toàn bộ võ công rồi luyện lại từ đầu.

"Sư phụ, "Bộ Thiên Ca" khó học thuộc quá!". Thang Viễn cuối cùng vẫn không nhịn được lẩm bẩm oán trách hai câu. Cậu ngẩng đầu muốn tìm các vì sao trong chòm sao Giác trên bầu trời, nhưng bỗng nhớ ra sao Giác là chòm sao đứng đầu trong bảy chòm sao phương Đông, phần lớn là các sao của chòm sao Xử Nữ và chòm sao Nhân Mã, mà vào thời điểm cuối xuân đầu hạ phải sau khi mặt trời lặn thì chúng mới xuất hiện trên bầu trời phương Nam. Hiện tại đã vào đỉnh điểm lạnh của mùa đông, bầu trời sao có thể có dấu vết của sao Giác được? Hay là cậu đổi sang bắt đầu từ chòm sao Sâm hiện rõ nhất sáng nhất trên bầu trời mùa đông được không nhỉ?

""Hệ từ" của "Dịch" có viết: Trời ban tượng, đoán cát hung. Quan sát tinh tượng có thể suy đoán được xu hướng của vạn vật thế gian, là một kỹ năng thực dụng". Đạo nhân trẻ tuổi ngẩng đầu lên, bắt đầu tẩy não cho tên đồ đệ nhà mình một cách hết sức trách nhiệm.

"Căn bản cũng không thực dụng lắm đâu... Con thà tin vào vận trình của mười hai chòm sao trên mạng hơn, đơn giản rõ ràng hơn biết bao nhiêu". Thang Viễn chống má, thở phù phù nổi, "Con không muốn đọc cái gì mà thái tuế, thần sát, thất diệu, bát quái, tam nguyên, cửu tính đâu!"

"Hử? Bánh Trôi Nhỏ con biết nhiều quá đấy!" Đạo nhân trẻ tuổi nhíu mày, trên gương mặt tuấn tú lộ vẻ kinh ngạc.

"Chính thế! Tiểu gia con đây thiên tư thông minh, chỉ có mỗi thuật chiêm tính thì sao có thể làm khó con được?" Thang Viễn kiêu ngạo ưỡn ngực.

"Ngoan, Bánh Trôi Nhỏ rất lợi hại, phải tiếp tục cố gắng lên!". Ngữ khí của đạo nhân trẻ tuổi khen ngợi mà chân thành.

Lại phấn chấn bừng bừng lật giở "Bộ Thiên Ca" trong tay, Thang Viễn mới lộ vẻ mặt như hóa đá, cảm giác mình hình như lại bị lừa rồi. Cậu ngẩng đầu lên đương định cãi lý mấy câu thì nhìn thấy sư phụ cậu đang cầm một cái mai rùa to bằng lòng bàn tay, tay phải thì bấm pháp quyết, một đạo bùa màu vàng kẹp giữa ngón tay không có lửa châm mà tự bốc cháy, sau đó bị cái mai rùa ụp xuống trên mặt bàn đá. Một lúc, tiếng nổ tanh tách của cái mai rùa bị đốt cháy không ngừng truyền đến.

Thằng Viễn không kìm được nín thở, đây chính là Quy Giáp Chước Bốc sao?

Đạo bùa đó nhìn thì chỉ là một tờ giấy nhỏ, nhưng lại cháy trong thời gian rất dài, tiếng nổ của mai rùa cứ lách tách không ngừng, đến khi hoàn toàn yên tĩnh trở lại, Thang Viễn mới phát hiện trên mai con rùa đó có những đường nứt rất rõ ràng, nhưng lại vừa khéo không làm cho cái mai rùa toác ra.

Đạo nhân trẻ tuổi dùng ngón tay phải tỉ mỉ sờ những vết nứt đó, đồng thời giơ ngón tay trái ra bấm, cuối cùng ngón tay cái dừng ở đốt dưới cùng của ngón tay giữa.

Thang Viễn ngẩn người, cậu tất nhiên đã học qua phép Tiểu Lục Nhâm Toán Pháp bằng bấm ngón tay, đốt cuối cùng của ngón tay giữa gọi là "Không Vong", đây là một quẻ dữ nhất, dự báo tất cả mọi việc đều rất bất lợi. Cho dù sư phụ có đang bối cái gì, thì đều là quẻ đại hung cả!

"Sư phụ...", Thang Viễn lo lắng trong lòng cất tiếng gọi, trong tim như có một tảng đá lớn đè xuống khiến cậu không thở nổi. Nếu đổi là người khác e là cũng sẽ không quá để ý đến quẻ bói gì, nhưng cậu tuy ngoài miệng nói là xem nhẹ bản lĩnh của sư phụ, nhưng cũng biết vị sư phụ nhìn bề ngoài có vẻ ham ăn đến mức kỳ quặc này, kỳ thực lại tồn tại như một vị tiên nhân. Mà gần đây, đến những món ngon mà sư phụ thích ăn nhất cũng khó gặp được, hiện tại ngẫm nghĩ quả nhiên là mọi điều đều lạ lùng. Thang Viễn bỗng nhiên sắc mặt xám xịt hỏi: "Sư phụ, có phải đại sư huynh phá trận đồ chui ra sắp tìm đến nơi không?".

Đạo nhân trẻ tuổi ngẩng đầu nhìn lên bầu trời sao, buồn bã thở dài nói: "Là đã tìm đến cổng rồi".

Cùng với câu nói của hắn, kết giới giữa tầng không bỗng phát ra một tiếng nổ lớn mà không hề có bất kỳ cảnh báo nào trước đó, trong ánh mắt kinh hãi của Thang Viễn xuất hiện vô số những vết nứt gãy. Thang Viễn trợn mắt há miệng, vì cậu phát hiện vết nứt trên kết giới đó, lại giống y hệt từng vết nứt trên chiếc mai rùa mà sư phụ vừa mới đốt cháy xong.

"Tách!" Chiếc mai rùa trên mặt bàn đá cuối cùng đã triệt để vỡ nứt, chia ra làm bốn, năm mảnh.

"Bánh Trôi Nhỏ, đại sư huynh của con tới tìm ta tính sổ rồi! Nhân quả báo ứng, vẫn là luân hồi không ngừng, việc này không liên quan đến con, ta đưa con đến chỗ nhị sư huynh của con nhé". Đạo nhân trẻ tuổi giống như hoàn toàn không bận tâm đến những điềm dữ lần lượt xuất hiện, thậm chí còn đưa tay xoa đầu Thang Viễn và bật cười.

"Con không đi! Sư phụ! Không phải người bảo sẽ che chở cho con cả đời sao? Chúng ta cùng đi!" Thang Viễn đứng dậy kéo tay áo của chiếc đạo bào trên người đạo nhân, thần tình trên gương mặt tròn trĩnh vô cùng kiên nghị. Tuy bình thường cậu đấu võ mồm với sư phụ nhà cậu đến mức trời long đất lở, nhưng kỳ thực vô cùng dựa dẫm đối phương, sư phụ là nơi duy nhất trên đời này cậu có thể nương tựa vào.

"Hắn sẽ không đến nỗi giết ta, có đến tám phần là muốn ta nếm thử cảm giác bị giam cầm hai nghìn năm. Yên tâm, cho dù hắn có dùng chín chín tám mốt cổ vật để bày trận nhãn, bày đặt Phong Thần trận, thì sư phụ con cũng không đến nỗi bó tay chịu trói đâu.". Đạo nhân trẻ tuổi cười dịu dàng, nói đoạn rồi mặc kệ Thang Viễn khóc lóc ầm ĩ, giơ tay lên vớt ra một cái gùi nhỏ trong đầm hoa sen rồi ném vào lòng cậu, sau đó trực tiếp duỗi ngón tay ra, điểm trúng vào mi tâm của Thang Viễn.

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Thang Viễn chỉ cảm thấy sau lưng có một lực hút cực kỳ mạnh cuốn lấy cậu, rồi giống như cảm giác bị đuối nước do cuốn vào vòng xoáy, trong khoảnh khắc đánh mất ý thức đó, cậu nhìn thấy kết giới trong suốt phía sau lưng sư phụ đã biến thành mạng nhện, vỡ nứt từng mảnh như mai rùa.

"Đây là mùa đông! Chí ít phải để con cầm theo cái áo khoác chứ sư phụ!".

Khi tiếng kêu thét vỡ vụn của Thang Viễn truyền đến, đạo nhân phát hiện tiểu đồ đệ của mình đã được hắn chuyển đi một cách hoàn hảo, không kìm được bối rối dùng ngón tay gãi gãi má.

Bánh Trôi Nhỏ chắc không bị chết cóng chứ... Chắc thế...

5

Vừa bước ra khỏi tòa nhà lớn của bệnh viện liền cảm thấy một cơn gió lạnh thấu xương thổi qua. Bác sĩ khép chặt vạt áo khoác dạ vừa dày vừa nặng, cổ chút hối hận lúc sáng ra khỏi cửa đã không xem dự báo thời tiết, trên trời vừa đổ một trận tuyết như mưa bay.

Vài đồng nghiệp chào nhau rồi ra về, bác sĩ vô thức rẽ về hướng phố thương mại bên cạnh bệnh viện.

Ừm, cũng phải thôi, về nhà vẫn phải nấu cơm cho mình ăn, chẳng thà đến phố thương mại ăn một bát mì nóng hôi hổi, vẫn có thể ấm áp một lúc. Bác sĩ tìm lý do viện cớ cho bản năng của cơ thể. Lúc qua đường, anh nhìn thấy đầu phố cổ một người đàn ông có tóc mái che mặt đang cầm một chiếc ô màu đen đứng đợi ở đó.

Chỉ là rất vô tình liếc qua mà kinh hãi, vừa khéo có một trận gió lạnh kèm theo bông tuyết thổi tung phần tóc mái của đối phương, lộ ra vết tích từng bị bỏng xung quanh phần mắt của hắn ta.

Bác sĩ thầm tiếc nuối trong lòng, đối phương là một người đàn ông có tướng mạo nhìn rất khôi ngô, cũng không biết gặp phải tai nạn gì, mà lại phá hủy gương mặt như thế. Nhưng suy nghĩ này cũng chỉ thoáng lướt qua trí não, bác sĩ nhanh chóng thu lại ánh nhìn, hoàn toàn không chú ý đến ánh mắt của đối phương dừng lại rất lâu trên người mình.

Lúc này sắc trời đã tối, trên phố thương mại đã thắp sáng những ngọn đèn led bảy sắc cầu vồng, bác sĩ giẫm lên lớp tuyết mỏng tích trên mặt đất, đưa mắt nhìn xung quanh, luôn cảm thấy trái tim trống trải.

Giống như có chuyện gì đó quan trọng, người nào đó quan trọng mà anh đã quên mất.

Nhưng cho dù anh có nhớ như thế nào, thì vẫn không nhớ ra bất cứ manh mối nào.

Day day khuôn mặt bị lạnh tới mức ửng đỏ, bác sĩ cảm thấy lịch phẫu thuật của mình gần đây có lẽ hơi dày đặc, áp lực quá lớn nên nảy sinh ra ảo giác.

Móc điện thoại di động ra tìm xem gần đây có voucher gì ưu đãi không, bác sĩ bèn theo chỉ dẫn trên bản đồ rẽ vào một góc nhỏ vắng vẻ yên tĩnh, thì suýt chút nữa bị vấp chân. Đến khi anh vịn vào tường đứng vững được quay đầu lại nhìn, phát hiện ra đó lại là một cậu nhóc bị hôn mê!

Cậu nhóc này nhìn chỉ khoảng mười tuổi, trên người chỉ mặc một chiếc áo T-shirt in hình Iron man, gương mặt nhỏ bị lạnh đến nỗi đã tím tái cả đi.

Bác sĩ vội vàng khuỵu gối xuống, trong lòng cậu nhóc còn ôm một cái giỏ thuốc đan bằng mây, bên trong lại là một con rắn trắng cuộn người thành một đống đang nằm ngủ đông. Nhìn thì có lẽ là không có độc, chắc là loại rắn nuôi làm thú cưng trong nhà.

Không kịp suy nghĩ, bác sĩ vội vàng cởi chiếc áo khoác trên người ra đắp vào người cậu nhóc, so với gọi cấp cứu 110, thì bây giờ anh bế cậu nhóc trực tiếp xông vào bệnh viện sẽ nhanh hơn một chút.

Ôm cậu nhóc chạy xuyên qua ngõ nhỏ, bác sĩ quyết định đi đến cổng sau của bệnh viện.

Hành động như thế này của anh khi đi trên phố thương mại đã thu hút được bao cái nhìn của người đi đường. Nhưng bác sĩ cũng không hề ngại ngùng, anh vừa đi vừa dùng tay ước lượng nhịp tim của cậu nhóc trong lòng mình, xem ra chỉ là bị lạnh cóng, không có tổn hại gì nhiều. Bác sĩ cứ bế một cậu nhóc nặng mấy chục cân như vậy bước đi thật nhanh, cho dù không mặc áo khoác thì cũng làm anh toát mồ hôi, hơi thở ra đều bốc lên phủ một lớp sương mỏng trên mặt kính đeo.

Lúc này chính là thời điểm đỉnh cao của cuộc sống về đêm, lưu lượng người đi trên phố thương mại cực kỳ đông, bác sĩ né trái tránh phải, cho đến khi hình như có người chắn đường trước mặt anh.

"Xin nhường đường". Bác sĩ nhẫn nại nói.

Người đó sững ra, chầm chậm nghiêng người qua.

Bác sĩ không nghĩ nhiều, nói một tiếng cảm ơn rồi sải bước chạy như bay về phía trước, mà không hề chú ý tới ánh mắt cực kỳ phức tạp của người đằng sau anh vẫn đang dõi theo anh.

Gã chủ tiệm ngẩn ngơ nhìn phương hướng mà bác sĩ vừa rời đi, cho dù bóng dáng của anh sớm đã biến mất phía sau lưng những người khác.

Những bông tuyết đậu trên đỉnh đầu không hiểu đã dừng lại từ lúc nào, gã chủ tiệm ngẩng đầu lên nhìn, mới phát hiện có một chiếc ô đen đã chắn sương tuyết thay cho gã.

"Đồ muốn lấy đã lấy được chưa?" Phù Tô cúi đầu dịu dàng hỏi.

"Lấy được rồi". Gã chủ tiệm cười đáp lại một tiếng, "Chúng ta đi thôi".

Quyển 4 - Chương 13: Hậu ký

Hậu ký: Lịch sử đã trôi qua

Chủ đề của "Tiệm đồ cổ Á Xá" tập 4 có liên quan tới lịch sử đã trôi qua.

Lục Tử Cương và bác sĩ cầm la bàn Lạc Thư Cửu Tinh trong tay, vì muốn tìm kiếm tung tích của gã chủ tiệm nên hết lần này tới lần khác xuyên không về ảo ảnh trong quá khứ.

Đây cũng là tình tiết tôi luôn muốn miêu tả.

Lịch sử xét cho cùng có thể thay đổi được hay không?

Dựa vào tổ hợp phương trình Maxwell giành được, và được chứng thực bằng thực nghiệm Michelson-Morley, nguyên lý không đổi của tốc độ ánh sáng đã trở thành một trong những luận cứ quan trọng của thuyết tương đối theo nghĩa hẹp do Einstein đưa ra. Tháng 9 năm 1905 trong bài viết luận văn thuyết tương đối nổi tiếng "Bàn về điện động lực học của các vật thể chuyển động" do Einstein phát biểu trên "Vật lý học niên giám" nước Đức, trong đổ có nhắc đến một câu nói khiến cả thế giới phát cuồng: "Giống như kết quả trước đây của chúng tôi, tốc độ nhanh hơn tốc độ ánh sáng không có khả năng tồn tại".

Tốc độ nhanh hơn tốc độ ánh sáng có thể vượt thời gian không gian thực ra không phải ỷ chính của Einstein, nhưng điều này không ngăn cản nhân loại ảo tưởng, thử sức và cố gắng hết lần này tới lần khác. Người đầu tiên đem thứ ảo tưởng này biến thành hành động chính là các tiểu thuyết gia khoa học giả tưởng.

Từ đó có tiểu thuyết liên quan tới xuyên không, xuất hiện liên tục, không thể nào đếm xuể.

Tại sao mọi người không chống đỡ được dòng đề tài này, cứ chìm vào việc miêu tả tình tiết không thể dứt ra được?

Đó chính là vì bất kể là người hay quốc gia, đều có chuyện hối hận, muốn làm lại từ đầu.

Nhỏ thì như không may lỡ tay đánh vỡ bát đĩa, lớn thì như tiếng kêu ai oán khắp nơi, nếu có cơ hội có thể làm lại từ đầu, có thể có đủ cơ hội cứu vãn?

Ôm suy nghĩ như vậy nên tôi bắt đầu sáng tác "Tiệm đồ cổ Á Xá 4", nhưng ngay từ ban đầu vẫn có những quãng lịch sử không dám động vào, khiến người ta đau buồn, cố gắng bắt đầu viết từ những tình tiết khá nhẹ nhàng.

QUẢNG CÁOAdskeeper

Cách chữa hôi miệng nhanh nhất không phải ai cũng biết!

An Lạc công chúa trong "Váy Chức Thành" giống như cô bé Lọ Lem phiên bản Đại Đường, lúc ra đời là một cô gái ngay cả một tấm chăn bao bọc cũng không có, sau khi lớn lên đã trở thành công chúa ai ai cũng ngưỡng mộ. Cởi bỏ tấm áo lam lũ, khoác lên mình lụa là gấm vóc hoa mỹ, nhưng không thể che giấu nổi dục vọng đã méo mó trong lòng. Vào tháng năm đẹp nhất của nàng đã bị đao kề cổ, nếu như cho nàng cơ hội trùng sinh, liệu nàng có can thiệp vào triều chính, xa xỉ, dâm dật, mưu toan vị trí xa vời không với tới?

Phân đẳng cấp không phải là quần áo, mà là con người.

"Ngọc Ông Trọng" kể về một câu chuyện liên quan tới hiểu nhầm. Một miếng ngọc Ông Trọng bị lời nguyền, lưu truyền trên thế gian, nghe nói sẽ mang lại rất nhiều vận xui cho chủ nhân. Trên thực tế ngọc Ông Trọng đã che chắn cho chủ nhân hết tai họa này tới tai họa khác, bị nứt vỡ hết lần này tới lần khác. Không biết lúc Vương Tuấn Dân mắc bệnh điên mà chết, nếu biết được ngọc Ông Trọng đã vì hắn mà thêm nhiều vết nứt, liệu có hối hận không kịp không.

Ai cũng vậy, chẳng bao giờ nhìn thấu chân tướng.

Ai cũng muốn một cái chuôi Thiên Như Ý. Đây là một vật thần kỳ chỉ cần ước nguyện là được như ý, đã hoàn thành tâm nguyện của Lý Định Viễn. Chàng thiếu niên bị huyết hận thâm thù làm mờ đôi mắt, cuối cùng vẫn không thể nào lựa chọn được thứ quan trọng nhất trong cuộc đời mình là gì. Vậy thì, chàng đã bị định mệnh sắp đặt chẳng giành được gì cả.

Ai ai cũng mong muốn mọi chuyện như ý, nhưng thực tế luôn không như mong muốn.

Một đồng xu có mặt trước và mặt sau, giống như mọi chuyện trên thế gian này vậy, có người thích nhìn từ mặt trước, cũng có người thích nhìn từ mặt sau. Nhưng tiền Vô Bội lại là đồng xu có hai mặt trước, mặc dù thể hiện thái độ khá cực đoan nhưng cũng thể hiện niềm tin kiên định.

Lịch sử được kể lại trong "Tiền Vô Bội" cũng chính là sự tích Địch Vịnh anh dũng hy sinh cho tổ quốc, trên thực tế chỉ có một câu nói ghi trong sử sách, thậm chí trong một số sách sử không có ghi chép gì. Trong dòng chảy của lịch sử, vô số tướng sĩ đều như một giọt nước, thỉnh thoảng tạo nên gợn sóng nhưng ngay lập tức lại tan biến không còn dấu tích.

Thực ra ban đầu tôi định viết về Địch Thanh, một tướng quân tướng mạo tuấn tú giống Lan Lăng Vương trong lịch sử phải đeo mặt nạ mới có thể ra trận, thân thế của Địch Thanh còn gập ghềnh hơn Lan Lăng Vương. Mười sáu tuổi đã thay huynh trưởng gánh tội, trên mặt bị khắc chữ, sau đó vượt ngục đi lính, từ cấp dưới đáy từng bước từng bước trở thành võ tướng hàng đầu Đại Tống, cả quá trình đều giống như một cuốn tiểu thuyết truyền kỳ. Lịch sử của tiền Vô Bội cũng tồn tại, có thể thấy Địch Thanh không chỉ anh dũng thiện chiến, mà mưu lược cũng xuất sắc.

Cuộc đời của Địch Thanh là truyền kỳ, nhưng tôi càng tìm hiểu càng cảm thấy uất ức thay ông ấy. Triều Tống trọng văn khinh võ, chuyện này ai cũng biết, sinh không gặp thời cũng là điều bất lực của Địch Thanh, cuối cùng chỉ có thể kết thúc trong uất hận.

Nhưng giống như đồng tiền xu có mặt trước và mặt sau, triều Tống trọng văn khinh võ nhưng trên thực tế cũng duy trì căn cơ trị an lâu dài. Võ tướng làm loạn thời trung, hậu kỳ đời Đường, các triều đại của Ngũ Đại Thập Quốc thay thế liên tục, đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho triều Tống, từ đời Thái Tổ đã xây dựng nền móng cho cả triều Tống. Giống như tôi từng mượn lời Lục Tử Cương trong truyện để biểu đạt ý của mình, triều Tống bỏ ra chút tiền để dẹp bọn ăn mày, nộp ít tiền bảo kê, là có thể giải quyết được mối họa trong lòng, vậy tại sao việc vui lại không làm chứ?

Chỉ là sống trong tư tưởng bỏ tiền mua bình an quá lâu, cả quốc gia sẽ rơi vào trạng thái tinh thần không phấn chấn, như thế chính là mất bò mới lo làm chuồng.

Vì vậy tôi mang thời gian xảy ra sự việc đặt lên người Địch Vịnh, đây là một hán tử chân chính, tuấn tú, quang minh lỗi lạc, có nhiệt huyết, mặc dù danh tiếng của Định Vịnh trong lịch sử vốn chẳng bằng một nửa so với cha mình, thậm chí phần lớn mọi người đều chưa từng nghe tới tên của Địch Vịnh, nhưng tôi hy vọng dùng văn chương của mình có thể khiến nhiều người biết tới sự tồn tại của anh ta, biết trong lịch sử còn có nhiều tướng sĩ như Địch Vịnh, vì biên cương, vì dân tộc, vì đất nước mà thề chết bảo vệ, mới mang lại một cuộc sống yên bình cho chúng ta ngày nay.

Tiền mất thì hạn cũng đi là một cách, nhưng có lúc không có nghĩa là nhẫn nhịn có thể giải quyết được vấn đề.

Một chiếc thìa gỗ Ti Nam tiêu có thể chỉ được hướng của đế quân, đã gợi lên dục vọng không thể chạm tới trong lòng Hồ Hợi. Hắn biết rõ ràng rằng phế huynh trưởng để tự lập, là bất nhân; không tuân theo chiếu mệnh của phụ hoàng, là bất hiếu; bản thân hiểu biết nông cạn, miễn cưỡng đăng cơ, là bất năng. Người trong thiên hạ đâu phải những kẻ đần độn mà không biết được bên trong có nội tình? Phải giải thích với người trong thiên hạ thế nào? Phải báo cáo với liệt tông liệt tổ ra sao? Hồ Hợi biết rõ kết cục của mình nhưng không có sức mà thay đổi.

Có lúc trời cao thường mang tới nỗi đau hoặc niềm vui không thể gánh vác được, chúng ta phải có nghị lực và tỉnh táo nhận thức rõ ràng vị trí của mình nên ở đâu.

Cơ Thanh chỉ nhỏ hơn Yên Đan ba ngày tuổi, cả hai là anh em họ, được Yên vương Hỉ đích thân đặt tên cho. Đan và Thanh là màu đỏ thẫm và màu xanh nên không dễ phai màu, sử gia dùng sổ đỏ để ghi công lao, dùng sổ xanh để ghi sự việc, từ cổ đan thanh có nghĩa là sử sách. Cơ Thanh và Yên Đan ngoại hình giống nhau, có lúc không chỉ người ngoài không phân biệt được ai là ai, mà ngay cả Cơ Thanh cũng có lúc không phân biệt được.

Một đôi dấu sừng tê giống nhau khắc hai cái tên khác nhau. Nhưng cuối cùng chỉ có một con dấu sừng tê được lưu lại.

Lúc nào mới có thể được coi là trưởng thành thành người? Đó là lúc có thể chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình.

Luôn có độc giả hỏi tôi gã chủ tiệm đã sống như thế nào trong thời kỳ kháng chiến, đó là quãng lịch sử tôi vẫn không dám động vào, cuối cùng bây giờ bút lực đã khá lên nên tôi mới viết ra câu chuyện khiến mình khá hài lòng. Khi viết "Bồ Đề Tử" tôi không ngừng đọc tư liệu lịch sử về niên đại đó, trong lòng nặng nề, u ám, thậm chí lúc viết còn cay mũi, nhòe mắt vài lần.

Rốt cuộc một dân tộc phải lụn bại đến bước nào mới bị ép tới mức phải di dời văn hóa một cách thanh thế lớn lao như vậy?

Và rốt cuộc phải đến lúc nào, những vật quý giá này mới có thể không bị phủ bụi, mới có thể được lau chùi sạch sẽ bày trong viện bảo tàng cho người đời ngắm nghía chiêm bái?

Không biết mọi người có còn nhớ bài báo về cái đĩa hình hoa quỳ sáu cánh men xanh của lò gốm Ca Diêu thời Tống trong Cố Cung không. Khi tôi nhìn những bức ảnh chiếc đĩa vỡ thành sáu mảnh trên mạng, hồi lâu không lấy lại được tinh thần.

Trong những tháng ngày chiến hỏa ngút trời khó khăn ấy, chúng ta chẳng hề làm tổn hại một món đồ cổ nào, nhưng lại trong những tháng năm hòa bình, dễ dàng làm vỡ nó trong khi bảo dưỡng, duy trì.

QUẢNG CÁOMgid

Một người có thể kiếm về 65 triệu đồng bằng cách sử dụng ứng dụng

Olymp Trade

Đừng chỉ sống dựa vào tiền lương. Học cách giao dịch

Olymp Trade

Thực sự khiến người ta buồn không nói lên lời.

Trân trọng dùng "Bồ Đề Tử" gửi tặng những học giả và binh sĩ đã có cống hiến với công cuộc di dời văn vật. Mỗi món đồ cổ chúng ta nhìn thấy trong viện bảo tàng bây giờ đều do họ đã vượt qua trăm ngàn khổ cực cay đắng mới bảo tồn được.

Đừng quên nỗi nhục quốc gia! Kính cẩn nghiêng mình trước họ!

Ai ai cũng muốn trừng trị cái ác, biểu dương cái thiện, nhưng có nhiều lúc bọn họ vốn chẳng thể nào phân biệt được thiện và ác thực sự. Một chiếc Mũ Giải Trãi mới khiến người tột cùng lương thiện mới có thể nhìn thấy thần thú Giải Trãi. Cái thiện của một người cũng có thể là cái ác của người khác. Nghe theo lòng mình, tức là chí thiện.

Tiêu chuẩn thiện và ác trong lòng mỗi người khác nhau? Thiện là gì? Ác là gì? Hãy lau sáng đôi mắt, tin tưởng vào phán đoán của mình.

Rốt cuộc một nữ tử thế nào mới không thích châu báu lụa là mà lại thích một cây giáo chiến không rời tay? Là cây giáo sắc nhất trên thế gian này, cho dù biết có một ngày sẽ bị đâm gãy trước một chiếc khiên không bao giờ đâm thủng, nhưng vận mệnh cả đời này cũng chỉ có thể tiến về phía trước mà thôi.

Con người tồn tại trên thế gian này cho dù có mâu thuẫn, cũng chẳng bao giờ tránh được.

Lấy gì để thể hiện tình cảm thắm thiết giữa hai ta, đeo một đôi vòng ngọc trên cổ tay. Một đôi vòng ngọc, xuyên qua thời gian, nhưng vẫn không cứu vãn được sinh mệnh đã từng qua đời.

Mỗi người trong cuộc đời này đều có những chuyện cũ hối hận vì thế mới càng trân quý hiện tại.

Tất cả những đồ vật được miêu tả trong Á Xá không phải món đồ nào cũng có giá trị liên thành, giá trị của đồ cổ vốn không thể dùng tiền bạc làm thước đo. Cho dù là món đồ vài đồng bạc nhưng một khi ở bên bạn nhiều năm, nó sẽ mang ý nghĩa khác biệt so với những món đồ khác. Vì thế phải biết yêu thương những món đồ bên cạnh mình, có thể nhiều năm sau chúng sẽ trở thành đồ cổ.

Thỉnh thoảng có độc giả nói với tôi trên weibo, cảm thấy "Á Xá 1" viết hay hơn "Á Xá 2" và "Á Xá 3", nhưng trên thực tế phần lớn độc giả phản hồi với tôi là, "Á Xá" càng viết càng hay. Bởi vì bút lực của tôi cũng đang tiến bộ, rất nhiều quãng lịch sử trước đây muốn viết nhưng không dám động vào, bây giờ cũng có thể viết ra những câu chuyện khiến tôi hài lòng. Vì thế trong "Á Xá 1" phần lớn đều là những câu chuyện tình yêu đơn giản, đọc rất nhẹ nhàng, độc giả thích tập 1 cũng thường là tuổi khá nhỏ. "Á Xá" càng về sau tôi dành càng nhiều thời gian, "Á Xá 2" dần dần trưởng thành, đến đồ cổ đế vương trong "Á Xá 3", chỉ cần là những độc giả đã theo dõi suốt chặng đường "Á Xá" sẽ nhìn thấy sự tiến bộ của tôi.

Còn "Á Xá 4" mặc dù tưởng như không có chủ đề, nhưng trên thực tế là đang hồi tưởng lại quãng thời gian lịch sử trong hai nghìn năm của chủ tiệm. Thông qua những chuyến xuyên không của Lục Tử Cương và bác sĩ, cùng thử trải qua sự va chạm của tư tưởng hiện đại và sự kiện lịch sử.

Tôi luôn hy vọng những câu chuyện tôi viết ra có thể khiến mọi người sau khi gấp sách lại vẫn tìm tòi suy nghĩ, hồi tưởng nhiều lần, tôi cũng luôn cố gắng phấn đấu theo hướng ấy.

Có điều có lẽ vì tôi đã cố tránh việc giảng đạo lý một cách cứng nhắc, giảm thiểu những từ ngữ giáo điều thái quá vì thế có một số thứ có nhiều tầng sâu xa, các bạn đọc "Á Xá" có thể sẽ không nhìn ra được.

Cũng may có baidu tieba của "Á Xá", weibo của tôi có thể kịp thời đọc được phản hồi của mọi người sau khi đăng bài trên "Tiểu thuyết hội", quả thực có rất nhiều.

Ví dụ "Thanh Trấn Khuê" trong "Ả Xá 3", không chỉ nói về chủ đề quy tắc mà tôi còn thông qua việc miêu tả một quãng đời của Phù Tô, từ việc hắn đặt Thanh Trấn Khuê ở nơi cao để ngước nhìn, cho tới khi đặt Thanh Trấn Khuê ở trên bàn không dám đụng vào, rồi đến khi lấy hết dũng khí lén chạm vào hai cái, cuối cùng bắt đầu tùy ý nghịch chơi trong tay, để thể hiện quá trình một cậu thiếu nên xây dựng thế giới quan của riêng mình.

Trong lòng mỗi người đều có Thanh Trấn Khuê của riêng mình.

Chỉ là có một số người đã hoàn toàn bắt chước hình dạng của người khác, có một số người lại thích tự mình đẽo gọt.

Mỗi người khi xác lập thế giới quan thường sẽ kế thừa quan điểm của trưởng bối, lấy đó làm tiêu chuẩn. Đợi đến khi nhiều tuổi thêm một chút, sẽ dần dần có suy nghĩ của riêng mình, bắt đầu bán tín bán nghi với những lời của cha mẹ. Sau đó kiến thức sẽ nhiều thêm một chút, bắt đầu nghi ngờ lời của cha mẹ. Tới khi bước đầu hình thành được thế giới quan, nhân sinh quan, giá trị quan, sẽ không còn chuyện gì cũng nghe theo lời của cha mẹ nữa.

Thực ra ở một mức độ nào đó, đây cũng là ngọn nguồn hình thành nên thời kỳ nổi loạn của thanh thiếu niên.

Và sau thời kỳ nổi loạn, một người mới có thể thực sự xây dựng cách nhìn của bản thân mình về thế giới này, thực sự lớn lên thành người.

Đây cũng chỉ là một ví dụ lấy trong một chi tiết trong "Thanh Trấn Khuê" mà thôi, còn chi tiết này trong cả cuốn sách hơn một vạn chữ cũng chỉ xuất hiện hơn một trăm chữ mà thôi.

Mỗi câu chuyện trong "Á Xá" tôi đều dành rất nhiều tâm huyết, bất kể là tìm tư liệu hay xây dựng tình tiết, chứ không phải tôi không muốn viết thẳng một số ý nghĩa trong đó ra, mà là sau khi viết những thứ ấy ra hương vị của cả câu chuyện sẽ bị phá vỡ. Có người chỉ đọc truyện, có người có thể học được những kiến thức lịch sử trong đó, có người lại cảm động vì nhân vật trong truyện, có lẽ những người thực sự đọc hiểu những tâm huyết tôi gửi gắm vào trong câu chuyện mới là những người thực sự đọc hiểu "Á Xá".

Có điều cũng vì câu hỏi này mà tôi quyết định trong phần hậu ký của "Á Xá 4" đơn giản viết ra một phần ý nghĩa của những điều tôi muốn thể hiện của mỗi chương truyện trong tập này.

Đúng thế, tôi chỉ là viết ra một phần chủ đề trong đó, có rất nhiều bình luận đánh giá về sách trong tieba, phân tích từ các góc độ, bởi vì cảm nhận khi đọc sách của mỗi người khác nhau. Trong mắt nghìn người sẽ có một nghìn Hamlet, tôi cũng hy vọng trong lòng mỗi người cổ phán đoán của riêng mình.

Đây cũng là cảm hứng lớn nhất khi đọc sách.

Đồng thời cũng có người thông qua weibo hoặc tieba đặt câu hỏi cho tôi, ví dụ cảm thấy tôi dùng từ ngữ trong sách không hợp lý. Có một số chỗ quả thực do thói quen dùng từ của tôi không đúng, nhưng phần lớn là lượng kiến thức của mọi người chưa đủ. Tôi hy vọng trước khi mọi người nghi ngờ, hãy đi tra cứu tài liệu trước đã. Tôi thích mọi người tag tôi trên weibo, nói mình vốn tưởng từ "bà xã" trong chương "Giáo Khuất Lô" là tác giả dùng sai, kết quả sau khi bạn ấy tra tài liệu mới phát hiện ra, từ này đã bắt đầu được sử dụng từ đời Đường, chứ không phải ngay từ đầu đã nói tôi dùng từ sai, phải là từ này chứ không phải từ kia...

Hoan nghênh mọi người động não nhiều hơn, con người và con vật khác nhau ở chỗ chúng ta có đại não có thể suy nghĩ được.

Khi tôi học đại học, sách vở là cây cầu giúp tôi thu nạp kiến thức, từ lượng sách vở mênh mông học được vô số đạo lý, tôi mới có thể viết ra được "Á Xá" - tác phẩm khiến tôi tự hào, và có thể thông qua câu chuyện về gã chủ tiệm, miêu tả lại lịch sử, kể lại đạo lý cho mọi người.

Tôi hy vọng sách của mình có thể khiến những độc giả từng đọc sách suy nghĩ sâu hơn sau khi gấp sách lại, cho dù chỉ là tốn vài tiếng đọc sách, thậm chỉ tốn vài phút đọc một câu chuyện, cũng khiến tôi vô cùng vui vẻ.

Xét cho cùng bây giờ đã có cả triệu người đọc "Á Xá" rồi, trong đầu những người ấy, gã chủ tiệm cũng từng có những khoảnh khắc sống động.

Khả năng này cho dù chỉ là tôi ảo tưởng, nhưng cũng đều cảm thấy toàn thân run rẩy, phấn chấn vô cùng.

Có thể có một chỗ trong lòng bạn, cho dù khoảnh khắc và câu chuyện ấy có thể phai màu theo thời gian;

Có thể để mọi người biết tới gã chủ tiệm Á Xá, cho dù có thể chỉ biết gã là chủ một tiệm đồ cổ;

Tôi cũng cảm thấy vô cùng vinh dự.

QUẢNG CÁOMgid

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Tôi không bao giờ muốn thỏa mãn, mà hy vọng càng nhiều người có thể đọc được "Tiệm đồ cổ Á Xá", có thể biết tới Á Xá, hy vọng gã chủ tiệm sẽ sống lâu hơn trong tâm trí mọi người.

Điều này còn xúc động hơn việc gã đã sống hơn hai nghìn năm lịch sử, chẳng phải sao?

Dưới đây kể một chủ đề nhẹ nhàng một chút nhé. Ngày 23/9/2011, trung tâm nghiên cứu Nucleon châu Âu tuyên bố phát hiện một số hạt có thể bay với vận tốc vượt qua vận tốc của ánh sáng, phát hiện này trực tiếp khiêu chiến với thuyết tương đối của Einstein rằng không có vật chất nào vượt qua vận tốc ánh sáng. Các nhà khoa học nói nghiên cứu này nếu được chứng thực sẽ thay đổi quan điểm vật lý của nhân loại. Những hạt này quả thực được chứng thực nhanh hơn vận tốc ánh sáng, hoàn toàn thay đổi cách nhìn về sự tồn tại của vũ trụ này, thậm chí thay đổi mô hình tồn tại của nhân loại. Có nhân sĩ phân tích cho rằng, có thể trong vũ trụ quả thực vẫn còn tồn tại những hạng bậc chưa biết, các hạt sơ cấp đã đi tắt vào "đường gần" các hạng bậc khác, mới "chạy" nhanh hơn ánh sáng.

Vì thế mới nói, có lẽ nhanh hơn ánh sáng cũng không thể xuyên thời gian không gian, nhưng có thể nhảy vọt hạng bậc giữa các vì sao? Thời đại đại hàng hải vũ trụ bắt đầu từ đây?

Đi xa quá rồi... thực ra trong "Tiệm đồ cổ Á Xá 4" vẫn còn một số chỗ ngầm chê trách.

Ví dụ trong "Thiên Như Ý", nghe nói Thái Tổ năm đó cũng từng động lòng đặt đô ở Nam Kinh, kết quả cũng biết rồi đấy truyền thuyết Nam Kinh bị chặt đứt long khí, triều đại đặt đô ở Nam Kinh đều bị đoản mệnh, vì thế cuối cùng lấy Bắc Kinh làm thủ đô. Đương nhiên, chuyện này có thực sự xảy ra hay không cũng không thể khảo cứu nữa, chỉ là nghe nói mà thôi.

Trong "Tiền Vô Bội" có giải thích về tiền mừng tuổi, có thể thấy tôi rất buồn lòng. Vì thế nếu có tiêu thì nhất định phải tiêu tiền mừng tuổi của năm cũ.

Nghe nói có rất nhiều bạn nhỏ đọc đến đây đều đòi bố mẹ tiền mừng tuổi... bởi vì bình thường đều là bố mẹ "thu giữ" tiền mừng tuổi mà! Tôi buồn lòng lâu lắm rồi đấy!

Được rồi... bây giờ tôi vẫn còn nhận được tiền mừng tuổi... e hèm... nghe nói tập tục ở chỗ tôi là chưa kết hôn vẫn còn được mừng tuổi... cũng không biết tôi còn được nhận đến bao giờ...

Về kết thúc của "Tiệm đồ cổ Á Xá 4" có thể tôi lại nhận được than phiền của độc giả, có điều chuyện mất trí vốn khoa trương thế cơ mà, làm sao có thể không thử một lần chứ? Mọi người cũng đừng cảm thấy cách hành sự của Lục Tử Cương quá cực đoan, bởi vì kiếp trước anh ta ở cạnh gã chủ tiệm, cũng từng thấy gã dùng Hành Vu hương với người khác, hai nghìn năm qua gã chủ tiệm dùng cũng không ít lần, hê hê....

"Tiệm đồ cổ Á Xá 5" rốt cuộc hướng phát triển câu chuyện sẽ như thế nào... bây giờ vẫn chưa quyết định... vốn định kế hoạch "Tiệm đồ cổ Á Xá 5" là tập kết thúc, nhưng dường như đầu óc tôi tưởng tượng hơi lớn... ví dụ thu thập đồ cổ nước ngoài, tu sửa cửa tiệm rách nát, thu hồi cổ vật tà ác... còn cả "kho báu" mới vừa đặt ra nữa. Hê hê, không ngờ hàm ý của cái tên "Á Xá" lại cao cấp như vậy! Ngưỡng mộ tôi chưa! Ha ha.

Đưa vào ý tưởng "kho báu", vô tình lại đào hố rộng thêm một chút... nhìn xa xôi hơn... cho dù kết thúc phần năm rồi nhưng cảm thấy vẫn còn thêm ngoại truyện nữa.... tôi đi úp mặt vào tường đây...

Đặc biệt trịnh trọng cảm ơn giám đốc Triệu của nhà xuất bản Trường Giang và sự cố gắng của tổng giám đốc Tô thuộc Tri Âm Media, "Tiệm đồ cổ Á Xá 4" mới nhanh chóng ra mắt mọi người như vậy. Cảm ơn sự cố gắng của biên tập Lộ Biên, Tiểu Yêu, còn có sự cổ vũ của biên tập mỹ thuật Dương Quang, Khả Lạc Thiến. Phiên bản truyện tranh của "Á Xá" cũng phải cảm ơn sự chỉ đạo tận tình của biên tập Âm Âm.

Đương nhiên còn phải đặc biệt cảm ơn Hiểu Bạc, tới bây giờ "Á Xá" đã mở cửa được bốn năm, từ tranh minh họa cho tới artbook, rồi tới truyện tranh, hợp tác với cậu ấy ngày càng ăn ý, chúng ta cùng nhau cố gắng nhé.

Cuối cùng phải cảm ơn sự cổ vũ động viên của các bạn độc giả, sự trưởng thành của "Á Xá" không thể thiếu sự quan tâm của các bạn. Nếu thích câu chuyện này, thích cửa tiệm này, thích gã chủ tiệm, vậy hãy tiếp tục chờ đợi nhé.

Mười hai câu chuyện trong một tập "Tiệm đồ cổ Á Xá", mỗi tháng một câu chuyện, một năm một tập, tháng Năm năm sau, hẹn gặp lại nhé.

23/2/2014

Huyền Sắc

Quyển 4 - Chương 14: Dòng thời gian của chủ tiệm

Năm 238 trước công nguyên, Doanh Chính hai mươi hai tuổi dựa theo thông lệ tới cựu đô Ung nước Tần làm lễ đội mũ, dùng ngọc bích Hòa thị nổi tiếng thiên hạ để chế tác thành ngọc tỉ (Ngọc bích Hòa thị).

Năm 232 trước công nguyên, Cơ Thanh nhìn hai con dấu sừng tê y hệt nhau, cuối cùng đập vỡ một trong hai cái (Ấn sừng tê).

Năm 230 trước công nguyên, công tử Hồ Hợi chào đời, Tần Thủy Hoàng bắt đầu đại nghiệp thống nhất sáu nước.

Năm 221 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng thống nhất sáu nước, xưng là Thủy Hoàng đế.

Năm 219 trước công nguyên, Triệu Cao tặng Hồ Hợi một chiếc Ti Nam tiêu (Ti Nam tiêu).

Năm 214 trước công nguyên, Hồ Hợi ham hưởng lạc, xây dựng một khu đình viện theo mô hình bàn cờ Lục Bác (Cờ Lục Bác).

Năm 213 trước công nguyên, Hồ Hợi vô cùng muốn Thanh Trấn Khuê mà phụ hoàng ban cho hoàng huynh Phù Tô (Thanh Trấn Khuê).

Năm 210 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng chết trong khi tuần du, Triệu Cao dùng bút Bạch Trạch để sửa di chiếu, Phù Tô bị giết. Gã chủ tiệm bị lừa vào lăng Tần Thủy Hoàng, bị giết (Bút Bạch Trạch).

QUẢNG CÁOAdskeeper

Cách chữa hôi miệng nhanh nhất không phải ai cũng biết!

Năm 209 trước công nguyên, Lưu Doanh có được một chiếc vu sơn mài luôn đầy nước (Vu Chấn Ngưỡng).

Năm 207 trước công nguyên, triều Tần sụp đổ, Hồ Hợi "chết" (Chiếc Cân Đồng).

Năm 202 trước công nguyên, loạn lạc cuối thời Tần, gã chủ tiệm đổi tên là Hàn Tín, quyết chiến với Hạng Vũ ở Cai Hạ, Hạng Vũ tự vẫn ở bên bờ Ô Giang (Ngu Mỹ Nhân).

Năm 202 trước công nguyên, Lưu Bang lên ngôi lập nhà Đại Hán, chẻ trúc ghi thề, ban cho công thần đan thư thiết khế (Miễn Tử Bài).

Năm 130 trước công nguyên, hoàng hậu Trần A Kiều bị phế truất, về ở trong cung Trường Môn.

Năm 124 trước công nguyên, Hoắc Khứ Bệnh lấy được một chiếc gương đồng từ chỗ bà dì (Gương Ngư Văn).

Năm 110 trước công nguyên, gã chủ tiệm mua được một con rối bằng gỗ ngô đồng (Rối Vu Cổ).

Năm 105 trước công nguyên, Hán Vũ đế ngẫu nhiên mơ thấy Lý phu nhân đã mất đi vào giấc mộng, ban cho ông hương Hành Vu. Sau khi tỉnh dậy Hán Vũ đế tìm khắp nơi không thấy, nhưng ngửi thấy mùi hương, hương thơm hồi lâu không bay đi (Hương Hành Vu).

Năm 3, lần đầu tiên từ đầu tới chân Vương Yến đeo trâm vàng, ngọc bội, xức phấn thơm, ăn vận đẹp nhất ngồi giữa cung Vệ Ương, trở thành hoàng hậu đại Hán. Nhưng phu quân của nàng lại nhìn nàng với ánh mắt thù địch (Mũ Giải Trãi).

Năm 10, Lưu Tú dùng đồng Kim Thác Đao đổi lấy một chiếc bàn tính ở một gánh hàng, viên Định Bàn châu trên đó không di chuyển được (Định Bàn châu).

Năm 186, cuối đời Hán, gã chủ tiệm làm thầy dạy học ở nhà họ Chu, dạy hai học trò là Chu Du và Chu cẩn (Lược Lưu Thanh).

Năm 190, Hán Hiến Đế Lưu Hiệp bị cầm tù, lúc sắp chết đói, thì được cho mấy chiếc bánh và một miếng câu đai bằng ngọc (Câu Đai Ngọc).

Năm 422, khi Lưu Dụ trút hơi thở cuối cùng, đã bỏ con xúc xắc luôn giúp cho ông ta đánh bạc thắng xuống (Xúc xắc ngà).

Năm 448, Thái Võ Đế nhà Bắc Ngụy thu được một bức tượng Phật đã nứt, phong trào diệt Phật làm quá gắt, phải chịu báo ứng khiến con cháu sau này đều chết sớm (Độc Ngọc Phật).

Năm 560, Cao Trường Cung có được một chiếc mặt nạ quỷ vàng, đánh đâu thắng đó (Mặt nạ vàng).

Năm 600, Dương Quảng khi ấy còn làm hoàng tử đã có được chiếc đạc Long Văn (Đạc Long Văn).

QUẢNG CÁOAdskeeper

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Máy hút bụi giảm giá 50% nhân dip tết 2020 chỉ 690k

Năm 705, vị nữ hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc nhắm mắt xuôi tay, trong lăng tẩm của bà có một tấm bia Vô Tự khắc bằng đá Thọ Sơn (Vô Tự Bi).

Năm 706, trong Á Xá trưng bày một chiếc váy có giá trị liên thành, gây ra một cuộc tranh giành theo đuổi trong giới thượng lưu ở Trường An một thời, chủ nhân của nó chính là An Lạc công chúa Lý Khỏa Nhi (Váy Chức Thành).

Năm 719, Lô Sinh buồn bã vì không được như ý nguyện, vào kinh dự thi lại thi rớt. Một hôm trên đường đi qua Hàm Đan, anh ta tựa ghế ngủ trong một khách điếm, mơ thấy mình đỗ cao làm quan tới chức thượng thư bộ Hộ, con cháu đầy nhà, hưởng vinh hoa phú quý, kết quả khi tỉnh mộng thấy chủ nhà nấu cơm vẫn chưa chín (Gối Hoàng Lương).

Năm 951, từ tiệm Á Xá, Triệu Khuông Nghĩa 12 tuổi có được chiếc rìu Thiên Việt mà chỉ thiên tử mới cầm được, sau đó phát hiện ra chiếc rìu này anh trai Triệu Khuông Dận cũng cầm được (Rìu Thiên Việt).

Năm 1061, Vương Tuấn Dân đỗ trạng nguyên khoa thi năm Tân Sửu. Không lâu sau gã chủ tiệm nhặt được miếng ngọc Ông Trọng ngày càng nhiều vết nứt ở một ngõ hẻm trong Khai Phong phủ (Ngọc Ông Trọng).

Năm 1066, tháng chín năm Nhâm Ngọ, đại tướng Tây Hạ Nhân Đa Hãn dẫn ba vạn tinh binh tấn công thành Hoàn Châu, đánh lâu không đổ. Con trai Vũ Tương Công là Địch Vịnh huyết chiến ba ngày, ba nghìn quân giết hơn vạn quân địch, cuối cùng vì tường thành sập đổ mà chiến bại. Ba nghìn quân không ai đầu hàng, hết lòng vì nước (Tiền Vô Bội).

Năm 1100, thời Tống, Á Xá đặt ở Biện Lương Khai Phong. Gã chủ tiệm gặp Tống Huy Tông Triệu Cật. Áo Xích Long được thêu thêm rồng, Tứ Quý Đồ nhận chủ nhân (Tứ Quý Đồ).

Năm 1135, thời Nam Tống, bên cầu Đoạn Kiều ở Tây Hồ, Hàng Châu, Bạch Lộ cho một thư sinh mượn ô (Ô Đạch Xà).

Năm 1348, cuối thời Nguyên, gã chủ tiệm tìm thấy một cây nến quen thuộc trong một ngôi chùa nhỏ.

Năm 1370, ngôi chùa đó được đổi tên là chùa Hoàng Giác, nhưng nến thì thiếu mất một cây quan trọng nhất (Nến Nhân Ngư).

Năm 1371, ngoài chùa Hoàng Giác, Chu Nguyên Chương thôi không đuổi theo nến Nhân Ngư nữa, nhờ đó mà có được chiếc quạt có thể phân biệt lời nói thật và lời nói dối (Quạt Ngũ Minh).

Năm 1390, cả nhà Hàn Quốc công Lý Thiện Trường bị chém giết, tịch thu tài sản, Lý Định Viễn ôm chiếc tráp đồng ông nội giao cho, âm thầm nghiến răng cầu nguyện (Thiên Như Ý).

Năm 1532, những năm Gia Tĩnh triều Minh, Á Xá ở Tô Châu, Lục Tử Cương và Hạ Trạch Lan gặp nhau. Lục Tử Cương ở lại Á Xá, có được Ngô Đao.

Nám 1542, Á Xá chuyển đến kinh thành, Lục Tử Cương và Hạ Trạch Lan lại gặp nhau, Côn Ngô Đao trùng phùng. Cung biến năm Nhâm Dần, Hạ Trạch Lan vì liên lụy mà chết. Khóa Trường Mệnh được hoàn thành (Khóa Trường Mệnh).

Nám 1552, Lục Tử Cương bị chém đầu vì đắc tội với hoàng đế (Côn Ngô Đao).

Năm 1554, Đô chỉ huy kiểm sự tỉnh Sơn Đông Thích Kế Quang mời phu nhân duyệt binh trong doanh trại (Giáo Khuất Lô).

Năm 1673, những năm Khang Hy đời Thanh, Á Xá ở kinh thành, gã chủ tiệm giả làm con hát để tránh lệnh cạo đầu. Gã hẹn mua bản thảo của Hồng Thăng, ngăn ông bán Hề Mặc (Mực Đình Khuê).

Năm 1759, tù trưởng bộ tộc Hồi Hoắc Tập Chiếm phản loạn bị triều Thanh truy giết, tướng quân Triệu Huệ bắt sống vương phi dâng tặng Càn Long. Càn Long phong làm Hương phi. Để lấy lòng nàng, Càn Long đã cho người thu thập bảy viên đá quý màu sắc khác nhau từ các nơi ở nước ngoài, làm thành một chiếc vòng tay hồi ức tặng nàng (Vòng Hương phi).

Năm 1925, ngày 10 tháng 10 Bảo tàng Cố Cung Bắc Bình được thành lập.

Năm 1933, ngày 6 tháng 2, lô đồ cổ văn vật đầu tiên của Cố Cung bắt đầu xếp lên xe vận chuyển, vì chiến loạn nên hàng triệu món đồ cổ bắt đầu bị di dời vạn dặm.

Năm 1945, Cảnh Lăng (mộ của Khang Hy) bị trộm, chiếc chén Cửu Long tùy táng không biết đã mất đâu (Chén Cửu Long).

Năm 1947, tháng 12 tại Triều Thiên Cung, Nam Kinh, tất cả văn vật đồ cổ bị di dời cuối cùng đã quy về một mối.

Năm 1948, bắt đầu có nhiều văn vật liên tục được chuyển tới Đài Loan (Bồ Đề Tử).

QUẢNG CÁOMgid

Rolex bán đồng hồ bản sao siêu rẻ nhân kỷ niệm 110 năm thành lập

Robot lau nhà sạch chỉ sau 30 phút! Giá chỉ 699k

Chỉ 690k, cả thanh xuân không phải quét nhà, lau nhà.

Năm 1965, trong quần thể mộ Vọng Sơn Sở gần thành phố Kinh Châu, tỉnh Hồ Bắc, khai quật được một thanh bảo kiếm sắc bén thời Chiến Quốc (Kiếm Việt vương).

Năm 2008, Á Xá chuyển đến một con phố thương mại cổ kính ở Hàng Châu, một tối nọ bác sĩ đã mở cánh cửa của Á Xá.

Năm 2008, gã chủ tiệm bán cho một tay luật sư trẻ tuổi chiếc nhẫn có hình xương hổ gồ lên (Hổ cốt thiếp).

Năm 2010, có một thị dân ở Hàng Châu nói rằng gần thôn Pháp Vân dưới chân núi Linh Ấn, họ từng tận mắt chứng kiến thấy một con thần thú lạc đà alpaca cổ dài chân ngắn (Sơn Hải Kinh).

Năm 2010, tiểu thuyết gia lừng danh Tiêu Tịch rơi vào vụ hung án, gây lên cuộc tranh luận về hướng phát triển nội dung của tiểu thuyết bán chạy trong nước (Ngọc Thủy Thương).

Năm 2010, gã chủ tiệm và bác sĩ đi tìm chiếc áo ngọc sợi vàng còn lại, mà đã đi vào địa cung Tần lăng (Áo Xích Long).

Năm 2011, Hồ Hợi phát hiện ra kiếp sau của hoàng huynh.

Năm 2011, gã chủ tiệm và bác sĩ đi Ai Cập, tìm được cuốn sách Vong Linh có thể hiệu hồi những linh hồn từ viễn cổ (Sách Vong Linh).

Năm 2012, Phù Tô chiếm cơ thể của bác sĩ, chủ tiệm bắt đầu thu thập 12 món đồ cổ đế vương để trấn áp Càn Khôn đại trận.

Năm 2013, Lục Tử Cương tìm được một chiếc la bàn trong đống kỳ vật dị bảo ở Á Xá (Niết la bàn).

Năm 2014, ở Yên Giao, Bắc Kinh phát hiện ra một ngôi cổ mộ thời Minh, khai quật được nhiều vật phẩm quý, trong đó có một đôi vòng ngọc chạm rỗng hình dải đồng, bên trong có thể nhìn thấy lạc khoản tên Tử Cương rất rõ ràng, được các chuyên gia bước đầu nhận định là vòng ngọc điêu khắc hiếm thấy của thợ khắc ngọc nổi tiếng Lục Tử Cương những năm Gia Tĩnh (Song Khiêu Thoát).

Câu chuyện về Á Xá vẫn còn tiếp tục... Dòng thời gian 2000 năm của chủ tiệm vẫn đang đợi bổ sung dần dần ^_^

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #long