TẬP 1: LỊCH SỬ THAY THẾ (PHẦN 1).

(Tác giả: Đây là câu chuyện về 1 "Chiến Tranh Việt Nam" Thay Thế mà đồng chí tác giả dự định khá lâu, giờ mới thực hiện được. Và có 1 điều mà  đồng chí tác giả sẽ nhấn mạnh rõ ràng: Mỹ và Việt Nam đã đổi vai trò của nhau trong vũ trụ này. Ngoài ra sẽ có rất nhiều sự kiện kịch sử khác hơn rất nhiều so với ngoài đời, chủ yếu dựa trên TL-191, Kaiserreich và The New Order HOI4, cộng thêm Việt Nam của dòng thời gian này sẽ có lịch sử rất khác biệt nữa.

Và nào, hãy vào Câu Truyện Lịch Sử Thay Thế này nào).

Lịch sử bắt đầu thay đổi từ thời đại Tây Sơn xưa của Việt Nam....

Bắt đầu từ khoảng giữa Thế Kỷ 18,...

Vào khoảng thời gian này, phần lớn nhân dân, đặc biệt là nông dân bị bần cùng và họ đã đứng lên khởi nghĩa cả ở Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, bắt nguồn từ Cuộc Chiến "Trịnh-Nguyễn Phân Tranh" kết thúc năm 1672. So với Đàng Trong, phong trào nông dân Đàng Ngoài mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong nhìn chung đều chưa đủ quy mô, sức mạnh và sự liên kết cần thiết để đánh đổ chính quyền cai trị. Mặt khác, những người cầm quyền lúc đó như Trịnh Doanh ở Đàng Ngoài và Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong có đủ tài năng, uy tín để huy động lực lượng trấn áp các cuộc khởi nghĩa.

Ở thời điểm cuối đời của chúa Nguyễn Phúc Khoát, ông trở nên lười nhác, ham hưởng lạc mà bỏ bê triều chính. Các quan lại cấp dưới cũng học theo thói xa xỉ đó, nạn tham ô, hối lộ cũng vì thế mà ngày càng nghiêm trọng. Lê Quý Đôn xứ Đàng Ngoài trong Phủ biên tạp lục có nhận xét về thời kỳ cuối chúa Nguyễn là:

"... từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, tường xây bằng gạch đá, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đàn, gỗ trắc, ấm chén bằng sứ, yên ngựa – dây cương đều nạm vàng, nạm bạc, quần áo là lược, nệm hoa, chiếu mây, lấy phú quý phong lưu để khoe khoang lẫn nhau... Họ coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, hoang phí vô cùng..."

Triều đình ngày càng suy yếu, lòng dân chán ghét, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra báo hiệu sự cai trị của chúa Nguyễn đã sắp đến hồi kết.

Và vào thời điểm đó, đã xuất hiện 3 người đặc biệt trong lịch sử Việt Nam, cũng là những người đã tạo ra chủ nghĩa Đế Quốc Việt Nam hiện đại.

Ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ, được gọi là "Tây Sơn tam kiệt". Đây là những người đã tạo ra Nhà Tây Sơn, cũng là Đế Quốc Đại Việt sau này và là nguồn gốc chính thức của Liên Bang Việt Nam càng về sau.

Tây Sơn khởi nghĩa vào năm 1771, bắt đầu từ khi Nguyễn Nhạc được các người cùng hợp tác và các nhân sĩ đồng bào địa phương tôn làm Tây Sơn Vương.

Trong những năm đầu tiên của Nhà Tây Sơn, Nguyễn Nhạc đóng vai trò quan trọng nhất. Tương truyền trước khi nổi dậy ông từng đi buôn trầu nên được gọi là Hai Trầu. 

Trong những năm tiếp theo, Quân Tây Sơn phát triển nhanh nhờ có được sự ủng hộ rất lớn của dân chúng quanh vùng, nhất là những người nông dân nghèo bị bần cùng hóa bởi tình trạng địa chủ chiếm đất và sưu cao thuế nặng của Chúa Nguyễn. Quân ngũ Tây Sơn khi dựng nghiệp có khoảng 150.000 người được chia thành 12 đơn vị, trong đó có 2 đơn vị là người dân tộc thiểu số. Đây là đội quân tiên phong, dũng mãnh dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ. Kỵ binh có hơn 2.000 chiến mã, tượng binh có hơn 100 thớt voi.

Những năm đầu tiên, lực lượng của nghĩa quân còn yếu, nhưng được sự giúp đỡ của nhân dân quanh vùng nên ngày càng mạnh lên. Không chỉ những người nông dân nghèo mà cả một số sắc dân thiểu số và lực lượng người Hoa như hai đạo quân của Lý Tài, Tập Đình. Lực lượng Tây Sơn không những đánh đâu thắng đó mà còn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và lấy của người giàu chia cho người nghèo. Nghĩa quân đã từng nêu lên khẩu hiệu "Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo". Điều đó được các giáo sĩ người Tây Ban Nha , điển hình là Diego de Jumilla ghi lại, sách Les Espagnols dans l'Empire d'Annam trích dẫn như sau:

"Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có người mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình đẳng giữa mọi người Đàng Trong; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quý đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực cho họ mà thôi... Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng nghèo khổ..."

Và cũng nhờ vào các hành động đó, ngày càng có nhiều người dân đã đi theo Tây Sơn, đưa quân ngày càng mạnh về sau.

Vào thời điểm những năm đầu quân Tây Sơn nổi dậy và dần đánh chiếm được nhiều lãnh thổ ở Đàng Trong Lúc này, quân Trịnh nhân lúc chúa Nguyễn suy yếu cũng kéo vào Nam, chiếm được Phú Xuân và đánh 1 trận với quân Tây Sơn ở Quảng Nam. Để làm hòa, Tây Sơn đồng ý nghị hòa với quân Trịnh, sau đó sẽ mang quân vào đánh chúa Nguyễn. Chúa Trịnh đồng ý, phong tước cho Tây Sơn và không đánh nữa. Quân Tây Sơn tiếp tục đánh chúa Nguyễn và dần dần chiếm được đất đai và lớn mạnh, bắt đầu có sự tự chủ. Sau khi chiếm được phần lớn Đàng Trong, quân Tây Sơn đánh ra Đàng Ngoài, lật đổ chúa Trịnh, kết thúc cục diện chia cắt Đại Việt dài 200 năm giữa các chúa Trịnh và chúa Nguyễn hoàn toàn vào năm 1802.

Khi Đại Việt được thống nhất lần nữa, các thế lực người Hoa trung thành với Đàng Ngoài và Đàng Trong đã nhanh chóng rời khỏi Đại Việt với quy mô lớn, ước tính đã chạy về những nơi về sau là Mã Lai (Malaysia) và Phi Luật Tân (Phillippines), những nơi về sau đã trở thành 1 phần của Đế Quốc Đại Việt, khiến cho người Hoa từ chối trung thành Đại Việt phải chạy trốn hoặc bị trục xuất đến Úc, Ấn Độ thuộc Anh lúc đó và thậm chí đã đi về quê hương tổ tiên: Trung Quốc. Theo nguyên nhân cho việc này là do Tây Sơn đã tấn công các Thế Lực người Hoa năm 1782, cộng thêm cả "Quang Trung Đại Phá Quân Thanh" (1788-1789), dẫn đến cả Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống chạy thoát về lại Trung Quốc Mãn Thanh, và cũng là sự bắt đầu của nỗi nhục gần như muôn đời của Trung Hoa khi về sau còn mất thêm cả các tỉnh mà nay còn gọi là bang Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Đài Loan, Phúc Kiến, 1 phần của Hồ Nam, Giang Tây, Quý Châu.

Và từ lúc khi Đại Việt giành được các tỉnh của Trung Quốc và Đại Việt đó, về sau là các tiểu bang, chúng ta biết được 1 nhân vật lịch sử khác nữa tên là Nguyễn Văn Diệu Thiếu. Đây là 1 nhân vật đã hòa giải cả ba anh em "Tây Sơn tam kiệt", cũng như là cha đẻ của 1 học thuyết đế quốc của Đại Việt/Việt Nam, 1 phiên bản Đại Việt hóa của niềm tin "Vận Mệnh Hiển Nhiên" có nguồn gốc của Mỹ: Vận Mệnh Lãnh Thổ Đại Việt.

Đây là 1 Học Thuyết-Niềm Tin đế quốc của Đại Việt Quốc/Việt Nam sau này, với niềm tin được trình bày rõ ràng như sau:

"...Dân tộc Đại Việt của chúng ta đã chịu khổ hơn 4.000 năm bởi các thế lực phương bắc (Trung Quốc). Mỗi triều đại của chúng luôn mong muốn xâm lược và đồng hóa dân tộc của dân tộc An Nam. Nhưng bây giờ, dân tộc chúng ta sẽ không chịu đựng sự áp bức của bọn giặc phương Bắc nữa. Dân tộc chúng ta sẽ không còn yếu đuối với lãnh thổ nhỏ này nữa, mà hãy mạnh mẽ và mở rộng lãnh thổ để bình đẳng với kẻ thù muôn kiếp của chúng ta..." Lời nói đầu của Nguyễn Văn Diệu Thiếu trên .

Là 1 người có xuất thân bí ẩn, nhưng ông là nhân vật vĩ đại nhất của lịch sử Việt Nam sau này. Ông cũng chính là người đã đẩy mạnh kinh tế Đại Việt phát triển lẫn xây dựng ngành công nghiệp vũ khí đầu tiên cho Đại Việt, cũng chính là người đã tạo ra chữ Quốc Ngữ để thay thế hoàn toàn chữ Nôm và là tiền đề cho sự mở rộng lãnh thổ của Đại Việt.

Sự mở rộng lãnh thổ của Việt Nam đã bắt đầu từ lúc sự xuất hiện các tỉnh Miền Bắc mới của Đại Việt (Trung Quốc Nhà Thanh bồi thường cho Đại Việt các tỉnh phía Nam của họ sau Trận Chiến Trung-Việt năm 1810); Xiêm và Miến Điện được sáp nhập vào Đế Quốc Đại Việt năm 1835; sự giải thể của Mã Lai năm 1836; Chiến Tranh Đại Việt-Hà Lan lần Thứ Nhất (1840-1845) và lần Thứ Hai (1860-1865) để Đại Việt giành hết toàn bộ vùng Đông Ấn Hà Lan; Thẳng thừng tuyên bố chủ quyền lãnh thổ Tân Gia Định (Papua New Guinea ngoài đời); Chiến Tranh Đại Việt-Tây Ban Nha (1870-1872) đã khẳng định chủ quyền của Đại Việt đối với Phi Luật Tân (Philippines ngoài đời); cuối cùng là Chiến Tranh Đại Việt-Anh Quốc năm 1880 đã giành lấy phần phía Đông của Ấn Độ thuộc Anh (Đông Ấn Độ + Bangladesh ngoài đời), kéo đến tận biên giới với đất nước Bhutan ngày nay.

Và đến năm 1910, Vận Mệnh Lãnh Thổ Đại Việt đã cuối cùng đưa đất nước Đế Quốc Đại Việt, hay lúc này đã chuyển sang chế độ Cộng Hòa Liên Bang sau 1 cuộc cách mạng hòa bình nhỏ là Liên Bang Việt Nam có 1 lãnh thổ khổng lồ ở nơi cũng có thể gọi tên khác là Đông Nam Á. Đó cũng là 1 quốc gia đa dạng cả văn hóa và dân tộc nhất nhì thế giới, với dân số của Việt Nam là hơn 120 triệu người. Tất cả đều có thể nói tiếng Việt, mặc dù cũng rất nhiều tiếng khác như tiếng Khmer, tiếng Lào,... vẫn còn tồn tại như với quy tắc là tiếng của vùng địa phương.

Bản đồ của Liên Bang Việt Nam năm 1910.

Cờ của Quân Khởi Nghĩa Tây Sơn/Đế Quốc Đại Việt (1771-1910).

Cờ của Liên Bang Việt Nam (United Federation of Vietnam-UFVN) (1910-Bây giờ).

https://youtu.be/wu_Cfd7nmtY

Quốc ca của Liên Bang Việt Nam.

Trong khi đó, Hoa Kỳ đã có lịch sử giống như ngoài đời (Trừ việc Hoa Kỳ thực sự có mối quan hệ với Đại Việt từ khi đại sứ Edmund Roberts năm 1833 trao đổi thương mại thành công. Và đó là Đại Việt do Vua Quang Trung lãnh đạo, chứ không phải là nhà Nguyễn như ngoài đời). 

Cho đến Thời Kỳ Nội Chiến Mỹ...

(Tác giả: Trước khi vào phần này, tác giả có 1 số chú ý:

- Quân/Chính Phủ Liên Bang Mỹ = Miền Bắc Hoa Kỳ/Bắc Mỹ (Không phải lục địa nha) = Yankee = Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ/Liên Bang Hoa Kỳ.

- Quân/Chính Phủ Liên Đoàn/Hiệp Bang Mỹ = Miền Nam Hoa Kỳ/Nam Mỹ (Không phải lục địa nha) = Dixie = Liên Minh Miền Nam Hoa Kỳ/Hiệp Bang Hoa Kỳ.

- Các sự kiện và địa điểm diễn ra ở Chiến Tranh Việt Nam sẽ hoán đổi ở Mỹ lại ở những nơi thích hợp. VD: Dãy Trường Sơn = Dãy Appalachian hoặc Dãy Rocky hoặc cả hai; Hà Nội = Philadelphia; Sài Gòn = Atlanta; Washington D.C = Huế (Nhưng khác là không thuộc về Miền Nam); Mexico = Campuchia;...

- Công nghệ thế giới này sẽ đi trước thế giới khoảng 10 năm trở lên so với đời thực, do sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã trở nên khốc liệt hơn.

Và hiện tại đã đến vậy thôi. Có gì tác giả sẽ cập nhập tiếp nha).

Ở Nội Chiến Mỹ đời thực ngay trước trận Antietam, Quân Liên Bang Mỹ đã vô tình thu hồi được một bản sao của Lệnh đặc biệt 191 (được sử dụng để gói một số điếu xì gà), trong đó nêu chi tiết kế hoạch xâm lược Maryland của tướng Robert E. Lee. Sử dụng thông tin tình báo này, quân đội Liên bang, dưới quyền tướng George B. McClellan, đã di chuyển về phía bắc và buộc phải chiến đấu tại Antietam, chấm dứt cuộc xâm lược.

Trong dòng thời gian thay thế này, Nội Chiến Mỹ chỉ có vỏn vẹn từ 1861 đến 1862, thay vì 1861 đến 1865 như ngoài đời. Nguyên nhân là vì các mệnh lệnh của tướng Lee được phục hồi bằng cách truy đuổi quân Hiệp Bang Mỹ trước khi chúng được phép rơi vào tay Liên Bang Mỹ. Sự tiến quân của Hiệp Bang Mỹ sau đó khiến cả McClellan và Hoa Kỳ đều bất ngờ. Thay vì chiến đấu tại Antietam, Tướng Lee buộc tướng McClellan phải tham gia một trận chiến trên bờ sông Susquehanna ở Pennsylvania và tiêu diệt Quân đội Potomac trong Trận Camp Hill vào ngày 1 tháng 10 năm 1862.

Sau chiến thắng quyết định của Quân Hiệp Bang Mỹ, Lee và Quân đội Bắc Virginia tiến về phía đông để chiếm đóng Philadelphia. Kết quả trực tiếp là Liên Minh Miền Nam Hoa Kỳ/Hiệp Bang Hoa Kỳ giành được sự công nhận ngoại giao từ Anh và Pháp. Cả hai quốc gia châu Âu sau đó đều buộc Hoa Kỳ phải làm trung gian; hành động này dẫn đến sự độc lập hoàn toàn cho Hiệp Bang Hoa Kỳ. Trong vòng chưa đầy hai năm, Chiến tranh ly khai đã kết thúc.

Điều này đã làm cho cả tổng thống Abraham Lincoln và chính phủ Liên Bang đều bất ngờ và thất vọng lẫn có sự đau buồn. Trong khi cân nhắc lời đề nghị hòa giải, tổng thống Lincoln đã đề cập với đại sứ Anh Richard Lyons rằng ông có trong ngăn kéo bàn làm việc của ông có 1 bản tuyên ngôn có thể giải phóng nô lệ trong Liên minh miền Nam nổi loạn. Vị tổng thống thứ 16 này đã thảo luận về tính khả thi của bản tuyên ngôn với nội các của mình, nhưng sau thất bại của Hoa Kỳ tại Camp Hill, ông đã quyết định không ban hành nó. Ông đã được Lyons cảnh báo rằng nếu bản tuyên ngôn được ban hành, ông sẽ bị coi là hành động trong tuyệt vọng, vì Hoa Kỳ sắp chính thức thừa nhận thất bại và việc ban hành một lệnh như vậy sẽ chẳng khác gì một nỗ lực gây ra cuộc nổi loạn bên trong một quốc gia khác, và làm như vậy sẽ bị coi là một hành động thù địch trực tiếp (Và dù sao thì Hiệp Bang Hoa Kỳ cũng đâu còn là 1 phần của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ nữa đâu).

Bản đồ Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ sau khi Hiệp Bang Hoa Kỳ ly khai thành công năm 1862.

Tiếp đến từ năm 1862 đến 1881, đã có sự thay đổi đối với người dân Mỹ của cả hai bên...

Đối với Miền Nam Hoa Kỳ, ngay sau khi kết thúc Trại Hill, tướng Hiệp Bang Mỹ Braxton Bragg hoàn thành cuộc chinh phục Kentucky; một thời gian sau khi Hoa Kỳ đồng ý hòa giải, Kentucky trở thành tiểu bang thứ mười hai gia nhập Liên minh miền Nam. Ngoài ra, Năm bộ lạc người Mỹ bản địa đã ủng hộ chính phủ Hiệp Bang Mỹ ở trong lãnh thổ Hiệp Bang Hoa Kỳ đã được trao lãnh thổ riêng của họ ở Hiệp Bang, sau này trở thành Tiểu bang Sequoyah. Đảo Cuba thuộc vùng Caribe sau đó được Liên minh miền Nam mua từ Tây Ban Nha vào năm 1878, trở thành Tiểu bang thứ 14 của Hiệp Bang Hoa Kỳ.

Đối với Miền Bắc Hoa Kỳ, Lincoln và phó tổng thống Hannibal Hamlin đã bị Horatio Seymour đánh bại trong cuộc bầu cử năm 1864 , và một tổng thống Cộng hòa khác sẽ không được bầu cho đến năm 1880. Đảng Cộng hòa cũng nhanh chóng trở thành thiểu số trong Quốc hội cho đến năm 1880, khi các cử tri của Hoa Kỳ đã rất mệt mỏi vì đường lối mềm mỏng của Đảng Dân chủ đối với Hiệp Bang Hoa Kỳ nên đã lựa chọn đưa Đảng Cộng hòa trở lại vị trí đa số.

Vào những năm 1860, Đế Quốc Nga đã chào bán Alaska cho Hoa Kỳ với giá mua là bảy triệu đô la (Việc mua Alaska ở ngoài đời diễn ra vào năm 1867, trong nhiệm kỳ của tổng thống Andrew Johnson, với cái giá 7.200.000 đô la). Tuy nhiên, Hoa Kỳ, cạn kiệt tài chính vì nỗ lực chiến tranh thất bại của mình, không có đủ nguồn tài chính cần thiết để hoàn tất việc mua bán. Vì Hoa Kỳ không thể mua Alaska, nên nơi này vẫn là thuộc địa của Nga.

(Nhưng không có nghĩa là Alaska không phải là của Nga vĩnh viễn như các độc giả nghĩ nha, vì bản thân Đế Quốc này sẽ trở nên tồi tệ và đen tối hơn trong tương lai).

Hoa Kỳ, có lẽ là để phản ứng lại thất bại của họ trong Nội Chiến Mỹ, dường như đã đẩy nhanh quá trình chinh phục và định cư ở Bờ Tây Hoa Kỳ, cũng như nuôi ý định sáp nhập thuộc địa Bắc Mỹ của Đế Quốc Anh (Canada) để trả thù việc Đế Quốc Anh đã ủng hộ và tài trợ Hiệp Bang Hoa Kỳ đã ly khai thành công.

Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1880, đảng viên Cộng hòa James G. Blaine đã đánh bại đảng viên Dân chủ đương nhiệm Samuel J. Tilden. Blaine ra tranh cử trên cương lĩnh cứng rắn, cuối cùng dẫn đến một cuộc chiến khác chống lại Miền Nam Hoa Kỳ về việc quốc gia này mua lại các tỉnh Sonora và Chihuahua của Đế Quốc Mexico đang suy yếu và nghèo dần đi với giá rất cao. Nguyên nhân Hiệp Bang Hoa Kỳ mua lại 2 tỉnh này là vì điều đó sẽ cho phép Miền Nam Hoa Kỳ tự xây dựng tuyến đường sắt đến Bờ Biển Thái Bình Dương của riêng họ, loại bỏ nhu cầu sử dụng các tuyến đường sắt đang chịu thuế cực kỳ nặng nề của Miền Bắc Hoa Kỳ.

Từ năm 1881 đến năm 1882 đã có Chiến Tranh Mỹ-Mexico lần thứ 2...

Nhờ sự lãnh đạo ngoạn mục của tướng Hiệp Bang Mỹ Thomas "Stonewall" Jackson chống lại người đồng cấp Liên Bang Mỹ William Rosecrans, cộng thêm sự hỗ trợ của Anh, Pháp và các lực lượng ủy nhiệm Canada và Mexico, Hoa Kỳ một lần nữa bị đánh bại. Hoa Kỳ chính thức đầu hàng vào ngày 22 tháng 4 năm 1882, chấm dứt Chiến tranh Mỹ-Mexico lần thứ hai. Tổng thống Hiệp Bang Hoa Kỳ James Longstreet, trong nỗ lực tỏ ra là người hòa giải, đã đưa ra các điều khoản hào phóng để chấm dứt chiến tranh, chỉ giới hạn ở việc Hoa Kỳ thừa nhận Liên minh miền Nam đã mua lại hai tỉnh Mexico. 

Điều khoản nhục nhã nhất trong các điều khoản mà Hoa Kỳ phải ký là việc sáp nhập hầu hết miền bắc bang Maine vào Canada, do người Anh ép buộc như một cái giá phải trả cho sự tham gia của họ vào cuộc chiến (Và điều đó càng khiến người dân Miền Bắc Hoa Kỳ càng muốn sáp nhập Canada và ghét Đế Quốc Anh hơn nữa).

Bất chấp bản chất hào phóng của các điều khoản của Hiệp Bang Hoa Kỳ, và rất có thể là lấy cảm hứng từ việc Anh sáp nhập một phần tiểu bang quê hương của mình, và sự thất bại chung, Tổng thống Blaine vẫn coi kết thúc của cuộc chiến là khó khăn.

Cả hai Nước Mỹ, cả Bắc và Nam, đều trải qua những thay đổi lớn sau chiến tranh. Tại Miền Bắc Hoa Kỳ, nhiều đảng viên Cộng hòa đã bị loại khỏi Quốc hội trong cuộc bầu cử năm 1882. Đau đớn vì thất bại trong Chiến tranh Mỹ-Mexico lần thứ hai, Blaine bị phế truất khỏi chức tổng thống hai năm sau đó. Các cuộc bầu cử năm 1882 và 1884 bắt đầu sự kiểm soát của đảng Dân chủ đối với Quốc hội và Nhà Trắng, kéo dài trong 36 năm.

Đối với Miền Nam, để trả ơn lẫn đổi lấy sự hỗ trợ của Anh và Pháp, Tổng thống James Longstreet của Hiệp Bang Hoa Kỳ buộc phải đề xuất giải phóng danh nghĩa những nô lệ của đất nước, quá trình này diễn ra trong suốt những năm 1880.

Hoa Kỳ bại trận, nhận ra rằng họ cần những đồng minh mạnh mẽ để chống lại liên minh của Miền Nam Hoa Kỳ với thêm cả Đế Quốc Anh và Pháp. Cuối cùng người Mỹ đã liên minh với Đế Quốc Đức và áp dụng nhiều biện pháp quân sự và kinh tế của Đức vào đất nước của họ.

Một trong số ít chiến thắng của Hoa Kỳ trong chiến tranh, trận chiến ở Lãnh thổ Montana chống lại quân Anh, đã tạo nên hai anh hùng Hoa Kỳ sẽ là đối thủ của nhau trong bốn mươi năm tiếp theo: Chuẩn tướng George Armstrong Custer và Theodore Roosevelt, Đại tá của một Trung đoàn Không được ủy quyền.

Chứng kiến ​​sự sụp đổ của Đảng Cộng hòa, cựu Tổng thống Abraham Lincoln, hiện tại vào lúc đó là một nhà hùng biện, người theo hệ tư tưởng Marx lẫn bạn qua thư của nhà triết học người Đức này đã liên minh với những người theo chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc Hoa Kỳ và dẫn dắt những người Cộng Hòa Cánh Tả vào đảng Xã hội non trẻ của họ. Đảng Cộng hòa sớm bắt đầu một cuộc suy thoái dài vào sự mơ hồ chung của việc trở thành một đảng khu vực duy nhất ở Trung Tây, không bao giờ giành được chức tổng thống hoặc đa số trong Quốc hội, mất khoảng một phần ba số người ủng hộ vào tay đảng Dân chủ, và tất cả những người cánh tả (khoảng một phần ba) vào tay những người theo chủ nghĩa Xã hội.

Và những điều này về sau đã dẫn dắt Miền Bắc Hoa Kỳ trở thành nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa đầu tiên trên Thế Giới.

Đầu thế kỷ 20, nhiều sự kiện khác nhau đã xảy ra,...

Vào đầu thế kỷ 20, có nhiều tư tưởng tiến bộ và sự kiện đã xảy ra. Chiến tranh Nga-Nhật với kết quả Nhật thắng nhưng không có Triều Tiên (Nơi đã trở thành 1 phần của Đế Quốc Nga), bù vào đó là Full hết đảo Sakhalin của Nga); Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn tại Trung Quốc; Chuyến máy bay đầu tiên ở Nước Đức (Anh em nhà Wright không tồn tại); Đường Sắt Siberia được đưa vào khởi động; Cuộc Nổi Loạn chống lại Luật Jim Crow do Người Mỹ gốc Phi ở Miền Nam Hoa Kỳ (Miền Bắc Hoa Kỳ không có bộ luật đó do chính Miền Nam sáng tác ra lẫn Miền Bắc ghét và ghê tởm chế độ phân biệt chủng tộc) nhưng thất bại đau buồn; nhà thám hiểm người Na Uy Fridtjof Nansen trở thành người đầu tiên đặt chân đến Bắc Cực,... Nhiều sự kiện xảy ra có ảnh hưởng lớn về sau. 

Nhưng đặc biệt nhất là Cách Mạng Liên Bang và Đại Chiến Thứ Nhất (The First Great War-Phiên Bản Thế Chiến Thứ Nhất của Thế Giới này).

Cách Mạng Liên Bang là 1 sự kiện đã xảy ra ở Đế Quốc Đại Việt, do chính cha đẻ lẫn nhà cải cách của Liên Bang Việt Nam, Phan Bội Châu đã lãnh đạo cùng người dân biểu tình để cải cách lại cả Đại Việt khổng lồ. Với tình trạng xã hội Đại Việt đã ngày càng tụt hậu và bất bình đẳng xã hội đang tăng lên, từ chủng tộc đến giới tính và vùng miền, sự thất vọng và phẫn nộ của dân chúng Đại Việt đã đứng lên biểu tình đấu tranh.

Vào lúc này, Hoàng đế Nguyễn Văn Kỳ, hậu duệ của Nguyễn Huệ đã thấy đất nước của ông ngày càng không phù hợp và càng lạc hậu hơn. Cuối cùng ông đã đưa ra 1 quyết định gây sốc cho cả Chế Độ Phong Kiến Đại Việt. Đó là ông đã tự tay chấm dứt Chế Độ Phong Kiến của Việt Nam hơn nghìn năm tồn tại, trao lại quyền lực cho Phan Bội Châu và Cách Mạng Liên Bang. Nguyên nhân cũng không ngờ tới là chính ông cũng đã thấy thời thế đến giờ thay đổi, và thấy bọn quan chức quý tộc tham lại ngày càng trở nên tha hóa, không còn giống thời kỳ Tây Sơn lúc đầu nữa. Cộng thêm Học Thuyết Vận Mệnh Lãnh Thổ Đại Việt cũng ủng hộ Đại Việt trở thành 1 nước Cộng Hòa bình đẳng mọi dân tộc, văn hóa và giới tính; ủng hộ quyền tự vệ, quyền tự do mọi điều và dẹp bỏ hệ thống giai cấp quý tộc.

Ngày 2/9/1910 là ngày khai sinh của Liên Bang Việt Nam, do Tổng Thống Phan Bội Châu đứng đầu cùng Quốc Hội Liên Bang. Hệ thống chính trị đã được lấy cảm hứng từ Cộng Hòa Pháp cũ đã sụp đổ dưới tay Hoàng Gia Pháp (Trong Thế Giới này, Pháp không còn nền Cộng Hòa sau thời của Hoàng Đế Napoléon Bonaparte. Hệ thống chính trị của Pháp về sau là Vương Quốc Hoàng Gia 100%, cộng thêm Pháp cũng không có bất cứ thuộc địa nào ở Châu Á cả, do Đại Việt lấy hết trước khi Pháp đến được), Cả hai thể chế chính trị của Bắc lẫn Nam Hoa Kỳ và Việt hóa cho phù hợp với người dân. Bản thân người dân Việt Nam đã bầu cử với quy mô cực kỳ lớn, cũng như tạo ra 1 cơn sốc cho cả thế giới khi 1 đế quốc lớn mạnh như Việt Nam đã chuyển từ Đế Quốc Phong Kiến mạnh mẽ trở thành một nước Cộng Hòa Liên Bang 1 cách hòa bình và hợp pháp.

Và thứ hai,... Vâng, đó chính là Đại Chiến Thứ Nhất.

Vào năm 1914, Thái tử Đế quốc Áo-Hung Franz Ferdinand và vợ bị giết bởi một quả bom khủng bố khi đang đi thăm thị trấn Sarajevo vào tháng 6 năm 1914. Chính phủ Áo nhanh chóng biết được rằng một nhóm người Serbia chịu trách nhiệm, và Áo cáo buộc chính phủ Serbia gần đó thông đồng với những kẻ khủng bố. Sa hoàng Nicholas II của Nga ủng hộ Serbia, trong khi Hoàng đế Wilhelm II của Đức ủng hộ Áo-Hung. Các cường quốc của mỗi hệ thống huy động quân đội của họ, thực sự biểu thị ý định tham chiến của họ. Vào tháng 8 năm 1914, Đại chiến bắt đầu, ban đầu là Anh, Pháp và Nga chống lại Đức và Áo-Hung (Và đây chính xác là những gì mà Thế chiến thứ nhất ngoài đời thực bắt đầu, ngoại trừ việc trên thực tế Franz Ferdinand đã sống sót sau vụ đánh bom và bị giết bởi một viên đạn của sát thủ).

Bên kia Đại Tây Dương, Tổng thống của Liên Bang Mỹ Theodore Roosevelt ra lệnh cho Quân Đội Liên Bang Mỹ huy động vào cuối tháng 7, theo sự chỉ đạo của Đức. Để đáp trả, Tổng thống của Hiệp Bang Mỹ Woodrow Wilson ra lệnh cho Quân Đội Hiệp Bang Mỹ làm như vậy. Giao tranh sớm nổ ra trên biên giới chung của họ và trên biển cả.

Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ chính thức đưa chiến tranh đến Bắc Mỹ khi Tổng Thống Roosevelt tuyên chiến với Liên Minh Miền Nam Hoa Kỳ vào đầu tháng 8 năm 1914. Tổng thống Wilson cũng đã đáp trả tương tự, mặc dù ông hy vọng tránh được chiến tranh hơn. Bài phát biểu của Wilson, được đưa ra tại quảng trường công cộng đông đúc ở Richmond , được trang trí bằng tượng của những anh hùng chiến tranh Miền Nam như George Washington (Người duy nhất được cả Miền Bắc và Miền Nam tôn thờ do là Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ), Albert Sidney Johnston và Jefferson Davis (Cha đẻ của Liên Minh Miền Nam ngoài đời/thế giới này),...

Với hy vọng noi gương Tướng Robert E. Lee, Quân đội Hiệp Bang Mỹ đã phát động một cuộc xâm lược lớn vào Maryland và Pennsylvania vào tháng 8, nhắm vào thủ đô chính của Liên Bang Mỹ là Philadelphia. Quân Hiệp Bang Mỹ đã nhanh chóng tràn ngập thủ đô trên thực tế của Liên Bang Mỹ là Washington, DC (Chỉ là trên giấy tờ thôi nha) và tiến vào Maryland.

Quân đội Liên Bang Mỹ có cách tiếp cận khác và ra lệnh cho Quân đoàn 1 Hoa Kỳ dưới quyền Trung tướng George Custer và Quân đoàn 2 Hoa Kỳ dưới quyền Thiếu tướng John Pershing vượt sông Ohio và xâm lược Kentucky . Mặc dù quân Hiệp Bang Mỹ kháng cự rất mạnh, đặc biệt là từ các tàu chiến trên sông được mô phỏng theo USS Monitor ban đầu, Liên Bang Mỹ vẫn thành công trong việc thiết lập một đầu cầu ở bờ phía nam. Các lực lượng của Liên Bang Mỹ cũng xâm lược miền tây Virginia, nhắm vào ngã ba đường sắt tại Big Lick, Virginia (Roanoke ngoài đời).

Một cuộc xâm lược Sonora riêng biệt của Hoa Kỳ, nhằm chiếm cảng Guaymas duy nhất của Liên minh miền Nam ở Thái Bình Dương , đã sớm bị sa lầy. Hoa Kỳ cũng tiến hành các cuộc tấn công trả thù vào Lãnh thổ Tự Trị của Đế Quốc Anh tại Canada, cụ thể là ở Manitoba, Ontario và Quebec. Có lẽ động thái thành công nhất trong giai đoạn đầu của cuộc chiến này là việc Hải quân Hoa Kỳ chiếm được căn cứ của Anh tại Trân Châu Cảng ở Quần đảo Sandwich (Hawaii ngoài đời) trong một cuộc tấn công bất ngờ.

Đến năm 1915, cả hai cuộc tấn công của cả Bắc và Nam Mỹ đều sớm bị đình trệ; Quân đội Liên Bang Mỹ thấy khó tiến về phía nam, và Quân đội Hiệp Bang Mỹ bị chậm lại vào mùa đông năm 1914–15. Cuộc xâm lược Pennsylvania của Liên Minh Miền Nam Hoa Kỳ đã sớm dừng lại ở Sông Susquehanna, chỉ cách Philadelphia 50 dặm (80 km). Từ mực nước cao đó, quân đội Hoa Kỳ bắt đầu từ từ đẩy quân Hiệp Bang Mỹ trở lại Maryland.

Mặc dù quân đội Liên Bang Mỹ dễ dàng chiếm được bờ nam của Sông St. Lawrence , nhưng việc vượt qua nó lại chứng minh một vấn đề khác. Địa lý của Bán đảo Niagara sớm làm tắc nghẽn đội quân xâm lược. Mặc dù Winnipeg, Manitoba, một ngã ba đường sắt lớn, nằm tương đối gần biên giới Liên Bang Mỹ, Bộ Chiến tranh lại phân bổ quá ít quân để chiếm được nó.

Chiến tranh chiến hào trở nên phổ biến khi mỗi bên đào hào để bảo vệ khỏi súng máy. Quân lính tập trung trong những chiến hào này khi pháo hạng nặng ở phía sau tấn công vào phòng tuyến của đối phương cả ngày lẫn đêm. Họ sợ câu khẩu lệnh "Over the top!" có nghĩa là họ phải rời khỏi sự an toàn của phòng tuyến để tấn công vào vùng đất không người, với hy vọng chiếm được chiến hào của đối phương ở phía bên kia. Liên Bang Mỹ, dựa vào chuyên môn về hóa học của Đức, tìm cách tiến lên bằng chiến tranh hóa học. Tuy nhiên, việc sử dụng khí Clo chỉ mang lại những lợi ích nhỏ. Khác xa với cuộc chinh phục nhanh chóng và vinh quang mà mỗi bên đã hình dung, Thế chiến thứ nhất trở thành một bế tắc đẫm máu kéo dài.

Đầu năm 1915, một mặt trận khác mở ra khi người Mormon ở bang Utah đã ly khai khỏi Hoa Kỳ và tuyên bố mình là Nhà Nước Độc Lập Deseret . Mối quan hệ của người Mormon với phần còn lại của Miền Bắc Hoa Kỳ đã trở nên thù địch kể từ Chiến tranh Utah những năm 1850 và cuộc nổi loạn ngắn ngủi trong Chiến tranh Mexico-Mỹ lần thứ hai. Người Mormon có 1 niềm tin tưởng sai lầm rằng chính phủ Liên Bang Mỹ mất tập trung nên sẽ không thể khuất phục họ. Utah nằm trên một trong những tuyến đường sắt xuyên lục địa chính. Tổng thống Roosevelt tuyên bố Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ sẽ không dung thứ cho cuộc nổi loạn bất hợp pháp. Cuộc nổi loạn của người Mormon diễn ra dữ dội cho đến giữa năm 1916, khi cuối cùng nó bị dập tắt và Thành Phố Salt Lake, thủ đô của Deseret bị Quân Liên Bang Mỹ chiếm giữ. Sau đó, tiểu bang Utah được Roosevelt đặt dưới sự cai trị của quân đội, một tình huống như vậy sẽ tiếp tục cho đến những năm 1930.

Vào mùa thu năm 1915, khi quân Hiệp Bang Mỹ đang chiến đấu với quân đội Liên Bang Mỹ dọc theo các vùng biên giới, những người Mỹ gốc Phi ở Hiệp Bang Mỹ đã nổi dậy. Nguyên nhân nổi dậy nói đơn giản là vì họ rất cay đắng với cách đối xử của người da trắng của Hiệp Bang Hoa Kỳ với bọn họ, và được thúc đẩy bởi lời lẽ của chủ nghĩa Marx và lời dạy của cựu Tổng Thống Abraham Lincoln, những người da đen tuyên bố cuộc cách mạng ở một số khu vực trên khắp Hiệp Bang Hoa Kỳ để thành lập "1 Nước Cộng Hòa Xã Hội chủ nghĩa", trong khi thảm sát người da trắng và tìm kiếm công lý chống lại những người chủ da trắng trước đây của họ; tuy nhiên, hầu hết các phiên tòa đều là trò lừa bịp và các vụ hành quyết đều tàn bạo. Những cuộc nổi loạn này dần bị dập tắt vào năm 1916, mặc dù công lý của người da trắng đã dịu đi phần nào khi những suy nghĩ bận tâm đến việc giành chiến thắng trong cuộc chiến. Trớ trêu thay, tác động lâu dài của Cuộc Nổi Loạn trên đã khiến người da trắng bắt đầu tin vào tiềm năng quân sự của người da đen.

Đến năm 1916, Tận dụng hoàn cảnh khó khăn của Liên minh miền Nam, Quân đội Liên Bang Mỹ ngay lần đầu tiên đã tiến vào phía tây Tennessee sau khi lội bộ qua phía tây Kentucky, trong khi Quân đội Hiệp Bang Mỹ ở Bắc Virginia bị đẩy về phía nam hướng tới Washington. Vào giữa mùa xuân năm 1916, một phát minh tiến bộ kỹ thuật bọc thép mới gọi là Xe Tăng, và đã được đưa vào chiến đấu lần đầu tiên bởi các lực lượng Hoa Kỳ hoạt động tại Thung lũng Roanoke.

Và cùng lúc đó ở bang Tennessee, Trung tướng Custer đã chuyển đổi chiến thuật của mình cho kỵ binh thành học thuyết cho các nòng súng mới, nhưng Bộ Chiến Tranh Liên Bang Mỹ không quan tâm. Khi cuộc tấn công mùa hè của Custer bắt đầu, hàng chục nghìn binh lính Hoa Kỳ bị mất khi tấn công các tuyến của Hiệp Bang Mỹ, và các nòng súng mới, được triển khai riêng lẻ trong vai trò hỗ trợ bộ binh thay vì tập trung thành một nắm đấm bọc thép, bị phá vỡ trên địa hình đồi núi và không có hiệu quả.

Việc thiếu quân Anh ở Canada có nghĩa là Hoa Kỳ, mặc dù ban đầu bị người Canada kìm hãm, nhưng rồi Quân Liên Bang Mỹ dần dần tiến tới ba mục tiêu của họ là Thành phố Quebec, Toronto và Winnipeg. Phần lớn là nhờ vào nỗ lực của Irving Morrell, lực lượng Hoa Kỳ đã tiến lên Banff ở Dãy núi Rocky của Canada, số lượng vũ khí lẫn binh lính cực kỳ chênh lệch và cắt đứt con đèo thứ hai trong ba con đèo nối bờ biển Thái Bình Dương với phần còn lại của Canada.

Trên biển, Trận chiến lớn của Ba Hải quân giữa Hoa Kỳ ở một bên, và Vương quốc Anh và Nhật Bản ở bên kia, ngăn cản phe Hiệp ước chiếm lại Quần đảo Sandwich/Hawaii. Với Trung Thái Bình Dương trong tay Hoa Kỳ, một đội tàu của Hải quân Hoa Kỳ tiến về phía nam hướng đến Mũi Nam Mỹ và Đại Tây Dương ở phía bên kia, với mục đích cắt đứt các chuyến hàng ngũ cốc và thịt bò của Argentina đến Vương Quốc Anh.

Trên mặt trận Maryland, tiểu bang này đã được giải phóng khỏi những người lính Hiệp Bang Mỹ, ngoại trừ Washington D.C, thủ đô hợp pháp (trên giấy) của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Vào mùa thu, Hoa Kỳ tiếp tục tấn công Nashville, Tennessee nhưng không có kết quả, làm dấy lên nỗi ám ảnh về khả năng đảng Dân chủ thua cuộc tại các cuộc bỏ phiếu, và khả năng một Tổng thống của Đảng Xã Hội sẽ tìm kiếm hòa bình với Liên Minh Miền Nam Hoa Kỳ và từ bỏ mọi thành quả đẫm máu mà họ đã có được. Ngoại trừ một cuộc tấn công cục bộ vào Mặt trận Roanoke đẩy Hoa Kỳ ra khỏi phía tây Virginia, quân Hiệp Bang Mỹ vẫn ở thế phòng thủ trong suốt mùa thu, cố gắng làm cạn kiệt Liên Bang Mỹ với hy vọng rằng người dân của Liên Bang Mỹ sẽ trở nên phát ốm vì chiến tranh.

Tuy nhiên, bất chấp mọi mong muốn của Đảng Xã hội và Liên minh miền Nam, Theodore Roosevelt dễ dàng đánh bại Eugene V. Debs của Đảng Xã hội trong cuộc bầu cử tháng 11. Tuy nhiên, tại Richmond, hy vọng của Tổng thống mới Gabriel Semmes và Nội các của ông đã bị dập tắt. Ở giai đoạn này, chính phủ Hoa Kỳ còn bốn năm nữa để đè bẹp Niềm Nam Mỹ trước khi cần tái tranh cử, trong khi Liên Minh Miền Nam Mỹ đang cạn kiệt dần những người lính da trắng của riêng họ để thúc đẩy cuộc xung đột. Semmes đã đề xuất thành công một dự luật cho phép đào tạo và trang bị vũ khí cho quân đội người Mỹ gốc Phi để phục vụ trong các tuyến, với các quyền công dân (trừ hôn nhân khác chủng tộc) sẽ theo sau sau chiến tranh, bao gồm quyền công dân trong chính Miền Nam Mỹ. Trong khi đó, Liên Bang Hoa Kỳ bắt đầu quá trình chính thức đưa bang Kentucky trở lại Liên Bang của họ.

Ở châu Âu, cuộc chiến dường như không thay đổi nhiều so với dòng thời gian của chúng ta, ngoại trừ việc Đức chiếm Verdun và việc quân đội Pháp sử dụng bộ binh Bắc Phi nhiều hơn. Ngoài ra, Ý vẫn trung lập trong cuộc xung đột và Cuộc nổi loạn Phục sinh ở Dublin không bị dập tắt, rồi đã lan sang phần còn lại của Ireland.

Đến năm 1917, đã có những bước đột phá trong Chiến Tranh. 

Trung tướng Custer bí mật phát triển một kế hoạch để Hoa Kỳ nhanh chóng giành chiến thắng trong cuộc chiến, sử dụng đội hình xe tăng hàng loạt bị. thứ vũ khí hiện bị Bộ Chiến Tranh Hoa Kỳ cấm. Che giấu ý định thực sự của mình với tất cả mọi người trừ những người phụ tá của chính ông (Thiếu tá Abner Dowling và Trung tá Irving Morrell) và đã nói dối Tổng thống Roosevelt, Custer sau đó đã phát động Chiến dịch "Barrel Roll", 1 chiến dịch đã sử dụng xe tăng vào ngày 22/4/1917, và nhanh chóng đột phá qua các chiến hào của Liên minh miền Nam ở phía bắc thủ phủ Nashville của Tennessee.

Quân Liên minh miền Nam rút lui về một tuyến tập trung tại Nashville, nơi Custer lại tấn công họ ba tuần sau đó bằng cách đánh vào sườn thành phố bằng một kế hoạch do Morrell vạch ra. Nashville sớm thất thủ, mặc dù các trung đoàn Hiệp Bang mới thành lập đã nỗ lực hết sức để ngăn chặn các nòng súng của Custer, và thủ phủ của tiểu bang trở thành trụ sở của Tập đoàn quân số 1.

Quân Hiệp Bang Mỹ đã rút lui về một tuyến tập trung tại Nashville, nơi Custer lại tấn công họ ba tuần sau đó bằng cách đánh vào sườn thành phố bằng một kế hoạch do Morrell vạch ra. Nashville sớm thất thủ, mặc dù các trung đoàn Hiệp Bang mới thành lập đã nỗ lực hết sức để ngăn chặn các nòng súng của Custer, và thủ phủ của tiểu bang trở thành trụ sở của Tập đoàn quân số 1.

Cùng ngày Chiến dịch Barrel Roll bắt đầu ở Tennessee, Quân đội Hoa Kỳ ở phía bắc Virginia tấn công về phía nam hướng tới Manassas cùng lúc quân đội Hoa Kỳ tiến vào Washington, DC bị chiếm đóng. Thủ đô Hoa Kỳ về mặt pháp lý đã được chiếm lại sau nhiều ngày giao tranh dữ dội trên đường phố, san phẳng thành phố và các địa danh nổi tiếng (như Đài tưởng niệm Washington và Nhà Trắng).

Ở phía bắc Virginia, một số cuộc tấn công của Liên Bang Mỹ đã buộc Quân đội Hiệp Bang Mỹ của Bắc Virginia phải rút lui về phía nam. Trong các trận chiến tại Round Hill, Centreville và Bull Run Creek, các hành động bảo vệ phía sau do một số khẩu đội pháo hạng nặng của Lữ đoàn pháo tự hành Richmond số 1 chỉ huy đã ngăn chặn được sự hủy diệt hoàn toàn của đội quân huyền thoại mới nhất của Robert E. Lee. Tuy nhiên, rõ ràng là cuộc chiến đang trên bờ vực thất bại; đây là một quan niệm không tốt đối với một số binh lính Hiệp Bang Mỹ, những người cho rằng cuộc chiến đã giành chiến thắng chỉ vài tháng trước đó.

Liên minh miền Nam Hoa Kỳ đã bắt đầu gửi những người thăm dò hòa bình đến Philadelphia ngay từ khi Nashville sụp đổ, nhưng Tổng Thống Theodore Roosevelt đã từ chối chấp thuận lệnh ngừng bắn cho đến khi chắc chắn rằng Hiệp Bang Hoa Kỳ đã bị giáng đòn nặng nề ở nơi khác. Những đòn giáng cuối cùng vào Quân đội Hiệp Bang Mỹ diễn ra vào cuối tháng 7, khi cuộc giao tranh lan rộng đến thị trấn Fredericksburg, Virginia, nơi chỉ cách thủ đô của Liên minh miền Nam 50 dặm (80 km). Với lệnh ngừng bắn đã có hiệu lực ở Tennessee, Sequoyah bị tràn ngập, và giao tranh ở phía tây Texas và Arkanses đang yếu dần, Hiệp Bang Hoa Kỳ đã đồng ý đình chiến chung trên bộ và trên biển. Lần đầu tiên kể từ tháng 8 năm 1914, tiếng súng đã im bặt ở Bắc Mỹ.

Cùng lúc đó, tại châu Âu, các cuộc binh biến trong Quân đội Pháp tỏ ra đủ nghiêm trọng để dẫn đến việc Pháp rút khỏi cuộc chiến (Trên thực tế, những cuộc binh biến này - do sự phẫn nộ của binh lính Pháp khi bị ra lệnh tấn công tự sát và hoàn toàn vô nghĩa trên vùng đất không người - đã khiến bộ chỉ huy Quân đội Pháp đồng ý không ra lệnh tấn công nữa để đổi lấy việc binh lính Pháp tiếp tục chiến đấu phòng thủ). Nếu không có thêm quân đội Hoa Kỳ, điều này sẽ khiến cả nước Pháp đầu hàng. Đế Quốc Nga đã sụp đổ trong cuộc cách mạng và hỗn loạn (tương tự như thực tế, nhưng Liên Xô không có ra đời trong thế giới này đâu), chỉ còn lại Hiệp Bang Hoa Kỳ và Vương quốc Anh chiến đấu chống lại Hoa Kỳ, Đức và Áo-Hung. Ý vẫn trung lập và Đế chế Ottoman tham gia cuộc chiến tranh về phía Liên Minh Trung Tâm. Ở Nam Mỹ, Brazil từ bỏ sự trung lập mà họ đã duy trì kể từ khi bắt đầu chiến tranh và các đồng minh với Chile (ủng hộ Liên minh Trung tâm) chống lại Argentina (ủng hộ Đồng minh), đe dọa đến nguồn tiếp tế lương thực cho Anh.

Ở Canada, phương pháp dùng xe tăng của trung tướng Custer được sử dụng để phá vỡ các phòng tuyến của Anh-Canada, dẫn đến sự sụp đổ của Thành phố Quebec, Quebec và Winnipeg, Manitoba. Hoa Kỳ sau đó đã thành lập Cộng hòa Quebec từ tỉnh nói tiếng Anh-Pháp của Canada, và lực lượng Hoa Kỳ và Quebec tiến về Toronto, Ontario. Vào thời điểm này, Hiệp Bang Mỹ đã bị đánh bại, và với tất cả binh lính Hoa Kỳ trên Mặt trận Liên Bang Mỹ-Hiệp Bang Mỹ hiện đã sẵn sàng tiến về Canada, Đế quốc Anh đã yêu cầu ngừng bắn, và được chấp thuận vào đầu tháng 6. Với các hoạt động hải quân của Liên Bang Hoa Kỳ-Đức-Brazil cắt đứt Vương quốc Anh khỏi các nhà cung cấp thực phẩm của Argentina và Úc, Vương quốc Anh đã đệ đơn xin hòa bình vào cuối mùa hè năm đó; Vương quốc Anh là đối thủ cuối cùng của Liên Minh Tứ giác vẫn còn trong cuộc chiến.

Sau Đại Chiến Thứ Nhất,...

Hoa Kỳ ăn mừng rất nhiều vào năm 1918, thời điểm kết thúc Đại Chiến Thứ Nhất, và đã đắm chìm trong sự phấn khích khi cuối cùng đã trả thù được cả Hiệp Bang Hoa Kỳ và đồng minh của chúng, với các cuộc diễu hành và tiệc tùng kéo dài đến tận mùa thu. Tổng thống Roosevelt và Tướng Custer (Tướng là cấp bậc thực sự của ông hiện tại, vì tổng thống Roosevelt đã thăng chức cho viên sĩ quan già ở Nashville vào cuối chiến tranh) cùng nhau diễu hành trong Lễ tưởng niệm Philadelphia, lễ diễu hành lớn nhất cho đến nay. Truyền thống treo ngược quốc kỳ để thể hiện sự đau khổ đã bị gạt sang một bên để thể hiện rằng Hoa Kỳ đã đảo ngược kết quả của cả năm 1862 và 1882.

Những hậu quả lâu dài của chiến tranh bắt đầu được cảm nhận, và cả hải quân Liên Bang Hoa Kỳ và Hiệp Bang Hoa Kỳ đều phải triển khai tàu quét mìn để dọn sạch cảng của họ, một hoạt động vẫn tiếp tục cho đến cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940.

Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người ở Hoa Kỳ chiến thắng đều chia sẻ niềm vui chiến thắng. Những cựu chiến binh trở về thấy được mức lương rẻ hơn trong các nhà máy và hầm mỏ mà họ đã làm việc trước khi ra đi để chiến đấu. Nhiều cựu chiến binh thấy mình bị các nhà tư bản và chủ nhà máy đàn áp, và đình công ở các trung tâm công nghiệp của Liên Bang Mỹ như Pittsburgh và Toledo. Các chủ sở hữu triển khai Pinkertons và cảnh sát chống lại những người đình công, nhưng những cựu chiến binh, những người đã phải đối mặt với những thách thức tồi tệ hơn nhiều trong chiến hào, đã đẩy lùi họ. Đất nước dường như đang trên bờ vực của một cuộc cách mạng, và Đảng Xã hội Hoa Kỳ đã tận dụng những thành quả trong các tầng lớp thấp hơn. Vào tháng 11 năm 1918 , họ chiếm được Hạ viện lần đầu tiên, phá vỡ các kế hoạch của Theodore Roosevelt về các vấn đề đối nội và đối ngoại. Cuối cùng là vào năm 1920, Hoa Kỳ đã chính thức bầu Tổng Thống AI Smith của Đảng Xã Hội lên nắm quyền, trở thành quốc gia có hệ tư tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa đầu tiên  trên Thế Giới chính thức.

Trong khi đó, công dân của Liên Minh Miền Nam Hoa Kỳ đã bị đánh bại và bị cắt xén hầu như không có tâm trạng để ăn mừng. Tổng thống Roosevelt của Liên Bang Mỹ đã ép buộc họ phải chấp nhận những điều khoản nhục nhã để đổi lấy hòa bình, Tổng thống Semmes không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đồng ý với chúng. 

Một lượng lớn lãnh thổ của Hiệp Bang Mỹ đã bị mất: Kentucky đã tái gia nhập Liên Bang Mỹ vào năm 1916; Miền Tây Texas đã được gia nhập Liên Bang Mỹ vào năm 1917 với tư cách là tiểu bang Houston, với thủ phủ tại Lubbock và Sequoyah đang bị chiếm đóng. Một phần Arkansas, Sonora và Virginia do quân đội Hoa Kỳ nắm giữ tại hiệp định đình chiến cũng được sáp nhập vào Missouri, New Mexico (một tiểu bang bao gồm New Mexico và Arizona ở ngoài đời) và Tây Virginia.

Ngoài ra, thỏa thuận sau chiến tranh còn cắt giảm nghiêm trọng quy mô của Quân đội và Hải Quân Hiệp Bang Hoa Kỳ, và yêu cầu phải trả khoản bồi thường khổng lồ cho Philadelphia. Những điều khoản này càng làm tăng thêm sự tức giận của cả đất nước Miền Nam Hoa Kỳ này. Khoản bồi thường khiến đồng Dollar của Hiệp Bang Hoa Kỳ mất giá không kiểm soát, tạo ra siêu lạm phát, rồi cuối cùng là đã phá hủy hoàn toàn nền kinh tế của Hiệp Bang Hoa Kỳ (Giống như vụ lạm phát ở Cộng hòa Weimar-Đức sau khi ký Hiệp ước Versailles).

Kết quả là, tình cảm chống Liên Bang Mỹ trong cộng đồng người da trắng của Hiệp Bang tăng lên nhanh chóng, và một số đảng phái chính trị với tư tưởng rất phản động hình thành trên khắp các Miền Nam Hoa Kỳ. Một trong những nhóm cực đoan này là Đảng Tự do, được Anthony Dresser thành lập tại Richmond, Virginia, vào thời điểm nào đó ngay sau khi Đại Chiến Thứ Nhất kết thúc. Nhưng đi kèm theo 1 nhóm có phần ôn hòa hơn là Đảng Dixie Trên Hết do Huey Long lãnh đạo, với câu nói nổi tiếng là "Mỗi người đàn ông là một vị vua, mỗi người phụ nữ là 1 nữ hoàng".

Về phía Đế quốc Anh, Tổng thống Roosevelt buộc Anh Quốc phải công nhận Cộng hòa Quebec (được thành lập vào tháng 4 năm 1917 khi chiến tranh ở Canada sắp kết thúc) và Cộng hòa Ireland (bao gồm toàn bộ Ulster/Bắc Ireland), đồng thời từ bỏ yêu sách đối với Bahamas , Bermuda, Quần đảo Sandwich, và phần còn lại Vương Quốc Tự Trị Canada ngoài Quebec cho Hoa Kỳ, cũng nhượng lại Sierra Leone và Ghana cho Liên Bang Mỹ (2 thuộc địa cũ của Anh về sau chuyển lại ngay lập tức cho Liberia quản lý ngay khi Đại Chiến Thứ Nhất kết thúc).

Đế Chế Đức cũng sáp nhập cả hai thuộc địa Congo thuộc Pháp và Congo thuộc Bỉ, chiếm đóng Bỉ (Và đối xử tàn bạo sau khi biết cách Bỉ đối xử với Congo ở thời vua Leopard II) và thành lập các quốc gia bù nhìn là Ukraine và Vương quốc Ba Lan, 2 quốc gia "Có mối quan hệ với Đức giống như Quebec có mối quan hệ với Mỹ". Tình trạng chính xác của các quốc gia Baltic vẫn chưa chắc chắn, nhưng chúng được đề cập là trung lập trong loạt Tài Khoản giải quyết.

Tại Canada, chính quyền Vương Quốc Tự Trị cũ đã bị tuyên bố là một hội đồng chính phủ bất hợp pháp. Quân đội Hoa Kỳ thành lập trụ sở chiếm đóng tại Winnipeg và biến mỗi tỉnh thành một quân khu, với mục đích là để ngăn chặn 1 cuộc nổi loạn. Canada bị chiếm đóng được tuyên bố là 1 phần chính thức của lãnh thổ Hoa Kỳ như một phần của Đế chế Hoa Kỳ mới, "Kéo dài từ Vịnh California đến Bắc Băng Dương".

Trong khi đó, tại Đế Quốc Nga cũ, đã có hàng loạt cuộc chiến lớn nhỏ, giữa người theo chủ nghĩa Tự Do và Bảo Thủ; Cộng Hòa và Quân Chủ; Tư Bản và Xã Hội Chủ Nghĩa;... Cuối cùng, đã có 1 phe phái chiến thắng toàn bộ các phe phái trên của Đế Quốc Nga...

https://youtu.be/Lcx7d6lk4Fs

Phe Thánh Quốc Nga...

Được lãnh đạo bởi Nhiếp Chính Sergey Taboritsky 33 tuổi,...

Đế Quốc Nga sau khi được ổn định lại vào năm 1930, nó đã nhanh chóng trở thành 1 địa ngục trần gian. Dưới sự lãnh đạo của Sergey Taboritsky, ông đã đưa đất nước Nga trở thành một trại tập trung khổng lồ chống lại những người mà ông ta cai trị, và kế hoạch dài hạn không phải là một khái niệm, với mong muốn hy vọng là sẽ thanh trừng nước Nga khỏi sự ô uế và thiết lập một Đế chế Nga Thần thánh cho người kế vị "thực sự", Alexei Romanov (Người đã chết cùng gia đình của ông và mọi hoàng tộc Nga từ rất lâu lắm rồi).

Ông ta ghét tiền bạc và nhu cầu thiết lập nền kinh tế, vì vậy quyết định chính của ông ta là thành lập 1 chế độ "Nơi người dân đều công bằng với nhau". Thực ra đó chính là biến tất cả người dân thành Nông Nô không tài sản (Giống như cách Khmer Đỏ đối xử với nhân dân Campuchia khi chúng nắm quyền cai trị đất nước đó). Ông ta giải quyết đói nghèo và giáo dục bằng cách giết và diệt sạch tất cả, khiến cơ sở của chúng giảm mạnh.

Điều gây phẫn nộ ở đây là chính vị nhiếp chính này đã bắt đầu chiến dịch tiêu diệt tầng lớp nghèo nhất, coi họ là những con thú suy đồi, nghèo đói vì "sự vô đạo đức" hoặc "sự lật đổ của người Do Thái" (Nhóm dân tộc cũng đang trong quá trình bị diệt chủng); cộng thêm một cuộc thanh trừng trí thức trên toàn quốc, tin rằng họ là lực lượng thứ năm truyền bá những tư tưởng xấu xa như bình đẳng, chủ nghĩa xã hội (Hoặc bất kỳ hệ tư tưởng cánh tả nào khác) và chủ nghĩa tư bản. Tất cả các tội ác đều bị trừng phạt bằng cái chết như nhau, và theo thời gian, Taboritsky ngày càng trở nên hoang tưởng và cũng có nhiều người ủng hộ ông cũng bị thanh trừng.

Kết quả là Thánh Quốc Nga đã có nhiều ngôi mộ tập thể mọc lên sau vài tuần do cuộc sống của Thánh Quốc ở trên. Điều này khiến nhiều phiến quân kháng chiến đã xuất hiện quy mô lớn, luôn cố gắng chống lại Thánh Quốc Nga tâm thần. Nhiều người dân Nga cũng nổi loạn, nhưng cuối cùng đã chết vì bị ném vũ khí hóa học vào.

Mọi thứ về nước Nga luôn được giấu kín khỏi Thế Giới, nơi quốc gia tuyên bố tự cô lập mình.

Cho đến năm 1932, khi thông tin về cuộc sống khủng khiếp của Thánh Quốc Nga đã được tiết lộ từ lãnh thổ Alyaska (Alaska) của Nga.

Vào ngày 30/3/1932, Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ nhận được 1 báo cáo kỳ lạ từ các binh lính tuần tra dọc theo biên giới giữa lãnh thổ Cascadia (Trước đây là tỉnh British Columbia của Canada) và lãnh thổ Alyaska thuộc Nga. Đó là họ đã chứng kiến có rất nhiều người dân Nga đã thẳng tàn sát binh lính Thánh Quốc Nga canh vùng biên giới sau 1 trận chiến ác liệt, rồi có 1 nhóm người đại diện biết nói tiếng Anh, từ từ đi qua biên giới từ lâu đã lấp đầy mìn khoảng 2 năm trước, rồi đến gặp các binh lính Mỹ hỏi trụ sở chính phủ Hoa Kỳ ở đâu, với mong muốn xin Hoa Kỳ sáp nhập toàn bộ Alyaska để cứu tất cả người dân Alyaska ra khỏi Nga.

Và mọi chuyện đã hoàn toàn trở nên kinh hoàng từ đây,...

Ngay sau khi nhận được lệnh tuần tra sự việc kỳ lạ ở Alyaska, thống đốc Custer của lãnh thổ Canada thuộc Mỹ đã bay đến tận thủ phủ lãnh thổ Alyaska, Knik Anchorage (Anchorage ngoài đời). Khi đến nơi, ông đã thấy 1 cảnh tượng không thể ngờ tới được.

Có, có rất nhiều xác chết của người dân Nga ở Alyaska nằm đầy đường, cùng với cảnh tượng thành phố hoang tàn không thể ngờ tới. Trường học, bệnh viện, nhà ở,... tất cả đều trong tình trạng hoang tàn đáng kinh ngạc. Các máy bay và tàu chiến của Thánh Quốc Nga cũng được nhìn thấy trong tình trạng bốc cháy không lâu, cứ như mới chiến đấu cũng vừa xong. Nhưng nơi đặc biệt nhất là Nhà Thờ Chính Thống Giáo ở Alyaska.

Tuy có nhiều nhà thờ này đã bị đốt bỏ, nhưng vẫn còn 1 số nhà thờ giữ nguyên được. Và khi Custer cùng các binh lính Hoa Kỳ chú ý đến thái độ người dân, họ đã nhìn những nhà thờ này với sự ghê tởm toàn diện tận cùng. Khi được hỏi, ông và các binh lính Mỹ mới biết là nó được lấy từ chính tài sản của người dân Alyaska. Những công trình này đều được xây dựng bằng chi phí, tài sản, nước mắt và xương máu của tầng lớp thấp hơn (những người bị vắt kiệt sản phẩm và bị cấm trở nên giàu có) và những người dưới mức bần cùng (những người bị tịch thu toàn bộ tài sản). Mặt khác, các nhà thờ này đã cưỡng ép người dân theo đạo Chính Thống Giáo, những người từ chối theo theo đạo khác thì sẽ bị xử tử trước người dân rất dã man hoặc bắt hết tất cả vào trại tù Gulag.

Và nhóm của ông đã được chính người dân dẫn đến trại Gulag, 1 tên gọi của trại tù do Thánh Quốc Nga sáng lập lên...

Và... sau khi thăm xong trại Gulag, có nhiều binh sĩ Mỹ cùng thống đốc Custer đã xin ra khỏi quân đội, viết thư gửi cho Tổng Thống về những gì ông lẫn các binh lính đã chứng kiến, sự đau khổ tận cùng của người dân Nga nói chung và Alyaska nói riêng, lẫn ông cùng đồng đội từ chức đã đi khám bệnh tâm lý tập thể, cùng với hàng nghìn người Alyaska khác đi theo sau ông tương tự như vậy.

Khi sự việc được đưa lên báo New York Times cùng nhiều tờ báo nổi tiếng khác của Mỹ và trên quy mô Quốc Tế, nó đã gây chấn động toàn cầu về những gì đã xảy ra ở Nga. Những lời khai của các nhân chứng Alyaska đã càng khiến nhiều người trên thế giới phẫn nộ hơn. 

Trong quá trình đó, cuộc biểu tình ở Bang Houston đã khiến cho Liên Bang Mỹ cho phép bầu cử người dân nơi đó. Kết quả là Houston/Miền Tây Texas đã trở lại bang Texas của Liên Minh Miền Nam Hoa Kỳ (Và người dân Miền Nam cũng đã ăn mừng quy mô lớn), cũng như đã làm hòa giải 1 phần mối quan hệ giữa Miền Bắc và Miền Nam Hoa Kỳ đủ để có thể nói là thân thiện. Liên Bang Mỹ cũng không đòi hỏi nhiều, vì họ đã có được Lãnh thổ Alyaska bù lại bang Houston tái gia nhập lại Liên Minh Miền Nam Hoa Kỳ.

Và ở Châu Âu cũng đã xảy ra nhiều sự kiện đã thay đổi hàng triệu người dân Châu Âu vĩnh viễn.

Từ năm 1930, Kaiser Wilhelm II cai trị một nước Đức hùng mạnh và quân đội của ông tiếp tục chiếm đóng Bỉ, Ukraine và Vương quốc bù nhìn Ba Lan nhưng quan hệ sau chiến tranh với Hoa Kỳ đã trở nên tồi tệ đến mức nhiều người ở cả hai bờ Đại Tây Dương tin rằng Đức và Hoa Kỳ một ngày nào đó sẽ tham gia vào một cuộc chiến tranh toàn diện. Tuy nhiên, Kaiser Wilhelm II đã bị tai nạn xe hơi cùng gia đình khi đi chơi và tử vong ngay sau đó. Ngay lập tức, nó đưa cả nước Đức rơi vào sự hỗn loạn. Tình hình kinh tế Thế Giới càng đưa cả Đế Quốc Đức cùng các đồng minh chìm sâu trong nội chiến của chính họ.

Trong suốt 2 năm Cuộc Nội Chiến Đức (Hay còn gọi là Cuộc Nội Chiến Châu Âu do ngay cả các đồng minh của Châu Âu cũng có nội chiến bên trong xảy ra), các phe phái của Đức, bao gồm chủ yếu gồm 3 phe lớn: Phe Trung Thành (Quân Chủ), Phe Tự Do (Cộng Hòa-Tư Bản) và Phe Nhân Dân (Xã Hội). Cuộc Nội Chiến Đức đã kết thúc với chiến thắng của Phe Nhân Dân, với nguyên nhân chủ yếu là do nguồn cung cấp việc trợ không hoàn trả và các binh lính quốc tế của Liên Bang Mỹ đến tự nguyện chiến đấu cho 1 Cuộc Cách Mạng Vô Sản.

Nước Đức (Cùng phần lớn Châu Âu) đã trở thành 1 khối nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Sau 1 hồi đàm phán, các nước Châu Âu theo Xã Hội Chủ Nghĩa đã hợp lại thành 1 đất nước Cộng Hòa Liên Bang, với tên là Liên Bang Các Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Châu Âu (The Federation of European Socialist Republics-FESR), hay còn gọi tắt là Liên Bang Châu Âu (European Federation-EF). Thủ đô của Liên Bang Châu Âu là Warsaw, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Ba Lan, Liên Bang Châu Âu. Quốc ca mới được tạo ra chung cho Liên Bang Châu Âu là "Ode To Joy". Lãnh đạo của Châu Âu được bầu chọn là Đồng Chí Tổng Bí Thư Hermann Ludwig Rudolph Duncker, 1 giáo sư kiêm tướng lĩnh đến từ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Đức.

Bản Đồ của Liên Bang Châu Âu năm 1933.

https://youtu.be/Jo_-KoBiBG0

Quốc Ca của Liên Bang Châu Âu.

Cờ của Liên Bang Châu Âu.

(Tác giả: Đế Chế Đức cùng các nước Bắc Âu (Trừ Iceland bị Anh chiếm đóng) và các nước Trung Âu lẫn 1 phần Nam Âu trở thành phiên bản Thay Thế của Liên Xô)

Đối với phần còn lại của Châu Âu không có hệ tư tưởng chủ nghĩa Xã Hội và vẫn còn độc lập, đây là 1 cơn ác mộng toàn diện, đặc biệt là những kẻ nắm quyền đất nước và những tên kẻ phát xít thượng đẳng. Các quốc gia Châu Âu còn lại, chủ yếu là Anh và Pháp đã liên minh với nhau. Các thuộc địa cũ của Đức đã bị 2 cường quốc Thực Dân này xâu xé và chiếm đóng (Iceland đã bị Anh chiếm đóng ngay sau đó, các thuộc địa của Đức thì bị xâu xé không thương tiếc), với thực dân Đức đã bị ép buộc đồng hóa hoặc bị trục xuất về lại Liên Bang Châu Âu hoặc di cư sang bất kỳ quốc gia nào không phải là Anh và Pháp. Kết quả là có rất nhiều người thực dân Đức cũ đã chọn phần lớn di cư đến Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ và Liên Bang Việt Nam (Điều này khiến các nhóm dân tộc Việt Nam có thêm 1 nhóm mới mang cả văn hóa và sắc tộc Đức về sau) hoặc quay trở lại quê hương cũ, hiện tại là 1 phần của Liên Bang Châu Âu.

Nhưng vậy vẫn chưa hết. Châu Âu vẫn còn 1 vấn đề nghiêm trọng nữa: Thánh Quốc Nga.

Vào ngày 22/6/1932, Thánh Quốc Nga, dưới lệnh của Nhiếp Chính Sergey Taboritsky, đã ra lệnh quân đội xâm lược Liên Bang Châu Âu, với mục đích là tìm lại "Alexei Romanov", khi người lãnh đạo tâm thần đó đã ảo tưởng rằng người Châu Âu xã hội chủ nghĩa bắt cóc, bạo hành và giam giữ Alexei đi.

Ngay sau vài giờ cuộc tấn công, hàng chục ngôi làng, thị trấn, thành phố và công xã của Liên Bang Châu Âu ở gần biên giới Nga đã bị thảm sát quy mô lớn. Khi người Châu Âu đã đánh đuổi thành công sau 1 ngày chiến đấu đội quân Thánh Quốc Nga thiện chiến nhưng rất kém về độ thông minh và kỹ năng chiến tranh, họ đã sốc nặng trước cảnh tượng kinh hoàng với các thành phố trên.

(Tác giả: Về cơ bản, Thánh Quốc Nga đã làm những hành động xâm lược với người dân Châu Âu như sự kết hợp cả Chiến Dịch Barbarossa và Thảm Sát Ba Chúc nhưng quy mô lớn hơn ở Châu Âu. Chắc chắn điều này khiến Nga còn mang tiếng xấu hơn nữa, mặc dù đời sống người dân Nga có khiến người dân Châu Âu suy nghĩ lại. À mà không giống như Ukraine với Nga ngoài đời nha).

Nhiều nơi đã bị cướp phá, giết lẫn thảm sát dân thường quy mô lớn, h##p d#m quy mô lớn. Khi lính lẫn dân quân Châu Âu bắt sống mấy tên lính Nga tra hỏi, họ mới biết rằng Nga đã tấn công với mục đích tìm lại Alexei Romanov, cũng như việc tàn phá nơi bị xâm chiếm như vậy để khiến người dân khu vực kính sợ. Đồng thời chúng cũng hạ thấp người Châu Âu là 1 "lũ man rợn cần thanh lọc cho Thánh Quốc Nga".

Câu trả lời của tù nhân Nga bị bắt, cộng thêm cách lính Thánh Quốc Nga đối xử với người dân vùng chiếm đóng chỉ sau vài giờ đã làm mọi người dân Châu Âu đều sôi máu và nổi điên lên. Điều này đã khiến nhiều người tị nạn Nga trước đây đã phải 1 lần nữa đi tị nạn sang cả Liên Bang Mỹ, Hiệp Bang Mỹ, Đế Quốc Anh và Liên Bang Việt Nam, vì sự kỳ thị và ghét bỏ người Nga quy mô lớn từ các nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa bị Nga xâm lược.

Sự tàn bạo với người dân vùng biên giới Châu Âu đã khiến cả Hội Đồng lẫn Tổng Bí Thư Duncker ra lệnh khẩn cấp tấn công trở lại Thánh Quốc Nga. Chỉ trong vòng 2 ngày, hơn 1.200.000 binh lính Châu Âu đã huy động quy mô lớn, trong đó có hàng trăm nghìn người có người thân và gia đình đã mất ở vùng biên giới với mong muốn báo thù cho người thân.

Vào ngày 25/6/1932, Châu Âu đã xâm lược lại Nga với quy mô cực kỳ lớn. Nhờ vào trang bị cực kỳ hiện đại với Khẩu Súng Trường STG44 mới được sáng tạo ra và các loại xe tăng dòng Tiger, Panzer,... và các loại máy bay chiến đấu khác nhau cực tốt của CHXHCN Đức đã giúp cho Châu Âu nhanh chóng giành được 100 km lãnh thổ Thánh Quốc Nga trong những ngày đầu tiên của cuộc xâm lược. 

Trong quá trình đó, có rất nhiều ngôi làng Nga được tìm thấy, và môi trường tại những nơi đó rất kinh hoàng. Giống như người Mỹ chứng kiến Alyaska, người Châu Âu hoàn toàn kinh hoàng trước cảnh tượng đau khổ của người dân Thánh Quốc Nga. Điều này càng khiến cho Châu Âu càng quyết tâm tiêu diệt Thánh Quốc Nga nữa.

Ở vùng Siberia và Viễn Đông, đã có 1 cuộc nổi loạn lớn, bắt đầu từ thành phố Cảng Vladivostok. Vũ khí họ thấy chính là những khẩu VK-30 (AK-47) của Liên Bang Việt Nam. Lúc này, cũng đã hé lộ thêm 1 phe phái khác giúp đỡ giải phóng nước Nga.

Liên Bang Việt Nam, 1 quốc gia đã trở nên giàu có nhờ vào vị trí đặc biệt, giàu tài nguyên và lãnh đạo tài giỏi, giờ đã có nền kinh tế bị tổn thương do Cuộc Đại Khủng Hoảng vừa rồi. Nhưng rồi Tổng Thống Nguyễn Thái Học đã nghĩ ra 1 ý kiến mới.

Ông đã chấp nhận cho các cựu thực dân Đức và người tị nạn Nga vào Việt Nam, nhưng với điều kiện là phải có kỹ năng công việc cực tốt hoặc làm được những công việc thuộc dạng công nghiệp nặng và tri thức. May thay là phần lớn người tị nạn trên đều là người có đủ kỷ năng trên để nhập cư vào Việt Nam, nên Việt Nam đã bùng nổ trở lại lần nữa về kinh tế. Không chỉ vậy, Việt Nam về sau đã có thêm bản sắc Văn hóa lẫn dân tộc của Đức và Nga, kết quả của việc cho nhập cư quy mô lớn vào quốc gia, cũng là sự khởi đầu cho Việt Nam có nhiều dân tộc khác trên thế giới. 

Ngay sau khi Đại Chiến Thứ Nhất kết thúc, Việt Nam trở thành quốc gia giàu có nhất trên thế giới nhờ vào buôn bán vũ khí lẫn các đồ dùng cần thiết, với mọi người dân đều có thể dễ dàng sống như các vị vua chúa nữ hoàng và các công ty của mọi lĩnh vực cực kỳ nổi tiếng ở quy mô lớn trên toàn quốc tế.

Nhưng mặc khác, Việt Nam cũng trở thành 1 cường quốc xuất khẩu cách mạng chống các chế độ độc tài. Và điều này đã được thể hiện khi Nhật Bản đã có 1 cuộc cách mạng Cộng Hòa, lật đổ chế độ Thiên Hoàng lẫn chống bọn phát xít đang trổi dậy trong chính quyền và trở thành Cộng Hòa Dân Chủ Nhật Bản vào năm 1930. Giờ đây, Nga và Hàn Quốc là 2 đối tượng tiếp theo mà Việt Nam nhắm đến để xuất khẩu cách mạng. 

Và ở 1 cấp độ bất ngờ hơn, Liên Minh Miền Nam Hoa Kỳ là 1 đồng minh mới và khá thân của Việt Nam, với lý do là do Việt Nam đã vô tình cứu giúp Miền Nam Mỹ thoát khỏi sự nghèo đói, cũng như cách thức xây dựng và lãnh đạo của Nguyễn Thái Học và Huey Long (Và thậm chí là cả chính Anthony Dresser) cũng không khác nhau nhiều. Cả hai đều là nhà nước dân tộc chủ nghĩa, lại còn là 1 đất nước đã nghèo đi vì kinh tế nhưng cuối cùng đã vực dây trở lại, nên càng có chung mục đích, có những anh hùng đã giải phóng đất nước (Mặt dù mục đích thì chắc chắn khác nhau 1 trời 1 vực) và càng cả hai đều giống nhau nhiều mặt hơn.

Với sự áp bức kinh hoàng của Thánh Quốc Nga thông qua những người tị nạn Nga, cộng thêm báo đài quốc tế đã làm cho người dân Việt Nam khiếp sợ và kinh hoàng về những gì đang xảy ra ở Nga. Và ở Việt Nam có 1 nhóm tổ chức kháng chiến hải ngoại của người Nga tên là Mặt Trận Tự Do Á Âu (Eurasian Freedom Front-EFF). EFF do chính cựu tướng lĩnh phe Tự Do Nga Georgy Zhukov lãnh đạo. Đây là 1 tổ chức cách mạng lớn, với mong muốn giải phóng Nga ra khỏi sự áp bức kinh hoàng của Thánh Quốc Nga và đem lại 1 cuộc sống thực sự cho nhân dân của mọi sắc tộc ở Á Âu. Và càng may mắn khi EFF đã được Việt Nam tài trợ cho việc giải phóng nước Nga.

Vô tình thay, nó đã tạo ra Đại Chiến Thứ 2, khi Việt Nam càng ủng hộ EFF hơn và tuyên chiến công khai sau khi tàu của Thánh Quốc Nga đã đánh chìm 1 con tàu vận chuyển đến Hiệp Bang Hoa Kỳ.

Ngay khi Việt Nam tuyên chiến, Hàn Quốc và Vùng Viễn Đông của Nga đã được Việt Nam, Nhật Bản và tổ chức kháng chiến giải phóng. Hàn Quốc đã được Hải Quân của cả Nhật Bản và Việt Nam cùng nhau giải phóng (Và kinh hoàng trước những gì đã xảy ra ở Hàn Quốc). Bản thân EFF cũng đã kinh hoàng trước những gì ở Viễn Đông.

Cuộc Chiến đã bắt đầu càng lớn hơn sau khi Pháp tuyên chiến với Châu Âu không lâu sau khi Châu Âu đang giải phóng Nga...

Bản đồ Thánh Quốc Nga vào năm 1932.

Bản đồ Bắc Mỹ vào năm 1932.

Bản đồ Thế Giới năm 1932.

(Tác giả: Một số đối tác của Thế Giới Chiến Tranh Mỹ giống như ngoài đời (Và có 1 số sự khác biệt):

- Liên Bang Việt Nam = Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ + Việt Nam (Cả VNCH và VNDCCH, cộng thêm mọi phe phái kháng chiến của Việt Nam chống thực dân Pháp và Tây Sơn).

- Nhật Bản = Canada + Nhật Bản ngoài đời.

- Trung Quốc = Trung Mỹ nhưng vẫn còn thống nhất + Caribe + 1 phần của Mexico và Trung Quốc ngoài đời.

- Hàn Quốc = Cuba + Iceland + Hàn Quốc ngoài đời.

- Ấn Độ = Mexico + Campuchia + Ấn Độ ngoài đời.

- Úc = Argentina + Caribe + Úc ngoài đời.

- Anh = Đức Quốc Xã + Anh ngoài đời.

- Pháp = Ý + Pháp ngoài đời.

- Nga = Đế Quốc Nhật Bản + Khmer Đỏ phiên bản Quân Chủ hóa + Nga trước thời cách mạng tháng 8 + Thánh Quốc Nga từ The New Order.

- Châu Âu = Liên Xô + Các Nước Châu Âu thuộc Hiệp Ước Warsaw và Bắc Âu.

- Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ/Liên Bang Hoa Kỳ = Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa + Hoa Kỳ + Đức + 1 Phần của Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ngoài đời.

- Liên Minh Miền Nam Hoa Kỳ/Hiệp Bang Hoa Kỳ = Việt Nam Cộng Hòa + Hoa Kỳ + Anh + 1 Phần của Nam Phi thời Apartheid và Hàn Quốc ngoài đời.

- Cộng Hòa Quebec = Lào + Canada ngoài đời.

- Đế Quốc Mexico = Campuchia trước thời Khmer Đỏ + Mexico ngoài đời.

- Cộng Hòa Gran Colombia = Thái Lan + Colombia ngoài đời.

- Cộng Hòa Liberia = Thụy Điển nhưng mạnh hơn + 1 phần của Pháp, Hoa Kỳ, Tây Phi ngoài đời.

Và thế là xong. Hiện tại chỉ có các qốc gia như vậy ở Thế Chiến 2 Thay Thế thôi. Sẽ có thêm các quốc gia khác được cập nhật thêm ở tập tiếp theo).




Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top