chiec thuyen ngoai xa
Câu 1: Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy thơ mộng.
Sau mấy buổi sáng “phục kích”, gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm Phùng đã phát hiện ra một cảnh thật ưng ý. Chưa bao giờ, suốt một đời cầm máy ảnh, anh được thấy một cảnh “đất trời cho như vậy: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiéu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc giọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cảnh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đưonừg nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đẹp và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chẳng biết ai đó lần đầu tôi đã phát hiện ra bản thân khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tôi”. Đó là hạnh phúc lớn nhất của người nghệ sĩ. Cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo của sự cảm nhận cái đẹp diệu kì tột độ. Trong giiây phút ấy giây phút bắt gặp cái tận thiện, tận mĩ, anh thấy tâm hồn mình trong trẻo tinh khôi kì lạ như vừa được gội rửa bởi cái đẹp hài hòa lãng mạn từ hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương huyền ảo.
Câu 2:
Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh mang đầy nghịch lí. Đó là từ cảnh thuyền và biển thật đẹp từng đem đến cho anh khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời của sự khám phá và sáng tạo lại xuất hiện những cái thật xấu, cực kì xấu. Từ chiếc thuyền ngoài xa đẹp như trong mơ ấy đã xuất hiện một người đàn bà xấu xí mệt mỏi, cam chịu, một lão đàn ông thô bạo độc ác, dữ dằn thẳng tay đánh đập vợ và coi việc đó như một phương cách để giải tỏa nỗi uất ức, buồn khổ của mình. Xuất thân là một người lính cầm súng chiến đấu bảo vệ đất nước, bảo vệ cảnh thuyền biển bao la Phùng bất bình khi chứng kiến hành động độc ác của lão đàn ông. Nhưng anh chưa kịp xông ra can thiệp thì Phác, đứa con trai của lão, đã kịp đến để che chở cho người mẹ đáng thương của mình. Chỉ ba hôm sau, khi lại phải chứng kiến cảnh đau lòng ấy. Phùng mới thể hiện được bản chất người lính làk hông thể vô cảm trước sự bạo hành của cái ác, cái xấu. Phùng xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động tội ác. Lão đàn ông đánh trả khiến Phùng bị thương phải đưa về trạm y tế của tòa án huyện, nơi đây có Đẩu, bạn chiến đấu ngày xưa của anh. Lúc này người nghệ sĩ nhiếp ảnh bỗng cay đắng nhận ra rằng những cái xấu cái ác, những bi kịch của gia đình thuyền chài kia là bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của những thước phim diệu kì mà anh vừa dày công chụp được.
Câu 3:
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện là câu chuyện về sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Câu chuyện này đã giúp cho Phùng, cho Đẩu hiểu rõ được duyên cớ của những điều tưởng chừng như rất mực vô lí khó có thể tin được. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi thô kệch rỗ mặt, luôn xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi” gợi lên vẻ nhọc nhằn lam lũ. Bà thường xuyên bị chồng đánh đập hành hạ thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” Nhưng bà vẫn vẫn nhẫn nhục cam chịu, không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách trốn chạy. Bà vẫn nhất quyết không chịu li thân, mà tự nguyện gắn bó trọn đời với lão đàn ông vũ phu hung bạo ấy. Nguyên do? Phải nghe lời bày giãi thật tình của bà người ta mới biết trong cuộc kiếm sống đầy khó khăn gian khổ trên chiếc thuyền ngoài khơi biển xa cần phải có một người đàn ông khỏe mạnh và biết nghề. Phải có thế thì đàn con của bà mới sống và lớn lên được. Nghĩa là nguồn gốc mọi sự chịu đựng hi sinh của người đàn bà hàng chài này là tình thương không giới hạn đối với những đứa con” đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông chèo chống khi phong ba để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.
Bởi vậy, nếu nhìn nhận vấn đề một cách giản đơn, người ta chỉ cần yêu cầu người đàn bà bất hạnh ly hôn là xong. Nhưng nếu hiểu sự việc cặn kẽ thấu đáo thì mới thấy cách xử sự của bà ấy là không thể khác được. Sự cam chịu nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài thật đáng để mọi người chia sẻ cảm thông.
Qua câu chuyện có thể rút ra được một điều thấm thía là không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận mọi hiện tượng của cuộc đời.
Câu 4.
Trong truyện này, nét độc đáo phong cách xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu là cách tạo tình huống đặc sắc mang đậm ý nghĩa khám phá phát hiện về đời sống. Chúng ta đều biết đối với nghệ thuật truyện ngắn, điều có ý nghĩa then chốt là tạo ra được một tình huống mới lạ độc đáo để làm bật nổi vấn đề, bật nổi tâm trạng, tư tưởng, tính cách của nhân vật và chủ đề của tác phẩm. Một truyện ngắn đặc sắc là nhờ được tổ chức chung quanh một tình huống như vậy. Tất cả mọi chi tiết, tình tiết đều xoay quanh tình huống ấy trong một kết cấu chặt chẽ.
Truyện chiếc thuyền ngoài xa đã tạo ra một tình huống như vậy. Đó là tình huống Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh vợ. Rõ ràng là trước sự việc. Phùng nhìn nhận đời bằng cặp kính màu của một nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh. Anh hạnh phúc, say mê cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu, cái tận thiện tận mĩ “trời cho” của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển ban mai mờ sương. Cũng chính giây phút anh chiêm nghiệm “bản chất cái đẹp chính là đạo đức ấy, anh đã chứng kiến từ đó bước ra một người đàn bà xấu xí mệt mỏi cam đành; một lão đàn ông thô kệch hung bạo độc ác rồi lão đàn ông thẳng tay đánh vợ một cách dã man và vô lí. Sự bạo hành của cái ác lặp lại một lần nữa. Phùng không chỉ thấy thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục của người đàn bà mà còn thấy được cả thái độ và hành động của chị em thằng Phác trước sự dữ dằn độc ác của cha với mẹ. Từ đây nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng có cái nhìn đời khác hẳn. Nhất là sau khi nghe được lời giãn bày thiệt tình của người đàn bà hàng chài anh đã hiểu rõ hơn, hiểu ngọn nguồn hơn, sâu sắc hơn tính cách của người đàn bà đáng thương, của chị em thằng Phác, tìm hiểu thêm cả Đẩu, người đồng đội cũ của mình và hiểu thêm cả bản thân mình. Đủ thấy tình huống truyện đã được tác giả càng lúc càng đẩy lên cao trào, càng lúc càng xoáy sâu hơn để khám phá, phát hiện tính cách của các nhân vật, khám phá sự hiện sự thật cuộc sống.
Câu 5
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, ngoài nghệ thuật kết cấu độc đáo cách triển khai cốt truyện rất sáng tạo như đã nói còn khắc họa nhân vật khá sắc sảo nhờ ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Người kể chuyện trong chuyện này là chính là nhiếp ảnh Phùng. Đây là nhân vật có thể nói là sự hóa thân của tác giả. Chính việc chọn nhân vật làm người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật vừa sắc sảo vừa sinh động ừa khách quan, trung thực giàu sắc thuyết phúc đối với người đọc.
Ngôn ngữ của nhân vật ở đây vừa sinh động vừa phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người. Chẳng hạn ngôn ngữ của lão đàn ông với giọng điệu lời lẽ thô bỉ tục tằn độc ác. Trái lại, lời lẽ của người đàn bà dịu dàng mềm mỏng đau xót khi đối thoại với con, khi nói về thana phận của mình thì đau đớn, thấu hiểu lẽ đời. Ngôn ngữ của Đẩu ở tòa án huyện thì nhiệt tình tốt bụng.
Việc sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, phù hợp, sinh động như thế đã làm cho chủ đề tư tưởng của tác phẩm khắc sâu hơn.
Về nội dung
Sau năm 1975, đất nước thoát khỏi chiến tranh, bước vào giai đoạn xây dựng, phát triển trong quỹ đạo hoà bình, mở ra cho văn học những tiền đề mới. Vốn giàu tâm huyết với văn chương, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với sự kì vọng của nhân dân, Nguyễn Minh Châu sớm ý thức được yêu cầu phải đổi mới tư duy văn học. Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh (1982), ngòi bút của ông dành sự quan tâm đặc biệt cho các vấn đề thế sự. Từ cảm hứng sử thi - lãng mạn từng làm nên vẻ đẹp rực rỡ của các tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng, Cửa sông, Dấu chân người lính, ông chuyển dần sang cảm hứng triết luận về những giá trị nhân bản đời thường. Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985) đã đưa tên tuổi Nguyễn Minh Châu lên vị trí "người mở đường tinh anh và tài năng"([6]) của văn học nước ta thời kì đổi mới.
– Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa lúc đầu được in trong tập Bến quê([7]), sau được Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987). Chiếc thuyền ngoài xa rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện thực đa chiều đã giúp ông nhận ra đời sống con người bao gồm cả những quy luật tất yếu lẫn những ngẫu nhiên may rủi khó bề lường hết. Ông day dứt về việc con người phải chấp nhận những nghịch lí không đáng có. Gánh nặng mưu sinh đè trĩu trên đôi vai cặp vợ chồng hàng chài, giam hãm họ trong cảnh tăm tối, đói khổ, bấp bênh. Người chồng tha hoá dần, trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người vợ vì thương con nên nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của chồng mà không biết rằng đã làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại. Cậu bé yêu mẹ, bênh vực mẹ thành ra thù địch với cha và ai biết được liệu trong tương lai cậu có thể sống khác cha mình ? Phía sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu, sự trân trọng trước vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và bao dung của người phụ nữ. Đó không phải kiểu vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp lam lũ của đời thường. Theo ông, tình yêu ở người nghệ sĩ "vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh mình"([8]).
Câu hỏi 1
A) Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn : tình huống hành động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức. Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của nhân vật, tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật thì tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút "giác ngộ" chân lí của nhân vật.
B) ở Chiếc thuyền ngoài xa, kết thúc sự kiện người đàn bà được mời đến toà án huyện để giải quyết bi kịch gia đình lại là "Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển". Như vậy, các chi tiết chính của câu chuyện đều được định hướng "chuẩn bị" cho sự nhận thức mới mẻ của Đẩu. Đó là các chi tiết :
- Người đàn ông đánh vợ. Cần tìm hiểu chi tiết này từ phương diện tâm lí, tính cách nhân vật. Vì sao khi mới rời thuyền, người đàn ông "lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới" của người đàn bà nhưng chỉ khi hai người đã đi khuất vào sau chiếc xe rà phá mìn "to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng" thì lão "lập tức trở nên hùng hổ" ? Vì sao trong khi "trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà" giọng lão lại "rên rỉ đau đớn" ? Vì sao chuyện lão đánh vợ diễn ra thường xuyên và việc lão đánh vợ ở bãi xe tăng hỏng có phải là ngẫu nhiên không ?
- Thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục của người đàn bà : "không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn". Đây là một thái độ lạ lùng. Phải chăng bà ta bị đòn nhiều đến mức quen rồi, không còn biết đau nữa ? Hay bà ta tăm tối, dốt nát đến mức không còn chút ý thức về quyền sống của mình ? Hay đó là một sự lựa chọn bất đắc dĩ nhưng đã được suy tính kĩ lưỡng, sáng suốt ? Trong hoàn cảnh con đông mà cuộc sống trên mặt nước đầy nhọc nhằn, bất trắc, nỗi lo cơm áo không lúc nào buông tha, liệu bà ta có cách lựa chọn nào tốt hơn không ? Phải chăng tác giả đã dùng hình ảnh bãi xe tăng hỏng như một gợi ý rằng cuộc chiến đấu chống đói nghèo, tăm tối còn gian nan hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm và chừng nào chưa thoát khỏi đói nghèo, chừng đó con người còn phải chung sống với cái xấu, cái ác ?
– Sau khi thấy các biện pháp giáo dục, răn đe người chồng không có kết quả, Đẩu - với tư cách thẩm phán huyện - đã khuyên người vợ nên li hôn để khỏi bị hành hạ, ngược đãi. Anh mời người đàn bà đến công sở để trao đổi về vấn đề này. Có lẽ Đẩu đã tin rằng giải pháp mình chọn cho bà ta là đúng đắn. Nhưng sau buổi nói chuyện thì mọi lí lẽ của anh đều bị người đàn bà chất phác, lam lũ "bác bỏ". Hoá ra lòng tốt của anh là lòng tốt phi thực tế. Anh bảo vệ luật pháp bằng sự thông hiểu sách vở nên trước cuộc sống đích thực anh trở thành kẻ nông nổi, ngây thơ. Người đàn bà hàng chài thất học, quê mùa nhưng thật sâu sắc khi "nhìn suốt cả đời mình" đã khiến "Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển". Có thể anh vừa "ngộ" ra những nghịch lí của đời sống - những nghịch lí con người buộc phải chấp nhận, phải "trút một tiếng thở dài đầy chua chát" : "trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo". Cũng có thể, anh bắt đầu hiểu ra rằng muốn con người thoát khỏi cảnh đau khổ, tăm tối, man rợ cần có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn.
C) Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một cảnh biển thật đẹp đẽ làm lịch (chỉ có phong cảnh). Theo dõi sự kiên nhẫn, công phu của anh suốt tuần lễ lang thang ở bờ biển, nơi có phong cảnh "thật là thơ mộng", đặc biệt, chứng kiến giây phút "hạnh phúc tràn ngập tâm hồn" anh do "cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh" mang lại, có thể nói Phùng là nghệ sĩ đang săn tìm cái Đẹp. Và anh đã thoả mãn với "cái đẹp ngoại cảnh" – đó là hình ảnh con thuyền nhìn từ xa. Nhưng rồi khi chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ Phùng đứng, anh bắt đầu nhận ra một sự thực trần trụi, khắc nghiệt. Cũng như Đẩu, anh hoàn toàn bất ngờ trước thái độ lạ lùng của người đàn bà hàng chài. Anh đã đánh nhau với chồng bà ta để bảo vệ bà ta. Anh tốt bụng, cao thượng nhưng cũng ít thực tế, lại bị định kiến chi phối (Câu hỏi : "Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không ?") nên lúc đầu đã có phản ứng phẫn nộ trước thái độ cam chịu của người đàn bà ("tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá"). Sau đó anh đã dịu đi với câu hỏi tò mò và thông cảm ("Cả đời chị có lúc nào thật vui không ?"), cũng có thể đấy là thái độ hoang mang, hoài nghi khi niềm tin của anh bắt đầu lung lay. Khi nhận ra Đẩu "rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ" cũng là lúc nghệ sĩ Phùng "ngộ ra" mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
Câu hỏi 2
Nguyên nhân trực tiếp của tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài là sự tăm tối và thói vũ phu của người đàn ông. Nhưng nguyên nhân sâu xa là tình trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh k** dài gây ra tâm lí bế tắc, u uất.
Hậu quả của tình trạng bạo lực trong gia đình cậu bé Phác là nỗi đau khổ nặng nề mà người mẹ và những đứa con phải gánh chịu. Người mẹ không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị giày vò về tinh thần vì bà luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương. Dù bà hết sức che chắn (xin chồng đừng đánh mình trên thuyền, trước mặt con cái) nhưng rồi những đứa con vẫn biết sự thật khiến bà "vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã". Đứa con - cậu bé Phác - vì yêu mẹ, thương mẹ mà thành căm ghét bố. Nó xông vào đánh bố để bảo vệ mẹ và như vậy niềm tin trong trẻo của tuổi thơ đã bị rạn vỡ.
Nói về tệ nạn này, Nguyễn Minh Châu không chỉ lên án thói vũ phu, báo động về tình trạng bạo lực mà còn ca ngợi vẻ đẹp của tình mẫu tử, lên tiếng bảo vệ khát vọng được sống trong yêu thương, yên bình của trẻ em. Con mắt nhân đạo của nhà văn còn thể hiện ở nỗi lo âu đầy trách nhiệm : cậu bé sẽ thành người thế nào nếu môi trường sống không được thay đổi tích cực ?
Câu hỏi 3
Thói vũ phu của người đàn ông hàng chài được tác giả đặt dưới những sự phán xét rất khác nhau : Đẩu nhìn dưới góc độ luật pháp, Phùng nhìn dưới góc độ "lí lịch, thành phần", Phác nhìn bằng con mắt trẻ thơ thơ ngây, thương mẹ và căm ghét bố. Người đàn bà : thương xót và thấu hiểu. Đây là cách Nguyễn Minh Châu đối thoại với bạn đọc : đưa con người vào cái khung đời sống nhiều chiều, dân chủ hoá mối quan hệ giữa nhà văn và công chúng, khơi gợi, nêu vấn đề để bàn bạc chứ không áp đặt chân lí cho công chúng.
Câu hỏi 4
Ấn tượng của Phùng tưởng "lạ lùng" nhưng hoàn toàn hợp lô gích. Thứ nhất, nó giống như một sự ám ảnh sâu sắc đối với người nghệ sĩ. Phùng sẽ nhìn bức ảnh lịch qua sự ám ảnh đó chứ không nhìn bằng con mắt khách quan. Thứ hai, "mỗi lần ngắm kĩ" tức là anh đang sống lại kỉ niệm, màn sương màu hồng hồng anh đã bắt gặp trong niềm hân hoan phát hiện ra vẻ đẹp nên thơ nơi bờ biển ấy. Còn "nếu nhìn lâu hơn" anh sẽ thấy "người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh... hoà lẫn trong đám đông". Phải chăng đây là cái nhìn sâu sắc của nghệ thuật, là lời kêu gọi của Nguyễn Minh Châu : hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật với hiện thực ! Nếu nghệ sĩ mang trái tim có tình yêu sâu nặng với con người, anh ta cần phải trung thực, dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực, trước hết phải nhìn vào số phận con người.
Câu hỏi 5
Qua sự đối lập giữa "cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh" với hiện thực nhọc nhằn, cay cực của những người dân chài, chắc chắn người đọc cũng như nhân vật phóng viên Phùng trong truyện đều mong muốn nghệ thuật phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Muốn vậy, nghệ sĩ không thể nhìn cuộc đời bằng con mắt đơn giản, dễ dãi, phải có tấm lòng, có can đảm và biết trăn trở về con người. Chiếc thuyền ngoài xa thì nhìn rất đẹp nhưng khi nó ở gần, khi cuộc sống trần trụi phơi bày chẳng có chút gì thi vị như người phóng viên đã cảm nhận trước đó. Rất nhiều nhan đề tác phẩm của Nguyễn Minh Châu có ý nghĩa biểu tượng và là sự gợi mở chủ đề (Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê, Bức tranh, Một lần đối chứng, Mảnh đất yêu,...).
Hiện có nhiều quan niệm khác nhau về chức năng của nghệ thuật nói chung, của văn học nói riêng. Căn cứ trên câu chuyện được kể, GV gợi ý để HS tiếp cận tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Theo đó, nhấn mạnh vào mối quan hệ khăng khít giữa nghệ thuật với đời sống, vào yêu cầu hiểu biết và bản lĩnh trung thực của nghệ sĩ. Chủ nghĩa nhân đạo trong nghệ thuật không thể xa lạ với số phận cụ thể của con người. Nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa giống như một gợi ý về khoảng cách, về cự li nhìn ngắm đời sống mà người nghệ sĩ cần coi trọng.
Câu hỏi 6
Một tác phẩm có thể có nhiều sắc giọng nhưng bao giờ cũng nổi trội một vài sắc giọng chủ đạo. Chiếc thuyền ngoài xa xoay quanh tình huống tự nhận thức, nghĩa là đi từ lầm lẫn, ngộ nhận đến hiểu biết, "giác ngộ" nên sắc thái giọng điệu luôn thay đổi theo diễn tiến tình tiết khá giàu kịch tính : có lúc say sưa hùng biện, lúc hài hước tự trào, lúc khách quan tiết chế, lúc trầm lắng suy tư. Có lẽ sắc thái suy tư, chiêm nghiệm, suy tư – triết lí nổi bật hơn cả với những câu miêu tả giàu chất trữ tình, nhịp chậm, ngữ điệu trầm, những so sánh mở ra trường liên tưởng nhiều lo âu day dứt hơn là thanh thản nhẹ nhõm. Ví dụ :
– "Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn".
– "Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng".
– "Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt và cái thằng nhỏ, lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt".
– "Khoảnh khắc sau, bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ. Giữa tiếng sóng ngoài khơi dội những tiếng kêu ồ ồ vào cõi im lặng, chỉ có tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng, trên tay thằng nhỏ vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi đưa mắt ngơ ngác nhìn ra một quãng bờ phá vừa ban nãy chiếc thuyền đậu".
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top