chế độ tự trị
Trình bày những đkiện ktế xhội của sự ra đời và tồn tại chế độ tự trị tại các thành thị ở phon kiến tây âu:
a) Điều kiện kinh tế, xã hội
Điều kiện kinh tế
Đến thế kỷ thứ 11, nền kinh tế Châu Au phát triển vượt bậc, chủ yếu là trong lĩnh vực thủ công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp.
- Trong thủ công nghiệp, nhiều ngành nghề mới ra đời với trình độ kỹ thuật ngày càng hoàn thiện (luyện kim, khai mỏ, chế tạo vũ khí, thuộc da, dệt len, dạ…).
- Trong nông nghiệp, do có nhiều tiến bộ, như: nông cụ được cải tiến, đồ sắt được sử dụng phổ biến trong xã hội, diện tích canh tác không ngừng được mở rộng… làm cho sản lượng và số lượng nông sản ngày càng nhiều đa dạng.
- Thương nghiệp do đó cũng phát triển. do thợ thủ công và nông dân đều tạo ra những sản phẩm dư thừa, họ phải nhờ tới lực lượng thương nhân. Nhờ vậy, người thợ thủ công không cần sản xuất nông nghiệp cũng có cái để ăn và người nông dân không cần sản xuất thủ công nghiệp cũng có dụng cụ, đồ dùng … Mặt khác, nông nghiệp còn là nơi cung cấp nguyên vật liệu cho ngành thủ công nghiệp. Điều này tạo điều kiện cho các thợ thủ công có cơ hội thoát ly hoàn toàn khỏi nông nghiệp để chuyên môn hoá ngành nghề của mình.
Sự lao động trong xã hội lại một lần nữa được phân công, làm cho kinh tế trong xã hội khôi phục sau cuộc khủng hoảng của chế độ chiếm hữu nô lệ. Chính sự phân công lao động này là điều kiện quan trọng để dẫn đến sự ra đời của các thành thị ở Tây Au trong thời kỳ trung đại.
Điều kiện xã hội
Thế nhưng, nếu chỉ có các điều kiện kinh tế như trên thì vẫn chưa dẫn đến sự ra đời của thành thị ở Tây Au; mà bên cạnh các điều kiện kinh tế đó, còn có sự tác động của điều kiện xã hội.
· Sự đối kháng giai cấp
Một trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành các thành thị tại Tây Au là sự đối kháng giai cấp xảy ra giữa nông nô, cũng như giữa những người nông dân lệ thuộc khác với các lãnh chúa phong kiến.
- Những người nông nô có tay nghề thủ công chuyên nghiệp vì muốn thoát khỏi sự bóc lột của lãnh chúa phong kiến, nên họ đã tìm đủ mọi cách để trốn khỏi các trang trại phong kiến.
Sau khi trốn khỏi trang trại và họ tìm đến những chổ thuận lợi cho việc sản xuất và mua bán của mình, như những bến đò, hải cảng, đường giao thông quan trọng; hoặc gần những lâu đài, thành quách của lãnh chúa phong kiến, cũng như những nơi gần nhà thờ của đạo Cơ đốc (do ở đây có các thành quách kiên cố, có thể bảo vệ tài sản và tính mạng của họ). Và khi đến vùng đất của lãnh chúa mới để thựchiện kinh doanh thủ công nghiệp, người nông nô buộc phải đặt mình dưới sự bảo hộ của lãnh chúa mới, chịu sự thống trị về mặt hành chính và tư pháp của những lãnh chúa này, mà người cai quản là do chính các lãnh chúa phong kiến hoặc các quan viên được lãnh chúa cử đến. Họ còn khôn khéo đặt ra nhiều danh mục phải đóng góp cho thành thị để vơ vét tiền của, tiếp tục bóc lột thị dân.
Những người làm nghề thủ công này tập hợp tại một địa phương và dân số dần dần tăng lên. Người tới lui mua bán, trao đổi với họ ngày càng nhiều. Vì vậy mà những thành phố công thương nghiệp tập trung dần dần xuất hiện.
- Đối với nông nô, do muốn thoát khỏi sự bóc lột của lãnh chúa phong kiến nên họ rời bỏ ruộng đất, đến vùng thành thị để sinh sống và trở thành cư dân của thành thị, làm cho dân cư thành thị ngày càng phát triển. Do đó, thành thị cũng ngày càng phát triển theo.
- Đối với lãnh chúa phong kiến và những giáo sĩ thuộc gíao hội Cơ đốc giáo, do thấy công thương nghiệp ở thành thị có thể mang đến nguồn thu nhập cho mình, nên họ thường kêu gọi những người nông nô bỏ trốn đến vùng đất của họ để sinh sống dưới sự thống trị của họ.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của thành thị còn làm cho chất lượng của đời sống của lãnh chúa càng nâng cao, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt của lãnh chúa.
- Nhưng vì đất đai thành thị thuộc sở hữu của chúa đất phong kiến, nên thị dân phải thực hiện nhiều nghĩa vụ cho lãnh chúa, để hạn chế sự phụ thuộc này họ cũng lập ra những hội nghề nghiệp nhưng không có hiệu quả, dần dần mâu thuẫn thị dân, dân nghèo và lãnh chúa ngày càng trở nên sâu sắc, các phong trào đấu tranh đã xuất hiện từ thế kỷ 11, sôi nổi nhất là từ thế kỷ 12, 13. Chế độ tự quản của thành phố giành được từ 2 con đường chính:
- Thứ nhất: 1 số thành phố giàu có nộp 1 số tiền lớn cho lãnh chúa để có quyền tự trị.
- Thứ 2: một số thành phố có cư dân đoàn kết tiến hành khởi nghĩa vũ trang.
Sau khi giành được quyền tự trị, cư dân thành thị lập ra hội đồng thành phố và có thể coi đây là nền cộng hòa và gọi cộng hòa thành thị hay là cộng hòa thành phố.
- Ý nghĩa: nền cộng hòa thành thị đã thúc đẩy kinh tế phát triển, thay đổi tình trạng xã hội, tăng cường đấu tranh giai cấp, tác động đến nông thôn, phong kiến, giải phóng nống nô, thúc đẩy quá trình phong kiến sang tập quyền.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top