chanqua1

Sự thật về “Hồ không đáy” ở Serbia

Nhiều thế kỷ nay, hồ Sobolkho ở Siberia đã gắn liền với hàng trăm truyền thuyết bí ẩn và không kể xiết những đồn thổi “tai tiếng”: là thủ phạm của tất cả những vụ mất tích, là nơi tề tựu của hồn ma chết oan... Và đặc biệt, chưa bao giờ người ta đo được đáy hồ.

Dân trong vùng Buryatia, bất kể đàn ông hay đàn bà, người già hay trẻ nhỏ, tuyệt nhiên không ai dám bén mảng quanh khu vực Hồ Sobolkho. Chẳng những người ta e ngại về bí mật “không đáy” mà còn khiếp sợ bởi hàng trăm câu chuyện hư thực được thêu dệt quanh đây.

Nếu chẳng may có 1 vụ mất tích bí ẩn của người hay gia súc thì nhất định, thủ phạm chỉ có thể là Sobolkho - dân làng luôn quả quyết như vậy cho dù chưa bao giờ kéo được xác từ đáy hồ. Rùng rợn hơn, những kẻ xấu số bị hồ nuốt chửng có khi lại nổi xác ở sông ngòi khác tận đâu đâu - một bí ẩn mà mấy trăm năm nay chưa ai có thể giải thích.

Đấy là chưa kể hàng đêm mặt hồ luôn phát ra ánh sáng màu hồng rực rỡ, được khẳng định là hồn ma bóng quế của những kẻ chết đuối đòi giải oan.

Từ thời Trung cổ, Sobolkho đã nổi danh là cái hố tham lam nuốt chửng người. Theo thống kê 10 năm trở lại đây, khoảng 300 con ngựa và 500 con bò đã “chui” xuống lòng hồ. Riêng mùa lũ năm 1999-2000 thì đã có 25 người mất mạng. Mấy năm qua số người chết đuối ở vùng nước này giảm nhiều, phần lớn là do mọi người luôn tránh xa nó như 1 bệnh dịch, và trẻ con thì tuyệt nhiên bị cấm bén mảng tới gần.

Dù vậy, bí ẩn mấy chục đời của Sobolkho chẳng đủ sức làm nản lòng giới khoa học. Theo dự đoán của các nhà nghiên cứu Viện hàn lâm khoa học Nga (RAS), rất có thể Sobolkho là một điển hình của hiện tượng vùng địa lý khai thông tự nhiên, được liên kết với cấu trúc đặc biệt của lớp vỏ Trái đất trên khu vực này.

Bí ẩn “Hồ không đáy” càng thu hút sự tò mò của các nhà khoa học RAS. Vậy là cuối tháng 10/2006, họ quyết định tổ chức chuyến thám hiểm tới Sobolkho để tìm ra độ sâu của lòng hồ.

Nhìn thoáng qua, có thể ước lượng mặt hồ có bán kính rộng chừng 30 mét. Làn nước tối đen, lạnh buốt, và xung quanh gần như không hiện diện sự sống cây cỏ. RAS bắt đầu tiến hành thăm dò 1 vài điểm lân cận mép hồ. Kết quả cho độ sâu lớn nhất là 13 mét - một con số quá ấn tượng so với diện tích mặt nước khiêm tốn như thế này. Tuy nhiên ở một số nơi xa hơn, thiết bị đo không làm sao chạm tới mặt đáy. Chính điều này các nhà nghiên cứu cũng không thể giải thích tại sao.

RAS không phải là những người đầu tiên đòi thử sức với lòng hồ. Năm 1995, cũng đã có một nhóm các thợ lặn nghiệp dư tới đây với hy vọng vén bức màn bí mật. Không đếm được hết con số những lần đo, nhưng cuối cùng mọi nỗ lực đều chìm vào vô vọng.

Thậm chí nhiều tay thợ lặn cừ khôi ngày đó còn bỏ mạng oan. Kỳ lạ nhất phải kể đến cái chết của 1 tay lặn dũng cảm trong đoàn, anh này lặn xuống quá sâu và mắc kẹt trong vùng nước xoáy. Bạn bè tìm mọi cách mà không vớt được xác, mấy ngày sau lại đột nhiên phát hiện nó trôi dạt gần bờ sông Vitim nằm cách hồ Sobolkho vài trăm mét.

Nhưng cũng chính từ đây người ta bắt đầu mường tượng ra sự thật về Sobolkho: nhất định có một con đường giấu mặt dưới nước làm nhiệm vụ kết nối lòng hồ tới sông Vitim.

Đã có người ước chừng độ sâu của hồ vào khoảng 250 mét, hoặc cũng có thể hơn. Nhưng dân vùng Buryatia thì luôn mang trong mình một niềm tin vĩnh cửu: hồ Sobolkho không có đáy.

í mật chưa giải mã của vùng Hồ lớn

Nhân viên rada nhìn thấy trên màn hình dấu của máy bay và dấu của vật thể không xác định từ từ hoà nhập thành một. Hai tháng sau, chiếc máy bay gần như không bị hư hỏng gì đang nằm dưới đáy biển Bắc được phát hiện...

Bí mật chưa giải mã

Mùa thu 2006, Adam Himenes, đại diện của “Great lakes Dive company” (Hãng lặn vùng Hồ lớn) - đang thực hiện thiết kế xây dựng các hồ chứa nước trên biên giới Mỹ và Canada, đã chuyển cho các phóng viên bức ảnh của chiếc máy bay tiêm kích nằm dưới đáy hồ.

Theo lời ông, máy bay đã được phát hiện từ năm 2005 nhưng hãng này chưa đưa ra thông báo vì muốn chắc chắn rằng, đó chính là chiếc tiêm kích F-89C huyền thoại đã biến mất từ nửa thế kỷ trước đây...

... Chiều ngày 23/11/1953, rada của lực lượng phòng không Mỹ đã bắt được mục tiêu lạ đang chuyển động với vận tốc gần 800 km/giờ phía trên hồ Superior - hồ chia cắt Mỹ và Canada.

Chiếc tiêm kích có thể bay trong mọi thời tiết F-89C, do trung úy Felix Moncla điều khiển, đã cất cánh từ căn cứ không quân Kinross ở bang Michigan để chặn bắt mục tiêu này. Ngay lập tức, một số trạm rada mặt đất cùng theo dõi cuộc rượt đuổi trên.

Một trong số nhân viên phục vụ ở trạm rada Batl- Kric, bang Michigan kể lại: Lúc đầu, phi công thông báo không nhìn thấy mục tiêu. Nhưng, trên màn hình rada lại thấy rõ dấu của một vật thể lạ. Khi tiếp cận gần hơn, phi công thông báo: “Đã nhìn thấy mục tiêu, tôi muốn tiếp cận gần hơn”.

Lời nói của phi công này bị tạp âm át đi. Cứ mỗi lúc Moncla định nói gì đó, tiếng của anh lại trở nên líu nhíu, khó nghe hơn. Chỉ khi phi công chuyển lời về mặt đất thì tạp âm mới xuất hiện. Khi dấu máy bay hoà nhập với dấu của vật thể, rồi sau đó trở lại tĩnh lặng. Phải chăng tiếng ồn đó là những lời nói sau cùng của viên phi công?.

Cố xác định xem máy bay tiêm kích có tiếp cận quá gần với mục tiêu đến nỗi dấu vết của chúng hoà nhập thành một hay không, nhân viên rada đã kiểm tra các chỉ số của hệ thống “ta- địch”. Hệ thống trên máy bay của Moncla không phản ứng lại các câu hỏi từ mặt đất. Sau đó, dấu này bay về phía đông - bắc và vượt ra ngoài phạm vi hoạt động của rada. Các trạm rada khác cùng theo dõi cũng cho biết như vậy.

Sau này, các máy bay tiêm kích do Hovard Nordec và Wiliam Mingenbakh lái, đã xuất kích từ căn cứ không quân Kinross để tìm kiếm xác chiếc máy bay này. Sau khi lượn vài vòng trên hồ, họ bay trở về. Đột nhiên Mingenbakh nghe thấy trong tai nghe giọng nói của Felix Moncla!

40 phút sau, khi trên màn hình rada mặt đất chỉ còn lại dấu của vật thể bay không xác định. Dấu về của hai chiếc máy bay có nhiệm vụ đi tìm kiếm cũng biến mất. Khi đó, những tiếng nói tương tự lại tiếp tục vang lên.

Trong báo cáo được giải mật của Mingenbakh có nói nhận ra giọng nói này, nhưng họ chỉ nghe được phần giữa của câu rồi liên lạc bị đứt quãng. Bởi vậy không hiểu được ý nghĩa của thông điệp. Trung uý Mingenbakh rất quen biết với trung uý Felix Moncla nên hoàn toàn có thể tin được báo cáo của anh.

 

Giới quân sự đã cố che dấu sự thật về vụ việc này. Ngày hôm sau, sĩ quan thông tin thông báo rằng vật thể bay không xác định chính là chiếc máy bay C-47 của không quân Canada, và phi hành đoàn của Moncla, sau khi nhận ra vật thể bay, đã bị tai nạn “bởi những nguyên nhân không rõ ràng” khi bay trở về căn cứ. Nhưng, chính phủ Canada đã khẳng định họ không là nguyên nhân gây ra vụ tai nạn.

Quả thật, lúc đó máy bay C- 47 có bay trên hồ, nhưng phi công của nó không nhìn thấy máy bay của Mỹ dù thời tiết khi đó rất đẹp. Thậm chí anh ta cũng không nghe thấy tiếng nói của Pheliks, người đã hỏi qua radio: Ai đang bay trên không trung? Jerald Phosberg, viên phi công lái chiếc máy bay C- 47, đã xác nhận rằng, nhân viên không lưu có hỏi anh ta nhìn thấy máy bay của Mỹ hay không?

Nhưng, đó là sau khi dấu vết chiếc máy bay tiêm kích đã biến mất khỏi màn hình của anh. Anh ta tin chắc mình không thể bay chệch hướng ra khỏi lãnh thổ Mỹ .

Điều đáng quan tâm rằng, tấm bản đồ vẽ đường bay của những chiếc máy bay đã bị rút ra khỏi hồ sơ của không quân Mỹ. Và cũng không rõ những đường bay này có cắt nhau hay không. Sau khi lực lượng không quân Mỹ và Bộ quốc phòng Canada giải mật hồ sơ vụ này, việc điều tra không tiến triển thêm được một bước nào.

Và thật tình cờ, những chuyên gia của “Hãng lặn vùng hồ lớn” đã phát hiện được "di hài" của chiếc máy bay trong khi tiến hành công việc bình thường ở đáy hồ.

Những bức ảnh nhận được là nhờ bộ định vị bằng sóng âm “Sark-2” mới nhất. Các kỹ sư của hãng đã đưa ra kết luận: máy bay gần như không bị hư hỏng, chỉ có 1 cánh và đuôi máy bay bị gãy. Cho dù khi va chạm trên không hay rơi xuống nước, thường thì các máy bay tiêm kích phản lực bị vỡ tan thành những mảnh vụn. Mọi người đều có cảm giác rằng, chiếc tiêm kích dường như đã được đặt cẩn thận trên mặt nước và bị chìm. Thả que thăm có gắn camera xuống đáy hồ, Adam và các đồng nghiệp có thể đọc được số hiệu trên đuôi chiếc tiêm kích. Đây chính là chiếc máy bay của Felix Moncla.

Himenes kể: “Khi cố tìm chiếc cánh máy bay bị gãy, chúng tôi bắt đầu rà soát vùng đáy gần chỗ máy bay. Cách thân máy bay gần 70 mét chúng tôi thấy có vật thể gì đó hính tròn hay hình bầu dục ăn sâu xuống đáy. Không thể xem xét được cụ thể hơn, một nhân viên sực nhớ rằng F-89C có thể mang tên lửa loại Genie với đầu đạn hạt nhân.

Dù mãi sau này, biến thể của F-89 mới có trang bị hạt nhân, chúng tôi vẫn quyết định kiểm tra giả thuyết này. Nhưng, khi thả ống đếm Geiger xuống đó, chúng tôi không phát hiện được nồng độ phóng xạ”.

Que thăm có gắn camera có thể xem xét được rộng hơn. Xét theo ánh sáng hắt ra thì vật thể này có thể bằng kim loại. Dưới đáy hồ, phía sau nó là một rãnh kéo dài, tựa như vật này đã bị đâm xuống cát với tốc độ lớn.

“Có thể, những gì mà chúng tôi nhìn thấy không lớn hơn đỉnh núi băng trôi, và phần chủ yếu của nó lại bị vùi lấp dưới cát”. Ở một phía của vật có vết khía giống như bị cánh máy bay đập vào.

 

Có thể vật thể này va chạm với máy bay ở trên không, cắt rời cánh của nó và rơi cách nó không xa hay không? Adam đã bác bỏ giả thuyết này bởi cho rằng, khi va chạm trên không và đập xuống nước máy bay sẽ bị hư hỏng nghiêm trọng. Có lẽ vật thể này chỉ tình cờ nằm ở gần đó ở dưới đáy?

Các nhà nghiên cứu không thể nhìn vào bên trong máy bay và xem có xác chết ở trong đó không, bởi nắp ca bin đã bị đóng. Rà soát 10 dặm vuông xung quanh điểm xảy ra tai nạn và 28 lần qua lại phía trên máy bay, họ đã không thể tìm ra được chiếc cánh đã bị mất và phần đuôi máy bay.

Himenes và các đồng nghiệp của ông chuẩn bị trở lại nơi xảy ra tai nạn cùng các phóng viên và tiếp tục nghiên cứu, nhưng chính phủ Canada đã can thiệp vào công việc của họ.

Phía Canada đòi phải đưa ra toạ độ chính xác của máy bay và các nhà nghiên cứu chỉ được tiến hành dưới sự giám sát của các tàu bảo vệ bờ biển hoặc đại diện chính quyền trên tàu. Chẳng bao lâu sau, “Hãng lặn vùng Hồ lớn” bị tước giấy phép tiến hành các công việc dưới nước.

Trường hợp xảy ra đêm mùng 8/9/1970, khi chiếc máy bay quân sự bị mất tích trên bầu trời nước Anh, có thể sẽ giúp làm sáng tỏ bí mật “cái chết” của chiếc tiêm kích F-89C.

Không lâu trước khi chiếc máy bay quân sự bị mất tích, nhân viên rada ở Stacxon - Wolde đã nhận được thông điệp kỳ lạ của phi công lái chiếc máy bay này- đại uý Sheffner: “Tôi đã nhìn thấy vật thể không xác định nào đó, không rõ đường nét, có màu lam nhạt… Nó sáng rực rỡ… Tôi đang ở gần nó. Có thể nó cách tôi khoảng 600 fut (đơn vị đo chiều dài, 1 fut bằng 30,5 cm).

Nó có hình nón, sáng chói. Có thể loá cả mắt nếu nhìn vào nó chỉ hai giây thôi… Ôi, chờ chút…còn gì đó nữa ở đây? Vật này giống như quả bóng đá lớn được làm bằng thuỷ tinh… Có thể, có mối quan hệ nào đó giữa hình nón với vật này. Ở đó có màn sương màu vàng… Một giây… Nó đổi hướng. Nhằm thẳng vào tôi. Tôi đang tránh…Tôi có thể…”.

Liên lạc bị cắt đứt. Đúng vào tích tắc đó, nhân viên rada nhìn thấy trên màn hình dấu của máy bay và dấu của vật thể không xác định từ từ hoà nhập thành một.

Hai tháng sau, người ta phát hiện chiếc máy bay gần như không bị hư hỏng gì đang nằm dưới đáy biển Bắc. Nắp ca bin vẫn đóng. Dây đai và ghế vẫn còn bên trong máy bay - nhưng không có dấu vết nào của viên phi công.

Điều đó tạo cảm giác rằng anh ta đã biến mất mà không kịp cởi dây đai. Nhưng trong nước biển lạnh, thi thể của phi công không thể tan biến trong thời gian ngắn như thế.

Những sự ra đi bí ẩn

Năm 1955. Máy bay vận tải của không quân Mỹ với 26 hành khách và các thành viên phi hành đoàn bay gần đến bờ biển nước Mỹ. Nhân viên rada trên mặt đất bỗng phát hiện thấy dấu hiệu một vật thể thứ hai trên màn hình. Vật thể bay không xác định bay với tốc độ lớn đã đột ngột lao vào chiếc máy bay. Hai dấu vết hoà thành một với tốc độ khủng khiếp.

Cuộc tìm kiếm trên mặt nước trong khu vực tai nạn đã không phát hiện được một vết dầu nào, chỉ có chiếc cặp của một vị tướng đi trên máy bay nổi lềnh bềnh.

Năm 1959. Chiếc tiêm kích F-106 của lực lượng không quân Mỹ, xuất kích để đánh chặn vật thể bay không xác định cạnh bờ biển nước Nhật, đã bị mất tích.

Phi công đã thông báo về mặt đất rằng anh nhìn thấy vật thể hình tròn bằng kim loại có ca bin ở phía trên. Anh kêu lên rằng anh đã phóng hai quả tên lửa, khi bay đến vật thể đó và chúng đã nổ tung tựa như va vào vật cản vô hình.

Tiếp đó, phi công lại thông báo vật thể này đã phát ra tia nào đó và đuổi theo máy bay của anh. Các nhân viên rada ở các trạm đã nhìn thấy hai dấu hiệu trên màn hình nhập thành một khối như thế nào, rồi tất cả biến mất. Không hề tìm thấy vết dầu hay mảnh vỡ nào.

Năm 1960. Máy bay F-101 bay trở về căn cứ không quân Edvards, bang California, sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đột nhiên, trên màn hình rada xuất hiện dấu hiệu lạ. Nó hoà vào dấu hiệu của máy bay và biến mất. Trường hợp này kết thúc khá may mắn. Ngay ngày hôm sau, dường như chẳng có chuyện gì xảy ra, chiếc máy bay lại hạ cánh xuống căn cứ.

Theo viên thiếu tá điều khiển chiếc máy bay này, chiếc máy bay tiêm kích cùng với ông đã bị đưa lên khoang của vật thể bay khổng lồ, ở đó họ đã trải qua các nghiên cứu khác nhau.

Năm 1972. Ba chiếc máy bay tiêm kích thực hiện chuyến bay ở gần Klovis, bang New Mexico. Các rada mặt đất đã phát hiện được vật thể bay không xác định, còn phi hành đoàn của chiếc máy bay bay gần đó đã nhìn thấy bằng mắt thường.

Các máy bay tiêm kích đuổi theo vật này. Vật thể lạ tăng tốc đột ngột rồi bay vào một đám mây lớn. Các máy bay tiêm kích bám theo cũng bay vào đó và không thấy bay ra ở phía bên kia đám mây.

Nhân viên rada nhìn thấy 4 dấu hiệu hoà thành một khối. Các phi công quan sát cuộc truy đuổi nhận thấy chỉ có vật thể không xác định bay ra từ phía bên kia đám mây và biến mất. Trên mặt đất, không tìm thấy một mảnh vỡ nào.

Năm 1974. Từ căn cứ không quân Kirtland, bang New Mexico, một chiếc máy bay cất cánh để diễn tập ban đêm. Khi nó đã ở trên không trung, trên màn hình rada xuất hiện một vật thể bay với tốc độ 680 km/giờ.

Vật thể này thay đổi hướng, lao thẳng vào máy bay. Dấu hiệu của máy bay và vật thể hoà vào nhau, sau đó dấu hiệu còn lại lảng ra xa với tốc độ lớn. Và người ta cũng không tìm được mảnh vỡ nào trên mặt đất... 

Cuốn sách cổ bí ẩn

Từ đầu thế kỷ XX, những nhà thông thái vẫn chưa "phiên dịch" được bản "Mật mã Voynich" mà họ cho là có từ thời Trung Cổ. Ngay cả các chuyên gia về mật mã cho đến nay cũng bó tay.

Nhìn bên ngoài, quyển sách chẳng có gì đặc biệt. Không có nhan đề và cũng chẳng có tên tác giả, cái bìa không trang trí, héo úa vì thời gian, chỉ được kết lại bằng dây da. Năm 1912, tại thư viện của biệt thự Mondragone, một trường học dòng Jésuite gần Rome, viên quản thư Wilfrid Voynich nhận ra quyển sách giữa chồng bản thảo mà các thầy tu định bán cho ông để có tiền trùng tu lại ngôi trường.

Ngay từ các trang đầu tiên, một thế giới cây cỏ lạ kỳ gợi ông nhớ đến những quyển dược điển cổ nói về các dược tính của thảo mộc. Nhưng khi nhìn kỹ thì ông chẳng nhận ra loại cây nào cả. Những bộ rễ to tướng làm biến dạng cây cối, các vòm lá cuốn vào nhau tựa hồ như một tay làm vườn ranh ma nào đấy đã thử nghiệm ghép cây hay gây đột biến trước thời đại.

Voynich cũng tìm thấy một chương nói về thiên văn - chiêm tinh - vũ trụ học với các vũ trụ tinh tú, mặt trời và mặt trăng, một mặt hoàng đạo khá lạ lùng, những nàng tiên với cái bụng to và gương mặt vô hồn tắm trong các hồ nước xanh được nối với nhau bằng những cái ống tựa như sự sắp xếp bên trong cơ thể một sinh vật...

Bản văn cũng chẳng giúp được gì: nó được viết bằng mực nâu theo một thứ ngôn ngữ lạ. Có vẻ như bản văn được viết từ trái sang phải và từ trên xuống dưới. Có những chữ giống như mẫu tự Latinh, có chữ lại giống chữ số Arập và các ký hiệu lạ. Có những khoảng trống nhưng không hề có dấu ngắt. Wilfrid Voynich tin rằng đấy là một bản mật mã và ông đã mua nó, hy vọng sẽ biến nó thành vàng.

Ông dự tính như thế là dựa vào một lá thư viết bằng tiếng Latinh từ năm 1666 đính kèm theo bản văn. Tác giả là một người tên Johannes Marcus Marci, đã gửi bản văn cho Athanasius Kircher, một thầy tu dòng Tên, người đã từng giải mã các bản văn tượng hình của Ai Cập. Có thể đây là người lý tưởng để “phá vỡ” mật mã sử dụng trong bản văn mà Marci cho là nó thuộc về Hoàng đế Đức Rodolphe II và cũng có thể do Roger Bacon (thầy tu dòng Francisco) thảo ra. Ông này là một trong các nhân vật khoa học tầm cỡ của thời Trung cổ.

Có quá nhiều cái “có thể”, nhưng Voynich không có được tính chặt chẽ của một sử gia. Và dường như ông tin chắc rằng Bacon chính là tác giả của bản văn bởi vì thầy tu người Anh này có đủ lý do và phương tiện để mã hóa. Ông là người ủng hộ phương pháp thực nghiệm khoa học và bài xích chủ nghĩa kinh viện, đã từng bị giam trong 25 năm vì tư tưởng của mình, và Voynich tin rằng Bacon đã sử dụng mật mã cho tác phẩm cuối cùng của mình mà chỉ mình ông hiểu được.

Tuy nhiên, giả thuyết Bacon dù rất hấp dẫn nhưng vẫn chỉ là giả thuyết. Voynich cần phải có một sự xác nhận khách quan. Mà có bằng chứng nào tốt hơn là bản giải mã chứ? Năm 1914, Voynich chuyển sang cư ngụ tại New York và cho photo bản văn cổ đó thành nhiều bản để gửi cho các nhà thông thái. Thật lạ lùng là những cố gắng giải mã tiếp theo đó chỉ càng làm u ám hơn màn bí ẩn bao quanh bản văn cổ.

Năm 1919, đến lượt Giáo sư triết học William Romaine Newbold ở Đại học Pennsylvania nhận được bản copy của 3 trang bản văn. Trang cuối cùng chỉ có 2 dòng rưỡi nhưng lại rất đặc biệt vì một phần được viết theo “mẫu tự Voynich”, một phần giống như mẫu tự Latinh. Vốn chẳng có mấy kinh nghiệm trong việc giải mã nên Newbold ngỡ rằng đã nắm được chìa khóa và lao vào một cuộc phiêu lưu trí tuệ mệt phờ. Vị giáo sư này cũng tin rằng bản văn là của Bacon và thầy tu này đã đưa vào đấy rất nhiều phương pháp mã hóa. Thế là ông soạn ra một hệ thống giải mã cực kỳ phức tạp và sau 1 năm miệt mài, Newbold đã điện thoại cho Voynich để thông báo kết quả: tác giả bản văn đúng là Roger Bacon và bản văn đó đã làm một cuộc cách mạng trong lịch sử khoa học. Theo Newbold, Bacon đã chế ra được chiếc kính viễn vọng đầu tiên - đi trước Galilée và Newton nhiều thế kỷ - và đã quan sát được thiên hà Andromède. Hơn nữa, Bacon cũng đã chế được kính hiển vi.

Bản văn còn cho thấy các nghiên cứu về cơ quan sinh dục, bởi vì nhiều hình minh họa bí ẩn không gì khác hơn là các hình vẽ buồng trứng, tinh trùng và cấu trúc bên trong của tinh hoàn... Phấn khởi vì những kết quả phi thường đó, Voynich ước tính giá trị của bản văn cổ khoảng 160.000USD. Nhưng Newbold qua đời vào năm 1926 và Voynich vào năm 1930, cả hai vẫn còn tin tưởng vào giả thuyết tác giả là Bacon.

Vào năm 1931, Giáo sư John Manly ở Đại học Chicago chứng minh rằng kỹ thuật của Newbold hoàn toàn tùy thuộc vào cách suy diễn chủ quan nên người ta có thể thu được kết quả mà người ta muốn. Nói rõ hơn là Newbold đã đọc được trong bản văn của Voynich những gì mà ông ta mong muốn thấy.

Qua năm tháng, nhiều tay giải mã nghiệp dư khác cũng cố thử vận may. Vào năm 1945, Leonell Strong đưa ra nhận xét rằng tác giả là một người Anh ở thế kỷ XVI, tên là Anthony Ascham, và ông này mô tả một ca sinh nở, đồng thời đưa ra một phương thuốc ngừa thai trích từ cây cỏ. Năm 1978, John Stojko quả quyết rằng bản văn đó là bản sao của nhiều lá thư viết bằng tiếng Ukraina cổ nói về một cuộc nội chiến hay xung đột tại Ukraina. Đến năm 1987, Leo Levitov lại cho rằng bản văn mô tả một nghi lễ của người Cathare.

Từ vài thập niên qua, giả thuyết Bacon đã bị bác bỏ vì tự dạng và cách minh họa cho thấy rằng bản văn đã được viết trong khoảng giữa năm 1450 và 1600, rất lâu sau khi thầy tu người Anh đó qua đời. Thế thì ai là tác giả? Bí ẩn, câu hỏi vẫn chưa có lời đáp.

Sau khi Wilfrid Voynich qua đời, bà vợ Ethel thừa hưởng bản văn cổ nhưng vẫn không bán được theo giá mà chồng bà mong muốn. Trong suốt 30 năm, bản văn đó đã nằm im trong một tủ sắt ngân hàng. Khi Ethel mất năm 1960, cô thư ký của Wilfrid đã bán bản văn đó cho một nhà buôn ở New York là Hans Kraus với giá 24.500USD. Ông này cũng không tìm được người mua nên đến năm 1969 ông đã tặng bản văn cho thư viện của Đại học Yale.

Hiện nay, nó vẫn còn được lưu trữ tại đấy với ký hiệu MS 408, bản thảo Voynich bí ẩn nhất thế giới.

ông tích tổ tiên

Trong khi kỷ nguyên băng hà bao trùm trái đất 30.000 năm trước trong lớp giá băng diệt vong, trong những hang động ở Gibraltar, những người thượng cổ Neanderthal cuối cùng vẫn tìm được nơi ẩn náu để tồn tại thêm 10.000 năm nữa. Những khám phá khảo cổ mới ở châu Âu đã buộc các nhà khoa học phải xem xét lại gốc tích của tổ tiên.

10.000 năm sống sót

Mặc dù đã từng được xem là thuỷ tổ của loài người, giống người Neanderthal sau này được khoa học xem như một ngõ cụt của quá trình tiến hoá, không liên quan gì đến cha ông của chúng ta - giống người thông minh Homo sapiens. Người Neanderthal tồn tại trong những hoá thạch được xác nhận có niên đại chừng 230.000 năm trước, và ở thời phát triển cực thịnh, những thợ săn tiền sử mạnh mẽ, béo lùn này đã đặt dấu chân lang bạt khắp châu Âu ngày nay, sang tận Israel ở phía nam và Uzbekistan ở phía đông.

Còn giống người Homo sapiens tiến hoá từ châu Phi đã tiến vào châu Âu khoảng 40.000 năm trước và dần dần chiếm chỗ của giống người Neanderthal đang trên đà tuyệt diệt.

Nhưng cách đây 2 tháng, các nhà nghiên cứu Anh, Tây Ban Nha và Nhật đã xác định được niên đại của những hòn than từ một bếp lò xưa vùi sâu trong lòng hang động Gorham ở Gibraltar  - một bán đảo ở tây nam châu Âu được Tây Ban Nha nhượng cho Anh từ 1713. Những hòn than tiền sử này nằm chung tầng khai quật mà các nhà khảo cổ trước đó đã đào được nhiều công cụ bằng đá của giống người thượng cổ châu Âu Mousterian vốn là một chi hệ của giống người Neanderthal. Những mẩu than này có niên đại khoảng 24.000 năm trước, trong khi các chứng cớ khoa học trước đó đều kết luận giống người Neanderthal đã tuyệt diệt từ trước đó cả 10.000 năm. Những thế hệ Neanderthal cuối cùng của 10.000 năm ấy đã đi đâu?

Yêu hay là chết!

Những kết quả nghiên cứu mới công bố đầu tháng 11 này từ những hoá thạch tiền sử phát hiện ở Rumani lại tiếp tục hâm nóng cuộc tranh cãi triền miên về cội nguồn nhân loại. Tại sao giống người Neanderthal lực lưỡng lại dễ dàng bị diệt vong như thế? Nhiều nhà khoa học đã bằng lòng với giả thuyết là chính giống người Homo sapiens khi từ châu Phi đặt chân đến châu Âu đã thảm sát giống người Neanderthal để tranh giành những vùng đất săn bắn và hái lượm trong công cuộc sinh tồn. Giống người thông minh nhưng cũng đầy bản năng hiếu chiến đã tàn sát giống người khoẻ mạnh nhưng hiền hoà?

Nhưng những nghiên cứu mới đăng tải trên nội san Proceedings of the National Academy of Sciences (Biên bản Viện Hàn lâm khoa học Mỹ) lại ủng hộ ý tưởng tình cảm hơn cho rằng giống người Neanderthal cuối cùng đã bị sáp nhập với giống người Homo sapiens qua việc lai giống. Các nhà nghiên cứu Rumani và Mỹ đã xác định được những xương cốt hoá thạch tìm thấy ở động Petera Muierii (Rumani) có niên đại khoảng 30.000 năm trước - giai đoạn mà giống người Neanderthal và Homo sapiens còn song song tồn tại. Trong khi phần lớn hình dạng các bộ xương đều giống con người hiện đại, nhiều chi tiết lại mang đặc điểm của giống người Neanderthal - đặc biệt là hình dáng xương hàm dưới và phía sau hộp sọ.

Nhà nhân chủng học Erik Trinkaus của Đại học Washington thuộc nhóm nghiên cứu này cho biết: "Xương hàm của giống người Neanderthal có những đặc tính giải phẫu học riêng biệt, không liên quan đến việc tiến hoá của xương hàm con người hiện đại khi chuyển từ săn thịt sống sang thịt nấu chín". Những khớp xương vai của những bộ xương người tiền sử ở Rumani cũng chưa phát triển hoàn thiện, không thể nào thực hiện những động tác xoay vòng cánh tay để phóng lao, bắn tên hay ném đá. Theo Trinkaus, những đặc điểm này thấy rõ trong những hoá thạch người Neanderthal và những giống người đầu tiên từ cả triệu năm trước.

Người Neanderthal thay vì bị diệt chủng lại giao phối với người Homo sapiens. Để củng cố giả thuyết này, Trinkaus đưa ra nhiều bằng chứng lai giống khác từ các di chỉ khảo cổ ở châu Âu như di chỉ Mladec ở Czech. Kể cả bộ xương 24.500 năm tuổi của một cậu bé tiền sử phát hiện năm 1998 ở hang động Abrigo do Lagar Velho (Bồ Đào Nha) cũng mang những đặc điểm hỗn hợp giữa hai giống người tiền sử. Rõ ràng giống người Neanderthal đã góp phần tô điểm cho dung nhan con người hiện đại.

Hội nhập để sinh tồn

Những phát hiện mới về nguồn gốc con người luôn là một sự kiện khoa học được giới truyền thông chú ý. Giả thuyết về một giống người Homo sapiens "không thượng đẳng" mà đã lai tạp với giống Neanderthal chính là tiền nhân của con người hiện đại đã làm không ít chuyên gia bất mãn.

Bác bỏ giả thuyết của Trinkaus, những nghiên cứu về gen di truyền DNA của người tiền sử lại được trích dẫn. Từ những hoá thạch được biết đã phân tích gen, các kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy bộ mã DNA của người Neanderthal không có tác động gì đến con người hiện đại. Những điểm tương đồng giữa giống người Neanderthal và tiền nhân của chúng ta đã kết thúc từ 400.000 năm trước.

Nhưng Fred Spoor, giáo sư môn giải phẫu học tiến hoá của University College London lại cho rằng những kết quả phân tích DNA không chứng minh được việc lai giống giữa hai giống người thượng cổ đã không xảy ra. "Người Neanderthal và người Homo sapiens hoàn toàn có khả năng giao phối lẫn nhau và các thế hệ con cái có thể sống độc lập", Spoor nói. Vấn đề không phải là người Neanderthal đã bị người Homo sapiens tiêu diệt như thế nào mà là người Neanderthal đã "hội nhập" vào thế giới Homo sapiens đến mức nào.

Trần Ngọc Đăng

Lỗ hổng thời gian" và những vụ mất tích bí ẩn

Giới học giả chuyên nghiên cứu bí ẩn siêu nhiên ở châu Âu và Mỹ gần đây xôn xao về một số vụ mất tích - tái hiện một cách thần bí. Nhiều người cho rằng hiện tượng có liên quan đến “lỗ hổng thời gian”.

Ngày 14/4/1912, con tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng, khiến 1.500 người mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.

Ngày 24/9/1990, con tàu Foshogen đang đi trên vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Thuyền trưởng Karl đột nhiên phát hiện một bóng người từ vách núi. Qua kính viễn vọng, ông nhìn rõ một phụ nữ đang dùng tay ra hiệu cấp cứu. Người phụ nữ này mặc trang phục quý tộc Anh thời kỳ đầu thế kỷ 20, toàn thân ướt sũng và rét run cầm cập.

Khi được cứu lên tàu, trả lời câu hỏi của thủy thủ, cô nói: “Tôi tên là Wenni Kate, 29 tuổi, một hành khách trên con tàu Titanic. Khi tàu đắm, một con sóng lớn đánh giạt tôi lên núi băng này, thật may mắn là các ngài đã kịp cứu giúp”. Nghe câu trả lời đó, mọi người đều cảm thấy hết sức kỳ lạ và họ nghĩ rằng có lẽ do sốt cao, cô gái này đã nói nhảm. Kate được đưa đến bệnh viện để kiểm tra. Sức khỏe của cô không có gì đáng ngại ngoài việc cô quá sợ hãi do bị lạc nhiều ngày, thần kinh cũng không có dấu hiệu rối loạn. Các xét nghiệm về máu, tóc, cho thấy cô khoảng chừng 30 tuổi.

Vậy là nảy sinh một vấn đề khó tin đến kinh người: Chẳng lẽ từ năm 1912 đến nay, trải qua gần 80 năm mà Kate không hề già đi chút nào? Thẩm tra, đối chiếu với bản danh sách hành khách trên tàu Titanic, người ta nhận thấy mọi nội dung đều trùng khớp với những gì Kate nói. Trong khi mọi người đang tranh luận thì sự việc thứ hai xảy ra.

Ngày 9/8/1991, một tổ khảo sát khoa học hải dương trong khi khảo sát tại khu vực phía Tây Nam cách núi băng Bắc Đại Tây Dương chừng 387 km, đã phát hiện và cứu sống một người đàn ông 60 tuổi. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng, khá gọn gàng, rít sâu điếu thuốc. Không ai có thể nghĩ rằng đó chính là thuyền trưởng danh tiếng Smith của con tàu Titanic.

Nhà hải dương học nổi tiếng, tiến sĩ Marwen Iderlan, sau khi cứu được Smith đã phát biểu trước báo chí rằng không thể có sự việc nào đáng kinh ngạc hơn. Người đàn ông này không thể là tên lừa đảo, ông ta đích thực là thuyền trưởng của con tàu Titanic, người cuối cùng chìm xuống biển cùng với con tàu . Khó tin hơn nữa là Smith đến nay đã 140 tuổi nhưng trên thực tế mới chỉ là một ông già 60 tuổi. Khi được cứu, ông một mực khẳng định rằng hôm đó là ngày 15/9/1912.

Sau khi được cứu, ông được đưa đến Viện tâm thần Oslo (Nauy) để chữa trị. Nhà tâm lý học Jale Halant đã tiến hành hàng loạt thử nghiệm và kết quả là Smith hoàn toàn bình thường. Ngày 18/9/1991, trong một đoạn tin vắn, Halant khẳng định, người được cứu đích xác là thuyền trưởng Smith vì ngay việc đối chiếu vân tay cũng đã cho thấy điều đó.

Sự việc cần được giải thích rõ ràng. Một số cơ quan hải dương Âu - Mỹ cho rằng thuyền trưởng Smith và hành khách Kate đã bị rơi vào “hiện tượng mất tích - tái hiện xuyên thời gian”.

800 lính Anh mất tích trong mây

Trong Đại chiến Thế giới lần thứ nhất, vào ngày 21/8/1915, hơn 800 lính thuộc Trung đoàn Norfolk 5 của quân đội Anh được lệnh cơ động lên một ngọn núi cao thuộc vùng Dardanelles, Thổ Nhĩ Kỳ. Theo lời kể của các nhân chứng, có một đám mây lớn bay sà xuống và bao phủ lên đoàn quân, lúc đó đang tiến vào thung lũng. Đội quân càng lên cao thì càng chìm dần vào trong khối mây mờ.

Khi người cuối cùng khuất hẳn, cả khối mây đã bốc lên cao và biến mất, người ta không thấy bất kỳ người lính nào bước ra khỏi đám mây đã bay đi đó. Từng ngọn cây, bụi rậm trên đỉnh núi đều có thể nhìn rõ, nhưng một đội quân hơn 800 người đã mất tích hoàn toàn. Khi đó, 22 người lính của New Zealand cũng đang tập cùng trận địa với đội quân này, trên một ngọn đồi nhỏ khác cách đó khoảng 600 m. Họ đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng bí hiểm trên.

Có giả thuyết cho rằng toàn bộ đội quân đã bị lực lượng đặc nhiệm của Thổ Nhĩ Kỳ bắt làm tù binh. Tuy nhiên, sau chiến tranh, phía Thổ Nhĩ Kỳ kiên quyết khẳng định rằng họ chưa từng nhìn thấy đội quân này. 800 người lính đã bị mất tích không nằm trong danh sách những lính Anh bị tử trận, đồng thời cũng không có trong danh sách tù binh chiến tranh được Thổ Nhĩ Kỳ trao trả sau khi chiến tranh kết thúc.

Ở Trung Quốc, năm 1945, một đoàn tàu chở hàng trăm khách từ Quảng Đông đi Thượng Hải đã biến mất khỏi hành trình khi gần đến ga cuối, không để lại bất kỳ một dấu tích nhỏ nào.

Quan điểm của các học giả

Một số người cho rằng lỗ hổng thời gian thực chất là thế giới phản vật chất đang tồn tại trong vũ trụ. Họ dựa vào công thức tổng năng lượng vật chất của Einstein, theo đó tổng năng lượng vật chất có hai giá trị là chính và phụ. Vậy khi giá trị phụ xuất hiện, chúng ta cần phải làm thế nào? Nhận thức nó ra sao? Một số học giả liền đưa nó vào mối liên hệ với thế giới phản vật chất. Hiện nay, chúng ta mới hiểu biết chưa đầy một nửa vũ trụ chúng ta đang sống, là phạm vi thế giới vật chất, còn nửa kia là một hệ thống tạo thành từ phản vật chất.

Hai bộ phận này tiếp cận với nhau dưới tác động qua lại của lực hấp dẫn. Khi tiếp cận đến một mức độ nhất định, tác dụng “đổ vỡ” do thế giới vật chất và phản vật chất sinh ra sẽ tạo ra một nguồn năng lượng vô cùng lớn, tạo thành một áp lực tách đôi hai hệ thống. Theo đó, có thể thấy rằng mất tích chính là hiện tượng phát sinh khi hai hệ thống vật chất và phản vật chất tiếp cận ở mức độ cao nhất, sinh ra năng lượng tạo nên áp lực phân tách. Khi hiện tượng “đổ vỡ” kết thúc, trường lực hấp dẫn trở lại trạng thái ban đầu, hiện tượng tái hiện xảy ra.

Trong cuộc tranh cãi giữa các nhà khoa học, nhiều giả thuyết khác cũng được đưa ra. Một trong số đó là thuyết “thời gian đứng lại”. Thế giới vật chất sau khi tiến vào lỗ hổng thời gian đồng nghĩa với việc mất tích, và từ đó đi ra cũng có nghĩa là được tái hiện. Như vậy, lỗ hổng thời gian và trái đất không cùng một hệ thống, và thời gian trong “lỗ hổng” là tương đối tĩnh. Do đó dù có mất tích 3-5 năm hay vài chục năm đi nữa, người ta sẽ không có gì thay đổi so với lúc ban đầu.

Giả thuyết thứ hai được đưa ra là thuyết “thời gian ngược”, cho rằng thời gian trong lỗ hổng thời gian là quay ngược so với bình thường. Người mất tích sau khi rơi vào đó có khả năng sẽ quay ngược về quá khứ. Tuy nhiên, khi thời gian quay ngược một lần nữa, người này lại được đưa trở về thời điểm họ bị mất tích, kết quả là xảy ra hiện tượng tái hiện thần bí.

Trong thuyết thứ ba “đóng cửa thời gian”, lỗ hổng thời gian là hiện tượng tồn tại khách quan trong thế giới vật chất, không nhìn thấy và cũng không thể sờ thấy. Đối với thế giới vật chất mà con người đang tồn tại, nó vừa đóng lại vừa mở. Thỉnh thoảng khi nó mở ra một lần, sẽ có hiện tượng mất tích; mở thêm một lần nữa, người mất tích tái hiện.

Trước mắt, quanh vấn đề “lỗ hổng thời gian” vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Chưa một học thuyết nào đủ sức thuyết phục vì chưa đưa ra được những chứng cứ xác thực. Hiện tượng “mất tích - tái hiện” vẫn còn là bí ẩn đang chờ con người khám phá...

10 nhân vật ma quái đáng sợ nhất

Chúng lẩn khuất, ám ảnh, làm chúng ta kinh hãi. Nhưng những nhân vật kinh dị nhất dưới đây chắc chắn sẽ không thình lình xuất hiện trước mắt bạn. Chúng đã bị chôn vùi trong những thị trấn thời trung cổ, khi mà các câu chuyện dân gian kỳ bí ngự trị trong đầu mỗi người.

Sau đây là lịch sử và khoa học về những ngôi sao kinh dị của ngày 31/10 - Lễ hội Halloween hằng năm.

1. Yêu tinh


(Ảnh: LiveScience)

Nổi tiếng từ các câu chuyện cổ tích, những con yêu tinh nhỏ choắt đầy lông lá có tính ranh ma nhiều hơn là độc ác. Truyền thuyết kể về những con yêu tinh trốn trong các khu rừng, bày ra các trò chơi khăm và đôi khi tráo đổi em bé mới sinh. Không giống như các sinh vật khác vốn liên quan đến tôn giáo, yêu tinh chưa vượt qua được ngưỡng của sự tưởng tượng để gây nên những cơn hoảng loạn thực sự ở các thị trấn thời trung cổ.

2. Quỷ


(Ảnh: LiveScience)

Quỷ, như người ta vẫn thường gọi "linh hồn của quỷ", có thể đại diện cho bất kỳ thứ nào từ tà ma, đến một thiên thần bị suy đồi tới đệ tử của Satan. Ma quỷ có nguồn gốc từ thời cổ đại và xuất hiện trong các câu chuyện dân gian và văn học trên khắp thế giới.

3. Tượng đầu thú


(Ảnh: LiveScience)

Đó cũng là một trong những điều không thể giải thích được của kiến trúc cổ đại. Nhưng tượng đầu thú, những con quái vật bằng đá nhô ra từ mỏm của các giáo đường lớn, thực ra có chức năng của nó. Chúng được gắn vào các công trình đá gô-tíc vào đầu thế kỷ 13 để dẫn nước mưa chảy từ trên nóc nhà thờ, miệng của chúng như cái máng xả nước. Xét về mặt tâm linh, tượng đầu thú cũng để bảo vệ giáo đoàn trước các thế lực ma quỷ rình rập bên ngoài.

4. Thây ma


(Ảnh: LiveScience)

Là vua của phim kinh dị, thây ma là những con người đã bị tước mất linh hồn hay người chết được sống lại nhờ một phép ma thuật nào đó. Truyền thuyết thây ma bắt nguồn từ tôn giáo ma thuật ở Haiti, nơi mà người ta tin rằng con người cơ thể rơi vào trạng thái hôn mê giống như xác chết di động mà chúng ta thấy trong phim.

5. Ma sói


(Ảnh: LiveScience)

Là những con người bình thường cho đến khi ngày trăng tròn tới, họ bị nguyền rủa biến thành những con sói man rợ - hình tượng xuất hiện trong mọi nền văn hoá bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại. Giống như phù thuỷ, họ bị săn đuổi vào thời trung cổ và bị buộc tội trong những vụ giết người không thể giải thích. Những câu chuyện truyền miệng cũng nói đến một chứng rối loạn hoóc môn khiến lông mọc rậm rạp trên cơ thể - được gọi là "căn bệnh người sói".

6. Ma trơi


(Ảnh: LiveScience)

Những quả bí ngô ma quái này có thể là biểu tượng nổi bật nhất của lễ hội Halloween. Tục lệ khắc và thắp đèn trong những quả bí là một phong tục thời Celtic được các cư dân Ireland mang tới Mỹ. Ở Ireland, người ta dùng củ cải thay vì bí ngô. Những khuôn mặt đáng sợ tỏa sáng hiện ra từ những quả bí ngô là để xua đuổi tà ma lang thang trên các con đường vào đêm 31/10 - đêm các thánh.

7. Dơi


(Ảnh: LiveScience)

Chúng mù, treo lơ lửng trong các hang động và tạo nên những cuộc tấn công ồ ạt. Nhưng tại sao dơi lại liên quan tới Halloween? Những con thú có cánh này nên cảm ơn ma cà rồng vì điều đó. Giống như các con quỷ dracula, một bộ phận nhỏ dơi chuyên sống nhờ vào máu động vật - dùng răng sắc nhọn để cắn nạn nhân khi đang ngủ.

8. Phù thuỷ


(Ảnh: LiveScience)

Hãy quên đi những chiếc mũ đen nhọn hoắt hay cái mũi khoằm. Những hình ảnh đó chỉ xuất hiện gần đây so với lịch sử bi thương có từ rất lâu về phù thủy trên khắp hành tinh. Trong quá khứ, phù thuỷ được coi là người sở hữu những phép thuật liên quan tới thế giới tự nhiên. Giống như mọi kẻ ngoại giáo khác, họ bị truy lùng bởi nhà thờ Cơ đốc. Cuộc săn lùng lên tới đỉnh điểm vào thời trung cổ ở châu Âu và thế kỷ 17 ở châu Mỹ.

9. Bóng ma


(Ảnh: LiveScience)

Chọc 2 lỗ thủng từ tấm ga trải giường để nhìn và bạn đã có trang phục đơn giản nhất cho ngày Halloween. Trở thành một con ma thực thụ thì phức tạp hơn. Trước hết bạn phải chết, có thể một cách đau đớn, rồi để cho linh hồn của bạn lang thang khắp trái đất hù doạ người thân và ám ảnh các ngôi nhà. Từ một góc độ khoa học nào đó, các nhà cận tâm lý cho rằng một phần năng lượng của con người không bao giờ bị phá huỷ. Xã hội dường như cũng đồng ý, một cuộc khảo sát cho thấy 50% tin rằng thực sự có ma.

10. Ma cà rồng


(Ảnh: LiveScience)

Họ muốn hút máu bạn. Ma cà rồng xuất hiện trong nền văn hóa dân gian từ hàng nghìn năm trước, còn hình ảnh về những chiếc răng nanh phổ biến từ thế kỷ 18-19 tại Tây Âu. Người ta tin rằng một ai đó khi sinh ra bị dị dạng hoặc chết một cách bất thường thì sau khi chôn sẽ sống dậy để khủng bố người sống. Ma cà rồng được coi là những người chưa chết hẳn và cần phải hút máu người để duy trì sự sống.

» Khám phá » 1001 bí ẩn

 RSS

Người ngoài hành tinh sẽ thăm trái đất

Cập nhật lúc 14h14' ngày 23/10/2006

Bản in

Gửi cho bạn bè

Phản hồi

//

Xem thêm: nguoi, ngoai, hanh, tinh, se, tham, trai, dat

Theo khẳng định của nhà nghiên cứu các vật thể lạ (UFO) nổi tiếng người Brazil Jan Val Ellam, trong năm 2007, lần đầu tiên nhân loại sẽ chính thức “gặp gỡ” những sinh vật bí hiểm đến từ các dải ngân hà xa xôi.

Jan Val Ellam là tác giả của 15 cuốn sách bán chạy nhất thế giới viết về tâm linh và mối liên hệ của nó với các nền văn minh ngoài trái đất. Ellam quả quyết: Trong suốt 20 năm qua, ông luôn giữ liên lạc với không ít sinh vật ngoài hành tinh và ghi lại chi tiết tất cả những cuộc gặp ấy trong một cuốn sổ đặc biệt.

Cũng chính những nhân vật này đã chuyển tới ông lời cảnh báo: Một số chủng người từ các thiên hà xa xôi sẽ đổ bộ xuống địa cầu trong khoảng 15/11/2006 đến tháng 4/2007.

Theo Ellam, sinh vật ngoài hành tinh có hình dáng rất khác lạ so với người trái đất, tuy vậy luôn tỏ ra thân thiện và hiền lành. Nhà nghiên cứu UFO này cũng lý giải, sở dĩ lâu nay họ chưa dám “đặt quan hệ” với chúng ta là vì khắp thế giới lúc nào cũng thấy xảy ra chiến tranh hoặc bạo loạn.

Trên tạp chí UFO của Brazil, tác giả Jan Val Ellam đã đưa ra mô tả chi tiết về “chuyến viếng thăm hữu nghị” này, kèm theo đó là tuyên bố: “Sau lần gặp gỡ với người ngoài hành tinh sắp tới đây, không ai trên trái đất còn có thể nghi ngờ về sự hiện diện của họ nữa. Tất cả các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức quân đội, chính phủ, các lĩnh vực khoa học, tôn giáo, tín ngưỡng - không một lực lượng nào có thể phủ nhận điều này”.

Ellam thừa nhận rằng vào thời điểm này, lời dự báo của ông nghe thật ngây ngô và phi lý, tuy nhiên một lần nữa ông nhấn mạnh rằng mình chỉ đang thực hiện nghĩa vụ làm cầu nối cho các nền văn minh trong vũ trụ mà thôi.

Truyền thuyết về loài "rắn biển khổng lồ"

//

Tháng 7/1897, tàu chiến Pháp Avalanche đã đụng độ quái vật biển được gọi là "rắn biển khổng lồ" đến 3 lần trong vịnh Along. Đại bác được nã rần nhưng không chạm được nó. Trước Avalanche, những con tàu khác cũng đã gặp "rắn biển khổng lồ". Kể từ đó, "rắn biển" trở thành một trong các bí ẩn lớn nhất của động vật học...

Thực tế và truyền thuyết

Tàu hộ tống Anh Daedalus thực hiện hải trình từ Antilles đến Cap. Ngày 6-8-1848, lúc 16 giờ, trong miền Nam Đại Tây Dương giữa đảo Saint-Hélène và Cap của BonneEspérance (còn gọi là Mũi Giông Tố, nằm ở phía nam châu Phi), dưới làn gió mát tây bắc và bầu trời quang tạnh, viên sĩ quan Sartoris chợt thấy rõ một vật đáng ngờ trong lớp bọt sóng ồ ạt. Sartoris tức thì cảnh báo với chỉ huy M'Quhae trên cầu tàu. Con vật nổi lên mặt biển được nhìn thấy có dáng dấp như rắn biển khổng lồ. Đầu quái vật nhô cao trên mặt nước 2 mét. Một phần thân của nó thấy rõ dài trên 15 mét.

Quái vật bơi dọc theo con tàu, giữ một khoảng cách. Khi thì nó xuất hiện dưới vỏ tàu, lúc bên mạn trái, lúc lại bên mạn phải tàu. Cả thủy thủ đoàn đều chăm chú quan sát hành động của quái vật trong khoảng 20 phút. Có một điều lạ lùng là vào 10 năm sau, cũng tại vị trí này, chỉ huy tàu Carnatic là Shuckling cũng chứng kiến cảnh tượng tương tự. Đầu tiên, ông tin rằng đó là một thanh gỗ dài, phần sót lại của cột buồm. Nhưng liền sau đó ông thấy “cột buồm” này động đậy và rõ ràng là có cái đầu nhô lên. Quái vật có một vài chi tiết dường như giống với quái vật mà tàu Daedalus đã nhìn thấy.

Các báo cáo của hai vị thuyền trưởng này đã khiến cho báo chí Anh thời đó hao tốn biết bao giấy mực. Các bằng chứng này tiếp tục được xác minh bởi các câu chuyện kể định kỳ của các thủy thủ mà trong đó nghiêm chỉnh nhất là câu chuyện của Vịnh Along xảy ra vào ngày 25/2/1904.

Một vệt đen lạ lùng

Hôm đó, pháo hạm La Décidée chuẩn bị tập trận dưới sự chỉ huy của Đại úy hải quân L'Eost. Buổi chiều, L'Eost chú ý đến một vệt đen dài 300 mét xuất hiện bên mạn trái con tàu. Trên bề mặt của nó có phủ lớp tảo dày có vẻ giống như vảy cá. Pháo hạm La Décidée lừ lừ tiến đến gần vệt đen hơn. Một chiếc canô được chuẩn bị thả xuống biển. Mọi người trên tàu im lặng theo dõi.

Bất ngờ “dải đá ngầm” động đậy mạnh tựa như chuyển động của địa chấn. Đó là một giả thuyết có thể chấp nhận. Song điều đáng ngạc nhiên là biển vẫn tĩnh lặng, ngoài cơn xoáy nước nhẹ do các “khối đá” tạo ra. Thêm vài giây trôi qua, L'Eost hạ lệnh tắt hết các động cơ. Bây giờ viên đại úy không còn tin vào chuyển động địa chấn nữa, mà cho đó là một hay nhiều con vật mà không biết được loài gì. L'Eost chưa kịp ra lệnh thả canô xuống biển thì đột nhiên “các khối đá” thay đổi hình dạng.

Trước sự kinh ngạc của mọi người, một vật khổng lồ hiện ra là loài bò sát với lớp da sần sùi, màu nâu. Không trông thấy đầu con vật. Bất ngờ "con rắn" biến mất. Không lâu sau đó con vật biển bí ẩn lại xuất hiện cách tàu 150 mét. Lần này nó tiến lên rất nhanh và mọi người thấy được cái đầu hình tam giác và con mắt xếp nếp của nó. Đường kính đầu rắn khoảng 80cm. Quái vật dường như không thấy chiếc tàu.

Theo truyền thuyết, loài rắn biển này đã gây run sợ cho nhiều thế hệ thủy thủ, nhưng lúc này dường như nó vô hại. Nó bơi đằng sau tàu, nổi lên vài giây bên mạn phải tàu và cuối cùng lặn mất.

Phân tích của ngành động vật học

Điều thấy rõ là sự tồn tại của loài "rắn biển khổng lồ" đã ám ảnh nhiều nhà động vật học và động vật học ẩn. Năm 1893, nhà động vật học Hà Lan Oudemans đã xuất bản cuốn sách về bí ẩn này (“Rắn biển khổng lồ”). Ông kết luận rằng đó là một loài động vật chân vây (pinnipède) có dáng như khủng long cổ dài (plésiosaure) và được ông đặt tên là Megophias megophias. Sự mô tả của Oudemans dựa trên cơ sở tập hợp nhiều động vật.

Năm 1965, Bernard Heuvelmans xuất bản một cuốn sách về vấn đề này. Qua nghiên cứu thống kê hàng trăm bằng chứng, Heuvelmans muốn chứng minh rằng "rắn biển khổng lồ" có nguồn gốc phức tạp:

- Các con vật quan sát thấy, nhưng chưa xác định được vào thời điểm xảy ra sự kiện, và được ghi chép đó là: cá mập voi (cetorhinus maximus), mực thẻ khổng lồ (architeuthis), cá đai (regalecus glane), loài giun vòi to lớn như loài lineus longissimus.

- Những con vật không có quan hệ gần gũi với những con vật có dạng rắn chưa được xác định.

Theo Heuvelmans, chiếc cổ dài hiển nhiên là của loài động vật chân vây, còn 4 loài khác có lẽ thuộc bộ cá voi có cổ nhỏ. Con nhiều bướu chắc chắn có quan hệ gần gũi với loài zeuglodonte.

Các bằng chứng mới nhất về rắn biển

Ngày 30/7/1915, tàu ngầm Đức U-28 đánh đắm chiếc tàu Iberia của Anh và nó bị nổ ở độ sâu từ 100 đến 200 mét. Cùng với các mảnh vỡ con tàu bắn tung lên không, một con cá sấu biển khổng lồ dài 20 mét cũng bị hất tung lên cao và rơi xuống giãy giụa trong nước.

Ngày 30/12/1947, con tàu khách Santa Clara của Mỹ va phải một con vật dạng cá chình dài khoảng 15 mét ở ngoài khơi Bắc Carolina. Con vật sau đó bị thương đến chết và máu chảy loang một vùng nước biển.

Tháng 10/1969, ở độ sâu 270 mét ngoài khơi vùng Bermudes, tàu ngầm Alvin “mặt đối mặt” với một con vật khổng lồ đầu loài bò sát và cổ dài. Nhưng không may là con vật đã lặn mất trước khi nó được quay phim. Vào tháng 4/1977, ngư dân đánh lưới rê người Nhật Bản Zuiyo Maru bắt được một vật khổng lồ dài hơn 10 mét. Các bức ảnh chụp cho thấy một con vật cổ dài, đuôi dài giống như loài khủng long cổ dài. Nhưng cũng lại không may là ngư dân đó đã vứt xác con vật xuống biển vì không chịu nổi mùi hôi thối của nó.

Kết luận

Từ lâu "rắn biển khổng lồ" đã tạo ra sự ám ảnh, nỗi hãi hùng và thậm chí tiếng cười nhạo, nhưng nó luôn được mọi người mô tả khá giống nhau. Thế nên có lẽ nên gọi là “những con rắn của các đại dương” hơn là “rắn biển”. Liệu rằng chúng ta có lý không khi nghĩ rằng những con vật thời tiền sử có thể sống sót đến tận ngày nay?

Các nhà khoa học Nga giải mã thông điệp của người ngoài hành tinh

Theo nhà toán học lỗi lạc Nga, Vladimir Pakhomov, những người ngoài hành tinh đã từng viếng thăm trái đất và để lại hệ thống lịch của họ cùng một thông điệp cho nền văn minh trái đất.

Nhà toán học này nói: "Tôi không thấy thông điệp từ người ngoài hành tinh một cách tình cờ, mà tôi tìm kiếm nó. Với một niềm tin chắc chắn rằng họ đã viếng thăm trái đất chúng ta". Nhiều chuyên gia rất chú ý đến một vài sự trùng hợp ngẫu nhiên mà họ có thể tìm thấy trong các truyền thuyết và chuyện kể về sự viếng thăm trái đất của người ngoài hành tinh thời xa xưa.

Nhà thám hiểm Erich von Daeniken viết rằng, con người rất khó khăn trong việc tìm kiếm các dấu vết của người ngoài hành tinh trên trái đất. Đại dương chiếm 2/3 bề mặt hành tinh, băng tuyết bao phủ 2 cực trái đất, các sa mạc và rừng cây mênh mông chiếm phần đất còn lại của hành tinh.

Daeniken cho rằng người ngoài hành tinh (nếu họ đã từng có mặt trên trái đất) ắt hẳn phải suy nghĩ cách để lại loại hình thông điệp nào của họ trên trái đất để có thể tồn tại qua hàng ngàn thời kỳ.

Nhà khoa học Nga Vladimir Pakhomov tin rằng, người ngoài hành tinh có thể đã để lại hệ thống lịch của họ trên trái đất. Ví dụ như các pharaon Ai Cập cổ đại đã có lời tuyên thệ khá lạ lùng khi lên ngôi hoàng đế: Họ hứa sẽ không thay đổi hệ thống lịch, dù chỉ là sự sửa đổi nhỏ nhất.

Nhiều bản thảo cổ cũng cho biết rằng vị thần thông thái có 2 tên gọi: ThothHermes đã soạn thảo và giữ kín một số “cuốn sách” trước khi ngài quay về trời. Nhà nghiên cứu Graham Hancock viết trong cuốn sách Tấm gương trời, rằng các cuốn sách của vị thần thông thái tồn tại lâu dài và vô hình trong suốt nhiều thế kỷ. Các truyền thuyết cũng kể rằng vị thần linh này không muốn cho con người tìm thấy và đọc được các cuốn sách đó, vì loài người không xứng đáng được hưởng vinh dự đó.


Erich von Daeniken đang tìm kiếm các dấu vết lạ ở Dendera, Egypt
(Ảnh: daniken.com)

Loài người chưa có kiến thức và các công nghệ cần thiết để đọc được hệ thống lịch của người ngoài hành tinh, nhưng dù sao thì loại lịch này cũng đã tồn tại trên trái đất. Nhà khoa học Pakhomov nói: “Tôi rất sốc đối với ma trận của lịch vĩnh cửu, được tìm thấy trên các bức tường Đại giáo đường Sophia ở Kiev, nước Ukraina. Ma trận được làm ra để có thể xác định được cấu trúc lịch của bất cứ năm nào. Ví dụ, bạn có thể dễ dàng tìm được ngày sinh của mình trong 100 năm với sự giúp đỡ của lịch vĩnh cửu”.

Pakhomov đã sử dụng lịch của Đại giáo đường Sophia như là điểm khởi đầu cho công việc giải mã các tài liệu cổ xưa được viết bằng mật mã

Lục địa Atlantis: Huyền thoại hay sự thật?

Hình ảnh lục địa Atlantis, một quốc gia vĩ đại và hùng cường, mà sự thống trị đối với thế giới cổ đại đột ngột chấm dứt chỉ sau một thảm họa, đã kích thích nhiều nhất trí tưởng tượng của nhân loại suốt hơn hai nghìn năm qua. Tất cả bắt đầu từ một huyền thoại về Atlantis.

Mặc dù Atlantis được xem là đạt tới đỉnh cao vinh quang hơn 11 nghìn năm trước, nhưng nó chỉ xuất hiện trong thư tịch khoảng 2.350 năm trước, từ 359 đến 347 năm trước Công nguyên. Cái tên đầy gợi cảm Atlantis xuất hiện trong các cuộc đối thoại của nhà triết học Hy Lạp cổ đại lừng danh Plato, Timaeus và Critias, vốn được đặt theo tên các nhân vật trong hai cuộc trao đổi tưởng tượng giữa Socrates và học trò.


Thành phố Atlantis qua mô tả của Plato (Ảnh: unmuseum.org)

Mở đầu phần đối thoại Timaeus, Socrates nhắc tới cuộc thảo luận hôm trước về một xã hội “hoàn thiện”. Ở đây Plato nhắc tới cuộc đối thoại nổi tiếng nhất của ông, Nền cộng hòa, mà ông đã viết từ nhiều năm trước. Và Plato mượn lời Socrates để kể ra hàng loạt đặc điểm cần có của một chính phủ hoàn hảo mà ông đã mường tượng trong Nền cộng hòa: thợ thủ công và nông dân tách khỏi quân đội; quân nhân kỷ luật cao, được huấn luyện thể lực và âm nhạc, sống cộng đồng và không có tài sản riêng.

Socrates không dừng cuộc tranh luận ở mặt lý thuyết mà yêu cầu học trò đánh giá trên khía cạnh triết học thực hành. Ông cho rằng họ cần xem xét tính hoàn thiện của một xã hội phù hợp với các quan niệm viết trong Nền cộng hòa bằng cách đặt nó đối diện với một cuộc chiến tranh.

Critias kiểm tra đề xuất của người thầy bằng đề nghị: “Xin (thầy Socrates) hãy nghe một câu chuyện tuy lạ nhưng có thật”. Critias nói rằng, ông nội cũng tên là Critias kể cho anh nghe câu chuyện, và ông nội anh thì nghe người cha là Dropides kể lại. Dropides biết chuyện nhờ nhà hiền triết Hy Lạp Solon, còn Solon được các tu sĩ Ai Cập kể cho biết khi ông ở Ai Cập vào khoảng năm 600 trước Công nguyên. Theo những gì Plato viết trong Critias, cái mà chúng ta biết chính là một dị bản của câu chuyện có nguồn gốc từ hơn 200 năm trước đó.

Quốc gia hoàn thiện, đó là Athens chứ không phải Atlantis

Các tu sĩ Ai Cập kể cho Solon nghe câu chuyện về thành phố Athens cổ, “được quản lý tốt nhất trong tất cả các thành phố trên thế giới”. Đó chính là Athens cổ từ 9.300 năm trước thời Plato, được ông dùng làm mô hình của một quốc gia lý tưởng. Các tu sĩ kể với Solon về chiến công anh dũng nhất của người Athens, họ đã đánh bại một thế lực hùng mạnh đang chuẩn bị tiến hành cuộc viễn chinh chống lại cả châu Âu và châu Á. Họ mô tả quốc gia đang bành trướng đó nằm rất xa giữa Đại Tây Dương (Atlantic). Và đó là lý do của cái tên Atlantis.

Người Atlantis đã tràn qua Bắc Phi trên đường tiến về Ai Cập. Nhưng sau thất bại trước Athens, Atlantis bị các vị thần phá hủy hoàn toàn trong những cơn động đất và đại hồng thủy khủng khiếp, đó là theo lời kể của Critias.

Khi thuật lại câu chuyện về Atlantis, Critias thưa với Socrates: “Hôm qua khi thầy kể về một thành phố trong câu chuyện đã ăn sâu trong óc con, con rất ngạc nhiên nhận thấy rằng, không hiểu vì sự tình cờ bí ẩn nào mà chuyện của thầy trùng khớp với lời kể của Solon”. Trên thực tế, mô tả của Critias về xã hội Hy Lạp cổ trùng hợp hoàn hảo – và không hề ngẫu nhiên – với quan niệm nhà nước lý tưởng của Plato trong tác phẩm Nền cộng hòa.

Nguồn gốc lịch sử của Atlantis?

Plato mô tả đảo quốc Atlantis hay Athens cổ đại dựa trên bằng chứng lịch sử hay chỉ dựa vào hư cấu? Trên thực tế có một nền văn minh rực rỡ tại Địa Trung Hải - đảo Crete của người Minoan, thậm chí còn xa xưa hơn xứ Hy Lạp của Plato - và nó cũng bị phá hủy một phần vì thảm họa tự nhiên.

Nhiều học giả hiện đại cho rằng, mặc dù quy mô và vị trí của Atlantis kém chính xác trong Critias (có thể do dịch sai), câu chuyện của Plato dựa trên vụ núi lửa phun khủng khiếp tại Thera, hòn đảo nằm ở phía đông Hy Lạp và phía bắc Crete trong biển Aege. Miệng núi lửa của lần phun nham thạch tại Thera thế kỷ XVII hay XVI trước Công nguyên có kích thước lớn gấp hai lần dấu vết tại Krakatoa, mà lần phun vào năm 1883 thì đã giết chết hàng chục ngàn người. Tai họa tại Thera chắc chắn thảm khốc hơn nhiều, đến mức mà ngay tại Ai Cập, là nơi chỉ phải chịu ảnh hưởng gián tiếp, người ta cũng nhận biết được.

Với một số người, đảo Crete của người Minoan chính là Atlantis và trong Critias, Plato đưa ra một bức tranh có phần không chính xác về sự tàn phá nó như một hệ quả của núi lửa phun tại Thera. Tuy nhiên, để khẳng định điều đó, ta cần bỏ qua những chi tiết thực tế, hay ít nhất cần giải thích tại sao Crete lại được đặt sai vị trí địa lý, sai kích thước, sai tên, chưa bao giờ gây chiến với Athens và không bị phá hủy trong một thảm họa nào. Chứng cứ khảo cổ học cho thấy, mặc dù các cộng đồng người Minoa sống dọc bờ biển bị sóng thần tàn phá nặng nề sau vụ nổ tại Thera, nền văn minh Minoan không chỉ sống sót mà còn phát triển rực rỡ hơn trong khoảng hai trăm năm nữa.

Nhiều tác giả khác cho rằng, chế độ thuộc địa kỳ diệu của người Minoan tại Thera là mô hình của Atlantis. Rõ ràng là sự định cư của người Minoan tại đây đã bị tàn phá vì núi lửa, nhưng cũng hoàn toàn rõ ràng là, Plato không nói về sự suy tàn của một nền văn minh cổ đại. Trong khi đó, Thera cũng là một địa chỉ sai, quy mô và niên đại sai nên không thể là mô hình trực tiếp của Atlantis.

Atlantis như tưởng tượng của thời hiện đại

Không cuộc tranh luận nào về Atlantis được xem là đầy đủ nếu không nhắc tới những tuyên bố mang tính tưởng tượng trong thế kỷ XIX và XX về lục địa đã mất tích. Hơn bất cứ ai, nghị sĩ bang Minnesota Ignatius Donnelly, người đã hai lần thất bại trong cuộc chạy đua vào chức phó tổng thổng Mỹ và là một nhà sử học nghiệp dư, đã làm huyền thoại sống lại bằng cuốn sách Atlantis: một thế giới trước thời hồng thủy vào năm 1881.

Theo Donnelly, Atlantis của Plato là ngọn nguồn của mọi thành tựu văn hóa và mọi nền văn minh tại Ai Cập, Tây Á, Ấn Độ và châu Âu, cũng như Namvà Bắc Mỹ. Lập luận của Donnelly không dựa trên khoa khảo cổ hay địa lý và không hề có bằng chứng nào về nguồn gốc chung của mọi nền văn hóa. Tuy nhiên so với một số nhà tư tưởng cuối thế kỷ XIX khác, Donnelly vẫn là khuôn mẫu của sự tự kiềm chế.

Phong trào Theosophy (thần triết học) của Helena Blavatsky, một phụ nữ gọi hồn “nổi tiếng” nước Mỹ, giả thuyết rằng cư dân Atlantis di chuyển bằng máy bay và trồng trọt hoa lợi thu được từ người ngoài hành tinh. Gần đây hơn, các nhà tâm linh thế kỷ XX tuyên bố tiếp xúc được với các linh hồn từ lục địa đã mất tích và được họ khuyên nhiều điều hay để giải quyết những bế tắc của cuộc sống hiện đại. Tất nhiên không thể có bằng chứng ủng hộ những tuyên bố huyễn hoặc như thế.

Quan điểm của Plato

Không thể nghi ngờ một sự thật là Plato đã dùng kiến thức lịch sử để dựng nên các cuộc đối thoại về lục địa Atlantis của ông. Dường như đã có nhiều câu chuyện về thảm họa tự nhiên tàn phá một quốc gia hùng mạnh hơn 1.000 năm trước thời Plato, và ông đã dùng chúng để chuyển bức thông điệp của mình.

Tuy nhiên, những người ủng hộ việc thảo luận chỉ riêng trên khía cạnh văn học của Critias cũng nhận thấy rằng, Plato không định viết sử, nhưng một số phần trong truyện đã được dùng có chủ ý như những ẩn dụ đạo đức mà ông muốn thảo luận. Chẳng hạn trong cuốn Atlantis bị phá hủy, Rodney Castleden cho rằng, Atlantis của Plato là tổng hợp của đảo quốc Crete và Thera, cũng như cần nhận thấy rằng, một phần câu chuyện dành để kể về lịch sử đương thời của Hy Lạp, gồm cả cuộc chiến tranh giữa Athens và xứ Sparta.

Cuối cùng cần phải thấy rằng, mô tả Atlantis trong Critias tuy rất gần với thực tiễn của các xã hội cổ đại nhưng lại nằm ngoài chủ đích của Plato. Với Plato, Atlantis không phải là một nền văn minh, mà là một phương tiện truyền bá tư tưởng. Những gì ông đặt vào miệng Critias không được sáng tạo như những bằng chứng lịch sử, mà được dùng cho một chức năng quan trọng hơn đối với ông, vốn là triết gia chứ không phải là nhà sử học. Để lập thuyết, Plato cần hư cấu Atlantis như một đối thủ không thể vượt qua. Mô tả chi tiết về Atlantis là cách Plato gây ấn tượng với người đọc về sự giàu có vật chất, sức mạnh công nghệ và lực lượng quân sự.

Vậy câu chuyện về một Athens nhỏ hơn, nghèo nàn hơn, công nghệ lạc hậu và thế lực yếu hơn mà lại chiến thắng cái đảo quốc hùng mạnh ấy đã chuyển đến cho chúng ta bức thông điệp gan ruột của Critias: Cái quyết định lịch sử không phải là của cải hay sức mạnh mà quan trọng hơn là cách thức quản lý xã hội và con người. Đối với Plato, thành tựu trí tuệ của một xã hội có vai trò quan trọng hơn và luôn luôn vượt trên của cải hay sức mạnh vật chất. Đó chính là điều mà Plato muốn nói với chúng ta.

Bí ẩn người ngoài hành tinh trong sử thi Gilgamesh

Vào đầu thế kỷ XX, các nhà khảo cổ đã từng có một phát hiện gây xôn xao ở núi Kujujik, đó là một bộ sử thi anh hùng đầy hấp dẫn. Bộ sử thi này được khắc trên 12 bản bằng đất, nó vốn được bảo quản trong Thư viện Azonibo của Quốc vương Azo, được viết bằng chữ Akko.

Sau này, người ta còn phát hiện ra quyển thứ 2 thuộc về nhà vua Hammourabi (1848-1806 trước Công nguyên) Vương quốc Cubabilon.

Đây là bộ Sử thi Gilgamesh có giá trị lịch sử và văn học rất lớn. Tất cả giới khoa học đều công nhận rằng, Sử thi Gilgamesh nguyên bản của nó xuất phát từ người Sumer. Người Sumer là một dân tộc thiện chiến, cho tới nay chúng ta cũng chưa rõ được nguồn gốc của dân tộc này, chỉ biết rằng họ đã để lại 15 số tự làm con người ngày nay kinh ngạc, những kiến thức về thiên văn toán học vô cùng tiên tiến.


Sử thi Gilgamesh bản bằng đất (Ảnh: malaspina)

Ở bản thứ nhất của Bộ sử thi Gilgamesh miêu tả một con quái vật Anjitu được Nữ thần Aru tạo ra. Toàn thân Anjitu mọc đầy lông dài. Nó ăn cỏ, và uống nước ở chỗ trũng như bò, nó còn thích nô đùa ở chỗ có nước sôi nóng bỏng. Vua của Thành Uruk nghe nói đó là một sinh vật xấu xí, bèn đề

nghị cho nó một người con gái xinh đẹp, làm như vậy để nó có thể rời xa đàn bò. Anjitu bị Vua dùng kế bắt được, và cho cùng sống với người phụ nữ đẹp mê hồn nửa thần nửa người, được 6 ngày 6 đêm.

Trên bản thứ 2 kể rằng, người anh hùng Gilgamesh luôn luôn chiến thắng đã cho sửa chữa lại tường Thành Uruk. Vị thần này sống trong một cung điện rộng lớn, bên trong có cả kho lương thực, trên tường thành đều có vệ sỹ đứng gác, tuần tra canh phòng. Gilgamesh là dòng máu pha trộn giữa người với thần, 1/3 là người còn 2/3 là thần. Tín đồ hành hương đến Thành Uruk đều run rẩy khi ngửa mặt lên nhìn ông ta, bởi vì người ta chưa bao giờ nhìn thấy một người to khỏe và đẹp trai đến như vậy. Tập thơ tự sự này lại một lần nữa đề cập đến vấn đề giao phối giữa người với thần.

Bản kể thứ 3 kể rằng, từ nơi xa một cơn lốc bụi cuốn tới làm kinh thiên động địa, bụi cát mù trời. Thần Mặt trời xuất hiện, ông ta dùng một móng vuốt rất lớn quặp lấy Anjitu. Ở đây mô tả Thần Mặt trời như một mũi khoan nặng nề cắm vào người Anjitu, nặng nề đè lên như một cái thớt cối. Con người ngày nay ngạc nhiên và khó lý giải. Phải chăng, người nguyên thủy đã tự biết rằng, dưới một gia tốc nhất định, cơ thể con người có thể lao mạnh như một mũi khoan? Ngày nay, chúng ta đã biết được gia tốc của lực hấp dẫn, phi công vũ trụ khi cất cánh bị một gia tốc trọng lực ép chặt xuống ghế, điều này đã được tính toán kỹ từ trước. Nhưng người nguyên thủy tại sao lại có thể hiểu được những kiến thức ấy?

Bản thứ 6 kể rằng, Gilgamesh và Anjitu đã cùng nhau đi đến nơi ở của thần. Đứng từ rất xa họ đã nhìn thấy ngọn tháp rực rỡ, vô cùng huy hoàng tráng lệ. Đấy là nơi ở của nữ thần Oninis. Hai hiệp sỹ thận trọng lấy tên và đạn bắn các vệ sỹ, nhưng đều bị bắn trả lại, các vệ sỹ không hề bị xây xước. Hai hiệp sỹ vội vàng áp sát cung điện, lúc đó đột nhiên nghe thấy một tiếng gầm khủng khiếp: "Hãy quay về đi!! Phàm là người nào đã đến núi thánh nơi ở của thần, nếu người nào chỉ cần nhìn thấy mặt thần thì người đó sẽ nhận lấy cái chết". Trong Kinh thánh cũng có đoạn ghi như vậy "Người không thể nhìn được mặt ta, người nhìn mặt ta sẽ không thể sống được".

Bản thứ 7 thuật lại cảnh loài ngoài lần đầu tiên nhìn thấy Trái đất từ Vũ trụ. Anjitu bị móng đồng của con chim ưng lớn quắp lấy bay trong không trung. Trong sách ghi lại như sau:

Ngài nói với ta rằng: "Mi hãy nhìn xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái gì? Mi hãy nhìn lại biển xem biến giống cái gì? Mặt đất giống ngọn núi cao, mặt biến giống như một cái hồ. Bay thêm một giờ đồng hồ nữa, lại hỏi ta "Mi hãy nhìn xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái gì? Mi hãy nhìn lại biển xem biển giống cái gì?" Mặt đất lúc này giống như một khu vườn, mặt biển giống như một bồn nước trong vườn hoa. Lại bay thêm 4 tiếng nữa hỏi: "Mi hãy nhìn xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái gì? Mi hãy nhìn lại biển xem biển giống cái gì?" Mặt đất như cháo loãng, mặt biển như chậu nước".

Nhất định phải có một sinh vật nào đó đã nhìn Trái đất từ trên trời cao. Ở bản này còn kể rằng, một cánh cửa đã nói giọng như một con người, điều này khiến người ta nghĩ ngay tới phát thanh.

Đến bản thứ 8, Anjitu đã từng nhìn thấy Trái đất từ trên cao ấy đã bị chết vì một bệnh rất lạ. Gilgamesh hỏi có phải Anjitu đã bị trúng khí độc do một loài dã thú trên trời có thể gây nên một chứng bệnh không thể điều trị liệu được ở người.

Bản thứ 9, kể lại câu chuyện Gilgamesh vô cùng thương tiếc người bạn Anjitu bèn quyết định lặn lội dặm trường đi tìm thần, bởi vì ông ta lúc nào cũng nghĩ rằng sẽ chết bì căn bệnh giống như bệnh của Anjitu. Gilgamesh đi đến chân 2 ngọn núi chống trời, vắt ngang qua 2 ngọn núi là Cổng Mặt trời. Trước Cổng Mặt trời, ông ta đã gặp 2 người khổng lồ. Phải thương lượng cả một ngày, Gilgamesh mới có thể vào được. May mắn vì ông ta 2/3 là thần, nên một lát sau Gilgamesh đã tìm thấy vườn hoa của thần ở bên một bờ biển rộng lớn. Khi Gilgamesh đang trên đường đi, thần đã cảnh cáo ông ta 2 lần: "Hỡi Gilgamesh, mi đi đâu? Mi không tìm được tính mạng mà mi muốn đâu. Khi thần tạo ra người, thì đã xếp đặt trước vận chết rồi, còn tính mạng là do thần tự thân nắm quản". Gilgamesh không nghe khuyến cáo, quyết tâm tiến bước, cho dù có bao nhiêu nguy hiểm, ông ta

nhất định phải đến được nơi ở của Utenapise. Nhưng Utenapise lại ở một bờ biển rất xa xôi, ở đó không có đường đi, ngoài con tàu của Thần Mặt trời ra thì không có một con tàu nào khác có thể bay được qua biển rộng. Gilgamesh đã vượt qua bao nguy hiểm, biết dựa vào trí thông minh của mình để vượt qua biển rộng.

Về sau, bản thứ 10 đã tả lại cảnh ông ta tới gặp Utenapise, cha của loài người có eo lưng không thô hơn eo lưng ông, vai cũng không rộng lớn, mà là người có vóc dáng như ông ta. Utenapise nói rằng, 2 người trông rất giống cha họ. Tiếp đó, Utenapisa kể lại cho Gilgamesh nghe những việc mà Gilgamesh đã trải qua, kỳ lạ là ông ta lại dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất để kể. Thật ngạc nhiên là Utenapise đã miêu tả hết sức tỷ mỷ nạn Hồng Thủy. Ông ta kể rằng, thần đã cảnh cáo ông ta có nạn Đại Hồng Thủy, để ông ta đóng một con thuyền, dùng để cứu trẻ em, phụ nữ, những người thân của ông ta cùng với các nghệ nhân của các ngành nghề. Ông ta đã miêu tả nhiều cảnh phong ba bão táp, nước thủy triều ầm ầm dâng cao màn đêm đen đặc cùng với những con người mà ông ta không thể cứu vớt hết được, cho đến ngày nay cảnh tượng ấy vẫn còn sinh động và có sức cuốn hút kỳ lạ. Câu chuyện này thật giống với câu chuyện của Noê trong Kinh Thánh, chúng ta lại được nghe câu chuyện thả quạ và chim bồ câu, câu chuyện sau khi nước rút thuyền bị mắc cạn trên một ngọn núi.

Căn cứ vào những miêu tả ở trên, chúng ta có thể đặt một giả thiết về lịch sử mơ hồ của loài người như sau: Từ thuở rất xa xưa, có một phi thuyền Vũ trụ không rõ từ đâu phát hiện ra sự tồn tại của hành tinh chúng ta. Họ nhanh chóng hiểu ra rằng, Trái đất có đầy đủ điều kiện thuận lợi cho việc phát triển trí tuệ con người. Đương nhiên thời ấy loài người trên Trái đất không phải là loài người chúng ta bây giờ.

Người ngoài hành tinh đã thụ tinh cho một số phụ nữ ở Trái đất, giống như lời kể trong truyện thần thoại, họ đợi cho những phụ nữ này ngủ say rồi bỏ đi. Mấy nghìn năm sau, những người khác ngoài hành tinh lại tới Trái đất, họ tìm thấy sản phẩm là hậu duệ của họ để lại. Họ lại tiếp tục tiến hành giao phối nhiều lần cho đến khi tạo ra được một loại sinh vật có trí tuệ để họ có thể truyền thụ cho loài sinh vật này kỹ năng sinh tồn và những quy luật sống của xã hội.

Loài người thời đó là loài dã man chưa được khai hóa, họ rất có thể bị thoái hóa nên một lần nữa giao phối với dã thú. Người ngoài hành tinh đã nhìn thấy mối nguy hiểm này, nên đã tiêu diệt cái sản phẩm không thành công của họ, hoặc đem chúng đến một vùng đất khác. Vì vậy, xã hội nguyên thủy, kỹ năng nguyên thủy nhất đã bắt đầu xuất hiện, những  bức tranh vẽ trên vách đá và trong hang động, làm ra đồ gốm, rồi tới những kiến thức ban đầu về việc dựng nhà ở, từng thứ một cứ dần dần xuất hiện. Những người nguyên thủy này vô cùng sùng kính những người khách tới từ trời cao. Bởi vì những vị khách này tới từ một nơi mà loài người không hề biết, hơn nữa sau này họ lại bỏ đi mất.

Trong tâm thức của loài người, họ là thần thánh, họ là Thượng đế.



Bí mật Cửa Mặt trời

Cập nhật lúc 09h20' ngày 25/05/2006

Ở góc Tây Bắc Quảng trường Carachacha trong Thành Tiahuanaco có một bức điêu khắc bằng đá vô cùng lớn và rất nổi tiếng, đó là Cửa Mặt trời - Là một trong những kỳ tích của nền văn minh cổ xưa có tiếng nhất Đại lục Nam Mỹ.

Cửa Mặt trời do một tảng nham thạch cực lớn trên núi tạo thành một cách hoàn chỉnh: cao 3,1m; rộng 3,96m và nặng hơn 10 tấn. Sở dĩ người ta gọi nơi đây là Cửa Mặt trời vì vào ngày 21 tháng 9, tiết Thu phân hàng năm, những tia nắng bình minh đầu tiên luôn chiếu rọi xuống mặt đất ở giữa cửa đá này.

Những người đã nhìn thấy Cửa Mặt trời, không ai là không bị khuất phục trước vẻ đẹp hùng vĩ của nó. Trên Cửa Mặt trời có khắc các hình vẽ rất tinh xảo, trong đó nổi bật nhất là hình vẽ Lịch Mặt trời tô điểm trên mi cửa theo chiều ngang. Chính giữa Cửa Mặt trời khắc tượng Phi thần (Thần biết bay). Theo truyền thuyết, ông chính là thánh nhân đã du nhập các loại hình nghệ thuật và chế độ vào Nam Mỹ. Đầu bức tượng đội vương miện vô cùng uy nghiêm, trong tay cầm gậy tô điểm bởi chim tọa sơn điêu, thần sắc mười phần nghiêm túc, 2 hàng lệ nhỏ xuống từ khóe mắt. Đứng hầu 2 hàng trên dưới Phi thần là các dũng sỹ oai phong. Phần dưới của Lịch Mặt trời khắc một loại đồ hình, chúng được xếp liên tục thành hình Kim Tự Tháp. Ngoài ra, ở đó còn vẽ vô vàn các đồ án và văn tự, cho đến nay vẫn chưa lý giải được hàm nghĩa của nó.

Đứng trước Cửa Mặt trời, người ta luôn đặt câu hỏi: "Cư dân của Thành Tiahuanaco cổ đại tại sao phải kiến tạo cửa đá lớn như vậy?".

Xét từ điểm tia nắng Mặt trời đầu tiên xuyên qua Cửa Mặt trời và

tiết Thu phân thì rõ ràng đây là một kiến trúc có liên quan đến lịch pháp. Rất nhiều học giả cho rằng, hầu hết các hình và ký hiệu được khắc trên Cửa Mặt trời đều có liên quan đến lịch pháp.

Nhưng những ký hiệu này biểu đạt lịch pháp như thế nào? Người Tiahuanaco làm thế nào để tính toán chính xác mối quan hệ giữa các tia nắng Mặt trời vào tiết Thu phân với vị trí của Cửa Mặt trời.

Trong cuốn sách "Hiện tượng ngẫu nhiên của Tiahuanaco", hai nhà khoa học Bellermi và Aluan đã nghiên cứu tỉ mỉ các đồ án và ký hiệu của Cửa Mặt trời. Họ cho rằng, phía trên của Cửa Mặt trời đã ghi lại số lượng lớn kiến thức thiên văn, sớm nhất 2.700 năm về trước, mà những tri thức này được tạo nên trên cơ sở Trái đất là hình tròn. Điều này một lần nữa làm cho mọi người đặt câu hỏi: "Người Tiahuanaco tiền sử lẽ nào lại tồn tại ở một nền văn minh đạt đến trình độ cao như vậy?".

Khi khảo sát Cửa Mặt trời, học giả Hanke người Anh đã phát hiện thấy trên mi Cửa Mặt trời còn khắc những hình động vật thời tiền sử kỳ dị nằm ngoài ý muốn. Loại động vật này có hình thể béo tốt, bốn chân hơi thô, dường như nó là loài tạp giao giữa hà mã và trâu.

Trong giới động vật ngày nay, dường như từ lâu đã không tồn tại loài động vật nào giống như vậy. Nhưng các nhà sinh vật cổ vừa nhìn thấy chúng đã nhậ

Tượng phi thần (Ảnh: dudeman)

n ra ngay loại động vật hình thù chậm chạp trong hình vẽ là thú răng hở - một loài động vật thời tiền sử đã tiệt chủng.

Kết quả nghiên cứu chỉ rõ: Thú răng hở sống từ 1.600.000 đến 12.000 năm trước, có lẽ nó là động vật thuộc loại lưỡng cư, có tập tính sinh hoạt giống hà mã ngày nay. Nó là loài động vật có móng phổ biến nhất ở đại lục châu Mỹ đương thời. Loài động vật này dài khoảng 2,8m; cao 1,4m; có 3 ngón chân giống trâu nhưng lại thấp và không có sừng, giữa răng cửa có kẽ hở lớn, do vậy được gọi là thú răng hở. Nhưng nó sớm bị tuyệt chủng từ 12.000 năm trước. Ngày nay, những hiểu biết của con người có được về loài động vật này là từ các hóa thạch đã được phát hiện.

Vậy, tại sao loài động vật thời tiền sử đã tiệt chủng lại được vẽ trên Cửa Mặt trời? Có hơn 47 chỗ trên mi Cửa Mặt trời đều điêu khắc hình tượng của thú răng hở. Loài động vật xấu xí này không chỉ xuất hiện trên Cửa Mặt trời mà còn thấy chúng vẽ ở bất kỳ nơi nào trên các mảnh gốm vỡ cùng thời đại, trên một vài tác phẩm điêu khắc vẫn còn có hình thể hoàn chỉnh của nó.

Thực ra, các hình vẽ động vật cổ đại trên Cửa Mặt trời và Feijin chỉ có một loài thú răng hở. Trên các hình vẽ ở Cửa Mặt trời còn có một loài động vật mọc ngà và mũi dài như voi. Ngày nay, loài voi lớn ở Nam Mỹ đã bị diệt chủng. Nhưng theo các tài liệu nghiên cứu, ở thời tiền sử, châu Nam Mỹ đã từng tồn tại một loài động vật giống như loài voi có tên khoa học là Juxiak.

Những bức đồ án quây quanh tượng Phi thần
(Ảnh: dudeman)

Chúng thuộc loài động vật mũi dài, sinh sống đông nhất ở khu vực Tiahuanaco, đoạn phía Nam mạch núi Altis. Nhưng loài động vật này cũng sớm bị tiệt chủng từ khoảng 1 vạn năm trước Công nguyên.

Loài động vật đã bị tiệt chủng từ khoảng hơn một vạn năm trước, nhiều lần xuất hiện ở Thành cổ Tiahuanaco thể hiện điều gì? Nó chỉ có thể chứng minh những người đầu tiên xây dựng thành Tiahuanaco thường nhìn thấy loài động vật này, loài voi thực sự chứ không phải căn cứ vào trí tưởng tượng để vẽ nên các hình thú răng hở trên Cửa Mặt trời. Do vậy, chúng ta có thể đưa ra phán đoán, niên đại xây dựng thành Tiahuanaco và Cửa Mặt trời không thể muộn hơn từ cuối thời kỳ canh tân đến trước 1 vạn năm trước Công nguyên.

Nhưng Kim Tự Tháp Ai cập được xây dựng khoảng 2.600 năm trước Công nguyên. Trong khi đó, nền văn minh Sumer sớm được công nhận nhất trên Thế giới cũng chỉ bắt đầu từ 3.300 năm trước Công nguyên. Lịch sử loài người di cư đến châu Mỹ được dự tính khoảng 1 vạn năm trước Công nguyên mà thời gian đến châu Mỹ lại càng muộn hơn. Vậy 12.000 năm trước, ai là người xây dựng nên thành Tiahuanaco hùng vĩ và Cửa Mặt trời vô cùng kỳ diệu đó, trong khi thế giới đương thời vẫn trong cảnh mômg muội tối tăm?

Điều càng làm cho người ta nghi hoặc là Cửa Mặt trời - Một kiệt tác ngày nay không gì có thể sánh kịp lại không được hoàn thành trọn vẹn. Đó là trên mi cửa lộ rõ những hình vẽ còn dang dở. Không lẽ, đột nhiên có một ngày công việc điêu khắc bỗng dừng lại? Vậy nơi đây bổng xảy ra sự việc gì hay đó là một tai nạn bỗng nhiên ập đến?

Cửa Mặt trời (Thái Dương môn) - Cánh cửa thần bí - Cửa của trí tuệ

Hồ thủng ở Kirghizistan

Cập nhật lúc 10h13' ngày 20/05/2006

Kirghizistan, miền trung Á, được nuôi dưỡng bởi các đỉnh núi cao đến 7.000 mét, con sông băng Inylchek chứa đựng một bí ẩn chưa giải thích được từ trăm năm nay, nó là duy nhất trên thế giới mà cứ mỗi mùa hè, hồ Merzbacher ở đó lại cạn khô nước trong 3 ngày. Tại sao?

Các câu hỏi này đặt ra từ đúng một thế kỷ nay, khi nhà địa chất người Đức Gottfried Merzbacher khám phá chiếc hồ năm 1904 (và từ đó nó được mang tên ông). Với mong muốn phá vỡ bí ẩn của hồ Merzbacher, một đoàn thám hiểm quốc tế do GFZ Berlin tiến hành đã lên đường đến chiếc hồ này vào mùa hè năm nay. Lần đầu tiên, các nhà khoa học cố gắng trả lời câu hỏi đó.

Con sông băng khổng lồ Inylchek dài 65 km, với hai nhánh chính hội tụ nhau cách đoạn cuối sông 15 km. Tại chỗ giao nhau của hai nhánh, ở độ cao 3.300 m, đó là hồ Merzbacher, sâu 130 mét, một phần bị bao phủ bởi các núi băng trôi. Mỗi năm, nước hồ rút sạch đi trong 3 ngày, vào khoảng đầu tháng 8.

Điều không thể đã diễn ra. Vào lúc 16h ngày 6/8/2004, hồ Merzbacher bắt đầu tự tháo cạn nước đi! Cứ mỗi năm, hiện tượng lạ lùng trên lại xảy đến vào thời gian này. Với vẻ ngoài bình lặng, lượng nước đông giá của nó dần dần đổ vào đáy sâu của con sông băng Inylchek. Thấp hơn 30 km và sau vài giờ, đến lượt thung lũng bao la bị ngập nước. Từ một con sông khiêm tốn trên núi, Inylchek đã trở thành một đại dương hung dữ, chiếm trọn cả không gian. Trong 3 ngày đêm, chiếc hồ tháo sạch 250 triệu m3 nước của mình, chỉ để lại trong lòng hồ một thảm các khối băng khổng lồ u buồn. Ngày 9/8, hiện tượng nước rút hoàn tất trong thung lũng. Con sông băng chấm dứt sự thay hình đổi dạng của nó. Còn hồ Merzbacher đã trống rỗng. Nhờ điều kỳ diệu nào mà chiếc hồ bắt nguồn từ sông băng này có thể tự tháo nước đi trong vòng 3 ngày? Nước đã chảy đi đâu? Sự tháo sạch nước đã xảy ra như thế nào? Và bằng cách nào hồ lại đầy nước trở lại?

Ngày 19/7/2004. Khi đến Bichkek, thủ đô Kirghizistan, khó khăn đã lộ ra. Serguei Dushavili, một trong những lãnh đạo của đoàn thám hiểm, thông báo: "Có thể chúng ta buộc phải dùng ngựa cho 4 ngày đường, nếu như trực thăng không sử dụng được". Không thể bỏ lại những người Nga, chiếm đại đa số trong đoàn, cho dù ở Kirghizistan chỉ có một chiếc trực thăng duy nhất. Nhưng rồi cuối cùng một chiếc MI-8 khổng lồ cũng xuất hiện đón chúng tôi sau hai ngày đường vất vả trên con đường xấu.

Chúng tôi dựng lên hai trại, cách nhau 20 km: một trại nằm dưới chân con sông băng, nơi mà sông Inylchek bắt nguồn và trại thứ hai nằm ngay trên con sông, đối diện với hồ Merzbacher. Trong liên lạc vô tuyến hằng ngày với nhau, chúng tôi gọi tên hai trại lần lượt là Paliana và Basa. Con sông băng được chia cắt thành nhiều khu vực, từ tây sang đông, và mỗi êkip chịu trách nhiệm nghiên cứu các khu vực gần với trại của mình. Lúc này hồ còn đầy nước, do chúng tôi đã quan sát trước bằng máy bay vào buổi sáng. Thậm chí là rất đầy nước, theo các phi công thường bay tới đây để thả các nhà leo núi xuống chân ngọn núi Khan Tengri cao 7.000 mét. Trong tháng 7, hồ Merzbacher đạt mức lưu lượng nước kỷ lục.

Mỗi người một giả thuyết riêng

Đặc điểm của mỗi cuộc thám hiểm là sự may rủi đè nặng trước các bí ẩn của tự nhiên. Cuộc thám hiểm của chúng tôi cũng không thoát khỏi quy luật đó. Chúng tôi muốn có nhanh những câu trả lời sau khi có mặt tại hiện trường được vài hôm. Tuy nhiên, cuộc thám hiểm được lên chương trình cho 4 năm. Mục tiêu của năm đầu tiên này là thiết lập mạng lưới các điểm GPS, để đo đạc, nhờ vào các vệ tinh định vị mọi sự di chuyển của con sông băng. Tiến sĩ Wasili Michaljow, trưởng đoàn thám hiểm, dự đoán: "Có lẽ chúng ta sẽ có nhiều câu trả lời vào vài tuần nữa. Nhưng hiện thời chúng ta nên giảm thiểu bớt các giả thuyết". Mặc dù vậy, các giả thuyết vẫn kích thích trí tò mò của mọi người. Lúc đó, Serguei Dudashvili đưa ra giả thuyết của mình:

Đã không có bất kỳ một lỗ thủng nào cho phép hồ Merzbacher tháo nước đi, nhưng nhiều miệng lỗ bị tắc nghẽn do các khối băng khổng lồ. Vào mùa đông, các khối băng này vẫn còn áp sát bề mặt đáy nhiều lỗ xốp như là một loại rào cản tự nhiên. Nhờ thế mà chiếc hồ ngập nước, vì các "nắp van" vẫn bị đóng lại do hiệu quả của áp suất và nhiệt độ thấp. Khi mùa hè đến, nước nóng dần lên và các khối băng to bắt đầu tan chảy, cho đến lúc mà - theo Serguei - chúng mất đi sự bám dính, đột ngột trồi lên bề mặt. Hiện tượng này tương ứng với sự mở đột ngột các "nắp van". Một giả thuyết như thế chỉ có thể đứng vững nếu như mực nước hồ dâng lên về phía hạ lưu cũng đột ngột không kém. Do đó chúng ta còn phải chờ đợi để biết sự thật nằm ở đâu.

Ngày 28/7/2004. 6 ngày đã trôi qua kể từ lúc chúng tôi đặt chân đến trại Paliana. Chúng tôi kẻ ô vuông khu vực một vùng khoảng 10 km. Độ cao trung bình 3.000 mét. Vì lý do an toàn, trại của chúng tôi nằm ở phía tây con sông Inylchek, điều đó khiến chúng tôi buộc phải lội nước để đến con sông băng. Nhiệt độ nước là 1 độ C.

Trong khi chúng tôi lắp đặt các cột mốc trên khu vực cuối sông băng, nhà nghiên cứu hang động Wasili Filipienko xác định được hai hang động khổng lồ. Ở cách hồ chưa đầy 2 km, hai hang này có thể nằm trong mạng lưới thủy văn tiêu nước của chúng. Trong thời kỳ "nóng", sự tan chảy và lưu lượng nước đóng băng trong hai hang động trên, không kể đến chiếc hồ đang đe dọa rạn vỡ bất cứ lúc nào, không cho phép các nhà khoa học thăm dò chúng được. Sau hai lần mạo hiểm thâm nhập hang bất thành, chúng tôi đành bỏ cuộc. Công việc nghiên cứu hang động phải rời sang mùa thu.

Ngày 1/8/2004. Như không màng đến sự chờ đợi của đoàn thám hiểm, hồ Merzbacher vẫn cứ đầy nước. Serguei lúc đó đề nghị tiến về hướng nam. Ở đây sông băng rộng hơn, khoảng 4 km và đặc biệt xáo trộn. Từ trại chúng tôi, phải mất 3 giờ đi bộ mới đến được vùng đất bí mật tách nước khỏi hồ, khỏi con sông băng nói riêng. Chúng tôi biết chiếc hồ thủng nằm tại vùng này, nhưng không có ai đến được đó. Điều gì xảy ra trong cái rào chắn tự nhiên này? Sự chuyển tiếp giữa yếu tố nước và băng đã diễn ra như thế nào?

Yếu tố đơn giản, và rất có thể giải thích cho sự tồn tại của chiếc hồ, là sự dâng lên của băng từ nhánh nam của con sông băng tại nơi này. Thay vì tan chảy cùng nhánh bắc trong một chữ Y hoàn hảo, như mọi con sông băng trên thế giới, nhánh này lại dâng lên hình thành một rào cản băng giá khiến nước hồ Merzbacher được giữ lại.

Chúng tôi không bao giờ đến được bờ nam của hồ. Càng đến gần, các núi băng càng to ra, hòa vào nhau và tạo ra nhiều khe nứt. Chúng tôi có một điều chắc chắn: mặt băng dâng lên này của nhánh nam là nguyên nhân của hiện tượng hồ thủng duy nhất trên thế giới. Không có sự bất thường này sẽ chẳng có chiếc hồ. Trong một thế kỷ, hồ Merzbacher dịch chuyển từ 2 đến 3 km đến hạ lưu. Từ nay rào cản băng giá rất gần chỗ giao nhau của hai nhánh sông, và có lẽ hồ sẽ biến mất trong một tương lai khá gần.

Ngày 3/8/2004. Kết thúc cuộc thám hiểm tạm thời. Chiếc hồ vẫn đầy nước. Tôi quyết định ở lại một mình cho đến lúc hồ cạn nước. Không phải tại trại Basa, nơi khó quan sát, mà trong thung lũng, cách 30 km về phía dưới, nơi hiện tượng dâng nước sẽ rất ngoạn mục.

Ngày 5/8/2004. Tatiana chia sẻ với tôi nhiều dấu hiệu cho thấy chiếc hồ bắt đầu rút nước. Những điểm nước mới xuất hiện trong lòng sông. Lưu lượng sông băng Inylchek tăng dần...

Ngày 6/8/2004. Lúc 16 giờ. Lần này con sông đã gấp 3, 4 lần khối lượng. Thung lũng tràn nước. Chắc chắn chiếc hồ đang tan rã. Giả thuyết của Serguei bị loại bỏ. Lưu lượng nước không ngừng tăng lên trong 2 ngày. Rõ ràng là sự khai mở "các nắp van" không diễn ra đột ngột. Chắc chắn là sự tan chảy của các nút băng giải phóng dần dần nước của hồ Merzbacher, chứ không phải sự dâng lên mặt của các nút băng.

Cuối cùng, để giải được bí ẩn hồ thủng Merzbacher, có lẽ chúng ta phải chờ vài năm nữa...

Bí ẩn 'thung lũng chết' ở Siberia

Yakutia (Ảnh: skitalets)

Nằm ở phía Tây Bắc Yakutia - Siberia, gần thượng lưu sông Viliuy có một thung lũng kỳ lạ, nơi dấu vết của nhiều sự biến đổi lớn về địa chất trong lòng đất xảy ra cách đây hàng trăm năm. Ở khu vực này, người ta còn tìm thấy các mảnh kim loại lạ nằm sâu dưới lớp đất, cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa thể xác định được thành phần hóa học của chúng. Tên gọi theo tiếng địa phương của vùng đất này là Uliuiu Cherkechekh, còn gọi là "thung lũng chết".

Khu vực này trải rộng trên một diện tích hơn 1000 km2, được bao phủ bởi các cánh rừng Taiga rộng lớn với rất nhiều đầm lầy, các miệng núi lửa và là nơi hằn in dấu vết các vụ va chạm thiên thạch với Trái đất.

Xưa kia, vùng đất này là nơi qua lại của những người dân du mục Evenk. Họ đến từ Bodaibo, qua Annybar để ra biển Laptev. Những người du mục kể lại rằng, họ thường thấy những tấm kim loại có màu sắc giống như đồng, nhưng rất cứng và sắc, có thể cắt được kim loại khác một cách dễ dàng. Mỗi tấm có đường kinh từ 6-8m, bao phủ bên ngoài lớp vỏ kim loại là một lớp giống như bột mài. Khi dùng dao để cứa vào nó, người ta không thấy bất kỳ một vệt xước nào để lại trên bề mặt. Qua phân tích, các nhà khoa học nhận thấy những tấm kim loại này là mảnh vỡ của các khối hình tròn lớn chứa đủ nhiều người bên trong.

Mảnh vỡ của các khối hình tròn lớn
(Ảnh: bibliotecapleyades)

Năm 1936, trong lúc thám hiểm "thung lũng chết", một nhà địa chất học người Nga đã phát hiện ra một khối bán cầu bằng kim loại có sắc đỏ, nhô lên từ mặt đất. Khối bán cầu này đủ lớn để chứa 2 người nằm gọn bên trong. Khi đó, nhà địa chất chưa có đủ dụng cụ đo đạc cần thiết cũng như kiến thức để xác định đó là cái gì. Đến năm 1979, một nhóm khảo cổ khác đến nơi này cùng nhà địa chất người Nga trên, thì mặt đất ở đó đã trống trơn.

Những người dân sống ở gần 'thung lũng chết" kể rằng họ tận mắt chứng kiến nhiều hiện tượng lạ xảy a ở khu vực, như các khối cầu khổng lồ bay lên từ lòng đất, phá nổ và bắn ra các mảnh kim loại trên, hiện tượng sét khô, sét hòn và dấu vết để lại của các vụ va chạm thiên thạch đến từ ngoài Trái đất. Nhiều người cho biết họ đã tận mắt chứng kiến các khối cầu lửa hình nấm bốc lên trời như vụ nổ của một quả bom hạt nhân. Đặc biệt, người ta nhận thấy ở đây cây cỏ mọc không giống cây cỏ tự nhiên. Chúng rất xanh tốt, lá rộng hơn bình thường và có rất nhiều nhánh. Cỏ cũng rất lớn và có chiều cao gấp đôi thân người.

Một trong những truyền thuyết kỳ lạ nhất về "thung lũng chết" được những người dân du mục Yakut kể lại rằng: "Vào một ngày nọ, giữa lòng thung lũng đột nhiên bị bao phủ bởi các đám mây mù xám xịt và bị sét đánh dữ dội. Một cơn lốc xoáy khổng lồ bốc lên từ dưới mặt đất, bụi bay mù mịt hàng trăm dặm. Vật thể lạ này có màu

Ánh sáng rực rỡ lan tỏa, sau đó là những tiếng nổ inh tai (Ảnh: nexusmagazine)

đỏ giống màu đồng và phát ra những âm thanh rất chói tai. Ít lâu sau, nó biến mất dưới lòng đất sâu, để lại miệng hố khổng lồ có bán kính rộng đến 20m. Người ta kể lại rằng, bất cứ ai tò mò muốn đến gần miệng hố xem điều gì đã xảy ra đều không bao giờ quay trở lại. Sau đó ở khu vực này xuất hiện các khối cầu lửa khổng lồ vọt lên từ dưới mặt đất. Khi chạm đất, chúng gây ra các tiếng nổ khủng khiếp và tạo ra các hố sâu đến 100m ở khu vực núi bao quanh thung lũng. Sau khi xảy ra các vụ nổ trên, những người dân du mục phải rời bỏ nơi đây để tìm đến các vùng đất an toàn hơn cho cuộc sống của họ".

Theo các nhà khoa học, những vụ nổ kỳ lạ trong truyền thuyết trên rất giống với các vụ nổ hạt nhân ngày nay. Họ cũng phát hiện ra rằng, những tàn tích còn sót lại ở "thung lũng chết" có nhiều điểm gần giống với những bí ẩn của nền văn minh cổ đại Maya thuộc Mexico (đã biến mất từ năm 830 sau ảnh hưởng của một vụ nổ được tạo ra bởi một sức mạnh bí ẩn mà cho đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân). Đặc biệt, ở "thung lũng chết" vào một số thời điểm nhất định trong ngày, các nhà khoa học đã đo được mức phóng xạ cao hơn bình thường từ dưới lòng đất.

Các nhà khoa học cho rằng, ẩn sâu dưới lớp đất của "thung lũng chết" tồn tại sự hoạt động mạnh của các dòng từ trường. Do trước đây quân đội Liên Xô đã chọn nơi này để thử nghiệm vũ khí hạt nhân nên trữ lượng phóng xạ còn sót lại kết hợp với từ trường trong đất đã khiến cho vùng này bị nhiễm xạ nặng. Mặc dù vậy, người ta vẫn chưa giải thích được nguồn gốc của các tấm kim loại lạ được tìm thấy ở đây và chưa phân tích được thành phần hóa học của nó. Một số người thậm chí cho rằng đây chính là mảnh vỡ của các đĩa bay đến từ ngoài Trái đất, vì nhiều người ở khu vực này đã tận mắt chứng kiến các vật thể lạ phát sáng bay lên từ lòng thung lũng. Cho đến nay, những bí ẩn về vùng đất này vẫn chưa được sáng tỏ.

Quả trứng khổng lồ trong vũ trụ từ đâu mà có?

"Vũ trụ ngày mai", tạp chí khoa học Công hòa liên bang Đức đưa tin, một phi thuyền vũ trụ Liên Xô đi thăm dò hệ Mặt Trời đã gặp một quả trứng khổng lồ màu xanh xám trong Vũ Trụ, lúc đó hai bên chỉ cách nhau mấy dặm Anh.

Smith, nhà thiên văn học Đức đã nói với tạp chí đó: "Tôi là cố vấn phân tích tư liệu Vũ Trụ của Liên Xô, có dịp được trông thấy hàng trăm bức ảnh có độ phân giải cao liên quan đến quả trứng khổng lồ. Nó dài tới 700 dặm Anh, bề mặt nhẵn bóng, hinh quả trám, rất giống một quả trứng chim khổng lồ. Đương nhiên nó có thể là một sao băng hoặc một thứ rác thải vũ trụ, nhưng cũng không loại trừ khả năng nó là vật sống, có sinh mệnh".

Tháng 3 năm sau, một tờ báo Liên Xô cũng đăng tải tin đó, nói rằng đây là lần "tiếp xúc loại thứ ba" trong Vũ Trụ, xảy ra vào cuối năm 1986, nhưng cũng không nói là quả trứng khổng lồ ở vùng nào trong Vũ Trụ.

Pancơkhamốp, nhà khoa học Vũ Trụ Liên Xô nói rằng, đây có thể là lần phát hiện quan trọng nhất kể từ năm 1930 khi phát hiện ra sao Diêm Vương.

Ông nói, nếu như vật thể bí ẩn đó mà là một quả trứng thì chẳng phải có nghĩa là ở ngoài Vũ Trụ cũng có sinh vật sao, mà loài sinh vật đó còn đang sống ở ngoài Vũ Trụ.

Ông nói: "Quả trứng mà to đến như vậy, nếu như nở ra mà trưởng thành lên thì chẳng hóa ra nó phải to bằng Mặt Trăng. Và nếu như như cái sinh vật đó mà đến quấy phá Trái Đất, thì nền văn minh của loài người chắc sẽ bị hủy diệt trong một sớm một chiều, Trái Đất cũng sẽ phải rời quỹ đạo của nó, và đến ngày tận thế".

Ông tỏ ý, Liên Xô sẽ cố gắng phân tích những bức ảnh do phi thuyền vũ trụ gửi về, cho đến bao giờ có thể xác định rõ tính chất của quả trứng khổng lồ đó mới thôi.

Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng

Theo truyền thuyết lịch sử và văn hóa cổ đại, Salomon thường được gọi là một Quốc Vương lý tưởng, một Ông Vua thánh hiền. Thực ra ông ta là một bạo chúa, ông ta đánh thuế nặng nề, thực thi cưỡng bức lao động, bắt thần dân phải xây dựng một cung điện và miếu thần vô cùng tráng lệ trên Núi Jerusalem. Trong Kinh Thánh đã ghi lại chân thực câu chuyện Salomon xây dựng thần Jéhova: "Salomon cho là cần phải xây cho Thần Jéhova một cung điện thờ, cho mình một cung điện. Thế là Salomon cho tuyển 8 vạn phu khuân vác, 8 vạn thợ đục đá và 3600 đốc công đến xây dựng".

Thành Jerusalem

Theo Kinh Thánh viết: Salomon ra lệnh 20 vạn người xây dựng miếu thần đều không phải là người Israel. Ông ta lại chọn trong người Israel được 5 vạn nhân công làm lao dịch. Công trình đó kéo dài đến 7 năm. Điện thần này hướng từ Đông sang Tây dài 250m, rộng hơn 90m được xây dựng cẩn trọng chặt chẽ, nguy nga tráng lệ, phía bên trong trang trí vô cùng hoa mỹ. Thật là một tác phẩm kiến trúc tuyệt vời. Điện thần này đã trở thành trung tâm tôn giáo và hoạt động chính trị của người Do Thái Cổ, đồng thời cũng là biểu tượng của họ. Hàng ngày, các giáo đồ đến đây để bái yết và hiến tế thần linh. Đá Thánh A La được đặt giữa điện thần. Đá Thánh cao 20m rộng 15m, là một tảng đá hoa cương, được dỡ bởi hai trụ đá cẩm thạch tròn. Phía dưới Đá Thánh là Nham Đường cao 35m, bên trong có bàn thờ, trên bàn thờ đặt một hòm thánh có khắc dòng chữ "Maxi Thập giới" còn gọi là "Mười lời răn của Thánh Jéhova", Jéhova là giáo chủ của Đạo Do Thái. Trong hòm thánh, ngoài những điều răn của Thánh còn có Tây Nại pháp điển. Hòm Thánh được làm bằng vàng ròng, gọi la Hòm của Jéhova cũng còn gọi là Hòm ước vàng. Nó được người Do Thái cổ đại coi là Bảo vật giữ nước liên quan đến việc tồn vong hưng thịnh của dân tộc Do Thái. Ở phía dưới Đá Thánh A La, Salomon cho xây một căn hầm và một đường hầm bí mật. Theo truyền thuyết Salomon đã cất giấu ở căn hầm và đường hầm này rất nhiều châu báu và các đồ vật quý giá. Đó chính là Kho báu của Salomon mà cả Thế giới đều đã được nghe nói tới.

Suốt hơn 2000 năm, các hoạt động tìm kiếm Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng chưa bao giờ ngừng. Vào hồi đầu thế kỷ, có một số nhà thám hiểm người Anh đã vào Thành Jerusalem. Đầu tiên, họ dùng tiền vàng hối lộ người gác đêm. Khi đêm đã về khuya, đoàn người lặng lẽ vào điện thần, cậy tấm đá bên cạnh Đá Thánh lên, rồi đào đất xúc đổ ra bên ngoài tường. Khi trời đã sáng, họ lại khuân tấm đá đậy lại như cũ, tuyệt nhiên không để lại dấu vết gì, rồi lặng lẽ rút ra ngoài. Cứ như vậy, họ bí mật đào suốt 7 đêm liền, cái hố ngày một sâu, mà không một ai biết. Đến sáng ngày thứ 8, họ bị một thầy tu Do Thái vô tình phát hiện ra. Các tín đồ gần đấy được thậy tu khua dậy, tay dao tay gậy kéo tới vây bắt. Mấy nhà thám hiểm thấy vậy sợ quá vội vàng chạy mất. Về sau, các tín đồ phát hiện ra là người gác đêm đã bị mấy nhà thám hiểm người Anh mua chuộc, và là họ lấy đá đập chết ông ta. Từ đó, các tín đồ càng tăng cường bảo vệ điện thần về ban đêm hơn nữa.

Cũng có một số người cho rằng Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng có thể có cách đây 2000 năm. Vào năm 586 trước Công Nguyên trước khi quân của Vương quốc Babylon vào Thành Jerusalem kho báu đã được chuyển đến cất giấu ở Đường hầm bí mật Uanbu.

Hầm ngầm Uanbu có một lai lịch rất cổ xưa. Theo truyền thuyết vào hơn 3000 năm trước (khoảng Thế kỷ XI trước Công Nguyên). Jerusalem bị người Ibux xâm lược. Bố của Salomon là David chỉ huy bộ lạc vây đánh người Ibux ở Thành Jerusalem. Do Thành Jerusalem cao hiểm trở, người Ibux lại canh phòng cẩn mật, nên David mãi không hạ được thành. Một đêm, một viên tướng của David tên là Uanbu thấy khát nước quá, ông ta rời doanh trại đi xuống dưới khe suối bên thành, phát hiện ra một cái hang có dòng nước chảy ra, lại nghe thấy trong hang phát ra những tiếng như thể tiếng gầu đang múc nước. Ông ta thấy lạ quá bèn chui vào xem, chỉ thấy một chiếc gầu có sợi dây ngược lên phía trên. Nghĩ một lát ông ta hiểu rằng: Do trong Thành Jerusanlem rất thiếu nước, người Ibux sống ở đấy đã đào một đường hầm dài ra tận khe suối ngoài thành. Hàng đêm, người Ibux thường lấy nước qua đường hầm này. Uanbu lập thức báo cáo với David: Ông ta đã phát hiện ra một đường ngầm để vào thành và sau đó ông ta dẫn một toán quân ra phía hang đó rồi theo đường ngầm vào trong thành mở toang cổng thành đón đại quân của David vào đánh tan người Ibux. David nhanh chóng chiếm được Jérusalem và quyết định lấy đó làm Thủ đô của Isarel - Vương quốc của người Do Thái.

Bởi vì đường ngầm ấy là do Uanbu tìm ra, lập được công lớn nên sau này người ta gọi đó là đường hầm Uanbu. Trong Thánh Kinh cũng có nói tới câu chuyện Uanbu vào thành qua đường ngầm đánh tan người Ibux, nhưng lại không thấy nói rõ đường ngầm ấy nằm ở đâu. Hơn hai nghìn năm, mọi người vẫn ôm mối hoài nghi: Rất có thể Đường hầm Uanbu đang cất giấu Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng. Nhưng đường hầm Uanbu nằm ở đâu cũng không có ai biết.

Đến năm 1868, viên Thượng úy Holan, sỹ quan Anh trong lúc đi vãn cảnh ở ngoại ô Jérusalem đã vô tình phát hiện ra một cái hang sâu khúc khuỷu. Ông ta liền chui vào trong hang, tiến thẳng, leo qua rất nhiều bậc đất do con người đục nên. Khi đến bên một hồ nước, Holan lại nhìn thấy một dòng suối. Ông ta ngẩng đầu lên đột nhiên nhìn thấy trên đỉnh mỏm đá có một cái lỗ tròn, theo đó, ông ta bèn leo lên lỗ hòn đá bằng một sợi dây leo núi, rồi tiếp tục đi theo đường ngầm, lại leo qua một cầu thang nữa. Lên cao khoảng 40m, Holan phát hiện ra một đường ngầm sâu khúc khuỷu dẫn vào động núi tối mò. Đi ra khỏi cái động đó cuối cùng ông ta vào tới thành Jérusalem. Holan tự hào cho rằng Đường hầm Uanbu cổ đại đã được chính ông tìm ra. Nhưng ông ta không hề tìm thấy Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng trong đường hầm mà người xưa đã kể. Vì vậy mà có một số người không đồng ý với phán đoán suy luận của Holan. Họ cho rằng, cái mà viên Thượng úy tìm thấy không phải là Đường hầm Uanbu cổ đại, mà là một đường hầm khác không nổi tiếng chưa được mọi người biết tới mà thôi.

Cũng có một số người tin rằng Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng vẫn ở trong đường hầm bí mật của thành Jérusalem. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, hai nhà thám hiểm người Mỹ - Hêlibatti và Matăngxtơ, lặng lẽ chui vào đường hầm mà trong truyền thuyết là do Uanbu tìm ra. hai người với đèn pin, xẻng và một số đồ dùng thiết yếu cùng một nỗi sợ hãi, mò mẫm đi vào đường hầm âm u ma quái. Ở trong đó, họ bắt đầu tìm thấy một nơi có cả đất và những thứ gì đó, họ phát hiện ra có 2 đường hầm khúc khuỷu sâu tối. Hai người đoán: môt đường có thể là đường ngầm cũ của người Ibux cổ ra ngoài thành lấy nước, còn đường kia có lẽ là hầm ngầm bí mật thông với Đá Thánh A La. Và 2 người quyết định đi theo một trong hai con đường đó. Nhưng đi được khoảng 150m thì hết đường ngầm, họ gặp những bậc đá ăn lên trên đều đã bị bùn cát lấp tịt, không thể đi tiếp được nữa. Hai người lấy xẻng ra xúc cát. Cát xúc ra lại đánh đóng vào đường ngầm phía sau và đường ngầm dường như bị bùn cát lấp lại nên cát ở trên bậc đá vẫn cứ chảy xống không ngừng, như thể có ai đó đang cố tình phá hoại, làm cho 2 nhà thám hiểm không thể có cách nào hót sạch chỗ cát cứ chảy ùn ùn trên bậc đá. Hai người cảm thấy, trên bậc đã có một uy lực vô biên, không thể chống lại sức mạnh thần bí đang tác quái, họ càng xúc, cát chảy xuống càng nhiều, nếu dừng thì cát cũng không chảy nữa. Hai người vô cùng sợ hãi, vội vàng theo đường cũ trở ra ngoài. Sau khi ra ngoài họ ra sức tô vẽ, thêm nếm cái nỗi sợ hãi trong đường hầm làm cho người nghe phát sợ, sởn cả tóc gáy. Sau này Hêlibatti đi thuyền buồm vượt Thái Bình Dương, gặp phải cơn bão lớn, thuyền chìm, chôn thân dươi đáy biển. Từ đó về sau, không còn người nào biết về đường ngầm thần bí đó, lại càng không có ai đi tìm nó nữa.

Lại có một số nhà khảo cổ cho rằng, Salomon thường xuyên phái các đoàn thuyền ra khơi xa, mỗi lần quay về thì vàng đều chất đầy khoang. Vì vậy, họ mạnh dạn suy đoán rằng, rất có thể ở ngoài biển xa xôi ấy nhất định phải có một hòn đảo châu báu. Đó là nơi Salomon đã cất giấu kho báu của mình, chỗ vàng kia là từ hòn đảo châu báu đó ùn ùn chuyển về không dứt. Nhưng câu chuyện vẫn là một bí mật cho tới nay chưa ai có thể làm sáng tỏ hơn.

Năm 156 sau Công nguyên, nhà hàng hải Tây Ban Nha dẫn một đoàn thám hiểm đến hòn đảo châu báu nọ thì thấy thổ dân trên đảo đeo các đồ trang sức đều lấp lánh ánh vàng. Họ đã vô cùng kinh ngạc cho rằng đã tìm thấy kho báu của Salomon, nên liền đặt tên cho nơi này là Quần đảo Salomon, đó là nguyên do vì sao hòn đảo này có tệ gọi là Quốc đảo Salomon. Từ đó về sau, người châu Âu cứ kéo nhau đến quần đảo Salomon để tìm "Kho báu của Salomon". Do vị trí của quần đảo Salomon nằm ở phía Tây Nam Thái Bình Dương, bao gồm 6 đảo lớn và gầm 1000 đảo nhỏ nằm rải rác trên diện tích đất biển là 60.000km2, rừng rậm phủ kín 90% diện tích đảo, nên rất khó khăn trong việc tìm kho báu. Mấy trăm năm trở lại đây, hàng ngàn hàng vạn lượt người tìm kho báu đã không tìm kiếm được gì ở quần đảo này. Có người cho rằng, trên quần đảo Salomon làm gì có Kho báu của Salomon, đó chẳng qua chỉ là tin đồn nhảm nhí.

Sự thật về kho báu của Salomon và Hòm ước vàng cho đến tận ngày nay vẫn là một bí ẩn

Bí ẩn về di tích Zimbabwe

Cái tên Zimbabwe gợi cho ta sự liên tưởng không giới hạn. Theo tiếng Tây Ban Nha thì Zimbabwe có nghĩa là "ngôi nhà đá khả kính", "nhà đá". Ngoài ra, có một số người cho rằng, Zimbabwe là từ đồng âm của "mazimbwe", trong tiếng Seichanne ý nghĩa của nó là "nhà ở của tù trưởng". Lại có ý kiến cho rằng, nó là "mỏ giàu có"... Tất cả những gợi mở ấy đã phủ lên Zimbabwe, quốc gia lục địa và những di tích cổ đại nằm trong đó một màu sắc huyền bí.

Vào năm 1868, một đoàn các nhà thám hiểm Châu Âu đi du lịch Châu Phi đuổi theo một con dã thú trong rừng già rậm rạp cách thành Victoria vùng Zimbabwe khoảng 30km, bỗng nhiên họ phát hiện ra một bãi đá hoang tàn rộng mênh mông. Đó chính là "Đại Zimbabwe" nổi tiếng Thế giới sau này.

"Đại Zimbabwe" tuy phần lớn đã bị hư hỏng, nhưng vẫn còn một số đặc điểm thể hiện được vẻ hùng vỹ tráng lệ của một quần thể kiến trúc cổ đại, và được bảo tồn đến ngày nay.

Chủ thể kiến trúc là một khu đất bằng nằm dưới chân núi biểu thị sự huy hoàng nhất của "Đại Zimbabwe". Bức tường vây bên ngoài có hình bầu dục nên gọi là tường vây lớn hình bầu dục. Trên ba mặt tường thành Đông, Tây, Bắc trỏ ba cửa, bên trên mỗi cửa đều xây vòm bằng đá hoa cương lớn. Phía trên của tường vây có đắp các hoa văn cứng nhưng dài và mảnh, có những đầu còn chạm khắc chim đá hình thù lạ lùng. Phía Đông Nam tường vây còn có một tường đá song song với tường vây, khoảng cách giữa chúng độ 1m, cùng với tường vây hình thành một con đường hẹp dài 100m, cuối con đường này là khu vực nửa kín giống như một cái sân. Bên trong tường vây có những tháp đá cao, có hình nón; có những bia đá, hầm ngầm, giếng nước và một số vách đá nham nhở, giống như di tích cung đình cổ. Gần tường vây còn có rất nhiều ngôi nhà nhỏ.

Trong toàn bộ quần thể kiến trúc Đại Zimbabwe, điều thần bí nhất là những tháp đá hình nón bên trong tường vây hình bầu dục. Đây là kiến trúc đá hoa cương đặc ruột, trên nhỏ dưới to, cao khoảng hơn 20m, không hề có một ký tự gì. Nó chủ yếu được tạo bởi những khối đá hoa cương được đục đẽo thành gạch có lỗ mộng, xây theo quy tắc đường nét của một đồ án nhất định. Giữa các viên gạch đá không hề có vết tích đã dùng vôi vữa hoặc chất kết dính nào gắn lại, những chỗ tiếp giáp giữa các viên gạch rât khít nhau, muốn lùa một lưỡi dao mỏng vào cũng khó. Không biết chúng đã trải qua bao nhiêu năm tháng nếm trải, bao nhiêu cuộc bể dâu của thế gian này?

Từ năm 1868 trở lại đây, từng đoàn thám hiểm châu Âu và các nhà khoa học hằng hải đến miền Nam châu Phi tìm tòi mọi dấu tích trên mảnh đất thần kỳ này. Họ đã tiến hành khảo sát nhiều lần, muốn làm rõ sự huyền bí nội tại của Đại Zimbabwe. Tháp hình nón, ở bên trong tường vây của Đại Zimbabwe là vấn đề người ta khảo sát đầu tiên. Nhà khảo cổ học người Anh là Cotlan Bethe đã từng bỏ ra nhiều tiền của, sức lực đào một đường hầm với quy mô lớn xung quanh tháp hình nón và xuyên qua tháp, hòng tìm được lối vào. Ông phát hiện ra các tháp này đặc ruột, cửa vào cho đến nay vẫn chưa tìm thấy, cũng có thể nó vốn không có cửa. Các nhà khảo cổ học không khỏi không thắc mắc tháp khổng lồ chọc trời này có tác dụng gì?

Vấn đề này được bàn thảo với nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng: hình dáng bên ngoài của tháp giống kho lương thực lớn. Nhưng toàn bộ tháp là một chỉnh thể đặc ruột thì làm sao có thể cất trữ lương thực? Cũng có người cho rằng, nó là vật tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam, là một linh vật mà nghi thức tôn giáo cổ đại nào đó đã dùng, nó đại diện cho tinh thần bộ lạc mạnh mẽ hoặc quyền lực tối cao của tù trưởng bộ lạc. Nhưng tất cả những ý kiến này đều thiếu chứng cứ thuyết phục, thêm vào đó lại không có sử liệu ghi chép gì.

Đối với người châu Âu, Đại Zimbabwe phải là một quốc gia thời hoàng kim tồn tại trong truyền thuyết. Họ cho rằng, nó rất giống sử sách châu Âu, rất có khả năng đó chính là khu đất có mỏ vàng của Quốc vương Salomon được nhắc tới trong Thánh kinh cựu ước. Tường bảo vệ thành được xây dựng mô phỏng theo kiểu mà Vua Salomon xây dựng cung điện trên núi Molia.

Kiểu suy luận chủ quan này một dạo đã dấy lên cơn sốt tìm vàng của người châu Âu. Không ít người châu Âu sau khi đến thành đá này thuê dân địa phương cùng những phương tiện cơ giới tiên tiến, tiến hành đào bới toàn bộ khu di tích, đào đến độ sâu 3m. Họ lấy đi tất cả các văn vật, trừ đá hoa cương. Tất cả các tài liệu, bao gồm một số tài liệu lịch sử có thể nói rõ sự thật lịch sử cũng bị lấy đi. Do vậy, các nhà khoa học đã không kịp tiến hành nghiên cứu, khai quật khu vực thành đá này.

Trong những năm tháng sau này, người ta tiến hành khai quật xung quanh Zimbabwe đã đào được lượng lớn văn vật, trong đó có vũ khí, công cụ lao động và một ít đồ trang sức được chế tác rất tinh xảo và đẹp. Một số đồ đó được đưa đến từ Trung Quốc, Ả Rập, Ba Tư và cả từ Ấn Độ xa xưa. Từ những văn vật tìm thấy trong lòng đất khu vực này, ít nhất chúng ta cũng có thể nhận thấy, ở nơi thành đá bị tiêu vong này từng có sự trao đổi về văn hóa, mậu dịch từ lâu đời với Trung Quốc và Ả Rập và Ba Tư cổ xưa. Nhưng trong các sách cổ của Trung Quốc, Ả Rập, Ba Tư hiếm thấy những ghi chép về hoạt động buôn bán với Zimbabwe.

Rất có thể những di vật này được nhân vật trung gian nào đó đưa tới buôn bán ở Zimbabwe. Nhân vật trung gian này là ai, chúng ta cũng chưa được biết. Từ những tháp hình nón hùng vĩ, chúng ta còn thấy được kỹ thuật xây dựng thời bấy giờ ở đây đã đạt đến một trình độ rất cao. Nói một cách khác, những người xây dựng tháp hình nón này ngay từ rất sớm đã nắm được tri thức về hình học, kiến trúc học, lực học,...

Tất cả những công trình kiến trúc đá to nhỏ, xa gần này được dùng để làm gì? Có một số người cho rằng, nơi đây có thể là Hoàng thành của một Vương quốc cổ xưa đã bị hủy diệt từ rất sớm; cũng có người cho rằng nó là một tụ điểm tôn giáo lớn. Nhưng tất cả mới  chỉ là những phỏng đoán chủ quan bởi trên thực tế toàn bộ công trình kiến trúc bằng đá này không hề có bất kỳ một văn tự hay đồ án hoặc bích họa nào. Về mặt này nó khác xa với Thành Maya của Châu Mỹ, hoặc Angkor của khu vực Đông Nam Á. Trên Maya và Angkor đều có những bức phù điêu. Hơn nữa, trong nền văn hóa thế giới được lưu truyền lại cũng không có bất kỳ ghi chép gì về Zimbabwe nên chúng ta không biết tìm hiểu nó bằng con đường nào. Vấn đề có liên quan đến điều này chỉ có thể là: người nào? trong thời gian nào? dùng dụng cụ gì? phương pháp nào sáng tạo ra thành đá đẹp lạ thường này? Người kiến tạo ra thành đá có quan hệ gì với người Marshara và người Mataberlai hiện đang sinh sống ở Zimbabwe. Nếu như người xây dựng thành đá từ bên ngoài tới thì tại sao người ta lại đột nhiên trong một ngày nào đó đã từ bỏ nơi này?

Có thể nói, trên Thế giới ngoài Ai Cập ra thì Đại Zimbabwe cũng là tiêu chí của nền văn minh châu Phi. Nhưng thực sự chúng ta đã biết và hiểu về nó được rất ít

Giải quyết 8 bí ẩn lớn nhất của khoa học trong thế kỷ 21

Cuộc sống vốn đầy rẫy những bí ẩn và các nhà khoa học đang cố gắng tìm lời giải đáp cho những bí ẩn Đấy. Bí ẩn về con người là những bí ẩn sâu thẳm nhất mà hiện nay các nhà khoa học cần phải làm rõ trong thế kỷ 21 này.

NGUỒN GỐC TUỔI THANH XUÂN

Cấu trúc phân tử gien P21

Các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu Scripps - California (Mỹ) đã khảo sát gien của một số người già ở tuổi 90. Có đến 99% trường hợp, gien vẫn làm việc hoàn hảo khi điều khiển tế bào tạo ra loại protein thích hợp. Các nhà khoa học ở ĐH Illinois, Chicago (Mỹ) cho biết, họ rất có thể đã tìm ra được câu trả lời qua việc nghiên cứu một loại gien gọi là p21. P21 hoạt động như một bộ phận hãm khẩn cấp về mặt di truyền; khi được kích hoạt, nó làm ngừng sự phát triển của các tế bào bị tổn hại do chất độc hay phóng xạ, cho chúng có thời gian phục hồi.

Igor Roninson, giáo sư về di truyền học phân tử, đã kích hoạt được gien p21 trong tế bào người và nghiên cứu cách nó tác động lên các gien khác. Những gien bị tác động này sẽ có dạng hình bột, xẹp xuống và ngừng phát triển - chúng đang già đi. Ông nói: "Việc kích hoạt gien loại này còn dẫn đến sự thay đổi tại một loạt các gien khác đã bị tác động bởi lão hoá hay các bệnh liên quan đến lão hoá".

Ngoài ra p21 còn có tác dụng kiềm chế một cách có chọn lọc hơn 40 gien được biết có liên quan đến việc tái tạo ADN và việc phân chia tế bào, theo đó làm ngừng ngay lập tức sự tăng trưởng của tế bào. Những loại gien được p21 kích thích gồm các loại liên quan đến bệnh Alzheimer, bệnh lão hoá và viêm khớp.

Ung thư vú - nỗi lo kinh hoàng của phụ nữ sẽ được tiêu diệt trong thế kỷ 21.

THANH TOÁN BỆNH UNG THƯ

Bệnh ung thư có đặc tính chung: các tế bào đang khoẻ mạnh bỗng trở nên phát triển bất thường. Các nhà khoa học đã xác định rõ: nguyên nhân không phải ở các gien mà ung thư xuất hiện chủ yếu vì hút thuốc lá, chế độ ăn uống kém khoa học, thiếu rèn luyện thể lực hay bị ảnh hưởng bởi phóng xạ, ô nhiễm cùng các hoá chất gây ung thư khác.

Một nỗ lực kiểm soát bao gồm các quy định hạn chế việc thải chất công nghiệp có thể đẩy bệnh ung thư ra khỏi danh sách những căn bệnh giết người, chuyển nó thành loại bệnh hiếm gặp. Giải pháp chính đã được xác định không phải bằng những viên thuốc, mà tốt hơn cả là những biện pháp phòng ngừa.

TÌM RA THUỐC BẤT TỬ

Những chiếc đồng hồ đếm ngược giúp tìm ra phương thuốc bất tử.

Các tế bào ung thư cùng chia sẻ với nhau một đặc tính, đó là khả năng bất tử. Nếu còn được nuôi dưỡng, chúng sẽ được tiếp tục phân chia. Điều này không xảy ra đối với các tế bào khoẻ mạnh, nơi dường như đã được gắn một chiếc đồng hồ đếm ngược (được gọi là telomere) vào cuối các nhiễm sắc thể để giới hạn số lần tế bào có thể tự tái tạo. Mỗi lần tế bào tự tái tạo, một phần của telomere bị loại bỏ và đến khi nó hết sạch, tế bào sẽ ngừng việc phân chia. Với 46 nhiễm sắc thể, con người có cả thảy 92 chiếc đồng hồ đếm ngược thời gian sống của mình.

Tiến sĩ Jerry Shay tại Đại học Texas cho biết: "Thông thường, các tế bào sẽ ngừng phân chia sau khoảng 70 thế hệ. Còn những tế bào mới (đã có telomerase được kích hoạt) đã tự nhân đôi đến hơn 100 lần, trong khi chưa có dấu hiệu nào cho thấy tốc độ phân chia của chúng đang giảm dần". Mặc dù telomerase đã hoạt động khá lâu trong các tế bào bình thường, đủ thời gian cho các telomere có thể khôi phục được độ dài nguyên gốc của nó, không hề có triệu chứng những tế bào trên phát triển thành loại tế bào ung thư.

CUỘC SỐNG NHÂN TẠO

Công nghệ nano - đỉnh cao của mọi công nghệ trong tương lai

Công nghệ siêu nhỏ (nanotechnology) là một kỹ thuật sản xuất, theo đó các thiết bị nhỏ xíu được sắp xếp theo từng nguyên tử một. Điều duy nhất có thể chế tạo được những thiết bị từ những thành phần nhỏ bé đến như vậy chính là một hiện tượng được gọi là tự sắp xếp (self-assembly). Nếu bạn sắp xếp theo thứ tự chính xác được một cấu trúc cơ bản, bạn có thể "làm phát triển" các ống siêu nhỏ, hình cầu siêu nhỏ và các transistor (bóng bán dẫn) siêu nhỏ cho máy tính.

Tại ĐH Illinois, các nhà nghiên cứu đang sử dụng một loại tiền tố protein thường tìm thấy trong nhiều loại tế bào con người để tạo ra một cấu trúc tự sắp xếp. Chuyên gia Gerard Wong cho biết: "Các nang có màng là chất tiền tố này của chúng tôi luôn trong trạng thái cân bằng và không yêu cầu năng lượng để duy trì sự ổn định". Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có thể đạt tới một điểm mà tại đó, các cấu trúc tự sắp xếp theo đúng nghĩa đen có thể tạo ra một cuộc sống của riêng chúng? Một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Viện công nghệ California và Đại học Tổng hợp bang Michigan đã cùng thống nhất khẳng định: câu trả lời là có! Những nhà khoa học này đã tạo ra được "các cơ thể dưới dạng số" trong máy tính. Họ phát hiện ra rằng, những "cá thể điều khiển học" này phản ứng trước những biến đổi theo cách rất giống với những cơ thể thực sự như vi khuẩn, nấm và ruồi giấm.

Chuyên gia Chris Adami tại Viện công nghệ California cho biết: "Rất có thể nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất về cuộc sống từ một cơ thể sống, do cơ thể sống là kết quả phức tạp của một quá trình tiến hoá sau 4 tỉ năm. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu ban đầu sẽ giúp chúng ta hiểu được chút gì đó về cuộc sống".

Bước nghiên cứu đầu tiên của Adami chính là thử nghiệm quá trình tiến hoá dưới dạng sống được xây dựng dựa trên một cơ thể sống, trong trường hợp này là vi khuẩn E. coli. Ông khẳng định: "Tôi nghĩ chúng tôi đã có thể thuyết phục những nhà nghiên cứu sinh vật học rằng cuộc sống nhân tạo không còn là một giấc mơ. Nó còn giúp chúng ta giải đáp một số vấn đề cơ bản về sinh vật học".

KHÁM PHÁ BẢN CHẤT CỦA TÂM HỒN

Các nhà khoa học đang làm việc với mày quét X quang tính toán phát xạ positron đơn ba đầu xoay.

Nhờ công nghệ nano siêu nhỏ, trong tương lai chúng ta có thể tạo ra được bản sao của một con người. Nhưng bản sao đó thực sự có tâm hồn như nguyên mẫu hay không? Một câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ! Đây có thể là bí ẩn mà các nhà khoa học ưu tiên giải quyết trong thế kỷ này. Các chuyên gia thần kinh học và những nhà thần học của toà thánh Vatican đang tranh luận và nghiên cứu về bản chất về mặt vật chất của linh hồn. "Liệu tôn giáo có phụ thuộc vào linh hồn hay không? Khoa học có thể thừa nhận hình thức vật chất của linh hồn không?". Đó là những câu hỏi mà hai bên đặt ra.

Câu hỏi đầu tiên dành cho các nhà thần học. Còn các chuyên gia thần kinh học thì tin rằng, họ đã có một công nghệ để có thể trả lời cho câu hỏi thứ hai. Đó là một thiết bị cực nhạy có tên là máy quét X quang tính toán phát xạ positron đơn ba đầu xoay để nghiên cứu não của những người đang suy nghĩ. Nhà bác học Andrew Newberg cho biết: "Nhiều người rất bối rối trước hiện tượng cảm động nhất vừa trải qua có thể làm giảm những chức năng đặc trưng của bộ não - điều có thể đo được bằng các phương pháp chụp ảnh não tiên tiến".

Đối tượng của các cuộc nghiên cứu này là các thiền sư Tây Tạng và họ đã cho phép gắn các ống vào tĩnh mạch trên tay của họ. Khi các người này đạt đến trạng thái tập trung tư tưởng cao nhất, họ báo cho Newberg để ông truyền một chất đồng vị phóng xạ vào tĩnh mạch của họ. Trong não, những tế bào đã được kích hoạt mạnh hơn trong quá trình suy nghĩ đã tiếp nhận thêm chất đồng vị để phóng xạ mạnh hơn, giúp máy quét có thể dễ dàng ghi nhận. Cuộc nghiên cứu tương tự cũng đang được tiến hành với các nữ tu sĩ dòng thánh Francis và những tín đồ đạo Cơ đốc chính thống.

NHANH HƠN TỐC ĐỘ ÁNH SÁNG

Vượt qua tốc độ ánh sáng là một trong những mơ ước hàng đầu của con người, nhất là khi nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công cuộc chinh phục vũ trụ. Nhà bác học Chris Van Den Broeck (Bỉ) đã mô tả về một cuộc đua tốc độ ánh sáng bằng cách dùng một dạng không gian biến dạng đặc biệt, cho phép tạo ra các bong bóng có dung tích trong lớn - trong khi bề mặt bên ngoài cực nhỏ. Broeck đã tính toán khả năng có thể tạo ra được một bong bóng đủ lớn để chứa được một đầu phóng tên lửa vũ trụ chỉ yêu cầu có 1g nguyên liệu.

Hè 2005, tạp chí khoa học Nature cho biết, nhóm nghiên cứu của nhà bác học Lijun Wang, Viện Nghiên cứu NEC, Princeton (Mỹ) đã hướng được một xung ánh sáng đi qua bồn chứa đầy xezi với vận tốc gần 300.000km/giây. Wang khẳng định: "Thí nghiêm cho thấy, quan niệm thông thường cho rằng không có gì có thể di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng là sai lầm". Khả năng gửi tín hiệu với vận tốc nhanh hơn ánh sáng có thể giúp giải quyết hai vấn đề bí ẩn nhất: tiếp xúc với người ngoài trái đất và du hành theo thời gian.

CHÚNG TA LÀ DUY NHẤT?

Hai phát hiện gần đây trong khoảng không vũ trụ đã làm thay đổi đột ngột những quan điểm mâu thuẫn về sự sống trong vũ trụ. Phát hiện đầu liên quan đến một đám mây bí ẩn gần trung tâm ngân hà. Phát hiện thứ hai liên quan đến các bức xạ từ pulsar (ngôi sao không nhìn thấy được bằng mắt thường mà chỉ được phát hiện qua các tín hiệu)

Các nhà thiên văn học đã phát hiện ra dạng hợp chất đường (glycolaldehyde) trong đám mây mà từ đó các ngôi sao mới đang hình thành. Điều này có nghĩa là, khả năng rất lớn cho thấy các chất hoá học tiền thân của sự sống đã được hình thành từ khá lâu trong đám mây như vậy, trước khi các hành tinh phát triển xung quanh các ngôi sao.

Các nhà khoa học mô tả hợp chất đường này là họ hàng về mặt phân tử với loại đường ăn bình thường. Nguyên nhân là do loại nguyên tử gồm 8 nguyên tử của carbon, oxy và hydro này có thể dễ dàng kết hợp với các phân tử khác để tạo thành ribose. Ribose chính là khối cơ sở của axít nucleic (ADN), một phần tử hoá học của mã di truyền tìm thấy trong tất cả cơ thể sống.

Phát hiện thứ hai liên quan tới các pulsar. Mặc dù phần lớn các pulsar đều được coi là một dạng sao neutron, việc tính toán thời gian phát năng lượng của chúng đã khiến cho các nhà vật lý học thiên thể phải ngạc nhiên. Một chuyên gia Mỹ đưa ra bằng chứng cho thấy các pulsar đã được định vị và gửi các tín hiệu theo mẫu giống như dạng một thông điệp có trí tuệ.

Việc tìm ra các phân tử tạo thành cơ sở di truyền cho cuộc sống cùng với các tín hiệu được phát đi khá trật tự đã khẳng định một luận điểm: chúng ta hoàn toàn không cô đơn trong vũ trụ.

NHỮNG CỖ MÁY THỜI GIAN SẼ XUẤT HIỆN?

Albert Einstein từ lâu đã được đánh giá là một thiên tài vượt thời đại và những giả thuyết của ông đang được con người đương đại chứng minh. Một trong số đó có liên quan đến nghịch lý về hai anh em sinh đôi. Einstein đưa ra giả thuyết nhà du hành vũ trụ tham gia một chuyến đi dài với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng, trong khi người anh em của anh ta lại ở nhà. Khi ông này trở về thì nhìn thấy người anh em của mình đã thành một ông già. Nguyên nhân của sự kiện này, theo như Einstein là do thời gian trên tàu vũ trụ trôi chậm hơn, khiến cho các nhà du hành vẫn còn trẻ.

Trong một thí nghiệm gần đây nhất có sử dụng hai chiếc đồng hồ siêu chính xác, chiếc đồng hồ đặt trên máy bay siêu âm Concorde rõ ràng đã chạy chậm hơn so với chiếc đặt trong phòng thí nghiệm. Điều này cho thấy thời gian hoàn toàn có thể co giãn. Việc nghiên cứu về những bộ máy thời gian trên lý thuyết vẫn được tiến hành với những tiến triển.

Nhà bác học Kip Thorne tại Viện công nghệ California đã đề xuất việc sử dụng các lỗ đen vũ trụ. Theo như Einstein mô tả, những lỗ đen chính là những đường hầm đưa ta vào khoảng không - thời gian. Một lỗ đen nằm giữa hai điểm có thể kết nối giữa ngày hôm nay với ngày hôm qua hay sớm hơn nữa.

Khả năng trên lý thuyết của việc du hành ngược thời gian đã đặt ra một câu hỏi thực tế: vì sao chúng ta không gặp những nhà du hành vũ trụ theo thời gian? Einstein đã giải thích: khi các thuyết tương đối không tuân theo việc du hành ngược lại thời gian, chúng sẽ giới hạn thời gian bạn có thể du hành.

Bí ẩn của những điều vượt qua trí tuệ con người

Cập nhật lúc 00h13' ngày 16/12/2005

Ai đã sáng tạo ra nền văn minh Samuier?

Các nhà lịch sử học cho rằng, cực văn minh Trái Đất, nơi khởi nguồn, có khả năng là khu vực sinh sống của người Samuier. Vì các nền văn minh Maya và Samuier có rất nhiều điểm tương tự, thậm chí giống nhau.

Người Samuier đột nhiên xuất hiện, rồi lại đột nhiên biến mất khỏi vùng hạ du sông Tigre và Sông Euphrate. Vào khi nào, bằng cách nào họ đã học được chữ hình chêm và kỹ thuật kiến trúc bảo tháp cho đến nay vẫn là câu đố lịch sử khó giải, là một sự thách thức đối với các nhà khảo cổ học. Samuier là thành phố có nền văn minh lâu đới nhất trong lịch sử các nền văn minh nhân loại, hình thành khoảng 4000 năm trước Công Nguyên. Nó đột nhiên xuất hiện ở khu vực hạ du hai con Sông Tigre và Euphrate thuộc vùng Trung Đông, tức phía Nam Iraq ngày nay. Các nhà lịch sử chính thống và các nhà khảo cổ học đã có được ý kiến thống nhất khi cho rằng: Thành phố Samuier không chỉ là cội nguồn văn minh phương Đông cổ đại sau này mà còn có thể nói một cách chuẩn xác, nó là cội nguồn của nền văn minh Thế giới hiện đại.

Thành phố Samuier nằm ở khu vực Mesopotamie (Vùng Lưỡng Hà). Khu vực này hàng nghìn năm trở lại đây luôn luôn là khu vực có môi trường tồi tệ, khô hạn, nóng nực, sông ngòi có dòng chảy hung hãn, không thích hợp cho việc sinh sống của con người. Vậy tại sao nền văn minh sớm nhất của con người lại được sản sinh ra từ hoàn cảnh tự nhiên vô cùng khắc nghiệt.

Nói tới nền văn minh Samuier, điều mà người ta nghĩ tới đầu tiên là phát minh văn tự hình chêm (một loại văn tự do người miền Nam Mesopotamie sáng tạo từ 3000 năm trước Công Nguyên, nét chữ giống cái chêm. Người Babylon, Ba Tư... đều đã từng sử dụng loại văn tự này). Người Samuier không chỉ phát minh ra chữ viết mà còn phát minh ra các loại kỹ thuật như: Cày ruộng, xây dựng, tưới tiêu, nhiều nghành  khoa học hình học, pháp luật, thiên văn học, toán học và cả phương pháp quản lý dân chủ của Nhà nước, thành phố... Hơn nữa, đứng từ góc độ thời gian lịch sử mà nói, tất cả những tri thức này của người Samuier đều được sáng tạo một cách đột ngột trong khoảng thời gian cực ngắn. Thực tế này càng khiến các nhà sử học và khảo cổ học không thể hiểu nổi, cũng không thể tranh cãi hay bàn bạc được điều gì. Họ chỉ có thể đặt câu hỏi: Ai là người có bản lĩnh lớn như thế trong khoảnh khắc đã khiến cho người Samuier trở nên thông minh để sáng tạo ra một nền văn minh không thua kém  bất kỳ nền văn minh nào của các quốc gia ở thế kỷ XX.

Tiến sỹ Thaytacasag, nhà Khoa học Vũ trụ Mỹ đã đưa ra cách giải độc đáo: "Văn minh Samuier là dựa vào sự giúp đỡ của sinh vật hệ nhân loại vô cùng hùng mạnh mà được sản sinh ra". Cuối Thế kỷ II trước Công Nguyên Jisirosuansi của Babylon đã vận dụng sách cổ văn thần điện viết cuốn sử Babylon với độ tin cậy rất cao. Sách đã viết: "Khi nhân loại ở vùng Babylon cổ xưa sống cuộc  sống hoang dã giống như loài thú hoang không có trật tự, ở vịnh Ba Tư xuất hiện một loài sinh vật Oyanasi hình thể giống cá, nhưng phía dưới đầu cá lại có một cái đầu khác, có chân tay giông như người, tiếng nói cũng giống người".

Loài sinh vật này, ban ngày xuất hiện ở biển, nói chuyện với con người, dạy con người văn hóa, nghệ thuật, khoa học, pháp luật, kiến trúc, nguyên lý hình học, hái lượm hoa quả, phân biệt thực vật,... nhưng nó không ăn gì mà vẫn tồn tại. Do loài sinh vật này là động vật lưỡng thể, nên khi Mặt trời lặn về phía Tây, nó liền nhảy xuống biển ẩn náu dưới đó, đến sáng lại lập tức xuất hiện". Cách giải lý này, thực sự khiến người ta khó tiếp thu.

Tiến sỹ Calusag suy đoán, khoảng 4000 năm trước Công Nguyên hoặc sớm hơn, nền văn minh ngoài nhân loại đã tiếp xúc với loài người ở bờ biển Vịnh Ba Tư, mà di tích Aliduo cổ nhất của Samuier lại ở chính trên mảnh đất này. Di tích Aliduo hiện đã được các nhà khảo cổ học xác nhận, căn cứ vào kết quả phân tích được ghi lại bằng văn tự chêm rằng "Aliduo trước nạn Đại Hồng Thủy là đô thành sớm nhất của ngũ quyền từ trên trời giáng xuống". Tiến sỹ Calusag còn chỉ rõ: "Nếu như lấy loài sinh vật Oyanasi có thân thể giống như cá coi như là áo Vũ trụ hoặc áo lặn, cái đầu khác dưới cái đầu cá chỉ là cái mặt của mũ Vũ trụ hoặc mũ lặn, thì chúng ta có thể kết luận một cách nhanh chóng, đó chính là sinh vật có tính trí năng hệ phi nhân loại trong đại dương".

Ngoài ra, còn có rất nhiều người thử nghiệm đưa ra kiến giải của mình với chủ trương: tích cực và mạnh dạn giải thích nền văn minh Samuier. Nhà ngôn ngữ học kiêm nhà nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Đông quốc tịch Mỹ nhưng mang trong mình huyết thống Trung Đông tên là Caglia Xijin, nói: "Cội nguồn nền văn hóa Samuier có thể nói là dựa vào sự giúp đỡ của người ngoài hành tinh, cũng có ý kiến cho rằng: Trước nạn "Đại Hồng Thủy", Samuier bị người ngoài hành tinh xâm chiếm, biến thành đất thuộc địa, nền văn minh Samuier chính là di sản văn hóa của họ được giữ lại trên mảnh đất thuộc địa này". Caglia Xijin đã quan xát và nhận thấy, xuyên suốt các nền văn hiến của khu vực Trung Đông Mesopotamie (từ Samuier đến Asayria), Ai Cập, Hilblai đến Thánh Kinh cùng một ngôn ngữ đã từng xuất hiện, đều có một từ đơn "Sai mu", và bất luận là tài liệu gì đều thường xuyên lấy nó dùng trong trường hợp ghi lại những cuộc đi lại của các thiên thần trên trời hoặc của con người lên trời. "Sai mu" trong văn tự hội thoại (hình thái sớm nhất của văn tự chêm) lúc đó có ý nghĩa là lên cao vuông góc - lên thẳng. Từ đó có thể thấy, nó phải là vật thể phi hành như các loại tên lửa, phi thuyền vũ trụ. Trên thực tế, trong bài thơ ca tụng dân lên nữ thần Isidare của Babylon có một câu thơ miều tả rất rõ nó đúng là một vật thể phi hành: "Nữ thần ở trên trời cưỡi "Sai mu" bay xuống Trái đất, nơi loài người sinh sống". Ngoài các điều này ra các tác phẩm hội họa, phù điêu, điêu khắc thời đó cũng đều có vật thể hình dáng giống như tên lửa. Rất có khả năng những tác phẩm đó được làm ra để biểu thị sức mạnh của "Sai mu".

Cội nguồn của nền văn minh Samuier có nhiều cách giải thích nhưng đều rối ren, chưa thống nhất, giống như cách nói "Người nhân thấy thế gọi là nhân, người trí thấy vậy gọi là trí". Dù là cách nói nào đi chăng nữa, chúng ta vẫn phải chờ các nhà khảo cổ học tiếp tục khảo sát và nghiên cứu.

Bí ẩn của sao bạn Thiên Lang (Sirius) và người Doxiang

Người Doxiang

Nước cộng hòa MaLi nằm ở phía Tây châu Phi. Bên bờ sông Nil của quốc gia này có một dân tộc thổ dân tên là Doxiang sinh sống.

Cuộc sống của họ lấy trồng trọt và du mục làm chính. Đời sống của họ rất khó khăn nghèo khổ, phần lớn dân sống ở nông thôn hoặc trong một số hang động trong rừng núi. Họ không có chữ viết riêng, từ đời này qua đời khác chỉ truyền lại bằng miệng, bện thừng đánh dấu sự việc. Nếu nhìn từ góc độ này thì họ cũng không có gì khác so với các dân tộc da đen Tây Phi khác. Nhưng nghi lễ tôn giáo mà họ cử hành lại đem đến nhiều ngạc nhiên và thu hút sự chú ý của các nhà nhân loại học và thiên văn học trên thế giới.

Cứ mỗi chu kỳ 600 năm, khi Sao Thiên Lang xuất hiện giữa hai đỉnh núi thì người Doxiang lại cử hành nghi lễ tôn giáo Sigui long trọng nhất, lớn nhất trong đời sống tôn giáo của họ.

Những năm 20 của thế kỷ XX, hai nhà nhân loại học người Pháp Gria và Didelun đến Tây Phi cùng ăn cùng ở với người Doxiang 10 năm. Bằng quan hệ qua lại lâu dài, thân thiết họ đã chiếm được sự tin tưởng tín nhiệm và tình cảm của người Doxiang. Từ những thầy cúng cao cấp, họ biết được người Doxiang trong quá trình duy trì tôn giáo tín ngưỡng của mình hàng trăm nghìn năm nay, luôn ẩn giấu tri thức chính xác đặc biệt về một hiện tượng thiên văn. Trong giáo lý tôn giáo thần bí của người Doxiang giữ gìn tư liệu tường tận về một ngôi sao ở rất xa, mà ngôi sao này hàng trăm năm trước đây không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Cho đến ngày nay, nếu không có sự trợ giúp của kính viễn vọng hiện đại nhất thì cũng không thể quan sát, đo đạc được.

Thầy cúng

Ngôi sao  này chính là ngôi sao bạn của Sao Thiên Lang. Người Doxiang gọi là "Pak Tolu", "Pak" cói nghĩa là "nhỏ", "Tolu" có nghĩa là "sao". Họ còn nói đây là "ngôi sao nặng nhất" có màu trắng. Thật kỳ lạ khi người Doxiang đã nói chính xác ba đặc trưng cơ bản của ngôi sao này: Nhỏ, nặng và màu trắng. Trên thực tế, sao bạn Thiên Lang đúng là Ngôi sao trắng lùn.

Gọi là Sao trắng lùn, không phải gọi riêng một ngôi sao nào đó mà là tên gọi chung cho một loại sao có những điểm "trắng""lùn". "Trắng" nói rõ nhiệt độ của nó rất cao, nhiệt độ bên ngoài của sao trắng lùn khoảng 10.000 độ C phát ra ánh áng trắng, "lùn" nói rõ thể tích của nó nhỏ. Các nhà thiên văn học cho biết: Một, hai trăm ngôi sao trắng lùn ghép lại với nhau mới to như Mặt trời, còn một ngôi sao trắng lùn nhỏ nhất chỉ to bằng một phần nghìn vạn Mặt trời.

Trên bầu trời phía Đông Nam và mùa Đông mỗi năm, chúng ta có thể nhìn thấy sao hằng tinh (như sao Chức Nữ, Mặt trời) sáng nhất trên bầu trời, nó chính là sao Thiên Lang. Thể tích của nó lớn gấp hai Mặt trời, nhưng ánh sáng của nó lại gấp 20 lần Mặt trời. 

Ghi thức cúng lễ

Bên cạnh nó còn có một ngôi sao nhỏ không nhìn thấy quay quanh, ngôi sao nhỏ này chính là sao bạn Thiên Lang. Tuy có thân hình bé nhỏ, nhưng thể trọng của nó rất lớn, đúng như người Doxiang đã nói nó là một ngôi sang trắng lùn.

Các nhà thiên văn học phỏng đoán, sao bạn Thiên Lang có vào năm 1844. Họ phán đoán sao bạn Thiên Lang nhất định chịu ảnh hưởng, sức hút của một ngôi sao khác, từ đó dẫn tới sự vận động của nó không có quy tắc. Năm 1930, nhờ có sự trợ giúp của kính viễn vọng với tầm nhìn rất xa và các dụng cụ thiên văn hiện đại, người ta mới nhận biết được nó là một ngôi sao kèm (hộ tinh) có thể tích nhỏ nhưng mật độ lại cực lớn.

Nhưng đối với loài người trên Trái đất, ngôi sao đó ở quá xa và nó quá nhỏ, khiến người ta lại bắt đầu nghi ngờ liệu nó có thể gây ảnh hưởng tới Sao Thiên Lang không?

Quỹ đạo chuyển động  sao kèm Thiên Lang

Chúng ta không thể không đặt câu hỏi, người Doxiang sinh sống trong các hang động ở châu Phi, làm sao lại có thể có những tri thức hiểu biết về ngôi sao này? Phải chăng họ dựa vào linh cảm? Không chỉ có thế, người Doxiang còn vẽ một cách chuẩn xác trên cát quỹ đạo hình bầu dục sao kèm Thiên Lang chuyển động vòng quanh Sao Thiên Lang, so với sự quan trắc của các nhà thiên văn học hầu như không sai chút nào. Người Doxiang nói, chu kỳ quỹ đạo của sao kèm Thiên Lang là 49,5 năm (trên thực tế con số chính xác là 50,04 năm), bản thân nó tự quay quanh trục chuyển động (điều này cũng được các nhà thiên văn học chứng thực). Người Doxiang cho rằng, sao kèm Thiên Lang là ngôi sao được thần thánh tạo ra, là trung tâm của Vũ trụ. Ngoài ra, họ còn biết từ rất sớm các tri thức về thiên văn, về những hành tinh xung quanh Trái đất. Ví dụ như, Sao Mộc có bốn vệ tinh chủ yếu, họ có bốn loại phương pháp làm lịch, tuần tự lấy Mặt trời, Sao Thiên Lang, Mặt trăng và Sao Kim làm căn cứ.

Na Mẫu

Những người làm công việc tế lễ ở địa phương nói, tri thức thiên văn học của họ có được là nhờ sinh vật có trí tuệ của hệ Sao Thiên Lang cứ tới Trái đất truyền cho người Doxiang, họ gọi sinh vật này là Na Mẫu. Trong truyền thuyết người Doxiang, Na Mẫu từ một nơi nào đó ở phương Đông - quê hương người Doxiang hiện nay đến Trái đất. Bề ngoài của Na Mẫu vừa giống cá lại vừa giống người, là một loài sinh vật lưỡng thể sống trong nước.

Trong các bức họa và điệu múa của người Doxiang đều giữ lại truyền thuyết có liên quan đến Na Mẫu. Người Doxiang luôn cho rằng, dân tộc họ vốn không phải là sinh sống trên mảnh đất hiện nay, họ là hậu duệ của người Berber, dân tộc cổ xưa ở Bắc Phi. Người Berber mới đầu sinh sống ở đầu Bắc sa mạc Sahara. Từ thế kỷ I, II sau Công nguyên họ mới bắt đầu di chuyển xuống phía Nam, đến kết hôn với người da đen, nên dần dần họ cũng trở thành tộc người da đen. Mặc dù Đạo Do Thái có ảnh hưởng rất lớn, nhưng họ vẫn giữ tôn giáo của tộc mình.

Những tri thức về Sao Thiên Lang mà người Doxiang lưu truyền qua hàng năm vẫn hoàn toàn trùng hợp với những tri thức về ngôi sao này mà các nhà thiên văn học hiện đại tìm hiểu được. Từ đâu họ có được tri thức thiên văn học thần kỳ ấy? Có thể khẳng định, không có kính viễn vọng thì con người không thể nhìn thấy sao kèm Sao Thiên Lang. Nhưng người Doxiang cổ đại chắc chắn là không có kính viễn vọng. Phải chăng những tri thức mà họ có được đúng là do sinh vật của hệ sao Thiên Lang dạy cho? Nếu như không phải, thì tri thức về Sao bạn Thiên Lang của người Doxiang có được từ đâu?

Tai họa lớn ở Bắc Kinh thời Nhà Minh

Ngày 20 tháng 5 năm 1625 (mùng 6 tháng 5 năm Hy Tông Thiên Khởi thứ 6), tại cố đô Bắc Kinh triều Minh, vương cung xưởng thành Tây Nam (nay là cửa Tuyên Vũ), cả một vùng đã xảy ra tai biến với sự phá hoại nặng nề, đến nay người nghe chuyện còn cảm thấy kinh hãi, và thật khó hiểu.

Buổi sáng hôm ấy, trời đang trong trẻo, bỗng có tiếng vang lên như tiếng thét. Từ hướng Đông Bắc chuyển dần tới phía Tây Nam kinh thành, trời long đất lở, tối đen như mực, muôn nhà đổ sụp. Rối như tơ vò, tựa như ngũ sắc, làn hơi khói tựa hình nấm linh chi bốc tận trời cao, mãi lâu mới tan. Phía Đông đến dãy phố lớn cửa Thuận Thành, phía Bắc đến phố Hình Bộ, dài đến ba bốn dặm, chu vi 13 dặm, hàng vạn nhà cửa, hơn hai vạn người đều biến thành tro bụi, gạch đá, ngói vụn từ trên trời đổ xuống. Những mảnh xác người từ đầu, vai, tai, mũi đến chân tay cũng được ném tới tấp từ trên trời xuống.

Trên phố, các mảnh xác người chồng chất lên nhau, tanh hôi nồng nặc. Người chết thê thảm. Lừa, bò, chó ngựa, lợn gà cũng đều chết sạch. Trong Tử Kim Thành, hơn 2000 thầy thợ đang thi công, từ trên những giàn giáo cao ngất, bị chấn động ngã ào xuống tan xương nát thịt. Cấy cối bị bật lên cả gốc rễ bay tít tận xa. Trên đại lộ Phò Mã, một con sư tử đá nặng tới 2500 kg cũng bị bốc bay ra ngoài cửa Thuận Thành. Chuồng voi của hoàng gia ở phố Tượng Lai sụp đổ hoàn toàn, đàn voi giật mình kinh sợ xông hết ra ngoài chạy tán loạn.

Nhiều nạn nhân chết trong tư thế kỳ quặc, trên phố Thừa Ân Tự, 8 người khênh kiệu chở một cô gái đang đi trên đường thì tai họa ập đến, chiếc kiệu bị đánh vỡ tan nằm giữa đường, cô gái trong kiệu và 8 người khênh kiệu thì biến đâu mất. Tại cổng chợ sau, một vị khách đến từ Thiệu Hưng đang nói chuyện với 6 người, bỗng bay mất đầu, thân thể và chân tay đổ vật ra đất, nhưng 6 người kia thì lại bình an vô sự.

Một điều ai cũng lấy làm quái lạ là người chết, kẻ bị thương hay người bình yên vô sự, thì trong giây phút tai họa ập đến đều bị lột sạch quần áo, mình trần như nhộng. Ở phố Nguyễn Hồng Khuê một chiếc kiệu đang khêng một cô gái đi qua, tai họa ập đến, phần mái nóc kiệu bị phạt bay đi mất, cô gái trong đó bị lột sạch quần áo và mọi đồ trang sức, nhưng người thì hoàn toàn nguyên vẹn. Một người làm thị tòng cho nhà quan nào đó, lúc tai họa ập xuống chỉ thấy loáng một cái, từ quần áo giày mũ cho đến cả bít tất đều bị lột sạch, thật kinh ngạc trước sự kỳ lạ đó. Có một người bị đè gãy đùi, nhìn thấy xung quanh mình, đàn ông đàn bà đều trần như nhộng, không mảnh vải che thân. Có người lấy mảnh ngói che chỗ kín, có người dùng cái bó chân để che đậy, có người vớ được tẩm trải giường, mảnh váy rách để che... Mọi người nhìn nhau dở khóc dở cười, không có cách gì khác. Có một người thiếp yêu của một vị quan nọ bị vùi dưới đống gạch vụn, nghe thấy có người ở phía trên kêu: "Dưới này có ai thì bảo?" bèn kêu lên: "Cứu tôi với". Đến lúc vội vàng bới được cô ta lên, mới biết trên người cô ta không chút vải che thân. Vị văn thư bới cứu cô ta lên vội vàng cởi áo dài bọc kín cô ta lại, rồi để cô ta cưỡi lên con la mã về nhà mẹ.

Quần áo của mọi người bị lột đưa đi đâu vậy? Sau tai họa, có người báo cáo, toàn bộ quần áo đều bay tới Tây Sơn, cách xa mấy chục dặm (1 dặm Trung Quốc ~ 0.5 km - ND), phần lớn đều măc trên ngọn cây. Người phụ trách Bộ Hộ (cơ quan trông coi việc dân chính dưới triều Minh) Trương Phương Khuê cử "Trưởng ban" (tức thi tòng) đến đó kiểm tra, quả nhiên đúng như vậy; tại giáo trường Xương Bình Châu ở Tây Sơn, áo quần chất đống. Đồ trang sức, tiền bạc, bát đĩa... chẳng thiếu thứ gì.

Nhân dịp 360 năm tròn kể từ khi Bắc Kinh bị thảm họa năm 1986, Hội địa chất học Bắc Kinh và hơn 20 tổ chức đoàn thể, tổ chức hội thảo khoa học về nguyên nhân xảy ra tai họa khủng khiếp đó. Các học giả mỗi người một quan điểm không thể thống nhất. Chủ yếu có các quan điểm: Cho rằng do tĩnh điện khí quyển gây nên, hoặc do động đất làm cháy nổ kho thuốc súng gây ra hoặc do tác dụng cưỡng bức nổ của nhiệt hạch Trái đất... Những quan điểm đó cũng mới mẻ và kỳ lạ, nhưng khó mà giải thích được, trong khi tai họa đổ xuống thì nhiệt độ lại thấp và không có lửa. Nhất là hiện tượng lột sạch quần áo rất lạ lùng.

Hoàng đế lúc bấy giờ là Thiên Khởi Chu Do Hiệu cho rằng, tai họa đó là do nguyên nhân ông ta chấp chính không tốt, và hạ "tội kỷ chiếu" để khiển trách bản thân. Nhưng xem xét kỹ lại th Những chiếc máy bay trở về bí ẩn

Từ thời cận đại đến nay, những hình thức biểu hiện chủ yếu của các tai nạn mà loài người phải gánh chịu là việc mất tích của máy bay và tàu thuyền. Những vụ mất tích máy bay và tàu thuyền đã không còn là hiếm, nhưng điều kỳ lạ lại chính là sau khi mất tích một thời gian, chúng lại hiện trở về hoàn toàn nguyên vẹn. Những máy bay và tàu thuyền không còn người lái như là những linh hồn trở về Trái Đất từ một Vũ Trụ khác.

Năm 1985, tại vùng đầm lầy trong khu rừng rậm Niu Ghinê, người ta phát hiện thấy một máy bay chở khách hai động cơ đã mất tích trước đó gần nửa thế kỷ. Điều khiến người ta không hiểu nổi là chiếc máy bay đó trông còn mới y như trước khi bị mất tích, không hề cũ đi hoặc biến dạng. Số hiệu trên máy bay vẫn rõ ràng, dễ đọc. Chiếc máy bay lấp lánh ánh bạc này mất tích trước đó 45 năm trên đường bay từ Manila Philippin đến đảo Mêndanao. Trong khoang máy bay vẫn tìm thấy những tờ báo tuần thứ ba tháng 1 năm 1937, ngày Chủ nhật.

Một nhóm chuyên gia hàng không của quân đội Inđônêxia được cử đến hiện trường. Sau khi xem xét nghiên cứu chiếc máy bay "như còn mới" đó, khi trở ra, ai cũng tái mặt và kinh ngạc. Ngành chủ quản phụ trách nghiên cứu lập tức ra lệnh phong tỏa khu vực mới phát hiện ra chiếc máy bay đó.

Các điều tra viên lúc đầu khi mới trông thấy chiếc máy bay đó, không ai dám tim ở mắt mình nữa. Vỏ ngoài của nó trông vẫn mới, thân máy bay hoàn toàn không có một vết tỳ nào, dưới ánh sáng mặt trời nó sáng lấp lánh như gương. Các nhân viên điều tra tưởng rằng cửa của nó chắc chắn bị gỉ, rất khó mở, nhưng ngược lại, vừa vặn quả đấm là mở được ngay, không hề có tiếng cót két hay răng rắc gì cả, êm ru.

Vào trong khoang máy bay không thấy người nào dù là sống hay chết. Nhưng trong máy bay cốc giấy, mẩu thuốc lá và mấy tờ báo năm 1937 vẫn chưa ngả mầu vàng, dường như mới đó vẫn đang có người ngồi trong máy bay. Trong một chiếc gạt tàn, có để một vỏ bao thuốc lá thơm, loại thuốc lá mác ấy lưu hành vào những năm 1930, nhưng vào thời Chiến tranh thế giới thứ II đã ngừng sản xuất. Còn những trang phục và kiểu đầu tóc trên tờ báo đều thuộc thời kỳ kinh tế khủng hoảng và suy thoái ở Mỹ. Trong phích nóng vẫn còn cafe nóng hổi, và mùi vị của nó vẫn thơm ngon, chưa hề bị biến mất.

Điều khiến cho các nhân viên điều tra ngạc nhiên nhất là tình trạng máy bay. Trong bình ắc quy của máy bay vẫn nạp đầy điện, chỉ vặn công tắc là đèn trong máy bay bật sáng. Thùng chứa nhiên liệu của máy bay hầu như vẫn đầy nguyên. Tất cả những điều đó khiến cho nhân viên điều ra sởn tóc gáy.

Chiếc máy bay đó trông như được hạ cánh khẩn cấp nhờ các bánh xe của nó, vừa may nó đỗ xuống được chỗ đất mềm trong vùng đầm lầy, nên hoàn toàn không bị hư hại gì, vẫn có thể bay trở lại như 50 năm trước đây. Các nhà khoa học vẫn tiếp tục điều tra về bí mật của việc máy bay đã mất tích từ lâu nay bỗng xuất hiện trở lại.

Theo ghi chép, những sự kiện tương tự cũng đã từng xảy ra vào thập niên 60. Một máy bay ném bom của Mỹ ngày 04 tháng 04 năm 1946 không quân Mỹ huy động lực lượng tìm kiếm suốt 500km vùng trời nơi nó mất tích, nhưng không kết quả gì. Bất ngờ, vào năm 1962 chiếc máy bay đó lại xuất hiện tại nơi cách sân bay mấy trăm mét. Thiết bị vô tuyến điện trên máy bay vẫn nguyên vẹn. Căn cứ theo phân tích máy móc thiết bị, dường như nó mới đõ xuống ngay chiều hôm đó, không ai nghĩ chiếc máy bay đã mất tích 17 năm.

Vào một ngày trời quang mây tạnh của năm 1984, tại bãi cát miền Bắc Mexico bỗng xuất hiện 05 máy bay quân sự Mỹ. Thân máy bay vẫn sáng bóng, thùng nhiên liệu vẫn chứa đầy xăng, nhưng trong máy bay thì trống rỗng chẳng có một người. Các chuyên gia Mỹ cho rằng: Cả 05 máy bay đó điều mất tích từ hồi năm 1945 lại vùng biển tam giác Bécmút (gọi là Bécmuđa). Nhưng việc đó vãn đang tranh luận, bởi có người nói rằng, phiên hiệu của máy bay đã mất tích nhiều năm lại xuất hiện trở lại là một sự thực không thể phủ nhận được.

Còn những sự kiện tàu thuyền đã mất tích xuất hiện trở lại thì vụ phát hiện tàu "RaĐahama" của Mỹ tại tọa độ 37 độ 37' độ Vĩ Bắc 51 độ 55' độ Kinh Đông vào tháng 08 năm 1935 là vụ nổi tiếng. Khi tàu buôn "Axơchich" phát hiện ra tài RaĐahama thì trên tàu không có người nào cả. Điều khiến cho thuyền trưởng và các thuyền viên tàu "Axơtich" kinh ngạc là khi họ từ nươca Anh ra đi thì được thuyền trưởng tàu "Raicơxcơ" của Italia cho biết hồi trước tháng 07 họ đã tận mắt trông thấy tàu "RaĐahama" bị đắm ở Đại Tây Dương.

Hơn 100 năm trước đây, ở Đại Tây Dương cũng từng phát hiện được một tàu đã mất tích nhiều năm trước đó. Đó là con tàu Meri Sairaistơ. Khi phát hiện ra nó thì trên tàu không có người, nhưng những đồ quý giá như vàng bạc, kim cương vẫn nguyên vẹn, không hề suy suyển. Xuồng cứu sinh và các đồ vật khác vẫn đầy đủ. Thậm chí trên tàu  vẫn còn để lại những thứ trong bữa ăn đang ăn dở. Không biết người trên tàu đã bỏ đi đâu?

Đầu năm 1990, tàu buồm hai cột "Durixis" mất tích đã 24 năm bỗng nhiên lại xuất hiện, nó đỗ ở một bãi biển vắng vùng ngoại ô thành phố Caracat và Vênêduêla. Ba thủy thủ trên tàu khi được phát hiện ra (năm 1990) đều giật mình ngạc nhiên. Ngày 06 tháng 01 năm 1966 họ từ đảo Aroba ra khơi. Không ngờ khi họ vừa đánh bắt được con cá lớn, nặng tới 110kg thì bão ập tới. Mọi người vội vã đưa nhau đi tránh gió. Nào ngờ cơn hoảng sựo đã kéo dài đến 24 năm. Vụ tàu mất tích xuất hiện trở lại này, tuy trên tàu vẫn có người, không biết các nhà vũ kia, chỉ là những "tà linh hồn" trở lại.

 ì thấy, tai họa khủng khiếp đó chỉ có thể coi là một hiện tượng bí ẩn chưa từng có.

Nhân mã quả thực từng tồn tại?

Các nhà nghiên cứu khẳng định những sinh vật nửa người nửa thú trong thần thoại Hy Lạp thực sự tồn tại. Họ tìm thấy không ít những bức họa trên đá mô tả chúng và tin rằng các họa sĩ cổ đại đã thực hiện tác phẩm của mình từ chất liệu cuộc sống.

Paul Takon từ Bảo tàng Australia ở Sydney và nhà cổ sinh vật học Christopher Chippendale từ Đại học Cambridge cho biết những sinh vật lai kiểu này, trong đó có Nhân mã, có thể đã từng sống song hành cùng cha mẹ nguyên thuỷ của chúng. Ở Australia và Nam Phi, nhóm nghiên cứu phát hiện hàng chục các bức vẽ trên đá mô tả động vật mang đầu người hoặc hình người có đầu động vật, có niên đại hơn 32 nghìn năm.

Lần đầu tiên trong lịch sử, họ đã thực hiện một nghiên cứu chi tiết về những bức vẽ kỳ lạ này, sử dụng khoảng 5.000 bức tranh đá của tổ tiên chúng ta: các nhà khoa học đã hệ thống hoá tần xuất xuất hiện và kiểu người lai được mô tả, cũng như định tuổi của chúng. Sau cùng, nhóm đi đến kết luận rằng người mình thú thực sự tồn tại trong quá khứ xa xưa. Theo các nhà nghiên cứu, người nguyên thuỷ không bao giờ vẽ ra những gì họ không nhìn thấy

Thần thoại La Mã và Hy Lạp cổ đại cũng kể cho chúng ta nghe nhiều về những người có cơ thể động vật, và Nhân mã (centaur) là ví dụ thường gặp nhất. Đó là những sinh vật có thân trên của con người, nhưng với chân của ngựa hoặc các động vật khác, như bò đực, lừa, cừu và thậm chí cả dê. Tên gọi centaur là sự hợp nhất của từ Ken (nghĩa là Tôi giết) và Tauros (nghĩa là bò đực), và nó cũng cho thấy vốn hiểu biết thiên văn của người xưa. Khi chòm sao của cung Nhân mã (với các centaur đang ném một cây giáo) xuất hiện trên bầu trời đêm, chúng ta không thể nhìn thấy Kim ngưu, một trong các biểu tượng của mặt trời.

Chuyên gia về thần thoại học đồng thời là nhà khoa học lịch sử Alexander Guryev cho biết người mình thú là kết quả của hành vi thú dâm - sự giao cấu giữa người và động vật, điều khá phổ biến trong các thời kỳ nguyên thuỷ. Họ cũng lưu ý nhiều tộc người đến tận bây giờ vẫn xem mình là hậu duệ của động vật: Chẳng hạn người Tây Tạng tin chắc họ có nguồn gốc từ khỉ, người Hindu coi ngựa là ông tổ và người Thái xem mình là hậu duệ của chó.

Một thần thoại Hy Lạp kể rằng nhà chinh phục Alexander Đại đế được thụ thai trong lần giao phối giữa một con rắn cỏ, do thần Zeus (vị thần bảo trợ cho tất cả các thần và con người) hoá thân với Olympia, con gái của hoàng đế Macedonia.

Sử sách cũng tiết lộ hành vi thú dâm quả thực rất thường gặp trong thời kỳ Hy Lạp và La Mã cổ đại. Nhà văn châm biếm người La Mã Juvenalis viết rằng "phụ nữ La Mã thường trưng cái mông trần của họ để lôi cuốn lũ cừu vào các cuộc giao hoan". Ở Ai Cập, những cuộc giao cấu này là một phần của nghi thức sùng bái sự sinh nở.

Trong những thời kỳ cổ đại, các chiến binh thường mang theo những đàn cừu hoặc dê trong mọi cuộc chiến, sử dụng vào mục đích giết thịt và chơi trò giao cấu. Có văn bản còn ghi lại rằng những người lính Italy đã đào ngũ trong cuộc bao vây Lyons của những tín đồ công giáo vào năm 1562 vì họ có quá ít cừu để thực hiện sex. Việc cho phép giao cấu giữa những người lính và động được xem là ít xấu xa hơn quan hệ với gái điếm. Các học giả đáng kính - Paracelsus, Cardano và bà đỡ nổi tiếng của thế kỷ 16 Fortunio Liceti cũng đã một vài lần ghi lại sự ra đời của những đứa trẻ lai, động vật do người sinh ra, và người do động vật sinh ra. Ghi chép của họ nói đến ngựa, voi, chó và thậm chí cả sư tử.

Cũng theo Alexander Guryev, nhiều năm trước khoa học chính thống không thừa nhận khả năng lai chéo giữa người và động vật. Nhưng gần đây, những nguồn tin khoa học đáng chú ý đã công bố kết quả thí nghiệm gene, trong đó các nhà nghiên cứu thu được những phôi có một nửa số tế bào người và nửa của động vật. Từ quan điểm khoa học, sự khác biệt giữa người và động vật chỉ là vài phần trăm. Điều đó có nghĩa là không loại trừ khả năng những đột biến tự phát xảy ra trong các tình huống hiếm hoi, và việc lai giống tự nhiên là hoàn toàn có thể trong những trường hợp như vậy.

Nhà giải phẫu học danh tiếng người Đan Mạch Thomas Bartolin viết rằng ông từng nhìn thấy một phụ nữ có đứa con với cái đầu mèo sau khi giao cấu với một con mèo. Sách y học của thế kỷ 19-20 cũng mô tả những trường hợp ra đời các sinh vật người-động vật.

Vào cuối thế kỷ trước, một vài nhà nghiên cứu Anh đã viết về những phụ nữ da đen sống cùng với gorilla. Những đứa trẻ sinh ra từ các cuộc giao cấu này có thể làm được những việc đơn giản ở nhà và thậm chí có thể nói. Không may, các nhà nghiên cứu không có cơ hội nhìn thấy chúng vì các em bé lai cảm thấy bị tổn thương mạnh mẽ và đã trốn vào rừng.

Alexander Guryev còn cho biết tuy các nhà nghiên cứu không có bộ xương mẫu nào của các sinh vật lai, song họ không thiếu những phần trên và dưới của các bộ xương đó.

Ai chế tạo ra đầu người thủy tinh?

Năm 1927, hai cha con nhà khảo cổ học người Anh là Mixin Haiđơ Jidơ và Anna, tại khu phế tích thành cổ Lôba Antômô nơi gần thành phố Hatơri nước Anh đã tiến hành khảo sát và tìm thấy một đầu người thủy tinh nặng khoảng 5kg. Đó là một khố thủy tinh phỏng theo xương đầu người chế tác ra. Xương mũi được lắp ghép bởi ba mành thủy tinh, hố mắt là một viên thủy tinh tròn, răng được gắn ngay ngắn vào xương hàm.

Cuốn sách "Nguy hiểm lắm, con đường của tôi" xuất bản năm 1954 đã nhận định rằng, xương đầu người bằng thủy tinh này do người cổ chế tạo ra cách đây hơn 3.600 năm: Theo giám định của các nhà khảo cổ học, chiếc sọ người thủy tinh này phải tốn thời gian 150 năm mới được chế tác xong. Sau khi đục khắc xong còn được dùng cát để đánh bóng. Trước khi được khai quật, nó đã được chôn dưới đất chí ít cũng đã 3.600 năm.

Một số nhà khảo cổ khác không đồng ý với cách suy luận đó. Họ cho rằng, những người cổ đại sống cách đây 3.600 năm bị hạn chế bởi điều kiện khoa học kỹ thuật lúc bấy giờ ở trình độ rất thấp, không thể chế tạo được sọ người thủy tinh tinh xảo đến thế.

Viện bảo tàng nhân loại học của Pháp cũng lưu giữ một sọ người thủy tinh. Theo khảo chứng của một số nhà khoa học Pháp: Chiếc sọ người thủy tinh đó qua giám định khoa học, được xác định là do người Aztech, tức người Anhđiêng - Mexico chế tạo ra vào thế kỷ 14 hoặc thế kỷ 15. Phân tích từ góc độ lịch sử và tôn giáo, nó có thể là vật trang sức của mục sư Aztech, của người Anhđiêng cúng tế. Gần quanh nơi tìm thấy sọ người thủy tinh, người ta cũng tìm thấy rất nhiều công cụ đồ đồng cỡ nhhỏ nhưng rất tinh xảo. Xem ra, sọ người thủy tinh rất có khả năng do người Aztech dùng công cụ bằng đồng để chế tạo nên.

Một số học giả tán thành quan điểm trên, họ cho rằng thế kỷ 14 và 15, người Aztech đã có trình độ phát triển khá cao, họ đã chế tạo được đồ gốm với đặc trưng màu nâu vân đen, tạo hình mỹ quan, đường vân đa dạng, phức tạp, từ những bản vẽ hình học phát triển tới việc tả thực hoa lá, chim cá, côn trùng, họ còn biết sử dụng đồng thiên nhiên để rèn thành công cụ, dùng lông chim cắm vào để tạo ra vật trang sức. Năm 1978, trong khai quật khảo cổ, Mexico lại phát hiện một tảng đá điêu khắc nặng khoảng 10 tấn, đường kính 11 thước Anh được gọi là "Đá Mặt Trăng". Đó là tảng đá được người Aztech chế tác vào năm 1470. Từ những bằng chứng trên, có thể chứng minh rằng, trình độ khoa học kỹ thuật của người Aztech tinh chắc rằng linh hồn sống mãi, và họ theo tín ngưỡng đa thần (Thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng, Thần Mưa,...). Khi tế thần họ dùng người sống để làm vật hiến tế. Sọ người thủy tinh này có thể là một trong những vật phẩm được họ dùng để tiến hành những hoạt động tế thần.

Nhưng một số học giả tỏ ra hoài nghi, thậm chí phủ định quan điểm trên. Họ cho rằng, vào thế kỷ 14 và 15, công cụ sản xuất và vũ khí của người Aztech thường vẫn là đồ đá và đồ gỗ. Lúc bấy giờ họ đang ở giai đoạn liên minh bộ lạc, đang trong thời kỳ từ xã hội nguyên thủy quá độ tiến lên buổi đầu của chế độ nô lệ, còn thiếu hẳn kỹ nghệ điêu khắc ở trình dộ cao, rất khó có thể chạm khắc được sọ người thủy tinh sinh động như vậy.

Viện bảo tàng Anh quốc cũng lưu giữ một sọ người thủy tinh. Trong đêm tối không có ánh đèn, chiếc sọ vẫn phát ra ánh sáng trắng lóa mắt, hiển hiện một vẻ khủng khiếp giống hình một ác quỷ nhe răng trợn mắt. Chiếc sọ thủy tinh này được mua lại tại hiệu châu báu Tiphanni ở NewYork năm 1898. Theo lời người chủ hiệu thì nó được một người lính bán cho chủ hiệu vào cuối thế kỷ 18. Một số nhà khảo cổ cho rằng, đó là tác phẩm của người Adôđê (châu Mỹ La-tinh), chế tác từ thời thực dân. Nhưng đó cũng chỉ là một giả thuyết, chứ chưa phải là kết luận nhất trí của giới khảo cổ học.

Cho đến nay cả 3 chiếc sọ người thủy tinh trên đều chưa rõ lai lịch, không biết người nào chế tác ra chúng vào thời gian nào, có mục đích và ý nghĩa gì? Đến nay thế giới đang chờ các nhà khảo cổ học nghiên cứu tìm ra câu trả lời thỏa đáng

Thực sự có tồn tại một chiều không gian khác?

Đã từ lâu, các nhà khoa học trên thế giới tin rằng thời gian và địa điểm chúng ta đang sống chỉ là một trong nhiều chiều không gian và thời gian mà chúng ta không nhìn thấy được.

Theo họ, thời gian có thể đếm được, là một dạng vật chất không thể biến mất. Do đó hình hài của chiều thời gian cũng có mặt ở mọi nơi. Khi 2 chiều thời gian trùng nhau thì đó cũng là hiện tượng tự nhiên, giống như lúc mưa rơi, nắng rọi và sấm sét dậy trời. Người ở một chiều thời gian có thể nhìn thấy một chiều thời gian khác, có thể là chiều thời gian tương lai hoặc quá khứ.

"Tam giác quỉ" Bermuda ở Đại Tây Dương được mệnh danh là "tử địa", vì đã có hàng trǎm tàu thuyền và máy bay bị mất tích một cách bí ẩn tại đây trong vòng 100 nǎm qua. Những người đi biển tin rằng giữa Đại Tây Dương có một "rốn biển" với những xoáy nước khổng lồ có đường kính hơn 100 dặm... Và đó có thể là cánh cửa xuyên vào một chiều thời gian khác có tốc độ gấp 2 lần tốc độ ánh sáng. Các nhà khoa học ở một số cơ quan nghiên cứu quốc tế nổi tiếng cho biết, có thể làm cho con người chúng ta xuyên qua một chiều thời gian khác, nhưng đáng tiếc tốc độ của các phương tiện mà con người tạo ra hiện thời mới chỉ đạt chưa đầy 1/3 tốc độ ánh sáng. Vì vậy, những tàu thuyền và máy bay bị mất tích một cách bí ẩn có thể là do bị hút vào một chiều không gian khác.

Cũng tương tự như vậy đối với sự kiện bí ẩn xảy ra trên bầu trời Niu Yoóc (Mỹ) vào cuối nǎm 1999. "Lạy Chúa, chúng tôi đang ở đâu vậy. Làm sao chúng tôi đến được nơi đây? Đây là Hãng hàng không Alp Air, chuyến bay 703. Tất cả đều lạ lùng. Tôi không biết mình ở đâu. Người nào nhận được những lời này xin hãy giúp chúng tôi". Đó là nội dung lời kêu cứu của một viên phi công "ma" truyền qua làn sóng điện với giọng vô cùng sợ hãi. Rồi chiếc máy bay hành khách kiểu cũ ĐC.7 mà hãng Boing chế tạo từ hơn 30 nǎm trước bỗng xuất hiện phía trên đảo Maháttan ở thành phố Niu Yoóc.

Những người chứng kiến hình ảnh của "chiếc máy bay ma" nói trên là viên phi công lái một chiếc máy bay trực thǎng đưa một số du khách bay thưởng ngoạn toàn cảnh thành phố lớn nhất thế giới này. Viên phi công lái máy bay trực thǎng tên là Ben Giắcman đã nhận được lời cấp báo đó một cách rõ ràng. Và 12 khách du lịch trên chiếc máy bay cũng tận mắt nhìn thấy "chiếc máy bay ma" ĐC.7, một số người đã chụp ảnh nó. Ben Giắcman sau đó thuật lại trên truyền hình về sự kiện bí ẩn này: "Khi tôi nhận được lời nói của anh ta, tôi vội bấm nút trả lời ngay, vì nhận thấy giọng nói của anh ta giống người đang bị hoảng loạn. Anh ta cuống lên nói rằng lẽ ra máy bay đã tới dãy núi Alp (ở châu Âu), nhưng sao không nhìn thấy nó và phía dưới cũng không phải Thuỵ Sĩ, vì anh ta biết rõ địa hình. Tôi bèn nói với anh ta rằng anh ta đang ở trên bầu trời nước Mỹ, vì không có lịch trình bay qua đây. Anh ta cất cánh từ sân bay thành phố Vêrôna (Italia) và bay đến thành phố Inxbrúc (áo). Khi đó tôi nghĩ rằng gã phi công này không điên thì cũng say rượu. Nhưng tôi bỗng rợn tóc gáy vì chợt nghĩ ra điều gì đó. Tôi hỏi ngày cất cánh của anh ta là ngày nào. Điều viên phi công trả lời khiến tôi gần như không tin nổi vào tai mình. Anh ta nói rành mạch rằng máy bay cất cánh tại sân bay quốc tế Vêrôna hồi 6h45 ngày 26/11/1972 để bay tới thành phố Inxbrúc, rồi sẽ bay tiếp đến Líchtenxten. Máy bay của anh ta có phi hành đoàn 7 người và 132 hành khách. Tôi sững sờ, không biết nói sao, rồi tôi nghe tiếng viên phi công "ma" đó bắt liên lạc với trạm hoa tiêu bay của thành phố Inxbrúc. Đến đây tôi biết rằng mình đang đối mặt với điều tựa như chuyện truyền kỳ bí ẩn. Tôi đã gặp ma hay linh hồn đang xuyên qua chiều thời gian quá khứ để đến với chiều thời gian hiện tại. Tôi nói với anh ta rằng giờ đây không phải là nǎm 1972 mà là nǎm 1999, nhưng anh ta vẫn khǎng khǎng cãi nǎm nay là nǎm 1972".

Về sau Ben được biết rằng Hãng hàng không Alp Air và chuyến bay 703 là có thật 100%. Nǎm 1972, chuyến bay này đã chở các SV người Pháp và Italia đi dự cuộc thi trượt tuyết mùa đông. Nhưng máy bay đó đã gặp bão tuyết đột ngột và bị rơi sau khi cất cánh được 40 phút. Chuyến bay nói trên được ghi nhận là "mất tích" cùng với thông báo tất cả các hành khách và phi hành đoàn trên máy bay đều chết, vì từ đó đến nay người ta chưa hề tìm ra vết tích của chiếc máy bay này.

Ben cho biết thêm: "Khi đang cố khẳng định đang là nǎm 1999, tôi nghe thấy tiếng nấc và giọng nói như của người hấp hối của "viên phi công ma". Tôi nhìn về phía cửa sổ buồng lái và cửa sổ khoang hành khách của chiếc máy bay đó và thấy rằng hình như bên trong máy bay không phải là người mà chỉ là hình bóng của họ. Tôi tìm cách lái trực thǎng tiến lại gần chiếc máy bay DC.7, nhưng ngay lập tức có một luồng ánh sáng trắng loá lên rồi "chiếc máy bay ma" nọ bỗng nhiên mất hút, cứ như chẳng có gì xảy ra trước đó"...

Bí ẩn về sự hủy duyệt thành cổ Ấn Độ

Các nhà khảo cổ bắt đầu khai quật từ năm 1922 đã chứng tỏ, trên lưu vực sông Ấn từ 5.000 năm trước, từng có một thành phố đông vui phát đạt bỗng trong một quãng thời gian rất ngắn bị sụp đổ. Di chỉ của nó được gọi là Môhan Jôđarô". theo âm tiếng Ấn Độc có nghĩa là "hang chết chóc". Rất nhiều học giả ngày nay đêu cho rằng, gọi nó là "Gò chết hạt nhân" thì đúng hơn.

Cuộc khai quật kéo dài nhiều năm đã khiến cho phế tích thành cổ của văn minh thời tiền sử bị chôn vùi dưới tầng đất dày nay lại được thấy mặt trời. Tại nơi này các nhà khảo cổ tìm thấy chứng cứ của rất nhiều vụ nổ mạnh. Trung tâm vụ nổ với bán kính 1km, tất cả mọi kiến trúc đều biến thành tro bụi. Xa trung tâm một ít, phát hiện thấy rất nhiều bộ xương người.

Từ những tư thế của các bộ xương, có thể nhận ra tai nạn chết chóc đổ xuống một cách bất ngờ và mau chóng, người ta không hề có cảm giác gì về tai nạn đó. Trong những xương đó, rất kỳ lạ là đều hàm chứa những phóng xạ có thể so với những phóng xạ chứa trong những người tử nạn ở Hirôsima và Nagaxaki bị tập kích bằng vũ khí hạt nhân. Không những thế, các nhà nghiên cứu còn rất nhạc nhiên khi phát hiện những đống đổ nát sau khi thành phố bị thiêu hủy xem ra rất giống quang cảnh thành phố sau vụ nổ nguyên tử ở Hirôsima và Nagasaki. Mặt đất còn giữ lại được dấu vết của sóng bức xạ hạt nhân.

Liên hệ đến sử thi Ấn Độ cổ "Mahabharata" đã miêu tả một cách sống động thực sự thời tiền sử 5.000 năm trước, thì người hậu thế cũng có thể hiểu được phần nào cảnh ngộ của thảm họa "Gò chết hạt nhân":

"Bầu trời vang lên tiếng nổ ầm ầm, tiếp theo là một tia chớp, bầu trời phía Nam cuộn lên một cột lửa bốc lên tận trời cao. Ánh lửa chói hơn cả mặt trời cắt bầu trời làm hai nửa... Nhà cửa, đường phố và tất cả mọi sinh vật đều bị thiêu hủy bởi lửa trời đến đột ngột và nhanh chóng..."

"Ngọn lửa đáng sợ làm cho động vật ngã nhào, nước sông sôi lên, các loài cá đều chết bỏng hàng loạt, người chết đều khô như cành cây, lông tóc và móng chân móng tay rơi rụng ra hết, thực phẩm đều bị nhiễm độc,..."

"Đó là một Trái bom, nhưng một trái bom có uy lực của toàn vũ trụ. Một luồng khó mù đỏ như lưỡi lửa, sáng tựa như hàng ngàn mặt trời, từ từ cuộn lên cao, ánh sáng chói mắt..."

Robert Oppenheimer, ông tổ của bom nguyên tử Mỹ đã nói rằng, theo sự miêu tả của cuốn sử thi cổ Ấn Độ, rõ ràng đó là cảnh tượng loài người tiền sử bị bom nguyên tử tập kích.

Các nhà khảo cổ học cũng đã phát hiện một di chỉ tương tự "Gò chết hạt nhân" của Ấn Độ tại vùng thung lũng sông Ơphrát trong biên giới Irắc vùng Tây Á. Tại khu vực di chỉ này, các nhà khảo cổ học đã lần lượt khai quật từng lớp đất và phát hiện nền văn minh tiền sử khoảng 8.000 năm trước đây. Tại tầng sâu nhất, họ đã phát hiện những thứ giống như phalê nóng chảy. Lúc đầu các nhà khoa học không biết đó là thứ gì, mãi đến khi thư bom nguyên tử ở bang Nêvađa nước Mỹ, họ thấy những vật còn sót lại giống như phalê nóng chảy, hoàn toàn giống với thứ đào được ở di chỉ thung lũng sống Ơphrat.

Thứ "Phalê nóng chảy hạt nhân" đó còn được tìm thấy ở thượng lưu sông Hằng, ở vùng rừng rậm nguyên thủy Đơlen, ở sa mạc Sahara, sa mạc Gôbi Mông Cổ... khá nhiều. Tại những nơi ấy đều rải rác có những chỗ đất bị cháy, có những chỗ từng tảng đá lớn bị dính liền với nhau, bề mặt lồi lõm gồ ghề, có những chỗ tường thành như bị nóng chảy, nhẵn bóng như phalê. Cả đến đồ dùng trong nhà bằng đá bề mặt cũng bị phalê hóa. Mà muốn làm nóng chảy đá đòi hỏi phải đạt đến khoảng 2.000 độ C. Các núi lửa phun và những đám cháy lớn nhất trong tự nhiên đều không thể đạt đến nhiệt độ đó, chỉ có các vụ nổ nguyên tử mới đạt được nhiệt độ đó.

Phát hiện về "Gò chết hạt nhân" thời tiền sử trên Trái Đất có ý nghĩa gì? cho đến nay các nhà khoa học vẫn còn tranh luận và vẫn còn là bí ẩn đối với loài người

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: