một; phù thủy thành phố la hay
Hà Lan, 1672
—
Xuân tàn, hạ thắm, dầu cho muôn nụ tulip đã đơm sắc nồng hay vạt nắng rực rỡ có neo đậu trên những mái nhà ngói đỏ, dầu cho La Hay nhìn từ xa vẫn mang dáng dấp của một nàng thơ kiêu kỳ, lộng lẫy bước ra từ những trang sách ngả vàng của Dôn Đơn, thì nó vẫn chẳng còn bình yên như những gì nó đáng lẽ nữa.
Khi tiếng chuông nhà thờ Niu-ơ Ket ngân lên từng khúc dài thê lương, khi những cánh chim hy vọng trắng muốt bay đi và chẳng hứa hẹn ngày quay về, đó cũng chính là lúc chúng mang theo cả những niềm hy vọng le lói cuối cùng của nhân dân Hà Lan đi mất. Những con tim héo tàn vì lạc lối trong mớ quyền lực kệch cỡm của Hoàng gia đè nặng lên đôi vai, nhưng lại không đủ lòng tin vào một Cộng hòa sẽ vớt cả tương lai họ ra khỏi hố bùn sâu nhầy nhụa đang dần chết mòn.
Nhưng rồi, chính những linh hồn leo lét như thế lại là nỗi đe dọa lớn nhất của Hoàng gia. Hoàng thân Orăng bắt đầu lo lắng đến những giọt nước đã chực tràn ra khỏi thành ly, sợ đến một ngày sự kiệt quệ kia sẽ hóa thành căm phẫn. Rồi họ sẽ cầm những thanh đuốc, những cây đao sáng loáng, từng đoàn, từng đoàn một hô hào ầm ĩ trên khắp các nẻo đường để dành lấy quyền lợi mà họ xứng đáng phải có. Bởi, họ chẳng có gì để mất nữa, nỗi sợ theo nghĩa đó sẽ không có lý do để tồn tại, họ cứ thế mà tiến lên tựa thiêu thân lao đầu vào hố lửa. Một đất nước để quân tốt thí trên bàn cờ đứng lên lật đổ quân vua là một đất nước chết, Hoàng gia nào muốn ngồi im chờ đến ngày sụp đổ như thế?
Và, vào một ngày nắng hạ sánh đặc như mật, rực rỡ và chói chang, Đức vua đã ban bố một bản thông cáo, rằng:
“Hỡi toàn thể nhân dân Hà Lan kính mến,
Chúng ta đã tìm ra được điểm kết thúc của những nỗi đau bất tận, của những khổ cực lầm than. Hoàng gia đã bắt sống được một phù thủy! Kẻ đã yểm bùa chú quái gở lên cả đất nước này, tự tay tạo nên biết bao tai ương rồi giáng chúng xuống những mảnh đời côi cút vô tội, những trái tim thuần khiết chỉ muốn yêu và được yêu, những người con trung thành của Chúa Trời không đáng phải bị tù đày khốn đốn.
Lễ trừ tà, diệt quỷ, thiêu sống kẻ tội đồ này sẽ diễn ra tại quảng trường Đam Sque. Kính mời toàn thể nhân dân đến dự để thanh tẩy cho linh hồn đang bị cái ác mai một, để cầu cho muôn đời bình yên, hưởng thụ an lành!
Hoàng gia trân trọng thông báo.”
Niềm tin về những thứ huyền ảo của con người luôn là điều ngu xuẩn nhất thế gian. Bọn họ chỉ tin vào những gì họ muốn tin, chỉ thấy những gì họ muốn thấy, và chỉ biết những gì họ muốn biết, dẫu cho nó vô lý đến đâu; Ấy vậy mà lại tốt! Hoàng thân Orăng vốn biết rất rõ, và rồi sử dụng nó như một thứ công cụ trấn áp nhân dân mà chẳng cần phải bỏ ra nửa xu vàng nào.
Suy cho cùng, làm quái gì có phù thủy thật sự tồn tại trên thế gian.
—
Hơvan-Nơpốt là một khối kiến trúc đồ sộ tọa lạc trên đường Baitơhốp, dù đã trải qua hai lần trùng tu, những viên gạch to tổ, xám xịt vẫn không giấu đi nổi vết lằn do thời gian cấu xé. Cả tòa nhà gothic toát lên một màu xưa cũ, cổ kính như một lão già vốn đã quen với một đoạn lịch sử đằng đẵng chống chọi với sương gió đục khoét.
Kệch cỡm làm sao! Một nghệ thuật tĩnh như thế lại được Hoàng gia dùng để làm nhà tù chuyên giam nhốt những con mọt phản động, những con rận chính trị chỉ còn biết dõi mắt trông một góc trời xanh qua song cửa sổ chưa to bằng một tập thơ cổ, chờ đến ngày hành quyết. Người đời buông muôn lời ca tụng cho Hoàng gia đã rũ lòng thương hại, nhân từ cho những kẻ tội đồ đáng chết, tất vì phế phẩm của xã hội đến phút chót của vòng đời vẫn được chào đón một nơi “lộng lẫy” như thế! Nhưng họ nào có biết đâu, hễ cứ ai đặt chân vào đây đều mòn mỏi chờ đến ngày xử tử, và rằng chẳng có ngoại lệ nào cho họ nữa. Dù cho bình minh lơi hạt nắng từ phía sau lưng đồi Bếc hay ánh tà dương có nhuộm chín rục cả thành phố La Hay trong sắc cam rực rỡ, chiếc vòng sắt vẫn như siết đứt dây thanh quản, chẳng nới lỏng một khắc nào.
Trong ngục tù vốn không cắm những cây đuốc dầu, thứ ánh sáng duy nhất tù nhân nhận được chỉ là chùm le lói ngoài khung cửa sổ được đục ở tít trên cao - cũng là nơi duy nhất để không khí có thể luân lưu trườn vào ve vuốt những con tim khắc khoải. Thế nên, nhìn từ đâu thì vẫn thấy Hơvan-Nơpốt vốn không phải là một nhà giam, mà là một chiếc lồng thú! Không khí ngột ngạt, thê lương, những lòng oán hận không cần phải diễn tả thành lời nhưng vẫn chen chúc đặc quánh nơi đầu mũi. Tất cả điều đó làm đầu mi của Choi Seungcheol xoắn tít lại, vì khó chịu.
Nhưng cũng hồi hộp làm sao.
Gã bắt đầu thấy trái tim gõ từng nhịp nôn nao từ khi biết mình phải canh ngục cho một phù thủy. Nghĩ đến khoảnh khắc lần đầu được chạm đến ánh mắt của nhân vật vốn chỉ được biết đến từ những trang truyện cổ tích cũ rích trong thư viện, luôn xuất hiện với chiếc mũi khoằm to tướng, với một gương mặt kiều diễm vì được làm phép, với giọng nói câu hồn và một tâm địa thâm độc hơn tất thảy những gì ác nghiệt nhất dương gian, gã lại thấy lòng mình chẳng yên.
Gian ngục nằm tại nơi dưỡng khí chỉ tồn tại loang lổ, mờ nhòa, nơi dễ mài gọt tinh thần của bất kỳ ai trong cả tòa Hơvan-Nơpốt rộng lớn, cũng là nơi đơn côi nhất trên đất nước Hà Lan này. Rồi bỗng gã bắt đầu lo lắng về quyền năng của kẻ được nhốt trong đấy. Chao ôi, phải nguy hiểm đến độ nào mới bị Hoàng gia đày đọa như thế?
Gót chân Choi Seungcheol gõ lộc cộc xuống nền, thứ thanh âm duy nhất tồn tại khi hắn ngày càng một đến gần hơn nơi cuối đoạn đường đang choán hết cả không gian. Gã lừ mắt nhìn trong đoạn ánh sáng loe loét, bày vẽ một gương mặt nghiêm nghị đã từng dẫm đạp biết bao tên tù nhân cứng đầu, ắt cũng là vì chẳng muốn thua thiệt nỗi lo lắng đang tác oai tác oái trong lồng ngực.
Nhưng rồi gã nhận ra chẳng có gì ghê gớm giống như những gì gã mường tượng.
Phía sau những song sắt to tướng của gian ngục, gã chỉ trông thấy một bóng lưng gầy gò trong bộ đồ bằng vải thô đã sờn màu kem rộng thùng thình, “mụ ta” ném ánh mắt ra ngoài khung cửa sổ nhỏ xíu trên cao, lặng thinh ngắm những mẩu mây nhỏ vô tình trôi ngang lững lờ trên nền trời xanh biếc. “Mụ” ngắm những thứ sắc màu xa vời mà trong chiếc lồng này không có.
Trông “mụ” cô liêu quá đỗi. Lồng ngực của vị giám ngục trẻ tuổi bỗng có chút thương xót chảy tràn. Choi Seungcheol đứng yên như thế vài phút, không một câu chào, không lời hỏi han, tựa như muốn nói điều gì đó nhưng tựa như chẳng phải. Gã không cảm nhận được bất kì mối nguy nào “đáng lẽ phải có”, thế nên cõi lòng gã chỉ vang vọng những tiếng chưng hửng rỗng tuếch.
“Ta biết ngài đứng sau lưng ta, Vơtích. Tiếng bước chân đã vang lên từ khi ngài mở lối thoát duy nhất của Hơvan-Nơpốt. Tai ta nghe được tiếng gió hát trong một khoảnh ngắn ngủi, mũi ta chạm vào tơ hương nồng gắt của chiếc đuốc dầu ngài mang. Nếu ngài đem đồ ăn đến thì xin cứ hãy để đấy và rời đi, không cần phải đứng trông chừng làm gì.”
Ồ, hóa ra là một chàng trai. Nhưng, giọng nói mới thật đằm tai làm sao, hệt như những gì trong sách đã miêu tả, quả nhiên! Giọng chàng phù thủy trong veo, tinh tế như những nốt ngân của cung đàn viola trong những buổi yến tiệc quyền quý. Gã sững ra, lòng gã lại bắt đầu dao động, bồi hồi, nhưng dường như nó không xuất phát từ nỗi sợ nữa.
“Không phải Vơtích, tên ta là Choi Seungcheol, từ hôm nay sẽ phụ trách việc canh giữ ngươi cho đến tận ngày hành quyết, theo lệnh của Hoàng gia.”
Phù thủy có vẻ bất ngờ, nhưng cũng không có phản ứng gì thái quá. Chàng ta buông ánh mắt ra khỏi khung cửa sổ, chậm rãi quay đầu. Chẳng mất bao lâu để gã bắt được ánh mắt mà gã bồi hồi chờ đợi, nhưng dường như vài giây đó lại dài như cả cuộc đời. Gã căng thẳng đến độ hô hấp trì trệ hẳn, và rồi ngưng cả thở.
Tội lỗi làm sao, dường như gã vừa vô tình tóm được một tạo vật bị Chúa Trời đánh rơi, chao ôi!
“Trông ta tàn tạ đến thế sao?” Chàng ta vừa cười, vừa hỏi. Mắt chàng cong cong, nhưng trong đáy mắt chỉ đượm màu mỏi mệt. Giọng chàng thì nhẹ bẫng, tựa như nếu người đối diện có để cho câu hỏi bị bỏ ngỏ, có lẽ chàng cũng chẳng quan tâm. Chàng chỉ hỏi vì miệng gã quản ngục cứ há hốc, mắt trợn trừng tựa như thấy điều gì đó kì lạ lắm.
Ở trong ngục tù đã lâu, chàng thèm khát hơi người ghê gớm, thèm được nghe vạn trạng âm thanh mà thế gian đang reo hò, thèm được gió tải hương muối biển căng đầy buồng phổi. Chàng khát khao biến thành ánh sao xa để cùng nàng trăng ngắm nhìn buổi đêm tại vịnh Tây Cheo-đơ nô nức tàu bè như chàng đã từng, chàng mong mỏi trở thành tơ nắng để siết vào lòng những luống tulip đang thắm sắc cả ngày dài. Tham lam làm sao! Chàng ta ước đủ điều, chỉ vì nơi này đã cắp đi đôi cánh say chao liệng và chẳng bao giờ trả lại.
Vậy là câu hỏi đã thật sự bị đánh rơi vào trong bóng tối. Chàng cười chua chát khi đợi mãi mà chẳng thấy gã trả lời. Nơi đây không có những chiếc gương sạch cóng, cũng chẳng có những mặt hồ nằm im lìm cho chàng soi vào, cho chàng chải chuốt. Thế nên nhìn có đáng sợ thì cũng đúng thôi! Mà hơn cả thế, ai sẽ là người sẵn sàng trò chuyện với kẻ tội đồ bị cả Hà Lan thù ghét cơ chứ?
Chàng thất thểu quay mặt đi, khung cửa sổ lại trở thành bến đỗ duy nhất cho thuyền lòng chàng neo đậu. Chỉ là lúc này, sắc hy vọng chứa nỗi nhớ và khát khao của chàng ngoài kia chỉ làm cho đôi tinh tú cay xè, xót bỏng.
Sau lưng, vài tiếng lạch cạch vang lên khi gã quản ngục bước vào gian và đặt phần cơm tù xuống đất, lại thêm vài tiếng khi gã lui ra ngoài và khóa cửa.
Sau lưng, tiếng gió hát lại vang lên xa vời, lối vào duy nhất của Hơvan-Nơpốt mở ra, rồi đóng lại. Thương thay cho một kẻ đơn côi, đó là tiếng động cuối cùng mà chàng được nghe trong ngày.
...
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top