Cầy-lenghiabk05
C
ÂY SẢNgọc Mai (Mai Thanh Ngoc)Cây này rất quen thuộc với mọi người sống trong vùng đất nhiệt đới, với tôi thì quen thuộc lắm, vì cây này dính liền với dòng họ nhậu, gần như món nhậu nào cũng có người bạn thân này cả.Ở quê hương mình thì bất kỳ nơi đâu cũng có thể nhìn thấy, từ trong chậu kiểng của những ngôi nhà sang trọng cho đến những ngôi nhà lụp sụp chỗ nào có tí đất thì cắm người bạn sả, người bạn này đều sống được. Quanh ta đi đâu cũng thấy sả- ra chợ thì người bạn này thật rẻ, đặc biệt là những chợ nằm vùng nông thôn thì càng rẻ hơn, vì vườn nhà nào cũng có cả.
Những năm tháng tôi lớn lên ở quê nhà, sả là người bạn dường như quen thuộc, có thể gọi người bạn này cho anh em chúng tôi những bửa ăn ngon. Ba me tôi trồng sả rất nhiều. Hằng tuần, mẹ tôi cắt mang ra chợ bán đổi lấy cá thịt. Món ăn nhậu quanh làng tre của chúng tôi mưu sinh không có gì hơn là món thịt chó mà những người anh trong làng nấu các món, từ thịt những con chó hoang dại, cho đến những chú chó tội nghiệp không may bị xe đụng gẫy chân… hầu hết các món này các anh đều dùng sả, có vị này vào thấy thức ăn hấp dẫn và ngon hơn. Sau này tôi lớn lên được nối nghiệp này của mấy anh cùng xóm, sử dụng nó rất nhiều trong các món ăn nhậu, ướp lên rồi nướng thì mùi sả thoảng hương ai cầm được lòng mà không nhào vào thưởng thức phải không các bạn. Tôi thật quý nó.
Rồi lịch sử sang trang, tôi ra đi để lại sau lưng biết bao nhiêu kỷ niệm lưu luyến với đời, từ bạn bè, bà con lối xóm cho đến những món ăn thân quen, trong lưu luyến ấy thì người bạn sả lại là khó quên nhất, khi làm một món gì để nhậu.Tôi đến một nơi xa xôi để định cư, nơi này không có cây vùng nhiệt đới ngoại trừ cây thông, thì cây sả không dễ gì mọc nổi ở vùng Đông Bắc Mỹ, các bạn muốn tìm một cây sả chỉ có ra chợ Tàu hay chợ Việt được mang từ vùng nhiệt đới về bán, bạn sẽ tìm thấy những cây sả không đầu không đuôi, ba cây một dollar giá hiện giờ, chắc chắn rằng bạn tìm một cây sả non thì hoàn toàn không bao giờ có. Nơi tôi ở- thịt dê, thịt nai thì nhiều, nếu không có những cây sả hay lá sả thì món ăn này kém phần hấp dẫn, vậy tôi phải làm gì để có nó, xin chia xẻ cùng bạn nhậu một thú ghiền bất đắt dĩ- tôi làm gì tạo nó.Bắt đầu vào cuối mùa đông, những ngày cuối tháng ba dương lịch, tôi ra chợ Việt của mình tìm mua vài đồng sả, tôi lựa từng bó một, tìm cây nào có còn sót lại chút rễ, mang về nhà cắt bớt phần trên sau đó cho một tí nước ngâm gốc vào, luôn hy vọng những cái mắt nho nhỏ còn sót lại sẽ cho lên một mầm sống. Tôi ngâm năm bảy cây thì cũng có vài ba cây còn sống, khi có một tí rễ vài lá xanh bắt đầu nhú ra thì trong người cảm thấy vui rồi. Vui thôi chứ chưa hy vọng đâu các bạn nhậu ạ!! Những năm trước tôi thất bại đó các bạn, trời Bắc Mỹ thất thường, nhiệt độ lên xuống ngày đêm rất nhanh, khi cây đâm chút chồi tôi đem ra vườn trồng, thời tiết biển chuyển từ sáu chục độ F còn lại ba hai độ F thì cây sả mình làm kể như công dã tràng, sau vài năm tôi có kinh nghiệm hơn. Sau khi ngâm cây nảy mầm và có lá tôi cho vào chậu để nó trong nhà bên cửa sổ có ánh nắng mặt trời chiếu vào, thời tiết hoàn toàn vào xuân tôi mới bắt đầu công trình này, đi mua phân về rồi đào mương cho nó xuống, mỗi ngày một hai lần tưới nó, thưa các bạn: sau ba tháng tôi có được buội sả như quê hương mình. Vợ tôi thường đùa rằng: "tiền công, tiền phân, tiền nước đưa hết cho em thì em mua cả gánh sả cho anh!". Thế là vợ tôi không hiểu mấy ông nhậu nghiện nó như thế nào rồi.
Sản phẩn tôi làm ra những người bạn nhậu thường hay hỏi đến, tôi không dám tự khen mình, chế biến món nhậu thì các bạn quanh tôi ai cũng thích, khi có buội sả rồi, tôi khẻ alo môt cái thì bạn bè tôi biết tôi làm gì, đông người thì họ mua cả con dê, còn ít thì nửa con, còn về phần nấu nướng tôi là bếp trưởng chỉ cần một người phụ thôi, trời cuối xuân ấm áp chúng tôi nấu bên ngoài, bạn bè tụ tập thưởng thức tài năng, ba món tôi thường nấu, món mận, nướng, tôi thích nhất món luộc, món nào cũng cần cây sả cả, tôi dùng lá sả nấu nước cho thịt ba chỉ vào cái xoong hai tầng lửa hiu hiu chờ cho nó chín, bên ngoài thì lửa than rực hồng món nướng, lai rai món mận chín tới, món luộc tôi dùng sả non làm cùng mắm ruốc cho cay vào một tí thì tuyệt vời, còn có những cây sả non để bên các bạn chấm vào mắm ruốc đưa vào miệng thì không ai trong ta không nhớ đến hương vị quê nhà quanh quẩn đâu đây, dù xa xôi đến nữa vòng trái đất.
Ba tháng sau mời các anh chị, các bạn văn nghệ đến nhà mình thưởng thức hương vị quê hương. Sả non cùng với thịt dê, nghiền thịt chó nhưng ăn món này lỡ cảnh sát Mỹ phát hiện thì ba tháng tù, cùng với số tiền phạt đó nhé.Người cha mang lòng "kiêu hãnh" mù lòa11:31:12 10/03/2011
Cứ buổi sáng hắn lại lang thang khắp làng. Hắn lúc nào cũng say, rượu hình như đã ngấm vào máu của hắn, cứ mở mắt là hắn bắt đầu lảo đảo, lè nhè chửi bới. Người trong làng bảo hắn hơn cả thằng Chí Phèo ngày xưa bởi hắn biết uống rượu từ ngày còn bé tí. Và cái việc say xỉn của hắn cũng chẳng phải vì xã hội xô đẩy, hắn trở thành người như bây giờ là "nhờ" vào chính người cha của hắn - kẻ mang lòng kiêu hãnh một cách mù lòa…
Tôi còn nhớ rất rõ về người cha của hắn - lão Lâm là người khá giả trong làng vì được thừa hưởng một lượng tài sản lớn của cha lão. Nhà lão có cái đầm rộng nhất làng. Cái đầm này sau thời kỳ tan rã của hợp tác xã thì người ta lại trả cho gia đình lão. Thế rồi thời mở cửa đến, cái đầm trở nên đắt giá vì vị trí đắc địa. Lão bắt đầu cho thuê và trở nên khá giả nhất làng.
Từ ngày có tiền, lão tậu một mảnh đất lớn giữa làng và mở thêm cái đại lý bán tạp phẩm. Phải nói lão là người có đầu óc làm ăn, biết nhìn xa trông rộng so với những người nông dân ở vùng này. Lão sống đàng hoàng, sung túc giữa làng nhờ vào tiền thuê từ cái đầm rộng và cái đại lý bán tạp phẩm. Hàng ngày lão chắp tay sau đít đi lang thang nhìn ngó đất đai, theo sau lão là thằng Lục - con trai độc nhất của lão. Thằng Lục mới 7 tuổi đã có dáng khác người: mắt sáng, miệng rộng, môi dày, chân tay mập mạp… Nhìn nó thấy rõ cái phong thái con nhà giàu.Nó đẹp là thế nhưng học hành chẳng ăn thua gì. Mà hình như nó cũng chẳng thích những trò chơi của con trẻ, cái thú duy nhất của nó là lẽo đẽo theo lưng bố để tham gia những cuộc nhậu nhẹt. Nó mang một cái biệt tài bẩm sinh - uống rượu. Không hiểu do máu, hay gien, hoặc luyện tập mà ngần ấy tuổi nó đã tợp rượu toanh toách. Nó nâng cả cốc rượu lớn tu một hơn ngon lành, hai mắt ánh lên sự sung sướng như trẻ con uống sữa tươi.Mỗi lần như thế cha nó - lão Lâm lại cười ha hả ra điều tự hào lắm. Lão Lâm nói như thách thức: "Thằng này là thần tửu, tôi đố làng này ai uống giỏi bằng nó!". Nhiều người vì tò mò đã kéo đến nhà lão Lâm để chứng kiến. Họ tụ tập ăn uống, rồi lôi thằng cu Lục ra làm trò tiêu khiển. Giữa mâm rượu nó bắt đầu biểu diễn, từng bát rượu được bưng ra, người lớn hoan hô và nó bắt đầu uống.
Mắt nó chuyển từ màu trắng dã sang đỏ ngầu rồi đen đặc. Đã nhiều lần tôi nói với lão Lâm rằng, nó còn bé thế để uống rượu không phải là trò hay… Lão Lâm cười ha hả, tỏ vẻ coi thường rồi tuyên bố tiếp: đàn ông phải biết uống rượu, thằng này nó có bản lĩnh từ bé, tôi phải rèn luyện. Nó là người kế nghiệp tôi nên phải có bản lĩnh… Lão đảo đôi mắt ti hí sang nhìn tôi như thể coi thường. Tôi chẳng giận lão chỉ thương cho thằng cu Lục, chẳng gì tôi với nó cũng có họ, hơn nữa tôi làm nghề giáo nên biết cái kiểu sĩ diện hão của cha nó sẽ có ngày mang họa.
Vào dịp cuối kỳ học, tôi mang bảng điểm học tập của thằng Lục cho lão Lâm xem. Đó là một bảng điểm tồi tệ, nguy cơ bị lưu ban. Lão Lâm thậm chẳng thèm để ý, lão chỉ nhìn tôi đầy thương hại rồi nói: "Cảm ơn cậu đã quan tâm đến em nó, nhưng tôi nói cho cậu biết, học hành chẳng quan trọng gì, cứ nhìn tôi đây này học hành bình thường nhưng ai hơn tôi? Nhiều chữ nghĩa như cậu cũng chỉ làm anh giáo làng là cùng…". Từ bận ấy tôi tự ái, chẳng mấy khi sang nhà lão Lâm, hoặc quan tâm tới chuyện học hành của thằng cu Lục.Thời thế lại thay đổi. Người ta mở một con đường cao tốc qua ngay cạnh cái đầm của lão Lâm. Bây giờ thì cái đầm nước rộng lớn ấy lại trở nên có giá hơn bao giờ hết. Mấy đại gia trên Hà Nội hàng ngày cứ lượn lờ xe hơi bên nhà lão Lâm. Họ muốn mua đứt, hoặc thuê lâu dài cái đầm ấy để làm khu du lịch sinh thái, hoặc xây nhà nổi làm khách sạn gì đó.Nhà lão Lâm lại tưng bừng tiệc tùng. Ngày nào cũng thấy anh Bình làm nghề thịt chó trên Vân Đình mang đồ nhậu xuống nhà lão. Đám khách khứa lại một phen được chứng kiến thần tửu cu Lục biểu diễn. Mỗi lần nó nốc cạn một cốc rượu thì đám khách khứa lại hoan hô ầm ĩ. Người ta trầm trồ khen ngợi, thán phục cậu nhóc kỳ lạ này. Hơn nữa bây giờ nhà lão Lâm không uống những loại cuốc lủi nút lá chuối địa phương nữa. Lão ăn nên làm ra nên toàn tậu rượu ngoại: Chivas, Johnnie Walker, Vodka… những loại rượu hạng nặng này người lớn uống còn cảm thấy cháy cổ hoa mắt, nhưng thằng cu Lục cứ đợp như sữa tươi.
Lão Lâm lấy làm tự hào lắm, hình như ngoài việc có lộc trời rơi vào đầu thì trò khoe thằng con độc uống rượu là thú vui duy nhất của lão. Và bây giờ thì thằng cu Lục cũng bắt đầu lớn. Nó bước vào tuổi vị thành niên bằng hơi men nên hết sức dị dạng khác người. Đi học lúc nào nó cũng mang theo rượu trong cặp, nó có những chai rượu ngoại bé tí bằng lọ mực. Nó giúi cho bọn bạn uống thử, rồi tiện thể biểu diễn khả năng thần tửu. Đám bạn học cũng trố mắt ngạc nhiên về cái tài kỳ quặc đó.
Cứ giờ ra chơi thì chúng lại tụ tập góc lớp, hoặc sân trường để xem thằng Lục biểu diễn uống rượu. Một lần tôi bắt gặp, gọi nó lên phòng hiệu trưởng cảnh cáo. Đôi mắt nó lờ đờ, mồm miệng sặc sụa mùi rượu, nó cũng nhiễm cái tính ương ngạnh, kiêu căng của cha mình nên lè nhè bảo tôi: thầy yên tâm đi, uống thế ăn thua gì… mà thầy có biết uống không...?Nhìn nó tôi biết đã hỏng một con người. Thằng này bị rượu ngấm vào trong máu, ướp đẫm bộ não nên nó nửa mơ nửa tỉnh. Chỉ học hết lớp 10 thì không thấy nó đến trường nữa. Nó bắt đầu lượn lờ xe máy trong làng, hoặc ra ngoài huyện nhậu nhẹt làm vui. Bên cạnh đó nó lúc nào cũng được người cha ngốc xuẩn hậu thuẫn, không những thế lão Lâm còn lấy làm sung sướng mỗi khi nó tiếp khách ở nhà và thằng Lục uống cho ai đó say bí tỉ.Thời gian chậm chạp trôi đi. Cái đầm nước của lão Lâm bắt đầu bị sâu xé bởi các đại gia ở Hà Nội. Chỗ thì người ta làm nhà nổi bán hàng, chỗ thì làm khu câu cá… Lão Lâm bán đứt từng miếng. Việc cắt cái đầm nước ra bán không phải là phong cách thường thấy của lão Lâm, nhưng bây giờ thì lão không còn cách nào khác vì thằng quý tử thần rượu cu Lục kia phá phách một cách tàn bạo. Chỉ trong vòng một năm nó gây ra 6 vụ tan nạn xe máy, 4 vụ tai nạn xe hơi. Tất cả trong trạng thái say xỉn, nó tông thẳng vào người ta, cũng may chỉ một vụ chết người. Lão Lâm dốc hết gia sản ra chạy chọt, nên cũng cứu được thằng quý tử khỏi phải đi tù.
Thế nhưng bắt đầu từ đây lão Lâm không dám tự hào về cái khoản thần tửu của thằng quý tử nữa. Lão bắt đầu thấy cái họa mà thần tửu đem lại. Hàng ngày thằng Lục chẳng làm gì ngoài việc tụ bạ bạn bè ăn nhậu, rồi phóng xe đi chơi. Đã thế nó còn đòi lão phải chu cấp tiền bạc nếu không nó sẵn sàng đập phá.
Một đêm cả làng phải nháo nhác tỉnh giấc vì thằng Lục lên cơn điên. Nó vác gậy sắt đập tanh bành nhà cửa, ngay cả chiếc xe hơi mới tậu nó cũng đập nát bét. Nó hiện hình là một con quỷ đầy rượu, mắt nó ngầu lên đỏ rực, miệng sùi bọt mét, tay cầm gậy sắt cứ nhè đồ đạc mà đập. Lão Lâm mới chỉ hé răng nói một câu thì cái gậy trên tay nó bay thẳng vào mặt, lão rú lên và gục xuống như cây chuối bị chém ngang lưng. Người làng phải đưa lão đi cấp cứu.Sau vụ đó, thằng Lục còn phá két lấy hết tiền, đi miết vài tháng mới mò về nhà. Còn lão Lâm, cũng may cây gậy chỉ chọc mù một mắt nên trở về làng trong bộ dạng tiều tụy. Hai cha con lão ngày nào cũng vài trận cãi vã, mà cứ cãi nhau thì thằng Lục lại vác rượu ra uống. Nó nốc từng bát như sữa tươi rồi lên cơn và đập phá. Nó lại cầm gậy sắt rượt đuổi cha nó, cũng may bây giờ sức nó đã tàn, rượu lại sẵn trong não nên chạy vài bước là ngã sõng soài, sùi bọt mép. Còn lão Lâm thì chỉ còn biết đứng nhìn cậu quý tử mà khóc tấm tức, dòng nước mắt mờ đục chảy ra từ con mắt còn sót lại, và bên con mắt chột kia hình như chỉ rỉ ra những dòng máu.Vào một buổi chiều mùa đông lão Lâm qua đời trong căn nhà đã tan tành đổ nát. Còn thằng Lục thì vẫn khật khừ sau xỉn. Nó không thể tỉnh nổi, cũng khó lòng bước vững nếu sáng ra không được một cốc rượu vào người. Nó không còn là thần tửu nữa, chỉ cần một cốc rượu là bắt đầu say và mỗi lần say lại thang thang trong làng chửi bới. Nó chẳng chửi ai ngoài cha nó - lão Lâm - kẻ mang lòng "kiêu hãnh" một cách mù lòa
GIƯƠNG CẠM CHÓ
Truyện ngắnVào giờ này, Lê Chí Viềng đã thấm mệt, anh ngả đầu ra phía sau, tì gáy vào vai ghế vươn vai và ngáp dài một tiếng kêu ú ớ trong cổ họng như muốn xả hết những cái mệt sau hai tiếng đồng hồ cầm bút trên bàn viết. Anh nhìn sang phía tủ kính thấy bóng mình nhập nhoạng trên kính, tuy không rõ như gương soi, nhưng Viềng cũng đủ nhận ra mình đã vào tuổi ngoại tứ tuần. Mái tóc rũ ra che trên vành tai như đống rơm rối, một bộ ria lởm chởm chạy ngang trên cặp môi xám xịt vì thuốc lá. Đôi mắt Viềng vàng đục vì đã thấm rượu nhiều năm say sưa tối ngày. Đôi vai anh nhô ra xương xẩu khô cứng, bộ ngực lép kẹp đỡ lấy cái áo sơ mi rộng thùng thình. Toàn thân Viềng chỉ là một cái giá áo. Viềng bài chí ra một cảnh bận rộn trên bàn làm việc. Anh đặt những chồng hồ sơ ngổn ngang phía trước và một cặp kính gọng nhựa cũ kỹ, một cái bút bi đã cạn mực, ra vẻ việc làm của anh đang bận rộn, sau đó Viềng cầm bút phớt lên bảng phoócmêca treo trên góc tường với những dòng chữ quen thuộc: “Sáng... Viềng đi cơ sở. Chiều... tiếp xúc đối tác...”
Trước khi ra khỏi phòng Viềng rút ví điểm lại tiền của mình, sau nhiều lần đếm, kể cả tiền năm trăm, một nghìn gộp lại, cũng chỉ có ngót nghét mười ngàn đồng, với số tiền này không đủ cho anh nhậu một bữa thịt chó ở quán Phi Trường. Cả cái cơ quan này Viềng đã khét tiếng là một “nhà khảo cứu” thịt chó. Viềng đã dày công lùng khắp trong thành phố, anh từng hy sinh thân mình nếm mỗi hàng mỗi quán một bữa chó rồi tuyển chọn được một quán thịt chó nổi tiếng. Viềng rút ra kết luận quan trọng: Cả cái thành phố văn hiến ẩm thực này, chỉ có lão Phi Trường là đủ tài làm chó. Cũng có lần Chí Viềng khen chủ quán:
- Nếu tôi là nhà vua hoặc hoàng gia gì đó thì chắc chắn trong tay ông sẽ có một bản sắc phong về tài ẩm thực thịt chó của ông. Viềng đã nghiện thịt chó tới một trình độ công nghệ cao, có thể dẫn ra một động tác nghiện thịt chó của anh để minh chứng rằng Lê Chí Viềng nghiện thịt chó tới mức siêu hạng.Theo cái tục lệ của riêng anh, trước khi kết thúc một bữa nhậu thịt chó, Viềng gắp riêng ra vài ba lát thịt luộc ba chỉ có nghĩa là phải có đủ da, mỡ, lạc, tạo thành ba đường kẻ song song mềm mại và gợi cảm và chọn ram vài ba miếng rồi chó loại ngon nhất, sau đó lấy những lá húng bánh tẻ, mỗi miếng thịt anh kẹp vào đấy một lát giềng mỏng và gói bên ngoài một lá mơ lông êm như nhung. Viềng cho tất cả những miếng đặc sản vào vỏ bao vina. Khi về nhà Viềng rót ra một chén rượu Kiên Lao, từ từ rút trong bao vina ra và lấy từng miếng thịt chó với đầy đủ lá thơ, giềng, và miếng ba chỉ, anh cuộn lại gọn gàng như một miếng trầu không và há to miêng đưa vào tận răng hàm. Viềng ngửa cổ nhẹ nhàng nghiền nát miếng đặc sản trong mồm, tiếng lá thơm và giềng dập nát và tiếng da chó sần sật êm êm bên tai. Thỉnh thoảng Viềng nhấp một ly rượu, mùi thịt chó trộn với mùi lá thơm và hương rượu phả trong căn phòng chật hẹp. Lúc này Lê Chí Viềng mới thực sự thưởng thức vị ngon của thịt chó. Khi kết thúc một bữa ăn phụ như thế, Viềng không xúc miệng vội mà để cho dư vị thịt chó kéo dài tạo ra một hứng thú để tư duy những tứ thơ mà anh đang nung nấu trong lòng. Thỉnh thoảng Viềng há to mồm, cho tay vào răng hàm, dứt ra những sợi thịt chó rắt kẽ răng rồi nhai lại một lần nữa. Cứ như thế Viềng thưởng thức cho đến những sợi thịt chó cuối cùng.
Viềng xuống thang gác, dắt xe ra sân rồi phóng thẳng đến hiệu thịt chó Phi Trường.
Nghe tiếng xe máy quen thuộc, chủ quán Phi Trường vung lưỡi dao sáng loáng, ông nở ra một nụ cười, cả một bộ răng lởm chởm xám xịt nhe ra thoạt nhìn không được mỹ thuật cho lắm, nhưng ngắm lâu một chút, khách hàng cảm thấy cái duyên của ông chủ quán đọng lại ở nụ cười trìu mến với khách. Phi Trường đon đả mời: - Mời nhà thơ vào đây, hôm nay tôi dành con chó bánh tẻ tiếp ông.Vị khách bước vào, ném cái cặp lên mặt bàn ăn, anh chọn một góc ngồi quen thuộc, vị trí của anh mở ra một góc rộng vừa quan sát được đường phố, vừa có thể nói chuyện được với chủ quán Phi Trường. Lê Chí Viềng rút bài thơ trong cặp ra đăm chiêu suy nghĩ. Khi chủ quán bê ra đĩa lá thơm và đĩa thịt chó luộc đặt lên bàn ăn, Lê Chí Viềng kéo tay chủ quán ngồi xuống ghế với một giọng thân mật:
- Tác phẩm mới xịn. Ông phải nghe.
Viềng hạ thấp giọng: - “Đời anh như gió như mâyThân em là suối vơi đầy sớm hôm
Con tim bừng cháy muốn chồm vào em”
Chí Viềng nhìn chủ quán vẻ kiêu hãnh hất hàm hỏi: - Ông thấy thế nào?Phi Trường nhe răng cười:
- Tôi sợ ông chồm lên thì cái tứ này có bợm quá không?
- Xin ông đừng giết thơ tôi. Thơ bây giờ phải hiện đại, phải mạnh bạo và phải vét hết ý mà tác giả muốn nói. Nếu thơ ngày nay mà e dè, mà thẹn thùng như thời ông Nguyễn Bính tôi e không hợp. Chợt Lê Chí Viềng sửng sốt như ra lệnh:- Kìa! Ông Trường, ông quên nhiệm vụ một chủ quán rồi à?
Phi Trường lật đật vào bàn, thái một đĩa dồi chó và quạt những sâu chả nướng, một tay ông bấm máy quạt điện, một tay ông xoay những sâu thịt chó trên bếp tham hồng. Viềng rung mũi ngửi mùi chả nướng, cái cổ họng chuyển động như nó đang phải dùng áp lực để dồn toàn bộ số nước miếng vào dạ dày để xua đi cơn đói đang cồn cào trong bụng.
Lê Chí Viềng bắt đầu khai đũa, anh lấy một lá húng bánh tẻ quận vào một miếng thịt luộc, kẹp thêm một lát giềng mỏng, cho vào miệng ngon lành, mỗi miếng như thế, Viềng phải tợp khoảng hai ba hụm rượu để đưa cái vị ngon của thịt chó vào tận đáy dạ dày. Không biết Viềng đã nghiện thịt chó từ bao giờ, nhưng cho đến nay thịt chó là một tố chất phải được thực hiện trước khi cầm bút làm thơ hoặc viết một văn bản của cơ quan giao cho anh. Lương của Viềngkhông cao lắm, mỗi tháng anh phải chi rất nhiều khoản nào tiền điện thắp sáng, tiền điện thoại, tiền nước, tiền học cho con nhưng khoản chi nhiều nhất vẫn dành cho thịt chó. Hôm nay là cuối tháng lương, trong ví của anh chỉ còn lại ngót nghét chục nghìn, nếu dốc cả vào bữa chó này thì không còn đủ tiền mua xăng đi lại và đương nhiên vợ anh sẽ rầy la về tội của anh phá tán gia đình, vô trách nhiệm với vợ con. Đôi khi Viềng cũng nhận được một đôi khoản nhuận bút của báo chí trả tiền tác phẩm thơ của anh. Nhưng khổ một nỗi, làm một bài thơ hao tổn biết bao năng lượng thần kinh thức đêm đến rạc người mà cũng chỉ thu về mỗi bài thơ dăm sáu chục nghìn đồng. Mỗi tuần anh đi họp ở một vài cơ quan, cũng gặt hái được chút bổng lộc phong bì. Bây giờ người ta đi họp đâu phải để lĩnh hội những tinh hoa của hội nghị mà để chờ lấy phong bì. Cuộc họp nào không có phong bì, hội nghị thưa thớt người qua lại. Cuộc họp nào phong bì đậm đà, một tờ giấy bạc xanh lá cây thì khách đến họp đông hơn, họ ra vào tíu tít và hớn hở.LêChí Viềngcũng không tránh khỏi những thông lệ của thời cuộc anh đi họp để hái lượn vài ba cái phong bì, đấy là khoản thu Viềng dành riêng cho đặc sản chó, coi như là một ngân khoản mà vợ con bất khả xâm phạm. Viềng đã dầy công khám phá ra quán Phi Trường, anh thích nhất các món ở đây được xem là một nghệ thuật thịt chó siêu hạng, thịt ba chỉ thái mỏng, dồi chó nhồi đỗ xanh Đường Vàng, bên ngoài miếng dồi được nướng trên than hồng có tẩm hợp chất gia vị nước tỏi pha với nước giềng, mỗi một lần quay ống dồi chó trên bếp than, chủ quán lại dùng chổi vẽ, thấm nước tỏi giềng, quét xung quanh những vòng dồi chó. Khi ăn vào, miếng dồi hơi dai, sau đó lại mềm mại đứt ra từng miếng nhỏ, và người ta tiếp tục thưởng thức món đặc sản ấy, vừa mềm, vừa thơm. Lão Phi Trường có tài nướng chả có thể ra khỏi quán mà mùi chả vẫn lưu luyến bay theo như một lời nhắn nhủ: “Đừng quên nhé!".
Mỗi tháng mở đầu cuộc lĩnh lương hoặc mỗi tuần gặt hái được đôi ba cái phong bì, và khi lĩnh nhuận bút bài thơ, Lê Chí Viềng lại ra quán Phi Trường tự chiêu đãi mình những món mà anh ưa nhất. Bữa thịt chó sáng nay Viềng vừa ăn vừa nhìn ra cửa tìm xem trong đám khách qua đường có ai là người quen biết để vời họ vào thưởng thức món thịt chó đặc sản. Nhưng, Viềng ngồi trong quán đã hai tiếng đồng hồ mà chưa thấy một khách quen nào đi qua. Viềng đành phải cầm cự, đó là thủ pháp quen thuộc mà anh đã phát minh từ lâu. Trên bàn ăn các món thực phẩm đã cạn dần. Chỉ còn lại vài ba miếng da chó, một đôi miếng mỡ bùng nhùng trên đĩa thịt luộc. Bên đĩa dồi chó cũng chỉ còn lại đôi ba miếng nhỏ bé quăn lại như vỏ đỗ. Chiếc que sâu chịt chó cũng không còn dính một chút thịt nào. Viềng thu gọn ít lá thơm còn lại ra vẻ cuộc tiệc tùng còn tiếp tục. Chốc chốc, Viềng lại nhoai người ra phía cửa nhìn theo một bóng ai đó như quen, nhưng cũng không có một bóng người quen nào đi qua. Chủ quán Phi Trường nhìn đồng hồ đã gần một giờ trưa, ông ta bắt đầu sốt ruột, biết bao nhiêu toán khách họ đến ăn và họ đã đi, trên dây treo thịt chó, cũng chỉ còn một miếng đùi chó luộc. Và ống dồi chó cũng chỉ còn trơ lại vài khoanh bóng nhẫy những mỡ. Chủ quán sốt ruột, nhà thơ ngồi từ lúc mười giờ sáng cho đến một giờ mà chưa tỏ ra thái độ kết thúc bữa ăn. Thật ra Phi Trường cũng đã quen với vị khách - nhà thơ này rồi, ông biết thóp nhà thơ để lại mấy miếng da chó, mấy lá thơm trên đĩa vừa là để báo hiệu mình còn đang tiếp tục ăn, nhưng đó là những miếng mồi để tìm bạn quen, vời vào quán, mời mọc ân cần, cuối cùng đưa những ông bạn ngây thơ vào chiếc cạm chó. Phi Trường vất cái khăn màu nước dưa khú lên vai, lau những dòng mồ hôi nhễ nhại chảy trên vai bự mỡ, ông ta vờ ra thu dọn bàn ăn, có ý nhắc nhở nhà thơ đã hết giờ:
- Các ông nhà thơ làm việc từ mấy giờ chiều ạ.Khách vẫn lặng thinh, chủ quán gại giọng:- Xin lỗi đồng hồ của ông mấy giờ rồi ạ?
LêChí Viềngxem đồng hồ tay, đáp cộc lốc:
- Chính ngọ.Nhưng chợt có một bóng người đội mũ cối gò lưng guồng xe đạp tiến vào phía ngã tư, Viềng bật dậy như một cái lò xo cực mạnh, anh rảo bước ra cửa, tay còn cầm đũa, Viềng vẫy vẫy, gào to:- Minh Thanh, Minh Thanh, Ơ kìa, đây cơ mà, Viềng đây. Có nhuận bút - Anh lại dõng dạc gọi to một lần nữa để bạn nghe rõ: Nhuận.
. .
bút. . .
MinhThanh đạp xe dưới nắng trưa hè từ quê lên, nghe thấy nhà thơ Lê Chí Viềng gọi, Minh Thanh mừng rơn, cho hai chân xuống đất, hãm phanh. Minh Thanh vào quán ngả mũ lau mồ hôi lên trán, mặt đen bóng, hai gò má nhô ra, đôi mắt trũng sâu. Thanh nói:- Tôi điện cho anh mấy lần để cứu nguy cho tôi mà không gặp, hôm nay tôi phải lên để trực tiếp gặp anh, anh bày cho tôi cách gỡ bí, nếu không vợ chồng tôi đến ly hôn mất.
LêChí Viềngthản nhiên hất hàm gọi chủ quán:
- Cho thêm một luộc, một dồi, năm chả, đầy đủ lá thơm đấy nhé, có rượu thuốc đem ra đây.Phi Trường nhìn khách mời vào với vẻ thương hại, sau đó ông vung dao thái phầm phập trên thớt. Minh Thanh mới quen biết Lê Chí Viềng đầu năm nay. Thanh là cộng tác viên của cơ quan báo chí. Viềng đã giúp Thanh đăng được hai bài thơ, sau đó Viềng giúp Thanh xuất bản một tập thơ. Tác phẩm này Thanh phải tự bỏ tiền ra để in ấn và phải tự phát hành để thu hồi vốn và tự trang trải nhuận bút cho mình. Nhà xuất bản chỉ là cơ quan in thuê cho nhà thơ trẻ Minh Thanh. Gia cảnh của Thanh cũng chẳng phải giầu có gì, vợ anh dạy tiểu học trường làng, Thanh là cán bộ văn hoá xã. Hai vợ chồng sinh được một đứa con trai đầu lòng, anh chị nuôi thêm con lợn nái và năm con lợn thịt. Hàng ngày buổi sáng Thanh phải ra ruộng cấy cầy, chiều đến văn phòng uỷ ban làm việc. Bốn vụ lúa vừa rồi vợ chồng Thanh gặt hái bội thu, tích lại được bẩy tám tấn thóc. Đó là chưa kể những khoản thu về mỗi năm bán hai lứa lợn thịt, một lứa rưỡi lợn con. Với lòng yêu thơ, Thanh đã dốc toàn bộ số tiền bán thóc bán lợn, đầu tư cho cuốn thơ trẻ ra đời. Sau khi in xong, Thanh đã tặng các bạn trong xã tới hai trăm quyển, còn lại ba trăm quyển anh thồ xe đạp đem đến các nhà trường, các cơ quan của tỉnh, huyện đóng ở xã để bán thơ, thu hồi vốn nhưng không một ai mua thơ của anh cả.Sáng thồ đi, chiều lại thồ về, cuối cùng ba trăm cuốn thơ đắp chiếu ở xó nhà. Dân làng đồn đại lắm chuyện nhỏ to nào là đống thơ đắp chiếu, nào là nhà thơ đắp chiếu. Ngày ngày vợ anh khóc lóc, riếc móc. Minh Thanh đau khổ quá, anh thức đêm suy nghĩ đến rạc người. Cũng đã có lần vợ anh hăm doạ:
- Nếu anh không kiếm đủ tiền trả mẹ con tôi thì tôi lên xã xin từ cái mặt anh.
Mấy tháng qua vợ chồng Thanh mỗi người nằm một giường, đến bữa chồng ăn trước, vợ ăn sau. Những hôm đi họp xã được chén một bữa liên hoan buổi trưa, Thanh ngả lưng trên ghế ở hội trường, không về nhà nữa. Cứ thế vợ chồng nhà thơ trẻ Minh Thanh như mặt trăng, mặt trời.Hôm nay Minh Thanh lên tỉnh tìm gặp nhà thơ Lê Chí Viềng để giải thoát cho anh. Lần trước Minh Thanh đã gập Viềng nhờ anh tìm kiếm một chút nhuận bút để bù đắp lại chi phí in ấn cuốn thơ, Viềng hứa với Minh Thanh sẽ đòi nhuận bút của nhà xuất bản nếu không anh sẽ đại diện cho tác giả để tung ra một bài phóng sự búa tạ, choảng cho nhà xuất bản biết thế nào là lễ độ.Viềng cầm đũa vung lên ra hiệu:
- Khai chiến đi!
Không đợi Minh Thanh tỏ thái độ, Viềng liên tục gắp mấy đợt và gật gù nói với bạn - sống ở trên đời có còn gì quý hơn là dồi chó không? Thưởng thức đi!MinhThanhmệt mỏi gắp thịt luộc, vừa nhai vừa nói:- Anh gắng sức lên, tìm cách nào cho em thoát hiểm lúc này, nếu không gia đình em vỡ đến nơi.
Viềng xua tay:
- Đừng lo, mọi việc sẽ đâu vào đấy còn bây giờ đã ngồi vào bàn ăn là chỉ có ăn mà thôi, nào tiếp tục đi chứ!Hai người lặng lẽ ngồi bên nhau, mỗi người đi theo đuổi một ý định riêng của mình. Tất cả những nỗi băn khoăn của Minh Thanh anh đã nói tuột móng heo ra cả rồi, còn Lê Chí Viềng đang tìm cách thoát hiểm trong bữa ăn sáng nay. Khi đĩa thịt luộc đã vãn dần, Viềng rút vỏ bao thuốc Vina ra để trên mặt bàn, anh sẵn sàng làm thủ tục quen thuộc chỉ có riêng Chí Viềng mới có được mà thôi. Chủ quán Phi Trường nhìn đồng hồ trên tường, đã thấy kim giờ chỉ con số hai, các bàn ăn khách đã về hết, chỉ còn lại hai ông nhà thơ, một trẻ, một ương ương dở dở đang trầm ngâm bên nhau. Phi Trường sốt ruột, dọn bàn báo hiệu cho hai quý khách biết đã hết giờ ăn sáng, nhưng ông nhà thơ vẫn không nhúc nhích, nét mặt lạnh lùng nhìn ra cửa như đang toan tính một mưu mẹo bí hiểm. Phi Trường đánh bạo tiến đến bàn ăn thu dọn ấm chén và gượng gạo nhẹ giọng:- Hai anh có thể cho quyết toán được chưa?
Hai khách vẫn không trả lời. Phi Trường lại chuyển giọng khác:
- Xin lỗi, buổi làm chiều hai ông làm việc từ mấy giờ ạ, liệu bây giờ các ông về cơ quan có muộn không?LêChí Viềng đột nhiên đứng phắt dậy, Phi Trường tưởng là nhà thơ móc ví trả tiền, nhưng Lê Chí Viềng đập tay vào túi quần, túi ngực và sửng sốt kêu lên:- Thôi chết? Muộn quá rồi, tôi đang giữ chìa khoá buồng, có lẽ mẹ con nó đi làm về đang ngồi ở đầu hè chờ tôi - Thế này nhé, cậu ngồi tạm đây, tôi về đưa chìa khoá cho vợ tôi rồi tôi đến ngay - Sau đó Viềng sách cặp hối hả ra vỉa hè nổ máy chiếc xe Honda 50 cũ kỹ, lao vội xuống mặt đường rồi lẩn vào đám đông biến mất.
Minh Thanh chốc chốc lại nhìn ra cửa chờ Viềng tới, càng chờ càng mất hút, Thanh sốt ruột, anh móc túi đếm tiền liều mình thanh toán vụ này cho xong chuyện, nhưng chết một nỗi Minh Thanh đếm đi đếm lại cũng chỉ còn gần hai chục nghìn, anh đánh liều hỏi chủ quán:
- Thanh toán ông chủ ơi. Hết bao nhiêu?Phi Trường đáp:- Xin anh cho bẩy mươi nhăm nghìn.
MinhThanhgiương đôi mắt mệt mỏi tròn xoe toát ra một ý sợ hãi:
- Sao lại nhiều đến thế?Phi Trường bấm đốt ngón tay rồi trả lời:- Thế này anh nhé: Bữa sáng nay kể cả đợt một ông Viềng ăn mà anh chưa đến, và đợt hai là đợt ông Viềng tiếp anh hết năm chục, còn hai mươi nhăm nghìn nữa là tiền ông Viềng cắm quán bữa cuối tuần trước
.
MinhThanhlắc đầu:- Bữa ăn đợt một và bữa cắm quán tuần trước của ông Viềng đó là việc của ông Viềng, sao ông lại bắt tôi ghé đầu chịu báng thế nhỉ?
Phi Trường mỉm cười:
- Trước lúc ra đi, ông Viềng có ghé vào tôi và dặn: các khoản vừa rồi cứ thanh toán với anh và ông Viềng sẽ xử lý sau này.MinhThanhkhông còn lý gì để cãi nữa vả lại một nhà thơ trẻ như mình ai lại đi cãi vã với một ông hàng thịt chó thì còn ra thể thống gì. Thanh rút nắm tiền trong túi ngực ra với số tiền này không đủ thanh toán bữa cắm quán của Chí Viềng tuần trước. Thanh đành tháo đồng hồ tay đặt lên bàn, nét mặt thiểu não, giọng yếu hẳn đi:- Rất tiếc tôi không còn đủ tiền để trả thay cho ông Viềng, chỉ còn cái đồng hồ này gọi là của đi thay người, ông vui lòng nhận cho.
Phi Trường cầm cái đồng hồ lật trái, lật phải, giọng nghi ngờ:
- Tàu hay Nhật đấy?Thành đáp cộc lốc:- Japan.
Phi Trường cười hí hí nhét vội cái đồng hồ vào túi áo tạp dề và thân ái vỗ vào vai vị khách trẻ, ân cần căn dặn:
- Ở đâu cũng thế, bao giờ cũng vậy, tuổi trẻ các anh phải chọn bạn mà chơi. Tôi xin hỏi một câu nếu không quá lời, anh đã chơi thân với ông Viềng lâu chưa?MinhThanhxách cặp đứng phắt dậy giọng bực bội:- Thân thích gì đâu - nói rồi Thanh uể oải bước ra cửa, cưỡi lên chiếc xe đạp cũ, một nhịp đạp chân đầu tiên của anh, tiếng sắt thép rít lên ken két.
Phi Trường nhìn theo thở dài như xót xa:
- Thật là thương tâm.Một tuần lễ trôi qua, Lê Chí Viềng không đến quán Phi Trường, anh đã thấy nhớ lắm rồi, Viềng thu xếp công việc của cơ quan, anh lục ra đáy túi còn một chiếc phong bì hội nghị, bên trong là tờ giấy bạc năm mươi nghìn. Viềng cười rít:- Có thế chứ, tưởng là tuần này hết hy vọng, thôi thì ở hiền gặp lành, trời trao bổng lộc, chẳng đi đâu mà lo.
Viềng lại phóng thẳng đến quán Phi Trường, anh tính rằng nếu bữa nay không vồ được một thằng bạn nào thế mạng ở quán Phi Trường thì số tiền ở trong phong bì này cũng đủ trang trải hai bữa thịt chó ngon lành.
Viềng lách qua đám đông nhằm hướng ngã tư quen thuộc lao tới. Anh dừng xe vào quán thịt chó quen thuộc. Chủ quán Phi Trường nhìn thấy vị khách quen, ông ta nhếch mép mỉm cười, và vung dao vẫy khách:- Con chó này tuyệt lắm, vào loại chó cốm nhiều nạc, mỡ vừa đủ, đây là ba chỉ chính hiệu. Mời ông vào.
ChíViềngbước vào nhà, dùng bàn chân kéo ghế, ném cặp xuống bàn và anh chiếm một vị trí ngồi ngay bên cửa ra vào để vừa ăn vừa quan sát các bạn quen đi trên đường phố. Viềng hất hàm như ra lệnh:
- Một luộc, một dồi, một chả, lá thơm hoàn chỉnh đấy nhé. Có rượu Tam Xà không nhỉ?Phi Trường thái thịt, đôi tay nhẹ thoăn thoắt, cái vai bự mỡ rung lên, sau đó ông ta nổi quạt máy, thổi bếp than hồng và đặt lên trên bếp sâu chả chó. Chí Viềng nhìn bàn tay chủ quán nhẹ nhàng vê sâu chả chó quay tròn trên bếp than hồng, mùi thơm quen thuộc bốc ra như có sức lôi cuốn lạ thường. Viềng thầm nghĩ – “Trờí sai lão Phi Trường xuống đây để hầu mình là xứng đáng lắm". Một lát sau chủ quán đã bày đủ những thực vị lên bàn ăn. Chí Viềng cầm đũa gắp miếng ba chỉ và làm một động tác quen thuộc lấy lá mơ lông gói miếng thịt kẹp lát giềng, chấm mắm tôm chanh và thưởng thức. Đôi mắt Chí Viềng sáng lên, vẻ mạt rạng rỡ, một ý nghĩ ngộ nghĩnh thoáng qua: "Ở nước Mỹ giầu có nhất thế giới, nhưng liệu lão tổng thống Mỹ có được ăn thịt chó bao giờ không nhỉ (?)".Bừa ăn đã dần tàn, trên đĩa cũng chỉ còn lại một vài miếng thịt. Chí Viềng lại móc túi ngọc lấy ra vỏ bao Vina đặt trên bàn và chuẩn bị nạp vào các bao ấy những thứ đặc sản cần thiết. Những miếng còn lại trên đĩa cũng chỉ là da và mỡ bùng nhùng và những miếng cuống dồi chó đen nhèm, quăn lại. Viềng bắt đầu rung đùi chăm chú nhìn ra đường phố tìm bạn quen. Thỉnh thoảng anh lại chồm lên nhìn theo một bóng người nào đó, anh giơ tay lên như muốn vẫy nhưng rồi anh hãm cánh tay mình lại, từ từ đặt tay lên đùi một cách thất vọng. Chủ quán Phi Trường cũng đã quá quen với những động tác của Chí Viềng, ông liếc nhìn đồng hồ trên tường, thấy kim giờ đã chỉ quá con số ba, chủ quán bắt đầu làm những động tác nghề nghiệp để giục khách trả tiền. Phi Trường vừa lau xong bàn, xếp xong ấm chén thì có một người khách thò mặt vào, liếc ngang, liếc dọc như tìm một ai đó. Lê Chí Viềng mắt sáng lên, nhoẻn miệng cười tươi, toàn thân anh bật dậy, Viềng mời khách:
- Anh Vi Lượng, xin chào kịch tác gia, Vi Lượng vào đây, ông Phí Trường đang đợi anh đấy - Viềng quay về phía chủ quán dõng dạc gọi:
- Luộc, dồi, chả, nhựa mận và bún xáo nữa đấy nhé!Trong lúc chủ quán đang chế tác món đặc sản, trên bàn ăn Chí Viềng và Vi Lượng ngồi bên nhau họ cười nói thân ái như lâu ngày mới gặp nhau. Thật ra chủ và khách họ đã biết từng nhịp trái tim đập của nhau từ lâu rồi, bây giờ họ làm ra vẻ không ai biết gì về quá khứ của nhau, họ lấy câu chuyện kịch và thơ ra để lấp chuyện cũ, làm cho cuộc tiệc tùng ở quán Phi Trường được vui vẻ.Mới cách đây đầu năm, Vi Lượng cũng đi qua quán này, Lê Chí Viềng cũng mời vào quán, mời anh thưởng thức đặc sản thịt chó, bữa tiệc ấy đáng giá sáu chục nghìn đồng, Lê Chí Viềng cũng đã chơi một vố nhanh gọn, Viềng đã trút gánh nặng bữa tiệc cho Vi Lượng, còn Viềng anh cáo từ về đưa chìa khoá cho vợ mở cửa phòng, nhưng rồi bữa đó Viềng mất hút, đương nhiên Vi Lượng phải đứng vai khổ chủ để thanh toán bữa ăn hôm đó.
Bữa tiệc chó hôm nay Lê Chí Viềng thấy Vi Lượng hồ hởi khoe việc anh mới dựng thành công một vở kịch ngắn cho một công ty Thương Mại dịch vụ, Viềng cũng tưởng rằng nhà kịch sĩ đã quên một quá khứ tưởng là phải cạch mặt nhau, Lượng vui như nổ trời, anh chỉ vào túi ngực của mình và khoe: Vở này nhuận bút cũng nặng túi lắm, phải tiêu vài chục bữa đặc sản chó cũng không hết.
Viềng đưa tay đẩy ra phía trước như kiên quyết từ chối tấm thịnh tình của bạn, anh nói:- Cái khoản ấy đừng lo, đã có tôi. Hôm nay tôi phải mở tiệc mừng thành tựu kịch ngắn của anh lên sàn diễn.Lượng xua tay:
- Để tôi!
Viềng lắc đầu:- Để tôi!Trong lúc hai người đang giằng co nhường nhau khoản chi bữa việc, chủ quán Phi Trường bưng ra một mâm đầy đủ luộc, dồi, chả, nhựa mận, bún sáo.
Phi Trường cười rung vai:
- Tôi thích nhất là tiếp khách văn nghệ sĩ, anh em họ làm cho quán của tôi sang trọng hẳn lên, thế cũng chưa đủ, mà tôi học khôn được trong văn thơ của các ông nhiều mốt sống, điều hay, lẽ phải. ..Viềng cầm đũa ra lệnh:
- Khai chiến đi anh - Viềng gắp một miếng thịt luộc làm động tác mẫu ngon lành. Bữa tiệc ấy diễn ra hồ hởi, người ta tưởng như đây là bữa ăn của các tỷ phú. Đã ba bốn lần Viềng hãnh diện gọi chủ quán tiếp thêm những món đặc sản chó. Phi Trường bê ra mấy đợt thức ăn, nhưng rồi ông ta sinh nghi, bụng bảo dạ: "Liệu bữa nay có suôn sẻ hay lại trục trặc kỹ thuật như những bữa trước. Thôi được, trục trặc hay không là việc của họ, vơ tiền là việc của mình, thằng nào đã vào đây liệu có đường nào chạy thoát khỏi quán Phi Trường này..."
Cuộc tiệc tùng đã kéo dài hơn một tiếng đồng hồ, Phi Trường lượn quanh bàn ăn nhắc khéo:
- Chóng quá, thời gian như bóng câu qua cửa sổ. ..Mới có ba giờ chiều thôi ạ, các ông dùng gì để em làm thêm.
Vi Lượng liếc mắt nhìn toàn cảnh bàn ăn thấy các món đã thừa mứa, Lượng chỉ vào túi ngực của mình và nói:
- Cứ chén, hết bao nhiêu tôi chịu.ChíViềngbổ sung lời lẽ đầy hy vọng:- Không phải cậu chịu, mà thằng công ty Thương Mại dịch vụ nó chịu.
Vi Lượng vươn mình đập vào vai bạn, cười ha hả:
- Chứ sao!Trong lúc Chí Viềng mở cặp lấy ra một tờ báo to đặt lên bàn và thu vén những miếng thịt còn lại chuẩn bị cho một cuộc rút lui. Không ngờ Vi Lượng cầm cặp đứng lên và rút ra mấy tờ giấy bạc màu xanh lá cây rối đặt lên bàn ăn và lấy đĩa rau húng đè lên cho khỏi gió bay. Lượng thản nhiên nói:- Cứ chén đi nhé, mọi việc mình lo đây rồi, bây giờ mình có việc hẹn chiều nay ký hợp đồng với thằng doanh nghiệp xuất khẩu, làm cho nó vở Đi Tây. Vở này cũng đậm đà lắm - Lượng quay về phía chủ quán giơ tay chào:
- Goodbye ông Phi Trường nhé. Khi nào dựng xong vở Đi Tây, hai chúng tôi sẽ tới đây đập phá trận nữa. Bữa nay có gì không phải xin ông đại xá cho nhé.
Nói xong Lượng quay người, bước ra cửa. Chí Viềng liếc nhìn những tờ giấy bạc xanh đặt dưới đĩa rau thơm, bụng bảo dạ:- Thằng này khá đấy, biết chơi, khoản này thừa chi bữa sáng nay, biết đâu mình còn có lãi dăm chục nữa chứ.Viềng đứng lên gọi với ra vẻ ân cần:
- Lượng ơi, đứng làm thế, để mình thanh toán, mình có nhuận bút thơ đây rồi!
Nói xong, Viềng thu dọn những miếng thịt, miếng dồi còn lại, gói ghém cẩn thận và cho vào cặp da, anh thận trọng như đang nhét tài liệu quý vào cặp. Viềng hất hàm gọi chủ quán:- Quyết toán ông Phi Trường ơi.Chủ quán lật đật chạy ra, cười nói đon đả:
- Các ông thôi thật đấy à, tôi còn đủ lượng phục vụ cho các ông cơ mà, làm gì mà hối hả đến thế, cứ bình tĩnh mà nhậu cho sướng mồm.
ChíViềnghỏi cộc lốc:- Hết bao nhiêu?Chủ quán bấm đầu ngón tay miệng lẩm bẩm:
- Ba đợt gọi vị chi hết một trăm ba mươi nghìn đồng.
Viềng cười khảy:- Có thế thôi à?ChíViềngkéo cái đĩa rau húng sang một bên, gõ gõ đầu ngón tay trỏ trên những tờ giấy bạc xanh ra hiệu thanh toán. Phi Trường vừa cầm đến mấy tờ giấy bạc xanh ông ta đã giật người như phải bỏng và ném tiền xuống mặt bàn:
- Tiền giả. Xin ông đổi cho.
Viềng sửng sốt giương mắt nhìn:- Sao lại giả nhỉ, đời tôi là chỉ có thật chứ không có giả mà bạn tôi cũng thật như đếm, cái lòng văn nghệ sỹ chúng tôi sáng như gương, cả cái tỉnh này phải nể về cái đức của chúng tôi.Chủ quán Phi Trường lắc đầu thở dài:
- Thưa ông nhà thơ, đức gì thì đức mà tiêu tiền giả là phạm pháp đấy ạ. Nếu như hôm nay ở kho bạc hoặc ở ngân hàng thì họ đã làm biên bản thu hồi giấy bạc giả, tiền bạc không phải là chuyện chơi đùa với văn thơ đâu ông ạ.
Biết mình đang lâm thế đường cùng, nếu chuyện này mà vỡ ra gây ồn ào, dân phố kẻo đến vòng trong vòng ngoài, người chê, người trách thì cũng chẳng hay gì, Viếng đành rút cái phong bì hội nghị, lấy tờ giấy năm chục nghìn để trả cho chủ quán và nói:- Thôi thì cũng liều, thằng bạn khốn nạn nó chơi tôi vố này đau như hoạn, ông thông cảm cho, số tiền còn lại ông cứ ghi sổ cắm quán để khi nào tôi thanh toán.LêChí Viếngngồi phịch xuống ghế, mặt đờ đẫn vì tiếc rẻ, anh thở dài với giọng chua chát:
- Một thằng đểu không hơn không kém!
Phi Trường lấy bút ghi sổ tiền cắm quán và thận trọng đưa cho khách cuốn sổ và bút, ông nói:- Xin thủ trưởng ký duyệt cho em tiền cắm quán.Phi Trường ngồi vào ghế giọng trầm trầm như thương cảm cho vị khách của mình:
- Có gì là lạ đâu ông nhà thơ ơi, ma gặp ma, họ dễ nhận ra nhau thôi.
Vườn hoangBóng tối quả có sức mạnh rất riêng, vui quá trời người này, buồn sâu thẳm người khác. Thử hình dung xem những đôi mới cưới, họ mong đêm đến bồn chồn, khắc khoải mức nào. Đêm càng ập nhanh càng tốt. Đấy sẽ là giờ khắc phồn thực nhất của âm dương, những hơi thở nồng nhiệt, những ái ân hổn hển, điều không thể nói bằng lời, không cần nói bằng lời. Đấy sẽ là thời điểm tạo hóa giao hòa, con mèo tìm bạn gào tha thiết trên mái nhà, chú chuột đồng rinh rích đùa chơi ngoài bãi vắng, bông hoa từ từ mở cánh đón giọt sương riêng tư, tiếng chim đêm lặng thắc thỏm buông giọng...Nhưng bóng tối cũng thật sự não nề, cô quạnh, trống trải, thậm chí còn hết mức kinh hoàng với những người đơn côi, những kẻ tội lỗi, những ma mãnh kinh dị, những mưu toan máu lửa. Bóng tối không hề có tội, nhưng bóng tối tạo nên, nhân lên mặt trái của mọi nghĩ suy, mọi mặc cảm,luôn là nỗi lo toan thắt ruột,sự sợ hãi triền miên với người đàn bà mà tôi kể dưới đây, người đàn bà hàng xóm của tôi, chị Thấm!
Chị Thấm hốt hoảng mỗi khi chiều xuống nhanh, trời luộm xuộm ngả bóng.
Của đáng tội, ngày chồng chị bạo bệnh qua đời,đau thì đau thật, xé gan xé ruột thật, nhưng chị thở dài đánh thượt.Thoát nợ!Thoát khỏi bàn tay thằng chồng trời đánh,luôn luôn túy lúy rượu với lão chủ quán thịt chó, đi thì chớ,về đến nhà là thượng cẳng chân hạ cẳng tay vợ con. Như vợ sinh ra, cột vào hắn như món nợ đời, cản trở hắn không mở mày mở mặt cùng thiên ha, muốn thoát được thì phải dần cho vợ sa sẩm đòn roi.Rượu vào,về đến cổng là hắn nhồm nhoàm: ”Con Thấm chết tiệt đâu rồi!” Chị Thấm co thắt ruột nghe chồng gào, vội chạy ra xốc nách con người đang méo mó bước, chịu cháy mặt cái tát đầu tiên. Hắn lảo đảo ngã, bạ cái gì thuận tay ném cái ấy, khi thì cốc chén, khi thì bát đĩa. Đồ vật loảng xỏang vỡ. Đứa con khóc thét thất thanh. Tiếng Thấm đứt quãng: ”Tôi cắn rơm cắn cỏ lạy anh...” Tiếng hắn: ”Mày hú hí vơí thằng khốn nạn nào chiều nay? Cãi hả? Không đúng hả?” Bóng đêm nuốt nhanh tiếng những cái tát bốp bốp, tiếng khóc đứt đoạn cào cấu, tiếng người đàn bà chịu tội trần gian hờ giữa nền trời đen thẫm màu bùn.Thấm chưa sợ chồng nhiều những trận đòn, chị đã dạn đòn. Thấm sợ nhất những lúc chồng lơ mơ tỉnh rượu. Trong màn, người hắn chua loét nôn mửa chưa rửa sạch, mùi chua khác hẳn mọi sự chua ở đời, ngăm ngẳm cóc chết gậm giường, khăn khẳn dưa khú lâu ngày đọng váng. Cứ thế, với cái thân xác bẩn thỉu ghê người, hắn ập xuống chị. Trời đất, chị hoảng hốt ú ớ nghẹn cổ, không hiểu chuyện gì xảy ra, giữa lúc mình đau đớn ê chề ở vai, ở lưng, ở đùi trận đòn sẩm tối. Chị tỉnh dần, hiểu thằng chồng khốn khổ đang đòi quyền làm chồng, đòi hùng hổ, bản năng, đầy thú tính. Bất chấp chị bằng lòng hay không, hắn xé xoàn xoạt quần áo vợ, hai chân như hai gọng cùm quặp đùi vợ kêu răng rắc, bổ như bổ củi xuống cái thân hình gầy nhẽo, ọp ẹp xương. Xong cái việc đầy rẫy nhớp nháp hoi nồng, hắn lạu bạu chửi chị chẳng còn tí gì đàn bà gợi hứng, rồi ngật người ngáy hổn hển, rung bần bật cả cửa sổ, như trâu ngáy. Bấy giờ chị mới thực thức, cay đắng lắng nghe tiếng người phì phì đứt quãng bên cạnh, người mà chị gọi là chồng, người cho chị sinh một đứa con trai kháu khỉnh, lạy trời, kháu khỉnh thật. Chị nằm im, thây mặc sự chua loét lộn mửa, thây mặc sự hoi dính khắp giường, mắt trân trân nhìn đình màn rách. Muốn khóc lắm mà ứ nghẹn ngực, không khóc nổi. Nước mắt biến mất từ chập tối chăng, để lúc này thèm nó ứa vài giọt, dù giọt dè sẻn mật đắng, vẫn cạch không có. Giá mà nức nở nổi mấy nấc? Cho nhẹ người, vơi nỗi cực nhục một cõi đời. Sao con quá khổ thể vầy, mẹ ơi!
Chúng ta chừng thấu cảm chút ít tâm trạng Thấm khi chồng chị chẳng may trúng cảm qua đời. Lão chủ quán thịt chó mất bạn nhậu bíu chặt tay trước quan tài hạ huyệt. Hàng xóm xốc dìu Thấm về lại căn nhà ọp ẹp một mẹ một con. Mùi hương thắp trước bài vị chồng tuần tứ cửu, tuần bách nhật thay nhau tỏa. Đêm đêm, những chấm đỏ từ đầu nhang chập chờn hơi ấm, như thêm bầu bạn, thêm sự san sẻ. Rồi giỗ đầu qua, rồi từng đận ấp vầng cỏ thanh minh mộ chồng, rồi sang cát. Nghĩa tử nghĩa tận, dù lúc sống hắn hành hạ mình khốn đốn, giờ hắn lạc sang cõi khác, mình vẫn phải ăn ở nhất lòng. Để vong hồn hắn bớt tủi. Để hắn phù hộ độ trì thằng con trai hắn đang sức ăn ngủ, mau lớn mau khỏe. Để Thấm bòn mót chỗ tựa, thoảng chút hơi đàn ông trong nhà, dù hơi chồng nửa đời nửa đoạn. Thắp nén hương trước bàn thờ, Thấm lầm rầm khấn, mỗi lời khấn sáng lóe trong chị mỏng manh hy vọng. Lạy anh, tôi sẽ đưa anh lên chùa, mong anh tĩnh an cõi khác, đêm ngày cứu rỗi vợ con ở nhà. Lạy anh, suốt đời tôi nguyện thành tâm làm tròn phận sự vợ anh, chỉ biết làm vợ mỗi anh. Tôi có lòng nào thì...Những nén hương thờ thắp cháy từng ngày.
Sau cải táng, hương chỉ đọng thơm ngày rằm, mồng một, tháng đôi tuần.Để rồi từng đêm, Thấm lại hoảng hốt trước bóng tối dặc sệt, bóng tối của riêng chị. Và chị lại lẩm rẩm khấn...
Đúng như các cụ ta nói: ”Vắng đàn ông quạnh nhà, vắng đàn bà quạnh bếp”.Trước hết là quạnh căn vườn nhà Thấm. Thấm bận tối mắt tối mũi kiếm ăn nuôi mình nuôi con, không mấy tăm hơi để mắt tới mảnh vườn toen hoẻn. Nào có ra vườn, mấy vuông đất lẫn sỏi trồng đủ thứ thập cẩm, bạ gì trồng nấy. Gọi có rau, phòng lúc nhỡ tiền, với tay vặt vãnh vài cọng, miễn thêm thức đút miệng, đưa đẩy lưng cơm. Thằng cu Thía khoái món rau dền luộc. Nó khoái, bởi được chan húp những muôi nước dền đỏ sẫm, màu đỏ ngấp ngó ngọn cơm, nom vui hẳn mắt.Nó kêu: ”Mẹ ơi, sao nước rau dền lại đỏ?”. Thấm lừ: ”Ăn đi ông tướng, hỏi gì hỏi lắm! Ăn đi để tôi còn dọn, còn ngả lưng một chút. Tôi đang mệt bã suốt ngày đây”. Thằng cu Thía nín lặng, lùa vội miếng cơm nhuộm đỏ. Nó vẫn ấm ức không hiểu sao cây dền xanh non, luộc lên nước rau lại đỏ lựng? Mẹ nó gắt gỏng, còn biết hỏi ai! Chợt nhớ tới ông Vả, chủ quán thịt chó, hay lúc nào hỏi ông ấy? Mới nghĩ, Thía ta đã nổi da gà sợ. Con mắt ông ta trắng như mắt con chó luộc treo móc giữa quầy hàng. Con chó được thui khéo, vàng nhẫy mỡ, lủng lẳng gọi mời khách, thô lố nhìn Thía từ nhà mẫu giáo bám gấu áo mẹ về. Nó len lét, chỉ sợ con chó thui vàng kia bỗng sống lại, ẳng một tiếng, đớp nhoáng cái vào đùi. Mẹ Thấm ạ, mẹ đi bên này, con nép bên này, mẹ nhé!
Một buổi, nó thỏ thẻ:- Mẹ ơi, vườn rau nhà mình nát hết rồi!
Thấm giật mình, vứt con giữa nhà, nháo vội ra vườn. Ôi thôi, mấy luống cải, luống dền đổ ngổn ngang, không cây nào còn nguyên, không tàu nào thoát khỏi dập gẫy. Đến mấy mậm chuối vừa nhu nhú đâm mầm cũng bị xéo nát xơ xác. Thấm chưng hửng, mắt ướt nhòe. Chị đâu tức vì mất rau ăn, rau bây giờ rẻ, chợ bán ê hề, mấy trăm bạc đã có thể mua nổi mớ to tướng. Chị khóc, hiểu mình bắt đầu bị bắt nạt, báo hiệu mọi chuyện rồi sẽ đổ xô về chèn ép mẹ con chị. Đầu tiên phải chuyện con Đốm hoang đây. Thấm gọi nó là Đốm, bởi một đêm kia đang thiu ngủ, chị bỗng nghe tiếng gừ gừ phía tường bếp. Ngỡ trộm, chị cầm cu liêm lén ra thì bắt gặp cái bóng con vật vắt nhoáng qua rào, lẩn về phía đầu xóm. Con chó nhỉnh lớn, đốm trắng từng mảng như đốm con báo. Quen mui, thỉnh thoảng ăn đêm, nó lại lọt vào vườn. Biết nó giống hoang, không cửa không nhà, có lưng cơm rếch, cơm bỏ mứa của cu Thía, có miếng xương xẩu nào, Thấm đều trút vào cái nồi đất đặt cạnh gốc chuối, Đốm cứ tự nhiên về hưởng. Người và vật thiết lập mối quan hệ không thành văn, không cần êu êu gọi, ư ử đòi, mọi cái cứ tất yếu diễn ra, đều đều tối tối. Thấm quen bên cạnh mình có nó, dù chị vắng nhà suốt ngày, dù chị chẳng hề kêu yêu nó một tiếng. Ngờ đâu nó bạc, đúng đồ chó má, phá sạch sành sanh mảnh vườn cóc gặm. Uất ức, chị gào trong cổ:- Đốm, không ngờ mày khốn nạn quá. Đến phải để lão Vả băm xác mày ra, mới thấm cái thân mày!
Thấm không biết, lúc chị réo chửi ầm ĩ thì Đốm núp sau bụi cúc tần nhà bên, nghe thủng hết. Đừng khinh thường những con vật sống quanh ta. Người có tâm hồn người, vật có tâm hồn vật. Cũng đừng nghĩ oan, tội cho chúng, lúc này tội cho chính Đốm. Đốm nằm im thít giữa lùm cây. Không thể chui ra thanh minh, dẫu oăng oẳng kêu, chắc gì chủ nhà thấu cho. Đốm mắc lỗi lớn quần nhừ tử mấy luống rau đang mởn xanh. Nhưng Đốm không hề có ý bắt nạt người chủ góa chồng, như chị tủi thân nghĩ.Con Đốm của chúng ta lạc vào vườn chị Thấm từ lúc mới mấy tháng tuổi. Bọn trộm câu cả mẹ lẫn con Đốm, đẩy tống tán cho bọn buôn chó chở về phía biên giới bán sang nước ngoài. Đêm kia, xe tải chở chó dừng nghĩ một quán bên đường. Nhờ nhỏ con, Đốm chui khỏi chiếc cũi tre, ngoe nguẩy đuôi phủ phục cạnh cũi mẹ. Đốm mẹ giục giã con hãy trốn nhanh, đừng vì níu kéo mà chết cả nút. Dùng dằng mãi, mẹ mắng hắt mãi, Đốm mới lật mình lăn xuống xe. Bị gãy một chân, nhưng chó liền da, chỉ mấy ngày quăng quải, cà nhắc dọc đường, Đốm đã có thể một mình lần xuống các xom vắng. Thật may, nhờ những bát cơm hẩm phiếu mẫu chị Thấm cưu mang, Đốm hồi sức nhanh, chân gẫy liền xương lại, lông bắt đầu thay, những đốm trắng lấp ló mịn. Đốm ra dáng dần một ả chó cái dậy thì, mũi nở từng nhịp, tai dựng đứng nghênh ngáo, vệt lông trắng kéo dài từ cổ qua lớp vú xuống chấm kheo. Đuôi Đốm như cụm bông khá đẹp, duyên dáng ve vẩy. Đốm mang những ý nghĩ trái ngược, vừa hãnh diện muốn khoe mình trước đàn chó chung quanh, những chó nuôi bị xích ư ử nhìn Đốm qua lại; vừa ngại ngần nghe trong mình dòng máu dồn nén của con cái mỗi ngày một mạnh. Bốn chân Đốm tung tăng đùa giỡn với mọi thứ, luồng gió lật phật lá chuối, bông hoa giấy tím đỏ dọc hàng rào nhà bên, chú chuồn chuồn kim nhẹ như nốt nhạc đọng trên mặt ao bèo tấm. Cuộc đời ngỡ bỏ rơi Đốm, hóa không. Bố Đốm giờ ở đâu, sống hay chết, Đốm không biết.Từ bé, Đốm chỉ quanh quẩn mỗi mẹ. Mẹ hẳn không còn, miếng ăn cho bọn nhậu, cao xương thành mấy vị thuốc, hay vẫn bị giam hãm trong lồng cũi nơi xa? Đốm chỉ hay mình đang tự do, thật sự tự do. Đốm đang đẹp, đang thành một con chó cái mỡ màng, đang là nỗi ao ước, nước mắt nước miếng rỏ ròng của đàn chó đực bị xích. Thương thay mấy chàng, cái xích sắt giằng chặt cổ, hí hí nghẹn giọng mỗi lần Đốm đỏng đớt diễu tới. Đốm ta cũng đành hanh, cũng trêu ngươi. Biết mình được chú ý, được đồng loại khác giới thèm muốn, Đốm ngày càng hay đến cổng một nhà nọ ngoe nguẩy đuôi. Nhà nọ nuôi một chú chó lực lưỡng, mắt vằn dữ, luôn lè cái lưỡi đốm đen nhát người qua lại, sủa oang như lệnh vỡ, rõ dáng một đấng trượng phu. Chú chó bị xích ấy lại thật hiền mỗi lần Đốm tới cổng, cái mũi thính nhạy hít hít mãi hơi thở bạn gái đứng ngoài, mắt buồn đưa đẩy chào đón. Hãy nhảy qua tường vào đây, hỡi em xinh xẻo! Anh ạ, tường đầy mảnh chai, lại cao thế, em nhảy sao nổi? Hãy vòng qua phía bếp, ở đấy hở một lỗ cống, em có thể chui lọt. Đốm ta nghe lời, tìm ra sau bếp, cong thân chui sang cống, mừng rỡ nhảy tung hoăng quanh bạn trai. Không biết bằng linh cảm gì,nhanh như cắt, với hàm răng sắt nhọn riêng, Đốm cắn đứt phăng đoạn dây thừng buộc nối chiếc xích sắt, giải phóng cho chú chó nài. Chú kéo lê mẩu xích còn lại phóng theo cô bạn đẹp mã. Cả hai cùng hung hăn đuổi bắt khắp vườn nhà Thấm. Sau những phút giây ỡm ờ, vờn tán, tất sẽ đến công đoạn cần có nhất của đôi lứa đang vào tuổi lớn. Đốm đau đớn sủa ăng ẳng, lủi trốn tới tấp các ngách luống, các kẽ chuối, rồi như một định mệnh không thoát, ả lại vung tai nhón chân ào ra, húc đầu vào bạn tình. Chú chó đực chỉ chờ có thế,nhanh chóng làm tròn phận sự tạo hóa giao phó, không cần biết thời gian kéo dài bao lâu, không cần biết vườn rau nhà Thấm bị xéo nát tanh bành. Chính đoạn xích sắt từ cổ chú góp phần quất gục các luống rau và cũng chính đoạn xích đó lại làm hại chú. Dứt cuộc tơ giao, chú mệt nhọc kéo lê mẩu xích trên đường xóm, lập tức bị mấy tay bợm trộm quăng câu lôi đi mất. Chú sẽ bị quay vàng quán lão Vả hay quán thịt cầy nào, miếng mồi cực ngon nọ hẳn không dễ được phép sống dai.
Đốm ta cũng trải một phen bã bợt, lờ đờ tìm bụi cúc tần kín nằm thở. Một cái gì rất lạ, rất đau đớn, rất bổi hổi xâm chiếm toàn bộ cơ thể Đốm. Đốm đâu còn Đốm của hôm qua, cả sớm nay. Đốm bước sang một đoạn đời khác, một hoàn cảnh khác. Ả lơ mơ ngủ, chỉ giật thót mình, co chân lặng phắc khi bất ngờ nghe Thấm thét. Thấm giận giữ khoa chân múa tay trước vườn rau bị chính kẻ chịu ơn mình quần rập, chẳng khác tai họa sau trận bão lớn, cảnh vật tàn phá bi thảm không chút tiếc thương...Cái gì cần qua rồi cũng sẽ qua.
Thấm tất bật lo công việc, lọ mọ rời nhà từ tờ mờ sáng đến nhọ mặt người mới về. Chị làm phu hồ, ăn lương công nhật cho một nhóm xây dựng. Dạo này thành phố mở rộng, nhà nhà lên tầng, công việc làm ăn xem ra rủng rẻng, Thấm thu nhập cũng kha khá, không ăn đong bữa đực bữa cái như mọi quý trước. Nhưng đầu tắt mặt tối. Làm cái chân phu hồ, ngày ngày úp mặt đánh vữa, rửa cát rửa sỏi, cái khăn che mặt lấm vôi trắng bệch suốt vụ. Về đến nhà, rửa ráy cơm nước cho thằng con quý tử xong, nghe nó nghêu ngao hát mấy câu nhắng nhít, rồi hai mẹ con co quắp ôm nhau ngủ. Giấc ngủ đến nặng nhọc, nhưng nhanh và sâu. Thấm không lòng dạ nào đảo mắt tới khu vườn. Không được bàn tay con người chăm chút, vườn nhanh chóng thành vườn hoang, cỏ gai, cỏ mần trầu đan nhau mọc rậm, ếch nhái dưới ao ạ uôm từng hồi rồi nhảy lên bắt đôi dưới gốc cỏ rối, rắn nước đều đặn kéo tới lột xác. Thấm cũng không còn giữ lệ trút cơm vào chiếc nồi đất dưới bụi chuối. Sau đận bực bõ nọ,chị không cả thiết cứu đỡ con vật phản chủ. Kệ sống chết mặc bay, hoài hơi đi nuôi báo cô kẻ ăn ở hai lòng!Con người ta kể cũng lạ, có thể quen mọi thiếu đói, mọi nặng nhọc trên đời, nhưng không dễ quen nỗi trống trải. Hình như nỗi trống trải mới là hình luật nặng nhất tạo hóa trừng phạt con người. Anh có thể vẫn sung túc đề huề, lầu son gác tía, con đàn cháu đống, giàu có nứt đố đổ vách, nhưng anh khó viên mãn khi trong lòng nguội lạnh, ăn đấy như không ăn, nói đấy như không nói, bao nhiêu sự đời chẳng biết chia sẻ cùng ai, mở lòng với ai. Nỗi trống trải sẽ lấn chiếm anh hằng đêm, mỗi khi phải nằm một mình. Anh rất dễ mộng mị, sợ sệt, nhân rất nhanh những tình huống dội tới, sẵn sàng buông mình trước mọi bất hạnh, mọi cám dỗ, mọi đe nẹt. Nỗi trống trải sẽ là kẻ thù chính của mỗi con người cô đơn. Nhất người ấy lại Thấm, đàn bà quá lứa, góa chồng, ở một mình, tít trong xóm vắng. Thấm đấy, Thấm đang lâm vào tình cảnh trớ trêu, chúng ta hãy theo dõi những gì sẽ đến với chị, chẳng lâu la nữa đâu.
Đêm ấy mưa quất dữ dằn. Căn nhà ngói cũ thấm nước, dột tứ tung như ngoài trời. Thấm vội vã tìm vải nhựa trải lên đình màn, che tạm cho con trai đang say ngủ. Chiếc đèn dầu leo lét sáng góc nhà, ngọn lửa thỉnh thoảng nhảy dựng vì sấm chớp rùng rùng. Thấm thu mình ngồi mé giường, lo sợ nhìn những vệt chớp ngoằn ngoèo hiện ngoài cánh cửa, giật thót người mỗi đợt sấm ràn rạt bủa. Mưa ầm ầm, hả giận trút nước, sau bao ngày nhẫn nhịn chịu đựng oi bức đến ngột ngạt. Mưa tưởng bốc tung mái nhà, như báo trước tai họa không may sẽ xảy tới. Những giây khắc này mới hay nhà vắng bóng đàn ông cực đến mức nào. Giá thằng chồng của nợ còn sống? Thì chị dù đau đòn tra nhưng lòng dạ sẽ bớt thấp thỏm, bớt hoảng hốt. Mưa kệ mưa, hắn sẽ dậy, sẽ làu bàu chửi trời đất, nhưng mọi việc nặng dành cho đàn ông, hắn đỡ cho chị hầu hết. Vẫn chiếc giường cũ xưa, giờ hoen hoẻn hai mẹ con chị. Hóa ra cái mùi chua khẳn nôn ọe rượu, cái mùi mắm tôm hành tỏi thịt chó lợm giọng, giờ đâm nhớ không đâu. Bởi đó là dư vị của đàn ông trong nhà, không thể có nổi ở bất cứ người đàn bà nào. Đàn ông đều thế sao, thân thể lực lưỡng, ái ân không chán, người ngợm hôi nồng? Hắn từng nói không hôi không phải đàn ông, mỗi lần Thấm giục hắn đi tắm. Bởi hắn quá bẩn, mùi tóc khét lẹt, râu ria ngái đậm thuốc lào, quần áo đầy bụi đất, cả tháng không thèm dội nước. Hắn quát: ”Tao đâu phải lũ động cỡn như tụi bay. Phấn son lòe loẹt, ve giai, đánh bớp, nước mẹ gì. Thơm tho cái phải gió, tao chỉ là tao hôi sì, nhưng nguyên chất đàn ông, căng cái lỗ tai ra mà hiểu, nghe chưa?” Giờ đây hắn đã nằm sâu mấy tầng đất, những cái ”nguyên chất đàn ông” hẳn tan rữa,chỉ trơ bộ xương trắng hếu đặt trong lòng tiểu. Đêm đêm thức giấc, Thấm bâng quơ nhớ tới hắn. Nhớ để mà nhớ, mỗi buổi một ít, khói khói sương sương. Đã lâu, Thấm mải mê việc, quên đứt bản thân, chẳng mấy ngó ngàng tới cái gương soi. Xấu đẹp gì ở cái tuổi coi như bỏ. Mình đã có một cục vàng Thía an ủi, nâng niu. Chiều nay đi qua quán thịt chó, lão Vả e hèm gọi.Thấm dừng bước: ”Bác dạy gì em?” Lão Vả cười hềnh hệch, nhe hàm răng ám khói: ”Dạo này xem mẽ nhà Thấm nhuận sắc đáo để. Mày khéo mát tay nuôi con, bữa nào mát giời, cho tao gởi một đứa”. Thấm đỏ mặt, quay ngoắt. Đúng giọng nỡm gái, lời lẽ như lời lý trưởng nói với mẹ đốp trong một màn chèo. Nhưng lạ, mấy lời khen tếu táo ấy tưởng bay đi, hóa không. Như axit, nó nhỏ vào lòng Thấm sôi sục, ngùn ngụt bỏng. Chồng chết, ngoảnh đi ngoảnh lại đã ba năm, mộ táng mấy lần xanh cỏ. Không ai vầy vò mình đêm hôm, chỉ biết ăn với làm, cơ thể xem chừng phổng phao trở lại. Hay mình xinh đẹp ra mà mình vô tình không chú ý. Tắm cùng chúng bạn phu hồ, một con í ới: ”Chúng bay ơi vào mà xem, đầu vú con Thấm đỏ hồng như vú con gái” Ừ nhỉ, ngày chồng còn sống, hắn luôn miệng chửi mình nụ cà hoa mướp. Giờ bỗng dưng phồng tròn, rắn đanh bánh dày, nhiều lúc tức căng ngực, chật ních chiếc áo con. Thân thể đàn bà cũng lạ,mất sức mất lực đâu đâu, chỉ một thời gian ngắn ăn uống tạm đủ, ngủ nghê đẫy giấc, y như xuân sắc hồi nhanh. Tóc mượt thêm, người mập hơn, eo cong như eo tôm, ngực mông đâu ra đấy. Đêm, Thấm chập chờn mong mỏi một cái gì quen lắm, nóng hôi hổi, đầy hoan lạc, thậm chí vũ phu tới mức hoang dại. Tôi là gì thế này, tôi còn tôi nữa không, tôi đang ham muốn nông nỗi nào ở đời? Nỗi trống trải biến đâu ban ngày bỗng dưng ập về, lạnh lẽo mênh mông, có cạnh có mảng, có hình có khối, mồn một trong đêm đen, bấu móng vuốt sắc nhọn vào sâu trái tim người đàn bà khao khát dâng hiến. Thấm thở hồng hộc, ghì chặt chiếc gối mây đến tức ngực, vật vã trở mình bên phải sang trái và ngược lại. Thấm hiện nguyên hình một cô Thấm khác, mông muội, thơ trẻ, sẵn sàng bán mình cho quỷ dữ, nếu chúng xuất hiện...- Cạch...cạch...
- Ai đấy,ai gõ cửa nhà tôi lúc mưa gió đấy?Tiếng thì thào như tiếng ma:
- Anh đây. Mở cửa đi Thấm!Như giọng thằng chồng cũ. Chả có lẽ hồn hắn hiện về. Hắn thiêng đến thế là cùng, mình vừa nghĩ tới hắn là hắn hiện. Em có lỗi, lạy hương hồn anh tha thứ cho em. Nhưng ngoài cửa vẫn vọng đều tiếng ”cạch...cạch...” lẫn tiếng mưa. Thấm hoảng, cặp lại tóc, rụt rè bước về phía cửa.
- Ai đấy, hỏi gì?- Anh đây, Vả đây mà!
A, ra lão Vả. Lão mò tới đây đúng lúc mưa gào gió rít, hàng xóm không để ý, chó dọc đường không cả cắn. Thấm hét qua hàng lan can:- Đồ mặt dày, mày không cút ngay thì bà hô hoán bây giờ. Ớ bà con ơi...
Ngoài cửa, tiếng người đàn ông đặc quánh:- Con đĩ già mồm. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông không cắt lưỡi mày như cắt lưỡi chó, chớ kể...
Bước chân nọ xa dần, khuất dần. Mưa gió vẫn não nuột tầm tã. Thấm thụp xuống giường, đầu gối run bần bật, càng giữ càng rung. Chị ôm chầm con, muốn dựa hơi ấm con cho đỡ run phần nào. Thằng Thía bỗng cựa mình thức giấc, ngạc nhiên khi thấy thân hình mẹ bóng nhẫy, hai cánh tay mẹ ôm nó lật bật rung mạnh. Nó thì thào:- Mưa to hả mẹ? mẹ sốt đấy à?
Bỗng nó nhổm người thầm thì:- Mẹ ơi, lắng tai nghe đi. Có tiếng gì thở rất mạnh sau vườn nhà ta. Hay con Đốm đã về. Đúng rồi, con Đốm nhà mình về đấy. Mẹ ra xem nào!
Thấm dỏng tai. Phải, tiếng thở dồn dập, dữ dội lạ lùng, đúng tiếng thở con Đốm. Từ bữa phá sập vườn rau, nó bỏ đi đâu mất hút. Dễ đến ba bốn tháng. Sao đêm nay nó lù lù trở lại, thở đứt quãng từng hồi vậy? Thấm đội áo mưa, lắp pin đèn, mở cửa sau lao ra vườn. Tiếng chị thất đảm:- Thía ơi, ra giúp mẹ một tay. Con Đốm về thật, đang cào ổ đẻ. Ra đây mau nào, Thía!
Con Đốm trở lại, trong sự bao dung của hai mẹ con Thấm. Cái đêm mưa dữ ấy là cái đêm nhớ đời của Đốm.Vác cái bụng lặc lè, Đốm ta quật quã tìm đường trở lại góc vườn vắng. Thôi thì chịu bẽ mặt với nhà chủ, bây giờ sinh nở đồng đất xứ người, biết cậy nhờ ai? Đau bụng quá, những cái thai quẫy đạp đòi ra cuộn võng từng cuộn. Tính tháng tính ngày, phải tìm nơi đạp ổ. Đừng làm khổ mẹ nữa các con, mẹ sẽ đưa các con về chính nơi xưa mẹ từng được cưu mang. Khu vườn bị quần nát, đâu mỗi lỗi ở mẹ. Mẹ không ngờ chỉ sau một bận ân ái, các con thi nhau lớn rất nhanh trong thân thể mẹ. Bố con bị thiên hạ bắt ngay chiều ấy, cái xích sắt lệt xệt kéo dọc đường ngõ. Me lang thang trốn đi, đầu đường xó chợ. Bọc thai các con càng to thì thân mẹ càng gầy nhẳng, vú nhú rõ dần hai vệt dài, sữa non nhưng nhức căng mọng.Con vật như con người, đều có những bước ngoặt vô định, không thể đoán trước. Đốm mất tuổi con gái ngay cái lần tung phá dẳng dai giữa vườn rau. Không hy vọng gì chủ nhà tha thứ, thôi thì đành phụ người, Đốm một lần nữa lang bạt kỳ hồ, lõng nhõng theo đuôi mấy lão chó hoang dữ dằn, lần mò kiếm ăn các bãi rác thải. Mấy lão đâu hào phóng, chúng gầm ghè không cho Đốm bén mảng tới những đống xương bò xương lợn xe rác lùi đổ, suýt nữa còn cắn gãy cổ Đốm mấy bận tranh ăn. Đốm mệt vì mang thai, đi đứng lử đử, liếm láp qua loa, cốt sống xong ngày. Chưa kịp chơi bời thỏa chí tang bồng sướng đời thân gái, Đốm bập luôn vào làm mẹ. Sửng sốt thay cái thiên tính mẫu tử trên cõi đời này. Từ lúc nghe cơ thể mình chuyển nặng từng buổi, Đốm sớm hình dung trước mắt những chặn đường tất yếu phải qua, những gian nan sẽ hứng đựng, những vất vả hy sinh vô hạn để nuôi lũ con trưởng thành. Chả cần ai phải dạy, tự Đốm nghĩ ra, tự Đốm vạch lịch cho mình đường đi nước bước. Thử thách lớn nhất những ngày mang thai là Đốm phải bằng mọi cách che chắn an toàn đàn con nằm trong bụng. Bao chú chó khác cứ lẵng nhẵng bám, gạ gẫm đủ kiểu. Có chú hung hăng bất chấp Đốm phản kháng, cứ nhảy cẫng lên lưng. Giây phút hung hãn ấy được trả giá bằng hàm răng Đốm sắc nhọn, nhát cắn phọt máu ngang cổ kẻ cố tình, tiếng ăng ẳng kêu vang bãi rác. Bụng Đốm xệ dần,đi đứng xem chiều ỳ ạch, cái ngày sinh nở đang xích tới. Đốm lê thân mình qua quán lão Vả, bỗng oẳng kêu một tiếng. May, lưỡi dao kẻ mưu sát mới sượt bên lưng. Đốm cuống cuồng chạy quẩn trong mưa, tiếng chân chủ quán đuổi rầm rầm phía sau. Quen đường, như có quý nhân phù trợ, Đốm quặp đuôi lủi sâu vào vườn hoang nhà Thấm, kẻ đuổi bắt mất hút dấu. Mưa lướt sướt ướt lột toàn thân. Run cầm cập, Đốm náu mình dưới những tàu chuối bị mưa gió xé rách bươm. Cơn đau bụng thình lình dội đến, quằn quại cuộn thắt từng khúc ruột. Chết thôi sinh nở giữa lúc trời đất cuồng lộn đánh vật, không ổ rơm, không bè bạn, xoay xở sao đây? Mắt đờ dại ướt át, Đốm lê cái bụng trương phềnh vào gốc chuối, kiếm chút đất khô ráo. Oằn người, Đốm hít thật mạnh rặn, thở như chưa từng thở xưa nay. Đốm ngất đi...
Nửa đêm, thiêm thiếp tỉnh, Đốm ngạc nhiên thấy mình được nằm trong ổ rơm khô góc bếp. Củi cháy gần tắt lửa, nhưng hơi ấm vẫn miệt mài tỏa khắp. Nồi cháo loãng đặt bên, mùi gạo thoang thoảng thơm. Đàn con lúc nhúc trong lòng Đốm, chưa con nào được mẹ bóc màng, cọ quậy đòi sớm được thoát khỏi bọc. Hít hít hương ngầy ngậy riêng biệt của đàn con, của máu, Đốm vẫn chưa hẳn tin mình qua cơn vượt cạn thập tử nhất sinh. Dỏng tai, Đốm nghe lọt hai mẹ con Thấm đang ríu rít chuyện trên nhà.- Bốn con mẹ nhỉ, nhà ta thêm bốn chó bé xíu, thích quá!
- Đừng mách lẻo ai nhé! Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì may, mẹ con mình rồi sẽ ăn nên làm ra.- Mẹ ơi, con sợ lão Vả lắm!
- Huyên thuyên, đang chuyện Đốm đẻ cơ mà. Thôi,khuya quá rồi, mẹ con mình ngủ tiếp, mai mẹ còn mấy cối vữa chờ. Thía ơi, mẹ giao cho con múc cháo nuôi đàn chó nhé, cho chúng hay ăn chóng lớn. Cục cưng của mẹ bằng lòng không?Uất ức của Thấm dâng tới đỉnh điểm.
Chiều tối, chân ướt chân ráo tới nhà, Thấm dẫm phải phân nhà ai vất tung tóe khắp thềm. Trời đánh thánh vật đứa nào ném hàng túi phân tươi, bắn be bét, thối khẳn nhà bà thế này. Cha sư tổ nó, nó thù oán gì mẹ góa con côi, lòng nào trút bẩn trút thỉu lên cửa nhà người vắng chủ. Chưa cả thay quần áo, Thấm hì hục gánh nước, quét rửa, đánh xà phòng khắp thềm. Đánh đi đánh lại, chiếc bàn chải sắt mài tưởng vẹt cán, mùi hôi thối vẫn chưa thật hết, vẫn lẩn quất ám ảnh từng xó xỉnh. Quân chó đểu, bà mà bắt được tay mày...Không còn thì giờ để cáu chửi, Thấm vấn lại tóc, tất tả chui bếp. Đảo mắt qua đàn chó đang lổn nhổn rúc vú mẹ, Thấm vo gạo nếp nấu nồi xôi. Bữa nay trúng ngày giỗ bố thằng Thía. Dù nghèo dù đói cũng phải có bát cơm cúng, khỏi tội vong linh kẻ xấu số. Ông có linh thiêng ông hãy về vặn cổ đằng trước ra đằng sau đứa sấp bụng, đổ hắt mọi xú uế ra nhà mình, đứa táng tận lương tâm gây chuyện hèn hạ. Mình đâu thù hận ai. Hay lão Vả, có thể chăng, đêm nọ gõ cửa đòi vào nhà bị Thấm la lối xua đuổi, lão chẳng đã đe chửi? Lão ném thối giấu tay hỏi được gì, chẳng lẽ chỉ nhằm gây khó dễ, cốt mình sợ, nhắm mắt xuôi theo? Sẽ vâng lời chiụ làm vợ hờ lão. Sẽ đêm đêm để lão thõa mãn trên thân xác mình, mình chui lủi biến thành con điếm hôi, điếm cỏ. Đừng hòng! Gái này dù chết già, dù mốc thối cũng không bao giờ hạ mình. Bố nó ơi, bố nó nơi chín suối, liệu thấu hiểu lòng tôi, thấu hiểu số phận mẹ con tôi đang nổi trôi giữa dòng đời cay nghiệt? Hãy tin ở tôi, bởi tôi đã có với bố nó thằng Thía, cái thằng hay ăn chóng lớn, niềm vui thầm lặng đời tôi, trụ cột vững chắc tôi dựa mai sau, cả ngay hôm nay. Bố nó...
Nước mắt vòng quanh, Thấm chấp tay lâm râm khấn, ảnh chồng mờ nhòa khói hương thờ. Như chồng đang chăm chú nghe vợ cầu nguyện, như đang rất gần, có thể với tay túm được.Thì lão Vả tới.
Lão vận chiếc áo vét đầy cáu bẩn, chiếc khăn phu loa sọc xanh sọc đỏ quấn ngang cổ, đầu húi cua, miệng nghênh nghếch điếu thuốc. Giọng ồm, rõ oai:- Nhà mẹ Thía thắp hương cúng bố nó hả? Không mời tôi à? Tôi vẫn nhớ ngày bố nó mất, vẫn đến góp giỗ đây.
Không đợi Thấm chào mời, lão Vả vất chiếc ni lông đầy thịt lên chiếc bàn con, miệng giục lấy cho chiếc đĩa, liến thoắng:- Xưa bố nó chúa thích nhậu thịt chó luộc. Tôi chọn một đùi ngon nhất mang vào đây thắp hương. Có đủ cả mơ lông, giềng, sả, ớt kèm. Bố nó tha hồ mà chén nhá!
Thấm chưng hửng:- Chết thôi, ai lại giỗ bằng thịt chó!
Lão Vả nhe bộ răng ám khói thuốc:- Vẽ! Dương sao âm vậy. Ngày sống bố nó thích gì thì ngày giỗ cúng cái đó. Hí hí! Mẹ Thía có còn nhớ câu chuyện tếu thầy bói nọ bói cho một ả đến xin cách sắm lễ cúng chồng. Nhưng thôi nói chuyện ấy lúc này e bất tiện. Thằng cún đâu rồi?
- Cháu nó còn ở nhà trẻ, chốc nữa em đón cháu về sau.- Cũng hay. Vào đây tôi bảo câu này...
Bất ngờ lão lôi xềnh xệch Thấm lui vào phía giường. Giọng lão phả hôi mù mùi rượu lưu cữu. Tiếng lão thì thào:- Đừng chống ta! Hãy ngoan lên! Ta sẽ làm tất cả để chiếm được em, kể cả những cách tàn bạo nhất. Chống ta, ta sẽ diệt hết, sẽ thuê côn đồ cắt mũi thằng Thía...
Thấm giằng vội tay:- Nói lại, cắt mũi thằng Thía?
Mắt lão vằn vện:- Đúng! Chỉ bắn một vài sọi là bọn nghiện sẵn sàng ra tay. Em thân cô thế cô, ai cứu? Hãy ngoan nào, nghe ta nào!
Con gà mái chính thức xòe đứng lông trước vuốt quạ hung đồ. Không phải lão Vả, Chính Thấm nhào tới, thọc nhanh dao về phía đối thủ. Thấm thét lạc giọng:- Cút ngay, tên đểu cáng! Bà thách mày, bà sẵn sàng đổ máu che chở cho con bà!
Lão Vả tròn mắt lùi dần, miệng ờ ờ, chân liệng phía cửa: “Rõ đồ cứt nát có chóp. Đói rã miệng vẫn còn làm bộ”. Trước mắt lão đâu còn cô Thấm lầm lũi hằng ngày. Không lủi nhanh, nó xỉa mình nhát dao, không phải đầu cũng phải tai. Dại quá, đầu hai thứ tóc vẫn bị dại.Bỗng lão hét một tiếng đứt hơi. Hai chân lão khụyu đổ, máu ở bàn chân nhòa tóe. Thấm vung dao vào chân lão chắc? Không, đấy là miếng cắn chí tử của Đốm. Nhác thấy bóng lão Vả, Đốm lừ lừ từ bếp bò tới cổng mai phục. Nhanh như cắt, trả món nợ cho mình, trả món nợ cho chủ, bằng tất cả sức mạnh hung dữ của chó đẻ, Đốm nhe hàm răng sắc lẻm lao tới. Lão Vả trợn trừng tròng mắt, bổ nhào ra đường, nhăn nhó lảm nhảm: “Chủ nào tớ nấy. Ông sẽ riềng mẻ tuốt lượt. Liệu liệu cái thần hồn!”
Không biết nên cảm ơn hay nên mắng mỏ Đốm, Thấm thừ người buông thõng dao xuống chiếc đĩa bày dở thịt chó, trân trân ngó các lát thịt văng tung tóe, đĩa sứ vỡ vụn nhiều mảnh trước bàn thờ. Chị ôm chặt ngực, ngỡ buông tay lúc này thì tim sẽ phá bung, văng mất ra ngoài...Chuyện lão Vả mò mẫm đến nhà Thấm bị Đốm cắn lan rộng, người ta đàm tiếu rôm rả. Cho chết, ai bảo đâm đầu vào nhà góa kiếm chác. Chủ chó bị chính chó đớp, đã đời quá thôi. Ac giả ác báo, đã mấy tên đồ tể thoát khỏi sống dở chết dở trước vong linh những kẻ bị nạn. Chưa biết chừng gặp trùng chó dại thì thiếu nước oằn mình gâu gâu đợi ngày xuống tiểu. A ha...
Nhà tôi không hẹn mà gặp, cùng lúc được tiếp ông tổ trưởng dân xóm và chú cảnh sát khu vực. Ông tổ trưởng gõ điếu thuốc lào mấy lần vẫn không châm nổi đốm lửa vào nõ:- Nhà Thấm cũng táo tợn. Nhưng xử lý phải phép. Mượn gió bẻ măng như lão Vả không được. Mất an ninh xóm ngõ.
Chú cảnh sát trẻ thong thả cầm chén nước nóng trên tay:- Em cứ nghĩ ngợi mãi chuyện mẹ con chị Thấm. Chúng mình hình như mắc lỗi với những gia đình đơn lẻ, chỉ quan tâm đến bình yên chung, chưa thật sự lo lắng tới bình yên riêng trong mỗi tâm khảm con người. Em định thế này...
Tôi cướp lời:- Là hàng xóm của mẹ con Thấm mà tôi cũng chưa thật thấu hiểu hoàn cảnh Thấm. Người xưa vẫn nói:” Gái vắng chồng như vườn không rào dậu”. Ông tổ trưởng ạ, tôi đề nghị chủ nhật này, toàn tổ ta đến cuốc lại đất, rào lại khu vườn giúp nhà ấy. Phải rào thôi, ai lại để vườn tược tan hoang toàn cỏ dại.
Chú cảnh sát mau miệng:- Em cũng vừa gặp chị Thấm ngoài chỗ xây dựng. Em xin phép chị cho đứa em gái họ ngoại em về học cao đẳng đến trọ nhờ. Ăn ở cô quạnh qúa không được. Biết đâu thêm người, vui cửa vui nhà, mẹ con chị ấm hơn, tin hơn, thấy cuộc sống đâu chỉ gặp những lão Vả.
Tôi thần người. Giản dị thật, những lời lẽ ấy. Tôi hình dung ngày nghỉ tới, bà con trong tổ cuốc xẻng lỉnh kỉnh, ới ới gọi nhau đến giúp chị Thấm sửa sang khu vườn. Lâu lắm rồi, tổ tôi không có dịp tụ tập đông đúc, làm chung một việc rất chi nên làm, quả cũng lâu lắm...Hạt bụiBóng tối quả có sức mạnh rất riêng, vui quá trời người này, buồn sâu thẳm người khác. Thử hình dung xem những đôi mới cưới, họ mong đêm đến bồn chồn, khắc khoải mức nào. Đêm càng ập nhanh càng tốt. Đấy sẽ là giờ khắc phồn thực nhất của âm dương, những hơi thở nồng nhiệt, những ái ân hổn hển, điều không thể nói bằng lời, không cần nói bằng lời. Đấy sẽ là thời điểm tạo hóa giao hòa, con mèo tìm bạn gào tha thiết trên mái nhà, chú chuột đồng rinh rích đùa chơi ngoài bãi vắng, bông hoa từ từ mở cánh đón giọt sương riêng tư, tiếng chim đêm lặng thắc thỏm buông giọng...Nhưng bóng tối cũng thật sự não nề, cô quạnh, trống trải, thậm chí còn hết mức kinh hoàng với những người đơn côi, những kẻ tội lỗi, những ma mãnh kinh dị, những mưu toan máu lửa. Bóng tối không hề có tội, nhưng bóng tối tạo nên, nhân lên mặt trái của mọi nghĩ suy, mọi mặc cảm,luôn là nỗi lo toan thắt ruột,sự sợ hãi triền miên với người đàn bà mà tôi kể dưới đây, người đàn bà hàng xóm của tôi, chị Thấm!
Chị Thấm hốt hoảng mỗi khi chiều xuống nhanh, trời luộm xuộm ngả bóng.
Của đáng tội, ngày chồng chị bạo bệnh qua đời,đau thì đau thật, xé gan xé ruột thật, nhưng chị thở dài đánh thượt.Thoát nợ!Thoát khỏi bàn tay thằng chồng trời đánh,luôn luôn túy lúy rượu với lão chủ quán thịt chó, đi thì chớ,về đến nhà là thượng cẳng chân hạ cẳng tay vợ con. Như vợ sinh ra, cột vào hắn như món nợ đời, cản trở hắn không mở mày mở mặt cùng thiên ha, muốn thoát được thì phải dần cho vợ sa sẩm đòn roi.Rượu vào,về đến cổng là hắn nhồm nhoàm: ”Con Thấm chết tiệt đâu rồi!” Chị Thấm co thắt ruột nghe chồng gào, vội chạy ra xốc nách con người đang méo mó bước, chịu cháy mặt cái tát đầu tiên. Hắn lảo đảo ngã, bạ cái gì thuận tay ném cái ấy, khi thì cốc chén, khi thì bát đĩa. Đồ vật loảng xỏang vỡ. Đứa con khóc thét thất thanh. Tiếng Thấm đứt quãng: ”Tôi cắn rơm cắn cỏ lạy anh...” Tiếng hắn: ”Mày hú hí vơí thằng khốn nạn nào chiều nay? Cãi hả? Không đúng hả?” Bóng đêm nuốt nhanh tiếng những cái tát bốp bốp, tiếng khóc đứt đoạn cào cấu, tiếng người đàn bà chịu tội trần gian hờ giữa nền trời đen thẫm màu bùn.Thấm chưa sợ chồng nhiều những trận đòn, chị đã dạn đòn. Thấm sợ nhất những lúc chồng lơ mơ tỉnh rượu. Trong màn, người hắn chua loét nôn mửa chưa rửa sạch, mùi chua khác hẳn mọi sự chua ở đời, ngăm ngẳm cóc chết gậm giường, khăn khẳn dưa khú lâu ngày đọng váng. Cứ thế, với cái thân xác bẩn thỉu ghê người, hắn ập xuống chị. Trời đất, chị hoảng hốt ú ớ nghẹn cổ, không hiểu chuyện gì xảy ra, giữa lúc mình đau đớn ê chề ở vai, ở lưng, ở đùi trận đòn sẩm tối. Chị tỉnh dần, hiểu thằng chồng khốn khổ đang đòi quyền làm chồng, đòi hùng hổ, bản năng, đầy thú tính. Bất chấp chị bằng lòng hay không, hắn xé xoàn xoạt quần áo vợ, hai chân như hai gọng cùm quặp đùi vợ kêu răng rắc, bổ như bổ củi xuống cái thân hình gầy nhẽo, ọp ẹp xương. Xong cái việc đầy rẫy nhớp nháp hoi nồng, hắn lạu bạu chửi chị chẳng còn tí gì đàn bà gợi hứng, rồi ngật người ngáy hổn hển, rung bần bật cả cửa sổ, như trâu ngáy. Bấy giờ chị mới thực thức, cay đắng lắng nghe tiếng người phì phì đứt quãng bên cạnh, người mà chị gọi là chồng, người cho chị sinh một đứa con trai kháu khỉnh, lạy trời, kháu khỉnh thật. Chị nằm im, thây mặc sự chua loét lộn mửa, thây mặc sự hoi dính khắp giường, mắt trân trân nhìn đình màn rách. Muốn khóc lắm mà ứ nghẹn ngực, không khóc nổi. Nước mắt biến mất từ chập tối chăng, để lúc này thèm nó ứa vài giọt, dù giọt dè sẻn mật đắng, vẫn cạch không có. Giá mà nức nở nổi mấy nấc? Cho nhẹ người, vơi nỗi cực nhục một cõi đời. Sao con quá khổ thể vầy, mẹ ơi!
Chúng ta chừng thấu cảm chút ít tâm trạng Thấm khi chồng chị chẳng may trúng cảm qua đời. Lão chủ quán thịt chó mất bạn nhậu bíu chặt tay trước quan tài hạ huyệt. Hàng xóm xốc dìu Thấm về lại căn nhà ọp ẹp một mẹ một con. Mùi hương thắp trước bài vị chồng tuần tứ cửu, tuần bách nhật thay nhau tỏa. Đêm đêm, những chấm đỏ từ đầu nhang chập chờn hơi ấm, như thêm bầu bạn, thêm sự san sẻ. Rồi giỗ đầu qua, rồi từng đận ấp vầng cỏ thanh minh mộ chồng, rồi sang cát. Nghĩa tử nghĩa tận, dù lúc sống hắn hành hạ mình khốn đốn, giờ hắn lạc sang cõi khác, mình vẫn phải ăn ở nhất lòng. Để vong hồn hắn bớt tủi. Để hắn phù hộ độ trì thằng con trai hắn đang sức ăn ngủ, mau lớn mau khỏe. Để Thấm bòn mót chỗ tựa, thoảng chút hơi đàn ông trong nhà, dù hơi chồng nửa đời nửa đoạn. Thắp nén hương trước bàn thờ, Thấm lầm rầm khấn, mỗi lời khấn sáng lóe trong chị mỏng manh hy vọng. Lạy anh, tôi sẽ đưa anh lên chùa, mong anh tĩnh an cõi khác, đêm ngày cứu rỗi vợ con ở nhà. Lạy anh, suốt đời tôi nguyện thành tâm làm tròn phận sự vợ anh, chỉ biết làm vợ mỗi anh. Tôi có lòng nào thì...Những nén hương thờ thắp cháy từng ngày.
Sau cải táng, hương chỉ đọng thơm ngày rằm, mồng một, tháng đôi tuần.Để rồi từng đêm, Thấm lại hoảng hốt trước bóng tối dặc sệt, bóng tối của riêng chị. Và chị lại lẩm rẩm khấn...
Đúng như các cụ ta nói: ”Vắng đàn ông quạnh nhà, vắng đàn bà quạnh bếp”.Trước hết là quạnh căn vườn nhà Thấm. Thấm bận tối mắt tối mũi kiếm ăn nuôi mình nuôi con, không mấy tăm hơi để mắt tới mảnh vườn toen hoẻn. Nào có ra vườn, mấy vuông đất lẫn sỏi trồng đủ thứ thập cẩm, bạ gì trồng nấy. Gọi có rau, phòng lúc nhỡ tiền, với tay vặt vãnh vài cọng, miễn thêm thức đút miệng, đưa đẩy lưng cơm. Thằng cu Thía khoái món rau dền luộc. Nó khoái, bởi được chan húp những muôi nước dền đỏ sẫm, màu đỏ ngấp ngó ngọn cơm, nom vui hẳn mắt.Nó kêu: ”Mẹ ơi, sao nước rau dền lại đỏ?”. Thấm lừ: ”Ăn đi ông tướng, hỏi gì hỏi lắm! Ăn đi để tôi còn dọn, còn ngả lưng một chút. Tôi đang mệt bã suốt ngày đây”. Thằng cu Thía nín lặng, lùa vội miếng cơm nhuộm đỏ. Nó vẫn ấm ức không hiểu sao cây dền xanh non, luộc lên nước rau lại đỏ lựng? Mẹ nó gắt gỏng, còn biết hỏi ai! Chợt nhớ tới ông Vả, chủ quán thịt chó, hay lúc nào hỏi ông ấy? Mới nghĩ, Thía ta đã nổi da gà sợ. Con mắt ông ta trắng như mắt con chó luộc treo móc giữa quầy hàng. Con chó được thui khéo, vàng nhẫy mỡ, lủng lẳng gọi mời khách, thô lố nhìn Thía từ nhà mẫu giáo bám gấu áo mẹ về. Nó len lét, chỉ sợ con chó thui vàng kia bỗng sống lại, ẳng một tiếng, đớp nhoáng cái vào đùi. Mẹ Thấm ạ, mẹ đi bên này, con nép bên này, mẹ nhé!
Một buổi, nó thỏ thẻ:- Mẹ ơi, vườn rau nhà mình nát hết rồi!
Thấm giật mình, vứt con giữa nhà, nháo vội ra vườn. Ôi thôi, mấy luống cải, luống dền đổ ngổn ngang, không cây nào còn nguyên, không tàu nào thoát khỏi dập gẫy. Đến mấy mậm chuối vừa nhu nhú đâm mầm cũng bị xéo nát xơ xác. Thấm chưng hửng, mắt ướt nhòe. Chị đâu tức vì mất rau ăn, rau bây giờ rẻ, chợ bán ê hề, mấy trăm bạc đã có thể mua nổi mớ to tướng. Chị khóc, hiểu mình bắt đầu bị bắt nạt, báo hiệu mọi chuyện rồi sẽ đổ xô về chèn ép mẹ con chị. Đầu tiên phải chuyện con Đốm hoang đây. Thấm gọi nó là Đốm, bởi một đêm kia đang thiu ngủ, chị bỗng nghe tiếng gừ gừ phía tường bếp. Ngỡ trộm, chị cầm cu liêm lén ra thì bắt gặp cái bóng con vật vắt nhoáng qua rào, lẩn về phía đầu xóm. Con chó nhỉnh lớn, đốm trắng từng mảng như đốm con báo. Quen mui, thỉnh thoảng ăn đêm, nó lại lọt vào vườn. Biết nó giống hoang, không cửa không nhà, có lưng cơm rếch, cơm bỏ mứa của cu Thía, có miếng xương xẩu nào, Thấm đều trút vào cái nồi đất đặt cạnh gốc chuối, Đốm cứ tự nhiên về hưởng. Người và vật thiết lập mối quan hệ không thành văn, không cần êu êu gọi, ư ử đòi, mọi cái cứ tất yếu diễn ra, đều đều tối tối. Thấm quen bên cạnh mình có nó, dù chị vắng nhà suốt ngày, dù chị chẳng hề kêu yêu nó một tiếng. Ngờ đâu nó bạc, đúng đồ chó má, phá sạch sành sanh mảnh vườn cóc gặm. Uất ức, chị gào trong cổ:- Đốm, không ngờ mày khốn nạn quá. Đến phải để lão Vả băm xác mày ra, mới thấm cái thân mày!
Thấm không biết, lúc chị réo chửi ầm ĩ thì Đốm núp sau bụi cúc tần nhà bên, nghe thủng hết. Đừng khinh thường những con vật sống quanh ta. Người có tâm hồn người, vật có tâm hồn vật. Cũng đừng nghĩ oan, tội cho chúng, lúc này tội cho chính Đốm. Đốm nằm im thít giữa lùm cây. Không thể chui ra thanh minh, dẫu oăng oẳng kêu, chắc gì chủ nhà thấu cho. Đốm mắc lỗi lớn quần nhừ tử mấy luống rau đang mởn xanh. Nhưng Đốm không hề có ý bắt nạt người chủ góa chồng, như chị tủi thân nghĩ.Con Đốm của chúng ta lạc vào vườn chị Thấm từ lúc mới mấy tháng tuổi. Bọn trộm câu cả mẹ lẫn con Đốm, đẩy tống tán cho bọn buôn chó chở về phía biên giới bán sang nước ngoài. Đêm kia, xe tải chở chó dừng nghĩ một quán bên đường. Nhờ nhỏ con, Đốm chui khỏi chiếc cũi tre, ngoe nguẩy đuôi phủ phục cạnh cũi mẹ. Đốm mẹ giục giã con hãy trốn nhanh, đừng vì níu kéo mà chết cả nút. Dùng dằng mãi, mẹ mắng hắt mãi, Đốm mới lật mình lăn xuống xe. Bị gãy một chân, nhưng chó liền da, chỉ mấy ngày quăng quải, cà nhắc dọc đường, Đốm đã có thể một mình lần xuống các xom vắng. Thật may, nhờ những bát cơm hẩm phiếu mẫu chị Thấm cưu mang, Đốm hồi sức nhanh, chân gẫy liền xương lại, lông bắt đầu thay, những đốm trắng lấp ló mịn. Đốm ra dáng dần một ả chó cái dậy thì, mũi nở từng nhịp, tai dựng đứng nghênh ngáo, vệt lông trắng kéo dài từ cổ qua lớp vú xuống chấm kheo. Đuôi Đốm như cụm bông khá đẹp, duyên dáng ve vẩy. Đốm mang những ý nghĩ trái ngược, vừa hãnh diện muốn khoe mình trước đàn chó chung quanh, những chó nuôi bị xích ư ử nhìn Đốm qua lại; vừa ngại ngần nghe trong mình dòng máu dồn nén của con cái mỗi ngày một mạnh. Bốn chân Đốm tung tăng đùa giỡn với mọi thứ, luồng gió lật phật lá chuối, bông hoa giấy tím đỏ dọc hàng rào nhà bên, chú chuồn chuồn kim nhẹ như nốt nhạc đọng trên mặt ao bèo tấm. Cuộc đời ngỡ bỏ rơi Đốm, hóa không. Bố Đốm giờ ở đâu, sống hay chết, Đốm không biết.Từ bé, Đốm chỉ quanh quẩn mỗi mẹ. Mẹ hẳn không còn, miếng ăn cho bọn nhậu, cao xương thành mấy vị thuốc, hay vẫn bị giam hãm trong lồng cũi nơi xa? Đốm chỉ hay mình đang tự do, thật sự tự do. Đốm đang đẹp, đang thành một con chó cái mỡ màng, đang là nỗi ao ước, nước mắt nước miếng rỏ ròng của đàn chó đực bị xích. Thương thay mấy chàng, cái xích sắt giằng chặt cổ, hí hí nghẹn giọng mỗi lần Đốm đỏng đớt diễu tới. Đốm ta cũng đành hanh, cũng trêu ngươi. Biết mình được chú ý, được đồng loại khác giới thèm muốn, Đốm ngày càng hay đến cổng một nhà nọ ngoe nguẩy đuôi. Nhà nọ nuôi một chú chó lực lưỡng, mắt vằn dữ, luôn lè cái lưỡi đốm đen nhát người qua lại, sủa oang như lệnh vỡ, rõ dáng một đấng trượng phu. Chú chó bị xích ấy lại thật hiền mỗi lần Đốm tới cổng, cái mũi thính nhạy hít hít mãi hơi thở bạn gái đứng ngoài, mắt buồn đưa đẩy chào đón. Hãy nhảy qua tường vào đây, hỡi em xinh xẻo! Anh ạ, tường đầy mảnh chai, lại cao thế, em nhảy sao nổi? Hãy vòng qua phía bếp, ở đấy hở một lỗ cống, em có thể chui lọt. Đốm ta nghe lời, tìm ra sau bếp, cong thân chui sang cống, mừng rỡ nhảy tung hoăng quanh bạn trai. Không biết bằng linh cảm gì,nhanh như cắt, với hàm răng sắt nhọn riêng, Đốm cắn đứt phăng đoạn dây thừng buộc nối chiếc xích sắt, giải phóng cho chú chó nài. Chú kéo lê mẩu xích còn lại phóng theo cô bạn đẹp mã. Cả hai cùng hung hăn đuổi bắt khắp vườn nhà Thấm. Sau những phút giây ỡm ờ, vờn tán, tất sẽ đến công đoạn cần có nhất của đôi lứa đang vào tuổi lớn. Đốm đau đớn sủa ăng ẳng, lủi trốn tới tấp các ngách luống, các kẽ chuối, rồi như một định mệnh không thoát, ả lại vung tai nhón chân ào ra, húc đầu vào bạn tình. Chú chó đực chỉ chờ có thế,nhanh chóng làm tròn phận sự tạo hóa giao phó, không cần biết thời gian kéo dài bao lâu, không cần biết vườn rau nhà Thấm bị xéo nát tanh bành. Chính đoạn xích sắt từ cổ chú góp phần quất gục các luống rau và cũng chính đoạn xích đó lại làm hại chú. Dứt cuộc tơ giao, chú mệt nhọc kéo lê mẩu xích trên đường xóm, lập tức bị mấy tay bợm trộm quăng câu lôi đi mất. Chú sẽ bị quay vàng quán lão Vả hay quán thịt cầy nào, miếng mồi cực ngon nọ hẳn không dễ được phép sống dai.
Đốm ta cũng trải một phen bã bợt, lờ đờ tìm bụi cúc tần kín nằm thở. Một cái gì rất lạ, rất đau đớn, rất bổi hổi xâm chiếm toàn bộ cơ thể Đốm. Đốm đâu còn Đốm của hôm qua, cả sớm nay. Đốm bước sang một đoạn đời khác, một hoàn cảnh khác. Ả lơ mơ ngủ, chỉ giật thót mình, co chân lặng phắc khi bất ngờ nghe Thấm thét. Thấm giận giữ khoa chân múa tay trước vườn rau bị chính kẻ chịu ơn mình quần rập, chẳng khác tai họa sau trận bão lớn, cảnh vật tàn phá bi thảm không chút tiếc thương...Cái gì cần qua rồi cũng sẽ qua.
Thấm tất bật lo công việc, lọ mọ rời nhà từ tờ mờ sáng đến nhọ mặt người mới về. Chị làm phu hồ, ăn lương công nhật cho một nhóm xây dựng. Dạo này thành phố mở rộng, nhà nhà lên tầng, công việc làm ăn xem ra rủng rẻng, Thấm thu nhập cũng kha khá, không ăn đong bữa đực bữa cái như mọi quý trước. Nhưng đầu tắt mặt tối. Làm cái chân phu hồ, ngày ngày úp mặt đánh vữa, rửa cát rửa sỏi, cái khăn che mặt lấm vôi trắng bệch suốt vụ. Về đến nhà, rửa ráy cơm nước cho thằng con quý tử xong, nghe nó nghêu ngao hát mấy câu nhắng nhít, rồi hai mẹ con co quắp ôm nhau ngủ. Giấc ngủ đến nặng nhọc, nhưng nhanh và sâu. Thấm không lòng dạ nào đảo mắt tới khu vườn. Không được bàn tay con người chăm chút, vườn nhanh chóng thành vườn hoang, cỏ gai, cỏ mần trầu đan nhau mọc rậm, ếch nhái dưới ao ạ uôm từng hồi rồi nhảy lên bắt đôi dưới gốc cỏ rối, rắn nước đều đặn kéo tới lột xác. Thấm cũng không còn giữ lệ trút cơm vào chiếc nồi đất dưới bụi chuối. Sau đận bực bõ nọ,chị không cả thiết cứu đỡ con vật phản chủ. Kệ sống chết mặc bay, hoài hơi đi nuôi báo cô kẻ ăn ở hai lòng!Con người ta kể cũng lạ, có thể quen mọi thiếu đói, mọi nặng nhọc trên đời, nhưng không dễ quen nỗi trống trải. Hình như nỗi trống trải mới là hình luật nặng nhất tạo hóa trừng phạt con người. Anh có thể vẫn sung túc đề huề, lầu son gác tía, con đàn cháu đống, giàu có nứt đố đổ vách, nhưng anh khó viên mãn khi trong lòng nguội lạnh, ăn đấy như không ăn, nói đấy như không nói, bao nhiêu sự đời chẳng biết chia sẻ cùng ai, mở lòng với ai. Nỗi trống trải sẽ lấn chiếm anh hằng đêm, mỗi khi phải nằm một mình. Anh rất dễ mộng mị, sợ sệt, nhân rất nhanh những tình huống dội tới, sẵn sàng buông mình trước mọi bất hạnh, mọi cám dỗ, mọi đe nẹt. Nỗi trống trải sẽ là kẻ thù chính của mỗi con người cô đơn. Nhất người ấy lại Thấm, đàn bà quá lứa, góa chồng, ở một mình, tít trong xóm vắng. Thấm đấy, Thấm đang lâm vào tình cảnh trớ trêu, chúng ta hãy theo dõi những gì sẽ đến với chị, chẳng lâu la nữa đâu.
Đêm ấy mưa quất dữ dằn. Căn nhà ngói cũ thấm nước, dột tứ tung như ngoài trời. Thấm vội vã tìm vải nhựa trải lên đình màn, che tạm cho con trai đang say ngủ. Chiếc đèn dầu leo lét sáng góc nhà, ngọn lửa thỉnh thoảng nhảy dựng vì sấm chớp rùng rùng. Thấm thu mình ngồi mé giường, lo sợ nhìn những vệt chớp ngoằn ngoèo hiện ngoài cánh cửa, giật thót người mỗi đợt sấm ràn rạt bủa. Mưa ầm ầm, hả giận trút nước, sau bao ngày nhẫn nhịn chịu đựng oi bức đến ngột ngạt. Mưa tưởng bốc tung mái nhà, như báo trước tai họa không may sẽ xảy tới. Những giây khắc này mới hay nhà vắng bóng đàn ông cực đến mức nào. Giá thằng chồng của nợ còn sống? Thì chị dù đau đòn tra nhưng lòng dạ sẽ bớt thấp thỏm, bớt hoảng hốt. Mưa kệ mưa, hắn sẽ dậy, sẽ làu bàu chửi trời đất, nhưng mọi việc nặng dành cho đàn ông, hắn đỡ cho chị hầu hết. Vẫn chiếc giường cũ xưa, giờ hoen hoẻn hai mẹ con chị. Hóa ra cái mùi chua khẳn nôn ọe rượu, cái mùi mắm tôm hành tỏi thịt chó lợm giọng, giờ đâm nhớ không đâu. Bởi đó là dư vị của đàn ông trong nhà, không thể có nổi ở bất cứ người đàn bà nào. Đàn ông đều thế sao, thân thể lực lưỡng, ái ân không chán, người ngợm hôi nồng? Hắn từng nói không hôi không phải đàn ông, mỗi lần Thấm giục hắn đi tắm. Bởi hắn quá bẩn, mùi tóc khét lẹt, râu ria ngái đậm thuốc lào, quần áo đầy bụi đất, cả tháng không thèm dội nước. Hắn quát: ”Tao đâu phải lũ động cỡn như tụi bay. Phấn son lòe loẹt, ve giai, đánh bớp, nước mẹ gì. Thơm tho cái phải gió, tao chỉ là tao hôi sì, nhưng nguyên chất đàn ông, căng cái lỗ tai ra mà hiểu, nghe chưa?” Giờ đây hắn đã nằm sâu mấy tầng đất, những cái ”nguyên chất đàn ông” hẳn tan rữa,chỉ trơ bộ xương trắng hếu đặt trong lòng tiểu. Đêm đêm thức giấc, Thấm bâng quơ nhớ tới hắn. Nhớ để mà nhớ, mỗi buổi một ít, khói khói sương sương. Đã lâu, Thấm mải mê việc, quên đứt bản thân, chẳng mấy ngó ngàng tới cái gương soi. Xấu đẹp gì ở cái tuổi coi như bỏ. Mình đã có một cục vàng Thía an ủi, nâng niu. Chiều nay đi qua quán thịt chó, lão Vả e hèm gọi.Thấm dừng bước: ”Bác dạy gì em?” Lão Vả cười hềnh hệch, nhe hàm răng ám khói: ”Dạo này xem mẽ nhà Thấm nhuận sắc đáo để. Mày khéo mát tay nuôi con, bữa nào mát giời, cho tao gởi một đứa”. Thấm đỏ mặt, quay ngoắt. Đúng giọng nỡm gái, lời lẽ như lời lý trưởng nói với mẹ đốp trong một màn chèo. Nhưng lạ, mấy lời khen tếu táo ấy tưởng bay đi, hóa không. Như axit, nó nhỏ vào lòng Thấm sôi sục, ngùn ngụt bỏng. Chồng chết, ngoảnh đi ngoảnh lại đã ba năm, mộ táng mấy lần xanh cỏ. Không ai vầy vò mình đêm hôm, chỉ biết ăn với làm, cơ thể xem chừng phổng phao trở lại. Hay mình xinh đẹp ra mà mình vô tình không chú ý. Tắm cùng chúng bạn phu hồ, một con í ới: ”Chúng bay ơi vào mà xem, đầu vú con Thấm đỏ hồng như vú con gái” Ừ nhỉ, ngày chồng còn sống, hắn luôn miệng chửi mình nụ cà hoa mướp. Giờ bỗng dưng phồng tròn, rắn đanh bánh dày, nhiều lúc tức căng ngực, chật ních chiếc áo con. Thân thể đàn bà cũng lạ,mất sức mất lực đâu đâu, chỉ một thời gian ngắn ăn uống tạm đủ, ngủ nghê đẫy giấc, y như xuân sắc hồi nhanh. Tóc mượt thêm, người mập hơn, eo cong như eo tôm, ngực mông đâu ra đấy. Đêm, Thấm chập chờn mong mỏi một cái gì quen lắm, nóng hôi hổi, đầy hoan lạc, thậm chí vũ phu tới mức hoang dại. Tôi là gì thế này, tôi còn tôi nữa không, tôi đang ham muốn nông nỗi nào ở đời? Nỗi trống trải biến đâu ban ngày bỗng dưng ập về, lạnh lẽo mênh mông, có cạnh có mảng, có hình có khối, mồn một trong đêm đen, bấu móng vuốt sắc nhọn vào sâu trái tim người đàn bà khao khát dâng hiến. Thấm thở hồng hộc, ghì chặt chiếc gối mây đến tức ngực, vật vã trở mình bên phải sang trái và ngược lại. Thấm hiện nguyên hình một cô Thấm khác, mông muội, thơ trẻ, sẵn sàng bán mình cho quỷ dữ, nếu chúng xuất hiện...- Cạch...cạch...
- Ai đấy,ai gõ cửa nhà tôi lúc mưa gió đấy?Tiếng thì thào như tiếng ma:
- Anh đây. Mở cửa đi Thấm!Như giọng thằng chồng cũ. Chả có lẽ hồn hắn hiện về. Hắn thiêng đến thế là cùng, mình vừa nghĩ tới hắn là hắn hiện. Em có lỗi, lạy hương hồn anh tha thứ cho em. Nhưng ngoài cửa vẫn vọng đều tiếng ”cạch...cạch...” lẫn tiếng mưa. Thấm hoảng, cặp lại tóc, rụt rè bước về phía cửa.
- Ai đấy, hỏi gì?- Anh đây, Vả đây mà!
A, ra lão Vả. Lão mò tới đây đúng lúc mưa gào gió rít, hàng xóm không để ý, chó dọc đường không cả cắn. Thấm hét qua hàng lan can:- Đồ mặt dày, mày không cút ngay thì bà hô hoán bây giờ. Ớ bà con ơi...
Ngoài cửa, tiếng người đàn ông đặc quánh:- Con đĩ già mồm. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông không cắt lưỡi mày như cắt lưỡi chó, chớ kể...
Bước chân nọ xa dần, khuất dần. Mưa gió vẫn não nuột tầm tã. Thấm thụp xuống giường, đầu gối run bần bật, càng giữ càng rung. Chị ôm chầm con, muốn dựa hơi ấm con cho đỡ run phần nào. Thằng Thía bỗng cựa mình thức giấc, ngạc nhiên khi thấy thân hình mẹ bóng nhẫy, hai cánh tay mẹ ôm nó lật bật rung mạnh. Nó thì thào:- Mưa to hả mẹ? mẹ sốt đấy à?
Bỗng nó nhổm người thầm thì:- Mẹ ơi, lắng tai nghe đi. Có tiếng gì thở rất mạnh sau vườn nhà ta. Hay con Đốm đã về. Đúng rồi, con Đốm nhà mình về đấy. Mẹ ra xem nào!
Thấm dỏng tai. Phải, tiếng thở dồn dập, dữ dội lạ lùng, đúng tiếng thở con Đốm. Từ bữa phá sập vườn rau, nó bỏ đi đâu mất hút. Dễ đến ba bốn tháng. Sao đêm nay nó lù lù trở lại, thở đứt quãng từng hồi vậy? Thấm đội áo mưa, lắp pin đèn, mở cửa sau lao ra vườn. Tiếng chị thất đảm:- Thía ơi, ra giúp mẹ một tay. Con Đốm về thật, đang cào ổ đẻ. Ra đây mau nào, Thía!
Con Đốm trở lại, trong sự bao dung của hai mẹ con Thấm. Cái đêm mưa dữ ấy là cái đêm nhớ đời của Đốm.Vác cái bụng lặc lè, Đốm ta quật quã tìm đường trở lại góc vườn vắng. Thôi thì chịu bẽ mặt với nhà chủ, bây giờ sinh nở đồng đất xứ người, biết cậy nhờ ai? Đau bụng quá, những cái thai quẫy đạp đòi ra cuộn võng từng cuộn. Tính tháng tính ngày, phải tìm nơi đạp ổ. Đừng làm khổ mẹ nữa các con, mẹ sẽ đưa các con về chính nơi xưa mẹ từng được cưu mang. Khu vườn bị quần nát, đâu mỗi lỗi ở mẹ. Mẹ không ngờ chỉ sau một bận ân ái, các con thi nhau lớn rất nhanh trong thân thể mẹ. Bố con bị thiên hạ bắt ngay chiều ấy, cái xích sắt lệt xệt kéo dọc đường ngõ. Me lang thang trốn đi, đầu đường xó chợ. Bọc thai các con càng to thì thân mẹ càng gầy nhẳng, vú nhú rõ dần hai vệt dài, sữa non nhưng nhức căng mọng.Con vật như con người, đều có những bước ngoặt vô định, không thể đoán trước. Đốm mất tuổi con gái ngay cái lần tung phá dẳng dai giữa vườn rau. Không hy vọng gì chủ nhà tha thứ, thôi thì đành phụ người, Đốm một lần nữa lang bạt kỳ hồ, lõng nhõng theo đuôi mấy lão chó hoang dữ dằn, lần mò kiếm ăn các bãi rác thải. Mấy lão đâu hào phóng, chúng gầm ghè không cho Đốm bén mảng tới những đống xương bò xương lợn xe rác lùi đổ, suýt nữa còn cắn gãy cổ Đốm mấy bận tranh ăn. Đốm mệt vì mang thai, đi đứng lử đử, liếm láp qua loa, cốt sống xong ngày. Chưa kịp chơi bời thỏa chí tang bồng sướng đời thân gái, Đốm bập luôn vào làm mẹ. Sửng sốt thay cái thiên tính mẫu tử trên cõi đời này. Từ lúc nghe cơ thể mình chuyển nặng từng buổi, Đốm sớm hình dung trước mắt những chặn đường tất yếu phải qua, những gian nan sẽ hứng đựng, những vất vả hy sinh vô hạn để nuôi lũ con trưởng thành. Chả cần ai phải dạy, tự Đốm nghĩ ra, tự Đốm vạch lịch cho mình đường đi nước bước. Thử thách lớn nhất những ngày mang thai là Đốm phải bằng mọi cách che chắn an toàn đàn con nằm trong bụng. Bao chú chó khác cứ lẵng nhẵng bám, gạ gẫm đủ kiểu. Có chú hung hăng bất chấp Đốm phản kháng, cứ nhảy cẫng lên lưng. Giây phút hung hãn ấy được trả giá bằng hàm răng Đốm sắc nhọn, nhát cắn phọt máu ngang cổ kẻ cố tình, tiếng ăng ẳng kêu vang bãi rác. Bụng Đốm xệ dần,đi đứng xem chiều ỳ ạch, cái ngày sinh nở đang xích tới. Đốm lê thân mình qua quán lão Vả, bỗng oẳng kêu một tiếng. May, lưỡi dao kẻ mưu sát mới sượt bên lưng. Đốm cuống cuồng chạy quẩn trong mưa, tiếng chân chủ quán đuổi rầm rầm phía sau. Quen đường, như có quý nhân phù trợ, Đốm quặp đuôi lủi sâu vào vườn hoang nhà Thấm, kẻ đuổi bắt mất hút dấu. Mưa lướt sướt ướt lột toàn thân. Run cầm cập, Đốm náu mình dưới những tàu chuối bị mưa gió xé rách bươm. Cơn đau bụng thình lình dội đến, quằn quại cuộn thắt từng khúc ruột. Chết thôi sinh nở giữa lúc trời đất cuồng lộn đánh vật, không ổ rơm, không bè bạn, xoay xở sao đây? Mắt đờ dại ướt át, Đốm lê cái bụng trương phềnh vào gốc chuối, kiếm chút đất khô ráo. Oằn người, Đốm hít thật mạnh rặn, thở như chưa từng thở xưa nay. Đốm ngất đi...
Nửa đêm, thiêm thiếp tỉnh, Đốm ngạc nhiên thấy mình được nằm trong ổ rơm khô góc bếp. Củi cháy gần tắt lửa, nhưng hơi ấm vẫn miệt mài tỏa khắp. Nồi cháo loãng đặt bên, mùi gạo thoang thoảng thơm. Đàn con lúc nhúc trong lòng Đốm, chưa con nào được mẹ bóc màng, cọ quậy đòi sớm được thoát khỏi bọc. Hít hít hương ngầy ngậy riêng biệt của đàn con, của máu, Đốm vẫn chưa hẳn tin mình qua cơn vượt cạn thập tử nhất sinh. Dỏng tai, Đốm nghe lọt hai mẹ con Thấm đang ríu rít chuyện trên nhà.- Bốn con mẹ nhỉ, nhà ta thêm bốn chó bé xíu, thích quá!
- Đừng mách lẻo ai nhé! Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì may, mẹ con mình rồi sẽ ăn nên làm ra.- Mẹ ơi, con sợ lão Vả lắm!
- Huyên thuyên, đang chuyện Đốm đẻ cơ mà. Thôi,khuya quá rồi, mẹ con mình ngủ tiếp, mai mẹ còn mấy cối vữa chờ. Thía ơi, mẹ giao cho con múc cháo nuôi đàn chó nhé, cho chúng hay ăn chóng lớn. Cục cưng của mẹ bằng lòng không?Uất ức của Thấm dâng tới đỉnh điểm.
Chiều tối, chân ướt chân ráo tới nhà, Thấm dẫm phải phân nhà ai vất tung tóe khắp thềm. Trời đánh thánh vật đứa nào ném hàng túi phân tươi, bắn be bét, thối khẳn nhà bà thế này. Cha sư tổ nó, nó thù oán gì mẹ góa con côi, lòng nào trút bẩn trút thỉu lên cửa nhà người vắng chủ. Chưa cả thay quần áo, Thấm hì hục gánh nước, quét rửa, đánh xà phòng khắp thềm. Đánh đi đánh lại, chiếc bàn chải sắt mài tưởng vẹt cán, mùi hôi thối vẫn chưa thật hết, vẫn lẩn quất ám ảnh từng xó xỉnh. Quân chó đểu, bà mà bắt được tay mày...Không còn thì giờ để cáu chửi, Thấm vấn lại tóc, tất tả chui bếp. Đảo mắt qua đàn chó đang lổn nhổn rúc vú mẹ, Thấm vo gạo nếp nấu nồi xôi. Bữa nay trúng ngày giỗ bố thằng Thía. Dù nghèo dù đói cũng phải có bát cơm cúng, khỏi tội vong linh kẻ xấu số. Ông có linh thiêng ông hãy về vặn cổ đằng trước ra đằng sau đứa sấp bụng, đổ hắt mọi xú uế ra nhà mình, đứa táng tận lương tâm gây chuyện hèn hạ. Mình đâu thù hận ai. Hay lão Vả, có thể chăng, đêm nọ gõ cửa đòi vào nhà bị Thấm la lối xua đuổi, lão chẳng đã đe chửi? Lão ném thối giấu tay hỏi được gì, chẳng lẽ chỉ nhằm gây khó dễ, cốt mình sợ, nhắm mắt xuôi theo? Sẽ vâng lời chiụ làm vợ hờ lão. Sẽ đêm đêm để lão thõa mãn trên thân xác mình, mình chui lủi biến thành con điếm hôi, điếm cỏ. Đừng hòng! Gái này dù chết già, dù mốc thối cũng không bao giờ hạ mình. Bố nó ơi, bố nó nơi chín suối, liệu thấu hiểu lòng tôi, thấu hiểu số phận mẹ con tôi đang nổi trôi giữa dòng đời cay nghiệt? Hãy tin ở tôi, bởi tôi đã có với bố nó thằng Thía, cái thằng hay ăn chóng lớn, niềm vui thầm lặng đời tôi, trụ cột vững chắc tôi dựa mai sau, cả ngay hôm nay. Bố nó...
Nước mắt vòng quanh, Thấm chấp tay lâm râm khấn, ảnh chồng mờ nhòa khói hương thờ. Như chồng đang chăm chú nghe vợ cầu nguyện, như đang rất gần, có thể với tay túm được.Thì lão Vả tới.
Lão vận chiếc áo vét đầy cáu bẩn, chiếc khăn phu loa sọc xanh sọc đỏ quấn ngang cổ, đầu húi cua, miệng nghênh nghếch điếu thuốc. Giọng ồm, rõ oai:- Nhà mẹ Thía thắp hương cúng bố nó hả? Không mời tôi à? Tôi vẫn nhớ ngày bố nó mất, vẫn đến góp giỗ đây.
Không đợi Thấm chào mời, lão Vả vất chiếc ni lông đầy thịt lên chiếc bàn con, miệng giục lấy cho chiếc đĩa, liến thoắng:- Xưa bố nó chúa thích nhậu thịt chó luộc. Tôi chọn một đùi ngon nhất mang vào đây thắp hương. Có đủ cả mơ lông, giềng, sả, ớt kèm. Bố nó tha hồ mà chén nhá!
Thấm chưng hửng:- Chết thôi, ai lại giỗ bằng thịt chó!
Lão Vả nhe bộ răng ám khói thuốc:- Vẽ! Dương sao âm vậy. Ngày sống bố nó thích gì thì ngày giỗ cúng cái đó. Hí hí! Mẹ Thía có còn nhớ câu chuyện tếu thầy bói nọ bói cho một ả đến xin cách sắm lễ cúng chồng. Nhưng thôi nói chuyện ấy lúc này e bất tiện. Thằng cún đâu rồi?
- Cháu nó còn ở nhà trẻ, chốc nữa em đón cháu về sau.- Cũng hay. Vào đây tôi bảo câu này...
Bất ngờ lão lôi xềnh xệch Thấm lui vào phía giường. Giọng lão phả hôi mù mùi rượu lưu cữu. Tiếng lão thì thào:- Đừng chống ta! Hãy ngoan lên! Ta sẽ làm tất cả để chiếm được em, kể cả những cách tàn bạo nhất. Chống ta, ta sẽ diệt hết, sẽ thuê côn đồ cắt mũi thằng Thía...
Thấm giằng vội tay:- Nói lại, cắt mũi thằng Thía?
Mắt lão vằn vện:- Đúng! Chỉ bắn một vài sọi là bọn nghiện sẵn sàng ra tay. Em thân cô thế cô, ai cứu? Hãy ngoan nào, nghe ta nào!
Con gà mái chính thức xòe đứng lông trước vuốt quạ hung đồ. Không phải lão Vả, Chính Thấm nhào tới, thọc nhanh dao về phía đối thủ. Thấm thét lạc giọng:- Cút ngay, tên đểu cáng! Bà thách mày, bà sẵn sàng đổ máu che chở cho con bà!
Lão Vả tròn mắt lùi dần, miệng ờ ờ, chân liệng phía cửa: “Rõ đồ cứt nát có chóp. Đói rã miệng vẫn còn làm bộ”. Trước mắt lão đâu còn cô Thấm lầm lũi hằng ngày. Không lủi nhanh, nó xỉa mình nhát dao, không phải đầu cũng phải tai. Dại quá, đầu hai thứ tóc vẫn bị dại.Bỗng lão hét một tiếng đứt hơi. Hai chân lão khụyu đổ, máu ở bàn chân nhòa tóe. Thấm vung dao vào chân lão chắc? Không, đấy là miếng cắn chí tử của Đốm. Nhác thấy bóng lão Vả, Đốm lừ lừ từ bếp bò tới cổng mai phục. Nhanh như cắt, trả món nợ cho mình, trả món nợ cho chủ, bằng tất cả sức mạnh hung dữ của chó đẻ, Đốm nhe hàm răng sắc lẻm lao tới. Lão Vả trợn trừng tròng mắt, bổ nhào ra đường, nhăn nhó lảm nhảm: “Chủ nào tớ nấy. Ông sẽ riềng mẻ tuốt lượt. Liệu liệu cái thần hồn!”
Không biết nên cảm ơn hay nên mắng mỏ Đốm, Thấm thừ người buông thõng dao xuống chiếc đĩa bày dở thịt chó, trân trân ngó các lát thịt văng tung tóe, đĩa sứ vỡ vụn nhiều mảnh trước bàn thờ. Chị ôm chặt ngực, ngỡ buông tay lúc này thì tim sẽ phá bung, văng mất ra ngoài...Chuyện lão Vả mò mẫm đến nhà Thấm bị Đốm cắn lan rộng, người ta đàm tiếu rôm rả. Cho chết, ai bảo đâm đầu vào nhà góa kiếm chác. Chủ chó bị chính chó đớp, đã đời quá thôi. Ac giả ác báo, đã mấy tên đồ tể thoát khỏi sống dở chết dở trước vong linh những kẻ bị nạn. Chưa biết chừng gặp trùng chó dại thì thiếu nước oằn mình gâu gâu đợi ngày xuống tiểu. A ha...
Nhà tôi không hẹn mà gặp, cùng lúc được tiếp ông tổ trưởng dân xóm và chú cảnh sát khu vực. Ông tổ trưởng gõ điếu thuốc lào mấy lần vẫn không châm nổi đốm lửa vào nõ:- Nhà Thấm cũng táo tợn. Nhưng xử lý phải phép. Mượn gió bẻ măng như lão Vả không được. Mất an ninh xóm ngõ.
Chú cảnh sát trẻ thong thả cầm chén nước nóng trên tay:- Em cứ nghĩ ngợi mãi chuyện mẹ con chị Thấm. Chúng mình hình như mắc lỗi với những gia đình đơn lẻ, chỉ quan tâm đến bình yên chung, chưa thật sự lo lắng tới bình yên riêng trong mỗi tâm khảm con người. Em định thế này...
Tôi cướp lời:- Là hàng xóm của mẹ con Thấm mà tôi cũng chưa thật thấu hiểu hoàn cảnh Thấm. Người xưa vẫn nói:” Gái vắng chồng như vườn không rào dậu”. Ông tổ trưởng ạ, tôi đề nghị chủ nhật này, toàn tổ ta đến cuốc lại đất, rào lại khu vườn giúp nhà ấy. Phải rào thôi, ai lại để vườn tược tan hoang toàn cỏ dại.
Chú cảnh sát mau miệng:- Em cũng vừa gặp chị Thấm ngoài chỗ xây dựng. Em xin phép chị cho đứa em gái họ ngoại em về học cao đẳng đến trọ nhờ. Ăn ở cô quạnh qúa không được. Biết đâu thêm người, vui cửa vui nhà, mẹ con chị ấm hơn, tin hơn, thấy cuộc sống đâu chỉ gặp những lão Vả.
Tôi thần người. Giản dị thật, những lời lẽ ấy. Tôi hình dung ngày nghỉ tới, bà con trong tổ cuốc xẻng lỉnh kỉnh, ới ới gọi nhau đến giúp chị Thấm sửa sang khu vườn. Lâu lắm rồi, tổ tôi không có dịp tụ tập đông đúc, làm chung một việc rất chi nên làm, quả cũng lâu lắm...Đêm Tiệc Trần Gian-Truyện ngắn của Sao Trên Rừng Nguyễn Đức Sơnrong lý lịch trích ngang trong tập thơ Những Bài Tình Đầu, ông viết :Sống vô gia cư, chết vô địa táng, và tuyên bố: Nếu trường Đại học Văn khoa Sài Gòn sản sinh ra được một nhà văn nhà thơ nổi tiếng tôi xin chịu chặt đầu.
Trước năm 1975, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm thơ, truyện ngắn nổi tiếng: Những Bài Tình Đầu, Đêm Nguyệt Động, Mộng Du, Cái Chuồng Khỉ, Cát Bụi Mệt Mỏi...Các tác phẩm của ông đều do Nhà xuất bản An Tiêm (Tỳ kheo Thích Thanh Tuệ) in ấn và phát hành. YHVHV xin giới thiệu một truyện ngắn đặc sắc của ông
Nằm suốt cả buổi xế trên võng ngủ rồi thức dậy ngâm cổ thi, lão Phụng thấy hơi chán. Nhưng lão cũng sung sướng có được một ngày nghỉ hoàn toàn mà đáng lẽ ra nghề nghiệp và công việc của lão không cho phép như đối với phần đông những người khác, những kẻ cơ hàn khốn khổ nhất trong xã hội cùng làm một nghề với lão. Lão đưa mắt nhìn về phía chiếc mùng lớn của lũ con mụ Đại. Lão bực mình thấy chiếc mùng vẫn còn bỏ rũ xuống mặc dù lũ con chưa lên ngủ. Nhưng mắt lão đã mờ cho nên lão lầm. Khi lão mới vừa bỏ chiếc võng, mở một chiếc nem và bẻ một miếng bánh mì đi về phía cửa sổ đằng sau gác, lão giật mình thấy thằng Hùng, thằng Bình, con Liên, thằng Lộc chui ra khỏi mùng mắt hướng về phía lão, im lặng, uể oải. Thằng Hùng – đứa con trai lớn của ông chủ nhà – thình lình bật lên khóc.
"Cái gì?" Lão Phụng bực trí gắt lên.
"Dạ tụi con đói quá.“ Thằng Hùng trả lời, lễ phép.
"Lúc trưa không ăn cơm sao?"
"Dạ mẹ con chưa về.”
"Biết rồi, mẹ tụi bây đi ở cữ, nhưng còn mụ Thận đâu? Sao không thổi cơm cho tụi bây ăn?"
"Dạ bà Thận đi đâu từ hôm qua chưa về.”
"Vậy từ hôm qua tụi bây ăn cơm ở đâu?"
"Dạ ở bên nhà bác Lâm.”
Lão Phụng không biết hỏi gì thêm. Cùng lúc đó cả bốn đứa con ông Đại đều òa lên khóc như bị ai thình lình đánh. Tiếng con Liên cao ré lên. Tiếng thằng Bình trầm xuống. Tiếng thằng Lộc bãi nhãi, dây dưa. Tiếng thằng con lớn chừng mười tuổi – thằng Hùng – thì nặng nề, ngột ngạt, ấm ức, tức tưởi như có ai chận ở cổ. Bây giờ thì lão Phụng không phân biệt được nữa. Tất cả những tiếng khóc kia đều hòa chung thành một âm thanh hỗn loạn khó tả. Nó giống như tiếng kêu của một vài thứ cá khá lớn ở trong cùng một mẻ lưới khi người ta mới vừa kéo lên ghe ở ngoài khơi. Hồi ở biển còn là một ngư phủ, lão Phụng phân biệt được tiếng kêu của nhiều loại cá khác nhau. Thế nhưng khi cùng nằm trong khoang thuyền hay ở trong đáy rọ lưới, chúng chỉ phát ra một âm thanh hỗn độn, ột ột, oạt oạt, lào xào khiến không ai dù nhiều kinh nghiệm đến đâu có thể phân biệt được chắn chắn những loại cá nào nếu không được dòm đến. Tiếng khóc của lũ trẻ con tự nhiên làm lão nhớ đến biển, đến một vùng biển đặc biệt ở một hòn đảo ngoài khơi Thái Bình Dương, nơi lão sinh ra đời. Lão còn nhớ rõ ngày lão phiêu bạt vào đất Sài Gòn, khoảng 1945, hồi Pháp và Nhật đánh nhau những năm đầu lão gần như ngạt thở vì lão không chịu được cuộc sống tù đày, ngột ngạt trên đất liền. Lão thèm khát vùng biển mặn bao la, càng thèm khát khi cuộc sống cơ hàn đẩy lão vào những ngõ hẻm tối tăm của thành phố và xã hội. Niềm tin tưởng và hy vọng độc nhất của lão Phụng: kiếm được một số tiền khá, giữ bí mật đừng cho ai biết để một ngày kia – ôi, cái ngày hạnh phúc – có phương tiện đóng được một chiếc thuyền gỗ nhỏ nhưng vững, chắc, có thể dùng được khoảng trên dưới hai mươi năm (lão hy vọng và tin tưởng có thể sống đến khoảng tám chín mươi năm) cho đến hết đời. Với chiếc thuyền đó lão sẽ tự túc sống một mình, cô đơn ở ngoài xã hội.
Lão Phụng mở chiếc nem thứ hai và nốc hết ly rượu thứ ba thì trời cũng đã chiều sẫm. Khoảng thời gian này ngày và đêm tối thường gần như không có biên giới. Màu đen của đêm sẽ từ từ chiếm đoạt lấy hết cả ánh sáng hay ánh sáng tự rút lui cũng thế. Lão Phụng bước đến cửa sổ đằng sau, tỳ một tay lên thành cửa, nhìn xuống cái vịnh phía dưới cùng với những nhà sàn, nhà gác, thấp, hẹp, tối tăm, nghèo cực, khốn đốn. Lão chờ đợi với lo âu từ mấy hôm nay một thứ mùi hôi sẽ xuất phát từ nơi đó. Nhưng tại sao chưa nghe? hay không bao giờ nghe thấy nữa? Lão mừng thầm. Lão nhìn lại phía mùng, nói với thằng Hùng:
"Hùng, tao bảo dẫn lũ em mày đi qua nhà bà Lâm, bà liên gia trưởng đó ăn cơm đi. Xong về ngủ im tất cả. Động đậy là ăn đòn. Nghe chưa?"
"Dạ.”
Thằng Hùng thưa xong, dẫn cả lũ em đi xuống thang gác. Đứa con trai mười tuổi dẫn mấy đứa em lóc nhóc leo nheo gần như vô tri vô giác. Có điều những sinh vật gần như vô tri vô giác đó cũng biết phản ứng, những phản ứng vô tri vô giác giống những xung động. Lão Phụng buồn cười thấy thằng Hùng và lũ em nó nghe lời ông phăng phắc, không dám cãi lại như khi còn cha mẹ nó ở nhà. Nhất là thằng Hùng, đứa con nít mười tuổi đó cũng biết đóng kịch nữa dù quá lộ liễu. Nó giả cái bộ mặt tuân phục, ít nói, lễ phép, hiền lành trái hẳn với lúc thường bởi nó biết chắc chắn rằng hiện giờ nó không có ai bênh vực che chở hết. Những đứa con nít trong những gia đình cơ hàn, cùng khổ hay nhưng gia đình khá giả nhưng cha mẹ thất học hoặc có đỗ đạt cao nhưng quá quê mùa, hạ trí thường thường được bẩm sinh một bản tính khôn ranh vặt vãnh đó, và được thụ hưởng rất sớm có khi mới chừng bốn, năm tuổi.
Khi đưa mấy đứa em xuống dưới thang gác, thằng Hùng lại òa lên khóc. Tiếng khóc tức tưởi, ấm ức nhưng gần như vô giác.
"Lại khóc. Có im đi không." Lão Phụng gắt.
"Mẹ lâu về quá." Thằng Hùng nói.
"Cũng gần về rồi! Mày có biết nhà hộ sinh bên Đa Kao chưa? Mụ Thận không dẫn tụi bây đi thăm em sao?"
Nghe tiếng em, đứa con mới đẻ, thằng Hùng thình lình ngưng khóc. Một nguồn vui vô tri tràn chiếm lấy tâm hồn trẻ thơ của nó. Nó nói chuyện một cách bình tĩnh, đôi mắt sáng lên. Mấy đứa em của nó cũng lây cái nguồn hạnh phúc vô tri kia quên hẳn cơn đói, nhịn lão Phụng, mắt sáng ngời như anh nó.
"Thưa ông, bao giờ em về?"
"Tao làm sao biết được. Nhưng gần rồi."
Nói đến đó. Lão giật mình vì biết ngày trở về của bà Đại đã gần kề. Ngày mai, ngày mốt... Lão tính nhẩm biết bà Đại đã đi ở cữ cách đây một tuần. Và cách đây mấy hôm, khi lão đi mua ve chai về, lão Phụng làm nghề mua bán ve chai, lão đã nghe biết được ngày về đích xác của mụ Đại. Đó là chiều thứ Bảy. Ông Đại ở quân trường Thủ Đức sẽ đến ngay nhà hộ sinh, đưa vợ về nhà luôn. Những người vợ trong những gia đình nghèo khổ lam lũ thường nằm đẻ rất mau. Tội nghiệp. Kế cận giờ sinh họ mới được đưa đến nhà hộ sinh và khi sinh xong, khỏi có việc nghỉ dưỡng sức, họ chạy về nhà ngay. Mà nghỉ dưỡng sức thế nào ở những cái nhà hộ sinh nghèo nàn, hôi hám, u ám, tối tăm với tiền viện phí rẻ mạt! Sở dĩ mụ Đại nằm đến hơn một tuần là vì ông Đại vắng nhà, bất tiện, thế thôi.
Nghĩ một chốc, lão Phụng nói với thằng Hùng:
"Ngày mốt, thứ Bảy, mẹ mày sẽ về, cùng với cha mày ở Thủ Đức và mấy người bạn của cha mày ở trong trường sỹ quan, ôi khối vui con ạ!"
"Mốt là còn hai ngày nữa phải không?"
"Ừ, hai ngày nữa thôi! Thôi, đi ăn đi, xong về ngủ im tất cả nghe không? Bà Lâm đang ăn cơm đó, đi ngay cho kịp!"
Đêm khuya. Cái xóm Cỏ nghèo nàn ở vùng Thị Nghè nầy gần như biệt lập với xung quanh. Người ta chỉ nghe thấy những tiếng người nói xôn xao lúc chiều. Bây giờ thì gần như yên lặng hoàn toàn. Người ta tiết kiệm dầu nên khắp nơi đều tối om.
Lão Phụng vẫn tỳ tay nơi cửa sổ. Lão đoán chắc lũ trẻ đã ngủ luôn ở nhà bà liên gia trưởng Lâm. Nhà bà Lâm rộng rãi nhất xóm và có một bề ngoài khá đặc biệt. Khi vào xóm nhìn thấy nhà bà, người ta biết ngay đó phải là nhà của một người có có cái chức sắc gì đó trong tổ chức làng xã ở thôn xóm. Trong xóm, bà Lâm là chỗ thân tình nhất của gia đình ông Đại. Mà thật ra trong xóm này chỉ có hai cái gia đình đó là có thể thân mật với nhau. Lý do: cả hai bên đều mặc nhận có một địa vị đáng kể nào đó trong xóm, bà Lâm tạm gọi là khá giả; ông Đại đỗ bậy bạ đâu được cái tú tài toàn phần và làm thư ký một tư sở khi chưa vào trường sỹ quan trừ bị Thủ Đức và chưa thất nghiệp. Phải kể thêm một yếu tố danh dự về phía bà Lâm. Bà, tuy góa chồng, sống hạnh phúc với hai đứa con gái và một đứa con trai. Một trong hai đứa con gái cũng đỗ được cái tú tài nhưng rủi thay vì tình duyên oan trái gì đó đã tự ý từ giã cõi đời. Đứa con trai thì không muốn thế chút nào nhưng đã mắc bệnh ban cua chết cách đây mới chừng hơn một tháng. Đứa con gái còn lại, rủi thay, là đứa con tệ nhất trong nhà. Bản tính nó im lặng, ủ rũ. Im lặng, ủ rũ đến độ làm cho bà Lâm phát sợ. Nhất là ban đêm, nó lại mê sảng nói những lời lẽ kỳ cục, quái dị. Bà Lâm muốn phát điên vì nguồn hy vọng cuối cùng của bà cũng đang bị hăm dọa. "Nó bị ma ám, hồn quỷ đã nhập vào nó!" Mọi người đều nói với bà như vậy. Bà tin lắm, càng ngày càng tin nhưng bà chưa tìm ra lý do thôi. Bà hứa với bất cứ thầy lang nào nếu cứu khỏi sẽ cúng cho một số tiền rất hậu. Nhưng chưa có ai...
Lão Phụng nhìn xuống vịnh nước dưới cửa. Đêm nay nước ở sông Thị Nghè lên khá lớn nên vịnh này cũng chịu ảnh hưởng. Đó là một cái vịnh nhỏ, bị tắt cụt ở phía trong, ăn thông với một nhánh sông nhỏ của sông Thị Nghè. Như tất cả cái vịnh con của những con sông nhỏ ở đây, nó dơ nhớp chưa từng thấy. Xung quanh vịnh chỉ có một loài thảo mộc độc nhất: loài cây mái chèo lá to bản. Cây mái chèo mọc quanh vịnh hay lác đác đó đây dưới chân những cột nhà nhớp nhúa. Lão nhìn bên phía nhà bà Lâm. Chỉ còn một ngọn đèn dầu leo lét đến cái độ gần muốn tắt. "Hay mụ Lâm đang rình ta, dò xét ta?" lão Phụng tự nghĩ, "mà dò xét cái cóc khô gì... hôm nay là ngày thứ Tư, không thấy cái mùi hôi , tức là, tức là..." lão nhớ lại mấy hôm nay nước sông thường lên lớn và nửa đêm nước rút hết ra sông. Chỉ có những xác súc vật chết thối nhiều ngày trôi vào đây thì mới bị kẹt lại còn tất cả mọi thứ đều theo con nước trôi luôn ra sông lớn. Lão bóc một cái nem khác. Mùi nem thịt phảng phất một chút mùi hôi lão đang tưởng tượng với sự lo lắng. Lúc đó một đôi chuột cống to tướng lăn từ mái lá xuống làm lão đánh thót trong ngực. Một con nhanh chân bắt nhanh qua mái tôn thấp vụt chạy về phía nhà bà Lâm. Con kia rủi ro đánh lọt xuống nước một cái bõm nhưng thừa sức lội lướt trên nước qua bên kia bờ, chui vào một ống cống xi măng bỏ hoang gần mấy đám cây mái chèo. Chuột cống là sinh vật độc nhất có một sinh hoạt náo động nhất của cái vịnh này. Chúng làm việc ban đêm, cả ban ngày ở dưới chân cừ những nhà sàn. Chúng lở lói trông không quen sẽ ói ngay. Chúng gần nước, sinh trưởng ở đó nên chúng gần như biến tích. Chúng lợi dụng mặt nước làm môi trường sinh hoạt, làm đất sống của chúng. Không những chỉ lội qua mặt nước trong những trường hợp bất đắc dĩ, chúng còn ăn, giỡn trên mặt nước. Một buổi trưa, khi mới đến xóm này, đang ngồi sắp xếp mấy cái chai, tỉn mới thu được, lão bắt gặp một con vật to bằng con chồn mướp ở trong đống củi bị động lội thẳng một hơi qua bên kia bờ. Lúc đầu lão tưởng đó là con rái cá. Bởi ở đây thỉnh thoảng cũng có loại động vật này ở sông lớn lên chơi. Nhưng sau lão không thể nào bị lầm nữa. Đó chính là loại chuột cống, loại sinh vật ươn hèn, dơ nhớp, hạ trí nhất mặc dù sự tinh khôn vặt vãnh của chúng. Chính vì chúng mà cả xóm nghèo này trở nên điêu đứng một phần nào. Chúng gây ra không biết bao nhiêu thứ bệnh, nhất là bệnh dịch. Mấy con heo của ông Đại tháng trước đua nhau đi chầu trời cũng tại chúng. Thế nhưng vợ chồng ông Đại chưa muốn tin theo lời một số người trong xóm đổ thừa tại con chó Ki Ki, con chó già khốn đốn hay tru lên trong những đêm khuya khoắt. Thật ra con Ki Ki có cắn lộn với con heo nái bà Đại một lần. Lần đó, khi bà Đại đi chợ, đói từ mấy hôm, con Ki Ki không ngại tấn công con vật già ngu xuẩn đần độn là con heo nái để tranh lấy phần cháo heo mới nấu khi sáng. Rủi thay lúc đó bà Đại bỏ quên cái gì lại trở về nhà. Bà im lặng, rình, lấy củi thước phang ngay đầu con Ki Ki nhưng may mắn gậy chỉ đập trúng vào bả vai nó. Đau điếng người, con vật khốn đốn tung chuồng lội thẳng qua vịnh nước đi mất. Lão Phụng thừa biết con vật già phải lấy hết sức bình sinh mới lội qua khỏi vịnh được. Thế nhưng hai ngày sau, không kiếm đâu được miếng ăn, nó quay đầu trở về. "Sao hèn thế hở con, sao không đi luôn đi! Cái thứ già mày là thứ bỏ đi tìm đâu ra được miếng cơm mà không trở về!" Lần đó vào buổi trưa có mặt lão Phụng ở nhà nên lão nghe rõ mồn một lời mụ Đại nói với con vật như thể nói với người vậy. Mụ còn nhiếc con chó: "Cứ giỏi tối nay tru lên nữa đi coi... hay là hồn quỷ nhập vào mày... coi chừng tao trụng nước sôi đó.“ Mấy ngày sau đó, con Liên - đứa con gái năm tuổi của mụ - té sông. Nó suýt chết. Rồi tiếp theo đó một cái nhà lá của một tên đàn ông Bắc di cư ở phía đầu xóm phát cháy do sự bất cẩn của hắn trong mùa nắng gắt. Thế mà người ta cũng đỗ thừa tại tiếng tru của con Ki Ki. Lúc này ông Đại, bà vợ và bà Lâm cũng chống trả vơi dư luận khá kịch liệt. Nhưng sau khi đứa con gái rồi đứa con trai mụ Lâm chết, sau tai nạn của con Liên và những chuyện phiền bực khác trong gia đình ông Đại, hai gia đình này cũng đâm ra thù ghét con Ki Ki và có khuynh hướng đồng ý với dư luận. "Phải giết nó đi, nếu không nó sẽ mang tai họa đến cho cả xóm.” Tên đàn ông thuộc giống người Bắc di cư chủ gia đình ở đầu xóm suýt gây hỏa hoạn cho cả xóm đến thẳng nhà ông Đại nói như vậy. Rồi sợ ông Đại không tin lắm, tên đàn ông đó tiếp: "Bác Đại à, bác là người có học hơn tất cả chúng tôi trong xóm nhỏ này, bác có đọc nhiều sách vở nhưng có những chuyện huyền vi của tạo hóa bác không làm sao hiểu nổi... Này, bác nên giết quách nó đi... Thứ chó tru đêm đó là hiện hình của quỷ sứ đó bác ạ. Bác có trông thấy đôi mắt đỏ ngầu của nó không? Nó sắp điên đến nơi nữa rồi đó... Rồi lại cắn phải người khác... Rồi bác phải tốn tiền đưa họ đến viện Pasteur Saigon. Rồi cảnh sát đến bắt... ối là khối phiền phức... đó là chưa kể đến những tai họa ác hiểm hơn..." Tên đàn ông thuộc giống người vốn ghiền "nai đồng quê" đó còn nói quyết liệt hơn. Lão Phụng nghe hết và lão chỉ biết cười. Bởi con Ki Ki không phải là con chó dại, có triệu chứng điên. Nó chỉ có một cái bệnh độc nhất: đói, cũng như hầu hết con cái của mấy gia đình tạo thành cái xóm Cỏ biệt lập này. Đói đã làm cho nó còm cõi. Đói đã làm cho nó hung dữ. Thế thôi. Và có lẽ nó tru cũng tại bởi đói; cái bệnh đói biến chứng, bởi lẽ người ta chỉ thường gặp những con chó ghẻ khốn đốn còm cõi ở những gia đình khốn khổ phần nhiều ở nhà quê và các miền giặc giã mới biết tru. Những con chó sống đầy đủ gần như không bao giờ biết đến nhu cầu đó. Và đôi mắt của con Ki Ki đâu có đỏ ngầu như người ta nói. Trái lại nó vẫn đen, Lão Phụng tin chắc rằng nếu con Ki Ki được nuôi trong một gia đình nào khác, đặt cho nó một cái tên hay hơn, cho ăn đầy đủ hơn, con Ki Ki bây giờ ắt hẳn phải thuộc vào loại khá hơn nhiều lắm. Phần lớn súc vật và người ta hơn thua nhau chỉ tại hoàn cảnh thôi. Nhưng trường hợp bà Lâm thì không phải. Bà thường khoe với mọi người trong xóm nhỏ này là trước kia, hồi chưa di cư, bà đích thực là người ở tỉnh không phải là dân ruộng. Bà rất giàu và có không biết bao nhiêu mẫu lúa ở ngoài Bắc. Nhưng cứ vào nhà bà, liếc một cái từ nhà bếp vào phòng khách, người ta quả quyết không sai là bà Lâm phải thuộc vào hạng quê mùa thô kệch dù trước kia thực sự bà giàu có. Những người thuộc gia đình đích thực khá giả, có học, có giáo dục, trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng còn giữ được những nét đặc biệt. Những nét đặc biệt đó hiện hình trong những cử chỉ, hành động, dù là cử chỉ, hành động du côn, ác hiểm, tàn bạo. Đến một ngày kia, tên Hai Độn - thợ quét vôi - ở cuối xóm bị ngã hộc máu khi đang xây cất một ngôi nhà ở Chợ Lớn, nằm bệnh trở về cũng đổ thừa tai nạn của mình cho tiếng tru con Ki Ki. Nhưng cứ nhìn cái cử chỉ loay hoay thường nhật của hắn ai cũng tin chắc thế nào hắn cũng bị té ngã và những tai nạn hiểm nghèo như vậy vốn vẫn là cái nghiệp thân yêu luôn luôn chờ đợi hắn.
Vậy mà hắn cứ đổ thừa cho con vật khốn đốn kia.
Con vật khốn đốn chỉ có một người bạn độc nhất là lão Phụng. Không phải lão chỉ có cảm tình đặc biệt đối với con Ki Ki. Lão còn có cảm tình đặc biệt với bất cứ con Ki Ki nào khác. Ngay khi đến đây, biết được hoàn cảnh khốn đốn của con chó già, lão có ý định giết nó. Lão thuộc loại người hết sức nhân đạo nên có thể bị ngộ nhận là dị thường. Và tình cảm nhân đạo của lão rất mạnh. Nhiều buổi trưa đi trên con đường vắng thấy một con chó già nằm thoi thóp thở, lão thấy xây xẩm cả mặt mày. Phải ở trong hoàn cảnh khốn đốn nghèo cực như lão mới biết cái tình cảm kia mạnh biết chừng nào. Và mỗi lần như thế, thế nào lão cũng bỏ tiền ra mua ít đồng bạc thịt kèm vào bánh mì hẳn hoi, nhưng trời ạ! trong đó còn có cả thuốc độc nữa, đem đến cho con chó ăn. Và buổi chiều ngày đó nếu ai để ý thế nào cũng gặp lão Phụng đi ngang qua đó, im lặng một phút rồi cúi đầu đi luôn. Nếu tính ra thì trong đời lão đã giết ít nhất là một ngàn con trong trường hợp đó rồi! Con số có thể nói là kinh khủng cho người nghe phải tin. Và mỗi lần giết được một con lão có thói quen về ghi một nét trong sổ con có đề ngày hẳn hoi.
Từ ngày lão Phụng đến thuê căn gác, con Ki Ki cứ xoắn xuýt bên lão. Phải nói thêm là lão Phụng ở chung một nửa căn gác thấp và hẹp của ông Đại với giá 150 đồng một tháng. Nửa căn gác ở phía trước là giang sơn ông Phụng, lão bán ve chai giang hồ, gồm có những đồ đạc độc nhất sau đây: một cái võng thượng hạng giăng vừa đủ chiều ngang căn gác, một cái rương cũ đựng một ít áo quần và một vò rượu. Ban đầu lão sống cùng cực với cái nghề này. Sau nhờ quen mối và kinh nghiệm lão sống đã khá. Mỗi tháng sau khi đi giao chai, tỉn cho tên chủ người Trung Hoa ở Chợ Lớn, lão nghỉ hẳn được một ngày, uống rượu ngâm thơ, sống phong nhã hơn hẳn những người khác cũng làm nghề này. Mỗi buổi chiều về lão Phụng có thói quen mua cho con Ki Ki một đồng huyết heo lão dấu kỹ trong gánh. Lão thường chỉ trở về buổi chiều, để tránh nghe những tiếng động, tiếng chửi bới ồn ào. Lão sợ nhất là cái âm thanh hỗn độn dị loại tạo thành bởi tiếng bầy heo đói kêu lên cùng với tiếng của lũ trẻ, tiếng quát tháo của bà Đại. Bà Đại nhiều lúc bận rộn cho heo ăn, quên cả đàn con. Ở trong cái xóm Cỏ nghèo khổ gồm mấy cái nhà, nhà nào bà Đại cũng đặt một cái hũ nước cơm đễ lấy đồ ăn thừa thãi về nuôi đàn heo. Nhưng gần cả xóm đều quá nghèo nên ít khi họ có đồ thừa thãi. Nhiều khi đến bốn năm ngày bà Đại mới đi thu một lần năm sáu cái hũ nhưng dồn chung lại thì chỉ được hơn nửa hũ cơm rau thừa, còn chỉ là nước lõng bõng sình thúi chắc chắn không thể có một thực dưỡng nào trong đó, nếu không muốn nói chỉ gồm toàn thuốc độc. Thế nên có ngày, dù khôn khéo tài ba đến đâu, mụ Đại cũng phải phát khóc lên. Bà phải lo một lúc hai bầy động vật có xương sống. Bầy thứ nhất là đàn con bà đẻ ra. Bầy thứ nhì là đàn heo con, dĩ nhiên do con heo nái đẻ ra chứ không phải bà. Thế nhưng con heo nái thì không phải nuôi con, đều này phải nói dù kể ra nó cũng kỳ cục thực. Bà Đại phải chạy ăn cho cả hai bầy. Bầy thứ nhất thì quan trọng hơn, nhưng cũng tùy thuộc vào bầy thứ nhì. Nếu một con trong bầy thứ nhất bị bệnh bà Đại có khóc được thì đối với một con trong bầy thứ hai – nói rõ ra là một con heo con – khi lâm bệnh bà Đại cũng ăn ngủ không yên và buồn bực đến khóc được. Có những buổi trưa nóng nực, lão Phụng đi xuống thang gác trông thấy cảnh con heo nái nằm nghiêng một bên, vú thừ ra bị một đàn heo con tranh nhau bú và khi lão quảy gánh ra đi, lúc qua phòng bà Đại, lão cũng trông thấy cảnh tượng tương tự: người đàn bà đó đang nằm thiu ngủ, hai vú xề ra, một vú đang được thằng con nhỏ sau cùng – thằng bé Lộc – ngậm kín và vú kia cũng đang được con Liên – em bé lên bốn – ngậm kín luôn. Con Liên không biết vì quá đói ăn hay vì một chứng tật tâm sinh lý nào mà đến bốn tuổi hãy còn nương vú mẹ. Đó là chưa kể một đứa con còn nằm trong bụng nữa. Những lúc đó, lão Phụng đưa mắt nhìn thật lâu. Đôi mắt cứ đăm đăm về phía bụng và vú mụ Đại. Nếu có ai bắt gặp, thế nào người ta cũng nghi ngờ lão Phụng có ý tà dâm. Thật ra, dù đã hơn sáu mươi tuổi, lão Phụng vẫn còn thoáng thấy một tình cảm ước ao dục vọng. Những tình cảm này chỉ đến sau, hoàn toàn đến sau. Lúc nhìn bà Đại, lão đã bị thúc đẩy hay thu hút bởi một tình cảm khác, hoàn toàn khác dù không ai tin. Lão chú ý từng vệt mồ hôi nhễ nhại chảy từ tóc tai, từ thân, từ cổ xuống ướt sũng cả áo và ván gỗ chiếc đi-văng. Lão sống trong một tình cảm vừa thương hại đau khổ vừa giận dữ uất nghẹn vô biên. Hai thứ tình cảm dị loại này nhiều lúc chỉ là một. Nó có hai mặt đó thôi. Cho nên, dù Nietzsche có nguyền rủa đạo Phật, Nietzsche cũng đã là một vị Phật hay ít ra cũng đã là một vị Bồ tát đúng nghĩa. Và phải tin dù Phật có sống thời Karl Marx và nguyền rủa Marx, Phật cũng phải hành động tương tự như Marx thì mới sáng danh đấng Chí Tôn đó thôi. Nhìn mãi, lão thấy gớm tởm và đến một lúc nào đó, tự nhiên lão thấy tức chết được nếu còn trông thấy cảnh tượng đó. Chỉ có những lúc lão mới nhận thấy sự hy sinh cao cả cùng sự tối tăm, ngu đần của một người mẹ, một cái máy đẻ có tình cảm. Khổ sở như vậy sao lại còn nuôi thêm con Ki Ki cho nó mệt? Lúc đầu lão Phụng tưởng ông Đại nuôi con Ki Ki cũng như một số người thấy cần thiết phải nuôi một con vật để vỗ về lúc buồn vui. Còn gì thú cho bằng lúc thảnh thơi được vuốt ve một con chó, con thỏ hay con gà con. Và lúc đó chắc chắn người ta không liên nghĩ gì thịt chó thịt thỏ hay thịt gà. Vậy, ban đầu lão Phụng cứ tưởng ông Đại nuôi con Ki Ki cũng vì lý do vô tư lợi kia (nhưng khi ngay cả ông nuôi con Ki Ki vì lý do để vỗ về thân mến ông cũng không thể được gọi là vô tư lợi được. Có cái quái gì ở trần gian này mà không bị thúc đẩy bởi một thứ tư lợi! Có cái quái gì vô tư ở trần gian này!) Sau lão Phụng mới biết rõ vợ chồng ông Đại nuôi con Ki Ki - và nuôi đã gần mười năm nay - chỉ vì lý do chính yếu: canh gác chuồng heo nái và bầy heo con ban đêm và ban ngày. Bây giờ nó bệnh tật, già yếu, giết là phải, nhất là khi nó tru lên từng cơn dài quái gở lúc canh khuya.
Lão Phụng nhớ mãi, mấy lúc gần đây, khuya nào nó cũng tru, đầu ngẩng lên một cõi nào vô danh xa vắng. Một tối thứ Bảy cách đây được hai tuần, khi bà Đại chưa đi ở cữ, thì ông Đại ở Thủ Đức về cùng mấy người bạn đồng khóa. Ông Đại – người đàn ông trạc chừng ba mươi nhưng tâm hồn đã héo úa bên đàn con nheo nhóc – bây giờ thấy vui hơn. Có lẽ đời sống quân trường đã gây cho ông một thứ trách nhiệm đầy ảo giác với kẻ đồng đội, với người xung quanh và ông thấy tầm vóc cuộc đời rộng lớn hơn nhiều. Ông lại còn sung sướng mỗi tháng tiết kiệm được khoảng tám trăm bạc về giao hết cho gia đình. Tám trăm bạc với gia đình ông Đại, cũng nghĩa lý lắm. Gì chứ cũng hơn lúc thất nghiệp ở Sai Gòn, chạy ăn từng bữa. Đêm đó cả gia đình ông Đại, bà Lâm, tên Hai Độn và tất cả mấy người đàn ông trong xóm đều tụ tập lại nhà ông Đại để mừng ông và cũng để nghe ông kể chuyện. Ông Đại kể thao thao bất tuyệt. Và khi ông mệt thì một trong những người bạn đồng khóa lại tiếp lời. Mọi người đều ngồi ở ngoài sân giữa trăng trong và gió mát. Bà Đại là người sung sướng nhất bởi có người chồng có chức vị như vậy. Thế rồi, lúc về khuya – lúc đó khoảng 1 giờ sáng – khi cuộc nói chuyện gần tàn, mọi người tan cuộc vui sắp sửa chia tay thì con Ki Ki lại bình tĩnh tru lên thấu trời xanh. Tất cả mọi con mắt đều đổ dồn đến con vật khốn khổ đó. Nó ngồi một mình, bình tĩnh, hai chân trước dựng xuống đàng hoàng, mõm chỏng lên trời mà tru. Mọi người bắt đầu nói sang chuyện con chó. Lão Phụng nằm trên gác lắng nghe hết. Mọi người đều đồng ý giết con chó sau khi có lời đề nghị của bà Lâm và nhất là tên Hai Độn và tên đàn ông người Bắc di cư suýt làm cháy cả xóm. Bây giờ mọi người mới đua nhau kể lại những cảnh khốn đón, những tai họa mà họ phải chịu trong khoảng một năm nay từ khi con Ki Ki bắt đầu tru, mà tai họa mở màn là cái chết của cô con gái mụ Lâm (dù cô ta đã tự tử vì tình duyên ở dưới trần này bị tan vỡ, một chuyện không ăn nhập gì với con chó cả). "Phải giết quách nó, lấy mật và tim đốt đi chôn kỹ hai năm sẽ hết tai họa", tiếng một người đàn ông khàn khàn vọng lên một mình và trịnh trọng. Bây giờ mọi người chú ý đến ông Lịch, một ông lang hạng nhỏ kiêm thầy rùa ma giáo có một cái quán bán thuốc Nam ở giữa xóm. Chính ông Lịch đã ãn tiền mụ Lâm rất nhiều nhưng không tài nào chứa nỗi đứa con gái ủ rũ sầu bi như bị ma ám. Người ta không hiểu nổi cái phương sách đuổi tà và trị bệnh của ông lang Lịch. Hình như mỗi ông thầy thuốc ta thường có một bài thuốc riêng, thường thường bí truyền và mờ ám đến nỗi những người cùng nghề khó lòng biết được. Đôi khi nó cũng được liên kết với tà thuật đầy ám muội như trường hợp lão lang Lịch. (Và chính vì vậy mà phương pháp trị liệu rực rỡ này của dân tộc đã từng bị ngộ nhận và chôn vùi). Sau khi đồng ý chắc chắn phải thịt con Ki Ki, người ta chia nhau công việc.
"Tôi thân hành nấu nước sôi!" Tên đàn ông Bắc kỳ di cư suýt làm cháy cả xóm nói trước hết.
"Tôi sẽ phụ với bà Lâm.” Mụ Thận – mụ ở cho ông Đại – cũng xen vào làm như thể ngang hàng với mấy người kia, nghĩa là những người không phải dù sao sống lệ thuộc như mụ. Bây giờ tên Hai Độn mới có ý kiến:
"Tôi sẽ ra công dọn dẹp bàn ghế đâu ra đó.”
"Đồng ý! Đồng ý!"
"Đồng ý.”
"Tôi sẽ chịu tất cả tiền la de!"
"Hoan hô! Hoan hô!"
"Đồng ý!"
"Hoan hô!..."
Người ta không còn phân biệt được tiếng ai nói nữa. Nhưng người ta cũng không rõ ông Đại hay một trong những người bạn đồng khóa nào đã hảo hớn chịu chơi bao khoản tiền la de cho cả xóm. Chỉ biết mọi người đều hân hoan sung sướng. Những người tham dự cuộc nói chuyện ở nhà ông Đại có thể chia làm ba loại. Loại thứ nhất gồm vợ chồng ông Đại và có lẽ những người bạn đồng khóa của ông Đại, là những người không thích thịt chó lắm nhưng phần nhiều ham vui và bị thúc đẩy bởi mê tín dị đoan (ông Đại dù sao cũng là người có học, ông không tin dị đoan nhưng thật ra ông cũng ngán đến một quyền lực siêu linh nào lắm!) Loại thứ nhì: loại đói khổ và rất thích thịt chó. Có thể kể vào loại này những tên như mụ Thận, Hai Độn, và nhất là tên đàn ông Bắc di cư suýt làm cháy nhà cả xóm, (những người này thật ra có tin dị đoan hay không chúng ta không cần biết đến). Loại thứ ba là những người không thích thịt chó, có lẽ chưa bao giờ ăn thử cũng nên nhưng rất dị đoan, khoái cúng tế ma chay vớ vẩn: Những người đàn bà trong xóm mà đại diện tiêu biểu là bà Lâm, người góa phụ hiện làm liên gia trưởng. Còn phải kể đến một loại... dị loại là lão lang Lịch ma giáo này quyết không thuộc vào hạng nào trong ba hạng vừa kể. Người tinh mắt một chút sẽ nhận thấy ngay ông bị thúc đẩy bởi một thứ bản năng bảo vệ một thứ quyền lợi và danh dự đê hạ (vâng, có một thứ danh dự đê hạ lan tràn trên thế gian hình sắc này): ông đã có kế hoãn binh cho cái bất tài của ông khi trị bệnh cho đứa con gái như bị ma ám của bà Lâm. Và nếu có một tòa án tối cao phân minh ở một thế giới nào khác kết tội những người có liên quan dính líu đến việc hành quyết con chó Ki Ki trong những ngày sắp đến thì tên lang Lịch phải chịu một hình phạt nặng nhất. Lão Phụng ở trên gác nghe thấy hết. Đêm đó lão uống rất nhiều rượu say túy tóa. Lão như người ở trên cao nhìn thấy tất cả những lớp mặt thật sau cái mặt nạ đeo ở ngoài của tuồng đời. Lão trông thấy tất cả múa may, hát xiệc, làm trò trống và lão cười một mình. Lão không biết lão đã nói gì trong lúc say khuya đó. Hình như lão có nói: "Ki Ki tao sẽ giết mày. Nhưng tao sẽ giết một cách êm thấm, không kéo dài đau đớn gì lâu con ạ! Rồi con sẽ về cái cõi hằng đêm con vọng ngưỡng nếu cõi đó có. Còn không con cũng sẽ yên thân. Rồi xác con sẽ trôi ra sông, ra sông lớn rồi ra biển. Ta cầu mong lắm. Ta đã từng ở biển. Ta đã gặp nhiều que xương trắng xóa của đồng đội con bị nước mặn ăn sạch, nhiều khi còn nguyên cả bộ nằm phơi trên bờ đảo... khi ta còn... ở tận nơi xa kia... nơi trở về của tất cả. Ta sẽ giúp con..." Sáng ra lão Phụng kiểm soát lại trí nhớ mới biết rằng mình đã có nói những lời tương tự như vậy, nhưng biết mình có nói to đủ cho những người ở dưới đang bàn tính bữa nhậu giả cầy nghe được hay không. Nhớ lại đêm đó, lão cười sặc sụa. Nhất là lời mụ Lâm nói với bà Đại khi chỉ cái thai:
"Mau đi nhé! Bà xổ bầu rồi mọi người mới định rõ được ngày! Tất cả đều tùy thuộc ở bà đó. »
Tất cả cười. Bà Đại cũng cười, không một chút thắc mắc đau đớn gì, nhất là khi mụ đàn bà nghĩ về số phận con vật khốn đốn, con vật đã sống với mình khoảng mười năm trời rồi. Có một số người đông đảo hình như không có một chút tình cảm nhân đạo. Họ dửng dưng. Không phải cái dửng dưng của một triết gia đầu bạc hay cái dửng dưng của một thằng khùng. Cái dửng dưng của họ là cái dửng dưng hạ trí, hay do cái hạ trí sinh ra. Bà Đại thuộc loại đó. Và lão Phụng không hiểu vì sao mụ có thể khóc được trong những trường hợp này hay trong những trường hợp khác.
Lão Phụng vẫn tỳ tay ở thành cửa sổ, thỉnh thoảng lão lại bóc thêm một chiếc nem. Lão dòm xuống vùng vịnh nước tối om. Lão nghi ngờ bà Lâm đang rình lão. "Nhưng làm được gì ta, ta sẽ đòi bằng chứng nếu họ quyết tâm..." Lão Phụng nghĩ một mình. Còn hai ngày nữa ông Đại ở Thủ Đức sẽ về, cùng với mấy người bạn. "Không hiểu bà Lâm đã biết số phận con chó chưa?" Lão Phụng vẫn còn nghi ngờ. Có điều lão khoái chí khi chiều hôm qua và mới sáng nay thôi mụ có qua tìm con Ki Ki vì ngày hành quyết đã đến gần. Tìm mãi không thấy, mụ hỏi lão Phụng khi gặp lão đang rửa mặt. "Ông có thấy con Ki Ki đâu không?" "Mới thấy đâu đó", lão Phụng nói gạt. Thế mà mụ Lâm yên trí là con vật vẫn còn lẩn quẩn đâu đó thật. Rồi mới hồi trưa, tên đàn ông Bắc di cư suýt làm cháy nhà – người sẽ ra tay dìm con chó xuống nước trong bao bố hay đập đầu nó và trụng nước sôi – và tên thợ quét nước vôi mang tục danh Hai Độn có qua tìm con chó. Cùng lúc đó mụ Lâm cũng qua theo mang đến một thùng chai la de lớn và mấy chai rượu đế. "Còn nữa", mụ ta nói "một người bạn ông Đại đã gởi tiền về nhờ tôi lo trước mọi việc!" Tên Hai Độn đắc chí. Đến khi tìm con chó không thấy, họ lại mới hỏi lão Phụng. Lão vẫn điềm tĩnh: "Mới đó, nó mới về đó mà, nó đói nên lẩn quẩn đâu đó!" Tất cả đều cả tin và trở về nhà. Vậy mà bây giờ lão Phụng vẫn còn nghi ngờ...
Vừa lúc thằng Hùng lại trở về leo lên thang gác, lão Phụng hỏi:
"Sao về trễ vậy? Mấy em đâu?"
"Dạ ngủ ở nhà bà Lâm!"
"Sao mày không ngủ bên đó luôn.”
"Dạ, bà Lâm bảo về coi nhà.”
"Được, lên ngủ đi, ngày mốt mẹ mày về!"
"Dạ bà Lâm có nói như ông.”
"Bà còn nói gì nữa không?"
"Dạ coi chừng con Ki Ki.”
"Sao nữa?"
"Dạ, bà nói hễ thấy nó về là đóng cửa nhà trên nhà dưới lại, bà sẽ đem cơm qua cho nó ăn.”
"Nó mới về đó.”
Thật ra mấy đêm nay người ta không nghe thấy tiếng tru của nó ở trong xóm này. Mà nó cũng sẽ không còn tru ở đâu trên mặt đất này nữa. Lão Phụng trở về võng. Lão nghĩ thầm: "Mấy đêm nay nước lớn chắc hẳn xác con vật đã trôi ra sông lớn rồi trôi luôn ra biển. Mát thân rồi phải không con? Tự nhiên đêm nay ta nhớ tiếng tru của con và nhớ vô cùng", lão nói thầm một mình như vậy. Lão sung sướng đã đánh lừa được cả bọn người trong xóm, những người tự nhận là khôn ngoan hơn lão và không bao giờ thèm chào hỏi lão dù lão lớn tuổi nhất trong xóm và với phép lịch sự tối thiểu cần có, lão đáng ra phải được cái hân hạnh đó. Lão sung sướng nghĩ đến cái đêm tiệc trần gian kia không bao giờ có nữa. Nhưng lão vẫn thắc mắc lo âu. Niềm khắc khoải này đã thức dậy trong suốt đời lão. Lão lấy sổ ra đếm số những con vật đã bị lão giết bằng cách đầu độc hay vừa đầu độc vừa dìm xuống nước như trường hợp con Ki Ki. "Một nghìn lẻ ba con... cộng thêm với con Ki Ki mới đây là một nghìn lẻ bốn con... Ta có nên tiếp tục? Và nếu cộng lại tiền phí tổn mua bánh mì thịt cho hơn một ngàn con kia chắc hẳn bây giờ ta đã thừa tiền đóng một chiếc thuyền con lênh đênh trên hải đảo... Ta đã ý thức việc này khi bắt đầu con thứ nhất... khi ta hãy còn trẻ... Ta có nên tiếp tục?" Lão thầm nghĩ trong trí và trong một phút suy tưởng sâu xa, lão bỗng thấy một hình ảnh kỳ dị hiện ra trong trí: Một đàn chó ghẻ lở lói già nua kéo nhau chạy dài đến vô định trong số có cả con Ki Ki lủi thủi theo sau. Tự nhiên lão thấy bất lực và muốn chết.
CHIẾC LON GUIGOZ HÀNH TRANG NGƯỜI TÙ
Không biết vô tình hay hữu ý mà trong hành trang lên đường của tôi có chiếc lon guigoz. Guigoz là lon sữa bột của nước Hòa Lan sản xuất. Hầu hết trước năm 1975, con cái của công chức, quân nhân và gia đình khá giả đều uống loại sữa này. Vợ tôi để dành những cái lon không để đựng những đồ gia vị gồm bột ngọt, tiêu, đường, muối, mỡ… vì vừa nhẹ, vừa sạch và vừa kín. Khi đậy nắp lại không có con kiến nhỏ nào chui lọt.Trong “ba – lô”(túi sách nhà binh) đi học tập cải tạo của tôi có đến hai chiếc lon guigoz. Một cái đựng bàn chải đánh răng và kem súc miệng. Còn cái kia đựng thuốc ngừa sốt rét, thuốc đau bụng và hai chai dầu gió. Đó là những việc mà vợ tôi lo xa. Ngày 27 tháng 6 năm 1975 là ngày tôi đến trường nữ Trung Học Gia Long, đường Phan Thanh Giản, Quận 3, Sài Gòn, trình diện.Sau mấy tháng không làm việc gì nặng nhọc, khi mang ba – lô trên vai đi bộ độ mươi bước thì tôi cảm thấy người như chùng xuống. Tôi thầm trách vợ tôi:”đã nói học tập có mười ngày, đem theo đồ gì gọn nhẹ mà sao không nghe”. Đến trường Gia Long ở hai ngày một đêm mà tôi không buồn soạn cái ba- lô, coi trong đó đựng những thứ gì. Tôi chỉ lấy chiếc lon guigoz đựng kem súc miệng và cái khăn mặt để sử dụng hàng ngày. Thật là tiện lợi khi dùng nó vì nó chứa được nhiều nước.
Ngày 29 thang 6 năm 1975,tôi đến trại tù ở Suối Máu Biên Hòa. Sau khi điểm danh và phân chia nhà ở xong, việc đầu tiên của tôi là xách chiếc lon guigoz đi tìm nước súc miệng.Đi một vòng xung quanh trại mà tôi chẳng thấy có cái lu, cái khạp, hay cái thùng phi nào chứa nước sẵn. Chỉ có một cái giếng duy nhất để chứa nước nấu ăn. Có giếng nước mà trại lại không phát thùng múc nước. Làm sao lấy nước lên được khi độ sâu của giếng khoảng hơn mười thước. Tôi đành xách chiếc lon guigoz đi về nhà ở. Thấy ai nấy đều đem mùng ra kiếm chỗ treo lên, tôi cũng mở ba- lô lấy cái mùng “nhà binh” màu xám( loại mùng bằng vải nylon, phía trên nóc và xung quanh chân mùng có bốn sợi dây, mỗi sợi dài hơn ba thước.)
Một ý nghĩ bỗng thoáng qua trong đầu tôi là tại sao tôi không lấy bốn sợi dây này nối lại(” một cây làm chẳng nên non”), xong buộc vào lon guigoz mà lấy nước từ dưới giếng lên. Tôi liền thực hành ngay. Quả thật tôi đã lấy nước một cách dễ dàng, không những cho tôi mà còn cho những bạn tù khác.
Đến 8 giờ 30 cùng ngày, cả nhà( gồm 44 người) ngồi lại bầu một nhà trưởng và một người phụ trách nấu ăn. Quái ác, một thằng bạn thấy tôi có sáng kiến lấy được nước từ giếng sâu lên, nó liền đề cử. Thế là cả bọn dơ tay tán thành.Khởi sự đi nấu vào lúc 9 giờ sáng mà mãi đến 2 giờ chiều mới có cơm ăn. Độc nhất, chỉ có rau muống luộc bằng nước giếng. Nước dùng để vo gạo và rửa rau, kể cả nước để vô chảo để nấu cơm và luộc rau, cũng chỉ dùng chiếc lon guigoz lấy nước từ dưới giếng lên. Còn củi để chụm là những khúc cây cao su bằng bắp chân cưa ngắn lại độ ba gang tay còn xanh. Làm sao nhúm lửa được mà nấu? Trại tù không phát dao cũng không phát búa, sợ tụi này dùng vật bén nhọn tấn công tụi nó.
Tôi lại một phen đi đào lấy cọc sắt” ấp chiến lược” loại ngắn độ hơn gang tay để chẻ củi. Sau đó, đi lấy bao cát nylon để đốt cho cây củi cao su khô đi mới bắt cháy được. Thật là nhiêu khê!
Sau khi làm bếp xong, tôi lấy một lon guigoz nước để” tắm búng”(thắm nước cho ướt mình mẩy rồi lấy tay se se cho đất tróc ra, xong búng nó đi)guigoz
Có một hôm trời mưa to. Cả bọn mừng rỡ chạy ra tắm mưa dưới những mái tôn nhà đang ở. Bỗng nhiên mưa đứt hột một cách đột ngột. Cả bọn nhìn nhau cười ngặt nghẽo vì đầu cổ mình mẩy đứa nào đứa nấy đều dính đầy bọt xà bông, trông rất thảm hại! Chiếc lon guigoz lại lần nữa giúp cho bọn tù chúng tôi rửa sạch bọt bèo xà bông.
Có nhiều đêm tôi muốn đi ngủ sớm vì quá mệt nhọc trong công việc nhà bếp nhưng mấy thằng ban đâu có tôi nằm yên, tụi nó thay phiên nhau tới chỗ tôi nằm để mượn chiếc lon guigoz. Đã mười giờ đêm mà tôi vẫn chưa ngủ được vì lấy lon guigoz đi, thì bốn sợi dây giăng mùng cũng đi theo.
Sau hơn một tháng, vào ngày 9 tháng 7 năm 1975, chúng tôi chuyển trại bằng đường bộ từ Suối Máu xuống An Dưỡng(Biên Hòa). Dọc đường, chiếc lon guigoz lại giúp tôi đỡ cơn khát. Ở trại mới, so với trại cũ có phần thoáng mát hơn. Cũng xử dụng nước giếng nhưng trại phát cho thùng xách nước. Còn củi thì trại có đưa búa cho chẻ củi. Cho nên chiếc lon guigoz lúc này dùng việc “ca cống”(là dùng ca và lon guigoz bằng nhôm nấu ăn hoặc nấu nước uống bằng than của nhà bếp)
Ở chung trại có anh bạn tù tên là Tuấn. Anh ta có một thân hình lực sĩ đẹp nhất trại nhưng vì anh ta hay bắt chuột làm thịt ăn nên cả bọn chúng tôi kêu anh ta bằng Tuấn chuột. Một đêm trăng, tôi nằm thao thức mãi không ngủ được, một phần thì nhớ nhà, một phần thì bụng đói cồn cào. Tôi ngồi dậy, nhìn ra ngoài trời, dưới ánh sáng của vầng trăng tròn, tôi thấy hai con chuột đang tìm cách tha cái lon guigoz của Tuấn Chuột. Một con chuột nằm ngửa, bốn cẳng của nó ôm chặt chiếc lon guigoz, còn con kia cắn đuôi con chuột nằm ngửa mà kéo đi nhưng vì miệng hang quá nhỏ nên chúng không thể nào đem cái lon guigoz vào được.
Ngoài ra chiếc lon guigoz cũng giúp tôi khỏi bị bệnh tê liệt một thời gian ngắn. Số là ở trại tù An Dưỡng, bọn quản lý trại giam đã cho chúng tôi ăn gạo ẩm(gạo cũ bị bể nát). Chỉ trong một tuần lễ là tất cả chúng tôi đều đi đứng không được mà phải bò bằng tay và hai đầu gối. Tuấn Chuột là người khỏe mạnh mà cũng bị bò. Riêng tôi, tôi vẫn đi đứng bình thường. Bởi trong khi đi lao động gần nhà bếp trại, tôi thấy bọn chúng vo gạo trắng,tôi liền lấy lon guigoz xin một lon đầy nước cơm vo. Mãn giờ lao dộng, tôi trở về ”lán”(chỗ ngủ của tù cải tạo) để bắt đầu giờ ca cống. Tôi xin chút than nhà bếp để nấu nước cơm vo này. Nhờ có nước cơm vo( có chất vitamin B1) mà tôi không phải bị bò. Thấy tôi đi đứng bình thường, mấy thằng bạn nói tôi có nhiều thuốc vitamin B1 nên khám ba- lô của tôi. Đến khi lục soát xong, bọn chúng mới biết tôi chỉ có mấy viên thuốc ngừa sốt rét mà vợ tôi đã cẩn thận bỏ trong hành trang của tôi. Sau đó, Ban Quản Lý trại mới mua gạo lức về nấu cho chúng tôi ăn để khỏi bị bệnh tê liệt.
Ở trong trại, tôi có ăn chung với một thằng bạn tên Hoa. Nhân ngày lễ của bọn chúng, chúng tôi mỗi thằng được trại ”ưu ái” phát cho một cục thịt heo bằng ngón tay cái. Chúng tôi đâu dám ăn liền mà bỏ vào lon guigoz rồi lọc nước muối đổ đầy vào lon nấu thịt cho ra nước mỡ để hai đứa ăn một tuần lễ vì trại trừ phần ăn bảy ngày.
Ngày 17 tháng 6 năm 1977, chúng tôi chuyển trại từ An Dưỡng đến Căn Cứ 5 Rừng Lá,thuộc Hàm Tân, Phan Thiết(trại Z30D). Thời gian ở trại này có thêm đội nữ( gồm có các chi quân nhân và các chị ở Biệt Đội Thiên Nga Cảnh Sát). Tội nghiệp! Các chị đều bị bệnh vì chế độ ăn uống ở đây quá khắc nghiệt. Trong lúc này, tôi ở Đội Nhà Bếp. Hàng ngày, ngoài việc nấu cơm và luộc rau muống, tôi còn phải nấu một chảo nước sôi để chia cho đội nữ. Lợi dụng việc đi lại với nhà bếp, các chị đã gởi cho tôi sáu cái lon guigoz để gởi tôi nấu dùm. Đố các bạn biết trong đó đựng những gì? Xin thưa: đó là đậu xanh hột. Số là trong khi các chị đi thu hoạch đậu xanh, các chị đã giấu lại không nộp hết rồi bỏ vô lon guigoz đem xuống nhà bếp nhờ tôi nấu chín.Có lần tên cán bộ( lúc này Công An Quản Lý) nhà bếp hỏi tôi nấu cái gì trong đó. Tôi nói là nấu nước sôi cho đội nữ. Hắn ta thắc mắc hỏi. Tại sao anh nấu một chảo nước sôi màkhông đủ chia? Tôi giải thích rằng họ cần nước đun chín để uống thuốc. Thế là thoát nạn.Trong thời gian cải tạo, người tù như chúng tôi đều trải qua những cơn đói khát kinh hoàng. Chiếc lon guigoz đã nuôi sống chúng tôi trong những cơn hoạn nạn. Chiếc lon guigoz là vật bất ly thân, đã đi theo chúng tôi từ trại tù này đến trại tù khác. Chiếc lon guigoz là người bạn đường thân thiết của tôi. Chiếc lon guigoz cũng là hình ảnh, là báu vật mà suốt cuộc đời của người tù cải tạo không quên được.Cái ách Giữa đườngHoàng Ngọc Lễ
Nhận được điện báo của Ðạt gửi về cho biết rằng đơn vị của nó sẽ được đưa về Trảng Bom vào ngày mai để nghỉ dưỡng quân, sau một cuộc chiến thắng oai hùng tại Phú Giáo. Riêng nó còn được thưởng 2 ngày phép. Mừng qúa! Sáng hôm sau, chúng tôi kéo nhau lên Trảng Bom đón nó.Ðường đi Trảng Bom bây giờ không còn thông thoáng như trước nữa, dọc xa lộ Biên Hòa, từng đoàn quân xa đang dồn dập tuôn đổ về thành phố sau khi miền cao nguyên đã thất thủ và triệt thoái. Những hàng rào cản đã được chăng đầy và đoạn đường từ căn cứ Long Bình qua Chợ Sặt đã buộc phải rẽ sang lối khác vì cây cầu tại đây đã bị hư sập. Hàng đoàn xe tuôn đổ về đây như thác lũ, cày nát đoạn đường đất rẽ này, tạo một vũng lầy, bùn đất nhớp nhúa. Những chiếc xe hàng đổ khách xuống cho nhẹ. Những cô gái vén quần cao tới bẹn, dơ cặïp đùi trắng nõn, mon men lần bứơc đi trên bờ, ven để tránh bị tạt nứơc bùn, những bà gìa quác miệng chửi thề vì bị người khác xô lấn. Thật là một cảnh bát nháo như những phiên chợ vỡ.
Những người quân cảnh thấy xe của chúng tôi mang huy hiệu của binh chủng dù nên đã thổi còi, phất tay ra hiệu cho chúng tôi được qua trước. Ðoạn đường này thật lầy lội, trơn trợt, xe trườn lên, lại tụt xuống, bánh sau xe quay như bánh trớn nuớc, nước bùn, bay tung tóe, xe sau, hứng xe trước. Trước mặt chúng tôi là một xe kéo pháo của sư đoàn 18 nên bánh xe của khẩu pháo chỉ lăn theo lực kéo của xe mà không phun bắn. Ngược lại, xe sau chúng tôi là một chiếc xe nhà, xe La Dalat thì phải và vì bùn đất bám đầy nên chúng tôi đã nhìn không rõ. Chỉ tội cho một cô, hay một bà gì đó ngồi trong xe mà miệng la oai oái!
Thằng Ðạt gìa đi 10 tuổi có lẽ. Mặt mày hốc hác, cặp mắt thâm quàng và râu ria tua tủa. Nó mặc một bộ đồ xi vin nhàu nát, chắc là vừa kéo từ ba lô ra. Thấy chúng tôi, nó vứt vội điếu thuốc đang hút dở, chạy tới ôm chật cả hai chúng tôi. Tôi cảm thấy da thịt thằng Ðạt còn vướng, hôi mùi thuốc súng. Có lẽ đã lâu rồi nó chưa có dịp tắm. Ðược dịp đi phép là kiếm cách vù ngay, sợ cấp trên đổi ý.
Dọc đường qua Hố Nai, thấy mùi thịt chó nướng bay tỏa thơm ngát. Thằng Ðạt lên tiếng:
- Mẹ kiếp! Ðấm đá mấy tháng trời, ông thèm thịt chó bỏ mẹ.
- Thôi nhịn, về Ngã Ba Ông Tạ hay cổng Hoàng Hoa Thám ngon hơn! Thằng Tiến đề nghị thế.
- Nhịn thế đ. nào được. Bây giờ có thịt thiu thì ông cũng xơi.
- Chiều nay tao trực, nếu nhậu ở những nơi đó thì tiện cho tao hơn.
- Ðồng ý! Nhưng cũng phải ghé cho tao nhậu một chầu sương sướng đã. Mấy tháng nay không đàn bà, rượu thịt, ông thèm nhỏ giãi đây này.
Nghe thế! Tôi đề nghị Tiến cho xe vào nhà hàng thịt chó gần đấy. Nhưng chiếc đùi chó, thui vàng, treo lủng lẳng, bên cạnh những bó hành tươi xanh, rất bắt mắt. Mùi thịt nướng với mẻ, thơm ngon, dù mũi điếc cũng ngửi thấy. Ðúng là nhịn không nổi!
Rượu thịt chưa kịp đem ra và câu chuyện của chúng tôi đang xoay quanh những trận đánh đẫm máu, xáp lá cà thì ngoài đường bỗng nổi lên những tràng chửi chanh chua và tiếng gào thét thảm thiết. Một bà Bắc, đội khăn mỏ qụa, một tay vừa túm tóc một cô gái, một tay vừa tát, vả vào mặt cô, miệng bà tuôn ra những tràng chửi thật là ác nghiệt và có văn tự như những nhà chửi mướn ở vùng châu thổ sông Hồng Hà:
- Mẹ bà tổ sư cha nhà mày! Mày là thứ đĩ thối lăng loàn, chồng chung vợ chạ, đổi chúa lộn chồng. Mày làm nhục tông môn nhà bà. Mày là đồ qụa mổ, bố mẹ mày không biết dạy mày thì để bà dạy mày. Nhà mày đi đồng thì trâu húc, lội sông thì Hà Bá lôi, chết trôi, chết thối
Bà gìa còn đang gân miệng chửi bới thì một người đàn ông cũng vừa chạy tới, anh ta đấm đá, liên hồi vào người cô gái, Những tiếng hô thất thanh, những tiếng van lạy, não lòng. Thằng Ðạt đã chạy thẳng ra ôm chật lấy người đàn ông. Nhìn anh ta cũng khá đầy đặn và cân đối nhưng so với thằng Ðạt thì chẳng thấm vào đâu. Những người hàng xóm đã tuôn đổ ra hai bên đường hò reo và một anh thanh niên khác đã lao vào vòng chiến. Anh này có lẽ là anh em với anh thanh niên vũ phu kia nên đã nhảy bổ vào Ðạt với những cú đấm đá túi bụi. May cho Ðạt là anh ta thấp bé qúa nên những cú đấm của anh ta chỉ đụng tới tay hoặc bả vai của nó. Hình như không thể nhẫn nhục hơn, Ðạt đã buông thả anh chàng vũ phu kia ra và quay lại, hùng hổ thoi cho anh chàng nọ một cú đấm như trời giáng vào mặt. Anh ta ngã chúi xuống đất, mặt mày bê bết máu. Anh ta có vẻ căm phẫn lắm nhưng hình như đã thấm đòn nên chỉ ngồi bệt, lau chùi máu me trên mặt mà không dám động thủ. Ðạt quay lại người thanh niên vũ phu và bà gìa mỏ qụa kia nói:
- Các người làm gì mà hành hạ người ta một cách qúa đáng như vậy! Còn anh, tại sao sức dài vai rộng như vậy lại không ra chiến trường chiến đấu với quân thù, hèn hạ hành hạ một người con gái thân xác yếu mềm nhu thế kia. Không biết nhục à!
Nói rồi Ðạt phủi tay và phun một bãi nước miếng về phía anh ta.
Bà gìa mỏ qụa lên tiếng:
- Cái anh này, đồ mèo mả gà đồng, đồ ma cô, ma cạo, râu ria tua tủa, khố rách áo ôm. Bỗng đâu lại can dự vào chuyện của người ta như thế! Người ta dạy vợ thì có động tới mồ cha mả mẹ nhà mày đâu mà mày hung hăng con bọ xít như thế!
- Ai là mèo mả gà đồng. Bà coi chừng đấy! Tôi trọng bà lớn tuổi, chứ cái ngữ nhà bá, cách ăn nói hỗn xược như bà, tôi đã cho một cái tát.
- Mày có ngon thì tát bà đi! Ðấy này, đồ bà đây này, có giỏi thì tát, thì mó vào đi! Oái giời ơi! Cái thứ đĩ gìa mồm. Cái thứ đầu đường xó chợ. Nhìn bản mặt mày ai mà lại chẳng biết! Không đầu đường xó chợ thì cũng ma cô, ma cạo mà thôi.
Thấy những người đứng xem cười khoái chí, bà gìa mỏ qụa lại tiếp:
- Ðây này cái con đĩ lăng loàn này đây này. Chắc chúng bay lại phải lòng nhau rồi chứ gì? Ai mà chẳng biết. Chúng mày có tư tình gì thì mới tới binh nhau như vậy chứ! Thôi thì kéo nhau đi cho khuất mặt bà đi! Oái giời ơi, xui gia của tôi đâu rồi! Làng nứơc của tôi đâu rồi! Hãy ra đây mà coi con gái họ đang đánh đĩ đây này. Nói rồi bà giãy nảy, nằm xoài xuống đấy, bức đầu, bức tai ăn vạ.
Ðám đông được thể, hò la vui thích. Bỗng có tiếng chen vào.
- Ðánh bỏ mẹ nó đi, bọn du côn, du thực!
- Ðúng rồi! Ðánh bỏ mẹ nó đi!
Hai ba người thanh niên nghe thế! Nhảy vào vòng chiến, chúng đâm bổ vào Ðạt, đấm đá lung tung. Thấy thế, tôi và Tiến buộc lòng phải nhảy vào. Tiến có vẻ còn do dự về bộ quân phục của mình. Tôi chưa kịp đấm đá gì thì đã bị ngay một cú đòn gánh phang trúng lưng, chiếc đòn gánh này do bà mỏ qụa phóng tới. Tôi nhặt chiếc đòn gánh, nhắm vào anh thanh niên đang cận chiến với Ðạt mà bổ xuống vai. Bị trúng đòn đau, anh ta ôm vai, nhăn nhó lui ra khỏi vòng chiến. Ðang lúc tả xung hữu đột với chiếc đòn gánh thì một xe quân cảnh từ phía Biên Hòa lao tới. Những tiếng súng chỉ thiên và những hồi còi lanh lảnh, lệnh cho mọi người phải đứng im một chỗ. Những người có võ khí trong tay như tôi bị áp đảo đầu tiên. Những người đứng coi quây vòng chật hơn, họ được thể la hét:
- Bắt lấy chúng nó! Lũ quân ăn cướp!
Bây giờ thì Tiến đã xuất hiện với bộ quân phục trung úy dù. Những tiếng la hét im bật và những người thanh niên vừa ẩu đả với chúng tôi thầm đoán một việc chẳng lành.
Viên trung sĩ quân cảnh cũng đã nhận ra Ðạt vì Ðạt hay thường lui tới đồn quân cảnh Biên Hòa để thăm Châu, một người bạn cùng khóa. Viên trung sĩ quân cảnh đứng nghiêm chào Ðạt rồi lên tiếng:
- Ðại úy có sao không? Ủa mà sao đại úy lại bị bọn này tấn công như vậy!
Ðạt lau mặt qua loa rồi nói!
- Mình đi ngang đây, thấy chuyện bất bình nên can thiệp vậy thôi!
Thấy thái độ cung kính của những người quân cảnh đối với Ðạt, những người thanh niên mặt xanh cắt, như gà cắt tiết. Bà lão đội khăn mỏ qụa thì lẩm bẩm:
- Uùy với chẳng iếc gì. Rồi bà vuỗi đít đi thẳng.
Thấy thế, Tiến đã ra lệnh cho bà ta dừng lại:
- Bà cụ kia, chính bà đã là nguyên nhân gây ra cuộc ẩu đả vừa qua. Bà đã hành hạ người khác một cách qúa đáng và tàn nhẫn. Bà phải ở lại để pháp luật trừng trị bà!
Giọng Tiến oang oang và thái độ hùng dũng của một ông sĩ quan dù, khiến bà lão quay lại mà không còn phản ứng chanh chua như trước nữa. Những người lính quân cảnh, đứng nghiêm chào Ðạt, Tiến rồi ra lệnh bắt tất cả những người thanh niên vừa ẩu đã, trong đó có cả tôi, bà lão mỏ qụa và cô con gái vừa bị đánh đòn. Mãi cho đến khi Ðạt phân giải thì người lính quân cảnh mới xin lỗi rồi thả tôi ra.
Khi biết được đầu đuôi câu truyện, những người lính quân cảnh, còng tay tất cả những người thanh niên rồi quyết định giải giao tất cả những người này và bà lão khăn mỏ qụa về ty cảnh sát Biên Hòa.
Thấy thế, nhiều người đứng xem, chạy lại van lậy như chối chết. Một ông cụ mặc đồ bà ba trắng toát tới van xin Ðạt:
- Xin đại úy cứu tôi, chẳng nói dấu gì đại úy, nhà tôi chỉ có nó là con trai. Có bề nào thì chúng tôi chết mất!
Rồi lại có bà lão khác, khóc lóc, lấy khăn vừa khịt mũi vừa van xin.
- Cháu con nhà tôi lỡ dại, xin đại úy thương tình. Chúng tôi sẽ suốt đời không quên ơn đại úy.
Nhìn những người thanh niên co rọm, mặt mày xanh ngắt, ngồi run rẩy sợ hãi trên băng sau xe Jeep. Ðạt đoán biết đây chắc cũng là bọn trốn lính hoặc đào ngủ nên nó đã đến gần người trung sĩ quân cảnh, nói:
- Thôi, chắc ta răn đe chúng vài lời rồi tha chúng nó. Bắt chúng đi làm gì. Nhỡ đâu lại nhằm đúng bọn trốn lính, đào ngủ thì lại khổ đời chúng. Chiến tranh vào giờ thứ 25 rồi, tướng tá còn bỏ ngũ chạy, há gì bọn nhãi ranh này. Chẳng lẽ lại bắt chúng, đưa chúng vô lại quân trường, làm con vật thiêu thân vào lúc cuộc chiến sắp tàn hay sao?
Ðạt vừa nói xong, nhả một làn thuốc dài, mắt nó nhìn lên bầu trời, những đám mây bạc trôi nổi và xa xa, những tiếng đại bác cứ liên hồi vọng về. Nó tiến lại đám thanh niên nói tiếp:
- Thôi lần này, tôi xin tha các anh. Lần sau còn tái phạm thì đừng có trách! Từ nay phải bỏ thói côn đồ, vũ phu, hành hạ đàn bà một cách qúa đáng nghe chưa? Còn bà lão kia! Tại sao bà lại độc ác như vậy. Cổ bà đeo tràng hạt mà miệng bà thì nói chửi toàn những điều độc ác, chẳng lành. Tại sao bà lại hành hạ con dâu một cách qúa đáng như vậy? Con gái bà bị người khác hành hạ, đánh đập như vậy bà có chịu được không? Thôi bà về đi, ăn hiền, ở lành mà để đức cho con cháu nghe chưa?
Ðạt vừa nói đến đây, chợt nhìn sang cô gái, mắt cô long lanh ngấn lệ. Bộ mặt trái xoan rất duyên dáng, mái tóc dài tuy đã bị bà lão mỏ qụa cắt xén nham nhở nhưng vẫn lộ vẻ óng mướt. Cặp môi trái tim, tuy vẫn bị xám ngắt vì sợ hãi nhưng cánh môi dưới mấp máy thật quyến rũ, diễm tình. Cô ta nhìn Ðạt như nhìn một vị cứu tinh, đầy ngưỡng phục. Ðạt cố quay sang hướng khác, hít một điếu thuốc thật dài để tránh cái nhìn tha thiết và đầy cầu cứu của cô gái.
Những người lính quân cảnh nghe theo lời Ðạt, họ làm bộ hỏi cung qua loa từng người rồi sau đó mở còng thả ra. Những người thanh niên hoàn hồn chạy tới phía chúng tôi, run run chấp tay vái vái vài cái rồi chui lẫn vào đám đông trốn biệt như sợ sẽ bị bắt lại.
Sau đó những người quân cảnh chào tạm biết chúng tôi và Ðạt nói với họ:
- Cho gửi lời chào Châu nhé!
Chúng tôi vẫy tay chào lại họ rồi lại rủ nhau vào quán thịt chó. Chẳng đứa nào còn thiết ăn, định bụng chỉ làm vài miếng lót lòng, rồi trả tiền ra đi cho rảnh.
Bà vợ chủ hàng thịt chó đúng là loại đàn bà bén chuyện. Bà ta kể chuyện rất có duyên nên chúng tôi ngồi nán lại, vừa nhâm nhi ba sợi, vừa lắng tai nghe.
- Cô Duyên con ông bà Thành Lập, chủ nhà máy cưa ở gần đây. Nhà neo đơn, chỉ có 3 người con, hai gái một trai cho nên cô Duyên học xong trung học là phải ở nhà. Ông bà bảo rằng cho con gái học cao làm gì, khó lấy chồng. Bao nhiêu đám ngấp nghé nhưng chẳng đám nào xong, phần vì môn đăng hộ đối, phần vì chênh lệch nhiều thứ. Ðến khi thằng Bình, con bà Hậu đến làm thợ điện cho nhà máy cưa, nó đeo đuổi mãi thế nào ấy nên cô Duyên phải lòng nó. Lúc đầu ông bà Thành Lập, dứt khoát không chịu, nhưng nó đeo bám riết qúa rồi cô Duyên có bầu với nó. Ðúng là giào kéo thì kẹn hom!
Thấy chúng tôi yên lặng ngồi nghe, bà ta tiến lại gần chúng tôi hơn, ngồi dựa vào chiếc ghế gần đấy, lấy tay mân mê, têm trầu rồi vừa nhai vừa tiếp:
- Các ông biết không? Người ta bảo lửa gần rơm, lâu ngày cũng bén. Cứ như tôi ấy à! Cứ tống cổ mẹ nó cái đồ nỡm trong nhà là xong. Ai lại nuôi ong tay áo bao giờ?
- Thế rồi họ có cưới nhau không? Tôi hỏi.
- Không cưới làm sao được. Ðến lúc này thì phải lạy nó, nó mới chịu cưới cho mới chết chứ! Phải hứa cho nó đủ điều đủ chuyệïn, mới xong đấy! Ðúng là quân đểu cáng.
Bà ta nhổ bẹt bã trầu vào cái bình gần đấy, rồi lấy tay quệt vết trầu dính miệng:
- Ðám cưới to ra phết! Nhất làng đấy! Xe hoa kỳ rước dâu, mướn hai, ba cái. Người mời có đến vài trăm. Aên mừng mấy ngày liên tiếp. Cô dâu lúc ấy đã có bầu vài tháng nhưng nhà cao, kín cổng cao tường không mấy ai biết đến. Mãi đến khi bà mẹ chồng bất bình sao đó, phao vu ra thì dân làng mới rõ. Cái bà gìa này thật là tàn ác với con dâu. Lúc ở chung trong nhà ông bà Thành Lập thì bà ta chiều hầu con dâu như tôi, mọi, đến khi ra riêng rồi, thấy không có của cải gì nhiều, không ẵm được của cải bao nhiêu thế là bà ta trở chứng. Lúc đầu thì chỉ phao tin bêu xấu, sau dần ra tay hành hạ. Nhất cử nhất động của cô con dâu bà đều để ý rồi điêu ngoa, rỉ tai con trai, nói hành, nói tỏi.
- Thế rồi người con trai phản ứng ra sao? Ðạt hỏi.
- Phản ứng à! Một mẹ, một con nên sợ mẹ bằng phép. Lúc đầu thì anh ta không tin và cũng chẳng có phản ứng gì nhưng lâu dần, bà lão cứ bù lu, bù loa rồi còn đay nghiến cả con trai. Nào là: "Anh đội vợ anh nên đầu, khinh bỏ tôi". Rồi là "Anh rước thứ lăng loàn đó về, để nó mắng chửi tôi", "Nó có yêu thương gì anh cho đáng, ra đường là cợt nhả, người này kẻ nọ, anh không nghe cả làng này người ta thì thào với nhàu à! Nhục lắm!", "Cái cặp mắt lúc nào cũng long lanh, cặp môi thì lúc nào cũng ươn ướt, thứ đấy thì đĩ cho phải biết".
Dĩa nhựa mặn vừa được đưa lên, mùi tương, mẻ thơm bốc mũi, chai rượu đế cũng đã vừa cạn. Nhà chủ đưa thêm chai khác, nói rằng:
- Chai này là của nhà cháu biếu các bác. Thấy các bác oai hùng qúa nên nhà cháu đây rất kính phục. Chẳng nói dấu gì các bác, bọn đó nó hung dữ lắm, không ai dám đụng tới. Trốn lính sống chui rúc là như vậy mà hễ có chuyện là kéo bè, kéo đảng. Chẳng coi ai ra gì! Bà lão gìa thì tai ác qúa lắm! Ðụng ai cũng chửi, kinh hạt, nhà thờ, nhà thánh tối ngày nhưng mở miệng chửi ai thì phải biết. Chẳng ai dám đụng đến bà ta. Nay thấy các bác hành động anh hùng và rộng lượng như thế thì nhà cháu đây rất kính phục.
- Thôi thì các bác nhận cho, để chúng em mừng. Bà vợ chen vào.
- Ồ, chúng tôi đâu có ý đánh đập ai đâu! Ngang đường thấy việc bất bình thì can ngăn vậy thôi. Ngờ đâu những người thanh niên ở đây hung hăng qúa lẽ nên mới ra nông nỗi. Thôi cũng may là chưa xảy ra việc nghiêm trọng không thì ân hận cho phải biết. Ðúng là cái ách giữa đường.
Chúng tôi cạn chai thứ hai thì xin chủ quán tính tiền để lên đường. Bên kia đường, chuông thánh đường đã reo đổ, báo hiệu giờ kinh nguyện gì đó. Ðoàn người tuôn đổ đến thánh đường. Nhìn kỹ, trong đám người đó, chúng tôi lại bắt gặp bà lão chít khăn mỏ qụa, tay cầm chiếc quạt đung đưa, miệng thì đang lẩm bẩm điều gì.
Chúng tôi sửa soạn ra xe thì một ông lão độ ngoài 60, mặc quần áo chỉnh tề tiến tới trước mặt Tiến:
- Thưa đại úy! Chúng tôi vừa được các cháu trong nhà cho biết là đại úy vừa ra tay nghĩa hiệp, can thiệp cho cháu nhà tôi. Tôi xin cảm tạ và rất sung sướng được mời đại úy cùng các ông đây, ghé thăm tệ xá.
- Thưa bác, không phải cháu mà là ông bạn cháu đây này. Tiến chỉ vào Ðạt nói thế.
Ông cụ có vẻ khựng lại khi nhìn thấy Ðạt, tóc tai và râu ria nham nhở. Ông cụ quay nhìn lại Tiến, thăm dò phản ứng.
- Thôi thì đại úy với các ông đây bớt chút thì giờ, ghé thăm tệ xá cho lão vui mừng.
- Thưa bác! Rất tiếc rằng cháu mới từ chiến trận về và chỉ có hai ngày phép. Bây giờ thì đã hết một nửa ngày rồi lại còn phải về Sài Gòn thăm người này người kia. Vả lại cái chuyện vừa qua, có đáng gì mà công với ơn. Ðược rồi, khi có dịp, chúng cháu sẽ xin ghé thăm bác và gia đình.
Thấy Ðạt ăn nói lễ phép và biết Ðạt mới từ chiến trận về, nên ông cụ không còn nghi ngờ vào cái mái tóc và bộ rầu nham nhở của Ðạt nữa.
- Ồ thế thì qúy hóa qúa! Xin đại úy và các ông chỉ qúa bộ vài phút, xơi với lão chén trà là qúy lắm rồi.
Nói rồi ông lão chỉ về phí cuối đường tiếp:
- Ðại úy và các ông nhìn kia kìa! Ở ngay cái cột điện thứ ba đó, trên có treo một tấm bảng chỉ hướng vào trại cưa của lão đó, chỉ vào chừng 500m là tới. Thôi chúng ta qúa bộ nhé!
- Thưa bác, không thể được. Chúng cháu buộc phải ra đi vì anh bạn cháu đây phải ứng trực chiều nay. Thôi, bây giờ xin bác như thế này nhé! Ngày mai trên đường trả phép, ngang đây, chúng cháu sẽ đi sớm hơn và ghé vào thăm bác.
- Như thế chứ! Thôi hẹn đại úy chiều mai nhé! Nhớ đến sớm một chút.
Khi chúng tôi đã leo lên xe, bà chủ quán còn chạy ra, nhét vào xe một gói gì không biết. Ði được một khúc, Ðatï hỏi?
- Mẹ kiếp! Không biết hồi nãy vợ hàng thịt chó có nhét mìn vô xe mình không đấy?
- Ừ nhỉ? Lễ, mày ngồi sau, mở thử coi.
- Xúi dại! Mìn thì ông nổ banh xác à!
- Cái cứt! Mày rờ vào coi mềm hay cứng nào?
- Mềm.
- Thế thì không phải là mìn, mở ra đi!
Tôi nghe theo lời thằng Tiến, mở gói lá chuối ra. Thì ra bên trong là 3 gói thịt chó, một gói khế, chuối chát và cả bao nước chấm. Dồi nướng, nhựa mặn và cả chả chìa nữa.
- Mẹ kiếp, Toàn thịt chó!
- Thế thì đêm nay lại ngắc ngư!
Lại trở về khúc quanh, tránh cầu sập hồi nãy. Cái cống thì đúng hơn vì bề dài chỉ khoảng mươi thước. Xe qua vũng lầy, phải lấy trớn, khiến những vòi nước, pha bùn vung tung tóe, những người quân cảnh đứng đó, quần áo lọ lem đầy bùn đất. Chúng tôi lại gặp toán toán quân cảnh hồi nãy, đứng bên kia cầu. Toán này lưu động, nên quần áo chỉnh tề. Gặp lại chúng tôi, cả 3 người tươi vui hẳn lên. Anh trung sĩ tên Bình nhét vào xe cho chúng tôi một thùng beer, nói rằng bọn Mỹ vừa đi ngang qua, mãi lộ.
- Có beer mà có mồi gì nhắm chưa?
- Tụi em ứng trực suốt đêm nay, chút nữa kéo vô đồn gần đây nhậu nhưng chỉ có mấy hộp ration-C bọn Mỹ mới cho đây này.
- Thế thì có sẵn thịt chó đây! Cầm lấy mà nhậu. Tối nay tụi tớ về thành quậy, làm gì có giờ mà chó với mèo.
Người trung sĩ tiếp nhận gói thịt chó, đứng nghiêm chao Ðạt cám ơn.
- Cám ơn dại bàng, nếu tối nay trung úy Châu tới đây, em sẽ bảo với ông ấy rằng đây là mồi của đại úy cho đấy!
- Bảo với Châu rằng ngày mai Ðạt sẽ trả phép và sẽ đi ngang qua đấy.
- Trình đại bàng, 5 trên 5.
Về gần tới ngã tư Hàng Xanh. Xe kẹt nối dài vì phải qua các trạm kiểm soát. Xe nhà binh được đi ngõ riêng nhưngø tất cả những người mặc đồ xi vin buộc phải xuống xe để đi bộ qua ngõ kiểm soát dân sự. Ðạt thấy thế bảo tôi:
- Mày cứ ngồi yên trên xe, có thằng sĩ quan dù ngồi trên xe là yên tâm rồi!
Thật thế, xe đi qua trạm, người lính quân cảnh dơ tay chào Tiến theo cung cách nhà binh rồi xin phép hỏi giấy Ðạt. Thấy thẻ quân nhân mang cấp bực dại úy của Ðạt, người lính bâng quơ nhìn sang tôi mỉm cười.
- Ðại úy cũng thế!
Chúng tôi vẫy vẫy chào người lính gác, tiến qua. Cảnh tượng thật bát nháo, xe đò, xe tải ùn tắc, mọi cửa ngõ đổ vào Sài Gòn lúc này đều kẹt tắc. Ðường xá dơ dáy bẩn thỉu, rác rưới rơi vãi khắp nơi, những bao bịch ny lông thỉnh thoảng được một cơn gió thổi tới, tung bay tứ tung. Tiến rất sốt ruột vì phiên gác sắp tới. Chúng tôi bàn với nhau là chỉ còn một cách duy nhất là chui xe vào mấy ngõ hẻm ở đầu ngã tư rồi từ đấy đâm trổ ra hướng Chi Lăng, may ra mới thoát. Ðúng như dự kiến, đoạn đường này chỉ ùn tắc một khúc, sau đó qua chợ Bà Chiểu thì thông thoáng hoàn toàn.
Về đến trại Hoàng Hoa Thám, một đoàn xe cũng đang ùn ùn từ hướng Tân Sơn Nhất kéo về. Nghe đâu một tiều đoàn cũng vừa đựơc không vận về tới để sau đó đưa tới vườn Tao Ðàn, vừa phòng vệ dinh tổng thống, vừa chờ tăng cường quân số.
- Nghe đâu, đơn vị của Tươi cũng về nay mai.
Thằng Tiến bảo thế! Rồi nó vội vã đưa chúng tôi vào phòng nó, trứơc khi chạy thẳng tới phòng trực. Không lâu sau đó, nó hổn hển chạy về báo:
- Xong rồi, tao nhờ đại úy Sơn trực giúp đêm nay, đêm mai tao trực lại.
Chúng tôi còn đang tắm rửa để kịp đi chơi thì thằng Tiến nhận được điện thoại của thằng Tươi từ vườn Tao Ðàn gọi về. Thế là chúng tôi chạy thẳng đến vườn Tao Ðàn đón nó.
Thằng Tươi mặt mày hốc hác, thật khó đoán ra nó. Cũng chẳng khác gì thằng Ðạt, tóc tai, râu ria lồm xồm như người rừng. Quần áo thì đất bùn bê bết. Nó cũng nói rằng đã bao đêm không ngủ, đồ hộp làm chuẩn. Bây giờ nó thèm rượu thịt, đàn bà con gái chứ không thèm tắm. Thế là chúng tôi ra đi, trực chỉ hướng trường đua Phú Thọ, rẽù vào đường Nguyễn Văn Thoại rồi chui đầu vào Ðệ Nhất khách sạn.
Bây giờ thì "cái ách giữa đường", nó sẽ quàng lên cổ tôi chứ không phải cổ thằng Ðạt như đã xảy ra ở Hố Nai sáng nay. Tôi cảm nhận thấy thế vì ít nhất tôi đã từng mang một cái ách ở nơi này với thằng Ðại và Chúc. Bây giờ Chúc chết rồi, tôi không muốn nhắc lại.
Ðôi giày nhà binh vướng đầy cát bụi của thằng Tươi hùng dũng giẫm lên tấm thảm xanh biếc của nhà hàng. Những người làm việc ở đây trang phục lộng lẫy, đứng hai bên đón chào một đoàn binh vừa thắng trận trở về thành phố. Không phải thế đâu, họ đón chào những người lính trận sau bao tháng thư hùng với địch quân, nay mới có dịp hung hăng con bọ xít, đến để thiêu đốt mấy tháng lương cuối cùng, bây giờ mới lãnh.
Trong phòng ăn, các bàn đã gần như đầy kín, những cặp trai gái đã bắt đầu dìu nhau trên sàn nhẩy. Những tia ánh sáng lung linh, muôn màu, muôn vẻ. Những cô tiếp viên tươi mát như thiên thần, tiên nương giáng thế.
- Thưa thiếu tá! Tất cả các bàn đã đầy kín.
- Thế còn hai bàn ở giữa? Tươi hỏi.
- Thưa của công tử họ Hoàng đã đật sẵn, dù có người hay không có người, nhà hàng cũng có bổn phận phải dành sẵn.
- Tại sao lại ích kỷ như vậy! Ðến thì đã đành, không đến thì để cho người khác chứ! Ai cũng trả tiền như ai, có ai quịt đâu mà khó dễ thế!
- Thưa thiếu tá không được. Nếu tôi chiều thiếu tá, ngộ nhỡ thì tôi sẽ lãnh đủ.
- Tôi bảo là được!
Thế rồi Tươi cầm tờ giấy "reserved" xé nát, bảo chúng tôi cứ việc ngồi xuống.
Chai champagne thứ hai đang uống dở và cô tiếp viên đang dìu Tươi vào sàn nhẩy thì mấy người quân cảnh dù từ ngoài tiến tới. Tươi đoán biết một chuyện chẳng lành, gỡ tay cô gái, về lại bàn. Thấp thoáng trong ánh đèn đêm, Tươi nhận ra một sĩ quan quân cảnh quen biết, đứng chào trong tư thế nhà binh rồi hai người lặng lẽ theo nhau ra ngoài.
Một lúc sau, Tươi quay vào:
- Không xong rồi, đụng phải thứ dữ. Ð.m. quân chó đẻ, có dịp ông phơ hết!
Tôi kêu người hầu bàn tính tiền nhưng người sĩ quan quân cảnh trả lời: "Xong rồi".
Trong bóng đêm, những người chung quanh hình như không hay biết, chúng tôi theo Tươi và người sĩ quan quân cảnh ra ngoài.
Ra tới xe, người sĩ quan bảo Tươi.
- Trời ơi! Thiếu tá dại qúa! Nhèø kiến lửa mà đụng thì nát thây!
- Ðiên lên, ông phơ bỏ mẹ chúng nó chứ nát thây con buồi ông đây này!
- Thôi mình đi chỗ khác, thiếu tá à! Mặt trời đưa cho tôi mấy ngàn đây này! Lệnh là đưa thiếu tá đi đâu nhậu thì đi chứ đừng lớ dớ vô mấy thằng đấy lôi thôi lắm!
- Mấy thằng ấy là mấy thằng nào vậy! Ðạt hỏi.
- Thì bọn công tử con cháu ông vua kẽm gai chứù còn ai!
- Ð.m. toàn quân trốn lính. Trốn rúc ở hậu phương còn làm tàng, làm phách.
Ðạt nói thế nhưng chính nó lại rủ Tươi đi hướng khác. Lên đường ra ngã tư xa lộ Thủ Ðức nhậu tiếp, chúng tôi ghé lại đơn vị của Tươi ở vườn Tao Ðàn rồi Tươi trao cái phòng bì mà ngươi sĩ quan quân cảnh vừa đưa, cho thiếu úy Thảo nói:
- Qùa của Mặt Trời tặng đây này, thiếu úy mua mấy thùng bia cho anh em khao quân, tớ đi với bạn đến đêm hoặc sáng mai mới về.
Cái quán Thanh Vân của ông tây đồn điền cao su hôm nay đông lạ thường. Bàn nào cũng chật ních, nể lòng khách quen, ông cho kê thêm một cái bàn ngay giữa vườn hoa. Là người tây nhưng ông nói tiếng Việt rất thành thạo và nhà hàng ông pha trộn tây ta rất độc đáo. Ðặc biệt món đuông chiên bơ của ông thì khỏi chê. Béo bổ, thơm ngon, khách thưởng thức nhiều khi không dám nhuốt, sợ tuột mất tất cả những hương vị, thơm ngon còn đang ứ động trong miệng.
Dù lũ chúng tôi là bạn thân từ hồi để chỏm rồi từ Bắc vô Nam, cho tới khi khôn lớn, chúng tôi bám víu lấy nhau, chỉ khi ra đời thì mỗi thằng một ngã. Hôm nay lần đầu, tôi được nghe ba thằng bạn lính nói chuyện về chiến tranh. Chúng dùng những từ ngữ mà lúc mới nghe, tôi chẳng hiểu gì. Nào là "con cái", "mặt trời", "phượng hoàng","5 trên 5" ..
Những trận đánh khốc liệt và những địa danh chiến trận, mà qua báo chí tôi đã từng nghe nhưng không ngờ rằng những thằng bạn tôi, những anh hùng hiên ngang coi cái chết nhẹ như lông hồng lại có những lúc ngã lòng, muốn buông tay, nhắm mắt quy hàng vì tình yêu nhân thế, vì coi trọng mạng sống của người khác..
- Ð.m. bắn bao nhiêu, chết bao nhiêu chúng cũng cứ hô xung phong mà tiến lên. Tiền đồn kiên cố, bê tông, bao cát lại nằm trên cao. Ðại liên trỏ nòng, chúi mũi mà bắn xuống. Chết như ngả rạ vậy mà chúng nó vẫn cứ xung phong. Lớp này đổ, lớp khác lại tiến. Chiến thuật biển người thật là tàn ác, vô nhân. Chúng nướng quân như nướng bắp. Miễn sao gây được tiếng vang.
Tươi hít thêm một hơi thuốc thật dài, nhả khói lên trên mái lều. Hai con thạch thùng hình như cũng quen hơi thuốc, chúng chép lưỡi hít hà rồi kêu lên tích tè, khô cứng và thật thảm não.
- Ðánh đấm cũng phải cân sức mới hứng thú chứ! Mình chỉ việc bắn, chúng cứ việc chết thì đánh đấm thế đếch nào được. Ðã vậy trinh sát lại báo về: "Có lẽ chúng dùng dân công làm biển người". Mẹ kiếp! Thế thì bắn làm gì? Rồi tiếng súng im bật, địch quân cứ hô xung phong inh ỏi. Tiếng súng càng im, chúng càng hét lớn. Loa tay, thùng gõ liên hồi. Những tiếng gào thét mỗi lúc một gần hơn. Ông ra lệnh lâu lâu tương một qủa cầm chừng và thăm dò phản ứng. Quân lính được lệnh bò sát vào tuyến địch quân và sẵn sàng chơi xáp lá cà. Dân công thật và chen lẫn trong đó là những tên đặc công, dây nhợ chằng chịt. Những người trinh sát đã báo về như thế! Cuộc cận chiến xảy ra, những tên địch ốm đói lâu ngày chịu không nỗi vài ba báng súng. Trong hàng ngũ tù binh, hơn một nửa là dân công, trọ troẹ tiếng, giọng địa phương. Nhiều người dân công được giải thoát nhưng rồi phía ta hy sinh cũng nhiều hơn so với sự thường. Phải chi cứ trên đồn tương xuống có hơn không? Ðiều gì thì cũng có gía phải trả.
Nói đến đây, Tươi hình như xúc động nghĩ đến cái hành động điên rồ của mình, khiến cho nhiều người lính phải hy sinh oan uổng. Nó nấc nghẹn, quăng điếu thuốc đang hút dở vào vườn hoa, lấy tay gạt mắt, hình như nó đã khóc, hai con mắt đỏ ngầu và hai quằng mắt thâm tím vì lâu ngày không ngủ vẫn còn đang long lanh ngấn lệ.
Tiệc đêm đã tàn, chai rượu cuối cùng cũng đã cạn, những bàn bên trống vắng đã từ bao giờ. Xe cộ ngoài đừơng đã thưa thớt. Những ngọn đèn cao thế của ngã tư xa lộ mang màu tím thẵm. Những đứa trẻ đeo bị đi bắt dế đêm. Dế rừng ở đâu mà về đông thế. Những con dế to béo như những con muỗm đồng, người ta bảo dế này chiên bơ ngon lắm! Ðại bác vẫn cứ réo nổ ầm trời từ những chiến trận xa xôi vọng vệ. Thằng Tiến mở lời vu vơ:
- Không biết con cái tao có sao không?
Cả 3 chúng tôi đưa Ðạt trở về đơn vị nhưng lần này đi xe của Tươi và do chính hắn lái. Ðạt đòi ghé vô chợ Bà Chiểu mua vài chai rượu, một chai tặng nhà hàng thịt chó đã dúi bịch thịt chó vào xe, một chai tặng Châu, nếu gặp lại những người quân cảnh hôm trước, còn vài chai đem về đơn vị cho quân lính, đồng đội.
Ðường hôm nay tuơng đối thông thoáng vì còn là buổi sáng. Chúng tôi muốn đi sớm hơn vì Ðạt đã lỡ hứa với ông lão trại cưa. Khúc cầu rẽ bị hư hôm nọ cũng không còn những người quân cảnh đứng gác. Vũng lầy cũng khá khô ráo nên xe cộ qua lại dễ dàng.
Chủ nhà hàng thịt chó hôm qua, thấy chúng tôi trở lại, mừng vui rối rít. Khoe rằng nhà hàng hôm nay mới mua được con mực cầy tơ. Con này mà xả ra thì ngon bằng chết. Chúng tôi từ chối vì không thể nán lại lâu hơn. Ðạt trao chai rượu tặng ông ta rồi vội vàng ra đi.
Theo đúng hướng chỉ của ông chủ trại cưa. Chúng tôi tìm tới nhà ông ta dễ dàng. Chắc phải là giàu có bề thế lắm mới có được cơ ngơi, nguy nga, rộng lớn như thế này. Ðàn chó thấy khách lạ đua nhau tủa ra sân, sủa ăng ẳng. Hai bộ đồ rằn ri của Tươi và Tiến, càng kích thích lũ chó hơn. Từ trong nhà, một cô gái cầm cán chổi ra sân đuổi chó. Một cô gái mảnh mai xinh đẹp, có vóc dáng hao hao với cô gái bị mẹ chồng hành hạ hôm qua. Cũng mái tóc đen mượt, huyền lánh, khuôn mặt trái soan và cặp lông mi cong, dài. Nhìn căïp mắt tươi hồng ươn ướt của cô gái, tôi nhớ lại lời bà lão mỏ qụa hôm qua: "Môi đó thì dâm, đĩ phải biết!".
Ông bà chủ nhà thân tình ra chào hỏi chúng tôi. Bà chủ nhà chắc cũng chạc tuổi bà lão mỏ qụa hôm qua nhưng coi bà hiền lành, nhu mì hơn. Bà để răng lánh hạt huyềøn và cũng chít cái khăn mỏ quạ nhưng bằng vải nhung đen. Bà tiến tới chào và vân ve cánh tay Ðạt rồi luôn miệng: "Qúy hóa qúa! Qúy hóa qúa!".
Vừa bước vô trong nhà, tiếng dao thớt đã inh tai, tiếng nói cười không ngớt. Chắc là gia chủ sắp có tiệc tùng gì đây? Cả 3 chúng tôi đều hết sức ngạc nhiên khi thấy xuất hiện cặp vợ chồng hôm qua. Tươi thì không kể vì nó chẳng biết gì chuyện này. Mắt trái của anh chàng vẫn bầm sưng, chắc là do Ðạt quại trúng. Trên khuôn mặt cô gái vẫn còn vết cào xuớc nhưng đã tươi tỉnh hơn hôm qua nhiều. Cô nhìn chúng tôi có vẻ bẽn lẽn nhưng vẫn thấy được vẻ thân tình, cảm mến. Chào chúng tôi xong, cả hai hút vào trong bếp.
- Thưa đại úy, Chẳng nói dấu gì đại úy. Hôm qua dân làng kéo tới đây đông đảo và đều nói rằng nhà này còn có phúc chán, không thì từ con rể tới cháu chắt đều bị đưa đi mút mùa lệ thủy. Thằng thì trốn lính, thằng thì đào ngũ. Ðã vậy lại nhè mấy ông trung úy, đại úy mà tấn công. Thế có chết không chứ! Nếu không có đại úy rộng lượng thì xe quân cảnh hôm qua đã hốt đi hết. Thế nên, hôm nay nhân dịp đại úy và các vị trở lại đây thăm lão, lão xin được thết đãi một bữa cơm gia đình, sau là để cho con cháu ra mặt và xin lỗi đại úy cùng qúy vị. Xin qúy vị đừng nỡ từ chối, khiến lão và gia đình phải buồn chán.
Nghe đến đây, Tươi thừ người ra không biết gì. Nó định lên tiếng thì Ðạt đã ngăn lại.
- Thưa bác, cháu đã thưa với bác hôm qua rằng chúng cháu chỉ là người ngang đường, thấy chuyện không hay nên phải can gián thế thôi. Không ngờ chuyện đáng tiếc đã xảy ra. Chúng cháu cũng hối hận là đã mạnh tay qúa nên khiến nhiều anh em bị thương tật. Thôi chuyện đã qua, chấp trách làm gì. Chúng cháu xin ghé lại thăm bác rồi phải ra đi. Ba anh bạn cháu đây đều bận cả, người thì tối nay phải lên phiên trực, kẻ thì mới hành quân nơi xa trở về. Ai cũng bận cả. Xin bác cho chúng cháu vài ly nước trà hay cùng lắm nhắm với bác một ly đủ rồi.
"Một ly đủ rồi" nhưng một ly cứ rót hoài và những người lính trận cũng đã thấm môi. Bóng dáng cô thiếu nữ cứ ẩn hiện sau khung cửa và rồi những mâm tiệc thịnh soạn cũng được bưng ra. Ông lão chủ nhà câu chuyện nỏ như bắp rang và ông nói chuyện rất có hồn. Thằng Tươi là kẻ noiù chyuện như thế mà cứ há hốc mồm ra mà nghe ông lão kể chuyện.
- Bây giờ thấy các anh thân tình, tôi mới xin kể tiếp. Dân làng đã đến đây khuyên bảo anh con rể tôi rất nhiều và anh ta cũng nhận ra những sai trái của mình và đã hối lỗi. Hứa từ nay không còn hành hạ vợ con tàn ác như xưa nữa. Bây giờ tôi xin gọi cháu ra đây để nó xin lỗi các anh.
- Aáy cái ông này ỡm ờ thật. Ðược đàng chân lân đàng đầu, người ta là tướng tá cả đấy! Anh với cháu cái gì? Bà chủ nhà lên tiếng.
- Thí các ông ấy muốn xưng hô như vậy cho thân tình.
- Thưa bác gái, đúng vậy đấy! Chúng cháu đều nhỏ tuổi cả, chiến trận làm cho con người gìa nua vậy thôi. Tất cả chỉ đáng con cháu bác thôi. Xin các bác cứ gọi như thế cho thân tình.
Cô thiếu nữ lấp ló sau màn cửa, nở nụ cười tươi rói.
- Anh cả đâu lên đây tôi bảo!
- Dạ thưa bố ạ!
- Ðấy! Hôm qua anh hứa như thế nào thì hôm nay làm như thế đi!
Từ trong buồng, vợ chồng anh đánh nhau hôm qua bước ra, kéo theo cô thiếu nữ vô thẳng trong phòng khách. Cô ngồi tựa cửa, mặt tươi như hoa, khiến cho cả 4 chúng tôi đều sững sờ vì cái vẻ đẹp cao ngạo và cái dáng dấp thanh tao của cô.
- Dạ thưa bố mẹ, dạ thưa đại úy cùng qúy vị. Hôm qua, con lỡ xúc phạm đến đại úy, đại úy chẳng những không chấp, lại xin những người lính quân cảnh tha cho con. Nếu không thì con phải đi đến chỗ chết. Nay, sau những lời khuyên giải và nhiều suy nghĩ. Con đã thấy những sai trái của mình. Còn xin hứa từ nay, không còn hung hăng, đánh đập vợ như trước nữa. Con thề hứa..
- Thôi, không có gì là lỗi, phải cả. Biết ăn năn, thương vợ, thương con là đựoc rồi. Chúng tôi đây là thân lính tráng, nay sống mai chết nên chưa thằng nào có vợ. Thấy anh đánh vợ như thế, chúng tôi cảm thấy đau lòng lắm! Bây giờ anh thương vợ con anh là được rồi!
Mặt hai cô gái đỏ bừng, không hiểu vì họ mắc cở hay suy nghĩ điều gì? Họ không nhìn thẳng vào Ðạt, dấu nụ cười thầm kín bên trong màn cửa.
- Thế cả 4 anh chưa có vợ cả à! Qúy hóa thật!
Bà chủ nhà vừa nói vừa tiến lại mân mê cánh tay của Ðạt.
- Thôi bây giờ đã trễ rồi, Xin hai bác cho chúng cháu về. Chúng cháu xin cám ơn bữa tiệc thịnh soạn và thiện cảm mà hai bác và gia đình đã giành cho chúng cháu.
Ðạt vừa nói vừa đứng lên.
- Thôi không giữ được các anh thì chúng ta phải chào tạm biệt chứ sao bây giờ. Thỉnh thoảng các anh lại chơi với lão nhé! Chúng bay đâu? Tất cả ra đây chào khách đi.
Mọi người tiến ra phòng khách chào chúng tôi vui vẻ. Cô Duyên có lẽ cảm kích về ơn giải cứu và sự hào phóng của Ðạt nên ngừng lại với Ðạt.
- Em xin cám ơn đại úy, rồi gạt lệ chào sang tôi.
Tới phiên cô thiếu nữ. Tươi nhanh miệng hỏi.
- Thế em tên là gì?
- Dạ thưa cháu tên là Ngân ạ!
- Ơùi giời ơi! Ðã bảo là anh em trong nhà mà lại xưng cháu, xưng con thì chán chết!
- Dạ con không dám!
- Thiếu tá mới có 29 tuổi thôi, đánh nhau hăng qúa mà lên lon vèo vèo đấy! Có già gì đâu! Ðạt lên tiếng.
- Thế em bao nhiêu tuổi rồi!
Ngân mắc cở không nói, bà cụ chen vào.
- 21 tuổi rồi đó, vậy mà vẫn nhõng nhẹo như đứa con nít.
- Thế Ngân có thích lính không? Tươi hỏi.
Ngân gục đầu, mỉm cười không nói.
- Anh Ðạt đóng quân ở gần đây này! Trảng Bom cách đây có vài cây số mà thôi! Thỉnh thoảng đến thăm anh Ðạt nhé!
Tươi vừa nói xong, chúng tôi tiến tới bắt tay ông bà chủ rồi xin phép lên xe ra về. Ðạt còn vọng thêm:
- Con đóng quân ở Trảng Bom gần đây thôi, hôm nào các bác và các em rảnh, con xin mời các bác và các em đến thăm nhé! Cứ hỏi Ðạt sư đoàn 18 là ai cũng biết. Nếu không thì con cho xe đến rước.
Xe nổ máy, đàn chó đã tua ra sân thi nhau sủa ăng ẳng. Cô gái tên Ngân lại cầm cán chổi đuổi chó nhưng cặp mắt cô dán vào chúng tôi không rời.
Vừa ra khỏi ngõ, Tươi đã lên tiếng:
- Thôi, mừng cho thằng Ðạt, sắp có cơm no, bò cưỡi rồi nhé!
- Con bé xinh và dẽ thương thật! Tôi nói.
- Mai này, mày đừng đối xử em bé Ngân như thằng Bình lục súc nhé! Mày làm thế ông bắn nát đầu chứ không chỉ đấm đá vài cú như mày làm hôm qua đâu. Tiến chen vào.
- Con bé dễ thương đấy chứ! Vài hôm nữa rảnh, tao tới thăm thử xem. Từ Trảng Bom tới đây có vài cây số. Xa gì? Ngặt điều là nhà ông bà này đạo đức qúa! Aûnh Chúa, Mẹ treo đầy nhà, không biết có chịu lính tráng như bọn mình không?
- Thì mày phải tóc tai, râu ria cho nhẫn nhụi, rồi mua thêm sợi dây chuyền với cây thánh gía đeo ở cổ.
Chẳng mấy chốc, xe đã về đến Trảng Bom. Những người lính sư đoàn 18 đang lố nhố chuyển đổi quân. Ðại đội của Ðạt nằm mãi trong góc một rừng cao su, trên lối vào Sông Buông.
Chúng tôi không thể nán lại với Ðạt vì ngay khi về tới, Ðạt đã có lệnh trình diện cấp trên.
Chưa qua khỏi Trảng Bom, chúng tôi đã nghe bom đạn rền vang không xa lắm. Chắc là đang có trận đụng độ đâu đây. Không hiểu rằng đơn vị của thằng Ðạt còn được nghỉ dưỡng quân, hay lại bị bốc đi ngay trong đêm nay.
Ðời trai thời chiến là thế! Sống nay chết mai, có thằng nào thiết, nghĩ đến chuyện vợ con.
Chúng tôi lại về ngang qua ngõ vô nhà em bé tên Ngân. Tôi tự hỏi rồi đây không biết thằng Ðạt có dịp trở về thăm cái con ngõ này hay không?
Bẵng đi một dạo, không còn tin tức gì thì Ðạt lại tới thăm tôi. Nó đến không phải một mình với vài chai rượu như thường tình mà có một bóng hồng bên cạnh. Thoạt nhìn, tôi thấy người con gái ấy có vẻ quen quen, hình như đã gặp đâu đó. Nhìn kỹ ra, mới biết cô gái tên Ngân. Cô con gái út cưng của chủ nhà máy cưa Thành Lập.
Cô ta không mấy tỏ vẻ xa lạ với tôi, trong lúc Ðạt thì ba hoa giới thiệu:
- Ðây là cái ách giữa đường như mày nói đây này.
Tôi rất vui mừng khi biết được rằng Ðạt đã có một cô bạn gái xinh xắn và duyên dáng lại là con gái cưng của một gia đình đạo giáo, nề nếp. Ðạt vẫn không bỏ được thói quen thường tình, nó chạy ngược lại xe, lôi ra hai chai Johny Walker nhét vào tay tôi rồi rủ tôi đi thăm thằng Tiến và Tươi. Nó huýt sáo liên hồi, có vẻ yêu đời lắm.
Ðúng là cái ách giữa đường đã quàng vào cổ nóù.
Ðơn vị của Ðạt không bị bốc đi ngay như dự đoán vì việc phòng thủ khu vực Trảng Bom chưa có đơn vị thay thế. Ðạt còn ở lại đây thêm mấy ngày và nhờ đó, Ðạt đã có nhiều cơ hội đến thăm Ngân. Sau nhiều lần qua lại thăm viếng, hai người đã yêu nhau và cả hai đều mơ mộng nghĩ đấn cuộc sống hạnh phúc bên nhau trong ngày đất nước thanh bình.
Thanh bình đâu không thấy, bom đạn vẫn cứ nổ rền trời, quanh khu vực đóng quân của Ðạt, hằng đêm những tiếng đạn bác liên hồi vẫn cứ rền vang khắp núi đồi. Những toán quân vẫn cứ tất tả ngược xuôi, những đoàn xe di tản từ vùng cao nguyên đổ về, khiến đoạn đường từ Dốc Mơ về Trảng Bom chật cứng. Ðể đềà phòng sự xâm nhập và trà trộn của cộng quân vào đoàn người di tản. Ðơn vị của Ðạt vừa có nhiệm vụ canh phòng, vừa phối hợp với các đơn vị cảnh sát quân khu 3 khám xét từng đoàn xe qua lại. Ðể tạo sự bất ổn thường xuyên và làm mất tinh thần chiến sĩ canh phòng tại đây, thỉnh thoảng cộng quân rót về một vài trái pháo, bất kể là khu quân sự hay nhà cửa của dân chúng, chợ búa. Gây nhiều thiệt hại, chết chóc đau thương cho dân lành vô tội.
Ngân đã thực sự nóng lòng vì đã 1 tuần nay không thấy Ðạt tới thăm. Ông bà Thành Lập cũng cảm thấy bồn chồn bất ổn, đứng ngồi không yên. Tình hình chiến sự mấy ngày nay căng thẳng qúa! Tin cộng quân đã xâm nhập vào tiểu chủng viện và khu vực tòa giám mục Long khánh đã gây xôn xao dư luận. Từ rạng sáng ngày 20 tháng 4, Cộng quân đã gia tăng áp lực tại Xuân Lộc, 2 trung đoàn Cộng quân từ hướng Ðông Nam Xuân Lộc tiến đánh thẳng vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 bộ binh và bộ chỉ huy Tiểu Khu Long Khánh. Cộng quân tập trung lực lượng tại đồn điền Xuân Lộc cách bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 18 khoảng 3 km.
Sau hàng ngàn qủa đạn tàn khốc của cả 3 pháo đội thuộc tiểu đoàn pháo binh lữ đoàn 1 dù nhắm vào hướng tập trung quân của địch. Ðại đội Ðạt đựơc bốc khẩn cấp tới đồn điền Xuân Lộc thanh sát. Xác chết cộng quân nằm la liệt và ít nhất 2 tiểu đoàn địch quân đã bị làm cỏ tại đây, những phần thân thể tung vãi tứ tung, những người thương binh mặt mày non choẹt, ngơ ngác sợ hãi. Gần 50 tù và thương binh được tập trung lại. Nhiều người lính còn nguyên cấp số đạn dược, chưa bắn một viên. Ðạt ra lệnh cho một tiểu đội ở lại bảo vệ và chăm sóc đám thương binh rồi trải dài đơn vị lục tìm những toán cộng quân còn đang ẩn nấp trong những bụi cây kháng cự.
Những người thương binh cộng sản trẻ măng, mặt mày ngơ ngác sợ hãi. Người nào người ấy xanh lợt như màu lá chuối. Phần thì sống chui rúc dưới hầm, phần vì thiếu ăn lại cứ phải lặn lội trong rừng sâu thiếu ánh sáng nên trông họ thật yếu ớt thảm thương. Ðám tù, thương binh này đã là một gánh nặng cho Ðạt. Giải giao thì không biết bao giờ mới có xe đến nhận và còn nhà tù nào nữa để có thể nhốt thêm tù binh. Ðem theo thì thật là khó khăn và nhiều bất trắc. Ðúng là bỏ thì thương, vương thì tội. Một ông thượng sĩ gìa, nhiều năm chiến đấu và kinh nghiệm chiến trận đầy mình đã đề nghị: "Thằng nào có cấp bực, thâm niên đảng tịch thì phơ, thằng nào non choẹt, miệng còn hôi sữa và cấp số đạn còn nguyên hoặc chưa bắn bao nhiêu thì đá cho nó vài cái rồi thả nó ra bìa rừng .".
Thật là khó nghĩ. Chiến trận đã vào giờ thứ 25, chỉ còn những con thiêu thân mới chúi đầu vô thức đấm đá. Nhiều cấp chỉ huy đã lợi dụng cuộc di tản để trốn chạy, bỏ quân, bỏ ngũ ..Ðạt kéo một hơi thuốc dài, một trái đạn nổ từ đâu rớt trúng nóc hầm cứu thương. Mảnh bay tung tóe, nhiều người thương binh cộng sản lại bị thương lần thứ hai. Những người thương binh này lại một lần nữa bị thương do chính bom đạn của chiến hữu, đồng đội của chúng rót tới. Ðám tàn quân cộng sản chui rúc đâu đó cứ nhắm mắt phóng bom tới cầm chừng để cho lực lượng của chúng rút lui và tái tổ chức quân số. Ðạt nhìn đám thương binh thương hại. Hắn nghĩ chúng không phải là kẻ thù vì chúng đang ngồi chung một chiến tuyến và cùng hứng chịu bom đạn của đối phương. Những người thương binh này, đang cần sự bao bọc chở che của Ðạt. Tiếng bom đạn lại lứơt qua trên bầu trời, báo hiệu những qủa đạn phóng sai đích ngắm. Ðạt nghĩ đây là những thằng xạ thủ gà mờ. Hắn chui vào hầm, lệnh người lính truyền tin đem máy tới, ống liên hợp phát ra những tiếng kêu lè rè.
- Ðăng Trình xin gặp Hàn Giang.
- Hàn Giang nghe rõ
- Xin báo cáo Hàn Giang. Vẩu vỗ tay mạnh qúa! Chuột đồng an toàn, chuột nhốt trong bẫy lại bị xập. Ðăng Trình xin lệnh.
- Lo cho chuột đồng. Chuột trong bẫy cho Ðăng Trình làm thịt.
- Ðăng Trình nghe rõ 5/5.
Sở dĩ Ðạt hành động như vậy để vừa đánh lạc hướng đối phương, vừa hợp thức hóa việc thả những người tù binh mà hắn đã có ý định tha. Ðạt nghĩ rằng vào giờ chót của cuộc chiến, hắn không thể để cho người khác phải chết một cách oan uổng. Mấy ngày nay, hắn đã lệnh cho ông thượng sĩ thường vụ phải cho tù binh ăn uống như binh lính. Nhiều khi chính Ðạt còn tới thăm an ủi và kiểm soát những bữa ăn của tù binh. Nhìn vào những con mắt thơ ngây, non dại của họ, Ðạt nhớ đến thằng Minh em hắn. Ðến tuổi động viên vào Thủ Ðức, ra trường được đúng 8 ngày đã tử thương. Nước mắt hắn chảy dài. Những tiếng đạn vút qua đỉnh đầu reo réo. Ðúng như hắn nghĩ, địch quân đã mắc lừa, chúng vẫn chỉnh tọa độ theo những vị trí hồi sáng. Ðiều này cho biết chúng đã nghe rõ điện đàm giữa hắn với Hàn Giang (tên mã hoá của tiểu đoàn trưởng của hắn). Loạt đạn vừa im tiếng. Ðạt đã ra lệnh cho người thượng sĩ tách nhóm tù binh làm 2. Toàn thứ nhất gồm những tên gìa giặn, toán thứ hai những tên lính trẻ hoặc chưa vẻ có kinh nghiệm chiến trường. Toán thứ nhất trao cho ban an ninh để giải giao về tiểu đoàn, toán thứ hai do chính Ðạt coi sóc.
Aùp lực địch đã giảm mạnh và chỉ còn những trái pháo cầm chừng. Ðạt tập trung tất cả những người tù binh trẻ, ra lệnh:
- Bây giờ cuộc chiến đã sắp chấm dứt và nhận thấy các anh chẳng qua chỉ là những con thiêu thân mà đảng và cấp chỉ huy của các anh đưa vào chiến trường như những con tốt thí. Nhân danh một người lính có lương tâm, tôi không thể tiếp tục giữ các anh làm tù binh trong cái giờ thứ 25 này. Chúng tôi sẽ băng bó cho các anh hẳn hoi, đồng thời còn một số tiền lương chưa kịp tiêu hết, tôi sẽ phân phát cho các anh làm lộ phí. Các anh sẽ phân tán mỏng, chen lẫn vào đám đông dân chúng rồi tìm cách trở về với gia đình. Tuyệt đối không được phản bội. Nghĩa là không được, thâu nhặt vũ khí chống lại binh lính và dân lành vô tội.
Nói xong, Ðạt đưa những bao thuốc quân tiếp vụ cuối cùng, chia phát phát cho tù binh.
Những người tù binh nhìn nhau ngơ ngác. Họ không tin vào những lời nói họ vừa nghe. Những ngày đầu mới bị bắt, họ run sợ phát khiếp vì những lệnh truyền của cấp chỉ huy còn phảng phất: "Chống lại mọi cách không để lính ngụy bắt. Khi chúng bắt được tù binh thì chúng sẽ moi gan, móc ruột, uống máu ăn tim .". Họ từng bàn bạc với nhau tìm cách chống đối và vượt thoát nhưng quân lính canh phòng nghiêm ngặt qúa. Rồi mấy ngày nay, không hề có "uống máu, ăn tim" nên họ cũng đỡ lo. Ngoài ra, ánh mắt của vị chỉ huy ngụy sao mà hiền lành qúa, không bốc lửa và rực máu căm thù như cấp chỉ huy của họ, nên họ phần nào yên tâm. Bây giờ nghe lệnh Ðạt, họ không dám tin vào cái lỗ tai của mình nhưng cũng không nghi ngờ vào cái thiện chí của ông sĩ quan ngụy.
Cuộc chiến chỉ lắng dịu được vài tiếng đồng hồ thì tàn binh cộng quân đã tập trung và tổ chức một cuộc tiến công mới. Ðại đội Ðạt đã phải trực diện với một lực lượng địch quân đông gấp 5 lần. May nhờ chiến địa quen thuộc nên đơn vị của Ðạt nắm ưu thế hơn. Rạng sáng hôm sau, địch quân đã tăng cường thêm 2 tiểu đoàn và đã tràn ngập những yếu điểm của đồn điền cao su. Sau mấy ngày chiến đấu ác liệt, đơn vị của Ðạt đã bị thiệt hại khá nặng nề, hơn 1/3 quân số đã bị loại khỏi vòng chiến và Ðạt cũng đã bị thương nhẹ bên cánh tay trái do mảnh bom trúng phải. Tuy đau đớn nhưng Ðạt vẫn dũng mãnh chỉ huy quân sĩ phòng thủ, ngăn chặn địch quân tràn qua nút chận. Trứơc áp lực và hỏa lực mạnh mẽ của cộng quân, bộ chỉ huy tiền phương quân đoàn đã tăng phái thêm một tiểu đoàn của lữ đoàn 1 dù để yểm trợ cho đơn vị Ðạt. Cộng quân đã bị đánh bật ra khỏi khu vực đồn điền nhưng chúng đã điên khùng oanh kích hằng ngàn qủa pháo vào các đơn vị cộng hòa.
Ðơn vị của Tươi thì được tăng phái giải tỏa áp lực cho tiểu khu Long Khánh nên không thể trực tiếp, tiếp cứu cho Ðạt được nhưng Tươi vẫn liên lạc thừơng xuyêu với tiểu đoàn bạn để tìm biết tình hình của đơn vị Ðạt. Khi hay tin Ðạt bị thương, hắn cuồng lên như con hổ dữ và cảm thấy như chính thân, mình hắn bị thương vậy. Hắn hét lớn trong ống liên hợp và luôn miệng chửi thề.
Ðơn vị của Tươi nghỉ dưỡng quân chưa được mấy ngày tại vườn Tao Ðàøn thì lại được bốc lên giải vây Long Khánh. Hắn biết rằng trung đoàn 48 và 52 của sư đoàn 18 sẽ cùng với lữ đoàn dù cùa hắn có nhiệm vụ bảo vệ vòng đai phòng thủ cho Sài Gòn và giảm thiểu áp lực của địch quân nhưng lữ đoàn của hắn cơ động và được bốc đi bất cứ đâu và bất cứ lúc nào, theo nhu cầu của chiến trường. Trong suốt 9 năm quân ngũ, đây là lần đầu tiên hắn được đưa về chiến đấu cạnh một đơn vị của một thằng bạn thân thiết nhất. Hắn thầm mong ước, đơn vị của hắn sẽ bắt tay đơn vị của Ðạt để cùng Ðạt ăn mừng chiến thắng.
Ngân đã lên Trảng Bom để tìm thăm Ðạt nhưng đơn vị của hắn đã được bốc đi. Thay vào đó là một đơn vị thiết giáp và một đại đội địa phương quân. Không một ai có thể cho Ngân biết chi tiết gì hơn ngoài tin đơn vị Ðạt đã được bốc đi hồi rạng sáng. Cuộc giàn quân và tái phối trí đã được tổ chức trong bí mật tuyệt đối. Ngân thất vọng ra về , trong lòng đầy âu lo, sợ hãi cho một việc chẳng lành. Trên đường, những chiếc xe quân y hụ còi inh ỏi, những chiếc xe hộ tống với những nòng súng đen ngòm tủa ra hai bên đường như lúc nào cũng sẵn sàng nhả đạn. Những đoàn xe đò đổ dốc, hàng hóa, hành khách ngập đầy, cả những người ngồi chật trên mui, đưa thòng những cẳng chân, đong đưa cùng nỗi chết. Những chiếc xe gắn máy, chở 3, chở 5 đua nhau chạy về hướng thành phố. Thật là một cảnh tượng bát nháo khó tưởng.
Ðầu óc Ngân miên man suy nghĩ về những hình ảnh tươi đẹp với Ðạt trong những ngày qua. Sau cái ngày chị của Ngân bị chồng và mẹ chồng đánh đập. Ðạt đã kịp thời can thiệp và từ đó trở thành thân quen và đi lại thân tình. Mới chỉ cách đây vài ngày, lần cuối cùng Ðạt tới thăm Ngân trước ngày chuyển quân. Một buổi tối, trời đen như mục, trong cơn mưa nặng hạt. Tiếng sấm sét inh trời, chen lẫn với những tiếng bom, đạn từ xa vọng về. Ngân đã nằm gọn trong vòng tay của Ðạt. Lòng Ngân rộn rực yêu thương và cảm thấy hạnh phúc, sung sướng khôn tả.
- Ngày mai chắc anh phải ra đi.
Ngân làm như không nghe thấy, nàng rúc đầu vào ngực Ðạt. Nghe rõ những tiếng đập thình thịch của con tim bốc cháy. Ðạt đật nhẹ nụ hôn lên làn tóc Ngân, mùi hương thơm thoảng thốt trên da thịt của người con gái chưa một lần tiếp xúc với người khác tính. Ðạt cảm thấy hơi nóng từ người Ngân bốc ra, khiến chàng ngây ngất. ú ớ không rõ lời:
- Chắc ngày mai anh phải ra đi.
Giọng nói ú ớ của Ðạt chìm lắng trong tiếng mưa rơi nặng hạt. Sấm sét, bom đạn kêu la inh trời. Mùi thơm da thịt ngào ngạt của Ngân khiến Ðạt ngất ngây như mất tự chủ. Rồi nụ hôn cuồng rà xúông thấp hơn, nhắm má, môi Ngân mà dán. Hai thân thể cuồng nhiệt ấp kín lấy nhau. Những giọt lệ đã ướt ẫm đôi mi Ngân vì sung sướng, hạnh phúc.
Tiếng bom đạn, mỗi lúc một cuồng nhiệt, đánh thức Ðạt trổ về với những suy nghĩ mông lung.
- Ngày mai anh phải ra đi.
Ngân bật lên tiếng khóc nức nở. Trong những vũng sâu, bầy cóc, nhái phụ lời, kêu lên trầm thống như phụ họa cho một tâm trạng thổn thức, não lòng. Tiếng kêu ai óan của con cú đâu đó như báo trước cho một sự chia ly.
Ống liên hợp của chiếc máy truyền tin đặt trong xe kêu lên rè rè. Người tài xế ngồi ngủ vật vờ, vội nhắc ống máy liên lạc. Anh ta rón rén bước về phía Ðạt, như không muốân phá đám, làm bận, phiền đến một việc linh thiêng. Anh ta nói gì với Ðạt không rõ. Chỉ thấy Ðạt gỡ nhẹ Ngân ra rồi cầm ống liên hợp liên lạc. Ðạt phải ra đi thật.
Ngân ôm choàng lấy Ðạt, kêu khóc thảm thiết. Những tiếng côn trùng trong đêm mưa phụ họa não lòng. Ðạt cảm thấy chùn lòng khi phải buông lỏng người yêu. Những con chó bị động, trong bóng đêm, sủa lên ăng ẳng. Tiếng xe nổ máy, một vệt sáng chạy dài, theo sau là cả một đàn chó sủa theo. Xe đã lìa xa,Ngân vẫn đứng lặng ôm cột, thổn thức như người hóa đá. Ngân bàng hoàng như trong một cơn mộng chẳng lành. Ngoài trời tiếng bom đạn vẫn réo nổ inh trời. Những đoàn xe, vẫn tất tả ngược xuôi, hàng hóa chất cao ngút trời. Con chó con chạy lại liếm chân chủ, bất thần nhận cú đá vô bụng, kêu la oăng oẳng.
Mấy ngày nay, thấy con gái đau buồn ủ rũ, Ông bà Thành Lập cũng lo lắng không yên, ông bà tất tả ngược xuôi để dò thăm tin Ðạt. Từ ngày quen biết Ðạt và biết được rằng con gái của mình đã yêu thương Ðạt thì tuy chưa tiện nói ra, ông bà đã có nhiều cảm tình và thầm coi Ðạt như con và trong lòng thật là qúy mến. Nay thấy Ðạt lâm trận và trong một trận chiến cực kỳ thảm khốc, khiến ông bà thật sự lo âu.
Ở cái vùng này, đã biết bao nhiêu gia đình khá gỉa, ngỏ lời ướm, hỏi con gái ông bà nhưng nó có chịu đám nào đâu. Lúc đầu thì ông bà cũng bực tức lắm nhưng sau nghĩ lại dù sao con gái mình cũng có chút ít ăn học và đã trưởng thành, không thể gả ép được nên ông bà đành nuốt giận làm vui. Bây giờ Ðạt tới, ông bà cảm thấy Ðạt thật là xứng đáng. Vừa đẹp mã, vừa ăn nói lịch thiệp lễ phép. Mỗi điều là trai thời chiến, sống nay chết mai, số phận thật khó lường.
Long khánh đã trở thành một tiền đồn bao bọc cho Sài Gòn nên áp lực của địch quân trải dài mọi nơi. Cộng quân đã tung vào mặt trận Long Khánh 3 sư đoàn gồm sư đoàn 341 chính quy, sư đoàn 7 tổng trừ bị của khu Miền Ðông và sư đoàn 3 tân lập. 3 sư đoàn nói trên có nhiệm vụ phải "giải quyết chiến trường" thật nhanh để mở đường tấn công vào Sài Gòn. Mục tiêu đầu tiên là khu vực ngã ba Dầu Giây, giao điểm giữa Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Ðể ngăn chận của tấn công của CSBV, bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 BB đã cho tăng cường lực lượng phòng thủ tại ngã ba Dầu Giây, đồng thời Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã cho gia tăng số phi vụ tuần thám, các đợt nhảy thám sát, viễn thám để theo sát các diễn biến và lộ trình chuyển quân của Cộng quân.
Sư đoàn 341 và 3 CSBV đặt ra chướng ngại vật tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20, cắt đường giao thông giữa Xuân Lộc và Sài Gòn và pháo kích như mưa vào căn cứ Không quân Biên Hòa, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 và căn cứ Tiếp vận Long Bình. Sau đó hai sư đoàn này được tăng cường bởi sư đoàn CT-7, khởi động cuộc tấn công vào Xuân Lộc. Sau khi cắt Dầu Giây xong, CQ tiếp tục tấn công Trung đoàn 52/Sư đoàn 18 BB, đang án ngữ vòng đai hướng Tây Bắc của thị trấn. Cùng thời gian khởi động cuộc tấn công vào phòng tuyến của trung đoàn 52 BB, thì Cộng quân lại khai triển lực lượng cố ngăn chận 1 thiết đoàn của lực lượng đặc nhiệm Quân đoàn 3 trên đường tiếp ứng tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc.
Sau nhiều đợt tấn công bất thành vào mạn Nam và Bắc vòng đai phòng thủ, cuối cùng CQ tung ra đợt tấn công mới nhắm vào Trung đoàn 48 BB đang trấn đóng ở phía Tây. Ðược xe tăng yểm trợ, CQ phá hàng rào phòng thủ. Liên lạc giữa Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 và Bộ chỉ huy Trung đoàn 48 bị gián đoạn, chúng dùng tới cả một sư đoàn để tăng cường áp lực, cố giải phóng cho bằng được những chốt điểm của các đơn vị cộng hòa ở Dầu Giây, mở đường cho việc tiến chiếm Sài Gòn.
Sau khi đã đẩy lui được những đợt tấn công điên cuồng của địch quân tại chốt điểm đồn điền cao su Xuân Lộc. Ðại đội của Ðạt lại được bốc ngược lên Dầu Giây để trợ lực cho một tiểu đoàn của lữ đoàn 1 dù đang lâm chiến tại đây. Toàn thể khu vực Dầu Giây chìm đắm trong lử khói, hằng ngàn chiếc xe vẫn còn đang bốc cháy, những chiếc quân xa, chen lẫn những chiếc xe dân sự. Một vài chiếc xe tăng liên xô bị bắn bay tháp pháo, trơ xác cháy đen. Hàng hoá, lợn, gà ngổn ngang. Dân chúng lũ lượt tắt bộ qua rừng, tuôn đổ về vùng Hố Nai. Ðơn vị Ðạt được tăng phái làm nhiệm vụ yểm trợ trong khi tiểu đoàn dù trực tiếp nghinh chiến với địch.
Khắp khu rừng, mùi thuốc súng, mùi thịt cháy khét lẹt. Bom đạn rơi nổ không thôi, trên bầu trời những chiếc phóng pháo của không quân chu réo inh trời. Những qủa bom được thả gần vị trí, cả một khu rừng rung chuyển, cây rừng gãy đổ răng rắc. Ngoài bìa rừng, trung đội tiền phương của Ðạt đã chạm địch. Ðịch hét vang trời, những qủa pháo của tiểu đoàn pháo binh dù pháo tới chính xác. Ðịch như những con hổ dữ cứ lao, phóng tới. Lớp này rồi lớp khác. Tiếng động cơ xe tăng đang nghiến xích săùt đâu đây. Aâm thanh rừng rú nghe rõ như rất gần. Trong máy truyền tin, đặc lệnh địch, ta pha trộn rồi chửi qua chửi lại, lẫn giọng bắc nam. Thật lộn xộn, khó phân biệt thực hư.
Ðơn vị Ðạt đã lâm vào cảnh cận chiến với cả một tiểu đoàn của sư đoàn 341. Ðịch đông như kiến, nhưng quân lính yếu ớt và mệt lả sau bao ngày rừng đói khát. Nhiều tên không chịu nổi một báng súng. Sau cả một buổi chiều cận chiến, vì quân số thua kém và thiếu yểm trợ của pháo binh vì ta địch nhập một, không phân địch vị trí. Ðơn vị Ðạt đã bị đánh rạt ra ngoài quốc lộ và mấy chụy tay súng bị loại khỏi vòng chiến. Ðại được lệnh phân bổ vị trí chiến đấu mới, cắm chốt dọc theo quốc lộ, bảo vệ an ninh cho hậu cần tiếp tế. Tiếng bom vẫn reo nổ không thôi. Mặc dù bị thiệt hại rất nặng nề, nhiều xe tăng bị quân lính của lữ đoàn dù và không quân bắn cháy nhưng 2 sư đoàn địch quân vẫn cứ điên rồ lao tới. Tiếng hô xung phong không thôi, những màn cận chiến trải dài khắp chiến trường khiến cho pháo binh và không quân bó tay. Nhiều đơn vị bị quân địch đông gấp nhiều lần tràn ngập, chỉ huy đã anh dũng, liều mạng xin pháo nổ phủ đầu. Những toánh hàng binh đưa tay ôm đầu ra hàng ngoài quốc lộ
Giữa lúc cuộc chiến đang lên đến một cường độ mãnh liệt thì tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, kéo theo một số tuớng lãnh thân thiết bỏ ngũ, khiến cho tinh thần chiến đấu của binh sĩ lung lay. Việc yểm trợ không quân cũng yếu dần và việc điều động quân trừ bị không còn hữu hiệu như trước. Hậu trừơng chính trị lung lay, bất ổn. Tướng Minh và nhóm thày chùa Aán Quang đòi nhẩy vô chiến trường. Tạo một thế chính trị hỗn loạn, mất chỉ huy ngay tại đầu não chỉ huy thượng từng quốc gia..
Rồi mặt trận Xuân Lộc lại bị triệt thoái. Các đơn vị dù và sư đoàn 18 được lệnh rút về vùng Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ, Cát Lái. Dơn vị của Ðạt được lệnh trấn giữ vòng đai căn cứ hải quân, nơi đặt bản doanh tư lệnh sư đoàn. Lợi dụng tình hình chính trị của VNCH có sự bất ổn, cộng quân đã dồn toàn lực lượng tấn công vào Biên Hòa từ hướng Nam và Ðông Nam. Ngày 26 tháng 4, CQ tấn công vào Trường Thiết Giáp tại Long Thành, chiếm quận lỵ Chơn Thành và cắt đứt Quốc lộ 15 nối Vũng Tàu với Sài Gòn. Ðặc công CQ chiếm cầu xe lửa nằm về hướng Tây Nam Biên Hòa trong khi đại bác CQ pháo xối xả vào căn cứ Không quân. Cộng quân tràn xuống gần kho đạn ở Thành Tuy Hạ, định phá kho đạn này và trực tiếp đe dọa Sài Gòn từ hướng Ðông Nam.
Các tướng lãnh thay phiên nhau bỏ ngũ. Hiệu triệu của tướng này vừa ban ra thì đã có tướng khác thay thế. Ðài phát thanh phát đi những tin tức trái ngược nhau. Ðại sứ Pháp và Phật giáo Aán Quang đang áp lựng cụ Hương nhường chưc cho tướng Minh. Tướng Minh thì tin tưởng hoàn toàn vào thành phần thứ 3, mặt trận giải phóng miền nam và các thày Aán Quang nên nằng nặc lên tiếng đòi cụ Hương nhường chức để ông ta có thể thương thuyết với cộng sản bắc việt. Thật là ngu ngơ và khù khờ.
Hàng rào phòng thủ cho thủ đô ở mạn đông bắc ngày một thu hẹp do đó đơn vị Tươi tiếp cận với đơn vị Ðạt hơn và cả hai đã có tần số liên lạc với nhau.. Tướng Toàn cũng đã đào thoát cùng nhiều tướng lãnh, chỉ huy khác, nhiều người lính cũng đã bỏ hàng. Tươi quay máy nói với Ðạt. Bây giờ thì hắn chẳng cần mã hóa gì nữa.
- A lô! Tươi gọi Ðạt. Nghe rõ trả lời?
- Nghe 5/5.
- Ð.m. chúng bắn rát qúa! Chi khu Long Thành tiêu rồi và huyện lỵ Nhơn Trạch cũng đang bắt đầu chạm súng mạnh. Chúng mày có sao không?
- Chưa sao nhưng con cái mất tinh thần lắm!
- Ð.m. không mất sao được! Ðánh đấm cái đ. gì được. Mạnh thằng nào thằng ấy chạy. Ở Sàigòn thì chúng cãi nhau như mổ bò. Lại mấy thằng hổ mang, phường tuồng nhảy ra phá thối. Ông đ. quên được vụ "bàn thờ xuống đường", mấy thằng con ông bị chết oan.
- Tình thế này mình còn đánh đấm làm đ. gì? Tụi nó chạy thì mình cũng chạy.
- Tao đ. chạy.
Giữa lúc ấy thì đạn pháo nổ liên hồi xuống đơn vị của Tươi. Cùng lúc đài phát thanh loan tin "Ngày 27 tháng 4, đại hội đồng lưỡng viện Quốc hội bỏ phiếu chấp thuận trao quyền Tổng thống VNCH cho Tướng Dương Văn Minh".
"Ð.m. thế là hết!" Tươi lẩm bẩm như vậy, hắn nhoài người phóng qua bờ bên kia, cướp khẩu đại liên mà người xạ thủ vừa trúng đạn. Hắn cứ điên rồ nhắm hướng trước mà bắn, Ðịch quân đông như kiến và dù chúng chết như ngả rạ nhưng cứ hết đợt này ngã thì đợt khác tiến lên. Chiếc radio cứ lanh lảnh thông báo những tin không lành. Hắn tức mình, rút cold bắn nát chiếc máy. Từ xa, tiếng rú kinh hồn của động cơ xe tăng vọng tới. Hắn cầm ống liên hợp liên lạc.
- Trình phượng hoàng! Thiết Nham gọi Phương Hoàng.
- Ðầu máy bên kia không có tiếng trả lời, chỉ những tiếng lè xè do ống liên hợp phóng ra.
- Ð.m. thế là hết! - Hắn lẩm bẩm rồi cầm ống liên hợp vứt mạnh xuống đất.
Hắn thèm một ly cà phê. Mà giờ này thì kiếm đâu ra có, một ly nước sạch còn không có, nước sông, nước rạch là chính. Ðã 2 ngày nay, không còn tiếp tế, ngay yểm trợ hỏa lực cũng không. Chỉ huy chạy mẹ đâu mất. Lúc có, lúc không. Tình hình rối mù, đánh nhau như không định hứơng.
Ðơn vị của Tươi và Ðạt đã bị đánh bật ra khỏi Thành Tuy Hạ, quân số còn lại không bao. Ða số đã vượt qua sông bỏ ngũ. Nhiều con tàu đã lần lượt ra đi. Ðường đi từ Cát Lái tới cầu xa lộ vẫn an toàn. Binh sĩ và dân chúng chen nhau trốn chạy. Bên kia sông Cát Lái, lửa cao ngất trời cùng những tiếng nổ inh tai nhức óc. Hai thằng bạn thân thu phục những toán quân còn lại rút về tử thủ xa cảng. Máy móc liên lạc đã bất khiển dụng. Ðạt và Tươi không thể liên lạc với nhau. Dưới giòng sông, những chiếc tàu hải quân cũng đã lần lượt nhổ neo, dân chúng tất tưới, ráo rác qua lại giữa hai bến đò. Những chiếc trực thăng thay nhau chạy thoát ra những chiếc tàu hàng không của Mỹ đậu ở ngoài khơi. Dân chúng mở to đài, lo lắng đợi chờ những tin tức mới.
Vũ Văn Mẫu ra lệnh cho tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam, chấm dứt một giai đoạn đồng minh thân thiện. Tiếng xe tăng tiến gần về thành phố, đơn vị Ðạt vẫn chạm súng lẻ tẻ với những đơn vị đặc công và du kích nằm vùng. Bây giờ thì hắn không muốn đấm đã nữa. Trạng thái hắn bấn loại giữa cảnh kẻ đi người ở. Những chiếc trực thăng tất tả ngược xuôi trên bầu trời Sài Gòn làm hắn hoang mang đến tột độ. Rồi từ một qúan bên đường, đài phát thanh phát lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Hắn cảm thấy người hắn như tê dại. Ðơn vị của hắn mặc dầu đã rách nát thảm thương nhưng đã chiến đấu anh hùng và cũng đã tiêu diệt được nhiều đơn vị địch quân đông hơn đơn vị hắn gấp nhiều lần.
Bây giờ hắn phải buông xúông quy hàng. Viên thượng sĩ gìa vừa nghe lệnh xong, chạy tới ôm hắn khóc nức nở. Còn gì đâu những chiến công hiển hách oai hùng. Bình Sa, Phú Giáo. Người thượng sĩ cả một đời chiến trận, từ binh nhì lên thượng sĩ. Ông khóc nức nở như một đứa trẻ gặp điều oan ức. Ông cầm khẩu Ak tịch thu của địch, phơ một tràng vu vơ lên trời như muốn xua đuổi tà ma, hắc ám ..
Những người binh sĩ hoang mang vây quanh Ðạt. Cùng nhau nức nở đau thương. Ðạt lấy tay gạt lệ, dấu đi cái vẻ yếu lòng của người chỉ huy trước binh sĩ.
- Bây giờ, tôi đã hết nhiệm vụ chỉ huy. Anh em có toàn quyền định đoạt về phần mình. Hãy tìm cho mình con đường an toàn nhất mà đi. Cố bảo toàn sinh mệnh cho mình và gia đình trong cái giờ phút cuối cùng của cuộc chiến này. Ðừng để những điều oan uổng xảy đến.
Những người binh sĩ ôm lấy Ðạt khóc nức nở như sắp phải lìa xa một người mà họ yêu thương. Những đoàn quân xa đã tiến vào thành phố, những chiếc xe lam, xe kéo trưng cờ đỏ sao vàng với tiếng loa kêu réo inh trời chạy giữa những đoàn người hoang mang, sợ hãi.
Ðạt rời xa cảng như con người vô định, hoang mang không biết về đâu. Bụng hắn cồn cào và các túi hắn trống rỗng vì những ngàn bạc và những bao thuốc cuối cùng đã trao hết cho tù binh. Miệng hắn đắng ngắt, thèm một điếu thuốc. Hắn trở về chiếc xe jeep, lấy vội cái ba lô, vào quán cà phê bên đường thay bộ quần áo dân sự. Râu ria của hắn tua tủa, lâu ngày chưa cạo. Hắn cẩn thẩn gỡ bỏ cặp lon, nhét vào trong mũ trận, rồi cùng với khẩu súng cold, hắn trịnh trọng đặt xuống dòng sông. Hắn đứng lặng yên, ngơ ngác đứng nhìn. Xa xa, những chiếc tàu nối đuôi nhau di tản. Những tiếng súng tay bắn ra lẻ tẻ.
Hắn rảo bước bên đường, đầu óc miên man suy nghĩ về Tươi và Ngân. Những chiếc xe bấm còi inh ỏi, những người lính mặt mày non chợt, chỉa nòng súng đen ngòm như sẵn sàng nhả đạn. Hắn liên tưởng tới những người tù binh non choẹt và nhút nhát trong đồn điền Xuân Lộc.
Dưới dòng sông, những chiếc giang đỉnh vẫn cứ tất tả ngược xuôi. Những đơn vị chen chân xuống thuyền di chuyển, nhưng họ đi đâu bây giờ? - Họ xuống vùng 4 ư? Ðạt nghĩ như thế rồi lại cứ lầm lũi bước đi. Những con tàu phun khói đen ngụt trời, nặng nề ra đi, chở người chật kín trên bong tàu.
Bố già thường vụ đại đội cùng một vài người lính vẫn đi theo Ðạt, những người lính khác thì chào từ gỉa, vứt súng, xuống thuyền qua sông. Ðây là những cái chào nghiêm trang quân cách cuối cùng mà những người lính cùng đơn vị trao cho Ðạt. Ðạt đứng nghiêm chào lại. Thầm chúc bình an cho nhau rồi đường ai nấy đi.
Ðài Sài Gòn đã thay đổi xứơng ngôn, những giọng nói khác lạ chua chát gây vang tai, nhức óc. Ðạt vẫn cứ lầm lủi bước đi, những bước đi chuyệnh choạng của người như mất định hướng.
- Hay là ta xuống thuyền? - Người thượng sĩ gìa đề nghị.
- Ðể đi đâu, khi đã có lệnh đầu hàng!
- Vùng 4 còn nguyên vẹn. Nhiều đơn vị đã di chuyển xuống dưới đó và biết đâu lữ đoàn dù cũng đã ra đi.
- Cũng chỉ là công dã tràng. Chúng ta như rắn mất đầu, đánh nhau không còn mục tiêu định hướng. Tướng lãnh mạnh ai lấy đi, mỗi ngày thay đổi tư lệnh mấy lần. Hơn nữa đã có lệnh đầu hàng từ vị nguyên thủ quốc gia, từ tổng tư lệnh quân đội thì chúng ta đánh đấm với ai. Thôi thượng sĩ hãy về đi, về với gia đình. Biết đâu gia đình thượng sĩ lại không nóng lòng trông mong; nhất là vào cái giờ chiến cuộc đã vừa tàn.
- Thế đại úy đi đâu bây giờ? Hay là đại úy tạm về nhà tôi, sau đó liệu sau.
- Hay là đại úy về nhà em ở Thủ Ðức, đường đến đó vừa gần lại vừa an toàn. - Người lính truyền tin chen vào.
Về đâu bây giờ? Ðạt cũng đang nặng đầu suy nghĩ. Dưới dòng sông, cảnh tượng mỗi lúc một bát nháo hơn, đã có những tràng súng xua đuổi vì dân chúng tranh nhau xuống thuyền! Dân quân ô hợp, mạnh ai lấy lấn. Bên kia bến Bạch Ðằng, những chiếc cờ của mặt trận giải phóng miền nam đã tung bay, chen lấn với những lá cờ quốc gia chưa kịp kéo xuống.
Ðạt ngậm ngùi, cảm thấy môi miệng nhạt nhẽo và đang thèm muốn một điếu thuốc.
Trộm chó
Thứ năm, 17/11/2011, 08:13 GMT+7Chiến tranh đã qua đi nhưng vẫn để lại những nỗi đau thương và mất mát. Đông Mai khi sinh ra đã bị liệt cả hai chân. Đó là di họa của chiến tranh. Cô bé chỉ có thể ngồi trên chiếc xe lăn làm phương tiện đi lại.
Đông Mai không có bạn, người bạn duy nhất của cô là con chó. Cô đặt tên nó là Vàng. Mẹ thường mua cho Đông Mai nhiều trò chơi nhưng cô chỉ thích chơi đùa với con Vàng. Mỗi khi chúng bạn đang tung tăng trên phố thì cô lặng lẽ ngồi tâm sự với con Vàng.
Con chó dường như hiểu được nỗi lòng của chủ, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên chớp chớp, lâu lâu lại liếm bàn tay của chủ như thể để động viên an ủi.
Một lần, Đông Mai bị sốt cao phải đưa đi bệnh viện, con Vàng ra ngoài cửa ngóng chủ về. Lão hàng xóm “tốt bụng” ném cho con Vàng một cái đùi gà. Bỗng phựt một cái, con Vàng đã nằm gọn trong lồng sắt. Lão vội vàng đem con Vàng tới “Cày tơ bảy món”. Xong xuôi, lão ung dung làm vài “choác” rượu rồi ngất ngưởng đi về. Vừa bước vào nhà, lão nghe thấy tiếng gọi vọng lại:- Vàng ơi...Vàng à, vàng ở đâu về đi!“Mặc xác” lão lẩm bẩm rồi lăn ra ngủ. Bảnh mắt tiếng gọi chó lại văng vẳng bên tai đến xé ruột xé gan... Tiếng gọi đã đánh thức lương tâm lão, lão bật dậy lật đật đến quán thịt chó. Con Vàng đang bị hai tên lực lưỡng túm chân, buộc chặt vào cột. Lão thở dốc:
- Các anh không được giết nó.
- Ơ lão này ấm ớ nhỉ. Con chó này đã được trả tiền, lão thích thì bọn này kỷ niệm cho một “choác”. Tiếp tục đi.Một tên cầm dao dí vào cổ con Vàng, lưỡi dao sáng loáng. Lão hoảng sợ hét lên:- Đừng giết nó! Con chó này tôi ăn trộm của ông đồn trưởng công an đấy. Tôi đã khai với ông ta, lát nữa ông ta sẽ đến đây.
Hai tên nói nhỏ với nhau điều gì đó rồi quay sang thương lượng:
- Lão hãy đưa tiền hôm trước ra đây!- Nhưng chỉ còn từng này.Một tên lao tới xốc ngực lão gầm gừ:
- Lần sau biết tay ông. Chó đấy dắt đi.
Lão tấp tểnh dắt con Vàng đến đầu ngõ và thả ra. Con Vàng nhớ chủ lao nhanh vào nhà. Lão thấy cái đuôi ngoáy rối rít của con Vàng và nét mặt rạng rỡ của con bé. Một cảnh đoàn tụ thật xúc động. Lão lững thững đi về, trong lòng nhẹ bẫng.ÔI SINH RA KHÔNG PHẢI ĐỂ NGỒI TÙ !Câu nói ấy của tướng cướp khét tiếng năm xưa Lí Đại Đường chăng? Không!câu ấy của tôi ư? cũng không vì tôi chưa bao giờ đối mặt với đi tù cả.*
Hàng xóm tôi có con chó béc-giê lai căng to gần như con bò, loại chó tấn công nổi tiếng mang biệt danh ‘’police’’ này từng xông pha chống cướp. tổ tiên nó từng tung hoành khắp sa mạc hay thảo nguyên rộng lớn. Vậy mà ông hàng xóm của tôi cũng như loài người gàn dở lại đem nó xiềng một chỗ,nhốt một xó chỉ để làm cái việc ngoáo ộp mà 1 con chó gốm hay chó bông cũng làm được. Lão xiềng nó tự thủa nào chẳng ai hay.
chắc nó bị tù đày hàng chục năm nay nên bản tính trở nên hung hãn và điên loạn khác thường. cặp mắt đỏ ọc phóng những tia nhìn khát máu mỗi khi có ai đi qua. Và đây:Sáng qua có thằng bé nhặt rác đi qua sát cửa, bất thình lình nó chồm lên rồi ...''phựt'' sợi dây xích rỉ lâu ngày bung ra. con ''Tiger-becgiê'' chồm lên như con hổ đói vồ thẳng mặt thằng bé nhặt rác chỉ cao đến cổ chó. .. ,ôi,lạy chúa !..cho tôi xin không tả nữa, lúc đó tôi vốn một lính đặc công cũng trở thành một thằng hèn nhát đứng bất lực sau song cửa sắt nhìn ra chứng kiến một đội dân quân đầy đủ súng ống vật lộn mãi mới bắn hạ con ác thú.
Tối hôm đó tôi đang chuẩn bị ăn cơm thằng bé hàng xóm xộc cửa gọi vọng vào-chú Biện ơi, bố cháu mời chú sang uống rượu !Nghe đến rượu tôi vội nhổm dậy phủi quần xỏ dép chạy sang. Nhà ông hàng xóm đã ầm ầm như có giỗ, hai mâm thịt cầy dồi chó bốc khói béo ngậy. Mâm tôi toàn trai trẻ nên có thêm chân và thủ cấp.
-nào ,zô zô...!!! loạt âm thanh bất hủ reo lên. Tôi run run cầm chén Nếp Mới thơm lừng trên tay mà không sao uống được, trước mặt tôi cái thủ chó to vật đen sì nhe hàm răng dài ngoằng trắn nhởn như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. cặp mắt trắng lồi ra nhìn tôi chằm chằm- ở đó như lẩn phất một oan hồn chưa siêu thoát, văng vẳng quanh tôi vang lên lời nguyền của kẻ tử tội:'' TÔI SINH RA KHÔNG PHẢI ĐỂ NGỒI TÙ''
các bro nào xiềng chó thì thả nó đi, nó không đáng bị tù đày!!!Chân dung nhà thơ Văn Công Hùng qua mắt Mr. Phọt Phẹt
Khiếp, dạo nông nhàn anh cũng hay đánh đu với đám văn nghệ để tập tành con chữ. Bọn cao lão tàng các tụng kinh thì anh không dám. Đám chíp hôi hôi thì trẻ trung quá, không hạp với cái khí độ lìu tìu của anh. Thế là anh đánh đu với cái đám nhơ nhỡ, làng nhàng. Trong số đó, có Văn Công Hùng.Lão này đúng thuộc dạng năm cha ba mẹ. Bố Huế, mẹ Ninh Buồn, á quên Ninh Bình nhưng lại đẻ đái lớn khôn ở Thanh. Và giờ ất ở Tây Nguyên xa thẳm, phố núi Gia Lai mù sương.Nghe đâu bẩm sinh lão có khiếu hoạn lợn. Một thời cũng tụ bạ bạn bè lập gánh hoạn rong khắp chốn. Thế mà giờ làm thơ, hehe...kinh thật! Nhưng đâu đó anh nghe bọn thối mồm chúng bảo, còn có kẻ hoạn lợn mà thành lãnh tụ cơ, khớ khớ. Nói thật, thơ lão anh ít đọc, mấy thứ văn vẻ bờ lốc lìu tìu hay xem hơn. Cứ tưởng là thi sĩ thì giăng với gió, mơ theo chim và tiu ngỉu vì lồn, nhưng lão không thuộc dạng thế. Đời cực! Nhẽ cái sự được làm lãnh tụ làm lão thế chăng? Nói thầm, lão làm tới chức phó chủ tịch hội văn nghệ Gia lai, lại còn ủy viên mả mẹ gì đấy trong cái hội văn nhân An-nam to lớn. Chưa kể đến hàng loạt các chức danh hùng hổ khác mà anh không tiện kể ra đây. Còn nghe lão thì thầm, đâu như sắp tới làm thêm chức Tổng thư kí hội nuôi chim toàn xứ Cao nguyên. Thật là vãi Hùng hehe.Hình như lão không có con giai. Bằng chứng là chỉ thấy lão hay khoe 2 con gái trên bờ lốc. Con gái lão, tận mục sở thị thì anh chưa có dịp, nhưng ngó nghiêng qua bóng hình thì thấy cũng xinh. Đã thế lại còn giỏi học, giỏi làm. Khiếp, đâu ra cái giống người hiếm thế?Còn vợ lão thì anh cũng chưa gặp, trên bờ lốc lão cũng chẳng khoe. Anh đoán chắc già và...rất xấu. Thôi, mình lão đẹp là được rồi, phỏng chị?
Đận rồi lão ra. Anh cùng lão về Thanh chơi. Lão đi việc lão, anh đi việc anh. Nhưng việc gì thì việc, cũng chẳng quan trọng bằng việc bú đớp. Tiệc anh mở lúc 7h sáng, tại gia. Vửa đớp được dăm miếng thì đã thấy Lê Quang Sinh nghễu nghện cưỡi ngựa già phóng đến, bộ hạ theo hầu là lão nhà văn Từ Nguyên Tĩnh, cận lão nhà văn Hoàng Trọng Cường và vài tiểu tốt khác mà anh chưa kịp ghi danh. Bú đớp loạn xị, chém gió ầm ào như bão. Kinh đến độ ông già anh phải cột chặt ti vi và tắt ngay đi tiếng vì sợ đổ và thủng màng loa. Gần trưa thì tiệc tàn. Đệ tử Lê Quang Sinh lại hú xuống phố nhậu nữa. Lại phải đi thôi.À, nói thêm tí về Lê Quang Sinh. Gã cũng thi sĩ. Giời ạ, sao cái xứ An-nam này lại nhiều thi sĩ thế không biết. Gã dân Thanh, đẻ đất Tây Giai cố cung nhà Hồ nhé. Cửa nhả thì ở Sài gòn, nhưng sống và mần ăn chủ iếu lại ở Hà nội. Gã ngoài làm văn nghệ lại còn làm cả quan, đâu như Giám đốc trung tâm văn hóa Hội nhà văn thì phải. Cơ ngơi cũng vật vã ra trò. Anh hay trêu gã là thi sĩ đại tài nhất An-nam. Đéo biết có thích không nhưng mũi mồm cứ hinh hích.Còn văn sĩ Hoàng Trọng Cường là chỗ thân thiết với nhà anh. Nghe đâu còn nhận ông Pa anh là anh kết nghĩa. Hắn cũng đớp được một chức rất oách, Tổng biên tập tạp chí xứ Thanh. Oai ngang cóc! Chức này, nguyên xưa kia là của đại lão nhà văn Từ Nguyên Tĩnh. Cái tên ông này đến lạ, đọc ngược ra thì nó thành mẹ Tình Nguyên Tử, khư khư...
Lại một trận nhậu tơi bời khói lửa. Văn Công Hùng phê hứng chí đọc thơ. Lê Quang Sinh trầm ngâm khoác vai hai em nức nở. Hoàng Trọng Cường thì tranh thủ sửa sắc đẹp bằng cách nặn mụn lồi. Từ Nguyên Tĩnh rung đùi ngơ ngáo, mắt lèm nhèm hỏi anh, hai con thằng Sinh đang ôm ở đéo đâu ra mà đẹp thế nhở? Ôi ông, răng rụng hết rồi thì xơi thế đếch. Cụ nghiêng ngó, anh nhầm đấy chứ, tay tôi ngón giữa to thế này cơ mà, há há. Bỏ mẹ thật!Giữa chiều thì tiệc tàn. Văn Công Hùng lử đử như chó dại vẫy taxi về khách sạn nằm. Anh rủ Sinh, Tĩnh, Cường đi hát. Đéo mẹ, vô phúc vì mất điện. Lại kéo bia vỉa hè nhậu tiếp. Tĩnh già vừa uống vừa ngủ ngật nên đòi về. Hoàng Trọng Cường bú được nửa cốc cũng lật đất về nhiệm sở duyệt bài. Mỗi anh với Lê Quang Sinh. Buồn phát vãi. Anh bảo, thôi về mẹ khách sạn đặt lưng tí để tối tiếp tục triển khai công cuộc nhậu. Sinh trợn mắt quát, ông với tôi cứ ngồi im đây, thằng Hùng nó chưa xong việc. Việc đéo gì thế anh? Sinh nhăn nhó, đóng gạch. A, lão này, kinh thật.Tối, công cuộc nhậu triển khai ở vị trí khác, do đám con nhang đệ tử của anh ở trỏng chúng lo. Chỗ này hoành tráng, ngồi nhà nổi trên đầm ăn các thể loại biết bò, biết bơi. Văn Công Hùng ngực ưỡn như ngực binh nhất được gắn huân chương đĩnh đạc cất bước tiến vào lều, khác hẳn cái bộ dạng lúc chiều. A, hóa ra lão đi với một em, tơ nõn. Lão bảo, phan hâm mộ thơ, trong Thanh. Lê Quang Sinh tay đang thò hàm giật rau giắt răng, trố mắt, han óng ạch. Địt mẹ, hiểu chết liền hehe.Rượu tràn cung mây. Quay đi quay lại chả thấy lão đâu. Bỏ mẹ, lang thang say rượu trúng gió lộn cổ xuống đầm thì chí nguy. Anh bật lửa đi tìm. Hóa ra lão mò sang lều bên cạnh. Lúc anh xuất hiện thì lão đang đọc thơ. Khán giả là một lũ giai thanh gái lịch đang tròn mắt, há mồm xem lão diễn. Mẹ kiếp, lão thăng thật rồi. Quay về lều bảo Lê Quang Sinh, anh cũng là thi sĩ, sang góp vui một tí. Gã phì cười, thơ tao quý lắm, của ôi mới đem ra rao. Ối giời!Tàn canh, cả bọn lại lao đi hát. Giọng Văn Công Hùng thì thật ngang bò đái xô nhôm. Hình như lão biết phận nên rên mỗi bài rồi nghẹo đầu ngáy nức nở, bỏ mặc phan hâm mộ thơ chơ lơ. Lê Quang Sinh nhân cơ hội sấn tới, chả hiểu nói xấu hay tán tỉnh. Anh thì đồng đao đảo địa khư khư giữ mích đánh lai vờ xâu. Tàn cuộc thì giã được rượu. Về nhà đúng 2h sáng, chả nhớ giăng sao. ( tạm thế đã, cút đi hầu ông Pa...)GẦN ĐÈN
Có một đệ tử tâm sự với thầy Thích Thì Chiến: Bạch thầy, con có một chiếc đèn chưa hề thắp, còn nguyên cả một bình dầu sóng sánh. Thế rồi bóng tối đến, lăn xả vào chiếc đèn, chẳng mấy lúc không còn một giọt dầu nào cả.
Một đệ tử khác đang đứng hầu bên cạnh, tổ chức hóng hớt ngay: Sao giống chuyện của tôi quá! Trái tim tôi đang nguyên vẹn, bỗng một ngày, có một người ghé chơi, gõ gõ vào ngực tôi, trái tim mất tiêu.Người này lại nói: Tôi vứt cái đèn không đi rồi.
Người kia lắc lắc cái đầu: Phiền nhỉ, tôi không vứt được cái ngực rỗng của mình.YÊU 2
Một vị sư già sau thời gian dài hoạt động tích cực, được cử làm sư tuyên huấn tại trường nữ tu dòng Chúa Cứu thế (cái này gọi là sự giao thoa tôn giáo). Trong những buổi thảo luận nhóm, ông nhận thấy tình yêu thường là đề tài chính.Đại khái, sư khuyên các cô:
- Hãy biết sự nguy hiểm của cái gì quá độ trong đời mình. Đánh nhau giận dữ quá dễ sinh khinh suất và mất mạng. Tín ngưỡng quá mạnh thành hẹp hòi và kỳ thị. Yêu đương say đắm quá thường tạo ra những hình ảnh mơ mộng về người yêu, những hình ảnh rốt cuộc cho thấy không thật nên nảy sinh sân giận.Yêu quá giống như liếm mật trên đầu mũi dao.
Một cô hỏi sư:- Nhưng thầy sống độc thân, biết thế đêk nào được tình yêu nam nữ?Vị sư già đáp:
- Các con ạ, sẽ có lúc thầy kể các con nghe tại sao thầy đi tu.CHIẾN TĂNGĐất nước có chiến tranh. Thế là thời kỳ khốc liệt đã đến. Một sư trẻ thể lực rất tốt bị gọi đầu quân, thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Sư bản tính hiền hòa phong nhã. Rất lo âu, sư gặp thầy Thích Thì Chiến, hỏi:- Bạch thầy, bổn phận em phải làm gì?- Làm bổn phận của chú đi, hỏi ngu bỏ mẹ.
Ra trận, chàng trai trẻ chẳng bao lâu nổi tiếng với biệt hiệu “Anh bộ đội cuồng sát”, anh chiến đấu quả cảm, gan dạ và khát máu, khiến quân địch vô cùng sợ hãi, đồng đội rất ngưỡng mộ.Khi cuộc chiến tranh đẫm máu kết thúc, chiến thắng trở về, anh (bây giờ phải gọi là ông) được phong danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang" và vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng. Ông sư nhà binh đến Minh liêu cổ tự, chiến bào huy hoàng rực rỡ, từng hàng huy chương các loại lóng lánh trên ngực.
Sư bạch thầy Chiến:- Báo cáo thầy, em đã về. Nhưng em không còn thích hợp để sống với các huynh đệ hiền thiện nữa.- Vào đây, thằng ngu kia. Chú mày đã làm bổn phận mình. Còn bây giờ bổn phận chú là thiền định. Vào đi. Nhưng hãy cởi bộ quân phục ngô nghê kia ra trước đã.
GIẺ RÁCH
Một công chức làm việc rất lâu trong chính quyền để phụng sự chế độ. Ông chỉ là một nhân viên thường chuyên phục vụ giới quan chức cấp cao. Càng về già ông càng chán ghét những tranh chấp nhỏ nhen, những thủ đoạn mánh lới ngấm ngầm để giành giật địa vị.Đến tuổi hưu, ông xa lánh cái gia đình ưa phù phiếm rồi xin vào tu ở một ngôi chùa cách nơi phồn hoa đô hội thật xa.
Ông tự hẹn: “Đây không còn những phiền nhiễu của con người, mình không ngộ đạo ít ra cũng được yên ổn”.Trong chùa, ông nhận ra mình được cất nhắc liền liền lên đến cấp bậc cao. Những thủ thuật cũ của cuộc sống trong chính quyền trước đây biến thành một phần trong con người ông mất rồi.
Chín tháng mười ngày sau ông rời ngôi chùa, mở một quán rượu nhỏ, đồ đạc chỉ sơ sài. Người hỏi lý do, ông đáp:- Có cái đêk gì mà hỏi. Đi đâu cũng vẫn một thứ giẻ rách cũ mèm ấy. Bỏ mẹ đấy đi uống rượu cho nó lành.NỘSư thầy Thích Thì Chiến vì mưu sinh, có thời gian làm gia sư dạy các con giai của một gia đình giàu có.Y nhận thấy cậu cả thường nổi nóng không kềm chế được, và điều này có thể nguy hiểm về sau, vì đây là người được chỉ định được kế thừa sản nghiệp khổng lồ của gia tộc. Một hôm, trong lúc ông nhãi con nổi trận lôi đình, thầy Chiến nốc một hơi cạn chén tống rượu, đứng lên kéo cậu đến gần bụi hoa, dụi tay cậu vào tổ ong cho đến lúc một con ong chích trúng.
Ông ranh con quá kinh ngạc, không ngờ có người dám đối xử với cậu thô bạo như vậy nên tắt mất cơn giận. Cậu ôm tay quay lại thầy Chiến:- Cái ông này bị dở người à? Tôi sẽ báo cáo ông già cho ông biết tay.-Khi nào mách, mày nhớ kể cái này luôn.
- Cái gì?
- Nhìn con ong đây!Hai thầy trò chăm chú xem con ong quằn quại trên chiếc lá, ruột gan xổ tung vì bị lôi theo nọc chích. Họ nhìn con vật chịu đựng nỗi cực hình cho đến chết.
Thầy Chiến tợp một ngụm rượu tướng rồi bảo:- Đấy, cái giá của cơn sân giận, chống mắt lên mà xem đi con.Tối lại, ông ranh con kể ông bô nghe câu chuyện. Ông bô giàu có mở ngay két thưởng thầy Chiến một số tiền đủ để mua rượu uống cả năm, còn lại dùng để mở quán rượu nhỏ. Về sau, ông ranh con lên thay ông bô kế thừa sản nghiệp, nổi danh với lề lối nhận định sự việc thật bình thản, tư thái cung cách rất trầm tĩnh nhẹ nhàng. Trầm tĩnh, làm chủ được mình, đức tính này có giá trị vô cùng những lúc ông ranh con (về sau là ông ranh lớn) phải trải qua các giai đoạn rối ren trong suốt thời gian cuộc đời mình.
CHÓ
Sư thầy Thích Thì Chiến đặt một em chó quay vàng rộm, mới mua về từ Nhà hàng Hương Quê II, khói còn nghi ngút thơm lừng trước mặt ba đồ đệ có triển vọng nhất, nói:- Các con hãy nói ta biết về thịt chó. Ai giải thích hay nhất sẽ được ta mật truyền tâm ấn của bản tự.Đồ đệ thứ nhất nói đặc tính của con chó-đặc biệt là chó cỏ, chó được biết đến ra sao và những truyền thuyết khác về chó.
Vị thứ hai nói giá trị thị trường của chó, tâm thế của thịt chó trong nền văn hoá ẩm thực Việt Nam, cách chế biến thành những món ra sao .Đồ đệ thứ ba chẳng nói chẳng rằng, rút ngay con dao xẻo một miếng đưa vào miệng thầy Chiến, nhẹ nhàng nâng hàm thầy lên để miếng thịt chó vào miệng.
- Đúng.Sư thầy Thích Thì Chiến chậm rãi nhai để cảm nhận hương vị của thịt chó đang tiết ra, bứt thêm vài cọng lá húng ăn kèm rồi chiêu một ngụm rượu tướng nói tiếp:
- Không thể dùng lời mô tả thịt chó. Phải để nó lên lưỡi mà biết. Cách duy nhất biết thịt chó là lúc ngậm miệng nhai.
Tất cả cùng ăn phần còn lại của em chó, chơi hết vò rượu, và đồ đệ thứ ba được truyền tâm ấn.TÁO QUÂNThầy Chiến ngồi nhắm rượu với cá chép luộc, ánh mắt trầm tư nhìn ánh lửa bập bùng trên bếp, trầm giọng kể:
Ngày xưa có hai vợ chồng nghèo đến nỗi phải bỏ nhau. Sau, người vợ lấy được người chồng khác giàu có. Một hôm cúng, đang đốt vàng mã ngoài sân, vô tình người chồng trước vào xin ăn, vợ nhận ra, động lòng thương cảm, đem cơm gạo tiền bạc ra cho. Người chồng sau biết chuyện, người vợ bèn lao đầu vào đống vàng cháy chết thiêu. Người chồng cũ cảm kích nhảy vào lửa chết theo. Chồng sau vì thương, nên cũng nhảy vào nốt. Cả ba đều chết cháy. Ngọc Hoàng thấy ba người có nghĩa, phong làm vua bếp...Bà Táo nổi tiếng có tài cai trị khôn ngoan, giữ vững được hạnh phúc gia đình mình bằng cách xúi bẩy hai đức ông chồng luôn luôn đua tranh, ganh tị nhau. Bà sai đám con nhang đệ tử âm thầm rỉ tai kích động khiến họ lúc nào cũng bất an (với mục đích để hai người không liên kết chống lại bà ta, bỏ đi theo đám con gái trẻ đẹp nõn nà nhan nhản ngoài phố).
Bà thường bảo ông chồng này:- Anh à, anh có thấy anh kia cày lô đề chính xác không, hôm nào cũng làm vài nháy? Sao anh không làm được vậy?
Rồi bà lại bảo ông chồng kia:- Anh xem lại đi, đánh bài lỏng tay quá, qua học tập anh ấy kìa, đánh rắn mà đọc bài, phách vị đâu ra đấy.Lúc có việc, hai ông chồng cố gắng thi đua lập thành tích hòng qua mặt đối thủ. Để họ công tác hăng say hơn, bà Táo thường cho hai người cùng làm một việc, ai làm tốt được khen thưởng, ai dở hơn bị hạ nhục, dù công việc chung đã được hoàn thành.
Không cần nói, lòng thù ghét nhau của hai đồng chí Táo quân chẳng còn biết bến bờ đâu giới hạn, ngoại trừ lòng trung thành và tình yêu vô bờ bến với Táo bà.Một hôm xấu giời, bà Táo vỡ bảng đề, thua bóng đá, tá lả thì đền đều tay, bị phi đội cho vay lãi tổ chức truy sát, muốn tắm máu bà cho hả giận. Tuy nhiên, vào phút chót, một trong hai đồng chí Táo quân sau khi đã làm một chầu say tuý luý, mắt vằn đỏ, hai tay ba dao, đột phá trùng vây đưa được Táo bà ra. Bà vừa nốc vại bia cho lại hồn vừa hổn hển:
- Anh thân yêu muốn em thưởng gì? Em sẽ cho bất cứ mọi thứ trong phạm vi em có thể.- Bất cứ gì ư ?Mắt đồng chí Táo quân loé lên một tia sáng độc ác khiến Táo bà chợt nghĩ có thể ông ta sẽ đòi xin chiếc đầu Táo quân kia.
- Đúng, bất cứ gì. Nhưng em cho anh biết trước để chọn, là sau này em sẽ cho ông kia gấp đôi vật ấy đấy.Đồng chí Táo quân đáp:
- OK. Vâng, xin em thân yêu hãy lập tức cắt đi một hòn ngọc của anh.
Nón lá áo tơi ra quán chợ…
Lần đầu về thăm quê nhà, bụng dạ cứ lao nhao làm như thiếu vắng giấc hương quan mẫn luống canh dài. Vừa lúcthằng
bạn mèo mả gà đồng biết thừa bứa tôi có căn tu, chiều chiều ngồi không…tu tới những hai, ba chai lận. Nên nó gọi điện thoại gửi gấm một gã bạn Văn Khoa của nó thuộc diện hẻm nào cũng biết, ngõ nào cũng hay, bảo đảm chẳng ế độ.
Cứ theo lời nó kể lể riêng khoản lỳ một lam, làm một ly gã thuộc dạng sáng say chiều sỉn, hiểu theo nghĩa là nhậu tới bến. Ấy là chưa kể gã là dân Hán học, chữ nghĩa ngập răng nên chuyện…chó gì cũng biết. Như khuyển với cẩu khác nhau cái khổ nào, gã ấy luận với thằng bạn tôi rằng:“Khuyển là chó, không phân biệt kẻ quen, người lạ, gặp là sủa, nên chữ Hán, chữ khuyển tượng hình là con chó đang ngồi lè lưỡi. Cẩu là chữ Nôm, cẩu sủa có bài bản câu cú rõ ràng, gọi là sủa có văn. Vì thế chữ Nôm về con cẩu, cạnh bộ khuyển, còn thêm chữ “cú”, ngụ ý sủa ra câu cú có vần, có vận”.
Thế đấy, thưa bạn đọc.Thế nên với tôi như vậy là quá đủ cho một chuyến đi. Nếu có túc duyên gặp anh nhiêu, anh khóa nho phong sĩ khí đầy người mà ngộ chữ với có tức là…không, không tức là không …có, thì đi nhẹ về nặng, biết đâu gánh về được một bồ chữ cũng là cái hay. Số ruồi,chẳng may vớ phải ông hủ nho, hủ nút
nát chữ như trấu chát với…vô chăng, hữu có, khuyển chó, dương dê thìnhư thêm đũa thêm bát vậy thôi.
Nói cho ngay, tôi chẳng nho nhe gì, chỉ biết vài mặt chữ chi, hồ, giả, dã đủ để đọc dăm quân bài mạt chược. Đất sinh cỏ, già sinh tật, cái tật của tôi đã dốt lại hay khoe mẽ nên mới thành chuyện. Bạn đọcrên rẩm rằng gì mà nhiễu sự quá thể?
Cần người đối ẩm trong đám nhân sinh này ư? Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu, cứ rủ nhaunón lá áo tơi ra quán chợ
, chén rượu men lành, lạnh ngón tay
là xong. Nhưng thưa với bạn đọc rằng thói đời lắm khi cũng gặp vạn sự bất như ý…Chuyện là về đến nơi, điện thoại mới chớ phở ra là gã hành nghề…chạy taxi nên tôi có hơi…chuếnh choáng. Nhưng nghĩ lại cũng tốt thôi, vì Sài Gòn đầu đường cuối ngõ gã là thổ công thì ăn chắc. Vì vậy tim gan phồi phẻo tôi được thể lại rối rắm khôn tả.
Đón tôi trước cửa khách sạn, ngồi trong xe tôi ngó chừng gã, thực mục sở thị gã cũng bình bình, thuộc dạng gặp một lần là quên ngay. Nói vậy chứ cũng chẳng ngon sơi cho lắm, bởi lẽ mới sơ giao không nhẽ hỏi đưa đi…ăn thịt chó chẳng tao nhân mặc khách cho mấy. Cây giống bóng của giống người, dòm bên đường thấy mấy tiệm “nhét dô răng”, tôi lâm râm vừa đủ cho gã nghe:
Trăm năm sông núi cũng mòn, nghìn năm bia rượu vẫn còn như xưa. Gã chỉ ậm ừ. Tôi bèn…văn dĩ tải đạo, bằng cách buông xả dăm khoẻn lơ mơ lỗ mỗ với gã như thế này đây:“…Hai thiền sư, một già một trẻ, thiền sư già Unsho phóng khoáng không bao giờ để ý đến giới luật. Thiền sư trẻ Tazan khắc kỷ, luôn luôn giữ giáo luật của nhà Phật. Một hôm Tazan từ Tokyo về nhằm lúc Unsho đang nhắm rượu với thịt chó. Sư già chào đón sư trẻ: ”Thầy làm một miếng mồi đưa cay chăng?
Tazan nghiêm giọng đáp: “Tôi không bao giờ ăn thịt chó”.
Unsho cười đáp: ”Một người không ăn thịt chó, không uống rượu, không phải là người”.Sư trẻ nổi sùng lên: “Thầy nói tôi không là người thì tôi là gì?”Ông sư già cười tủm:
“Một ông Phật…”.Gã cũng cười tủm rằng gã không phải là…Phật. Và lái lụa tiếp. Một lát sau ngừng ở chân cầu Thị Nghè, nhìn bảng ““nhét dô răng” có tênQuán Lá Mơ. Tôi thở phào một cái, quẳng gánh lo đi nhẹ lấy mình và ung dung tự tại nhập thế tục một chiều trên bến nước…
***Thò đầu vào quán tôi choáng ngay, bộp vào mặt là trên kệ sát cửa, bày hàng một dàn năm bình bự sự. Bình nào cũng to đùng bằng cái nồi ba mươi có “thương hiệu” theo tứ tự với nhất xà, nhị xà, v..v.. Vừa để cái bàn tọa va vào ghế, mắt vướng víu vào cái tam xà, chôm chỉa chữ nghĩa báo chợ, báo chùa bấy lâu. Tôi lêu bêu với gã ắt hẳn là ba con mang bành, cạp nong, hổ trâu chi đây. Gã im thin thít. Chỉ cho gã cái ngũ xà, tôi khua môi múa mép chém chết là một mang bành, một cạp nong, một hổ trâu, một rắn ráo, một mai gầm…Gã lặng như tờ. Tôi lăng ba vi bộ với Kim Dung rằng Lam Phụng Hoàng cầm bát rượuNgủ bảo tửu
đưa Lệnh Hồ Xung. Rượu có ngâm năm con trùng độc là một con rắn đen, một con rít, một con nhện, một con bọ cạp và một con trăn nhỏ bằng đầu ngón tay.
Gã hủ nho, hủ nútlàm như không nghe vì quán xá đang ầm ào, buông xả với thịt chó như một di sản văn hóa lâu đời. Gã vẫy tay ới người phục vụ lo chuyện hậu sự…Thấy gã không mặn mà mấy con rắn cho lắm. Chợt nhớ hồi này ở trong nước đổi mới tư duy với cao trào mang công án Thiền vào quán nhậu. Vì cần thuyết phục nhau, thì "dùng công án Thiền dễ hiểu hơn nhiều”. Như "Lấy đũa quơ trăng", "Thiền sư qua sông", "Quẳng dao giết lợn xuống là thành Phật" cùng "vô minh", "vô ngôn", "vô thường", "vô ngã", "vô sở đắc", "vô sở trụ" rất rõ ràng, sáng tỏ. Như hỏi một nhà văn rằng vì sao anh ta cứ mài óc ra mà viết bài cho báo lá cải. Đáp:Phật cũng chỉ là que cứt khô thôi mà!
Hỏi tiếp:Sao Phật lại là que cứt khô?Đáp:Anh không biết công án Thiền à?Thế là người hỏi cứng họng. Trao đổi với một nhà phê bình văn học khác:Bài viết này của anh nội dung chả nói được điều gì. Đáp:Nói được cũng bị ba mươi hèo, không nói được cũng bị ba mươi hèo thôi ông ạ. Bèn hỏi tiếp:Ba mươi hèo ở đâu ra thế?Đáp:Thế là ông không đọc công án Thiền rồi!".Là xong.Không nói chuyện rắn thì “khảo luận” về…chó với "vô sở đắc", "vô sở trụ". Nhìn ra con sông Thị Nghè đang lặng lờ trôi…Chuyện thuyền trôi theo nước là tôi có ý đồ muốn khuấy mái chèo về con cún nhà tôi không ăn thịt mà chỉ ăn rau. Món khoái khẩu của nó là rau muống nên tôi chắc mẩm kiếp trước nó là Bắc kỳ. Sau nó nhai giá sống rau ráu, tôi chắc như bắp luộc nó là Nam kỳ. Với khoản đậu rán thì nó hỉ xả trông thấy, nên tiền kiếp nó là một ông Phật chăng. Gã lắc lắc cái đầu. Tôi hỏi:Thế là ông không đọc công án Thiền rồi. Được thể tôi khủng khỉnh cọ đít nhồi với gã qua một công án về một ông tăng hỏi sư Triệu Châu:
“Con chó có Phật tính không”.
Triệu Châu đáp:“Không”.
Gã trầm ngâm, làm một hơi thuốc từ tốn thở ra…mây, và kể chuyện hoa rơi cửa Phật cùng nhang đèn hương khói như dưới đây và tôi cứ căng tai ra mặc sức mà nghe:“…Tôi không nhớ ông già tôi đã nuôi con chó Đốm con từ hồi nào. Chỉ biết mang máng là ông đã xin nó về nuôi từ lúc mới đẻ, báu vật của một ông bạn già ở xa nhà tôi khoảng mươi cây số hương lộ. Vậy mà ông bạn cố tri ấy đành cắt khúc ruột của mình ra tặng cho ông già tôi. Thế đủ biết cái tình bạn nhậu giữa hai ông già thâm sâu, thắm thiết biết là dường nào.Đúng là bợm nhậu theo kiểu giang hồ, ông già tôi quả là một dân nhậu khét tiếng từ Hóc Môn đến Bà Điểm với rượu đế Ông Già Ba Tri. Nếu không nổi danh như vậy ông đã không đến nỗi bán vợ đợ con để về chui rúc dưới mái tranh vách đất xập xệ, trông chẳng khác nào cái chòi nhỏ. Mái tranh cũ rạt không che kín đủ bên trong, lúc nào cũng như chờ đợi những cơn mưa dột ướt cả người ngợm. Còn cái tình cảm giữa ông bà già tôi mới thật là éo le. Chính vì ông già tôi là bợm nhậu nên bà già tôi không thể nào chịu được cái cuộc tình giãy chết này nữa. Bà đành một mình cự tuyệt ông già và lặng lẽ dắt hai đứa con thơ kéo nhau về cắm dùi ở cái thôn Quảng Phước xa xôi hẻo lánh để làm lại cuộc đời…”.
Vừa lúc người phục vụ xuất hiện, như thân quen từ trước, gã rì rầm nói cho cái bình da lươn và hai cái chén Tống. Tôi nghệt ra hỏi gã mình vào đây uống ruợu rắn chứ…lươn lẹo gì? Gã lươn khươn rằng ấy là cái bình đất nung cho tới màu da lươn, để lâu lạc tinh thành mầu gan gà nên còn gọi là ché. Ché đựng
Thập nhị xà nhất điểugồm 12 con rắn là hổ mang, hổ lửa, rắn ráo, mai gầm, cạp nong, hổ hành, hổ hèo, rắn lục, liu điu, ri voi, ri cá, bông súng và nhất điểu là…con bìm bịp. Như trên đã thưa gửi, tôi không có tướng lại có tính, tính hay khoe mẽ ấy mà. Nên tôi chộp giựt với chén Tống rằng cứ theo cụ Vương Hồng Sển, trước dùng để uống rượu, đến đời Thanh vì…tửu lạc vong bần nên để uống trà.Lại làm như điếc đặc, gã cứ quấn quýt với con chó nhà gã:
“…Vậy mà ông cũng tìm ra được tông tích của ba mẹ con tôi rồi cũng rút binh về theo. Tuy nhiên cái tình mặn nồng ngày xưa không còn nữa. Cái nhà là của bà già tôi mua nên trên nguyên tắc ông già không có quyền ở chung. Túng quá ông phải tự làm lấy một cái chái nhỏ che đỡ mưa nắng, núp dưới bóng cây xoài to, sát bên bờ giếng làm chỗ trú ẩn, coi như tạm cắm dùi chung trên cùng mảnh đất, ở ngay sau cái chòi má con tôi ở.
Hai người như hai cái tai của cái cối xay, người ở đằng trước thì kẻ ra đằng sau, người ở trong nhà thì kẻ phải ở ngoài hoặc ngược lại. Cũng chính vì cái nỗi buồn đơn độc này mà ông già tôi phải tìm cách nuôi một con chó làm bạn. Thoạt đầu ai nấy đều lắc đầu bởi ông già tôi ngoài cái chuyện nhậu nhẹt, ông còn là một tay mần thịt cầy nổi tiếng nên không ai tin tưởng vào lòng tốt của ông một khi con chó bắt đầu lớn. Ấy vậy mà mối tình thủy chung này lại kéo dài đến suốt cuộc đời của hai "người" còn hơn là mối tình lớn của ông với bà già tôi. Con Đốm hiện diện trong nhà tôi từ ngày ấy ở Trung Chánh Bà Điểm quê tôi này…”Vừa lúc người phục vụ mang ra đầy đủ đồ nghề với “cái trước để uống rượu, sau cũng để…uống rượu”. Thôi thì thượng điền tích thủy, hạ điền khan, gã nhắm món chả chìa trước cái đã. Chỉ cái bình tam xà chẳng con rắn chết tiệt nào nằm trong, gã râm ran tam xà không như tôi…hoang tưởng mà gồm “hổ mang, hổ lửa, hay mai gầm hoặc cạp nong”. Còn ngũ xà gồm ba loại trên thêm hổ hành và hổ hèo. Ấy là rượu rắnPhụng Hiệp
ở đất Phong Dinh. Rắn được mổ bụng, bỏ hết, chỉ giữ lại mỡ và mật vì đây là hai vị thuốc trị liệt dương, đau nhức, táo bón và…phong thấp như ông già gã.
Và gã rắn ráo về chuyện…ông già gã:“…Từ hôm ông già tôi âu yếm ôm con Đốm về nuôi đã gây ra một bầu không khí chộn rộn trong gia đình không ít. Má tôi vốn có tính không ưa chó mèo nên khi thấy vậy bèn hứ cho một câu chí tử "Cơm không có mà ăn còn đem chi cái ngữ ấy về nuôi, giỏi lắm được năm ba bữa nửa tháng là vô bụng". Bà thường nói trổng từ trong nhà vọng ra cốt cho ông già tôi nghe cho bõ tức. Riêng anh em tụi tôi thì đặt nhiều dấu hỏi to tổ chảng là không biết con Đốm con sẽ ăn uống thế nào khi con mắt còn nhắm rít.Cơn lo lắng của ông già kéo dài mấy ngày trời thì đột nhiên bữa nọ, cả nhà bỗng thấy con chó mẹ không biết từ đâu lòi ra với bộ lông đen ngòm đang nằm xoải mình ra bên cạnh gốc xoài, thò mấy cái vú dài ra cho con Đốm con bú. Thế là vấn nạn trước mắt được giải quyết ngay tức khắc nhưng sau đó ai nấy đều cảm thấy có một cái gì không ổn!…”.
Nghe đến mỡ và mật vì đây là hai vị thuốc trị liệt dương. Quên khuấy gã là anh nhiêu, anh khóa, mồm mép tôi như tép nhảy về rượu chữa bá bệnh, tôi như mắc bệnh từ ám Hán tự với chữ “y” là thuốc, trong chữ “y” có chữ “tửu” là rượu đứng trước. Tôi hú họa gã bài cao đơn hoàn tán về thuốc rắn:
Ai bị phong thấp, ngâm sẵn hổ mang. Ai bị da vàng, tìm rượu hổ lửa. Đàn bà không chửa, chuốc lấy mang bành. Đàn ông hoạt tinh, đừng quên rắn ráo…. Tôi sơn đông mãi võ rằng con bìm bịp…có võ, nó bay xuống cắp rắn con bay lên cao thả xuống là rắn…chết tươi. Tôi hươu vượn là hai loại kỵ nhau như nước với lửa, lấy liệt hỏa mà khu trừ hàn tà để chữa bệnh…phong thấp. Tôi múa may thêm âm với dương là chân âm toàn thịnh, chân dương hữu khuy…là để chữa bệnh…hoạt tinh.Gã nhìn tôi bằng nửa con mắt rùa và nhẹ nhàng lất phất rằng bìm bịp là chim rừng nhỏ hơn gà, lông nâu, đầu đen, đuôi dài, kêu…“bịp bịp”. Khi bị gẫy chân, nó tự chữa trị lấy bằng cách đi kiếm lá bìm bìm hình chân vịt hay lá bìm bìm…xẻ ngón về đắp chân.
Gã lắc đầu, ngỡ gã lắc đầu về con bìm bịp bị gãy chân. Hóa ra không, gã lại âm ỉ:
“…Không bất ổn sao được khi cả nhà tôi từ ông già cho đến má tôi đều tỏ vẻ ngạc nhiên là không biết tại sao với hơn mươi cây số hương lộ, không chỉ đường cho con chó mẹ đi mà nó tìm ra được căn nhà nơi đứa con của nó bị "bắt cóc". Chẳng lẽ nó đánh hơi mũi tài tình đến như thế? Kế tiếp là nó phải vượt ruộng, vườn, khe rạch mỗi sáng cả đi lẫn về để cho con Đốm con bú, thử hỏi sức người cũng phải tiêu điều huống hồ là súc vật. Thế mới biết cái tình mẫu tử con vật cũng thật là thảm sầu thâm sâu! Sau đó nó chạy ngược về thôn trong. Được mấy ngày, một buổi sáng, anh em tôi ra gốc xoài nhưng không còn thấy bóng dáng con chó mẹ đâu nữa. Người chủ cũ cho hay là nó đã biệt vô âm tín! Chúng tôi biết nó đã thật sự gặp chuyện chẳng lành ở…quán thịt chó đâu đó…”.Không thông hanh lắm về ông bạn mới cáo cạnh này nên tôi phun ra chuyện chó Bắc, chó Nam, đến con rắn chữa bệnh…hoạt tinh. Qua những chuyện ấy tôi mới ngớ ra gã là Nam Kỳ miệt vườn, tạng người nhạt hoen hoét như nước lã ao tù như đã diễn tả ở trên. Nhưng cung cách uống rượu rất…nhất cổ nhì quái.Gã bày hai cái chén Tống trước mặt. Cái cổ ché có hai cái tai là cái quai. Hai tay gã bưng…hai cái tai lên. Vô tửu bất thành lễ, gã rót cho tôi trước, cho gã sau. Cái chén Tống “ngồi” trước mặt gã. Gã khẽ cúi đầu xuống cái chén hít nhẹ. Một động tác gần như, thoáng như có một chút nào trang nghiêm, kính cẩn của một tửu đồ đi tìm vô ưu, vô thường của tửu đạo. Sau đấy, cũng hai tay, gã đưa cái chén ngang miệng, mặt mày trầm ngâm, đầy rẫy tĩnh không, tĩnh lặng. Đang đăm chiêu qua chén rượu. Bất chợt gã ngửa cổ ực một cái nhẵn thín như voi uống thuốc gió, như nghi lễ uống trà của trà đạo, của thiền sư. Rồi…
Rồi khà một cái, vẫn khuôn mặt vô ưu, vô minh ngập u u minh minh, và trầm ngâm:
“…Con Đốm con bây giờ lâm vào cảnh mồ côi. Nhà nghèo nên đụng gì ăn nấy,càng ngày càng đèo đẹt nhỏ thó, trong khi các con chó hàng xóm cùng bầy lớn lên phổng phao thấy rõ! Thiếu tình thương của mẹ, Đốm càng ngày càng bị ăn hiếp, càng quắt lại không sao lớn nổi. Không được mẹ liếm láp cho thường xuyên, lưng nó bị đốm ghẻ nhỏ biến thành lác. Tháng ngày qua đi, chó con hàng xóm chúng bắt đầu ăn cháo thêm bù vào ngoài khoản cai bú sữa mẹ. Nhưng thảm thương cho Đốm chẳng bao giờ nó được bữa no, vì bị lũ đồng loại lớn con đẩy bắn ra ngoài khi Đốm len vào xin ăn. Những lúc ấy nó hận lắm, rít lên trong cổ những điều nguyền rủa, nó thề rằng nó sẽ trả thù…”
Nói cho cùng, tôi cũng là thằng mềm môi uống rượu mẻ bát thiên hạ, nhưng thú thực chưa được nếm cái thứ rượu quái quỷ này đây bao giờ. Gã hỏi tôi uống…đạt không? Tôi gật gừ. Và gừ gật tiếp là gã nói chuyện rắn trong lỗ cũng phải bò ra. Gã im ỉm. Lặng im.
Chơi vơi trong cảnh chiều, cái đầu tôi bồng bềnh trên sóng nước của con sông trước mặt vớitrừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu, cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu. Buồn buồn tôi nhấp từng ngụm nhỏ. Gã bê cái ché rót vào chén, vừa rót từ từ gã vừa liu điu tiếp:
“…Sau nhiều ngày, nằm gác mõ buồn hiu suy nghĩ, Đốm bèn "ngộ" ra rằng, muốn trả thù thì phải lớn con. Nhưng sữa mẹ không được bú, cháo chó cũng chẳng được ăn, thì ăn gì mà lớn!? Đốm lang thang trong sân, thấy cu Tí em tôi đang làm việc bài tiết, đói bụng quá, Đốm làm liều, làm tới xơi trọn chỗ cu Tí vừa thải ra. Đó là lần đầu tiên Đốm ăn bẩn, người ta bảo cái gì lần đầu cũng khó khăn, còn những lần sau thì quá dễ. Miệng Đốm đã quen ăn bẩn, thế là từ đó, Đốm xục sạo khắp nơi, chỗ nào có người bài tiết là Đốm làm nhiệm vụ dọn bãi, tranh thủ cho đầy ruột. Mà không hẳn là phân người, đến phân gà, phân heo Đốm cũng không từ. Vì ăn bẩn quá, bụng Đốm càng phưỡn ra với cả núi giun sán. Có nhiều ngày Đốm ói ra mật xanh nanh vàng, kinh khiếp không thể chịu nổi…”.
Kể đến đây, gã khuân chén rượu làm cái “chóc” sạch banh như uống nước rau luộc. Rồi gã mới hừ một cái rằngkiến
trong lỗ cũng phải bò ra vì…rắn
không có tai. Mặt tôi như bát tiết canh sũng nước và vểnh tai ra nghe chuyện rắn rết bò vào, cóc nhái nhẩy ra:
“…Thân thể Đốm hôi hám, lông
xơ xác bờm xờm, lũ chó hàng xóm càng tránh xa. Mỗi khi Đốm đến bên bà già tôi, nó bị bả xua đuổi dữ dội. Đốm hận đời, hận cả loài người hận cả loài chó…những mặc cảm thua thiệt từ thuở thiếu thời đi sâu vào tiềm thức nó. Nó quẩn quanh với dự định báo thù, nhưng một mình sức yếu, Đốm chẳng làm gì được ai trong gia đình tôi cả. Mỗi khi ai trong gia tộc Đốm đi ngang qua ả, ả nhe răng trợn mắt ra gầm gừ đe doạ…ngày tháng trôi qua, mặc cảm cũng đi theo Đốm vào tuổi xuân thì cùng hoa lá cành.Dù gì thì Đốm cũng vẫn là động vật bình thường, nó vẫn mơ về một anh chó đực đẹp trai để cùng nhau mơ mộng duyên đầu. Nhưng anh chó đực nào cũng xa lánh vì cái thân thể nhỏ thó gầy gò và hôi hám vô cùng tận của Đốm. Những khát khao xuân tình không được thoả mãn, Đốm càng hận đời đen bạc, hận kẻ bạc tình..”.
Vừa lúc đĩa chả chìa vàng ươm, thơm điếc mũi đưa ra. Chẳng thiếu
lá mơ xanh tím, lát củ riềng thái mỏng trông thật bắt mắt, làm lục phủ ngũ tạng cứ nhiễu nhương cả lên, vì là trông đĩa thịt thấy đẹp một cách…điêu đứng. Tôi thầm nhủ nào có ăn không thì bảo nhưng nghĩ sao lại thôi vì dẫu gì gã cũng là khách nhậu của tôi hôm nay thuộc diện chó đen quen ngõ. Cứ như thằng bạn đời tôi tiến cử thì trời nắng chó trắng, trời mưa chó vàng gã làm tuốt luốt. Thảo nào gã chẳng vội gì, nhón một lá húng thật tươi bỏ vào miệng nhóp nhép. Gã nheo mắt nhìn tôi ra cái điều trước sau…chó nào chẳng ăn cứt, ốc nào chẳng ăn bùn. Và rì rầm cứ như tụng kinh trước khi trai tịnh:“…Ở đầu thôn có một con chó già, đã bị xà mâu lâu năm, nay nó đã yếu lắm, mắt luôn đổ ghèn và đi cà nhắc. Có lần Đốm ghé qua thấy vậy, bèn nhủ lòng là: "Có lẽ duyên phận mình buộc vào chỗ này đây!" Và quả như vậy thật, khi có những dấu hiệu của giống cái xuất hiện, Đốm đã đến nằm bên lão chó già kia gạ gẫm dâng hiến. Lão chó già lâu ngày bị bỏ rơi, cô đơn tận cùng, nay của "giời cho" nên rất vui mừng đón nhận cảnh giới ấy. Đốm tự dưng mượt mà hẳn ra, còn lão chó già thì dường như trẻ lại, lão thương Đốm vì Đốm đã đến cứu nguy đời sắp tàn phai của lão! Đốm lớn lên và trông "đẹp gái" ra trông thấy.
Ông già tôi cưng nó hơn cả tôi với thằng Tý vì khi ông say sưa chỉ có nó làm bầu bạn. Nó quấn quít bên ông như hai cha con, còn tụi tôi phải ngủ với má vì không chịu nổi cái mùi rượu nồng nặc đến chết người. Ác thay một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày thì ông say đến hết một nửa, bữa say bữa tỉnh khiến ba mẹ con phải ra bờ rào trải chiếu ngủ mặc cho gió sương, mưa bão hoặc rắn rít, bò cạp đêm hôm có bò tới làm thịt nên cũng đành chịu!…”
Chòm chèm qua “rao” đầu. Gã rót cho cả hai. Bắt chước gã, tôi cũng hai tay thành khẩn bế cái chén Tống ọc một quả ra trò như cụ Phan Thanh Giản uống thuốc độc. Gã hỏi tôi sao cứ uống mà không nói chuyện gi sất cả. Như gãi đúng chỗ ngứa, tôi ực tiếp cữ thứ ba. Quả có khác, tôi thấy cái say lừ đừ từ chân tóc bò xuống tận gót chân. Xong, mượn dịp này tôi ư hử sổ nho:tửu phùng tri kỷ thiên bôi tửu, thoại bất đầu cơ, bán cú đa
ra cái điều gặp bạn như gã rượu uống bao nhiêu cũng thiếu và nếu tôi có nói nửa câu cũng là nhiều. Sợ gã hiểu ra là
túy ông chi y bất tại tửu, tôi nói chữa
tửu vô lượng, bất cập loạn.
Mà gã hiểu lầm thật, ngỡ tôi nhắc khéo là …hết rượu, gã ới thêm cái
Cửu xà nhất điểu. Mắt tôi tròn dấu hỏi vì bộ rắn chùa hay sao mà nhiều quá thể, lại thêm chín con nữa. Gã bâng quơ rằng cứ bỏ ba con của thập nhị xà là xong ngay. Và rắn rết như thế này đây:“…Một năm, ruộng lúa bị mất mùa, chẳng ai gặt hái được gì nên cái nghề sửa xe đạp trong làng của ông già tôi cũng sa sút theo, ít ai còn muốn sửa xe đổi lúa nữa. Ông già tôi phải chịu đựng bữa đói bữa no, có lúc ăn cháo thay cơm, có lúc ăn rau thay cháo. Cuộc đời của con Đốm cũng thăng trầm theo cái vận mạt của chủ nhưng không bao giờ thấy nó thở than, tru tréo. Ngược lại ông già tôi dù đói cách mấy vẫn không có ý nghĩ làm thịt con Đốm mặc dù nó đã lên hai tuổi và dư đủ cho ông già tôi có một tuần xẻ thịt nhắm rượu. Đủ để biết cái tình thương ông là dường nào, có khi ông còn nhịn đói chừa cơm cho nó ăn nữa là khác!…”
Gã ngừng kể lể…Tôi thấp thỏm đợi vì cứ ngỡ khi gã kể lể đến khúc “dư đủ cho ông già tôi có một tuần xẻ thịt nhắm rượu
“ thì thể nào gã cũng làm vài miếng chả chìa vàng ươm, đang ngậy thơm điếc mũi. Thế nhưng không, gã nhẹ nhàng nhấc chén cửu xà nhất điểu lên với một phong thái rất ư Lão Trang: Khoan thai xoay xoay cái chén, đưa lên từ từ và cúi đầu xuống nhẹ hít hà…Đợi hơi rượu lởn vởn, thảnh thơi chui tọt vào lục phủ ngũ tạng, tim gan tì phế rồi điềm đạm từng ngụm nhỏ. Mép khẽ nhếch câu nho phong:tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu.Gã thong thả đưa cái chén xuống. Cùng lúc mồi điếu thuốc, lờ đờ nhả khói và nói xa gần, xa vắng với tôi là “thiên bôi thiểu” chứ chẳng là “thiên bôi tửu”.Tiếp, khaon thai đưa cái chén Tống lên ngang miệng và cũng từng động tác chậm chạp ấy, không thừa không thiếu. Gã uống lặng lờ như một cái bóng, càng uống càng tỉnh, mặt không hề đổi sắc. Gã vật vờ uống, càng về chiều, hình như càng đắm chìm trong khói thuốc lá dầy đặc và chẳng quên câu chuyện dở dang:
“…Nhưng với thời gian, tính Đốm càng ngày càng hung hãn, nhất là khi nó thai nghén và sắp sửa ở cữ, nó cắn răng nguyền rủa lão chó già vô cùng độc địa. Với tính khí thất thường của Đốm, lão cũng không chịu nổi, mấy lần lão tính bỏ đi, nhưng nghĩ tình xưa nghĩa cũ nên ráng cắn răng chịu đựng. Đốm dù bụng mang dạ chửa, song vẫn thúc lão chó già gây hấn củng bạn bè gần xa của Đốm. Con Khoang là kẻ đã từng bị vợ chồng Đốm bề hội đồng cắn gẫy chân, toạc cổ, may mà có cu Tý cứu kịp. Bầy chó hàng xóm kiềng mặt vợ chồng Đốm, không muốn nhận vào làng chó, vì chúng đi đến đâu là nơi đó có chiến tranh!…”
Nghe gã kể lể “ông già tôi dù đói cách mấy vẫn không có ý nghĩ làm thịt con Đốm”tôi để cái đầu đẩy đưa: Rằng tôi là thằng ăn thịt chó lờn môi với
mưa nắng làng nhàng chó nào cũng được
.Vừa lúc nhà hàng bầy lên đĩa sườn nướng từng miếng bằng ngón tay, vừa nạc vừa mỡ, thịt như còn xèo xèo cháy chín vàng như nghệ, mỡ giỏ xuống bốc khói thơm điếc mũi. Ấy
vậy mà gã cũng chưa chịu đụng đũa cho. Tôi đành bấm bụng ngồi đợi gã…nhai xong chuyện
. Gã thả rong chuyện chó cũng giận hờn, cũng tham, sân, si này kia. Tôi thở ra nghĩ quấn rằng gã chỉ là tên uống rượu bát nháo, rượu vào lời ra rồi bốc nhằng cho sướng miệng thế thôi và gã vén môi chuyện ghen tương của chó mới ngược đời:
”…Một bạn gái của Khoang, Mực là một mụ chó nạ dòng thì nghĩ khác, mụ cũng đã từng bị Đốm đuổi theo cắn một lần vào mông nên mụ hận Đốm lắm, mụ rắp tâm triệt hạ Đốm cho bằng được. Chuyện trớ trêu là lão chó già kia có thời là…”người” tình của mụ Mực, mụ bèn dùng mưu "rút củi đáy nồi", nên tìm cách đến gần lão chó già khi có thể được. Ngày kia, lão chó già cãi vã với Đốm bỏ ra ngoài xóm rong chơi, được thể Mực bèn làm quen và quyến rũ lão. Lão mừng rỡ theo Mực. Sau cơn giận, Đốm tức tưởi đi tìm chồng, thì than ôi "kim rơi đáy bể biết tìm nơi đâu?", Đốm chạy lồng lộn đầu sân cuối xóm, bày chó làng nhìn Đốm như con chó biết ghen tương với cặp mắt long sòng sọc, rãi rớt chảy hai bên khóe miệng.
Cái cảnh đầm ấm giả tạo giữa vật như người này kéo dài hơn hai năm. Một bữa nọ sư cụ chùa làng cách nhà tôi dăm cây số quá bộ đến thăm, thấy con Đốmxơ xácbèn đem lòng trắc ẩn muốn xin về nuôi. Tôi nghĩ con Đốm được ở giữa cảnh chùa thanh tịch, nhưng đầy ắp tình thương của sư cụ, cũng như được chăm sóc cơm nước no đủ mỗi ngày, con Đốm thế nào cũng được hưởng một cuộc sống ngon lành, thế nhưng ông già tôi không chịu…”.
Tôi nhấp nhổm định gắp một miếng thịt nướng thơm nhẫy trước mặt, kèm theo lá mơ chấm với mắm tôm chanh đườngvừa chua vừa mặn, thì giời đất ạ, tôi nghĩ là ngon quên chết. Vậy mà
gã vẫn nhịn như nhịn cơm sống, vẫn chưa chịu khua đũa đụng bát.Ngồi đồng đã lâu, tôi nhấc chén rượu hỏi gã 12 con rắn với 9 con rắn thứ nào ngon hơn. Gã gật gật cái đầu nhấc chén lên. Tôi nghĩ thầm gã Nam Kỳ này hơi…Không để tôi nghĩ tiếp, gã thủng thẳng với chuyện con chó nhà tôi…“ăn chay” nào có hay ho bằng chuyện con chó ở chùa của ông già gã qua Tết Mậu Thân:
“…Sau Tết Mậu Thân, giặc cộng tràn về làng và đánh nhau với quân đội quốc gia. Chòm xóm cho hay con Đốm bị đạn lạc nằm sau gốc cây xoài, khi cả nhà đi di tản xuống Sài Gòn. Cuối cùng nó bị ném ra bờ sông, hơi nước bốc lên khiến Đốm hồi tỉnh lại, nó nằm rên lên những tiếng bi ai, cuộc đời của nó như khúc phim quay qua đầu, nó oán hận loài người đã đẩy nó vào bước đường làm ma không chồng. Nhưng nó chỉ bị thương và cái thai bị hư được đẩy ra ngoài. Nó ứa nước mắt nhìn dòng sông, dòng đời lững lờ trôi qua mõm nó.
Chợt có tiếng bước chân rất nhẹ đi đến bên Đốm, nó thấy một người mặc áo nâu nhìn Đốm, và ẵm nó lên. Lần đầu tiên trong đời Đốm thấy có cảm giác không phải hận thù, mà là ấm áp trong lòng! Đốm không biết cảm giác gì! Vì cả đời nó chưa biết thương yêu bao giờ đâu?
Người ẵm Đốm không ai ngoài sư cụ chùa làng, sư cụ mang Đốm về Tự Viện. Sư cụ tự tay mổ vết thương và gắp đạn ra cho Đốm và băng bó khâu lại vết thương cẩn thận…”.
Đảo mắt ra ngoài bờ sông, gió sông hiu hiu thổi…Tôi ung dung tự tại hết nhìn đến ngắm những lát thịt cháy vàng mỏng, cắt xéo như miếng chuối xanh, ngào ngạt thơm phức. Thấy cả nạc, mỡ, sụn, gắn bó với nhau những nồng ấm, thân thương của một cõi đi về.Bốc lên, tôi nói chữ với gãuống kiểu
chén thù chén tạclà uống hai người: chủ và khách. Bên chủ là bên "tạc" có nghĩa là…chúc mừng. Bên khách là bên "thù". Chẳng thù hằn gì nhau đâu mà…bắn nhau để con chó của ông già gã bị thương, mà có nghĩa là…uống đáp lại. Thế là tôi…thùngay.Ực thêm dăm chén, thấy ngất ngây những khoảnh khắc của tang bồng hồ thỉ.Hết chén này qua chén khác, mặt tôi như quả mận chín, khổ một nỗi gã vẫn chưa chịu gắp mồi đưa cay. Sau vài cữ nữa, thật sự tôi đã thấy hơi men bốc khói trên đầu. Gã thì không, đôi mắt lặng lờ nhìn vào cái chén Tống hồi lâu rồi làm một hớp hết nhẵn
ba vạn thế giới một đáy cốc, vạn kiếp luân hồi một sát na.Xong, gã da diết chuyện tang thương ngẫu lục của con Đốm nấp bóng thiền môn:
“…Mười ngày sau Đốm khỏi, nhờ tâm từ bi của sư cụ. Nó chẳng còn chỗ nào để về, nên ở lại chùa, hàng ngày sư cụ ăn gì thì chia cho nó một phần…Kể từ khi con Đốm bị đổi chủ thì ông già tôi lại đâm ra mắc bệnh tương tư. Không phải ông tương tư người đẹp nào trong thôn để thay má tôi vì chẳng ai thèm để ý đến ông già say, mà thật ra là ông tương tư con chó. Ông nhớ thương nó như người ta thương nhớ một người yêu, mặc dù quanh ông còn có hai anh em tôi quấn quít hàng ngày nhưng ông vẫn cảm thấy hết sức cô đơn.
Ông không là một nhà tu nhưng y hệt một nhà tu, thường ngồi xếp bằng trông như…”thiền”. Có khi tụi tôi thấy ông khóc một mình, không biết vì ông nghĩ ngợi cái tình cảnh dở khóc dở cười của gia đình hay vì ông quá thương con chó. Nhưng tôi nghĩ chắc ông nhớ con Đốm vì nhiều lần tôi thường nghe ông nói "Phải chi tao còn con Đốm, tao sẽ đỡ buồn hơn".Từ đó ông sinh ra cái tật đi câu cá để giải sầu. Mỗi lần ông xách cái cần với cái giỏ đi câu là tự nhiên ông thơ thới hân hoan mặc dù có lúc về với cái giỏ không. Tụi tôi ban đầu lấy làm lạ nhưng sau đó hỏi ra mới biết ông đã gặp được…con Đốm…”.Nghe đến câu…ngồi xếp bằng trông như…”thiền”, cái miệng tôi nhóp nhép rằng gã kế chuyện như…vẽ rắn thêm chân
ấy. Gã khựng lại. Lại lơ đãng nhấp một ngụm nhỏ. Khứa đây diễn xuất hơi nhiều, lúc thì ực, khi thì nhấp, chỉ thiếu cái ho khan là có bài bản. Nếu gã có phải vén môi dường như có một chút nào lơ là, buông thả. Tôi vừa nghĩ vậy và cũng vừa định chấm miếng thịt nướng vào bát mắm tôm ngập ớt đỏ…Chưa cầm cái đũa lên nhét miếng thịt vào kẽ răng ba ngày vẫn còn thơm…Vì…Vì tôilại bù đầu tóc rối chuyện con Đốm về chùa:
“…Số là con Đốm từ ngày về ở với nhà sư, nó quen với cảnh chùa nên không về lại nhà tôi nữa. Ông già tôi tìm cách đi câu bên dòng sông ở phía sau chùa để có cớ nhìn mặt được con Đốm. Con Đốm quyến luyến chủ cũ nên quấn quít bên ông gìa tôi, nó hôn, nó liếm, nó nhảy phóc vào lòng ông già như đứa bé con tìm vú mẹ. Thế là ông già tôi tự nhiên tìm lại được niềm vui. Ban đầu, mỗi lần đi câu ông thường về nhà sớm nhưng về sau ông ở lại câu khuya hơn, nhất là những đêm trăng thanh gió mát, với bầu rượu bên cạnh và con chó cưng, ông thấy đời không còn gì đẹp bằng. Ngồi thỉnh thoảng móc mồi câu, quăng cái tủm xuống nước, đàn cá đua nhau giựt giựt cái phao, lúc nổi lúc chìm, con Đốm phụ họa nhảy lởn vởn, sủa cá sủa trăng, trông cả hai chẳng khác nào đôi bạn thân tình nhất.Lúc đầu con Đốm sợ sư cụ nên chỉ tìm cách trốn ra bờ sông mỗi chiều rồi lại trở về chùa. Sau đó nó bạo gan hơn, mon men theo ông già tôi về đến tận nhà, chơi qua loa với tụi tôi chừng nửa tiếng đồng hồ rồi quay về, để lại nỗi vui mừng hụt nơi anh em tôi. Mấy ngày sau đó, nó bất kể sư cụ với cơm lành canh ngọt ở chùa, về nhà tôi ở luôn. Báo hại sư cụ mỏi mắt đi tìm mới gặp nó. Nhìn thấy sư cụ, nó có vẻ thẹn thùng cúi gầm mặt xuống, chẳng tỏ vẻ gì mừng rỡ cả. Về sau ông già tôi thấy áy náy nên đành phải mang con Đốm trả lại chùa. Sư cụ vui vẻ nhận, nhưng mấy chú tiểu muốn cho chắc ăn nên xích con Đốm lại để canh chừng ở một góc bếp, sát bên cây thị quanh năm nở hoa trái vàng óng thơm lừng…”.Gã thò tay vào cái đĩa mồi và miệng thả rong là…vẽ rắn thêm chân là của Tầu, còn Ta là …vẽ rết thêm chân. Tôi cũng khựng lại như gã vừa rồi. Nhưng mắt còn bận bịu theo ngón tay gã nhúm…cái lá mơ và để đó không chịu chém to kho mặn ngay.
Tay tung tẩy cái lá mơ, giọng gã đều đều:
“…Bẵng con Đốm không được về thăm nhà nữa. Ông già tôi ngày càng già, không đi câu xa ở bờ sông nên không còn gặp nó. Có thể vì bị giam lỏng nơi cảnh chùa u tịch nên nó chẳng thể nào về, có thể nó biết thân phận nó là của chùa nên chẳng dám làm phiền ai. Cũng có thể nó đã già như ông già tôi và chết rồi không chừng. Riêng anh em tôi bây giờ tôi đi học ở Sài Gòn, em tôi đi lính, ít có dịp về lại quê xưa chỉ trừ khi Tết nhất đến, nên cũng chẳng để ý gì chuyện con Đốm nữa. Một trang tình sử tưởng đến đây đã hết, nào ngờ…Xuân năm ấy, đúng mồng một Tết, trong lúc anh em tôi đang quây quần trong nhà đón xuân lúc đất trời vừa ửng nắng mai, bỗng nhiên con Đốm già từ đâu tung cổng vườn khép kín đi vào ngoe nguẩy đuôi mừng rỡ. Vẫn bộ lông mềm mại nhưng không dấu nổi màu sắc tàn phai vì mưa nắng. Gương mặt con Đốm tuy vẫn còn khuất trong đám lông rậm rịt nhưng vẫn không che kín được lớp da nhăn, nhất là ánh mắt không còn tinh anh như ngày trước nữa. Ông già bà già tôi bảo nó xông cửa đầu năm chắc là may mắn. Cả nhà ai cũng ngạc nhiên vì không ngờ nó chọn đúng ngày mồng một Tết mà về sau hơn mấy năm xa vắng…”.Đêm khuya thoi thóp, khách khứa lác nhác vắng dần. Cạn lưng chén, đầu tôi như bốc khói. Khi bốc lên rồi mỗi thằng một thói, thằng thì nhè, thằng thì thăng. Riêng tôi thường để hồn đi hoang phiêu phiêu một cõi. Quán vắng nên trống trải, ánh đèn trở nên ấm cúng. Nhìn xuống chén Tống chỉ còn một nửa, lắc lắc cái chén, rượu óng ánh như sương khói. Trống vắng đến xe lòng, ai chẳng có những giây phút lướt khướt, liêu xiêu…Làm như thân thiết, tôi cảm hoài, cảm khái với gãviễn ly vô lượng kiếp, bất xích nhất sát na, và ngứa mồm giảng cho ông đồ nát chữ là bằng hữu dù xa cách nhưng thật gần. Gã cũng đăm đăm với cái chén, tay xoay xoay. Làm như muốn tránh né cái cảnhtương kiến thời nan biệt diệc nan, là gặp nhau đã khó, giã biệt nhau còn khó hơn. Thế nên gã xuội lơ trông thấy:
“…Tôi ôm con Đốm già vào lòng vuốt ve, và qua nó, biết được cuộc đời đã đổi thay nhiều lắm. Nó ở nhà tôi chơi hết một ngày mùng một Tết rồi lại trở về chùa suốt năm ở đó.Xuân năm sau, anh em tôi bị kẹt không về thăm nhà được. Bà già tôi cho hay mồng một Tết, con Đốm lại xông cửa về thăm chủ cũ thêm một lần nữa. Tôi thấy lòng bâng quơ rung động, tự nghĩ như con Đốm có mối liên hệ tiền kiếp nào với gia đình tôi, sao không nó cứ đợi đến ngày mồng một Tết lại về? Ông già tôi ngày càng già, bệnh tật liên miên vì chứng xơ gan do rượu hoành hành nên lúc nào cũng tưởng nhớ đến con Đốm. Con thú già bí ẩn, mỗi năm chỉ gặp mặt nó có một lần vào ngày Tết.
Nghe nói hàng đêm con Đốm nằm nghe sư cụ tụng kinh Địa Tạng, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa …Lời kinh như thấm vào trong não tuỷ của nó, những mặc cảm của nó từ xưa dường như tiêu tan hết. Đốm say tiếng kinh, mê ngửi mùi hương trầm thoảng nhẹ trong gió. Đốm thường nằm sấp trên đất, hai chân trước chấp lại đưa ra trước mõm như người ta lạy Phật. Khách lễ chùa đồn nhau về con chó nghe kinh, một đồn mười, mười đồn trăm, chẳng mấy chốc cả vùng Trung Chánh, Bà Điểm đều biết chuyện, biết tên Đốm!
Tôi há hốc mồm ra nghe. Trong khi gã bình thản đưa cọng lá mơ vào miệng nhay nhay. Gã hớp thêm ngụm rượu như cá riếc tớp bong bóng nước. Tôi trộm nghĩ phong cách gã uống rượu đúng là một thiền nhân, đưa nho ẩm như một cái thú tiêu daọ của trà đạo vào tửu đạo. Lúc trầm mặc khi hào sảng tửu trản vớibồ đoàn linh nhân dã, hay tửu uyển với
tửu linh nhân viễn.
Trong khi ấy mặt gã như nước ao tù và ậm ừ:
“… Cho đến một đêm, Đốm nằm mơ thấy có tiềng nói với nó rằng: "Nghiệp làm chó của ngươi đã trả hết rồi, mai ngươi xả bỏ thân súc sanh để hoá kiếp làm con người tử tế! Có điều khi làm người ngươi phải tiếp tục tu hành, đừng ăn càn nói bậy gây nên khẩu nghiệp, thì sẽ được hạnh phúc tự tại. Vì kiếp trước ngươi gây nghiệp quá nhiều nên kiếp này quá nhiều khổ ải! Nhưng nhờ có được sư cụ trụ trì tụng kinh rồi hồi hướng cho ngươi, nên nay ngươi hết nghiệp chó rồi!".Sáng hôm sau, mọi người thấy con Đốm nằm chết ở trước bàn Phật thật thanh thản! Mộ của con Đốm được người làng đắp ngay tại vườn chùa với hàng chữ trên bia: "Văn Kinh Đốm Khuyển Chi Mộ", nghĩa là “Mộ con chó Đốm biết nghe kinh”.Năm sau, ông già tôi cũng theo nó về suối vàng! Anh em tôi mồ côi cha kể từ dạo đó….”
Khi không bụng dạ cứ lao nhao làm như thiếu vắng giấc hương quan mẫn luống canh dài với…sườn chó nướng hay chả chìa
thì sướng mê tơi ngày. Chả nhẽ nhong nhóng ngồi ăn một mình, tôi đợi gã cầm đũa…Trong khi chờ đợi, tôi địnhngâm nga
bằng hữu thôi thà như mưa bay, thì chuốc cho vơi chén rượu đầy.. Nhưng nghĩ lại chưa đủ thân nên quẳng hai câu thơ trong đầu ấy đi và định hỏi gã một câu hỏi, Cũng chỉ vừa định thôi… Thì…Thì cũng vừa lúc gã cạn chén và cầm đũa lên gõ nhè nhẹ vào cái chén và thở ra…
Gã thở ra một tiếng dài: Kể từ ngày ấy, gã không…
***Cũng đến lúc phải tương kiến thời nan biệt diệc nan. Ra đến cửa cả hai chụm đầu vào nhau đốt thêm điếu thuốc chobằng hữu thôi thà như mưa bay
. Que diêm lóe lên. Thôi thì cũng một lần nón lá áo tơi ra quán chợ, chén rượu men lành, lạnh ngón tay: tôi ghi lại dấu ấn về gã thì chỉ biết đó là một khuôn mặt như mọi khuôn mặt và không giống bất cứ một khuôn mặt nào đã gặp. Lửa tắt. Tất cả những gì tôi ghi nhận chìm vào bóng tối….
Xoẹt que diêm thứ hai. Tôi hình tượng lại khuôn mặt gã uống rượu thoáng như có vẻ thảnh thơi, nhàn nhã của một thiền nhân, một tửu đồ đi tìm vô ngã, vô ưu của tửu đạo. Và gần như trong tĩnh không, tĩnh lặng của thiền sư với trà đạo. Tôi hỏi gã câu hỏi vừa rồi, nhưng chỉ vừa định thôi thì gã cầm đũa lên gõ nhè nhẹ vào cái chén…Rít một hơi thuốc, nhả ra khói, tôi thắc mắc là cớ sự gì gã lại dùng…chén Tống uống trà để…uống rượu.Ánh sáng tắt ngúm.Quán xá vắng tanh vắng ngắt, g
ió máy heo hút ngoài sông gây gây lạnh. Búng que diêm xuống mặt nước…Gã quay qua hỏi tôi cũng vừa đủ nghe là làm sao tôi biết gã uống…rượu?
Và đầu óc tôi cứ rỗng rễnh thế nào ấy!Cái nồi ngồi trên cái cốcQua những giao tiếp gần đây, tôi thường gặp nhiều “tuyển du học sinh” hoặc “nghiên cứu sinh” sang bên này du học, hay tu nghiệp. Trong số đó, tôi quen biết một gã phó tiến sĩ tốt nghiệp ở Ukraine làm việc cùng hãng với tôi. Gã là người Hà Nội nên nói chuyện rất thâm trầm và sâu sắc, thế nhưng qua giọng nói nghe có hơi…xa cách và nhất là khuôn mặt, tôi thấy…xa mặt cách lòng làm sao ấy.Chẳng phải vơ đũa cả nắm, dường như họ đều có một mẫu số chung: Khi giao tiếp, thoạt đầu họ dè chừng giữ một khoảng cách đến…có khả năng phát chán. Nhất là đụng chạm đến những nhân vật có vấn đề nổi cộm trong nước, họ tìm cách tránh né vì nhậy cảm và tế nhị. Hỏi tới nữa, họ sẽ có những bài bản giống nhau là rất ít thật và rất nhiều giả. Nhưng với những chuyện cần nhờ cậy như mua xe, thuê nhà, tìm việc làm cuối tuần, hoặc làm thế nào để có vợ “thật” với giấy tờ “giả” thì họ vồn vã vồ vập. Xong chuyện, nếu có gặp nhau lại, thường là họ ngó lơ làm như chưa hề một lần quen biết.Với nhiễu sự như thế, tôi đâm ra ngại ngùng và chợt nhớ lại chuyện của một người bạn cũ, mặc dù có hơi khác một chút…Chả là hiền nội nhí của tôi từ bé tí tới nhớn chỉ được ngắm nhà thờ Notre Dame, dòng sông Seine qua tôi…kể lại. Không thấy không tin, nên tôi phải cất công đưa hiền nội qua Paris nhìn tận mắt cho mãn nhãn. Một ngày nắng quái chiều hôm, hai vợ chồng lạc tới một tỉnh nhỏ hẻo lánh bên đường, thèm cơm Việt bèn dẫn xác vào…một tiệm Tầu để thành chuyện. Chuyện là quán hẹp và sâu hun hút, vài bộ bàn ghế xô lệch dọc theo hai bên vách dăm tấm ảnh nghệ thuật chụp cái ao và mấy con vịt con. Nói dối phải tội là quán không khá, cũ mèm cũ rích như vài món đồ cổ chai lọ là mấy chai bia 33, chai La de Con Cọp bầy trơ khấc trên kệ.
Vừa nhai mấy cọng mì dai nhanh nhách, tôi râm ran với hiền nội nhí tôi ở đây chỉ có món “đặc sản” dồi huyết, dồi xả và “bia của bổn tiệm” là tạm được. Thì vừa lúc đầu bếp, cũng vừa là chủ nhà hàng, đầu đội mũ trắng cao nghệu bước ra, nghe tiếng Việt liêu xiêu đầy hương đồng cỏ nội của vợ chồng tôi nên nhận ra là người đồng hương và tay bắt mặt mừng. Tôi tự giới thiệu tên tuổi, nhất là cái họ Tầu tầu, Lưu Bị chẳng ra Lưu Bị, Tào Tháo chẳng ra Tào Tháo, tào lao thì có và ngay sau đó là có cái màn hô hóan điểm mặt chỉ tên nhận ra nhau là bạn cũ trường xưa. Tiếp đến, sau hơn bao nhiêu năm những kỷ niệm học trò rơi rớt theo mưa nắng nên chẳng có bao nhiêu để hàn huyên…
Ăn xong ngáp dài, tôi hỏi cậu dọn bàn…cái nồi ngồi trên cái cốc. Vẻ mặt lạnh tanh, lạnh ngắt như tủ lạnh chạy đầy đường, cậu ta quay ngoắt vào trong bếp. Bạn cũ cười tủm cho biết cậu là người Hà Nội, nghiên cứu sinh hôm nay. Nhân đang rách chuyện, tôi kể cho bạn nghe mấy cậu sinh viên du học mà tôi từng giúp mua xe, thuê nhà có những cái đầu eo sèo, ẩn dật. Những khuôn mặt tiêu cực, xa vắng đầy hoài nghi, nghi hoặc trong cõi nhân sinh cùng thời thế, thời trước thế đấy, thời này thế đó vừa mới đảo qua ở trên.Bạn đăm đăm nhìn mấy món đồ cổ trên tường và đăm chiêu: “Giống như cái chai bị rạn nứt kia, có người chỉ nhìn cái khiếm khuyết ấy như một một vết sẹo với một quên hai nhớ. Có người lại thích ngó nhãn hiệu La de Trái Thơm, như một dấu ấn nằm ẩn khuất trong tâm khảm của những ngày tháng cũ. Như chuyện của tôi đây chẳng hạn, thưa ông”.Và bạn cũ dông dài với “chuyện của tôi đây chẳng hạn, thưa ông” như sau:
***
“…Chạy vạy thì tôi cũng chỉ là một người di tản buồn, buồn thảm thiết như ông. Nhưng khác ông, số tôi ruồi được tầu Đức vớt nên đành chọn nơi đây làm quê hương thứ hai. Mà dân tộc này đã từng nổi tiếng nắng nỏ với câu: Người Đức như viên gạch…nung. Như ông biết đấy, giống dân ấy vốn dĩ…khô sặc gạch, không chữ nghĩa nào trên thế gian này tả sao cho hết. Ngôn ngữ của họ cũng vậy, phụ âm nhiều hơn nguyên âm nên nghe như ếch nhái kêu. Năm đầu, thằng hàng xóm qua mời thằng “Vietnamesiche” là tôi đây ăn lễ Giáng sinh. Nó nói nghe òm ọp làm sao ấy, đến gần chót tôi mới vồ như ếch vồ hoa mướp được chữ “essen”. Bố khỉ, đời thưở nhà ai động từ chúng nhét tuốt luốt ở cuối câu, nghe lòi nhĩ mới hiểu ra “essen” nghĩa là “ăn”, nói chung thì khó nhai lắm. Ông chịu khó ráng mà nghe chữ Tây chữ u, vì chuyện ở xứ tôi thì buồn nhiều hơn vui, chuyện để mà cười được khí…hơi bị hiếm, thưa ông.Ông chép miệng góp gió thành bão: Cũng vô tư thôi. Vô tư thế quái nào được! Đó là ông chửa biết đấy thôi, còn thảm sầu hơn nhiều vì nơi chốn tôi…tạm dung, tôi đặt tên là “Thị trấn bên đàng buồn hiu”. Vì đường phố chỉ có mỗi một ngã tư đèn xanh đèn đỏ đã được tắt ngúm từ đệ nhất thế chiến. Thêm một cái rạp hát, cũng chẳng sáng sủa gì hơn, nó đã được “phẹc mê bu tích” từ cuối đệ nhị thế chiến. Có một cây xăng chết tiệt, phải khom khom bơm bằng tay mệt nghỉ như bơm nước giếng đầu đình. Cũng có một quán cà phê đấy, mặc dù là miền đất lạnh tình nồng, nhưng cũng phất phơ với mấy cái quạt trần hai cánh, lừ đừ quay làm cảnh đuổi ruồi. Trước cửa ra vào, dọc theo hành lang là một dẫy ghế xích đu, khách thường ngày là ông già bà cả. Hôm nào ông thấy có ghế trống hoác, lơ đễnh cách mấy ông cố hiểu dùm tôi là: Mới có một con chiên vừa được ông thánh “Phê rô” vui vẻ gọi về chầu nước Chúa. Lẽ dĩ nhiên chẳng thể thiếu cái nghĩa địa, mà nghĩa địa thì có quái gì mà nói ngoài cái hàng rào sắt. Ngẫm chuyện thế gian thì nghĩa địa đâu cần phải có…hàng rào, thế nên chẳng dấu gì, tôi cứ phơi bụng ra với ông.Điều tôi muốn thưa với ông là, dân cư ở đây không được đông đảo gì cho mấy. Tôi cũng chẳng rỗi hơi đâu mà đếm, đóan chừng đâu đó cũng chỉ khỏang gần hai nghìn người là hết đất. Sầu bi hơn nữa, trong đó lại có tôi. Mà ở cái thị trấn đèo heo hút gió này lại không có cái màn bán bia bọt và sách báo hở hang lỉnh kỉnh, thế mới…hốc. Tôi biết thế nào ông sẽ nói vuốt đuôi: Cũng thỏai mái thôi. Thỏai mái cái con khỉ! Vì lũ chúng tôi đây là ba gia đình Việt Nam thì thê thảm gì đâu! Như trạch bỏ giỏ cua, mắt trắng dã như phường mù dở với quần sắn móng lợn kẻ lột da, người lóc xương, bổ nháo bổ nhào làm thợ mổ bụng, sẻ thịt cho cái lò…lợn gần nhà. Chiều về mệt lử cò bợ, ngủ vùi, cuối tuần ngủ nướng cho thơm râu, nên ít khi gặp nhau. Cái lò lợn tênh hênh giữa… “.
Ông nheo mắt dấm dớ hỏi tôi: Vậy có gì vui chăng? Ấy là ông hỏi tôi đấy nhá:
“…Bước ra khỏi nhà là gặp ngay nỗi buồn chạm mặt, nèo neo là bìa ruộng của cái thị xã hoang vắng, nỏ mắt bẩy ngày không mò ra bò với trâu, chỉ thấy máy cầy, xe ủi đất. Đi mấy chục cây số có một làng Việt Nam có từ cuối thế chiến thứ hai. Ở thị xã tôi đây, thủ lợn, móng lợn, ruột non, ruột già, cứ ối ra. Vì theo lệ là cứ cuối tuần tụi tôi xách tới làng đầy bản sắc dân tộc để bán buôn, vừa để có tiền tiêu vặt, vừa để đàn đúm và ăn uống. Nói chung được mỗi món chả nướng của cụ Neugen là ngậy mùi, còn món bánh cuốn nhà Neulet thì nhão nhọet như bánh đúc. Tệ hại nhất là phở của lão Nouyen, lõng bõng nước, thịt nổi lều bều. Ông lỡ tống vào họng, ông cứ mặc tình hư cấu và hoang tưởng đó bánh canh gìò heo hay bún bò Huế cũng chẳng chết thằng Tây đen nào. Làm như quen thuộc mấy ông nhọ nồi gạch mặt này hồi tản cư, chạy loạn. Hay là ông muốn biết mấy người họ Ne, họ Nu trên là ai?. Ấy đấy, họ là lính thợ từ quê nhà qua giúp mẫu quốc. Chiến tranh chấm dứt, một số ở lại lập gia đình với người bản địa, để rồi nhớ quê cha đất tổ lập nên cái làng hẻo lánh này. Làng chỉ có nhăm chục nóc gia, cái bằng gỗ mái ngói, cái bằng gạch mái xi-măng, lụp xụp, cao thấp, úp lên nhau như chồng bát đĩa. Ngòai cái cổng làng bằng tre…Phi Châu là mát mắt. Trong sân, ngòai vườn, xi líp, váy, quần đùi, may ô phơi mắc la liệt, giống cờ đuôi nheo hội làng, trông cũng vui mắt đáo để, thưa ông.Tôi biết ông đang đợi cà phê. Hay là kể chuyện thị xã tôi cho ông nghe nha:“…Từ thị xã tôi ở lên tỉnh có một con lộ duy nhất, có hai “lên”…lên xuống vắng tanh vắng ngắt, ông muốn lái xe chạy “lên” nào cũng được nên chẳng có gì…lạ cả. Một buổi sáng, tôi nhòm ra đường thấy mấy chiếc xe ô tô đậu xếp hàng. Có ông bố hí hửng dẫn ông con xuống chăm chú chỉ chỏ ra cái điều như có gì đó lạ lẫm lắm. Nếu có thì ấy là…đàn vịt của tôi nuôi đang nhởn nhơ qua đường vậy thôi. Thế là tôi vác cái máy Nikon ra nháy lia lịa. A! Ông hỏi tôi cái máy hình đâu ra mà oách thế. Thế ông quên mớ ruột non, ruột già vừa rồi ấy à. Số là tụi Đức nó vất đi, tôi gom lại mang về. Bắt chước tụi Đức vùng Braufels làm xúc-xích, tôi làm dồi trường, dồi huyết, dồi xả cũng ngon ra phết và bán cho làng Việt Nam nên có “con Nikon” với giá “cứng” là vậy đấy.
Một ngày thấy gần nhà có một vũng nước to gần bằng…cái ao. Thế là tôi bật ra ý đồ nuôi vịt để chiêu hiền đãi sĩ. Vắng cảnh chiều hôm, tôi thịt một con làm tiết canh, rồi ới tụi bạn trước lạ sau quen tứ phương tám hướng tới. Nói cho ngay bè chứ không phải là bạn, không có cua thì bắt ốc thế thôi. Thằng nào vác xác tới cũng nên biết điều một chút, chỉ cần xách hai va li bia. Một va li cúng cô hồn. Một va li để lại cho gia chủ tỉ tê trong những lúc vắng gió đìu hiu. Mà giời ạ, đâu cũng vậy: Náo thị u lâm mạc luận, cổ kim hiền hữu năng tầm, nói xa chẳng qua nói gần là tôi đang bó rọ nên thèm…bạn. Một thằng bạn đúng nghĩa. Hắn cũng sắp xuất hiện, chắc như cua gạch ông sẽ chịu nó ngay.
Số là lụi đụi như con tôm, con tép nằm trong rọ nơi xó đồng, nên tôi phải lân la viết thư làm quen với nhóm “Cánh Én” để gửi báo cho tôi đọc. Và phải thú thực với ông một nhẽ, tôi chịu chữ nghĩa của họ, một phần vì họ viết ngắn gọn và trong sáng. Một phần vì có nằm trong chăn mới biết chăn có rận, nên qua họ, tôi mới hiểu được một phần nào những họat cảnh ở ngòai Bắc thời bao cấp. Đồng thời, tôi mới hiểu cái tận cùng của nhóm người mà một mảng chữ nghĩa trong nước gọi là “Hợp tác lao động”, nôm na là nhân công xuất khẩu miền Bắc qua Đông Âu. Họ bị kiểm soát qua đám thông dịch viên kiêm chính trị viên của sứ. Ông nhướng mắt ra điều như muốn hỏi “sứ” là gì ấy hả?. Dạ thưa “sứ” đây không phải là sứ cùi Thái Lan đâu mà là…tòa đại sứ “ta” đấy, thưa ông.Bức tường Bá Linh sụp đổ, những người hợp tác lao động rơi vào cái tình trạng vất vưởng của một nhúm người bị bỏ rơi cùng cái nợ áo cơm với ba cái nghề vặt vãnh như “cõng” thuốc lá, “cửu vạn” dầu thơm, xà phòng. Nói đến xà phòng, tôi lại nhớ đến truyện họ viết về nhóm đàn bà con gái trong cảnh sống “chật hẹp”, chật hẹp đến độ cả năm lông nách không cạo. Và xin lỗi ông, chẳng hay ho gì chuyện này, tôi chỉ kể những gì họ viết: Đến ngày có tháng thấy…mưa sa trên mầu cờ đỏ, không có băng vệ sinh, đàn bà con gái phải “phấn đấu” lấy giấy đi cầu nhét vào để bịt mồm lão…Fidel Catro cho yên thân.Còn đám đàn ông con trai, quanh quẩn với nhau như đèn cù trong những ngày cuối tuần. Thửa được con cừu bỏ vào bao bố, khiêng về treo trong phòng tắm, cắt tiết, cạo lông rồi ngả thịt. Cả nam lẫn nữ ngồi bó gối dưới sàn ăn uống nhồm nhòam, rượu Voka hay…những giọt nước mắt quê hương đổ ra. Tàn canh gió lạnh, người này gác chân lên người kia khoèo một giấc, tỉnh dậy thấy con bồ đang ôm thằng bạn mình ngủ vùi. Sáng hôm sau, như một lũ chuột thành phố, khi ẩn khi hiện với mấy tút thuốc lá quấn dưới ống quần, dầu thơm lẩn trong nịt vú. Giản dị có thể nói họ là những tay giác đấu cô đơn trong đấu trường. Những người vô tổ quốc bám cứng vào mảnh đất chẳng có ngày mai.
Với quá khứ vị lai thì sau này, ông thấy tôi hay làm dáng với dăm ba câu Hán tự, thực ra tôi chỉ bám víu vào chữ nghĩa để hoài cố nhân. Cố nhân của tôi là một gã hủ nho sa cơ lỡ vận để rồi cái khó nó bó cái khôn, nhưng trước sau vẫn là…bạn đời của tôi. Thôi thì trời chiều bảng lảng, ông hãy để mặc tôi như con cuốc gọi hồn râm rả với ông rằng cuối tuần nằm khểnh đọc báo và tôi hoa mắt như không tin ở mắt mình. Tôi bắt gặp một tay viết, có lối hành văn thật cứng cùng một mẩu chuyện thật giản dị, nhưng trải rộng tràn đầy tâm tư của những người bị kẹt lại và u hòai về một tương lai xa vắng nào đó, cùng những hòai vọng sâu kín cho một ngày mai, bên kia là núi, bên này là sông, thưa ông:
Truyện về một cậu bé, trước ở phố Hàng Ngang, theo gia đình tản cư một thời gian rồi hồi cư về Hà Nội sau năm 54. Nhà bị chiếm nên tạm trú ở căn nhà số 7A ngõ Phan Huy Chú. Ở đây, chiều chiều cậu nhìn qua bên kia vườn. Căn nhà số 7B. Cậu yêu thầm nhớ trộm cô hàng xóm đứng thẩn thơ dưới gốc cây. Truyện viết chỉ có vậy thôi. Nhưng đọc xong tim tôi thắt lại, bâng khuâng pha lẫn những bồi hồi. Vì điều ngẫu nhiên trùng hợp đến kỳ lạ là…là…căn nhà số 7B ấy cũng chính là căn nhà của ông bà cụ tôi để lại cho ông bác và người chị ruột tôi khi di cư vào Nam. Lặng người đi một lúc lâu, tôi nhỏm dậy viết thư cho tờ Cánh Én. Tháng sau, tác giả của bài viết có mặt trước ngưỡng cửa nhà tôi mà tôi nhẩm chừng hơn tôi một, hai tuổi. Hiểu theo nghĩa là cùng tuổi với chị tôi, hay cô hàng xóm bên kia vườn của một thời, một thưở…Tôi đã gặp lại một người Hà Nội, như đã thưa với ông. Và cũng là “ông anh rể hụt” của tôi, thì cứ coi là như vậy đi vì có mất mát gì đâu. Nhưng sự thể ấy là chuyện sau.***
Vật đập chát vào mắt tôi là chiếc xe “Vốc-oa-gân” vàng tróc sơn và rỉ sét, loại xe thùng, trông như cái hộp biết đi. Với hắn, điều tôi ngạc nhiên nhất là khuôn mặt sạch nước cản, chỉ thiếu cái mũ phớt, cặp kính trắng gọng vàng, cái bút máy “Pác-ke”, một đặc thù của người Hà Nội trước 54 bây giờ vẫn còn rơi rớt lại trong tôi. Với hắn, tôi thấy khác hẳn với dân Bắc Kỳ hai nút sau năm 75 mặt mày ngu ngơ, nói chuyện thối inh. Vì vậy tôi có cảm tình với hắn ngay cái buổi đầu gặp gỡ ấy. Sau những hỏi han xa gần về căn nhà thân yêu tuổi ấu thời. Riêng chuyện bà chị tôi, hắn có vẻ tránh né vì một lý do nào đó chưa tiện nói, nên tôi đành đợi một dịp khác. Rồi bữa rượu tẩy trần cũng được bày ra với đĩa lòng, tim gan phồi phèo đủ cả. Thêm vali bia Kruerger của khách vãng lai để lại. Có thể vì trốn mây nấp gió tình cũ hay sao ấy, cầm chai bia cũ kỹ đóng ít bụi, hắn khơi khơi rằng bia chai giữ được một năm, còn bia loong chỉ giữ được sáu tháng. Để cho mình là đúng, gã tu cả chai cái một ngon ơ. Xong, hắn vỗ vai tôi thân mật ra cái điều tửu phùng tri kỷ, mà tri kỷ, tri bỉ, tri nhân thật, để rồi càng về khuya, câu chuyện càng đậm đà hơn và sau này trở thành cố nhân của tôi như vừa thưa chuyện với ông vừa rồi.
Ông biết không, có một chuyện chẳng bình thường mà tôi khựng lại như gái ngồi phải cọc khi hắn khoe là “Phó tiến sĩ cấp I khoa văn Nga ngữ”. Tôi hỏi mắc mớ gì hắn “lưu vong” tới đây để xổ…tiếng Đức thì hắn thuyết minh chuyện một quãng đời của hắn:Để xuất ngọai du học lấy tiến sĩ tòan là con cháu bần cố nông, trong giảng đường bao giờ cũng phải có thông dịch viên của “sứ” đi kèm, nên thu họach chẳng là bao. Vì vậy đều đi tướt cả lũ, nhưng mỗi người đều được cấp một chứng chỉ đã thông suốt diễn trình. Về nước, với mảnh giấy lộn này, đương nhiên được gọi là…“phó tiến sĩ”. Sau mấy thầy Nga Sô, ông kễnh Trung Cộng đòi tụi “ấy ái uông” phải có cơ sở văn hóa cao, nên con cháu tiểu tư sản mới len chân vào được, trong đó có hắn.Như con còng trong lỗ chẳng biết đến ai, tôi sống sít với hắn về mấy quan chức, cây đa cây đề…Được gãi đúng chỗ ngứa, hắn tung tẩy: Quốc lọan tri trung thần, gia bần chi hiếu tử. Hắn thở ra: Chán lắm, trong cung đình thiếu hiền tài, lùn trí tuệ, thiếu nhân đức. Đức ít mà ân sủng nhiều, tài thấp mà địa vị cao, công nhỏ mà bổng lộc lớn là tam đại họa, để đi đến quốc phá gia vong, lòng dân ly tán, hiền tài bỏ nước mà đi, cơ đồ đã đến hồi mạt vận. Hắn tiếc cho cái thời Nghiêu Thuấn, của bá tánh đánh rơi ngoài đường không ai nhặt, ngủ nghê không cần cửa đóng then gài, còn bây giờ trộm cắp như rươi ấy.
Nghe vậy, ai mà chả thấy buồn nẫu ruột. Học ông, tôi nói vuốt đuôi cùng thời thế, thời trước thế đó, thời này thế đấy. Đấy là láo ngáo qua đây, gia tài tôi chỉ có “con Nikon” chụp đàn vịt. Buột miệng tôi khoe với hắn ống “zoom” của máy to đùng như khẩu Sơn Pháo 76 ly. Hắn cười cái bép “Xưa rồi Diễm ơi”. Bị chê vỗ mặt tôi quê hết biết. Càng lúc tôi càng gần gũi với hắn, dẫu gì hắn cũng là nhà văn lưu vong, có bài viết trên sách báo với sự hiểu biết rộng như trời biển. Nói xa chẳng qua nói gần, hắn là một…nhân tài đấy, với địa linh nhân kiệt như Thăng Long nghìn năm văn vật thì nhân tài thời nào chẳng có.
Bỗng dưng hắn cầm…chai bia lắc lắc và ư hử: Lắc bầu rượu, dốc nghiêng non nước lại. Chén tiếu đàm, mời mọc trích tiên. Hóa ra tôi và hắn cũng bị biếm trích như…Lý Bạch, Tô Đông Pha chứ đâu có đùa. Sau đấy, tôi cứ mặc sức ngồi trơ thổ địa ra mà nghe hắn tầm chương trích cú từ Hán Sở Tranh Hùng đến thời Tam Quốc, cùng điển tích này, điển cố kia, luận cổ suy kim đâu ra đó. Như hắn…thuyết khách về Tần Thủy Hòang với Mao Trạch Đông, cả mấy nghìn năm chỉ có hai nhân vật này thống nhất được nước Trung Hoa…để rủ nhau đốt sách thánh hiền. Dậu đổ bìm leo, hắn luận về Mạc Đăng Dung với Hồ Chí Minh, với khoảng cách cả mấy trăm năm. Vậy mà cùng gốc dân ven biển, cùng đầu dây nhợ cho chuyện cắt đất ở Ải Nam Quan. Ực hết chai bia, hắn vỗ vai tôi chí chát và ngậm ngùi xa vắng: “Cổ lai danh lợi nhân, bôn tẩu lộ đồ trung, phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu, tỉnh giả thường thiểu, túy giả đồng”. Và hắn diễn nôm là xưa nay phường danh lợi, bôn tẩu trên đường đời, gió thoảng hơi men trong quán rượu, say cả hỏi tỉnh được mấy người? “. Khiến tôi cũng…tỉnh người ra vì ngồi trong nhà ực bia, cứ ngỡ là ngồi ngoài quán uống rượu như Cao Bá Quát, Phạm Thái. Thế đấy, thưa ông.Nói thật cho ông hay, ông giận tôi chịu, nếu so với đám sĩ phu Bắc hà cỡ tuổi ông và tôi thì mình thua họ xa. Tôi đã gặp rồi. Chính hắn. Ngoài ra, hắn mê hoặc tôi với giọng nói đầm ấm của người Hà Nội, mà lâu lắm rồi tôi mới được nghe. Qua hắn, tôi bắt gặp lại cái cốt cách thanh tao lịch lãm, nhậy cảm và tinh tế, nhưng cũng không thể thiếu cái lãng mạn, thâm trầm mà điển hình là hắn. Và cũng xin thưa với ông, cứt người thì thối, cứt đầu gối thì thơm, mặc dù hắn cũng có đôi lúc…vồn vã quá lắm, thiếu hẳn cái khí khái tính, cái khách sáo của người Hà Thành thanh lịch trước kia. Nhưng hắn đúng là một kỳ nhân dị sĩ mà tôi ít gặp. Đúng là duyên kỳ ngộ ít thấy, ông ạ.Bình cạn rượu khô chiều nắng tắt, bỗng hắn hồ trường: Giai nhân, hề, vẫn chiêm bao. Thất phu, hề, biết chỗ nào dung thân. Ông nghe đã không ông. Thì như tôi đã thưa với ông vừa rồi: hắn và tôi đều là …thất phu cả đấy. Bỗng khi không, không hỏi mà khai, hắn bắt qua chuyện vợ con hắn. Hắn lập gia đình với con của một thứ trưởng thân Nga, nhờ ông bố vợ với “nhất phe, nhì đảng”, hắn được cử sang làm việc ở tòa sứ Đông Đức. Nhờ biết ngọai ngữ, họ bổ trí hắn vào cụm phân tích tình hình, suốt ngày xem ti vi, đúc kết gửi báo cáo về nước. Hắn tiết lộ cho tôi hay, ngày Nga Sô ngất ngư con tầu đi, các quan chức ở Ba Đình sợ thọt dái lên cổ, quáng quàng tìm chỗ gửi gấm của chìm của nổi qua họ hàng hang hốc khi có biến động. Có quan chức nhanh nhẩu đỏang vù qua Thái Lan, tuần sau tẽn tò mò về như chó cụp đuôi. Hắn nói ai chả biết chúng khôn như rận, tự biết là đồ tể, chơi với dao có ngày chết vì dao. Nghe đến đây, tôi nhìn trộm hắn, vì như ông đã biết: Lúc đó, tôi cũng đang là…đồ tể như ai.
Hắn chép miệng xóng xả, lương sứ là cái lương chả bõ nhét răng, vậy mà hàng năm hắn phải cúng một phần ba lương cho các quan chức Bộ Ngọai Giao. Tết đến về thăm nhà, các quan sứ nhờ vả mua sắm, nhiều khi toi cả tháng lương. Bức tường Bá Linh sụp đổ, thế là hắn xin tị nạn. Tôi vội chặn hắn lại để hỏi cho ra nhẽ, vì qua những chuyện từ những báo Đông Âu của người Việt, sở di trú và cảnh sát làm khó dễ họ đủ điều. Hắn cười buồn trả lời, với hắn thì cũng vậy thế thôi, chỉ đau một cái là trên cái hộ chiếu, bộ Nội Vụ Đông Đức đóng cái dấu xanh mầu lá mạ:”Uprchlik”, nghĩa là…“Kẻ đào tẩu”.
Cực kỳ hơn cả cực kỳ nữa là một sớm hai sương vợ hắn bỏ…kẻ đào tẩu lấy ngay “sếp” cơ quan của hắn. Thế có kỳ không? Hắn hỏi tôi vậy thì ông cố nội tôi cũng không trả lời nổi! Thấy tôi im như thóc ngâm, hắn bèn ngâm thơ cụ Nguyễn Công Trứ mặc dù đang nốc bia: Rượu với sầu như gió mã ngưu, trong lai láng biết đâu tránh khỏi. Rồi thì chuyện trâu ngựa là ông bố vợ hắn bị thất sủng, thằng con hắn “được trúng tuyển nghĩa vụ quân sự” lên vùng mạn ngược và hiện đang…đầu đội nón cối vai mang súng dài, chẻ tre đốn gỗ biết phàn nàn cùng ai. Rang rức gì đâu chả biết nữa, như Lý Bạch, chỉ mong mượn rượu say lúy túy để quên thói đời, hắn âm ỉ: Đản nguyện trường túy bất nguyệt tỉnh. Vừa ư hử xong, chơi nguyên một chai bia đầy thì hắn vật ra…bất tỉnh luôn.***Sáng hôm sau tỉnh dậy, hắn khật khừ ra xe khiêng vào lỉnh kỉnh một đống đồ nghề. Trơ mắt chẫu ra nhòm: Giời đất ạ, ông giời có mắt xuống đây mà xem, bộ hết chuyện hay sao mà hắn dậy tôi…“nấu” bia. Cứ theo hắn kể thì khi là công nhân nấu bia, hắn sơ sịa được từ nhà máy Bia Hà Nội, tức nhà máy bia Hommel cũ trước năm 54, thưa ông.
Và đồ nghề hắn là hai cái thùng nhôm chồng lên nhau như hai cái chõ hấp sôi, hấp giò, thì hắn lại kêu là…cái gầu. Một từ “chuyên ngành” của rượu cuốc lủi, rượu chui. Chỉ khác một nhẽ chõ trên có gắn một cái nõ ngắn cũn như cái khăng con. Vung chõ có ống thóat hơi như ống khói cao lều bều, vì có “nắp” nên trông rất hiện đại…Nhìn thoáng qua, y chang…cái nồi ngồi trên cái cốc. Hắn bắt tôi ghi ra giấy là: “Để nấu một lít bia cần 95% nước, 20 gr lúa mạch, 1 chiếc hoa houblon và bột nổi. Lúa mạch phải ngâm nước ba ngày, lấy lúa ra đợi lên mầm. Mầm ấy biến thành mạch nha tạo mầu vàng cho bia”. Nhìn cái khăng con dài cỡ gang tay ngứa mắt, tôi ngứa miệng hỏi. Hắn cười toe ấy là cái “chọt gổ”, đun lửa để nước bốc hơi thành bia chảy…ra ngoài để uống. Dễ hiểu vậy thôi.
Hắn đọc tiếp: “Sau đó đun để chất đường trong mạch biến thành…đường. Vì đường sẽ biến thành bia. Đó chính là “bã bia”. Khi sôi, bỏ hoa houblon vào. Hoa bia này tạo vị đắng cho bia. Nhìn cái ống khói có cái “nắp” xốn xang, lại ngùng ngoằng, hắn cho hay rượu khác bia. Mấy thùng gỗ sồi rượu nho cũng có nắp đặc biệt cho khí CO2 thoát ra và không cho khí khác chui vào. Ngược lại, bia cần không khí qua “ống khói” để cho bia có…“gaz”. Cái nắp mở ra đóng vào theo thời gian đủ cho CO2 vào nồi để bia…”sủi bọt”.Lúc này tôi mới vỡ nhẽ tại sao bia có gaz và đắng với bia bọt lại có…bọt. Tôi lẫm đẫm thêm là sao hắn biết chỗ tôi ở không bán bia? Lại nữa, “bã bia” nào có dễ sơi. Hắn hợp đồng với tôi bã bia hắn có cả đống, khi nào cần hắn sẽ gửi cho với…giá hữu nghị. Nghe vậy, tôi nghĩ xa hơn nữa, nay mai tôi dám phất lên với bia ở thị xã Duchkholyz lắm ạ. Chuyện đời ai học được chữ ngờ, làm chơi ăn thật, ai dè tôi lại dính dáng đến…”củi lửa” với bia bọt. Giờ nghiệm lại, hóa ra có mở hàng ăn, nay tôi mới gặp ông ở đây.***
Trước khi hắn về lấy “bã rượu” cho tôi. Tôi ngầy ngật với hắn, kỳ tới qua mang theo ít “gầu”. Tôi sẽ dẫn đến làng Việt Nam, chém chết cũng quại được một mớ. Tôi biết hắn sẽ trở lại, vì hắn đã kinh tế hết cả rồi. Hắn trở lại thật đầy một xe với gầu to gầu nhỏ. Dẫn tới gặp mấy lão Neugen, Nougen và hắn đẩy được mấy cái…“gầu” bia.
Ở nhà tôi, hết thịt vịt luộc chọt với “Mely”, đến dồi chiên quệt với “Mostaza”. Hắn thảnh thơi thơ túi rượu bầu qua Lý Bạch: Quân nhược bất ẩm tửu, tích nhân an tại lai và an nhiên tự tại…uống tiếp. Hắn kinh qua nhân sinh qua kinh Di Giáo, Bụt đã dậy: Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng, do vi an lạc. Bất tri túc giả, tuy xứ cực lạc, diệc bất xứng ý. Hắn diễn nghĩa là biết thế nào là đủ, có người tuy nằm dưới lòng đất cũng thấy an vui. Người không biết đủ, luôn luôn chạy theo khổ lụy, có lên miền cực lạc cũng chẳng bao giờ tọai ý. Nên tôi tâm phục khẩu phục nỗi niềm tư duy logic của hắn quá sức. Tối đến, hai thằng gác đùi lên nhau nói chuyện nổ như gạo rang, chuyện dai như rẻ rách, chuyện đổ bốn chân giường, chuyện long ba bức vách. Tôi mách hắn trên tỉnh có nhà hàng xúc-xích, đi với bia Kronenbourg thì mả lắm. Cạnh lại có tiệm đồ cổ, có một gian trưng bày rất nhiều chai bia cũ từ thời tám hoánh nào. Thế là hắn rủ tôi đi tham quan nay mai.Từ mấy chai bia cũ, hắn trở lại thời hắn nấu bia nhà máy Bia Hà Nội. Cứ như theo hắn giựt giọc tôi hiểu ra nhà máy bia Hommel chỉ bằng một phần mười nhà máy bia BGI Sài Gòn. Nên tôi cũng định vung vít với hắn, rằng hồi còn nhỏ, năm tám tuổi, ở Hà Nội tôi đã từng uống trộm bia 33 của ông cụ tôi và ngã cái đùng, say nhớ đời. Chưa hết, vào đến Sài Gòn, nhằm vào cái tuổi tập tành làm người nhớn, tôi cũng một đồng ba điếu Ruby với…bia 33. Tôi sẽ vung vít với hắn về một nhà văn nữ đã phóng bút: “…Nàng thấy cái cảm giác lâng lâng chạy suốt từ phía dưới chạy lên. Ngày còn trẻ nàng cũng có những lúc nàng lâng lâng một kinh khoái phần phật sau những hơi hướm của giống đực ếm vào môi và tai. Nhưng lúc trẻ nó chạy xuôi, xuôi qua cổ họng, xuôi xuống háng. Còn bây giờ nàng già, nàng lại thấy nó chạy ngược…”. Và tôi sẽ nói cho hắn hay cớ sự gì tôi uống…bia 33.Sau đấy, rằng dựa vào báo bổ mà tôi đã đọc qua, tôi sẽ…hoa bia, hoa hòe với hắn những cái tên từ gốc Đức là “Bier”, qua Pháp là “Bière”, Anh Mỹ là “Beer”. Và ngoài Bắc tên “bia” có từ năm 1939 qua…Bière 33 Export. Tiếp đến, năm 1875 ở trong Nam, người thành lập hãng BGI để làm…nước đá là người Anh tên Victor Larue. Sau làm thêm bia, và chỉ duy nhất bia lớn vẽ đầu con cọp mầu vàng. Tết đến in lịch, một ông Tây của hãng đã viết tên của người sáng lập ra hãng nước đá và bia với hai chữ Việt – Pháp đề huề “Lave – Larue”. Từ chuyện chéo ngoe ấy mới có…”La ve” và tên… “La de Con Cọp”.
Năm 1973, ở hai bên nhãn hiệu đầu con cọp vẽ thêm hai tràng hoa houblon. Nhưng vì họa sĩ là người Việt Nam chưa bao giờ nhìn thấy “hoa bia” tươi mà chỉ nhìn thấy hoa khô héo nên vẽ lộn ra…trái dứa nên có tên là…“La de Trái Thơm”. Vì vẽ…lộn, sản xuất ít, mỗi thùng La de Con Cọp chỉ thêm vào một chai…
…Khà! Đụng chạm đến La de Con Cọp tôi lại vấn vương tới cái ngày mười bốn, mười lăm tuổi. Bằng vào cái tuổi hắn nhòm trộm qua bên kia vườn “phải lòng” bà chị tôi. Thì tôi mầy mò ra cái quán Năm Dưỡng khu Bàn Cờ bắt cái “cà phê bí tất”, tức cái “xây chừng”. Thế nhưng chẳng có hơi hướng cà phê quái gì. Đúng ra lão Năm Dưỡng bỏ trái điệp rang vào cái túi vải, chế nước sôi cho ngấm, san vào chai La de Con Cọp vàng khè. Rồi rót ra ly, đổ qua đĩa, nốc vào hăng hăng khét đằng…Chẳng dấu gì ông, lúc ấy tôi chỉ ngó chừng …chai La de Con Cọp nên chả thống khóai gì sất cả, thưa ông.Ông lại thở ra vì chẳng thống khóai gì, chút nữa cậu nghiên cứu sinh mang cái nồi ngồi trên cái cốc ra ngay ấy mà. Trong khi đợi cà phê, trở lại chuyện vì vẽ…lộn, vì sản xuất ít, mỗi thùng La de Con Cọp chỉ thêm vào một chai La de Trái Thơm. Người tiêu thụ cứ nghĩ là La de Trái Thơm là…chai đặc biệt. Và tôi muốn lằng nhằng với hắn là miền Nam mưa nắng hai mùa đã nuôi dưỡng tôi từ cái buổi thiếu thời biết làm cái xây chừng, lớn lên chơi bia để thành người nhớn. Nếu bây giờ tôi có hoài đồng vọng về một Sài Gòn đâu đường cuối ngõ thì chẳng hẳn là bia 33 hay bia trái dứa mà là…La de Trái thơm.Ấy vậy mà khi không hắn lầu bầu với tôi: “Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân, tương phùng hà tất tằng tương thức”, và tôi hiểu lôm côm ra là cùng một lứa bên trời lận đận, gặp gỡ nhau lọ đã quen nhau. Nên tôi cảm khái quá lắm, chẳng dám loạn ngôn loạn chữ với bia bọt, ai mà dại gõ trống qua cửa nhà…máy bia Hommel Hà Nội.
A! Ông hỏi tại sao tôi uống bia 33 ở đoạn trên ấy hả? Thì đây là khúc nhà văn nữ khám phá ra cái khoái cảm, cái cảm giác kinh khoái chạy xuôi, chạy ngược: “…Tại sao và tại sao mình cứ du đời mình vào những phút giây này. Ba phút hạnh phúc. Ba phút run rẩy. Ba phút rạo rực. Ba phút bia 33. La ze con cọp say ngà ngà. Nàng chưa bao giờ uống một tợp bia 33 này chỉ nghe người ta tả nhưng nàng thích nghĩ là khi hai kẻ mới bị con ma yêu tinh dẫn mối, mới khám phá về nhau, mới đê mê tìm hơi ấm, tìm linh hồn, tìm thân xác nhau, thì cơn say ngâm ngậm thịt da linh hồn và trí óc cũng ngà ngà tựa như say bia 33 nó ếm vào môi, vào ngực…” giữa hai loại bia với tuổi trẻ, tuổi già, thưa ông.
***Trên đường lên tỉnh, hắn nhắc nhớm tôi, chuyến này để hắn đi chợ vì mới đẩy được mấy cái gầu, tôi nhủ thầm, thằng này đúng là dân chơi cầu ba cẳng nên chơi được. Ghé tiệm đồ cổ nhưng đúng ngày tiệm đóng cửa. Vào tiệm bia, cái thằng mắt bò hay sao ấy, hắn chơi nguyên “Một mét bia”. Còn xúc-xích, hắn ăn như tằm ăn rỗi. No say xong, hắn kêu tức bụng và phải mò vào…chuồng xí. Đợi mãi không thấy ra, tôi tự nhủ cái thằng ăn thùng bất chi thình như thế bị Tào Tháo đuổi là phải, phải đi thăm lăng bác thì cũng tốt thôi. Nhà hàng ra tính tiền, tôi móc túi trả vì nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ, chẳng phải tôi một tấc tận giời gì vì cũng có khi cũng tướt ra cả đấy. Nghĩ lại một lần hắn nói với tôi: Hữu bằng tự viễn phương. Bất diệc lai hồ, và tôi hiểu là bằng hữu từ xa tới, không vui sao. Ấy đấy, ông thấy không, tôi không vui sao được khi gặp người chơi với bạn chí tình như hắn là nhất. Nhất hắn đấy, thưa ông…À! Ông hỏi “Một mét bia” là cái của nợ gì ấy hả? Ấy là một khay gỗ bia, bia hàng một đứng xếp hàng dài cỡ…một mét thôi, thưa ông.Tửu vô kiềm tỏa năng lưu khách, nhưng hóa ra rượu bia cũng không cầm chân được hắn. Tối hôm ấy, hắn vật vã với thùng bia, với tôi và âm ỉ trong một cõi đi về: Hãy uống cho say trời sắp sáng, mai này hai đứa đã hai phương khiến tôi cứ nẫu người ra. Ngày về, hắn để lại cho tôi ba cái gầu hiện đại và dặn dò nhờ tôi đẩy dùm cho mấy gia đình quanh đây, rồi hắn lấy sau. Bước ra cửa, hắn bịn rịn với tôi cả một lúc lâu. Lúc ấy vì giao động, mắt tôi như chắn ngang một màn sương mờ và trong đầu tôi lại nghĩ có thể chẳng bao giờ gặp lại hắn nữa, một thằng bạn chí cốt, mới gặp nhưng như quen nhau từ kiếp nào. Ngồi trong xe, hắn vừa vẫy tay chào tạm biệt, vừa móc ví xem giấy tờ gì ấy, vừa lom lom nhìn vào trong xe. Để rồi hắn bước xuống, mặt mày lùng nhùng là xe gần hết xăng và hỏi tôi có thể “cấn” cho hắn ít tiền vào ba cái gầu của hắn được chăng. Đúng là cái thằng khỉ, có cái bình xăng cạn cũng lơ đễnh thì còn làm ăn buôn bán gì được.
Hắn đi rồi, trong một thóang cùng những hòai cảm lâng lâng, tôi nhớ lại câu chữ Nho của hắn: Tuế bất hàn vô dĩ tri tùng bách. Sự bất nan vô dĩ tri bằng hữu, hiểu theo nghĩa trong cơn họan nạn, mới biết thế nào là bạn. Để rồi cái đầu củ chuối của tôi đưa đẩy tiếp: Kẻ sĩ bách vi, thâm nho và hiền triết như hắn, trên đời dễ có mấy tay. Thầy tôi đấy ông ơi…Thoáng như ông đang lụi đụi: “Thì cũng tốt thôi mà”. Tôi cũng nghĩ như ông, hình như cuộc sống đến một lúc nào đó phải chấp nhận những gì…không tốt lắm và cứ xem nó như một cuộc chơi thôi. Chấp nhận những gì mà mình đã có, đang có được hay sẽ có hoặc không, để chịu đựng qua cơn bão, để làm sao để biết tìm nơi trú ẩn dưới cơn mưa. Và hắn thì đang cần một mái hiên trong những lúc nhiều mưa ít nắng, vậy thôi.
***Hắn về rồi, ngồi cắc ca cắc củm hành lang trước cửa nhà, tôi lũn cũn đuổi theo những bước chim di của hắn: Rõ ra, nấu bia mà hắn dẫn giải đâu có gì hay ho! Nào có khác gì nấu rượu nếp của các cụ ta xưa? Thì cứ lấy nếp “hấp” không chín hẳn. Xong vớt ra ủ với men rượu nhăm bữa. Nấu lại thật chín. Rồi trải nếp đều lên rá, mẹt, nước chẩy …”tong, tong” xuống bát canh là thành rượu nếp chứ cần quái “cái chọt gổ” ngắn ngun ngủn như…“cái củ cải” để bia nhỏ giọt như chó đái giắt ấy. Chưa hết, một lần hắn còn chữ nghĩa về bia tươi, bia hơi của ta lẫn bia “bock”, bia “draft” của Tây. Chữ là nghĩa và sự hiểu biết quá nhiều đến độ tôi có ý ngờ ngợ cái cơ sở văn hóa quá mạng của hắn từ bia vàng nhờ mạch lúa, tới bia đắng nhờ hoa bia, đến bia bọt…sủi bọt nhưng chưa tiện hỏi cho ra nhẽ…Ừ thì chuyện đâu vẫn còn đấy, hỏi cho có chuyện vậy thôi, thưa ông.Và hắn ghé tôi nữa, và tôi hầu như hầu bố tôi không bằng, cơm bưng nước rót, quanh đi quẩn lại chỉ vịt luộc, lợn luộc. Trong bữa tửu lạc vong bần, vì đã có ý ngả ngớn thế nọ, thế kia từ trước. Tôi dọ dẫm kiến thức đóng hộp của hắn về gốc gác của bia. Hắn đáp ngay là qua công trình khảo cổ ở Ai Cập cho thấy khi những người nô lệ bị đi đày tới đây vác đá xây kim tự tháp. Họ được nuôi bằng cháo trái cây, không dè để qua đêm thành…bia. Từ đấy, tôi tin thằng Bắc kỳ Hà Nội hết biết, tin…chết luôn.
Nhắc đến chuyện đi đày. Hắn sơ sịa qua chuyện thằng con đang vất vưởng ở Cao Bằng nên hắn đang tìm cách mang qua đây nhưng phải qua thủ tục…đầu tiên. Cho đến khuya, hắn uống bia như sáo tắm. Sáng sớm, tôi đang cho vịt ăn thì hắn tới nói nhỏ là hắn…mất tiền, vì rõ ràng để trong túi xách mà không thấy. Tôi bổ nhào vào phòng để tìm kiếm cho ra. Hắn nói với theo là có mất cũng không sao, của đi thay người ấy mà. Nghe lạ, ai lại của đau con xót mà vẫn tỉnh queo vậy. Tôi bò vào cả gầm giường vẫn không thấy gì. Đang rối tinh, lại nghe hắn nói cho hắn lên tỉnh ngắm…mấy chai bia cổ. Tôi lắc đầu chịu không hiểu nổi, ve lọ gì trong cái lúc đang ngùng ngoằng như thế, cuối cùng tôi cũng phải cõng hắn đi. Ngồi trên xe, tôi chẳng mấy vui, và cũng đã nghĩ đến chuyện phải bù đắp cho cái thằng chết tiệt vô tâm, vô tứ để đâu quên đó này, vì dù sao tôi cũng là chủ nhà. Ông thấy tôi xử sự như vậy có phải nhẽ chăng?.
Đến tiệm đồ cổ của một lão Đức già, hắn cứ xum xoe với mấy cái chai mốc meo không biết chán. Hình như chai lọ có duyên với hắn vì đủ loại cách đây cả 100 năm. Lạ nhất là có cả một dàn bia của mình với bia 33, La ve Con Cọp, La ve Trái Thơm. Ra về, hắn ngỏ ý với tôi là muốn mượn cái máy hình để chụp mấy…cái chai ấy. Vì nào có khác gì chuyện lòng lợn của tôi mà tậu “con Nikon”, ít nữa về thành phố của hắn, hắn khuyến mãi với khách hàng để lo thủ tục…”đầu tiên” cho thằng con. Ngồi trong xe, hắn nồng nã mấy câu thành ngữ trong nước đang thịnh hành như: “San Miguel : Sao anh nhớ mà ít ghé uống, em lo!”, hay “Carlsberg : Cho anh ráng lấy sức bế em ra giường!” hoặc giả như: “Heineken : Hôn em ít nên em khều, em nhéo”. Giời ạ, tôi còn đầu óc với hơi sức đầu mà “khều” với “nhéo”? Mà chỉ nghĩ cái thằng này hơi chướng và ám quẻ tôi quá thể. Hồn ma nát thần tính, tôi hình dung đến một tương lai chẳng mấy sáng sủa cho lắm, là thằng ôn vật này ăn vạ ở nhà tôi cả tháng nữa thì vịt cũng ngỏm củ tì vì không…biết bơi. Lợn cũng đột biến…chuyển qua từ trần như “bác” của hắn vậy thôi.Về nhà, trong khi tôi đang lấy cái máy hình trong ngăn kéo, hắn tới, cười toe là vừa tìm thấy tiền rồi. Mừng quá đỗi. Hỏi thấy ở đâu. Hắn nói ở trong…gầm giường. Tôi nghĩ không ra. Như ông đã biết đấy, tôi bò ra bò vào trong ấy hai ba lần rồi. Hay là nhà có ma.Trở lại tỉnh, ngồi trên xe hắn lại rọ rạy “Chỉ có bia mới hiểu bụng…mênh mông nhường nào – Chỉ có bụng mới biết…bia đi về đâu”. Sau khi chụp hình mấy cái chai thổ tả. Không biết hắn mặc cả với lão già Đức bán cho gã mấy chai bia cổ với giá mềm lúc nào tôi cũng chẳng biết nữa. Để rồi tôi bắt gặp hắn ở một góc tiệm, quay lưng phía tôi. Tay móc ví bỏ một mớ tiền lẻ vào túi. Đầu quay vội đằng sau. Mắt dáo dác nhìn quanh, vẻ không tự nhiên cho lắm. Diễn tả cho thật: Nói cho ngay, trông mặt hắn không…thật chút nào. Tôi biết ý quay đi, tự hỏi sao hắn phải làm như vậy, để làm gì, có giời mới hiểu được cái bụng…mênh mông của hắn sẽ đi về đâu. Thưa ông.
Chiều hôm ấy cho đến sáng hôm sau trước khi hắn về, tôi không dấu được nỗi ngán ngẩm và ghẻ lạnh của tôi với hắn. Tiễn hắn đi cho khuất mắt, nhưng tôi phải đợi cái xe của hắn đang chờ lũ vịt của tôi dang nhởn nha lững thững qua đường. Rồi cái xe khuất bóng ở cuối tỉnh lộ. Tôi thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng và tự thầm nhủ: Cánh cửa của quá khứ đã đóng lại. Bỗng dưng có linh tính ập đến với tôi đến thốn người.
Bèn nhẩy bổ vào trong phòng: Thôi rồi, cái máy hình không còn trong ngăn kéo nữa!***Chuyện của tôi là như vậy đấy! Giống như cái chai bị rạn nứt trên kệ kia…Bây giờ ngồi với ông, tôi chẳng biết ngắm cái nhãn hiệu La de Trái Thơm đánh dấu những gì đã qua với một nhớ hay quên. Hay là hãy nhìn…
Vừa lúc cậu nghiên cứu sinh người Hà Nội, mang cái nồi ngồi trên cái cốc ra…
CHUYỆN ĐẠO - CHUYỆN ĐỜI VÀ THÌ TƯƠNG LAI (kì 2)Đăng ngày: 12:27 09-04-2012
Thư mục:Tổng hợpNhững động tác cực mạnh, chuẩn xác, con gà không quoác lên được tiếng nào. Bẻ chéo cánh, đạp giữ 2 chân, vật ngược cổ nhoáy nhóay nhổ lông chuẩn bị cắt tiết. Mình bỏ
thau rau sống đang rửa đi nhanh vào trong.
Cũng chả cảnh vẻ gì, càng không phải lần đầu thấy giết gà, chỉ bởi cảnh ấy diễn ra ngay trong chùa. Một ngôi chùa lọt giữa thảm hoa vàng bát ngát những ngày cuối xuân trong ngăn ngắt. Bữa ấy, mình ăn cùng họa sĩ Phan Cẩm Thượng, ôngthường trútrong chùa. Suốt bữa cứ dợn lên từng đợt như ăn phải gián.Chùa nhỏ quận Thủ Đức, thanh bình, có vườn rộng cây to. Thi thoảng mình ôm cuốn sách chui vô ngồi bệt dưới gốc cây đọc.Thầy ngồi xếp bằng, tĩnh tại và đang đọc sách, ngay trước chính điện.
Mình kính cẩn
bạch thầy, thầy đọc cuốn gì thế ạ
.
Thầy nghiêng người, ghé sát tai,chuyện tình em ạ.
Cho đến giờ vẫn cứ tiếc, mất một chỗ trốn việc thảnh thơi ngồi.Sư bác. Trụ trì ngôi chùa nhỏ mà người mê tín tính linh thiêng hẳn không thể không biết, ở Bắc Ninh. Mình đàn bà mà còn nhìn sư bác không chán mắt. Mũi thẳng môi nét trán cao lông mày tỉa cánh cung cong vòng. Chùa đang tu sửa. Tay chủ thầu rỗ nhằng. Lão í nhà mình nói tỉnh queo, người thế mà theo thằng mặt rỗ phí quá. Mình nghiến kèn kẹt. Chưa đầy tháng sau hóa ra lão í đúng, sư bỏ đi làm bé tay mặt rỗ khi xà bần còn ngổn ngang trong chùa.Thằng em, nhà đối diện chùa Vĩnh nghiêm, chúa báng bổ sư sãi. Lần nào mình cũng tìm cách tránh trớ át giọng nó đi. Nó cay cú nhưng mình vai chị, nên nó phải im.
Lần kia, bỗng dưng nó phone, bà sang gấp. Chuyện gì. Tôi gặp tai nạn.
Mình phi sang. Chả nạn tai gì sất. Nó cười hô hố, mình sượng trân. Nó đang nhậu rượu thịt chó với 2 nhà sư, mặc nguyên đồ nhà chùa.Dăm năm trở lại đây, chùa chiền, nhất là phía bắc được tu bổ khá khang trang đẹp đẽ. Và, điều mà năm bẩy năm trước hiếm thấy, thì bây giờ rất thịnh là sư trụ trì đi cúng nhập trạch, cúng hô thần nhập tượng, thậm chí cúng… cất nóc cho tư gia các nhà giàu có.Đang đọc các tư liệu về lịch sử giáo hội Phật giáo và mình vỡ ra nguyên do (phi chính trị) mà thầy Huyền Quang (giờ là thầy
Quảng Độ) tách ra lập Giáo hội Việt nam thống nhất. Khi lễ lạt át phần tu tập, khi giới luật bị coi nhẹ hơn phần cơi nới mở mang, tức là đã đến lúc, ngôi nhà Giáo hội mang dấu hiệu rạn nát, từ nền móng.
Bát thịt chó
chùa ẩn sâu trong ngõ. Ngõ nhỏ thâm u và buồn. Hai bức tường lớn chạy dài trông có vẻ mục nát nhưng là bệ đỡ lý tưởng cho lũ dây dại nhí nhảnh trèo lên trèo xuống khoe những đóa hoa bé tí nhạt hương. Cổng gỗ xanh rêu cạnh tranh cùng ngói mốc. Mọi thứ trong khuôn viên đều nhỏ bé và cũ kỹ. Chùa nghèo hương khói cũng nghèo, chỉ vài ba sợi mỏng tang bay lẻ loi vào trời chiều cô tịch.Sư trụ trì tu theo dòng khổ hạnh, nhìn mặt không đoán nổi tuổi vì quá khắc khổ nhưng từ điệu đi dáng đứng đúng là cốt cách của người đã lánh xa thế tục.
Cuối sân chùa có một cội bồ đề, nhưng dưới cội bồ đề không bày tượng Phật nào, có lẽ vì địa thế không thiêng? Giáp ranh đó là một ngõ khác dẫn vào xóm nghèo. Người mù quờ gậy đi vào xóm chỉ cần nghe âm thanh là phân biệt ngay xóm nghèo hay giàu, ấy là vì tạp âm ở xóm nghèo thường vang to và vượt trội.Khổ thân ngôi chùa nhỏ chẳng được mấy ngày thanh tịnh. Vào những đêm trăng trong gió lộng, hễ bên này lời kinh tiếng kệ vừa ngân thì bên kia cũng cất lên giọng tru tréo của mụ vợ đanh đá nào đó đang hăng hái gây chiến với gã chồng nát rượu
Tuy nhiên, mọi sự dù hay dù dở nhưng cứ lặp đi lặp lại mãi rồi cũng đến một sự khác: sự quen! Mà đã quen, ắt cũng không còn khó chịu. Chuyện chùa cũng thế thôi. Sư trụ trì mỗi lần đi họp tổ dân phố, lặng lẽ ngồi nép vào một góc, mặc người ta tranh nhau “kiến nghị”. Thảng hoặc, ông tổ trưởng hỏi - giọng ồm ồm và hơi thô lỗ - rằng lũ trẻ mất dạy có phá chùa của sư không? Nếu có thì bảo ngay với ông một tiếng, ông sẽ vặn tay chúng nó cho nhũn cả ra. Nam mô a di đà Phật! Sư nghe sao thấy ghê rợn. Trẻ con nào không phá? Mà không phá gì sướng cho bằng phá chùa phá miễu! Nhưng chùa sư nghèo, chúng có vào nhìn lơ láo mấy tượng Phật rồi cũng đi ra, lấy được cái gì? Họa chăng thi thoảng cuỗm được quả chuối hay viên kẹo, bóc vỏ bỏ mồm nuốt ngay tại chỗ. Thấy hiên chùa gió mát thì vật ra đánh một giấc rõ say, mặc bên kia xóm nghèo tiếng bà mẹ ơi ới rủa thằng quỷ nhỏ mới đấy mà đã tót đi chơi đằng nào rồi? Có lần sư vén vạt áo nâu sồng đi qua, thấy thằng bé ngủ say, cái miệng há hốc như chờ sung rụng, dép sư bèn khua thật khẽ.Nhưng có mấy đứa lớn hơn thì thật quá đáng. Nhiều lần chúng tụ tập tiêm chích ma túy rồi vứt ống tiêm vào cội bồ đề làm lòng sư đau lắm. Sư đau vì cội bồ đề bị ô uế thì ít, mà đau vì chúng nó hư hỏng thì nhiều. Nghèo hèn – dốt nát – thất nghiệp và hư hỏng luôn bè lũ nhau như thể tương chao phải ăn kèm với rau thơm, khế chua và chuối chát vậy!
Lần kia sư bắt chuyện với một gã thiếu niên mày ngang má hóp, trông có vẻ lêu lỏng. Cậu ta thường ngồi ủ rũ dựa tường nhà chùa, tay đảo xấp bài lia lịa, sốt ruột vì đợi hội bạn. Thấy sư, cậu ta đưa mắt lơ đễnh nhìn, ngáp một tràng dài thành tiếng rồi hỏi trống không: “Sắp tới ngày rằm rồi, chùa có bố thí cơm chay không?”. Sư nói có chứ, nhưng chùa nghèo, cơm chay không được cầu kỳ, chỉ ít rau quả, tương chao và đậu phụ thôi. Cậu thiếu niên nghe thế thì nhếch môi, mắt nhìn vô định: “Ai bảo hồi đó xây chùa ở đây làm gì? Xóm này dân nghèo bỏ mẹ, lấy tiền đâu cúng bái?”. A di đà Phật! Cổ họng sư nghẹn đắng. Nói vậy mang tội cho sư quá. Chùa này quả thật là chùa tư nhân. Mấy đời sư trụ trì đều tu một cách lặng lẽ, không chủ trương rình rang như những chùa khác. Người tu hành lập chùa cốt để thí chủ gần xa về tụng kinh niệm phật, chứ nào phải... Hòm công đức được đặt nép nơi bệ thờ, dĩ nhiên là nên có, chỉ mong khách viếng chùa tự nguyện tỏ chút lòng thành. Tiền đấy cũng là dành cho hương đèn hoa quả và sửa sang tường rêu ngói mục, chứ chùa có ép uổng ai bao giờ. Cậu trai lại ngáp, những ngón tay cáu bẩn gãi vào cái trán đầy mụn đỏ gay, tỏ vẻ hối hận: “Tôi quen miệng chửi thề, sư đừng giận! Rằm tôi tới ăn cơm chay, sư đừng đuổi tôi nghen!”. Rồi không đợi sư trả lời, cậu trai đứng dậy phủi bụi đít quần, bỏ đi. Hai chân như hai cọng tăm khuỳnh ra, đen nhẻm. Đầu ngõ, thấp thoáng mấy cái áo thun in hình nhăng nhố, cắm xuống những “cọng chân” cũng hệt như thế.Sư buồn bã lắc đầu, đưa tay đẩy cổng gỗ. Một đám rêu khô nhảy bổ xuống lòng đường. Lũ kiến lửa cắm cúi dắt nhau đi tìm mồi, bò vẩn lên bờ tường ẩm mốc. Cuối vườn, lá bồ đề rụng vương vãi. Sư đi vào chùa, mang chổi ra thong thả quét, bụng nhẩm tính: còn ba ngày nữa là tới rằm!
Nhưng trước rằm một ngày, có nhiều đại họa xảy ra. Hòm công đức nhà chùa bị đánh cắp, cùng với một số tư trang. Sáng đó chuyển mùa, trời gây gây lạnh, chú tiểu thức sớm đi tìm áo mặc thêm vào cho ấm. Bỗng phát hiện cửa chùa khép ơ hờ, sực nhớ đêm qua mình đã cài khóa kỹ. Trong lòng hốt hoảng, tiểu bật đèn lên. Ánh sáng chạy vào giường ngủ làm sư thức giấc. Hai người nháo nhác nhìn quanh và chợt hiểu mọi sự. Đã nghèo lại thêm đại nạn. Rằm này biết lấy gì dâng cúng Phật? Khoảng giữa trưa, tiểu âu sầu đi thay nước bình hoa ở các bệ thờ, phát hiện thêm một tượng Phật nhỏ bằng đồng đã biến mất tự khi nào. Sư nghe mà buồn nẫu ruột, tay run rẩy cắm hương vào cái lư đặt lộ thiên giữa sân, ngước nhìn Phật Bà từ bi, mắt ấp ứ nước.Xế chiều, có thằng nhỏ bên xóm nghèo vượt tường sang hiên chùa nằm ngủ như mọi khi. Nó ngáp vặt mấy cái rồi hỏi: “Thầy chuẩn bị gì chưa? Sao chùa buồn hiu vậy?”. Mặt sư rầu rĩ: “Chùa vừa bị mất cắp”. Thằng nhỏ vọt miệng chửi thề: “Chết cha! Sao xui dữ vậy? Bên xóm con cũng vừa có người chết!”. Sư ngẩng đầu lên, mắt mở to đau đớn: “Mô Phật, sự thể ra sao, con...?”. Sư chưa dứt thằng nhỏ đã cướp lời, miệng chu ra, huơ tay múa chân diễn tả. Thế này này, ở quán thịt chó (Mô Phật!) bên xóm, bỗng dưng hai ông đang nhậu thì lăn đùng ra, sùi bọt mép, máu mũi chảy ngoằn ngoèo. Chở vào bệnh viện thì một ông đã ngoẻo ngay trên đường đi. Công an điều tra kết luận là bị ngộ độc, hình như thuốc diệt chuột thì phải, rồi buộc ông chủ phạm tội giết người. Ông ấy bị bắt giam, đang kêu oan rầm rĩ.
Sư bối rối lần tràng hạt, thảo nào xóm nghèo hôm nay tiếng ồn nhiều hơn mọi bữa. Có cả những tiếng la hét khóc than hơi bất thường. Nhưng sư nào để ý, việc của sư là giữ lòng thanh tịnh, bỏ xa cõi đời nhao nhác ngoài kia. Tuy nhiên, có tu thì cũng là người, thế nên nghe chuyện thằng bé rồi, sư thấy lo lắng làm sao, một cái gì hơi đau xót, day dứt lẫn trong một nỗi tò mò pha sợ hãi... Nói chung là một cảm giác bất an xáo trộn.Vừa hay chú tiểu đi ra, lấy tay dụi mắt vì bụi rơi khi quét dọn, hỏi: “Giờ làm sao hở sư thầy?”, ý nhắc sư về khoản tài sản bị mất, giờ biết lấy gì lo toan chu tất cho ngày rằm? Sư vân vê nếp áo nâu sồng, chậm rãi xoa đầu tiểu. Ừ, biết làm sao đây?
Đêm rằm, chùa vắng ngắt. Cội bồ đề tắm mình trong ánh trăng lạnh lẽo. Vài cụm hoa ngâu kiêu ngạo tỏa hương thanh cao làm đám dây dại tầm thường quấn chặt vào nhau hổ thẹn. Có vài khách quen bên kia xóm đến viếng chùa, niệm Phật vừa đúng một hồi kinh rồi cáo từ ra về. Khói hương lặng lẽ tỏa vào đêm sâu. Sư tiễn khách ra cổng, mảnh trăng rằm rớt xuống áo cà sa lấp lóa.Bỗng phía cuối vườn bật ra tiếng động khả nghi. Chú tiểu mau mắn chạy đi rồi hớt hải về báo: có người nằm gục bên cội bồ đề! Sư luống cuống kéo vạt áo cùng chú tiểu ào ra.
Gã thiếu niên mày ngang, má hóp, chân cọng tăm, nằm bệt xuống sàn nhà chùa, run lẩy bẩy vì đói. Trong cơn cùng quẫn, đáy mắt gã vẫn toát lên một vẻ gì gian xảo. Sư hối hả giục tiểu rót chén trà, cất giọng lo lắng: “Con có bị làm sao?”. Gã vẫn run, khẩn khoản: “Sư cho con tá túc một đêm, sáng mai con đi liền, được không?”. Chú tiểu đưa ngang tách trà, nước sóng sánh chực đổ, mắt nhìn gã thiếu niên nghi ngại. Những thành phần này, tiểu không dám tin, vì mới hôm qua đây chùa vừa bị mất cắp, biết đâu...? Mà cũng có khi thủ phạm là...? Thôi, tiểu không dám suy đoán nữa. Tiểu quay hẳn mặt đi tránh ánh mắt độ lượng vốn có của sư. Trong kinh Phật dạy rằng người chân tu phải rộng lòng từ bi, nhưng trong những trường hợp thế này, tiểu tự hỏi mình có nên tốt với tất cả hay không?Vậy mà sư đã gật đầu, sai tiểu dẫn gã vào nhà trong. Gã mừng rỡ đứng dậy, dáng điệu khó nhọc. Hai cọng tăm kéo lê trên nền gạch một cách tội nghiệp. Ngang qua bệ thờ, Phật mỉm miệng cười mà chân mày khẽ nhíu!
Gã thiếu niên ngã xuống tràng kỷ, mặt cắm xuống đất, nghe sư nghiêm khắc hỏi: “Nào, bây giờ hãy nói ta nghe, con đã gặp chuyện gì?”. Gã thiếu niên mím chặt môi, đôi mày ngang chập lại làm hai mắt tối sầm, giọng rắn đanh: “Con phạm tội giết người, đang bị công an lùng. Sư cho con trốn ở đây, sáng mai con đi sớm!”. Chú tiểu giật mình đánh rơi cây nến đang cháy dở, sáp vương vãi ra nền gạch, kêu lên lèo xèo. Sư hoảng hốt: “Nam mô a di đà Phật, nhà chùa không chứa chấp kẻ phạm pháp. Ngươi nên ra đầu thú, mau lên!”. Gã trai đổ vật xuống, lưng cúi gập: “Con van sư, con lỡ dại! Bây giờ con chẳng biết tính thế nào. Con không cố ý… Không cố ý…”. Tiếng gã nhòe trong nước, hai chân tăm co giật liên hồi, nét mặt tái dại. Sư bảo gã hãy kể rõ sự tình. Gã lắp bắp câu được câu mất...À ra thế! Cõi đời là thế. Gã trai mới mười bảy đã theo băng đảng, lòng chất chứa hận thù. Gã không thể kìm nén việc bị “làm nhục” (chữ dùng của gã), thế nên gã lén bỏ liều thuốc diệt chuột vào món dồi chó trong quán ông cậu ruột. Phục vụ bưng ra, hai kẻ thù gục đổ!
Sống lưng sư chạy rần rật. Độc ác quá! Ngươi đã là kẻ giết người, mới mười bảy tuổi đầu đã lập mưu giết người… Tay sư huơ lia lịa về phía trước. Gã trai vẫn quỳ mọp dưới sàn, bóng tối chen đầy hai má hóp: “Con van sư! Cho con ở lại đêm nay, con mà ra ngoài kia là người ta sẽ thộp cổ. Con còn cả một quãng đời dài. Con sẽ trốn đi đâu đó, một nơi rất xa. Con hứa con sẽ không hại ai nữa. Sư là kẻ tu hành, chẳng lẽ thấy người gặp nạn mà sư không cứu, hở sư?”. “Mô Phật! Ngươi nói gì lạ vậy, ngươi giết người một cách quá độc ác. Ngươi đã phạm pháp. Ta không thể... Không thể… Ngươi mau ra đầu thú đi, mau đi!”. Lời sư cả quyết, gã trai biết không thể van nài, bèn đứng lên, cất giọng ngang ngạnh như ra lệnh: “Thôi được, con sẽ ra nhưng con đói lắm, chùa có gì ăn không?”. “Nhà chùa bị mất cắp, rằm này ta cũng không có gì đãi khách thập phương. Chỉ còn tương chao và đậu phụ thôi”. “Con mà ra khỏi chùa là tiêu đời. Con xin sư bố thí cho con ăn bữa cuối cùng thật thịnh soạn”. “Ta đã nói rồi, chùa đang gặp nạn, chỉ còn mỗi đậu phụ, không hơn”. “Con hối hận lắm rồi, con không nghĩ là liều thuốc quá mạnh, con chỉ muốn hai kẻ kia ngộ độc đến ói mửa rồi câm mồm, chúng nó nhiều lần đánh đập hành hạ con. Con đã… Sư muốn con ra đầu thú phải không, con sẽ nghe lời sư. Nhưng sư hãy làm ơn đi, con muốn một bữa ngon!”. “Ta giúp được gì?”. “Hãy cho con một bát thịt chó!”.Mô Phật! Tim sư đau thắt lại, suýt đánh rơi tràng hạt. Trong lúc sư đang trân mình há hốc mồm không kịp phản ứng gì thì gã đã phun ra từng câu chữ rành rọt:: “Sư hãy băng qua ngõ, mua về cho con một bát thịt chó. Nếu sợ ô uế bát nhà chùa, sư cứ bảo người bán gói vào mảnh lá chuối, rồi mang về cho con. Nhớ xin tép sả, quả ớt, củ riềng và lá mơ luôn thể! Coi như sư làm phúc cho con lần cuối. Ngày mai con sẽ ra tòa, có thể sẽ phải trong tù mãi mãi. Có thể suốt đời con sẽ không còn được ăn thứ thịt mà con ưa thích nhất nữa, thứ thức ăn mà con đã dùng để giết kẻ thù của con. Hãy cho con được ăn món ưa thích nhất lần cuối. Lần cuối cùng, được không sư?”.
Những lời cuối, giọng gã hiền và nhỏ.Sư nhìn gã, nước mắt gã chảy dài. Nước mắt đục ngầu như nước cám lợn!
Sư bước ra sân chùa quạnh quẽ, ngước nhìn tượng Phật Bà. Phật Bà vẫn mỉm cười từ bi trong mùi khói hương bay lẩn quất.Rồi sư nhìn qua hướng xóm nghèo. Tạp âm vẫn vang to và vượt trội, dù bây giờ đã khuya. Xóm nghèo, vậy mà hàng quán nhậu nhẹt vẫn mở cửa suốt ngày đêm. Người ra kẻ vào, khật khưỡng, tanh nồng, nhao nhác. Bên kia ngõ là cõi tục!
Sư dợm bước… Tội ác ở trong kia, tội ác buộc sư làm một điều không chấp nhận nổi là đi mua bát thịt chó. Nếu sư không đi, tội ác sẽ tiếp tục làm điều ác bằng cách trốn tránh pháp luật! Tất nhiên rồi người ta sẽ thộp cổ gã như thộp một con gà chọi hung tàn. Nhưng một gã vị thành niên mà phạm pháp thì luật pháp sẽ trừng trị bằng cách nào? Khi nào sẽ thực hiện theo luật? Và khung hình phạt là bao nhiêu năm? Gã có cha mẹ không để bảo lãnh hay bênh vực? Sư không thấu kỹ, nhưng sư hiểu mình đang sắp phải phạm vào một điều cấm để cứu rỗi một chúng sinh, ít ra là trong giai đoạn tạm thời này. Kinh Phật có dạy người hành tội mà biết thú tội thì tội sẽ giảm. Nhưng chẳng lẽ sư thực hiện lòng nhân bằng cách này sao? Lẽ nào sư phải đi mua thịt chó? Người ta sẽ nghĩ gì? Không, người ta không nghĩ gì cả, người ta chỉ cười thôi, cười nhạo báng, ồ, xem kìa, xem thầy chùa cũng ăn thịt chó nữa kìa; nhưng người ta vẫn sẽ bán, phải bán chứ, để mà được dịp tò mò thích thú, được một câu chuyện lạ mà bàn ra tán vào mãi mãi… Mãi mãi, sư ơi!Chân sư đã đặt ở bậc thềm, gã trai mày ngang má hóp vẫn run rẩy, không biết vì sợ, vì hối hận hay vì đói. Chú tiểu lầm rầm đọc kinh. Gã thiếu niên vẫn đang quỳ xuống nên không nhìn thấy sư. Dáng hình kỳ dị ấy, biết đâu ngày mai, rồi sẽ vĩnh viễn sống nốt một đời trai tráng trong tù. Đêm nay là đêm tự do cuối cùng trong đời thiếu niên gã. Gã khẩn khoản xin một bát thịt chó cuối cùng trong đời gã... Chẳng lẽ không được sao?
Chân sư vẫn ngập ngừng nơi bậc thềm vì một ý nghĩ khác vừa kịp chạy thoáng qua đầu... Sư hít một hơi căng lồng ngực, chắp tay lạy Phật Bà rồi chạm tay vào cổng gỗ đang khép ơ hờ. Đám rêu mốc chết âm thầm trong tay sư. Mảnh trăng vỡ vụn rơi lặng lẽ vào ngõ nhỏ, dát vàng chiếc áo cà sa...NHỮNG KỶ NIỆM VỀ LOÀI CHÓHôm nay thằng Bưởi ngố nằm chết ngay trên bàn quỳ của tòa giải tội. Mình bảo người ta đem đi chôn, nhưng dường như mấy tay nhậu đã đem đi làm thịt... Chó chết thì hết chuyện, nhưng thằng Bưởi chết làm mình suy nghĩ mông lung.
Thầy Nhiên đem nó về đây và đặt tên cho nó là Bưởi. Còn tên Bưởi ngố là do thiếu nhi đặt. Nó không biết sủa, không biết cắn, nhưng lại thích rượt con nít. Hễ thấy con nít là rượt, rượt mãi miết cho tới khi gí mũi vào mông đối tượng một cái, rồi mới chịu quay về. Tỉnh bơ. Ngơ ngơ.Lúc nào cũng tỉnh bơ, ngơ ngơ như thế, chẳng biết giận dữ là gì. Vậy mà đã hai lần nó làm lương tâm mình bị cắn rứt.1- Hôm ấy đến phiên mình nấu cơm. Nhà có ba miệng ăn, mình xúc hai lon gạo. 3-2 là bài toán chuẩn xác nhất, được mọi người trong nhà xứ tuân theo một cách máy móc. Thế mà hôm ấy 3-2 lại sai. Ba anh em vét sạch nồi. Không còn một miếng cháy. Vẫn còn thòm thèm. Khi mình rửa chén, cọ nồi, thằng Bưởi cứ đứng dòm mình. Ngơ ngơ. Cặp mắt ngơ ngơ của nó làm mình xấu hổ. Mình giơ tay dọa nó, nó lùi một bước, rồi lại đứng đóù, cặp mắt lại ngơ ngơ dòm mình. Phải rồi, nó đi đâu bây giờ ? Ngoài vườn không có gì để ăn. Chỉ có một món có thể ăn được, thì mình lại bỏ vô hầm cầu mất rồi. Mình là chủ của nó, nhưng là một ông chủ vô trách nhiệm. Mình xin lỗi nó, nó không biết, cứ ngơ ngơ. Thế mới đau !
2- Mình gặp bà Tư ở bên nhà thờ Quản Long.- Ủa, bà Tư, sao lâu quá không gặp bà. Cứ tưởng là bà dời nhà đi đâu rồi.- Con có đi đâu đâu. Lâu lâu muốn vô thăm cha, lại sợ con chó Bưởi. Con Bưởi của cha dữ quá à !
- ! ! !Thằng Bưởi của mình ngố là thế mà vẫn bị mang tiếng là chó dữ. Tin dữ đồn xa. Chó dữ làm mất láng giềng. Mình thấy nhói trong tim. Từ đó mình đã quyết tâm không bao giờ nuôi chó nữa. Thằng Bưởi là con chó cuối cùng của đời mình.
Khi nhà xứ không còn nuôi chó nữa, mình lại nhớ đến những kỷ niệm xa xưa về loài chó.Niên khóa 1951-1952 chủng viện Hà Thạch đi sơ tán, để lại sáu đứa chúng mình, làm chủ ba dãy nhà lầu rộng thênh thang và một khu vườn rộng bát ngát. Lũy tre xanh bao bọc xung quanh. Bên kia có một con lợn xề. Bên này có một rẫy khoai. Nghề của lợn là phá rẫy. Nghề của chúng mình là đèn sách. Hai bên không có dịp giáp mặt nhau. Cứ đến giờ vác cuốc xuống rẫy, thì chỉ còn biết kêu lên “Hỡi ôi !”.
Trong thời buổi khó khăn, khoai quý như gạo, thì bảo vệ rẫy là bổn phận hàng đầu. Chúng mình chia phiên gác. Vừa học bài, vừa coi rẫy.Con lợn xề vừa chui qua hàng rào tre, thì có tiếng vỗ tay và hô to :"Hươu, Nai, Hổ... xùy, xùy...". Ba con chó bẹc giê xông ra một cách dũng mãnh... Bỗng khựng lại và sủa khan. Con lợn xề to quá và dữ quá. Án binh bất động. Hai bên thủ thế. Con lợn xề ngồi tựa lưng vào lũy tre, chiến lũy Maginot bất khả xâm phạm. Địa hình ưu đãi nó. Ba con chó bẹc giê ngồi chầu con lợn. Tiến thoái lưỡng nan : tấn công thì không thắng; rút lui thì nhục. Chiến trường ngưng đọng. Hai bên chỉ còn chửi đổng nhau một cách rời rạc .- Gâu... Gâu...
- Ôộc…. Ôộc….
Từ phía gốc bàng cổ thụ có tiếng gọi : “Hôå, xùy... xùy...". Lòng tự ái bốc lên như triều dâng, con Hổ nhào vô tấn công con lợn. "Ẳng, ẳng...". Con lợn xề to đùng ôm lấy con Hổ. Hai má núng nính quăng qua quật lại làm con Hổ bị đau gần chết. Con Hổ chịu thua, giãy giụa để thoát thân, chạy vội về chiến tuyến của mình. Thở hào hển. Lại ngồi chầu hẫu. Lại sủa khan để chống thẹn.Bỗng nó đứng dậy, lủi thủi ra đi như kẻ bỏ cuộc. Nó chậm rãi đi về phía cuối hàng rào, chui qua một lỗ hổng, rồi vòng trở về phía chiến lũy bất khả xâm phạm của đối phương. Nó trườn mình qua hàng rào dày… Thì ra nó đánh tập hậu bằng miếng võ ngoạm đuôi. Con lợn kêu éc một tiếng, xoay vội ra phía sau để đối phó, bỏ trống phía trước. Nhanh như chớp, Nai và Hươu nhào vô cắn mông. Con lợn bị rơi vào địa hình bất lợi hoàn toàn. Bị tấn công hai mặt. Chưa kịp đỡ phía trước thì đã bị đánh phía sau. Đánh không được, đỡ cũng không. Sau mười phút chiến đấu điên cuồng, con lợn xề hộc lên một tiếng, rồi đổ kềnh xuống. Một đống thịt đỏ lòm như tắm máu. Ruột lòi ra một nùi...Thây lợn được khiêng ra Ủy ban xã. Thầy quản lý được mời ra Ủy ban để đối chất với chủ lợn. Chúng mình nín thinh chờ đợi... Thầy quản lý vừa về tới cổng, chúng mình ùa ra đón.
- Có sao không thầy ?
- Chúng ta thắng..., được bồi thường bằng một rổ thịt.Chủ lợn đang thắng thành thua. Chúng mình đang thua thành thắng. Mình cảm động đến ứa lệ.Tối hôm ấy, chúng mình được ăn một bữa thịt lợn ngon ơi là ngon. Ngon vì chúng mình đang thiếu chất đạm một cách trầm
trọng. Ngon vì thịt lợn là chiến lợi phẩm bất ngờ.
Ba con chó lẩn quẩn dưới gầm bàn. Thương tụi nó thì ít, mà biết ơn tụi nó thì nhiều. Mình vứt xuống gầm bàn một khúc xương còn dính nhiều thịt. Thế là ba con chó quần nhau một trận tơi bời hoa lá, rung bàn đổ ghế. Gầu gầu… Gừ gừ… Ẳng ẳng….Chó ơi, sáng nay chúng mày thương nhau là thế, khôn ngoan là vậy. Thế mà bây giờ chúng mày lại cắn xé nhau chỉ vì... một khúc xương. Ôi, tình chó !Bây giờ mình mới hiểu thấm thía một lời trong sách Chiến Quốc: “Khi hai người cùng chung lo một việc, thì yêu nhau; khi hai người cùng chung hưởng một quyền lợi, thì ghét nhau”. Ôi, tình người !
ha A. Desroches là linh mục thừa sai Paris, là giáo sư môn toán, lý hóa của tụi mình. Thầy phát âm tiếng Việt rất dở, nhưng thầy rất mến người Việt Nam. Cứ mỗi buổi chiều Chúa nhật, thầy lại xách môtô đi thăm dân sống rải rác trong vùng rừng núi. Mỗi lần đi thăm về, thầy lại có quà cho tụi mình : không bưởi thì cũng quít, không sấu thì cũng ổi... Thầy rất sợ thịt chó. Cứ nói đến thịt chó thì thầy lại nhún vai tỏ vẻ kinh tởm. Nhưng sau đó, thầy lại hối hận. Thầy âm thầm tập luyện để hội nhập, cho tới một ngày kia...
- Cha có dám ăn thịt chó không ?- Có.- Cha đã ăn được chưa ?
- Ăn ?ược rồi.
- Cha thấy thế nào ?- Thịt chó ngon lắm, nhưng phải là chó Việt Nam.- Tại sao ?
- Chó tây ăn thịt, thịt không ngon. Chó Việt Nam ăn c., thịt lại ngon.
Dám ăn thịt chó, ăn được thịt chó, thấy thịt chó ngon, lại còn biết triết lý dí dỏm về thịt chó. Mình cảm phục một vị thừa sai chân chính dám sống VỚI, sống NHƯ đến tận cùng, để sống CHO trọn vẹn.Đại Lão Nghị BànSớm nay, sao Bác Tư dậy sớm vậy. mới ơn 4 giờ chưa rạng mặt người mắt nhắm mắt mở thằng Bẩy đang lúi húi dọn quán bún cho mẹ đã thấy ông thấp ống cao dắt con cún đi ra bờ sông tập . Bẩy lễ pháp chào: “ Dạ thưa bác đi tập sớm vậy”. Ông Tư cựu chiến binh từ ngày nghỉ hưu về xóm bỏ cả sinh hoạt chỉ còn mỗi chỗ tụ tập, ấy là mấy ông già bà già bà trẻ đi tập thể dục, nhảy nhót..Các cụ sáng nào cũng đều, kể cả những ngày đông tháng giá, chẳng bù cho bọn thanh niên ăn chơi trong xóm, thâu đêm suốt sáng đên giữa trưa mới mò ra gọi bát bún bò cho đỡ xót ruột vì cả đêm nốc rượu, chát xình chát chát bùm. Ông tư nhìn thằng Bẩy có ý khó chịu quát: “tao đi sớm đi muộn mặc tao. Mày hỏi làm cái gì? Bỗng chợt nhớ ra một điều, ông hỏi lại : “ Này, nhà hàng mày bán cái gì ầy nhỉ?” Thằng Bảy lễ phép thưa: dạ, Má con bán bún bò”. Ông Tư gật đầu: “ Tốt ! Tốt! Bò thì tốt. May cho nhà mày chỉ bán bún bò thôi đấy. Bán bún chân giò , tiết canh lòng lợn thì có mà sập tiệm đến nơi con ạ”. Thằng Bẩy ngơ ngác thanh minh: “Dạ, má con bán bún bò giò heo ạ, Vậy có sao không ông?” . Ông Tư giật mình: “Chết cha. Má mày bán cả giò heo à. Thế thì báo Má mày bỏ hết heo, hết gà, hết vịt đi. Chỉ bún bò nguyên chất thôi. Thôi tao đi “họp” cái đã…À, không phải đi họp! Già rồi tụ họp cái con khỉ gì. Ai hỏi thì bảo tao đi tập thẻ dục và cho chó đi ỉa. Hiểu chưa. Tí nữa về tao sẽ phổ biến cho Má mày. Đời thủa nhà ai mà bây giờ thời cúm gà, cúm vịt, lợn tai xanh tai đỏ, lợn độc tràn lan mà dại dột đi bán những thứ này. Lời lãi chẳng biết thế nào. Lơ mơ bị phạt thì có ngày sập tiệm!”Nhận được tin nhắn từ đêm qua, cô y tá về hưu non cùng đơn vị cũ đã đến đợi lão ngoài bãi tập từ lúc nào. Thấy ông Tư đến cô vội vàng hỏi: “Có chuyện gì hệ trọng mà anh gọi em sớm thế?”. Ông Tư nhìn trước nhìn sau xem có ai quanh đấy không rồi mới rỉ tai cô y tá: “Hôm qua xem ti vi thấy bộ trưởng Phát nói: “.“Sử dụng chất cấm nguy hại trong chăn nuôi là một tội ác, không còn là vi phạm quy định nữa. Chỉ vì người chăn nuôi hám lợi mà đầu độc hàng chục triệu người”. Thế có chết không cơ chứ?Nghe người ta nói “Với các loại kiểm tra thịt tại lò giết mổ, kết quả kiểm tra tới 26% số mẫu phát hiện các chất cấm tăng trọng, kích thích gốc B-Agonit. gây ung thư”,thế mà tôi chẳng biết gì. Mỗi tuần làm nồi thịt kho với mấy con cá nhép rồi rau muống luộc trường diễn có chết tôi không ? Chắc là ung thư đến nơi rồi. Cô y tá vôi trấn an. Ấy chết, ông anh đừng vội lo thế. Ăn chất độc vào nó có chết ngay dâu mà biết được. Cái chất ấy ăn vào nó sẽ chết dần! chết dần dần!... như cái bài tập nhẩy chát xình chát xình xình hôm qua ầy. Bố biểu chưa? Cái thằng bệnh ung thư ấy nó bục ra lúc nào mà trong người tích đủ lượng chất độc. Bởi thế, bố già nên khám ngay đi. Phát hiện sớm thì dễ chữa. để muộn nó di căn thì có mà trời cứu. Ông Tư xanh mặt luống cuống định chạy về lấy sổ đi xếp hàng bệnh viện ngay cho kịp. Cô y tá cừời kéo ông lão lại: “Khoan đã, ông anh phong độ thế này thì còn lâu mới đến lượt ông anh mắc bệnh. Thôi em với anh tập lại mấy bước đi cho thuần cái đã. Lát nữa cả hội ra ta cho họ lác mắt…Bố Tư vùng vằng. Thôi để tôi đi khám cho yên thân. Nhảy mới chả nhót gì lúc này.Chợt nghĩ ra một điều gì, Lão Tư lại hỏi: “Thế nếu tôi không đi khám bệnh mà tôi mang thịt lợn đi khám có được không?” Em y tá nhăn răng ra cười. “Ừ. Ông anh có giỏi thì cứ mỗi ngày mua kí thịt, xẻo một miếng đi khám. Nếu không độc thì chén. Nếu độc thì chon. Mà xin lưu ý ông anh: tiền xét nghiệm một mẫu thịt có khi bằng cả yến thịt đấy ông ạ.”. Lão Tư gãi đầu. Rõ mình xưa nay chỉ quen chỉ đạo chứ có đi thực tế đâu mà biết. hóa ra nó dắt thế cơ à?
Lão bật ngay ra một ý tưởng: “Hay là tôi cho con vện này của tôi nó ngửi có dược không? Thế này nhé: con vện của tôi tinh mũi lắm. tôi để lẫn chiếc tất hôi cuối gậm giường mà chỉ cầm 1 chiếc cho nó ngửi làm mẫu thế là nó tha về ngay chiếc còn lại. Hay là tôi đến thú y xin mẩu thịt độc cho nó ngửi để phân biệt thịt sạch, thịt độc. Đi chợ dắt chó theo. Mua miếng nào cho vện nó hít trước nếu độc thì không mua, báo cho quản lí chợ xử lí. Nếu thịt sạch mới mua.
Cô y tá bò ra ngặt nghẽo cười suýt vỡ bụng vì ông anh thông minh vui tính, vênh mặt thách: “Em đố ông anh đấy. Thử làm đi. Ừ sao anh không đăng kí ý tưởng ấy nhỉ? Giật giải VIFOTEK là cái chắc!” He! He!Vừa lúc ấy thì tay luật sư ngõ trên cùng “hội chát bùm” cũng xuất hiện. Hắn hỏi “ sao hai đồng chí sáng nay ra sớm vậy?” Lão Tư thuật lại chuyện xem trên ti vi tối qua. Ông Luật sư giật thót người thần ra ngẫm nghĩ một lúc. Ông này ngày nào cũng đánh một bát bún bò giò heo đâm nghiện. Thịt heo là món khoái khẩu lão chén tì tì hàng ngày. Vốn là luật sư thông hiểu nhiều luật lệ nên ăn nói của gã lúc nào cũng cẩn trọng từng câu từng chữ. Hắn coi ông Tư như thân chủ của mình và lên giọng đặt câu hỏi rành rẽ :- Thế ông bắt đầu ăn thịt heo từ bao giờ?
- Mỗi ngày ông ăn bao nhiêu gờ ram thịt heo?
- Ông mua thịt heo ở chợ hay siêu thị….Ông Tư đang bối rối thấy gã luật sư hỏi thì tin tưởng có gì khai nấy rất thật thà. Thỉnh thoảng có gì chưa khớp cô y tá lại góp ý bổ xung.Cuối cùng, tay luật sư đưa ra một lời khuyên: “Theo tôi, bác không nên đi khám bệnh. Khám làm gì cho mất công, lỡ ra lại vạ vào thân”.
Cô y tá và ông Tư nhìn nhau tròn mắt, ù cả tai, chẳng biết tay luật sư này có bị tâm thần hay không mà lại ăn nói kì vậy.
Gã luật sư ôn tồn giải thích: “Bác đi khám để phát hiện ra xem mình có bị ung thư không chứ gì. Nói thật với Bác chứ bị ung thư thì chữa chạy tốn kém lắm. Đến ba bốn người một giường lại ăn chực nằm chờ. Đã ung thư thì nó phát ra thì phải chữa nhưng chưa biết bệnh tật gì khi đến bệnh viện, bác khai ra tôi đi khám vì ăn phải thịt lợn có nuôi bằng thức ăn có chất gây ung thư nên mới phải khám là bác có tội to đấy.Ông tư bật như cái lò xo. Ông là luật sư mà sao ăn nói kì vậy?Ông thầy cãi ôn tồn giải thích: “Ông chẳng chiu đọc báo nghe đài gì cả. về hưu rồi vẫn phải chăm chú nghe ngóng thông tin chứ? Cứ chỉ mê chát xình cát chát bùm có ngày bị phạt nhăn răng ra chẳng ai cứu được. Sống phải tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật chứ”.
Gã thầy cãi tiếp tục:” Ông không thấy trên báo người ta viết :
“Sắp tới, người điều khiển mô tô, xe đạp điện đội mũ bảo hiểm thời trang, nhái mũ bảo hiểm và không có tem CR hợp chuẩn sẽ bị xử phạt 100.000 - 200.000 đồng.”
à?
Thế này nhé: Ông là công dân mà công dân là tài sản qúy của một quốc gia. Con người là tài sản qúy nhất. Ông ăn thịt có chất độc gây ra ung thư nghĩa là ông phạm tội hủy hoại cái tài sản qúy nhất của quốc gia. Cũng như anh đi xe máy không chịu đội mũ thật do các doanh nghiệp được nhà nước công nhận mà lại đội mũ dởm. Nhỡ ông đâm vào đâu ông vỡ gáo là mất một tài sản qúy nhất của Quốc gia. Vậy ông bị phạt là đáng đời.Bố Tư tức khí cãi vung lên: Thế ông bảo tôi đi ô tô xe máy, xăng dởm của nhà nước bán ra xe bị cháy thì cũng phạt tôi ư?Thầy cãi cười : “bố già rõ lẩm cẩm! xe bố nó cháy là bố tự phạt bố rồi còn gì. Xe máy cháy thì tự anh đã phạt anh vài chục triệu. Ô tô cháy thì tự anh phạt anh mấy trăm triêu, cả tỷ bạc…Ai bảo anh là người tiêu dùng ngu dốt? Ấy xin lỗi, người tiêu dùng kém thông minh chứ.”
- Thế xe các quan cháy thì sao?
- Ồ. Có thế mà cũng hỏi. Xe biển xanh biển đỏ nó cháy làm sao được. Người ta có chỗ đổ xăng của cơ quan, có bảo vệ theo dõi, có lái xe chuyên nghiệp làm sao mà cháy dược. Rủi có cháy đi nữa thì người ta ngồi chễm chệ ghế sau, mở cửa nhảy ra là xong. Cái cỗ máy nó đặt đằng trước cơ mà. Xe nhà nước cháy thì nhà nước tự phạt chứ có gì mà lo…Tranh luận mãi chẳng đi đến đâu, cuối cùng ông trùm hội khiêu vũ cho ngừời cao tuổi đã tới. Tiếng nhạc chát xình! chát chát bùm! Chát bùm! Chát chát xình! nổi lên. Đôi nào đôi ấy quên hết cả chuyện lợn độc, cháy xe, mũ mãng. Ai nấy dậm dật quay tít trong tiếng nhạc.Thôi! Vui đi cái đã. MACKENO!
NGHỆ AN XÔ VIẾT VẪN LÀ NGHỆ AN
Hôm nay,11/9 ngày lễ rất to ở Mỹ là kỷ niệm 10 năm ngày nước Mỹ bị mấy thằng En kê đa hay còn gọi là khủng bố cướp 2 may bay đâm sập 2 cái nhà tầng cao nhất đổ gục làm 2 ngàn 7 ngài phải ngồi sau nải chuối.Đó là chuyện bên Mỹ.
Ngày mai 12/9,cũng là ngày kỷ niệm về những ông nông dân mấy huyện ở Nghệ an định vác trống đánh hô hào cướp chính quyền .Tài liệu để lại rằngTừ sáng sớm ngày 12.9.1930, khoảng 20.000 người, khẩu hiệu, cờ đỏ từ khắp các ngả đường đổ về phía ga Yên Xuân, Vinh. Tiếng hô, tiếng trống mõ vang dậy. Giáo mác tua tủa. Đoàn biểu tình xếp hàng tư dài hàng kilômét. Bọn lính khố xanh chặn đường, nổ súng bắn gẫy hai lá cờ to. Đoàn người cứ tiến, ngày càng đông. 12 giờ trưa, tới làng Thái Lão,h.Hưng nguyên, máy bay địch ập đến thả bom làm trên 100 người chết và bị thương. Lát sau, lính lê dương từ Vinh lên sát hại thêm 174 người, 300 người khác bị thương... Đến chiều khi quần chúng đi nhặt xác lại thêm 34 người thiệt mạng! ...Kỷ lục ghi nét thế giới xếp Nghệ an có cái trống có một không hai trên thế giới : Trống đánh từ năm 1930 mà còn vang vọng đến bây giờ
Anh nhạc sỹ Tân Huyền thì thâm thúy hơn và cho rằng"Nghệ an xô viết vẫn là Nghệ an"Có thằng lại còn ngứa mồm bảo : "Nghệ an Hà tĩnh vẫn là Nghệ an",chỉ là vì hôm 12/9 cũng có đoàn của nông dân Hà tĩnh cũng nổi dậy
Thằng cu Xuân thì chửi như Chí phèo rằng : Đ.mẹ! Ông nội tui là người trèo lên cây Đa ở làng Đỏ Hưng dũng cắm lá cờ đỏ sao vàng trong ngày 12/9 mà giừ nó coi cả nhà tui chả ra cái đếk gì...Oạch!
Thôi,thì đó là chuyện bên Mỹ và Nghệ anGiờ thì chẳng ai nghe khen Nghệ an biểu tình nữa.Mà chỉ toàn là tăng trưởng,xóa đéo giảm ngòi,rồi thì là tiêu chảy cấp mà dân Nghệ quen gọi là ỉa chảy,rồi thì là tụ tập đông người mà dân nghệ nói là biểu tình vân vân và v v...
Mấy bữa ny xứ Nghệ có mưa,mưa chưa to nhưng mấy thằng nhà báo ngứa mồm viết "thành phố vinh chim trong biển nước".Mưa là vấn đề liên quan đến thịt chó.Thịt chó là món khoái khẩu của dân nhậu Nghệ.Không biết trên thế giới này có đâu nghiện thịt chó như ở Nghệ an choa không.Sáng nay,giá thịt chó thịt trộn xương 150 ngàn đồng/1kg.Tất cả các quán thịt chó trên t/p Vinh đều chật cứng người.Nếu tầm 11h trưa đi ăn là không có chỗ hoặc hết hàng ! Khiếp!.
Thằng Sẳn (18/01/2008 )Mưa như roi quất lên thành cầu. Mưa nổi bong bóng trên mặt nước. Chưa đầy một ngày mà nước đã dâng ngang thân đê, đỏ ối, chảy băng băng. Trụ cầu phải gồng mình chống chọi với đủ mọi thứ củi cành, rác rưởi từ thượng nguồn đổ xuống.Trên cái ổ dưới gầm cầu, thằng Sẳn co ro trong chiếc chăn cũ rích. Nhìn mặt nước mênh mông, nó không tránh khỏi lo âu, buồn phiền. Thỉnh thoảng nó giật thót bởi tiếng sét nổ rách màng nhĩ, kèm theo ánh chớp xanh lét, ngoằn ngoèo. Mưa gió thế này hẳn nó sẽ phải đói. Bãi ven sông - nơi cưu mang nó đã chìm nghỉm. Số tiền giành dụm bấy lâu, liệu có nuôi nổi nó một tuần. Trời mưa, các cửa hàng đặc sản, tái dê, thịt chó thêm đông khách, với Sẳn thì ngược hẳn, đó quả là một hiểm hoạ, nó đã từng đói vàng mắt khi thời tiết thế này. Nó mân mê chiếc bánh mì, mấy lần định đưa lên miệng rồi lại chần chừ, cuối cùng nó miễn cưỡng nhét sâu tấm bánh vào túi bao tải cùng với mấy bộ quần áo cũ và vài thứ lằng nhằng. Cuộc sống tự lập giúp nó ý thức được, ăn bữa trước phải dè bữa sau nhất là khi trời mưa gió, chẳng biết khi nào mới tạnh ráo.
Để cố quên đi ổ bánh, thằng Sẳn ngồi đếm từng cành củi, từng đám rong rêu đang lao theo dòng nước. Nó chú ý đến một mảng rạ lớn, hẳn là một phần mái nhà, đang kẹt trước mố cầu, có xác một con chó con. Tung vội chiếc chăn đang quàng, thằng Sẳn lao xuống bờ sông, mặc cho nước mưa hắt vào mặt, lạnh buốt, bỏng rát. Nó cố sức kéo mảng rác vào gần bờ, nhoài người túm lấy con chó. Con vật mềm nhũn như núm rạ thối, mắt nhắm nghiền, hàm răng nhe trắng ởn. Hình như nó chưa chết hẳn, hai lỗ mũi vẫn còn phập phồng.
Ôm con chó vào lòng, Sẳn cúi mình, phóng lên gầm cầu, 'ngôi nhà' của nó gần một năm nay. Nó xé mấy tờ cát tông, vội vàng nhóm lửa, vừa sưởi ấm cho người, vừa sưởi cho con vật.Ngọn lửa ấm áp làm lông con chó bay hơi, khô dần. Đã nhìn thấy bụng nó nhô lên, xẹp xuống.- Sống rồi! Mày sống lại rồi!
Thằng Sẳn mừng rỡ reo lên. Nó nhích gần đống lửa, ngồi chồm chỗm, đầu gối chạm cằm, con chó kẹp gọn trong bụng. Nó quấn thêm chăn, cố truyền hơi ấm thân thể mình sang con vật, rồi khơi to ngọn lửa làm các mẩu tro bay túa lên trời, như những cánh bướm đen huyền mỏng mảnh.
Mưa đã ngớt hạt rồi tạnh hẳn. Tuy chưa thấy mặt trời nhưng mây đã quang. Một chiếc cầu vồng rất lớn hiện ra phía thượng nguồn. Đôi cò trắng rời nơi trú ngụ, sải cánh trên dải nước cuồn cuộn phù sa. Vướng phải một doi đất, dòng nước ấy hơi khựng lại rồi bất thình lình vã lên bờ những giọt sóng lấp loá, tựa hồ vô số mảnh vỡ pha lê, và chỉ tích tắc đã tan biến trong đám cỏ gà xanh mướt mắt.Con chó cựa quậy, ư ử, yếu ớt. Thằng Sẳn lim dim cặp mắt cảm nhận sự sống đang hồi sinh trong con vật bé bỏng, mỗi lúc càng ấm dần. Nó cố tưởng tượng khi khoẻ hẳn, con chó sẽ vui mừng biết chừng nào, lúc nhận được mẩu bánh mì. Sẳn thôi hẳn ý định bán con chó. Từ nay Sẳn có bạn mới. Sẳn phải chăm sóc nó thật chu đáo để khi lớn lên nó sẽ đi tơ với một chú đực nào đó, rồi nó sẽ có mang, mấy tháng nhỉ, chẳng biết nữa nhưng chắc chắc nó sẽ đẻ con, một dàn con lau xau. Cái gầm cầu lạnh lẽo vắng vẻ này rồi sẽ ồn ĩ suốt đêm suốt ngày, toàn những tiếng chó là tiếng chó.Con chó ách ách mấy tiếng như muốn nhoi ra ngoài. Thằng Sẳn tung chiếc chăn vào một góc, nhấc con chó đặt xuống đất. Con vật run lẩy bẩy, vẹo vọ, ngã dúi dụi. Tuy còn quá yếu, nó vẫn cố ngoe nguẩy cái đuôi như để cảm ơn người chủ mới. Sẳn véo mẩu bánh mì đưa tới miệng con
chó, nó dụi dụi mõm, nhưng không thể há miệng ra được.
- Mày nằm yên ở đây nhé!
Cuộn chăn thành một cái ổ rồi Sẳn đặt con chó vào đấy. Nó tất tả chạy lên quán cháo lòng phía đầu cầu. Người chủ quán trút cho Sẳn đầy ống bơ cháo còn nóng hôi hổi, rồi nói:- Hôm nay trời mưa, bán chậm, bác khuyến mại, một thành hai đấy.Sẳn cảm ơn, trả tiền rồi vội vã bước đi. Nhìn dáng vẻ tất bật của Sẳn, người chủ quán chép miệng thở dài: 'Đến tội, mới ngần ấy tuổi, đã phải lang thang!'.
Thấy chủ về, con chó ve vẩy đôi tai, mắt chớp chớp. Nó đón nhận thìa cháo, nhóp nhép ăn ngon lành. Hơi hồ làm nó hồi sức rất nhanh, nó đã đứng dậy được. Sẳn đưa cả bơ cháo, con chó quẫy đuôi, thục mõm đớp tòm tọp như lợn ăn cám, loáng cái, sạch nhẵn như chùi. Nó nhìn Sẳn như muốn bảo: Tôi còn đói lắm, cho tôi ăn nữa đi.
Sẳn vuốt vuốt lên đầu lên lưng nó, âu yếm:- Lát nữa ăn tiếp, không thì bội thực, ngoẻo ngay đấy chị chàng ạ.Sẳn nhổ toẹt bãi nước bọt, chúm mồm chậc chậc mấy tiếng. Con chó bước tới, xiêu vẹo, thè cái lưỡi đen xì, liếm lép nhép.
- Khôn đấy! Khôn đấy!
Sẳn vừa nói, vừa ôm chặt con vật vào lòng. Nó day bộ tóc rễ tre đỏ quạch râu ngô vào mõm con chó, khoan khoái tận hưởng cái ram ráp, ươn ướt, nong nóng từ lưỡi con vật lan toả lên da thịt mình. Sẳn đã tìm lại tình thương mất tự lâu lắm kể từ ngày mẹ bỏ đi. Lòng nó ấm áp, lâng lâng những cảm giác ngọt ngào, êm ái.Con chó được Sẳn đặt cho cái tên là Rếch. So với dăm ngày trước đây, Rếch như một con chó khác. Người nó tròn lẳn như khúc giò lụa, khoác bộ lông màu hung, óng mượt như nhung. Đôi mắt đen láy như hai viên bi ve, tai dỏng như tai béc-giê. Tóm lại, Rếch là con chó đẹp, hơi tục tằn nhưng biết nghe lời. Sẳn luyện cho nó đi bằng hai chân sau, ném vật gì ra xa nó biết chạy đến tha về. Nó có biệt tài săn bắt chuột. Từ ngày có Rếch, lũ chuột biến đi đâu hết tịnh không con nào bén mảng, cắn xé áo quần và các loại bao bì mà Sẳn gom về. Chó và chủ không phút rời nhau, như bóng với hình. Cuộc sống giữa người và vật cứ thế trôi đi, bình yên và thân thiện.Cho tới một đêm kia.
Tối ấy thằng Sẳn ngây ngất sốt, đi nằm sớm, con Rếch phủ phục bên cạnh, canh chừng. Kéo chăn trùm kín đầu, nghĩ mông lung, cơn buồn ngủ cũng đến, Sẳn thiếp đi lúc nào không hay. Nó mơ được gặp mẹ. Mẹ nó mặc bộ đồ trắng toát, ôm nó vào lòng, nước mắt lã chã. 'Mẹ không sang Tầu nữa, mẹ ở nhà với con'. Mẹ cho nó sách bút và nhiều đồ chơi khác. Nó sờ ti mẹ, mẹ củng nhẹ vào đầu nó, mắng yêu: 'Bé bỏng gì nữa mà còn đòi bú'. Bố ở đâu chạy về, lao thẳng chiếc xà beng vào người mẹ, gầm lên như con hổ dữ: 'Con nặc nô kia, tao chết chưa xanh cỏ mà mày đã bỏ con đi theo giai!' Sao bố lại về được đây, bố bị vùi sâu trong hố đào vàng, có moi được đâu? Rồi bố bỗng thành người khác, giật phắt chiếc chăn, quấn chặt nó lại, nhấc bổng nó như nhấc một con nhái. Nó cố giãy giụa, nhưng càng bị trói chặt hơn.
Thằng Sẳn tỉnh dậy, tim đập thình thình, mồ hôi vã như tắm. Con Rếch nhảy chồm chồm, sủa ăng ẳng. Trong ánh sáng chập chờn vàng khè của ngọn đèn ma dút, một bóng đen cao lớn đứng sừng sững trước mặt. Lão cúi người cầm lấy mép chăn giật mạnh mấy cái. Sẳn hãi quá lui vào một xó, hét toáng lên. Đúng rồi, hồn ma bố hiện về bắt nó đi. Thằng Sẳn ôm đầu, mắt nhắm nghiền, như muốn ngất xỉu.Bóng đen đổ người xuống cái ổ bé ton hỏn. Lão duỗi đôi chân kềnh càng nhớp nhúa đất bùn, hai tay dang ngang, lảm nhảm mấy câu nghẹo đầu rồi ngáy ồng ộc như lợn bị chọc tiết.Người chứ không phải ma! Nhưng gã là ai, từ đâu đến?
Thằng Sẳn đã hoàn hồn, kều to ngọn đèn, quan sát người khách không mời. Lão ngủ mà miệng há hốc như người bị bóp cổ, cặp môi dầy, to như hai quả chuối mắn bọc lấy hàm răng vổ, khấp khểnh. Bọt xầu ra hai bên mép và sặc sụa mùi rượu. Lão đem theo xẻng cuốc, và một bọc gì tròn tròn. Đúng là bọc thức ăn, mùi xôi, mùi thịt qua lớp giấy ni lông toả ra thơm thơm, ngầy ngậy.
Con Rếch đã đánh hơi được mùi hấp dẫn ấy. Nó muốn giựt tung dây xích, kêu ăng ẳng, mắt hau háu, nhớt nhãi chảy tong tong.Sẳn không dám ngủ, ôm khư khư lấy con Rếch. Nó sợ nếu chẳng may thiếp đi, gã đàn ông kia thức dậy, biết đâu chẳng bắt mất con chó - tài sản quý giá nhất hiện giờ. Chẳng dám lấy lại cái chăn, nó đành co cúi chịu lạnh. Để bớt sợ hãi, nó xé mấy tờ cattông cũ, châm lửa. Ánh lửa làm Sẳn có thêm can đảm.Nửa đêm gã người lạ thức giấc. Lão đòi uống nước. Sẳn miễn cưỡng đưa cho gã một bơ nước đầy. Lão ngửa cổ tu ừng ực. Nước làm lão tỉnh táo. Lấy tay gạt nước vương xuống cổ, lão khà một tiếng, rồi chửi đổng:
- Mẹ kiếp, khát cháy cả cổ. Cho tao ít nữa.
Lão ném beng, cái ống bơ lăn long lóc. Thấy Sẳn vẫn ngồi, lão quắc mắt, quát:- Mày điếc à? Tao mua chứ có xin đâu! Cả đống bìa này tao mua tất tần tật.Chẳng chờ Sẳn đồng ý hay không, lão tống vào lửa cả một chiếc hộp còn lành lặn. Sẳn đưa tay ngăn lại, bị gã gạt mạnh, ngã bổ chẩng ra nền đất.
- Mày sợ tao không có tiền? Mẹ kiếp, quân tử nhất ngôn, tao mà thèm quỵt của mày à?
Lão thọc tay vào túi áo lôi ra một xếp tiền toàn loại hai mươi ngàn, có lẽ đến vài trăm, chưa có nếp gấp. Lão vất một tờ vào lòng Sẳn, cười khùng khục trong cổ.- Vừa lòng chưa nào? Cần nữa tao chiều, hai chục bạc bọ, tao coi bằng cái đinh gỉ!Thực chẳng hiểu lão là con người thế nào, xấu xí thô lỗ mà lại hào phóng. Thấy Sẳn chần chừ chưa cầm tờ hai chục, lão cầm gói thức ăn đặt vào tay Sẳn, chuyển giọng chân tình.
- Cho mày! Gà luộc và xôi đấy. Ăn đi! Tao ngủ đây. Đêm nằm năm ở, không có cái ổ chuột của mày, tao biết rúc vào đâu!
Lão nằm vật xuống, đầu gối lên hòn gạch vỡ, chiếc chăn được đầu hở chân, lão co quắp mãi mới tìm được tư thế thuận tiện. Lão như cái công tắc, ngắt điện làm lịm ngay. Cơn ngủ đến với lão chóng vánh. Lão ngáy như ống bễ lò rèn, nghiến răng kèn kẹt như chó nhai xương.Tuy ríu mắt lại, Sẳn không dám ngủ, ôm khư khư con Rếch, thức trắng.Gã đàn ông thức dậy cũng đã mười giờ sáng. Tuy có mặt trời nhưng vẫn lạnh. Thấy bọc thức ăn vẫn còn mà Sẳn đang ngồi nhai bánh mì, gã lấy làm lạ. Gã căng cặp mắt ti hí đỏ quạch nhìn xoáy từ đầu đến chân Sẳn, rủa thầm: 'Đồ chập mạch ngu lâu, xôi thịt không ăn, thích gặm bánh mỳ. Mày chê thì bố làm cả!'
Lão mở gói lôi ra một con gà, còn nguyên vẹn cả tim gan, lòng mề. Lão vặn nghẻo cái đầu gà ném cho Rếch. Lão nói:
- Mày sợ tao bỏ thuốc độc phải không? Tao có điên đâu. Chẳng là, đêm qua tao quá no, no đến vãi cứt ra quần. Với lại, chuyến đò nên quen. Thấy mày là người tốt, tao thương. Này, mày làm cái đùi nhé! Lắc đầu à. Mày không ăn thì tao quẳng cho chó.Lão ném cho chó thật. Con Rếch há mồm đớp gọn chiếc đùi gà, điệu nghệ như diễn viên xiếc. Hàm răng nhọn sắc rứt từng miếng nhai rau ráu.Gã đàn ông nhai xương sồn sột như dúi gặm gốc nứa. Chai pép-xi rượu khô từ lúc nào. Môi hắn thâm lại như hai cục than bùn. Mắt vằn những tia máu. Lão lải nhải: 'Tao có thằng con cũng trạc tuổi mày, nó chết vì chó dại cắn, cả mẹ nó cũng thế. Tao bây giờ thuộc diện 'tứ cố vô thân'. Mày bỏ quách nghề nhặt rác, đi làm với tao, tao truyền mánh cho'.
- Ông làm nghề gì mà muốn giúp đỡ tôi - Sẳn hỏi lại.
Lão cười khà khà, mắt nhỏ lại như sợi chỉ:- Tao làm... làm giám đốc công ty bốc mả tư nhân!Sẳn lắc đầu, thực sự nó không hiểu. Làm gì có cái công ty ấy.
- Đại để là...
Lão vò đầu cố tìm những từ ngữ diễn đạt:- Là... tao nhặt xương người chết cho vào tiểu sành ấy mà.Eo ôi, lão thường xuyên tiếp xúc với xác chết, với hồn ma. Thảo nào, trông lão gớm ghiếc như ma vậy. Sợ thật! Sẳn rùng mình, người nổi gai ốc.
- Sao mặt mày trắng bợt ra thế kia. Rõ là đồ, hòn dái bé bằng quả mây. Có trường hợp, lão tiếp, mở nắp quan tài, xác chết vẫn chưa tiêu, còn nguyên xi như người ngủ. Mày biết phải làm thế nào không? Phải tuốt thịt như tuốt con gà hầm vậy. Mày chắc chưa được ăn gà hầm. Còn với tao, đó là cơ hội. Chứ thật thà, cám chẳng có mà ăn, con ạ.
Lão dí ngón tay dùi đục vào trán Sẳn làm Sẳn suýt ngã ngửa.Tức không thể chịu được. Chỉ tay thẳng vào mặt lão, Sẳn nói:- Ông biến đi, không ở đây được đâu!
- Mày đuổi tao? Giỏi nhỉ. Gầm cầu của Nhà nước, tao cũng có quyền. Tao nói vậy cho vui, chẳng qua còn mấy cái hợp đồng nên phải rúc lại đây, chứ cần quái gì cái hang chuột chù này.
Hơi đâu mà ngồi nghe lão lảm nhảm, gây sự. Sẳn bỏ mấy bộ quần áo vào bao xác rắn, cầm cái móc sắt, chui khỏi gầm cầu. Đã thành quen, chẳng cần phải gọi, con Rếch tâng tâng chạy trước, sủa ăng ẳng, vẻ thích thú.Lão bốc mả gãi sồn sột, vén quần đái ồ ồ xuống vệ cỏ. Gió từ mặt sông thốc lên. Lão rùng mình, buông câu chửi rất tục.Cứ chập tối, lão xẻng cuốc lên vai, mờ sáng mới về, người sặc sụa mùi rượu. Lão có độc bộ quần áo, mới tuần trước còn nhận ra màu cỏ úa, nhưng bây giờ chẳng ra mầu gì, đen đen, đỏ đỏ, loang lổ bùn đất. Thực tâm, buổi đầu Sẳn chẳng ưa gì lão, nhưng lão cứ ì ra, Sẳn đành phải chịu thua. Đôi lúc lão rất hào phóng, chẳng tiếc Sẳn cái gì. Thường đem phần về cho cậu, xôi thịt, kẹo bánh. Theo lời lão kể, mỗi ca, ngoài tiền công, gia chủ còn dọn riêng cho lão một mâm thịnh soạn, gặp chủ giầu còn được uống cả rượu tây. Lễ tạ mộ, chẳng mấy người mang về, dù là cái chân giò hay cả một con gà luộc. (Người ta quan niệm có người lấy cho, nhất là cướp chạy, càng may). Chờ cho gia chủ đốt xong tuần hương là lão nẫng luôn. Không ăn, lão đem bán cho các quán cơm phở bình dân, bao nhiêu cũng bằng ít. Một hôm trong cơn say tuý luý, lão còn tiết lộ cho Sẳn biết cái tài sản mà lão giấu trong túi nhỏ, được ghim vào cạp quần đùi. Đó là mấy chiếc răng vàng mà lão ăn cắp được trong các lần cải mả thuê. 'Làm nghề gì ăn nghề ấy. Chó chẳng chê cứt, người ai chê của! Hoạ chỉ có đứa ngu, loại chập mạch'. Lão tràng giang đại hải, cười khùng khục, rồi nhét cái tài sản quý giá tận bẹn. Phải giấu vào đây mới chắc. Thằng trộm có cắt mất con giống mới hòng lấy được. Mày cười à, thằng khỉ!
Lão cười vẻ đắc ý. Sau cái vẻ khù khờ kia là sự xảo trá lọc lõi. Sống gần lão hẳn có ngày mang vạ vào thân. Nhưng đuổi lão đi bằng cách nào, không chừng lão cho nhát cuốc, ném xác xuống sông. Đã gần chục ngày nay lão chẳng có việc làm, hẳn hết tiền nên không ăn quán nữa, Lão phải tự nấu lấy, nhiều bữa phải ăn muối. Lão lì lợm, ít nói và phờ phạc. Mỗi khi nhìn con Rếch, yết hầu dưới cổ lão co lên, tụt xuống, nuốt nước miếng ừng ực. Có lần lão nói với Sẳn:
- Con Rếch riềng mẻ được rồi. Để tao hoá kiếp, bán cho thằng Minh phệ, vẫn lãi được bộ lòng. Mày với tao được bữa xả láng. Hoá kiếp để nó làm kiếp khác, sống với mày nó cũng khổ một đời!- Ông thôi đi! Sẳn quát vào mặt lão. Việc gì đến ông mà ông bận tâm. Đi nơi khác mà ở!Lão cười khẩy, véo tay Sẳn tưởng chừng như muốm đứt. Lão dằn giọng:
- Thằng ôn! Lúc ăn xôi thịt của tao sao mày không đuổi. Đồ ăn cháo đá bát.
Lão dúi một cái thật mạnh, Sẳn lảo đảo suýt ngã. Con Rếch xộc đến, đợp một nhát, lão bốc mả nhẩy cẫng lên. 'Quân phản phúc. Rồi chúng mày biết tay ông!'. Không hiểu lão rủa Sẳn hay chửi con Rếch. Lời nói gió bay. Đến trưa lão quên hết mọi chuyện. Lại cháu cháu, bác bác ngọt xớt. Lão thuộc hạng người nào?Sẳn bỏ ngoài tai tất cả lời nói của lão. Chưa bao giờ Sẳn lại khinh ghét lão đến thế. Mấy lần lão hỏi, Sẳn không thèm trả lời. Chuyện trẻ con lão không thèm chấp. Lão lững thững ra chợ rồi xách về dăm lạng sườn lợn và chai rượu. Lão hí húi nấu nướng. Xong xuôi, lão đánh thức Sẳn.Sẳn vẫn quấn chặt chăn, trùm kín đầu, giả vờ ngủ say. Lão bốc mả nằn nì:
- Dậy ăn cơm đi cháu! Đàn ông phải rộng lượng, ai lại chấp vặt thế.
Sẳn không thèm ăn. Lão đành phải ngồi uống rượu một mình, lải nhải nói chuyện với con Rếch. Rồi Sẳn cũng thiếp đi lúc nào không hay.Sẳn bừng giấc bởi tiếng kêu man dại của con Rếch. Nó vật vã, đau đớn, xầu bọt mép. Nhìn con Rếch quằn quại, Sẳn hoảng quá, không hiểu mắc bệnh gì mà phát điên phát dại nhanh đến thế. Lão bốc mả vẫn ngáy ồ ồ không biết trời đất là gì. Bát đĩa, chai, chén lăn lóc bên mấy miếng xương mà con Rếch chưa kịp ăn hết. Sẳn lôi lão dậy, mếu máo:- Bác ơi, con chó của cháu làm sao ấy!
Lão bốc mả day day con mắt ngái ngủ, lè nhè:
- Có việc gì mà mày làm như bố chết không bằng?- Bác giúp cháu đi! Con chó... Con Rếch.Lão tỉnh hẳn, mặt lạnh như tiền nhìn con Rếch co giật, ngoẹo đầu, nhe răng tắc thở.
Thằng Sẳn ôm chặt Rếch trong vòng tay gầy guộc như hai que củi, nức nở gọi tên con chó. Nước mắt giàn giụa, nó khóc như chưa bao giờ được khóc. Trời đất tối sầm, quay cuồng, chao đảo. Tiếng nó khản đặc, yếu ớt, đôi vai nhỏ thó run lên trông thật tội nghiệp.
Lão bốc mả ngồi im như hoá đá. Đầu lão cúi gầm. Không dám nhìn thằng Sẳn, nhìn con Rếch. Hình như lão đang hối hận điều gì. Lão chìa bàn tay rắn như sắt nguội vuốt vuốt lên từng đốt xương sống hằn rõ dưới lớp vải áo bạc phếch thằng Sẳn đang mặc. Lão trầm trầm, đục đục.- Tiếc gì con vật, cho nó đi làm kiếp khác.Lão đột ngột đổi giọng:
- Mà thôi, để tao nấu nước làm lông, bác cháu mình được bữa vãi đái ra quần!...
- Ông độc ác quá!Sẳn giận dữ, đôi mắt nó sắc lạnh như nhát roi quất lên đầu, lên lưng lão bốc mả. Lão há hốc mồm, trố mắt tức tối. Như hơi chột dạ, lão cố kìm nén để không vung ra quả đấm...Sẳn lục mãi mới lôi được chiếc áo còn tương đối lành lặn quấn cho con Rếch. Nó làm cẩn thận khẽ khàng như liệm người chết. Nước mắt nó đã cạn, không thể khóc được nữa. Nó đặt con chó vào trong hộp cactông, lấy dây ni lông chằng buộc kỹ càng, rồi đưa lên vai đi về phía bờ sông, tìm mô đất cao, đào cái huyệt nhỏ, chôn con Rếch xuống đó. Sẳn gục đầu xuống nấm mồ con Rếch thầm gọi tên nó, chẳng biết bóng chiều tắt từ lúc nào, chỉ nghe thấy sóng xô vào bãi sông bì bọp, bì bọp.
Sẳn như người mất hồn bước những bước vô định trên bãi sông lép nhép đất bùn. Gió từ mặt sông thốc lên, xiết vào trụ cầu phát ra những âm thanh u u như tiếng của âm ty. Nó thẫn thờ ngồi xuống gờ đá lạnh ngắt, nhìn vô định xuống mặt nước tối om. Một vài con cá đi ăn đêm, quẫy đuôi tùm tũm. Tiếng chim vịt cất lên buồn tẻ, rời rạc trong bãi cỏ lác, phía cuối ghềnh.
Sẳn ngồi vậy không biết đã bao lâu. Khi trở lại 'căn nhà' thì tất cả lặng như tờ. Lão bốc mả đi đâu vào giờ này, xoong nồi cuốc xẻng cũng không còn ở đây. Hay lão đã tìm được việc làm? Đêm nay có lão vẫn hơn, Sẳn đỡ đơn côi, buồn chán. Sẳn nằm co ro, chẳng buồn kéo chăn đắp, trân trân nhìn lên gầm bê tông, lắng nghe tiếng dơi đuổi muỗi vỗ phành phạch. Nó nôn nao nhớ thương con Rếch. Hẳn con chó lạnh lắm, tấm áo mỏng làm sao đủ ấm. Thỉnh thoảng do thói quen, Sẳn quờ quạng đôi tay tìm kiếm. Nếu còn, con chó hẳn thè cái lưỡi nham nháp, liếm vào tay vào chân chủ, Tao mất mày thật rồi, Rếch ơi! Sáng mai tao mua bát cháo và hoa đem ra mộ cúng cho mày.Vẩn vơ trong đầu những ý nghĩ như vậy, Sẳn ngủ lúc nào không hay. Nó mơ thấy con Rếch sống lại, ăng ẳng săn lùng lũ chuột trong bãi rác. Rồi con Rếch biến thành con chim đại bàng, bảo Sẳn ngồi lên lưng để đưa đi chơi. Sẳn trèo lên lưng nó, mấy lần đều bị trượt rơi xuống đất. Đại bàng (con Rếch) há cặp mỏ to như hai lưỡi cày kẹp lấy người Sẳn, bay vọt lên cao, vai Sẳn bỏng rát, máu chảy ròng ròng. Sẳn hoảng quá rú lên, bừng tỉnh. Ai đang kéo vai áo nó và nói: Dậy, dậy đi!Sẳn chưa hết hãi hùng, người vẫn còn run bần bật.
- Ai, ai... gọi tôi?...
- Tao đây, mày mơ cái gì mà gào lên như chó điên thế.Lão bốc mả! Lão lại về đây ư? Sẳn đã hoàn hồn nhưng tim vẫn đập thình thịch. Chỗ vai vẫn còn đau rát như vừa bị gai cào.Lão bốc mả châm đèn. Trên tờ bìa cattông, xoong thịt còn đang bốc khói, thơm phức mùi mẻ. Chai rượu đầy chưa mở nút để cạnh. Dáng điệu lão hôm nay chậm chạp, có vẻ trịnh trọng, khác hẳn ngày thường. Múc thức ăn ra cái bát ô tô, lão mở nút chai rót rượu vào cái bát mẻ.
Thấy Sẳn vẫn nằm, lão giục:
- Mày làm như bố tao không bằng, để tao mời mọc nhiều thế. Ra ăn đi! Đặc sản cầy tơ, ăn nguội mất ngon!Thịt chó! Lão kiếm đâu ra thứ ấy lúc này.Hình ảnh con Rếch lại hiện về, sống mũi thằng Sẳn cay xè. Bụng dạ đâu mà ăn với chả uống.
- Tôi không đói. Ông cứ tự nhiên!
Nói rồi thằng Sẳn trùm chăn, cuộn kín người như con sâu kèn.Lão bốc mả chửi đổng:- Miếng ăn đến miệng còn làm cao. Rõ đồ ngu lâu! Khổ cũng đáng đời con ạ!
Lão uống ừng ực, nhai rau ráu. Lảm nhảm chán chê, rồi lão ông ổng ngâm thơ: 'Sống trên đời ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?. Lão nghệt mặt, đăm đăm nhìn vào bóng đêm. Lão khóc lóc gọi vợ, gọi con, nghe đến tội nghiệp. Lão đã thành con người khác, không cục cằn, độc ác như Sẳn vẫn nghĩ. Cái gì làm lão thay đổi nhanh vậy? Sẳn không giải thích nổi.
Chai rượu sạch trơn lăn lóc bên đám đũa bát và cái xoong đứt quai, bẹp dúm. Lão nằm đuỗn đuồn, hai tay dang rộng, miệng lảm nhảm như đang nói chuyện với người chết. Hay lão đang cầu xin những bộ xương bị lão lấy mất răng xá tội? Trong ánh lửa chập chờn vàng vọt, mặt lão lúc sáng lúc tối, lúc mờ lúc tỏ, lúc dài ngoẵng, lúc tóp lại đến dễ sợ.Gió thổi mỗi lúc một mạnh. Mưa càng nặng hạt. Rét như kim châm lên da thịt. Sẳn cố thu nhỏ người nhưng cái lạnh như chui vào tận ruột gan. Sẳn ái ngại nhìn lão bốc mả ngủ say không biết trời đất là gì. Uống rượu mà nằm nền đất, nhiễm lạnh, hẳn bị cảm thương hàn, đến tội cho lão. Sẳn cố sức bình sinh vực lão vào ổ, nhưng không thể được. Lão to lớn, kềnh càng, nặng như một tảng đá. Sẳn đành bỏ chiếc chăn đang quàng, trùm lên người lão, rồi đốt mấy tờ bìa sưởi cho đỡ lạnh.Lão bốc mả cựa mình một lát, rồi oằn người, ôm bụng kêu rống lên. Lão vật vã đau đớn như con Rếch lúc chiều. Lão cào cấu lên mặt lên cổ đến bật máu, miệng nôn ồng ộc.
Lão mệnh hệ gì, hẳn Sẳn là người liên đới đầu tiên. Người ta sẽ vu cho Sẳn hại lão, có mà giời cãi.
Nghĩ vậy, Sẳn ba chân bốn cẳng rời khỏi gầm cầu, đến gõ cửa người lái xe ôm nó quen.Bị đánh thức giữa đêm khuya khoắt, anh xe ôm cằn nhằn, nhất định không mở cửa. Sẳn phải xưng tên mình và cho anh biết, lão bốc mả đang bị căn bệnh nguy hiểm, cần được cấp cứu. Anh lái xe ôm hỏi:- Ai thanh toán tiền cho tao?
- Tôi, tôi chịu trách nhiệm!
- Đến bệnh viện, hữu nghị cũng phải dăm chục. Tiền trao cháo múc, có thế tao mới đi.- Sẳn lục lọi trong túi áo, túi quần, gom đủ số tiền đưa cho anh xe ôm, cùng anh đưa lão bốc mả đến bệnh viện.Lão được đưa vào phòng cấp cứu. Thầy thuốc gọi ngay ra căn bệnh của lão: Lão bị ngộ độc thức ăn. Lão được rửa ruột và tiêm các thứ thuốc cần thiết. Nhưng lão ngộ độc ở nồng độ quá cao, ảnh hưởng đến máu, đến não, khó bề cứu chữa.
Bác sĩ trưởng khoa cho Sẳn biết điều ấy và nói:
- Cháu vào với bố đi, may ra còn kịp.Lão bốc mả đang được truyền thuốc. Lão xám ngắt như vừa lôi ra từ trong hầm lò, hơi thở thoi thóp. Không hiểu sao, lão vẫn nhận ra Sẳn? Lão ra hiệu bằng năm ngón tay gọi Sẳn đến bên. Sẳn đặt tay mình trong bàn tay to bè, lạnh ngắt của lão. Cậu cúi sát xuống lão và hỏi:- Bác đã đỡ chưa ạ?
Lão khẽ lắc đầu, năm ngón tay run lẩy bẩy, cố bấu bíu như sợ Sẳn ra về. Lão thều thào đứt quãng.
- Con Rếch không... không... Lão cố đặt tay Sẳn lên rốn mình, môi mấp máy như muốn nói điều gì đó. Sẳn hiểu ý. Lóng ngóng mãi, Sẳn mới moi được cái gói nhỏ mà lão giấu kín trong quần lót - tài sản duy nhất và là cuối cùng mà suốt cả cuộc đời hành nghề, lão ăn cắp được của các bộ xương. Sẳn đặt nó vào tay lão. Lão như cố đẩy ra. Tiếng lão lúc này chỉ còn như cơn gió thoảng, phải chú ý lắm Sẳn mới nghe được:- Cháu... giữ... l - ấ - y, ...Tha... tha... tội... cho... b - á - c...Lão ngắc cổ, giật giật mấy cái. Trên khoé mắt, hai giọt lệ đùng đục vừa rỉ ra.
Những ngày biển lặng
Thứ sáu, 06/11/2009, 06:08pm GMT+7CGO_Lão Chính là tay nghiện rượu nhất nhì trong làng. Cổ và ngực lão lúc nào cũng đỏ vằn lên như gà chọi.Mắt một mý, cái mũi sọc dừa và hai cái tai cứ vểnh lên như tai Tam tạng. Lão tốt bụng như những người dân chài ở vùng này. Mùa đông lạnh thấu xương cũng như mùa gió lào nắng gắt lão cũng chỉ có vận một cái quần đùi may bằng vải diềm bâu chợ huyện. Lão thường la cà khắp xóm, ai nhờ gì lão cũng sẵn lòng giúp đỡ. Cạnh nhà lão có ông cu Lới, chuyên đi cào cua dướicửa lạch cũ. Ông cu Lới là em ông Hoàn bán thịt chó trên làng Hoa Khê. Hai lão chơi thân với nhau từ dạo mới lấy vợ. Hai vợ chồng ông cu Lới từ Thanh hóa di cư vào đây từ hồi đầu chiến tranh chống Pháp. Thỉnh thoảng hai người lại kéo nhau lên Hoa khê làm một bữa thịt chó ở của hàng ông Hoàn.
Ông Hoàn là tay nấu thịt chó ngon nhất vùng, nói đến thịt chó ông Hoàn là nói đến sự thèm thuồng, đến mùi thơm đặc biệt của mật
NamĐàn, riềng chợ Đình, mắm tôm Cương Gián. Ông Hoàn lại có loại rượu ngâm cao xương chó, càng uống càng thấy ngon, uống nhiều là cái máu thèm đàn bà lại nổi lên, nghe nói con mẹ đĩ Nguyệt bán bánh cuốn ở tận bên chợ Mới trang Nghi lộc thường ghé về đây ngủ với ông Hoàn. Ông Hoàn gầy còm nhom lại có bệnh hen xuyễn, ấy thế mà dăm bữa nửa tháng mẹ đĩ Nguyệt không sang thì ông Hoàn lại tay nải mang vai ra chợ Mới trang tìm cho bằng được. Thế mới biết cái bụng thằng đàn ông nào cũng giống nhau.
Dân làng cứ đồn đại ông bí thư thôn Đông hè năm ngoái nằm “trộm” chị cu
Thất khi chị ấy đang ngủ trên sân gạch. Chị cu Thất người làng Cổ đạm con cố Cựu Chân, mẹ chị là dân hát ca trù nổi tiếng làng này. Chị là người có nhan sắc, dù đã là một thiếu phụ nhưng cánh đàn ông trong làng vẫn mắt la mày lém khi chị đi qua. Chuyện nghe thật buồn cười, đêm ấy trăng sáng lồng lộng, gió Lào như cái chổi khổng lồ quét hơi nóng kèm theo bụi cát vào từng cái sân gạch. Chị cu Thất có mang được sáu tháng trải chiếu nằm ngủ khì khì dưới ánh trăng suông. Cái váy đũi mềm mại của chị tốc lên ngang bụng, dưới ánh trăng bàng bạc thân hình chị như một chiếc bánh chưng đã bóc hết lá. Bên kia bức tường rào con chó đực ăng ẳng phát tín hiệu gọi bạn tình, cả xóm chìm vào đêm hè thanh vắng. Mùa này ông cu Thất thường đi lưới rút, phải ba bốn ngày mới về, ở nhà chỉ có hai mẹ con chị. Riêng mấy bữa nay anh cu Thất bị đau nên không đi biển. Tối đến cơm nước xong hai cha con vác chiếu ra bãi biển ngủ. Cu Thất cầm đầu bọn nhỏ chơi đủ trò, nào là trò “đi đò về đò” rồi “ đánh giặc giả” làm huyên náo cả một vùng .
Đêm khuya thanh vắng, trên sân nhà chị cu Thất xuất hiện một bóng đen, đó là lão bí thư thôn đang đi “tuần”, mặc dù cái nhiệm vụ đó không phải của lão. Lão nhẹ nhàng nằm xuống cạnh chị cu Thất rồi tự nhiên làm “chuyện ấy”, thường lệ anh cu Thất đến gần sáng cũng hay về ngủ cùng chị. Chị cu Thất mắt vẫn nhắm nghiền, tưởng đó là việc thường ngày của chồng nên vẫn nằm im,cái lão bí thư chết tiệt này mạnh chân làm liều quá nên chị giật mình. Mở mắt ra.chị hoảng hốt phát hiện người nằm trên bụng không phải chồng mình, chị túm lấy tay áo thằng cha này, nó nhanh như cắt giật mạnh cánh tay bỏ chạy để lại một vạt áo màu nâu sòng, rồi nhún mình như Tôn Ngộ Không nhảy qua hàng rào suýt nữa dẫm lên hai con chó đang chổng mông dính vào nhau kêu ăng ẳng. Chị ngồi thừ ra, cầm mảnh vải kẻ khốn nạn kia mà trong lòng lại tự trách mình sao lại như thế, đáng lý chị phải mở mắt ra, hoặc cái mũi phải phát hiện ra hơi quen thuộc của chồng mình chứ. Bất chợt chị lo lắng không hiểu thằng cha này có phải lần đầu tiên làm việc đó với mình không và chị cúi xuống nhìn cái bụng đã qua sáu tháng, chỉ còn không đầy chin mươi ngày nữ là ở cự. Chị lầm rầm trong cổ..chết thật…..Lại nói về lão bí thư thôn, sau khi sự việc xảy ra Y về sắp quần áo và vội vàng ngược lên Nghĩa Đàn vì đến sáng mai nếu mà chuyện vỡ lở thì cha con anh cu Thất bằm mặt lão ra chứ chẳng chơi. Ra đi lão không quên để lại cuốn sổ ghi tiền nguyệt phí mà các đồng chí nộp hàng tháng cho lão và bản nghị quyết cấp trên vừa gửi về chưa kịp triển khai cho các đồng chí học tập. Lão thầm nghĩ, việc làm của lão, xét cho cùng cũng là một hình thức “tham nhũng”, cái tội mà người ta đang nói trong cái nghị quyết kia. Lão lẩm bẩm tiền nong ở thôn có đâu mà tham nhũng, cái mà lão ‘tham nhũng” cũng chỉ là trường hợp hi hữu, lão trách chị cu Thất đêm nằm cứ tốc cái váy lên như thế thì ông quan xã nào qua đây cũng nảy ra ý đồ “tham nhũng” chứ chẳng riêng gì lão, nói vậy cho đỡ lo rồi vộị vàng giục thằng xe ôm nhanh nhanh chở lão tẩu thoát lên bến xe Vinh trước lúc bình minh về.Lão Chính ôm cái chiếu rách đi ra cái lều để lưới ở cuối làng, mùa biển động thỉnh thoảng lão vẫn mò ra đây ngủ, riêng mùa hè
không đêm nào lão không có mặt. Cánh đàn bà đi chợ huyện vẫn thường đi qua đó để đến bến đò cố Con, hoặc vào đó tránh mưa
những khi đi chợ về. Lão là một tay bợm gái, có những đêm cánh đàn ông theo thuyền đi đánh cá vài ba ngày mới về, đấy là lúc lão thường la cà quanh làng. Chẳng ai bắt được lão làm chuyện ấy bao giờ nhưng tiếng tăm ngủ lang của lão thì đồn lên đến chợ Tỉnh.
Nghe nói năm ngoái cả làng chợ Lù vác gậy ra đòi đánh lão Chính vì một chuyện thật khó tin.Người ta kháo nhau, vào một ngày chợ phiên Giang Đình có một chị người chợ Lù đẩy cái xe nồi đất đi bán, lúc ấy trời đã sang canh ba, khi đi qua cái lều để lưới thì gặp lão Chính. Sau vài ba câu chuyện làm quen, lão Chính mời chị kia vào nghỉ một lúc cho đỡ mệt và nói sẽ đẩy hộ chị qua cái dốc bên kia. Chuyện trò được một lúc thì lão nảy ra ý định vớ vẩn với chị bán nồi. Lão ôm chặt và đẩy chị ta vào dưới vàng lưới rùng, chẳng may cái chân ngựa(cái để vắt lưới lên) đổ sụp xuống, thế là cả hai người bị lưới đè lên không tài nào gỡ ra được. Chị bán nồi chẳng còn mảnh vải che thân, còn lão Chính cứ như con ma cà rồng không quần không áo. Hai người dẫy dụa mãi thì có người đi qua. Lão Chính nhận ra đấy là ông Chắt Khang người làng bến trại đi cào cua về. Ông Chắt Khang lúng túng gỡ từng mảnh lưới để giải thoát cho hai người. Chị bán nồi hoảng loạn khi nhìn thấy số nồi đất bị vỡ mất quá nửa. Còn lão Chính có vẻ sợ hãi khi nhìn thấy từng mảnh nồi tung tóe. Lão cúi xuống cùng chị
hàng nồi chọn từng cái còn lành xếp vào xe và cùng chị đẩy lên dốc. Chị hàng nồi cổ nghẹn đi vì tức tối, chị nhổ một bãi nước bọt và cứ thế đẩy xe về hướng chợ Giang Đình. Còn lão chính bây giờ đã hoàn hồn và tiếc rẻ là chưa làm được gì thì cái cẳng ngựa đã đổ ụp xuống.
Biển lặng là mùa bội thu của dân làng chài, cánh đàn ông miệt mài trên biển cả mênh mông, cuộc đời họ gắn liền với nước mặn và gió mùa. Riêng lão chính chọn cái nghề đóng đáy ở cửa sông, cái nghề không bao giờ thất thu, lão đóng đáy xong là bỏ đi chơi, chờ những con cá bơi đi bơi lại theo dòng nước lên xuống chui vào đáy lão. Có lẽ cái bệnh loài dê đã nhiễm vào người lão cũng là do cái nghề này.
Cánh đàn bà ngày ngày còng lưng phơi cá, muối tôm dưới trời nắng chang chang. Khi rỗi rãi thì tụm năm tụm ba, cái đề tài lão Chính và cụ bí thư thôn thường được đàm đạo nhiều nhất. Có bà lên gân nói: phải tay bà thì bà xẻo đi cho chừa, nhưng cũng có chị chỉ cười bẽn lẽn đánh trống lảng chẳng nói gì…..Dốc Đời Thăm Thẳm Tôi theo chị tôi đến thăm lão Đính vào một buổi chiều. Đến thăm nhưng cũng có nghĩa như đến ra mắt một người "có danh" ở địa phương, vì tôi là người lạ mới đến xứ này. Trong hai ngày đầu ở nhà chị tôi, tôi đã nghe nhiều người nói chuyện về lão. Qua lời họ, tôi hình dung lão là một người khí khái nhưng cũng gàn gàn. Lão rất ghét và sẵn sàng chửi tạt thẳng mặt những kẻ tà nịnh. Lão luôn bênh vực kẻ yếu và không hề biết nể nang ai. Các viên chức có thế lực ở thôn xã đều phải né tránh lão. Tôi hơi ngạc nhiên vì chuyện một người làm rẫy vùng kinh tế mới tại sao lại có thể nghênh ngang như thế. Tôi đến nhà lão với một niềm tò mò háo hức cùng ít nhiều nể nang ái mộ. - Nhà lão đó!Đó là một ngôi nhà rường vách ván lợp tranh khá lớn, nổi bật so với những nhà chung quanh đều lụp xụp lợp bằng lá kè. Tôi thấy một người đàn bà ăn bận lam lũ, đang lui cui trồng mấy cây keo ở hàng rào phía trước. Chị tôi chỉ tay nói nhỏ:
- Vợ lão đấy.
Người đàn bà thấy có người đến thì ngẩng mặt lên nhìn. Bà cỡ chưa tới bốn mươi tuổi, cũng dễ nhìn, mỉm cười nói giọng Huế: - Chị tới chơi hay có việc chi?- Định tới thăm anh chị đây, có anh ở nhà không chị?
- Có, lão đang ở phía sau nhà ấy. Mời chị, mời ông vô nhà.
Nói xong, bà đứng thẳng lưng quay ra phía sau kêu:Ông Đính ơi, có khách đến thăm này! Bà bỏ những cây keo đang trồng dở trên tay xuống chân hàng rào rồi đi vào nhà. Chị tôi và tôi cũng bước theo. Tôi hơi thắc mắc! Lão Đính cỡ tuổi nào mà có người vợ trẻ như vậy...? Nghe tiếng chân lẹp xẹp, chị tôi mau mắn quay nhìn lại: - Chào anh! Anh khỏe không?- Chào bà chị! Tôi thì khi nào cũng khỏe. À, đây là ông cậu bà chị hay nhắc đó chắc!
Tôi cũng gật đầu:
- Dạ, chào anh! - Chào ông cậu!Ông ta gật gật, có vẻ chăm chú quan sát tôi, mỉm cười thân thiện. Tôi cũng thân mật bước lại gần ông định chìa tay ra nhưng ông đã đưa hai bàn tay dính đầy đất lật qua lật lại cho tôi thấy. Tôi hết sức ngạc nhiên vì trông ông không có gì là "lão" cả. Đó là một người đàn ông nói tiếng Bắc, ước chừng chỉ trên bốn mươi bốn lăm là cùng. Ông Đính nước da ngăm đen, ở trần, mặc quần đùi, để lộ một bộ ngực thật vạm vỡ. Chân tay ông nổi cuồn cuộn những bắp thịt. Thật không khác gì một lực sĩ. Đầu tóc ông thì đen nháy, rậm và hình như không có một sợi bạc...
- Bà chị, ông cậu cứ vào nhà, tôi rửa tay chút xíu.
Bước vào nhà, tôi đứng nhìn quanh. Trên trần bắp trắng bắp đỏ cột chùm treo tới hai tầng. Rường cột, rui mèn đều là gỗ tốt được bào chuốc khéo léo. Nếu lên ngói nữa thì nhất. Trong nhà có đến ba cái sập vuông lớn. Vùng này người ta thường chứa hoa mầu trong sập. Hai cái kê song song chiếm nguyên một căn bên. Cái thứ ba đặt ở góc trong căn bên thứ hai. Góc còn lại thì chất đầy những bao bố, bao nylon chứa hoa mầu căng phồng. Dưới chân những chồng bao ấy thấy rải rác mấy trái đậu xanh vỏ khô đen lánh. Căn giữa sát vách thì kê bàn thờ. Phía trước là bàn ăn và cũng là bàn khách, có sáu cái ghế dựa đàng hoàng, khác với hầu hết các nhà khác chỉ dùng ghế ngồi là những khúc gỗ tròn đường kính chừng hơn một gang, cưa bằng mặt. Không có giường, có lẽ hai ông bà ngủ trên sập. Người vợ, bà Kiêm, đem nước ra, bà để cái ấm nhôm lên bàn. Chén đựng nước thì dùng chén ăn cơm. Hơi nước nấu với thứ lá gì bốc lên một mùi thơm dễ chịu, hấp dẫn. Bà Kiêm rót nước ra chén. Ông Đính ngồi lại gần tôi, cầm tay tôi:- Cậu ốm quá! Ở trong tù chắc cực lắm nhỉ! Mấy năm?
Tôi chưa kịp đáp thì chị tôi mau miệng nói:
- Bảy năm đó anh. Ở tù lúc này... thì chắc anh cũng biết rồi! Ông Đính cười, nụ cười dễ hiểu:- Tôi phục vụ chế độ mấy chục năm mà không biết sao được!
Tôi cũng đặt một câu hỏi cho có chuyện:
- Chắc anh cũng đi bộ đội? - Phải, tôi trước cũng là bộ đội, người nhái đặc công chứ phải chơi đâu, lập biết bao nhiêu công trạng, gần hai chục tuổi đảng, bây giờ đi làm rẫy đây này!- Anh chắc cũng cỡ tuổi bốn lăm bốn sáu?
- Cậu lầm rồi, đảo con số đó lại, sáu mươi bốn rồi cậu ạ!
Tôi ngạc nhiên hết sức, tôi nghĩ là ông Đính nói đùa. Từ khi sống với xã hội chủ nghĩa, tôi chỉ thấy người già trước tuổi chứ chưa thấy trường hợp ngược lại bao giờ. Ông Đính khuyên tôi nghỉ dưỡng sức một thời gian rồi chịu khó làm ăn. Ông nói ông là người luôn làm việc hết mình và ông rất thương những người siêng năng làm việc. Theo ông, làm việc giỏi thì muốn gì cũng được. Nếu gặp chuyện gì rắc rối cứ cho ông hay, ông có thể giúp đỡ...Nói chung, cuộc gặp gỡ chỉ có tính cách tạo sự quen biết buổi đầu.
*
Trên đường về nhà, tôi hỏi chị tôi: - Lão Đính sáu bốn tuổi thiệt hả chị?- Thiệt chứ! Người con đầu của lão cũng tuổi cỡ như cậu rồi. Cậu ấy tên Nhất, trông gần giống như lão. Còn mụ vợ chính của lão cậu chưa thấy đó, già nua móm mém khẳng khiu, đứng bên lão có người tưởng là hai mẹ con đấy!
Thì ra lão Đính nói thật. Người đàn bà tôi gặp khi nãy chỉ là vợ bé của lão.
- Thế bây giờ bà vợ chính của lão ở đâu? Bà có ghen không? - Mụ đang ở với thằng con thư tư của mụ, thằng Tứ. Thằng Tứ cũng bộ đội phục viên, chưa vợ con chi cả. Giỏi lắm! Một mình nó mà làm tới bốn năm mẫu mía đó. Mụ già ấy chẳng thèm ghen tuông chi hết. Có thêm người nào cho lão mụ càng mừng là khác, để lão khỏi quấy rầy mụ mà!- Lão dữ dằn vậy hả chị?
Chị tôi cười tủm tỉm:
- Rồi cậu sẽ biết. Mỗi lần kẹt cựa, lão tới thăm là mụ vợ già của lão phải chạy trốn trối chết đó! Những lần chịu trận, mụ run như thằn lằn đứt đuôi, thở không ra hơi. Mụ bị bệnh suyễn nặng mà lão đâu có chừa. - Đàn ông như thế thì cũng quá đáng! Thế thì trước sau bà cũng chết trong tay lão!Chị tôi lại cười:
- Được một cái là ngoài cái tật xấu đó, lão rất tốt với mọi người.
Hèn gì! Khi nói chuyện với lão tôi cảm thấy hơi hướm có vẻ bất thường. Chính cái thân thể tạo hóa cho lão lại càng lồ lộ vẻ bất thường nữa. Phải chăng lão có phép cải lão hoàn đồng? Hơn sáu chục tuổi mà da không nhăn, tóc không bạc, thân thể vâm váp bắp thịt cuồn cuộn như lực sĩ. Quả là một trường hợp hiếm có trên đời. Nếu không giáp mặt được người thì ai nói tôi cũng khó mà tin được. Về nhà rồi tôi vẫn còn suy nghĩ về lão mãi. *Một thời gian sau tôi biết được lão Đính người Hải Phòng, gốc làm nghề biển. Lão cùng vợ đi vùng kinh tế mới ở miền Nam một lượt với bốn người con trai, đều là bộ đội phục viên. Cả năm cha con đều khỏe mạnh hơn người. Họ giỏi nhiều mặt, cưa kéo, làm than, trồng trọt đều vượt thiên hạ. Ba người con lớn Nhất, Nhị, Tam đều đã lập gia đình, tuyển rặt những người vợ miền Trung giỏi giang. Phải nói là tuyển lựa thật, vì đó là hạng đàn bà mà đàn ông lơ mơ không thể nào theo đuôi kịp. Đặc biệt là cả năm người, coi như năm gia đình, đều đã tạo được nhà riêng, đều tự tay gây dựng cơ sở làm ăn riêng, không ai dựa vào ai, không ai phụ giúp ai. Nhà nào cũng có được cả chục mẫu rẫy trở lên. Nhà nào cũng sắm riêng được một con bò kéo và một chiếc xe để chở hoa mầu. Có nhà lại nuôi thêm được mấy con bò cái để sinh lợi nữa. Trong rẫy, họ dựng những cái chòi lớn, vững chắc để có thể ở lại nhiều người. Họ sắm được cả radio, máy hát để tiêu khiển. Mỗi nhà lại thuê riêng mấy người ở luôn cả tháng hay cả mùa để ở giữ rẫy, để trực tiếp sai phái lo công việc. Vào mùa, họ trồng mía, bắp, đậu, khoai mì mênh mông bạt ngàn thấy mà choáng ngợp. Hằng ngày, họ dẫn hàng đoàn người làm công lên rẫy làm cỏ hay thu hoạch. Mỗi vụ thu hoạch, họ vận tải hoa mầu nườm nượp, rần rật đến phát khiếp. Bán hoa mầu xong họ lại sắm vàng. Ai trong số họ cũng giữ được vàng cây trong người. Ai bán cái gì giá hời là họ sẵn tiền chộp ngay. Có thể nói đại gia đình lão Đính làm ăn thành công một cách phi thường. Từ chính quyền cho đến dân giả ai thấy cũng lắc đầu chắc lưỡi...
Thật tình mà nói, sự thành công của đại gia đình lão Đính, ngoài nguyên nhân họ có sức như voi, làm việc cực lực thâm đêm mãn ngày, họ lại còn có kinh nghiệm, gan dạ nữa. Đất vùng kinh tế mới thuở đầu quá tốt mà lại ít cỏ, trồng loại cây gì cũng kết quả. Thời kỳ đó đang cần khuyến khích dân đi kinh tế mới nên chính quyền chưa định thuế má, ai làm được bao nhiêu cho hưởng bấy nhiêu. Ai muốn khai khẩn bao nhiêu tùy sức. Đại gia đình lão hiên ngang giữ tiền, dám kêu người, dám mua vào bán ra mà không sợ ai cả. Cả năm người đều là cựu bộ đội nên các viên chức chính quyền không dám gây phiền hà, kiếm chuyện, dọa dẫm để ăn có.
Từ khi bắt đầu đi làm công cho người ta, tôi được nghe rất nhiều chuyện về lão Đính. Lão có hai cái ghiền mạnh: rượu và đàn bà. Đi đâu lão cũng mang theo một hũ rượu. Lúc nào lão cũng có thể gần đàn bà. Người đàn bà nào thích mắt thế nào lão cũng tìm cơ hội xáp tới. Không hề biết mắc cỡ, lão tán tỉnh hết sức lộ liễu, thô bạo. Trong túi lão có sẵn tiền, lại thuộc phe chiến thắng nên đối với đám dân lưu đày đói rách "thân còn không kể, kể chi danh" này, lão luôn chiếm thế thượng phong. Một lần có mấy người đàn bà đến nhà lão mua đậu, một cô ngồi đối diện với lão mà đong. Đong xong, cô gái có tật tham, vừa nói chuyện vừa bốc thêm từng nắm của chủ bỏ vào thúng mình. Lão không nói gì nhưng thình lình vói tay chụp vào yếu huyệt của cô gái một cái, bất chấp lúc ấy có mấy người đang coi đậu coi bắp cạnh đấy. Cô gái mắc cỡ mắng lão thì lão tỉnh bơ xòe bàn tay đưa lên nói:- Cô hốt của tôi bao nhiêu bụm tôi chỉ hốt lại một bụm thôi mà! Nhưng vờ chơi vậy chứ tôi có giữ hột nào trong tay đâu!
Một lần khác, cũng một cô đến mua đậu. Lão bằng lòng bán nhưng kêu đau lưng không thể hốt đậu trong chồ ra được. Cô gái cần mua tự nguyện đến xúc giúp cho lão. Trong lúc cô gái chổng mông chúi đầu vào chồ đậu, lão lập tức thừa thế ra tay lia lịa. Cô gái la lên:
- Trời ơi! Lão già dê quá! Lão cũng nói thật lớn tiếng:- Không ghê đâu cô. Cô trả phải giá thì bác bán thôi mà! Giá đó ghê gì mà ghê!
Bà Kiêm, bà vợ đang ở với lão chỉ được lo việc ngoài như mua thức ăn, lo cơm nước cho người làm. Bà không có quyền bán hoa mầu mà chỉ dùng tiền do lão Đính đưa từng ngày. Hoa mầu để chỗ nào lão cũng làm dấu rất kỹ. Lão vẫn trực tiếp bán cho khách hàng tất cả. Lão còn có một cái gàn khác người là không bao giờ chịu cho vợ trẩy vảy, cạo nhớt khi làm cá để kho nấu. Lão lý luận "Con cá nó ở dưới nước luôn luôn sạch sẽ rồi, không cần phải làm gì hết, chỉ cắt khúc ra kho nấu thôi!". Vì thế, có người làm mướn cho lão nuốt cơm của lão không trôi. Hằng đêm lão vẫn thường ở rẫy. Năm bảy đêm lão mới ngủ ở nhà với bà Kiêm một lần. Suốt đêm bà Kiêm phải quay mặt về phía lão. Nếu vì mỏi hay ngủ quên mà trở người quay lưng về phía lão là có chuyện phiền liền. Lão chửi te tua không chịu được và đôi khi lão đánh đập nữa. Ban ngày, khi lão đột xuất về nhà, kêu một tiếng thì dù đang nấu canh kho cá gì không biết, bà Kiêm phải cấp tốc rút lửa bỏ đó để vào giường với lão ngay. Vì thế mà một lần bà Kiêm bị chó tha mất một miếng thịt heo bự.
Những đêm ở rẫy lão đã có những bà làm công phục vụ. Già có, tơ có, hầu hết là những đàn bà góa. Nhiều khi các bà cũng ghen nhau, nói xấu nhau om sòm. Mê tiền của lão đã đành, nhiều bà còn mê lão về "tài ba" nữa. Đặc biệt có một bà trông có phong độ cốt cách, có chồng con, nhà cửa đàng hoàng, cũng lơ chồng để lãi bắp và ở lì bên lão. Đó là bà Tư Hồng người Việt gốc Hoa. Tối nọ, lão Đính ghé nhà chị tôi chơi. Sau những lời thăm hỏi xã giao, lão hỏi tôi:- Cậu bữa này làm gì? Có rảnh không giúp tôi ít ngày!
- Làm gì anh?
-Tôi vốn ốm yếu, ít người chịu thuê mướn nên cũng hơi thong thả. Tôi bèn nhận lời làm thử. Qua ngày đầu công việc chăn dắt suôn sẻ. Việc này thấy cũng khá nhàn rỗi, tôi làm tiếp ngày thứ hai. Buổi trưa ấy, lão Đính xách một nải chuối đến nói chuyện với tôi. Lão tỏ ra hết sức niềm nở, thân mật bẻ chuối mời tôi ăn. Lão hỏi về cuộc sống của tôi ngày trước rồi khuyên nhủ, khuyến khích đủ điều. Nhân dịp này, tôi cũng tìm hiểu thêm về cuộc đời của lão. Lão cũng vui vẻ trả lời hết. Lão là người nhái đặc công được huấn luyện rất kỹ. Lão được kết nạp vào đảng rất sớm. Lão đã từng tham gia nhiều vụ phá cầu, phá tàu thành công, được thưởng nhiều huy chương, được tặng danh hiệu anh hùng, được tuyên dương nhiều lần. Nhưng lão không màng những thứ đó. Đời lão chỉ có cực lực làm việc, uống rượu và hưởng thú đàn bà. Không có đàn bà lão không sống nổi. Tiếng lão nổi như cồn. Những người đàn bà dâm đãng đua nhau tìm tới thử thách lão. Rất nhiều lần lão bị đảng phê bình, kiểm thảo về vụ ấy. Nhưng lão không thể nào chừa được. Cuối cùng lão bị tước đảng tịch, bị loại khỏi quân đội...- Chắc vụ cuối cùng trầm trọng lắm!
Lão Đính cười hóm hỉnh:
- Vụ tôi tìm hiểu xem một cô giáo nó khác với bà vợ lam lũ của tôi thế nào. Bị thằng chồng nó kiện, bị kết tội hiếp dâm. - Anh có buồn lắm không?- Không còn bị ràng buộc đâu nữa thì mắc chi mà buồn!
- Tôi hỏi thật anh nghe, anh có con rơi con rớt nhiều không?
- Tôi gặp hàng trăm người đàn bà, dĩ nhiên con rơi con rớt cũng nhiều lắm... Nhưng thôi, bây giờ nói chuyện này. Cậu trông yếu đuối, lao động cuốc cào cũng vất vả. Tôi đề nghị, cậu cứ chăn bò giúp tôi. Tôi sẽ mua thêm năm bảy con nữa. Cậu cứ suy nghĩ cho kỹ, nếu đồng ý thì cho tôi biết để tôi tính. Nói xong, lão chào tôi và đi. Tôi suy nghĩ thấy cũng ưng ưng trong bụng. Nhưng tôi chưa nói với ai đề nghị của lão. Mấy ngày sau tôi vẫn tiếp tục chăn bò. Bỗng hôm kia có thằng Hữu, một đàn em cũ của tôi tới thăm. Nó đi thẳng vào vấn đề:- Hình như anh định chăn bò cho lão Đính phải không?
- Ai nói với cậu?
- Lão đang đi thăm mua bò và nói thế đấy! Tôi nghĩ đàn anh không nên làm! Bây giờ anh đâu phải là tù nữa? Lão là một tên đặc công mà, anh quên à? Nếu anh làm việc ấy, tụi tôi đau lòng lắm đó. Thà chịu đói chứ tôi không bao giờ làm cho lão. Nó còn sĩ diện khí khái hơn mình nhiều thật. Tôi xấu hổ bào chữa:- Lão nói vậy chứ tao đã trả lời gì đâu!
Thế rồi sau khi thằng cháu của lão lành bệnh, tôi trả việc lại.
* Đại gia đình lão Đính cứ thuận đà mà thịnh vượng lên mãi...Không bao lâu, cả năm cha con đều lên nhà ngói, có xây cả sân phơi. Ở vùng kinh tế mới mà tạo được nhà ngói không phải là chuyện bình thường. Cơ sở làm ăn của họ ngày càng phát triển không ngừng. Người người đều nói họ là một gia đình "mả phát"...
*
Bỗng một hôm người ta kháo nhau tin bà Kiêm bỏ nhà ra đi. Trước khi đi, bà đã rảo một vòng khắp các vựa thu mua hoa mầu để đòi tiền. Bà cũng bán thêm một số hoa mầu cất chứa trong nhà nữa. Nghe đâu lão Đính mất cũng bộn bộn. Khi đã biết chính xác việc ấy, lão chỉ hơi buồn chứ không la lối. Mấy người con tức giận tỏ ý muốn giúp lão đi tìm nhưng lão khoát tay: - Khỏi cần. Bà ấy làm thế cũng phải. Bố đối xử với bà ấy cũng không phải đạo lắm!Ít lâu sau, lão bán cái nhà ấy cho một viên chức chính quyền và vào ở hẳn trong rẫy.
Người con đầu của lão, anh Nhất, sau một thời làm ăn quá thành công, trù thay đổi nếp sống. Anh bán sạch nhà đất, hoa mầu gom hết đưa vợ con về Sài Gòn. Ai cũng nghĩ rằng gia đình anh sẽ lướt đường mây thênh thang.
Nhưng không biết rồi thất cơ lỡ vận sao đó, chỉ một năm sau gia đình anh ta lại xuất hiện ở một làng kinh tế mới khác. Anh lén lút về cầu cứu với ông bố, có lẽ anh xấu hổ không dám nhìn mặt những người quen biết cũ. Lão Đính thí cho anh mấy chỉ vàng rồi dặn từ đây đừng chường mặt về nữa. Người con thứ hai, anh Nhị, bị sốt rét chuyển qua viêm gan không chữa kịp phải qua đời. Hẩm hiu cho anh là chưa con cái gì hết. Cơ nghiệp anh gây dựng bỗng chốc về tay người khác.Người con thứ ba, anh Tam thì bỗng phát bệnh điên. Ngày nào cũng đi ra đi vào nói lảm nhảm một mình. Người ta nói đấy là do hậu quả của một vụ dội bom B52 khi anh ta còn là bộ đội ở rừng Trường Sơn. Người vợ cũng bỗng sinh bệnh hoạn. Đất đai nhà cửa dần tiêu tan hết. Vợ chồng bán nhà đem nhau về nương náu trong một căn nhà lá lụp xụp. Cuối cùng anh chết trong sự đói khát.
Người con út, cậu Tứ, thì mới cưới vợ rồi không biết nghe ai bày chuyện, cậu vượt biên. Cậu bị bắt ở tù một thời gian. Người vợ chán nản trở cẳng ra. Bà Đính buồn tình trở về Hải Phòng. Khi Tứ được thả về thì cơ nghiệp đã tiêu tán hết. Tứ dần trở thành điên dại đi lang thang, sau cùng đi đâu không ai biết.
Chỉ riêng lão Đính cố bám lấy đất. Những người đàn bà dâm đãng, tham lam vẫn bám lão. Thân xác cũng như của cải của lão cứ thế mà hao mòn. Bấy giờ thì người lão biến đổi khá nhanh. Tóc lão đã bạc dần, các bắp thịt đã xẹp bớt, da đã nhăn nheo nhiều. Nhưng lão vẫn cực lực làm việc. Ngày việc ngày, đêm làm việc đêm. Lão chỉ thay đổi dần về nhân sự. Cuối cùng những người giúp việc lão chỉ còn là đàn bà... Chó chết mèo cũng le lưỡi, bà Tư Hồng đang làm cho lão thì phát bệnh. Bà chịu không nổi phải đi bệnh viện. Rồi bà chết vì bị bể tử cung. Người làm kế tiếp là bà năm Thành cũng phát bệnh. Y tá khám cho biết cũng chứng bệnh đó. Bà năm không đủ phương tiện đi bệnh viện nên mất tại nhà. Qua cái chết của hai người ấy, người ta bỗng nghĩ đến một người làm thứ ba tên Cúc cũng rất khắng khít với lão Đính. Đó là một người còn rất trẻ, chưa quá ba mươi. Không hiểu sao gần đây không thấy bà đâu hết. Thiên hạ hỏi thăm nhau và cuối cùng biết được bà Cúc cũng mang bệnh nhưng cố giấu, ở nhờ nhà người chị ruột. Những người tới thăm tiết lộ mới bước vô gần chỗ bà Cúc nằm đã nghe mùi tanh tưởi không chịu được. Bà mất ít lâu sau đó.Trước những cái chết ấy, lão Đính cũng không tỏ ta xúc động lắm. Lão chỉ đến phúng viếng như một người khách.
Người trong xã bấy giờ nhìn lão Đính như một quái nhân. Trong cái xã kinh tế mới xa xôi hẻo lánh ấy, bỗng nhiên từ già đến trẻ đều biết đến chuyện gã Lao Ái đời Tần hơn hai ngàn năm trước. Nhiều người khi nói chuyện thường cải tên lão Đính thành Lao Ái. Những người đàn bà tham tiền của lão Đính thấy nhợn cơ từ từ rút lui hết. Lão bán dần đất đai, trở về cố thủ một khu rẫy chừng sáu mẫu và rất ít khi kêu người làm. Gặp người quen, lão cho biết đang gắng tu tỉnh, thu gom một ít để trở về quê...
Nhưng lão tu không được. Có lẽ lão mắc nợ nhân thế quá nhiều nên nhân thế không buông tha cho lão. Một buổi sáng lão đi quanh rẫy một vòng thì gặp một cô gái đi mót. Ở rẫy, thường cuối vụ thu hoạch thì người ta đi mót rất đông. Hoa mầu thừa sót qua nhiều đợt thu hoạch đậu xanh, bắp, đậu phộng, khoai mì, mót đi mót lại bao nhiêu lần vẫn còn. Người ta cứ mót mãi cho đến khi chủ rẫy dọn cỏ làm vụ mới. Con mót thường vẫn rủ nhau đi từng toán, không hiểu sao sáng ấy lão chỉ thấy một người. Cô gái trông đẹp sắc sảo mặn mà, ăn mặc sạch sẽ, tay bưng cái thúng, cúi nhổ mấy cây đậu phộng mọc muộn do hột sót dưới đất. Thời gian gần đây lão Đính giới hạn chuyện gần đàn bà nên khí huyết hơi căng. Nay gặp người đẹp lão không dằn lòng được. Lão nhã nhặn nói với cô gái: - Cô ở đâu mà thấy lạ lạ thế?- Dạ, cháu ở miền Trung mới vô. Cháu chưa có việc làm, nghe người ta nói ở đây đi mót cũng khá nên đi thử.
- Cô đi mót một mình thôi à?
- Dạ, cháu đi một mình! - Lúc này cuối mùa còn gì nữa mà mót. Cô lên chòi lãi bắp giúp cho tôi rồi tôi trả công cho cô còn hơn a!- Cám ơn bác, cháu muốn đi vòng vòng vài nơi cho biết đã. Có lẽ rồi cũng có lúc cháu xin bác việc làm.
Cô gái trả lời lão Đính như thế rồi bưng thúng lững thững đi về phía đoạn suối có đám cây rậm rạp. Lão chăm chú nhìn theo dáng đi của cô gái cho đến khi cô khuất mắt lão. Lão ngẩn ngơ suy nghĩ một chốc rồi cũng đi về hướng đó. Lão bước thật chậm và thật nhẹ. Tới suối, lão thấy cái thúng để trên một tảng đá bên bờ. Lão nghe tiếng vục rửa dưới suối, lão kêu lên:
- Cô ơi, cô xuống rửa dưới đó à? Coi chừng có con trăn và con heo rừng hay xuống uống nước lắm đó! Để tôi xuống coi thấy dấu nó đi là tôi biết liền! Lão nói xong là bước xuống. Cô gái đang ngồi trên một tảng đá rửa tay chân thong thả, vô tình. Lão vờ vĩnh chú ý đến những lớp lá hai bên mép suối rồi thình lình chồm lại ôm cô gái. Cô gái vùng vẫy kháng cự nhưng dường như khiếp đảm quá không la lớn tiếng được. Lão đưa cô gái tới một phiến đá có mặt trơn phẳng và thanh toán mục tiêu khá dễ dàng. Xong cuộc, lão ngạc nhiên thấy cô gái cười nguýt lão:- Thỏa mãn rồi nhé, nếu bác không đền cho tôi nửa thúng bắp, tôi ra tố với chính quyền đưa bác đi tù đó!
Dễ dàng đến thế sao! Cả thúng đậu xanh lão không tiếc nữa huống là nửa thúng bắp! Lão cười với cô gái:
- Yên chí, tôi sẽ cho cô gấp năm lần cô muốn. Nhưng bây giờ cô ở đâu? Có chồng con chi không? Nếu thuận, cô ở Việc nhẹ thôi, chăn mấy con bò. Thằng nhỏ nhà tôi bệnh thình lình, cậu giúp ít bữa được khôngTôi vốn ốm yếu, ít người chịu thuê mướn nên cũng hơi thong thả. Tôi bèn nhận lời làm thử. Qua ngày đầu công việc chăn dắt suôn sẻ. Việc này thấy cũng khá nhàn rỗi, tôi làm tiếp ngày thứ hai. Buổi trưa ấy, lão Đính xách một nải chuối đến nói chuyện với tôi. Lão tỏ ra hết sức niềm nở, thân mật bẻ chuối mời tôi ăn. Lão hỏi về cuộc sống của tôi ngày trước rồi khuyên nhủ, khuyến khích đủ điều. Nhân dịp này, tôi cũng tìm hiểu thêm về cuộc đời của lão. Lão cũng vui vẻ trả lời hết. Lão là người nhái đặc công được huấn luyện rất kỹ. Lão được kết nạp vào đảng rất sớm. Lão đã từng tham gia nhiều vụ phá cầu, phá tàu thành công, được thưởng nhiều huy chương, được tặng danh hiệu anh hùng, được tuyên dương nhiều lần. Nhưng lão không màng những thứ đó. Đời lão chỉ có cực lực làm việc, uống rượu và hưởng thú đàn bà. Không có đàn bà lão không sống nổi. Tiếng lão nổi như cồn. Những người đàn bà dâm đãng đua nhau tìm tới thử thách lão. Rất nhiều lần lão bị đảng phê bình, kiểm thảo về vụ ấy. Nhưng lão không thể nào chừa được. Cuối cùng lão bị tước đảng tịch, bị loại khỏi quân đội...- Chắc vụ cuối cùng trầm trọng lắm!
Lão Đính cười hóm hỉnh:
- Vụ tôi tìm hiểu xem một cô giáo nó khác với bà vợ lam lũ của tôi thế nào. Bị thằng chồng nó kiện, bị kết tội hiếp dâm. - Anh có buồn lắm không?- Không còn bị ràng buộc đâu nữa thì mắc chi mà buồn!
- Tôi hỏi thật anh nghe, anh có con rơi con rớt nhiều không?
- Tôi gặp hàng trăm người đàn bà, dĩ nhiên con rơi con rớt cũng nhiều lắm... Nhưng thôi, bây giờ nói chuyện này. Cậu trông yếu đuối, lao động cuốc cào cũng vất vả. Tôi đề nghị, cậu cứ chăn bò giúp tôi. Tôi sẽ mua thêm năm bảy con nữa. Cậu cứ suy nghĩ cho kỹ, nếu đồng ý thì cho tôi biết để tôi tính. Nói xong, lão chào tôi và đi. Tôi suy nghĩ thấy cũng ưng ưng trong bụng. Nhưng tôi chưa nói với ai đề nghị của lão. Mấy ngày sau tôi vẫn tiếp tục chăn bò. Bỗng hôm kia có thằng Hữu, một đàn em cũ của tôi tới thăm. Nó đi thẳng vào vấn đề:- Hình như anh định chăn bò cho lão Đính phải không?
- Ai nói với cậu?
- Lão đang đi thăm mua bò và nói thế đấy! Tôi nghĩ đàn anh không nên làm! Bây giờ anh đâu phải là tù nữa? Lão là một tên đặc công mà, anh quên à? Nếu anh làm việc ấy, tụi tôi đau lòng lắm đó. Thà chịu đói chứ tôi không bao giờ làm cho lão. Nó còn sĩ diện khí khái hơn mình nhiều thật. Tôi xấu hổ bào chữa:- Lão nói vậy chứ tao đã trả lời gì đâu!
Thế rồi sau khi thằng cháu của lão lành bệnh, tôi trả việc lại.
* Đại gia đình lão Đính cứ thuận đà mà thịnh vượng lên mãi...Không bao lâu, cả năm cha con đều lên nhà ngói, có xây cả sân phơi. Ở vùng kinh tế mới mà tạo được nhà ngói không phải là chuyện bình thường. Cơ sở làm ăn của họ ngày càng phát triển không ngừng. Người người đều nói họ là một gia đình "mả phát"...
*
Bỗng một hôm người ta kháo nhau tin bà Kiêm bỏ nhà ra đi. Trước khi đi, bà đã rảo một vòng khắp các vựa thu mua hoa mầu để đòi tiền. Bà cũng bán thêm một số hoa mầu cất chứa trong nhà nữa. Nghe đâu lão Đính mất cũng bộn bộn. Khi đã biết chính xác việc ấy, lão chỉ hơi buồn chứ không la lối. Mấy người con tức giận tỏ ý muốn giúp lão đi tìm nhưng lão khoát tay: - Khỏi cần. Bà ấy làm thế cũng phải. Bố đối xử với bà ấy cũng không phải đạo lắm!Ít lâu sau, lão bán cái nhà ấy cho một viên chức chính quyền và vào ở hẳn trong rẫy.
Người con đầu của lão, anh Nhất, sau một thời làm ăn quá thành công, trù thay đổi nếp sống. Anh bán sạch nhà đất, hoa mầu gom hết đưa vợ con về Sài Gòn. Ai cũng nghĩ rằng gia đình anh sẽ lướt đường mây thênh thang.
Nhưng không biết rồi thất cơ lỡ vận sao đó, chỉ một năm sau gia đình anh ta lại xuất hiện ở một làng kinh tế mới khác. Anh lén lút về cầu cứu với ông bố, có lẽ anh xấu hổ không dám nhìn mặt những người quen biết cũ. Lão Đính thí cho anh mấy chỉ vàng rồi dặn từ đây đừng chường mặt về nữa. Người con thứ hai, anh Nhị, bị sốt rét chuyển qua viêm gan không chữa kịp phải qua đời. Hẩm hiu cho anh là chưa con cái gì hết. Cơ nghiệp anh gây dựng bỗng chốc về tay người khác.Người con thứ ba, anh Tam thì bỗng phát bệnh điên. Ngày nào cũng đi ra đi vào nói lảm nhảm một mình. Người ta nói đấy là do hậu quả của một vụ dội bom B52 khi anh ta còn là bộ đội ở rừng Trường Sơn. Người vợ cũng bỗng sinh bệnh hoạn. Đất đai nhà cửa dần tiêu tan hết. Vợ chồng bán nhà đem nhau về nương náu trong một căn nhà lá lụp xụp. Cuối cùng anh chết trong sự đói khát.
Người con út, cậu Tứ, thì mới cưới vợ rồi không biết nghe ai bày chuyện, cậu vượt biên. Cậu bị bắt ở tù một thời gian. Người vợ chán nản trở cẳng ra. Bà Đính buồn tình trở về Hải Phòng. Khi Tứ được thả về thì cơ nghiệp đã tiêu tán hết. Tứ dần trở thành điên dại đi lang thang, sau cùng đi đâu không ai biết.
Chỉ riêng lão Đính cố bám lấy đất. Những người đàn bà dâm đãng, tham lam vẫn bám lão. Thân xác cũng như của cải của lão cứ thế mà hao mòn. Bấy giờ thì người lão biến đổi khá nhanh. Tóc lão đã bạc dần, các bắp thịt đã xẹp bớt, da đã nhăn nheo nhiều. Nhưng lão vẫn cực lực làm việc. Ngày việc ngày, đêm làm việc đêm. Lão chỉ thay đổi dần về nhân sự. Cuối cùng những người giúp việc lão chỉ còn là đàn bà... Chó chết mèo cũng le lưỡi, bà Tư Hồng đang làm cho lão thì phát bệnh. Bà chịu không nổi phải đi bệnh viện. Rồi bà chết vì bị bể tử cung. Người làm kế tiếp là bà năm Thành cũng phát bệnh. Y tá khám cho biết cũng chứng bệnh đó. Bà năm không đủ phương tiện đi bệnh viện nên mất tại nhà. Qua cái chết của hai người ấy, người ta bỗng nghĩ đến một người làm thứ ba tên Cúc cũng rất khắng khít với lão Đính. Đó là một người còn rất trẻ, chưa quá ba mươi. Không hiểu sao gần đây không thấy bà đâu hết. Thiên hạ hỏi thăm nhau và cuối cùng biết được bà Cúc cũng mang bệnh nhưng cố giấu, ở nhờ nhà người chị ruột. Những người tới thăm tiết lộ mới bước vô gần chỗ bà Cúc nằm đã nghe mùi tanh tưởi không chịu được. Bà mất ít lâu sau đó.Trước những cái chết ấy, lão Đính cũng không tỏ ta xúc động lắm. Lão chỉ đến phúng viếng như một người khách.
Người trong xã bấy giờ nhìn lão Đính như một quái nhân. Trong cái xã kinh tế mới xa xôi hẻo lánh ấy, bỗng nhiên từ già đến trẻ đều biết đến chuyện gã Lao Ái đời Tần hơn hai ngàn năm trước. Nhiều người khi nói chuyện thường cải tên lão Đính thành Lao Ái. Những người đàn bà tham tiền của lão Đính thấy nhợn cơ từ từ rút lui hết. Lão bán dần đất đai, trở về cố thủ một khu rẫy chừng sáu mẫu và rất ít khi kêu người làm. Gặp người quen, lão cho biết đang gắng tu tỉnh, thu gom một ít để trở về quê...
Nhưng lão tu không được. Có lẽ lão mắc nợ nhân thế quá nhiều nên nhân thế không buông tha cho lão. Một buổi sáng lão đi quanh rẫy một vòng thì gặp một cô gái đi mót. Ở rẫy, thường cuối vụ thu hoạch thì người ta đi mót rất đông. Hoa mầu thừa sót qua nhiều đợt thu hoạch đậu xanh, bắp, đậu phộng, khoai mì, mót đi mót lại bao nhiêu lần vẫn còn. Người ta cứ mót mãi cho đến khi chủ rẫy dọn cỏ làm vụ mới. Con mót thường vẫn rủ nhau đi từng toán, không hiểu sao sáng ấy lão chỉ thấy một người. Cô gái trông đẹp sắc sảo mặn mà, ăn mặc sạch sẽ, tay bưng cái thúng, cúi nhổ mấy cây đậu phộng mọc muộn do hột sót dưới đất. Thời gian gần đây lão Đính giới hạn chuyện gần đàn bà nên khí huyết hơi căng. Nay gặp người đẹp lão không dằn lòng được. Lão nhã nhặn nói với cô gái: - Cô ở đâu mà thấy lạ lạ thế?- Dạ, cháu ở miền Trung mới vô. Cháu chưa có việc làm, nghe người ta nói ở đây đi mót cũng khá nên đi thử.
- Cô đi mót một mình thôi à?
- Dạ, cháu đi một mình! - Lúc này cuối mùa còn gì nữa mà mót. Cô lên chòi lãi bắp giúp cho tôi rồi tôi trả công cho cô còn hơn a!- Cám ơn bác, cháu muốn đi vòng vòng vài nơi cho biết đã. Có lẽ rồi cũng có lúc cháu xin bác việc làm.
Cô gái trả lời lão Đính như thế rồi bưng thúng lững thững đi về phía đoạn suối có đám cây rậm rạp. Lão chăm chú nhìn theo dáng đi của cô gái cho đến khi cô khuất mắt lão. Lão ngẩn ngơ suy nghĩ một chốc rồi cũng đi về hướng đó. Lão bước thật chậm và thật nhẹ. Tới suối, lão thấy cái thúng để trên một tảng đá bên bờ. Lão nghe tiếng vục rửa dưới suối, lão kêu lên:
- Cô ơi, cô xuống rửa dưới đó à? Coi chừng có con trăn và con heo rừng hay xuống uống nước lắm đó! Để tôi xuống coi thấy dấu nó đi là tôi biết liền! Lão nói xong là bước xuống. Cô gái đang ngồi trên một tảng đá rửa tay chân thong thả, vô tình. Lão vờ vĩnh chú ý đến những lớp lá hai bên mép suối rồi thình lình chồm lại ôm cô gái. Cô gái vùng vẫy kháng cự nhưng dường như khiếp đảm quá không la lớn tiếng được. Lão đưa cô gái tới một phiến đá có mặt trơn phẳng và thanh toán mục tiêu khá dễ dàng. Xong cuộc, lão ngạc nhiên thấy cô gái cười nguýt lão:- Thỏa mãn rồi nhé, nếu bác không đền cho tôi nửa thúng bắp, tôi ra tố với chính quyền đưa bác đi tù đó!
Dễ dàng đến thế sao! Cả thúng đậu xanh lão không tiếc nữa huống là nửa thúng bắp! Lão cười với cô gái:
- Yên chí, tôi sẽ cho cô gấp năm lần cô muốn. Nhưng bây giờ cô ở đâu? Có chồng con chi không? Nếu thuận, cô ởBạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top