Câu kéo-Lenghiabk05
Đêm Giăng Câu
háng 7-8 Âm lịch, nước từ thượng nguồn tràn về làm ngập cả cánh đồng rộng lớn ở quê tôi. Lẹ thiệt, chỉ mấy hôm trước, nước chỉ xâm xấp mặt ruộng mà bây giờ trở thành một biển nước trắng xóa. Xa xa vài căn nhà thưa thớt giữa đồng được bao bọc bằng những rặng trâm bầu xanh ngát. Thời điểm này mà nhà ai không có chiếc xuồng ba lá thì việc đi lại thật khó khăn.
Nhà tôi nằm ở vùng gò cao trong xóm vậy mà nước cũng mấp mé đến sân. Bữa nọ, chú Năm, em của ba tôi, từ An Giang về ăn giỗ ông nội sẵn ở chơi với gia đình hơn 10 ngày. Đã 45 tuổi mà dáng vóc chú còn khá là “lực điền”, chỉ mấy cái răng “mặt tiền” là đã rụng muốn hết, mỗi lần cười thấy móm xọm!. Sáng hôm đó, chú đưa tôi tờ giấy bảo ra chợ xã mua nhợ và lưỡi câu theo số lượng đã ghi trong đó. Chú tươi cười nói: “Ở đây mấy bữa thấy “ngứa nghề”. Tối nay mày đi với tao giăng câu, cắm câu nhen!”. Tôi mừng rỡ đồng ý ngay vì từ lâu chú nổi tiếng là tay “sát cá” mà lâu lắm tôi mới có dịp được đi với chú để “thị phạm tay nghề” của chú như thế này…
Khi tôi trở về thì thấy chú đang chuốt những chiếc cần câu cắm bằng tre, bình quân mỗi cần dài khoảng 0,8 m. Được một bó khoảng 20 cần, chú lấy rơm đốt, hơ lửa, bẻ uốn tạo độ cong để cần câu có sức bật tốt, cá không sẩy được. Chú Năm nói khó nhất là “tóm” lưỡi câu vì nó đòi hỏi phải có tay nghề, nếu không chẳng con cá nào ăn, có khi nó chỉ rỉa hết mồi chứ không mắc vào lưỡi câu. Mấy lưỡi câu mới mua đều được bẻ hơi nghiêng khi cá ăn mới dính mép được. Nhợ câu cũng có hai loại: nhợ gân và nhợ nylon. Nhợ gân chú dùng cho câu cắm còn nhợ nylon để giăng câu bởi “nhợ nylon khi cuộn lại không bị rối”- chú “truyền đạt kinh nghiệm” cho tôi biết. Mỗi dây giăng câu dài khoảng 10 mét, cứ cách một đoạn trên 1 mét chú cột đoạn nhợ khoảng 0,5 mét, phía dưới có “tóm” lưỡi câu. Làm xong, tôi bơi xuồng đưa chú Năm ra mấy miếng ruộng ở gần nhà bươi những đống rơm mục tìm dế nhũi làm mồi câu. Đây là loài côn trùng mà cá lóc rất khoái. Chú Năm còn xách cái cuốc nhảy lên mấy cái liếp đất cao đào thêm một số trùn đất để bổ sung thêm mồi. Xong việc chú còn bảo tôi bơi xuồng đốn thêm mớ sậy để giăng câu.
Chiều hôm đó, khi cơm nước, tắm rửa xong, tôi và chú Năm đưa hết “đồ nghề” xuống xuồng rồi chống xuồng đi. Ba tôi nói với theo:
- Hai chú cháu ráng kiếm cá lóc bự để mai nấu canh chua bông điên điển.
Chú Năm quay lại nói:
- Anh cứ an tâm, nghề của em mà!
Chiếc xuồng rẽ nước lướt bon bon. Gió chướng thổi đều đều làm sóng nước cứ lăn tăn rồi vỗ vào thành xuồng văng lên tung tóe. Chú Năm bảo tôi cặp xuồng vào một bờ ruộng mà nước đã ngập, chỉ còn hàng cỏ xanh rì nhô lên, cẩn thận cắm xuống ruộng từng đoạn sậy với khoảng cách 3 – 4 mét rồi cột dây giăng câu vào. Hai chú cháu lần lượt móc mồi trùn vào lưỡi câu. Lưỡi câu đã móc mồi thả sâu trong nước khoảng một tấc để trừ hao nước ròng, nước lớn. Tất cả cần câu cắm được móc mồi dế nhũi và cắm dọc theo bờ kênh, ao đìa, mương liếp trồng rẫy mà người dân đã thu hoạch vì đây nước sâu, lại “êm” nên cá lớn thường trú ngụ. Các chú dế nhũi bị lưỡi câu móc vào lưng cứ chạy vòng vòng trên mặt nước như đánh động những chú cá đói đi tìm mồi. “Cá lóc thích ăn mồi động, cá trê thích ăn mồi chết”, người đi giăng, cắm câu nào cũng biết bí quyết này!.
Trời sụp tối. Tôi và chú Năm bơi xuồng vào một cái chòi vịt đã bị ngập nước để chờ. Cá thường ăn mồi theo nước lớn, khoảng thời điểm giữa mùa ăn lúc chạng vạng, lúc trăng chuẩn bị mọc và gần hừng sáng. Cột chiếc xuồng vào gốc cây để không trôi, hai chú cháu nằm ngửa ra xuồng nhìn lên bầu trời đầy sao, lâu lâu có một làn gió mát rượi thổi qua, nghe xa xa tiếng vọng cổ ngân nga của ai đó vọng lại mà lòng trào dâng một cảm xúc lạ kỳ. Bỗng chú Năm nhép miệng ca theo và liên tục hát hết bài này đến bài khác. “Nếu mai thất nghiệp anh về quê cắm câu. Bắt con nhái bầu, cắm ngay đầu cầu, chờ cho nước lớn cá ăn câu. Tưởng đâu cá bự ai dè là em về làm dâu…”. Nghe tiếng tôi cười, chú liền hỏi:
- Có gì mà mày cười?
- Con nghe lời ca có gì ngồ ngộ, vui vui vậy mà!
- Ừ, để tao kể cho mày nghe chuyện này vui lắm, hổng biết có thiệt hay không mà mà mấy ông ở An Giang truyền nhau từ đời này qua đời khác. Số là ở trên đó, mùa nước nổi lỡ có ai chết không thể chôn ngay được, người ta đưa quan tài ra cánh đồng, để trên một cái giá đỡ bằng gỗ được đóng chắc chắn, cách xa mặt nước. Người ta làm cái chòi bằng lá để che nắng, che mưa cho quan tài, chờ nước rút mới chôn. Đêm đó có anh thanh niên nọ sau khi giăng câu thì trời chuyển mưa, thấy cái chòi xa xa vội vã bơi đến cột xuồng rồi ngồi trú mưa. Mưa tạnh, anh bật hộp quẹt hút thuốc. Ánh sáng lóe lên cũng đủ để anh nhận ra trước mặt là chiếc quan tài to tướng!, anh liền nhổ cây dầm bước ra phía trước xuồng bơi liên tục mà xuồng không chịu đi. Hoảng quá, anh la làng “Ma kéo xuồng, ma kéo xuồng” vang vọng cả cánh đồng. Mấy người giăng lưới gần đó bơi đến thì thấy anh đã ngất xỉu, còn chiếc xuồng vẫn cột chặt trong cái chòi. Mọi người vừa tìm cách làm anh tỉnh lại vừa tủm tỉm cười. Mấy ngày sau đó câu chuyện loan ra, cả xóm ai cũng biết.
Nghe qua câu chuyện, tôi cười rũ rượi nhưng theo phản xạ cũng chộp lấy cái đèn pin rọi qua cái chòi vịt cho an tâm. Tiếng chú Năm vẫn kể đều đều những câu chuyện khác. Tôi nằm im nghe rồi thiếp đi lúc nào không hay.
Chú Năm đánh thức tôi dậy đi thăm câu là lúc gần nửa đêm. Cái đèn pin của chú sáng choang giúp tôi từ xa cũng trông thấy chỗ chú giăng câu động đậy liên tục. Như vậy là có cá đã mắc câu. Khi xuồng áp sát, tôi cắm dầm giữ xuồng không trôi, một tay cầm đèn pin rọi cho chú gỡ cá. Ôi chao: 1…2…3… rồi 7, 8 con cá trê vàng, trê trắng cùng hai con cá lóc mỗi con gần nửa ký được chú gỡ nhanh, cẩn thận bỏ vào cái thùng nước có nắp đậy. Gỡ hết cá, chú Năm cùng tôi móc mồi lại rồi bơi đi thăm mấy cần câu cắm dọc bờ kênh. Qua 1, 2 cần đầu vẫn thấy mấy con dế nhũi ung dung bò trên mặt nước. Bỗng chú Năm ra hiệu cho tôi bơi chậm lại vì cái cần câu phía trước bị kéo sát mặt nước. “Dính cá bự rồi” – chú Năm nói khẽ. Đến gần, chú nhẹ nhàng cầm chiếc rổ đưa sâu xuống nước dưới cần câu cắm. Con cá lóc quẩy mạnh làm nước văng tung tóe, cùng lúc cái rỗ rổ cũng được đưa vào xuồng. Con cá lóc khoảng 2 ký không còn sức để giãy nữa đành nằm im thin thít trong rổ trước khi bị đưa vào thùng chứa. Ở mấy cần câu cắm còn lại gần phân nửa dính cá lóc, cá rô mề . Sơ sơ chỉ qua một lần thăm câu mà cũng kiếm được gần 7 ký cá. Tất cả số cá được đưa nhanh về nhà rộng ngay để không bị chết. Sáng hôm sau, tôi và chú Năm đi “thu hồi” cần câu cắm cũng như dây giăng câu cũng kiếm thêm khoảng 4 ký cá nữa. Từ đó về sau, mỗi mùa nước nổi, tôi đều đi giăng câu, cắm câu một mình chẳng những kiếm đủ cá để ăn mà còn bán ở chợ xã nữa.
DỠ CHÀ
Mỗi tháng có hai kỳ nước lớn, thủy triều lên cao vào ngày rằm và ngày cuối tháng (tính theo âm lịch).
Người ta dỡ chà vào ngày nước nhỏ, sau khi đã cho nhiều mồi xuống đám chà để dụ cá vào tối đa.
Lưới được bủa xuống bao quanh đám chà, mắt lưới nhỏ như mắt vó, dưới đất có chì làm bằng sợi xích sắt, phía trên trương lên cao máng vào cột tre cao hơn mặt nước chừng năm thước.
Khi bắt đầu bị động, tôm cá có khuynh hướng chạy trốn vào đám chà. Thậm chí có nhiều anh đang đi lang bang, chạy vội về, đụng màng lưới nên vội phóng lên cao mà lọt vào bên trong!!!
Sau khi rà soát kỹ lưỡng để "Bứt gọn, Diệt gọn" như kiểu nói của cán bộ, người ta bắt đầu vớt lục bình, rau muống rồi kéo chà lên bờ.
Ôi thôi, lúc này binh tôm tướng cá xao xác. Những con cá lóc, cá bông lớn chừng nửa ký trở lên, những con cá mè vinh lớn bằng bàn tay phóng vọt lên trời như pháo thăng thiên ...để đụng vào lưới mà rớt xuống. Con nào phóng vượt qua được thì cũng rớt ngay vào lòng thuyền, xuồng ba lá đang vây chung quanh phía ngoài lưới.
Thợ lặn xuống xê dịch chân lưới vào phía bờ, vòng vây càng thu hẹp thì cá phóng lên, ngang dọc ngược xuôi càng dữ, hoà lẫn với tiếng la ó vui vẻ của đàn bà con nít đứng đen nghịt trên bờ.
Tôm càng phờ râu lên là bị vợt xúc liền, bởi vì nó dễ chết nên cần bắt liền mà thả lồng riêng. Sau đó mới tới các loài cá trắng, cá đen.
Tùy theo năm trúng mùa cá hay không và tùy theo tháng, tôm cá bắt được chừng vài trăm ký, nhưng hầu hết thuộc loại bán có giá, nhất là tôm càng xanh.
Nếu một cái đìa ở trong ruộng, mỗi năm mới tát một lần hồi sau tết thì cũng chưa chắc được nhiều cá hơn một lần dỡ chà. Mà cá ngoài sông thuộc dạng "Chim trời cá nước", trời cho ai thì nấy hưởng, nhiều ít thì tuỳ phước đức ông bà để lại.
Cá bắt xong, chà lại được xếp xuống để làm cú khác, nhưng cũng chỉ được ít lâu là phải cưa nhỏ, bán làm củi mà chất chà mới, cá mới chịu vô ở nhiều.
Ngâm nước cả buổi, ngón tay móp hết, người lạnh run, các tay phụ giúp bắt cá, ngoại trừ tiền công, còn được chủ nhân đãi nhậu rượu đế với bún tôm càng, cá lóc nướng cuốn bánh tráng, hoặc cháo cá cho ấm lòng.
Lúc về, say rượu, chân nam đá chân xiêu, vừa hát vừa xách toòng teng một xâu cá thác lác đem về cho Wợ.
Vào thời gian này của 1 năm về trước, một người anh đồng nghiệp trong công ty mời tôi và mọi người trong phòng về quê Vĩnh Long một dịp thăm vườn trái cây nhà. Lòng chờ đợi nôn nao trong mong cho đến 5h30 chiều hết giờ làm là chúng tôi sẽ lên xe về đất miệt vườn.
Anh kể về vùng quê hương sông nước của mình mọi điều nghe thật thích thú và khơi dậy trí tò mò của anh em trong đoàn, xe chạy mất 2h để đến bến đò đưa chúng tôi sang sông. Nơi dừng chân là khoảnh đất giữa sông mà chúng ta thường hay gọi là "Cồn", "Cù Lao" và chúng tôi sẽ có thời gian khám phá vùng đất tên gọi "Cù Lao An Hòa Phước", dừng chân bến đò anh em uống vội ít nước dừa là phải sang sông vì đã vào chuyến đò cuối cùng trong ngày. Người dân ở đây người ta không gọi đò mà tiếng địa phương là "Cái Chẹt" - một từ ngữ lạ lẫm với tôi và anh em cùng đoàn, vì sao gọi là chẹt? mà tại sao phải gọi là chẹt thay vì đò, xuồng, tàu? chung quy cũng chỉ là tiếng địa phương của từng vùng quê.
Tiếng máy kêu "bạch...bạch....bạch...." đưa chúng tôi qua con sông lớn để đến điểm dừng chân - Cù Lao An Hòa Phước, thỉnh thoảng đâu đó nhìn dưới sông chúng tôi thấy từng chõm cây cắm nổi lên mặt nước, thắc mắc có tuy nhiên tôi chỉ nghĩ do người dân chặt cây rồi quăng xuống sông mà thôi chứ ai lại đi cắm cây củi sần sùi xấu xí xuống mặt nước gây cản trở lưu thông.
Qua ngày sau chúng tôi được Anh Ba, Anh Năm rủ đi tắm sông, "dỡ chà", cả đám ngơ ngác không biết "dỡ chà" là cái gì, một số người nghĩ chắc là đi lưới cá mà do tiếng địa phương là đi dỡ chà giống như con đò và cái chẹt. Cả nhóm bước xuống một chiết xuồng nhỏ tiến ra gần giữa sông lớn để "thưởng thức" hương vị phù sa của miền Tây sông nước. Một chốc, 2-3 chiếc xuống nhỏ tiến lại gần và một anh chèo xuống nói với Anh Ba:
" Anh Ba ơi, giờ đi dỡ chà được chưa Anh" - "thằng Tiến hả, có mấy đứa em trên xì phố xuống chơi nên tụi bay dẫn tụi nó đi dỡ chà cho biết nghen" - "Dạ, Anh Ba".
Cả nhóm nháo nhác đu lên thuyền và lần lượt nối đuôi đi đến địa điểm dỡ chà. Anh lái tàu nói lớn - "Đến rồi Anh Ba ơi, chà này được 4 tháng rồi chắc tôm cá nhiều lắm". Tôi quay sang hỏi Anh Ba: "Chà đâu Anh...?" Anh ba chỉ ngay xuống nước:"Đó, đống cây trước mặt đó...!", ngạc nhiên vì hôm qua tôi còn suy nghĩ là do người dân chặt cây quăng xuống sông chứ chà nỗi gì đống này thế là lại thêm một lần bất ngờ nhưng hứa hẹn nhiều điểm thú vị.
"Lưới được bủa xuống bao quanh đám chà, mắt lưới nhỏ như mắt vó, dưới đất có chì làm bằng sợi xích sắt, phía trên trương lên cao máng vào cột tre cao hơn mặt nước chừng năm thước." Tôi xin phép mượn lời Anh Tâm về cách thức dỡ chà. Cả nhóm bay xuống sông cùng nhau phụ Anh Ba và các Anh "Cò Chà" vây lưới bủa quanh đám chà, Anh Ba hỏi: "Mấy đứa dỡ được không, không thì nhờ người ta dỡ phụ?" - "có chút xíu mà Anh Ba, tụi em dỡ chừng 30p là xong" Anh Thành lớn tiếng nói, là người sung nhất nhóm nên Anh Thành rất tích cực lặn ụp để vây lưới mặc dù chưa biết cách vây...
Từng gốc chà được bóc lên quăng ra phía kế bên để tạo nên một đống chà cho lần kế tiếp, cứ thế chúng tôi cùng nhấc cùng quăng. Thế mà hơn 30p chúng tôi chỉ làm được 1/3 đống chà là cả đám phì phỏ thở hổn hển vì mệt, nhưng sự thú
Nghe tiếng động những con cá cờ búng mạnh trên mặt nước nhằm thoát khỏi sự truy bắt của chúng tôi, dù chuẩn bị kỹ nhưng nhóm cũng để bị xẩy 1 em. Trong từng đồng chà lớn là cả một ổ tôm, bắt đầu có thành quả sự hăng hái của chúng tôi càng tăng lên và cảm thấy không còn sự mệt mỏi mặc dù đã ngâm mình dưới nước hơn 1 giờ đồng hồ: lạnh, mệt nhưng phấn khích.
Từng gốc chà được đưa ra khỏi lưới là chúng tôi cũng đã kiếm đươc 1 bữa nhậu tôm linh đình cho buổi tối, tuy nhiên mục tiêu chưa dừng ở đó, chúng tôi còn muốn biết dưới nước kia là những thành quả gì đang chờ đợi. Cả nhóm bắt đầu trổ tài lặn và nín hơi của mình, mỗi lần ngập mặt là ai cũng có được 2-3 con tôm nhỏ, nói nhỏ nhưng chí ít cũng bằng ngón tay đeo nhẫn cỏ, 1 phần 3 xô, nửa xô, số lượng tôm dần tăng lên kèm theo tiếng reo rò của chị em hội phụ nữ đứng trên xuồng.
Trong thùng đựng chú yếu là tôm và có được 1 con cá cờ "lạc", trong lúc mọi người mò mẫm trong đống chà thì có tiếng la lớn từ dưới mặt dưới - đó là Anh Ba "Con này nó ghê gớm lắm" - Cá ngát? cá tra? vồ đém? nhiều ý kiến được đưa ra nhưng sau đó mọi người lại tiếp tục lặn để cho sự nghi vấn qua đi về con gì đó ghê gớm của Anh Ba. Cả nhóm không tin vào mắt mình khi con vật "ghê gớm" anh Ba đưa lên kèm sau đó là tiếng reo hò như đánh trận của cả đàn ông lẫn phụ nữ, một con tôm càng xanh đầu tiên của buổi dỡ chà, thành quả đầu tiên này càng khiến cho đám con trai trong đám thêm sung sức mò kiếm cho riêng mình 1 con.
Con thứ hai, thứ ba, thứ tư.... lần lượt được đưa lên xuồng, cả buổi dỡ chà nhóm kiếm được 7 con tôm càng xanh lớn, 1 xô đầy tôm sông, 2 con cá cờ và dĩ nhiên không thiếu chú cá ngát mần canh chua lá giang.
Như Anh Tâm nói 1 năm có hai mùa nước lên xuống là những thời điểm để dỡ chà, từng đống chà cũng cần có thời gian để tôm cá vào cư ngụ, theo dân địa phương thì phải mất 3-4 tháng thì khả năng có và nhiều cá tôm rất cao. Dỡ chà là thế đấy các bạn, mệt nhưng vui. Hẹn cùng nhau dỡ chà khi con nước lên vào tháng 10 âm lịch sắp tới, tôi sẽ tổ chức một chuyến về Vĩnh Long để thăm các Anh dưới nhà và dĩ nhiên không thể thiếu tiết mục dỡ chà và sẽ tìm địa điểm cho một buổi câu đêm...
CÂU CÒNG, CÂU CUA
C
òng (fiddler crab) là đứa em út trong dòng họ tám cẳng hai càng,
thấp cổ bé họng
cả nghĩa đen lẫnnghĩa
bóng, áo quần chim cò xanh đỏ tím vàng, tưởng là giang hồ lắm nhưng bản tính lại e dè nhút nhát – “nhát như cáy” mà lại ! Còng có mặt khắp mọi miền sông nước: ở nước ngọt, chúng cư ngụ tại các bờ ao, bờ ruộng, các gốc cây và đặc biệt sống thành "bầy đàn” trong các đám lác ven sông. Nếu chúng ta có dịp đi thuyền ở khu di tích rừng ngập mặn Rừng Sác sẽ thấy hàng đàn Còng sắp hàng dọc bờ kinh diễu binh nội bộ, nghe tiếng chân người động đất, chúng dừng việc mở mắt thao láo ngắm nhìn du khách. Đi Vũng Tàu, Nha Trang ... đôi khi chúng ta phải bỏ lon bia uống dở để cùng cậu quý tử săn
Còng gió
. Tôi dám cá 10 ăn 1 rằng ông bố nào cũng vậy, sau khi bở hơi tai mới tóm được chú Còng gió đều săm soi kỹ càng, như muốn hỏi cung rằng “chân tay lòng khòng như đi cà kheo, có bí quyết gì mà chạy nhanh thế làm bố con ta mệt đứt hơi ?!?”
B
ài học câu vỡ lòng của tôi như các bạn đã từng biết, chính là câu cá Bống dừa. Nhưng lần đầu tiên tôi đi câu lại là đi câu Còng. Kiếm 1 cái que dài dài, buộc sợi dây ny-lon đã tước mảnh, đầu kia buộc 1 cọng thun làm mồi rồi ra bờ ao, nơi hang Còng chit chít như cửa sổ chung cư, và thả câu. Bọn Còng này cũng thuộc loại "ngu lâu" bẩm sinh như vợ chồng lìm kìm trong phóng sự của bác Việt Hoà, nghĩa là đã kẹp mồi rồi thì
trời gầm không nhả
! Chỉ đến khi bị nhấc bổng khỏi bờ ao, ngoảnh mặt lại nhìn thấy cửa nhà xa tít tắp mới giật mình buông tay. Nhưng tất cả đã muộn, một tiếng “cốp” khô khốc, Còng rơi gọn vào cái xô đã hứng sẵn !
C
âu Còng chỉ để vui là chính và ta có thể hướng dẫn cho bạn gái ta, hay vợ ta (hmmm... !) để chia sẻ niềm vui (hay đam mê ?) câu
kéo. Vì sao vậy ? Thứ nhất, câu Còng rất dễ - thứ hai, câu kiểu này câu mà như đùa vì chẳng có lưỡi câu – thứ ba, quan trọng nhất là không làm
quý nương
bẩn tay vì không cần thòtay bắt Còng, và cũng chẳng sợ bị Còng kẹp ! Tôi xin nói trước, câu Còng để vui thì được, còn muốn có Còng làm
nồi riêu
thì xin mời anh Hai xăn quần lội ruộng. Đồ nghề mang theo: 1 cái xô hay 1 cái giỏ tre để nhốt tù binh, 1 con dao dẹp bản khoảng 2 ngón tay hoặc 1 cọng sắt b-40 uốn thành 1 cái móc để bắt những chú
Cua đồng
trong hang sâu. Người xưa có câu “biết người biết ta trăm trận trăm thắng”. Ta đi bắt Còng phải nắm rõ Còng thì bắt mới năng suất, nồi riêu mới ngọt. Như đã nói, Còng là giống “nhát như cáy”, thấy bóng người là chui biến vào hang. Nhưng than ôi, bọn này lại có cái tính rất xấu là rất
tò mò
, tò mò chết Còng ! Chui vào hang thì chui luôn, nhưng không, xem chừng tình hình có vẻ yên ổn lại thò đầu ra miệng hang thì, trời ơi, vẫn “thằng người” lúc nãy sừng sững trước mặt! Cuống cuồng trở lui nhưng muộn rồi, lúc này đường rút đã bị con dao bản dẹp chặn ngang. Thế là Còng Còng đành nằm chịu trận chờ “thằng người” tóm lấy và vứt vào xô nghe đánh “cốp”.
T
ò mò đã chết rồi, bây giờ thì nhát cũng chết. Lần này “thằng người” không đứng yên để Còng thò đầu nghe ngóng mà hắn ta
dậm bình bịch vào bờ ruộng
, ngay phía trên cửa hang, liên hồi với tần số tương đương anh thợ máy đang cố khởi động chiếc vespa cổ lỗ sĩ bị ngộp xăng ! Còng thấy đất trời rung chuyển quýnh quáng phóng ra khỏi hang. Ra khỏi hang rồi thì biết đi đâu ? Đi vào nồi chứ còn đi đâu nữa ! Tuy nhiên đó vẫn chưa phải là giây phút hứng thú nhất khi đi bắt Còng. Bắt Còng phải bắt từng bầy, lùa Còng như lùa vịt mà bắt mới đã ! Cảnh tượng này chỉ diễn ra ở các
ruộng lác ven sông
, nơi Còng sống thành “bầy đàn”. Cái “thằng người” 1 chân trụ, 1 chân dậm đám lác ngã rạp. Thế là họ hàng hang hốc nhà Còng mở hết tốc lực về phía mé nước. Cảnh tượng lúc này có lẽ so sánh được với cảnh
ba khía hội
vì mặt bùn chỗ nào cũng thấy Còng ! Cứ ung dung mà thu hoạch đi nhé, hỡi những “thằng người” háu ăn ! Nhưng mà như trên đã nói , nếu muốn có Còng làm một nồi riêu cơ
mà ? Vậy thì dẫu nhiều Còng nhưng ta vẫn phải chọn lựa. Lựa những con
Còng lửa
thì khi nấu riêu, nồi canh mới hấp dẫn, dậy màu gạch son, thơm trong thơm ngoài chớ nấu riêu nhần mấy chú
Còng rêu
ăn chán phèo mà nồi canh màu cứ thâm xì để nguội có vị tanh kém ngon. Với Còng, bà con ở Cần Giờ còn bảo ăn qủa trứng vịt nuôi bằng Còng lửa thì tròng đỏ trứng cũng đỏ au và đậm đà lắm.
V
ới Còng, tuổi nhỏ của tôi và bạn bè từng có một thú chơi khá ngộ nghĩnh: kiếm loại Còng nhỏ xíu, có đủ màu chim cò xanh đỏ tím vàng sống ở các kè đá ven sông. Chúng tôi lấy 1 lọ thủy tinh nhỏ, cỡ lọ đựng yagourt nhét đấy bùn rồi cho vài em Còng vào. Chờ đôi canh giờ sau ta sẽ có 1 hệ thống địa đạo do các chiến sỹ Còng xây dựng ngang dọc trong lọ - các chiến sỹ mặc áo hoa chạy tới chạy lui trông rất vui mắt ! Nãy giờ ghé nhà Còng hơi lâu, ông Cua cứ “nhá di động” liên lục. Từ từ, chúng tôi ghé ngay đây ! Chắc quý vị cũng hơi thắc mắc, cua gì mà xài di động ? Xin thưa, đây là
Cua sành điệu
, cua biển nặng cả ký chứ không phải mấy chú em cua đồng khờ khạo bị thằng bống gạt mất cái càng đâu nghe! Hồi ấy, người viết bài này mới 12 tuổi - một nhóc tỳ chính hiệu vừa ham diều, vừa ham câu mà thấy câu Cua thì quả chuyện ly kỳ vì chẳng cần dùng đến lưỡi câu cũng bắt được cua ! Lúc đó đang là mùa nước mặn. Chỉ có mùa nước mặn thì Cua biển mới về, Cua quý tộc mà ! Mùa này cũng là mùa gió, lũ trẻ chúng tôi vẫn đang mải lo thả diều hơn là lo câu cá Bống. Theo chân ông hàng xóm, tôi xách dao ra bụi tre ngà sau nhà chặt mươi nhánh làm cần câu. Dây câu Cua ông bảo chỉ cần 1 đoạn dây diều chừng 1,5m và không cần xài lưỡi câu, chỉ cần kiếm cọng dây kẽm dài khoảng 20cm, 1 đầu buộc vào dây câu như 1 cái
lưỡi câu hình chữ I
!
Rồi ông hàng xóm ra lệnh:
”Nè nhóc, theo tao đi kiếm mồi câu. Ra bờ ruộng, tìm những con “bà chằn” như vầy nè (bà chằn
là 1 loại sên thân mềm không có vỏ cứng, thịt dai ngoách như miếng kẹo cao su để lâu ngày). Nếu mày có gan thì bắt rắn nước lột da rồi nước lên hay bắt cắc-ké lột da cũng được ! Nhìn nè, cầm con bà chằn xỏ vào cọng kẽm cho đến khi đầy rồi làm thành 1 cái vòng như zầy nè, nhóc ! Biết tại sao dùng mồi này không ? Mồi này câu cả tuần vẫn còn, chưa cần thay nghen mậy ! Để lâu mồi càng thúi lại càng nhạy đó, biết chưa? Mày vào trong nhà tao lấy cái vợt rồi chú cháu mình cắm câu
"
Sông Gâm : chuyến câu tiền trạm
Có mặt tại địa điểm tập kết từ lúc trời mờ sáng, đoàn tiền trạm sông Gâm chúng tôi gồm 9 người : HieuNK (trưởng đoàn), Bá Vương (đoàn phó), Nam RnR, Dương dutluc, Hùng râu Hifishbone, Thắng duyanh và một số anh em khác : bác Chủ SKHDT, Bác Tưởng Bà Triệu, Bác Tự, bạn bác Tưởng.
Khởi hành từ Hà Nội.
Sau khi đã chất đầy "đồ nghề" câu sông và hành lý cá nhân lên hai chiếc xe 7 chỗ, gồm : cần câu , chì , thẻo, lưỡi, xuồng bơm hơi, thức ăn cho cá, thức ăn cho người, bia, rượu, đồ uống, lều bạt... Đúng 5 giờ sáng, đoàn xuất phát.
Đến Thái Nguyên.
Dừng xe ăn sáng, khi vừa đến Thái nguyên. Chè ngon, thuốc thơm.. lại có bát phở Gà nóng ấm bụng, nên ai nấy đều tỉnh táo chuyện trò râm ran. Xong bữa điểm tâm, mọi người lại đùn đẩy nhau mất một lúc thì phó đoàn kiêm lái xe Bá Vương vui vẻ nhận thêm chân kế toán trưởng kiêm thủ quĩ của đoàn... Công nhận cái lão này nhiệt tình, và lắm chức danh thật !
Vào Cao Bằng.
Do đường hẹp và khá đông xe, mãi cho đến hơn 12 giờ, đoàn tiền trạm mới lên đến Thị xã Cao Bằng. Ở đây, các bạn câu Cao Bằng đã chờ đón và đưa chúng tôi vào một nhà hàng ở cuối thị xã. Đồ ăn ngon, rượu, bia đầy bàn nhưng ai nấy đều nôn nóng đến điểm câu nên ăn nhiều, uống ít, chỉ sau khoảng hơn một giờ là bữa tiệc đón tiếp đã kết thúc.
Lúc này đoàn câu được bổ sung quân số thêm 3 cần thủ Cao bằng là : Dũng , Tùng , Hạnh cùng với một số đồ đoàn và mồi câu, trong đó tôi nhìn thấy có : 1 nải chuối, và 1 giỏ quả sung chín thơm phưng phức. Để có được giỏ Sung chín này, mấy anh em trên Cao Bằng đã phải mất cả ngày hôm trước lùng khắp thị xã. Nhìn giỏ "mồi sung chín", bác Bá Vương cứ nuốt nước bọt ừng ực (dạo này không hiểu sao lão này có vẻ thích ăn hoa quả tợn, nghe lão nhaque đồng nghiện, bảo là : "râu lão Bá dạo này, lại nhẵn đi, chả hiểu ý muốn nói gì !?"). Nhưng, không đâu, ai thấy sung chín cũng thèm, nhưng chả dám ăn vì phải ưu tiên cho cá... Đoàn tiếp tục lên đường đến thị trấn Bảo lâm, điểm câu trên sông Gâm cách thị xã Cao Bằng 170km.
Đi Bảo lâm.
Đường lên Bảo Lâm đi qua mỏ thiếc Tĩnh Túc, rồi đến thị xã Bảo Lạc. Phong cảnh hai bên đường phải nói là tuyệt đẹp. Ở đây, vẫn còn không khí Tết thì phải !? Hoa Đào, hoa Mận vẫn đua nhau đua nở, hoa khoe sắc trong làn sương lung linh mờ ảo của vùng cao, bên những khóm nhà nép mình ven đường. Lợn thả rông chạy đầy đường, trâu nghênh ngang cọ sừng, thử sức với xe ôtô.
Xe bon bon thẳng tiến với phương châm của trưởng xe Vương :" Chó đón đầu, Bò đón đuôi, Gà đón ngang lưng ... "
Đường đã nhỏ, lại nhiều sương mù và toàn cua tay áo, Dũng Cao Bằng lại bị say xe nặng, cho nên đến gần 5 giờ 30 chiều, chúng tôi mới đến được thị xã Bảo Lạc. Đến đây, chỉ còn cách điểm câu Bảo Lâm chừng 40km.
Dừng chân uống nước, hút thuốc khoảng 20 phút sau chúng tôi lại lên đường. Từ đây, con đường men dọc theo sông Gâm. Có lúc, đường khoét qua vách núi dựng đứng ven sông, xe qua đó tưởng chừng có cả ngàn khối đá lơ lửng trên đầu. Lòng sông lúc thì thu hẹp, lại chảy qua khe giữa hai ngọn núi, lúc lại phình to ra ở những thung lũng trải rộng, cây cối chìm trong màn sương mù. Đẹp, đẹp thật !
Khách sạn ngay gần bờ sông, đi bộ 1 đoạn chừng 10 phút là đã ra đến bãi câu. Lấy phòng, sắp xếp đồ đạc xong tất cả chúng tôi kéo nhau ra quán ăn bình dân của một chủ quán người dân tộc Tày ở gần đó. Vào quán, ổn định chỗ ngồi xen kẽ chủ, khách, xong, nghe chủ quán giới thiệu sơ lược về các món ăn có trong quán, thấy có món cá chúng tôi tò mò xin được xem nguyên liệu chế biến.
Cách cửa của tủ lạnh cấp đông của quán vừa mở, chẳng ai bảo ai tất cả đều ồ lên ! A đây rồi, có đủ cả tôm càng sông, Lăng, Chiên. Dầm xanh, Anh Vũ..
Muốn khoai nhừ thì phải từ từ, các bác hết sức thông cảm.
... "Dầm xanh, Anh Vũ thì vừa có đoàn khách bên Bưu điện lên mua hết rồi, giờ còn lại có mấy con, hơi nhỏ nếu các chú muốn ăn con to thì để mai chị ra bến sông dặn cánh thuyền chài", chị chủ quán người Tày nói.
Nghe nói đến các loại cá quí, bọn giời đầy nhốn nháo:
- "Ở đây có nhiều cá to không hả chị ?
- Nhiều! Anh Vũ thì ít có chứ các loại cá khác thì sẵn, có hôm hội thuyền chài mang lên bán cho chị con cá Quất to tưóng, dài bằng hai cái bàn ăn chập lại (bàn tròn 6 người). Hôm qua ông trưởng công an xã câu được con Sộp 8 kg đấy (lúc mua pin chúng tôi cũng được bà con ở chợ cho biết tin này)".
Thảm nào khúc sông này chúng tôi thấy nhiều dân câu thế. Anh Thi, người quen của Dũng cao Bằng cùng với mấy người bạn ở đây cũng thường xuyên ra sông câu cá. Ở nhà anh, chúng tôi thấy cần câu treo la liệt trên tường.
Bữa rượu bị mấy con cá làm cho phân tán, mọi người nhanh chóng giục chủ quán mang cơm canh ra để kết thúc, chuyển chủ đề sang câu kéo.
Hiếu NK lôi trong túi đồ ra 1 mớ cước, dây cáp, lưỡi... cho mọi người buộc thẻo. Cuộc đi này mà có tay QcQ thì chắc là mọi người đỡ được khâu này. Lão này được tiếng là chăm chỉ và cẩn thận trong khâu chuẩn bị đồ câu cho anh em. Mớ cước lưỡi nói trên là do lão dắt HiếuNK đi mua cho đoàn.
Chuông điện thoại của hầu hết người trong đoàn đều reo vang, tíu tít tiếng hỏi thăm của những người ở nhà không tham dự được chuyến dã ngoại, chả ai bảo ai mà đều có chung 1 tiếng trả lời trong tiếng cười hể hả:
- "Mới được có 4 ,5 con gì đấy thôi , con bé nhất là Chiên hơn 2 kg".
Không khí câu kéo lúc này thật nóng ! Mọi người giục nhau về phòng lấy đồ ra sông câu ngay.
Phó đoàn, kiêm kế toán trưởng Bá Vương lên tiếng chỉ đạo mọi người trong đoàn:
- "Chúng ta câu đêm nay, cả ngày mai và đêm mai ("nhưng đêm nay, thì...tui ngủ", đương sự tự nhủ thầm), sáng ngày kia về sớm nên thời gian câu là rất nhiều. Mọi người nên chia ca ra để đảm bảo sức khoẻ. Ai câu đêm nay thì sáng mai về ngủ để anh em khác ra thay".
Về phòng tôi nói với anh Bá Vương:
- "Em thấy ven đường dọc bờ sông toàn là đất mượn, anh em ta toàn người không có nghề, trời tối mà đi xe ra đó không chịu quan sát vô tình đặt bánh vào đó thì chắc chắn là bị sa lầy, đẩy cứu xe mệt lắm anh ạ. Tay em hơi đau nên cho em trực ca sáng, với lại Hifibone có vẻ ốm nặng lắm để em ở nhà trông nó.. nhỡ nó "đi" ...còn biết giờ báo với gia đình.
- "Ừ, thôi anh cũng ở nhà cho nó lành ,sáng mai dậy sớm ra câu vậy.
- Đúng rồi anh ạ. Sương xuống nhiều thế này anh em mình không có áo mưa ra đó uớt hết. Với lại đoạn này sông hẹp, anh em mình toàn dân thể hình chuyển ngành, trời tối không nhìn thấy gì thế này dễ vụt lưỡi sang bờ bên kia lắm Lưỡi lên bờ không biết ngồi ôm cần cá thì chả thấy đâu, lại lôi chuột với cầy cáo về thì chít (mà quả thật, bạn đọc chờ xem, con gì trên bờ "bị" chúng tôi... câu )".
Thế là chỉ có tôi, Bá Vương và Hùng râu ở nhà trực, tất các anh em khác cùng 2 tài xế là HieuNK và Thắng duyanh cùng đống đồ nghề, lỉnh kỉnh ra sông hạ trại.
Ngồi trong phòng làm ấm trà nóng, loay hoay "setup" đồ cho ngày mai một lúc. Xong, chúng tôi lên giường. Đi xe cả ngày với những đèo dốc quanh co liên tục tài xế Bá Vương là người mệt nhất, chăn ấm chúng tôi ngủ lúc nào không biết.
Câu đêm
... Cơm tối xong, Bá Vương, Đứt phựt, Hùng râu về phòng nghỉ dưỡng sức để hôm sau chiến. Còn lại, mọi người triển khai ra bãi tập kết cách chỗ nghỉ khoảng 2km. Lúc đó khoảng 9 tối, đến bờ sông dưới ánh đèn 2 xe ô tô trước mắt, chúng tôi thấy rất nhiều chài, và lưới của người dân đánh bắt phơi đầy bờ. Anh em bắt đầu chia nhau từng túi mồi và thẻo câu và chia ra thành ba tốp ở khu vực khác nhau. Phía bên bờ bên kia sông là Dũng, Hạnh, Tùng, anh Thi và bác Chủ, các bác này vượt sang bên kia bờ sông nhờ chiếc cầu treo. Bác Tưởng và RnR thì hạ trại cách ở bờ cạnh sườn núi, còn tôi và Thắng duy anh cũng ở bờ sườn núi cách chỗ RnR khoảng 100m.
Tôi và Thắng duyanh đã chọn được vị trí và ra cần bắt đầu câu. Trời vào cuối tháng nên rất tối, sương xuống nhiều và lất phất mưa, nên ánh đèn pin không đủ nhìn ra xa để xác định vị trí ném lưỡi ra câu. Sau khi hai anh em móc mồi ném ra xong, tôi tranh thủ nhâm nhi điếu thuốc cho đỡ lạnh. Thắng tay cầm cần câu, tay cầm chống cần, cặm cụi tìm vị trí đặt cần thì thấy đầu cần giật giật, nghe hơi nặng tay anh ta đóng luôn 1 phát.
- "Anh ơi dính rồi ! Thắng cứ thế kéo vào sau vài giây, thì thấy nhẹ quá.
- Bong rồi anh ơi ! ".
Sau khi cuốn dây lưỡi vào bờ. Thắng bảo :
- "Anh ơi nhìn này giun nát bét. Tiếc quá ! "
Thế là hai anh em tập trung cao độ vào chuyên môn. Nhưng kết quả vẫn không có thêm chuyển biến gì ! Ở bờ bên kia, thỉnh thoảng lại hỏi nhau có kết quả gì không ? Nhưng 2 bên, đều giống nhau cả ! Trời mưa nặng hạt hơn, chúng tôi ới nhau thu dọn đồ về nhà nghỉ. Riêng chỉ có bác Tưởng và RnR là cắm lều ngủ tại bờ sông câu đến sáng. Kết quả cũng chỉ được 1 chú cá chiên mini khoảng bằng ½ cổ tay.
Sáng hôm sau, mọi người ngồi ăn sáng. Tùng Cao bằng kể :
- "Hôm qua trời tối quá em ném mấy lần không xác định được vị trí. Thế là cứ ném bừa ra lại thấy chuẩn, dây và lưỡi không bị trôi tí nào ! Chờ mãi gần 30 phút thì thấy đầu cần giật, thế là phang luôn, kéo vào bờ, lại thấy nhẹ bẫng, em nhấc lên thì dính ngay chú Cóc to vật đã nuốt lưỡi sâu vào bụng. Hoá ra là Tùng ném lưỡi và chì nằm trên tảng đá gần bờ bên kia, gặp ngay chú cóc trời mưa mát lang thang đi tìm bạn".
Kết quả câu buổi tối 20/2. Nhóm RnR được 1 cá chiên nhỏ và Tùng CB được 1 cóc cụ.
Đợt đi tiền trạm này do thời tiết không được thuận lợi, nên kết quả chưa được như mong muốn. Anh em Cao bằng hẹn thời điểm cuối tuần trong tháng 3 tới, nếu mà thời tiết thuận lợi, thì alô anh em Hà nội lên chiến luôn.
Sáng dậy Bá Vương chạy ra sân ngó nghiêng một lúc, rồi chạy về phòng cười khặc khặc, xem có vẻ rất tự mãn :
- "Mọi người về ngủ hết rồi, không biết có được cá không ? Xung quanh xe chi chít vết tay, chắc chắn là hôm qua đội này bị sa lầy rồi, phê thế ! Chú dutluc "dự" thế mà chuẩn. Dutluc tôi chợt thốt lên câu nói từ hôm tiễn ông Táo về trời: "mình phục mình quá" !
Lục tục pha nuớc chè, một lúc sau thì bác Tự bạn bác Tưởng chạy sang tham gia. Hàn huyên một lúc chúng tôi chợt nhớ đến bác Tùng Rùa, tiếc cho bác là vừa rồi về nước được mấy tháng nhưng chưa được tham gia câu dã ngoại với anh em bữa nào. Đau thế !
Anh em chiến đêm về mới ngủ ở các phòng bên được 1 lát, nhưng thấy động cũng lần lượt dậy hết. Đánh răng, rửa mặt xong, chúng tôi hè nhau đi ăn sáng. Phở Gà ăn cũng tạm được, gà chạy bộ thơm ngon thật ! Thị xã Bắc Lâm buổi sáng sớm chìm trong màn sương mù bảng lảng.
Thị trấn Bảo Lâm trải dài theo quốc lộ 34, đây là nơi duy nhất của tỉnh Cao Bằng không bị tấn công trong cuộc chiến tranh Việt-Trung 1979. Từng nghe nói đoạn sông từ Bảo Lâm đến Bắc Mê (Hà Giang) có phong cảnh đẹp lắm, nay tôi được tận mắt chiêm ngưỡng, nơi đây quả thật là sơn thuỷ hữu tình.
Lượn sát chân dãy núi đá vôi dựng đứng, dòng sông Gâm trong xanh chảy xiết, khoét vào các vách núi đã tạo nên các hang hốc ngầm, nhiều rong rêu, là nguồn thức ăn, là nơi trú ngụ của các loại cá quí hiếm như : Sộp, Quất, Lăng, Chiên, Dầm xanh, Anh Vũ...
Chúng tôi chọn một điểm câu bên một gốc sung cổ thụ ngả bóng xuống lòng sông, đối diện với một hốc ngầm dưới chân 1 vách núi dựng đứng.
Cả nhóm vừa mới ra cần bác Chủ SKHDT đã dính ngay được 1 em cá Quất trên 2 kg. Vốn là một tay câu đầu cành vi diệu, nhưng từ hồi quen biết với Hiếu NK bên Cọ Xanh thì bị lây nhiễm thú săn hàng "oánh xa bờ" của tay câu này. Bác chuyển sang đầu tư trang bị đồ khủng, gặp cá từ 3 > 5kg bác lôi 1 mạch lên bờ ngay. Thấy bác Chủ kéo cá, bác Bá Vương bỏ cần chạy vội lại chụp ảnh lấy hên. Nào ngờ, mới kịp giơ máy ảnh lên thì con cá Quất to tướng, mồm rộng cứ như bát ăn cơm của bác Chủ thu hết sức tàn vùng thoát mất. Thôi bong mất rồi !
Mất cá, cả đoàn câu trầm ngâm. Hình như con cá chạy thoát đã về báo hiệu cho đồng loại sơ tán xa khỏi khu vực buông câu của đoàn, dự báo trước một buổi câu không trọn vẹn. Tiếp theo đó, Hùng râu cũng lên được 1 con cá Chiên nhỏ chừng vài lạng rồi cũng ngồi ngoan cùng với mọi người. Các loại mồi ngon mang từ Hà Nội lên, từ Cao Bằng xuống, lần lượt được các cần thủ nhà ta mang ra thử nghiệm hết nhưng đều thất bại. Tội nhất là bác Nam RnR, có mớ mồi gián đất đặc chủng mà cứ giấu anh em, kiên trì ngồi ôm cần suốt từ tối hôm trước, ngồi câu mê mệt, bỏ cả ăn sáng, thế mà cũng chả được gì, thương thế !
Có gió mùa về ! Đàn khỉ bên vách đá đối diện nháo nhác gọi nhau về tổ, chuyển mình trên ngọn cây ào ào. Thỉnh thoảng, có vài chiếc thuyền độc mộc chở 2 người, chế tạo bằng vài ba cây nứa ghép lại chạy qua, chạy lại, quăng chài. Là công việc mưu sinh nên họ cũng rất nhẫn nại, nhưng thời tiết xấu, cũng đành phải... bó tay !
Chiều rồi ! Nhổ trại về thôi... Chúng ta về Cao Bằng sau đó ngược về đường Lạng Sơn câu cá ở sông Kỳ Cùng vậy.
- Hẹn Bảo lâm-Bắc Mê một ngày gần đây nhé.
Note: Hôm sau , khi đoàn về đến HN, anh Thi và Anh Đức câu được 1 con cá Sộp nặng 12 kg. Cá đi ăn ! thợ chài lưới và thợ câu trên đó ngồi giăng kín cả khúc sông, nơi chúng tôi từng đến.
Tuổi thơ tôi và chuyện kiếm cá
Tôi sinh ra ở một làng nhỏ nằm giữa hai dòng sông: Sông Nhuệ và Sông Đáy. Nghe cha tôi nói không biết từ đời nào người thiên hạ đã gọi cái làng nhỏ của tôi là làng Bặt. Nghĩa của từ Bặt là gì tôi chẳng rõ, mà cũng chẳng hiểu nguyên do từ đâu mà họ lại đặt tên cho làng tôi là vậy.
Chỉ biết rằng gọi thế mãi rồi cũng quen. Làng tôi có nghề tổ gia truyền là làm bún. Cái nghề tổ ấy đã phát tán dân làng đi tứ xứ khắp miền : Hà nội, Hải phòng, Nha trang và nghe nói ở thành phố Hồ Chí Minh dân làm bún ở quận Phú nhuận đều là dân làng Bặt cả.
Dân làng tôi tự hào về truyền thống của làng lắm, xưa kia chỉ có vài chục nóc nhà vậy mà có đến mấy người thành đạt vang danh khắp thiên hạ. Đó là danh nhân tiến sỹ Nguyễn thượng Hiền mà tên tuổi còn ghi trên bia đá trong Quốc tử giám, hay Quan thượng thư bộ lại Bùi bằng Đoàn thời Bảo đại mà Hồ chủ Tịch thường viết thư trao đổi và sau này ông là chủ tịch quốc hội đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoà.
Những năm 60-70, đời sống kinh tế rất khó khăn, người dân làng tôi làm đủ nghề để kiếm sống. Cha mẹ tôi cũng lăn lộn, vất vả khặp nơi mà cũng chẳng đủ ăn. Tôi vẫn còn nhớ mãi cảm giác lo sợ khi thò tay vào chum đựng thóc của nhà khoắng mãi mà tay không chạm phải vật gì trong lúc ngoài sân vẫn còn phơi rơm mới. Mấy anh em tôi biết cái đói đang chờ, cái thiếu đang tới đành tìm cách giúp cha mẹ bằng trí tuệ và sức lực của mình. Nhưng làm gì, làm thế nào thì anh em tôi cũng bí lắm, suy nghĩ mãi anh em tôi quyết định chọn “nghề” : Mò cua bắt cá để giúp cha mẹ và cũng là để tự cứu mình. Và thế là mọi thứ bắt đầu từ đây.
a đình tôi có ba anh em trai và ba chị em gái, trong đó chỉ có tôi và ông anh kề trên là ham thích kiếm cá. Thời đó cá ở ngoài đồng nhiều vô kể, nhưng không phải vì thế mà ai cũng bắt được. Trong làng tôi nổi lên những “Danh thủ” kỳ cựu như : Thảo Giót chuyên bắt cá lóc đẻ; Lực Ba phỉ chuyên bắt cá ngủ; Bình Tài Đức, Phương Phú, Dũng Chắt (những từ đi sau tên các danh thủ là tên bố của họ mà dân làng thường goi theo) chuyên đánh rọ rô đồng. Anh em tôi bắt đầu vào nghề bằng cách xem xét, dò hỏi và thậm chí còn rình xem họ làm thế nào để bắt chước.
Ở miền bắc, khi tiết trời đang xuân, hoa xoan đang nở rộ báo hiệu những trận mưa rào đầu mùa sắp tới. Đó là vào khoảng tháng ba âm lịch. Thời kỳ này các loại cá Rô; Trê; Chuối ( Lóc) và cả Lươn cùng Trạch mang đầy bụng trứng và chỉ chờ có mưa thì thi nhau tìm nguồn nước chảy để sinh sản. Những người già có kinh nghiệm cứ nghe tiếng sấm rền và nhìn bong bóng nước khi trời bắt đầu mưa là biết lượng mưa đến đâu. Những trận mưa lớn là cơ hội cho lũ trẻ chúng tôi đi bắt cá. Nào Nơm, nào Đó chúng tôi mang ra cánh đồng cứ tìm được nguồn nước chảy là đơm đó bắt tất cả các loại cá đi qua chỗ nước chảy. Nhiều nhất là Trạch và lươn. Còn khu cánh đồng cạnh làng thì cứ úp Nơm xuống chỗ có nước chảy cũng phải tóm được gần chục chú Rô cụ. Cá Rô là loài leo trèo rất giỏi, chúng có thể leo vượt qua bất kỳ địa hình nào và cũng chính vì thế mà có khi chúng leo từ các ao hồ vào tận sân nhà bạn. Ở các địa hình phức tạp chúng thường dùng hai mang ở hai bên để lạch và cá Rô chỉ chịu dừng lại tại các bờ đất sét trơn nhẵn có bờ thảnh đứng gần 90 độ.
Dựa vào đặc tính này chúng tôi thường làm các hố nhỏ được bôi trơn bằng cách dùng tay miết bùn sét gần chỗ có nước chảy để cá Rô sa vào thì không lên được. Thưòng thì tại chỗ có nước chảy, cứ một con cá Rô cái bao giờ cũng có đến gần chục con Rô đực đi cùng. Rô cái có thân mình to bản hơn Rô đực. Còn Rô đực thì thân tròn lẳn, mình dài và thon.
Vào khoảng tháng 4 tháng 5 âm lịch, nước trong các ruộng ở ngoài các cánh đồng rút dần. Cá Rô cùng các loài cá khác cũng theo nước tụt xuống các ruộng sâu. Thời tiết mùa này ở ngoài bắc bắt đầu nóng. Trên các thửa ruộng cao ta có thể tìm các vũng nước nhỏ mà ở đó lấy tay vốc được hàng vốc cá Rô con. Chúng to bằng hạt bưởi. Có thể nói cứ sau mùa sinh sản thì cá Rô có mặt ở khắp mọi nơi và nhiều vô kể.
Sau vụ gặt chiêm, người nông dân bắt đầu cho nước vào đồng để chuẩn bị làm mùa. Có nước mới cùng với nguồn thức ăn dồi dào nên cá Rô lớn nhanh như thổi. Chỉ vào khoảng cuối tháng 6 đầu tháng 7, khi lúa vụ mùa đã bén chân và xanh mướt cả cánh đồng thì đàn Rô ron hạt bưởi ngày nào đã là các chú Rô trưởng thành. Và đấy là mùa đánh Rọ cá Rô. Việc xác định các nơi có nhiều cá Rô rất dễ dàng. Chúng tôi chỉ cần đi trên các bở ruộng, nhìn nước, nếu nước trong ruộng cá màu lờ lờ kiều nước lòng Trai là chắc chắn ruộng đó nhiều cá Rô. Còn nếu ruộng nước sâu thì nước trong là được. Đánh Rọ cá Rô không nên đăt rọ ở nơi nước đục, vì ở nơi này cá Rô khó phát hiện ra mồi. Nơi đặt rọ lý tưởng nhất là nơi có nguồn nước chảy, nhưng cần lưu ý rằng nên đặt rọ cách ngọn nước chảy từ 1 mét đến 2,5 mét là thích hợp nhất, vì nếu để rọ chính vào giữa nguồn nước thì nước chảy sẽ làm mồi tung ra khỏi vị trí và như thế ta chỉ nuôi cá mà không bắt được chúng.
Như đã nói ở trên, vì là mới bắt đầu nên anh em chúng tôi lân la đến các cao thủ trong làng xem họ làm thế nào để học mót từ họ. Đầu tiên là việc đan rọ. Việc đan một cái rọ không khó chút nào, song để đan được một cái rọ thật đẹp,thật sáng thì không phải dễ.
Rọ cá Rô có hai phần chính:
Thân rọ và hom rọ. Thân rọ được đan bằng hai loại nan : Nan chính gọi là nan rọ ; nan vòng thường được gọi là nan vanh. Nan chính có độ dài tuỳ thuộc vào độ sâu của ruộng nước nơi ta định đặt rọ. Bản của nan chính khoảng 5-6 mm, nó được vót hơi nhọn về phía trên, độ dày của nan rọ chừng 2 mm sao cho khi đan thành rọ cá không thể lách qua nan ra ngoài. Nan rọ được làm bằng tre hay trúc, mai, vầu đều được, không cần lấy nan cật mà chẻ nghiêng. Nan vanh được chẻ dài, vót tròn, như cây tăm tre to là được. Nan vanh yêu cầu phải rẻo.
Rọ được đan theo kiểu đan nong ba tức là dùng ba nan vanh để kết nan chính. Đầu tiên ngưởi ta đan vòng chân rọ (lấy đầu to nan chính làm mốc thì vòng vanh đầu tiên cách đầu to nan chính khoảng 6-7cm). Dùng ba nan vanh kết khoảng 30 nan chính sao cho nan chính cách nhau đều mà khi ta đưa bàn tay nghiêng qua khe thì đầu các ngón tay không qua được. Khi số nan chính được khoảng 30 nan thì ta kết nan đầu tiên và nan cuối cùng tạo thành vòng có đường kính trên dưới 20 cm là được. sau đó đang thêm một hai vòng vanh nữa cho cứng phần chân rọ.
Phần thân rọ ta chỉ dùng nan vanh đan kết như phần chân rọ. Vòng vanh này cách vòng vanh chân rọ khoảng25-cm. Hai vòng vanh tạo cho các nan chính thẳng và cho ta một hình trụ có hai vòng vanh với đường kính bằng nhau. Nếu nan chính còn dài ta đan vanh tiếp nhưng chú ý rằng vòng vanh trên cùng sẽ thu nhỏ lại để ta dùng lạt buộc phần trên cùng cho dễ dàng. Một sự hình dung dễ cho các bạn là chiếc rọ khi đan xong chưa có hom thì giống như chiếc nơm úp cá nhỏ, chỉ khác là phần trên của rọ không để cầm tay như nơm mà buộc túm các đầu nan lạ với nhau.
Đan hom rọ bắt đầu từ việc chuẩn bị nan. Hom rọ có ba loại nan: nan cái; nan hom và nan vanh. Nan hom có bản to khoảnh 2-2,5 mm được vót nhọn nhỏ dần về một đầu. Độ dày của nan hom khoảng 7-8 rem. Nan cái là một nan to bằng nan rọ, rẻo để uốn thành vòng. Nan cái uồn thành vòng tròn có đường kính sao cho vừa khít với vòng vanh chân rọ. Nan vanh của hom rọ to bằng nửa nan vanh của rọ. Cách làm hom rất đơn giản, ta lấy nan cái tạo thành vòng tròn, sau đó lấy nan hom để phần nhọn lên trên. Độ dài phần nan hom đến điển tiếp xúc với nan cái (tính từ đầu nhọn nan hom) là khoảng 14-15cm, ta vặn nan hom rồi gấp vào trong nan cái, vòng lại bao quanh một vòng nan hom nơi giao cát với nan cái và áp phần thừa của nan vào sát nan cái để vặn nan hom tiếp theo. Nan hom cách nhau khoảng 1-1,4cm. Sau khi đã vặn đủ nan hom trên nan cái ta dùng nan vanh đan kết các nan hom lại. Cách đan nan vanh cho hom theo kiểu nong đôi. các vòng nan vanh thu ngay từ vòng đầu tiên sao cho tạo được lỗ hom có đường kính khoảng 1cm là được. Tra hom vào rọ ta được một ro cá Rô hoàn chỉnh. Việc cuối cùng là tạo cửa cho rọ : ta chỉ cần bẻ gãy và bỏ đi phần chân hai nan chính sát tới vòng vanh là được.
Sau khi đã biết đan và đan được rọ rồi nhưng anh em tôi không biết đặt rọ thế nào để bắt cá, vậy là tôi đành lén theo dõi xem các cao thủ trong làng đặt rọ ở đâu, xác định chính xác vị trí rồi chờ đến khi trời tối mò ra đồng để xem. Tôi chọn rọ của hai anh em nhà Phương Phú để học bởi trong làng này thì hai anh em họ có năng xuất cá cao hơn cả. Men theo bờ lúa tôi tìm thấy rọ của họ, tôi sờ khắp xung quanh, quan sát và thế là mọi cách thức đặt rọ cũng được tổng kết nhanh chóng: Mồi đánh rọ bằng thóc khô chắc quả; Thóc được bỏ vào một hố khoét rộng bằng cái bát ăn cơm trên mặt ruộng rồi cắm rọ lên trên (yêu cầu là thóc bỏ gọn vào trong không vương vãi ra ngoài). Phía cửa của rọ được cắm hếch lên và tạo một đường đủ để cá Rô vào được bên trong ăn thóc. Tôi cứ nghĩ mông lung rằng sao họ lại đặt rọ như vậy mà bắt được cá nhỉ vì mồi thì nằm ngoài hom rọ cơ mà ? Sau này tôi mới hiểu rằng cá Rô là loài cần thở trên mặt nước, chúng cứ ăn được một lúc là vội bơi lên măt nước hit thở khí trời nên khi chúng phát hiện ra lúa, chúng lách vào gầm rọ ăn và vội bơi thẳng lên qua hom rọ rồi tự nhốt mình ở đó. Cũng chính vì thế nếu ta đặt rọ ngập hết dưới nước thì hôm sau ta chỉ bắt được toàn cá chết thôi.
Có rọ ; biết cách đặt anh em tôi bắt đầu thử nghiệm. Số rọ đầu tay của anh em tôi thử nghiệm là 05 cái. Sợ người ta biết, anh em tôi chờ cho trời tối mới đem ra đặt, sau 24 giờ chúng tôi rất hồi hộp thăm rọ để bắt cá thì ôi thôi trong các rọ chỉ được có vài con cá còn toàn cua. Bọn cua vào thì cả Rô bị chết và cua đã móc tất cả mắt cá để ăn trước. Chúng tôi buồn lắm vì không hiểu vì sao lại thế. Sau này khi tìm hiểu kỹ tôi mới biết sai lầm lớn nhất của anh em tôi khi đan những chiếc rọ đầu tiên là đã làm nan bằng tre tươi. Đây là điều cấm kỵ, vì tre tươi xuống nước dễ gây thối do đó cua vào nhiều cá chẳng dám đến ăn. Nan rọ phải làm bằng tre khô bánh tẻ thì mới tốt.
Anh em tôi sau khi tìm hiểu ra sự cố rút kinh nghiệm và kết qua lần thử nghiệm sau thật tuyệt vời: Với 7 cái rọ đầu tiên chúng tôi đã có gần 5kg Rô đồng, con nào con ấy đen trũi , đầu chúng do đâm vào nan nhiều lần để tìm lối ra nên tất thảy đều đỏ và bật hết da. Từ những bài học đầu tiên anh em tôi đã phát triển số rọ của mình lên trên ba chục cái và hàng ngày chúng tôi khiêng về gần hai chục cân cá để đi chợ bán. Cảnh nhà tôi cũng đỡ phần nào. Nhiều năm sau anh em tôi tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm và được xếp vào loại top-ten trong làng đánh rọ Rô.
Có một kỷ niệm không bao giờ tôi quên được đó là mùa lụt năm 1971, cánh đồng làng tôi trắng nước. Chỗ nào nước cũng sâu nên rọ đan cái nào cũng dài gần một mét (5 đai). Chúng tôi đi đánh rọ mà lúc nào cũng lội ngập quá bụng. Tôi đặt một cái rọ gần bờ chuôm (Gần như cái ao nhưng ở giữa cánh đồng). Hôm sau đến thăm thì thấy bọt trắng xoá cả vùng xung quanh rọ. Tôi sờ vào gậm thấy không còn hạt thóc nào liền nhấc rọ lên. Các bạn có tưởng tượng không ? Có thể nói nước đến đâu thì cá đầy đến đó. Tôi ước đến chục kg. Vui sướng quá tôi thu cá và đặt lại chính chỗ cũ nhưng hôm sau thì thóc cũng hết mà cá thì không có con nào. Tôi đem băn khoăn của mình nói với cha tôi. Cha tôi cười và nói rằng có thể cá nó biết đấy; hôm qua con được nhiều nhưng đó là Rô nhỡ, có thể hôm nay cá Rô cụ nó vào, nó dài hơi hơn nên đủ sức lấy thóc ra ngoài mới thở. Cha tôi bảo nên treo rọ lên không cắm xuống bùn nữa để chúng vào ăn không thấy chạm nan rọ sẽ bình tĩnh ăn đến lúc hết hơi là lên thẳng. Tôi làm như cha tôi nói, treo rọ cách mặt đất gần 10 cm, quả nhiên hôm sau tôi bắt được gần 40 cụ rô. Phải nói là chúng to đến nỗi lần đó tôi mới được thấy và cho đến hôm nay vẫn chưa gặp lại chú Rô nào như thế cả !
Đánh rọ Rô nhiều kỹ thuật tưởng chừng đơn giản nhưng không biết thì năng xuất cũng giảm đáng kể ví như : Cửa rọ nên để theo hai hướng : Đông nếu thăm rọ vào buổi chiều; Tây nếu thăm rọ vào buổi sáng. Để như vậy thì khi sáng hay chiều ta chưa thăm rọ, nước tĩnh, ánh sáng chiếu thẳng vào cửa rọ, cá dễ nhận thấy mồi. Một kinh nghiệm khác là khi ta làm lầu để bỏ thóc vào đó ta nên chờ nước chỗ đó trong lại hãy bỏ thóc vào vì nếu như ta bỏ thóc trước khi nước trong thì bùn trong nước lắng sẽ phủ lên trên mồi làm cá khó thấy thóc và bạn nên nhớ một điều cấm kỵ rằng : Không nên nhấc rọ lên xem cá rồi lại cắm xuống vì nếu làm như vậy dù là cá có đầy trong rọ đi nữa thì chỉ trong chốc lát bạn quay lại nhấc lên sẽ thấy không còn một con nào. Thế mới biết cá Rô tinh ranh đến mức khó tưởng.
Ngày ấy kiếm được cá dễ lắm nên bán cá thì lại khó vô cùng. Cá rẻ như bèo, cá ăn thay gạo- đó là sự thật. Hàng ngày cứ sáng sáng tôi lại cho hai chậu cá (Tôi thường cho vào chậu Liên xô 25 đồng) vào quang để quẩy ra chợ bán. Người đi chợ mua cá đều là loại sành sỏi về giá, họ mặc cả rất lâu rồi chon rặt những con to để bắt. Tôi thường bán theo chục, cứ một đồng một chục con nhưng đến gần cuối buổi là trong chậu của tôi còn toàn con bé nên lại phải hạ giá. Sau này tôi láu cá hơn, tôi đổ nước vào chậu sắp sắp bằng mặt cá, thế là con cá Rô to liền chui luồn xuống dưới, cá nhỏ ở trên, người mua muốn bắt cá to thì phải tự bới lên, mà bới bằng tay là bị chúng thách vào tay đau tới tận nách, liền bắt đại đi cho đủ. Với chiến thuật này tôi cũng đỡ hơn về cuối buổi chơ.
Nhiều năm đã qua đi, nay về làng thì chẳng có ai đánh rọ cá Rô nữa bởi ngoài đồng đâu có còn cá. Tôi chạnh lòng ao ước : Bao giờ môi trường trỏ lạ ngày xưa?
Câu ếch
: Khi tôi còn nhỏ,cũng như lũ trẻ khác trong làng , chúng tôi tìm đủ trò nghịch ngợm. Thi thoảng lại rủ nhau hét vang các đoạn hát đồng giao:
Tráng kều đi câu ếch,
chân thấp chân cao,
ngã xuống bờ ao.
.
Để trêu nhà một đứa bạn vì bố nó tập tễnh. Thật là một trò nghịch ngợm vô ý thức nhưng lũ trẻ chúng tôi đâu có hiểu mà cứ ngây thơ, tự nhiên khi bạn tôi thì nước mắt tràn đầy tức tưởi. Ngày đó chúng tôi hay làm cần câu bằng các đoạn tay tre nhỏ, buộc vào đó bằng sợi chỉ khâu và rồi ăn trộm của U cái kim làm lưỡi (kim ngày đó bán phân phối mỗi nhà đâu đó mấy chiếc). Nung đỏ kim khâu lên rồi uốn cong nó thành cái lưỡi câu, cứ như thế chúng tôi mắc mồi bằng các loại hoa nhỏ để câu nhái bên các bờ ao. Nhái nhiều vô kể, cái hoa nhỏ mắc trên lưỡi chỉ cần động đậy trước bụi cỏ là có nhái ra đớp liền. Chúng tôi câu để nghịch và cứ câu được là lại hét vang cả xóm. Câu được nhiều thì mang về nhà một đứa, tập hợp đàn gà nhà nó và tạo ra cuộc thi bắt nhái cho bọn gà. Giữa một cái sân trị chúng tôi thả từng con nhái cho chúng chạy và bọn gà đuổi theo bắt, bọn gà trống bao giờ cũng nhanh nhât, chúng lao theo và mổ rất chính xác. Mỗi khi con nhái bị bắt chúng thường kêu lên là bọn trẻ chúng tôi lại hò reo đến khản cả cổ.
Những năm giặc Mỹ đánh phá miền Bắc. Người Hà nội sơ tán về quê tôi đông lắm, hầu như nhà nào cũng có người sơ tán ở nhờ. Lũ trẻ chúng tôi có dịp làm quen với các bạn mới ở Thủ đô. Ở nhà nhà Bác tôi có một gia đình người làng Khương thượng, gần Ngã tư sở bây giờ. Gia đình ông bà ấy có cái tên rất tiết kiệm : Ông bà Chút. Ông bà về ở quê tôi mang theo cả nghề nổi tiếng của làng Khương thượng : Nghề làm chả nhái. Thú thực lúc đầu tôi chẳng dám ăn vì chưa ăn bao giờ, nhưng sau một lần nhắm mắt ăn thử thấy ngon thế là đâm nghiện. Riêng cha tôi không bao giờ đụng đến thứ ấy trong khi ếch thì cụ chẳng bảo tôi vứt đi bao giờ. Do có người làm chả nên chúng tôi trở thành người bán nguyên liệu cho gia đình bà Chút.
Hàng ngày, ngoài giờ đi học là chúng tôi đi câu nhái khắp cánh đồng. Câu bằng lưỡi câu thì lích kích, mất thời gian và hiệu quả thấp nên lũ trẻ chúng tôi làm một cái vợt bằng một cái ống quần dài cũ, một đầu khâu kín, đầu còn lại luồn sợi thép cứng tạo hình tròn thành miệng vợt. Cần câu khoảng 1,2m, dùng một đoạn chỉ khâu, không dùng lưỡi mà buộc một ít da nhái làm mồi. Khi câu chỉ cần nhái ngậm vào mồi là chúng tôi nhấc mạnh làm chúng bay bổng lên, tay còn lai liền đưa vợt ra hứng vậy là chú nhái đã nằm gọn trong vợt. Câu được nhái rồi về nhà còn phải cho tro bếp vào cho chúng ra hết nhớt, chặt đầu, lột da, bỏ ruột rồi rửa sạch mới đem đến bán được cho Bà Chút với giá 1 đồng hai một kg. Kỳ công lắm các bạn ạ, nhưng phải nói rằng tiền lúc đó hiếm như lông Lươn nên chúng tôi quý vô cùng, chả gì cũng mua được ba tập giấy viết đấy, trong khi mẹ tôi đi chợ cả ngày có khi chỉ được hai đồng. Bây giờ nếu ai có dịp đến Hà nội, về phố Khương thượng vẫn được thưởng thức chả nhái đặc sản của vùng này. Suy ra là ngày xưa chúng tôi toàn ăn đặc sản mà đâu có biết mình ăn sang trọng thế.
Nhà tôi có một cái ao nhỏ khoảng gần một sào bắc bộ. Ao nhà tôi giáp với cánh đồng của làng, trên bờ có nhiều bụi cây rậm rạp lắm. Đó cũng là nơi lý tưởng cho các loài ếch; Nhái rồi cả Rắn sinh sống. Những tối đi nhận lúa của Hợp tác xã về phơi, nếu không có đèn thì sợ sởn gai ốc khi đi qua lối mòn cạnh rặng tre bờ ao. Thi thoảng chúng tôi vẫn thấy những chú Cạp nong khúc vàng khúc trắng nằm ngang lối đi săn mồi. Khoảng tháng 4 âm lịch trở đi, mặt ao đã được phủ kín bèo cái thì tôi thấy ngày nào cũng có vài ông trạc tuổi tứ tuần vác cần cùng một cái giỏ đến khắp các ao làng tôi câu ếch. Đồ nghề của họ rất giống nhau: Một đoạn ngọn tre đã được uốn nắn rất kỳ công, rồi gác trên gác bếp đen óng; Một bát cuộn cước bằng gỗ ; Một giỏ nhỏ đựng vài con nhái nhỏ ; Một giỏ lớn để đựng kết quả và bên cạnh gài vài bông hoa nhử ếch tự làm từ lá cây khoai nước màu vàng mà mọi người vẫn lầm tưởng là hoa mướp. Tôi rất thích xem họ câu nhưng tất thảy các ông thợ câu thì chẳng bao giờ muốn lũ trẻ chúng tôi lại gần nên chỉ đứng từ xa quan sát. Duy có một lần có một ông đến câu tại ao nhà tôi, lấy thế “ Chủ nhà” tôi mới tiếp cận sát ông ta được nhưng với điều kiện phải đứng im và không được nhúc nhích nếu có ếch đang đuổi hoa.
Tôi quan sát cách câu của ông thợ câu ếch mãi và tình nguyện mang vác đồ của ông, rồi làm hoa tiêu chỉ điểm các ao trong làng để được đi theo gần trọn buổi sáng với mục đích học lỏm. Ao nhiều ếch nhất trong làng là các ao nhà Ông Tống; ao nhà bà Chủ máy; Ao Nông dân... Tất cả những gì quan sát được tôi định bụng làm thử xem sao và sau đó vài năm tôi mới có điều kiện thử nghiệm, song chỉ là thử nghiệm để kiếm thức ăn khi cần chứ đi câu như các thợ câu ếch mà gặp bạn đồng lứa cùng học thì xáu hổ lắm.
Trước khi nới về cách thức câu ếch tôi xin nói qua về đặc tính của chúng để các bạn cùng tham khảo. Dĩ nhiên đây là từ những hiểu biết thực tế của cá nhân và qua một số tài liệu mà sau này tôi có dịp đọc qua. Ếch là loài có khả năng sống thích ứng với mọi địa hình và thời tiết khác nhau. Chúng có rất nhiều phân nhánh tuỳ thuộc vào khí hậu và điều kiện sống. Có những loài ếch ở Liên xô ( Vùng XIBERI) nặng đến vài chục cân một con, nhưng ở Việt nam ta hình như có hai loài (có thể có nhiều hơn mà tôi không biết): ếch da nâu và ếch cốm. Êch da nâu là con ếch ta thường thấy còn ếch cốm có da màu hơi xanh, thân mình nhỏ hơn ếch da nâu một chút.
Tất cả các dòng họ nhà ếch đều thích bắt mồi khi thấy con mồi động, và ít thấy chúng bắt mồi tĩnh. Màu sắc hấp dẫn loài ếch là màu vàng nên khi câu ếch người ta thường dùng một loại hoa màu vàng để dụ ếch ra khỏi nơi trú ẩn của chúng. Ở miền Bắc ếch thường sinh sản vào dịp mưa rào đầu mùa (tháng 3 âm lịch). Những năm 60-70 người dân quê tôi thường tích luỹ những chiếc lốp xe đạp cũ, (không thể đi được sau khi đã dùng mọi biện pháp như băng bó, nối tanh) để làm đuốc bắt ếch sau các trận mưa rào đàu tiên. Loài ếch sinh sản rất tập trung, thường chỉ ở một vài trận mưa đầu tiên còn sau đó dẫu có mưa lớn đến đâu thì cũng rất khó bắt chúng. Sau trận mưa rào đầu mùa, mới chập tối mà cả cánh đồng tiếng ếch đã vang lên rộn rã. Chúng gọi nhau nhưng vừa ra khỏi chỗ trú ẩn và nếu đi soi đuốc bắt chúng ngay thì vẫn khó vì lúc này chúng chỉ có một mình, vẫn rất thính và tinh nhanh. Thời kỳ này đang là kỳ làm màu của người nông dân. Hầu hết các ruộng đều khô vậy mà không hiểu ếch từ đâu mà ra nhiều thế ? Khoảng sau 9 giờ tối, sau mưa các bạn đi soi ếch thì việc bắt chúng rất dễ dàng. Tại các ruộng có ít nước mưa các bạn cứ nghe tiếng ếch là đi về hướng đó sẽ thấy chúng. Lúc này chúng không còn đơn lẻ nữa mà đang chìm đắm trong men say của tình yêu. Bạn có thể từ từ cầm tay vào lưng cả đôi. Chúng không thèm phản ứng gì song chú ý rằng phải cầm sâu tay thì mới tóm được cả hai con trong đó con bên dưới rất to. Chỉ sáng hôm sau đi bất kỳ chỗ nào trên cánh đồng ta đều có thể nhìn thấy những đám trứng ếch đen nổi trên mặt ruộng. Trong vòng chục ngày trở lại trứng ếch nở thành nòng nọc sống trong nước và sau đó ít lâu nòng nọc rụng đuôi rồi bò lên bờ để bắt đầu cuộc sống của loài ếch trên cạn.
Sau tháng 3 âm lịch loài éch bị gầy đi qua mùa sinh sản nên bắt đầu chúng đi săn mồi để bù lại phần dinh dưỡng của cơ thể đã mất. Lúc này người thợ câu ếch mới bắt đầu chuẩn bị đồ nghề để lên đường. Thời gian thích hợp nhất cho chuyện câu là từ khoảng giữa tháng 4 đến tháng 10 âm lịch. Sau tháng 10 ếch lại làm tổ, tạo mà ( Mà ếch là nơi ếch làm trong đất như một cái hang rất nông để trú) nằm im suốt mùa đông chờ đến tháng ba sang năm lại bắt đầu vòng sinh sản mới.
Lần đầu tiên tôi chuẩn bị đồ đi câu ếch, thấy tôi say sưa cuộn cước vào ống bơ ( Vì không xin được tiền của U) cha tôi nói đùa :
-
Mày chắc chỉ câu được ếch trong xoong thôi!
Vâng ! câu ếch trong xong như cha tôi nói thì tôi đã rất sành với các món : êch sào mướp (nhất là có mướp hương); ếch nấu mẻ; ếch sào măng. Những món này khi tôi còn nhỏ đã nhiều lần vào bếp nấu để cha tôi uống rươu. Sau này khi ếch đã là món đặc sản thì tôi còn được biết thêm món ếch rán; lẩu ếch.. nổi tiếng tại các quán ếch ở Hải phòng. Đúng là nói thì dễ còn khi làm thì mới thấy khó, tôi đi câu ếch lần đầu do không biết vút mỗi ra xa nên cả buổi chỉ toàn bị xổ dây; vướng và mắc lưỡi. Nhưng để cha tôi không cười và trêu tôi nên tôi quyết định mắc nhái vào lưỡi câu và nhử thẳng vào các bụi rậm sát bờ ao. May thay, cũng có ếch ra cắn câu và buổi đầu đó cũng được vài chú. Tôi hiên ngang bước về và cố tình để cha tôi biết rằng cụ đã đánh giá nhầm con trai cụ. Lần ấy cha tôi chỉ cười và nói :
- Mấy con ếch con câu hôm nay chắc nó bị dị tật ở mắt hoặc ở đầu đấy!
Tôi biết ông cụ nói đùa yêu nên rất vui. Về sau, chính cha tôi hướng dẫn cho tôi cách đan và đánh rọ ếch mà tôi sẽ đề cập ở phần cuói của câu chuyện này.
Bây giờ chúng ta cùng trở lại việc chuẩn bị cho chuyến câu ếch : Lưỡi câu ếch chính là lưỡi câu cá Quả (cá Lóc). Mồi câu Nhử ếch làm bằng lá cây khoai nước đã úa vàng. Ta chọn tàu lá khoai nước (* Có nơi gọi là khoai ngứa) vừa phải, màu trên mặt lá đã vàng nhưng xương lá còn cứng. Dùng tay tỉa hình con bướm (như hình trong ảnh), gấp phần bẹ của tàu lá khoai làm bệ đỡ ta có một mồi nhử ếch. Mắc con nhái nhỏ vào lưỡi câu, đầu lưỡi câu cắm vào bẹ dọc khoai của mồi nhử, kéo đây câu cho căng dọc theo mổi nhử và thắt thòng lọng vào đầu trên của hoa là ta có thể hoàn thành việc chuẩn bị mồi. Bây giờ ta chỉ còn việc chọn địa điểm. Ta nên chọn những ao có nhiều bèo cái hoặc nơi có nhiều bè rau muống là thích hợp cho kiểu câu này.
Vút mồi nhử ra xa, kéo lại từ từ cùng với rung nhẹ đầu cần sao cho bông hoa vàng của ta vẫy hai cánh như cánh bướm trên mặt bèo. ếch trong hang ở bờ đối diện nhìn thấy sẽ trưỡn xuống, có nhiều con thường thò đầu nằm trên mặt bèo sẽ đuổi theo mồi nhử. Lần vút hoa sau ta nên vút mồi nhử rơi trước măt ếch khoảng 2-3m. ếch nhìn thấy sẽ lặn xuống và bơi chìm để theo, ta cần quan sát kỹ tránh để mất mục tiêu. Nhiệm vụ của bạn là phải nhử con ếch đuổi đến gần chỗ bạn đúng. Khi khoảng cách còn khoảng hơn chục mét trở lại, ta tháo mồi nhử ra và lắp ghim tránh mắc vào đầu lưỡi, lúc này con ếch sẽ nằm chờ bạn, nó chăm chú từng động tác của ban. Nên bình tĩnh và không gây một tiếng động nào kẻo chúng lặn mất. Bạn nhẹ nhàng vút mồi nhái ra trước mặt nó, hơi rung đầu cần để mồi động đậy lập tức ếch sẽ lao tới bắt mồi. Bạn chớ nên giật cần ngay bởi lúc này chúng ngậm mồi lỏng, nếu giật ngay thường mất. Ta chỉ cần hơi nâng đầu cần làm cho ếch tưởng con mồi định giãy ra lập tức chúng ngậm chặt lại rồi lặn xuống gậm bèo, lúc này chỉ hơi lắc nhẹ đầu cần là ếch đã bị mắc câu.
Câu ếch rất thú vị, nhưng đánh rọ ếch thì cũng thú vị không kém. Miền bắc rọ ếch thường được đánh vào mùa cuối tháng 8 đến hết tháng 10 âm lịch. Thời kỳ này trời hanh khô, các loại côn trùng đi trú ẩn nên ếch đói mồi và thường tìm mồi vào các buổi đêm. Trong các tháng đó chỉ những ngày có trăng là đánh rọ được, những ngày khác thường khó hơn. Chiếc rọ ếch được đan bằng nan tre cứng, hình thù của rọ trông giống như cái trống cơm nhưng hai đầu thu nhỏ hơn. Hai hom được làm rất cẩn thận và lắp khít vào hai đầu rọ, buộc cẩn thận bằng lạt giang hoặc dây thép mềm. Mồi để nhử ếch vào rọ là cua sống. Yêu cầu cua phải thật khoẻ để khi nhốt cua trong rọ chúng luôn bò và phát ra tiếng động. Thưa các bạn! Một điều rất thú vị đó là cua rất sợ ếch. Con cua thường thì dữ tợn là thế vậy mà khi con ếch lấy chân trước đặt nhẹ lên mai thì lập tức nằm im, thu tất cả chân, càng để ếch dễ nuốt.
Rọ ếch được đặt gần bờ ao. Người ta dùng hai cái que cắm sâu xuống đất làm giá đỡ giữa thân rọ, cố định rọ sao cho có nước ngập 1cm mặt dưới thân. Cho vào trong rọ 3-4 con cua đồng. Ở hai đầu rọ ta đắp hai mô nhỏ bằng đất để ếch có chỗ ngồi quan sát trước khi quyết định chui đầu vào. Nếu có vỏ bưởi thì cho vào đó một hoặc hai miếng cùi thì càng tốt.
Tối đến ếch đi tìm mồi, chúng chỉ tìm gần bờ vì giữa ao khó kiếm thức ăn. Nghe tiếng chân cua chạy trong rọ chúng sẽ tìm đến và ngồi ngay trên ụ đất ta mới đắp trước hom rọ. Chúng quan sát, ngẫm nghĩ và ngó vào bên trong. Nếu có miếng cùi bưởi thì chúng quyết định chui vào ngay bởi loài ếch rất tham ăn nên nhìn miếng cùi bưởi tưởng là đã có con khác đang ngồi trong đó, sợ hết mồi. Tham thì thâm và vạ miệng có lẽ cũng từ đây?Các con khác đến sau thì không cần biết bên trong còn mồi hay không, chúng vào trong rọ theo phản xạ tranh mồi mà không cần suy tính như con đầu tiên.
Chuyện về con ếch còn nhiều mà vốn kể của tôi thì hạn hẹp nên đành tạm dừng ở đây. Dịp khác có điều kiện và nếu có ai quan tâm tôi xin hầu chuyện các bạn .
Săn bắt cá chuối (Cá lóc)
Đánh rọ cá Rô thì chỉ có hai tháng. Thời gian còn lại trong năm chúng tôi buộc phải tìm cách kiếm cá khác. Cạnh nhà tôi có Anh Thái – là bạn thân của anh trai cả tôi (anh tôi đã hy sinh tại Thanh hoá năm 1966) câu rê cá Chuối rất nổi tiếng. Anh rất quý tôi và coi tôi như em ruột. Những buổi đi câu, nếu thấy tôi rỗi việc anh thường rủ tôi đi cùng và khi về anh không quên đưa cho tôi vài chú cá chuối để về luộc. Cha tôi quý anh lắm, bởi anh chơi với anh trai tôi từ nhỏ và là người đã liều lĩnh báo tin cho cha tôi biết về sự hy sinh của anh tôi khi sự việc xẩy ra mới được hai ngày. Ngày đó chiến sự xảy ra ác liệt và mọi thông tin đều được thông báo theo thứ tự quy định rất nghiêm ngặt. Việc làm của anh Thái đã làm cho cha tôi rất xúc động và cha tôi coi anh như đứa con trong gia đình. Do đi cùng anh Thái trong các buổi câu, lại được anh chỉ bảo tận tình tôi cũng hiểu biết ít nhiều về cách câu rê cá chuối. Khi tôi 12 tuổi ,tôi quyết định sắm cho mình một bộ cần câu rê như của anh Thái hàng xóm. Việc đầu tiên tôi về quê ngoại (cách quê nội vài cây số) xin một cây Tre Mai làm cần. Tre mai là giống ở rừng có ngọn thẳng, thon nhỏ làm cần câu rất đẹp. Nhà ông họ bên ngoại tôi trồng ở vườn, chúng lên thành búi và ông họ tôi chẳng chịu cho ai bao giờ. Tôi có lẽ là trường hợp ngoại lệ nên ông cụ tự tay chặt và trao cho với lời dặn:
- Về chịu khó nắn mấy đốt ngọn cho thẳng và nhớ nén đá cố định đến khi tre khô kiệt mới được dùng. Nếu dùng trước khi tre khô là nó lại cong như tự nhiên đấy.
Mang cây tre về nhà, tôi làm như ông họ bên ngoại dặn. Mặc dù ngọn tre thẳng nhưng khi làm cần cũng phải nắn kỹ vài đốt. Tôi đốt nóng các chỗ cần nắn và dùng tay uốn thẳng theo ý mình rồi dùng các vật nặng đè lên.
Cây tre để như vậy gần 2 tháng, đến khi thân nó chuyển sang màu vàng bóng, các đốt nắn đã định vị chắc chắn, tôi bỏ ra, quả nhiên tôi đã có một cái cần câu tuyệt đẹp. Nói là tuyệt đẹp vì ngày đó đâu có cần câu máy như bây giờ, nhưng cũng phải nói thẳng một điều rằng nếu đi câu rê cá chuối hoặc câu ếch thì chỉ câu bằng cần tre, đấu cước bằng gỗ là quăng dây đi xa và chính xác hơn cả.
Vậy là đã có cần câu, tôi quyết định đi mua đấu cuộn cước bằng gỗ. Ngoài Bắc lúc đó đấu cuộn cước thường được tiện bằng gỗ Mít. Có rất nhiều kích cỡ, nếu chưa quen cuốn dây thì chọn loại rãnh lớn - đường kính bát câu vừa, còn nếu quấn dây đã quen thì chọ loại rãnh nhỏ cùng đường kính lớn cho dễ cầm và khi rê mồi đỡ mỏi tay hơn. Nếu bạn đi mua bát câu(Đáu) thì nên chon cái làm bằng gỗ mềm, phần có nhiều vỏ càng tốt vì lấy bát câu nhiều lõi sẽ dễ bị vỡ, nứt. Lưỡi câu cá chuối thường được làm lấy bằng tăm xe đạp. Chúng tôi rất kỳ công làm từng chi tiết từ đầu lưỡi đến chỗ lắp chì. Khi lưỡi đã định hình xong chúng tôi thường bẻ vênh đầu lưỡi sang trái hoặc sang phải so với thân lưỡi để khi cá ngậm mồi, đầu lưỡi lúc nào cũng có hướng đâm vào hàm nó và ghim cỏ dễ bật ra.
Cá chuối ở ngoài Bắc thường sinh sản vào đầu hè và kéo dài sang tới giữa thu. Sau những trận mưa đầu mùa ta đã có thể gặp một số đàn “Giồng giồng” ở các ao hồ hay trên các đoạn kênh mương. Thường thì trước khi đẻ trứng, cá cái tìm cá đực và kết thành đôi. Chúng cùng nhau tìm chỗ, dọn ổ. Nơi chúng chọn để làm tổ là những vị trí gần bờ, thường là góc, có cây cỏ để dựa. Khi đẻ trứng xong, đám trúng ban đầu có màu vàng sau đó chuyển thành màu đen. Con cá đực bao giờ cũng nằm giữa đám trứng để bảo vệ trực tiếp, cá mẹ nằm cách đám trứng ra phía ngoài khoảng chừng 40-50 cm, do đó nhiều người thấy đám trứng cá liền lấy nơm úp vào giữa thì chỉ bắt được cá bố, và cá mẹ luôn ở bên ngoài.
Như ở phần đầu tôi đã nhắc đến cái tên “Thảo Giót”. Đó là anh bạn trạc tuổi tôi có biệt tài bắt cá lóc đẻ. Thảo có vóc người đậm, da đen cháy nhưng giác quan của nó thì rất đặc biệt. Thảo có thể phát hiện ra tổ cá chuối đẻ trong vòng bán kính gần hai chục mét. Đã có lần tôi hỏi Thảo vì sao lại tinh vậy ? Nó trả lời đấy là cảm giác. Có thể do đi bắt cá đẻ nhiều nên tạo cho Thảo cái khả năng đặc biệt này và khi đã thấy tổ cá thì chỉ cần một nhát nơm là nó bắt được cả đôi.
Câu tổ giồng giồng là đễ nhất và cũng là khó nhất. Dễ nhất bởi ta nhận rõ vị trí có cá bố mẹ. Mặt khác nếu ném mồi ra rê một hai lần là có thể câu được con cá bố ngay. Nhưng khi ta đã để đàn cá phát hiện ra thì chuyện câu được cá mẹ quả là rất khó. Nếu đàn cá còn nhỏ ( Trứng mới nở thành con 1-2 ngày tuổi) lập tức cá mẹ có lệnh là cả đàn cá con chui cả vào miệng cá mẹ và chúng lặn mất tiêu. Trong trường hợp cá bố đã bị bắt, cá con đã lớn được 7-10 ngày tuổi thì muốn câu cá mẹ phải rất kỳ công. Những thợ câu già tay có nhiều đòn lắm. Họ câu mãi mà cá mẹ không ăn liền lấy đầu cần câu đập vào giữa đàn cá làm chúng tan tác, sau đó chục phút họ lạ rê mồi là lập tức cá mẹ ăn ngay. Tôi đã hỏi một thợ câu cao tuổi khi có dịp tiếp cận họ nói rằng cá cũng biết cáu giận. Khi ta đập vỡ đàn cá mẹ bực tức lắm, thấy mất con nên khi mồi câu trở lại nó nghĩ rằng đây là tác nhân làm mẹ con nó tan tác liền trả thù ngay, bởi thế cho nên các cụ nhà ta xưa mới có câu : "Cá chuối đắm đuối vì con" là vậy.
Vào mùa mưa, cá chuối đi ăn nhiều, chúng thường chọ chỗ có nước chảy để bắt cá con. Ở ngoài cánh đồng, nơi nước tràn từ những thửa ruộng cao xuống ruộng thấp, hoặc những nơi có nguồn nước chảy trên các kênh mương nội đồng, ta đều có thể rê cá chuối được. Tôi nhớ vào năm 1970 vào dịp tháng 8 âm lịch, mưa liên miên mấy ngày. Tôi vác vó (Chũm) đi kéo cá nhưng vì kênh mương nơi tôi kéo nước rất trong nên chẳng được con cá nào. Khi vác vó đi chỗ khác thì lập tức đàn cá lại đến trước cống nước. Bực mình quá tôi đành về nhà và được biết anh Thái hàng xóm mới đi câu về được hơn chục cân cá chuối. Thấy trời còn sớm tôi cũng vác cần câu đi xuống nơi cống nước vừa kéo vó. Trên đường đi tôi bắt trên hai chục con nhái làm mồi. Trong lòng khấp khởi và tôi đi thật nhanh sao cho chóng tới nơi. Tôi quyết định đứng cách cống nước trên 20 m và chọn hai hướng trước và sau cống làm hướng chủ đạo để rê mồi. Mới đường vút đầu tiên tôi đã thấy vài chú cá chuối đuổi theo bắt mồi và dĩ nhiên trong đó có một chú đã phải vào giỏ.
Cá thời kỳ này rất háo mồi, chúng có thể phát hiện mồi từ xa và lao đến. Những con đớp mồi phát ra tiếng “choặp” to thì nó lại nhỏ, ngược lại những con đớp mồi gọn tiếng phát ra nhỏ thì chúng rất to. Tôi rê được chừng hơn một giờ thì số mồi cũng hết, cá đã được gần đầy giỏ khoảng chừng hơn chục kg.nhưng trong lòng vẫn tiếc chưa muốn về. Để cần câu tại chỗ tôi đi bắt mồi song dưới đồng sâu thì việc bắt được nhái cực khó, con Chẫu nhỏ thì nhiều. Chẫu nhỏ cũng to bằng con nhái, da có mùi hôi nên cá chuối dẫu có đớp vào miệng thì chúng lại nhả ra ngay đo đó không câu được. Luẩn quẩn trời đã xế chiều, quãng đường từ dưới đồng sâu về nhà cũng hơn cây số. Vốn tính sợ ma tôi đành cuốn gói đồ đoàn để ra về, trong lòng cứ tự trách mình sao khi đi không bắt nhiều nhái?
Vào vụ lụt năm 1971, cánh đồng làng tôi có chiều dài khoảng 2km chiều rộng khoảng cây số rưỡi trắng nước. Cua, cá nhiều vô kể. Bọn chúng tôi muốn kiếm cua ăn thì chỉ cần mang Dậm ra đánh một nhát thì cũng được trên chục chú cua càng. Ôc nhồi thì không cần lội xuống nước mà chỉ cầm cái sào, trên đầu có gắn cái vợt nhỏ đi dọc cõi cũng vót được dăm bẩy cân. Nứôc úng ngập lâu, bùn lằng hết nên nước ở đâu cũng trong vắt. Trên các cõi cao nhiều cần thủ kiếm cá chuyên nghiệp với cái thúng sơn mà anh Việt hoà đã có lần tả về họ miệt mài rê cá chuối. Tôi cũng sắm một bộ đồ như họ : Cũng thúng sơn nhựa đường; giỏ con đựng nhái; Quần dài vắt lên cổ và tạo hai đường rê theo hình chữ V đứng vút. Câu cá nước tĩnh thì phải kiên trì, nếu bạn không kiên trì thì khó lòng câu được chúng.
Những cần thủ chuyên nghiệp (có lẽ tôi múa rìu qua mắt thợ rồi) thường nói rằng ở vùng nước tĩnh nếu cứ rê hỏng hai hoặc ba cái mồi là tanh đường câu và cá sẽ đến. Tôi cũng đã nhiều lần làm như vậy. Kết quả thường rất đúng với những kinh nghiệm trên. Để tiết kiệm mồi có người đã lấy dây chỉ quấn chặt lấy mồi. Cách làm này đúng là có hiệu quả vì sau mỗi lần cá cắn câu thì mồi vẫn dùng được. Nhược điểm của cách làm này là hình thù con nhái không hấp dẫn cá khi rê mồi, thậm chí có con cá nhả ngay mồi khi mắc răng vào chỉ buộc. Có thể nhiều quan niệm về cách rê mồi, nhưng tôi thấy hiệu quả nhất là rê mồi sao cho mồi luôn luôn chạy trên mặt nước. Như vậy ta cố ý tạo cho những con cá ở xa cũng có điều kiện phát hiện ra và đến để tiếp cận để rồi vào giỏ.
Vào mùa đông, cá chuối thường đi ngủ tránh rét. Khi nhiệt độ ngoài trời xuống khoảng 10-12 độ hoặc rét hơn là lúc chúng tôi thường đi bắt cá ngủ. Mỗi loài cá đều có cách ngủ và tư thế ngủ riêng biệt. Ví như loài cá Trê, chúng buông mình thẳng đứng, râu loà xoà trên mặt nước như đám rễ bèo. Cá Chép thì rúc đầu vào đám cỏ. Cá Chuối hoa (Lóc bông) là loài khéo nguỵ trang nhất. Khoàng hơn 10 giờ đêm là chúng bắt đầu tìm lên chỗ nước cạn (25-30 cm). Chúng rút đầu sâu vào trong bùn, khi toàn bộ thân đã nằm gọn trong bùn rồi là chúng cố nhoi một tý đầu ra để lộ mỗi hai lõ mũi bé xíu. Chỉ một hai tiếng đồng hồ sau nước lại lắng trong như trước và ta rất khó phát hiện. Chúng tôi đi bắt cá ngủ vào lúc sáng sớm, thuở ấy cứ nghe thấy đài phát thanh tèn ten bài “ Giải phóng Điện biên" là tung chăn lên đường. Nhiều hôm rét quá chân lội nước đến đâu là đỏ tím đến đó nhưng vì ham nên chẳng biết sợ là gì. Chúng tôi tìm cá ngủ như đi càn, tức là đi lần lượt theo lối với một khoảng cách có thể quan sát kỹ được. Những chỗ có cái đầu nhỏ như đít con ốc nhô lên khỏi bùn là không thể bỏ qua. Lúc này chỉ còn có một việc cuối cùng là nhìn kỹ xem có hai lỗ nhỏ xíu không ? Nếu có là đặt nơm vào và A-lê mời chú mày vào giỏ. Nhiều con cá tôi bắt về đến nhà, thả chúng vào nước ấm nó mới bừng tỉnh và quẫy ầm ầm làm tung toé nước.
Năm 1976 tôi vào Bộ đội, do biết câu kéo nên có hẳn một giai đoạn tôi được cử đi kiếm cá để cải thiện cho mấy anh em cùng đơn vị. Những ngày câu rê cá chuối ở các hố bom gần Ga Lệ kỳ tỉnh Quảng bình, hay những đêm câu cá Trê suối ở bản Chiềng khoang huyện Mộc châu ; những tối đặt ống Lươn ở các thung lũng tại bản Pắc ma huyện Quỳnh nhai, Sơn la chẳng bao giờ tôi quên được. Đồng đội tôi nay người còn, người mất, người đang tại ngũ, người đã về hưu nhưng mỗi khi nhớ đến những ngày gian khổ ấy ai cũng đều rưng rưng nước mắt.
Nay tôi đã thành một doanh nhân, ở một góc nhìn nào đó cũng vẫn như người đi câu trên thương trường. Tôi vẫn thường đùa rằng : Trong kinh doanh thì Marketing là ném thính; còn khi đã thuyết phục được khách hàng bán hàng có lời là ta đã câu được cá. Dẫu có bận nhưng với chiếc cần câu tôi chẳng thể quên được. Bốn chục năm trời với chuyện kiếm cá để rồi đi học và có được ngày nay sao lại quên đi cái thuở cơ hàn ? Và tôi nghĩ có khó khăn thì mới vươn lên được chứ nếu cứ sung sướng thì có lẽ ta lại dựa dẫm và thành Đại lãn chờ xung rụng?
Tôi không phải là người giỏi văn, thú thật thuở còn học phổ thông tôi rất dốt văn học, thậm chí chẳng bao giờ thầy giáo cho tôi tới điểm 5. Tuy vậy tôi vẫn cố gắng kể ra đây những điều tôi biết, chắc chắn rằng sẽ có nhiều lộn xộn nhưng biết đâu cũng có những thông tin hữu ích cho các bạn. Trong trường hợp ngược lại mong bạn đọc lượng thứ !
TU
Ổ
I TH
Ơ
CÂU C
Á
Sunday, January 4, 2009 2:53:57 AM
Thưở nhỏ, đang khi đi học ở trường làng, chiều chiều tôi thường xuống mé sông trước nhà, xem bà Ban Sui câu cá.
Ông Bà Ban có một nhà lá, cạnh nhà tôi. Trước nhà có một cái vườn. Ông Ban quanh ngày lo cuốc đất, lên líp trồng rau : cải, hành, hẹ, ớt, không cần đem ra chợ bán. Người chung quanh, lối xóm, có cần gì cứ đến mua, về ăn liền.
[/SIZE][/I][/COLOR][/ALIGN]
Thưở nhỏ, đang khi đi học ở trường làng, chiều chiều tôi thường xuống mé sông trước nhà, xem bà Ban Sui câu cá.
Ông Bà Ban có một nhà lá, cạnh nhà tôi. Trước nhà có một cái vườn. Ông Ban quanh ngày lo cuốc đất, lên líp trồng rau : cải, hành, hẹ, ớt, không cần đem ra chợ bán. Người chung quanh, lối xóm, có cần gì cứ đến mua, về ăn liền.
Chiều, ông Ban gánh nước tưới rau, bà Ban lấy 2 cần câu ra mé sông, ngồi câu một lúc, người ta ước lượng số cá câu được, dư dật để ông bà Ban ăn cả ngày hôm sau.
Tiền bán rau dành mua gạo và chi phí hàng ngày, câu cá để ăn, đời sống thanh nhàn.
Tôi học lớp tư trường làng, còn nhỏ, mỗi chiều xuống mé sông, xem bà Ban câu cá.
Bà Ban có 2 cần câu. Tôi mượn bà Ban một cần câu nhỏ. Bà vui lòng, lại móc mồi cho tôi nữa.
Cần câu nhỏ để dùng khi nước đứng, nghĩa là nước không chảy mạnh. Cần câu lớn dùng khi nước chảy mạnh. Có khi phải gắn một cục chì nhỏ gần lưỡi câu, cho lưỡi câu phải chìm xuống nước.
Tôi câu được bao nhiêu cá, bà lấy hết và móc mồi mới cho tôi. Sau buổi câu, tay tôi vẫn sạch.
Tôi lớn và có kinh nghiệm theo thời gian, tôi tính đến chuyện độc lập tự do trong việc câu cá.
I. CÂU CÁ Ở VEN SÔNG
Câu cá bằng cần câu ở dựa mé sông, là chỉ để bắt những con cá nhỏ mà thôi.
Sở dĩ phương pháp này được phổ biến vì dụng cụ cần dùng rất giản dị.
Tôi muốn tự đi câu một mình, tôi chuẩn bị :
1. Cần câu
- Tôi vô phía trong vườn, xin 1 hoặc 2 cây trúc để làm cần câu.
- Về nhà, kiếm chỉ trắng, xe lại để cột vào đầu của cây trúc.
- Làm lưỡi câu hoặc mua một lưỡi câu, cột vào đầu kia của sợi chỉ.
Để ý : lưỡi câu mua ngoài, có số lớn nhỏ, nhưng phần nhiều quá lớn, khó câu được cá. Tôi tự làm lưỡi câu : mua 1 sợi dây đồng nhỏ, làm một ngạnh, mài đầu sợi đồng cho nhọn, uốn cong lại, chặt đầu kia, ta đã có một lưỡi câu, nhỏ và đẹp.
2. Mồi
Mồi để câu các loại cá nhỏ ven bờ song rất dễ tìm. Chổ nào có đất hơi ẩm ướt, mềm (bờ sông, rạch, sàn nước hoặc trong vườn, ngoài ruộng), chổ nào có hột đất tròn tròn, nhỏ nhỏ (là cứt trùn đùn lên) là ta đào. Chỉ một hai nhát dao xắn xuống và bật lên là có trùn.
Trùn có hai loại trùn cơm, dễ làm mồi nhất. Còn loại trùn quắn, cứng hơn, dùng làm mồi không bằng. Có loại trùn lớn hơn, gọi là trùn hổ, dùng để câu cá lớn..
Ta lấy một hộp lon sữa bò, hoặc một vỏ sọ dừa để đựng mồi.
Như vậy với 1 hay 2 cần câu, 1 hộp mồi, thêm nữa 1 thùng nhò có đựng phân nửa nước để đựng cá câu được, ta đã làm được ngư ông.
3. Câu cá
Tìm bờ sông thuận tiện, có bóng mát, móc mồi, thả câu.
Nước ròng xong, nước đứng lớn, chảy lững lờ, là lúc tốt nhất, vì cá thường bơi kiếm mồi ăn, vào lúc đó.
Cứ thả lưỡi câu xuống, chờ cá đớp mồi, kéo đi, ta giật lên, thế nào cũng được cá. Phải mắc công gỡ cá, vì lưỡi câu có ngạnh. Và thay mồi hoặc còn mồi, thì phải sửa lại ngay ngắn mới thả câu lại.
Câu như vậy sau một giờ đồng hồ, nhìn vào thùng nhỏ đựng nước, chắc chắn sẽ thấy độ 30 con cá gồm cá lòng tong, cá he, cá mại …, con còn bơi được, con nằm ngửa phơi bụng.
Đem về nhà, lấy kéo đánh vảy, cắt đuôi, kỳ và đầu cá, móc ruột, rửa sạch sẽ, ta lấy một cái tô đá, bỏ hết vào, cho nước mắm, chút mỡ, tiêu, hành, tỏi, ớt (để nguyên trái), xong để lên một lò than đỏ.
Mùi thơm cá chín sẽ làm ta thèm và thật vậy, sẽ ăn rất ngon.
4. Câu vụt
Câu vụt là câu với một lưỡi câu không ngạnh.
Mồi câu không phải là trùn mà là cám.
Người câu chờ lúc nước đứng không chảy mạnh, quăng cám xuống mặt nước. Cá đua nhau lên đớp mồi. Lưỡi câu được thả xuống rồi giật lên liên tiếp.
Mỗi lần lưỡi câu chạm mặt nước, cá đớp liền và bị kéo lên bờ, văng xa ra vì lưỡi câu không ngạnh.
Cùng một thời gian, câu vụt câu được nhiều cá hơn cách câu thường. Nhưng phải vụt lúc nước đứng vì nếu nước chảy, cám sẽ trôi theo dòng nước, cá sẽ theo cám mà không tập trung một chổ.
5. Câu cá lìm kìm
Cá lìm kìm là loại cá dài, mỏ nhọn, răng bén, hình dáng như con cá sấu. Nước chảy mạnh thế nào, nó vẫn đứng nguyên chổ, đầu xoay ngược với hướng nước chảy.
Nhiều lắm, nhứt là ở nơi bờ sông có những bậc thạch.
Với loại cá này, không cần lưỡi câu. Đầu sợi chỉ cột một con cá nhỏ, nhử mồi trước mặt là cá lìm lìm đớp liền. Ta cứ giật cá lên, không sợ sút mất, vì răng cá rất bén, bám chặt vào mồi.
Cũng kho khô tộ để ăn, rất ngon. Ăn không hết, phơi khô cũng được.
Ca dao có câu :
“Má ơi, con vịt nó chết chìm,
Con thò tay con vớt, con cá lìm kìm nó cắn tay con”
là con cá này đó.
6. Mò cá
Nước ròng, chảy xiết, tôi bơi dài dài ven sông, lấy tay rà các cột cầu, bắt được cá loại dẹp, tròn, như cá rô biển, cá sơn … Cá sợ nước chảy mạnh, lôi kéo đi, nép mình sát vào cột cầu, tôi bắt dễ dàng, thiếu điều như cá không vùng vẫy.
Lúc nhỏ, tôi thường bắt cá ven sông bằng cách nói trên. Lẽ tự nhiên còn những cách bắt cá khác, ví dụ như chài, lưới, bắt cá lớn hơn, nhưng tôi còn nhỏ, không xử dụng chài lưới được.
II. CÂU CÁ Ở RUỘNG
1. Câu cá rô đồng
Mùa nước lớn, ruộng đầy nước, cây lúa đã mọc cao. Đó là lúc cá rô đồng sanh đẻ rất nhiều.
Tôi rất thích câu giống cá này, vì nó đớp mồi rất bạo, đớp rồi chạy liền, mình giật mạnh lên thật là sướng tay.
Mồi câu loại cá này không phải là trùn, mà là cào cào, châu chấu … Đi trên bờ ruộng, đi đến đâu đập đến đó, khỏi cần dự trữ, chúng đậu trên lá lúa, thấy mình đi tới liền ẩn núp dưới lá, mình chụp dễ dàng, bóc cánh, ngắt chân móc vô lưỡi câu làm mồi.
Thả mồi trên mặt nước, cá đớp liền, giật chạy, ta tha hồ giật lên. Cá rô đồng con nào cũng lớn, mập, đen mun.
Đem về đánh vảy, chặt bỏ đuôi, kỳ, móc mang, móc ruột, ta kho, nướng, chiên dầm nước mắm ngon, hoặc nấu canh chua với me sống, tuyệt.
Cẩn thận coi chừng xương, vì xương nó bén và cứng, nhưng thịt nó rất ngọt.
2. Nhắp cá lóc
Cùng lúc câu cá rô đồng, ta có thể câu cá lóc trong lúc nước lớn trong ruộng.
Nhưng ta phải có một cần câu lớn và dài. Lưỡi câu loại lớn, mua ở tiệm bán sắt, có số tùy lớn nhỏ, uốn bằng máy.
Mồi thường là một con ếch hoặc nhái, hoặc một cá dầm hoặc cá he móc lưỡi câu trên lưng.
Ta cầm sợi dây, quay vòng vòng lấy trớn quăng tuốt ra xa giữa ruộng, đoạn ta kéo mồi từ từ vô, nhảy nhảy trên mặt nước (động tác này được gọi là nhấp), cá lóc thấy mồi, rượt theo đớp mạnh, ta tha hồ giật, cong cần câu.
Cá lóc cũng được kho, nấu canh chua, nướng trui gói bánh tráng, chấm mắm nêm rất ngon.
Ăn cá lóc đừng bỏ ruột vì ruột cá lóc rất béo, nhất là cái gan và mật, người ta bảo mật cá lóc ăn rất bổ.
Quý bà quý cô thời nay đi chợ, mua cá lóc, bảo người ta làm vảy dùm, họ lấy ruột cá hết, cũng chịu, vì quý bà sợ mắc công làm, uổng quá.
3. Tát đìa
Ở ruộng, có nhiều chổ lỏm. Mùa nước rút, ở những chổ đó còn đọng lại nước như cái ao, cá mắc kẹt vào đó.
Trẻ nhỏ trong làng, chờ khi người lớn tổ chức tát đìa, tham gia. Tôi cũng có mặt.
Ai nấy xúm đắp bờ và tát nước ra ngoài. Chỉ một lúc, bùn bị quậy lên, cá trồi lên mặt nước thở, tha hồ bắt.
Cá nhỏ bị bắt bằng tay hoặc bằng rổ, cá lớn bị bắt bằng nôm.
Có lúc tôi nôm được cá lóc hoặc cá bông thật to, sức nó quậy trong nôm quá mạnh, làm tôi không dám thò tay vào nôm để bắt, phải nhờ người lớn.
Gặp trường hợp được cá lớn như vậy, chúng tôi đập đầu cá cho chết, xong lấy đất sét đắp bao chung quanh thân cá, sẵn rơm khô ngoài ruộng, chúng tôi chất đống lại và đốt cá.
Khi cá chin, được bới ra, chúng tôi gỡ đất sét, vảy cá được lột theo phơi bày thịt cá ra, ăn rất ngon.
Cũng nhớ kỹ đừng bỏ ruột cá.
III MÒ ỐC GẠO
Nghĩ rằng không nên quên nhắc đến thú vui này trong lúc tuổi thơ.
Tôi nhớ, phải lớn lớn tuổi, nghĩa là khi học lớp nhứt trường Tỉnh, tôi mới thực hiện được thú vui này.
Sông trước nhà tôi cũng có ốc gạo, nhưng tôi cho là ít. Tôi muốn ra cồn ở sông cái để mò ốc gạo, nhiều hơn.
Cồn là cùi chỏ của một nhánh sông. Cồn thường thường được đất phù sa bồi từ từ thêm để thành đất liền. Nơi đó có rất nhiều ốc gạo.
Rủ vài người bạn, mượn một chiếc xuồng, mỗi đứa đem theo một cây sào khoảng 4 thước.
Chúng tôi bơi xuồng ra cồn, đợi khi nước sông bớt chảy mạnh, mỗi đứa cắm sào xuống độ sâu vừa phải, lặn xuống đáy sông, lượm ốc gạo. Nhiều vô kể.
Bốn đứa vừa mò, vừa giỡn, trong một giờ, mò được một thùng thiếc ốc gạo.
Về nhà, chúng tôi ngâm ốc gạo trong nước qua đêm, để ốc nhả hết bùn, ngày sau mới ăn.
Ốc gạo được luộc chin ăn với bánh tráng cuốn rau sống, chấm nước mắm chanh, có người ăn thêm với bún.
Ốc gạo đúng mùa, rất mập. Thịt ốc gạo lúc đó vàng như mỡ, ăn béo, ốc gạo không đúng mùa ốm, không béo, lại có con nhỏ, ăn như nhai cát.
Ốc gạo là món nhậu rất ngon.
Những thú vui tuổi thơ : câu cá, mò ốc, tát đìa đã thật sự chấm dứt khi tôi rời tỉnh nhà lên Saigon học ban Trung học.
Cho dù lúc bãi trường, lễ lớn, về quê nhà, cậu học sinh mặc đồ bà ba vải trắng, đi guốc, tay chân đã mềm, da mặt hết rạm nắng, không còn có dịp lặn hụp dưới sông, hay tay lấm chân bùn tát đìa nữa.
Tuổi thơ đi câu cá
Trưa hè nắng chang chang, những đứa trẻ như tụi tôi thì không đứa nào sợ nắng, thậm chí còn đầu trần, chân đất chạy nhong nhong giữa trời, mồ hôi nhễ nhại. Buổi trưa hè nơi thôn quê lúc nào cũng im lặng, chỉ có tiếng ve râm ran, thỉnh thoảng vang lên tiếng gà cục tác, tiếng mẹ ru ầu ơ những đứa trẻ không chịu ngủ trưa.
Tay
đứa nào cũng vác theo con dao rựa, là loại dao chuyên để chặt củi hoặc cây cối, lấy dao đi ra khỏi nhà cũng là một vấn đề, vì bố mẹ nhìn thấy sẽ đánh đòn lằn mông. Vào lấy được dao phải dò xét tình hình, trông như là đi đánh du kích, không thấy bố mẹ đâu là vọt thật nhanh, cái cảm giác ấy rất hân hoan, cứ như vừa hoàn thành nhiệm vụ. Rủ nhau ra ngoài bụi tre, chọn những cành tre nào đẹp về làm cần câu cá.
Tre thì của nhà hàng xóm, nên phân công một thằng trông, còn lại vào chặt, mà chặt để nó không phát ra tiếng kêu, rồi tất cả toát mồ hôi khi nghe tiếng loạt xoạt của con gà chạy trong bụi chuối. Chặt tre xong về vạt hết những mấu, mua dây cước và lưỡi câu buộc lại, lấy cái miếng mút xốp làm phao thế là đã hoàn thành một cái cần câu cá.
Bước tiếp theo là vác cuốc ra vườn cuốc đất tìm giun (hoặc trùn) để làm mồi câu, những chú gà con thấy người vác cuốc ra vườn là chạy theo, vì chúng biết thế nào cũng sót lại những con giun cho chúng. Chúng nhao nhao khi tôi buông những nhát cuốc xuống đất, có nhiều phen hú hồn vì tí nữa thì cuốc phải con gà con.
Có cần, có mồi, đội lên đầu cái nón mê, cả đám vác cần đi câu cá đồng. Có hôm đi rất xa mới thả câu, là những nơi có nhiều cá.
Mồi được mắc vào lưỡi câu, mắc mồi phải chùm kín lưỡi nhưng làm sao mà giun vẫn sống ngoe nguẩy dưới nước. Cá chỉ thích mồi động, ước chừng mực nước, chỉnh phao, tìm những chỗ nào cá trú nhiều thì thả câu, mỗi đứa một đoạn, vì nếu đi đông thì cá sẽ chạy hết, và cũng phải thật nhẹ nhàng thả câu. Ngồi nhìn cái phao nổi lềnh bềnh trong nước, thi thoảng những con cá nhỏ vào rỉa mồi làm cho cái phao cứ dập dềnh.
Bỗng cái phao chìm ngỉm được rút vào trong nước, biết ngay là cá cắn mồi, tôi giật mạnh, một chú cá rô đã mắc câu. Gỡ cá ra và thay mồi vào thả câu tiếp. Thường câu cá đồng là những chú cá nhỏ bằng 2 ngón tay người lớn. Mỗi một chỗ câu chừng 5 đến 10 phút là đổi chỗ câu vì cá thường không ở một chỗ.
Lang thang hết con mương này tới con mương khác, trên những cánh đồng lúa rì rào bát ngát, tiếng những con quốc trong bụi rậm, những con châu chấu nhảy tanh tách khi thấy bóng người, làm cho cái nóng bức của mùa hè thêm gắt.
Khi đã hết mồi giun, chúng tôi cũng đi bắt những con cào cào châu chấu để câu, câu bằng những con côn trùng này cá cắn nhiều hơn, nhưng vì bắt chúng không dễ và câu rất tốn mồi nên phải câu bằng giun. Cá rô là loại cá rất thích cào cào châu chấu.
Thi thoảng có đứa câu được con cá to nhảy lên sung sướng, những con cá rô to, đen sì, đầu bạc, nắm đầy lòng bàn tay, thầm nghĩ những con này sẽ đem đi bán. Câu được cá nhiều hay ít cũng là một nghệ thuật, biết gắn mồi, biết tìm chỗ có cá để thả câu.
Sau nửa ngày lang thang dưới cái nắng như đổ lửa, đứa nào cũng đen nhẻm. Có đứa câu được nhiều, có đứa thì được ít, nhưng đứa nào cũng có thành quả mang về. Có nhiều loại cá được câu như: cá rô, cá diếc, cá sọi, cá chim, cá lẹp… sẽ được mang về làm nên những món ăn cho bữa cơm gia đình.
Cần câu sẽ được cuộn lại một cách gọn gàng cất vào góc bếp, để ngày mai lại tụ tập đi câu cá đồng. Một ngày đã qua đi, nhưng cái cảm giác chăm chăm đợi cá, hồi hộp nhìn phao đưa, thót tim cá giật cần vẫn còn đi mãi vào trong giấc mơ tôi.
Ký ức một thời tuổi thơ...và câu cá.
Chuyện cách nay cũng đã thắm thoát 18 năm... đúng là thời gian trôi qua thật nhanh. Còn nhớ ngày đó, năm tôi 12 tuổi và đang học trung học. Cứ đến những ngày nghỉ cuối tuần là trong lòng lại hối hả...và nghĩ thầm trong bụng mình, không biết hôm nay ba có đi câu cá không??? Mọi ngày thì lúc nào cũng thấy ba chuẩn bị mấy thứ đồ câu, nào là ngồi lau cần câu, rồi túm lưỡi, thay chì, đến cả làm mồi...đủ thứ...mà thời đó tôi còn nhỏ nên cũng chẳng biết gì. Nhưng sao hôm nay lại thấy ba im im...trong lòng tôi lại rạo rực...thôi thì đánh liều đến hỏi ba xem có đi câu cá không? Và dường như ba cũng biết và đoán được ý nghĩ của tôi...ba cười và nói rằng "Con lại muốn đi câu cá chứ gì". Lòng tôi chợt vui trở lại và bao nhiêu hình ảnh chợt hiện ra trong đầu, nào là sắp được ngắm mặt hồ trong xanh, nào là cái cảm giác quăng cần rồi ngồi ngắm mãi cái phao nó "nhịp", rồi đến cái cảm giác giựt dính cá, cầm cái cần mà ghị con cá...ôi thôi! Chỉ nhiêu đó thôi cũng làm tôi vui chết lên được.
Còn nhớ ngày đó, ba tôi đi câu rất nhiều nơi trong SG, từ ao, hồ, sông, đập, suối...tận những nơi cách SG trên vài chục cây số. Cứ nơi nào có nước là ba tôi lại xách xe và đi câu, mà ngày xưa thì chuyện câu kéo chẳng được tân tiến như thời buổi hiện nay, tôi còn nhớ như in trong đầu mình, hồi đó lúc đi câu, ba thường mang theo cái thùng đựng cá được "chế tác" lại từ cái can nhựa đựng xăng, lấy cây kéo khoét 1 lỗ thủng chừng 1 gang tay ngay dưới cái quai cầm...thế là đã có ngay cái thùng đựng cá vừa tiện nghi mà vừa dân dã. Đến thời gian nghỉ hè là khoảng thời gian tôi thích nhất...vì được ba dẫn đi câu cá...tôi đi cùng ba khắp mọi nơi, đến nỗi về đến nhà 2 ba con đen thui và muốn cháy da, nhưng niềm đam mê của 2 cha con đã chiến thắng cái nóng oi ả của những ngày hè nóng bức, rồi đến những cơn mưa thấm lạnh, nhưng niềm vui thì vẫn vui và đam mê là tất cả...
Nhưng tôi vẫn thích nhất là được ba dẫn đi hồ Ao Đôi câu cá... Còn nhớ...ngày đó ba thường chở tôi ngồi đằng sau ôm cái bao cần câu...đi từ Q3 sang tận Ao Đôi cũng không phải là gần, đi từ 9 giờ sáng về đến nhà thì cũng 7 giờ tối, cảm giác câu kéo có được từ những ngày đó, ngày mà ba chỉ cho tôi cách túm lưỡi, cách canh phao, cách quấn mồi cho đến cách câu bằng cần máy... Ngày ấy Ao Đôi nhìn hoang sơ lắm nhưng khung cảnh thì rất đẹp...đường đất, và xung quanh hồ được chắn bằng những cái cọc tràm, nhìn khung cảnh rất thiên nhiên. Có một hôm khi vừa dứt cơn mưa...tôi cầm cần ra ngồi sát bờ để câu
caucatd.jpg
Và
lấn ấy là một kỷ niệm tôi nhớ mãi đến tận bây giờ, là lúc tôi xém tí nữa là lọt xuống ao khi có giựt con cá, do trời vừa mưa xong, bờ đất trơn quá, lúc dính cá tôi mừng quá rồi giựt thế nào không biết mà xém lọt ao, cũng may là chụp ngay cái cọc tràm...không thì...
. Rồi biết bao nhiêu chuyện vui buồn, có một hôm cả bốn cha con (ba, anh 2, anh 3, và tôi) vào Ao Đôi câu, tôi nhớ cũng không rõ lắm, là ngày đó cả nhà tôi thường câu ở 2 vị trí trong Ao Đôi, 1 là khi đi vào rẽ phải đi đến gần cuối, phía sau có cái vườn nhà ai có trồng cái cây bình bát (ngày xưa tôi khoái món này lắm, đem dầm với đường đá là bá cháy), chỗ thứ 2 là rẽ sang tay trái, gần gần cái đóng hèm hay gì đó, ngồi chỗ này nghe cái mùi chụi hết nỗi...nhưng mà cá lại tụ về đây nhiều... Ngày đó tôi cũng chưa câu rành lắm, chủ yếu là theo lời ba chỉ dẫn thôi.
imagesCAIP7CH9.jpg
Và niềm đam mê câu cá bắt đầu khi tôi cắm cái cần câu máy, móc 1 miếng bánh mì và câu nổi, ba tôi nói "Con canh phao cách mặt nước từ 25-30 cm thôi nha" Thế là tôi làm theo...bắt đầu cầm cần lên quăng 1 phát...ra xa khoảng 20m...rồi tôi ngồi ngắm. Chừng 15 phút sau...cái phao màu cam tròn như trái banh bóng bàn bắt đầu dịch chuyển, nhịp nhịp vài cái...tôi quay sang hỏi ba là cá đang ăn phải không ba hay là do sóng nước nó làm cái phao như vậy? Ba nói là cá đang ăn đó, con để ý căng dây cước ra, khi nào cái phao thụt sau xuống thì con giựt liền nha...nghe lời ba dặn, tôi chú tâm nhìn chầm chầm vào cái phao không rời...rồi bỗng dưng cái phao mất hút...tôi giựt mạnh 1 cái...cái cần câu khựng lại, bao nhiêu cảm giác dồn vào 2 cánh tay, tôi la lớn "Ba ơi, dính cá rồi", cảm giác thật là sung sướng...Con cá sàng qua sàng lại, còn tôi thì tay vừa quay quay, chân thì rung rung, hồi họp lắm...trong đầu nghĩ chắc là con cá to lắm...quay mãi 1 hồi, cuối cùng cũng dìu được con cá vào bờ, đó là 1 con tai tượng cũng khá to khoảng 2 kg, mà ngày đó tôi nhỏ chút xíu kéo con cá 2kg cũng là sướng lắm rồi, đó là lần đầu tôi câu cần câu máy mà dính được cá, hoá ra ba chỉ cho tôi cách câu cá tai tượng. Còn ba tôi thì chuyên câu cá tra, nhìn mấy con cá ba câu mà phát thèm, không biết mình mà câu dính nó thì có đủ sức kéo nó vào bờ không nữa?
Tôi nhớ có lần ba tôi câu dính 1 con cá tra to lắm gần 12kg, thế là ba tôi, anh 2, anh 3 thay nhau kéo con cá, nhìn ba tôi và 2 ông anh kéo cá mà mồ hôi dầm dề ướt cả áo...phải hơn nửa giờ mới kéo được nó lên bờ, mà ngày đó Ao Đôi cũng ít người câu được cá to, nên khi dính được cá to là bà con trong đó cứ la hét nháo nhào rồi xúm lại xem con cá to thế nào!
Rồi thêm một kỷ niệm nữa, chuyện là hôm đó trời cũng xế chiều rồi, bỗng dưng cái cần câu của ba tôi giựt giựt, ba chạy tới giựt 1 phát và kéo...ấy cha nặng quá, kéo hoài mệt quá, ba đưa cho anh 2 tôi kéo, rồi anh lại chuyển sang cho anh 3 kéo, chỉ có tôi không được kéo hì... hì... Bà con thì xúm lại xem con cá gì, sao kéo hoài không lên, tức mình anh 2 tôi cởi áo và lặn xuống kéo... rồi chuyện gì xảy ra đây. Hoá ra là cái thúng tre to đùng mà người làm nông hay gọi là cái "cần xé", nó mắc vào lưỡi, làm ba tôi lầm tưởng là con cá to nó kéo...cuối cùng anh 2 tôi vớt lên "nguyên 1 cái cần xé" bà con ai cũng cười tít cả mắt... Còn không biết bao nhiêu chuyện xảy ra tại cái Ao Đôi ngày xưa, nhắc lại chắc nhiều lắm, có lần tôi không để ý bị con cá nó giựt phăng cả cái cần máy xuống ao luôn, lần đó buồn lắm, vừa bị ba mắng, vừa bị mất cái cần câu thân yêu của tôi. Đúng là người ta thường hay nói, Ao Đôi hồ rộng...cá to...
Thắm thoát thì cũng 18 năm, nay tôi cũng trưởng thành, đi làm tận mãi Pleiku - Gia Lai, vùng đất Tây Nguyên...và cũng lập gia đình. Ngoài này, sông hồ thì không nhiều, chỉ có mỗi cái Biển Hồ là danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Tây Nguyên, rộng to, nước sâu lắm và nghe người ta nói cá cũng nhiều và to nữa, có những con chép trên 20kg...mà có người đã từng câu được... Cuộc sống bon chen, hối hả, ai ai cũng bận rộn công việc, đi làm kiếm tiền lo gia đình, rồi chuyện "cơm, áo, gạo, tiền". Mỗi người đều có cái thú tiêu khiển khác nhau, người thì thích chơi chim cảnh, người thì thể thao, người thì đá gà...nhiều vô kể. Riêng tôi thì câu cá vẫn là cái niềm đam mê, mà dường như đã thấm sâu vào trong máu...từ cái ngày tôi được ba chở đi chỗ này chỗ nọ câu cá, hay là do Gen di truyền chăng
. Cứ 1 tuần được nghỉ một ngày thì tôi lại ôm cần đi câu, từ Biển Hồ, hồ Trà Đa, suối, đập nước, cho đến những hồ câu thư giãn, khắp TP Pleiku có bao nhiêu hồ câu cá thư giãn thì tôi đều tìm tòi và đến câu. Có những ngày đi ra Biển Hồ, ngồi từ sáng tới chiều tối mà chẳng được con cá nào ra hồn, ngoài những em chép nhi đồng, thả em nó về nguồn, ra về tay không mà trong lòng vẫn vui, dù sao cũng có 1 ngày xả stress...Rồi đến những lúc năn nỉ vợ cho đi câu. Tôi nhớ có 1 lần, khi ấy vợ tôi đang mang thai khoảng 4 hay 5 tháng gì đó, hôm đó được nghỉ làm, ở nhà chán quá, tôi chở luôn vợ vào hồ câu thư giãn, vợ thì ngồi trong cái chòi ăn uống, còn tôi thì ngồi câu cá...nghĩ lại thấy thương vợ vô cùng, cũng chiều theo ý tôi...Mẹ tôi thường nói với tôi..."Mày giống ba mày y chang, ghiền câu đến nỗi lôi cả vợ con đi cùng, ngày xưa mẹ cũng vậy, ba mày đi câu cũng dắt cả mẹ theo" Hoá ra câu cá, nó có 1 sức hút mãnh liệt ghê đến vậy! Nhưng dẫu sao đây cũng là 1 thú vui, thú tiêu khiển lành mạnh, nó còn giúp cho con người mình luyện tập tính kiên trì, nhẫn nại và yêu thích thiên nhiên.
Đến nay, khi tham gia diễn đàn, nhìn thấy mấy Bác lớn tuổi đi câu cá, thì trong lòng tôi lại bồi hồi và nhớ lại những kỷ niệm ngày xưa, nhìn mấy Bác mấy Chú...tôi nhớ và thương ba tôi vô cùng. Chuẩn bị kỳ này có dịp dẫn vợ con về SG thăm nhà, và cũng là làm giỗ cho ba (ba tôi mất đã 6 năm). Trong lòng đang hân hoan, vì chuẩn bị cho kỳ nghỉ phép về SG, rồi mình lại tới Ao Đôi câu cá để tìm lại cái cảm giác ngày xưa...chưa kịp vui thì khi tham gia diễn đàn và được biết là Ao Đôi đã sang lắp và không còn hoạt động nữa...lòng chợt buồn. Hoá ra cái nơi đã cho mình bao nhiêu ký ức...nay đã không còn...
Đó là những chuyện vui buồn, những kỷ niệm, những ký ức một thời tuổi thơ của tôi và câu cá...không biết đến bao gìơ tôi lại có được cái cảm giác như ngày xưa...Không phải riêng tôi mà tất cả mọi người, ai ai cũng đều có một thời tuổi thơ...Với tôi! Tôi gọi đó là "Ký ức một thời tuổi thơ...và câu cá"
Tre con cau ca1.JPG
Đôi dòng tâm sự cùng các Bác, các chú, các anh em trên diễn đàn. Có lẽ nhập tâm quá, nên bài viết khá dài, đọc xong chắc mỏi mắt... Ai thấy hay thì "Thanks" cho em một cái, hôm sau em bù cho mấy Bác, mấy Chú, mấy anh 1 lọ
Cánh đồng tuổi thơ
Năm lớp 1, tôi được ba tặng một chiếc cần câu. Chiếc cần bằng tre, được chặt phía sau nhà. Lưỡi câu được ba mài, uốn từ ghim của cuốn tập cũ; dây câu được tận dụng từ sợi dây dù trên bao cám lợn. Tôi hân hoan, tung tăng cùng ba ra đồng tập câu cá.
Cách đây khoảng 20 năm, vùng này cá còn rất nhiều. Vụng câu như tôi mà đứng một lúc đã giật được cả chục chú cá rô. Sau hôm đầu tiên, ở trường, tôi cứ nôn nao mong tiếng kẻng tan học để nhanh chân về nhà, vác cần câu ra đồng. Ở đây, một năm có hai vụ lúa, cứ đến độ lúa chín, ngả vàng là thời điểm câu cá rô thích hợp nhất vì cá đã lớn. Năm sau, tôi học đám bạn cách lấy trứng kiến để câu cá rô. Tôi xin mẹ chiếc nón lá rách, cắt chỏm, treo ngược lên, phía dưới gắn một bọc nilông. Những tổ kiến vàng to ở cây xoài bị tôi thọc tan hoang. Trứng kiến được tôi dùng sợi tóc, buộc vào lưỡi câu để nhử cá. Cá rô đặc biệt thích loại thức ăn này. Thế nên, mỗi buổi đi câu về, tôi bước vào nhà với tư thế hãnh diện của người kiếm thức ăn chính cho cả nhà.
Khi khả năng câu đã khá, tôi chuyển qua câu cá lóc. Con nhái nhỏ được móc vào lưỡi câu, nhấp nhấp cần để tạo cảm giác như còn sống. Vậy là cá lóc rẽ lúa lao sầm đến táp mồi. Khi đã chắc cá dính mồi, tôi giật mạnh trong hồi hộp. Đến bây giờ, tôi vẫn chưa quên được cảm giác sung sướng tột độ khi giật lên được con cá lóc nặng hơn ký lô. Tất nhiên, tôi ngạo nghễ vác cần câu, tay xách chú cá lóc to đang ngáp ngáp đi về nhà trước ánh mắt nể phục của lũ bạn trong xóm.
Ngày đó, nhà tôi nghèo nên bữa ăn gia đình tùy thuộc vào khả năng kiếm thức ăn của tôi. Bên cạnh việc câu cá, tôi “cải thiện” thêm món cua đồng. Khi cánh đồng lúa được gặt xong, buổi tối, anh em chúng tôi đi soi cua đồng. Xin ba chiếc lốp xe đạp cũ, chúng tôi đốt lửa đi soi. Trong ánh sáng lập lòe, những chú cua đồng ra khỏi hang đi kiếm thức ăn bị chúng tôi tóm gọn. Một đêm, chúng tôi bắt được cả bao. Khi thằng em tôi không đủ sức vác nữa, chúng tôi mới về .
Đến mùa khô, chúng tôi lại dùng ống sữa bò làm đèn đi soi dế. Trời đen đặc, tiếng dế kêu vang. Tôi nhớ, có lần còn bị mấy anh bỏ trốn giữa đêm đen trong đồng vắng, khiến tôi sợ ma, vừa khóc vừa mò mẫm về nhà.
Cánh đồng đó, bốn mùa đều thú vị với tuổi thơ tôi. Lớn lên, tôi lập nghiệp ở thành phố. Một ngày hè, tôi dẫn thằng con trai ba tuổi về quê, cũng hăm hở chặt tre làm cần câu để câu cá rô. Thế nhưng, cá thì bặt tăm, cua đồng cũng mất dạng. Cánh đồng đã bị thu nhỏ lại bởi các ngôi nhà. Tôi vừa “quê” với cậu con trai, vừa buồn và tiếc cho con trai vì không được hưởng một tuổi thơ đầy màu sắc và cảm xúc như bố ngày xưa.
Bờ sông câu cá
Cập nhật lúc 15:31, Thứ Tư, 22/02/2012 (GMT+7)
Không hiểu sao thời chân đất đầu trần, tóc khét nắng; tôi mê câu cá một cách lạ lùng! Tôi mê tới mức khi nằm ngủ cũng chiêm bao ngồi bên bờ sông, thả chiếc cần làm bằng nhánh tre chặt vội trong vườn hàng xóm với bao háo hức, đợi chờ cá cắn câu...
Sông Lam chảy qua miền quê tôi, làm nên bãi sa bồi tuyệt diệu nằm nép mình bên làng quê yên ả.
Mùa xuân, cả cánh đồng có chiều dài chừng hơn mười cây số, thơm sực nức khi mùa ngô trổ cờ. Mùa hạ về, khắp cánh đồng rộn vang tiếng đa đa "bắt tép kho cà" trong màu xanh của lạc, của đậu xanh, khoai lang sắp vào kỳ thu hoạch...
Khi mùa thu về, ai qua cánh đồng chỉ một lần thôi, không thể nào quên được mùi hoa màn màn thơm nồng từng bước chân. Loài hoa nhỏ xíu, cây màn màn cao bằng đầu gối con người – không hiểu vì sao thiên nhiên lại ban tặng cho loài hoa dại này có hương nồng đến thế!
Khoảng cuối tháng Tư, khi những cơn mưa đầu nguồn tận Thượng Lào bắt đầu cũng là mùa "nước sóc" lên bờ (nước lớn) cưới nguồn. Bờ sông thoai thoải, đám cỏ mướt xanh, chỉ có một lối mòn vừa đủ lọt bàn chân là "thiên đường" của tuổi thơ câu cá. Chúng tôi rủ nhau cùng đi. Cần câu là những nhánh tre khô già được chuốt lại láng bóng. Dây cước màu xanh nhạt, mua hai hào ở hàng xén ngoài chợ và chiếc lưỡi câu màu đen, khá bén nhạy...
Một con dao nhỏ, một ống bơ và xách cần câu, chúng tôi "lên đường", lặng lẽ trốn nhà tiến ra bờ sông quen thuộc. Trùn đất nhiều vô kể. Chỉ cần bới lên một chút dưới lớp đất xốp là có ngay những chú trùn làm mồi. Tôi chọn chỗ nước lờ đờ chảy và thả câu xuống, mắt không rời cái phao trắng làm từ cây đay khô... Bỗng phao động đậy làm tim tôi đập mạnh, hồi hộp lạ thường. Lúc đầu phao còn giật giật vài cái, sau đó phao chìm dần và bị lôi đi. Tôi giật mạnh cần câu và nghe cảm giác rung rung đầu dây câu nghe thật sướng. Một con cá bống to bằng ngón chân cái vừa mắc câu. Thứ cá bống này phàm ăn. Hễ gặp mồi là bập vào ngay chiếc miệng rộng và kéo chạy một hơi. Cá còm ăn nhẩn nha, chẳng “Đi đâu mà vội mà vàng/ Mà vấp phải đá, mà quàng phải … câu”. Có khi nó gỡ mồi gần hết rồi bỏ đi. Khi đưa câu lên chì còn miếng trùn nhỏ xíu. Con tôm rằn mới rề rà đến sốt ruột. Khi gặp trùn, nó khoái lắm nhưng nó thủng thẳng dùng hai cái càng, khều qua khều lại, đưa lên nếm thử rồi bỏ xuống…
Cứ thế, những con cá còm, cá rầm, cá ngạnh, tôm rằn (loài tôm này thịt mềm và thơm nên có câu ca “Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi/ Gạo nhe An Cựu mà nuôi mẹ già”) - lần lượt được giật lên, phơi bụng trắng lóa trong nắng chiều...
Gió bờ sông man mác, mát rượi khiến lòng người khoan khoái, mơn man cùng nắng chiều vàng nhạt. Cành đa rủ xuống bến sông, tạo nên cảnh sắc hữu tình của một miền quê yên ả. Dẫu đi xa tận góc bể chân trời, nhưng tháng ngày ấu thơ bên bờ sông câu cá không thể nào quên được…
Tuổi thơ....Câu Rắn!!
Ở nhà mình mấy anh em mình có tất cả những đồ chơi của đám trẻ con thời đó từ chiêc nỏ bắn chim đến chiếc cần câu cá.vào buổi sáng sớm chủ nhật mình và anh trai thường hay đi câu đến trưa!
Thời đó ở quê mình cá còn nhiều ở sông và trong đồng ruộng nữa. Để chuẩn bị cho việc đi câu cá 2 anh em thường phải đi xúc tép để làm mồi câu cũng như phải có địa điểm đi trước rồi.hai anh em thường chọn những cầu bến của từng hộ gia đình ven sông là nơi để câu vì ở nơi đó cá thường hay trú ngụ đợi người ra rửa bát hay làm những thức ăn ở đó để ăn những thức ăn.Từ ngày biết câu cá cả 3 anh em tỏ ra rất sát cá đi câu được rất nhiều.Cứ mỗi lần cần có thức ăn mặn là cá thì chỉ cần 1 trong 3 anh em xách cần đi câu chừng 2h thôi là cả nhà lại có thêm món cá để ăn nữa!
Rồi một hôm chỉ có một mình đi câu cá ở trong những mương dẫn nước ở ngay sau nhà.Trên tay có chiếc cần câu và cái sô đựng cá mình tự tin bước đi.Sau khi ra khỏi nhà mình đi vòng ra đằng sau ngõ bắt đầu câu.Hồi đó mình cũng học lớp 8 rồi mà!Khi thấy mình câu cá mấy đứa em nhỏ hơn mình 7,8 tuổi bên hàng xóm xung quanh liền đi theo xách sô hộ mình.Mình đi câu thường không thích có nhiều người theo nhất là trẻ con vì chúng không yên tĩnh dễ làm cho những con cá hoảng sợ không dám ăn nữa. đi một lúc thấy chúng nô nghịch nhiều quá mình đuổi chúng về nhưng chảng đứa nào chịu về cả.còn đám cá thì chúng cũng e dè hơn có lẽ chúng thấy ồn ào quá hay chúng thấy có điều gì bấ ổn trong những miếng môi ngon lành đang treo trước miệng chúng. Đang cố gắng chờ đợi thì từ trong bụi cây ngay mặt nước có một chú rắn(Hoa cỏ) loại này có độc có thể gây chết người!to hơn ngón tay cái trườn ra ngay bên miếng mồi câu của mình khi mình chưa kịp thả xuống mặt nước.Làm đám cá bỏ đi hết.Bao nhiêu công chờ đợi bây giờ bỏ đi hết nên mình tức chú rắn này lắm!Nhưng mình cũng hơi sợ rắn mà.mình vội vàng bảo tất cả mấy đứa em tránh xa ra ngoài để mình thực hiện một công việc mà trước đây bao nhiêu năm trong nghề câu mình chưa thực hiện đó là Câu rắn.Nói câu chứ thực ra là cho Lưỡi câu hay dây cước cuốn lấy con rắn thôi vì rắn không chịu ăn mồi.
Lúc đó mình hết sức tập trung vào công việc này nên không để ý xung quanh vì mình an tâm đã bảo mấy đứa em ra xa rồi.Mình vong cần câu để cuốn dây cước vào mình chú rằn và nhè nhẹ kéo căng lên. đến khi chú rắn biết có nguy hiển thì đã quá muộn mình giựt cần lên chiếc lưỡi câu mắc vào sợi cước cuốn lấy con rắn và bị mình giựt lên mình quay cần theo quán tính vì sợ dừng cần lại con rắn sẽ thoát được nhưng khi chưa kip quay được 1 vòng thì nguyên con rắn và sợidây cước tìm đến đúng cổ đứa em gần nhà mình.mà cuốn lại!Híc híc giá như đứa em và con rắn không có nguy hiểm gì thì không sao nhưng cả 2 đang ở trong vòng nguy hiểm mà. Đứa em sợ quá khóc thét lên và đưa tay gỡ con rắn ra còn con rắn thì theo phản xạ cắn ngay vào cổ đứa em!!Mình lúc đó đứng như Từ Hải chết đứng đó!Nhưng khác ở chỗ Từ Hải chết đứng vì bị lừa còn mình lúc đó thì do quá sợ hãi!Ngay sau đó bố của đứa em chạy ra bế đứa em về và không quên nói với mình một câu..:Con tao mà làm sao thì tao giết mày….!!”Ngay sau khi biết có chuyện bố mẹ mình vội vàng qua nhà đứa em kia để giải quyết.Mọi người đi tìm đủ cách nào là lấy nam châm,bắt gà về cắt máu ra dí vào vết cắn đến cả việc cho uống sữa và nhiều đường nữa. đưa nam châm vào thì Nam châm bị xám lại chứng tỏ có độc còn cắt máu gà đưa vào vết thương để độc chạy ra vào máu gà rồi gà cũng chết!! nhưng đứa em đó lại tỉnh không sao cả!! đứa em vẫn khoẻ mạnh!!.nên mình cũng bớt lo lắng hơn nhưng cũng bị bố mẹ mắng cho một trận
Về sau mình nhận ra là con rắn đó không có độc thực ra có thể là một trường hợp hi hữu vì thường là chúng có độc còn vì sao có những hiện tượng kia mình có thể giải thích được:Nam châm hút độc vì sao xam lại ư? Do bị máu và nước rửa vết thương dính vào nên bị xám.còn gà không phải do dộc mà gà chết mà do gà bị cắt tiết sau khi chảy máu mà không được băng bó thì mất máu mà chết thôi!!.CÓ lẽ đây là kỉ niệm nhớ đời nhất của mình!!bây giờ nghĩ lại mình vẫn thấy sợ …hic hic!
Tấm vé thứ năm trở về tuổi thơ
Ng
ườ
i ta th
ườ
ng đánh giá mình qua nh
ữ
ng th
ứ
vô nghĩa d
ạ
ng nh
ư
ạ
i sao tu
ổ
i th
ơ
c
ủ
a mình không ‘xyz’ th
ế
này ho
ặ
c ‘abc’ th
ế
kia, mình không có nh
ữ
ng cu
ộ
c đánh nhau tóe l
ử
a, cũng không giang h
ồ
ngông cu
ồ
ở
nh
ữ
ng chân c
ầ
u,… nh
ư
ng đâu đó mình th
ấ
y kiêu hãnh
, th
ấ
y t
ự
hào vì nh
ữ
ng th
ứ
mình t
ạ
o ra. Ch
ợ
t nh
ậ
n ra nh
ữ
ng th
ứ
ả
i qua th
ậ
t hi
ề
n và đ
ẹ
p h
ơ
n bao gi
ờ
h
ế
.
Hè l
ớ
p ba đ
ượ
c vô n
ộ
i h
ọ
c v
ớ
i th
ằ
ng Linh, cô Năm (đang làm cô giáo tr
ườ
ng làng :P) tr
ự
c ti
ế
p d
ạ
y hai đ
ứ
a. T
ừ
ộ
t th
ằ
ng h
ọ
c trung bình b
ỗ
ng d
ư
ng th
ấ
y t
hích h
ọ
c m
ộ
t cách d
ễ
ợ
. Mình gi
ả
ộ
t bài toán có nhanh h
ơ
n bình th
ườ
ng, suy nghĩ m
ộ
t v
ấ
n đ
ề
có nhanh h
ơ
n bình th
ườ
ng,…nh
ư
ng ch
ỉ
riêng h
ọ
c thu
ộ
c m
ộ
t cái gì đó là lâu h
ơ
ộ
t h
ọ
c sinh bình th
ườ
ng :))
.
H
ồ
i đó toàn b
ị
đ
ứ
ng góc l
ớ
p vì không th
ể
nào h
ọ
c thu
ộ
c
đ
ượ
c m
ộ
t bài th
ơ
, hay đ
ọ
c thu
ộ
c m
ộ
t bài văn dài đăng đ
ẵ
.
Ngày
ấ
y là m
ộ
t trong nh
ữ
ng ngày đ
ẹ
p nh
ấ
t, ghi sâu và ký
ứ
c c
ủ
a mình nh
ấ
t trong chu
ỗ
i nh
ữ
ng kho
ả
nh kh
ắ
c mang tên “tu
ổ
i th
ơ
ơ
ngác”.
Hôm đó c
ầ
m c
ầ
n câu ra cái đìa tr
ướ
c nhà n
ộ
i đ
ể
câu cá, mình đi
đ
ầ
u tiên (dù r
ằ
ng không bi
ế
t câu th
ế
nào), th
ằ
ng Linh đi phía sau l
ậ
t đ
ậ
t c
ầ
m theo m
ấ
y con trùn b
ắ
t đ
ể
ẵ
n trong h
ủ
v
ớ
i hi v
ọ
ng đ
ượ
c m
ộ
ầ
y cá phi t
ố
i v
ề
kho v
ớ
i đ
ậ
u t
ươ
ờ
ơ
i, vi
ế
t l
ạ
i mà thèm quá xá tr
ờ
i đ
ấ
.
Dùng l
ưỡ
i câu bu
ộ
c cũng không bi
ế
t, nh
ư
ặ
c nhiên vì tính t
ự
cao nên ng
ồ
i bu
ộ
c cho b
ằ
ng đ
ượ
c m
ớ
i thôi, khi th
ấ
y th
ằ
ng Linh gi
ậ
ầ
ậ
t c
ầ
n câu, mình càng điên ng
ườ
i h
ơ
n. Nó h
ỏ
i “sao Hai Huy ch
ư
a câu n
ữ
a”, mình tr
ả
l
ờ
ơ
“Ch
ỉ
nh l
ưỡ
i câu m
ộ
t chút xíu cá dính m
ỗ
i l
ầ
n c
ả
chùm, ai câu m
ộ
t c
on nh
ư
mày”. Nó th
ấ
y l
ạ
. Và làm m
ộ
t chút ch
ả
xong, mình gi
ậ
t c
ầ
n câu c
ủ
a nó đ
ể
câu, tr
ả
l
ạ
i c
ầ
n câu v
ớ
i cái l
ưỡ
i bu
ộ
c hoài không ch
ắ
c. Th
ằ
ng nh
ỏ
hay thi
ệ
t, nó lèm bèm nh
ư
ng ch
ỉ
c
ầ
n vài giây là bu
ộ
c ch
ặ
t đ
ượ
c l
ưỡ
.
Câu mãi không th
ấ
y cá, mình huýt gió t
ơ
ơ
n, coi v
ẻ
th
ư
thái l
ắ
m. Th
ằ
ng Linh điên ng
ườ
ạ
t “Hai Huy đ
ừ
ng hút sáo coi, cá ch
ạ
y đi h
ế
ồ
i”. Nh
ư
hi
ể
u ra đ
ượ
c v
ấ
n đ
ề
, mình tr
ừ
ắ
t lên sung s
ướ
ng. Nh
ư
ng ch
ẳ
ng th
ấ
y m
ộ
t con cá nào ch
ị
u táp m
ồ
i c
ủ
a mình, tron
g khi đó th
ằ
ng Linh v
ẫ
n câu đ
ề
u đ
ề
u t
ừ
ng con m
ộ
t. Cho đ
ế
n khi đ
ượ
c n
ử
a xô, mình nu
ố
t cái
ự
c “c
ầ
n câu có v
ấ
n đ
ề
ồ
i”
.
Và mình l
ạ
i đ
ổ
i c
ầ
n câu l
ầ
ữ
a
…
K
ế
t qu
ả
v
ẫ
n nh
ư
th
ế
.
T
ứ
c mình, v
ớ
i l
ạ
i tính tình lúc
ấ
y không th
ể
ch
ờ
đ
ượ
c lâu, mình vác cái r
ổ
đi xúc…cá
lia thia. Nghĩ t
ớ
i mà m
ắ
t sáng r
ỡ
.
Cá lia thia th
ườ
ng trú
ở
nh
ữ
ng tán lá d
ừ
a r
ụ
ng xu
ố
ng ho
ặ
c
ở
ọ
d
ừ
a r
ỗ
ng, nên men theo nh
ữ
ng qu
ả
d
ừ
a r
ụ
ng, mình ch
ỉ
c
ầ
n đ
ổ
xu
ố
ng là có th
ể
v
ớ
t đ
ượ
c vài ba con là bình th
ườ
.
Nh
ư
ng trò này cũng chán, mình săn qu
ầ
n c
ở
i áo, l
ộ
i xu
ố
ng cái ru
ộ
ng đ
ể
ắ
t cá lia thia…con. Ph
ả
i xúc v
ề
nuôi và đào t
ạ
o nó t
ừ
nh
ỏ
thì m
ớ
i thành chi
ế
n sĩ cao c
ấ
p đ
ượ
c - mình nghĩ th
ế
.
Nh
ư
ng ch
ư
a k
ị
p xúc b
ầ
y lia thia thì b
ầ
y lòng ròng, cá rô con b
ơ
i l
ở
n v
ở
ướ
c m
ặ
t, th
ấ
y t
ứ
c mình, níu tán cây th
ấ
, v
ớ
i ra xa mà xúc hoài không đ
ượ
c. Ch
ư
a k
ị
p có ph
ươ
ng án ti
ế
p theo thì b
ị
cô Năm lôi c
ổ
vào đánh cho nh
ừ
ử
.
Thì ra cô Năm s
ợ
trong hang cá lia thia có r
ắ
n và ch
ỗ
ru
ộ
ng đó n
ướ
c sâu tr
ượ
t chân xu
ố
ng có n
ướ
c n
ổ
i l
ề
u ph
ề
u sau hai-ba ngày n
ữ
a, nên cô Năm t
ưở
ượ
ng xanh m
ặ
t. Đem v
ề
đ
ậ
ộ
ậ
n cho b
ỏ
thói li
ề
u m
ạ
.
Sau tr
ậ
n đòn đó, t
ự
d
ư
ng có đ
ượ
c m
ấ
y con cá c
ủ
a th
ằ
ng Linh đem kho đ
ậ
u t
ươ
ng, ăn ngon bá cháy b
ọ
chét. Nh
ớ
năm đó lúa nhà n
ộ
ị
h
ạ
t c
ỏ
ộ
n chung, g
ạ
o đ
ẹ
p đem bán, g
ạ
o có bông c
ỏ
đ
ể
ở
nhà ăn, v
ừ
a ăn v
ừ
a l
ự
a, coi b
ộ
c
ự
c l
ắ
m. V
ậ
t mà th
ấ
y cái gì cũng ngon, chũng thích. Còn nh
ớ
cái món canh ng
ộ
đ
ờ
i, Khóm (th
ơ
ấ
u v
ớ
ướ
c đ
ườ
ng, có m
ộ
t con cá rô trong đó, m
ộ
t ít mu
ố
i,… v
ậ
y mà ăn ng
ấ
m đ
ế
ậ
n não, đã gì đâu
.
C
ứ
ỗ
i l
ầ
n h
ọ
c xong, cô Năm đ
ề
u th
ả
cho đ
i câu cá, và hình nh
ư
ch
ư
a bao gi
ờ
mình câu đ
ượ
c con nào cho đúng nghĩa
.
H
ồ
ờ
v
ề
quê, th
ấ
y m
ọ
i th
ứ
ơ
ụ
i h
ế
ồ
i, ch
ẳ
ng còn cái gì ra ng
ọ
n ra cành, n
ướ
c m
ặ
n thì h
ừ
ng h
ự
c làm da nh
ớ
t nháp, nh
ầ
y nh
ụ
a. Có chăng là nh
ữ
ặ
ồ
ồ
ọ
c xiên mình qua đ
ố
ng phèn chát đ
ắ
ng. T
ụ
i nh
ỏ
ờ
ỗ
i l
ầ
n mu
ố
n đi ch
ơ
i, ch
ỉ
xin “m
ẹ
ơ
i cho con năm ngàn ra ngoài Đ
ậ
p đ
ể
ch
ơ
i đi
ệ
ử
”
…
T
ụ
i nó đâu bi
ế
t đ
ượ
c r
ằ
ng cách đây ch
ừ
ườ
ấ
y năm, có m
ộ
ố
câu chuy
ệ
n, mà khi k
ể
l
ạ
i, ng
ườ
i ta th
ườ
ở
đ
ầ
u b
ằ
ng “ngày x
ư
a, ngày x
ử
a”
…gi
ố
ng nh
ư
truy
ệ
n c
ổ
tích v
ậ
y
!
Tuổi thơ và con cá mắc cạn mưa giông
Nguyễn Minh Sơn
Dễ chừng hai mươi năm rồi mới trở lại đập Ông Đà. Một chuyến đi ngẫu hứng với một người quen đề nghị “đi chơi bất cứ chỗ mô không phải là khu du lịch”. Ừ thì đi. Chạy một mạch môtô gần 90 cây số có đèo dốc cũng chẳng là bao. Rứa mà hơn hai mươi năm rồi mới trở lại. Nghĩ mình cũng đối xử thiệt là tệ với tuổi thơ.
Cái đập nước thuỷ lợi không rộng lắm, bơi xuồng chừng ba tiếng đồng hồ vòng quanh. Trời nắng chang chang, cả mấy người trèo lên cái ghe câu nhỏ xíu men theo triền núi. Lâu lâu tấp vô bóng mát của một cây trâm, cây bùi, cây si nhoài ra mặt nước. Mấy con chim trả, chim thầy bói im lặng đầy âm mưu ven bờ nghe động vụt bay đi thả lại hàng tràng tiếng kêu hoảng hốt. Dọc triền đồi, hoa sim hoa mua nở tím ngát, hoa dành dành trắng muốt. Phải chăng mình đã tới Mạn Đà Sơn Trang, lòng tự nghĩ như rứa khi thuyền sắp ghé vô một bãi đất trống giáp sườn núi. Trên đó đột ngột hiện ra một túp lều tranh nhỏ với vài người đang lui cui nướng cá thơm lừng. Cá gáy nấu ngót, cá thát lát, cá lúi nướng bỏ lên lá sơn hón thơm đâu đây mùi vị của tuổi thơ giữ trâu bắt cá. Một bữa rượu ngon nhứt trần đời, uống cùng mấy thanh niên ngư dân ở trần đen nhẻm, cơ bắp cuồn cuộn. Chỉ nói chuyện ăn uống, không có chuyện thị phi. Cuối cuộc rượu mấy ngư dân than “ngó rứa chứ ở lâu chỗ ni buồn lắm”. Buổi tối nghe toàn giun dế, côn trùng, chim chóc ăn đêm kêu não ruột.
Cảm giác đó tôi đã từng trải qua rồi. Những đêm hè khi chín, mười tuổi, lũ chăn trâu chúng tôi rủ nhau vô đập Ông Đà câu cá thát lát. Cá thát lát chỉ ăn câu ban đêm, mồi duy nhất là con ăn mày. Những đôi chân trần nhỏ nhoi leo qua nỗng tranh cao ngút đổ xuống thung lũng đập Ông Đà phía bên kia. Chừng tám giờ tối, móc mồi thả câu. Mỗi đứa chọn một cây trâm to ngồi dựa lưng thả câu. Chiếc phao được gắn thêm một con đom đóm. Khi mô thấy ánh sáng đom đóm biến mất, giựt cần lên. Nhiều lần ngủ gục, cá lôi cần đi tuốt. Những đêm hè như rứa theo suốt tuổi thơ. Sáng ra, mỗi đứa một giỏ cá đầy tận hom. Chỉ có mùa hè, chưa có mưa giông, cá thát lát mới ăn câu. Những con cá hình lưỡi mác lưng máu xanh nghít, mập ú, mới thấy đã nghe thơm.
“Những năm đói, củ dong riềng luộc sượng” tôi theo ba đi đứng cá đập Ông Đà. Mùi tanh tanh của cá cấn, cá mại, mùi thơm thơm của cám rang làm mồi nhử theo suốt cuộc đời. Lần nớ, tôi và ba cất tủ tới trưa, chỉ được một nhúm cá cấn. Chẳng biết răng bữa đó cá không ăn mồi. Hai cha con vừa đói vừa buồn. Bỗng dưng trời chuyển giông. Một cơn mưa kèm sấm chớp chói loà vang động cả núi rừng. Hai cha con chạy vô một ngôi trại rẫy để đụt mưa. Lòng thầm than trời, đã không may mắn lại còn gặp giông gió. Hơn hai tiếng đồng hồ sau ngớt mưa. Hai người, một già một con nít lủi thủi rời trại trở về. Mới bước chưn xuống tới mấy đám ruộng trỗi, bỗng nhiên tôi la lên đầu tiên. Ba ơi! Cá! Cá nhiều quá! Một cảnh tượng chấn động tâm can chưa từng có đang hiện ra. Trên những đám ruộng trỗi cỏ chát cao ngang ống chân, bị nước mưa giông chảy làm ngã rạp, hiện ra không biết bao nhiêu là cá mắc cạn. Hàng trăm con cá lúi, cá rô ức đẻ lội ngược dòng, nước rút chạy không kịp phơi mình giãy đành đạch trên thảm cỏ.
Khi cơn chấn động đã qua, hai cha con lựa những con to nhứt “lượm” đầy một tủ, túm lại bốn góc và khiêng về. Ba nói, ở đời đừng có bi quan, trong cái rủi thường có cái may, như ngày hôm nay! Tôi không tin lắm vào may rủi. Tôi chỉ tin, ngày hôm nớ tôi thiệt hạnh phúc. Hạnh phúc không phải do phấn đấu hay tìm kiếm mà có. Bởi nó không hề có hình hài vóc dáng cụ thể. Nó thường tới bất ngờ, giản đơn hẳn so với những suy nghĩ cao siêu của bạn về nó. Đó là một trong những lần hạnh phúc hiếm hoi của tuổi thơ tôi. Mới đó mà hơn hai mươi năm rồi. Tôi đã đi qua hơn nửa quãng đời. Đã giẫm đạp chông gai. Đã ngã xuống và đứng lên. Rốt cuộc chẳng biết để làm gì. Như buổi chiều qua, bên thảm cỏ lều tranh, có mấy người bạn ngư dân mới quen, một chai rượu, ngồi ngó trời xanh mây trắng, nhìn non nước bao la, nghe tiếng con chim bắt cô trói cột kêu buồn buồn hoài đâu đó trên sườn đồi.
Chiều nay y hệt như chiều xưa. Người nay cũng chẳng khác người xưa. Con cá con tôm ở đập Ông Đà cũng đến gần mùa lụt ức nước lại trèo lên bờ mắc cạn. Chỉ có những tuổi thơ dần trôi vô biên mà con người không hay không biết!
Thú câu cá trê
Cuối mùa đông là mùa câu cá trê. Những cơn mưa dầm đã dứt,
Trời se se lạnh nhưng không vì thế mà chúng tôi chùn bước. Những con cá trê vàng hươm như khiêu khích đến hấp dẫn. Chúng tôi thăm dò các khẩu đập đã hàn chưa. Nếu hàn rồi là sẵn sàng lên đường. Chúng tôi chuẩn bị khá chu đáo từ cần câu, mồi câu, đến "viên gạch bùa".
Cần câu thì lúc nào cũng sẵn, nhưng dây câu mỗi loại cá đều khác nhau.
Câu trê thì lưỡi câu ngắn, chì nặng, lưỡi câu có thẻo tơ, chì cách lưỡi chừng vài ba phân, rất khác với câu hanh, chì và lưỡi cách nhau đến vài mươi phân. Mồi hấp dẫn nhất với cá trê là trùn mủ, thứ trùn hơi nhỏ, dai, trong bụng toàn thứ nhớt màu trắng đục dẻo quánh. Mồi móc trùn dồn lại thành một khối, phần thừa chừng vài phân để trùn còn ngo ngoe, hấp dẫn cá.
Điều đáng chú ý nhất là viên gạch bùa.
Đây là kinh nghiệm của chúng tôi học ở người miền Nam, tận vùng Tiền Giang, Hậu Giang. Viên gạch được nung lửa, càng nóng càng tốt. Một xị mắm cơm nục thứ ngon, để sẵn. Viên gạch vừa lấy ra khỏi lửa là tưới mắm lên. Gạch nóng hút hết mắm. Mùi thơm, tanh của mắm tỏa ra lạ lùng khó tả. Lấy dây cột viên gạch chừa mối dài như dây câu. Thế là sẵn sàng.
Cơm chiều xong, chúng tôi tơi nón lên đường. Vai vác cần, lưng mang vịt,
tay cầm gạch bùa men theo từng bụi tre, bờ ruộng đến bờ sông. Trời chạng vạng. Chọn nơi thích hợp, thường là một bụi tre, bên dưới nước hơi quặn. Nước không chảy mạnh mà quanh lại. Đó là địa điểm tốt nhất. Lấy cần thăm nước, nước sâu hoặc cạn quá đều không tốt. Ném viên gạch bùa xuống là bắt đầu. Cá trê là loài háo ăn, đánh được hơi mồi là chúng đến cả bầy. Không biết từ đâu mà người đi câu ở miền nam lại phát hiện được cá trê thích mùi mắm nêm. Họ còn bảo rằng: khi câu được con cá đầu tiên, bạn hãy ngắt đuôi cá, thả lại xuống nước.
Thông thường cá đã bị mắc câu rất nhát không ăn câu nữa.
Nhưng trước mùi vị hấp dẫn của viên gạch bùa, cá quên đau đớn mà ăn trở lại. Cho nên bạn cứ tiếp tục câu, câu cho hết bầy cá, đến khi câu được con cá bị ngắt đuôi đó là con cuối cùng, bạn phải thay đổi chỗ khác. Cá ăn là biết ngay, cá đớp mồi, rung cần khá mạnh rồi kéo tuột. Nhún cần, cá mắc vào lưỡi kéo lên. Khi được cá lớn, cần cong vòng xuống. Con cá như cố ghì ngược lại, dây câu căng, đánh lệch một vòng. Có lẽ đây là phút hồi hộp và vui nhất. Niềm vui như lớn theo tầm cỡ con cá.
Được cá chưa phải là xong, mở cá ra khỏi lưỡi mới là phút quyết định.
Phải dạn tay, vuốt theo chiều dây câu đến miệng cá, tay bóp mạnh cho hai ngạnh cá xếp lại và gỡ lưỡi ra. Nói thì dễ nhưng làm phải quen, tuần tự, nhịp nhàng, nếu không sẽ bị cá đâm ngạnh vào tay, buốt ơi là buốt, máu chảy là thường. Ngạnh cá vừa bén lại vừa có gai nên những ai mới tập câu đều dễ bị cá đâm, không đau như kim mà nhức buốt đến phát sốt.
Cái thú câu cá là lắng nghe, chờ đợi. Trong giờ câu dường như ta quên tất cả phiền muộn. Tâm hồn thanh thản. Có lẽ vì thế mà người ta gọi là thú chăng, vả lại khi câu được cá, sự vui thú càng tăng gấp bội, cái vui thú của một kẻ chiến thắng, dù đó chỉ là thắng một con cá nhép.
Những hôm trúng đậm, đem về rộng trong lu ăn dần hoặc bán bớt.
Cá có mùi tanh vì nhớt nhưng khi đã nấu chín, mùi tanh ấy dường như biến mất. Cá trê làm sạch, ướp gia vị mà nấu cháo thì ngon tuyệt. Tùy theo khẩu vị người ta mà ướp nhưng không thể thiếu ớt. Thứ gia vị không quên là củ nghệ. Bát cháo vàng ươm, ngây ngây mùi gia vị, phảng phất mùi nghệ, mùi đặc trưng của cháo cá trê. Vớt cá sắp ra dĩa, rưới một tí nước mắm ngon. Miếng cá vàng nóng hổi, ngon đến quên mời. Nếu ai là bạn của Lưu Linh thì có thể dùng một ly đế nhỏ. Cứ thế xơi cho đến khi đất trời đảo lộn. Tục ngữ có câu: "Đầu cá chép, mép cá trê" - đó là những món ngon. Mép cá trê chỉ hơi giòn giòn, béo béo mà thôi. Cá trê quý ở chỗ thịt rất lành mà lại bổ.
Ở thôn quê, mỗi mùa đều có những thú vui riêng.
Câu cá trê là thú vui đỉnh cao, hồi hộp trong chờ đợi, lặng lẽ nghe dòng nước chảy qua dây câu và cuối cùng là chiến thắng. Dù xa quê lâu năm, khi đông về lại nhớ tuổi thơ, nhớ những đêm đông trời lạnh đi câu cá trê.
Kỷ niệm ấu thơ
Ai cũng có một thời thơ ấu với biết bao kỷ niện vui buồn… Với tôi cũng vậy, ngày ấy Hà Nội vẫn tiếng tầu điện leng keng chạy qua phố tôi (Hàng Bông), giờ không còn nữa, tuổi thơ của tôi không có nhiều đồ chơi, thú vui như trẻ em bây giờ. Chúng tôi chỉ chơi bi, đánh khăng, chơi “xô vê” … chơi chốn tìm. Con người sinh ra thì mỗi người đã có ham thích khác nhau rồi, riêng tôi thì thích nuôi cá, bé tẹo đã biết nuôi cá Kiếm, hắc mô ni đẻ… để bán rồi, nhảy tàu điện vào tận Hà Đông để vớt cá “Khổng Tước” về Hà Nội bán, tôi không hiểu tại sao cứ thích kiếm tiền cơ chứ? Năm tôi lên 5 tuổi - ở cạnh nhà có anh Chung hơn tôi 3 tuổi hay ra hồ Hoàn Kiếm câu cá, A rất sát cá và là một thợ đánh ba tiêu nổi tiếng ở hồ. Hôm nào cũng mang cá về và còn mang ra chợ Hàng Bè bán nữa…
Hồ Hoàn Kiếm do hợp tác xã Thuỷ Sản thả cá hàng năm đánh lưới thu hoạch rất nhiều cá. Một hôm anh rủ tôi đi theo và lần đầu tiên tôi ôm cá vào bụng chạy về … vì câu cá trộm mà… dần dà tôi sang nhà anh còn dậy tôi đúc lấy ba tiêu nữa - vậy là tôi bắt đầu vào nghề câu năm ấy là năm 1963.
Vài ngày sau tôi lại theo anh đi tầu điện xuống chợ Giời phố Đặng Thái Phiên đến nhà ông già tên là Chưởng “Gù” gì đó để mua lưỡi “bộ lưỡi câu gồm 6 lưỡi” tôi bắt đầu học câu “lục” hay còn gọi là “câu chạm” – không hiểu ở Hà Nội có từ bao giờ môn câu cá kiểu này… rất hiệu quả và rất đam mê.
Từ đó cứ sớm nào tôi cũng làm dây câu, có phao và lưỡi, cước buộc sẵn, lấy ít mỳ sợi rang lên đập nhỏ rồi lấy đất vụn trộn vào làm thính để ra hồ câu. Không có cần tôi bẻ cành phượng thành cần câu, cũng lội xuống và lấy chân đạp bùn thanh “ổ” rồi thả thính vào đó.
Sau 20’ là cá đã vào ăn mồi – ngày nào tôi cũng câu được rất nhiều cá chủ yếu là chép…thỉnh thoảng các chú công an cũng ra nhắc nhở không được câu, nhưng vì trẻ con nên chẳng ai để ý mấy. Cuộc sống đang thanh bình thì chiến tranh xảy ra. Tôi và gia đinh đi sơ tán về Hà Bắc, ở Vạn Vân – làng nầu rượu nổi tiếng – qua sông cầu bên kia là làng Thổ Hà cũng nấu rượu là nghề chính của mọi nhà, Tôi lại câu sông đủ loại cá, ngon nhất vẫn là cá bò “có mầu da vàng óng” có lẽ giống mầu da bò nên có tên như vậy. Tôi học bên này sông cùng với một số bạn bên kia sông, trong lớp không được nói chuyện về nhà thì bạn ở bên kia sông, sáng - tối chỉ gọi nhau ơi ới qua sông, nên sau này lúc tôi 45 tuổi, một đêm bật dậy nhớ về kỷ niệm đã qua – tôi đã sáng tác bài hát về dòng sông mang đầy kỷ niện ấy… bài “Tình đôi bờ sông Thương” khi hát bài này bạn bè tôi rất thích đó là bài hát thứ 6 tôi sáng tác vì âm nhạc cũng là một niền cảm hứng say mê mà tôi đã học rất nhiều từ khi còn nhỏ (đàn, trống, hát, ký xướng âm…).
Về câu cá thì thật nhiều kỷ niệm, năm tôi học lớp 5 gia đình đi xơ tán, lần này bố tôi quyết định về Tân Hội – Hà Tây gần Hà Nội để tiện việc đi lại. Tôi nhiều lần nhìn thấy bom rơi đầy trời thật may mắn mình còn sống đến ngày hôm nay, nghĩ lại vẫn còn run sợ…Thời gian trôi đi và chiến tranh tạm lắng xuống, gia đình tôi về Hà Nội. Tôi xin bố mẹ được ở lại thêm một thời gian vì…CÁ!
Chả là ở ngoài Đồng có mấy cái “chuôm” hợp tác xã họ đào, giữ nước từ sông Hồng vào để tưới ruộng, ngày đó lưới cũng rất hiếm, nông thôn không biết câu cá chỉ đánh “Dậm” thôi, nên cá nhiều và to mà không ai biết bắt. Tôi tự làm ba tiêu và mua cước về, chặt cành tre rồi ra “Chuôm” câu, kiểu câu này tôi hay gọi vui là: “Lưỡi đi tìm Cá” không như câu Lục, câu lưỡi đơn là “Cá đi tìm Lưỡi”. Ban đầu tôi ra “Chuôm” đánh ba tiêu thấy được nhiều cá quá ăn không hết đành nhờ một anh hàng xóm mang ra chợ bán. Thấy tôi câu được nhiều cá mọi người cũng bắt chước nhưng không làm được ba tiêu vì tôi giữ bí mật cách làm…hiệu quả kém không câu được như tôi, thế là tôi tự lo cuộc sống cho mình. Bố - mẹ tôi ở Hà Nội chẳng thấy tôi nhắn gì về cả nên cũng sốt ruột, Bố tôi vào để xem, tại sao lâu thế không thấy con về Hà Nội …và rồi khi hiểu cụ thể Bố tôi cũng làm cần, cũng ra giật ba tiêu “ở quê họ gọi là câu xiết” cá nhiều quá đủ loại nào Trắm, Trôi, Mè, Chép …cả Nheo và cá Lăng nữa, bé thì 1kg mà to thì tới 5-6kg.
Một buổi tối Bố tôi “ông” và tôi đi đánh ba tiêu vừa được vài đường tiêu thì ông gọi to… “Nghĩa ơi trúng rồi”… con gì to lắm, tôi vội cầm vợt chạy lại sau mấy phút thì ông kéo được vào bờ tôi soi đèn pin… “Ôi, sợ quá!” Bố tôi vui mừng vì… không phải cá mà là một con… rắn rất to và dài cỡ bằng cổ tay dài gần 2m, rắn gì tôi cũng không biết chỉ nhớ khi mang về nhà ông làm thịt, các món tôi ăn thấy rất ngon, một trong những món ăn mà ông rất thích. Bây giờ tôi cũng thường sang làng Lệ Mật ở Gia Lâm để thưởng thức các món về rắn, thấy ngon và hương vị rất đậm đà bản sắc … Việt Nam.
Cá câu đựơc bán hoài rồi cũng bị lộ … Hợp tác xã họ họp bàn và ngăn “Chuôm” lại để tát thế là hết “Chiều ni em đi mãi” … Bố con tôi đành gác cần về Hà Nội, cuộc sống lại bình yên. Khi tôi lớn lên vào quân đội và trở về, rồi những kỷ niệm, kỷ lục câu cá mới chính thức bắt đầu… Những câu chuyện có thật về câu cá …nhất là cá Trắm đen, là những chuyện hấp dẫn và thật ly kỳ tôi sẽ viết sau đây
CÂU CÁ LÒNG TONG
Tản văn của Ngọc Vinh Chớm đông, gió heo may lại lướt thướt kéo về, lục bình chưa kịp trôi đã… nở, phù sa lắng xuống tấp đâu đó bên bãi sông bồi, nước từ đục ngầu rồi chuyển sang trong như được lóng phèn khi mùa mưa chậm dần rồi dứt hẳn. Nước trong leo lẻo đủ để nhìn thấy từng đàn cá lòng tong bơi lượn tìm mồi. Trên bờ, hàng so đũa bắt đầu nhú bông, đám đậu rồng cũng lún phún những nụ màu trắng tím gợi thèm một tô canh chua thơm phức mùi ngò gai, mùi ớt hiểm giầm nước mắm trong và con cá lòng tong cong cong, trắng tươi, béo ngậy. Sự thèm được khơi dậy từ tiềm thức gây nhớ rồi đột nhiên muốn một bước nhảy về tuổi thơ để tìm lại những khoảnh khắc trong trẻo, hồn nhiên của cuộc sống dân dã, nhọc nhằn nhưng đầy lãng mạn, trong đó có “nghề” câu cá lòng tong.
Xưa, ngoại tôi cứ qua lập đông là bà chọn một đọt trúc cong vừa phải trong vườn, chặt, phơi khô và vót cho láng để chuẩn bị cho một mùa câu cá lòng tong. Cá lòng tong mùa nào cũng có nhưng nhiều và ngon nhất chỉ có ở giai đoạn từ đầu đông cho tới cuối tháng Hai âm lịch. Hồi đó, do tiết kiệm ngoại tôi chỉ mua lưỡi câu, còn nhợ thì được thay thế bằng những cọng chỉ màu trắng. Riêng mồi câu, ngoại không sử dụng thứ nào ngoài cơm nguội trộn cám. Lúc ngồi câu, một tay ngoại cầm cần câu, tay kia ngoại bóc hột cơm se liên tục cho hột cơm quện với cám xăn lại để móc vào lưỡi câu không rã. Câu cá lòng tong, khâu quan trọng là chọn bến và thời điểm, trúng hay thất lệ thuộc rất lớn vào những kinh nghiệm này. Thời điểm thì đơn giản rồi. Dân quê ai cũng biết cá lòng tong thường kéo nhau đi kiếm mồi lúc nước vừa lớn. Thời gian này mà thảy mồi là giựt không kịp! Nhưng bến câu mới là yếu tố quyết định trúng thất trong một ngày vì, chọn đúng bến, người câu sẽ có được nguồn cá dồi dào để mà “khai thác”! Ngược lại, ngồi chưa nóng chỗ đã phải quảy câu đi chỗ khác.
Khi ngoại “về hưu”, tôi “kế thừa sự nghiệp’ câu cá lòng tong của bà trong những ngày nghỉ cuối tuần để cải thiện cho mình những bữa cơm nghèo trước đó. Tôi câu cá không giỏi bằng ngoại nhưng “lì” hơn và “đa dạng hoá” mồi câu nên ngoài kiếm ăn thì có khi còn dư cá để bán lấy tiền đi học. Với tôi, câu cá lòng tong trong cái ý nghĩa đơn thuần là kiếm ăn thì nó còn là một thú tiêu khiển, một cách rèn cho mình sự nhẫn nại, chịu khó. Thuở ấy, có hai địa điểm “ruột” để ngồi câu, đó là cây gừa già gie ra mé sông gần bến đò ngang và cây điều tán rộng trong con khém sau góc vườn nhà ngoại. Chỗ gốc gừa gie ra mé sông, kỉ niệm tuổi thơ tôi ngồn ngộn ở đó. Không chỉ câu cá lòng tong, đó là nơi bọn trẻ chúng tôi tập trung bày những trò chơi dân gian như năm mười, đu bay (nắm rể gừa lấy trớn đu ra ngoài sông rồi buông tay cho rớt ùm xuống. Đứa nào đu xa hơn sẽ thắng.)… Nơi này, tôi đã từng đọc cho mấy thằng bạn nghèo của mình nghe bài thơ “Nhớ con sông quê hương” của Tế Hanh khi học lóm được của người chị bà con học cấp ba:
Quê hương tôi có con sông xanh biếc.
Nước gương trong soi tóc những hàng tre.
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè.
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng…
Nơi này, tôi từng giả bộ ngồi học bài để dòm lén cô gái chèo đò có mái tóc dài quá lưng được kẹp lại gọn gàng, đung đưa theo mỗi nhịp chèo. Nơi này, tôi từng ngồi hút mắt chờ mẹ tôi đi mót lúa ở tận miệt Long An, Đồng Tháp trở về. Nơi này, tôi có những vui buồn hờn giận của đứa trẻ bần hàn, lăn lóc giữa đời như chiếc lon rỗng, thỉnh thoảng được kêu lon ton khi có người đá vào! Và nơi này, tôi thường ngồi ngắm hoàng hôn tắt để hy vọng một bình minh trong lành…
Khác với chỗ gốc gừa, nơi tán điều ở góc vườn trong khém là một không gian hoàn toàn im ắng, vắng lặng đến mức có thể nghe cả tiếng cá đớp mồi, tiếng lá rơi và cả tiếng xế trở chiều! Cây điều vào mùa đông, từng sợi hoa đổ tím xuống mặt nước. Cứ có một đợt gió là có một đợt mưa tím rụng đầy. Đàn cá lòng tong chỉ chờ cơ hội này là “ăn móng”. Ngồi câu mà thưởng thức bức tranh chiều có màu trầm đầy lãng mạn đó rồi mơ hồ một bóng hình thôn nữ thoáng qua trong vườn vắng thì tuyệt vời làm sao! Rồi, trong cái yên ắng đến tịch liêu ấy, những âm thanh thôn dã từng chút, từng chút một rụng vào kí ức: Tiếng bìm bịp kêu xa, tiếng gà cục tác, tiếng mẹ gọi con văng vẳng: Bớ… Tèo… sao mà thương vô cùng!
Câu cá lòng tong nhìn thì thấy đơn giản vậy nhưng không có kỹ thuật thì kiếm ăn cũng khá vất vả. Từ khâu chọn lưỡi câu, cách móc mồi câu cho tới việc nhấp câu, giựt câu phải có một quá trình trải nghiệm mới thuần thục được, nhất là chọn thời điểm giựt câu để cá mắc câu. Cá lòng tong rất háu ăn, thảy mồi vừa tới mặt nước là chúng tranh nhau đớp mồi. Giựt nhanh sẽ vuột mồi, giựt chậm cá sẽ nhả mồi do đụng lưỡi câu. Thích hợp nhất là khi cá ngậm mồi lôi đi một khoảng ngắn, nhấp nhẹ cần câu cho vừa đủ để lưỡi câu móc vào miệng cá, lôi lên cá không bị sứt mép mà sẩy mất.
Cá lòng tong là thứ dễ chế biến thành… mồi nhậu nhất! Buổi chiều, muốn lai rai với bạn bè thì trưa đó trèo giựt một mớ bông so đũa và hái vài chục trái đậu rồng để sẵn. Nước nhửn lớn sẽ đi dọc theo hàng rào dâm bụt để tìm ổ sâu. Nước vừa chảy mạnh là ra cầu bến thảy một nắm cám để nhử cá. Và, nếu câu giỏi, chừng hai mươi phút sau sẽ có một nồi canh chua cá lòng tong bông so đũa và đậu rồng đũa bốc khói. Trong lúc chờ nấu canh chua, xách cần câu tới một bến khác ngồi câu “ráng”. Canh chín cũng là lúc có thêm một món mới từ cá lòng tong: cá lòng tong chiên giòn. Ngối nhấm nháp chút rượu đế cùng những người bạn nông dân lam lũ giữa thôn quê yên bình dưới tàn cây mát rượi bóng chiều rồi khề khà những chuyện mùa màng, giá cả; chuyện mưa nắng thất thường; chuyện được mất đời người như gió thoảng, mây bay… Hạnh phúc có khi chỉ đơn giản và nhẹ nhàng như vậy nhưng không dễ tìm trong sự bộn bề tất bật của cuộc kiếm sống hôm nay.
CÂU
Ế
CH AO LÀN
G
Nhà thơ Từ Kế Tường Sài Gòn đang vào mùa mưa, người ở thành phố không nghe được tiếng ếch kêu mưa nhưng sáng ra xách giỏ đi chợ có thể mua được ếch cột xâu còn sống nhảy loi choi, hoặc làm thịt sẵn về chế biến thành nhiều món khoái khẩu tùy theo sự sành điệu của “đầu bếp” như: ếch chiên bơ, ếch xào lăn hoặc đơn giản như… ếch nướng mọi.
Nhưng người ở quê thì không làm sao ngủ được vào những đêm mưa đầu mùa vì sau khi mưa tạnh là tiếng ếch kêu vang trên đồng ruộng, ao, đầm. tiếng ếch kêu vào đầu hôm cho tới tận nửa đêm là báo hiệu mùa sinh sản, tiếng ếch đực kêu gọi bạn tình để làm công việc giao phối để sáng hôm sau chúng trở lại ao, đầm. Ếch cái đẻ trứng, nở con là những bầy nòng nọc bơi tung tăng chờ ngày rụng đuôi, mọc chân nhảy lên bờ tìm hang hốc trú ẩn, trở thành một thế hệ ếch khác. Còn đôi vợ chồng ếch kia cũng chỉ gặp nhau trong một đêm mưa rồi dù còn sống sót bởi may mắn thoát khỏi anh soi ếch để trở về lại ao đầm cũng… không sống nổi bao ngày bởi tay anh câu ếch.
Câu ếch rất đơn giản, một cây cần câu trúc đủ dài để vươn ra tới giữa mặt ao, đầm, dây câu đủ bền, chắc để ếch vùng vẫy khỏi đứt, lưỡi câu uốn cong, có ngách sắc và hiểm do tay câu ếch có kinh nghiệm chế tác để ếch cắn câu là… giựt bá phát. Mồi câu ếch lại cực kỳ đơn giản mà rất “nhạy”, đó là mấy cái bông mướp màu vàng sẵn trên giàn ngắt xuống ngâm trong chiếc lon sữa bò có chút nước cho tươi, một cái giỏ quàng qua vai là có thể xuất hành. Ao hồ trong làng vào mùa mưa đầy ngập nước, lũ ếch sống trong hang sau mùa sinh sản nhưng lại thích ngâm mình trong nước mát khi nắng lên. Do đó tay câu ếch có kinh nghiệm nên xuất hành vào lúc mặt trời lên khỏi ngọn dừa, là lúc lũ ếch rời khỏi hang lao mình xuống ao, hồ ngâm da, tắm mát vì da ếch không chịu được nắng nóng. Nếu để da mất nước, khô, thì chắc chắn lũ ếch sẽ chết.
Tay câu ếch chọn ao, hồ nào có nhiều hang ếch chung quanh bờ và khi xách cần ra đi lúc quay về là phải nặng giỏ. Ếch không lặn hụp trong nước ao, hồ như… rái cá mà ngâm nửa thân mình trong nước rồi thả trôi từ từ để rình mồi. Mồi ếch là lũ côn trùng, nhưng món ếch thích nhất là bươm bướm, đặc biệt là bướm màu vàng. Lũ bướm vàng thường lượn lờ trên mặt ao, hồ không hiểu để làm gì, chắc là… giỡn nước. Nhưng chúng biết đâu rằng lũ ếch đang ngâm mình trong nước, chỉ ló có chiếc đầu ngụy trang màu rêu giống màu nước ao, hồ đang giương mắt nhìn lên chực sẵn để phóng lên đớp chúng. Đừng tưởng ếch thả trôi, lờ đờ mà lầm chúng chậm chạp. Khi phát hiện ra một chú bướm vàng nhởn nhơ bay là đà trên mặt nước, ếch ta lập tức phóng lên, đớp một phát, khó có chú bướm ngây thơ nào thoát khỏi cú đớp nhanh như gió, rất ngoạn mục như làm xiếc này.
Và bởi thế nên lũ ếch trong ao, hồ mới chết bởi tay anh câu ếch. Lúc nhỏ, tôi nổi tiếng là tay câu ếch… ”thiện xạ” bởi nắm rõ quy luật này. Đứng tren bờ ao, móc bông mướp vào lưỡi câu, vung cần ra giữa mặt hồ, mắt quan sát khắp lượt và tinh ý lắm mới phát hiện một chú ếch “đặc công thủy” đang thả trôi trên mặt hồ xanh xanh gờn gợn như một nhúm, bèo tây. Lập tức tôi lia cần câu về phía trước miệng ếch, bông mướp vàng chấp chới y chang một bóng bướm. Ếch im lặng, bất động, nhưng đôi mắt chớp nhanh ngắm nghía “con mồi” đầy màu sắc hấp dẫn. Vài giây cảnh giác, ếch ta nhoài tới ngoác cái miệng rộng đớp một phát. Nếu tay câu ếch lơ tơ mơ thấy thế giựt cần ngay là hỏng ăn, bởi ếch rất tinh ranh, đó chỉ là cú ngoạm mồi thử thôi, chú ếch liền nhả ra ngay. Kiên nhẫn… kiên nhẫn… và rồi sự kiên nhẫn sẽ mang đến thành công, chú ếch sẵn sàng đớp cú thứ hai và nuốt mồi vào bụng. Lúc này chỉ việc giựt mạnh cần về phía sau, lưỡi câu sẽ mắc gọn vào hàm ếch. Dù ếch rất mạnh, giẫy giụa cũng lắm, nhưng… hết đường thoát. Người câu ếch chỉ việc một tay nắm eo ếch, một tay bẻ hai chân ếch, gỡ lưỡi câu, bỏ ếch vào giỏ.
Bây giờ ngoài chợ quê người ta cũng bán ếch nuôi, nhưng ếch câu trong ao làng vẫn được giá hơn ếch nuôi. Nhưng ít ai câu ếch để bán mà để tăng chất đạm cho bữa cơm gia đình, và trước hết câu ếch là một thú vui thôn dã, một môn… thể thao, giải trí, xả stress tuyệt vời. Và cũng may mắn sao, làng quê bây giờ vẫn còn nhiều ao, hồ. Và sau những đám mưa đầu mùa sau khi làm nhiệm vụ sinh sản, duy trì nòi giống lũ ếch lại trở về ao hồ ngập nước ngâm mình tắm mát, rình mồi để cho ta có được thú vui dân dã ấy.
MÙA CHIM DÒNG D
Ọ
C LÀM T
Ổ
Phía trước nhà tôi là một giồng cát, chu vi bằng một công đất, cứ theo hai mùa mưa nắng mà mẹ tôi trồng hoa màu. Mùa nắng thì trồng dưa, mùa mưa thì trồng bí, xen kẽ vào mỗi thời vụ trồng thêm cà, đậu xanh, đậu phộng, bắp… nên giồng cát quanh năm phủ một màu xanh ngăn ngắt dưới nền trời cũng xanh thăm thẳm những đám mây màu trứng sáo xa ngút mắt.
Phía trước nhà tôi là một giồng cát, chu vi bằng một công đất, cứ theo hai mùa mưa nắng mà mẹ tôi trồng hoa màu. Mùa nắng thì trồng dưa, mùa mưa thì trồng bí, xen kẽ vào mỗi thời vụ trồng thêm cà, đậu xanh, đậu phộng, bắp… nên giồng cát quanh năm phủ một màu xanh ngăn ngắt dưới nền trời cũng xanh thăm thẳm những đám mây màu trứng sáo xa ngút mắt. Bao quanh giồng cát ở ba mặt là ba hàng keo gai ken dày, cây keo gai lá nhỏ, xanh mướt chỉ có hai loài thích ăn, dưới đất là bầy dê luôn háu đói ăn tạp, trên không là bầy quýt tàu, một loại bọ cánh cứng to cỡ bọ rầy màu xanh rất đẹp đẻ trứng nhỏ xíu như trứng thằn lằn, nhiều màu mà trẻ con thích mê thường bắt về nuôi trong hộp thuốc Tàu để… ngắm chơi. Những con quýt tàu thường đậu trên những tán keo gai ngủ ngày, lừ đừ, lười biếng cứ gặm lá keo gai non chứ không muốn bay nên lấy cây thọc là rơi xuống đất vẫn chưa tỉnh ngủ.
Trong ký ức của tôi, mùa keo gái chín cũng là mùa chim dòng dọc làm tổ. Những trái keo gai khi còn non thì màu xanh, đặc biệt khi chín thì… màu trắng sữa, vỏ nứt ra có thể nhìn thấy những “mắt” trái keo gai màu tím trắng ngon mắt bên trong không chỉ có loài chim cưỡng bông thích ăn mà trẻ con cũng rất thích vì nó có mùi vị rất lạ, một loại trái cây hoang dại, rất đồng quê và ghi đậm vào hoài niệm một thời thơ ấu của bất kỳ ai luôn thổn thức với nỗi nhớ quê nhà. Thủa ấy, tôi không nhớ chính xác bằng ngày tháng, chỉ khi một sáng thức đậy thấy giồng bắp của mẹ tôi trái no tròn, ngậm những tua râu hung hung đỏ nhưng chưa tới lúc hạt dày, đang đợi ngày hái trái và thảm lúa trên cánh đồng trước mặt đang trĩu bông, ngã màu vàng ươm như nắng mai thì cũng là lúc trên hàng keo gai trĩu trái chín chi chít lũ chim dòng dọc đang về xây tổ, đẻ trứng.
Không hiểu sao tôi rất thích nhìn những đôi vợ chồng chim dòng dọc tha “nguyên vật liệu” xây dựng từ trong thiên nhiên về chăm chỉ xây tổ hình chiếc vớ to trên những nhánh cây keo gai. Có lẽ trong họ hàng nhà chim không loài nào siêng năng, cần mẫn, chăm chỉ và kỳ công xây chiếc tổ đẹp lạ lùng như chim dòng dọc. Và cũng không loài chim nào như dòng dọc chọn lựa loại “nguyên vật liệu” xây dựng tổ “cực kỳ” như dòng dọc. Mỗi ngày từ sáng sớm đôi vợ chồng dòng dọc khoác bộ cánh nâu, sọc đen trống mái phân biệt rất rõ bởi chim trống có cái đầu màu vàng nghệ (nên còn gọi là dòng dọc nghệ) bay đi bay về, miệng ngậm một sợi chỉ rất mảnh, đó là chỉ mà đôi vợ chồng chim dùng chiếc mỏ nhỏ xíu tướt trên những cọng lá tranh, lá sả, yếm bọc buồng dừa để về đan tổ. Bởi thế nên tổ chim dòng dọc ngoài sự kỳ công còn có mùi thơm đặc trưng của mùi lá sả, lá tranh mãi đến khi chúng ấp trứng nở con.
Chiếc tổ hình chiếc vớ miệng tròn chúc xuống đất nhỏ xíu đường kín chỉ cỡ cổ tay trẻ con nối với phần thân tổ phình ra giống cái bao tử (dạ dày) là nơi dùng ấp trứng lại nối với đoạn cuối của chiếc tổ tóp lại. Toàn bộ độ dài của tổ dòng dọc khoảng 3-4 tấc được treo lơ lửng trên chót nhánh cây keo gai mang đặc tính vừa cảnh giác, vừa phòng hộ đến độ gần như tuyệt đối an toàn để không có một “ địch thủ” nào vào được bên trong chiếc tổ kiến tạo đơn giản mà rất hiểm hóc này để ăn trứng hay ăn chim con. Tôi cho rằng chiếc tổ chim dòng dọc là một công trình kiến trúc độc đáo, vừa công phu, mà lại vừa… đơn giản khiến cho bàn tay con người, hoặc tay nghệ nhân tuyệt kỹ cũng khó mà bắt chước được. Thế mà trong thời gian ngắn những đôi chim dòng dọc chăm chỉ ấy đã hoàn thành những chiếc tổ màu xanh lá cỏ hình chiếc vớ dành cho chim mái ấy và treo lủng lẳng khắp hàng keo gai bên cạnh những chiếc tổ dành cho chim trống đứng bảo vệ thời kỳ chim mái ấp trứng được đan kết đơn giản hơn giống như nửa quả bóng cao su của trẻ con chơi úp lại có một sợi dây kéo ngang cho chim trống ngủ. Và rồi cũng trong chớp mắt khi lúa chín vàng đồng cũng là lúc tôi nghe thấy tiếng chim non kêu lít nhít đòi chim bố mẹ mớm mồi trên những chiếc tổ đã ngã màu vàng rơm thôi thúc tôi kiếm cách trèo lên khám phá thế giới không gian đầy tiếng chim ấy.
Nhưng để thò tay vào được những tổ chim dòng dọc mát mịn da tay, thơm mùi hương ngai ngái của cỏ tranh hoang dại để khám phá xem tổ chim có mấy trứng hoặc nở được bao nhiêu chim non, đã “ra ràng” tập bay chưa để bắt xuống nuôi thật không phải dễ dàng. Cây keo gai tất nhiên cành nhánh đầy gai nhọn không leo lên được, nếu leo lên cũng không thể bám cành đu ra tận tổ chim treo lắt lẻo giữa không gian. Lũ trẻ con chúng tôi rất sáng tạo, bắt hai cây thang tre chéo nhau, một đứa dứng vịn bên này tạo thế vững chắc, đứa bên kia leo từng bậc thang tre lên tới tổ chim dòng dọc. Thường một tổ chim dòng dọc nở 3-4 con chim non, chim tập bay là bắt xuống nuôi được bằng cách nhai gạo sống mớm cho chim cho đến khi chúng mổ được gạo, thóc thì… thả ra cho chúng trở về với thiên nhiên cao rộng chứ chim dòng dọc chỉ biết kêu ríu rít tồi ngày mà không hót được. Người chỉ nuôi chim sáo, chim cưỡng, chim nhồng để chúng nói, hoặc chích chòe, chào mào… để chúng hót chứ không ai tốn công sức để nuôi chim dòng dọc
Và cũng kỳ lạ thay, hết mùa chim non này tới mùa chim non khác, những bầy chim dòng dọc đông đảo dần cho đến một hôm cánh đồng quê làng xong vụ gặt thì chúng đã rời tổ bay khỏi những hàng keo gai để lại những chiếc tổ hình “dạ dày”, hình “vớ” lắt lẻo, đong đưa, hoàn toàn trống vắng, lặng im trên những nhành keo gai trong gió lộng thổi suốt qua giồng bắp nhà tôi. Không ai biết bầy chim dòng dọc bay về phương nào cho tới mùa lúa xây bông vàng rực năm sau chúng lại rủ nhau về tíu tít, bận rộn đan những chiếc tổ mới bên cạnh những chiếc tổ cũ cái còn, cái mất vì bọn trẻ con chúng tôi thường thọc những tổ chim dòng dọc xuống, nhét một trái bưởi non vào, cuộn tròn lại thành một quả banh rơm để chơi đá banh. Loài chim dòng dọc không bao giờ sống trong tổ cũ mà phải xây chiếc tổ mới và cũng chỉ trong chớp mắt trên những hàng keo gai lại lủng lẳng những tổ chim hình chiếc vớ và lại ríu rít tiếng chim non.
Nhà thơ TỪ KẾ TƯỜNG
K
ỷ
ệ
m mùa cua g
ạ
c
h
Do đặc điểm đất Bến Tre được bao bọc bởi bốn cửa của sông Cửu Long như: Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, hình thành nên ba cù lao: cù lao Bảo, cù lao Minh, cù lao An Hoá, nên tiềm năng thuỷ - hải sản của Bến Tre rất dồi dào ở cả ba vùng nước: mặn, ngọt, lợ. Riêng ở trong sông và vùng bốn cửa sông có đến 208 loài động vật thuỷ sản, 18 loài tôm và 24 loài giáp xác, nhuyễn thể hai mảnh vỏ có giá trị kinh tế cao.
Bài viết nầy tôi chỉ đề cập đến con cua và kỷ niệm mùa cua gạch.
hững năm gần đây ở Bến Tre, việc ứng dụng kỹ thuật mới trong nghề nuôi đã xuất hiện nhiều mô hình nuôi vỗ cua ốp thành cua chắc, cua yếm thành cua gạch điều nên gần như cua gạch có quanh năm trong các nhà hàng, quán ăn.
Cua cũng có đực có cái. Không hiểu cua cái có nắm quyền chỉ huy theo chế độ mẫu hệ không, song, kinh nghiệm dân gian đoan chắc một điều là vòng đời con cua đực khá ngắn ngủi ứng với câu “Anh hùng đoản mệnh”. Bởi lẽ, đến độ tuổi trưởng thành, khi hoàn thành xong nghĩa vụ duy trì nòi giống là anh cua đực rũ (chết mòn), anh cua đực nào tránh được quy luật nầy trở nên “thái giám” thì anh cua đực đó lớn hết cỡ gọi là cua kềnh, cân nặng khoảng 3 - 5 kg như chơi.
Nếu cua được bắt vào những ngày sáng trăng thường là cua ốp (cua vỏ mềm, ít thịt, thịt kém vị ngon ngọt); ngược lại, nếu bắt cua vào những ngày tối trời thường là cua chắc - nhất là cua hai da (sắp lột vỏ vào mùng 10 và ngày 25 âm lịch hàng tháng). Nói chung, cua tháng nào cũng có nhưng từ tháng 6 âm lịch đến gần Tết, chất lượng cua ngon hơn hẳn đầu năm đến giữa năm, do ảnh hưởng nước mặn, nguồn thức ăn kém.
Cua gạch tập trung có mùa khoảng tháng 9 đến tháng 12 âm lịch hàng năm. Ngon nhất là loại cua gạch cái so, tập trung khoảng tháng 9-10 âm lịch, gạch cua và thịt cua rất ngon. Tháng 11-12 âm lịch, cua gạch điều (đã đóng chắc gạch chuẩn bị sinh sản) thịt ít ngon, gạch cua béo ngậy ăn rất ngán.
Nhớ lại những năm học phổ thông trung học (khoảng thập kỷ 60-70 thế kỷ trước), trong hoàn cảnh chiến tranh thì việc bắt cua dễ như bỡn. Canh chừng tới khoảng mùng 10 hoặc 25 âm lịch, những buổi không có giờ học, tôi và Quang (nay đã ra người thiên cổ; tôi với Quang có nhiều kỷ niệm tuổi học trò và tôi sẽ ghi lại đôi việc sau) mò vô hàng rào dinh quận Bình Đại (phía trước trụ sở UBND huyện Bình Đại bây giờ) là bắt được nhóc nhách cua lột, cua hai da mang về nhà chỉ để ăn chơi (bán ít người mua với lại chẳng được bao nhiêu tiền). Vào tháng 10 âm lịch, Chủ nhật nghỉ học, theo xuồng nhà đi chăm lúa lại khoái móc hang bắt cua gạch cái so. Ngay quê tôi ở cách xa biển 10 km, lúc đó đi câu cua (móc mồi cắm cần, cua ăn kéo lên vợt bắt) hoặc đi rập cua (lấy hai nan tre cột chằng bốn góc lưới, cua vào ăn mồi kéo rập lên bắt) trong rạch nhỏ, trong mương vườn dừa cũng bắt được cua nhiều vô thiên lủng, chủ yếu mang về nhà để má luộc, rỉa thịt nấu bánh canh cua vắt nước cốt dừa ăn để… cả đời nhớ mãi!
Bây giờ, cua ít tôm nhiều do phần lớn ruộng lúa hoá thành vuông tôm, do con người tàn phá môi trường. Ai muốn ăn cua ngon số một chắc phải chịu cực lội về tận miệt biển Bến Tre, ở ba huyện: Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Biết đâu do vậy mà có quán nổi danh cỡ quán Ngọc Hiệp (xã Bình Thắng, huyện Bình Đại): Cua gạch cái so, cua hai da và hải sản khác do chính tay cô chủ quán chọn ngon thiệt là ngon, đặc biệt cô Ngọc Hiệp có kiểu tiếp thị độc chiêu mở miệng là chửi thề có duyên như… “Nghiệp Học”.
Quang học giỏi lại trắng trẻo đẹp trai nên có một số nữ sinh chung trường mơ mộng để ý. Một lần tình cờ tôi phát hiện Quang viết hai bức thư tình giống hệt nhau chỉ khác tên người gởi (một cô tên Kim Chi, một cô tên Mỹ Lệ). Tôi hơi bất nhẫn khi biết Quang không thành thật nên đánh tráo ruột thư của cô nầy vào bì thư cô khác. Hậu quả thế nào khỏi cần kể chắc người đọc cũng biết (bắt cua hai tay chắc bị cua kẹp!). Thật tình tôi có ân hận vì trò đùa ác ý, dự bụng nói lời xin lỗi với Quang nhưng chưa kịp nói thì Quang đã qua đời.
Mùa cua gạch cùng với kỷ niệm cũ rồi sẽ “vang bóng một thời”. Nay tôi nhắc lại, trước là để cảnh tỉnh tôi liệu… liệu mà sống có hậu với tự nhiên, kẻo không còn có … có cua gạch cái so mà ăn.
Tuổi thơ nhọc nhằn
Mới mười hai tuổi, cái tuổi ăn tuổi học, cô bé Ngọc nhỏ như cái kẹo, gầy yếu phải thức dậy từ ba, bốn giờ sáng theo cha đi đánh cá. Ngọc ngồi lọt thỏm trong lòng con thuyền nhỏ cứ lắc lư, chòng chành theo sóng để kéo lưới, gỡ cá. Ngày ấy, mỗi lần cá mắc đầy lưới, Ngọc gỡ mỏi đôi tay, rồi ngây thơ hỏi cha: “Vì sao con người không sống được dưới nước, còn con cá sống và bơi được trong biển rộng lớn, nhưng lại dại khờ cứ chui vào tấm lưới nhỏ của mình vậy?”. Có những ngày giăng lưới xong, Ngọc ngồi hàng giờ trên thuyền câu cá. Có những ngày “trúng đậm” cá, khi thuyền về bến, Ngọc lại phụ giúp mẹ đi bán cá ở chợ huyện, chợ tỉnh. Cha Ngọc, ông Dân, bộc bạch: “Ngày ấy nhà nghèo rớt mồng tơi, quanh năm bám biển cũng chỉ đắp đổi qua ngày, rất khó bề lo liệu cho bảy đứa con đủ cái ăn, cái mặc. Vậy nên, Ngọc và mấy đứa con lớn đành phải giúp tui đi kéo cá trên biển để cải thiện đời sống…”.
Mỗi sáng cùng cha lênh đênh trên biển, buổi chiều Ngọc tranh thủ cắp sách đi học ở lớp tình thương do các thầy giáo mang quân hàm xanh Đồn biên phòng 352 giảng dạy. Học trò ở lớp tình thương nhiều lứa tuổi khác nhau, Ngọc đến tuổi trăng tròn, lớn tồng ngồng mà mới học lớp 4 với mười mấy em nhỏ. Thế là, Ngọc nghỉ học luôn, rồi trở thành ngư dân thực thụ ở làng biển Đông Tác.
Bám biển mưu sinh
Bất kể nắng mưa, Ngọc vẫn hăng say đi biển giăng lưới, câu cá… Đôi khi một mình, một thuyền nhỏ giăng lưới ven bờ. Mỗi năm, vài tháng chị theo cha đi câu cá đổng, cá ong, rồi vài tháng, chị đi bạn lưới cảng đánh bắt cá ngừ, cá thu cho các ông chủ tàu lớn ở Đông Tác. Trên tàu, chị làm việc luôn tay luôn chân, không thua kém gì đám bạn đàn ông vạm vỡ. Có những ngày vất vả kéo lưới khi trời nổi giông gió, thuyền chòng chành, Ngọc ngã lăn quay ra mạn tàu đau buốt, nhưng chị vẫn không nản lòng, vẫn bám biển dài ngày như các đấng mày râu. Lâu nay, ngư dân miền biển thường quan niệm: Phụ nữ lên tàu hành nghề thì “kị” lắm, không đánh bắt được nhiều cá! Nhưng chị Ngọc “sát” cá lạ kỳ, cứ “nháng câu” là cá bén luôn! Nhiều chủ nghề được Ngọc đi bạn thường được nhiều cá. Hơn nữa, ở giữa trùng khơi, có Ngọc trên tàu, đám bạn đàn ông thấy vui, thấy yêu đời hơn và hăng say làm việc gấp bội. “Sở trường” của chị là câu cá đổng, kéo lưới cản, lưới dệt… Vậy nên, ông chủ tàu nào cũng bỏ qua điều “kị” và rất muốn Ngọc đi bạn! “Nghề đi biển rất vất vả, nhưng không hẳn chỉ có đàn ông mới được làm chủ con tàu vươn khơi. Đàn bà con gái, ai yêu biển, trải lòng với biển, thì biển cũng ban tặng nhiều tôm, nhiều cá vậy!” – Chị Ngọc tâm sự.
Hơn mười năm lênh đênh trên biển, hơn mười năm vất vả “Cưỡi ở đầu sóng, sống ở ngọn gió” giúp sức cho gia đình vượt qua đói nghèo, hăm hai tuổi, chị lên xe hoa cùng với một “đồng nghiệp” giỏi giang, tháo vát ở làng biển Phú Câu. Con mới 6 tháng tuổi, chị đã đi câu bủa (câu nhỏ). Cứ ba, bốn giờ sáng, người mẹ trẻ len lén thơm con nhỏ, gởi mẹ chăm lo, rồi khoác lưới, vác cần câu trên vai ra thuyền cùng đám bạn đi biển đến khi mặt trời đứng bóng mới trở về. Chị Ngọc bộc bạch: “Mỗi người có một nghề để sống. Nghề đi biển nặng nhọc đối với phụ nữ nhưng cái nghiệp nó vận vào mình rồi khó dứt ra lắm! Mình yêu biển cả, yêu tiếng vỗ bờ của sóng và nối nghiệp cha đi giăng câu, đánh lưới. Tuổi thơ nhọc nhằn lắm rồi, nên bây giờ phải cố gắng vun đắp cuộc sống ấm no để lo cho những đứa con của mình được học hành đàng hoàng…!
CÂU CÁ TH
Ờ
I...ĐI H
Ọ
C
Chà, đ
ọ
c t
ự
a đ
ề
này ch
ắ
c m
ấ
y ông s
ẽ
la lên: “B
ộ
bà b
ữ
a nay h
ế
đ
ề
tài hay sao mà ch
ọ
n đ
ề
tài c
ủ
a b
ọ
n con trai ch
ứ
?” .Xin hãy bình tĩnh ! các b
ạ
n th
ử
đ
ọ
c ti
ế
p xem có th
ấ
y hình
ả
nh mình c
ủ
a th
ờ
i cách đây h
ơ
n 40 năm,m
ặ
c xà l
ỏ
ở
ầ
n, tay xách c
ầ
n câu b
ằ
ng tre, c
ầ
ộ
ỏ
tre, ít m
ồ
i trùn ho
ặ
c tôm t
ươ
i là có th
ể
“hành
ngh
ề
” sau bu
ổ
i sáng đi h
ọ
c c
ủ
a nh
ữ
ng đ
ứ
a h
ọ
c trò s
ố
ầ
n hay xa các bãi bi
ể
n cũng đ
ề
u ch
ế
t mê ch
ế
ệ
t, th
ờ
i đó đ
ứ
a nào đi câu đ
ề
u bi
ế
ơ
i do t
ự
h
ọ
c, bi
ế
t c
ộ
t l
ưỡ
i câu b
ằ
ợ
i c
ướ
c trong su
ố
t dai nhách, mu
ố
n c
ắ
t thì dùng răng c
ắ
n cho đ
ứ
t không c
ầ
n dao k
éo, m
ặ
c dù h
ậ
u qu
ả
là mòn răng, m
ẻ
răng cũng k
ệ
, không ph
ả
ẻ
con bây gi
ờ
đ
ứ
a nào cũng đ
ượ
c cha m
ẹ
chăm sóc “t
ậ
n răng” nh
ư
ng nào có đ
ượ
c nh
ư
mong mu
ố
n.Hàm răng c
ủ
a chúng tôi đ
ứ
a nào cũng ch
ắ
c kh
ỏ
e, n
ế
u có h
ư
cũng do tai n
ạ
n mà thôi!b
ả
o đ
ả
m 100% luôn
.
Ngày đó h
ọ
c sinh h
ọ
c bu
ổ
i sáng, chi
ề
u ngh
ỉ
...do đó tôi th
ườ
ng h
ọ
c bài nhanh chóng sau gi
ấ
c ng
ủ
ư
a đ
ể
còn cùng m
ấ
y ông anh đi câu
ở
Bãi Sau khu v
ự
c g
ầ
n Hòn Bà, ch
ỉ
khi nào n
ướ
c ròng chúng tôi m
ớ
i dám l
ộ
i ra t
ậ
ơ
i mà luôn th
ấ
p th
ỏ
ợ
ướ
c lên vào b
ờ
không k
ị
p,có b
ữ
a câu
ở
Ô qu
ắ
n (Bãi d
ứ
a bây gi
ờ
),ho
ặ
c hòn trâu Dinh ông Th
ượ
ng,C
ầ
u Đá ...t
ớ
ơ
i chú
ng tôi còn có nhi
ề
u anh b
ạ
n khác là b
ạ
n h
ọ
c c
ủ
a m
ấ
y ông anh, đa s
ố
là con trai, có tôi là con gái h
ơ
ạ
i l
ệ
, v
ẫ
n đ
ượ
c ch
ấ
p nh
ậ
n nh
ư
th
ườ
ng.Coi v
ậ
y ch
ớ
tôi cũng câu khá l
ắ
m, lúc thì l
ư
ỏ
cá đ
ụ
c tr
ắ
ng trong mang v
ề
cho má kho tiêu, ăn v
ớ
i c
ơ
m ngu
ộ
i ha
y nóng gì cũng ngon, cá tr
ầ
u bà ăn nhão nh
ẹ
t không ngon thì cho mèo...lâu lâu cũng dính đ
ượ
c cá hanh, cá ngác nh
ư
ng ph
ầ
n l
ớ
n ch
ỉ
là cá nh
ỏ
.Th
ự
c t
ế
nhi
ệ
m v
ụ
chính c
ủ
a tôi là coi đ
ồ
,ph
ụ
c v
ụ
các anh và b
ạ
n nhi
ề
u vi
ệ
c nh
ư
đ
ư
a n
ướ
c u
ố
ng,g
ỡ
cá b
ỏ
vô gi
ỏ
...và tr
ự
c ti
ế
p câu cá v
ớ
i chi
ế
c c
ầ
n tre c
ủ
a mình, n
ế
u thích thì b
ắ
ố
c,cào c
ồ
m c
ộ
p...mang v
ề
đ
ể
ấ
u canh c
ả
i thì tuy
ệ
t. Các anh tôi thì câu đ
ượ
c cá d
ứ
a, cá ngác, cá h
ườ
ng... to t
ướ
ng kho
ả
ng c
ả
ký tr
ở
lên, đoán ch
ừ
ng v
ậ
y thôi ch
ứ
ngày
ấ
y làm gì có cân mà xác đ
ị
nh.T
uy nhiên t
ấ
t c
ả
đ
ứ
a nào cũng vui, ai hôm
ấ
y “xui x
ẻ
o” câu ít cá còn đ
ượ
c c
ả
đám xúm vào chia s
ẻ
là b
ạ
n có th
ể
yên lòng mang v
ề
nhà, góp ph
ầ
n vào b
ữ
a ăn gia đình thêm ch
ấ
t đ
ạ
.
M
ộ
t l
ầ
n,tr
ờ
ư
a bão nh
ư
ng chúng tôi v
ẫ
n c
ố
đi câu, m
ư
a
l
ạ
nh c
ả
ọ
n nh
ấ
t đ
ị
nh không v
ề
...k
ế
t c
ụ
c là đ
ứ
a nào v
ề
đ
ế
n nhà thì tr
ờ
ố
ị
t đ
ề
u b
ị
ph
ạ
t quỳ g
ố
i, m
ộ
t anh do ráng tìm cái gi
ỏ
đ
ầ
y cá b
ị
sóng cu
ố
n mà suýt ch
ế
t!v
ề
nhà đ
ứ
a nào cũng im thít vì s
ợ
, th
ế
nh
ư
ng tu
ổ
i th
ơ
mau quên, bu
ổ
i đi h
ọ
c sau chúng tôi l
ạ
h
ẹ
n đi câu ti
ế
ụ
c, bi
ể
n mênh mông xanh v
ắ
t,t
ừ
ng đ
ợ
t sóng tr
ắ
ng tinh
ầ
m ào quen thu
ộ
c luôn quy
ế
n rũ chúng tôi m
ỗ
i bu
ổ
i chi
ề
u đ
ượ
c ngh
ỉ
h
ọ
c,Khi câu đ
ượ
c cá to, đ
ứ
a nào cũng mê! Và tôi đã mang nh
ữ
ng đam mê
ấ
y vào bài vi
ế
t c
ủ
a mình, ng
ờ
đâu má đ
ọ
c đ
ượ
c ra l
ệ
nh c
ấ
ệ
t không cho tôi đi câu n
ữ
a v
ớ
i câu nói ch
ắ
c nh
ư
đinh đóng c
ộ
t: “con gái l
ớ
ồ
i không đ
ượ
c đi câu!”.Tôi
ấ
ứ
c khóc m
ộ
t bu
ổ
ờ
i, cu
ố
i cùng nh
ờ
ấ
y ông anh năn n
ỉ
xin, má cũng cho phép làm tôi m
ừ
ng và k
ể
công v
ề
nh
ữ
ng con cá mình câu đ
ượ
c mang v
ề
.Má c
ườ
i hi
ề
n d
ặ
n dò chúng tôi ph
ả
i c
ẩ
n th
ậ
n vì bi
ể
n coi th
ế
nh
ư
ng d
ữ
d
ộ
i l
ắ
m.Chúng tôi d
ạ
luôn mi
ệ
ng cho qua ch
ứ
có đ
ứ
a nào hi
ể
u gì đâu nh
ữ
ng l
ờ
i má d
ặ
!
Bi
ể
n kh
ơ
i đã g
ắ
n bó v
ớ
i tu
ổ
i th
ơ
c
ủ
a nh
ữ
ng đ
ứ
a h
ọ
c trò chúng tôi
ở
Th
ị
xã Vũng Tàu nh
ỏ
bé ven bi
ể
n ngày nào bi
ế
t bao k
ỷ
ệ
m, bi
ể
n nghìn trùng xanh thăm th
ẳ
m nh
ư
tình ng
ườ
i mênh mông mà mãi đ
ế
n hôm nay, sau bao thăng tr
ầ
m chia xa, b
ạ
n bè tan tác v
ớ
i sóng g
ió cu
ộ
c đ
ờ
ớ
i tìm g
ặ
p l
ạ
i, dù ch
ỉ
dăm dòng th
ư
thăm h
ỏ
i đã
ấ
m áp d
ườ
ng nào,riêng tôi luôn thích nh
ữ
ng bu
ổ
i chi
ề
u ra ng
ắ
ể
n mà nh
ớ
v
ề
chuy
ệ
n ngày x
ư
a, nh
ữ
ng con cá qu
ẫ
y đuôi, cong o
ằ
n c
ầ
n tre khi dính l
ưỡ
i câu luôn là hình
ả
nh khó quên,gieo bao đi
ề
u th
ú v
ị
mà th
ờ
i đi h
ọ
c b
ọ
n chúng tôi có đ
ượ
c so v
ớ
i trăm ngàn trò ch
ơ
i cao c
ấ
p th
ờ
i hi
ệ
n đ
ạ
i bây gi
ờ
,Bi
ể
n còn là n
ơ
i cung c
ấ
p cá tôm ...nuôi chúng tôi l
ớ
n kh
ỏ
e nên ng
ườ
i !Ngày
ấ
y thênh thang bao k
ỷ
ệ
m.Bây gi
ờ
chúng tôi cũng đi câu nh
ư
ng là câu t
ạ
i ao cá nuô
i th
ả
ẵ
n nh
ữ
ng con cá tai t
ượ
ng, điêu h
ồ
ng to béo múp v
ẫ
n làm tôi h
ờ
h
ữ
ng không chút c
ả
m xúc m
ớ
i l
ạ
.
L
ầ
n đ
ầ
u đi câu
.
Khu nhà tôi
ở
ồ
m h
ơ
ộ
t trăm các gia đình cán b
ộ
, giáo viên. Các h
ộ
gia đình đ
ượ
c nhà n
ướ
c c
ấ
p nhà
ở
trong nh
ữ
ng dãy nhà c
ấ
ố
n v
ớ
i di
ệ
n tích 36m2 ho
ặ
c 52m2. Di
ệ
n tích 52m2 thì có nhà v
ệ
sinh riêng, còn l
ạ
i thì không có nhà v
ệ
sinh. T
ấ
ậ
t vi
ệ
c x
ử
lý nhu c
ầ
u đ
ơ
ả
n và c
ơ
ả
n nh
ấ
t c
ủ
a con ng
ườ
i đ
ượ
c d
ồ
n vào nhà v
ệ
sinh công c
ộ
ng, đ
ượ
c chia làm hai dãy phòng và ….chung m
ộ
ể
ướ
c. H
ồ
i đó, tr
ẻ
con t
ụ
i tôi ch
ỉ
hi
ể
u đ
ơ
ả
ố
đ
ứ
a nào làm to h
ơ
n thì đ
ượ
c nhà n
ướ
c c
ấ
p cho nhà to h
ơ
n, mà
ố
nó làm to ch
ứ
ỏ
nhà nó giàu, và nhà nó giàu thì ch
ắ
c ch
ắ
ẽ
có xe máy, t
ủ
l
ạ
nh, tivi màu…. Mà có xe máy thì ch
ắ
c là b
ố
ẹ
nó không ph
ả
i mang c
ặ
p l
ồ
ng c
ơ
m ăn tr
ư
a
ở
c
ơ
quan mà phóng v
ề
nhà ăn u
ố
ng đàng hoàng v
ớ
i gia đình… Và tr
ư
a nào b
ố
ẹ
cũng v
ề
ên nh
ữ
ng đ
ứ
a
ở
nhà 52m2 là nh
ữ
ng đ
ứ
a không ph
ả
i đeo chùm chìa khoá nhà trên c
ổ
.
Trong g
ầ
n 30 đ
ứ
a sàn sàn tu
ổ
i nhau thì ch
ỉ
có tôi và anh Hùng con bác Thu
ậ
ị
xét vào d
ạ
ng nhà giàu, có nghĩa là nh
ữ
ng đ
ố
ượ
ị
h
ạ
n ch
ế
tham gia vào nh
ữ
ng trò ch
ơ
i c
ủ
a c
ả
lũ. Lý do cũng r
ấ
ẻ
con và trong sáng: “Đang ch
ơ
i mà nó ph
ả
i v
ề
ăn c
ơ
m v
ớ
ẹ
thì chán ch
ế
t”. Cũng vì chung cái thi
ệ
t thòi đó mà anh Hùng r
ấ
t quý tôi, th
ườ
ng bênh v
ự
c tôi ra m
ặ
ỗ
i khi tôi b
ị
chúng b
ạ
n đàn áp. Anh h
ơ
n tôi năm tu
ổ
i, h
ọ
c r
ấ
ỏ
i và th
ông minh, trong c
ả
l
ứ
a chúng tôi, anh th
ườ
ng là đ
ứ
a nghĩ ra và kh
ở
i x
ướ
ng nh
ữ
ng trò m
ớ
i, và l
ầ
n nào cũng đ
ượ
c h
ưở
ứ
ấ
t nhi
ệ
t thành, nên ti
ế
ng nói c
ủ
a anh trong đám là r
ấ
ọ
ng l
ượ
ng.
M
ộ
ố
i, h
ọ
c xong bài nên tôi xin phép b
ố
ẹ
sang nhà anh ch
ơ
i. Th
ấ
y anh đang lui cui lau r
ử
a cái bình th
ủ
y tinh, tôi tò mò l
ắ
m. Anh c
ườ
i nh
ẹ
nhàng:
- Chi
ề
u nay anh m
ớ
i đi câu v
ề
, đ
ượ
c 1 con cá c
ờ
đ
ẹ
p l
ắ
m, nên v
ớ
t thêm vài c
ọ
ng rong đuôi chó và th
ả
nó vào trong bình này nuôi cho vui.
Cá c
ờ
hay còn g
ọ
i là cá săn s
ắ
ở
ngoài b
ắ
c m
ớ
i th
ấ
y, sau này khi l
ớ
n lên có d
ị
p vào Nam, vài l
ầ
n, tôi không h
ề
th
ấ
y lo
ạ
i cá này(ch
ủ
ki
ế
n cá nhân -
). Nh
ắ
c đ
ế
n cá c
ờ
trong Nam, ng
ườ
i ta th
ườ
ng nghĩ đ
ế
n nh
ữ
ng con cá Ki
ế
m, l
ớ
ừ
vài ch
ụ
c đ
ế
n vài trăm cân, nh
ư
ng con cá c
ờ
ở
ngoài B
ắ
c thì c
h
ỉ
l
ớ
ằ
ng con cá S
ặ
t. Nh
ữ
ng con đ
ự
c có vây vi r
ấ
t nhi
ề
u màu s
ắ
c, chúng cũng đánh nhau khi tranh giành lãnh th
ổ
nh
ư
cá ch
ọ
i. Và th
ờ
ấ
y c
ủ
a tôi, cá c
ờ
nhi
ề
u đ
ế
ứ
c tranh th
ủ
vác c
ầ
n ra ru
ộ
ng rau mu
ố
ng vài ch
ụ
c phút sau gi
ờ
h
ọ
c cũng có đ
ượ
c n
ử
a r
ổ
mang v
ề
làm th
ứ
c ăn cho gà, v
ị
t.
Hôm nào đi câu anh s
ẽ
ắ
t cho em m
ộ
t con đ
ẹ
p h
ơ
n – Ch
ắ
c th
ấ
y tôi chăm chú ng
ắ
m nghía chú cá c
ờ
ộ
t cách say mê và thèm mu
ố
n, anh Hùng tr
ấ
n an.
Nhìn con cá c
ờ
ươ
ng vây trong cái bình th
ủ
y tinh nhà anh Hùng, tôi mê l
ắ
m. T
ố
i hôm
ấ
y tr
ướ
c gi
ờ
ủ
, trong nhi
ề
u ao
ướ
c tr
ẻ
th
ơ
c
ủ
a tôi, có thêm m
ộ
t ao
ướ
c nh
ỏ
nhoi n
ữ
a: tôi m
ơ
tôi s
ẽ
nuôi đ
ượ
c m
ộ
t con cá c
ờ
th
ậ
t đ
ẹ
ố
ng nh
ư
c
ủ
a anh Hùng.
Sáng hôm sau, đ
ợ
ố
ẹ
đi làm xong tôi tót ngay sang nhà anh Hùng đ
ể
ắ
m cá. V
ừ
a th
ở
v
ừ
a run khi nhìn th
ấ
y cái
ổ
khoá to t
ướ
ướ
c c
ử
a nhà anh, tôi m
ả
i mê mà quên m
ấ
t anh h
ọ
c bu
ổ
i sáng (h
ồ
i đó, h
ọ
c sinh c
ấ
p II đi h
ọ
c bu
ổ
i sáng, c
ấ
p I h
ọ
c chi
ề
u, không h
ọ
c c
ả
ngày
mà v
ề
v
ẫ
n ph
ả
i đi h
ọ
c thêm nh
ư
bây gi
ờ
). Th
ẫ
n th
ờ
, l
ữ
ng th
ữ
ng ra v
ề
đ
ế
n đ
ầ
u ngõ thì tôi g
ặ
p th
ằ
ng L
ự
u, nó c
ở
ầ
n, m
ộ
t tay c
ầ
m c
ầ
n câu, m
ộ
t tay c
ầ
m cái
ố
ơ
ữ
a bò vung v
ẩ
y. Th
ấ
y th
ằ
ng L
ự
u là tôi nh
ớ
ngay đ
ế
n báu v
ậ
t đang n
ằ
m trong khe c
ử
a b
ế
p mà hàng n
gày tôi v
ẫ
n lén mang ra vu
ố
t ve. Ch
ạ
y v
ộ
i đ
ể
ắ
t k
ị
p, tôi v
ồ
n vã:
- Đi câu h
ả
? cho tao đi v
ớ
- C
ầ
n đâu – Nó c
ộ
c l
ố
c
- Đ
ể
ở
nhà
- V
ề
l
ấ
y đi, tao đ
ợ
- Nh
ư
ng ch
ư
a có c
ướ
c, l
ưỡ
i, phao? Tôi th
ắ
c m
ắ
c
- Không c
ầ
n – V
ẫ
n c
ộ
c l
ố
c nh
ư
v
ậ
y
Ba chân b
ố
n c
ẳ
ng tôi ch
ạ
y
th
ậ
t nhanh v
ề
nhà, l
ấ
y v
ộ
i cây c
ầ
n câu r
ồ
i cũng nhìn quanh tìm cái
ố
ng lon gi
ố
ng c
ủ
a nó, nh
ư
ng càng tìm càng không th
ấ
y. Cu
ố
ng quýt, tôi v
ớ
đ
ạ
i cái xô nh
ỏ
đ
ượ
c gò b
ằ
ng tôn đ
ể
ướ
i cây c
ủ
a m
ẹ
. Ch
ạ
y mu
ố
n đ
ứ
t h
ơ
n mà ra đ
ế
ơ
i nó đã m
ắ
ng:
- Mày nh
ư
con rùa
ấ
y
, ch
ờ
mày lâu quá tao đã sang bà C
ả
hay ăn tr
ầ
u xin đ
ượ
c mi
ế
ng vôi r
ồ
i đây này.
- Vôi đ
ể
làm gì? Tôi tròn m
ắ
t.
- C
ứ
đi, kh
ắ
c bi
ế
t. Nói xong nó dúi ngay vào tay tôi cái c
ầ
n câu c
ủ
a nó. C
ứ
nh
ư
đ
ươ
ng nhiên tôi ph
ả
i là đ
ệ
ử
mang đ
ồ
cho nó. Thôi k
ệ
, không có n
ó thì tôi không bi
ế
t câu, mà không bi
ế
t câu thì không th
ể
có con cá c
ờ
nh
ư
anh Hùng đ
ượ
c.
Hai đ
ứ
a tôi mò ra bãi đ
ấ
ố
ng, th
ự
c ra là tôi th
ụ
đ
ộ
ng đi theo nó. T
ớ
ơ
i, nó l
ạ
i c
ộ
c l
ố
c:
- N
ướ
c
- N
ướ
c
ở
đâu
- T
ự
tìm l
ấ
y, đ
ầ
y xô nhé.
Kh
ệ
ệ
xách xô n
ướ
c t
ớ
i, nó kho
ắ
ng đ
ề
u cái
ố
ơ
đ
ự
ng ít vôi vào xô n
ướ
c cho tan h
ế
t vôi, r
ồ
ồ
i xu
ố
ạ
t đám mùn c
ủ
a t
ổ
giun ra đ
ể
l
ộ
cái hang nh
ỏ
ằ
ng đ
ầ
u đũa, r
ồ
i múc t
ừ
ng lon n
ướ
c vôi nh
ẹ
nhàng đ
ổ
vào.
C
ứ
ch
ư
a đ
ượ
c n
ữ
a lon thì m
ộ
t chú giun ch
ị
u không n
ổ
i l
ạ
i ngoi lên kh
ỏ
ặ
t đ
ấ
t, nó nhanh tay l
ự
a ch
ọ
n nh
ữ
ng con giun đen b
ỏ
ngay vào túi nilon, mi
ệ
ng v
ẫ
n còn l
ẩ
ẩ
m:
- Lo
ạ
i này nó m
ớ
i dai, ch
ỉ
ch
ụ
c con là đ
ủ
.
Xong vi
ệ
c, nó h
ấ
t hàm:
- Đi, ra ru
ộ
ng nhà bà Th
ủ
y béo nhé
- Nh
ư
ng còn l
ưỡ
i c
ướ
c? Tôi v
ẫ
n th
ắ
c m
ắ
c v
ớ
i cây c
ầ
e trên tay
- Đây này – Nó lôi trong túi qu
ầ
n ra m
ộ
t cu
ộ
n ch
ỉ
màu đen – C
ắ
n l
ấ
y m
ộ
t đo
ạ
n dài t
ừ
đ
ầ
u c
ầ
n đ
ế
n ch
ỗ
ắ
m tay c
ủ
a mày.
Tôi l
ấ
y m
ộ
t đo
ạ
n ch
ỉ
và bu
ộ
c vào đ
ầ
u c
ầ
n, đo cho dài v
ừ
a ý r
ồ
i theo nó ra ru
ộ
ng rau mu
ố
ng nhà bà Th
ủ
y
.
T
ớ
ơ
i, nó úp cái
ố
ơ
l
ạ
i, l
ấ
y m
ộ
t con giun ra, đ
ặ
t lên đó ngay ng
ắ
ồ
ắ
t hai đ
ầ
u, m
ộ
t tay dí ch
ặ
ữ
con giun, m
ộ
t tay tu
ố
ạ
ch đ
ấ
t và ru
ộ
t c
ủ
a con giun đi, xong vi
ệ
c nó bu
ộ
c bu
ộ
c s
ợ
i ch
ỉ
vào gi
ữ
a xác con giun và đ
ư
a c
ầ
n cho tôi:
- Ch
ọ
n ch
ỗ
ớ
i hái cho thoáng mà câu tr
ướ
c đi, c
ứ
th
ả
xu
ố
ng, th
ấ
y nó ng
ậ
m là nh
ấ
c lên b
ờ
, nh
ặ
ỏ
vào xô.
A ha, hoá ra đi câu đ
ơ
ả
n nh
ư
v
ậ
y sao! Ch
ỉ
có b
ấ
y nhiêu thôi mà tôi không bi
ế
t. Khi đ
ặ
t con giun (m
ồ
i câu) xu
ố
ướ
c, nhúng nhúng c
ầ
n vài cái là b
ọ
n cá c
ờ
ở
đâu đó trong đám rau nghe mùi tanh ch
ạ
y ra tranh giành c
ắ
n xé con giun. Chúng ham ă
n đ
ế
ỗ
i có con b
ị
nh
ấ
c lên đ
ế
ờ
ru
ộ
ồ
i mà v
ẫ
ậ
m ch
ặ
t con giun không ch
ị
u nh
ả
. Có lúc, m
ộ
t phát nh
ấ
c tôi có th
ể
đ
ượ
c c
ả
đ
ế
n hai con, m
ỗ
i con ng
ậ
ộ
t đâu.
Th
ằ
ng L
ự
u nhìn tôi lóng ngóng và la chí choé m
ỗ
i l
ầ
n nh
ấ
c đ
ượ
c cá c
ứ
hì hì cái răng sún ra
c
ườ
i. Nó vui ra m
ặ
t khi th
ấ
y đ
ộ
ng tác c
ủ
a tôi d
ầ
ọ
n gàng và thành th
ụ
c. Sau đó, nó cũng bu
ộ
c m
ộ
t con giun vào c
ầ
n và câu ngay bên c
ạ
nh tôi. Nó câu gi
ỏ
i h
ơ
n tôi nhi
ề
u, ch
ỉ
ch
ọ
n nh
ữ
ng con to m
ớ
i nh
ấ
c, nh
ữ
ng con nh
ỏ
đang lao t
ớ
ế
ồ
i là nó l
ạ
i nh
ấ
c m
ồ
lên kh
ỏ
ặ
ướ
c ch
ờ
đ
ợ
i. M
ỗ
i khi cá ăn m
ồ
i là nó l
ạ
i khéo léo nh
ấ
c th
ẳ
ng con cá vào xô r
ồ
i giũ nh
ẹ
c
ầ
n câu cho r
ơ
i luôn vào, ch
ứ
không nh
ư
tôi c
ứ
nh
ấ
c lên b
ờ
ồ
i l
ạ
i quăng c
ầ
n đi nh
ặ
t cá b
ỏ
vào xô. Vì v
ậ
y, tuy câu ch
ậ
m h
ơ
n nh
ư
ng nó l
ạ
i đ
ượ
c r
ấ
t nhi
ề
u cá
h
ơ
n tôi.
M
ả
i mê câu, m
ả
i mê la hét, m
ả
i mê nh
ặ
t cá, tôi quên b
ẵ
ng đi ti
ế
ng còi tan t
ầ
m báo hi
ệ
u gi
ờ
ngh
ỉ
ư
a. Đ
ế
n lúc xô cá đ
ượ
c l
ư
ng l
ư
ng thì m
ớ
ậ
t mình nh
ớ
ra. Ni
ề
m vui ch
ư
a th
ỏ
a thì s
ự
ợ
hãi đã
ậ
p đ
ế
n. Thôi ch
ế
t, ki
ể
u này v
ề
ị
đòn r
ồ
i, mu
ộ
ờ
ăn c
ơ
ấ
t. Tôi v
ộ
i vã báo th
ằ
ng L
ự
u và nhóng c
ẳ
ng ch
ạ
y v
ề
. Nó g
ọ
ậ
t:
- C
ầ
m cái xô cá v
ề
- Nh
ư
ng trong đó cá c
ủ
a mày câu nhi
ề
u l
ắ
- C
ứ
mang v
ề
, tao ch
ỉ
c
ầ
n đ
ầ
y cái
ố
ơ
này thôi.
Co giò ch
ạ
y v
ề
đ
ế
n c
ử
a, b
ố
tôi đã đ
ứ
ở
đó t
ừ
lúc nào, r
ấ
t nghiêm kh
ắ
c
nh
ư
ng th
ấ
y b
ộ
d
ạ
ng tôi lúc đó, ông ch
ỉ
nói:
- L
ầ
n sau còn v
ề
mu
ộ
ờ
ố
ẽ
đánh
Còn m
ẹ
tôi thì m
ắ
ng:
- Đi đâu quên c
ả
ờ
c
ơ
m, n
ắ
ng nôi th
ế
này không ch
ị
u đ
ộ
i cái mũ, m
ặ
t mày đ
ỏ
gay th
ế
kia có ngày
ố
m đ
ấ
y con.
- D
ạ
con xin l
ỗ
ố
ẹ
.
C
ấ
t v
ộ
i c
ầ
n câu
và xô cá, tôi nh
ả
y ra vòi n
ướ
c r
ử
a ráy r
ồ
i ào vào ăn c
ơ
m cho k
ị
ờ
đi h
ọ
c
Th
ế
là ngày hôm nay tôi đã có cá c
ờ
đ
ể
khoe v
ớ
i anh Hùng r
ồ
i nhé. M
ộ
ề
m hân hoan c
ứ
trào dâng lên mãi trong tôi. Và ni
ề
m hân hoan đó, cho đ
ế
n bây gi
ờ
sau vài ch
ụ
c năm, v
ẫ
n c
ứ
trào dâng lên m
ỗ
i l
ầ
n th
ắ
ng l
ợ
i trong nh
ữ
ng bu
ổ
i đi câu c
ủ
a tôi.
CÂU CÁ
Cá không cắn câu thiệt là cá dại
về nhà nghĩ lại con cá hắn khôn
Thật ra cũng như một trò chơi, cũng như cất tép vậy thôi, nhưng đã kể về làng quê thì không thể không nhắc đến chuyện đi câu cá. Tôi ít khi đi câu. Ngày còn nhỏ chỉ thi thoảng mới theo chú, hoặc cùng với mấy đứa bạn trong làng. Giờ đi xa, bạn bè thuở ấy cũng bỏ làng mà đi cả. Tôi nhớ và tôi viết, như thể cái cần câu kia móc vào trái tim một cú bẫy ngoạn mục búng tôi về đồng đất quê nhà.
Một câu vè thắc thỏm khi tôi nhớ về chuyện này. Vè rằng
"cá không cắn câu thiệt là cá dại/ về nhà nghĩ lại con cá hắn khôn"
. Đúng là nghệ thuật dân gian, nghe rất đỗi bình thường nhưng mà có lí, mà thấm vào máu thịt để mỗi lần nhắc lại là chạm khẽ một điều gì đó của những ngày xưa.
Việc câu cá này tôi biết được từ ông nội. Đêm hôm đó giữa sân, trăng rất sáng của một đêm rằm, ông nằm ông kể với tôi trên chiếc chõng tre. Câu chuyện rằng ngày xưa ông có cái thú đi câu cá. Mà tay ông thật lạ, câu lần nào cũng được rất nhiều. Có bận ông đi với một người bạn trong xóm về phía sông làng Quảng Điền. Câu vừa cắm xuống thì thấy giật giật. Ông đến lôi lên mà chả có con nào, cắm xuống lần hai thì nó lại giật. Mặt nước chợt nhoi lên một cái chúp dù lập lờ ở chỗ đó. Sợ quá ông hét toáng lên "ma!" Rồi vứt tất cả cần câu trên tay mà chạy về. Từ đó bỏ nghề câu. Tôi nằm bên ông nghe kể mà phát sợ, ôm chầm lấy thân thể tuổi già ông. Hôm sau thì ông vót tre làm câu. Chuyện kể tối hôm qua làm ông nội nhớ một thời thanh niên sức trai thoã chí.
Hôm đó tôi ngồi nhìn ông chẻ tre. Cán rựa sắc lẽm đã được ông mài qua đá giờ cứ thế mà đi rất ngót. Nhà tôi có một phiến đá mài, đá này ông đem về lâu lắm rồi. Từ cái ngày nó tròn trịa đầy đặn cho đến bây giờ thì đã khuyết lẹm đi. Đá mài có đặc điểm là không quá cứng, làm sao khi mài lưỡi dao vào là đá phải bị bào mòn nhẹ chảy ra màu nước xanh nhạt. Viên đá mài ở nhà kể ra cũng tuổi với tôi, trong xóm vẫn hay đến mài nhờ.
Vót câu, trước hết phải chặt tre ra từng đoạn khoảng hai lóng, dài cỡ một cánh tay người lớn. Sau đó chẻ ra từng thanh nhỏ bằng ngón tay út và bắt đầu vót. Trước khi đụng vào cây rựa, mấy đứa nhỏ như chúng tôi hay lấy vải buộc quấn quanh ngón trỏ phải, chỗ đó tựa vào nan tre, nếu không buộc sẽ rất dễ đứt tay. Riêng ông tôi, mấy chục năm đã cầm cuốc chai tay cầm cày chai ngón, rựa bấm vào chẳng hề hấn chi. Cứ thế mà chuốt, nhìn lưỡi rựa đi vèo vèo tôi cũng ngán. Đầu tiên chuốt thô cán câu thành một que dài tròn. Cần câu có thể chia làm hai phần như hai cánh tay người vậy. Phần dưới câu thì cứng tròn thẳng. Đến đoạn giữa bắt đầu vót lẹm đi phần ruột để có thể uốn cong.
Ống tre có hai mặt, mặt ngoài nhẵn bóng lên gọi là cật tre, phần trong màu trắng gọi là ruột. Chính phần cật làm cho nan tre chắc và bền hơn. Nhìn vào, cật giống một nước sơn quét phủ bên ngoài. Nói "tốt gỗ hơn tốt nước sơn" chứ thực ra cái nước sơn cật này mà tốt thì chiếc câu bền hơn.
Nhân nhắc đến chuyện tre pheo thì nói cái việc bảo quản dụng cụ bằng tre. Tre trong đời sống người dân Việt ta rất phổ biến, từ tre làm nhà đến tre chẻ củi, tre trong lịch sử xa xưa làm chông cho đến tre ngày nay chống đỡ đê đập. Tre ngoài bụi chặt vào cần phải có cách bảo quản mới bền được. Mà chặt tre, cũng phải đúng thời điểm. Ví như tre chặt mùa xuân hay bị mối mọt vì nước mùa đông ngấm ở trong chưa ra hết. Tre chặt vào tháng sáu là chắc nhất. Làm nhà thường chặt tre vào mùa hè. Tre làm nhà từ ngoài bụi chặt xong phải ngâm xuống dưới mương nước độ một tháng cho chết hết trứng ấu trùng ở trong. Khi lôi tre từ dưới mương lên nó có một màu rêu rất đẹp. Nhiều nhà bỏ qua công đoạn ngâm tre thì sau này nhà dựng lên phải cố mà chịu nghe mọt kêu răng rắc trên mái. Rồi lũ chúng gặm nhấm thả bổi xuống cho mà khiếp.
Cách bảo quản tre thứ hai là đặt lên mái lều. Hun khói. Cách làm này thường đối với những dụng cụ làm bằng tre nhỏ. Ví như cái đòn triêng gánh rau của mẹ, đòn xóc gánh lúa của cha. Hay những cần câu cá mà ông tôi đang vót đây, sau khi câu về phải móc lên trên chái bếp.
Buổi chiều, ra vườn đào giun đất làm mồi để tối đi câu. Nhưng mồi tốt nhất phải là giun nước ở những chân ruộng. Loại giun này nhỏ, thân hình trong suốt. Thực ra thì cá thích ăn mùi tanh, nhưng giun nước bắt miệng cá hơn vì hợp khẩu vị. Thói quen ấy mà! Ngay cả con người cũng vậy thôi. Có người ăn được cá sông mà không ăn cá biển vì sợ tanh. Có người chê cá sông là nhạt, cá biển ngấm vị muối ăn mới tốt. Thì cái đó gọi là thói quen vậy. Cũng như muốn câu cá đồng thì phải nắm rõ cái khẩu vị của chúng. Mồi đi câu không cần nhiều, chỉ loáng một cái là đã có đủ.
Tối. Đi câu cá vào những đêm không trăng mới nhiều, chứ trăng sáng thì khó mà bắt được gì. Cái mẹo này của người dân chài miền sông nước. Nếu lí giải theo chuyện nhà Phật thì ngẫm cũng có lí lắm! Rằng có thể người ta bày ra cái luật bói cá này để nhắc khéo con người đến ngày rằm chớ có đi bắt cá mà mang tội sát sanh, phạm vào giới đầu tiên trong năm giới cấm nhà Phật.
Ăn cơm tối xong là bắt đầu đi cắm, có thể cắm từ hồi chiều nhưng phải đến lúc tối cá mới cắn câu. Chọn những tấm ruộng có nước nhiều. Móc một đoạn giun vào lưỡi câu cho nó bọc vừa hết thì được. Không bọc quá ít giun mồi vì thừa cái lưỡi câu ra, cá khôn sẽ biết mà tránh. Cũng không bọc quá thừa vì cá sẽ túm mồi ở đầu thừa mà kéo thì lưỡi câu hoá vô ích. Nói chung, tất cả đều phải học mới làm được, đơn giản như việc cắm câu nhưng không phải ai cũng câu có cá.
Trước khi cắm cần câu xuống, phải lấy chân khuấy cho vạt nước đó cáu động. Cách làm này đánh hắng cho lũ cá biết mà tới. Cũng đồng thời làm cáu bẩn nước lên cá không nhận ra bẫy lưỡi câu.
Ruộng Bàu là nơi cá nhiều nhất, ở đó quanh năm nước ngập nên cá cũng to. Nước từ các tấm ruộng cao, rồi thì cá từ các hồ ở phía trên theo dòng chạy về Bàu. Ngày nhỏ thường đi theo chú cắm câu ở Bàu. Có một điều là ở đời này, nơi nào trù phú thì cũng lắm kẻ xấu chực phá ta. Như cái vùng Bàu ứ này lắm cá thì đỉa cũng nhiều. Mà tôi lại cực kì sợ đỉa. Chú tôi nhủ, con trai nông dân mà sợ đỉa thì làm gì mà ăn. Ừ, biết vậy nên phải cố mà học, để thoát khỏi cái chân lấm tay bùn chứ sao nữa.
Những loại cá thường hay mắc câu là cá lóc, cá tràu, cá hẽn, cá rô. Cá lóc là cá tràu nhưng còn nhỏ, gọi là lóc vậy thôi. Cá lóc thường cắn câu nhiều vì háu ăn. Đi theo chú, mỗi lần thấy có cá cắn câu là muốn giành lấy mà lôi lên. Có lần chú cho tôi lôi, nhưng luống cuống sao không biết làm sẩy mất. Lần thứ hai lôi lên được con cá rô, sướng quá đưa tay gở ra thì bị nó nẻ một phát chảy máu tay rát tê. Cá rô đúng là dữ, sắc cạnh, vân vẩy như những mảnh rỉ rắt ác độc. Tôi ghét nhất loại cá này, nhưng mà chiên lên rồi chấm nước mắm gừng ăn với cơm thì không gì thích bằng. Mới nghĩ, tự nhiên tất đều có luật, có quy tắc riêng, như loài cá rô thịt ăn ngon thì tánh nó dữ, vậy mới là cuộc đời.
Câu cá theo kiểu này gọi là câu cặm. Cặm là phương ngữ miền trung quê tôi, nói chệch của chữ "cắm" đó. Gọi như thế là để phân biệt với câu giặc (giật). Tức cái cách câu y như tên vậy. Kiểu câu này hồi hộp, thú vị và dùng để chơi là chính. Như trong thơ của cụ Nguyễn Khuyến xưa,
"ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ một chiếc thuyền câu bé tẻo teo".
Cần câu giặc làm từ tre hóp hoặc một nhánh nè to cỡ ngón tay cái người lớn. Dài bằng chiều cao một thân người. Lấy cước buộc một đầu ngọn cần, đầu kia móc lưỡi câu và chiếc phao xốp. Phao xốp này có hai chức năng, thứ nhất làm cho lưỡi câu không bị chìm quá sâu. Loại cá bơi ở hồ hoặc trôi theo dòng chảy thì cách mặt nước độ gang tay. Biết như vậy để chỉnh cái lưỡi câu cho phù hợp. Mục đích thứ hai của việc nối phao xốp là để báo hiệu khi có cá cắn câu. Lưỡi của chiếc câu cặm và câu giặc cũng khác nhau. Câu cặm lưỡi to hơn, là vì cá ruộng thường to, lưỡi to mới móc hợp miệng chúng. Lưỡi câu giặc thì nhỏ hơn.
Câu giặc, có thể đi dọc các con mương. Nhưng cách này thường chỉ ăn may và để có được cá thì rất khó. Thường thường, người ta ngồi bên hồ mà giặc câu. Có mấy nhà làm hồ cá nuôi hay ra ngồi đó, vừa ngồi uống trà vừa ngắm cảnh vừa câu cá. Thú vui này là của các cụ thôi. Bọn con nít chúng tôi thì hay đi câu cá trộm. Ở làng có mấy nhà đào hồ thả cá. Đợi đến lúc to là mấy đứa làm cần đi trộm. Người nhà quê bận lo việc đồng áng, vậy là chúng tôi kéo nhau vào vườn mà thả lưỡi xuống.
Một hình thức bắt cá nữa, nhân chuyện câu cặm câu giặc thì kể luôn. Đó là cất rớ. Rớ được làm bằng cách chăng hai nan tre chéo hình chữ X. Lưới rớ thì đã có bán sẵn, chỉ việc mua về rồi móc bốn góc vào bốn đầu của hai nan tre. Cất rớ này thường chỉ vào mùa lũ, đứng ở trên đê mà cất cũng được nhiều cá lắm! Đợi đến khi lũ ra thì đặt rớ ở những cống nước chảy. Lúc này cá theo dòng trôi nên cứ đặt rớ xuống, kéo lên là có. Lụt năm ấy, chú tôi cất được một con trăn làm mọi người đứng đó hoảng sợ bỏ chạy. Chú tóm tay ngoài rớ rồi cũng bắt được con trăn, đem về nấu cháo ăn. Tôi nhớ mãi con trăn màu vàng to đùng, chắc vì lũ mấy ngày rồi, đuối sức mà nó lọt vào rớ chứ bình thường tôi nghe loài trăn này khôn lắm cơ mà.
Ở làng, cái chuyện đi câu cá đã thành nghề của một đứa bạn đồng lứa với tôi. Nhà nó nghèo, ừ, nghèo thì phải siêng, vì thế mà nó bày ra trò đi câu cá để bán lấy tiền. Thi thoảng tôi hay đi theo nó câu nên biết khá nhiều chuyện cá mú. Thằng bạn đen đũi, nước da màu sạm ấy cũng do suốt ngày chạy đi bắt ốc về cho vịt, rồi thì đào giun làm mồi câu cá.
Tản văn này tôi muốn dành để nhớ về nó - một thằng bạn thân ở làng. Tuổi thơ nó gắn liền với chiếc cần câu, đứng gần nó thì hôi mùi tanh của cá. Nhiều khi tôi nói đùa, mày là ngư dân vạn chài chính hiệu. Nó nhe răng cười để lộ hai hàm trắng hêu hếu. Giờ nhắc lại chuyện câu cá, tôi như tưởng tượng ra trước mắt mình một khoảng trời tuổi thơ, tôi và hắn xách mấy cây câu chuẩn bị đi xuống vùng Bàu. Đêm chìm vào bóng tối, sao nhấp nháy mấy vì tinh tú trên trời.
Mưa Tuổi Thơ
Người miền Trung vốn quen với những ngày hè nắng cháy da cháy thịt, những ngày mưa thối đất thối cát. Tôi cũng trải qua tuổi thơ của mình trong chuỗi ngày đếm cho hết mùa nắng, chờ đợi mùa mưa.
Trẻ con quê tôi thích mùa mưa. Trẻ con không biết đến sự lo lắng của người lớn, chỉ biết rằng tới mùa mưa là đủ trò để chơi. Mưa dầm dề mấy ngày liền, nước ngập hết cánh đồng, tràn vào khu đất trũng trước nhà tôi. Trẻ con trong xóm chỉ chờ có thế là bẻ tàu chuối, lá dừa kết thành tàu, bè thả trôi bồng bềnh trên mặt nước. Chúng tôi dùng cây sào dài để đẩy chiếc tàu lá dừa đua nhau, rồi chạy vòng vòng xung quanh hò hét.
Bất chợt trời lại mưa, chúng tôi rủ nhau tắm mưa. Đứa nào cũng tranh nhau đứng dưới cái ống xả nước. Nước ào ào đổ xuống đầu, không thể mở mắt. Đứa không tranh được thì nằm dưới sân réo gọi: “Tụi bay xem tao bơi nè”, hoặc đứng ngửa mặt lên trời, há miệng hứng nước mưa, cười khoái chí. Rồi trời "nổi giận” buông sấm chớp, cả bọn nhao nhao chạy vào hiên, đứng nghe trời gầm: đùng đùng, run cầm cập vì lạnh và sợ “bị thui”.
Chiều tà, thú vui lớn nhất là đi câu cá. Khu câu cá là bãi trồng khoai, trồng đậu mùa mưa nước từ đồng tràn vào, cá đồng theo đó bơi về. Nước cao tới eo chúng tôi, phèn nổi lềnh bềnh thành mảng, chỗ vàng khè, chỗ đỏ quạch. Bố mẹ không cho chúng tôi đi câu cá ở đó vì dễ bị nước ăn chân. Nhưng bố mẹ bận lắm, chẳng trông được tụi trẻ con, cả nhóm cứ thế mà kéo nhau đi. Cần câu chỉ là đoạn tre, cột thêm sợi dây cước, nối thêm cái móc câu.
Chúng tôi câu đến sẩm tối. Đứa này ngóng đứa kia, tranh nhau ai câu nhiều cá hơn. Mà thật ra chúng tôi chẳng câu được nhiều, có khi không có con cá nào mắc câu. Cả lũ bô bô nói chuyện um sùm. Có người chăm chỉ cột thêm miếng phao nhỏ vào cần câu rồi cắm đó, tranh thủ cắt vài mớ rau lợn mọc ven bờ, đợi miếng phao nhấp nhô là chạy lại giật. Cá câu được chúng tôi thả hết, không dám mang về vì sợ bố mẹ mắng. Tuy chẳng có chiến lợi phẩm nhưng đứa nào cũng thích thú với việc đi câu cá như thế. Con nít mà.
Chúng tôi cũng chẳng quan tâm đến trời lũ. Người miền Trung ai chẳng từng tắm qua nước lũ vài lần. Sau trận mưa như trút hết nước trong một đêm, nhà tôi xây trên cao mà nước tràn vào tới hiên. Đợi tới trưa nước rút bớt, trẻ con trong xóm lại í ới gọi nhau chạy qua nhà những đứa có nhà ở gần sông.
Hình ảnh tôi còn nhớ mãi là con nhỏ bạn ngồi trùm mền trên chiếc giường kê trên mấy cục gạch. Nó ngồi lọt trong mớ đồ đạc lộn xộn, trên đầu nó cũng treo lủng lẳng vài thứ. Bố nó ngồi bên cạnh phì phèo điếu thuốc. Thấy chúng tôi, nó đứng bật dậy cười hí hửng. Bố nó khoe vừa đánh được mẻ cá biển.
Ông kể buổi tối nước tràn vào nhà, ông mở toang cửa, treo cái đèn măngsông giữa nhà. Cả gia đình ngồi trên giường đợi trời sáng kéo cửa đóng lại, nước rút là thấy cá nhảy lạch bạch dưới nền. Ông cười khà khà: “Khổ cái là cả đêm chịu lạnh”.
Bây giờ tôi đã lớn, biết lo lắng khi mùa mưa gần kề, biết tại sao mỗi tối ba má lại trở mình khi nghe tin bão lũ. Nhưng cứ thấy trời đổ mưa tôi vẫn thích ngửa mặt lên trời, nhắm mắt. Nỗi nhớ tuổi thơ miên man kéo về.
Góc quê bên đại lộ
Kể từ khi hoàn thành đưa vào sử dụng, đại lộ Đông Tây hiện ra rộng mênh mông kéo dài mút tầm mắt. Dọc bờ kênh phía quận 1, 5 và 6, chiều chiều xuất hiện nhiều nhóm người hóng mát và câu cá. Giữa khung cảnh ngồn ngộn của các ngôi nhà cao tầng, trên các cây cầu lớn tấp nập người xe, dưới sông những chiếc ghe hàng chầm chậm ngược xuôi, những chiếc cần câu đủ loại lâu lâu kéo lên bờ một con cá nhỏ trong tiếng cười giòn của nhóm bạn hóng gió chiều tạo phong cảnh thật thanh bình, một chấm phá làng quê giữa phố phường nhộn nhịp!
Ông Sáu “thùng thiếc” vừa “đóng” con dế vào lưỡi câu vừa vui vẻ trò chuyện: “Tôi làm nghề gò thùng thiếc, khay bán cá bằng nhôm ở cuối dãy phố Trần Văn Kiều. Cách đây 2 - 3 năm, cả khu phố được lệnh giải tỏa lấy mặt bằng làm đại lộ Đông Tây, chúng tôi nhận tiền đền bù và được sắp chỗ ở tại chung cư Nguyễn Tri Phương. Ở trên lầu không được rộng rãi, công việc thợ thiếc hầu như bị khép lại. Lớn tuổi rồi, chọn nghề khác cũng khó... Chiều chiều băng lộ ra bờ sông gặp gỡ những người bạn cũ cũng vui và cái nghề câu cũng trỗi dậy từ khung cảnh này. Lúc đầu tôi có một cần trúc mang từ Long An lên, sau mua thêm một cần nhựa “ăng ten” cho gọn nhưng tôi thích cần trúc hơn vì nó vừa tay, cá cắn câu “giựt” nhẹ đầu cần là dính”.
“Ông Sáu sát cá lắm đó!” - anh Hùng, một người bạn trẻ nghề xe ôm, trên đầu còn đội mũ bảo hiểm chen vào câu chuyện của chúng tôi. Hùng nói, ông Sáu hễ rút cần ra là có cá, mà đã có cá là có năm chục ngàn mang về, dù ít nhiều. “Ủa! Sao ít nhiều cũng có năm chục? Không nhẽ ít là cá to, nhiều là cá nhỏ?” - tôi cắc cớ. Ông Sáu bảo rằng không phải thế, ông có một ông khách gọi là ông Năm, mỗi chiều, khoảng 6 rưỡi 7 giờ từ trong hẻm kia (tay chỉ con hẻm) đi bộ ra. Lần nào có cá ông Năm cũng đều mua xô cá “ngang giá” năm chục. Hôm kia có bảy con trê vàng cưng cửng, hôm trước hai con lóc, ba con rô, một con trê chút éc, thậm chí có hôm chỉ hai con rô đồng thau tháu, ông Năm cũng vui vẻ đưa năm chục, tôi không nhận tiền ông không chịu. Mua xong ông Năm nhờ trút số cá đó trở lại sông theo nghĩa “phóng sanh”. Hồi đầu ngài ngại làm sao ấy, riết rồi ai mua ông cũng không bán vì nghĩ là ông Năm chia sẻ hoàn cảnh thất nghiệp mà cho tiền!
Ông Sáu “thùng thiếc” tỏ ra kinh nghiệm: phải trải qua 2 năm câu cá ở đây mới rút ra được quy luật và cách câu cá. Trước hết là màu nước. Trước đây kênh Tàu Hũ là con kênh “chết”, nước đen quánh đặc bốc mùi khét, với vô số rác rưởi, trừ vài con trê, chẳng có con cá nào khác sống được. Từ khi con rạch được khai thông, bờ được kè đá và nước lấy lại màu xanh, có cá táp bóng mới câu được. Mỗi ngày ông Sáu ra địa điểm mỏm đá thân thuộc này, ngày nào cũng mang “đồ nghề” nhưng không phải hôm nào cũng thả câu. Cá chỉ ăn câu khi con nước lớn và bắt đầu ròng. Cá ở đoạn kênh này hiện chỉ có mấy loại như cá trê, rô đồng, lóc. Cá bống, cá lăng và trạch trấu thì chỉ bám chân cầu, cá chép chỉ có vào mấy ngày thượng triều. Mồi câu thì chỉ có dế, dù phải mua 20 ngàn đồng/100 gr mới hòng có cá ăn. Mồi tép, mồi trùn, mồi “thuốc” vo viên đều bị lẫn vào bùn, cá khó phát hiện.
Chỗ câu trên kênh Tàu Hũ rất quan trọng. Chỗ nhiều cá dựa nhất là các mỏm đá nhô ra sông và có vùng nước lặng. Những chỗ nước chảy có khi thấy cá đớp bóng nhưng khó mà câu được. Ở chỗ câu của ông Sáu “thùng thiếc” dây câu cần có phao chết, con dế mồi sẽ nằm ở vị trí cách mặt đáy 2 - 3 cm vừa với thế cá tựa sàn đá hớp mồi. Tuy nhiên mồi có thể thay đổi sang trứng kiến, ong non, tép lột. Khi cá máy phao hai nhịp và từ từ lôi đi là giật nhẹ rồi giữ căng dây dong cá vào sát mí bờ mà vợt lên.
Dọc bờ kè, không ít nhóm câu khác của giới trẻ dùng cần câu máy, mỗi nhóm 5 - 7 cần thủ và vài “quan sát viên” hay “cổ động viên”. Họ dùng mồi chùn móc vào 2 - 3 lưỡi gắn trên các dây nèo dài 30 cm, cột vào nhợ câu cách nhau 30 cm, mút đầu cùng nhợ câu là quả chì 3 gram. Mỗi lần văng đầu cần, thỏi chì nặng kéo đầu dây ra xa ba bốn chục mét, thỏi chì tụt xuống đáy sông trong khi các dây nèo giúp các miếng mồi trôi lơ lửng trêu chọc tính háu ăn của các chú cá ăn tầng sát đáy. Thi thoảng cần thủ lại cuộn máy cho dàn mồi di chuyển. Suốt cả tiếng đồng hồ nhóm câu cần máy vẫn lặng như tờ. Trong lồng lộng gió chiều, nếu bỗng dưng tiếng reo dậy lên thì y như rằng, một con trê hay một con lóc đã dính vào đầu dây câu máy. Sau vài phút vừa cuộn sợi nhợ dài vừa dong cá vào bờ mới biết cá dính câu to nhỏ thế nào nhưng chắc chắn sẽ có thêm một hồi hò reo sảng khoái nữa.
Trong những tốp câu nhận thấy có hàng chục người với các màu áo khác nhau, nhiều bác lớn tuổi sau giờ “làm thêm” chưa vội về nhà mà ghé lại tìm chỗ ngồi đón gió bên nhóm cần thủ như chia sẻ những cảm giác câu cá, hái rau thời tuổi thơ. Mặt trời chiều dần chui xuống lưng các dãy phố, kênh Tàu Hũ càng thêm lộng gió. Những ngày nước ròng, ra đến bờ kè, cần để trong bao, các cần thủ đứng ngồi hóng gió và trò chuyện. Những chiều nước lớn, cá ăn câu nhiều, không khí ở bờ kè có vẻ náo nhiệt hơn.
Đại lộ Đông Tây, đẹp như một công viên bên dòng sông chở đầy gió, nắng và cá. Thú vui câu cá, thư giãn thoải mái, hóng gió mát ngay giữa lòng thành phố đã trở thành hiện thực đối với nhiều người dân Sài Gòn.
Tuổi thơ gọi về
AT - Chiều, một buổi chiều êm ru của ngày đầu hạ khi cơn mưa rào vừa trút nước xong, tinh khôi một góc trời.
Bên căn phòng của cô bé xóm trọ bỗng vang lên câu hát âm ấm mà xiết lòng: “Ngày ấy đâu rồi, ngày ấy đâu rồi, cho tôi tìm lại, một ngày ấu thơ...”. Tôi đã là thiếu nữ mười tám, đã đi qua tuổi thơ chẳng bao giờ trở lại, chợt thấy rưng rưng, tiêng tiếc cái “ngày ấy” đã thành dĩ vãng xa xăm.
Tuổi thơ tôi là những tháng ngày vất vả, lấm láp. Tôi sinh ra ở miền quê với những dòng sông êm trôi, với nương dâu mươn mướt, với cánh đồng lúa vàng ươm nắng hạ. Ký ức tuổi thơ góp nhặt từ những buổi sáng tinh mơ theo mẹ đi cày, hay những ngày nắng cháy, hai mẹ con vẫn khom lưng cấy lúa. Nhớ những ngày cuốc từng nhát đất, gieo từng hạt mầm bé nhỏ, đất đai ấp ủ. Nhớ những ngày háo hức đuổi bắt cào cào, châu chấu bỏ vào chiếc bao tay của mẹ. Ruộng đồng đã bao bọc, chở che tôi. Cái hồn hậu của từng gốc lúa, bờ tre đã nuôi tuổi thơ lớn từng ngày.
Bỗng thèm biết mấy những “ngày ấy” có trái trứng gà vàng ươm, có trái nhót chín mọng giấu trong mũ vải, có trái ổi thơm thơm nồng đượm bàn tay bà trồng, có chùm hoa dẻ thơm một cầu ao. Thèm biết mấy ngày lội đồng bắt ốc, bắt cua, lấm tấm bùn nhem mà vẫn cười tươi rạng rỡ. Nhớ biết mấy bạn tuổi thơ với những trò nghịch ngợm, những buổi trưa trốn mẹ thả diều, bắt bướm...
Tuổi mười tám, cái ranh giới của tuổi thơ hồn nhiên, trong trẻo và sự khôn lớn từ cả những suy nghĩ non nớt của cô bé mới lớn chập chững bước vào đời. Cánh cửa tuổi thơ vừa khép lại giữa mênh mang tuổi mười tám, giữa bao nhiêu dùng dằng, luyến tiếc. Xa quê, xa miền ký ức ăm ắp, ngọt lành, tuổi mười tám hòa lẫn vào nhịp ồn ào, náo nhiệt của phố xá, thị thành. Tôi dần quên đi một thời lấm láp, cái lấm láp đã nuôi lớn thành người. Có vô ý, cũng có cố ý. Tôi quen hơn với hương vị đăng đắng của một ly cà phê thay vì cốc chanh leo ngọt ngào của mẹ, quên đi mùi hương của sả thơm thơm mái tóc, một bát dưa cà bố muối, một bát cơm rang hai anh em tranh nhau ăn... Vậy là tôi đã quên. Bỗng nghe câu hát mà đắng đót, nhoi nhói biết chừng nào.
Người ta chẳng bao giờ lớn nếu không có một tuổi thơ. Giữa bộn bề, tấp nập của cuộc sống, giữa vô vàn những bận bịu, lo toan, ta cũng dễ quên đi ngày tháng êm đềm của tuổi thơ. Tôi cho rằng tuổi thơ là điểm tựa tinh thần vững chãi, là những gì rất đơn sơ, bình dị thôi, nhưng thiêng liêng, nhưng cao cả và ấm áp lạ thường. Nếu đời người là những chuyến đi thì miền ký ức tuổi thơ là nẻo đi về bình yên nhất.
Cháo ốc đá Tiên Phước
Đường về Tiên Phước, sông Cà Đong nghẹn dòng trôi ngược, bịn rịn dùng dằng, như thầm trách người con xứ Quảng ly hương, sao những bấy lâu mới về thăm quê kiểng. Mấy buổi chiều nay mưa nguồn chớp bể. Ngó lên cửa rừng mờ mịt, ngậm ngùi nhớ mẹ ngày xưa, nhớ câu ca dao da diết: Mẹ ơi đừng đánh con đau/ Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ… Ký ức tuổi thơ mở ra, khi một người bạn thơ mời ăn bát cháo ốc đá trung du sơn dã, nhưng lại thấm đậm tình nghĩa quê hương cội nguồn.
Để có một nồi cháo ốc đá nhỏ nhắn, kiệm ước mà ngon miệng, thì không có chi cầu kỳ, rắc rối cả. Đơn giản từ nguyên liệu cho đến cách làm ốc. Gạo trắng thơm bây giờ có rất nhiều loại, tùy ý mỗi người chọn lựa. Ốc được đem ngâm nước vo gạo trong một thời gian chừng vài tiếng đồng hồ, để nó nhả hết cát, bùn. Nếu muốn nhanh hơn, ta có thể giã một trái ớt chín, khuấy đều vào nước ngâm ốc. Sau đó, thay nước lạnh, chà sạch và chặt trôn ốc. Rửa lại, để khỏi sót những vụn vỏ. Ốc đá được ướp gia vị, gồm: bột ngọt, tiêu bột, nước mắm... Đem tao dầu, nhớ đừng quên đổ thêm một ít nước, để thấm vào ruột ốc. Có như thế, khi hút, ăn con ốc, ta mới cảm nhận được tất cả những đậm đà thú vị.
Cháo nấu chín thật nhuyễn, bỏ ốc vào nồi cháo, và dùng đũa trộn đều. Như vậy, là ta đây đã có được một nồi cháo ốc đá ngon miệng.
Kinh nghiệm dân gian về cách nấu cháo gà, cháo vịt, có câu ngạn ngữ tả hình dáng hạt gạo cháo: “Cháo vịt nở ra, cháo gà lúp búp”. Nấu như vậy mới thật sành điệu. Miếng thịt vịt chấm mắm gừng cay, thơm. Ăn kẹp với miếng chuối chát, hay lát khế chua, làm khoái khẩu. Cháo gà nấu lỏng, hạt gạo nhuyễn, mềm, nở lúp búp. Khi ăn miếng thịt, kèm với cọng rau răm, muối tiêu, hòa trộn nước chanh, tạo riêng khẩu vị. Riêng nồi cháo ốc đá lại nấu sềnh sệch, mặn mòi sơn dã. Ăn cháo khi còn vừa nóng, kèm với miếng bánh tráng nướng giòn, thật là ngon bình dị.
Buổi sáng trung du, khi nắng vừa chạm bậc thềm, ta ngồi vui bên nhau quanh chiếc bàn tròn. Lúc ấy, bát cháo trắng, lấm chấm điểm đen những con ốc tròn xinh xắn vừa bưng lên. Húp một muỗng cháo nóng, “hút một cái chụt, trong thịt ngoài xương". Mùi gia vị thấm vào ruột ốc, làm cho ta như tận thú cái thanh dã, đạm bạc của rêu đá thiên nhiên trong từng thớ thịt ốc.
Giòng nước trong xanh rì rào, phiến đá nhẵn mòn nước chảy, và bàn tay bắt ốc, hái rau... Tất cả hiện lên trong bát cháo ốc đá trung du thân thiết.
Về đồng ăn ốc ăn cua
“Gió đưa gió đẩy… về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua…”
(ca dao)
Câu hò ru con vọng lại từ chiếc ghe bầu của người mẹ trẻ trong cái nắng vàng ươm tháng 8 trên sông Tiền làm tôi nôn nao chi lạ. Đã lâu rồi tôi không có dịp về thăm miệt vườn quê ngoại ở Cần Thơ - xưa là tỉnh lỵ Phong Dinh, nơi tuổi thơ tôi một thời bắt ốc hái rau.
Ngày ấy, khi ông trời đổ lệ ngày càng dày hạt, báo hiệu mùa nước rong tràn ngập ruộng đồng, mưa mênh mang tối trời, tối đất là cá ở Biển Hồ lũ lượt đổ về sông Hậu. Trong kênh rạch, lũ ốc chém vè dưới bùn bao ngày cũng trồi đầu đớp nước mưa. Nước ngập làm lũ cua đồng bị ngộpbò ra khỏi hang lổm ngổm. Bọn trẻ con chúng tôi sau mỗi buổi chiều tan học làthả bộ trong mưa, tranh thủ bắt mớ ốc, mớ cua về nấu canh.
Cái nón lá của đám con gái trở thành cái rổ đựng ốc,lũ cua thì bị chúng tôi lấy dây chuối khô ngấm nước mưa cộtquanh, lần hồi thành một xâu dài sọc. Tối đó, nồi canh cua đồng với rau mồng tơi nóng hổi, với mùicua thơm nức mũi luôn khiếntôi không ngừng hít hà và nuốt vèocảba tô cơmtrong chớp mắt.
Những ngày chủ nhật được nghỉ học, lũ con nít chúng tôi nghêu ngao trên chiếc xuồng ba lá, cùng nhau trôi nổi trên con rạch ngã sáu Cái Chanh bắt ốc, móc cua, xom ếch… Cua ốc ngày ấy nhiều vô kể, chỉ một loáng là có thể bắt được cả táo (táo: là tiếng gọi một dụng cụ đong lúa người dân miền Tây thường dùng. Một táokhoảng 20-21 lít. Táo có hình trụ, cao6 -7 tấc , thường được làm bằng tôn thiếc)…
Lặc lè quẩy thúng ốc nặng trịch, hái thêm mớ lá chanh lá ổi, bứng vội bụi sả cùng nắm ớt hiểm xanh lè bên hiên nhà thằng Tèo,bọntôi giã nát mớ ớt hoà vào nước ngâm đám ốc chừng mươi phút,cái cay xè của ớt sẽ làm những chú ốc lì lợm nhất cũng phải nhăn mặt chào thua, khè nhớt ra lai láng. Xối sơ vài gáo nước, cả đám khệ nệ bưng nồi ốc có lót lá ổi và sả đặt trên ba ống táo, quạt lửa liên hồi. Chừng 10 phút sau, đám con nít đãmê mẩn chấm ốc với nước mắm sả mà chị hai thằng Tèopha sẵn.
Tôi xa xứ hơn 30 năm có lẻ, đọc báo nghe sông Hậu bị ô nhiễm trầm trọng, đôi lúc gọi điện thoại hỏi cua ốc có còn nhiều như xưa, thằng Tèo bạn tôi cười ha hả: “Ốc cua làm gìcòn! Thuốc trừ sâu làm tụi nó biến mất từlâu rồi mầy ơi. Bây giờ muốn ăn món quà quê nghèo đó, mày phải vào mấy nhà hàng đặc sản. Món ốc nướng tiêu và lẩu cua đồng được du khách quốc tế hoan nghênh quá xá khi đến Cần Thơ đó”..
Ốc Hấp Gừng
Posted on
Tháng Mười Hai 3, 2011
Ố
c bu (b
ư
u) lo
ạ
ố
c tràn lan kh
ắ
ơ
i trong tu
ổ
i th
ơ
c
ủ
a tôi, ít nh
ấ
t hai l
ầ
n tôi b
ị
ớ
t xu
ố
ng ao vì mê b
ắ
ố
c. M
ộ
t l
ầ
ở
nhà bác C
ả
khu ao cá c
ầ
u ch
ữ
Y . Đ
ế
n nhà bác ph
ả
i đi qua chi
ế
c c
ầ
u b
ắ
c ngang ao rau mu
ố
ng, cúi xu
ố
ng nhìn c
ọ
c g
ỗ
th
ấ
y
ố
c bám các anh c
on c
ủ
a bác b
ắ
ỏ
vào lon mang vào b
ế
ướ
ng, ra v
ườ
ẻ
gai b
ưở
i l
ể
ra ăn v
ớ
i nhau vui l
ắ
m. L
ọ
ọ
t sao có m
ỗ
i tôi là con gái trong nhóm, l
ạ
i nh
ỏ
tu
ổ
i nh
ấ
t . Gi
ỏ
ớ
i đ
ượ
c theo các anh đi ch
ơ
i phá làng phá xóm nên ráng b
ắ
ố
c th
ậ
t nhi
ề
u, ch
ồ
m th
ế
nào l
ộ
c
ổ
xu
ố
ng ao
!
L
ầ
n th
ứ
hai, đi thăm nhà ông b
ạ
n c
ủ
a bà n
ộ
ở
Vũng Tàu, nhà d
ự
a vào vách núi đ
ườ
ng ra bãi Thùy Vân, đ
ố
i di
ệ
n là cái ao th
ả
sen, l
ậ
t lá lên bao nhiêu là
ố
c,
ố
c b
ư
u to vàng có con g
ầ
ằ
ng trái banh đánh bóng bàn. Đ
ẩ
y chi
ế
c xu
ồ
ng nh
ỏ
theo anh ch
ị
hái g
ươ
ng sen, hái hoa sen, b
ắ
ố
c v
ề
làm ch
ả
, l
ầ
n này thì ham c
ả
hoa l
ẫ
ố
c, v
ớ
i th
ế
nào cũng l
ạ
i l
ộ
n c
ổ
xu
ố
ng ao
.
C
ả
hai l
ầ
n đ
ề
u xanh tái mày m
ặ
t, l
ạ
ị
ắ
ng là “n
ặ
c nô”. L
ầ
n đ
ầ
u m
ặ
c áo đ
ầ
ắ
ng ph
ồ
ng vì đi l
ễ
v
ề
đ
ượ
c B
ố
ch
ở
sang thăm bác – l
ầ
n hai m
ặ
c áo đ
ầ
m màu h
ồ
ng có in hình trái s
ơ
– ri, m
ẹ
còn may thêm cho cái th
ắ
t l
ư
ng c
ộ
ơ
to, anh Tín con bác n
ắ
ơ
áo kéo lên, b
ắ
t đi lòn c
ử
a sau vào nhà, các ch
ị
l
ớ
n h
ơ
n c
ả
con giáp, đang lúi húi trong b
ế
p, th
ấ
y con bé run c
ầ
m c
ậ
p mang khăn ra lau r
ồ
i d
ắ
t đi
ắ
m cho s
ạ
ch bùn, m
ặ
c qu
ầ
n áo m
ượ
n c
ủ
a các anh, 13 tu
ổ
i đ
ầ
u v
ẫ
n ch
ư
a bi
ế
ắ
c c
ở
là gì. Ngay sau đó l
ạ
i leo th
ẳ
ng lên núi hái trái chùm bao, khi mò v
ề
nhà áo đ
ầ
m khô thay tr
ở
l
ạ
i. Bà n
ộ
ả
i đánh t
ổ
tôm ch
ẳ
ng hay cháu gái làm trò gì. Mãi đ
ế
n khi món
ố
c nh
ồ
i các ch
ị
mang ra m
ờ
i, vô tình khoe là nh
ờ
cháu c
ư
ng mò b
ắ
ướ
t c
ả
áo, bà m
ớ
i hay c
ớ
ự
.
Ố
c
ở
h
ồ
ạ
ch s
ẽ
, ch
ỉ
vi
ệ
c h
ấ
p, l
ể
ỏ
ru
ộ
t, thái m
ỏ
ng, tr
ộ
n th
ị
t băm, nêm n
ế
m gói vào lá x
ả
, nhét l
ạ
i vào v
ỏ
đem h
ấ
p, d
ọ
n ra mâm ch
ấ
ướ
c m
ắ
ừ
ng. Ông luôn có m
ộ
t hũ ru
ợ
u ngâm thu
ố
c, mùi th
ơ
m th
ậ
t th
ơ
m.
Sang M
ỹ
, ch
ỉ
có
ố
c đông l
ạ
nh làm l
ạ
i món
ố
c nh
ồ
i, có giò s
ố
ng, thêm vào cho nhanh, không nhanh l
ấ
y thì gi
ờ
nào đ
ể
làm
?
Gió núi
Tùy bút của
LÊ QUANG THỌ
Mấy hôm nay Tây Nguyên trở gió. Từng cơn gió lạnh réo gào trên tán cây cổ thụ, gió quất ràn rạt trên tán lá cà phê, gió hun hút lao qua từng con ngõ nhỏ dù tiết trời lẽ ra đã chớm vào hạ. Những cơn gió như thổi mạnh vào kí ức đưa hồn người về với mênh mông nỗi nhớ. Mỗi mùa gió về là biết bao niềm nhớ thương mang theo trong hồn người Tây Nguyên.
Ngày làm quen với mảnh đất Tây Nguyên tôi chỉ là đứa trẻ lên bảy tuổi. Theo gia đình đi xây dựng kinh tế mới tại đây tôi cũng đi cùng bao gian khó một thời. Nhớ những đêm gió lùa qua mái vách, đi vào giấc ngủ ú ớ vì tiếng gió rít hàng cây già đi vào trong mơ. Lâu dần thành quen, gió Tây Nguyên như đã khơi rộng dần miền kỉ niệm, ở đó có tiếng gió lạnh lùng, có vòng tay ôm ấm áp của ba tôi.
ôi lớn dần theo từng mùa gió núi. Nhiều đêm ngồi trên chiếc ghe nhỏ khua dầm dọc những bờ cỏ tìm bắt từng con ốc để mưu sinh. Gió chạy ào ào qua đồng nước trống, gió xô từng con nước vỗ lao xao vào thành ghe, gió đập vào vách núi, chân đồi vọng lại trong đêm thành tiếng hú dài, nối tiếp nhau. Cả đêm dài thức cùng ánh đèn soi và tiếng gió núi đã vô tình đi vào trí nhớ như một phần kỉ niệm tuổi thơ cơ cực chốn đồng quê. Ngày ấy mỗi đêm đi bắt ốc tôi chỉ có duy nhất âm thanh của gió núi vọng lại để xóa tan sự im lặng của đêm giữa bốn bề con lũ.
Gió Tây Nguyên cứ dậy lên từng cơn. Có lúc lướt qua nhẹ nhàng, khe khẽ trên vòm lá, lúc như giận dữ lao đi tựa hồ sẵn sàng cuốn phăng những gì nó gặp. Ngày tôi học cấp ba, phải đạp xe gần mười cây số đi về. Mỗi khi gặp cơn gió giận dữ lao qua phải gò lưng giữ chiếc xe đạp run run trong gió. Gió cuốn từng lớp bụi đất ba – zan đỏ quạch phủ đầy tấm áo học trò. Gió của ngày xưa đưa các cô cậu học trò lại gần nhau mong giảm bớt khó khăn trong những buổi đạp xe đi về. Và, gió để chúng tôi đi cạnh nhau cho lời trò chuyện không bị tan đi. Rồi thân thiết với nhau hơn trong từng mùa gió núi.
Hôm nay lại một ngày của mùa gió núi, gió giật tung cánh cửa kí ức để lồ lộ một mảng kỉ niệm vẫn tươi mới và dường như vẫn còn cái lành lạnh của gió Tây Nguyên. Càng về khuya gió càng mạnh, hơi lạnh cũng nhiều hơn. Gió khuya nhắc nhớ quãng đời sinh viên với bao đêm dài co ro với tấm chăn mỏng trong căn phòng trọ cũ kĩ. Ngày ấy mỗi mùa gió núi về tôi lại nhớ tháng ngày rong ruổi trên cánh đồng quê ngập nước, tiếng dầm khua nước chìm trong tiếng gió, căng mắt tìm con ốc dập dềnh trong sóng nước lao xao. Kỉ niệm mang hơi lạnh của gió núi nhắc tôi hơi ấm của hôm nay để vui, để vững bước đi qua bao khốn khó hoàn thành ước mơ.
Ký ức tuổi thơ
Lúc bé, tưởng thành người lớn là lớn, bây giờ mới thấy có nhiều người đã lớn mà vẫn chưa thành người lớn. Đến khi thật sự thành người lớn thì người ta biết sẽ không bao giờ bé trở lại được.
Nhớ tuổi thơ trẻ dại ngày ấy. Nó có một bà nội nuôi - vì bố mẹ hay gọi bà là mẹ. Bà đi bán thị khắp xóm. Ngày ấy cả gia đình còn ở khu tập thể của công ty bố mẹ cấp. Cứ đến mùa thị là bà lại đi bán, thị của bà to mà thơm lắm, thích mê luôn. Gặp nó bà không bao giờ bán mà lựa một trái thật to để cho, còn xoa đầu: “ Bà cho thị thì phải học giỏi, ngoan ngoãn nhé cháu”. Khoanh tay dạ bà rồi chân ngắn chân dài chạy về nhà khoe mẹ, cất luôn trái thị lên đầu giường để dành ngửi và mơ mộng cô tiên sẽ hiện ra.
Bố mẹ mua đất, thế là rời khu tập thể. Cái nơi mà nó suốt ngày bị mang tiếng “vác chén đi xin ăn”. Cơm nhà thịt cá không thèm, cứ mang chén sang hàng xóm ăn với muối vừng thì thích lắm. Đến nỗi mẹ phải góp gạo cho người ta để họ “cho” lại con mẹ cơm. Và nó cũng xa cả bà… Từ đó trở đi, nó không còn nghe bất kỳ tin tức nào về bà nữa. Rồi ít nhớ, rồi dần quên… Trẻ con là vậy, giờ lớn muốn tìm thông tin của bà cũng không biết tìm đâu. Cả bố và mẹ đều không biết.
Về nhà mới, ít người hơn nhưng nhiều cây hơn. Xung quanh toàn là trồng lúa, sắn, ngô, khoai… Nhớ những đêm cả lũ con nít xúm nhau đi ăn trộm, bị phát hiện vắt giò lên cổ chạy. Thế mà về nhà hỉ hả cười khoái chí, rồi luộc lên bằng ba mớ củi lượm lặt từ những nhánh cây khô và cái nồi sứt quai ai đó vứt bên đường. Nhớ mãi cái ngày đi bắt ốc, bắt cua ngoài đồng cùng ông ngoại. Út bị ông ngoại nhấn sình ngập đầu, thế nhưng không những không khóc mà còn cười khanh khách. Về nhà lại còn méc mẹ, mẹ chỉ biết cười trừ rồi trách yêu ông không chăm cháu. Ông cười ha hả: “Cho nó quen mùi đồng ruộng mà cứng cáp”.
Tuổi thơ đi học bằng chiếc xe đạp liên xô cũ xì, ba chị em chất chồng lên nhau. Thương em, nó è lưng chở, ngày nào cũng đi qua con dốc cao, có lẽ vượt cả chiều cao của nó bây giờ. Nó đạp xe riết mà giờ cao có 1m55, còn hai đứa em đứa 1m65, đứa 1m7. Ngày đó bố mẹ vật lộn với kinh tế vừa qua bao cấp, không có thời gian đưa đón, kể cả đưa đón vào ngày thi chuyển cấp 1 lên 2. Thế mà nó vẫn một mình một thân đạp xe đi thi, trưa sợ chạy về nhà không kịp xem bài, nên dặn mẹ gói cho nắm xôi đậu phộng mang theo. Trưa về trường, một mình chui vào một xó lớp, vừa mở gói xôi lên ăn vừa ôn bài. Vậy đó, mà điểm chuyển cấp là á quân. Tự hào lắm chứ, thi vào trường chuẩn lớp chuyên mà điểm cao ngất ngưỡng.
Nó biết, tuổi thơ của nó có cả niềm kiêu hãnh của bố và mẹ. Giờ nhắc lại mẹ cứ nước mắt lưng tròng mà xót xa:“ Nó tội nghiệp nhất nhà, mãi lo cho hai em nên mãi không lớn được. Mẹ thương lắm”.
Giờ đây, khi đã lớn rồi. Nó không biết có còn duy trì được cái tinh thần ngày xưa đó khi hàng ngày phải đối chọi với cuộc sống phức tạp, bon chen ở thành phố này không nữa? Nhưng nó biết, nó sẽ luôn nhớ về cái thời trẻ thơ ấy và cái niềm tự hào cho một nghị lực lúc trẻ dại để luôn nhắc nhở bản thân vượt qua những gian nan của ngày hôm nay.
ốc cườm_tuổi thơ tôi
Khi sinh ra con người ta ai cũng có một miền quê để mà gắn bó, để mà yêu thương, tôi cũng vậy, sinh ra và lớn lên ở một vùng quê ven biển, ông bà, cha mẹ tôi đã ở đó từ rất lâu, họ hầu như chưa bao giờ rời khỏi vùng quê nghèo đó, tôi cũng thế cho đến khi bắt đầu lên đại học. Tôi học ở Hà Nội, cách nhà tôi khoảng hơn 210km, mỗi năm tôi chỉ được về thăm nhà 3,4 lần vào các dịp lễ tết, vừa kết thúc kì nghỉ 30/4_1/5 xong, may mắn đợt này về quê biển đang mùa ốc cườm....
Ốc cườm loại ốc đã gắn bó với cả tuổi thơ tôi, con ốc cườm chỉ bé tẹo, nhỏ như chiếc cúc áo, có đủ màu sắc y như cái tên của nó vậy, con ốc bé nhưng khi đã ăn thì sức hút của nó không bé tí nào cả. Nhớ hồi nhỏ, cứ đến mùa ốc cườm chị em tôi lại mang theo những chiếc rổ con để ra biển bắt ốc, những con ốc bé tẹo nằm thành cụm trên bãi cát, chỉ dùng tay gạt một lớp cát mỏng, là những con ốc xinh xắn đã hiện ra, tiếp tục dùng tay bốc cả ốc cả cát cho vào rổ rồi mang xuống biển để đãi lấy mình ốc. Không quên mang theo một cái can nhựa để lấy nước biển về ngâm ốc , trên đường về nhà chúng tôi ko quên bẻ thêm một chùm gai "xanh", ăn ốc thì chỉ lể bằng gai "xanh" hoặc gai bưởi là ngon nhất. Công đoạn tiếp theo là ngâm ốc, nước biển mang về, cho ốc vào ngâm đợi khoảng 2, 3 tiếng cho ốc lòe hết cát, nếu không có nước biển có thể pha nước muối nhưng phải đúng tỉ lệ, nhạt quá thì ốc sẽ chết, mặn quá ốc sẽ co mặt lại, ko lòe cát ra như vậy khi ăn sẽ bị sạn do dính cát. Tiếp theo là luộc ốc, công đoạn này cũng khá khó, trước tiên phải hòa nước muối như khi ngâm ốc cho vào nồi đợi mặt ốc lòe ra cho thêm ít sả hoặc lá bưởi rồi đặt lên bếp, chở lửa thật to, đều, khi ốc chín là ok.
Ốc thường được ăn sau bữa cơm tối bởi vì khi đó những công việc hàng ngày đã xong xuôi, các bà các mẹ có thể vừa ăn ốc vừa nói chuyện, có lẽ nó đã trở thành một nét sinh hoạt văn hóa đặc biệt của quê tôi, những câu chuyện từ xa xưa cho đến nhữgn câu chuyện sinh hoạt thườgn ngày được đem ra trao đổi, tình làng xóm trở nên gắn bó mật thiết hơn bao giờ hết, Nhà nào có sân rộng, thường được chọn là nơi ăn ốc, hàng xóm quây quần quanh rổ ốc, bọn trẻ con khi chưa tự lể được ốc thì đứng cạnh mẹ, cạnh bà đợi được lể cho ăn. Khi ăn ốc, dùng chiếc gai lể mặt ốc ra,có thể lể đến đâu ăn đến đấy, cũng có thể cho mặt ốc lể được vào một chiếc lá mít hoặc lá dâu non gói lại ăn kèm, vị chát của lá kèm vị bùi, vị ngậy thơm của con ốc...quả là một hương vị tuyệt vời. Có thể đối với người khác ốc cườm thật khó ăn, nhưng khi đã nếm qua mùi vị của nó thì chỉ biết dùng từ "nghiện" để diễn tả, bởi trong suốt mùa ốc hầu như ngày nào chúng tôi cũng ăn nó nhưng ko hề chán.
Lâu rồi tôi mới có cảm như thế này, bao nhiêu kí ức tuổi thơ của tôi lại ùa về theo nhữgn hạt ốc cườm, không chỉ ăn ngon, những vỏ ốc sau khi ăn được chúng tôi rửa sạch, dùng kim xâu thành những chiếc vòng đeo cổ, đeo tay đủ kích cỡ, đủ màu sắc...Đó là những kí ức đẹp cua tôi, có thể đối với người khác chúng chằng là gì nhưng đối với chúng tôi nó gắn với cả tuổi thơ, và đối với riêng tôi, ốc cườm là loại ốc ngon nhất tôi từng được ăn.
Kết thúc kì nghỉ, tôi trở lại trường học, ko còn những buổi cùng bà cùng mẹ tíu tít chuyện trò quanh rổ ốc, ko còn những buổi sớm ra biển ngắm bình mình...nhưng mãi đọng trong tôi niềm yêu thương hạnh phúc về một vùng quê, nơi tôi sinh ra và có nhưng con ốc cườm....
Anh & Em ..........
nh và em cùng nhau lớn lên trên đồng ruộng thuộc một tỉnh lẻ vùng ngoại ô. Anh và em cùng có một thời thơ ấu tuyệt đẹp. Anh còn nhớ không? Thuở ấy khi " con vịt nghe sấm " và " con cò gầy nhom " nắm tay nhau đi trên bờ ruộng thả diều mà ngoại đã tỉ mỉ làm cho hai đứa, ngoại của em nhưng suốt ngày anh cứ muốn ngoại phải thương anh nhiều hơn em. Mỗi lần ngoại gội đầu cho em anh cũng phải giành gội cho anh nữa. Tuổi thơ của anh và em là khi hai đứa cùng nhau mò cua bắt ốc lúc nước ngoài ruộng đã dâng lên tới đầu gối, đứa nào cũng sợ đỉa, nghe lời ngoại hai đứa phải bôi dầu ăn khắp chân. Tuổi thơ của anh và em là khi hai đứa ngủ trên võng ngoại đưa với những giấc mơ thanh bình, chìm ngập trong lời ru của ngoại. Cho tới khi anh và em cùng nhau cắp sách tới trường, lúc tan học thi nhau chạy thật nhanh xem ai về tới nhà trước sẽ được dành chén quả chùm rụm ngoại đã hái sẵn ngoài sân. Ngày ấy em để tóc ngắn với cái tính nghịch ngơm lì lợm làm cho em giống như một đứa con trai nhưng cũng chính vì vậy anh và em đều không ngại ngần chuyện con trai con gái mà tự nhiện vui đùa thỏa thích. Những lúc giận hờn chỉ vì một viên bi, không nói chuyện với nhau suốt mấy ngày liền, rồi khi làm hòa cũng bày ra những trò đùa ngốc xít. Anh là con trai nhưng lại thấp hơn em, gầy hơn em nên người được bảo vệ là anh. Nhớ lúc mấy đứa đầu làng hay chặn đường anh và em, chúng bắt nạt, anh núp sau lưng em nhưng em lại không hề sợ, em còn to mồm " thằng nào dám đánh thằng cò tao cũng sẽ đánh thằng đó ", vì em la con gái nên bọn chúng không dám đánh mà tha cho hai đứa mình. Nhớ lại những kỉ niệm đó thật vui anh nhỉ.
Thời gian trôi qua thật nhanh bất ngờ ai đó e ngại khi con vịt không còn mái tóc ngắn nữa, tóc đã dài tới chấm lưng để xỏa tự nhiên. Cái tướng đi lóc chóc được thay vào đó là sự dịu dàng đằm thắm của một đứa con gái. Và em cũng thẹn thùng khi " con cò gầy nhom " hôm nào đã cao hơn em một cái đầu, không hoạt bát nói chuyện vui đùa thỏa thích như trước, em nhận thấy ở anh một sự lạnh lùng gần như là xa lạ.
Cái cảm giác mến mến thích thích, rung động đầu đời đến với anh và em cũng thật tự nhiên như thời thơ ấu. Anh không thích tỏ tình, anh cũng không thích viết thư như mấy đứa bạn trong lớp, anh cũng không nói rõ rằng anh thích em. Hành động của anh thật lạ lùng, anh không cho thằng con trai trong lớp nào bắt nạt em, cũng không cho bất kì đối tượng nào khả nghi có ý tỉnh tò. Anh cứ im lặng như thế, im lặng bảo vệ em từng bước chân. Có lúc em cứ ngỡ như em chỉ là một đứa em gái, cho tới khi anh biết ghen. Những giọt nước mắt đầu tiên em dành cho anh, vừa tức và cũng vừa hạnh phúc khi anh bảo " sau này tui không cho phép mấy người nắm tay ai ngoài tui, hiểu chưa? ", em không gật đầu cũng không trả lời vì lúc đó tim em như ngừng đập, em không biết có phải mình nghe nhầm không? Nếu em gật đầu là sau này con cò con vịt sẽ là một đôi, sẽ hẹn hò, sẽ giận hờn và sẽ có những phút lãng mạn. Những suy nghĩ dó cứ làm toàn thân nóng như lửa len lỏi giữa cảm giác vui sướng, hạnh phúc. Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, anh buộc phải xa em hơn 200 cây số, em đã quen cảm giác có anh bên cạnh, vui buồn gì cũng là anh. Sao lại khó khăn đến thế, phải xa anh, không còn được nghe những lời nói lạnh lùng nhưng trong đó có cả sự quan tâm. Anh và em quen nhau không giống như những cặp đôi khác, không cho nhau những lời mặn nồng chan chứa, cách xưng hô tui - mấy người rất tầm thường nhưng tại sao lại làm cho em mong nhớ. " Tui đi rồi ai sẽ lo cho mấy người đây? ", anh chỉ nói đơn giản như thế.
2 năm rồi anh biết không? Từ khi em nói lời chia tay vì em không còn chịu nổi sự xa cách anh nữa, không chịu được cái nỗi nhớ cừ dày vò em mỗi đêm. Bờ thường xuân không còn nữa, mà là một bứa tường cao làm cho em thấy anh và em càng xa cách hơn. Anh và em quy ước một ngôi sao là của riêng mình nhưng những đêm em nhớ anh lại không tìm thấy ngôi sao đó nữa. Em không biết mình còn có thể gặp lại nhau trên con đường chung mà hai đứa đã vẽ ra. Ngôi sao ấy đã không còn em nữa, chỉ còn một mình anh, anh đã xa em một khoảng không rất lớn, nhìn ngôi sao ấy nhưng em không thấy hạnh phúc, không tìm được hy vọng. Dẫu biết anh và em đều phải bước đi trên con đường riêng nhưng anh biết không? Em vẫn nhìn lên bầu trời và tìm ngôi sao ấy, cho dù phải tìm trong vô vọng. Tại sao? Vì tình yêu đó quá đẹp, em không muốn mình phải ngậm ngùi nuối tiếc đã lở đánh mất anh? Liệu còn cơ hội nào dành cho em không anh? Em chỉ không tìm thấy ngôi sao ấy, em chỉ không nhìn rõ con đường anh và em nhưng em biết rằng chúng vẫn tồn tại và sẽ hiện ra nếu trong lòng ta có nhau .......
Chớ phụ... cơm nguội!
Từ một đất nước nông nghiệp, văn hoá lúa nước hình thành trong cộng đồng một ý thức giữ gìn, chi chút từng bát cơm, hạt gạo. Trẻ con được người lớn dạy "học ăn" sao để cơm không thừa mứa, không vương vãi ra đầy mâm. Bữa cơm nấu quá gạo, dư một chén, lưng góc nồi cũng phải để dành cho buổi chiều, bữa lỡ có ai bụng réo lục nồi thì còn cái mà ăn.
Thời cơm áo khó
Chuyện ăn bữa lỡ cũng sinh ra từ lao động nông nghiệp. Người ta đổ sức trên ruộng đồng, quá chiều nửa bữa cần bồi bổ thêm năng lượng, một bát cơm nguội với nhúm muối mè hay vài khúc cá kho bới theo trong cà-mèn cũng có thể gọi là bữa lỡ truyền thống của nhà nông xưa. Có nhà, cơm nguội thừa sau mỗi bữa ăn được phơi trên chái tranh, đem đóng gói, cất giữ, lường tháng mưa bão, thất bát thì lại lấy "lương khô" ra, rang với đường ăn qua bữa. Từ đó, thành thói quen, những ngày mưa dầm, tôi lại nhớ tiếng cơm khô nổ tanh tách trên chảo bếp, nhớ những hạt cơm giòn thơm ngọt đượm vị đường. Vừa nằm đọc sách vừa vốc từng nắm cho vào miệng nhai rổn rảng trong chái bếp xa xưa…
Thời cơm áo khó, mỗi hột gạo, mỗi hột cơm nguội mang hình một giọt mồ hôi. Trong tâm thức, người Việt quê vốn tin vào nhân quả. Nếu sống trong thừa mứa, không biết quý hạt gạo mình làm ra, ắt có ngày phải sa cơ không có hột cơm nguội mà ăn. Thế nên, một trăm bà mẹ quê thì đến chín mươi chín bà biết "chế biến tiếp" những món ngon từ cơm nguội. Cơm nguội được giữ qua đêm, sáng ra cho vào chảo mỡ hành, đảo kỹ, mùi hành cháy no mỡ, mùi ớt bột hăng cay và từng hạt cơm… Còn nhớ, mỗi buổi sớm, mẹ tôi thường dậy chiên cơm, cái mùi cơm chiên thơm ngọn khói bếp sớm.
Có đứng chen với những đứa trẻ xếp hàng đợi mẹ chia lớp cháy cơm chiên bám trên thành nồi mới thấy cơm chiên cũng đã mang theo một hương vị tuổi thơ đơn sơ. Mới thấy quý hột cơm nguội qua sáng tạo ẩm thực bình dân mang lại ấn tượng thế nào. Thế mới biết vì sao người ta tự ví mình là cơm nguội để… ru con và giữ chồng!
Cơm nguội lên đời
Cơm hến- món đặc sản Huế mang trong mình tính cách bình dân vùng sông Hương núi Ngự. Tôi hình dung ra những người phụ nữ Huế thâm trầm vừa niệm hai câu ca "thiếp là cơm nguội…", vừa xát vỏ hến, vừa xắt ớt làm bữa cơm… bỏ bùa chồng. Rau thơm, bắp chuối được thái mỏng như không mỏng thêm được nữa, ớt cay xé lưỡi như không thể cay hơn được nữa, da heo rán phồng như không thể phồng hơn được nữa, hến còn tươi lấy từ cồn bãi sông Hương ăn no phù sa và lớn lên trong nhịp Nam ai Nam bình cũng mang lấy cái vị sâu lắng lạ. Rồi thì "dụng ý" chính ở đây. Ăn cơm nguội mà tứa mồ hôi nóng thì đàn ông Huế có ngọt miệng đến đâu cũng phải… tá hoả, xuýt xoa khen ngon!
Mãi sau này, đôi khi bạn gái mời đi ăn cơm hến, ở những quán Huế bình dân trên đất Sài Gòn, tôi còn giật mình. Dù rằng, người mời ăn cũng chẳng có dụng ý gì sâu xa cả đâu. Chỉ tại thằng tôi mang trong mình nhiều "tà ý" nên mới hay nghĩ ngợi vẩn vơ…
Ngày hôm nay, những bà vợ biết chiên cho chồng những tô cơm chiên nhiều gia vị và đầy đủ chất hơn. Nhưng hình như đàn ông hôm nay lại không có sức khoẻ như xưa. Có lẽ vì cái sự ít vận động đã đành. Còn là vì cái món cơm nguội ngày nay cũng trót mang vào nhiều cái "chấp" của người đời, nên có biến thành cơm chiên, cơm hến thì cũng dư mỡ, dư đạm, thậm chí, dư mặn, dư … ớt. Vậy là phản ứng ngược. Thời đủ đầy, thế nên đàn ông - lũ u mê chúng tôi lại hay… quên cơm nguội là thế.
Nói cho cùng, trong thời khốn khó, có những thứ của ăn ngặt nghèo hoà với cái tình "bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng" mà nên đậm đà. Lâu ngày, nó là lời ăn tiếng nói, là thơ ca và tự tồn tại trong không gian văn hoá của con người. Dù hôm nay được biến tấu nên hàng trăm thứ đặc sản: cơm chiên gà, cơm chiên Dương Châu… và đi vào menu của nhiều nhà hàng sang trọng, nhưng dám chắc rằng, cơm nguội- dư âm thời khốn khó ấy- đã và vẫn còn sức sống, buộc chặt tình nghĩa bao người, bao thế hệ dân Việt lấy vạch bùn đất làm xuất phát điểm…
Tôi vốn tin những người mẹ trẻ hôm nay vẫn đưa nôi ru con bằng câu ca ví mình với… cơm nguội "chàng ơi phụ thiếp làm chi…". Dù rằng, "khi đói lòng", có khi đàn ông nay không cần lục nồi mà phải tập thói quen và phản xạ mở… tủ lạnh! Ở trong đó, biết đâu có tô cơm nguội cổ tích!
Canh tập tàng của ba
PNO - Má bệnh nặng. Chị Hai, chị Ba thay nhau vừa đi làm, vừa nuôi má ở bệnh viện. Tư An và Năm Bình đi học về là tích cực kéo dây bố để kiếm thêm tiền cùng lo thang thuốc cho má. Ba thành người nội trợ bất đắc dĩ, dù nấu được ba món: trứng chiên, cá kho và rau luộc.
Cá là cá đồng ba câu được ở những mảnh ruộng quanh nhà. Lâu lâu, có một bữa cá biển thì toàn loại cá rẻ tiền như cá đuối, cá mối, cá cơm. Còn rau, nếu vườn nhà hết rau muống, rau dền, ba ra bưng hái đọt mì, đọt choại, rau móp, vông nem… mang về luộc. Má nằm viện hơn hai tháng, một bữa chiều, Năm Bình chống đũa: “Lâu quá, nhà mình không ăn canh tập tàng ba hen?”. Ba im lặng không nói gì. Hôm sau, hai chị em đi học về, trên mâm cơm ba dọn có một tô canh nghi ngút khói. Năm Bình reo lên: “A, ba nấu canh tập tàng!”. Tư An nghe em réo, mừng quá, chạy đến bên mâm cơm thì … hỡi ôi!
Món canh tập tàng ba cũng nấu từ xương khô với đọt choại, dền cơm, lá cóc, lá me, mướp hương cùng bắp chuối. Ba làm không quen nên bắp chuối xắt dày cả phân, cọng nào cọng nấy như que đũa. Chuối con ba không bào mà để nguyên từng nải, nổi đều khắp mặt tô canh như những bàn tay xòe ra. Thấy con mắt Tư An xoe tròn, ba phủi hai tay vào vạt áo: “Thôi, mình ăn đại, ăn đùa con nghe!”.
Nói rồi, ba cha con cùng nhau ngồi ăn. Ngậm muỗng canh vào miệng, Tư An mới nghe cái vị thanh thanh, chua chua của lá cóc, lá me non, vị mằn mặn của xương cá khô mà mát ruột. Cắn ngập cả trái chuối con vào miệng, Năm Bình mới biết thế nào là vị ngọt bùi.
Nồi canh của ba hôm ấy chẳng ra “điệu” tập tàng nào, cũng không giống nồi canh của ai, vậy mà đã làm Năm Bình mấy bận suýt xoa: “Ui, ngon quá, ba nấu nữa đi ba…”. Từ đó, với Tư An, ba chữ “canh tập tàng” gắn với tình yêu thương vô hạn của ba.
Cá đuối
| In |
Người đưa bài: theo Thanh Nien
08/05/2012
Hai mươi năm rồi, trên đầu lưỡi vẫn thoảng dư vị ngọt ngào, trước mắt vẫn nhìn thấy đĩa khô cá đuối đường thơm lừng của bà ngoại trong chái bếp năm xưa...
Nhớ hồi còn nhỏ, mỗi lần anh em chúng tôi phụng phịu níu áo bà ngoại: “Ngoại ơi, cá đuối đường”, thì chậm nhất là chiều hôm đó, trong bữa cơm thế nào cũng có món khô cá đuối chiên với đường thơm phức.
Món cá đuối tuổi thơ, chẳng cần phải nghĩ ngợi lâu, chắc chắn là một trong những thực phẩm rẻ và dễ mua nhất ở chợ quê. Bà hay mẹ thường mua trữ sẵn vài miếng khô cá đuối, nên trong trí nhớ chúng tôi hễ nghĩ về cá đuối thì y như rằng chỉ nhớ tới món khô. Còn những món chế biến từ cá đuối tươi thì được ăn về sau này, khi đã rời ngôi làng gần biển từ lâu lắm.
Khô cá đuối “tơ” - với trọng lượng vừa, đem hơ qua bếp than một hồi sẽ tỏa ra mùi thơm phức. Hồi đó nhà tôi có ông bà ngoại đã già, thêm mấy đứa trẻ con răng yếu, nên mỗi khi bà ngoại nướng khô, luôn thủ sẵn một cái chày gỗ vừa tay với một cục đá to bên cạnh. Cục đá đó, chuyên dùng vào việc “dần” cho mềm các loại khô cá, mực sau khi nướng; “dần” xong đem cất đi ngay, thành thử lâu ngày nó cũng thoang thoảng mùi của một miếng khô!
Cá đuối nướng xong còn nóng hổi, bà ngoại xé từng miếng nhỏ vừa ăn, để như vậy chấm nước mắm ớt kèm dưa chuột ăn cơm là đã ngon nhất hạng. Đó là vào những ngày trời đổ mưa mát mẻ, bữa cơm không đòi hỏi bát canh giải nhiệt, ăn “khô khô” như vậy cũng vét sạch nồi. Nhưng bọn trẻ con thì hay hảo ngọt, thành thử bà ngoại chịu khó bắc chảo với ít mỡ lên bếp, đập dập ít tép tỏi cho vào, lại thêm mấy muỗng đường cát. Đợi một lát đường tan chảy, hơi keo lại, cho mớ cá đuối vừa xé vào. Ôi trời, tiếng xèo xèo cộng với mùi thơm nức mũi, lúc này chẳng những trẻ con mà ngay cả người lớn cũng cồn cào đói. Quanh quẩn đợi bà ngoại trút mớ cá “ngào” đường ra đĩa là bưng đặt lên mâm cơm ngay. Và cơm, với cá đuối đường...
Năm tháng trôi qua, rời làng quê vùng biển, vài lần dẫn bạn bè hay khách khứa về lại, họ đề nghị được ăn đặc sản cá đuối nấu chua. Người ở xa tới mà cũng rành rẽ gợi ý: “TP.Vũng Tàu muốn ăn lẩu chua cá đuối phải tới đường Trương Công Định”. Còn với tôi, dù quán ở đường Trương Công Định, nhà hàng dọc bãi Thùy Vân, hoặc là “xuống vựa” - từ quen thuộc của người hay ăn, ý nói những quán hải sản trên đường Trần Phú cạnh bãi Dâu - thì cũng vậy. Những người con phố biển có lẽ ai cũng nấu được món lẩu này. Cá đuối tươi cạo nhớt rửa sạch, cắt thành từng khúc vừa ăn, ướp cá với ít gia vị đơn giản như nước mắm, đường, hành, ớt trong mươi phút. Nồi nước lẩu sử dụng vị chua của
Me
trái, bạc hà, khế... tùy theo sở thích. Đi kèm theo lẩu là bún hoặc cơm và các loại
Rau
cũng tùy sở thích. Một chiều lộng gió biển, cùng bạn bè quây quần bên nồi lẩu, háo hức nhưng chậm rãi. Bởi thịt cá dai, kèm theo sụn cá giòn giòn, nhai chầm chậm mới cảm nhận được hết vị ngon ngọt. Húp thêm vài muỗng nước lẩu, bụng ấm lên, vậy là có thể rôm rả câu chuyện được rồi.
Đăng Khôi
hớ đồng
Tôi chỉ có một cánh đồng để nhớ, đó là cánh đồng làng Đông. Quê tôi không có đồng, chỉ có dăm ba thửa ruộng còn lại là sông và cát. Chỉ đến khi nhà tôi sơ tán lên làng Đông năm 1965, tôi mới thực sự biết đến cánh đồng.
ánh đồng làng Đông rất lạ. Ở cái nơi bán sơn địa của miền Trung, đầu kê núi chân gác cát, lại có một cánh đồng màu mỡ, giống như một cánh đồng của Nam Bộ còn lưu lại sau cuộc di dời đất và nước vô tận của Tạo hóa, có bãi tràm và rặng trâm bầu, có mai vàng và lúa trời, và cá ngập nước và chim đầy trời. Đến khi lớn lên, đọc đi đọc lại
Đất rừng phương Nam
, gặp được cụ Đoàn giỏi, ngồi nói chuyện với cụ trong quán cóc đường Bà Triệu, tôi kể cho cụ nghe về cánh đồng que tôi, cụ trố mắt ngạc nhiên, chép miệng nói đi nói lại lạ vậy ha, lạ vậy ha.
Đồng làng Đông chỉ là một phần của cánh đồng mênh mông của bốn xã làng Phù Lưu, trung Thuần, làng Đông và làng Xá. Nó rộng đến nỗi đi một vòng quanh đồng phải mất trọn một ngày. Ây là đi nhanh, nếu thong thả rông chơi cũng phải hết ba ngày. Mặt trời mọc từ sau rặng trâm bầu kéo dài từ làng Đông đến làng Pháp Kệ và lặn ở cuối cánh đồng, sau dãy đồi đầy sim và ổi làng Trung Thuần. Thế giới tuổi thơ tôi là vậy. Giống như mọi đứa trẻ làng Đồng khác, thế giới của tôi chỉ có ngôi làng và cánh đồng, chỉ có vậy thôi mà đi hoài không hết, sống hoài không chán.
Tôi đã sống trọn vẹn cả tuổi thơ với cánh đồng làng Đông, từ tuổi lên mười đến tuổi hai mươi, từ thuở con gái con trai cởi truồng nhảy xuống bờ mương bơi lội tung tăng, đến khi ngắt một bông hoa rau muống đặt vào tay bạn gái đêm trăng non vàng ửng. Mới đó đã hơn ba mười năm. Hơn ba chục năm xa đồng, mải mốt làm ăn không mấy khi nhớ, đến khi già rồi chẳng còn đi đâu được, lắm khi ngồi một mình ngoảnh mặt về quê, lúc ấy mới da diết nhớ đồng.
Tôi nhớ màu lúa non xanh mướt, màu lúa chín vàng rộm, màu rơm rạ hươm vàng và màu trắng phau những đàn cò trên những bờ mương, những cồn đất. Trong hầu hết các giấc chiêm bao của tôi, dù là xảy ra ở đâu tôi cũng thấy trời cao xanh ngắt, bình mình rựng hồng, hoàng hôn chín đỏ, trăng vàng chanh rải khắp cánh đồng, ấy là màu tuổi thơ tôi được hưởng.
Và mùi nữa, trong các giấc chiêm bao tôi cũng có mùi. Mùi ngọt thanh sáng sớm , mùi khê cháy buổi trưa, mùi hoi nồng chiều tối. Đến khi đêm về, hầu như các mùi đều kết tủa hoặc bay tỏa đi đâu mất, chỉ còn mùi vỏ chanh, mùi bưởi ngây ngất chim nổi dưới ánh trăng và bóng cây tình tứ.
Tất nhiên không thể thiếu những âm thanh. Tiếng chim không bao giờ ngưng nghỉ, rộn lên suốt ngày đêm, cho đến khi cả cánh đồng đã chìm trong giấc ngủ thì tiếng bìm bịp gọi bầy, tiếng cuốc cuốc gọi bạn vẫn không hề tắt.
Có một âm thanh rất lạ, có lẽ khắp miền Trung không nơi nào có, ấy là tiếng cá quẫy. Mùa nước rặc, trong các ruộng lúa đều đầy ắp cá, mỗi một dấu chân người đều có cá, chúng thi nhau đánh mình lóc bóc. Vào những buổi chiều yên ắng, khắp cánh đồng nổi lên thứ âm thanh của bộ gõ bị nhúng nước, ai không quen không thể tin nổi đó là bản nhạc cá của cánh đồng. Lóc bóc lóc bóc khi thưa thớt gần gần xa xa, lời thì thầm bí mật của đồng quê. Lóc bóc lóc bóc khi dậy lên những sóng âm trầm kéo dài miên man, khúc xô nát đồng quê hạnh phúc râm ran mùa lúa chín.
Hễ nhớ đồng là nhớ tiếng cá quẫy. Cá làng Đông nhiều lắm, người ta bảo cơm làng Xá cá làng Đông. Nhiều nhất là cá rô, cá lóc. Đứng trên cống đầu làng thấy chúng nó đi từng đàn đen đặc. Mùa khô làm hố nhảy, tát bờ mương, một ngày có thể thu về cả tạ cá. Mùa nước nổi người lớn cất vó, không một lần cất vó nào không có cả. Chỉ cần cất vó một giờ có cả một rổ cá. Trẻ con vớt ốc, câu tôm. Ốc bươu làng Đông thơm ngon như ốc bươu Hồ Tây, khi nước về trắng đồng cũng là khi ốc bươu không rõ từ đâu kéo về nổi lênh phênh từng đám dọc rìa làng. Trẻ con tung tăng cầm cái rổ đi vớt ốc, chỉ trong chốc lát là đầy rổ. Vớt cho vui thôi chứ chẳng mấy ai ăn, tôm cá làng Đông thiếu gì, rồi còn ếch, lươn, cua đồng nữa, nhiều lắm.
Chim chóc làng Đông cũng rất nhiều, rừng trâm bầu sau làng giống như sân chim Cà Mau, có vài chục loại chim thường xuyên trú ngụ nơi đây. Vào mùa trái Trâm bầu chín, chim bay về rợp trời, đậu kín trong các vòm cây trâm bầu. Nếu quăng một mẻ lưới trùm một khóm cây thể nào cũng bắt được vài trăm con chim sẻ. Chim đậu đầy rừng trâm bầu, tràn ra cả cánh đồng, chen nhau trong những cây rưới, cây cừa. Nhớ những buổi trưa chui vào dưới cây nằm nghe chim rủ rỉ nói những gì rồi thiếp đi, khi tỉnh dậy thấy toàn thân dính đầy phân chim, vừa tức vừa tức cười. Chuyện có vậy thôi, thế mà bây giờ nhớ lại chuyện ấy lắm khi không cầm được nước mắt.
Chỉ vậy thôi làm sao khóc? Bởi vì tất cả đã không còn. Tết năm ngoái tôi trở về làng Đông sau 36 năm phiêu bạt, náo nức được gặp cánh đồng tuổi thơ bao nhiêu càng sững sờ bấy nhiêu khi trước mắt tôi tất cả đã không còn. Không còn những đàn cò rợp trắng trời chiều, chỉ một con thôi cũng không thấy. Không còn những con sáo ngủ trên lưng trâu, những con quạ ngủ giữa lưng chừng trời, đàn chim sẻ ngủ trong gốc rưới, cả những còn chuồn chuồn vẫn ngủ yên trên bờ rào cũng không. Rừng trâm bầu sau làng biến đâu mất, những rặng mai vàng cũng không còn, cả bãi tràm cũng biến mất. Cánh đồng tàn tạ bạc phếch một màu, cánh đồng thiếu nước khô nứt nẻ, không còn tiếng lóc bóc cá quẫy mình, hình như tất cả đã về trời, tuyệt không ai có thể bắt được một con cá chép, những con cá rô cũng rất khó kiếm. Ngay cả những con ốc cũng đã biến đi đường nào, đến cóc nhái cũng không nốt. Kì lạ thay.
Buổi chiều đứng với Diệp, người bạn học thuở ấu thơ, rưng rưng nhìn ra cánh đồng vắng hoe, tôi hỏi vì sao lại thế. Diệp bỗng giật mình rơi phịch xuống đất, ôm ngực ho rũ rượi, nói đồng làng mình già rồi, sắp chết rồi. Diệp ngồi bó gối ngước lên nhìn tôi, đôi mắt trũng sâu đờ dại, nói thôi đừng nhắc chuyện ngày xưa Lập ạ, cũng đừng hỏi vì sao Lập ơi, nếu không lũ trẻ bỏ làng mà đi hết.
Khói chiều cay mắt
(Dân trí) - Trong những giấc mơ chập chờn tôi thường thấy mình trở về bên dòng sông xanh mát, nằm ngửa trên triền đê hướng mắt nhìn bầu trời xanh kỳ diệu. Cả tuổi thơ hiện về êm đềm, dịu ngọt và cả kinh hoàng…
Ba mẹ là nông dân, quanh năm lam lũ với ruộng đồng nên tuổi thơ của tôi có nhiều hương lúa, phù sa và luôn cả cái mùi ngai ngái của bùn. Mùa khoai lang, khi mẹ cắt hết lá ngọn để về cho lợn, ba cuốc bới củ lên chất từng đống trên cánh đồng, tôi và thằng Tèo con bác chủ nhiệm HTX thường đi mót những củ nhỏ còn nằm trong đất mà ba chưa nhặt được. Có khi thì đưa ra sông rửa rồi lấy rơm chùi sạch đưa lên miệng nhai sống (khoai sống ăn ngọt kỳ lạ) có khi chúng tôi lấy phân trâu, bò đã khô trên cánh đồng gom lại để nướng khoai nhưng nướng nhiều nhất vẫn là rơm rạ còn sót lại trên cánh đồng.
Bây giờ ngồi nhớ lại cái mùi khoai chín bóc ra vàng hươm thơm nức mũi mới thấy khoai nướng là món đặc sản đối với lũ trẻ. Trên cánh đồng bao la, những cột khói bóc lên trong chiều như những óng khói tàu khổng lồ. Những đứa trẻ ở làng bên cũng nướng khoai, dường như mót khoai và nướng khoai bằng lửa rơm hay phân khô là thú vui của lũ trẻ con nhà nông. Cái mùi thơm của khoai chín, mùi hăng của khói trong tuổi thơ tôi như còn thơm đến bây giờ mỗi lúc ngồi nghĩ lại!
Mẹ thường gánh khoai qua chợ Chùa bán đổi gạo, thường thì mẹ cho tôi ngồi đầu nhẹ của thúng khoai. Trên con đê gió xiêu xiêu dáng mẹ, mồ hôi nhỏ xuống giữa cái nắng buổi sớm, mẹ đưa tôi qua cánh đồng có nhiều đàn cò trắng, qua một đoạn đường nhiều hàng cây phi lao là đến chợ Chùa. Hôm nào may mắn thì bán hết, mẹ mua nhiều thứ để gánh về, trong những món hàng mẹ mua chắc chắn có con tò he làm bằng bột lộc nhuộm màu xanh đỏ cho tôi; nếu không bán hết mẹ phải gánh về, đường về như dài hơn, thấy mồ hôi mẹ đổ xuống nhiều nên tôi chỉ đi bộ lon ton theo mẹ.
Những ngày nghỉ học tôi cùng thằng Tèo lội xuống đầm Duy Phiên nằm trên cù lao Bắc Phước để bắt còng và mò cua. Đầm vào mùa cạn nước lấp xấp ngang mắt cá chân. Đôi chân thọc sâu xuống bùn bước chậm rãi đi bắt từng con còng bỏ vào cái oi, mặt mày dính đầy bùn thế mà đứa nào cũng thích và mải rong chơi quên cả giờ cơm.
Nhưng trong kỷ niệm của tôi thơ, một vết thương còn đọng lại trong tâm hồn khi một tiếng nổ vang trời vút lên sau luỹ tre của nhà thằng Tèo, nó mất vì vướng phải bom bi còn trong lòng đất khi cuốc khoai cùng mẹ nó ở trong vườn. Nhiều năm sau tiếng nổ đó vẫn con đau đáu trong tâm hồn tôi với hình ảnh người bạn tuổi thơ nằm bất động giữa một hố đất sâu…
Tuổi thơ đi qua, mùi khoai lang nướng không còn. Thi thoảng trở lại quê nhà đi trên cánh đồng sau mùa gặt, từng đám khói bóc lên bởi những người dân đốt đồng. Không biết lũ trẻ bây giờ có thích nướng khoai bằng lửa rơm hay phân bò. Khi nhớ tới hương thơm của khoai chín, sóng mũi cay xè. Không phải do khói lam chiều làm cay mắt mà có lẽ mình đã sống lại với tuổi thơ.
Còn Thương Cây Mắm Cây Bần
Thứ tư, 22 Tháng 7 2009 17:53
Trong khi nhiều cánh rừng ngập mặn ven sông Trường Giang chỉ còn trong ký ức thì tại thôn Đông Xuân, xã Tam Giang (Núi Thành, Quảng Nam) hiện còn hơn 10 hécta rừng ngập mặn với các loại mắm, bần, đước, sặt... đang phát triển xanh tốt, có nhiều cây mắm sừng trên trăm tuổi cành lá sum sê, vững chãi… Đặc biệt, người dân nơi đây đang tự giác bảo vệ cánh rừng này.
Thuở còn nhỏ, tôi thường theo cha đi đánh cá trên sông Trường vùng Tam Hòa, Tam Giang thuộc huyện Núi Thành ngày nay. Và trong ký ức tuổi thơ của tôi, ven bờ những vùng sông nước này là những cánh rừng mắm, bần bạt ngàn. Dưới đất lổm ngổm những con cua còng, đặc biệt là những chú còng có một cái càng đỏ to kềnh càng, bò dường như dày đặc mặt đất. Môi trường sinh thái thuận lợi, nhiều loài thủy sản, chim chóc quần cư sinh sống như cua tra, chim cốt, tỉ tỉ, vạc... Đặc biệt, rừng mắm là nơi tụ tập của nhiều loại chim chóc quý hiếm, có hẳn một “Cồn Cò” ở vùng sông nước Tam Giang xưa kia. Nơi đây, cò trắng tụ tập về dày đặc không thua gì rừng tràm ở miền Tây Nam Bộ.
Rừng cây mắm, bần, sú, vẹt... một thời dày đặc, bạt ngàn ven bãi sông Trường bao quanh xã đảo Tam Giang, Tam Hòa là bức phên vững chắc che chắn triều cường, sóng gió, bảo vệ những khu dân cư và đất sản xuất bên trong. Ông Phan Thanh Bình, Bí thư chi bộ thôn Đông Xuân, xã Tam Giang mường tượng rằng rừng mắm, bần, sú chạy dài ven sông quanh xã đảo Tam Giang, Tam Hòa ước hàng trăm héc ta. Đây cũng là nơi sinh sống của các loại cá tôm, chim chóc quý hiếm, là nơi tạo ra cảnh quan tuyệt vời mang nét đẹp hoang sơ của một vùng sông nước. Thế nhưng, những năm 1999 - 2000, nhiều cánh rừng mắm, bần... bị tàn phá bừa bãi để làm hồ nuôi tôm. Nhiều cây mắm sừng cổ thụ hơn trăm năm tuổi cùng chịu chung số phận.
Trong khi hàng trăm héc ta rừng ngập mặn ven sông Trường bị tàn phá bừa bãi, có nguy cơ bị hủy diệt thì có một khu dân cư là thôn Đông Xuân, xã Tam Giang đã tổ chức bảo vệ tốt những cánh rừng còn sót lại. Chúng tôi theo chân ông Phan Thanh Bình vào khu rừng mắm, bần vào một buổi trưa hè. Bên ngoài trời nắng oi bức nhưng đi vào bên trong rừng không khí mát rượi dưới những tàn lá sum sê. Những cây mắm sừng cổ thụ, những cây đước, mắm vững chãi và có dáng đẹp khó tả hết… Và thú vị thay, thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp nơi đây những con còng càng đỏ xưa kia!
Thèm tuổi thơ hoang dã
Thi thoảng khi bắt gặp đâu đó một hình ảnh quen thuộc của quê nhà, tôi hốt hoảng giật mình "sao lâu nay mình không nhớ tới nó ?". Bắt gặp một vài bông hoa nhìn quen quen tôi lại ứa nước mắt nhớ nhà.
Nhà, cái từ mà làm cho người ta liên tưởng phần nhiều đến một khối vuông vuông, tường xanh ngói đỏ.
Riêng tôi, nhà là cha, là mẹ, là bà ngoại, là em trai, là con mương, là cây khế, là cây tra, là hàng lan đất trên lối đi, là bụi tre đằng ngà, là đám dừa nước, là đám vẹt u nần, là con diều xấu xí, ...
Đôi lần tôi thấy mình cháy bỏng vì cái khát khao trở về. Không phải là chạy gần 100 cây số để về mà là quay về cái thời đen nhẻm, tóc cháy, chạy lăng quăng như vịt với thằng em trên cái sân đất mọc toàn rau sam.
Mà sao tôi quên cây lan đất? Cái loại cây nhỏ nhắn, mong manh nhưng sức sống mãnh liệt. Luôn xanh tươi và nở đầy những bông màu tím vui tươi vào mùa mưa, nắng hạn đến thì gần như chết héo hết, mưa xuống tất cả lại trở nên xanh mướt và tím vui tươi. Mẹ thích trồng dọc lối đi vào, cả hai chị em đều thích dậy sớm để ngắm cái màu tim tím nhưng không buồn, ngắm nước mưa đêm qua còn vương lại trên cái lá như cọng hành, nắng lên là long lanh những giọt kim cương.
Mà sao tôi quên cây tra? Hồi nhỏ cây tra mọc đầy mé sông sau nhà, giờ người ta nuôi tôm nên đốn sạch cả rồi. Bông tra to, màu vàng và rũ như cái chuông. Chuông tuy câm lặng nhưng mỗi lần thấy nó tôi cứ nghe đâu đó văng vẳng tiếng gọi " Mắm Linh ơi ..." của cha. Hồi nhỏ tôi có tài làm kèn bằng bất cứ vật liệu gì, từ lá mãng cầu, lá táo, lá khế, ..., và cả giấy nữa. Nhưng đặc biệt nhất thích làm kèn bằng lá tra, lá tra to và giòn nên tiếng kèn sẽ lớn và trong trẻo hơn rất nhiều.
Mà sao tôi quên đám vẹt mé mương? Cái loại cây mọc ven sông ấy, người ta gọi là vẹt dù vì bông có 8 lá đài hoặc nhiều hơn, hình dù. Rễ cây có hình đầu gối nhô lên khỏi mặt đất. Trái có hình giống điếu xì gà, thon dài màu xanh thẳm. Trồng loại cây này rất dễ, chỉ cần lấy trái rụng găm xuống đất ướt ven sông, mương là nó có thể tự sống. Hồi nhỏ chị em thích lượm trái và bông nhìn như cái nôm để chơi đồ hàng.
Còn nhiều, nhiều thứ mà một khoảng thời gian chạy theo cái gọi là "tiền" nên quên mất. Con diều xấu xí chị em tôi hì hục làm xong chỉ bay nổi tới ngọn dừa. Cái bụi tre đằng ngà cha hay đốn để làm lồng đèn cho chị em tôi, sau này được mua cho đèn điện tử nhưng chúng tôi để chưng cho đẹp, chỉ thích chơi bằng đèn giấy nhà quê.
Còn nhiều và nhiều thứ nữa mà mỗi lần nhớ đến tôi đều nôn nao khó tả. Dẫu biết không thể trở về ngày hôm qua, dẫu biết tất cả chỉ còn là ký ức nhưng sao tôi vẫn mơ, mơ về cái thiên đường ngày ấy.
Lắm lúc tôi lại lo lắng, khi tôi có con, tôi có thể để dành cho nó bao nhiêu là thứ nhưng làm sao tôi có thể để dành được cho con cái tuổi thơ hoang dã ngọt ngào của chính tôi xưa kia?
Nhớ thương tóp kho tương của m
Ai cũng có những kỉ niệm tuổi thơ của mình. Với tôi, đó là những ngày tháng khó khăn mà món tóp kho tương của mẹ gợi cho tôi nhớ về những kỉ niệm đó.
Ngày ấy, nhà tôi còn khó khăn nên nhiều hôm món tóp kho tương trở thành món chính, món mặn trong bữa cơm. Vào những ngày trời rét, món tóp kho tương ấy trở nên ngon lạ kỳ.
Mỗi khi mua mỡ về, mẹ lại để dành bát tóp lại. Khi thì dùng để nấu ốc với chuối và đậu, khi thì rim mắm, khi thì làm nhân quấy bánh đúc. Trong đó, tóp kho tương là món mà gia đình tôi thích hơn cả.
Tóp kho tương đơn giản chỉ là cho tóp vào xoong tương kho lên với gia vị. Nhưng để có nồi tóp kho tương ngon thì đầu tiên phải là công đoạn rán mỡ lấy tóp
Mỡ mua về thái miếng vuông, nhỏ, mỏng vừa. Mẹ bảo, để tóp không cháy, mỡ trắng và thơm thì khi rán mỡ nên cho vào đó một dúm nhỏ muối trắng, một chút gừng tươi giã nhỏ. Đun lửa nhỏ và đảo liên tục cho mỡ ra đều.
Khi tóp đã hơi vàng thì tắt bếp và vớt tóp ra bát. Mỡ để nguội rồi cho vào âu dùng dần. Phần tóp cho vào nồi tương. Nêm thêm gia vị, bột ngọt cho vừa và cho lên bếp đun chừng 5 phút là được.
Ngày xưa, quê tôi nhà nào cũng làm tương nên quanh năm ăn tương thay nước mắm. Ngày nay, họ không còn làm tương nữa. Nếu muốn ăn thì chỉ cần đi xe máy vài cây số tới chợ Bần là có loại tương Bần ngon thượng hạng. Tóp khi kho tương ăn sẽ dai dai, ngọt, đậm đà cùng với mùi vị hấp dẫn của tương. Trong bữa cơm mà có thêm ít rau thơm chấm với tóp kho tương thì không gì ngon bằng.
Ngày nay, khi được ra ngoài và thưởng thức nhiều món ăn ngon, đắt tiền nhưng những món ăn dân giã, giản dị như tóp kho tương của mẹ luôn nhắc tôi nhớ về quê hương, về gia đình, nơi mình đã sinh ra và lớn lên.
Hương vị tuổi thơ…
Chủ nhật, 27 Tháng 2 2011 06:30
alt=In v:shapes="_x0000_i1029">
alt=PDF. v:shapes="_x0000_i1030">
(Sóng trẻ)
- Hà Nội những ngày mùa đông…Đạp xe trên phố đông người. Gió hiu hiu, nắng nhạt nhạt. Cuộn mình trong chiếc khăn quàng ấm áp. Bất giác thấy thèm một chiếc bánh đa mắm tôm, nóng nóng, giòn giòn và thơm phức mùi mắm tôm quệt mỡ…Kí ức ùa về…
Chiếc bánh tráng tròn tròn vừa miệng chậu than hồng, trên miếng giá là vài sợi dây sắt đan vào nhau, bác bán hàng nhanh tay lật qua lật lại, bánh vừa đủ lửa bác gái cầm chiếc đũa một đầu có gắn miếng vải nhúng vào tô mỡ trộn mắm tôm kê trên hòn gạch đặt ngay cạnh bếp, quệt qua quệt lại vài lần rồi úp xuống chậu than hồng rực. Rất nghệ thuật, bác gái dùng hai tay lật chiếc bánh đã bắt đầu dậy mùi thơm: “Ái chà…nóng…Bố khỉ…”, tiện tay bác quệt thêm vài lượt nữa mặt bên này chiếc bánh rồi lại úp xuống. Chiếc bánh đa bắt đầu chuyển sang màu hơi hơi vàng, bọt mỡ sủi lăn tăn điểm chút mắm tôm màu hơi đậm. Dưới cặp mắt háo hức của 2 đứa trẻ, bác gái cầm mấy tờ giấy báo: “Bẻ đôi hở?”…nín thở…Pạch…mỗi đứa một nửa, cũng đều đều bằng nhau. Ngồi luôn bên chậu than góc cổng trường, 2 đứa trẻ ngấu nghiến nửa bánh đa. Cái vị mằn mặn, ngầy ngậy của miếng bánh đa giòn tan trong miệng chúng mới chóng hết làm sao. Nhìn cái mặt của chúng nó lúc ấy, bác gái bật cười: “Ranh con…”, rồi bác lại nướng thêm cho chúng cái nữa, cái này là miễn phí. Buổi chiều nào cũng thế, liếm mép hết chiếc thứ hai, mỗi đứa móc trong túi quần ra tờ 500đ nhàu đưa cho bác bán hàng rồi chúng năm tay nhau nhảy chân sáo ra về. đằng sau vọng lại tiếng í ới của chúng bạn tan trường.
Hai đứa bé ấy vừa lên 5 tuổi, cùng học chung lớp mẫu giáo của một thị trấn nhỏ miền biên giới. Nhà chúng cách nhau có một bức tường rào cũ kĩ. Mỗi khi sắp muộn học đứa kia lại chạy sang nhà đứa kia để trèo lên cái chum lớn rồi nhảy qua tường rào vào trường. Cũng mấy lần chúng bị bác bảo vệ túm được ở đó rồi. Cái gì ăn được, chơi được, đứa này đều cầm chạy sang nhà đứa kia ăn chung, chơi chung. Trong trí nhớ chúng nó, hai đứa là một thì phải. Chơi với nhau cả ngày cũng có lúc giận nhau, đứa kia giơ bàn tay nhỏ xíu lên làm dấu cái kéo: “Át xít, Át xít cắt làm đôi…!”, rồi ngúng nguẩy bỏ về nhà. Đứa này giận tím mặt chạy vào nhà trùm chăn kín mít. Ấy thế mà chục phút sau đã thấy đứa kia lon ton chạy sang mách :“Mẹ tớ sắp có em bé nè”. Thế là hết giận.
Mẹ đứa kia có em bé. Cả hai đứa suốt ngày ngồi nghịch em bé với mong muốn sẽ được vét nốt cái xong bột của em. Đáy nồi, cháy bột mới ngon làm sao. Mẹ đứa kia đem tã em bé đi sông giặt, dặn 2 đứa ở nhà trông em, vâng vâng dạ dạ, mẹ vừa đi khỏi một lát 2 đứa cũng khép cửa đi theo. Mẹ vừa mới bỏ quần áo ra giũ thì thấy 2 cái đầu bé tí lấp ló, lấp ló. Mắng cũng chẳng được, đường thì xa chẳng dám đuổi chúng nó về một mình. Mẹ đành để chúng ở lại và không quên trợn mắt: “Cấm 2 đứa xuống nghịch nước”. Phiến đá trườn ra ngoài lòng sông, ngồi yên sau lưng mẹ ngứa ngáy tay chân, đứa kia lấy bàn chải ra chải chân, nước trôi, trôi mất bàn chải, phiến đá ngầm kéo theo cả nó, đứa còn lại nhoài người ra giữ bạn, chỉ đến khi hai đứa cùng tụt xuống nước thì mới hét lên, mẹ nó hoảng quá đẩy vội chiếc chậu to đùng ra cho hai đứa bám rồi lao xuống kéo vào. Chiều muộn, nhà chài đã bắt đầu lên đèn, hai đứa trẻ run lập cập, len lén nhìn mẹ nó đang lau nước mắt.
Cuối tuần, mẹ đứa kia kêu cả 2 sang nhà dạy tập viết. Đôi bàn tay nhỏ xíu nắn nót cầm phấn, trên chiếc bảng con là tên chúng nó, mẹ nó bảo đổi nhau đứa này viết tên đứa kia, sau này mà có xa nhau thì nhớ mà viết thư cho nhau. Đôi mắt to tròn ngước lên hỏi mẹ:“ Xa nhau là gì vậy mẹ? Sao mà xa nhau lại phải viết thư?”. Với chúng nó, chẳng có lí gì để hai đứa phải xa nhau cả.
Sắp hết hè rồi, ở quê ra đứa kia háo hức chuẩn bị phấn bảng, mẹ bảo sắp được “học 36 buổi”. Nó chẳng biết học 36 buổi là gì, chỉ biết nó sắp lại được gặp bạn nó, được chơi chung với bạn nó, thế là vui rồi. 36 buổi chúng nó quấn quýt bên nhau không rời. 36 buổi chúng nó lại được sống những ngày tuyệt vời nhất. Ngày thứ 36, mẹ đứa kia đón đứa kia bằng xe đạp trước cổng trường, mẹ hai đứa cùng đến đón nhé, mẹ đứa kia bảo:“Chào bạn đi con, bố con sẽ đón con về học trường làng nhé..”. Đứa kia ngoan ngoãn ôm bạn thật chặt rồi thì thầm: “Tớ về học trường làng đây, mai mình lại chơi chung nhé…”. Đứa kia leo lên xe, mẹ nó dắt xe đi, nó rơm rớm nước mắt, đứa còn lại chạy theo mà nắm tay, mà gọi tên nó, mà khóc nhè. Nó không hiểu tại sao lần này về quê mà nó có cái cảm giác trước nay chưa từng có. Cảm giác mà mãi sau này nó mới gọi tên được…
Giật mình vì tiếng gọi của chị bán hàng, hoá ra nó đã gọi một chiếc bánh đa quyệt mắm tôm giữa đất Hà Nội này. Vậy là đã mười lăm năm kể từ ngày ấy, mười lăm năm kể từ ngày lần đầu tiên nó biết được cảm giác chia ly. Đã mười lăm năm nhưng kí ức của một cô bé 5 tuổi thì vẫn còn nguyên vẹn trong tim nó. Nó đã lớn lên nhưng bạn nó thì mãi bé nhỏ, nghe mẹ kể, bạn nó đã bé mãi ở cái tuổi hơn ngày ấy một chút trong một chuyến xe du lịch đi biển sau đấy 2 năm. Hôm nay, bánh đa mắm tôm cũng thơm, cũng ngậy, cũng giòn nhưng sao nó thấy không có hương vị ngày đó. Hương vị của tuổi thơ…
Gánh rau của mẹ
Chủ nhật, 09 Tháng 1 2011 02:20
alt=PDF. v:shapes="_x0000_i1033">
(Sóng Trẻ)
- Tôi vô tình bắt gặp hình ảnh người phụ nữ gánh trên vai những gánh rau đi giữa đường phố Hà Nội trong trong một ngày mưa phùn. Bóng dáng gầy gò, lầm lũi ấy, lại làm sống dậy trong tôi những kỷ niệm về gánh rau nhọc nhằn của mẹ ở chốn quê nhà.
Tôi còn nhớ, cứ mỗi khi mùa mưa về, mẹ tôi lại đem hạt rau ra gieo. Những hạt rau nhanh chóng được mẹ trải đều trên mặt luống, ngấm xuống đất và trương lên thành những mầm xanh xanh trông thật đáng yêu. Chính vì thế, ruộng rau nhà tôi trở nên tươi tốt và được xem là nguồn thu nhập của cả gia đình.
Mỗi luống rau chứa đựng biết bao công lao của mẹ, hết tưới tắm, đến bắt sâu, nhổ cỏ. Mẹ đi từ tờ mờ sáng đến trưa mới vác cuốc về. Má mẹ rám nắng, tay mẹ chai đi vì cầm cuốc xới đất, tưới rau, chân mẹ nứt toác nhìn như những vết chỉ đen khâu vào gót bàn chân, không những thế nhiều khi mẹ phải lội ra vùng nước bẩn để đắp bờ cho nước khỏi tràn vào ruộng, cho nên chân mẹ còn bị sâu, nó khiến mẹ nhiều đêm không ngủ được vì ngứa, nhìn vậy mà tôi càng xót xa. Mỗi ngày ra thăm ruộng rau về là mẹ tôi lại háo hức kể cho cả nhà nghe về hạt rau hôm nay ra được mấy nõn, cao khoảng hai đốt tay rưỡi… mọi vất vả cả một ngày dường như tan biến qua lời kể của mẹ.
Cuối cùng, ruộng rau nhà tôi cũng đến ngày thu hoạch. Hôm đó là một ngày đẹp trời, cả nhà tôi ra đồng hái rau đem bán, tiếng cười nói của mọi người từ đầu bãi đến cuối bãi thật vui vẻ. Tôi thấy lòng hớn hở, đã lâu lắm lâu rồi tôi không chứng kiến cả nhà vui như thế. Em trai tôi mọi lần chạy nghịch, vậy mà hôm nay lại chăm chỉ, cặm cụi nhổ rau, tôi biết nó thương mẹ lắm. nhưng cái tính ngang ngạnh của nó thì không ai thay đổi được. Mẹ nói, rau đợt này được mùa, có lẽ sẽ dư tiền cho chúng tôi đi học thêm. Vừa nói, mẹ vừa xếp những mớ rau vào quang gánh. Nhìn mẹ gánh rau, đôi lúc lại sốc lên để đỡ nặng và đi nhanh ra chợ, kịp phiên, tôi mong sao mẹ bán hết rau và trở về nhà thật sớm. Những ngày ế ấm, mẹ thường thở dài và không ngủ được. Chính vì vậy, mắt mẹ lại thâm quầng vì mất ngủ.
Tôi thấy mình cần cố gắng học tập và nỗ lực hơn để không phụ công lao vất vả của mẹ. Tôi tự hào về mẹ, cả đời mẹ vun vén cho gia đình để nuôi con ăn học, để cho chồng yên tâm đi học xa nhà. Giờ đây, gia đình tôi cũng phần nào đỡ vất vả hơn trước. Những lời mẹ dạy tôi, phải biết quí trọng người vun xới, biết chia sẻ nhọc nhằn với đồng ruộng và biết quí trọng những mớ rau của người trồng ra nó, luôn luôn trong tâm trí tôi.
M
Ắ
M CÁY - truy
ệ
ắ
n c
ủ
a Đ
ỗ
Tr
ườ
THỨ HAI, 30 THÁNG 5 2011 16:27
Châu Âu đã vào h
ạ
, cây lá b
ừ
ỉ
nh sau m
ộ
ấ
c dài ng
ủ
đông. B
ầ
u tr
ờ
i cao và trong xanh, tia n
ắ
ớ
m kh
ỏ
e, mát nh
ư
thi
ế
u n
ữ
tu
ổ
i d
ậ
y thì chi
ế
u v
ọ
t qua khung c
ử
a, lòng ng
ườ
i th
ấ
y nao nao. Không hi
ể
u sao lúc này c
ả
m giác nh
ớ
nhà, nh
ớ
quê trong tôi trào d
âng đ
ế
n nh
ư
v
ậ
y. C
ầ
m đi
ệ
n tho
ạ
i đ
ị
nh chia x
ẻ
c
ả
m xúc này v
ớ
i bác Tr
ầ
n M
ạ
nh H
ả
o, có khi l
ạ
i c
ả
m h
ứ
ng cho bác đ
ẻ
ra vài ba bài th
ơ
ch
ứ
ch
ẳ
ng ch
ơ
i. Nh
ư
ng tôi ch
ư
a k
ị
p lên ti
ế
ng, bác đã h
ỏ
i ngay:
- Tr
ườ
ng h
ả
! Chú g
ọ
ấ
t đúng lúc, không hi
ể
u sao m
ấ
y
ngày nay anh nh
ớ
và thèm ăn m
ắ
m cáy quá.
Ơ
hay bác này! Hôm nay g
ở
ườ
i hay sao? Đi
ệ
n đóm ch
ư
a thăm h
ỏ
i nhau câu nào đã m
ắ
m cáy m
ắ
m cò.
- Em cũng đang nh
ớ
nhà ch
ế
t đi đ
ượ
c, g
ọ
i cho thi sĩ th
ứ
thi
ệ
t, t
ưở
ng bác cho em vài nh
ờ
i bay b
ổ
ng, gi
ờ
đ
ấ
t trăng sao, ai ng
ờ
bác l
ạ
i đi th
ẳ
ng vào đ
ề
tài dùi đ
ụ
c m
ắ
m cáy th
ế
này, làm m
ấ
t h
ứ
ng. Bác mu
ố
n ăn ra ch
ợ
mua, Sài Gòn thi
ế
u gì.
- Chú mày không hi
ể
u gì r
ồ
i, ch
ợ
bây gi
ờ
ch
ỉ
có m
ắ
m còng thôi làm gì có m
ắ
m cáy th
ứ
thi
ệ
t, mà anh thèm cái th
ứ
ắ
m cáy câu
ở
quê Nghĩa H
ư
ng c
ơ
, ch
ứ
không ph
ả
ắ
m làm t
ừ
nh
ữ
ng con còng còng ngòai b
ể
. Cái th
ứ
này
ở
quê hình nh
ư
cũng tuy
ệ
t ch
ủ
ồ
i.
Gi
ờ
i đ
ấ
ơ
i! C
ứ
ưở
ng cái bác thi sĩ này c
ả
ngày m
ơ
ơ
, màng màng v
ớ
i ch
ữ
nghĩa, ch
ứ
ờ
đâu có lúc bác l
ạ
i hoài t
ưở
g, thèm khát đ
ế
ắ
m cáy, c
ứ
nh
ư
là qu
ố
c h
ồ
n qu
ố
c túy không b
ằ
ng. Cái th
ứ
mà dân nghèo quê tôi tr
ướ
c đây nhà nào cũng có ít nh
ấ
t vài ba chum đ
ể
ở
góc v
ườ
n, hay chái b
ế
p.
Làng tôi đ
ượ
c c
ắ
t làm đôi b
ở
ộ
t nhánh con sông Đáy. N
ố
i hai b
ờ
là cây c
ầ
u g
ỗ
, v
ồ
ng lên r
ấ
t c
ổ
kính. C
ạ
nh, nam m
ố
c
ầ
u là nhà Đòn, đ
ể
ố
ng kèn, đòn khiêng ph
ụ
c v
ụ
ma chay c
ủ
a làng. Lùi sâu vào trong mi
ế
u th
ờ
ằ
m l
ọ
t th
ỏ
m d
ướ
i nh
ữ
ng tán lá và r
ễ
cây si gi
à. Chi
ế
c ao sau mi
ế
u r
ấ
t rông có nhi
ề
u cá và hoa súng, quanh b
ờ
đ
ượ
c lát đ
ề
u m
ộ
t l
ớ
ạ
ch m
ỏ
ng. C
ầ
u ao lên xu
ố
ng làm b
ằ
ng hai phi
ế
n đá to nh
ư
manh chi
ế
u đ
ượ
c đ
ỡ
ằ
ng nh
ữ
ng c
ọ
c tre c
ắ
m xu
ố
ng lòng ao. Nh
ữ
ng cây nhãn, cây bàng ch
ẳ
ế
t đ
ượ
c tr
ồ
ừ
khi nà
ố
c to b
ằ
ấ
y vòng tay ôm c
ủ
a lũ tr
ẻ
. Bên kia b
ờ
ao giàn nhót chín đ
ỏ
ủ
xu
ố
ướ
c, lũ tr
ẻ
chúng tôi th
ườ
ng c
ở
i tru
ồ
ng, b
ơ
i ra hái cho đ
ầ
y vào hai
ố
ng qu
ầ
n đã đ
ượ
c túm l
ạ
i, lên b
ờ
chia nhau ăn
.
Chúng tôi d
ọ
n v
ề
ở
nh
ờ
ngôi nhà ngang c
ủ
a ch
ị
H
ậ
u. Ch
ị
v
ớ
ẹ
sinh ho
ạ
ở
ngôi nhà chính, năm đó ch
ị
kho
ả
ng hai m
ươ
i, hai m
ố
t tu
ổ
i. Nói là chi
ế
n tranh, M
ỹ
ném bom đánh phá Mi
ề
n B
ắ
c, nh
ư
ng làng tôi r
ấ
t yên bình sau nh
ữ
ặ
ng tre xanh. V
ớ
i ký
ứ
c tu
ổ
i th
ơ
, tôi ch
ỉ
nh
ậ
n ra chi
ế
n tranh, b
ằ
ng nh
ữ
ng bu
ổ
i l
ễ
truy đi
ệ
u
li
ệ
ỹ
ậ
p th
ể
, v
ớ
i nh
ữ
ấ
ả
nh th
ờ
cha và hai ng
ườ
i anh c
ủ
a ch
ị
H
ậ
u, hy sinh ngoài m
ặ
ậ
n. Và làng không có ti
ế
ng nói c
ủ
a đàn ông. Ngày tr
ở
v
ề
Hà N
ộ
i, tôi th
ậ
ự
c
ả
m nh
ậ
n đ
ượ
c chi
ế
n tranh qua s
ự
đ
ổ
nát, ch
ế
t chóc đ
ế
n kinh hoàng
ở
ph
ố
Khâm Thiên và n
gõ ch
ợ
. Nhà tôi n
ằ
m sâu trong ngõ 8 cũng bay m
ấ
ộ
t ph
ầ
n mái
.
Có l
ẽ
cõng trên mình ba cái b
ằ
ng T
ổ
Qu
ố
c ghi công quá n
ặ
ề
, nên m
ẹ
ch
ị
H
ậ
u không bao gi
ờ
đi đ
ứ
ng th
ẳ
ườ
i đ
ượ
c n
ữ
a. Sau này nghe nói, khi bà x
ắ
p ph
ả
i v
ề
ơ
i xa l
ắ
m, ng
ườ
i ta cũng k
ị
p d
ự
bà d
ậ
y, choàng lên c
ổ
danh hi
ệ
u Bà M
ẹ
Vi
ệ
t Nam Anh Hùng. Ch
ị
H
ậ
u không ph
ả
i tham gia dân quân du kích, đ
ượ
c
ư
u tiên
ở
nhà chăm sóc m
ẹ
. Ch
ị
không đ
ẹ
p nh
ư
ấ
t hi
ề
n, có duyên, và kín đáo. Ngoài th
ờ
i gian làm ngoài đ
ồ
ng, ch
ị
th
ườ
ở
nhà khâu nón lá, g
ử
ấ
y bà hàng xén ngoài ch
ợ
bán. Ch
ị
H
ậ
u r
ấ
t khéo tay, nón ch
ị
làm ra đ
ẹ
p nh
ấ
t vùng, nên nhi
ề
u ng
ườ
i đ
ặ
t mua, có khi ch
ị
làm c
ả
đêm. Ch
ị
ả
o kỳ này ng
ườ
i ta dùng mũ r
ơ
m nhi
ề
u đ
ể
tránh bom bi, nên công vi
ệ
c c
ủ
a ch
ị
có th
ư
th
ả
h
ơ
n. Hôm nào n
ắ
ng đ
ẹ
p, ho
ặ
c chi
ề
u
chi
ề
u ng
ồ
i khâu nón đã m
ỏ
ệ
t, ch
ị
th
ườ
ủ
tôi đi câu cáy
.
C
ầ
n câu c
ủ
a ch
ị
ch
ỉ
là cây hóp vu
ố
t th
ẳ
ng, đ
ầ
u c
ầ
n bé tý t
ẹ
o, dây câu là s
ợ
i ch
ỉ
. Đeo gi
ỏ
vào hông, ch
ị
thò tay xu
ố
ầ
m c
ầ
u ao b
ắ
ộ
t con
ố
c, đ
ậ
p v
ỏ
l
ấ
y ru
ộ
t làm m
ồ
i. Tôi l
ẽ
o đ
ẽ
o theo ch
ị
, c
ó khi tôi đòi ch
ị
cho đeo gi
ỏ
, chi
ề
u tôi ch
ị
đ
ồ
ng ý. Đ
ượ
c m
ộ
t lúc gi
ỏ
tu
ộ
t xu
ố
ng chân, ch
ị
c
ườ
ấ
t, b
ả
o tôi.em c
ầ
m vào quai cũng đ
ượ
c. Hôm nào n
ướ
c ròng, bãi sông t
ậ
t ra, cáy bò ra nhi
ề
u, ch
ị
ch
ỉ
c
ầ
n th
ả
ồ
i xu
ố
ng là cáy dùng càng qu
ắ
ồ
i, có nh
ữ
ng l
ầ
có hai, ba con tranh nhau đu
ổ
i theo m
ồ
i nh
ử
c
ủ
a ch
ị
, th
ế
là nh
ư
chi
ế
c c
ầ
n c
ẩ
u nh
ỏ
chúng b
ị
treo l
ơ
l
ử
ng trên không
.
Tôi không hi
ể
u n
ổ
i loài cáy bi
ế
ị
l
ừ
a mà v
ẫ
n bám ch
ặ
ồ
i? Chúng ch
ỉ
c
ầ
n nh
ả
càng ra là l
ạ
i đ
ượ
c tr
ở
v
ề
v
ớ
i thiên nhiên và cu
ộ
c s
ố
ươ
đ
ẹ
p v
ố
n có, d
ẫ
u r
ơ
i xu
ố
ng có đau đ
ớ
n, v
ỡ
mai g
ẫ
y càng, ch
ắ
c ch
ắ
ẽ
h
ạ
nh phúc h
ơ
n hũ m
ắ
m c
ủ
a ch
ị
H
ậ
u đang ch
ờ
chúng.
Hãy t
ỉ
nh ng
ộ
đi h
ỡ
i loài cáy kia!
T
ừ
lúc bé tý, l
ẽ
o đ
ẽ
o xách gi
ỏ
theo ch
ị
H
ậ
u, tôi đã có nh
ữ
ng câu h
ỏ
i thông minh nh
ư
v
ậ
y. Nh
ư
ng càng l
ớ
n, h
ọ
c nhi
ề
u, t
ướ
c v
ị
cao sang, tôi l
ạ
i th
ấ
y mình r
ấ
ố
ng h
ọ
nhà cáy này.
Tôi theo ch
ị
đi d
ọ
c hai b
ờ
sông, tr
ờ
ắ
t đ
ầ
u s
ẩ
ố
i cũng đ
ượ
c đ
ầ
y gi
ỏ
. Nh
ữ
ng hôm n
ướ
c lên, n
ướ
c sông m
ấ
p mí b
ờ
, ch
ị
ph
ả
i vào nh
ữ
ng gò, ho
ặ
c mép ru
ộ
ng câu. Cáy s
ố
ở
ờ
, gò nà
y th
ườ
ng ch
ỉ
th
ậ
p thò trong l
ỗ
, ít khi ch
ị
u ra ngoài. Ch
ị
H
ậ
u b
ả
o khó câu h
ơ
ộ
t chút, nh
ư
ng chúng to và m
ẩ
y, r
ấ
t nhi
ề
u tr
ứ
ng. Ch
ị
dùng m
ồ
ằ
ọ
c khoai, t
ẩ
m thính th
ơ
m đ
ể
nh
ử
chúng. Ph
ả
i công nh
ậ
n ch
ị
H
ậ
u c
ầ
m c
ầ
n câu uy
ể
n chuy
ể
n, đi
ệ
u ngh
ệ
nh
ư
ấ
y ch
ị
ngh
ệ
ỹ
c
ầ
m roi đi
ề
u khi
ể
n thú c
ủ
a đoàn xi
ế
c
ở
nhà B
ạ
t. M
ồ
i câu th
ơ
m ph
ứ
c nh
ẹ
nhàng đ
ề
u đ
ề
u th
ụ
t lên, thut xu
ố
ng nh
ư
đi
ệ
u tango ph
ả
vào m
ặ
t, t
ừ
lúc hoài nghi th
ụ
t ra th
ụ
t vào, đ
ế
n lúc cáy k
ề
nh ph
ả
i d
ừ
ng l
ạ
i nghe ngóng. V
ẫ
n đi
ệ
p khúc đó, mùi th
ơ
m kỳ quái
nh
ư
thôi miên không c
ưỡ
ng l
ạ
i đ
ượ
c, cáy k
ề
nh bò ra kh
ỏ
i l
ỗ
, l
ậ
t đi l
ậ
t l
ạ
ế
ng ăn, h
ấ
p d
ẫ
n quá, nhìn tr
ướ
c ngó sau, yên tĩnh, ch
ắ
c ăn quá, v
ộ
i l
ấ
y càng qu
ặ
p ch
ặ
t đ
ị
nh tha vào hang. Nh
ư
ng không k
ị
ấ
ồ
i, cáy càng đã b
ị
nh
ấ
c b
ổ
ng lên, r
ồ
i ngoan ngoãn ch
ui vào gi
ỏ
c
ủ
a ch
ị
H
ậ
u.
Câu quanh gò, và m
ấ
y mép ru
ộ
ng, gi
ỏ
đã l
ư
ng l
ử
ng toàn cáy ch
ứ
ng, ch
ị
H
ậ
u b
ả
o lo
ạ
i cáy cao c
ấ
p này nhát, nh
ư
ng tham, c
ắ
ồ
ồ
i không bao gi
ờ
ch
ị
u nh
ả
ra đâu
.
Cáy mang v
ề
, ch
ị
H
ậ
u r
ử
a s
ạ
ch s
ẽ
, đ
ổ
ra cái n
ồ
i đ
ồ
ng, ch
ị
bóc h
ế
ứ
đem ph
ơ
i khô, sau đó ch
ị
bóc đ
ế
n mai, con nào to kh
ỏ
e nh
ấ
t ch
ị
cho vào c
ố
i đá giã, l
ọ
c l
ấ
y n
ướ
c n
ấ
u canh. Còn l
ạ
i ch
ị
cho c
ả
vào chum làm m
ắ
m. Nói th
ậ
t tôi đã đi kh
ắ
ơ
i, ăn không bi
ế
t bao nhiêu các lo
ạ
i canh, súp, ta có, Tây, T
ầ
u đ
ủ
c
ả
, nh
ư
ng không đâu n
ằ
ng canh tr
ứ
ng cáy khô v
ớ
i hoa bí do ch
ị
H
ậ
u n
ấ
u. Các c
ụ
nhà ta có câu nhát nh
ư
cáy ngày, qu
ả
th
ậ
t ch
ẳ
ng sai chút nào, tôi th
ườ
ng xuyên cùng ch
ị
H
ậ
u bóc mai cáy nh
ư
ng ch
ẳ
ng bao gi
ờ
ị
c
ắ
p c
ả
, nh
ư
ng cua r
ố
c(cua đ
ồ
ng) l
ạ
i khác, chúng hung hăng, nghênh c
àng chi
ế
n đ
ấ
u đ
ế
n h
ơ
i th
ở
cu
ố
i cùng khi b
ị
ấ
n công, nên tay tôi choe chóe nh
ữ
ng v
ế
t do càng cua r
ố
c c
ắ
.
Tháng năm, tháng sáu t
ầ
ư
a, tr
ờ
i nóng nh
ư
đ
ổ
l
ử
a. Ch
ị
H
ậ
u r
ủ
tôi đi b
ắ
t cua r
ố
c. N
ướ
c d
ướ
i ru
ộ
ng nh
ư
mu
ố
n sôi lên, cua r
ố
c không ch
ị
u n
ổ
i trèo tu
ố
lên cây lúa tránh nóng. Ch
ị
H
ậ
u ch
ỉ
vi
ệ
c l
ộ
i xu
ố
ng ru
ộ
ắ
t chúng cho vào gi
ỏ
. Hôm nào nhi
ề
u ch
ị
c
ở
i c
ả
đôi xà c
ạ
ở
chân ra, bu
ộ
c m
ộ
t đ
ầ
u l
ạ
ắ
t cho đ
ầ
y vào đó.( Xà c
ạ
p dùng đ
ể
ch
ố
ng đ
ỉ
a c
ắ
n, đ
ượ
c làm b
ằ
ng v
ả
i thô, bao b
ố
) Cua r
ố
c ch
ỉ
đ
ể
ấ
u canh, ch
ứ
không làm m
ắ
m đ
ượ
c. Nh
ư
ng tôi thích nh
ấ
t cua r
ố
c l
ộ
t rán cháy c
ạ
nh, ăn bùi, béo và có h
ươ
ng v
ị
ấ
t đ
ặ
c bi
ệ
t, ch
ị
H
ậ
u g
ọ
i là cua b
ấ
y.
Có hôm tôi đi h
ọ
c v
ề
, th
ấ
y có chi
ế
c xe g
ắ
n máy simson m
ớ
i kính cong d
ự
ở
ữ
a sân, ch
ị
H
ậ
u đang l
ụ
i h
ụ
i d
ướ
ế
p. Tôi h
ỏ
i nhà có khách sao ch
ị
H
ậ
u, ch
ị
đ
ỏ
ặ
t không nói gì. Sau này tôi m
ớ
ế
t, có anh
ở
xóm trên, t
ừ
Đ
ứ
c m
ớ
i v
ề
, đ
ế
n tìm hi
ể
u ch
ị
. Nh
ư
ng ch
ị
ừ
ch
ố
i, tôi g
ặ
ng h
ỏ
i, ch
ị
ớ
ả
o, ch
ị
đã yêu anh CuL
ớ
n nhà bên, hi
ệ
n đang
ở
ngoài m
ặ
ậ
n. Ch
ị
d
ặ
n tôi không đ
ượ
c nó
i v
ớ
i ai
.
Ngày tôi v
ề
Hà N
ộ
i, ch
ị
bu
ồ
n l
ắ
m, b
ả
o nh
ớ
vi
ế
t th
ư
và th
ỉ
nh tho
ả
ng v
ề
thăm ch
ị
. Ch
ị
H
ậ
u ít khi đi đâu xa, tôi th
ườ
ng xuyên vi
ế
t th
ư
cho ch
ị
, lâu lâu có ng
ườ
ở
quê lên, ch
ị
ử
i cho tôi khi dăm, ba l
ạ
ứ
ng cáy, lúc thì cân b
ộ
ắ
n. R
ồ
i tôi m
ả
vi
ệ
c h
ọ
c hành thi c
ử
, th
ờ
i đó vi
ệ
c đi l
ạ
i khó khăn, nên không v
ề
thăm ch
ị
đ
ượ
c. Sau chi
ế
n tranh, nghe ng
ườ
i làng nói, ch
ị
đã l
ấ
y anh Cu L
ớ
n là th
ươ
ng binh tr
ở
v
ề
, ng
ườ
i v
ừ
a đ
ượ
c nhà n
ướ
c phong t
ặ
ng danh hi
ệ
u dũng s
ỹ
di
ệ
t M
ỹ
.
Ở
xa tôi cũng m
ừ
ng cho ch
ị
.
H
ọ
c
xong tôi đi làm, r
ồ
i mang ki
ế
ố
ng tha ph
ươ
ấ
y ch
ụ
c năm, mãi đ
ế
n năm 2006 t
ừ
Châu Âu, tôi m
ớ
i có d
ị
p v
ề
thăm gia đình. Công vi
ệ
c
ở
Hà N
ộ
i đã t
ạ
ổ
n, tôi v
ề
thăm quê, thăm ch
ị
H
ậ
u. Đ
ườ
ng qu
ố
c l
ộ
v
ề
quê đ
ẹ
p và thu
ậ
ệ
n h
ơ
ướ
c r
ấ
t nhi
ề
u. Nh
ư
ng quê t
ôi đ
ổ
i thay hoàn toàn, ký
ứ
c tu
ổ
i th
ơ
có con đ
ườ
ng v
ớ
i nh
ữ
ng khóm tre xanh r
ủ
bóng xu
ố
ng dòng sông hi
ề
n hòa, tôi và ch
ị
H
ậ
u th
ườ
ồ
i ngh
ỉ
lúc tr
ư
a hè không còn n
ữ
a. Dòng sông n
ướ
c đen sì th
ố
i ho
ắ
c, tù đ
ọ
ng, l
ừ
đ
ừ
nh
ư
ừ
ng ch
ả
y. Cây c
ầ
u g
ỗ
đã phá b
ỏ
th
ay vào đó chi
ế
c c
ầ
u s
ắ
t bêton vô h
ồ
n. Mi
ế
u và cây si làng không còn đ
ể
l
ạ
i d
ấ
u tích, chi
ế
c ao phía sau cũng b
ị
l
ấ
p, thay vào đó là
ủ
y ban xã, lá c
ờ
đ
ả
ng bay ph
ầ
n ph
ậ
ữ
a sân. Ngôi nhà ngói âm d
ươ
ng c
ủ
a ch
ị
H
ậ
u cũng bi
ế
ấ
t, s
ừ
ữ
ng trên m
ả
nh đ
ấ
t đó ng
ôi nhà ba t
ầ
ng, trên nóc có hình con s
ư
ử
nhe răng trông r
ấ
t hãi hùng. Cánh c
ử
a s
ắ
ơ
ầ
u vàng chóe, có
ổ
khóa t
ừ
bên trong. Tôi c
ấ
ế
ọ
i ch
ị
H
ậ
u, nh
ư
ng im l
ặ
ng, nhà hình nh
ư
không có ng
ườ
i. Có m
ấ
y cháu đi h
ọ
c v
ề
, nghe th
ấ
y ti
ế
ng tôi, d
ừ
ng l
ạ
ả
o,
nhà bà H
ậ
u bây gi
ờ
ở
cu
ố
i làng, g
ầ
n bãi tha ma, bác c
ứ
ra đ
ấ
y mà tìm. Bi
ệ
t th
ự
này là n
ơ
i ngh
ỉ
ơ
i cu
ố
i tu
ầ
n c
ủ
a bác Tr
ầ
n cán b
ộ
cao c
ấ
p trên t
ỉ
nh
.
Tôi đ
ượ
c bà hàng xóm ch
ị
H
ậ
u ch
ỉ
nhà và réo g
ọ
ừ
ngoài ngõ:
- Bà H
ậ
u
ơ
i! Có khách xa đ
ế
n thăm này.
M
ộ
lúc ch
ị
ở
sau nhà đi ra, qu
ả
th
ậ
t tôi ch
ỉ
còn nh
ậ
n ra ch
ị
ở
đôi m
ắ
t. Năm đó ch
ị
ớ
i năm nhăm, năm sáu tu
ổ
i nh
ư
ng nhìn ch
ị
nh
ư
bà lão b
ả
y m
ươ
i. Ng
ườ
i ch
ị
cho
ắ
t l
ạ
i, dáng đi lòng khòng. Th
ấ
y ng
ườ
i l
ạ
, ch
ị
v
ộ
i l
ấ
y khăn trên đ
ầ
u che nh
ữ
ng v
ế
t thâm, b
ầ
m trên m
ặ
t, hình nh
ư
ch
ị
v
ừ
a b
ị
ai đó đánh hay ngã?. Ch
ị
ữ
ườ
i nhìn tôi:
- Ông mu
ố
n tìm ai
ạ
?
- Tr
ờ
i! ch
ị
không nh
ậ
n ra em th
ậ
t sao ch
ị
H
ậ
u? Em là th
ằ
ng Tr
ườ
ng ngày x
ư
a
ở
nhà ch
ị
, su
ố
t ngày theo ch
ị
đi câu cáy này.
Ch
ị
ẩ
ườ
ộ
t lúc, đ
ư
a tay qu
ệ
t dòng n
ướ
c m
ắ
t đang ch
ả
y xu
ố
ng:
- M
ấ
y ch
ụ
c năm r
ồ
i, tóc em cũng đã b
ạ
c, làm sao ch
ị
nh
ậ
n ra đ
ượ
c.
Ch
ị
ắ
m tay tôi d
ẫ
n vào nhà. Tôi không ph
ả
i là ng
ườ
i mau n
ướ
c m
ắ
t, nh
ư
ng nhìn ch
ị
và gia c
ả
nh th
ấ
y m
ắ
t cay cay. Nhà có l
ẽ
đáng
giá nh
ấ
t chi
ế
c t
ủ
chè hai ngăn cũ, đã g
ẫ
y m
ộ
t chân. Chân g
ẫ
y đ
ượ
c thay b
ằ
ộ
t ch
ồ
ạ
ch còn dính v
ữ
a ch
ư
a k
ị
p v
ạ
c đi. Trên nóc t
ủ
có bát h
ươ
ng,
ả
nh th
ờ
ẹ
ch
ị
, và
ả
nh ba ng
ườ
i đàn ông tr
ẻ
c
ườ
ấ
t vô t
ư
. Đ
ằ
ng sau b
ố
ấ
m hình là ba t
ờ
ấ
y T
ổ
Qu
ố
c Ghi
Công, và m
ộ
ấ
y ch
ứ
ng nh
ậ
n, hay quy
ế
t đ
ị
nh công nh
ậ
n bà m
ẹ
VN anh hùng gì đó c
ủ
a m
ẹ
ch
ị
, t
ấ
t c
ả
đã
ố
vàng.
Tôi và ch
ị
đang hàn huyên, anh Cu L
ớ
n ch
ồ
ng ch
ị
, chân th
ấ
p chân cao t
ừ
đâu đó v
ề
. Ch
ị
ớ
i thi
ệ
u tôi, anh c
ườ
i hi
ề
ắ
t tay và b
ả
o:
- Em ng
ồ
i đây v
ớ
i ch
ị
, anh đi ki
ế
m cái gì lai rai, cũng tr
ư
a r
ồ
.
Ch
ị
H
ậ
u c
ườ
i bu
ồ
n, trôn
g anh hi
ề
n hi
ề
n v
ậ
y nh
ư
ng c
ụ
c l
ắ
m, hôm r
ồ
i mang dao đ
ế
ủ
y ban chém cán b
ộ
xã, ch
ị
ợ
quá can ngăn, anh
ấ
y còn đánh ch
ị
thâm c
ả
ặ
t. Cũng may h
ọ
nhanh chân ch
ạ
y thoát, khôn
g đã vào tù r
ồ
i. Cũng t
ừ
đ
ấ
t đai nhà c
ử
a em
ạ
. M
ấ
y năm tr
ướ
c cán b
ộ
xã đ
ế
n nói v
ớ
i anh ch
ị
, h
ọ
mu
ố
n xây nhà tr
ẻ
ở
trung tâm xã, nh
ư
ng không có ch
ỗ
nào thích h
ợ
p và thu
ậ
n l
ờ
ằ
ng khu đ
ấ
t nhà ch
ị
. H
ọ
mu
ố
n đ
ổ
i anh ch
ị
ra ngoài này và đ
ề
n bù th
ỏ
a đáng. Đ
ầ
u ti
ên anh ch
ị
không đ
ồ
ng ý, vì ra ngoài này anh ch
ị
không bi
ế
t làm gì ki
ế
ố
ng ngoài m
ấ
y sào ru
ộ
ng, ti
ề
ợ
c
ấ
p th
ươ
ng binh c
ủ
a anh không đ
ủ
ề
n thu
ố
c. Nh
ư
ng h
ọ
ằ
ỉ
mãi, l
ạ
i nghĩ anh ch
ị
không có con cái, xây nhà cho các cháu vui ch
ơ
i, anh ch
ị
cũng xiêu
lòng. Anh ch
ị
ra đây nh
ậ
n đ
ấ
t nh
ậ
n nhà và đ
ề
n bù xong, h
ọ
không xây nhà tr
ẻ
, mà h
ọ
giao đ
ấ
t, hay bán cho ông Tr
ầ
n xây nhà ngh
ỉ
cu
ố
i tu
ầ
n, em th
ấ
y có
ứ
c không? Ông Tr
ầ
n là cái ông đi h
ọ
c
ở
Đ
ứ
c v
ề
ở
làng trên, ngày x
ư
a mu
ố
n tìm hi
ể
u ch
ị
, ch
ắ
c em còn nh
ớ
. Ch
ị
là đàn bà nghi
ế
n răng ch
ị
u đ
ự
ng. Anh không ch
ị
u, ki
ệ
n cáo kh
ắ
ơ
i nh
ư
ng không ăn thua, nên th
ườ
ng xuyên vác dao đi tìm h
ọ
. Trông anh còn đi l
ạ
i v
ậ
y thôi, ch
ứ
ch
ấ
t đ
ộ
c đ
ầ
y ng
ườ
i, n
ằ
m xu
ố
ng lúc nào không bi
ế
t. Tr
ướ
c đây ch
ị
cũng ch
ử
a đ
ẻ
ấ
y l
ầ
n, nh
ư
ng có
ra hình thù con ng
ườ
i đâu em. L
ầ
n nào ch
ị
cũng ng
ấ
t vì s
ợ
. Nghe bác s
ỹ
ả
o anh nhi
ễ
m ch
ấ
t đ
ộ
c
ở
chi
ế
ườ
ng, nên không th
ể
có con đ
ượ
c, h
ọ
khuyên anh ch
ị
đ
ừ
ng ch
ử
a đ
ẻ
ữ
a.
Tôi c
ắ
t ngang nh
ữ
ng l
ờ
i bu
ồ
n c
ủ
a cu
ộ
c đ
ờ
i ch
ị
:
- D
ạ
o này ch
ị
còn đi câu c
áy n
ữ
a không?
- Ch
ị
đã già, m
ắ
t kém, mà h
ế
t cáy r
ồ
i. Có con nào s
ố
ng đ
ượ
c v
ớ
i th
ứ
ướ
c sông đen nh
ư
nh
ự
a đ
ườ
ấ
y. Gò đ
ồ
ng h
ọ
phun thu
ố
c sâu b
ọ
l
ạ
đ
ế
n đ
ỉ
a cũng ph
ả
i ch
ế
t thì làm gì còn cáy
.
Ti
ế
ng gió hu hú t
ừ
bãi tha ma th
ổ
i đ
ậ
p vào c
ử
a, làm t
ủ
h
ờ
nhà ch
ị
rung rinh nh
ư
ự
c đ
ổ
. Ch
ị
đ
ứ
ng d
ậ
y nhìn v
ề
ngôi nhà cũ, n
ơ
i có con s
ư
ử
nhe răng, căng móng
ở
trên cao vòi v
ọ
i v
ớ
i đôi m
ắ
t bu
ồ
ườ
ượ
i.
Ở
đây không có đ
ạ
n bom, nh
ư
ng tôi đã nh
ậ
n ra d
ườ
ng nh
ư
có m
ộ
t cu
ộ
c chi
ế
n tranh th
ậ
ự
đang di
ễ
n ra tro
ng lòng ng
ườ
i.
Vi
ế
t đ
ế
n đây ch
ợ
t có ông b
ạ
n hàng xóm sang h
ỏ
i:
- Ông nghĩ gì mà th
ừ
ặ
t ra v
ậ
y?
Tôi tr
ả
l
ờ
i:
- Tôi đang nghĩ,
ướ
c gì mình có m
ộ
t hũ m
ắ
m cáy th
ứ
thi
ệ
ử
ặ
ng thi sĩ Tr
ầ
n M
ạ
nh H
ả
o dùng d
ầ
n, nh
ư
ng khó quá.
Ông hàng xóm tròn m
ắ
t nhìn, nh
ư
tôi v
ừ
a t
ừ
trên tr
ờ
ơ
i xu
ố
ng:
- Ông có gi
ở
ườ
i không đ
ấ
y! Bây gi
ờ
ườ
i ta m
ơ
ướ
c đ
ế
n nh
ữ
ng cái cao sang, nh
ư
đ
ườ
ắ
t cao t
ố
c, nhà máy đi
ệ
n h
ạ
t nhân.. ai l
ạ
ơ
nh
ư
các ông. Đúng là ch
ậ
p cheng..
Có l
ẽ
ông hàng xóm nhà tôi nó
i đúng, tôi đã gi
ở
ườ
i, và cái đ
ầ
u tôi b
ắ
t đ
ầ
u ch
ậ
p cheng.
2-5-2011
Tuổi thơ đi qua nhanh thật!
Mới đó mà mình đã lớn, mà nói đúng hơn là mình sắp già.
Những ngày thơ ấu đó đã xa, xa mà không thể tìm lại được những ngày hạnh phúc bình thường, dung dị ấy.
Những ngày chạy ra chạy vào cái bờ sông có cây còng già với cái vỏ sần sùi, xấu xí để đợi má đi chợ về. Để được những ổ bánh ngọt hay một vài túi bắp rang mà má luôn nhớ mua cho con mỗi khi đi đâu về. Chiếc xuồng chưa kịp cập bến con đã vội vàng nhảy xuống để mừng má đi chợ về (mừng bánh thì nhiều hơn).Có lẽ đó chỉ là những thứ bình thường với bao người khác nhưng với con nó mang cả sự yêu thương từ tấm lòng của má.
Tuổi thơ mà giờ nhớ lại thấy vui, thấy mình không muốn làm người lớn chút nào cả. Mà làm sao có thể giữ sự vô tư hồn nhiên như thế được mãi vì thời gian đi qua nó cũng kéo đi của ta nhiều thứ quý báo không tìm lại được.
Giờ con đã lớn điều đó cũng đồng nghĩa là má đã già hơn.
Giờ má không còn đánh con như những lần con tập tụ mấy đứa bạn đi trộm sơ ri của nhà hàng xóm, hay giữa trưa nắng chang chang mà đầu trần chân đất chạy trên ruộng lúa mới gặt thả diều. Giờ con đã lớn cây còng ngoài bến sông trước nhà mình cũng không còn để con leo lên bắt mấy con chim non mới nở về nuôi rồi bị má la bắt leo lên trả về tổ cho mẹ nó.
Tuổi thơ đi qua biết bao là kỷ niệm ngốc nghếch buồn vui.
Giờ mắt má chắc hằn sâu nhiều vết chân chim hơn lúc con đi, tóc má chắc cũng bạc nhiều hơn trước. Đã lâu rồi con không nhìn thấy má mà má cũng không nhìn thấy con. Mỗi lần gọi điện con cảm nhận được giọng mà nhẹ nhàng mang một chút gì nhớ thương thằng con xa xứ. Con biết má vẫn nhớ con nhiều cũng như con vẫn nhớ má.
Con vẫn nhớ món mắm kho mà má hay nấu cho con ăn vì má biết con thích nhất móm mắm kho mà má nấu. Ngày con đi má cũng nấu món mắm kho cho con ăn và cái mùi vị đó sao mà khó nói nhưng vẫn mang đậm trong con cùng hình ảnh má.
Mùa này cánh đồng sau nhà mình chắc bông điên điển vàng nhiều rồi, nước cũng lên cao. Nhưng năm nay chắc má không còn làm mắm cá sặc như mọi năm vì con đi rồi còn ai giăng lưới bắt cá sặc cho má làm mắm nữa.
Mùa mưa năm nay những đêm chắc má sẽ khó ngủ hơn vì nhớ con cũng như đêm nay con không ngủ được vì nhớ má. Với con đêm nay sẽ dài hơn bao đêm khác, đêm mà con sẽ về với má và khi mở mắt ra con sẽ nhìn thấy má để con được kêu một tiếng quen thuộc……
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top