38. Bốn mùa có nhau (2)
Mùa hạ năm ấy, giữa cái nóng oi ả của Đông Đô, tiệm nhỏ của Tùng Dương chính thức khai trương.
Một căn nhà hai gian nằm khiêm tốn trong con phố gần chợ, chẳng cầu kỳ xa hoa nhưng lại mang nét duyên dáng riêng biệt. Giàn hoa giấy đỏ rực vươn mình ôm lấy mái hiên, rung rinh mỗi khi gió lướt qua. Bên trong, mùi gỗ mới hòa quyện cùng hương hoa, tạo nên một không gian ấm cúng, dễ chịu.
Dương đứng sau quầy, tay mân mê cành mẫu đơn vừa tỉa, mắt dõi theo những vị khách đầu tiên bước vào. Có người ghé chọn bàn ghế, có người chỉ đơn thuần bị hương thơm hấp dẫn mà bước vào ngắm nghía. Đồ gỗ em làm ra không quá cầu kỳ nhưng tinh tế, mỗi đường nét chạm trổ đều mang theo chút gì đó nhẹ nhàng, mềm mại, tựa như chính người chủ của tiệm vậy.
Vậy mà giữa lúc ấy, người mà ngày ngày vòng tay qua ôm em chọc ghẹo, người làm em phải quay lại ấn nhẹ trán hắn mà trách mắng yêu... lại càng ngày càng vắng mặt.
Lần đầu mùa, hắn đi ba ngày. Lần sau, là một tuần. Rồi nửa tháng. Những chuyến đi cứ kéo dài dần, đôi khi chỉ để lại một mẩu giấy nhắn ngắn ngủi trên bàn:
"Ta đi rồi lại về."
Dương chẳng hỏi, chẳng giận dỗi. Chỉ lặng lẽ thu dọn tiệm khi trời sập tối, trở về căn phòng nhỏ, tựa người vào cánh cửa, nhìn ra khoảng sân trống vắng. Hoa giấy vẫn nở, Đông Đô vẫn náo nhiệt, chỉ là... có những ngày dài hơn bình thường một chút.
Đêm ở Đông Đô chẳng bao giờ quá tĩnh lặng. Tiếng rao khuya từ xa vọng lại, thi thoảng có một cơn gió nhẹ len qua ô cửa, làm lay động những tán hoa giấy ngoài hiên.
Dương vẫn đứng đó, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng sân nhỏ.
Ngày trước, cứ mỗi tối thế này, Bùi Anh Ninh sẽ bất chợt vòng tay ôm lấy em từ phía sau, hơi thở nóng rực phả lên tai. Hắn không cần nói gì, chỉ cần một ánh mắt, một nụ cười nửa miệng cũng đủ làm em đỏ mặt mà đẩy hắn ra. Còn hắn thì cứ thế trêu chọc, bắt em phải dỗi, phải mắng mới chịu buông.
Thế mà giờ đây, bóng hắn đã mờ dần theo những chuyến đi.
Dương giơ tay, những ngón thon dài hứng trọn ánh trăng rọi xuống. Trong đầu bất giác vẽ ra hình dáng người kia – khuôn mặt đẹp tựa tượng tạc, đôi mắt thâm trầm, lúc nào cũng mang theo ý cười nhưng lại chẳng bao giờ để lộ hết tâm tư.
Em mím môi, nhẹ nhàng khép cửa.
Ngày mai, tiệm nhỏ vẫn sẽ mở cửa, hoa vẫn sẽ nở, nhưng những câu hỏi trong lòng em thì vẫn chưa có câu trả lời.
Em nhận ra hắn biết tất cả về mình.
Nhưng chưa một lần nào em thật sự hỏi về con người hắn.
Có lẽ, từ giây phút này đây.
Em là đang tò mò rồi.
Là một sự tò mò không tên, không rõ ràng, nhưng cứ len lỏi trong lòng, như cành dây leo bám lấy mái hiên tiệm nhỏ.
Tùng Dương chưa từng nghĩ mình sẽ có một ngày như vậy—một ngày nhận ra rằng mình chẳng biết gì về người vẫn ôm mình mỗi đêm, vẫn thì thầm những lời dỗ dành mỗi khi mình cau mày, vẫn hôn lên trán mình như một thói quen trước khi rời đi.
Nhưng rồi, mùa hè năm ấy, khi những cơn gió mang theo hương hoa giấy lan đầy trong không khí, em nhận ra mình muốn biết.
Muốn biết hắn rốt cuộc đã đi đâu.
Muốn biết những chuyện hắn chưa từng kể.
Muốn biết rằng, nếu em hỏi, liệu hắn có trả lời không?
Có lẽ, đã đến lúc em thử một lần bước qua ranh giới vô hình giữa hai người...
_
Cuối hạ đến đầu thu, Bùi Anh Ninh vẫn chưa trở về.
Lá vàng rơi đầy trước hiên tiệm nhỏ. Đông Đô dịu đi sau những tháng ngày oi bức, gió se lạnh len lỏi qua từng con phố. Trong tiệm, Dương xắn tay áo, cẩn thận lau chùi một chiếc kệ gỗ vừa hoàn thành. Hương gỗ mới hòa cùng mùi hoa quế thoang thoảng, dịu dàng mà lặng lẽ, tựa như chính những ngày này—những ngày em quen với sự vắng mặt của hắn.
Quen với những mẩu giấy nhắn ngắn ngủi.
Quen với việc tự mình thu dọn cửa tiệm mỗi khi trời sập tối.
Quen với cả cảm giác đứng trước cửa, nhìn vào khoảng sân trống vắng, không còn ai đột ngột ôm chầm lấy em từ phía sau nữa.
Nhưng cũng vào mùa thu này, em không còn chỉ lặng lẽ chờ đợi.
Dương bắt đầu nghe ngóng. Từ những người khách vãng lai, từ những câu chuyện thoáng qua trong chợ. Đôi khi, giữa những lời đồn về triều đình, chiến sự, em nhận ra dường như giới quan lại trong triều đang có biến lớn.
Dương không phải kẻ giỏi suy đoán, nhưng em biết Bùi Anh Ninh có dính líu đến những cơn sóng ngầm đó.
Bàn tay vẫn cầm miếng vải lau khẽ siết lại. Mấy tháng rồi, thư từ cũng thưa dần, chỉ còn lại những dòng ngắn ngủi như sợ nói nhiều sẽ bị ai đó phát giác. Lần gần nhất, nét mực nhòe đi, như thể người viết vội vàng đến mức chẳng đợi mực khô.
Dương ngồi xuống bậc thềm, ánh mắt vô thức dõi theo từng chiếc lá vàng rơi chầm chậm trong gió thu. Ngón tay miết nhẹ lên những vết chai đã hằn trên lòng bàn tay. Có đôi lúc, em tự hỏi, nếu cứ tiếp tục thế này, liệu đến một ngày nào đó, em sẽ chỉ còn biết đến hắn qua những dòng thư hiếm hoi ấy thôi sao?
Không, em không muốn như vậy.
Mùa thu năm nay, em không còn chỉ chờ đợi.
Nếu gặp lại hắn lần tới, nhất định em phải hỏi. Phải hỏi thật kĩ...
… Hỏi xem rốt cuộc hắn đang cuốn vào những chuyện gì.
Hỏi xem vì sao lại chẳng thể trở về, vì sao ngay cả một lời giải thích rõ ràng cũng không thể để lại.
Hỏi xem, giữa những cơn gió đổi mùa, giữa những biến động chốn triều đình, hắn có nhớ đến người vẫn đứng đây chờ đợi hắn hay không.
Dương nắm chặt vạt áo, lòng bàn tay lạnh buốt. Cảm giác lửng lơ ấy thật khó chịu, giống như một chiếc thuyền lênh đênh giữa dòng mà chẳng biết đến khi nào mới tìm được bến đỗ. Nhưng em không muốn để mình mãi chìm trong cơn chờ đợi vô định nữa.
Nếu Bùi Anh Ninh không quay về… vậy thì em sẽ tự mình đi tìm hắn.
...
Mùa đông năm ấy, khi hơi lạnh thấm vào từng thớ gỗ trong tiệm nhỏ, khi tuyết đầu mùa rơi lặng lẽ trên những mái ngói Đông Đô, Bùi Anh Ninh đã trở về.
Hắn đứng đó, ngay trước hiên nhà, phủ đầy bụi đường. Áo choàng đen vương một lớp sương giá mỏng, ánh mắt sâu thẳm dưới đôi mày hơi nhíu lại, tựa như đã trải qua một quãng đường dài không nghỉ ngơi.
Dương ngây người. Khoảnh khắc nhìn thấy hắn, em không kịp nghĩ gì cả, chỉ biết toàn thân cứng lại, đến cả hơi thở cũng chững lại trong lồng ngực.
Còn hắn, chỉ im lặng ngắm nhìn em. Một lát sau, giữa cơn gió lạnh buốt, Bùi Anh Ninh khẽ nhếch môi, giọng khàn đặc:
“Dương, ta về rồi.”
Chỉ bốn chữ đơn giản, nhưng khiến tất cả những ngày tháng chờ đợi, những hoài nghi, những đêm dài trằn trọc của em phút chốc tan biến.
Dương không đáp, chỉ sải bước thật nhanh, nhào vào lòng hắn. Hơi ấm quen thuộc dù lạnh lẽo vì sương gió, nhưng vẫn là nơi duy nhất em muốn tựa vào.
Bùi Anh Ninh quả thực đã giải quyết xong toàn bộ "chuyện quan trọng" mà hắn từng kể với em trong mỗi bức thư.
Để mà bây giờ đây, hắn đứng trước mặt em lẳng lặng dụi mặt vào vai em nói, "Ta chán cơm nhà nước rồi. Em nuôi ta được không?"
Dương trừng mắt nhìn hắn, lòng ngổn ngang đến mức chẳng biết nên đáp lại thế nào.
Bao nhiêu ngày thấp thỏm, lo lắng,… vậy mà giờ đây, hắn lại nói bằng cái giọng nhẹ tênh ấy, như thể tất cả chỉ là một trò đùa.
Em mím môi, trầm giọng hỏi:
"Thật không rõ lúc nào cậu Ninh đây nói thật hay nói đùa."
Bùi Anh Ninh khẽ cười, nhưng lần này, trong đáy mắt hắn không còn vẻ trêu chọc nữa. Hắn nghiêng đầu, ngón tay vuốt nhẹ một sợi tóc vương trên trán em, giọng trầm thấp:
"Ta... trước đây chẳng biết sống vì lẽ gì nữa. Không mong ước, không mong cầu bất cứ thứ gì trên đời."
"Vì tất thảy, ta đều đã có hết trong tay."
"Nhưng bây giờ đây, mong ước nhỏ nhoi của ta lại chỉ là em."
Bùi Anh Ninh xoa bên má em, khẽ thầm thì, "Em hiểu lòng ta mà phải không?"
"..."
Mùa Đông năm ấy, gió lạnh ùa về tràn thấu tim gan.
Nhưng trong căn phòng nhỏ, hai bóng hình kề sát chăn gối ấm đượm ngỡ giữa trời xuân lại tan biến dần...
Chỉ còn một hình bóng đơn độc.
Cậu hai mở mắt.
Giọt lệ bỗng chảy xuống ướt đầm đìa hai bên gối.
Mộng về người chỉ ngày một nhiều lên, nhưng người thì lại ở đâu sao chẳng thể rõ?
...
..
.
Năm ấy, vùng Long An có biến lớn.
Nghe nói khu rừng lớn Thạch Nam xảy ra sạt lở, mưa bão lớn ròng rã mấy tháng trời. Cầu đê sập, lũ lụt triền miên, khổ không sao tả nổi.
Long An khó sống.
Triều đình gấp rút ra lệnh di tản dân sang hết các vùng lân cận.
Ông Điện từ phương xa nghe biến, vội vã bỏ hết lại công chuyện cho cậu cả lo liệu, về lại Long An đón mợ cả cùng phủ Điện Nguyễn di dời lên kinh thành.
Cũng từ lúc đó, cơ duyên cả nhà đoàn tụ.
Phủ Điện Nguyễn ngày xưa ở Long An vốn đã là đệ nhất danh gia, đất rộng nhà sâu, từng khóm mai khóm trúc cũng đều được tuyển chọn kỹ càng, phảng phất khí chất thư hương. Lúc dời về Đông Đô, nhà Điện Nguyễn không thể mang theo mảnh đất quê, nhưng cách sống, cách dựng nhà, cách thắp lửa bếp lò thì chưa từng đổi khác.
Ngay từ ngày đầu dựng phủ, người trong thành đã dỏng tai ngóng chuyện. Mảnh đất đó vốn là lô đắt nhất nằm sát hồ Đông Đức, bao nhiêu năm không ai dám hỏi mua, ấy thế mà phủ Điện Nguyễn vừa bước chân tới đã đặt tiền một lượt, không trả giá, không chậm trễ.
Tường cao ngói đỏ, cửa lớn sơn đen khắc hình trống đồng, hai bên là trụ đá chạm khắc kỳ lân. Chưa đầy ba tháng, một phủ viện to lớn đã hiện lên như phủ đệ của đại thần. Lại nghe nói bên trong có cả thư viện riêng, hậu viện trồng hoa mẫu đơn đỏ như máu phượng, thậm chí có cả gác trà dành riêng cho khách quý và một tiểu đình để ngắm trăng.
Người người bàn tán:
"Cơ ngơi phủ đó có khi còn nguy nga ngang cả Phượng Viện lớn nhất Đông Đô của nhà họ Bùi…"
"Tôi nghe đâu phủ ấy là của ông Điện, nhà buôn nổi tiếng từ phương Nam. Con trai cả làm đến trạng nguyên, hiện đang phục vụ triều đình buôn bán xa sứ."
"Chẳng trách… nghe bảo hôm qua phu nhân lớn của phủ ra phố mua thuốc cho gia nhân, đến cả tiệm thuốc cũng phải kính cẩn đứng dậy chào, không dám nhận tiền..."
Chốn Đông Đô vốn nổi danh là đất phù hoa, tiền nhiều chưa chắc làm nên danh, nhưng phủ Điện Nguyễn vừa đến đã làm lu mờ hết thảy. Người ta bảo, nhà ấy không phải nhà giàu mới phất. Là nhà giàu lâu đời, lại có nề nếp, có học vấn, có lòng nghĩa tình. Ấy mới là thứ khiến người Đông Đô vừa kính, vừa nể.
Mà quả đúng như vậy.
Ông Điện ngày ngày đi làm ăn, lâu lâu mới về vẫn đều đặn thắp hương cho bàn thờ tổ tiên. Mợ Cả khiêm nhường, từ tốn, cả phủ chưa từng xảy ra một chuyện ồn ào. Họ sống trong cơ ngơi rộng lớn ấy, mà chưa từng khoe mẽ điều gì.
Chỉ có điều, đêm đến, khi đèn phủ đã lên, người qua đường đi ngang đều phải ngoái lại. Ánh đèn vàng từ trong phủ Điện Nguyễn hắt ra mặt hồ Đông Đức, long lanh như trăng tan vào nước.
_
Sáng sáng, con Cá đã dậy nấu cơm từ canh năm. Xong xuôi nó rời phủ, tay cầm chiếc rỏ nóng hổi bịt kín.
Khác với đất đường Long An hồi trước, chợ Long An tuy cũng náo nhiệt đấy, nhưng so với chốn phù hoa nhộn nhịp của Đông Đô, thì dù đã ba tháng trôi qua, nó vẫn bị làm cho lu mờ choáng váng.
Từ một đứa được phủ nhặt về, nó bây giờ y phục tươm tất, thoạt nhìn chẳng há gì giống một con hầu dưới bếp nữa. Nó nhìn qua mặt hồ, thấy gương mặt mình xinh xắn, sáng sủa. Chợt hai má hây hây đỏ.
"Con biết phủ mình giàu, nhưng đúng là lên kinh thành rồi mới rõ được độ giàu có này của phủ. Ôi, kiếp trước chắc mình đã cứu nhân thế nên mới được đầu thai vào làm trâu làm ngựa cho phủ ta..."
---
Tiệm nhỏ nằm ngay góc giao giữa hai con phố lớn, sáng sớm đã có người ghé ngang, đứng ngắm hồi lâu. Mặt tiền tiệm giản dị nhưng thanh nhã, trước cửa là hai chậu mẫu đơn đỏ như son, tán tròn như che bóng nắng.
Bên trong, Dương đang ngồi bên bàn phác thảo. Tay áo sắn nhẹ, bút lông đi thoăn thoắt trên tấm giấy mỏng. Vài cánh hoa, nhành lá, vẽ mà như thêu, ý tưởng từng bó hoa được sắp đặt cẩn thận: bó hoa cưới mùa hạ, giỏ chúc thọ cụ bà, bình hoa cúc tặng nhà quan tri huyện…
Con Cá tới, ôm theo chiếc rổ cơm sáng. Đẩy cửa bước vào, nó khẽ cúi đầu:
"Cậu Hai, con đem cơm tới rồi đây ạ!"
Cậu Hai ngước mắt lên, đôi mắt còn đọng nét đêm qua chưa ngủ kỹ. Con Cá nhìn thấy mà thương, vội đặt rổ xuống bàn:
"Cậu ăn chút đi rồi làm tiếp. Con nói thật đó, lâu lắm rồi con mới được tận tay chăm cậu đó. Con hức hức… nhớ cậu chết mất!"
Dương phì cười khẽ, đặt bút xuống, tay xoa đầu nó như cũ:
"Mày nói hoài không chán à. Để đồ ăn đó xuống đi."
"Dạ cậu!"
Nó đặt rổ ngay ngắn. Trong là phần xôi gấc con tự đồ, có thêm mấy lát chả quế thơm lừng. Nó chu môi nói:
"Con dậy sớm làm đó ạ! Cậu ăn thử coi ngon không."
Từ trong tiệm, thằng Lính ngó ra, tay vẫn còn cầm giẻ lau bình hoa, nhăn mặt nói:
"Tao cũng đói."
"Kệ mày."
"..."
Dương lắc đầu, khẽ cười. Ngoài sân, nắng xiên qua khóm mẫu đơn, hắt vào sàn tiệm loang loáng ánh mật ong. Một sáng mới lại bắt đầu, mùi giấy vẽ, mùi hoa, mùi xôi gấc hoà quyện — thơm như một góc ký ức được rót vào trà.
Hình như...
Cuộc sống khi còn ở Long An quả thực đã quay trở lại thật bình yên của những ngày tháng khi chưa tròn 17 tuổi.
Nhưng...
Là một màu sắc mới.
"Cây xoài ta sai người trồng trước sân sau phủ sao rồi?"
Thằng Lính và con Cá cùng đồng thanh, "Dạ đều đã ổn thỏa hết rồi ạ!"
Cậu khẽ dụi mắt, hai má hây hây đỏ. Nụ cười mềm mỏng chất chứa tâm tư lại hiện lên.
Con Cá túm nhẹ lấy góc áo của cậu, "Cậu. Cậu vẫn ở nhà trúc ạ?", đáy mắt nó pha nét buồn buồn, "Trước đây phủ nhà ta ở Long An cậu đã sống một mình chắc hẳn buồn biết bao. Bây giờ phủ ta cao sang, rộng rãi, lại ấm cúng biết bao... sao cậu vẫn ở nhà trúc ạ?"
Dương cùi mặt trầm ngâm.
Hình ảnh nhà trúc, bóng rợp, ánh mắt phượng, ý cười châm chọc, hơi thở ấm áp...
Rồi cậu chớp mắt.
"Lính."
"Dạ?"
"Mấy bữa nữa chuẩn bị hết đồ đạc của ta ở nhà trúc, chuyển về phủ."
Thằng Lính sắc mặt thoáng bất ngờ, "Dạ...?"
Con Cá mừng rỡ, "Con sẽ về dọn thư phòng cho cậu ngay!"
"Dọn thư phòng của ta vẫn nằm ở góc cũ nhé."
"Góc cũ ạ?"
Dương híp mắt, "Ừ. Góc nhìn ra cây xoài ở sân sau ấy."
---
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top