cat bui thoi gian

Nếu kế hoạch không thực hiện được bọn mình sẽ chết hết cả lũ. Anh ôn lại trong óc một lần cuối, thử đi thử lại cố tìm xem còn kẽ hở nào, nhưng không thấy gì. Kế hoạch thật là táo bạo, nó đời hỏi phải tính toán cẩn thận đến từng giây. Nếu trôi chảy, nó sẽ là một chiến công tuyệt vời, có thể sánh với nhân vật Elcid vĩ đại. Còn nếu bị hỏng thì ...

Thế là thời gian lo lắng qua rồi, Jaime tự triết lý. Bây giờ đã đến lúc hành động.

Jaime Miro là một huyền thoại, một anh hùng đối với dân vùng Basque, nhưng anh lại là một kẻ đáng nguyền rủa đối với chính phủ Tây Ban Nha. Anh cao đến một mét chín mươi, khuôn mặt rắn rỏi và thông minh, thân hình vạm vỡ, đôi mắt đen thoáng vẻ lo nghĩ. Những người quen biết thường thích mô tả anh to lớn hơn, đen và hung dữ hơn. Anh mang trong người nhiều tính cách, một con người thực tế, biết rất rõ những gì là bất lợi cho bản thân mình, nhưng cũng lại là một con người lãng mạn, sẵn sàng hy sinh cho những gì mình tin tưởng Thị trấn Pamplona như đang lên cơn vậy. Đó là buổi sáng kết thúc đua bò tót, thường thường hàng năm tổ chức từ ngày mồng bẩy tháng Bảy đến ngày mười bốn tháng Bảy. Có đến ba chục ngàn khách thập phương đổ về thị trấn.

Nhiều người đến cốt để xem cảnh bò chen nhau chạy, rất đáng sợ, và nếu muốn tỏ ra can đảm, họ lao vào chạy trước đàn bò. Tứ nhiều hôm trước, họ đã thuê hết các phòng khách sạn. Đám sinh viên từ Navare đến chỉ còn biết nằm vạ vật trước cửa nhà này, hiên nhà khác, hành lang nào đó hoặc trong ô tô, ngoài quảng trường và ngay trên các hè phố của thị trấn.

Khách du lịch chen chúc trong các tiệm cà phê, quán rượu hay trong khách sạn ... mải mê ngắm những đoàn diễu hành khổng lồ với những màu sắc sặc sỡ trong tiếng nhạc rộn rã. Phần lớn người diễu hành khoác lên mình những chiếc áo choàng tím với mũ liền màu xanh kim tuyến hoặc đỏ, vàng ... Tràn qua các phố, đoàn diễu hành như những dòng sông cầu vồng. Tiếng pháo nổ dọc theo các tuyến xe điện càng làm cho không khí thêm ồn ào, sôi động.

Họ kéo nhau tới đây để xem các trận đấu bò vào buổi tối. Nhưng sự kiện kỳ thú nhất lát nữa mới diễn ra. Đó là Encierro hội bò đuổi.

Từ nửa đêm trước, tại những đường phố cuối thị trấn đã được tắt điện, đàn bò bị lùa khỏi chuồng để vượt sông và tập trung qua đêm tại cuối đường Cake Santo Domingo. Sáng nay, chúng sẽ được chạy dọc theo phố hẹp Cake Santo Domingo đã được che chắn, kỹ bởi các thanh cản bằng gỗ tại các góc phố. Khi chúng chạy hết phố thì sẽ được nhét vào các khu chuồng tại quảng trường Hemingway để chuẩn bị cho những trận đấu buổi chiều.

Suốt từ nửa đêm tới sáu giờ sáng, các vị khách nhậu nhẹt, hát hò, háo hức không tài nào ngủ được. Những người sẽ tham gia chạy trước đàn bò tót khoác nơi cổ những chiếc khăn choàng màu đỏ San Permin truyền thống.

Sáu giờ kém mười lăm, các ban nhạc bắt đầu kéo nhau ra phố và chơi các điệu nhạc sôi động của xứ Navare. Đúng bảy giờ, một pháo hiệu bay vút lên báo hiệu chuồng bò đã mở, đám đông lại càng háo hức. Vài giây sau quả pháo hiệu thứ hai bay lên báo cho toàn thị trấn biết bò đã xuất phát.

Tiếp đó là một cảnh tượng không thể quên được. Bắt đầu, nó rầm rì theo gió từ xa vọng lại, hầu như không nhận thấy được. Tiếng ồn cứ lớn dần, lớn dần cho tới khi biến thành những tiếng nổ phát ra từ những cặp móng vuốt nện xuống mặt đường. Rồi đột nhiên vọt tới hàng chục con bò mộng, con nào con nấy ngót nghét cả tấn, lao sầm sập vào phố Santo Donlgo như đoàn tầu hỏa phóng hết tốc độ. Phía trong những thanh chắn bằng gỗ được đặt tại mỗi góc phố giao nhau là hàng ngàn chàng trai vừa ham muốn lại vừa hoảng sợ, sắp được tỏ rõ lòng quả cảm bằng việc chạy trước mũi những con bò điên.

Đàn bò xuất phát từ cuối đường, qua phố Esthafeta và phố Favier, băng qua những cửa hiệu dược phẩm và trang phục, quầy hoa quả, lao về phía quảng trường Hemingway trong những tiếng hò la "ôlê" từ các đám đông như đã hóa rồ. Khi đàn bò tới gần, người ta giẫm đạp lên nhau để chạy trốn những cặp sừng nhọn hoắt và những chiếc móng giết người. Cái chết kề sát lưng khiến cho một số người tham gia vội vàng tìm đường chạy trốn. Số này bị đám đông hò hét "Cobardon!"- đồ hèn. Một số người vấp ngã trên đường lập tức được lôi ra ngoài.

Đứng sau những thanh gỗ chắn có một ông già nắm tay một cậu bé, cả hai ông cháu đều nín thở theo dõi quang cảnh kỳ thú diễn ra cách mình có vài bước chân.

- Cháu nhìn các chàng trai kìa! - Ông cụ kêu lên.- Họ thật là cừ!

- Ông ơi, cháu sợ lắm. - Chú bé run rẩy.

- Ông già vòng tay ôm lấy cậu bé.

- Ôi, Manolo, sợ thật.

Nhưng cũng thật tuyệt. Một lần ông cũng chạy trước đàn bò thế này. Không gì có thể ví được với nó. Mình đem mình ra chết thử, và điều đó khiến người ta cảm thấy mình đích thực là đàn ông.

Theo lệ, đàn thú sẽ mất hai phút để chạy hết chín trăm thước chiều dài đường Santo Domingo dẫn tới khu đường đấu và khi đàn bò đã được nhốt an toàn trong chuồng thì phát pháo hiệu thứ ba sẽ được bắn lên. Nhưng hôm ấy, phát đạn thứ ba đã không được bắn bởi một thảm hoạ bắna từng có trong lịch sử bốn trăm năm hội bò tót của Pamplona.

Khi đàn bò tót lao vào đoạn đường hẹp, có sáu bảy người mặc áo choàng sặc sỡ đã tháo bỏ những thanh chắn gỗ, thế là chúng như được thoát ra khỏi sự tù túng, chật chội đổ ào vào trung tâm thành phố. Cái cảnh tượng mà khoảnh khắc trước đó còn là ngày hội hạnh phúc đột nhiên trở thành cơn ác mộng. Bầy thú điên dại lao vào đám người đứng xem còn đang ngơ ngác. Cậu bé và ông cụ nằm trong số người bị nạn đầu tiên. Cả hai bị đàn bò húc ngã rồi bị giẫm bét.

Những cặp sừng hung ác sọc vào chiếc xe nôi giết chết luôn đứa bé và húc ngã bà mẹ rồi giày xéo nát bấy cái thân thể mỏng manh ấy. Khắp nơi tràn ngập không khí chết chóc. Đàn bò xô ngã đám đàn bà trẻ con, chọc những cặp sừng gớm ghiếc vào những người đi đường, vào các giá bày thực phẩm, kể cả các bức tường, hất tung mọi thứ không may xuất hiện trên đường đi của chúng. Người ta gào thét trong nỗi kinh hoàng, xô đẩy nhau trong tuyệt vọng hòng thoát ra khỏi đường chạy của đàn thần chết có sừng ấy.

Một chiếc xe tải màu đỏ bỗng xuất hiện trên đường và lập tức trở thành mục tiêu tấn công của bò. Chúng lao theo chiếc xe đang từ từ chạy xuôi phố Estrella - đường dẫn tới nhà tù Pamplona.

Nhà tù này cao hai tầng, xây bằng đá, cửa sổ có chấn song sắt lớn, trông rất gớm ghiếc. Bốn góc có bốn bót gác, phía trên cổng vào tung bay lá cờ Tây Ban Nha hai màu đỏ - vàng. Chiếc cổng đá dẫn tới một sân nhỏ.

Tầng hai của tòa nhà là dãy xà lim chuyên giam giữ tử tù.

Phía bên trong, một lính gác bận đồ cảnh sát Armanda đang dẫn vị cha cố mặc áo choàng đen đi dọc hành lang tầng hai. Người lính khoác khẩu tiểu liên.

Thấy ánh mắt cha cố nhìn khẩu súng vẻ dò xét, người lính nói:

- Chẳng phải là quá cẩn thận đâu, thưa cha. Tầng này toàn bọn cặn bã xã hội cả.

Vị cha cố được dẫn qua một phòng đặt máy dò kim loại, giống như chiếc máy đặt ở sân bay.

Xin cha thứ lỗi, nguyên tắc ở đây ...

- Hẳn rồi, cha biết.

Khi vị cha cố bước qua chiếc máy, một tiếng rít vang lên dọc hành lang.

Người lính gác theo bản năng đặt tay lên cò súng chĩa vào ông. Vị cha cố quay lại cười với người lính gác.

- Ồ, xin lỗi, - vừa nói cha vừa tháo bỏ cây thánh giá kim loại nặng nề đeo trước ngực bằng một sợi dây bạc và trao cho người lính gác.

Lần này khi cha cố bước qua, chiếc máy im lặng.

Người lính gác trả lại cây thánh giá, rồi cả hai đi sâu vào khu tận cùng của nhà tù. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc sộc hành lang. Cha biết đấy, - người lính gác thong thả nói, - cha chỉ phí thời gian vô ích. Đám súc vật này làm gì có linh hồn mà cứu rỗi.

- Biết thế, nhưng phải cố, con ạ.

- Xin thưa với cha, - người lính gác lắc đầu, - cổng địa ngục đang chờ đón cả hai chúng nó.

- Hai? Sao họ bảo cha phải rửa tội cho ba đứa? - Vị cha cố ngạc nhiên.

- Chúng tôi đã tiết kiệm thời gian cho cha. Thằng Zamazo ngoẻo sáng nay trong nhà thương rồi. Bệnh đau tim! - Người lính gác nhún vai.

Hai người bước tới hai gian xà lim trong cùng.

- Đây thưa cha.

Người lính gác mở khóa một gian xà lim, thận trọng lùi lại khi cha cố lách mình vào phía trong, rồi khóa lại như cũ và đứng ngoài hành lang, cảnh giác với bất cứ hiện tượng lạ nào.

Cha cố bước tới chỗ có bóng người nằm trên chiếc giường đơn tanh tưởi.

- Tên con là gì?

- Ricardo Mellado.

Cha cố nhìn hắn chằm chằm. Thật khó nói trông hắn ra sao. Mặt sưng húp bê bết máu. Mắt gần như nhắm tịt lại.

Người tù mấp máy cặp môi dày:

- Kính chào cha. Con rất mừng là cha đã đến.

- Cứu vớt linh hồn con là bổn phận của nhà thờ. - Cha cố đáp lại.

- Họ sẽ treo cổ con sáng nay phải không cha?

Cha cố vỗ nhẹ vào vai người tù:

- Con phải chịu hình phạt thắt cổ.

Ricardo Mellado nhìn xói vào cha cố.

- Không!

- Cha rất tiếc. Nhưng quyết định này là của chính ngài thủ tướng.

Cha cố đặt tay lên đầu người tù và lầm rầm đọc kinh.

- Con đã phạm tội lớn trong suy nghĩ, trong lời nói, và con thành tâm ăn năn xin được tha tội. - Ricardo nói.

Cha cố vẫn tiếp tục đọc kinh. Bên ngoài người lính gác đứng nghe, nghĩ thầm trong bụng. Thật là cái trò tốn thời gian ngu xuẩn. Chúa sẽ phỉ nhổ vào mặt thằng chết tiệt đó.

Cha cố đọc xong bài Kinh rửa tội.

- Con của ta, cầu Chúa nhận linh hồn của con lên Thiên đường.

Vị cha cố bước ra phía cửa xà lim. Người lính gác mở khóa, rồi bước lùi lại, hướng nòng súng nhằm vào người tù. Khóa xong, anh ta bước sang xà lim bên cạnh, mở cửa.

- Thằng này nữa là hết, thưa cha.

- cha cố bước vào xà lim. Người tù bên này cũng bị đánh đến thảm hại. Cha cố lặng lẽ nhìn hắn, rồi hỏi:

Tên con là gì?

- Felix Carpio.

Hắn ta người râu ria, vạm vỡ, nổi lên một bên má là vết sẹo xám ngoét, mà bộ râu rậm không thể che được.

- Tôi không sợ chết, thưa cha.

Thế là tốt, con ạ. Cuối cùng thì chẳng ai trong chúng ta sống mãi được.

Khi cha cố đang nghe Carpio xưng tội thì có tiếng ồn từ xa vọng đến, lúc đầu nghe lao xao, sau lớn dần và bắt đầu dội vào nhà tù. Tiếng chân bầy thú nện rầm rầm như tiếng sấm lẫn tiếng gào thét của đám người hoảng loạn. Viên lính gác giật mình nghe ngóng. Tiếng ồn ào mỗi lúc một gần.

- Thưa cha, phải nhanh lên, ngoài kia hình như đang có chuyện.

- Ta xong rồi đây.

Người lính nhanh chóng mở khóa để cha cố bước ra ngoài hành lang, rồi khóa lại cẩn thận. Chợt có tiếng động lớn ở phía trước nhà tù. Người lính quay ra nhìn qua ô cửa sổ hẹp, có chấn song sắt.

- Cái quỷ gì thế nhỉ?

- Nghe như ai đó muốn gặp chúng ta đấy. Cha mượn cái kia nhé? - Cha cố nói.

- Cha mượn cái gì?

- Vũ khí của con.

Cha cố vừa nói vừa lặng lẽ tháo bỏ phần chóp của cây thánh giá lớn đeo trước ngực, để lộ ra một con dao găm nhọn, dài. Nhanh như chớp, con dao đã thọc vào ngực người lính.

- Thế đấy, con ạ. - Vừa nói ông vừa lôi khẩu tiểu liên khỏi tay anh ta. - Chúa và Cha đã thống nhất là con không cần thứ đồ chơi này nữa. - Jaime Miro vừa nói vừa làm dấu thánh. Người lính đổ xuống sàn xi măng. Jaime Miro lấy chùm chìa khóa trong người hắn rồi nhanh chóng mở khóa hai ô xà lim. Những tiếng ồn ào bên ngoài vọng vào còn dữ dội hơn.

- Đi thôi - Jaime ra hiệu.

Ricardo Mellado nhặt lấy khẩu súng.

Cậu đóng thầy tu giống thật, chút nữa thì cả tớ cũng bị lừa. - Anh ta gượng cười với cái miệng sưng vều.

- Bọn nó quần các cậu quá lắm phải không? Được. Rồi chúng sẽ phải trả giá! - Jaime vòng tay ôm hai người tù, đỡ họ đi xuống hành lang.

- Thế Zamozo làm sao?

- Bị đánh đến chết. Bọn tớ nghe thấy cậu ấy gào thét. Chúng đưa vào bệnh xá, rồi bảo cậu ấy chết vì đau tim.

Phía trước họ là cánh cửa sắt đóng chặt.

- Chờ tớ ở đây. - Jaime nói.

Anh tiến tới phía cánh cửa sắt nói vọng sang với người lính gác bên ngoài:

- Ta xong việc rồi, anh gác.

Anh ta mở cửa, giục.

- cha phải nhanh lên. Bên ngoài đang ...

Anh ta không bao giờ nói được hết câu bởi đã bị lưỡi dao của Jaime ngăn lại.

- Đi thôi, Jaime ra hiệu cho hai người.

Felix Carpio nhặt khẩu súng của người lính gác, cả ba đi xuống tầng dưới.

Cảnh tượng bên ngoài hết sức lộn xộn.

Đám cảnh sát chạy lăng xăng cố tìm hiểu điều gì đã xảy ra và đối phó với những người đang gào thét trong buồng giam hòng thoát khỏi những con thú điên.

Một con bò tấn công từ phía cổng trước, xô đổ chiếc cổng đá. Một con khác thì đang vầy vò cái xác lính gác đã nát bấy.

Chiếc xe đỏ đang đậu trong sân, máy vẫn nổ. Trong khung cảnh hỗn độn đó, hầu như chẳng ai chú ý đến ba kẻ đang bỏ trốn, còn những người nhìn thấy thì lại đang lo giữ thân, hỏi làm được gì?

Jaime và những người bạn của anh nhảy lên phía sau chiếc xe tải. Nó lặng lẽ lặng lẽ vượt qua những đám đông đang tán loạn khắp đường phố.

Các lực lượng cảnh sát bán quân sự mặc đồng phục màu xanh mũ dạ đen cố gắng trong tuyệt vọng ngăn cản sự hỗn loạn. Cảnh sát Armanda đóng tại thủ phủ các địa phương cũng đối phó vô vọng trước tai ương bất ngờ này. Người ta giẫm đạp lên nhau hòng thoát khỏi bầy thú đang sôi máu. Sự đe dọạ từ những con bò tót không tai hại bằng hiểm họa do chính họ gây ra trong khi xô đẩy nhau trốn chạy. Tội nhất là các ông già bà lão bị xô ngã rồi bị đám đông giẫm đạp lên.

Jaime đưa mắt nhìn cảnh tượng hãi hùng, vò đầu bứt tai. Điều này không phải là dự tính trong kế hoạch. Anh nhìn cảnh chết chóc đang bao trùm, không biết phải làm gì để có thể ngăn nó lại. Tuyệt vọng, anh nhắm nghiền mắt, cố xua khỏi đầu những hình ảnh khủng khiếp lọt vào mắt.

Chiếc xe chạy tới vùng ngoại ô Pamplona, rồi tiếp tục lao về phía nam, bỏ lại đằng sau đám âm thanh ồn ào, hỗn độn.

- Chúng ta đi đâu thế, Jaime? - Ricardo Mellado hỏi.

- Torne có một chỗ an toàn. Chúng ta sẽ ở đó đến tối rồi đi tiếp.

Fexlix Carpio co rúm người lại vì đau đớn. Jaime Miro, vẻ mặt đầy thương xót, khẽ nói:

- Chúng ta sớm đến đó thôi, bạn của tôi.

Trong đầu Jaime, những cảnh tượng hãi hùng ở Pamplona cứ hiện lên, không thể xua đi được.

Chừng nửa tiếng sau họ đến một cái làng nhỏ thuộc Torne. Chiếc xe chạy vòng theo rìa làng, đến một ngôi nhà đứng đơn lẻ giữa những ngọn núi. Jaime đỡ mấy người bạn ra khỏi thùng xe.

- Nửa đêm sẽ có xe đến đón các bạn, - người lái xe nói. - Bảo họ hãy đưa đến một bác sĩ và nhớ quẳng cái xe đi nhé. - Jaime nhắc.

Ba người bước vào trong. Đó là một ngôi nhà kiểu thôn quê, đơn sơ, ấm cúng, trần nhà có cột đỡ, phòng ở có lò sưởi. Một mảnh giấy nhỏ đặt trên bàn.

Jaime Miro đọc và mỉm cười với dòng chữ, "Nhà của tôi cũng là nhà của các bạn". Trên giá bày đủ loại rượu, Jaime rót rượu ra cốc.

- Không một lời nào đủ để cảm tạ cậu, bạn thân yêu. Ly này là dành cho cậu.

- Ricardo Mel1ado nói.

Chúc cho sự tự do. - Jaime nâng cốc.

Chợt vang lên tiếng lích rích của con chim bạch yến bị nhốt trong lồng, Jaime bước tới, lặng lẽ nhìn con chim nhỏ vùng vẫy. Anh mở lồng, nhẹ nâng nó ra và mang đến bên cửa sổ.

- Chú chim nhỏ hãy bay đi, - anh thì. thầm. - Mọi loài vật đều phải được tự do.

Cát Bụi Thời Gian

Chương 2

MADRID

Thủ tướng Leopoldo Martinez đang trong cơn tức giận. Ông ta nhỏ người, đeo kính, toàn thân rung lên mỗi khi nói.

- Phải chặn thằng Jaime Miro lại. - Ông ta thét, giọng cao và rung lên. - Các ông có hiểu tôi không? - Ông ta quát tháo một nhóm ngót chục người trong phòng. - Chỉ một tên khủng bố thôi mà cả quân đội lẫn cảnh sát đều bất lực.

- Cuộc họp diễn ra tại cung Moncloa, nơi ngài thủ tướng sống và làm việc, cách trung tâm thủ đô Madrid khoảng năm kilômét, nằm trên đại lộ Gallcia. Tòa nhà xây bằng gạch đỏ với những ban công sắt uốn lượn cầu kỳ, những tấm màn cửa sổ xanh dịu và các tháp canh trấn giữ các góc.

- Đó là một ngày nắng, khô. Nhìn qua cửa sổ, hơi nóng từ mặt đất bốc lên lay động như những hồn ma. Hôm qua Miro đã biến Pamplona thành nghĩa địa.

- Martinez dằn mạnh nắm đấm xuống mặt bàn. - Hắn đã sát hại người lính gác và cuỗm mất hai tên khủng bố. Đàn bò chúng thả ra đã làm náo loạn cả thành phố.

Một lúc lâu không ai lên tiếng.

Khi nhậm chức thủ tướng, ông ta lớn tiếng tuyên bố. "Hành động đầu tiên của tôi sẽ là giải tán những nhóm phân liệt. Madrid phải là một mái nhà hòa hợp vĩ đại. Nó sẽ biến những người Andalusia, người Basque, người Catalan, người Gallcy ... thành người Tây Ban Nha.".

Ông ta quá lạc quan. Những người Basque kiên quyết độc lập lại nghĩ khá, và làn sóng những vụ nổ bom, cướp nhà băng, những cuộc biểu tình do những kẻ khủng bố thuộc ETA tiếp tục nổ ra không thể ngăn chặn được.

Một người ngồi phía bên phải Martinez khẽ nói:

- Tôi sẽ tìm được hắn.

Đó là giọng của đại tá Ramon Acoca, người đứng đầu GOE, nhóm hành động đặc biệt, được thành lập để săn lùng những kẻ khủng bố người Basque.

Acoca ở tuổi lục tuần, vóc dáng khổng lồ, cặp mắt đục lạnh lùng trên khuôn mặt đầy sẹo. Y đã từng là một sĩ quan trẻ dưới quyền Francisco Franco trong thời nội chiến, và giờ đây vẫn cuồng tín theo đuổi triết lý của Franco, "Chúng ta có nghĩa vụ trước Chúa và Lịch sử.".

Acoca là một sĩ quan tài ba và đã từng là một trong số những trợ thủ tin cậy nhất của Franco. Viên đại tá này khắc sâu một nguyên tắc cứng rắn:

xử phạt ngay lập tức những kẻ nghi ngờ hoặc những kẻ không tuân thủ luật chơi. Y đã từng trải qua những thời kỳ lộn xộn trong nội chiến, một bên là Liên minh dân tộc của những người theo chủ nghĩa quân chủ, các tướng lĩnh phiến loạn, các chủ đất, nhà thờ, cũng như các tên phát xít phái Falang. Còn bên kia là lực lượng chính phủ cộng hòa bao gồm những người theo chủ nghĩa xã hội, cộng sản, tự do, và những phái phân liệt người Basque và Catalan. Một thời kỳ khủng khiếp đầy chết chóc tàn phá, một sự điên rồ đã lôi cuốn người và phương tiện chiến tranh từ hàng chục vùng đất, gây ra cái chết cho biết bao sinh mạng. Giờ đây người Basque lại tiếp tục chiến đấu và giết chóc.

Đại tá Acoca cầm đầu đám nhân viên chống khủng bố hữu hiệu và tàn bạo.

Những nhân viên này hoạt động bí mật, ăn mặc cải trang và không bao giờ xuất hiện công khai hoặc chụp ảnh, vì sợ bị trả thù.

Nếu kẻ nào đó có thể ngăn chặn được Jaime Miro ắt phải là đại tá Acoca, - thủ tướng nghĩ, - nhưng có một trở ngại:

Ai sẽ là người ngăn chặn đại tá Acoca?

Giao cho viên đại tá phụ trách vụ này không phải là chủ ý của thủ tướng.

Vào lúc nửa đêm, ông ta nhận được một cú điện thoại từ đường dây riêng và nhận ra ngay cái giọng ấy.

- Chúng tôi rất phiền lòng với những hoạt động của Jaime và bọn khủng bố, và thấy ông cần giao nhiệm vụ tiêu diệt chúng cho đại tá Ramon Acoca phụ trách GOE. Như vậy đã rõ chưa?

- Rõ, thưa ngài. Ý của ngài sẽ được quan tâm lập tức.

Rồi đường dây chết lặng.

Giọng nói đó là của thành viên thuộc OPUS MUNDO. Tổ chức này là một hệ thống bí mật bao gồm các chủ nhà băng, luật sư, chủ các công ty có thế lực, và các bộ trưởng chính phủ. Người ta xì xào rằng tổ chức này nắm trong tay những nguồn tài chính khổng lồ, nhưng tiền từ đâu ra, sử dụng và sinh sôi thế nào thì đó là một điều bí ẩn. Tìm hiểu nhiều về nó được coi là không lành mạnh.

Thủ tướng đã giao quyền cho đại tá Acoca như được chỉ thị nhưng tên khổng lồ này đã trở nên cuồng tín đến không thể kiểm soát được. Tổ chức GOE của y đã tạo ra một làn sóng khiếp sợ. Thủ tướng nghĩ đến những người phiến loạn Basque mà Acoca đã tóm được ở gần Pamplona, Những người này đã bị kết tội và đều chịu án treo cổ. Nhưng chính viên đại tá đã đòi phải hành quyết họ bằng hình phạt độc địa hơn:

một sợi thép gai từ từ siết chặt lại, rồi bẻ gãy cổ nạn nhân, trơ cả tủy sống ra.

Jaime Miro trở thành nỗi ám ảnh thường trực của Acoca.

- Tôi muốn lấy cái đầu hắn.- Acoca nói. - Cứ cắt bỏ cái đầu ấy, phong trào người Basque sẽ chết theo.

Không đơn giản thế. Thủ tướng nghĩ, mặc dù cũng phải thừa nhận một phần sự thực trong câu nói của Acoca. Jaime Miro là một thủ lĩnh đầy uy lực, lại cuồng, tín theo đuổi sự nghiệp, vì thế mà đầy nguy hiểm.

Song Acoca cũng nguy hiểm không kém. Thủ tướng nghĩ tiếp. Giám đốc an ninh Primo Casado nói:

- Thưa ngài, không ai có thể lường trước những điều xảy ra ở Pamplona.

Jaime Miro là một kẻ ...

- Tôi bíết hắn là gì. - Thủ tướng dằn giọng. - Điều tôi muốn biết là bây giờ hắn ở đâu? - Ông ta quay sang viên đại tá.

- Tôi đang theo dõi hắn. - Acoca đáp, giọng nói làm cả căn phòng rung lên. - Xin được phép lưu ý ngài thủ tướng rằng chúng ta không chỉ chống lại một kẻ duy nhất mà là đang đối phó với tất cả lũ người Basque. Chúng che giấu, nuôi dưỡng, cung cấp vũ khí cho Jaime và bọn khủng bố. Hắn là người hùng đối với chúng. Nhưng đừng lo, hắn sẽ chẳng mấy mà thành người anh hùng trên giá treo cổ. Tất nhiên là sau khi tôi tóm được hắn.

Không phải Chúng Ta mà là Tôi. Thủ tướng để ý xem có ai chú ý đến điều đó không. Phải, ông lo lắng nghĩ, sẽ phải làm một cái gì đó với thằng cha này.

- Thưa các vị, tất cả chỉ có vậy. - Ông ta đứng dậy.

Mọi người lục tục đứng lên theo, trừ Acoca.

Leopoldo Martinez đi đi lại lại trong phòng:

Mả mẹ cái dân Basque. Tại sao chúng lại không muốn làm người Tây Ban Nha? Chúng còn muốn gì nữa?

Chúng thèm khát quyền lực. - Acoca nói. - Chúng muốn tự chủ, muốn có tiếng nói riêng, cờ quạt riêng.

- Không được, chừng nào tôi còn giữ chiếc ghế này. Tôi nhất quyết không cho ai xé nhỏ Tây Ban Nha. Chính phủ sẽ bảo cho biết chúng nó được phép làm cái gì và không được phép làm cái gì. Chúng nó chẳng là gì, cái đám tiện dân ấy ...

- Thưa ngài, - một trợ lý bước vào, vẻ như muốn xin lỗi, giám mục Ibanez đã đến.

- Đưa lão ta vào.

Ngài có thể tin rằng giáo hội đứng đằng sau chuyện này. Đã đến lúc ta phải dạy cho chúng nó một bài học. - Viên đại tá nheo nheo mắt.

Giáo hội luôn là sự mỉa mai lớn nhất của lịch sử. Acoca cay đắng nhủ thầm.

Khi nội chiến bắt đầu nổ ra, nhà thờ Thiên Chúa giáo đứng về phía các lực lượng dân tộc. Giáo trưởng đứng đằng sau tổng tư lệnh Franco và như thế, cho phép ông ta lớn tiếng nói rằng mình đang chiến đấu vì Đức Chúa trời. Cho tới khi nhà thờ của dân Basque, các tu viện và tu sĩ bị tấn công, thì giáo hội mới chấm dứt sự ủng hộ này.

- Các ngài phải cho người Basque và người Catalan được tự do hơn. - Giáo hội đòi hỏi. - Và các ngài không được sát hại các vị tu sĩ người Basque nữa.

- Tổng tư lệnh Franco bực tức điên cuồng. Giáo hội dám láo xược ra lệnh cho Chính phủ?

Bắt đầu một cuộc chiến tranh tiêu hao. Lại thêm nhà thờ và tu viện bị các lực lượng Franco hủy hoại. Các nữ tu và tu sĩ bị sát hại. Các giám mục bị giam lỏng. Cha cố khắp cả nước bị trừng phạt vì đã truyền bá, rao giảng những điều mà chính phủ cho là kích động nổi loạn. Tới khi giáo hội dọa rút phép thông công thì Franco mới chấm dứt những cuộc tấn công của mình.

Giáo hội chết tiệt! Acoca nghĩ.

Sau khi Franco chết, giáo hội lại ngóc dậy. Y quay lại phía thủ tướng:

- Đã đến lúc lão giám mục này phải biết ai đang nắm Tây Ban Nha.

Giám mục Calvo Ibanez nhỏ nhắn, mảnh khảnh, đám tóc bạc trắng chạy quanh đầu, nhướng mắt nhìn hai người qua cặp kính không gọng.

- Một buổi chiều tốt lành!

Acoca cảm thấy nghèn nghẹn ở cổ. Chính sự xuất hiện của vị giáo sĩ này làm cho y phát ốm. Họ là bầy dê của Juda dẫn những con cừu non ngốc nghếch tới lò sát sinh.

Vị giám mục đứng đó đợi một lời mời ngồi. Nhưng điều đó không xảy ra.

Ông cũng chẳng được giới thiệu với tên đại tá. Đó là một sự khinh miệt có tính toán.

Thủ tướng đưa mắt thăm dò ý tứ viên đại tá.

Acoca nói nhát gừng:

- Một số tin tức đáng lo ngại đã làm chúng tôi chú ý, rằng quân phiến loạn Basque đang tổ chức các cuộc họp tại các tu viện Thiên Chúa giáo. Chúng tôi cũng biết rằng giáo hội dung túng cho các tu viện và nhà dòng cất giấu các vũ khí của bọn phiến loạn. - Giọng y lanh lảnh như có thép. - Khi các vị giúp đỡ kẻ thù Tây Ban Nha thì chính các vị đã trở thành kẻ thù của Tây Ban Nha.

Giám mục Ibanez quắc mắt nhìn y, rồi quay sang ông thủ tướng:

- Thưa ngài, với lòng kính trọng sâu sắc, tất cả chúng ta đều là những con người của đất nước Tây Ban Nha. Người Basque không phải là kẻ thù của các ngài. Tất cả những gì họ đòi hỏi là tự do để ...

- Chúng không đòi hỏi mà là yêu sách. - Acoca gầm lên. - Ở đâu bọn chúng cũng cướp nhà băng, giết hại cảnh sát, vậy mà ông dám nói rằng họ không phải là kẻ thù của chúng ta?

Tôi thừa nhận là đã có những sự thái quá không thể bào chữa được. Song, đôi khi tranh đấu cho những gì mình tin ...

Chúng không tin vào bất cứ cái gì ngoài bản thân. Chúng không hề quan tâm đến Tây Ban Nha, như một nhà văn lớn của ta đã nói:

ở đất nước Tây Ban Nha này không có bất cứ ai quan tâm đến lợi ích chung. Nhóm nào cũng chỉ quan tâm đến lợi ích của nhóm ấy. Giáo hội, dân Basque, dân Catalan. Nhóm nọ chửi mẹ nhóm kia ...

Ông giám mục biết tên đại tá trích lời Ortega y Gasset. Nguyên văn câu này còn gồm cả quân đội và chính phủ, nhưng ông ta khôn khéo im lặng, quay sang phía thủ tướng, hy vọng có một cuộc đối thoại mềm mỏng hơn.

Thưa ngài, giáo hội Thiên Chúa ...

Thủ tướng thấy Acoca đưa đẩy vấn đề như thế là đủ.

- Xin Đức giám mục đừng hiểu sai chúng tôi. Về nguyên tắc, tất nhiên, chính phủ này đứng sau giáo hội một trăm phần trăm.

- Nhưng chúng tôi cũng không thể cho phép nhà thờ, nhà dòng và các tu viện chống lại mình mãi được. Nếu các ông tiếp tục dung túng cho bọn người Basque cất giấu vũ khí và tụ họp ở đó, các ông sẽ phải gánh chịu hậu quả. - Acoca lại lên tiếng.

- Tôi khẳng định rằng báo cáo mà các vị nhận được là sai lệch. - Đức giám mục nhỏ nhẹ. - Dẫu sao tôi cũng sẽ điều tra ngay.

Cám ơn Đức giám mục, tất cả chỉ có thế thôi. Thủ tướng Martinez và đại tá Acoca cùng nhìn theo Đức giám mục bước ra.

- Anh nghĩ sao? - Martinez hỏi. - Lão ta biết chuyện gì sẽ xảy ra. Vị thủ tướng thở dài. Không cần phải bới thêm chuyện với giáo hội thì mình cũng đã đủ chuyện rồi.

- Nếu giáo hội ủng hộ bọn Basque, thì tức là họ chống lại chúng ta. - Giọng Acaco vang lên hằn học. - Tôi muốn ngài thủ tướng cho phép dạy bọn này một bài học.

Martinez rùng mình khi bắt gặp ánh mắt cuồng tín của Acaco, trở nên thận trọng.

- Đúng là anh có báo cáo rằng nhà thờ đang giúp đỡ quân phiến loạn?

- Tất nhiên, thưa ngài.

Không thể có quyết định khác nếu như người này nói đúng sự thật. Thủ tướng biết Acoca căm thù giáo hội đến thế nào. Nhưng để giáo hội nếm chút mùi trừng phạt có khi cũng hay, miễn là Acoca đừng đi quá đà Thủ tướng Martinez suy nghĩ lung tung. Chính Acoca phá vỡ sự im lặng.

- Nếu nhà thờ che giấu bọn khủng bố thì họ phải bị trừng phạt.

- Anh sẽ bắt đầu từ đâu? - Thủ tướng gật đầu miễn cưỡng.

- Jaime Miro và đồng bọn của hắn hôm qua xuất hiện ở Avila. Chắc chắn chúng đang lẩn trốn trong tu viện đó.

- Khám xét tu viện. - Thủ tướng đi tới một quyết định.

Quyết định đó là khởi đầu của một chuỗi sự kiện làm lung lay đất nước Tây Ban Nha và chấn động thế giới.

Sidney Sheldon

Cát Bụi Thời Gian

Chương 3

Avila êm ả nhẹ nhàng tựa tuyết rơi; mềm mại, dịu dàng như làn gió hạ thì thầm; lặng lẽ như sao sa.

Tu viện dòng Cistercian nằm bên ngoài thị trấn Avila có thành lũy bao quanh.

Thị trấn nằm ở vị trí cao nhất của Tây Ban Nha, cách Madrid về phía Tây Bắc một trăm mười hai cây số. Tu viện được xây dựng dành cho sự tĩnh lặng.

Luật lệ ở đây được áp đặt từ năm 1601 và không hề thay đổi qua hàng thế kỷ:

nghi thức tế lễ, sự khắc khổ về tinh thần, sự kín đáo khắc nghiệt, sự tự hành tội và sự im lặng. Luôn luôn là im lặng.

Tu viện gồm một khu nhà đá sù sì bốn bề khép kín. Nhà thờ là khu kín nhất nằm ở giữa, xung quanh tòa trung tâm này, qua các ô lỗ cửa sổ, ánh sáng đổ lên những phiến đá lớn lát sàn. Tu viện có bốn chục nữ tu sĩ cầu nguyện trong nhà thờ và sống luôn ở nhà tu.

Tu viện tại Avlia là một trong số bảy tu viện còn sót lại ở Tây Ban Nha trong khi hàng trăm tu viện khác đã bị hủy hoại trong phong trào chống giáo hội xảy ra theo chu kỳ trên đất nước Tây Ban Nha kéo dài hàng thế kỷ.

Tu viện dòng Cistercian dành cho những người trọn đời vào đây cầu nguyện.

Nơi đây không có khái niệm mùa và thời gian. Những người đã bước chân vào đây thì mãi mãi tách biệt với thế giới bên ngoài. Cuộc sống ở Cistercian là tu hành và sám hối. Kinh Thánh được đọc thuộc lòng hàng ngày, sự giam mình là tuyệt đối và vĩnh hằng.

Tất cả các sơ đều ăn mặc giống nhau. Quần áo của họ cũng như mọi thứ khác tròng tu viện đều mang dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng qua nhiều thế kỷ.

Chiếc áo choàng ngoài không tay có mũ liền - tượng trưng cho sự ngây thơ và trong trắng. Chiếc áo thêu bằng lanh biểu trưng cho sự từ bỏ mọi hấp dẫn của thế gian và sự hành xác. Cái áo khoác vai được ghép bằng những mảnh vải len rộng xõa xuống người nói lên sự tự nguyện lao động. Chiếc khăn choàng bằng lanh trùm đầu vòng qua cằm che kín hai bên má và cổ là sự hoàn thiện của bộ đồng phục.

Bên trong những bức tường của tu viện là hệ thống đường đi lại và cầu thang nối liền phòng ăn với phòng chung, các phòng nhỏ và phòng làm lễ, và chỗ nào cũng bao trùm một cảm giác rộng rãi, sạch sẽ mà lạnh lẽo. Những cửa sổ mắt cáo hướng ra một khu vườn có tường cao bao quanh. Các cửa sổ đều có chấn song sắt và đều vượt quá tầm nhìn để tránh những sự hấp dẫn từ bên ngoài.

Phòng ăn dài và sơ sài, màn che ô các cửa sổ đều rủ và cửa chớp đóng lại.

Những giàn nến đặt trên các chân nến cổ in bóng trên trần nhà và các bức tường. Suốt bốn trăm năm không một thứ gì bên trong những bức tường thay đổi, trừ những khuôn mặt. Các sơ đều không có tài sản riêng, vì họ khao khát được nghèo thi thố với sự nghèo khổ của Đấng cứu thế. Ngay trong nhà thờ cũng trống trơn, trừ một cây thánh giá bằng vàng là món quà của một người giàu có vào giáo hội tặng từ xa xưa. Bởi nó quá xa lạ với trật tự khắc khổ ở đây, nên nó được giấu kín trong một chiếc hộp để ở nhà ăn. Một cây thánh giá bằng gỗ mộc mạc thay cho nó được treo ở bệ thờ.

Đám đàn bà chia sẻ cuộc đời với Chúa này sống chung, làm chung, ăn chung và cầu nguyện chung, mặc dù họ không bao giờ tiếp xúc, trò chuyện với nhau.

Ngoại lệ duy nhất được phép là khi họ cùng nghe, hoặc khi bà Nhất Bentina giáo huấn họ tại phòng của bà. Thậm chí ngay cả khi đó, một loại ngôn ngữ cổ bằng dấu hiệu cũng được sử dụng đến triệt để.

Bà Nhất Bentina là một phụ nữ sùng đạo ở tuổi bảy mươi với khuôn mặt rạng rỡ, luôn vui vẻ song đẩy nghị lực, một con người luôn tự hào về sự bình an cùng niềm vui của cuộc sống trong tu viện, và kiêu hãnh với cuộc đời hiến dâng cho Chúa. Hết mực thương yêu những nữ tu của mình, bà cảm thấy còn đau đớn hơn bản thân người bị trừng phạt mỗi khi phải thực hiện một hình phạt nào đó theo nguyên tắc.

Các nữ tu đi lại trong tu viện, mắt nhìn xuống đất, hai tay vòng lại sau lần áo trước ngực. Họ lướt qua nhau, không một lời hay một cử chỉ nhận biết. Tiếng nói duy nhất ở đây là tiếng chuông mà văn hào Pháp Victor Hugo gọi là "nghệ thuật opera của những tháp chuông".

Các bà sơ tới đây do nhiều nguyên cớ và từ nhiều miền đất khác nhau. Họ xuất thân từ những gia đình quý tộc, nông dân, binh lính ...khi họ về đây là những người giàu, kẻ nghèo, có giáo dục hay dốt nát, tứ cố vô thân hay đầy tôi tớ, kẻ bần hàn hay được coi là quyền cao chức trọng, nhưng giờ đây tất cả đều là một trong con mắt của Chúa, cùng có chung một khát vọng được thành thân vĩnh viễn với Chúa Giêsu.

Điều kiện sống trong tu viện cực kỳ kham khổ. Mùa đông, cái lạnh như dao cắt và ánh sáng mờ ảo, lạnh lẽo thấm qua những khung cửa sổ xám xịt. Các nữ tu mặc nguyên quần áo ngủ trên nệm rơm, đắp tấm len thô ráp.

Mỗi tu sĩ ở riêng một phòng nhỏ, mà đồ đạc gồm chiếc nệm rơm, chiếc ghế lưng thẳng, cái hũ đất nhỏ và cái chậu lăn lóc ở một góc dưới đất. Không một tu sĩ nào được phép đặt chân vào phòng của người khác, trừ bà Nhất Bentina.

Không có bất cứ một hình thức giải trí nào. Chỉ làm việc và các lễ cầu nguyện, Có những phòng dành cho việc đan lát, đóng sách, dệt vải và làm bánh mỳ. Mỗi ngày có tám giờ cầu kinh:

Mantins, Lauds, Prime, Terce, Sext, None, Vespers, và Campline.

Ngoài những lễ này, còn các lễ cầu nguyện khác:

Kinh đọc trước bữa ăn, các bài Thánh ca và những bài Kinh khác.

Lễ Mantins được đọc vào lúc nửa thế giới còn ngủ say còn nửa kia chìm trong tội lỗi.

Lễ Lauds tiếp theo lễ Matins vào lúc mặt trời mọc, được coi là nghiệm diệu của thắng lợi vinh quang của Chúa.

Lễ Prime là lễ buổi sáng của nhà thờ, xin Chúa chúc phước cho mọi công việc trong ngày.

Lễ Terce được tiến hành vào chín giờ ba mươi, đọc lên để nén dục vọng của con người.

Lễ None được cầu nguyện hồi ba giờ chiều, vào lúc chúa Giêsu bị hành hình.

Lễ Vespers tiến hành vào buổi chiều của Hội thánh như lễ Lauds.

Lễ Compline là sự hoàn chỉnh những thời gian ngắn ngủi trong ngày, cũng có những hình thức của lễ cầu nguyện ban đêm. Một sự sửa soạn cho sự chết cũng như sự ngủ vào lúc tận cùng của ngày.

Ở một số dòng tu khác, hình phạt bằng roi đã được bãi bỏ, nhưng nó vẫn còn tồn tại ở các tu viện dòng Cistercian. Ít nhất mỗi tuần một lần, có khi hàng ngày, các nữ tu tự hành hạ thể xác mình bằng cái roi có sáu sợi dây xích điểm gai nhọn. Mỗi khi quất vào lưng, chân hay mông, nó gây ra những đau đớn đến tột độ. "Thân thể của Chúa bị hành hạ, nên thân thể của chúng ta phải được làm cho giống với thân thể bị tổn thương của Người.".

Cuộc sống ở đây còn hà khắc hơn bất cứ nhà tù nào, ấy thế mà "tù nhân" lại cảm thấy hạnh phúc như họ chưa từng biết đến thế giới bên ngoài. Họ từ bỏ tình yêu xác thịt, của cải và sự tự do lựa chọn. Nhưng khi đoạn tuyệt với những cái đó, họ cũng đoạn tuyệt luôn cả những tham vọng và ganh đua, hằn thù và ghen ty, và tất cả những ham muốn, sự cám dỗ đầy rẫy ở thế giới bên ngoài. Bên trong tu viện luôn ngự trị một không khí bình yên và niềm vui khôn tả được hầu hạ bên Chúa. Sự bằng an mơ hồ ngự trị trong bốn bức tường của tu viện và trong trái tim của những người ở đây.

Nếu tu viện này là nhà. tù thì đó phải là nhà tù trên thiên đường của Chúa, với sự nhận biết về cõi vĩnh hằng, một hạnh phúc dành cho những người đã tự nguyện tới đó và ở lại đó.

Sơ Lucia thức giấc khi hồi chuông vang lên trong thư viện. Cô giật mình mở mắt, có cảm giác mất phương hướng trong giây lát. Gian phòng nhỏ của cô chìm trong bóng tối ảm đạm, tiếng chuông báo hiệu cho cô biết lúc đó là ba giờ sáng, là giờ lễ cầu Kinh đêm trong lúc thế giới bên ngoài còn chìm trong bóng tối.

"Khỉ gió! Cái trò nhàm chán này sẽ giết mình mất". Sơ Lucia nghĩ.

Lucia nằm co ro trong chiếc giường nhỏ, thêm đến tuyệt vọng một điếu thuốc lá. Cô uể oải lết khỏi giường. Bộ đồ nặng nề phải mặc vào người cả lúc đi ngủ như tấm giấy ráp cọ sát vào làn da nhạy cảm của cô. Lucia nhớ đến những bộ cánh kiểu cách treo trong phòng của mình ở Roma hay trong biệt thự ở Gstaad.

Sơ Lucia có thể nghe thấy những tiếng loạt xoạt bên ngoài phòng, khi các nữ tu tập trung lại. Cô uể oải dọn giường rồi bước ra hành lang, nơi các tu đã sắp xếp thành hàng, im lặng, mắt cắm xuống, bắt đầu chầm chậm đi về phía nhà thờ.

Trông cứ như một bầy chim cánh cụt ngốc nghếch. Sơ Lucla nghĩ. Vì sao những người đàn bà này dám từ bỏ cuộc sống của mình, từ bỏ tình ái, từ bỏ ăn ngon mặc đẹp? Thiếu những thử đó, còn có lý do gì để mà sống? Những luật lệ chết tiệt!

Khi sơ Lucia nhập tu viện, bà Nhất Bentina nói với cô:

- Con nhớ khi đi phải cúi đầu xuống. Tay phải gấp lại dưới áo. Bước ngắn, đi chậm. Con không bao giờ được nhìn bất cứ sơ nào, thậm chí cả liếc nữa. Con không được nói. Tai con chỉ được phép nghe những lời của Chúa.

- Vâng, thưa Mẹ.

Tháng ấy, Lucia làm đúng như vậy.

- Mọi người tới đây không phải để cùng sống với những người khác, mà chỉ để chung sống với Đức Chúa. Sự cô đơn tinh thần là điều quan trọng nhất cho sự hòa nhập với Chúa. Nó được các quy tắc giữ im lặng bảo vệ.

- Vâng, thưa Mẹ.

- Con phải luôn giữ cho mắt im lặng. Nhìn vào mắt người khác sẽ làm con phân tán bởi những sự tưởng tượng vô ích.

- Vâng, thưa Mẹ.

Bài học đầu tiên của con là tẩy trừ những thói quen cũ và những sở thích trần tục, xóa bỏ mọi hình ảnh của quá khứ. Con sẽ phải làm lễ tẩy uế và hành xác để gột bỏ tính ích kỷ và sự bướng bỉnh. Như thế vẫn chưa đủ cho chúng ta ăn năn về những tội lỗi của mình trong quá khứ. Một khi thấy được cái đẹp và lòng thánh thiện vô bờ bến của Chúa, chúng ta sẽ không chỉ muốn ăn năn cho những tội lỗi của mình, mà còn cho bất cứ tội lỗi nào của người khác." - Vâng, thưa Mẹ, cơn xin hứa.

- Con phải đấu tranh với lòng tà dâm, điều mà John of the Cross gọi là đêm đen của những cảm giác.

- Vâng, thưa Mẹ khả kính.

Mỗi tu sĩ phải sống trong sự im lặng và cô đơn như mình đã ở trên Thiên đường. Trong sự im lặng của thiêng liêng, thanh khiết mà mình hằng khao khát, người tu sĩ có thể đến được với sự yên tĩnh vĩnh hằng, và đến được với Chúa.

Đến cuối tháng thứ nhất Lucia có cơ hội thực hiện lời hứa ban đầu của mình.

Tròn một tháng bước chân vào tu viện, mái tóc cơ bị xén như lông cừu. Bà nhất trưởng tu viện đích thân hành sự. Bà gọi Lucia lên phòng của mình và ra hiệu cô ngồi xuống ghế. Bà bước ra phía sau và trước khi Lucia kịp nhận biết chuyện gì xảy ra thì cô đã thấy những lọn tóc óng ả của mình rơi lả tả. Cô định phản kháng, nhưng bỗng cảm nhận được rằng sự việc đang diễn ra chỉ hoàn thiện thêm cái vỏ bọc của mình. Tốt thôi! Sau này mình muốn để nó mọc lại lúc nào chả được. Lucia nghĩ. Còn bây giờ mình sắp như con gà bị vặt trụi lông đây.

Trở về với gian phòng chật chội được phân, cô nghĩ:

chỗ này là cái hang rắn chứ phòng gì. Sàn gồm những tấm gỗ trống trơn. Cái nệm rơm và chiếc ghế dựa khô cứng chiếm hầu hết diện tích. Cô thèm khát được có một tờ báo. Ở đây họ chẳng bao giờ được biết đến báo chí, họ quên đi cả rađio lẫn tivi. Không có bất cứ một mối liên hệ nào với thế giới bên ngoài. Cô nghĩ.

Nhưng cái làm cho Lucia khó chịu nhất là cái yên lặng không bình thường.

Sự giao tiếp duy nhất là bằng dấu hiệu của bàn tay. Riêng học thuộc những ký hiệu này đã suýt làm Lucia phát điên. Khi cần cái chổi, cô được dạy là bàn tay phải xòe ra, và đưa từ phải sang trái như đang quét.

Khi không hài lòng về việc gì, bà Nhất thường làm động tác chụm đầu hai ngón tay lại với nhau ba lần ở phía trước ngực, còn các ngón kia gập lại. Lúc nào Lucia tỏ ra làm việc lề mề, bà đặt lòng tay phải lên tay trái của mình. Còn để quở mắng Lucia, bà dùng cả năm ngón tay vuốt từ trên xuống dưới má mình, ở chỗ gần tai phải.

Ôi, lạy Chúa, trông cứ như bà ấy gãi nốt bọ chét đốt.

Họ đã đi tới nhà thờ. Các tu sĩ cầu kinh trong im lặng, nhưng sơ Lucia thì đang nghĩ về những điều còn quan trọng hơn cả Chúa.

Một hai tháng sau bọn cảnh sát chán không lùng sục nữa, ta sẽ biến khỏi cái nhà thương điên này.

Sau những bài Kinh buổi sáng, sơ Lucia cùng những bà sơ khác vào phòng ăn. Cô lén lút phá bỏ luật lệ hàng ngày bằng việc nhìn trộm các khuôn mặt xung quanh. Đó là trò tiêu khiển duy nhất. Cô không thể hình dung làm sao sống cùng nhau mà lại có thể không biết được mặt nhau.

Cô ngắm nhìn các khuôn mặt một cách hết sức thích thú.

Một số nom có tuổi, một vài người còn trẻ, một số đẹp, lại có một số xấu tệ.

Có ba khuôn mặt đặc biệt gây cho Lucia thích thú. Thứ nhất là Theresa, người đàn bà tuổi trạc sáu mươi, không thể gọi là đẹp được nhưng lại toát lên sức mạnh tinh thần, tạo cho bà một sự hấp dẫn tự nhiên. Lúc nào trông cũng như người đang cười thầm, tưởng chừng bà cất giấu trong mình những bí mật tuyệt vời.

Một nữ tu khác Lucia cảm thấy hấp dẫn là sơ Graciela. Cô ta có khuôn mặt đẹp đến choáng ngợp ở độ tuổi ba mươi. Nước da màu ô liu, những đường nét thiên thần và cặp mắt thì như hai biển nước màu tro long lanh.

Cô này nhẽ ra phải là một minh tinh màn bạc mới đúng Lucia nghĩ. Cô ta gặp chuyện gì nhỉ Sao cô ta lại chôn vùi cuộc đời mình ở nơi lạnh lẽo này?

Nữ tu sĩ thứ ba khiến Lucia quan tâm là sơ Megan. Cặp mắt xanh, lông mi lông mày hoe vàng. Cô này ở cuối độ tuổi hai mươi, có dáng vẻ tươi tắn chân thật.

Cô ta làm gì ở đây nhỉ? Mà tất cả những người này có việc gì ở đây? Họ giam mình trong bốn bức tường, được thí cho một gian phòng chật hẹp để ở, một ít thức ăn đã lên mùi với tám giờ cầu kinh, và lao động thì nặng nhọc. Còn giấc ngủ lại quá ngắn. Chắc họ mất trí, cả lũ điên mất rồi.

Cô may mắn hơn họ nhiều, bởi họ sẽ bị kẹt ở đây cho đến hết đời, trong khi cô thì biến khỏi đây chỉ trong một hay hai tháng nữa. Ba tháng cũng nên, Lucia nghĩ, đây là chỗ ẩn nấp tuyệt vời. Có họa là rồ thì mới đi tìm chỗ khác. Vài tháng sau, khi cảnh sát chán không lùng nữa, lúc đó mình sẽ rời khỏi nơi này và sẽ lấy được tiền ở Thụy Sĩ có khi mình sẽ viết một cuốn sách về cái nơi điên rồ này.

Vài hôm trước, sơ Lucia được bà Nhất sai vào văn phòng để tìm một thứ.

Và cô đã lợi dụng cơ hội để xem trộm mấy tập hồ sơ. Thật vô phúc, cô bị bắt quả tang.

Cô phải chịu hình phạt hành tội. Mẹ trưởng tu viện Bentina ra hiệu cho cô.

Sơ Lucia cúi đầu ngoan ngoãn làm hiệu. "Con xin vâng thưa Mẹ khả kính".

Lucia quay về phòng mình và vài phút sau các nữ tu đi lại ngoài hành lang đều nghe thấy những tiếng động rợn người của chiếc roi vun vút liên hồi trong không khí. Họ không thể biết được sơ Lucia đang quất roi xuống giường.

Họ ngồi trong phòng ăn. Bốn mươi bà sơ ngồi bên hai dãy bàn dài. Các tu sĩ dòng Cistercian ăn chay hoàn toàn. Có thể có bữa thêm chút thịt cùng chất tươi lót dạ, một chén trà hoặc cà phê và vài lát bánh mì khô. Bữa chính là vào lúc mười một giờ, gồm một ít súp loãng, một ít rau, và thỉnh thoảng có một lát hoa quả.

Bà Nhất đã dạy Lucia. "Chúng ta đến đây không phải để sướng thân ta, mà để hài lòng Chúa".

Đồ ăn thế này không đáng cho con mèo của ta ăn. Lucia nghĩ bụng. Mình ở đây đến hai tháng rồi và đám chắc mình đã sụt mất dăm ký là ít.

Dùng xong bữa sáng, hai nữ tu đem hai chiếc chậu rửa tớ hai đầu bàn và đặt ở đó. Các tù sĩ ngồi quanh bàn lần lượt chuyển những chiếc đã ăn của mình tới chỗ người tu sĩ có chiếc chậu rửa. Nữ tu sĩ này rửa từng chiếc, rồi lau khô, rồi trả nó về chủ. Nước trong chậu có vẻ sẫm màu hơn và nhờn hơn.

Thế mà họ sẽ sống thế này cả đời, sơ Lucia thấy gai cả người. Nhưng mình thắc mắc làm gì? Chui vào đây chẳng khác đi tù chung thân.

Và cô hướng tâm hồn bất tận của mình về một điếu thuốc lá. Cách đó năm trăm mét theo một con đường nhỏ, đại tá Ramon Acoca và hai chục người được chọn lựa kỹ càng của GOE - nhóm hành động đặc biệt - đang chuẩn bị tấn công tu viện.

***

Đại tá Roman Acoca có những thiên bẩm của người đi săn. Y say mê săn bắn, nhưng cái gây cho y cảm giác thỏa mãn tột độ là sự giết chóc.

Một lần y thổ lộ với người bạn. "Khi giết, tôi cảm thấy sung sướng đến cực điểm. Không cần biết đó là con hươu con thỏ hay con người. Cái cảm giác lấy đi cuộc sống của kẻ khác làm cho tôi cảm thấy mình có quyền lực vô hình như Đấng Chúa Trời".

Acoca đã từng ở ngành tình báo quân sự và y nhanh chóng nổi tiếng là tài giỏi. Y can dảm, tàn nhẫn, thông minh và sự hòa trộn những đặc tính đó làm cho một trong số trợ lý của đại tướng Franco chú ý đến.

Lúc đầu, khi tham gia đội quân của Franco, Acoca chỉ giữ chức trung úy, thế mà chưa đầy ba năm y đã leo lên tới chức đại tá, một kỳ tích chưa từng thấy. Y được tin cẩn giao cho phụ trách những người thuộc phái Falang và nhóm đặc biệt của y được sử dụng để khủng bố những người chống lại Franco.

Trong thời nội chiến một người thuộc tổ chức OPUS MUNDO đã được giao nhiệm vụ tìm gặp Acoca - Tôi muốn ông hiểu rằng, được phép của đại tướng Franco, chúng tôi tiếp xúc với ông.

- Rõ, thưa ngài Chúng tôi thường xuyên để mắt tới ông, thưa ông đại tá Chúng tôi hài lòng với những gì chúng tôi thấy.

- Cảm ơn ngài.

Đôi khi chúng ta có những việc, nói sao nhỉ, rất nguy hiểm, nên cần hết sức kín đáo.

- Tôi hiểu, thưa ngài.

- Chúng ta nhiều kẻ thù, những người không hiểu được tầm quan trọng của công việc chúng ta đang làm.

- Rõ, thưa ngài.

- Đôi khi họ gây trở ngại cho chúng ta. Nhưng chúng ta không cho phép điều đó xảy ra.

- Không đời nào, thưa ngài.

- Tôi tin rằng chúng tôi có thể dùng một người như ông, thưa đại tá. Tôi nghĩ chúng ta hiểu nhau.

- Vâng, thưa ngài. Tôi lấy làm hân hạnh được phục vụ.

- Chúng tôi muốn ông cứ tiếp tục ở trong quân đội. Điều đó sẽ có giá trị lâu dài đối với chúng ta cả ông và chúng tôi. Tuy nhiên, thỉnh thoảng ông sẽ được nhận vài công việc đặc biệt.

- Cảm ơn ngài.

Ông không bao giờ được tiết lộ cuộc gặp gỡ này.

- Không đời nào.

Người đàn ông bên kia chiếc bàn đã làm cho Acoca lúng túng. Có một cái gì đó khiến ông ta nom đáng sợ vô cùng.

Thời gian đó, đại tá Acoca được OPUS MUNDO giao cho hàng chục phi vụ.

Đúng như đã được báo trước, đây toàn những việc hết sức nguy hiểm và hết sức kín đáo.

Tại một trong những phi vụ đó Acoca đã gặp được cô gái trẻ rất dễ thương trong một gia đình gia gỉáo. Trước đó, tất cả những phụ nữ Àcoca đã từng gặp đều là bọn gái điếm hay gái bao. Hắn tỏ ra hết sức khinh bỉ đám này. Bọn gái điếm thực sự mê cái sức mạnh của y, còn y thì luôn dành cho họ sự đối xử tồi tệ nhất.

Nhưng Susana Cerredilla thì lại thuộc một thế giới hoàn toàn khác biệt. Cha nàng là giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Madrid, còn mẹ là một luật gia. Khi Susana mười bảy, nàng có cơ thể của một phụ nữ hoàn thiện và khuôn mặt tuyệt tác của một Madonna:

Acoca chưa từng gặp phụ nữ nào như cô bé phát triển sớm này. Sự trong trắng mỏng manh của nàng khơi dậy trong y một cảm giác mềm yếu mà y chưa từng biết đến.

Y yêu cô bé một cách điên dại, và vì những lý do mà cha mẹ nàng lẫn Acoca không hiểu nổi, nàng cũng phải lòng y.

Vào tuần trăng mật, Acoca tưởng như mình chưa từng biết một người đàn bà nào khác. Nhục dục y đã trải, nhưng sự hòa quyện giữa tình yêu và nỗi đam mê lại là cái gì đồ y chưa từng được biết đến.

Ba tháng sau hôn lễ, Susana báo với y nàng đã mang thai. Acoca sưởng phát điên. Như tăng thêm niềm vui cho họ, y bỗng được điều về làng Castioblanco xinh đẹp thuộc vùng Basque. Khi đó là mùa thu năm 1963, cuộc chiến giữa người cộng hòa và người dân tộc đang độ quyết liệt nhất.

Vào một sáng chủ nhật yên ả khi Acoca cùng Susana đang nhấm nháp cà phê tại một quán trong làng, bỗng dưng quảng trường đầy ắp những người Basque biểu tình.

- Anh muốn em về nhà, - Acoca nói, - ở đây sắp lộn xộn rồi.

- Thế còn anh ...?

- Nghe anh đi, anh sẽ không sao đâu.

Những người biểu tình đã tỏ ra không kìm chế được nữa.

Ramon Acoca thấy nhẹ nhõm khi nhìn theo Susana của mình đi thoát khỏi đám đông, về phía tu viện ở cuối quảng trường. Nhưng khi nàng vừa tới đó, cánh cửa tu viện bất thần bật tung và những người Basque có vũ trang trốn trong đó rầm rộ kéo ra, súng trên tay bắn như vãi đạn. Acoca bất lực đứng nhìn vợ mình gục chết. Chính hôm đó y đã thể trả thù dân Basque và giáo hội.

Và lúc này đây y đang ở Avil1a, bên ngoài một tu viện khác. Lần này chúng phải chết.

Trong bóng tối bao trùm tu viện, sơ Theresa nắm chặt chiếc roi trong tay, vụt tới tấp vào người. Sự đau đớn cắt da xé thịt do những chiếc gai sắc nhọn gây ra khiến bà muốn hét lên, nhưng điều đó là không được phép và bà phải dồn nén những tiếng gào thét vào lòng.

Hãy tha thứ cho những lỗi lầm của con, Giêsu. Hãy chứng giám rằng con đang hành hạ mình như Người đã bị hành hạ, đang chịu đựng những vết thương như Người đã phải chịu đựng. Hãy cho con được chịu đựng như người đã chịu đựng.

Bà suýt ngất đi vì đau đớn, rồi gắng tiếp tục hình phạt ba lần nữa, rồi tuyệt vọng ngã xuống chiếc giường con. Bà không lau máu đi vì điều đó bị cấm, gắng gượng chịu những đau đớn cực độ do mỗi cử động mang lại. Sơ Theresa cất roi vào chiếc hộp màu đen, đặt trở lại góc cũ Nó luôn được đặt ở đó, để thường xuyên nhắc nhở rằng mỗi lỗi lầm dù là nhỏ nhất cũng phải trả bằng sự đau đớn tột độ. .

Sơ Thresa đã phạm lỗi vào buổi sáng hôm đó, lúc bà đi tới hành lang, mắt nhìn xuống, và va vào sơ Graciela. Giật mình, sơ Thresa ngẩng lên và bất chợt ánh mắt đụng luôn phải gương mặt của sơ Graciela. Bà liền thuật lại tội lỗi của mình. Mẹ Bentina nheo mày tỏ vẻ không hài lòng và làm dấu sự hành tội. Bà đưa tay phải từ vai nọ sang vai kia ba lần, bàn tay nắm chặt như đang giữ lấy cây rơi, đầu ngón tay cái tì chặt vào lòng ngón tay trỏ.

Nằm trên giường, sơ Theresa không thể quên đi được khuôn mặt đẹp đến khác thường của cô gái trẻ. Bà biết mình sẽ không bao giờ được nói chuyện hay chỉ nhìn thấy khuôn mặt đó nữa vì một lỗi lầm nhỏ nhất biểu lộ quan hệ gần gũi giữa các nữ tu sĩ cũng sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Trong một môi trường khổ hạnh về tinh thần và thể xác, không một mối quan hệ, dù dưới hình thức nào, được phép tồn tại. Nếu hai tu sĩ làm việc bên nhau và cùng tỏ ra thích thú người bạn im lặng của mình, Mẹ bề trên sẽ lập tức tách họ ra. Cũng không có sơ nào được phép ngồi cạnh cùng một người hai lần trong ngày. Giáo hội tế nhị gọi sự chú ý của một tu sĩ đến một người khác là "một quan hệ đặc biệt", và hình phạt sẽ đến rất nhanh, nghiêm khắc. Sơ Therasa phải chịu hình phạt vì đã vi phạm nguyên tắc đó.

Giờ đây tiếng chuông vọng tới sơ Theresa như từ cõi xa xôi. Đó là tiếng chuông của Chúa đang khiển trách bà.

Ở phòng bên tiếng chuông vọng vào chuỗi những giấc mơ của sơ Graciela, tiếng ngân lẫn vào những tiếng cọt kẹt dâm đãng bởi những chiếc lò xo của giường.

Thằng Marôc da đen tiến về phía cô, trần truồng, hai tay hắn vươn ra chộp lấy cô. Graciela mở mắt choàng tỉnh, tim đập liên hồi. Cô nhìn quanh thảng thất, nhưng kịp nhận ra là đang ở một mình trong căn phòng nhỏ hẹp và tiếng động duy nhất là tiếng chuông gõ đều đều thanh thản.

Sơ Graciela quỳ xuống bên giường. Giêsu, cảm tạ Người đã đưa con thoát khỏi quá khứ. Cảm tạ Người đã ban cho con niềm sung sướng được ở đây trong ánh sáng của Người. Hãy cho con được sung sướng chỉ trong hạnh phúc bên Người, xin Người hãy giúp con được làm giảm nhẹ nỗi buồn trong trái tim đau khổ của Người.

Cô trở dậy, thu dọn giường cẩn thận, rồi nhập vào đoàn tu sĩ đang lướt nhẹ về phía nhà thờ để làm lễ Kinh Matins. Cô cảm nhận được mùi nến cháy khen khét quen thuộc và nhận biết được những viên đá đã mòn,vẹt dưới chân.

Ban đầu, khi mới vào tu viện, Graclela không hiểu được khi Mẹ Trưởng tu viện dạy rằng nữ tu là một phụ nữ dám từ bỏ tất cả để có được mọi thứ. Lúc đó Graciela mười bốn tuổi. Giờ đây, mười bảy năm đã trôi qua, cô đã hiểu rõ được lời dạy đó. Trong mơ ước, cô có tất cả, vì ước mơ là tư duy đáp lại linh hồn.

Thời gian của cô đầy ắp một sự yên tĩnh tuyệt vời.

Ơn Người cho con được quên, thưa Cha. Cảm tạ Người đã ở bên con. Thiếu Người con không thể đối mặt với quá khứ kinh khủng ... ơn Người ... ơn Người ...

Khi lễ Mathins kết thúc, các tu sĩ trở về phòng mình nghỉ chờ đến lễ Lauds lúc mặt trời mọc.

Bên ngoài, đại tá Ramon Acoca và quân lính yên lặng chuyển động trong bóng đêm. Khi tới sát tu viện, Acoca nói. "Jaime Miro và quân của hắn được trang bị nhiều vũ khí. Đừng chần chừ.".

Y nhìn tu viện từ phía trước. Trong khoảnh khắc, y thấy những người Basque chạy ào ra và Susana ngã xuống trong cơn mưa đạn.

Đừng bận tâm đến việc phải bắt sống Miro làm gì, Acoca ra lệnh.

Sơ Megan tỉnh giấc bởi sự yên lặng. Một sự yên lặng khác thường. Một sự yên lặng đang chuyển động, tiếng lao xao của không khí, tiếng thì thầm của con người. Có những tiếng động mà suốt mười lăm năm ở tu viện cô chưa từng nghe thấy. Linh cảm về một câu chuyện gì rất khủng khiếp ập đến bao phủ lấy cô.

Trong bóng đêm, cô nhẹ nhàng trở dậy mở cửa phòng mình. Không thể tin được, hành lang đầy ắp người. Một người khổng lồ có gương mặt sẹo từ trong phòng của Mẹ Bentina bước ra, lôi bà theo. Megan sửng sốt nhìn. Mình đang mơ một cơn ác mộng cô nghĩ, không thể có những người này ở đây được.

- Các người giấu nó ở đâu? - Đại tá Acoca gắt lên.

Vẻ khiếp sợ hiện lên trên mặt mẹ Bentina.

- Ôi! Đây là Thánh địa của Chúa. Các người đừng làm ô uế nó, - giọng bà run rẩy. - Các người hãy đi khỏi đây ngay.

Bàn tay như gọng kìm của viên đại tá siết chặt cánh tay bà, y lắc mạnh người bà:

- Tôi chỉ muốn có Miro, thưa sơ. .

Cơn ác mộng là có thực.

- Những cánh cửa phòng khác bắt đầu mở, các tu sĩ xuất hiện với vẻ mặt ngơ ngác. Họ chưa bao giờ được chuẩn bị cho một sự kiện không bình thường như vậy xảy đến.

- Acoca đẩy dúi mẹ nhất rồi quay sang .Patricio Arrieta, một trong số trợ thủ chủ chốt của y:

- Lục soát toàn bộ từ trên xuống dưới.

Quân lính của Acoca bắt đầu tản ra chiếm giữ toàn bộ nhà thờ, nhà ăn, các buồng ở, lôi dậy những tu sĩ vẫn còn đang ngủ và dồn họ qua hành lang nhà thờ.

Các tu sĩ tuân theo không, nói năng gì, trung thành với lời thề giữ im lặng, ngay cả trong hoàn cảnh này. Hình ảnh giống như trong cuốn phim bị tắt âm thanh, tiếng động.

Những người lính Acoca hừng hực khát vọng trả thù.

Họ đều là người Falang, và đều hằn sâu trong trí nhớ là giáo hội đã quay lưng lại họ như thế nào. Trong cuộc Nội chiến, giáo hội đã ủng hộ những người thuộc , phái trung thành chống lại lãnh tụ vĩ đại của họ - Tổng tư lệnh Franco.

Đây là cơ hội để họ trả thù cho người thân của mình. Sức mạnh và sự câm lặng của các nữ tu khiến cho họ giận dữ hơn bao giờ hết:

Khi Acoca đi qua một gian phòng, y nghe thấy có tiếng kêu vọng ra từ đó:

Nhìn vào, y thấy lính mình đang lột váy áo của một nữ tu. Y bỏ đi.

Sơ Lucia bị đánh thức bởi tiếng hò hét của đám lính bên ngoài. Cô hoảng sợ ngồi phắt dậy. Bọn cảnh sát đã phát hiện ra ta, ý nghĩ đầu tiên vụt đến trong đầu cô. Phải tìm cách biến khỏi đây. Không có đường nào khác đi ra khỏi tu viện ngoài cách đi qua cửa chính.

Cô vụt dậy, ghé mắt nhìn ra hành lang. Cái cảnh cô nhìn thấy thật đáng kinh ngạc. Hành lang đầy kín không chỉ cảnh sát mà còn cả những người mặc quần áo dân sự mang vũ khí. Mẹ Bentina đang đứng ở giữa đám lộn xộn, lặng lẽ cầu kinh, nhìn bọn lính làm ô uế tu viện thân yêu của bà. Sơ Megan bước đến bên bà. Lucia nhập vào đám tu sĩ.

- Có chuyện gì thế? Họ là ai? - Lucia hỏi. Đó là những lời đầu tiên cô nói ra mồm kể từ khi nhập tu viện.

Mẹ Bentina đặt bàn tay phải dưới nách trái ba lần, ý nói "trốn".

Lucia tròn mắt ngạc nhiên, nghĩ. Bây giờ Mẹ cho phép rồi. Ta phải tìm cách ra khỏi đây thôi, vì đức Kitô. Con muốn nói là vì Đức Kitô, thưa Mẹ Nhất.

- Chúng tôi đã lục soát mọi nơi, thưa đại tá. Không có một dấu vết nào của Jalme Miro hay bọn tay chân của hắn. - Patricio Arrieta chạy đến nói với Acoca.

- Soát lại? Acoca cương quyết.

Bà Nhất Bentina sực nhớ đến báu vật duy nhất trong tu viện. Bà vội vàng đến bên sơ Theresa, thì thầm:

- Ta có việc cho con. Hãy vào nhà ăn lấy cây thánh giá vàng và mang nó đến tu viện ở Mendavla. Con phải đưa nó ra khỏi đây ngay. Nhanh lên.

Sơ Theresa run bắn người tới mức chiếc khăn quàng cổ rung lên từng đợt. Bà ngước mắt nhìn Mẹ, hoang mang. Sơ đã sống trong tu viện này suốt ba chục năm.

Cái ý nghĩ rời khỏi nơi đây với bà là quá sức tưởng tượng. Bà đưa tay, làm dấu. "Con không thể".

Mẹ Nhất giận dữ:

- Không thể để cây thánh giá lọt vào tay bọn quỷ satăng này. Hãy làm điều ta bảo, vì Chúa Giêsu.

- Một tia sáng lóe lên trong mắt sơ Theresa. Bà đứng thẳng người ra dấu. "Vì Chúa Giêsu," rồi vội vàng đi về phía nhà ăn.

Sơ Theresa tiến đến chỗ các bà sơ đang tụ tập, hoang mang nhìn cảnh lộn xộn quanh mình. Bọn lính mỗi lúc một tàn bạo, chúng đập phá bất kể thứ gì trong tầm mắt. Acoca nhìn chúng tỏ vẻ hài lòng. Lucia quay sang Megan và Graciela:

- Tôi không biết rõ hai sơ, nhưng tôi đang tìm cách trốn khỏi đây. Các sơ cùng đi chứ?

Hai người cùng sửng sốt nhìn cô, không ai dám lên tiếng. Sơ Theresa vội vã tiến về phía ba người, mang theo một vật được bọc trong mảnh vải. Mấy người lính vẫn tiếp tục dồn các nữ tu vào phòng ăn.

- Đi thôi. - Lucia nói.

Sơ Theresa, Megan và Gralilela tỏ ý ngập ngừng giây lát, rồi theo Lucia đi về phía cửa lớn. Họ không còn nhận ra hành lang quen thuộc đã bị phá tan.

Một người lính bất ngờ xuất hiện trước mặt.

- Đi đâu vậy các quý bà. Quay lại! Các bạn tôi có ý dành cho các quý bà vài điều bất ngờ.

- Chúng tôi có một món quà cho ngài. - Lucia nói. Cô cúi xuống nhấc lên một cây đèn nến to bằng thép trong đống đổ nát, mỉm cười.

- Cô làm gì với cái này? - Tên lính bối rối nhìn cây đèn.

- Cái này. - Lucia giáng mạnh cây đèn vào đầu hắn.

Hắn đổ nhào xuống đất, bất tỉnh.

Ba nữ tu sĩ đờ người kinh hãi.

- Biến thôi. - Lucia nói.

Một lát sau Lucia, Megan, Graciela và Thẹresa đã tới sân trước của tu viện, nhanh chóng vượt qua cổng, rồi lẩn vào trời đêm sáng sao. - Tôi phải chia tay các bà thôi. Họ sẽ lùng bắt đấy, các bà nên trốn khỏi đây ngay. - Lucia ngừng bước. Cô quay lại nhìn nhận những ngọn núi hiện lên cao cao phía trên tu viện.

Ta sẽ trốn ở đó đến khi cuộc lục soát địu đi, rồi sẽ thẳng hướng Thụy sĩ mà tiến.

May ra thì có được may mắn đó. Cái bọn chó đẻ làm mất cả chỗ trốn tuyệt vời.

Khi Lucia trèo lên được một quãng, cô nhìn xuống. Từ vị trí thuận lợi, có thể thấy được ba nữ tu sĩ. Không tin được. Cả ba vẫn đứng chôn chân ở trước cổng tu viện như ba pho tượng mặc đồ đen.

Trời ơi! Cô nghĩ. Biến đi chứ, đứng đấy để chúng tóm à. Nhúc nhích đi. Họ không thể cất chân lên được. Cứ như là tất cả những cảm giác trong họ đã tê liệt từ lâu, nên họ không thể cảm nhận được điều đang hoặc sắp xảy đến. Ba bà sơ cắm mắt nhìn xuống chân mình. Họ quá kinh hãi nên không nghĩ ra được gì. Họ đã giam mình quá lâu đằng sau cửa Chúa, tách biệt với thế giới. Lúc này đây,bên ngoài những bức tường che chở, nỗi hoang mang sợ hãi bao trùm lên họ. Họ không hề có ý nghĩ đi đâu hoặc làm gì. Bên trong những bức tường kia cuộc sống của họ đã được sắp sẵn. Họ đã sống bằng nguyên tắc. Đột nhiên giờ chẳng có nguyên tắc nào cả. Chúa muốn gì ở họ? Ý định của Người là gì vậy?

Họ đứng nép vào nhau, không dám nói, cả không dám nhìn nhau. Sơ Theresa ngập ngừng chỉ về hướng quầng sáng của thị trấn Avila xa xa:

- Về phía đó.

Rồi ba người loạng choạng tiến tới. Quan sát họ từ trên cao, Lucia nghĩ, Ôi, cái bọn ngu ngốc! Đấy là chỗ đầu tiên bọn chúng sẽ tìm. Thôi kệ, dù sao cũng là việc của các người. Ta có việc của ta. Cô đứng đó, tần ngần nhìn theo họ tiến gần đến cái chết đang rình rập. Một lũ ngốc.

Lucia đi ngược xuống chân đồi, làm những hòn đá lổng chổng lăn xuống, rồi bắt đầu chạy theo họ. Chiếc áo nhà tu nặng nề như níu chân cô lại.

- Đợi một tý. - Cô gọi to. - Đứng lại đã. Ba bà sơ dừng chân và quay lại.

Lucia vội chạy đến bên họ, vừa nói vừa thở:

- Các bà đi sai đường rồi. Nơi đầu tiên bọn chúng tìm các bà là trong thị trấn.

Phải trốn chỗ khác.

Cả ba bà ngơ ngác nhìn Lucia.

- Lên núi. Trên kia kìa. Mấy bà ngố. Thôi, đi theo tôi- Lucia nóng nảy nói.

Cô quay người và hướng thẳng lên núi, mấy bà tu nhìn theo do dự rồi lần lượt, từng người một, bước thấp bước cao đi theo. Vừa đi, Lucia chốc chốc lại ngoái về phía sau nhìn họ. Sao mình lại không thể để mặc họ được nhỉ. Cô nghĩ. Mình có trách nhiệm gì với họ đâu. Đi cả lũ thế này hết sức nguy hiểm. Cô cắm cúi trèo, bụng nghĩ họ vẫn bám theo sau.

Ba bà sơ đi theo hết sức khó nhọc. Mỗi khi họ tụt lại, Lucia đều dừng bước đợi họ theo kịp cô.

Đến sáng, mình sẽ bỏ họ lại.

- Nhanh lên nào, - Lucia gọi.

Tại tu viện, cuộc tấn công đã kết thúc. Những nữ tu bàng hoàng trong những bộ đồ tu sĩ rách mướp và dính máu đang được dồn vào những thùng xe tải đóng kín, không biển số.

- Đưa chúng về sở chỉ huy của tôi ở Madrid. - Acoca ra lệnh. - Tách riêng từng đứa ra.

- Thưa, ghi tội danh là ...

- Che giấu bọn khủng bố.

Rõ, thưa đại tá. - Patricio Arrita nói. Gã ta ấp úng. Thưa đại tá, có bốn đứa hiện không rõ trốn đâu.

Tìm ngay. - Cặp mắt Acoca lạnh lùng.

Đại tá Acoca đáp máy bay về Madrid trình diện thủ tướng.

- Jaime Miro đã tẩu thoát trước khi chúng tôi đến tu viện.

- Tôi cũng đã nghe. Thủ tướng Martinez gật đầu. Ông tự hỏi, liệu Jaime Miro đã bao giờ xuất hiện ở tu viện chưa mà lại bắt đầu từ đó. Chẳng gì nghi ngờ nữa.

Đại tá Acoca ngày càng trở nên nguy hiểm, khó mà kiểm soát được hắn nữa. Đã có những phản ứng gay gắt về cuộc tấn công táo tợn vào tu viện. Thủ tướng thận trọng chọn từ:

- Báo chí đang săn lùng tôi về chuyện xảy ra ở tu viện - Báo chí đang biến tên khủng bố này thành một anh hùng. - Acoca nói, mặt lạnh như đá. - Ta không thể để họ gây áp lực.

- Thằng cha ấy gây cho chính phủ bao điều khó xử, ông đại tá, chưa kể bốn nữ tu sĩ. Nếu họ nói ...

Khỏi phải lo. Chúng chưa thể đi xa được. Tôi sẽ tóm được chúng và tôi sẽ tóm được Miro.

Thủ tướng quyết định không thể chờ đợi lâu hơn:

- Ông đại tá, tôi muốn ông đảm bảo rằng ba mươi sáu nữ tu ông đang giữ phải được đối xử tất, và tôi sẽ ra lệnh cho quân đội cùng tham gia tìm kiếm Miro và đồng bọn. Ông sẽ hợp tác với đại tá Sostelo.

Một thoáng yên lặng rợn người xuất hiện trong một lúc Cặp mắt Acoca lạnh băng.

- Ai trong chúng tôi sẽ chỉ huy hoạt động này?

Thủ tướng Martinez nuốt giận:

- Tất nhiên là ông rồi.

Lucia và ba bà sơ đi suốt đêm cho tới bình minh, cứ theo hướng Đông Bắc mà leo núi, mỗi lúc một xa Avila và tu viện. Các bà sơ, do thường xuyên đi lại trong im lặng nên gây rất ít tiếng động. Âm thanh duy nhất lúc này là tiếng loạt xoạt của những chiếc áo nặng nề, tiếng lách cách phát ra từ những tràng hạt, và tiếng thở gấp gáp khi họ cố sức trèo mỗi lúc một cao hơn.

Tới vùng cao nguyên Guadarrama, họ đi dọc theo một con đường gồ ghề rồi băng qua những cánh đồng đầy cừu và dê. Tảng. sáng, họ đã vượt qua vài dặm đường để tới khu rừng bên làng nhỏ Villacastin.

Phải bỏ họ ở đây thôi. Lucia quyết định. Chúa của họ sẽ che chở cho họ.

Chúa chắc hẳn cũng đủ che chở cho ta.Cô cay đắng nghĩ. Thụy Sĩ xa vời vợi. Ta không có tiền, không có hộ chiếu, lại ăn mặc như người nhà mồ. Bây giờ thì chắc chúng đã phát hiện ra có người trốn. Chúng sẽ lùng cho bằng ra. Ta phải thoát khỏi đám này càng sớm càng tốt.

Vào đúng lúc ấy, một điều đã khiến cô thay đổi ý định ...

Sơ Theresa đang đi trong rừng, bà vấp vào một rễ cây chồi lên. Cái hộp mà bà cẩn thận che chở suốt đoạn đường bị rơi xuống. Một vật bên trong văng ra khỏi cái khăn bọc ngoài. Lucia dán mắt nhìn cây thánh giá bằng vàng được chạm trổ cầu kỳ đang ánh lên rực rỡ dưới những tia sáng ban mai.

Vàng ròng à? Lucia nghĩ. Có kẻ nào trên kia đang giữ hộ cho ta. Cây thánh giá đó là của trời cho. Đó là chiếc vé đưa ta đến Thụy Sĩ.

Lucia theo dõi sơ Theresa nhặt cây thánh giá lên và nâng niu, gói nó vào mảnh vải bọc. Cô mỉm cười với mình. Lấy cây thánh giá đó dễ thôi, mấy bà sơ này sẽ răm rắp làm mọi thứ mình yêu cầu.

Thị trấn Avila trở nên náo động. Tin tức về cuộc tấn công vào tu Viện lan đi rất nhanh, và cha Berrendo đã được cử ra để chọi với đại tá Acoca.

Ông linh mục này đã vào tuổi bảy mươi, dáng vẻ nhu mì bên ngoài ẩn giấu một sự mạnh mẽ bên trong. Ông là một người cha hiền từ và hiểu biết để chăm sóc đàn con chiên của mình. Nhưng vào lúc này, trong lòng ông tràn đầy cơn giận dữ lạnh lùng. Đại tá Acoca để ông phải chờ đợi đến một tiếng đồng hồ rồi mới cho phép được ra mắt trong phòng y. Cha Berrendo nói ngay, không cần rào đón.

- Chính ông và lính của ông đã tấn công một tu viện mà chẳng cớ lý do gì cả.

Đó là một hành động điên rồ. Chúng tôi chỉ đơn giản làm bổn phận của mình.- Acoca dằn giọng. - Tu viện đó đã che giấu cho Jaime Miro và đồng bọn giết người của hắn. Tự các bà sơ chuốc họa vào thân đó thôi. Chúng tôi đang giữ họ để điều tra.

- Thế ông đã tìm được Jaime Miro ở trong tu viện chứ? - Ông linh mục giận dữ hỏi lại.

Đại tá Acoca nói trơn tuột:

- Không, thật tiếc hắn và đồng bọn đã tẩu thoát trước khi chúng tôi kịp đến ...

Nhưng tôi sẽ tìm ra lũ chúng nó và công lý sẽ được sáng tỏ Tất nhiên là công lý của ta. - Acoca nở nụ cười nham hiểm.

Cát Bụi Thời Gian

Chương 4

Bốn bà sơ bước chầm chậm, trang phục cả bốn tuy, nghèo nàn song lại trở nên "rắc rối" đối với một địa thế gồ ghề và phức tạp. Dép của họ quá mỏng manh, không chống đỡ nổi mặt đất đầy đá lởm chởm. Áo choàng của họ vướng víu vào mọi thứ. Sơ Theresa thậm chí còn không đọc được kinh. Hai tay sơ luôn bận bịu gạt những cành cây nhọn để chúng khỏi cào vào mắt.

Trong ánh sáng ban ngày, sự tự do càng trở nên kinh khủng hơn. Chúa Trời đã lôi họ ra khỏi cõi cực lạc để rồi quẳng vào một thế giới hoàn toàn xa lạ, và sự dẫn dắt của Người mà họ tự nguyện nhắm mắt theo lâu nay cũng đã bị rời bỏ.

Họ thấy mình như rơi vào một vùng đất chưa in dấu chân người, chẳng bản đồ, cũng chẳng la bàn. Những bức tường bấy lâu từng bảo vệ họ khỏi mọi hiểm họa bỗng dưng biến mất, và họ chợt thấy mình trần trụi, nhỏ nhoi. Sự nguy hiểm rình rập khắp nơi mọi chốn mà họ thì chẳng có đến một hang hốc giấu thân.

Cảnh vật và những âm thanh nơi đây thật đáng nghi ngờ. Côn trùng, chim chóc và cả những mảng trời xanh dồn dập ùa vào các giác quan họ. Còn một cái gì khác nữa rất đáng sợ mà họ chưa gọi được tên.

Khi mới rời tu viện, cả ba sơ Theresa, Graciela và Megan đều cố tránh nhìn mặt nhau, theo bản năng giữ gìn kỷ luật. Giờ đây người nào cũng hết sức hào hứng khi được quan sát lẫn nhau. Lại nữa, sau bao năm sống trong im lặng, họ bỗng thấy nói ra lời thật khó khăn. Khi cất giọng, tiếng họ nghèn nghẹn, như đang học một kỹ năng mới lạ. Và bên tai họ thì cứ vang lên cái giọng nói lạ lùng, không hiểu của người ở bên hay của chính mình. Chỉ Lucia là tỏ ra thoải mái, tự tin. Ba người kia tự nhiên đều hướng về Lucia tìm một sự dẫn dắt, như bao năm qua đã hướng về Chúa.

- Chúng ta cũng phải tự giới thiệu nhỉ. - Lucia nói. - Tôi là sơ Lucia.

Lúng túng một lúc, rồi Graciela dụt dè:- Tôi là sơ Graciela. Một cô gái mắt đen và có vẻ mặt thật hấp dẫn.

- Tôi là sơ Megan. Cô gái tóc vàng có cặp mắt xanh nổi bật.

Tôi là sơ Theresa. Người già nhất nhóm. Năm mươi hay sáu mươi Khi cả bọn đang nằm nghỉ ở vạt rừng ngoài làng, Lucia nghĩ. Họ cứ như những con chim mới nở bị rơi khỏi tổ. Nếu chỉ có một mình chắc họ sẽ chẳng tồn tại được dăm phút. Thật tội nghiệp. Thây kệ, ta sẽ lên đường sang Thụy sĩ với cây thánh giá.

- Lucia đi tới bìa rừng, rẽ cây nhìn về phía khu làng nhỏ phía dưới. Vài người đang đi lại trên đường. Không có dấu hiệu nào của những kẻ đã tấn công vào tu viện.

Nào, Lucia nghĩ bụng, cơ hội đến rồi. Cô quay lại phía ba người. - Có lẽ tôi vào làng kiếm chút đồ ăn. Các sơ đợi ở đây cô gật đầu ra hiệu cho sơ Theresa. - Sơ đi với tôi.

Sơ Theresa hết sức bối rối. Suốt ba chục năm nay bà chỉ tuân theo những lời chỉ bảo của Mẹ Bentina. Giờ đây bỗng dưng bà sơ trẻ này nhảy vào vị trí đó.

Nhưng điều gì sẽ diễn ra thì đó là ý nguyện của Chúa. Sơ nghĩ Người cử cô ta tới đây để giúp chúng ta, và cô ấy đang nói lời của Người.

Tôi phải đem cây thánh giá này tới tu viện Mendavia càng sớm càng tốt.

- Phải lắm, xuống đó ta sẽ hỏi đường đi.

Hai người ra khỏi rừng.

Có vẻ thuận lợi đây, Lucia nghĩ thầm. Họ đi tới ven thị trấn nhỏ. Một tấm biển đề Villacastin. Phía trước họ là phố chính của thị trấn. Bên trái là con phố nhỏ vắng lặng. Tốt, Lucia thầm nghĩ. Sẽ chẳng ai chứng kiến được điều sắp xảy ra.

Lucia quay sang phố nhỏ:

- Đi đường này thôi, ít có khả năng bị phát hiện. Sơ Theresa gật đầu, ngoan ngoãn đi theo. Vấn đề bây giờ là làm sao lấy được cây thánh giá khỏi tay sơ Theresa.

- Mình sẽ giật lấy, rồi chạy, Lucia nghĩ, nhưng mụ có thể sẽ kêu lên và sẽ khiến mọi người chú ý. Không được. Phải đảm bảo chắc chắn là mụ yên lặng.

Một cành cây rơi xuống từ lúc nào hiện ra trước mặt, Lucia dừng lại, cúi nhặt lên. Cành cây khá nặng. Tuyệt vời. Rồi đợi cho sơ Theresa tới kịp mình. Sơ Theresa ...

Bà quay nhìn Lucia. Đúng lúc cô bắt đầu nâng cành cây lên thì một giọng đàn ông không hiểu từ đâu vang tới.

- Chúa ở bên các bạn.

Lucia giật mình nhìn quanh, cất chân định chạy. Một người đàn ông đứng đó trong chiếc áo choàng màu nâu và chiếc mũ trên đầu của kẻ tu hành. Ông có dáng người cao, gầy, khuôn mặt chim ưng với một ấn tượng thánh thiện nhất mà Lucia lần đầu được thấy. Cặp mắt ông ta lan tỏa một cảm giác nồng nàn và giọng nói thì thật nhẹ nhàng, ấm áp.

- Tôi là tu sĩ Miguel Carrilo.

Lucia bừng tỉnh. Kế hoạch của cô bị cản trở. Nhưng đột nhiên lại có một kế hoạch khác hay hơn. Ơn Chúa, người đã đến với chúng tôi. - Lucia nói. Người này sẽ giải thoát cho cô. Ông ta có thể biết được con đường ngắn nhất và an toàn nhất đưa cô ra khỏi Tây Ban Nha. - Chúng tôi từ tu viện dòng Cistercian gần Avila tới đây. - Cô giải thích. - Đêm hôm qua tu viện bị một số kẻ lạ mặt tấn công. Tất cả các nữ tu sĩ đều bị bắt giữ. Bốn người chúng tôi khó khăn lắm mới trốn được.

- Ông tu sĩ đáp lời, giọng tràn đầy căm giận:

- Tôi tới đây từ tu viện ở San Generro, nơi tôi đã cầu nguyện suốt hai mươi năm qua. Chúng tôi bị kẻ lạ mặt tấn công đêm hôm kia, - ông ta thở dài. - Tôi biết rằng Chúa đã có sẵn kế hoạch cho những đứa con của Người, nhưng tôi phải thú thật là chính tôi lúc này cũng không hiểu được dự tính của Người.

- Những người đó đang truy lùng chúng ta. - Lucia nói. - Điều quan trọng là chúng ta phải ra khỏi Tây Ban Nha càng sớm càng tốt. Ông có cách nào không?

Tu sĩ Carrillo cười khẽ:

- Tôi nghĩ mình có thể giúp được các sơ. Chúa đã cho chúng ta gặp nhau. Xin hãy đưa tôi tới chỗ những người còn lại.

Vài phút sau, Lucia đã đưa vị tu sĩ tới bìa rừng.

- Đây là tu sĩ Carrillo, - cô nói - đã sống trong tu viện suốt hai mươ năm qua.

Ông ấy đến để giúp đỡ chúng ta.

Phản ứng của mỗi người đối với ông tu sĩ mỗi khác. Graciela không dám nhìn thẳng vào mặt; Megan thì dò xét với những cái liếc nhanh, thích thú còn Theresa thì coi ông như một vị sứ giả được Chúa phái đến để dẫn dắt bà tới tu viện ở Mendavia.

Tu sĩ Carrillo nói:

- Không nghi ngờ gì, bọn người đã tấn công vào tu viện đang truy tìm các bạn. Để đánh lạc hướng chúng, việc đầu tiên là các bạn phải thay đổi trang phục.

- Chúng tôi chẳng có bộ nào để thay cả. - Megan nói.

- Tu sĩ Carril1o mỉm cười sung sướng:

- Đức Chúa trời có một tủ quần áo vĩ đại, Người sẽ cho chúng ta. Hãy theo tôi quay vào thị trấn.

Quãng hai giờ, là giờ ai nấy nghỉ trưa, tu sĩ Carril1o cùng bốn bà sơ vừa đi vào phố chính của thị trấn vừa kín đáo quan sát xem có bị ai theo dõi không.

Các cửa hiệu đều đóng cửa nhưng quán ăn và tiệm giải khát vẫn mở, từ bên trong vang ra những điệu nhạc hỗn độn, lạ tai.

Tu sĩ Carrillo quan sát vẻ mặt của sơ Theresa rồi nói:

- Đó là loại nhạc Rock, rất phổ biến với bọn trẻ thời nay. Hai phụ nữ trẻ đứng trước một quầy rượu nhìn đám tu sĩ đi qua. Các nữ tu cũng tròn xoe mắt nhìn quần áo của họ. Một người mặc chiếc váy ngắn không che nổi cặp đùi, kẻ kia váy dài hơn nhưng lại xẻ toang hoác ở vế Cả hai đều mặc áo lót không tay bó sát người.

Mặc thế thì cũng như không, sơ Theresa hoang mang nghĩ. Đứng ở lối vào là một người đàn ông mặc chiếc áo bó chặt không có cổ, trông thật lạ mắt. Một sợi dây gắn đá óng ánh lủng lẳng trước ngực. Những hương vị lạ lùng chào đón khi họ đi qua. Mùi nicotin và mùi whisky.

Megan dán mắt nhìn theo cái gì đó đang đi ngang qua đường. Cô dừng lại.

- Gì thế Có chuyện gì vậy? - Cô nhìn Carrillo, hỏi. Megan nhìn theo người phụ nữ đang bế một đứa bé. Bao nhiêu năm đã trôi qua, kể từ lần cuối cô được nhìn một đứa bé, hay là một đứa trẻ con? Lần cuối cùng khi cô còn ở trại mồ côi, mười bốn năm về trước. Hình ảnh bất ngờ làm cho Megan chợt nhận thấy cuộc sống của cô đã xa vời với cuộc sống bên ngoài biết bao nhiêu.

Sơ Theresa cũng nhìn theo đứa bé, nhưng bà lại nghĩ về một điều khác. Nó là con của Monique. Đứa bé bỗng dưng khóc toáng lên. Nó khóc vì mình bỏ nó.

Nhưng không thể thế được. Ba chục năm qua rồi cơ mà. Theresa vội quay mặt nhưng tiếng khóc của đứa bé vẫn vang bên tai bà. Họ tiếp tục đi. Qua một rạp xinê. Tấm phông quảng cáo đề Ba người tình. Mấy bức ảnh phô diễn những người phụ nữ hở hang đang ôm ghì lấy người đàn ông để trần bộ ngực. Sao mà họ .... họ gần như trần truồng thế - Sơ Theresa kêu lên.

Ông tu sĩ Carrillo chau mày:

Phải, thật đáng hổ thẹn với những cái mà các rạp chiếu bóng đưa lên màn ảnh. Một cảnh khiêu dâm thuần túy. Những hành động riêng tư nhất, kín đáo nhất cũng đem bày ra cho mọi người cùng xem. Chúng biến những đứa con của Chúa thành súc vật.

Họ đi qua một cửa hàng bán đồ kim khí, hiệu làm đầu, cửa hàng bán hoa, bán kẹo, tất cả đều đóng cửa. Cứ tới mỗi cửa hiệu, các tu sĩ lại dừng chân ngắm nghía những món hàng bày trong tủ kính, bồi hồi với những hình ảnh mờ ảo một thời nào đó.

Tới một hiệu trang phục phụ nữ, tu sĩ Carrillo ra dấu:

Dừng lại.

- Mấy tấm màn đã kéo xuống che kín mặt trước cửa hiệu, trên đó treo tấm biển đóng cửa.

- Hãy đợi tôi ở đây.

Bốn người phụ nữ nhìn theo ông ta bước đi, rồi biến mất sau góc phố. Họ lúng túng nhìn nhau. Ông ta đi đâu thế nhỉ, nếu không quay lại thì sao?

Vài phút sau, họ nghe thấy tiếng cửa trước mở ra, và tu sĩ Carrillo xuất hiện ở lối vào, tươi cười.

- Nhanh lên. - Ông ra hiệu cho họ.

Khi họ đã vào bên trong và tu sĩ khóa cửa lại, Lucia hỏi:

- Làm sao ông ...

- Chúa tạo ra cửa sau cũng như Người đã tạo ra cửa trước. - Ông tu sĩ nói bằng giọng trang nghiêm song vẻ tinh quái trong câu nói khiến Megan bật cười.

Mấy bà sơ nhìn quanh, lo lắng. Đây là một kho lớn toàn váy áo, giày dép, tất nịt ...đủ loại, đủ màu. Toàn những thứ từ nhiều năm họ không được thấy. Các kiểu cách trông đến lạ. Lại có cả túi xách, ví tay, phấn son ... quá nhiều thứ, không biết phải để mắt vào thứ nào.

Đám đàn bà đứng đó, há hốc mồm. - Chúng ta phải nhanh lên. - Carril1o đe.

" Cần rời khỏi trước khi hết giở nghỉ trưa, cửa hàng mở lại. Thôi, nhanh tay lên.

Chọn lấy bất cứ thứ nào mình mặc vừa.

Lucia nghĩ bụng. Nhờ trời, cuối cùng mình lại được ăn mặc đúng như một người phụ nữ. Cô bước tới một giá treo quần áo và bắt đầu lựa chọn kỹ càng, cuối cùng lấy ra chiếc váy màu ve và chiếc áo khoác lụa cùng bộ. Không phải loại Belenciaga, nhưng lúc này thì cũng được. Cô chọn thêm vài chiếc quần áo lót đôi giày mềm, rồi bước vào ngăn thay đồ và chỉ sau vài phút đã sẵn sàng lên đường.

Những người khác vẫn còn đang loay hoay với bộ đồ mặc ngoài. Graciela chọn chiếc váy vải hoa trắng, làm nổi bật mớ tóc đen và nước da sẫm của cô, rồi một đôi dép.

Megan lựa chiếc váy hoa màu xanh bày mẫu, chiếc váy dài quá đầu gối, và đôi giày đế thấp.

Sơ Theresa lúng túng không biết chọn gì. Những vải vóc và màu sắc làm bà hoa mắt. Nào đồ lụa, đồ flanen, đồ tuýt đồ da ...Nào hàng vải bông, vải chéo, vải nhung. Rồi kẻ ngang, kẻ dọc, carô ...Và đủ các màu. Và mọi thứ đều như ... hở hang. Hở hang, đó là từ bật ra trong đầu Theresa. Suốt ba mươi năm qua, bà được che phủ kín đáo với bộ đồ tu sĩ nặng nề, giờ đây bà phải cởi bỏ chúng và khoác lên người những vật nhẹ bẫng và thiếu đứng đắn này. Cuối cùng bà cũng tìm được chiếc váy dài nhất và chiếc áo khoác vải dày, cổ cao, và dài tay.

Nhanh lên, các bạn. Cởi bỏ hết đồ cũ ra và thay cái mới vào đi. - Tu sĩ Carrillo giục.

Họ nhìn nhau bối rối. - À, phải, tôi sẽ đợi ở phòng ngoài. - Ông ta cười.

Ông ta đi về phía sau cửa hiệu, rồi vào phòng giao dịch. Ba bà sơ bắt đầu cởi bỏ quần áo, đứng trước nhau e thẹn.

Ở phòng bên, tu sĩ Carrillo vội vàng kê một chiếc ghế dài phía dưới ô cửa sổ nhìn sang gian hàng và qua đó, dán mắt theo dõi các bà sơ thay đồ. Hắn tính toán:

Ta thịt đứa nào trước bây giờ Miguel Carrillo bắt đầu sự nghiệp từ năm lên mười, với nghề ăn trộm. Sinh ra, hắn đã có khuôn mặt đẹp, như thiên thần và mớ tóc xoăn hoe vàng, những thứ đã tỏ rõ giá trị không thể lường hết được trong nghề hắn chọn. Hắn bắt đầu từ hành vi lưu manh thấp hèn nhất:

"giật ví nẵng đồ trong các cửa hiệu. Hắn lớn lên,"nghiệp vụ cũng phát triển theo. Rồi hắn sinh nát rượu và bắt đầu săn những phụ nữ giàu có. Nhờ dáng vẻ bên ngoài tuyệt vời, hắn đã rất thành công. Hắn tiến hành một số vụ lừa đảo độc đáo, cứ vụ sau lại tài tình hơn vụ trước. Thật không may, vụ lừa đảo mới đây nhất đã lại chẳng chịu theo ý muốn của hắn.

Làm ra vẻ nhà tu hành từ một tu viện xa xôi, Carrillo đi từ nhà thờ này tới nhà thờ khác xin trú qua đêm. Hắn luôn được đón tiếp niềm nở, nhưng buổi sáng hôm sau, khi các vị cha cố mở cửa nhà thờ, thì thấy những đồ có giá trị của Chúa cùng vị khách tu hành "cơ nhỡ" đã không cánh mà bay. Cũng thật vô phúc, số phận đâm ra lừa đảo lại hắn. Hai đêm trước, tại Bejor, vị linh mục trưởng tự dưng khó ngủ lại đi thơ thẩn trong đêm và Carrillo đã bị bắt quả tang khi đang "lau chùi" đồ quý của nhà thờ. Tu viện trưởng vốn to khỏe nên dễ dàng vật ngã Carrillo và tuyên bố nộp hắn cho cảnh sát. Một cái cốc bằng bạc lớn bỗng rơi ra. Carrillo nhặt lên và nện thẳng vào đầu kẻ dám mang cảnh sát ra dọa mình. Hoặc là cái cốc bạc quá nặng, hoặc giả xương sọ ông linh mục quá mỏng, nhưng dù thế nào chăng nữa thì ông cũng đã nằm lăn ra và:..như ngủ thiếp đi. Carrillo chạy trốn, cố gắng càng xa càng tốt. Hắn chạy qua Avila, nghe được vụ tấn công của đại tá Acoca và tổ chức GOE bí mật vào tu viện. Cũng là.

số phận đã cho Carril1o gặp bốn vị nữ tu đang bỏ trốn này.

Giờ đây, say sưa với những toan tính, hắn vuốt ve cặp mắt trên những tấm thân trần của họ, nghĩ bụng:

Còn một lý thú nữa. Vì đại tá Acoca đang truy lùng bọn này nên chắc chắn sẽ có một khoản tiền thưởng béo bở dành cho ai bắt được chúng. Trước hết, ta ấp chúng đã, rồi sau sẽ đem chúng nộp cho Acoca.

Ba bà sơ vẫn đang hoàn toàn trần trụi. Carrillo chăm chú theo dõi họ lóng ngóng mặc quần áo lót. Rồi họ cũng mặc xong, ngượng ngập cài những chiếc cúc không quen thuộc, kéo những sợi dây khóa xa lạ, cố gắng nhanh nhất có thể. Đến lúc hành sự rồi, Carrillo hân hoan nghĩ. Hắn tụt xuống, đi sang gian hàng, tiến tới quan sát họ với vẻ hài lòng, nói:

Tuyệt vời. Không ai trên đời này còn ngờ được các bạn là tu sĩ. Tôi xin khuyên thêm là các bạn nên quàng khăn. - Hắn chọn cho mỗi người một chiếc, rồi theo dõi họ quàng lên đầu. Migllel Carril1o quyết định Graciela sẽ là người đầu tiên. Không nghi ngờ gì, cô là một trong những người đàn bà đẹp nhất mà hắn đã gặp. Và cái thân hình kia? Làm sao mà con bé lại phung phí nó cho Chúa thế nhỉ Ta sẽ chỉ cho con bé biết phải làm gì với nó.

Hắn quay sang Lucia, Theresa và Megan:

Chắc các bạn phải đói lắm. Tôi muốn các bạn tới tiệm cà phê ta vừa đi qua và đợi chúng tôi ở đó. Tôi sẽ tới nhà thờ mượn một ít tiền của linh mục để trả tiền ăn. - Hắn quay sang Graciela.

- Tôi muốn sơ đi cùng để giải thích cho linh mục biết chuyện xảy rạ ở tu viện.

Tôi ...xin vâng.

Carrillo nói với ba người còn lại. - Chúng tôi sẽ tới chậm một lát. Bây giờ xin các bạn hãy dùng cửa sau.

Hắn nhìn theo Lucia, Theresa và Megan đi khuất. Khi nghe thấy tiếng cánh cửa đóng lại sau lưng họ, hắn quay sang Graciela. Con bé thật tuyệt vời, hắn nghĩ, có lẽ phải giữ nó lại với ta, và sẽ dùng nó vào một vài vụ. Nó có thể giúp ta nhiều đây. Tôi xong rồi. - Graciela nhìn hắn.

- Chưa được. - Carrillo ra vẻ quan sát cô một lát. - Không được:

Tôi sợ cách ăn mặc này không hợp với cô. Cởi ra đi.

- Nhưng ... sao lại thế - Bộ này không vừa lắm. - Carril1o liến thoắng. - Người ta sẽ để ý, mà cô thì không muốn làm họ chú ý, đúng không?

Graciela ngập ngừng đi về phía sau gian hàng. - Nhanh lên nào. Chúng ta có rất ít thời gian. Graciela lóng ngóng kéo chiếc váy qua đầu. Đang lúng túng với bộ đồ lót thì Carrll1o đột ngột xuất hiện.

- Cởi tất cả ra. - Giọng hắn khàn khàn. Graciela tròn mắt nhìn hắn. - Cái gì thế" Không? - Cô kêu lên. - Tôi ... tôi không thể. Xin ông ...

Để tôi giúp sơ - Carrillo tiến sát bên cô. Tay hắn vươn ra giật tung chiếc xu chiêng và xé rách toang chiếc quần lót.

Không, - cô hét lên. - Ông không được làm thế dừng lại ngay.

- Graciela, chúng ta vừa mới chỉ bắt đầu, em sẽ thấy yêu nó ngay thôi.

Đôi tay khỏe của hắn ôm vòng lấy cô. Hắn đè cô xuống sàn và nhanh chóng cởi quần áo của mình. Tấm màn che trí nhớ Graciela đột nhiên rơi xuống. Chính là tên Marôc da đen đang cố sức ấn vào trong cô, xé ruột gan cô, và cái giọng the thé của mẹ cô đang gầm lên. Graciela hãi hùng. Không, không thể như thế nữa.Không. Không được. Cô nghiến răng đạp Carrillo ra và vùng dậy. Đồ chết tiệt. Hắn kêu lên, vung tay đấm vào mặt cô. Graciela ngã ra, quay cuồng, choáng váng. Cô thấy mình đang trở về với thời gian.

Ngày đó ... Ngày đó ...

***

LAS NAVAS DEL MARQUES, TÂY BAN NHA, 1955

Graciela tròn năm tuổi, những hình ảnh đầu tiên , đọng lại trong ký ức của cô là một dòng người lạ trần truồng trèo lên, trèo xuống giường của mẹ. Mẹ cô giảng giải:

Đấy là các bác của con. Con phải tỏ ra kính trọng các bác ấy. Những ông bác phì nộn, tục tằn và không chút tình cảm. Họ ở lại một đêm, một tuần, một tháng, rồi biến mất. Khi họ đi khỏi, Dolores Pinero lập tức tìm được một người mới.

Thời trẻ, Dolores Pinero có một vẻ đẹp khác thường và Graciela đã thừa hưởng được những nhan sắc cũng như thân hình của mẹ.

Nhìn Graciela hồi nhỏ cũng đã thấy choáng váng. Đôi gò má cao, nước da màu ôliu, mớ tóc đen óng ánh và đôi mày rậm dài. Cơ thể trẻ trung của cô tràn đầy hứa hẹn.

Năm tháng trôi qua, thân hình Dolores Pinero trở nên béo phì và khuôn mặt thanh tú tuyệt hảo đã trở nên thâm tím lại bởi những cú đấm của thời gian. Mặc dù không còn đẹp nhưng bà vẫn dễ gần và lại nổi tiếng là một người bạn giường sôi nổi. Bà sống cuộc sống đạm bạc của một thợ may, sống bất cần đời, và chỉ được những phụ nữ nghèo khó hoặc bần tiện trong làng thuê mướn. Dolores Pinero căm ghét con mình bởi lẽ cô bé luôn gợi lại cho bà về một người đàn ông bà đã yêu. Cha của Graciela, một thợ cơ khí đẹp trai đã xin được cưới cô gái.

xinh xắn Dolores, nhưng khi cô gái báo tin về cái bầu thì anh ta biến mất, bỏ mặc cô với cái mầm đáng nguyền rủa. Dolores tính tình cay độc, và cô,đã dồn sự trả thù lên đầu đứa trẻ. Bất cứ khi nào con gái làm điều gì không phải bà lại đánh đập nó và hét toáng:

"Mày cũng ngu như thằng bố mày!".

Cô bé không biết làm cách nào để tránh được những cơn mưa đòn, hoặc những lời chửi mắng mỗi ngày một nhiều hơn, đau hơn độc địa hơn. Cứ mỗi buổi sáng Graciela lại thức dậy và cầu nguyện:

Chúa ơi, xin Người đừng để mẹ đánh con hôm nay. Chúa ơi, xin Người làm cho mẹ được hạnh phúc hôm nay.

Chúa ơi, xin Người hãy làm cho mẹ nói là mẹ yêu con hôm nay. Khi không đánh đập Graciela, mẹ cũng tránh mặt cô. Graciela tự sửa soạn các bữa ăn và tự giặt giũ. Cô bé làm lấy bữa trưa để mang tới trường và nói với cô giáo:

- Hôm nay, mẹ làm cho em món empanađas. Mẹ biết em thích món này lắm mà. Hay:

Em xé rách quần áo, nhưng mẹ khâu lại cho em. Mẹ thích làm mọi thứ cho em.

Hoặc:

- Hai mẹ con em sẽ đi xem phim vào ngày mai. Và điều đó làm cô giáo đau đớn.

Las Navas del Marques là một làng nhỏ cách Avila một giờ đường và cũng như mọi xóm làng khác, mọi người ở đây đều biết chuyện riêng của nhau. Lối sống của Dolores Pinero bị mọi người ghét bỏ lại được thể hiện ra qua cách cư xử với Graciela. Các bà mẹ không dám cho con mình chơi với cô bé, sợ rằng đạo đức của con mình sẽ bị vấy bẩn. Graclela cũng được đi học ở trường, tại Plazoletadel Cristo, nhưng cô không có bạn bè cùng lớp và cả cùng trường. Cô là một trong số học trò thông minh nhất, nhưng đạo đức thì xấu. Cô không thể để tâm vào việc học hành vì luôn cảm thấy mệt mỏi. Thầy cô giáo thường nhắc nhở:

Em phải đi ngủ sớm hơn, Graciela, em phải nghỉ ngơi đủ để có thể tỉnh táo làm bài. Song sự mệt mỏi của cô chẳng liên quan gì tới chuyện ngủ muộn. Hai mẹ con ở chung một phòng nhỏ, có hai ngăn. Graciela nằm trên chiếc đi văng trong cái ngăn chật hẹp, cách giường ngủ của mẹ chỉ bằng một bức màn mỏng, lại còn rách, khiến những âm thanh kích động trong đêm đã làm cô thức giấc, và buộc cô phải nghe, khi mẹ cô "vật lộn" với một người lạ mặt không rõ từ đâu trèo lên giường bà.

Khi Graciela mang sổ 1iên lạc về, mẹ cô rít lên:

- Tao cũng như mày, mang về những điểm đạo đức xấu xa này, và mày biết tại sao lại như thế không?Bởi vì mày ngu. Ngu? Graciela thường tin mẹ nói đúng và gắng không khóc. Cứ mỗi buổi chiều tan học cô lại thẫn thờ một mình theo con đường nhỏ ngoằn ngoèo giữa những hàng cây keo và sung dâu, đi qua những ngôi nhà bằng đá quét vôi trắng, nơi có những người giàu tình thương đang vui vầy với gia đình. Graciela cũng có những người bạn, nhưng họ đều trốn trong trí não cô. Ở đó có những cô bé xinh xắn và các cậu bé đẹp đẽ, họ mời cô tới dự những cuộc liên hoan vui vẻ với những chiếc bánh ngọt cùng những cây kem. Các bạn bè tưởng tượng của cô hết sức tốt bụng và họ đều nghĩ là cô rất đẹp Khi vắng mẹ, Graciela thường ngồi một mình, với những đoạn độc thoại dài với bạn bè.

Bạn giúp mình làm bài tập với, Graciela, mình không biết làm số học, mà bạn thì lại giỏi toán Tối hôm nay chúng mình làm gì nhỉ, Graciela? Đi xem phim nhé! Hay vào phố uống CôcaCola Mẹ bạn sẽ cho bạn đến ăn tô ở nhà mình chứ, Graciela Nhà mình mở tiệc to lắm. Không, mình sợ khó đấy. Mẹ mình sẽ cảm thấy cô quạnh nếu mình không ở bên. Mình là tất cả của mẹ, bạn biết đấy.

Mỗi chủ nhật Graciela lại dậy thật sớm, nhẹ nhàng mặc quần áo, thận trọng không 1àm thức giấc mẹ cô đang cùng ngủ với một ông bác nào đó trên giường, rồi một mình tới nhà thờ San Juan Bavtista. Ở đó có cha Perez kể về những miền hạnh phúc của cuộc sống sau khi chết, về cuộc sống thần thoại bên Chúa Giêsu.

Nhưng Graciela không thể đợi đến khi chết mới được gặp Người. Đức cha Perez trạc tuổi bốn mươi, rất có duyên. Ông tới Navas del Marques đã vài năm nay. Cha lo lắng từ người giàu đến kẻ nghèo, người ốm đau lẫn kẻ khỏe mạnh và trong cái làng nhỏ bé này không một bí mật nào mà cha không tường. Cha Perez biết Graciela là một cô bé ngoan đạo và cũng biết câu chuyện về dòng đàn ông lạ mặt thường xuyên chung giường với mẹ cô. Đó không phải là căn nhà thích hợp cho một cô gái trẻ. Nhưng liệu ai có thể làm gì để thay đổi điều đó.

Cha Perez luôn tự hỏi, không hiểu bằng cách nào mà Graciela vẫn giữ được mình trong trẻo như thế. Cô gái bé nhỏ tốt bụng, dịu dàng và không hề phàn nàn về cuộc sống của mình.

Graeiela luôn xuất hiện ở nhà thờ trong bộ quần áo gọn gàng, sạch sẽ mà cha biết chắc là cô bé tự giặt lấy. Cha cũng biết cô bé bị bọn trẻ trong thị trấn xa lánh và vì thế, cha thường tỏ ra thông cảm với cô. Sau mỗi buổi lễ ông lại dành cho cô một khoảng thời gian và khi thư thả lại dẫn cô tới một tiệm cà phê nhỏ.

Mùa đông đến, cuộc sống của Graciela như hòa trộn với cảnh vật, trở thành một bức tranh ảm đạm đáng lo sợ Las Navas del Marques nằm trong một thung lũng, bốn phía núi bao quanh và bởi vậy, mùa đông ở đây dài tới sáu tháng. Về mùa hè thì dễ chịu hơn nhiều, khách du lịch tràn vào thị trấn, mang theo những tiếng cười, điệu nhảy và phố xá trở nên sống động. Họ dồn tới quảng trường Manuel Delgado Barudo dễ thương trước những vở nhạc kịch biểu diễn trên một sân khấu nhỏ dựng trên đá và ngắm nhìn những, dân địa phương tưng bừng trong điệu Sartana, một điệu nhảy dân tộc đã tồn tại hàng thế kỷ, với đôi chân trần, tay nối tay kết thành một vòng tròn rực rỡ. Graciela ngắm nhìn những vị khách quây quần quanh các bàn cà phê bên đường nhấm nháp aperitivos hay mua cá ở pescađeria chợ cá, hoặc tụ tập ở các tiệm hút. Vào một giờ chiều, các tiệm giải khát luôn đông nghịt khách du lịch thưởng thức món Chateo với đồ ăn biển, ô liu và khoai tây rán.

Hấp dẫn nhất đối với Graciela là được xem paseo vào mỗi buổi tối. Các chàng trai cô gái đi lên đi xuống dọc đường Mayse theo những nhóm riêng, họ liếc nhìn nhau, mặc các bậc cha mẹ, ông bà và bạn bè theo dõi bằng những cặp mắt chăm chú từ các quán cà phê lề đường. Đó là một buổi lễ tìm bạn truyền thống đã được truyền qua nhiều thế kỷ. Graciela háo hức muốn tham gia nhưng bị mẹ nghiêm cấm.

Mày muốn làm đĩ à? - Bà thét vào mặt Graciela. - Hãy tránh xa lũ con trai.

Chúng nó chỉ muốn duy nhất một thứ trên người mày. Tao quá hiểu điều đó, - giọng bà cay đắng.

Nếu ban ngày còn khả dĩ chịu đựng được thì hằng đêm lại đem đến cho Graciela một nỗi khổ nhục quá sức Qua lần vải thưa ngăn cách, cô phải nghe những âm thanh rên rỉ, oằn oại và những tiếng thở mạnh đầy luôn kích động:

- Nhanh nữa ... mạnh nữa ...nữa.

Chưa tới mười tuổi, Graciela đã biết tất cả mọi từ ngữ tục tĩu trong tiếng Tây Ban Nha. Chúng được thầm thì hay hét lên, hay rên rỉ. Những tiếng kêu đê mê làm Graciela khó chịu, song đồng thời cũng thức dậy những ham muốn là lạ trong cô.

Khi Graeiela mười bốn tuổi thì ông bác Marôc xuất hiện. Da hắn đen bóng, râu cạo nhẵn. Hắn có đôi vai vĩ đại, ngực to bè và đôi cánh tay khổng lồ. Người Marôc đến vào lúc nửa đêm, khi Graciela còn đang ngủ. Sáng hôm sau cô mới nhìn thấy, khi hắn kéo tấm ri đô, trần truồng đi ngang qua chỗ cô nằm để ra phía sau. Graciela suýt nữa thì kêu lên. Hắn thật vĩ đại, mọi thứ đều vĩ đại Gã. .... sẽ giết mẹ mình mất. Graciela nghĩ.- Ồ Còn ai đây nữa nhỉ? Dolores Pinero vội ra khỏi giường, cộc lốc:

- Con em Sự bối rối ngượng ngùng trùm lên Graciela, khí cô nhìn người mẹ trần truồng đứng nép mình bên gã Marôc. Gã cười, để lộ hàm răng trắng nhởn:

Tên là gì, cô bé?

Graciela quá xấu hổ trước hắn. Bà mẹ đáp thay. - Tên nó là Graciela. Con bé chậm phát triển.

- Cô bé xinh quá. Tôi đánh cuộc là hồi trẻ cô cũng đẹp như thế.

- Em vẫn trẻ mà. - Dolores ngắt lời. Rồi quay sang con gái. - Thay quần áo đi. Nhanh không muộn học bây giờ Vâng, thưa mẹ.

Tên Marôc đứng nhìn cô gái chầm chậm bước đi. Người đàn bà có tuổi kéo tay hắn phỉnh phờ:

Về giường đi, anh yêu. Chúng ta chưa xong mà. - Tí nữa, - gã đáp, vẫn đứng nhìn theo Graciela.

Gã Marôc ở lại. Mỗi chiều, khi ở trường về, Graciela lại cầu nguyện rằng hắn đã đi. Vì những lý do nào đó mà cô chưa hiểu, gã làm cô sợ hãi. Gã luôn tỏ ra lịch sự và chưa hề làm điều gì bậy bạ với cô, vậy mà chỉ cần nghĩ tới gã đã khiến cô rùng mình.

Sự đối xử của hắn với mẹ thì lại hoàn toàn khác. Hắn hầu như cả ngày uống rượu, ở lì trong nhà, và nốc bằng hết bất cứ đồng tiền nào Dolores kiếm được.

Thỉnh thoảng trong đêm, ngay khi đang làm tình, hắn lại đánh bà, và đến buổi sáng Dolores lại xuất hiện với một bên mắt thâm tím hoặc cặp môi rách.

Mẹ ơi, sao mẹ lại phải chịu đựng ông ấy Graciela hỏi.

- Đó là người đàn ông thật sự chứ không phải loại tí hon như bọn khác. Ông ấy biết làm cách để một người đàn bà mãn nguyện. Hơn nữa, ông ấy yêu ta điên dại Graciela không tin. Cô biết tên quỷ da đen đang vắt kiệt hình hài mẹ, nhưng không dám chống lại. Cô quá kinh hãi sự giận dữ của bà, vì khi bà thực sự giận dữ thì trong nhà như xuất hiện một người điên. Đã có lần bà cầm dao nhọn đuổi theo cô, bởi cô đã dám pha trà, chứ không phải rót rượu, cho một "ông bác".

Một buổi sáng chủ nhật Graciela trở dậy và sửa soạn vào nhà thờ. Mẹ cô đi từ sớm để trả vài bộ quần áo khách cần. Đúng lúc Glaciela cởi bỏ váy ngủ, tấm màn che bị kéo sang bên và gã da đen hiện ra, trần truồng. - Này, cô bé xinh đẹp! Mẹ cháu đâu?

- Mẹ đi trả hàng từ sớm rồi.

Hắn chăm chú nhìn tấm thân trần của Graciela. Quả thật cô rất đẹp. - Hắn khẽ nói. Graciela nóng bừng khắp người. Cô biết mình phải làm gì:

che đậy sự trần trụi bằng cách nhanh chóng mặc áo váy và đi. Nhưng thay vào đó cô lại đứng yên, cảm thấy không sao cử động được. Cảm thấy ngạt thở. Gã Marôc nói giọng khàn khàn:

Cô còn bé lắm. Mặc quần áo vào rồi đi đi.

- Không. - Cô nới qua hơi thở:

- Tôi không còn bé nữa.

Sự đau đớn tiếp theo không giống bất cứ cảm giác nào Graciela đã biết.

- Chúng mày làm cái mẹ gì thế này?

- Tiếng Dolores Pinero rít lên. Trong khoảnh khắc, mọi thứ đều sững lại, đông cứng. Bà đứng bên giường, mắt trợn trừng nhìn con gái và con quỷ đen.

Graciela nhìn mẹ, sợ đến chết được. Cặp mắt Dolores hằn lên cơn giận điên cuồng.

- Đồ đĩ - Bà gào lên. - Đồ con đĩ thối tha.

- Mẹ .... xin mẹ ....

Bà vớ chiếc gạt tàn bằng gang vẫn để góc giường phang mạnh vào đầu con gái. Đó là hình ảnh cuối cùng Graciela còn nhớ.

Cô tỉnh lại trong căn phòng bệnh viện trắng, rộng. Phòng có tới hai chục giường, đều kín người. Những hộ lý bận rộn ngược xuôi theo tiếng la gọi của bệnh nhân.

Cuối chiều, một bác sĩ trẻ đến bên giường cô. Anh ta trạc ba mươi, nhưng nom già và mệt mỏi.

- Tốt? - Anh ta nói. - Cuồi cùng cô cũng tỉnh lại.

Tôi ở đâu thế này? Cô nhăn mặt hỏi.

- Cô đang ở phòng làm phúc bệnh viện thị trấn Avila. Cô vào đây từ hôm qua, trông lúc đó thật kinh khủng. Chúng tôi phải khâu cái trán cho cô. Tự tay ông trưởng khoa Ngoại khâu đấy, bảo cô quá đẹp, không thể mang sẹo được.

Ông ấy nhầm, Graciela nghĩ bụng. Mình sẽ phải mang sẹo cho đến hết đời.

Vào ngày thứ hai, cha Perez đến thăm Graciela. Một hộ lý đẩy chiếc ghế tới bên giường. Linh mục nhìn cô gái xinh đẹp và nhợt nhạt nằm đó mà trái tim tan ra. Cái việc kinh khủng đến với cô đã lan ra khắp LasNavas del Marques, nhưng không ai có thể làm gì được. Dolores Pinero đã nói với cảnh sát rằng con gái bà bị vỡ đầu do ngã.

- Con có thấy khá hơn không, con của ta?- Cha Perez hỏi.

Graciela gật đầu. Cử động làm cô cảm thấy đau đớn:

- Cảnh sát đang muốn hỏi nhiều vấn đề. Con có muốn Cha nói lại với họ điều gì không?

Chỉ là tai nạn thôi mà. - Cuối cùng cô nói.

Linh mục không chịu nổi cái nhìn trong mắt cô gái. - Cha hiểu. Điều cha phải nói đau đớn khôn tả. Graciela, cha đã nói chuyện với mẹ con ...

Và Graciela hiểu ra.

Con ... con không thể về nhà được nữa, phải không?

Cha sợ là không được. Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau. - Cha Perez cầm tay Graciela.- Mai cha sẽ quay lại thăm con.

- Cám ơn cha.

Khi linh mục đi khỏi, Graclela nằm đó cầu nguyện. Lạy Chúa kính yêu.

Chúa hãy để cho con được chết. Con không muốn sống.

Cô còn biết đi đâu về đâu. Sẽ chẳng bao giờ cô được nhìn lạì căn nhà của mình, hay những khuôn mặt quen thuộc của thầy cô giáo. Chẳng còn gì trên thế giới này dành cho cô cả.

Một hộ lý đến bên giường.

- Em cần gì không?

Graciela nhìn cô hộ lý, tuyệt vọng.

Hôm sau. Người bác sĩ lại xuất hiện.

- Có tin vui đây. - Ông ta nói lúng túng. Cô đã khỏe, ra viện được rồi. Đó là lời nói dối, nhưng phần sau thì là sự thật. Chúng tôi cần giường cho bệnh nhân mới.

Cô được tự do đi. Nhưng đi đâu?

Một giờ sau cha Perez tới, có thêm một linh mục khác.

- Đây là Cha Berrendo, một bạn cũ của cha.

Graciela liếc nhìn vị linh mục nom yếu ớt.

- Chào cha.

Ông ấy nói phải. Cha Berrenđo nghĩ. Cô ấy thật đẹp. Cha Perez đã kể cho ông về những chuyện xảy ra đối với Graciela. Linh mục cho rằng có thể thấy những dấu ấn của môi trường mà đứa trẻ đã lớn lên, một sự khắc khổ, một vẻ thách đố, hay tự thương hại. Nhưng hoàn toàn không thấy gì trên khuôn mặt cô gái này.

- Cha lấy làm tiếc con đã phải khổ như vậy. - Cha Berrendo nói với cô. Lời ông mang đầy hàm ý. Cha Perez nói:

Graciela con, cha phải quay về Las Navas del Marques. Cha đã nhờ cha Berrendo.

- Nỗi lo sợ tràn đầy trên mặt Graciela. Cô cảm thấy sợi dây cuối cùng nối cô với căn nhà thân thuộc đang bị cắt đứt - Đừng đi, con xin cha. - Cô nài nỉ.

Cha Perez nắm lấy tay cô:

Cha hiểu, con cảm thấy cô đơn. - Ông nói nồng hậu. - Nhưng con không cô đơn, hãy tin cha. Hoàn toàn không.

Người hộ lý mang một bọc nhỏ tới. Cô ta đưa cho Graciela.

- Đây là quần áo của em. Có lẽ em sắp phải đi rồi đấy. Hai linh mục đưa mắt nhìn nhau.

- Sao con không mặc đồ vào, rồi đi với cha? Cha Berrendo nhắc. - Chúng ta sẽ nói chuyện. Mười lăm phút sau đó, cha Benendo giúp Graciela bước ra ngoài, hòa vào dòng ánh sáng ấm áp. Ngay cửa bệnh viện là mảnh vườn đầy những bông hoa rực rỡ, nhưng Graciela đang choáng váng nên chẳng nhìn thấy gì.

Khi đã ngồi trong phòng mình, cha Berrendo nói:

Cha Perez bảo rằng con không có chỗ nào để đi.

Graciela gật đầu.

- Không một ai thân thuộc.

- Mỗi ... - Thật khó nói. - Mỗi ... mẹ con.

- Cha Perez nói con hay đi một mình trong làng. Cái làng nhỏ mà cô không bao giờ được thấy nữa.

- Vâng.

Graciela nhớ về những sáng chủ nhật, về những buổi lễ đẹp đẽ và nhớ đến sự khao khát được ở bên Chúa, trốn khỏi sự tủi nhục của cuộc đời mà cô phải sống.

- Graciela, có khi nào con nghĩ tới chuyện vào tu viện?".

- Chưa. - Cô giật mình với ý kiến đó.

- Tại Avila đây có một tu viện dòng Cistercian. Ở đó mọi người sẽ quan tâm đến con.

Con ... Con cũng không biết. - Ý nghĩ thật đáng sợ.

- Nơi đó không phải là dành cho tất cả mọi người. Và cha phải nói trước, đó là nơi nghiêm khắc nhất trong các tu viện. Một khi con đã bước qua cổng và thề, thì có nghĩa là con đã hứa với Chúa sẽ không bao giờ rời khỏi tu viện.

Graciela lặng lẽ nhìn ra bên ngoài cửa sổ với những ý nghĩ lẫn lộn trong đầu.

Ý nghĩ tách mình ra khỏi xã hội khiến cô sợ hãi. Sẽ như vào tù vậy. Nhưng cái thế giới mà cô yêu mến này đã dành cho cô điều gì? Toàn những đau khổ và tuyệt vọng ngoài sức chịu đựng. Đôi lúc cô đã định tự hủy hoại cuộc đời. Chỉ cách đó mới làm cho cô thoát khỏi những đau đớn. Cha Berrendo lại nói.

- Điều đó tùy con định đoạt. Nếu con thuận, cha sẽ đưa con tới gặp Mẹ Trưởng tu viện.

Graciela gật đầu.

- Vâng, được ạ.

Bà Nhất nhìn kỹ gương mặt cô gái trẻ đứng trước mình. Đêm qua, lẩn đầu tiên sau bao năm bà lại được nghe giọng nói ấy. Một đứa trẻ sẽ đến với con.

Con hãy bảo vệ nó.

Con mấy tuổi? - Bà hỏi.

- Mười bốn.

Cũng đủ tuổi Vào thế kỷ thứ IV người ta đã ra sắc lệnh cho các cô gái ở tuổi mười hai cũng được phép làm tu sĩ.

- Con sợ. - Graciela nói với Mẹ Bentina.

Con sợ. Câu nói vang lên trong trí nhớ Bentina. Con sợ ....

Điều đó bao năm về trước ta cũng thất ra như vậy.

Bentina nói với cha linh mục:

- Con không biết làm sao nếu có tiếng gọi, thưa cha. Con sợ!

- Bentina, lần đầu tiên tiếp xúc với Chúa có thể rất xáo động, vì quyết định hiến dâng cuộc đời cho Người là một việc hết sức khó khăn. Làm sao tiếng gọi lại đến với mình nhỉ. Bentina tự hỏi. Thời đó bà hầu như chẳng thích thú gì việc theo đạo. Khi là một cô gái, chủ nhật bà còn trốn cả đi lễ nhà thờ. Tuổi học trò, bà thường đắm mình trong các cuộc vui, ăn diện và bạn trai. Nếu bạn bè cùng đám ở Madrid được hỏi để chọn lầy người có khả năng trở thành tu sĩ thì Bentina sẽ đứng vào hàng cuối cùng.

Nhưng khi đến tuổi mười chín, nhiều sự kiện xảy đến đã làm thay đổi cuộc đời bà.

Hôm ấy, một giọng nói vang lên lúc cô đang nghỉ.

- Bentina, dậy ngay và đi ngay ra ngoài. Cô mở mắt, sợ hãi. Bật đèn đầu giường lên, cô thấy có mỗi mình trong phòng. Giấc mơ lạ quá. Nhưng giọng nói đó thì thật biết bao. Cô lại nằm xuống nhưng không tài nào ngủ lại được.

- Bentina, dậy ngay và đi ra ngoài. Đó là tiềm thức của mình, cô nghĩ, sao mình lại muốn đi ra ngoài vào nửa đêm thế này?

Cô tắt đèn đi. Một lát sau, giọng nói lại vang lên. Thật là điên. Cô khoác áo, xỏ dép và xuống gác. Cả nhà còn đang say giấc.

Cô mở cửa bếp, làm sao cô biết mình phải đi ra sân bằng cửa sau? Làn gió lạnh vây bọc quanh mình. Cô nhìn vào bóng đen dầy đặc, bắt gặp một đốm sáng mờ ảo từ chiếc tủ lạnh cũ đã bỏ, chứa những đồ lặt vặt. Bentina hiểu ngay cô ở đó để làm gì. Cô bước tới cái tủ lạnh bỏ đi cứ như bị thôi miên và mở ra. Cậu em trai ba tuổi co ro trong đó, bất tỉnh.

Đó là sự việc đầu tiên. Lúc ấy Bentina tự lý giải rằng đó là một ngẫu nhiên bình thường. Hẳn là mình nghe thấy tiếng đứa em thức dậy đi ra sân, và mình biết là cái tủ lạnh ở đó. Mình lo lắng cho nó nên đến kiểm tra.

Song việc thứ hai thì không dễ gì lí giải. Nó đến khoảng một tháng sau đó.

Trong giấc ngủ, Bentina nghe thấy giọng nói:

- Phải dập lửa đi.

Cô bừng tỉnh, mạch đập dồn dập. Không thể ngủ lại được Cô choàng áo, xỏ dép và bước ra hành lang. Không có khói. Không có lửa. Cô mở cửa buồng ngủ của cha mẹ. Mọi thứ đều bình thường.

Phòng cậu em cũng không có lửa. Cô xuống gác và xem xét mọi phòng.

Không có dấu hiệu nào của lửa.

Mình là một con ngốc, Bentina nghĩ bụng. Đó chỉ là giấc mơ.

Đúng lúc cô trở lại giường thì cả ngôi nhà rung lên bởi một tiếng nổ lớn.

Cả nhà thoát chết. Lính cứu hỏa khó khăn lắm mới dập được đám cháy.

- Ngọn lửa bắt đầu dưới tầng hầm, làm cho chiếc nồi hơi bị nổ. - Một anh lính giải thích.

Sự việc tiếp theo đó ba tuần lễ thì không có giấc mơ nào. Bentina đang ngồi đọc sách ở sân trong thì bỗng thấy một người lạ mặt đi ngang qua. Anh ta nhìn cô, và khoảnh khắc đó cô cảm giác một ý nghĩ độc ác nào đó gần như sờ thấy được từ cái nhìn đó. Đột nhiên anh ta quay đi và biến mất. Bentina không thể xua đi được hình ảnh người đó.

Ba ngày sau, khi cô đang đứng đợi thang máy trong một tòa nhà. Thang máy mở ra, và đúng lúc định bước chân vào thì cô bắt gặp người điều khiển vẫn đứng sẵn bên trong. Đó chính là người đàn ông cô đã thấy hôm trước. Bentina hoảng sợ bỏ chạy. Cánh cửa đóng lại và thang máy chạy tiếp. Một khoảnh khắc sau, chiếc thang máy nổ tung, giết chết tất cả mọi người trong đó.

Chủ nhật đó, Bentina đến nhà thờ.

Chúa cao cả, con không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng con rất sợ. Xin Người hãy dẫn dắt con và nói với con. Người muốn con phải làm gì.

Đêm hôm đó câu trả lời đã đến trong giấc ngủ. Giọng nói đó cất lên đúng một từ "Dâng hiến".

Suốt đêm cô nghĩ đến câu nói ấy. Sáng hôm sau cô kể lại cho linh mục nghe.

- A, con là một trong số người may mắn. Con đã được lựa chọn. - Ông reo lên.

- Chọn làm gì?

- Con có tự nguyện hiến dâng đời mình cho Chúa không, con của ta?

- Con ... con không biết! Con sợ!

Nhưng cuối cùng, cô gia nhập tu viện. Mình đã chọn con đường đúng. Mẹ Bentina nghĩ. Bởi vì chưa bao giờ mình được biết đến niềm hạnh phúc như thế?

Và giờ đây, là một đứa trẻ đang run rẩy nói "con sợ".

Mẹ Nhất cầm tay Graciela :

- Chưa vội đâu, Graciela. Chúa không bỏ ta. Hãy suy nghĩ kỹ và trở lại khi con muốn, chúng ta sẽ nói chuyện.

- Nhưng có gì để nghĩ? Mình còn nơi nào trên trái đất này nữa đâu. Sự im lặng cũng tốt. Mình đã nghe quá nhiều tiếng ồn hãi hùng.

Cô ngước nhìn Mẹ, nói:

- Con xin đón chào sự im lặng.

Đó là mười bảy năm về trước. Và từ bấy giờ, lần đầu tiên cô tìm thấy sự thanh bình. Cuộc đời cô đã hiến dâng cho Chúa. Quá khứ kia không còn là của cô. Những tội lỗi mà cô đã từng lớn lên cùng với chúng đã được rũ sạch. Cô trở thành nàng dâu của Đức Kitô. Và tới phút cuối của cuộc đời cô sẽ hòa nhập với mọi người.

Cùng với năm tháng trôi qua trong yên lặng, mặc cho những cơn ác mộng đôi lúc hiện về, mọi âm thanh hãi hùng trong trí nhớ của cô cũng dần dần lắng xuống.

Sơ Graciela dược giao làm vườn, trông nom những chiếc cầu vồng nhỏ bé của phép mầu nhiệm của Chúa. Sơ không hề biết chán trước vẻ lộng lẫy của chúng. Những bức tường tu viện sừng sững bao quanh như núi đá nhưng Graciela không bao giờ cảm thấy chúng giam cô bên trong, mà là chúng giam cái thế giới kinh khủng ở bên ngoài, một thế giới cô không bao giờ muốn gặp lại.

Cuộc sống trong tu viện thật thanh bình, yên ả. Bỗng chốc, những cơn ác mộng lại trở về, ngay trong hiện thực. Thế giới của cô bỗng bị những kẻ mọi rợ xâm phạm. Chúng đẩy cô ra khỏi nơi tôn nghiêm để rơi vào thế giới mà cô đã vĩnh viễn từ bỏ, khiến những tội lỗi dồn dập đổ về, bao trùm lên cô nỗi kinh hoàng. Tên quỷ da đen đã trở lại. Cô cảm thấy hơi thở nóng hổi của hắn trên mặt mình. Trong khi chống cự, Graciela mở mắt nhìn. Đó là một tu sĩ đè lên cô, đang cố cưỡng hiếp cô. Hắn bảo:

Dừng tay, sơ! Sơ sắp sửa được thưởng thức thứ này!

- Mẹ ơi. - Graciela kêu to. - Mẹ cứu con với

Cát Bụi Thời Gian

Chương 5

Lucia carmine cảm thấy xốn xang khi đi trên phố. Tuyệt diệu biết bao khi lại được mặc lên người bộ váy áo mềm mại và được nghe tiếng thầm thì của lụa cọ sát vào làn da.

Cô liếc nhìn hai bà bạn. Họ bước đi ngượng ngùng, xa lạ trong bộ trang phục mới, dụt dè, bối rối trong những chiếc váy, chiếc tất. Trông họ cứ như từ hành tinh khác rơi xuống. Bọn khỉ ấy không thuộc thế giới này. Lucia nghĩ. Khác nào chúng đeo biển "hãy bắt tôi đi".

Theresa khó chịu lắm. Ba mươi năm nơi tu viện đã hằn sâu trong bà sự nhu mì, khuôn phép mà giờ đây nó đang bị xúc phạm bởi những cái mới lạ đang dồn ép lên bà:

Cái thế giới mà một thời bà thuộc về nó, giờ đây như vô thực. Chính tu viện của bà mới là thực. Vì thế, bà khao khát được trở về chốn ẩn náu với những bức tường che chở của mình.

Megan thấy những gã đàn ông đang nhìn mình theo từng bước chân thì đỏ mặt. Cô sống trong một bóng tối hoàn toàn, và đã quá lâu, tới mức không còn cớ thể hình dung ra nổi một người đàn ông là như thế nào, chưa nói đến chuyện "chúng" lại cười với mình. Nó ngượng ngượng, thiếu đứng đắn ...nhưng thinh thích. Đàn ông làm thức dậy những cảm giác đã bị chôn chặt từ lâu trong Megan. Lần đầu tiên trong ngần ấy năm, cô ý thức được cái nữ tính của mình.

Họ tới cái quán giải khát mà lúc trước họ đã đi qua, tiếng nhạc từ bên trong vọng ra đường phố. Ông tu sĩ Carril1o gọi là gì nhỉ? Rock and Roll. Rất quen thuộc với bọn trẻ. Một cái gì đó khiến Megan chau mày. Đột nhiên cô nhận ra điều đó. Lúc đi qua rạp hát, ông tu sĩ nói thật đáng hổ thẹn với những cái mà cái rạp chiếu bóng đưa lên màn ảnh. Một cảnh khiêu dâm thuần túy. Những hành động riêng tư nhất, kín đáo nhất cũng đem bày ra cho mọi người xem.

Tim Megan đập nhanh. Nếu tu sĩ Carrillo đã thật sự giam mình nơi tu viện đến hai chục năm thì làm sao ông ta có khả năng biết về nhạc Rock hay những cảnh trong phim? Có cái gì đó thật không ổn?

Cô quay sang Lucia và Theresa, giọng khẩn cấp:

- Chúng ta phải quay lại cửa hàng ngay.

Họ nhìn theo, rồi cùng nhanh chóng bám theo Megan.

Graciela nằm trên sàn đang cào cấu Carril1o, tuyệt vọng chống cự hòng thoát thân.

- Đồ con khỉ! Nằm yên! - Hắn bắt đầu cảm thấy mệt.

Hắn nghe thấy tiếng động và ngước lên nhìn. Hắn thấy một cái gót giày đang lao tới đầu mình và đó là hình ảnh cuối cùng hắn nhớ được.

Megan nâng Graciela đang run rẩy ngồi dậy và đỡ cô trong tay, thở phào:

- Tốt rồi. Lão sẽ không thể làm phiền sơ được nữa.

Phải mấy phút sau Graciela mới mở miệng được.

- Nó, nó, lần này không phải lỗi ở tôi, - cô thanh minh.

Lucia và Theresa đã vào tới trong, và chỉ liếc nhìn Lucia đã hình dung được sự việc.

- Thằng chó đẻ.

Cô nhìn xuống cái thân hình nửa trần truồng đang bất tỉnh trên sân. Khi mọi người còn đứng nhìn, cô đã gỡ mấy cái dây lưng trên giá và trói chặt tay Miguel Carrillo ra sau.

- Trói chân nó lại, - cô bảo Megan.

Megan lẳng lặng làm theo. Cuối cùng, Lucia đứng dậy, hài lòng.

- Thế, chiều nay, khi nào họ mở cửa, hắn sẽ giải thích cho họ rằng hắn đang làm gì ở đây. - Rồi nhìn kỹ Graciela. - Sơ không sao chứ?

- Tôi ... tôi ... không. - Cô gượng cười.

- Chúng ta phải rời khỏi đây. - Megan nói. - Mặc quần áo nhanh lên.

Khi họ chuẩn bị đi, Lucia nói:

- Đợi một tí Cô đến chiếc máy đếm tiền và vặn mạnh chìa khóa. Bên trong có vài tờ một trăm Peseta. Lucia gom lại, lấy một cái ví trên giá rồi đút tiền vào trong. Để ý thấy biểu hiện bất bình thường trên nét mặt Theresa, cô nói:

- Xin sơ hãy nhìn đây. Nếu Chúa không muốn cho ta chỗ tiền này thì người đã chẳng để nó ở đây.

Họ ngồi nói chuyện trong quán cà phê. Sơ Theresa nói:

- Ta phải đưa cây thánh giá này tới tu viện ở Mendavia càng sớm càng tốt.

Nơi đó sẽ an toàn cho tất cả chúng ta.

Không phải cho ta, Lucia nghĩ. Sự an toàn của ta là ở ngân hàng Thụy sĩ kia.

Nhưng trước tiên, ta phải lấy được cây thánh giá đã.

- Tu viện ở Mendavia ở phía Bắc phải không?

- Phải.

- Bọn lính sẽ tìm ta ở tất cả các thị trấn. Tối nay ta phải lên đồi ngủ.

Sẽ chẳng ai nghe thấy tiếng mụ cho dù mụ có gào lên. - Lucia nghĩ.

Cô hầu bàn mang tới bốn tờ thực đơn. Ba bà sơ cầm ngắm nghía, bối rối.

Lucia hiểu ngay. Đã bao năm qua họ không được phép chọn lựa bất cứ cái gì. ở tu viện, họ ăn như máy các thứ đồ ăn nghèo nàn được đặt trước mặt. Giờ đây họ đối mặt với một số lượng vĩ đại những món ăn ngon lành, xa lạ.

Sơ Theresa lên tiếng đầu tiên:

- Tôi ... Tôi dùng chút cà phê và bánh mì.

Sơ Graciela nói:

- Tôi cũng thế.

- Ta còn phải đi đường dài. Tôi thấy nên gọi món gì đấy có chất. Trứng chẳng hạn. - Megan nói.

- Lucia nhìn Megan với ánh mắt khác. Phải để mắt vào con bé này, cô nghĩ, rồi nói to:

- Sơ Megan nói phải. Các sơ để tôi gọi.

Cô gọi món cam thái lát, trứng trộn khoai rán, thịt xông khói, bánh mì nóng, mứt và cà phê.

- Chúng tôi đang vội, - cô bảo người hầu bàn.

Giờ nghỉ trưa hết vào bốn rưỡi, lúc đó toàn thị trấn sẽ tỉnh lại. Cô muốn ra khỏi nơi đây trước khi có người phát hiện Carrillo trong hiệu trang phục.

Khi đồ ăn được mang ra, các bà sơ ngồi nhìn chúng chằm chặp.

- Ăn tự nhiên đi. - Lucia giục.

Họ bắt đầu ăn, lúc đầu từ tốn, sau thì hào hứng, vượt qua mọi lo sợ về tội lỗi.

Sơ Theresa là người duy nhất gặp trở ngại. Bà cắn một miếng thịt, rồi nói:

- Tôi ... Tôi không thể. Thế này là ... là từ bỏ ...

- Thưa sơ, sơ muốn tới tu viện phải không? Thế thì phải ăn mới có sức khỏe mà đi chứ. - Megan nói.

Sơ Theresa nói vẻ đạo đức:

- Rất đúng. Tôi sẽ cố ăn. Nhứng tôi hứa với các sơ là tôi không thích đâu.

Lucia cố gắng mới làm được vẻ ngây ngô:

- Phải lắm. Thôi, sơ ăn đi.

Ăn xong, Lucia lấy tiền của hiệu trang phục ra trả rồi cả bọn hỏa vào cái nắng nóng ngoài đường phố đang bắt đầu nhộn nhịp trở lại. Các cửa hiệu lục tục mở cửa.

Bây giờ chắc họ đã tìm ra Carrillo. - Lucia nghĩ.

Lucia và Theresa nóng ruột muốn ra khỏi thị trấn sớm nhưng Graciela và Megan thì lại cử chậm chạp. Hai người bị hấp dẫn bởi cảnh sắc, âm thanh và mùi vị phố phường.

Mãi tới khi ra tới ngoài thị trấn hướng về dãy núi phía trước, thì Lucia mới dám đi thong thả.

Họ chậm chạp tiến theo hướng Bắc, trèo lên mạn đồi lởm chởm. Lucia sốt ruột muốn hỏi xem sơ Theresa có chịu đưa cho cô mang hộ cái bọc vải không nhưng lại chẳng muốn nói ra điều gì có thể gây cho bà nghi ngờ.

Khi tới một khoảng trống trên đồi cao xung quanh um tùm cây cối, Lucia nói:

- Chúng ta có thể nghỉ đêm ở đây. Sáng mai ta sẽ đi tới tu viện ở Mendavia.

Ba người gật đầu tin tưởng.

Mặt trời chậm chạp đi ngang bầu trời xanh, khoảng đất trống yên tĩnh, chỉ có những tiếng động dịu dàng của mùa hè. Cuối cùng, đệm cũng đổ xuống.

Lần lượt, các bà sơ duỗi đài trên thảm cỏ xanh.

Lucia nằm yên, thở nhè nhẹ, lắng tai nghe một sự yên lặng mỗi lúc một sâu hơn, đợi cho mọi người ngủ say để thực hiện kế hoạch của mình.

Sơ Theresa thấy khó nghĩ. Nằm dưới trời sao giữa các sơ thế này, với bà thật là xa lạ. Họ bây giờ có tên, có khuôn mặt, có giọng nói và bà lo sợ bị Chúa trừng phạt vì những hiểu biết bị cấm đoán này. Bà thấy bị mất mát kinh khủng.

Sơ Megan cũng không ngủ được. Trong cô tràn ngập sự xáo động của những sự kiện diễn ra ban ngày.

"Sao mình lại biết được mưa gian của lão tu sĩ nhỉ" Cô tự hỏi. Rồi mình lấy đâu ra can đảm để cứu sơ Glaciela? Cô mỉm cười, không thể giấu được một chút hài lòng với mình, mặc dầu cô biết sự tự hào là một tội lỗi.

Graciela đã ngủ, cảm thấy kiệt sức bởi những gì trải qua. Cô trằn trọc trở mình, bị đè nặng bởi giấc mơ bị rượt đuổi theo những hành lang tối om dài vô tận.

Lucia Camine vẫn nằm yên đợi. Khoảng hai tiếng sau, cô nhẹ nhàng trở dậy và rón rén trong đêm tới chỗ sơ Theresa. Cô sẽ lấy cái gói và biến đi.

Khi tới gần, Lucia thấy sơ Theresa vẫn thức, đang quỳ gối lẩm nhẩm đọc Kinh. Mẹ kiếp! Cô vội vàng tháo lui.

Lucia lại nằm xuống, buộc mình phải kiên nhẫn. Sơ kia không thể cầu nguyện cả đêm. Bà ấy rồi cũng phải ngủ.

Lucia phác trong đầu các kế hoạch. Tiền lấy được trong cửa hiệu đủ cho cô đi xe buýt hoặc tầu hỏa tới Madrid. Một khi đã ở đó thì tìm một hiệu cầm đồ là chuyện đơn giản. Cô thấy mình đang đưa cho người chủ hiệu cây thánh giá vàng. Ông ta có thể nghi đây là đồ ăn cắp, nhưng chẳng hề gì. Sẽ có khối kẻ muốn mua nó.

- Tôi xin gửi bà một ngàn Peseta.

Cô cầm lấy cây thánh giá trên bàn.

- Thà tôi bán người tôi còn hơn.

- Một trăm năm mươi ngàn.

- Thà tôi đun chảy nó ra rồi đổ xuống cống.

- Hai trăm ngàn. Giá cuối cùng đấy.

- Ông đang ăn cướp của người mù. Nhưng thôi được, tôi chấp nhận giá đó.

Người chủ hiệu hớn hở với tay ôm lấy cây thánh giá.

- Phải, tôi để quên đâu đó hộ chiếu rồi. Ông biết ai có thể thu xếp cho tôi một hộ chiếu không?

Tay cô mơn man cây thánh giá lấp lánh ánh vàng.

Ông chủ hiệu ngập ngừng, rồi nói:

- Tình cờ tôi có một người bạn thường làm những việc tương tự.

Và thỏa thuận đã đạt được. Cô sẽ lên đường tới Thụy Sĩ, tới tự do. Cô nhớ lời cha cô:

ở đó có nhiều tiền, con tiêu cả mười đời cũng không hết.

Đôi mắt cô bắt đầu khép lại. Một ngày quá dài.

Trong giấc ngủ chập chờn, Lucia nghe thấy tiếng chuông nhà thờ vang lên từ ngôi làng nhỏ. Tiếng chuông làm thức dậy trong cô những ký ức xa xôi về một miền đất khác, một thời gian khác.

***

TAORMINA, SICILY 1968

Cứ mỗi buổi sáng cô lại tỉnh giấc bởi tiếng chuông từ nhà thờ San Domenico, cao cao trên dãy núi Peloritani bao quanh Taormina. Cô thích tỉnh dậy từ từ, được uể oải vươn người như một con mèo. Cô vẫn nhắm mắt, và cố nhớ ra một điều gì đó thật tuyệt diệu. Điều gì nhỉ? Câu hỏi đó như một sự quấy rầy, và cô gạt nó khỏi đầu, không thích đoán ra ngay mà muốn thưởng thức sự bất ngờ. Cuối cùng, sự sung sướng bùng lên và tràn ngập. Cô là Lucia Maria Carmine, con gái của Angelo Carmine. Chỉ điều đó thôi cũng đủ làm cho bất ký ai trên thế giới cũng đều cảm thấy hạnh phúc.

Họ sống trong một không gian rộng lớn như thần thoại. Người hầu kẻ hạ nhiều hơn con số mà cô gái Lucia mười lăm tuổi có thể đếm được. Sáng sáng, một vệ sĩ đưa cô tới trường bằng chiếc xe hơi sang trọng. Cô lớn lên trong các bộ váy đẹp nhất và những đồ chơi đắt tiền nhất mà Sicily có thể có được, cô là sự ghen ty của bạn học.

Cha cô là trung tâm cuộc sống của cô. Trong mắt Lucia, đó là người đàn ông đẹp trai nhất thế giới. Người đàn ông thấp đậm, khuôn mặt rắn rỏi và cặp mắt nâu luôn toát ra sức mạnh quyền lực. Ông có hai con trai, Arnaldo và Victo, nhưng Angelo Carmine cưng chiều cô con gái hơn cả. Lucia hết sức tôn kính cha mình. Ở nhà thờ, trong khi linh mục nói về Chúa thì Lucia luôn nghĩ đến cha.

Vào mỗi buổi sáng ông đến bên giường cô và nói:

- Tới giờ dậy đi học rồi, gương mặt thiên thần của cha.

Không phải như thế. Lucia biết cô không thật đẹp. Mình hấp dẫn; cô nghĩ bụng mỗi khi ngắm mình trong gương. Phải, hấp dẫn chứ không là đẹp. Hình ảnh phản chiếu cho thấy một cô gái trẻ có khuôn mặt trái soan, làn da dịu dàng, hàm răng trắng, cằm khỏe khỏe quá chăng? Cặp môi dày khêu gợi dày quá chăng? Và cặp mắt đen ranh mãnh.

Nếu khuôn mặt cô thiếu một chút xinh đẹp thì thân xác cô lại như một sự bù đắp còn hơn cả mong đợi. Ở tuổi mười lăm thân hình Lucia đã phát triển hoàn thiện với bộ ngực căng tròn, eo nhỏ và cặp mông chuyển động hứa hẹn đầy khoái lạc.

- Thế này thì bố phải đến phải gả chồng sớm cho con mất. - Người cha thường trêu con gái. - Chẳng mấy chốc mà con sẽ khiến các chàng trai phát điên lên, cô gái trong trắng và bé bỏng của cha.

- Con muốn lấy một người như cha, nhưng chẳng có ai được như cha đâu.

Ông cười.

- Không sao. Cha sẽ tìm cho con một hoàng tử. Con sinh ra dưới ngôi sao may mắn. Một ngày nào đó con sẽ biết đến cảm giác khi một người đàn ông ôm con trong vòng tay.

Lucia đỏ mặt.

- Vâng, thưa cha.

Đúng là không có ai làm việc đó với cô. Trong suốt mười hai giờ qua, Benito Patas, một trong những gã bảo vệ, luôn có mặt trên giường cô khi người cha vắng mặt ở thị trấn. Lucia biết, nếu bị cha phát hiện ông sẽ giết chết cả hai.

Benito ở tuổi ba mươi, và cái việc cô con gái xinh đẹp và trinh trắng của dòng họ Angelo Carmine vĩ đại đã chọn gã để phá trinh mình luôn làm gã tự hào.

- Có được như em muốn không? - Hắn hỏi sau lần đầu chung đụng.

- Ồ được - Lucia hổn hển. - Khá hơn.

Cô nghĩ thầm, Tuy hắn không được như Mario, Tomy hay Ennco, nhưng chắc chắn là khá hơn Boberto hay Leo.

Mười ba tuổi, Lucia thấy mình giữ trinh tiết thế là đã quá lâu Cô ngó quanh và quyết định người may mắn sẽ là Paolo Costel1o, con trai của một trong những bác sĩ của Angelo Carmine. Paolo mười bảy tuổi, người vạm vỡ, là ngôi sao bóng đá ở trường. Lần đầu nhìn thấy Paolo cô đã ham mê ham mệt.

Lucia tìm mọi cách để tiếp xúc với người mình yêu được nhiều nhất. Paolo không hay biết rằng những gặp gỡ thường xuyên đó đã được tính toán kỹ càng.

Cậu vẫn coi cô gái hấp dẫn của Angelo Carmine như đứa trẻ. Vào một ngày đầu tháng Tám, Lucia quyết định không thể cứ ngồi chờ được nữa. Cô gọi điện cho Paolo.

- Lucia Carmine! đây Bố em có chuyện muốn bàn với anh, cụ hỏi chiều nay anh có thể đến nhà bể bơi không?

Paolo ngại ngùng lẫn mừng rỡ. Angelo Carmine là một cái tên mà ai cũng nể sợ, nhưng không ngờ con người Maftoso hùng mạnh này lại biết đến sự tồn tại của cậu.

- Anh rất sung sướng. - Paolo nói. - Cụ muốn anh đến vào lúc nào?

- Ba giờ.

Giờ nghỉ trưa, lúc cả thế giới còn đang ngủ. Nhà bể bơi đứng lẻ loi ở tận tít một đầu của vùng đất rộng của gia đình cô, cha cô lại đã ra khỏi thị trấn. Sẽ chẳng có gì cản trở ...

Paolo đến đúng giờ hẹn. Qua chiếc cổng để ngỏ dẫn tới khu vườn, cậu đi thẳng vào dẫy nhà và đứng trước cánh cửa đóng kín, gõ nhẹ.

- Thưa ngài Carmine ...?

Một bóng người tiến về phía cậu.

- Paolo ...

Cậu nhận ra giọng nói của cô.

- Lucia, anh tìm cha em. Cụ có đây không?

Lucia đã đến sát bên Paolo, đủ để cậu thấy cô không váy áo gì trên người.

- Lạy Chúa Paolo hổn hển. - Cái gì ...?

- Em muốn anh ... với em.

- Điên à? Em còn là đứa trẻ con. Thôi, anh phải chuồn đây. Cậu bắt đầu đi ra cửa.

- Cứ đi đi Em sẽ mách cha là anh muốn cưỡng hiếp em.

- Đừng. Em đừng làm thế.

- Về đi, rồi anh sẽ thấy.

Cậu dừng lại. Nếu Lucia làm thật, trong đầu cậu không một mảy may nghi ngờ về số phận của mình. Chặt phăng cái của ấy đi chỉ là việc mở đầu.

Cậu bước tới gần Lucia để giãi bày:

- Lucia, em thân yêụ. - Anh gọi vậy nghe được đấy.

- Không ... Hãy nghe anh, Lucia. Điều này rất nghiêm trọng, cụ sẽ giết anh, nếu em nói là bị anh cưỡng hiếp.

- Em biết.

Cậu cố thêm một nước:

- Cha anh sẽ bị mang tiếng. Cả gia đình anh sẽ bị phỉ nhổ.

- Em biết.

Vô vọng.

- Thế em muốn gì ở anh?

- Em muốn anh ... làm nó cho em.

- Không. Không thể được. Nếu cha em biết, ông cụ sẽ giết anh ngay.

- Còn nếu anh đi khỏi đây, bố em chắc chắn sẽ cho anh toi mạng. Anh không có cách thứ ba để lựa chọn, đúng không".

- Nhưng tại sao lại là anh, Lucia? - Anh nhìn cô hoang mang.

- Bởi vì em phải lòng anh, Paolo.

...Cuối cùng, Lucia tỉnh trước. Cô lên tiếng:

- Mai lại thế nhé.

Khi Lucia mười tuổi, Angelo Carmine nghĩ rằng đã đến lúc cho con gái mở tầm mắt ra thế giới bên ngoài. Cùng bà dì già Rosa đi kèm, Lucia trải qua những kỳ nghỉ hè ở Capri, Ischia, ở Venice, Rome, và ở chục nơi khác.

- Con phải được mở mang đầu óc. Chứ không phải cứ là ông nông dân như bố con đây. Đi du lịch sẽ giúp con hoàn thiện vốn kiến thức. Đến Capri, dì Rosa sẽ đưa con đi xem tu viện Carthusian của thánh James, thăm villa An Michele, rồi Palazza a More ...

- Vâng, thưa cha ...

- Rome là kho báu của thế giới. Tới đó con phải thăm thành phố Vatican, Hoàng cung Santa Maria Maggiore và tất nhiên là cả bảo tàng Borghese nữa.

- Vâng, tất nhiên.

- Còn ở Milano? Con phải đến Cung hòa nhạc để nghe âm nhạc là như thế nào. Cha sẽ thu xếp vé xem vở La Scala cho dì và con. Đến Florence, con sẽ đi Bảo tàng nghệ thuật thành phố, Bảo tàng Uflri và hàng chục nhà thờ, viện bảo tàng khác.

- Vâng, thưa cha.

Với những kế hoạch chặt chẽ. Lucia cố gắng để không đặt chân tới một nơi nào trong số những địa chỉ kể trên. Dì Rosa thì duy trì chặt chẽ những giấc nghỉ trưa vào ban ngày và đi ngủ sớm vào buổi tối.

- Cháu cũng phải nghỉ ngơi, Lucia.

- Hẳn rồi, thưa dì Rosa.

Và khi dì Rosa ngủ, Lucia đi khiêu vũ tại Quisisana ở Capri, nhập vào một nhóm sinh viên đại học ở Mamna Piccola, đi picnic ở Bangi di Tiberio, đi đường cáp lên núi Ancapi. Tại đó, cô nhậu nhẹt ở quảng trường Ulberto với một đám sinh viên Pháp.

Ở Venice, một tay chèo thuyền đẹp trai đưa cô tới câu lạc bộ disco, một chàng đánh cá đưa cô đi câu ở Chiogga. Còn dì Rosa thì đi ngủ.

Tại Rome, Lucia uống rượu từ Apulla và tìm đến được tất cả những nhà hàng kỳ thú khác thường như Marte, Ranieni hay Giggifari.

Bất kỳ tới đâu Lucia cũng tìm ra được những quán rượu nhỏ, những hộp đêm giấu kín và những chàng trai ưa nhìn, lãng mạn. Cha thân yêu nói đúng làm sao.

Đi du lịch đã giúp con hoàn thiện được kiến thức của mình.

Nằm trên giường, cô học những cách nói và những ngôn ngữ khác nhau. Và nghĩ, Học ngoại ngữ thế này thích hơn học ở trường nhiều.

Sicily cũng là một kỳ quan để Lucia mặc sức khám phá. Đây là một hòn đảo của những chùa tháp Hy Lạp, những nhà hát, nhà thờ Roman và Byzantine, nhà tắm Arab và những lâu đài Swabian.

Lucia tìm thấy Palermo hấp dẫn và sống động. Cô thích thú đi lang thang quanh Klasa, một khu Arab cổ, đi tham quan Opera dei Pupi, một nhà hát múa rối, nhưng chính Taomirna, nơi cô sinh ra, mới thực sự là chốn cô yêu Nó là hình ảnh thu nhỏ của một thành phố.

Ở bờ biển Lon có một ngọn núi trông ra thế giới. Đó là thành phố của những cửa hiệu trang phục và kim hoàn, của những quán rượu và quảng trường cổ kính, của những khách sạn rực rỡ và lộng lẫy như ở Excelsior Palace và San Domenico.

Con đường ngoằn ngoèo dẫn tới hải cảng Naxos dốc, hẹp và nguy hiểm.

Nhưng khi Lucia Carmine nhận được chiếc ôtô, quà tặng sinh nhật lần thứ mười lăm, thì cô bất chấp mọi luật lệ giao thông, nhưng không một lần bị cản trở.

Hơn hết thảy, cô là con gái của Angelo Carmine.

Đối với những ai có đủ can đảm hoặc ngu ngốc để tìm hiểu thì Angelo Carmine chỉ là một người buôn bán bất động sản. Điều đó có phần đúng, vì dòng họ Carmine là chủ của khu vila ở Taormina, của một ngôi nhà bên hồ Como ở Cernobbio, một nhà trọ ở Gstaad, một lâu đài ở trung tâm và một mảnh đất rộng ở ngoại ô Rome. Nhưng đó chỉ là phần nổi, bởi gia đình carmine còn có những kinh doanh màu mỡ gấp nhiều lần. Ông là chủ của hàng chục nhà chúa, hai sòng bạc, sáu con tàu chuyên chở cocain từ những vùng trồng trọt của ông ở Colombia và hàng lô những tổ hợp sinh lợi, khác, gồm cả cho vay nặng lãi. Angelo Carmine là một capo của các Mafioso người Sicily, vì thế ông giàu có, uy quyền, sung sướng là điều dễ hiểu. Cuộc sống của ông là nỗi ao ước của người khác, là một bằng chứng đầy thuyết phục rằng một nông dân Sicily nghèo, nếu có những khát khao và chịu khó làm lụng, thì sẽ có ngày thành công.

Carmine bắt đầu cuộc đời mình khi mười hai tuổi, giúp việc cho Mafioso.

Mười lăm tuổi cậu trở thành người đi đòi nợ của những khoản vay nặng lãi.

Sang tuổi mười sáu, cậu tham gia giết chết người và bắt đầu lập nghiệp.

Ít lâu sau, ông cưới Anna, mẹ Lucia. Những năm tiếp theo, ông leo tới tột đỉnh của bậc thang xảo trá, để lại sau hàng dãy xác chết kẻ thù. Ông đã đổi khác, nhưng Anna vẫn nguyên là một cô gái nông dân giản dị mà ông đã cưới.

Bà sinh cho ông ba đứa con kháu khỉnh, nhưng rồi sự đóng góp của bà với cuộc đời ông cũng dừng lại. Dường như ý thức được rằng mình không còn vai trò gì trong gia đình nữa, bà lặng lẽ rời bỏ cuộc sống. Sự quan tâm dành cho bà cũng chỉ đủ để gầy ra một ồn ào nho nhỏ mà thôi.

Arnaldo và Victo cùng lo chuyện làm ăn với cha. Ngay khi còn nhỏ, Lucia đã thích thú nghe trộm những cuộc nói chuyện kỳ thú giữa cha với các anh mình, về chuyện họ đã xỏ mũi hay khuất phục đối thủ của họ ra sao. Đối với Lucia, cha cô như một hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng bóng. Cô không thấy điều gì sai trái trong việc làm của cha và các anh mình. Ngược lại, họ đang giúp đỡ mọi người. Nếu người ta muốn đánh bạc, tại sao lại để những điều luật ngu xuẩn ngăn cản họ? Nếu đàn ông cảm thấy sung sướng khi chung chạ với đàn bà, tại sao lại không giúp họ? Cha và các anh cô thật tất bụng biết bao đã cho người ta vay tiền khi họ bị đám chủ nhà băng nhẫn tâm từ chối. Đối với Lucia, cha và các anh là những công dân kiểu mẫu. Bằng chứng hiển nhiên được thể hiện trong sự lựa chọn bạn bè của các anh cô. Mỗi tuần một lần Angelo Carmine lại tổ chức tiệc linh dình tại vila riêng. Và ồ, hãy xem những ai ngồi dự tiệc tại gia đình Carmine? Ngải thị trưởng, vài ủy viên Hội đồng thành phố, các vị quan tòa ... Bên họ là những minh tinh màn bạc, các ca sĩ opera, và thường xuyên có cả ngài cảnh sát trưởng cùng một tay vệ sĩ. Chưa kể năm nào đích thân ông Thống đốc cũng xuất hiện vài lần.

Lucia sống một cuộc đời thơ mộng, đầy ắp các bữa tiệc, quần áo đẹp, đồ trang sức quý, ô tô, kẻ hầu hạ và những người bạn đầy thần thế. Cho tới một tháng Hai, vào đúng ngày sinh nhật lần thứ hai mươi ba của cô thì tất cả những cái đó bỗng dưng kết thúc.

Nó đến thật bình thường. Hai người đàn ông tới vila tìm cha cô. Một là ông cảnh sát trưởng và người kia là phụ tá của y.

- Xin ngài lượng thứ, - cảnh sát trưởng giãi bày, đây là cái việc xuẩn ngốc mà cấp trên giao cho tôi phải thực thi. Một ngàn lần xin lỗi ngài. Xin ngài rộng lòng cùng tôi tới trụ sở cảnh sát, tôi sẽ đảm bảo đưa ngài về kịp dự sinh nhật con gái ngài.

- Không hề gì. - Carmine vui vẻ. - Ai cũng phải làm nhiệm vụ của mình. - Ông mỉm cười. - Tay ủy viên mới được Tổng thống bổ nhiệm này, theo cách nói của người Mỹ, khá xun xoe.

- Có lẽ là như thế. - Cảnh, sát trưởng thở dài. - Nhưng ngài đừng lo. Ngài và tôi đều đã thấy những kẻ bợ đỡ thì lên nhanh như diều, nhưng cũng đứt nhanh thôi phải không?

Họ phá lên cười rồi cùng đi tới trụ sở cảnh sát.

Hôm đó Angelo Carmine không về dự tiệc được, và cả những ngày sau nữa.

Thực sự ông đã không một lần được gặp lại những người thân của mình.

Chính quyền lập hồ sơ truy tố ông với hàng trăm thứ tội, nào giết người, buôn lậu ma túy, mại dâm, phá hoại, nào hàng lô các tội khác ... Việc bảo lãnh bị bác.

Mẻ lưới của cảnh sát tung ra đã chụp trúng tổ chức tội ác của Carmine. Ông trông cậy vào những quan hệ có thế lực ở Sicily để bác bỏ những lời buộc tội, nhưng thay vào đó, ông lại bị đưa tới Rome vào nửa đêm và bị giam tại Regina Corli, nhà tù Queen of Heaven nổi tiếng.

Ông bị nhốt trong một xà lim chật chội có vài ô cửa sổ chấn song sắt, một lò sưởi, một chiếc giường đơn và toalet không có chỗ ngồi. Thật là một sự xúc phạm, một điều sỉ nhục ngoài sức tưởng tượng.

Lúc đầu Carmine tin tưởng luật sư của mình, Tommaso Contorno, sẽ giải thoát ngay cho ông.

Khi Contorno đến gặp tại nhà tù, Carmine nổi giận với ông ta.

- Họ đã đóng cửa các nhà chứa và các tụ điểm ma túy họ biết rất rõ về hoạt động kiếm tiền của ta. Có kẻ nào đã khai. Hãy tìm ra kẻ đó và mang cái lưỡi của nó vào cho ta.

- Xin ngài đừng lo. - Contorno trấn an. - Chúng tôi sẽ tìm ra hắn.

Sự lạc quan của ông ta hóa ra không có cơ sở. Để bảo vệ các nhân chứng, chính quyền địa phương đã kiên quyết từ chối tiết lộ họ, cho tới khi phiên tòa bắt đầu.

Hai ngày trước phiên tòa, Angelo Carmine cùng những thành viên mafia khác được đưa tới Ribibbia Prigione, nhà tù có hệ thống an ninh nhất cách, Rome mười hai dặm. Phòng xử án cạnh đó được củng cố như pháo đài. Một trăm sáu mươi bị cáo mafia xích chân tay đưa đến phòng xử án qua một đường ngầm rồi bị nhốt vào ba mươi chiếc lồng thép có kính chống đạn. Lính bảo vệ nai nịt tận răng vây quanh trong và ngoài phòng. Người tới dự bị khám xét kỹ trước khi được phép vào.

Khi Angelo Carmine bước vào phòng xử án, tim ông đập rộn lên vì sung sướng. Vị quan tòa ngồi đó là Glovanni Buscetta, người đã nằm trong danh sách ăn lương của Carmine suốt mười lăm năm và cũng là vị khách thường xuyên của gia đình. Carmine biết rằng cuối cùng thì công lý của ông cũng sẽ được thực hiện.

Phiên tòa bắt đầu. Angelo Carmine nhìn lên vị quan tòa Sicily đang im lặng để cầu cứu. Thật kinh ngạc, nhân chứng chính của phiên tòa không ai khác, mà là Benito Patas, tên cận vệ thân tín của ông.

Patas đã sống trong gia đình Carmine từ rất lâu và được tin cẩn hết mức nên hắn nắm khá rõ các chuyện làm ăn tuyệt mật của "gia đình." Bị cảnh sát tóm cổ vài phút sau khi lạnh lùng sát hại một bạn trai mới của tình nhân hắn, và bị dọa sẽ phải ngồi tù chung thân, thì Patas đành nhận giúp cảnh sát chống lại Carmine để được hưởng mức án nhẹ hơn. Giờ đây Angelo ngồi trong phòng xử án, hoảng hốt .và kinh ngạc nghe Patas lôi ra những bí mật sâu kín nhất của lãnh địa Carmine.

Ngày nào Lucia cũng có mặt ở phòng xử án để nghe con người đã từng là bạn tình của cô đang hãm hại cha và các anh cô.

Lời khai của Benito Patas như kéo cửa đập ngăn lũ. Hàng chục nạn nhân kéo đến kể lại những chuyện mà Angelo Carmine và đồng bọn của ông đã gây ra cho họ, nào Mafia đã bóp nghẹt việc làm ăn, đã đe dọa họ, đã sát hại hoặc biến những người thân của họ thành tàn tật, nào bán ma túy cho con cái họ. Cái dây tội ác thật vô tận.

Nguy hiểm hơn là lời khai của những thành viên trong tổ chức ăn năn hối lỗi và quyết định lên tiếng.

Lucia được phép vào thăm cha trong tù.

Vui mừng khôn tả, ông ôm chặt cô và thì thầm.

- Đừng lo, chánh án Giovanni Buscetta là quân át chủ bài của cha. Hắn biết tất cả mọi trò lừa đảo của luật pháp. Hắn sẽ làm cho các anh con và cha trắng án.

Angelo Carmine đã tỏ ra là một nhà tiên tri tồi.

Công chúng cảm thấy bị lăng nhục bởi sự quá đáng của Mafia và cuối cùng vị chánh án Giovanni Buscetta, một con thú chính trị láu cá, đã tuyên án tù dài hạn đối với mọi thành viên của tổ chức, và dành cho Angelo Carmine cùng hai con trai mức án là hai mươi tám năm.

Đối với Angelo Carmine, đó có nghĩa là án tử hình.

Cả nước Ý hân hoan. Công lý cuối cùng đã chiến thắng. Song đối với Lucia thì đó là cơn ác mộng không thể tưởng tượng ra nổi. Cả ba con người mà cô yêu quý nhất đời đang bị đẩy xuống địa ngục.

Một lần, Lucia vào thăm cha tại xà lim. Sự thay đổi bỗng chốc trong ông, nhìn mà đau xé ruột. Chỉ vài ngày, ông đã biến thành một cụ già. Thân hình lẩy bẩy và sắc thái hồng hào ở ông bỗng trở nên vàng vọt.

- Chúng đã phản bội ta. - Ông rên rỉ. - Tất cả bọn chúng đã phản bội ta.

Thằng Giovanni Buscetta. Món nợ lớn quá, Lucia, ta biến hắn thành kẻ giàu có, vậy mà hắn làm ta thế này đây. Còn thằng Patas. Ta như cha nó. Ôi, cái thế giới này ở đâu ra vậy" Ôi, cái điều khủng khiếp này ở đâu ra vậy" Chúng cũng là người Sicily như ta mà.

Lucia cầm tay cha trầm trầm nói:

- Con cũng là người Sicily, thưa cha. Mối thù của cha sẽ được trả, xin thề trước cha, bằng cả cuộc đời con.

- Đời cha thế là hết:

- Ông nói. - Nhưng đời con vẫn ở cả phía trước. Cha có một tài khoản ở Zurich. Tại nhà băng Leu. Rất nhiều tiền, con tiêu suốt đời không hết. Ông thì thầm vào tai cô những con số. - Hãy rời bỏ nước Ý đáng nguyền rủa này. Hãy lấy tiền ấy mà hưởng thụ nghe con.

Lucia ôm chặt ông.

- Cha!

- Nếu khi nào cần một người bạn, con có thể tin tưởng Dominic Durell. Ông ta có một căn nhà ở Pháp tại Beziers, gần biên giới Tây Ban Nha.

- Con sẽ nhớ.

- Hãy hứa với cha con sẽ rời bỏ nước Ý!

- Vâng, thưa cha. Nhưng con phải làm vài việc đã.

Ấp ủ khát vọng trả thù là một việc, tìm ra cách để thực hiện nó là việc khác.

Cô đơn độc, mà việc đó lại chẳng dễ dàng gì.

Lucia nhớ đến một thành ngữ Ý:

Ruban il mestiele Mình phải nghĩ xem họ làm thế nào.

Vài tuần sau, Lucia Carmine xuất hiện tại nhà ông chánh án Giovanni Buscetta. Chính ông ta mở cửa.

Ông ta nhìn Lucia, hết sức ngạc nhiên. Ông thường nhìn thấy cô mỗi khi là khách của gia đình Carmine. Nhưng họ chẳng có gì để nói với nhau.

- Lucia Carmine! Cô tới đây làm gì vậy? Lẽ ra cộ .... - Cháu tới để cảm ơn ngài. Thưa ngài kính mến :

Ông nhìn cô nghi ngại - Cảm ơn tôi về cái gì?

Lucia nhìn sâu vào mắt ông - Vì ngài đã đưa được ông bố và các anh cháu về đúng con người họ. Cháu là một con bé ngây thơ sống trong ngôi nhà ghê tởm đó. Cháu không hề biết họ là một lũ ... - cô bật khóc sụt sịt.

Ông chánh án hoang mang, rồi vỗ nhẹ vào vài cô.

- Thôi nào, thôi nào. Vào nhà uống nước.

- Cảm ... cảm ơn ngài.

Khi đã ngồi trong phòng, Buscetta nói:

Tôi đã không biết là cô cũng nghĩ được như thế về cha mình. Tôi có cảm giác cha con cô rất thuận hòa.

- Chỉ tại cháu đã không biết sự thật về cha và các anh cháu là như thế nào.

Khi chưa hiểu được thì ... người cô rung lên:

- Ngài không biết đâu, cháu đã muốn thoát ra, nhưng không biết cách nào có thể ...

- Bác đã không hiểu. - Ông vỗ vào tay cô. - Tội nghiệp, bác đã hiểu nhầm cháu.

- Cháu rất sợ ông ấy. - Giọng cô chứa chan gợi cảm.

Không phải lần đầu tiên quan tòa Buscetta để ý Lucia trẻ đẹp ra sao. Cô mặc trên người bộ váy đen giản dị làm nổi bật những đường nét nhấp nhô của một cơ thể tràn căng sức sống. Ông để mắt nhiều nhất vào bộ ngực và không thể không công nhận cô đã lớn biết bao.

Ngủ với con gái Angelo Carmine thì thật thú vị, Buscetta nghĩ. Hắn bây giờ không thể làm gì được ta. Thằng già nghĩ rằng hắn là chủ nợ của ta. Nhưng ta xử án thế đã lịch sự với hắn lắm rồi. Con bé này chắc hẳn còn trinh tiết. Ta sẽ dạy cho nó vài điều trên giường.

Người quản gia có tuổi mang tới khay trà và hộp bánh quy. Bà đặt chúng trên bàn.

- Tôi rót trà nhé?

- Để em. - Lucia nói. Giọng cô ấm áp và đầy hứa hẹn.

Chánh án Buscetta mỉm cười với Lucia.

- Bà đi được rồi. - Ông ta nói với bà quản gia.

Ông chánh án nhìn theo Lucia bước tới chiếc bàn nhỏ nơi đặt khay trà, cẩn thận rót trà cho ông và cho mình.

- Tôi có cảm giác là cô với tôi sẽ trở thành những người bạn rất gần gũi, Lucia. - Giovanni thăm dò.

Lucia trao ông ta một nụ cười quyến rũ.

- Cháu cũng rất muốn như thế, thưa bác kính mến.

- Cô cứ gọi tôi là Giovanni.

- Giovannil - Lucia trao ông ta chén trà. Cô nâng chén nhấp một ngụm, rồi nói. - Vĩnh biệt những kẻ ác - Vĩnh biệt những kẻ ác. - Mỉm cười, Buscetta cũng nâng chén lên. Ông ta nhấp -một ngụm, nhăn mặt. Chè có vị đắng.

- Có quá ...? .

- Không, không. Ngon lắm bạn thân mến.

- Vì tình bạn của chúng ta. - Lucia lại nâng chén.

Cô nhấp một ngụm và vị chánh án cũng làm theo.

Buscetta không bao giờ uống hết chén trà. Một cơn đau thắt đột ngột đến và ông ta cảm thấy như có que cời lửa nóng đỏ xuyên vào tim. Ôm lấy ngực, ông ta lắp bắp:

- Ôi, trời ơi! Gọi bác sĩ. .... Lucia ngồi đó, lặng lẽ nhấp trà, nhìn ông chánh án lảo đảo rồi ngã xuống sàn, co quắp, rồi đờ ra.

- Một thằng, thưa cha. - Lucia nói.

Benitoi Patas đang chơi một mình trong buồng giam thì người cai ngục đến bảo:

- Anh có bạn tình tới thăm.

Benito gật đầu. Hắn được ban cho một thân phận đặc biệt trong tù, với nhiều đặc quyền. Những cuộc thăm viếng tình cảm chỉ là một trong số đó. Patas có nửa tá bạn gái, thay nhau vào thăm. Hắn tự hỏi hôm nay cô nào tới với mình.

Hắn ngắm mình trong chiếc gương nhỏ trên tường phòng giám, xức một chút dầu thơm lên tóc, chải cho bóng lên, rồi bước theo người cai ngục đi dọc hành lang tới một khu có những phòng riêng.

Hắn đứng lại, tròn mắt nhìn.

- Lucia! Lạy Chúa, cô làm cái quái gì ở đây thế? Làm sao cô vào được đây?

- Em nói với họ chúng mình đã đính hôn, Beniyto! Lucia nhỏ nhẹ.

Cô mặc chiếc váy lụa trễ cổ lộng lẫy, dán chặt vào những đường cong cơ thể.

Beniyto bước giật lùi:

- Đi ra!

- Nếu anh muốn vậy. Nhưng trước hết xin anh nghe em nói vài lời. Khi em nhìn thấy anh đứng trên bục để làm chứng buộc tội cha và các anh em, em căm thù anh, em đã muốn giết anh. - Cô tiến tới gần hắn. - Nhưng rồi em nhận ra được rằng điều anh làm là một hành động quả cảm. Anh dám đứng lên nói ra sự thật. Cha và các anh của em không phải quỷ, nhưng họ làm những việc làm của quỷ dữ và anh là con người duy nhất có đủ sức mạnh để chống lại họ.

- Hãy tin tôi, Lucia. Hắn nói. - Bọn cảnh sát buộc tôi phải ...

- Anh không cần phải giải thích. - Cô nói mềm mại. - Nhất là với em. Anh có nhớ lần đầu chúng mình bên nhau? Lúc đó em hiểu ngay rằng em yêu anh và em sẽ luôn luôn yêu anh.

- Lucia, lẽ ra tôi không nên làm cái điều mà ...

- Anh yêu? Em muốn chúng ta quên đi những việc đã qua. Nó đã lùi vào dĩ vãng. Điều quan trọng bây giờ là anh và em.

Cô tiến tới bên hắn, và lúc này hắn có thể ngửi thấy mùi nước hoa dịu dàng tỏa ra từ người cô. Tâm trí hắn rối bời.

- Cô định ... cái đó?

- Hơn tất cả những gì em đã định trong cuộc đời. Đó là lý do hôm nay em tới đây. Để chứng tỏ với anh rằng em là của anh, và không phải chỉ bằng lời.

Ngón tay cô lần nhẹ trên vai và khoảnh khắc sau chiếc váy đã nằm trên sàn.

Cô hoàn toàn khỏa thân.

- Anh tin em chứ?

Chúa ơi, cô ta đẹp biết bao.

- Bây giờ anh tin rồi. - Giọng hắn khàn khàn.

Lucia tiến sát hắn, da thịt cô cọ vào người hắn.

- Cởi ra anh, nhanh lên nào? -Cô thì thầm.

Cô nhìn Patas cởi quần áo rồi ngoan ngoãn đi theo khi hắn cầm lấy tay cô dẫn tới chiếc giường trong góc phòng. Hắn đè nghiến cô xuống và leo phắt lên cô, mặt hắn nở nụ cười kiêu ngạo.

- Giống như thời xưa vậy. - Hắn nói giọng tự mãn. - Em không thể quên anh được, phải không?

- Vâng, - Lucia thì thầm bên tai hắn. - Thế anh có biết tại sao em không thể quên được anh không?

- Không, em yêu. Nói anh nghe nào?

- Bởi vì em là người Sicily, như cha em vậy.

Cô với tay ra sau gáy, gỡ chiếc trâm cài tóc dài và nhọn.

Benito Patas thấy đột ngột nhói đau bên sườn bèn há miệng như muốn kêu lên, nhưng Lucia đã kề miệng hôn hắn âu yếm và khi người Benito cong lên, quằn quại trên người cô thì ...

Vài phút sau cô đã mặc xong quần áo, cài trâm lại vào tóc Benito nằm yên dưới chiếc chăn mỏng, mắt nhắm nghiền. Lucia gõ cửa và mỉm cười với người cai ngục tới mở cho cô, thì thầm:

- Anh ấy ngủ!

Viên cai ngục nhìn cô gái trẻ đẹp, mỉm cười:

- Chắc hẳn cô đã vắt kiệt hắn.

- Tội hy vọng thế. - Lucia đáp.

Sự mạo hiểm tài tình của cô gái trẻ, đẹp trong hai vụ trả thù làm xôn xao nước Ý. Công chúng ý dễ bị kích động hân hoan chúc mừng cô, che giấu cho cô trốn chạy. Còn cảnh sát, hoàn toàn đương nhiên, có quan điểm khác. Lucia Carmine đã sát hại một vị chánh án đáng kính lại còn giết thêm một người nữa ngay bên trong bức tường nhà tù là cú chơi khăm tàn tệ không kém những tội ác do cô gây ra kia. Báo chí được dịp bán chạy với số lượng cao nhất.

- Tôi muốn cái đầu nó. - Cảnh sát trưởng gầm lên. - Tôi muốn nó ngay hôm nay.

Các mẻ lưới được tung ra, trong khi đó, trung tâm của sự chú ý lại đang ẩn náu tại nhà Salvatore Giuseppe, một trong những tay chân của cha cô may mắn thoát khỏi cơn bão lửa.

Lúc ấy, suy nghĩ duy nhất của Lucia là trả thù cho cha và các anh. Cô nghĩ mình không thể trốn tránh mãi được và đã chuẩn bị kỹ càng để tự sát khi bị bắt.

Tuy nhiên, sau một thời gian, suy nghĩ trong đầu cô đã chuyển sang sự sống.

Cuộc sống với cô vẫn quý giá biết bao. Ta sẽ không để cho chúng tóm được, cô tự thề với mình. Không đời nào.

Salvatore Giuseppe và vợ ông ta đã làm mọi thứ có thể để cải trang cho Lucia. Tóc cô trở nên sáng màu hơn, răng đen hơn, cô có thể đeo kính suốt ngày và chịu khoác lên mình những bộ quần áo tồi tàn.

Salvatore soi xét tác phẩm thủ công của mình.

- Không tồi, ông ta nói. - Nhưng cũng chưa an toàn. Chúng tôi phải đưa cô ra khỏi đất Ý. Cô phải tới một nơi mà ảnh mình không có trên trang nhất các báo.

Một chỗ nào đó mà cô có thể nhởn nhơ được vài tháng.

Lucia nhớ ra!

Nếu khi nào cần một người bạn, con có thể tin tưởng Domimic Durell, như anh em với bố vậy:

Ông ấy ông ấy có một ngôi nhà ở Beziers, bên Pháp, gần biên giới Tây Ban Nha.

- Cháu biết một chỗ có thể tới được. - Lucia nói. Nhưng cháu cần một hộ chiếu.

- Chúng tôi sẽ thu xếp.

Hai mươi tư giờ sau, Lucia ngắm tấm ảnh mới chụp của mình trong hộ chiếu mang tên Lucia Roma.

- Cô sẽ đi đâu?

- Cha cháu có một người bạn bên Pháp có thể giúp cháu được.

- Có cần tôi đi cùng tới biên giới ... - Salvatore nói.

Cả hai đều biết điều đó nguy hiểm như thế nào.

- Thôi ạ, chú Salvatore, chú giúp cháu thế là đủ.

Sáng hôm sau Salvatore Giuseppe thuê một chiếc Fiat dưới cái tên Lucia Roma và đưa cô chìa khóa xe.

- Cẩn thận nhé. - Ông lo lắng dặn dò.

- Chú đừng lo. Cháu sinh ra dưới ngôi sao may mắn mà.

Chẳng phải cha cô đã nói thế sao Tại biên giới Ý - Pháp, các xe con sắp thành hàng dài chậm chạp nhích lên đợi đến lượt làm thủ tục vào đất Pháp. Càng tiến gần tới trạm kiểm soát Lucia càng thấy sợ hãi. Họ đang bủa lưới tìm bắt cô ở mọi điểm ra. Nếu họ tóm được, Lucia hiểu, cô chỉ có một mức án duy nhất là ngồi tù tới hết đời. Ta sẽ tự sát trước. Lucia nghĩ.

Cô tiến tới người sĩ quan cửa khẩu.

- Hộ chiếu, thưa bà?

Lucia đưa cho anh ta. Người sĩ quan nhận hộ chiếu và mở ra, rồi liếc nhìn Lụcia. Cô nhận thấy nét bối rối trong cặp mắt anh ta. Viên sĩ quan nhìn hộ chiếu, rồi ngẩng lên nhìn cô, lần này thì kỹ hơn nhiều. Lucia thấy người mình như tan ra.

- Bà là Lucia Carmine.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top