caovan2
VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XI
1. Những tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục- đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa được nêu trong văn kiện hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (tài liệu này ở trang 28, 29, 30,31 Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII do nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 1997)
- Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị vǎn hoá của dân tộc, có nǎng lực tiếp thu tinh hoa vǎn hoá nhân loại; phát huy tiềm nǎng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật ; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời dặn của Bác Hồ.
Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội , phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thi trường đối với giáo dục - đào tạo. Chống khuynh hướng "thương mại hoá", đề phòng khuynh hướng phi chính trị hoá giáo dục - đào tạo. Không truyền bá tôn giáo trong trường học.
- Thực sự coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tǎng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục.
- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi học, học thường xuyên , học suốt đời. Phê phán thói lười học. Mọi người chǎm lo cho giáo dục. Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và các cá nhân đều có trách nhiệm trách nhiệm góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đóng góp chí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục - đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng công đồng, từng tập thể.
- Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập. Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài nǎng.
- Giữ vai trò nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hoá các loại hình giáo dục - đào tạo, trên cơ sở nhà nước thống nhất quản lý, từ nội dung chương trình, quy chế học, thi cử, vǎn bằng, tiêu chuẩn giáo viên, tạo cơ hội cho mọi người có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình. Phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một số bậc học như: mầm non , phổ thông trung học (cấp III), trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học. Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện đại hóa hình thức giáo dục.
Liên hệ:
Trong những tư tưởng chỉ đạo phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH-HĐH có tư tưởng thực hiện công bằng XH trong GD-ĐT, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học. Bảo đảm cho những người học giỏi phát triển tài năng. Đây là tư tưởng được toàn Đảng, nhà nước và nhân dân luôn cố gắng phấn đấu thực hiện. Vì vậy, để hoàn thành tư tưởng chung đó trường Đại học GTVT cũng đã và đang thực hiện công bằng xã hội trong GD-ĐT như sau:
Nguyên tắc chung của trường ĐH GTVT quy định chế độ chính sách với sinh viên.
+ Thực hiện chế độ chính sách đối với sinh viên là giải quyết quyền lợi chính đáng của sinh viên nhằm tạo điều kiện cho SV học tập đạt kết quả cao
+ Việc giải quyết chế độ chính sách đối với SV dựa trên các nguyên tắc sau:
' Căn cứ vào chế độ do chính phủ, các Bộ và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Căn cứ vào quy định của trường ĐH GTVT
' Đảm bảo chính xác, kịp thời và đúng đối tượng. Thực hiện công bằng, công khai và dân chủ trong việc giải quyết chế độ chính sách đối với sinh viên.
+ Sinh viên thuộc diện chính sách được xếp vào nhóm ưu tiên trong tuyển chọn, xét lên lớp, đầu vào theo chế độ quy định của nhà nước.
Trường ĐH GTVT đã và đang áp dụng chế độ ưu đãi trong GD đối với SV là:
- Người có công với cách mạng và con của họ theo quy định của Nhà nước
- Sinh viên thuộc diện ưu đãi mà cùng một lúc học ở nhiều trường (hoặc nhiều khoa trong một trường) thì chỉ được hưởng chế độ ưu đãi mức cao nhất tại một trường
- Không áp dụng chế độ trợ cấp hang tháng đối với sv thuộc diện ưu đãi mà hưởng lương hoặc sinh hoạt phí khi đi học.
- Không áp dụng chế độ ưu đãi GD-ĐT đối với SV thuộc diện ưu đãi trong trường hợp sau:
' Đang học tại các cơ sở GD thường xuyên
' Đã hưởng chế độ ưu đãi GD-ĐT ở một cơ sở đào tạo nay tiếp tục học thêm ở một cơ sở đào tạo khác cùng cấp và trình độ đào tạo
' Đang học ở nước ngoài
Hàng năm trường ĐH GTVT đều tổ chức xét và trao học bổng, trợ cấp XH đến SV đủ điều kiện và theo quy định
Học bổng khuyến khích được cấp theo từng kỳ và cấp 10 tháng trong năm học
Trường ta áp dụng học bổng chính sách đối với sinh viên hệ cử tuyển mức học bổng là 360000 đồng/tháng cấp đủ 12 tháng trong 1 năm
Ngoài các học bổng quy định trên trường còn cấp cho những sinh viên có thành tích xuất sắc trong học tập, NCKH và rèn luyện, cho sinh viên có hoàn cảnh thực sự khó khăn nhưng hiếu học
2. Nội dung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo trong Định hướng phát triển kinh tế- xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020 (Tài liệu này ở trang 130,133,132 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI do nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2011)
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.
Mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng cao. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, bảo đảm cơ chế tự chủ gắn với nâng cao trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tập trung đầu tư xây dựng một số trường, khoa, chuyên ngành mũi nhọn, chất lượng cao.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục. Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng các phương thức đào tạo từ xa và hệ thống các trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các chính sách xã hội trong giáo dục.
Liên hệ
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đổi mới toàn diện và phát triển nhanh GD-ĐT trong định hướng phát triển kinh tế xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế của chiến lược phát triển kinh tế XH 2011-2020 trường ĐH GTVT coi việc đổi mới cơ chế quản lý GD, phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt.
Trường ĐH GTVT luôn cố gắng hoàn thiện cơ chế quản lý GD theo quy chế làm việc của trường ban hành kèm theo quyết định số 1345/QĐ-ĐHGTVT ngày 11/7/2011 của Hiệu trưởng trường ĐHGTVT trên nguyên tắc làm việc
Trường ĐH GTVT làm việc theo chế độ thủ trưởng, mọi hoạt động của nhà trường phải tuân thủ theo quy định của pháp luật và quy chế làm việc của nhà trường. Cán bộ công chức thuộc nhà trường phải giải quyết, xử lý công việc theo đúng trình tự, thủ tục, phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền
Nhà trường tiến hành HĐH công cụ quản lý, ứng dụng CNTT trong quản lý giáo dục,(VD:quản lý hồ sơ cán bộ công nhân viên, lưu trữ các văn bản quy phạm, trình tự làm việc....)
Đối với khối giảng viên nhà trường thành lập ban thanh tra giảng dạy để kiểm tra việc lên lớp..
Kiểm tra việc thực hiện quy chế thi học kỳ , thi lại các hệ
Đôn đốc việc kiểm tra vào điểm, nộp điểm tại các VPK và Viện
Kiểm tra giờ giấc, hiệu quả làm việc của khối cán bộ quản lý giáo dục
Với cơ cấu tổ chức của ban thanh tra gồm phụ trách từng khoa viện về lĩnh vực đào tạo nên ban thanh tra đã cập nhật được thông tin về đào tạo một cách kịp thời tại cơ sở
Toàn ban thanh tra đều thực hiện nghiêm chỉnh kế hoạch thanh tra để đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong GD_ĐT
Nhà trường phân cấp hợp lý giữ các khoa, bộ môn và ban hành Quy trình làm việc của trường để xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ quản lý GD và nhiệm vụ, đạo đức nghề nghiệp và chất lượng giáo dục.
Để đào tạo, bồi dưỡng, kiện toàn đội ngũ giảng viên nhà trường thường xuyên mở các lớp tập huấn, gửi đi làm NCS nước ngoài, đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ trong nước....
Đối với cán bộ quản lý trong nhà trường thì năm nào cũng có tập huấn nâng cao nghiệp vụ, bồi dưỡng chuyên môn trong hoặc ngoài nước
Như vậy trường ĐHGT đã và đang khẳng định vai trò là một trong những đơn vị đi đầu của ngành GD, tự hào đào tạo ra những chủ nhân tương lai của đất nước ngày càng chất lượng
3. Những nhiệm vụ và giải pháp Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo được nêu trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (Tài liệu này ở trang 216,217, 218 168 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI do nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2011)
Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ. Tiếp tục phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hoá đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề. Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, đặc biệt đối với người bị thu hồi đất; nâng cao tỉ lệ lao động qua đào tạo. Quan tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với người và gia đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với đổi mới cơ chế tài chính. Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý mục tiêu, chất lượng giáo dục, đào tạo. Phát triển hệ thống kiểm định và công bố công khai kết quả kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo; tổ chức xếp hạng cơ sở giáo dục, đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra; kiên quyết khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, đào tạo. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo
Liên hệ:
Để tiến lên CNXH, hòa mình vào công cuộc CNH-HĐH là trường Đại học – nhất là với một trường hàng đầu trong cả nước thì nhiệm vụ đổi mới căn bản GD-ĐT là cấp bách, cần thiết theo xu hướng hiện đại.
Để làm được điều này chúng ta cần phải tích cực đổi mới chương trình, phương pháp dạy học cũng như phương thức kiểm tra-đánh giá theo hướng hiện đại, phải được cập nhập nhanh chóng theo nhu cầu xã hội, xu hướng phát triển của thế giới.
Ngày nay, trong môi trường ĐH chúng ta phải đào tạo được những con người có trí thức, có kỹ năng, có lối sống tư duy sáng tạo, năng động, tự tìm tòi giải quyết vấn đề. Họ cần phải đào tạo ngay từ khi bước chân vào trường...Như thế, thì chúng ta mới phải đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy người học làm trung tâm và giáo viên chỉ là người hướng dẫn. Tránh kiểu giảng dạy truyền thống: thầy truyền tất cả kiến thức, học sinh ghi chép và học thuộc lòng mà không có một sự tư duy, sáng tạo tìm tòi. Chúng ta phải chỉ đường cho SV đi và chính SV đi trên con đường đó với những khám phá, trải nghiệm và sáng tạo.
Thêm vào đó để đánh giá những SV thực sự có năng lực thì việc kiểm tra đánh giá phải thực hiện một cách nghiêm ngặt từ khâu ra đề - trông thi-coi thi. Đối với trường chúng ta, theo xu hướng mới áp dụng đào tạo theo tín chỉ thì việc cho điểm thành phần là một khâu hết sức quan trọng, bao gồm các yêu cầu: đi học, kiểm tra, bài tập lớn, thảo luận...Ngoài ra, để tránh gian lận trong thi cử thì trường cũng áp dụng nhiều cách thức thi: trắc nghiệm, tự luận, vấn đáp...=> kết quả thi hầu hết đều khách quan và đúng với thực lực của sinh viên.
Ngoài ra, trường ĐH là cái nôi sản sinh ra nhân tài, là nguồn lao động chất lượng cao trong XH, vì thế chúng ta cần phải cập nhập xu thế phát triển của xã hội, những ngành nghề được chú trọng cũng như cũng phải có tầm nhìn. Trường ta là trường đầu ngành về các ngành nghề GTVT cho cả nước chúng ta đã, đang và sẽ đáp ứng ngày càng cao nhu cầu với việc đào tạo SV chất lượng cao, chương trình tiên tiến, áp dụng CNTT trong giảng dạy cũng như cho sinh viên tiếp thu những thành tựu của khoa học công nghệ, GTVT trên thế giới. Và một điều thực sự quan trong là chúng ta đang dần thực hiện tốt việc ĐT theo hệ thống tín chỉ. Trong trường, SV rất năng động và linh hoạt về việc chọn thời gian học cho bản thân, theo phương pháp này giáo viên là người hướng dẫn và SV là người thực hiện.
Để thực hiện tốt giáo dục không đơn giản là lối truyền đạt kiến thức để sinh viên có thể ghi chép mà đó là những SV học được gì, sáng tạo tư duy như thế nào qua sự hướng dẫn của giáo viên. Để làm được điều này GV nên thường xuyên trao dồi kiến thức, KHKT để có thể hướng dẫn các em cập nhật được với những thông tin GD hiện đại nhất.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top