Bài làm
Cảm nhận khổ thơ 5&6 của bài thơ Sóng.
Mở bài
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, cũng là gương mặt đáng chú ý của nền thơ Việt Nam hiện đại. Bản sắc thơ Xuân Quỳnh tươi tắn, hồn hậu và nồng nhiệt. Nó là tiếng lòng của một tâm hồn gắn bó thiết tha với cuộc đời, con người, khao khát tình yêu và hạnh phúc bình dị đời thường. Vì thế, thơ tình yêu là một mảng đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sinh thời Xuân Quỳnh đã có một số bài thơ tình xuất sắc như: Thơ tình cuối mùa thu, Tự hát, Thuyền và biển... Trong đó, bài thơ "Sóng" được xem là nổi bật hơn cả. Bài thơ này là tiếng thơ bày tỏ trực tiếp những khát khao sôi nổi, mãnh liệt mà chân thành, tự nhiên của một trái tim phụ nữ trong tình yêu. Hình tượng "sóng" trong bài thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu:
(dẫn lại hai khổ thơ)
Bài thơ "Sóng" được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), lúc đó XQ mới 25 tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất hay về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Ta gặp Xuân Diệu trong thi đàn với chất men say tình yêu mãnh liệt, nồng nàn của người tự cho là "kẻ uống tình yêu đến dập môi". Ta gặp Nguyễn Bính "người nhà quê" chân thật, da diết... và thật bất ngờ khi ta gặp nữ sĩ với tâm hồn dạt dào và say đắm trong tình yêu. Bài thơ in trong tập thơ "Hoa dọc chiến hào".
HT sóng và em
Hình tượng trung tâm của bài thơ là "Sóng". Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống trong thơ ca là lấy sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp nối truyền thống văn học nhưng "sóng" của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng muôn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là "em". "Em" cũng là "sóng" mà "sóng" cũng là "em". "Sóng" là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. "Sóng" và "em" vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào nhau. Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Với hình tượng "sóng", Xuân Quỳnh đã tìm đuợc một cách thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Với cấu trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ.
PT khổ 5
Sau khi nêu lên đặc điểm của những con "sóng" cũng là đặc điểm của tình yêu. Sang khổ năm, cũng từ hình tượng sóng Xuân Quỳnh nhận thức thêm một đặc trưng nữa của tình yêu là nỗi nhớ. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ.
"Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức".
Đây là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong bài, 6 câu thơ đứng giữa bài thơ, như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của bào thơ. Bốn câu đầu cái tôi trữ tình nhập vào sóng để giãi bày tâm sự. Hai câu sau cái tôi trữ tình tách ra để bày tỏ lòng mình, nhập vào rồi tách ra như vậy tuy hai mà vẫn là một trong một dòng cảm xúc tuôn chảy.
Tình yêu lứa đôi thường được biểu hiện bằng nhiều trạng thái tình cảm và nỗi nhớ là tình cảm tiêu biểu nhất. Tất nhiên trong cuộc đời, khi xa cách sẽ có nhiều nỗi nhớ: nhớ cha mẹ, nhớ anh chị, nhớ bạn bè,... Trong thơ, nỗi nhớ của tình yêu có nhiều sắc thái riêng biệt. Nỗi nhớ là chứng tích cho một tình yêu đích thực. Hàn Mặc Tử có ý thơ đẹp:
"Khi xa cách không gì bằng thương nhớ".
Ca dao có không ít câu bộc lộ nỗi nhớ trong tình yêu:
"Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa"
Hoặc "Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than".
Trong VHTĐ, người xưa cũng từng có nỗi nhớ trong tình yêu:
"Nhớ chàng như mảnh trăng đầy
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm".
Trong T.Kiều cũng từng có nỗi nhớ:
"Sầu đông càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại môt ngày dài ghê".
Trong VHHĐ, nỗi nhớ t/y không ít, như Xuân Diệu:
"Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi".
"Tả mây tả cát sao bằng
Tả anh thương nhớ lòng giăng vạn trùng" (Đêm trăng Hắc Hải)
Xuân Quỳnh cũng vậy, bà đã nhập vào sóng để nói lên nỗi nhớ của mình:
"Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức".
Trong thơ XQ, nỗi nhớ được diễn tả thật độc đáo và sáng tạo. Dù ở không gian nào: "dưới lòng sâu" âm thầm hay "trên mặt nước" dữ dội; Dù ở thời gian nào "ngày" hay "đêm", sóng vẫn "nhớ bờ", sóng vẫn "bồn chồn thao thức và không ngủ được". T/giả đã lấy không gian và thời gian để đo nỗi nhớ của em làm cho nỗi nhớ trở nên mãnh liệt, chân thành. Nhà thơ đã vô cùng tinh tế khi mượn một h/tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu.
Từ hiện tượng sóng xôn xao suốt ngày đêm trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình yêu của mình: "Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức". Một sự so sánh tuyệt vời: sóng nhớ bờ bất kể ngày đêm thì em nhớ anh cả khi tĩnh lẫn trong mơ. Cái "thức" ở trong mơ đã nói lên được sự thật của nỗi nhớ. Nỗi nhớ không chỉ chiếm lĩnh ý thức mà còn ăn sâu vào tiềm thức. "Còn thức" tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh... Ở đây Xuân Quỳnh còn dùng từ " lòng" thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. Lòng là chốn sâu kín nhất của tâm hồn, lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà là gan, là ruột của người phụ nữ rồi. "Lòng em nhớ đến anh" là câu nói giản dị, chân thành mà nồng nàn, da diết. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bật nhất của thi ca hiện đại Việt Nam.
PT khổ 6
Tình yêu sôi nổi nồng nhiệt của trái tim người phụ nữ cũng lại là một tình yêu chân thành, trong sáng, một tình yêu hết mình và đòi hỏi sự duy nhất tuyệt đối, sự gắn bó thủy chung:
"Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương"
Hình như thể hiện tình yêu bằng nỗi nhớ vẫn chưa yên tâm, mà phải diễn đạt sao đây cho đủ, cho đến tận cùng, vì thế khổ thơ này xuất hiện. Những cặp từ trái nghĩa "Dẫu xuôi", "dẫu ngược", "phương Bắc", "phương Nam" là những từ cụ thể nói lên độ dài và những cách trở trong tình yêu. Dân gian hay nói: " xuôi nam ngược bắc", Xuân Quỳnh đã diễn đạt ngược lại để khẳng định: dù cuộc đời, trời đất có thay đổi, có quay cuồng, đảo lộn, thay phương đổi hướng thì tình yêu của em cũng chỉ dành cho một người là anh mà thôi. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch "một phương" thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Đến đây trong lời thơ không còn em và sóng, chỉ còn em và anh – với tình yêu:
"Chỉ còn em và anh
Cùng tình yêu ở lại"
(Thơ tình cuối mùa thu)
Câu thơ giống như một lời thề. Thề rằng dù em phải ngược xuôi vất vả gian truân, lên thác xuống ghềnh cũng chỉ có anh là người duy nhất. Anh đã dành "hệ qui chiếu" của đời em. Câu thơ giản dị mà sâu sắc hơn tất cả mọi lời vàng đá. Không gian thì có bốn phương tám hướng, nhưng tình yêu chỉ chấp nhận một phương. Có lẽ đây cũng là quan niệm về tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh: tình yêu phải gắn với lòng chung thủy. Tình yêu không đơn thuần là tình yêu mà tình yêu đi liền với cái tốt, cái đẹp, cái cao cả là nỗi nhớ mãnh liệt, lòng thủy chung tuyệt đối. Khổ thơ toát lên vẻ đẹp của tình yêu đầy nữ tính kín đáo, dịu dàng, táo bạo, mãnh liệt bởi nhiều khát khao và đam mê nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của người phụ nữ phương Đông và người phụ nữ Việt Nam yêu tha thiết, chân thành và luôn hướng tới hôn nhân. Những câu thơ như được vắt ra từ chính cuộc đời Xuân Quỳnh đầy đau thương, mất mát, hụt hẫng về tình cảm. Cảm thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của nữ sĩ.
Nhận xét
Khổ thơ 5 và 6 là hình tượng sóng và em sóng đôi, hòa làm một, soi chiếu vào nhau cộng hưởng. Sóng chính là nỗi lòng của em và em là hiện thân của sóng. Sóng và em đồng hiện tạo nên chiều sâu nhận thức độc đáo. Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu: "Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được". Đọc xong bài thơ "Sóng" ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.
Kết bài
Hình tượng "sóng" là ẩn dụ độc đáo khiến cho lời thơ vừa thực, vừa lãng mạn cùng thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởngcủa những con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gởi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình tượng sóng-bờ, anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.
"Sóng" là bài thơ tình yêu hay trong chùm thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh. Bài thơ thể hiện khát vọng nồng nàn tha thiết, sâu lắng thủy chung, một t/yêu vừa mang tính dân tộc vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Tác giả nói với người, nói với mình về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát vọng muôn thuở của con người.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top