cam khedi han 21 den het

3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 21 : Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược(Câu đối đền thờ Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang)




 Hai hôm sau đoàn người của Vương Bá, Chu Tái Kênh tới Thành-đô. Ngô Hán cùng Vương Bá làm lễ trao quyền. Ngay tối hôm đó, Vương mời bọn Chu Tái-Kênh với các nghĩa đệ hội họp. Chu Tái-Kênh đề nghị: 
– Các nghĩa đệ theo Thứ-sử, thì một là vì muốn giúp nghĩa huynh. Hai, là muốn có chút danh với đời. Bây giờ đương lúc đắc chí. Thứ-sử hãy giao binh quyền cho các nghĩa đệ trước. 
Năm nghĩa đệ của Vương Bá nhìn Chu Tái-Kênh với con mắt biết ơn. Vương Bá gật đầu. Trần Năng từng cầm quân đánh Thục. Bà hiểu hết tình hình. Bà nói: 
– Một giải phía Bắc gồm Dương-bình-quan, Kiếm-các, Giang-du, Cẩm-dương nên trao cho Ngô tướng quân. Phía đông từ Ba-trung đến Phong-đô, Bạch-đế nên trao cho Vũ tướng quân. Phía tây vùng Kiên-định, nên trao cho Lê tướng quân. Phía nam từ Long-xương trở xuống giao xin trao cho Hà tướng quân. Còn một giải Hán-nguyên thì nhất định phải trao cho Phạm tướng quân. 
Vương Bá gật đầu: 
– Lời Y-tiên thực hợp ý tôi. Chỉ hiềm một điều, các nghĩa đệ đi hết. Trong tay tôi không còn cao thủ giữ Thành-đô. 
Ngô Bình cười: 
– Đại ca quên mất ba vị đây sao? Bàn về võ công, bọn đệ không thể nào so với y tiên. Chứ đừng nói hai vị Chu, Đinh phu nhân. 
Vương Bá nghĩ ra: 
– Ta quên mất. 
Vương Bá dành cho bọn Chu Tái-Kênh một ngôi nhà lớn, trước đây là cung điện Thái-hậu đất Thục. Ba người có đủ kẻ hầu, quân lính sai phái. Các tướng sĩ Hán ở Thành-đô thấy ba người là khâm sai của Mã thái-hậu, võ công cao cường, họ đều kính nể. 
Chiều hôm ấy, Vương Bá thân tới thăm ba người. Y nói với Chu Tái-Kênh: 
– Ngô Hán sai cầm binh phù mời tôi tới Hán-nguyên hội, bàn truyện đánh Vương Nguyên. Vương Nguyên cùng hai con Vương Lộc, Vương Thọ còn giữ được bảy thành phía Nam. Tôi muốn mời ba vị cùng đi. 
Trần Năng đáp: 
– Như thế cũng được. Có lẽ chúng tôi phải giả trai, mặc quần áo như ba võ tướng. Mọi người đều phải ăn mấy trái ổi xanh, để tiếng khàn khàn như đàn ông. Ngô Hán dễ gì nhìn ra. 
Hôm sau Vương Bá dẫn theo đoàn tùy tùng, cùng bọn Chu Tái-Kênh đến Hán-nguyên. Ngô Hán ra trước dinh đón vào. Liếc mắt nhìn qua, Trần Năng thấy khá nhiều tướng Hán, bà quen mặt trong thời gian theo đạo Kinh-châu. Mấy tháng ở Lạc-dương, bà nghe Chu Tường-Qui kể rằng: Hồi anh hùng Lĩnh-Nam phản Hán, trợ Thục. Một số đại tướng Hán bị Trưng Nhị, Phương-Dung bức bách phải đầu hàng Thục, mà lòng họ không muốn. Hoài-nam vương tâu với Quang-Vũ không nên giết hại vợ con họ như luật định. Trái lại âm thầm cấp phát lương thảo như thường lệ. Một mặt sai mật sứ đến an ủi họ rằng triều đình lúc nào cũng hậu đãi họ. Thiên tử biết họ bị bức bách phải hàng Thục. Vậy họ cứ ẩn nhẫn, khéo léo nắm giữ binh quyền. Đợi đại binh đánh vào Thục, sẽ làm nội ứng. Hồi Công-tôn Thi đầu hàng Hán, mở cửa cho Ngô Hán đem quân vào Thục. Các hàng tướng hưởng ứng, đem thành trì dâng Hán. Hóa cho nên Vương Nguyên có tài kinh thiên động địa cũng bị bại. 
Bà liếc mắt nhìn, thấy đủ mặt Vương Hữu-Bằng, Chu Á-Dũng, Lý Thái-Hiên, Lưu Thương, Cáp Diên. Bà lo lắng trong lòng: 
– Võ công bọn này không có gì đáng sợ. Song tài dùng binh của chúng thực đáng nể. Chúng đã chinh chiến trên hai mươi năm. Bất cứ một tên nào, cũng có tài đại tướng cầm quân. Trong khi phía Lĩnh-Nam, các tướng tuy có võ công cao thực, mà tài dùng binh khó bằng bọn chúng. Phùng Vĩnh-Hoa tuy có tài dùng binh, mưu thần chước thánh hơn Ngô Hán. Mưu kế là một truyện, tướng có đủ tài thi hành mưu kế đó hay không mới là điều quan trọng. 
Bà nhìn sang phía các hàng tướng Thục, chỉ thấy Công-tôn Thi ngồi với một số người rất lạ. Bà không ngạc nhiên, vì Sa-Giang đã cho biết: Khi Công-tôn Thi đầu Hán. Các tướng Thục chia làm hai. Một phần theo Vương Nguyên, chống trả đến cùng. Đa số đều tử trận. Một số theo Công-tôn Thi đầu Hán, được Quang-Vũ phong chức tước, cử đi trấn nhậm các vùng khác. Một số ít trở về Thiên-sơn ẩn dật. 
Trước trướng bày hương án, khói lên nghi ngút. Một văn quan, áo dài, mũ rộng đứng trước hương án, tay cầm cuộn giấy. Y hô lớn: 
– Có thánh chỉ. 
Tất cả tướng sĩ hiện diện đều quì xuống. Viên văn quan mở trục giấy, tuyên đọc chiếu chỉ Quang-Vũ. Trong chiếu chỉ, Quang-Vũ phong cho: Đặng Vũ làm Cao-mật hầu, lĩnh chức thái phó. Ngô Hán làm Quảng-bình hầu lĩnh ấn Đại tư-mã thay Đặng Vũ. Chiếu chỉ truyền Ngô Hán thống lĩnh binh mã Ích-châu, Hán-trung, bình định phần đất phía nam do Vương Nguyên chiếm cứ. Sau đó đánh chiếm Lĩnh-Nam. 
Ngô Hán hướng về Lạc-dương lạy tạ. Y lĩnh ấn kiếm đặt lên án thư, nói: 
– Bản soái mời các tướng tới đây bàn việc bình định đất Thục, và đánh xuống Lĩnh-Nam. Cùng xuất phát với chúng ta, còn có đạo binh từ Kinh-châu đánh vào Trường-sa, Quế-lâm do Phục-ba tướng quân Mã Viện chỉ huy. Mặt khác, đạo binh Mân, Việt do Phiêu-kị Đại tướng-quân Lưu Long và Lâu-thuyền tướng-quân Đoàn Chí đánh xuống Nam-hải. 
Ngưng lại một lúc, y nhìn Công-tôn Thi nói: 
– Phía Nam Ích-châu còn tới bảy châu, quận, do Vương Nguyên cát cứ. Vương Nguyên là người văn võ toàn tài, lại thêm đạo binh Lĩnh-Nam trợ chiến. Cho nên suốt một năm qua, chúng ta không sao đánh được. Vậy các vị có cao kiến gì, xin cùng bản soái bàn định. 
Tham quan Vương Hữu-Bằng bàn: 
– Vương Nguyên với hai con Lộc, Thọ tuy tài thực. Song binh tướng bất quá hơn ba vạn. Lương thảo thiếu hụt. Bây giờ xin Vương Nguyên-soái xuất hai đạo kỳ binh, vượt Kim-sa-giang, đánh vào Tượng-quận. Tượng-quận tất cầu cứu với Đại tư-mã Lĩnh-Nam Đào Kỳ. Trong khi Đào Kỳ mải cứu Trường-sa, Nam-hải, không còn quân viện Hàn Bạch. Hàn Bạch tất rút quân về tự phòng. Bấy giờ, Nguyên-soái chỉ cần đánh một trận, bình xong Ích-châu. Ích-châu bình, Tượng-quận rung động. Nguyên soái cất đại binh tất chiếm được. 
Chu Tái-Kênh nói nhỏ vào tai Trần Năng: 
– Hỏng to rồi! 
Đô-đốc Lý Thái-Hiên nói: 
– Tôi cũng nghĩ như thế. Song Lĩnh-Nam nhân tài như sao trên trời. Cứ như trước đây, Đặng Vũ, Mã Viện với ta đánh Thục không được. Lĩnh-Nam vương đem một số bằng hữu về trợ chiến. Thục đại bại. Lại khi họ phản Hán, chỉ hơn mười lăm ngày họ chiếm Ích-châu, Hán-trung, Kinh-châu, Trường-an. Bây giờ chúng ta tiến quân trước, e Lĩnh-Nam dồn hết lực lượng cứu Tượng-quận thì chúng ta nguy mất. Theo ý tôi, chúng ta hãy đánh chiếm bảy châu, quận Ích-châu đã. Chờ cho hai đạo kia đánh Nam-hải, Quế-lâm, khiến Trưng Trắc dồn quân lên cứu hai mặt đó. Bấy giờ chúng ta hãy đánh Tượng-quận. 
Chu Tái-Kênh thì thầm vào tai Vương Bá mấy câu. Vương Bá gật đầu đồng ý. Y đứng dậy chỉ vào Công-tôn Thi nói: 
– Chiếu chỉ của thiên tử ban ra cho Nguyên-soái đánh Lĩnh-Nam. Còn tôi trấn thủ Ích-châu. Vậy việc đánh bảy châu, quận Ích-châu, do Hán-trung vương đây. Binh pháp Tôn Tử, thiên Dụng gián nói rằng: 
Phàm hưng sư thập vạn, xuất chinh thiên lý. Bách tính chi phí. 
Công gia chi dụng. Nhất phí thiên kim, nội ngoại kinh động. 
Nghĩa rằng: Phàm khi hùng binh mười vạn. Xuất chinh xa nghìn dặm. Trăm họ chịu chi phí. Công quĩ hao tổn. Trong ngoài kinh động... Thế mà chúng ta án binh chờ Kinh-châu, Thương-ngô, Uất-lâm. Nếu ba nơi kia cũng án binh chờ ta, biết bao giờ mới thành công? Nay bảy châu, quận Ích-châu trong tay Vương Nguyên như đèn trước gió, như hoa gặp bão. Quân của chúng chưa tới ba vạn. Chỉ cần Công-tôn Vương-gia đây xuất binh đất Thục đánh cũng đủ. Còn Đại tư-mã cử đại binh đánh Tượng-quận. Ba mặt giáp công. Tượng-quận bị chiếm. Bấy giờ Đại tư-mã chỉnh đốn binh mã đánh Giao-chỉ bắt Trưng Trắc, lập công đầu. Đây là dịp may hiếm có, xin Đại tư-mã đừng để Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí ra binh trước. Vả binh Tượng-quận khoảng năm vạn. Dốc cả binh các quận, huyện, được năm vạn nữa. Trong khi binh mã của Đại tư-mã lên tới hai mươi vạn, thêm binh của Hán-trung vương mười vạn. Cái lẽ thắng bại đã định rồi vậy. 
Ngô Hán từng chỉ huy Vương Bá. Y còn lạ gì Vương nữa. Y đang muốn dùng kế của Lý Thái-Hiên. Bây giờ Vương lấy chiếu chỉ Quang-Vũ, lấy đạo lý binh thư: Tiết kiệm chi phí, đẩy Ngô phải xuất thân đánh Lĩnh-Nam. Quân Lĩnh-Nam, y không sợ. Điều y sợ chỉ vì Lĩnh-Nam nhân tài nhiều. Y mới được phong Đại tư-mã, thống lĩnh trọng binh toàn quốc. Không lẽ y lại chịu lui ? Y nghĩ rằng: Quân của y toàn quân thiện chiến. Trong khi Lĩnh-Nam chỉ có năm vạn binh thiện chiến. Quá nửa người Hán. Còn lại toàn binh mới mộ, tướng mới cầm quân. Y không sợ, quyết định: 
– Trước đây Lĩnh-Nam vương đánh Thục bằng bốn mũi : Độ-khẩu, Kim-sơn, Kinh-châu, Hán-trung. Nay ta đánh Lĩnh-Nam cũng bằng hai đạo kỳ binh. Một đạo vượt Kim-sơn, đổ xuống Xích-thủy. Một đạo vượt Ô-giang. Hai đạo này thình lình đổ ra, tất Đào Kỳ đem quân Quế-lâm lên nghinh chiến. Bấy giờ ta cho quân vượt Kim-sa-giang đánh xuống Tượng-quận. Đào Kỳ sẽ bó tay, không còn quân cứu viện. Tượng-quận chỉ có năm vạn binh. Ta đổ hai mươi vạn binh xuống đánh, hẳn phải chiếm được. 
Các tướng đều khâm phục. Ngô Hán nói với Công-tôn Thi: 
– Việc đánh bảy châu quận Ích-châu, để Hán-trung vương. Ích-châu được phong cho Vương-gia. Vương Nguyên là giặc trong nhà, để Vương-gia lo liệu. Xin Vương-gia cho biết tôn ý. 
Công-tôn Thi nghe lời Lê Đạo-Sinh, phản cha, hại anh, những tưởng được kế nghiệp cha, làm vua Ích-châu, Hán-trung. Chỉ phải chịu khuất nhận sắc phong của Quang-Vũ. Không ngờ, Kinh-châu vào tay Vũ Hỷ. Hán-trung, Thành-đô vào tay Lê Đạo-Sinh. Cuối cùng Lê Đạo-Sinh cũng phải trao thành trì cho Ngô Hán, về lĩnh chức Lĩnh-Nam công, trong khi Lĩnh-Nam nằm trong tay hoàng đế Trưng Trắc. Vũ Hỷ được phong hầu, mà đất thụ phong vẫn còn ở trong tay người Việt. Y phải trao Kinh-châu do Mã Viện trấn giữ. 
Từ hồi ấy đến giờ, Công-tôn Thi đem tướng sĩ thuộc quyền, đi trước, đánh người nhà. Ngô Hán đi sau tiếp ứng. Đánh đến đâu, Ngô lại cho người tiếp nhận đến đó. Binh hao, tướng tổn là binh của y, mà vẫn chỉ được cái danh Hán-trung vương hão huyền. Bây giờ Ngô Hán lại đẩy y phải lâm chiến, đánh nốt bảy châu quận trong tay Vương Nguyên. Y đã linh cảm thấy, sau khi diệt Vương Nguyên, bản thân y khó toàn. 
Y miễn cưỡng đứng lên nói: 
– Xin Đại tư-mã cứ yên tâm. Quân mã của tôi trên mười vạn người. Chỉ cần Đại tư-mã đánh xuống Tượng-quận. Quân Lĩnh-Nam rút đi, chúng tôi chiếm lại bảy châu quận như trở bàn tay. 
Ngô Hán hài lòng tiếp: 
– Đạo Ô-giang thế nào cũng gặp trọng binh của Đào Kỳ từ Quế-lâm cứu viện. Vậy tham quân Vương Hữu-Bằng làm chủ tướng. Đô đốc Lý Thái-Hiên làm phó tướng. Khi vượt Ô-giang đánh vào Quế-lâm mà thấy quân Đào Kỳ tới, phải đóng đồn chắc chắn cự địch. Mục đích cầm chân đạo binh trừ bị của Đào Kỳ. Nhược bằng Đào Kỳ không gửi quân tiếp viện, thì đánh thẳng vào bắc Tượng-quận, hợp với đạo binh của Chu Á-Dũng. Tham quân lĩnh năm vạn bộ binh, ba vạn kị binh, cùng với năm vạn thủy binh. 
Ngô Hán trao binh phù cho Chu Á-Dũng: 
– Tướng quân mang ba vạn bộ binh, lên núi Kim-sơn, xuất phát từ Mỹ-cơ vượt Trường-giang vào Kim-sa-giang đánh Chiêu-thông. Từ Chiêu-thông đánh thẳng về Bồ-lăng, uy hiếp Khúc-tĩnh. 
Ngô Hán lấy binh phù trao cho Lưu Thương: 
– Đạo binh thứ nhất do Hoành-dã đại tướng-quân Sơn-tang hầu vượt Kim-sa-giang đánh thẳng về Khúc-tĩnh. Quân-hầu lĩnh năm vạn bộ binh, ba vạn thủy binh, ba vạn kị binh. 
Ngô Hán liếc nhìn Cáp Diên: 
– Hổ-nha đại tướng-quân An-bình hầu cùng tôi mang đại quân bức Mễ-dịch, Độ-khẩu, đánh thẳng vào Tượng-quận. Nếu Phùng Vĩnh-Hoa rút đạo binh Tượng-quận giúp Vương Nguyên về. Chúng ta bắt Vương Nguyên không khó. Ngược lại y thị để đạo binh Tượng-quận lại giúp Vương Nguyên thì Tượng-quận bỏ trống. Chúng ta lấy Tượng-quận như thò tay vào túi lấy đồ. Hôm nay là ngày 10 tháng hai. Hẹn đúng ngày 16 tháng ba tất cả đồng loạt tấn công vào Lĩnh-Nam. Xin Hoài-dương hầu chuẩn bị binh mã. Khi Hán-trung vương đánh đến đâu, tiếp quản thành trì. Để Vương-gia có thể rảnh tay tiến binh. 
Vương Bá biết Ngô Hán nhận chỉ dụ của Quang-Vũ, xua Công-tôn Thi xung vào chỗ chết đánh chiếm thành trì. Chiếm rồi, Hán tiếp quản. Rút cục Công-tôn Thi vẫn tay trắng. 
Tan buổi họp, Vương Bá dẫn Chu Tái-Kênh, Trần Năng, Đinh Xuân-Hoa trở về Thành-đô. Vương Bá thở dài: 
– Ngô Hán quả có tài dùng binh. Tôi ước tính, dù hai đạo Kinh-châu, Nam-hải không xuất binh. Y cũng chiếm được Tượng-quận. 
Trần Năng lắc đầu: 
– Ngô Hán cầm quân đã lâu. Kinh nghiệm có thừa. Sau khi bị chúng tôi lừa một trận, y khôn ra. Trước đây, y đã tiến sát Thành-đô. Sơ xuất một chút, bị chúng tôi lừa, chỉ còn một người, một ngựa về Trường-an chịu tội. Bây giờ y thiết kế làm như đánh Tượng-quận. Thực ra Tượng-quận là hư. Bảy châu quận Ích-châu còn lại mới là thực. Y đã thông minh lại tài trí, nay thấy Thiên tử ân sủng Quân-hầu, nghi ngờ y. Gì mà y không hiểu? Cho nên kế hoạch y dự trù vậy, mà không phải vậy. Cứ suy ngay một việc: Y cầm quân bấy lâu, y biết rõ tình hình Vương Nguyên, Tượng-quận. Thế mà trong buổi họp, y không trình bày tình hình địch. Rõ ràng y sợ sau này Quân-hầu tranh công với y. Vậy tốt hơn hết, Quân-hầu phải cử tế tác dò xét tình hình bên địch, cùng tình hình Ngô Hán một lúc, đến khi cần thì ra tay. 
Vương Bá ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói: 
– Đúng như lời phu nhân nhận xét. Bây giờ ta phải cử người dọ xét tình hình Ngô Hán, Vương Nguyên và Tượng-quận. Tình hình Ngô Hán cũng dễ dàng thôi. Hàng ngày tôi cứ phải cử người áp giải lương thực cho y. Vận lương quan toàn người thân tín của tôi. Họ theo dõi tình hình y, trình với tôi. Còn dọ thám Vương Nguyên, Tượng-quận. Tôi nhờ ba vị. Không biết ba vị có nhận cho không? 
Chu Tái-Kênh nghe Vương Bá đề nghị. Bà nghĩ thầm: 
– Ta đang muốn vào Tượng-quận liên lạc với Phùng Vĩnh-Hoa. Ngặt chưa có cớ. Bây giờ ngươi đề nghị với ta. Thực là gãi đúng chỗ ngứa. 
Ba nghĩ ngợi một lúc, rồi nói: 
– Chúng tôi nhận chỉ dụ của Thái-hậu vào Thục giúp Hán đánh Lĩnh-Nam. Thái hậu không nói rõ giúp Ngô Hán hay giúp Quân-hầu. Triều đình đã nghi ngờ Ngô Hán, thì chúng tôi giúp Quân-hầu là phải. Bây giờ chúng tôi lên đường dọ xét tình hình. Tôi chỉ có lệnh bài của Thái-hậu. Vậy Quân-hầu cấp cho chúng tôi mấy lệnh bài. Chúng tôi là đàn bà, trà trộn vào các châu, quận của Vương Nguyên thực ít ai ngờ. Chúng tôi sẽ cử người gửi tin tức về cho Quân-hầu. Từ vùng của Vương Nguyên, chúng tôi sang phía Tượng-quận cũng dễ thôi. Sau khi dò xét tình hình Tượng-quận, chúng tôi trở về đây phúc trình với Quân-hầu, trước ngày 16 tháng ba. 
Vương Bá mừng rỡ, sai lấy lệnh bài, cùng vàng bạc trao cho Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Trần Năng. Ba người lên đường ngay hôm đó. 
Nhờ lệnh bài của Vương Bá, ba người vượt qua các khu vực đóng quân của Công-tôn Thi dễ dàng. Đại quân Công-tôn Thi đóng ở Hán-nguyên. Từ Hán-nguyên, ba người đi Việt-tây mất một ngày sức ngựa. Chiều hôm ấy tới Việt-tây vào lúc trời nhá nhem tối. Ba người vào thành. Quân Thục tuy bại trận, sức cùng, lực kiệt, nhưng vẫn giữ kỷ luật, không quấy nhiễu dân chúng như quân Hán. Nhìn quân phục, Trần Năng nhận ra quân Lĩnh-Nam với quân Thục đóng chung. Trên cột cờ giữa thành. Cờ Lĩnh-Nam, cờ Thục cùng bay phất phới. 
Chu Tái-Kênh sợ tai mắt tế tác Ngô Hán biết hành tung. Bà dặn Đinh Xuân-Hoa kiếm quán ăn. Chờ trời tối, tìm đến trại quân Lĩnh-Nam hỏi chỗ chú ngụ của Phùng Vĩnh-Hoa. 
Ba người vào quán, cô bán hàng lấy gáo múc ba bát nước chè tươi mời khách. Trần Năng cầm bát vừa định uống, thì một toán năm người lính Thục sập đến. Người ngũ trưởng hỏi Chu Tái-Kênh: 
– Các vị từ đâu mới đến. Xin cho xem thẻ bài. 
Chu Tái-Kênh cười: 
– Chúng tôi từ Thành-đô tới. Còn thẻ bài ư? Chúng tôi không có. 
Người ngũ trưởng liếc nhìn đồng bọn: 
– Như vậy chúng tôi xin ba vị cho khám hành lý. 
Chu Tái-Kênh lắc đầu: 
– Khám ư? Không được đâu. Chúng tôi có nhiều mật thư, mật kế. Lại có cả kiếm, cả ám khí nữa. 
Người ngũ trưởng vẫy tay cho đồng bọn vây xung quanh: 
– Vậy chúng tôi phải mời các vị về dinh tổng trấn. 
Chu Tái-Kênh đứng lên: 
– Được rồi! Nào chúng ta về dinh tổng trấn ăn cơm chiều, nghỉ đêm nay. 
Viên ngũ trưởng ngẩn người ra. Y vẫy tay cho một người lính đi trước. Còn y với bốn người nữa theo sau. Đi gần đến dinh tổng trấn, thì từ phía trước, một toán người ngựa đi tới. Viên ngũ trưởng ra lệnh cho đồng bọn tránh vào một bên. Chu Tái-Kênh vẫn nghênh ngang đi giữa đường. Viên ngũ trưởng nói: 
– Xin các vị tránh đường. 
Chu Tái-Kênh lờ đi như không nghe lời y. Phía trước có hai ngựa đi tới. Trần Năng nhận ra Vương Nguyên với Phùng Vĩnh-Hoa. Bà gọi lớn: 
– Vương sư thúc! Vĩnh-Hoa! 
Hai người đã nhận ra bọn Chu Tái-Kênh. Phùng Vĩnh-Hoa nhảy xuống ngựa chào hỏi. Vương Nguyên đã quen biết với Đinh Xuân-Hoa, Trần Năng. Ông chưa biết Chu Tái-Kênh. Phùng Vĩnh-Hoa giới thiệu: 
– Xin giới thiệu với Vương sư thúc, đây là phu nhân của Khất đại phu. 
Vương Nguyên kính cẩn hành lễ: 
– Đồ tôn Vương Nguyên, kính cẩn bái kiến phu nhân. 
Chu Tái-Kênh biết chồng mình với Thiên-sơn lão tiên là bạn thân. Vì vậy Vương Nguyên coi chồng mình như thái sư bá. Ông mới xưng đồ tôn. Chu Tái-Kênh ngang tàng thực. Song bà chỉ ngang tàng với người cứng rắn. Còn người đã biết điều, lễ phép. Bà tỏ ra dịu dàng với người dưới, với người chịu phép. Bà vẫy tay: 
– Vương tiên sinh chẳng nên đa lễ với mụ nhà quê này. Mụ với Đào vương phi và đệ tử Trần Năng tới đây vì Thục. 
Bà móc túi lấy bức thư của Sa-Giang, nhờ bà chuyển giao lúc chia tay ở Lạc-dương, trao cho Vương Nguyên. Bà quay lại nhìn viên ngũ trưởng. Y đứng bên đường, mở to mắt nhìn bà nói truyện với Vương Nguyên. Y đến trước bà chắp tay tạ lỗi: 
– Tiểu nhân có mắt như mù, không biết núi Thái-sơn. Mong phu nhân đại xá cho tội vô phép. 
Vương Nguyên ngơ ngác hỏi truyện gì đã xảy ra. Trần Năng tường thuật sơ lược. Bà nói với viên ngũ trưởng: 
– Tôi đã được gặp quân Lĩnh-Nam, quân Hán của Đặng Vũ, Ngô Hán. Mà chưa thấy lối hành xử khéo léo, lễ độ trong khi làm phận sự như người. Đúng là quân sĩ của bậc anh hùng có khác. 
Bà móc túi lấy một nén vàng trao cho y: 
– Thưởng cho ngươi, cùng mấy anh em. Cầm lấy, uống rượu với nhau. 
Viên ngũ trưởng không biết địa vị ba phụ nữ mà y định bắt là ai. Chỉ nhìn thấy cử chỉ chúa tướng Vương Nguyên cùng công-chúa Phùng Vĩnh-Hoa. Y cũng hiểu phần nào. Y kính cẩn nhận thưởng, rồi dẫn đồng đội tuần tiễu. 
Về tới dinh, Vương Nguyên cho đánh trống mời tướng sĩ cùng tới họp. Ông giới thiệu từng người một. Chỉ thiếu có Vương Lộc trấn thủ Mỹ-cơ. Vương Thọ trấn thủ Việt-tây. Anh hùng Lĩnh-Nam trợ Thục hiện diện đầy đủ. 
Chu Tái-Kênh tường trình chi tiết những gì tai nghe, mắt thấy ở Lạc-dương, Thành-đô. Kế hoạch Ngô Hán đánh Lĩnh-Nam. 
Vương Nguyên, Phùng Vĩnh-Hoa cũng trầm tư. Trong phòng họp, không khí nặng nề, gần như một con ruồi bay qua, cử tọa đều nghe tiếng. 
Phùng Vĩnh-Hoa ngửng mặt lên trời than: 
– Hai mươi vạn quân Ngô Hán, tôi không sợ, mà sợ thầy trò Lê Đạo-Sinh. Đương nhiên năm đạo quân Ngô đánh xuống Tượng-quận. Tôi phải xử dụng quân Tượng-quận nghinh chiến. Quang-Vũ chỉ dụ cho Ngô Hán dẫn quân nhìn Công-tôn Thi đánh Vương sư thúc. Nhìn Lê Đạo-Sinh đánh với chúng tôi. Sau trận chiến, dù bên nào thắng, y cũng xua quân đánh sang. Giờ này, không thấy bóng dáng thầy trò Lê ở đâu, làm gì? Mà chỉ thấy Ngô xua quân đánh sang. Tôi sợ thình lình thầy trò Lê xuất hiện. 
Trấn-bắc hầu tướng Lê Đông-Giang đứng dậy. Chàng hắng giọng nói: 
– Thưa các vị sư bá, sư thúc, sư huynh, sư tỷ. Hoàn cảnh của chúng ta bây giờ, nước thì nghèo, dân thì ít, mà phải đối phó với đại quân Trung-nguyên. Vì vậy chúng ta đành chấp nhận hy sinh. Trước đây trong thơì gian Cửu-chân vương Đô Dương theo Quang-Vũ. Bấy giờ Hán ít quân, Vương Mãng nhiều quân. Đô Vương-gia tình nguyện hy sinh, dẫn đoàn cảm tử đốt lương thảo địch. Vì vậy Vương Mãng bị bại. Bây giờ chúng ta cũng áp dụng lối đánh đó. Lương thảo của Hán hiện để ở Hán-nguyên, Bồ-lăng. Quân đoàn sáu Tây-vu chúng tôi tình nguyện hy sinh tính mệnh, đột nhập hai nơi đó đốt lương thảo. Lương thảo cạn. Ngô Hán không thể tiến binh được. Mặt khác đã có Chu, Đinh sư bá với Trần sư tỷ ở cạnh Vương Bá, khích y tiếp tế lương thảo chậm trễ. Như vậy Ngô Hán ắt thất bại. Trong khi quân Hán thiếu lương dao động. Chúng ta đánh một trận lớn, thì phá được. Khi Ngô bại, Vương Bá thay thế. Ta không sợ nữa. 
Phùng Vĩnh-Hoa thở phào một tiếng: 
– Chị cũng đang nghĩ như thế. Ngặt vì không biết có tướng nào dám hy sinh không? Vì vậy chưa dám nói ra. 
Phiêu-kị đại tướng-quân Đào Chiêu-Hiển cười: 
– Chị Vĩnh-Hoa! Chị bác học, thì bác học thực. Song chị hay đa nghi. Trong tâm chắc chị nghĩ chỉ mình chị có thể hy sinh mạng sống cho Lĩnh-Nam, còn những người khác thì chưa chắc. Có đúng thế không? 
– Dĩ nhiên chị nghĩ thế. 
Đào Chiêu-Hiển quay lại hỏi các tướng: 
– Nếu cần chết, cho Lĩnh-Nam sống. Ai dám chịu chết? 
Cả phòng đều hô: 
– Tôi! 
Đào Chiêu-Hiển cười: 
– Đấy có phải chị đa nghi không? Chết, đau đớn, ai mà chẳng sợ. Bọn chúng em sợ đau, sợ chết lắm chứ. Nhưng có một thứ đáng sợ hơn, là cái sợ mất nước. Cái sợ bị người Hán cai trị. Cho nên chúng ta ai cũng sẵn sàng chết cho Lĩnh-Nam cả. 
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu: 
– Chị xin lỗi Chiêu-Hiển. Như vậy được rồi. Chúng ta phá Ngô Hán dễ dàng. Ta làm quân sư cho Ngô một thời gian. Ngô hiểu ta, ta hiểu Ngô. Trận đánh này là cuộc đấu trí giữa hai đối thủ biết nhau quá nhiều. 
Bà nói với Trần-gia tam-nương: 
– Trước khi tiến quân, cần giữ căn bản cho vững. Ngô Hán, Cáp Diên, Lưu Thương hăm hở đánh xuống Tượng-quận. Một giải bảy thành từ Độ-khẩu đến Hán-nguyên cần giữ vững. Độ-khẩu đã có Tượng-quận tam-anh. Vậy Trần-gia Tam-nương mỗi người lĩnh mười dàn Nỏ-thần trấn giữ ba thành Đức-xương, Tây-xương, Phổ-khách. 
Bà quay lại hỏi Vương Nguyên: 
– Vương sư thúc! Trước đây sư thúc Công-tôn Khôi cướp vợ, tàn hại cuộc đời sư thúc. Sư thúc sẵn sàng bỏ thù nhà, cứu Thục. Bây giờ tôi xin sư thúc một lần nữa bỏ thù nhà cứu Thục. Mong sư thúc nhận lời cho. 
Vương Nguyên khẳng khái: 
– Bất cứ làm việc gì, cho Thục tồn tại. Tôi đều làm hết. 
Phùng Vĩnh-Hoa chỉ lên bản đồ: 
– Chúng ta phải đối đầu với năm đạo quân. Một là đạo kỳ binh Vương Hữu-Bằng. Hai là đạo của Chu Á-Dũng. Ba là đạo Kim-sa-giang của Lưu Thương. Bốn là đạo Độ-khẩu của Cáp Diên. Năm làø đạo Hán-nguyên của Công-tôn Thi. Trước đây Ngô Hán biến Công-tôn Thi của Thục thành đạo quân Hán. Bây giờ chúng ta lại biến quân Vương Bá, Công-tôn Thi của Hán thành quân Thục. 
Vương Nguyên vỗ tay cười: 
– Phải như vậy! Chỉ có kế đó mà thôi. 
Đào Đô-Thống ngơ ngác hỏi: 
– Kế gì vậy? 
Phùng Vĩnh-Hoa giảng: 
– Công-tôn Thi phản cha, giết anh, hại phái Thiên-sơn tan nát. Cho đến nay, y chỉ còn được cái danh Hán-trung vương. Đất không còn, quyền thì không. Y bị Ngô Hán đày đi trước, dùng người Thục đánh người Thục. Y hối thì đã lỡ. Vì vậy tôi mới xin Vương sư thúc bỏ thù nhà. Người bí mật đến dinh của y thuyết y đem quân phản Hán. Vương sư thúc nhún mình, tôn y làm Hoàng-đế, chắc y sẽ nghe theo. Như vậy ta biến đạo quân của y thành đạo quân phản Hán. Có điều Vương sư thúc đi thuyết khách, lỡ y không nghe theo trở mặt bắt Vương sư thúc thì hỏng bét. Vi vậy cần có người võ công thực cao, theo đề phòng mới được. 
Phùng Vĩnh-Hoa đưa mắt nhìn Chu Tái-Kênh. Chu Tái-Kênh hiểu ý. Bà đứng lên nói: 
– Được, ta đi với Vương huynh. Vạn nhất y trở mặt. Ta giết chết y tại chỗ. Từ đây đến Hán-nguyên không xa. Chúng ta lên đường ngay bây giờ. Đến đêm đột nhập dinh của y. 
Phạm Nga-Nương, trước đây là Thanh-Phong nữ, một trong Lục-phong nữ đánh trận Xuyên-khẩu, Bạch-đế, Trường-an. Khi thành đại nghiệp, Trưng hoàng đế phong Lục-phong nữ là Thiên-Phong lục công chúa. Thiên-Phong lục công chúa tuân chỉ dụ hoàng đế huấn luyện được hơn năm trăm thiếu nữ biết chỉ huy Thần-phong. Nàng hiện chỉ huy Thần-phong thuộc quân đoàn sáu Tây-vu yểm trợ đạo Tượng-quận. Sư của nàng gồm có năm mươi thiếu nữ, chỉ huy hàng mấy triệu ong. Nàng nghe Chu Tái-Kênh khảng khái nhận nhiệm vụ nguy hiểm. Hùng khí bốc dậy, nàng nói: 
– Theo em nghĩ, lòng người khó dò. Em xin lĩnh sư Thần-phong cùng với anh Cao Đà dẫn sư Thần-hổ phục ở Nga-biên. Trường hợp Chu lão bá, Vương tiên sinh thất bại, cứ chạy đến đó. Chúng em tung Thần-phong, Thần-hổ cản đường. Trong đêm tối, dù chúng có trăm vạn hùng binh, cũng bó tay. 
Vũ Lăng, sư trưởng Thần-ưng tiếp: 
– Em gửi theo Thanh-Phong công chúa một đội Thần-ưng. Nếu có gì nguy hiểm. Chúng sẽ bay về cầu cứu. 
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu. 
Đoàn người ăn cơm chiều xong, lấy ngựa lên đường, xe chở Thần-hổ, Thần-phong cùng lục tục lên đường theo. 
Phùng Vĩnh-Hoa ngồi viết biểu tâu về triều đình Lĩnh-Nam và bản dinh Đại tư-mã Đào Kỳ đầy đủ chi tiết kế hoạch dự tính. Bà xin hoàng đế, Đại tư-mã duyệt xét kế hoạch, tùy nghi tiếp viện. Biểu viết xong, sai Thần-ưng mang đi liền. Bà đi đi, lại lại trong dinh, lòng đầy lo lắng, thỉnh thoảng lại thở dài. Đào Tam-Lang thắc mắc: 
– Chị Vĩnh-Hoa. Không biết chị có điều gì không an tâm? 
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu: 
– Tuy chưa đánh nhau. Nhưng ta biết trận này sẽ thắng Ngô Hán. Sau khi thắng, ít nhất ta cũng tổn thất từ hai tới ba vạn quân. Ta cần có tráng đinh bổ xung. Tráng đinh phải có thời gian một tới hai năm mới có thể trở thành binh sĩ thiện chiến. Nếu Ngô Hán lại xua đại binh đánh xuống. Ta lấy quân đâu ngăn cản y? Huống hồ kể cả quân Tượng-quận, ta chỉ có mười vạn. Trong khi Ngô Hán tới hai mươi vạn. Hết hai mươi vạn này. Y có hai mươi vạn khác. 
Đào Tam-Lang hiểu ra: 
– Bấy giờ ta cứ thủ trong thành. Dễ gì y đánh được? 
Phùng Vĩnh-Hoa thở dài: 
– Dĩ nhiên chỉ có đường đó. 
Đêm đã sang canh tư. Phùng Vĩnh-Hoa luôn ngửa mặt lên trời theo dõi tin tức Thần-ưng báo về. Bà mệt quá, vừa chợp mắt đi một chút, có tiếng Thần-ưng ré trên không. Bà vội chạy ra coi: 
Một Thần-ưng đáp xuống. Sư trưởng Vũ Lăng gỡ thư ở ống tre dưới chân Thần-ưng trình Phùng Vĩnh-Hoa. Bà mở ra đọc. Vỏn vẹn mấy chữ: Đại sự hoàn hảo. Bà mừng quá, mặt tươi lên. Một lát có tiếng chân ngựa phi, rồi Chu Tái-Kênh, Vương Nguyên về tới. Vương Nguyên vào trướng. Ông tường thuật sơ lược: 
– Chúng tôi vào đến dinh Công-tôn Thi. Y cùng vợ con đang ôm nhau khóc. Theo y dự đoán, chắc chắn khi chiếm xong Ích-châu, Quang-Vũ sẽ ra lệnh giết y. Y hối hận đã hại cha, giết anh, phá sự nghiệp Thục. Giữa lúc đó chúng tôi đẩy cửa bước vào. Y tưởng tôi tới giết y. Y quì xuống xin chịu tội. Tôi giảng cho y biết rằng tôi tới để tôn y làm hoàng đế Thục, nếu y chịu đem bản bộ quân mã đánh úp Ngô Hán. Tôi thuyết rằng, với quân sĩ của y, với tài dùng binh của tôi, mà đánh tập hậu Ngô Hán. Rồi cùng một lúc, Lĩnh-Nam đánh trước mặt. Ngô Hán tất bại. Chúng tôi tiến về chiếm lại Thành-đô. Biết đâu chẳng tái lập lại nghiệp cũ ? Bằng như ngồi chờ Quang-Vũ giết. Y bẻ tên thề. Để y yên lòng, tôi quì xuống khấu đầu gọi y là hoàng thượng. Y mừng quá. 
Phùng Vĩnh-Hoa thở phào. Bà truyền mời các tướng soái bí mật về họp ở Độ-khẩu để nhận lệnh. Ba hôm sau các tướng soái Thục, Việt đều tề tựu. Tuy Phùng Vĩnh-Hoa lĩnh chức Tư-đồ, một trong ba đại thần lớn nhất triều Lĩnh-Nam. Nhưng bà vẫn nể Tượng-quận tam-anh. Bà mời ba vị ngồi ở ghế ngang hàng. Đầu tiên bà trình bày diễn tiến mỗi việc triều Hán, cùng quyết tâm diệt Lĩnh-Nam của Quang-Vũ, cho đến kế sách đánh Lĩnh-Nam. 
Khác với tổ chức triều Hán. Tướng soái ra lệnh, người dưới chỉ biết tuân theo, và biết nhiệm vụ của mình. Nguyên do Quang-Vũ không tin người dưới, chỉ cho biết một phần kế hoạch. Nếu tướng sĩ có làm phản cũng không sợ. Ngược lại triều đình Lĩnh-Nam gồm toàn những người đồng tâm nhất trí. Hoàng đế Trưng Trắc ban chỉ dụ: Khi họp bàn kế sách đánh giặc. Các tướng tham dự đều được góp ý kiến, được thông qua mọi chi tiết. Để lỡ ra một tướng tử trận. Bất cứ tướng nào khác cũng có thể thay thế. 
Bà hỏi Tượng-quận vương Hàn Bạch: 
– Xin Vương gia cho biết, lương thảo tích trữ đủ cho binh sĩ dùng trong bao lâu? 
Hàn Bạch đáp: 
– Công chúa đừng lo. Tượng-quận không thu thuế của dân, cất thành kho như Hán, Thục. Các Lạc-hầu, Lạc-tướng có bổn phận thu thuế trong trang ấp của mình, rồi cất đó. Vì vậy lương thực Tượng-quận không chứa thành kho. Quân giặc không đột nhập đốt được. Lương thảo hiện đủ dùng trong vòng một năm cho quân địa phương và hai năm cho đạo Tượng-quận. Nếu có viện binh từ Quế-lâm tới, chúng tôi đủ chu cấp trong sáu tháng. 
Tư mã Hàn Đức trình bày tiếp: 
– Lạc vương có ba quân bộ, một quân kị, một quân thủy. Tổng cộng khoảng năm vạn người. Còn quân của Lạc-công, tráng đinh các trang, bao gồm tất cả nam nữ tuổi từ mười sáu tới năm mươi. 
Phùng Vĩnh-Hoa cầm ấn kiếm để lên án. Bà hỏi: 
– Ngô Hán thiết kế, xử dụng tới năm đạo quân. Đạo Ô-giang, Xích-thủy đều hư cả. Hai đạo này mục đích hư trương thanh thế khiến ta dàn quân rộng. Trong khi đó, y dùng đạo quân Công-tôn Thi đánh chiếm Việt-tây, Mỹ-cơ. Còn y đích thân đánh Độ-khẩu, Mễ-dịch. Sau đó để Vương Bá tiếp nhận Việt-tây, Mỹ-cơ. Công-tôn Thi đánh Tây-xương. Còn Đức-xương với Phổ-khách, y không đánh, hai thành này cũng vỡ. Y dự trù với hai mươi vạn quân Hán, và mười vạn quân Thục, y tiêu diệt năm vạn quân của sư thúc Vương Nguyên dễ dàng. Sau khi chiếm bảy châu quận, coi như Ích-châu được bình định. Bấy giờ, y mới đánh xuống Tượng-quận. Vậy ta cũng tương kế tựu kế. Ta dàn quân ngăn giặc ở Ô-giang, Xích-thủy, nhưng thực ra, đánh Cửu-long, Hán-nguyên, đốt lương thảo. Y tất phải rút quân về. 
Bà suy nghĩ một lúc, rồi tiếp: 
– Trận đánh này cần một số tướng soái cảm tử. Lĩnh nhiệm vụ chỉ có đi mà không có về. Vậy ai chịu chết cho Lĩnh-Nam sống? 
Một loạt các tướng soái đều đứng dậy. Bà hài lòng: 
– Như vậy các tướng sĩ đều nhất tâm lĩnh nhiệm vụ nguy hiểm. Tuy nhiên ta cần người có võ công cao, và một sư của quân đoàn Tây-vu. Để công bằng, ta cho các tướng rút thăm. Ai may mắn, sẽ được lĩnh nhiệm vụ cao cả này. 
 Các chúa tướng rút thăm. Phiêu-kị đại tướng-quân Đào Chiêu-Hiển và sư trưởng Thần-hổ Cao Đà rút được thăm đi. Hai người khẳng khái đứng nhận nhiệm vụ. Cao Nguyệt-Nương, vợ Cao Đà đứng lên nói: 
– Khi tôi với anh Đà kết hôn, có thề rằng: Xin được chết cùng. Nay anh Đà được lĩnh nhiệm vụ hy sinh. Tôi xin đi theo, để vợ chồng cùng chết. 
Phùng Vĩnh-Hoa nói: 
– Đạo kỳ binh của Vương Hữu-Bằng và Lý Thái-Hiện gồm mười ba vạn người, phát xuất từ Phong-đô, đi theo đường sông Ô-giang tiến đánh Bắc Tượng-quận. Vậy Đào Tam-Lang lĩnh một vạn quân đến đóng đồn ở Đức-sơn. Cần phải giữ thực bí mật, để Tế-tác giặc không biết. Sư muội Cao Nguyệt-Nương đem sư Thần long theo giúp Tam-Lang. Rừng Đức-sơn rậm rạp, thả Thần-long rải rác trong rừng, mục đích cản bước tiến quân của quân Hán. Đào Đô-Thống lĩnh một vạn quân, trấn đóng tại Vũ-phong. Ta cho mười dàn Nỏ thần theo trợ chiến. Nhớ chỉ giữ đồn cho chắc. Chứ không được rời khỏi đồn. 
Bà trao binh phù cho Đào Chiêu-Hiển, Cao Đà: 
– Hai người đem xe chở sư Thần-hổ vào Xích-thủy, dùng thuyền âm thầm đến ngã ba sông Trường-giang, Ô-giang, giả thuyền buôn đậu ở đó. Chờ cho đạo binh Vương Hữu-Bằng xuất phát được một ngày. Đến đêm bí mật dùng năm trăm tráng sĩ, với sư Thần-hổ đột nhập Bồ-lăng, đốt kho lương thảo của giặc. Lương thảo Bồ-lăng bị cháy rồi phải rút chạy ngay. Nếu để trễ, quân Vương Hữu-Bằng trở về, ắt phải tử chiến. 
Đinh Xuân-Hoa đứng dậy nói: 
– Thuyền buôn loại lớn, mỗi thuyền chỉ có thể chở được ba mươi Thần-hổ, tất cần tới mười thuyền. Tôi e quân Hán kiểm soát, khám phá ra thì nguy. Tôi hiện có lệnh bài của Mã thái-hậu, binh phù của Vương Bá. Tôi xin đi theo cháu Chiêu-Hiển. Dùng lệnh bài, binh phù của Hán, ta có thể qua mặt quân kiểm soát trên sông Trường-giang. 
Phùng Vĩnh-Hoa ngần ngại: 
– Sư bá không nên mạo hiểm. Ngô Hán vốn cẩn thận, thế nào y cũng để trọng binh canh gác lương thảo. Sư bá mạo hiểm như vậy, e có gì thì... 
Đinh Xuân-Hoa cười: 
– Cháu Chiêu-Hiển, Cao Đà nhỏ hơn ta một vai, mà còn khẳng khái tuẫn quốc. Trong khi ta lớn hơn, không lẽ ta không làm được ? Để ta đi với các cháu. 
Phùng Vĩnh-Hoa đành gật đầu. Bà gọi Hàn Đức: 
– Tại Vĩnh-thiên hiện ta có một đồn lớn, nhưng chỉ có hai ngàn quân. Vậy sư bá đem thêm một vạn quân tới, đặt chông, cài bẫy, trấn giữ tại đây. Sư trưởng Thần-ngao Vũ Dương theo giúp sư bá. Này Dương, em chia Thần-ngao thành từng toán hai mươi lăm con một. Em cho phục rải rác trên đường tiến quân từ Giang-an về Vĩnh-thiên. Bất thần cho Thần-ngao từ bụi cây nhảy ra tấn công. Khi quân Hán phản ứng, ta lại trốn vào rừng. Mục đích của ta là cản bước tiến của chúng. Khi chúng tiến tới Vĩnh-thiên, tất tung quân vây đồn. Chờ Vương Lộc đem quân cướp trại, thì thả Thần-ngao, cùng quân trong đồn ra đánh úp. 
Bà chỉ lên bản đồ: 
– Hai đạo kỳ binh đã xong. Bây giờ tới đại quân Ngô Hán. Trước hết sư thúc Vương Nguyên âm thầm đến Hán-nguyên. Đợi Ngô Hán, Cáp Diên, Lưu Thương xuất phát rồi. Đang đêm sư thúc đem quân Công-tôn Thi đánh chiếm kho lương thảo Hán-nguyên của Ngô Hán. Sau đó tiến về đánh chiếm Cửu-long, Nhã-an, My-sơn. Sư thúc cử người trấn giữ thực chắc. Đạo quân này rất quan trọng, tôi cử tướng chỉ huy quân đoàn sáu Tây-vu là Trấn-bắc hầu tướng Lê Đông-Giang đem sư Thần-hầu, Thần-báo, Thần-ưng theo trợ chiến. Tôi sẽ theo đạo này. 
Bà đứng lên nói với Hàn Bạch: 
– Sư bá đem ba vạn quân, đóng ở Hạc-túc-sơn. Mục đích cản quân của Lưu Thương. Chỉ cần cầm cự một vài ngày. Khi Vương sư thúc đánh cướp lương thảo, chiếm Cửu-long. Tất y bỏ chạy. Bấy giờ sư bá tung sư Thần-tượng đuổi đánh, tất thắng. 
Sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn hỏi: 
– Tôi phải đuổi giặc đến cùng, hay chỉ đuổi tới biên giới Thục thôi? 
Phùng Vĩnh-Hoa chỉ Hàn Bạch: 
– Tượng-quận vương sẽ quyết định khi lâm chiến. 
Bà gọi Vương Hồng, Chu Thanh: 
– Sư bá Vương Hồng đóng giữ Hòa-bình. Sư bá Chu Thanh đóng quân giữ Độ-khẩu. Xin Thanh-Phong công chúa Phạm Nguyệt-Nương đem sư Thần-phong chia làm hai, một nửa trợ chiến cho Hòa-bình, một nửa trợ chiến cho Độ-khẩu. Ta phải nhờ công chúa trấn giữ hai nơi này, vì Độ-khẩu là hiểm địa. Nếu để mất, chúng ta không còn đường về. 
Bà nói với Chu Tái-Kênh, Trần Năng: 
– Hai vị trở về, đem hết tình hình quân Ngô Hán, Lĩnh-Nam nói cho Vương Bá biết. Hai vị xin lĩnh hai đạo quân trấn đóng ở Mi-sơn, Đông-sơn. Khi quân của Vương Nguyên với tôi đến, thì mở cửa cho vào. 
Phùng Vĩnh-Hoa hỏi lại các tướng: 
– Có ai thắc mắc gì không? 
Trần Năng hỏi: 
– Quân của Vương Bá là quân Hán. Sợ khi lâm trận, chúng không chịu giao chiến với quân Ngô Hán. Trường hợp đó phải làm thế nào? 
Phùng Vĩnh-Hoa ghé tai Trần Năng, Chu Tái-Kênh dặn nhỏ mấy câu. Hai người gật đầu cười, lấy ngựa lên đường. 
Hôm sau Phùng Vĩnh-Hoa cùng Vương Nguyên, Chu Tái-Kênh, Trần Năng lên đường về Việt-tây. Tới Việt-tây, Phùng Vĩnh-Hoa nói với Chu Tái-Kênh: 
– Lão bá cùng Trần sư tỷ phải về Thành-đô ngay. Nhớ theo dõi tin tức Vương Bá, Ngô Hán, dùng Thần-ưng liên lạc với tôi hàng ngày. 
Trên đường về Thành-đô. Trần Năng bàn với Chu Tái-Kênh: 
– Bây giờ trở về, thế nào Vương Bá cũng thắc mắc vụ Đào vương phi vắng mặt. Đệ tử sẽ dối rằng: Mã thái-hậu chỉ dụ sai chúng ta mua một số cọp mang về Lạc-dương huấn luyện thành binh đội như Lĩnh-Nam. Đào vương phi đã mua được ba trăm con cọp, đang tải theo Trường-giang về Kinh-châu giao cho Mã Viện. 
Hai người tới Thành-đô vào buổi trưa, vội vào ra mắt Vương Bá. Vương Bá tay cầm một tờ văn thơ đưa ra trước mặt Chu Tái-Kênh hỏi: 
– Tôi nhận được ngựa lưu tinh báo rằng, có một phụ nữ, mang lệnh bài của Mã thái-hậu, chở ba trăm con cọp theo sông Trường-giang đến Giang-tân, bị thủy quân giữ lại. Tôi đang phân vân, không biết có phải các vị không? 
Chu Tái-Kênh liếc nhìn Trần Năng, gật đầu: 
– Trước khi vào Thục, Mã thái-hậu chỉ dụ rằng chúng tôi cần mua thực nhiều cọp, đóng cũi, gửi về Kinh-châu giao cho Phục-ba tướng quân Mã Viện. Viện sẽ huấn luyện thành binh đội như các đạo quân Lĩnh-Nam. Chúng tôi quên không nói cho Quân-hầu biết. Đinh Xuân-Hoa hiện đi theo đoàn thuyền chở cọp. Xin Quân-hầu khẩn ra lệnh cho thủy quân đừng cản trở. 
Vương Bá gật đầu: 
– Thì ra thế. Tôi sẽ truyền lệnh đến Giang-tân ngay. À các vị đi dò thám tin tức, được những gì? 
Chu Tái-Kênh trình bày tất cả tin tức của Ngô Hán, do Phùng Vĩnh-Hoa sưu tầm được thuyết trình cho Vương Bá. Còn tin tức của Lĩnh-Nam, bà trình bày những gì không cần bảo mật như tình hình quân số, dân chúng, lương thảo. 
Vương Bá lo nghĩ: 
– Ngô Hán yêu cầu tôi cử người đem quân theo Công-tôn Thi. Đợi Thi chiếm được thành của Vương Nguyên, thì tiếp quản. Tôi muốn nhờ hai vị, mỗi người lĩnh một vạn quân bộ, năm nghìn quân kị, theo Công-tôn Thi. Khi Thi chiếm được thành nào, thì các vị trấn giữ lấy. Tôi được mật chỉ của hoàng thượng rằng, cần theo dõi Thi cẩn thận. Hễ thấy y có ý gì khác, lập tức giết chết ngay. Có một điều tôi dặn hai vị, luật nhà Hán không cho phụ nữ cầm quân. Vì vậy trên thực tế tôi sai Phạm lục đệ, đem theo hai tướng, chỉ huy hai đạo quân, để che mắt. Còn thực sự, hai vị mới là người chỉ huy. 
Sáng hôm sau Phạm An thống lĩnh binh mã, cùng Chu Tái-Kênh, Trần Năng lên đường. Đến ngoài thành Hán-nguyên, thì cho đóng quân. Phạm An dẫn Chu Tái-Kênh, Trần Năng đến dinh Công-tôn Thi. Công-tôn Thi cho mời vào trướng. Phạm An chỉ mới được Vương Bá cử làm đại tướng quân, chưa có chức tước gì. Trong khi Công-tôn Thi được phong tước Hán-trung vương. An cúi đầu hành lễ. Công-tôn Thi được Vương Nguyên thông báo tin tức trước. Vì vậy y thấy Chu Tái-Kênh, Trần Năng theo Phạm An, y không đến nỗi ngạc nhiên. 
Công-tôn Thi nói với Phạm An: 
– Phạm tướng quân tạm đồn trú ở Mi-sơn, Đông-sơn, sẵn sàng tiếp ứng cho chúng tôi. Đợi ngày 16 tháng ba, là ngày toàn thể tướng sĩ dẫn các đạo quân Ô-giang, Xích-thủy, Kim-sa-giang đồng tấn công. Tiểu vương cùng tiến đánh Việt-tây, Cam-lạc. Thành Hán-nguyên xin giao cho tướng quân. Theo lệnh, Ngô Đại tư-mã trực tiếp đánh Độ-khẩu. Khi các thành Độ-khẩu, Đức-xương, Việt-tây hạ được rồi, tự nhiên các thành Mễ-dịch, Phổ-khách, Mỹ-cơ phải đầu hàng. 
Phạm An vâng dạ trở ra. Chu Tái-Kênh nói với Phạm An: 
– Mi-thành để cho đồ nhi Trần Năng trấn đóng. Tôi trấn đóng ở Đông-sơn. Còn tướng quân, đóng ở Nga-biên, sát nách Công-tôn Thi. Như vậy mới bảo toàn được an ninh cho Thành-đô. 
Phạm An chỉ có võ công cao tuổi y trẻ. Y chưa từng cầm quân bao giờ, trong khi Chu Tái-Kênh, Trần Năng đầy kinh nghiệm,hai người bàn sao, y nghe vậy. Y trao quân cho hai bà. Còn y đến thành Nga-biên trấn thủ. 
Hàng ngày Chu Tái-Kênh, Trần Năng nhận được đầy đủ diễn tiến các đạo quân. Cho đến sáng 15 tháng ba, có binh phù của Ngô Hán gửi cho Công-tôn Thi truyền lệnh: Tất cả các nơi đồng tấn công vào giờ thìn ngày 16 tháng ba. 
Hai bà âm thầm lẻn về bản dinh của Công-tôn Thi. Công-tôn Thi, Vương Nguyên, Vương Thọ đều có mặt. 
Công-tôn Thi thăng trướng. Y nói: 
– Hôm nay tôi loan báo với các tướng một việc tối quan trọng. Trước kia tôi nghĩ rằng Thục nhỏ, Hán lớn. Mình chịu đầu Hán, nhận sắc phong, hầu tránh chiến tranh. Không ngờ Quang-Vũ trở mặt, tàn sát sĩ dân Thục, chiếm hết giang sơn của chúng ta. Bây giờ lại y xua chúng ta đi trước chém giết lẫn nhau. Vì vậy tôi đã liên lạc với lục sư thúc Vương Nguyên. Đêm nay chúng ta đánh úp Ngô Hán. Đánh, nếu thắng, chúng ta lập lại nước Thục. Bại, cũng chết cho hả dạ. Huống hồ chúng ta còn được Lĩnh-Nam trợ giúp. 
Các tướng Thục cùng một tâm trạng như Công-tôn Thi. Họ đứng dậy tuốt gươm, thề quyết sống chết một trận. Bấy giờ Công-tôn Thi mới truyền mời Vương Nguyên, Phùng Vĩnh-Hoa, Chu Tái-Kênh, Trần Năng xuất hiện. 
Công-tôn Thi bưng ấn kiếm trao cho Phùng Vĩnh-Hoa: 
– Xin Công chúa Nguyệt-Đức trổ thần uy cho. 
Phùng Vĩnh-Hoa khảng khái nhận ấn kiếm. Bà nói: 
– Đúng giờ thìn sáng mai, các đạo binh Hán đồng khởi sự tấn công. Chúng ta lợi dụng cũng giờ đó, khởi binh, chiếm lại các thành. Đầu tiên chiếm Cửu-long, tuyệt đường về của Ngô Hán. Đồng thời chiếm Hán-nguyên, Nga-biên, Mi-sơn, Đông-sơn. Sau đó tập trung quân, dàn ra đợi tấn công quân Ngô Hán. Chúng ta đánh một trận, tất y bại. Bấy giờ, chúng ta tiến về Thành-đô dễ dàng. 
Các tướng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Bà tiếp: 
– Giờ dần ngày mai, Chu lão bá, Trần sư tỷ mang quân từ Mi-sơn, Đông-sơn về Hán-nguyên. Dùng binh phù Vương Bá nói rằng vâng lệnh Vương Bá chở lương thảo đến Hán-nguyên. Trên xe chở đầy cỏ khô tẩm dầu. Khi xe vào thành rồi, lập tức đốt kho lương thảo. Trong khi đó hai tướng Điền Nhung, Lữ Vi, giả quân Chu lão bá, Trần sư tỷ trở về, đánh úp Mi-sơn, Đông-sơn. 
Bà nói với Công-tôn Thi: 
– Xin Vương gia đích thân chỉ huy đánh Hán-nguyên, đem theo các tướng Nhiệm-Đăng, Ngụy Đảng, Sử Hùng. Tôi tăng viện Hắc-hầu tướng với sư Thần-hầu. Chờ khi trong thành Hán-nguyên khói bốc lên, lập tức xua quân vào tiếp ứng. Sau khi chiếm Hán-nguyên, xin đến Cửu-long đón đánh Ngô Hán với chúng tôi. 
Bà nói với Vương Nguyên: 
– Sư thúc cùng với Vương Thọ, và tôi đánh Cửu-long. Chúng ta còn sư Thần-báo, Thần-ưng trợ chiến. 
Canh ba, Phùng Vĩnh-Hoa, Vương Nguyên âm thầm dẫn một đoàn xe một trăm năm mươi chiếc, chở ba trăm Thần-báo tiến về Cửu-long. Tới nơi, trời bắt đầu sang canh năm. Bốn cửa thành Cửu-long đóng kín. Quân sĩ canh phòng nghiêm mật. Bà bảo Sư trưởng Thần-ưng: 
– Sư đệ ra tay đi thôi. 
Vũ Lăng huýt sáo, năm Thần-ưng to lớn đáp xuống. Chàng phất tay ra lệnh. Năm Thần-ưng tha đầu năm sợi dây bay lên, quấn vào trụ thành. Chàng cầm đầu dây giật mạnh, thấy chắc. Nói: 
– Sư tỷ! Chúng ta lên thôi. 
Vương Nguyên có võ công cực cao. Ông bám dây, thoăn thoắt mấy cái, ông với Vương Thọ đã lên tới mặt thành. Ông vẫy tay cho Phùng Vĩnh-Hoa, và các tướng. Năm người bám dây cùng leo lên như vượn. 
Vương Nguyên đang leo, lão cảm thấy nghẹt thở, như bị ai đánh trộm phía sau. Ông vội vung tay về sau. Tay ông chạm phải tay một người khác đến bộp một cái. Cánh tay ông đau đớn muốn gãy ra. Ông giật mạnh tay, người vọt lên mặt thành. Người kia lại phóng chưởng chụp xuống đầu ông. Ông vung chưởng đỡ. Binh một tiếng. Ông suýt rơi xuống mặt thành. 
Vương Thọ vội rút kiếm tấn công người kia cứu cha. Người kia không coi Vương Thọ vào đâu. Y rút kiếm, đỡ kiếm của Thọ. Hai người chiết chiêu với nhau. Phùng Vĩnh-Hoa nhận ra người chiết chiêu với Vương Thọ là Đức-Hiệp. 
Phùng Vĩnh-Hoa thấy Đức-Hiệp, bà an tâm phần nào, vì có lẽ thầy trò Lê Đạo-Sinh đang hiện diện đâu đó. 
Vương Nguyên rút kiếm, cùng Phùng Vĩnh-Hoa giết quân canh cửa, mở tung ra, thả cầu treo xuống. 
Cao Chiêu-Hựu hú ba tiếng, đàn Thần-báo rống lên, phóng qua cửa thành. Quân Thục theo đoàn Thần-báo tiến vào. Bấy giờ quân trong thành mới giật mình tỉnh giấc. 
Phùng Vĩnh-Hoa đứng đốc chiến cho quân vào thành. Còn Vương Nguyên cùng các tướng đánh thẳng vào trung ương. 
Trời sáng tỏ, quân Thục chiếm được trọn vẹn thành. 
Nguyên Ngô Hán nghĩ rằng: Phía sau y là Thành-đô, có Vương Bá trấn thủ, phía trái, phải đều thuộc về Hán. Nên y chỉ có năm vạn quân trấn đóng, với một tướng trẻ. Y tuyệt không ngờ Công-tôn Thi lại phản bội mình. Vì vậy y không để tướng tài lại trấn thủ. Khi bàn định kế hoạch với Lê Đạo-Sinh. Lê kinh nghiệm về loại hàng thần lơ láo hơn. Y yêu cầu Ngô Hán đề phòng Công-tôn Thi. Ngô nể lời Lê, sai Đức-Hiệp ở lại giúp sức tướng trấn thủ thành Cửu-long. Vì vậy Cửu-long mới bị đánh úp. 
Vương Nguyên hỏi Vương Thọ: 
– Tên Đức-Hiệp hôm qua đâu rồi? 
Vương Thọ đáp: 
– Thưa cha, lúc thành bị chiếm. Y bỏ chạy mất. Con mải tiếp thu thành, không biết y trốn đâu. 
Trời sáng hẳn, Phùng Vĩnh-Hoa cùng Vương Nguyên ngồi chờ tin tức. Đến giờ Ngọ. Thần ưng báo về: Chiếm được Mi-sơn, Đông-sơn. 
Hai người đứng trên cao nhìn về Hán-nguyên. Khói lửa bốc lên mịt mờ. Một lát Thần-ưng bay xuống sân. Vũ Lăng cầm thư vào trình Phùng Vĩnh-Hoa. Bà mở ra đọc. Miệng mỉm cười: 
– Công-tôn Thi chiếm được Hán-nguyên rồi. Đang chỉnh bị quân mã tới đây với chúng ta. 
Lát sau Thần-ưng đem thư tới. Vũ Lăng reo lên: 
– Thư sư bá Chu Thanh từ Độ-khẩu. 
Phùng Vĩnh-Hoa mở ra coi: 
Ngô Hán lập mưu đánh Độ-khẩu, Hòa-bình, vượt Kim-sa-giang đánh Tượng-quận. Sự thực y đem quân đánh Tây-xương, Đức-xương. Hai thành này lâm nguy. Xin định liệu 
Bà hoảng kinh: 
– Ngô Hán quả thực đại tướng tài. Mưu kế của y biến hóa khôn lường. Rõ ràng y đem Ô-giang, Xích-thủy, Tượng-quận làm hư. Hán-nguyên, Độ-khẩu, Hòa-bình là thực. Thình lình y biến Độ-khẩu, Hòa-bình thành hư, chuyển Đức-xương, Tây-xương làm thực. 
Bà nói với Vương Nguyên: 
– Lòng người khó dò. Xin sư thúc khẩn về Hán-nguyên giả trợ Công-tôn Thi trấn thủ. Nhưng sư thúc coi chừng y. Sư thúc cử các tướng Sử Hùng, Ngụy Đảng, đem Hắc-hầu tướng về giữ vững Việt-tây, cho Chu Tái-Kênh, Trần Năng đến đây trợ chiến với tôi. Tôi liệu chừng dù Ngô Hán đánh được hai thành, y cũng phải trở về chiếm lại Cửu-long. Nếu không, y không còn lương thảo nữa. 
Đến trưa Chu Tái-Kênh, Trần Năng về tới. Chu Tái-Kênh suýt xoa: 
– Ngô Hán thực cao trí. Chúng ta tính như vậy, mà y đổi kế hoạch giờ chót. Thành ra chúng ta ở vào thế bị động. Bây giờ, tại đây chúng ta có bốn vạn quân. Nếu y đem cả mười vạn quân trở về. Chúng ta nghênh chiến bằng cách nào? 
Phùng Vĩnh-Hoa mỉm cười: 
– Không khó! Tôi khắc có biện pháp đối phó. Ngô Hán đã bị tuyệt lương thảo. Dù y có tài như Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung, Phương-chính hầu Trần Tự-Minh đất Âu-Lạc hay Tôn Tử, Hàn Tín bên Trung-nguyên cũng bó tay. Tôi gửi thư cho sư bá Hàn Bạch, để người đem sư Thần-tượng vượt Kim-sa-giang đuổi theo. Sư bá Chu Thanh đem sư Thần-phong giải vây Đức-xương, Tây-xương. Ngô Hán tất rút quân về Cửu-long. Ta chỉ cần cố thủ trong ba ngày, quân hết lương, chúng tự tan rã. 
Đến đó quân báo: 
– Có sứ giả của Lạc vương Hàn Bạch xin vào yết kiến. 
Phùng Vĩnh-Hoa truyền mời vào. Sứ giả hành lễ: 
– Thần, Hàn Thanh, thế tử của Lạc-vương Tượng-quận, bái kiến công chúa. 
Phùng Vĩnh-Hoa truyền mời Hàn-Thanh ngồi, hỏi: 
– Sư bá truyền sư đệ đến đây có việc gì? 
Hàn-Thanh trình thư lên Phùng Vĩnh-Hoa, rồi tường trình chiến cuộc Độ-khẩu, Kim-sa-giang. 
... 
Đúng giờ thìn ngày 16, quân Ngô Hán thay vì vượt Kim-sa-giang đánh vào Tượng-quận và Độ-khẩu. Ngô cho Lưu Thương kéo đến đánh Đức-xương. Cáp Diên kéo đến đánh vây Tây-xương. Khi hai đạo quân vừa vượt Kim-sa-giang, thì toán Thần-ưng tuần phòng đã báo cho Trần Đạm-Nương biết. Trần Đạm-Nương kinh hoảng. Vì tại thành Tây-xương bà chỉ có năm ngàn quân. Trong khi Lưu Thương có đến năm vạn. Bà vội sai Thần-ưng báo cho Trần Hồng-Nương biết mà đề phòng. Một mặt bà truyền sứ giả tới Độ-khẩu cầu cứu với Tư-đồ Tượng-quận Vương Hồng. 
Bà đốc xuất quân sĩ, dân chúng lên mặt thành phòng bị. Lát sau quân Hán hàng hàng lớp lớp kéo tới. Lưu Thương dẫn đầu. Y những tưởng với kế hoạch dương đông, kích tây, hư hư, thực thực của Ngô Hán, y sẽ đánh úp được thành. Không ngờ, tới nơi, bốn cửa đều đóng kín. Trên mặt thành cờ xí, gươm đao nghiêm chỉnh. Y gò ngựa lại, truyền cho các tướng vây thành. Y ngửa mặt nhìn lên dịch lầu, Trần Đạm-Nương lưng đeo bảo kiếm, vẫy y cười: 
– Xương-thành hầu, ngươi vẫn mạnh giỏi a? Từ hồi Dương-bình quan cách biệt. Nay mới được tái kiến Quân-hầu. 
Lưu Thương gò cương ngựa hỏi: 
– Phải Trần-gia tam-nương đấy chăng? Tại sao các vị đi trợ giúp bọn giặc Thục, chống lại Thiên tử? 
Trần Đạm-Nương nghĩ thầm: 
– Trưng hoàng đế đã ban chỉ dụ: Tướng cầm quân mà nổi giận, nóng nảy, thì thần minh bị che lấp. Quyết định mất sáng suốt. Ta phải chọc cho tên này giận mới được. 
Nghĩ vậy bà nói: 
– Tướng quân, thân làm đại tướng Hán. Tước phong tới hầu, mà sao hồ đồ làm vậy? 
Lưu Thương nổi giận: 
– Cô nương bảo ta hồ đồ. Vậy ta hồ đồ ở chỗ nào? 
Trần Đạm-Nương đáp: 
– Quân-hầu bảo tôi giúp Thục chống thiên tử? Điều đó chẳng hồ đồ ư? Chính tôi tuân chỉ thiên tử, trấn thủ thành Đức-xương giúp Thục mà. 
Lưu Thương từng chiến đấu chung với Trần-gia tam-nương. Y biết ba chị em họ Trần, võ công tuy không cao, song điều binh khiển tướng, văn võ toàn tài. Khó mà đấu khẩu với họ. Y hỏi: 
– Cô nương sao nói láo làm vậy? Trưng hoàng-đế không phải thiên tử. 
Đạm-Nương cười: 
– Tôi hỏi Quân-hầu điều này nhé: Thế nào là thiên tử? Thiên tử tức con trời. Kinh thư của quí quốc nói: Trời sinh trăm dân, sai con xuống làm vua để cai trị. Lại nói Ý dân là ý trời. Như hoàng đế Lĩnh-Nam ta, phất cờ quét giặc Hán khỏi đất nước. Trăm họ đều vui mừng. Đó mới chính là thiên tử. Còn Quang-Vũ, mượn tiếng ông cha, đánh Vương Mãng. Song dân chúng oán thán. Ngay dân Thục, quân Hán đến đâu, dân chúng khóc lóc đến đó. Thế thì Quang-Vũ chẳng phải thiên tử. 
Lưu Thương cứng họng. Y truyền lênh đánh thành. Quân sĩ reo hò, bắc thang leo lên. Trần Đạm-Nương vẫn thản nhiên đứng nhìn. Bà cầm quạt phe phẩy. Miệng cười. Lưu Thương nghi ngờ: 
– Tại sao y thị không phản ứng? Lại đứng cười? 
Song ỷ vào quân số đông. Y vẫn cho đánh thành. Quân sĩ leo lên nửa chừng. Một tiếng bùng. Chiếc pháo thăng thiên giữa thành bay lên trời, nổ đến đoàng một tiếng, tỏa ra bốn phía. Lập tức mỗi trạm canh trên thành, chĩa ra mấy chiếc ống tre to bằng bắp chân. Trong ống tre, hằng chục mũi tên bắn tỏa xuống dọc theo tường thành. Chỉ loạt đầu tiên. Bao nhiêu quân Hán đang leo lên thành, bị trúng tên, ngã lộn xuống bờ hào. 
Một tiếng pháo nữa nổi lên. Các dàn nỏ lại hướng xuống đội hình dưới thành, nã tên. Tên bay xuống như mưa. Quân sĩ ngã lăn xuống ngựa. Người kêu, ngựa hí vang dội. 
Bỗng có tiếng kêu như cú rúc đêm khuya. Những mũi tên Nỏ-thần to bằng cổ tay bay rất xa, rơi xuống đội hình quân Hán. Quân Hán kinh sợ, lui trở lại. Nhưng Nỏ thần vẫn bắn theo rào rào. 
Lưu Thương truyền quân sĩ án dinh, hạ trại, đóng ngoài tầm Thần-nỏ. Vây kín thành. Giờ ngọ, Ngô Hán cùng đại quân tới. Lưu Thương tường trình tình hình: 
– Tôi đem quân đến nơi, bên Lĩnh-Nam dường như biết trước. Chuẩn bị ứng chiến chu đáo. Các đội Thần-nỏ đặt trên thành bắn xuống như mưa. Quân sĩ bị tử thương nhiều quá. Tôi phải án binh. Chờ Đại tư-mã. 
Ngô Hán thở dài: 
– Trước đây, Lĩnh-Nam trợ Hán đánh Thục. Ta đã biết lợi hại của Thần-nỏ. Trong trận Trường-an, quân chúng ta đông gấp đôi quân Việt-Thục, mà bị bại cũng vì Thần nỏ. Ta đã chuẩn bị kế hoạch đối phó. 
Ngô Hán truyền quân sĩ lấy rơm, làm một lá chắn dài rộng hơn trượng. Lá chắn đó do năm tên quân núp phía sau, ẩn thân tiến lên. Quân Việt trên thành dùng Thần-nỏ bắn xuống, tên bị ghim vào lá chắn. Quân Hán reo hò, đội lá chắn, bắc thang leo lên mặt thành. 
Quân Việt dùng tên tẩm dầu, châm lửa đốt bắn vào lá chắn. Lá chắn bằng rơm, bốc cháy. Quân Hán vội bỏ lá chắn, lại bị Thần-nỏ bắn xuống. Trận chiến kéo dài cho đến xế chiều. Quân Hán vẫn chưa vào được thành.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 22 : Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung(Câu đối đền thờ Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang)




 Ngô Hán truyền quân sĩ nghỉ ngơi, ăn uống, rồi cho lấy bùn trát lên lá chắn. Y nói với các tướng: 
– Một cái thành Đức-xương nhỏ bé như vậy. Chỉ có năm nghìn quân trấn đóng, mình tới năm vạn, mà không vào được, thì thực vô lý. Ta hẹn nội trong hai giờ, phải vào thành. Nếu không các tướng cấp lữ, sư đều bị xử tử. 
Vừa lúc đó, thám mã từ thành Tây-xương về báo: 
– Cáp Diên công thành Tây-xương, bị Thần-nỏ bắn xuống. Binh tướng chết nhiều quá. Có tin nói Công-tôn Thi làm phản, xua quân chiếm Hán-nguyên, Mi-sơn, Đông-sơn, Cửu-long. 
Ngô Hán lắc đầu: 
– Không thể có truyện đó. 
Thình lình tiếng quân reo, ngựa hí vang dội. Quân báo: 
– Tượng-quận vương Hàn Bạch vượt sông Kim-sa-giang cùng với đội Thần-tượng, định đánh vào phía sau quân mình. Tư đồ Tượng-quận Vương Hồng dàn quân vượt Độ-khẩu, tiến đánh vào mặt nam. Quân, tướng náo loạn. Xin Đại tư-mã quyết định. 
Ngô Hán truyền quân lui lại. Bỏ đánh thành Đức-xương. Chuẩn bị nghinh chiến. Y giận run người lên nói: 
– Con tiện tỳ Phùng Vĩnh-Hoa hỗn thực. Quân của chúng bất quá chưa tới mười vạn mà dám hỗn láo. Ta thiết kế tinh vi như vậy, mà y thị cũng biết được, thực là quá. 
Đến đó, quân sĩ la hoảng lên, cùng hướng mắt nhìn về Cửu-long. Ngô Hán nhìn theo: Khói bốc lên mịt mờ. Y chưa biết truyện gì xảy ra. Truyền án binh bất động. Đến chiều. Tế tác báo cho biết: 
– Công-tôn Thi bí mật liên lạc với Vương Nguyên. Hai bên đem quân đánh chiếm Mi-sơn, Đông-sơn. Phùng Vĩnh-Hoa đang đêm đánh úp mặt Cửu-long. Lương thảo của chúng ta bị chiếm mất. 
Ngô Hán gọi Lưu Thương truyền lệnh: 
– Ngươi lĩnh năm vạn binh, lập đồn, trấn giữ ở đây. Người cố cản quân Hàn Bạch, Vương Hồng. Để ta trở về tái chiếm Cửu-long. 
Ngô Hán truyền đại tướng Nguyễn Nghi, Đỗ Trí: 
– Các ngươi dẫn kị binh đi trước. Trở về cứu viện Cửu-long khẩn cấp. 
Lại gọi đại tướng Phạm Phú, Ngô Trường: 
– Mỗi người dẫn ba vạn binh, đi bảo vệ cánh phải, cánh trái. 
Vừa lúc đó trống thúc liên hồi, quân reo rung động trời đất. Có tin báo: 
– Quân Việt từ Độ-khẩu, Hòa-bình, do Hàn Bạch, Vương Hồng đến cứu viện Đức-xương. Quân thế hùng tráng. Chỉ còn cách khoảng ba dậm nữa. 
Binh tướng náo loạn lên. Ngô Hán rút kiếm quát: 
– Giữ nguyên vị trí. Ai làm náo loạn hàng ngũ, ta chém liền. 
Y truyền các tướng dàn trận chuẩn bị đối phó. Một lát sau tiền đạo quân Lĩnh-Nam tới. Đạo quân tuy chỉ có hơn vạn, mà hùng khí ngất trời. Vương Hồng đi đầu. Cạnh ông phất phới lá cờ Tượng-quận Tam-anh vương. Quân Việt đến nơi, tự dàn trận thế uy nghi. Vương Hồng gò ngựa đứng trước. Ông thấy Lưu Thương, nghiêng mình hành lễ: 
– Tại hạ Vương Hồng, đất Lĩnh-Nam xin kính chào Quân-hầu. Gần đây Quân-hầu vẫn mạnh khỏe? 
Lưu Thương đáp lễ: 
– Ngươi có phải Đô-sát Trường-sa, ở dưới trướng Mã Anh đó không? Ngươi thấy chúa tướng cũ, sao không xuống ngựa rập đầu? 
Vương Hồng cười lớn: 
– Năm xưa, Tượng-quận Tam-anh, vì mưu cầu phục quốc, phải đầu quân tại Trường-sa. Chứ chúng tôi không phải bán thân cho Quang-Vũ. Trước kia tôi ở dưới trướng của người. Nay thì khác. Tôi vì Lĩnh-Nam. Quân-hầu vì Hán. Trận tiền gươm đao vô tình. Xin Quân-hầu miễn chấp. 
Vừa lúc đó, một đạo quân nữa tới, dẫn đầu bằng hai trăm thớt voi. Khí thế muốn nghiêng trời lệch đất. Tượng-quận vương Hàn Bạch ngồi trên voi. Hàn Bạch nghiêng mình chào Lưu Thương. Ông cho quân dàn trận. 
Lưu Thương chột dạ hỏi: 
– Còn Trấn viễn tướng quân Chu Thanh đâu? 
Có tiếng cười lớn: 
– Có Chu Thanh đất Lĩnh-Nam đây. 
Lưu Thương chỉ vào trận Hán: 
– Ba anh em ngươi, đem một đạo quân ô hợp thế kia. Tổng số chưa quá bốn vạn, mà đối địch với mười vạn hùng binh của ta ư? 
Hàn Bạch lễ phép thưa: 
– Chúng tôi có bốn vạn người cũng dám nghênh chiến với mười vạn binh. Vì nước quên mình. Đâu xá gì nguy hiểm? 
Trong khi Hàn Bạch nói truyện với Lưu Thương. Ngô Hán cùng các tướng đã tới. Y nhìn trận thế Lĩnh-Nam, nói: 
– Chúng nó kéo hết quân Độ-khẩu, Hòa-bình, Vĩnh-nhân về. Như vậy chúng quyết chiến với ta rồi đây. Các tướng phải tiêu diệt đám quân này. Mới hy vọng sống sót. Y nhìn trận thế Lĩnh-Nam. Đứng trước trận, hai trăm thớt voi, chia làm hai mươi đội. Sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn cầm cờ xanh phất lên. Mỗi đội chia ra bên phải năm thớt. Bên trái năm thớt. Ở giữa, một dàn Thần–-nỏ. 
Ngô Hán quay lại nói với Lưu Thương: 
– Lập tức đem các dàn chống Thần-nỏ lên ngay. 
Quân Hán lui lại. Từ phía sau, các đội quân cầm dàn chống tên dàn phía trước. Sư trưởng Thần-phong Phạm Nga-Nương nói nhỏ với Hàn Bạch: 
– Ngô Hán dùng rơm nhét vào các mắt một cái vỉ, chống Thần-nỏ. Bây giờ cháu cho Thần-phong lên trước tấn công. Giữa lúc chúng rối loạn, quăng vỉ xuống. Sư bá cho Thần-tượng với Thần-nỏ đánh liền. Phải đánh mau, để chúng không kịp đốt lửa chống Thần-phong. 
Ngô Hán gò ngựa đến trước trận nói với Hàn Bạch: 
– Các ngươi tưởng Thần-nỏ vô địch ư? Ta đã chế ra lá chắn. Thần-nỏ vô dụng rồi. Các ngươi có nhìn thấy không?
Y cầm roi chỉ một cái. Một toán quân đi trước, cầm vỉ chắn tiến lên. Phía sau, đội kị mã xung vào trận Lĩnh-Nam. 
Phạm Nga-Nương cầm tù và thổi lên một hồi. Hàng triệu con ong bầu, từ các xe chở tổ ong phía sau trận Lĩnh-Nam bay lên. Chúng bay u u, nhào xuống trận Hán tấn công. Đám quân mang vỉ, đội kị mã đi đầu không phòng bị kịp. Bị ong đốt. Chúng bỏ vỉ chắn, ôm đầu chạy lui trở lại. Ngô Hán quát lớn: 
– Đốt lửa lên mau. 
Sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn phất cờ. Thần-tượng tiến lên hộ tống. Các dàn Thần-nỏ xung vào trận Hán buông tên. Chỉ hai loạt đầu, hàng vạn kị mã đổ xuống. Ngựa trúng tên. Người ngã ngựa. Ngựa dẫm lên người. Trên đầu ong đốt. Phía dưới Thần-nỏ tác xạ. Thần-tượng xung vào trận. 
Ngô Hán, Lưu Thương tả xung hữu đột. Hai người có tài đại tướng, ứng phó nhanh chóng. Họ cho quân lui về núp trên ngọn đồi lập trận. Đồi dốc, voi không leo lên được. Thần-nỏ bắn không tới. 
Ngô Hán bảo Lưu Thương: 
– Ngươi cùng bản bộ quân mã cố thủ ở đây. Để ta trở về đánh chiếm lại Cửu-long đã. 
Về phía Lĩnh-Nam. Hàn Bạch quân ít, xuất khởi Độ-khẩu, Vĩnh-nhân đến tiếp viện cho Đức-xương đã gan lắm rồi. Ông không dám bỏ thành trống đuổi theo giặc. Trong thành Đức-xương, Trần Đạm-Nương đứng trên dịch lâu nhìn rất rõ. Bà sai mở cửa thành ra gặp Hàn Bạch. Bà nói: 
– Hàn sư bá đến tiếp viện kịp thời. Cháu những tưởng không giữ nỗi thành. Bây giờ Ngô Hán rút về chiếm lại Cửu-long. Sư bá với cháu quân ít, không thể đuổi theo. Chúng ta cứ cầm cự với Lưu Thương, hầu chia bớt lực lượng chúng. Sư bá mau cử sứ giả khẩn cấp báo tình hình cho sư tỷ Phùng Vĩnh-Hoa. 
..... 
Hai đại tướng Nguyễn Nghi, Đỗ Trí dẫn kị binh hướng Cửu-long. Từ Đức-xương đến Cửu-long khoảng trăm dặm. Hai người đến Hà-tây, thì gặp đạo quân của Cáp Diên. Đỗ Trí nói: 
– Thưa Quân-hầu. Anh em chúng tôi được lệnh đem kị binh về cứu viện Cửu-long. Tình hình Tây-xương thế nào? 
Cáp Diên thở dài: 
– Dường như trong quân ta có gian tế của giặc. Khi ta đem quân tới Tây-xương. Giặc đã biết trước. Con nhỏ Trần Hồng-Nương phòng thủ cực kỳ chu đáo. Ta cho đánh thành. Chúng dùng Thần-nỏ bắn xuống. Chúng ta thiệt mất trên vạn quân. Giữa lúc đó, bọn Công-tôn Thi sai Ngụy Đảng, Sử Hùng đem quân tới cứu viện. Hai bên đánh nhau chưa phân thắng bại. Ta được lệnh phải rút binh về Cửu-long. Cũng may chúng không đuổi theo. 
Hai bên họp binh làm một, hướng Cửu-long. Đến khu rừng rậm rạp. Quân báo: 
– Phía trước, có cờ Lĩnh-Nam treo trên chót vót cây cao. Gần đó, các cây cao khác đều treo cờ Ngũ-hành. Không rõ truyện gì? 
Cáp Diên gật đầu. Truyền quân tiếp tục lên đường. Thình lình một tiếng tù và rúc lên. Rồi hàng trăm tiếng thú gầm. Đoàn báo từ trên các cây nhảy xuống chụp kị mã. Người kêu, ngựa hí inh ỏi. Đoàn kị mã chưa kịp phản ứng. Đoàn Thần-báo lại biến vào rừng mất. 
Cáp Diên kiểm lại, hơn ba trăm kị mã bị chết cùng với ngựa. Quân sĩ đã bắt đầu mất tinh thần. Đoàn người ngựa lại tiếp tục lên đường. 
Thình lình một hồi tù và thổi lên. Cáp Diên cho kị mã chuẩn bị tác chiến. Thì chỉ thấy gần ven rừng, một đoàn khỉ đứng trên cây. Cổ mỗi con quàng một cái khăn. Chúng khọt khẹt, tay cầm đá liệng xuống. 
Quân kị dùng cung tên bắn lên. Chúng chạy vào rừng mất. Trời tối dần. Quân sĩ báo với Cáp Diên: 
– Chỉ còn lương thực đủ ăn bữa tối nay mà thôi. Nếu mai không có lương, ắt chết đói hết. 
Bỗng đâu đó tù và thổi liên hồi. Rồi khỉ, trong rừng lại truyền cành cây tới ném đá. Trong rừng, báo gầm lên, từ trên cao nhảy bổ xuống đội hình kị mã. Thoáng một cái, chúng biến vào rừng mất. Hơn trăm kị mã. vừa chết, vừa bị thương. 
Cáp Diên cùng các tướng cho quân hạ trại giữa rừng. Truyền canh gác cẩn thận. Vì sợ bị báo, khỉ tấn công bất thần. Cáp Diên thở dài: 
– Từ sáng đến giờ. Đến một tên quân Lĩnh-Nam. Ta cũng không thấy mặt, mà hơn năm vạn binh của ta, nào bị thương, nào bị chết có đến hơn vạn. Quân sĩ thì kinh hoảng mất tinh thần. Bọn Lĩnh-Nam thực đáng sợ. 
Quân sĩ nấu cơm, vừa định ăn, thì tiếng trống thúc vang dội, tiếng chiêng đánh inh tai. Cáp Diên cùng các tướng đốc thúc quân sĩ chuẩn bị tác chiến. Song chỉ thấy trống thúc, chiêng kêu. Không thấy một người nào cả. 
Cáp Diên bảo các tướng: 
– Thây kệ. Chúng dùng nghi binh. Ta cứ ăn cơm. 
Quân sĩ ngồi ăn cơm. Vừa lúc đó từ trên trời đoàn Thần-ưng xuất hiện. Chúng nhào xuống tấn công. Trong đêm tối, quân Hán không nhìn thấy Thần-ưng, trong khi Thần-ưng nhìn rất rõ. Trại Hán náo loạn lên. 
Thình lình, tiếng báo gầm. Rồi báo từ ngoài tấn công vào trong trại. Trên trời Thần-ưng đánh xuống. Tại chỗ cột ngựa, ngựa bị đoàn khỉ tới cắt dây cột, dùng gậy đánh túi bụi. Chúng hí lên. Bỏ chạy vào rừng. 
Cáp Diên cùng các tướng quát tháo thế nào cũng không được. Quân sĩ bỏ trại, chạy toán loạn. Y truyền lui binh trở lại. Gặp trại quân Ngô Hán đóng phía sau. Cáp Diên tường trình mọi truyện. 
Ngô Hán than: 
– Ta biết Phùng Vĩnh-Hoa dùng binh không bằng ta. Song y thị mưu kế thần sầu quỉ khốc. Không biết đâu mà lường được. Chúng ta tạm chờ trời sáng sẽ trở về Cửu-long sau. 
Sáng hôm sau. Ngô Hán truyền quân sĩ tiến về Cửu-long. Y tiến rất chậm. Song không gặp một biến cố gì. Đám tàn quân của Cáp Diên lại tụ tập về được. Quân sĩ cho biết: Hôm qua chỉ có ba tướng trẻ. Một là Lê Đông-Giang chỉ huy sư Thần-hầu. Hai là Vũ Lăng chỉ huy sư Thần-ưng. Ba là Cao Chiêu-Hựu chỉ huy sư Thần-báo. Còn ngoại giả không thấy quân Lĩnh-Nam đâu. 
Ngô Hán truyền an dinh hạ trại. Y cùng các tướng đến chân thành Cửu-long. Cửa thành đóng kín mít. Trên thành không một bóng người. Không một ngọn cờ. Cáp Diên bàn: 
– Phùng Vĩnh-Hoa mưu mô xảo trá khôn lường. Không biết tình hình trong thành ra sao? Quân mã, Thần-ưng, Thần-hầu, Thần-báo đi đâu? Dường như y thị kéo dài thời giờ, đợi quân ta hết lương, rồi mới tấn công. 
Ngô Hán bàn với các tướng: 
– Đỗ Trí khẩn cấp đem binh phù của ta đến Càn-định, Nhã-giang. Truyền hai thái thú phải cung ứng lương thảo gấp. 
Y truyền các tướng: 
– Dù gì chăng nữa. Chúng ta cũng đánh chiếm lại Cửu-long. 
Vừa lúc đó, ba tiếng trống vang dội. Trên mặt thành, cờ xí dựng lên uy nghiêm. Quân sĩ đi lại hùng tráng. Phùng Vĩnh-Hoa ngồi trên vọng lâu. Tay cầm ống tiêu. Bà tấu bản Động đình ca. Thái độ phong lưu tiêu sái. Tấu nhạc xong bà nói vọng xuống. 
– Ngô Đại tư-mã. Từ Dương-bình-quan cách biệt. Thấm thoát đã mấy năm rồi. Đại tư-mã vẫn mạnh khỏe a? 
Ngô Hán ngửa mặt lên đáp: 
– Phùng cô nương! Ngươi với ta đã từng bên nhau đánh quân Thục. Hồi đó ngươi phản ta trợ Thục. Khiến ta khốn khổ. Bây giờ lại làm khó dễ ta thế này ư? 
Phùng Vĩnh-Hoa đáp: 
– Ngô Đại tư-mã hiểu cho. Giữa Ngô Hán với Phùng Vĩnh-Hoa không thù không oán. Tiểu nữ đâu dám làm khó dễ Đại tư-mã ? Chẳng qua tiểu nữ tuân chỉ của hoàng-đế Lĩnh-Nam mà làm. Hai chúng ta ai cũng vì giang sơn của mình cả. Tiểu nữ ở thế bất đắc dĩ mà thôi. 
Ngô Hán quát lên: 
– Quân sĩ trong thành Cửu-long của cô nương bất quá năm vạn. Ta hiện có mười lăm vạn. Liệu cô nương có địch lại chăng? Ta khuyên cô nương mau rút về Tượng-quận. Ta hứa không làm khó dễ cô nương. 
Phùng Vĩnh-Hoa cười: 
– Ngô Đại tư-mã sao hủ lậu lắm vậy? Nếu Đại tư-mã đánh được ta. Người đã làm rồi. Người cất quân vượt Ô-giang, Xích-thủy, Kim-sa-giang đánh Lĩnh-Nam. Ta chỉ trở tay một cái, đánh chiếm được Cửu-long, Đông-sơn, với Mi-sơn, Nga-biên. Đại quân Vương Nguyên tiến về Thành-đô. Giờ này không chừng Thành-đô thất thủ rồi cũng nên. Thôi, ta nể tình cũ, để cho Ngô Đại tư-mã đem quân về Nhã-giang. Ngươi cứ đi đi. Ta không làm khó dễ đâu. 
Bà cầm mũi tên bẻ làm đôi thề: 
– Nếu ta cho quân rượt theo, hoặc phục kích, sẽ như mũi tên này. 
Vừa lúc đó, quân của Lưu Thương về tới. Ngô Hán truyền Đỗ Trí, Nguyễn Nghi đi đoạn hậu. Còn tất cả rút về Nhã-giang. 
Trong thành, Phùng Vĩnh-Hoa, Chu Tái-Kênh, Trần Năng vỗ tay cười: 
– Quả đúng như chúng ta dự tính. 
Nguyên đêm qua, Phùng Vĩnh-Hoa sai sư trưởng Thần-hầu Lê Đông-Giang, sư trưởng Thần-ưng Vũ Lăng, sư trưởng Thần-báo Cao Chiêu-Hựu dàn quân làm nghi binh, cản đường tiến quân của Cáp Diên, Ngô Hán. Bà dự tính rằng sau một đêm mệt mỏi, thì lương hết. Hôm sau Ngô Hán về tới Cửu-long, y sẽ không đủ sức tái chiếm thành. Y phải rút lui về Nhã-giang. Như vậy bà mới có thể về tiếp ứng cho mặt trận Ô-giang, Xích-thủy của Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống và Đào Tam-Lang. Vì có tin báo, mặt trận này quân Việt thất bại. 
Đợi quân Ngô Hán rút rồi. Phùng Vĩnh-Hoa nói với Vương Nguyên: 
– Ngô Hán mất hết lương thảo. Qua trận vừa rồi, y bị thất bại, hao quân tổn tướng. Giữa Vương Bá với Ngô Hán có sự chia rẽ trầm trọng. Ngô sẽ tâu về triều đình rằng: Vương Bá dùng gian tế Lĩnh-Nam Chu Tái-Kênh, Trần Năng, Đinh Xuân-Hoa làm mất bốn thành Cửu-long, Đông-sơn, Mi-sơn, Nga-biên. Còn Vương Bá sẽ tâu về triều: Ngô Hán không biết dùng binh, mạo hiểm đánh xuống Lĩnh-Nam, trong khi Ích-châu còn bảy thành trong tay Thục, vì vậy mới bị bại. Ngô không biết đề phòng Công-tôn Thi, bị Thi phản. Trong khi họ đổ lỗi cho nhau chạy tội, không còn tinh thần giao chiến. Vậy tôi xin trao các thành trì lại cho sư thúc. Xin sư thúc tiến đánh gấp những phần đất còn lại, phục hồi Thục. 
Đến đây, có sứ giả của Đào Chiêu-Hiển tới, xin vào yết kiến. Phùng Vĩnh-Hoa nhìn qua nét mặt tươi tỉnh của sứ giả. Bà cười: 
– Ba tướng họ Đào đại thắng rồi phải không? Hiện quân họ ở đâu? 
Sứ giả bái lạy: 
– Khải tấu Công chúa. Cả ba đạo đều đại thắng. Ba đại tướng quân hiện dồn quân ở bến Bồ-lăng. Vì sợ quân Hán tràn sang Lĩnh-Nam. Còn sư bá Hàn Đức dẫn sư-trưởng Thần-ngao Vũ Dương giao chiến với Chu Á-Dũng ở Vĩnh-thiên. Quân Hán đông gấp năm quân sư bá Hàn Đức. Chu cho quân tấn công đồn. Y bị Vũ Dương từ phía sau dùng Thần-ngao đánh tập hậu. Giao chiến ba ngày, quân Việt tử thương quá nhiều. Giữa lúc đó Vương Lộc đem đại quân Thục tiếp viện. Một bên quân Hán đông, cùng đường, tử chiến. Một bên liên quân Việt, Thục tuy ít, quyết đuổi giặc đến cùng. Trận chiến kéo dài hơn hai ngày. Quân Hán bị giết chết hết. Quân Thục, Việt cũng chỉ còn hơn bốn ngàn người. Sư thúc Hàn Đức, sư huynh Vương Lộc bị thương nặng. Giữa lúc đó Ngô Tiến-Hy dẫn một đạo binh ba vạn tráng đinh đến đánh. Vũ Dương dùng Thần-ngao cản đường, trong khi quân rút về Bồ-lăng. Ngô Tiến-Hy đuổi theo rất gấp. Trong khi cái chết chỉ đường tơ kẽ tóc, một đạo Thiết– kị khoảng nghìn người xông vào trận. Viên tướng đi đầu chỉ đánh ba chưởng khiến Ngô Tiến-Hy phun máu miệng. Y lui lại đốc quân giao chiến. 
Vĩnh-Hoa hỏi: 
– Người đó là ai vậy? 
– Thưa là Long-biên công Đặng Đường-Hoàn. Người đang trấn tại Long-biên. Nhân nghe tin Tượng-quận sắp có đánh lớn. Người xin vua Trưng đi tiếp viện. Trưng-đế chuẩn tấu. Người mang một nghìn đệ tử theo. Người đến nơi vừa kịp. Người đẩy lui Ngô Tiến-Hy rồi cùng đệ tử về Bồ-lăng. Vì vậy đất Vĩnh-thiên bị giặc chiếm. 
Phùng Vĩnh-Hoa hỏi: 
– Lê lấy đâu ra quân đông đảo như vậy? 
– Y chiêu mộ được hơn mười Lạc-hầu gốc người Hán làm phản. Lạc-hầu đốc xuất toàn bộ tráng đinh nam, nữ kéo cờ Bình man qui Hán. Trên đường rút quân sư thúc Hàn Đức, sư huynh Vương Lộc kiệt lực, tuẫn quốc. 
Vương Nguyên nghe tin con tử trận. Ông ôm mặt bật lên tiếng khóc. 
Phùng Vĩnh-Hoa cúi mặt, ôm đầu, thở dài: 
– Không ngờ sư thúc Hàn Đức, sư đệ Vương Lộc anh hùng một đời, mà sớm tuẫn quốc. Chúng ta thắng thì thắng thực, song mất đi hai đại tướng tài. Còn mặt trận Bồ-lăng... 
....... 
Đinh Xuân-Hoa, Đào Chiêu-Hiển, Cao Đà dùng thuyền lớn, chở sư Thần-hổ đi dọc sông Trường-giang hướng về Bồ-lăng. Sắp tới Bồ-lăng, gặp Thủy quân Hán chặn lại hỏi. Đinh Xuân-Hoa đứng trên mũi thuyền lên tiếng: 
– Ta muốn được gặp tướng chỉ huy. 
Viên tướng chỉ huy đoàn tuần tiểu lên mui thuyền. Y tự giới thiệu: 
– Ta là Cổ Minh đô-đốc lĩnh trách nhiệm trấn giữ Bồ-lăng. Các người là ai? Tại sao lại chở nhiều cọp thế này? Có thẻ bài của thái thú không? 
Đinh Xuân-Hoa lắc đầu: 
– Chúng tôi không có thẻ bài của thái-thú. Mà chỉ có lệnh bài của Hoài-dương hầu lĩnh ấn tổng trấn Thành-đô, Vương Bá. 
Cổ Minh nghe đến Vương Bá, lời lẽ y khách sáo hơn: 
– Xin bà cho coi lệnh bài. 
Đinh Xuân-Hoa trình lệnh bài ra. Cổ Minh cầm lại xem xét rồi hỏi: 
– Bà chở cọp đi đâu nhiều thế này? 
Đinh Xuân-Hoa đưa tấm lệnh bài có khắc con phụng ra nói: 
– Mã thái-hậu truyền Hoài-dương hầu Vương tướng quân mua thực nhiều cọp, rồi trao cho chúng tôi chở về Kinh-châu giao cho Mã Viện. 
Cổ Minh biết Mã Viện là cháu Mã thái-hậu. Y trả lệnh bài cho Đinh Xuân-Hoa: 
– Xin bà cho thuyền nghỉ lại đây. Sáng mai hãy lên đường. Vì chiều nay quân Vương Hữu-Bằng, Lý Thái-Hiên xuất phát đánh Lĩnh-Nam. Ghe thuyền đóng chặt giòng sông. Sáng mai chiến thuyền đi bớt, rồi các vị lên đường cũng vừa. 
Đinh Xuân-Hoa cho thuyền đậu trên sông. 
Sáng hôm sau, quân Vương, Lý xuất phát hết. Cổ Minh báo cho Đinh Xuân-Hoa biết. Đinh Xuân-Hoa nói: 
– Xin Đô-đốc cho phép chúng tôi dắt cọp lên bờ nghỉ ngơi nửa buổi. Cọp giam dưới thuyền đã mấy ngày. Chúng gầy yếu quá rồi. 
Cổ Minh đồng ý. Cao Đà ra lệnh. Cứ mười Thần-hổ, do một Hổ-tướng chỉ huy, dẫn chúng lên bờ. Cổ Minh đứng nhìn đoàn Thần-hổ, y hỏi Đinh Xuân-Hoa: 
– Phu nhân làm cách nào, dậy cọp ngoan ngoãn như chó thế kia? 
Đinh Xuân-Hoa chưa kịp trả lời, thi đoàn Thần-hổ đã lên bờ, dàn thành trận. Đào Chiêu-Hiển vẫy tay. Từ dưới thuyền, hơn ba trăm dũng sĩ quyết tử xông lên. Ông hô một tiếng. Cao Đà cầm cờ phất, đoàn Thần-hổ gầm gừ rung chuyển trời đất, xung vào trại Hán. Phía sau đoàn dũng sĩ cảm tử tiến lên. 
Cổ Minh ngớ ngẩn hỏi: 
– Cái gì? Thế này là thế nào? 
Đinh Xuân-Hoa phóng cho y một chưởng. Người y vốn mảnh khảnh. Bị một chưởng, bay tung lên cao, rơi xuống sông. Y dãy dụa mấy cái, người chìm nghỉm. 
Đoàn Thần-hổ, dũng sĩ cùng Đào Chiêu-Hiển, Cao Đà xung vào trại Hán. Quân trong trại rối loạn. Đám dũng sĩ đánh lửa lên đốt lương thảo. Phút chốc trại Hán khói lửa ngụt trời. Đám quân Hán không tập trung lại được. Đào Chiêu-Hiển chỉ huy đoàn dũng sĩ đốt cháy khắp nơi. Trong khi đoàn Thần-hổ đuổi đánh quân canh. 
Thấy đã thành công. Đào Chiêu-Hiển bảo Cao Đà: 
– Chúng ta cho Thần-hổ vượt sông, phục sẵn ở ven rừng. Có thể quân của Vương Bằng, Lý Thái-Hiển trở về. 
Quả nhiên đến chiều, từ xa xa, đoàn quân Hán đang rút trở về. Đinh Xuân-Hoa nói: 
– Quân Hán trở về bơ phờ thế kia. Chắc trúng phục binh của Đào Đô-Thống với Đào Tam-Lang rồi. 
Đào Chiêu-Hiển bảo Cao Đà leo lên ngọn cây quan sát tình hình. Cao Đà vâng lệnh, leo lên cây. Nó nói vọng xuống: 
– Thưa sư bá, đằng trước, quân Hán đang tháo chạy. Quân Lĩnh-Nam rượt theo. Các dàn Thần-nỏ của ta đi trước. Quân Hán ngã từng loạt một. 
Một lát quân Hán rút tới. Đào Chiêu-Hiển vỗ tay một cái. Cao Đà rú lên ba tiếng. Đoàn Thần-hổ từ trong rừng gầm lên rung chuyển trời đất. Chúng xông ra chặn mất đường đi của quân Hán. Vương Hữu-Bằng, cầm kiếm đi đầu. Đào Chiêu-Hiển từ trên cây nhảy xuống. Ông cầm kiếm phóng vào ngực y. Miệng nói lớn: 
– Vương Hữu-Bằng, thành Bồ-lăng ta đã chiếm mất rồi. Lương thảo đốt sạch. Bây giờ ta lấy đầu ngươi đây. 
Vương Hữu-Bằng vung kiếm xả vào mặt Đào Chiêu-Hiển. Thế là một đánh thục mạng, tìm đường chạy, một quyết giết giặc không tha. Hai người quay tròn, đấu với nhau. 
Lý Thái-Hiên đứng ngoài, y rút kiếm tấn công Đào Chiêu-Hiển. Đinh Xuân-Hoa từ trên cao đáp xuống. Bà khoanh kiếm, cản Lý Thái-Hiên. Hai bên thi diễn cuộc đấu. Kể ra kiếm thuật Lý cũng vào loại hiếm có. Song võ công Đinh Xuân-Hoa là võ công Cửu-chân, khắc chế võ công Trung-nguyên. Chỉ hơn ba mươi hiệp y luống cuống rõ rệt. Choang một tiếng. Kiếm của Lý bay bổng lên cao. Đinh Xuân-Hoa chỉa kiếm vào cổ y: 
– Đầu hàng, ta sẽ tha mạng cho. 
Lý vội vàng quì xuống: 
– Tiểu tướng xin phu nhân tha mạng. 
Đinh Xuân-Hoa thu kiếm lại. Thình lình Lý Thái-Hiên vung tay một cái. Hơn mười mũi phi đao nhỏ bay vào người bà. Bà khoa kiếm gạt, chỉ được sáu lưỡi. Còn bốn lưỡi ghim vào ngực, bụng bà. Ánh thép lóe lên, bà đưa một lưỡi kiếm. Đầu Lý Thái-Hiên rơi xuống đất. Phẫn chí, bà đưa một nhát nữa, Vương Hữu-Bằng đang đấu với Đào Chiêu-Hiển, cũng bị đứt làm hai khúc. 
Đào Chiêu-Hiển kêu lên: 
– Sư bá, có sao không? 
Đinh Xuân-Hoa cúi gập người. Bà nghiến răng nhổ bốn lưỡi phi đao ra. Bà trúng đao không sâu, chỉ bị ngoại thương, tạng phủ vô sự. Cao Đà lấy thuốc rịt vết thương, băng bó cho bà. 
Vừa lúc đó quân của Đô-Thống, Tam-Lang đuổi tới. Chỉ mấy loạt Thần--nỏ, đám tàn quân Hán ngã hết. 
..... 
Phùng Vĩnh-Hoa nói với Chu Tái-Kênh: 
– Khi sang đây trấn nhậm. Trưng-đế có nói với cháu: "Anh em họ Đào tuy ba là một. Chiêu-Hiển khí phách. Đô-Thống mưu mẹo. Tam-Lang trung liệt. Cả ba đều có tài đại tướng". Cứ như trận này thì rõ. 
Bỗng Thần-ưng từ xa mang thư tới. Phùng Vĩnh-Hoa mở ra đọc. Bà bỏ thư vào túi, nói với Vương Nguyên: 
– Quân Ngô Hán mới bị vỡ. Xin sư thúc giúp Thái-tử chiếm lại Thành-đô, tái lập nước Thục. Chúng tôi phải trở về Tượng-quận ngay. Các thành Độ-khẩu, Mễ-dịch, Đức-xương, Tây-xương chúng tôi có ba vạn quân, cùng Trần-gia tam-nương cũng rút về. Xin sư thúc đề phòng cẩn thận. 
Bà dẫn Chu Tái-Kênh, Trần Năng khẩn cấp rút về Lĩnh-Nam qua Độ-khẩu. 
Dọc đường Chu Tái-Kênh hỏi: 
– Tình hình Lĩnh-Nam ra sao, mà chúng ta đang thắng, công chúa phải cho rút về? 
Phùng Vĩnh-Hoa đáp: 
– Tôi được tin Thần-ưng của sư bá Hàn Bạch báo: Trong thời gian Tượng-quận tam-anh dốc hết quân trợ Thục. Thầy trò Lê Đạo-Sinh cùng với các Lạc-hầu, Lạc-tướng người Hán, dùng tráng đinh nổi dậy. Chúng ta phải trở về ngay. Nếu không e Tượng-quận lâm nguy. Tượng-quận Tam-anh cùng với Trần-gia tam-nương rút về trước rồi. Lê Đạo-Sinh đang công hãm thủ đô Tượng-quận. 
Bà thở dài: 
– Ngô Hán bị tôi đánh bại trên đất Trung-nguyên. Song y thắng tôi ở Tượng-quận. Quang-Vũ chỉ dụ cho y, để Lê Đạo-Sinh dùng người Lĩnh-Nam đánh với người Lĩnh-Nam. Sau đó y mới xua quân Hán tham chiến. Ngô đổi ngược lại dùng quân Hán đánh trước, rồi xua người Lĩnh-Nam đánh sau. Giỏi! Y lừa được tôi. 
Ba người truyền Thần-hầu, Thần-ưng, Thần-báo khẩn cấp triệt thoái. Dọc đường qua các thành Đức-xương, Tây-xương, Mễ-dịch, được tin Trần-gia tam-nương cùng các đạo quân Việt đã rút về Tượng-quận hết rồi. 
Trưa hôm sau, ba người tới Độ-khẩu, qua sông đổ vào Vĩnh-nhân. Vừa sang đến nơi, đoàn Thần-ưng đồng kêu ré lên trên không. Chúng lao tới phía trước. Vũ Lăng, sư trưởng Thần-ưng nói với Vĩnh-Hoa: 
– Chị Vĩnh-Hoa! Phía trước có quân mình đang giao tranh với địch. Đoàn Thần-ưng trông thấy. Chúng bay theo yểm trợ. Để em đi trước xem sao. 
Vũ Lăng ngồi trên bành con voi. Chàng thúc voi tiến tới. Phía sau Phùng Vĩnh-Hoa, Chu Tái-Kênh, Trần Năng phi ngựa theo. Phi được hơn năm dặm, Vũ Lăng chỉ về phía trước: 
– Kìa Trần-gia tam-nương đang giao chiến với hai người nam, một người nữ. Đạo quân của ba bà cùng đạo quân lạ đang chém giết nhau. 
Trần-gia tam-nương yếu thế lắm rồi. Chu Tái-Kênh nhận ra Đạm-Nương đấu với Đức-Hiệp. Thanh-Nương đấu với Vũ Hỷ. Hồng-Nương đấu với Vũ Phương-Anh. Đức-Hiệp đánh liền ba chưởng. Đạm-Nương nhảy lui liên tiếp. Trong khi đó Vũ Hỷ đẩy lui Thanh-Nương đến một gốc cây lớn. 
Chu Tái-Kênh vọt người lên cao, vượt qua đầu đám quân sĩ. Còn lơ lửng trên không, bà vung tay xuất hai chưởng, hướng vào Đức-Hiệp, Vũ Hỷ. Hai người bỏ Đạm-Nương, Thanh-Nương xoay lại đỡ chưởng của bà. Binh, binh hai tiếng. Hai người bật lui đến hơn trượng. Chu Tái-Kênh đã đứng trước mặt họ. Bên cạnh bà, Trần Năng dùng Lĩnh-Nam chỉ đẩy lui Vũ Phương-Anh. 
Đức-Hiệp vẫy đồng bọn, lui lại, đứng trước hàng quân, mắt gườm gườm nhìn Chu Tái-Kênh. Y đã nhận ra bà. 
Hồi Chu Tái-Kênh còn theo Lê Đạo-Sinh. Bà che dấu bản lĩnh của mình. Thành ra bọn Đức-Hiệp chỉ biết bà giỏi về khoa huấn luyện binh lính. Chúng tuyệt không ngờ bà có bản lĩnh cao cường, đến độ chỉ một chiêu, đánh bay y với Vũ Hỷ. 
Đức-Hiệp hỏi: 
– Chu lão bà! Thì ra ngươi. Bấy lâu nay ngươi ẩn thân trong Thái-hà trang, mà sư phụ ta không biết võ công ngươi cao đến trình độ này. 
Chu Tái-Kênh cười nhạt: 
– Thầy trò mi có mắt như mù. Võ công của ta cao hơn Lê Đạo-Sinh nhiều, mà y không biết. Hôm nay bọn mi biết, đã chậm trễ rồi. Ngươi có biết ta là ai không mà dám buông lời hỗn láo? 
Đức-Hiệp trả lời bằng cái lắc đầu. Chu Tái-Kênh bảo Trần Năng: 
– Ngươi nói cho chúng biết ta là ai đi. 
Trần Năng vẫy Đức-Hiệp: 
– Sư đệ! Để ta giới thiệu cho mi biết. Vị này chính là sư nương của ta. Ngươi mau bái kiến đi. 
Vũ Hỷ ngang tàng: 
– Ta không tin. Từ xưa đến giờ, có nghe nói sư bá lấy vợ đâu? Nay tự nhiên mọc ra mụ này, thế mà mi bắt ta cúi đầu, e còn khó hơn bắc thang lên trời. 
Thấp thoáng thân hình. Chu Tái-Kênh đã tát cho Vũ Hỷ hai cái bốp, bốp. Động tác nhảy tới, tát, nhảy lui nhanh như chớp. Rõ ràng Vũ Hỷ trông thấy, mà phản ứng không kịp. Y bị tát đau quá. Nước mắt dàn dụa ra. 
Đức-Hiệp kêu lên: 
– Sư bá! Thì ra ngươi thuộc phái Long-biên. 
Chu Tái-Kênh không nói, không rằng. Bà xuất chiêu Ngưu tẩu như phi hướng Đức-Hiệp. Đức-Hiệp thấy chưởng lực hùng mạnh, y hoảng hốt, nhảy vọt lên cao. Chưởng của Chu Tái-Kênh trúng xuống đất đến bùng một cái. Đất sụt xuống một lỗ trũng. Cát bụi bay mịt mờ. 
Đức-Hiệp mở to mắt ra. Vì chưởng lực của bà muốn mạnh hơn Lê Đạo-Sinh. 
Chu Tái-Kênh hất hàm hỏi: 
– Các ngươi có chịu ra mắt ta không? 
Bọn Đức-Hiệp, vội vàng chắp tay: 
– Đệ tử kính cẩn ra mắt sư bá. 
Chu Tái-Kênh hỏi Trần Đạm-Nương: 
– Tại sao các cháu lại giao chiến với bọn này? 
Đạm-Nương đáp: 
– Bọn chúng khích động một số Lạc-công, Lạc-hầu nổi dậy Bình man qui Hán. Chúng đem quân cản đường Tượng-quận Tam-anh với bọn cháu. Tượng-quận Tam-anh đem sư Thần-phong, Thần-tượng cùng đội kị binh trở về Côn-minh trước, để bọn cháu cản hậu. Lúc đầu quân của chúng ít, rồi dần dần, chúng kéo đến đông như thế này đây. 
Phùng Vĩnh-Hoa nhớ lại : Trước đây Tượng-quận Tam-anh đã gửi tấu chương về triều rằng: Đất Tượng-quận cứ bảy người Hán mới có ba người Việt. Suốt hai trăm năm người Hán đô hộ, người Việt bị coi như trâu như chó, không được học hành, không được tập võ, không có ruộng đất. Hóa cho nên bây giờ Lĩnh-Nam phục hồi, người Hán vẫn làm chủ. Sau cuộc suy cử Lạc-hầu, Lạc-công, hầu hết người Hán nắm các chực chưởng then chốt, các phú gia đều là người Hán. Nay Lê Đạo-Sinh cùng đám đệ tử, tìm đến đám quan lại người Hán hồi xưa, chúng đang ẩn trong dân, đem chiếu chỉ của Quang-Vũ phong cho họ. Người nào cũng được phong chức tước lớn. Ông muốn bắt giết các Lạc-hầu, Lạc-công người Hán, mà không dám. Vì sợ dân chúng, quân sĩ nổi loạn. Tình hình Tượng-quận cực kỳ căng thẳng. Tượng-quận Tam-anh theo dõi thầy trò Lê Đạo-Sinh rất kỹ. Ngặt vì chúng ở trong bóng tối. Nay hiện, mai ẩn. Tam-anh biết rõ mối nguy hiểm ẩn tàng. Mà không có cách nào trị được. 
Trong khi Ngô Hán chia binh làm năm đạo đánh xuống Lĩnh-Nam. Phùng Vĩnh-Hoa mải ứng phó. Tượng-quận Tam-anh dồn quân lên Độ-khẩu, Vĩnh-nhân nghinh địch. Thầy trò Lê Đạo-Sinh thấy vậy, ra lệnh cho đám Lạc-công, Lạc-hầu nổi dậy. Có đến phân nửa các Lạc-công, Lạc-hầu theo Hán. Lê Đạo-Sinh sai đệ tử tập trung tráng đinh của đám Lạc-hầu, Lạc-công phản loạn, đánh chiếm các huyện cùng trang ấp không theo chúng. 
Tượng-quận Tam-anh được tin đó, giữa lúc các ông đang đuổi theo quân của Vương Thường, Ngô Hán, Cáp Diên. Ba ông lập tức viết thư báo cho Phùng Vĩnh-Hoa biết. Một mặt rút quân về dẹp loạn. Các ông cũng lệnh cho Trần-gia tam-nương rút quân theo, đem quân về cứu thủ đô Côn-minh của Tượng-quận đang bị Lê Đạo-Sinh vây hãm. Trần-gia tam-nương đi cản hậu, vừa về đến giữa đường thì gặp Đức-Hiệp, Vũ Hỷ, Vũ Phương-Anh chặn đánh. Trong khi ba bà đang gặp nguy hiểm, Chu Tái-Kênh về tới, kịp thời tiếp cứu. 
Đức-Hiệp thấy tình hình bên mình yếu thế. Y chắp tay chào Chu Tái-Kênh: 
– Đã có mặt sư bá ở đây. Chúng cháu xin rút lui. 
Lê Đông-Giang, sư trưởng Thần-hầu, trực tiếp thống lĩnh quân đoàn sáu Tây-vu cười nhạt: 
– Đâu có dễ dàng như vậy! Các ngươi tưởng chạy được ư? 
Đức-Hiệp nhìn ra: Đạo quân của y đã bị Phùng Vĩnh-Hoa cho Thần-hầu, Thần-báo, cùng quân của Trần-gia tam-nương vây kín từ lúc nào. Vũ Lăng đứng trên bành voi cầm cờ chỉ huy Thần-ưng trong tư thế sẵn sàng tác chiến. 
Đức-Hiệp cười nhạt: 
 – Phùng Vĩnh-Hoa. Mi tưởng với đạo quân thú vật của mi, có đủ khả năng giết bọn ta ư? Ta nói cho ngươi biết, dân chúng Tượng-quận, mười người, đến chín người Hán. Họ đồng nổi dậy Bình man qui Hán cả rồi. Các ngươi muốn giết ta, cứ giết. Nhưng liệu các ngươi có cứu được Tượng-quận về với Lĩnh-Nam chăng? Hãy nhìn, đạo quân của ta gồm tráng đinh mười trang ấp. Họ kéo cờ Hán, trở về với Hán. Nếu ngươi có tài, cứ giết hết dân Tượng-quận đi. Ngươi có đất, mà không có dân. 
Đến đó, có tiếng quân reo, ngựa hí. Hai đạo quân từ phải, trái do Hoàng Thái-Tuế, Ngô Tiến-Hy kéo tới. Phùng Vĩnh-Hoa truyền quân lui lại dàn trận thế, sẵn sàng chiến đấu. 
Vũ Lăng nói với Phùng Vĩnh-Hoa: 
– Chúng ta chỉ có một vạn người, với sư Thần-hầu, Thần-báo, Thần-ưng. Trong khi bên chúng có tới hơn năm vạn người. Vậy sư tỷ cùng Chu sư bá, Trần sư tỷ hãy về thủ đô Côn-minh hợp với Tượng-quận Tam-anh đối phó. Bọn em xin đi cản hậu. 
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu: 
– Không phải chúng ta sợ chúng, mà sợ nếu để hai bên đánh nhau, dù quân chúng ta chết, dù tráng đinh chết, nhân lực Lĩnh-Nam cũng hao tổn. Vậy các em chỉ cần cản hậu. Đừng giết người nhiều quá. 
Bà nói với Chu Tái-Kênh, Trần Năng: 
– Hai vị trổ thần oai đánh bọn Đức-Hiệp, mở vòng vây. Chúng ta về Côn-minh, để các em dùng Thần-ưng, Thần-báo, Thần-hầu cản hậu. 
Chu Tái-Kênh hú lên một tiếng. Bà phóng chưởng đánh Đức-Hiệp, Vũ Hỷ. Trần Năng đánh Vũ Phương-Anh. Chỉ mấy chiêu. Hai người đánh dạt bọn chúng sang một bên, rồi dẫn đầu cho đạo quân Trần-gia tam-nương xung vào trân địch. Từ hai bên hông, sư Thần-báo, Thần-hầu đánh kẹp lại. Vũ Lăng chỉ huy Thần-ưng từ trên đánh xuống. Trận tuyến bọn Đức-Hiệp rối loạn hẳn lên. Phút chốc đạo quân Trần-gia tam-nương cùng Phùng Vĩnh-Hoa xông khỏi vòng vây. Quân Đức-Hiệp hầu hết tráng đinh của các trang lẻ tẻ. Đông, thì đông thực. Song dàn trận, phối hợp không quen. Vì vậy đạo quân Trần-gia tam-nương vượt ra dễ dàng. 
Bấy giờ Đừc-Hiệp mới biết rõ ý định của Phùng Vĩnh-Hoa. Chúng dẫn đầu, phía sau, các Lạc-hầu người Hán, lùa tráng đinh đuổi theo. 
Cao Chiêu-Hựu đứng trên bành voi, tay cầm cờ phất. Đạo quân ba trăm Thần-báo chỉ có ba mươi người chỉ huy. Trận tuyến dàn ra nghiêm chỉnh. Trên trời Thần-ưng bay lượn theo lệnh Vũ Lăng. Tráng đinh phản loạn dừng lại, không dám tiến lên. Hai bên trong tư thế gờm nhau. 
Đức-Hiệp nói với Vũ Hỷ: 
– Ba chúng ta phải xông vào trận. Nếu không, bọn Phùng Vĩnh-Hoa trở về Côn-minh thì đạo quân của sư phụ bị đánh tập hậu. Nguy lắm. 
Ba người đồng múa vũ khí xông vào trận. Cao Chiêu-Hựu phất cờ xanh. Mỗi người trong bọn Vũ Hỷ bị mười Thần-báo vây vào giữa. Tránh con này, thì con kia xung vào trận. Vũ Lăng cầm cờ phất. Trên đầu bọn Vũ Hỷ lại bị một đội Thần-ưng đánh xuống. Ba người múa tít kiếm hộ thân. 
Các Lạc-hầu phản loạn, xua quân lao vào trận. Đoàn Thần-báo gầm lên cùng nghênh chiến, trên trời Thần-ưng lại lao xuống tấn công. Có bốn Lạc-hầu đi đầu bị Thần-báo cắn chết. Đám tráng đinh kinh hoảng, vội lui trở lại. Bọn Đức-Hiệp tả xung hữu đột một lúc, mới làm cho năm Thần-báo bị thương. 
Chúng cùng hô lên một tiếng, lui về trận. 
Cao Chiêu-Hựu, Vũ Lăng phất cờ cho Thần-báo, Thần-ưng hưu chiến, cũng dàn trận, chờ đợi. 
Bỗng Hắc-hầu tướng Lê Đông-Giang phi ngựa đến nói: 
– Hai em mau đem Thần-báo, Thần-ưng tiếp viện sư tỷ Phùng Vĩnh-Hoa. Sư tỷ đang giao chiến với bọn phản loạn cách đây mười dậm. Để ta với đoàn Thần-hầu cản hậu được rồi. 
Vũ Lăng, Cao Chiêu-Hựu vội phi ngựa, dẫn Thần-báo, Thần-hổ đuổi theo Phùng Vĩnh-Hoa. Đi hơn giờ, đã thấy phía trước một đạo quân phản loạn đang bao vây Phùng Vĩnh-Hoa, cùng mọi người vào giữa. Vũ Lăng tinh mắt, chỉ vào sườn đồi gần đó, nói với Cao Chiêu-Hựu: 
– Kìa! Không biết tên nào đứng trên núi, cầm cờ chỉ huy quân phản loạn bao vây chúng mình. Để tao giết nó trước.
Phía sườn đồi, một người cầm cờ Ngũ sắc, chỉ huy. Các Lạc-hầu phản loạn trông theo hiệu kỳ, bao vây bọn Phùng Vĩnh-Hoa. 
Vũ Lăng hú lên một tiếng dài. Một toán hơn trăm Thần-ưng bay tới, nhào xuống tấn công người cầm cờ. Y phải buông cờ, cầm vũ khí chống cự. Các đội quân phản loạn vốn không thống nhất. Nay mất người chỉ huy, hàng ngũ rối loạn. Giữa lúc đó Vũ Lăng cho Thần-ưng đánh xuống. Cao Chiêu-Hựu cho Thần-báo xung vào trận. Quân phản loạn vội rút vào sườn núi. Vòng vây mở rộng. Đạo quân Trần-gia tam-nương qua hai trận đánh, tổn thất khá nhiều, đã mệt mỏi lắm rồi. 
Chu Tái-Kênh, Trần Năng xung sát, người đầy máu. Phùng Vĩnh-Hoa thở dài: 
– Sư tỷ Trưng Trắc vẫn thường nói: Giặc ngoài dễ đánh, giặc trong khó phòng. Nay ta mới nếm mùi cay đắng. Hơn hai mươi vạn quân Ngô Hán, chúng ta đuổi chạy tan tác. Không ngờ... không ngờ giữa lúc ta thắng trận, bị bọn Lê Đạo-Sinh đánh phía sau. Bây giờ các Lạc-hầu Tượng-quận theo Hán hết cả. Chúng ta có dẹp được họ, thì quân chết nhiều, mà các trang ấp cũng điêu tàn. Vậy phải làm gì? Không biết tình trạng Tượng-quận Tam-anh ra sao? Hiện họ ở đâu? Bây giờ chúng ta mở đường máu, rút sang Quế-lâm, rồi tìm cách an định Tượng-quận sau vậy. 
Bà truyền lệnh Trần-gia tam-nương: 
– Đạo kị binh trừ bị Tượng-quận đóng cách đây không xa. Ba em mau đến đó, điều động họ tiếp viện bọn ta. 
Bà truyền lệnh mọi người dẫn quân sĩ, dựa lưng vào ngọn đồi dàn trận, cố thủ, chờ quân Trần-gia tam-nương. 
Có Thần ưng từ xa bay tới. Vũ Lăng gọi xuống. Nó cầm thư đưa cho Phùng Vĩnh-Hoa. Phùng Vĩnh-Hoa cầm thư đọc, thở dài: 
– Thế là xong! 
Chu Tái-Kênh hỏi: 
– Cái gì đã xảy ra? 
Phùng Vĩnh-Hoa rơi nước mắt: 
– Tượng-quận Tam-anh cùng đạo quân rút về tới thủ đô Côn-minh, lập tức bị Lê Đạo-Sinh xua năm vạn tráng đinh gốc Hán tiến đánh. Ba ông không muốn cho quân sĩ giết tráng đinh, truyền rút vào trong thành cố thủ. Đêm đến, binh tướng gốc người Hán làm phản. Chúng nổi dậy, mở cửa thành cho Lê Đạo-Sinh vào. Sư trưởng Thần-phong Phạm Nga-Nương dùng Thần-phong đánh. Sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn tung Thần-tượng giải vây. Đánh đến sáng. Thần-tượng chết hết. Thần-phong cũng tuyệt. Phạm Nga-Nương, Nghiêm Đôn tự tử. Tượng-quận Tam-anh cũng tự tử theo. 
Chu Tái-Kênh, Trần Năng nhìn Phùng Vĩnh-Hoa. Người người ngớ ngẩn, không biết giải quyết sao. 
Thình lình có tiếng ngựa hí, quân reo. Phía sau bọn Đức-Hiệp, Vũ Hỷ đã đuổi tới. Quân phiến loạn hai đạo hợp làm một đông đến bảy tám vạn người. 
Phùng Vĩnh-Hoa hỏi Vũ Lăng: 
– Lê-Đông-Giang với đạo Thần-hầu đâu? Dường như họ bị giết hết rồi, nên bọn Đức-Hiệp mới tới đây được. 
Vũ Lăng đáp: 
– Thưa không phải thế. Chiến thuật của Thần-hầu thường ẩn trong rừng. Thình lình đánh vào phía sau địch. 
Trần Năng bàn: 
– Đạo quân Đào Chiêu-Hiển, Đô-Thống, Tam-Lang hiện đóng gần đây. Chúng ta cho Thần-ưng mang thư cầu cứu. Một mặt chúng ta rút về phía đó. 
Phùng Vĩnh-Hoa cầm bút viết thư, sai Thần-ưng đi liền. Mọi người ngồi nhắm mắt dưỡng thần. 
Đến nửa đêm, có tiếng khỉ kêu trên núi. Lê Đông-Giang cùng đoàn Thần-hầu đã về tới. Chàng nói: 
– Em chịu tội với chị. Đội Thần-hầu chỉ có ba trăm con. Em cố sức cản được chúng hơn giờ. Sau đành rút vào rừng, trở về đây. 
Phùng Vĩnh-Hoa an ủi Hắc-hầu tướng mấy câu. 
Trời gần sáng. Lê Đông-Giang lên núi nói với Phùng Vĩnh-Hoa: 
– Sư tỷ. Đêm qua, quân sĩ gốc người Hán bỏ hàng ngũ chạy theo Đức-Hiệp hết. Khi rời Độ-khẩu, ta có một vạn người. Tổn thất hai trận còn tám ngàn. Hiện chúng bỏ đi gần hết. Chỉ còn hơn hai ngàn binh sĩ gốc người Việt mà thôi. Bây giờ chúng ta phải làm gì? 
Phùng Vĩnh-Hoa gọi Cao Chiêu-Hựu: 
– Em cho Thần-báo phục trong rừng. Cản quân phản loạn. Còn chúng ta rút về phía Bắc, gặp Đào Chiêu-Hiển, rồi sẽ liệu. Bây giờ, các trang ấp người Hán đều theo Lê Đạo-Sinh cả. Bốn bề toàn quân thù. Đành phải rút vậy. 
Đoàn người âm thầm rút trong đêm. Trưa hôm sau Phùng Vĩnh Hoa gặp đạo quân của Đào Chiêu-Hiển. Đặng Đường-Hoàn nhìn Phùng Vĩnh-Hoa, ông thở dài: 
– Phép dùng binh thì cần thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Chúng ta không có thời, Công-tôn Thi mới hàng Hán. Nhân hòa, chúng ta không có, vì dân toàn dân Hán. Người Hán ở khắp nơi, họ luôn tự cho mình là con trời. Cho dù mình có hậu đãi đến đâu, họ vẫn quay đầu về cố quốc. Cháu cứ bình tĩnh rút về Quế-lâm cùng Đào Kỳ báo phục sau. Sư thúc cùng các sư đệ quyết chiến một trận, rồi chết cũng đành. 
Trần Năng rất quan tâm đến bệnh tình Đinh Xuân-Hoa. Bà cầm mạch, rồi nói: 
– Không sao. Thái sư mẫu chỉ bị ngoại thương thôi. 
Phùng Vĩnh-Hoa tường trình mọi biến cố cho Đinh Xuân-Hoa với ba anh em họ Đào nghe. Đào Đô-Thống nói: 
– Phía trước chúng ta đối diện với gần mười vạn quân Hán. Bốn bên trang ấp đều nổi dậy. Phía sau hơn mười vạn tráng đinh theo phe phản nghịch. Bây giờ chúng ta phải rút về Quế-lâm, rồi hãy định liệu. 
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu đồng ý. 
Bỗng quân vào báo: 
– Có một tướng Thục, xưng là Vương Thọ, bị thương nặng. Đến xin cầu kiến công chúa. 
Phùng Vĩnh-Hoa kinh hoảng, vội chạy ra ngoài trướng. Vương Thọ người đầy thương tích. Y thấy Phùng Vĩnh-Hoa, oà lên khóc: 
– Công chúa! Đất Thục thôi rồi! Còn gì nữa đâu? 
Đào Chiêu-Hiển đỡ Vương Thọ đặt lên tấm nệm cỏ. Trần Năng chẩn mạch. Bà vận Lĩnh-Nam chỉ, điểm mấy cái. Vương Thọ tỉnh táo hơn. Bà lấy vải băng bó các vết thương cho y, cùng bôi thuốc cầm máu. Vương Thọ vừa khóc vừa thuật: 
– Sau khi Công chúa Vĩnh-Hoa với các vị về Tượng-quận, thi Công-tôn Thi truyền bắt các tướng theo cha tôi phải giao quân mã lại cho các tướng của y. Cha tôi không chịu, xảy ra cuộc cãi vã. Cuối cùng đi đến dụng võ. Cha tôi giết chết Công-tôn Thi tại chỗ. Các tướng chia làm hai phe đánh nhau mù trời. Trong các thành thuộc Thục, quân tướng cũng chia hai giết nhau. Thình lình Ngô Hán, Vương Bá đem quân đánh úp. Chỉ một ngày một đêm, lấy hết các thành Thục. Tôi cùng một số vệ sĩ chạy về Độ-khẩu tìm công chúa. Được biết Tượng-quận Tam-anh tuẫn quốc. Tôi tìm đến đây báo cho công chúa biết mọi sự. 
Phùng Vĩnh-Hoa bật thành tiếng than: 
– Chao ôi! Từ khi mới đến Dương-bình quan gặp thái tử Công-tôn Tư. Trong lòng tôi nảy ra ý liên kết với Thục. Đất Thục nhiều nhân tài. Thiên-sơn thất hùng chí khí hơn đời. Chỉ vì nội loạn Công-tôn Thi mà mất nước. Chúng tôi cũng chỉ vì Lê Đạo-Sinh mà khôn đốn thế này. Nào chúng ta hãy rút về Quế-lâm. 
Hắc-hầu tướng Lê Đông-Giang tán thành: 
– Vậy Chu, Đặng sư bá với các sư huynh, sư tỷ rút quân đi. 
Trần Năng hỏi: 
– Các em đi cản hậu à? 
Lê Đông-Giang rút kiếm chỉ lên trời nói: 
– Chúng em xuất thân là đệ tử Tây-vu. Võ công Tây-vu không cao. Văn học Tây-vu không giỏi. Nhưng có một điều, khi chúng em học, thường ngày luôn miệng nhắc. Là đệ tử Tây-vu. Đầu có thể rời. Xác có thể tan nát, máu có thể nhuộm đất. Chứ không bao giờ nhường đất cho giặc. Các sư tỷ rút lui về Quế-lâm đi. Bọn em nguyện chết với đất Tượng-quận. 
Phùng Vĩnh-Hoa quát: 
– Ta làm chúa tướng. Các em phải nghe lệnh ta, rút lui, bảo tồn chủ lực. 
Vũ Lăng ứa nước mắt nói: 
– Quân đoàn sáu Tây-vu được lệnh trấn Tượng-quận. Tượng-quận là quân đoàn sáu. Quân đoàn sáu là Tượng-quận. Hôm nay đệ tử Tây-vu nhất định chết với Tượng-quận. Chúng em sẽ đánh đến hơi thở cuối cùng. 
Sư-trưởng Thần-long Cao Nguyệt-Nương khóc nức nở: 
– Chúng em không trông rộng nhìn xa bằng sư tỷ. Chúng em không phải đại tướng quân. Chúng em được đặt dưới quyền Tượng-quận Tam-anh. Hoàng-đế truyền chỉ dặn chúng em hai nhiệm vụ: Trấn thủ Tượng-quận, hỗ trợ Thục. Việc hỗ trợ Thục chúng em làm trọn vẹn. Không ngờ Tượng-quận xảy ra vụ Lê Đạo-Sinh. Đất Lĩnh-Nam mất Tượng-quận, đất tổ mất một phần sáu. Thôi, bao nhiêu công lao chúng em lập được với Lĩnh-Nam coi như bỏ hết, đổi lấy việc chúng em không tuân lệnh chị. 
Nàng khóc oà lên: 
– Chúng em chọn cái chết. Bến Bồ-lăng là nơi chôn xác bọn em. Tấm thân của chị đáng giá vạn cổ xe. Chị hãy rút về Quế-lâm, cùng Bắc-bình vương Đào Kỳ, chỉnh bị binh mã trả thù cho bọn em. 
Sư trưởng Thần-ưng Vũ Lăng cầm kiếm chỉ lên trời: 
– Trời hỡi trời. Đất nước Lĩnh-Nam chúng ta không thiếu anh tài. Không thiếu những đứa con hiếu, sẵn sàng chết cho Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Chúng ta thua chẳng qua đất chúng ta hẹp. Dân chúng ta ít! Chị Vĩnh-Hoa, sau vụ nổi loạn Tượng-quận, thế nào Lê Đạo-Sinh cũng sẽ làm tương tự ở Quế-lâm, Nam-hHải. Chúng em quyết tử một trận, làm cho hàng ngũ giặc hao tổn. Chúng không thừa thế kéo sang Quế-lâm nổi. 
Phùng Vĩnh-Hoa lắc đầu: 
– Các em nói không đúng. Lê Đạo-Sinh mang chiếu chỉ của Quang-Vũ thăng quan cho bọn cựu quan lại Hán. Phong chức tước cho bọn Lạc-hầu, Lạc-công gốc người Hán. Y lại hứa cho dân chúng khỏi thuế. Họ nhẹ dạ nghe theo Hán. Chúng ta cứ tạm rút đi. Khi quyền vào tay, Quang-Vũ sẽ trở mặt, cử quan lại mới tới. Y sẽ bỏ chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng, bắt dân chúng đóng thuế nặng, sung tráng đinh làm lính. Bấy giờ người Hán mới mở mắt ra. Chúng ta chỉ truyền một tờ hịch. Tượng-quận lại trở về với Lĩnh-Nam. 
Hắc-hầu tướng Lê Đông-Giang nói: 
– Chúng em có sáu đại tướng. Sư trưởng Thần-ngao Vũ Dương đã tuẫn quốc cùng với sư bá Hàn Đức. Sư trưởng Thần-phong Phạm Nga-Nương, sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn tuẫn quốc cùng với Tượng-quận tam-anh. Tại đây chúng em còn sư hầu, hổ, báo, ưng, long. Tuy tổn thất nhiều, cũng nhất quyết đánh một trận kinh thiên động địa, rồi chết với Tượng-quận. Chúng em không thể tuân lời chị. Thôi chị hãy rút đi. Bọn em đã quyết rồi. 
Phùng Vĩnh-Hoa nhớ lại, hồi trước nàng sống cạnh Hồ Đề, nàng đã nghe nói nhiều về phương pháp huấn luyện của đệ tử Tây-vu. Trong khi tập, họ chỉ học tiến mà không học thoái, vì võ đạo Tây-vu không chấp thuận lui trước địch quân. Bây giờ nàng có truyền lệnh nghiêm đến đâu, đám tướng soái này chắc cũng khôing chịu lùi. 
Đến đây, có tiếng quân reo, ngựa hí. Lê Đông-Giang bám lấy cây, thoắt cái, chàng đã lên đến ngọn. Chàng nói vọng xuống: 
– Phía nam có một đạo quân hàng lối không chỉnh. Chắc quân của Lê Đạo-Sinh. Phía tây có đạo thủy quân, theo sông Ô-giang tới. Trên bờ còn đoàn kị binh rất hùng tráng, kéo cờ Hán. 
Đào Chiêu-Hiển cùng các em chuẩn bị đối phó. Ông nói: 
– Quân cần có quân phong, quân thế, quân khí. Nay cả ba đều không còn. Quân sĩ người Hán có muốn trung thành với mình cũng không được. Bởi trang ấp của họ, nơi cha mẹ, vợ, con họ ở đã thuộc về Hán. Họ đâu còn tinh thần chiến đấu nữa? 
Phùng Vĩnh-Hoa thở dài não nuột. Bà truyền lệnh: 
– Chúng ta cùng tử chiến. Hôm nay là ngày chúng ta chết cho Lĩnh-Nam đây. Lê Đông-Giang, em điều động đi. 
Lê Đông-Giang truyền lệnh: 
– Sư đệ Vũ Lăng chia Thần-ưng làm ba. Một lữ đánh đạo quân Hán. Một lữ đánh đạo quân Lê Đạo-Sinh. Một lữ bay trên đầu bảo vệ các chúa tướng. 
Vũ Lăng leo lên ngọn cây. Nó cầm tù và thổi lên tiếp ba hồi dài. Các tướng Thiên-ưng cùng leo lên cây, cầm cờ. Thần-ưng bay lượn trên trời. Lê Đông-Giang tiếp: 
– Sư muội Cao Nguyệt-Nương dàn sư Thần-long trên các cây ven rừng. 
Chàng tiếp: 
– Sư đệ Cao Đà dàn sư Thần-hổ bên trái. Sư đệ Cao Chiêu-Hựu dàn sư Thần-báo bên phải. Ta sẽ dàn sư Thần-hầu phía sau. 
Chàng ngồi trên lưng ngựa. Hai bên hơn trăm đười ươi cầm đao đứng hộ vệ. Trên đầu, lá cờ Lĩnh-Nam bay phất phới. 
Đạo quân Hán tới trước. Người đi đầu là Vương Bá. Phía sau y, là hai sư đệ Hà Chi, Phạm An đi hai bên. Vương Bá tới gần trận Lĩnh-Nam. Y gò cương ngựa lại hỏi: 
– Ta muốn gặp công chúa Phùng Vĩnh-Hoa. 
Lê Đông-Giang đáp: 
– Công chúa Nguyệt-Đức không có mặt ở đây. Chẳng hay Quân-hầu muốn gặp mặt sư tỷ của tôi có việc gì? 
Vương Bá đáp: 
– Phùng Vĩnh-Hoa hợm mình mưu thần chước thánh. Chỉ mười vạn quân đánh tan hai mươi vạn quân Ngô Hán. Thế sao không đầy tháng qua, Thục bị đánh tan, Tượng-quận bị mất. Nay phải trốn chạy? Các ngươi còn nhỏ tuổi. Hãy mau xuống ngựa đầu hàng. Trước toàn mạng sống. Sau không mất phú quí. 
Cao Đà cười nhạt: 
– Đất Lĩnh-Nam của tôi dân ít, mới phục hồi, chứ chúng tôi không thiếu người tuấn kiệt. Thục thua Hán vì có Công-tôn Thi. Lĩnh-Nam thua Hán vì có thầy trò Lê Đạo-Sinh. Tuy vậy. ở đây chúng tôi còn không quá sáu trăm đệ tử Tây-vu, cũng xin nghinh tiếp Quân-hầu. 
Phạm An hỏi: 
– Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Trần Năng đâu? 
Đinh Xuân-Hoa tuy băng bó đầy người, bà gượng đau chống kiếm đứng dậy mỉm cười. 
– Kính chào Phạm thái thú. Người vẫn mạnh giỏi? 
Phạm An nhổ nước bọt đánh toẹt một cái: 
– Ba chúng bay là gian tế Lĩnh-Nam. Bọn bay hèn hạ đánh lừa chúng ta, chiếm được bốn thành. Song lưới trời lồng lộng, rút cuộc tụi bay cũng bị bại. 
Chu Tái-Kênh cười: 
– Binh thư nói: Việc binh cần phải dối trá. Huống hồ chúng tôi vì việc nước. Mong thái thú miễn chấp. 
Có tiếng quân reo, ngựa hí ầm ầm. Đạo quân Lê Đạo-Sinh đã tới. Đi trước y một lá cờ Hán bay phất phới, có hàng chữ: 
Lĩnh-Nam công, Lê. 
Phía sau y, bên phải có Đức-Hiệp. Bên trái có vợ chồng Phong-châu song quái, cùng mấy chục Lạc-hầu người Hán. 
Lê Đạo-Sinh thấy Chu Tái-Kênh, chỉ mặt mắng: 
– Ngươi bất quá là con nô tỳ của Thái-hà trang. Hà cớ gì dám xưng vợ của Trần sư huynh? Mi phải biết rằng đất Tượng-quận này thuộc Lĩnh-Nam. Kiến-Vũ thiên tử đã phong cho ta làm Lĩnh-nam công. Ngươi mau đầu hàng, ta sẽ tha cho. 
Chu Tái-Kênh quát lên một tiếng phóng chưởng tấn công Lê Đạo-Sinh. Chưởng cực kỳ hùng hậu. Lê chỉ chậm trễ một chút, chưởng phong đã bao trùm người y. Y vội vọt người lên cao, chưởng trúng con ngựa của Lê cỡi. Binh một tiếng, con ngựa hí lên một tiếng thê thảm, bay ra xa, dẫy dụa vài cái, rồi nằm im. 
Lê Đạo-Sinh giận cành hông. Y xuất chiêu Ác ngưu nan độ tấn công. Chu Tái-Kênh cười nhạt. Bà cũng xuất chiêu Ác ngưu nan độ, bà vận âm kình. Chưởng của Lê Đạo-Sinh gió lộng ào ào, gặp chưởng lực của bà, biến mất tích. Lê Đạo-Sinh hoảng hốt nghĩ: 
– Ta tưởng trên đời này, chỉ có tên ôn con Đào Kỳ có thể xử dụng âm dương chưởng một lúc. Không ngờ mụ già này cũng biết xử dụng. 
Y vận sức xuất chiêu Thanh ngưu qui gia. Chu Tái-Kênh cũng xuất cùng chiêu. Song bà vận Âm kình. Hai người quay quần đấu với nhau. 
Vũ Hỷ thấy Lê Đông-Giang đứng giữa mấy con đười ươi. Y nghĩ: 
– Muốn thắng trận hôm nay, phải bắt mấy thằng ôn con này. 
Y lạng người một cái đã đến trước ngựa Lê Đông-Giang. Đông-Giang quát lên một tiếng. Từ sau lưng chàng, bốn con trăn trong túi vải vọt ra. Chúng phóng vào người Vũ Hỷ. Vũ Hỷ kinh sợ, lộn người đi hai vòng tránh khỏi. Đinh Xuân-Hoa chống kiếm đến trước mặt Vũ Hỷ cười nhạt: 
– Phong-châu song quái. Hôm nay ta đòi mi món nợ mi đánh Đinh, Đào trang hơn mười năm trước. 
Bà xuất chiêu tấn công y. Vũ Hỷ cười nhạt: 
– Tưởng gì, chứ muốn tự tử thì dễ quá. 
Y xuất chưởng chống trả. Hai chưởng gặp nhau. Binh một tiếng. Người y lảo đảo lui lại ba bước. Y giật mình: 
– Trước đây võ công mụ này thua xa vợ chồng mình. Nay sao tiến nhanh đến trình độ này? 
Y có ngờ đâu, trong thời gian ở đảo, bà chuyên tâm luyện công phục thù, võ công vốn đã ngang với y. Trong lần hội quân đánh Luy-lâu, Đào Kỳ truyền tâm pháp trong bộ Văn-lang vũ kinh cho bà. Vì vậy nay võ công bà bỏ xa y. 
Đặng Đường-Hoàn quát lên một tiếng phóng chưởng đánh Lê Đức-Hiệp. Lê Đức-Hiệp biết không phải đối thủ của ông, song y vẫn nghiến răng chống trả. Sáu người, chia làm ba cặp thi diễn cuộc đấu. 
Vũ Phương-Anh thấy chồng gặp hung hiểm. Y thị xuất chiêu đánh Đinh Xuân-Hoa. Cao Đà hú lên một tiếng, mười Thần-hổ nhảy tới vồ Vũ Phương-Anh. 
Phùng Vĩnh-Hoa bảo Trần Năng, Trần-gia tam-nương: 
– Bọn em hãy hộ vệ thương binh cùng Vương Thọ rút về hướng Quế-lâm. Cách đây không xa, là chỗ đồn trú của đạo binh trừ bị Phù-đổng. Em báo cho họ biết. Họ kéo đến tiếp viện chúng ta. 
Đám Lạc-hầu phản loạn người Hán xua tráng đinh xông vào trợ chiến. Lê Đông-Giang phất cờ ra lệnh phản công. Trên trời Vũ Lăng cho Thần-ưng lao xuống tấn công. Cao Đà, Cao Chiêu-Hựu xua Thần-báo xung vào trận. Quân phản loạn thấy hổ, báo, kinh hồn lui trở lại. Chúng lấy cung tên bắn Thần-hổ, Thần-báo. Nhưng hổ, báo đã lẫn vào với trận của chúng. Tráng đinh trang ấp thuộc Lĩnh-Nam đều được huấn luyện chiến đấu như những đạo quân thực thụ. Họ chỉ thua các đạo quân chuyên nghiệp việc phối hợp nhiều người mà thôi. Bây giờ các Lạc-hầu Hán xử dụng họ đánh lại Lĩnh-Nam. Họ can đảm, chống trả được với hổ, báo. 
Trận chiến kéo dài hơn giờ. Có gần trăm Thần-hổ, báo bị giết. Thần-ưng bị chết, chỉ còn hơn trăm. Xác người, xác thú nằm chồng chất trên cánh đồng. 
Các Lạc-công thấy tráng đinh chết nhiều quá, muốn xin lệnh Lê Đạo-Sinh rút lui. Song Lê bị Chu Tái-Kênh đánh rát quá, không còn thời giờ chỉ huy. 
Một Lạc công nói với Vũ Hỷ: 
– Xin thái thú cho rút quân. Bọn chó Việt cùng đường, tử chiến. Một người liều mạng, trăm người khó cản. 
Vũ Hỷ thấy y gọi người Việt là chó Việt, đã bất mãn. Nhân y muốn rút quân, Vũ Hỷ cầm kiếm lăm lăm trong tay: 
– Ai lùi một bước ta chém liền. 
Một Lạc-công bị Thần-hổ vồ, bỏ chạy. Vũ Hỷ chặt đầu rơi xuống đất. Quân phản loạn kinh hoảng, phải tiến lên. 
Phong-châu song quái đấu với Đinh Xuân-Hoa ngang tay. Đúng ra với bản lĩnh của bà, bà có thể thắng cặp vợ chồng quái quỉ. Nhưng vì bị thương đến bốn chỗ, thành ra công lực giảm đi rất nhiều. 
Ba anh em Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang đứng đốc xuất hơn hai nghìn chiến sĩ Việt bảo vệ phía sau cho các chúa tướng Tây-vu. Thấy binh đội Tây-vu sắp bị diệt. Ba ông hô lên một tiếng, đám chiến sĩ Việt xông vào trận. 
Trận chiến kéo dài tới gần chiều. Thần-hổ, báo chỉ còn hơn năm mươi con. Thần-ưng không còn quá trăm. Phía bên phản loạn, xác tráng đinh phơi đầy đồng. 
Lê Đạo-Sinh đấu với Chu Tái-Kênh đến hơn năm trăm chiêu bất phân thắng bại. Phía Phong-châu song quái chỉ còn thở hổn hển. 
Đặng Đường-Hoàn phóng một chưởng, đánh Lê Đức-Hiệp bật lui phía bờ sông. Đinh Xuân-Hoa đánh lui Vũ Phương-Anh. Giữa lúc chúng nguy nan, thì thình lình ba tiếng trống nổi lên. Đoàn kị mã Vương Bá xung vào trận. Chỉ một lát, đám Thần-hổ cuối cùng bị giết sạch. 
Cao Đà nhìn Thần-hổ cuối cùng bị giết. Nó quát lên một tiếng lớn, kị mã Hán lui lại. Nó ngửa mặt lên trời than: 
– Trưng hoàng-đế phán: Quân với tướng như chân tay. Quân chết, đất mất. Ta còn sống làm gì? 
Nó đưa kiếm tự tử. Máu từ cổ vọt ra có vòi. Xác ngã lộn xuống chân ngựa. Vợ Cao Đà là Cao Nguyệt-Nương. Nàng thấy chồng tự tử. Lập tức cầm ống tiêu thổi lên. Mấy ngàn con rắn cùng bò ra xông vào trận Hán. Ngựa bị rắn quấn, cắn, hí inh ỏi. Kị binh vội lùi lại. Bộ binh lấy lửa đốt lên. Thần-long lui vào rừng. Nguyệt-Nương ôm xác Cao Đà. Nàng ngửa mặt lên trời than: 
– Làm tướng giữ đất, làm gái theo chồng. Đất mất, chồng chết. Ta chết theo chồng. 
Bà đưa kiếm lên cổ tự tử. 
Sau trận Tượng-quận, Bắc-bình vương Đào Kỳ đem xác vợ chồng Cao Đà, Cao Nguyệt-Nương về quê quán ở Tây-vu chôn. Trưng hoàng-đế phong Cao Đà làm: 
Trung Liệt Đại Tướng Quân. 
Cao Nguyệt-Nương làm: 
Thần-long Công-chúa. 
Truyền xây đền thờ. Cho đến nay, đền vẫn còn tại xã Phú-hòa, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng không nhớ họ hai vị anh hùng, họ chỉ gọi vắn tắt: Đền thờ Đà-Công và Nguyệt-Nương. 
Hắc-hổ tướng Lê Đông-Giang xé vạt áo. Chàng cắn ngón tay viết biểu tâu về Trưng hoàng-đế: 
"Bọn thần các chúa tướng quân đoàn sáu Tây-vu, khép nép cúi đầu thượng biểu lên hoàng-đế bệ hạ. Hai năm trước đây, bệ hạ chỉ dụ bọn thần trấn nhậm Tượng-quận với hai mục đích : Trong giúp Tượng-quận Tam-anh, ngoài yểm trợ Thục. Bọn thần tuy trẻ người, non dạ, tài thô, trí thiển. Song ngày đêm nào dám sao lãng nhiệm vụ. 
Vừa qua, bọn thần theo công chúa Nguyệt-Đức, đánh tan hai mươi vạn quân Hán. Nào ngờ bọn Lê Đạo-Sinh, đốc xuất người Hán "Bình man qui Hán". Bọn thần đã hết sức mình. Song sức người có hạn. 
Trận đánh Vĩnh-thiên, Tây-vu Ngao-tướng Vũ Dương chiến đấu đến chết. Trận đánh Côn-minh, Tây-vu Tượng-tướng Nghiêm Đôn, Thanh-Phong công chúa Phạm Nga-Nương thế cùng, binh kiệt, đành dùng lưỡi gươm, xử tội mình vì không bảo vệ nổi Tượng-quận Tam-anh. 
Hôm nay, quân Hán hơn mười vạn, quân phản loạn hơn mười vạn. Bọn thần đã làm hết sức mình, mà Tượng-quận vẫn mất. Vì vậy bọn thần kính dâng tờ biểu này, khóc đến chảy máu mắt, cúi xin bệ hạ xá tội cho. Anh em bọn thần, đành mượn lưỡi gươm, tự kết liễu đời mình trên bến Bồ-lăng. 
Bọn thần khép nép, kính sợ siết bao, cúi dâng biểu. 
Vũ Lăng, Thiên ưng tướng. 
Cao Chiêu-Hựu, Tây-vu báo tướng. 
Cao Đà, Tây-vu hổ tướng. 
Lê Đông-Giang, thống lĩnh quân đoàn sáu Tây-vu". 
Chàng gọi cặp Thần-ưng xuống, buộc mảnh vải vào chân, rồi hú lên một tiếng. Cặp Thần-ưng bay bổng về phương nam. 
Chàng thản nhiên nhìn đoàn Thần-hầu chiến đấu tuyệt vọng. Chàng hỏi Vũ Lăng: 
– Xong chưa em. 
Vũ Lăng đáp: 
– Xong rồi. 
Hai người đưa gươm lên cổ tự tử. 
Bọn Lê Đạo-Sinh, Phong-châu song quái đã lui lại. Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, ba anh em Đào Chiêu-Hiển tả xung hữu đột giữa trùng vây. Cứ mỗi gươm đưa ra, một đầu tên quân Hán rơi xuống. Trời chập choạng tối. Vương Bá đứng trên ngọn đồi cầm ngọn đèn chỉ huy. Thấy bọn Chu Tái-Kênh chạy đến đâu, thì chỉ đến đó. 
Đinh Xuân-Hoa mệt quá. Bà chém liền ba tướng Hán. Chúng vẫn ùn ùn kéo lên. Bà lui tới bờ sông, dựa vào gốc cây, múa kiếm như hoa rơi tuyết lạc. 
Đặng Đường-Hoàn cùng ba đệ tử họ Đào đứng dựa vào nhau chiến đấu. Quân Hán chết lớp này, lớp khác tiến lên. Đặng Đường-Hoàn bị một mũi tên vào ngực. Ông loạng choạng ngã xuống. Vương Bá thấy vậy vọt ngựa tới định bắt sống. Ông nghiến răng phóng một chưởng. Vương Bá vung tay đỡ. Binh một tiếng, y bay vọt về sau, miệng phun máu có vòi. 
Phạm An dẫn đội cung thủ đến chĩa vào Đặng Đường-Hoàn và ba anh em họ Đào. Y hô lớn: 
– Buông kiếm đầu hàng. Ta để cho được sống. 
Đặng Đường-Hoàn hỏi các đệ tử: 
– Xong chưa? 
Cả ba cùng trả lời: 
– Xong rồi! 
Bốn người đồng vung kiếm lên cổ tự tử một lúc. 
Đinh Xuân-Hoa thấy Đặng Đường-Hoàn, anh em họ Đào tự tử. Bà hơi phân tâm, thì bị bốn mũi kiếm trúng ngực. Bà quát lên, một tiếng, vọt lên cao chém bay đầu một viên tướng rơi xuống. 
Bà vung kiếm tự đâm vào giữa ngực, máu phun ra như suối. 
Vừa lúc đó có tiếng quát: 
– Mẹ ơi! Khoan đã, con đến tiếp viện đây! 
Nhưng đã trễ! 
Một đội thiết kị phi như bay tơí. Đi đầu là Đào Kỳ, Phương-Dung, xung vào trận Hán. Đạo binh đánh bạt quân Hán trở về bên kia sông. Chỉ một hiệp Đào Kỳ đánh bay Lê Đạo-Sinh xuống ngựa. Đạo Thiết-kị xung vào đội tráng đinh như chỗ không người. Tráng đinh thấy Lê Đạo-Sinh, Đức-Hiệp, Vũ Hỷ đều bị thương bỏ chạy. Chúng cũng chạy theo. 
Phía sau Trần-gia tam-nương, Trần Năng trở lại. 
Đào Kỳ ôm lấy xác mẹ khóc thảm thiết. Trần Năng cầm mạch Đinh Xuân-Hoa, thấy còn nhảy, nàng phóng một chỉ vào huyệt Bách-hội của bà. Bà từ mở mắt ra. Thấy mình nằm trong lòng con trai, ba mỉm cười: 
– Con đấy à. Mẹ tình nguyện nhận lĩnh nhiệm vụ để chết, sớm gặp bố con. Đất nước còn nhiều gian nan. Con chẳng nên buồn làm gì. Nếu mẹ không chết hôm nay, vài chục năm sau mẹ cũng chết. Chết cho đất nước, mới là chết. 
Đến đấy bà từ từ nhắm mắt. 
Phương-Dung hỏi: 
– Có ai thấy công chúa Nguyệt-Đức đâu không? 
Một chiến sĩ Việt sống sót chỉ vào đám xác chết. Phương-Dung chạy lại bồng xác Phùng Vĩnh-Hoa lên. Bà bị thương bốn chỗ, song vẫn còn sống. 
Trần Năng tìm xác Chu Tái-Kênh. Thấy còn hơi nóng. Bà vận khí dùng Lĩnh-Nam chỉ phóng vào người sư nương. Một lát Chu Tái-Kênh đã tỉnh dậy. Bà mơ màng hỏi: 
– Đây là đâu? 
Trần Năng đáp: 
– Chúng con vừa rút khỏi đây hơn năm mươi dặm, thì gặp sư thúc Đào Kỳ, sư thẩm Phương-Dung, cùng đạo Thiết-kị Lĩnh-Nam tiếp viện. Sư thúc đánh lui đạo binh Vương Bá rồi. 
Ghi chú : 

Trận đánh Tượng-quận xảy ra vào ngày 19 tháng sáu đến ngày 5 tháng bảy năm Tân-sửu, 41 sau Tây Lịch. Nhằm niên hiệu Trưng-đế năm thứ hai. Bên Trung-nguyên là niên hiệu Kiến-Vũ thứ mười bảy đời vua Quang-Vũ nhà Hán.
Bắc-bình vương Đào Kỳ truyền khâm liệm các tướng tuẫn quốc, đưa về Giao-chỉ. Vua Trưng cùng triều thần thân rước linh cữu, làm lễ tế, đưa về quê an táng. 
Hắc-hổ tướng Lê Đông-Giang được phong làm: 
Trung-dũng Đại tướng-quân. 
Đền thờ của ông trải qua gần hai nghìn năm, hiện nay vẫn còn tại xã Liên-hà, huyện Đông-anh, Hà-nội. Dân chúng thường gọi là đền thờ ông Đông-Giang. Mà không thấy nhắc đến họ của ông. 
Ba tướng Vũ Lăng, Vũ Dương, Nghiêm Đôn đều được phong: 
Trung-nghĩa Đại tướng-quân. 
Phạm Nga-Nương được phong: 
Nga-nương Quận-chúa. 
Bốn vị được thờ chung tại một đền. Đến nay, đền thờ bốn vị còn tại xã Minh-tân, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi là đền thờ Nga-Nương, Lăng-Công, Nghiêm-Công và Dương-Công. 
Cao Chiêu-Hựu được phong làm: 
Dũng-lược Đại tướng-quân 
Hiện nay đền thờ của ông hãy còn tại xã Nhân-thắng huyện Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi là đền thờ ông Chiêu-Hựu. 
Đào vương phi Đinh Xuân-Hoa trước đã được phong làm: 
Tĩnh-trai Công-chúa. 
Nay đổi phong làm: 
Chí Nhu, Đoan Minh, Anh vũ, Duệ văn Tĩnh-Trai Công-chúa. 
 Trưng hoàng-đế cùng các đại thần đích thân đứng tế lễ. Bởi bà là một trong những phụ nữ có nhiều công lao nhất với Lĩnh-Nam. Suốt từ hồi niên thiếu bà cùng chồng là Đào Thế-Kiệt, nằm gai nếm mật, chịu trăm cay nghìn đắng cho đến khi phục hồi Lĩnh-Nam thì Đào vương lại chết. Đệ tử Cửu-chân hiện giữ quyền nghiêng nước. Đào Kỳ lĩnh Đại tư-mã. Nguyễn Phương-Dung lĩnh chức tể tướng. Hoàng Thiều-Hoa được tôn là thái hậu. Các đệ tử như Đào-hiển-Hiệu, Đào Quí-Minh, Đào Phương-Dung, Đào Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn, Trần Dương-Đức, Thiên-ưng Lục-tướng, Lục-hầu tướng đều làm đại tướng quân. Bà được kể là phụ nữ có nhiều đức nhất, vì cùng chồng dạy con, dạy đệ tử, dâng hiến cho Lĩnh-Nam các anh tài. 
Hiện nay còn đền thờ bà tại xã Lai-hạ, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi tắt là đền thờ Tĩnh-trai.
Ba anh em Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang trước đây đã được phong làm Phiêu-kị đại tướng quân, tước tới hầu. Nay tuẫn quốc. Trưng hoàng-đế truyền làm bài văn tế, xây đền thờ thực lớn ở trang ấp cũ của ba ông. Đền đó hiện nay nằm tại thôn Ngọc-động, xã Đa-tốn, huyện Gia-lâm, tỉnh Hà-nội. Sắc phong Đặng Đường-Hoàn và ba đệ tử làm: 
Trang-liệt, Chí-nghĩa Đại-vương. 
Trước đền thờ có đôi câu đối: 
Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược, 
Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung. 
Dịch nghĩa: Trận đánh Tượng-quận oai hùng, nhiều tướng thao lược tỏ được tài trí. Bến Bồ-lăng trung thần tuẫn tiết tận nghĩa với non sông. 
Một câu khác: 
Tái bắc tức chinh trần, công cao trục Định. 
Bồ-lăng dương nộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng. 
Nghĩa là: Ải bắc yêu gió bụi can qua, công đầu đuổi Tô Định. Bồ-lăng nổi ba đào căm giận, nghĩ nặng phù vua Trưng. 
Đến đây phải mở một cái ngoặc về tiểu truyện ba ngài. Từ sau khi vua Ngô Quyền phục hồi độc lập, lãnh thổ Việt-Nam chỉ chiếm lại được vùng Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam. Còn vùng Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải không đòi lại được. Sử gia cũng như dân chúng đời sau có cái nhìn thu gọn vùng đất này. Họ quên mất ba quận phía Bắc. Vì vậy khi cuốn phổ tại đền ba ngài bị Trương Phụ mang về Trung-nguyên. Người ta chép lại sử ba ngài, cho rằng ba ngài tuẫn quốc ở bến Bồ-đề. Căn cứ vào chữ Bồ-lăng Như vậy thực vô lý. Tại sao ba ngài đánh trận Tượng-quận dương uy, rồi về mãi bến Bồ-đề mà tự tử? Từ Tượng-quận đến Bồ-đề xa hơn hai nghìn cây số. Ba ngài thua trận thì phải tự tử tại chỗ. Chứ có đâu ruổi ngựa hai ngàn cây số đến Bồ-đề tự tử? Tên bến Bồ-đề mãi đời Lê mới có, thì làm gì thời Lĩnh-Nam các ngài đã chạy về đó tuẫn quốc? Chỉ độc giả Anh-hùng Lĩnh-Nam (Cẩm-khê di hận) mới được biết lãnh thổ Lĩnh-Nam hồi đó gồm cả Vân-nam, Trung-quốc. Ba ngài đánh trận lừng danh và tự tử ở bến Bồ-lăng. Bến Bồ-lăng là bến nằm giữa ngã ba sông Trường-giang với sông Ô-giang. Nay thuộc huyện Bồ-lăng tỉnh Tứ-xuyên, Trung-quốc. 
Vào năm 1983 chúng tôi đã tới đây tìm hiểu di tích thời Lĩnh-Nam mà người Trung-Hoa gọi là Vua Bà. Họ đều xác nhận Bồ-lăng là nơi xảy ra trận đánh giữa ba đại tướng của vua bà với quân Hán. Ba tướng tuẫn quốc cùng một lúc. Trước 1949 còn đền thờ. Sau này mới bị phá hủy.

Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung.
Câu đối đền thờ Đào Chiêu-Hiển , Đào Đô-Thống , Đào Tam-Lang )

            Nghĩa là : Tuẫn tiết ở bến Bồ-lăng , trọn nghĩa trung thần .

Nhấn bên phải con chuột tại đây, chọn dòng Save Link (Target) As...để tải (Download) Audio

Hồ nước trước đền thờ Vua Trưng tại quận Hai Bà Trưng , Hà Nội :

Ngô Hán truyền quân sĩ nghỉ ngơi, ăn uống, rồi cho lấy bùn trát lên lá chắn. Y nói với các tướng:
_ Một cái thành Đức-xương nhỏ bé như vậy. Chỉ có năm nghìn quân trấn đóng, mình tới năm vạn, mà không vào được, thì thực vô lý. Ta hẹn nội trong hai giờ, phải vào thành. Nếu không các tướng cấp lữ, sư đều bị xử tử.

Vừa lúc đó, thám mã từ thành Tây-xương về báo:
_ Cáp Diên công thành Tây-xương, bị Thần-nỏ bắn xuống. Binh tướng chết nhiều quá. Có tin nói Công-tôn Thi làm phản, xua quân chiếm Hán-nguyên, Mi-sơn, Đông-sơn, Cửu-long.
Ngô Hán lắc đầu:
_ Không thể có truyện đó.
Thình lình tiếng quân reo, ngựa hí vang dội. Quân báo:
_ Tượng-quận vương Hàn Bạch vượt sông Kim-sa-giang cùng với đội Thần-tượng, định đánh vào phía sau quân mình. Tư đồ Tượng-quận Vương Hồng dàn quân vượt Độ-khẩu, tiến đánh vào mặt nam. Quân, tướng náo loạn. Xin Đại tư-mã quyết định.

Ngô Hán truyền quân lui lại. Bỏ đánh thành Đức-xương. Chuẩn bị nghinh chiến. Y giận run người lên nói:
_ Con tiện tỳ Phùng Vĩnh-Hoa hỗn thực. Quân của chúng bất quá chưa tới mười vạn mà dám hỗn láo. Ta thiết kế tinh vi như vậy, mà y thị cũng biết được, thực là quá.

Đến đó, quân sĩ la hoảng lên, cùng hướng mắt nhìn về Cửu-long. Ngô Hán nhìn theo: Khói bốc lên mịt mờ. Y chưa biết truyện gì xảy ra. Truyền án binh bất động. Đến chiều. Tế tác báo cho biết:
_ Công-tôn Thi bí mật liên lạc với Vương Nguyên. Hai bên đem quân đánh chiếm Mi-sơn, Đông-sơn. Phùng Vĩnh-Hoa đang đêm đánh úp mặt Cửu-long. Lương thảo của chúng ta bị chiếm mất.
Ngô Hán gọi Lưu Thương truyền lệnh:
_ Ngươi lĩnh năm vạn binh, lập đồn, trấn giữ ở đây. Người cố cản quân Hàn Bạch, Vương Hồng. Để ta trở về tái chiếm Cửu-long.
Ngô Hán truyền đại tướng Nguyễn Nghi, Đỗ Trí:
_ Các ngươi dẫn kị binh đi trước. Trở về cứu viện Cửu-long khẩn cấp.
Lại gọi đại tướng Phạm Phú, Ngô Trường:
_ Mỗi người dẫn ba vạn binh, đi bảo vệ cánh phải, cánh trái.
Vừa lúc đó trống thúc liên hồi, quân reo rung động trời đất. Có tin báo:
_ Quân Việt từ Độ-khẩu, Hòa-bình, do Hàn Bạch, Vương Hồng đến cứu viện Đức-xương. Quân thế hùng tráng. Chỉ còn cách khoảng ba dậm nữa.
Binh tướng náo loạn lên. Ngô Hán rút kiếm quát:
_ Giữ nguyên vị trí. Ai làm náo loạn hàng ngũ, ta chém liền.
Y truyền các tướng dàn trận chuẩn bị đối phó. Một lát sau tiền đạo quân Lĩnh-Nam tới. Đạo quân tuy chỉ có hơn vạn, mà hùng khí ngất trời. Vương Hồng đi đầu. Cạnh ông phất phới lá cờ Tượng-quận Tam-anh vương. Quân Việt đến nơi, tự dàn trận thế uy nghi. Vương Hồng gò ngựa đứng trước. Ông thấy Lưu Thương, nghiêng mình hành lễ:
_ Tại hạ Vương Hồng, đất Lĩnh-Nam xin kính chào Quân-hầu. Gần đây Quân-hầu vẫn mạnh khỏe?
Lưu Thương đáp lễ:
_ Ngươi có phải Đô-sát Trường-sa, ở dưới trướng Mã Anh đó không? Ngươi thấy chúa tướng cũ, sao không xuống ngựa rập đầu?
Vương Hồng cười lớn:
_ Năm xưa, Tượng-quận Tam-anh, vì mưu cầu phục quốc, phải đầu quân tại Trường-sa. Chứ chúng tôi không phải bán thân cho Quang-Vũ. Trước kia tôi ở dưới trướng của người. Nay thì khác. Tôi vì Lĩnh-Nam. Quân-hầu vì Hán. Trận tiền gươm đao vô tình. Xin Quân-hầu miễn chấp.
Vừa lúc đó, một đạo quân nữa tới, dẫn đầu bằng hai trăm thớt voi. Khí thế muốn nghiêng trời lệch đất. Tượng-quận vương Hàn Bạch ngồi trên voi. Hàn Bạch nghiêng mình chào Lưu Thương. Ông cho quân dàn trận.
Lưu Thương chột dạ hỏi:
_ Còn Trấn viễn tướng quân Chu Thanh đâu?
Có tiếng cười lớn:
_ Có Chu Thanh đất Lĩnh-Nam đây.
Lưu Thương chỉ vào trận Hán:
_ Ba anh em ngươi, đem một đạo quân ô hợp thế kia. Tổng số chưa quá bốn vạn, mà đối địch với mười vạn hùng binh của ta ư?
Hàn Bạch lễ phép thưa:
_ Chúng tôi có bốn vạn người cũng dám nghênh chiến với mười vạn binh. Vì nước quên mình. Đâu xá gì nguy hiểm?
Trong khi Hàn Bạch nói truyện với Lưu Thương. Ngô Hán cùng các tướng đã tới. Y nhìn trận thế Lĩnh-Nam, nói:
_ Chúng nó kéo hết quân Độ-khẩu, Hoa-bình, Vĩnh-nhân về. Như vậy chúng quyết chiến với ta rồi đây. Các tướng phải tiêu diệt đám quân này. Mới hy vọng sống sót.     Y nhìn trận thế Lĩnh-Nam. Đứng trước trận, hai trăm thớt voi, chia làm hai mươi đội. Sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn cầm cờ xanh phất lên. Mỗi đội chia ra bên phải năm thớt. Bên trái năm thớt. Ở giữa, một dàn Thần_-nỏ.
Ngô Hán quay lại nói với Lưu Thương:
_ Lập tức đem các dàn chống Thần-nỏ lên ngay.
Quân Hán lui lại. Từ phía sau, các đội quân cầm dàn chống tên dàn phía trước. Sư trưởng Thần-phong Phạm Nga-Nương nói nhỏ với Hàn Bạch:
_ Ngô Hán dùng rơm nhét vào các mắt một cái vỉ, chống Thần-nỏ. Bây giờ cháu cho Thần-phong lên trước tấn công. Giữa lúc chúng rối loạn, quăng vỉ xuống. Sư bá cho Thần-tượng với Thần-nỏ đánh liền. Phải đánh mau, để chúng không kịp đốt lửa chống Thần-phong.
Ngô Hán gò ngựa đến trước trận nói với Hàn Bạch:
_ Các ngươi tưởng Thần-nỏ vô địch ư? Ta đã chế ra lá chắn. Thần-nỏ vô dụng rồi. Các ngươi có nhìn thấy không?
Y cầm roi chỉ một cái. Một toán quân đi trước, cầm vỉ chắn tiến lên. Phía sau, đội kị mã xung vào trận Lĩnh-Nam.
Phạm Nga-Nương cầm tù và thổi lên một hồi. Hàng triệu con ong bầu, từ các xe chở tổ ong phía sau trận Lĩnh-Nam bay lên. Chúng bay u u, nhào xuống trận Hán tấn công. Đám quân mang vỉ, đội kị mã đi đầu không phòng bị kịp. Bị ong đốt. Chúng bỏ vỉ chắn, ôm đầu chạy lui trở lại. Ngô Hán quát lớn:
_ Đốt lửa lên mau.
Sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn phất cờ. Thần-tượng tiến lên hộ tống. Các dàn Thần-nỏ xung vào trận Hán buông tên. Chỉ hai loạt đầu, hàng vạn kị mã đổ xuống. Ngựa trúng tên. Người ngã ngựa. Ngựa dẫm lên người. Trên đầu ong đốt. Phía dưới Thần-nỏ tác xạ. Thần-tượng xung vào trận.
Ngô Hán, Lưu Thương tả xung hữu đột. Hai người có tài đại tướng, ứng phó nhanh chóng. Họ cho quân lui về núp trên ngọn đồi lập trận. Đồi dốc, voi không leo lên được. Thần-nỏ bắn không tới.
Ngô Hán bảo Lưu Thương:
_ Ngươi cùng bản bộ quân mã cố thủ ở đây. Để ta trở về đánh chiếm lại Cửu-long đã.
Về phía Lĩnh-Nam. Hàn Bạch quân ít, xuất khởi Độ-khẩu, Vĩnh-nhân đến tiếp viện cho Đức-xương đã gan lắm rồi. Ông không dám bỏ thành trống đuổi theo giặc. Trong thành Đức-xương, Trần Đạm-Nương đứng trên dịch lâu nhìn rất rõ. Bà sai mở cửa thành ra gặp Hàn Bạch. Bà nói:
_ Hàn sư bá đến tiếp viện kịp thời. Cháu những tưởng không giữ nỗi thành. Bây giờ Ngô Hán rút về chiếm lại Cửu-long. Sư bá với cháu quân ít, không thể đuổi theo. Chúng ta cứ cầm cự với Lưu Thương, hầu chia bớt lực lượng chúng. Sư bá mau cử sứ giả khẩn cấp báo tình hình cho sư tỷ Phùng Vĩnh-Hoa.

Hai đại tướng Nguyễn Nghi, Đỗ Trí dẫn kị binh hướng Cửu-long. Từ Đức-xương đến Cửu-long khoảng trăm dặm. Hai người đến Hà-tây, thì gặp đạo quân của Cáp Diên. Đỗ Trí nói:
_ Thưa Quân-hầu. Anh em chúng tôi được lệnh đem kị binh về cứu viện Cửu-long. Tình hình Tây-xương thế nào?
Cáp Diên thở dài:
_ Dường như trong quân ta có gian tế của giặc. Khi ta đem quân tới Tây-xương. Giặc đã biết trước. Con nhỏ Trần Hồng-Nương phòng thủ cực kỳ chu đáo. Ta cho đánh thành. Chúng dùng Thần-nỏ bắn xuống. Chúng ta thiệt mất trên vạn quân. Giữa lúc đó, bọn Công-tôn Thi sai Ngụy Đảng, Sử Hùng đem quân tới cứu viện. Hai bên đánh nhau chưa phân thắng bại. Ta được lệnh phải rút binh về Cửu-long. Cũng may chúng không đuổi theo.
Hai bên họp binh làm một, hướng Cửu-long. Đến khu rừng rậm rạp. Quân báo:
_ Phía trước, có cờ Lĩnh-Nam treo trên chót vót cây cao. Gần đó, các cây cao khác đều treo cờ Ngũ-hành. Không rõ truyện gì?
Cáp Diên gật đầu. Truyền quân tiếp tục lên đường. Thình lình một tiếng tù và rúc lên. Rồi hàng trăm tiếng thú gầm. Đoàn báo từ trên các cây nhảy xuống chụp kị mã. Người kêu, ngựa hí inh ỏi. Đoàn kị mã chưa kịp phản ứng. Đoàn Thần-báo lại biến vào rừng mất.
Cáp Diên kiểm lại, hơn ba trăm kị mã bị chết cùng với ngựa. Quân sĩ đã bắt đầu mất tinh thần. Đoàn người ngựa lại tiếp tục lên đường.
Thình lình một hồi tù và thổi lên. Cáp Diên cho kị mã chuẩn bị tác chiến. Thì chỉ thấy gần ven rừng, một đoàn khỉ đứng trên cây. Cổ mỗi con quàng một cái khăn. Chúng khọt khẹt, tay cầm đá liệng xuống.
Quân kị dùng cung tên bắn lên. Chúng chạy vào rừng mất. Trời tối dần. Quân sĩ báo với Cáp Diên:
_ Chỉ còn lương thực đủ ăn bữa tối nay mà thôi. Nếu mai không có lương, ắt chết đói hết.
Bỗng đâu đó tù và thổi liên hồi. Rồi khỉ, trong rừng lại truyền cành cây tới ném đá. Trong rừng, báo gầm lên, từ trên cao nhảy bổ xuống đội hình kị mã. Thoáng một cái, chúng biến vào rừng mất. Hơn trăm kị mã. vừa chết, vừa bị thương.
Cáp Diên cùng các tướng cho quân hạ trại giữa rừng. Truyền canh gác cẩn thận. Vì sợ bị báo, khỉ tấn công bất thần. Cáp Diên thở dài:
_ Từ sáng đến giờ. Đến một tên quân Lĩnh-Nam. Ta cũng không thấy mặt, mà hơn năm vạn binh của ta, nào bị thương, nào bị chết có đến hơn vạn. Quân sĩ thì kinh hoảng mất tinh thần. Bọn Lĩnh-Nam thực đáng sợ.
Quân sĩ nấu cơm, vừa định ăn, thì tiếng trống thúc vang dội, tiếng chiêng đánh inh tai. Cáp Diên cùng các tướng đốc thúc quân sĩ chuẩn bị tác chiến. Song chỉ thấy trống thúc, chiêng kêu. Không thấy một người nào cả.
Cáp Diên bảo các tướng:
_ Thây kệ. Chúng dùng nghi binh. Ta cứ ăn cơm.
Quân sĩ ngồi ăn cơm. Vừa lúc đó từ trên trời đoàn Thần-ưng xuất hiện. Chúng nhào xuống tấn công. Trong đêm tối, quân Hán không nhìn thấy Thần-ưng, trong khi Thần-ưng nhìn rất rõ. Trại Hán náo loạn lên.
Thình lình, tiếng báo gầm. Rồi báo từ ngoài tấn công vào trong trại. Trên trời Thần-ưng đánh xuống. Tại chỗ cột ngựa, ngựa bị đoàn khỉ tới cắt dây cột, dùng gậy đánh túi bụi. Chúng hí lên. Bỏ chạy vào rừng.
Cáp Diên cùng các tướng quát tháo thế nào cũng không được. Quân sĩ bỏ trại, chạy toán loạn. Y truyền lui binh trở lại. Gặp trại quân Ngô Hán đóng phía sau. Cáp Diên tường trình mọi truyện.
Ngô Hán than:
_ Ta biết Phùng Vĩnh-Hoa dùng binh không bằng ta. Song y thị mưu kế thần sầu quỉ khốc. Không biết đâu mà lường được. Chúng ta tạm chờ trời sáng sẽ trở về Cửu-long sau.
Sáng hôm sau. Ngô Hán truyền quân sĩ tiến về Cửu-long. Y tiến rất chậm. Song không gặp một biến cố gì. Đám tàn quân của Cáp Diên lại tụ tập về được. Quân sĩ cho biết: Hôm qua chỉ có ba tướng trẻ. Một là Lê Đông-Giang chỉ huy sư Thần-hầu. Hai là Vũ Lăng chỉ huy sư Thần-ưng. Ba là Cao Chiêu-Hựu chỉ huy sư Thần-báo. Còn ngoại giả không thấy quân Lĩnh-Nam đâu.
Ngô Hán truyền an dinh hạ trại. Y cùng các tướng đến chân thành Cửu-long. Cửa thành đóng kín mít. Trên thành không một bóng người. Không một ngọn cờ. Cáp Diên bàn:
_ Phùng Vĩnh-Hoa mưu mô xảo trá khôn lường. Không biết tình hình trong thành ra sao? Quân mã, Thần-ưng, Thần-hầu, Thần-báo đi đâu? Dường như y thị kéo dài thời giờ, đợi quân ta hết lương, rồi mới tấn công.
Ngô Hán bàn với các tướng:
_ Đỗ Trí khẩn cấp đem binh phù của ta đến Càn-định, Nhã-giang. Truyền hai thái thú phải cung ứng lương thảo gấp.
Y truyền các tướng:
_ Dù gì chăng nữa. Chúng ta cũng đánh chiếm lại Cửu-long.
Vừa lúc đó, ba tiếng trống vang dội. Trên mặt thành, cờ xí dựng lên uy nghiêm. Quân sĩ đi lại hùng tráng. Phùng Vĩnh-Hoa ngồi trên vọng lâu. Tay cầm ống tiêu. Bà tấu bản Động đình ca. Thái độ phong lưu tiêu sái. Tấu nhạc xong bà nói vọng xuống.
_ Ngô Đại tư-mã. Từ Dương-bình-quan cách biệt. Thấm thoát đã mấy năm rồi. Đại tư-mã vẫn mạnh khỏe a?
Ngô Hán ngửa mặt lên đáp:
_ Phùng cô nương! Ngươi với ta đã từng bên nhau đánh quân Thục. Hồi đó ngươi phản ta trợ Thục. Khiến ta khốn khổ. Bây giờ lại làm khó dễ ta thế này ư?
Phùng Vĩnh-Hoa đáp:
_ Ngô Đại tư-mã hiểu cho. Giữa Ngô Hán với Phùng Vĩnh-Hoa không thù không oán. Tiểu nữ đâu dám làm khó dễ Đại tư-mã ? Chẳng qua tiểu nữ tuân chỉ của hoàng-đế Lĩnh-Nam mà làm. Hai chúng ta ai cũng vì giang sơn của mình cả. Tiểu nữ ở thế bất đắc dĩ mà thôi.
Ngô Hán quát lên:
_ Quân sĩ trong thành Cửu-long của cô nương bất quá năm vạn. Ta hiện có mười lăm vạn. Liệu cô nương có địch lại chăng? Ta khuyên cô nương mau rút về Tượng-quận. Ta hứa không làm khó dễ cô nương.
Phùng Vĩnh-Hoa cười:
_ Ngô Đại tư-mã sao hủ lậu lắm vậy? Nếu Đại tư-mã đánh được ta. Người đã làm rồi. Người cất quân vượt Ô-giang, Xích-thủy, Kim-sa-giang đánh Lĩnh-Nam. Ta chỉ trở tay một cái, đánh chiếm được Cửu-long, Đông-sơn, với Mi-sơn, Nga-biên. Đại quân Vương Nguyên tiến về Thành-đô. Giờ này không chừng Thành-đô thất thủ rồi cũng nên. Thôi, ta nể tình cũ, để cho Ngô Đại tư-mã đem quân về Nhã-giang. Ngươi cứ đi đi. Ta không làm khó dễ đâu.
Bà cầm mũi tên bẻ làm đôi thề:
_ Nếu ta cho quân rượt theo, hoặc phục kích, sẽ như mũi tên này.
Vừa lúc đó, quân của Lưu Thương về tới. Ngô Hán truyền Đỗ Trí, Nguyễn Nghi đi đoạn hậu. Còn tất cả rút về Nhã-giang.
Trong thành, Phùng Vĩnh-Hoa, Chu Tái-Kênh, Trần Năng vỗ tay cười:
_ Quả đúng như chúng ta dự tính.
Nguyên đêm qua, Phùng Vĩnh-Hoa sai sư trưởng Thần-hầu Lê Đông-Giang, sư trưởng Thần-ưng Vũ Lăng, sư trưởng Thần-báo Cao Chiêu-Hựu dàn quân làm nghi binh, cản đường tiến quân của Cáp Diên, Ngô Hán. Bà dự tính rằng sau một đêm mệt mỏi, thì lương hết. Hôm sau Ngô Hán về tới Cửu-long, y sẽ không đủ sức tái chiếm thành. Y phải rút lui về Nhã-giang. Như vậy bà mới có thể về tiếp ứng cho mặt trận Ô-giang, Xích-thủy của Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống và Đào Tam-Lang. Vì có tin báo, mặt trận này quân Việt thất bại.
Đợi quân Ngô Hán rút rồi. Phùng Vĩnh-Hoa nói với Vương Nguyên:
_ Ngô Hán mất hết lương thảo. Qua trận vừa rồi, y bị thất bại, hao quân tổn tướng. Giữa Vương Bá với Ngô Hán có sự chia rẽ trầm trọng. Ngô sẽ tâu về triều đình rằng: Vương Bá dùng gian tế Lĩnh-Nam Chu Tái-Kênh, Trần Năng, Đinh Xuân-Hoa làm mất bốn thành Cửu-long, Đông-sơn, Mi-sơn, Nga-biên. Còn Vương Bá sẽ tâu về triều: Ngô Hán không biết dùng binh, mạo hiểm đánh xuống Lĩnh-Nam, trong khi Ích-châu còn bảy thành trong tay Thục, vì vậy mới bị bại. Ngô không biết đề phòng Công-tôn Thi, bị Thi phản. Trong khi họ đổ lỗi cho nhau chạy tội, không còn tinh thần giao chiến. Vậy tôi xin trao các thành trì lại cho sư thúc. Xin sư thúc tiến đánh gấp những phần đất còn lại, phục hồi Thục.
Đến đây, có sứ giả của Đào Chiêu-Hiển tới, xin vào yết kiến. Phùng Vĩnh-Hoa nhìn qua nét mặt tươi tỉnh của sứ giả. Bà cười:
_ Ba tướng họ Đào đại thắng rồi phải không? Hiện quân họ ở đâu?
Sứ giả bái lạy:
_ Khải tấu Công chúa. Cả ba đạo đều đại thắng. Ba đại tướng quân hiện dồn quân ở bến Bồ-lăng. Vì sợ quân Hán tràn sang Lĩnh-Nam. Còn sư bá Hàn Đức dẫn sư-trưởng Thần-ngao Vũ Dương giao chiến với Chu Á-Dũng ở Vĩnh-thiên. Quân Hán đông gấp năm quân sư bá Hàn Đức. Chu cho quân tấn công đồn. Y bị Vũ Dương từ phía sau dùng Thần-ngao đánh tập hậu. Giao chiến ba ngày, quân Việt tử thương quá nhiều. Giữa lúc đó Vương Lộc đem đại quân Thục tiếp viện. Một bên quân Hán đông, cùng đường, tử chiến. Một bên liên quân Việt, Thục tuy ít, quyết đuổi giặc đến cùng. Trận chiến kéo dài hơn hai ngày. Quân Hán bị giết chết hết. Quân Thục, Việt cũng chỉ còn hơn bốn ngàn người. Sư thúc Hàn Đức, sư huynh Vương Lộc bị thương nặng. Giữa lúc đó Ngô Tiến-Hy dẫn một đạo binh ba vạn tráng đinh đến đánh. Vũ Dương dùng Thần-ngao cản đường, trong khi quân rút về Bồ-lăng. Ngô Tiến-Hy đuổi theo rất gấp. Trong khi cái chết chỉ đường tơ kẽ tóc, một đạo Thiết_ kị khoảng nghìn người xông vào trận. Viên tướng đi đầu chỉ đánh ba chưởng khiến Ngô Tiến-Hy phun máu miệng. Y lui lại đốc quân giao chiến.
Vĩnh-Hoa hỏi:
_ Người đó là ai vậy?     
_ Thưa là Long-biên công Đặng Đường-Hoàn. Người đang trấn tại Long-biên. Nhân nghe tin Tượng-quận sắp có đánh lớn. Người xin vua Trưng đi tiếp viện. Trưng-đế chuẩn tấu. Người mang một nghìn đệ tử theo. Người đến nơi vừa kịp. Người đẩy lui Ngô Tiến-Hy rồi cùng đệ tử về Bồ-lăng. Vì vậy đất Vĩnh-thiên bị giặc chiếm.
Phùng Vĩnh-Hoa hỏi:
_ Lê lấy đâu ra quân đông đảo như vậy?
_ Y chiêu mộ được hơn mười lạc-hầu gốc người Hán làm phản. Lạc-hầu đốc xuất toàn bộ tráng đinh nam, nữ kéo cờ Bình man qui Hán. Trên đường rút quân sư thúc Hàn Đức, sư huynh Vương Lộc kiệt lực, tuẫn quốc.
Vương Nguyên nghe tin con tử trận. Ông ôm mặt bật lên tiếng khóc.
Phùng Vĩnh-Hoa cúi mặt, ôm đầu, thở dài:
_ Không ngờ sư thúc Hàn Đức, sư đệ Vương Lộc anh hùng một đời, mà sớm tuẫn quốc. Chúng ta thắng thì thắng thực, song mất đi hai đại tướng tài. Còn mặt trận Bồ-lăng...

            Đinh Xuân-Hoa, Đào Chiêu-Hiển, Cao Đà dùng thuyền lớn, chở sư Thần-hổ đi dọc sông Trường-giang hướng về Bồ-lăng. Sắp tới Bồ-lăng, gặp Thủy quân Hán chặn lại hỏi. Đinh Xuân-Hoa đứng trên mũi thuyền lên tiếng:
_ Ta muốn được gặp tướng chỉ huy.
Viên tướng chỉ huy đoàn tuần tiểu lên mui thuyền. Y tự giới thiệu:
_ Ta là Cổ Minh đô-đốc lĩnh trách nhiệm trấn giữ Bồ-lăng. Các người là ai? Tại sao lại chở nhiều cọp thế này? Có thẻ bài của thái thú không?
Đinh Xuân-Hoa lắc đầu:
_ Chúng tôi không có thẻ bài của thái-thú. Mà chỉ có lệnh bài của Hoài-dương hầu lĩnh ấn tổng trấn Thành-đô, Vương Bá.
Cổ Minh nghe đến Vương Bá, lời lẽ y khách sáo hơn:
_ Xin bà cho coi lệnh bài.
Đinh Xuân-Hoa trình lệnh bài ra. Cổ Minh cầm lại xem xét rồi hỏi:
_ Bà chở cọp đi đâu nhiều thế này?
Đinh Xuân-Hoa đưa tấm lệnh bài có khắc con phụng ra nói:
_ Mã thái-hậu truyền Hoài-dương hầu Vương tướng quân mua thực nhiều cọp, rồi trao cho chúng tôi chở về Kinh-châu giao cho Mã Viện.
Cổ Minh biết Mã Viện là cháu Mã thái-hậu. Y trả lệnh bài cho Đinh Xuân-Hoa:         
_ Xin bà cho thuyền nghỉ lại đây. Sáng mai hãy lên đường. Vì chiều nay quân Vương Hữu-Bằng, Lý Thái-Hiên xuất phát đánh Lĩnh-Nam. Ghe thuyền đóng chặt giòng sông. Sáng mai chiến thuyền đi bớt, rồi các vị lên đường cũng vừa.
Đinh Xuân-Hoa cho thuyền đậu trên sông.
Sáng hôm sau, quân Vương, Lý xuất phát hết. Cổ Minh báo cho Đinh Xuân-Hoa biết. Đinh Xuân-Hoa nói:
_ Xin Đô-đốc cho phép chúng tôi dắt cọp lên bờ nghỉ ngơi nửa buổi. Cọp giam dưới thuyền đã mấy ngày. Chúng gầy yếu quá rồi.
Cổ Minh đồng ý. Cao Đà ra lệnh. Cứ mười Thần-hổ, do một Hổ-tướng chỉ huy, dẫn chúng lên bờ. Cổ Minh đứng nhìn đoàn Thần-hổ, y hỏi Đinh Xuân-Hoa:
_ Phu nhân làm cách nào, dậy cọp ngoan ngoãn như chó thế kia?
Đinh Xuân-Hoa chưa kịp trả lời, thi đoàn Thần-hổ đã lên bờ, dàn thành trận. Đào Chiêu-Hiển vẫy tay. Từ dưới thuyền, hơn ba trăm dũng sĩ quyết tử xông lên. Ông hô một tiếng. Cao Đà cầm cờ phất, đoàn Thần-hổ gầm gừ rung chuyển trời đất, xung vào trại Hán. Phía sau đoàn dũng sĩ cảm tử tiến lên.
Cổ Minh ngớ ngẩn hỏi:
_ Cái gì? Thế này là thế nào?
Đinh Xuân-Hoa phóng cho y một chưởng. Người y vốn mảnh khảnh. Bị một chưởng, bay tung lên cao, rơi xuống sông. Y dãy dụa mấy cái, người chìm nghỉm.
Đoàn Thần-hổ, dũng sĩ cùng Đào Chiêu-Hiển, Cao Đà xung vào trại Hán. Quân trong trại rối loạn. Đám dũng sĩ đánh lửa lên đốt lương thảo. Phút chốc trại Hán khói lửa ngụt trời. Đám quân Hán không tập trung lại được. Đào Chiêu-Hiển chỉ huy đoàn dũng sĩ đốt cháy khắp nơi. Trong khi đoàn Thần-hổ đuổi đánh quân canh.
Thấy đã thành công. Đào Chiêu-Hiển bảo Cao Đà:
_ Chúng ta cho Thần-hổ vượt sông, phục sẵn ở ven rừng. Có thể quân của Vương Bằng, Lý Thái-Hiển trở về.
Quả nhiên đến chiều, từ xa xa, đoàn quân Hán đang rút trở về. Đinh Xuân-Hoa nói:
_ Quân Hán trở về bơ phờ thế kia. Chắc trúng phục binh của Đào Đô-Thống với Đào Tam-Lang rồi.
Đào Chiêu-Hiển bảo Cao Đà leo lên ngọn cây quan sát tình hình. Cao Đà vâng lệnh, leo lên cây. Nó nói vọng xuống:
_ Thưa sư bá, đằng trước, quân Hán đang tháo chạy. Quân Lĩnh-Nam rượt theo. Các dàn Thần-nỏ của ta đi trước. Quân Hán ngã từng loạt một.
Một lát quân Hán rút tới. Đào Chiêu-Hiển vỗ tay một cái. Cao Đà rú lên ba tiếng. Đoàn Thần-hổ từ trong rừng gầm lên rung chuyển trời đất. Chúng xông ra chặn mất đường đi của quân Hán. Vương Hữu-Bằng, cầm kiếm đi đầu. Đào Chiêu-Hiển từ trên cây nhảy xuống. Ông cầm kiếm phóng vào ngực y. Miệng nói lớn:
_ Vương Hữu-Bằng, thành Bồ-lăng ta đã chiếm mất rồi. Lương thảo đốt sạch. Bây giờ ta lấy đầu ngươi đây.
Vương Hữu-Bằng vung kiếm xả vào mặt Đào Chiêu-Hiển. Thế là một đánh thục mạng, tìm đường chạy, một quyết giết giặc không tha. Hai người quay tròn, đấu với nhau.
Lý Thái-Hiên đứng ngoài, y rút kiếm tấn công Đào Chiêu-Hiển. Đinh Xuân-Hoa từ trên cao đáp xuống. Bà khoanh kiếm, cản Lý Thái-Hiên. Hai bên thi diễn cuộc đấu. Kể ra kiếm thuật Lý cũng vào loại hiếm có. Song võ công Đinh Xuân-Hoa là võ công Cửu-chân, khắc chế võ công Trung-nguyên. Chỉ hơn ba mươi hiệp y luống cuống rõ rệt. Choang một tiếng. Kiếm của Lý bay bổng lên cao. Đinh Xuân-Hoa chỉa kiếm vào cổ y:
_ Đầu hàng, ta sẽ tha mạng cho.
Lý vội vàng quì xuống:
_ Tiểu tướng xin phu nhân tha mạng.
Đinh Xuân-Hoa thu kiếm lại. Thình lình Lý Thái-Hiên vung tay một cái. Hơn mười mũi phi đao nhỏ bay vào người bà. Bà khoa kiếm gạt, chỉ được sáu lưỡi. Còn bốn lưỡi ghim vào ngực, bụng bà. Ánh thép lóe lên, bà đưa một lưỡi kiếm. Đầu Lý Thái-Hiên rơi xuống đất. Phẫn chí, bà đưa một nhát nữa, Vương Hữu-Bằng đang đấu với Đào Chiêu-Hiển, cũng bị đứt làm hai khúc.
Đào Chiêu-Hiển kêu lên:
_ Sư bá, có sao không?
Đinh Xuân-Hoa cúi gập người. Bà nghiến răng nhổ bốn lưỡi phi đao ra. Bà trúng đao không sâu, chỉ bị ngoại thương, tạng phủ vô sự. Cao Đà lấy thuốc rịt vết thương, băng bó cho bà.
Vừa lúc đó quân của Đô-Thống, Tam-Lang đuổi tới. Chỉ mấy loạt Thần--nỏ, đám tàn quân Hán ngã hết.
.....
Phùng Vĩnh-Hoa nói với Chu Tái-Kênh:
_ Khi sang đây trấn nhậm. Trưng-đế có nói với cháu: “Anh em họ Đào tuy ba là một. Chiêu-Hiển khí phách. Đô-Thống mưu mẹo. Tam-Lang trung liệt. Cả ba đều có tài đại tướng”. Cứ như trận này thì rõ.
Bỗng Thần-ưng từ xa mang thư tới. Phùng Vĩnh-Hoa mở ra đọc. Bà bỏ thư vào túi, nói với Vương Nguyên:
_ Quân Ngô Hán mới bị vỡ. Xin sư thúc giúp Thái-tử chiếm lại Thành-đô, tái lập nước Thục. Chúng tôi phải trở về Tượng-quận ngay. Các thành Độ-khẩu, Mễ-dịch, Đức-xương, Tây-xương chúng tôi có ba vạn quân, cùng Trần-gia tam-nương cũng rút về. Xin sư thúc đề phòng cẩn thận.
Bà dẫn Chu Tái-Kênh, Trần Năng khẩn cấp rút về Lĩnh-Nam qua Độ-khẩu.
Dọc đường Chu Tái-Kênh hỏi:
_ Tình hình Lĩnh-Nam ra sao, mà chúng ta đang thắng, công chúa phải cho rút về?
Phùng Vĩnh-Hoa đáp:
_ Tôi được tin Thần-ưng của sư bá Hàn Bạch báo: Trong thời gian Tượng-quận tam-anh dốc hết quân trợ Thục. Thầy trò Lê Đạo-Sinh cùng với các Lạc-hầu, Lạc-tướng người Hán, dùng tráng đinh nổi dậy. Chúng ta phải trở về ngay. Nếu không e Tượng-quận lâm nguy. Tượng-quận Tam-anh cùng với Trần-gia tam-nương rút về trước rồi. Lê Đạo-Sinh đang công hãm thủ đô Côn Minh.
Bà thở dài:
_ Ngô Hán bị tôi đánh bại trên đất Trung-nguyên. Song y thắng tôi ở Tượng-quận. Quang-Vũ chỉ dụ cho y, để Lê Đạo-Sinh dùng người Lĩnh-Nam đánh với người Lĩnh-Nam. Sau đó y mới xua quân Hán tham chiến. Ngô đổi ngược lại dùng quân Hán đánh trước, rồi xua người Lĩnh-Nam đánh sau. Giỏi! Y lừa được tôi.
Ba người truyền Thần-hầu, Thần-ưng, Thần-báo khẩn cấp triệt thoái. Dọc đường qua các thành Đức-xương, Tây-xương, Mễ-dịch, được tin Trần-gia tam-nương cùng các đạo quân Việt đã rút về Tượng-quận hết rồi.
Trưa hôm sau, ba người tới Độ-khẩu, qua sông đổ vào Vĩnh-nhân. Vừa sang đến nơi, đoàn Thần-ưng đồng kêu ré lên trên không. Chúng lao tới phía trước. Vũ Lăng, sư trưởng Thần-ưng nói với Vĩnh-Hoa:
_ Chị Vĩnh-Hoa! Phía trước có quân mình đang giao tranh với địch. Đoàn Thần-ưng trông thấy. Chúng bay theo yểm trợ. Để em đi trước xem sao.
Vũ Lăng ngồi trên bành con voi. Chàng thúc voi tiến tới. Phía sau Phùng Vĩnh-Hoa, Chu Tái-Kênh, Trần Năng phi ngựa theo. Phi được hơn năm dặm, Vũ Lăng chỉ về phía trước:
_ Kìa Trần-gia tam-nương đang giao chiến với hai người nam, một người nữ. Đạo quân của ba bà cùng đạo quân lạ đang chém giết nhau.
Trần-gia tam-nương yếu thế lắm rồi. Chu Tái-Kênh nhận ra Đạm-Nương đấu với Đức-Hiệp. Thanh-Nương đấu với Vũ Hỷ. Hồng-Nương đấu với Vũ Phương-Anh. Đức-Hiệp đánh liền ba chưởng. Đạm-Nương nhảy lui liên tiếp. Trong khi đó Vũ Hỷ đẩy lui Thanh-Nương đến một gốc cây lớn.
Chu Tái-Kênh vọt người lên cao, vượt qua đầu đám quân sĩ. Còn lơ lửng trên không, bà vung tay xuất hai chưởng, hướng vào Đức-Hiệp, Vũ Hỷ. Hai người bỏ Đạm-Nương, Thanh-Nương xoay lại đỡ chưởng của bà. Binh, binh hai tiếng. Hai người bật lui đến hơn trượng. Chu Tái-Kênh đã đứng trước mặt họ. Bên cạnh bà, Trần Năng dùng Lĩnh-Nam chỉ đẩy lui Vũ Phương-Anh.
Đức-Hiệp vẫy đồng bọn, lui lại, đứng trước hàng quân, mắt gườm gườm nhìn Chu Tái-Kênh. Y đã nhận ra bà.
Hồi Chu Tái-Kênh còn theo Lê Đạo-Sinh. Bà che dấu bản lĩnh của mình. Thành ra bọn Đức-Hiệp chỉ biết bà giỏi về khoa huấn luyện binh lính. Chúng tuyệt không ngờ bà có bản lĩnh cao cường, đến độ chỉ một chiêu, đánh bay y với Vũ Hỷ.
Đức-Hiệp hỏi:
_ Chu lão bà! Thì ra ngươi. Bấy lâu nay ngươi ẩn thân trong Thái-hà trang, mà sư phụ ta không biết võ công ngươi cao đến trình độ này.
Chu Tái-Kênh cười nhạt:
_ Thầy trò mi có mắt như mù. Võ công của ta cao hơn Lê Đạo-Sinh nhiều, mà y không biết. Hôm nay bọn mi biết, đã chậm trễ rồi. Ngươi có biết ta là ai không mà dám buông lời hỗn láo?
Đức-Hiệp trả lời bằng cái lắc đầu. Chu Tái-Kênh bảo Trần Năng:
_ Ngươi nói cho chúng biết ta là ai đi.
Trần Năng vẫy Đức-Hiệp:
_ Sư đệ! Để ta giới thiệu cho mi biết. Vị này chính là sư nương của ta. Ngươi mau bái kiến đi.
Vũ Hỷ ngang tàng:
_ Ta không tin. Từ xưa đến giờ, có nghe nói sư bá lấy vợ đâu? Nay tự nhiên mọc ra mụ này, thế mà mi bắt ta cúi đầu, e còn khó hơn bắc thang lên trời.
Thấp thoáng thân hình. Chu Tái-Kênh đã tát cho Vũ Hỷ hai cái bốp, bốp. Động tác nhảy tới, tát, nhảy lui nhanh như chớp. Rõ ràng Vũ Hỷ trông thấy, mà phản ứng không kịp. Y bị tát đau quá. Nước mắt dàn dụa ra.
Đức-Hiệp kêu lên:
_ Sư bá! Thì ra ngươi thuộc phái Long-biên.
Chu Tái-Kênh không nói, không rằng. Bà xuất chiêu Ngưu tẩu như phi hướng Đức-Hiệp. Đức-Hiệp thấy chưởng lực hùng mạnh, y hoảng hốt, nhảy vọt lên cao. Chưởng của Chu Tái-Kênh trúng xuống đất đến bùng một cái. Đất sụt xuống một lỗ trũng. Cát bụi bay mịt mờ.
Đức-Hiệp mở to mắt ra. Vì chưởng lực của bà muốn mạnh hơn Lê Đạo-Sinh.
Chu Tái-Kênh hất hàm hỏi:
_ Các ngươi có chịu ra mắt ta không?
Bọn Đức-Hiệp, vội vàng chắp tay:
_ Đệ tử kính cẩn ra mắt sư bá.
Chu Tái-Kênh hỏi Trần Đạm-Nương:
_ Tại sao các cháu lại giao chiến với bọn này?
Đạm-Nương đáp:
_ Bọn chúng khích động một số Lạc-công, Lạc-hầu nổi dậy Bình man qui Hán. Chúng đem quân cản đường Tượng-quận Tam-anh với bọn cháu. Tượng-quận Tam-anh đem sư Thần-phong, Thần-tượng cùng đội kị binh trở về Côn-minh trước, để bọn cháu cản hậu. Lúc đầu quân của chúng ít, rồi dần dần, chúng kéo đến đông như thế này đây.
Phùng Vĩnh-Hoa nhớ lại : Trước đây Tượng-quận Tam-anh đã gửi tấu chương về triều rằng: Đất Tượng-quận cứ bảy người Hán mới có ba người Việt. Suốt hai trăm năm người Hán đô hộ, người Việt bị coi như trâu như chó, không được học hành, không được tập võ, không có ruộng đất. Hóa cho nên bây giờ Lĩnh-Nam phục hồi, người Hán vẫn làm chủ. Sau cuộc suy cử Lạc-hầu, Lạc-công, hầu hết người Hán nắm các chực chưởng then chốt, các phú gia đều là người Hán. Nay Lê Đạo-Sinh cùng đám đệ tử, tìm đến đám quan lại người Hán hồi xưa, chúng đang ẩn trong dân, đem chiếu chỉ của Quang-Vũ phong cho họ. Người nào cũng được phong chức tước lớn. Ông muốn bắt giết các Lạc-hầu, Lạc-công người Hán, mà không dám. Vì sợ dân chúng, quân sĩ nổi loạn. Tình hình Tượng-quận cực kỳ căng thẳng. Tượng-quận Tam-anh theo dõi thầy trò Lê Đạo-Sinh rất kỹ. Ngặt vì chúng ở trong bóng tối. Nay hiện, mai ẩn. Tam-anh biết rõ mối nguy hiểm ẩn tàng. Mà không có cách nào trị được.
Trong khi Ngô Hán chia binh làm năm đạo đánh xuống Lĩnh-Nam. Phùng Vĩnh-Hoa mải ứng phó. Tượng-quận Tam-anh dồn quân lên Độ-khẩu, Vĩnh-nhân nghinh địch. Thầy trò Lê Đạo-Sinh thấy vậy, ra lệnh cho đám Lạc-công, Lạc-hầu nổi dậy. Có đến phân nửa các Lạc-công, Lạc-hầu theo Hán. Lê Đạo-Sinh sai đệ tử tập trung tráng đinh của đám Lạc-hầu, Lạc-công phản loạn, đánh chiếm các huyện cùng trang ấp không theo chúng.
Tượng-quận Tam-anh được tin đó, giữa lúc các ông đang đuổi theo quân của Vương Thường, Ngô Hán, Cáp Diên. Ba ông lập tức viết thư báo cho Phùng Vĩnh-Hoa biết. Một mặt rút quân về dẹp loạn. Các ông cũng lệnh cho Trần-gia tam-nương rút quân theo, đem quân về cứu thủ đô Côn-minh của Tượng-quận đang bị Lê Đạo-Sinh vây hãm. Trần-gia tam-nương đi cản hậu, vừa về đến giữa đường thì gặp Đức-Hiệp, Vũ Hỷ, Vũ Phương-Anh chặn đánh. Trong khi ba bà đang gặp nguy hiểm, Chu Tái-Kênh về tới, kịp thời tiếp cứu.
Đức-Hiệp thấy tình hình bên mình yếu thế. Y chắp tay chào Chu Tái-Kênh:
_ Đã có mặt sư bá ở đây. Chúng cháu xin rút lui.
Lê Đông-Giang, sư trưởng Thần-hầu, trực tiếp thống lĩnh quân đoàn sáu Tây-vu cười nhạt:
_ Đâu có dễ dàng như vậy! Các ngươi tưởng chạy được ư?
Đức-Hiệp nhìn ra: Đạo quân của y đã bị Phùng Vĩnh-Hoa cho Thần-hầu, Thần-báo, cùng quân của Trần-gia tam-nương vây kín từ lúc nào. Vũ Lăng đứng trên bành voi cầm cờ chỉ huy Thần-ưng trong tư thế sẵn sàng tác chiến.
Đức-Hiệp cười nhạt:
_ Phùng Vĩnh-Hoa. Mi tưởng với đạo quân thú vật của mi, có đủ khả năng giết bọn ta ư? Ta nói cho ngươi biết, dân chúng Tượng-quận, mười người, đến chín người Hán. Họ đồng nổi dậy Bình man qui Hán cả rồi. Các ngươi muốn giết ta, cứ giết. Nhưng liệu các ngươi có cứu được Tượng-quận về với Lĩnh-Nam chăng? Hãy nhìn, đạo quân của ta gồm tráng đinh mười trang ấp. Họ kéo cờ Hán, trở về với Hán. Nếu ngươi có tài, cứ giết hết dân Tượng-quận đi. Ngươi có đất, mà không có dân.
Đến đó, có tiếng quân reo, ngựa hí. Hai đạo quân từ phải, trái do Hoàng Thái-Tuế, Ngô Tiến-Hy kéo tới. Phùng Vĩnh-Hoa truyền quân lui lại dàn trận thế, sẵn sàng chiến đấu.
Vũ Lăng nói với Phùng Vĩnh-Hoa:
_ Chúng ta chỉ có một vạn người, với sư Thần-hầu, Thần-báo, Thần-ưng. Trong khi bên chúng có tới hơn năm vạn người. Vậy sư tỷ cùng Chu sư bá, Trần sư tỷ hãy về thủ đô Côn-minh hợp với Tượng-quận Tam-anh đối phó. Bọn em xin đi cản hậu.
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu:
_ Không phải chúng ta sợ chúng, mà sợ nếu để hai bên đánh nhau, dù quân chúng ta chết, dù tráng đinh chết, nhân lực Lĩnh-Nam cũng hao tổn. Vậy các em chỉ cần cản hậu. Đừng giết người nhiều quá.
Bà nói với Chu Tái-Kênh, Trần Năng:
_ Hai vị trổ thần oai đánh bọn Đức-Hiệp, mở vòng vây. Chúng ta về Côn-minh, để các em dùng Thần-ưng, Thần-báo, Thần-hầu cản hậu.
Chu Tái-Kênh hú lên một tiếng. Bà phóng chưởng đánh Đức-Hiệp, Vũ Hỷ. Trần Năng đánh Vũ Phương-Anh. Chỉ mấy chiêu. Hai người đánh dạt bọn chúng sang một bên, rồi dẫn đầu cho đạo quân Trần-gia tam-nương xung vào trân địch. Từ hai bên hông, sư Thần-báo, Thần-hầu đánh kẹp lại. Vũ Lăng chỉ huy Thần-ưng từ trên đánh xuống. Trận tuyến bọn Đức-Hiệp rối loạn hẳn lên. Phút chốc đạo quân Trần-gia tam-nương cùng Phùng Vĩnh-Hoa xông khỏi vòng vây. Quân Đức-Hiệp hầu hết tráng đinh của các trang lẻ tẻ. Đông, thì đông thực. Song dàn trận, phối hợp không quen. Vì vậy đạo quân Trần-gia tam-nương vượt ra dễ dàng.
Bấy giờ Đừc-Hiệp mới biết rõ ý định của Phùng Vĩnh-Hoa. Chúng dẫn đầu, phía sau, các Lạc-hầu người Hán, lùa tráng đinh đuổi theo.
Cao Chiêu-Hựu đứng trên bành voi, tay cầm cờ phất. Đạo quân ba trăm Thần-báo chỉ có ba mươi người chỉ huy. Trận tuyến dàn ra nghiêm chỉnh. Trên trời Thần-ưng bay lượn theo lệnh Vũ Lăng. Tráng đinh phản loạn dừng lại, không dám tiến lên. Hai bên trong tư thế gờm nhau.
Đức-Hiệp nói với Vũ Hỷ:
_ Ba chúng ta phải xông vào trận. Nếu không, bọn Phùng Vĩnh-Hoa trở về Côn-minh thì đạo quân của sư phụ bị đánh tập hậu. Nguy lắm.
Ba người đồng múa vũ khí xông vào trận. Cao Chiêu-Hựu phất cờ xanh. Mỗi người trong bọn Vũ Hỷ bị mười Thần-báo vây vào giữa. Tránh con này, thì con kia xung vào trận. Vũ Lăng cầm cờ phất. Trên đầu bọn Vũ Hỷ lại bị một đội Thần-ưng đánh xuống. Ba người múa tít kiếm hộ thân.
Các lạc-hầu phản loạn, xua quân lao vào trận. Đoàn Thần-báo gầm lên cùng nghênh chiến, trên trời Thần-ưng lại lao xuống tấn công. Có bốn lạc-hầu đi đầu bị Thần-báo cắn chết. Đám tráng đinh kinh hoảng, vội lui trở lại. Bọn Đức-Hiệp tả xung hữu đột một lúc, mới làm cho năm Thần-báo bị thương.
Chúng cùng hô lên một tiếng, lui về trận.
Cao Chiêu-Hựu, Vũ Lăng phất cờ cho Thần-báo, Thần-ưng hưu chiến, cũng dàn trận, chờ đợi.
Bỗng Hắc-hầu tướng Lê Đông-Giang phi ngựa đến nói:
_ Hai em mau đem Thần-báo, Thần-ưng tiếp viện sư tỷ Phùng Vĩnh-Hoa. Sư tỷ đang giao chiến với bọn phản loạn cách đây mười dậm. Để ta với đoàn Thần-hầu cản hậu được rồi.
Vũ Lăng, Cao Chiêu-Hựu vội phi ngựa, dẫn Thần-báo, Thần-hổ đuổi theo Phùng Vĩnh-Hoa. Đi hơn giờ, đã thấy phía trước một đạo quân phản loạn đang bao vây Phùng Vĩnh-Hoa, cùng mọi người vào giữa. Vũ Lăng tinh mắt, chỉ vào sườn đồi gần đó, nói với Cao Chiêu-Hựu:
_ Kìa! Không biết tên nào đứng trên núi, cầm cờ chỉ huy quân phản loạn bao vây chúng mình. Để tao giết nó trước.
Phía sườn đồi, một người cầm cờ Ngũ sắc, chỉ huy. Các Lạc-hầu phản loạn trông theo hiệu kỳ, bao vây bọn Phùng Vĩnh-Hoa.
Vũ Lăng hú lên một tiếng dài. Một toán hơn trăm Thần-ưng bay tới, nhào xuống tấn công người cầm cờ. Y phải buông cờ, cầm vũ khí chống cự. Các đội quân phản loạn vốn không thống nhất. Nay mất người chỉ huy, hàng ngũ rối loạn. Giữa lúc đó Vũ Lăng cho Thần-ưng đánh xuống. Cao Chiêu-Hựu cho Thần-báo xung vào trận. Quân phản loạn vội rút vào sườn núi. Vòng vây mở rộng. Đạo quân Trần-gia tam-nương qua hai trận đánh, tổn thất khá nhiều, đã mệt mỏi lắm rồi.
Chu Tái-Kênh, Trần Năng xung sát, người đầy máu. Phùng Vĩnh-Hoa thở dài:
_ Sư tỷ Trưng Trắc vẫn thường nói: Giặc ngoài dễ đánh, giặc trong khó phòng. Nay ta mới nếm mùi cay đắng. Hơn hai mươi vạn quân Ngô Hán, chúng ta đuổi chạy tan tác. Không ngờ... không ngờ giữa lúc ta thắng trận, bị bọn Lê Đạo-Sinh đánh phía sau. Bây giờ các Lạc-hầu Tượng-quận theo Hán hết cả. Chúng ta có dẹp được họ, thì quân chết nhiều, mà các trang ấp cũng điêu tàn. Vậy phải làm gì? Không biết tình trạng Tượng-quận Tam-anh ra sao? Hiện họ ở đâu? Bây giờ chúng ta mở đường máu, rút sang Quế-lâm, rồi tìm cách an định Tượng-quận sau vậy.
Bà truyền lệnh Trần-gia tam-nương:
_ Đạo kị binh trừ bị Tượng-quận đóng cách đây không xa. Ba em mau đến đó, điều động họ tiếp viện bọn ta.
Bà truyền lệnh mọi người dẫn quân sĩ, dựa lưng vào ngọn đồi dàn trận, cố thủ, chờ quân Trần-gia tam-nương.
Có Thần ưng từ xa bay tới. Vũ Lăng gọi xuống. Nó cầm thư đưa cho Phùng Vĩnh-Hoa. Phùng Vĩnh-Hoa cầm thư đọc, thở dài:
_ Thế là xong!
Chu Tái-Kênh hỏi:
_ Cái gì đã xảy ra?
Phùng Vĩnh-Hoa rơi nước mắt:
_ Tượng-quận Tam-anh cùng đạo quân rút về tới thủ đô Côn-minh, lập tức bị Lê Đạo-Sinh xua năm vạn tráng đinh gốc Hán tiến đánh. Ba ông không muốn cho quân sĩ giết tráng đinh, truyền rút vào trong thành cố thủ. Đêm đến, binh tướng gốc người Hán làm phản. Chúng nổi dậy, mở cửa thành cho Lê Đạo-Sinh vào. Sư trưởng Thần-phong Phạm Nga-Nương dùng Thần-phong đánh. Sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn tung Thần-tượng giải vây. Đánh đến sáng. Thần-tượng chết hết. Thần-phong cũng tuyệt. Phạm Nga-Nương, Nghiêm Đôn tự tử. Tượng-quận Tam-anh cũng tự tử theo.
Chu Tái-Kênh, Trần Năng nhìn Phùng Vĩnh-Hoa. Người người ngớ ngẩn, không biết giải quyết sao.
Thình lình có tiếng ngựa hí, quân reo. Phía sau bọn Đức-Hiệp, Vũ Hỷ đã đuổi tới. Quân phiến loạn hai đạo hợp làm một đông đến bảy tám vạn người.
Phùng Vĩnh-Hoa hỏi Vũ Lăng:
_ Lê-Đông-Giang với đạo Thần-hầu đâu? Dường như họ bị giết hết rồi, nên bọn Đức-Hiệp mới tới đây được.
Vũ Lăng đáp:
_ Thưa không phải thế. Chiến thuật của Thần-hầu thường ẩn trong rừng. Thình lình đánh vào phía sau địch.
Trần Năng bàn:
_ Đạo quân Đào Chiêu-Hiển, Đô-Thống, Tam-Lang hiện đóng gần đây. Chúng ta cho Thần-ưng mang thư cầu cứu. Một mặt chúng ta rút về phía đó.
Phùng Vĩnh-Hoa cầm bút viết thư, sai Thần-ưng đi liền. Mọi người ngồi nhắm mắt dưỡng thần.
Đến nửa đêm, có tiếng khỉ kêu trên núi. Lê Đông-Giang cùng đoàn Thần-hầu đã về tới. Chàng nói:
_ Em chịu tội với chị. Đội Thần-hầu chỉ có ba trăm con. Em cố sức cản được chúng hơn giờ. Sau đành rút vào rừng, trở về đây.
Phùng Vĩnh-Hoa an ủi Hắc-hầu tướng mấy câu.
Trời gần sáng. Lê Đông-Giang lên núi nói với Phùng Vĩnh-Hoa:
_ Sư tỷ. Đêm qua, quân sĩ gốc người Hán bỏ hàng ngũ chạy theo Đức-Hiệp hết. Khi rời Độ-khẩu, ta có một vạn người. Tổn thất hai trận còn tám ngàn. Hiện chúng bỏ đi gần hết. Chỉ còn hơn hai ngàn binh sĩ gốc người Việt mà thôi. Bây giờ chúng ta phải làm gì?

            Phùng Vĩnh-Hoa gọi Cao Chiêu-Hựu:
_ Em cho Thần-báo phục trong rừng. Cản quân phản loạn. Còn chúng ta rút về phía Bắc, gặp Đào Chiêu-Hiển, rồi sẽ liệu. Bây giờ, các trang ấp người Hán đều theo Lê Đạo-Sinh cả. Bốn bề toàn quân thù. Đành phải rút vậy.
Đoàn người âm thầm rút trong đêm. Trưa hôm sau Phùng Vĩnh Hoa gặp đạo quân của Đào Chiêu-Hiển. Đặng Đường-Hoàn nhìn Phùng Vĩnh-Hoa, ông thở dài:
_ Phép dùng binh thì cần thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Chúng ta không có thời, Công-tôn Thi mới hàng Hán. Nhân hòa, chúng ta không có, vì dân toàn dân Hán. Người Hán ở khắp nơi, họ luôn tự cho mình là con trời. Cho dù mình có hậu đãi đến đâu, họ vẫn quay đầu về cố quốc. Cháu cứ bình tĩnh rút về Quế-lâm cùng Đào Kỳ báo phục sau. Sư thúc cùng các sư đệ quyết chiến một trận, rồi chết cũng đành.
Trần Năng rất quan tâm đến bệnh tình Đinh Xuân-Hoa. Bà cầm mạch, rồi nói:
_ Không sao. Thái sư mẫu chỉ bị ngoại thương thôi.
Phùng Vĩnh-Hoa tường trình mọi biến cố cho Đinh Xuân-Hoa với ba anh em họ Đào nghe. Đào Đô-Thống nói:
_ Phía trước chúng ta đối diện với gần mười vạn quân Hán. Bốn bên trang ấp đều nổi dậy. Phía sau hơn mười vạn tráng đinh theo phe phản nghịch. Bây giờ chúng ta phải rút về Quế-lâm, rồi hãy định liệu.
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu đồng ý.
Bỗng quân vào báo:
_ Có một tướng Thục, xưng là Vương Thọ, bị thương nặng. Đến xin cầu kiến công chúa.
Phùng Vĩnh-Hoa kinh hoảng, vội chạy ra ngoài trướng. Vương Thọ người đầy thương tích. Y thấy Phùng Vĩnh-Hoa, oà lên khóc:
_ Công chúa! Đất Thục thôi rồi! Còn gì nữa đâu?
Đào Chiêu-Hiển đỡ Vương Thọ đặt lên tấm nệm cỏ. Trần Năng chẩn mạch. Bà vận Lĩnh-Nam chỉ, điểm mấy cái. Vương Thọ tỉnh táo hơn. Bà lấy vải băng bó các vết thương cho y, cùng bôi thuốc cầm máu. Vương Thọ vừa khóc vừa thuật:
_ Sau khi Công chúa Vĩnh-Hoa với các vị về Tượng-quận, thi Công-tôn Thi truyền bắt các tướng theo cha tôi phải giao quân mã lại cho các tướng của y. Cha tôi không chịu, xảy ra cuộc cãi vã. Cuối cùng đi đến dụng võ. Cha tôi giết chết Công-tôn Thi tại chỗ. Các tướng chia làm hai phe đánh nhau mù trời. Trong các thành thuộc Thục, quân tướng cũng chia hai giết nhau. Thình lình Ngô Hán, Vương Bá đem quân đánh úp. Chỉ một ngày một đêm, lấy hết các thành Thục. Tôi cùng một số vệ sĩ chạy về Độ-khẩu tìm công chúa. Được biết Tượng-quận Tam-anh tuẫn quốc. Tôi tìm đến đây báo cho công chúa biết mọi sự.
Phùng Vĩnh-Hoa bật thành tiếng than:
_ Chao ôi! Từ khi mới đến Dương-bình quan gặp thái tử Công-tôn Tư. Trong lòng tôi nảy ra ý liên kết với Thục. Đất Thục nhiều nhân tài. Thiên-sơn thất hùng chí khí hơn đời. Chỉ vì nội loạn Công-tôn Thi mà mất nước. Chúng tôi cũng chỉ vì Lê Đạo-Sinh mà khôn đốn thế này. Nào chúng ta hãy rút về Quế-lâm.
Hắc-hầu tướng Lê Đông-Giang tán thành:
_ Vậy Chu, Đặng sư bá với các sư huynh, sư tỷ rút quân đi.
Trần Năng hỏi:
_ Các em đi cản hậu à?
Lê Đông-Giang rút kiếm chỉ lên trời nói:
_ Chúng em xuất thân là đệ tử Tây-vu. Võ công Tây-vu không cao. Văn học Tây-vu không giỏi. Nhưng có một điều, khi chúng em học, thường ngày luôn miệng nhắc.     Là đệ tử Tây-vu. Đầu có thể rời. Xác có thể tan nát, máu có thể nhuộm đất. Chứ không bao giờ nhường đất cho giặc. Các sư tỷ rút lui về Quế-lâm đi. Bọn em nguyện chết với đất Tượng-quận.
Phùng Vĩnh-Hoa quát:
_ Ta làm chúa tướng. Các em phải nghe lệnh ta, rút lui, bảo tồn chủ lực.
Vũ Lăng ứa nước mắt nói:
_ Quân đoàn sáu Tây-vu được lệnh trấn Tượng-quận. Tượng-quận là quân đoàn sáu. Quân đoàn sáu là Tượng-quận. Hôm nay đệ tử Tây-vu nhất định chết với Tượng-quận. Chúng em sẽ đánh đến hơi thở cuối cùng.
Sư-trưởng Thần-long Cao Nguyệt-Nương khóc nức nở:
_ Chúng em không trông rộng nhìn xa bằng sư tỷ. Chúng em không phải đại tướng quân. Chúng em được đặt dưới quyền Tượng-quận Tam-anh. Hoàng-đế truyền chỉ dặn chúng em hai nhiệm vụ: Trấn thủ Tượng-quận, hỗ trợ Thục. Việc hỗ trợ Thục chúng em làm trọn vẹn. Không ngờ Tượng-quận xảy ra vụ Lê Đạo-Sinh. Đất Lĩnh-Nam mất Tượng-quận, đất tổ mất một phần sáu. Thôi, bao nhiêu công lao chúng em lập được với Lĩnh-Nam coi như bỏ hết, đổi lấy việc chúng em không tuân lệnh chị.
Nàng khóc oà lên:
_ Chúng em chọn cái chết. Bến Bồ-lăng là nơi chôn xác bọn em. Tấm thân của chị đáng giá vạn cỗ xe. Chị hãy rút về Quế-lâm, cùng Bắc-bình vương Đào Kỳ, chỉnh bị binh mã trả thù cho bọn em.
Sư trưởng Thần-ưng Vũ Lăng cầm kiếm chỉ lên trời:
_ Trời hỡi trời. Đất nước Lĩnh-Nam chúng ta không thiếu anh tài. Không thiếu những đứa con hiếu, sẵn sàng chết cho Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Chúng ta thua chẳng qua đất chúng ta hẹp. Dân chúng ta ít! Chị Vĩnh-Hoa, sau vụ nổi loạn Tượng-quận, thế nào Lê Đạo-Sinh cũng sẽ làm tương tự ở Quế-lâm, Nam-hHải. Chúng em quyết tử một trận, làm cho hàng ngũ giặc hao tổn. Chúng không thừa thế kéo sang Quế-lâm nổi.
Phùng Vĩnh-Hoa lắc đầu:
_ Các em nói không đúng. Lê Đạo-Sinh mang chiếu chỉ của Quang-Vũ thăng quan cho bọn cựu quan lại Hán. Phong chức tước cho bọn Lạc-hầu, Lạc-công gốc người Hán. Y lại hứa cho dân chúng khỏi thuế. Họ nhẹ dạ nghe theo Hán. Chúng ta cứ tạm rút đi. Khi quyền vào tay, Quang-Vũ sẽ trở mặt, cử quan lại mới tới. Y sẽ  bỏ chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng, bắt dân chúng đóng thuế nặng, sung tráng đinh làm lính. Bấy giờ người Hán mới mở mắt ra. Chúng ta chỉ truyền một tờ hịch. Tượng-quận lại trở về với Lĩnh-Nam.
Hắc-hầu tướng Lê Đông-Giang nói:
_ Chúng em có sáu đại tướng. Sư trưởng Thần-ngao Vũ Dương đã tuẫn quốc cùng với sư bá Hàn Đức. Sư trưởng Thần-phong Phạm Nga-Nương, sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn tuẫn quốc cùng với Tượng-quận tam-anh. Tại đây chúng em còn sư hầu, hổ, báo, ưng, long. Tuy tổn thất nhiều, cũng nhất quyết đánh một trận kinh thiên động địa, rồi chết với Tượng-quận. Chúng em không thể tuân lời chị. Thôi chị hãy rút đi. Bọn em đã quyết rồi.
Phùng Vĩnh-Hoa nhớ lại, hồi trước nàng sống cạnh Hồ Đề, nàng đã nghe nói nhiều về phương pháp huấn luyện của đệ tử Tây-vu. Trong khi tập, họ chỉ học tiến mà không học thoái, vì võ đạo Tây-vu không chấp thuận lui trước địch quân. Bây giờ nàng có truyền lệnh nghiêm đến đâu, đám tướng soái này chắc cũng khôing chịu lùi.
Đến đây, có tiếng quân reo, ngựa hí. Lê Đông-Giang bám lấy cây, thoắt cái, chàng đã lên đến ngọn. Chàng nói vọng xuống:
_ Phía nam có một đạo quân hàng lối không chỉnh. Chắc quân của Lê Đạo-Sinh. Phía tây có đạo thủy quân, theo sông Ô-giang tới. Trên bờ còn đoàn kị binh rất hùng tráng, kéo cờ Hán.
Đào Chiêu-Hiển cùng các em chuẩn bị đối phó. Ông nói:
_ Quân cần có quân phong, quân thế, quân khí. Nay cả ba đều không còn. Quân sĩ người Hán có muốn trung thành với mình cũng không được. Bởi trang ấp của họ, nơi cha mẹ, vợ, con họ ở đã thuộc về Hán. Họ đâu còn tinh thần chiến đấu nữa?
Phùng Vĩnh-Hoa thở dài não nuột. Bà truyền lệnh:
_ Chúng ta cùng tử chiến. Hôm nay là ngày chúng ta chết cho Lĩnh-Nam đây. Lê Đông-Giang, em điều động đi.
Lê Đông-Giang truyền lệnh:
_ Sư đệ Vũ Lăng chia Thần-ưng làm ba. Một lữ đánh đạo quân Hán. Một lữ đánh đạo quân Lê Đạo-Sinh. Một lữ bay trên đầu bảo vệ các chúa tướng.
Vũ Lăng leo lên ngọn cây. Nó cầm tù và thổi lên tiếp ba hồi dài. Các tướng Thiên-ưng cùng leo lên cây, cầm cờ. Thần-ưng bay lượn trên trời. Lê Đông-Giang tiếp:
_ Sư muội Cao Nguyệt-Nương dàn sư Thần-long trên các cây ven rừng.
Chàng tiếp:
_ Sư đệ Cao Đà dàn sư Thần-hổ bên trái. Sư đệ Cao Chiêu-Hựu dàn sư Thần-báo bên phải. Ta sẽ dàn sư Thần-hầu phía sau.
Chàng ngồi trên lưng ngựa. Hai bên hơn trăm đười ươi cầm đao đứng hộ vệ. Trên đầu, lá cờ Lĩnh-Nam bay phất phới.
Đạo quân Hán tới trước. Người đi đầu là Vương Bá. Phía sau y, là hai sư đệ Hà Chi, Phạm An đi hai bên.              Vương Bá tới gần trận Lĩnh-Nam. Y gò cương ngựa lại hỏi:
_ Ta muốn gặp công chúa Phùng Vĩnh-Hoa.
Lê Đông-Giang đáp:
_ Công chúa Nguyệt-Đức không có mặt ở đây. Chẳng hay Quân-hầu muốn gặp mặt sư tỷ của tôi có việc gì?
Vương Bá đáp:
_ Phùng Vĩnh-Hoa hợm mình mưu thần chước thánh. Chỉ mười vạn quân đánh tan hai mươi vạn quân Ngô Hán. Thế sao không đầy tháng qua, Thục bị đánh tan, Tượng-quận bị mất. Nay phải trốn chạy? Các ngươi còn nhỏ tuổi. Hãy mau xuống ngựa đầu hàng. Trước toàn mạng sống. Sau không mất phú quí.
Cao Đà cười nhạt:
_ Đất Lĩnh-Nam của tôi dân ít, mới phục hồi, chứ chúng tôi không thiếu người tuấn kiệt. Thục thua Hán vì có Công-tôn Thi. Lĩnh-Nam thua Hán vì có thầy trò Lê Đạo-Sinh. Tuy vậy. ở đây chúng tôi còn không quá sáu trăm đệ tử Tây-vu, cũng xin nghinh tiếp Quân-hầu.
Phạm An hỏi:
_ Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Trần Năng đâu?
Đinh Xuân-Hoa tuy băng bó đầy người, bà gượng đau chống kiếm đứng dậy mỉm cười.
_ Kính chào Phạm thái thú. Người vẫn mạnh giỏi?
Phạm An nhổ nước bọt đánh toẹt một cái:
_ Ba chúng bay là gian tế Lĩnh-Nam. Bọn bay hèn hạ đánh lừa chúng ta, chiếm được bốn thành. Song lưới trời lồng lộng, rút cuộc tụi bay cũng bị bại.
Chu Tái-Kênh cười:
_ Binh thư nói: Việc binh cần phải dối trá. Huống hồ chúng tôi vì việc nước. Mong thái thú miễn chấp.
Có tiếng quân reo, ngựa hí ầm ầm. Đạo quân Lê Đạo-Sinh đã tới. Đi trước y một lá cờ Hán bay phất phới, có hàng chữ:

            Lĩnh-Nam công, Lê.

            Phía sau y, bên phải có Đức-Hiệp. Bên trái có vợ chồng Phong-châu song quái, cùng mấy chục Lạc-hầu người Hán.
Lê Đạo-Sinh thấy Chu Tái-Kênh, chỉ mặt mắng:
_ Ngươi bất quá là con nô tỳ của Thái-hà trang. Hà cớ gì dám xưng vợ của Trần sư huynh? Mi phải biết rằng đất Tượng-quận này thuộc Lĩnh-Nam. Kiến-Vũ thiên tử đã phong cho ta làm Lĩnh-nam công. Ngươi mau đầu hàng, ta sẽ tha cho.
Chu Tái-Kênh quát lên một tiếng phóng chưởng tấn công Lê Đạo-Sinh. Chưởng cực kỳ hùng hậu. Lê chỉ chậm trễ một chút, chưởng phong đã bao trùm người y. Y vội vọt người lên cao, chưởng trúng con ngựa của Lê cỡi. Binh một tiếng, con ngựa hí lên một tiếng thê thảm, bay ra xa, dẫy dụa vài cái, rồi nằm im.
Lê Đạo-Sinh giận cành hông. Y xuất chiêu Ác ngưu nan độ tấn công. Chu Tái-Kênh cười nhạt. Bà cũng xuất chiêu Ác ngưu nan độ,  bà vận âm kình. Chưởng của Lê Đạo-Sinh gió lộng ào ào, gặp chưởng lực của bà, biến mất tích. Lê Đạo-Sinh hoảng hốt nghĩ:
_ Ta tưởng trên đời này, chỉ có tên ôn con Đào Kỳ có thể xử dụng âm dương chưởng một lúc. Không ngờ mụ già này cũng biết xử dụng.
Y vận sức xuất chiêu Thanh ngưu qui gia. Chu Tái-Kênh cũng xuất cùng chiêu. Song bà vận Âm kình. Hai người quay quần đấu với nhau.
Vũ Hỷ thấy Lê Đông-Giang đứng giữa mấy con đười ươi. Y nghĩ:
_ Muốn thắng trận hôm nay, phải bắt mấy thằng ôn con này.
Y lạng người một cái đã đến trước ngựa Lê Đông-Giang. Đông-Giang quát lên một tiếng. Từ sau lưng chàng, bốn con trăn trong túi vải vọt ra. Chúng phóng vào người Vũ Hỷ. Vũ Hỷ kinh sợ, lộn người đi hai vòng tránh khỏi. Đinh Xuân-Hoa chống kiếm đến trước mặt Vũ Hỷ cười nhạt:
_ Phong-châu song quái. Hôm nay ta đòi mi món nợ mi đánh Đinh, Đào trang hơn mười năm trước.
Bà xuất chiêu tấn công y. Vũ Hỷ cười nhạt:
_ Tưởng gì, chứ muốn tự tử thì dễ quá.
Y xuất chưởng chống trả. Hai chưởng gặp nhau. Binh một tiếng. Người y lảo đảo lui lại ba bước. Y giật mình:
_ Trước đây võ công mụ này thua xa vợ chồng mình. Nay sao tiến nhanh đến trình độ này?
Y có ngờ đâu, trong thời gian ở đảo, bà chuyên tâm luyện công phục thù, võ công vốn đã ngang với y. Trong lần hội quân đánh Luy-lâu, Đào Kỳ truyền tâm pháp trong bộ Văn-lang vũ kinh cho bà. Vì vậy nay võ công bà bỏ xa y.
Đặng Đường-Hoàn quát lên một tiếng phóng chưởng đánh Lê Đức-Hiệp. Lê Đức-Hiệp biết không phải đối thủ của ông, song y vẫn nghiến răng chống trả. Sáu người, chia làm ba cặp thi diễn cuộc đấu.
Vũ Phương-Anh thấy chồng gặp hung hiểm. Y thị xuất chiêu đánh Đinh Xuân-Hoa. Cao Đà hú lên một tiếng, mười Thần-hổ nhảy tới vồ Vũ Phương-Anh.
Phùng Vĩnh-Hoa bảo Trần Năng, Trần-gia tam-nương:
_ Bọn em hãy hộ vệ thương binh cùng Vương Thọ rút về hướng Quế-lâm. Cách đây không xa, là chỗ đồn trú của đạo binh trừ bị Phù-đổng. Em báo cho họ biết. Họ kéo đến tiếp viện chúng ta.
Đám Lạc-hầu phản loạn người Hán xua tráng đinh xông vào trợ chiến. Lê Đông-Giang phất cờ ra lệnh phản công. Trên trời Vũ Lăng cho Thần-ưng lao xuống tấn công. Cao Đà, Cao Chiêu-Hựu xua Thần-báo xung vào trận. Quân phản loạn thấy hổ, báo, kinh hồn lui trở lại. Chúng lấy cung tên bắn Thần-hổ, Thần-báo. Nhưng hổ, báo đã lẫn vào với trận của chúng.  Tráng đinh trang ấp thuộc Lĩnh-Nam đều được huấn luyện chiến đấu như những đạo quân thực thụ. Họ chỉ thua các đạo quân chuyên nghiệp việc phối hợp nhiều người mà thôi. Bây giờ các Lạc-hầu Hán xử dụng họ đánh lại Lĩnh-Nam. Họ can đảm, chống trả được với hổ, báo.
Trận chiến kéo dài hơn giờ. Có gần trăm Thần-hổ, báo bị giết. Thần-ưng bị chết, chỉ còn hơn trăm. Xác người, xác thú nằm chồng chất trên cánh đồng.
Các Lạc-công thấy tráng đinh chết nhiều quá, muốn xin lệnh Lê Đạo-Sinh rút lui. Song Lê bị Chu Tái-Kênh đánh rát quá, không còn thời giờ chỉ huy.
Một lạc công nói với Vũ Hỷ:
_ Xin thái thú cho rút quân. Bọn chó Việt cùng đường, tử chiến. Một người liều mạng, trăm người khó cản.
Vũ Hỷ thấy y gọi người Việt là chó Việt, đã bất mãn. Nhân y muốn rút quân, Vũ Hỷ cầm kiếm lăm lăm trong tay:
_ Ai lùi một bước ta chém liền.
Một lạc-công bị Thần-hổ vồ, bỏ chạy. Vũ Hỷ chặt đầu rơi xuống đất. Quân phản loạn kinh hoảng, phải tiến lên.
Phong-châu song quái đấu với Đinh Xuân-Hoa ngang tay. Đúng ra với bản lĩnh của bà, bà có thể thắng cặp vợ chồng quái quỉ. Nhưng vì bị thương đến bốn chỗ, thành ra công lực giảm đi rất nhiều.
Ba anh em Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang đứng đốc xuất hơn hai nghìn chiến sĩ Việt bảo vệ phía sau cho các chúa tướng Tây-vu. Thấy binh đội Tây-vu sắp bị diệt. Ba ông hô lên một tiếng, đám chiến sĩ Việt xông vào trận.
Trận chiến kéo dài tới gần chiều. Thần-hổ, báo chỉ còn hơn năm mươi con. Thần-ưng không còn quá trăm. Phía bên phản loạn, xác tráng đinh phơi đầy đồng.
Lê Đạo-Sinh đấu với Chu Tái-Kênh đến hơn năm trăm chiêu bất phân thắng bại. Phía Phong-châu song quái chỉ còn thở hổn hển.
Đặng Đường-Hoàn phóng một chưởng, đánh Lê Đức-Hiệp bật lui phía bờ sông. Đinh Xuân-Hoa đánh lui Vũ Phương-Anh. Giữa lúc chúng nguy nan, thì thình lình ba tiếng trống nổi lên. Đoàn kị mã Vương Bá xung vào trận. Chỉ một lát, đám Thần-hổ cuối cùng bị giết sạch.
Cao Đà nhìn Thần-hổ cuối cùng bị giết. Nó quát lên một tiếng lớn, kị mã Hán lui lại. Nó ngửa mặt lên trời than:
_ Trưng hoàng-đế phán: Quân với tướng như chân tay. Quân chết, đất mất. Ta còn sống làm gì?
Nó đưa kiếm tự tử. Máu từ cổ vọt ra có vòi. Xác ngã lộn xuống chân ngựa. Vợ Cao Đà là Cao Nguyệt-Nương. Nàng thấy chồng tự tử. Lập tức cầm ống tiêu thổi lên. Mấy ngàn con rắn cùng bò ra xông vào trận Hán. Ngựa bị rắn quấn, cắn, hí inh ỏi. Kị binh vội lùi lại. Bộ binh lấy lửa đốt lên. Thần-long lui vào rừng. Nguyệt-Nương ôm xác Cao Đà. Nàng ngửa mặt lên trời than:
_ Làm tướng giữ đất, làm gái theo chồng. Đất mất, chồng chết. Ta chết theo chồng.
Bà đưa kiếm lên cổ tự tử.
Sau trận Tượng-quận, Bắc-bình vương Đào Kỳ đem xác vợ chồng Cao Đà, Cao Nguyệt-Nương về quê quán ở Tây-vu chôn. Trưng hoàng-đế phong Cao Đà làm:

            Trung Liệt Đại Tướng Quân.

            Cao Nguyệt-Nương làm:

            Thần-long Công-chúa.

            Truyền xây đền thờ. Cho đến nay, đền vẫn còn tại xã Phú-hòa, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng không nhớ họ hai vị anh hùng, họ chỉ gọi vắn tắt: đền thờ Đà-Công và Nguyệt-Nương.
Hắc-hổ tướng Lê Đông-Giang xé vạt áo. Chàng cắn ngón tay viết biểu tâu về Trưng hoàng-đế:          

            "Bọn thần các chúa tướng quân đoàn sáu Tây-vu, khép nép cúi đầu thượng biểu lên hoàng-đế bệ hạ. Hai năm trước đây, bệ hạ chỉ dụ bọn thần trấn nhậm Tượng-quận với hai mục đích : Trong giúp Tượng-quận Tam-anh, ngoài yểm trợ Thục. Bọn thần tuy trẻ người, non dạ, tài thô, trí thiển. Song ngày đêm nào dám sao lãng nhiệm vụ.
Vừa qua, bọn thần theo công chúa Nguyệt-Đức, đánh tan hai mươi vạn quân Hán. Nào ngờ bọn Lê Đạo-Sinh, đốc xuất người Hán “Bình man qui Hán”. Bọn thần đã hết sức mình. Song sức người có hạn.
Trận đánh Vĩnh-thiên, Tây-vu Ngao-tướng Vũ Dương chiến đấu đến chết. Trận đánh Côn-minh, Tây-vu Tượng-tướng Nghiêm Đôn, Thanh-Phong công chúa Phạm Nga-Nương thế cùng, binh kiệt, đành dùng lưỡi gươm, xử tội mình vì không bảo vệ nổi Tượng-quận Tam-anh.
Hôm nay, quân Hán hơn mười vạn, quân phản loạn hơn mười vạn. Bọn thần đã làm hết sức mình, mà Tượng-quận vẫn mất. Vì vậy bọn thần kính dâng tờ biểu này, khóc đến chảy máu mắt, cúi xin bệ hạ xá tội cho. Anh em bọn thần, đành mượn lưỡi gươm, tự kết liễu đời mình trên bến Bồ-lăng.
Bọn thần khép nép, kính sợ siết bao, cúi dâng biểu.
Vũ Lăng, Thiên ưng tướng.
Cao Chiêu-Hựu, Tây-vu báo tướng.
Cao Đà, Tây-vu hổ tướng.
Lê Đông-Giang, thống lĩnh quân đoàn sáu Tây-vu”.

            Chàng gọi cặp Thần-ưng xuống, buộc mảnh vải vào chân, rồi hú lên một tiếng. Cặp Thần-ưng bay bổng về phương nam.            

Chàng thản nhiên nhìn đoàn Thần-hầu chiến đấu tuyệt vọng. Chàng hỏi Vũ Lăng:
_ Xong chưa em.
Vũ Lăng đáp:
_ Xong rồi.
Hai người đưa gươm lên cổ tự tử.
Bọn Lê Đạo-Sinh, Phong-châu song quái đã lui lại. Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, ba anh em Đào Chiêu-Hiển tả xung hữu đột giữa trùng vây. Cứ mỗi gươm đưa ra, một đầu tên quân Hán rơi xuống. Trời chập choạng tối. Vương Bá đứng trên ngọn đồi cầm ngọn đèn chỉ huy. Thấy bọn Chu Tái-Kênh chạy đến đâu, thì chỉ đến đó.
Đinh Xuân-Hoa mệt quá. Bà chém liền ba tướng Hán. Chúng vẫn ùn ùn kéo lên. Bà lui tới bờ sông, dựa vào gốc cây, múa kiếm như hoa rơi tuyết lạc.
Đặng Đường-Hoàn cùng ba đệ tử họ Đào đứng dựa vào nhau chiến đấu. Quân Hán chết lớp này, lớp khác tiến lên. Đặng Đường-Hoàn bị một mũi tên vào ngực. Ông loạng choạng ngã xuống. Vương Bá thấy vậy vọt ngựa tới định bắt sống. Ông nghiến răng phóng một chưởng. Vương Bá vung tay đỡ. Binh một tiếng, y bay vọt về sau, miệng phun máu có vòi.
Phạm An dẫn đội cung thủ đến chĩa vào Đặng Đường-Hoàn và ba anh em họ Đào. Y hô lớn:
_ Buông kiếm đầu hàng. Ta để cho được sống.
Đặng Đường-Hoàn hỏi các đệ tử:
_ Xong chưa?
Cả ba cùng trả lời:
_ Xong rồi!
Bốn người đồng vung kiếm lên cổ tự tử một lúc.
Đinh Xuân-Hoa thấy Đặng Đường-Hoàn, anh em họ Đào tự tử. Bà hơi phân tâm, thì bị bốn mũi kiếm trúng ngực. Bà quát lên, một tiếng, vọt lên cao chém bay đầu một viên tướng rơi xuống.
Bà vung kiếm tự đâm vào giữa ngực, máu phun ra như suối.
Vừa lúc đó có tiếng quát:
_ Mẹ ơi! Khoan đã, con đến tiếp viện đây!
Nhưng đã trễ!
Một đội thiết kị phi như bay tơí. Đi đầu là Đào Kỳ, Phương-Dung, xung vào trận Hán. Đạo binh đánh bạt quân Hán trở về bên kia sông. Chỉ một hiệp Đào Kỳ đánh bay Lê Đạo-Sinh xuống ngựa. Đạo Thiết-kị xung vào đội tráng đinh như chỗ không người. Tráng đinh thấy Lê Đạo-Sinh, Đức-Hiệp, Vũ Hỷ đều bị thương bỏ chạy. Chúng cũng chạy theo.
Phía sau Trần-gia tam-nương, Trần Năng trở lại.
Đào Kỳ ôm lấy xác mẹ khóc thảm thiết.             Trần Năng cầm mạch Đinh Xuân-Hoa, thấy còn nhảy, nàng phóng một chỉ vào huyệt Bách-hội của bà. Bà từ mở mắt ra. Thấy mình nằm trong lòng con trai, ba mỉm cười:
_ Con đấy à. Mẹ tình nguyện nhận lĩnh nhiệm vụ để chết, sớm gặp bố con. Đất nước còn nhiều gian nan. Con chẳng nên buồn làm gì. Nếu mẹ không chết hôm nay, vài chục năm sau mẹ cũng chết. Chết cho đất nước, mới là chết.
Đến đấy bà từ từ nhắm mắt.
Phương-Dung hỏi:
_ Có ai thấy công chúa Nguyệt-Đức đâu không?
Một chiến sĩ Việt sống sót chỉ vào đám xác chết. Phương-Dung chạy lại bồng xác Phùng Vĩnh-Hoa lên. Bà bị thương bốn chỗ, song vẫn còn sống.
Trần Năng tìm xác Chu Tái-Kênh. Thấy còn hơi nóng. Bà vận khí dùng Lĩnh-Nam chỉ phóng vào người sư nương. Một lát Chu Tái-Kênh đã tỉnh dậy. Bà mơ màng hỏi:
_ Đây là đâu?
Trần Năng đáp:
_ Chúng con vừa rút khỏi đây hơn năm mươi dặm, thì gặp sư thúc Đào Kỳ, sư thẩm Phương-Dung, cùng đạo Thiết-kị Lĩnh-Nam tiếp viện. Sư thúc đánh lui đạo binh Vương Bá rồi.

Ghi chú của thuật giả : 
Trận đánh Tượng-quận xảy ra vào ngày 19 tháng sáu đến ngày 5 tháng bảy năm Tân-sửu, 41 sau Tây Lịch. Nhằm niên hiệu Trưng-đế năm thứ hai. Bên Trung-nguyên là niên hiệu Kiến-Vũ thứ mười bảy đời vua Quang-Vũ nhà Hán.

            Bắc-bình vương Đào Kỳ truyền khâm liệm các tướng tuẫn quốc, đưa về Giao-chỉ. Vua Trưng cùng triều thần thân rước linh cữu, làm lễ tế, đưa về quê an táng.
Hắc-hổ tướng Lê Đông-Giang được phong làm:

            Trung-dũng Đại tướng-quân.

            Đền thờ của ông trải qua gần hai nghìn năm, hiện nay vẫn còn tại xã Liên-hà, huyện Đông-anh, Hà-nội. Dân chúng thường gọi là đền thờ ông Đông-Giang. Mà không thấy nhắc đến họ của ông.
Ba tướng Vũ Lăng, Vũ Dương, Nghiêm Đôn đều được phong:

            Trung-nghĩa Đại tướng-quân.

            Phạm Nga-Nương được phong:

            Nga-nương Quận-chúa.

            Bốn vị được thờ chung tại một đền. Đến nay, đền thờ bốn vị còn tại xã Minh-tân, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi là đền thờ Nga-Nương, Lăng-Công, Nghiêm-Công và Dương-Công.
Cao Chiêu-Hựu được phong làm:

            Dũng-lược Đại tướng-quân,

            Hiện nay đền thờ của ông hãy còn tại xã Nhân-thắng huyện Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi là đền thờ ông Chiêu-Hựu.
Đào vương phi Đinh Xuân-Hoa trước đã được phong làm:

            Tĩnh-trai Công-chúa.

            Nay đổi phong làm:

            Chí Nhu, Đoan Minh, Anh vũ, Duệ văn Tĩnh-Trai Quốc-mẫu.

            Trưng hoàng-đế cùng các đại thần đích thân đứng tế lễ. Bởi bà là một trong những phụ nữ có nhiều công lao nhất với Lĩnh-Nam. Suốt từ hồi niên thiếu bà cùng chồng là Đào Thế-Kiệt, nằm gai nếm mật, chịu trăm cay nghìn đắng cho đến khi phục hồi Lĩnh-Nam thì Đào vương lại chết. Đệ tử Cửu-chân hiện giữ quyền nghiêng nước. Đào Kỳ lĩnh Đại tư-mã. Nguyễn Phương-Dung lĩnh chức tể tướng. Hoàng Thiều-Hoa được tôn là thái hậu. Các đệ tử như Đào-hiển-Hiệu, Đào Quí-Minh, Đào Phương-Dung, Đào Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn, Trần Dương-Đức, Thiên-ưng Lục-tướng, Lục-hầu tướng đều làm đại tướng quân. Bà được kể là phụ nữ có nhiều đức nhất, vì cùng chồng dạy con, dạy đệ tử, dâng hiến cho Lĩnh-Nam các anh tài.
Hiện nay còn đền thờ bà tại xã Lai-hạ, huyện Gia-lương, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi tắt là đền thờ Tĩnh-trai.
Ba anh em Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang trước đây đã được phong làm Phiêu-kị đại tướng quân, tước tới hầu. Nay tuẫn quốc. Trưng hoàng-đế truyền làm bài văn tế, xây đền thờ thực lớn ở trang ấp cũ của ba ông. Đền đó hiện nay nằm tại thôn Ngọc-động, xã Đa-tốn, huyện Gia-lâm, tỉnh Hà-nội. Sắc phong Đặng Đường-Hoàn và ba đệ tử làm:

            Trang-liệt, Chí-nghĩa Đại-vương.

            Trước đền thờ có đôi câu đối:

            Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược,
Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung.
Dịch nghĩa: Trận đánh Tượng-quận oai hùng, nhiều tướng thao lược tỏ được tài trí. Bến Bồ-lăng trung thần tuẫn tiết tận nghĩa với non sông.

            Một câu khác:

            Tái bắc tức chinh trần, công cao trục Định.
Bồ-lăng dương nộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng.

            Nghĩa là: Ải bắc yêu gió bụi can qua, công đầu đuổi Tô Định. Bồ-lăng nổi ba đào căm giận, nghĩ nặng phù vua Trưng.

Đến đây phải mở một cái ngoặc về tiểu truyện ba ngài. Từ sau khi vua Ngô Quyền phục hồi độc lập, lãnh thổ Việt-Nam chỉ chiếm lại được vùng Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam. Còn vùng Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải không đòi lại được. Sử gia cũng như dân chúng đời sau có cái nhìn thu gọn vùng đất này. Họ quên mất ba quận phía Bắc. Vì vậy khi cuốn phổ tại đền ba ngài bị Trương Phụ mang về Trung-nguyên. Người ta chép lại sử ba ngài, cho rằng ba ngài tuẫn quốc ở bến Bồ-đề. Căn cứ vào chữ Bồ-lăng Như vậy thực vô lý. Tại sao ba ngài đánh trận Tượng-quận dương uy, rồi về mãi bến Bồ-đề mà tự tử? Từ Tượng-quận đến Bồ-đề xa hơn hai nghìn cây số. Ba ngài thua trận thì phải tự tử tại chỗ. Chứ có đâu ruổi ngựa hai ngàn cây số đến Bồ-đề tự tử? Tên bến Bồ-đề mãi đời Lê mới có, thì làm gì thời Lĩnh-Nam các ngài đã chạy về đó tuẫn quốc? Chỉ độc giả Anh-hùng Lĩnh-Nam (Cẩm-khê di hận) mới được biết lãnh thổ Lĩnh-Nam hồi đó gồm cả Vân-nam, Trung-quốc. Ba ngài đánh trận lừng danh và tự tử ở bến Bồ-lăng. Bến Bồ-lăng là bến nằm giữa ngã ba sông Trường-giang với sông Ô-giang. Nay thuộc huyện Bồ-lăng tỉnh Tứ-xuyên, Trung-quốc.
Vào năm 1982-1983 chúng tôi đã tới đây tìm hiểu di tích thời Lĩnh-Nam mà người Trung-Hoa gọi là Vua Bà. Họ đều xác nhận Bồ-lăng là nơi xảy ra trận đánh giữa ba đại tướng của vua bà với quân Hán. Ba tướng tuẫn quốc cùng một lúc. Trước 1949 còn đền thờ. Sau này mới bị phá hủy. 
Tôi đã kết luận trong bài nghiên cứu về Nguồn gốc Tộc Việt (Diễn văn khai mạc niên khóa 1991-1992 tại viện Pháp Á, Paris) như sau:
. Quả có trận Bồ-lăng, năm 42 sau Tây-lịch,
Huyền sử kể rằng: ba tướng họ Đào là Chiêu-Hiển, Đô Thống và Tam-Lang được vua Trưng trao cho trấn tại Tượng-quận (Vân-nam) . Nhưng vì quân ít, thế cô, ba ông không chống lại với quân Hán, do Vương Bá chỉ huy. Ba ông đã tự tận. Hiện tại đền thờ của ba ông có đôi câu đối:

Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược,
Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung.

Nghĩa là: trận Tượng-quận dương oai, rõ tài tướng giỏi. Bến Bồ-lăng tuẫn tiết, tỏ ra thần trung.

Hầu hết các sử gia đều cho rằng: Bồ-lăng tức là bến Bồ-đề, ngoại ô Thăng-long. Vả lãnh thổ Việt-Nam hồi đó đâu có rộng vậy? 
Tôi không tin lý luận này. Tôi quyết có trận Tượng-quận. Vì sao? Vì ba ngài chiến đấu tại Tượng-quận, khi Tượng-quận thất thủ, tuẫn tiết thì tuẫn tiết tại chỗ, có đâu rút từ Tượng-quận về tới Long-biên (Hà-nội) trải mấy nghìn cây số, rồi mới tự tử? Vả cái tên bến Bồ-đề mới xuất hiện vào năm 1427-1428 khi vua Lê Thái-tổ vây Đông-đô (Thăng-long).
Vì vậy, trong dịp hè năm 1982, tôi cầm đầu phái đoàn  CMFC sang Vân-Nam, Trung-quốc, để nghiên cứu về một giống trà có khả năng trị tuyệt chứng Cholestérol, Triglycéride... Lợi dụng dịp này, tôi quyết tìm cho ra sự thực.
Phái đoàn gồm:
Trưởng-đoàn: Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ,
Thành viên: Bác-sĩ Pascale Vareilla (Biologie), Claude Tarentino (Anatomie), Antonio Fernandes (Cardiologie.) Các dược sĩ: Valérie Cordinante, Jean Marie Limager. Kỹ sư canh nông Antoine Reynault, và một diễn viên điện ảnh Hương-cảng.

Trong chương trình phái đoàn chỉ công tác tại các vùng thuộc Vân-Nam như: Chiêu-dương, Đông-xuyên, Khâu-bắc, Nguyên-dương, Bảo-sơn, Điền-Bắc, Côn-minh; rồi dùng phi cơ từ Côn-minh trở về Paris. Nhưng khi tới Đông-xuyên, tôi tìm ra dấu vết cuộc chiến giữa quân vua Trưng và quân Hán, mà không rõ ràng cho lắm. Tôi dẫn phái đoàn trở lại Côn-minh, sau khi thảo luận với giáo-sư sử học Đoàn Dương của đại học Văn-sử, được giáo sư Đoàn cho biết: 
"Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ-lăng. Nay Bồ-lăng nằm trên lãnh thổ Tứ-xuyên, chỗ ngã ba sông Trường-giang. Tôi đề nghị phái đoàn dùng đường thủy về Hồ-Nam, sau đó đáp phi cơ từ Hồ-Nam ra Hương-cảng, rồi đi Paris. 
Trên đường từ Độ-khẩu (Vân-Nam) đi Hồ-Nam, sẽ qua... Bồ-lăng. Được đi chơi, dĩ nhiên phái đoàn mừng không sao tả siết!!!. Dĩ nhiên túi tiền của CMFC vơi đi 53.074 dollars nữa để chi cho phái đoàn.
Theo tôi, với số tiền ấy, mà kết quả tìm được Tây-biên của Lĩnh-Nam, cũng rẻ chán. Thế nhưng khi trở về Paris, vụ này đồn đại ra ngoài, một Bác-sĩ Việt-Nam tên Trần L.(từng là bộ trưởng Y-tế hồi VNCH), viết thư cho ông  bộ trưởng Văn-hóa Pháp, tố cáo tôi lợi dụng chức vụ trưởng đoàn công tác y khoa, để tìm di tích cổ sử viết sách. Ông Bộ-trưởng trả lời đại ý: 
"Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ không dùng một xu (centimes) nào của chính phủ Pháp, nên bộ không có thẩm quyền."
Cuối thư ông Bộ-trưởng hạ một câu: 
" Ví dù Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ có lợi dụng chức vụ, có dùng tiền của bộ Văn-hóa, mà tìm tư  liệu làm giầu cho thư viện Pháp thì là điều đáng khuyến khích. Hơn nữa tài liệu đó làm lợi cho Việt-Nam, Ông (Trần L.) phải vui mừng mới phải chứ."
Thế là phái đoàn dùng tầu đi từ Độ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang) qua Nam-khê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngã ba sông Ô-giang, Trường-giang thì gặp bến Bồ-lăng. Tại đây tôi được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba vị thần, tướng của vua Bà. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị tướng. Cả vùng này có đạo thờ vua Bà (lên đồng). Hồi trước 1949 rất thịnh. Sau cách mạng Văn-hóa (1965-1967) miếu được cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán. Tôi đến thăm miếu. Miếu khá lớn, chủ hộ ở trong miếu trước đây là cán bộ Văn-hóa Bồ-lăng. 
Trước miếu có nhiều câu đối, nay chỉ còn lại có ba. Ông chủ hộ khoe rằng để bảo tồn di tích văn hóa, hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất:

Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,
Đoạn trường, trục Định, tiết …can vân.

Nghĩa là: Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu. Đuổi được Tô Định, nhưng đau lòng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây.

Tôi xin vào trong miếu xem, thì bệ thờ nay là nơi vợ chồng ông nằm ngủ. Hai bên bệ cũng có đôi câu đối.

Giang-thượng tam anh phù nữ chúa,
Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung.

Nghĩa là: Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa. Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.

Ông chủ hộ thì cho rằng bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Vì vậy chữ bách tộc đây để chỉ người Việt. Ông thích lắm. Ông chỉ vào khoảng trống của hai cái cột thuật rằng trước kia cũng có đôi câu đối, nhưng bị vạc mất. Ông đề nghị tôi làm một đôi khác thay thế. Tôi nhờ hướng dẫn viên du lịch mua giùm hai hộp sơn. Một hộp sơn đỏ loại láng và một hộp loại thiếp vàng. Ông với tôi sơn cột mầu đỏ. Chiều hôm đó sơn đỏ khô, tôi trở lại viết bằng sơn thiếp vàng đôi câu đối có sẵn tại đền thờ ba ngài ở thôn Ngọc-động, huyện Gia-lâm, Hà-nội:

Tái Bắc tức chinh trần, công cao trục Định,
Bồ-lăng dương nộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng.
Nghĩa là: Ải Bắc yêu gió bụi can qua, công cao đuổi Tô Định. Bồ-lăng nổi bao đào, nghĩa nặng phù vua Trưng.

Phụ lục : Quân đoàn sáu Tây Vu

Trực thuộc đạo Tượng Quận, trước do Đào Hiển Hiệu, Đào Quý Minh chỉ huy. Sau đổi Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống.

Nhiệm vụ 
Yểm trợ Thục trấn Tượng Quận. Tất cả đều tuẫn quốc trong trận Tượng Quận diễn ra từ 19-6 đến 5-7 năm Tân Sửu (41 sau Tây lịch)

Thống lĩnh 
Lê Đông Giang tức Hắc Hầu tướng. Di tích thờ tại đình Đại Vĩ, xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội. Truy phong Trung Dũng đại tướng quân.

Sư báo 
Cao Chiêu Hựu. Di tích thờ tại xã Nhân Thắng, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc. Truy phong Dũng Lược đại tướng quân

Sư hầu 
Do Lê Đông Giang kiêm nhiệm.

Sư hổ 
Cao Đà. Di tích, thờ chung với vợ là Nguyệt Nương tại đình xã Phú Hòa, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc.

Sư long 
Cao Nguyệt Nương, vợ Cao Đà. Di tích thờ chung với chồng tại đình xã Phú Hòa, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc. Truy phong Nguyệt Nương công chúa.

Sư ngao 
Vũ Dương. Di tích thờ chung với Phạm Nga Nương. Vũ Lăng, Nghiêm Đôn tại xã Minh Tân, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc. Truy phong Trung Nghĩa đại tướng quân.

Sư phong 
Phạm Nga Nương, được truy phong Thanh Phong quận chúa. Di tích thờ chung với Vũ Dương, Vũ Lăng, Nghiêm Đôn. Truy phong Nga Nương quận chúa.

Sư tượng 
Nghiêm Đôn. Di tích thờ chung Vũ Dương, Vũ Lăng, Phạm Nga Nương, được truy phong Trung Nghĩa đại tướng quân.

Sư ưng 
Vũ Lăng. Di tích thờ chung với Vũ Dương, Nghiêm Đôn, Phạm Nga Nương tại đình xã Minh Tân, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc. Truy phong Trung Nghĩa đại tướng quân .

Hồi 24 : Ứng Đào-mộng, há Tiên cung, di tích cổ kim tồn bí sử?Phù Trưng Vương, trừ Hán-tặc, linh thanh nam bắc lẫm sùng từ.(Câu đối đền thờ Đào Hiển-Hiệu, Đào Quí-Minh, Đào Phương-Dung)




 ừ xa xa, đoàn thiết kị Hán rầm rộ phi tới. Tướng đi đầu nhìn sang bên sông, không một bóng người, không một tiếng ngựa, chỉ có chiếc xe do một ngựa kéo, đậu ở bờ sông. Y ngừng lại quan sát một lúc, rồi ra lệnh cho thiết kị dàn trận báo vơí Mã Viện. Một lát Mã Viện cùng Phan Anh, Trần Nghi-Gia tới. 
Viện tần ngần: 
– Hôm trước thằng Sún Lé kéo cờ là kế nghi binh, giả làm ngu, phục binh đánh Lưu Long hao binh, tổn tướng. Chúng khôn lắm. Bây giờ lại làm nghi binh nữa để dọa ta đấy. Dư đệ, ngươi đừng sợ. 
Viên tướng đó là em Mã Viện tên Mã Dư, hiện lĩnh chức đại tướng quân. Nghe lời Viện nói, y truyền quân vượt sông. Y sai một đội thám mã đi trước. Một lát thám mã trở lại báo cho biết: Trên đường đi không một bóng người, không một vết tích phục binh, chỉ có hai mươi gò nhỏ, một gò lớn, là mồ chôn thiết kị bị thiệt mạng hôm trước mà thôi. 
Mã Dư phất cờ báo cho Mã Viện biết. Viện qua sông nói với Mã Dư: 
– Em tiếp tục cho quân vượt sông, đi đoạn hậu. Ta dẫn quân tiến trước, chiếm đèo An-phùng đã. Để chậm trễ, giặc kéo đến chiếm mất thì khó lòng tiến quân được. 
Mã Viện cùng Phan Anh, Trần Nghi-Gia dẫn thiết kị rầm rộ lên đường. Khi qua hai mươi cái gò chôn quân Hán y dừng ngựa ngẫm nghĩ một lúc, nói: 
– Ta thề giết thằng Sún Lé, trả cái thù này. 
Y dẫn tướng sĩ lên đường. Đào Nhất-Gia đứng trên chót vót ngọn cây nhìn rất rõ. Đợi cho Mã Viện đi xa. Chàng cầm cờ phất một cái. Hoàng Pháp-Hải cầm tù và thổi. Mười cái gò chôn giặc Hán mở tung ra. Mười chiếc xe chở Thần-nỏ chạy ngược về phía bến Đông-vu. 
Mã Dư đang chỉ huy bộ binh vượt sông. Thình lình thấy mười cỗ xe song mã kéo tới. Y không hiểu xe đó của mình hay của địch. Xảy ra đâu một hồi tù và nổi lên. Mười cỗ xe dàn hàng ngang, hướng vào đội hình quân Hán tác xạ. Mỗi loạt, mỗi xe bắn ra hơn nghìn mũi tên. Chỉ loạt đầu, hơn vạn người đổ xuống. Quân Hán kinh hoàng, chưa kịp phản ứng, thì Thần-nỏ đã bắn được trên hai mươi loạt. Mã Dư chỉ phía trước hô: 
– Xông lên cướp Thần-nỏ! 
Quân Hán cầm lá chắn hô lên một tiếng, cùng xung phong đánh cướp Thần-nỏ. Một tiếng tù và rúc lên, các xe chở nỏ bắn liền hai loạt rồi rút lui. Thiết kị đuổi theo. Đuổi được mươi dặm thì lại một tiếng hú vang dội. Từ dưới các bụi cỏ, hơn ba trăm Thần-hổ đội đất chui lên, gầm rung động rừng núi, xông vào trận Hán. Quân Hán hoảng hốt, bỏ mộc, quăng vũ khí chạy. Các xe Thần-nỏ quay trở lại bắn theo. Quân Hán lội sông, dẫm lên nhau chạy sang bờ bên kia. 
Đào Nhất-Gia nói với Pháp-Hải: 
– Bây giờ, bố bảo thằng Mã Dư cũng không dám vượt sông. Nếu chúng vượt sông. Em dùng Thần-nỏ bắn cản. Nếu chúng liều mạng qua được bên này. Em cho xe chở Thần-nỏ rút lui, dùng Thần-hổ tấn công. Cố đừng cho chúng qua sông. 
Đào Nhất-Gia trở về chỗ phục quân. Chàng cùng hơn trăm đười ươi leo lên chiếc gò chôn giặc Hán, kéo lá cờ Lĩnh-Nam ngồi chờ Mã Viện. 
Mã Viện tiến quân đến sát đồi An-phùng. Tiền quân báo: 
– Trên đồi có quân trấn đóng. Sườn núi có hơn mười hàng rào. Không rõ quân trên đồi bao nhiêu người. 
Mã Viện thở dài: 
– Trước đây ta nghe nói Phương-Dung chỉ giỏi nghề quân sư. Phùng Vĩnh-Hoa chỉ giỏi mưu mẹo. Trưng Nhị giỏi đốc chiến. Còn Thánh-Thiên có tài quân sư như Phương-Dung, nhiều mưu như Vĩnh-Hoa, dùng binh như Trưng Nhị. Bây giờ ta mới biết. Hôm trước Lưu Long đem mười vạn binh bị Sún Lé rồi Công-tôn Thiệu, giết chết trước sau bốn vạn. Ngô Anh đánh Khúc-giang bị Đào Phương-Dung giết mất hai vạn. Trong khi bên Lĩnh-Nam chỉ mất có mấy trăm người. 
Y lắc đầu: 
– Ta xuất quân bí mật đến trời cũng khó biết. Thế mà Thánh-Thiên đã cho quân chặn mất đường tiến về Thường-sơn của ta. Đồn kiên cố thế kia, nếu đánh được cũng phải hao bốn năm vạn người. Làm sao bây giờ? 
Giữa lúc đó, thám mã báo: 
– Sún Lé chỉ huy hai mươi dàn Nỏ-thần với ba trăm con hổ đánh hậu quân. Hơn hai vạn người chết. Quân phải lui về bên kia sông. 
Quân sĩ náo loạn lên. Mã Viện cầm kiếm quát: 
– Ai náo loạn ta chém liền. 
Y dặn Phan Anh, Trần Nghi-Gia: 
– Hai người bảo vệ hậu quân. Để ta đánh quặt trở lại. Nếu không chúng mình sẽ bỏ xác lại đây mất. 
Mã Viện cùng thiết kị dẫn đầu, rút quân. Từ xa xa, y nhìn thấy cờ Lĩnh-Nam bay phất phới trên gò chôn giặc Hán. Cạnh đó, Sún Lé ngồi chễm trệ. Bên cạnh có đoàn đười ươi đứng hầu. 
Mã Viện nghiến răng thề: 
– Ta phải giết tên Sún Lé này mới hả dạ. 
Y phi ngựa xông tới, vượt qua mười gò chôn xác chết. Thình lình một hồi tù và thổi lên. Các gò mở tung cửa. Từ trong xông ra mười dàn Thần-nỏ. Thần-nỏ bắn như mưa vào quân Hán. Phan Anh, Trần Nghi-Gia vung kiếm gạt tên. Thoáng một cái, Thần-nỏ bắn được sáu loạt. Hơn vạn thiết kị ngã xuống. Người la, ngựa hí vang trời. 
Mã Viện đã kinh nghiệm về Thần-nỏ. Y nói: – Thần-nỏ chỉ bắn được mười loạt. Phải cần một thời gian ngắn, mới nạp đủ tên bắn tiếp. Lợi dụng lúc đó, ta xông lên, đánh cướp nỏ. 
Quả đúng như lời Mã nói. Thần nỏ bắn hết mười loạt. Mã cùng Phan, Trần dẫn đầu. Phía sau thiết kị xông lên. Một tiếng hú vang trời đất. Từ ven rừng, ba trăm con beo đen như gấm, chui từ dưới đất lên, xung vào trận. Quân Hán kinh hồn bạt vía, bỏ vũ khí chạy vào rừng. Chu Quảng-Khánh phất cờ cho báo đuổi theo. 
Bị Thần-báo, Thần-nỏ vây. Mã Viện, Phan Anh, Trần Nghi-Gia cùng múa kiếm đánh dạt phía đông, chạy biến vào rừng mất hút. Chu Quảng-Khánh hú lên một tiếng, hơn hai mươi con báo đuổi theo ba người. 
Thấy Mã Viện bỏ chạy. Đám tướng sĩ còn lại quăng vũ khí đầu hàng. 
Đào Nhất-Gia kiểm điểm lại, hai vạn thiết kị của Mã Viện chết vạn rưỡi. Còn năm ngàn đầu hàng. Chu Quảng-Khánh cho lệnh hàng binh ngồi lại một chỗ, truyền Thần-báo bao vây. Vũ khí để một nơi. 
Chu Quảng-Khánh hỏi Đào Nhất-Gia: 
– Anh Lé ơi! Chúng ta chỉ có hơn ba trăm con báo, với hơn trăm người. Làm sao cai quản năm ngàn quân Hán? Không lẽ giết hết chúng đi, lần sau ai đầu hàng mình nữa? 
Đào Nhất-Gia ngẫm nghĩ một lúc. Chàng cầm bút viết tờ báo cáo cho Thánh-Thiên, sai Thần-ưng mang đi. Lát sau Thần-ưng trở lại. Chàng lấy thư ở trong ống tre dưới chân Thần-ưng mở ra đọc. Bất giác chàng mỉm cười nói với Chu Quảng-Khánh: 
– Công chúa Thánh-Thiên quả là thần nhân. 
Chàng móc trong túi ra một bình thuốc, dơ lên cao nói với quân Hán: 
– Các ngươi mới đầu hàng. Ta không tin. Vậy mỗi người phải uống một viên thuốc Trung-thành. Uống vào rồi, sẽ không phản được nữa. Ai không uống, ta cho báo ăn thịt liền. 
Hàng binh nhận thuốc uống. Phút chốc đều ôm bụng kêu đau. 
Đào Nhất-Gia nói: 
– Sau khi uống thuốc, các ngươi đều đau bụng. Nội trong một ngày không có thuốc giải, các ngươi sẽ đứt ruột ra mà chết. Bây giờ, các ngươi hãy cầm vũ khí, đến bên Đông-vu cùng ta đánh Mã Viện. Sau trận đánh, ta cho các ngươi thuốc giải. 
Hàng binh reo lên một tiếng lĩnh vũ khí. 
Vừa lúc đó Hoàng Pháp-Hải cùng mười dàn nỏ thần từ bến Đông-vu rút trở về. Đào Nhất-Gia hỏi: 
– Pháp-Hải! Sao lại bỏ chạy? 
– Không bao giờ. Anh Lé ơi! Anh quên mất mỗi Thần-nỏ chỉ có thể bắn hai mươi lần, mỗi lần năm trăm mũi tên sao? Thần-nỏ hết tên, em phải rút về. 
Chu Quảng-Khánh cũng nói nhỏ vào tai Đào Nhất-Gia: 
– Thần-nỏ của em cũng chỉ còn bắn được hai loạt nữa. Anh định thế nào? Chi bằng mình rút về đồi An-phùng, ngay mới kịp. Quân Hán giờ này đang qua sông rồi kìa. 
Đào Nhất-Gia cho lệnh các dàn Thần-nỏ rút về An-phùng. Chàng cùng đám hàng binh, thần hổ, thần báo dàn trận sẵn sàng chiến đấu. 
Đến chiều, Mã Viện cùng Phan Anh, Trần Nghi-Gia đem quân tới. Đào Nhất-Gia từ sau trận thủng thỉnh tiến ra. Chàng chắp tay nghiêng mình: 
– Thống lĩnh Thiên-ưng binh đất Lĩnh-Nam, Đào Nhất-Gia kính chào Phục-ba tướng quân. Từ Trường-an cách biệt, trải năm năm. Nay mới được gặp tướng quân. Hồi này tướng quân trông mập mạp đáo để, thịt chắc thơm ngon lắm. Sáng nay tôi định chờ tướng quân đem cho hổ, báo đớp ít miếng. Không ngờ tướng quân bỏ chạy, để lại năm ngàn kị binh. Họ hàng Lĩnh-Nam rồi. 
Mã Viện quát lớn. Phan Anh bên phải, Nghi-Gia bên trái cùng vọt ngựa tấn công Đào Nhất-Gia, Hoàng Pháp-Hải, Chu Quảng-Khánh. 
Đào Nhất-Gia hú lên một tiếng. Sư Thần-hổ, Thần-báo cùng đám hàng quân xung vào trận. Chu Quảng-Khánh điều khiển hơn hai mươi Thần-báo vây Trần Nghi-Gia kín như thành đồng vách sắt. Hoàng Pháp-Hải cho Thần-hổ vây Phan Anh. Đào Nhất-Gia đứng trên mình ngựa, có năm mươi đười ươi hộ tống. Chàng cầm cờ điều khiển quân xung vào trận. 
Đám hàng binh đánh thục mạng, hy vọng được thuốc giải. Còn quân Hán bị các tướng đốc tiến lên. Mã Viện nhảy vọt về sau trận, đứng đốc chiến. Hổ gầm, báo kêu, ngựa hí, quân reo. Gươm đao chạm nhau choang choảng. Mã Viện nhìn về trận Lĩnh-Nam, y thấy Đào Nhất-Gia đứng đốc chiến như một đại tướng kinh nghiệm. Y gọi mười võ sĩ, đệ tử Liêu-đông tứ ma: 
– Ta cho đánh mở đường. Các ngươi xung vào trận giết thằng oắt con kia cho ta. 
Mười võ sĩ cùng xông vào trận, đánh dạt đám hàng binh Hán. Đào Nhất-Gia nhìn qua, chàng biết cái gì sắp xảy ra chàng cho đám đười ươi hộ tống xung vào trận. Song đười ươi làm sao địch lại bọn võ sĩ có võ công cao cường. Đào Nhất-Gia hú lên gọi Thần-hổ tới, bao vây đám võ sĩ. 
Quân Hán đông hàng hàng, lớp lớp tiến lên. Đám hàng binh Hán bị giết hết. Trận Lĩnh-Nam bắt đầu túng thế. Thần-hổ, Thần-báo bị thương, chết hơn trăm. Thình lình một mũi tên bắn trúng vào bụng Đào Nhất-Gia. Chàng nghiến răng nhổ mũi tên ra. Máu chảy có vòi. Chàng xé áo băng bụng lại. Tuy đau thấu tâm can, nhưng chàng nghĩ: -Nếu để binh sĩ biết ta bị thương, e mặt trận vỡ mất. Đằng nào cũng chết, chi bằng ta đứng đốc chiến cho đến cùng. 
Vì vậy chàng cầm cờ cương quyết đốc chiến. 
Trần Nghi-Gia vung kiếm giết được ba Thần-báo. Vòng vây dãn ra. Y thị vọt người lên cao lia kiếm vào ngực Đào Nhất-Gia. Chàng trầm người xuống tránh khỏi thế kiếm hiểm ác. Phan Anh nhảy lên ôm lấy chàng định bắt sống. Chàng huýt sáo. Bốn con trăn trong bọc đeo bên cạnh cùng vọt ra quấn lấy y. Tuy Phan Anh bắt được chàng, song y lại bị mấy con trăn quấn khắp người. Cả hai ngã lăn xuống ngựa. 
Đào Nhất-Gia nghĩ rất nhanh: 
– Ta bị lòi ruột, đằng nào cũng chết. Vậy ta cùng chết với tên Phan Anh này. Còn hơn để ta chết một mình. 
Nhất-Gia bị Phan Anh ôm cứng lấy ngực, ngực y áp vào sống lưng chàng, vì vậy tay được tự do. Chàng cố với tay, rút thanh kiếm ra rồi nghiến răng cầm kiếm đâm vào bụng mình. Kiếm xuyên qua bụng chàng, thấu tới ngực Phan Anh, đúng giữa tim. 
Phan Anh trông rất rõ. Song y bị trăn quấn, không thoát ra được. Thanh kiếm xuyên qua ngực Đào Nhất-Gia, trúng giữa tim y. Y dãy mấy cái rồi buông Đào Nhất-Gia ra. 
Nhát kiếm đâm qua bụng, đau thấu tâm can, song tiếng hú, gầm tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, làm cho hùng khí bốc dậy, Đào Nhất-Gia nghiến răng nhổ kiếm. Máu lại tuôn ra. Chàng xé vạt áo một tử sĩ bên cạnh, băng lấy bụng mình. Một con đười ươi thấy vậy, nó chạy tới đỡ chàng lên mình ngựa. Mắt chàng hoa lên, chân thúc vào bụng ngựa, hướng đèo An-phùng. 
Sún Lé mơ mơ tỉnh tỉnh, không biết bao lâu. Chàng giật mình thức dậy, thì thấy mình nằm trên nệm cỏ. Cạnh chàng có Chu Quảng-Khánh đang ngồi khóc. 
Chàng hỏi: 
– Quảng-Khánh! Anh chưa chết sao? Đây là đâu? 
Quảng-Khánh khóc: 
– Anh bị thương. Ngựa chở anh về đèo. Bọn em dùng Thần-hổ, Thần-báo vừa đánh vừa lui. Tới chân đèo, thì Công-tôn vương gia cùng Hùng Bản dẫn Thần-ưng, Thần-nỏ xuống cứu, đánh với quân Mã Viện. Quân Viện đang đánh lên đèo. Thần-nỏ hết tên. Thần-hổ, báo-chỉ còn hơn ba mươi con, đều bị thương. Từ qua đến giờ, trăm Thần-tượng của Đào Khang bị chết gần hết, còn đâu mười thớt gì đó. Chỉ có sư Thần-ưng còn có thể tham chiến được. 
Đào Nhất-Gia hỏi: 
– Còn quân sĩ thế nào? 
– Bị thương, chết gần vạn. Còn hơn vạn, chiến đấu cầm chừng. Nghe đâu Mã thái-hậu, Lưu Long, Phùng Đức phá vòng vây mười lần, sáu vạn quân chết mất ba. Còn ba vạn bị thương gần hết. Phía mình Lã Văn-Ất, Lại Quan đều tử trận. Đoàn Thần-ngao, Thần-hầu chỉ còn đâu gần trăm. Vì vậy Mã Viện cương quyết chiếm đèo An-phùng giải vây Thường-sơn. Công chúa Thánh-Thiên truyền công-chúa Đông-triều Lê Chân lui quân cho Lưu Long xuống núi, rồi tiêu diệt. Trận đánh cuối cùng, Mã thái-hậu bị tử thương. Lưu Long bỏ quân chạy thoát. Trong trận này Vũ Hải-Diệu, Lê Diệu-Tiên đều tử trận. Sư Thần-long, Thần-phong bị lửa đốt tan rã. Hiện chỉ tập họp được một phần mười. Phùng Đức bỏ trốn, bị công-chúa Lê Chân thúc quân bao vây. Y nhảy xuống biển biến mất, không rõ sống chết ra sao. 
Đào Nhất-Gia rất quan tâm đến Đào Lục-Gia. Chàng hỏi: 
– Sún Đen ra sao? 
– Sún Đen đứng đốc chiến, bị trúng một đao vào vai. Anh ấy vẫn cương quyết giữ trận. Nhờ vậy Thần-ngao đẩy lui được giặc. Trận chiến gần tàn, anh ấy lại bị một đao vào bụng, ruột lòi ra. Anh ấy nhét ruột vào, tự băng bó lại. Giữa lúc đó thì tin tức của chúng mình đưa về rằng các sư hổ, báo, long tử trận hết. Biết mình khó sống, anh ấy cắn ngón tay, xé vạt áo, viết biểu tạ tội với hoàng đế. Biểu viết chưa xong, anh ấy kiệt lực chết. 
Đào Nhất-Gia nghe truyện, đau đớn biến đi mất. Chàng cười lớn: 
– Thế là mười vạn quân của Lưu Long bị diệt. Đúng như chỉ dụ của Trưng-đế. Chúng ta chỉ chết có mấy người, mà thành công lớn. Đại thắng rồi còn gì nữa. Em ta chết, ta chết cũng không ân hận gì. Ha! Ha! Trước khi xuất trận ta đã nói: Chiến sĩ ra trận không chết cũng bị thương. 
Đến đó có tiếng vũ khí, tiếng người la hét. Quảng-Khánh chạy ra ngoài quan sát một lúc, trở vào nói: 
– Đồn bị tràn ngập. Quân mình đang tử chiến. Anh nằm nghỉ. Em cương quyết chiến đấu đến chết. 
Đào Nhất-Gia gắng gượng ngồi dậy, nhưng không nổi. Chàng nằm nghe tiếng vũ khí chạm nhau choang choảng. Sức mạnh ở đâu đến, chàng ngồi bật dậy, chống kiếm đứng lên. Trước mắt chàng, Công-tôn Thiệu đang đấu với Mã Viện, Trần Nghi-Gia. Đào Khang xua năm thớt voi cuối cùng chiến đấu tuyệt vọng. Quân Hán dùng tên bắn lên. Chốc lát năm Thần-tượng đều ngã xuống. 
Đào Khang ngửa mặt lên trời kêu lớn: 
– Trưng-đế chỉ dụ Làm tướng là chúa của quân sĩ. Quân là tướng. Tướng là quân. Nay Thần-tượng của ta chết hết. Ta sống làm chi? 
Chàng dơ kiếm lên cổ tự tử. 
Mã Dư đang đấu với Chu Quảng-Khánh, Hoàng Pháp-Hải. Võ công Dư rất cao. Hai chàng vừa đánh vừa lui. May nhờ hai Thần-hổ còn sống sót trợ chiến, hai chàng lui đến chân phiến đá lớn. Mã Dư kêu lên; 
– Bỏ kiếm đầu hàng! Ta sẽ tha cho. 
Quảng-Khánh, Pháp-Hải đưa mắt cho nhau ra hiệu. Hai người quăng vũ khí, quì xuống xin hàng. 
Mã Dư mừng quá tiến lên định truyền quân trói hai người lại. Thình lình hai người vọt lên. Mỗi người một bên cùng cầm đao trủy thủ đâm vào người Mã Dư. Mã Dư không phòng bị, bị trúng hai đao vào sườn, ngực. Song y chỉ bị thương. Y vung kiếm lên, Pháp-Hải, Quảng-Khánh đầu một nơi, mình một nẻo. 
Công-tôn Thiệu, Hùng Bản chiến đấu tuyệt vọng. Hai người vừa chống đỡ vừa lui dần. Công lực đã cạn hết. 
Thình lình hàng ngũ quân Hán rối loạn, một đội quân Lĩnh-Nam hùng hổ xông lên. Trần Tứ-Gia dẫn đầu. Ông đánh một chưởng, Trần Nghi-Gia bay bổng lên cao, rơi xuống, dãy dụa mấy cái rồi nằm im. Ông đánh chưởng thứ nhì, Mã Viện nghiến răng đỡ. Binh một tiếng, y bật lui lại mấy bước, oẹ một tiếng, miệng phun máu. Đạo vệ sĩ xông vào tử chiến cứu chúa. Trần Tứ-Gia tung chưởng lên, mỗi chiêu một tên tan xương nát thịt. Khi ông giết hết đám võ sĩ, thì Mã Viện, và quân Hán đã rút khỏi đồi. 
Quận chúa Lý Lan-Anh đi theo đạo quân Trần Tứ-Gia. Nàng hỏi Hùng Bản: 
– Sư đệ! Anh Sún Lé đâu? 
Hùng Bản thở dốc nói: 
– Em không biết nữa. 
Đào Nhất-Gia cố lên tiếng: 
– Lan-Anh! Anh ở đây. 
Lý Lan-Anh tiến lên đỡ Đào Nhất-Gia. Chàng thở nhát ngừng nói: 
– Lan-Anh! Chậm mất rồi! Anh không còn sống được nữa. 
Công-tôn Thiệu ngồi xuống cạnh Đào Nhất-Gia. Ông hộc lên một tiếng, miệng phun máu có vòi. Trần Tứ-Gia đỡ ông dậy. Công-tôn Thiệu lắc đầu: 
– Đa tạ Trần huynh! Nhất sinh tôi chịu ơn của anh hùng Lĩnh-Nam. Lại kết bạn với Tây-vu Thiên-ưng lục tướng. Mã Viện quân đông, cố đánh đèo. Bốn sư trưởng tượng, báo, hổ, ưng đều tử trận. Chúa tướng chỉ còn Hùng Bản. Tôi bị trúng hai chưởng của Trần Nghi-Gia. Tạng phủ nát hết, không còn sống được nữa. 
Ông nói với Đào Nhất-Gia: 
– Sún Lé! Anh em mình đánh nhau rồi kết bạn. Anh chịu ơn Lĩnh-Nam. Hôm nay cùng chết với em. Thế là sau Sún Cao đến em. Tây-vu lục tướng chết mất hai, mà Lĩnh-Nam vẫn còn giặc dã. 
Đào Nhất-Gia đưa tay phải nắm lấy Công-tôn Thiệu. Tay trái nắm tay Lý Lan-Anh. Chàng ngửa mặt lên trời than: 
– Trời hỡi trời! Đất nước ly loạn còn nhiều. Sao tôi phải chết thế này! Làm sao tôi có thể cầm quân đuổi giặc nữa? 
Công-tôn Thiệu từ từ gục xuống đùi Đào Nhất-Gia. Đào Nhất-Gia gục đầu vào lòng Lý Lan-Anh, chàng nói phều phào: 
– Lan-Anh! Lé chết rồi. Lé đền nợ nước. Lan-Anh đã cho Lé tình yêu, cùng Lé lặn lội gian nan. Giữa đường Lé chết, không trả được ơn Lan-Anh... 
Chàng nấc lên một tiếng, qua đời. 
Lý Lan-Anh khóc lớn: 
– Sún Lé! Sún Lé! Anh không thể chết được. Trời ơi! 
Nàng cầm con dao nhỏ tự đâm vào ngực, rồi gục xuống cạnh chồng. 
Thám mã báo cho biết: Mã Viện rút quân khỏi Chương-giang. Đang trên đường về Kinh-châu. Trần Tứ-Gia truyền thu nhặt xác tử sĩ chôn cất. Còn tử thi các chúa tướng, chở về Thường-sơn. 
Nắng chiều vàng úa, gió hiu hiu thổi, xác người, xác thú nằm rải rác khắp đèo. Một vài Thần-ưng còn sống sót đậu trên cây kêu lên những tiếng thảm não. 
... 
Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh, Đào Tam-Gia nhận lệnh trấn giữ đồi Tuyệt-long. Lê Ngọc-Trinh bàn: 
– Trong ba mặt trận, mặt Tuyệt-long của chúng mình quan trọng nhất. Địa thế trống trải, tiền hậu thọ địch. Núi không cao, sườn thoai thoải, ít cây, địch tấn công lên dễ dàng. Chúng ta có bốn vạn người, đương đầu với tám vạn của Ngô Anh, Vương Hùng. Ấy là chưa kể Mã Viện có thể tăng viện thêm. Bây giờ chúng ta phải làm gì? 
Đào Phương-Dung ngẫm nghĩ một lúc, nói: 
– Cái đèo An-phùng này địa thế cực kỳ hiểm trở. Chị Thánh-Thiên giao cho Công-tôn Thiệu hai vạn binh, lập đồn, cố thủ. Một người thủ, mười người đánh chưa chắc đã thắng. Còn nhiệm vụ của chúng ta lại khác. Chúng ta thủ để tiêu diệt giặc. Khi giặc mệt mỏi, ta xuất kỳ binh truy kích tiêu diệt. Vì vậy ta phải chia lực lượng làm ba. Phần trấn thủ núi. Phần đánh tiêu hao khi địch mới tới. Phần phục kích, đuổi theo. 
Sư trưởng Thần-tượng Lê Hằng-Nghị đứng lên nói: 
– Cách đây mấy ngày. Sư huynh Đào Nhất-Gia dùng hư hư, thực thực đánh tiêu hao hơn vạn kị binh Hán. Bây giờ chúng ta cũng đón đường, đánh tiêu hao quân Ngô Anh, Vương Hùng. Không biết ý sư tỷ thế nào? 
Sư trưởng Thần-phong Đào Nương gật đầu: 
– Em nghĩ. Sư tỷ cử một đội quân quyết tử phục ở rừng Đông-ba. Bọn Ngô Anh, Vương Hùng tất sẽ dồn trú lương thảo tại đây. Đợi khi chúng xuất quân, mình đem phục binh đốt lương thảo, ắt chúng phải lui về cứu viện. Bấy giờ chúng ta đuổi theo đánh một trận, tất chủ lực chúng tan. 
Đào Phương-Dung cầm ấn kiếm để lên bàn. Bà gọi Đào Tam-Gia: 
– Bên tả ngạn sông Đông-khê có rừng Đông-ba. Bọn Ngô Anh, Vương Hùng tất sẽ dồn trú lương thảo tại đây. Sư huynh đem năm nghìn quân, với sư Thần-hầu, Thần-ngao, Thần-long ém trong rừng. Đợi khi chúng qua sông đánh Tuyệt-long, đêm đến đem quân đốt lương thảo. Sau khi đốt lương thảo phải tổ chức phục binh cẩn thận. Bọn Ngô Anh sẽ trở về cứu viện. Sư huynh thử ước lượng xem. Nếu chúng trở về tấn công. Sư huynh cầm cự được bao lâu? 
Sún Lùn ngẫm nghĩ một lúc, đáp: 
– Có hai trường hợp cần phân biệt. Nếu chúng rút về, mà sư muội đuổi theo sau. Ta thừa sức cản chúng. Còn ngược lại, ta chỉ có thể làm chậm bước tiến của chúng trong vòng nửa ngày. 
Đào Phương-Dung gật đầu. Bà trao binh phù cho Lê Ngọc-Trinh: 
– Sư tỷ đem hai vạn quân, phục ở Phong-lăng. Vương, Ngô đem quân cứu viện Thường-sơn bị ta đánh rát quá, chúng không vượt qua Tuyệt-long được, bấy giờ chúng phải băng qua rừng Phong-lăng. Rừng Phong-lăng rậm rạp, sư tỷ phục binh, đánh tỉa, tiêu diệt chúng. 
Đào Phương-Dung gọi Phan Tương-Liệt: 
– Em chia Thần-báo làm hai. Một nửa phục sẵn ở sườn núi Tuyệt-long, đề phòng giặc đánh úp. Một nửa mang theo chị. Ủa, sao em không cỡi ngựa mà lại cỡi bò? 
Phan Tương-Liệt cười: 
– Hồi ở Tây-vu, một hôm em dàn báo tập trận. Em thấy con bò tót này. Em ra lệnh cho báo bao vây. Con bò tót hung hăng húc ba con báo bị thương. Em phải tung hơn hai mươi con trăn mới bắt được nó. Từ đấy em dùng để cỡi. 
Đào Phương-Dung, Phan Tương-Liệt dẫn quân lên đường. Bà hỏi: 
– Tương-Liệt! Năm nay em bao nhiêu tuổi rồi? 
– Thưa chị mười bảy đúng! 
– Lần đầu xuất trận. Em có sợ không? 
– Sợ giặc ư? Người ta thường nói Sợ giặc như sợ cọp! Đến cọp, báo em còn sai chúng như sai chó, thì sợ gì? Thân làm chiến sĩ, giữ đất tổ, không chết cũng bị thương. Em không sợ. 
Đào Phương-Dung phối trí quân mã, rồi cùng Phan Tương-Liệt lên ngọn cây cao quan sát. Bà nói với Tương-Liệt: 
– Đất nước mình đẹp thế này, mà trải qua mấy trăm năm bị giặc Hán cai trị. Bây giờ mới lập lại, mà chúng không để cho mình yên. Khổ thực. 
Tương-Liệt hỏi: 
– Chị có nhớ nhà không? 
– Nhớ chứ! Nhà chị có ba anh em, sống hạnh phúc biết bao. Khi anh hùng Lĩnh-Nam đánh Trung-nguyên. Anh Hiển-Hiệu mới cưới vợ được ba ngày, phải lên đường làm đại tướng. Khi ra đi, phần hùng khí bốc dậy, phần phải xa mẹ, xa các em và... xa vợ mới cưới. Anh ấy có làm một bài thơ. 
– Chị có nhớ bài thơ đó không? 
– Nhớ chứ! Để chị đọc cho nghe: 
Chinh táp hành quân xuất Ngọc-quan, 
Tam quân như nhất một hào đoan. 
Thiên lý trì khu thiên lý mộng, 
Nhất trùng ly biệt nhất trùng quan. 
– Thơ bằng chữ Hán à? Chị dịch nghĩa cho em nghe được không? 
– Ừ! Để chị dịch cho nghe: 
Cờ lên ngọn ải Ngọc Quan, 
Muôn người như một, thép gang không bằng, 
Dặm nghìn, giấc mộng chẳng an, 
Biệt ly, xá kể dậm ngàn viễn chinh. 
– Thơ chữ Hán nghe chẳng thú tý nào cả. Chị biết không? Anh Sún Lé lấy quận chúa Lý Lan-Anh, rồi cứ phải xa nhau, anh ấy cũng làm thơ. Thơ bằng tiếng Việt. Tình lắm. 
– Ừ! Anh Lé là đệ tử bác cả. Thành ra anh ấy nhỏ tuổi, mà vai lớn. Chị phải kêu bằng sư huynh. Em có nhớ câu thơ nào của anh Lé không? 
– Sao không, để em đọc cho chị nghe: 
Qua đình ngả nón trông đình, 
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu. 
Qua cầu ngã nón trông cầu, 
Cầu bao nhiêu nhịp, anh sầu bấy nhiêu. 
Tường-Liệt hỏi: 
– Em nghe nói anh Hiển-Hiệu nhỏ tuổi, mà cầm quân ra trận như một lão tướng. Mưu kế tính toán rất cẩn thận. Không ngờ lại giàu tình cảm thế! Chị Hồng-Thanh nghe bài thơ, chắc phải khóc. 
– Dĩ nhiên! Chị ấy làm hai câu thơ đáp lại: 
Nhất thi khẳng khái anh hùng lệ, 
Bách chiến sơn hà cố quốc tâm. 
Để chị dịch cho nghe: 
Anh hùng khẳng khái đôi giòng lệ, 
Bách chiến một lòng với nước non. 
Phan Tương-Liệt vỗ tay: 
– Chị dịch hay quá. Này! Mối tình giữa công-chúa Vĩnh-Hòa với anh Quí-Minh có ướt át như anh Hiển-Hiệu với chị Hồng-Thanh không? 
– Gấp trăm lần. Công chúa tìm thấy ở anh Quí-Minh con người hào sảng, tinh thần trong sáng, nhất dạ với non sông. Hơn nữa một loại anh hùng đa tình như Trần Tự-Sơn, Đô Dương. Công chúa mới tình nguyện ở lại Lĩnh-Nam muôn dậm theo anh Quí-Minh chinh chiến. 
– Hồi trước anh Sún Lé nói với em: Cái tình là cái chi chi? Các anh hùng Lĩnh-Nam lấy vợ, lấy chồng Trung-nguyên nhiều quá nhỉ! 
– Ừ! Chu Tường-Qui lấy Quang-Vũ. Anh Quí-Minh lấy Vĩnh-Hòa. Đào Nhất-Gia lấy Lý Lan-Anh. Công chúa Gia-hưng Trần Quốc lấy Trấn-ham vương Vương Phúc, Đào Nhị-Gia lấy Vương Sa-Giang. Anh Đào Nghi-Sơn lấy Chu Thúy-Phượng... Dường như Cu Bò sắp lấy công-chúa Đoan-Nhu. 
Ghi chú của tác giả: Sau khi Đào Hiển-Hiệu, Đào Quí-Minh, Đào Phương-Dung tuẫn quốc. Dân chúng vùng Nam-hải lập đền thờ, dựng tại nơi xảy ra trận đánh. Ngày nay, tại phía bắc Quảng-Đông, nơi giao hội hai con sông Đông-khê, Chương-giang còn dấu tích chiến trường cũ. Mùa Xuân năm Nhâm-Tuất, 1982 tôi theo các cuốn phổ, tìm đến nơi quan sát, hầu tường thuật truyện xưa cho đúng, tôi đã thuê thợ tạc vào vách núi Thường-sơn câu thơ của Đinh Hồng-Thanh làm lúc tiễn đưa Đào Hiển-Hiệu lên đường: 
Nhất thi khẳng khái anh hùng lệ, 
Bách chiến sơn hà cố quốc tâm. 
Về bốn câu thơ của Đào Hiển-Hiệu, hai câu thơ của Đinh Hồng-Thanh, hiện nay còn chép cuốn phổ tại đình làng thôn Thổ-quan, tổng Hữu-nghiêm, huyện Thọ-xương, Hà-Nội, nơi thờ ba ngài. Chỉ độc giả anh hùng Lĩnh-Nam mới biết các câu thơ trên được sáng tác trong trường hợp nào. 
Có tiếng Thần-ưng vọng lại. Phan Tương-Liệt chỉ về phía trước: 
– Giặc sắp tới rồi! Chị coi kìa! Thần-ưng bay trên đầu, mà chúng không để ý. Không biết đạo quân của Vương Hùng hay Ngô Anh? 
Bụi từ xa bốc lên mịt mù. Lát sau đoàn kị mã rầm rộ đến rừng Đông-ba thì dừng lại. Kị mã đi đầu cầm cây cờ, trên cờ hàng chữ Uy viễn đại tướng quân Ngô. Tương-Liệt chỉ ngọn cờ: 
– Thằng Ngô Anh đến trước. Không biết nó đợi thằng Vương Hùng rồi vượt sông hay vượt trước? 
Một đội kị mã ước hơn trăm tiến về bờ sông Đông-khê. 
Đào Phương-Dung nói: 
– Bọn chúng đi thám thính trước. Chị cho em toàn quyền quyết định. Phải giết trọn vẹn! Không để tên nào chạy thoát. 
Phan Tương-Liệt truyền cành cây xuống đất. Nó lấy trong bọc ra bộ quần áo nâu kiểu Lĩnh-Nam mặc vào, rồi cỡi trên lưng bò tót. Nó đánh bò vượt sông Đông-khê. Sang đến nơi, nó cho bò gặm cỏ. Còn mình ngồi trên lưng, cầm ống tiêu thổi, mắt lơ đãng nhìn trời. 
Đội kị mã rầm rập tới bờ sông. Viên chỉ huy thấy một thiếu niên ngồi trên lưng bò thổi tiêu, mắt nhìn trời như không để ý đến việc đời. Y gò ngựa hỏi: 
– Thằng bé kia! Lại đây ta hỏi. 
Tương-Liệt lờ đi như không nghe thấy. Nó bỏ ống tiêu vào túi, cất tiếng hát nghêu ngao. Viên chỉ huy kị mã vọt ngựa lên, cầm roi quất vào đầu nó. Nó chờ cho roi sắp trúng đầu, nghiêng người tránh, ngã lăn xuống đất. Nó lồm ngồm bò dậy chửi: 
– Con mẹ mày! Tại sao mày đánh ông? 
Nó chửi bằng tiếng Việt. Viên đội trưởng ngơ ngác không hiểu, y hỏi: 
– Mi nói gì? 
– Tao bảo tao đ. mẹ mày, đẻ ra mày. 
Viên đội trưởng càng ngơ ngác: 
– Mày biết nói tiếng Hán không? 
Tương-Liệt nói tiếng Hán: 
– Biết thì biết. Song ông hỏi làm gì? 
– Tao có việc gấp, muốn hỏi mày. 
– Tại sao phải gấp. Nước ông có cụ Khổng-Tử chẳng nói rằng Muốn mau, không thành công (Dục tốc bất đạt) đó sao? 
Viên đội trưởng nổi nóng. Y hỏi: 
– Mày có thấy quân Lĩnh-Nam đóng ở gần đây không? 
– Tôi không nói! Ông cho tiền tôi mới nói. 
Viên đội trưởng móc túi, ném cho nó một ít bạc. Hỏi: 
– Quân Lĩnh-Nam đóng ở đâu? Bao nhiêu người? 
– Tôi chỉ biết họ đóng ở núi An-phùng, Thường-sơn đông lắm. Mấy hôm nay đánh nhau với quân Hán mù trời. Cả hai bên chết vô kể, thây chất thành đống lớn. 
– Thế phía sát bên sông có quân không? 
– Không. Sao ông dốt thế. Nếu có tôi đâu dám chăn bò ở đây. Vì có quân ắt có đánh nhau. Nước tôi có câu Ăn tìm đến, đánh nhau tìm đi. 
Viên đội trưởng ra hiệu cho cả bọn vượt sông. Phan Tương-Liệt cầm ống tiêu thổi. Tiếng tiêu đổi giọng nỉ non, thê thảm. Đội kị mã vừa tới bên kia sông. Thình lình một đàn ong bay đến vù vù, nhào xuống đốt. Cả bọn la hoảng. Quăng vũ khí, dùng tay vuốt mặt, ôm đầu. 
Một hồi tù và nổi lên. Tên từ trong rừng bắn ra như mưa. Phút chốc gần trăm kị mã đều chết hết. Tuyệt ở chỗ tên, ong chỉ bắn, đốt người. Còn ngựa thì vô sự. 
Tương-Liệt gọi: 
– Trâu Xanh! Xuất hiện đi thôi. 
 Trần Ngọc-Tích, tức Trâu Xanh từ trên cây, truyền xuống đất. Nó vỗ ngực bồm bộp: 
– Mày thấy tao hay không? Kế hoạch của tao tuyệt chưa? 
– Dĩ nhiên là hay. Bây giờ mày cho chôn xác bọn này lập tức. 
– Chúng mình lột quần áo bọn này, bện người bù nhìn, cho mặc vào, trêu thằng Ngô Anh chơi. Còn xác chúng nó để đây. Tao gọi Thần-ưng ăn thịt. 
Nó cầm tù và thổi lên tu tu. Một lát Thần-ưng bay đến rợp trời. Nó cầm cờ phất bốn cái. Đoàn Thần-ưng đáp xuống. Phút chốc gần trăm xác quân Hán chỉ còn là những bộ xương, thịt được tỉa, gọt rất kỹ. 
Nó lại cầm tù và thổi. Đoàn Thần-ưng bay bổng lên trời, đáp vào khu rừng gần đó. Ven sông Đông-khê chỉ còn lại hai đứa trẻ. 
Đào Phương-Dung từ trên cao nói vọng xuống: 
– Một đội tế tác gần năm mươi tên nữa sắp tới. 
Trâu Xanh Trần Ngọc-Tích bảo Phan Tương-Liệt: 
– Mày nấp vào bên đường! Để tao xuất hiện. 
Miệng nói, nó nhún nhảy mấy cái, ngồi trên lưng con bò. Nhưng nó không biết thổi tiêu. Nó cầm ống tiêu trên tay, miệng hát nghêu ngao mấy câu hát bình dân vùng Giao-chỉ. Đội quân Hán tới gần. Liếc qua, nó biết không phải đội tế tác, mà là một viên đại tướng đi quan sát trận thế, với trên năm mươi quân hầu. 
Nó nhận ra viên tướng là Ngô Anh. Ngô Anh thấy một thiếu niên to béo, mặt mũi khôi ngô ngồi trên lưng con bò, lòng nghi hoặc, vẫy tay gọi: 
– Thằng bé kia! Lại đây ta hỏi. 
Trâu Xanh thúc bò lại gần. Nó chắp tay cúi rập người xuống: 
– Cháu kính chào đại tướng quân. 
Ngô Anh hỏi: 
– Sao cháu biết ta làm đại tướng quân? 
– Dạ, trông thấy tướng ông oai phong khác thường. Cháu đoán ra. 
– Cháu có thuộc đường đất vùng này không? 
– Thưa nhắm mắt cháu cũng chạy khắp nơi mà không sợ lạc. 
– Vừa rồi cháu có thấy một đội quân Hán qua đây không? 
– Thấy! Ông đội trưởng cho cháu chỉ bạc. Ông dặn cháu chờ ở đây! Hễ thấy quân Hán tới thì báo cho biết ông đi về phía kia. 
Tay nó chỉ về phía rừng Phong-lăng, tiếp: 
– Qua sông Đông-khê, có ba đường đi. Đường đi phía Bắc đến bến Đông-vu. Đường đi phía Nam đến núi Tuyệt-long. Trên núi quân Lĩnh-Nam đóng la liệt khắp nơi. Ông muốn qua đó, e khó lắm. 
– Cháu có biết đường nào khác đến núi Thường-sơn không? 
– Có, con đường Phong-lăng qua rừng. Cháu thuộc làu. Ít người biết lắm. 
Ngô Anh móc túi liệng cho nó một lượng bạc, bảo: 
– Cháu hãy theo ta về trại. Đêm nay cháu dẫn đường cho ta đến núi Thường-sơn. Ta sẽ thưởng cho cháu thêm nhiều vàng bạc. 
Trâu Xanh đành lên lưng bò tót. Nó vỗ vào mông con bò. Con bò lồng lên chạy nhanh không kém gì ngựa. Trong khi bò lồng, nó cảm thấy lưng nặng nề. Bấy giờ nó mới chợt nhớ ra: Sư trưởng Lê Hằng-Nghị nhờ nó sai Thần-ưng về Phiên-ngung xin Hồ Đề cho một ít thuốc táo bón chữa voi. Nó sai Thần-ưng đi. Thần-ưng mới mang về cho nó mười hộp thuốc. Nó bỏ luôn vào cái túi trên lưng, rồi quên mất. Bây giờ vô tình nó mang cả túi đi. 
Đến trại Hán. Ngô Anh gọi một viên tướng Hán: 
– Hạng Kiệt, mi trông coi cháu này cẩn thận. Cho nó ăn uống đầy đủ. Nó sẽ làm hướng đạo cho ta. Đêm nay ta đánh úp núi Thường-sơn. Nó không có ngựa, ngươi cho nó một con. 
Hạng Kiệt dắt Trâu Xanh Trần Ngọc-Tích ra khu chuồng ngựa. Nó làm bộ ngơ ngác hỏi: 
– Ngựa ở đâu nhiều thế này? Dễ thường có tới vạn con chắc. 
– Hơn thế nữa! Hai vạn con. 
Nó suýt xoa chạy bên đông, ngó bên tây, quan sát địa thế khu chuồng ngựa. Hạng Kiệt cho nó một con ngựa rồi dặn: 
– Ta có việc bận. Mi ở đây tập cỡi ngựa, để đêm nay còn ra trận. 
Hạng Kiệt đi rồi. Trâu Xanh chợt nghĩ được một kế. Nó lấy bình thuốc chữa táo bón voi xuống, tự nhủ thầm: 
– Mình bỏ thuốc vào tầu đựng nước uống của ngựa. Trước khi ra trận, bọn kị mã thế nào cũng cho ngựa uống nước. Ngựa chạy một quãng, thuốc ngấm, chúng đi té re hết. Không còn đủ sức xung trận. 
Nó đem thuốc chia thành từng phần, đến bỏ vào những thùng chứa nước cho ngựa. Vừa làm xong, nghe tiếng Thần-ưng kêu trên không. Nó vội huýt sáo gọi. Thần-ưng đáp xuống, nó moi trong ống tre dưới chân Thần-ưng ra tờ giấy. Thì ra lệnh của Đào Phương-Dung: 
Từ bến Quân-ba đến núi Thường-sơn là Phong-lăng. Em làm sao dẫn Ngô Anh qua ngả đó. Ta sẽ cho phục binh đánh úp. 
Nó lấy cục than viết thư trả lời: 
Đêm nay Ngô Anh sẽ dẫn quân đánh úp vào phía sau quân ta ở chân núi Thường-sơn. Chúng đi đường mòn Phong-lăng. Em đã đánh thuốc độc kị mã của chúng vô dụng. 
Qua canh một, Ngô Anh gọi các tướng, truyền lệnh lên đường. Y bảo Trần Ngọc-Tích đi trước dẫn đường. Y đích thân dẫn đầu. Vừa tới bến Quân-ba, thì có tiếng ngựa hí inh ỏi, rồi tiếng chân ngựa rầm rập. Y cho lệnh quân sĩ phục vào ven đường. 
Đoàn ngựa tới nơi. Y định ra lệnh tấn công, thì nhận ra các kị mã mặc quần áo Hán. Y hô lớn: 
– Dừng ngựa! 
Ngựa vẫn tiếp tục đi. Y vọt người lên, chộp cổ một tên kị mã, liệng xuống đất. Vừa liệng, y cảm thấy có gì bất ổn, vì tên lính nhẹ quá. Y chạy lại coi, thì ra kị mã làm bằng cỏ, mặc quần áo binh Hán. 
Quân sĩ đã lùa cả bầy ngựa lại. Gần trăm người bằng cỏ nằm dài dưới đất. Trên lưng mỗi con ngựa có một gói vải. Y sai gỡ xuống, mở ra. Quân sĩ trông thấy đều la hoảng, vì đó là bộ xương người còn tươi, máu me tanh hôi, nhưng không còn tý thịt nào. 
Ngô Anh than: 
– Thôi rồi! Gần trăm quân tế tác của ta không còn nữa. 
Vốn tính can đảm, lại tự hào võ công tuyệt đỉnh. Y nói với Trâu Xanh: 
– Chúng ta tiếp tục lên đường. 
Tới bến Quân-ba, y cho lệnh vượt sông. Quân sĩ qua sông, không một trở ngại. Trâu Xanh đi trước dẫn đường, xuyên qua rừng. Càng vào sâu trong rừng đường càng hẹp. Cuối cùng ngựa nối đuôi nhau đi hàng một. Tới canh ba, thình lình có tiếng trống thúc vang lừng. Ngô Anh kinh hãi: 
– Ta tiến quân bí mật, đến các tướng cũng không hay. Sao giặc biết mà đón đường? Bây giờ giặc đổ ra đánh, ta xoay sở làm sao đây? 
Y vội tuyên lệnh đổi tiền đội ra hậu đội, lui binh. Trong khi mải hò hét, y quay lại không thấy Trâu Xanh đâu nữa. 
Có tiếng tù và thổi. Tên từ trong rừng bắn ra. Ngô không biết địch ở đâu, bao nhiêu người. Chỉ thấy tiếng hò hét, tiếng quân Hán trúng tên rú lên. Tiếng kêu khóc thảm thiết. Quân Lĩnh-Nam như bóng ma, thoắt hiện, thoắt ẩn. Tiếng đao chém xuống thân quân Hán phầm phập. 
Ngô Anh bỏ ngựa, dùng khinh công chạy ngược trở ra bến Quân-ba. Kiểm điểm lại. Hai vạn quân đi đầu, còn được hơn ngàn. 
Đoàn kị binh đi sau, không tiến được, ùn lại ở bờ sông Đông-khê. 
Bỗng tiếng trống thúc vang lừng. Đèn đuốc sáng rực. Một đội quân hùng tráng từ trong rừng tiến ra. Đi đầu là một nữ tướng, dáng người xinh đẹp tuổi khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu, lá cờ bay phất phới, trên có hàng chữ Trấn-Nam đại tướng quân, Đăng-châu công-chúa Đào. Nữ tướng chắp tay hành lễ: 
– Tiểu nữ Đào Phương-Dung, xin tham kiến Uy-viễn đại tướng quân. 
Ngô Anh liếc mắt thấy Trâu Xanh cỡi ngựa đứng sau Đào Phương-Dung. Y chỉ tay hỏi: 
– Mi... mi là... 
Trâu Xanh bước ra: 
– Tiểu tướng Trần Ngọc-Tích, lĩnh chức Thiên-ưng tướng quân, xin tham kiến Ngô đại tướng quân. 
Ngô Anh biết mình trúng kế. Định một trận sống chết. Bỗng quân sĩ la hoảng. Y nhìn về phía rừng Đông-ba, ở đó lửa bốc lên ngút trời, tiếng quân reo, ngựa hí inh ỏi. Y biết trại mình đang bị tấn công. Y cầm kiếm ra lệnh: 
– Trước mắt có giặc, rút cũng chết. Phải quyết chiến một trận. Mới hy vọng còn đường sống. 
Bên trận Lĩnh-Nam nổi một hồi trống. Trâu Xanh cầm tù và thổi lên. Có nhiều tiếng tù và hưởng ứng. Hơn ba mươi Thiên-ưng tướng đứng trên các ngọn cây đốt đuốc sáng rực. Tay cầm cờ phất chỉ huy Thần-ưng tấn công. Quân Hán vội chia cặp đứng tựa vào nhau, chống với Thần-ưng. 
Từ trong rừng, có nhiều tiếng gầm gừ, những con báo lốm đốm, từ trên cây nhảy xuống xung vào trận. Quân Hán hoảng hốt, quăng vũ khí, vượt qua sông Đông-khê mà chạy. 
Đào Phương-Dung cầm cờ chỉ theo: 
– Ai bắt, giết được Ngô Anh, ta sẽ thăng lên ba cấp. Bao nhiêu vàng bạc thu được trong trận, ta thưởng cho hết. 
Đoàn chiến sĩ Lĩnh-Nam xung lên. Phía trước Thần-báo, phía trên Thần-ưng yểm trợ. Quân Hán chạy được hơn mười dặm, thì gặp đội thiết kị tới. Thiết kị dàn trận, xung vào trợ chiến. 
Quân Lĩnh-Nam chỉ hơn vạn người với đoàn Thần-ưng, Thần-báo. Đào Phương-Dung truyền lui lại dàn trận. 
Tham tướng nói với Ngô Anh: 
– Tướng quân phải bắt cho được nữ tướng kia, thì mới mong thắng trận này. Y thị là em con nhà chú của Đào Kỳ, võ công kém Mã Viện một chút. Song tài dùng binh hơn bất cứ một đại tướng Hán nào. 
Ngô Anh hô thiết kị xung vào trận. Bên này Thần-ưng, Thần-báo cùng tấn công. Bốn xe chở Thần-nỏ tác xạ thẳng vào quân Hán. 
Đào Phương-Dung đứng trên bành voi. Tay cầm cờ đốc chiến. Một bên là đội thiết kị hơn ba vạn người. Một bên có hơn vạn người, với đoàn Thần-ưng, Thần-nỏ, lợi hại. Trận chiến diễn ra khốc liệt giữa đêm khuya. Tiếng ngựa hí, quân reo, ưng hét, báo gầm rung động trời đất. 
Cạnh Đào Phương-Dung là Trâu Xanh đốc chiến. Trận chiến đang diễn ra khốc liệt. Tự nhiên các chiến mã bên Hán dừng lại. Chúng hí lên những tiếng đau đớn. Trâu Xanh nói với Phương-Dung: 
– Thuốc ngấm. Chiến mã vô dụng rồi. 
Đào Phương-Dung phất cờ, Thần-nỏ dàn ra bắn sang trận Hán liền bốn loạt. Mỗi loạt mấy trăm người ngã xuống. Thiết kị xưa nay chỉ quen đánh nhau trên ngựa. Bây giờ ngựa tự nhiên sinh chứng không dùng được nữa. Hàng ngũ rối loạn. 
Vừa lúc đó, thám mã chạy đến báo với Ngô Anh: 
– Thưa đại tướng quân, trại đã bị một tướng trẻ dẫn đoàn khỉ, chó sói tới chiếm mất rồi. Chúng ta không còn đường về. 
Quân Hán náo loạn, bỏ vũ khí chạy. Đào Phương-Dung phất cờ hô lớn: 
– Đuổi theo! Không cho một tên sống sót. 
Quân Lĩnh-Nam reo hò đuổi theo tới trời sáng. 
Đào Phương-Dung về tới núi Tuyệt-long, thì gặp một đoàn xe dài hàng dặm, trên chở lương thảo. Đó là quân Sún Lùn chiến thắng trở về. 
Đào Phương-Dung hỏi: 
– Sư huynh! Tình hình thế nào? 
– Còn thế nào nữa. Ngô Anh để lại hơn ngàn quân giữ trại. Ta xua Thần-hầu, Thần-ngao, Thần-long chiếm trong chốc lát. Ta giết sạch quân Hán. Đốt lửa làm rối loạn lòng Ngô Anh. Sau đó chất lương thảo lên xe. 
Đoàn quân chiến thắng trở về. Đào Phương-Dung nhìn thấy Thánh-Thiên đã ở trên núi Tuyệt-long từ hồi nào. Nàng vội xuống ngựa tham kiến. Thánh-Thiên nắm tay Đào Phương-Dung: 
– Em thấy không? Kế hoạch đã định như vậy. Nào ngờ đâu, Trần Ngọc-Tích bị Ngô Anh bắt, mới đưa đến việc đánh thuốc độc chiến mã Hán, và dẫn Ngô Anh vào rừng. Chỉ với hai giờ, mà em đã điều được đoàn quân vào phục trong rừng. Chị thực không bằng em. 
Đào Phương-Dung cười: 
– Chị khen quá làm em ngượng. 
– Hai vạn kị binh, hai vạn bộ binh của Ngô Anh tan rã. Y chỉ còn một vạn quân. Còn đạo của Vương Hùng, hôm trước bị Lê Chân, Đàm Ngọc-Nga tiêu hao mất hai vạn. Nếu hai đứa hợp quân lại, cũng chỉ được bốn vạn. Ta không sợ nữa. Bây giờ ta cho lệnh đánh chiếm núi Thường-sơn, giết Mã thái-hậu. Như vậy mới khiến Vương Hùng, Ngô Anh tung hết số quân còn lại vào trận. 
Đào Phương-Dung lo lắng: 
– Em lo mặt An-phùng. Với hai vạn quân, liệu Công-tôn Thiệu với sư huynh Đào Nhất-Gia có chịu nổi không? 
– Chịu, thì chịu nổi. Ta liệu nếu Mã Viện nướng hết năm vạn quân, cũng không chiếm nổi An-phùng. Nếu y tiếc quân, rút lui thì thôi. Bằng y tung hết quân vào, An-phùng thất thủ, ta mất hai vạn người, Hán mất mười vạn. Tuy vậy, ta lệnh cho Trần Tứ-Gia rằng sau khi diệt đội quân Lưu Long, giết Mã thái-hậu, lập tức đem một đội quân tiếp viện cho Công-tôn Thiệu. 
Bà viết lệnh truyền cho Lê Chân, Đàm Ngọc-Nga, sai Thần-ưng mang đi. 
Đào Phương-Dung hỏi: 
– Trường hợp Mã Viện rút quân. Ta có nên cho truy kích không? 
Thánh-Thiên lắc đầu; 
– Nếu Mã đánh được An-phùng, tất y đem quân tới Thường-sơn. Sở dĩ ta để Thường-sơn không diệt, vì muốn vây Mã thái-hậu, để cho Mã Viện, Ngô Anh, Vương Hùng đem quân cứu viện. Bây giờ Mã, Ngô, Vương đều đã tới. Ta diệt Thường-sơn. Chúng thấy Mã thái-hậu chết rồi, tất rút quân. Quân Ngô, Vương ta để sư muội đuổi theo. Tàn quân của chúng ắt gặp Mã Viện, cùng rút. Trên đường rút chúng sẽ đụng phải các đại tướng hét ra lửa của Lĩnh-Nam. 
– Chị muốn nói Trần Quốc, Vương Phúc, Sa-Giang, Sún Rỗ, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa phải không? 
– Đúng! Ta độ chừng họ đốt phá các căn cứ đóng chiến thuyền, diệt hủy quân Hán rồi rút về. Trên đường về gặp tàn quân của Mã. Họ chỉ đánh một trận ắt diệt được y. 
Có Thần-ưng mang thư từ An-phùng tới. Trần Ngọc-Tích cầm thư trình lên. Thánh-Thiên tiếp thư đọc. Bà kêu lên: 
– Quả đúng như chúng ta ước tính. Mã Viện thí quân đánh An-phùng, mở vòng vây cho Thường-sơn. Sư hổ, báo, tượng bị tan rã. Sún Lé bị thương nặng. Quân Mã Viện đánh lên tới lưng chừng đèo rồi. 
Bà gọi sư trưởng Thần-hầu Phan Cung: 
– Em dẫn một toán Thần-hầu, đi dọc theo bờ sông Đông-khê, tiến tới bên Đông-vu, leo lên các ngọn cây, treo thực nhiều cờ Lĩnh-Nam làm kế nghi binh. Mã Viện bị ta lừa nhiều phen, y thấy phía sau tự nhiên có cờ Lĩnh-Nam, tất lui quân lại. Trong khi đó Trần Tứ-Gia, có thời giờ tiếp viện An-phùng. 
Phan Cung hú lên một tiếng dài liên miên bất tuyệt. Y cùng đoàn Thần-hầu lên đường khẩn cấp. 
Bỗng ngựa lưu tinh đến báo: 
– Lệnh chiếm Thường-sơn của công-chúa tới đúng lúc Lưu Long, Phùng Đức từ trên núi đánh xuống. Không cần ta phải đánh lên. Các sư trưởng Thần-ngao, phong, long, hổ, hầu tử trận. Công chúa Đông-Triều, Nguyệt-Điện đều bị thương. Quân Hán bị diệt hết. Lưu Long, Phùng Đức bảo vệ Mã thái-hậu chạy trốn. Mã-hậu bị Thần-ngao cắn vào bụng lòi ruột. Tây-vu thiên ưng tướng Đào Lục-Gia bắt sống y thị. Song máu ra nhiều quá, y thị chết rồi. Lưu Long, Phùng Đức trốn mất. Đào Lục-Gia bị thương nặng, có biểu tâu về triều rồi chết. 
Thánh-Thiên thở dài: 
– Ta ước tính lầm. Ta tưởng Lưu Long không thí quân đến độ đó. Y tung cả sáu vạn người đánh xuống. Lê Chân ít quân. Thành ra lực lượng Tây-vu gánh hết. Ta thiệt mất bốn sư phong, xà, ngao, hầu. 
Bà đang ngồi thẩn thờ. Quân vào báo: 
– Có sứ giả của Trần Tứ-Gia xin yết kiến. 
Thánh-Thiên đứng bật dậy: 
– Thôi rồi! Công-tôn Thiệu với Đào Nhất-Gia còn đâu nữa? 
Quả nhiên sứ giả đến tâu trình: 
– Khải tấu công-chúa. Trần Tứ vương tới cứu viện đúng lúc An-phùng chiến đấu tuyệt vọng. Các sư trưởng tượng, báo, hổ, ưng đều tuẫn quốc. Công-tôn vương gia cùng Tây-vu Đào Nhất-Gia bị thương rất nặng, lát sau cũng tuẫn quốc. Mã Viện thấy Thường-sơn bị chiếm, quân hao, tướng tổn, đã rút lui. 
Thánh-Thiên, Đào Phương-Dung, Đào Tam-Gia đồng buông tiếng khóc. 
Đào Tam-Gia than: 
– Tây-vu Thiên-ưng lục tướng sống bên nhau từ nhỏ. Tình như ruột thịt. Sún Cao sớm tuẫn quốc, không ngờ trận Nam-hải này Sún Lé, Sún Đen lại hy sinh. Nay chỉ còn Sún Rỗ đang trên đường tiến binh cùng sư tỷ Trần Quốc. Sún Hô đóng ở hồ Động-đình, và Sún Lùn này. 
Thánh-Thiên cho kiểm điểm, chôn cất tử sĩ, khâm liệm thi hài các tướng hầu đem về nguyên quán an táng. 
Có tin tế tác báo: 
– Mã Viện, tập trung tàn quân của Lưu Long, Phùng Đức, Vương Hùng, Ngô Anh. Tổng cộng được gần mười vạn, thanh thế nổi dậy. Y đã kéo tới ngã ba sông Chương-giang, Đông-khê hạ trại. Y định tiến đánh xuống nam, yểm trợ các đạo thủy quân. 
Thánh-Thiên cười, nói với các tướng: 
– Vô ích! Dù y làm gì chăng nữa cũng không cứu vãn được tình thế. Giờ này y chưa biết công-chúa Gia-hưng Trần Quốc đang âm thầm đánh phía sau lưng y. Ta không cần đánh, chờ mấy ngày, y được tin báo hậu quân bị đốt lương thảo, tất quân sĩ náo loạn. Ta đánh một trận thì phá được. Nhưng phải làm sao cho Mã Viện không dám tiến quân. 
Lê Chân bàn: 
– Lưu Long trúng kế Đào Nhất-Gia, Mã Viện cũng bị trúng kế hao binh tổn tướng. Ngô Anh trúng kế Đào Phương-Dung. Bây giờ chúng ta chỉ cần dùng nghi binh. Mã Viện đa nghi, tất không dám tiến quân. Trường hợp y vẫn tiến quân. Ta tìm cách giết một đại tướng của y, làm y nản chí, mất tinh thần. 
Hôm sau quân báo: 
– Có sứ giả của Mã Viện xin vào yết kiến. 
Thánh-Thiên truyền cho vào. Sứ giả quì gối làm lễ: 
– Thần Mã Dư, bái kiến Công-chúa điện hạ. 
Thánh-Thiên truyền kéo ghế mời ngồi. Bà ôn tồn hỏi: 
– Mã tướng quân tới đây có việc chi? 
Mã Dư nghe tiếng Thánh-Thiên dùng binh tài nhất Lĩnh-Nam, ngang với Nghiêm-Sơn, mưu trí như Phùng Vĩnh-Hoa, cương quyết như Trưng Nhị, và tài quân sư như Nguyễn Phương-Dung. Y những tưởng Thánh-Thiên có tướng mạo kinh thế hãi tục. Không ngờ trước mắt y, chỉ thấy ở Thánh-Thiên một thiếu nữ tuổi chưa quá ba mươi, ôn nhu văn nhã, nói năng từ tốn, lịch sự. 
Y kính cẩn: 
– Khải tấu Công-chúa, Mã tướng quân muốn xin Công chúa cho mang ngọc thể Thái-hậu về an táng. 
Thánh-Thiên chưa kịp trả lời, Đào Tam-Gia đứng cạnh lên tiếng: 
– Mã thái-hậu chủ trương diệt Lĩnh-Nam, hại thái thượng hoàng Trần Tự-Sơn, gây ra trận đánh Nam-hải, khiến nghĩa huynh Công-tôn Thiệu của ta chết. Hai trong Thiên-ưng lục tướng tuẫn quốc cùng trọn quân đoàn bốn tan rã. Ta phải đem xác y thị băm ra từng mảnh, trộn với phân bò mới hả giận. Đâu có thể trả xác về cho các ngươi dễ dàng như vậy. 
Thánh-Thiên an ủi Sún Lùn: 
– Sư đệ đừng quá giận. Truyện đâu còn đó. 
Bà nói với Mã Dư: 
– Tướng quân về nói với Phục ba tướng quân Tân-tức hầu cùng Phiêu-kị đại tướng-quân Thận-hầu rằng ta muốn được gặp các vị ngày mai tại bến Đông-vu hầu trực tiếp thương lượng về vụ này. 
Bà truyền Trần Tứ vương thay mặt đãi khách. Tiệc tan cho về. 
Đông-Triều công-chúa Lê Chân hỏi: 
– Sư tỷ định mượn xác Mã thái-hậu, trì hoản tiến binh của Mã Viện thêm một thời gian nữa phải không? 
Thánh-Thiên mỉm cười gật đầu. Đàm Ngọc-Nga bàn: 
– Ngày mai thế nào Mã Viện cũng đem đại quân dàn ra. Mình nên bố trí cẩn thận trước thì hơn. 
Thánh-Thiên lắc đầu: 
– Lưu Long bị Sún Lé dùng hư hư, thực thực lừa. Mã Viện bị Sún Lé giả ngây giả dại lừa. Đào Phương-Dung lừa Ngô Anh. Bây giờ ta làm ngây làm dại, để Mã Viện điên đầu, không ước tính được mình sẽ hành động ra sao. Ta phá y mới dễ. 
Bà gọi Trần Ngọc-Tích: 
– Em cho Thần-ưng tuần phòng trong vòng trăm dặm. Nhất cử nhất động của Mã Viện, cho ta biết, để còn phản ứng kịp thời. 
Bà nói với Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh: 
– Ta cần đề phòng mặt sau. Hai em đem bản bộ quân mã lên đèo An-phùng dồn trú, cho binh sĩ sẵn sàng chuẩn bị tác chiến. Nếu giặc tới đánh, chỉ nên cố thủ trên núi. 
Sáng hôm sau, Thánh-Thiên ngồi trên bành voi. Cạnh bà có Đào Tam-Gia cỡi ngựa đi theo. Phía trước một đội binh trên trăm người. Phía sau, một chiếc xe hai ngựa, chở quan tài đựng xác Mã thái-hậu. 
Mã Viện, Lưu Long, Phùng Đức, Ngô Anh, Vương Hùng đã dàn trên năm vạn quân sẵn. Chúng tưởng Thánh-Thiên mang đại quân theo. Không ngờ bà chỉ mang có trên hai trăm quân. Lưu Long nói nhỏ: 
– Bọn Lĩnh-Nam ưa dùng hư binh. Thánh-Thiên là đại tướng giỏi bậc nhất Lĩnh-Nam, tính tình thận trọng. Đời nào y thị chỉ mang theo có một đội quân trăm người ? Tôi nghĩ giờ này y thị đã cho quân đánh phía sau mình. 
Mã Viện chột dạ. Nhưng đã trót đối diện với Lĩnh-Nam, không lễ bỏ trốn? Y đành cho ngựa tiến tới trước trận. 
Thánh-Thiên thủng thỉnh đến trước trận nói với Mã Viện: 
– Tân-tức hầu! Hôm qua tôi có ước hẹn, đem thánh thể Thái-hậu trả về. Vậy hôm nay xin trao cho quân hầu. 
Cỗ xe hai ngựa từ sau tiến ra. Mã Viện truyền các tướng xuống ngựa, khiêng quan tài Mã thái-hậu về trận. Y ngơ ngác tự hỏi: 
– Con nhỏ này không biết có giả ngu giả dại không? Khi ta mang đại quân đến, mà nó chỉ mang có hai trăm tên quân, thực là ngu quá đỗi. Nếu ta hô một tiếng, thì bọn chúng bị băm ra như chả liền. 
Y lên tiếng: 
– Bản soái thành thực cảm tạ Công-chúa điện hạ. 
Thánh-Thiên nhỏ nhẹ: 
– Không dám. Từ khi Lĩnh-Nam phục quốc đến giờ, không hiểu tại sao Mã tướng-quân hai lần mang quân đánh chúng tôi. Thế là thế nào? 
Mã Viện hiên ngang đáp: 
– Đất không hai mặt trời, thiên hạ không hai vua. Tôi chỉ biết tuân theo mạng lệnh thiên tử mà thôi. Cũng như công-chúa vậy. Tôi vì Kiến-Vũ. Công chúa vì Trưng-đế. Ai vì chúa ấy. Giữa tôi với công-chúa đâu có thù oán nhau? Đào Tam-Gia nói: 
– Chúa ngươi thực xảo quyệt. Trước đã hứa trả Lĩnh-Nam cho người Lĩnh-Nam tại điện Vị-ương, rồi nuốt lời. Sau lại ban tờ đại cáo thiên hạ, rồi cũng nuốt lời. Như vậy gọi là thiên tử ư? 
Lưu Long quát lớn: 
– Thằng Lùn kia! Ta vì chịu ơn các ngươi trao trả thánh thể Thái-hậu, chứ không ta hô lên một tiếng. Quân ta sẽ băm ngươi ra như chả. Ngươi hãy câm miệng lại. 
Đánh nhau, Lưu Long có thể hơn Sún Lùn. Chứ đánh võ mồm, muôn ngàn lần y không bằng nó. Sún Lùn cười lớn:
– Quang-Vũ phong cho ngươi làm Thận hầu. Thận là chu đáo, toàn vẹn. Thế mà ngươi mang đi hai mươi vạn quân. Một mình ngươi nướng hết mười vạn. Tên Ngô Anh nướng hết bốn vạn. Tên Vương Hùng nướng hết hai vạn. Bây giờ chỉ còn bốn vạn. Ngươi còn xứng đáng với cái tên Thận nữa không? Được, ngươi hãy chỉnh lại bị quân mã đi. Ta hẹn mười ngày sau, cùng ngươi quyết đấu một trận tại đây. Ngươi có dám nhận lời không? 
Lưu Long gật đầu: 
– Được! Mười ngày nữa, giờ thìn quyết đấu. 
Hai bên cho lui quân. Trên đường về Lê Chân, Đàm Ngọc-Nga thấy nét mặt Sún Lùn có điều gì kỳ lạ. Hai người bàn với Thánh-Thiên cả buổi, mà cả ba không đoán ra. Họ biết Sún Lùn đã làm một việc gì quỉ quái bí mật, nhưng không ai đoán được. 
Đoàn người về tới núi Tuyệt-long. Từ xa Thánh-Thiên thấy trên trời có tới năm đoàn Thần-ưng bay lượn. Mỗi toán hơn trăm con. Bên sườn núi, quân sĩ dàn ra uy nghi. Bà ngạc nhiên hỏi Lê Chân: 
– Có gì lạ vậy? 
– Em cũng không biết nữa. 
Trần Ngọc-Tích nói: 
– Có một nhân vật thân thế rất lớn mới tới Tuyệt-long. Em đi vắng, ở nhà bọn Trâu cho Thần-ưng bay lên cao tuần phòng, hộ vệ. 
Thánh-Thiên vừa lên tới trại. Một giọng nói quen thuộc ấm áp, uy nghiêm lạ lùng vọng ra: 
– Ta xin lỗi các em, đã đến bất thần, không cho các em biết trước. 
Tiếng nói của vua Trưng. Thánh-Thiên hô mọi người quì xuống khấu đầu. Vua Trưng vẫy tay: 
– Miễn lễ! Miễn lễ! Kìa Trần Tứ sư thúc. Người cũng ở đây ư? 
Trần Tứ-Gia kính cẩn tâu: 
– Thần tuân lệnh của công-chúa Thánh-Thiên, trấn thủ Thường-sơn, vì vậy cũng có mặt ở đây. 
Phía sau Trưng-đế, có Trưng Nhị, Nguyễn Thành-Công, Nguyễn Tam-Trinh, cùng quần thần. Thánh-Thiên tường trình chi tiết các trận đánh. Trưng-đế hài lòng. Ngài ban chỉ dụ: 
– Lĩnh-Nam ta hiện có nhiều tướng tài hơn Trung-nguyên. Điều mà trước đây ta hằng lo lắng trong lòng, vì nước mới phục hồi. Về võ công ta nhiều cao thủ hơn Hán. Dân ta yêu nước hơn dân Hán. Tướng ta trung liệt hơn tướng Hán. Ta chỉ còn lo, tướng ta không thiện chiến bằng tướng Hán. Qua trận đánh hồ Động-đình, trận Tượng-quận, trận Nam-hải. Ta thấy mình đủ tướng tài. 
Giao-chỉ vương Trưng Nhị tiếp: 
– Mới ngày nào, cả Lĩnh-Nam có mình Đào Kỳ biết cầm quân, khi trợ Hán đánh Thục. Tại Xuyên-khẩu, Bạch-đế, các tướng theo lệnh truyền sao làm vậy. Bảo đánh, cứ y lệnh mà làm. Trận hồ Động-đình, Phật-Nguyệt chỉ cần giao mặt này cho tướng này, mặt kia cho tướng kia. Song trận hồ Động-đình vẫn còn nhỏ hẹp. Trận Nam-hải mới tỏ tài các tướng. Thánh-Thiên giao mặt biển cho Trần Quốc. Phụng-hoàng cho Đào Phương-Dung. Khúc-giang cho Lê Chân. Đồi An-phùng cho Công-tôn Thiệu. Công-tôn Thiệu giao cho Đào Nhất-Gia cản giặc. Nhất-Gia tự có kế hoạch, như một đại tướng. 
Trưng Đế truyền tế các tử sĩ, truy phong, phủ tuất gia đình. Ngài ban chỉ đem xác Công-tôn Thiệu về quàn ở Trường-sa, chờ Vương Phúc, Sa-Giang về nhìn mặt rồi sẽ chôn sau. Sắc phong: 
Hiển uy Trung-dũng đại vương. 
Truyền lập đền thờ. 
Tính chung từ hôm xảy ra trận chiến Nam-hải. Phía trên bộ hao hơn vạn người. Trận An-phùng mất hai vạn nữa, đều thuộc quân số đạo Nam-hải. Trần Tứ-Gia lệnh lấy quân địa phương bổ xung liền. Dùng tráng đinh thay quân địa phương. 
Số tướng sĩ chết hơn nghìn người. Quan trọng nhất là Trường-sa vương Công-tôn Thiệu, Đào Nhất-Gia, Đào Lục-Gia với tám sư trưởng thuộc quân đoàn bốn Tây-vu. Truyền thống Tây-vu hồi đó, khi các tướng soái tử trận, thân thể được tắm rửa sạch sẽ, đặt ngay ngắn trước đài, cho đạo quân diễn hành qua, rồi mới khâm liệm với hoa khô. 
Đào Tam-Gia đặt mười thi thể các chúa tướng Tây-vu trước một đài bằng gỗ. Xung quanh mỗi xác chết phủ đầy hoa tươi. Bốn góc đài, đều có trăm con vượn đứng gác. Cứ theo tài liệu tại các đền thờ anh hùng tuẫn quốc, thì vua Trưng phong chức tước như sau: 
Tây-vu Thiên-ưng Quốc Công Đào Nhất-Gia. Tuẫn quốc hai mươi hai tuổi. 
Tây-vu Thiên-ưng Quốc Công Đào Lục-Gia. Tuẫn quốc hai mươi tuổi. 
Thi hài sau được đưa về chôn ở Cửu-chân. Đền thờ bị phá hồi quân Trương Phụ sang đánh Đại-Việt (1407) 
Sư trưởng Thần hầu Lại Quan, tước Liệt Hầu. Tuẫn quốc mười bảy tuổi. Thi hài được đem về chôn tại Giao-chỉ. Ngày nay còn thờ ở đình Thượng-Thanh, xã Thanh-cao, huyện Thanh-oai, tỉnh Hà-tây. 
Sư trưởng Thần ưng Hùng Bàn, tước Liệt Hầu. Tuẫn quốc mười chín tuổi. Thi hài được đưa về Giao-chỉ. Ngày nay còn đền thờ ở xã Ninh-xá, phủ Thuận-thành, tỉnh Hà-bắc. Cùng thờ chung với sư trưởng Thần ngao, quân đoàn ba Tây-vu Trần Thiêm-Bình. 
Sư trưởng Thần-ngao Lã Văn-Ất, tước Liệt Hầu. Tuẫn quốc mười chín tuổi. Thi hài được đưa về Giao-chỉ. Ngày nay còn được thờ tại đình Kênh-cầu, làng Dân-chủ, xã Yến-mỹ, tỉnh Hải-hưng. 
Sư trưởng Thần-báo Chu Quảng-Khánh. Tước Liệt Hầu. Thi hài được đưa về Giao-chỉ. Ngày nay còn có đền thờ tại xã Cẩm-giàng, huyện Tiên-sơn, tỉnh Hà-bắc. Thờ chung với Lê Diệu-Tiên, Hoàng Pháp-Hải. Không rõ tuẫn quốc lúc bao nhiêu tuổi. 
Sư trưởng Thần-phong Vũ Hải-Diệu. Tuẫn quốc mười tám tuổi. Thi hài được đưa về Giao-chỉ. Tước Hải-Diệu quận chúa. Ngày nay còn có đền thờ tại Thượng-ngõa, phía Bắc cầu Phùng. Tỉnh Hà-bắc. 
Sư trưởng Thần-long Lê Diệu-Tiên. Tuẫn quốc mười sáu tuổi. Thi hài được đưa về Giao-chỉ. Tước Diệu-Tiên quận chúa. Ngày nay còn đền thờ ở xã Cẩm-Giang, huyện Tiên-sơn, tỉnh Hà-bắc. Thờ chung với Chu Quảng-Khánh, Hoàng Pháp-Hải. 
Sư trưởng Thần-hổ Hoàng Pháp-Hải. Tuẫn quốc hai mươi tuổi. Thi hài được đưa về Giao-chỉ. Ngày nay còn đền thờ tại xã Cẩm-giàng, huyện Tiên-sơn, tỉnh Hà-bắc. Cùng thờ chung với Lê Diệu-Tiên, Chu Quảng-Khánh. Tước liệt hầu, Thần-dũng đại tướng quân. 
Sư trưởng Thần-tượng Đào Khang. Tuẫn quốc mười chín tuổi. Thi hài được đưa về Giao-chỉ. Tước Thần-Oai đại tướng quân, liệt hầu. Ngày nay còn thờ tại đình làng Phú-hòa, xã Bình-phú, tỉnh Hà-bắc. 
Sau khi Trưng-đế sai đọc sắc phong. Thánh-Thiên đệ trình tấu chương của Đào Lục-Gia trước khi chết để lại. Trưng-đế cầm mảnh áo lụa đầy máu, trên đó chữ viết run rẩy. Chứng tỏ khi viết Lục-Gia đã kiệt lực rồi. Ngài nhận ra, chính là vạt áo trước đây ngài ban thưởng cho Tây-vu Thiên-ưng lục tướng.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 25 : Tô khấu tước bình, trực bả quần thoa đương kiếm kích,Trưng vương dực tải, hảo tương cân quắc hộ sơn hà.(Câu đối ở đền thờ Trần Quốc)




 Niên hiệu Lĩnh-Nam năm thứ ba, tháng ba ngày 13. 
Thần Đào Lục-Gia, tức Sún Đen kính cẩn rập đầu tâu trước hoàng-đế bệ hạ Lĩnh-Nam. 
Kể từ khi Lĩnh-Nam phục quốc. Thấm thoát đã được ba năm. Trong ba năm, nền nội trị thực vững vàng. Trên từ hoàng-đế bệ hạ, xuống dưới thứ dân, trước sau như một, người người đồng tâm. Thần đi đến đâu cũng thấy tiếng trẻ đọc sạch. Tiếng hát ở đồng quê. Tiếng thầy dạy học trò. Mùa màng liên tiếp trúng. Lúa gạo đầy kho. Lương tiền dư giả. Trong khi đó, bên Trung-nguyên, quan lại nhũng lạm, dân chúng lầm than. Cái cảnh thái bình, thịnh vượng ở Lĩnh-Nam, khiến dân chúng Trung-nguyên nhấp nhỏm muốn lật nhà Hán. Vì vậy Quang-Vũ hoảng sợ, bằng mọi giá phải diệt nước mình. Trận hồ Động-đình, diệt ba mươi vạn quân. Mã Viện, Lưu Long táng đởm kinh hồn. Trung-nguyên rung động. 
Giữa lúc thế giặc tan, Kinh-châu náo loạn, Nam-dương không phòng bị kịp, thần khuyên công chúa Thánh-Thiên đánh lên Bắc, hợp với công-chúa Phật-Nguyệt. Trước chiếm Kinh-châu, trao cho Thục cai trị. Thuận thế trẻ tre đánh về Lạc-dương. Tất Quang-Vũ bỏ Lạc-dương vào Trường-an. Ta trao Trung-nguyên cho Thục. Như vậy cái thế tam phân thiên hạ lại tái lập. Song lời đề nghị của thần không được các tướng soái tán thành. 
Thần đã cùng ăn, cùng ở với tướng sĩ Hán. Thần hiểu họ hơn ai hết. Đừng bao giờ hy vọng họ để mình đứng yên. Việt, Hán bất lưỡng lập. Ta không đánh người. Tất người đánh ta. Quả như vậy, sau khi xảy ra vụ Lê Đạo-Sinh, Lĩnh-Nam mất Tượng-quận. Đất tổ mất một phần sáu. Ôi đau đớn biết bao? Bọn tướng sĩ Tây-vu chúng thần, thường đêm ngày khóc thảm, đau xót khôn tả. Đất nước của Quốc-tổ, để rơi vào tay Hán. Bọn thần đều thề rằng: Từ nay gặp giặc Hán, đánh như sét nổ. Coi cái chết như lông hồng. Có như vậy mới khiến giặc kinh sợ. 
Hay đâu trận đánh Nam-hải diễn ra. Lưu Long mang hai mươi vạn quân. Mã Viện mười vạn. Thêm mười vạn thủy quân. Cộng lại tới bốn mươi vạn. Hán mất ba mươi vạn ở hồ Động-đình, có hai mươi vạn ở Tượng-quận, bốn mươi vạn ở Nam-hải. Trong khi Lĩnh-Nam mất năm vạn ở hồ Động-đình, đến nay vẫn chưa hàn gắn xong. Trận Tượng-quận, không đánh mà tan hết đạo binh năm vạn. Trên mười vạn tráng đinh Lĩnh-Nam huấn luyện, bị Lê Đạo-Sinh dùng đánh lại Lĩnh-Nam. Không biết sau trận Nam-hải, đất Lĩnh-Nam mất bao nhiêu con em? Ngày nào mới bổ xung kịp? Trong khi đó Hán vẫn có thể kéo quân Tinh, U, Ký châu hơn trăm vạn về. 
Bọn thần đã bàn cùng Công-tôn sư huynh, nguyện lấy cái chết đền ơn Quốc tổ, Quốc mẫu và bệ hạ. Vì vậy quân Lưu Long năm phần, Công-tôn đại ca với Sún Lé không được một, mà giết bốn vạn giặc. Công-chúa Thánh-Thiên trao cho công-chúa Đông-Triều, với thần ba vạn quân, phải vây sáu vạn quân Lưu Long. Công-tôn đại ca hai vạn người, trấn mười vạn quân Mã Viện. Khi nhận trách nhiệm, bọn thần cầm chắc cái chết trong tay. Cho nên anh em thần đã bí mật cùng ăn với nhau bữa cơm vĩnh biệt, trước khi ra trận. Trên đường tiến quân, cứ mỗi bước, thần lại liếc nhìn cảnh vật, này sông, này núi, này hoa, này cỏ. Bọn thần chỉ được nhìn lần này là lần chót, rồi thây phơi trên chiến địa. 
Thần đứng chỉ huy các sư phong, xà, ngao, hầu vây giặc. Mỗi lần chúng đổ đồi, một lần bọn thần đánh bại. Thề một bước không lui. Lại Quán chỉ huy đoàn khỉ, truyền cành này, băng cành nọ. Bị giặc chém cụt một tay, máu chảy như suối, vẫn nghiến răng chịu đau, đốc xuất Thần-hầu, cho đến khi máu ra hết, mới ngã xuống. Hải-Diệu dùng ong đốt giặc. Hàng ngũ giặc rối loạn. Chúng dùng lửa hun khói. Ong bỏ chạy. Diệu bị bắt, can đảm cắn lưỡi chết, để bảo vệ danh tiết. Lê Diệu-Tiên trấn giữ thác nước, không cho giặc chiếm. Giặc đánh mười lần, đều bị đẩy lui. Thần-long chết hết. Hải-Diệu tủi hổ nhắc lại chỉ dụ của bệ hạ "Tướng là quân. Quân là tướng". Vì vậy đã tự tử theo quân. Xác phơi trên sườn núi. Lã-văn-Ất dùng chó sói bảo vệ Thần-nỏ. Thần-nỏ bị tràn ngập. Chó sói liều lĩnh cùng chết với giặc. Giặc chết hết, thì sói cũng cùng. Lã Văn-Ất kiệt lực, ngã xuống như ngọn đèn hết dầu. 
Thần bị trúng thương ba chỗ. Biết chắc sẽ chết. Thu nhặt tàn quân quân đoàn bốn Tây-vu, đánh vào tên giặc chót. Máu ra nhiều quá, chân tay run rẩy, mắt hoa không còn thấy đường. Vội lấy giải áo bệ hạ ban cho ngày nào, gửi tấu chương. Con chim sắp chết, tiếng kêu bi thương. Người ta sắp chết lời nói hẳn lành, thần dám xin bệ hạ, sau trận đánh Nam-hải, Lưu Long, Đoàn Chí, Mã Viện đều kiệt lực. Khẩn cho công-chúa Gia-hưng đánh thẳng về Lạc-dương. Công-chúa Thánh-Thiên đánh về Hạ-khẩu, cùng công-chúa Phật-Nguyệt, tiến chiếm Kinh-châu. Bắc-bình vương Đào Kỳ đi sau tiếp ứng. Cửu-chân vương Đô Dương, vượt biển đánh lên Liêu-đông. Bốn mặt uy hiếp Lạc-dương. Cần đánh thực nhanh, không cho Hán kịp thời trở tay. Quang-Vũ tất bỏ chạy. Ta giúp hào kiệt Trung-nguyên, lập một triều đình mới. Trung-nguyên bị chia ba, chia bốn, Lĩnh-Nam mới tồn tại. Dù sau này họ thống nhất lại được, cũng mất hai, ba chục năm. Bấy giờ Lĩnh-Nam ta mạnh. Ta vỗ kiếm, nói truyện với Trung-nguyên trong thế chiến thắng. 
Hỡi ơi! Mắt thần mờ đi rồi, máu ra nhiều quá. Thần... " 
Đến đây máu, nước mắt bê bết, không còn chữ nào nữa. Trưng-đế cùng các đại thần nước mắt tuôn rơi. Ngài phán: 
– Ta thường nghe Bắc-bình vương nói rằng: Tây-vu Thiên ưng lục tướng tuổi tuy trẻ, mà suy nghĩ như người già. Trong sáu tướng. Lục gia trẻ nhất, học văn tiến hơn cả. Cứ đọc bản văn này thì rõ. Ta sẽ khẩn họp các tướng quyết định về lời tâu của Lục gia. 
Lễ tẩm liệm các anh hùng Tây-vu bắt đầu. Đào Tam-Gia đeo bảo kiếm. Tay cầm năm lá cờ ngũ sắc phất. Hơn trăm chiến sĩ Tây-vu cầm tù và rúc lên tu tu. Tiếng tù và nức nở, kéo dài thê lương bất tận. Trên từ Trưng-đế xuống đến quần thần đều cúi mặt. Đào Tam-Gia hướng vào các tử thi đọc bài điếu văn thảm thiết. 
Đào Tam-Gia dứt lời. Một hồi tù và thổi lên. Trên trời Thần-ưng từ xa bay tới. Hơn nghìn con bay lượn vòng tròn trên trời. Từng toán năm con một tách khỏi đoàn, nghiêng cánh bay xuống lượn qua xác các chúa tướng. Chúng cất tiếng bi ai thảm não. Cứ như thế, lần lượt chúng biến vào chân trời. Trong khi đó, đoàn Thần-hầu thứ tự đến trước đài để xác các chúa tướng hành lễ như người. Đoàn Thần-tượng đi qua, chúng đều quì gối, rơi nước mắt, rống lên thống thiết bi ai. 
Đoàn Thần-hổ, Thần-báo, Thần-ngao, thứ tự đi qua đài. Chỉ còn đàn Thần-phong, Thần-long không dự lễ tiễn biệt.
Đến đó Thần-ưng đã bay trở về. Trên mỏ mỗi con ngậm một đóa hoa tươi. Chúng bay qua khán đài, thả xuống. Hoa mưa trên xác tử sĩ. Rồi chúng đậu chi chít trên các cành cây, cúi đầu ủ rũ, cất tiếng kêu khắc khoải. Xác các tử sĩ được khâm liệm. 
Công-chúa Thánh-Thiên truyền chở về quê hương chôn cất. Tính chung quân đoàn bốn Tây-vu thiệt hại: 
Sư Tượng, hai trăm thớt voi, hai mươi tướng. 
Sư Hổ, ba trăm con, ba mươi tướng. 
Sư Báo, ba trăm con, ba mươi tướng. 
Sư Long, năm ngàn con, ba mươi nữ tướng. 
Sư Ưng, sáu trăm con, ba mươi tướng. 
Sư Ngao, ba trăm con, ba mươi tướng. 
Sư Hầu, sáu trăm con, ba mươi tướng. 
Sư Phong, hai triệu, mười nữ tướng. 
Thuật giả chỉ biết tên các chúa tướng, không có sách sử nào chép rõ tên tuổi hai trăm mười tướng tuẫn quốc trên. Đành gọi chung bằng danh hiệu Anh Hùng Lĩnh Nam. 
Trưng-đế hỏi: 
– Có tin tức gì về đạo thủy binh không? 
Trần Tứ-Gia tâu: 
– Tâu bệ hạ, từ hôm lâm chiến đến giờ. Thần vẫn nhận được đầy đủ tin tức các đạo thủy quân của công-chúa Gia-hưng, Trấn-đông tướng quân Vũ Chu. Còn tin tức đạo Nam-hải với vịnh Giao-chỉ thần chưa nhận được gì cả. 
Trưng Vương vẫy tay, tỏ ý an ủi: 
– Xin Tứ sư thúc an tâm. Trước khi đến đây, tôi đã nhận được đầy đủ tin tức đạo quân Chu Long đánh Nam-hải và đạo của Trịnh Sư đánh vịnh Giao-chỉ. Hai nơi này chúng đều bại. 
Các tướng sĩ nghe nói, đều mừng hớn hở. Tư-đồ Phùng Vĩnh-Hoa nói: 
Trước hết hạm đội của Chinh-nam đại tướng quân Trịnh Sư, gồm hơn hai vạn người ra khơi, hướng vào vịnh Giao-chỉ. Công-chúa Gia-hưng Trần Quốc lệnh cho các đội tuần tiễu tránh xa. Làm như không khám phá âm mưu đánh úp Giao-chỉ của chúng. Một mặt cho Thần-ưng báo về Giao-chỉ. Đại tư mã Giao-chỉ Trần Dương-Đức truyền cho các đội giang thuyền nhỏ ẩn ở trong các lạch ven bờ biển: khi thấy chiến thuyền giặc sắp tới, thì kéo cờ trắng dọc các cửa sông. Trịnh Sư xuất thân một trong Liêu-đông tứ ma. Y sống trên biển quen, song lại không có tài dùng binh. Y thấy cờ trắng treo khắp đác cửa sông, thì nghi ngại. Y cho một chiến thuyền tiến vào dò la. Đô-đốc Giao-chỉ là công-chúa Tử-Vân (sử gọi là nàng Tía) cho một vài chiến thuyền nhỏ chèo ra đánh rồi bỏ chạy. Chiến thuyền vào tới chỗ khuất, nàng cho Giao-long binh lặn xuống đục thuyền Hán. Thuyền chìm. Quân Hán bơi vào bờ sông, bị bắt hết. Trịnh Sư thấy chiến thuyền dò thám mất tích, y cho chiếc thứ nhì vào. Lại bị Tử-Vân đánh chìm bắt hết. 
Đến chiến thuyền thư năm mất tích, Trịnh Sư hao hai nghìn năm trăm thủy thủ, mà không biết việc gì xảy ra. Y định rút lui. Bấy giờ Công-chúa Tử-Vân cho một số chiến thuyền xuất hiện. Vừa đánh trống, vừa chạy. Trịnh Sư đuổi theo rất gấp. Công-chúa thuộc địa thế, cho chiến thuyền của mình vượt qua cửa bể Thần-phù dễ dàng. Trịnh Sư không biết cửa Thần-phù sóng lớn, xoáy mạnh, cho chiến thuyền đi vào. Chiến thuyền Hán quay ngang, quay ngửa, khốn khổ lắm mới thoát được, thì không thấy chiến thuyền của công-chúa Tử-Vân đâu. Chúng hướng bờ biển tiến vào, đúng vùng núi Nghi-sơn, Biện-sơn thuộc Cửu-chân. 
Các tướng nghe Phùng Vĩnh-Hoa kể truyện, say mê. Đến độ hiện diện hơn nghìn người, mà một con ruồi bay qua còn nghe thấy tiếng. Phùng Vĩnh-Hoa tiếp:" … Các vị biết Cửu-chân vương Đô Dương tài ba thế nào rồi đó. Đất Cửu-chân nhân tài như thế nào rồi đó. Trước khi nhử giặc. Công-chúa Tử-Vân đã thông báo cho Đô vương gia biết. Đô vương gia họp anh hùng Cửu-chân. Ai cũng đòi được đánh giặc. Cuối cùng công-chúa Nga-sơn đưa ra kế hoạch: Phải làm thế nào bắt sống hết đám giặc, mới tỏ được khí phách anh hùng Cửu-chân. Kế hoạch chuẩn bị sẵn ". 
Công-chúa Phùng Vĩnh-Hoa ngừng lại, uống bát nước vối, lấy giọng, rồi tiếp: 
" … Đô vương gia để cho giặc đổ bộ lên đảo Nghi-sơn. Đêm chúng nấu cơm ăn, ngủ say như chết. Người cho bốn tướng, Mai An, Mai Đạt, Mai Thỏa, Mai Tứ dẫn một đội Giao-long binh từ trên rừng lặn xuống cắt dây cột chiến thuyền, bắt trói mấy tên thủy thủ canh gác lại. Làm xong mọi việc, đốt pháo lệnh lên. Thủy quân của Đô-đốc Tử-Vân từ ngoài khơi tiến vào, đánh trống, khua chiêng. Trịnh Sư cùng đám quân ngủ trên đảo thức giấc, chỉ thấy biển mênh mông. Chiến thuyền mình bị cướp hết. Trời sáng, Đô vương gia dẫn Đại tư-mã Đinh Đại, các đại tướng Đô Thiên, Đào Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn, đem chiến thuyền Cửu-chân hợp với Đô-đốc Tử-Vân vây đảo Nghi-sơn. Được hai ngày, quân trên đảo hết lương, đói lả, nằm la liệt. Bấy giờ quân Cửu-chân dùng thuyền đổ bộ, chỉ việc trói lại. Đại tư mã Đinh-Đại xin xẻo thịt Trịnh Sư trả thù cho Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương, Quách Lãng tử trận hồ Động-đình, song tìm hoài không thấy y đâu" . 
Thánh-Thiên hỏi: 
– Còn mặt trận Hải-nam? 
Trưng Nhị thuật: 
" … Công-chúa Tử-Vân xin với tôi, được đem quân tiếp ứng đảo Hải-nam. Tôi thuận. Nàng dùng chiến thuyền Hán, kéo cờ hán. Lấy quần áo thủy thủ Hán cho thủy thủ Lĩnh-Nam mặc. Dương buồm vượt vịnh Giao-chỉ tiến đến đảo Hải-nam. Tôi vội sai Thần-ưng báo cho Nam-hải vương Trần Nhất-Gia, Nhị-Gia biết trước để khỏi ngộ nhận, đánh lẫn nhau. Chu Long dẫn ba vạn thủy thủ, đem chiến thuyền đánh đảo Hải-nam. Sư bá Trần Nhất-Gia giả như không biết. Như các vị biết đảo Hải-nam đất rộng, dân ít, gần bờ biển hơn hai mươi dậm không có người. Sư bá truyền quân ẩn vào rừng rậm. Chu Long yên tâm đổ bộ lên đảo. Nghỉ ngơi hai ngày. Y cho quân tiến sâu vào lục địa. Không gặp quân kháng cự. Dân chúng cúi đầu tuân phục, cung cấp thịt, cá cho chúng. Chúng yên tâm, đóng quân trên đảo. Giữa lúc sư bá Trần Nhất-Gia nhất định phản công đánh giặc, thì được thư của tôi. Người cho sư giả ra khơi bàn với công-chúa Tử-Vân. Công-chúa Tử-Vân án binh ngoài khơi. Chờ đến đêm mới dùng thuyền nhỏ chở đội Giao-long binh vào đánh úp, chiếm hết chiến thuyền của Chu Long, rồi chèo ra khơi. Trong lúc đó sư bá Trần Nhất-Gia cho quân đến cướp trại. Chu Long đấu với sư bá hơn bốn trăm hiệp bất phân thắng bại. Quân sĩ của y rút ra biển, thì ôi thôi, chiến thuyền không cánh mà bay. 
Tráng đinh trên đảo, cùng quân sĩ ẩn trong rừng, đêm tiến ra đánh tỉa. Thủy thủ Hán mất chiến thuyền, lương thực không còn, lại bị đánh du kích. Đợi sau mười ngày, cho chúng đói khát. Bấy giờ đại quân Nam-hải với Thủy quân Giao-chỉ xuất hiện. Chúng đầu hàng hết. Chu Long cướp một thuyền nhỏ bỏ chạy. Gặp công-chúa Nga-Sơn cùng đội thủy quân Cửu-chân. Thủy thủ vây y kín như thành đồng vách sắt. Nhìn cử chỉ Công-chúa Nga-Sơn, y biết người không giỏi võ. Y nhảy nhót mấy cái đến bên người, vung tay kiềm chế để thoát thân. Thủy thủ thấy vậy không dám tấn công y nữa. Trong khi y bắt công-chúa Nga-Sơn lên một con thuyền nhỏ, chèo trốn, thì thình lình công-chúa nhào xuống biển. Chu Long đánh theo một chưởng. Công-chúa ở dưới nước bị long óc chết. 
Công-chúa Tử-Vân xua chiến thuyền đuổi theo. Hai người đại chiến dưới đáy biển. Sau nửa giờ Chu Long không thạo thủy chiến bị bại, y cướp một chiến thuyền bỏ chạy. Thế là chúng ta bắt sống được năm vạn thủy quân với hai trăm chiến thuyền lớn. 
Công-chúa Tử-Vân xin tôi cho phép đem cả hạm đội mới bắt được, vận tải thủy quân Nam-hải, Giao-chỉ tiếp ứng cho công-chúa Trần Quốc. Tôi đồng ý. Đến đó tôi lên đường đi Mê-linh. Không được tin tức gì nữa". 
Chú thích tác giả: Công-chúa Tử-Vân thường được gọi bằng danh từ bình dân "Nàng Tía". Quê công-chúa ở Vĩnh-hưng. Nay thuộc xả Vĩnh-quỳnh, huyện Thanh-trì, tỉnh Hà-đông còn có đền thờ bà cùng với hai tướng thời vua Hùng. Trong đền có nhiều câu đối. Tác giả xin trích dần: 
Câu đầu, vế thứ nhất: 
"Sinh ứng xương kỳ, hiệp tán Hùng gia song hiển thánh". 
Vế này ý nói: Thời thịnh trị sinh ra hai tướng cùng phù vua Hùng. Nay hiển thánh. 
Vế dưới nói về Tử-Vân: 
"Triệu bằng tiền mộng, dực phù Trưng thế nhất anh thư". 
Vế này ý nói: Mộng xưa ứng vào điềm, một vị anh thư giúp vua Trưng. 
Câu thứ nhì, vế thứ nhất : 
"Giáng thế phi thường, Ma lôi cầm chính tướng. Xích tị diệt yêu tinh, vinh hữu khoán thư, tính tuyền tuấn liệt". 
Vế này ý nói về hai tướng thời vua Hùng rằng giáng thế khác thường, Ma lôi bắt tướng giặc. Rắn đỏ trừ yêu tinh, cho nên giữ chốn đình này rạng rỡ, thờ kính đời đời vị tài dũng liệt. 
Vế dưới, nói về Tử-Vân: 
"Hiển linh đặc dị, Thủy quốc mộng báo liên hoa, Thần phù khởi phong trận, hưng tứ phất miện, công mộc hồng hưu". 
Nghĩa là: Hiển linh kỳ dị, Thủy quốc mộng hoa sen. Thần phù nổi gió bão. Buổi tế lễ chỉnh tề mũ áo, khắp nơi tắm ơn sâu. 
Sau trận Nam-hải, công-chúa trấn vùng vịnh Bắc-Việt khiến hơn hai năm, Lưu Long không vào được đất Giao-chỉ. Đó là truyện sau. 
Bây giờ trở lại trận Nam-hải. 
Trần Tứ-Gia tâu với Trưng-đế: 
" … Đoàn Chí với Sầm Bành đem quân đánh đảo Đông-Sơn. Chúng cho thủy thủ tiến vào bờ. Ngũ-đệ cùng Vũ Chu để cho chúng rời thuyền. Trong khi chúng đang lên bãi cát, lập tức cho lệnh các xe Thần-nỏ bắn ra. Thủy thủ chới với giữa bãi biển, ngã hết. Chỉ loạt đầu, năm dàn Thần-nỏ bắn chết hơn vạn quân. Chúng lui trở lại chiến thuyền. Thần-nỏ được quân hộ tống, đuổi theo bắn tà tà trên thuyền. Chúng rút ra khơi kịp. Quân trên đảo chỉ chiếm được ba mươi chiến thuyền. 
Hôm sau chúng trở lại đánh đảo. Chúng mang theo lá chắn bằng rơm tẩm bùn. Đó là kinh nghiệm của Ngô Hán đánh Đức-xương. Thần nỏ bắn không kết quả. Chúng tiến sát hàng rào. Quân trấn thủ chiến đấu mãnh liệt. Suốt ngày, bên giặc chết hơn hai vạn. Lĩnh-Nam chết hơn vạn. Vũ Chu bị thương nặng. Đêm, giặc lên thuyền rút ra khơi.
Trên đảo, Vũ Chu bị thương, lại chiến đấu mệt mỏi, nên chết lúc canh tư. Hôm sau Đoàn Chí, Sầm Anh trở lại đánh nữa. Giữa lúc chúng đánh vào tới hàng rào cuối cùng, binh tướng hai bên chết la liệt, thì Trấn-nam vương Vương Phúc với công-chúa Trần Quốc đem quân tới. Đoàn Chí, Sầm Anh cho quân rút lên chiến thuyền. Hai bên dàn trận giữa biển đại chiến. Thần tiễn Âu-Lạc tứ hùng đứng trên cột buồm lớn. Mỗi lần buông tên, bốn tướng giặc ngã xuống. Hai bên cứ giữ khoảng cách xa gần trăm trượng. Thình lình Thần-ưng xuất hiện đánh xuống. Thủy thủ Hán náo loạn. Giữa lúc đó, đội Giao-long binh lặn xuống đục thuyền. Lát sau hai trăm chiến thuyền Hán bị chìm. Quân Hán bơi đầy mặt biển. Thuyền Lĩnh-Nam vớt lên trói lại... Đoàn Chí, Sầm Anh kéo trên trăm chiến thuyền chạy. Giữa lúc hai bên đuổi nhau, đoàn chiến thuyền của công-chúa Tử-Vân xuất hiện. Công-chúa Trần Quốc thấy chiến thuyền Hán, mang cờ Hán, thủy thủ mặc quần áo Hán, nhờ được báo trước,bà vẫn biết là quân Giao-chỉ giả quân Hán. Đoàn chiến thuyền Giao-chỉ tới nơi, mà Sầm, Đoàn còn tưởng viện binh. Khi các chiến thuyền Giao-chỉ chở Thần-nỏ bắn qua. Thủy thủ Hán ngã ngổn ngang. Chúng mới tỉnh ngộ thì đã trễ. 
Sầm Anh bỏ chạy, bị Thần-tiễn Âu-Lạc tứ hùng bắn theo. Y bị thương ở tay, song trốn được. Đoàn Chí bị vây. Y nhảy sang thuyền công-chúa Trần Quốc định bắt tướng. Đụng phải Nghi-hòa công-chúa Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa. Y đấu với Quế-Hoa hơn hai trăm chiêu bất phân thắng bại. Cuối cùng quân tướng bị bắt hết. Y nhảy ùm xuống biển, lặn mất. Công-chúa Trần Quốc nhảy theo. Trận chiến dưới biển kinh hồn diễn ra. Đoàn Chí võ công cao. Công-chúa Trần Quốc giỏi thủy tính. Đánh nhau hơn giờ, y mệt nhoài, trúng một kiếm vào giữa ngực, y bị thương nặng. Công-chúa Trần Quốc bắt sống y đem lên soái thuyền. Được nửa ngày, y mất máu nhiều quá, chết. 
Sau đó công-chúa Trần Quốc hợp với công-chúa Tử-Vân, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Sa-Giang, Đào Ngũ-Gia, rồi cho chiến thuyền vượt biển đánh lên phía Bắc. Từ đấy thần không được tin tức nữa". 
Bỗng có tin báo: 
– Dường như Mã Viện chuẩn bị rút quân. 
Thánh-Thiên truyền đánh trống tụ tập tướng sĩ nghe lệnh. Bà tâu với vua Trưng: 
– Xin bệ hạ ban chỉ dụ. 
Vua Trưng mỉm cười: 
– Chị ngồi xem em đuổi giặc. 
Thánh-Thiên rưng rưng nước mắt cảm động. Vì hơn ai hết, bà hiểu cung cách hành xử của vua Trưng. Đối với người ít thân, ngài thường gọi bằng chức tước. Còn đối với ai quá thâm tình, ngài thường gọi bằng tên hoặc xưng chị em. 
Ngài nói với quần thần: 
– Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa, Phương-Dung trông còn có vẻ tướng. Chứ Phật-Nguyệt, Thánh-Thiên, mình hạc, xương mai. Nói năng nhỏ nhẹ nhu mì. Có ai ngờ đâu lại có tài cầm quân, có chí nuốt trăng sao vào miệng. 
Thánh-Thiên cầm kiếm lệnh để lên án: 
– Mã Viện rút quân, chắc y được tin quân Lĩnh-Nam đánh lên Phúc-môn, tiến về Giang-hạ, đánh chiếm Nam-dương. Chúng ta phải đuổi theo giặc, tiêu diệt chủ lực chúng. 
Bà trao binh phù cho Trần Tứ-Gia: 
– Võ công Phùng Đức rất cao. Ngoài sư bá không ai địch nổi. Vậy sư bá hãy cùng Đào Nương đem đoàn Thần-phong, và hai vạn quân đêm nay cướp trại giặc. Nhớ không nên đuổi giặc làm chi. Chiếm được trại giặc là đủ. 
Bà gọi Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh: 
– Mã Viện, Lưu Long tất rút quân trước. Chúng để Phùng Đức rút sau. Hai em lĩnh một vạn quân, với năm dàn Thần-nỏ, đem theo Lê Hằng-Nghị với sư Thần-tượng phục ở My-sơn. Hễ thấy Mã Viện, Lưu Long về tới, đợi cho chúng đi qua một nửa. Tung phục binh đánh cắt đoạn hậu. 
Bà gọi Lê Chân, Đàm Ngọc-Nga: 
– Hai em đem một vạn quân với Trương Quán, Phan Tương-Liệt dẫn Thần-hổ, Thần-báo, đêm nay cướp trại của Ngô Anh, Vương Hùng. Giặc bỏ chạy thì thôi. Không cần đuổi theo. 
Các tướng rầm rộ dẫn quân lên đường. Phan Đông-Bảng, hiện lĩnh chức Tư-không đất Quế-Lâm. Vũ Công-Chất giữ chức Hình-bộ thượng thư cũng thấy ngứa chân tay. Đông-Bảng nói: 
– Thánh-Thiên! Có chỗ nào, cho sư thúc đánh với. Ngồi nhà nhìn các cháu đánh giặc, ta chịu không được. 
Thánh-Thiên kính cẩn: 
– Còn một mặt nữa, cháu không biết nhờ ai. Vậy xin nhờ sư thúc Phan, sư thúc Vũ, Nguyễn dẫn một vạn quân, đem theo sư Thần-ngao, Thần-ưng phục tại Vĩnh-định, hễ thấy Ngô Anh, Vương Hùng chạy qua, thì đổ ra đánh. 
Phan Đông-Bảng, Vũ Công-Chất, Nguyễn Tam-Trinh lĩnh mệnh lên đường. 
Binh-bộ thượng thư Chu Bá hỏi: 
– Còn ta ngồi chơi sao? 
Thánh-Thiên nói: 
– Sư bá cùng cháu phù hoàng-thượng lên đỉnh núi cao điều binh, tiếp ứng các nơi. Đêm nay mười vạn quân Mã Viện bị tám vạn quân Lĩnh-Nam tiêu diệt. 
Thánh-Thiên thỉnh Trưng-đế cùng Trưng vương, triều thần lên đỉnh núi Thường-sơn quan sát trận chiến. 
Trưng-đế cầm tay Thánh-Thiên nói: 
– Về tài dùng binh, quân sư, mưu kế, em kiêm cả ba. Song có điều em hiểu người không trọn vẹn. Ta sợ có gì không hay xảy ra. 
Thánh-Thiên kính cẩn: 
– Em xin nghe lời chị dạy dỗ. 
– Em cần phân biệt các tướng xuất thân Cửu-chân, khác với các tướng khác. Các tướng khác họ có thể uyển chuyển trong khi hành sự. Còn các tướng gốc Cửu-chân, họ coi cái chết như không. Vì vậy Đào Nhất-Gia, Đào Lục-Gia bị thương chí mạng đến ba bốn chỗ, họ vẫn cương quyết tử chiến. Bây giờ em để Đào Phương-Dung đuổi giặc. Tất Đào Phương-Dung sẽ đuổi tới cùng, một điều ta lo. Thứ nhì nơi phục binh của Lê Chân, ắt gặp Mã Viện. Lê Chân thường cho rằng trong các tướng Hán hiện thời, Mã có tài dùng binh bậc nhất. Để Lê Chân đuổi Mã Viện, tất Lê Chân đuổi tới cùng, có khi gặp hung hiểm. Giá thay Lê Chân bằng Đàm Ngọc-Nga. Đào Phương-Dung bằng Lê Ngọc-Trinh thì hay hơn. Thôi đã lỡ. 
Trưng-đế hỏi các anh hùng: 
– Các vị nghĩ xem. Chúng ta có nên nghe lời Đào Lục-Gia đánh thẳng về Lạc-dương không? 
Trưng Nhị tâu: 
– Em đã từng chỉ huy Thiên-ưng lục tướng. Em hiểu họ hơn ai hết. Có một điều em nghĩ mãi không ra. Hễ họ dự đoán việc gì, lập tức việc đó xảy ra đúng như họ nghĩ. Dường như họ có linh khiếu đặc biệt thì phải. Chúng ta nên nghe lời Đào Lục-Gia. 
Vĩnh-Huy tâu: 
– Lời Đào Lục-Gia không sai. Sau trận Động-đình, Tượng-quận, Nam-hải, quân chúng ta chỉ còn khoảng hai mươi vạn. Nếu dốc hết đánh lên Trung-nguyên bất ngờ nhất định thắng. Song đánh thì phải có tổn thất. Ta lấy quân đâu mà giữ đất người? Khi chiếm được Lạc-dương, quân còn năm, bảy vạn. Bấy giờ Hán phản công. Ta chỉ có chết. Trung-nguyên giữ không được, mà Lĩnh-Nam cũng hỏng luôn. 
Chu Bá tiếp: 
– Cứ trận Tượng-quận suy ra. Người Hán họ tự coi là con trời, đi cai trị thiên hạ thì được. Họ ở trên đất Lĩnh-Nam, được hưởng đủ thứ quyền lợi sung sướng. Thế mà họ không chịu phục, phản Lĩnh-Nam để trở về với Hán, dù biết trở về với Hán họ khổ trăm chiều. Vì vậy ta mất Tượng-quận. Lại nữa, người Việt mình tính hiếu hòa. Nếu bảo hy sinh chống ngoại xâm, dù chết vẫn lăn vào. Còn nay đi đánh người. Họ không thiết chiến đâu! 
Trưng Đế im lặng suy nghĩ, lát sau phán: 
– Trẫm nghĩ, hiện mình bắt được mấy vạn binh tướng Hán. Bây giờ cố bắt được Ngô Anh, Vương Hùng rồi xúi chúng về Liêu-đông làm phản. Nhược bằng chúng nghe thì thôi. Còn chúng không nghe, ta dùng Chu Kim-Hựu, Trần Kim-Hồ, Chu Tường-Qui, đổ lỗi trận đánh Nam-hải thất bại do chúng. Chúng xuất thân lưu manh, tất kéo về Liêu-đông làm phản. Chúng thắng, ta cũng kéo quân đánh Kinh-châu, giao cho Vương Phúc tái lập nước Thục. Thế là Trung-nguyên chia làm ba. Lĩnh-Nam yên ổn. 
Chu Bá tâu: 
– Thần trộm nghĩ, nên báo tất cả chi tiết trận đánh, cùng tình hình cho Phương-Dung, Đào Kỳ, Phật-Nguyệt. Xem ý kiến họ ra sao. 
Phùng Vĩnh-Hoa cầm bút viết thư, sai Thần-ưng mang thư đi. 
Thình lình Vĩnh-Hoa chỉ về phía Đông-vu: 
– Kìa có lửa cháy ở trại Hán. Chắc Trần Tứ-Gia đã thành công. 
Lửa bốc lên ngụt trời, tiến quân reo dậy đất. Trưng Nhị chỉ về phía trại quân Ngô Anh, Vương Hùng: 
– Kìa, Lê Chân, Đàm Ngọc-Nga cũng thành công rồi kìa. 
Thần-ưng từ các cánh quân báo tin về liên tiếp. Trần Tứ-Gia đã cướp được trại Hán. Phùng Đức chỉ có hơn vạn quân được lệnh rút sau cùng. Không ngờ đang đêm bị Thần-phong, Thần-nỏ tấn công. Quân sĩ bỏ chạy tán loạn. Y chỉ còn một người, một ngựa bôn tẩu. Đến sáng Trần Tứ-Gia, Đào Nương trở về, dẫn theo mấy ngàn tù binh, cùng lừa, ngựa, lương thảo. Một lát Lê Chân, Đàm-Ngọc-Nga cũng trở về trong chiến thắng lẫy lừng. 
Mặt trời đã lên cao, vẫn không thấy Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh về. Trưng Đế sốt ruột hỏi: 
– Không biết có truyện gì xảy ra không? 
Thánh-Thiên sai Thần-ưng liên lạc. Một lát Thần-ưng bay trở về. Chúng kêu lên những tiếng khẩn cấp. Trưng Nhị nói: 
– Chắc Đào Phương-Dung gặp hung hiểm rồi. Ai đi cứu viện được? 
Lê Chân vọt lên ngựa nói: 
– Để em cùng Đàm Ngọc-Nga xin đi. 
Bà vẫy Phan Tương-Liệt, Trương Quán mang đoàn Thần-hổ, Thần-báo theo. 
Đến xế chiều, xa xa thấy khói bốc lên ở núi My-sơn, lẫn với tiếng quân reo, ngựa hí. Hai bà xua quân tới. Từ xa Lê Chân nói: 
– Kìa quân Lĩnh-Nam bị vây trên núi. Quân Hán đang đánh lên. 
Đàm Ngọc-Nga bàn: 
– Chị Thánh-Thiên lệnh cho Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh đợi quân Mã Viện đi qua hãy đổ quân ra đánh. Hai người này vốn tính cẩn thận, chắc không dám trái lệnh đâu. Hẳn Mã Viện đi trước. Lưu Long đi sau. Khi Lĩnh-Nam đổ quân ra đánh Lưu Long thì Mã Viện đem quân đánh quật lại. Vì hai người chỉ có một vạn quân. Trong khi Lưu, Mã có tới bốn vạn người. 
Tướng Hán thấy Lĩnh-Nam có quân viện, lập tức chia làm hai lực lượng. Mã Viện kéo quân đánh Lê Chân, Đàm Ngọc-Nga. Còn Lưu Long tiếp tục đánh Đào Phương-Dung. Quân sĩ hai bên reo hò vang dội xông vào trận. Quân Lĩnh-Nam có voi, hổ, báo trợ chiến, chiếm được ưu thế. Quân Hán phải lui dần. Thình lình có hai người từ xa cỡi ngựa phi tới. Chúng hô lên một tiếng xung vào đánh dạt đoàn Thần-hổ, Thần-báo ra. Lê Chân kinh hãi nghĩ: 
– Thì ra hai tên Phùng Đức, Sầm Anh. Hèn chi võ công chúng cao. 
Bà cầm cờ chỉ huy quân vây chúng như thành đồng vách sắt. Phùng Đức vọt khỏi đám quân sĩ. Y tiến về phía Lê Chân. Bà vội lui vào giữa đoàn Thần-hổ. Phùng Đức đuổi theo rất gấp. Y vung chưởng tấn công. Chưởng đánh đến binh một tiếng, hai con hổ với Lê Chân bay ra xa. Y đánh một chưởng nữa định kết liễu tính mệnh bà, chưởng phong chụp xuống. Thình lình một người từ trên cây cao gần đó nhảy xuống, hô lớn: 
– Phùng Đức, đỡ lấy này! 
Người đó liệng về phía y một vật to như bao gạo. Phùng Đức vung chưởng đỡ. Bốp một tiếng, cái bao bay ra xa xa. Trong bao có tiếng kêu thảm thiết. Thì ra một người bị giam trong đó. 
Người kia vung chưởng đánh Phùng Đức. Hai chưởng đụng nhau đến binh một cái. Người kia kêu lên một tiếng kinh ngạc. Phùng Đức đã nhận ra người kia. Y kêu lớn lên: 
– Chu Tái-Kênh! Ngươi với ta cùng theo Mã thái-hậu. Tại sao ngươi lại đánh ta ? 
Chu Tái-Kênh cười: 
– Ta đánh ngươi vì ta thích làm ngươi đau khổ. 
Bà vung chưởng đánh tới. Phía sau bà Trần Năng đấu với Sầm Anh. Trần Năng đã phát huy hết Thiền-công. Trận đấu chưa phân thắng bại. Trong khi đó quân Hán, quân Lĩnh-Nam tiếp tục giao chiến. Tuy Lê Chân bị thương, nhưng bà vẫn nghiến răng chịu đau, đứng trên bành voi đốc chiến. 
Mã Viện, Lưu Long trải qua một đêm chiến đấu, quá mệt mỏi. Chúng đang vây Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh, tưởng đâu diệt được đạo quân này. Không ngờ đạo quân Lê Chân, Đàm Ngọc-Nga tới. Quân Hán không còn sức chiến đấu, lui dần về Kinh-châu. 
Trận đấu diễn ra hơn giờ nữa, Trần Năng đã yếu thế lắm rồi. Thình lình có tiếng quân reo, ngựa hí. Từ phía xa một đạo quân hùng hổ tiến tới. Sức mạnh như núi lở băng tan. Đi đầu là hai tướng, một nam, một nữ. Trần Năng liếc nhìn. Nàng bật lên tiếng reo, vì lá cờ đi đầu bay phất phới, trên có hàng chữ đề Bắc-bình vương Đào, lá thứ nhì đề Tể Tướng Nguyễn. 
Trần Năng kêu lớn: 
– Tiểu sư thúc, cứu cháu với! 
Đào Kỳ từ mình ngựa vọt lên cao. Ở trên cao vương đánh xuống chiêu Loa-thành nguyệt ảnh. Kình lực mạnh kinh người. Phùng Đức vung chưởng đỡ. Sầm một tiếng. Đào Kỳ bay vọt lên cao. Vương lộn liền bốn vòng. Người tà tà đáp xuống. Vương đánh thêm chiêu Thiết-kình phi chưởng. Phùng Đức bị chưởng đầu bật lui hai bước. Y nhảy lui lại phía sau. Sắc mặt nhợt nhạt hỏi: 
– Ngươi là ai, mà chưởng lực đến dường này? 
Chợt nhìn thấy lá cờ. Y kêu lên: 
– Thì ra mi là Đào Kỳ. Ta đang muốn tìm mi trả thù cho cháu ta là Phùng Dị đây. 
Đào Kỳ thấy chưởng lực Phùng Đức cao hơn Phùng Dị nhiều. Vương nghĩ thầm : Trước khi phục hồi Lĩnh-Nam, ta không phải là đối thủ của y. Từ khi Lĩnh-Nam phục hồi. Vương có thời giờ luyện tập, công lực tiến mau không thể tưởng được. Vì vậy vương muốn thử xem kết quả đến đâu. Vương đấu với Phùng Đức được trên hai trăm chiêu, thì y nhảy vọt ra ngoài nói: 
– Hôm nay mi với ta mới biết nhau mà thôi. Ta bại trận, mệt mỏi mấy ngày, nên đấu không lại mi. Ta hứa sẽ tìm đến mi. 
Y quay lại nhìn, Lưu Long, Mã Viện đã rút quân chạy từ bao giờ. Y vẫy Sầm Anh cùng lên ngựa, chạy theo. Sầm Anh bị Phương-Dung dùng kiếm cắt mất búi tóc. Trông y thực thảm não. 
Đào Phương-Dung được Đào Kỳ bất thần xuất hiện tiếp cứu. Bà mừng rơi nước mắt hỏi: 
– Anh Kỳ! Tại sao anh biết em bị vây mà đến giải cứu? 
Anh em họ Đào thương nhau như chân tay. Đào Kỳ quên mất cô em họ đã lớn, làm đại tướng quân. Ông đến bên nắm tay, chỉ vào vợ: 
– Chúng ta kéo quân lên hồ Động-đình cùng với thái sư thúc Phật-Nguyệt phòng quân Hán vượt sông. Được thư của Phùng Vĩnh-Hoa báo tình hình trận chiến. Chúng ta vội rủ Chu lão bá cùng Trần Năng đem thiết kị tiếp cứu. Đến đây thì gặp em bị nạn. 
Không thấy Lê Chân đâu, ông hỏi: 
– Công-chúa Đông-triều đâu rồi? 
Một tên quân nói: 
– Công-chúa cùng quân mã trực thuộc đuổi theo Mã Viện, Lưu Long rồi. 
Nguyễn Phương-Dung bảo Đào Kỳ: 
– Anh giải quyết chuyện ở đây! Em tiếp ứng Lê Chân. 
 Phương-Dung dẫn đội thiết kị Văn-lạc theo. Họ đều là tráng sĩ được huấn luyện nhiều năm. Kiến thức võ công đều cao. Đoàn thiết kị phóng như bay. Một lát thấy quân Lĩnh-Nam với Hán đang giao chiến với quân Lê Chân. Thấy đạo Thiết kị Văn-lạc tới, chúng vẫn không sờn lòng, chia làm hai chiến đấu. Đạo Thiết kị Văn-lạc tinh nhuệ, khỏe mạnh, xung vào trận. Chỉ một lát đạo quân Mã Viện bị đánh bật về sau. Chúng quăng vũ khí chạy. 
Lê Chân truyền lệnh đuổi theo. Phương-Dung phi ngựa gọi: 
– Chị Lê Chân, về thôi! 
Lê Chân như không nghe tiếng Phương-Dung, bà thúc voi đuổi theo tàn quân Mã. Mã Viện kinh hoàng, y vừa đánh vừa chạy. Lê Chân rút trong bọc ra lưỡi đao nhỏ. Bà nhắm đầu Mã Viện phóng. Lưỡi đao sắp tới đầu Mã, thì con ngựa của y vấp vào mô đất, ngã lăn ra. Lưỡi đao bay sát qua đầu y. 
Lê Chân phóng voi lên định kết liễu tính mệnh y. Y hoảng sợ chui vào bụng voi, luồn ra phía sau, biến vào rừng mất. Lê Chân dừng voi lại, người bà lảo đảo muốn ngã. Phương-Dung kinh ngạc, vọt lên lưng voi, bồng bà xuống. Bà mửa ra một búng máu tươi. Hơi thở yếu ớt. 
Ghi chú tác giả: Trước năm 1945, tại vùng duyên hải từ Hải-phòng tới Quảng-yên, Hòn-gai, Cẩm-phả, hàng năm đến ngày giỗ công-chúa Đông-triều Lê Chân, dân chúng thường diễn vở hát chèo, thuật lại tích Mã Viện bị Lê Chân đánh thua, quì xuống xin tha mạng. Lê Chân bắt chui qua háng ba lần, mới tha chết cho. Có lẽ dân chúng Việt-Nam hận Mã Viện, thêm thắt vào chi tiết này, chứ thực sự võ công Mã cao hơn bà nhiều, làm sao bà bắt y luồn qua háng? 
Phương-Dung vội thúc voi trở về tìm Trần Năng: 
Trần Năng dùng Lĩnh-nam chỉ trị thương cho Lê Chân. Đào Kỳ đến bên xem xét hỏi: 
– Sao? Còn hy vọng gì không? 
Trần Năng lắc đầu: 
– Chưởng Phùng Đức mạnh quá. Tạng phủ bị dập nát hết rồi. E khó qua khỏi. Thôi chúng ta đưa Lê Chân về Thường-sơn tìm thuốc chữa. 
Có tiếng quân reo ở Vĩnh-định vọng lại. Đào Kỳ nói với Trần Năng: 
– Công-chúa đem công-chúa Đông-Triều về chạy chữa. Tôi với Phương-Dung, Chu lão bá đi tiếp viện Vĩnh-định. 
Ông vẫy thiết kị lên đường. Từ xa xa Đào Kỳ thấy quân Lĩnh-Nam đang bị hai đạo quân Hán vây phủ. Ông bảo vợ: 
– Em đánh vào phía trái. Anh đánh vào phía phải. Chu lão bá đánh vào trung ương. 
Hai người cầm kiếm xung vào trận. Người đi đến đâu, đầu rơi đến đó. Phút chốc vòng vây dãn ra. Phương-Dung để Đào Kỳ đấu với Vương Hùng. Chu Tái-Kênh đấu với Ngô Anh. Bà đứng chỉ huy thiết kị đánh quân Hán. Một lát đạo quân Hán bị cắt đôi, chạy tứ tán. Bà thấy sư thúc Phan Đông-Bảng bị thương, vội đỡ lên, lấy thuốc chữa thương băng bó cho ông. Bà hỏi Nguyễn Tam-Trinh: 
– Tại sao mình đem quân vây chúng, mà bị chúng đánh bại? 
Nguyễn Tam-Trinh thuật: 
– Chúng ta đem quân phục ở đây. Thấy bại binh của Ngô Anh, Vương Hùng chạy về, đồng đổ ra đánh. Có Thần-ngao, Thần-ưng yểm trợ. Giữa lúc chúng ta đang thắng thì có một đội thiết kị Hán đến tiếp viện. Vì vậy chúng ta bị thua, phải lui lên đồi phòng thủ, nhờ Thần-ngao, Thần-ưng cản đường tiến quân giặc. Vũ Công-Chất trúng tên chết. Phan sư huynh anh dũng đứng chỉ huy cản đường tiến của giặc. Sư huynh bị trúng mũi tên vào vai. Người nhổ tên ra, tự băng bó, rồi lại đứng đốc chiến. Cuối cùng bị hai mũi tên vào bụng mà ra nông nỗi. 
Đến đó ông ngừng lại, vì Ngô Anh, Vương Hùng bị Đào Kỳ, Chu Tái-Kênh đánh bay ra xa. Chúng chạy biến vào rừng mất dạng. 
Phan Đông-Bảng mở mắt ra thấy Phương-Dung. Ông tát yêu cháu nói: 
– Suốt từ Lĩnh-Nam phục hồi đến giờ, sư thúc cứ ngồi ở Quế-lâm chán quá. Mới đây theo hoàng-thượng kinh lý mặt trận. Thánh-Thiên nhờ ta xuất quân. Không ngờ lại bị thương nặng. 
Ông thở một hơi dài, than: 
– Thôi, như thế cũng được. Hôm nay ta chết, sẽ được gặp cha cháu, gặp các anh cháu. 
Phương-Dung đỡ ông lên ngựa, đưa về Thường-sơn. Dọc đường ông mơ mơ tỉnh tỉnh. Đến Thường-sơn. Ông mở mắt ra thấy Trưng-đế. Ông mỉm cười: 
– Tôi thực vô dụng. Mới xuất trận đã bị tử thương. Mong bệ hạ bảo trọng mình rồng, chăn dắt trăm họ Lĩnh-Nam. 
Ông nghẹo cổ sang một bên, nhắm mắt lại. 
Phương-Dung được sư thúc Phan Đông-Bảng yêu thương đặc biệt. Không ngờ hôm nay ông lại chết trước mặt mình. Bà ôm sư thúc, khóc như mưa như gió. 
Bà khóc một lúc, thấy nhẹ người, nhìn lại phía trong. Lê Chân mơ mơ, tỉnh tỉnh. Bà hỏi Trần Năng: 
– Có cứu được không? 
Trần Năng lắc đầu: 
– Dù sư phụ ở đây cũng bó tay mà thôi. 
Chợt Lê Chân mở mắt ra. Bà thấy Đào Kỳ, Phương-Dung thì vẫy tay gọi: 
– Hai em nhớ ngày nào tới Đăng-châu không? Chị giả làm người bán quán, rồi chúng ta hợp với Phùng Vĩnh-Hoa, Đàm Ngọc-Nga mưu phục quốc. Hôm nay chúng ta đều hiện điện đầy đủ. Ta sắp chết rồi. Ta sẽ được gặp lại sư phụ. Trước đây ta hứa sẽ làm một bữa canh cá rô nấu cải bẹ xanh cho em ăn. Bây giờ ta đành thất hứa. 
Bà nói với vua Trưng: 
– Chị Trưng Trắc! Chúng mình vẫn là chị em. Em chết rồi, chị nhớ đưa xác về trang An-biên chôn. Để ngày ngày hồn em còn bảo vệ trang ấp em đã lập ra. Sư phụ em dạy: Người ta sinh ra ai cũng phải chết. Chết cho đại nghĩa mới thực xứng đáng. 
Bà nói với Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ-Đề: 
– Mới hôm nào chúng ta dùng thuyền du ngoạn hồ Động-đình, viếng nơi Quốc-tổ, Quốc-mẫu đã từng ở. Tôi cầm dao khắc vào đá. Như vậy, dù vạn năm sau, con cháu đất Lĩnh-Nam còn nhắc truyện này.Hôm ấy chúng ta gặp Tăng-Giả Nan-Đà. Không biết nay ngài ở đâu? 
Có tiếng vọng từ xa lại: 
– A Di Đà Phật. Bần tăng ở đây!. 
Phút chốc, mọi người thấy hoa mắt một cái, Tăng-Gỉa Nan-Đà đã đứng cạnh Lê Chân. Ngài chắp tay kính cẩn nói với Trưng Đế: 
– Bần tăng tự tiện vào đây, mong bệ hạ hỉ xả khoan thứ. 
Trưng Đế chắp tay: 
– A Di Đà Phật. Đại sư giáng lâm, trẫm và triều thần đều cảm kích. 
Lê Chân nói với ngài: 
– Trước đây sư phụ thường nói đến thế giới Cực-Lạc. Người dạy rằng khi sắp lâm chung, phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Ngài sẽ độ cho về Tây-phương Cực-lạc. Bây giờ đệ tử muốn được niệm. 
Tăng-Giả Nan-Đà cầm mỏ gõ, miệng đọc kinh A Di Đà. Lê Chân, Trần Năng, Hùng Xuân-Nương đều đọc theo. 
Lê Chân mệt quá, chỉ còn thoi thóp thở. 
Bà lả đi một lúc rồi mở mắt ra. Tay bà nắm lấy tay Trưng Đế, thở phào một cái, niệm một câu chót: 
– Nam-mô A-di-đà Phật. 
Mắt sáng ngời, rồi mỉm cười tắt thở. 
Trưng Đế truyền tẩm liệm Lê Chân, Phan Đông-Bảng, Vũ Công-Chất về Giao-chỉ an táng. Lê Chân được phong làm: 
Anh thư trấn Bắc, Đông-triều công-chúa. 
Dân chúng An-biên xây đền thờ bà. Ngày nay đền thờ vẫn còn ở giữa thành phố Hải-phòng. Vì lúc lâm chung, bà xin được qui y tam bảo. Vì vậy có nhiều chùa thờ bà. Khi cúng thường cùng chay. 
Ghi chú của tác giả. 
Trong những lần về Việt-Nam công tác cho CEP (Coopétative Européenne pharmaceutique), hễ có dịp qua Hải-phòng, tôi đều tới hành hương tại đền thờ công-chúa Đông-triều. Đền khá lớn, hai phía quay ra hai phố. Đền được bảo quản, trùng tu rất tốt. Có đến năm người phụ trách giữ đền. Hai người phụ trách lau chùi, quét dọn. Hai người phụ trách lễ nghi. Một người là hướng dẫn viên. Vị này là giáo sư văn sử, tốt nghiệp đại học sư phạm. Trong những lần hành hương đó, năm 1994 tôi đi cùng giai nhân Bùi Phương-Lan và Soupaseum. Soupaseum có tài quay vidéo, chụp hình, vì vậy cuốn vidéo này được lưu hành tại Pháp. Năm 1998, tôi lại hướng dẫn người đẹp Lê Thị Kim-Thanh và ông anh họ Nguyễn Đức Tuệ tại Úc tơí hành hương. Ông là giáo sư dạy về kỹ thuật phim ảnh, nên ông chụp rất nhiều hình, quay vidéo mang về Úc. 
Phan Đông-Bảng được phong: 
Đại-nghĩa, chí minh Cổ-loa vương. 
Truyền đem thi hài về quê ở Gia-lộc, Cổ-loa an táng. Cho xây đền thờ. Trải gần hai nghìn năm. Đến nay đền thờ của ông vẫn còn tại thôn Gia-lộc, xã Cổ-loa, ngoại ô Hà-Nội. Hiện còn một bài thơ, một đôi câu đối ở đền thờ ông. 
Tại tích phù Trưng, nghiệp triệu thành, 
Công thùy vũ trụ, dãng nan danh. 
Huy lai tướng lệnh tiêu Tô Tặc. 
Phi xuất thành lâu khước Hán binh, 
Trung nghĩa nhất tâm năng bất tử, 
Anh linh vạn cổ, lẫm như sinh. 
Lưu đồn thử địa, di từ miếu, 
Lịch đại ba chương lũ biểu tinh. 
Dịch nghĩa: 
Trước giúp vua Trưng đại nghiệp thành, 
Công bằng vũ trụ, sáng ngời danh. 
Cờ trương, tướng lệnh trừ Tô Tặc, 
Lâu mở, thần uy đuổi Hán binh. 
Một lòng trung nghĩa, muôn năm sống, 
Anh linh vạn đại, tựa bình sinh. 
Đồn xưa, nền cũ nay thành miếu, 
Trải đến muôn đời vẫn hiển linh. 
Câu đối: 
Thánh đại dương, trục Định, phù Trưng thùy sử bút, 
Thần công, vĩnh bá, tí dân hộ quốc trạc linh thanh. 
Dịch nghĩa: 
Bút ghi sử sách, triều đại đã phong tặng vì đuổi Tô Định, phò vua Trưng. 
Công ơn giữ mãi vì giúp dân giữ nước, tiếng anh linh vang dậy. 
Vũ Công-Chất được phong: 
Chí thánh, đại hùng, Tản-viên vương. 
Truyền Bát-nàn công-chúa Vũ Trinh-Thục đem về Phượng-lâu đất Giao-chỉ an táng. 
Lê Thị-Hoa trước đã được phong làm Nga-Sơn công-chúa, nay đổi thành: 
Thiên-đức, địa hạnh, Nga-Sơn công-chúa. 
Trước 1945 tại huyện Nga-sơn có nhiều đền thờ bà. Không biết nay có còn không? 
Trưng Đế cùng quần thần chờ hai ngày vẫn không có tin tức của đạo binh Trần Quốc. Bỗng Thần-ưng từ xa đem thư đến. Trần Ngọc-Tích lấy thư ra. Chàng vội trình với Đào Kỳ: 
– Vương gia! Thư của Cu Bò. 
Đào Kỳ cầm thư đọc qua. Ông vỗ đùi một cái, đưa thư cho Phương-Dung: 
– Em thấy không? Anh nói có sai đâu. Này em coi thư này. 
Phương-Dung cầm thư đọc. Bà đọc đi đọc lại rất kỹ, vì thư khá dài. Bà liếc con mắt nghiêm khắc nhìn Đào Tam-Gia: 
– Sún Lùn! Thi thể Mã thái hậu để đâu? 
Thánh-Thiên hỏi: 
– Cái gì? Điều này Sún Lùn vô can. Tôi sai tẩm liệm thi hài Mã thái hậu trả về cho Mã Viện. Việc gì đã xảy ra? 
Phương-Dung cầm thư trình vua Trưng: 
– Việc chị Thánh-Thiên trả xác Mã thái hậu cho Mã Viện em biết rồi. Khi được tin ấy, anh Kỳ nói rằng: Giữa Tây-vu Thiên-ưng lục tướng với Mã thái hậu thù sâu tựa biển. Khó lòng Sún Lùn chịu tẩm liệm Mã thái-hậu như chị Thánh-Thiên truyền làm. Nó sẽ bỏ xác một người nào đó vào quan tài, rồi đem băm thây Mã thái hậu trộn với phân để trả thù. Em không tin. Không ngờ. 
Trưng vương hỏi Đào Tam-Gia: 
– Có đúng em làm thế không? 
Đào Tam-Gia gật đầu: 
– Em băm xác mụ ra, vứt xuống cầu tiêu. Còn trong quan tài, em để hai con trăn, ba con rắn kịch độc, và xác con đười ươi chết. 
Vua Trưng lắc đầu: 
– Em làm như vậy không được. Chúng ta khác Quang-Vũ với người Hán. Người chết là hết, không nên trả thù xác chết. Vì vậy dù lăng mộ Trường-sa vương tại Vương-sơn. Quang-Vũ tàn hại Lĩnh-Nam, ta vẫn sai người tu bổ, giữ gìn. Chứ không như người Trung-nguyên, họ sẽ quật mồ lên, lấy xương đốt ra tro để trả thù. 
Tăng-Giả Nan-Đà chắp tay: 
– A Di Đà Phật. Đào tiểu tướng quân. Hán gây thù, Việt cũng gây thù. Thù oán chồng chất, bao giờ mới hết? Tiểu thí chủ cho rằng Mã thái-hậu gây ra cái chết của ba trong Thiên-ưng lục tướng. Vậy thì trận Bạch-đế tiểu thí chú dùng Thần-ưng đốt quân Thục chết biết bao nhiêu mà kể. Lại nữa tiểu thí chủ cho Thần-ưng ăn thịt mấy chục ngàn binh tướng Hán. Nếu tất cả họ hàng, bạn hữu của họ cùng tìm đến tiểu thí chủ trả thù... Chiến tranh bao giờ mới dứt? 
Phương-Dung tiếp: 
– Khi đem quan tài về Lạc-dương. Quang-Vũ và triều thần ra đón. Y truyền mở nắp quan tài, lấy nước ngũ vị hương tắm rửa tử thi. Quan tài mở ra, Hàn thái hậu cúi đầu xem, bị rắn độc vọt lên cắn vào mặt bà. Quang-Vũ truyền thái y chữa trị. Thái y vào tới nội cung, thì Hàn thái-hậu đã chết rồi. Hiện cả triều Hán dù phe Mã, phe Hàn đều thù hận Lĩnh-Nam. Quang-Vũ truyền đem quân nghiêng nước, quyết san bằng Lĩnh-Nam trả thù. 
Vua Trưng hỏi: 
– Thư còn gì nữa không? 
Đào Kỳ tâu: 
– Thư cho biết, Hàn thái hậu từ trần được năm ngày. Đại ca Tự-Sơn, sư tỷ Thiều-Hoa, Ngũ-Phương thần kiếm về chịu tang. Triều đình cho rằng tại vì đại ca Tự-Sơn, Ngũ-Kiếm giúp đỡ Lĩnh-Nam phục quốc, mới nên cơ sự. Họ nói những lời nhục mạ. Đại ca Tự-Sơn ôm xác Hàn thái-hậu khóc thảm thiết, sau đại ca rút kiếm tự tử. Sư tỷ Thiều-Hoa đoạt kiếm cứu thoát. Rồi giữa các võ quan triều Hán với Ngũ Kiếm xảy ra động thủ. Ngũ-kiếm, sư tỷ Thiều-Hoa giết mười tám đại tướng quân, mới chạy thoát. Quang-Vũ sai thị vệ về Liêu-đông bắt ba họ nhà Ngũ-kiếm giết. Thứ sử Liêu-đông là đệ tử của Ngũ-kiếm đem quân bắt thị vệ giết đi, cùng Ngũ-kiếm kéo binh làm phản. 
Hồ Đề ngắt lời: 
– Thế đại ca Tự-Sơn với Hoàng sư tỷ đâu? 
– Trong thư không nói rõ. 
Đào Tam-Gia tự biết lỗi. Chàng lui lại rút kiếm đưa lên cổ tự tử. Trần Năng đứng gần. Bà phóng một Lĩnh-Nam chỉ đánh bay thanh kiếm của Đào Tam-Gia. Đào Kỳ mắng: 
– Sư đệ! Ngươi gây ra đại họa, rồi định tự tử để chạy tội ư? 
Trưng hoàng-đế ôn tồn: 
– Đào Tam-Gia hành động đúng võ đạo. Em không có tội gì cả. Ta hãy tự đặt mình vào địa vị của Tam-Gia. Sún Cao chết, do Mã thái-hậu ; Sún Lé, Sún Đen đều do Mã thái hậu mà chết. Chẳng qua số phận Hàn thái-hậu bị hại mà thôi. Đào tam đệ đừng trách Đào Tam-Gia. Vụ Hàn, Mã hậu chẳng qua là cái cớ để Quang-Vũ khởi quân đánh Lĩnh-Nam. Tam đệ thừa hiểu, Mã hậu chết, Quang-Vũ nhổ được cái gai lớn trước mắt. Hàn thái-hậu chết, y cũng chẳng tiếc thương gì. Dù không có vụ này, y vẫn muốn diệt Lĩnh-Nam. Tờ biểu của Đào Lục-Gia trước khi tuẫn quốc đã nhận định như vậy. 
Đào Kỳ thở dài: 
– Sau này gặp đại ca Tự-Sơn, sư tỷ Thiều-Hoa. Thần phải nói sao đây? Hàn thái-hậu một đời thuần hậu, mà chết thực thảm thiết. 
Phùng Vĩnh-Hoa vốn cảm tình với Thục, ghét Hán. Bà bênh Đào Tam-Gia: 
– Quang-Vũ tàn ác, y đã gây cho Lĩnh-Nam chết trước sau biết bao nhiêu người tại trận hồ Động-đình, Tượng-quận, Nam-hải. Đào Tam-Gia có giết Hàn thái-hậu, cho Quang-Vũ đau lòng, cũng chưa trừ hết tội của y. 
Bỗng có Thần-ưng từ xa bay lại. Trần Ngọc-Tích gỡ thư trình Đào Kỳ. Đào Kỳ trình Trưng-đế. Ngài cầm thư đọc, vẫy Thánh-Thiên lại gần: 
– Có thể nói trận Nam-hải lớn nhất từ trước đến giờ. Em tự làm quân sư, tự làm đại tướng. Diệt của Hán bốn mươi vạn binh. Trong khi mình chỉ mất có sáu vạn. Chiến thắng vĩ đại. Song em không tinh tế như Phương-Dung. Em chỉ huy Đào Tam-Gia mà không biết y. Em lại càng không hiểu Trần Quốc, Vương-Phúc, Sa-Giang, Sún Rỗ, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Tử-Vân. Vì vậy mới có đại họa. 
Thánh-Thiên nghiêm chỉnh: 
– Xin chị ban chỉ dụ. 
– Này nhé, Trần Quốc với Vương-Phúc cảm nhau vì tài, đồng điệu âm nhạc. Họ là vợ chồng, là tri kỷ. Cho nên việc của Quốc là việc Lĩnh-Nam. Vương Phúc sẵn sàng gánh vác. Hai người nuôi chí diệt Hán, dựng Thục. 
– Em hiểu. 
– Còn nữa, Đào Nhị-Gia làm chồng Sa-Giang. Sa-Giang đàn ngọt hát hay. Nàng đã từng theo cha trình diễn bao năm. Nghệ thuật của nàng tuyệt hảo. Với bản chất chân thực như Sún Rỗ, Sa-Giang muốn gì, y phải chiều theo. Vì vậy nếu có dịp trả thù Hán, Sa-Giang sẽ thúc Sún Rỗ làm liền. 
– Em hiểu. 
– Đạo quân biển, do Trần Quốc, Vương-Phúc chỉ huy. Chở theo đạo Nhật-nam, của Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa. Hai người này thù Mã thái-hậu vì mẹ bị Mao Đông-Các giết chết. Tử-Vân tiếp ứng, nàng đâu quên hận cha, mẹ bị Hán giết? 
Thánh-Thiên "à" lên một tiếng: 
– Hỏng rồi! Em cho mấy người ấy đi cùng một cánh quân. Họ sẽ thẳng tay tiến về Lạc-dương, diệt Hán trả thù nhà, dựng lại Thục. Ừ! Em không nghĩ ra. Giá em cho đạo Giao-chỉ của Đào Phương-Dung, thì không dễ gì Trần Quốc khống chế được. 
– Hôm hội quân. Vương Phúc tâu với ta rằng: Y muốn được quyền tự giải quyết chiến trường. Ta không nghĩ kỹ, chấp thuận. Thì ra y cố ý phục một cái bẫy. Ta mắc vào, em mắc vào. Đây thư đây em đọc đi. 
Thánh-Thiên đọc xong. Bà ngẩn người ra, hỏi vua Trưng: 
– Bây giờ phải làm gì? 
Trưng-đế giảng cho triều thần: 
– Trần Quốc, Vương Phúc dẫn thủy quân đánh Phúc-châu. Chỉ hơn nửa ngày chiếm được năm quân cảng, đốt cháy sạch các xưởng đóng chiến thuyền. Đạo quân Nhật-nam, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa bất thần đổ lên, quân Hán không ngờ tới, lại thấy họ mặc y phục quân Hán. Thành ra một ngày họ đánh chiếm được tới tám thành. Thế như trẻ tre. Giữa lúc họ muốn rút về, lại gặp Tử-Vân đem năm vạn thủy binh lên tiếp viện, cho biết Lĩnh-Nam đại thắng khắp nơi. Tử-Vân xúi Trần Quốc đánh tới Lạc-dương, lật đổ nhà Hán, lập lại triều đình Thiên-sơn. Trần Quốc, Vương Phúc làm theo. 
Triều thần đều trợn mắt, há mồm kinh ngạc, gai ốc nổi lên. 
Trưng-đế tiếp: 
– Hiện họ đánh tới Nam-xương, Hợp-phì. Không chừng giờ này sắp tới Lạc-dương cũng nên. Biết cháu không ai bằng ông. Khất đại phu đã dặn trẫm nhiều lần: Quế, Quỳnh võ công cao, mưu lược giỏi. Song phải cái chứng khinh địch. Khi trao binh quyền cho chúng cần phải có người kiểm soát. 
Chu Tái-Kênh vỗ tay cười: 
– Hai con bé đó làm đúng. Hoàng thượng chẳng từng dặn chúng phải tuân lệnh Trần Quốc đó sao? Bây giờ Trần Quốc sai chúng đánh thành. Chúng không thể trái lệnh. 
Phùng Vĩnh-Hoa cũng thêm vào: 
– Có lẽ nên nghe lời Sún Đen thì hơn. Chúng ta thử cho Phật-Nguyệt đánh lên Kinh-châu. Còn chúng ta đem quân tiếp ứng Trần Quốc, lật đổ triều Hán. 
Phương-Dung lắc đầu: 
– Không ổn! Chúng ta không đủ quân số làm việc đó. 
Vua Trưng bảo Đào Kỳ: 
– Đào đệ với Phương-Dung khẩn đuổi theo chúng. Đừng quản nhọc mệt, ngày đêm bắt chúng về ngay. Nếu không thì cả đạo quân bị diệt bây giờ. 
Phùng Vĩnh-Hoa thở đài: 
– Phương-Dung nghe chị đi. Bây giờ Ngũ-phương thần kiếm đều làm phản. Đạo quân Trần Quốc chỉ đánh lên Bắc một chút, thì bắt liên lạc được với Ngũ-kiếm. Hán bắt được tù binh Thục, Thục bắt được tù binh Hán, đều có thể tuyển làm binh sĩ của mình. Trong khi Lĩnh-Nam bắt được tù binh Hán, không thể dùng được. Chúng ta nuôi cơm vô ích. Chi bằng thuyết phục họ, thăng cấp cho các cấp chỉ huy, tổ chức thành các đạo quân, giao cho Ngũ-kiếm. 
Thánh-Thiên đem sổ ra tính: 
– Cửu-chân, Hải-nam bắt được năm vạn người. Trần Quốc bắt trên biển ba vạn. Các đạo bộ binh bắt được năm vạn nữa. Tổng cộng mười ba vạn. 
Trưng Nhị, Phương-Dung, Đào Kỳ đều tâu Trưng-đế chấp nhận đề nghị của Phùng Vĩnh-Hoa: 
Trưng-đế giao cho Phùng Vĩnh-Hoa phụ trách việc tổ chức tù binh Hán thành các đạo quân. 
Đào Kỳ cầm binh phù trao cho Phùng Vĩnh-Hoa: 
– Trước hết sư tỷ đến Liêu-đông gặp Ngũ-kiếm, nói cho họ biết rõ thiện ý Lĩnh-Nam. Sau đó sư tỷ tìm đến bản dinh công-chúa Gia-hưng, truyền chỉ dụ triều đình phải giao thành trì cho Ngũ-kiếm, rồi rút quân về. 
Trưng vương lắc đầu: 
– Không xong! Tôi hiểu Gia-hưng rất nhiều. Gia-hưng giỏi âm nhạc, nhiều tình cảm, lãng mạn, cần cù học hỏi. Sau này gặp Vương Phúc, một đấng tài hoa, văn võ song toàn. Gia-hưng tự biết rằng mình đánh Hán, nếu không có công với Lĩnh-Nam cũng chẳng có tội. Gia-hưng đã thế, còn thêm Vương Phúc, Tử-Vân, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Sa-Giang, Đào Nhị-Gia... thù nhà, nợ nước sâu tựa biển. Với bằng ấy người, cần một người có thể khiến bằng ấy tướng sợ oai mới bắt họ về được. 
Vua Trưng bảo Đào Kỳ: 
– Bàn về uy quyền, thì ta hơn hết. Bàn về tình ngoài tam đệ, không ai có đủ điều kiện bắt bằng ấy tướng về. Thôi tam đệ đừng quản ngại, lên đường ngay. 
Bắc-bình vương Đào Kỳ, tể tướng Phương-Dung tuân chỉ, lấy ngựa lên đường, không kể ngày đêm. Phải hơn mười ngày, mới tìm đến bản dinh của Vương Phúc, Trần Quốc. Trần Quốc đem các tướng đón Đào Kỳ vào trướng. Bà truyền pha trà đãi khách. Đào Kỳ chưa kịp nói gì. Bà đã nói trước: 
– Đào đại ca! Nghĩ lại hồi chúng mình mới gặp nhau trên sông Vị-hoàng, đại ca nói rằng sau này em sẽ là Đô-đốc đuổi giặc Hán, đem hạnh phúc cho dân chúng. Chúng ta đã đuổi giặc Hán khỏi Lĩnh-Nam. Bây giờ cần đuổi giặc Hán khỏi Trung-nguyên. 
Đào Kỳ nói thầm: 
– Cô này lợi hại thực. Mình nói đuổi giặc Hán là đuổi ngoại xâm. Bây giờ cô ấy bẻ quẹo ra rằng đuổi giặc Hán là lật đổ triều đình nhà Hán. 
Trần Quốc tiếp: 
– Em nhớ lời đại ca không lúc nào quên. Hôm ban chỉ cho Phúc với em đem quân đánh vào đất Hán. Trưng sư tỷ cho phép chúng em toàn quyền quyết định. Vì vậy em với Phúc bàn rằng: Đốt chiến thuyền, phá căn cứ giặc, sao bằng đánh chiếm thành giặc. Đánh chiếm thành Hán sao bằng lật đổ triều Hán. Vì vậy bọn em không đốt lương thảo. Trái lại dùng lương thảo phát cho dân. Đánh đến đâu, em tuyên bố miễn thuế cho dân. Cắt cử người tài ra làm quan, xử tử tham quan. Dân chúng nổi lên theo bọn em. 
Quế-Hoa tiếp: 
– Khi nhận được chỉ dụ dẫn binh đánh lên bắc. Em có xin chỉ dụ của Trưng sư tỷ rằng, sau khi đốt chiến thuyền giặc, phải làm gì. Trưng sư tỷ bảo mọi quyết định sẽ do Vương đại ca và Gia-hưng. Vương đại ca, Gia-hưng quyết định đánh thẳng về Lạc-dương. Chúng em tuân lệnh người, tức tuân chỉ của Trưng sư tỷ. 
Tử-Vân phụ thêm vào: 
– Chiến thắng Cửu-chân, đạo Nam-hải, bọn em được lệnh tiếp viện cho Gia-hưng. Trưng sư tỷ nói, phải tuân lệnh Gia-hưng. Gia-hưng quyết định đánh về Lạc-dương. Bọn em đành tuân theo. 
Vương Phúc nhìn Đào Kỳ. Vương nói: 
– Đại ca với em tình như ruột thịt. Đại ca ơi! Đại ca hy sinh thân mình cho dân Việt. Phái Thiên-sơn của em cũng hy sinh cho dân Trung-nguyên. Triều Hán không vì mưu hạnh phúc cho dân. Quang-Vũ chỉ biết sự nghiệp của tổ tiên. Triều đình chỉ biết phú quí. Vì vậy em quyết diệt triều Hán, đem cho dân Hán đời sống như dân Việt. 
Trần Quốc cười: 
– Có phải Trưng sư tỷ sai đại ca với sư tỷ Phương-Dung lên chi viện cho bọn em không? Như vậy thực phải. 
Phương-Dung tự thị nhiều mưu, nói giỏi. Bà đi với chồng, với mục đích dùng uy quyền của hoàng đế, dùng miệng lưỡi buộc Trần Quốc rút quân. Không ngờ hai vợ chống tới nơi, bị Trần Quốc dùng lời khuyên xưa của Đào Kỳ, dùng chỉ dụ của Trưng-đế, dùng đại nghĩa dân tộc cột Đào Kỳ. Rồi Quế-Hoa dùng chỉ dụ của trưng đế biện luận cho hành động của mình. Tử-Vân cùng lối lý luận với Trần Quốc. Cuối cùng Vương-Phúc dùng tình cảm, dùng hiệp nghĩa chống đỡ. Còn chính Trần Quốc làm như hành động của mình đúng với ý muốn của hoàng-đế nên được hoàng-đế gửi hai người lên tăng viện. Bà biết họ đã chuẩn bị trước, xếp đặt trước với nhau. Đấu lý với họ rất khó, để chồng dùng tình với họ mới được. 
Đào Kỳ lắc đầu: 
– Không phải thế. Hoàng đế sai ta lên gọi các em trở về khẩn cấp, cùng giao thành trì, đất đai lại cho Ngũ-phương thần-kiếm. 
Nói rồi ông tường thuật biến cố tại triều Hán và việc Ngũ-kiếm khởi binh cho mọi người nghe. 
Trần Quốc ngạc nhiên: 
– Nếu vậy bọn em càng nên tiến quân. Một là tạo hạnh phúc cho dân Hán, hai là giúp Ngũ-kiếm, ba là trả thù nhà. Nếu bây giờ sư-tỷ Phật-Nguyệt đánh lên Kinh-châu, sư-tỷ Thánh-Thiên kéo quân về. Chúng ta có bốn đạo binh, chỉ trong vòng một tháng, chiếm được Lạc-dương. Bấy giờ chỉnh bị binh mã, thiên hạ ắt không còn chỗ đứng cho Lưu Tú nữa. 
Có quân báo: 
– Ngô Hán được lệnh khởi binh ở Thanh, U-châu hơn năm mươi vạn, tiến đánh phía Bắc xuống. Đặng Vũ đã khởi binh Tinh, Ký-châu bốn mươi vạn kéo về. Mã Viện dốc toàn bộ binh Kinh-châu trên hai mươi vạn. Còn quân Trường-an, Lương-châu cũng gần ba mươi vạn nữa do Phùng Tuấn tiếp viện Lạc-dương. Chu Hựu đã dẫn hai mươi vạn Ngự-lâm quân dàn ra bảo vệ Lạc-dương. 
Phương-Dung bảo Vương Phúc, Trần Quốc, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa: 
– Thôi chúng ta rút quân đi. Trao đất cho Ngũ-phương kiếm. Sau trận Nam-hải, chúng ta tổn thất khá nhiều. Nhân lực bổ sung đã cạn. Sư muội đánh nữa tất thắng. Song sư muội mất năm người, không có năm vạn khác. Còn Hán mất hai mươi vạn này, lập tức có hai mươi vạn khác ngay. 
Vừa lúc đó Hoàng-kiếm, Phùng Vĩnh-Hoa tới. Trần Quốc nhìn Vương Phúc, Sa-Giang. Cả hai không nói một lời, nước mắt cùng dàn giụa. Trần Quốc ngửa mặt lên trời than: 
– Trời hỡi trời! Người ta sinh ra có mười điều, những sự bất như ý hết tám, chín. Nếu dân Lĩnh-Nam bằng một phần năm Trung-nguyên, thì nào là Lưu Tú, nào là Ngô Hán, nào là Đặng Vũ, nào là Chu Hựu, Trần Quốc này có coi ra gì. 
Bà truyền lệnh giao thành trì, đất cát cho Hoàng-kiếm, rồi ra lệnh lui quân. 
Phải hơn một tháng mới rút về tới Nam-hải. Tới nơi Vương Phúc, Trần Quốc, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Đào Nhị-Gia, Sa-Giang, Nguyễn Tử-Vân tự trói mình vào triều kiến, chịu tội trước Trưng-đế. 
Vua Trưng ứa nước mắt nói: 
– Ta cùng các em mưu đại sự. Ta biết các em thù nhà cao như núi, khó mà quên được. Song nếu rút chậm, e cả năm vạn quân đạo Nhật-nam, bảy vạn thủy quân sẽ bị tiên diệt. 
Ngài truyền cởi trói tha các tướng. 
Ghi chú : 

Trận Nam-hải diễn ra từ 11 tháng ba đến 28 tháng tám năm Nhâm-dần nhằm niên hiệu Trưng-đế thứ ba. Bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu thứ Kiến-Vũ thứ mười tám, tức là 42 năm sau Thiên-Chúa giáng sinh. 
Năm 1982-1985, thuật giả đến thăm chiến trường cũ, thời Lĩnh-Nam. Nay thuộc tỉnh Quảng-đông, đi dọc gần nghìn cây số bờ biển, từ đảo Hải-nam đến giáp Phúc-kiến, chỗ nào cũng thấy di tích đền thờ "vua Bà", "Giao-long". Bởi vì trận đánh khủng khiếp thời Lĩnh-Nam. Sau này dân chúng huyền thoại hóa đi bằng câu chuyện như sau: 
...Ngày kia Ngọc-hoàng thượng-đế ngự trên cung Linh-tiên, có hai nàng công-chúa đứng hầu. Vì lỡ tay, hai công-chúa đã đánh vỡ chén ngọc.Ngọc-hoàng truyền đầy hai nàng xuống trần. Hai công-chúa vữa đầu thai xong, Tiên-lại giữ sổ vào tâu rằng có một trăm sáu mươi hai tiên vừa nam, vừa nữ đầu thai theo hai công-chúa. Thượng-đế sợ hai nàng làm loạn, mới cho Thanh-y đồng-tử giáng trần cùng Nhị-thập bát-tú theo phò tá để dẹp loạn. 
Hai công-chúa đầu thai vào nhà họ Trưng ở quận Giao-chỉ. Chị Trưng Trắc, em là Trưng Nhị. Trưng Trắc gả về Đặng Thi-Sách. Nhân nhà Hán tham lam tàn bạo, Tô Định giết Thi-Sách. Trưng Trắc, Trưng Nhị nổi lên, có một trăm sáu mươi hai tướng nam, nữ theo ghíup, đánh chiếm được hết vùng Lĩnh-Nam. Quân Hán đại bại, Trưng Trắc xưng Vua, được dân chúng yêu kính thường gọi là Vua Bà. 
Bấy giờ có một con Giao-long ở đất Giao-chỉ đã nghìn năm, thành tiên. Giao-long giúp Vua Bà đánh chiếm từ đảo Hải-nam đến hết Phúc-kiến. Quân Hán không địch lại. 
Giao-long tiên đi đến đâu cũng lấy của nhà giàu cho người nghèo. Gặp tham quan giết không tha. 
Nhị-thập bát tú của triều Đông-Hán như: Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí, Vương Bá, Phùng Dị, Sầm Bành... đánh không lại. Ngọc-hoàng sai Thiên-lôi trợ chiến cũng bị thua. 
Một hôm Phật-tổ Như-lai đi qua thấy Giao-long nữ hung hăng. Ngài đứng trên mây thuyết pháp. Giao-long nữ ngộ đạo được Phật mang về thả ở hồ sen Tây-phương cực lạc. Từ đấy dân chúng lập đền thờ, lên đồng, cần đảo. Không gì mà không được. 
Đạo thờ Giao-long tướng của vua Bà đến hồi 1949 vẫn còn. Dân chúng thường lên đồng, Giao-long tiên về cứu giúp dân chúng chống với thiên tai, với tham quan, cường hào ác bá. 
Trước đền thờ Giao-long Trần Quốc có đôi câu đối, không rõ ai làm và làm từ đời nào: 
Tô khấu tước bình, trực bả quần thoa đương kiếm kích. 
Trưng-vương dực tải, hảo tương cân quốc hộ sơn hà. 
Nghĩa là: 
Đuổi giặc Tô Định cứu dân, quyết lấy quần thoa thay kiếm kích. 
Phù vua Trưng giữ nước, quyết đem tài khăn yếm giữ giang sơn. 
Mà thuật giả lấy làm đầu đề cho hồi này. 
Trong khi đó cuốn phổ tại đền thờ nữ tướng Trần Quốc thời Lĩnh-Nam tại xã Kiêu-kỵ, huyện Gia-lâm, Hà-nội kể rằng: Nàng Quốc không biết cha là ai, mẹ họ Đào đi tu ở chùa Thiên-thai. Một hôm sư cô họ Đào đi qua một con sông bị một con Giao-long nổi lên quấn lấy. Trở về mang thai đẻ ra Trần Quốc. 
Thuyết này thật hoang đường và vô lý. Vì thời bấy giờ mới có một vị tăng đầu tiên, pháp danh Tăng-giả Nan-Đà đến Lĩnh-Nam, thì làm sao có chùa, có sư nữ ? Có lẽ cuốn ngọc phổ này được soạn sau khi Trương Phụ lấy mất nguyên bản mang về Kim-lăng hồi 1407. 
Thuật giả đi dọc bờ biển đảo Hải-nam, Quảng-đông cho đến Phúc-châu. Chỗ nào cũng thấy kể chuyện Giao-long như tiên nữ nổi lên phò Vua Bà. Dân chúng thờ kính, lên đồng. Rõ ràng Giao-long Trần Quốc bên Trung-nguyên với nàng Quốc nữ tướng của vua Trưng là một. Những sự kiện đó cho ta kết luận rằng có Giao-long nữ Trần Quốc, thì có trận Nam-hải. Có trận Nam-hải thì lãnh thổ Lĩnh-nam cũ gồm tỉnh Quảng-đông, đảo Hải-nam. 
Sau này vua Quang-Trung đại thắng quân Thanh. Ngài chỉnh bị binh mã định chiếm lại các tỉnh Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam, Quý-châu, Hồ-nam vốn là lãnh thổ Lĩnh-Nam cũ. Song việc sắp hoàn tất, ngài đã băng hà. Đó là chuyện sau. Xin xem tiếp bộ ANH HÙNG TÂY SƠN của Yên-tử cư sĩ.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 26 : Đức bác thánh văn truyền Việt địa.Uy dương thần vũ trấn Nam thiên.(Câu đối ở đền thờ Nguyễn Tam-Trinh)




 Bắc-bình vương Đào Kỳ truyền lệnh đến Lạc-vương, Lạc-công đem tráng đinh bổ xung khẩn cấp các đạo quân bị tổn thất. 
Trưng Đế ban chỉ dụ cho Thánh-Thiên những điều phải làm. Ngài đang định khởi hành về Giao-chỉ, thì quân vào báo: 
– Có hai người lạ, xin vào yết kiến bệ hạ, hoặc Bắc-bình vương, báo cáo quân tình khẩn cấp. 
Đào Kỳ truyền cho vào. Hai người bước vào phủ phục xuống tung hô vạn tuế. Hai người mặt mũi, y phục đầy mồ hôi, cát bụi, chứng tỏ trải qua một cuộc hành trình dài. 
Chu Tái-Kênh trông thấy kêu lên: 
– Chiêu-Trung, Đỗ-Lý, các cháu có việc gì đây ? 
Chu Bá đã nhận ra hai người học trò mình, hồi trước Lê Thị-Hảo mang sang giao cho Chu Tường-Qui, giả làm thái giám. Chiêu-Trung nói với Chu Bá: 
– Sư phụ! Sư tỷ sai bọn con về tấu trình lên hoàng-đế hoặc Đào vương gia. Tình hình khẩn cấp lắm rồi. 
Đào Kỳ truyền mời hai người ngồi: 
– Hai em cứ thư thả cho ta biết tình hình. 
Đỗ-Lý nói: 
– Từ trước đến giờ Quang-Vũ muốn đem quân nghiêng nước diệt Lĩnh-Nam. Ngặt vì trong triều phe Hàn thái-hậu, Âm hoàng-hậu, Mã Vũ, Ngô Hán, Đặng Vũ, Chu Hựu là những người thân Lĩnh-Nam cản trở. Vì vậy Quang-Vũ tuy nghi ngờ Mã Viện, mà cũng phải dùng y đánh Lĩnh-Nam. Mã Viện chiếm được Kinh-châu. Ngô Hán chiếm được Hán-trung. Lê Đạo-Sinh được Vương Bá yểm trợ, đánh chiếm Tượng-quận. 
Đỗ-Lý thở dài: 
– Lĩnh-Nam cho Chu lão bá, cùng Đào vương phi sang khích Mã thái-hậu đem quân đánh Nam-hải. Lấy Nam-hải làm nơi diệt thủy quân Hán. Quang-Vũ biết hết. Y bí mật lệnh cho Lưu Long, Đoàn Chí lần lữa không tiến binh. Trong khi đó y thúc Ngô Hán, Vương Bá diệt Thục, chiếm Tượng-quận. Được hai nơi này, Quang-Vũ lờ đi cho Mã thái-hậu đánh Nam-hải. Y muốn mượn Lĩnh-Nam diệt trừ Mã thái-hậu, cùng vây cánh bà. Sở dĩ Quang-Vũ biết hết kế hoạch Lĩnh-Nam, vì có hai nhân vật quan trọng làm gian tế cho y. 
Trưng Đế hỏi: 
– Trước đây ta có lần thắc mắc, nghĩ rằng trong chúng ta có gian tế của Hán. Bây giờ quả đúng. Sư đệ có biết gian tế đó là ai không? 
Đỗ-Lý lắc đầu: 
– Quang-Vũ hành sự rất bí mật. Chu sư tỷ theo dõi từng ly, từng tý một mà cũng không biết gian tế là ai. Bây giờ trước việc Mã, Hàn thái-hậu bị chết vì Lĩnh-Nam. Phe Mã, Hàn, cho tới tất cả các phe phái trong triều đều đồng lòng diệt Lĩnh-Nam. Quang-Vũ truyền khởi binh các châu Tinh, U, Kí, Từ, Dự, Kinh, Lương, quyết san bằng Lĩnh-Nam. 
Đào Kỳ ngắt lời: 
– Y giao cho ai thống lĩnh binh mã? 
– Đích thân y điều động. Y chia làm năm mặt trận. Mặt trận thứ nhất, y xuống chiếu chỉ cắt đất Nhật-nam phong cho vua nước Hồ-Tôn làm Chiêm-vương. Truyền Chiêm-vương khởi binh đánh vào Nhật-nam. 
Phương-Dung nhìn Trưng vương, rồi hỏi: 
– Đạo binh thứ nhì? 
– Quang-Vũ cắt đất Cửu-chân phong cho vua nước Lão-Qua (Ai-Lao). Truyền khởi binh chiếm Cửu-chân. Hai đạo này nhằm mục đích gây bất ổn phía sau Lĩnh-Nam. 
Trưng Nhị cười: 
– Hai đạo này không đáng kể. Chỉ với bản bộ quân mã, Cửu-chân, Nhật-nam ta thừa sức dẹp tan. Còn đạo thứ ba?
– Đạo thứ ba do Vương Bá thống lĩnh, trợ giúp có Phong-châu song quái, dốc toàn thể hàng binh Thục cùng vét hết tráng đinh người Hán ở Tượng-quận đánh về Giao-chỉ, quân số tới hai mươi vạn người ngựa. Trước kia Quang-Vũ ban chỉ dụ cho Ngô Hán, Vương Bá án binh bất động, cho Lê thái sư thúc đánh Lĩnh-Nam. Nếu Lê bại mới tiếp ứng. Bây giờ chỉ dụ đổi ngược lại. Vương Bá điều động quân Hán, cùng quân Vũ Hỷ đánh thẳng vào Giao-chỉ. 
Ngưng một lúc, Đỗ-Lý tiếp: 
– Đạo thứ tư do Lưu Long thống lĩnh thủy quân vùng Liêu-đông kéo xuống đánh chiếm đảo Hải-nam, cắt đôi Nam-hải với Giao-chỉ. Hạm đội tới một ngàn chiến thuyền, trên mười lăm vạn binh. Phía Lĩnh-Nam có Lê Đức-Hiệp, Ngô Tiến-Hy, gồm ba mươi vạn thủy bộ. Đạo thứ năm do Mã Viện, dốc toàn lực quân Kinh-châu gồm ba mươi vạn thủy bộ, bằng mọi giá chiếm Trường-sa, vì là nơi trấn nhậm của tổ tiên Quang-Vũ. Theo Mã Viện có Lê thái sư thúc cùng với sư thúc Hoàng Thái-Tuế. Quang-Vũ thân chinh tới Kinh-châu điều động quân mã, đem theo thái phó Đặng Vũ, Đại tư-mã Ngô Hán. Còn Mã Vũ đi trấn thủ Trường-an, Phùng Tuấn đi trấn thủ U-châu. Quang-Vũ đã truyền hịch đi khắp nơi. Hịch này mới soạn thảo, đang sao chép. Cu Bò lấy trộm về cho Chu sư tỷ sao. 
Phùng Vĩnh-Hoa cầm lấy đọc lớn lên: 
Thừa thiên hưng vận, Kiến-Vũ hoàng-đế ban chiếu rằng: 
"Kể từ khi đức Cao-Tổ nhà ta, từ đất Bái, chém rắn khởi nghĩa. Thần uy trước diệt bạo Tần, sau bình ngụy Sở, thống nhất sơn hà về một mối. Trải qua mười hai đời thịnh trị. Bắc phương Hung-Nô qui phục. Phương tây các nước rợ đều quì gối. Phương nam, Triệu Đà ngụy tiếm sáu quận, dựng ra nước Nam-Việt, đem quân xâm phạm cương thổ. Kịp đến đức Văn-Đế, ban chỉ dụ, chiêu hàng. Triệu Đà biết uy, quì gối tuân phục. Niên hiệu Nguyên-Định thứ sáu đời Vũ Đế (111 trước Tây lịch) Lữ Gia làm truyện đại nghịch, thí chúa, định chống với thiên triều. Tiên Đế truyền cho Lỗ Bác-Đức đánh dẹp, thu đất Nam man vào cương thổ Trung-nguyên. 
Vừa rồi, Vương Mãng làm truyện đại nghịch. Trong khi trẫm phải đánh dẹp nghịch tặc, trung hưng chính thống. Bọn man di Lĩnh-Nam thừa cơ nổi dậy, chiếm sáu quận, lập triều đình phản nghịch chống lại thiên triều. Trẫm mải lo dẹp ngụy Thục, nhắm mắt ngơ đi. 
Bọn Nam-man không biết lễ độ, hợp nhau tôn một người đàn bà tên Trưng Trắc lên làm vua. Từ tiền cổ đến giờ, lẽ biến động Âm Dương, trời đất đã định. Gà mái gáy là mối ly loạn. Đàn bà phải ở phòng khuê. Có đâu đàn bà làm vua, làm tướng, đảo lộn luân thường? 
Trẫm đã nhiều lần sai sứ sang Giao-chỉ dạy dỗ lễ nghĩa. Song man di quen thói hung hăng, không chịu qui phục. Chúng chiếm Trường-sa nơi có lăng mộ tiên vương, rồi bảo rằng đó là lãnh địa của chúng. Trẫm sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mã Viện, Phiêu-kị đại tướng quân Thận-hầu Lưu Long, đem binh hỏi tội. Chúng hung hăng chống trả, làm quân mã thiên triều hao binh tổn tướng. 
Mới đây, chúng quen thói man mọi, đem quân xâm phạm vào cõi Mân, Triết, hại hai vị Quốc-mẫu, còn giúp bọn thảo khấu nổi loạn ở Liêu-đông. Dù trẫm muốn làm ngơ cũng không được. Nay trẫm thân thống lĩnh thiên hạ binh, quyết san đất Nam-man thành bình địa. Trước tỏ uy thiên triều sau báo thù Quốc-mẫu. 
Nuôi quân ba năm, dùng đến chỉ một ngày. Các ngươi làm tướng, làm binh, làm dân Trung-nguyên, không thể đứng nhìn quốc thể bị xỉ nhục. Nam-man hại hai Quốc-mẫu, không thể làm ngơ. Các người đừng quản ngại, cùng trẫm bình man. Các người có công, trẫm sẽ phong thưởng xứng đáng. Chẳng may tuẫn quốc, trẫm sẽ cho xây đền thờ, phong thần, đời đời hương khói, phủ tuất cha mẹ, vợ con. 
Đất Lĩnh-Nam có sáu quận, đều thuộc bờ xôi, giếng mật, gỗ quí đầy rừng, ngọc trai đầy biển, chim muông, thú vật, kỳ hoa dị thảo chẳng thiếu chi, đàn ba xinh đẹp như tranh. Trẫm hứa: 
* Tướng sĩ, quân lính chiếm được trang ấp nào. Bao nhiêu vàng ngọc, thú vật, của cải, đất cát, trẫm thưởng cho hết. nghiệp. Đất đàn bà sẽ được chia cho làm tỳ thiếp. Đàn ông chia cho làm tôi tớ. 
* Những kẻ trộm cướp, du thủ du thực phiêu đãng. Những kẻ bị tù, đều được ân xá, đưa xuống Lĩnh-Nam lập đai, nhà cửa, vợ con, thú vật của bọn Man-Việt thả sức cho chiếm lấy. 
* Cựu tướng sĩ, quan lại, dân chúng Hán hiện ở Lĩnh-Nam, dù đã phạm bất cứ tội gì, trẫm cũng ân xá. Vậy hãy nổi lên, chiếm giữ trang ấp, dẫn đường cho các đạo quân. Bất kể công nhiều hay ít được thăng ba trật. Của cải, vợ con của giặc chiếm được, trẫm thưởng cho tất cả. Ai không hưởng ứng, ngược lại tiếp tục theo giặc, sẽ bị giết chết. Nhà cửa, tài sản, vợ con bị tịch thu chia cho tướng sĩ. 
Tuy vậy trẫm cũng sinh phúc, tuyên triệu cho tướng sĩ, dân chúng Lĩnh-Nam biết, muốn khỏi họa diệt tộc thì: 
– Phải bỏ đế hiệu, qui phục Thiên-triều, nhận sắc phong. 
– Hàng năm, đích thân vua Lĩnh-Nam phải sang chầu vào ngày đầu năm, tỏ phận tôi con, nộp đồ tiền cống. 
– Không được dùng niên hiệu Lĩnh-Nam. Phải dùng niên hiệu nhà đại Hán. Phải nộp sổ dinh, sổ thuế. Chịu binh dịch. 
– Giải tán tất cả quân đội. Các đội quân sẵn có, phải được giao cho Thiên-triều, dùng vào việc chinh tiễu Man-di. Thiên-triều sẽ cho trọng binh xuống trấn đóng Lĩnh-Nam. 
Chiếu chỉ này tới đâu, tướng sĩ, dân chúng, phải nhất nhất tuân theo." 
Khâm thử". 
Phương-Dung đứng lên nói: 
– Như vậy Quang-Vũ cho quân muốn giết ai thì giết, muốn hiếp ai thì hiếp. Làm như vậy quân sĩ mới hăng hái. Y còn ác độc hơn là dùng bọn lưu manh, trộm cướp đưa xuống Lĩnh-Nam cướp bóc. 
Bát-nạn công-chúaVũ Trinh-Thục hỏi: 
– Nghe Quang-Vũ truyền cho triều thần nghiên cứu một phương pháp để diệt các tướng võ công cao. Phương pháp đó như thế nào? 
Đỗ-Lý đáp: 
– Có rồi! Chính thái sư phụ đã dâng phương sách đó. Phương sách như sau: Mỗi sư có ba đội. Mỗi đội gồm trăm người, mặc giáp sắt, cùng cỡi ngựa xung vào vây tướng. Họ dùng cung tên bắn chết ngựa. Tướng bị vây, ngựa bị chết, ắt nhảy vọt lên cao thoát ra. Bây giờ họ cùng dùng cung tên bắn theo. Một toán khác, dùng ống thụt, thụt một loại phấn độc. Dù tướng của Lĩnh-Nam võ công cao đến đâu cũng phải thở. Thở ắt hít phải khói độc, chân tay bại hoại, không đủ sức chống tên. Bấy giờ cung thủ bắn vào, ắt phải chết. Hiện thái sư phụ đã đào tạo được hơn năm trăm toán, đặt tên là Đoạn đầu quân. Nghĩa là quân dùng để cắt đầu tướng. 
Trưng-đế chỉ dụ: 
– Đào tam đệ viết thư mời các Lạc-vương, Đại tư-mã, đại tướng quân bảy đạo Lĩnh-Nam về Phiên-ngung họp ngay. Riêng đạo Nam-hải, Lê Chân tuẫn quốc không biết hiện đề cử ai thay thế? 
Đào Kỳ tâu: 
– Thần đề nghị nên để Hùng Bảo thay thế Lê Chân. Sư bá Cao Cảnh-Sơn lĩnh chức Vũ-kị đại tướng quân, thống lĩnh đạo binh ngự lâm quân thay thế Hùng Bảo. 
Nguyên sau khi phục hồi Lĩnh-Nam. Đào Kỳ cho họp đám quân Văn-lạc, Đăng-châu, Lôi-sơn, Lục-hải thành đạo binh Phù-đổng, huấn luyện rất tinh nhuệ, thiện chiến. Trưng-đế dùng làm Ngự-lâm quân, trao cho Hùng Bảo thống lĩnh. 
Đào Kỳ hỏi Chu Đỗ-Lý: 
– Hai sư đệ tới đây, triều đình nhà Hán có ai biết không? 
Chu Chiêu-Trung đáp: 
– Không! Sư tỷ giả gọi bọn em lên dậy rằng cho về thăm nhà. Đến Cu Bò cũng không hay. 
Hồ Đề hỏi: 
– Tình trạng Cu Bò ra sao? 
Chiêu-Trung đáp: 
– Học văn tiến rất mau. Học võ không hiểu ra sao, vì không có người dạy. Giữa Cu Bò với Âm hoàng-hậu, thái tử rất khắng khít. Công chúa Đoan-Nhu với Cu bò dường như có tình ý với nhau. Âm hoàng-hậu biết thế, mà vẫn lờ đi. Bà cho rằng nếu tuyển Cu Bò làm phò mã, sau này thái tử lên ngôi được một người bạn ý hợp, tâm đầu phò tá, văn võ toàn tài. 
Phùng Vĩnh-Hoa ngắt lời: 
– Quang-Vũ biết việc này không? 
– Thưa biết. Y khen Cu Bò có tư cách hơn bọn Lê Đạo-Sinh nhiều. 
Phương-Dung lo nghĩ: 
– Có phải Cu Bò tiết lộ kế hoạch cho Quang-Vũ biết không? 
Đào Kỳ cười: 
– Em lầm rồi! Đám đệ tử Tây-vu thuộc loại yêu nước quá khích. Dù ở hoàn cảnh nào cũng không đổi lòng được. Trước mắt Cu Bò, Trưng-đế mới xứng đáng làm hoàng-đế, còn Quang-Vũ chỉ là một thứ quỉ ác độc. Anh dám quả quyết Cu Bò cũng như đệ tử Tây-vu chưa từng phản bội, hiện không phản bội và sau này cũng không bao giờ phản bội. Em cứ nhìn trận Tượng-quận, Nam-hải, họ đành chịu chết, chứ không chịu lui. Anh sợ sau này, nếu mình phải rút khỏi Trường-sa, Nam-hải, các đệ tử Tây-vu sẽ ở lại đánh đến cùng. 
Hồ Đề nhìn Đào Kỳ, gật đầu: 
– Đào tam đệ xứng đáng làm Đại tư-mã. Hiểu người như vậy, hèn chi cắt cử chỗ nào cũng được việc. 
Đào Kỳ nhìn vợ, ông tiếp: 
– Mấy trăm năm qua, các thiếu niên Lĩnh-Nam được phụ huynh ngày đêm nhắc nhở mối hận trong vong quốc. Vì vậy dù ở hoàn cảnh nào, họ cũng đặt đất nước lên trên. Như hồi niên thiếu, anh lưu lạc đến phải làm tôi tớ. Thế mà tấc lòng son với đất nước vẫn không đổi. Hôm ở đảo, anh say mê Tường-Qui đến mất hết chí khí, sau cậu anh chỉ nhắc có một câu "Trên đời, nếu không có Tường-Qui cháu cũng không chết được. Trên đời này nếu không có cha mẹ cháu cũng không đến nỗi không sống được. Nhưng nếu trên đời này Lĩnh-Nam không còn, thì bố, mẹ, cậu, mợ sống làm chi nữa". Anh tỉnh ngộ. Lại nữa khi Chu Tường-Qui được Quang-Vũ sủng ái cùng cực, phong làm Quí-phi. Ai cũng cho là một thứ Mỵ-Châu. Anh thì cho rằng không. Dù nàng có là Quí-phi tấc lòng với Lĩnh-Nam cũng không mất. Huống hồ Cu Bò, nó được đào tạo rất cẩn thận. 
Đỗ-Lý tiếp: 
– Tất cả mưu kế của Quang-Vũ, y đều giảng giải rất kỹ cho thái tử. Thái tử là bạn Cu Bò, lại đem bàn với nó. Vì vậy nó mới biết được. Chứ sư tỷ Tường-Qui cũng không biết. 
Trưng Đế truyền chỉ: 
– Chúng ta bí mật đi Phiên-ngung. Việc bổ xung, chỉnh bị binh mã vẫn tiếp tục. Hiện thời Quang-Vũ đang phải đối phó với Ngũ-phương kiếm. Ta muốn tăng viện cho họ một đại tướng. Không biết ai có thể đi? 
Đào Kỳ đề nghị: 
– Về võ công, họ thừa sức thắng các tướng Hán. Họ cần một quân sư. Ở đây có Trưng vương, Vĩnh-Hoa, Thánh-Thiên, Phương-Dung và Vương Phúc đều có thể đương được. Xin bệ hạ quyết định. 
Trưng-đế ngẫm nghĩ một lúc gật đầu: 
– Trước hết ta muốn, một trong các vị tình nguyện đi, hay hơn đề cử. 
Phùng Vĩnh-Hoa, Vương Phúc đứng dậy nói: 
– Thần tình nguyện ra đi. 
Đào Kỳ nói với các tướng: 
– Quang-Vũ ra mặt khích Lão-Qua, Hồ-Tôn đánh Lĩnh-Nam. Chúng ta không cần dấu diếm việc Lĩnh-Nam giúp Ngũ-phương kiếm. Tuy nhiên người Việt mình hiền hòa, không muốn đánh nước người. Việc giúp Ngũ-kiếm hoàn toàn có tính cách tự nguyện. Vậy các anh hùng hiện diện, ai tình nguyện giúp Ngũ-kiếm không? 
Chu Tái-Kênh, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Đào Nhị-Gia, Sa-Giang, Trần Quốc cùng tình nguyện ra đi. Các tướng soái quân đoàn một Tây-vu cũng xin đi theo. 
Trưng-đế ban chỉ dụ: 
– Trẫm chuẩn tấu cho các vị lên đường. Các vị lên đường với hai trách vụ, một là giúp Trấn-nam vương Vương Phúc, Lĩnh-Nam công chúa Sa-Giang trả thù nhà. Hai là vì sự nghiệp Lĩnh-Nam. Các vị đi phải nhớ bằng này điều: 
* Khuyến khích Ngũ-kiếm, đánh đến đâu, lấy hết tài sản bọn tham quan, chia cho dân chúng, thưởng cho tướng sĩ. 
* Cắt cử người hiền tài ra làm quan. Vỗ về an ủi dân chúng. Đừng phân biệt họ là dân Hán, ta là người Việt mà không quan tâm tới đời sống của họ. Chính sách cai trị, nên rập theo Lĩnh-Nam. 
* Trường hợp Ngũ-kiếm thắng chiếm được Lạc-dương, khuyên anh em họ cử lấy một người lên làm vua, ba người giữ chức tư đồ, tư mã, tư không. 
* Đối với quan lại nhà hán, không nên trả thù. Người nào có tài, có đức, vẫn trọng dụng. Kẻ nào ác đức, giết không tha. 
Vương Phúc lạy tạ dẫn các tướng lên đường. 
Đào Kỳ tâu: 
– Trước đây Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa thống lĩnh đạo binh Nhật-nam. Bây giờ hai người đi giúp Ngũ-kiếm. Vậy thần đề nghị cử Bắc-đái công Chu Bá làm chánh tướng. Vĩnh-Huy công chúa làm phó tướng thay thế. 
Trưng Đế chuẩn tấu. 
... 
Từ ngày Lĩnh-Nam phục hồi, đây, là lần đầu tiên có cuộc đại hội quan trọng như vậy. Về phía triều đình, gồm tam công, tể tướng, lục bộ. Các tướng thuộc phủ Đại tư-mã, các tướng chỉ huy bảy đạo quân Lĩnh-Nam, các Lạc-vương, Lạc-công, các chưởng-môn, đại tôn sư võ học. 
Đại tư-mã Đào Kỳ cử công chúa Hồ Đề, điều động lực lượng Tây-vu tuần phòng, sợ gian tế đột nhập. Hồ Đề nói: 
– Đại tư-mã Quế-lâm là sư thúc Đinh Công-Thắng. Người kiêm nhiệm tổng trấn thành Phiên-ngung. Đại tư-không là sư thúc Triệu Anh-Vũ người giữ chức vụ tiếp đón anh hùng. Vậy hiền đệ cần phân rõ nhiệm vụ của chúng tôi. Vì từ lâu rồi, tôi thấy hai người đó có nhiều điều khác thường. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Cái gì đã xảy ra? 
Hồ Đề hừ một tiếng: 
– Hai ông Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ thường hay tiếp xúc riêng với các Lạc-công, Lạc-hầu người Hán. Dường như hai ông có âm mưu gì thì phải. Tôi không ưa hai ông ấy. 
Đào Kỳ quyết định: 
– Vậy thì thế này, việc bảo vệ đại sảnh đường, tuần phòng trong thành do sư tỷ đảm trách. Còn việc tuần phòng ngoài thành do hai vị Đinh, Triệu phụ trách. Xin sư tỷ cho biết kế hoạch. 
Hồ Đề đáp: 
– Từ khi Lĩnh-Nam phục hồi, Đào tam đệ họp đạo binh Văn-lạc, Đăng-châu, Lôi-sơn, Lục-hải thành đạo binh trừ bị Lĩnh-Nam, đặt tên là Phù-đổng. Một nửa trấn đóng Mê-linh, một nửa trấn đóng Phiên-ngung. Vừa rối tam đệ dùng tiếp viện Nam-hải. Ta muốn dùng đạo đó trấn giữ trong thành. Bên ngoài mặc Đinh, Triệu lo. Tuy vậy ta muốn Đào tam đệ cho ta điều động đạo binh Quế-lâm của Minh-Giang, đóng ở phía nam Phiên-ngung. Ta gọi Quách A, Tây-vu tiên tử từ hồ Động-đình về phụ với ta. 
Đào Kỳ đồng ý: 
– Sư tỷ cẩn thận như vậy vẫn hơn. 
Vương, công, tướng soái các nơi về tề tựu đầy đủ. Thành Phiên-ngung chật ních người. Những người ở xa, được đưa đến khu lầu đài trước kia là hoàng-cung của Triệu Đà cư trú. Sau bảy ngày, hầu hết các thành phần đã tề tựu đủ. Tổng số tới hơn nghìn người. 
Đúng giờ Thìn, hoàng-đế Lĩnh-Nam Trưng Trắc cùng tam công, tể-tướng tới. 
Sau ba hồi chiêng trống, ban nhạc cử bài Động-đình ca. Hoàng-đế Trưng Trắc cùng tất cả mọi người lễ trước bàn thờ Quốc-tổ. Lễ tất, cử tọa bái kiến hoàng-đế. Tể tướng Nguyễn Phương-Dung đứng lên nói lớn: 
– Thưa các anh hùng Lĩnh-Nam. Tin tức cho biết, Quang-Vũ nhà Hán khởi quân nghiêng nước chia làm năm đạo, quyết diệt Lĩnh-Nam. Vì vậy hoàng-đế mời các vị về đây, cùng nghị kế bảo vệ xã-tắc. 
Rồi bà tường thuật tỷ mỉ kế hoạch của Quang-Vũ, cùng với ý đồ quyết diệt giòng giống Việt bằng cách cho bọn trộm cướp xuống Lĩnh-nam, bắt đàn bà Lĩnh-Nam làm tỳ thiếp, giết hết đàn ông. Như vậy chỉ một thời gian sau, giống Việt không còn nữa. 
Đại sảnh đường ào nổi lên những tiếng chửi rủa, tiếng than, tiếng uất hận. Cửu-chân vương Đô Dương phát biểu ý kiến: 
– Cứ như chiếu chỉ của Quang-Vũ. Y muốn đem tài vật Lĩnh-Nam ra nhử quân sĩ. Y lại tách người Việt, người Hán ở Lĩnh-Nam ra hai khối khác nhau. Y muốn người Hán nổi dậy đánh cướp người Việt. Như vậy chủ ý đã rõ. Y khởi binh nghiêng nước là hư, chỉ muốn đe dọa người Hán ở Lĩnh-Nam: Thế nào Lĩnh-Nam cũng bị diệt. Vậy hãy đứng lên cướp bóc, giết hại người việt thì được an toàn. Đây mới là thực. Còn đạo binh Lão-Qua, Hồ-Tôn chẳng đáng kể. Kết lại ta có ba mặt trận chính. Một là Kinh-châu do Mã Viện. Hai là Nam-hải do Lưu Long. Ba là Tượng-quận do Vương Bá. 
Bắc-bình vương Đào Kỳ nói: 
– Sau khi Lê Đạo-Sinh dùng chiếu chỉ của Quang-Vũ dụ các Lạc-hầu Tượng-quận Bình man qui Hán. Các Lạc-hầu nhẹ dạ tin theo. Trận đánh bến Bồ-lăng, quân đoàn sáu Tây-vu giết được hơn năm vạn tráng đinh. Dân chúng oán hờn. Họ chống đối các Lạc-hầu gốc Hán cho rằng nếu không phản Lĩnh-Nam đâu đến nỗi. Vương Bá tiến quân vào Tượng-quận, bắt tất cả tráng đinh bổ xung cho đạo binh của y bị tổn thất trong trận Bồ-lăng, Vĩnh-định, Mi-sơn, Nga-sơn, Hán-nguyên. Dân Hán oán than thấu trời. 
Giao-chỉ vương Trưng Nhị tiếp: 
– Trước kia Hán đã từng khởi binh ba mặt đánh Lĩnh-Nam. Song ba mặt không có người chỉ huy thống nhất. Các tướng, người này chờ cho người kia đánh trước, sau đó mình đánh sau hưởng lợi. Bây giờ Quang-Vũ điều động. Cả ba mặt đều đánh cùng một lúc. 
Hoàng-đế Trưng Trắc hỏi: 
– Các vị cho trẫm biết: nên đánh hay qui hàng? 
Các Lạc công gốc Hán tại Nam-hải, Quế-lâm đưa mắt ra hiệu cho nhau, rồi đồng tiến lên trước Trưng-đế, quì mọp xuống khóc. Trưng-đế hỏi: 
– Không biết các vị có gì khổ tâm mà khóc vậy? 
Một Lạc-công nói: 
– Quang-Vũ dùng Lê Đạo-Sinh đến từng trang ấp dụ chúng tôi Bình man qui Hán. Chúng tôi thấy gương Tượng-quận cương quyết chối từ. Bây giờ Hán đem bọn trộm cướp, bọn phải tội xuống Lĩnh-Nam cho tự do cướp bóc hãm hiếp giết người. Chiếu chỉ truyền rằng: nếu chúng tôi phản Lĩnh-Nam đầu Hán, không những trang ấp được tồn tại, mà muốn giết, muốn cướp các trang người Việt không bị cấm cản. 
Vị Lạc-công khác khóc lớn: 
– Mấy năm nay, được sống thanh bình, sung sướng dưới triều Lĩnh-Nam. Chúng tôi vô cùng cảm ân đức. Bây giờ Hán cử quân nghiêng nước đánh Lĩnh-Nam. Nếu chúng tôi không hàng, chắc chắn đàn ông bị giết, đàn bà được cấp cho bọn trộm cướp làm tỳ thiếp, nhà cửa bị đốt, trang ấp bị phá. Vì vậy chúng tôi khấu đầu xin bệ hạ thương tình, cho chúng tôi đầu Hán. 
Phía Lạc-công, Lạc-hầu người Việt hô lớn: 
– Đánh! Quyết đánh đến người cuối cùng. 
Nguyễn Tam-Trinh nói lớn: 
– Tâu bệ hạ, không phải các Lạc-công, Lạc-Hầu người Hán hèn nhát. Ngặt vì Quang-Vũ đem quân nghiêng nước, quyết diệt Lĩnh-Nam. Dù họ biết trở về với Hán sưu cao thuế nặng, binh địch cay đắng. Ngặt vì cái gương bên Tượng-quận. Khi Lê Đạo-Sinh chiêu dụ, một số Lạc-hầu chống trả. Lê thả bọn đầu trộm đuôi cướp dàn quân tới đánh. Sau hai ngày chống trả, trang ấp bị tràn ngập. Lê Đạo-Sinh truyền bắt tất cả dân trong trang ấp tuổi từ mười lăm trở lên cắt lưỡi, cắt gân chân tay. Khiến họ không đi, không làm việc được, phải lê lết như thú vật. 
Một Lạc-công tiếp: 
– Còn nữa, nhà cửa, bị trộm cướp vào ở. Chúng nghiễm nhiên thành chủ nhân. Vợ, con gái bị chúng bắt làm tỳ thiếp. Người đàn bà nào chống trả, hoặc có lời lẽ vô lễ, chúng bắt ra hãm hiếp tập thể trước mặt chồng, rồi giết chết, quăng xác cho quạ ăn. 
Một Lạc-công khác tiếp: 
– Bọn trộm cướp, quân lính muốn giết ai thì giết, muốn đánh ai thì đánh, của cải muốn lấy cứ lấy, không cần luật pháp gì. Nhà cửa trang ấp bị đốt cháy ngùn ngụt. 
Trưng-đế nói lớn: 
– Phía người Việt quyết chiến. Còn phía các vị gốc Hán muốn đầu hàng. Bây giờ gần Ngọ rồi. Mời các vị đi ăn cơm. Chiều, giờ Mùi tiếp tục nghị sự. 
Anh hùng các nơi lục tục kéo về chỗ trọ, ăn cơm. Triệu Anh-Vũ phụ trách việc nấu cơm, tiếp đãi. Các anh hùng đều ăn cơm chung trong một nhà rạp lợp vải thực lớn. 
Hồ Đề, Vũ Trinh-Thục không dự buổi họp, cũng không ăn cơm chung với các anh hùng. Hai bà ngồi trên vọng lầu cao nhất của thành Phiên-ngung. Cạnh đó có Quách A, Tây-vu tiên tử ứng trực, sẵn sàng đối phó với biến cố. Hồ Đề hỏi Quách A: 
– Em quan sát buổi họp, thấy có gì lạ không? 
– Có! Sau buổi họp, anh hùng các nơi đều vào nhà rạp ăn cơm. Duy các Lạc-hầu, Lạc-công, quan lại Quế-lâm gốc người Hán đều ra ngoài thành. Em hỏi, họ trả lời rằng, họ về nhà ăn cơm. 
Vũ Trinh-Thục giật mình hỏi: 
– Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ có ra không? 
– Có hai người cùng ra một lượt. 
Vũ Trinh-Thục thở dài: 
– Tôi nghi hai người này từ lâu. Không chừng họ với đám quân Lạc-công, Lạc-hầu người Hán âm mưu điều gì cũng nên. Triệu Anh-Vũ phụ trách việc tiếp đãi các anh hùng mà bỏ đi là thế nào? 
Bà gọi Quách A: 
– Em cho Thần-ưng bay quan sát xung quanh thành xem sao? 
Quách A vâng lệnh. Nàng cầm tù và thổi. Đoàn Thần-ưng trên trăm con cất cánh bay đi. Quách A đứng trên vọng lầu nhìn theo. Một lát nàng la lên: 
– Không ổn! Có nhiều đạo quân kéo đến Phiên-ngung. 
Hồ Đề đứng dậy quan sát, quả nhiên xa xa, Thần-ưng đang bay lượn vòng tròn trên trời. Tín hiệu đó có nghĩa chúng theo dõi các đội quân bên dưới. 
Hồ Đề bảo Quách A: 
– Em cho đánh trống báo động. Đóng chặt các cửa thành lại. Truyền đội binh Phù-đổng lên thành canh giữ. Cho các xạ thủ ứng trực tại các dàn Thần-nỏ. Gọi đoàn Thần-ưng trấn thủ Luy-lâu cất cánh ngay. 
Vũ Trinh-Thục gọi một sư đệ: 
– Em báo tin tức này cho Tể-tướng và Bắc-bình vương biết liền. 
Người sư đệ vừa định chạy đi, thì Đào Kỳ, Phương-Dung đã chạy tới. Hồ Đề tóm lược những gì đã xảy ra cho hai người nghe. 
Đào Kỳ chú ý theo dõi, lát sau bụi bay mịt mù, có nhiều đạo kéo cờ Lĩnh-Nam tới gần thành. Phương-Dung quan sát kỹ nói: 
– Không phải quân Hán, mà là quân của Quế-lâm với mười lăm sư của mười lăm Lạc-công. Thêm vào đó có các đội tráng đinh của Lạc-hầu tập họp lại. Không biết họ kéo quân đi đâu đây? 
Một lát Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ tới. Hai người thấy cổng thành đóng chặt. Trên thành đạo quân Phù-đổng gươm đao tuốt trần. Các dàn Thần-nỏ chuẩn bị bắn xuống. Trên trời Thần-ưng bay lượn. 
Triệu Anh-Vũ đến trước cổng thành gọi. Hồ Đề lên vọng lầu hỏi: 
– Hai vị đang họp, cùng các Lạc-công, Lạc-hầu bỏ ra ngoài đem quân đến làm chi đây? 
Đinh Công-Thắng đáp: 
– Công chúa sao đa nghi quá vậy. Trời về chiều, tôi phải đem bản bộ quân mã Quế-lâm tới đóng ngoài thành phòng vệ, chứ có gì lạ đâu? 
Hồ Đề hỏi: 
– Nhiệm vụ của hai vị là tuần phòng ngoài thành. Trong thành có đạo quân Phù-đổng với Tây-vu. Mà nay không có biến động lớn, sao laị mang tất cả quân của các Lạc-công, tráng đinh của Lạc-hầu về? Nếu có gì xảy ra thì đã có đạo quân của Minh-Giang. Việc gì các vị phải điều động tráng đinh ô hợp chi vậy? Đào Kỳ, Phương-Dung cùng tới vọng lầu. Đào Kỳ hỏi: 
– Hai vị sư bá! Quân của các Lạc-công có nơi ở gần, có nơi ở xa. Muốn điều đến ít nhất phải tốn mười ngày đường. Tại sao các vị lại điều động đến mau như vậy? Thì ra các vị đã chuẩn bị từ trước? Các vị định làm gì đây? 
Trưng-đế được tin báo, Ngài cùng lên vọng lầu nhìn xuống. Ngài phán: 
– Hai vị sư bá! Các vị ở trên tôi một vai. Trên cả Hợp-phố lục hiệp một vai. Tại sao các vị lại mang quân làm phản? Các vị chỉ có bản bộ quân mã với với quân địa phương của các Lạc-công, thêm tráng đinh của Lạc-hầu. Bất quá được mười vạn. Trong khi đó đạo quân Minh-Giang, Phù-đổng cộng lại cũng gần mười vạn. Hai đạo quân thiện chiến xuất ra, thì quân của các vị không đương nổi trong một giờ. Các vị muốn gì cứ nói, ta đối với các vị như tình ruột thịt, mà các vị làm thế ư? 
Triệu Anh-Vũ quay lại nói với viên tướng đứng cạnh mấy câu. Y cầm cây pháo châm ngòi ném trên không. Pháo nổ đùng một cái. Lập tức các đạo quân bỏ cờ Lĩnh-Nam xuống, kéo cờ Hán lên đỏ rực. Cây cờ cạnh Triệu Anh-Vũ có hàng chữ Nam Việt vương Triệu. Cây cờ cạnh Đinh Công-Thắng có chữ Trường-sa vương Đinh. Triệu Anh-Vũ chỉ lên thành nói: 
– Trưng Trắc, ngươi thực ngu xuẩn. Ta vốn người Hán, giòng dõi Nam-Việt vương Triệu Đà. Trước kia ta theo quân tòng chinh Trung-nguyên, chẳng qua vì nhà Đại-hán. Sau ngươi bày mưu phản nghịch, ta đã muốn chống. Song thiên-tử sai mật sứ đến chỉ dụ cho ta ẩn nhẫn chờ thời. Một mai ngọn cờ binh Thiên-tử chỉ xuống nam, sẽ khởi sự. Thiên-tử sắc phong ta làm Nam-Việt vương, nối dõi tổ nghiệp khi xưa. 
Ngưng một lúc y tiếp: 
– Ngươi là một mụ đàn bà, lên ngôi hoàng-đế, thực là đảo lộn trật tự trời đất. Ngươi mơ tưởng ta phục tùng ngươi ư? 
Y quay lại nói với Đinh Công-Thắng: 
– Tiếc quá, ta đã bàn với sư huynh nên khởi sự ban đêm. Thình lình bắt sống tụi phản tặc. Có phải là truyện thống khoái kim cổ không? Nhân huynh không nghe, khởi sự ban ngày. Bây giờ chúng ta phải đánh thành. 
Phương-Dung mắng: 
– Thì ra lâu nay các ngươi giả nhân, giả nghĩa, ẩn náu ở Lĩnh-Nam ta. Các ngươi tưởng thành công ư? Khó lắm! 
Đinh Công-Thắng cũng không vừa: 
– Con tiện tỳ kia! Mày sát hại anh tao. Mày tưởng tao ngu lắm sao, mà cúi đầu tôn phục mày? Thiên-tử sắc phong tao làm Trường-sa vương. Hôm nay tao đến đây giết mày, trả thù cho anh tao đây. 
Trưng-đế hỏi triều thần: 
– Các vị định đối phó thế nào? 
Trưng Vương tâu: 
– Việc, Đinh, Triệu hai người chuẩn bị từ lâu. Thì ra gian tế của Quang-Vũ chính là hai người này. Vì chiếu chỉ đe dọa của Quang-Vũ, các trang ấp người Hán dù muốn trung thành với Lĩnh-Nam cũng phải phản. Bây giờ dùng đạo binh Phù-đổng dẹp loạn thì được. Song dẹp được loạn, đạo Phù-đổng cũng hao hụt không ít. Trong khi dân các trang ấp cũng vẫn là dân Hán. 
Phương-Dung hỏi Quế-lâm vương Lương Hồng-Châu: 
– Sư bá! Số trang ấp của người Việt được bao nhiêu? 
– Khoảng một phần mười. Đa số nằm sát biên giới Giao-chỉ. Lương thực nuôi đạo quân Hán-trung, Quế-lâm, Phù-đổng cùng đạo thủy quân Trường-sa hiện cất ở các trang ấp phía bắc, tức của các Lạc-công người Hán. 
Đô Dương bàn: 
– Chúng ta gọi Minh-Giang đem quân về, họp với đạo Phù-đổng dẹp đám phản loạn này trước. Cho quân trấn đóng trong các trang ấp phản loạn, giữ lương thực. Cần nhất giết mấy tên cầm đầu, tự nhiên chúng phải tan. 
Trưng-đế phán: 
– Trong khi hai bên giao chiến. Các vị Lạc-vương, Lạc-công, tướng soái khẩn lên đường về giữ vững địa phương. Trường hợp quân Hán đến đánh, không được xuất trận. Chỉ cố thủ trong thành, chờ lệnh. 
Ngài nói với Nguyễn Tam-Trinh: 
– Sư bá đem theo đội Giao-long Mai-động. Vậy sư bá đừng ngại khó, ngại mệt, hãy lên hồ Động-đình trợ giúp Phật-Nguyệt. Sư bá được toàn quyền quyết định nên rút lui hay quyết chiến. Trẫm sợ Phật-Nguyệt, Hiển-Hiệu, Quí-Minh sẽ tự tử, chứ không chịu lui quân. 
Bắc-bình vương Đào Kỳ truyền lệnh: 
– Sư huynh Minh-Giang đem đạo quân Quế-lâm về, đánh từ phía Nam lên. Sư bá Nguyễn Tam-Trinh, sư tỷ Trưng Nhị theo giúp sư huynh Minh-Giang. Tôi với Phương-Dung theo giúp sư bá Cao Cảnh-Sơn. Sư tỷ Hồ Đề, Vũ Trinh-Thục, Nguyễn Quí-Lan hộ giá hoàng-đế. 
Ba tiếng pháo lệnh nổi. Cổng thành mở rộng. Đạo quân Phù-đổng hùng dũng tiến ra. Các tướng đi đầu cầm loa gọi: 
– Các tướng sĩ thuộc địa phương Quế-lâm nghe. Hoàng-đế có chỉ dụ, vì các ngươi trót nghe lời Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ làm phản. Nếu bỏ vũ khí xuống đầu hàng, sẽ được ân xá. Ai chống trả, sẽ bị giết cả nhà. 
 Có một vài người định bỏ vũ khí. Triệu Anh-Vũ nói lớn: 
– Các ngươi đều là dân Hán. Tại sao lại tuân phục bọn man di. Hãy tiến lên giết man di, cướp lấy tài sản, đàn bà. Sẽ được thiên-tử tha cho. Bằng theo giặc, một trăm vạn quân thiên-tử sắp tới, cả nhà các ngươi sẽ bị giết. 
Đạo quân Phù-đổng xung vào trận phiến loạn. Quân phiến loạn chiến đấu mãnh liệt. Giữa lúc trận chiến ác liệt. Đạo quân của Minh-Giang tới xung vào bao vây. Quân phiến loạn không quen chiến đấu. Các tướng thiếu kinh nghiệm. Trận thế bị vỡ. Các Lạc-công dẫn quân chạy. 
Cao Cảnh-Sơn, Minh-Giang cho quân tiến vào các trang ấp. Các trang, ấp đều đóng kín cổng, cố thủ bên trong. Hai người cho quân bao vây. Song quân chỉ bao vây được một phần các trang ấp mà thôi. 
Phương-Dung quyết định: 
– Phải đánh chiếm gấp một số trang ấp dồn trú lương thảo. Nếu không chỉ nội mấy ngày quân hết lương không đánh cũng tan. 
Minh-Giang, Cao Cảnh-Sơn cho quân đánh các trang. Các Lạc hầu gốc Hán thấy quân đến, mở cửa trang đón vào. Dân trong trang nói: 
– Không phải chúng tôi phản hoàng-đế Lĩnh-Nam. Ngặt vì hiểm họa diệt chủng trước mắt. Chúng tôi phải hàng Hán. 
Phương-Dung nói với Trưng Nhị: 
– Mặt trận trên này để mặc chúng em. Sư tỷ hộ giá hoàng-đế trở về Mê-linh ngay. 
Trưng Đế gọi Đào Kỳ, Phương-Dung: 
– Đào tam đệ, Phương-Dung. Đất Lĩnh-Nam từ xưa tuy lãnh thổ lên tới hồ Động-đình thực. Song cách đây mấy trăm năm. Vua An-Dương bỏ Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận cho giặc, chỉ giữ vững Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam. Vì vậy ba quận phía bắc toàn dân hán, đã trở thành lãnh địa Hán. Chúng ta có tài trí, có giữ đất, cũng phải lo chống với dân Hán như người Hán cai trị mình, lo chống với dân Việt. Liệu giữ được thì giữ. Khi lòng dân đã đổi, ta chẳng nên cưỡng. Hãy bỏ Nam-hải, Quế-lâm. Chúng ta giữ lại lãnh địa như hồi Âu-Lạc. 
Nói rồi ngài cùng Trưng vương lên ngựa, trở về Mê-linh. 
Đào Kỳ, Phương-Dung trở về thành Phiên-ngung. Hai người bàn với Vũ Trinh-Thục, Hồ Đề, tìm cách giải quyết. Hồ Đề nói: 
– Ta cũng nghĩ như sư tỷ Trưng Trắc. Mình giữ đất toàn dân Hán. Mà dân Hán khi sinh ra tự coi là con trời. Ta nuôi họ khác gì nuôi ong tay áo? Ta nghĩ, mình rút về Giao-chỉ là hơn hết. 
Cao Cảnh-Sơn, Minh-Giang chuyển vận hết lương thảo chứa ở các ấp mới chiếm được vào thành Phiên-ngung. Công việc vừa hoàn tất thì có tin báo: 
– Vương Bá cùng Phong-châu song quái suất lĩnh hai mươi vạn binh từ Tượng-quận kéo về Phiên-ngung. 
Hồ Đề than: 
– Đạo quân Phù-đổng bốn vạn người, họp với đạo quân Quế-lâm của Minh-Giang nữa được khoảng tám vạn người. Trong khi đó quân, tráng đinh của Triệu Anh-Vũ trên mười vạn, thêm hai mươi vạn của Vương Bá. Chúng ta phải làm sao đây? 
Phương-Dung vỗ tay vào bao kiếm: 
– Ta cố thủ. Không dễ gì chúng đánh được. Có điều phải cho đạo Giao-chỉ của Đào Phương-Dung về Giao-chỉ, phòng quân Vương Bá đánh xuống. Đạo Nhật-nam cũng phải kéo về phòng bộ biển Giao-chỉ. Vậy chúng ta chỉ còn đạo Nam-hải giữ Nam-hải. Đạo Quế-lâm giữ Phiên-ngung và đạo Hán-trung giữ hồ Động-đình mà thôi. 
Suốt đêm tin tức dồn dập đưa đến. Quân Vương Bá đi đến đâu, các Lạc-hầu người Hán mở rộng trang ấp tiếp rước. Chỉ nội ngày một ngày hai, quân Vương Bá sẽ tiến về đến Phiên-ngung. 
Đào Kỳ lo lắng: 
– Không biết tình trạng hồ Động-đình với Nam-hải ra thế nào? Còn tin tức của Ngũ-phương thần kiếm, Phùng Vĩnh-Hoa cũng tuyệt. Đất Quế-lâm chỉ còn hơn hai trăm trang ấp phía nam của người Việt vẫn trung thành với Lĩnh-Nam. Các trang ấp Hán theo Hán hết rồi. 
Ông cầm bút viết lệnh, truyền cho Đào Phương-Dung đem đạo Giao-chỉ từ Khúc-giang rút về phía nam Quế-lâm, đề phòng Vương Bá đánh xuống Giao-chỉ. Hùng Bảo đem đạo Nhật-nam rút về phía bắc Giao-chỉ, phòng bộ biển. Còn Nam-hải vương Trần Nhất-Gia với Nguyễn Thánh-Thiên được toàn quyền quyết định giữ Nam-hải, hay bỏ. Nếu đa số các Lạc-công, Lạc-hầu theo Hán, đừng nên cưỡng lại. Hãy bỏ Nam-hải rút về. Còn ngược lại người Hán ở Nam-hải đồng lòng bảo vệ Lĩnh-Nam, thì tổ chức kháng chiến, lợi dụng địa thế hiểm trở, cố thủ. 
Phương-Dung bàn: 
– Đợi Vương Bá tiến quân đến Phiên-ngung. Chúng ta đánh một trận. Không giết được y, cũng đại phá quân Hán. Cần tỏ cho chúng biết quân chúng ta ít, song không hèn. 
Có tin tức từ hồ Động-đình báo về: 
– Mã Viện thống lĩnh hai vạn bộ, kị cùng mười vạn thủy binh, vượt Trường-giang bằng ngả Kinh-châu, Công-an, Hạ-khẩu. Công chúa Phật-Nguyệt, cùng Đào Hiển-Hiệu, Đào Quí-Minh đại phá thủy quân Mã Viện bên bờ Trường-giang. Mã hao bốn vạn thủy, năm vạn bộ. Phía Lĩnh-Nam hao hai vạn thủy, ba vạn bộ. Quân tướng hoang mang, vì các trang ấp Quế-lâm đều theo Hán, không có tráng đinh bổ xung. Trong khi đó hai cánh quân Hạ-khẩu, Công-an kéo về hồ Động-đình. Xin Đại tư-mã tăng viện. 
Đào Kỳ vội viết lệnh cho công chúa Phật-Nguyệt, bỏ Trường-sa, Linh-lăng rút về Phiên-ngung. Lệnh gửi đi rồi. Đào Kỳ vẫn áy náy không yên. 
Hơn tháng sau, có tin quân báo: 
– Vương Bá dẫn Thượng-dung lục hữu, cùng với, Phong-châu song quái tiến quân về Phiên-ngung. 
Phương-Dung sai đánh trống, mời các tướng đến nhận lệnh. Bỗng Quách A mặt tái mét chạy vào gọi lớn: 
– Đào tam ca! Nguy rồi! 
Đào Kỳ nhảy phắt dậy: 
– Cái gì? 
Quách A chưa kịp trả lời. Ông đã thấy sáu cỗ xe, trên chở người bị thương. Trong đó có Đào Hiển-Hiệu, Đào Quí-Minh, người đầy máu. Ông vội sai đỡ các tướng sĩ bị thương vào băng bó. 
Tiếp theo, một phụ nữ cực kỳ xinh đẹp, ngồi trên lưng ngựa, y phục đẫm máu. Phía sau một đoàn chiến sĩ, thương tích khắp người đi tới. Đào Kỳ chạy ra hỏi: 
– Hoàng sư tỷ! Sư tỷ có sao không? 
Hoàng Thiều-Hoa khoan thai xuống ngựa đáp: 
– Cảm ơn sư đệ. Chị không sao cả. Có điều Trường-sa thất thủ. Quân sĩ phần tử trận, phần tuẫn tiết hết rồi. 
Bà vào trướng, nhắm mắt dưỡng thần một lúc, rồi thuật lại trận hồ Động-đình. 
.... 
Trong khi Đào Kỳ, Phương-Dung đem đạo binh Quế-lâm, Phù-đổng đánh lui Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ. Phật-Nguyệt cùng các tướng rời Phiên-ngung phi ngựa như bay về Trường-sa. Bà cho mời các chúa tướng đến thượng nghị. 
Bà thăng trướng nói: 
– Tình hình nguy ngập. Quang-Vũ khởi quân nghiêng nước, dốc toàn bộ lực lượng các châu Từ, Dự, U, Tinh, Ký, Lương, Ích, thêm quân Trường-an quyết diệt Lĩnh-Nam. Hiện đại bản dinh Quang-Vũ đóng ở Kinh-châu, đối diện với chúng ta. Ấy là chưa kể Vũ-kị đại tướng quân An Đức-Huy thống lĩnh hai mươi vạn binh của hoàng-đế. Chúng ta phải đối trận với năm mươi vạn quân. 
Từ sau trận hồ Động-đình, sư trưởng Thần-ngao Vi Đại-Nham tuổi đã bảy mươi lăm, được Trưng Đế phong cho làm Pháp-hải hầu. Vì vậy người ta gọi không gọi ông là Vi Đại-Nham nữa, mà gọi là Vi Pháp-Hải. Ông đứng dậy nói:
– Chúng ta có bốn vạn thủy binh. Đạo Hán-trung có năm vạn người ngựa. Cộng với quân địa phương hai vạn. Tổng cộng mười một vạn. Như vậy một người chúng ta phải đánh với năm người Hán. 
Tiên-yên nữ hiệp nói: 
– Đánh thì chúng ta không sợ. Có điều đánh xong, chúng ta không có người bổ xung. Nguồn bổ xung tráng đinh của Quế-lâm tuyệt rồi. Vì các Lạc-hầu, Lạc-công Hán theo Quang-Vũ hết. Lương thảo chúng ta cũng không được tiếp tế nữa. Lương trong thành Trường-sa chỉ đủ nuôi quân trong vòng hai tháng. 
Nguyễn Tam-Trinh hỏi: 
– Trưng-đế cho chúng ta toàn quyền quyết định, được đánh hay bỏ Trường-sa. Bây giờ chúng ta đánh hay rút? 
Đào Hiển-Hiệu quyết định: 
– Đánh! Sư bá cùng các sư tỷ, sư huynh muốn rút cứ rút. Anh em cháu quyết chiến đến cùng, rồi chết với Trường-sa. 
Đào Quí-Minh cũng nói: 
– Trưng-đế chỉ dụ "Đạo làm tướng phải giữ khí tiết. Tướng được giao giữ thành thì tướng là thành, thành là tướng". Chúng cháu quyết chết với thành Trường-sa và hồ Động-đình. 
Phật-Nguyệt cầm kiếm lệnh để lên bàn: 
– Hiển-Hiệu, Quí-Minh, về tuổi tác hai em nhỏ hơn chị. Về công vụ chị là chúa tướng. Hai em phải nghe lời chị. Chúng ta đánh một trận, rồi rút về giữ Giao-chỉ. Các em với chị thuộc thần dân Âu-Lạc. Lãnh địa Âu-Lạc không có Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận. 
Đào Hiển-Hiệu khổ sở: 
– Tượng-quận mất, Tượng-quận tam-anh tuẫn quốc. Phái Sài-sơn, sư bá Đặng Đường-Hoàn, cùng Đào thị tam hùng đều tuẫn quốc. Phái Cửu-chân thiệt mất đại sư bá Đinh Xuân-Hoa. Toàn quân đoàn sáu Tây-vu nguyện đổ máu, đền nợ Quốc-tổ. Bây giờ đến lượt bọn em. Chúng em đã quyết rồi. 
Ông hỏi Đào Nhị-Gia: 
– Sư huynh với quân đoàn bảy Tây-vu thế nào? 
Sún Hô cười lớn: 
– Còn thế nào nữa? Ta được sư phụ thu làm đệ tử. Ta quan hệ với cả Tây-vu lẫn Cửu-chân. Võ đạo cả hai không cho ta bỏ đất cho giặc. Đầu ta có thể rơi, chứ ta không chấp nhận để một thước đất cho ngoại bang, 
Phật-Nguyệt ngửa mặt lên trời than: 
– Khi ta nhận chức tổng trấn khu Trường-sa hồ Động-đình, Trưng-đế chỉ dụ "Các tướng sĩ đều có kỷ luật, khí tiết. Song đối với đệ tử Tây-vu, Cửu-chân, yêu nước quá khích, đôi khi thành cương ngạnh". Bây giờ ta mới hiểu. 
Đào Quí-Minh thở dài: 
– Chết ai mà không sợ? Bọn em cũng sợ chết lắm chứ. Nhưng có nhiều cái đáng sợ hơn cái chết, đó là bỏ đất, bỏ dân cho giặc. Sư tỷ cứ ban lệnh. Chúng em xin tuân theo. Nhưng chúng em không bước chân khỏi đất Trường-sa. Thế thôi. 
Công-chúa Vĩnh-Hòa nói với Quí-Minh: 
– Anh Quí-Minh! Võ công em tuy không làm bao song em cũng quyết cùng chết với anh. Em là người Hán, là công chúa. Song phận gái chữ "tòng". 
Phật-Nguyệt nhìn Nguyễn Thành-Công, Tiên-yên nữ hiệp rồi than: 
– Cao nhân phái Cửu-chân có thể nói cho Hiển-Hiệu, Quí-Minh nghe hiện chỉ còn Bắc-bình vương Đào Kỳ mà thôi. Để cháu viết thư cho Đào Kỳ giải quyết vụ này. 
Bỗng quân vào báo: 
– Thuần-chính hoàng thái-hậu giá lâm. 
Các tướng Tây-vu ngơ ngác không biết Thuần-chính hoàng thái-hậu là ai. Phật-Nguyệt giải thích: 
– Chính là sư tỷ Hoàn Thiều-Hoa đấy. 
Bà vội dẫn các tướng ra ngoài tiếp đón. Bà hô các tướng hành đại lễ. Hoàng Thiều-Hoa xua tay: 
– Sư bá cùng các sư muội, sư đệ miễn lễ. Hãy quên cái tước hoàng thái-hậu đi. Tôi đến đây với tư cách một đệ tử Cửu-chân. 
Phật-Nguyệt kính cẩn mời Thiều-Hoa vào trướng, bà hỏi: 
– Đại ca Tự-Sơn đâu? 
– Đại ca Tự-Sơn đi tu, đạo hiệu là Tử-Lăng. Đại ca xấu hổ, không dám mang họ Trần, vì sợ ô uế tên của Phương-chính hầu Trần Tự-Minh. Đại ca giữ họ Nghiêm. Bây giờ là Nghiêm Tử-Lăng. Đại ca cùng tôi đang ngao du thắng cảnh. Được tin Quang-Vũ khởi binh nghiêng nước diệt Lĩnh-Nam. Tôi xin đại ca trở về nắm vận mệnh đất nước, chống Hán. 
Bà thở dài: 
– Từ khi Hàn thái-hậu chết. Đại ca sinh chán đời, không thiết thế tục nữa. Vì vậy tôi nói, đại ca không nghe. Tôi lạy tạ đại đa bốn lạy, xin tạm "nghỉ" nhiệm vụ làm vợ, trở về Lĩnh-Nam làm nhiệm vụ của đệ tử Cửu-chân và con cháu Âu-Cơ. Tôi đến đây trợ chiến với sư bá và các em. 
Phật-Nguyệt trình bày tình hình. Hoàng Thiều-Hoa bảo Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Đào Ngũ-Gia: 
– Sư phụ, sư mẫu, sư thúc đều tuẫn quốc. Sư thúc Đinh Đại, đại sư ca Trần Dương-Đức ở xa. Ta là người có vai vế lớn nhất của phái Cửu-chân ở đây. Các sư đệ phải tuân lệnh ta. Đánh một trận, rồi rút về Giao-chỉ. 
Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Đào Ngũ-Gia líu ríu nói: 
– Bọn đệ xin tuân lệnh sư tỷ. 
Phật-Nguyệt đã từng nghe nói đệ tử Cửu-chân vốn cương nghạnh, nhưng khi những người trưởng thượng ra lệnh, không bao giờ họ giám cãi. Hôm nay gặp thái độ cứng nhắc của anh em họ Đào, bà cảm thấy bất lực. Không ngờ Thiều-Hoa xuất hiện, chỉ nói một câu mà hiệu nghiệm như vậy. 
Thiều-Hoa tiếp: 
– Hán kéo binh làm ba đạo: Đạo từ Kinh-châu vượt sông sang đây. Đạo vượt sông ở Hạ-khẩu. Đạo vượt sông ở Công-an. Vậy chúng ta hãy phá đạo vượt Kinh-châu trước. Không biết đạo này do ai chỉ huy? 
Đào Hiển-Hiệu đáp: 
– Do ba anh em ruột của Mã Viện là Mã Anh, Mã Huống, Mã Dư. 
Phật-Nguyệt bưng ấn kiếm trao cho Hoàng Thiều-Hoa: 
– Em xin trao ấn kiếm, để sư tỷ chỉ huy. 
Hoàng Thiều-Hoa do dự, định từ chối. Song bà nghĩ, nếu mình ra lệnh, đám Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Ngũ-Gia sẽ phải răm rắp tuân theo. Bà cầm ấn kiếm phát lệnh: 
– Chúng ta cần đánh một trận lấy thắng, rồi rút lui. Vì vậy bỏ trống hai mặt Hạ-khẩu, Công-an. Lần trước Mã Viện bị bại vì hai đạo binh từ Hạ-khẩu, Công-an kéo về. Lần này tất y đổ binh sang hai vùng đó nhiều hơn. 
Các tướng đều gật đầu tỏ ý phục lý luận của bà. Bà tiếp: 
– Trước khi xuất quân, cần chuẩn bị đường rút lui. Vậy các sư đệ Trần Quốc-Lực, Trần Quốc-Uy, Trần Quốc-Dũng, Vi Lan đem theo sư Thần-long phục trên đường từ hồ Động-đình về Trường-sa. Nếu thủy binh giặc đuổi theo thủy binh ta vào Tương-giang, các sư đệ phục Giao-long binh đục thuyền chúng. 
Bà gọi Đào Quí-Minh: 
– Em trấn thành Trường-sa, cho chuyên chở tất cả lương thực, tài vật lên thuyền, chờ sẵn. Khi đoàn chiến thuyền của chúng ta từ Động-đình rút về sẽ cùng rút một thể. Trước khi rút, đem cờ trắng treo la liệt khắp mặt thành. Các cổng thành mở rộng. 
Quí-Minh hỏi: 
– Như vậy để làm gì? 
– Mã Viện vốn đa nghi. Y bị Phật-Nguyệt lừa ở hồ Động-đình. Sau này bị Đào Nhất-Gia lừa ở Nam-hải. Cuối cùng bị Thánh-Thiên lừa ở Đông-khê. Bây giờ ta kéo cờ trắng, mở cổng thành. Tất y nghĩ ta dùng kế không thành, không dám tiến quân. Như vậy ta trì hoãn được bước tiến một ngày. 
Bà gọi Xích-Hầu tướng. Từ sau trận hồ Động-đình, Xích-Hầu được phong tước Lôi-chấn hầu. Vì vậy từ đó chàng thường được gọi là Lôi-chấn: 
– Phía nam thành Trường-sa bốn mươi dặm, chỗ ngã ba Tương-giang với Liên-thủy có khu rừng rậm. Sư đệ phục sư Thần-hầu ở đây. Dùng gỗ, đá lăn cản đường tiến quân của Mã Viện, rồi rút lui. Dọc đường treo thực nhiều cờ trắng làm nghi binh. 
Bà gọi Vi Pháp-Hải (Vi Đại-Nham): 
– Lão tướng đem sư Thần-ngao phục ở ngã ba Tương-giang, Lục-thủy, dùng Thần-ngao đánh vào quân Mã Viện. Chỉ cần cản trở y nửa ngày, rồi rút lui. Trên đường rút lui treo thực nhiều cờ trắng làm nghi binh. 
Bà gọi Đào Hiển-Hiệu: 
– Sư đệ đem bản bộ binh mã cùng sư Thần-tượng, hổ, báo kéo cờ trắng ở khu rừng ngã ba Tương-giang với Mễ-Giang. Mã Viện bị nghi binh Trường-sa, Liên-thủy, Lục-thủy, chắc bấy giờ y không tin nữa, tiến binh lên. Sư đệ tung Thần nỏ, hổ, báo, tượng đánh y. Y bị bất ngờ, ắt bỏ chạy. Sư đệ không nên đuổi theo, rút thẳng về Linh-lăng. 
Bà nói với Nguyễn Thành-Công, Tiên-yên nữ hiệp, Phật-Nguyệt: 
– Bây giờ đến lượt chúng ta. Chúng ta mang hải đội hồ Động-đình dàn ra bờ nam Trường-giang, chờ quân Hán. Hiện chúng ta có năm vạn thủy quân. Hán có mười vạn. Chúng sẽ đem thêm bộ binh. Chúng ta đón đánh chúng ngay trên Trường-giang. Chúng ta chia binh làm bốn cánh: 
* Cánh thứ nhất ta đích thân chỉ huy, với Cao Cảnh-Anh, Sún Hô, Trâu Trắng, Nguyễn Nhân. 
* Cánh thứ nhì sư bá Tiên-yên, Cao Cảnh-Hùng, Trâu Lồng, Nguyễn Nghĩa. 
* Cánh thứ ba sư bá Nguyễn Tam-Trinh, CCao Cảnh-Hào, Trâu Mập, Nguyễn Lễ. 
* Cánh thứ tư Phật-Nguyệt, Cao Cảnh-Kiệt, Trâu Ngáp, Nguyễn Trí. 
* Nguyễn Tín chỉ huy đoàn chiến thuyền chở Thần-phong, Thần-nỏ ở phía sau. Khi được lệnh, cho tiến lên yểm trợ. Chúng ta đánh một trận, rồi rút vào hồ Động-đình. Tới giữa hồ chúng ta mới đánh thực sự. Sau khi phá thủy quân Mã Viện. Chúng ta rút vào Tương-giang, về Trường-sa. 
Bà ngưng lại cho các tướng theo dõi kịp, tiếp: 
– Khi rút, thì ba cánh rút theo Tam-sơn, một cánh rút theo Quân-sơn. Cánh Quân-sơn phải ngưng lại cản giặc từ Hạ-khẩu tiến về. Đợi ba cánh diệt thủy quân giặc, bấy giờ cùng rút. Cánh này rất nguy hiểm. Không biết ai tình nguyện? 
Tiên-yên nữ hiệp, Nguyễn Tam-Trinh, Phật-Nguyệt đều tình nguyện. Hoàng Thiều-Hoa nói: 
– Vậy thì chúng ta rút thăm. 
Nguyễn Tam-Trinh rút trúng. Hoàng Thiều-Hoa nói: 
– Sau khi đại chiến trên sông Trường-giang. Sư bá đem cánh thứ ba rút về hướng hồ Quân-sơn. Giặc tất đuổi theo. Sư bá dừng lại trên Quân-sơn cản giặc. Bấy giờ cánh quân Hạ-khẩu cũng sẽ vượt sông tiến về. Sư bá phải tử chiến với cả hai đạo quân. 
Nguyễn Tam-Trinh khảng khái: 
– Ta có một vạn quân, phải đại chiến với năm vạn quân. Song đã là anh hùng ta há sợ sao? Ta hứa cầm cự cho đến khi cháu phá được giặc trên hồ, mới rút lui. 
Các chiến thuyền nhổ neo, dương buồm vượt hồ đi về phương Bắc. Phật-Nguyệt nhìn lên núi Tam-sơn, lòng đầy thương cảm. Mới hôm nào đây bà cùng Trưng Nhị, Hồ Đề, Trần Năng, Sa-Giang, Lại Thế-Cường đánh chiếm Trường-sa rồi hành hương di tích, Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Bấy giờ nàng chỉ là một võ tướng. Bây giờ nàng cầm đại quân. Lần vượt hồ du ngoạn lòng thơ thới, ngụt hy vọng. Bây giờ nàng thấy tương lai đất nước tối đen, không biết sẽ đi về đâu? Những tướng sĩ cùng bà đang nói nói, cười cười. Không biết mai này trở về còn những ai? Nhớ lời Tăng-Giả Nan-Đà nói: 
"Đời này đều vô thường. Những gì diễn ra hôm nay tích lũy "nghiệp, quả" từ bao kiếp trước. Con người tài hoa, bôn ba mấy cũng không thoát khỏi. Muốn rời thế giới Ta-bà chém giết này, chỉ có một đường tu hành, sau khi chết, về thế giới Cực Lạc". 
Không biết giờ này Tăng-Giả-Nan-Đà ở đâu ? Phương-Dung nói, hôm Lê Chân sắp chết, ngài có đến bản dinh Thánh-Thiên qui y cho. Ngài nói rằng: 
"Khi người ta sắp chết, không nên sợ hãi. Tĩnh trí, "tứ đại giai không". Nếu chết trên đầu, dần xuống tới chân, kiếp sau thác sinh vào loài cầm thú. Còn ngược lại chết phần chân trước rồi lên tới đầu, sẽ được thác sinh lên thế giới Cực-lạc. Giờ này hẳn Lê Chân đang ở thế giới Cực-lạc rồi đây. 
Những lời khảng khái của đám đệ tử Đào gia làm bà thở dài tự nghĩ: 
– Trưng-đế truyền chỉ bảo ta trấn thủ hồ Động-đình. Bây giờ bảo ta tùy ý quyết định rút hay giữ. Giữ chắc chắn không được. Vậy ta rút quân về giữ Giao-chỉ. Song ta quyết một người một kiếm, giết quân Hán đến khi sức cùng, lực kiệt, rồi chết. Cứ tình hình này, bọn Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Sún Hô đều tử chiến, không lui. Ta tưởng ra lệnh cho chúng rút, rồi ở lại chết một mình. Bây giờ có Thiều-Hoa chỉ huy quân rút lui. Ta có thể cùng chết với chúng được rồi đây. 
Có tiếng đàn thánh thót từ đâu đó vọng lại. Bà nhìn sang thuyền bên cạnh. Nguyễn Tam-Trinh cùng đám đệ tử Mai-động đang tấu nhạc. Bà nghĩ thầm: 
– Trưng sư tỷ khen Nguyễn Tam-Trinh là người bác học bậc nhất Lĩnh-Nam, "Văn thành, võ đức". Người chế ra môn vật, dạy cho đệ tử. Trước hoàn cảnh, chín phần chết, một phần sống, mà người vẫn bình thản cùng đệ tử tấu nhạc. Quả thực đại hào kiệt khó thấy trên đời. 
Thuyền tới bờ sông Trường-giang. Sông rộng mênh mông, sóng gào, gió lộng, trời kéo mây đen. Cờ Lĩnh-Nam bay phất phới. Các chiến thuyền dàn trận sẵn, rồi neo vào bờ. Bà định gọi Trâu Lồng truyền lệnh, thì thấy nó đã leo lên chót vót cột buồm nhìn sang bên kia sông, quan sát động tĩnh. 
Thiều-Hoa đứng trên soái thuyền, nhìn trại Hán đóng san sát, dài từ Công-an, tới Hạ-khẩu. Chiến thuyền đóng làm ba khu. Bà tự cảm thán: 
– Nếu dân Lĩnh-Nam bằng một phần năm dân Hán, ta thừa sức đánh chiếm Trung-nguyên, lật đổ nhà Hán. Ngặt vì dân Lĩnh-Nam chỉ bằng một phần hai mươi dân Hán. Quân Mã Viện đông gấp hai mươi quân ta. Ta mới phải lo lắng thế này! 
Trên trời, Thần-ưng bay lượn tuần phòng nghiêm mật. Suốt hai ngày không có tin tức gì. Đến sáng thứ ba. Đào Nhị-Gia chỉ sang bên kia sông nói: 
– Chúng vượt sông. Kìa! Các chiến thuyền đã chuyển động. 
Hoàng Thiều-Hoa cho thổi một hồi tù và hiệu lệnh. Chiến thuyền dàn ra làm bốn cánh. Bên trái là Phật-Nguyệt, bên phải là Tiên-yên nữ hiệp. Thiều-Hoa ở giữa. Phía hạ lưu là Nguyễn Tam-Trinh. 
Hoàng Thiều-Hoa cầm cờ phất lên ra lệnh. Lập tức các trống đồng trên chiến thuyền cùng đánh một lượt. 
Từ bên kia sông, chiến thuyền Hán chia thành ba đội, dàn hàng, căng buồm lướt sóng, vượt Trường-giang. Mây quang, nắng chói chang. Đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam bất động. Trong khi đoàn chiến thuyền Hán từ từ tiến tới. Hai dặm, rồi một dặm, rồi... hai trăm trượng. 
Cờ đỏ từ các soái thuyền phất lên. Thần nỏ Âu-Lạc tứ hùng nạp tên vào cung. Cánh cung lượn cong như trăng mồng hai. Mũi tên xé gió bay tới. Các tướng Hán nghe tiếng tên rú, đồng báo hiệu cho nhau chuẩn bị gạt tên. Song mũi tên bay quá cao với đầu người. Tên trúng vào các dây căng buồm. Phựt, phựt, phựt, loạt tên đầu của Tứ-hùng bắn ra, tiện đứt mười sáu dây cột buồm của mười sáu chiến thuyền lớn đi hàng đầu. Vì lối bắn của Tứ-hùng, một lúc từ bốn tới mười hai mũi hướng vào nhiều mục tiêu khác nhau. Dây căng buồm đứt. Các chiến thuyền đi hàng đầu quay ngang. Quân sĩ náo loạn. 
Tiếng tên bay vẫn rú như cú rúc, lại một loạt chiến thuyền Hán bị đứt dây căng buồm quay ngang. Tướng tổng chỉ huy là Mã Anh. Y hô lớn: 
– Chèo thuyền, tiến lên. Giữ nguyên đội hình. 
Các đội thủy thủ Hán xuất trận lần này toàn những người kinh nghiệm chiến đấu lâu năm. Dù thuyền quay ngang, chúng vẫn giữ được kỷ luật, hàng ngũ không rối loạn. 
Các tướng Hán mải đốc thúc quân sĩ chèo thuyền, giữ lại hàng lối, không đề phòng. Tứ-hùng bắn một loạt tên thấp. Một lúc hai mươi tên vừa tướng, vừa thuyền trưởng trúng tên ngã lộn xuống sàn thuyền. Tiếp theo tiếng rú như cú kêu đêm khuya. Các dàn Nỏ-thần bắn những mũi tên to bằng cổ tay. Tên từ trên trời rơi xuống trúng giữa chiến thuyền. Mỗi mũi rơi xuống, một hay hai người chết. Đầu mũi tên tẩm dầu, đốt lửa. Phút chốc nhiều chiến thuyền Hán bốc cháy. 
Mã Anh hô lớn: 
– Cho thuyền lao vào đội hình Lĩnh-Nam! 
Hoàng Thiều-Hoa cầm cờ phất. Đội chiến thuyền Lĩnh-Nam tự tách làm đôi. Các chiến thuyền chở Nỏ-thần từ phía sau vọt lên trước. Cao Cảnh-Kiệt dương cung bắn vào một chiến thuyền Hán đi đầu. Viên tướng chỉ huy bị trúng ngực, chết tươi. Mũi tên của Cảnh-Kiệt có mục đích chỉ mục tiêu cho các dàn Nỏ-thần. Nỏ-thần nã vào chiến thuyền đó. Hầu như quân sĩ trên thuyền bị bắn ngã hết. Cứ như vậy một lúc sau, trên hai mươi chiến thuyền Hán bị tiêu diệt. 
Các chiến thuyền đã lẫn vào nhau. Phật-Nguyệt đứng đầu mũi thuyền Lĩnh-Nam. Bà vọt người lên cao, tà tà đáp xuống giữa chiến thuyền Hán. Ánh kiếm loé lên, đầu viên tướng Hán đã rơi xuống sông. Thây y chưa đổ xuống, đã đến lượt hơn chục tên khác. Các chiến sĩ Việt theo sau bà. Đánh được chiến thuyền này, chuyển sang chiến thuyền khác. Bà đang tung hoành như chỗ không người. Bỗng bà cảm thấy như bị ai đánh trộm. Bà vọt người lên cao tránh. Thanh đao đánh trộm cắm sâu vào ván thuyền. Từ trên cao, bà nhận ra người đánh trộm mình là Chu Long, đứng đầu Liêu-đông tứ ma. 
Trong khi đáp xuống, kiếm của bà lia ngang vào cổ Chu Long. Chu Long xỉa kiếm định chặt chân bà. Song kiếm của bà đã tới trước. Y vội thu kiếm về đỡ, thì kiếm của bà đã chỉa vào cổ. Y lộn một vòng, rơi tõm xuống sông. 
Phía bên kia, Hoàng Thiều-Hoa, Tiên-yên nữ hiệp đã giết được viên tướng Hán chỉ huy đội. Trận tuyến Hán rối loạn lên. Mã Anh đứng trên cao, cầm cờ phất. Lập tức từ bên kia sông. Năm đội chiến thuyền nữa, vừa đánh trống vừa vượt sông sang tiếp viện. 
Thủy đội của Nguyễn Tam-Trinh đối diện với Vương Hùng. Ông bảo CCao Cảnh-Hào, Trâu Mập: 
– Hào nhắm bắn Vương Hùng liên tiếp, không để cho y trở tay. Trâu Mập cho Thần-ưng đánh y. Ta vừa đánh vừa lui. 
Ông cầm ống tiêu để lên miệng thổi bản Động-đình ca. Tiếng tiêu pha nội lực truyền đi rất xa. Vương Hùng ngơ ngác tự hỏi: 
– Bọn Lĩnh-Nam dở trò gì đây? 
Vừa lùc đó, tiếng tên xé gió bay tới. Y rút kiếm gạt. Choang một tiếng, ánh lửa toé ra. Tên rơi xuống sông. Cánh tay Vương Hùng cảm thấy ê ẩm. Vì tên của Cao Cảnh-Hào bằng thép. Y còn đang ngỡ ngàng, thì ba viên tướng đứng cạnh y kêu lên những tiếng thảm thiết rồi ngã lăn xuống sàn thuyền. Ba người đều bị tên trúng giữa trán, xuyên qua óc. Tuyệt ở chỗ tên đều trúng vào cùng một bộ vị. 
Vương Hùng cho chiến thuyền tiến lên. Chiến thuyền Lĩnh-Nam lùi dần về phía hạ lưu. Trong khi đó Cao Cảnh-Hào tiếp tục bắn tên. Chỉ lát sau, trăm năm mươi chiến thuyền của y, đều bị đứt dây căng buồm. Thuyền trưởng hầu như tử trận. Y nhìn sang trận Lĩnh-Nam: Nguyễn Tam-Trinh vẫn thổi tiêu. Tiếng tiêu liên miên bất tuyệt. Cao Cảnh-Hào lại dương cung. Vương Hùng cầm kiếm chuẩn bị gạt, từ trên trời đoàn Thần-ưng lao xuống tấn công. Y quay kiếm đánh Thần-ưng, thì Cao Cảnh-Hào buông tên. Tên xé gió bay tới. Y hoảng kinh vọt người lên cao tránh khỏi. 
Hoàng Thiều-Hoa cầm cờ xanh phất lên. Các chiến thuyền Lĩnh-Nam từ từ rút lui. Một hồi sáo tỉ tê nỉ non vọng lại. Hắc-Phong công chúa cho chiến thuyền tiến lên. Đoàn ong bầu bay ngập trời, thình lình nhào xuống tấn công. Quân Hán náo loạn cả lên. Chúng ôm đầu bỏ chạy vào khoang. 
Mã Huống hô lớn: 
– Đốt lửa lên. 
Lần trước, Mã Viện bị thất bại vì sư Thần-phong. Cho nên lần này y đã chuẩn bị sẵn cỏ khô, mồi lửa chống Thần-phong. Lửa đốt lên, khói bốc mịt mù, đội ong bầu biến mất trên nền trời. 
Đứng trên cao, Đào Ngũ-Gia cầm tù và thổi. Thần-ưng từ các cây ven sông cất cánh bay lên. Trâu Trắng, Trâu Lồng, Trâu Mập, Trâu Ngáp cầm cờ chỉ huy. Thần-ưng lại lao xuống tấn công. Quân Hán vừa bị ong đốt, dùng lửa đuổi ong, khói bay mịt mờ, thành ra bị Thần-ưng đánh, không biết đường tránh. 
Chúng vội vàng tắt lửa, chia quân thành từng đội. Cứ một người chống Thần-ưng, một người chiến đấu. Hàng ngũ vừa chỉnh đốn, đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam đã rút vào hồ Động-đình. 
Mã Anh tổng chỉ huy cuộc thủy chiến. Y vọt người sang thuyền Chu Long bàn định. Chu Long nói: 
– Tôi thấy Lĩnh-Nam có vẻ dụ địch. Không biết có nên đuổi theo không? 
Mã Anh đáp: 
– Tôi không tin. Vì Phùng Đức, Sầm Anh vượt qua Công-an, Hạ-khẩu. Dân Hán mở rộng trang ấp đón vào. Họ cho biết Vương Bá đã chiếm gần hết tây và nam Quế-lâm. Phật-Nguyệt đang cho rút quân khỏi Trường-sa. Chúng ta cứ đuổi theo. Dù có phục binh, quân chúng ta đông gấp mười, há sợ chúng sao? 
Mã Anh cho đội chiến thuyền của hai em là Mã Huống, Mã Dư đi trước. Y tiếp theo. Chu Long đi đoạn hậu. 
Chiến thuyền Lĩnh-Nam nhanh chóng di chuyển vào hồ Động-đình. Đến phía nam hồ dàn thành trận thế. Còn Mã Anh, dù tin tưởng vào số quân đông đảo, y vẫn cho chiến thuyền tiến chậm chạp. Vô tình lối tiến chậm chạp, dễ cho đội Giao-long binh ra tay. 
Đoàn chiến thuyền Hán kéo vào hồ, chia thành mười đội. Hoàng Thiều-Hoa đứng trên đỉnh soái thuyền đếm. Bà nói với Cao Cảnh-Anh: 
– Sư đệ! Chúng ta có một trăm năm mươi chiến thuyền. Trong khi Hán tới chín trăm. Phải cẩn thận lắm. Nếu không sẽ bị chúng bao vây. 
Phật-Nguyệt từ soái thuyền của bà đến soái thuyền Hoàng Thiều-Hoa. Bà đưa ý kiến: 
– Bây giờ chúng ta dàn ba đội. Mỗi đội phải đấu với sáu đội của địch. Ta dùng đội Nỏ-thần tiêu diệt từng đội của chúng. 
Hoàng Thiều-Hoa lắc đầu: 
– Sư muội chưa hiểu nhiều về chiến thuật Hán. Nếu ta đánh như vậy, có thể tiêu diệt được ba, bốn đội của chúng. Song những đội kia sẽ bao vây các đội của ta. Ta không còn đường rút nữa. Bây giờ chúng ta vừa đánh vừa chạy. Dùng Thần-ưng, Thần-phong, Thần-nỏ phối hợp nhịp nhàng. Đợi đội Giao-long binh ra tay. 
Phật-Nguyệt trở về chiến thuyền của bà. Chiến thuyền Hán, Việt đã dàn ra đối diện với nhau. Hoàng Thiều-Hoa nhìn các tướng đứng đầu. Bà chửi thầm: 
– Ngoài tên Mã Anh còn có Mã Huống, Mã Dư với Liêu-đông tứ ma. Ba tên họ Mã võ công không cao, song chúng dùng binh rất giỏi. Còn ngược lại, Liêu-đông tứ ma võ công cực cao, mà dùng binh lại dở. Ta cần giết ba tên họ Mã. 
Bà nói với Cao Cảnh-Anh: 
– Sư đệ truyền lệnh ta tới Thần-nỏ Âu-lạc tứ hùng: Bằng mọi giá phải giết chết ba tên họ Mã, để trừ hậu hoạn cho Lĩnh-Nam. Bản lĩnh dùng binh của chúng không thua gì Mã Viện đâu. 
Cao Cảnh-Anh vâng lời. 
Chiến thuyền Hán tứ từ tiến tới. Trên thuyền đã chuẩn bị sẵn cỏ khô đối phó với Thần-phong. Chuẩn bị lá chắn đối phó với Nỏ-thần. Binh sĩ được chia thành cặp, để đối phó với Thần-ưng. Phật-Nguyệt than: 
– Bọn chúng đã chuẩn bị sẵn. Trận này khó mà thắng được chúng. 
Chiến thuyền Hán vào tầm Thần nỏ. Cao Cảnh-Anh phất cờ ra lệnh. Thần-nỏ bắn sang từng loạt. Mỗi loạt hàng trăm mũi tên loại lớn. Tên loại lớn to bằng bắp tay, đầu cuộn vải tẩm dầu, đốt lửa. Tên rú lên rơi xuống thuyền Hán. Nhiều thuyền bốc cháy, khói lên mịt mù. Mã Anh cho lệnh chiến thuyền xông vào. Thiều-Hoa lui, giữ khoảng cách hai bên một tầm tên Thần-nỏ. 
Cuộc đuổi nhau trên hồ ước hơn giờ. 
Liệu chừng quân Hán mệt mỏi. Thiều-Hoa vẫy tay ra lệnh. Hắc-Phong công chúa cầm tiêu thổi lên. Thần-phong bay rợp trời thình lình tấn công. Quân Hán ôm đầu chạy. Khi chúng đốt lửa lên, thì đoàn Thần-phong biến mất. Đoàn Thần-ưng đánh xuống. 
Trong lúc khói bay mịt mờ, quân Hán náo loạn. Thần tiễn Âu-Lạc tam-hùng đứng trên cột buồm cao bắn sang. Các tướng Hán bị khói che lấp không nhìn rõ. Bị tiếng ưng reo không nghe thấy, trúng tên tứ hùng bắn ngã lộn xuống hồ. Phút chốc hầu như các thuyền trưởng đều tử trận. 
Thình lình thủy quân Hán la hoảng, vì đáy thuyền bị thủng. Nước tràn vào ào ào. Quân sĩ kinh hoàng nhảy khỏi chiến thuyền. Bấy giờ đoàn Thần-phong bay sang tấn công một đợt, bay lên rồi đến lượt Thần-ưng đánh xuống. Thần-ưng bay lên, Thần-nỏ bắn sang. Sún Hô cầm cờ chỉ huy phối hợp nhịp nhàng. 
Các chiến thuyền Hán, bị chìm phân nửa. Quân sĩ bị nỏ, ong, ưng đánh chìm xuống hồ. Một số sống sót bơi đến các chiến thuyền chưa bị chìm. Chúng vừa được vớt lên, thì chính thuyền đó lại bị chìm. 
Đoàn chiến thuyền Hán từ từ rút ra giữa hồ. Đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam lại đuổi theo. Thình lình một quái vật từ dưới hồ vọt người lên cao như cá chép vượt sông. Quái vật đó xớt cổ Mã Huống như con đại bàng vồ mồi, nhào xuống nước. Tướng sĩ Hán la hoảng. Thiều-Hoa tinh mắt nhận ra quái vật đó chính là Nguyễn Nhân. 
Cứ thế anh em Nguyễn Nhân, Nghĩa, Trí, Tín vọt lên xớt tướng Hán đem xuống đáy hồ mất tích. 
Trâu Trắng đứng trên cột buồm nói vọng xuống: 
– Chị Thiều-Hoa! Có hai đạo thiết kị Hán từ Bắc đang vòng qua bờ hồ phía đông và tây. Dường như định đánh bịt phía sau mình. 
Hoàng Thiều-Hoa thấy các chiến thuyền Hán tuy bị chìm, bị chết hơn một nửa, mà chủ lực vẫn chưa bị tan. Mã Anh đang rút về phía Tam-sơn. 
Thiều-Hoa cho lệnh rút quân vào Tương-giang. Bà bảo Sún Rỗ: 
 – Em cho Thần-ưng báo với sư bá Nguyễn Tam-Trinh rằng nhiệm vụ hoàn tất. Phải rút lui ngay. 
Nguyễn-Tam-Trinh vừa đánh vừa lui về hồ Quân-sơn. Vương Hùng, Mã Dư thúc quân đuổi theo. Tới hồ Quân-sơn, ông mới cho dàn quân, dùng Thần-nỏ loại lớn bắn sang thuyền Hán. Một lát, thủy đội của Vương Hùng vào hồ, dàn quân đối diện với ông. Ông bảo con trai là Nguyễn Lễ: 
– Con cho đội Giao-long đục thuyền giặc đi. 
Nguyễn Lễ cùng đội Giao-long, ra phía sau thuyền, tụt xuống hồ. 
Thần-nỏ cứ bắn cầm chừng sang thuyền Hán. Hai đoàn chiến thuyền cách nhau một dặm, rồi ba trăm, hai trăm, một trăm trượng. 
Nguyễn Tam-Trinh phất cờ. Thuyền chở Nỏ liên châu tiến lên, bắn sang thuyền Hán. Quân Hán dùng lá chắn hộ thân. Nỏ liên châu bắn đến ba loạt, mà chỉ giết được hơn bốn trăm tên. 
Trâu Mập đứng trên đỉnh chiến thuyền, cho lệnh Thần-ưng đánh xuống. Cứ thế, Hán đuổi, Việt lui dùng Thần-nỏ, Thần-ưng cản đường. Giữa lúc chiến thuyền Hán sắp đuổi kịp chiến thuyền Việt, thì thủy thủ Hán la hoảng, vì thuyền bị lủng đáy, nước tràn vào. Loạt đầu ba mươi chiếc bị chìm, Vương Hùng, Mã Dư dừng lại, vớt các thủy thủ của thuyền chìm lên. Lợi dụng lúc đó Thần-nỏ bắn sang từng loạt. Mỗi loạt hàng trăm người lộn xuống hồ. 
Vương Hùng bảo Mã Dư: 
– Tướng quân chỉ huy. Tôi phải xuống giết tụi đục thuyền. 
Y nhảy ùm xuống hồ. Không khó nhọc, y thấy một toán Giao-long binh đang đục thuyền. Y vung kiếm đánh. Đám Giao-long binh quay lại vây y. Bọn Liêu-Đông tứ ma vốn thạo thủy chiến, một mình Vương Hùng đánh với đội Giao-long binh. Y vẫn không sờn. Một vài Giao-long binh bị giết, máu loang mặt nước. 
Trong khi đó trên mặt hồ, hai thủy đội Việt, Hán đã lẫn vào nhau. Cuộc chém giết, bất phân thắng bại. Nguyễn Tam-Trinh bảo Trâu Mập: 
– Cháu cho Thần-ưng tấn công Mã Dư. Để sư bá bắt sống nó. 
Trâu Mập phất cờ ra lệnh, Thần-ưng lao xuống tấn công Mã Dư. Nguyễn Tam-Trinh vọt người sang chiến thuyền Hán. Mã Dư thấy ông tới gần. Y phóng chưởng tấn công. Ông vọt người lên cao tránh khỏi. Y đổi hướng, cho chưởng đánh theo ông. Ông vung chưởng đánh xuống. 
Nguyên bản lĩnh Nguyễn Tam-Trinh đã ngang với Trần Tự-Sơn. Mấy năm qua, ông ra sức luyện tập. Tuy nhiên Mã Dư võ công không phải tầm thường. Hai người đấu trên trăm hiệp. Thình lình Mã Dư đánh một chưởng như vũ bão. Nguyễn Tam-Trinh vọt người lên đỡ. Chưởng của ông chạm vào chưởng Mã, binh một tiếng, ông rơi tõm xuống mặt hồ. Ông lặn mất. 
Mã Dư thấy đánh ông rơi xuống mặt hồ, y khoan khoái đốc binh tiến lên. Thình lình ầm một tiếng. Nguyễn Tam-Trinh từ dưới hồ vọt người lên chụp Mã Dư. Y chưa kịp trở tay. Bị ông xớt như diều hâu xớt gà, đem xuống hồ, lặn mất. 
Ông vọt ầm một tiếng, đã đáp lên chiến thuyền Việt. Ông liệng Mã Dư cho quân binh trói lại. 
Cuộc chiến trên mặt hồ đã ngã ngũ. Các chiến thuyền Hán bị đánh chìm phân nửa. Phần còn lại bị chiếm, đốt cháy. Lửa bốc lên ngụt trời. Mã Dư bị bắt sống. Các tướng Hán cho rút lui. 
Vương Hùng cùng đội Giao-long binh đấu dưới nước bất phân thắng bại. Y nhô lên mặt nước thở. Thấy quân mình bị bại. Y vội vọt lên chiến thuyền Hán cản hậu cho quân rút lui. 
Vừa lúc đó, Trâu Mập chỉ về phía Trường-giang: 
– Sư bá! Rút mau thôi! Đạo binh Hạ-khẩu đã đến kia rồi. 
Nguyễn Tam-Trinh lắc đầu: 
– Không thể rút được, vì Thiều-Hoa chưa diệt được thủy đội Mã Anh. 
Ông cho dàn chiến thuyền chuẩn bị đối phó. Cao Cảnh-Hào nói: 
– Thần-nỏ đã hết tên. Xin sư bá định liệu. 
Trâu Mập cũng thưa: 
– Cháu có trăm năm mươi Thần ưng. Tử trận mất hơn nửa. 
Nguyễn Tam-Trinh trầm tư một lúc rồi nói: 
– Cảnh-Hào với Trâu Mập rút lui đi. Ta với Lễ ở lại cản giặc. 
Cao Cảnh-Hào lắc đầu: 
– Cháu quyết cùng sư bá tử chiến. 
Trâu Mập hiên ngang, mặt nó hiện ra vẻ đanh thép. Nó nói lớn: 
– Đệ tử Tây-vu chỉ biết chết, chứ không biết chạy trước địch quân. 
Đợi chiến thuyền từ Hạ-khẩu đã vào bờ. Phùng Đức đứng trên soái thuyền hỏi Vương Hùng: 
– Tình hình thế nào? 
– Lão sư tới vừa kịp. Mã Dư bị bắt. Thuyền bị đục đáy chìm một nửa. Một nửa bị đốt. Chúng tôi sắp nguy. 
Phùng Đức cho chiến thuyền xung vào. Các chiến thuyền Lĩnh-Nam thấy thủy đội của Phùng Đức đông gấp trăm mình, dàn ra bao vây. Song họ cương quyết tử chiến. 
Phùng Đức, Vương Hùng đứng trên đỉnh soái thuyền đốc chiến. Hai bên lăn vào chém giết. Phùng Đức nhìn lên thấy một đứa trẻ đứng trên cột buồm chỉ huy Thần-ưng. Y vọt người về trước. Chỉ ba chưởng, y đánh bay hơn hai mươi thủy thủ Việt, vọt người sang chiến thuyền Lĩnh-Nam, vung chưởng đánh vào cột buồm. Bình một tiếng, cột buồm gãy đôi, từ từ đổ xuống. 
Trâu Mập kinh hoàng. Cột buồm đổ xuống phía lái. Nó buông cột buồm chạy. Phùng Đức vọt theo, túm tóc nó nhấc bổng lên. Nó xoay mình, rút đao đeo trên lưng xỉa một nhát vào ngực Phùng Đức. Phùng Đức vòng tay lên vật mạnh xuống. Người nó bị dập nát trên sàn thuyền. Đoàn Thần-ưng thấy chúa tướng chết thảm. Chúng kêu lên thảm thiết, cùng lao xuống tấn công Phùng Đức. Phùng Đức vung kiếm chống trả. Song con này chết, con khác lăn vào. Một con bấu trúng mắt Phùng Đức. Y buông kiếm gỡ ra, thì các con khác cùng lăn vào. Đoàn Thần-ưng bu khắp người y, rỉa thịt... ăn. 
Vương Hùng chạy tới cứu Phùng Đức, thì mặt y bị cấu nát, bầy nhầy những máu. Một con ngươi lòi ra ngoài. Phùng Đức nằm mê man bên cạnh xác trăm Thần-ưng, lông lá bay tả tơi. Vương Hùng đem y về chiến thuyền Hán. 
Quân Lĩnh-Nam còn ba chiến thuyền. Phút chốc còn một. Nguyễn Tam-Trinh, Cao Cảnh-Hào, Nguyễn Lễ chia nhau mỗi người đứng một góc thuyền đốc chiến. Quân Hán dùng tên bắn qua. 
Bên thuyền khác Nguyễn Lễ, Cao Cảnh-Hào bị trúng tên ngã xuống sàn. 
Vương Hùng hô lớn: 
– Nguyễn Tam-Trinh. Hàng đi thôi. Ta cho ngươi suy nghĩ một lúc. Nếu còn chống trả, ta cho buông tên. 
Nguyễn Tam-Trinh cắn tay, xé vạt áo viết mấy chữ gửi cho Hoàng Thiều-Hoa: 
Một vạn chiến sĩ, trăm năm mươi Thần ưng, cùng Cao Cảnh-Hào, Trâu Mập, Nguyễn Lễ với ta, diệt sáu vạn quân của Vương Hùng, Phùng Đức. Đánh tên Phùng Đức mù mắt. Đạo quân Hạ-khẩu tới. Tất cả đều tuẫn quốc. Ta gửi thư này, rồi cũng tự tử. 
Ông hú lên gọi Thần-ưng đưa thư đứng trên cột buồm xuống. Ông cột thư vào chân nó, rồi cho bay lên. Ông đứng dậy, khoan thai nói với Vương Hùng: 
– Vương tướng quân! Người Việt chúng ta không hèn. Song dân chúng ta ít. Chúng ta thua người vì thua số đông. Người Việt chúng ta thà chết, chứ không chịu hàng. 
Ông đưa kiếm lên, máu từ cổ ông vọt ra có vòi. Ông từ từ ngã xuống.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 27 : Cử mục sơn hà vô Hán tướng,Thệ tâm thiên địa hữu Trưng vương.(Câu đối ở đền thờ Vĩnh-Huy)




 Hoàng Thiều-Hoa, cùng thủy đội rút về tới Linh-lăng, được tin báo: 
Mã Viện, Liêu-đông tứ-ma, Phùng Đức, Sầm Anh đã đổ xong ba mươi vạn quân vào hồ Động-đình. Nguyễn Tam-Trinh cùng thủy đội tuẫn quốc. Mã đích thân đem quân đánh Trường-sa. Thiên-trường tam kiệt cùng Vi Lan tử chiến cản đường. Bị bao vây, bốn người tuẫn quốc ở Thanh-Sơn. Viện biết ý định dùng nghi binh cản đường tiến quân của Lĩnh-Nam. Y đích thân chỉ huy đội Thiết kị đuổi theo. Đến ngã ba Liên-thủy, Tương-giang bị Xích-Hầu cản lại. Xích-Hầu không chịu rút lui, như lệnh truyền, tử chiến. Cả sư Thần-hầu cùng Xích-Hầu đều tuẫn quốc. 
Mã tiến quân đến ngã ba Lục-thủy, Tương-giang bị Vi Pháp-Hải dùng sư Thần-ngao cản đường. Y dùng cung thủy đánh với Thần-ngao. Sau hai ngày cố thủ. Thần-ngao chết hết. Vi Pháp-Hải bị bắt. Mã Viện chiêu hàng. Lão tướng đập đầu vào đá tự tử. Đại quân Mã Viện đang tiến về phía Hành-sơn". 
Phật-Nguyệt, Tiên-yên nữ hiệp đề nghị, xin đi tiếp viện Đào Hiển-Hiệu. Sún Hô cùng các tướng Tây-vu tình nguyện đi theo. 
Hoàng Thiều-Hoa đồng ý. 
Tiên-yên nữ hiệp, cùng Phật-Nguyệt dẫn Sún Hô, Hắc Phong, Trâu Trắng, Trâu Lồng, Trâu Ngáp lên đường. Đến chiều tới Hành-nam. Sún Hô chỉ về phía trước: 
– Kìa! Quân mình đang đánh nhau với giặc kìa. 
Phật-Nguyệt than: 
– Từ Hành-sơn tới Hành-nam cách xa đến hơn trăm dặm. Hiển-Hiệu phục ở Hành-sơn, mà sao lại giao chiến ở đây? 
Vừa lúc đó một sư trưởng Lĩnh-Nam phi ngựa tới. Phật-Nguyệt hỏi tự sự. Y đáp: 
– Mã Viện đem thiết kị đến ngã ba Mễ-giang, Tương-giang, bị Đào tướng quân tung phục binh đánh. Quân Mã bị cắt làm hai. Nửa đầu bị Thần-hổ, báo, tượng hạ trong nửa giờ. Đào tướng quân định lui binh, thì Sầm Anh, Vương Hùng đem đại quân tới đánh bọc hai bên. Thần-hổ, Thần-báo giết bao nhiêu, chúng có quân khác thay bấy nhiêu. Đánh nhau suốt một ngày. Bên Hán chết hơn ba vạn. Hổ, báo, tượng mỗi sư chỉ còn hơn mười con. 
Đào tướng quân dẫn quân rút lui. Khi quân tới Thiên-đài, người dẫn chư tướng lên núi hành hương di tích thời lập quốc. Sau khi lễ, chư tương nhất quyết tử thủ Thiên-đài không chịu rút lui. Đào tướng-quân dàn quân đóng dưới chân núi cố thủ. Đêm, Mã Viện cho quân cướp trại. Sư trưởng Thần-hổ, Thần-báo là Nhất-Trung, Nhị-Trung đều tuẫn quốc. Đến sáng, Tam-giang hầu Hồ Nam sư trưởng Thần-tượng cũng trúng tên chết. Đào tướng quân vừa đánh vừa lui. Quân Hán hao trên ba vạn. Cộng chung, Hán thiệt sáu vạn. 
Tiên-yên, Phật-Nguyệt phi ngựa xông vào vòng vây. Ánh kiếm hai bà lấp lánh. Kiếm đến đâu, đầu quân Hán rơi đến đó. Phật-Nguyệt vọt người lên cao, phóng kiếm vào cổ Chu Long. Chu Long bỏ Đào Hiển-Hiệu, nhảy lui liền ba bước. Nhưng kiếm của Phật-Nguyệt theo y như bóng với hình. Y hoảng kinh vọt người lên cao. Phật-Nguyệt quay ba vòng liền. Hơn chục kị mã Hán bị đâm trúng cổ, ngã ngựa. Ánh kiếm của bà vừa quay lại xỉa vào chân Chu Long. 
Sầm Anh thấy Chu Long gặp nguy hiểm. Y quát lên một tiếng phóng chưởng đánh vào lưng Phật-Nguyệt. Tiên-yên nữ hiệp đỡ chưởng của Sầm Anh. Bà vận Thiền-công, hai chưởng chạm nhau không có tiếng động. Xùy một tiếng. Sầm Anh bật lui lại. Trong khi Tiên-yên nữ hiệp bay vọt về sau hơn trượng. Hai bên cùng gườm nhau. 
Hắc Phong công chúa cho đoàn Thần-phong bay lên xung vào trùng vây Hán. Vòng vây dãn ra. Đào Hiển-Hiệu cùng chiến sĩ Lĩnh-Nam thoát khỏi vòng vây lui về sau. Sún Hô nói: 
– Hiển-Hiệu mau dẫn quân rút về Linh-lăng. Để ta cản hậu cho. 
Hiển-Hiệu lui lại. Miệng ông phun ra một búng máu tươi. Ông nằm trên mình ngựa. Sún Hô truyền các tùy tướng hộ vệ Hiển-Hiệu về Linh-lăng trước. Chàng ra lệnh cho lực lượng Tây-vu xung vào trận. 
Trâu Trắng, Trâu Lồng, Trâu Ngáp leo lên ba ngọn cây cầm cờ chỉ huy Thần-ưng. Quân Hán bị đánh dạt trở lại. 
Mã Viện đứng trên ngọn đồi cầm cờ đốc chiến. Y nghĩ: 
– Phật-Nguyệt là đệ nhất kiếm khách Lĩnh-Nam. Thị còn là đại tướng tài không kém gì Ngô Hán, Đặng Vũ. Tiên-yên chưởng lực quái dị, ngang với Sầm Bành, Phùng Dị. Hôm nay ta phải giết hai đứa này, để trừ đi mối lo cho Trung-nguyên. 
Y truyền quân sĩ vây hai bà đến ba vòng. Đứng trên cao, nhìn đoàn Thần-ưng, Thần-phong tấn công quân Hán. Y nảy ra ý định: 
– Ta cần bắt sống bọn này, khiền cho chúng một trận, bắt phải khai bí quyết điều khiển Thần-ưng, Thần-phong, hầu đánh Phiên-ngung, Mê-linh. 
Quân Hán đốt lửa lên, khói bốc mịt mờ. Thần-phong quay trở về các cỗ xe chở tổ ong. Xe cùng các Phong-nữ đã bị quân Hán bắt sống. Chúng không còn chỗ đậu, bay lên cao. Vừa lúc đó quân Hán bao vây Hắc Phong công chúa. Nàng bị bắt sống. Ong không người điều khiển. Chúng theo thói quen bay tản về phương nam. 
Sún Hô nhìn trước, nhìn sau, quân Lĩnh-Nam đã rút hết. Thần-phong tản ra. Chỉ còn mình chàng với ba Trâu. Chàng ra lệnhi: 
– Bọn Trâu. Chúng mày xuống đất, chạy đi thôi! 
Trâu Trắng hỏi: 
– Anh có chạy không? 
– Tao không chạy. 
Trâu Ngáp cười: 
– Bọn em cũng không chạy. 
Sún Hô quát: 
– Tao ra lệnh tụi bay chạy. Không tuân lệnh, tao đánh đòn. 
– Bọn em chỉ biết tuân lệnh anh đánh giặc, chứ không biết tuân lệnh chạy trước địch quân. Anh đánh, bọn em đành chịu. 
Sún Hô túm tóc Trâu Trắng, chàng liệng nó lên lưng một con ngựa, quát: 
– Lui mau! 
Trâu Trắng từ mình ngựa vọt lên cây, phút chốc nó đã leo lên cao, tay cầm tù và sai Thần-ưng. Sún Hô lắc đầu thở dài: 
-Mình với chúng cùng một lò. Mình không lui, đời nào chúng chịu lui nhỉ? Thôi thì anh em cùng chết với nhau. 
Quân Hán đến gốc cây của các Trâu bao vây. Thần-ưng thấy chúa tướng lâm nguy. Chúng nhào xuống đánh xả láng cứu viện. Mã Viện đốc thúc quân Hán tiến lên. Hơn năm trăm quân Hán bị cào rách mặt, móc mắt, ôm đầu lùi lại, đội quân khác lên thay thế. Thần-ưng bị đánh rơi từng loạt một. 
Hơn giờ sau, chỉ còn ba Thần-ưng bị thương, đậu trên cây. Mã Viện ra lệnh đốn cây bắt Sún Hô với các Trâu. Cây đổ. Sún Hô với các Trâu bị bắt. 
Phật-Nguyệt, Tiên-yên nữ hiệp thấy trận Lĩnh-Nam bị vỡ. Hai người quyết tử chiến, không chịu lui. Phật-Nguyệt dùng một thế kiếm thần tốc, đâm trúng vai Chu Long. Y bỏ trận lùi lại. Bà hướng núi Thiên-đài, mở đường máu chạy lên cùng với Tiên-yên nữ hiệp. Hai người đến một mỏm đá ngang sườn núi ngồi thở. Dưới chân núi quân Hán bao vây trùng trùng, điệp điệp. 
Tiên-yên nữ hiệp nói: 
– Chúng ta nghỉ mệt, xung sát một trận rồi chết cho thỏa lòng. 
Quân Hán reo hò, leo lên núi tấn công. 
Chúng dùng tên bắn lên. Hai bà vung kiếm gạt. Tiên-yên nữ hiệp sơ xuất một chút, tên lọt vòng kiếm quang trúng vai. Phật-Nguyệt vội ôm lấy bà, nhắm đỉnh núi chạy lên. 
Tới đỉnh, bà mệt nhoài. Nhớ lại lời Tăng-Giả Nan-Đà: "Khi mệt mỏi hãy nhắm mắt nhập Thiền. Trong khoảnh khắc, bỏ ra ngoài Nhãn, Nhĩ, Tỵ, Thiệt, Thân, Ý. Cái mệt sẽ biến mất". 
Bà với Tiên-yên nữ hiệp xếp chân ngồi vận Thiền công. Bên tai hai người văng vẳng tiếng Tăng-Giả Nan-Đà: 
"Thế gian ly sinh diệt, 
Do như hư không hoa. 
Chí bất đắc hữu vô, 
Nhi hưng đại bi tâm". 
Hai người mơ mơ tỉnh tỉnh, ngủ đi lúc nào không hay. Đến lúc nghe tiếng chim hót, tiếng thú kêu, giật mình tỉnh giấc. Phật-Nguyệt bàn: 
– Trường-sa mất, Động-đình thất thủ. Quân tan, tướng chết. Thôi, chúng ta hãy tự vận để bảo toàn danh tiết. 
Tiên-yên nữ hiệp mệt mỏi lắm rồi. Bà gật đầu: 
– Chúng ta tự tử ở đây cho đúng đạo lý. Từ ngày xảy ra chiến tranh giữa Hán, Việt chưa từng có một người Lĩnh-Nam hàng giặc. Võ đạo của chúng ta: Thà chết, chứ không chịu khuất phục quân thù. 
Phật-Nguyệt hướng về phương nam quì gối lạy bốn lạy: 
– Chị Trưng Trắc. Chị em chúng ta nhân cái nhục của Lĩnh-Nam. Người người nổi dậy, phục hồi đất tổ, đánh đuổi bọn tham quan ác độc người Hán. Chị đối với chúng em như ruột thịt. Ngày đêm chung lo bảo vệ dân Việt. Hôm nay thành mất, đất vào tay giặc. Em đành mượn cái chết để rửa nhục. Chị tha cho em cái tội bất tuân chỉ rút lui. 
Tiên-yên nữ hiệp hướng về phương nam nói: 
– Hoàng thượng ra lệnh cho tôi với Phật-Nguyệt rút khỏi Trường-sa. Nay quân tan, thành mất. Tôi xin mượn lưỡi kiếm, tự xử tội mình. Xin hoàng thượng bảo trọng ngọc thể, chăn dắt muôn dân Lĩnh-Nam. 
Hai bà vung kiếm lên. Bỗng một vật gì bay đến, kình lực nhu hòa mạnh vô cùng, khiến hai bà muốn ngộp thở. Vật đó đẩy bay kiếm của hai bà đi. Kiếm tuột khỏi tay, cắm vào cành cây gần đó. 
Có tiếng Tăng-Giả Nan-Đà nói: 
– Thắng, bại, chẳng qua là cái nghiệp từ vô thủy kiếp trước đưa đến. Hai thí chủ chẳng nên phẫn chí. 
Tăng-Giả Nan-Đà, Nguyễn Phan cùng xuất hiện. 
Tiên-yên, Phật-Nguyệt vội đến trước ngài, quì gối xuống: 
– Đệ tử kính cẩn tham kiến sư phụ. 
Phật-Nguyệt bật lên tiếng khóc: 
– Sư phụ! Bằng vào luật Nhân-quả, đất Lĩnh-Nam trên từ Trưng đế, xuống đến các quan, đều lấy đức trị dân. Còn Hán thì dùng hình pháp ép thiên hạ theo... Tại sao Lĩnh-Nam lại bị hết nạn này đến nạn kia. Tại sao đệ tử lại bị tai kiếp đến phải tự tử thế này? 
Tăng-Giả Nan-Đà mỉm cười: 
– Công chúa từ Lĩnh-Nam theo quân đánh thành Xuyên-Khẩu, Bạch-đế. Một lưỡi kiếm giết biết bao nhiêu người? Lại tới trận hồ Động-Đình mấy năm trước. Quân Hán chết ba mươi vạn. Lĩnh-Nam chết năm vạn. Xác lấp sông Trường-giang. Những người chết đó họ có tội gì? Mới đây công chúa cùng Hoàng thái hậu đánh trận Trường-giang. Bầy kế rút lui, phục quân năm nơi. Quân Hán chết có trên mười vạn. Họ có tội gì? Giết, giết! Công chúa vì Lĩnh-Nam. Mã Viện vì Hán. Ai cũng vì nước mình. Chém giết thây chất cao bằng mấy trái núi rồi. Hôm nay quân tan, tướng tuyệt, công chúa muốn tự tử ư? Công chúa ơi, khi nghịch cảnh đưa đến, phải can đảm chịu, mới xóa hết được. Bằng không kiếp sau, nó trở lại hành hạ mình nữa. 
Ngưng lại một lúc, ngài tiếp: 
– Sinh, tử là hai lẽ lớn. Cứ nghĩ đến sinh, tử thì vẫn chưa thoát khỏi vòng Luân-hồi. Chi bằng bỏ sinh, tử ra ngoài, con người mới thoát khỏi chúng sinh tướng. Hãy bỏ ra ngoài cái ta. Khi cái ta mất đi thì không còn cái người nữa. Khi cái người không còn, thì chẳng có nhiều người. Kinh Kim-cương gọi là giết chết Nhân ngã tứ tướng. 
Nguyễn Phan vỗ tay vào đầu Phật-Nguyệt: 
– Phật-Nguyệt, con đối với Lĩnh-Nam như vậy là đủ rồi. Bây giờ sư phụ coi như con đã chết. Phật-Nguyệt chết rồi... con hãy suy nghĩ kỹ, thế phát thọ giới Tỳ-kheo, chúng ta trở thành không hết. 
Phật-Nguyệt, Tiên-yên cúi đầu ngẫm nghĩ. Một lúc sau, hai bà đến trước Tăng-Giả Nan-Đà: 
– Sư phụ! Đệ tử tỉnh ngộ rồi. Bây giờ, sinh, tử không còn trong lòng đệ tử nữa. Đệ tử nguyện xin sư phụ cho được thụ giới. 
Tăng-Giả Nan-Đà cầm thanh kiếm đưa lên. Ánh thép lấp loáng. Phút chốc tóc trên đầu Tiên-yên với Phật-Nguyệt bị gọt nhẵn. 
Ghi chú của tác giả. 
Huyền sử thuật : Vua Minh, cháu bốn đời vua Thần-nông, nhân đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ-lĩnh ( nay là Đại-dữu, Quế-dương,Cửu-chân, Lâm-gia, Thủy-an), kết hôn với nàng tiên đẻ ra một trai, đặt tên là Lộc-Tục. Vua lập đàn tế cáo trời đất, phong cho con trưởng là Nghi, làm vua phương Bắc, sau thành Trung-quốc. Lại phong cho Lộc-Tục làm vua phương Nam, sau là Đại-Việt. Ngài dạy hai hoàng tử rằng : Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam ; lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai con làm vua hai nước, nhưng vốn gốc cùng ở ta, phải lấy hòa hiếu mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam.Kẻ nào trái lời thề sẽ tuyệt tử tuyệt tôn. 
Năm 1980, bấy giờ tôi giữ chức vụ tổng thư ký cho Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois, viết tắt là CMFC). Nhờ ở chức vụ này, tôi lập chương trình trao, tức giảng dạy về Laser thérapie tại đại học Trường-sa. Sau những giờ làm việc, tôi mò vào các thư viện địa phương, cùng đi tìm di tích lịch sử. Tôi đã tìm ra núi Ngũ-lĩnh, tìm ra ngọn núi mà vua Minh lập đàn tế cáo trời đất, đó là núi Thiên-đài. 
Trên núi Thiên-đài cón rất nhiều di tích về cuộc tế trời, cũng như trận đánh kinh thiên động địa này. Đền thờ vua Minh đã bị phá hủy, chỉ có một ngôi chùa. Ngay cổng vào có đôi câu đối : 
Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc, 
Lĩnh-địa niên niên dữ Việt-thường 
( Núi Thiên-đài, thời thời chia ra Nam, Bắc. Núi Ngũ-lĩnh năm này sang năm khác với giòng giống Việt-thường). 
Lại có câu đối nói về trận đánh khủng khiếp này : 
Nhất kiếm, Nam-hồ kinh Vũ-đế, 
Thiên-đao Bắc-lĩnh trấn Lưu Long. 
(Một kiếm của Phật-Nguyệt ở phía Nam hồ Động-đình làm vua Quang-Vũ kinh hồn. Một ngàn dũng sĩ trấn Lưu Long ở Bắc Ngũ-lĩnh). 
Xin xem chi tiết trong bài diễn văn khai mạc niên khóa 1992-1993, tôi đọc tại viện Pháp-Á Paris, in vào phụ lục bộ Anh-hùng Bắc-cương, quyển 4, do Xuân-thu Hoa-kỳ ấn hành. 
... 
Đào Kỳ nghe Thiều-Hoa tường thuật trận đánh kinh thiên động địa. Ông ước tính Hán chết ít nhất mười vạn quân. Còn Lĩnh-Nam bị mất quân đoàn bảy Tây-vu. Đạo quân Hán-Trung bị tử trận mất một nửa. Ông hỏi: 
– Đạo quân Hán-trung bị tổn thất ở Hành-sơn mất hai vạn. Số còn lại ba vạn tại sao bị tan? 
Hoàng Thiều-Hoa đáp: 
– Mã Viện đuổi chị tới Linh-lăng. Chị cho quân thủ thành. Mã đánh không được. Hôm sau y cho tướng trấn thủ hồ Động-đình bắt hết vợ con các tướng sĩ đạo Hán-Trung đem về Linh-lăng. Y đứng dưới gọi lên: "Các tướng sĩ gốc người Hán. Các ngươi nguyên là tướng sĩ của triều Hán. Vì nghe lời Đô Thiên làm phản, theo Lĩnh-Nam. Từ sau trận hồ Động-đình hai năm trước. Đến trận Hành-sơn, các ngươi chết gần hết. Bây giờ vợ con các ngươi bị bắt. Các ngươi mau mở cửa thành đầu hàng. Ta tha chết cho các ngươi cùng vợ con. Bằng không, ta giết chết vợ con các ngươi". 
Các tướng sĩ Hán xin vào gặp chị. Họ quì mọp xuống khóc lóc thảm thiết. Họ nói rằng: Từ khi theo Lĩnh-Nam, họ được đối xử như anh em ruột thịt. Thực nằm mơ họ cũng không nghĩ tới. Song bây giờ, trước mối nguy vợ con bị hại. Họ đến xin cho được rời khỏi thành cứu vợ con. Họ thề chỉ cần cứu vợ con. Họ sẽ về quê làm ăn, chứ không theo Hán đánh Lĩnh-Nam. Chị sai mở cửa thành cho họ ra. Họ bước đi, mà khóc như mưa như gió. 
Quách A khóc: 
– Còn Sún Hô, Trâu Trắng, Trâu Ngáp, Trâu Lồng, Hắc Phong ra sao? 
Thiều-Hoa bảo Quách A: 
– Trong trận hồ Động-Đình. Ta bắt được hơn hai mươi tướng Hán cùng Mã Huống. Bây giờ ai có thể đi sứ, đổi lấy tử thi các tướng Lĩnh-Nam cùng bọn Đào-ngũ-Gia? 
Công chúa Vĩnh-Hòa nói: 
– Nếu sư tỷ không chê. Em cùng Quí-Minh xin đi. 
Đào Kỳ truyền thắng xe cho công chúa Vĩnh-Hòa với Đào-quí-Minh lên đường. 
Hai hôm sau, Quí-Minh, công chúa Vĩnh-Hòa trở về. Quách A hỏi: 
– Sún Hô đâu? 
Đào-quí-Minh đáp: 
– Sư huynh Ngũ-Gia, Hắc Phong, Trâu Trắng, Ngáp, Lồng bị bắt. Quang-Vũ dùng lời lẽ ôn tồn dụ hàng. Cả bốn người cùng buông lời chửi Quang-Vũ, rồi đập đầu vào cột đá tuẫn tiết một lượt. Quang-Vũ thấy các tướng Lĩnh-Nam trung liệt, cảm động. Y truyền khâm liệm tử tế. Hiện quan tài đã vào đến thành. 
Quách A buông tiếng khóc thảm thiết. Rồi thình lình bà rút kiếm tự tử. Hoàng Thiều-Hoa đứng cạnh, bật tay một cái, bà đã bắt được kiếm Quách A. Bà an ủi: 
– Sún Hô là sư đệ của ta, là chồng của em. Chúng ta cùng có cái đau đớn như nhau. Song chồng em chết như vậy còn hơn bị giặc cầm tù, làm nhục. Sún Hô thường nói với ta rằng Đầu có thể chặt, chứ không để bị nhục. 
Đào Kỳ sai đưa linh cữu các tướng về Giao-chỉ an táng. Khi linh cữu về đến biên giới Giao-chỉ, Trưng đế dẫn triều thần lên đón. Ngài truyền đem về quê an táng, xây đền thờ. Sắc phong như sau: 
Nguyễn Tam-Trinh làm: 
Văn thành, võ đức Long-biên vương. 
Đền thờ của ông trải bao mưa nắng. Nay còn tại thôn Mai-động, huyện Thanh-Trì, tỉnh Hà-Nội. Trước đền thờ có đôi câu đối: 
Đình tiền cổ mộc âm sâm, thụ sắc như thôi Tô Bắc khứ, 
Từ ngoại hàn dăm thoan kích, thủy thanh do hận Mã Nam lai. 
Dịch nghĩa: Cây xưa ở trước miếu um tùm, màu lá xanh biếc như thúc đuổi giặc Tô Định về đất Bắc. Đầm lạnh ngoài đền gợn sóng, tiếng nước reo còn căm hờn Mã Viện đến phương Nam. 
Một đôi câu đối khác: 
Đức bác thánh văn, truyền Việt địa, 
Uy dương thần vũ chấn Nam thiên. 
Dịch nghĩa: Đức của ngài rộng rãi, văn tài như thánh còn truyền ở đất Việt. Uy dương vũ dũng như thần, rung động trời Nam. 
Nguyễn Lễ được phong: 
Trung dũng đại tướng quân, Mai-động công. 
Hiện nay không còn di tích đền thờ. 
Cao Cảnh-Hào được đưa về Hoa-Lư an táng, sắc phong: 
Thần-nỗ đại tướng quân, Trường-yên công. 
Hiện nay không còn di tích đền thờ. 
Đào Ngũ-Gia tức Sún Hô được phong: 
Thiên ưng đại tướng quân, Sơn-tĩnh công. 
Đền thờ tại Cửu-chân bị Trương Phụ phá hủy hồi 1407. 
Lý Công-An tức Trâu Trắng được phong: 
Trung dũng đại tướng quân. 
Ngày nay đền tế cầu thờ ông vẫn còn tại xã Hồng-đức, huyện Ninh-giang, tỉnh Hải-hưng. 
Xích-Hầu, không rõ tên họ, được phong: 
Tây-vu hầu tướng, Lôi-chấn hầu. 
Ngày nay đền thờ còn tại thôn Thập-miếu, xã Đồng-tháp, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi là đền thờ ông Lôi Chấn thời Vua bà. 
Vi Lan được phong: 
Chí đức, thiên tắc công chúa. 
Hắc Phong Công chúa không rõ tên họ, được phong: 
Chí nhu, dị tài công chúa. 
Hai bà được thờ chung. Hiện nay đền thờ hai bà là đền Văn-Lan, thuộc xã Trí-quả, phủ Thuận-thành, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi tắt là đền thờ Ả Tắc, Ả Dị. 
Hắc-Hổ, Hắc-Báo là anh em sinh đôi. Tử trận cùng ngày. Không rõ tên họ. Chỉ biết sắc phong: Hắc-Hổ làm Nhất-Trung Á Thánh. Hắc-Báo làm Nhị Trung Á Thánh. 
Đền thờ hai ông hiện ở xã Can-hựu, huyện Quốc oai, tỉnh Sơn-tây cũ. Dân chúng thường gọi là đền thờ ông Nhất Trung Á, Nhị Trung Á. 
Vi Đại-Nham được phong: 
Ngao sơn đại tướng quân, Pháp-hải hầu. 
Đền thờ ông hiện ở xã Cẩm-giàng, huyện Tiên-sơn, tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi tắt là đền thờ Vi Pháp-Hải. 
Hồ Nam sư trưởng Thần-tượng được phong: 
Trung liệt đại tướng quân, Tam-giang hầu. 
Đền thờ ông hiện ở xã Đại-đồng, huyện Văn-lâm, tỉnh Hải-hưng. Dân chúng thường gọi là đền thờ Tam-giang. 
Trâu Trắng, Trâu Ngáp, Trâu Lồng được phong: 
Thiên ưng đại tướng quân. 
Di tích đền thờ đến nay không còn. Riêng Trâu Mập, không biết tên họ là gì, được phong: 
Thiên ưng đại tướng quân, Tam-Ngọ hầu. 
Đền thờ của ông tên Bình-hạ, còn ở xã Đồng-quang, phủ Tiên-sơn tỉnh Hà-bắc. Dân chúng thường gọi là Đền thờ ông Tam Ngọ thời vua Bà. 
Thiên-trường tam kiệt Trần Quốc-Dũng, Trần Quốc-Uy, Trần Quốc-Lực được phong: 
Trung liệt đại tướng quân, Thiên-Trường công. 
Đền thờ ba ông cho đến cuối năm 1880 hãy còn ở bờ sông Vị-hoàng. Khi người Pháp xây Giáo Hoàng chủng viện và trường học Saint Thomas. Đền thờ các ông bị phá hủy. Dân chúng góp tiền, xây một miếu khác, nhỏ hơn ở giữa phố hàng Song và hàng Đồng. Trong cuộc đột kích của Việt-Minh vào thành phố Nam-định hồi 1953, thiết giáp của Pháp bắn lầm vào miếu. Miếu bị hủy hoàn toàn. 
.... 
Đào Hiển-Hiệu dưỡng thương hơn tháng sau mới khỏi. Anh em đang ngồi bàn truyện chống Hán, thì có sứ giả của Trưng đế tới. Sứ giả là Nguyễn Quý-Lan. Đào Kỳ ra đón vào. Quý-Lan nói: 
– Hoàng-thượng cho tôi lên trình với vương gia. Đạo quân nước Hồ Tôn đánh vào phía Nam, bị Nhật-nam vương Lại Thế-Cường, cùng các vị Trương Thủy-Hải, Trương Đằng-Giang, Trần Khổng-Chúng phá tan. Mặt nam coi như yên. Phía Tây nước Lão Qua đem quân sang đánh. Bị Cửu-chân vương Đô Dương phục binh, dùng hỏa công đốt. Quốc vương cùng cánh quân nước này chết cháy. Hiện Phong-châu song quái cầm đạo quân mười vạn người đánh từ Tượng-quận về Giao-chỉ. Binh bộ thượng thư Chu Bá cùng công chúa Hùng Xuân-Nương cầm quân cố thủ trong thành. Riêng mặt Nam-hải, Lưu Long đem hai mươi vạn quân đánh xuống. Suốt mấy tháng qua, công chúa Thánh-Thiên giữ vững thành trì. Lưu Long chia quân làm hai. Một mặt tiếp tục đánh Nam-hải. Một đạo vượt đường biển chiếm đảo Hải-nam đổ bộ lên vịnh Giao-chỉ, bị Đào Phương-Dung đánh lui. 
Bà ngưng lại một lúc tiếp: 
– Lê Đức-Hiệp, Ngô Tiến-Hy, Hoàng Thái-Tuế đem quân đánh các trang ấp gốc Hán. Trang ấp nào chống trả, chúng tràn ngập được, đem đàn ông cắt lưỡi, khoét mắt thả ngoài đường. Còn đàn bà, con gái cho lính hãm hiếp. Của cải chia cho lính. Vì vậy hầu hết các trang ấp gốc Hán đều hàng. Công chúa Thánh-Thiên cùng đạo binh Nam-hải rút về Khâm-châu cố thủ. Trong khi đó tại Khúc-giang xảy ra biến cố. Khúc-giang ngũ hùng bị đánh thuốc độc chết. Người Hán tại Khúc-giang nổi dậy đánh nhau với người Việt. Giữa lúc hai phe đại chiến, thì Lê Đức-Hiệp xua quân đến đánh giết cả hai phe. Vì vậy Khúc-giang thất thủ. 
Phương-Dung nói: 
– Tôi muốn biết thêm về vụ Khúc-giang ngũ-hiệp bị đầu độc? 
Quý-Lan thưa: 
– Phùng Thị-Chính gửi thư về nói vậy. Vì Khúc-giang bị chiếm, không điều tra được nguyên do. Tể tướng thấy có gì lạ không? 
Phương-Dung lắc đầu: 
– Tôi không tin Khúc-giang ngũ hiệp bị thuốc độc chết. Vì năm vị đều thuộc loại cẩn thận, công lực cao thâm, không dễ gì trúng độc chết ngay. Hồi đánh trận Nam-hải, ngũ hiệp có tiết lộ với tôi: Nếu không giữ được Nam-hải, năm người không tự tử, mà tìm đến Lạc-dương, giết bọn vua tôi nhà Hán trả thù. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Hoàng thượng có chỉ dụ gì không? 
– Có, ngài truyền Vương gia bỏ Phiên-ngung. Chúng ta hãy trở lại với lãnh địa Âu-Lạc. Vương gia đem quân về đóng ở Long-biên. 
Phương-Dung nói: 
– Chúng tôi hiện bị bức hai phía. Phía tây hai mươi vạn quân của Vương Bá. Phía bắc ba mươi vạn quân của Mã Viện. Trong khi chúng tôi chỉ có tám vạn quân. Bây giờ có rút cũng rất khó khăn. Vì sợ giặc truy kích. 
Đào Kỳ truyền mời các tướng vào nghị kế. 
Cao Cảnh-Sơn bàn: 
– Từ đây về Giao-chỉ ít ra phải đi đến năm ngày. Chúng ta có bí mật mấy, sau ba ngày Vương Bá, Mã Viện cũng biết được. Chúng ắt đem thiết kị đuổi theo. Vậy cần phục binh sẵn cản đường chúng. 
Hoàng Thiều-Hoa gật đầu: 
– Quang-Vũ ra lệnh đánh chiếm bằng mọi giá. Dù tổn thất bao nhiêu quân cũng đánh. Như trận Hành-sơn vừa rồi. Hiển-Hiệu có ba vạn binh phục sẵn. Mã Viện đem ba vạn kị binh, Vương Hùng ba vạn bộ binh. Sầm Anh bốn vạn. Tổng cộng mười vạn. Quân của Hiển-Hiệu bị thiệt hại ba vạn, trong khi Hán thiệt hại tới sáu vạn. Thế mà Quang-Vũ vẫn thăng thưởng cho các tướng. Bây giờ nếu chúng ta phục ba vạn binh thì Vương Bá, Mã Viện sẵn sàng tung mười lăm vạn vào trận chiến. 
Phương-Dung ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 
– Được! Tôi có kế rút binh. Nếu chúng tung quân vào, ta sẵn sàng đổi một lấy mười. Ngay đêm nay ta rút. 
Bà hỏi Minh-Giang: 
– Đạo binh Quế-lâm hiện có bao nhiêu người Hán? 
Minh-Giang đáp: 
– Một phần ba. 
Phương-Dung trao binh phù cho Minh-Giang: 
– Tướng quân đem số binh sĩ gốc Hán cùng vợ con họ lên đường đi Giao-chỉ ngay đêm nay. Như vậy tránh trường hợp vợ con họ bị Vương Bá bắt làm áp lực. Tới biên giới Giao-chỉ cho vợ con họ về Long-biên. Còn binh sĩ thì dàn ra phục ở bờ sông Tĩnh-giang. Nếu thấy quân Hán đuổi tới, thì dùng Thần-nỏ nà bắn. Sau khi giặc lui, lập tức rút về giữ thành Tiên-yên. 
Phương-Dung trao binh phù cho Cao Cảnh-Sơn: 
– Đội quân Phù-Đổng rất tinh nhuệ, trung kiên. Chúng ta chờ trời tối, âm thầm rút đi. Trên mặt thành để thực nhiều hình nộm, giả làm quân gác. Quách A duy trì đội Thần-ưng trăm con, bay thường trưc trên trời, làm như chúng ta ở trong thành, nên có Thần-ưng canh phòng. 
Phương-Dung nói với Hiển-Hiệu, Quí-Minh: 
– Hai em giúp Hoàng sư tỷ bảo vệ vợ con chiến sĩ, rút bằng đường bộ. Khi về tới Giao-chỉ, sẽ có xe ngựa đón rước.
Bà nói với Hồ Đề, Vũ Trinh-Thục, Đào Kỳ: 
– Chúng ta ở lại đây đuổi giặc. 
Hồ Đề hỏi: 
– Sao kỳ lạ vậy? Trong thành không còn quân sĩ. Chúng ta chỉ có bốn người ắt bị Mã Viện bắt. 
Phương-Dung cười: 
– Mã Viện, Vương Bá sợ tôi như sợ cọp. Ngày mai tôi cho người đến trại Mã Viện, Vương Bá gửi chiến thư. Thách chúng sau hai ngày đại chiến ở chân thành Phiên-ngung. Vì vậy chúng thấy ta chuyển đàn bà, trẻ con, tưởng rằng chúng ta đem đi cho khỏi vướng chân tay. Chúng chuẩn bị giao chiến với ta. Thình lình bốn chúng ta rút đi. 
Vũ Trinh-Thục gật đầu: 
– Kế đó lừa được Mã Viện, Vương Bá. Song phải cẩn thận lắm. 
Các đạo quân lên đường hết rồi. Trong thành chỉ còn một đội chiến sĩ cảm tử của Cối-giang hơn trăm người, cùng với Đào Kỳ, Phương-Dung, Vũ Trinh-Thục, Hồ Đề. 
Suốt hai ngày không động tĩnh. Đêm hôm ấy, bốn người cùng trăm chiến sĩ lấy ngựa âm thầm phi trong đêm. Đến sáng thì gặp đạo quân của Minh-Giang phục ở Long-châu. 
Phương-Dung nói: 
– Thôi, tướng quân rút vào thành Tiên-yên đi thôi. Cuộc rút quân hoàn tất rồi. Từ nay chúng ta lại trở về với lãnh thổ Âu-Lạc. 
Có Thần-ưng từ xa mang thư lại. Phương-Dung mở ra, bà kêu lên: 
– Thánh-Thiên gặp cường địch, viết thư cầu cứu với chúng ta. 
Đào Kỳ tiếp thư đọc, chỉ vỏn vẹn có mấy chữ: 
Ta bị vây trên đồi Vong Thiên. 
Đào Kỳ hoảng hốt nói: 
– Từ ngày cầm quân đến giờ. Thánh-Thiên lúc nào cũng bình tĩnh. Thánh-Thiên thường nói : Liệu cơm gắp mắm, nghĩa là lực lượng có bao nhiêu, thì tự lo lấy, không bao giờ xin viện binh. Bây giờ phải xin viện binh, ắt tình hình nguy ngập lắm. Thư viết có mấy chữ, hẳn không có thời giờ. Vậy anh đi tiền đội, Dung đi hậu đội. Từ đây đến Vong-Thiên khoảng một giờ sức ngựa. 
Ông cùng Minh-Giang mang đội Thiết-kị đi trước. Ngựa phi như bay. Gần một giờ, Thần-ưng dẫn đường báo hiệu rồi lao tới một ngọn núi xa xa. Trên ngọn núi, khói bốc nghi ngút. Tiếng quân reo, ngựa hí, cùng tiếng binh khí chạm nhau vọng lại. 
Đào Kỳ, Minh-Giang dẫn thiết kị phi tới. Được khoảng hơn ba dặm, hai người cùng kinh hãi: Trước mặt họ nào xác người, xác ngựa, xe cộ, lương thảo nằm ngổn ngang trên một bãi đất kéo dài đến chân đồi. Minh-Giang nhảy xuống ngựa quan sát. Ông nói: 
– Hai bên cùng tử chiến. Chưa phân thắng bại. Xác chết tử sĩ Hán, Việt lẫn lộn với nhau. 
Hai người cho đội Thiết kị hướng chỗ khói bốc lên phi tới. Càng đến gần, tiếng ngựa hí, quân reo càng rõ ràng hơn. Khoảnh khắc Đào Kỳ đã thấy trên ngọn đồi, quân Lĩnh-Nam núp vào mô đá, cố gắng cầm cự. Dưới đồi, quân Hán bao vây trùng trùng, điệp điệp. 
Ông ra lệnh cho Minh-Giang: 
– Đại ca đánh vào bên phải. Tôi đánh vào bên trái. Chọc thủng vòng vây của chúng. Sau đó chúng ta cùng đánh quặt vào giữa. 
Đào Kỳ hú lên một tiếng. Ông phi ngựa dẫn đầu. Đoàn thiết kị xung vào trận. Quân Hán thấy Lĩnh-Nam có viện binh, vội lui xuống chân đồi dàn hàng chờ đợi. Đào Kỳ nhận ra tướng Hán chính là Lưu Long. Ông không nói không rằng, vung tay xử dụng Lĩnh-Nam chỉ. Cứ mỗi chỉ, một tướng Hán thủng đầu, thủng ngực ngã ngựa. Lưu Long thấy Đào Kỳ, hồn vía y bay lên mây. Y lùi vào trận, đứng đốc quân sĩ chống trả. Đào Kỳ cùng đội khiết kị xung sát một lát, vòng vây quân Hán bị vỡ. Tuy vậy quân Hán đông trùng trùng điệp điệp, chống trả mãnh liệt. Đội thiết kị Lĩnh-Nam võ công cao, thiện chiến, đánh ngã lớp quân Hán này, đến lớp quân Hán khác. Khoảng nửa giờ, số quân Hán chết hơn hai vạn, ba vạn. Trong khi đội thiết kị Lĩnh-Nam cũng thiệt hại mấy nghìn. 
Đào Kỳ nhìn trận Hán: 
– Cơ chừng này Hán ước tới năm, bảy vạn là ít. Làm sao bây giờ? 
Thình lình phía sau, đạo quân của Phương-Dung tới. Bà cầm kiếm đứng trên con ngựa Ô chỉ huy. Các dàn Nỏ-thần tiến lên xạ kích. Quân Hán bị bắn ngã từng lớp, từng lớp, chúng vẫn không lui. 
Phương-Dung thấy đã bắn đổ gần hai vạn người, mà quân Hán vẫn xung vào trận. Bà nghĩ: 
– Quang-Vũ chỉ dụ cho các tướng, dù chết bao nhiêu người, cũng phải thắng Lĩnh-Nam. Vậy ta không thể giết quân, khiến chúng lui, mà phải giết tướng. 
Đưa mắt nhìn thấy Lưu Long đang đứng trên một mô đất cao đốc chiến, bá hú lên một tiếng, con ngựa Ô hướng phía Lưu Long lao tới. Ánh kiếm loé lên. Ngựa tới đâu, đầu rơi tới đó. Con ngựa Ô là linh vật đất Tây-vu. Chỉ chớp nhoáng đã tới cạnh Lưu Long. Lưu Long chưa kịp trở tay, Phương-Dung đã tới trước mặt. Đám vệ sĩ liều chết bảo vệ chúa tướng. Còn Lưu Long nhảy lui lại, lẫn vào quân sĩ chạy trốn. Phương-Dung giết hơn mười võ sĩ hộ vệ cứu Lưu Long. Bà quay lại, y đã trốn mất. Quân Hán không người chỉ huy, hàng ngũ rối loạn. Đội thiết kị của Đào Kỳ, Minh-Giang đánh quặt lại. Quân Hán bỏ chạy. Minh-Giang xua quân đuổi theo. Đào Kỳ vội gọi: 
– Đại ca! Không nên. Quân Hán quá đông. Nếu chúng đánh quặt lại, thì nguy. 
Đào Kỳ, Phương-Dung phi ngựa lên đồi. Đội quân Lĩnh-Nam người bị thương, kẻ mệt lử, nằm la liệt. Đào Kỳ ra lệnh cho Minh-Giang đốc thúc đội thiết kị cứu thương. Ông xuống ngựa, nhảy nhót mấy cái, đã tới chỗ Thánh-Thiên đứng chỉ huy. Ông rất quan tâm tới người chị, đã quen thân từ hồi thơ ấu ở Cối-giang, Cổ-loa, Cổ-lễ, Cỗ-đại. Ông hỏi: 
– Chị Thánh-Thiên! Chị có sao không? 
Thánh-Thiên oẹ một tiếng, miệng phun ra búng máu. Người bà lảo đảo muốn ngã. Phương-Dung vọt người tới như mũi tên, đỡ ngang lưng bà, đặt xuống bãi cỏ gần đó. Người bà bị một kiếm chém vào ngực khá sâu. Hai mũi tên bắn trúng bụng và đùi. 
 hương-Dung băng bó cho Thánh-Thiên, một lát bà tỉnh táo hơn. Bà nói trong hơi thở phều phào: 
– Ta đóng trong thành Khâm-châu, cùng với Hùng Bảo. Binh sĩ đạo Nam-hải nửa Hán, nửa Việt. Một ngày, các tướng sĩ gốc Hán đến gặp ta. Họ quỳ lạy xin ta tha tội. Vì trang ấp của họ bị Hán chiếm hết. Lưu Long hẹn họ nội trong một tháng phải ra hàng. Nếu không y giết hết vợ con. Do vậy họ không còn lòng dạ nào chiến đấu nữa. Ta đành mở cửa thành cho họ ra. Đêm, ta ra lệnh cho Hùng Bảo rút về Lục-hải. Còn ta với Phùng Thị-Chính, Đàm Ngọc-Nga rút bằng đường bộ. Tới đây, thì Lưu Long đuổi kịp. Chúng ta có hơn vạn người. Trong khi Lưu Long đem bốn vạn thiết kị. Lê Đức-Hiệp đem năm vạn tráng đinh. Ta đánh Lưu Long thiệt hai vạn kị binh. Y vẫn nhất quyết tiến đánh. Ta lên đồi cố thủ. Phùng Thị-Chính trúng tên chết. Đàm Ngọc-Nga bị thương nặng. Ta đứng đốc chiến phòng thủ, viết thư cầu cứu hai em. 
Bà móc trong túi ra một tập sách trao cho Đào Kỳ: 
– Tự cổ Trung-quốc có Khương Thái-công sọan bộ sách triết lý quân chính mang tên Lục-thao. Lục-thao dạy luyện quân, chiến lược, chính lược. Bên Lĩnh-Nam Pương-chính hầu sọan Việt tộc binh pháp. Đó đều là những bộ sách qúi. Sau này Tôn Vũ, rồi Ngô Khởi soạn binh thư, người sau hợp lại thành Tôn Ngô binh pháp. Tôn Ngô không thích hợp với địa lý đất Việt. Mấy năm qua, chị cố gắng tham chước người xưa, hợp với những kinh nghiệm của chúng mình soạn thành bộ Dụng binh yếu chỉ. Em hãy giữ lấy, luyện cho các tướng, đừng để mai một đi. 
Đào Kỳ kính cẩn tiếp lấy sách. 
Đến đây bà mệt quá, ngủ thiếp đi. Đào Kỳ, Phương-Dung truyền làm cáng đưa Thánh-Thiên về. Tới Giao-chỉ, Thánh-Thiên mệt quá. Bà cố ngồi dậy, nói với Đào Kỳ: 
– Cách đây hơn mười năm, em còn là chú bé Âu-Lạc đánh nhau với võ sĩ Tô Định. Ta chỉ là cô bé nhà quê. Bây giờ em làm đại tư mã. Ta làm đại tướng quân. Khi chiếm lại Lĩnh-Nam, ta biết rằng không ổn. Vì ba vùng Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận thuộc Hán đã trên hai trăm năm. Chín người Hán không có một người Việt. Người Hán dù ở đâu họ cũng tự cho là con trời. Họ nói tiếng Hán, mặc quần áo Hán, hướng về đất Trung-nguyên. Cho nên mấy năm qua, Lĩnh-Nam đối xử với họ tử tế đến đâu, họ cũng vẫn không quên cố quốc. Vì vậy chúng ta phải rút khỏi. Bây giờ, ta bị thương, mệt mỏi quá rồi. Chắc đành bỏ cuộc giữa đường. Hai em hãy nghĩ tình chị Trưng Trắc đối xử như chị em ruột. Cố gắng giữ đất Âu-Lạc, phù Trưng. 
Bà mửa ra một búng máu, ngửa mặt lên trời than: 
– Trời hỡi trời! Không ngờ Thánh-Thiên lại chết ở đây! Trong khi nợ nước còn nặng chĩu đôi vai. Trời xanh bất công. Chúa tôi là Trưng Trắc đem nhân nghĩa trị dân. Chúa Hán đem gươm đao bắt thiên hạ qui phục. Thế mà chúng tôi... 
Bà nhắm mắt lại thiêm thiếp một lúc, rồi lại mửa ra một búng máu. Bà mệt quá không nói được nữa, đưa tay nắm Đào Kỳ, Phương-Dung, rồi nghẹo đầu sang một bên qua đời. 
Trời tự nhiên tối sầm lại, sấm sét nổ vang dội. Mưa trút nước xuống như thác. Đào Kỳ, Phương-Dung nhìn xác Thánh-Thiên, nước mắt trào ra. Hai người cho tắm rửa, khâm liệm đem về Giao-chỉ. 
Hai hôm sau tới Long-biên. Trưng-đế cùng triều thần để tang. Từ ngày Đặng Thi-Sách tử trận đến giờ. Đây là lần đầu tiên Lĩnh-Nam mất một đại tướng ở cấp cao nhất. 
Ghi chú của thuật giả. 
Thánh-Thiên võ công không cao. Sử tả dáng người bà ẻo lả, tính tình điềm đạm như một khuê nữ. Bà đọc sách rất nhiều. Huyền sử nói bà có trước tác bộ binh thư tên là: 
Dụng binh yếu chỉ. 
Gồm ba mươi sáu thiên. Trong đó dạy cách dùng binh. Sách đó thất truyền. Bà vừa có tài quân sư, tài dùng binh. Nếu Phương-Dung đánh trận Trường-an dài trăm dặm. Phật-Nguyệt đánh trận hồ Động-đình bảy mươi dặm. Phùng Vĩnh-Hoa đánh trận Tượng-quận ba trăm dặm. Bà đánh trận Nam-hải trên một diện tích lớn chưa từng có. Kéo dài từ Phúc-kiến, qua đảo Hải-nam, đến vịnh Bắc-Việt, lan tới Thanh-hóa (Nghi-sơn, Biện-sơn). Ấy là chưa kể trên năm trăm dặm công chúa Trần Quốc đánh lên Trung-nguyên. Tính chung, mặt trận dài tới hai ngàn năm trăm cây số. Có lẽ Nam-hải là mặt trận rộng nhất trong lịch sử Việt-Nam. Bà đánh bại mười hai đại tướng danh tiếng Trung-nguyên: 
– Phục-ba đại tướng quân, Tân-tức hầu Mã Viện. 
– Phiêu-kị đại tướng quân, Phù-lạc hầu Lưu Long. 
– Lâu-thuyền tướng quân, Nam-an hầu Đoàn Chí (bị giết) 
– Chinh-tây đại tướng quân Chu Long. 
– Chinh-nam đại tướng quân Trịnh Sư. 
– Uy-viễn đại tướng quân Ngô Anh. 
– Trấn-uy đại tướng quân Vương Hùng. 
– Long-nhương đại tướng quân Sầm Anh. 
– Chinh-di đại tướng quân Phùng Đức. 
– Hổ-nha đại tướng quân Mã Anh. 
– Trấn-viễn đại tướng quân Mã Huống. 
– Bình-man đại tướng quân Mã Dư. 
Kể cả trận đánh trong khi bà triệt thoái khỏi Nam-hải, trước sau bà đã loại khỏi vòng chiến bốn mươi lăm vạn quân Hán. 
Trước năm 1945, tại Bắc-Việt có năm, sáu đền thờ bà. Nay chỉ còn tại xã Ngọc-lâm, huyện Linh-giang, tỉnh Hà-bắc. Chúng tôi ghi chép ở đây đôi câu đối tại đền thờ bà, tạm dịch sang Việt-ngữ : 
Thực hào kiệt, thực anh hùng. Những khi giúp đỡ vua Trưng, mặt nước sông Thương, gươm báu trăng lồng còn lấp lánh. 
Còn bâng khuâng, còn phảng phất. Sau lúc đuổi tan giặc Hán, cành hoa bến Ngọc, vòng tay thơm nức vẫn còn đây. 
Đông-Kinh. Tôi được nghe kể truyện về bà Thánh-Thiên vào năm mười hai tuổi. Không hiểu sao, nghe kể xong, tôi ôm mặt khóc. Lần thứ nhì, đọc cuốn phổ tại đền thờ bà do Trương Phụ mang cất ở Kim-lăng, người Nhật lấy về. Tôi lại khóc nữa. Từ đấy mỗi khi kể truyện bà cho các bạn, cho con, cho học trò nghe. Tôi lại đọc câu đối trên. Thính giả cũng đều khóc. 
Bà Phùng Thị-Chính tử trận năm hai mươi bảy tuổi, vua Trưng sắc phong: 
Tuyên từ, chí đức, minh mẫn công chúa. 
Hiện nay đền thờ của bà vẫn còn tại thôn Phù-Nghĩa, xã Phù-đổng, huyện Ba-vì, tỉnh Hà-tây. 
Sau đám tang Thánh-Thiên, Trưng-đế cùng Đào Kỳ chỉnh bị lại quân mã. Đạo Nhật-nam do Hùng Bảo, Trần Năng thống lĩnh. Đạo Giao-chỉ do Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh thống lĩnh. Đạo Cửu-chân do Đô Thiên, Chu Bá thống lĩnh. Đạo Nam-hải, Quế-lâm nhập làm một do Minh-Giang, Trần-gia tam nương thống lĩnh. Đạo Phù-đổng do Đào Hiển-Hiệu, Đào-Quí-Minh thống lĩnh. Cao Cảnh-Sơn chỉ huy đạo binh Thần-nỏ. 
Quang-Vũ vẫn duy trì ba đạo binh đánh Lĩnh-Nam. Đạo thứ nhất do Vương Bá chỉ huy đánh từ Tượng-quận xuống. Đạo thứ nhì do Mã Viện đánh từ Quế-lâm xuống. Đạo thứ ba do Lưu Long đánh vào bờ biển. 
Một hôm có quân vào báo: 
– Công chúa Phùng Vĩnh-Hoa với các tướng xin vào yết kiến. 
Đào Kỳ vội cùng Phương-Dung ra đón. Trước mặt ông, Phùng Vĩnh-Hoa, Trần Quốc, Chu Tái-Kênh, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Vương Sa-Giang, Đào Nhị-Gia (Sún Rỗ). Người nào trông cũng bơ phờ mệt mỏi. Đào Kỳ hỏi: 
– Sư đệ Phúc, Lộc đâu rồi? Ngũ Kiếm ra sao? 
Phùng Vĩnh-Hoa kể: 
– Đoàn anh hùng lên giúp Ngũ-kiếm đánh chiếm được một số thành. Sau đích thân Ngô Hán đem quân đánh. Quân của Ngũ-kiếm chỉ có mười vạn người hầu hết là quân Hán đầu hàng. Vì vậy đánh trận nào cũng thất bại. Sau khi Quang-Vũ lấy được Trường-sa, y cho Chu Hựu mang quân lên tiếp với Ngô Hán. Trận đánh cuối cùng ở Liêu-đông diễn ra. Ngũ-kiếm đều tử trận. Vương Phúc, Vương Thọ bị trúng tên chết. Đám anh hùng Lĩnh-Nam mở đường máu, cướp chiến thuyền vượt biển về đây. 
Nghe tin Vương Phúc chết. Đào Kỳ cảm thấy như bị con dao đâm trúng tim. Ông sai lập dàn, làm lễ tế vọng người em kết nghĩa. Ông truyền đô đốc Trần Quốc lên trấn thủ vùng Lãng-bạc. Chu Tái-Kênh về trấn thủ Thiên-trường. Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa ở lại Long-biên với ông. Còn Phùng Vĩnh-Hoa thì lên Mê-linh giúp vua Trưng, vì Phương-Dung phải trấn thủ Long-biên với ông. 
Từ khi lập quốc. Quốc Tổ đặt ra lệ, cứ vào giữa tháng mười, từ sau vụ gặt, đại thần, Lạc-hầu, Lạc-tướng tụ về kinh đô chúc mừng vua. Từ khi tái lập Lĩnh-Nam, tể tướng Nguyễn Phương-Dung lại cho thực hành phong tục cũ. 
Bây giờ vào giữa tháng mười năm Nhâm-Dần, tức 42 sau Tây-Lịch. Để chuẩn bị lễ chúc mừng Trưng đế. Tể tướng Phương-Dung đạt thư mời tất cả các Lạc-vương, Lạc-hầu, các đại tướng quân cùng về Mê-linh. Sau lễ chúc mừng hoàng-đế, sẽ có cuộc hội nghị, bàn về kế hoạch phòng thủ Lĩnh-Nam. 
Các Lạc-hầu, Lạc-tướng ở xa, lên đường tới trước. Còn các vị ở gần, sáng sớm mới lên đường. Từ Long-biên tới Mê-linh không xa, khoảng hai giờ sức ngựa. Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng vương phi Nguyễn Phương-Dung lên đường thực sớm, để tới nơi đúng giờ thìn, là giờ cử hành lễ. 
Sau khi lễ Quốc-tổ, các anh hùng chúc mừng hoàng đế Lĩnh-Nam. Vua Trưng ban chỉ dụ: 
– Trẫm muốn nhân dịp này. Chúng ta duyệt xét lại kế hoạch làm thế nào khiến cho Hán để yên cho chúng ta kiến thiết đất nước. Vậy các anh hùng có ý kiến gì xin đưa ra, cùng bàn luận. 
Đô Dương đứng lên nói: 
– Hiện Lĩnh-Nam phải đối đầu với Mã Viện, từ Quế-lâm đánh xuống với ba mươi vạn binh. Vương Bá từ Tượng-quận đánh xuống với hai mươi vạn binh. Lưu Long từ biển đánh vào với hai mươi vạn binh. Ấy là chưa kể đạo binh phản loạn của Lê Đạo-Sinh. Hiện Lê đã cho đám đệ tử lén lút trở về liên lạc với các Lạc-hầu, Lạc-tướng thuộc quyền của y cũ. Hẹn rằng khi quân Hán kéo sang, thì nổi dậy. Chúng ta cần giữ vững thành trì, tuyệt đối không xuất trận. Như vậy một, hai năm quân Hán mệt mỏi. Chúng ta đánh một trận, thế giặc tan. Bấy giờ mới hy vọng Quang-Vũ bỏ ý định đánh Lĩnh-Nam. 
Chu Tái-Kênh nói: 
– Tôi nghĩ mình nên kéo sang Trung-nguyên, ám sát Quang-Vũ. Quang-Vũ chết, ấu quân lên thay, triều đình rối loạn, tất các tướng ngoài mặt trận không còn ai quyết tâm. 
Phùng Vĩnh-Hoa lắc đầu: 
– Phàm ông vua Trung-quốc nào cũng nghĩ đến đem quân chinh tiễu thiên hạ. Chúng ta giết Quang-Vũ này, ắt có Quang-Vũ khác. Chúng ta giết Quang-Vũ triều thần dễ dàng mượn cớ đem quân sang đánh chúng ta. Vì vậy chúng ta chỉ cần sao cho nước giầu, binh hùng, mới mong chống được giặc. 
Đến đó có tin báo: 
– Mã Viện đem quân men theo đường biển, hợp với Lưu Long dẫn thủy quân từ đảo Nam-Hhải tiến vào. Công chúa Gia-hưng Trần Quốc chỉ có năm vạn quân, phải lùi về giữ Lãng-bạc. 
Trưng Vương hỏi Vũ Trinh-Thục: 
– Đạo quân Lưu Long, Mã Viện bao nhiêu người? 
– Lưu đem mười lăm vạn thủy binh. Mã đem hai mươi vạn bộ, mười vạn kị. 
Đào Kỳ lắc đầu: 
– Trần Quốc chỉ có năm vạn binh, địch sao nổi với bốn mươi lăm vạn ? Đất Giao-chỉ sở dĩ yên được, vì địa thế núi non hiểm trở ở biên giới phía Bắc. Nay Mã Viện, Lưu Long đem quân chiếm Lãng-bạc. Y định hợp với quân Vương Bá từ Tượng-quận đánh xuống, cắt đôi Giao-chỉ. Chúng đánh lối tằm ăn dâu. Như vậy dù muốn dù không, chúng ta phải đánh tan hai cánh quân này. 
Trưng Đế hỏi Phương-Dung: 
– Sư muội định thế nào? 
Phương-Dung nói với Đô Dương, Lại Thế-Cường: 
– Một giải Cửu-chân, Nhật-nam cũng rất quan trọng. Xin hai vị vương gia khẩn về trấn giữ yên mặt Nam. Nếu chúng đổ quân vào vùng biển Thiên-trường, đánh phía sau Long-biên, Mê-linh. Xin các vị đem quân từ trong đánh ra. Như vậy chúng tôi yên tâm phía Nam. 
Bà gọi Tử-Vân: 
– Em khẩn trở về giữ vững bờ biển vùng Giao-chỉ. Không cho giặc theo các nhánh sông đánh vào phía sau Long-biên, Mê-linh. 
Bà gọi Minh-Giang, Trần-Gia Tam Nương: 
– Các vị đem bản bộ quân mã giữ vững mặt Bắc Giao-chỉ, tiếp với Tượng-quận, ngăn Vương Bá đánh xuống. 
Bà nói với Trưng Vương: 
– Mã Viện đem quân tới Lãng-bạc, định đánh về Mê-linh. Lưu Long định đánh dọc bờ biển tiến về Long-Biên. Chúng ta cần chia binh làm hai, đánh tan hai đạo binh này. Vậy sư tỷ xử dụng đạo binh Nhật-nam, đạo Cổ-loa nghinh chiến với Mã Viện ở Lãng-bạc, đánh bật chúng ra biển, đuổi về Nam-hải. Còn em xử dụng đạo Giao-chỉ, Phù-đổng tiêu diệt Lưu Long. 
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu: 
– Đối với đạo binh Vương Bá, chúng ta không sợ. Vì y không có nhiệm vụ đánh Lĩnh-Nam. Bây giờ ta điểm lại các võ tướng, hầu phân chia lực lượng. 
Vua Trưng chỉ dụ: 
– Đạo quân của Mã có Phùng Đức, Sầm Anh, Liêu-đông Tứ Ma. Cánh quân Lưu Long có Mã Huống, Mã Anh, Mã Dư, Thượng-dung lục hữu. 
Ngài thở dài: 
– Chúng ta có Đào Kỳ, Phương-Dung, Trần Năng, Chu thái sư thúc, Hoàng sư tỷ. Vậy phải phân phối như thế nào?
Đào Kỳ nói: 
– Hiện có hai cao thủ mới, dư sức đánh ngang tay với Liêu-đông tứ ma sư tỷ quên rồi sao? 
– Ai? 
– Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa. 
Phương-Dung gật đầu: 
– Còn các sư đệ, sư muội Đào Phương-Dung, Hiển-Hiệu, Quí-Minh. Các sư tỷ Lê Ngọc-Trinh, Trần-gia tam-nương thừa sức thắng bọn Mã Viện, Lưu Long, Thượng-dung lục hữu. Vậy thế này, Chu lão sư bá cùng sư bá Đặng Thi-Kế, Nguyễn Thành-Công, thêm Trần Năng, Hùng Bảo đánh Lãng-bạc. Anh Kỳ với tôi thêm sư tỷ Thiều-Hoa, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa đánh trận Long-biên. 
Ngày hôm đó, chúa tôi vừa ăn, vừa bàn kế hoạch đối phó với quân Hán. 
Phùng Vĩnh-Hoa hiến kế: 
– Quang-Vũ mang quân nghiêng nước định diệt Lĩnh-Nam. Chúng ta trở về với bài học của Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung thời Âu-Lạc, diệt năm mươi vạn quân Tần. Không biết Đào hiền đệ nghĩ sao? 
Đào Kỳ đáp: 
– Thời Âu-Lạc, dân mình sống thưa thớt, rải rác. Đường xá vùng Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải chưa có. Đồ Thư đi đến đâu cũng chỉ thấy đất hoang, thú dữ, lam sơn, chướng khí. Trung-tín hầu viết hịch truyền đến dân chúng. Dân chúng bỏ trốn vào rừng, bầu người tuấn kiệt làm người thủ lĩnh. Đêm đêm ra đánh quân Tần. Kịp đến khi quân Tần bị lam sơn, chướng khí bệnh tật, ngài mới đổ quân ra đánh một trận, giết được Đồ Thư. Bây giờ hoàn cảnh chúng ta hơi khác một chút. Dân ta đông gấp mười, sống trong trang ấp. Mỗi trang, mỗi ấp là một cái đồn. Chúng ta có thể ẩn vào dân, đêm đổ ra đánh giặc. Song giặc Hán không cần dân. Đi đến đâu chúng đánh thí mạng. Nghìn mạng đổi lấy một. Cứ như trận Hành-sơn thì rõ. Chúng sẵn sàng biến Lĩnh-Nam thành bãi đất hoang. 
Trưng đế ban chỉ dụ: 
– Vậy bây giờ Vĩnh-Hoa soạn cho ta bài hịch đánh Hán, truyền tới các trang ấp. Chúng ta thà ngọc nát chứ không chịu có vết. Quang-Vũ muốn diệt Lĩnh-Nam, y cũng phải tốn hàng mấy núi xương sông máu. Ta quyết định, một là giòng giống Việt bị tuyệt diệt, hoặc tồn tại mà không bị Hán cai trị. 
Phùng Vĩnh-Hoa cầm bút viết hịch trình lên Trưng đế. Ngài đọc xong, trao cho Phương-Dung: 
– Em sao thành nhiều bản, gửi tới các trang ấp. 
Phương-Dung cầm lấy đọc lớn: 
Từ cổ, đế vương cai trị Thiên-hạ, dùng đức cảm hóa kẻ ác. Dùng hình pháp chẳng qua bất đắc dĩ. Lĩnh-Nam ta từ Quốc-tổ Kinh-dương vương dựng nước, lấy Ngũ-lĩnh làm cương giới Trung-nguyên. Lời thề nam, bắc giữ cương vực hãy còn đó. Suốt hơn hai ngàn năm, bắc, nam sống như anh em, dân chúng hai miền hòa thuận. Khi bạo Tần, dùng cường lực, diệt nước, thu quyền Trung-nguyên vào một mối, đốt sách, chôn học trò. Tưởng dùng bạo lực, bắt mèo sợ chuột, chỉ trâu bảo ngựa, hùng hổ sai Đồ Thư mang năm mươi vạn quân chiếm Âu-Lạc. Trung-tín hầu, đánh một trận bêu đầu Đồ Thư. Rừng Đông-Triều đến nay xương trắng, khí độc, hồn ma u uất chưa tan. 
Cuối đời Âu-Lạc, một tên quan bạo Tần là Triệu Đà cát cứ ba quận Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, định lập một nước, dùng kế gian manh, đánh nước Âu-Lạc ta, rồi sau con cháu cũng bị tuyệt diệt bởi triều Hán. 
Suốt hai trăm năm, người Việt chúng ta bị bọn tham quan triều Hán cai trị, coi như trâu, như chó, muốn sống không được, muốn chết cũng không xong. Chúng bắt người lên rừng tìm gỗ quí, xuống biển mò ngọc trai. Tiếng oán than thấu đến trời. Dân đói mặc dân đói, thiên tai bão lụt mặc thiên tai, chúng chỉ vơ cho đầy túi tham. 
Bọn quan lại tham ô Hán đã thế, bọn chó săn, chim mồi người Việt, càng ác độc hơn. Nào phải chúng không có kiến thức, không có võ công? Chúng tự biết luồn cúi người Hán, chà đạp người Việt, để tiếng xấu muôn đời cho thân mình, cho tổ tiên, cho sư môn. Thế mà chúng vẫn làm, vẫn nhẫn tâm hại đồng chúng. 
Ta cùng các anh hùng, một thước gươm nổi dậy, chiếm lại lãnh thổ Âu-Lạc. Thừa thắng đòi phần đất Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, mất đã từ lâu. Khắp Lĩnh-Nam, không nhà nào, không người nào mà không vui mừng. Ta đã ban pháp lệnh, đối xử với người Hán như người Việt. Hán, Việt cùng nhau góp công xây dựng Lĩnh-Nam phú cường. 
Trong ba năm qua, mùa trúng liên tiếp. Ruộng, đất hoang khai khẩn tăng diện tích canh nông lên gấp ba, gấp bốn. Sưu thuế nhẹ, binh dịch không phiền nhiễu. Học hành được mở mang. Bốn phương, dân chúng ấm no, lúa gạo, trâu bò, gà vịt dư thừa. Dù thời Văn-Lang, Âu-Lạc cũng không hơn. 
Trong khi đó bên Trung-nguyên, dân chúng đói khổ, giặc dã khắp nơi. Người Trung-nguyên hướng mắt nhìn về Lĩnh-Nam, những muốn nổi dậy. Vua Quang-Vũ nhà Hán cùng bọn tham quan lo sợ cuống cuống. Chúng xua ba mươi vạn binh xuống Trường-sa. Công chúa Phật-Nguyệt chỉ đánh một trận, Mã Viện bị thương, phải van lạy mới được tha chết. Lưu Long lặn xuống sông, bơi qua Trường-giang, mà hồn phách còn kinh hoàng. Xác quân Hán nghẹt hồ Động-đình, thây phơi khắp phía nam Trường-giang. Đến nay dân Hán còn sợ hãi, dọa trẻ con "Nín đi, nín đi, nữ vương Phật-Nguyệt đến kìa". 
Đại tư mã Ngô Hán, cùng các đại tướng Vương Bá, Lưu Thương, Cáp Diên, đem hai mươi vạn quân, xâm lấn Tượng-quận. Công chúa Nguyệt-Đức chỉ đánh một trận, diệt sạch. Ngô Hán chạy đến Cửu-long, lương không còn, gạo hết, phải năn nỉ, mới được tha cho sống. 
Hay đâu! Bọn chó săn, chim mồi Lê Đạo-Sinh đem chiếu chỉ của Quang-Vũ đe dọa, dụ đám Lạc hầu người Hán, nổi dậy, "Bình man qui Hán". Vì vậy Tượng-quận mất. Tượng-quận mất, song các tướng Lĩnh-Nam đều tuẫn quốc, không một ai hàng giặc. Khí tiết anh linh của Tượng-quận tam anh, của Đào-thị tam hùng cùng nhiều tướng khác, cho đến nay còn phảng phất trên bến Bồ-lăng. 
Tưởng đâu được Tượng-quận, Hán muốn nuốt Lĩnh-Nam, bóp chết như bóp con chim non. Lưu Long, Đoàn Chí, Mã Viện đem bốn mươi vạn hùng binh tràn xuống Nam-hải. Công chúa Thánh-Thiên chỉ đánh một trận. Mã Viện phải qùi dưới gối công chúa Lê Chân để được thoát thân. Lưu Long kinh hồn vỡ mật. Đoàn Chí bị chém đầu trên biển đông. Công chúa Gia-Hưng thừa thắng đánh thẳng về Lạc-Dương, những muốn diệt triều Hán. Ta vì lòng nhân, không muốn chiếm đất người, truyền gọi công chúa Gia-Hưng trở về. Trước sau hơn năm mươi vạn quân Hán bị phơi thây. 
Quang-Vũ cùng triều thần Hán càng lo sợ, lấy cớ hai thái hậu Hàn, Mã chết vì Lĩnh-Nam, cho khởi binh nghiêng nước, tiêu diệt giống Việt. Chúng không dấu điều tàn bạo, truyền lệnh cho binh sĩ, đánh đến đâu, cho cướp của, giết người, hãm hiếp. Vì vậy các Lạc-hầu người Hán kinh sợ, xin với ta cho được về Hán. Ta truyền rút bỏ Quế-lâm, Nam-hải. 
Nay Quang-Vũ sai Vương Bá đem ba mươi vạn quân, từ Tượng-quận đánh xuống. Mã Viện đem bốn mươi vạn quân, từ Quế-lâm từ ven bờ biển đánh vào. Lưu Long đem hai mươi vạn thủy quân đổ bộ. Kể cả dân phu mấy chục vạn. Quân tướng Hán trên trăm vạn. Trong khi Lĩnh-Nam ta chỉ có mười vạn dũng sĩ. Noi gương Trung-tín hầu thời Âu-Lạc, chỉ có bốn vạn quân, đánh tan năm mươi vạn quân Tần. Chém Đồ Thư ở Đông-Triều. Ta truyền hịch này đến các tướng sĩ, Lạc-hầu, Lạc-tướng. Mọi người, mọi trang, mọi ấp, tùy nghi. Gặp giặc đi lẻ tẻ, xông ra chém giết. Giặc tập trung, ta rút vào rừng, đêm đổ ra đốt lương. Đánh trước, đánh sau, đánh đêm, đánh ngày. Tướng đánh, quân đánh, dân đánh. Cha đánh, con đánh. Đàn ông đánh, đàn bà đánh. Thiếu nhi cũng đánh. Triệu người cùng quyết tâm. Chúng ta thà chết hết, chứ không để đất tổ cho ngoại tộc cai trị. 
Vua Trưng truyền thư lại chép thành nhiều bản, gửi đi khắp nơi. 
Không hiểu sao, dường như linh tính báo trước điều gì. Phương-Dung chau mày nghĩ ngợi. Bà nói: 
– Hay thế này. Trận Lãng-bạc để sư tỷ Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa đánh với Mã Viện. Chị lên Long-biên với chúng em. Tự nhiên mấy hôm nay em thấy tâm thần hoảng hốt, mắt máy, thịt co giật. Chị ra Lãng-bạc cầm quân, em không yên tâm tý nào cả. 
Phùng Vĩnh-Hoa thêm ý kiến: 
– Em nghĩ đúng. Có lẽ chúng ta để hoàng đế rút lui vào vùng Hoa-Lư ở với phái Hoa-Lư hoặc vào Cửu-chân. Để ngoài này cho chúng ta chống giặc. 
Đào Kỳ cũng nói: 
– Hoàng đế Hán đi đâu phải có tiền hô hậu ủng, vì võ công y thấp. Còn hoàng đế Lĩnh-Nam võ công cao, chỉ cần vài người hầu là đủ. Bây giờ thế này, Thần-tiễn Âu-Lạc tứ hùng tử trận mất một. Còn ba vị, tôi cử theo hộ giá hoàng thượng, lui vào Hoa-lư. Đợi chúng ta đuổi giặc rồi hãy trở về Mê-linh. 
Vua Trưng cảm động: 
– Đa tạ các em lo cho chị. Hoàng đế Hán tự coi mình là con trời, mình bằng vàng, da bằng bạc. Ta không thế. Ta là các em, các em là ta. Ta cùng ra trận với các em. Nếu ta có tuẫn quốc, các em lên thay tiếp tục chống giặc. Khúc-giang ngũ hiệp, Thánh-Thiên, Lê Chân tuẫn quốc trước, tại sao Trưng Trắc không tuẫn quốc sau được? 
Đào Kỳ vẫn không đang tâm để Trưng đế ra trận. Ông bàn: 
– Vậy chị Vĩnh-Hoa hộ tống Hoàng đế giữ Mê-linh. Trưng vương đánh Mã Viện. Tôi với Phương-Dung đánh Lưu Long. 
Nguyễn Thành-Công hiên ngang nói: 
– Cháu Kỳ! Ta biết lòng dạ cháu với Phương-Dung, Vĩnh-Hoa, muốn an toàn tuyệt đối cho hoàng đế. Song ta nghĩ hoàng đế võ công cao, tài dùng binh giỏi. Người cần đích thân lâm chiến, hầu khích lệ ba quân chứ. Bên Trung-nguyên, Quang-Vũ, Công-tôn Thuật cũng từng ra trận. Không lẽ hoàng đế Lĩnh-Nam lại thua họ sao? 
Hoàng Thiều-Hoa lắc đầu: 
– Không hẳn vậy! Trận thế Trung-nguyên, quân hai bên đều ngang nhau. Nếu bên nào có tướng giỏi sẽ thắng. Ngược lại bây giờ quân Hán đông gấp mười quân Việt. Quang-Vũ ban chỉ dụ: Dù Hán chết trăm, Việt chết một, cũng vẫn coi là thắng. Nếu Mã thấy hoàng thượng ra trận. Y sẵn sàng nướng hết hai mươi vạn quân. Lỡ ra hoàng thượng có mệnh hệ nào, Lĩnh-Nam như rắn mất đầu. Phải cẩn thận vẫn hơn. 
Bỗng có tiếng nói đâu đó vọng xuống: 
– Hoàng đế Trưng Trắc thân làm chưởng môn phái Tản-viên, lớn nhất Lĩnh-Nam mà không dám ra trận, thì có còn là hoàng đế nữa không? 
Tiếp theo những tiếng binh, binh, binh trên nóc điện Kinh-dương. Mọi người chạy ra sân xem, Hùng Xuân-Nương, Đặng Thi-Bằng giữ nhiệm vụ canh gác đã bị hai người quần áo nâu, mặt bịt kín, đánh bay xuống đất. Quách A cầm tù và gọi, Thần-ưng bay đến rợp trời. Hơn trăm con chia thành từng đội tấn công hai người kia. Mấy trăm con khác bay lượn, canh phòng. Đội Thần-báo, Thần-hổ trăm con cùng kéo đến. Giáp sĩ vây điện Kinh-dương kín như thành đồng vách sắt. Nguyễn Thành-Công nhận ra họ là một cặp nam nữ, tóc bạc, dường như tuổi khá cao. 
Nguyễn Thành-Công vọt người lên nóc điện. Ông chưa đáp xuống, người đàn ông vung chưởng tấn công ông. Ông vội vận khí đỡ. Binh một tiếng, người ông bay bổng xuống đất. Ông lộn đi hai vòng từ từ hạ mình. 
Các anh hùng đều kinh ngạc. Vì Nguyễn Thành-Công là thầy của Phong-châu Song-quái. Võ công của ông đâu phải tầm thường ? Thế mà người kia chỉ đánh hời hợt một chưởng. Ông đã bị bại. 
Trần Năng vọt người lên. Bà còn ở trên không, thì người đàn bà bịt mặt phóng chưởng tấn công. Bà vận Thiền-công đỡ. Xùy một tiếng, người bà vọt lên cao đáp xuống nóc điện. Chưởng của người đàn bà bịt mặt mất tích. Song Trần Năng cũng bị bật lùi đến hơn trượng. 
Người đàn bà bịt mặt ủa một tiếng kinh ngạc, rồi phóng chưởng đánh tiếp. Trần Năng dùng Phục-ngưu thần chưởng chống lại. Hai người thi diễn cuộc đấu. Được hơn mười hiệp, Trần Năng bắt đầu yếu thế. 
Đào Kỳ kinh hãi nghĩ: 
– Hôm trước Trần Năng đấu ngang tay với Lê Đạo-Sinh. Thế mà bây giờ mới ba mươi hiệp đã thua người đàn bà này. Không biết y thị là ai? 
Hoàng Thiều-Hoa nhún mình vọt lên nóc điện. Bà hô lớn: 
– Khoan! 
Trần Năng lui lại. Hoàng Thiều-Hoa đến trước hai người bịt mặt, chắp tay, lễ phép: 
– Chẳng hay quí khách là ai? Đến đây có việc gì? Chúa tôi chuyên dùng nhân nghĩa trị người. Các vị có điều chi không như ý cứ đường hoàng đến trình bày. Tại sao lại che mặt như vậy? 
Người đàn bà đáp: 
– Ngươi là Hoàng Thiều-Hoa, đệ tử của Đào Thế-Kiệt phải không? Hãy đỡ của ta ba chưởng, rồi nói truyện. 
Người đàn bà phóng chưởng chụp xuống đầu Hoàng Thiều-Hoa. Bà hít một hơi vận khí, phát chiêu Thiết-kình phi chưởng đỡ. Bình một tiếng. Hoàng Thiều-Hoa bị lui lại đến ba bước. Còn người đàn bà đứng im, mắt lộ vẻ khủng khiếp: 
– Ngươi... ngươi... không phải là học trò Đào Thế-Kiệt. Bản lĩnh ngươi cao hơn Đào Thế-Kiệt nhiều. tuy vậy ngươi vẫn không phải là đối thủ của ta. 
Chu Tái-Kênh đến bên Đào Kỳ nói nhỏ: 
– Cháu với ta thử xem. 
Miệng nói, người bà vọt lên cao. Còn lơ lửng trên không đã phóng chưởng đánh người đàn bà. Người đàn bà vung chưởng đỡ. Hai người đấu với nhau được hai mươi chiêu. Bây giờ người đàn bà mới lộ bản lĩnh chân thực ra. Võ công của bà ta là võ công Tản-viên. 
Bên kia Đào Kỳ cũng nhảy lên nóc điện. Ông chắp tay hướng vào người đàn ông: 
– Tiểu vương là Đào Kỳ. Xin kính mời tiên sinh quá bộ xuống dưới nhà uống trà đàm đạo. Chẳng hay tiên sinh có chấp thuận không? 
Người đàn ông cười: 
– Ta sẵn sàng. Nếu ngươi đỡ được của ta ba chưởng. 
Đào Kỳ ung dung đáp: 
– Xin mời. 
Người kia phát chiêu Ác ngưu nan độ tấn công. Đào Kỳ kinh hãi phát chiêu Loa thành nguyệt ảnh đỡ. Binh một tiếng. Cả hai lùi lại bốn bước. Tất cả mọi người đều la hoảng. Vì với bản lĩnh của Đào Kỳ, hiện trong thiên hạ không ai địch nổi. Không ngờ hôm nay lại xuất hiện một cao thủ ngang tay với ông. 
Người kia phát chiêu Ngưu tẩu như phi. Đào Kỳ hít một hơi, vận khí ra Thủ Tam-dương kinh, đỡ. Binh một tiếng, người kia lui lại một bước. Còn Đào Kỳ vẫn ung dung như thường. Người kia ôm tay, đứng suy nghĩ, tần ngần. 
Bỗng Trưng Nhị la lớn: 
– Sư phụ! Sư mẫu! 
Bà nhảy vọt lên nóc điện Kinh-dương, tay trái nắm tay người kia. Tay phải gỡ khăn bịt mặt. Bà nói lớn: 
– Sư phụ! Suốt gần hai chục năm nay người đi đâu? Làm đệ tử nhớ người muốn chết. 
Chu Tái-Kênh với người đàn bà bịt mặt đã lùi lại. Vua Trưng vọt người lên nóc nhà. Tay ngài gỡ khăn bịt mặt của người đàn bà. 
Người đàn ông bịt mặt tên là Đỗ Năng-Tế. Người đàn bà tên là Tạ Thị-Cẩn. Cách đây hơn hai mươi năm, phái Tản-viên bị chia hai chi phái. Một chi phái do họ Đặng làm chưởng môn. Một chi phái do họ Trưng làm chưởng môn. Đến đời thân phụ Trưng Trắc, Trưng Nhị thì Đỗ Năng-Tế, được cử làm chưởng môn. Võ công cả ông lẫn bà đều cao không biết đâu mà lường. Ông có chí phục quốc. Song phái Tản-viên cứ xảy ra bất hòa. Vì vậy ông bà không dám khởi binh. 
Lúc ấy, Lê Đạo-Sinh thuộc chi phái họ Đặng, ra làm đô úy Giao-chỉ. Lê đưa ý kiến đứng ra làm mối cho Trưng Trắc với Đặng Thi-Sách lấy nhau, hầu thống nhất hai chi phái. Nguyễn Thành-Công, Đặng Thi-Kế líu ríu tuân theo. Ngược lại Đỗ Năng-Tế nhận biết rõ bộ mặt ngụy quân tử của Lê. Ông bà không thuận. Một đêm Lê Đạo-Sinh tới gặp ông bà. Y yêu cầu: Hai bên đấu võ với nhau. Nếu ông thắng. Y bắt chi phái Đặng Thi-Kế tuân phục chi phái họ Trưng. Còn ngược lại y thắng. Ông bà phải thuận cho cuộc hôn nhân Trưng, Đặng. Ông bà phải nhường cho Trưng Trắc làm chưởng môn cả hai chi phái. 
Ông bà thấy dù thắng hay bại, chi phái của ông cũng làm chưởng môn. Ông đồng ý. Cuộc đấu võ diễn ra. Hai người đấu trên ba trăm hiệp, bất phân thắng bại. Sau ông cùng Lê đấu nội lực. Kết quả ông thua. Ông bèn truyền chức chưởng môn cho Trưng Trắc, rồi ông bà bỏ đi, với lời thề: Nếu ngày nào đó không thắng được Lê Đạo-Sinh. Ông bà quyết không trở về. Bẵng đi hai chục năm. Bây giờ ông bà xuất hiện với võ công cao cường. Dù ông, dù bà đều hơn Lê Đạo-Sinh, ngang với Chu Tái-Kênh. 
Trưng-đế thỉnh sư phụ, sư mẫu vào điện Kinh-dương. Đỗ Năng-Tế tóc đã bạc. Ông nói: 
– Từ ngày bị thua Lê Đạo-Sinh, ta lên núi Tản-viên ở ẩn, luyện tập võ nghệ. Chúng ta quên thời gian, không còn nhớ gì nữa. Một ngày kia, có hai lão già xuất hiện. Chúng ta đấu với hai lão. Chỉ năm hiệp, hai lão thắng chúng ta. Chúng ta chịu phục. Hai lão xưng tên là Khất đại-phu, Thiên-sơn lão tiên. 
Bà Tạ Thị-Cẩn nói: 
– Thủa trước ta nghe danh Khất đại phu Trần Đại-Sinh võ công kém Lê Đạo-Sinh một chút. Thế mà bây giờ chỉ năm hiệp lão thắng chúng ta. Lòng chúng ta nguội như tro tàn, vì không còn hy vọng gì thắng Lê nữa. Hai lão cùng chúng ta đàm luận võ công. Bấy giờ ta mới biết thời gian qua, võ học Lĩnh-Nam thay đổi, tiến đến chỗ rực rỡ. Nhờ hai lão, chúng ta thu được kinh nghiệm. Chỉ luyện trong ba năm đã có bản lĩnh này. Chúng ta từ biệt hai lão xuống đây tìm Lê Đạo-Sinh. 
Chu Tái-Kênh hỏi: 
– Hiện hai người đó ở đâu? 
– Cách đây hơn tháng, hai người lên đường đi Thiên-sơn. 
Chu Tái-Kênh mặt buồn rười rượi. 
Đỗ Năng-Tế nói với Trưng đế: 
– Ta biết Lê Đạo-Sinh theo quân Mã Viện đánh Lãng-bạc. Vì vậy chúng ta xuống đây, tìm y để đòi món nợ cũ. 
Trưng đế trầm tư một lúc. Ngài phán: 
– Võ học Lĩnh-Nam chúng ta tiến đến chỗ cực thịnh, bỏ xa Trung-nguyên. Trước đây phò mã Sơn-Tinh, Vạn-tín hầu chép võ công dấu vào cây gậy đồng. Đào tam đệ có cơ duyên tìm được. Nếu như các ngài không chép lại, có phải chúng ta mất đi biết bao tinh hoa không? Trẫm muốn noi gương tiền nhân, chép tất cả võ công chúng ta, cất một nơi, hầu bảo tồn. 
Đỗ Năng-Tế gật đầu: 
– Bây giờ chúng ta chép những gì? Trước hết cháu Đào Kỳ, cháu học võ công Tản-viên, sau đó nội công, kiếm pháp Long-biên. Cháu lại phát minh ra lối qui liễm chân khí âm, dương hợp nhất. Cuối cùng lối vận khí bằng kinh mạch của Khất đại phu, phát minh ra Lĩnh-nam chỉ. Cháu tổng thành bản lĩnh vô địch. Cháu hãy cho chép lại hết. Phương-Dung học nội công, kiếm pháp Long-biên, biến đổi thành bản lĩnh riêng. Trần Năng học võ Tản-viên, họp với Thiền-công, thành một bản lĩnh mới. Cuối cùng chép bí quyết luyện tập bắn tên, chế Nỏ-thần của phái Hoa-lư. Phương sách nuôi, dạy dỗ thú vật của Hồ Đề. 
Đào Kỳ nhìn Trần Quốc: 
– Nhất là bản lĩnh Giao-long. Cũng như các nghệ thuật của phái Sài-Sơn. Chẳng nên bỏ qua bất cứ loại nào. 
Phương-Dung móc trong bọc ra cuốn sách nhỏ: 
– Đậy là yếu chỉ dùng binh của sư tỷ Nguyễn Thánh-Thiên. Chúng ta cũng nên chép lại hết. 
Trưng Đế giao cho Phùng Vĩnh-Hoa, Nguyễn Phương-Dung, Nguyễn Thành-Công hợp nhau biên tập. 
Triều đình Lĩnh-Nam lại tiếp tục bàn kế hoạch đánh quân Hán. Đô Dương đưa ý kiến: 
– Tôi nghĩ, nếu chúng ta để hoàng thượng xuất trận, lành ít, dữ nhiều. Ngược lại ngài xuất trận, khiến cho tướng sĩ hết lòng. Tôi muốn dung hòa ý kiến của hoàng-thượng, Đỗ, Tạ lão sư với ý kiến Đào Kỳ, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa. Nghĩa là hoàng-thượng vẫn xuất trận, vẫn dùng bài học của Trung-tín hầu thời Âu-Lạc đã diệt Đồ Thư và năm mươi vạn quân Tần.
 Đàm Ngọc-Nga biết tài dùng binh của Đô Dương tuy không bằng Phương-Dung, Trưng Nhị. Song kiến thức của ông rất rộng. Bà thắc mắc: 
– Ý Đô đại ca muốn...? 
– Hoàng-thượng đã truyền hịch đến tất cả các trang ấp, Lạc-hầu, Lạc-tướng, Động-chủ, Trang-chủ suất lĩnh dân chúng bất kể nam nữ, già trẻ, thấy giặc đâu đánh đó. Nếu để giặc tập trung quân, đánh tỉa từng trang, từng ấp, cuối cùng Lĩnh-Nam lâm nguy. Nhược bằng chúng ta tập trung quân đánh. Tướng chúng ta anh hùng, quân chúng ta giỏi. Nhưng chúng hết mười vạn, lập tức có mười vạn khác. Còn chúng ta chết một vạn, không có một vạn khác. Tinh lực của chúng ta chỉ đủ để đánh bốn trận là cùng. Sau bốn trận đó, đành ngồi ngửa cổ cho chúng chặt đầu. Vậy chúng ta cần đánh hai trận, trận Lãng-bạc, Long-biên, làm chúng vỡ mật kinh hồn. Rồi các tướng soái, ai về trang ấp người đó, suất lĩnh dân chúng đánh giặc. Ngày chúng ta ẩn trong rừng, đêm ra đánh, cứ nhằm lương thảo của chúng mà đốt. Đợi khi chúng mệt mỏi. Ta tập trung quân đánh một trận, ắt giặc tan. 
Đỗ Năng-Tế gật đầu: 
– Đô vương gia bàn thực phải. Ta cứ thế mà làm. Tôi nghĩ cao thủ chúng ta nhiều hơn Hán. Vậy trong trận đánh này, chúng ta phải giết cho được bọn Sầm, Phùng, Liêu-đông tứ ma, Thượng-dung lục hữu, Lưu Long, Mã Viện. Có như vậy mới khiến quân sĩ kinh hồn. 
Trưng-đế phán: 
– Được, ta phiền Phương-Dung điều quân. 
Phương-Dung giữ quyền tể tướng. Bà tuân lệnh đứng lên nói: 
– Lực lượng Nhật-nam vẫn giữ nguyên. Đất Nhật-nam vốn anh hùng lại thêm sư bá Lại Thế-Cường với các sư thúc Thủy-Hải, Đằng-Giang, Khổng-Chúng. Giặc muốn đổ bộ, e còn khó hơn bắc thang lên trời. Lực lượng Cửu-chân, rất hùng mạnh. Trường hợp Lưu Long dồn đại quân vào Lục-hải, kéo về Long-biên. Xin Đô đại ca đem đạo Cửu-chân kéo ra Trường-yên, đánh về Thiên-trường, giữ vững mặt sau Long-biên, để Đào đại ca đánh Lưu Long. Đánh tan quân Lưu Long, ắt Mã Viện bị vây ở Lãng-bạc. 
Trưng Đế cùng các anh hùng đều đồng ý, tỏ vẻ khâm phục. Phương-Dung tiếp: 
– Còn Mã Viện từ Lãng-bạc đánh vào Mê-binh. Với tài dùng binh của sư tỷ Trưng Nhị, ắt Mã Viện thua. Đạo quân của y bị diệt, tất có đạo quân khác tiếp viện. Song đường tiếp viện đã bị Đào đại ca cắt đứt. Nếu y còn sống chạy về Trung-nguyên, cũng phải khó khăn lắm mới tiến quân sang được nữa. Có điều sau khi thắng trận Lãng-bạc, sư tỷ Trưng Nhị cho các anh hùng trở về trang ấp chiến đấu. Một số ít rút về cố thủ. Đối với Mê-linh, chỉ cần một quân đoàn Tây-vu giữ thành, dù Mã Viện có trăm vạn quân cũng vô dụng. Tại Long-biên, Đào lang với tôi cũng áp dụng như vậy. 
Bà nhắc lại: 
– Hai điều nguy hiểm có thể xảy ra: Một là nếu Đô đại ca không bảo vệ chắc vùng Trường-yên, ắt Long-biên bị lâm nguy. Hai là phải đề phòng thầy trò Lê Đạo-Sinh đột nhập Mê-linh làm nội ứng. 
Trưng Đế hỏi Đào Kỳ: 
– Đào tam đệ! Tam đệ điều động tướng sĩ. 
Đào Kỳ suy nghĩ một lúc, tâu: 
– Long-biên có thế nào, cũng không đáng ngại. Ta cần là giữ Mê-linh. Tôi xin các vị Đỗ Năng-Tế, Tạ Thị-Cẩn, Chu Tái-Kênh đánh trận Lãng-bạc. Còn các anh hùng, ai trấn nhậm đất nào, về đó.

3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 28 : Cẩm-khê đến lúc hiểm nghèo,Chị em thất thế phải liều với sông.(Đại Nam quốc Sử diễn ca)




 Đại tư-mã Đào Kỳ phân Lĩnh-Nam thành ba trận tuyến để đối phó với tình hình. Trận tuyến thứ nhất là vùng Lãng-bạc do Trưng Nhị chỉ huy. Trận tuyến thứ nhì là vùng Cửu-chân do Đô Dương thống lĩnh, chỉ huy phòng vệ. Mặt trận Long-biên do chính Đào Kỳ điều quân, Phương-Dung thiết kế. Quân Lĩnh-Nam được phân tán, âm thầm di chuyển, hôm nay đóng đây, mai đóng chỗ khác. Vì vậy Mã Viện, Lưu Long, Vương Bá không biết rõ chủ ý của quân Việt. Cả ba đã đem quân vào Lĩnh-Nam từ cuối năm Nhâm-Dần (42 sau Tây Lịch), nhưng cứ đóng quân chờ đợi. Mã Viện đóng ở vùng biên giới Bắc Việt, Quảng-tây ngày nay. Lưu Long đóng ở biên giới Bắc Việt với Quảng-đông, và đảo Hải-nam. Vương Bá đóng ở biên giới Vân-nam với Bắc Việt. Chúng cho Tế tác dò thám tình hình Lĩnh-Nam, nhưng mỗi đạo Tế tác báo cáo một khác, vì vậy chúng không dám tiến quân. Thế nhưng chỉ dụ của Quang-Vũ bắt ba tướng phải tiến quân vào Giao-chỉ trước Tết. Mà gần hết tháng mười một rồi mà cả ba vẫn không dám tiến binh. 
Tin tức Cu Bò gửi từ Lạc-dương về, đại lược: 
"Quang-Vũ nổi lôi đình, định chặt đầu ba tướng. Triều thần can gián rằng Lĩnh-Nam anh tài nhiều, không dễ gì tiến binh được. Quang-Vũ quyết định gửi sứ giả mang cho Mã Viện thanh Thượng phương bảo kiếm, với chỉ dụ: 
Được phép tiền trảm hậu tấu bất cứ tướng nào, đặt. Lưu Long, Vương Bá, Lê Đạo-Sinh dưới quyền Mã. Nếu cuối tháng hai, không tiến quân vào Long-biên, Mê-linh, thì Mã phải chặt đầu Lưu Long, Vương Bá, Lê Đạo-Sinh và chính đầu mình về nạp mệnh. Các tướng từ cấp Quân đoàn trở lên đều bị cách chức hết. 
Ngày 10 tháng 11 một, Mã Viện triệu tập các tướng hội họp ở Quế-lâm. Y quyết định ngày 20 đồng tiến binh. Lấy đông thắng ít, dù phải chết hết cũng phải chiếm bằng được Mê-linh, Long-biên. 
Một mặt Trưng Nhị sai viết thư báo tin khẩn cấp cho Đại tư mã Đào Kỳ, Cửu-chân vương Đô Dương biết rõ tình hình. Một mặt bà triệu tập tướng sĩ về Mê-linh nghị sư.ï Sau khi lễ trước bàn thờ Quốc Tổ, Quốc Mẫu, các tướng theo thứ tự ngồi vào đại sảnh đường. Ngài phán: 
– Từ hơn sáu tháng qua, Vương Bá, Mã Viện, Lưu Long đều dồn binh ở biên giới. Không ai dám tiến quân vào Giao-chỉ vì chúng con sợ dư oai trận Trường-an, hồ Động-đình, Nam-hải, Tượng-quận chưa hết. Bây giờ Quang-Vũ ban chỉ dụ, một là tiến, hai là mất đầu. Ba đạo được giao cho Mã Viện chỉ huy thống nhất. Chúng đang chuẩn bị tiến công. Ta để cho nhị muội điều binh. 
Trưng Nhị cầm ấn kiếm để lên án. Bà tóm lược tổng quát sách lược đã định với Đại tư mã Đào Kỳ, Tể Tướng Phương-Dung: 
– Cửu-chân vương Đô Dương trấn giữ suốt một giải Nhật-nam, Cửu-chân tới Hoa-lư, bảo vệ phía sau cho Long-biên, Mê-linh. Mặt này chúng ta không lo, vì bờ biển gồ ghề, khó đổ bộ. Dù chúng có đổ bộ, cũng gặp phải sức chống đối của các Lạc hầu, chúng cũng khó tiến quân được. 
Bà ngưng lại cho các tướng theo kịp, rồi tiếp: 
– Dù Mã có ngu, thì Lê Đạo-Sinh cũng cố vấn cho Mã. Hán sẽ tiến quân theo ba mặt: Mã Viện từ Bắc đánh thẳng xuống Lãng-bạc. Trong khi Lưu Long từ biển vượt Đông-triều hội với Mã. Từ Lãng-bạc chúng sẽ chia quân làm hai, Lưu Long đánh Long-biên. Mã Viện đánh Mê-linh. Vậy chúng ta sẽ nghênh địch cách nào? 
Trong phòng hội im lặng. Các tướng đều biết Trưng Nhị từng làm quân sư cho Đặng Vũ đánh Xuyên-khẩu, Bạch-đế, tiến vào Thành-đô. Sau khi phản Hán, chỉ nửa tháng, bà đã đánh chiếm lại Ích-châu, Kinh-châu. Tài thao lược không ai bì kịp. Cho nên họ đều phác họa kế hoạch trong tâm, chờ đợi kế hoạch của Trưng Nhị, rồi mới có ý kiến. 
Trưng Nhị tiếp: 
– Trước hết Công chúa Nguyệt-Đức thống lĩnh các vị Trần Quốc-Hương, Vũ Trinh-Thục, Trần Vĩnh-Huy, Tây-vu tiên tử, đốc suất các Lạc hầu dọc niên giới Tượng-quận, Quế-lâm lập phòng tuyến chống với Vương Bá, không cho Vương tiến xuống hội với Mã Viện, Lưu Long. Nhược bằng Vương dám hy sinh toàn quân, ta hãy tạm rút vào rừng chờ chúng đánh xuống, rồi đêm đêm đánh bịt hậu, cướp lương thảo. Đạo này có Phong-châu song quái. Tôi tin rằng với bản lĩnh của sư bá Vĩnh-Huy, Quốc-Hương thừa sức đàn áp chúng. Còn Thượng-dung lục hữu, ta không đáng sợ chúng.. 
Phùng Vĩnh-Hoa cùng các tướng khảng khái nhận lệnh. 
Trưng Nhị tiếp: 
– Các anh hùng còn lại, dự trận Lãng-bạc. 
Được dự trận Lãng-bạc, các tướng vung chân múa tay vui mừng. 
Trưng Nhị chỉ lên sơ đồ: 
– Mã Viện có ba người em tên Huống, Anh, Dư đều giỏi dùng binh. Tuy võ công chúng không cao lắm. Tế tác cho biết, Viện dùng ba người làm đại tướng, chỉ huy ba cánh quân. Cao thủ có Phùng Đức, Sầm Anh. Thêm vào đó Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ. Viện dùng hai người này sẽ đi tiên phong. Tin của Công chúa Bát-Nạn cho biết, Mã Viện chia quân làm bốn đạo. Đạo thứ nhất dùng thủy quân vượt hồ Lãng-bạc đánh thẳng về phương Nam. Thủy quân vận tải lương thảo, đổ lên phía Nam hồ. Trong khi đó hai đạo khác đánh vòng phía Đông, Tây hồ, hội lại với đạo thủy quân. Đường lối tiến quân của Mã giống như hồi đánh hồ Động-đình. Song có điều hơi khác, phía sau hồ Động-đình là sông Trường-giang, tiếp viện khó khăn. Còn phía sau Lãng-bạc là đại quân của Mã. 
Bà ngưng lại, nhìn các tướng, tiếp: 
– Ta chia lực lượng làm bốn. Thứ nhất Hùng Xuân-Nương, Đặng Thi-Bằng, Nguyễn Quý-Lan giữ thành Mê-linh. Dùng Thần ưng tuần phòng cẩn thận. 
Hùng Xuân-Nương hỏi: 
– Trong ba chúng tôi, ai là chủ tướng? 
Trưng Nhị liếc mắt hỏi Trưng Đế. Ngài phán: 
– Nguyễn Quý-Lan. 
Trưng Nhị tiếp: 
– Cánh thứ nhất do sư thúc Nguyễn Thành-Công, Đặng Thi-Kế thống lĩnh, với đạo binh Nhật-nam của Hùng Bảo, Trần Năng, chặn đánh Mã Huống, Phùng Đức phía Tây hồ. So sánh lực lượng, Hán có ba vạn kị, bốn vạn bộ. Chúng ta có bốn vạn bộ, một vạn kị. 
– Cánh thứ nhì do thái sư thúc Chu Tái-Kênh thống lĩnh cùng với đạo quân Quế-lâm của Minh-Giang, Trần-gia tam nương, chặn đánh Mã Anh, Sầm Anh phía Đông hồ. So sánh lực lượng: Ta có bốn vạn bộ, một vạn kị. Hán có bốn vạn bộ, ba vạn kị. 
– Cánh thứ ba do sư muội Trần Quốc thống lĩnh năm vạn thủy binh. Có sư thúc Cao Cảnh-Sơn, thần tiễn Âu-Lạc Cao Cảnh-Anh, Hùng, Kiệt, Khê, Nham chặn đánh Mã Viện, với năm vạn thủy quân, bốn vạn bộ. Hoàng thượng, sư phụ, sư mẫu với tôi theo đạo này. 
– Quân Việt thiện chiến, sống chết bảo vệ đất nước. Trong khi quân Hán không quen thủy thổ, lạ địa thế. Dĩ nhiên chúng ta thắng. Chỉ cần ta đánh lui chúng trở về phía Bắc hồ là đủ. Sau khi thắng giặc đạo quân Chu thái sư thúc cùng Trần Quốc tiến về Long-biên giúp Bắc-bình vương. Chúng ta hộ giá Hoàng-thượng và triều thần về Cẩm-khê.
– Mã Viện bị đánh lui, phải ngừng laị bổ xung. Trong khi dọc đường tiếp viện bị các Lạc hầu chặn đánh. Phía sau bị đạo binh hùng mạnh của Bắc-bình vương ép, tất y rút về Quế-lâm. Sang tháng ba tiết trời nóng nảy, quân sĩ không chịu được thủy thổ, chúng phải rút lui. Bấy giờ ta mới truy kích. 
Như thường lệ, Trưng Nhị hỏi: 
– Ai có ý kiến gì? 
Nguyễn Quý-Lan thắc mắc: 
– Tổng số quân của Viện là ba mươi vạn, của Lưu Long hai mươi vạn. Viện mới dùng có mười chín vạn. Phía sau còn ba mươi mốt vạn trừ bị. Chúng ta đánh ba đạo quân của chúng. Chúng còn ba mươi mốt vạn tung vào. Bấy giờ ta lấy đâu ra quân trừ bị ứng chiến? Tôi lấy làm lo nghĩ điều này? 
Trưng Nhị trả lời: 
– Bắc-Bình vương xuất quân trước chúng ta mười ngày. Tất đánh tan quân Lưu Long, tiến lên Đông-Triều chặn hậu Mã Viện. Dù ba mươi mốt vạn chứ ba trăm mười vạn, Viện cũng bị bại. Các tướng lĩnh mặt Long-biên đều là những tướng hét ra lửa mửa ra khói: Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Đào Phương-Dung, Trần Quế-Hoa, Trần Quỳnh-Hoa, chúa tướng cương quyết như Thiều-Hoa, Đào Kỳ, Phương-Dung. 
Chu Tái-Kênh hỏi: 
– Tôi thấy Bắc-Bình vương tiến quân, mà phía sau là Thiên Trường, Hoa-lư trống trải. Lỡ ra Hán đổ một đạo quân vào đấy, quân Đô Dương không cứu ứng được. Ắt quân của Bắc-bình vương lâm nguy. Tôi lo quá. 
Trưng Đế cười: 
– Thái sư thúc đừng lo. Lưu Long dễ gì tiến quân được như ở Quế-lâm, Nam-hải. Vì đi đến đâu cũng gặp các trang ấp chiến đấu. Y muốn tiến từ biển vào đến Long-biên cũng mất mấy năm. Quân tướng hao hụt chín phần mười. 
Quách A hỏi: 
– Trước kia quân đoàn ba Tây-vu theo yểm trợ đạo Giao-chỉ của chị Đào Phương-Dung. Bây giờ được chuyển qua yểm trợ cho đạo Nhật-nam của Hùng Bảo. Hiện tại Lãng-bạc còn quân đoàn hai của Hoàng Hầu tướng yểm trợ đạo Quế-lâm của Minh-Giang. Tôi nghĩ hai đạo của sư bá Chu Tái-Kênh, Nguyễn Thành-Công đánh trên cạn, không cần dùng Thần phong, Thần ưng. Xin giao các sư này cho tôi đánh trên thủy. 
Trưng Nhị mỉm cười: 
– Ta chưa kịp nói điều này. Vậy em cứ tự tiện chuyển hai sư ưng, phong của quân đoàn hai, ba tham chiến trên hồ. Các Sư trưởng, cùng tướng sĩ ra sao? 
Quách A ra ngoài một lúc, dẫn một số các tướng lĩnh Tây-vu vào bái kiến Trưng Đế. Nàng chỉ từng người một, trình: 
– Sư trưởng Thần ưng quân đoàn Hai là Từ Giong. Quân đoàn ba là Trâu Xanh Trần Ngọc-Tích. Sư trưởng Thần phong quân đoàn hai là Phùng Tứ, Phùng Huyền, Thượng Cát. Quân đoàn ba là Đào Nương. Các tướng soái quân đoàn ba đã từng dự trận Nam-hải. Còn quân đoàn hai chỉ mới dự trận rút lui Quế-lâm mà thôi. 
Các tướng sĩ lục tục lên đường. Trưng Đế, Trưng Vương được Đỗ Năng-Tế, Tạ Thị-Cẩn, Quách A... hộ tống đến bộ chỉ huy của Trần Quốc đóng trên bờ phía Nam Lãng-bạc. 
Công chúa Gia-hưng Trần Quốc tiếp giá vào soái thuyền. Trưng Vương nhìn hạm đội Lĩnh-Nam san sát trên mặt hồ, hàng lối ngay thẳng. Tướng sĩ hùng tráng, kỷ luật, lòng ngụt lên ngọn lửa tự hào: 
– Mới hôm nào đây Trần Quốc từ Thiên-trường theo Đào Kỳ, Phương-Dung về Luy-lâu dự đại hội, còn là một cô bé ngỗ nghịch. Thời gian qua, tình thế đất nước khó khăn, kinh nghiệm chiến trường tạo cho nàng thành Đô-đốc tài ba lỗi lạc. Hạm đội Lĩnh-Nam thế này, hèn gì hôm trước nàng chẳng giết chết Đại Đô-đốc Đoàn Chí của Hán, đánh phá suốt bờ biển Nam-hải, còn thuận thế định... đánh về Lạc-dương, diệt triều Hán. 
Trưng Đế hỏi Công chúa Gia-hưng Trần Quốc: 
– Em định nghênh chiến thế nào? Lực lượng của em có bao nhiêu? 
Bà tâu: 
– Em hiện có năm vạn thủy quân, chia làm năm đạo. Tiền đạo, Tả đạo, Hữu đạo, Trung đạo và Hậu đạo. Mỗi đạo có hai mươi chiến thuyền lớn. năm mươi chiến thuyền trung và trăm chiến thuyền nhỏ. Chiến thuyền lớn có ba trăm thủy thủ. Chiến thuyền trung có trăm thủy thủ và chiến thuyền nhỏ có năm mươi thủy thủ. Vũ khí chiến đấu chính trên mặt nước là cung tên. Vì vậy trên chiến thuyền lớn có ba dàn Nỏ thần. Chiến thuyền trung có hai dàn. Còn chiến thuyền nhỏ chỉ có cung tên bắn bằng tay. 
Trưng Vương hỏi: 
– Em định kế sách phá Mã Viện ra sao? 
– Mã Viện có bốn anh em. Võ công chúng ngang với Phong-châu song quái. Tài dùng binh không kém gì Viện. Viện để Mã Dư ở nhà giữ hậu quân, tiếp ứng. Mã Anh, Mã Huống đánh ở phía Đông, Tây hồ Lãng-bạc. Vì vậy trên mặt hồ chắc chỉ có mình y. Chiến thuyền Hán đều thuộc loại đi biển, lớn kềnh càng. Bây giờ là tháng mười một, nước hồ đang cạn. Em dẫn quân đánh với y, rồi cho các chiến thuyền lớn rút về Nam. Còn chiến thuyền, trung, nhỏ vừa đánh vừa rút vào khu lầy lội, nhử cho chúng đuổi theo. Khi chiến thuyền của Hán vào khu nước cạn, sẽ mắc lầy. Bấy giờ em sẽ dùng chiến thuyền lớn đánh bọc hậu. Các chiến thuyền trung, nhỏ dùng cỏ khô đốt chúng. Còn bọn nào chạy, em dùng Giao-long binh đục thuyền. Có điều em thưa trước, em mang Hoàng Thượng ra để dụ cho chúng đuổi theo vào khu hồ cạn, đồng lầy. 
Bà ngưng lại một lát, tiếp: 
– Sau khi phá Mã Viện, em phải đem chiến thuyền ra biển Nam-hải đánh với Lưu Long. Vì thủy quân Lưu trên biển rất mạnh. Điều em lo lắng là sau khi em đánh tan đội thủy quân của Viện. Y chỉ còn bộ, kị. Y sẽ dùng số đông người tràn ngập Mê-linh. 
Trưng Đế hài lòng. Ngài ban chỉ dụ: 
– Ta dự chiến với em thì ta là tướng, em là soái. Ta chờ lệnh em. 
Công chúa Gia-Hưng cầm ấn kiếm để lên trước trướng. Bà truyền lệnh: 
– Tả đạo do lão sư Đỗ Năng-Tế thống lĩnh. Phó thống lĩnh là sư huynh Cao Cảnh-Kiệt. Trợ chiến có sư Thần phong hai với ba Quận chúa Phùng Tứ, Phùng Huyền, Thượng Cát. 
– Hữu đạo do lão sư Tạ Thị-Cẩn thống lĩnh. Phó thống lĩnh là sư huynh Cao Cảnh-Kiệt. Trợ chiến có sư Thần phong ba với Công chúa Đào Nương. 
– Tiền quân, đích thân tôi thống lĩnh. Phó thống lĩnh là sư huynh Cao Cảnh-Hùng. Trợ chiến có sư Thần ưng ba của Trâu Xanh Trần Ngọc-Tích. Sư muội Quách A đi trên đạo Tiền quân, phối hợp Ưng, Phong và Nỏ thần. 
– Đạo Trung quân do sư tỷ Trưng Nhị thống lĩnh. Hộ tống Hoàng Thượng có các sư huynh Cao Cảnh-Khê, Cao Cảnh-Nham, sư Thần ưng hai của Từ-Giong. 
– Đạo Hậu quân do sư bá Cao Cảnh-Sơn thống lĩnh. Phó thống lĩnh là sư huynh Lê Doãn, chỉ huy đội Giao-long binh. 
Đến đó có tiếng Thần ưng ré lên trên không. Trâu Xanh vội chạy ra ngoài khoang thuyền. Một lát nó cầm vào một bức thư trình lên Trưng Đế: 
– Tâu Hoàng Thượng, thư của Công chúa Nguyệt-Đức. 
Trưng Đế tiếp lấy đọc qua. Ngài mỉm cười: 
– Vương Bá cùng Thượng-dung lục hữu đem quân vượt biên đánh xuống. Công chúa Phùng Vĩnh-Hoa cho quân phục trên các ghềnh núi, lăn đá, bắn tên, làm tướng sĩ bị thương, chết rất nhiều. Chúng phải lui lại. Hôm sau chúng đi men theo rừng lau sậy ven sông nhập Việt. Vĩnh-Hoa dùng hỏa công đốt chúng. Hơn ba vạn quân Hán bị thiêu. Chúng phải rút trở về. 
Công chúa Gia-hưng Trần Quốc tâu với Trưng Đế: 
– Em đã cho tướng sĩ chuẩn bị. Xin chị ra hiểu thị, khích lệ họ, trước khi xuất quân. 
Bà ra ngoài trước, đứng trên đài chỉ huy, cầm cờ xanh phất. Hơn trăm cái trống đồng cùng đánh lên. Ban nhạc cử bản Động-đình ca. Nhạc chấm dứt. Bà nói lớn: 
– Tướng sĩ chuẩn bị tiếp giá Hoàng-Thượng. 
Trưng Đế cùng Trưng Vương từ trong khoang thuyền ra. Tướng sĩ hô vạn tuế, vạn tuế rung động mặt hồ. Trên trời Thần ưng xếp hàng từng toán trăm bay lượn vòng tròn. Ngài đứng lên nóc soái thuyền hướng vào tướng sĩ, hiệu triệu. Đại ý ngài tóm lược dã tâm của Quang-Vũ, và cái thế một mất một còn của Lĩnh-Nam. Cuối cùng ngài kêu gọi tướng sĩ phải quyết tâm thắng trận Lãng-bạc: 
… Trưng Trắc, Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương-Dung chết đi, cũng không đáng kể. Dù các tướng sĩ có mặt hôm nay chết đi cũng không đáng kể. Vì chúng ta chết, mà Lĩnh-Nam vẫn còn. Điều quan trọng nhất, phải đánh tan giặc, bảo vệ đất nước. Lĩnh-Nam mất, mất tất cả. Lĩnh-Nam còn, còn tất cả. 
Tướng sĩ hoan hô rung động trời đất. 
Đến đó, tiếng Thần-ưng reo trên không. Quách A nhìn lên trời nói: 
– Hải quân Mã Viện đã từ biển vào tới Bắc hồ rồi! Chúng đang hướng xuống Nam. Chuẩn bị tác chiến! 
Công chúa Gia-hưng Trần Quốc, cầm cờ phất lên. Trống đồng đánh vang dội. Tướng sĩ reo hò. Cờ phất nhịp nhàng. Tiếng mái chèo khua trên mặt nước, lẫn với tiếng Thần-ưng. Chỉ lát sau, các chiến thuyền đã nhổ neo, dàn trận, từ từ ra giữa hồ. Cánh trái Đỗ Năng-Tế, cánh phải Tạ Thị-Cẩn, ở giữa Công chúa Gia-Hưng. Thuyền dương buồm, cánh buồm căng, no đầy gió thổi phồng lên. Đoàn chiến thuyền phăng phăng vượt sóng ra khơi. 
Quách A, Trâu Xanh đứng trên chót cột cột buồm, theo dõi đoàn Thần ưng. Một lát, mờ mờ xa, đoàn chiến thuyền Hán dần dần xuất hiện. Quách A phất cờ báo hiệu. Công chúa Gia-Hưng cầm tù và rúc lên một hồi. Năm đoàn chiến thuyền từ từ chậm lại, dàn hàng. 
Đoàn chiến thuyền Hán vẫn hùng hổ đi tới. Đội hình của thủy quân Hán cũng giống đội hình Lĩnh-Nam, có năm đoàn. Trước ba, sau hai. Mã Viện đứng đốc chiến trên soái thuyền trung ương. Cao Cảnh-Hùng bàn: 
– Mã Viện bị thua nhiều trận, y cẩn thận hơn. Kìa trên các chiến thuyền đều có phên tre, dắt rơm, tẩm bùn, vì sợ Nỏ thần. Trên sàn thuyền có mấy thùng đựng cỏ, sẵn sàng đốt lên chống Thần phong. Cứ sau mỗi phên chống Nỏ thần lại có một toán cung thủ phòng Thần ưng. 
Trần Quốc mỉm cười: 
– Mã đề phòng, tức là y đã bị ta dồn vào thế bị động rồi. Trận này Thần ưng, Thần phong không phải lực lượng chính như các trận trước. 
Cao Cảnh-Hùng thở dài: 
– Hôm nay chúng ta giết giặc sướng tay. Song có điều chúng có năm vạn thủy, chở bốn vạn bộ. Cộng chín vạn. Trong khi mình chỉ có năm vạn. Dù thắng chúng mình cũng mất một hai vạn. Chúng mất chín vạn này, sẽ có chín vạn khác. Còn mình thì... 
Trần Quốc bảo Cao Cảnh-Hùng: 
– Sư huynh nhớ tìm cách bắn Mã Viện, làm cho y vướng vít, khó khăn ra lệnh. Trong khi tôi cứ đổi thế trận hoài. Như vậy mới dễ lừa y. 
Bỗng có Thần ưng hướng từ Long-biên bay lại. Quách A gọi xuống. Nàng lấy thư trong ống tre dưới chân, kêu lên: 
– Tấu chương của Tể Tướng Phương-Dung. 
Bà đệ trình lên Trưng Đế. Ngài cầm đọc qua. Mặt hiện lên nét vui mừng không tả được. Ngài nói với tướng sĩ: 
– Bắc-bình vương đại thắng. Lưu Long tiến quân làm năm cánh. Cánh thứ nhất đích thân y chỉ huy, dùng chiến thuyền tiến vào cửa Thần-phù, bị Công chúa Tử-Vân dùng hư binh lừa vào sông lạch nhỏ. Thuyền lớn mắc cạn, rồi dùng thuyền nhỏ tấn công. Phân nửa chiến thuyền Lưu Long bị đốt cháy ở cửa Thần-phù. 
Ngài ngưng lại đọc tiếp: 
– Cánh thứ nhì do Chinh-Tây đại tướng quân Chu Long đem quân đánh vào vùng cửa biển Đông-Triều, tiến về Long-biên, bị Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh phục binh đánh tan. Chu Long lui về bờ biển Nam-hải. Đạo thứ ba do Chinh-Nam đại tướng quân Trịnh Sư, từ biển đổ vào vùng Lục-hải, tiến về Hoa-lư. Bị Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa lừa vào rừng, dùng hỏa công đốt. Quân Trịnh Sư còn phân nửa, vội rút về mặt Thiên-trường. Đạo thứ tư do Uy viễn đại tướng quân Ngô Anh đổ bộ vào Thiên-trường. Bị Hoàng Thiều-Hoa, Lê Thị-Lan, Lê Anh-Tuấn đánh thua, phải rút ra biển. Đạo thứ năm do Vương Hùng tiến về Long-biên, bị Đào Hiển-Hiệu, Đào Quí-Minh đánh lui. Hiện Bắc-bình vương đang đuổi theo giặc. Tất cả quân của Lưu Long đóng ở Đông-Triều, dàn trận chống với Bắc-bình vương. 
Đến đó ngài ngưng lại, vì chiến thuyền Hán đã đến gần. 
Chiến thuyền Hán cho đốt cỏ, khói bốc lên nghi ngút. Quách A biết khó mà dùng thần phong. Nàng cầm cờ phất. Các dàn Nỏ thần loại lớn từ chiến thuyền Lĩnh-Nam bắt đầu bắn sang chiến thuyền Hán. Loại Đại nỏ bắn những mũi tên to bằng bắp tay, tầm bắn rất xa. Song mỗi lần một dàn chỉ bắn được có mười mũi. Cứ mỗi mũi tên trúng giữa chiến thuyền Hán, lại làm cho hơn chục binh tướng chết. Tác dụng của Đại-nỏ không nhiều. Song nó là mối đe dọa cho thủy quân Hán. 
Chiến thuyền Mã Viện tiến gần đến chiến thuyền Lĩnh-Nam. Cao Cảnh-Hùng đưa mắt ra hiệu. Trâu Xanh rúc một hồi tù và. Đoàn Thần ưng lao vút xuống tấn công Mã Viện. Mã rút kiếm quay tít trên đầu đề phòng. Trống trận hai bên đánh vang trời. Cao Cảnh-Hùng chỉ đợi có thế. Chàng buông tên, tên xé gió bay tới. Tiếng trống trận, tiếng ưng kêu, làm Mã Viện không nghe thấy tiếng tên rú. Khi y nghe thấy, thì tên đã đến nơi. Y nhanh mắt gạt được hai mũi. Tên, kiếm chạm nhau toé lửa, cánh tay y tê chồn. Một mũi tên thứ ba hướng ngực y bay tới. Y kêu lớn lên: 
– Mạng ta cùng rồi. 
Một vệ sĩ đứng cạnh vội đưa mộc lên đỡ tên cho y. Mũi tên xuyên qua mộc, dư lực đâm vào miếng hộ tâm kính của Viện đến bộp một tiếng. Mặt Viện tái mét. Trong khi đó Cao Cảnh-Hùng đã bắn đến loạt thứ nhì. Sáu vệ sĩ của Viện đều bị trúng tên chết trên soái thuyền. Mã Viện đã quen với lối bắn tên của phái Hoa-lư. Y lui lại phía sau lá chắn. Hai bên, có hai vệ sĩ cầm mộc che cho y. Cao Cảnh-Hùng cầm tên chờ đợi, hễ thấy Mã Viện sơ hở là bắn. 
Trần Quốc cầm cờ đỏ phất. Các chiến thuyền Lĩnh-Nam đồng loạt tiến lên. Hai bên giáp trận. Tướng sĩ không còn dùng cung tên nữa, mà dùng gươm đao. Đứng trên cột buồm Quách A bảo Trâu Xanh: 
– Ê! Em cho Thần ưng xuống đi. 
Trâu Xanh dạ một tiếng. Nó hú lên vang dội. Thần ưng lao xuống giữa trận chiến đôi bên. Chúng tấn công quân Hán. 
Mã Viện thấy phía sau đội hình Lĩnh-Nam, cờ xí rợp trời, đích thân Hoàng Đế thúc trống. Y nổi giận truyền lệnh: 
– Cho quân tiến lên. Bằng mọi giá, phải bắt được Hoàng Đế Lĩnh-Nam. 
Y vừa truyền lệnh thì, nghe tiếng quân la hoảng. Y nhìn sang bên phải: Một lão tướng Lĩnh-Nam, râu tóc bạc như cước, mặc quần áo theo lối dân phu. Lão vừa phóng một chưởng, cây cột buồm soái thuyền cánh phải Hán bị gãy. Lão như thiên lôi, đi đến đâu, quân Hán bị đánh bay xuống hồ. Mã Viện kinh hãi hỏi: 
– Lão kia là ai? 
Quân sĩ đáp: 
– Lão là sư phụ của Hoàng Đế Lĩnh-Nam tên Đỗ Năng-Tế. 
Đỗ Năng-Tế oai phong lẫm liệt. Ông đi trước, mỗi chưởng đánh ra, hơn chục quân Hán nát thây. Phút chốc ông cướp được hơn hai mươi chiến thuyền. Cánh phải của Mã Viện bắt đầu rối loạn. Song chiến thuyền này bị đánh cướp, một loạt chiến thuyền khác lên thay thế. 
Đến lượt cánh trái quân Hán náo loạn. Mã Viện nhìn về phía đó: Một phụ nữ mình hạc xương mai, tóc trắng như cước, đang tả xung, hữu đột vào trận Hán. Nữ tướng đi đến đâu, quân Hán bị đánh dạt tới đó. Phút chốc gần mười chiến thuyền bị tràn ngập. Mã Viện vội truyền lệnh cho hậu đội đánh vào phía phải. Một tham tướng cho Mã biết: 
– Vị nữ tướng tên Tạ Thị-Cẩn, sư mẫu của Trưng Trắc. 
Mã Viện than: 
– Lĩnh-Nam nhiều anh tài như vậy, không trách Thiên Tử đến mất ăn mất ngủ với chúng. Ta chỉ có thể dùng quân đông bao vây chúng mà thôi. 
Mã Viện cầm cờ chỉ về phía Đỗ Năng-Tế, Tạ Thị-Cẩn. Một đội Đoạn đầu quân xung tới. Chúng dùng lá chắn, thương dài bao vây hai người. Hai người vung chưởng đánh bay được năm đội. Đến đội thứ sáu chúng chia làm hai. Một đội nằm xuống sàn thuyền, một đội đâm vào người. Hai lão tướng vọt người lên cao. Lập tức từ phía sau, hai đội quân cầm ống thụt, thụt phấn trắng lên trời. Hai vị lão sư biết sự chẳng lành, vội nín thở, đá gió một cái, đáp xuống mặt hồ. Quân Hán hướng tên bắn theo. Hai vị dùng kiếm gạt đi, rồi lăn xuống nước. 
Bỗng những tiếng tên rú lên xé gió. Cao Cảnh-Anh, Hùng, Kiệt cùng buông tên bắn vào đội Đoạn đầu quân cứu hai lão sư. Chỉ một loạt tên, ba đội Đoạn đầu quân bị giết sạch. 
Thình lình Ầm, ầm, ầm, ba quái vật từ đáy hồ vọt lên cạnh Mã Viện. Cả ba cùng dùng dao đâm y. Mã Viện kinh hoàng vọt người lên cao. Các vệ sĩ xúm vào tấn công ba quái vật. Bấy giờ họ mới nhìn thấy rõ, đó là ba người. Chính thị Nguyễn Nhân, Nghĩa, Trí. Ba người thấy giết Mã Viện không thành. Mỗi người chụp cổ một tướng Hán, nhảy ùm xuống hồ, lặn mất. 
Quân Hán kinh hoàng, la hoảng. 
Thình lình phía hậu quân Hán, quân sĩ rối loạn. Vì hơn trăm quái vật từ dưới nước vọt lên. Chém giết chớp nhoáng, làm hơn hai trăm người chết, rồi mỗi quái vật lại xớt một người nhảy xuống nước. 
Trưng Hoàng-đế đứng trên nóc soái thuyền, nhìn đội Giao-long binh tung hoành. Ngài khoan khoái trong lòng, cầm dùi trống thúc liên hồi. 
Đội Giao-long binh cứ thế tiếp tục. Khi phải, khi trái, lúc sau, lúc trước, từng người từ dưới nước vọt lên, xớt một tướng, quân Hán đem xuống đáy hồ mất tích. 
Trong khi Đỗ Năng-Tế, Tạ Thị-Cẩn cứ như Thiên lôi, thình lình từ dưới nước vọt lên. Chưởng phóng ra, hơn hai mươi người mất mạng. Quân Hán đông gấp đôi quân Việt, mà bị đội Giao-long binh làm cho lúng túng, không tiến lên được. 
Đánh nhau đến xế trưa. 
Trần Quốc cầm tù và hú lên một hồi dài. Các chiến thuyền lớn của Lĩnh-Nam từ từ lui lại. Chỉ có chiến thuyền bậc trung với nhỏ tham chiến. Mã Viện còn chưa rõ ý định của Lĩnh-Nam, thì đoàn chiến thuyền nhỏ, trung cũng rút đi. Các tướng hỏi Mã Viện: 
– Lĩnh-Nam rút lui. Chiến thuyền lớn rút một ngả, chiến thuyền nhỏ rút một ngả. Phải đuổi theo đội nào? 
Mã Viện quyết định: 
– Đuổi theo chiến thuyền của Trưng Trắc, quyết bắt Hoàng Đế Lĩnh-Nam. 
Hạm đội Hán dương buồm đuổi theo. Trong khi đó soái thuyền của Trưng Đế vẫn chậm chạp, khi quẹo trái, khi quẹo phải, rồi dừng lại. Trưng Đế, cùng các tướng Lĩnh-Nam ngồi trên mặt chiến thuyền ăn tiệc, nghe nhạc. Tiếng nhã nhạc vang lừng mặt hồ. Mã Viện đuổi gần tới nơi. Y ngơ ngác: 
– Không lẽ Trưng Trắc tự tử? Y thị chỉ có hai trăm chiến thuyền lớn, bất quá sáu ngàn quân. Trong khi ta có đến ba trăm chiến thuyền lớn hơn. Thế mà y thị bầy trò ngồi ăn tiệc, nghe nhạc. Có lẽ y thị muốn dùng nghi binh chăng? Xưa nay chỉ có thể là kế nghi binh trên cạn, chứ làm gì có nghi binh trên mặt nước? 
Y thúc các chiến thuyền đuổi theo. Chỉ còn cách chiến thuyền Lĩnh-Nam hơn dặm. Các chiến thuyền Hán đi vào vùng nước cạn, bùn lầy. Thuyền không chạy được nữa. 
Trước trận đánh hơn tháng. Công chúa Gia-Hưng Trần Quốc thân lấy thuyền đi quan sát địa thế. Bà tìm thấy khu vực phía Nam hồ Lãng-bạc có một khu rất nông, bên dưới toàn bùn lầy. Chỉ thuyền nhỏ, thuyền trung đi được. Thuyền lớn đi vào là mắc cạn ngay. Bà chú ý tìm kỹ, thấy trong đám sình lầy đó, có những nguồn nước, thuyền lớn đi được. Bà mới nảy ra ý dùng khu này làm bẫy. Bà cho chiến thuyền Lĩnh-Nam chạy vào. Cho nên các thuyền trưởng Lĩnh-Nam biết tất rõ nguồn nước sâu trong vùng cạn, rồi lái thuyền đi vào. Khi phải, khi trái, khi khuất khúc để dụ địch. Còn thuyền trưởng Hán không biết, cứ cho thuyền chạy theo. Khi đã vào giữa khúc sình lầy, thuyền mắc cạn, tiến không được, mà lui cũng không xong. 
Mã Viện kinh hoàng. Nhưng y thấy các chiến thuyền lớn Lĩnh-Nam quẹo phải, quẹo trái, bỏ chạy chứ không đánh trở lại y cũng yên tâm. Phút chốc các chiến thuyền lớn Lĩnh-Nam mất hút về phía Nam. 
Mã Viện ra lệnh cho thủy thủ kéo buồm, định dùng sức gió, đưa thuyền rời khu đầm lầy, nhưng vô hiệu. 
Được một lúc, từ các lùm cây rậm tạp, hàng hàng lớp lớp chiến thuyền trung, nhỏ của Lĩnh-Nam từ đâu chèo ra. Trong thúc, quân reo. Trần Quốc đứng trên thuyền Lĩnh-Nam gọi sang: 
– Mã Viện, ngươi trúng kế của ta rồi! 
Quân Việt dùng cung tên, Nỏ thần bắn sang, Chiến thuyền Hán mắc cạn, quân sĩ hoảng hốt, họ chỉ còn biết dùng mộc che thân. 
Từ bốn phía, Thần nỏ Âu-Lạc tam hùng, cùng Cao Cảnh-Khê, Cao Cảnh-Nham đứng trên các chiến thuyền trung bắn sang. Mỗi lần buông tên, hàng chục binh tướng Hán tử thương. 
Mã Viện truyền các chiến thuyền, cố gắng đẩy, chèo, kết lại với nhau thành một bè thực lớn, rồi cho quân sĩ đứng ở ven thuyền cầm mộc che, như một bức thành. Ý định của Mã là chờ hai đạo quân bộ đánh xuống phía Nam hồ thành công, sẽ đến cứu viện. 
Trời dần dần về chiều, thấy quân Hán mệt mỏi, chết vì tên đã nhiều. Trưng Vương sang thuyền của Công chúa Gia-Hưng. Bà nói: 
– Em sắp nướng chả Mã Viện chưa? 
Công chúa Gia-Hưng cười: 
– Chị chờ một chút. 
Bà cầm cờ trắng phất lên. Cao Cảnh-Sơn cầm bốn mũi tên quấn vải, nhúng vào dầu, tẩm lửa. Ông hướng thuyền Mã Viện bắn tới. Bốn mũi tên của ông có nhiệm vụ chỉ điểm mục tiêu. Lập tức các chiến thuyền Lĩnh-Nam cho Thần nỏ hướng bốn mục tiêu bắn Đại Nỏ sang. Mũi tên to bằng cổ tay. Mỗi mũi tên mang một bó cỏ tẩm dầu rất lớn. Tên bay chậm. Khi các Đại Nỏ sắp tới thuyền Hán thì Cao Cảnh-Sơn, Cao Cảnh-Khê, Cao Cảnh-Nham, Thần-tiễn Âu Lạc tam hùng cùng châm lửa vào tên bắn theo. Tên nhỏ tẩm dầu, châm lửa đi sau... đuổi kịp các mũi tên lớn chở cỏ. Tên nhỏ ghim vào cỏ. Mũi tên lớn biến thành một khối lửa, rơi xuống thuyền Hán. Tuyệt ở chỗ, họ chỉ có sáu người, bắn một loạt, mỗi người buông tám mũi tên, vào tám mục tiêu khác nhau, khiến cho bốn mươi tám khối lửa rơi xuống. 
Mã Viện kinh hoàng, hô quân chữa lửa, Thần ưng từ trên trời đánh xuống. Nỏ liên châu bắn sang. 
Đại Nỏ tiếp tục bắn các mũi tên lớn chở cỏ, anh hùng phái Hoa-lư bắn tên, châm lửa. Phút chốc các chiến thuyền Hán biến một thành biển lửa. 
Giữa lúc đó, một trận gió lớn thổi đến, lửa theo gió bốc lên ngùn ngụt. Quân Hán ôm nhau chết cháy trên chiến thuyền. Phần còn lại, kinh sợ, nhảy xuống hồ, bị tên Lĩnh-Nam bắn chết. 
Đỗ Năng-Tế đứng cạnh Trưng Đế than: 
– Vì sự nghiệp Lĩnh-Nam. Hôm nay Công chúa Gia-Hưng đốt cháy, bắn chết năm vạn thủy quân, bốn vạn bộ binh Hán. Oán khí đầy trời. Thực đáng thương cho họ. Người Hán có kẻ tốt người xấu. Chỉ vì Quang-Vũ tham vọng, đẩy họ vào chỗ chết. 
Công chúa Gia-Hưng kính cẩn nói: 
– Đức Thượng Đế hiếu sinh, tất hiểu rằng, Lĩnh-Nam ít người. Cháu không dùng hỏa công không xong. Nhược bằng chính diện giao chiến, Hán chết chín vạn, Lĩnh-Nam cũng phải chết bốn vạn. 
Bỗng bà quăng cây cờ xuống sàn thuyền than: 
– Than ơi! Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên. 
Trưng Đế cùng các anh hùng nhìn về phía tay bà chỉ: Thì ra gió thổi lửa bốc dậy đốt quân Hán. Gió cũng thổi vào cánh buồm soái thuyền Mã Viện, khiến soái thuyền, cùng một số chiến thuyền thoát khỏi vùng lầy lội. Chúng rời xa biển lửa. 
Đỗ Năng-Tế, Tạ Thị-Cẩn nhảy sang chiến thuyền nhỏ Lĩnh-Nam. Hai ông bà thúc thủy thủ chèo đuổi theo. Đuổi đến giữa hồ, thì từ phía Bắc, hơn trăm chiến thuyền lớn Hán đến cứu viện. Quân Lĩnh-Nam ít. Hai ông bà phải lui trở về. Đô-đốc Lĩnh-Nam, Công chúa Gia-Hưng Trần Quốc truyền lệnh thu binh. Hạm đội Lĩnh-Nam kéo về phía Nam hồ. 
Trưng Hoàng Đế, Trưng Vương, Công chúa Gia-Hưng, từ soái thuyền đi xuống. Binh tướng Lĩnh-Nam hô lớn Lĩnh-Nam vạn tuế" vang dội. Điểm lại trận đánh, Lĩnh-Nam mất gần một vạn người. Tướng soái vô sự. Bên Hán, trọn chín vạn quân bị đốt cháy trên hồ. 
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ. 
Trận đánh Lãng-bạc (sau gọi là Hồ Tây) xảy ra ngày 1 tháng giêng năm Quí Mão (43 sau Tây Lịch), nhằm niên hiệu Trưng Đế thứ ba. Bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Kiến-Vũ thứ mười tám. Hiện nay tại tỉnh Hà-bắc, xã Đa-mai, Chản, Thọ-xương gần thị xã Bắc-giang, Ngăm-mặc huyện Gia-lương, và rất nhiêầu nơi thuộc Quế-Võ, Yên-Dũng, Thuận-Thành còn nhiều bãi sông tên là Bãi xác Hán hoặc Mả giặc Mã Viện. Đó là mồ chôn xác năm vạn quân thủy, bốn vạn quân bộ Hán, sau trận Lãng-bạc. 
Bản Ngọc-phổ tại đền thờ Giao-Long tiên nữ vùng cửa biển Hổ-Môn, thuộc tỉnh Quảng-đông ghi như sau: 
Niên hiệu Kiến-Vũ thứ mười tám, tiết Đông-chí. Phục-ba tướng quân Mã Viện đem ba mươi vạn quân đánh nhau với Vua Bà. Giao-long Tiên nữ cầm quân ngăn đón ở hồ Lãng-bạc. Mã Viện đấu phép với Giao-long tiên nữ bị thua. Lửa đốt cháy hết râu tóc. Mười vạn quân bị lửa Tam Muội của Giao-long tiên nữ đốt cháy thành than. Chiến thuyền, xác chết trôi lềnh bềnh, lấp kín cả mặt hồ. Oán khí bốc lên tới trời. 
Dù đây là truyện hoang đường, song cũng chứng minh trận Lãng-bạc kinh hoàng như thế nào? Từ huyền thoại đó, đến những địa danh Bãi xác Hán, Mả giặc Mã Viện hàng trăm gò đống khác nhau. Cho thấy trận đánh kinh hồn táng đởm. Các sử gia Việt-Nam không nghiên cứu kỹ, chép sơ lược rằng Hai bà đánh trận Lãng-bạc bị thua rút về Cẩm-khê. Thực là vô lương tâm. 
Trưng Hoàng-đế lên bờ, vừa lúc đó có tin báo: Trận đánh phía Tây Lãng-bạc diễn ra khủng khiếp. Đặng Thi-Kế tử trận. Nguyễn Thành-Công bị thương. Bên Hán Mã Huống bị giết, Phùng Đức bị thương. Quân Hán bị tiêu diệt trọn bảy vạn, quân Việt chỉ mất hai vạn. Lê Đạo-Sinh thình lình xuất hiện với mấy chục dàn Nỏ thần. Khiến quân Việt bị thua. 
Đỗ Năng-Tế động lòng môn hộ. Ông nói với Trưng Đế: 
– Hoàng Thượng cho phép chúng tôi trợ chiến với Thành-Công. 
 Đặng Thi-Kế là cha đẻ ra Đặng Thi-Sách. Nguyễn Thành-Công là sư thúc Trưng Đế. Hai vị tuy địa vị, võ công cao. Song tinh thần võ đạo rất cao. Hai ông không hề ỷ địa vị lớn như thường tình. Trái lại, hai ông luôn tỏ ra tuân phục Hoàng Đế, để nêu gương. Bất cứ việc gì khó khăn, hai ông đều tình nguyện đi đầu. 
Trưng Đế chỉ dụ: 
– Sư phụ, sư mẫu đi cứu sư thúc. Đệ tử không dám cản. Song hiện Bắc-bình vương phá tan hai mươi vạn quân Lưu Long. Chu sư thúc phá tan quân Sầm Anh, giết Ma Anh. Gia-Hưng đánh tan thủy quân Mã Viện. Sư phụ lên, tất quân Phùng Đức tan. Xin sư phụ, sư mẫu trở về ngay, cùng với đệ tử giữ Mê-linh. 
Đỗ Năng-Tế cùng Tạ Thị-Cẩn vọt mình lên ngựa. Hai ông bà hướng phía Tây Lãng-bạc phi như bay. 
... 
Nguyễn Thành-Công, Đặng Thi-Kế đều là sư huynh Trần Năng, Hùng Bảo. Hai ông được lệnh dẫn đạo binh Nhật-nam của Hùng Bảo, với Quân đoàn ba Tây-vu, chặn đánh đạo quân Hán do Phùng Đức, Mã Huống chỉ huy. Phía Lĩnh-Nam chỉ khoảng hơn năm vạn người. Trong khi đạo quân của Mã Huống tới tám vạn. 
Nguyễn Thành-Công bàn: 
– Quân Hán tinh nhuệ như quân Việt. Chúng lại được Quang-Vũ hứa cho tất cả những gì cướp được. Trong khi chúng đông gấp đôi chúng ta. Vậy bây giờ phải đánh thế nào? 
Hùng Bảo nói: 
– Quân Hán bị trúng kế Lĩnh-Nam quá nhiều. Bây giờ dùng kế gì chúng cũng biết hết. Hơn nữa Mã Huống dùng binh rất giỏi. Chúng ta đã biết chỉ dụ của Quang-Vũ, bắt chúng tiến binh gấp. Vì vậy chúng ta chỉ nên lập đồn chặn đường, lợi dụng địa thế, một người thủ, mười người khó đánh. 
Trần Năng đồng ý: 
– Từ Lãng-bạc tới Nam qua phía Tây hồ, có đồi Yên-sơn, rừng Yên-lãng. Chúng ta lập ra hai đồn. Một đồn trên đồi. Một đồn ven rừng, làm thế ỷ dốc. Chúng ta giao chiến một trận, rồi rút vào đồn. Mã Huống ắt đem quân bao vây. Chúng ta đợi đêm đến, dùng lực lượng Tây-vu cướp trại chúng. 
Nguyễn Thành-Công đồng ý. Ông nói: 
– Các chúa tướng Tây-vu cần phải cẩn thận, chớ có lại gần Phùng Đức. Võ công y cao thâm không biết đâu mà lường. 
Ông hỏi Sún Lùn: 
– Đào Tam-Gia, với đạo quân tám vạn người. Tất chúng mang theo nhiều lương thảo. Nếu cướp trại, đốt hết lương. Cháu cần bao nhiêu binh? 
Sún Lùn lắc đầu: 
– Nếu chiếm đồn, bắt quân, thì cần binh tướng. Còn đốt trại, giết giặc, chỉ cần một sư Thần hầu cũng đủ. 
Nguyễn Thành-Công hài lòng. Ông ra lệnh: 
– Đào Tam-Gia dẫn sư Thần hầu, Thần ngao, Thần hổ, ẩn ở rừng Yên-lâm. Đợi cho Mã Huống, Phùng Đức đi qua, rồi lập tức kéo ra phục trên đường, bắt giết tất cả bọn Tế tác, bọn Lưu tinh đưa tin, cùng chặn đánh quân tiếp viện. Cháu nhớ: Chúng ta giao chiến phía trước. Nếu cháu để Hán tiếp viện cho Mã Huống đánh phía sau, tất chúng ta lâm nguy. 
Sún Lùn khảng khái: 
– Sư bá yên tâm. Trước đây sư bá Nguyễn Tam-Trinh đã cản hai đạo quân Hán trên hồ Quân-sơn, để sư tỷ Thiều-Hoa đại phá thủy quân Hán trên hồ Động-đình. Sư bá Tam-Trinh thà chịu chết, chứ không lui. Bây giờ cháu cũng xin hứa đầu Sún Lùn có thể rơi, chứ chân không lùi một bước. 
Nguyễn Thành-Công nói với Đặng Thi-Kế: 
– Sư huynh với sư muội Trần Năng lĩnh hai vạn quân, cùng sư Thần-long, Thần tượng lập đồn ở rừng Yên-lãng cản giặc. Nếu thấy lửa đốt lên trong trại Hán, là lúc Đào Tam-Gia đốt lương. Xin mở cửa trại, đánh ra. 
Ông nói với Hùng Bảo: 
– Sư đệ với ta dùng sư Thần-báo, lập đồn trên đồi Yên-sơn, chống với giặc. Chúng ta chỉ có hai vạn quân. Nếu Hán tập trung quân đánh Yên-lãng, ta đổ quân đánh vào sau lưng giặc. Ngược lại giặc vây Yên-sơn, thì Đặng sư huynh đổ quân ra cứu viện. 
Trước kia Đặng Thi-Kế làm chưởng môn phái Tản-viên. Võ công của ông chỉ thua có Trần Đại-Sinh, Lê Đạo-Sinh. Gần đây vì Trần Năng được Khất đại phu rồi Đào Kỳ, Tăng-Giả Nan-Đà liên tiếp truyền thụ võ công. Vì vậy võ công Trần Năng cao hơn ông một bậc. Tuy vậy dư oai ngày cũ vẫn còn. Trần Năng tuyệt đối kính trọng người sư huynh. Song bản tính vui vẻ hồn nhiên. Đến sư phụ, bà còn dám đùa. Vì vậy bà đùa với Đặng Thi-Kế: 
– Sư huynh Nguyễn Thành-Công sai sư huynh với em trấn thủ rừng Yên-lãng. Vậy ai sẽ làm chúa tướng? 
Đặng Thi-Kế cười: 
– Ta già rồi! Ta là sư huynh. Ta làm chúa tướng. 
Trần Năng không chịu: 
– Nếu nói già làm chúa tướng. Vậy sao để tiểu sư thúc Đào Kỳ làm Đại tư-mã, mà không để người khác? Để em làm chúa tướng. 
Trần Năng ít gần Đặng Thi-Kế, bà tưởng sư huynh sẽ cãi. Không ngờ ông chỉ cười: 
– Sư muội muốn làm chúa tướng thì làm. Ta chỉ cần làm một tên quân cũng đủ. Thôi, ta nghe lệnh sư muội. 
Trần Năng chưng hửng: 
– Tuyệt! Võ đạo sư huynh cao như vậy, xứng đáng làm chưởng môn. thôi em tuân lệnh sư huynh. 
Hai người cho quân lập đồn trong một ngày thì xong. Trần Năng hỏi Sư trưởng Thần-tượng Lê Hằng-Nghị: 
– Sư đệ! Ta nghe nói Quân đoàn ba Tây-vu trước đây đã dự trận Nam-hải, chiến thắng lẫy lừng, kinh nghiệm nhiều. Sư đệ nghĩ xem, dùng Thần-tượng tấn công tốt hay thủ tốt hơn? 
– Tấn công tốt hơn. Tượng xung vào trận, khiến địch kinh hoàng. Còn thủ thì dùng Thần-long hay hơn. 
Đặng Thi-Kế gật đầu: 
– Vậy thế này: Chúng ta dàn quân đón Mã Huống. Giao chiến một trận, ta rút chạy vào đồn. Mã Huống ắt đuổi theo, chúng ta dùng Thần-long phục trong rừng đớp chúng. Ít nhất cũng hơn vạn quân chết vị nọc rắn. 
Đồn vừa lập xong, thám mã báo: Quân Hán từ xa phi tới, bụi bốc lên mịt mờ. Toán tiền đạo thấy quân Lĩnh-Nam dàn trận, thì dừng lại. Viên tướng đi đầu chính là Phùng Đức. Y nhận được mặt Trần Năng. Phùng Đức cho quân dàn trận. Chốc lát quân bộ do Mã Huống thống lĩnh đã tới. Mã Huống cũng cho dàn trận. Y cùng Phùng Đức thủng thẳng tiến trước. Trần Năng nghiêng mình thi lễ: 
– Mã tướng quân, Phùng lão sư! Các vị vẫn mạnh khỏe chứ? Các vị đem quân đi đâu đấy? 
Mã Huống đáp lễ: 
– Tiểu tướng kính chào Y-tiên. Tiểu tướng tuân chỉ đem quân bình định đất Giao-chỉ. Y-tiên đã có công trị bệnh cho Thiên-tử, nhận sắc phong của Thiên-triều, cũng nên tránh đường cho tiểu tướng đi. 
Trần Năng cười: 
– Tôi là Y-tiên của triều Hán, song là đại tướng Lĩnh-Nam. Người Lĩnh-Nam chúng tôi, chỉ biết bảo vệ đất nước, chứ không biết đến chức tước của triều Hán. Mã tướng quân hẳn không quên hai trận đánh hồ Động-đình. Trận thứ nhất Lưu Long với Mã Viện bị Phật-Nguyệt giết ba mươi vạn quân. Trận thứ nhì sư nương của tôi là Thiều-Hoa, chôn mười lăm vạn quân Hán trên sông Trường-giang. Người lại dùng phục binh năm nơi, cuối cùng đánh trận Hành-sơn, khiến mười vạn quân Hán phơi thây. Tôi vốn quen thân với lão sư, cùng Mã tướng quân, nên khuyên các vị mau rút về Bắc. 
Bà nói với Phùng Đức: 
– Phùng lão sư! Trận Trường-giang, Thần-ưng làm lão sư mất một mắt, mặt đầy thẹo. Không lẽ như vậy không đủ cho lão sư tỉnh ngộ ư? 
Phùng Đức nổi lôi đình. Y không tự chủ được, vọt người lên cao, phóng chưởng hướng Trần Năng tấn công. 
Phạm Thị-Hồng Sư trưởng Thần-long. Từ sau trận Nam-hải, được phong Thục-Côn Công-chúa. Nàng đứng lược trận sau Trần Năng. Thấy chưởng của Phùng Đức mạnh quá. Nàng huýt sáo. Hơn mười nữ tướng thuộc sư Thần-long đứng sau cùng vung tay, mười con trăn vọt lên trời. Phùng Đức đang lơ lửng trên không. Y thấy trăn hướng mình, thì kinh hoàng, vội quay tròn tay một cái, đẩy trăn ra xa. Y lộn một vòng trên không, đáp xuống đất. 
Công chúa Thục-Côn vẫy tay nữa, một loạt trăn, rắn hướng y bay tới. Y kinh hoàng nhảy lùi về trận. Vừa lúc đó, con ngựa của y hí lên một tiếng thảm thiết, ngã vật xuống dãy đành đạch. 
Y chạy lại xem, thì hỡi ôi, hai con trăn quấn cổ ngựa, đớp mất hai mắt ngựa. Hơn mười con khác quấn khắp bốn chân ngựa. Ngựa đau quá, không dậy được. 
Phùng Đức rút kiếm, định chém trăn. Một tiếng còi rúc lên. Toàn bộ hơn hai mươi con trăn phóng mình về trận Lĩnh-Nam. 
Phùng Đức lùi lại, lấy ngựa của vệ sĩ, nhảy lên. Y hỏi Trần Năng: 
– Ta nghe võ công Lĩnh-Nam kinh người. Thì ra chỉ biết dùng rắn rết hại người, chứ thực sự chẳng có gì. 
Trần Năng chắp tay, nghiêng mình: 
– Thưa lão sư, Trung-nguyên dân đông gấp hai mươi lần Lĩnh-Nam. Nước tôi mới phục hồi, phải lo chống đỡ với Trung-nguyên liên miên. Vì vậy chúng tôi phải dùng thú vật thay người. Lão sư vì Trung-nguyên, tôi vì Lĩnh-Nam. Dù thịt nát xương tan, tôi cũng không từ nan. 
Phùng Đức phóng chưởng tấn công. Trần Năng vận Lĩnh-nam chỉ điểm vào giữa chưởng của y. Bộp, ngón tay Trần Năng ê ẩm. Còn tay Phùng Đức như bị con dao đâm vào. Y phát chưởng thứ nhì. Trần Năng vận Thiền-công, buông lỏng chân khí, xử dụng Phục-ngưu thần chưởng. 
Đấu được trên hai trăm hiệp, Phùng Đức vẫn không thắng được Trần Năng. Mã Huống đứng ngoài lược trận. Y kinh hãi: 
– Bọn Lĩnh-Nam thực lợi hại. Hồi đánh trận Xuyên-khẩu, võ công con nhỏ này thua ta xa. Không ngờ mấy năm qua, công lực y thị đã đến trình độ này. Ta e Sầm Bành, Phùng Dị có sống lại cũng thua. Song Trần Năng chỉ có hai vạn quân, trong khi ta tới bảy vạn người. Ta há sợ sao? 
Y cầm roi chỉ một cái. Quân Hán hàng hàng lớp lớp xông vào trận. Đặng Thi-Kế đánh ba tiếng trống. Trận Lĩnh-Nam mở ra, Lê Hằng-Nghị đứng trên bành voi chỉ huy. Hơn hai trăm thớt voi chia thành mười đội tiến lên. Cạnh các thớt voi, có các dàn Nỏ thần. Nỏ thần bắn từng loạt. Quân Hán đem lá chắn ra đỡ. Chúng núp sau lá chắn bắn vào voi. Gần mười thớt voi bị thương. Song voi đã lẫn vào trận Hán. 
Đánh nhau một lúc, Đặng Thi-Kế nổ ba tiếng pháo. Quân Lĩnh-Nam lui vào rừng. Phùng Đức phất cờ, xua quân đuổi theo. Đuổi được một quãng, không thấy bóng dáng quân Lĩnh-Nam đâu, rừng rậm âm u, tiếng quạ kêu, tiếng chim Bắt cô trói cột thảm thiết. 
Mã Huống nói với Phùng Đức: 
– Phía trước kia là đồn Lĩnh-Nam. Ắt Trần Năng chạy vào đó. Chúng ta chiếm đồn. 
Phùng Đức xua quân vây đồn. Quân Lĩnh-Nam từ trong đồn dùng Nỏ-thần loại lớn bắn ra. Cứ mỗi phát, một tướng Hán bị ngã ngựa. Mã Huống đốc quân xung vào, dùng lá chắn chống Nỏ thần. 
Bỗng quân Hán la hoảng, vì từ đâu đó, một đoàn voi xuất hiện, đánh vào hậu quân. Người đi đầu là Đặng Thi-Kế, cạnh đó một tướng trẻ tuổi khoảng mười chín, hai mươi. Huống đã gặp trong trận đánh Nam-hải, chính là Lê Hằng-Nghị, Sư trưởng Thần-tượng. 
Trần Năng đứng trong đồn, thấy quân Hán rối loạn. Bà cho mở cổng đồn, xuất quân đuổi theo. Mã Huống, Phùng Đức cho quân lùi lại, dựa lưng vào bờ hồ lập trận. Y kêu lớn: 
– Phía trước là giặc! Phía sau là hồ. Phải tử chiến. 
Trong khi đó Mã Huống cầm mũi tên tẩm dầu, châm lửa bắn lên trời. Trần Năng quen với lối điều quân của tướng Hán. Bà biết đó là tín hiệu gọi quân tiếp viện tới. 
Phút chốc đội Thiết kị Hán từ phía sau xuất hiện, bao vây hậu quân Lĩnh-Nam. Trần Năng bảo Phạm Thị-Hồng: 
– Dùng Thần-long khẩn cấp. 
Phạm Thị-Hồng cầm tù và rúc lên. Các Thần-long nữ tướng cầm tiêu để lên miệng thổi. Tiếng tiêu tỉ tê nỉ non. Đoàn Thần-long từ trên các cây cao vọt xuống tấn công vào đội kị mã. Lạ lùng thay, khi các Thần-long phóng vào người kị mã rồi, không cắn như thường lệ, mà trái lại trườn xuống đất, lẫn vào cỏ. Những con trăn lớn, thì quấn chặt trên cành cây, chui đầu vào lùm lá. Phạm Thị-Hồng cầm tù và thổi, các Nữ tướng Thần-long thúc thế nào, cũng không nhúc nhích. 
Mã Huống cười khanh khách: 
– Trần Năng! Ngươi quen thói cứ dùng rắn hại người. Chúng ta đã cho các tướng sĩ thoa rượu với Hùng-hoàng. Trăn, rắn ngửi mùi Hùng-hoàng, hết cựa quậy ngay. 
Lê Hằng-Nghị biết tình thế nguy hiểm. Chàng cầm tù và rúc lên. Đoàn voi xung vào trận Hán cản hậu. Chàng nói với Trần Năng: 
– Sư tỷ cho rút quân vào đồn mau. 
Quân Việt đã vào đồn. 
Quân Hán lại bao vây, tấn công. 
Đặng Thi-Kế nói: 
– Thần-long bị Hùng-hoàng, không dùng được nữa. Nỏ thần bị các tấm phên che. Thần tượng bị các đội tiễn thủ làm bị thương khá nhiều. Bây giờ chỉ còn nước tử chiến. 
Quân Hán hàng hàng lớp lớp tấn công vào đồn. Trong đồn dùng Thần nỏ bắn ra. Quân Hán ngã lớp này thì lớp khác xung vào. Trận chiến kéo dài hơn hai giờ. Xác quân Hán nằm la liệt ngoài hàng rào. 
Bỗng quân Hán ngưng tấn công. Chúng kéo các xác người, ngựa chết, xếp thành mấy đống lớn. Lê Hằng-Nghị bàn: 
– Chúng ta có hai vạn người. Chết gần năm ngàn. Trong khi quân Hán tới chín vạn. Chúng chết hơn hai vạn. Người tuy không hèn, xong chúng ta không đủ tên bắn. Khi hết tên thì nguy. Chi bằng bỏ đồn rút lên Yên-sơn. Em xin đi đoạn hậu. 
Bỗng đâu tiếng quân reo, tiếng ngựa hí rung động rừng núi. Hậu quân Hán náo loạn. Một đoàn kị mã Lĩnh-Nam xuất hiện. Bên trái Nguyễn Thành-Công, bên phải Hùng Bảo. Phía trước đoàn Beo gầm gừ. 
Trần Năng lại sai mở cổng đồn, xua quân đánh ra. Quân Hán lui trở lại. Mã Huống chỉ huy một đạo chống với Nguyễn Thành-Công. Phùng Đức chỉ huy một đạo chống với Trần Năng. Tới lúc này Trần Năng mới thấy đám quân Hán sang đánh Lĩnh-Nam gồm toàn quân thiện chiến, kỷ luật. Từ sáng đến giờ, nào giao chiến, nào bao vây đồn hai lần. Bây giớ bị đánh hai mặt, mà từ tướng cho tới quân vẫn bình tĩnh đối phó. 
Phùng Đức không nói, không rằng tấn công Trần Năng. Đặng Thi-Kế đốc quân tấn công. Võ công của ông rất cao cường. Ông đi đến đâu, các tướng Hán ngã tới đó. 
Phía trước, Nguyễn Thành-Công đấu với Mã Huống. Qua mười hiệp, ông thấy võ công của Mã không kém gì bọn Phong-châu song quái. Đến hiệp thứ hai mươi, Mã Huống chỉ còn thở dốc. Y cứ phải lùi dần. 
Quân Việt chỉ có năm vạn. Song nhờ có Thần báo, Thần tượng trợ chiến, khiến quân Hán bắt đầu dao động. Khi trời xế chiều, quân Hán bị đánh bật tới bờ hồ. Mã Huống cầm đao cản hậu, cho quân lùi lại. Y chỉ còn chống đỡ. Nguyễn Thành-Công hô lớn: 
– Mã tướng quân! Đầu hàng đi thôi. Ta thấy người tài kiêm văn võ, mà giết đi thực uổng. 
Nói rồi ông thu kiếm về. Mã Huống lưỡng lự một lát. Y nói lớn: 
– Nguyễn tướng quân! Đa tạ tướng quân tương tình. Các anh hùng Lĩnh-Nam biết vì Trưng Đế mà tuẫn tiết. Mã Huống này quyết không để nhục sứ mệnh quân vương giao phó. Xin chiến đấu tới chết. 
Y cầm đao xung vào trận. Gặp Hùng Bảo, chỉ ba chiêu Hùng Bảo chém y đứt làm hai khúc. 
Về phía Phùng Đức. Y bắt đầu dồn Trần Năng lui lại. Thình lình y vọt người lên cao, nhảy lùi về trận. Từ phía sau một đội quân tiến lên. Tất cả năm mươi người cùng bắn vào người bà. Trần Năng tỉnh ngộ: 
– Trước đây Chu Đỗ-Lý, Chu Chiêu-Trung đã báo cho biết Lê Đạo-Sinh luyện cho Hán mấy ngàn đội Đoạn đầu quân. Khi lâm chiến chúng dùng cung tên bắn vào tướng. Các tướng vọt người lên cao, sẽ bị chúng thụt một thứ phấn độc. Khi hít phải phấn độc, lập tức người bải hoải. Đội cung thủ sẽ bắn theo. Trăm người như một, khó thoát khỏi. 
Trần Năng kêu lên: 
– Nguy quá! 
Bà cầm kiếm quay tít một vòng gạt tên. Đội cung thủ bắn loạt thứ nhì. Đặng Thi-Kế thấy sư muội lâm nguy. Ông xung vào trận. Kiếm vung lên, hơn mười cung thủ chết. Trần Năng cũng giết hơn mười tên. 
Không ngờ đội này vừa bị vỡ. Đội khác xung đến. Trần Năng, Đặng Thi-Kế vung chưởng đánh bay chúng ra xa. Lê Hằng-Nghị xua voi vào cứu chúa tướng. Trận chiến đôi bên càng về chiều càng ác liệt. 
Phùng Đức thấy Mã Huống chết. Y cố phá vòng vây, đánh thục mạng rút về phương Bắc. 
Nguyễn Thành-Công tập trung quân lại. Ông hỏi Trần Năng: 
– Sư muội! Em kinh nghiệm chiến đấu với Hán. Ý kiến em thế nào? 
Trần Năng bàn: 
– Tuy Mã Huống chết! Quân Hán có chín vạn, dù chết mất bốn, nhưng binh lực vẫn còn. Chúng ta có năm vạn, chết gần vạn, mà không có bổ xung. Vậy hãy rút quân về đồn nghỉ qua đêm. Đợi Sún Lùn cướp trại Hán, lòng quân giặc rối loạn, bấy chúng ta cùng đổ ra đánh. 
Đặng Thi-Kế không đồng ý: 
– Đêm nay tất Phùng Đức chuẩn bị cẩn thận. Cướp trại rất khó thành công. 
Trần Năng trầm tư, chưa biết tính sao, thì có tin Thần ưng báo: Trên mặt hồ Lãng-bạc. Công chúa Gia-Hưng Trần Quốc đã lừa cho Mã Viện vào vùng sình lầy. Chiến thuyền mắc cạn. Còn đạo quân của Chu Tái-Kênh, giao chiến với Mã Anh, Sầm Anh chưa phân thắng bại. Minh-Giang bị tử thương. Phía Hán, Mã Anh bị Chu Tái-Kênh giết chết. Hai bên tạm hưu chiến... ăn cơm. Sáu đạo quân của Lưu Long bị Bắc-bình vương đánh tan. 
Bỗng có Thần ưng từ rừng Yên-lãng mang thư lại. Nguyễn Thành-Công mở thư ra coi. Ông gật đầu: 
– Đào Tam-Gia tính như vậy thực phải. 
Ông nói với Trần Năng: 
– Sún Lùn gửi thư cho biết: Đã bầy chướng ngại vật, dàn đội Thần hổ cản đường tiếp viện của Mã Dư. Đêm nay sẽ dùng đội Ngao, Hầu quấy rối, làm cho quân Phùng Đức không yên, sáng mai chúng ta dễ tiêu diệt y, chứ không cướp trại như đã định. Sún Lùn định rằng: Canh một đội Thần tượng. Canh hai đội Thần báo. Canh ba đội Thần hầu. Canh bốn đội Thần ngao. Canh năm, chúng ta cùng xua quân tấn công. 
Nguyễn Thành-Công cho lệnh quân sĩ hai đạo lui về đồn nghỉ ngơi. Chỉ cho đội Báo, Tượng, chuẩn bị thi hành kế hoạch của Sún Lùn. 
Quân Hán lui lại bãi đất trống lập trại, nấu ăn. Phùng Đức bồi hồi không yên. Vì y đã gửi đến năm đội Tế tác báo tin cho Mã Dư để xin tiếp viện mà không thấy hồi đáp. Y sợ Lĩnh-Nam cướp trại, nên truyền cho quân sĩ để nguyên giáp trụ mà ngủ. Vừa hết canh một, quân sĩ bắt đầu tắt đèn, thì tiếng trống thúc liên hồi, tiếng voi rống kên inh ỏi. Y vọt người dậy, đốc quân sĩ giữ trại. Y nhìn ra ngoài, thấy đội voi gần hai trăm con, do hơn ba mươi thiếu niên điều khiển. Trong đó có sư trưởng Lê Hằng-Nghị, y đã gặp trong trận Nam-hải. Đoàn voi xung vào tới tầm tên. Phùng Đức ra lệnh buông tên, thì nhanh như chớp đoàn voi lùi lại. Chúng rống lên, rồi đi vòng theo phía ngoài trại. Đoàn voi cứ đi như vậy hết một vòng. Lê Hằng-Nghị phất cờ cầm loa gọi lớn: 
– Phùng Đức! Ta định móc nốt một mắt của mi, để trả thù cho các tướng Lĩnh-Nam trên hồ Động-đình. Song đêm đã khuya. Ta để ngày mai. 
Đội voi biến mất trong đêm tối. Phùng Đức cho quân tắt đèn đi nghỉ. 
Quân sĩ vừa thiu thiu ngủ, thì có tiếng gầm gừ, quân sĩ náo loạn. Vì một đoàn beo đã nhập doanh trại. Chúng xông vào cắn quân sĩ, vồ ngựa. Phùng Đức phải khó nhọc lắm mới giữ vững trận khỏi vỡ. Đèn đuốc thắp lên, thì đoàn Beo đã rút ra ngoài trại. Y nhìn ra thấy Phan Tương-Liệt đang cỡi trên lưng con Bò tót. Nhớ lại trận Nam-hải, y nghiến răng thề: 
– Ta nguyện phải bắt tên ôn con kia, xé ra từng mảnh cho hả giận. 
Y cho quân sĩ đi ngủ. Quân sĩ mệt mỏi, đặt mình xuống là ngủ liền. 
Một lát sau, lửa bốc dậy ở khu chứa lương thảo. Tiếng quân sĩ kêu la inh ỏi. Phùng Đức choàng dậy, chỉ còn kịp thấy một đoàn khỉ đã truyền các cành cây ra khỏi trại. Một thiếu niên cũng đang đu như khỉ ở trên cây, tay cầm tù và thổi tu tu. Y nhận ra đó là Phan Cung sư trưởng Thần hầu, mà y đã thấy trong trận Nam-hải. 
Quân Hán chữa cháy xong. Tắt đèn đi ngủ. 
Vừa thiu thiu được một giấc. Quân Hán lại giật mình thức dậy, vì hàng loạt tiếng chó sói tru lên dài thê lương trong đêm tối. Tiếng sói tru mỗi lúc một gần, phút chốc tới sát hàng rào. Phùng Đức đốc thúc quân sĩ phòng vệ. Song đoàn chó sói chỉ tru tréo, chứ không tấn công. 
Trời tảng sáng. Phùng Đức nhìn ra ngoài trại, chỉ thấy khoảng ba trăm con chó sói với Trần Thiêm-Bình. Trần Thiêm-Bình gọi: 
– Phùng Đức! Có giỏi ra đây chơi với ta. 
Bị đẩy vào thế bị động. Phùng Đức không dằn được cơn giận. Y truyền quân sĩ mở cửa trại tấn công. Trần Thiêm-Bình hú lên một tiếng chạy trước, đoàn chó sói chạy theo sau. Phùng Đức dẫn đầu đoàn Thiết kị truy kích. Đến ven rừng, Trần Thiêm-Bình ngưng lại, dàn trận. Một tiếng pháo lệnh nổ. Trong rừng tràn ra, nào voi, nào beo, nào khỉ họp với chó sói, dàn thành bốn trận. Đào Tam-Gia, tức Sún Lùn cỡi voi đứng trước. Bên cạnh Phan Tương-Liệt cỡi Bò tót, Lê Hằng-Nghị cỡi voi. Phan Cung cỡi cọp, Trần Thiêm-Bình cỡi hươu. Bọn thiếu niên Tây-vu cười ha hả chế nhạo Phùng Đức. Sún Lùn chắp tay hành lễ: 
– Đào Tam-Gia tức Sún Lùn, Thiên ưng đại tướng quân, xin bái kiến Phùng lão sư. Đêm qua lão sư ngủ ngon chứ?
Phùng Đức giận cành hông. Y truyền lệnh cho Thiết kị dùng tên tấn công. Sún Lùn hú lên một tiếng. Các đạo binh Tây-vu gầm rung động trời đất, xung vào trận. Quân Hán bao vây các đội quân Tây-vu trùng trùng, điệp điệp, dùng tên bắn vào. Song đội thú rừng đã lẫn vào với quân Hán. 
Tiếng thú gầm, tiếng người kêu, tiếng ngựa hí vang động một vùng. Xác quân Hán bị giết nằm trải trên một bãi đất rộng, cạnh xác thú rừng. 
Thình lình có tiếng quân reo, ngựa hí, quân Lĩnh-Nam do Nguyễn Thành-Công, Đặng Thi-Kế chỉ huy xông vào trận. Chỉ một lát, quân Hán bị đánh dạt lùi lại. 
Nguyễn Thành-Công bảo Sún Lùn: 
– Cháu cho đạo Tây-vu đánh vào sườn phải, trái. Còn chúng ta đánh thẳng trước mặt. 
Ông với Hùng-Bảo. Trần Năng với Đặng Thi-Kế xua quân tấn công. Quân Hán chết dài theo suốt từ Yên-lãng tới Yên-sơn, Yên-lâm. Nguyễn Thành-Công, Hùng Bảo thành một cặp. Đặng Thi-Kế, Trần Năng thành một cặp đi hai bên. Sún Lùn đi giữa, dẫn đầu. Quân Lĩnh-Nam đuổi theo quân Hán. Quân Hán, bị đệ tử Tây-vu quấy nhiễu suốt đêm, lại lâm chiến từ sáng mệt mỏi, sức cùng lực kiệt, bị giết nằm trải dọc phía tây hồ Lãng-bạc. Đuổi đến Yên-Ninh, chỉ còn cách đại bản dinh Mã Viện hai mươi dặm. Nguyễn-thành Công nói với Đặng Thi-Kế: 
– Chúng ta tạm ngưng. Hiện chỉ còn hơn hai vạn người. Đại bản dinh Hán có tới ba mươi mốt vạn. Nếu chúng đổ ra thì nguy. 
Sún Lùn đứng trên bành voi. Tay cầm kiếm, tay cầm cờ xua đệ tử Tây-vu giết giặc. Các đệ tử Tây-vu người nhuộm đầy máu quân thù. Họ đều trẻ, tuổi từ mười lăm tới hai mươi ba, đang say máu thù. Bị Nguyễn Thành-Công ra lệnh dừng lại. Họ tỏ vẻ bất bình, nhìn Sún Lùn. Sún Lùn nói: 
– Sư bá! Thừa thắng xông lên! Phía trước dường như có một trại Hán. Chúng ta hãy đốt trại rối hãy trở về. 
Nguyễn Thành-Công gật đầu. Lập tức Sún Lùn cười khoái trá. Chàng hô lớn: 
– Đệ tử Tây-vu tiến lên! 
Tiếng đệ tử Tây-vu reo hò. Họ cùng xua đạo binh thú rừng đuổi theo. Tới một dinh trại, quân Hán chạy vào trong. Đệ tử Tây-vu vọt lên trước, đám thú rừng cùng tiến theo chúa tướng. Trong trại có hơn vạn quân đóng, đó là nơi dồn trú lương thảo. Quân dồn trú chưa kịp phản ứng, đã bị đánh tan. Trần Năng ra lệnh đốt lương thảo. Phút chốc lửa cháy lên ngút trời. 
Nguyễn Thành-Công truyền lệnh rút lui. Sún Lùn đứng trên bành voi nói: 
– Sư bá rút trước. Để cháu với sư Thần hổ bảo vệ hậu quân. 
Nguyễn Thành-Công truyền lệnh lui quân. Quân về gần đến Yên-lãng, thình lình có tiếng pháo nổ, rồi tiếng quân reo, ngựa hí. Một đạo phục binh đổ ra chặn mất lối đi. Người đi đầu là Lê Đạo-Sinh. 
Đạo quân của Lê Đạo-Sinh dàn ra. Hơn mười cỗ xe tiến tới tước. Trên xe chở Nỏ thần. Nỏ thần hướng quân Lĩnh-Nam bắn như mưa. Đặng Thi-Kế, Nguyễn Thành-Công kinh hoàng. Hai ông nói với Sún Lùn: 
– Lê sư thúc ăn cắp Nỏ thần của Lĩnh-Nam giúp Hán. Phải xông lên tử chiến mới hy vọng sống. 
Sún Lùn hú lên một tiếng. Các đạo Hổ, Báo, Hầu, Ngao, Tượng cùng xông vào trận. Trần Năng không nói không rằng phóng chưởng tấn công Lê Đạo-Sinh. Vì phải tử chiến, bà vận Thiền công. Binh, binh, binh. Lê Đạo-Sinh đỡ của bà ba chưởng. Cánh tay y tê rần. Y bật lui hai bước. Trần Năng không nhân nhượng, bà phóng tiếp mười chỉ. Chỉ lực phóng ra veo véo. Lê Đạo-Sinh phân tâm một chút, con ngựa y bị trúng chỉ, phọt óc ra ngoài, dư lực nó hí một tiếng đau đớn, ngã lăn ra. Lê Đạo-Sinh nhảy lên, tay rút kiếm tay phóng chưởng tấn công Trần Năng. 
Đặng Thi-Kế, Nguyễn Thành-Công, Hùng Bảo tả xung hữu đột, đánh giết xạ thủ Nỏ thần. 
Hai ông với Hùng Bảo vừa cướp được sáu dàn, thì Đặng Thi-Kế bị trúng một lúc hơn hai chục mũi tên. Ông ngã lộn xuống đất. 
Trận chiến hai bên diễn ra cực kỳ khốc liệt. Đạo quân Lê Đạo-Sinh chỉ hơn vạn người, vốn là tráng đinh, dễ bị đánh tan. Lê Đạo-Sinh dẫn quân lui lại. Nguyễn Thành-Công thu binh. 
Kiểm điểm lại, chỉ với mười dàn Nỏ thần. Lê Đạo-Sinh đã bắn chết Đặng Thi-Kế với hơn vạn quân Lĩnh-Nam. Qua hai ngày chiến đấu, năm vạn quân của Trần Năng còn hơn hai vạn. Các sư Hổ, Báo, Tượng, Ngao, Hầu còn phân nửa. Các Sư trưởng Phan Tường-Liệt, Lê Hằng-Nghị, Phan Cung, Trần Thiêm-Bình bị thương nặng. 
Nguyễn Thành-Công thu binh về đồn Yên-sơn, Yên lãng cố thủ. 
Chiều hôm đó, có tin Công chúa Gia-Hưng Trần Quốc đại phá Mã Viện trên hồ Lãng-bạc. Chu Tái-Kênh đại phá Sầm Anh. Nguyễn Thành-Công hỏi Trần Năng: 
– Sư muội nghĩ sao? Phía trước Lê sư thúc có Nỏ thần giúp Mã Viện. Đạo quân Phùng Đức tuy tan. Song nếu y có viện binh cùng Lê sư thúc tấn công, chúng ta phải làm thế nào? 
Trần Năng trầm tư không trả lời. 
Vừa lúc đó có tin báo: 
– Đỗ Năng-Tế cùng Tạ Thị-Cẩn đến tăng viện. 
Nguyễn Thành-Công ra ngoài trại mời vào, trình bày tình hình. 
Đỗ Năng-Tế bàn: 
– Trưng Nhị nghị kế, sau khi chúng ta phá đại quân Mã Viện, Phùng Đức, Sầm Anh thì rút lui. Sư huynh Thành-Công cùng Trần Năng, Hùng Bảo trấn giữ Yên-lãng. Chu Tái-Kênh, Trần-gia tam nương cố thủ Yên-thủy. Tôi cùng với Sún Lùn về giữ Mê-linh. Chủ lực quân của Mã Viện chưa tan. Y sẽ nghỉ ăn Tết, rồi mới tấn công tiếp. Chúng ta cần bổ xung lại các đạo quân đã. 
Trưng Đế, triều thần làm lễ an táng Đặng Thi-Kế, Minh-Giang cùng quân, tướng tử trận. Tính chung trận Lãng-bạc diễn ra trong mười lăm ngày. Số quân Hán tham dự trên mặt hồ gồm chín vạn, chia ra năm vạn thủy, bốn vạn bộ. Phía Tây, Đông hồ mỗi nơi tám vạn, cộng chung hai mươi lăm vạn. Bị chết mười chín vạn. Phía Lĩnh-Nam có mười lăm vạn tham dự, tử trận sáu vạn. 
Tết Quí-Mão năm đó, trời giá lạnh chưa từng thấy. Quân Hán rút lui về giữ vùng Đông-Triều và vùng biên giới Quế-lâm, Tượng-quận với Giao-chỉ. 
Tể-tướng Phương-Dung chuyển chỉ dụ Trưng Đế đi các nơi: Tết càng giản dị càng tốt. Các Lạc vương, Lạc hầu, Tướng, không cần về Mê-linh triều kiến đầu năm như thường lệ. 
Sang cuối tháng hai, Mã Viện lệnh sai Vương Bá, Thượng-dung lục hữu, Phong-châu song quái đem quân đánh thẳng từ Tượng-quận xuống. Lưu Long đem thủy quân đánh vào Lục-hải tiến về Long-biên. Trong khi Phùng Đức đánh Yên-sơn, Yên-lãng. Sầm Anh đánh Yên-thủy. Còn Mã đem mười vạn Thiết kị, mười vạn bộ binh kéo về đánh Mê-linh. 
Trưng Đế hội triều thần nhị kế. Nguyễn Thành-Công đưa ý: 
– Tại Yên-sơn, Công chúa Yên-lãng Trần Năng còn hai vạn người, phải chống với bốn vạn quân Phùng Đức. Tại Yên-thủy, Chu sư thúc có hai vạn người phải chống với năm vạn của Sầm Anh. Tại Mê-linh chúng ta chỉ có hai vạn người trong thành, làm sao chống với hai mươi vạn quân của Mã Viện? Bây giờ hãy tạm rút về Cẩm-khê. Ở đó còn ba vạn quân của Trần Dương-Đức. Nếu Mã đem quân về Cẩm-khê, sẽ bị quân Mê-linh đánh tập hậu. 
Trưng Đế thuận đề nghị của Nguyễn Thành-Công. Ngài để Trưng Nhị điều khiển cuộc rút quân. 
Trưng Nhị truyền lệnh: 
– Triều đình tạm rút về Cẩm-khê. Chỉ huy tiền đội là sư bá Cao Cảnh-Sơn, cùng các đệ tử Tây-vu, Hoa-lư. Chỉ huy hậu đội là Nguyễn Quý-Lan, Đinh Công-Minh, Hùng Xuân-Nương. Còn lại đi theo trung quân. 
Đoàn người ngựa đi từ giờ Ngọ, đến giờ Dậu xa xa thấy thành Cẩm-khê. Quách A vẫn cho Thần ưng bay tuần phòng trên đầu. Còn cách Cẩm-khê hơn mười dặm. Bỗng Thần ưng kêu lên nhiều tiếng, Quách A nói với Trưng Nhị: 
– Thần ưng báo phía trước có quân mình ở trong rừng. Không biết quân đó do ai chỉ huy? 
Trưng Nhị ngạc nhiên: 
– Có lẽ quân của các Lạc công chăng. Chứ ta làm gì còn quân nữa? 
Đoàn người đi được thêm mấy dặm, thình lình có tiếng pháo nổ vang dội. Quân reo dậy đất. Từ ven rừng, hai đạo quân xuất hiện. Mặc quần áo như quân Lĩnh-Nam. Hai tướng chỉ huy đích thị Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ. Quân của chúng dàn ra chặn mất lối đi. 
Từ phía sau, trống thúc vang dội, Ngô Tiến-Hy, Hoàng Thái-Tuế, Lê Đức-Hiệp dẫn ba đạo quân đánh ép hai bên. Lê Đức-Hiệp gọi lớn: 
– Trưng Trắc, Trưng Nhị! Các ngươi bị trúng kế của sư phụ ta rồi. Các ngươi mau xuống ngựa đầu hàng. Nghĩ tình đồng môn, ta sẽ tha chết cho. 
Cao Cảnh-Sơn hô lên một tiếng. Đạo quân Phù-Đổng xung vào tấn công Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ. Sún Lùn truyền lệnh: 
– Sư thần-báo đánh về phía trước. 
Phan Tương-Liệt tuân lệnh, cỡi trên lưng Bò cầm cờ phất. Các xe chở báo, mở cũi. Báo từ trong cũi xông về phía trước, họp với đạo binh Phù-Đổng lao vào trận Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ. 
Triệu Anh-Vũ, Đinh Công-Thắng đã biết sự lợi hại của đoàn báo. Hai người cố vượt qua đạo quân, định giết chết Phan Tương-Liệt. Phan Tương-Liệt biết nguy, song chàng vẫn can đảm đứng chỉ huy báo. Đinh Công-Thắng đã tới tới trước mặt chàng. Y phóng chưởng tấn công. Phan Tương-Liệt kinh hoàng, nhảy vọt lên cao tránh. Thình lình, Đỗ Năng-Tế từ sau lao tới. Ông chỉ đánh một chưởng. Đinh Công-Thắng bay vọt về phía sau, miệng phun máu. Triệu Anh-Vũ chưa kịp trở tay, đã bị ông đánh một chưởng, y ngã lộn xuống ngựa. Cả hai bỏ chạy. Đạo quân của y náo loạn lùi lại. 
Phía phải, Lê Hằng-Nghị chỉ huy đội voi đánh với Ngô Tiến-Hy, Hoàn Thái-Tuế, Lê Đức-Hiệp. Ba người cho binh sĩ dùng tên bắn voi. Sún Lùn ra lệnh cho Trần Thiêm-Bình dàn đội Thần ngao, Đào Nương dùng Thần phong đánh vào phía hông trái. Trận chiến diễn ra ác liệt. Lê Đức-Hiệp sai lấy lửa đốt cỏù đuổi Thần phong. Đào Nương cùng các nữ phong tướng chưa kịp thu ong về, đã bị Đức-Hiệp cùng đám đệ tử nhào tới trước mặt. Than ôi! Đào Nương bị đánh một chưởng chết gục tại chỗ, ba mươi phong nữ bị giết trong chốc lát. Sún Lùn đứng hộ vệ cạnh Hoàng-Đế. Chàng cho Trương Quán xua Thần hổ đánh với bọn Đức-Hiệp. 
Bỗng trống trận vang lừng. Phía sau Hùng Xuân-Nương báo: 
Lê Đạo-Sinh cùng Mã Viện, Phùng Đức, Sầm Anh đem mười vạn Thiết kị đuổi theo. Nguyễn Quý-Lan, Đinh Công-Minh tử trận. 
Trưng Nhị kiểm điểm lại, đạo Phù-Đổng chết hơn vạn. Số còn lại hơn vạn. 
Bà lo lắng nói: 
– Xin sư phụ, hộ giá Hoàng Thượng chạy trước. Con xin ở lại bảo vệ mặt hậu. 
Vừa dứt lời, tiếng ngựa hí, quân reo vang dội. Lê Đạo-Sinh ngồi trên mình ngựa dẫn đầu. Phía sau hơn trăm dàn Nỏ thần bắn như mưa. 
Cao Cảnh-Sơn cùng dàn Nỏ thần bắn lại. Ông rút tên nhắm bắn Lê Đạo-Sinh bắn liền ba phát. Mỗi phát mười mũi tên. Lê Đạo-Sinh tránh được. Ông quay lại, phía Lĩnh-Nam chỉ còn hơn hai mươi dàn Nỏ thần, đã bị đoàn Nỏ thần của Lê Đạo-Sinh bao vây. 
Cao Cảnh-Nham đang đứng nhắm các tướng giặc bắn, ông bị trúng một mũi tên vào giữa trán, ngã lăn xuống đất chết. Đội Nỏ thần của ông rối loạn. Tên đã hết. Các xạ thủ đồng rút vũ khí tự tử. 
Cao Cảnh-Sơn cùng Cao Cảnh-Anh, Hùng, Kiệt, Khê bắn đến mũi tên cuối cùng. Ông nói với các con, và đệ tử: 
– Hỡi ơi! Chúng ta đang thắng giặc Hán. Không ngờ bị cái vạ Lê Đạo-Sinh, ăn cắp Nỏ thần, học theo đó chế tạo, đánh úp, khiến chúng ta bại. Thôi! 
Ông rút kiếm tự tử. Cao Cảnh-Anh, Hùng, Kiệt, Khê cùng tự tử theo. 
 Sún Lùn cỡi trên bành voi. Chàng cầm cờ, đốc thúc quân đoàn ba Tây-vu quyết bảo vệ mặt hậu. Chỉ hơn giờ chiến đấu, sư Thần hổ, Báo, Ngao, Tượng, Hầu bị giết gần hết. Trần Ngọc-Tích, Phan Cung, Trần Thiêm-Bình, đều tử trận. Trương Quán, chỉ huy hơn trăm Thần hổ, chiến đấu tuyệt vọng. 
Lê Đạo-Sinh cười khoái trá. Y đứng trên mình ngựa, cầm cờ chỉ điểm cho Nỏ thần bắn. Một loạt Nỏ thần cùng xạ kích. Đoàn Thần hổ chết hết. Lê Đạo-Sinh vọt người tới. Chỉ một chưởng y đánh cả người lẫn ngựa Trương Quán bay xuống đất, tan xương nát thịt. 
Y vung tay chụp Sún Lùn. Chàng vung chưởng tấn công. Y luồn tay qua chưởng núm tóc chàng tung lên cao. Y đánh theo một chưởng. Người chàng vỡ làm năm, sáu mảnh rơi xuống đất. 
Mã Viện, Lê Đạo-Sinh, Phùng Đức, Sầm Anh dẫn Nỏ thần đuổi theo Trưng Đế. Thần nỏ bắn ào ào. Đến bờ sống Hát-giang, tướng chỉ huy còn hơn mười người. Đỗ Năng-Tế bảo Trưng Nhị: 
– Con cùng chị hãy bơi qua sông. Sang bên kia là Cẩm-khê rồi. Bấy giờ con tụ tập binh mã trả thù sau. Để sư phụ, sư mẫu cản hậu cho. 
Đến đó Lê Đạo-Sinh tấn công Đỗ Năng-Tế. Phùng Đức tấn công Tạ Thị-Cẩn. Mã Viện đứng trên gò cao cầm cờ chỉ huy. Sầm Anh tấn công Trưng Nhị. Lê Đức-Hiệp tấn công Quách A. Phong-châu song quái, Ngô Tiến-Hy, Hàn Thái-Tuế vây Trưng Đế. 
Đánh được một lúc, Quách A bị trúng một kiếm, đứt làm hai khúc. Lê Đức-Hiệp liệng xác xuống sông. Lê Đức-Hiệp hợp với Sầm Anh đánh Trưng Nhị. Bà lùi dần tới bờ sông. 
Mã Viện hô lớn: 
– Cần bắt sống Trưng Trắc, Trưng Nhị. Cấm không được đả thương. 
Thấy đệ tử lâm nguy, ông bà Đỗ Năng-Tế nghiến răng đánh liền mấy chưởng đẩy lui Lê Đạo-Sinh, Phùng Đức. Hai ông bà chỉ đánh hai chưởng, đẩy lui bọn đệ tử Lê Đạo-Sinh. Ông chụp Trưng Nhị. Bà chụp Trưng Đế. Hai người vọt lên cao. Ở trên cao đánh xuống hai chưởng cực mạnh. Lê Đức-Hiệp, Phong-châu Song-quái bị đánh dạt ra ngoài. Hai ông bà tiến đến bờ sông Hát-giang. Mã Dư chỉ huy một đội Đoạn đầu quân bao vây ông bà. Ông quát lên một tiếng đánh liền ba chưởng. Mã Dư bị bay lên cao, vỡ làm ba, bốn mảnh, ruột gan, máu thịt rơi xuống. 
Mã Viện đứng đốc chiến, thấy em chết thảm. Lòng ngụt căm thù. Y cầm cờ thúc quân bao vây trùng trùng điệp điệp. 
Hai ông bà nhấp nhô mấy cái tới bờ sông. Chưa biết phản ứng ra sao, Mã Viện sợ Trưng Đế chạy thoát. Y gọi lớn: 
– Lê Đạo-Sinh! Cho Nỏ thần tiến lên. 
Lê Đạo-Sinh hô lớn: 
– Bắn! 
Hai mươi dàn Nỏ thần bắn hằng vạn mũi tên. 
Hai ông bà vung kiếm gạt. Ông nói với Trưng Đế: 
– Con với em bơi sang sông mau! 
Hai ông bà cùng liệng đệ tử xuống sông. Lê Đạo-Sinh hô lớn: 
– Bắn! 
Than ôi! Hơn trăm dàn Nỏ thần, mỗi dàn bắn ba trăm mũi tên. Gần ba mươi ngàn mũi hướng vào bốn người. Đỗ Năng-Tế, Tạ Thị-Cẩn người bị tên ghim như nhím. Thế mà hai ông bà vẫn còn đứng, tay cầm kiếm quay tròn, bảo vệ đệ tử. Trưng Nhị bị trúng gần trăm mũi tên. Dư lực còn. Bà rút kiếm múa tít bảo vệ cho chị. 
Trưng Đế bơi ra khỏi bờ được mười trượng. Lê Đạo-Sinh cùng đám đệ tử dương cung bắn theo. Ngài lặn xuống nước. Lê Đạo-Sinh cầm cờ chỉ theo Ngài, ra lệnh cho Nỏ thần: 
– Bắn! 
Hơn trăm dàn nỏ thần bắn xuống. Thân Ngài bị trúng hàng trăm mũi tên, máu loang mặt nước. Dư lực còn, Ngài đau đớn, quằn quại bơi được mấy trượng. Lê Đạo-Sinh lại hô lớn: 
– Bắn! 
Nỏ thần bắn một loạt. Hàng vạn mũi tên bay đầy mặt sông. Xác ngài trôi lập lờ trên mặt nước, rồi từ từ chìm xuống. 
Bọn Lê Đạo-Sinh, Lê Đức-Hiệp, Phong-châu Song-quái cùng reo lên cười khoái trá. Chúng la lớn: 
– Trưng Trắc, Trưng Nhị chết rồi! Ta đã thành công. 
Trời tự nhiên tối sầm lại. Mây đen kéo đến che nghịt bầu trời. Sấm sét nổ rung không gian. Mã Viện, Lê Đạo-Sinh cùng hơn hai mươi vạn quân Hán ướt như chuột, xoè bàn tay ra không nhìn thấy gì. Ai nấy đứng yên một chỗ, kinh hoàng, không dám khinh động. 
Đến nửa đêm, trời bớt mưa, Mã Viện cho quân hạ trại ven sông. Sáng hôm sau chúng ra bờ sông, thấy xác ông bà Đỗ Năng-Tế vẫn còn đứng sững sững, tay cầm kiếm, mắt mở lớn trừng trừng. 
Hôm đó là ngày : 
Mùng 8 tháng ba năm Quí-Mão (43 sau Tây Lịch). 
Nhiều sử gia lầm lẫn ghi rằng : Ngày 6 tháng hai là ngày tuẫn của Hoàng Đế Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị. Thực ra trong các cuốn phổ đều ghi: 
Ngày 6 tháng giêng là ngày đăng quang lên ngôi Hoàng Đế. Điều này sai. Ngài lên ngôi vua ngày 1 tháng bảy năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây Lịch). Song đến ngày 6 tháng giêng năm Canh-Tý (40 sau Tây Lịch) ngày ngài tế Quốc Tổ, kể là niên hiệu Trưng-đế thứ nhất. 
Người sau ghi lầm là ngày lên ngôi vua. 
* Ngày 6 tháng hai là ngày lễ tắm tượng hai bà. 
* Ngày 8 tháng ba là ngày hai bà tuẫn quốc. Sử ghi là ngày Thánh-Hóa. 
Tuy biết như vậy, mà trong các quyển trước, chúng tôi vẫn ghi theo sự lầm lẫn của nhiều đời. Đến đây mới cải chính. Bởi một sự việc đã qua lâu, muốn tu chính, không phải ai cũng nghe ngay.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 29 : Trưng-vương vắng mặt còn ai?Đi về thay đổi mặc người Hán quan.(Đại-Nam quốc sử diễn ca)




 Trời vừa sáng, Mã-Viện cho triệu tập tướng sĩ bên bờ sông Hát-Giang bàn định kế hoạch đánh chiếm các thành còn lại. Lê-đạo-Sinh hiến kế: 
– Trưng-Trắc, Trưng-Nhị tuy chết, triều đình bị diệt. Song còn ba đạo quân quan trọng. Chủ lực chính là Đào-Kỳ, Phương-Dung. Chủ lực thứ nhì là Đô-Dương, Lại-thế-Cường. Chủ lực thứ ba là Phùng-vĩnh-Hoa. Phải dồn quân diệt từng chủ lực một. 
Mã-Viện đồng ý. Y nói: 
– Chúng ta đánh chiếm được Mê-Linh. Phùng-vĩnh-Hoa mất đường về vì phía trước bị Vương-Bá vây đánh. Y thị chỉ có tráng đinh. Coi như không đáng kể. Duy Đô-Dương là đáng sợ nhất. Vậy phiền Lê lão sư, cùng các vị đệ tử đừng quản ngại, suất lĩnh tráng đinh đánh chiếm lấy vùng Hoa-Lư. Đem các dàn Nỏ thần phục trên sườn núi. Mục đích chặn không cho Đô-Dương cứu viện Đào-Kỳ. Tôi ra lệnh cho Lưu-Long đổ bộ lên vùng biển Thiên-Trường đánh phía sau. Đại quân của tôi từ Mê-Linh, Đông-Triều đánh về Long-Biên. Đào-Kỳ tất bị diệt. Diệt Đào-Kỳ rồi. Chúng ta tiến đánh Đô-Dương sau. Vừa lúc đó trống thúc vang dội, quân reo rung động trời đất. Mã-Viện kinh hãi hỏi: 
– Cái gì vậy? 
Một lát quân sĩ báo: 
– Có hai đạo quân kéo đến đánh. Đạo thứ nhất do Nguyễn-phương-Dung, Trần-quế-Hoa, Trần-quỳnh-Hoa chỉ huy. Đạo thứ nhì do Đào-Kỳ, Hoàng-thiều-Hoa, Đào-hiển-Hiệu, Đào-quí-Minh, Đào-phương-Dung đánh tới. 
Mã-Viện cười: 
– Trưng-Trắc đã chết rồi! Ta không sợ bọn này nữa. 
Y gọi Phùng-Đức: 
– Lão sư dẫn năm vạn quân chống với bọn Phương-Dung. 
Y nói với Sầm-Anh: 
– Lão sư dẫn năm vạn quân chống với Đào-Kỳ. 
.... 
Nửa đêm ngày 7 tháng ba, Tể Tướng Nguyễn-phương-Dung đang ngủ ngon, bỗng dưng bà kêu thét lên một tiếng, rồi ngồi bật dậy. Bắc-Bình vương Đào-Kỳ giật mình tỉnh giấc. Vương hỏi: 
– Sao? Cái gì vậy? 
Hai vị thành vợ chồng đã chín, mười năm. Chưa bao giờ ông thấy Vương phi la hoảng trong giấc mơ. Vương phi Phương-Dung ngồi dậy, bà nhắm mắt định thần một lúc, rồi nói: 
– Em nằm mơ thấy chị Trưng-Trắc, Trưng-Nhị leo lên cây cầu bắc qua sông lớn. Thình lình mấy con chó chạy đến cắn chân cầu. Cầu gãy. Hai người rơi xuống sông. Có hàng nghìn hàng vạn con rắn xúm vào cắn. Em kinh hoảng la lớn lên. 
Hơn ai hết Đào-Kỳ thường chú ý đến các giấc mộng. Từ khi Vương được Nguyễn-Phan truyền nội công Âm Nhu. Mỗi khi nằm mộng, thấy một hiện tượng gì, y như ngày hôm sau sự thực diễn ra. Như hồi đem quân đánh Đăng-Châu. Đêm mơ thấy một bầy thú dữ. Vương cầm kiếm chém chúng chết la liệt. Thì ngày hôm sau, Vương xua quân bắt Trương-Thanh, Lưu-Chương. Vương mơ thấy mình đánh đuổi con chó, bị nó cắn vào ngực đau thấu tim gan. Hôm sau diễn ra trận đấu giữa Vương với Đông-Các. Vương bị Mao-đông-Các đánh trọng thương. Hôm mơ thấy mình ngồi trên chiếc ghế, bị chặt gẫy một chân. Hôm sau có tin Tượng-Quận bị mất. Lần mơ thấy đánh nhau với con quỉ, bị chặt gãy cánh tay. Hôm sau xảy ra cái chết của Thánh-Thiên. 
Đêm qua, Vương mơ thấy đánh nhau với một bọn quỉ. Bị chúng chém đầu. Vương tránh khỏi, cái mũ bị kiếm cắt đứt làm đôi. Bây giờ thấy vợ mộng như vậy, Vương lo sợ. Vương sang phòng bên cạnh, Sún Rỗ, Sa-Giang cũng thức dậy từ hồi nào. Sún Rỗ hỏi Vương: 
– Tam ca! Cái gì vậy? 
– Chúng ta đều mơ thấy một truyện kinh khủng. 
Sun Rỗ nhìn Sa-Giang: 
– Suốt từ chiều đến giờ, bọn chúng em nghe văng vẳng bên tai nhiều tiếng khóc than. Chúng em có hỏi sư tỷ Thiều-Hoa. Sư tỷ bảo không nghe thấy gì cả. Chúng em ngủ một lúc thấy Nhạc phụ, cùng các anh Phúc, Lộc, Thọ đứng ở đầu dường, khóc lóc thảm thiết. Hai chúng em bàn luận với nhau mãi, ngủ không được. 
Đào vương lững thững ra sân nhìn trời, thấy Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Đào-phương-Dung cũng đang thơ thẩn ngoài sân. Trời sang canh năm. 
Vương hỏi các em: 
– Các em không ngủ được sao? 
Hiển-Hiệu gật đầu: 
– Em ngủ được một giấc, trong mộng thấy bác Cả, bố em với Hồng-Thanh về. Cả ba người cùng khóc lóc. Tay cầm kiếm, bảo bọn em xuất quân gấp. Em hỏi tại sao? Thì biến mất. 
Một lát Hoàng-thiều-Hoa cũng ra sân. Bà tiếp lời Hiển-Hiệu: 
– Chị mơ thấy Sư mẫu, Thánh-Thiên, Lê-Chân cùng về. Họ cầm kiếm, nghiến răng chỉ về phương Tây. Chị lên tiếng hỏi, không ai trả lời, chỉ ứa nước mắt khóc mà thôi. 
Đào vương phi Phương-Dung thở dài: 
– Em sợ Mê-Linh có sự không hay. 
Bà bảo Sún Rỗ: 
– Em sai Thần ưng về Mê-Linh thám thính xem sao. 
Sún Rỗ vừa định thi hành, thì có Thần ưng từ Mê-Linh bay đến. Chàng gọi xuống, lấy thơ trình Đào-Kỳ: 
– Sư huynh coi. 
Đào-Kỳ đọc xong, đưa cho Vương phi Phương-Dung. Bà liếc mắt qua, mặt tái mét, la lớn: 
– Hỏng rồi! Hỏng rồi! Hoàng Thượng ắt khó bảo toàn. 
Bà vội cầm bút viết thư, truyền Sún Rỗ cho Thần ưng mang đi ngay. Hoàng-thiều-Hoa cầm thư đọc, hỏi: 
– Trưng-Nhị báo cho chúng ta biết, Hoàng Thượng cùng triều thần đi giá về Cẩm-Khê. Có gì nguy hiểm đâu? 
Đào vương phi thở dài: 
– Chị cũng như sư tỷ Trưng-Nhị nhìn không ra là phải. Này nhé tại Yên-Lãng, Trần-Năng còn hai vạn quân. Tại Yên-Thủy sư bá Chu-tái-Kênh còn hơn vạn. Quân bổ xung đa số là tráng đinh mới bổ xung, không đủ xuất trận, chỉ có thể giữ đồn. Mã-Viện ắt mang quân vây đồn. Sau đó y sai một tướng nữa đem quân vây Mê-Linh. Còn y sẽ đem đại quân đuổi theo triều đình. Sư bá Cao-cảnh-Sơn chỉ còn hai vạn quân với Quân đoàn ba Tây-Vu làm sao địch nỗi với mười vạn Thiết kị, mười vạn bộ binh? 
Công chúa Vĩnh-Hòa ngơ ngác không hiểu: 
– Từ Mê-Linh đến Cẩm-Khê đường đi có một ngày. Triều đình di về Cẩm-Khê rất bí mật. Mã-Viện làm sao biết được? Khi y biết thì triều đình đã hoàn tất cuộc rút quân. Nếu y đem quân đến vây Cẩm-Khê, sẽ bị chúng ta chặn đánh phía sau, y không còn đường về nữa. 
Đào-Kỳ lắc đầu. Vương rùng mình nói: 
– Công chúa không hiểu địa thế thì nói vậy. Từ Mê-Linh về Cẩm-Khê, đầu tiên qua các trang ấp của Đinh-công-Dũng, Đinh-công-Thắng. Bấy lâu nay Thắng cho người về bắt liên lạc với các Lạc hầu cũ, dụ dỗ có, đe dọa có. Các Lạc hầu tỏ thái độ không theo y cũng không chống y. Tại phía Bắc Cẩm-Khê, một giải hai mươi trang ấp trung thành của Lê-đạo-Sinh. Mã-Viện tất cho bọn Đinh-công-Thắng, Lê-đạo-Sinh đem quân vượt qua các trang ấp này phục kích đợi khi triều đình rút qua đó, đổ ra cản đường. Giữa lúc hai bên đánh nhau. Y tung Thiết kị vào đánh tập hậu. 
Đào-hiển-Hiệu vỗ bàn nói lớn: 
– Giờ này có lẽ triều đình đã rời Mê-Linh rồi, có trở về cũng không kịp nữa. Chi bằng chúng ta khởi binh. Hy vọng cứu vãn tình thế. 
Phương-Dung gọi Lê-thị-Lan, Lê-anh-Tuấn: 
– Ta để lại cho em hai vạn quân giữ Long-Biên. Tuần phòng cẩn thận, thấy giặc đến không được đem quân ra đánh. 
Bà gọi Trần-quế-Hoa, Trần-quỳnh-Hoa: 
– Hai em đem quân tiến dọc sông Hát-Giang về Cẩm-Khê. Ta đi đoạn hậu tiếp ứng. Gặp giặc, phải đánh liền. Dù nguy hiểm cũng phải chấp nhận. 
Bà nói với Đào-Kỳ: 
– Anh mang đạo quân Thiết kị, tiến về Mê-Linh. Sư tỷ Thiều-Hoa và các em Phương-Dung, Hiển-Hiệu, Quí-Minh theo trợ giúp. 
Bà gọi Lê-ngọc-Trinh: 
– Sư tỷ dẫn hai vạn quân trấn thủ Cô-Loa. Tôi cử Sún Rỗ, Sa-Giang cùng Quân đoàn một Tây-Vu theo trợ chiến. Cần bảo vệ hậu quân cho chắc, để chúng tôi cứu giá. 
Quân sĩ lên đường liền. Đi suốt ngày. Đến chiều, trời mưa như trút nước xuống. Đào-Kỳ kinh hoảng nói: 
– Trời tháng ba, thường chỉ có những trận gió nhẹ, hoặc mưa phùn. Có đâu lại mưa to, sấm chớp như thế này? Thực kỳ lạ. 
Ông cho lệnh dừng quân nghỉ ngơi, nấu cơm ăn. Truyền Tế tác dò thám tình hình. Nửa đêm Tế tác báo 
– Chinh-Tây đại tướng quân Chu-Long thống lĩnh năm vạn quân vây Mê-Linh. Còn Mã-Viện đem mười vạn kị, mười vạn bộ vượt Mê-Linh đuổi theo Trưng Đế. Trận chiến diễn ra ác liệt bên sông Hát-Giang, song không biết kết quả. 
Đào-Kỳ họp các tướng lại truyền lệnh: 
– Hán có năm vạn binh vây. Chúng ta phải đánh tan đạo quân này, rồi đuổi theo Mã-Viện. Hoàng sư tỷ đánh cửa Bắc. Hiển-Hiêụ đánh cửa Đông, Quí-Minh đánh cửa Nam. Phương-Dung đánh cửa Tây. Quân sĩ im lặng lên đường, làm sao tới nơi mà giặc không biết trước. 
Quân sĩ âm thầm lên đường. Tới Mê-Linh trời tảng sáng. Quân Việt reo lên một tiếng xung vào trận. Quân Hán còn chưa tỉnh giấc. Khoảng nhai dập miếng trầu, hàng ngũ rối loạn. Chu-Long nhảy lên mình ngựa chạy về hướng Bắc, gặp Hoàng-thiều-Hoa. Y đã biết mặt bà trong dịp đến Lạc-Dương chầu Quang-Vũ. Y ngạc nhiên chắp tay hành lễ: 
– Tiểu tướng Chu-Long xin tham kiến Lĩnh-Nam vương phi. Vương phi thân thế cao quí biết mấy, tại sao lại xen vào chốn binh đao với giặc Lĩnh-Nam? 
Hoàng-thiều-Hoa không nói không rằng, bà xuất chiêu "Thiết kình phi thiên" tấn công. Chưởng phong ào ào chụp xuống. Chu-Long đã từng nghe Lĩnh-Nam vương phi võ công kinh người. Y vội vung chưởng đỡ. Binh một tiếng, người y bật lui một bước. Trong khi Hoàng-thiều-Hoa lui đến ba bước. Y phóng chưởng tấn công tiếp. Hoàng-thiều-Hoa bình tĩnh dùng chưởng pháp Cửu-Chân chống đỡ. Đánh được hai mươi hiệp. Hoàng-thiều-Hoa bắt đầu yếu thế, bà lui dần. Chu-Long thấy quân sĩ đã tan rã, y đánh liền ba chưởng, rồi bỏ chạy. Vừa lui được mấy bước, trong bóng tối mờ ảo buổi rạng đông, y đụng phải một tướng. Tướng đó phóng chưởng tấn công. Y thấy chưởng mạnh đến khủng khiếp, trọn đời y chưa từng gặp qua. Binh một tiếng, người y bật lui một bước. Tướng đó đánh liền ba chưởng nữa. Y đỡ được hai, đến chưởng thứ ba người y bật lại sau, miệng phun máu. Y vẫy tay lui lại ngụ ý chịu thua. Y hỏi: 
– Ta Chu-Long, đứng đầu Liêu-Đông Tứ Vương. Trọn đời, ta chỉ thua dưới kiếm Phật-Nguyệt. Còn Chu-tái-Kênh cũng không hơn ta. Ngươi là ai, mà võ công đến dường này? 
Chợt y nhìn lên, thấy phía sau tướng đó có cây cờ đề chữ "Bắc-Bình vương Đào". Y kinh hoảng: 
– Thì ra ngươi là Đào-Kỳ, hèn chi võ công cao đường này. Ta thua là phải. 
Nói rồi y phi ngưạ bỏ chạy. 
Nguyễn-thành-Công trấn giữ trong thành Mê-Linh, mở cửa tiếp rước Đào-Kỳ. Ông tỏ ý lo lắng: 
– Sáng hôm qua Hoàng Thượng cùng triều đình lên đường được một lúc thì Chu-Long mang quân đến vây thành. Trong lúc chống trả, tôi thấy Mã-Viện, Lê-đạo-Sinh mang Thiết kị tiến về hướng Hát-Giang. 
Đào-Kỳ họp các tướng, ra lệnh tiến quân. Đi được hơn giờ, ông thấy xác quân Việt, Hán nằm la liệt dọc đường cùng gươm, đao, vũ khí. Đi quãng nữa trong đám xác chết có xác hổ, báo, voi, chó sói. Ông xuống ngựa quan sát, thấy xác thú vật quân đoàn ba Tây-Vu đều chết vì tên của Nỏ thần. Ông hội ý với Đào-phương-dung. Bà đáp: 
– Trước đây năm dàn Nỏ thần trên thành Mê-Linh bị tháo trộm đi mất. Hoàng Thượng biết Lê-đạo-Sinh ăn trộm. Người chú ý theo dõi, mãi không thấy Lê xử dụng, cho rằng Lê mô phỏng theo chế tạo không được. Nào ngờ Lê không nộp cho Quang-Vũ, mà bí mật chế tạo tại các trang ấp của y. Nay mới đem ra xử dụng. Như vậy rõ ràng Lê tự biết Quang-Vũ không tin y. Cho nên y mới giữ bí mật Nỏ thần, hầu một ngày kia dùng tới. 
Tiến được một lát, gặp quân Mã-Viện, Sầm-Anh. 
Mã-Viện cỡi ngựa theo sau Sầm-Anh. Đạo quân Đào-Kỳ dàn ra mau lẹ. Sầm-Anh cười lớn: 
– Tên lỏi con Đào-Kỳ kia! Ngươi có biết Trưng-Trắc, Trưng-Nhị bị giết rồi không? 
Y vẫy tay một cái, từ phía sau, hai tên quân cầm hai cây gậy, trên xuyên hai thủ cấp. Đào-Kỳ nhìn lại, đúng là của Trưng Đế, Trưng-Nhị. Ruột ông đau như cắt. Ông hô lớn: 
– Hãy tiến lên trả thù cho Hoàng Đế. 
Ông phóng chưởng tấn công Sầm-Anh. Hoàng-thiều-Hoa cùng Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Đào-phương-Dung dẫn quân xung vào trận. Mã-Viện đứng trên cao, cầm cờ đốc chiến. Y thấy Đào-Kỳ chỉ có bốn vạn quân. Y cho tất cả mười vạn quân cùng nhập trận. 
Thình lình hậu quân Hán náo loạn. Vì một đạo quân đi dọc theo sông Hát-Giang, do hai nữ tướng chỉ huy. Hai nữ tướng võ công cực kỳ cao thâm, đi đến đâu quân Hán chết la liệt đến đó. Mã-Viện nhận ra Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa. Y vội chia quân ra cự địch. 
Quân hai bên cùng xung vào tử chiến. Quân Lĩnh-Nam uất nghẹn trước cái chết của Hoàng Đế. Họ đánh như một đội thú dữ. Chỉ hơn một giờ, mười vạn quân Hán đã rời rạc, chỉ còn hơn vạn. 
Mã-Viện tung thêm năm vạn nữa vào. Trận chiến lại diễn ra thảm khốc. Quân Lĩnh-Nam chỉ còn hơn vạn. 
Mã-Viện, Sầm-Anh truyền lệnh thu quân, lui trở về phía Lãng-Bạc. 
Đào-kỳ họp cùng Phương-Dung, Vương bàn: 
– Chúng ta có năm vạn người. Trong khi Mã-Viện có tới hai mươi vạn.Tuy ta giết của Mã được hơn tám vạn, mà ta chỉ còn hai vạn. Chi bằng tạm lui về Long-Biên. 
Phương-Dung truyền quân sĩ thu lượm xác chết các tướng soái, tử sĩ Lĩnh-Nam đem chôn. Bà cố ý tìm, không thấy thi hài Trưng Đế cùng Trưng-Nhị. 
Chiều, rút quân. Hai ông bà đi cản hậu. Còn Thiều-Hoa dẫn các tướng rút quân trước. Mã-Viện không dám đuổi theo. 
Về tới Long-Biên, Vương được tin báo: 
– Trần-Năng, Hùng-Bảo bị bao vây ở Yên-Lãng. Quân tan rã. Hai người hiện rút về phía Đông Long-Biên, cố thủ trong các trang ấp Đăng-Châu. Chu-tái-Kênh có một vạn người, bị năm vạn quân Ngô-Anh vây đánh. Quân tan. Bà rút về Thiên-Trường, cố thủ trong các trang ấp. 
Phương-Dung bàn: 
– Vua đã tuẫn quốc. Bây giờ chúng ta chia nhau tản vào các trang ấp chiến đấu. Đợi khi thế giặc suy, sẽ đổ ra đánh. Đợi giặc không quen thủy thổ, lâm bệnh, ta tập trung quân, đánh một trận lớn thì hy vọng. 
Hoàng Thiều-Hoa, Đào Chiêu-Hiển, Đào Quí-Minh, Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh, Lê Anh-Tuấn, Trần Quế-Hoa, Trần Quỳnh-Hoa đều đồng ý. Ai trở về trang ấp người đó, chống giữ. Đào-Kỳ, Phương-Dung, Sún Rỗ, Sa-Giang cố thủ trong thành Long-Biên. 
Hoàng-thiều-Hoa vốn nhiều tình cảm. Bà biết Hồ-Đề hiện về ẩn ở rừng núi Thiên-sớ, tiếp tục chiến đấu. Bà nhờ Sún Rỗ dùng Thần ưng liên lạc với Hồ-Đề. Hai bà dùng Thần ưng, Thần Hổ phục kích trên đường từ Giao-Chỉ về Trung-Nguyên, đón sứ thần của Mã-Viện đem thi thể Trưng Đế, Trưng-Nhị về dâng Quang-Vũ. Phải mất hơn năm ngày, mới gặp đoàn sứ giả. Võ công Hoàng-thiều-Hoa vốn cao thâm, đội hổ, báo của Hồ-Đề dũng mãnh, thì trăm tên quân chở quan tài Trưng Đế, Trưng Vương làm sao cự lại? Hai bà cướp được thi hài hai Ngài, bí mật đem về an táng ở dưới chân núi Ba Vì, ngày nay có tên là núi Vua Bà. 
Hoàng-thiều-Hoa, Hồ-Đề âm thầm dẫn các đệ tử Tây-Vu, thu nhặt xác chết các tướng tử trận ở Cẩm-Khê đem về quê mai táng. 
Dân chúng Lĩnh-Nam tiếc thương các anh hùng tử trận Hát-Giang, lập đền thờ Trưng Đế, Trưng Vương khắp nơi. Còn các tướng tử trận Cẩm-Khê, đến nay di tích còn lại: 
* Đào-Tam-Gia, tức Sún Lùn, đền thờ tại Hà-Nội. Hồi xây nhà thờ lớn Hà-Nội, bị phá hủy. Nay di tích không còn. 
* Phan-Cung, Sư trưởng Thần hầu, đền thờ tại đình Vĩnh-Tường, xã Lộc-Vượng, thành phố Nam-Định. 
* Đào-Nương, Sư trưởng Thần phong thờ chung với chồng là Đoàn-Công và Trương-Quán, Thập Bát Sơn tại xã Đông-Cứu huyện Gia-Lương, tỉnh Hà-Bắc. 
* Trần Thiêm-Bình Sư trưởng Thần ngao, thờ chung với Hùng-Bản, tại xã Ninh-Xá huyện Thuận-Thành, tỉnh Hà-Bắc. 
* Trần-Ngọc-Tích, Sư trưởng Thần ưng. Thờ tại đền Vũ-Xá, xã Ngô-Quyền, huyện Thanh-Miện, tỉnh Hải-Hưng. 
* Thụ-Côn Công chúa Phan-thị-Hồng, Sư trưởng Thần long, thờ tại đền Tức-Mạc, xã Lộc-Vượng, thành phố Nam-Định. 
* Trương-Quán, Sư trưởng Thần hổ, thờ chung với Đào-Nương, Doãn-Công, Thập Bát-Sơn tại xã Đông-Cứu huyện Gia-Lương tỉnh Hà-Bắc. 
* Phan-Tương-Liệt, Sư trưởng Thần báo. Thờ tại đền Cổ-Linh, xã Lai-Động, huyện Gia-Lâm, tỉnh Hà-Nội. 
* Lê-Hằng-Nghị, Sư trưởng Thần tượng. Thờ tại xã Liêm-Chung huyện Thanh-Liêm, tỉnh Hà-Nam-Ninh. 
* Quách-A, đã được phong Khâu-Ni Công chúa, ăn lộc trang Nhật-Chiêu. Nay là xã Liên-Châu, huyện Yên-Lạc, tỉnh Hà-Bắc. Tại đây có đền thờ bà. Khi Đinh Tiên-Hoàng dẹp loạn sứ quân Kiều-công-Hãn ở Phong-Châu, nghỉ quân ở huyện Cổ-Tự, mộng thấy Khâu-Ni hiện ra xin giúp vua đánh giặc. Sau khi dẹp xong sứ quân, vua Đinh Tiên-Hoàng phong Khâu-Ni làm Thượng đẳng phúc thần. Vua Lê Đại-Hành phong làm Công Chúa Huệ-Gia Trinh Thục Phu Nhân. Vua Lê Tthái-Tổ cũng ban sắc phong, truyền dân chúng phải kiêng bốn chữ "A Nương Khâu Ni". Khi vua Trần-thái-Tôn đánh giặc Mông-Cổ ở sông Lô, được Khâu-Ni báo mộng đem âm binh giúp. Vì vậy hết giặc, vua phong Khâu-Ni làm "Huệ Gia, Chí Đức, Ôn Từ Công Chúa". 
* Hùng-xuân-Nương, trước được phong Thanh-Sơn Công Chúa. Ngày nay dọc đường từ bến đò Ngọc-Tháp, Phú-Thọ tới bến Trung-Hà, các xã Hương-Nha, Vực-Trường, Thanh-Uyên, Tam-Cương, Cổ-Tiết, Hương-Môn, đều có đền thờ Xuân-Nương. Đền thờ Hương-Nha có hai câu đối như sau: 
Yểu điệu phù Trưng, trung quán nhật. 
Quật cường cự Hán tiết lăng sương. 
Dịch nghĩa: Người yểu điệu phù vua Trưng, lòng trung nghĩa tranh sáng với mặt trời. Quật cường chống giặc Hán, khí tiết thắng cả thời gian. 
Anh kiệt vô song, vạn cổ thanh danh lưu nữ sử. 
Quân thần câu hóa, nhất không trung nghĩa tối thanh thiên. 
Dịch nghĩa: Anh kiệt không có hai, danh tiếng nghìn đời còn ghi sử nữ. Vua tôi cùng chết, làm trời xanh vằng vặc cũng còn thua. 
* Nguyễn-Quý-Lan, trước đã được phong Liên-Sơn Công Chúa. Hiện nay còn đền thờ ở xã Liên-Sơn, huyện Lập-Thạch, tỉnh Vĩnh-Phú. Quý-Lan còn được thờ ở miếu Khuôn, Đáp-Cầu và đình Thần-Sơn. 
... 
Bắc-Bình vương Đào-Kỳ cùng Vương phi Nguyễn-phương-Dung cố thủ trong thành Long-Biên. Lưu-Long, Vương-Bá, Mã-Viện, Lê-đạo-Sinh chia nhau dẫn quân đánh chiếm các trang ấp. Các Lạc hầu, Lạc tướng, dân chúng cương quyết cố thủ. Khi một trang thất thủ, quân Hán tràn ngập, trang chỉ còn bãi đất hoang, người chết nhà cháy, không còn gì. 
Cứ như các cuốn phổ kể, thì Chu-tái-Kênh kháng chiến vùng Nam-Định, Ninh-Bình, Thái-Bình ngày nay. Trần-Năng, Hùng-Bảo kháng chiến ở vùng Hải-Dương, Kiến-An. Hoàng-thiều-Hoa kháng chiến ở vùng Bắc-Ninh, Sơn-Tây, Phú-Thọ, Hoà-Bình. Đào-hiển-Hiệu, Đào-quí-Minh, Đào-phương-Dung kháng chiến ở vùng Hà-Nội, Hà-Đông. Trần-Quốc kháng chiến ở vùng ven biển cùng Tử-Vân. Trần-quế-Hoa, Trần-quỳnh-Hoa kháng chiến ở vùng Sơn-La, Lai-Châu. Đô-Dương, Lại-thế-Cường vẫn hùng cứ vùng Thanh-Hóa, Nghệ-An. 
Mã-Viện phái Phùng-Đức, Sầm-Anh, Liêu-Đông Tứ Ma đi đánh phá các nơi. Quân hao tướng tổn, suốt từ tháng ba đến tháng bảy vẫn chưa bình được. Quân Lĩnh-Nam cứ như ma, khi ẩn khi hiện. Gặp quân Hán đi lẻ tẻ, lại đổ ra đánh. Đại quân địch kéo đến, lại trốn mất. 
Cuối tháng bảy, Quang-Vũ gửi chiếu chỉ hạ lệnh cho Mã-Viện bằng mọi giá phải đánh chiếm Long-Biên, vì Long-Biên, Đào-Kỳ, Phương-Dung, thì linh hồn chiến đấu vẫn còn. Mã-Viện để Lưu-Long dàn quân đóng khắp nơi. Còn y kéo hai mươi vạn quân cùng Sầm-Anh, Phùng-Đức, Liêu-Đông Tứ Ma về vây Long-Biên. Trong thành Long-Biên chỉ còn hơn hai vạn người. Tướng lĩnh có Đào-Kỳ, Phương-Dung, ba anh em Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Đào, Phương-Dung, Sún Rỗ, Sa-Giang. 
Đánh liền một tháng, vẫn không hạ được thành. Cuối cùng Lê-đạo-Sinh hiến kế: Chia hai mươi vạn quân thành năm đạo. Mỗi đạo công thành ba ngày. Cứ như vậy luân phiên, khiến quân giữ thành mệt mỏi. Bấy giờ bắc thang tràn vào, ắt chiếm được. 
Quả nhiên kế của Lê-đạo-Sinh hữu-hiệu. Mã-Viện công thành liên tiếp mười ngày, quân trong thành mệt mỏi. Phần bị thương, phần chết, lương thảo cạn dần. Bắc-Bình vương Đào-Kỳ họp các tướng nghị kế. Các tướng đều xin đánh một trận, giết giặc cho sướng tay rồi chết. 
Vừa lúc đó Vương nhận được thư Cửu-Chân vương Đô-Dương. Đô-Dương ước hẹn đem quân đánh từ trong ra. Ngoài này Đào-Kỳ đánh vào, mở thông đường Cửu-Chân, Giao-Chỉ. Hẹn 14 tháng tám là ngày xuất quân. 
Đào-hiển-Hiệu tỏ vẻ hoài nghi: 
– Chúng ta chỉ còn hai vạn người, trong khi Mã-Viện có hai mươi vạn. Chỉ sợ khi vừa mở cổng thành, chúng ta đã bị tràn ngập. 
Bắc-Bình vương quyết định: 
– Ngày 14 tháng tám ta sẽ mở cổng thành tử chiến. Các tướng phá vòng vây, ẩn vào dân chúng, hoặc tiến về Cửu-Chân cùng Đô-Dương, Chu-Bá tiếp tục chống giặc. 
Ấn định mọi việc xong, Vương về dinh, thấy hai con Tử-Khâm, Tường-Qui còn ngây thơ, nô đùa, cười nói, không biết gì, Vương nhìn hai con, lòng tràn đầy thương cảm. Vương đưa mắt nhìn Sa-Giang, Sún Rỗ rồi rơi nước mắt nói: 
– Sư huynh muốn tử chiến, ngặt vì có chút tâm sự chưa giải quyết xong. Nếu hai em hứa giúp anh. Anh mới yên tâm giết giặc. 
Sa-Giang, Sún Rỗ quì xuống, khóc: 
– Dù khó khăn, dù nhục nhã đến đâu, chúng em quyết thi hành ước muốn của anh. Có phải anh muốn chúng em ẩn nhẫn chịu nhục, nuôi hai cháu chờ một mai trả thù nhà nợ nước? 
Sa-Giang chợt loé lên tia sáng, bá nói: 
– Sư huynh, nếu sư huynh tin tưởng, xin giao hai cháu cho vợ chồng em. Hai đứa chúng em vốn thạo tiếng Hán. Chúng em đem hai cháu, nhận làn con, ẩn vào với đám dân người Hán trong thành. Mã-Viện đánh vào, tất không hại người Hán. Chúng em sẽ đem hai cháu, tìm nơi nào đó ẩn thân, dậy dỗ chúng. Đào-Kỳ trao cho Sún Rỗ cuốn Lĩnh-Nam vũ kinh: 
– Đây là tất cả tinh hoa, văn minh Lĩnh-Nam. Anh trao cho em. Em hãy cầm lấy, mà luyện tập, rồi dạy học trò. Đợi mai này, khởi binh đuổi giặc Hán. Bất cứ trường hợp nào cũng không thể để mất. 
Sún Rỗ quì xuống nhận sách. Nguyễn Phương-Dung bồng Đào-tử-Khâm, Đào-tường-Qui trao cho Sún Rỗ, Sa-Giang. Bà dặn con trong nước mắt: 
– Con ơi! Con sinh ra trong thời loạn. Vua Trưng tuẫn quốc. Dân Lĩnh-Nam điêu linh. Con hãy đi theo chú thím. Chú thím thay bố mẹ nuôi con, dạy con. Nhất nhất phải nghe lời chú thím. 
Đến đó bà nấc lên, nghẹn lời, nước mắt tuôn ra như suối. 
Hai đứa trẻ như có linh tính. Chúng ôm lấy cổ Sún Rỗ, Sa-Giang. Sa-Giang, Sún Rỗ thu xếp hành lý, cúi đầu lạy Đào-Kỳ, Phương-Dung, bồng hai đứa trẻ lên đường. Đào-tử-Khâm hỏi: 
– Bố ơi! Thế thì bố với mẹ chết à? Sao bố mẹ lại bỏ con mà chết? 
Đào vương cầm tay hai con: 
– Vua Trưng chết! Bố mẹ chết, để đền nợ Lĩnh-Nam. Các con nhớ: Phải học văn, luyện võ, một mai trả nợ nước thù nhà. 
Hai đứa trẻ khóc thét lên: 
– Không! Bố mẹ không chết! Con ở lại với bố mẹ. 
Sún Rỗ nắm chặt tay nó: 
– Không! Bố không bao giờ chết! Mẹ không bao giờ chết. Bố, mẹ sống mãi với đất nước Lĩnh-Nam. 
Hai người nhảy lên mình ngựa ra roi. Ngựa phi vút đi, còn văng vẳng tiếng hai đứa trẻ vọng lại: 
– Bố ơi! Mẹ ơi! Đừng xa con. Bố đừng chết nghe bố! 
Đào-Kỳ, Phương-Dung gạt nước mắt, nhìn theo bóng hai con. 
Vương trở vào, các tướng đã nai nịt chỉnh tề. Vương ra lệnh: 
– Chúng ta cùng xông ra cửa Nam. Ta với Phương-Dung dẫn đầu, đánh phá vòng vây. Các tướng đi sau cùng xông vào. Lợi dụng lúc đêm tối, mỗi người chạy một ngả. Chúng ta ẩn vào dân chúng tiếp tục chiến đấu. Ba em Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Phương-Dung không được tham chiến, phải chạy về Cổ-Loa ngay. 
Đợi đúng canh ba, cổng thành mở rộng. Đào-Kỳ phóng ngựa ra trước. Tiếp theo Phương-Dung với các tướng, xông vào hàng ngũ Hán. Quân Hán chợt thức giấc, thì mọi người đã rời khỏi vòng vây. 
Mã-Viện nghe báo, kinh hãi. Y gọi Lê-đạo-Sinh, Phùng-Đức, Sầm-Anh, Liêu-Đông Tứ Ma bắt lên ngựa mang Thiết kị đuổi theo. Đuổi được một quãng, gặp Đào-Kỳ, Phương-dung. Bảy đại cao thủ vây hai người vào giữa. Mã-Viện đứng trên mô đất cao, cầm đèn chỉ huy. Thiết kị bao vây trùng trùng điệp điệp. Đào-Kỳ gò ngựa hỏi: 
– Uổng cho chúng bay là đệ nhất cao nhân đương thời mà bảy người vây đánh hai chúng ta. Nếu các ngươi còn là con người, hãy lấy một chọi một. 
Phùng-Đức cười gằn: 
– Ta đấu với ngươi, để trả thù cho Phùng-Dị. 
Sầm-Anh bước ra nói với Phương-Dung: 
– Ta đấu với mi, trả thù cho Sầm-Bành. 
Đào-Kỳ không nói không rằng. Vương vận khí về Tam Dương kinh xuất chưởng tấn công Phùng-Đức. Phùng-Đức biết bản lĩnh Đào-Kỳ không tầm thường. Y vội vận chưởng chống lại. Binh, binh hai tiếng. Người y bật lui lại hai bước, khí huyết đảo lộn. Đào-Kỳ biết bên địch đông, bên mình ít. Vương muốn kết liễu tính mệnh Phùng-Đức càng mau càng tốt. Vương vận đủ mười thành công lực. Mỗi chưởng đánh ra, Phùng-Đức phải lui lại. Vừa đánh Vương vừa nhìn sang bên cạnh, thấy vợ đấu với Sầm-Anh thắng thế rõ rệt. 
Thình lình Vương quát lên một tiếng, xuất chiêu Hải Triều Lãng Lãng. Lớp thứ nhất đánh ra. Binh một tiếng Phùng-Đức lui lại hai bước. Lớp thứ nhì đổ tới, mạnh nghiêng trời lệch đất, binh một tiếng, Phùng-Đức bay vọt về sau, lảo đảo muốn ngã. 
Đào-Kỳ phát lớp thứ ba. Mã-Viện đứng ngoài quát tháo, Lê-đạo-Sinh, Chu-Long cùng xuất chưởng. Thế là ba người cùng đỡ lớp chưởng thứ ba của Vương. Rầm một tiếng, Vương bật lui hai vước, phát lớp thứ tư. Ba đại cao thủ hít một hơi phát chưởng đỡ. Ầm một tiếng, cả hai bên đều bật lui. Đào-Kỳ nghiến răng phát lớp thứ năm. Ba đại cao thủ xuất chiêu đỡ. Vương đẩy chưởng ra. Chưởng của Vương dính chặt vào chưởng của ba người. Hai bên thi diễn cuộc đấu nội lực. 
Vương vừa đánh với Phùng-Đức, Lê-đạo-Sinh, Chu-Long, vừa quan sát trận đấu giữa Phương-Dung với Sầm-Anh. Thình lình Phương-Dung quay kiếm ba vòng. Đầu Sầm-Anh bị tiện đứt, máu phun lên có vòi. 
Ngô-Anh, Trịnh-Sư, Vương-Hùng rút vũ khí xông vào. Võ công một trong Liêu-Đông Tứ Ma vốn ngang với Lê-đạo-Sinh, kiếm thuật Phương-Dung dù cao đến đâu cũng không địch lại ba người. 
Đào-Kỳ chợt nhớ ra phương pháp qui liễm chân khí, mà Vương đã phát minh ra khi đấu với Song Quái. Ông dùng chân khí của Lê-đạo-Sinh chuyển sang trái đánh với Phùng-Đức, Chu-Long. Phút chốc Lê-đạo-Sinh lảo đảo, chân khí muốn cạn. Vương vung tay một cái, Lê-đạo-Sinh bật lui trở lại. Vương thu tay về xuất chưởng đánh Phùng-Đức, Chu-Long. Binh, binh hai người bay lên cao. Vương rút kiếm đưa một nhát. Hai người bị đứt đôi, xác rơi xuống trước ngựa. 
Mã-Viện không ngờ công lực Đào-Kỳ mạnh đến thế. Trong khi Đào-Kỳ đấu với ba đại cao thủ, Mã-Viện đã phục sẵn mười đội "Đoạn đầu quân" xung quanh. Khi thấy Đào-Kỳ đánh bay Lê-đạo-sinh, giết Phùng-Đức, Chu-Long. Mã-Viện hô lên một tiếng, đoạn đầu quân dùng vũ khí đâm vào người Vương. Vương quay chưởng một vòng. Vũ khí bị đánh dạt ra. Vương nhấp nhô một cái thoát khỏi vòng vây. Mã-Viện cầm cờ chỉ theo. Thiết kị "Đoạn đầu quân" bổ vây kín mít. Vương bị trúng hai mũi tên vào ngực, một mũi trúng bụng. 
Vương rút kiếm, ánh kiếm đến đâu, đầu rơi đến đó. Vương vừa đánh vừa tiến về phương Nam. Mã-Viện cầm đèn chỉ theo. Đánh đến sáng, người mệt lử. Vương cầm kiếm, ngồi dựa vào gốc cây thở. Quân Hán thấy Vương oai phong lẫm liệt, không dám lại gần. Vương rút ba nũi tên, tự băng bó lấy. 
Mã-Viện hò hét, quân sĩ cũng không dám tiến. Chợt cửa trận mở, từ sau, Lê-đạo-Sinh cỡi ngựa tiến ra cùng với năm xe chở Nỏ thần. Lê-đạo-Sinh quát lên: 
– Bắn! 
Nỏ thần bắn như mưa. Đào-Kỳ cầm kiếm gạt tên. Vương vọt lên cao chạy ra khỏi vòng vây. Thấy một tướng Hán đang đứng đốc chiến. Vương nhảy lên chụp cổ y liệng xuống, rồi phi ngựa hướng Cổ-Loa chạy về. 
Trời sáng, tới Cổ-Loa, người mệt lử, Vương nằm phục trên yên ngựa. Con ngựa thủng thẳng đi. Một nông dân chạy lại nhìn. Họ nhận ra Vương từng đánh võ sĩ Tô-Định cho dân Cổ-Loa, Cổ-Lễ, Cổ-Đại khỏi bị Ngũ pháp. Nông dân ấy vội tri hô lên. Dân chúng trong trang vương đỡ vào nhà. Họ lấy nước lạnh đắp lên đầu Vương, nấu cháo đổ vào miệng. Một lát Vương tỉnh dậy, ngơ ngác hỏi: 
– Đây là đâu? 
Một lão ông đáp: 
– Thưa Đại vương đây là Cổ-Loa. 
Vương mỉm cười: 
– Ta là con dân Âu-Lạc. Vì Âu-Lạc khởi binh, bây giờ lại chết ở cố đô Âu-Lạc. Sau khi ta chết, các ngươi hãy chôn ta trong thành này. 
Nói rồi Vương nhắm mắt thiếp đi. Một lát tỉnh dậy, oẹ một tiếng, phun ra bụm máu, rồi tắt thở. 
Còn Phương-Dung đấu với ba đại cao thủ Liêu-Đông. Vừa đánh bà vừa lui. Thình lình bà nhảy vọt lên cao, ánh kiếm loé lên. Người bà đáp xuống. Đầu Trịnh-Sư bay khỏi cổ. Vương-Hùng, Ngô-Anh cùng vung kiếm, đâm thẳng vào ngực bà, định cả hai bên đều chết. Bà chuyển thân mình, kiếm chặt đứt tay phải Ngô-Anh, Ngô-Anh lăn vào, dùng tay trái ôm lấy bà. Trong khi kiếm của bà đâm suốt qua ngực y. Vương-Hùng nhân lúc kiếm bà đâm Ngô-Anh, y thích một kiếm vào ngực phải của bà. Bà đã rút được kiếm ra, ánh kiếm loé lên, đầu Vương-Hùng bay xuống đất. Bà hú một tiếng. Con ngựa Ô phi như bay khỏi vòng vây, hướng Cổ-Loa. 
Bà đến Cổ-Loa vào buổi chiều. Dân chúng nhận được mặt bà, họ ra đỡ ba vào nhà. Bà bước vào nhà thấy xác Vương nằm đó, biết chồng đã chết. Bà ngồi dựa lưng cạnh bàn thờ An-Dương Vương, bảo một tráng đinh: 
– Ngươi lấy cho ta bát nước. 
Bà cầm bát nước uống hết, than: 
– Than ôi! Ta là Tể-tướng, mà Vua tuẫn quốc, chồng chết! Ta còn sống làm gì? 
Bà vung kiếm lên tự tử. 
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ 
Hôm đó là ngày 15 tháng tám năm Quí-Mão, nhằm năm 43 sau Tây Lịch. Dân chúng trong vùng an táng Bắc-Bình vương cùng Vương phi tại Cổ-Loa, lập đền thờ. Trải qua gần hai nghìn năm, cho đến nay, tại các thôn Lộc-Hà, Hội-Phụ, Lê-Xá, Thi-Thôn đều thờ Bắc-Bình vương và Vương phi. Trước đền thờ có hai câu đối. Xin trích dẫn câu: 
Giao-Chỉ tượng thành công, dư lục thập thành, giai kiện tướng. 
Đô-Dương mã bất tiến, hậu thiên vạn tải hữu linh thần. 
Dịch-nghĩa: Voi Giao-Chỉ đã thành công, hơn sáu mươi thành đều công tướng giỏi. Ngựa Đô-Dương chậm bước, nên muôn ngàn năm sau thần vẫn linh. 
Vị lý Phục-Ba thi, loan giá lâm lưu không ẩm hận, 
Bất ly Tiên trấn giáp, Loa thành qui mã thượng trì thanh. 
Dịch nghĩa: Chưa bọc xác Phục-Ba, cạnh sông xe loan còn vang uất hận. Không rời giáp Tiên Trấn, ngựa về Cổ-Loa, vẫn vọng âm thanh. 
Một bài thơ khác: 
Sinh vi lương tướng, tử vi thần, 
Vạn cổ cương thường, hệ thử nhân, 
Loa địa song đôi thuy nguyệt ảnh. 
Anh hùng liệt nữ tướng quân phần. 
Dịch nghĩa: 
 Sống là tướng giỏi, chết là thần. 
Vạn đại cương thường, nặng tấm thân, 
Hai mộ thành Loa trăng chiếu sáng, 
Anh hùng, liệt nữ, mộ tướng quân. 
Năm 1993, tôi về Việt-Nam công tác cho CEP (Coopérative Européenne Pharmaceutique) vào tháng tám. Nhân dịp này, tôi rủ bác-sĩ Trần An-Xuân thuộc bệnh viện Trưng-vương, Sài-gòn viếng thăm di tích Cổ-loa. Sau khi thăm cố đô, chúng tôi tới Lộc-hà, Hội-phụ, mong tìm lại đền thờ Đào-vương. Nhưng đền đã bị phá, chỉ còn cái nền! Tôi đứng trên nền ngôi đền mà khóc. Tôi nghe vào những năm 1992-1997, họ Đào ở Cổ-loa rất phát, có nhiều vị làm lớn như Đào Duy-Tùng, Đào Duy-Cận, Đào Duy-Trữ, cùng một số nữa đeo quân hàm tướng, không biết có phải là con cháu của Vương hay không? Không biết nay, đến thờ Vương đã được tái xây cất không? 
.... 
Ba người đàn bà, một người đàn ông cỡi ngựa, đến chân Hoàng Thành Lạc-Dương. Cả bốn cùng đừng lại, nhấp nhô một cái, bốn người đã vọt qua Hoàng Thành vào trong. Họ cùng hướng lầu Thúy-Hoa mà đi. Tới chân lầu, họ nhìn trước, nhìn sau, vọt người lên tầng thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, rồi thứ tư. Họ bám cửa sổ nhìn vào: Bên trong Quang-Vũ cùng đại thần thiết triều khẩn cấp, nghe Phục-Ba đại tướng quân tấu trình về công cuộc bình định Lĩnh-Nam. Quang-Vũ bảo Tể Tướng Giả-Phục: 
– Cho Lưu-Long, Mã-Viện vào. 
Hai người lên lầu, quì gối tung hô vạn tuế. Quang-Vũ ra hiệu cho hai người bình thân. Y nói với Mã-Viện: 
– Phục-Ba tướng quân thực là đại công thần, có công với xã tắc. Khanh đã bình được Lĩnh-Nam, công ấy không nhỏ. 
Bô Lỗ đại tướng quân Mã-Vũ bước ra tâu: 
– Muôn tâu bệ hạ. Cái xứ Lĩnh-Nam nhỏ xíu, mà Mã-Viện mang tới bảy mươi vạn quân đi đánh, phải hơn ba năm mới bình được, lại làm chết trước sau bốn chục vạn người. Như vậy đâu còn là chiến thắng? Hiện nay triều đình phải phủ tuất bốn mươi vạn gia đình... Hơn nữa làm chết các đại tướng Phùng-Đức, Sầm-Anh, Liêu-Đông Tứ Vương... Thực không thể gọi là công. 
Phò mã Lương-Tùng tâu: 
– Tâu Phụ Hoàng, thần nhi nghe Mã-Viện Nam chinh, chở về hơn mười xe châu báu. Thần nhi nghĩ Mã tướng quân phải dâng số ngọc đó để sung vào công khố mới đúng bậc trung thần. 
Lương-Tùng (Cu Bò) biết tâm lý các đại thần, đều muốn ăn hối lộ. Mã-Viện đánh Lĩnh-Nam chở về mười xe Ý dĩ (Bo bo) hạt to, trắng như ngọc. Lương-Tùng nêu ra, để các quan ghen tỵ, buộc tội Mã-Viện. 
Thái tử Trang có tình sư huynh sư đệ, là bạn từ nhỏ với Lương-Tùng. Thấy Lương nói vậy, cũng tiếp: 
– Tâu Phụ Hoàng. Mã tướng quân Tổng trấn chín quận Kinh-Châu, đem quân đánh Thục, bị lừa, chỉ còn một người, một ngựa trở về, được ân xá. Sau lại đem ba mươi vạn quân đánh Trường-Sa, chôn ba mươi vạn ở hồ Động-Đình. Rồi không có chỉ dụ mà đem mười vạn quân tiếp cứu Lưu-Long, để mười vạn quân chết. Bây giờ, mang quân nghiêng nước, đánh đất Lĩnh-Nam nhỏ một chút, làm chết bốn mươi vạn người. Thực không phải công, mà là tội vậy. 
Mã-Viện lột mũ quăng xuống đất tâu: 
– Tâu bệ hạ! Thần có chở về mười xe Ý dĩ chứ không hề có ngọc. Còn việc hao binh tổn tướng, vì Lĩnh-Nam anh tài nhiều... 
Các triều thần xúm vào, mỗi người buộc tội một câu. Trước kia Quang-Vũ không ưa Mã-Viện, vì Mã là cháu Mã thái hậu. Bây giờ Mã thái hậu chết rồi. Quang-Vũ chỉ muốn dùng Viện đánh giặc. Nay nhân lời buộc tội các công thần. Quang-Vũ phán: 
– Phía Bắc Hung-Nô phạm biên. Trẫm tha cho Mã tướng quân tội làm hao binh tổn tướng, và tội lấy mười xe ngọc. Nội ngày mai phải lên đường đánh giặc. Trẫm cử Bô-lỗ đại tướng quân Mã-Vũ đem quân theo trợ chiến. Phò mã Lương-Tùng làm giám quân. Cần cố gắng lập công chuộc tội. 
Mã-Viện lạy tạ lui. 
Tể Tướng Giả-Phục hô: 
– Mời Lĩnh-Nam công Lê-đạo-Sinh cùng các đệ tử vào triều kiến. 
Bọn Lê-đạo-Sinh vào quì mọp xuống tung hô vạn tuế. Quang-Vũ bảo Thái giám hầu cận: 
– Lấy rượu để trẫm ban thưởng cho Lĩnh-Nam công và các Thái thú. 
Quang-Vũ rót rượu, thưởng Lê-đạo-Sinh, cho tới bọn Đức-Hiệp, Đinh-công-Thắng, Triệu-anh-Vũ mỗi người bốn chung. Uống hết bốn chung rượu, thầy trò Lê-đạo-Sinh thấy mắt hoa đầu váng, loạng choạng ngã xuống. Quang-Vũ cùng triều thần cười ầm lên khoái trá, y truyền Thị vệ trói lại, lấy nước lạnh đổ lên đầu. Lê-đạo-Sinh tỉnh dậy, thấy năm đệ tử bị trói với Đinh-công-Thắng, Triệu-anh-Vũ. Y kêu lên: 
– Bọn thần nhất tâm, nhất dạ phò tá bệ hạ. Không biết có tội gì mà bị trói như thế này? 
Quang-Vũ cười nhạt: 
– Ngươi trung thành với trẫm ư? Máu thịt ngươi là Lê-thị-Hảo, là Chu-Bá ngươi còn muốn giết. Vua ngươi là Trưng-Trắc thực anh hùng, mà ngươi còn nỡ hại. Dân Việt là đồng bào ngươi, mà ngươi dẫn quân Hán chém giết, thì ngươi tử tế với ai? 
Y nói với Lương-Tùng: 
– Trẫm giao chúng cho Phò mã quản thúc. Chúng có tội thì xử, có công thì thưởng. Dù tội gì, Phò mã cũng không được giết chúng. Dù công gì, Phò mã cũng không được tha chúng. 
Quang-Vũ nói với triều thần: 
– Cái thứ lưu manh, ngu xuẩn như Lê-đạo-Sinh mà cũng muốn qua mặt trẫm! Các khanh thử nghĩ xem, trẫm là người Hán, đem đại quân xuống Lĩnh-Nam giết người Việt, chiếm đất, đốt nhà, cai trị như trâu như chó. Bất cứ người Việt nào cũng thù hận trẫm. Trong khi đó nước Lĩnh-Nam có vua anh hùng, tướng sĩ lương đống. Thế mà y chạy sang cúc cung cúi đầu phục tùng trẫm, thử hỏi lòng dạ y có tin được không? Nhà đại Hán lập lên đã dư hai trăm năm. Đời nào cũng có bậc tôi hiền, trung thần phò tá. Trẫm không trừng phạt bọn Lê-đạo-Sinh để nêu gương, thì e rằng sau này bọn phản nghịch như Vương-Mãng sẽ còn nhiều. 
Lương-Tùng dạ một tiếng, truyền dẫn tám người xuống lầu. Tám người còn bị thuốc mê mơ mơ hồ hồ chưa tỉnh. Lương-Tùng giải bọn Lê tới phủ Phò mã, đưa đến một ngôi nhà lớn. Chàng lấy chìa khóa mở cửa. Đám Thị vệ đẩy thầy trò Lê-đạo-Sinh vào trong. Ngước mắt nhìn lên, Lê-đạo-Sinh cảm thấy gai ốc mọc cùng mình. Y đưa mắt nhìn đồng bọn, ngụ ý báo cho nhau biết những gì không hay sắp đến. Trong đại sảnh, đèn nến sáng trưng, ở giữa một bàn thờ hương khói nghi ngút. Phía trước bàn thờ, tượng một phụ nữ mặc quần áo vàng ngồi trên ngai sơn son thếp vàng, lớn như người thực. Trước tượng có bài vị đề. 
"Lĩnh-nam Hoàng-đế. 
Tính Trưng, húy Trắc chi linh vị". 
Phía sau tượng có ba người nữa, một người đàn ông, mặc phẩm phục Vương, phía trước có bài vị: 
"Đại-tư mã Lĩnh-nam, Bắc-bình vương, 
Tính Đào húy Kỳ, tam sư huynh chi linh vị". 
Tượng người thứ nhì là nữ, trước có bài vị: 
"Lĩnh-nam Tư-không Nguyệt-đức công chúa. 
Tính Phùng, húy Vĩnh Hoa chi linh vị". 
Tượng người thứ ba là nam, trước có bài vị: 
"Lĩnh Nam Tư Đồ, Tương-liệt đại vương, 
Tính Nguyễn, húy Thành Công chi linh vị". 
Tiếp theo đủ tượng, bài vị, nào là Tể Tướng Nguyễn-phương-Dung cho đến các Lạc vương, các tướng thống lĩnh đạo binh, nhất là các tướng lĩnh Tây-Vu không thiếu một người nào. Lê-đạo-Sinh quát hỏi: 
– Ngươi là Phò mã của đương kim Thiên tử mà đi thờ kính con phản tặc Lĩnh-Nam. Tội này thực đáng tru di tam tộc. Ngươi là ai? 
Lương-Tùng chỉ vào mấy bài vị phía sau: 
– Ngươi cứ đọc bài vị này sẽ biết. 
Lê-đạo-Sinh đọc: 
"Lĩnh-nam Lạc-vương Quế-lâm, 
Nghĩa phụ tính Lương, húy Hồng-Châu chi linh vị". 
Mấy bài vị khác: 
"Lĩnh-nam Đăng-châu Quốc-công, 
Sư phụ tính Đào, húy Thế Hùng chi linh vị". 
Lương-Tùng chỉ vào mấy bài vị khác: 
– Đây là bài vị sư huynh Hiển-Hiệu, Quí-Minh, sư tỷ Phương-Dung, Hồng-Thanh. 
Lê Đạo-Sinh mắng: 
– Thì ra mi là gian tế Lĩnh-Nam. Mi tôn tên phản tặc Lương Hồng-Châu làm nghĩa phụ, mi lại là đệ tử của đại phản tặc Đào Thế-Hùng. 
Lương-Tùng cười nhạt: 
– Hôm nay ta trả thù nước, thù nhà, thù môn hộ. 
Lê Đạo-Sinh biết việc chẳng lành sắp xẩy ra. Y hít một hơi chân khí vận sức vào cánh tay, xương cốt kêu răng rắc. Các dây trói đứt tung ra. Lương-Tùng kinh hoảng hô Thị-vệ nhảy vào ôm chặt lấy y. Lê-đạo-Sinh vung tay một cái, đám Thị– vệ văng ra ngoài, bị thương nằm dài trên đất. Lê Đạo-Sinh chồm tới chụp Lương-Tùng. Chàng nhảy lui lại thét lên: 
– Mạng ta cùng rồi! 
Thình lình hai bóng đen bịt mặt từ ngoài nhảy vào cùng vung chưởng tấn công Lê-đạo-Sinh. Binh, binh hai tiếng. Lê bật lui lại sau, người lảo đảo muốn ngã. Lương-Tùng hô Thị-vệ nhảy vào ôm cổ y vật xuống trói lại. 
Sự thực bản lĩnh Lê-đạo-Sinh đâu phải tầm thường? Song y bị đánh thuốc mê còn chưa tỉnh, lại bị hai đại cao thủ đánh hai chưởng một lúc, khiến khí huyết đảo lộn. Vì vậy Thị– vệ mới trói được y. 
Lương-Tùng nhìn hai người bịt mặt cứu chàng, trông dáng rất quen, mà nhất thời chàng không nhớ được đã gặp ở đâu? Tên là gì? Có điều hai chưởng mà người bịt mặt dùng lại khác nhau. Một người dùng chưởng Cửu-chân, một người dùng chưởng Phục-ngưu. Chàng cung kính hỏi bằng tiếng Việt: 
– Đa tạ tiền bối cứu mạng. Xin tiền bối cho biết cao danh quí tính? 
Hai người cười nhạt một tiếng, thấp thoáng, đã biến mất. Lương-Tùng nhìn dáng hai người, nhận ra là hai phụ nữ. 
Chàng quay lại nói với Lê Đạo-Sinh: 
– Tên lưu manh này! Về võ công, mi luyện đến mức vô địch thiên hạ. Chỉ vì lương tâm không có, mi hại Hoàn-đế Lĩnh-Nam, hại dân Việt. Tội ác mi chồng chất. Mi đâu ngờ có ngày hôm nay. Hôm nay ta hãy cắt gân mi, để mi không xử dụng võ công được nữa. 
Chàng quì xuống trước bàn thờ. Đám Thị-vệ cũng quì theo. Chàng lạy tám lạy, chắp tay khấn: 
"Chị Hoàng Đế có linh thiêng xin về chứng giám cho đứa em lưu lạc. Ngày nọ chị đến hồ Động-đình ban chỉ cho em phải sang Trung-Nguyên giúp chị Tường-Qui. Em vẫn canh cánh trong lòng chỉ dụ của chị, không bao giờ quên Lĩnh-Nam. Em thân làm Phò– mã Hán, mà lòng để ở Lĩnh-Nam". 
Đến đây chàng bật lên tiếng khóc. Bọn Thị-vệ cũng khóc theo. Chàng khấn tiếp: 
"Sư phụ, nghĩa phụ, sư huynh, sư tỷ cùng các anh hùng Lĩnh-Nam. Anh hồn hãy về đây chứng giám cho con. Con sống giữa vinh hoa, phú quí, mà lòng chẳng đổi thay. Nước mất, lòng con đau như dao cắt. Hôm nay con xin đem kẻ thù đến tế trước vong linh "Chị Hoàng Đế", nghĩa phụ, sư phụ. Tại Thiên chi linh xin về cùng hưởng". 
Thị vệ đem đến nào lợn, nào gà, nào các thức ăn. Chàng quì xuống dâng lên, nước mắt tuôn lã chã: 
– Lễ vật đạm bạc, xin "Chị Hoàng-đế" cùng sư phụ, nghĩa phụ, sư huynh, sư tỷ từ Thiên chi linh xin về chứng cho. 
Chàng quay lại, thấy Công chúa Đoan-Nhu cũng quì gối bên cạnh, nước mắt đầm đìa. Lê Đạo-Sinh hậm hực: 
– Ta thực không hiểu! Ta điên rồi! Ngươi là thân thế cành vàng lá ngọc, là Công-chúa Thiên-triều, lại đi quì gối tế lễ, khóc thương bọn phản tặc Lĩnh-Nam. Trong khi ta có công, thì bị trói, bị làm nhục. Thế là thế nào? 
Công chúa Đoan-Nhu nhổ bãi nước miếng vào mặt Lê Đạo-Sinh: 
– Tên lưu manh nhất thế Lê Đạo-Sinh kia! Mi đã bảy mươi tuổi mà không hiểu ư? Nhà đại Hán trải qua trên hai trăm năm, lấy đạo Thánh cai trị Thiên-hạ. Triều đình lao tưởng các bậc trung lương, các bậc hiếu tử và phụ nhân tiết liệt. Có đâu dung tưởng bọn nghịch tặc như mi? Phụ hoàng ta biết Hoàng– đế Lĩnh-nam anh hùng, các bầy tôi đều trung liệt, có tài có chí. Bởi đất không hai mặt trời, nước không hai vua. Nhà đại Hán với Lĩnh-nam không thể cùng đứng. Lĩnh-nam còn, Thục còn, là mối nguy cho đại Hán. Lĩnh-nam giúp Ngũ-phương chia cắt Trung-nguyên... Đó chẳng qua là vì cái "thế không cùng đứng" giữa hai nước. Phu-hoàng ta vì khâm phục anh hùng Lĩnh-nam mà phải đánh Lĩnh-nam để tự tồn. 
Nàng chỉ Lương-Tùng: 
– Khi Hoàng-đế Lĩnh-Nam tuẫn quốc. Phò mã định tự tử cho trọn lòng trung. Phu-hoàng ta thương người trung lương, không những không trách phạt, mà còn cho phép được thờ Hoàng-đế cùng các anh hùng đất Việt. Ngươi hiểu chưa? 
Lương-Tùng cầm kiếm đến trước Lê Đạo-Sinh. 
Chàng rút kiếm, đưa một nhát, gân tay, gân chân Lê Đạo-Sinh đứt rời. Bấy giờ chàng mới đưa một nhát kiếm, dây trói y đứt. Lê Đạo-Sinh hét lên một tiếng, định xuất chiêu. Song gân vai, cùi chỏ, cườm tay đều bị đứt. Người y chỉ rung động một cái rồi thôi. Lương-Tùng truyền hai Thị-vệ đè y ra cạy miệng. Chàng vung kiếm, lưỡi y bị cắt. Máu miệng chảy ra lênh láng. 
Chàng đến trước Phong-châu Song-quái: 
– Hai đứa quỉ quái này. Mi theo học với sư bá Nguyễn Thành-Công, phản sư môn đi tác ác thiên hạ. Mi vu vạ, đánh phá Đinh, Đào trang... rồi gây ra biết bao nhiêu tội ác? 
Chàng quì gối trước bài vị Đào Thế-Kiệt, Đinh Xuân-Hoa, Đinh-Đại, Trần Dương-Đức, Đào Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn, Nguyễn Tường-Loan khấn: 
– Đại sư bá, sư thúc cùng các sư huynh sư đệ về chứng giám cho đệ tử trả thù xưa. 
Chàng vung kiếm cắt gân tay, chân, cắt lưỡi Song-quái, rồi sai Thị– vệ rịt thuốc cho chúng khỏi chết. 
Một Thị-vệ đứng dậy, nói với Lương-Tùng: 
– Sư huynh cho em trả thù với. 
Thị vệ đó chính là Chu Đỗ-Lý. Lương-Tùng gật đầu. Chu Đỗ-Lý cầm kiếm đến trước mặt Lê Đức-Hiệp: 
– Tên gian manh này! Mi cùng sư phụ, sư mẫu ta vốn đồng môn hộ. Thế mà mi theo Mã-Viện, đem đại quân đánh Cửu-chân, giết chết sư phụ ta. Hôm nay mi phải đền tội. 
Chàng quì trước bài vị Chu-Bá, Lê-thị Hảo khấn: 
– Xin sư phụ, sư mẫu về xem đệ tử trả thù. 
Chàng vung kiếm lên, cắt hết gân chân, tay, cắt lưỡi Lê Đức-Hiệp, Ngô Tiến-Hy, Hoàng Thái-Tuế. Chu Chiêu-Trung cũng xin xử tội Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ. 
Thình lình bốn bóng đen từ ngoài nhảy vào sảnh đường. Chỉ mấy chiêu các Thị-vệ bị đánh ngã. Một bóng đen dí kiếm vào cổ Lương-Tùng, nói dõng dạc: 
– Im lặng! La lên một tiếng, ta chặt đầu liền. 
Lương-Tùng thấy trong bốn người, có cả hai phụ nữ đánh Lê Đạo-Sinh cứu chàng. Chàng lên tiếng hỏi: 
– Các vị là ai? Dường như các vị người Lĩnh-Nam. Các vị đến đây có việc gì? Tại sao lại kiềm chế tại hạ? 
Bốn người cùng lột khăn che mặt ra. Lương-Tùng reo lên: 
– Chu lão bá! Hoàng sư tỷ! Anh Sún Rỗ, chị Sa-Giang. Các vị đến thăm Cu Bò này, cứ đường đường chính chính mà đến! Việc gì phải đi trong đêm! 
Chu Tái-Kênh điểm một Lĩnh-Nam chỉ, đánh gãy đôi thanh kiếm của Lương-Tùng, mặt bà lạnh lùng: 
– Chúng ta đến đây giết tên phản tặc. 
Suốt mấy năm qua Lương-Tùng học văn đến trình độ uyên bác, định lực rất cao. Chàng thản nhiên nói: 
– Nếu lão bá nêu lên được một hành vi nào của Cu Bò này trái với võ đạo Cửu-chân, phản bội Lĩnh-Nam. Cu Bò sẽ tự xử, không cần đến lão bá ra tay. 
Nguyên sau khi Mã-Viện đánh chiếm được Long-biên. Tuy các đại tướng Phùng-Đức, Sầm-Anh, Liêu-Đông Tứ Ma bị Đào-Kỳ, Phương-Dung giết chết. Song các đại cao thủ trẻ của Hán theo quân tới hàng trăm. Mã-Viện phân phối họ đi các nơi đánh từng trang ấp một. Trước hết Tử-Vân tuẫn quốc ở cửa biển Thần-phù. Công chúa Gia-Hưng Trần-Quốc tuẫn quốc ở Hoàng-xá. Tiếp theo đến Lê-thị Lan, Lê Anh-Tuấn, Lê Ngọc-Trinh, Trần Quế-Hoa, Trần Quỳnh-Hoa, Phùng Vĩnh-Hoa, Đào Hiển-Hiệu, Đào Quí-Minh, Đào Phương-Dung, Nguyễn Thành-Công đều tuẫn quốc. Chỉ có Trần-Năng, Hùng-Bảo, Hoàng Thiều-Hoa, Chu Tái-Kênh, Sún Rỗ, Sa-Giang, Hồ-Đề hãy còn tiếp tục kháng chiến. 
Mã-Viện tiến quân vào đánh Cửu-chân. Bị Đô-Dương phá hai lần, thiệt mười vạn quân. Cuối cùng Mã-Viện sai Lê Đạo-Sinh cùng bọn Song Quái mang Nỏ-thần vào đánh. Đô-Dương, Đinh-Đại, Đào Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn, Chu-Bá đều tử trận. Mã-Viện đánh tới Nhật-Nam. Trương Thủy-Hải, Trương Đằng-Giang, Trần Khổng-Chúng tuẫn quốc. Lại Thế-Cường rút vào rừng kháng chiến. 
Mã-Viện được chiếu chỉ Quang-Vũ hồi triều, giao đất cho các quan văn tới trấn nhậm. Để tự ghi công mình, Mã-Viện sai dựng một cột đồng trụ lớn, trên khắc chữ: 
Đồng-trụ chiết Giao-chỉ triệt. 
Nghĩa là: Cột đồng trụ gãy, thì Giao-chỉ bị diệt. 
Dân chúng Giao-chỉ thấy vậy, mỗi khi đi qua cầm một cục đá ném vào chân cột đồng. Ít lâu sau cột đồng bị lấp đi mất. Mã-Viện lấy cớ đó thượng biểu về triều tâu rằng, dân Lĩnh-Nam vẫn còn tưởng cố quốc. Cần phải cho trọng binh đóng. Ngược lại Quang-Vũ cùng triều thần nghị kế, thấy lĩnh-Nam quá xa xôi, mà giao trọng binh cho Mã-Viện, lỡ Mã làm phản, thực khó mà dẹp được. Mã-Vũ, Chu Tường-Qui, Lương-Tùng mật nghị với nhau rằng cần làm áp lực để Mã-Viện rút đại binh về, đất Lĩnh-Nam trao cho bọn văn quan. Lực lượng kháng chiến mới có thể tái hoạt động. 
Mã-Vũ cho người thân tín phao khắp nơi rằng Mã-Viện sắp làm phản. Tin đó đến tai Quang-Vũ. Quang-Vũ hỏi ý kiến Chu Tường-Qui, nàng tâu: 
– Triều Hán thường bị nạn ngoại thích cầm binh quyền, gây ra mầm mống phản loạn. Trước đây Lã hậu, rồi Mã hậu. Cái gương Vương-Mãng còn đó. 
Quang-Vũ hỏi Âm Hoàng-hậu, bà bị ảnh hưởng của Thái-tử Trang, Công chúa Đoan-Nhu. Mà hai người này bị ảnh hưởng của Lương-Tùng. Vì vậy bà tâu: 
– Từ trước đến giờ Mã-Viện ỷ cô làm Thái-hậu, lại có bốn anh em cầm đại quân. Bây giờ bốn anh em chết hết ba. Mã hậu không còn. Song Mã lúc nào cũng là mối lo cho triều đình. 
Vì vậy Quang-Vũ gửi mật chiếu cho Lưu-Long. Lưu-Long mời Mã-Viện đến bản dinh uống rượu. Bấy giờ sứ giả của Quang-Vũ mới tuyên chỉ triệu hồi Mã. Mã-Viện đành lên đường về kinh, giao binh quyền cho Lưu-Long, Vương-Bá. Hai người này từ từ thoái binh. 
Hồ-Đề triệu tập buổi họp các anh hùng kháng chiến. Các anh hùng đều nêu ra ý kiến: Đã giết được Sầm-Anh, Phùng-Đức, Liêu-Đông Tứ Ma. Kẻ thù bậc nhất của Lĩnh-Nam là Mã-Viện cần phải giết. Chu Tái-Kênh tỏ ý nghi ngờ Lương-Tùng. Vì rõ ràng Quang-Vũ biết Lương-Tùng do Lĩnh-Nam cài vào, mà được gả công chúa. Hội nghị cử Thiều-Hoa, Tái-Kênh, Sa-Giang, Sún Rỗ lên đường giết Mã-Viện, Lương-Tùng. 
Chu Tái-Kênh cười nhạt: 
– Quang-Vũ biết mi do Lĩnh-Nam cài vào. Nếu mi không tiết lộ cơ mật Lĩnh-Nam, lập đại công. Đời nào y gả công chúa cho mi? 
Công chúa Đoan-Nhu đứng trấn trước Lương-Tùng: 
– Tôi có quyền cãi cho Phò-mã chăng? 
– Được, ngươi cứ nói. 
Công chúa Đoan-Nhu liếc nhìn Hoàng Thiều-Hoa rồi đáp: 
– Từ nãy đến giờ, các vị núp ở ngoài hẵn đã nghe, đã thấy Phò-mã làm những gì rồi chứ? Bảo rằng Phò-mã kết hôn với tôi là có tội. Vậy trước đây Lĩnh-Nam vương phi từng kết hôn với Vương gia đó ư? Lại nữa công chúa Vĩnh-Hòa kết hôn với Đào Quí-Minh. Sao không kết tội sư huynh Quí-Minh? 
Hoàng Thiều-Hoa gật đầu: 
– Khi khởi hành từ Lĩnh-Nam ta nghi oan cho sư đệ. Song chúng ta theo dõi sư đệ từ nãy đến giờ... mới rõ đen trắng. Hơn mười năm trước ta đã bị oan như sư đệ. 
Lương-Tùng chỉ các Thị-vệ: 
– Đám Thị-vệ này đều từ Lĩnh-Nam sang. Họ đều xuất thân phái Tản-viên, Cửu-chân cả. 
Thiều-Hoa tỏ ý muốn giết Mã-Viện báo thù. Lương-Tùng hiến kế: 
– Muốn giết Mã-Viện thực không khó. Mã-Viện hiện mang quân Bắc chinh. Phụ hoàng không tin tưởng y, ngươì sai Bô-lỗ đại tướng quân đem binh theo trợ chiến, thực ra để canh chừng y. Người sai em làm giám quân. Bây giờ sư tỷ cứ dùng thẻ bài của em, làm sao đột nhập vào trướng rồi, chặt đầu y thực không khó. 
Sún Rỗ hỏi Lương-Tùng: 
– Còn mấy tên hại nước này, em định như thế nào? 
Lương-Tùng cười nhạt: 
– Với tội của chúng, giết chúng đi chẳng khiến cho chúng khoan khoái ư? Em đã cắt gân, cắt lưỡi, khiến chúng không xử dụng võ được, cũng chẳng nói được. Bây giờ em chọc mù mắt chúng. Sau đó xích chân tay chúng lại với nhau, đưa về Lĩnh-Nam, để hàng ngày chúng lê lết, ăn mày, bị dân chúng phỉ nhổ, mới khiến cho dân Việt hả dạ phần nào. 
Chu Tái-Kênh vọt người tới, thấp thoáng một cái, bà đã rút kiếm của Hoàng Thiều-Hoa. Kiếm rung lên, Lê Đạo-Sinh cùng đồng bọn bảy người nữa đều bị đâm mù mắt. Lê Đạo-Sinh ngửa mặt lên trời than: 
– Hỡi ơi! Ta đã lầm! Ta đã lầm. Nếu ta không là Thái– sơn Bắc-đẩu võ lâm. Có lẽ ta theo Trưng-Trắc. Đâu đến nỗi này. 
Lương-Tùng gọi Chu Chiêu-Trung, Chu Đỗ-Lý: 
– Hai vị sư huynh dùng xe chở bọn này về Giao-chỉ, đem đi khắp chỗ cho dân chúng coi. Nhớ canh gác cẩn thận, đừng cho người ta giết chúng. 
... 
Bọn Chu Tái-Kênh vừa lên đường. Lương-Tùng cùng công chúa Đoan-Nhu đang bàn luận truyện Lĩnh-Nam, thì có thái giám tới tuyên triệu hai người đến Tây-cung chầu Quang-Vũ khẩn cấp. Cả hai vội lên xe đi liền. Từ xa, Lương-Tùng đã thấy đám Thị-vệ Tâ-cung kẻ tụm năm, người tụm ba nhỏ to nói truyện. Linh tính báo cho biết có biến cố gì xảy ra. Hai người leo lên lầu thứ ba. Thái giám mở cửa cho vào. Lương-Tùng, Đoan-Nhu phủ phục xuống hành lễ. Quang-Vũ ngồi thẫn thờ trên long ỷ, vẫy tay cho hai người bình thân. Y hỏi: 
– Con là sư đệ của Chu quí phi, được Quí-phi sủng ái. Gần đây con thấy Quí-phi có hành động gì lạ không? 
Lương-Tùng tâu: 
– Từ ngày Lĩnh-Nam bị diệt. Lúc nào Quí-phi cũng mặt ủ mày châu. Khóc đêm, khóc ngày. Cho đến nay, năm năm đã qua, mà Quí-phi vẫn không quên. Mấy hôm trước Quí-phi sai con sắm mấy bộ quần áo đàn ông, mua con ngựa thực khỏe. Con hỏi, Quí-phi chỉ lắc đầu. 
Công chúa Đoan-Nhu hỏi: 
– Tâu Phụ-hoàng! Có truyện gì không hay xảy ra rồi ư? 
Quang-Vũ đưa cho Lương-Tùng một tờ thư. 
– Mười hôm trước Quí-phi tâu rằng muốn được yên tĩnh luyện công trong vòng mười ngày, vì vậy thái giám, cung nga không được vào phòng luyện công của người. Hôm nay đủ mười ngày, ta thân đến mở cửa phòng, thì chỉ thấy có ba tờ giấy để lại. Một tờ cho ta, một tờ cho Hoàng-hậu, một tờ cho con với Thái-tử. 
Y đưa tờ giấy cho Đoan-Nhu: 
– Đây con đọc đi. 
Công chúa Đoan-Nhu cầm lấy đọc: 
"Sư mẫu Chu Tường-Qui, gửi cho đệ tử là Thái-tử Trang cùng Công-chúa Đoan-Nhu. 
Từ khi Lĩnh-Nam bị diệt. Tấc lòng tưởng nhở cố quốc khôn nguôi. Vì vậy sư mẫu ăn không ngon, ngủ không yên. Hôm nay sư mẫu quyết định trở về Lĩnh-Nam, tiếp nối sự nghiệp Trưng Hoàng-đế và Phu-thân. Vì lên đường khẩn cấp, sư mẫu không từ biệt hai con. Sư mẫu không có con, nhận hai con làm đệ tử. Tiếng rằng sư mẫu, đệ tử. Chứ sư mẫu coi hai con như con đẻ. Bản lĩnh sư mẫu có bao nhiêu, đã dốc túi truyền cho hai con. Khi thư này đến với hai con, thì sư mẫu đang ở trong một khu rừng nào đó của Lĩnh-Nam. Bịn rịn lúc ra đi, phải xa hai con, lòng sư mẫu đau như dao cắt. Hai con cứ coi như sư mẫu chết rồi. Sư mẫu có mấy lời dặn hai con: 
– Phải chăm lo đọc sách, luyện võ. Đối với dân chúng bằng tấc dạ từ ái. Thương yêu dân, như thương yêu bản thân mình. 
– Riêng Thái-tử Trang, sau này sẽ lên ngôi Thiên tử. Nếu con có còn nghĩ tình sư mẫu con hãy ban hành chính sách cho dân Lĩnh-Nam cũng như dân Hán. Tuyển lựa quan lại thanh liêm, cử đi. Đối với bọn tham quan, thẳng tay giết không tha. 
Sư mẫu dặn mấy lời, mong hai con đừng quên". 
Đọc xong nàng ôm mặt khóc nức nở. Quang-Vũ rơi nước mắt, ngửa mặt lên trời than: 
– Trong các phi tần, Chu quí phi là người được ta sủng ái nhất. Tình nghĩa vợ chồng trên mười năm. Thế mà ta vẫn không làm cho nàng quên được cố quốc. Than ôi! Ta có trăm vạn hùng binh, đánh chiếm được đất Việt, mà ta không chiếm được lòng dân Việt. Ta giàu có nhất thiên hạ, muốn gì được nấy, mà ta không chiếm được lòng Chu quí phi. 
Y nhìn Lương-Tùng: 
– Lương Phò-mã. Trưng-Trắc cử ngươi sang làm Tế-tác ở Hoàng cung, ta những tưởng công danh, phú quí, khiến ngươi đổi lòng, không ngờ ngươi vẫn một lòng với Lĩnh-Nam. Ta cho phép ngươi thờ Trưng-Trắc, để tỏ lòng bao dung. Như vậy ngươi đã quên được Lĩnh-Nam chưa? 
Lương-Tùng quì xuống tâu: 
– Phụ hoàng cho con làm Phò-mã. Người Lĩnh-Nam coi cha vợ cũng như cha đẻ. Con phải hiếu với Phụ-hoàng. Phụ– hoàng bảo con chết, con tuân lệnh chết. Song con là người Việt, con yêu Lĩnh-Nam hơn cha mẹ. Nếu Phụ-hoàng không tha thứ, đem ra chặt đầu. Con xin chịu chết. Con thú thực: Suốt đời không bao giờ con quên cố quốc. Con là Cu Bò, là Lương-Tùng. Con không phải Lê-đạo-Sinh. Huống hồ Khổng-tử nói "Nhân các sở hữu chí", mỗi người một chí. Phụ-hoàng làm Hoàng-đế Trung-nguyên, giàu bốn biển. Trung-nguyên đất rộng người nhiều. Thế mà Phụ-hoàng vẫn muốn chiếm nốt giải đất Lĩnh-Nam xa xôi. Chu quí phi cũng như thần nhi, dù có sống trong nhung lụa, cũng không quên được nguồn gốc. Kẻ quên nguồn gốc, chẳng khác chi loài chó, loài lợn. 
Đến đó thái giám váo tâu: 
– Có sứ giả của Bô-lỗ đại tướng quân Mã-Vũ xin vào triều kiến, tâu quân tình. 
Quang-Vũ truyền cho vào. Sứ giả vào quì gối tung hô vạn tuế rồi tâu rằng: 
– Cách đây nửa tháng Phục-ba tướng quân tiến binh đánh giặc. Bô-lỗ đại tướng quân khuyên đi đường tắt cho mau. Phục-ba tướng quân không chịu nghe, sợ đi đường tắt bị phục binh, cứ đường lớn đi. Vì vậy quân sĩ mệt mỏi, bệnh hoạn phải lui lại. Hôm qua, thích khách đột nhập bản dinh, giết chết Phục-ba tướng quân. Đầu mang đi mất. 
Lương-Tùng tâu: 
– Trước đây còn Mã Viện ỷ thế cô, trái lệnh, làm càn, khiến quân thua, tướng tổn. Bị Nghiêm-Sơn xử trảm. Được Phụ -hoàng ân xá. Sau trận Kinh-châu, để Công-tôn Thiệu đánh lừa, chiếm mất. Trận Động-đình hồ bị Phật-Nguyệt đánh tan ba mươi vạn quân. Trận Nam-Hải bị Thánh-Thiên giết bốn mươi vạn. Phụ hoàng sai y đánh Lĩnh-Nam, làm thiệt bốn mươi vạn quân, các đại tướng đanh tiếng Phùng-Đức, Sầm-Anh, Liêu-Đông Tứ Vương chết. Được Phụ hoàng ân xá, sai Bắc chinh. Y cãi lời Bô-lỗ đại tướng quân, để đến nỗi quân bại, chết tại trướng. Xin Phụ hoàng thu ấn Tân-tức hầu, làm gương cho các tướng khác. 
Quang-Vũ nổi lôi đình: 
– Phò mã thay trẫm, khẩn lên đường cầm quân đánh giặc thay Mã-Viện. Trẫm sai sứ thu ấn Tân-tức hầu. Cách hết chức tước của Viện. Tuy vậy nghĩ tình Mã thái hậu, trẫm miễn làm tội vợ con. 
Lương-Tùng tuân lệnh lên đường. 
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ 

Việc này xảy ra vào niên hiệu Kiến-Vũ thứ hai mươi lăm thời vua Quang-Vũ nhà Hán, tức năm Kỷ-Dậu, 49 sau Tây Lịch. 
Sử gia Phạm Hoa khi viết bộ "Hậu hán thư" cùng các sử gia khác khi chép về Mã-Viện đều nêu ra các thắc mắc: 
1. Quang-Vũ sai vẽ hình, ghi công Nhị thập bát tú, bốn người nữa cộng ba mươi hai người trên gác công thần.Trong 36 người đó, chỉ có ba người công lao lớn hơn Mã-Viện là Ngô-Hán, Đặng-Vũ, Lý-Thông. Hơn nữa Mã-Viện tử trận. Tại sao hình Viện không được vẽ, công Viện không được ghi trên gác Vân Đài ở Nam Cung? 
2. Viện được phong Tân-tức hầu. Theo luật nhà Hán, khi tước hầu tử trận, được chôn cất theo lễ nghi bậc Vương. Thế mà Viện bị thu ấn Tân-tức hầu. Đến nỗi khi chôn cất, vợ con chỉ khâm liệm qua loa. Bạn hữu không dám điếu tang. 
Tại sao? 
Chỉ có độc giả Anh Hùng Lĩnh Nam mới biết rõ tại sao. 
... 
Hôm ấy là ngày 15, trăng rằm chiếu vằng vặc dưới chân núi Tản-Viên. Một đài cao đắp bằng đất, trên đặt sáu chiếc đỉnh khói hương nghi ngút. Từ dưới đài đi lên, trăm bậc. Xung quanh đài, những đoàn người từ bốn phương âm thầm kéo về như những bóng ma chập chờn. Khoảng nửa đêm, xung quanh đài có đến mấy vạn người. 
Một hồi trống hiệu nổi lên, mọi người nghiêm chỉnh đứng dậy. Đuốc đốt đồng loạt. Dưới ánh đuốc chập chờn, người ta thấy tám tráng sĩ đẩy tám tù nhân, đầu trùm khăn vải đến trước đài, bắt quì xuống. 
Tiếng loa hô: 
– Dâng lễ vật. 
Các khăn trùm đầu được mở ra, dưới ánh trăng hiện ra tám cái đầu tóc gọt nhẵn, mắt bị mù. Chân tay không cử động được. Một thiếu nữ bưng cái mâm sơn son thiếp vàng, trên đựng chiếc đầu lâu người. Tiếng loa hô lớn: 
– Tiến lễ. 
Một phụ nữ tóc bạc trắng, từ dưới đài bước lên, dõng dạc nói: 
– Hôm nay lực lượng phản Hán phục Việt các nơi tề tựu về đây tế vua Trưng cùng các anh hùng Lĩnh-Nam tuẫn quốc. Chúng tôi trăm cay nghìn đắng lên tận phía Bắc Trung-Nguyên mới giết được Mã-Viện, đem đầu về làm tế vật. 
Tiếng vỗ tay vang dội khắp nơi. Người phụ nữ già đó chính là Chu Tái-Kênh. Bà tiếp: 
– Lễ vật sống gồm tám tên đã tàn hại Lĩnh-Nam. Tội đồ là Lê Đạo-Sinh, Lê Đức-Hiệp, Vũ-Hỷ, Vũ Phương-Anh, Hoàng Thái-Tuế, Ngô Tiến-Hy, Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ. 
Tiếng vỗ tay vang dội. 
Anh hùng phản Hán phục Việt các nơi thứ tự lên đài, làm lễ trước bàn thờ. Tới khi trời hừng sáng, Thái thú Giao-chỉ nghe tin, sai Thiết kị đến bao vây, thì đài đã được phá hủy. Dưới chân núi vua Bà (Tản-Viên) không còn một bóng người.

 
Viết xong tại Paris ngày 21 tháng bảy 1985 
Yên-tử cư sĩ TRẦN ĐẠI SỸ.


Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #dihan