cam khe di han hoi 11 den 20

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 11 : Hồng quần nhẹ bước chinh yên,Đuổi ngay Tô-Định, giặc yên bên thành(Đại-Nam quốc sử diễn ca)

 Sau khi tế mộ, phong thần Nguyễn Trát cùng đệ tử Long-biên tuẫn quốc. Trưng vương truyền lệnh: 

– Các sư đệ Trần Quốc-Dũng, Quốc-Lực, Quốc-Uy gấp trở về Thiên-trường, tổ chức nền hành chính, an ninh. Củng cố lại các trang ấp. Về luật pháp, hãy chờ hoàng đế Lĩnh Nam ban xuống. Tạm thời lấy võ đạo làm căn bản. Vùng Lục-hải, Hùng Bảo đã tổ chức có qui củ, nề nếp từ lâu, vẫn giữ nguyên như cũ. Bây giờ chúng ta về đánh Luy-lâu. 

Phương-Dung thăng trướng truyền lệnh: 

– Sư đệ Đào Quí-Minh, sư muội Đào Phương-Dung, sư điệt Hùng Bảo, cùng với Sún Lé, Sún Lùn, Sún Đen, Sún Rỗ đặt dưới quyền điều khiển của Trần Năng đi đội tiên phong. Còn lại sư thúc Đào Thế-Hùng, sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa, Đào tam ca với tôi theo Trưng-vương đi đội thứ nhì. Nội ngày nay phải tới Luy-lâu. Tới nơi ta đánh Luy-lâu ngay. Vì trong khi bọn Đức-Hiệp rút lui, tôi đã cho hơn trăm đệ tử Mai-động trà trộn vào thành, làm nội ứng. Vì vậy để lâu, họ sẽ bị lộ. 

Mọi người định khởi hành. Có Thần-ưng từ Luy-lâu đem tin đến. Phương-Dung mở ống tre, lấy thư ra đọc, rồi trình Trưng vương: 

– Thư của sư tỷ Trưng Nhị. 

Trưng vương cầm lấy đọc: 

Vũ Nhật-Thăng thống lĩnh hơn vạn quân, đánh Ký-hợp. Nam-thành vương Trần Công-Minh tử thương. Sư bá Tiên-yên bị trúng tên. Đàm Ngọc-Nga bị vây khẩn. Xin cho Đào Kỳ định liệu. 

Trưng vương hỏi Đào Kỳ: 

– Hiền đệ là Đại tư mã. Hiền đệ tính thế nào? 

Đào Kỳ đáp: 

– Quân Vũ Nhật-Thăng là quân Hán, chứ không phải tráng đinh. Vậy cần có quân tinh nhuệ đối phó. Em đề nghị để sư thúc Đào Thế-Hùng đem đạo quân Đăng-châu đi tiếp viện cho Đàm Ngọc-Nga. 

Trưng vương hỏi Đào Thế-Hùng: 

– Xin sư thúc đừng quản ngại lên đường ngay. Không biết sư thúc cần ai theo giúp? 

Đào Thế-Hùng là đại anh hùng thời Lĩnh Nam. Suốt cuộc đời ông, chỉ mơ tưởng có ngày hôm nay. Khi nghe Trưng vương truyền lệnh. Ông sướng quá. Mặt mày hớn hở, ông nói: 

– Tôi xin lên đường ngay. Tôi mang theo Đào Phương-Dung, Đào Quí-Minh cũng đủ. 

Đào-Kỳ ghé tai Đào Thế-Hùng dặn dò: 

– Trưng vương với thầy trò Lê Đạo-Sinh là những ngưới cùng môn hộ. Phái Tản-viên có qui luật tuyệt đối cấm giết người đồng phái, không được để cho người ngoài giết người đồng môn trước mặt mình. Vì vậy cháu mới cử chú tiếp viện cho Đàm Ngọc-Nga. 

Đào Thế-Hùng hiểu cháu hơn ai hết ông cười: 

– Ý cháu muốn ta giết tên hại nước Vũ Nhật-Thăng phải không. Được, ta sẽ làm truyện đó. 

Đào Thế-Hùng dẫn đạo quân Đăng-châu rẽ sang hướng nam đi Ký-hợp. 

Trưng vương truyền lệnh tiếp tục lên đường. 

Đang đi thì quân báo: 

Đức-Hiệp, Hoàng Đức dừng quân lại đang giao chiến với Hoàng Thiều-Hoa. 

Phương-Dung nói lớn: 

– Nguy thay! Chúng ta phải lên mau, vì một mình sư tỷ Thiều-Hoa không địch lại Đức-Hiệp với Hoàng Đức. 

Phương-Dung thúc quân lên đường khẩn cấp. Tới khu đồng lúa phía trước, đạo quân của Hoàng Thiều-Hoa đã dàn ra đánh nhau với đạo quân Hoàng Đức, Đức-Hiệp. Đức-Hiệp đấu với Hoàng Thiều-Hoa. Sa-Giang, Sún Lé, Sún Rỗ đấu với Hoàng Đức. Trên trời, Thần-ưng đâm bổ xuống yểm trợ. 

Phương-Dung ra lệnh: 

– Đoàn Thần-tượng chia làm hai. Một đánh bọc phía trái, một đánh bọc phía phải. Sún Lùn chỉ huy Thần-ưng của đánh vào trung ương. 

Đoàn voi rầm rập xông vào trận. Trưng vương chỉ mang theo đạo Đăng-châu. Đạo này Đào Thế-Hùng đã mang đi. Còn lại, không đầy hai ngàn tráng đinh, trong khi phía Hoàng Đức, Đức-Hiệp quân số vừa Kị, vừa Bộ lên tới hơn vạn người. Bên Lĩnh Nam nhờ có Thần-tượng, Thần-ưng, chúa tướng võ công cao mà thôi. Cuộc chiến bất phân thắng bại. Giữa lúc đó, quân báo: 

– Có một đạo quân rất hùng tráng khoảng năm vạn người đang từ phía Nam tiến tới. Không rõ quân ta hay quân giặc. 

Đào Kỳ hỏi Hùng Bảo: 

– Lúc cháu cùng phái Hoa-lư đem quân từ Lục-hải về, ở các vùng xung quanh còn giặc không? 

Hùng-bảo đáp: 

– Lúc cháu cùng phái Hoa-lư đem quân về đây, khắp vùng đều thuộc Lĩnh Nam, không nơi nào còn bóng quân thù.

Trưng vương rút kiếm ra hô lớn: 

– Ta cần giải quyết bọn Hoàng Đức, Đức-Hiệp đã. Sau đó quay đánh đạo kia thì vừa. Nào ta tiến lên đi. 

Trần Năng quát lớn: 

– Hoàng Đức! Sư đệ đầu hàng đi thôi. 

Nàng vung chưởng phóng tới. Muốn giải quyết trận chiến mau chóng, nàng vận Thiền-công. Hoàng Đức vung chưởng đỡ. Bịch một tiếng. Người y bay vọt lên cao. Đào Kỳ nhảy tới hứng lấy, quăng xuống đất cho quân sĩ trói lại. 

Đức-Hiệp thấy võ công Trần Năng tiến đến trình độ kinh người thì chửi thầm trong lòng: 

– Con lỏi này, mới được sư bá thu làm đệ tử, sao bản lĩnh đã đến dường này. Dù sư phụ muốn đánh sư đệ, cũng phải trên hai mươi hiệp. Chứ đâu có một chiêu, đã hạ được ? 

Y vung chưởng đánh lui Sa-Giang, Sún Rỗ rồi nhảy lùi lại sau. Hô lớn: 

– Tất cả ngừng tay! 

Đào Kỳ hô quân ngưng chiến lui lại. Đức-Hiệp sai mở một cái xe, dẫn ra hai người: đó là Quách A với Sún Hô. 

Đức-Hiệp nói với Trưng vương: 

– Trưng-Trắc! Ngươi bắt sư đệ Hoàng Đức, Ngô Tiến-Hy, Hàn Thái-Tuế. Ta cũng bắt được của ngươi hai tên này. Vậy chúng ta trao đổi tù binh, không biết có nên chăng? 

Trưng vương chưa kịp trả lời thì Quách A đã nói lớn : 

– Sư tỷ! Đừng đổi! Cứ đem mấy tên chó săn đó ra chém đi, thả chúng ra, chúng phá hại trăm họ không cùng. Chúng em cam tâm chịu chết. 

Giữa lúc đó, đạo quân phía Nam đã tới. Khí thế hùng tráng chưa từng thấy. Trưng vương lo lắng nói với Trần Năng: 

– Ta đã được thấy quân của Trần Tự-Sơn, của Công-tôn Thiệu, của Quang-Vũ. Mà chưa từng thấy đạo quân nào hùng tráng thế kia. Không biết của ai? 

Mọi người cùng nhìn. Đi đầu hai tướng một nam một nữ. Phía sau một đội kị mã, một đội voi. Trống thúc nhịp nhàng. Gươm đao sáng loáng. 

Trưng vương định truyền lệnh dàn quân đối phó, thì Sún Lé la lớn lên: 

– Sư tỷ! Đạo quân kia của Cửu-chân. Người đi đầu là sư phụ. 

Phương-Dung hỏi: 

– Sao sư đệ biết là bố? 

Sún Lé méo miệng trêu Phương-Dung: 

– Sư tỷ không thấy đàn Thần-ưng tuần phòng của chúng ta đang lượn trên đạo quân mới tới sao ? Chúng hót líu lo, nhu hòa chào mừng đấy. 

Phương-Dung, Đào Kỳ nhìn lên trời, thì quả đàn Thần-ưng đang lượn thành vòng tròn rất đẹp mắt, chúng nghiêng cánh, đồng kêu lên tiếng êm dịu chào mừng. 

Đoàn quân tới gần. Lá cờ soái thêu chữ Cửu-chân vương Đào bay phất phới. Đào Kỳ, Phương-Dung, Thiều-Hoa, các Sún xuống ngựa đứng đón bên đường. Một lát Đào-Thế-Kiệt, Đinh Xuân-Hoa tới. Y phục hai người đầy cát bụi. Hoàng Thiều-Hoa hô các đệ tử Cửu-chân quì mọp xuống hành lễ. Đào Thế-Kiệt vẫy tay: 

– Miễn lễ! Miễn lễ! Đứng dậy đi thôi. 

Đào Kỳ tuy làm đại nguyên soái, từng thống lĩnh nửa triệu quân, tuổi đã hai mươi mấy. Nhưng chàng là con út, xa mẹ lâu ngày. Bây giờ gặp lại mẹ, mừng quá, chàng vọt mình lên đáp phía sau bà. Hai tay ôm lấy lưng mẹ, áp mặt vào mà hít lấy hơi: 

– Con nhớ mẹ quá! Mấy năm xa cách, nay mới gặp. 

Chàng ôm mẹ nhảy xuống ngựa. Trưng vương tiến đến thi lễ. Đào Thế-Kiệt rơm rớm nước mắt: 

– Tôi được tin Đặng vương-gia tuẫn quốc. Trưng vương lên thay. Sợ có gì sơ xảy, vội điểm năm vạn quân, ngày đêm ra tiếp viện. Không ngờ gặp nhau giữa đường. Đây là đạo tiền quân, còn đạo hậu quân do sư đệ Đinh Đại, cùng đệ tử Quách Lãng, hai cháu gái Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương sẽ tới sau. 

Thái độ của ông hùng tráng, uy nghi, hào sảng. 

Trong khi ông nói truyện với Trưng vương, Đào Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn dàn quân phía sau. Lê Thị-Hoa, và bốn con Mai Đạt, Mai Thỏa, Mai An, Mai Tứ dàn quân phía trái. Bao vây đạo quân Đức-Hiệp vào giữa. 

Ông nhìn thấy Quách A, Sún Hô bị trói, đã hiểu được chín phần mười truyện xảy ra. Ông ôn tồn nói: 

– Đức-Hiệp! Kể về võ công, ngươi với ta ngang nhau. Kể về văn học, ngươi giỏi hơn ta. Ngươi là đệ tử của Thái-sơn Bắc-đẩu Lĩnh Nam. Nếu ngươi đi đường chính đạo, giờ này ngươi cũng như ta, như Trưng vương, cóù đâu thân tàn ma dại như thế? Ngươi hãy trả đệ tử của ta với Quách A ra ngay, rồi theo chúng ta đánh Luy-lâu, người sẽ trở thành anh hùng. 

Phương-Dung đến bên Đào Thế-Kiệt nói nhỏ với ông: 

– Thưa bố! Xin bố cứ dùng dằng nói truyện với chúng. Trong khi đó con có cách cứu sư đệ. 

Đào Thế-Kiệt mỉm cười, nói tiếp : 

– Người còn dùng dằng gì nữa ? 

Đức-Hiệp cười khảy: 

– Ta không tin ngươi. 

Đào Thế-Kiệt phất tay: 

– Thôi được, mi thả đệ tử ta với Quách A ra. Ta sẽ tha cho tất cả bọn ngươi về Luy-lâu. Ta, Đào Thế-Kiệt, xưa nay không sai lời. 

Đức-Hiệp còn đang suy nghĩ thì Đào Kỳ, Phương-Dung rút kiếm, nhấp nhô mấy cái. Hai người đã nhảy đến cạnh Sún Rỗ, Quách A. Phương-Dung rút kiếm, ánh kiếm lóe lên. Đức-Hiệp kinh hoàng nhảy lui lại hơn hai trượng. Đào Kỳ đã cướp được Quách A, Sún Hô về trận mình. 

Đào Thế-Kiệt nói: 

– Đức-Hiệp! Ngươi dẫn đồ đảng về Luy-lâu đi thôi. Ta hứa tha các sư đệ ngươi. Hy vọng ngươi hối cải, trở về với Lĩnh Nam. 

Anh em Mai Đạt đến trước Phương-Dung thi lễ, chào sư tỷ. Hỏi thăm tình hình Cối-giang. Lê Thị-Hoa nói: 

– Lão tiên sinh và bốn vị tuẫn quốc như vậy, là sống với ngàn năm sau của Lĩnh Nam. Chúng ta không nên buồn. Chết như thế chẳng sướng hơn chết bệnh, chết già ư? 

Một lát đạo quân thứ nhì đi nhanh như gió, phía trước lá cờ bay phất phới, trên có chữ Cửu-chân, Đinh. Phía sau ba đoàn quân, đoàn thứ nhất do một thiếu nữ xinh đẹp, ẻo lả dẫn đầu. Trưng vương nhận ra là Đinh Bạch-Nương. 

Đinh-Đại, xuống ngựa hành lễ với Trưng vương. Ông vỗ hai tay vào nhau: 

– Tôi đi hậu đội, để sư huynh, sư tỷ đi tiền đội. Còn Quách Lãng, Đinh Tĩnh-Nương sẽ đến thẳng Luy-lâu. Có lẽ giờ này tới nơi rồi. 

Đào Kỳ, Phương-Dung, Thiều-Hoa, Ngũ Sún đến trước mặt Đinh Đại làm lễ. Đinh Đại cười ha hả, tiếng cười trong, vang xa như thác suối đổ: 

– Các cháu có thấy sung sướng không? Đến nằm mơ ta cũng không ngờ có ngày nay. Từ nay, Lĩnh Nam lại thuộc về ta. 

Trưng vương truyền hai đoàn nhập một, lên đường đi Luy-lâu. 

Bà Đào Thế-Kiệt nói với Phương-Dung: 

– Tháng trước bố đã làm lễ thành hôn cho đại sư ca Trần Dương-Đức với sư tỷ Nguyễn Tường-Loan. Đại sư ca với sư tỷ phải giữ nhà, trong khi ta bắc viện cho Trưng vương. 

Bà nghe nói tháng sau Phương-Dung hoa khai nở nhụy, thì mừng lắm. bà nói: 

– Đứa cháu nội của mẹ ra đời giữa lúc Lĩnh Nam phục hồi. Nó thực may mắn. Không phải sống kiếp nô lệ như chúng ta. 

Dọc đường, Thiều-Hoa, Đào Kỳ cỡi ngựa đi cạnh Đào vương phi. Bà kể truyện Cửu-chân khởi binh cho hai người nghe: 

– Được thư của Đô Dương báo, bố với cậu đem đạo Cửu-chân về bằng đường thủy. Mẹ triệu tập buổi họp liền. Trong nhà chỉ còn đại sư ca Trần Dương-Đức, hai anh Nghi-Sơn, Biện-Sơn, chị Tường-Loan. Phía Đinh trang còn Đinh Tĩnh-Nương. Phía trang Cư-phong bà Lê Thị-Hoa, bốn anh em Mai Đạt. Mẹ ra lệnh cho các trang động theo dõi, tuần phòng ngày đêm. Một mặt sai Mai Đạt đem thuyền ra khơi đón bố với cậu. Mẹ đề nghị đổ quân làm ba nơi. 

Đào-Kỳ cười: 

– Như thế mẹ hạ lệnh cho bố với cậu chứ đâu phải đề nghị. 

Đào vương-phi tát yêu Đào Kỳ; 

– Ừ! Thì mẹ hạ lệnh. Con biết đó. Khi bố mẹ sắp kết hôn. Người ta nói: bố mạng kim, mẹ mạng mộc. Kim, Mộc khắc nhau không tốt. Ông nội con nói: Khắc gì thì khắc, miễn hai người đồng một chí hướng phục hồi Lĩnh-Nam, thì lo gì? Từ ngày đó đến giờ, chúng ta chưa hề cãi nhau. Vì chỉ lo phục quốc, thì giờ đâu mà gây với nhau? Mỗi lời mẹ nói, bố đều nghe theo. 

Bà nhìn Sún Đen, Quách A mỉm cười: 

– Sư phụ, sư mẫu quen biết nhau hồi ngang tuổi với các con... À trở lại truyện đổ bộ. Bố cho đổ bộ đúng như mẹ định liệu. Chư quân chiếm chín huyện trong một buổi sáng. Không tốn một mũi tên, một giọt máu. Hai hôm sau, cho cử Lạc công, Lạc vương. 

Thiều-Hoa hỏi: 

– Những ai được cử làm lạc công? 

– Bố được cử làm Lạc-vương. Cậu làm Đại tư mã. Chín lạc công là Lê Thị-Hoa, đại sư huynh Trần Dương-Đức, các anh Nghi-Sơn, Biện-Sơn, bốn anh em họ Mai, và Chu Thổ-Quan. 

Tây-vu Thiên-ưng ngũ tướng, thêm Quách A đi cạnh Đào vương phi. Chúng tìm thấy ở bà một bà mẹ ôn nhu, thuần hậu, tình cảm chứa chan như biển đông hơn là một sư mẫu. Truyện trò như pháo rang. 

Đến chiều thì tới Luy-lâu. Anh hùng các nơi đều đến làn lễ mừng Cửu-chân vương với Trưng vương. 

Trưng vương mời anh hùng họp, bàn đánh Luy-lâu. 

Trưng Nhị hiến kế: 

– Chúng ta cứ vây thành Luy-lâu trong vòng nửa tháng, rồi hãy đánh. Trong thành có nhiều dân chúng người Việt. Đánh gấp e hao quân, hại dân. 

Từ lúc gặp Đinh Đại, Đinh Tĩnh-Nương, Tây-vu lục hầu tướng cứ luẩn quẩn bên hai người. Đinh Đại đã nghe thuật truyện Lục-hầu tướng vượt đỉnh Kim-sơn, đánh vào Ích-châu, tiếp đến trận Trường-an, sáu người cùng đoàn Thần-hầu đột nhập thành, đốt phá khắp nơi, làm Quang-Vũ phải bỏ thành mà chạy. Ông thấy sáu thiếu niên không cha, không mẹ, thì đem lòng thương. Tối đến ông dẫn họ ra bãi vắng dạy võ. Lục-hầu tướng tập rất mau. Truyện này đến tai Trưng vương ngài nói với Đinh Đại: 

– Đinh sư thúc, tôi có một lời khẩn cầu. 

Trọn đời Đinh Đại chỉ nể có ba người: Sư huynh với chị gái, sau này thêm Trưng vương. Nghe Trưng vương nói. Ông đứng dậy kính cẩn hỏi: 

– Không biết Trưng vương dạy bảo điều chi. Tôi nguyện tuân hành mệnh lệnh. 

Trưng vương chỉ Tây-vu lục-hầu tướng: 

– Mấy thiếu niên này, trí dũng song toàn, lòng dạ ngay thẳng, tôi kính xin tiên sinh nhận mấy em làm đệ tử. Hầu sau này Lĩnh Nam thêm được sáu đại tướng. 

Đinh hầu vui vẻ nói với Lục-hầu tướng: 

– Trưng vương đã dạy, ta đâu dám không tuân. Kể từ hôm nay, sáu người là đệ tử phái Cửu-chân. 

Lục-hầu tướng quì xuống làm lễ với Đinh Đại. Sau đó hành lễ với chưởng môn Đào Thế-Kiệt. Quần hùng đều mừng cho Đinh-hầu có thêm sáu đệ tử. Tây-vu Thiên-ưng ngũ tướng, được làm sư huynh Lục-hầu tướng. Năm người ưỡn ngực ra, vỗ bôm bốp, rồi nhún vai. Ý nói: Bọn ta là anh đấy nhé. Liệu hồn. 

Trưng vương truyền làm tiệc khao quân. Quần hùng đã từng nghe tiếng Đào Thế-Kiệt có tài dạy đệ tử, có tài dùng binh. Bây giờ thấy đạo quân của ông hùng tráng, kỷ luật, thì kính phục vô cùng. 

Lần đầu tiên Đào vương phi gặp bọn Ngũ Sún. Bà mừng lắm. Liếc nhìn thấy Sa-Giang lúc nào cũng bên cạnh Sún Rỗ. Bà gọi Sa-Giang lại gần ôn tồn nói: 

– Con từ đất Thục, xa xôi vạn dặm sang trợ chiến Lĩnh Nam. Ta cảm ơn con lắm. Hán cũng thế, Việt cũng vậy. Phái Sài-sơn đã có sư tỷ Trần Quốc thành hôn với đại huynh Vương Phúc của con. Ta muốn gửi người về Thục, xin Vương sư huynh cho cháu về làm dâu họ Đào. 

Quần hùng vỗ tay vang dội. Khất đại phu nói: 

– Ta với Thiên-sơn lão tiên đã có ước hẹn. Gặp dịp con cháu của người với ta ưa nhau, thì người thay ta, ta thay người hợp hôn cho chúng. Hôm nay, nhân Cửu-chân vương giá lâm Giao-chỉ, lão phu xin thay mặt Thiên-sơn lão tiên gả Vương Sa-Giang cho Đào Nhị-Gia. 

Đào Thế-Kiệt cười ha hả: 

– Vui thực là vui. Ta lại được thêm một nàng dâu đẹp, văn hay chữ tốt, có bàn tay tiên về âm nhạc. Thực là giai ngẫu. 

Hồ Đề bước ra nói: 

– Đào lão bá. Cháu có lời muốn thưa với lão bá. 

Đào Thế-Kiệt biết Hồ Đề trực tính như nam tử. Ông hỏi: 

– Hồ thống lĩnh có điều chi dạy bảo? 

Hồ Đề đáp: 

– Lão bá dạy quá lời! Còn một truyện nữa: Lão bá sắp làm thông gia với Tây-vu. Không biết lão bá hay chưa? 

Đào Thế-Kiệt ngơ ngác chưa hiểu. Thì Trưng vương vẫy tay gọi Quách A với Sún Hô lại gần nói: 

– Trận đánh Long-biên thắng mau, nhờ cặp thiếu niên này đây. Một là bên Đào Ngũ-Gia đệ tử Cửu-chân vương. Một bên sư muội của Hồ thống lĩnh. Đẹp đôi quá. 

Ngài thuật lại việc làm của hai người. Ngài hỏi: 

– Ta đứng làm mai, để cho hai em thành vợ chồng. Các em nghĩ sao? 

Sún Hô, Quách A im lặng, cúi đầu xuống. Trưng vương cười: 

– Im lặng coi như thuận. Nào chúng ta cử hành đám cưới cho hai cặp thiếu niên ngày hôm nay. 

Suốt mấy ngày, tiệc vui mừng. Đến ngày thứ ba có tin báo: 

– Đạo quân của Đặng Đường-Hoàn đã bình định xong mười lăm trang, ấp thuộc Lê Đạo-Sinh, bắt sống tên khùng Lê Hinh. Hiện đang chờ lệnh. 

Trưng vương truyền đón ông vào. 

Đặng Đường-Hoàn dẫn ba đệ tử là Đào Đô-Thống, Đào Chiêu-Hiển, Đào Tam-Lang vào yết kiến Trưng vương. Đào vương đứng dậy rót rượu trao cho Đặng Đường-Hoàn, chúc mừng chiến thắng. Quần hùng thấy anh em họ Đào cứ tủm tỉm cười, không hiểu sao. Hồ Đề hỏi: 

– Ba vị hiền đệ, có gì vui lắm sao? 

Đào Tam-Lang cười khúc khích: 

– Tý nữa chị sẽ thấy một truyện cười. 

Đào Đô-Thống dẫn tù nhân tới. Quần hùng cười lăn ra. Trước mắt họ, quái nhân, đầu bù tóc rối, quần ống cao, ống thấp, áo miếng rách miếng lành, trên đầu đội cái mũ đen. Người y bốc mùi hôi thối chịu không được. Cạnh y, hai con chó cái, lông lá dơ bẩn. 

Hồ Đề tính ngỗ nghịch hỏi: 

– Lê giáo chủ! Hân hạnh được giáo chủ giá lâm. Kìa Đào Đô-Thống sư huynh, sao lại trói giáo chủ Ngũ-không thế kia. Hãy mở trói cho người. 

Lê Hinh cười hô hố, y nhe hàm răng không còn một chiếc. Y đứng giữa hội trường cất tiếng hát. Y hát khá hay. Hiện diện, rất đông đệ tử phái Sài-sơn vốn giỏi ca hát, mà họ đều gật đầu tỏ ý khen ngợi. Giọng Lê rất tốt. 

Quách A gốc người Mường như Hồ-Đề, bản tính chân thực, nàng hỏi Lê Hinh: 

– Này giáo chủ, tại sao giáo chủ không tắm? 

Lê Hinh cười: 

– Tắm làm gì? Bổn giáo lấy thiên nhiên làm căn bản. Không làm vẫn có ăn, không cần cha mẹ, chẳng nên tắm rửa. 

Trưng vương vẫy tay: 

– Với một tên khùng, dơ dáy như thế này, giết đi cũng chẳng ích gì. Thả y ra. 

Đào Đô-Thống cởi trói, Lê Hinh lạy tạ, dắt hai con chó cái rời khỏi hội trường. Quần hùng đều cười ồ lên. 

Trưng Nhị đứng lên nói: 

– Chúng ta án binh bất động trong mười lăm ngày qua. Ngày nào Thiên-ưng Tây-vu Ngũ tướng cũng cho Thần-ưng bay vào đốt dinh thự, kho tàng trong thành Luy-lâu. Thần nỏ Âu-Lạc bắn tỉa quân trên mặt thành. Quân thủ thành đã mệt mỏi lắm rồi. Hôm nay trải mười lăm ngày. Chúng ta đánh thành thôi ! 

Đào Thế-Kiệt biết Trưng vương thay Đặng Thi-Sách làm chưởng môn phái Tản-viên. Môn qui phái này cấm đệ tử tàn sát nhau, dù họ tội nặng đến đâu chăng nữa. Trong thành có Lê Đạo-Sinh, Đức-Hiệp. Ông muốn giết chúng đi, trừ cho Lĩnh Nam mối lo ngại sau này. Ông nói: 

– Trưng vương đã chiếm lại được đất Giao-chỉ. Duy còn Luy-lâu. Chúng ta hòa hoãn với Quang-Vũ, cũng nên tha bọn quan lại dân chúng người Hán. Hơn nữa người Hán ở Lĩnh-Nam cũng nhiều, phải khoan dung cho họ sống hòa hợp với người Việt. Muốn thế, đạo quân công thành phải cần có kỷ luật, thống nhất. Ở đây, ba đạo Đăng-châu, Văn-lạc, Lục-hải với Cửu-chân có khả năng đó. Đạo Đăng-châu của Thế-Hùng, đạo Lục-hải của Hùng-Bảo, đạo Văn-Lạc của Đào-Kỳ, đạo Cửu-Chân của Nghi-Sơn, Biện-Sơn. Vậy lão phu xin Trưng vương với các vị để cho lão phu được cái danh dự đánh Luy-Lâu. 

Trưng vương vui vẻ: 

– Đào vương dạy chí phải. Xin Đào vương ra quân cho. 

Trưng vương cầm cây búa lệnh trao cho Đào Thế-Kiệt. Đào Thế-Kiệt lĩnh búa lên trướng nói: 

– Chúng ta phải lấy Luy-lâu trong mười ngày. Phương-Dung giải Hoàng Đức, Ngô Tiến-Hy, Hàn Thái-Tuế, Hoàng Minh-Châu, và đồ tôn của Lê Đạo-Sinh ra đây, ta có việc dùng. 

Đám Hoàng Đức được đưa vào trướng. Đào Thế-Kiệt nói: 

– Các vị là tinh hoa của Lĩnh Nam. Nhất thời lầm đường. Sao không tỉnh ngộ như Chu Bá, Lê Thị-Hảo. Hai người phục thiện, cải tà qui chính, bây giờ sư huynh Chu Bá đi đâu, trăm họ cung tay kính trọng. Lê sư tỷ tuẫn quốc, khắp Lĩnh Nam quỳ gối tế lễ. Vậy các vị vào thành, thuyết phục Lục trúc tiên sinh hãy về với chúng tôi. Địa vị của tiên sinh không mất, danh thơm muôn thủa với non sông. 

Ông thân cởi trói cho họ, rót rượu mời uống, truyền cho mỗi người một con ngựa vào thành Luy-lâu. 

Quần hùng thấy ông xử sự quang minh, rỏ ra bậc anh hùng. Họ kính phục vô cùng. Duy có Trưng Nhị nghĩ khác: 

– Đào vương gia cho họ một cơ hội trở về với Lĩnh Nam. Nếu họ trở về thì hay. Còn không trong trận đánh này, ông thẳng tay giết hết, còn hơn để Trưng vương giam chúng, như nuôi hổ trong nhà. 

Nàng đưa mắt nhìn Đào Kỳ, Phương-Dung, hai người mỉm cười, nháy Trưng Nhị như ngụ ý Cha con với nhau, gì mà không hiểu. 

Có tin quân báo: Đào Thế-Hùng đã bình xong vùng Ký-hợp, đem đầu Vũ Nhật-Thăng và đồng đảng về nộp. 

Trưng vương nói với Đào vương: 

– Đào vương gia! Tôi dám lớn mật xin vương gia ban ân, miễn bêu đầu sư thúc Vũ Nhật-Thăng. Tôi xin được lĩnh thây về tống táng. 

Đào Thế-Kiệt thở dài: 

– Xin Trưng vương cứ tự tiện. Tiếc thay, các đệ tử của Lê Đạo-Sinh không có tư chất giống nhau. Giá người nào cũng như ông bà Chu Bá, có phải đại phúc cho Lĩnh Nam không? 

Đào Thế-Hùng cùng các con vào trướng thấy anh chị, cùng đám đệ tử đông đủ thì mừng lắm. Ông nói lớn: 

– Anh em, chú cháu, bố con xa cách hai chục năm vì mưu đại sự. Hôm nay tụ họp nơi đây. Chỉ vắng có Hiển-Hiệu đang trọng nhậm nơi xa. Ngày xưa chúng mình mơ ngày hôm nay, thì giấc mơ đã thành sự thực rồi đây. 

Ông trình với Trưng vương: 

– Nam-thành vương Trần Công-Minh dẫn Tiên-yên nữ hiệp, Đàm Ngọc-Nga về đánh Ký-hợp. Chỉ ba ngày, chiếm được hầu hết trang ấp của đám Lê Đạo-Sinh, thế như trẻ tre. Khi đánh đến trang Nam-thủy thì trúng phục binh Hán. Nam-thành vương trúng tên tuẫn quốc. Tiên-yên nữ hiệp bị thương. Đàm Ngọc-Nga đi hậu đội, đem quân đánh lui Vũ Nhật-Thăng, cứu Tiên-yên nữ hiệp, cướp xác Nam-thành vương về an táng. 

Ông ngừng lại một lát, tiếp: 

– Chúng tôi tới nơi, chia quân làm ba cánh đánh ép. Chỉ hơn giờ, tiêu diệt trọn vẹn bọn quân Hán. Vũ Nhật-Thăng đấu chưởng với tôi đến chiêu thứ mười bảy y mất mạng. 

Trưng vương nói với Trưng Nhị: 

– Em soạn cho ta bài văn tế Nam-thành vương, sắc phong người làm: 

Lĩnh-Nam trung liệt, Nam-thành vương. 

Ngay chiều nay ta đi Ký-hợp tế người và các dũng sĩ vì quốc vong thân. 

Ngài nói với Đàm Ngọc-Nga: 

– Sư muội! Tôn sư tuẫn quốc, khí phách anh linh còn muôn thủa. Ta sẽ truyền xây đền thờ người ngay ngày mai. Sư muội đi với ta. 

Ngài nói với Đặng Thi-Bằng: 

– Em với Xuân-Nương đem đầu Vũ Nhật-Thăng, ráp vào thân bằng gỗ chôn cất tử tế. Dù sao Nhật-Thăng cũng xuất thân từ phái Tản-viên. Người chết rồi là hết. Tội trạng cũng đi theo. Không nên trả thù xác chết, vợ con người ta. 

Đào Thế-Kiệt thăng trướng truyền lệnh: 

– Ta đã được Trưng vương và các vị anh hùng ủy nhiệm đánh Luy-lâu. Sở dĩ chúng ta được trao phó nhiệm vụ vinh dự này, vì chúng ta có tới năm đạo quân từ tổ chức, đến huấn luyện thống nhất. Chứ không phải chúng ta tài hơn các lộ anh hùng khác. 

Quần hùng thấy khí thế của đám đệ tử Cửu-chân, quân khí hùng tráng ngất trời, người người cảm phục trong lòng:

– Phái Cửu-chân được chúng nhân kính phục nhờ cách dậy người của Đào Thế-Kiệt khác thường. Ta bì thế nào được. 

Cửu-chân vương Đào Thế-Kiệt truyền lệnh: 

– Đồ nhi Trần Năng, Hùng Bảo, dẫn đạo quân Lục-hải đánh cửa tây Luy-lâu. 

– Sư đệ Đinh Đại dẫn Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương, Quách Lãng, Đinh Hồng-Thanh, thống lĩnh đạo binh Đăng-châu đánh cửa bắc. 

– Vương phi Đinh Xuân-Hoa dẫn Đào Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn thống lĩnh đạo binh Văn-Lạc đánh cửa nam. 

– Cửa Đông giáp với sông, đã có thủy quân của Tử-Vân trấn đóng, không cần đánh. 

– Hoàng Thiều-Hoa tổng chỉ huy công thành. Đạo binh Cửu-chân đặt làm trừ bị. Trường hợp giặc xuất thành, bằng mọi giá, không cho một tên chạy thoát. Mọi sơ xuất các chúa tướng chịu trách nhiệm. Có ai thắc mắc gì không? 

Sún Lé hỏi: 

– Sư phụ! Bọn Tây-vu Thiên-ưng chúng con làm gì? 

Đào Thế-Kiệt vỗ vai nó: 

– Ta dẫn Tam ca Đào Kỳ, sư tỷ Phương-Dung, Tây-vu Thiên-ưng ngũ tướng, thêm hai nàng dâu mới Quách A, Sa-Giang đột nhập Luy-lâu đánh từ trong đánh ra. Đào Tứ-Gia tuẫn quốc. Vậy ai có thể thay thế? 

Sún Lé đáp: 

– Trình sư phụ! Sún Rỗ dạy Sa-Giang chỉ huy Thần-ưng, thành thuộc lắm rồi. Sa-Giang thông minh quá, chế ra nhiều phương pháp huấn luyện Thần-ưng tuyệt hảo. Còn Quách A giỏi lắm, chỉ thua có Hồ sư tỷ thôi. Nó chỉ huy được Thần-ưng, Thần-Hổ, Thần-báo, Thần-tượng, Thần-long, Thần-ngao, Thần-phong, Thần-hầu. Chẳng loại nào nó không giỏi. 

Sún Rỗ tiếp: 

– Con đề nghị sư phụ cho Quách A chỉ huy một đội Thần-phong nhập thành, đánh vào dinh Tô Định. Ong đánh vào đám quan lại người Hán chỉ làm họ đau nhức, rối loạn trong thành, mà không làm bị thương, chết như Thần-ưng. 

Đào Thế-Kiệt gật đầu: 

– Nào chúng ta lên đường. 

Trưng Nhị truyền các đạo quân Tản-viên, Tây-vu tạm lui lại nghỉ ngơi. Vì họ bao vây Luy-lâu hơn tháng, bắt đầu mệt mỏi. 

Đào vương dặn riêng Phương-Dung, Đào Kỳ: 

– Trong thành có hai cao thủ, là Lê Đạo-Sinh với Tô Định. Hai con gặp Lê thì giết liền. Còn Tô cần bắt sống. Ngoài ra bọn Đức-Hiệp, Hoàng Đức, Ngô-Tến-Hy, Hàn Thái-Tuế, Vủ Hỷ, Vũ Phương-Anh, gặp thì giết không tha. 

Đào Thế-Kiệt sai mở một tờ giấy, đưa cho Phương-Dung. Ông nói: 

– Ta liên lạc được với Trần Khổng-Chúng. 

Phương-Dung giật mình: 

– Sư thúc Trần Khổng-Chúng đổi tên là La Quốc, hiện làm Đô-úy, Đô-sát Giao-chỉ. Không hiểu sao, từ hôm về đây đến giờ. Con không được tin tức của sư thúc. 

Đào Thế-Kiệt cười sung sướng: 

– Ta với Trần Khổng-Chúng vốn chơi với nhau từ nhỏ. Trước khi sang Trung-nguyên, ta gặp y. Y tiết lộ rằng dường như Tô Định nghi ngờ y. Vì vậy y làm như người đần độn, để Tô không chú ý. Y mời Tô Phương làm đô sát. Còn y trở lại làm Đốc-bưu. Từ đó Tô không nghi ngờ nữa. Y bí mật đào một đường hầm từ nhà ra ngoài thành. Đêm nay chúng ta theo đường đó vào trong, đại náo thành Luy-lâu giết Lê Đạo-Sinh. 

Ông dẫn Đào Kỳ, Phương-Dung, Ngũ Sún đi vòng quanh thành, quan sát cuộc chiến. Hoàng Thiều-Hoa chỉ lên cửa Nam: 

– Kia! Lê Đạo-Sinh đang đứng dốc chiến kia. 

Đào vương phi nhìn lên, trong óc bà, truyện cũ hiện ra: Lê Đạo-Sinh sai đệ tử làm tế tác, xui Nhâm Diên đánh Đào, Đinh trang. Đến khi đệ tử Đào, Đinh ẩn thân trên hoang đảo, Lê vẫn không để yên, y đem tráng đinh tiêu diệt. Mắt phượng quắc lên. Bà hỏi Thiều-Hoa: 

– Con có cách nào làm cho nó nhục nhã không? 

Hoàng Thiều-Hoa vẫy Sún Lé: 

– Đào Nhất-Gia! Sư đệ cho Lê Đạo-Sinh ăn phân đi. Xưa nay Thiều-Hoa là người ôn nhu văn nhã, không bao giờ đùa cợt. Nay nàng ra lệnh cho Lê Đạo-Sinh ăn phân làm Sún Lé thích quá. Chàng cầm tù và thổi ba hồi. Hết hồi thứ ba, Thần-ưng từ xa bay lại, trước sau sáu đàn. Mỗi đàn hai mươi toán, mỗi toán năm con. 

Sún Lé cầm tù và thổi nữa. Đàn Thần-ưng từ trên cao lao xuống đồng loạt. Lê Đạo-Sinh tưởng Thần-ưng tấn công vội rút kiếm đề phòng. Song Thần-ưng bay cách đầu y mười trượng, cùng ị, rồi bay trở lên. Chỉ phút chốc, sáu đoàn Thần-ưng đã ị xong. Người Lê Đạo-Sinh thực thê thảm: Đầu tóc, quần áo, bê bết đầy phân, dơ bẩn hôi thối không chịu được. 

Lần đầu tiên Đào vương phi được coi Thần-ưng xuất trận. Bà thích quá bật cười, nói với Thiều-Hoa: 

– Đoàn Thần-ưng lợi hại thực. 

Quách A hỏi: 

– Sư mẫu! Con sai ong đốt Lê Đạo-Sinh cho sư mẫu coi. 

Đào vương phi cực kỳ cao hứng: 

– Con làm cho sư mẫu xem nào. 

Quách A cầm ống tiêu thổi lên vu vi. Từ chiếc xe đậu phía sau nàng, hàng triệu con ong bầu đen bay lên. Nàng cầm cờ phất phất liên tiếp. Đàn ong bay tới thành thì nhào xuống tấn công. Lê Đạo-Sinh đã nếm mùi lợi hại của đoàn Thần-phong hôm đại hội hồ Tây. Y vung chưởng đánh dạt bầy ong ra xa. 

Quách A cười: 

– Vô ích! Để con chia ong làm năm đội tấn công. Tục ngữ có câu: 

Muốn béo thì ghẹo ong bầu, 

Muốn to đầu thì ghẹo ông muỗi. 

Con cho tên Lê Đạo-Sinh béo một lần. 

Nàng cầm ống tiêu thổi vi vu. Đàn ong chia làm năm. Tấn công vào bốn phía trước, sau, phải, trái, và ở trên xuống. Lê Đạo-Sinh bị tấn công năm phía bất ngờ, chưởng lực hơi chậm một chút. Đàn ong lọt vào, bu khắp người đốt y. Y đau đớn, nhảy nhót, lăn lộn, trông cực kỳ thảm khốc. 

Đám đệ tử đã kịp thời hun khói lên. 

Quách A thổi còi thu ong về, thì trên trời Thần-ưng lại lao xuống tấn công. Đám đệ tử Lê Đạo-Sinh dẫn đội tiễn thủ bắn lên. 

Đào vương đi khắp cửa thành. Đến canh hai ông dặn Thiều-Hoa: 

– Nếu thấy trong thành khói bốc lên, con cho phá cổng. Mục đích cầm chân quân sĩ, để chúng ta bắt Tô Định. 

Ông dẫn Đào Kỳ, Phương-Dung, Ngũ Sún, Sa-Giang, Quách A chiếu bản đồ Trần Khổng-Chúng tìm cửa đường hầm vào trong. Đào Kỳ cầm kiếm, dẫn đầu. 

Quách A kéo chàng lùi lại: 

– Tam ca võ công cao thực. Song lòng người khó dò. Em đề nghị để một đội Thần-ngao đi trước thăm đường. Chúng mình theo sau thì hơn. 

 Đào Kỳ nhận thấy lời Quách A nói đúng. Chàng bảo: 

– Em cho Thần-ngao đi trước đi. 

Quách A cho đội Thần-ngao xuống hầm. Chỉ lát sau một con trở ra vẫy đuôi mừng, gật đầu. Quách A nói: 

– Không có gì nguy hiểm. Một Thần-ngao canh cửa hầm bên kia. Một Thần-ngao báo cho chúng mình biết đấy. Vào được rồi. 

Nàng hỏi Ngũ Sún: 

– Các sư huynh, sư đệ có mang túi đựng trăn, rắn theo không? 

Ngũ Sún gật đầu: 

– Có! Đầy đủ rồi. 

Đào Kỳ cầm kiếm đi đầu, tiếp theo Quách A, Ngũ Sún, Đào Thế-Kiệt. Đi một lúc, đường hầm chạy trở lên. Đào Kỳ cầm đuốc soi: Phía trên có cái cửa gỗ. Theo lời Khổng-Chúng dặn, chàng khẽ gõ bốn tiếng lớn, ba tiếng nhỏ. Cánh cửa gỗ mở ra: Phía trên ánh sáng chói lòa. Trần Khổng-Chúng cầm đuốc đứng chờ. 

Đợi cho đoàn người lên hết. Trần Khổng-Chúng nói với Phương-Dung: 

– Sư thúc được tin cha, mẹ, các anh cháu tuẫn quốc, lòng đau như dao cắt. Hôm nay chúng ta phải trả thù cho người chết. 

Đào Thế-Kiệt hỏi: 

– Trần huynh! Bọn Lê Đạo-Sinh hiện ở đâu? 

Khổng-Chúng đáp: 

– Y bị ong đốt đã dùng vôi chữa khỏi. Y được phong làm Thứ sử Giao-châu vì vậy y ở phủ Lĩnh-nam vương cũ. Tô Định ở dinh Thái thú. 

Đào Thế-Kiệt trình bày kế hoạch đánh thành cho Trần Khổng-Chúng. Trần Khổng-Chúng nói: 

– Bây giờ Đào sư huynh, cháu Kỳ, Dung với tôi thám thính phủ Lĩnh-nam vương. Còn Sún Lé tổng chỉ huy bọn Sún ẩn trên cây gần các cổng thành. Đợi khi chúng ta đại chiến với bọn Tô Định, các cháu sẽ hành sự. 

Ông trao cho mỗi người một bộ quần áo quân Hán. Dặn mật khẩu trong đêm. 

Sún Lé hỏi: 

– Con cho đoàn Thần-ưng mười con bay theo tuần tiễu trên không. Dưới đất, Quách A dẫn đội Thần-ngao phòng phục binh. 

Trần Khổng-Chúng nghe nói nhiều về Tây-vu Thiên ưng lục tướng. Bây giờ ông mới phục: 

– Vì đất nước ly loạn, nhân tài mới có dịp nảy nở. Ta già đầu mà không nghĩ đến biện pháp đề phòng an ninh chu đáo bằng đứa trẻ mười tám tuổi. Khá lắm, tre già măng mọc. 

Ông cầm kiếm đi trước. Thành Luy-lâu rất rộng. Phải mất hơn nửa giờ mới tới phủ Thứ-sử. Trước dinh, giáp sĩ đi lại, canh phòng nghiêm mật. Trần Khổng-Chúng đi trước. Giáp sĩ kính cẩn chào ông. Hỏi: 

– Trần đại nhân đến có việc gì, để tiểu nhân vào trình thứ sử. 

Đào Kỳ vung tay, véo một tiếng, Lĩnh-nam chỉ đâm suốt qua đầu hai tên giáp sĩ. Quách A, Phương-Dung đỡ xác chúng bỏ vào bụi rậm. 

Trần-khổng-Chúng vẫy mọi người vọt mình lên cao đáp trên mái nhà. Đào Kỳ vận âm kình đục năm lỗ trên mái ngói. Mọi người ghé mắt nhìn xuống. 

Dưới nhà, Lê Đạo-Sinh ngồi đối diện với các đệ tử: Đức-Hiệp, Ngô Tiến-Hy, Hàn Thái-Tuế, Vũ Hỷ, Vũ Phương-Anh im lặng. Phía trước Hoàng Đức, Hoàng Minh-Châu, Chu Quang bị trói để dưới đất. 

Lê Đạo-Sinh thở dài, hỏi: 

-Hoàng Đức, ta thu nhận mi làm đệ tử từ ba chục năm nay. Tạo cho mi bản lĩnh vô địch. Không ngờ bây giờ, mi mưu phản ta. Tại sao vậy? 

Hoàng Đức thở dài: 

– Đệ tử không bao giờ quên công ơn sư phụ dạy dỗ. 

Có điều sư phụ dạy đệ tử võ đạo Lĩnh-nam. Yêu thương đồng loại. Thế mà nay, anh hùng bốn phương phục hồi Lĩnh nam. Tại sao sư phụ còn chống lại, nhận chức tước của Mã thái-hậu chứ không phải của triều đình nhà Hán? Sư phụ là Thái-sơn Bắc-đẩu Lĩnh Nam, đức độ, võ công bỏ xa Đặng Thi-Sách, Nhị-Trưng, Đào Thế-Kiệt. Thế mà nay họ lập lên sự nghiệp kinh thiên động địa. Sư đệ Chu Bá, sư muội Hảo trở lại với Lĩnh Nam, người người đều kính trọng. Tại sao sư phụ không làm vậy, địa vị không mất, danh thơm lưu muôn thủa. 

Lê Đạo-Sinh cười nhạt: 

– Bây giờ ngươi dạy khôn ta đấy phải không? Ta đã nói rõ chủ ý của ta, là : Làm sao mở cửa Lĩnh Nam cho người Hán vào, giết hết bọn hào kiệt. Khi hào kiệt bị giết rồi, đất nước chỉ còn chúng ta. Ta mới cho nhân dân chúng thù hận người Hán, phất cờ đuổi giặc. Đại sự khắc thành. 

Hoàng Đức lắc đầu: 

– Không thể làm như thế được. Lĩnh-Nam đất rộng người thưa. Sư phụ muợn tay người Hán đánh nhau với hào kiệt. Bấy giờ dân chúng mười phần chết hết sáu, đâu còn tài nguyên để đuổi giặc? 

Vũ Hỷ quát: 

– Sư phụ đã nói. Khi người lên ngôi, làm hoàng đế Lĩnh-Nam, sẽ phong cho sư huynh làm Quế-lâm vương. Không ngờ nay sư huynh đổi lòng. 

Hoàng Đức cười nhạt: 

–Tại sao trước kia sư phụ không suất lĩnh hào kiệt làm như Đặng Thi-Sách, Đào Thế-Kiệt? Võ công, uy tín của chúng so với sư phụ cách nhau khá xa. Sư phụ phất cờ lên, chúng nhân đều qui phục. Việc gì sư phụ phải bắt giam Nguyễn Phan, Đặng Thi-Kế, Nguyễn Thành-Công, rồi khích Nhâm Diên đánh Đinh, Đào trang? Như vậy cũng chưa đủ, sư phụ tổ chức đại hội hồ Tây định tiêu diệt anh hùng thiên hạ? Con nghĩ bây giờ, sư phụ bắt giết Tô Định, mở cửa cho Trưng Trắc, Đào Thế-Kiệt vào. Chúng anh hùng kính phục sư phụ. Biết đâu họ chẳng tôn sư phụ làm hoàng đế? 

Chu Quang cũng nói: 

– Ông ngoại ơi! Mẹ cháu bị bọn Liêu-đông tứ ma giết chết. Bố cháu theo Trưng sư tỷ. Cháu không dám chống ông ngoại... Ngặt vì... ông ngoại bảo cháu với Minh-Châu trá hàng, bỏ thuốc độc giết hết anh hùng Lĩnh-Nam, cháu không thể làm được. 

Đào Thế-Kiệt biết nếu không can thiệp ngay thì Hoàng Đức, Minh-Châu, Chu Quang sẽ bị giết. Ông là đại anh hùng, không muốn ẩn ẩn, hiện hiện. Ông muốn đường đường chính chính đối thoại với Lê Đạo-Sinh. Ông vẫy bọn Đào Kỳ nhảy xuống đất, gõ cửa nói lớn: 

– Cửu-chân Đào Thế-Kiệt muốn được yết kiến Lục trúc tiên sinh. 

Lê Đạo-Sinh nghe tiếng ông nói, kinh hoảng, mở tung cửa cùng đệ tử rút kiếm khỏi vỏ bước ra. Đào Thế-Kiệt chắp tay nói: 

– Đêm khuya, chúng tôi tới yết kiến Lục trúc tiên sinh thế này thực là không phải lẽ. Mong tiên sinh đại xá cho. 

Lê Đạo-Sinh bình tĩnh trở lại. Y mở cửa nói: 

– Cửu-chân vương giá lâm. Lão phu không biết trước tiếp rước, thực có tội. 

Đào Thế-Kiệt vào phòng, ngồi xuống. Phía sau ông Phương-Dung, Đào Kỳ, Quách A khoanh tay đứng hầu. 

Lê Đạo-Sinh đưa mắt cho Đức-Hiệp. Đức-Hiệp hiểu ý ra ngoài xem còn ai không. Phương-Dung cười: 

– Sư bá Đức-Hiệp! Không còn ai đâu. Sư bá khỏi sợ hãi. Đào gia xưa nay không nói dối bao giờ. 

Đào Thế-Kiệt khoan thai nói: 

– Lục trúc tiên sinh. Hậu học dám xin tiên sinh vung tay bắt trói Tô Định, Tô Phương. Mở cửa thành cho quân Lĩnh Nam vào. Tiên sinh với các cao đồ, sẽ trở thành anh hùng đối với dân Lĩnh Nam. Còn như tiên sinh không thuận, thì muôn ngàn năm sau ô danh để hậu thế nguyền rủa. 

Mười năm trước, địa vị Đào Thế-Kiệt thua xa cả Đức-Hiệp, Hoàng Đức. Ông muốn nói truyện ngang hàng với chúng e còn khó hơn cả bắc thang lên trời. Bây giờ, sau bao năm nằm gai nếm mật. Ông trở thành anh hùng, nhân danh đại nghĩa dạy dỗ Lê Đạo-Sinh. 

Vũ Hỷ cười nhạt: 

– Tên nhà quê vùng Cửu-chân kia. Mi nhân danh cái gì mà dám lên tiếng dạy khôn sư phụ ta? 

Từ lúc thấy Vũ Hỷ, lòng Phương-Dung sôi sục. Nghĩ đến thù cha, mẹ, bốn anh. Nàng tiến ra trước mặt y nói: 

– Nhân danh cái gì à? Mi có còn là con người không mà dám lên tiếng? 

Xoẹt, xoẹt, Vũ Hỷ nhảy lui lại, hai tai máu chảy ròng ròng. Phương-Dung rút kiếm, cắt hai tai y, rồi tra kiếm vào vỏ thần tốc quá. Chỉ có Đào Kỳ mới trông rõ nàng xuất chiêu mà thôi. 

Vũ Hỷ kinh hoảng, mặt tái mét, run run, định mở miệng chửi, nhưng nói không ra lời. 

Lê Đạo-Sinh cười nhạt: 

–Đào vương phi! Dù kiếm pháp ngươi cao minh đến đâu mặc lòng. Song đây là thành Luy-lâu. Chúng ta có hơn vạn binh. Liệu ta hô lên một tiếng. Vương phi có chống lại được không? 

Quách A rút trong bọc ra một cây pháo thăng thiên, nàng châm lửa rồi tung qua cửa sổ. Đùng. Đó là lệnh tấn công. Nàng cười nhạt : 

– Lục trúc tiên sinh đã trên bảy chục tuổi, mà sao không tự biết mình nhỉ? Tiên sinh ơi! Ngoài thành quân Lĩnh Nam vây đến mấy vòng. Trong thành, chúng ta làm chủ. Sư phụ tôi là đại anh hùng. Người tiếc tài tiên sinh, mà tới đây thuyết phục tiên sinh. Chứ còn đánh nhau, thì chúng tôi lấy tính mệnh tiên sinh như trở bàn tay. 

Đến đó, bên ngoài trống thúc liên hồi, quân reo dậy đất. Trong thành lửa bốc cháy khắp nơi. Đức-Hiệp vội chạy ra quan sát, rồi trở vào nói: 

– Quân Lĩnh Nam đánh thành. Trong thành lửa cháy khắp nơi. 

Lê Đạo-Sinh đứng dậy nói: 

– Đa tạ Đào vương gia đã dạy dỗ. Tôi cùng đệ tử đi bắt Tô Định. 

Y tiến lên đi trước. Đào Kỳ, Phương-Dung theo bén gót. Mọi người ra khỏi dinh. Đào Kỳ đã quen địa thế Luy-lâu. Chàng chỉ: 

– Kia dinh Thái thú đang cháy! Thần-ưng lao xuống đánh quân canh. 

Quách A thấy có ngựa gần đó, nàng nhảy lên, hướng cửa Nam phi tới. Gặp Sún Đen đang chỉ huy Thần-ưng tấn công quân giữ cổng. Nàng cầm còi thổi lên toe toe. Một lúc sau, đàn ong bầu nhào xuống tấn công. Đám quân bỏ chạy tán loạn. Vừa lúc đó Tô Phương, Trần Khổng-Chúng phi ngựa tới. 

Tô Phương leo lên mặt thành hô lớn: 

– Đốt lửa lên mau. 

Trần Khổng-Chúng nói: 

– Đây lửa đây! 

Ông đưa lưỡi gươm. Đầu Tô Phương rơi xuống dưới đất. Đám vệ sĩ theo ông mở tung cổng thành. Đào vương phi, vọt ngựa vào đầu tiên. Thấy Trần Khổng-Chúng, bà reo lên: 

– Trần sư huynh! 

Bà ra lệnh: 

– Nghi-Sơn đánh sang Đông mở cửa cho cậu vào. Biện-Sơn đánh sang tây mở cửa cho Trần Năng, Hùng Bảo vào. Ta với Trần sư bá, Quách A, Sún Đen đánh vào Trung ương. 

Bà phi ngựa dẫn đầu đoàn quân, tiếp theo là Trần Khổng-Chúng, Quách A, Sún Đen lao vào vòng chiến. Chỉ chớp nhoáng, đã tiến đến dinh Thái-thú, gặp đạo quân cửa bắc của Đào Thế-Hùng vừa tới. Tất cả bao vây dinh Thái thú như thành đồng vách sắt. 

Vương phi hỏi Quách A: 

– Sư phụ đâu? 

Quách A tường thuật mọi truyện, rồi kết luận: 

– Có lẽ sư phụ cùng Lê Đạo-Sinh đang ở trong dinh Thái-thú. 

Hoàng Thiều-Hoa ra lệnh: 

– Hùng Bảo đem đạo Lục-hải trấn cửa Tây, Bắc. Nghi-Sơn, đem đạo Cửu-chân trấn ở cửa Đông, Nam. Sư thúc Đinh Đại dồn đám tù binh, hàng binh vào giữa thành. 

Trong thành, lửa đã dập tắt. Có tiếng quân reo hò vang dội, tiếng cọp rống, beo gầm, tiếng voi kêu, tiếng Thần-ưng ré, thì ra Trưng vương cỡi trên bành voi trắng, cạnh ngài là Trưng Nhị đã vào thành. Lớp thứ nhất vào rồi, tiếp theo anh hùng các lộ. Lớp thứ nhì hơn năm trăm thớt voi. Lớp thứ ba đàn Thần-hổ, Thần-báo. Mỗi Thần-hổ, Thần-báo đều có dây cột cổ, do một Thần-hầu dẫn. Khí thế hùng tráng không thể tưởng tượng được. 

Trưng Nhị nói với Thiều-Hoa: 

– Sư tỷ dốc chiến giỏi quá. Hơn bọn Đặng Vũ, Mã Viện nhiều. Chỉ khoảnh khắc tiếp thu doanh trại, dồn tù binh về một chỗ mau thực. 

Hoàng Thiều-Hoa cười: 

– Không phải ta tài. Mà vì quân của Đặng, Mã là bọn ngu dốt, còn quân của ta toàn đệ tử, võ công, kiến thức cao. Ta chưa ra lệnh, họ đã biết rồi. 

Thiều-Hoa đốc quân vây chặt dinh thái thú. Anh hùng Lĩnh Nam đều đã vào thành. Chỉ những người có nhiệm vụ chỉ huy quân, mới ở ngoài phòng bắt tù binh chạy ra mà thôi. 

Sau cuộc chiến, người ngựa Đào vương phi, Thiều-Hoa nhuộm máu đỏ tươi. 

Trưng vương chỉ Hoàng Thiều-Hoa than: 

– Ta e vạn đại sau, khắp các nước, cũng không ai tin được rằng thời này, đất Lĩnh Nam có người con gái đẹp đến như thế kia, ngồi trên voi chỉ huy hơn mười vạn anh hùng, chiến tướng, đánh thành. Võ đạo Thiều-Hoa cao hơn ta. Người tuy làm hoàng hậu Lĩnh-Nam, mà vẫn xông pha trận mạc. 

Hoàng Thiều-Hoa nói với Đào Thế-Hùng, Đinh Xuân-Hoa: 

– Sư thúc, sư mẫu, xin cho quân lui ra. Không cần bao vây nữa. Bằng này anh hùng có mặt ở đây, thêm đội Tây-vu, dù Tô Định có cánh cũng không chạy khỏi. 

Các đạo quân Đăng-châu, Văn-lạc, Lục-hải, Lôi-sơn, Cửu-chân tập họp làm năm khu. Tổng số trên vạn người, mà không một tiếng động. Các tướng đứng đầu như Hùng Bảo, Nghi-Sơn, Biện-Sơn, Đinh Bạch-Nương v.v. đều còn trẻ. Uy nghiêm, tư thái nhàn tản, giáp trụ, người ngựa đẫm máu. 

Hoàng Thiều-Hoa ra lệnh: 

–Quách A, Sa-Giang, Quí-Minh. Ba em dẫn Thần-ngao vào dinh Thái-thú lùa hết mọi người ra đây. Không nên làm chúng sợ hãi. 

Ba người vâng lệnh tiến vào. Một lúc Sa-Giang lùa các quan lại phủ Thái-thú, cùng vợ con ra ngoài. Tiếp theo Đào Thế-Kiệt, Đào Kỳ, Phương-Dung, thầy trò Lê Đạo-Sinh. Tô Định bị trói tay. Mặt y cúi gầm xuống. Y trông thấy đầu con trai bị bêu trên cây gậy, buông tiếng khóc thảm thiết. 

Quần hùng, quân sĩ, tráng đinh reo hò vang dội. 

Giữa lúc đó thám mã báo: 

– Có một đạo thiết kị vượt biên giới Giao-chỉ, Tượng-quận, phi như bay đang tiến về đây. Xin Trưng vương định liệu. 

Các anh hùng ngơ ngác tự hỏi: 

– Quân nào nữa? Không lẽ quân Hán? 

Đào Kỳ lắc đầu: 

– Quân Hán dù có cánh cũng không lọt qua đất Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải dễ dàng như vậy. Chắc đạo quân của các vị vương vùng Bắc Lĩnh Nam đến tiếp viện Giao-chỉ mà thôi. 

Chàng gọi Sún Lé: 

– Sư đệ đem đội Thần-tượng, Thần-hổ đón đầu đạo quân ấy xem sao. 

Vừa lúc đó thám mã báo: 

– Đạo thiết kị đó kéo cờ Tượng-quận. 

Sún Lé vọt lên ngựa đi liền. Lát sau cháng trở lại trình với quần hùng: 

– Tượng-quận vương Hàn Bạch, được tin Đặng vương gia tuẫn quốc, vội sai Hổ-nha đại tướng quân Đào Hiển-Hiệu, quân sư Phùng Vĩnh-Hoa, và Trấn-Bắc đại tướng quân Chu-Bá đem một vạn kị binh tiếp ứng. Các tướng đang ở ngoài chờ lệnh. 

Trưng vương hài lòng. Truyền mời ba người vào. Ba người kính cẩn hành lễ trước Trưng vương, Đào vương, ra mắt với các anh hùng. Phùng Vĩnh-Hoa trình với Trưng vương: 

– Tượng-quận vương Hàn sư bá tiếp được thư nói Giao-chỉ vương Đặng sư huynh tuẫn quốc. Người bưng mặt khóc thảm thiết. Truyền quân, dân Tượng-quận để tang ba ngày. Người lập dàn tế vọng về phương Nam. Thục đế Công-tôn Thuật sư bá được tin cũng lập dàn tế vọng. Công-tôn sư bá gửi thư nói với Tượng-quận vương rằng quân Thục Nam Ích-châu sẵn sàng tiếp cứu Tượng-quận. Vậy Tượng-quận vương nên gửi đội thiết kị tăng viện cho Giao-chỉ. Sư bá Hàn Bạch cử Chu sư bá, Đào sư huynh với em lên đường ngay. 

Trưng vương mỉm cười: 

– Đặng đại ca tuẫn quốc, ai cũng buồn. Song tuẫn quốc, để sống muôn đời. Đa tạ các anh hùng Thiên-sơn, Tượng-quận. 

Phùng Vĩnh-Hoa gặp lại cha là Phùng Đại-Tín, sư phụ là Tiên-yên nữ hiệp mừng chi siết kể. 

Đào-hiển-Hiệu gặp lại cha, sư thúc, các sư huynh, sư đệ đồng môn, cười nói vui vẻ. Duy có Chu Bá thì đau xót trong lòng: Vợ tuẫn quốc. Con gái đang làm Quí-phi cho Quang-Vũ. Chu Quang, Hoàng Minh-Châu với nhạc phụ Lê Đạo-Sinh, trở thành tội nhân của đất nước. 

Ông đến trước mặt Khất đại phu, quì gối hô lớn: 

– Đệ tử xin ra mắt sư phụ. Kính chúc sư phụ sống lâu trăm tuổi. 

Khất đại phu đỡ Chu Bá dậy: 

– Ta làm sao mà sống đến trăm tuổi được? Muốn sống muôn thủa phải theo gương vợ của con, theo gương Thi-Sách, theo gương Cối-giang hầu Nguyễn Trát. Hà! Sư đệ ta... Ta biết làm sao đây? 

Đào Hiển-Hiệu gặp lại Đinh Hồng-Thanh. Chàng quên mất rằng mình đang làm Đại tướng-quân, thống lĩnh binh mã cả một vùng rộng lớn. Chàng tiến lại nắm tay Hồng-Thanh. 

Đinh Hồng-Thanh, Đào Hiển-Hiệu là sư huynh, sư muội. Khi chưa thành vợ chồng, họ đã kết thành đôi bạn "Thanh mai trúc nhã". Đào Thế-Kiệt cho họ làm lễ cưới được ít tháng, thì Hiển-Hiệu phải lên đường tòng chinh Trung-nguyên. Suốt thời gian chinh chiến, sau những lúc xông pha trận mạc, chàng lại ngồi mơ màng đến bóng dáng người vợ xinh đẹp. 

Trưng vương phán: 

– Trưng Nhị, em viết thư sai Thần-ưng đi các nơi, báo cho mọi người biết, đã hạ xong Luy-lâu. Mời Đô Dương cùng các vị vương về họp, hầu đề cử hoàng đế Lĩnh-Nam. 

Trời dần dần bình minh. Mặt trời tháng năm chiếu ánh sáng chói chang. Trưng vương truyền làm tiệc khao quân. Dân chúng các nơi nghe nói, dắt trâu, khiêng lợn, chở gà, hoa quả đến mừng. Suốt mấy ngày, quần hùng, tráng đinh, uống rượu, đánh trống, ca hát. 

Trong bữa tiệc, Đào Thế-Hùng trịnh trọng nói: 

– Tô-Định là tên tham quan. Y được phong chức Thái thú Giao-chỉ do áp lực của Mã thái-hậu với triều đình nhà Hán. Từ khi đến Giao-chỉ, y gây không biết bao nhiêu tội ác. Dù Hán, dù Việt đều hận y tới xương. Giết y đi cho trăm họ hả lòng. 

Trưng vương đứng lên đài cao. Bà hướng vào đám tù người Hán, người Việt dõng dạc tuyên cáo: 

– Chúng ta vốn người hiệp nghĩa, khởi binh, cứu trăm họ khỏi ách khắc nghiệt của bọn tham quan. Chỉ bọn tham quan, bọn thương gia ác độc, bọn phú gia dựa thế quan lại mới bị tội. Còn nhất thiết được trở về làm ăn. Người Hán, người Việt đều như nhau. Ai phân biệt Hán, Việt sẽ bị xử tội. Tài sản người Hán được bảo trọng. Phàm các quan người Hán vô tội, muốn ở lại Lĩnh-Nam vẫn được trọng dụng. Ai muốn về Trung-nguyên, sẽ cho về với của cải, vợ con. 

Ngừng lại một lát Trưng vương tiếp: 

– Ta cử ra ba người, xét từng trường hợp một của tội nhân. Người thứ nhất là tiên sinh Đào Thế-Hùng. Người thứ nhì là tiên sinh Phùng Đại-Tín, người thứ ba là thống lĩnh bảy mươi hai động Tây-vu Hồ Đề. Ai muốn tố giác tội ác, hoặc làm chứng điều thiện của tội nhân, đều được đến trước ba vị khai. Ai khai gian, vu vạ cho người, bị bắt làm tội. 

Ba hôm sau Đào Thế-Hùng trình bản luận tội các quan lại người Hán, người Việt lên Trưng vương và các anh hùng. 

Trưng vương phán: 

– Cứ như luận tội này: Lê thái sư thúc, cùng các đệ tử của người, đáng được ân xá. Chỉ có hai chục tên vừa quan, vừa thương gia ác độc, cần xử trảm để nêu rõ đại nghĩa thiên hạ. Phiền tiên sinh Đào Thế-Hùng và Đinh Hồng-Thanh làm giám trảm. Ngày mai giờ ngọ hành hình. Mời anh hùng, dân chúng cùng ra coi. Xin Đào vương gia đề cử đao phủ. 

Đào vương đáp: 

– Từ trước đến nay Lục trúc tiên sinh và các đệ tử của người theo Hán chống lại Lĩnh-Nam. Khi người bị trúng Huyền-âm độc chưởng, Đào gia chúng tôi nguyện hy sinh tính mạng cứu người. Thế nhưng sau đó người lại nhận chức tước của Mã thái hậu, trở về Lĩnh-Nam gây sóng gió: Cối-giang hầu Nguyễn Trát cùng bốn con, và hàng nghìn tráng đinh tuẫn quốc. Nam-thành vương Trần tiên sinh, Giao-chỉ vương Đặng tiên sinh đều vì người mà chết. Nay người đầu hàng, được tha tội chết. Song chúng ta yêu cầu người làm một việc, chứng tỏ dứt khoát trở về: Phiền người với các vị hiền đồ đứng ra xử tử Tô Định và bọn tham quan. 

Trưng vương nói với Lê Đạo-Sinh: 

– Kính xin Thái sư thúc và các sư thúc ra tay để tỏ lòng trung với Lĩnh-Nam. 

Sáng hôm sau... dân chúng các nơi lũ lượt kéo nhau về xem bọn tham quan bị chặt đầu. Số người tới dự lên đến mấy vạn. Giữa bãi đất rộng, một khán đài lớn được dựng lên. Anh hùng các đạo tề tựu đông đủ trên khán đài. Ngoài sân hai mươi mốt cái cọc, dùng để trói tội nhân. Đúng giờ Ngọ, tiếng loa xướng: 

– Giải tội nhân ra pháp trường. 

Dân chúng im phăng phắc. 

Quách A, đại diện Hồ Đề, tức là một thứ Quan tòa ngày nay. Nàng đi trước, phía sau hai mươi mốt tội nhân bị trói tay, cổ cột bằng sợi dây thừng, do đười ươi áp tải. Dân chúng vỗ tay reo hò. Quách A hướng vào Đinh Hồng-Thanh hô lớn: 

– Xin trao tội nhân cho giám trảm. 

Đào Thế-Hùng truyền: 

– Yêu cầu đao phủ trói tội nhân vào cọc thụ hình. 

Thầy trò Lê Đạo-Sinh, Chu Quang, Hoàng Minh-Châu gồm tám người, lĩnh tội nhân, cột vào cọc. Dân chúng la hét: 

– Chém nó đi! Giết nó đi! 

Đinh Hồng-Thanh đáp: 

– Chưa được đâu! Phải đợi Trưng vương, Đào vương đến đã. 

Bỗng tiếng loa xướng: 

– Đào vương, Trưng vương, giá lâm. 

Dân chúng, anh hùng reo hò rung động trời đất. 

Tiếng loa xướng: 

– Giám trảm đọc bản cáo trạng. 

Đào Thế-Hùng lên đài, lĩnh bản cáo trạng từ tay Trưng vương, đến trước cọc trói Tô Định. Ông với Đinh Hồng-Thanh quay mặt vào tội nhân. 

Đào Thế-Hùng nói: 

– Xin Lục trúc tiên sinh và các cao đồ đến vị trí hành quyết. 

Lê Đạo-Sinh mặt tím, không nói một câu nào. Y chia các đệ tử, mỗi người đứng trước ba tội nhân. Còn y thì đứng trước Tô Định. Đối diện với Đào Thế-Hùng, mắt gườm gườm nhìn ông. Trong lòng y nổi lên biết bao nhiêu chua chát, phẫn hận: 

– Bình thường thì thằng Đặng Thi-Sách, con Trưng Trắc, thằng Đào Thế-Hùng này chỉ là một con tép, con tôm. Ta muốn dí chết dưới chân lúc nào chẳng được. Giờ đây ta thất thế. Chúng làm nhục, bắt ta làm đao phủ xử tội nhân. 

Đinh Hồng-Thanh tiếp án lệnh đọc lên. Đọc xong nàng vẫy tay. Binh sĩ đánh chiêng, trống. Cứ một tiếng chiêng, tiếp theo một tiếng trống: 

– Tung, beng, tung, beng. 

Hết ba hồi. Kiếm vung lên, bọn Lê Đạo-Sinh tám người đồng ra tay. Tám cái đầu rơi xuống. Dân chúng hoan hô vang dậy. 

– Tung, beng, tung, beng. 

Hết ba hồi thứ nhì, tám cái đầu nữa rơi xuống. 

– Tung, beng, tung, beng. 

Hết ba hồi nữa, bốn tội nhân còn lại, đầu rơi xuống. 

Bây giờ tới Tô Định. 

Ba hồi trống, chiêng dứt. Lê Đạo-Sinh vung kiếm lên, lưỡi kiếm hướng cổ Tô Định. Thình lình lưỡi kiếm đổi chiêu, lia ngang một cái, đứt hết dây trói. Tô Định tung người dậy chạy. Đinh Hồng-Thanh phóng chưởng ngăn y lại. Tô Định phất tay một cái, đẩy chưởng của Đinh Hồng-Thanh sang một bên. Đào Thế-Hùng nhảy vèo đến, phóng chưởng đánh Tô, thì Lê Đạo-Sinh, Phong-châu song quái, Đức-Hiệp cùng hướng kiếm tấn công hai người. 

Một mình Đào Thế-Hùng, cũng không thể đấu ngang tay với Lê Đạo-Sinh. Huống hồ nay ông với Hồng-Thanh phải đỡ kiếm của Lê với Song quái, Đức-Hiệp, làm sao chịu nổi ? Phụp, phụp, hai thầy trò đồng bị trúng một lúc bốn mũi kiếm ngã xuống đất. 

Diễn biến xảy ra đột ngột. Từ khán đài đến pháp trường quá xa. Anh hùng hiện diện đều la hoảng, rời khán đài đuổi bắt. Bọn Lê Đạo-Sinh chạy về phía có dân chúng. 

Thình lình năm mũi kiếm từ đám dân chúng lóe lên. Đám thầy trò Lê Đạo-Sinh thấy kiếm phong rít lên vo vo, chiêu số hiểm độc, chúng cùng bật người trở lại. Nhưng năm mũi kiếm theo sát bọn Lê như bóng với hình. Phút chốc dồn sáu thầy trò Lê Đạo-Sinh với Tô Định vào giữa pháp trường. 

Bấy giờ mọi người mới nhìn ra: Hoàng Đức, Hoàng Minh-Châu, Chu Quang chống kiếm đứng tần ngần giữa pháp trường, không chạy theo. 

Trần Năng chận Tô Định lại. Hai người thi diễn cuộc đấu. Hoàng Minh-Châu ôm Đinh Hồng-Thanh, Hoàng Đức ôm Đào Thế-Hùng dậy. 

Còn năm người vung kiếm đẩy lui thầy trò Lê Đạo-Sinh từng bước, từng bước vào pháp trường chính thị Ngũ-phương thần kiếm. 

Khất đại-phu, Trần Năng lo cứu chữa Đào Thế-Hùng với Đinh Hồng-Thanh. Quần hùng bao vây bọn Lê Đạo-Sinh như thành đồng vách sắt. Bàn chung, công lực Ngũ-phương thần kiếm với đám Hoàng Đức ngang nhau. Nếu đấu chưởng, muôn ngàn lần Ngũ-phương thần kiếm không phải là đối thủ của chúng. Song đấu kiếm thì Ngũ-phương nỗi tiếng thần. Nên họ làm chủ ngay từ lúc nhập cuộc. Đấu được trên trăm hiệp, các đệ tử Lê Đạo-Sinh bị bắt hết. Còn mình Lê đấu với Hoàng Kiếm ngang tay nhau. 

Phương-Dung nghĩ đến thù cha nàng nói lớn: 

– Đại ca Hoàng Kiếm. Đại ca nhường tên Lê Đạo-Sinh cho tiểu muội trả cái thù y cắt chân sư tổ, và giết bố của tiểu muội được không? 

Hoàng Kiếm nhảy lui lại nói: 

– Đào vương phi! Xin nhường vương phi. 

Bỗng có tiếng quát: 

– Con bé Phương-Dung. Để tên Lê Đạo-Sinh đó cho ta. 

Một người chống nạng, từ đám dân chúng, nhấp nhô mấy cái đã đến trước mặt Lê Đạo-Sinh. Quần hùng kêu lên: 

– Nguyễn Phan tiên sinh! 

Nguyễn Phan tay trái chống nạng. Tay phải rút kiếm. Ánh kiếm lóe lên. Lê Đạo-Sinh bị cắt mất râu. 

Lê kinh hoảng vung kiếm đâm Nguyễn Phan, y định để cả hai cùng chết. Song Nguyễn Phan hất tay một cái, người ông nhảy lên cao. Lê Đạo-Sinh vọt lên chém vào chân ông. Ông dùng nạng gạt. Từ trên cao xuống đất, hai người đấu với nhau hơn chục chiêu. Nguyễn Phan thì như có như không, còn Lê Đạo-Sinh kiếm chiêu hùng hậu rít lên vo vo. 

Bàn chung, nếu Nguyễn Phan đấu chưởng với Lê Đạo-Sinh, giỏi lắm ông chịu được trăm chiêu là cùng. Còn nếu Nguyễn Phan không bị tàn tật, trong khoảng trăm chiêu, ông đã kết thúc tính mệnh Lê. 

Hai người đấu với nhau trên hai trăm chiêu, Nguyễn Phan bắt đầu cảm thấy mệt nhọc. Ông lui dần.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 12 : Đô kỳ đóng cõi Mê-Linh,Lĩnh-Nam riêng một triều đình nước ta(Đại-Nam quốc sử diễn ca)

 Phương-Dung đứng ngoài, nàng muốn giúp tổ sư, nhưng không biết làm sao. Bằng như nàng rút kiếm trợ giúp ông, là điều không bao giờ ông chịu. 

Cách đây hơn hai mươi năm, Nguyễn Phan nổi tiếng là Lĩnh-nam thần kiếm. Ông đeo kiếm hành hiệp khắp Trung-nguyên, Lĩnh-Nam, bọn tham quan, ác bá, nghe danh ông đều kinh hồn táng đởm. Ông cùng với Khất đại phu Trần Đại-Sinh sang Trung-nguyên kết thân với Thiên-sơn lão tiên. Ba người nổi danh Tiên ông. 

Chẳng may, ông bị bọn phản đồ Lê Nghĩa-Nam, Hoàng Đức-Tiết, Mai Huyền-Sương phản bội, đánh thuốc mê bắt ông nộp cho Lê Đạo-Sinh. 

Lê Đạo-Sinh mưu đồ làm bá chủ võ lâm Lĩnh-Nam, dần dần tiến tới cầu Hán-đế phong cho chức Thái-thú. Vì vậy y giam Nguyễn Phan, bắt ông cung xưng bí quyết kiếm thuật trấn môn. Lê đem bí quyết đó ra truyền cho đệ tử phái Long-biên, giúp chúng đoạt quyền chưởng môn. Như vậy phái Long-biên nằm trong tay y. 

Không ngờ Nguyễn Phan cương quyết không cung khai. Vì hơn ai hết ông hiểu: Cung khai cho Lê, Lê sẽ giết ông. Ông thà chịu nhục, chịu tù, đợi một cơ duyên đến, truyền bí quyết kiếm thuật cho hậu thế, rồi ông tự tử chết. 

Ngày nọ Đào Kỳ đột nhập nhà tù Thái-hà trang. Ông nhờ Đào Kỳ học kiếm pháp Long-biên, ra dạy cho người có tâm huyết. Đào Kỳ học, đem dạy lại cho Phương-Dung, cứu ông khỏi nhà tù. Rời nhà tù, ông bí mật dạy Phật-Nguyệt. 

Trong đại hội hồ Tây, ông đem bí quyết kiếm thuật trấn môn giảng cho bọn phản đồ. Ông cố ý giảng sai. Bọn phản đồ đứt mạch máu đầu, thành người tàn tật. 

Còn Đào Kỳ thì lột mặt nạ giả nhân giả nghĩa của Lê Đạo-Sinh, định giết y. Nhưng Khất đại phu, là sư huynh Lê, lên đài đánh bại y mà không nỡ giết. Nguyễn Phan nảy ra ý: Phải chính ông giết Lê cho hả mối căm hờn. Cho nên thời gian qua, ông luyện được bản lãnh, chống nạng, xử dụng kiếm. Hôm nay, nhân lúc Lê định trốn chạy, ông bảo Phương-Dung lùi ra, để chính tay ông giết y. 

Bỗng kiếm hai người chạm nhau. Cả hai kiếm đều văng lên không. Lê Đạo-Sinh phóng một chưởng định kết liễu tính mệnh ông. Ông vung chưởng đỡ. Bịch một tiếng. Hai chưởng dính tẹt vào nhau. Hai người thi triển cuộc đấu nội lực. 

Khoảng nhai dập miếng trầu, mặt Lê dần dần tái mét. Còn mặt Nguyễn Phan đỏ như gấc. Trên đầu hai người đều có khói bốc lên. Chứng tỏ nội lực phát huy đến cùng độ. 

Nội công Lê thuộc phái Tản-viên, thuộc Dương cương. Nội công Nguyễn Phan thuộc phái Long-biên thuộc Âm nhu. Xưa Vạn-tín hầu Lý Thân, chế ra nội công âm nhu khắc chế với nội công dương cương của Phò mã Sơn-Tinh. Ông dùng nội công này đánh bại Sơn-Tinh bên bờ sông Hắc-long-giang. 

Hôm nay hai đồ tôn thi triển cuộc đấu trước anh hùng thiên hạ. Lê liếc mắt nhìn bên cạnh: Trần Năng đã đánh ngã Tô Định, bằng một Lĩnh-nam chỉ. Các đệ tử y đều bị bắt trói. Duy Hoàng Đức, Hoàng Minh-Châu, Chu Quang được thư thả. 

Trong lòng y nổi lên niềm chua xót: 

– Khi xưa, lúc ta được đời tôn làm Lục trúc tiên sinh. Chúng nhân thiên hạ, không ai mà không tôn phục. Ta vì cứu Đào Kỳ, bị y khám phá ra việc ta giam Nguyễn Phan, Đặng Thi-Kế, Nguyễn Thành-Công. Ta mất uy tín từ đó. Ta vâng lệnh Nghiêm Sơn tổ chức đại hội hồ Tây, mưu cầu chức thái thú. Tại đại hội hồ Tây ta bị sư huynh đánh bại. Mưu đồ của ta hóa ra hư vô. Ta sang Thục, định phế trưởng lập thứ, cũng thất bại. Ta được triều kiến Quang-Vũ. Quang-Vũ phong ta làm Thứ sử Giao-châu. Coi toàn Lĩnh-Nam, quyền hành hơn Nghiêm Sơn. Điều đến nằm mơ ta cũng không nghĩ tới. Bây giờ, ta thất bại. Đệ tử bị bắt hết. Không biết ta có sống được không? 

Trưng vương nói với Khất đại phu: 

– Thái sư thúc! Xin Thái sư thúc cản hai vị ra. Bằng không, thì ngọc vỡ, ngói tan, cả hai cùng thiệt mạng. Chẳng tiếc lắm ư? 

Khất đại phu nghĩ, một mình ông không đủ sức đẩy hai người ra. Muốn đẩy hai người ra, phải hợp nội công của ông với Đào Kỳ. Gần Đào Kỳ lâu ông biết chàng ghét cay ghét đắng bọn phản dân hại nước. Bây giờ bảo chàng cùng ông ra tay, chàng sẽ đập chết Lê Đạo-Sinh ngay. 

Nghĩ vậy ông tiến ra nói: 

– Ông bạn già Nguyễn Phan ơi! Xin ông tha cho sư đệ ta. Y có tội với Lĩnh-Nam, thiếu gì người muốn giết y? Việc gì ông phải phí sức lực với y. Dạy dỗ y làm gì cho hao nguyên khí? 

Ông nói lớn: 

– Lê hiền đệ! Dù ngươi thắng Nguyễn Phan cũng bị anh hùng ở đây băm vằm ngươi ra thành chả. Ngươi thu công đi thôi. Nào, hai người đồng thu công lại đi nào. Một... hai... ba. 

Nhưng hai người phát huy hết công lực, đầu óc như mê đi, không còn biết gì nữa. Quần hùng đứng ngoài đều lắc đầu, không biết làm cách nào. 

Đào vương vẫy tay gọi vương phi, Đinh Đại, Đào Kỳ, Phương-Dung, Thiều-Hoa, Nghi-Sơn, Biện-Sơn vây quanh hai người. Nhược bằng Nguyễn Phan giết Lê Đạo-Sinh thì thôi. Bằng y thắng Nguyễn Phan, Đào gia sẽ bắt y, trả thù cho Đào Thế-Hùng, Đinh Hồng-Thanh, Nguyễn Trát và Nguyễn Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. 

Tiên-yên nữ hiệp bảo Trần Năng: 

– Sư muội! Chúng ta phải ra tay mới được. Nào! Chúng ta dùng Thiền-công hóa giải kình lực của hai người. Nào: Một... hai... ba. 

Hai người cùng chắp tay như lễ Phật, đẩy vào giữa chưởng hai người. 

Hai người rung động toàn người, rồi đứng im. Chưởng của Tiên-yên, Trần Năng dính chặt vào chưởng của hai người. 

Anh hùng Lĩnh-Nam đứng ngoài đều là cao thủ bậc nhất, mà không ai hiểu tại sao. Một lát, họ thấy Trần Năng mặt hồng lên, tươi như uống ly rượu, phiêu phiêu hốt hốt. Còn Tiên-yên nữ hiệp thì mặt trắng bệch, tư thái nhàn nhã. Cứ như vậy, bốn người dính vào nhau. 

Nguyên nội lực Trần Năng gốc từ phái Tản-viên, thuộc dương cương. Sau được Tăng-Giả Nan-Đà truyền Thiền công thuộc âm dương hợp nhất. Tay nàng chạm vào tay Lê Đạo-Sinh, giữa lúc nội lực y phát đến cho cùng độ, truyền sang cơ thể nàng. Nàng không phản công. Cứ để nội lực đó truyền vào người nàng, cuồn cuộn như nước chảy. Còn tay Tiên-yên nữ hiệp chạm vào tay Nguyễn Phan. Nội lực của ông thuộc âm nhu. Nội lực của Tiên-yên nữ hiệp thuộc phái Sài-Sơn. Cương nhu hợp nhất. Nội lực âm nhu của Nguyễn Phan truyền vào người bà. 

Khoảng ăn một bữa cơm, cơ thể Trần Năng, Tiên-yên, đã thu hầu hết nội lực Nguyễn Phan và Lê Đạo-Sinh. 

Trần Năng ra hiệu cho Tiên-yên cùng đẩy mạnh. Bốn người bật tung ra bốn phía. Nguyễn Phan chỉ mặt Lê Đạo-Sinh: 

– Ta không giết được mi, dù chết cũng khó nhắm mắt. 

Ông nhảy vào phóng chưởng đánh Lê. Lê vung chưởng đỡ. Hai chưởng lại dính vào nhau. 

Hoàng-Kiếm đứng ngoài, thấy vậy nói: 

– Quần hùng nghe đây ! Chúng tôi là Ngũ-phương kiếm, không thân Lê, chẳng biết Nguyễn. Hôm nay thấy hai người đấu nội lực đến trình độ cả hai đều mất. Chúng tôi là người cầm công đạo. Chúng tôi giết Lê, để báo thù cho anh hùng Lĩnh-Nam. 

Ông rút kiếm vung lên đâm vào cổ Lê-đạo-Sinh. Kiếm của ông thần tốc vô song. Anh hùng hiện diện mỉm cười: 

-Hết đời tên ác bá. 

Chu Bá nghĩ tình nhạc phụ, lại nhớ lời trối trăn của vợ lúc lâm chung, bất cứ giá nào cũng không để Lê-đạo-Sinh bị giết. Ông rút kiếm đâm vào sau lưng Hoàng Kiếm. Nếu Hoàng Kiếm tiếp tục giết Lê Đạo-Sinh, thì tính mệnh bị nguy. Hoàng Kiếm kinh hoảng, thu kiếm về, nhảy lui lại đỡ kiếm của Chu Bá. 

Bỗng một luồng kình phong nhu hòa làm mọi người muốn nghẹt thở, hai vật nhỏ bay đến, chạm vào kiếm Chu Bá, Hoàng Kiếm, kêu đến bộp một tiếng. Hai thanh kiếm bay vọt lên trời. Mọi người nhìn lại thì ra ba quả sim màu tím. Sim là loại trái cây nhỏ bằng đầu ngón tay út. Mềm mại. Không hiểu ai mà có công lực mạnh đến độ đánh bay được kiếm hai đệ nhất cao thủ đương thời? Ngay chính Đào Kỳ, Khất đại phu cũng không thể làm được. 

Có tiếng nói từ xa vọng lại: 

– A Di Đà Phật! Đại hiệp Hoàng-Kiếm. Xin đại hiệp mở lòng từ bi, tha cho Lê lão sư một phen. 

Bây giờ mọi người mới biết đó là Tăng-Giả Nan-Đà. Ngài từ đám dân chúng bước ra, lưng khoác tấm áo Cà-sa màu vàng, miệng tủm tỉm cười. 

Tiên-yên nữ hiệp, Trần Năng, chạy đến chắp tay: 

– A Di Đà Phật, đệ tử kính bái sư phụ! Sư phụ giá lâm thực đại phúc cho đất Lĩnh-Nam. 

Hùng Xuân-Nương chắp tay: 

– A Di Đà Phật! Đệ tử kính cẩn tham kiến sư phụ. 

Tiên-yên nữ hiệp, Trần Năng nhìn Xuân-Nương nghĩ: 

– Thì ra ngài đã qui y Tam-bảo cho Xuân-Nương. Thế mà mình không hay. 

Tăng-Giả Nan-Đà đến trước Nguyễn Phan, Lê Đạo-Sinh, ngài chắp tay xỉa vào giữa chưởng hai người. Hai người rung động thực mạnh rồi lui lại. 

Tăng-Giả Nan-Đà nói: 

– A Di Đà Phật! Này Nguyễn tiên sinh! Xin tiên sinh hãy quên thù hằn với Lê tiên sinh được chăng? 

Nguyễn Phan nói: 

– Quên ư? Y đã cắt gân chân tôi. Giam tôi gần mười năm mà bảo tôi quên ư? 

Tăng-Giả Nan-Đà hỏi: 

– Từ trước đến giờ, tiên sinh đã giết bao nhiêu người rồi? Tiên sinh có nhớ không? Họ đâu có thù gì với tiên sinh? Khi xưa nữ hiệp Trần Thiếu-Lan khởi binh. Thái thú Nhâm Diên đem quân đến đánh. Tiên sinh cứu Thiếu-Lan, một kiếm giết có hàng vạn người. Nếu thân nhân họ cũng tìm đến tiên sinh trả thù, tiên sinh nghĩ sao? Này tiên sinh ơi! Đó chẳng qua nghiệp chướng. Bần tăng dám khuyên tiên sinh hãy quên đi những gì là thù hằn. Cùng bần tăng ngao du tứ phương, chẳng thú vị lắm ư? 

Tăng-Gỉa Nan-Đà cầm tay Nguyễn Phan: 

– Quên hết đi Nguyễn tiên sinh. Nhớ thù hận nào có ích gì. 

Một luồng nội lực êm dịu truyền vào người Nguyễn Phan, bao nhiêu mệt mỏi biến mất. Ông trầm tư suy nghĩ. 

Nguyễn Phan suy nghĩ một lúc, rồi tiến tới quì gối trước Tăng-Giả Nan-Đà: 

-Sư phụ! Đệ tử quên hết rồi! Nhờ sư phụ giác ngộ, lòng đệ tử trong sáng, mở rộng hơn bao giờ hết. Đệ tử nguyện qui y theo Phật. 

Tăng-Giả Nan-Đà vuốt tay trên đầu, trên cằm Nguyễn-Phan, râu tóc của ông rụng xuống hết. Ngài nói: 

– Từ nay Nguyễn-Phan chết rồi! Ta đặt cho ngươi pháp danh là Trí-Không. 

Ngài quay lại nói với Lê-đạo-Sinh: 

– Lê tiên sinh mệt lắm rồi. Để bần tăng giúp tiên sinh nghỉ một chút. 

Ngài tiến đến, để bàn tay lên đầu Lê. Lê-đạo-Sinh cúi đầu tránh né, gạt tay ngài. Không ngờ cái tránh né, cái gạt tay của đệ nhất cao nhân Lĩnh-Nam, mà không tránh nổi bàn tay Tăng-Giả Nan-Đà. Ngài để tay lên đầu Lê nói: 

– Ngủ đi! Lê tiên sinh hãy ngủ đi. 

Lạ thay Lê-đạo-Sinh nhắm mắt, dựa lưng vào cột cờ ngủ. Lê ngủ rất say. 

Lúc ngủ, Lê thấy mình cùng đệ tử, giết hết anh hùng Lĩnh-Nam. Lê được phong tước Lĩnh-Nam vương. Các đệ tử đều phong thái thú. Vinh hoa tột đỉnh. Lê xua quân chiếm ba quận Giao-Chỉ, Cửu-Chân, Nhật-Nam. Uy quyền hiển hách. 

Rồi dân chúng nổi dậy khắp nơi. Lê cùng các đệ tử đánh dẹp. Giết hết lớp này lớp khác tới. Cuối cùng ba thầy trò, xuống một chiến thuyền chạy ra biển, sang Trung-Nguyên yết kiến Quang-Vũ xin quân về báo thù. Quang-Vũ kể tội thầy trò Lê làm mất Lĩnh-Nam. Truyền đem ra chém. Giữa lúc đao phủ sắp hạ thủ, thì Khất đại phu xuất hiện. 

Lê gọi lớn: 

– Sư huynh cứu đệ với. 

Khất đại phu lắc đầu bỏ đi. Lê chợt nhớ đến Tăng-Giả Nan-Đà. 

Lê lên tiếng gọi: 

– Sư phụ! Sư phụ cứu đệ tử với. 

Có tiếng đáp ngay bên tai. 

Lê bừng mắt ra, thì không thấy pháp trường đâu. Mà ở trong thành Luy-Lâu. 

Tăng-Giả Nan-Đà nói: 

– Lê tiên sinh! Khổ hải vô bờ, hồi đầu thị ngạn. Công danh, phú quí, chẳng qua là một giấc mơ. Tiên sinh ơi! Tiên sinh mưu đồ công danh, gây ra cảnh núi xương sông máu. Nay con cháu đều chết hết. Trang ấp, của cải không còn. Tiên sinh muốn gì nữa đây? 

Lê-đạo-Sinh suy nghĩ rất nhanh: 

– Dù Nguyễn-Phan không giết ta, thì đệ tử Đào gia cũng không tha cho ta. Ừ thì Tăng-Giả Nan-Đà khuyên răn, ta hãy tạm ẩn lánh: Hãy giả vờ sám hối, xin qui y. Tăng-Giả Nan-Đà thu ta làm đệ tử, thì ai dám giết ta nữa! 

Nghĩ vậy y quì gối xuống trước mặt ngài: 

– Đệ tử sám hối, xin sư phụ cho được qui y Tam bảo. 

Tăng-Giả Nan-Đà vuốt tay lên đầu Lê-đạo-Sinh, râu tóc của y rụng xuống hết. Ngài nói: 

-Phúc thay! Ta đặt cho ngươi pháp danh là Trí-Vô. 

Phương-Dung rút kiếm bước ra nói: 

– Đại sư! Đại sư qui y cho y là việc của đại sư. Còn y giết cha, giết mẹ, anh em của tôi, y phải trả. 

Tăng-Giả Nan-Đà mỉm cười: 

– Đào vương phi! Bần tăng đã từng nói với vương phi, những gì xảy ra hôm nay, chẳng qua do bao nhiêu nghiệp kiếp trước tích lũy. Này, vương phi thử nghĩ lại xem, khi vương phi làm quân sư, cầm quân đánh Thục, trận đánh Võ-Đô, Cẩm-Dương. Người chết hàng vạn, vậy ai sẽ tìm vương phi để trả thù? Biết bao nhiêu đại tướng Hán, chết dưới lưỡi kiếm vương phi. vương phi trả lời sao đây? Trận đánh Trường-An, quân Hán chết trên ba chục vạn, quân Thục chết không dưới mười lăm vạn. Ai sẽ tìm vương phi để trả thù? Bởi vậy bần tăng mới nói: Chẳng qua là cái "nghiệp" từ tiền kiếp mà ra. 

Lê-đạo-Sinh nghĩ được một kế: 

– Bọn chúng ở đây đông quá. Tăng-Giả Nan-Đà khó cứu ta. Chi bằng ta dùng khổ nhục kế, mới mong thoát nạn. 

Y bước ra nói: 

– Các vị anh hùng! Một đời Trí-Vô này, vì mưu cầu danh lợi hư vô, mà hại biết bao nhiêu người! Vậy ai thấy cần trả thù, cứ lại giết! Ta không hề oán hận. Có như vậy mới giải được hết nghiệp của ta. 

Trần-khổng-Chúng nói: 

– Ta giết ngươi để trả thù cho sư huynh ta. 

Ông cầm kiếm nhắm cổ Lê-đạo-Sinh đâm tới. Lê nhắm mắt mỉm cười. Lưỡi kiếm sắp tới cổ Lê thì ông ngưng lại nói:

– Ta là anh hùng! Ta không giết kẻ đã hối lỗi. 

Đào-hiển-Hiệu đến trước Lê-đạo-Sinh mắng: 

– Đồ hèn hạ! Đồ khốn kiếp! Mi mưu cầu danh lợi, xảo trá, giết cha ta, giết hiền thê của ta. Ta phải giết ngươi. 

Đào-thế-Hùng gượng nói: 

– Hiển-Hiệu! Không được giết người hối lỗi. 

Tăng-Giả Nan-Đà nắm tay Lê-đạo-Sinh, Nguyễn-Phan, thấp thoáng một cái, ba người biến vào đám dân chúng mất dạng. 

Quần hùng xúm vào xem thương thế Đào-thế-Hùng, Đinh-hồng-Thanh: Vết thương đâm trúng ngực, sườn bụng. Khất đại phu, Trần-Năng lắc đầu thở dài. 

Một lát Đào-thế-Hùng mở mắt tỉnh dậy. Ông liếc mắt nhìn các anh hùng cười lên: 

– Các vị đừng lo cho tôi! Cũng đừng vì tôi chết mà buồn. Hãy theo gương Trưng vương: Đặng vương gia tuẫn quốc. Trưng vương can đảm cầm quân đánh giặc. 

Ông nhìn Đào-thế-Kiệt, Đinh-Đại, Đinh-xuân-Hoa, và đám đệ tử Đào gia: 

– Anh chị, Đinh sư đệ! Các con, các cháu. Từ khi ta sáu tuổi, phụ thân mỗi đêm thường khóc thầm, giảng cho ta biết cái nhục của người dân mất nước. Người luôn dặn ta: Hết lòng phục hồi Lĩnh-Nam. Năm ba mươi tuổi, anh Cả sai ta đem vợ con ra Bắc, liên lạc với hào kiệt, phục quốc. Từ đấy đêm ta quên ngủ, ngày ta quên ăn để có hôm nay. Ta vẫn nói: Chỉ cần nhìn ngày đất nước trở về trong tay người Việt, đời ta coi như đủ. Chết sống không nghĩa lý gì. Huống hồ, ta được nhìn Lĩnh-Nam phục hồi đã sáu ngày. Ôi, sướng ơi là sướng. Ta sinh ra để phục quốc. Quốc đã phục rồi! Ta còn mong gì nữa? 

Ông mỉm cười rồi tắt thở. 

Đâu đó tiếng sáo thê lương, rít trên không gian, theo mây trời lơ lững, như khóc, như than, như uất nghẹn. Người cứng rắn nhất như Hồ-Đề mà cũng phải rơi nước mắt. Anh hùng nhìn lại: Thì là tiếng sáo của Sa-Giang. Nàng cùng cha nổi danh tiêu thần. Tiếng sáo của nàng rúc lên từng hồi, khi cao đến mây, khi nhỏ như sợi tơ trời. 

Cạnh đó, Đinh-hồng-Thanh nằm gọn trong tay Đào-hiển-Hiệu. Mắt nàng nhắm nghiền. Khuôn mặt vẫn thanh tú, nhu nhã. Nàng thở nhẹ nhàng, ngực nhô lên thụp xuống. Trong cơn mê mê tỉnh tỉnh, nàng luôn miệng gọi tên Hiển-Hiệu. 

Khất đại phu nói: 

– Cháu Hiển-Hiệu. Hãy bỏ vợ xuống. Ta dùng Lĩnh-Nam chỉ làm cho vợ cháu tỉnh dậy, từ biệt cháu, rồi ra đi. Còn hơn mê mê tỉnh tỉnh như vậy. 

Ông chìa ngón tay chỏ điểm đến "véo" một cái vào huyệt Bách-hội, Đinh-hồng-Thanh rung động toàn người, rồi từ từ mở mắt ra. Đôi môi hồng như trái đào, nàng hỏi: 

– Hiển-Hiệu! Bố ra sao rồi? Anh ở đâu? 

Hiển-Hiệu nắm chặt tay, như muốn giữ nàng lại: 

– Anh đây! Bố chết rồi! 

Hồng-Thanh mỉm cười: 

– Anh nói sai! Bố là đại anh hùng, đại hào kiệt! Bố không bao giờ chết cả! Lĩnh-Nam còn, người Việt còn, thì bố vẫn còn. Bố chết như thế này chẳng hơn chết già ư? Anh... em dặn anh nhé... em sắp chết rồi. Nếu sau này sáu vị vương hợp lại, để cử hoàng đế Lĩnh-Nam, anh nhớ... thay em, cử Trưng vương. Ðừng cử bác cả. Bác già rồi! Để cho bác thảnh thơi. 

Nàng nhắm mắt thiu thiu, rồi mở mắt ra, thấy Trưng vương, Đào vương bên cạnh. Nàng nói: 

– Bác Cả ơi! Công phu bác dạy bố, dạy các anh, các chị, dạy chúng cháu, chỉ mục đích duy nhất phục hồi Lĩnh-Nam. Lĩnh-Nam phục hồi rồi, bác vui lắm. Bố chết, mà sống muôn ngàn năm sau. Cháu cũng sắp chết rồi. Cháu sẽ cùng bố gặp vua Hùng, vua An-Dương. 

Nàng nắm tay Hiển-Hiệu: 

-Em chết đi chẳng có gì đáng tiếc. Duy có điều em chưa cho anh đứa con. Thôi em đi đây... 

Nàng nghẹo đầu sang một bên, từ từ nhắm mắt lại. 

Quần hùng đứng chết lặng giữa hai cái chết của đệ tử Đào gia. Đâu đó tiếng tù và rúc lên từng hồi, thảm não như con mất cha, như vợ mất chồng. Khiến quần hùng không ai cầm được nước mắt. 

Hơn nghìn Thần-ưng bay lượn thành vòng tròn trên trời. Cùng cất tiếng kêu bi ai, khắc khoải, rồi kiếm cây, đậu chi chít trên cành. Cúi đầu xuống, ủ rủ. Tiếng tiêu của Sa-Giang vẫn nức nở, nỉ non. Nàng dùng nội lực chuyển vào tiếng tiêu, vọng đi rất xa. Anh hùng các đạo, đều cắn răng, cúi đầu, nhỏ lệ. 

Đào-hiển-Hiệu là một đại tướng tài kiêm văn võ thời Lĩnh-Nam. Tài liệu trong các cuốn phổ đều mô tả ông vốn đa tình ngang với Trần-tự-Sơn, Đô-Dương. Ông được phong tước công, tuổi còn trẻ, thế mà suốt cuộc đời, ông không chú ý đến bất cứ người con gái nào. Ông chôn vợ ở gần nơi trấn nhậm ngoài thành Long-Biên. Mỗi buổi sáng, ông ra bên mộ nàng, tự tay tỉa cây kiểng. Buổi chiều đích thân ông tưới hoa, rồi ngồi nói truyện với nàng như nàng ngồi cạnh. 

Đào vương cho khâm liệm em với cháu. 

Trưng vương hỏi: 

– Ý Đào vương định an táng hai vị anh hùng ở đây hay đưa về Cửu-Chân? 

Đào vương phi nói: 

– Khắp đất nước Lĩnh-Nam, đâu chả của mình? Chôn đâu cũng được. Chúng tôi vốn con cháu thần dân Âu-Lạc, xin được đưa về Cổ-Loa an táng. 

Trưng vương truyền các anh hùng tế trước linh sàng Đào-thế-Hùng, Đinh-hồng-Thanh. Ban sắc phong Đào-thế-Hùng làm: 

Vũ liệt, hùng huân, Đặng-Châu đại vương. 

Ban sắc phong Đinh-hồng-Thanh: 

Chí nhu, uyển mị, Hồng-Đức công chúa. 

Truyền trăm thớt voi, trăm Thần-ưng và ba trăm đệ tử, tráng đinh đi theo Đào-hiển-Hiệu, hộ tống linh cữu về an táng tại Cổ-Loa. 

Tiễn đưa linh cửu Đào-thế-Hùng, Đinh-hồng-Thanh đi rồi. Hồ-Đề đứng lên nói với quần hùng: 

– Lê-đạo-Sinh đã được Tăng-Giả Nan-Đà cứu. Tuy Lê xám hối, xin chịu tội đã đành. Nay Hoàng-Đức, Hoàng-minh-Châu, Chu-Quang, hối lỗi, chống Lê-đạo-Sinh. Chúng ta tha tội cho ba người. Còn lại Lê-Đức-Hiệp, Ngô-tiến-Hy, Hàn-thái-Tuế, Vũ-Hỷ, Vũ-phương-Anh, chúng giết hại không biết bao nhiêu người. Cần phải xử tử chúng, cho anh hùng hả dạ. 

Phương-Dung cũng tiếp: 

– Phong-Châu song quái giết cha, mẹ, bốn anh của tôi. Xin cho tôi được đưa hai tên này về Cối-Giang xẻo từng miếng thịt, tế mộ các người. 

Trưng vương thở dài: 

– Đối với môn qui của phái Tản-Viên. Tôi không có quyền giết người đồng môn. Nhưng nay các đệ tử của thái sư thúc Lê-đạo-Sinh tội quá nặng. Tôi không dám xin tha tội. Vậy xin giao cho ba vị xét xử. Trước kia ba vị gồm tiền bối Đào-thế-Hùng, Phùng-đại-Tín tiên sinh với Hồ-Đề. Nay Đào vương gia tuẫn quốc. Tôi xin cử Đinh hầu thay thế. Xin ba vị thu thập tội ác của năm người. Đợi cử hoàng đế Lĩnh-Nam, hãy đem xử tội. 

Hơn mười ngày sau, có tin Đô-Dương cùng các đạo anh hùng tề tựu đầy đủ. 

Đây là cuộc họp, suy cử hoàng đế Lĩnh-Nam theo thủ tục trước kia các anh hùng Tây-Vu đã cử Thục-Phán lên thống lĩnh hào kiệt đánh vua Hùng, lập ra nước Âu-Lạc. Trưng vương làm Giao-Chỉ vương, đứng ra tổ chức đại hội.

Ngài truyền đắp cái đài thực cao, lát gỗ. Trên đài, bầy bài vị thờ các vua Hùng, vua An-Dương. Cạnh còn có bài vị thờ Phù-Đổng Thiên-vương, Sơn-Tinh, Vạn-tín hầu Lý-Thân, Phương-chính hầu Trần-tự-Minh, Trung-tín hầu Vũ-bảo-Trung, Cao-cảnh hầu Cao-Nỗ. Giữa đài để sáu cái đỉnh đồng tượng trưng sáu vùng Nam-Hải, Quế-Lâm, Tượng-Quận, Giao-Chỉ, Cửu-Chân, Nhật-Nam. Trước mỗi đỉnh có chín cái trống đồng, do chín thiếu niên đứng trực, tấu nhạc. Tổng cộng năm mươi bốn cái trống. Đài kết hoa rực rỡ. Khói hương đỉnh đồng bốc lên nghi ngút. Nơi cử hành lễ là đất Mê-Linh, ngay dưới chân núi Tản-Viên. 

Từ dưới lên đài bằng sáu con đường gỗ, thoai thoải, mỗi con đường có trăm bậc, tượng trưng xưa Quốc-tổ, Quốc-mẫu sinh trăm con, phong cho mỗi con một vùng, từ đấy thành họ. Như người con được phong đất "Trần" sau con cháu mang họ Trần. Người con được phong đất Đào, sau con cháu đều mang họ Đào. Cuộc bố phòng, bảo vệ cuộc lễ, giao cho Hồ-Đề và các đệ tử Tây-Vu. Trưng-Nhị được cử làm người xướng ngôn buổi lễ. 

Ngày cử hành lễ là ngày mùng 3 tháng 6 năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch),bên Trung-Nguyên nhằm niên hiệu Kiến-Vũ thứ mười hai đời vua Quang-Vũ nhà Đông-Hán. Anh hùng các nơi tụ kéo về đầy đủ. Từ sáng sớm, dân chúng lũ lượt tụ tập đến mấy chục vạn người. Trời tháng sáu, ánh sáng ban mai tỏa chiếu, anh hùng các nơi được cử đứng vào sáu con đường bằng gỗ, theo thứ tự lớn trên, nhỏ dưới. 

Đúng giờ thìn, Trưng-Nhị cầm cờ phất. Nhạc công đánh trống, năm mươi bốn cái trống đồng cử lên một lượt. Tiếng vang ngân đi rất xa. Pháo nổ liên hồi. 

Trưng-Nhị hô lớn: 

– Hoàng đế Lĩnh-Nam giá lâm. 

Trần-tự-Sơn từ dưới đài uy nghi bước lên đứng trước sáu vị vương. 

Ba hồi chiêng trống, hơn ngàn đệ tử phái Sài-Sơn đồng cử đủ các thứ nhạc khí, bản Động-Đình ca. 

Trần-tự-Sơn bước đến trước bàn thờ Quốc-tổ. Hai thiếu nữ đứng bên cạnh các đỉnh đồng đốt lên một bó hương. Trần-tự-Sơn tiếp lấy, cắm vào các bát hương thờ Quốc-tổ và các anh hùng tiên hiền. 

Ông quì xuống trước, kế đến sáu vị lạc vương, lạc công, lạc hầu, động chủ, trang chủ, các tướng lĩnh, anh hùng. 

Trưng-Nhị xướng: 

– Tuyên đọc chiếu chỉ của Quốc-tổ An-Dương. 

Trần-tự-Sơn cầm chiếu chỉ của vua An-Dương đọc lớn. Đọc xong, ông hướng xuống đài nói: 

– Quốc tổ đã dậy: Người thủ lĩnh hào kiệt, sau khi phục hồi Lĩnh-Nam, tuyệt đối không được giữ bất cứ quyền hành gì. Từ khi ta trở về Lĩnh-Nam với sắc phong Lĩnh-Nam công của nhà Hán, công cuộc phục quốc bắt đầu. Ta được anh hùng hào kiệt tin tưởng, người người góp sức, mà có ngày nay. Hôm đại hội hồ Động-Đình, Lĩnh-Nam coi như phục hồi. Ta tạm ủy quyền cho nghĩa đệ Đô-Dương điều khiển anh hùng, ổn định đất nước. Kế đó Quế-Lâm, Nam-Hải, Tượng-Quận cử lạc hầu, lạc công. Các vùng Giao-Chỉ, Cửu-Chân, Nhật-Nam đã có lạc hầu rồi chỉ việc cử lạc công. Rồi các nơi cử lạc vương. Hôm nay, ta trở lại đây chứng kiến cuộc suy cử hoàng đế Lĩnh-Nam. Thể lệ như sau: 

– Các lạc hầu, sáu năm cử lại một lần. Đó là các năm Dần, Thân. 

– Các lạc công, bốn năm cử lại một lần, đó là năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu. 

– Hoàng đế Lĩnh-Nam, sáu năm cử lại một lần vào năm Hợi, Tỵ. Các vị vương cùng được cử một lúc với hoàng đế. 

Hôm nay, các vị cử hoàng đế Lĩnh-Nam. Muốn được cử làm hoàng đế Lĩnh-Nam không phân biệt nam, nữ, miễn là có đạo đức, có kiến thức, có công với đất nước. 

– Những ai được cử? Tất cả các lạc hầu, động chủ, châu trưởng, lạc công, lạc vương. 

– Quan chức, từ cấp huyện trở lên. 

– Các Chưởng môn nhân võ phái. 

– Các tướng cầm quân từ cấp lữ trưởng. 

Hôm nay, chúng ta cử hoàng đế. Bây giờ chúng ta cùng im lặng, suy nghĩ. Mỗi vị sẽ được một đồng nam đưa đến cho một miếng giấy. Các vị định cử ai, ghi tên người đó vào, rồi lên bỏ vào thùng gỗ trầm tước bàn thờ Quốc-tổ. Ta với Đô-Dương không được cử, vì vậy các vị đừng cử chúng ta. Nào bắt đầu. 

Trên đài khói hương nghi ngút, không một tiếng động. Trời xanh biếc, gợn chút mây tơ, Thần ưng bay lượn vòng tròn, thực nhộn nhịp. 

Anh hùng các nơi thứ tự lên bỏ tấm giấy vào thùng gỗ trầm. Đến giờ ngọ, chấm dứt. 

Trần-tự-Sơn nói: 

– Tôi xin mời một vị đạo cao đức trọng lên chứng kiến. Đạo cao đức trọng nhất Lĩnh-Nam phải kể Thúc phụ Trần-đại-Sinh. 

Dân chúng quần hùng nghe đến tên Trần-đại-Sinh, vỗ tay rung động trời đất. 

Khất đại phu lên đài, quì trước bàn thờ Quốc-tổ lễ tám lễ. Ông nói lớn: 

– Lão phu người Lĩnh-Nam. Lão đề nghị nên mời mấy quí khách cùng kiểm điểm. Không biết các vị có đồng ý không? 

Trần-tự-Sơn chắp tay nói: 

– Không biết thúc phụ cử ai? 

Khất đại phu nói: 

– Lão phu xin cử bạn già là Thiên-Sơn lão tiên. Thiên-Sơn lão tiên đang hưởng nhàn ở núi Thiên-Sơn, thế mà người nghe tin Lĩnh-Nam suy cử hoàng đế, cũng đến đây mừng. Xin mời lão tiên lên đài. 

Một bóng vàng thấp thoáng vọt lên trời như con hạc, từ từ đáp xuống. Chúng nhân kêu lên một tiếng "ồ", tấm tắc khen: 

– Đẹp thực! đẹp thực. Tiên có khác. Đẹp thực. Mặt lão tiên như trái táo, hồng hào, tay chống gậy trúc, râu tóc bạc trắng. Lão quì xuống bàn thờ Quốc-tổ lễ tám lễ. 

Khất đại phu nói: 

– Lão xin mời bảy quí khách nữa lên đây làm trọng tài. Đó là Lục tiên sinh, hiệu "Khổng tử tái sinh", và Ngũ-phương thần kiếm. 

Lục-mạnh-Tân, Ngũ-phương thần kiếm đã ở Lĩnh-Nam hơn mười năm. Một người đem đạo lý Khổng, Mạnh dạy dân. Năm người đem kiếm pháp, trừ diệt bọn quan Hán tham ô. Khắp nơi đều nghe danh. Khi Trần-tự-Sơn xướng đến tên họ, dân chúng lại vỗ tay rung động trời đất. 

Khất đại phu tiếp: 

– Vị quí khách mà lão phu dám cả gan thỉnh, là Bồ tát Tăng-Giả Nan-Đà từ Thiên-Trúc qua Lĩnh-Nam hoằng dương đạo pháp của đức Thế Tôn. 

Bồ tát Tăng-Giả Nan-Đà khoan thai lên đài. 

Bấy giờ đạo Phật chưa truyền qua Lĩnh-Nam. Dân chúng không biết ngài là gì. Song thấy Thiền-công của ngài cao cường. Ngài được Tiên-Yên nữ hiệp, Trần-Năng, Hùng-xuân-Nương bái làm thầy. Họ dư biết địa vị ngài không tầm thường. 

Khất đại phu nhờ tám quí khách điểm lại phiếu bầu. Sau khi điểm xong. Ông vận khí vào đơn điền nói lớn: 

– Con dân Văn-Lang, Âu-Lạc nghe đây: Chúng ta sắp có hoàng đế. 

Dân chúng, quần hùng hồi hộp, vỗ tay rung động trời đất. 

Khất đại phu xướng lớn: 

– Tượng-Quận vương Hàn-Bạch 217 phiếu. 

– Quế-Lâm vương Lương-hồng-Châu 231 phiếu. 

– Nam-Hải vương Trần-nhất-Gia 315 phiếu. 

– Nhật-Nam vương Lại-thế-Cường 124 phiếu. 

– Cửu-Chân vương Đào-thế-Kiệt 818 phiếu. 

Quần hùng, dân chúng vỗ tay rung chuyển trời đất. Họ cho rằng với số phiếu đó, Đào vương sẽ làm hoàng đế Lĩnh-Nam. 

Đào-Kỳ nói với Thiều-Hoa: 

– Khổ quá! Quần hùng cử bố làm hoàng đế. Bố lại phải lao tâm khổ tứ nữa rồi. 

Đợi cho tiếng hô dứt, Khất đại phu tiếp: 

– Giao-Chỉ vương Trưng-Trắc 3215 phiếu. 

Lập tức tiếng pháo nổ vang động khắp nơi, tiếng trống, tiếng nhạc cử liên tiếp trong nửa giờ. Đoàn Thần-ưng hơn ba ngàn con, chia thành từng đoàn trăm con một, bay lượn khán đài. Mỗi con nhả xuống một chùm hoa. Hoa mưa xuống khán đài, lên đầu các anh hùng. 

Trần-tự-Sơn hô lớn: 

– Mời Giao-Chỉ vương Trưng-Trắc lên đài. 

Trưng vương khoan thai đến giữa đài. 

Trần-tự-Sơn hô: 

– Trưng-Trắc quì xuống lễ tạ Quốc-tổ. 

Trưng vương lễ đủ tám lễ. 

Trần-tự-Sơn cầm thanh Thượng-phương bảo kiếm của vua Hùng trao cho Trưng vương nói: 

– Tuân chiếu chỉ của Quốc-tổ Âu-lạc, đã phục hồi Lĩnh-Nam. Kể từ giờ phút này, truyền ngôi cho Trưng-Trắc làm hoàng đế Lĩnh-Nam. 

Ông trao gươm cho Trưng vương. Hô lớn: 

– Anh hùng Lĩnh-Nam, trăm họ Lĩnh-Nam quì gối bái kiến hoàng đế. 

Tất cả đồng quì một loạt. Khói hương nghi ngút, tiếng nhạc cử bản "Động-Đình ca". Đoàn Thần-ưng hơn ba ngàn con bay qua lễ đài, mỗi con ngậm một chùm hoa thả xuống. Mưa hoa xuống rợp trời, lên đầu Trưng vương, Trần-tự-Sơn, và quần hùng. 

Vua Trưng quì xuống trước bàn thờ tuyên lời thực lớn: 

– Đệ tử, Trưng-Trắc, được trăm họ Lĩnh-Nam suy cử làm hoàng đế. Đệ tử xin thề trước anh linh liệt tổ: 

- Nguyện đem tâm trí, tính mệnh bảo vệ đất tổ. 

- Nguyện hết sức mình, mưu cầu hạnh phúc cho trăm họ. 

- Thương yêu trăm họ, như thương yêu con em. 

Dân chúng vỗ tay rung động trời đất. 

Thiên-Sơn lão tiên chắp tay nói: 

– Từ thượng cổ đến giờ, chưa từng có nước nào, suy cử một nữ hoàng đế. Đất Lĩnh-Nam là đất đầu tiên. Nam, nữ, ai có tài, đều phải góp công, góp sức tạo hạnh phúc, sống hòa hợp với nhau. Lão kính chúc Lĩnh-Nam trường tồn với trời đất. 

Tiếp theo Lục-mạnh-Tân, Ngũ-phương thần kiếm đều lên đài chúc tụng Lĩnh-Nam và vua Trưng. 

Tăng-Giả Nan-Đà chắp tay xá Trưng đế: 

– Phúc đức thay! Khắp thiên hạ, các bậc vua chúa đều do tụ tập đệ tử, tranh dành mà làm vua. Làm vua thì lo củng cố cái "ta", giữ ngôi cho vững. Chỉ có hoàng đế Lĩnh-Nam được suy cử, lại tuyên thệ mưu cầu hạnh phúc cho trăm họ. Bần tăng mong đất Lĩnh-Nam được yên ổn, trăm họ thái bình. 

Trưng Đế cùng các anh hùng tiễn Ngũ-phương thần kiếm, Lục-mạnh-Tân xuống đài. 

Ngài trở lên, thấy Thiên-Sơn lão tiên, Khất đại phu, ngồi ở mép khán đài. Hai ông rưng rửng trước mọi sự, châm thuốc lào hút. Tiếng điếu kêu lách cách, dòn dã. Thiên-Sơn lão tiên ngửa mặt lên trời nhả khói xanh, thành chữ "Lĩnh-Nam muôn năm. Thuốc lào Lĩnh-Nam trường tồn với non sông". 

Khất đại phu nói: 

 – Này bạn già. Con cháu hạnh phúc, yên vui, chúng ta lên núi uống nước suối, ăn trái cây, hút thuốc lào. Nào ta đi.

Không đợi Trưng Đế tiễn, hai ông nắm tay nhau, phóng lên núi Tản-Viên. Núi dốc như vậy, mà hai ông chạy lên như bay. Phút chốc mất hút vào đám mây mờ. 

Trong khi Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa kêu lớn: 

– Ông ngoại! Ông ngoại. 

Trần-tự-Sơn đến bên Hoàng-thiều-Hoa. Ông cầm tay nàng nói: 

– Hơn mười năm trước, gặp em. Anh đã nói: Một ngày kia, trăm họ Lĩnh-Nam hạnh phúc, chúng ta cùng ngao du thắng cảnh hùng vĩ của non sông. Nào bây giờ chúng ta đi. 

Hoàng-thiều-Hoa đến trước Đào vương, vương phi quì gối, lạy tám lạy: 

– Sư phụ, sư mẫu. Con đã theo chí của sư phụ, sư mẫu, phục được Lĩnh-Nam. Nay con xin theo chồng, để trung, hiếu, tiết, nghĩa vẹn toàn. 

Đào vương phi đỡ nàng dậy: 

– Con làm được những điều mà sư mẫu không thể tưởng tượng được. Trong các anh hùng Lĩnh-Nam, công nghiệp của con chỉ thua có Trưng Đế mà thôi. Bây giờ con được quyền sống cho con, tạo hạnh phúc cho chồng. Chồng con thành đại anh hùng. Con cũng thành đại hùng. 

Trưng Đế hô mọi người quì gối tiễn vị cựu hoàng đế Lĩnh-Nam. Trần-tự-Sơn với Thiều-Hoa xuống đài. Hai người lên ngựa, phút chốc mất hút vào đám rừng cây xanh lá, hoa phượng nở đỏ thắm, ran tiếng ve kêu. 

Cửu-Chân vương Đào-thế-Kiệt nhìn trời cao trong xanh. Này con, này cháu, này đệ tử, này đất nước tươi đẹp. Ông nói lớn: 

– Trưng Đế đã thành Lĩnh-Nam hoàng đế. Vậy ai sẽ kế nghiệp người thành Giao-Chỉ vương. Tiểu vương xin hoàng đế bệ hạ ban chỉ, cử Giao-Chỉ vương. 

Trưng Hoàng Đế đứng dậy nói: 

– Tuân di chiếu của Quốc-tổ An-Dương. Trẫm chứng kiến, các anh hùng, lạc công, lạc hầu, động chủ, trang chủ cử lạc vương Giao-Chỉ. Trẫm kính mời Khúc-Giang Ngũ hùng đứng ra kiểm soát. 

Ngài thở dài: 

– Trẫm không bao giờ ngờ anh hùng suy cử trẫm. Trước đến nay, trẫm nghĩ đến tiền bối Đào-thế-Hùng. Không ngờ... không ngờ người tuẫn quốc, vừa lúc đất nước sạch bóng quân thù. 

Đến đây nước mắt ngài chảy dàn dụa: 

– Xin các anh hùng chọn lạc vương theo tiêu chuẩn: Nhiều công lao với đất nước. Tài trí, đạo đức. 

Quần hùng đưa mắt nhìn Đào-Kỳ, Phương-Dung, Đào-hiển-Hiệu. Đào vương gia vẫy tay nói: 

– Kỳ, Dung, gốc là người Cửu-Chân, vì vậy không được suy cử làm lạc vương Giao-Chỉ. Lão phu nghĩ: Lạc vương phải được giao cho người trẻ, đã dầy công trong mấy năm qua. 

Quần hùng im lặng, bỏ phiếu. Khúc-Giang tứ hùng Trần-tứ-Gia kiểm lại rồi tuyên bố: 

– Có tất cả một ngàn sáu trăm ba mươi vị được bầu. Cả một ngàn sáu trăm ba mươi đều hợp lệ. Sau đây, kết quả: 

- Nguyễn-thành-Công 125. 

- Vũ-trinh-Thục 311. 

- Nguyễn-thánh-Thiên 234. 

- Hồ-Đề 325. 

- Trưng-Nhị 825. 

Như vậy Trưng-Nhị trở thành lạc vương Giao-chỉ. 

Quần hùng vỗ tay rung động trời đất. Trưng-Nhị đứng lên nói: 

– Trước đây, trong ngày cầm quân đánh Bạch-Đế, sư bá Lại-thế-Cường đã dậy dỗ tôi: Phàm con cháu Hùng-vương, An-Dương vương, nam nữ như nhau phải nhiệm lạo gánh vác sơn hà. Hôm nay được chư vị anh hùng trao cho trọng trách, tôi xin tuân lệnh. 

Lạc vương Nam-Hải Trần-nhất-Gia vuốt râu cười, mặt ông tươi hồng: 

– Hôm ở trên đồi Vương-Sơn ngoài thành Trường-Sa, lão phu đã tôn Trưng-Nhị đứng đầu Lĩnh-Nam. Nay cô nương lĩnh chức lạc vương Giao-Chỉ, thực phải. Chúng ta có nữ hoàng đế, có nữ vương. 

Đào-Kỳ đứng dậy cung kính: 

– Đất Lĩnh-Nam có hoàng đế, sáu lạc vương, bây giờ chúng ta cần phải hợp nhau, thiết lập cơ chế sao cho nước mạnh dân giàu. 

Trưng hoàng đế thuận đề nghị của Đào-Kỳ. Ngài sai đắp một dàn thực lớn dưới chân núi Tản-Viên, chọn ngày tốt, làm lễ Quốc-tổ, phong chức tước cho công thần. 

Ngày 1 tháng 7, năm Kỷ-hợi, nhằm năm 39 sau Tây-lịch. Bên Trung-Nguyên nhằm niên hiệu Kiến-Vũ thứ mười lăm. Giờ Thìn. Hoàng đế Lĩnh-Nam làm lễ tế liệt tổ Hùng-vương, An-Dương vương xong. Ngài ngồi vào ngai bằng gỗ trầm đặt trên khán đài quay về hướng đông. Mỗi bên của ngài có ba cái ghế nữa, dành cho sáu vị lạc vương. 

Ngài đứng lên nói lớn: 

– Đất Lĩnh-Nam chúng ta vong quốc hơn hai trăm năm. Nhờ ơn Quốc-tổ, nhờ anh hùng, toàn dân, cùng góp công, góp sức, được phục hồi. Trẫm chiếu công lao, tài năng, đức độ, của các anh hùng, phong chức tước. Chức tước trẫm phong cho các vị, không phải để hưởng sung sướng trên đầu, trên cổ dân chúng. Cũng không phải riêng trẫm ban phát cho các vị. Chức tước có ý nghĩa: Trăm họ Lĩnh-Nam, lao tưởng đến công ơn các vị. Chức tước, để các vị mưu tìm hạnh phúc cho trăm họ. 

Ngài ngưng lại cho anh hùng, dân chúng vỗ tay hoan hô rồi tiếp: 

– Cách đây mấy ngày, trẫm đã cử Nguyễn-phương-Dung, Hồ-Đề, Vũ-trinh-Thục, Đào-Kỳ với tiên sinh Lục-mạnh-Tân, chiếu theo cơ chế thời Văn-Lang, Âu-Lạc, nghiên cứu cơ chế các đời trước bên Trung-Nguyên, thiết lập triều đình Lĩnh-Nam sao cho hợp với dân chúng. Sau đây trẫm long trọng tuyên cáo với trăm họ. 

Cứ như tài liệu rãi rác ở các cuốn phổ, tại đền thờ anh hùng thời bấy giờ, tổ chức như sau: 

Lãnh Thổ. Chia làm sáu vùng, gồm Nhật-Nam, Cửu-Chân, Giao-Chỉ, Quế-Lâm, Tượng-Quận, Nam-Hải. Đối chiếu với hiện tại: Tây giáp Thục ngày nay thuộc tỉnh Tứ-Xuyên, Trung-Quốc. Bắc giáp Trung-Nguyên. Đông giáp biển. Nam giáp nước Chiêm-Thành. Tây Nam giáp nước Lão-Qua, tức Ai-Lao. Bao gồm lãnh thổ Việt-Nam ngày nay từ Huế đến biên giới Trung-Quốc. Và lãnh thổ Trung-Quốc gồm các tỉnh Vân-Nam, Quảng-Đông, Quảng-Tây, một phần tỉnh Hồ-Nam. Diện tích 1.127.851 cây số vuông. So với diện tích Việt-Nam hiện tại là 329.566 cây số vuông, thì diện tích Lĩnh-Nam rộng gấp 3,42 lần. 

Tổ chức hành chính, đế quốc Lĩnh-Nam chia ra sáu vương quốc. Do sáu lạc vương cai trị. Lạc vương được bầu lên sáu năm một lần. Sáu vương quốc đó là: 

Nhật-Nam, từ Huế đến Nghệ-An. Diện tích 19.080 cây số vuông. Lạc vương đầu tiên tên Lại-thế-Cường. 

Cửu-Chân, gồm Nghệ-An, Thanh-Hóa. Diện tích 34.418 cây số vuông. Lạc vương đầu tiên tên Đào-thế-Kiệt. 

Giao-Chỉ, gồm từ Ninh-Bình tới biên giới Trung-Quốc. Diện tích 115.439 cây số vuông. Lạc vương đầu tiên tên Trưng-Nhị. 

Tượng-Quận, gồm tỉnh Vân-Nam, Trung-Quốc, diện tích 318.000 cây số vuông. Lạc vương đầu tiên tên Hàn-Bạch. 

Quế-Lâm, gồm tỉnh Quảng-Tây, một phần tỉnh Quí-Châu, một phần tỉnh Hồ-Nam. Diện tích 429.000 cây số vuông. Lạc vương đầu tiên tên Lương-hồng-Châu. 

Nam-Hải, gồm tỉnh Quảng-Đông. Diện tích 212.000 cây số vuông. Lạc vương đầu tiên tên Trần-nhất-Gia. 

Dân Số, dân số ước khoảng hơn chín đến mười triệu người. Giống Việt chiếm 65%, Hán chiếm 30%, còn lại giống khác 5%. Tiếng nói chính thức là tiếng Việt. Lĩnh-Nam dùng văn tự Khoa-đẩu, tượng thanh. 

Tổ chức triều đình, trên hết là hoàng đế Lĩnh-Nam, do các lạc hầu, lạc công, lạc vương, tướng sĩ suy cử, sáu năm một lần. Hoàng đế đầu tiên tên Trưng-Trắc. Hoàng Đế có ba phụ tá cao nhất: tư không, tư đồ, tư mã gọi là tam công. Tư-đồ coi về lương thảo, trị an. Tư-mã coi về quân đội. Tư không coi về học hành, điển chế, lễ nghi. 

Dưới tam công có tể tướng. Tể tướng cầm đầu sáu bộ. Mỗi bộ do một thượng thư quản lĩnh: Bộ Binh, bộ Hình, bộ Hộ, bộ Lại, bộ Công, bộ Lễ. 

Các lạc vương cũng có tam công, lục bộ giống như hoàng đế. 

Theo đề nghị của triều đình, hoàng đế Lĩnh-Nam truyền xây thành Mê-Linh, đóng đô tại đây. 

Trưng hoàng đế ban sắc chỉ phong cho anh hùng các nơi, đã có công phục quốc. Đầu tiên phong thần cho tất cả anh hùng đã hy sinh trong thời gian phản Hán phục Việt. Sau đó bàn đến việc phong chức tước cho công thần. 

Sắc phong: 

Nguyễn-Thành-Công, văn võ toàn tài. Khí hùng trí dũng. Suốt bao năm nằn gai nếm mật, mưu phục quốc. Bị Lê-đạo-Sinh bắt giam mười năm. Vẫn không đổi chí. Khi còn thuộc Hán, trấn nhậm Quế-Lâm, can đảm ban hành pháp lệnh cải cách. Giết tham quan người Hán. Lệnh khởi binh ban ra. Đánh chiếm Quế-Lâm trong hai ngày. Xếp đặt cai trị qui củ. Sắc phong Tương-Liệt đại vương. Lĩnh chức Tư-không (Tương đương với ngày nay là phụ tá Tổng-thống đặc trách Kinh-tế, Tài-chánh, Canh-nông) 

Phùng-Vĩnh-Hoa, mưu thần chước thánh. Tuổi mười tám đã cùng Đào-Kỳ, Nguyễn-phương-Dung, Lê-Chân, Đàm-ngọc-Nga, mưu phục quốc ở Đăng-Châu. Kịp đến khi tùng chinh Trung-Nguyên, làm quân sư cho Ngô-Hán, đánh chiếm Dương-bình-Quan, Võ-Đô, Kiếm-Các, Cẩm-Dương. Khởi đầu cho việc hòa hợp với Thục, chia ba thiên hạ. Làm quân sư cho Đinh-Đại, đem toàn bộ trên ba mươi vạn quân rời Thục về Lĩnh-Nam. Điều hòa được mầm phản loạn của tướng binh Hán trong các đạo Lĩnh-Nam. Lúc khởi binh, thiết kế đánh chiếm Tượng-Quận trong ba ngày. Tổ chức cai trị, khiến trăm họ yên vui. Sắc phong Nguyệt-Đức công chúa. Ăn lộc vùng Tiên-Nha, Yên-lạc. Lĩnh chức tư đồ, cùng trẫm lo hạnh phúc cho dân. (Tương đương với ngày nay là Phụ-tá tổng-thống về Văn-hóa, Giáo-dục, Thông-tin). 

Đào-Kỳ, giòng dõi trung lương. Mười ba tuổi, lưu lạc cha mẹ. Phiêu bạt phải làm đầy tớ tại trang Thái-Hà. Học được bản lĩnh vô địch thiên hạ. Tại Cổ-Loa, Cổ-Đại, Cổ-Lễ, tuy tuổi ấu thơ, đánh thắng võ sĩ của Tô-Định, khiến giặc tha dân cố đô không chịu Ngũ-pháp. Cùng Phương-Dung, Lê-Chân, Đàm-ngọc-Nga, Phùng-vĩnh-Hoa mưu phục quốc ở Đăng-Châu. Phá vỡ mưu kế giặc trong đại hồi hồ Tây. Thống lĩnh ba mươi vạn quân Lĩnh-Nam đánh Thục. Vào Thành-Đô trước được Quang-Vũ phong Hán-Trung vương. Từ chối không nhận. Thản nhiên chịu chết, để cứu mười ba người sống. Chịu chết, bắt Quang-Vũ ban tờ đại cáo, cho Lĩnh-Nam phục hồi. Công lao đứng đầu Lĩnh-Nam. Sắc phong Bắc-Bình vương. Lĩnh chức đại tư mã. Thống lĩnh toàn thể binh lực Lĩnh-Nam. Ăn lộc Cổ-Loa, Cổ-Đại, Cổ-Lễ. Trẫm hy vọng sáu năm sau, anh hùng sẽ cử Đào-Kỳ làm hoàng đế thay trẫm. (Tương đương với ngày nay là Tổng-tư lệnh quân đội). 

Ba vị tạ ân, lĩnh mệnh. 

Khúc-Giang Trần-tứ-Gia tâu: 

– Xưa vua Hùng phong cho chín mươi chín con, ăn lộc chín mươi chín ấp, đều lĩnh tước lạc hầu. Kịp đến khi An-Dương vương thắng vua Hùng, phong có mười hai vị tước hầu. Cao tổ nhà Hán, thống nhất thiên hạ, chỉ phong vương cho mình Hàn-Tín, sau cùng giáng xuống làm Hoài-Âm hầu. Quang-Vũ tranh thiên hạ với Vương-Mãng chỉ phong cho Nghiêm-Sơn tước Lĩnh-Nam công. Sau bất đắc dĩ phong là Lĩnh-Nam vương, rồi cũng tước bỏ. Lĩnh-Nam ta đất rộng người thưa, đã có sáu vị lạc vương, với sáu mươi chín tước lạc công. Nay bệ hạ phong thêm nhiều vương, công nữa. E mầm nổi loạn tranh dành xảy ra chăng? 

Hoàng đế phán: 

– Trần tiên sinh biết một mà không biết hai. Trong thiên hạ, hiện giờ, chỉ Hán là mối lo ngại cho Lĩnh-Nam mà thôi. Phàm điều dở của nhà Hán, ta phải tránh. Điều hay, ta phải học. Ta cần chỉnh đốn binh mã, khuyến khích nông tang. Trong vòng năm năm, chúng ta hùng mạnh. Vĩnh viễn người Hán không dám gây sự với ta nữa. 

Ngừng lại một lúc, ngài phán tiếp: 

– Xưa vua Hùng, vua An-Dương không phong vương cho công thần, vì nước nhỏ, dân ít. Nay nước Lĩnh-Nam lớn, dân số gấp mười hồi trước, thì quan tước cũng phải gấp mười. Cao-tổ, Quang-Vũ nhờ sức anh hùng, mà được thiên hạ. Song cả hai đều coi thiên hạ như của riêng mình. Không nghĩ rằng thiên hạ sở dĩ được, do sức công thần. Cao-tổ, Quang-Vũ vô tài, bất đức, nghi ngờ mọi người. Vì vậy không phong chức tước cho công thần. 

Ngài đứng dậy chỉ vào quần thần: 

– Ta khác hẳn Lưu-Bang, Lưu-Tú. Ta được anh hùng các nơi suy cử lên. Họ có yêu ta, có kính ta, có tin ta, mới cử ta. Một điều ta không sợ nổi loạn. Nếu ta có lầm lỗi, sáu năm sau họ suy cử người khác. Hai điều ta không sợ nổi loạn. Vì các anh hùng đều là sư bá, sư thúc, sư huynh, sư đệ, sư muội của ta. Có điều gì bất như ý, họ nói thẳng ra, ta biết mà tự sửa. Họ có tức ta, có ghét ta, họ sẽ mắng ta, đánh ta. Chẳng bao giờ họ phải nổi loạn. Chúng ta dùng võ đạo cai trị dân, không ai tham công danh. Ba điều ta không sợ nổi loạn... Còn tại sao ta phong vương, công, nhiều? Các anh hùng đều có công. Nhiều người công nhiều hơn ta. Đừng nói phong vương, mà ta còn hy vọng lần sau, anh hùng suy cử họ làm hoàng đế thay ta nữa. 

Trần-tứ-Gia bái phục: 

– Thần không nhìn xa bằng bệ hạ. 

Trưng hoàng Đế phán tiếp: 

– Sư muội Nguyễn-phương-Dung, tài kiêm văn võ. Hùng tài, đại lược. Tài dùng binh vô địch Trung-Nguyên, Lĩnh-Nam. Ta mời sư muội giữ chức tể tướng, thay ta mưu hạnh phúc cho dân. (Tương đương với nhày nay là Thủ-tướng). 

Phương-Dung khẳng khái nhận lời. Nàng tâu: 

– Còn sáu Thượng thư, mong sư tỷ... à quên Hoàng đế định đề cử ai? 

Ngài phán: 

– Ta để sư muội tự ý lựa chọn. Có như vậy mới hợp ý nhau, làm việc không bị bế tắc. À... ta quên chưa chúc mừng sư muội có cháu bé. Cháu tên gì? 

Phương-Dung tâu: 

– Cháu tên Đào-tử-Khâm. Hôm đại hội hồ Động-Đình, sư tỷ Chu-tường-Qui có gửi thư mừng. Trong thư dặn rằng nếu đẻ cháu trai, thì đặt tên là Tử-Khâm. Còn đẻ cháu gái thì đặt tên là Tường-Qui. Tiểu muội tuân theo ý, đặt tên con. 

Hoàng đế mỉm cười: 

– Người Hán, coi cái tên quan trọng đến độ, con cháu không được nhắc đến. Như quần thần nhà Hán viết chữ, nói năng phải kiêng tiếng "Bang" là tên Cao tổ. Người Lĩnh-Nam mình lại không thế. Chúng ta dùng tên gọi nhau cho thân thiện. Ta không muốn gọi sư muội là tể tướng hay Đào vương phi. Ta thích gọi là Phương-Dung. Sư muội cứ gọi ta bằng tiếng sư tỷ Trưng-Trắc nghe ấm áp hơn "Hoàng đế bệ hạ" nhiều. 

Ngài vẫy tay gọi Nguyễn-Thánh-Thiên: 

– Sư muội! Trong chị em ta. Người có tài dùng binh nhất phải kể Phương-Dung, Trưng-Nhị, Vĩnh-Hoa. Song họ trở thành quân sư đại tài. Chỉ có sư muội, dùng làm tướng văn, tướng võ, quân sư, đều được cả. Ta làm chị giữ ngôi hoàng đế. Sư muội làm em, ta phong sư muội làm Thánh-Thiên công chúa, ăn lộc vùng Ký-hợp. Sư muội lĩnh chức Bình-Ngô đại tướng quân. thống lĩnh binh mã Lĩnh-Nam trấn giữ vùng Nam-Hải. Ta tin với tài sư muội, thì Mã-Viện, Lưu-Long, Đoàn-Chí không xâm phạm Lĩnh-Nam mình. (Tương đương với ngày nay là Tư-lệnh quân khu, kiêm Tư-lệnh biên phòng). 

Ngài lại gọi Hồ-Đề: 

– Bàn về công lao với Lĩnh-Nam, sư muội đáng đứng đầu. Võ công sư muội không cao. Tài dùng binh không giỏi. Song sư muội giỏi lãnh đạo. Sư muội lại nhiệt thành với đất nước. Ta phong sư muội làm Tây-Vu công chúa. Ăn lộc vùng Tây-Vu. Ta nhờ sư muội lĩnh ấn Trấn-Viễn đại tướng quân, phụ sư đệ Đào-Kỳ, tổng trấn Lĩnh-Nam. (Tương đương với ngày nay là Phó tổng tư lệnh quân đội). 

Ngài gọi Vũ-Trinh-Thục: 

– Con người cần có mắt mới nhận biết sự vật. Có tai mới nghe được âm thanh. Quân cần có có tế tác. Muốn thắng giặc, phải biết mình, biết giặc. Ta biết mình. Còn biết giặc thì sư muội. Ta phong sư muội làm Bát-Nàn công chúa, lĩnh chức Uy-viễn đại tướng quân, giúp sư đệ Đào-Kỳ, tổ chức hệ thống tế tác. Cùng coi việc an ninh nội trị khắp Lĩnh-Nam. Sư muội ăn lộc vùng Phượng-Lâu. (Tương đương với ngày nay tại miền Nam là Tư-lệnh cảnh sát, kiêm trưởng phòng 2, kiêm Đặc-ủy trương trung ương tình báo. Tại miền Bắc là bộ trưởng bộ Công-an, kiêm cục trưởng cục Quân-báo kiêm cục trưởng cục Tình-báo hải ngoại). 

Ngài tuyên đọc sắc chỉ phong cho các nữ công thần: 

Lê-Chân, xuất thân cùng khó, lấy hiệp nghĩa qui tụ dân thành trang An-Biên. Tụ nghĩa, cứu khốn phò nguy. Nổi danh Đông-Triều nữ hiệp. Cùng Đào-Kỳ, Phương-Dung, Phùng-vĩnh-Hoa, Đàm-ngọc-Nga mưu hợp nhau phục quốc. Tòng chinh Trung-Nguyên, thân làm đại tướng quân. Dù Thục, dù Hán đều khiếp phục uy danh. Sắc phong Đông-Triều công chúa. Ăn lộc suốt vùng Đông-Triều. Giao cho lĩnh chức Trấn-Đông đại tướng quân. Thống lĩnh đạo binh Nam-Hải. (Tương đương với ngày nay là Tư-lệnh quân đoàn). 

Lê-Thị-Hoa, vợ liệt sĩ Mai-Tiến. Chồng chết, thay chồng nuôi dạy bốn con thơ. Làm lạc hầu trang Thiên-Bản. Cùng tráng đinh chống Hán. Sau dẫn bốn con vào Cửu-Chân, theo lạc vương Cửu-Chân, qui dân, lập ra vùng Nga-Sơn. Khi Đào vương khởi binh đánh chiếm Cửu-Chân. Can đảm cùng bốn con dẫn đầu chiếm bốn huyện, không đổ một giọt máu, không tốn một mũi tên. Sắc phong làm Nga-Sơn công chúa. Ăn lộc vùng Nga-Sơn. Lĩnh chức Bình-Nam đại tướng quân. Phó thống lĩnh đạo binh Cửu-Chân. (Tương đương với ngày nay là Tư-lệnh phó quân đoàn). 

Các con đều được phong lạc hầu, lĩnh ấn Trung-Dũng tướng quân. 

Hùng-Xuân-Nương, đệ tử phái Tản-Viên. Sau được Bồ-tát Tăng-Giả Nan-Đà cho qui y Tam-bảo, thành đệ tử nhà Phật. Đạo đức, nhân từ. Cùng chồng là Đặng-thi-Bằng trấn nhậm Mê-Linh, trong thời gian trẫm vắng nha. Nhận lệnh khởi binh, đánh chiếm Mê-Linh, Chu-Diên. Khí thế hùng tráng, oanh liệt. Sắc phong Thanh-Sơn công chúa. Ăn lộc vùng Thanh-Sơn. Lĩnh chức Tổng-quản quân cơ, cạnh trẫm. (Tương đương với ngày nay là Tổng-tham mưu trưởng kiêm bộ Trưởng bộ Kế-hoạch, kiêm Đổng-lý văn phòng phủ Tổng-thống). 

Trần-Quỳnh-Hoa, Trần-Quế-Hoa. Xuất thân giòng dõi trung lương. Song thân khởi binh phản Hán phục Việt. Mồ côi từ nhỏ. Được ông ngoại nuôi dạy thành người. Mười tám tuổi làm đại tướng quân. Uy trấn Võ-Đô, Dương-bình-Quan, Kiếm-Các, Cẩm-Dương, làm cho tướng Thục nể sợ. Đại chiến Trường-An, làm Hán tướng kinh hồn động phách. Sắc phong Nghi-Hòa công chúa. Hưởng lộc ấp của ông ngoại để lại. Lĩnh ấn Hổ-Oai đại tướng quân. Thống lĩnh đạo binh Nhật-Nam, trấn thủ bắc Nam-Hải, đề phòng quân Hán. (Tương đương với ngày nay là Tư-lệnh quân đoàn). 

Đàm-Ngọc-Nga, ôn nhu, yểu điệu, văn hay chữ tốt. Võ công cao cường. Mười chín tuổi cùng Lê-Chân, Đào-Kỳ, Phương-Dung, Phùng-vĩnh-Hoa mưu phục quốc tại Đăng-Châu. Được dân chúng tặng danh hiệu Đăng-Châu nữ hiệp. Khi nhận được lệnh khởi binh, đem ba ngàn tráng đinh đánh các đồn từ Thanh-Hoa đến Đăng-Châu. Bắt hơn năm ngàn tù binh. Trong khi chỉ huy, phong thái nhàn tản, rõ ra con nhà đại hiệp nghĩa. Sắc phong Nguyệt-Điện công chúa. Ăn lộc vùng Thanh-Hoa. Lĩnh chức Tả-Đạo đại tướng quân. Phó thống lĩnh đạo Nam-Hải. (Tương đương với ngày nay là Tư-lệnh phó quân đoàn). 

Quách-A, giòng dõi trung lương. Song thân chống Hán bị giết. Mồ côi sớm. Được Hồ-Đề nuôi dạy. Mười lăm tuổi cho làm đại tướng trấn thủ Tây-Vu huấn luyện Thần-ưng, phong, tượng, hổ, báo, xà, hầu, ngao, không loại nào không thông. Khi lệnh khởi binh ban ra, cùng Tây-Vu tiên tử đánh chiếm các đồn quanh vùng. Can đảm đi đầu, đánh đâu thắng đó. Lại khi lên đường đánh Long-Biên, khẳng khái làm tiên phong. Dùng kế bắt sống Hoàng-minh-Châu, Hàn-thái-Tuế. Giặc cố thủ Long-Biên, không cách gì đánh được. Can đảm nhập thành, đốt kho tàng giặc. Đốt kho tàng, khiến giặc hỗn loạn. Bị giặc bắt, khẳng khái chịu chết. Khi đánh Luy-Lâu, can đảm theo Đào vương nhập thành. Chỉ huy Thần-ưng, đánh tan giặc. Mở cửa cho quân từ ngoài vào. Tài, trí, dũng, mưu đều đủ. Sắc phong Khâu-Ni công chúa. Ăn lộc ấp Nhật-Chiêu. Lĩnh ấn tổng trấn Luy-Lâu.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 13 : Ba thu gánh vác sơn hà(Đại-Nam quốc sử diễn ca)

 – Lê Ngọc-Trinh, xuất thân đệ tử danh gia. Ái đồ Khất đại phu. Được sư phụ sai xuất hiện giúp Trần Năng thống nhất ba mươi sáu động Nam Mê-Linh. Thay sư phụ quản trị các trang ấp của Lê Đạo-Sinh. Dùng nhân nghĩa cai trị dân. Được dân chúng kính yêu, tôn là Tiên cô giáng phúc. Theo quân tòng chinh Trung-nguyên, trấn giữ hậu quân. Dùng y đạo cứu trị cho dân. Khắp vùng đóng quân, người người yêu mến. Lệnh khởi binh ban ra, điều động tráng đinh, một đêm đánh chiếm bốn thành, chiếm lại hai mươi ba trang ấp trong tay giặc. Sắc phong Đại từ chí nhu công chúa. Tính thích ngao du, trị bệnh trăm họ, không muốn hưởng lộc trang ấp. Thuận theo ý, không phong thực ấp. Trao ấn Chinh-thảo đại tướng quân. Phó thống lĩnh đạo quân Quế-lâm. (Bà này là thầy thuốc, quá hiền lành, thì tuy có tài, cũng chỉ có thể làm phó thôi. Làm chánh thì giết giặc sao được. Chức của bà tương đương với ngày nay là Phó Tư-lệnh quân đoàn). 

– Lê Thị-Lan, xuất thân đệ tử danh gia. Được sư phụ sai đem thư vào yết kiến Đào Thế-Kiệt. Giữa đường gặp Hoàng Đức-Phi. Khảng khái dạy bảo, chí khí được tỏ, tài năng đã phát. Lệnh khởi binh ban ra, suất lĩnh tráng đinh đánh chiếm hai thành, bốn trang ấp. Áp bức giặc đầu hàng, khiến máu không đổ, lương tiền không mất. Sắc phong Nhu-mẫn công chúa. Lĩnh ấn Trấn-tây tướng quân. Phó thống lĩnh đaọ binh Hán-trung. (Bà này đúng là nhu, là mẫn. Vì bà quá hiền. Chức của bà tương đương với ngày nay là Phó tư lệnh quân đoàn). 

– Phật-Nguyệt, được Lĩnh-nam thần kiếm Nguyễn Phan thu nhận làm đệ tử. Kiếm thuật thần thông. Tính tình nhu thuận, hiền hòa. Văn đã giỏi. Mà tài dùng binh sớm phát. Trận đánh Xuyên-khẩu, Bạch-đế, làm Đô-đốc, thắng thủy quân Thục. Trước sân rồng Quang-Vũ, dùng kiếm thuật trấn áp quần hùng Trung-nguyên. Đánh bại Thái-sơn thần kiếm Hoài-nam vương. Khéo ở chỗ, thắng không kiêu, khiến Hoài-nam vương trở thành bạn tốt của Lĩnh-Nam. Hiện trấn thủ hồ Động-đình, nhiệm vụ trọng yếu. Sắc phong Phật-Nguyệt công chúa. Lĩnh ấn Chinh-bắc đại tướng quân. Vì sớm giác ngộ đạo Phật, bỏ ra ngoài công danh, từ khước hưởng lộc thực ấp. Đạo hạnh thực đáng kính, đáng khen. (Bà này là một trong 12 nữ đại công thần thời Lĩnh-Nam. Tên bà không những được ghi vào sử Việt mà được ghi vào sử Trung-quốc. Bà lĩnh trọng trách tổng trấn khu hồ Động-đình, Trường-sa, tức biên giới Lĩnh-Nam với Hán. Di tích về bà hiện còn rất nhiều : Tại chùa Kiến-quốc thuộc Trường-sa, tại ngôi chùa trên núi Thiên-đài trong ngọn núi Ngũ-lĩnh. Bà là một nữ tướng gây kinh hoàng cho triều Hán nhất). 

– Trần Năng, có chí phục quốc thời thơ ấu. Được đệ nhất danh nhân thu làm đồ đệ. Võ công vô địch thiên hạ. Tính khí cương trực, khảng khái. Biết hóa giải cừu thù, trao quyền thống lĩnh Lôi-sơn cho Đinh Hồng-Thanh. Tòng chinh Trung-nguyên, đánh Xuyên-khẩu, Bạch-đế, vào Thành-đô. Lui về đánh chiếm chín quận Kinh-châu từ tay Hán. Xứng tài đại tướng quân. Sắc phong Yên-lãng công chúa. Ăn lộc vùng Toàn-liệt, Thượng-hồng. Xét tài trí, lĩnh Long-nhượng đại tướng quân, quản lĩnh Trung-quân, đóng tại Mê-linh. Chồng là Hùng Bảo, chí khí khác thường, thâm trầm, hào phóng. Suốt mấy năm trấn giữ binh quyền Lục-hải, tổ chức thao luyện binh mã. Giữ bờ cõi không bị trộm cướp. Lệnh khởi binh ban ra, suất lĩnh đạo quân Lục-hải, đánh chiếm toàn bờ biển vùng Giao-chỉ. Tiến về vây Long-biên. Có công đầu tại Long-biên. Thuận thế đem quân đánh Ký-hợp, Luy-lâu. Uy dũng nhất thế. Sắc phong Vũ-kị đại tướng quân, thống lĩnh Ngự-lâm quân. Tước Thượng-hồng công. 

(Ông bà này giữ chức vụ nhỏ nhưng tín cẩn. Bà làm Tư-lệnh lực lượng trừ bị quốc gia. Ông là Tư-lệnh lực lượng phòng vệ phủ Tổng-thống. Đây là cặp vợ chồng thuận hòa với nhau nhất. Bà thì ồn ào, vui vẻ, li lắc. Ông thì thâm trẫm. Về đời Trần, nhân công chúa Thủy-Tiên, dưỡng nữ của Hưng-Đạo vương được gả cho danh tướng Phạm Ngũ Lão... Hai vị có hành trạng giống Trần Năng, Hùng Bảo, nên thế truyền hai vị tái đầu thai). 

– Trần Quốc, mồ côi từ nhỏ. Xuất thân đệ tử danh gia. Tự luyện thành bản lĩnh hơn Giao-long. Tuổi mười bảy làm Đô đốc, đánh chiếm Độ-khẩu, Mỹ-cơ. Sau trợ chiến Trưng Nhị, đánh chiếm suốt giải đông Ích-châu. Trận chiến Trường-an, chỉ huy thủy quân đánh chiếm Vị-nam, khiến Quang-Vũ kinh hồn bạt vía. Lệnh khởi nghĩa ban ra, kéo thủy quân trấn nhậm bắc Nam-hải. Sắc phong Gia-Hưng công chúa. Ăn lộc vùng Hoàng-xá, Gia-hưng. Lĩnh ấn Đô-đốc, chưởng quản thủy quân trấn bắc Nam-hải. (Tương đương với ngày nay là Tư-lệnh hải quân. Bà này là một tướng hét ra lửa, mửa ra khói thời Lĩnh-Nam). 

– Trần-gia tam-nương, xuất thân danh gia đệ tử. Ba chị em lập chiến khu chống Hán. Khi tòng chinh Trung-nguyên, đánh chiếm Kiếm-các, Dương-bình quan. Lệnh khởi nghĩa ban ra, đem hai ngàn tráng đinh, đánh chiếm bảy đồn từ Bình-xuyên tới Cổ-loa. Đoạt cố đô Cổ-loa từ tay giặc trở về. Sắc phong Hồng-Nương làm An-Bình công chúa. Thanh-Nương làm Bình-Xuyên công chúa. Đạm-Nương làm Quất-Lưu công chúa. Ăn lộc các vùng này. Giao lĩnh ấn thống lĩnh kị binh Lĩnh-Nam. (Tương đương với ngày nay là Tư-lệnh thiết giáp binh). 

– Nguyễn Quý-Lan, xuất thân Tản-viên. Văn mô, vũ lược. Lệnh khởi binh ban ra, bày mưu cho Tượng-quận vương, đánh chiếm Tượng-quận từ tay người Hán. Tổ chức cai trị hoàn hảo. Sắc phong Liên-Sơn công chúa. Lĩnh Lễ bộ thượng thư. (Tương đương với ngày nay là Bộ trưởng bộ Văn-hóa giáo dục. 

– Đào Phương-Dung, xuất thân giòng dõi trung lương. Văn võ song toàn. Ấu thời được phụ thân luyện chí phục quốc. Lệnh khởi binh ban ra. Chỉ huy hai ngàn tráng đinh trang Hiển-minh, chiếm lĩnh tám đồn phía nam Luy-lâu, không đổ một giọt máu, không tốn một mũi tên. Khi giặc cố thủ Long-biên, theo thân phụ đánh thành. Thân đi trước tướng sĩ. Vào được thành, chỉ huy binh tướng tiếp thu. Giặc đánh Ký-hợp, Nam-thành vương tuẫn quốc, lại theo phụ thân đánh giặc. Phá tan quân giặc ở Ký-hợp. Uy vũ khiến ba quân kính phục. Sắc phong Đăng-Châu công chúa. Ăn lộc vùng Đăng-châu. Lĩnh ấn Trấn-nam đại tướng quân. Thống lĩnh đạo binh Giao-chỉ. (Tương đương với ngày nay là Tư-lệnh quân đoàn. Bà là một trong các nữ đại tướng hét ra lửa, mửa ra khói thời Lĩnh-Nam). 

– Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương, xuất thân giòng dõi trung lương. Văn võ kiêm toàn. Giỏi thủy tính. Khi lệnh khởi binh ban ra, suất lĩnh tráng đinh Đào, Đinh trang, đánh chiếm hai huyện, ba thành của giặc trong hai ngày. Không tốn một giọt máu, một mũi tên. Theo Đào vương bắc chinh, cứu viện Giao-chỉ. Công hãm Luy-lâu. Sắc phong Đinh Bạch-Nương làm Tam-Sơn công chúa. Đinh Tĩnh-Nương làm Quân-Sơn công chúa. Chị làm Đô-đốc thống lĩnh thủy quân hồ Động-đình, vùng Trường-sa. Em làm phó. (Hai bà này là hai nữ tướng can trường, cương quyết bậc nhất thời Lĩnh-Nam. Sử Hán liệt hai bà là hai nữ tướng khạc ra lửa). 

– Trần Thị Phương-Chi, tính thích ngao du sơn thủy, không thích công danh. Sớm ngộ đạo Bồ-đề. Được Bồ tát Tăng-Giả Nan-Đà cho thụ giới Tỳ kheo ni. Kính dâng tôn hiệu Lĩnh-nam Bồ-tát. 

– Trần Thị Vĩnh-Huy, đệ bát Thái-bảo phái Sài-sơn. Văn mô, vũ lược. Lệnh khởi binh ban ra. Suất lĩnh đệ tử đánh từ Vân-hà đến Long-biên. Hợp quân vây đánh Long-biên. Sắc phong công chúa Vĩnh-Huy. Lĩnh Thượng-thư bộ lại. (Tương đương với ngày nay là bộ trưởng bộ Nội-vụ). 

– Vương Sa-Giang, xuất thân cành vàng lá ngọc, đệ tử danh gia. Võ công tuyệt thế, sớm nổi tiếng Thiên sơn cầm tiên. Văn tài lỗi lạc. Nhan sắc khó tìm. Vì giữ lời hứa đánh cuộc với Tây-vu Thiên-ưng lục tướng, đem thân thể ngọc ngà sang giúp Lĩnh-Nam. Tài đã trọng, đức càng thêm kính. Sắc phong Lĩnh-nam công chúa. Truyền theo Tây-vu Thiên-ưng lục tướng, tiếp giúp Lĩnh-Nam. (Bà là một nhân vật lịch sử. Hiện ngoại ô huyện Phong-đô tỉnh Tứ-xuyên có đền thờ bà. Trong những năm làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeurtique= CEP, 1977-1999) trước sau tôi vào Tứ-xuyên 4 lần. Lần nào tôi cũng đến đền thờ bà dâng lễ và xin... xâm. Linh ứng kỳ lạ). 

– Nguyễn Giao-Chi, xuất thân giòng dõi trung lương, đệ tử danh gia. Tài âm nhạc không thua Trương Chi. Bàn tay tiên hóa phép được những món ăn tuyệt thế. Ôn nhu, văn nhã. Thế mà một tay điều khiển Mai-động ngũ hùng, đội Giao-long binh đánh úp Độ-khẩu. Sau đó đánh Hán-nguyên, Mỹ-cơ. Lại theo đạo Kinh-châu giúp Trưng Nhị đánh úp Quảng-an. Dự trận Trường-an, ra sức đánh Vị-nam trong đêm. Hiện đã kết hôn với Đô Dương, xin đứng ngoài vòng danh lợi. Thuận theo ý muốn. Sắc phong làm Hòa-Huệ công chúa. Ban cho hiệu Mai-Động tiên tử. 

– Tây-vu tiên-tử, tuổi quá sáu mươi, thay Hồ Đề thống lĩnh Tây-vu. Lệnh khởi binh ban ra, suất lĩnh đệ tử Tây-vu, đánh chiếm huyện Tây-vu, gồm hai thành, mười đồn trong ba ngày. Hợp hàng binh, với đệ tử có sẵn, lập thành quân đoàn Tây-vu. Tài thực đáng trọng, đức càng đáng kính. Sắc phong Thiên-Sớ công chúa. Ăn lộc suốt vùng núi Thiên-sớ. Thống lĩnh quân đoàn Tây-vu. 

– Lục Phong-Nữ, tính tình nhu thuận, hiền hòa. Tuổi chưa quá mười tám, theo quân đánh Trung-nguyên. Trận Xuyên-khẩu, Bạch-đế ra tài, kinh tâm anh hùng đất Bắc. Trận Trường-an, xung vào muôn nghìn tên, đánh Quang-Vũ, và hai mươi lăm vạn quân, bỏ thành chạy. Sắc phong Thiên-Phong lục công chúa. Truyền lĩnh chức đại tướng quân, theo sáu đạo Lĩnh-Nam phòng vệ đất nước. 

– Ngũ-Long công chúa, khôn ngoan, sắc sảo. Tuổi chưa quá mười tám. Theo quân tòng chinh Trung-nguyên. Một trận Độ-khẩu, khiến anh hùng Trung-nguyên kinh hồn. Sau đó theo quân đánh Hán-nguyên, vào Thành-đô. Sắc phong Ngũ-Long công chúa. Truyền lĩnh ấn đại tướng quân. Trấn nhậm Bắc Lĩnh-Nam. 

– Hoàng Thiều-Hoa, mồ côi từ nhỏ, phải đi chăn trâu. Bị đánh đập khổ sở. Được Đào hầu Cửu-chân đem về nuôi dạy. Văn, võ toàn tài. Ôn nhu, hiếu thuận, sắc nước hương trời. Đào hầu bị Thái thú Nhâm Diên làm cho tan nhà nát cửa. Bị phản đồ Trịnh Quang vu oan. Can đảm chịu đựng. Được Lĩnh-nam công tuyển làm phu nhân. Vẫn không quên chí phục quốc. Dùng uy Lĩnh-nam công phu nhân, che chở cho Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương-Dung, Vũ Trinh-Thục phục quốc. Sát bên cạnh Lĩnh-nam công, giết bọn quan Hán tham ô, cứu người Việt gặp khốn khổ. Lại khi tòng chinh Trung-nguyên, không nghĩ mình là vương phi, cầm quyền đại tướng đánh Độ-khẩu, Hán-nguyên, Phổ-khách, vào Thành-đô. Lĩnh-nam vương bị Quang-Vũ phản. Cầm quyền đại tướng quân đánh Hán. Trận Trường-an kinh tâm động phách Hán đế. Lịnh khởi binh ban ra. Hăm hở cầm quân đánh chiếm Luy-lâu, Long-biên. Công trạng đối với Lĩnh-Nam vào bậc nhất. Nay theo Thái thượng hoàng Trần Tự-Sơn vân du mây nước. Kính dâng tôn hiệu: 

Minh từ, chí nhu, 

Ôn huệ, thuần chính, 

Hoàng thái hậu. 

Trưng Đế truyền phong các anh hùng: 

– Cao Cảnh-Minh, thần tiễn vang thiên hạ. Võ công, hiệp nghĩa khắp Lĩnh-Nam, Trung-nguyên, không ai mà không nghe danh. Tuổi cao, lòng son đối với xã tắc vẫn sáng chói. Đánh Võ-đô, dùng hiệp nghĩa tha anh hùng. Chiếm Dương-bình quan, trổ tài thần tiễn. Tính thích ngao du sơn thủy, chẳng ham công danh. Sắc phong Nhân-hiệp nghĩa dũng quốc công. 

– Cao Cảnh-Sơn, chưởng môn phái Hoa-lư. Thần tiễn kinh nhân. Chế được nỏ thần. Xuất chiến Trường-an. Bắn chết hơn ngàn tướng Hán, bắn ngã mấy vạn binh giặc. Hùng khí Cao-cảnh hầu sống lại. Sắc phong Cao-cảnh công. Lĩnh ấn đại tướng quân. Thống lĩnh Thần-nỏ Lĩnh-Nam. (Như vậy chức ông cụ này tương đương với ngày nay là Tư-lệnh pháo binh). 

– Cao Cảnh-Nham, Cao Cảnh-Khê, xuất thân đệ tử danh gia. Trung dũng có thừa. Theo thân phụ, đánh trận Trường-an. Khiến Quang-Vũ bay hồn bạt vía. Sắc phong liệt hầu. Lĩnh chức tướng quân, theo cha trấn thủ Bắc Lĩnh-Nam. 

– Đô Thiên, dùng hiệp nghĩa kết bạn với Lĩnh-nam vương Trần Tự-Sơn. Tước phong tới hầu, lĩnh chức thứ sử Hán-trung. Khi nghe vương bị Quang-Vũ bắt giam. Khảng khái bỏ quan chức, dẫn năm vạn quân, tụ nghĩa hồ Động-đình. Nghĩa khí đáng trọng thay. Sắc phong Động-đình công. Lĩnh ấn Trung-nghĩa đại tướng quân. Thống lĩnh đạo quân Hán-trung. Tổng trấn Trường-sa. (Ông này là người Trung-quốc, ứng nghĩa theo Lĩnh-Nam. Hiện vùng Lưỡng-Quảng qua rất nhiều miếu, đền thờ ông. Ông là người đại nhân, đại nghĩa, không vợ, chẳng con. Lương tiền có bao nhiêu ông chia cho quân sĩ. Trong khu vực đóng quân, ông cho quân giúp dân làm nhà, trồng cấy). 

– Minh-Giang, xuất thân đệ tử danh gia. Lĩnh ấn Phấn-uy đại tướng quân. Thống lĩnh đạo binh Quế-lâm đánh Thục. Lịnh khởi nghĩa ban ra, chỉ huy binh tướng nhanh chóng, bức các huyện lệnh, huyện úy đầu hàng. Sắc phong Phiên-ngung công. (Ông cũng là người Hoa, nhưng ghét chế độ tàn bạo của Hán mà theo Lĩnh-Nam. Ông là người cổ võ cho tinh thần Hoa-Việt một nhà thời Lĩnh-Nam). 

– Đặng Đường-Hoàn, tính khí cương trực. Suốt bao năm thống lĩnh nghĩa quân bất phục người Hán. Làm cho Tô Định, Lê Đạo-Sinh lao đao, khốn khổ. Dạy được ba đệ tử Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang đều là đấng anh hùng. Lệnh khởi nghĩa ban ra, đốc suất đệ tử, tráng đinh, đánh chiếm ba huyện, mười lăm đồn trong hai ngày. Lại có công đánh tan đội binh tà đạo của Lê Hinh mười lăm ngàn người. Sắc phong Long-biên công, tổng trấn Long-biên. 

– Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang, đệ tử danh gia, khí phách anh hùng. Văn võ toàn tài. Theo sư phụ, khởi binh chống Hán. Có công đánh chiếm ba huyện, mười lăm đồn, dẹp mười lăm ngàn quân tà đạo Lê-Hinh. Sắc phong Liệt-hầu, lĩnh chức Phiêu-kị đại tướng quân. Trấn thủ Độ-khẩu, sẵn sàng tiếp ứng Thục. 

– Nguyễn Tam-Trinh, hào khí phục quốc từ nhỏ. Văn võ toàn tài. Năm con trai nổi tiếng Mai-động ngũ hùng. Con gái là Nguyễn Giao-Chi, cùng đội Mai-động tòng chinh, đánh chiếm Độ-khẩu, Vị-nam. Mới đây suất lĩnh tráng đinh, đánh bảy đồn, chiếm hai thành gần Long-biên. Sắc phong Mai-động công. Lĩnh chức Đại tư không. 

– Chu Bá, văn võ toàn tài. Biết chọn nẻo chính, bỏ đường tà. Sắc phong Bắc-đái công. Lĩnh Binh-bộ thượng thư. 

– Vũ Công-Chất, đệ ngũ Thái-bảo phái Sài-sơn. Văn võ song toàn. Thống lĩnh tráng đinh kháng chiến tại Phượng-lâu. Mười năm làm cho giặc kinh hồn táng đởm. Sắc phong An-định công. Lĩnh Hình-bộ thượng thư. 

– Trần Quốc-Hương, đệ thất Thái bảo phái Sài-sơn. Khởi nghiệp từ Thiên-trường, khí phách uy nghi. Tô Định bao phen cử ra làm quan từ chối. Lệnh khởi binh ban ra, một đêm chiếm trọn Nam-hải. Sắc phong Thiên-trường công. Tổng trấn Thiên-trường. 

– Quách Lãng, đệ tử danh gia. Tài kiêm văn võ. Tùng chinh đánh Trường-an. Sắc phong Ngọc-đường công. Lĩnh ấn Phấn-oai đại tướng quân. thống lĩnh đạo binh Cửu-chân, phòng vệ nam Lĩnh-Nam. 

– Đào Hiển-Hiệu, xuất thân giòng dõi trung lương. Trước đã được phong Hổ-nha đại tướng quân, thống lĩnh đạo binh Tượng-quận, đánh chiếm Độ-khẩu, nhập Thành-đô. Đem đạo binh từ Thục về Tượng-quận yên lành. Lệnh khởi binh ban ra. Đánh chiếm Tượng-quận trong ba ngày. Dẹp yên được mầm mống phản loạn của bọn Hán tham tàn. Tước phong Khúc-dương công. Thống lĩnh đạo binh Tượng-quận như cũ. 

– Đào Quí-Minh, xuất thân giòng dõi trung lương. Lệnh khởi binh ban ra. Suất lĩnh đạo binh Đăng-châu trước bức Luy-lâu. Sau đánh Long-biên. Phá giặc ở Ký-hợp. Sắc phong Ký hợp công. Lĩnh ấn phó thống lĩnh đạo binh Tượng-quận. 

– Vương Phúc, xuất thân cành vàng lá ngọc. Văn võ toàn tài. Lĩnh chức Bình-nam vương nước Thục. Giữa trận tiền, dùng nghĩa kết bạn với Đào Kỳ. Được Thục đế cử sang giúp Lĩnh-Nam, hiện làm quân sư cho Đô-đốc thủy quân Trần Quốc. Truyền gả Trần Quốc về với Vương Phúc, cho thành đôi thư hùng. Sắc phong Trấn-nam vương. 

– Tây-vu Thiên-ưng lục tướng, mồ côi cha mẹ, được Hồ Đề đem về nuôi dạy. Bản lĩnh chỉ huy Thần-ưng siêu việt. Tuổi mười lăm, mười sáu dẫn sáu trăm Thần-ưng tòng chinh Trung-nguyên. Trận Xuyên-khẩu khiến anh hùng đất Thục kinh hồn động phách. Trận Bạch-đế, chiếm thành đầu tiên. Trận Trường-an, đánh Quang-Vũ chạy trên trăm dặm. Tinh khôn, trung liệt, bí mật nhập Lạc-dương cứu sư tỷ Thiều-Hoa. Khảng khái, hào hiệp, can đảm. Đào Tứ-Gia có tâm Bồ-tát, nguyện hy sinh tính mệnh cứu sư huynh, cho rằng sư huynh cần sống, bảo vệ Lĩnh-Nam. Võ đạo cao như vậy, cổ kim chưa từng có. Nay năm người còn sống, tài đáng đại tướng. Sắc phong cho Đào Tứ-Gia làm: 

Đại nhân, chí đức, minh nghĩa đại vương. 

Truyền xây cất đền thờ ở Tây-vu. 

Còn lại năm người, sắc phong: Lĩnh-Nam Thiên-ưng đại tướng quân, tước Liệt-hầu. Truyền trấn thủ Bắc Lĩnh-Nam. 

– Tây-vu lục hầu tướng, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Được Hồ Đề đem về nuôi dạy. Tài điều khiển Thần-hầu như đội quân tinh nhuệ. Vượt núi Kim-sơn, vào Thục. Từ cổ không ai làm được. Đấu leo dây với Thanh-Châu, nêu rõ tài Phù-Đổng của thiếu niên Lĩnh-Nam. Trận Trường-an, đột nhập thành, đánh Quang-Vũ đến phải bỏ đất Tần mà chạy. Sắc phong: Lĩnh-Nam Thần-hầu tướng quân, tước Liệt hầu. Truyền trấn thủ bắc Lĩnh-Nam. 

– Tây-vu tam báo tướng, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Được Hồ Đề đem về nuôi dạy. Tài điều khiển báo, xung phong hãm trận. Dự trận Võ-đô, Dương-bình quan, Kiếm-các, Trường-sa. Lập đại công. Mới đây đánh Long-biên, Luy-lâu. Lưu danh muôn thủa. Sắc phong Lĩnh-nam Tam-báo tướng. Tước Liệt-hầu truyền trấn thủ Bắc Lĩnh-Nam. 

– Hồ Hác, tài trí hơn người. Điều khiển đoàn Thần-tượng, đánh trận Xuyên-khẩu, Bạch-đế, Quảng-an, vào Thành-đô. Trận Trường-an khiến hai mươi lăm vạn quân Tần bị dẫm nát. Sắc phong Tượng-uy đại tướng quân. Tước Tiên-sơn hầu. Truyền trấn đóng Bắc Lĩnh-Nam phòng giặc. 

– Ngao-sơn tứ lão, tuổi đã cao. Tâm tính trung hậu. Chỉ huy đội Thần-ngao canh phòng, trinh sát. Khắp các trận Trung-nguyên đều có mặt. Sắc phong Ngao-sơn đại tướng quân. Tước Liệt-hầu. Truyền trấn đóng Bắc Lĩnh-Nam phòng giặc. 

– Mai-động Ngũ-hùng, Nguyễn Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Giòng dõi trung lương. Tài kiêm văn võ. Dẫn đội tráng đinh Mai-động, đánh úp Độ-khẩu. Sau chiếm Vị-nam. Tài trí đã hơn đời. Trung liệt càng sáng tỏ. Sắc phong Mai-động liệt-hầu. Đội Mai-động được phong làm Thần-kình Lĩnh-Nam. 

– Thiên-trường Tam-kiệt, Trần Quốc-Dũng, Trần Quốc-Uy, Trần Quốc-Lực. Giòng dõi trung lương, con trai lạc hầu Thiên-trường Trần Quốc-Hương. Khi cha trọng nhậm Nam-hải, thay cha trấn Thiên-trường. Ngày đêm nuôi chí phục quốc. Lệnh khởi binh ban ra. Ba anh em đánh chiếm ba thành, chín đồn từ Thiên-trường tới Long-biên. Đem tráng đinh vây Long-biên, đánh Luy-lâu. Chí khí hào hiệp. Sắc phong Trần Quốc-Uy làm Kiến-xương hầu. Trần Quốc-Dũng làm Giao-thủy hầu. Trần Quốc-Lực làm Trung-thành hầu. Đồng lĩnh ấn đại tướng quân. Trấn thủ Thiên-trường, Lục-hải. 

– Thần-nỏ Âu-lạc Tứ-hùng, xuất thân danh gia đệ tử. Tiễn thủ xuất chúng. Được cử tòng chinh Trung-nguyên. Trước xuất thủ đánh chiếm Võ-đô, Nam-bình, Bình-võ. Sau đánh Dương-bình-quan, Kiếm-các. Tại Cẩm-dương, dùng tiễn thủ chinh phục tướng Thục. Giữa trận kết nghĩa huynh đệ. Dũng, lược, nghĩa, mưu toàn tài. Sắc phong Liệt-hầu. Truyền lĩnh ấn đại tướng quân, trấn thủ Bắc Lĩnh-Nam. 

– Hợp-phố Lục-hiệp, đại nhân, đại nghĩa, đại hiệp. Theo Lĩnh-nam công chinh tiễu các thái thú tham ô, giết bọn Hán tàn ác. Lĩnh chức Thái-thú, Đô-úy khắp vùng Lĩnh-Nam. Đâu đâu cũng gây được kính trọng trong dân. Nay Lĩnh-Nam phục hồi. Không muốn vướng mắc công danh. Thuận cho được ngao du sơn thủy, trao quyền ngang với Lạc-vương. Thấy tham quan, ác bá bất kể cấp nào, được quyền chém đầu răn chúng. Đổi tên Hợp-phố lục hiệp thành Lĩnh-nam lục hiệp. Riêng Lưu Nhất-Phương tuẫn quốc, sắc phong: 

Nhân dũng, đại nghĩa bảo quốc đại vương. 

Truyền cấp hai mươi mẫu đất tốt làm hương hỏa. Quanh năm thờ kính. 

Ngoài ra các anh hùng khác đều lĩnh chức tước của các Lạc-vương, không thấy ghi trong bảng phong công thần. 

Sau đây, một vài chi tiết tìm được: 

Cửu-chân: 

Lạc vương: Đô Dương. 

Tư-mã: Lạc công Đinh Đại. 

Tư-đồ: Nghi-sơn hầu Đào Nghi-Sơn. 

Tư-không: Biện-sơn hầu Đào Biện-Sơn. 

Giao-chỉ: 

Lạc vương: Trưng Nhị. 

Tư mã: Thọ-xương hầu Trần Dương-Đức. 

Tư đồ: Phương-nghi hầu Chu Thổ-Quan. 

Tư không: Tần-lĩnh công Đặng Thi-Kế. 

Nhật-nam: 

Lạc vương: Lại Thế-Cường. 

Tư mã: Linh-việt hầu Trương Thủy-Hải. 

Tư đồ: Dương-tĩnh hầu Trương Đằng-Giang. 

Tư không: Kiến-bình hầu Trần Khổng-Chúng. 

Quế-lâm: 

Lạc vương: Lương Hồng-Châu. 

Tư mã: Lôi-sơn công Đinh Công-Thắng 

Tư đồ: Linh-lăng công Triệu Anh-Vũ. 

Tư không: Nam-sơn công Phan Đông-Bảng. 

Tượng-quận: 

Lạc vương: Hàn Bạch. 

Tư mã: Quế-dương hầu Chu Đức. 

Tư đồ: Nghi-dương hầu Vương Hồng. 

Tư không: Giao-sơn hầu Chu Thanh. 

Nam-hải: 

Lạc vương: Trần Nhất-Gia. 

Tư mã: Khúc-giang công Trần Nhị-Gia. 

Tư đồ: Trung-sơn công Trần Tam-Gia. 

Tư không: Nhu-sơn công Trần Tứ-Gia. 

Còn hai vị, địa vị cao cả, Trưng hoàng đế không phong chức tước, chỉ ban chiếu tôn xưng. Thứ nhất Khất đại phu Trần Đại-Sinh: 

Chí nhân, đại từ, thánh y. 

Lĩnh-Nam tiên ông. 

Cựu hoàng đế Trần Tự-Sơn, được tôn làm: 

Ứng càn, ngự cực, 

Thần Văn, Thánh Võ, 

Long Công, Thịnh Đức, 

Nhân Huệ, Chí Minh, 

Thái thượng hoàng đế. 

Sau khi tuyên đọc sắc chỉ. Ngài hô lớn: 

– Các con dân Lĩnh-Nam, quì gối trước bàn thờ Quốc-tổ. 

Toàn thể văn thần võ tướng quì gối. Lễ tám lễ. 

Tiếp theo các lạc vương chúc tụng Lĩnh-Nam hoàng đế. Người vui nhất là Đào Thế-Kiệt, tức Cửu-chân vương. Ngài cười lớn: 

– Từ khi biết nghe, biết nói. Tôi chỉ mơ có ngày hôm nay. Sau ngày phục quốc đến giờ. Nhiều lúc tôi tự hỏi: Mình mê hay tỉnh đây? 

Lạc vương Nam-hải Trần Nhất-Gia hỏi: 

– Bây giờ Đào vương gia định làm gì? 

Đào vương ngơ ngẩn, nhìn Trưng hoàng đế, nhìn bàn thờ Quốc-tổ, nhìn anh hùng các nơi, nhìn vợ nhìn con, nhìn đệ tử. Ngài lắc đầu: 

– Làm gì ư? Bây giờ, tôi sướng quá. Hạnh phúc quá... Không... không còn... gì... 

Đến đây mắt ngài trợn ngược. Đứng im trên đài. Trần Năng kinh hoảng, vọt người lên. Cầm tay ngài bắt mạch. Gọi lớn: 

– Thái sư phụ! Thái sư phụ! 

Nhưng đã trễ, mạch không còn nhảy nữa. Bà nói với Đào vương phi: 

– Thái sư phụ đã qui tiên rồi! 

Trưng hoàng đế nói lớn: 

– Các anh hùng nghe đây: Cửu-chân Đào vương, suốt đời ưu tư lo phục quốc. Nay được toại nguyện. Ngài vui quá, mà qui tiên. Đã đành sinh ra, ai cũng phải chết. Song Đào vương chết như thế thực vui sướng mà chết. Đó là phần thưởng quí báu nhất cho người anh hùng suốt đời lao tâm khổ tứ với đại cuộc đất nước. Chúng ta không nên buồn. 

Ngài truyền đặt xác Đào vương trước bàn thờ Quốc-tổ. Lệnh anh hùng các nơi đến trước ngài làm lễ, từ biệt. Ngày hôm đó truyền khâm liệm, mang về Cửu-chân an táng. Truyền cả nước để tang. 

Ba hôm sau... 

Giao-chỉ vương Trưng Nhị hỏi các anh hùng Cửu-chân: 

– Nước không nên để một ngày không vua. Đào vương qui tiên. Vậy các anh hùng Cửu-Chân hãy suy cử người thay thế. 

Ghi chú của tác giả: Kể từ đây, chúng tôi dùng danh xưng hoàng đế Lĩnh-Nam, Trưng Đế, Trưng hoàng đế để gọi Trưng Trắc. Và Trưng vương, Giao-Chỉ vương để gọi Trưng Nhị. 

Khác hẳn với các vùng khác. Anh hùng Cửu-chân, người người đồng một tâm. Họ liếc nhìn Đào Kỳ. Trưng đế biết quần hùng muốn suy cử Đào Kỳ. 

Ngài phán: 

– Anh hùng Cửu-chân muốn suy cử ai cũng được. Duy Đào tam đệ thì không nên. Đào đệ đã lĩnh chức Bắc-bình vương, lĩnh ấn Đại-tư-mã, hai vai gánh vác sơn hà, quá nặng nề, không thể chịu thêm được nữa. 

Đinh Đại lên tiếng: 

– Anh hùng, đệ tử Cửu-chân nghe đây: Đất Cửu-chân ta ở phía sau Lĩnh-Nam. Giặc Hán có xâm lăng, tất đem thủy quân từ biển đánh vào. Sau đó đánh trở lên. Chức lạc vương Cửu-chân, do sư huynh ta gánh vác thì được. Còn lại từ Đào vương phi, tức chị ta, cho đến ta và các đệ tử không ai gánh vác nổi. Võ đạo, võ công, lòng son chúng ta có. Còn bảo chúng ta lĩnh trọng trách lớn đó, thực không nổi. Ta muốn mời một người không ở Cửu-chân vào thay thế sư huynh. Các ngươi nghĩ sao? 

Quần hùng nghĩ: Tài hơn, hoặc ngang với Đào vương chỉ có Trưng đế, Trưng vương, Phương-Dung, Đào Kỳ, Vĩnh-Hoa. Còn ai đâu? 

Trần Dương-Đức kính cẩn hỏi: 

– Sư thúc, Lĩnh-Nam ta, không biết còn ai có tài ngang với sư phụ, mà chưa lĩnh trọng trách gì? 

Đinh Đại cười: 

– Ta nghĩ đến một người: Võ công đã cao. Tính tình hào sảng. Đánh dư trăm trận. Hiểu biết hết tình hình triều Hán, là bạn của các đại thần nhà Hán. Tài dùng binh, e rằng không đại tướng Hán nào bì kịp. 

Đinh Tĩnh-Nương lắc đầu: 

– Bố ơi! Bố muốn nói đại ca Trần Tự-Sơn hả bố? Đại ca không chịu nhận đâu. Đại ca đang ngao du sơn thủy. Bố bắt đại ca trở về sao? 

Đinh Đại tát yêu con gái: 

– Con lầm rồi! Còn một người nữa. Chứ bố đâu có muốn mời Trần đại ca. 

Đào Kỳ, Phương-Dung đồng kêu lên: 

– Đô Dương! Đô đại ca! Đúng, đại ca đã xin Trưng đế tha cho không phải nhận chức tước gì. Bây giớ chúng ta dùng đại nghĩa, xin Đô đại ca nhận chức Lạc-vương Cửu-chân. 

Đô Dương đang ngồi trên khán đài quan khách với Nguyễn Giao-Chi. Ông nghe Đào Kỳ nói vậy, đứng dậy vẫy tay nói: 

– Đào hiền đệ! Đa tạ hiền đệ tín nhiệm ta. Song ta đang muốn được thảnh thơi, nhàn tản một thời gian đã. 

Phương-Dung đến bên ông nói: 

– Đô đại ca! Đại ca bỏ Lĩnh-Nam sang Trung-nguyên, vào sinh ra tử bao phen cho nhà Hán. Không lẽ bây giờ đại ca không coi Lĩnh-Nam bằng Hán hay sao? 

Đô Dương biết Phương-Dung lợi hại không thể tưởng được. Muốn cãi với nàng, thực khó khăn. Ông nhìn vợ hỏi ý kiến. Giao-Chi nói: 

– Giữa Đào gia với Mai-Động có nhiều ơn nghĩa. Bố em trước đây đứng ra gả sư tỷ Thiều-Hoa cho đại ca Tự-Sơn. Đào lão bá đứng ra gả em cho anh. Hai nhà như một. Vậy anh thay Đào lão bá lĩnh trọng trách mới phải đạo. 

Đô Dương thuộc đấng đại trượng phu đa tình. Ông lưu lạc bên Trung-nguyên bao năm trời. Công danh tới thái thú. Vinh dự tới tước hầu. Tiền rừng bạc biển. Ông không cưới vợ. Thường mơ màng một bóng giai nhân, ôn nhu văn nhã, võ công cao, có tấm lòng son với đất nước. Được người như thế, vừa là bạn đồng tâm hiệp lực, vừa là tri kỷ, vừa là người yêu. 

Ông gặp Giao-Chi. Giao-Chi còn nhiều đức tính hơn ông mơ tưởng. Nàng có nhan sắc mặn mà vào bậc nhất thời bấy giờ. Từ hôm cưới vợ, nhất nhất phu thê thuận lòng, hợp ý. Đến nằm mơ ông cũng không ngờ mình có người vợ như vậy. 

Ông sủng ái Giao-Chi cực kỳ. Trên đời, ông chỉ tuyệt đối nghe lời Trần Tự-Sơn, bây giờ thêm Giao-Chi. Ông tưởng Giao-Chi sẽ chối từ. Ông có cớ đó, thoát vòng vây của Phương-Dung. Không ngờ Giao-chi với Phương-Dung tri kỷ với nhau từ lâu. Họ yêu chồng, kính chồng, mưu tìm hạnh phúc với chồng... Song có một điều Đô Dương không nghĩ tới: Họ xuất thân giòng dõi trung lương, coi việc nước lớn hơn tính mệnh. Vì vậy Đô Dương mới bị vợ cột chân cứng ngắt. Ông không lấy thế làm buồn, nghĩ trong lòng: Nếu vì Giao-Chi mà chết, ta cũng được chết vì sung sướng. Huống hồ gánh vác việc nước. Ông đứng dậy chắp tay nói lớn: 

– Nếu các anh hùng Cửu-chân, đều tín nhiệm. Đô Dương tôi xin tuân lệnh. 

Đinh Đại hỏi các anh hùng vùng Cửu-chân: 

– Có ai phản đối việc chúng ta suy cử này không? 

Quần hùng, đệ tử Cửu-chân đồng loạt hô lớn: 

– Tuyệt đối không! 

Trưng đế phán: 

– Mời Đô đại ca lên đài làm lễ trước bàn thờ Quốc-tổ và trước Linh cữu Đào vương gia. 

Đô Dương lên đài, lễ trước bàn thờ Quốc-tổ tám lễ. Ông thề lớn: 

– Đệ tử Đô Dương, được anh hùng Cửu-chân suy cử nhận trọng trách lạc vương Cửu-chân. Đệ tử nguyện dùng hết tâm trí, bảo vệ đất nước. Nếu đệ tử sai lời, bị chết dưới muôn ngàn đao, kiếm. 

Anh hùng các nơi vỗ tay rung động trời đất. 

Trưng đế đến trước linh cữu Đào vương, hành lễ. Tuyên sắc phong: 

Long công, thịnh đức, 

Chí minh, đại nghĩa, 

Cửu-Chân vương. 

Ngài nói với các lộ anh hùng: 

– Anh hùng các nơi đâu về đó. Đào tam đệ, Phật-nguyệt, Thánh-Thiên, Hiển-Hiệu phải lên đường trấn nhậm ngay. Chậm một ngày, nguy một ngày. Trẫm muốn cùng tam công, tể tướng đi khắp các nơi, thăm dân cho biết sự tình. Cũng để tuyên cáo Lĩnh-Nam đã trở về với người Việt. 

Trưng Đế hỏi Tư-không Nguyễn Tam-Trinh, Tể-tướng Phương-Dung: 

– Hiện các lạc vương cai trị dân bằng võ đạo. Ta chưa có luật. Vì vậy trẫm muốn cùng sư thúc và các sư muội thăm khắp nơi, để hiểu biết dân tình. Sau đó trở về phiền sư muội soạn ra bộ luật cho Lĩnh-Nam. 

Phùng Vĩnh-Hoa tâu: 

– Hán có gì hay, ta phải học. Hán có gì dở, ta phải tránh. Hán có luật, có điển chế triều đình, có lịch nêu rõ chính thống. Ta cũng phải soạn lịch. Chẳng nên dùng lịch Trung-nguyên. 

Phương-Dung biết Phùng Vĩnh-Hoa xuất thân phái Sài-sơn, uyên thâm văn minh Lĩnh-Nam. Bà hỏi: 

– Vấn đề Lịch-số, em có biết qua. Song chưa tường tận. Xin sư tỷ đừng tiếc công chỉ dạy. 

Phùng Vĩnh-Hoa lấy trong bọc ra hai cuốn sách nhỏ, đưa cho Phương-Dung: 

– Đây, hai cuốn sách, dạy cách làm lịch, tính thiên văn của Lĩnh-Nam từ hơn ngàn năm trước. 

Trưng đế ngạc nhiên: 

– Ta chưa từng biết qua lịch Lĩnh-Nam. Xin lắng tai nghe sư muội nói. 

Phùng Vĩnh-Hoa tâu: 

 – Đời Hồng-Bàng, Lĩnh-Nam lập quốc từ năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây lịch). Quốc tổ ra lệnh làm lịch. Ngài tuyên chiếu chỉ: Lịch là kỷ cương của âm, dương, liên hệ giữa người với trời đất. Mỗi đời vua đều có quan Thái-sử-lệnh coi việc chép sử. Thiên-văn-lệnh coi xét về mưa nắng, mùa màng. Lịch-quan-lệnh coi về làm lịch. 

Phương-Dung tỏ ý hiểu biết: 

– Lịch quan làm lịch. Văn-Lang có lịch riêng từ hồi đó. Đến khi Triệu Đà đánh dân Âu-Lạc, dân Việt dùng lịch Trung-nguyên. Không biết lịch Trung-nguyên với lịch Hồng-Bàng có khác nhau không? 

– Đại thể giống nhau. Chi tiết khác nhau. Giống nhau vì cùng đặt trên học thuyết Âm-dương, Ngũ-hành. Khác nhau vì ở vào hai vùng khí hậu nóng, lạnh. 

GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ 

Trở lại nguồn gốc, sử sách Trung-nguyên, Lĩnh-Nam đều ghi. Đời Hồng-Bàng, năm thứ 527 bên Trung-nguyên, niên hiệu vua Nghiêu thứ năm (2353 trước Tây-lịch). Vua Hùng muốn Trung-nguyên biết về văn minh Văn-Lang, truyền sai chép cách làm lịch vào lưng một con rùa cực lớn, đem cống. Lưng con rùa lớn tới ba thước (0,96 mét). Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là Qui-lịch. 

Điều mà bà Phùng Vĩnh-Hoa tâu lên Trưng-đế là đúng. Sử Việt đã ghi. Trong bộ "Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục" của Quốc-sử quán triều Nguyễn, phần Tiền-biên có ghi chép sự kiện này. Sử Trung-quốc chép tương tự. Sách Thống-chí của Trịnh Tiều (1104-1162) chép đầy đủ. Trịnh Tiều còn nhấn mạnh rằng: Đó là nguồn gốc lịch Trung-quốc sau này. Như vậy điều Tư-đồ Lĩnh-Nam Phùng Vĩnh-Hoa tâu lên Trưng đế không phải truyền thuyết nữa, mà là sự kiện lịch sử. 

Phùng Vĩnh-Hoa tiếp: 

– Lịch Hồng-Bàng chia ngày làm một trăm khắc. Khắc chia làm một trăm phân. Phân chia làm một trăm giây. Năm dài 365,2425 ngày. Độ dài của mỗi tuần trăng bằng 29,53059 ngày. Khi Phò-mã An Tiêm, bị tội, đày ra đảo Hải-nam. Ngài ngồi ngắm nhật, nguyệt chuyển vận, sửa chữa lịch Hồng-Bàng. Hết hạn lưu đày, ngài dâng lịch lên vua Hùng. Được vua khen ngợi, truyền sao phát cho các lạc hầu, dân chúng dùng. Lịch Hồng-Bàng có cơ sở vững chắc tự đó. 

GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ 

Con số một năm dài 365,2425 ngày, so với con số ngày nay chỉ sai có hai mươi sáu giây. Tuần trăng dài 29,53059 so với ngày nay chỉ sai có 2% giây. Đây là lý thuyết. Chứ trên thực tế, ngày nay người ta cũng dùng con số 29,53059. 

An Tiêm là Phò-mã của vua Hùng-Vương. Được vua thương yêu, ngài thường nói: 

– Ta sở dĩ được thế này do phúc đức tổ tiên để lại. Do trời thương ta. 

Vua Hùng nổi giận phán: 

– Đã vậy ta đày Phò-mã An Tiêm cùng vợ con, tôi tớ ra đảo Hải-nam. 

Đảo Hải-nam hồi đó còn hoang dã chưa có người ở. Vợ, con, tôi tớ đều lo sợ không biết sẽ sống ra sao. 

Phò mã phán: 

– Trời sinh voi, ắt sinh cỏ. 

Bỗng đàn quạ từ một bãi xa bay lên kêu quang quác, đánh rơi xuống mấy hạt dưa. Ngài cầm lên coi phán rằng: 

– Dưa này quạ ăn được. Tất người ăn được. 

Phò mã cùng tôi tớ tới bãi đất phía tây đảo coi, quả có nhiều dưa mọc đầy trái, truyền cắt dưa ăn, mùi vị ngon ngọt. Từ đấy, cùng vợ con, tộc thuộc trồng trọt sống rất sung túc. Ít lâu sau vua Hùng hối hận. Cho người ra đảo thăm Phò-mã An Tiêm. Thấy Phò-mã sống sung túc. Sứ về tâu lại, vua truyền cho ngài trở về lục địa. An-Tiêm coi như tổ sư dân vùng đảo Hải-nam. Dưa ngài trồng hồi đó, đặt tên Tây-qua. Kỷ niệm con quạ bay từ phương tây lại. Tên Việt gọi dưa hấu. 

Phùng Vĩnh-Hoa tâu tiếp: 

– An Tiêm đặt ra dụng cụ tên Trắc thời đồ phân chia giờ, quan sát thiên hà. Còn bên Trung-nguyên, thời Nghiêu dùng Quy-lịch. Họ cũng sáng chế, thêm thắt vào. Đến đời Xuân-Thu (770-476 trước Tây-lịch) và Chiến-Quốc (476-255 trước Tây-lịch) mỗi nước dùng một thứ lịch khác nhau. Song căn bản vẫn rút từ Qui-lịch. Nhà Tần (255-207 trước Tây-lịch) dùng lịch Chuyên Húc. Đến đời Hán. Niên hiệu Thái-sơ (104 trước Tây-lịch) ban hành lịch Thái Sơ. Lịch Thái Sơ được dùng một trăm tám mươi tám năm. Đến cuối đời Tây-Hán, Lưu Hâm sửa đổi lại một lần nữa. Lịch Quang-Vũ hiện dùng do Lưu Hâm làm. 

Trưng Đế mừng lắm hỏi: 

– Không ngờ Phùng sư muội lại bác học đến thế. Bây giờ sư muội định dùng lại lịch Hồng-Bàng hay làm lịch mới? 

Phùng Vĩnh-Hoa tâu: 

– Thời gian bị Hán cai trị. Liệt tổ phái Sài-sơn vẫn tiếp tục nghiên cứu lịch số, chiêm nghiệm Thiên-văn, chia một năm làm hai mươi bốn tiết khác nhau. Bởi mỗi tiết có loại khí khác nhau. Căn cứ vào đó mà đặt tên để dân chúng biết thời tiết, mà làm ruộng, trồng cấy. 

Phương-Dung không biết về Lịch-số. Nhưng bà thông minh quán thế. Hỏi: 

– Như vậy các tổ Lĩnh-Nam mình căn cứ vào sự chuyển động của mặt trời, đặt ra hai mươi bốn tiết khí. Mỗi tiết khí ứng với một phần hai mươi bốn (1/24) năm. Cứ đến môt khí, khí hậu thay đổi. Người dân biết đó mà lo trồng cấy, chăn nuôi. Thầy thuốc biết mà ước tính bệnh. 

Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu: 

– Đúng thế! Mùa Xuân có các tiết: 

Lập-xuân, Vũ-thủy, Kinh-trập, 

Xuân-phân, Thanh-minh, Cốc-vũ. 

Mùa hạ có các tiết: 

Lập-hạ, Tiểu-mãn, Mang-chủng, 

Hạ-chí, Tiểu-thử, Đại-thử. 

Mùa thu có các tiết: 

Lập-thu, Xử-thử, Bạch-lộ, 

Thu-phân, Hàn-lộ, Sương-giáng. 

Mùa đông có các tiết: 

Lập-đông, Tiểu-tuyết, Đại-tuyết, 

Đông-chí, Tiểu-hàn, Đại-hàn. 

Mỗi tiết dài hơn mười lăm ngày. Hai tiết dài hơn một tháng. 

Trưng Đế suy nghĩ một lúc. Ngài hỏi: 

– Ta có một thắc mắc: Lịch Hồng-Bàng, lịch An Tiêm đều căn cứ vào tuần trăng. Mỗi tuần trăng dài 29,53059. Không lẽ mỗi tháng dài hai mươi chín ngày rưỡi? 

Phùng Vĩnh-Hoa vỗ tay vào vai ngài. Tay mới đưa đến nửa chừng vội giựt lại. Bà chợt nhớ rằng bây giờ ngài không còn là sư tỷ Trưng-Trắc nữa. Mà trở thành một vị hoàng đế kính yêu của hơn mười triệu người. Trưng Đế thấy vậy, càng vui hơn. Ngài phán: 

– Sư muội! Chúng ta vẫn giữ tình chị em như xưa mà. 

Phùng Vĩnh-Hoa chắp tay: 

– Đôi khi em quên mất. Đúng như bệ hạ nghĩ. Liệt tổ đặt ra một tháng ba mươi ngày gọi là tháng đủ. Một tháng hai mươi chín ngày, gọi là tháng thiếu. Lịch An Tiêm còn gọi ngày không trăng tức mồng 1 là ngày Sóc. Ngày trăng tròn là ngày Vọng. 

Phương-Dung xuất thần, tính toán một lúc. Hỏi: 

– Như thế một năm ta có sáu tháng đủ. Sáu tháng thiếu. Cộng ba trăm năm mươi bốn ngày. Trong khi đó một năm dài 365,2425 ngày. Vậy một năm dư tới 11,2425 ngày. Thì những ngày đó đi đâu? 

Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu: 

– Có, lịch Hồng-Bàng đã định điều đó. An Tiêm tìm ra rằng cứ mười chín năm, mặt trăng, mặt trời, lại giao hội nhau tại đúng thời điểm cũ. Khoảng cách mười chín năm đó, An Tiêm gọi là một Chương. Một chương có hai trăm ba mươi lăm tháng (235), gồm một trăm mười (110) thiếu, trăm hai mươi lăm (125) tháng đủ. Cộng sáu ngàn chín trăm bốn chục ngày (6940). Những năm thứ ba, thứ sáu, thứ chín, thứ mười một, thứ mười bốn, thứ mười bảy, và thứ mười chín là năm nhuận tức có mười ba tháng. 

Trưng Đế hiểu rõ. Ngài phán: 

– Phiền sư muội làm một cuốn lịch, đặt tên Lĩnh-Nam đại lịch, khởi từ năm tới. Vì bây giờ đã gần hết năm rồi, cố hoàn tất trước tháng chín, cho sao làm nhiều bản. Ta sẽ làm lễ Tiến-lịch trước bàn thờ Quốc-tổ, rồi gửi tới các Lạc hầu. 

Phùng Vĩnh-Hoa hỏi: 

– Theo phương pháp chép sử Khổng-Tử, năm tới, mới được kể là niên hiệu thứ nhất của sư tỷ. Năm vừa qua dù sư tỷ đã lên ngôi vua từ tháng bảy, vẫn chưa được gọi là năm thứ nhất. Chẳng hay sư tỷ có sửa đổi không, hay vẫn theo Khổng-Tử. 

Trưng Đế phán: 

– Khổng-Tử có lý. Ta lên làm vua từ tháng bảy, năm nay, là năm Kỷ-Hợi (39). Có nghĩa là bảy tháng đầu chưa phải của ta. Năm tới là năm Canh-Tý (40), mới được kể. Sư muội cứ ghi trên các văn kiện năm nay vẫn thuộc Âu-Lạc. Từ ngày 1 tháng giêng năm tới hãy ghi niên hiệu ta: Trưng Đế nguyên niên. 

Phùng Vĩnh-Hoa tuân chỉ. Bà cho lập tòa Thiên-văn-giám. Truyền cứ đầu mỗi giờ đánh ba tiếng trống, ba tiếng chiêng, đổi cờ một lần. Giờ tý cờ đen. Giờ sửu cờ vàng. Giờ dần cờ xanh. Giờ mão cờ tím. Giờ thìn cờ vàng. Giờ tỵ cờ đỏ. Giờ ngọ cờ hồng. Giờ mùi cờ vàng. Giờ thân cờ ngà. Giờ tuất cờ vàng. Truyền mỗi huyện mỗi trang đều làm theo. 

Vua tôi thời Lĩnh-Nam thường không câu nệ gọi nhau bằng chức tước khách sáo, mà sống như chị em. Trưng Đế theo đề nghị của Phương-Dung ban chiếu chỉ xuống các lạc hầu. Ai có ý kiến gì phục hưng đất nước, được gửi biểu tấu về triều đình. Dân chúng có ý kiến, được đạo đạt lên lạc hầu, lạc công, lạc vương hoặc triều đình. 

Tìm lại nền nội trị, cứ theo các cuốn phổ ghi chú tiểu truyện của các anh hùng Lĩnh-Nam thời đó. Dân Việt được hưởng cảnh yên vui chưa từng có, hơn cả thời Hồng-Bàng, Âu-Lạc. Vụ lúa mùa tháng mười năm Kỷ Hợi (39 sau Tây lịch). Khắp Lĩnh-Nam trúng mùa. 

Phải hơn một tháng phủ Đại-tư-đồ mới soạn xong lịch. Công chúa Nguyệt-đức Phùng Vĩnh-Hoa ra lệnh khắc bản in, rồi trình lên vua Trưng. Ngài truyền triệu tập tất cả các vị lạc vương, đại tướng quân các đạo, cùng tam công, tể tướng, lục vị thượng thư, thiết đại triều duyệt xét, trước khi tế Quốc-tổ, Quốc-mẫu, ban hành vào đầu năm. Phải mất hơn tuần trăng, anh hùng các nơi mới tề tựu đầy đủ về thủ đô Mê-Linh. 

Buổi họp khai mạc tại điện Kinh-dương. Cử tọa theo thứ bậc ngồi trước bán thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Vua Trưng đứng dậy tóm lược ý nghĩa việc ban hành lịch để nêu rõ chính thống dân tộc. Lịch để cho nhà nông biết thời tiết mà trồng trọt. Thầy thuốc biết các khí thay đổi, hầu trị bệnh. Ngài nhấn mạnh: 

– Ngoài việc ban hành lịch, buổi hội cần có ý kiến các vùng để soạn thảo bộ luật Lĩnh-Nam. Chúng ta, nhân vì cái nhục vong quốc, cùng nhau đứng dậy, đòi lại đất tổ. Đòi lại được rồi, chúng ta phải giữ gìn. Giữ gìn không đủ. Chúng ta cần có bộ luật, là cơ chế tổ chức nền nội trị sao đem lại ấm no, hạnh phúc cho dân. Chứ dành lại được đất, mà khiến cho trăm họ đói khổ, điêu linh, thì chúng ta chẳng khác gì bọn Hán cướp nước. Cuộc khởi binh vừa qua, là một sự lấy bạo tàn thay bạo tàn. 

Đầu tiên nói về việc ban hành lịch. 

Công chúa Phùng Vĩnh-Hoa thuyết giảng về diễn tiến khoa lịch số từ thời Hồng-Bàng đến bây giờ, cùng chi tiết việc soạn lịch. Lục Mạnh-Tân được phong chức Thượng-tân khanh sĩ. Thượng nghĩa là ở trên hết. Tân là khách. Thượng-tân khanh sĩ tức vị khách quý, cố vấn triều đình. Ông hỏi: 

– Bên Trung-quốc, mỗi vua đều đặt niên hiệu riêng. Không biết Hoàng đế bệ hạ có đặt niên hiệu không? 

Vua Trưng phán: 

– Không! Trẫm không dùng niên hiệu riêng. 

Đại tư-không Nguyễn Tam-Trinh giải thích: 

– Hoàng đế bệ hạ đã cùng triều đình bàn định kỹ lưỡng về việc này. Vua Lĩnh-Nam do quần hùng suy cử chứ không phải như Trung-quốc gọi vua là thiên tử tức con của trời. 

Ông nhấn mạnh về vua ở Trung-quốc: 

– Vua được trời ủy nhiệm cai trị dân gian. Dân chúng phải tôn phục. Tuy vậy không phải cái ý đó lúc nào cũng tồn tại. Như cách đây hơn hai trăm năm năm. Tần Thủy-Hoàng vô đạo. Anh hùng các nơi nổi dậy như ong. Nhân sĩ Trung-quốc coi đất nước, dân chúng như con hươu. Tần Thủy-Hoàng đánh mất. Anh hùng tranh nhau ngôi vua, ví như đuổi hươu. Bởi vậy mới có câu: Tần thất kỳ chính, quần hùng trùng lộc nghĩa rằng: nhà Tần mất chính trị. Anh hùng thi nhau đuổi hươu. Cuối cùng các anh hùng đều bại, chỉ có Lưu Bang với Hạng Vũ. Lưu Bang thắng, tức bắt được hươu, chứ chẳng phải con trời, con đất gì cả. 

Vua Trưng phán với các anh hùng: 

– Thời vua Hùng, quốc hiệu là Văn-Lang. Đến vua An-Dương, quốc hiệu là Âu-Lạc. Nay chúng ta đã dùng quốc hiệu Lĩnh-Nam. Vì vậy khi làm lịch, công chúa Nguyệt-Đức mới gọi năm tới là Lĩnh-Nam nguyên niên. Còn trẫm thì cứ gọi hoàng đế Lĩnh-Nam đệ nhất. Sáu năm sau quần hùng suy cử người kế tiếp. Vị đó sẽ là hoàng đế Lĩnh-Nam đệ nhị. 

Ngài quay lại nói với đại tư không Nguyễn Tam-Trinh: 

– Trong các vị đây, chú là người nghe nhiều, hiểu rộng. Văn tài lại lỗi lạc. Đúng là đức bác thánh văn. Vậy xin chú đừng tiếc công nói cho trẫm với các vị hiện diện hôm nay về nguồn gốc tư tưởng con trời của Trung-quốc. 

Nguyễn Tam-Trinh cảm động nhìn vua Trưng, muốn rơi nước mắt. Nguyên từ khi lên ngôi vua. Đối với người không thân thiết, ngài thường gọi bằng chức tước. Thân hơn chút nữa, ngài dùng lối xưng hô trong võ đạo. Còn đối với người quá thân thiết, ngài thường dùng những danh từ bình dân, như trong gia đình. Hôm nay, trước mặt quần thần. Ngài gọi ông là chú, hỏi sao ông không cảm động. 

Ông đứng dậy, nói lớn: 

– Trung-quốc có Tứ thư và Ngũ kinh. Ngũ kinh gồm Thi, Thư, Lễ, Nhạc và Xuân-Thu. Quan niệm của họ thì kinh là những khuôn vàng thước ngọc, không thể sửa đổi. Trong Kinh-thư có thiên Vũ-cống, bày tỏ đầy đủ quan niệm về đất nước, vua chúa. 

Ông móc trong túi ra bộ Kinh-Thư rồi tiếp: 

– Kinh-thư thiên Vũ-cống gọi thế giới là phía dưới của trời, tức thiên hạ. Thời cổ, lãnh thổ Trung-quốc không bằng một phần trăm ngày nay. Nhưng vì các văn nhân không đi ra ngoài, tưởng đâu thế giới chỉ có một mình Trung-quốc. Vì vậy Trung-quốc là thiên hạ. Thiên hạ là Trung-quốc. Thiên hạ ở giữa, bốn phía là biển. Cho nên Trung-quốc còn gọi là hải nội. Nước khác là hải ngoại. 

Bình-ngô đại tướng quân, công chúa Thánh-Thiên, hiện thống lĩnh binh mã vùng Nam-hải xen vào: 

– Lúc đầu, người Hoa họ dùng danh xưng hải nội, hải ngoại để phân biệt Trung-quốc với nước khác. Danh xưng đó ngày nay người Việt mình cũng dùng. Trong nước Lĩnh-Nam mình thì gọi là hải nội khi sang Trung-quốc thì gọi là ra hải ngoại. 

Nguyễn Tam-Trinh tiếp: 

– Vẫn bộ Kinh-Thư, thiên Vũ-Cống chia thiên hạ làm chín châu. Người Trung-quốc dùng khoảng cách chia xã hội thành năm cõi gọi là Ngũ phục. Mỗi cõi rộng năm trăm dặm. Đông, tây, nam, bắc, cách nhau năm trăm dặm. Năm cõi có tên gọi là Điện-phục, Hầu-phục, Tuy-phục, Yêu-phục, Hoang-phục. 

Trấn-viễn đại tướng quân, Tây-vu công chúa Hồ Đề ngắt lời Nguyễn Tam-Trinh: 

– Thưa bác, như vậy người Hoa họ tự coi mình là trung tâm thiên hạ. Cho nên nước họ mới xưng là Trung-quốc tức nước ở chính giữa. Còn bốn bên đông, tây, nam, bắc, đều có Điện-phục. Nghĩa là có tới bốn cõi Điện-phục. Cõi Điện-phục ở ngoài kinh thành nhà vua năm trăm dặm. 

– Đúng thế! Ngoài Điện-phục là Hầu-phục. Cõi Hầu ở ngoài cõi Điện năm trăm dặm. Trong năm trăm dặm cõi Hầu, thì khoảng cách trăm dặm gần phong thái ấp cho quan khanh đại phu. Tiếp theo hai trăm dặm nữa phong cho các vương có tước Nam. Còn lại hai trăm dặm phong cho chư hầu. 

Hổ-oai đại tướng quân, thống lĩnh đạo binh Nhật-nam Trần Quế-Hoa bật cười: 

– Với lối phân chia lẩm cẩm của một văn gia thời thượng cổ bên Trung-quốc, không ngờ ngày nay lại thành kinh. Người Hán triệu bộ óc như một, đều coi là không thể sửa đổi. 

Nguyễn Tam-Trinh tiếp: 

– Công chúa Nghi-Hòa nói thực phải. Tất cả những gì là thiên hạ, thiên tử... đều do mấy văn gia nghĩ, rồi đặt ra cả... Tôi xin tiếp: kế đó là cõi Tuy. Cõi Tuy ở ngoài cõi Hầu năm trăm dặm. Trong ba trăm dặm gần là nơi truyền bá văn chương, giáo hóa quần chúng. Còn hai trăm dặm, để hưng thịnh võ bị bảo vệ quốc gia. 

Uy-viễn đại tướng quân Vũ Trinh-Thục hỏi: 

– Thưa sư bá, nguồn gốc trọng văn khinh võ của Nho gia phát xuất từ sự phân chia này, có phải không? 

Nguyễn Tam-Trinh đưa mắt nhìn Thượng-tân khanh sĩ Lục Mạnh-Tân. Ý muốn để ông trả lời. Lục Mạnh-Tân hướng vào Vũ Trinh-Thục: 

– Thưa công-chúa Bát-Nàn, đúng thế. Các vua thời Đông-chu, Chiến-quốc vì nhu cầu chiến tranh, đều trọng võ hơn văn. Đến đời Hán. Sau khi thắng Hạng Vũ, vua Cao-Tổ trở lại trọng văn. Vì võ chỉ để dẹp giặc, khi giặc yên, cần dùng văn, hầu tổ chức cai trị. 

Nguyễn Tam-Trinh mỉm cười tỏ ý cám ơn Lục Mạnh-Tân rồi tiếp: 

– Tiếp đến là cõi Yêu. Cõi Yêu ngoài cõi Tuy năm trăm dặm. Trong ba trăm dặm gần cho dân mọi rợ phương đông ở. Còn hai trăm dặm kế tiếp cho người có tội bị đầy. 

Đại đô-đốc Lĩnh-nam Trần Quốc bật cười: 

– Thưa sư bá! Như vậy thì từ kinh đô của Hoàng-đế đến quê hương của đức thánh Khổng cách nhau gần hai nghìn dặm. Vậy Khổng-Tử cũng là mọi rợ sao? 

Nguyễn Tam-Trinh lại liếc nhìn Lục Mạnh-Tân. Lục Mạnh-Tân cười: 

– Thưa công-chúa Gia-Hưng đây là Kinh-thư nói. Kinh-thư đâu có hoàn toàn đúng. Vả lại chính Khổng-Tử còn tự xưng mình ở đất Đông-di. Tức mọi rợ phương đông. 

Nguyễn Tam-Trinh cũng mỉm cười: 

– Cõi cuối cùng là cõi Hoang. Cõi Hoang ngoài cõi Yêu năm trăm dặm. Trong ba trăm dặm gần cho mọi rợ phương nam ở. Còn hai trăm dặm cạnh đấy dùng để đầy những người mắc tội nặng. Đấy, tất cả năm cõi theo lối phân chia bệnh hoạn của văn gia thời khởi thủy. Kinh-Thư được coi là kinh, xâm nhập sâu xa vào tư tưởng người Hán. Cũng ví như chúng ta, Quốc-tổ có tên là Lạc-Long-Quân. Phải hiểu chữ long ở đây có ý nghĩa tượng trưng. Chứ đâu có phải Quốc-tổ là loài rồng? 

Thuần-Chính hoàng thái-hậu Hoàng Thiều-Hoa liếc nhìn Bắc-bình vương Đào Kỳ rồi hỏi Nguyễn Tam-Trinh: 

– Thưa bác. Cách đây hơn mười năm. Khi Đào trang bị đánh tan nát. Cháu cùng tiểu sư đệ theo sư bá Phạm Bách đi từ Cửu-chân ra Hoa-lư. Dọc đường sư bá dẫn cháu vào hang Địch-lộng, cùng viếng đền thờ Quốc-tổ. Cháu thấy tượng Quốc-tổ, đầu giống đầu rồng. Còn Quốc-mẫu thì giống chim âu. Lối tượng trưng tiên, rồng này như thế nào?

Nguyễn Tam-Trinh chỉ công chúa Vĩnh-Huy, lĩnh chức Lại-bộ thượng thư nói: 

– Tâu thái-hậu. Trong phái Sài-sơn của chúng tôi có tám anh chị em. Được người Việt gọi là Tám vị thái bảo. Mỗi người một sở trường. Đại sư tỷ Nam-hải nữ hiệp chuyên về đạo đức. Trong cuộc chiến vừa qua tuẫn quốc tại Phiên-ngung. Nam-thành vương chuyên về chính trị đã tuẫn quốc tại Ký-hợp. Còn sư muội Vĩnh-Huy chuyên về triết lý, lịch sử. Xin sư muội trả lời dùm: 

Công-chúa Vĩnh-Huy nghiêm trang nói: 

– Tâu Thái-hậu. Nói về nguồn gốc dân Việt mình, cần phải trở về thời vua Hùng. Thế giới chúng ta ở được gọi là vũ trụ. Vũ trụ phân âm dương. Âm dương là đạo tự nhiên của trời đất. Có ngày ắt có đêm. Có nước ắt có lửa. Có nam ắt có nữ. Mỗi dân tộc tìm lấy một biểu tượng. Dân Lào lấy biểu tượng là con voi. Dân Chiêm lấy biểu tượng là con cọp. Dân Hán lấy biểu tượng là con rồng. Tất cả chỉ có một. Còn dân Việt mình lại có hai, rồng tượng trưng cho cha, cho trời, cho nam, cho dương. Tiên Âu-Cơ tượng trưng cho mẹ, cho đất, cho nữ, cho âm. Âm-dương là lẽ biến hóa của trời đất. Cũng như truyện bánh chưng, bánh dầy vậy. 

Vua Trưng hỏi Đại tư-đồ Phùng Vĩnh-Hoa: 

– Này Vĩnh-Hoa! Thế nguồn gốc tư tưởng nói về vua là con trời, chép ở sách nào bên Trung-quốc? 

Công chúa Nguyệt-Đức tâu: 

– Tâu bệ hạ, nguồn gốc tư tưởng đó cũng phát xuất từ Kinh-thư, thiên Thái-thệ nói rằng: 

Trời sinh ra dân, 

Đặt ra vua, ra thầy, 

Đều để giúp thượng đế, 

Vỗ về dân bốn phương. 

Trong sách Tả-truyện. Tả Khâu-Minh cũng viết Trời làm chủ thiên hạ. Vua nối trời mà cai trị. Kẻ chịu mệnh trời thống trị thiên hạ là Thiên tử. Sách Mạnh-tử thiên Ly-lâu nói: Thiên hạ là quốc gia. Gốc của thiên hạ ở quốc. Gốc của quốc ở gia. 

Lục Mạnh-Tân tiếp lời công chúa Nguyệt-Đức: 

– Đến thời Chiến-quốc, thì người Hán không còn tin vào Kinh-thư mà cho rằng thiên hạ là Trung-Quốc nữa. Trong bộ Sử-ký của Tư-mã Thiên, quyển thứ bảy mươi bốn Mạnh-tử, Tuân-Khanh liệt truyện, chép Trâu Diên đã nhận xét rằng Cái mà người ta gọi là Trung-quốc chỉ chiếm một phần tám mươi mốt của thiên hạ. Tuy vậy bọn vua chúa vẫn cứ ôm lấy Kinh-thư để bảo vệ ngôi vua cho giòng họ mình. Như thời Tây-Hán, các đời Tuyên-đế, Thành-đế, Bình-đế thực là con chồn, con cáo ngồi trên đầu trăm họ. Vì vậy, hôm nay các vị anh hùng Lĩnh-Nam tề tựu. Cần soạn lấy bộ luật sao đem lại hạnh phúc cho dân. 

Vua Trưng hướng Lục Mạnh-Tân xá một xá: 

– Đa tạ Lục tiên sinh. Trẫm cũng đang nghĩ thế. Vua không phải để ngồi trên đầu trên cổ trăm họ. Vua phải là người vì trăm họ, đứng ra mưu tạo hạnh phúc. Ý nghĩ, việc làm của vua không phải lúc nào cũng hay, cũng đúng. Dường như Mạnh-Tử có nói Dân mới quý, sau đến xã tắc. Vua thì coi nhẹ thôi. 

Lục Mạnh-Tân nhắc lại nguyên câu văn: 

– Dân vi quý, xã tắc thứ chi. Quân vi khinh. 

Bắc-bình vương Đào Kỳ bàn: 

– Dĩ nhiên luật Lĩnh-Nam phải lấy căn bản từ luật vua Hùng vua An-Dương. Song nếu thấy Trung-nguyên có gì hay, ta cũng nên thu thái. Họ có gì dở, ta cũng phải tránh. Bây giờ hãy bàn thêm về những gì dở của Trung-quốc đã. 

Nói đến đó Vương liếc nhìn thầy là Lục Mạnh-Tân. Hai thầy trò cùng mỉm cười, tỏ ý tương thông. Nguyễn Tam-Trinh đứng lên thuyết trình tiếp: 

– Tôi xin trở lại với Cửu châu và ngũ phục. Trong năm cõi trên, thì cõi Điện là vùng bao quanh trung tâm Thiên hạ. Phía trong cõi Điện là Giao. Trong Giao một trăm dặm là Quốc. Trong Quốc có thành gọi là Đô. Đó là nơi vua ở. Vì vậy họ mới xưng là Trung-quốc. Tức nước ở giữa thiên hạ. Ngày nay chúng ta có danh từ Trung-quốc, Trung-nguyên, Trung-hoa. Còn danh từ Hoa hạ có nghĩa là Trung tâm của thiên hạ, đẹp đẽ nhất. Tức chỉ văn minh Trung-quốc. Những người Hán chịu ảnh hưởng sách vở cổ, nêu ra lý thuyết Nội Hoa-hạ ngoại Di-địch nghĩa rằng trong là Trung-quốc. Ngoài Trung-quốc đều là Man-di, mọi rợ. 

Ông nhìn Lục Mạnh-Tân: 

– Xin Lục tiên sinh giải thích rõ hơn về danh xưng Hoa-hạ. Chữ Hoa ở đâu mà ra? 

Lục Mạnh-Tân đứng dậy đáp: 

– Thời cổ tộc của Trung-quốc cư ngụ ở vùng lưu vực sông Hoàng-hà. Xung quanh là các sắc dân kém văn minh. Vì họ tự hào có lễ, nghĩa, văn minh hơn các tộc khác. Họ xưng nước là Hoa-hạ. Họ nói rằng: 

Miện phục thái chương viết hoa, 

Đại quốc viết hạ. 

Nghĩa là: Áo mũ đẹp đẽ viết Hoa. Nước lớn viết Hạ. 

Khổng-Tử nói Di bất loạn Hoa Nghĩa là các dân tộc Man-di tức những người ở cõi Yêu nói trên, không được xâm phạm đất văn minh tức Hoa-hạ. Bọn người hủ lậu nhân đó gọi các tộc xung quanh bằng danh từ xấu như Di, Địch, Khuyển, Nhung, Man, Mạch v.v. Cứ như chữ viết, Man là loại sâu bọ. Địch là loại chó. Ngay trong bộ Kinh-lễ đã định hẵn danh xưng cho từng vùng. Ở giữa là Hoa-hạ. Xung quanh đều là Di-Địch cả. Thiên Vương chế nói: 

– Đông phương viết Di. Nghĩa rằng: Đông phương gọi là Di. 

– Tây phương viết Nhung. Nghĩa rằng: Tây phương gọi là Nhung. 

– Nam phương viết Man. Nghĩa rằng: Nam phương gọi là Man. 

– Bắc phương viết Địch. Nghĩa rằng: Bắc phương gọi là Địch. 

Giòng giống Bách-Việt ở phương Nam, bị họ gọi là Nam-man. Sự thực Trung-quốc khởi từ châu Ung, Lương, đông-nam là Hoa-âm, đông-bắc là Hoa-dương, tới Hoa-sơn là giới hạn. Vì vậy tên nước lấy chữ Hoa. Sau vì có văn minh, họ chiếm dần các đất xung quanh, rồi mới có danh từ chín châu như trong Kinh-thư. Hoa là tên nước, không phải tên chủng tộc. Tên Hạ thực do vì sông Hạ-thủy mà có, vốn gốc ở Ung-lương. Do tên nước Hạ-thủy lấy làm tên tộc. Không phải danh hiệu quốc gia. Đến đời Lưu Bang dựng nghiệp nhà Hán ở đất Hán-trung. Đối với Hạ-thủy thì cùng đất đối với Hoa-dương thì đồng châu. Vì vậy mới có tên là Hoa-hạ. 

Triều đình Lĩnh-Nam gồm những người văn mô vũ lược. Dù văn minh Trung-quốc, Lĩnh-Nam, họ đều thông hiểu. Song vì mỗi người xuất thân một phái, có cái học khác nhau. Vì vậy họ chỉ đồng tâm về việc phục quốc, mà không đồng kiến thức về Trung-quốc, Lĩnh-Nam. Trước đây, vì Nhâm Diên, Tích Quang chủ tâm đồng hóa đất Lĩnh-Nam với Trung-quốc bằng văn hóa. Vì vậy các anh hùng thấy văn hóa Trung-quốc sinh thù hận. Bây giờ họ mới hiểu, tư tưởng Trung-quốc phát xuất từ những văn gia cổ thời. Vì không đi xa quá vùng cư trụ, nên các văn gia mới viết những điều hủ lậu. Rồi bọn vua quan, muốn duy trì quyền hành, đã ôm lấy những điều đó, coi là kinh. 

Vua Trưng hướng vào Đại tư đồ Phùng Vĩnh-Hoa: 

– Công-chúa Nguyệt-Đức. Bây giờ em hãy trình bày về luật pháp dưới đời vua Hùng như thế nào? 

Phùng Vĩnh-Hoa kính cẩn tâu: 

– Trước hết nguồn gốc của người Việt chúng ta. Đầu tiên triều đại Phục-Hy rồi tới Thần-Nông. Hai vị đều là Quốc-tổ của Trung-quốc lẫn Lĩnh-Nam. Đến đời vua Đế-Minh, cháu ba đời vua Thần-Nông, đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên, sinh hạ Thái tử Lộc-Tục. Ngài lập đàn tế cáo trời đất, rồi phong con trưởng làm vua phương Bắc tức vua Đế-Nghi (2889 trước Tây-lịch), Lộc-Tục làm vua phương nam tức vua Kinh-Dương (2879 trước Tây-lịch). Vậy vua Kinh-Dương lên làm vua lúc mười tuổi. Sau này đổi hiệu là Lục-Dương vương. Vua Kinh-Dương, kết hôn với con gái vua Động-Đình, sinh ra thái tử Sùng-Lãm. Thái tử Sùng-Lãm lấy công chúa Âu-Cơ, con vua Đế-Lai sinh ra trăm con. 

Trấn-viễn đại tướng quân Hồ Đề hỏi: 

– Này Nguyệt-Đức. Chị nghĩ dầu là thời cổ đi chăng nữa, làm sao Quốc-mẫu sinh ra được trăm con? Không lẽ mỗi năm sinh mười người? Không lẽ Quốc-mẫu đẻ như gà? 

Câu hỏi của Hồ Đề làm mọi người cười ồ lên. 

Phùng Vĩnh-Hoa mỉm cười: 

– Chị hỏi vậy thực phải. Theo luật Lĩnh-Nam hồi đó thì, một người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ. Con cái sinh ra đều gọi người vợ cả là mẹ, còn gọi mẹ đẻ ra mình là dì, cô, đôi khi bằng chị. Quốc-tổ có chính cung hoàng hậu Âu-Cơ, nhiều phi tần. Ngài có trăm con. Sử không ghi rõ Quốc-mẫu Âu-Cơ sinh ra bao nhiêu người. 

Giao-chỉ vương Trưng Nhị hỏi: 

– Sử Lĩnh-Nam khởi chép từ Quốc-tổ Lạc-Long-Quân, Quốc-mẫu Âu-Cơ. Tại sao không chép từ thời Phục-Hy. Hay từ khi lập quốc là vua Kinh-Dương là Quốc-tổ? Em cần giải thích rõ ràng hơn. 

Công chúa Phùng Vĩnh-Hoa trịnh trọng bưng ra chiếc hộp bọc gấm. Bà để xuống, mở nắp. Trong hộp có một trăm cái thẻ bằng vàng. Trên các thẻ khắc chữ chằng chịt. Bà nói: 

– Sử Lĩnh-Nam chép thời kỳ lập quốc khởi từ Quốc-tổ Lạc-Long-Quân, Quốc-mẫu Âu-Cơ. Vì dù vua Kinh-Dương lên làm vua, tuyên bố quốc hiệu. Song điển chế, luật pháp vẫn giữ y nguyên của triều đại Thần-Nông phương Bắc. Khi Quốc-tổ Lạc-Long-Quân còn là thái tử Sùng-Lãm. Ngài chu du khắp đất nước. Bắc tới hồ Động-đình, qua Nam-hải, đến Nhật-nam, sưu tầm phong hóa, tục lệ của từng vùng. Sau khi lên ngôi vua, ngài mới nhân đó ban hành bộ luật mang tên Nam-Thiên bách tộc đại luật. Thường gọi tắt là Nam-luật. Tại sao lại một trăm tộc? Vì kể từ bắc xuống nam. Từ đông sang tây, đất Lĩnh-Nam có trăm bộ tộc. Mỗi bộ tộc có luật lệ, phong tục khác nhau. Ngài lại có trăm con, phong mỗi con làm vua một bộ tộc. Cho nên chúng ta có danh xưng Bách-Việt. Mỗi bộ tộc có tên khác nhau. Dân chúng trong vùng đó, dùng tên bộ tộc làm họ. Nên chúng ta có trăm họ. Như tôi họ Phùng, vì tổ tiên ở đất Phùng. 

Bà ngưng một lát cho cử tọa theo kịp rồi tiếp: 

– Sử gia Lĩnh-Nam cho rằng thời Kinh-Dương chưa có luật lệ, điển chế. Vì vậy chưa thể coi là một quốc gia hoàn toàn. Đến Lạc-Long-Quân, có luật lệ, điển chế, triều nghi, mới coi là một nước. Vì vậy sử gia Lĩnh-Nam coi Lạc-Long-Quân, Âu-Cơ là hai vị tổ dựng nước. 

Lục Mạnh-Tân cầm một thẻ vàng trong bộ Nam-luật lên coi, rồi lắc đầu: 

– A! Chữ Khoa-đẩu của Lĩnh-Nam. Tôi không học, thành ra không đọc được. Không biết chữ Khoa-đẩu có tự bao giờ? 

Nguyễn Tam-Trinh nói: 

– Có từ thời Lạc-Long-Quân. Chính ngài chế ra chữ Khoa-đẩu. Tất cả người Việt đều học chữ này. Thời gian Triệu Đà cai trị, cho đến Nhâm Diên, Tích Quang đều cấm không cho học. Nhưng các gia, các phái vẫn dạy con em. Vì nếu người Việt không biết chữ Khoa-đẩu coi như văn minh gần ba nghìn năm của Lĩnh-Nam mất hết. Kinh điển, thư tịch, luật lệ, điển chế cùng tư tưởng, văn học không ai đọc được nữa, đất nước sẽ trở thành man mọi. 

Lục Mạnh-Tân hỏi: 

– Chữ Khoa-đẩu với chữ Hán khác nhau thế nào? 

Nguyễn Tam-Trinh đáp: 

– Chữ Hán viết theo lối tượng hình. Như chữ mộc thì giống như một cây, có cành, có rễ v.v. thành ra học rất khó khăn. Phải mất từ ba tới năm năm mới đọc được sách. Còn chữ Khoa-đẩu tượng thanh. Chỉ cần học ba tháng là đọc thông thạo ngay. 

Ghi chú của tác giả : 

Văn tự Khoa-đẩu mà Nguyễn Tam-Trinh nói, đối với chúng ta hoàn toàn xa lạ. Song thời Lĩnh-Nam, vẫn còn thịnh hành. Triệu Đà đánh Âu-Lạc, muốn đồng hóa dân Việt thành dân Hán. Y đã cấm học chữ Khoa-đẩu, cưỡng bách dùng Hán-văn trong công văn, thư tín. 

Song phép vua, thua lệ làng. Người Việt vẫn lén lút dạy con cháu. Xét các cuộc khai quật từ Quảng-nam, Thanh-hóa, đến Hòa-bình, Vân-nam, Trường-sa, thì văn minh Bách-Việt rực rỡ như Trung-nguyên. Nào kinh, nào triết, nào văn, nào sử, như trăm hoa đua nở vào thời các vua Hùng. Đến đời vua An-Dương càng rực rỡ thêm. 

Thế nhưng Triệu Đà đã thu tất cả thư tịch cổ đốt đi, cùng với lệnh cấm học văn tự Khoa-đẩu. Triệu Đà bị Hán diệt. Các thái-thú đời Hán càng tiếp tục đàn áp bằng văn hóa. Một mặt đem văn minh Trung-quốc bắt dân Việt học theo. Đem chữ Hán, sách Hán cưỡng bách học. 

Sau khi vua Trưng tuẫn quốc. Các quan lại người Hán bắt dân chúng lập đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang. Mồng một, ngày rằm bắt đến đền thờ lễ bái. Lại còn viết sách nói rằng trước đó dân Việt vốn mọi rợ, chỉ biết lễ nghĩa từ khi có Nhâm Diên, Tích Quang sang. Các sử gia vô trách nhiệm sau này, cứ theo đó thuật lại. Chỉ độc giả Anh hùng Lĩnh-Nam,Cẩm-Khê di hận mới biết rõ mà thôi. 

Hơn một thế kỷ trước, học giả Trương Vĩnh-Ký đã viết như sau: 

Những chữ dân ta dùng thời đó là những loại chữ ghi âm, mà hiện nay còn di tích trên nhiều bản ghi khác. Trong số đó có một tấm bia đá dựng trên núi Đá-bia. Sau khi chiếm nước ta. Một trong những công việc đầu tiên của viên tướng Trung-quốc là bắt buộc dùng chữ Hán trong công văn chính thức, cũng áp dụng những biện pháp nghiêm khắc để ngăn cấm thứ chữ ghi âm mà dân ta vẫn dùng trong thời kỳ ấy. Do đó chữ Hán hiện nay dùng trong nước vốn từ người Hán dùng sức mạnh cưỡng bắt dân ta phải theo. 

(P.J.B Trương-vĩnh-Ký, trong bộ Abrégé de grammaire annamite do Saigon imprimerie Impériale in năm 1867 trang 7-8).

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 14 : Một là báo phục, hai là báo phương(Đại-Nam quốc sử diễn ca)

 Vĩnh-Hoa tiếp: 

– Bộ Nam-thiên bách tộc đại luật áp dụng trong suốt từ năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây lịch) đến năm Quý-Mão (258 trước Tây lịch), trải hai ngàn sáu trăm hai mươi hai năm. Khi vua An-Dương đánh vua Hùng lập nước Âu-Lạc, ngài vẫn cho dùng bộ Nam-luật. Bộ Nam-luật áp dụng đến năm Quý-Tỵ (208 trước Tây-lịch) tức thêm năm mươi năm nữa. Cộng lại hai ngàn sáu trăm bẩy mươi hai năm (2672). Khi Triệu Đà đánh Âu-Lạc. Y xuất thân là chức quan của Tần Thủy-Hoàng, vì vậy y cho áp dụng luật đời Tần bên Trung-quốc. Luật Trung-quốc thì tôi không rành cho lắm. 

Triều đình cùng đưa mắt nhìn Lục Mạnh-Tân. Ông cũng lắc đầu. Chỉ có Hoàng Thiều-Hoa mỉm cười: 

– Mấy năm nay, tôi từng đến Lạc-dương vấn an Hàn thái-hậu. Nhân nhàn rỗi, tôi có nghiên cứu về luật Trung-quốc. Có thể nói tất cả luật lệ, điển chương Trung-quốc đều để ở điện Gia-đức. Chỉ có hoàng đế, thái tử, công chúa cùng tam công, tể tướng, thượng thư được đọc mà thôi. Tôi phải nhờ Hàn thái-hậu với Chu Tường-Qui mượn cho đọc. Nhân đó tôi cho sao chép đầy đủ. 

Bà lấy trong bọc ra mấy bộ sách, để trước mặt: 

– Trung-quốc có luật cùng thời với Lĩnh-Nam. Tức luật Thần-Nông. Đến đời Hoàng Đế (2550 trước Tây-lịch) cũng từng ban hành luật. Đời Hạ (2140-1711 trước Tây-lịch), Thương (1711-1066 trước Tây-lịch), Chu (1066-255 trước Tây-lịch) đều có luật lệ. Đến nay các bộ luật trên không còn nữa. 

Bà đưa ra tập sách mỏng tiếp: 

– Đây là bộ luật nước Trịnh, do Tử Sản soạn (536 trước Tây-lịch). Bộ luật nước Tần do Triệu Dương-Hoán soạn, khắc vào đỉnh (513 trước Tây-lịch). Bộ luật Trúc-hình do Đặng Tích soạn cho nước Trịnh (501 trước Tây-lịch) khắc vào thẻ trúc. 

Bà đưa ra tập sách thứ nhì: 

– Đến đời Chiến-Quốc (403-232 trước Tây-lịch) Lý Khôi soạn ra bộ Pháp-kinh. Bộ Pháp-kinh chia làm sáu thiên: 

1. Đạo pháp (tội trộm). 

2. Tặc pháp (tội cướp). 

3. Tư pháp (hình phạt tù). 

4. Bộ pháp (thủ tục). 

5. Tập pháp (luật linh tinh). 

6. Cư pháp (định nghĩa). 

Khi soạn ra bộ Pháp-kinh, Lý Khôi đã tham khảo các bộ luật đương thời của nước Ngụy, Trịnh về hình luật, nước Tần về thủ tục. Nước Chu về trộm cướp, định nghĩa. Bộ Pháp-kinh Lý Khôi soạn cho Ngụy Văn-Công (424-387 trước Tây-lịch). Song các pháp gia đời Thủy-Hoàng, đời Tây-Hán cho đến nay đời Đông-Hán đều lấy đó làm căn bản. 

Nói về luật lệ là vấn đề khô khan, tẻ lạnh. Song một là Hoàng Thiều-Hoa đẹp như tiên. Hai là tiếng của bà trong, ngọt như cam thảo. Nên dù người ít đọc sách như Trấn-viễn đại tướng quân Hồ Đề, mà cũng theo dõi kịp. 

Thiều-Hoa tiếp: 

– Đến đời Cao-tổ nhà Hán (206-194 trước Tây-lịch). Thừa-tướng Tiêu Hà sửa đổi luật Lý Khôi, thêm vào ba chương nữa là: 

1. Hộ luật, nói về kiểm tra dân số, giá thú, gia tộc. 

2. Hưng luật, nói về thuế khoa, triều cống. 

3. Khái luật, nói về quân đội, chuyên chở, chuồng voi, chuồng ngựa v.v. 

Bộ Pháp-kinh có sáu thiên. Nay thêm ba thiên nữa thành chín thiên. Vì vậy người ta gọi luật thời Hán Cao-tổ là luật Tiêu Hà hay Cửu chương luật. 

Bà đưa ra tập sách nữa: 

– Kịp khi vua Quang-Vũ trung hưng nhà Hán. Giữa lúc đại ca Tự-Sơn đem quân đánh Kinh-châu. Quang-Vũ thấy đại nghiệp sắp thành, mới sai sứ đến Kinh-châu hỏi về việc canh cải luật. Đại ca Tự-Sơn đề nghị sửa chữa, thêm bớt một số điều. Nhất là định rõ quyền hạn, tổ chức hậu cung, hầu tránh nạn Vương Mãng. Song bản chất vẫn giữ nguyên như bộ Cửu-chương luật. 

Tổng trấn Luy-lâu Quách A hỏi: 

– Không biết nội dung bộ Nam-luật như thế nào? 

Nguyễn Tam-Trinh đáp: 

– Khác nhiều lắm. Thứ nhất về nguyên tắc, thứ nhì về tổ chức. Về nguyên tắc thì bộ Nam-luật đặt trên căn bản tục lệ và nhân trị. Bộ Pháp-kinh đặt căn bản trên uy quyền và pháp trị. Tục lệ là gì? Khi một số người sống chung với nhau, lâu ngày tự nó có những giao ước không thành văn, dần dà biến thành tục lệ. Quốc-tổ đã chu du thăm trăm khu vực khác nhau. Sưu tầm phong tục, luật lệ của họ, về thu lại thành bộ luật chung. Còn bộ Pháp-kinh đặt trên uy quyền. Vua muốn thế nào, thì cứ ban luật, dân chúng phải tuân theo. 

Bắc-bình vương Đào Kỳ hỏi: 

– Điều này cháu đã nghe biết qua. Khi vua chúa ngồi trên, đặt ra luật, trái với tập tục, bắt dân tuân. Dĩ nhiên họ không tuân, thế là họ bị bắt tội. Do vậy bên Trung-quốc hay xảy ra cảnh dân làm loạn. Thưa bác thế còn nhân trị, pháp trị là gì? 

Nguyễn Tam-Trinh tiếp: 

– Luật đặt căn bản nhân trị, mục đích giáo hóa dân chúng hơn là dùng hình pháp bắt tuân theo. Vua phải biết tu thân, làm gương cho người trong nhà theo. Đó là đạo tề gia. Gia đình mình làm gương cho lân bang, cho cả nước bắt chước. Đó là đạo trị quốc. Nước mình thanh bình, vua tôi đạo đức, khiến thiên hạ hướng về. Đó là đạo bình thiên hạ. Những điều này chép đầy đủ trong sách Đại-học. 

Bắc-bình vương Đào Kỳ nhìn Lục Mạnh-Tân. Vương chập chờn sống lại thời thơ ấu, phải phiêu bạt làm tôi tớ tại Thái-hà trang. Được Lục Mạnh-Tân yêu thương, tận tâm dạy dỗ. Lục còn dặn Vương: 

– Với chí khí của con, sau này con sẽ thành đại nghiệp. Đại nghiệp thành, con nên dùng nhân đức trị dân. Chứ đừng dùng hình pháp như nhà Tần, nhà Hán bên Trung-nguyên. 

Vì vậy Vương đỡ lời Nguyễn Tam-Trinh: 

– Phò-mã An Tiêm đã từng nói: Người ta sinh ra vốn chưa biết gì cả. Khi lớn lên, tiêm nhiễm thói xấu, thành ra phạm tội. Cần phải giáo hóa. Bên Trung-quốc, sau đó gần hai nghìn năm, Mạnh-Tử nói Nhân chi sơ tính bản thiện. Cũng như nước chảy chỗ trũng. Từ đời Chu (1066-770 trước Tây-lịch) cũng dùng nhân trị. Cho đến thời Chiến-quốc, các pháp gia như Hàn-Phi, Thương Ưởng, Lý Tư mới đưa ra pháp trị. Bộ Pháp-kinh soạn theo nguyên tắc pháp trị. 

Nguyễn Tam-Trinh cầm bộ Nam-luật đưa ra: 

– Bộ Nam-luật có mười thiên. Khác xa với luật Trung-nguyên. Luật Lĩnh-Nam hoàn toàn đặt trên nguyên tắc nhân trị. Nội dung có mười chương như sau: 

1. Quốc-cương, nói về tổ chức triều đình, quan chế, hậu cung, sự truyền ngôi. 

2. Bách-hầu, định rõ tổ chức, ranh giới, quyền hạn của các lạc hầu, lạc tướng. 

3. Điển-lệ, định ra lễ nghi triều đình, cách tế lễ của vua cho tới thứ dân. Phương cách cúng giỗ tổ tiên. 

4. Giá-thú, định việc cưới hỏi, tổ chức gia tộc. Bổn phận mỗi người trong gia tộc, cùng tang chế. 

5. Hình-pháp, hình luật áp dụng trên toàn quốc. Tuy nhiên trong chương này còn dự trù, mỗi địa phương có thể tăng hay giảm tùy theo tục lệ. 

6. Khái-khố, tổ chức thuế khóa, công khố, ấn định giá cả. 

7. Binh-luật, tổ chức binh bị. Phương cách thăng chức, tước. Hình phạt trong quân. 

8. Hình-chế, định rõ thủ tục bắt giam, xử án, cùng các hình phạt đặt ra. 

9. Tranh-tụng, thủ tục kiện thưa, bồi thường. 

10. Phong-thần, định rõ thể lệ thờ cúng các thần. Những công lao được phong thần. Tài sản các đình chùa để cúng tế thần. 

Công chúa Thánh-Thiên bàn: 

– Như vậy bộ Nam-luật chi tiết hơn Cửu-chương luật nhiều. Có điều một số khoản không hợp với tình thế Lĩnh-Nam hiện tại. Như chương thứ bảy về Binh-luật. Thời vua Hùng, quân trừ bị quốc gia rất ít. Lại nữa chỉ có nam tướng, nam binh. Hồi hội binh ở Phiên-ngung bàn về tổ chức binh bị, Bắc-bình vương đã có kế hoạch đầy đủ. Kế hoạch đó hiện đang thi hành. Tôi thấy tổ chức binh bị như vậy kiện toàn nhất. Chúng ta cần tu bổ bộ Nam-Luật, chứ không nên sửa đổi binh chế của Bắc-bình vương. Bởi chúng ta tiến hơn nhiều. Nam cũng như nữ, đều có trách vụ với đất nước. Trong các trang, lạc hầu đều cưỡng bách nam, nữ từ mười ba tuổi phải tập võ, học binh sự. Từ mười tám, nam nữ đều được xung vào quân của lạc vương hoặc quân quốc gia. Hiện các nữ tướng đông hơn nam tướng. 

Công chúa Phùng Vĩnh-Hoa tiếp: 

– Tôi đồng ý với công chúa Thánh-Thiên. Về binh luật, phải sửa hoàn toàn. Những gì Bắc-bình vương cho tổ chức, coi như thành luật rồi. Không cần phải thêm bớt nữa. 

Triều đình thông qua mọi khoản. Cuối cùng quyết định cử một ủy ban tu bổ. Ủy ban do Đại tư-không Nguyễn Tam-Trinh cầm đầu. Trong ủy ban có Phùng Vĩnh-Hoa, Nguyễn Phương-Dung, Đào Hiển-Hiệu, Nguyễn Thành-Công, Phan Đông-Bảng, Vũ Công-Chất, Lê Chân, Hồ Đề, Lục Mạnh-Tân, và Nguyễn Quý-Lan. 

Vua Trưng ban chỉ dụ: 

– Xét như các bộ luật Trung-quốc. Từ bộ Hình-thư của Tử Sản, đến bộ Cửu-chương luật. Trẫm thấy các luật gia Trung-quốc quá câu nệ cổ nhân. Những gì của Hình-thư, nay không hợp thời, thế mà vẫn giữ nguyên. Vậy các vị tu bổ Nam-luật, thành bộ luật Lĩnh-Nam cần nhằm vào bằng này điều: 

* Một là những gì thành truyền thống, tục lệ của tổ tiên. Tuyệt đối không được sửa đổi. 

* Hai là trọng quyền địa phương, tức tục lệ. Khoản nào thấy có sự trái ngược với phong tục địa phương, cần phải có một điều châm chước. Như Nam-luật bắt con gái phải kín cổng cao tường. Trong khi đó các sắc dân Mường, Mán, Thái v.v. đêm đêm thiếu nữ thường ra suối cùng tắm với nhau. Phong tục sắc dân đó như vậy. Cần phải có một điều khoản dự trù, sao cho không xáo trộn. 

* Ba là tránh tập trung tài sản vào một số nhà giàu. Ấn định rõ, nhà giàu nhất chỉ được ba mươi mẫu ruộng. Còn lại xung công. Cũng tránh không nên để một người dân nào không có ruộng đất. 

* Bốn là kể từ nay. Người nào có tài, có đức thì giữ quyền cai trị. Bỏ hẳn lối cha truyền con nối. 

* Năm là duy trì chế độ một vợ, một chồng. Chế độ đa thê, đa phu bãi bỏ hẳn. Luật cũng nên dự trù điều khoản đã rồi cho những người đa thê, đa phu. 

* Sáu là cưỡng bách học tập. Văn tự chính thức là Khoa-đẩu. Các khóa thi được tổ chức cả văn lẫn võ. 

Ghi chú của tác giả: 

Trong bộ Hậu Hán-thư của Phạm Việp, quyển hai mươi bốn (từ trang 727 đến 854) và quyển bảy mươi sáu (từ trang 2457 đến 2464) do Trung-hoa thư cục hương cảng xuất bản 1978 có nhắc tới việc sau khi Mã Viện đánh chiếm được đất Giao-chỉ. Viện làm bản trần tấu về triều rằng sự khác biệt của luật Lĩnh-Nam với luật Trung-quốc đến mười điểm. Sự thực là gần như khác hoàn toàn. Tiếc rằng hiện nay, không còn tìm ra được bộ luật đó nữa. Buồn quá! Mà dù có tìm ra được, thì với loại chữ Khoa-đẩu, cũng chỉ để ngắm nhìn tiếc thương mà thôi. 

Vào một buổi trưa, Trưng Đế đang cùng tam công, tể tướng, đại thần nghị sự. Hoàng môn quan vào tâu: 

– Tâu bệ hạ có một lão bà đến trước cổng thành, đánh ba tiếng trống. Xin vào yết kiến bệ hạ. Thần cật vấn hỏi lý do. Lão bà không chịu nói. Xin tâu để bệ hạ định liệu. 

Trưng Đế truyền chỉ cho vào. 

Lát sau, một bà già tuổi khoảng sáu mươi, mặt mũi lem luốc, đầu bù tóc rối, quần áo dơ bẩn, bước vào đại điện. Bà liếc nhìn quần thần, rồi ngửa mặt lên trời mà cười. 

Lễ-bộ thượng thư Nguyễn Quý-Lan hỏi: 

– Lão bà tên họ là gì? Xin yết kiến triều đình có việc chi muốn nói. 

Lão bà, bưng mặt cười khúc khích, rồi lại khóc hu hu nói: 

– Than ôi! Trời đất tuy rộng bao la. Mà không một bóng người! 

Nguyễn Quý-Lan quát: 

– Ở đây có Hoàng-thượng, có triều thần trên trăm người. Sao lại bảo không có ai? Là dân Lĩnh-Nam, lão bà phải biết lễ kính. Tội bất kính đối với triều đình, đáng đem ra chặt đầu. 

Lão bà càng cười: 

– Hoàng đế họ Trưng, xuất thân nghĩa hiệp. Tam công đều xuất thân nghĩa hiệp. Tể tướng con nhà danh gia. Lễ-bộ thượng thư, là đệ tử phái Tản-viên. Thế mà cũng hăm đem người ta ra chặt đầu hay sao? Thôi ta đi đây. Thế mới biết nghe không bằng thấy. Ta chả thèm nói với bọn mi nữa. 

Lão bà thủng thẳng bước đi. Nguyễn Quý-Lan vẫy tay. Hai nữ võ sĩ tới bắt giữ lão bà. Lão lạng người tránh khỏi. Thân pháp cực kỳ thần tốc. Phương-Dung kêu lên một tiếng kinh ngạc: 

– Úi chà! 

Nguyên lão bà xử dụng thân pháp của phái Long-biên. Quách A hiện giữ chức tổng trấn Luy-lâu. Nàng lạng người đến chụp lão bà. Lão đứng nguyên chờ Quách A chụp. Quách A chụp vai bà. Các ngón tay của nàng như chụp phải phiến đá. Nàng nhảy lùi lại kêu lên một tiếng: 

– Úi chà, đau quá! 

Nàng vừa đứng dậy, lão bà đã ra khỏi điện. Quách A chạy theo. Nàng cầm tù và thổi. Đoàn Thần-ưng hơn mười con bay đến tấn công. Lão bà cười nhạt một tiếng. Hai tay vung lên trời, như hai chiếc hoa sen nở. Thần-ưng thứ nhất lao xuống. Bị bàn tay của lão hút vào. Lão liệng ra xa. Thần-ưng thứ nhì lao xuống, lại bị lão dùng chưởng hút mất. Phút chốc cả mười Thần-ưng đều bị bắt. Lạ thay, mười Thần-ưng bị áp lực bàn tay lão bà, không sao bay được. 

Trưng Đế thấy vậy. Vẫy tay bảo Quách A: 

– Sư muội, không được động thủ. 

Binh-bộ thượng thư Chu Bá đứng ngoài nhìn thấy dáng dấp lão bà rất quen thuộc. Trong nhất thời ông không nhớ ra đã gặp lão ở đâu. Ông hỏi: 

– Xin cao nhân cho biết phương danh, quí tính. 

Bà-lão cười nhạt: 

– Các người tự nhận nghĩa hiệp, mà ta đánh trống xin vào trình bày kế sách. Các ngươi không được lời chào hỏi. Cũng chẳng kéo ghế mời ta ngồi. Vì vậy ta mới bảo trời đất rộng. Mà chẳng có ai. 

Bà lạng mình, chỉ thấy bóng trắng thấp thoáng, bà đã rút được kiếm đeo phía sau Quách A. Uốn cong người, nhảy vọt lên không, bà lão quay đến năm vòng liền, đáp xuống trước mặt Phương-Dung. Ánh kiếm đã loé lên đưa vào cổ nàng, Phương-Dung nhảy lùi liền bốn bước, tay nàng rút kiếm phản công. Song bà lão cũng nhảy theo, mọi người chỉ thấy hoa mắt lên, Phương-Dung với lão bà đã chiết được trên mười chiêu. 

Trưng Đế hỏi Chu Bá: 

– Sư thúc! Người nghe nhiều, biết rộng! Có thấy nói trong phái Long-biên còn nữ cao nhân nào khác ngoài Nguyễn Phan tiên sinh không? 

Chu Bá ngơ ngẩn xuất thần, một lúc rồi nói: 

– Thần chưa từng nghe qua. 

Quách A, Trần Năng sợ lão bà là gian tế, truyền dẫn Thần-hổ, Thần-báo, Thần-ưng bao vây kín như thành đồng vách sắt. 

Giữa vòng vây, lão bà với Phương-Dung quấn lấy nhau như hai quả cầu bạc. Không ai đủ nhãn lực phân biệt được kiếm của người nào. Trưng Nhị nói với Trưng Đế: 

– Kiếm pháp hai người cùng một môn hộ. Phương-Dung tuổi trẻ, thông minh. Lão bà kinh nghiệm, nội lực thâm hậu. Nếu đấu trong vòng ba trăm hiệp, khó biết ai thắng, ai bại. Còn đấu ngoài ba trăm hiệp, e Phương-Dung thua vì nội lực kém hơn. 

Chu Bá ngơ ngẩn một lúc nói: 

– Long-biên kiếm pháp, chỉ người chưởng môn mới học được hết tinh hoa. Tôi tưởng hiện trên thế gian này, chỉ có Đào Kỳ, Phương-Dung, Phật-Nguyệt biết xử dụng mà thôi. Không ngờ lão bà này lại cũng biết xử dụng. Không biết bà là ai? Cứ như tuổi tác, ắt bà ngang vai với nhạc phụ của tôi. 

Trần Năng ghé tai Chu Bá: 

– Sư huynh coi kìa! Lão vừa xử dụng nội công Tản-viên, vừa xử dụng nội công Long-biên. Lão khéo léo hợp hai thứ làm một. Cho nên kiếm chiêu khi âm, khi dương. 

Hai người đấu được trên bốn trăm hiệp. Trưng Nhị sợ một trong hai người bị tử thương, Lĩnh-Nam thiệt mất một kiếm khách. Bà bảo Trần Năng: 

– Sư thúc vào can hai người ra đi. 

Trần Năng vận Lĩnh-nam chỉ, chĩa lên không: 

– Xin hai vị ngừng tay! 

Miệng nói, bà phóng hai chỉ, véo, véo vào giữa kiếm hai người. Hai người bị chỉ lực Thiền-công mạnh như vũ bão, đẩy kiếm lệch ra ngoài. Cả hai cùng lùi lại. 

Phương-Dung chắp tay hướng lão bà: 

– Đa tạ tiền bối nương tay. 

Lão bà cười nhạt: 

– Nương với chả nương! Ta cố gắng mà không thắng được mi. 

Lão chỉ Trần Năng: 

– Con nhỏ kia! Nội công của mi rõ ràng của Tản-viên, tại sao lại pha lẫn thứ nội công kỳ lạ. Dường như của phái Liêu-đông? 

Câu nói vừa dứt, lão phóng chưởng đánh Trần Năng. Cả triều đình đều kêu lên kinh ngạc. Vì chiêu bà phát ra tên Ngưu hổ tranh phong của Tản-viên. Công lực mạnh như núi lở băng tan. 

Trần Năng không dám khinh thường. Bà vận khí ra Thủ-tam-dương kinh đỡ. Bình, lão bà tóc dựng ngược, mắt lộ vẻ kinh khủng. Còn Trần Năng lui lại đến hai bước. Thắng bại đã phân. 

Chu Bá đứng ngoài lược trận, kinh hãi nghĩ: 

– Công lực sư muội hơn ta nhiều. Mà đối chưởng với lão bà này, còn bị sút kém. Ta tưởng trên đời chỉ có Đào Kỳ với sư phụ, có thể thắng được sư muội mà thôi. Lão là ai mà hết xử dụng kiếm pháp Long-biên đến xử dụng chưởng Tản-viên? 

Lão bà cười nhạt: 

– Khá lắm! Thì ra lão già chưa chết Trần Đại-Sinh đã dốc túi truyền cho mi bản lĩnh một đời của lão. Hãy đỡ chưởng nữa của ta. 

Lão bà vung tay ra chiêu Ngưu tẩu như phi. Chưởng phong không có gió lộng. Đúng là chưởng âm nhu. Trần Năng không dám coi thường. Bà vận Thiền-công Vô ngã giả tướng, cũng phát chiêu Ngưu tẩu như phi. Chưởng không có gió. Hai chưởng gặp nhau, sùy một tiếng. Cả hai đều lùi lại. 

Lão bà ngơ ngẩn, tay ôm chưởng xuất thần suy nghĩ. Mắt mơ màng nhìn vào không gian xa vời. 

Phương-Dung vẫy mọi người lùi lại. 

Lúc đầu thấy lão bà dùng thân pháp Long-biên. Phương-Dung tưởng bà là cao nhân bản phái. Sau khi chiết trên bốn trăm chiêu. Bà mới thấy kiếm chiêu của lão bà không hoàn toàn giống Long-biên. Đôi khi còn pha thêm nội lực Tản-viên vào nữa. Kiếm pháp của bà nhiều chỗ sai lạc. Song lão bà kinh nghiệm chiến đấu, nên mới chống nổi. 

Lão bà nói với Trần Năng: 

– Ta lầm! Lúc đầu thấy chỉ lực của mi làm mất nội lực của ta. Ta cho rằng mi xử dụng nội công Liêu-đông. Song qua chưởng vừa rồi, dường như mi xử dụng một thứ nội công quang minh chính đại, hóa giải chưởng lực của ta. Nội lực mi tới trình độ này, ta e hơn cả Lê Đạo-Sinh. Ai dạy mi nội công đó. 

Trần Năng lễ phép: 

– Người dạy tiểu nữ không biết võ công. Ngài người Tây-Trúc, pháp danh Tăng-Giả Nan-Đà. 

Lão bà khách khí hơn: 

– Ta muốn lĩnh giáo mấy chiêu nữa của ngươi. 

Bà phát chưởng tấn công Trần Năng. Chưởng của bà thuộc Tản-viên. Tay trái xử dụng âm kình, tay phải xử dụng dương kình. 

Trần Năng vận Thiền-công, xử dụng Phục-ngưu thần chưởng. Bất cứ lão bà xuất chiêu nào, bà đều hóa giải được. 

Trưng Nhị lược trận nói với Trưng Đế: 

– Lão bà này học được cả nội công âm nhu của phái Long-biên. Nội công dương cương của phái Tản-viên. Bà lại xử dụng Phục-ngưu thần chưởng, cả cương lẫn nhu giống như Đào Kỳ. Em nghĩ có lẽ Đào Kỳ liên hệ tới bà. Hai ít ra y đã truyền tất cả sở học của y cho bà. 

Hai người đấu với nhau đến chưởng thứ hai trăm, lão bà nhảy lùi lại: 

– Ta phục ngươi. Ta nhận thua ngươi! 

Lão bà ôm mặt khóc thảm thiết. 

Trần Năng hỏi: 

– Thưa tiền bối. Có lẽ tiểu bối ra tay nặng quá chăng? 

Lão bà càng khóc lớn: 

– Ta khổ công luyện võ bấy lâu, hy vọng tìm lão già chưa chết Trần Đại-Sinh trả thù. Không ngờ... không ngờ, đến học trò y, mà ta không thắng nổi, còn mong gì trả thù nữa. 

Trần Năng lễ phép hỏi: 

– Thưa bà, sư phụ tôi suốt đời chỉ biết lấy y đạo cứu thế. Đôi khi phải ra tay, chẳng qua để cứu người mà thôi. Ngay trong trận Cẩm-dương, người bị đối thủ lừa dối, đánh trọng thương. Người cũng không nỡ giết. Không hiểu người đã làm gì để bà thù hận người ? Ở đây có sư huynh Chu Bá với tôi đều là đệ tử người. Sư phụ chúng tôi hiện vân du thiên hạ. Vậy bà có thể đánh, có thể mắng, có thể chửi chúng tôi. Chúng tôi xin gánh chịu cho sư phụ. Không biết có được không? 

Lão bà nhìn Trần Năng, rồi nhìn Chu Bá. Bà ngơ ngẩn xuất thần rồi hỏi: 

– Ngươi họ Chu phải không? Ngươi được Lê Đạo-Sinh gả con gái cho. Vậy ngươi có biết cha, mẹ ngươi là ai không? 

Chu Bá nghe lão bà hỏi bằng giọng kẻ cả. Ông đoán có lẽ bà biết tông tích của ông cũng nên. Ông nhũn nhặn: 

– Chu-Bá này suốt đời có một mối hận, vì không biết gốc tích mình. Nếu lão bà biết, xin chỉ dạy. Hậu bối nguyền không quên ơn. 

Lão bà cười: 

– Dĩ nhiên ta biết. Ta biết người như ta biết ta vậy. 

Chu Bá càng kính cẩn hơn: 

– Trước đây, cha mẹ tôi khởi binh đánh đuổi giặc Hán, đều tử trận cả. Tôi được một tỳ nữ của cha tôi đem đến trang Thái-hà ở, nuôi tôi khôn lớn. Tôi được Lục trúc tiên sinh thu làm đệ tử, còn cho làm rể. Nhiều lần gặng hỏi nhũ mẫu tên cha mẹ tôi, người nhất định không chịu trả lời. Chỉ bưng mặt khóc. Vì vậy tôi không dám hỏi thêm. Nhũ mẫu qua đời rồi, mà tôi vẫn không biết cha mẹ tên gì? Gốc tích thân thế ra sao. 

Vua Trưng an ủi Chu Bá: 

– Anh hùng đâu quản xuất thân. Chu sư thúc, người đã thành đại anh hùng Lĩnh-Nam, thì dù song thân thế nào chăng nữa, chúng tôi vẫn kính trọng sư thúc. 

Lão bà cười nhạt, hỏi Trưng hoàng đế: 

– Các ngươi tự xưng anh hùng, mà tiếp đãi hiền tài như thế này ư? 

Trưng đế bảo Phương-Dung: 

– Lỗi ở ta. Sư muội. Hãy kéo ghế mời lão bà an vị. 

Phương-Dung nhìn thân pháp, võ công của lão bà, biết lão có liên hệ với phái Long-biên. Bà vội kéo ghế mời lão bà ngồi, truyền rót nước, đem bánh trái kính cẩn: 

– Xin cao nhân cho biết quí tính phương danh. 

 Lão bà không nhân nhượng, ngồi xuống ghế, cầm bánh ăn. Ăn hết đĩa bánh, tự rót nước trà, uống hết một bình. Lão vỗ hai tay vào nhau, hỏi Phương-Dung: 

– Con bé ngạnh đầu kia! Ngươi là Tể tướng Lĩnh-Nam trăm sự của Xã-tắc đều do người cả. Có đúng thế không ? 

– Quả như bà nói. 

– Ngươi ra lệnh khuyến khích phá đất hoang làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm. Được! Ngươi treo thưởng cho ai trồng được thửa ruộng có số thu cao! Được! Ngươi khuyến khích nuôi cá, lợn, gà, trâu, bò. Được. Song ngươi ngu quá! 

Phương-Dung thấy lão nói năng ngỗ nghịch. Nhưng bà thấy lão xử dụng võ công Long-biên đến trình độ ngang với mình, có thể bà là tiền bối cùng môn hộ, nên bà nhũn nhặn: 

– Tiểu bối xin rửa tai nghe lời lão bà. 

Lão cười khạnh khạch: 

– Ngươi ban lệnh, cứ tưởng dân chúng ai cũng như ngươi. Ngươi muốn nước giàu phải không? Nhưng ngươi có biết rằng dân chúng khá giả một chút, họ sinh lười, không làm việc nữa. Thành ra đất Lĩnh-Nam cũng không hơn Trung-Quốc làm bao. Ta hỏi ngươi: Ngươi khuyến khích họ nuôi gà, nuôi lợn, nuôi trâu bò. Dân chúng khá một chút, có trứng gà mang ra ăn, giết lợn sữa, giết nghé tơ ăn... thì làm sao mà giàu được? 

Phương-Dung tỉnh ngộ: 

– Tiểu bối ngu tối, không nghĩ đến. Ngay ngày mai, tiểu bối sẽ ban lệnh: Không được ăn trứng gà, vịt trong vòng một năm. Không được giết lợn sữa, giết nghé. 

Lão già lại cười: 

– Ta còn phải dạy dỗ mi nhiều nữa. Mi truyền lệnh: Triều đình khuyến khích gia tăng nhân xuất. Chỉ khuyến khích thôi! Thì ai nghe. Giá như một vợ, một chồng, đẻ liền năm đứa con, đôi vợ chồng ấy, với bầy con sẽ ăn cỏ mà sống hay sao? 

Phương-Dung tỉnh ngộ: 

– Hậu bối sẽ ban lệnh: Đàn bà có mang từ bảy tháng, cho đến sau khi sinh con sáu tháng, được trợ cấp gạo, vải. Nhà nào có trẻ con dưới mười ba tuổi, một mẫu ruộng không phải nộp thuế. Nhà nào một vợ một chồng, sinh được năm con., những đứa trẻ ấy, lạc hầu phải xuất kho nuôi nấng. 

Thình lình lão bà xuất trảo tấn công Chu Bá. Bà đang nói truyện, ra tay cực kỳ thần tốc. Chu Bá không phản ứng kịp. Ông nhảy lui về sau hai bước, phóng Lĩnh-nam chỉ đỡ chưởng của bà. Song áo ông đã bị rách hở cả vai lẫn ngực. 

Lại đến lượt lão bà la lên một tiếng kinh ngạc: 

– Đúng! Ngươi họ Chu song tên không phải là Bá mà là Đức-Anh. Ngươi tên Chu Đức-Anh. 

Chu Bá kinh ngạc. Ông lùi lại: 

– Xin lão bá dạy cho ít lời. 

Lão bà ngồi xuống ghế cười nhạt: 

– Còn dạy gì nữa. Ngươi lại đây ta nói cho mà nghe. 

Chu-Bá đến bên cạnh lão, nhưng ông ớn lão ra tay bất thần. Ông vận công đề phòng. Bà ghé tai nói nhỏ mấy câu. Chu Bá lắc đầu: 

– Tôi không tin. 

Lão bà cười nhạt: 

– Ngươi không tin ư? Ta nói ra cũng không sao. Khi ngươi được một tuổi. Ngươi bị chó cắn vào vai trái. Đến nay thẹo vẫn còn. Giữa vú trái ngươi có mụn nốt ruồi đỏ. Như vậy đủ chưa? Ngươi là cháu ta. Ta là cô ngươi. Ngươi giống anh ta như đúc. 

Chu Bá kinh hoàng, đến trước lão bà quì gối: 

– Cháu kính cẩn ra mắt Cô mẫu. 

Lão bà, để cho Chu Bá lạy đủ bốn lạy. Bà ôm đầu Chu Bá khóc: 

– Cháu ơi! Cô cứ tưởng cháu chết rồi! Không ngờ cháu còn sống trên thế gian này. Giòng họ Chu của ta không tuyệt tự. 

Từ hồi có trí nhớ, mối khổ tâm, đau đớn trong lòng Chu Bá, dằn vặt ông, vì ông không biết rõ nguồn gốc mình: Cha, mẹ, họ hàng, sinh quán ở đâu. Ông ở với một nhũ mẫu mù lòa, câm điếc. Bà không biết chữ. Bà làm lụng cực kỳ vất vả để nuôi ông. Hàng xóm cho biết: Hồi ông được ba tuổi, nhũ mẫu bồng ông đến trang Thái-hà xin cư ngụ. Bà bị thương tích đầy người. Lê Đạo-Sinh thương tình, cho thầy thuốc cứu trị. Bà không chết, song trở thành tàn tật. Bà được trao cho việc đan chiếu, đan rổ, sống qua ngày. Đến khi Chu Bá lớn lên, học hành thông minh. Lê Đạo-Sinh thu làm đệ tử. Ông được Lê gả con gái cho. Từ đấy ông sống một cuộc đời giàu có, sang trọng. Song nỗi khổ tâm về xuất thân, vẫn không được giải. Có lần Lê Đạo-Sinh úp mở cho ông biết: Cha mẹ ông trước đây, từng khởi nghĩa phục Việt, bị thất bại, cả hai đều tử trận. Ông hỏi thêm, Lê lắc đầu, trả lời không biết. 

.... 

Trước kia thân phụ Chu Bá xuất thân là một lạc hầu, có chí lớn. Năm Chu Bá được ba tuổi. Ông cùng vợ, và em gái tên Chu Tái-Kênh khởi binh phản Hán phục Việt. Được nửa năm sau, nghĩa quân bị đánh tan. Song thân Chu Bá chết tại trận. Tái-Kênh vừa chiến đấu, vừa ôm Chu Bá chạy trốn. Quân Hán đuổi theo bao vây trùng trùng điệp điệp. Tái-Kênh chiến đấu cho đến lúc ngã xuống không biết gì nữa. 

Khi nàng tỉnh dậy, thì thấy mình nằm trên giường, người đầy vải băng bó. Một trung niên nam tử xuất hiện bưng nước cho nàng uống. Nàng hỏi: 

– Đây là đâu? Cháu tôi đâu? 

Trung niên nam tử xưng mình họ Trần tên Đại-Sinh. Ông cho biết, chính ông đã xung vào vòng vây quân Hán, cứu được Tái-Kênh ra. Còn đứa cháu. Trong lúc chiến đấu, bị thất lạc mất. 

Tái-Kênh dưỡng bệnh ở trang ấp Trần Đại-Sinh ít lâu sau thì khỏi. Nhà tan, cửa nát, nàng không còn chỗ dung thân. Trần Đại-Sinh tỏ ý lưu nàng ở lại trang của ông. Hai người cách nhau đến hai mươi tuổi. Trần Đại-Sinh đã đến tuổi bốn mươi. Còn Tái-Kênh mới ở tuổi hai mươi. Ông chưa cưới vợ. Hai người hàng ngày trao đổi võ công. Bấy giờ Trần Đại-Sinh mới biết nàng thuộc phái Long-biên. Chỉ một năm, hai người thương yêu nhau. Họ thành vợ chồng. Một năm sau, Tái-Kênh sinh ra đứa con gái. Nàng đặt tên là Trần Thiếu-Lan. 

Hai vợ chồng sống bên nhau suốt hai mươi năm đầm ấm. Năm Thiếu-Lan hai mươi tuổi. Ông bà gả cho đệ tử phái Long-biên tên Trần Anh. Năm sau Thiếu-Lan sinh đôi, đẻ ra Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa. Hai vợ chồng Trần Anh là người có chí lớn. Ông bà liên lạc với anh hùng thiên hạ, định khởi binh phản Hán phục Việt. Trần Đại-Sinh khuyên không nên, vì chưa đến lúc, phải ẩn nhẫn, chờ khi tiềm lực đủ, hãy phất cờ. Còn như khởi binh sớm chỉ thêm mất mạng vô ích. Tái-Kênh không chịu, đòi khởi binh ngay. Thế là hai vợ chồng Trần Đại-Sinh bất hòa. 

Ông khuyên bà: 

– Phàm muốn khởi binh làm đại sự, cần kết hợp anh hùng thiên hạ. Người người đồng tâm, mới hy vọng thành công. Nay nhà mình, tôi không có trang ấp. Lực lượng của ta chỉ có một trang của Trần Anh, tráng đinh chưa quá ngàn người. Nếu như ta bất thần khởi binh, giỏi lắm chỉ đủ sức đánh chiếm một huyện. Sau đó quân Hán các nơi kéo đến, sức người đã không đủ chống giặc, còn lương thảo không đủ nuôi quân trong ba tháng. Thế mà ta khởi binh thì tan nhà cửa nát vô ích mà thôi. 

Tái-Kênh cương quyết: 

– Cách đây hai mươi năm, anh tôi khởi binh. Tuy không thành công, cũng đốt được ngọn lửa phục quốc lên. Nay Tích Quang đang núp sau đại nghĩa: Đem văn hiến Trung-nguyên dạy dỗ man di mọi rợ. Ông không thấy dân chúng cúi đầu ca tụng chúng như bậc thánh đó sao? Tôi muốn khởi binh, truyền hịch kể tội y, lột mặt nạ giả nhân giả nghĩa, mưu Hán hóa người Việt. Ông không muốn giúp tôi với con cũng được. Ông nên lánh mặt đi. Chúng tôi nguyện đem cái chết đền ơn Quốc-tổ. 

Bà cầm thanh kiếm bẻ làm đôi thề: 

-Nếu tôi thành công. Ông đừng vác mặt về nhìn mẹ con chúng tôi. Ngược lại, tôi thất bại, dĩ nhiên tôi chết. Ông cũng không cần thương xót, làm gì. 

Thấy vợ, con gái, con rể nhất quyết khởi binh. Ông rủ Nguyễn Phan, dẫn thêm Đặng Thi-Sách, du ngoạn Trung-nguyên, lánh mặt. Ở nhà Tái-Kênh cùng con rể, con gái khởi binh. Lúc đầu đánh chiếm được hai huyện. Trong khi đánh chiếm huyện Bắc-đái, nghĩa quân bị bại. Trần Anh bị giết tại trận. Tái-Kênh, Trần Thiếu-Lan bị bắt. Thiếu-Lan có nhan sắc, bị thái thú Tích Quang gửi sang Trung-nguyên cống cho Xích-My. Còn Chu Tái-Kênh bị đem chém. Trước hôm bà bị hành hình, Lê Đạo-Sinh vào ngục thăm bà. Y khóc lóc thảm thiết rằng: Y làm đô úy Giao-chỉ, chẳng qua để giúp đỡ người Việt. Bây giờ y không biết làm cách nào cứu bà. Cuối cùng, giữa lúc bà tuyệt vọng, y đề nghị, sẽ đem người vào thế mạng chịu chết cho bà. Còn bà, y khuyên không nên rời Thái-hà trang. Y dành cho bà một khu nhà biệt lập, cấp cho bà hai thị nữ hầu hạ. 

Bản tính Tái-Kênh cương cường, can đảm. Nhưng sau khi khởi nghĩa bị thất bại, nghĩa quân tan vỡ, con rể chết, con gái bị lưu đày, mình bị chết chém. May được Lê Đạo-Sinh cứu sống, bà mất hết chí khí, hận thù đời. 

Nghe tin Trần Đại-Sinh từ Trung-nguyên về, bà cũng không muốn gặp mặt. Trần Đại-Sinh tưởng vợ bị chết rồi. Ông không thiết tục huyền, ngao du thiên hạ lấy y đạo cứu dân. 

Chu Tái-Kênh ẩn ở trang Thái-hà. Thỉnh thoảng Lê Đạo-Sinh tới thăm bà. Y ngỏ với bà rằng: Y có chí lớn, muốn phục hồi Lĩnh-Nam. Y đang xây dựng lực lượng, kết nạp anh hùng. Bà hăm hở giúp y. Y khuyên bà nên cải trang thành một người Mường, đi các trang ấp huấn luyện, tổ chức tráng đinh cho y. Bà vui vẻ làm việc. Lê Đạo-Sinh thiết lập một trang trại, trong vùng rừng núi Giao-chỉ, giao cho bà trông coi. Y truyền tất cả trang ấp của y, của học trò y, gửi tráng đinh về cho bà huấn luyện. Vì vậy, tráng đinh thuộc sáu mươi hai trang ấp dưới quyền Lê Đạo-Sinh và đệ tử rất thiện chiến, hùng mạnh như các đội quân chuyên nghiệp. Đệ tử Lê Đạo-Sinh ít được gặp bà. Họ chỉ biết bà có tên mẹ Chu. Ai cũng phải gọi bà bằng mẹ hết. 

Trong khi ở trên rừng, dạy tráng đinh, cô độc, không người tâm sự, bao nhiêu oán hờn chồng chất, bà đổ lên đầu chồng. Bà cho rằng vì chồng không giúp đỡ, bà mới thất bại. Bà quyết chí luyện võ, đợi một mai Lê Đạo-Sinh khởi binh, chính thân bà sẽ cầm quân đánh giặc. Đuổi giặc rồi, bà dùng võ công đánh bại Trần Đại-Sinh, để hạ nhục ông. 

Có lần bà tìm được tung tích ông. Đêm, bà bịt mặt tấn công ông. Đấu với nhau được mười chưởng. Bà mới biết võ công mình còn kém ông xa. Từ thất bại, muốn thành công, bà đi vào đường tà. Bà nghĩ: Lê Đạo-Sinh võ công cao cường. Nếu bà có được cuốn sách chép bí quyết của y, có thể thắng chồng. Nghĩ là làm. Bà giả đau, vì khí hậu trên rừng không hợp với bà. Lê Đạo-Sinh tạm cử người thay thế bà coi trường luyện quân. Y đem bà về trang Thái-hà dưỡng bệnh. Y không đề phòng, bị bà lấy trộm mật thư, học hết võ công của y. Sau ba năm luyện võ, bà bí mật trở lại chỗ Khất đại-phu ở, tấn công ông. Song cũng chỉ được trăm chiêu bà bị bại. Lần này, Khất đại phu kinh ngạc không ít. Ông cố moi óc xem, trong đời, ông đã gây thù với ai, mà ba năm trước một người thân hình nhỏ bé, rõ ra dáng phụ nữ, đến tấn công ông, không nói một lời. Sau ba năm, trở lại, với bản lĩnh không thua ông làm bao. Lạ một điều, võ công người này lại là võ công Tản-Viên? Tuy thắng đối thủ, song ông không nỡ hại. Cũng không nỡ gỡ khăn bịt mặt ra. Ông thả cho đi. 

Chu Tái-Kênh trở về Thái-hà trang, quyết tâm luyện võ, mong trả thù Khất đại-phu. 

Thời gian Đào Kỳ bị làm nô bộc ở trang Thái-hà, là thời gian bà đang mưu phục thù. Bà nghĩ: Muốn thắng Trần Đại-Sinh, cần học nội công âm nhu phái Long-biên. Đêm đêm bà rình ở nhà tù, đợi Nguyễn Phan cung khai bí quyết luyện công, lập tức bà lấy cắp luyện. Song bà không thành công. 

Cho đến khi Đào Kỳ được Nguyễn Phan truyền nội công âm nhu, cùng kiếm trấn môn phái Long-biên. Bà núp nghe trộm, từ đó, bà luyện được kiếm pháp Long-biên. Có điều bà núp xa nghe, không được nhìn tận mắt các chiêu thức, thành ra kiếm pháp của bà hơi khác kiếm pháp nguyên thủy. Vì vậy đấu với Phương-Dung, tuy bà có nội công cao hơn, kinh nghiệm nhiều, mà không thắng được đối thủ. 

Hàng đêm, bà theo dõi Đào Kỳ, do đó bà biết chỗ dấu các thẻ đồng bộ Văn lang võ học kỳ thư. Bà đào lên, học thuộc các câu quyết rồi lại trả về chỗ cũ. Vì vậy Đào Kỳ không biết gì cả. Tuy bà luyện được đủ ba mươi sáu chiêu Phục-ngưu thần chưởng, cả cương lẫn nhu. Song bản lĩnh của bà không bằng Đào Kỳ, vì Đào Kỳ phát minh ra lối qui liễm chân khí âm, dương, hợp làm một, công lực ông cao không biết đâu mà lường. 

Chu Tái-Kênh luyện xong bộ Văn lang võ học kỳ thư, bà đi tìm Khất đại phu trả thù. Thì ông đang trên đường tòng chinh Trung-nguyên. Bà lặn lội tới Dương-bình quan, đúng lúc ông đi Lạc-dương với Đào Kỳ. Bà tìm tới Lạc-dương ông lại trở về Lĩnh-Nam. Bà trở về Lĩnh-Nam, thấy Lĩnh-Nam phục hồi, Trưng Đế phong các công thần, tổ chức Lĩnh-Nam thành một nước thái bình. Dân chúng sung sướng. Bà cho rằng Trưng Đế thành công vì nhờ chồng mình giúp. Uất khí, oán hờn chồng chất, bà tìm chồng khắp nơi, không thấy. Bà nghĩ đến phá hoàng cung Mê-Linh cho bõ ghét. Không ngờ khi xuất thủ, kiếm thuật bà thua Phương-Dung, chưởng lực bà thua Trần-Năng. 

..... 

Chu Tái-Kênh hỏi Chu Bá: 

– Sư phụ cháu đâu? Ta phải giết y để trả thù. 

Chu Bá quì xuống đất lạy tám lạy: 

– Cô xa cháu năm cháu ba tuổi. Đến nay cháu đã bốn mươi lăm tuổi, mới trùng phùng. Sư phụ cháu vốn ít nói, tính tình hiền hậu. Ngày cô khởi binh, người không hưởng ứng, vì thấy khởi binh chỉ đưa đến cái chết cho hàng mấy ngàn tráng đinh, người mới cản trở, không chịu hợp tác. Hôm người qua Trường-sa, đến bờ sông Tương-giang, viếng mộ biểu muội Trần Thiếu-Lan, người khóc đến chảy máu mắt. 

Chu Tái-Kênh nhảy lên: 

– Sao? Sao? Tại sao mộ Thiếu-Lan lại ở hồ Động-đình? 

Trưng Nhị tường thuật tỷ mỉ cuộc đời thảm thiết của Trần Thiếu-Lan cho bà nghe. Bà oà lên khóc nói: 

– Thì ra con tôi vẫn còn sống! Hai đứa cháu ngoại vẫn còn. Hỡi ơi! Suốt mấy chục năm qua, tôi ẩn ở trên rừng, trên núi, không biết tin tức gì cả. 

Bà bảo Chu Bá: 

– Cháu! Cháu với cô phải đi Trung-nguyên, giết con ác phụ Mã thái hậu, tìm vợ chồng Phan Anh, Trần Nghi-Gia giết đi, để trả thù cho em. Đi! Cô cháu mình đi ngay bây giờ. 

Trần Năng đến trước mặt Chu Tái-Kênh quì xuống làm lễ: 

– Đệ tử Trần Năng, xin tham kiến sư nương. 

Chu Tái-Kênh đỡ Trần Năng dậy: 

– Được, ta vì hai đứa bay! Tha cho sư phụ bay! 

Phương-Dung cùng Đào Kỳ đã được nghe Khất đại-phu kể về người vợ tên Chu Tái-Kênh. Vì nhiệt thành yêu nước, mà hóa ra con người kỳ quặc. Biết vợ còn sống, ông lặn lội khắp nơi tìm không thấy, không ngờ, bây giờ bà xuất hiện tại đây. 

Phương-Dung nghĩ thầm: 

– Bà cụ này võ công kinh nhân. Tài năng mẫn tiệp. Chỉ vì yêu nước, nóng lòng với dân tộc mà thành quái nhân. Ta hãy khơi lòng yêu nước của bà. Hầu dùng bà còn hơn để bà bất mãn. 

Phương-Dung kính cẩn thưa: 

– Lão bá! Đất nước được phục hồi, do công lao của toàn thể dân Lĩnh-Nam, chứ không phải của Trưng sư tỷ! Hay của bất cứ ai. Nếu không có cuộc khởi nghĩa của song thân Chu sư thúc thì không có cuộc khởi nghĩa của bà với Trần Anh, Trần Thiếu-Lan. Không có cuộc khởi nghĩa của bà, e ngọn đuốc phục quốc tắt ngấm, chính vì nhờ lão bá, khiến anh hùng ngụt lửa yêu nước, nay Lĩnh-Nam mới được phục hồi. Hôm nay lão bá lại quang lâm, dạy dỗ cho cháu nhiều điều. Cháu xin đa tạ lão bá. 

Trưng Nhị tiếp: 

– Hai sư muội Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa chẳng là cháu ngoại của lão bá đấy ư? Hai sư muội đang làm đại tướng, trọng nhậm biên cương. Lão bá là bà ngoại, không lẽ không bằng các cháu ư? 

Chu Tái Kênh mở to mắt nhìn Phương-Dung, Trưng Nhị: 

– Mấy con lỏi này, biết lẽ phải trái, không giống lão ăn mày. Ta phục các ngươi. Ừ, ta thuộc lớp người bà nội, bà ngoại các ngươi, không lẽ thua các ngươi. Ta phải làm điều gì thực vĩ đại mới được. Thôi, bảo Đào Kỳ giao ấn Đại tư-mã cho ta. Ta đánh lên Lạc-dương chiếm Trung-nguyên cho hả giận. 

Phương-Dung biết lời khích của mình đã thành công, bà đưa mắt nhìn Trưng Nhị: 

Trưng Nhị chắp tay kính cẩn: 

– Có một việc, tất cả chúng cháu đều không làm được. Trên đời này chỉ Thái sư thúc Khất đại phu làm được mà thôi. Cháu nghĩ, lão bá chưa chắc đã làm được. Không biết bây giờ Thái sư thúc ở đâu? 

Trưng Nhị nói xong, liếc nhìn Trưng Đế. Cả hai cùng ngơ ngẩn nhìn về chân trời xa. Trưng Đế cũng nói: 

– Thái sư-thúc như con rồng, khi ẩn khi hiện, không biết đâu mà lường. Làm sao tìm được người bây giờ? Khổ một điều ngoài người ra, không ai làm được cả. 

Chu Tái-Kênh, là lọai người ruột để ngoài da. Nghe Trưng Nhị nói vậy, bà không biết mình bị khích, lòng tự ái nổi dậy, bà hét be be: 

– Cái gì mà lão làm được, ta lại làm không được ? Nói mau, nói mau, ta làm cho mà coi. Nói mau, nếu không ta đánh cho mấy bạt tai bây giờ ! 

Phương-Dung đổ dầu thêm vào ngọn lửa: 

– Đúng đấy, phải đi tìm Khất đại-phu về mới xong. Khắp thiên hạ ngoài ngài không ai làm được việc này. 

Chu Tái-Kênh tức quá, tóc dựng đứng, mắt mở to, miệng lắp bắp: 

– Việc gì, nói đi! Ta quyết làm. Nói mau. 

Trưng Đế thấy khích bà như vậy đã đủ. Ngài phán: 

– Nếu lão bà quyết tâm, vậy chúng ta cứ nhờ người làm dùm. Thử xem biết đâu ! 

Trưng Nhị nói: 

– Thưa lão bà, hiện con gái của Chu sư thúc là Chu Tường-Qui, được Quang-Vũ phong là Tây-cung quí phi. Tường-Qui tuy làm quí phi, mà lòng dạ lúc nào cũng nghĩ đến Lĩnh-Nam. Sư muội ở cạnh triều Hán, kết thân với đại thần, khiến mọi người cản trở Quang-Vũ khởi binh đánh Lĩnh-Nam. Chỉ cần y để Lĩnh-Nam yên năm năm, chúng ta không sợ y nữa. Trước kia Tường-Qui được mẫu thân giả làm cung nữ, ẩn trong Tây-cung giúp đỡ. Sau này Chu sư thẩm tuẫn quốc, Tường-Qui thân cô thế cô giữa hang hùm, miệng rắn. 

Chu Tái-Kênh nước mắt đầm đìa: 

– Tội nghiệp cháu tôi quá! Sao hoàng đế không gửi người sang giúp cháu tôi. Nước mình nhân tài nhiều quá mà. 

Phương-Dung tiếp: 

– Hôm rời Trường-sa về Giao-chỉ. Chúng cháu định cử Đào Phương-Dung, Đinh Hồng-Thanh sang giúp Tường-Qui. Song Đinh Hồng-Thanh đã tuẫn quốc mất rồi. Và Đào Phương-Dung, võ công tuy cao, song cũng không địch lại Liêu-đông tứ ma. Chúng cháu muốn nhờ Khất đại-phu sang Trung-nguyên, lấy cớ chữa bệnh giúp triều đình nhà Hán, hầu giúp Tường-Qui. Song nay lão bá quyết tâm ra tay chúng cháu xin kính cẩn nhờ lão bá. 

Tái-Kênh chỉ vì quá yêu nước mà thành người nóng nảy. Nay nghe việc giúp Tường-Qui không ai làm được, chỉ mình bà làm nổi, bà đã hả dạ. Bà nói: 

– Được! Ta đi giúp đỡ. Ngặt nó không biết mặt ta. Làm sao ta giúp nó được. 

Chu Bá nói với Phương-Dung: 

– Chúng ta cần có thêm người võ công cao, theo cô mẫu. Không biết cử ai đi được? 

Phương-Dung ngẫm nghĩ một lát rồi đáp: 

– Chúng ta cần hai người giúp lão bá. Một người lớn tuổi võ công cao, một người biết điều khiển Thần-ưng thông tin. Ngặt một điều, chúng ta đều đã xuất hiện. Người Hán biết mặt hết rồi. Tôi nghĩ chỉ có hai người đi được. Song tôi không dám sai. Hai người này, ngoài Trưng sư tỷ ra, không ai dám cử đi. 

Trưng Đế gật đầu cười: 

– Ta hiểu rồi! Người thứ nhất là Đào vương phi. Người thứ nhì là Tây-vu Quách A. Có phải thế không? 

Phương-Dung gật đầu. Trưng Đế cười: 

– Đào vương phi một lòng với đất nước như Thái sư thẩm đây. Chắc chắn tôi nhờ, người sẵn sàng ngay. Còn Quách A mới lấy chồng, bắt xa chồng thì tội nghiệp. Tôi nghĩ nên cử Tây-vu tiên tử có lẽ hay hơn. 

Trưng đế sai viết chiếu chỉ mời Đào vương phi đến Mê-linh, rồi sai Thần-ưng mang đi. 

Trưng Đế giao cho Chu Bá, Trần Năng tiếp đón, làm tiệc đãi Chu Tái-Kênh. Các đại thần thuộc phái Tản-viên như Đặng Thi-Kế, Nguyễn Thành-Công đều ở vai dưới của Khất đại phu đến hai, ba bậc. Họ kính trọng ngài như tiên ông, vì vậy họ đối với Tái-Kênh cực kỳ cung kính. Bà bớt phẫn hận chồng phần nào. 

Trong tiệc trà, bà được Trưng Nhị tường thuật tỷ mỷ công cuộc phục hồi Lĩnh-Nam trải qua không biết bao nhiêu cay đắng cho bà nghe. Bà mới tỉnh ngộ rằng: Trước đây mình vô lý, muốn nuốt mặt trời, mặt trăng. Bà hối hận, muốn tìm Khất đại phu, tạ lỗi, nhưng không biết ông ở đâu. 

Trong khi bàn về võ công, bà tự hiểu bản lĩnh mình hiện còn thua chồng với Đào Kỳ xa. Lòng tự kiêu giảm bớt đi rất nhiều. Tiệc đang vui, Quách A chạy vào tâu với Trưng Đế: 

– Sư tỷ! Em đến chịu lỗi với sư tỷ. 

Nàng bưng mặt oà lên khóc. 

Trưng vương dắt Quách A ngồi xuống, hỏi: 

– Có việc gì xảy ra. 

Quách A khóc: 

– Em làm tổng trấn Mê-linh, không biết kiểm soát, để gian nhân vào phá ngục cứu Tô-Định với bọn Đức-Hiệp ra. Chúng giết chết mười hai người coi ngục. Em đã cho Thần-ưng tìm, trong khoảng trăm dặm không thấy tung tích chúng đâu. 

Phương-Dung nhờ Lễ-bộ thượng thư Nguyễn Quí-Lan tra xét dùm. Nguyễn Quí-Lan đi một lúc trở về, báo: 

– Quách A không có lỗi. Gian nhân đột nhập nhà ngục, dùng chưởng lực đánh vỡ hết then cửa, chặt xích, cứu tù nhân, giết mười ba quân coi ngục. Dù Quách-A có hiện diện cũng không phải đối thủ của chúng. 

Nàng đưa ra cái gông bằng gỗ, bị chưởng lực tiện đứt như con dao sắc, cắt một củ khoai. Phương-Dung cầm lấy coi nói: 

– Trên đời này, e chỉ có Bồ-tát Tăng-Giả Nan-Đà với Đào tam lang mới có chưởng lực mạnh dường này. Không ngờ còn có người thứ ba đạt tới trình độ không thể tưởng tượng được. 

Trần Năng hít một hơi, vận Thiền-công phóng vào gông. Cái gông bật lên, bị tiện đứt đôi, song vẫn có chỗ gồ ghề, chứ không đứt ngọt, trơn như bị gian nhân đánh. Tái-Kênh vận khí, phát chiêu Phục ngưu thần chưởng đánh xuống. Cái gông bị vỡ ra làm nhiều mảnh nhỏ vụn. Bà nói: 

– Kẻ nào mà võ công đến dường này? 

Nguyễn Quí-Lan thở dài nói tiếp: 

– Điều kỳ lạ hơn nữa. Gian nhân giết chết hai mươi người trông coi năm dàn Thần-nỏ ở cửa đông thành Mê-linh. Chúng tháo Thần-nỏ ra từng mảnh, chở đi mất. 

Phương-Dung lo ngại: 

– Chắc chắn cũng người cứu bọn Đức-Hiệp đã làm điều đó. Nếu chúng tháo mang đi, bắt chước chế tạo, làm phản thì không ngại. Đáng ngại, là chúng ăn cắp trao cho Quang-Vũ. Quang-Vũ chế tạo, đánh chúng ta mới nguy. 

Chu Tái-Kênh hỏi Chu Bá: 

– Này cháu! Lê Đạo-Sinh có mười đệ tử. Phùng Chính-Hòa bị Nghiêm Sơn chặt đầu. Vũ Nhật-Thăng bị Đào Thế-Hùng giết. Hoàng Đức theo Lĩnh-Nam. Vợ cháu thì tuẫn quốc. Như vậy còn năm người vượt ngục cùng với Tô Định. Có phải vậy không? 

Chu Bá kính cẩn đáp: 

-Thưa cô mẫu, đúng như vậy. Vợ chồng Vũ Hỷ bị Phương-Dung cắt mất hai tai. Tuy vậy võ công chúng vẫn còn nguyên. 

Trưng Nhị ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 

– Phương-Dung phải viết thư, truyền tin này đến tất cả lạc vương, cùng bảy đại tướng quân thống lĩnh bảy đạo quân, nhờ báo cho cả đạo Trường-sa của Phật-Nguyệt. Mặt khác chị sẽ viết thư cho Công-tôn-Thiệu, Thục-đế hầu họ đề phòng. Cuộc vượt ngục này, ắt có liên hệ với Mã thái-hậu, Mã Viện chứ không sai. 

Hơn tháng sau. Hoàng môn tâu: 

– Có Đào vương phi ở Cửu-chân xin vào yết kiến. 

Trưng Đế tuyên lệnh cả triều thần ra đón. 

Uy tín Cửu-chân vương Đào Thế-Kiệt cực kỳ lớn tại Lĩnh-Nam. Chỉ nguyên em ruột là Đào Thế-Hùng, em vợ là Đinh Đại, cũng từng nổi danh hơn mười năm qua, về lòng yêu nước. Các đệ tử Cửu-chân: Đào-Kỳ, Phương-Dung, Hiển-Hiệu, Quí-Minh v.v. đều đang giữ quyền nghiêng nước. 

Đào vương phi thấy Trưng Đế định làm lễ. Trưng Đế vội ôm lấy bà: 

– Sư thúc đừng quá câu nệ. 

Phương-Dung, Trần Năng vội quì xuống hành lễ với vương phi. Vương phi đỡ dậy nói: 

– Ta được chiếu chỉ của hoàng đế tuyên triệu, vội lấy ngựa đi ngay. Mọi việc ở Cửu-chân đều tốt đẹp. Đô Dương giỏi lắm. Hừ! Bố còn sống, cũng không bằng. Hai mùa vừa qua đều trúng. Nhà nhà đầy lúa gạo. Lợn, gà, trâu, bò khắp đồng. Đi đến đâu cũng chỉ thấy trẻ con đọc sách, nghe cụ già kể truyện thời Văn-Lang, Âu-Lạc. 

Trưng Đế truyền mời Đào vương phi vào điện Kinh-dương. 

Nguyên sau khi phục hồi Lĩnh-Nam. Trưng Đế truyền xây thành Mê-linh làm thủ đô. Thành dài ba mươi dặm, rộng hai mươi dặm. Trong thành còn lớp thành nữa, gọi là Hoàng-thành, dài khoảng năm dặm, rộng khoảng ba dặm. Trong thành có các điện Kinh-dương để tiếp khách, thiết triều. Tập-hiền để hàng ngày hoàng đế cùng triều đình làm việc. Cung Âu-Cơ là chỗ để hoàng đế ở. Ngoài ra còn cung Văn-đức, Lạc-đức. 

Đào vương phi liếc nhìn điện Kinh-dương: Trên tường vẽ lịch sử Lạc-Long Quân kết hôn với Âu Cơ. Sự tích bánh dầy, sự tích dưa hấu, sự tích vua An Dương dựng nước, Cao-cảnh hầu chế nỏ thần v.v...Phương-Dung nói với Đào vương phi: 

– Thưa mẹ, hoàng đế ban chiếu triệu hồi mẹ về triều kiến. Vì hiện Lĩnh-Nam có một việc rất khó khăn, không ai đương nổi, ngoài phu nhân của Khất đại phu với mẹ. Con nghĩ, mẹ sẽ vui lòng. 

Đào vương phi cười: 

– Nhà họ Đào mình, trải bảy đời. Đời nào cũng đem hết tâm huyết mong phục hồi Lĩnh-Nam. Lĩnh-Nam phục hồi. Chú con tuẫn quốc, bố con vì mừng vui mà qua đời. Ta thấy thanh bình trở lại, việc cai trị Cửu-chân đã có Đô Dương. Ta ở không chẳng có việc gì làm. Nếu hoàng thượng cần đến sức mọn của ta. Ta xin tuân chỉ. 

Trưng Đế thuật sơ lược vụ Tường-Qui, Mã thái-hậu, Liêu-đông tứ ma, Mã Viện v.v... cho bà nghe, rồi kết luận: 

– Trẫm xin vương phi đừng quản ngại, cùng phu nhân Khất đại phu sang Lạc-dương. Trẫm sẽ cử Tây-vu tiên tử mang theo hai mươi Thần-ưng làm cầu liên lạc. Khi thu được tin tức gì, xin Vương phi báo cho Đào tam đệ. Tam đệ dùng Thần-ưng chuyển về đây. 

Thượng thư Bộ-hình Vũ Công-Chất tâu: 

– Thần trộm nghĩ: Triều thần Lĩnh-Nam làm việc, do lòng son đối với đất nước. Mong cho nước mạnh, dân giàu. Người người hạnh phúc. Còn triều thần nhà Hán, mười người làm quan, chín người chỉ mong phú quí. Quí thì Tây-cung quí phi Chu Tường-Qui có thể hứa với họ. Còn phú, chúng ta chẳng nên tiếc vàng bạc. Có vàng, việc gì cũng xong. 

Chu Bá cũng tâu: 

– Lời Hình-bộ thượng thư đúng. Thần xin bệ hạ trích trong số kho tàng lấy được tại thành Bạch-đế, hiện chưa dùng tới, giao cho cô mẫu với Đào vương phi, mang theo. Khi cần thì bỏ ra, hối lộ cho triều Hán. Thà ta mất chút ít vàng bạc, còn hơn mất tiền, mất của nuôi quân chinh chiến. 

Tây-Vu tiên tử tâu: 

– Bệ hạ truyền chỉ thần đi Trung-nguyên, thần xin lĩnh mạng. Có điều thần phải giả làm cung nữ Hán, mà không biết tiếng Hán sao cho tiện? 

Tái-Kênh cười: 

– Tiên-tử đừng lo. Mỗi cung nhà Hán có hàng trăm cung nữ. Ta sẽ nói với Tường-Qui truyền cho mọi người biết, ngươi được gửi từ Lĩnh-Nam sang phụ trách nấu ăn cho quí phi. Người không biết nói tiếng Hán càng tốt. 

Bỗng Quách A vào tâu: 

– Tâu bệ hạ, có biểu của Bắc-bình vương tấu trình: 

Phương-Dung cầm lấy, đệ trình lên. Hoàng-đế đọc xong, đưa cho Phùng Vĩnh-Hoa. Phùng Vĩnh-Hoa mở ra đọc, vỏn vẹn có mấy chữ: 

Khẩn cấp tấu trình. Đặng Vũ được triệu hồi về Lạc-dương. Mã Viện thay Đặng trấn thủ Nam-dương. Phía Thục, Thục đế lâm bệnh. 

Phùng Vĩnh-Hoa tâu: 

– Đặng Vũ được triệu hồi về kinh, càng có lợi cho Lĩnh-Nam. Vậy xin Đào vương phi lên đường gấp rút cho. 

Phương-Dung truyền chọn ba con ngựa thực tốt, gói vàng, ngọc, giao cho Đào vương phi. Hôm sau bà cùng Tái-Kênh, Tây-vu tiên tử lên đường. Đoàn Thần-ưng hai mươi con bay trước, dọ thám. 

Tái-Kênh, Đào vương phi đều kinh lịch nhiều. Chỉ có Tây-vu tiên tử, tuổi trên năm mươi, mà chưa rời khỏi Giao-chỉ bao giờ, nên cái gì đối với bà cũng lạ hết. Bà luôn thắc mắc. 

Bốn ngày sau, đi vào địa phận Phiên-ngung. Đào-Kỳ đã được Thần ưng báo trước. Ông dẫn Hồ Đề, Vũ Trinh-Thục, Đào Nhất-Gia ra ngoài thành tiếp đón. 

Đào vương-phi (Đinh-xuân-Hoa) thấy con út, mới hồi nào còn vòi ăn, khóc nhè. Bây giờ tước tới Bắc-bình vương, làm Đại tư-mã, thống lĩnh binh quyền Lĩnh-Nam. Bà mừng không kể xiết. Lê Ngọc-Trinh thấy Tái-Kênh vội quì xuống hành đại lễ: 

– Đệ tử Lê Ngọc-Trinh, xin bái kiến sư nương. Kính chúc sư nương sống lâu trăm tuổi. 

Tái-Kênh đỡ nàng dậy: 

– Ông chồng ta dạy học trò hay thực. Trần Năng võ công cao hơn ta. Lê Ngọc-Trinh lĩnh ấn Chinh-thảo đại tướng quân. Oai thực. Còn Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa đâu? 

Đào Kỳ thưa: 

– Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa đóng quân cách đây hơn ba trăm dặm. Hai người đều lĩnh ấn Hổ-oai đại tướng quân, thống lĩnh đạo binh Nhật-nam. Vì vậy chưa về kịp. 

Có tiếng nói vọng vào: 

– Đào tam ca. Bọn em về đây. 

Đào Kỳ chỉ Tái-Kênh: 

– Đây là bà ngoại của hai em. 

Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa bị mồ côi cha mẹ từ sớm. Trước đến nay chỉ biết có ông ngoại. Nay thêm bà ngoại, thì mừng lắm. Hai bà nhảy đến ôm Tái-Kênh. Ba bà cháu lặng đi giờ lâu, không nói một lời. Tái-Kênh bưng mặt hai cháu lên nhìn. Bà tát yêu nói: 

– Hai đứa này, giống mẹ nó như đúc. Võ công hai cháu học đến đâu rồi? 

Hai nàng chưa kịp trả lời, Tái-Kênh vung chưởng đánh liền. Quế-Hoa kinh ngạc. Song thấy chưởng của bà ngoại mạnh quá, nàng vội vận khí ra Thủ tam dương kinh đỡ. Bình, người bà rung động, phải lùi đến ba bước để hoá giải. Tái-Kênh khen: 

– Năm nay cháu mới hai mươi mốt tuổi, mà võ công đã đến trình độ này, thì khi bằng tuổi ta, công lực sẽ cao đến chỗ không biết đâu mà lường. Cháu hơn ta, hơn cả mẹ cháu. 

Hai hàng lệ chảy xuống, bà than: 

– Trước đây, ta không nghe lời ông cháu, cùng bố, mẹ cháu khởi binh. Kết quả thảm bại khôn cùng. Bây giờ, hai cháu lĩnh ấn đại tướng quân, đến nằm mơ ta cũng không thể ngờ tới. 

Đào Kỳ truyền bày tiệc, giới thiệu các anh hùng với Đào vương phi và Tái-Kênh. Đào Nhất-Gia (Sún Lé) ngồi cạnh Tây-vu tiên tử, giảng cho bà những kinh nghiệm chỉ huy Thần-ưng, cùng chi tiết về triều đình nhà Hán. 

Vũ Trinh-Thục nói với Đào vương phi: 

– Hiện trong triều, tam công, tể tướng, cho đến Mã Vũ, Phùng Tuấn đều có cảm tình với Lĩnh-Nam. Tháng trước đây, nhân sinh nhật Hàn thái-hậu, sư huynh Trần Tự-Sơn, sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa đều về Lạc-dương dự lễ. Cháu cho theo dõi, tìm tông tích Liêu-đông tứ ma, mà không thấy. Vậy sư bá cần phải đề phòng. 

Đào vương phi chỉ ở lại Phiên-ngung có hai ngày, rồi lên đường. Đào Kỳ dặn bà không nên ghé bản dinh Phật-Nguyệt ở hồ Động-Đình, sợ lộ diện, cứ âm thầm vượt Trường-giang đến Nam-dương. Sang địa phận Nam-dương, nếu quan binh có hỏi, thì đưa thẻ bài của Đặng Vũ ra. Đặng Vũ hiện lĩnh đại tư mã, thống lĩnh binh quyền thiên hạ. 

Vượt hồ Động-đình lên phía Bắc, vừa đi được mấy dặm. Đoàn Thần-ưng bay trên trời kêu ré lên báo động, rồi lao về phía trước. Tây-vu tiên tử ngạc nhiên, nhìn lên: 

– Dường như phía trước có gì khác lạ. Thần-ưng báo động cho chúng ta biết mà đề phòng. 

Quả nhiên phía trước có bốn người, chia làm hai cặp đang giao chiến. Họ đều dùng kiếm. Cạnh đó, một người cầm kiếm ngồi trên ngựa, chỉ huy trên trăm võ sĩ bao vây. Chúng mặc áo quần thị vệ của Hán. Đào vương phi nói với Tái-Kênh. 

– Người già, cao, mặt trắng, với người trẻ hùng vĩ kia xử dụng võ công phái Thiên-sơn. Còn hai người mặc theo lối thị vệ nhà Hán không biết thuộc phái nào. Hai người thuộc phái Thiên-sơn võ công cao thâm khôn lường. Song dường như họ bị thương thì phải. 

 Bốn người giao đấu, chia làm hai cặp. Người cầm kiếm lược trận, thấy Đào vương phi. Y lên tiếng: 

– Chúng ta đang có truyện tính toán với nhau. Người ngoài cuộc hãy tránh xa. Nhược bằng cứ tiến tới, đao thương vô tình, đừng có trách. 

Đào vương phi tính ôn nhu văn nhã, bà lùi ngựa lại, bỏ ra ngoài lời nói ngạo mạn của y. Còn Chu-tái-Kênh tính tình ương ngạnh đã quen. Bà nghe người lược trận nói như đe dọa. Tam bành lục tặc nổi lên. Bà thò tay vào túi móc ra hai viên ám khí, để trên đầu tay búng một cái. Tiếng ám khí kêu vo vo bay đến trước mặt người lược trận. Người này thấy kình lực ám khí kêu lớn, vội rút kiếm gạt. Song kiếm vừa cử lên, hai viên ám khí quay nhanh qua, vỡ tung, biến thành đám bụi mù. Y gạt hụt, tức quá chửi thề: 

– Mẹ cha con đượi nào kia. Mi định làm gì ông đấy. 

Nguyên lối dùng thứ kình bắn ám khí thuộc tuyệt kỹ của phái Tản-viên. Đào Kỳ đã dùng bắn thư của Phùng Vĩnh-Hoa cho Hồ Đề trong trận hồ Tây. Khất đại phu dùng trong trận đánh Thục. Tái-Kênh học được võ công Văn-Lang, bà cũng biết xử dụng. Song bà dùng thuốc độc chế thành viên ám khí. 

Tên lược trận vừa chửi dứt lời, con ngựa y cỡi, kêu một tiếng thảm thiết, nhảy dựng lên, ngã vật xuống đất, dẫy mấy cái, rồi nằm im, miệng ứa máu ra. 

Tên chỉ huy thị vệ, nhảy vọt người lên cao, đáp xuống bãi cỏ. Y ngoạc miệng ra chửi: 

– Ba con đượi kia! Bọn mi đừng có trách ta tàn độc. 

Miệng tuy chửi, mà trong lòng y kinh hãi không ít. Y liếc nhìn Chu Tái-Kênh, người gầy gò, tóc lốm đốm bạc. Không hiểu sao laị có kình lực bắn ám khí đến trình độ viên ám khí quay nhanh quá, vỡ thành bụi, chụp xuống đầu ngựa, khiến ngựa chết ngay. Y hú hồn chửi thầm: 

– Giả thử viên ám khí đó bắn vào người ta, thì ta đã chết rồi. 

Tuy miệng chửi bới, mà y đứng im bất động. 

Chu Tái-Kênh cười nhạt: 

-Chúng ta là khách qua đường. Các ngươi đánh nhau mặc các ngươi. Tại sao ngươi dám đe dọa ta ? Lão nương dung tình cho mi một lần. Nếu còn nói năng vô lễ, đừng trách lão nương tàn ác. 

Mấy người đánh nhau đã đến hồi kịch liệt. Lão già cao chém liền ba chiêu, đẩy lui đối thủ, rồi bước lại dựa vào gốc cây thở hổn hển. Người trẻ tuổi hùng vĩ vừa đánh vừa hỏi: 

-Sư huynh! Chúng ta chỉ cần cố gắng một chút nữa, ắt có người Lĩnh-Nam tiếp viện. Sáng nay tiểu đệ đã cho Thần-ưng đưa thư đến Phật-Nguyệt cầu cứu rồi. 

Tên cầm kiếm xua đám thị vệ xúm vào bao vây người trắng cao. Người này dựa lưng vào cây, tay cầm kiếm thủ. Bọn thị vệ không dám xông vào. 

Đào vương phi nghe hai người phái Thiên-sơn nói với nhau, bà nói nhỏ với Chu Tái-Kênh: 

– Phu nhân! Đây thuộc đất Lĩnh-Nam. Từ bên kia sông lên phía bắc phải qua bốn thành, trải sáu trăm dặm mới tới địa phận Hán. Đám thị vệ này làm cách nào, vượt qua vòng kiểm soát của quân Thục mà tới đây ? Hai người kia thuộc phái Thiên-sơn, chắc có liên hệ với mình, nên họ mới gửi thư cầu cứu Phật-Nguyệt. Vậy phu nhân hãy tìm cách gây sự với đám thị vệ, ta cứu người, trong lúc nguy cập quá. 

Bản tính Chu Tái-Kênh vốn ngang ngược. Đến Trưng-Trắc, bà cũng không kiêng nể. Phương-Dung bà còn gọi là con lỏi. Từ hôm đi cùng Đào vương phi, tính tình ôn nhu, kiến thức quảng bác của Vương-phi, khiến bà nể phục, nhất nhất tuân lệnh. Nghe Đào vương phi bảo bà kiếm truyện với đám thị vệ, chính là điều sở trường của bà. Bà thích quá, tủm tỉm cười. 

Phía trước, hai người phái Thiên-sơn mệt quá, đứng dựa lưng vào nhau, chống trả với đám thị vệ một cách yếu ớt, rời rạc. Tên chỉ huy thị vệ cười ha hả: 

– Công-tôn Thiệu, Vũ Chu, các người tự thị đệ nhất cao thủ đương thời. Không ngờ hôm nay các người chết về tay ta. Nếu các ngươi muốn sống, hãy quì xuống đầu hàng. Ta tha cho cái mạng kiến ruồi của ngươi. 

Đào vương phi nghe tên chỉ huy thị vệ nói vậy, bà kinh hoàng: 

– Công-tôn Thiệu, tước phong Trường-sa vương, hiện cầm quân trấn đóng phía Bắc Kinh-châu, bao vây Nam-dương. Còn Vũ Chu trấn đóng Nam-quận. Tại sao lại bị bọn thị vệ bao vây? 

Chu Tái-Kênh lững thững tiến lên phía trước. Tên chỉ huy thị vệ đã nếm mùi thất bại với bà. Y quát lớn: 

– Mụ kia! Đứng lại. Mụ đi đâu đấy? 

Chu Tái-Kênh rất giỏi về nghề gây sự. Bà nói ngang: 

– Thằng lỏi con kia! Đất nhà ta, ta đi. Cái mặt mi mà dám hỏi ta à? 

Tên chỉ huy thị vệ quát: 

– Mụ điên rồi sao? Đất nào của nhà mụ? 

Chu Tái-Kênh mắng: 

– Thằng chó má này! Đây thuộc hồ Động-đình, thuộc lãnh địa Lĩnh-Nam. Ta là người Lĩnh-Nam, ta đi trên đất nước ta. Còn mi! Mi người Hán, mi đến đất nhà ta, mi còn cấm ta đi ư? 

Vừa dứt câu, bà đã đến sát người tên chỉ huy thị vệ. Tên này rút kiếm chĩa về phía trước nói: 

– Mụ mà không ngưng lại, đừng trách ta ác độc. 

Chu Tái-Kênh cứ đi tới. Tên chỉ huy thị vệ đâm thẳng kiếm vào ngực bà. Thấp thoáng một cái, ba tiếng lách cách vang lên. Thanh kiếm trên tay y đã bị Tái-Kênh đoạt mất. Bà búng tay một cái, thanh kiếm gãy làm ba mảnh, bay véo đến, cắm ngập vào một cành cây gần đó. 

Động tác đoạt kiếm, bẻ kiếm, phóng mảnh kiếm nhanh không thể tưởng tượng được. Tên chỉ huy thị vệ nhảy lùi lại liền ba bước. Hai tên cao thủ đánh nhau với Công-tôn Thiệu, Vũ Chu rút kiếm nhảy đến tấn công Tái-Kênh. Chỉ thấy loáng một cái, có hai tiếng keng. Hai thanh kiếm của đối thủ rơi xuống đất. Cườm tay chúng máu tươi ứa ra. Chu Tái-Kênh đã tra kiếm vào cười nhạt. 

Bất giác bọn thị vệ đều bật lên tiếng la hoảng, chúng rút vũ khí bao vây Chu Tái-Kênh. 

Công-tôn Thiệu lên tiếng: 

– Lão tiền bối! Công-tôn Thiệu này mắt kém, không hiểu tiền bối với nữ vương Phật-Nguyệt Tổng trấn hồ Động-đình, Thừa-tướng Lĩnh-Nam Nguyễn Phương-Dung là thế nào? 

Chu Tái-Kênh cười: 

– Chả là thế nào hết, mà cũng là thế nào hết. Chồng lão bạn với Nguyễn Phan tiên sinh. Lão ở trên Phật-Nguyệt một vai, trên Phương-Dung đến ba vai. Lão gọi chúng là hai con lỏi tỳ. 

Bà chỉ Đào vương-phi: 

– Vị kia là mẹ chồng của Phương-Dung. 

Công-tôn Thiệu la lên: 

– Tại hạ Công-tôn Thiệu, thuộc phái Thiên-sơn, xin tham kiến lão tiền bối và Đào vương phi. Anh em tại hạ là chỗ bằng hữu với Tây-vu Thiên-ưng lục tướng, đệ tử của Đào vương gia. Đáng lẽ tiểu bối phải hành đại lễ. Song anh em tại hạ bị thương, không đủ lễ, mong lão tiền bối với Đào vương phi tha tội cho. 

Chu Tái-Kênh ngang ngược thực, song nếu ai kính trọng bà. Bà tỏ ra thân thiết ngay. Bà lễ phép đáp: 

– Lỗi với chả lỗi. Đây thuộc Lĩnh-Nam, mà chị em lão không bảo vệ cho quí khách, để bọn thị vệ vô lễ với các vị... Chính chị em lão phải tạ lỗi với quí khách mới phải. 

Bà bảo tên chỉ huy thị vệ: 

– Tên chó má kia, ngươi xưng tên đi! Lão nương không muốn đánh bọn vô danh. Dù bọn vô danh làm tôi tớ cho con mụ Mã thái hậu. 

Công-tôn Thiệu nói: 

– Nó là Vũ-vệ hiệu-úy, chỉ huy thị vệ Hán, họ Mã tên Huy. Còn hai tên đánh nhau với chúng tôi là đệ tử của bọn Liêu-đông tứ ma. Thằng đen tên Triệu Đức, còn tên lùn kia tên Tiên Minh. 

Tái-Kênh bảo Mã Huy: 

– Mi mau quì xuống tạ lỗi với quí khách của ta. 

Miệng nói, tay bà vung lên, một viên ám khí trúng đầu gối Mã Huy. Y đau quá, ngã quị xuống trước mặt Công-tôn Thiệu, giống như quì lạy. 

Triệu Đức, Tiên Minh hô bọn thị vệ nhảy vào tấn công. Tái-Kênh xuyên bên tả, chạy bên hữu. Chỉ lát sau, đám thị vệ hầu hết bị thương ở chân, nằm ngổn ngang rên la. Triệu Đức hô lên một tiếng. Những tên còn lại bỏ chạy về phía bắc. Tái-Kênh móc trong bọc ra năm ám khí, bà vung vèo, vèo theo. Chúng chưa chạy quá trăm trượng, đều ngã xuống rên la thảm thiết. 

Đào vương phi nói: 

– Phải đuổi theo, bắt hai tên Triệu Đức, Tiên Minh lại. 

Bà rút kiếm cùng Tái-Kênh, Tây-vu tiên tử đuổi theo. Được khoảng nửa dặm gặp Triệu, Tiên đang chạy trở lại. Mặt chúng tái mét. Phía trước, có nhiều tiếng gầm gừ vọng đến. Tây-vu tiên tử nói: 

– Phía trước kia có người của ta. 

Tái-Kênh hỏi: 

– Sao em biết? 

Tây-vu tiên tử chỉ lên trời: 

– Đoàn Thần-ưng đang bay lượn, đuổi hai tên Triệu, Tiên bỗng ré lên tiếng vui mừng. Tiếng kêu biểu hiệu chào đón chúa tướng. Nếu phía trước có người lạ, chúng đã nhào xuống tấn công. 

Tây-vu tiên tử vừa dứt lời, một đoàn beo, con nào cũng to lớn, lông đen như gấm, gầm gừ rượt theo Triệu, Tiên. Tái-Kênh nhảy nhót mấy cái, đã bắt được hai tên này. Bà thấy đàn beo thì lùi lại. Tay rút kiếm. Nhưng Tây-vu tiên tử đã tiến lên, ôm cổ mấy con beo gấm, như đùa với chó. Mấy con beo thấy bà, cũng vẫy đuôi, chồm lên chào mừng. Con thì liếm tay bà, con thì cọ lưng vào cùi chỏ bà, giống như đàn chó, lâu ngày gặp chủ. 

Tây-vu tiên tử hỏi lớn bằng tiếng Mường. Phía trước một thiếu niên anh tuấn, dáng điệu tiêu sái, ngồi trên mình voi, sau lưng có hơn trăm con dã nhân vác đao đi theo. Hàng lối ngay thẳng. 

Thiếu niên thấy Đào vương phi, vội nhảy khỏi bành voi, lạy phục xuống đất: 

– Đệ tử Đào Ngũ-Gia kính cẩn tham kiến sư mẫu. Kính chúc sư mẫu an khang. Không hiểu sao sư mẫu lại có mặt ở chỗ này? 

Đào vương phi không ngờ gặp Sún Hô. Bà hỏi: 

– Ngũ-Gia, con đem binh tướng đi đâu đấy? 

Sún Hô đáp: 

– Thần-ưng tuần phòng, báo hiệu cho biết có đoàn hai mươi Thần-ưng từ phía Trường-sa tới. Con biết là người của mình. Thần-ưng cũng báo, có giặc đột nhập lãnh địa. Con đem đoàn Thần-beo, với trăm Dã nhân tuần tiễu, thì vừa gặp hai tên này. Con cho đuổi theo, tới đây gặp sư mẫu. 

Đào vương phi hỏi Sún hô: 

– Con mau ra mắt Trần phu nhân đi. Người là phu nhân của Khất đại phu đó. 

Tâm lý con người đời nào cũng thế: Trẻ con, người già dễ hiểu nhau. Sún Hô thấy Chu Tái-Kênh, tóc đã bạc, sinh kính trọng. Nghe bà là vợ Khất đại phu. Chàng vội chắp tay hành đại lễ. Chu Tái-Kênh vẫy tay: 

– Miễn lễ! Đệ tử Đào gia giỏi thực. 

Bà quay lại: Đàn Dã-nhân, Thần-báo đã vây bọn Triệu, Tiên với hơn trăm thị vệ bị thương vào trong. Đào Ngũ-Gia thấy Công-tôn Thiệu, chàng kêu lớn: 

– Sư huynh! Tại sao sư huynh lại ở đây? Dường như sư huynh bị thương phải không? Ai đã làm sư huynh bị thương? 

Công-tôn Thiệu ngồi xuống đất, nước mắt chảy ròng ròng. Sún Hô chạy lại đỡ ông dậy. Chàng móc trong túi ra một bình nhỏ, lấy hai viên thuốc bỏ vào miệng ông với Vũ Chu. Chàng ôm ông, để lên bãi cỏ bằng phẳng, đưa mắt nhìn bọn thị vệ: 

– Bọn chó săn thị vệ này làm sư huynh bị thương phải không? Để em cho báo ăn thịt bọn chúng trả thù cho sư huynh. 

Sún Hô nói là làm. Chàng hú lên một tiếng lớn. Đoàn báo gầm gừ xông lại định ăn thịt bọn thị vệ. 

Đào vương phi can: 

– Đồ nhi! Khoan. Con hãy hỏi cung chúng rồi cho báo ăn thịt cũng chưa muộn. Chúng ta cần trị thương cho Trường-sa vương với Vũ Chu sư huynh đã. 

Sún Hô chặt cây, làm hai cáng. Chàng bắt bốn tên thị vệ bị thương nhẹ khiêng hai người. Đám còn lại, Tây-vu tiên tử sai Dã nhân trói thành một xâu dài. 

Sún Hô nói: 

– Xin lão tiền bối, cùng sư mẫu ghé bản dinh của con ở gần đây, trước điều trị cho Công-tôn huynh và Vũ sư huynh. Sau hỏi cung bọn này. 

Sún Hô lấy bút viết mấy chữ, gọi một Thần-ưng, bỏ thư vào ống tre dưới chân, rồi ra hiệu. Thần-ưng cất cánh bay bổng lên cao. Chàng nói: 

– Thưa sư mẫu, đệ tử dám lớn mật xin sư mẫu với các vị vào thành Trường-sa an nghỉ. Sư tỷ Phật-Nguyệt nghe sư mẫu giá lâm, chắc sẽ hoan hỷ lắm. 

Sún Hô rất quan tâm đến Công-tôn Thiệu với Vũ Chu. Chàng đi cạnh cáng của hai người. Hai người được uống thuốc trấn thống, buồn ngủ quá, thiếp đi. Dọc đường, Sún Hô hỏi thăm tình hình Giao-chỉ, Cửu-chân. Đào vương phu thuật lại chi tiết cho chàng nghe. Khi bà thuật đến Chu Tái-Kênh, Sún Hô thích lắm. Chàng nói với bà: 

– Thưa sư mẫu, Lĩnh-Nam đã có Tiên ông Trần Đại-Sinh, cũng phải có dị nhân Chu lão bà mới hợp. Hồi trước Khất đại phu giảng: Vợ chồng âm, dương phải hòa hợp. Như tính ông nóng nảy, tính bà thâm trầm. Bởi vậy Khất đại phu làm gì cũng tính toán, cẩn thận, còn lão bà lòng nhiệt thành quá với đất nước, đến nỗi phu thê bất hòa. 

Đến bờ hồ Động-đình, Sún Hô chỉ vào ngọn núi Tam-sơn nói: 

– Thưa sư mẫu, kia là núi Tam-sơn, trên núi có một thành nhỏ. Bản dinh của đệ tử đóng ở đó. Bây giờ thỉnh sư mẫu với các vị xuống thuyền, vượt hồ Động-đình đi Trường-sa. 

Chu Tái-Kênh quan sát quân phong, quân khí hùng tráng, kỷ luật. Dưới hồ thủy quân đậu có hàng lối. Trên trời Thần-ưng ứng trực bay lượn tuần phòng. Bà cất tiếng khen: 

– Cháu giỏi thực. Tuổi mới mười tám, mười chín, lĩnh ấn đại tướng, trấn thủ bắc hồ Động-đình, canh gác thế này, giặc không thể nào đánh úp được. Lực lượng trực tiếp của cháu có bao nhiêu người. 

Sún Hô kính cẩn thưa: 

– Thưa lão bá, ở đây lớn nhất là sư tỷ Phật-Nguyệt. Hoàng đế phong sư tỷ làm Công-chúa, tổng trấn Trường-sa, Linh-lăng, hồ Động-đình. Tức vùng biên giới tiếp giáp với Kinh-châu của Thục. Phía đông giáp Nam-hải của Lạc vương Trần Nhất-Gia, có lực lượng của sư tỷ Thánh-Thiên. Phía Tây giáp Thục. Mặt tây rừng núi hiểm trở, không cần đề phòng. Điều cần thiết quân phải ứng trực sẵn sàng. Nếu Hán đánh Kinh-châu, Nam-hải, thì ta tiếp cứu ngay. Dù Hán có chiếm được Kinh-châu, muốn vượt Trường-giang đánh xuống phía nam, cũng muôn vàn khó khăn. Tuy vậy việc phòng bị vẫn phải nghiêm chỉnh. 

Chu Tái-Kênh đã từng cầm quân đánh Hán, bà gật đầu hỏi tiếp: 

– Phật-Nguyệt tổ chức đồn trú như thế nào? 

Sún Hô đáp: 

– Sư tỷ Phật-Nguyệt với đại lực lượng đóng ở Trường-sa. Lực lượng trừ bị do Trung-nghĩa đại tướng quân, tước Động-đình công Đô Thiên đóng ở Linh-lăng. Lực lượng trừ bị thứ nhì đóng ở Quế-dương, do sư tỷ Lê Thị-Lan, lĩnh ấn Trấn-tây đại tướng quân. Đa số kị binh đồn trú tại đây. Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương lĩnh ấn đô đốc thủy quân hồ Động-đình. Thủy quân chia làm năm đạo. Đạo trung quân chính sư tỷ Đinh Bạch-Nương thống lĩnh. Đạo trấn tây do Đinh Tĩnh-Nương, đạo trấn bắc do sư huynh Cao Cảnh-Khê, đạo trấn đông do đệ tử, đạo trấn nam do sư huynh Trần Quốc-Dũng. Tiên-yên sư bá tiếp cứu chung. 

Đào vương phi hỏi: 

– Hồ Đề đóng ở Phiên-ngung với anh Kỳ của con. Đạo Tây-vu chia làm tám quân đoàn. Mỗi quân đoàn Tây-vu yểm trợ cho một đạo quân. Con chỉ huy quân đoàn nào? 

Sún Hô đáp: 

– Con chỉ huy quân đoàn bảy. Mỗi Quân đoàn gồm có tám sư đoàn: Thần-ưng, tượng, long, hầu, phong, ngao, hổ, báo. 

Thuyền dương buồm, đi thẳng về phía nam. Dọc đường, Công-tôn Thiệu, Vũ Chu vẫn ngủ ly bì. Đào vương phi lo lắng: 

– Công-tôn Thiệu lĩnh tước Trường-sa vương, tổng trấn Kinh-châu, Vũ Chu lĩnh ấn Trấn-đông tướng quân. Hai người thuộc loại đệ nhất cao thủ của Thục, uy quyền nghiêng nước. Không hiểu sao họ lại một người, một ngựa vượt Trường-giang đến địa giới Lĩnh-Nam, bị bọn thị vệ Hán vây đánh? 

Chu Tái-Kênh gật đầu: 

– Ta lo Kinh-châu có biến cố gì chăng? Hoặc giả hai người vượt sông thăm Phật-Nguyệt rồi bị thị vệ Hán vây đánh? Cháu đã thẩm vấn bọn tù binh Hán chưa? 

Sún Hô đáp: 

– Cháu đã truyền thẩm vấn bọn chúng. Nếu có kết quả, họ sẽ gửi Thần-ưng mang đến cho chúng ta. Hoặc lát nữa Công-tôn sư huynh tỉnh dậy ắt biết rõ ngọn nguồn. 

Từ xa xa, hơn chục chiến thuyền dàn hành chữ nhất, trên cột buồm, cờ Lĩnh-Nam bay phất phới. Sún Hô chỉ đoàn thuyền: 

– Thưa sư mẫu, đoàn thuyền của sư huynh Trần Quốc-Dũng, con lớn sư bá Trần Quốc-Hương ở Thiên-trường đang đi tuần. Các chiến thuyền này trước đây của Hán. Hồi mình đánh Trường-sa, chiếm được. Mỗi chiến thuyền chở khoảng năm trăm thủy thủ. 

Chu Tái-Kênh đứng ngắm đoàn thuyền. Lòng bà phơi phới tràn ngập niềm vui khôn tả. Bà nói với Đào vương phi: 

– Nhà tôi có ba anh em. Hồi khởi binh, anh cả tôi tuẫn quốc. Cháu Chu Bá mới ba, bốn tuổi, lạc mất tưởng chết, không ngờ nó ở ngay trước mặt mà tôi không biết. Còn người em út của tôi, lúc đó tuổi khoảng mười hai, mười ba cũng bị lạc. Nếu nó còn sống trên thế gian này, năm nay cũng khoảng năm mươi lăm, năm mươi sáu tuổi. Biết đâu nó chẳng ở gần chúng ta. 

Sún Hô nói: 

– Lão bá đã xuất hiện. Chỉ cần đi thăm các nơi, nếu em lão bá còn sống, nhất định sẽ ra mặt, tương kiến với lão bá... Chỉ bọn cháu, cha mẹ bị quân Hán giết chết, không biết nguồn gốc ra sao, may được sư phụ thương tình cho mang họ Đào. 

Thuyền áp vào bờ. Mọi người lên ngựa đi. Được hơn giờ, Sún Hô ghé ngựa sát lại cạnh Đào vương phi, Chu Tái-Kênh nói nhỏ: 

– Phía trước kia có ba gian tế, võ công rất cao. Chúng đi ngược chiều với mình. Xin sư mẫu quyết định. 

Đào vương phi hỏi: 

– Sao con biết? 

Sún Hô chỉ lên trời: 

– Thần-ưng báo cho biết. 

Đào vương phi nhìn lên trời: Đoàn Thần-ưng mười con, thì ba con tách ra bay tà tà trên đầu ba kị mã. Còn bảy con bay lượn thư thả. Bà đáp: 

– Sư mẫu không nắm vững tình hình. Ý con định thế nào? 

Sún Hô đáp: 

– Con không mang quân mã theo. Ở đây chỉ có bốn người khiêng cáng cho Công-tôn sư huynh với Vũ Chu. Nếu được lão bá với sư mẫu ra tay thì thôi. Bằng không, con báo cho sư huynh Trần Quốc-Dũng theo dấu Thần-ưng, đem quân vây bắt. 

Chu Tái-Kênh gạt ngang: 

– Khỏi cần ai hết. Chúng ta bắt chúng giản dị hơn. 

Ba kị mã tới gần. Sún Hô gò ngựa ngăn đường hỏi bằng tiếng Việt: 

– Các ngươi là ai? Mau đưa thẻ bài ta coi? 

Ba người kị mã, một già, hai trẻ gò ngựa lắc đầu tỏ vẻ không hiểu. Sún Hô vội nói tiếng Hán. Người già quát lớn: 

– Thằng bé con kia! Mi hết nuốn sống hay sao, mà dám hỏi thẻ bài của ta? 

Sún Hô đáp: 

– Ta là đại tướng quân, trấn thủ đông hồ Động-đình. 

Tên kị mã cao liếc nhìn người già. Người già gật đầu. Lập tức y vọt khỏi mình ngựa, phóng người lên không, phát chưởng đánh Sún Hô. Sún Hô quát một tiếng, giật cương cho ngựa lùi lại hai bước. Người kia đánh hụt. Y đáp xuống đường. Người vừa xuống đất, y nhảy vèo tới, phóng chưởng tấn công tiếp. Sún Hô vọt mình từ ngựa xuống, phát chiêu Ngưu tẩu như phi phản công. Binh, người chàng bật lên cao. Đối phương vọt theo, đánh tiếp chưởng từ dưới lên trên. Ở trên cao, Sún Hô, phát chiêu Thanh ngưu qui gia đánh vào chưởng của y. Người chàng lại bay vọt lên. Chàng đá gió một cái, tà tà đáp xuống đất. 

Tên kị mã già cười: 

– Tưởng Lĩnh-Nam thế nào, thì ra chỉ có vậy thôi sao. Hoàng Tứ, ngươi hãy kết thúc đi thôi. 

Giọng nói của y coi Sún Hô không ra gì. Hoàng Tứ phóng liền ba chưởng như vũ bão. Đào vương phi đứng ngoài khen thầm: 

– Tên này tuổi bất quá hai mươi lăm, hai mươi sáu, bản lĩnh đã tới dường này. Bản lĩnh của ta với Đinh Đại, hồi ở hải đảo, chưa chắc đã hơn y. Cũng may Ngũ Sún được Đào Kỳ dạy nội công Long-biên, hợp với nội công Tản-viên, Cửu-chân, biết qui liễm âm, dương. Nếu không, e một chiêu đầu, đã mất mạng rồi. 

Sún Hô thấy chưởng đối phương mãnh liệt. Chàng vận khí ra Thủ-tam dương kinh, phát chiêu Loa thành nguyệt ảnh của phái Cửu-chân. Bình, Hoàng Tứ, bật lùi lại hai bước. 

Tên kị mã già kêu lên: 

– Ái cha! 

Hoàng Tứ phát chiêu nữa. Sún Hô tỉnh ngộ: 

– Tên này dùng võ công Trung-nguyên. Ta phải dùng võ công Cửu-chân mới được. 

Chàng phát chiêu Hải triều lãng lãng. Chưởng phong ào ào chụp xuống. Bình. Cả hai đều bật lùi lại hai bước. Lớp thứ nhì của chiêu Hải-triều lãng lãng phát ra. Hoàng Tứ bay bổng lên cao. Sún Hô vọt theo phát lớp thứ ba. Tên kị mã già thấy vậy vội phát chưởng tấn công Sún Hô, cứu đồng bọn. 

Chu Tái-Kênh đứng ngoài, thấy chưởng phong của y có hơi nóng, hùng mạnh vô cùng. Nếu chiêu này đánh xuống, Sún Hô ắt tan xương nát thịt mà chết. Bà vội phát chiêu Lưỡng ngưu tranh phong trong Phục-ngưu thần chưởng tấn công y. Y thấy chưởng phong của bà mạnh đến long trời lở đất, vội đổi hướng chưởng về đỡ chưởng của bà. Bình. Hai người đều bật lùi trở lại. 

Đào vương phi kinh ngạc: 

– Tên này là ai? Chiêu vừa rồi của Chu Tái-Kênh, e rằng chỉ có Khất đại phu, Đào-Kỳ, Lê-đạo-Sinh đỡ được mà thôi. Không ngờ chỉ ngang tay với y? 

Bà quày lại, tên kị mã lùn, đã phát chưởng đấu với Sún Hô. Hai người ngang tay. Còn Hoàng-Tứ nằm dưới đất, miệng ứa máu, thoi thóp thở. 

Bỗng có tiếng rên bên cạnh. Bà quay lại: Công-tôn Thiệu đã tỉnh dậy. Y vẫy tay gọi bà. Bà vội đến bên y. Y chỉ vào tên kị mã già nói: 

– Vương phi! Tên này có biệt hiệu Bắc-sơn hùng vương. Tên gọi Vương Hùng, một trong Liêu-đông tứ ma. Chúng cầm đầu tế tác dò thám Lĩnh-Nam, Thục. Cần bắt lấy nó, để nó thoát đi rất uổng. 

Đào vương phi chợt nhớ: Hôm trước Đào Kỳ thuật lại rằng Mã thái hậu mới chiêu mộ được Liêu-đông tứ ma, võ công cao bậc nhất Trung-nguyên, mỗi tên đều có bản lĩnh ngang với Lê Đạo-Sinh. Bọn chúng đã vây đánh Nam-hải nữ hiệp, Lê Thị-Hảo, khiến hai bà tuẫn quốc. Vương phi lên tiếng: 

– Trần phu nhân! Ma đầu này là một trong Liêu-đông tứ ma, tên Vương Hùng. Chính y đã hạ sát Nam-hải nữ hiệp, với phu nhân của Chu Bá sư huynh. Mong phu nhân bắt y, trả thù cho người quá cố. 

Chu Tái-Kênh đánh ba chưởng binh, binh, binh, quát hỏi: 

– Lời Đào vương phi nói có đúng không? 

Vương Hùng cười nhạt: 

– Đúng thì đã sao? Ta sắp giết thêm con đượi thứ ba nữa đây. 

Chu Tái-Kênh nổi cơn điên. Bà vận âm kình, phát chiêu Tứ ngưu phân thi đánh ra. Xịt. Chưởng Vương Hùng mất tích. Y lùi lại, mặt tái mét. Y phát liền ba chưởng, rồi nhảy ra ngoài vòng chiến bỏ chạy. Y vừa vọt được vài bước, thì giật mình đứng lại. Bên ngoài, một đội giáp sĩ đã vây kín từ hồi nào. Tiên-yên nữ hiệp quát: 

– Vương Hùng! Hôm nay mi phải đền tội. 

Vương Hùng biết không trốn được. Y dừng lại nói: 

– Bọn Lĩnh-Nam nhà ngươi, tự thị anh hùng, mà lại dùng giáp sĩ vây bắt bọn ta. Bọn mi có giỏi, một chọi một, ta mới phục. 

Chu Tái-Kênh cười nhạt: 

– Được! Ta đấu với ngươi. 

Bà vận âm kình, phát chưởng tấn công. Vương Hùng vung chưởng đỡ. Đấu với nhau được hai chục hiệp. Vương Hùng yếu thế, chỉ còn lo chống đỡ. Y vừa đánh vừa lui. Vòng vây giáp sĩ dãn ra. Bất thình lình Vương Hùng đánh liền ba chưởng, rồi vọt người ra ngoài vòng vây bỏ chạy vào rừng. Vừa chạy được mấy bước, y vướng chân vào một sợi dây, ngã lăn ra. Rồi hai, ba bốn sợi dây cột khắp người y. Năm sợi dây siết chặt, khiến y không dậy được nữa. 

Sún Hô chạy lại, dùng dây trói y. Bấy giờ y mới biết mình không vấp vào dây, mà bị năm con trăn quấn chặt. 

Một thiếu nữ tuổi khoảng mười sáu, mười bảy, dáng điệu tinh anh, thổi ống tre ba tiếng. Mấy con trăn buông y ra. Sún Hô reo lên: 

– Vi Lan! Em tới bao giờ vậy? 

Cô bé cười: 

– Bọn em đi tuần trong thành Trường-sa, trông thấy Thần-ưng bay lượn báo động. Biết anh đang giao chiến với địch. Em tin cho sư bá Tiên-yên biết. Người với em đem giáp sĩ đến tiếp viện. Em thấy tên này bỏ chạy, tung trăn bắt sống. 

Sún Hô giới thiệu với mọi người: 

– Đây là sư muội Vi Lan. Trong quân đoàn của cháu có tám sư trưởng. Vi Lan giữ chức sư trưởng Thần-long. 

Đào vương phi thấy Vi Lan xinh đẹp, linh lợi, muốn ôm lấy nàng. Song trên cổ nàng có hai con trăn quấn. Trên vai, tay, đầy rắn lục, làm bà ớn da gà. Sún Hô biết ý bà, nói: 

– Sư muội đừng đeo Thần-long trên người, làm sư mẫu của anh không thích. 

Vi Lan cười, tung trăn, rắn lên chiếc xe. Trong lòng xe có hơn trăm con vừa rắn, vừa trăn quằn quại, ngóc đầu dậy táp, trông mà rợn người. 

Đoàn người đến Trường-sa. Phật-Nguyệt được tin vội ra cổng thành đón. Chu Tái-Kênh nghe nói rất nhiều về Phật-Nguyệt: Kiếm pháp thần thông, lĩnh ấn Trấn-bắc đại tướng quân, trực tiếp phòng Hán. Bà những tưởng nàng linh lợi như Phương-Dung, Trưng-Nhị. Hay ít ra cũng lý lắc như Trần-Năng. Không ngờ nàng chỉ là một thiếu nữ mảnh mai, ôn nhu, khiêm cung, ít nói. Nàng vội xuống ngựa chắp tay: 

– Đệ tử kính cẩn ra mắt sư thúc. 

Chu Tái-Kênh vẫy tay: 

– Đừng quá câu nệ! Cháu đứng dậy đi.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 15 : Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,Nhĩ đẳng hành khan thủ bại hư.(Lý Thường-Kiệt)

 Phật-Nguyệt truyền y sĩ săn sóc Công-tôn Thiệu, Vũ Chu. Bà nói với Sún Hô: 

– Sư đệ đem bọn tù nhân đi hỏi cung, để biết tin tức.Sún Hô vâng lệnh ra ngoài, cùng với Vi Lan. 

Phật-Nguyệt truyền làm tiệc mời Đào vương phi, Chu Tái-Kênh, Tây-vu tiên tử. Trong tiệc, hai bên trao đổi tin tức về tình hình Lĩnh-Nam, tình hình Hán. Chu Tái-Kênh hào sảng như một đấng trượng phu. Bà thuật những ngày cùng anh trai khởi nghĩa, lực lượng chỉ có ba trăm tráng đinh, đánh úp được một huyện. Không ngờ khi tiến về đánh Bắc-đái thì bị thất bại. Bà kể tiếp đến cuộc khởi nghĩa với con rể, con gái, rồi bị Lê Đạo-Sinh xếp đặt kế hoạch đánh lừa, biến bà thành một thứ tay sai cho y mà không biết. 

Tiệc tan. Phật-Nguyệt lo nghĩ đến Kinh-châu không ít. Chu Tái-Kênh kinh lịch nhiều. Bà nói: 

– Chúng ta vào thăm Công-tôn Thiệu xem bệnh tình y ra sao đã. 

Phật-Nguyệt dẫn mọi người vào. Vũ Chu đã tỉnh dậy. Ông dựa lưng vào đầu giường nói với Phật-Nguyệt: 

– Công chúa! Ôi thôi! Đất Thục tan tành hết rồi! 

Phật-Nguyệt kinh hoàng hỏi: 

– Cái gì đã xảy ra? 

Vũ Chu khóc, thuật: 

– Trường-sa vương được tin Thục đế lâm bệnh nặng, e khó qua khỏi. Người giao binh quyền cho tôi, trở về Thành-đô thăm sư huynh. Không ngờ người về đến nơi, thì Tây-cung quí phi sai đóng chặt cửa Hoàng-thành không cho ai vào. Trường-sa vương không biết làm sao, định trở về Kinh-châu, thì được chiếu chỉ tuyên triệu cùng với tất cả Thiên-sơn lục hùng, sư huynh Nhiệm Mãng và Thái-tử Công-tôn Tư. Chiếu chỉ nói rõ: Hoàng thượng bệnh tình khó qua khỏi, triệu huynh đệ để ủy thác việc lớn. Mọi người về đến nơi, Tây-cung quí phi đặt tiệc mời. Sau tiệc, sẽ vào triều kiến hoàng thượng. Mọi người đều ăn uống. Duy Trường-sa vương Công-tôn Thiệu, Hán-trung vương Vương Nguyên giả đau, không ăn chỉ uống rượu. Quả thực, ăn xong, mọi người đều trúng độc. Tây-cung quí phi truyền trói lại hết. Tây-cung quí phi tuyên triệu triều thần, cáo việc hoàng thượng băng hà. Hoàng thượng truyền di chiếu nhường ngôi cho đệ nhị thái tử Công-tôn Thi. Quần thần không ai dám nói gì. Công-tôn Thi được phò lên ngôi vua. Y truyền đem Thiên-sơn lục hùng ra chém. Song Trường-sa vương, Hán-trung vương chỉ bị trúng độc nhẹ. Đêm, hai người cắt dây trói cho các vị huynh đệ. Sáu người cùng sư huynh Nhiệm Mãng, thái tử Công-tôn Tư đánh chiếm hoàng cung. Ngự lâm quân chia làm hai. Một nửa tin chiếu chỉ giả của Tây-cung quí phi, một nửa tin Thiên-sơn lục hùng. Hai bên đánh nhau, rung động Thành-đô. Phía Công-tôn Thi được Lê Đạo-Sinh, với đệ tử giúp sức. Trận chiến kéo dài ba ngày, các vị Công-tôn Khôi, Điền Sầm, Tạ Phong, Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng đều bị giết. Chỉ còn Công-tôn Thiệu, Vương Nguyên sống sót. Hai vị bảo nhau, ai về địa phương người ấy, đem quân hỏi tội Công-tôn Thi. 

Phật-Nguyệt lắc đầu: 

– Không kịp mất rồi! Thế là hỏng hết. 

Vũ Chu nói: 

– Công chúa biết hết ư? 

Phật-Nguyệt thở dài: 

– Tôi đoán ra thôi. Lê Đạo-Sinh, Phong-châu song quái vốn cực kỳ xảo quyệt. Họ làm quân sư cho Công-tôn Thi, ắt họ dự trù: Trong khi bắt giam các vị, họ đem chiếu chỉ, cử chân tay ra trấn thủ Hán-trung, Trường-an thay thái tử Công-tôn Tư. Một mặt truyền chỉ gọi Vương Lộc, Vương Thọ về giữ chức vụ khác, và cử người thay thế. Mặt Kinh-châu họ tuyên triệu tướng quân về, và cử người trấn nhậm. Có đúng thế không? 

Vũ Chu thở dài: 

– Công chúa đoán không sai. Sứ giả đến nam Ích-châu truyền chỉ. Vương Lộc, Vương Thọ là những người tinh khôn, hai ngươì đoán trước được sự việc. Hai người truyền bắt sứ giả và tướng tân trấn thủ tra khảo. Sứ giả khai thực. Vương Lộc, truyền giữ vững thành trì, chém sứ giả với tướng tân trấn thủ. Vừa đúng hai hôm sau Hán-trung vương Vương Nguyên trở về. Hiện sư huynh Vương Nguyên đang đem quân đánh Thành-đô. 

Vũ Chu bật thành tiếng khóc: 

– Mặt Kinh-châu, tôi đâu có ngờ tới. Thấy sứ giả tuyên chiếu gọi về lĩnh ấn trấn thủ Trường-an, tôi tin là thực. Tôi giao binh quyền cho y. Tôi lên đường tới Xuyên-khẩu thì gặp Trường-sa vương chạy trở ra. Bấy giờ tôi mới biết mình trúng kế. Tôi định trở lại chiếm Kinh-châu, thì bị một đạo binh đuổi bắt. Chúng tôi chiến đấu thập tử nhất sinh mới thuất khỏi vòng vây, rồi vượt Trường-giang, xuống đây nương nhờ công chúa. Giữa đường tôi lại gặp đội thị vệ Hán bao vây. May mà gặp Đào vương phi cứu thoát. 

Chu Tái-Kênh thở dài: 

– Không biết hiện giờ ai trấn thủ chín quận Kinh-châu? 

Vũ Chu đáp: 

– Chính là Vũ Hỷ với vợ y. Khi vợ chồng y tới nhận bàn giao, tôi không biết mặt chúng. Thấy sứ giả, chiếu chỉ, cũng tưởng chúng được lệnh triều đình. Có ngờ đâu... 

Công-tôn Thiệu đã tỉnh lại. Ông nói trong mệt nhọc: 

– Lê Đức-Hiệp được cử trấn thủ Trường-an. Hàn Thái-Tuế trấn thủ Hán-trung. Ngô Tiến-Hy trấn thủ Phù-phong. Còn Lê Đạo-Sinh thì trấn thủ Thành-đô. 

Phật-Nguyệt lo lắng: 

– Không biết Công-tôn Thi chỉ muốn được làm vua, rồi thôi. Hay y còn có ý định gì khác? 

Chu Tái-Kênh nhảy phắt dậy: 

– Hỏng mất! Hỏng mất! Vương Nguyên tất cầu cứu với lạc vương Tượng-quận. Hàn Bạch sẽ cử Đào Hiển-Hiệu đem quân giúp Vương Nguyên. Với tài dùng binh của Vương, Lê Đạo-Sinh sẽ bị bại. Thêm vào tướng sĩ các nơi bất phục, kéo quân về Thành-đô, bấy giờ Công-tôn Thi tứ bề thọ địch, y sẽ đầu hàng Quang-Vũ. Quang-Vũ mượn cớ đó đem quân cứu Thi. Khi quân Hán vào Thành-đô, họ chỉ trở tay một cái là chiếm được Thục. 

Bà nói với Phật-Nguyệt: 

– Nếu bây giờ, cháu giúp Trường-sa vương chiếm lại Kinh-châu ắt tướng sĩ Kinh-châu một nửa theo Trường-sa vương, một nửa theo Vũ Hỷ. Tài dùng binh Vũ Hỷ thua Công-tôn vương gia xa. Ta sợ Vũ Hỷ dâng thành cho Mã Viện. 

Phật-Nguyệt đứng dậy, nét mặt bà cương quyết: 

– Bây giờ có bốn việc phải làm: Thứ nhất truyền lệnh bài đi các nơi, báo động, chỉnh bị binh mã sẵn, đề phòng quân Hán tràn xuống. Thứ nhì, báo cho công chúa Thánh-Thiên biết để đề phòng mặt Nam-hải. Thứ ba, truyền thư tới bảy đạo quân Lĩnh-Nam. Thứ tư, thượng biểu về triều tâu với Hoàng đế, xin chỉ dụ : Nên tái chiếm Kinh-châu hay không? 

Sún Hô sai thư lại viết biểu, thư cho Thần-ưng mang thư đi liền. Phật-Nguyệt an ủi Công-tôn Thiệu, Vũ Chu: 

– Chúng ta đã dùng hiệp nghĩa mà ở với nhau, lại cùng mưu đem hạnh phúc cho dân. Các vị hãy dưỡng bệnh, đợi khỏi rồi, hãy bàn đến việc tái chiếm Kinh-châu sau. 

Chiều hôm đó, Phật-Nguyệt đang kiểm điểm binh mã, thì Đào Ngũ-Gia báo: 

– Có Thần-ưng từ Phiên-ngung tới. 

Bà mở thư ra, đó là lệnh của Bắc-bình vương Đào Kỳ: 

Thục có biến động. Lê Đạo-Sinh giả qui y theo Bồ-tát Tăng-giả Nan-đà. Y học được Thiền-công của ngài. Võ công của y trở thành cao thâm khôn lường. Y bỏ Tăng-giả Nan-đà trốn vào Thục, giúp Công-tôn Thi đánh thuốc độc giết Thục đế, hãm hại mất bốn trong Thiên-sơn thất hùng. Nhiệm Mãng, Công-tôn Tư bị hại. Đã báo động khắp nơi, chỉnh bị binh mã. Xin công chúa Phật-Nguyệt tuần tra biên giới cực kỳ nghiêm mật. Giao Trường-sa cho lão bá Chu Tái-Kênh, về Phiên-ngung họp khẩn cấp. 

Phật-Nguyệt, đưa thư cho Chu Tái-Kênh, Đào vương phi coi, rồi nói: 

– Phiền hai vị cùng với sư bá Tiên-yên trấn giữ Trường-sa dùm. Tôi phải về Phiên-ngung. Nếu có biến động gì, thì sai Thần-ưng báo tin cho tôi biết liền. 

Bà lên ngựa đi ngay, không mang theo tùy tùng. Ngựa phi suốt một ngày rưỡi mới tới Phiên-ngung. Vào trong thành, thấy giáp sĩ uy nghiêm, quân khí hùng tráng, dân chúng sống thanh thản. Bà tự than: 

– Đào Kỳ thực xứng tài đại tướng. Không trách đại ca Trần Tự-Sơn sủng ái y là phải. Ngay tại kinh đô Lạc-dương, quân Hán vẫn không kỷ luật bằng quân Việt ở đây. 

Bà đang định hướng tòa đại tư mã đến, thì một thiếu niên dáng người hùng vĩ, phong tư tiêu sái, lưng đeo bảo kiếm, cỡi ngựa cạnh quận chúa Lý Lan-Anh đi tới. Lý Lan-Anh xuống ngựa kính cẩn chào bà: 

– Quận chúa Lý Lan-Anh tham kiến công chúa. 

Phật-Nguyệt xuống ngựa, đáp lễ. Bà đưa mắt nhìn thiếu niên, thấy dáng điệu hơi quen, mà bà không nhớ tên. Bà hỏi: 

– Còn vị này... là? 

Thiếu niên lên tiếng: 

– Sún Lé đây! Sư tỷ quên em rồi à? 

Phật-Nguyệt à lên một tiếng: 

– Mới hơn năm qua, mà em lớn mau quá. Chị không nhận ra. Em tôi cao lớn, hùng vĩ thế này đây! 

Sún Lé chỉ Lý Lan-Anh: 

– Chị chưa biết đấy thôi. Em mới lấy vợ. Anh Đào Kỳ đứng chủ hôn nhà trai. Nam-hải vương Trần Nhất-Gia chủ hôn nhà gái. Lễ cưới ngày hôm qua. 

Lý Lan-Anh cười: 

– Chúng em được lệnh đón chị vào phủ đại tư mã. 

Phật-Nguyệt kinh hãi hỏi: 

– Chị đi bí mật, trời không biết, đất không hay. Sao Đào Kỳ biết, mà sai các em ra đón chị? 

Lý Lan-Anh chỉ lên trời. Phật-Nguyệt nhìn theo: Một Thần-ưng đang bay lượn. Đào Nhất-Gia (Sún Lé) nói: 

– Con Thần-ưng này đưa thư cho chị, rồi bay theo hộ tống. Dọc đường chị có gì, nó về báo tin cho em. Đào đại ca chỉ việc ngồi trong trướng nhìn trời, thấy Thần-ưng hộ tống ai bay đến, thì biết người đó tới. 

Phật-Nguyệt đến phủ Đại tư mã. Đào Kỳ, Hồ Đề cùng ra đón vào phòng họp. Đã có mặt đủ bảy đại tướng thống lĩnh bảy đạo binh Lĩnh-Nam. Sáu vị tư mã sáu vùng thêm Trần Quốc, Vương Phúc, Tử Vân là ba người có trách nhiệm thống lĩnh hải quân trấn ngự bờ biển Lĩnh-Nam. 

Đào Kỳ đứng dậy, kính cẩn nói: 

– Thưa các vị sư bá, sư thúc, sư huynh, sư tỷ. Thục có đại nạn. Vì vậy tôi phải mời các vị về họp, hầu giải quyết mọi biến chuyển. 

Tiếp theo, công chúa Bát-Nàn Vũ Trinh-Thục đứng lên tường thuật mọi tai ương trên đất Thục, từ khi Thục-đế bị Lê Đạo-Sinh giết chết đến giờ. Cuối cùng bà kết luận: 

– Hiện một nửa Ích-châu nằm trong tay Lê Đạo-Sinh. Nhưng y không phải là đối thủ của Vương Nguyên, vì vậy Vương đánh gần tới Thành-đô. Tôi ước tính: Với tài dùng binh của Vương Nguyên thì Công-tôn Thi với Lê Đạo-Sinh ắt bị bại. Bị bại tất chúng chạy vào Hán-trung. Tại Hán-trung, thì phía bắc chúng bị Ngô Hán ép, mặt nam thì bị Vương Nguyên đánh. Trước nguy cơ ấy, nhất định Công-tôn Thi sẽ hàng Hán. Nhân dịp này, Hán không ngần ngại gì mà không đem đại quân giả cứu Công-tôn Thi rồi chiếm lại Trường-an, Phù-phong, Hán-trung. Vương Nguyên chỉ chiếm được nửa Ích-châu, phải đối phó với Công-tôn Thi đã khó khăn lắm rồi. Nay thêm Ngô Hán nữa, ắt Vương bại trận. Thục coi như không còn nữa. Còn tình hình Kinh-châu thế nào, xin Phật-Nguyệt cho biết. 

Phật-Nguyệt trình bày tỉû mỉ diễn biến của Kinh-châu. Bà kết luận: 

– Tất cả các thái thú thuộc chín quận Kinh-châu, đều là đệ tử Thiên-sơn thất hùng. Sư phụ của họ bị Công-tôn Thi giết, họ chưa biết. Nếu họ biết, ắt sẽ kéo quân về giết Vũ Hỷ. Vũ Hỷ đâu phải không biết việc đó? Chắc chắn y sẽ tìm cách hại họ. Vì vậy tôi đã cho người bí mật liên lạc với họ. Giờ này có lẽ, họ đã trở cờ, chống Vũ Hỷ. Tôi chỉ sợ một điều duy nhất: Vũ Hỷ nhanh tay hơn tôi mà thôi. Dù trường hợp nào chăng nữa, Kinh-châu cũng rối loạn. Mã Viện nhân dịp này, y chăún cần đợi chỉ dụ của Quang-Vũ, y xua quân xuống chiếm Kinh-châu. Phía đông, Lưu Long, Đoàn Chí cùng đánh về, ép Kinh-châu. 

Đào Kỳ hỏi: 

– Xin các vị Đại tư mã cho biết: Chúng ta phục hồi đã được hơn một năm. Vậy tình trạng huấn luyện tráng đinh đã đến đâu rồi? 

Binh-bộ thượng thư Chu Bá nói: 

– Các lạc hầu, lạc công đều có trường huấn luyện thiếu niên nam-nữ tổ chức thành lực lượng riêng, khi cần chúng ta có thể lấy tráng đinh bổ xung. Quân của các vị lạc vương khá mạnh, đủ sức giữ lãnh thổ, để quân Lĩnh-Nam lưu động đánh giặc. Quân của các lạc vương, mỗi nơi lên tới năm vạn, trường hợp khẩn cấp chúng ta có thể tập trung được mười vạn, với ba mươi vạn của các đạo binh Lĩnh-Nam, thành bốn mươi vạn. 

Vừa lùc đó, tướng giữ cửa thành vào báo: 

– Có bốn người đàn bà lạ mặt xin vào yết kiến Bắc-bình vương, họ không chịu xưng tên, chỉ nói có việc quân khẩn cấp. 

Đào Kỳ truyền lệnh dẫn tới. 

Một lát, bốn người đi vào. Đào Kỳ trông thấy, vương thất kinh hồn vía, định quì xuống làm lễ. Người đàn bà đi đầu nháy mắt, phất tay. Vương kính cẩn mời vào trong. Bốn người đàn bà bỏ nón ra. Bây giờ quần hùng mới biết là vua Trưng, Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa. Vua Trưng phán: 

– Xin các vị sư bá, sư thúc, sư huynh, sư tỷ miễn lễ. Vì quân tình khẩn cấp trẫm phải bí mật lên đây. Tuyệt đối không cho ai biết. Nào chúng ta tiếp tục nghị sự. 

Giao-chỉ vương Trưng Nhị bàn: 

– Trước hết phải xét tình hình Hán đã. Trên toàn đất Trung-nguyên, hiện yên tĩnh, không giặc giã. Bao nhiêu binh hùng tướng mạnh đều dồn ra mặt Trường-an, Nam-dương đối phó với Công-tôn Thi, Công-tôn Thiệu. Mặt Trường-an, quân Ngô Hán nhiều hơn quân Công-tôn Thi. Hai bên đều có tài dùng binh. Mặt Kinh-châu, Mã Viện với Công-tôn Thiệu, quân số ngang nhau. Tài dùng binh của Mã hơn Công-tôn. Mặt đông Lưu Long, Đoàn Chí quân số gấp bốn lần công chúa Thánh-Thiên, võ công chúng rất cao. Tài dùng binh không thua gì Mã Viện. 

Ngưng lại một lúc bà tiếp: 

– Trước hết, cần phải biết ý định của Quang-Vũ như thế nào đã ? Chắc chắn biến động ở Thục, Quang-Vũ sẽ xua quân đánh Kinh-châu, Trường-an. Bình thường lực lượng Thục, đã không phải là đối thủ của Hán. Huống hồ bây giờ chia làm hai. Giả thử truyện này xảy ra, chúng ta phản ứng như thế nào? 

Đào Nhất-Gia vốn thân với Công-tôn Thiệu. Chàng đứng dậy nói: 

– Trước đây, Tây-vu Thiên-ưng lục tướng, sau này chính Trưng hoàng-đế, Trưng vương, sư tỷ Vĩnh-Hoa, Phương-Dung mở đầu cuộc hợp tác Thục, Lĩnh-Nam. Trong thời gian vừa qua, Thục gửi Vương Phúc, Sa-Giang sang giúp Lĩnh-Nam. Hai bên ước hẹn: Hán đánh Thục, thì Lĩnh-Nam đánh lên. Hán đánh Lĩnh-Nam, thì Thục kéo quân từ Trường-an, Kinh-châu về. Bây giờ nếu Hán đánh Thục. Tôi đề nghị chúng ta kéo hai đạo quân đánh lên. Đạo thứ nhất công chúa Thánh-Thiên từ Nam-hải đánh lên Mân, Triết. Công chúa Thánh-Thiên chỉ giỏi dùng binh, còn võ công kém Lưu Long, Đoàn Chí xa. Cần phải gửi thêm một số cao thủ theo trợ chiến. Chúng ta có lão bà Chu Tái-Kênh, sư thúc Chu Bá, Tiên-yên, sư tỷ Phương-Dung, Phật-Nguyệt, Trần Năng, Lê Ngọc-Trinh đủ sức đàn áp bọn chúng. Tôi xin đi trợ chiến. 

Chàng nhìn Vương Phúc tiếp: 

– Đạo thứ nhì, sư huynh Vương Phúc, sư tỷ Trần Quốc, dùng thủy quân đánh Phúc-hòa, Tuyền-châu. Hán bị uy hiếp, tất rút binh không đánh Thục nữa. 

Công chúa Thánh-Thiên lắc đầu: 

– Lời sư đệ bàn thực phải. Nếu Thục còn sư huynh Công-tôn Thuật làm hoàng đế. Đương nhiên chúng ta phải giúp. Bây giờ, Thục do Công-tôn Thi làm vua. Trong khi Thi dùng bọn Lê Đạo-Sinh, giết hết bốn trong Thiên-sơn thất hiệp, thêm Nhiệm Mãng, thái tử Công-tôn Tư. Tướng sĩ, dân chúng không phục. Chúng ta có tiếp y cũng vô ích mà thôi. 

Phùng Vĩnh-Hoa vốn cảm tình với Thục. Bà cùng Công-tôn Tư có tình tri âm. Bà đứng lên nói: 

– Chúng ta xuất quân từ hồ Động-đình giúp Công-tôn Thiệu đoạt lại Kinh-châu. Một mặt xua quân giúp Vương Nguyên, diệt Công-tôn Thi, để Nguyên ổn định lại đất Thục. 

Phương-Dung lắc đầu: 

– Không ổn. Nếu chúng ta kéo quân đánh Vũ Hỷ, tất y đầu hàng Mã Viện. Bấy giờ chúng ta phải chống với đạo quân Mã Viện, thêm đạo Kinh-châu của Thục. Quân hai đạo này hợp lại, lên tới ba mươi vạn người. Chúng ta vét hết quân Trường-sa, chưa quá mười vạn, như vậy có khác gì trứng chọi với đá không? Mặt khác Công-tôn Thi tuy thua, nhưng y vẫn còn hai mươi vạn binh. Chúng ta kéo năm vạn quân Tượng-quận, giúp Vương Nguyên. Với tài Vương Nguyên, Đào Hiển-Hiệu, tất Công-tôn Thi bại. Thi bại, y sẽ đầu hàng Hán. Bấy giờ Vương Nguyên, Hiển-Hiệu phải chống với Ngô Hán lẫn Công-tôn Thi, thực là nguy. 

Quần hùng phân vân chưa biết giải quyết sao, thì có tiếng cười khanh khách trên mái ngói vọng xuống. Tiếp theo, có tiếng nói: 

– Anh hùng tài trí đông thế mà không nghĩ ra! Chỉ cần hỏi Tây-cung quí phi, hoặc đám Đặng Vũ, Mã Vũ ắt biết chủ tâm của Hán. Khi biết chủ tâm của Hán rồi, bấy giờ quyết định ắt thành công. 

Đào Kỳ kinh hãi hỏi: 

– Cao nhân giá lâm Phiên-ngung, mà tiểu vương không biết để nghêng đón thực có lỗi. 

Ông chĩa ngón tay lên nóc nhà, vận Lĩnh-Nam chỉ phóng đến véo một tiếng. Trong khi đó Chu Bá cùng đám anh hùng ra khỏi đại sảnh đường. Mọi người nhìn lên nóc nhà, thấy một người mặc áo xám, mặt bịt bằng miếng vải. Y đang múa kiếm chống với đoàn Thần-ưng. 

Đào Nhất-Gia kinh hãi nói với Đào Kỳ: 

– Tam ca! Dường như người này không phải kẻ thù. Vì vậy y ngồi trên nóc nhà, Thần-ưng không báo động. Kịp khi tam ca dùng Lĩnh-Nam chỉ đánh y, Thần-ưng mới nhập cuộc. 

Vũ Trinh-Thục nhận ra người mặc áo xám. Bà nói với Đào Nhất-Gia: 

– Em gọi Thần-ưng ngưng tấn công. Y là người nhà đấy. 

Quần hùng nhớ ra, hồi trước người mặc áo xám đã đột nhập bản doanh của bà, báo cho bà nhiều tin tức. Cho đến khi Lê Đạo-Sinh tập kích giết Đặng Thi-Sách, cũng người này xuất hiện, đánh chết hai tướng Hán tên Hầu Mạnh-Đức, Triệu Thiết. 

Đào Kỳ, Phương-Dung nghe biết người mặc áo xám thuộc loại cao nhân tiền bối phái Cửu-chân. Ông vọt người lên mái nhà, cung kính chắp tay: 

– Không ngờ tiền bối giá lâm. Tiểu bối không biết trước để nghinh tiếp. Kính mong tiền bối đại xá. 

Người đó cười nhạt, vung chưởng tấn công Đào Kỳ. Ông nhận ra đó là chiêu Hải triều lãng lãng. Biết người ấy võ công cao thâm không lường. Ông không dám chần chờ, vận đủ mười thành công lực cùng phát chiêu Hải triều lãng lãng. Bình, cả hai người bật lùi trở lại. 

Quần hùng kinh hãi, bật lên những tiếng la. Vì với công lực Đào Kỳ, hiện trên thế gian này chỉ Khất đại phu đỡ được mà thôi. Không ngờ hôm nay, có người bí mật, võ công ngang với ông. 

Trên nóc nhà hai người đấu với nhau đến lớp thứ tư. Cả hai cùng bật lùi lại. Đến lớp thứ năm. Chưởng phong ép mạnh đến độ những người đứng dưới sân muốn nghẹt thở. Bình một tiếng nữa. Cả hai đều lùi lại. 

Người bịt mặt cười lớn: 

– Giỏi thực! Giỏi thực ! Không ngờ hậu sinh khả úy. Được! Ta xuống với các ngươi. 

Người đó nhảy xuống, vào đại sảnh. Phương-Dung sai lấy ghế, mời ông ngồi ngang với các vị lạc vương. Bà hỏi: 

– Như lời tiền bối dạy, chắc tiền bối biết chủ ý của Quang-Vũ về việc này rồi. Xin tiền bối dạy cho mấy lời. 

Người áo xám cười: 

– Trời ơi! Ta nghe nói, đất Lĩnh-Nam có ba cái đầu kinh thiên động địa, Quang-Vũ nghe đến tên cũng phải sợ hãi, đó là Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa. Thế mà không nghĩ ra ư? Này, ta dạy dỗ cho: Dù các ngươi có giết Quang-Vũ này, lập tức có Quang-Vũ khác. Người Trung-Nguyên họ tự hào là con trời. Dân chúng khắp thiên hạ phải tôn phục họ. Vì vậy lúc nào Quang-Vũ với Triều Hán cũng rình rập. Thục, Việt hở cơ, lập tức họ xua quân đánh chiếm. 

Người đó lại cười lớn hơn: 

– Lê Đạo-Sinh với đám đệ tử, vốn có chân tài, chỉ vì công danh, mà lầm đường. Chúng nhận sắc phong của Quang-Vũ trở về đánh các người, chúng bị thua. Vì sợ bị giết, Lê giả qui y theo Tăng-giả Nan-đà, học Thiền-công. Sau đó vào ngục cứu học trò, ăn cắp năm dàn Thần-nỏ nhưng không dâng cho Quang-Vũ. Quang-Vũ sai chúng vào Thục giúp Công-tôn Thi. Nếu Thi được, thì chính nghĩa mất. Bấy giờ Quang-Vũ mới đem quân đánh. Nhược bằng Thi thua, Lê dụ y đầu hàng. Quang-Vũ có chính nghĩa đem quân chiếm Thục. Sau khi chiếm Thục xong, Quang-Vũ sẽ dùng Lê Đạo-Sinh đánh Lĩnh-Nam. 

Phùng Vĩnh-Hoa hiểu ra. Bà nói: 

– Vậy bây giờ phải hành động thế này: Thà ta đem quân cứu Thục, đánh được thành nào hay thành ấy. Đánh quân Hán một trận, làm tinh lực của chúng tiêu hao. Chúng sẽ để Lĩnh-Nam yên một thời gian, còn hơn án binh bất động để Quang-Vũ được Thục, dùng đám hàng tướng, hàng binh đánh mình. 

Trưng Đế ban chỉ dụ: 

– Trẫm quyết định: Đại tư mã Đào hiền đệ tổng chỉ huy đại quân đánh Hán, cứu Thục. Chúng ta cứu Thục, cho phải đạo nghĩa. 

Đào Kỳ đứng lên nói với Đại tư mã Tượng-quận Hàn Đức: 

– Xin sư bá khẩn trở về truyền lệnh các lạc công, lạc hầu giữ vững thành trì, trang ấp, để Đào Hiển-Hiệu đem quân cứu Thục. 

Ông ra lệnh cho Đào Hiển-Hiệu: 

– Em đem đạo binh Tượng-quận, vượt Độ-khẩu vào giúp sư thúc Vương Nguyên. Vẫn để đạo kỵ binh của Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang trấn giữ Độ-khẩu như thường, phòng Hán đánh úp mất đường về. Với tài dùng binh của sư bá Vương Nguyên và của em, ắt đánh bại Lê Đạo-Sinh dễ dàng. 

Đào Hiển-Hiệu hỏi lại: 

– Trường hợp Công-tôn Thi hàng Hán, em phải đối phó thế nào? 

Đào Kỳ đáp: 

– Trường hợp đó sư bá Vương Nguyên với em phải đương đầu với Ngô Hán. Võ công Ngô không cao, song tài dùng binh của Ngô hơn Vương sư bá với em nhiều. Quân y đã đông, thêm quân Công-tôn Thi nữa... Em với Vương sư bá cố gắng giữ thành. Với quân đoàn sáu Tây-vu yểm trợ, giữ thành, thì một nghìn lần Ngô Hán cũng không vào Thục được. 

Ông ra lệnh cho công chúa Thánh-Thiên: 

– Sư tỷ hiện có hai đạo Nhật-nam, Nam-hải, thêm đạo thủy quân của Vương Phúc, Sa-Giang, xin Công-chúa đánh thẳng vào mặt đông Kinh-châu. Nhớ dùng Thần-ưng canh phòng mặt biển cẩn thận. 

Ông ra lệnh cho công chúa Phật-Nguyệt: 

– Thái sư thúc giúp Công-tôn Thiệu chiếm lại Kinh-châu. Trường hợp Vũ Hỷ đầu hàng, Mã Viện ắt đem quân vượt Trường-giang chiếm hồ Động-đình, đánh bọc phía nam Kinh-châu. Xin Thái sư thúc chặn đánh y. 

Trưng hoàng-đế phán: 

– Công chúa Phật-Nguyệt lĩnh nhiệm vụ rất quan trọng. Đạo Nam-hải, Tượng-quận, đều đánh vào đất Hán, đất Thục. Chỉ duy đạo Trường-sa là đánh Hán trên đất Lĩnh-Nam. Bất cứ giá nào Phật-Nguyệt cũng phải thắng, dù hy sinh bao nhiêu chăng nữa. Phật-Nguyệt bại, là Lĩnh-Nam bại. Lĩnh-Nam bại, dân chúng nghĩ rằng mình luôn yếu hơn Hán. 

Phật-Nguyệt tâu với Trưng Đế: 

– Quân chủ lực ở Trường-sa, Linh-lăng, hồ Động-đình có đạo Hán-trung, do Trung-dũng đại tướng quân, Động-đình công Đô Thiên chỉ huy. Hiện Đô tướng quân bị bệnh nặng. Xin cho một tướng khác thay thế. 

Đào Kỳ hướng vào Đô Dương: 

– Đô đốc thống lĩnh thủy quân hồ Động-đình hiện là Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương. Chúa tướng bộ binh, thủy binh cần hợp tính, mới dễ thành công. Vậy thay thế cho Đô tướng quân, phải có một trong các sư huynh của đệ như Nghi-Sơn, Biện-Sơn, Dương-Đức hoặc các sư đệ Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Phương-Dung. Ngặt vì những người này đều đang giữ trọng trách đối diện với quân Hán. Xin đại ca cho sư đệ Quách Lãng ra thay Đô Thiên. Không biết có trở ngại cho Cửu-chân không? 

Đô Dương gọi Quách Lãng: 

– Ta biết ý Đào tam đệ rồi. Hai cô em Bạch-Nương, Tĩnh-Nương, tính khí cương quyết, khó ai làm cho hai nàng nể phục, ngoài sư huynh, sư đệ đồng môn. Vậy hiền đệ hãy theo công chúa Phật-Nguyệt thống lĩnh đạo Hán-trung thay thế Trung-dũng đại tướng quân Đô Thiên. Ta đề nghị gửi Đô Thiên vào Cửu-chân thay Quách Lãng ngay. 

Quách Lãng đứng dậy tạ ơn Đô Dương, Đào Kỳ. 

Trưng Đế hỏi người mặc áo xám: 

– Xin cao nhân cho biết đại danh được chăng? 

Người ấy thở dài nói: 

– Các ngươi là hậu bối, mà cứu nước thành công. Ta làm tiền bối, mà hóa ra người vô dụng. Thôi ta xin đứng ngoài, trợ giúp các ngươi. Biết tên cũng chẳng ích gì. Ta nói cho mà biết: Ta làm quan rất lớn ở triều Hán. Thế cũng đủ rồi. Thôi ta đi đây. 

Thấp thoáng một cái, người đó, đã vọt ra cửa biến mất. 

Trước khi giải tán cuộc họp. Trưng hoàng-đế hỏi: 

– Có ai đề nghị gì nữa không? 

Phương-Dung nói nhỏ vào tai ngài mấy câu. Ngài tủm tỉm cười, vẫy tay gọi Quách A: 

– Sư muội, ta sẽ cử Binh-bộ thượng thư, sư thúc Chu Bá tổng trấn Luy-lâu thay cho sư muội. Còn sư muội hãy lên hồ Động-đình trợ chiến với sư tỷ Phật-Nguyệt. Đào Ngũ-Gia với sư muội là một đôi uyên ương, cần sát cánh chống giặc, chứ để hai người xa nhau, ta lấy làm ái ngại. 

Quách A tạ ơn, theo Phật-Nguyệt đi hồ Động-đình. 

.... 

Quân mã thuộc khu Trường-sa, Linh-lăng, hồ Động-đình đã chỉnh bị sẵn sàng. Hai hôm sau, tế tác cho biết: Thái thú Nam-quận, Tương-dương, Bạch-đế chống lại Vũ Hỷ. Phật-Nguyệt thăm bệnh Công-tôn Thiệu, Vũ Chu, hai người vẫn chưa bình phục. 

Chu Tái-Kênh bàn: 

– Triều đình quyết định vậy là phải. Giữa lúc Công-tôn Thi đang rối loạn, tướng sĩ, dân chúng bất phục. Ta giúp Vương Nguyên, Công-tôn Thiệu đánh chiếm lại Thục. Công-tôn Thi lúc đầu chắc chưa hàng Hán. Khi ta chiếm nửa đất Thục, Kinh-châu, bấy giờ Công-tôn Thi mới đầu Hán. Ít ra ta cũng được mấy thành, còn hơn để đó ít lâu, Công-tôn Thi chỉnh bị quân mã, liên kết với Hán, sai bọn Lê Đạo-Sinh đánh Lĩnh-Nam. Bấy giờ Lĩnh-Nam lưỡng đầu thọ địch, ắt nguy mất. 

Phật-Nguyệt đánh trống, truyền các tướng tụ tập nghe lệnh. Bà kính cẩn nói với Đào vương phi, Chu Tái-Kênh, Tây-vu tiên tử: 

– Luật Lĩnh-Nam định rằng: Các tướng sĩ trên đường làm phận sự mà gặp giặc thì phải đánh. Vậy ba vị qua đây, xin giúp tôi một tay trong trận giặc này. 

Chu Tái-Kênh vỗ tay vào bao kiếm: 

– Trọn đời ta, ta chỉ mong được giết giặc. Hôm nay gặp trận hồ Động-đình, còn gì vui bằng. Ta sẵn sàng nghe lệnh cháu. 

Phật-Nguyệt nói với Công-tôn Thiệu: 

– Các thái thú Nam-quận, Bạch-đế, Tương-dương giữ thành trì, chống lại Vũ Hỷ. Họ chống Vũ Hỷ tức chống Công-tôn Thi. Vì họ không biết Vương gia hiện ra sao. Nếu Vương gia cho người liên lạc với họ, thì ta đã được ba quận. Chúng ta chỉ còn phải đánh có ba quận nữa là Kinh-châu được bình định. Không biết thái thú ba quận đó, đối với Vương gia thế nào? 

Công-tôn Thiệu đáp: 

– Các thái thú đều xuất thân từ phái Thiên-sơn. Họ ở dưới tôi một vai. Thái thú Nam-quận tên Điền Phong, đệ tử của sư đệ Điền Sầm. Thái thú Tương-dương, tên Vương Hòa, đệ tử của sư đệ Tạ Phong. Thái thú Bạch-đế tên Chu Đang đệ tử của Nhiệm Mãng. 

Phật-Nguyệt hỏi: 

– Vương gia ước tính xem, họ còn trung thành với vương gia không? 

Công-tôn Thiệu đáp: 

– Trung thành hay không thì tôi khó đoán nổi. Có điều tôi dám quả quyết, họ là kẻ thù của Công-tôn Thi và thầy trò Lê Đạo-Sinh. Bây giờ tôi bí mật liên lạc với họ. 

Sún Hô lắc đầu: 

– Công-tôn đại ca. Em với đại ca tình như ruột thịt. Em không để cho đại ca đem thân vạn thặng vào chốn hang hùm. Biết đâu các thái thú họ trở mặt. Khi đại ca xuất hiện. Họ hô quân bắt đại ca, có phải việc lớn hỏng hết không? 

Chu Tái-Kênh vỗ tay nói: 

– Cháu tính vậy thực phải. Bây giờ chúng ta vượt sông, tới Tương-dương trước. Chúng ta giả trang, ẩn thân. Trước dọ thám động tĩnh, thấy Vương Hòa còn trung thành với Vương gia, thì xuất hiện. Còn Vương Hòa có ý gì khác, thì chúng ta giết y, đoạt thành. 

Phật-Nguyệt quyết định: 

– Phải làm thế này: Chúng ta chia làm hai toán. Toán thứ nhất do Công-tôn vương gia cùng với Đào Ngũ-Gia, Đào vương phi thám thính Tương-dương. Toán thứ nhì do sư huynh Vũ Chu cùng với Tây-vu tiên tử, sư bá Tái-Kênh thám thính Nam-quận. Chúng ta dùng Thần-ưng liên lạc với nhau. Sau khi được Tương-dương, Công-tôn sư huynh sai sứ giả liên lạc với Chu Đang ở Bạch-đế. Công-tôn sư huynh sẽ điều động quân ba nơi kéo về chiếm lại Kinh-châu. 

Công-tôn Thiệu tỏ ý lo lắng: 

– Tôi sợ gặp Mã Viện đang dồn quân ở Nam-dương, khi y thấy Tương-dương kéo quân về Kinh-châu. Y sẽ xua quân đánh tràn xuống. Trong khi Lưu Long đóng ở bờ hồ Phiên-dương, Đoàn Chí đóng ở Nam-xương, đồng xuôi Trường-giang, đánh mặt sau tôi. 

Phật-Nguyệt mỉm cười: 

–- Sư huynh đừng lo. Lĩnh-Nam với Thục như môi với răng. Khi Công-tôn sư huynh khởi binh. Tôi sẽ kéo quân từ hồ Động-đình đánh lên, cắt ngang Trường-giang. Thánh-Thiên, từ Nam-hải đánh vào. Từ biển Vương Phúc, Trần Quốc đánh phía sau Lưu Long, Đoàn-Chí. Nếu chúng kéo quân về Kinh-châu, coi như chúng tự tử. 

Tiên-yên nữ hiệp bàn: 

– Chúng ta chỉ còn sợ một điều duy nhất: Nếu Công-tôn Thi đầu hàng Hán, y ra lệnh mở cửa các thành, cho quân Mã Viện, Đoàn Chí vào. Bấy giờ chắc chắn sẽ có trận đánh long trời lở đất giữa Lĩnh-Nam, Thục với Hán. 

Sau khi Công-tôn Thiệu, Vũ Chu cùng đám anh hùng lên đường. Phật-Nguyệt truyền các tướng vào nghe lệnh. Bà tường trình sơ lược biến cố cho tướng sĩ nghe, rồi dẫn giải, có hai trường hợp xảy ra: Thứ nhất Công-tôn Thi hàng Hán. Tất quân Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí tiến vào Kinh-châu. Chúng ta trở thành trực điện với Hán. Thứ nhì nếu Công-tôn Thi không đầu Hán, chúng ta đem quân qua sông giúp Công-tôn Thiệu đàn áp phe Công-tôn Thi, ta sẽ trấn nhậm thay Thiệu, để Thiệu đem quân bình định Thục. 

Bà hỏi các tướng: 

– Ai có ý kiến gì? 

Đinh Bạch-Nương đứng lên nói: 

– Trường hợp Công-tôn Thi đầu hàng Hán. Chúng ta không mang quân qua sông cứu viện Công-tôn Thiệu ư? 

Phật-Nguyệt lắc đầu: 

– Chúng ta ước hẹn chia ba thiên hạ với Thục. Nếu Hán đánh Lĩnh-Nam, Thục khởi binh đánh từ Trường-an, Kinh-châu lên. Ngược lại Hán đánh Thục, Lĩnh-Nam theo ngả Nam-hải đánh lên bắc. Bây giờ Thục có biến loạn là biến loạn giữa họ với nhau. Công-tôn Thi hàng Hán, chúng ta kéo quân lên đánh Kinh-châu, là chúng ta đánh Thục. Chúng ta đã không đủ quân đánh với Hán, lại phải kiêm thêm Thục, thì nguy hiểm vô cùng. Tôi họp các vị ở đây, chỉ bàn trường hợp Công-tôn Thi hàng Hán. Hán đánh chúng ta bằng ba mặt Nam-hải, Kinh-châu, Độ-khẩu. Mặt Độ-khẩu đã có Đào Hiển-Hiệu, Đào Quí-Minh. Mặt Nam-hải có Nguyễn Thánh-Thiên, Trần Quốc. Chúng ta chỉ lo mặt Kinh-châu đánh xuống, và... rất có thể từ Mân, Triết đánh về. Vậy ai có ý kiến gì? 

Một thiếu niên đen thủi đen thui, đầu trọc lóc, dơ tay xin phát biểu ý kiến. Nó hỏi: 

– Tướng chỉ huy quân đoàn bảy Tây-vu là sư huynh Đào Ngũ-Gia tức Sún Hô. Bây giờ Sún Hô đi với Công-tôn Thiệu. Vậy ai thay thế, làm tướng soái? 

Phật-Nguyệt liếc nhìn, biết đó là Trâu Đen, sư trưởng Thần-ưng, mới mười sáu tuổi. 

Nguyên Hồ Đề chuyên đi thu lượm những trẻ mồ côi, cha mẹ vì phản Hán, phục Việt bị giết chết... Đem về nuôi. Nàng đặt cho mỗi đứa một tên, gọi cho vui: Lục Sún, Lục Hầu, Thập Ngưu v.v. Trâu Đen là một trong mười đứa trẻ, nàng đặt cho cái tên Trâu: Trâu Đen, Trâu Trắng, Trâu Lồng, Trâu Ngủ, Trâu Ngáp, Trâu Cầy, Trâu Vàng, Trâu Đỏ, Trâu Xanh, Trâu Mập. 

Quân đoàn bảy Tây-vu do Sún Hô chỉ huy, dưới có tám sư trưởng. Hắc-Hổ, Hắc-báo, Hắc-phong, Xích-Hầu, Vi Đại-Nham là năm người, nàng đã biết trong dịp tòng chinh Trung-nguyên. Có ba sư trưởng mới: Trâu Đen sư trưởng Thần-ưng, Hồ Nam sư trưởng Thần-tượng và Vi Lan sư trưởng Thần-long. Phật-Nguyệt chỉ Xích-Hầu tướng nói: 

– Ta chỉ định Bình-nam hầu, tức Xích-Hầu tướng. Trước đây, trong lần tòng chinh Trung-nguyên, Tây-vu Thiên-ưng lục tướng xuất sắc nhất, rồi tới Tây-vu lục hầu tướng. Lục hầu tướng đã được sư bá Đinh Đại thu làm đệ tử, văn võ kiêm toàn, hiện có tài đại tướng. Ta hy vọng Xích-Hầu tướng làm trọn nhiệm vụ. 

Đinh Bạch-Nương hỏi Xích-Hầu: 

 – Trận đánh kinh thiên độc địa Trường-an, chủ lực chính là các tướng Tây-vu. Bấy giờ Lục-tướng Tây-vu còn chiến đấu lẻ tẻ, thiếu phối hợp. Các tướng soái chưa kinh nghiệm. Bây giờ lục tướng Tây-vu chia làm tám sư. Mỗi sư do một tướng chỉ huy thống nhất. Trên cao Xích-Hầu chỉ huy, phối hợp nhịp nhàng. Chúng ta từng luyện tập hơn năm qua. Bây giờ chắc chắn sẽ làm cho địch kinh sợ. Xích hiền đệ, em trình bày cho biết khả năng quân đoàn bảy Tây-vu đi. 

Xích-Hầu tuổi đã mười chín, dáng người to lớn kềnh càng. Chàng đứng lên, ưỡn ngực ra, hai tay đập vào ngực mình bình, bình giống như con đười ươi, làm ai cũng phì cười. Các tướng đi họp, đều đem theo tùy tùng. Duy Xích-Hầu mang theo một đười ươi khổng lồ, với một con vượn bạch. Chàng đứng lên trình bày, thì đười ươi khoanh tay đứng sau, lưng đeo bảo kiếm. Vượn trắng cầm cuộn trúc lụa treo lên tường. Chàng chỉ vào sơ đồ nói: 

– Thưa sư bá, sư huynh, sư tỷ, cùng các sư muội, sư đệ. Tôi xin trình bày về khả năng yểm trợ của quân đoàn bảy Tây-vu. Quân đoàn chia làm tám sư. Mỗi sư do một tướng chỉ huy. Tướng lớn tuổi nhất là sư bá Vi Đại-Nham, bảy mươi lăm tuổi, là sư trưởng Thần-ngao. Sư Ngao có ba trăm chó sói. Nhỏ tuổi nhất là Vi Lan, mười sáu tuổi sư trưởng Thần-long gồm năm ngàn vừa trăn, vừa hổ lửa, mai gầm đủ loại. Hiện tám sư đều sẵn sàng chờ lệnh tham chiến. 

Phật-Nguyệt hài lòng. Bà đứng lên nói: 

– Tướng sĩ Trung-nguyên họ mong lập công, kiếm giàu sang, họ tranh dành, kèn cưa nhau. Duy chúng ta, chúng ta mưu tìm hạnh phúc cho trăm họ, đối xử với nhau bằng tinh thần võ đạo, bằng tình huynh đệ. Ta xin hỏi các vị có mặt ở đây: Ví thử quân Hán, từ Nam-xương, Kinh-châu tràn xuống, đánh chúng ta. Chúng ta phải đối phó như thế nào? 

Vi Đại-Nham đứng dậy nói: 

– Thưa công chúa, theo ý kiến lão, chúng ta cần đem quân đón đường giặc mà đánh, đừng để chúng đặt chân lên nước mình. Chiến tranh, người chết, nhà cháy, nếu trận chiến xảy ra trên đất Hán, thì nhà Hán cháy, người Hán chết. Còn dân mình, vô sự. 

Cao Cảnh-Khê lắc đầu: 

– Trưng hoàng đế có dạy: Ta với Hán khác nhau như nước với lửa. Hán tàn bạo, ông vua ngồi trên, ban phúc, giáng họa cho thiên hạ. Lĩnh-Nam không thế. Vua do anh hùng cử lên. Chúng ta mưu hạnh phúc cho dân. Nếu bây giờ giặc chưa đến, mà chúng ta xua quân tràn sang Trung-nguyên. Chúng ta trở thành một thứ Quang-Vũ, Triệu Đà thứ nhì. 

Trâu Đen đứng lên: 

– Lời của Vi lão bá đúng, lời của Cao sư huynh cũng đúng. Theo em nên dung hòa cả hai. Một mặt mình chuẩn bị quân mã, dàn ra ở cửa Du-giang làm như đổ bộ đánh Kinh-châu. Một mặt dàn quân ở gần Hạ-khẩu làm như sắp đánh vào Nam-xương. Hán thấy mình mạnh, bỏ ý định đánh xuống thì thôi. Nhược bằng muốn đánh, chúng tưởng rằng mình ngu, bỏ trống hồ Động-đình. Chúng cho quân vượt Trường-giang vào hồ Động-đình, đánh chiếm Trường-sa. Phía bắc hồ Động-đình đến Trường-giang, có khu đất bỏ hoang, không dân, không nhà. Chúng ta lừa địch vào hồ, bấy giờ hai ngả Hạ-khẩu, Du-giang chặn đường về của chúng. 

Quần hùng vỗ tay vang dội. Họ trố mắt nhìn Trâu Đen. Không ai ngờ, một thiếu niên mười sáu tuổi, mà lại có kiến thức như thế. 

Riêng Phật-Nguyệt, bà không lạ lùng gì. Bà đã có kinh nghiệm của Lục Sún, Lục Hầu. Chúng ở tuổi đang lớn, dễ thu nhận kiến thức. Ngày nào chúng cũng dự các cuộc họp, luận bàn quân sư. Suốt hơn năm qua, chúng học hỏi được biết bao nhiêu tinh hoa của người lớn. 

Đinh Tĩnh-Nương chỉ lên tấm lụa vẽ bản đồ khu hồ Động-đình: 

– Tôi xin bổ túc ý kiến Trâu Đen. Chúng ta bỏ trống khu bắc hồ Động-đình. Địch tất theo sông Trường-giang đổ quân lên núi Quân-sơn, Tam-sơn, còn thủy quân chúng sẽ đóng ở bắc hồ. Đương nhiên chúng chia quân làm ba cánh. Hai cánh bộ binh, kị binh đánh bọc theo hai ngả đông, tây của hồ, một cánh thủy quân đánh thẳng xuống. Bây giờ ta cho Thần-ưng truyền đến hai đạo đóng ở Du-giang, Hạ-khẩu, đánh chặn đường về, cắt đường tiếp vận từ bắc sang. Ta lại phục sẵn hai đạo quân Tây-vu ở trong rừng bắc hồ. Khi hai đạo quân đóng ở Quân-sơn, Tam-sơn vừa xuất trại, ta cho đạo Tây-vu đánh ép hai bên. Địch mất đường về, bị đánh tập hậu, chỉ có đường rơi xuống sông mà chết. Còn đạo thủy quân, ta dàn từ phía nam hồ đánh lên, xử dụng Giao-long binh, Thần-ưng, Nỏ-thần. Chúng ta cần diệt thủy quân Hán, để sau này chúng muốn đánh xuống nam thì không còn tinh lực nữa. 

Phật-Nguyệt quyết định: 

– Ý kiến lão tướng Vi Đại-Nham, của sư huynh Cao Cảnh-Khê với Trâu Đen, thêm ý kiến Đinh Tĩnh-Nương đã thành kế hoạch toàn hảo. Tôi chỉ thêm một vài chi tiết mà thôi. Nếu Hán đánh xuống, tất họ dùng thủy quân của Thục mới đầu hàng, hợp với thủy quân từ hồ Phiên-dương. Cộng lại thủy quân của họ đông gấp đôi ta. Nếu ta dàn thủy quân ở phía nam hồ, đánh với Hán, ta thất bại. Vì vậy ta cần chia làm đôi. Một chủ lực cầm cự với đạo Nam-xương. Một chủ lực đánh tan đạo binh thục đầu hàng. Sau đó ta quay lại diệt đạo Nam-xương sau. 

Cuộc họp giải tán. 

Hôm sau có tin, Đào Kỳ cho Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh điều động đạo Giao-chỉ đến Linh-lăng làm trừ bị. Sẵn sàng tiếp ứng cho khu Động-đình hồ. Minh-Giang cùng Trần-gia tam-nương điều đạo Quế-lâm đến Nam-hải làm trừ bị cho Nguyễn Thánh-Thiên. 

Phật-Nguyệt sợ biến cố bất thần không kịp, bà gọi Trâu Đen, Xích-Hầu tướng đến bản dinh ở chung, để kịp thời ứng phó. Đêm ấy trăng tháng tám sáng như ban ngày. Mấy chị em ngồi nhìn trăng, uống nước trà, bàn truyện. Trời về khuya, bỗng Thần-ưng bay từ xa lại. Xích-Hầu thổi tù và gọi xuống. Chàng lấy thư trong ống tre dưới chân Thần-ưng trình cho Phật-Nguyệt. Bà cầm lên đọc. Các tướng im lặng chờ đợi. Bà thở dài, quăng thư xuống bàn. 

– Hỏng mất rồi! Thế này thì hỏng mất rồi. 

Đinh Tĩnh-Nương cầm thư đọc: thư của Đào Hiển-Hiệu viết, báo cho biết ông cùng Đào Quí-Minh đem quân vượt Độ-khẩu giúp Vương Nguyên, đánh chiếm được mười hai thành nam Ích-châu. Hiện tiến sát tới Thành-đô. Công-tôn Thi để Lê Đạo-Sinh trấn Thành-đô. Y chạy vào Hán-trung. 

Vi Đại-Nham hỏi: 

– Như vậy Công-tôn Thi giết đến nơi rồi. Tại sao công chúa lại nói rằng hỏng rồi? 

Phật-Nguyệt đáp: 

– Vương Nguyên chỉ dơ tay, là đánh được Thành-đô, Công-tôn Thi bị mất chủ lực. Một mặt y bị Ngô Hán đem quân Hán từ bắc đánh xuống, tất y hàng Hán. Thôi, thế là Thục hỏng. Ngô Hán sẽ đem quân vào Thục. Quân của Vương Nguyên bất quá mười vạn, thêm quân Hiển-Hiệu năm vạn nữa. Trong khi đó quân của Ngô Hán tới ba mươi vạn, tinh nhuệ, khỏe mạnh, thêm quân Công-tôn Thi hai mươi lăm vạn. Ngô Hán dẹp Vương Nguyên dễ dàng. 

Nàng thở dài: 

– Phía Kinh-châu, giỏi lắm Công-tôn Thiệu đánh được Tương-dương, Nam-quận, Bạch-đế, quân mã chưa quá mười vạn. Trong khi quân của Vũ Hỷ trên mười vạn, thêm mười lăm vạn của Mã Viện, mười lăm vạn của Lưu Long, Đoàn Chí. Cộng chung ba mươi lăm vạn. Chúng đè bẹp Công-tôn Thiệu dễ dàng. Chúng ta cố dốc toàn lực Lĩnh-Nam cũng không cứu được Thục. Vương-Nguyên tài thì có tài, song không biết giới hạn cái tài. Giá y đợi Công-tôn Thiệu với ta chiếm lại Kinh-châu, rồi hãy đánh Thành-đô, còn hy vọng. 

Tướng sĩ hiểu ra. Họ phục tài Phật-Nguyệt, trông rộng nhìn xa. 

Hôm sau, có tin Đào Hiển-Hiệu báo cho biết: Công-tôn Thi đầu hàng Hán. Quang-Vũ hứa cho Thi đời đời làm chúa Ích-châu. Quang-Vũ ban sắc chỉ phong Thi làm Hán-trung vương. Ngô Hán tiếp thu Trường-an, Phù-phong tiến vào Hán-trung, Dương-bình-quan, Kiếm-các. Y án binh bất động, để Công-tôn Thi đem bản bộ quân mã cùng thầy trò Lê Đạo-Sinh đánh nhau với Vương Nguyên. 

Bấy giờ các tướng sĩ mới phục tài Phật-Nguyệt. 

Chiều hôm sau, Thần-ưng của Sún Hô báo về: Công-tôn Thiệu, Vũ Chu đã thu được các thành Nam-quận, Tương-dương, Xuyên-khẩu, Bạch-đế. Vũ Hỷ đem quân đánh, bị bại. Công-tôn Thiệu thừa thế chiếm Kinh-châu, rồi tiến đánh Di-lăng, Vũ lăng, thì Vũ Hỷ hàng Hán. Mã Viện đem quân cứu Vũ Hỷ. Vũ Chu đánh Giang-hạ, đụng phải binh lực Lưu Long. Hai bên giao chiến một trận, Vũ Chu quân ít, phải rút về thủ Kinh-châu. Chu Tái-Kênh, Đào vương phi, Đào Ngũ-Gia, Tây-Vu tiên tử sẽ trở về hồ Động-đình ngày mai. Công-tôn Thiệu cho biết Mã Viện sẽ đem quân đánh chiếm Linh-lăng, Trường-sa, hồ Động-đình, rồi đánh bọc phía nam Kinh-châu. Ông xin Phật-Nguyệt đương với Mã Viện, Đoàn Chí, Lưu Long, để ông có thể thanh toán Vũ Hỷ. 

Phật-Nguyệt viết thư báo cho Đào Kỳ, Nguyễn Thánh-Thiên, Đào Hiển-Hiệu biết biến chuyển ở Kinh-châu. Trưa hôm sau thì Chu Tái-Kênh, cùng mọi người trở về. Phật-Nguyệt họp tướng sĩ truyền lệnh. 

Bà đứng lên nói: 

– Chắc chắn Mã Viện chia quân làm ba đạo. Một đạo do Vũ Hỷ vây các thành của Công-tôn Thiệu. Một đạo chính y vượt sông đánh chiếm phía bắc hồ Động-đình, ngăn chặn ta tiếp viện Thục. Một mặt Lưu Long đánh từ Hạ-khẩu về. Còn Đoàn Chí y sẽ đánh xuống Nam-hải, chặn quân Thánh-Thiên. Nào, bây giờ chúng ta hành động. 

Các tướng sĩ, chờ đợi đã hơn mười ngày. Bây giờ mới được ra quân. Người người cùng hứng khởi. Chuẩn bị đánh giặc. 

Phật-Nguyệt cầm ấn kiếm, để lên bàn: 

– Trận hồ Động-đình, là trận đầu tiên Lĩnh-Nam đánh với Hán. Nếu chúng ta bại, toàn đất Lĩnh-Nam rung động. Còn chúng ta thắng, người Hán sẽ kinh hồn táng đởm, từ nay không còn dám nghĩ tới xâm phạm Lĩnh-Nam nữa. Vì vậy tôi nhắc lại, các tướng phải khích động cho quân sĩ biết: chấp nhận hy sinh. Dù phải chết hết toàn đội quân, cũng làm. Miễn sao đạt được mục đích. Tôi nhắc lại: Một là tiến lên, đuổi giặc. Hai là chết, chứ không lùi một bước. 

Sún Hô đứng lên nói lớn: 

– Đệ tử Tây-vu đứng dậy. 

Các tướng sĩ Tây-vu, kể cả Tây-vu tiên tử, đồng đứng dậy. 

Sún Hô ra hiệu. Tất cả đều rút kiếm, hô lớn: 

– Đệ tử Tây-vu thề hy sinh cho đại nghĩa Lĩnh-Nam. 

Phật-Nguyệt hài lòng, vẫy tay cho tướng sĩ Tây-vu ngồi xuống. 

Bà tiếp: 

– Bàn về lực lượng: Mã Viện có sáu vạn thủy binh, năm vạn kị binh, bảy vạn bộ binh. Cộng chung mười tám vạn. Lưu Long có ba vạn kị binh, sáu vạn bộ binh, ba vạn thủy binh. Cộng mười hai vạn. Nếu cộng chung cả hai người, thành ba mươi vạn. Còn về phía ta: Đạo binh của Quách Lãng có bốn vạn bộ, một vạn kị. Quân địa phương của Trường-sa, Linh-lăng được sáu vạn bộ, hai vạn kị. Lực lượng thủy quân khu hồ Động-đình có năm vạn. Cộng chung ta có mười vạn bộ binh, ba vạn kị binh, năm vạn thủy binh. Tổng cộng có mười tám vạn. Song quân cần tinh nhuệ, một lòng chiến đấu, chứ không cần nhiều. 

Xích-Hầu tướng cười: 

– Sư tỷ quên mất ta còn thêm quân đoàn Tây-vu, sức mạnh bằng chục vạn quân Hán sao? 

Các tướng sĩ gật đầu đồng ý. 

Phật-Nguyệt ra lệnh: 

– Từ sông Trường-giang thông với hồ Động-đình bằng một nhánh sông nhỏ. Bên phải có rừng Ba-lăng, Vi Lan dẫn sư Thần-long ẩn vào rừng. Lưu Long đem quân từ Hạ-khẩu tới, tất đổ quân bộ, lương thảo đến đây. Khi có Thần-ưng mang lệnh đến, thì xua Thần-long vào trại giặc, làm náo loạn hàng ngũ chúng. 

Bà cầm lệnh phù trao cho Quách Lãng: 

– Quách sư đệ lĩnh nhiệm vụ rất quan trọng, dẫn ba vạn binh với sư thúc Tái-Kênh, Tây-vu tiên tử theo trợ giúp. Ta tăng viện cho hiền đệ Hắc-báo tướng quân với sư Thần-báo, Ngao-sơn tướng quân Vi Đại-Nham với sư Thần-ngao. Hiền đệ đóng ở Ba-lăng, đợi khi có lệnh, thì đem quân đánh chặn đường về của đạo bộ binh Lưu Long. Nhớ chia lực lượng làm hai: Một phần nhỏ, đánh cướp trại của chúng ; một phần lớn, chặn đường cứu viện của Lưu. Sau khi cướp được trại chúng, tất cả kéo về cố thủ. Chúng mất hết lương thảo, đường về bị cắt. Tất tan rã. 

Bà cầm lệnh bài gọi Xích-Hầu tướng: 

– Sư đệ mang sư Thần-hầu, phục ở phía sau núi Tam-sơn đến Thạch-đầu. Mã Viện từ Kinh-châu xuống, thế nào cũng đổ quân bộ lên đây, rồi cho thủy binh vào hồ Động-đình. Đợi khi có lệnh, cho Thần-hầu đột nhập trại địch, đốt lương thảo. 

Bà đứng dậy, lễ phép nói với Đào vương phi: 

– Vương phi từng kinh nghiệm cầm quân, xin lĩnh bốn vạn bộ, hai vạn kị, có sư bá Tiên-yên, sư muội Lê Thị-Lan giúp. Hắc-Hổ tướng quân mang sư Thần-hổ. Hồ Nam sư đệ mang sư Thần-tượng, theo trợ giúp Đào vương phi. Tất cả tới đóng ở Yên-lăng. Đợi khi có lệnh, đem quân đánh chặn đường về của bộ binh Mã Viện. Nhớ chia lực lượng làm hai. Một bộ phận đánh chiếm trại của chúng ở Tam-sơn. Một bộ phận cản bộ binh của Mã. Khi Vương-phi khi chiếm xong trại Tam-sơn, thì kéo về cố thủ tại đây. Thủy quân Mã tất lùi về Tam-sơn. Tôi có kế hoạch tiêu diệt chúng. 

Bà nói với các tướng sĩ: 

– Bây giờ tới chủ lực chính. Chúng ta cần tiêu diệt hết thủy quân Hán, thì các đạo kia phải tan. Mã Viện ở gần, tất y đổ thủy quân vào trước, đóng ở Tam-sơn. Lưu Long tới sau tất đóng ở Quân-sơn. Ta cần tiêu diệt thủy quân Mã Viện trước khi thủy quân Lưu Long tới. Ta dùng hư binh. Đạo thứ nhất do sư muội Đinh Tĩnh-Nương chỉ huy. Sư huynh Trần Quốc-Dũng lĩnh năm dàn Nỏ-thần, với đội Giao-long binh theo giúp. Đây là chủ lực chính đánh thủy quân Lưu Long. Song nhớ đánh cầm chân chúng, để tôi có thì giờ tiêu diệt thủy quân Mã Viện. Sau khi diệt thủy quân Viện, tôi sẽ trở lại, cùng diệt thủy quân Lưu Long. 

Bà gọi Đinh Bạch-Nương, trao binh phù: 

– Sư muội lĩnh nhiệm vụ quan trọng nhất. Nếu sư muội thất bại, coi như ta bị thua. Sư muội được sư huynh Cao Cảnh Khê, đem theo năm dàn Thần-nỏ. Sư đệ Trâu Đen đem theo sư Thần-ưng đánh thủy quân của Mã Viện. Ta sẽ cùng Hắc-Phong quận chúa mang sư Thần-phong, Đào Ngũ-Gia mang thủy quân tiếp ứng. 

Bà hỏi các tướng: 

– Có ai thắc mắc gì không? 

Quách A đề nghị: 

– Sư tỷ! Em thấy mặt trận Tam-sơn rất quan trọng. Mã Viện thân chỉ huy thủy quân, đánh với sư tỷ. Đạo kị binh bộ binh đánh dọc hồ, tất y để lại một số lớn quân mã canh chừng lương thảo, giữ trại. Giữa lúc kị binh, bộ binh, thủy quân của chúng xuất trận, Xích-Hầu cho sư Thần-hầu đốt lương thảo, nhiễu loạn trại của chúng. Trong khi đó sư mẫu của em đánh trại. Binh thư nói: Một người thủ, mười người đánh. Sư mẫu của em có sáu vạn binh. Nếu Mã Viện để lại hai, ba vạn giữ trại thì sao? Nhiệm vụ sư mẫu của em phải đánh trại thực mau, thực gọn. Nếu chậm trễ, bộ binh Mã quay về chỉ có chết. Em nghĩ, mình nên xin viện binh cho ăn chắc. 

Đào vương phi nói: 

– Con ơi, nếu cầu cứu anh Kỳ, thì gửi thư đến Phiên-ngung mất một ngày. Anh Kỳ lệnh đạo Giao-chỉ đến tiếp viện, mất hai ngày. Từ Linh-lăng tới đây, quân phải đi trong hơn mười ngày, làm sao kịp? 

Quách A lắc đầu: 

– Sư mẫu! Con không nói đem đạo quân khác, mà chỉ mượn sư Thần-ưng của đạo Giao-chỉ. Kinh nghiệm trận thủy chiến Xuyên-khẩu, con thấy Thần-ưng quan trọng vô cùng. Sư Thần-ưng của Trâu Đen yểm trợ sư muội Đinh Bạch-Nương. Nếu được thêm sư Thần-ưng của đạo Giao-chỉ, giao cho Xích-Hầu. Xích-Hầu dùng Thần-hầu đốt trại. Trên trời thêm sư Thần-ưng đánh xuống. Như vậy sư mẫu đánh trại Tam-sơn mới chắc ăn. 

Phật-Nguyệt gật đầu: 

– Em minh mẫn hơn ta. Được, ta viết thư ngay cho Đào Phương-Dung. Nếu đem sư Thần-ưng từ Linh-lăng đến đây, chỉ cần một ngày một đêm. 

Bà cầm bút viết thư. Sún Hô ra lệnh cho Thần-ưng đi. 

Trong khi đó, các cánh quân lục tục lên đường. Phật-Nguyệt đi bản dinh đến ghềnh Tương-giang. Khoảng canh năm sáng hôm sau, đoàn Thần-ưng tuần phòng kêu ré lên báo hiệu. Sún Hô lên cột buồm nhìn về phía nam. Chàng kêu lớn: 

– Sư tỷ! Sư Thần-ưng đạo Giao-chỉ tới rồi. Thần-ưng tuần phòng báo cho mình biết trước. 

Quả nhiên hơn giờ sau, sáu đoàn Thần-ưng từ phía nam bay tới. Mỗi đoàn chia thành lữ một. Hàng lối ngay ngắn. Hai Thần-ưng có nhiệm vụ canh phòng trên không phận hồ Động-đình vỗ cánh bay về nam. Nó kêu lên mấy tiếng như ý bảo đồng bọn Tôi dẫn đường, theo tôi. Nó bay trước. Đoàn Thần-ưng đạo Giao-chỉ bay theo. Tới hồ Động-đình, Quách A cầm tù và thổi ba hồi. Chúng lượn quanh hồ một vòng, rồi đáp xuống các bụi cây gần đó. 

Ba thiếu niên tuổi từ mười lăm đến mười bảy phi ngựa như bay. Người chúng đầy mồ hôi. Sún Hô chỉ chúng giới thiệu với Phật-Nguyệt: 

– Sư tỷ, thằng mặc áo xanh là Trâu Xanh. Thằng mặc áo trắng là Trâu Trắng. Thằng mặc áo vàng là Cu Bò. Cu Bò nổi tiếng ở dơ nhất vùng Tây-vu. Cả ba thằng tham ăn bậc nhất. Nhưng chúng nó linh lợi, thông minh, lắm mưu nhiều mẹo không biết đâu mà lường. Sư tỷ muốn chỉ huy bọn nó phải làm nghiêm mới được. Chúng nó phá phách khiếp lắm. 

Phật-Nguyệt thắc mắc: 

– Ta nghe nói có Trâu Vàng chứ làm gì có Cu Bò? 

Sún Hô cười: 

– Đúng ra tên nó là Trâu Vàng, nhưng làm gì có trâu vàng? Trâu vàng tức con bò. Vì vậy bọn em gọi nó là Cu Bò. 

Phật-Nguyệt hỏi: 

– Trong ba đứa, đứa nào làm chúa? 

Sún Hô đáp: 

– Thằng Cu Bò làm sư trưởng. 

Ba thiếu niên xuống ngựa hành lễ với Phật-Nguyệt: 

– Công chúa! Bọn em được lệnh sư tỷ Đào Phương-Dung đến trợ chiến với công chúa. 

Đinh Bạch-Nương liếc qua ba đứa trẻ: Dáng dấp khỏe mạnh, da ngăm ngăm đen, ánh mắt chiếu ra tia sáng ngỗ nghịch. Nàng nghĩ thầm: 

– Bọn này e còn phá phách hơn Tây-vu thiên ưng lục tướng hồi xưa nữa. 

Phật-Nguyệt hỏi: 

– Các em có bao nhiêu Thần-ưng? 

Cu Bò kính cẩn thưa: 

– Sáu trăm mười hai. 

Phật-Nguyệt ngắm nhìn Cu Bò: Người nó mập tròn như bao gạo. Mặt mũi khôi ngô tuấn tú. Ngặt một điều, quần áo nó lem luốc dơ bẩn. Áo màu vàng, quần bằng da, chân đi giày đan bằng vải, người tiết ra mùi hôi khó chịu vô cùng, tính Phật-Nguyệt sạch sẽ, bà mỉm cười, lắc đầu. 

Quách A biết ý Phật-Nguyệt, nàng nói: 

– Thằng Cu Bò cái gì cũng được hết. Nó có hai tật: Ăn vụng như chớp, ở bẩn không thể tưởng được. Khúc sông nào nó tắm, thì hơn năm không còn một con tôm, con cá. 

Phật-Nguyệt thấy kỳ lạ hỏi: 

– Ủa tại sao vậy? 

Sún Hô đáp: 

– Nó tắm, ghét của nó đầy hồ, cá, tôm ăn vào, bị trúng độc chết, nổi lều bều. Mỗi năm nó tắm độ ba hay bốn lần gì đó. 

Mọi người biết Quách A nói đùa, cười ầm lên. 

Dáng điệu Cu Bò lịch bịch như con đười ươi. Nó méo miệng trêu Quách A. Bất thình lình Quách A dùng một thế cầm nã thủ, túm ngực Cu Bò liệng lên không. Nó không tránh kịp rơi tòm xuống nước. Một lát nó trồi lên mặt hồ, bơi lõm bõm như chó bơi. Nó ngửa cổ nhìn lên chiến thuyền gọi: 

– Ê! Quách A, chị hại thằng em như thế sao? 

Sún Hô quăng cho nó cái khăn: 

– Mày tắm sạch, tao mới cho mày lên thuyền. 

Đợi Cu Bò tắm xong. Sún Hô thả dây xuống kéo nó lên. Đinh Bạch-Nương ngạc nhiên: Không ngờ Cu Bò khôi ngô đáo để. Tắm rồi, da dẻ sáng láng, trông rõ ra vẻ một công tử đọc sách, chứ không còn giống thằng bé lem luốc nữa. 

Cu Bò hỏi Quách A: 

– Này bà chằng tinh! Có gì ăn không? Đói quá rồi! 

Tính thích trẻ con, Đinh Tĩnh-Nương sai mang ra một giỏ trái cây lớn, đưa cho Cu Bò: 

– Em ăn đi. 

Cu Bò gọi hai thiếu niên thâm trầm ít nói đồng hành với nó: 

– Ê! Trâu Xanh, Trâu Trắng! Chúng mày lại đây ăn với tao. 

Ba đứa ăn một lát, hết sạch giỏ trái cây. Phật-Nguyệt nghĩ: 

– Đúng là trâu! Bọn này ăn khỏe thực. 

Bà sai mang ra một buồng chuối chín nẫu. Buồng chuối có đến mười ba nải, trao cho Cu Bò. Chúng vừa ăn vừa tường trình về khả năng của sư Thần-ưng Giao-chỉ. Nó tường trình xong, thì buồng chuối cũng hết. Đinh Tĩnh-Nương thất kinh hồn vía hỏi: 

– Các em no chưa? 

Cu Bò vỗ bụng: 

– Ăn trái cây mau đói lắm. Chị cho ăn cái gì khác đi. 

Đinh Tĩnh-Nương sai dọn ra một mâm cơm: Ba con cá chép lớn bằng bàn tay rán dòn. Hai bát canh nấu ám cá thực lớn. Ba con bồ câu quay, một đĩa tôm kho lớn. 

Ba đứa không khách sáo, ngồi ăn tự nhiên. Bọn chúng nói với Phật-Nguyệt không chịu dùng danh xưng Hán-Việt sư tỷ, sư đệ. Chúng chỉ dùng tiếng Việt, gọi bằng chị, xưng em. Đôi khi chúng nói lẫn tiếng Mường vào. 

Cu Bò nói: 

– Chị Đào Phương-Dung được thư của chị giữa trưa. Chị ấy triệu hồi bọn em, bắt lên đường khẩn cấp. Hẹn canh năm hôm nay phải tới hồ Động-đình, bọn em đem theo cơm nắm, muối vừng, phi ngựa bất kể sống chết. Tới đây vừa đúng hẹn. Ối chà! Chị Đào Phương-Dung coi bề ngoài nhu nhã, đẹp như tiên... cái gì cũng được hết. Chỉ phải cái tật ra lệnh thì độc tài vô cùng. Sai một tý là có truyện. 

Tuy mải nói, mà chúng vẫn ăn đều đều. Một lát, mâm cơm hết sạch. Cu Bò đứng dậy, không biết nghĩ sao, nó cúi xuống nhìn đĩa cá rán còn nhát, nó cầm lên táp một miếng hết sạch. Nó hỏi: 

– Chị Phật-Nguyệt! chị định giao cho chúng em làm gì? Chị Đào Phương-Dung bảo sắp có trận đánh lớn lắm, cần chúng em trợ giúp. 

Phật-Nguyệt đáp: 

– Các em được đặt dưới quyền Xích-Hầu. Nhiệm vụ của các em nặng nề vô cùng. Các em thành công, trận này ta thắng. Các em thất bại, trận này ta bại. Trận này ta thắng, thì Lĩnh-Nam còn. Trận này ta bại thì Lĩnh-Nam mất. 

Bọn Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng không dám đùa nữa. Chúng nó tự biết trách vụ. Vội vàng lên ngựa. Ngựa đi được mấy bước, không biết nghĩ sao, Cu Bò thụt lùi lại, ghé miệng vào tai Đinh Bạch-Nương nói nhỏ mấy câu. Đinh Bạch-Nương phì cười, sai người đem cho nó một giỏ trái cây. Nó đeo vào lưng rồi ra roi cho ngựa phi: 

– Lẹ! Lẹ lên. 

Ngựa phi như gió. Trên đầu Thần-ưng bay là là theo chúng. Phật-Nguyệt nhìn theo ngơ ngẩn xuất thần một lúc, nói: 

– Tuổi trẻ vô tư, trong sáng. Chúng giống như tấm lụa trắng. Tấm lụa trở thành quần áo đẹp hay xấu, do thợ may. Bọn này được Hồ Đề huấn luyện, đem tình yêu nước, đem nhiệm vụ thiêng liêng dạy chúng, chúng sớm trở thành đại tướng. 

Chiều hôm sau, tin tế tác từ bắc sông Trường-giang, do Thần-ưng mang về báo cho biết: Mã Viện tập trung ba trăm chiến thuyền lớn, gồm sáu vạn Thủy-quân, năm vạn kị binh, bảy vạn bộ binh. Chuẩn bị vượt sông trong đêm. Bất thình lình đổ vào hồ Động-đình. Đi theo Mã Viện có Chu Long, Trịnh Sư, Ngô Anh, Mã Anh. 

Đinh Bạch-Nương hỏi: 

– Lai lịch bọn tướng này ra sao? 

Phật-Nguyệt giảng: 

– Chu Long, Trịnh Sư, Ngô Anh là ba trong Liêu-đông tứ ma. Mã Anh là em ruột Mã Viện. Mã Anh võ công không kém gì Mã Viện. Y có tài dùng binh. Còn ba tên trong Liêu-đông tứ ma, chỉ có võ công cao mà thôi. Võ công của chúng ngang với Lê Đạo-Sinh. Riêng Chu Long, bản lĩnh y ngang với Khất đại phu và Đào Kỳ. 

Đinh Bạch-Nương chống kiếm nhìn lên trời cười: 

– Mã Viện khinh địch quá. Y tưởng đổ bộ đêm, ắt ta không biết. Nếu suy nghĩ một chút, y cũng đoán ra rằng: Dù tế tác của chúng ta có dở chăng nữa, thì đoàn Thần-ưng trinh sát của ta cũng khám phá ra. 

Phật-Nguyệt lắc đầu: 

– Em lầm rồi! Người hiểu, biết chúng ta nhiều hơn ai hết chính là Mã Viện. Mã muốn đổ bộ, ắt cho tế tác dọ thám. Y thấy ta đem quân đến vùng Hạ-khẩu, Du-giang, y cho rằng ta không đủ quân dàn ra phòng thủ hồ Động-đình. Ý định của Mã là đánh chiếm hồ Động-đình. Khiến hai cánh Du-giang, Hạ-khẩu mất đường về. Y có ngờ đâu hai cánh kia của ta là hư. Hồ Động-đình là thực. Nhược bằng y cho hồ Động-đình là thực, lập tức ta biến thành hư. Đạo dùng binh đừng nhất thiết đâu là hư đâu là thực. Tốt hơn hết ta cứ dàn ra. Chúng cho rằng hư, ta biến thành thực. Chúng cho rằng thực, ta biến thành hư. 

Bà truyền Đinh Tĩnh-Nương thông tin cho các nơi biết. 

Suốt đêm Thần-ưng liên tiếp loan báo tình trạng vượt sông Trường-giang của quân Hán. Đến hết canh tư, Xích-Hầu báo tin về: Quân Hán từ bờ sông Trường-giang, chiếm đóng khu bắc hồ Động-đình. Bộ binh, kị binh đóng dài từ Thạch-đầu tới Tam-sơn. Lương thực, chứa tại Tam-sơn. Chiến thuyền đang di chuyển vào hồ. Trên bờ sông chỉ còn hai mươi chiếc, tuần phòng. 

Phật-Nguyệt ra lệnh các nơi án binh bất động. Bà truyền lệnh tới Vi Lan, Xích-Hầu: 

Tuần tiễu dọc bờ hồ, giết tất cả bọn tế tác Hán.Như vậy Mã Viện sẽ như người mù vì y không biết tin tức của ba đạo thủy quân ở phía nam hồ. 

Bà gửi thư cho Đào vương phi, Quách Lãng, truyền binh sĩ ăn cơm, đi ngủ sớm. Canh hai sẽ di chuyển dọc theo bờ sông, tiến dần về bờ hồ chờ đợi. Lúc sáng, Mã Viện cho bộ binh, kị binh đánh xuống nam, hãy tiến về chặn hậu. 

Cho đến chiều, vẫn chưa thấy tin tức đạo binh Lưu Long. Phật-Nguyệt lo lắng trong lòng: 

– Không lẽ Lưu Long từ Hạ-khẩu, vượt sông đánh Giang-hạ? Như vậy đạo quân của Quách Lãng nguy mất? 

Sang canh năm, Thần-ưng báo cho biết: Đã thấy đoàn thuyền từ Hạ-khẩu đang tiến tới. Vì nước sông Trường-giang chảy siết, đạo quân Lưu Long tiến rất chậm. Còn đạo bộ binh, kị binh Mã Viện do Chu Long chỉ huy, men theo bờ phía Tây của hồ, đang tiến xuống nam. 

Bấy giờ Phật-Nguyệt mới cho đoàn chiến thuyền của Đinh Tĩnh-Nương khởi hành, men theo bờ hồ phía đông tiến đến Quân-sơn. Còn đoàn thuyền của Đinh Bạch-Nương với của bà thì vẫn án binh bất động. 

... 

Từ năm ngày qua, Xích-Hầu dẫn sư Thần-hầu đến trấn đóng khu bắc hồ Động-đình từ bờ sông tới núi Tam-sơn. Nói rằng sư cho oai, chứ thực sự lực lượng của chàng chỉ có sáu trăm Thần-hầu, với trăm tráng sĩ Tây-vu. Tuổi của họ từ mười lăm tới hai mươi, người nào cũng sống ở rừng núi từ nhỏ. Đêm mắc võng lên cây ngủ, ngày leo trèo, truyền từ cây nọ sang cây kia như vượn. 

Khi Thần-ưng thám sát của chàng báo cho biết quân Hán vượt sông đổ bộ, chàng cho lực lượng lui vào rừng ẩn, dùng Thần-ưng, Ngao-thần theo dõi. Đến khi toàn quân Hán đổ bộ xong, đoàn chiến thuyền Mã Viện vào hồ Động-đình, chàng đã biết được hết đường đi, lối lại, tổ chức doanh trại quân Hán. Được lệnh Phật-Nguyệt án binh bất động, chàng lo lắng vô cùng. Vì với một đoàn Thần-hầu sáu trăm con, trăm tráng sĩ, ẩn thân trong rừng rất khó khăn. 

Chàng đợi kị binh, bộ binh Hán lên đường. Sau đó các chiến thuyền nhổ neo vượt hồ, bấy giờ chàng sẽ ra tay. Chàng tính toán: 

– Không biết chúng sẽ để lại bao nhiêu chiến thuyền? Bao nhiêu cao thủ võ lâm? Bao nhiêu quân sĩ giữ trại? Nhiệm vụ của ta, là phải đốt dinh trại, kho lương thực, đánh tập hậu, để Đào sư bá đánh chiếm doanh trại. Cuộc đánh chiếm chỉ hạn định có hai giờ. Sau hai giờ, cần củng cổ đồn trại, ăn uống, nghỉ ngơi hai giờ nữa. Bấy giờ quân Hán trở lại cứu hậu cứ, sẽ có trận đánh kinh khủng. Địch có tới bảy vạn bộ binh, năm vạn kị binh. Trong khi Đào sư bá chỉ có bốn vạn bộ, hai vạn kị, với sư Thần-tượng, Thần-hổ và sư Thần-hầu của ta. 

Chàng suy tính: 

– Hồi đánh trận Trường-an, sư tỷ Phương-Dung đã nói: Tây-vu là lực lượng chính. Rồi trận chiến xảy ra. Liên quân Việt, Thục đánh ta hai mươi vạn quân Hán. Bây giờ Phật-Nguyệt cũng nói: thắng, bại trận này, do lực lượng Tây-vu, mà trận này thắng Lĩnh-Nam còn, trận này bại, Lĩnh-Nam mất. 

Chàng nảy ra quyết định: 

– Đánh xả láng! Dù ta với toàn sư Thần-hầu phải hy sinh. Khổ một điều, không biết sự hy sinh này có đem lại kết quả không? Ừ ! Chết hết thì chết hết, miễn sao đốt được lương thảo, để Đào sư bá chiếm trại Hán. Ta phải làm sao bây giờ? Tây-vu thiên ưng lục tướng được sư bá Đào Thế-Kiệt nhận làm đệ tử. Sau trận đánh Long-biên Lục-hầu tướng cũng được sư phụ Đinh Đại thu làm đệ tử. Ta không thể làm mất thể diện sư môn. Ta... làm tướng bọn khỉ, song ta gọi Thái-hậu Hoàng Thiều-Hoa, tể tướng Phương-Dung, Bắc-bình vương Đào Kỳ bằng sư huynh, sư tỷ, danh dự ta không nhỏ. 

Hình ảnh trận Trường-an lại hiện về: Quân Hán đông hơn liên quân Việt-Thục. Phương-Dung chia lực lượng Hán ra nhiều nơi. Còn liên quân Việt-Thục tập trung lại đánh vào Trường-an. Hơn nữa, nhờ vào đội Thần-hầu đốt cháy cung điện trong thành, khiến quân Hán bỏ chạy 

Chàng quyết định: 

– Vậy mình chia làm sáu đạo khác nhau. Đạo thứ nhất gồm mười đội. Mỗi đội mười Thần-hầu, đột nhập đốt kho lương thực đầu tiên. Kho lương thực cháy, giặc tất kéo đến chữa lửa. Đạo thứ nhì, gồm mười đội, leo lên các cành cây, dọc đường, chăng dây bắt hết bọn kị mã chạy theo báo tin cho đám bộ binh, kị binh Chu Long. Bốn đạo nữa, đột nhập, đốt cháy tất cả doanh trại còn lại. Khi giặc rối loạn, kinh hoàng, tất bỏ chạy ra bờ sông, leo lên chiến thuyền. Còn chiến thuyền, ta phải làm sao, đừng để chúng chạy thoát mới được? 

Trong đầu óc chàng loé lên một ánh sáng: 

– Ta cho một đội Thần-hầu, bí mật xuống các chiến thuyền cắt dây buồm, dây buộc chèo vứt xuống sông. Khi doanh trại cháy, bọn lính giữ trại chạy tản mát vào rừng. Ta cho Thần-hầu giết chết. Còn tên nào chạy xuống chiến thuyền thì chiến thuyền, dây buồm, dây chèo đứt, trôi lềnh bềnh vô dụng. 

Trời chập choạng tối, chàng tập họp các tráng sĩ Tây-vu lại, phân nhiệm vụ: Đạo nào xuống chiến thuyền cắt dây buồm, dây chèo. Đạo nào đốt kho lương thực. Đạo nào đốt doanh trại. Một mặt chờ cho kị binh, bộ binh, thủy quân Hán lên đường, lập tức ra lệnh xuất phát. 

Bỗng Thần-ưng đem thư đến báo tin sư Thần-ưng Giao-chỉ sắp tới yểm trợ chàng. Chàng mừng rỡ, lên cây cao nhìn về phương nam. Đoàn Thần-ưng bay rợp trời. Một lát sau, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng tới. Ba đứa vừa xuống ngựa đã hỏi: 

– Anh khỉ đít đỏ ơi! Đói quá, có gì ăn không? 

Xích-Hầu đã trải qua cái tuổi mười lăm, mười bảy, ăn không bao giờ no. Chàng mỉm cười, sai mang cho mỗi đứa một con gà rừng nướng: 

– Này, ăn đi, rồi nhận lệnh. 

Chàng trình bày sơ lược đồn trú đoàn trại Hán cho bọn Cu Bò nghe: 

– Thằng Mã Viện có năm vạn kị binh, bảy vạn bộ binh, sáu vạn thủy binh, ba trăm chiến thuyền. Ấy là chưa kể lực lượng bộ phía bắc Trường-giang. Không biết chúng sẽ để lại bao nhiêu chiến thuyền, kị binh, bộ binh giữ hậu cứ. Chúng ta cần đột nhập dinh trại Hán, đốt dinh, đốt kho lương, đánh tập hậu, để cho Đào sư bá tấn công. Sau khi chiếm trại xong, lập tức tổ chức bố phòng. Vì khi nghe tin bị chặn hậu, tất chúng đem toàn lực về đánh xả láng. Nhiệm vụ chúng ta nặng lắm chứ không vừa đâu. 

Trâu Xanh bàn: 

– Thằng Mã Viện đã biết lợi hại của Thần-ưng. Bây giờ chúng em ra lệnh không cho Thần-ưng bay lượn, dấu dưới các chòm cây. Có thế thằng Mã Viện mới bị bất ngờ. 

Xích Hầu hài lòng, nói: 

– Được! Em làm ngay đi. 

Trâu Xanh đứng lên, cầm tù và thổi, ra lệnh cho Thần-ưng đáp xuống cánh rừng. Chỉ một lát, không còn con nào bay trên trời nữa. 

Xích-Hầu hỏi Cu Bò: 

– Cu Bò, em có mang theo lương thực cho Thần-ưng không? 

Cu Bò cười: 

– Anh hỏi dở bỏ mẹ đi í. Cứ để Thần-ưng đói. Đêm nay chúng sẽ lăn xả đớp thịt quân Hán. Việc gì phải mang lương thực cho kềnh càng. 

Xích-Hầu dặn anh em: 

– Các em ở đây. Ta với Cu Bò, đi thám thính một lần nữa. 

Chàng dẫn Cu Bò, truyền theo cành cây, đến gần trại Hán. Hai người ngồi trên cao quan sát động tĩnh, di chuyển của quân địch. 

Chàng nhìn ra mặt sông: Một chiến thuyền từ bên kia vừa cặp bến. Đầu cầu bắc lên. Từ dưới chiến thuyền, mười võ sĩ áp giải hai tù nhân, một nam, một nữ bị trói lên bờ. Xích-Hầu kinh ngạc tự hỏi: 

– Tù nhân nào, mà lại giải đến đây? Nếu tế tác mới bắt được của Lĩnh-Nam thì phải giải về bắc mới đúng chứ? 

 Chàng truyền từ cây nọ đến cây kia, ra sát bờ sông quan sát. Chàng giật bắn người lên. Vì hai người bị trói, nam chính là Đào Quí-Minh, nữ là công chúa Vĩnh-Hòa. Đối với Đào Quí-Minh, chàng phải gọi bằng sư huynh. Quí-Minh là con của Đào Thế-Hùng. Đào Thế-Hùng là sư huynh Đinh Đại. Tây-vu Lục-hầu tướng được Đinh Đại nhận làm đệ tử. Thành ra chàng thành sư đệ, Quí-Minh thành sư huynh. Chàng kinh hoàng nói với Cu Bò: 

– Sư huynh Quí-Minh đang làm phó thống lĩnh đạo binh Tượng-quận. Cách đây mười ngày, có tin đạo Tượng-quận vượt Độ-khẩu vào đất Thục, giúp Vương Nguyên dẹp Công-tôn Thi. Tại sao sư huynh lại bị bắt? Chúng giải sư huynh tới đây làm gì? 

Cu Bò bàn: 

– Chúng ta lẻn vào trại Hán, giải cứu anh Đào Quí-Minh. Này anh khỉ đỏ đít, tại sao anh Quí-Minh lại bị bắt một lượt với công chúa Hán? 

Xích-Hầu giải thích: 

– Em không biết đấy thôi. Anh Đào Quí-Minh gặp công chúa Vĩnh-Hòa trong lần đại hội hồ Động-đình. Trai tài gái sắc gặp nhau, tình ý nảy sinh là truyện thường. 

Cu Bò không chịu: 

– Vô lý, tại sao công chúa Vĩnh-Hòa không thích người khác, mà lại thích anh Quí-Minh? Tại sao hai người lại bị quân Hán trói. Lính Hán trói công chúa của họ thì thực là kỳ quái. 

Xích-Hầu ra lệnh cho Cu Bò im lặng. Hai người lui về ven rừng gọi Trâu Xanh, Trâu Trắng dặn dò chi tiết đề phòng, ứng phó với mọi biến cố cẩn thận, rồi lấy túi đựng trăn, đeo vào lưng. Chàng truyền dần đến trại Hán. Hai tên quân Hán đang đi trong rừng. Dường như ý tìm chỗ đại tiện. Từ trên cây, chàng đu mình đáp xuống cạnh y. Hai tay túm cổ chúng đập vào nhau bộp một tiếng. Hai tên quân chết giấc. 

Chàng ra hiệu cho Cu Bò lột quần áo tên quân Hán mặc vào. Hai người vượt hàng rào, hướng căn trại giam Quí-Minh tiến tới. Căn trại làm ngay dưới một gốc cây lớn. Hai người truyền cành cây dùng dao đục thủng lỗ trại nhìn vào bên trong: Mã Viện ngồi trước án thư. Cạnh đó hai vệ sĩ đeo gươm đứng hầu. Đào Quí-Minh, công chúa Vĩnh-Hòa bị trói ngồi dưới đất. 

Mã Viện lên tiếng: 

– Đào Quí-Minh, mi tự thị giòng dõi anh hùng họ Đào đất Cửu-chân, mi cùng Hiển-Hiệu thống lĩnh đạo binh Tượng-quận, giúp Thục đánh Hán. Bây giờ, bị bắt. Mi tính sao đây? 

Đào Quí-Minh cười nhạt: 

– Còn tính sao nữa. Ta đã bị bắt, mi chém ta đi cho rồi. 

Mã Viện cười khanh khách: 

– Ta không chém ngươi. Thái hậu truyền đem ngươi đến đây. Ngày mai khi đánh xuống Trường-sa, ta sẽ đem ngươi đổi lấy Ngọc-tỷ truyền quốc. 

Công chúa Vĩnh-Hòa quát hỏi: 

– Tên Mã Viện kia, ngươi dám vô lễ với ta thế này ư? 

Mã Viện chỉ mặt công chúa mắng: 

– Trước đây, mi ỷ là công chúa, lên mặt với chúng ta bao phen. Nay mi theo tên phản tặc Đào Quí-Minh, đâu còn là tư cách công chúa nữa? Ngày mai ta sẽ đem mi đổi lấy ba đệ tử của Nam-sơn hùng vương. Trước khi đem đổi, ta còn một điều muốn hỏi mi: Khi rời Giao-chỉ đi Tượng-quận, mi được Trưng Nhị giao cho Ngọc-tỷ truyền quốc. Vậy Ngọc-tỷ mi để đâu? 

Công chúa Vĩnh-Hòa lắc đầu: 

– Không có truyện đó! Ta chưa hề nghe thấy qua Ngọc-tỷ truyền quốc. Nếu thấy, ắt ta đưa về triều dâng Thiên-tử rồi. 

Mã Viện cười nhạt: 

– Được, mi không nói ư? Ta có cách cho mi phải nói. Ta cho mi suy nghĩ một ngày. Nếu ngày mai, mi không nói. Ta có biện pháp thảm khốc cho mi, thử xem mi còn cứng đầu được không? Ta lột trần truồng mi, đem cho một trăm tên quân hiếp mi. Bấy giờ mi còn tự cao tự đại với cái mã công chúa của mi nữa không? 

Mã Viện hỏi Đào Quí-Minh: 

– Ta biết Trưng Nhị đang giữ trong tay tấm bản đồ chứa kho tàng Trung-nguyên. Trưng Nhị giao cho công chúa Vĩnh-Hòa, đem đến hồ Động-đình cùng Phật-Nguyệt khai quật. Nhưng thay vì đi hồ Động-đình ngay, y thị đến Tượng-quận thăm mi, đến nỗi cả hai bị bắt. Hai đứa bay đã vào tay ta, liệu mà khai ra bí mật về kho tàng, mới mong sống sót. Bằng chúng bay bướng bỉnh, ta chặt chân, chặt tay, khoét mắt, cắt lưỡi chúng bay. Thử xem chúng bay có còn bướng được không? 

Đến đó, một viên tướng vào nói với Mã Viện: 

– Đạo kị binh, bộ binh đang xuất phát. Còn thủy quân đã chuẩn bị. Mời đại tướng quân khởi hành. 

Mã Viện đứng dậy đeo kiếm vào lưng, thủng thỉnh bước ra khỏi căn trại. Y quay lại dặn hai tên vệ sĩ: 

– Mi phải trông coi cẩn thận. Chớ có rời khỏi chỗ, để hai tù nhân thoát khỏi, ta sẽ chặt đầu mi. 

Nói rồi y lên ngựa ra đi. 

Hai vệ sĩ giữ trại, chia nhau: Một tên gác ngoài. Một tên vào trong. Chúng ôm đao, ngồi dựa vào cột lim dim ngủ. 

Cu Bò nói khẻ vào tai Xích-Hầu: 

– Mã Viện đi rồi, chúng ta mau xuống cứu anh Đào Quí-Minh. 

Xích-Hầu gật đầu: 

– Chúng ta dùng trăn bắt sống hai tên này, tra khảo, mới biết rõ tình hình bên Hán. 

Hai người tụt xuống gốc cây, mở cái túi da, thả bốn con trăn cho chúng bò gần đến trại. Thình lình Cu Bò huýt sáo một tiếng lớn. Bốn con trăn vọt lên quấn hai tên vệ sĩ. Cu Bò nhảy lên, nhét dẻ vào mồm chúng. Xích-Hầu trói chúng lại, rồi thu trăn về túi. 

Đào Quí-Minh, công chúa Vĩnh-Hòa thấy hai tên quân Hán sai trăn quấn đồng bọn, rồi trói lại. Hai người suýt bật thành tiếng kêu. Thì Xích-Hầu ra hiệu im lặng. Chàng lên tiếng: 

– Đào sư huynh. Xích-Hầu, Cu Bò đây. 

Bây giờ Đào Quí-Minh mới nhận ra sư đệ. Xích-Hầu đưa hai lưỡi kiếm, dây trói Đào Quí-Minh với công chúa Vĩnh-Hòa bị đứt hết. 

Quí-Minh hỏi: 

– Đây là đâu? Ta bị bắt, chúng giải đến đây, không hiểu gì cả. Tại sao sư đệ với Cu Bò biết mà đến cứu ta? 

Cu Bò đáp: 

– Đây thuộc Trường-sa, bắc hồ Động-đình. 

Xích-Hầu tường thuật tất cả mọi biến chuyển của mặt trận cho Đào Quí-Minh nghe. Chàng hỏi: 

– Tại sao sư huynh bị bắt? 

Đào Quí-Minh thuật: 

– Ta đang cùng đại ca đem quân đánh vào Thành-đô, thì công chúa tới thăm ta. Chúng ta dạo chơi xem thắng cảnh, thình lình bị mười hai tên cao thủ bao vây. Ta tả xung hữu đột, giết chết bốn tên, đánh bị thương năm tên. Cuối cùng cả hai bị bắt. Ngô Hán vốn có cảm tình với anh Kỳ, y sai đóng tù xa đưa ta về Lạc-dương, hy vọng Hàn thái hậu cứu ta. Không hiểu sao, chúng lại đưa ta đến đây đổi lấy Ngọc-tỷ? 

Xích-Hầu bàn: 

– Sẵn có sư huynh, công chúa ở đây. Xin sư huynh trợ chiến với bọn em, không biết có được không? 

Đào Quí-Minh đồng ý: 

– Ta sẵn sàng. Chúng ta hãy thẩm vấn hai tên vệ sĩ này, để biết tình hình quân Hán đã.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 16 : Tích trù Động-đình uy trấn Hán,Danh lưu thiên cổ, lực phù Trưng.(Câu đối ở đền thờ Phật-Nguyệt)

 Mọi người vượt hàng rào, biến vào rừng. Xích-Hầu, Cu Bò vọt lên cây. Mỗi người cắp một tù nhân, đu từ cành này qua cành kia nhanh như vượn. Còn Đào Quí-Minh với công chúa Vĩnh-Hòa phải men theo gốc cây mà đi. Thoắt một cái, đã tới bản dinh Xích-Hầu. Quí-Minh ra lệnh: 

– Trâu Xanh, em lên ngọn cây sai Thần-ưng theo dõi thủy quân của Mã Viện, khi thấy chúng khởi hành, báo cho anh biết. 

Ông gọi Trâu Trắng: 

– Em sai Thần-ưng trinh sát. Khi đoàn bộ binh, kị binh trong trại Hán xuất hết. Báo cho anh biết. 

Hai thằng Trâu vâng lệnh đứng lên. Chúng không quên nhắc theo mấy nải chuối hương. Chúng hú lên một tiếng, truyền từ cành cây đu như vượn. Phút chốc, chúng đã đứng trên cây cao chót vót, huýt sáo sai Thần- ưng. 

Đào Quí-Minh bảo Cu Bò: 

– Em thẩm vấn hai tên tù binh này đi. 

Cu Bò vâng lệnh. Nó cởi trói cho hai tên quân Hán. Vừa được tự do. Cả hai tên đồng xuất chưởng đánh nó. Kinh hoảng, nó lăn người đi tránh khỏi. Hai tên quân Hán lại hướng Đào Quí-Minh tấn công. Ông lạng người đi một cái, chụp hai tên liệng xuống đất. Chúng đau quá, nằm rên rỉ. 

Cu Bò nổi quạu chửi tục om sòm. Nó dùng dây trói hai tên binh Hán vào gốc cây, rồi mở túi lấy ra hai con rắn lục, nhỏ bằng ngón tay. Nó tung rắn vào người hai tên Hán. Hai con rắn táp vào má hai tên này liền. Máu rỉ rỉ nhỏ xuống thành giọt. Cu Bò cất rắn đi nói: 

– Tao nói cho tụi bay rõ: Con rắn táp chúng mày vừa rồi, thuộc loại kịch độc ở đất Lĩnh-Nam. Nếu không có thuốc giải, chỉ một giờ sau, chúng mày sẽ được yết kiến Lưu Bang. Chúng mày chắc biết Lưu Bang chứ? Vậy tao hỏi câu nào, chúng bay phải khai cho đúng. Bây giờ, hai đứa nghe cho rõ. Lưu Bang là ai? 

Tên béo mập đáp: 

– Thưa biết! Lưu Bang là Cao tổ nhà Hán. 

Nó hỏi tên béo mập: 

– Mi tên gì? Chức vụ của mi ra sao? 

Tên béo mập đáp: 

- Tôi họ Hoàng tên Qui. Tôi nguyên giữ chức lữ trưởng, được Mã Viện gọi về làm vệ sĩ. 

Cu Bò cười hô hố: 

– Con bà mi! Thiếu gì tên mà cha mi không đặt, lại đặt là rùa. Con rùa thì có gì hay ho đâu? 

Nó hỏi tên cao, gầy: 

– Còn mi? 

– Tôi tên Vũ Chế. Hiện giữ chức lữ trưởng bộ binh. 

Cu Bò nói lớn: 

– Tao hỏi, đứa nào nói đúng, sẽ được tha tội chết. Mã Viện để lại bao nhiêu kị binh, bộ binh, thủy binh. Ai chỉ huy hậu cứ? 

Vũ Chế trả lời trước. 

– Hai ngàn kị binh, ba vạn bộ binh, hai ngàn thủy binh. Tất cả do Mã Anh chỉ huy. Mã Anh trước kia là Thái thú Trường-sa. Sau khi Trường-sa thất thủ, bị giáng xuống còn sư trưởng. Hiện này y được phục hồi chức vị Hổ-oai đại tướng quân. 

Hoàng Qui xen vào: 

– Tiểu nhân biết hơn Vũ Chế: Ở bên kia sông còn ba vạn kị binh, sáu vạn bộ binh, ba vạn thủy binh nữa. 

Đào Quí-Minh hỏi chi tiết quân tình Mã Viện, rồi viết thư thuật tỷ mỉ, sai Thần-ưng mang tin cho Phật-Nguyệt. Ông bảo Xích-Hầu, Cu Bò: 

– Nào! Chúng ta chuẩn bị đánh phá trại Hán. Trước hết Cu Bò trách nhiệm chỉ huy trăm Thần-hầu, hai trăm Thần-ưng, trấn ở bờ hồ. Không cho Thủy-quân lên bờ. 

Cu Bò hỏi: 

– Em có trăm Thần-hầu, hai trăm Thần-ưng mà đánh với hai ngàn thủy quân, làm sao đương nổi? 

Quí Minh cười: 

– Anh có bảo em giết hết hai ngàn đứa đâu. Chỉ cần làm cho thủy quân tê liệt, không thể lên bờ cứu trại Hán mà thôi. Chúng để lại hai mươi chiến thuyền. Em cứ nhè chiến thuyền nào bơi gần bờ, cho Thần-ưng đánh. Trong đêm tối Thần-ưng thấy lính Hán. Lính Hán không thấy Thần-ưng, thực quá dễ dàng. 

Ông hỏi Xích-Hầu: 

– Nhiệm vụ của em rất khó khăn: Em cho Thần-hầu cắt dây leo ở rừng thực nhiều. Canh ba đêm nay, em cùng Thần-hầu đột nhập khu chuồng ngựa, lấy cỏ cột lên lưng ngựa sẵn sàng. Khi thấy lửa cháy ở kho lương. Lập tức cắt dây cột ngựa, dùng lửa đốt các bó cỏ trên lưng chúng. Ngựa bị nóng, chạy náo loạn trong trại. Như vậy không những làm tê liệt hết kị binh giữ trại, mà dùng ngựa đốt trại Hán. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lập tức chiếm lĩnh khu bắc trại. Em cần dùng bao nhiêu Thần-ưng để bảo vệ Thần-hầu thi hành nhiệm vụ. 

Xích-Hầu đáp: 

– Hai ngàn kị binh, em cần hai trăm Thần-hầu. Mỗi Thần-hầu đốt mười con ngựa. Xin cho em một trăm Thần-ưng phòng vệ. 

Đào Quí-Minh gọi Trâu Xanh, Trâu Trắng: 

– Chúng ta còn ba trăm Thần-ưng. Mỗi em lĩnh một trăm năm mươi. Các em kiếm các cây cao, chỉ huy Thần-ưng. Nhớ đừng để lộ chỗ ẩn núp. Trâu Xanh đánh mặt đông, Trâu Trắng đánh mặt tây. Ta đánh mặt nam. Ta chỉ huy ba trăm Thần-hầu, xung phá mặt nam, đốt kho lương. 

Phân phối xong, ông viết thư, sai Thần-ưng báo cho Đào vương phi: 

Khi thấy trại Hán có khói bốc lên, xin khởi sự. 

Trời bắt đầu về khuya. Quí-Minh, Xích Hầu, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng ngồi truyện trò. Trâu Xanh, Trâu Trắng tuy nói truyện, song chúng không quên nhìn lên không theo dõi đám Thần-ưng trinh sát. Cu Bò hỏi Đào Quí-Minh: 

– Anh Quí-Minh này! Em nghe nói phái Cửu-chân, người nào cũng đầy lòng yêu nước. Ai cũng muốn được chết cho Lĩnh-Nam có đúng không? 

Quí-Minh nhìn Cu Bò, mặt mũi khôi ngô, nói năng lễ phép. Chỉ hiềm cái nó dơ bẩn quá, tuy vậy nghe nó hỏi một câu đúng đạo nghĩa. Ông ngồi ngay ngắn lại trả lời: 

– Đúng đó! Từ hôm khởi binh đến giờ, Đào gia tuẫn quốc đã nhiều. Bác cả vì vui mà qua đời không kể. Sún Cao tự nguyện tuẫn quốc. Bố anh tuẫn quốc cùng một lúc với chị Hồng-Thanh. Chị Hồng-Thanh tuẫn quốc, làm cho anh Hiển-Hiệu ưu sầu không nguôi. 

Cu Bò hỏi: 

– Em nghĩ anh Hiển-Hiệu tước phong tới quốc công, thân làm đại tướng trấn ngự biên cương. Chị Hồng-Thanh tuẫn quốc, anh í có thể lấy vợ khác. Thiếu gì con gái trong thiên hạ, đàn ông năm thê bảy thiếp là truyện thường mà. Việc gì mà ưu sầu cho nó khổ thân. 

Đào Quí-Minh cười: 

– Em không hiểu đấy thôi. Để anh nói cho mà nghe. Thời Hùng-vương, quốc phong nước ta, trai gái đều được trọng, tuy không đặt thành luật, nhưng trong dân gian vẫn chỉ có chế độ một vợ một chồng. Đến đời vua An-Dương vương, văn hóa Trung-nguyên truyền vào, mới có tục vua, quan, nhà giàu lấy nhiều vợ. Luân lý Khổng-Mạnh cho rằng: Con gái là con người ta. Đàn bà không có quyền gì cả. Thậm chí một ông quan ngoài vợ lớn, còn có hàng chục vợ nhỏ, nàng hầu. Vợ chồng lấy nhau như vậy, còn đâu là tình yêu nữa. 

Cu Bò không hiểu gì về tình yêu, nó ngắt lời: 

– Tình yêu là gì? Em không hiểu. Tại sao vợ chồng lấy nhau phải có tình yêu? Chị Hồ Đề dạy bọn em phải yêu Lĩnh-Nam. Yêu sư phụ, và yêu bạn hữu. Chị ấy đâu có dạy yêu vợ? Thế sau này em lấy vợ cũng phải yêu vợ à? 

Quí-Minh không biết rả lời sao. Ông nói lảng: 

– Khi xa bạn bè em có nhớ chúng không? Khi nó đau yếu em có tội nghiệp nó không? Đó là tình yêu. Sau này lớn lên, em sẽ biết tình yêu vợ chồng là gì. Thôi để anh nói tiếp: Trong suốt hai trăm năm nội thuộc Hán, đất Lĩnh-Nam cũng bị ảnh hưởng của họ trong vấn đề vợ chồng. Bây giờ Lĩnh-Nam phục hồi chị Phương-Dung làm tể tướng, soạn luật, khẳng định: Duy trì chế độ một vợ một chồng. Khi vợ hay chồng chết, hết thời gian cư tang, mới được lấy người khác. 

Cu Bò không chịu: 

– Em biết rồi! Thì chị Hồng-Thanh chết đã một năm. Anh Hiển-Hiệu có quyền lấy vợ khác mà? 

Quí-Minh lắc đầu: 

– Trên thế gian, ái tình là cái chi chi, không ai định nghĩa được. Đại ca Trần Tự-Sơn, gặp sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa, là yêu nhau ngay. Gần mười lăm năm qua, đại ca sủng ái sư tỷ cùng cực. Đại ca sẵn sàng bỏ địa vị quốc công, bỏ hết tất cả để đổi lấy sư tỷ. Cho đến khi có thể làm Hoàng Đế, người cũng bỏ hết, cùng sư tỷ ngao du mây nước. Lại như sư huynh Đô Dương, đang làm Thái-thú, tước phong tới hầu. Thấy sư tỷ Giao-Chi, người bỏ tất cả, để được mối nhu tình. Bây giờ anh Hiển-Hiệu thấy trên thế gian không còn người đàn bà nào, khiến anh ấy có thể thương được nữa. 

Trâu Xanh xen vào: 

– Hôm trước nghe chị Đào Phương-Dung nói rằng: Lĩnh-Nam không hãnh diện vì có ba nhân tài Trần Tự-Sơn, Đô Dương, Đào Hiển-Hiệu, mà hãnh diện vì có ba người thuộc giống đa tình. Bây giờ em mới hiểu. 

Cu Bò hỏi công chúa Vĩnh-Hòa: 

– Em hiểu rồi! Chắc vì vua quan người Hán, năm thê bảy thiếp, không có giống đa tình vì vậy công chúa mới ưng anh Quí-Minh phải không? À anh Quí-Minh, anh cũng phải đối đáp lại với công chúa sao cho phải đạo đấy nghe! 

Quí-Minh nắm tay công chúa Vĩnh-Hòa: 

– Anh chỉ là một tên nhà quê ở đất Cửu-chân, văn không giỏi, võ không cao. Được công chúa đoái tưởng đến anh, chẳng qua vì anh thuộc loại đa tình. Anh có thể vì nàng mà hy sinh. Anh làm tất cả những gì, trên thế gian này, mà người đàn ông có thể làm cho người đàn bà, để đền đáp mối nhu tình của nàng. 

Cu Bò cười: 

– Anh xạo rồi! Em biết anh còn yêu nhiều người đàn bà hơn công chúa nữa. Chứng cớ rành rành ra đấy. Ít nhất ba người. Phải rồi ba người. 

Công chúa Vĩnh-Hòa ngước mắt phượng nhìn Quí-Minh, tay run run. Quí-Minh không quen với tính đùa nghịch của đám đệ tử Tây-vu. Ông nghiêm nghị: 

– Em đừng nói đùa. Ta chỉ biết có nàng mà thôi. 

Cu Bò cười khoái trá: 

– Hư ! Em không đùa đâu ! 

Công-chúa Vĩnh-Hòa cảm thấy lạnh ở trên lưng, tay nàng run trun. Cu Bò càng trêu : 

– Nếu em nêu ra được tên những người đàn bà mà anh sủng ái. Anh đã hy sinh, đang hy sinh và sắp hy sinh. Anh thưởng cho em cái gì nào? Em nhắc lại em biết rõ tên, tuổi, hiện các nàng ở đâu nữa. 

Quí-Minh gật đầu: 

– Ta sẽ nhận em là sư đệ, truyền hết võ công cho em. 

Cu Bò nói với công chúa Vĩnh-Hòa: 

– Công chúa làm chứng cho em nghe. 

Công chúa Vĩnh-Hòa mặt nhợt nhạt, gật đầu. Cu Bò nói: 

– Anh nói: Công chúa bảo gì anh cũng nghe. Ví thử công chúa bảo anh bỏ Lĩnh-Nam đầu hàng Hán anh có nghe không? 

Quí-Minh lắc đầu. Cu Bò cười: 

– Vậy có phải anh yêu Lĩnh-Nam hơn công chúa không? 

Quí-Minh cãi: 

– Lĩnh-Nam là sơn hà, chứ có phải là đàn bà đâu. 

Cu Bò không chịu: 

– Sao lại không? Hôm tế Quốc-tổ ở hồ Động-đình, bác Đào Thế-Kiệt đã hô lớn: Hỡi con yêu đất Việt, hãy đứng lên đáp lời kêu gọi của bà mẹ Lĩnh-Nam. Lĩnh-Nam là bà mẹ, tức là một người đàn bà vậy. 

Quí-Minh thấy đứa bé chỉ biết đùa, ở dơ nhất thiên hạ, không ngờ nó lý lắc đến thế. Ông gật đầu: 

– Được, anh thua. Ban nãy em nói mấy người đàn bà. Mấy không phải là một. Đâu, những người khác tên gì? 

Cu Bò gật đầu: 

– Còn! Một người đàn bà tối quan trọng nữa. Người đó bảo anh quì gối, anh quì gối liền. Bảo anh ưng cô gái nào, anh ưng liền. Bảo anh nằm xuống, để đánh đòn, anh nằm xuống liền. Anh xa nàng một lúc thì ôi thôi, nhớ thương chồng chất đến đứt ruột được. Xa nhau nàng khóc, anh cũng khóc nữa. 

Quí-Minh lắc đầu: 

– Ta chả yêu ai đến độ đó. Ngoại trừ công chúa. Em bịa ra để trêu anh. Người mà em nói đó, hiện ở đâu, tên gì? 

Cu Bò cười: 

– Em không biết tên. Chỉ biết nàng hiện ở Đăng-châu. Nàng chính là phu nhân của nhân vật khét tiếng, được Trưng đế phong làm Đăng-châu đại vương. Nàng đẻ ra ba người con anh hùng: Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Phương-Dung. 

Quí-Minh bật cười: 

– Thì ra em muốn nói mẫu thân anh? 

Cu Bò lắc vai, nheo mắt khoái chí: 

– Có đúng không? Bác gái bảo anh quì, anh quì. Bảo anh nằm cho bác đánh đòn, anh nằm. Xa nhau thì bác lẫn anh đều khóc. Có sai đâu? 

Quí-Minh gật đầu: 

– Anh thua keo thứ nhì. 

Cu Bò tiếp: 

– Còn nữa! Người đàn bà này xinh đẹp vô cùng, võ công cao, chí muốn nuốt cả sao Ngưu, sao Đẩu vào lòng, đó là Trưng hoàng-đế. Trưng hoàng-đế bảo anh chết, anh cũng chết. Bảo anh làm bất cứ việc gì, anh có dám chối không? Thế là đủ rồi nhé: Nhất định anh yêu ba người đó hơn công chúa. Công chúa đứng hàng thứ tư. 

Công chúa Vĩnh-Hòa như trút được gánh nặng. Nàng cất tiếng ôn nhu nói: 

– Thôi! Anh Quí-Minh, anh phải nhận Cu Bò là sư đệ, truyền thụ võ công cho em đi. 

Quí-Minh quì xuống hướng về phương nam lễ bốn lễ, khấn: 

– Con là Quí-Minh, kính xin anh hồn bố ở dưới suối vàng chứng cho. Bố tuy đã tuẫn quốc, song con xin thay bố nhận Cu Bò làm sư đệ. Con nguyện truyền hết võ công cho nó. 

Cu Bò cùng hướng về nam lạy đủ tám lạy. 

Đến đó, Trâu Xanh, Trâu Trắng truyền từ trên cành cây xuống nói: 

– Thủy quân Mã Viện nhổ neo hướng về nam. Kị binh, bộ binh Hán đã xuất khỏi trại rồi. 

Ngoài trời sương mù dăng kín mít. Đến độ dơ bàn tay ra không nhìn thấy gì. Đào Quí-Minh mừng lắm: 

– Như vậy càng hay. Sương mù thế này, ta đốt trại Hán, Mã Viện, Chu Long ở xa, không biết được. 

Đào Quí-Minh sai Thần-ưng truyền tin cho Phật-Nguyệt với Đào vương phi. Ông truyền lệnh các đạo quân xuất phát. 

Xích-Hầu âm thầm dẫn đoàn Thần-hầu, truyền trên cành cây tiến đến phía Bắc trại Hán. Cả khu Bắc, chỉ có bốn vọng canh. Chàng gọi bốn tráng sĩ Tây-vu dặn: 

– Các em dẫn Thần-hầu tới chân vọng canh, leo lên giết quân canh, sau đó đứng trấn tại đấy. Nhiệm vụ xong, huýt sáo báo hiệu cho anh biết. 

Bốn tráng sĩ, mỗi người dẫn mười Thần-hầu, bò sát đến chân vọng canh. Xích Hầu ngồi chờ tin tức. Mỗi khắc thời gian qua, đối với chàng lâu bằng một năm. Chờ đã khá lâu, vẫn không tin tức gì. Chàng ngửa mặt lên trời nhìn Thần-ưng tuần thám. Chúng vẫn lượn bình thản, khiến chàng yên tâm. 

Bỗng Thần-ưng ré lên một tiếng, rồi lao thẳng xuống một chòi canh. Lập tức năm Thần-ưng khác cũng lao xuống theo. Có tiếng người kêu ú ớ tại chòi canh đó, một lát, lại im lìm. Mấy Thần-ưng bay lên. 

Bây giờ mới có tiếng huýt sáo ở trên các vọng canh vọng lại. Xích Hầu mừng quá, ra lệnh cho các đội Thần-hầu, vào trại Hán. 

Chàng đến vọng canh chỗ Thần-ưng lao xuống, hỏi tráng sĩ tại đó: 

– Có gì lạ không? 

Tráng sĩ trả lời: 

– Em leo lên, tung trăn quấn tên lính canh. Tên này rơi xuống dưới. Em đến định giết nó, thì một toán ba tên tuần tiễu đi tới. May nhờ Thần-ưng nhào xuống mổ mắt tụi nó. Bọn nó chưa kịp kêu một tiếng. Em đã giết hết. 

Xích-Hầu dặn bốn tráng sĩ: 

– Ta vào khu chuồng ngựa. Khi thấy lửa cháy, các em cho Thần-ưng xuất trận. Ba em chỉ huy Thần-ưng đánh địch. Một em chỉ huy Thần-ưng tuần phòng, chính các em, bảo vệ bọn ta. 

Chàng dẫn đoàn Thần-hầu nhập khu chuồng ngựa. Trong lịch sử loài thú rừng. Có một điều lạ lùng nhất: Ngựa thấy khỉ, thường sợ hãi, co rúm lại, kêu không thành tiếng. Đoàn Thần-hầu vào chuồng ngựa, lấy cỏ khô cột thành đống trên lưng từng con. Chỉ trong chốc lát, trên hai ngàn chiến mã, bị hai mươi tráng sĩ Tây-vu chỉ huy Thần-hầu cột cỏ khô lên lưng như những bao hàng lớn. 

Công việc hoàn tất. Xích Hầu dặn các tráng sĩ: 

– Các em nhớ, khi thấy lửa cháy ở kho lương. Lập tức đánh lửa lên, cắt dây buộc ngựa, đốt cỏ trên lưng chúng. Cần làm cho nhanh. Một Thần-hầu phải đốt tới mười con ngựa. 

Bỗng lửa cháy bừng lên một loạt khắp khu chứa lương thảo. Lửa đã bốc lên cao, mà trong trại chưa thấy quân Hán báo động. 

Xích Hầu sai đánh lửa, mười đệ tử Tây-vu đồng đốt đuốc lên, dẫn Thần-hầu, châm lửa vào cỏ trên lưng ngựa, cắt đứt dây buộc. Đàn ngựa hí lên inh ỏi, chạy náo loạn trong trại. Chúng bị lửa đốt nóng, cứ lao đầu chạy hết chỗ nọ đến chỗ kia, làm các trại khác bị lửa lan vào cháy lên ngút trời. 

Quân Hán vừa choàng tỉnh giấc, thấy lửa dậy khắp nơi. Hiện tượng quái gở: Trên lưng ngựa, một đám cỏ cháy rực. Ngựa nóng quá, đâm quàng, đâm xiên. Đám quân Hán náo loạn hàng ngũ. Lúc chúng định thần lại, mới thấy đàn đười ươi, đang cầm đuốc, châm lửa ở các trại. 

Mã Anh chỉ huy hậu cứ, tay y cầm vũ khí, tập hợp binh tướng, chia làm hai đoàn, một đoàn cứu hỏa kho lương thực. Một đoàn đánh đuổi bọn đười ươi. Song đười ươi nhanh nhẹn, chạy vào rừng mất. Dinh trại Hán biến thành một biển lửa. 

Giữa lúc Mã Anh điều khiển binh tướng chữa lửa, thì trên trời, từng đợt Thần-ưng lao xuống tấn công. Đợt đầu, gần ba trăm binh hán bị mù mắt. Chúng ôm đầu hét la inh ỏi. 

Mã Anh đã nghe nói về đoàn Thần-ưng Lĩnh-Nam. Y kinh hãi, nói lớn: 

– Bọn Lĩnh-Nam đột nhập trại. Phải đề phòng. 

Nhưng tuyệt nhiên không thấy một bóng người. Trên trời Thần-ưng từng đợt một lao xuống tấn công. Trong đêm tối, bọn lính Hán không nhìn rõ Thần-ưng. Khi nhìn rõ, không còn kịp nữa. 

Mã Anh là tướng giỏi. Anh cầm gươm quát lớn: 

– Hãy tập hợp lại thành từng đội, chia một nửa phòng vệ Thần-ưng. Một nửa cứu hỏa. 

Song đã quá trễ, kho lương lửa bốc lên tới trời. 

Quân Hán rối loạn một lúc, mới tập hợp lại được. Song doanh trại đã cháy sạch. Mã Anh ra lệnh: 

– Ai lui lại, náo loạn, ta chém liền. Chỉ có mấy con chim ưng thì sợ gì? 

Y truyền quân sĩ, ra trấn ở hàng rào trại. Cứ một người phòng Thần-ưng, một người canh giữ, vì sợ quân ở ngoài đột nhập vào. Y muốn tìm một con ngựa, chạy đi gọi đạo binh mới xuất trại trở về cứu viện, mà không còn một con nào. Điều y thắc mắc: Tại sao không thấy thủy quân lên cứu viện? Khổ cho y là quân địch bao nhiêu người, đóng ở đâu y cũng không biết. Chỉ thấy một đoàn đười ươi đốt trại, rồi biến mất. Bây giờ thấy chim ưng từ trên trời lao xuống đánh. Y cũng không tìm ra người chỉ huy chim ưng nốt. Y lên vọng đài giữa trại quan sát phía bên thủy quân. Chợt y chửi thầm: 

– Mình đáng chết thực. Thì ra thủy quân cũng đang bị chim ưng đánh. 

Y yên tâm phần nào: Giỏi lắm địch chỉ có mấy trăm tên chỉ huy Thần-ưng mà thôi, phải diệt mấy tên này mới mong sống còn. 

Y truyền bốn đại tướng, mỗi ngừơi dẫn năm trăm quân, chia ra bốn ngả trại, vào rừng tìm giết bọn chỉ huy Thần-ưng. 

Bốn tướng dẫn binh đi liền. Trong đêm tối, chúng vừa vào rừng, bị đoàn Thần-hầu bất thần tấn công. Chúng ôm đầu la hoảng. Vì chúng không biết người đánh là ai. Song lệnh Mã Anh rất nghiêm. Chúng không dám lui. 

Mã Anh tuyệt vọng, điểm lại, toàn bộ trên hai nghìn ngựa bị chết, hoặc bị thương, không xử dụng được nữa. Lương thực cháy hết tám phần mười. Ba vạn bộ binh, bị thương, bị chết do Thần-ưng, do lửa cháy mất hơn vạn. Tuy vậy y vẫn còn hai vạn bộ binh với hai ngàn kị binh, không ngựa. 

Mã Anh truyền lệnh: 

– Cầm cự tới sáng, sẽ xuất trại, đánh tụi chỉ huy chim ưng. 

Giữa lúc đó, tiếng reo hò, lẫn tiếng gầm gừ vang động trời đất. Rồi không biết hổ, voi ở đâu tràn vào trại. Binh sĩ náo loạn, bỏ chạy. Y kinh hoảng cùng đám vệ sĩ vừa chiến đấu, vừa lui về Tam-sơn. 

Trời dần dần sáng. 

Mã Anh kiểm điểm lại: Trại Tam-sơn còn nguyên. Đám thủy quân đã đổ bộ lên trại, bỏ thuyền không dưới hồ. Tế tác các nơi báo cáo: Đêm qua lực lượng đánh trại lúc đầu chỉ có một trăm người, chỉ huy sáu trăm đười ươi. Sáu trăm mười hai Thần-ưng tấn công trại trung ương, đốt lương thảo. Riêng đánh trại Tam-sơn, chỉ có một thằng bé tuổi chưa quá mười lăm, chỉ huy trăm đười ươi cắt dây cột chiến thuyền, làm chiến thuyền trôi ra xa, rồi dùng hai trăm chim ưng đánh. Đám thủy thủ kinh hoàng, bỏ chiến thuyền bơi vào bờ. 

Một lát tế tác báo: Đêm qua, giữa lúc hỗn loạn, một trăm con voi, ba trăm con hổ, tấn công, cướp mất trại trung ương. Bộ binh khoảng bốn vạn, kị binh khoảng một vạn, hiện đã chiếm trại trung ương. Tất cả đang tiến đến đánh trại Tam-sơn. 

... 

Về phía Lĩnh-Nam. Đào vương phi chiếm trọn trại trung ương Hán. Bà khẩn cấp tập hợp các tướng soái nghe lệnh. 

Đào-quí-Minh, công chúa Vĩnh-Hòa, cùng đám Xích Hầu, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng suốt đêm qua đột kích trại Hán. Người chỉ huy Thần-ưng, kẻ chỉ huy Thần-hầu phục trong rừng đánh đám quân Hán bỏ chạy. Bây giờ, kéo nhau về trại trình diện. 

Đào vương phi thấy công chúa Vĩnh-Hòa, bà cầm lấy tay nàng, dắt vào ngồi bên cạnh nói: 

– Thân thể cháu thuộc cành vàng lá ngọc, mà lam lũ trong rừng thế này, Lĩnh-Nam ta không bao giờ quên ơn cháu.

Đào vương phi bảo Đào Quí-Minh: 

– Trận đánh đêm qua, công đầu do cháu với Xích Hầu, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng. Tuy nhiên, cháu chỉ biết thắng người, mà quên mất một điều? 

Đào Quí-Minh hỏi: 

– Cháu xin nghe bá mẫu dạy. 

Đào vương phi nói: 

– Khi cháu thiết kế, thì cháu cầm chắc cái thắng trong tay. Đã biết thắng trong tay, phải biết mình được hưởng gì sau chiến thắng? Cháu chỉ việc dùng Thần-hầu đốt trại, Thần-ưng tấn công cũng đủ. Nếu cháu biết lợi dụng, chỉ cắt cương, cho ngựa chạy loạn lên, đừng đốt kho lương. Có phải bây giờ chúng ta có thêm hai ngàn con ngựa, một núi lương thảo không? Thôi đây là kinh nghiệm, lần sau, cháu sẽ tính kỹ hơn. 

Bà nói với các tướng sĩ: 

– Chúng ta đã chiếm được trại trung ương. Mã Anh còn một vạn bộ binh, hai ngàn thủy quân, y đang cố thủ ở Tam-sơn chờ quân cứu viện. Ta phải đánh y thực nhanh, trước khi viện quân tới. Ngặt vì trại Tam-sơn đóng trên núi rất khó đánh. Nhưng dù gì, chúng ta cũng phải đánh cho được ngay sáng hôm nay. Nếu không, đạo binh năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh sẽ quay trở về, hợp với sáu vạn thủy binh của chúng, thì chúng ta không còn đất sống. 

Lê Thị Lan thêm: 

– Ấy là chưa kể, bên kia sông còn ba vạn kị binh, sáu vạn bộ binh, ba vạn thủy binh sẵn sàng qua sông tiếp viện. Đạo này do Lưu Long và người đứng thứ nhì trong Liêu-đông tứ ma tên Ngô Phùng chỉ huy. 

Tiên-yên nữ hiệp nói: 

– Giờ này, Phật-Nguyệt đang giao chiến với Mã Viện rồi đây. Song chúng ta chưa được tin tức gì cả. Chắc hơn hết, Vương phi viết thư sai Thần-ưng đến Linh-lăng gọi đạo binh của Đào Phương-Dung tới trợ chiến cho chắc ăn. 

Đào vương phi quyết định: 

– Được ! Chúng ta chia lực lượng làm hai: Một phần đánh trại Tam-sơn, một phần chặn đường rút quân của Chu Long. Tôi viết thư cho Đào Phương-Dung liền. Nếu như chúng ta chưa đánh xong Tam-sơn, mà phía bắc có quân Hán tới, rồi Chu Long đánh ép phía sau, Mã Viện ngoài khơi kéo về, các vị cứ bình tĩnh cố thủ một ngày… Đạo quân Đào Phương-Dung sẽ tới trợ chiến. Dù trong trường hợp nào, trận chiến chúng rất khốc liệt. 

Bà cầm binh phù gọi Lê Thị Lan truyền lệnh: 

– Phía tây hồ Động-đình, nằm trên đường rút quân của Chu Long có khu rừng rậm rạp. Cháu hãy đem Xích Hầu, Hắc Hổ dẫn sư Thần-hầu, sư Thần-hổ phục trong rừng. Khi thấy quân Chu Long trở về, thì đốt lửa khắp nơi, làm nghi binh. Ít Như vậy y không dám tiến mau. Ta có thể cầm chân chúng được vài giờ nữa. Sau đó khi chúng vượt qua, cháu dùng Thần-hầu, Thần-hổ đánh nhau với chúng. 

Lê Thị Lan hỏi: 

– Trường hợp chúng đánh mạnh quá, hầu, hổ không cản nổi thì sao? 

Đào vương phi đáp: 

– Cháu rút quân vào rừng. Chờ chúng đi qua, đánh tập hậu. Hoặc chúng phải chia quân đóng giữ mặt hậu cũng được. 

Bà nói với Tiên-yên nữ hiệp: 

– Xin sư tỷ theo giúp cháu Lê Thị Lan. 

Bà gọi Trâu Xanh: 

– Cháu giữ nhiệm vụ tối quan trọng. Cháu đem hai trăm Thần-ưng phục ở phía bờ sông Trường-giang. Hễ thấy quân Hán từ bên sông đánh sang, thì dùng Thần-ưng đánh cản bước tiến của chúng. Nhất nhất diễn biến phải báo cho ta biết. 

Bà chỉ vào tấm lụa vẽ bản đồ trại Tam-sơn: 

– Trại Tam-sơn rất khó đánh. Một mặt dựa vào chân núi, một mặt quay quay ra hồ. Mặt hồ ta không cần đánh. Ta đánh ba mặt là đủ rồi. Cháu Quí-Minh đánh mặt đông, có Cu Bò đem theo hai trăm Thần-ưng trợ chiến. Cháu Hồ Nam đánh mặt bắc với hai trăm thớt voi. Ta đánh mặt tây, có Trâu Trắng mang theo hai trăm Thần-ưng trợ chiến. Nào chúng ta lên đường. 

Giữa lúc mọi người sắp sửa lên đường, Thần-ưng đem tin đến. Đào vương phi mở thư ra đọc, nói: 

Phật-Nguyệt sắp giao chiến với Mã Viện. 

Cu Bò cười khoái trá: 

– Sư bá! Như vậy Mã Viện, Chu Long chưa biết tin hậu cứ bị chiếm. Cháu đề nghị sư bá kêu một số tù binh bị bắt, thả một số đi ngựa, một số xuống thuyền để chúng báo cho Chu Long, Mã Viện biết. Như vậy quân của Mã, Chu sẽ rối loạn. Ngặt một điều, chúng ta ắt gặp hung hiểm, vì chúng ào trở về, đánh xả láng, mở đường máu rút lui. 

Đào vương phi gật đầu. Bà truyền thả hơn trăm tù binh bị bắt tại trại trung ương, cấp ngựa cho đi. Một mặt thả trăm thủy thủ trên một chiến thuyền. 

... 

Phía nam hồ Động-đình, Phật-Nguyệt, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương cho các chiến sĩ chuẩn bị sẵn sàng. Bà truyền Sún Hô leo lên chót vót cột buồm soái thuyền chỉ huy Thần-ưng tuần thám. Đạo binh Đào vương phi, Quách Lãng đi đã năm hôm. Thần-ưng báo tin hàng ngày bước tiến quân của hai đạo binh này. Bà chú ý nhất đến đạo Xích Hầu. Nếu Xích Hầu không thành công, e đạo binh của Đào vương phi sẽ gặp hung hiểm. 

Sang ngày thứ sáu, có Thần-ưng báo tin sự xuất hiện đột ngột của Đào Quí-Minh với công chúa Vĩnh-Hòa. Bà mừng lắm. Đinh Bạch-Nương nói: 

– Có thêm anh Quí-Minh, chắc chắn Xích Hầu thành công. Chúng ta kiên nhẫn chờ thêm mấy ngày nữa. 

Chiều hôm đó có tin Thần-ưng của Cu Bò báo về: Đạo kị binh, bộ binh Chu Long đã xuất phát vòng phía tây hồ Động-đình xuống đánh Trường-sa. 

Phật-Nguyệt truyền cho đạo thủy quân Đinh, Tĩnh-Nương khởi hành, đóng trên bờ tây bắc hồ, chặn tiếp viện của thủy quân LưuLong. 

Đinh Tĩnh-Nương nhận lệnh, xuất binh. 

Canh ba đêm ấy, trời tối đen như mực, xoè bàn tay ra không thấy gì. Có tin Thần-ưng của Cu Bò báo về: Thủy quân Mã Viện đang lên đường. 

Phật-Nguyệt reo lên: 

– Ta biết ý định của Mã Viện rồi. Y tiến quân đúng như ta ước tính. Y để đạo binh Chu Long đi trước hai ngày. Sau đó y cho thủy quân băng ngang hồ, họp nhau bên bờ Tương-giang rồi cùng đánh thành Trường-sa. 

Quách A hỏi: 

– Sư tỷ! Em nghe Mã Viện có tài dùng binh không thua Mã Vũ, Ngô Hán, Đặng Vũ. Tại sao y không lo bảo vệ hậu quân cho chắc? 

Phật-Nguyệt cười: 

– Sư muội không biết đấy thôi. Mã quá cẩn thận chứ không phải y thiếu thận trọng đâu. Khi khởi binh, y sai Vương Hùng điều khiển đạo quân tế tác dò thám. Vương báo về rằng ta ở trong thành Trường-sa. Còn tại hồ Động-đình, chỉ có một đạo thủy quân. Ta cầm tù bắt được Vương Hùng, khiền cho y một trận. Bắt y phải tiếp tục gửi tin tức do ta bịa đặt cho Mã Viện. Hằng ngày Mã Viện nhận được tin Vương Hùng báo cáo y tin là thực. Y bị mắc mưu ta. 

Sún Hô hỏi: 

– Sư tỷ! Vụ Vương Hùng bị bắt. Mã Viện biết rồi mà. 

Phật-Nguyệt cười: 

– Không, y không hề biết tý gì cả. 

Cao Cảnh-Khê cười: 

– Vì vậy cho đến giờ này, Mã Viện vẫn tưởng ta dồn quân ở phía nam Trường-sa. Y yên tâm, tiến quân. 

Phật-Nguyệt cười: 

– Y đâu có yên tâm. Tuy được tin tức của Vương báo như thế. Nhưng Viện vẫn để Mã Anh chỉ huy ba vạn bộ binh, hai ngàn kị binh, hai ngàn thủy binh giữ trấn hậu quân. Y vẫn chưa cho là đủ. Y đặt ở bờ phía bắc Trường-giang tới sáu vạn bộ binh, ba vạn kị binh, ba vạn thủy binh, để phòng khi ta đánh chặn đường về, chúng sẽ đổ bộ sang tiếp viện. Mặt khác Mã cho Lưu Long đem quân tới đóng ở Quân-sơn, tiến theo mặt đông hồ Động-đình. 

Đinh Bạch-Nương gật đầu: 

– Em hiểu rồi. Sư tỷ thấy y quá cẩn thận. Nếu mình cũng quá cẩn thận, mình thua. Vì quân số mình chỉ bằng một phân nửa quân Mã Viện. Sư tỷ mới dùng lối đánh cảm tử, cho đạo binh Đào sư bá đánh chiếm trại Hán, sẵn sàng chấp nhận ba mũi dùi: Bên bờ bắc sông, Chu Long, Mã Viện trở lại bao vây. 

Phật-Nguyệt gật đầu: 

– Đạo này ngoài người can đảm, tài trí như Đào vương phi không ai làm nổi. 

Phật-Nguyệt truyền lệnh xuất quân. Trên trời Thần-ưng hướng dẫn đường. Đến giữa hồ, Phật-Nguyệt truyền ngưng lại chờ đợi. 

Trời tảng sáng. 

Xa xa đoàn thuyền của Mã Viện dần dần hiện ra dưới sương mù. Mã dàn quân làm hai cánh: phải, trái. Phía sau có đoàn thuyền trừ bị. 

Mã Viện tin vào thư báo cáo của Vương Hùng: Phật-Nguyệt dồn quân ở Trường-sa. Trên hồ chỉ có một đoàn chiến thuyền. Y yên tâm tiến binh. Mới chiều hôm qua thám mã còn báo tin cho biết, binh Lĩnh-Nam vẫn án binh ở phía nam hồ. Y mừng chi siết kể, định đánh úp Trường-sa, tạo bất ngờ, khi Lĩnh-Nam biết y đánh xuống, có muốn phản công, cũng không kịp. 

Bây giờ, y thấy hai đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam, dàn trận giữa hồ. Cờ xí rợp trời. Trên khoang thuyền không một bóng người. Y chột dạ nghĩ: 

– Không lẽ mới chiều hôm qua đến giờ mà Phật-Nguyệt đã điều được một đạo thủy quân phòng ngự mau đến như vậy? 

Lòng Mã Viện đầy nghi hoặc. Y đứng trên mặt chiến thuyền quan sát: Đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam dàn trận uy nghiêm. Song không thấy một bóng người trên mặt thuyền là tại sao? Y nhìn lên trời: Chỉ có năm Thần-ưng bay lượn. 

 Lòng Mã Viện đầy nghi hoặc. Y đứng trên mặt chiến thuyền quan sát: Đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam dàn trận uy nghiêm. Song không thấy một bóng người trên mặt thuyền là tại sao? Y nhìn lên trời: Chỉ có năm Thần-ưng bay lượn. 

Mã Viện đã từng chiến đấu chung với Phật-Nguyệt trong trận đánh Xuyên-khẩu, Bạch-đế, tiến vào Thục. Hồi ấy Phật-Nguyệt mới từ Lĩnh-Nam sang Trung-nguyên. Tuổi bà còn trẻ, tính tình nhu nhã, dáng người mảnh khảnh, xinh đẹp, cả ngày không nói một câu. Song kiếm pháp Phật-Nguyệt thực kinh người. Trong trận đánh Xuyên-khẩu, tuy Đặng Vũ giao cho Phật-Nguyệt chỉ huy thủy quân. Song bà chưa biết một chút nào về hành binh bố trận. Mọi việc do Lưu Long, Đoàn Chí cả. Vì vậy, khi tiến đánh Trường-sa, y yên tâm rằng Phật-Nguyệt chỉ có bản lĩnh kiếm thuật. Còn tài dùng binh, thì không có gì. 

Mã Viện quên mất lẽ biến động của thời gian. Phật-Nguyệt gần Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa lâu ngày, đã học được bản lĩnh của ba người này. Bà lại dự nhiều cuộc họp luận bàn quân sự, nên hiểu hầu hết chiến thuật, tổ chức binh lực Hán. Cũng như Tây-vu Thiên-ưng lục tướng. Bà được Mã Vũ, chú tâm đặc biệt, hàng ngày dạy về hành binh bố trận, tổ chức quân đội. Hóa cho nên bà có bản lĩnh cao hơn Mã. Mà Mã không ngờ tới. 

Điều thứ nhì Mã quên mất là bà xuất thân từ phái Long-biên. Kiếm pháp phái này khi hư khi thực. Hư nhiều hơn thực. Bà ém quân, đánh lừa Mã đổ quân sang phía bắc hồ là hư. Mã đổ quân, bà cho xuất hai đạo của Đào vương phi, Quách Lãng, dàn thủy quân ở nam hồ là thực. Bây giờ trong cái thực, bà dàn chiến thuyền, không cho một người lính trên mặt thuyền, là trong hư có thực, trong thực có hư đúng như kiếm pháp Long-biên. Trong đạo dùng binh thì kị nhất là nghi hoặc. Nghi hoặc dễ loạn tâm thần. Tâm thần loạn, quyết định sẽ sai., rồi đưa đến bại vong. Phật-Nguyệt biết Mã Viện đã lầu thông binh pháp, bà mới dùng hư hư, thực thực lừa y. 

Mã Viện dàn quân làm hai cánh. Y chỉ huy một cánh. Liêu-đông đệ tam ma Trịnh Sư chỉ huy một cánh. Thấy cảnh quái gở trên mặt hồ. Y truyền thủy quân tiến chậm rồi y sang thuyền Trịnh Sư bàn: 

– Cái gì đã xảy ra? Rõ ràng Vương tứ gia báo cho ta biết: Phật-Nguyệt không ngờ ta tiến đánh Trường-sa. Thủy quân dàn ở Tương-giang. Trên hồ không có lực lượng phòng vệ. Sao bây giờ lại có hai cánh thủy quân hùng tráng thế kia? Ý kiến tướng quân thế nào? 

Trịnh Sư trả lời bằng cái lắc đầu. 

Từ chiến thuyền Lĩnh-Nam vọng lại tiếng tiêu cao vút tận mây xanh, hòa lẫn tiếng đàn bầu. Mã Viện càng thêm bối rối. Y đứng trên mũi chiến thuyền ngắm nhìn, tự hỏi: 

– Bọn Lĩnh-Nam làm gì thế này? 

Trong đầu y hiện lên không biết bao nhiêu nghi vấn: Hay Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa đã tới? Chứ Phật-Nguyệt đâu có bản lĩnh thế này? 

Tiếng tiêu, tiếng đàn vẫn từ phía chiến thuyền Lĩnh-Nam vọng lại. 

Trịnh Sư cũng không quyết đoán được. Y nói: 

– Không chừng chúng ta trúng kế hư binh của Phật-Nguyệt cũng nên. Nếu đúng như vậy, tôi sợ giờ này sư huynh Chu Long cũng gặp hung hiểm. Thôi thì một liều ba bảy cũng liều. Chúng ta tiến lên quyết chiến một trận, dù sao quân chúng ta cũng đông gấp ba quân địch. Chúng ta há sợ đứa con gái Phật-Nguyệt sao? 

Mã Viện lắc đầu: 

– Trịnh tướng quân phải cẩn thận. Bọn Việt khác với người Hán. Con gái Việt có tài như con trai. Tài dùng binh đến như Lĩnh-nam vương, Mã Vũ, Đặng Vũ, Ngô Hán mà còn thua Trưng Nhị, Phương-Dung, Phùng Vĩnh-Hoa. Kiếm pháp như Hoài-nam vương còn bị bại về tay Phật-Nguyệt. Trần Năng, Hoàng Thiều-Hoa chưởng lực mạnh kinh nhân. 

Tuy nói vậy, Mã Viện vẫn quyết định: 

– Chúng ta cứ đánh trống tiến lên. 

Hai đạo quân Hán khua trống, chiêng, tiến lên. Chỉ còn một dặm, vẫn không thấy bóng người Lĩnh-Nam xuất hiện. Lòng Mã rối như tơ vò, y truyền quân tiến gấp. Có tiếng đàn, tiếng sáo nhịp nhàng tấu bản Động-Đình ca vọng lại. Bản này Mã Viện được nghe Lê Chân tấu cho nhiều lần, khi bà cùng Mã theo đạo quân Đặng Vũ đánh Kinh-châu. 

Còn nửa dặm… rồi năm trăm trượng. Phía Lĩnh-Nam vẫn im lìm. Tim Mã Viện càng đập mạnh hơn, muốn nổ tung lồng ngực y ra. 

Còn bốn trăm trượng… rồi hai trăm trượng…. Bỗng tiếng tù và thổi lên tu... tu... dài. Từ trong các chiến thuyền, hai thiếu niên, một thiếu nữ xuất hiện. Chỉ nháy mắt, đã leo lên đỉnh cột buồm. Tiếp theo Thần-ưng từ Nam hồ bay lên rợp trời. 

Mã Viện đã quen với lối đánh của Tây-vu Thiên-ưng lục tướng. Y nhìn lên trời: Thần-ưng chia thành từng tốt trăm con một. Y đếm được ba cánh. Mỗi cánh ba tốt. Như vậy có sáu trăm Thần-ưng. Song Thần-ưng chỉ bay lượn trên trời mà không nhào xuống đánh. 

Hai đoàn chiến thuyền chỉ còn cách nhaucó…trăm trượng. Ba tiếng trống nổi dậy. Thủy thủ Lĩnh-Nam đồng xuất hiện trên khoang. Gươm đao sáng choang. Khí thế nghiêng trời lệch đất. Cánh trái Đinh Bạch-Nương. Cánh phải Phật-Nguyệt. Hai người đứng trên đài chỉ huy. Gió hồ thổi vào y phục hai người, trông như hai tiên nữ. 

Mã Viện kinh hoàng nghĩ: 

– Hai người con gái mảnh mai xinh đẹp thế kia, mà ai ngờ có tài nuốt mặt trăng mặt trời. 

Hai đoàn thuyền chỉ còn cách nhau có năm mươi trượng. Quân sĩ chuẩn bị tác chiến. Bỗng tiếng tù và thổi lên tu tu... Đoàn Thần-ưng từ trên không đồng lao xuống một loạt tấn công. 

Mã Viện hô lớn: 

– Một nửa chống Thần-ưng, một nửa chiến đấu. 

Y vừa hô, có tiếng rú trên không. Cao Cảnh-Khê đã bắn tên. Ông buông một lúc bốn mũi. Một hướng ngực Mã Viện, một hướng ngực Trịnh Sư. Hai người dùng kiếm gạt. Hai mũi còn lại cắt đưt dây treo soái kỳ. Hai soái kỳ theo gió, rơi xuống mặt hồ. 

Từ chiến thuyền Lĩnh-Nam, tiếng sáo du dương vọng lại. Trên trời, bầy ong bầu bay đen nghịt, nhào xuống trận Hán. Mã Viện hô lớn: 

– Đốt lửa lên mau! 

Nhưng giữa hồ, lấy đâu ra cỏ, ra dầu mà đốt? Mã kinh hoàng. Y chỉ còn một đường: Xua quân tiến lên. Để hai đạo lẫn lộn vào nhau, Thần- phong không phân biệt được. 

Song đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam đã lui lại, giữ khoảng cách hai bên ước năm mươi trượng. Quân Hán muốn dùng cung tên cũng không được. Trên trời đoàn Thần-ưng đổi mục tiêu: Chúng tấn công vào các chiến thuyền phía sau. Các chiến thuyền phía trước, Thần-phong tấn công. Binh Hán ôm đầu, người nhảy xuống hồ. Kẻ trốn xuống dưới khoang thuyền. Mã Viện, Trịnh Sư chém đến mười người, mới giữ được trận tuyến. Mã truyền lệnh đem bất cứ vật gì trong thuyền như quần áo v.v. lên đốt. Chốc lát, khói bốc mù mịt. 

Từ bên phía Lĩnh-Nam, có tiếng nhạc dìu dặt nhẹ nhàng đưa ra. Đoàn Thần-phong đang tấn công, từ từ bay lên cao, trở về thuyền. Trong khi đó đoàn Thần-ưng vẫn nhịp nhàng đánh. 

Mã Viện đã cùng ở chung với Tây-vu Thiên-ưng lục tướng, y đã biết lợi hại của của đàn Thần-ưng. Y nghĩ, muốn làm tê liệt đoàn Thần-ưng, phải bắt cho được mấy thằng nhãi ranh chỉ huy. Y đưa mắt nhìn lên các cột buồm trên chiến thuyền Lĩnh-Nam. Không khó nhọc, y nhìn ra Sún Hô đang đứng trên chót vót cột chiến thuyền, tay cầm cờ xanh, đỏ phất lia lịa. Dù cách nhau đã mấy năm, Sún Hô từ một thiếu niên mười lăm, mười sáu., bây giờ chàng đã thành một thanh niên phong lưu tiêu sái, song y vẫn nhận được chàng. Y nhìn sang khu đối diện với Trịnh Sư, lại một thiếu niên, oắt con như Lục Sún ngày nào. Người đen như cục than, đang cầm cờ trắng, đỏ phất chỉ huy. Phía sau, trên cột buồm soái thuyền, một thiếu nữ tuổi mười tám, mười chín, nhan sắc xinh tươi, một tay cầm cờ phất, một tay cầm ống tiêu thổi, nàng chính là Quách A. Mã Viện không biết mặt nàng. Kinh nghiệm giúp y giải đoán: 

– Con lỏi kia mới thực là quan trọng. Chính nó phối hợp Thần-ưng, Thần-phong. Muốn mất sự phối hợp, cần giết nó. 

Trong nhất thời, không nghĩ được kế gì. Y nói với Trịnh Sư: 

– Tướng quân có công lực mạnh. Hãy dùng tên bắn chết con nhỏ kia ngay. 

Trịnh Sư rút tên, nạp vào cung. Y ngắm Quách A buông tên. Tên xé gió bay tới. Tên đang đi, thình lình có tiếng rú lên, một mũi tên khác, phát sau, mà bay nhanh hơn tên của y. Mũi tên này đuổi kịp mũi của y. Chát một tiếng. Mũi tên của y gẫy làm đôi. 

Y dương cung định bắn nữa. Thì người bắn, chặt gẫy tên y cũng dương cung, ba mũi tên cùng hướng y. Một mũi tiện đứt mũi tên của y vừa bay ra. Một mũi đánh gẫy cung. Một mũi đánh bay cái mũ trên đầu. Y kinh hoảng, lui lại. Một tham tướng đứng cạnh y nói: 

– Người bắn tên vào tướng quân, họ Cao tên Cảnh-Khê. Trước đây y đã từng theo Hán đánh Thục. Tiễn thủ của y kinh người. Tướng quân phải cẩn thận. 

Mã Viện nhìn đoàn Thần-ưng đánh vào quân mình. Y nghĩ: 

– Ngày nào, bọn Lục Sún chỉ huy Thần-ưng chỉ biết đưa thư, nhào xuống đánh, cấu mặt, mổ mắt. Bây giờ đoàn Thần-ưng khác hẳn. Toán thì bay lượn, toán thì nhào xuống đánh phía trước. Có toán đánh phía trên. Thủy thủ Hán dồn hết sức ngửa mặt lên trời đề phòng. Sơ hở một chút, lập tức Thần-ưng xông qua lưới phòng thủ, tấn công vào bọn chèo thuyền. Mỗi lần như thế, một thuyền quay ngang. Thành ra trận tuyến Hán rối loạn. 

Mã Viện đuổi theo chiến thuyền Lĩnh-Nam trên ba dặm, mà không sao bắt kịp. Hễ y ngưng lại, chiến thuyền Lĩnh-Nam cũng ngưng lại. Trong khi trên trời, Thần-ưng đánh liên tiếp. 

Bỗng chiến thuyền Lĩnh-Nam rẽ ra, từ từ dừng lại. Từ phía sau, mười chiến thuyền tiến lên như cá kình xé sóng. Khi gần chiến thuyền Hán, thì tên từ trên mặt thuyền hàng loạt bắn ra. 

Mã Viện chợt nhớ lại trận Trường-an: Bên Hán hơn hai mươi vạn quân, bị liên quân Việt, Thục có mười vạn đánh tan, vì các dàn Nỏ thần. Viện đã nghe Trần Tự-Sơn kể về sự lợi hại của dàn nỏ do Cao-cảnh hầu Cao Nỗ chế ra. Chính Nỏ-thần này khiến năm mươi vạn quân Tần chôn thây ở Lĩnh-Nam. Trong trận Trường-an, Hán bại vì Nỏ-thần xuất hiện. 

Mã Viện chưa kịp phản ứng, thì mười dàn Nỏ-thần tiếp tục bắn sang. Thủy thủ trên mười chiến thuyền Hán, đã bị tiêu diệt trọn vẹn. Chiến thuyền không người điều khiển quay ngang. Hàng ngũ trận Hán rối loạn. 

Mã Viện, Trịnh Sư muốn điên lên. Vì từ lúc hai bên giáp chiến., bên Hán hết bị chim ưng, ong bầu đánh, hao hụt trên vạn người, mà trước sau bên Hán chưa bắn được mũi tên, chưa xử dụng được một chiêu võ nghệ. 

Bây giờ đến mười dàn Nỏ-thần bắn sang như mưa. Chỉ loạt đầu, mười chiến thuyền, hơn ba ngàn thủy thủ bị chết. Mã Viện hô lớn: 

– Đem lá chắn ra. 

Y vừa dứt lời, Thần-nỏ bắn loạt thứ nhì. Lại mười chiến thuyền bị loại khỏi vòng chiến. 

Thủy thủ lấy mộc, lá chắn, đứng sát vào nhau, hướng về trước đỡ tên, thì Thần-ưng lại nhào xuống tấn công. Giữa Thần-ưng với Nỏ-thần phối hợp nhịp nhàng. Hễ thủy thủ hướng về trước đỡ tên, thì Thần-ưng lao xuống tấn công. Thủy thủ hướng lên trời đối phó với Thần-ưng, thì Nỏ-thần lại bắn sang. Trận chiến cứ thế kéo dài hơn giờ. Bên Hán có đến năm mươi chiến thuyền, thủy thủ bị tiêu diệt hết. Thuyền trôi lênh bênh không hàng ngũ nào cả. 

Mã Viện nói với Trịnh Sư: 

– Trịnh tướng quân. Bây giờ chúng ta rút lui cũng chết hết. Chi bằng nhất tề đánh lên. Hy vọng sống sót. Tôi thấy bên Lĩnh-Nam giỏi lắm có ba vạn người. Bên mình tới sáu vạn, tuy chết hơn một vạn, ta vẫn có thể thắng. 

Trịnh Sư, Mã Viện hô thủy thủ cố sức chèo lên. Đoàn thuyền Lĩnh-Nam chia làm hai, rút lui về phương nam. Trong khi Thần-ưng đánh cản đường. 

Trời đã về trưa, sương mù trên mặt hồ tan dần dần. Bỗng binh sĩ Hán la hoảng, họ cùng hướng nhìn về phía trại đóng ở núi Tam-sơn. Trên núi, khói bốc mịt mù, lửa ngất trời. 

Mã Viện rút kiếm quát lớn: 

– Ai ngừng chèo, lui một bước, ta chém liền. 

Mã Viện, Trịnh Sư chém đến hai tên lữ trưởng, thuyền Hán mới giữ vững được trận tuyến. Trận tuyến vừa vững, tiếng nhạc du dương bên thuyền Lĩnh-Nam lại nổi lên. Đoàn ong bầu lại bay rợp trời sang đánh. Bên Hán không còn gì để đốt nữa. Thủy thủ bỏ mộc ôm đầu, lấy quần áo đuổi ong. Thì Nỏ-thần bắn sang một loạt nữa. Ong đốt, chim ưng nhào xuống mổ mắt, cào mặt, Nỏ-thần bắn. Mỗi dàn bắn một loạt, trọn vẹn một chiến thuyền hơn ba trăm thủy thủ vừa chết vừa bị thương. Mười dàn bắn một lúc. Nỏ bắn ra, sức đã mạnh, tầm bắn rất xa. Tên trúng người, bị xuyên qua thân. Trúng đầu, xuyên vào tới óc. 

Từ bên chiến thuyền Lĩnh-Nam tiếng loa gọi: 

– Binh tướng Hán nghe đây. Toàn bộ trại Tam-sơn đã bị đánh chiếm. Kho lương thảo bị đốt cháy sạch. Đường về bị cắt. Phía trước Thần-ưng, Thần-phong, Nỏ-thần. Hãy mau mau bỏ thuyền, nhảy xuống hồ bơi lại thuyền Lĩnh-Nam sẽ được tha mạng sống. 

Đám binh tướng Hán nghe tiếng loa gọi, có người vừa định nhảy xuống nước lập tức Mã Viện rút kiếm chặt đầu. 

Vì quân Hán sơ hở một chút, đoàn ong bầu tấn công nườm nượp. Binh Hán không còn chịu nổi nữa. Hàng vạn người nhảy xuống nước. 

Mã Viện, Trịnh Sư đành truyền lệnh lui quân. Bấy giờ thuyền Lĩnh-Nam mới tiến lên, Nỏ-thần, Thần-ưng phối hợp nhịp nhàng, trống trận Lĩnh-Nam đánh rộn rã. 

Mã Viện bảo Trịnh-Sư: 

– Ta là chúa tướng. Ta ở lại cản hậu. Trịnh tướng quân hãy đem binh mã trở về, mở đường máu, chiếm lại trại Tam-sơn. Có lẽ giờ này tướng quân Chu Long đang trở về cứu Tam-sơn. Nhớ, lên tới Tam-sơn đốt lửa làm hiệu gọi Lưu Long, Ngô Phùng đem quân từ bắc sang tiếp viện. 

Trọn đời chinh chiến. Chưa bao giờ Mã Viện gặp cảnh này. Suốt từ sáng đến giờ, một mũi tên, một chiêu võ cũng không được sử dụng. Trong sáu vạn thủy quân thì bị chết, bị bắt, đầu hàng hơn ba vạn. Bây giờ y phải cầm cự, cản hậu cho Trịnh Sư về giải cứu Tam-sơn, mở đường máu hầu rút lui. 

Đoàn chiến thuyền Trịnh Sư đi rồi. Phật-Nguyệt nói với Đinh Bạch-Nương: 

– Chúng ta hãy tiêu diệt đoàn thuyền Mã Viện càng mau càng tốt. Nếu chậm trễ, đạo quân Đào vương phi gặp nguy mất. 

Cờ phất lên. Trâu Đen, Sún Hô đồng cho Thần-ưng đánh xả láng, đánh không cần ước lượng tổn thất. Đoàn Thần-phong như một đám mây đáp xuống. Hàng ngũ quân Hán rối loạn lên. Tráng sĩ Lĩnh-Nam dùng đoản đao, từ các con thuyền nhỏ, nhảy sang chiến thuyền Hán, đao vung lên, phụp, phụp, đầu rơi xuống. Quân Hán gặp đường cùng. Chúng quyết tử chiến. Trận chiến diễn ra kinh khủng. 

Độ hơn giờ, Phật-Nguyệt đã tìm ra chỗ đứng của Mã Viện. Bà chỉ cho Quách A: 

– Em dùng Thần-ưng đánh mở đường. Để chị giết tên Mã Viện. 

Bà cầm kiếm nhảy sang thuyền Hán. Thần-ưng từng tốt trăm con, nhào xuống đánh vào đội hình quân Hán. Chỉ phút chốc bà đã vượt qua ba dãy chiến thuyền, tới trước mặt Mã Viện. Mã Viện thấy bóng một nữ tướng dáng thanh nhã, mặc quần áo trắng, dây lưng hồng đang tiến về phía mình. Bóng đó tiến đến đâu, đầu rơi, thây đổ đến đó. Phút chốc đã tới trước mặt y. Y vung kiếm đâm liền. Ánh kiếm chớp lên, choang một tiếng. Cái chỏm mũ đội trên đầu y rơi xuống. Xoẹt, xoẹt hai tiếng, hai tướng đứng cạnh y, đầu một nơi mình một nẻo. Choang một tiếng, y bị trúng một kiếm giữa ngực. May miếng hộ tâm kính bằng thép, che chở cho y, lửa tóe ra, làm y kinh hồn động phách. Y nhảy vọt về phía sau, xuống con thuyền nhỏ, truyền thủy thủ chèo thực mau về bắc hồ Động-đình, bỏ hơn vạn thủy thủ với chiến thuyền. 

Phật-Nguyệt, Đinh Bạch-Nương truyền bao vây số chiến thuyền còn lại. Đám thủy thủ Hán thấy Mã Viện bỏ chạy, đồng quăng vũ khí xin hàng. Phật-Nguyệt truyền trói lại, cho xuống các chiến thuyền Hán. Truyền một đội dũng sĩ, giải về bản dinh phía Nam. 

Phật-Nguyệt đứng trên đài cao hô lớn: 

– Chúng ta chỉ có bốn vạn thủy binh, đã đánh tan bốn vạn rưỡi thủy binh Hán. Còn một vạn rưỡi, do Trịnh Sư dẫn chạy về Tam-sơn. Chúng ta mau tiến lên lấy Tam-sơn. 

Tướng sĩ Lĩnh-Nam reo hò rung động mặt hồ. Chiến thuyền chia làm hai đoàn, tiến về phía bắc. Đoàn thuyền gần đến Tam-sơn, thì nghe tiếng voi rống, hổ gầm, tiếng vũ khí chạm nhau, thì biết trên bờ đang có cuộc giao chiến khốc liệt. Phật-Nguyệt sai Quách A lên cột buồm, chỉ huy Thần-ưng trinh sát. 

Quách A đứng trên cột buồm nói vọng xuống: 

– Trên bờ chia làm ba khu vực giao chiến. Phía tây, Thần-hổ, Thần- hầu chạm phải cường địch. Hàng ngũ rối loạn. Hai bên đã lẫn vào nhau, không phân biệt được nữa. 

Phật-Nguyệt nói với Sún Hô: 

– Theo kế hoạch của Đào vương phi. Mặt tây hồ, do Tiên-Yên nữ hiệp, Lê Thị Lan. Yểm trợ có Xích Hầu chỉ huy sư Thần-hầu. Hắc Hổ chỉ huy sư Thần-hổ. Cánh này chặn không cho đoàn quân của Chu Long về cứu viện Tam-sơn. 

Quách A lo ngại: 

– Lực lượng Chu Long tới bốn vạn bộ binh, năm vạn kị binh. Mà mình chỉ có hai sư Thần-hổ với Thần-hầu, nguy quá. 

Quách A quan sát một lúc tiếp: 

– Phía bờ Bắc sông địch đông vô cùng. Chỉ có mình Trâu Xanh, với hai trăm Thần-ưng đánh cầm chừng. Có lẽ đạo quân của Hán từ bên kia sông đang đổ sang cứu viện. Kìa! Thần-ưng của Trâu Xanh đánh ở trên bờ sông, rõ ràng địch đã lên bờ được rồi. 

Nàng nhìn lên núi Tam-sơn nói: 

– Trên núi Tam-sơn, lực lượng mình thắng. Đã lọt vào trại giặc rồi. Hai bên lẫn lộn với nhau. Thần-ưng bay lượn trên cao, không xuống yểm trợ được. 

Phật-Nguyệt vui mừng: 

– Cánh quân đánh Tam-sơn gồm Đào sư bá, Đào Quí-Minh, Cu Bò, Trâu Trắng, Hồ Nam với sư Thần-tượng. Lực lượng giặc có vạn bộ, hai ngàn thủy, hai ngàn kị. Tuy đánh được Tam-sơn, nhưng cũng mệt lắm rồi. 

Bà quyết định: 

– Sư muội Đinh Bạch-Nương, Trâu Đen, Cao Cảnh Khê đổ bộ lên phía tây của hồ, tiếp cứu sư bá Tiên-yên. Ta với Hắc Phong, Sún Hô đánh tiêu diệt đoàn bại binh Mã-Viện, Trịnh Sư rồi cùng đạo binh Đào vương phi đánh với đạo Ngô Anh mới đổ bộ qua. Sư muội chỉ cần cầm cự khoảng nửa ngày, thì đạo binh Đào Phương-Dung sẽ tiếp cứu kịp. 

Phật-Nguyệt cầm loa nói lớn: 

– Hỡi các anh hùng Lĩnh-Nam, hỡi những con Rồng, cháu Tiên. Lĩnh-Nam đất rộng người thưa. Trung-nguyên người nhiều. Họ cai trị chúng ta như trâu, như chó hơn hai trăm năm nhục nhã. Chúng ta vừa phục hồi. Họ lại sang cướp nước. Hãy tiến lên, giết giặc, bảo vệ Lĩnh-Nam. 

Binh tướng cùng hô lên quyết chiến. Đoàn thuyền tiến vào bờ. 

Mã Viện, Trịnh Sư đã đem được hơn vạn thủy quân lên bờ Tam-sơn, bầy thành trận, tỏ ý quyết chiến, đợi viện binh từ bắc Trường-giang tới. 

Quân Hán sợ Thần-phong, chúng cắt cỏ đốt lên, khói mịt mờ. Phật-Nguyệt nhìn trận Hán, nói với Sún Hô: 

– Mã Viện quả thực là đại tướng có tài. Sáng nay y xuất phát sáu vạn thủy quân. Ta tiêu diệt gần hết. Chỉ còn hơn vạn, mà y vẫn bày được trận thế vững trãi như thế kia, để cố thủ. 

Quách A nhìn trận Hán nói: 

– Chúng đốt lửa, Thần-phong không dùng được. Chúng lại núp trong các ụ đất, mô đá, khó mà dùng Thần-nỏ. Bây giờ chỉ có một cách duy nhất dùng Thần-ưng đánh từ trên không. Còn sư tỷ cho thủy quân đổ bộ, tiêu diệt chúng, càng mau càng tốt. Nếu không, đạo binh mới đổ bộ từ bắc sang tiếp cứu, nguy lắm. 

Sún Hô đứng trên cột buồm, chỉ huy Thần-ưng. Hơn ba trăm Thần-ưng đồng loạt tấn công. Phật-Nguyệt ra lệnh cho các dàn Nỏ-thần bắn tà tà trên đầu trận tuyến Hán. Trong khi thủy quân đổ bộ. 

Cuộc chiến diễn ra cực kỳ ác liệt. Mã Viện, Trịnh Sư, cùng các tướng Hán xúm vào bao vây Phật-Nguyệt. 

Thông thường, tính tình Phật-Nguyệt khoan hòa, ít khi xử dụng hết khả năng kiếm pháp. Nhưng hôm nay, đứng trước sự an nguy của đạo quân Lĩnh-Nam, bà xử dụng những chiêu kiếm hiểm ác nhất. Kiếm chiêu lấp lánh như quả cầu bạc, bao phủ lấy người bà. Cứ mỗi chiêu vung lên, lại một đầu tướng Hán rơi xuống. 

Trịnh Sư là một cao thủ bậc nhất Trung-nguyên. Võ công của y còn cao hơn bọn Sầm Bành, Phùng Dị nhiều. Cạnh y còn Mã Viện, bản lĩnh ngang với đám Phong-Châu song quái. Phật-Nguyệt đã xử dụng hết khả năng kiếm pháp, mà vẫn không thắng được hai người. Ngoài ra còn đến hơn mười tướng Hán bao vây xung quanh bà. 

Bà vừa đánh vừa nhìn trận tuyến. Quân Lĩnh-Nam đang giao chiến ác liệt với quân Hán. Thắng bại chưa phân. Thì từ phía sau một giọng trẻ con la lớn: 

– Mã Viện! ta cho ngươi cái này. Hãy đón lấy. 

Một vật bay vèo đến trước mặt Mã-Viện. Y dùng đao gạt, nhưng không kịp. Vật đó đã trúng giữa mặt y đến bốp một cái. Một mùi hôi thối nồng nặc xông lên, làm Mã-Viện hắt xì liền ba tiếng. Y nhảy lui lại nhìn xem đó là vật gì? Thì ra một chiếc dầy vải. 

Y nhìn người ném mình, chỉ là một thằng bé khôi ngô, mặt mũi lem luốc. Y cảm thấy mặt ngứa ngáy khó chịu. Y đưa tay lên gãi. Càng gãi càng thấy ngứa. Y nhìn lại kẻ phóng ám khí, thằng bé nói: 

– Mã Viện! Mày bị trúng ám khí kịch độc của tao rồi. Mau quì xuống qui hàng, tao sẽ ban thuốc giải cho. Bằng không chỉ nội một giờ, mi sẽ hộc máu ra mà chết. 

Nghe nói Mã kinh hãi. Y bỏ Phật-Nguyệt, rượt theo thằng bé. Nguyên thằng bé đó là Cu Bò. Sau khi Đào vương phi, Đào Quí-Minh, Trâu Trắng, Cu Bò, Hồ-Nam đánh được đồn Tam-sơn. Bà giao cho Đào Quí-Minh tiếp thu danh trại, kiểm điểm tù binh. Bà cùng với Cu Bò, Trâu Trắng, Hồ-Nam tiến ra bờ hồ Tam-sơn tiếp chiến với Phật-Nguyệt. 

Cu Bò không chịu cỡi voi, vì vướng vít. Nó bám cành cây truyền như khỉ, đu từ cành này tới cành kia. Vì vậy nó tới trước. Thấy Phật-Nguyệt đang bị Mã Viện với các tướng Hán bổ vây. Nó cầm tù và gọi Thần-ưng. Trong khi Thần-ưng chưa tới kịp, tính tinh nghịch tuổi trẻ nổi dậy, nó cởi chiếc dầy móc túi lấy chiếc bình chứa chất độc nọc rắn, nhỏ mấy giọt vào, lại móc túi khác lấy ít phấn trái Móc-mèo rắc lên dầy. 

Nó đứng lược trận, thình lình ném Mã Viện. Nó là đứa ở dơ nhất, bất cứ dầy, dép, quần áo nào, nó mang từ lúc mới cho tới lúc rách, không bao giờ giặt giũ. Đôi dầy của nó hôi thối không ai chịu nổi. Nó dùng dầy ném Mã Viện. Y thấy mùi hôi thối kỳ lạ, lại tưởng là ám khí. Y bỏ Phật-Nguyệt, đuổi theo nó. Nó bám cành cây, đu như khỉ. Phút chốc đã lên đến chót vót một cổ thụ. Nó cầm tù và rúc lên mấy hồi gọi Thần-ưng. Đoàn Thần-ưng của nó bay đến rợp trời. Chúng thấy Mã Viện cùng một số tướng Hán đang bao vây chúa tướng, chúng đồng ré lên nhào xuống tấn công. Mã Viện vội dùng đao múa tít bảo vệ thân mình. Vừa lúc đó, đoàn Thần-tượng với Đào vương phi tới. 

Mã Viện chưa biết Đào vương phi. Y hất hàm hỏi: 

– Nữ tướng kia tên gì. Hãy nói cho ta biết. 

Đào vương phi tuy làm đại tướng. Song tính nhu nhã, cao sang của bậc vương giả không bị mất. Bà lễ phép trả lời:

– Người có phải Phục ba tướng quân Mã Viện đó chăng? Người chưa gặp ta, nên chưa biết. Song ngươi đã biết con trai ta là Đào Kỳ. Con dâu ta là Phương-Dung chứ? 

Mã Viện bật lên tiếng úi chà. Y tỏ vẻ sợ hãi: 

– Thì ra Đào vương phi đất Cửu-chân đây. Tiểu tướng muốn được lĩnh giáo mấy cao chiêu của Vương phi. 

Y vung chưởng tấn công liền. Chưởng của y bao hàm sát thủ cực mạnh. Đào vương phi phát chiêu Thiết-kình phi chưởng đỡ. Binh một tiếng. Cánh tay bà cảm thấy tê dại. Trong khi Mã Viện lùi hai bước. 

Đào vương phi nghĩ: 

– Chưởng lực tên này khá mạnh. Có lẽ hơn Phong-châu Song quái. Nếu Đào Kỳ không truyền bí quyết võ công trong bộ Văn-lang võ học kỳ thư cho ta, e rằng ta không phải đối thủ của y. 

Hai người đấu được trên ba mươi chiêu. Công lực Đào vương phi thấp hơn Mã Viện. Song võ công của bà là võ công Cửu-chân, khắc chế võ công Trung-nguyên vì vậy bà cầm cự được. 

Bỗng từ trên cao, một tia nước rót trúng đầu Mã. Y lui lại nhìn lên: Cu Bò đang cầm cò đái vào đầu y. Mùi nước đái khai không chịu được. 

Y chửi: 

– Đồ con nít mọi rợ! Đất Lĩnh-Nam sinh sản toàn đồ mất dậy. 

Về võ công Cu Bò thua xa Mã Viện. Song bản lĩnh chửi nhau, nó bỏ xa Mã. Nó ngoác mồm ra chửi: 

– Mất dậy cái con mẹ mi ấy. Đất nước của ông, chúng mày kéo sang đánh phá. Đó mới chính là mất dậy. Ông cho mày uống nước đái, lại ném vào người mày một ám khí kịch độc. Mày chết đến nơi rồi con ạ! 

Nó ngừng lại cười lớn: 

– Sư bá mau lui lại. Mã Viện đã trúng phải phấn Hủ tâm của cháu. Trong một giờ tim sẽ nát ra mà chết. Đằng nào trong một giờ, y cũng chết. Sư bá khỏi cần giết y. 

Đào vương phi nhận Lục Sún làm đệ tử, biết bản lĩnh phá phách của chúng. Bà tưởng Cu Bò nói thực. Bà nói với Mã Viện: 

– Phục ba tướng quân. Ta lấy nhân nghĩa trị người. Tướng quân bị trúng độc rồi. Ta không làm khó dễ người đâu. Ngươi đầu hàng đi thôi. 

Mã Viện nhìn lại. Phật-Nguyệt đã đánh rơi kiếm của Trịnh Sư. Trận tuyến Hán tan vỡ. Y có cố gắng đốc chiến, cũng đến bại mà thôi. Y xuống nước nói với Đào vương phi: 

– Vương phi! Tiểu tướng đã từng ở dưới trướng con rể người là Lĩnh-nam vương. Xin vương phi nghĩ tình Lĩnh-nam vương, ban cho tiểu tướng một liều thuốc giải. Tiểu tướng không bao giờ quên ơn. 

Đào vương phi hướng mặt lên cây gọi Cu Bò: 

– Bò ơi! Cháu cho Mã tướng quân một viên thuốc giải. 

Cu Bò làm bộ sờ túi nọ, mò túi kia. Nó thục tay vào túi quần. Túi quần bị lủng từ hồi nào. Tay nó đụng phải cò. Nó mỉm cười, nhìn Mã Viện, rồi dùng tay chà vào cò mấy cái. Người nó đầy ghét. Đừng nói chà mấy cái, chỉ chà sơ, cũng lấy ra được một tảng ghét. Nó vê thành viên, cầm trong tay. Nó truyền cành cây xuống thấp, nói với Mã Viện: 

– Mi hãy há miệng ra. Ta ném thuốc xuống cho. 

Mã Viện há miệng. Cu Bò ném viên thuốc vào miệng. Y nuốt trửng. Cu Bò nói: 

– Này Mã Viện, mi hãy nhớ: Sau khi uống thuốc giải, trong mười ngày không được dụng võ. Nếu trong mười ngày, mà mi dùng võ, thì đừng chê thuốc của ta không hiệu nghiệm. Thuốc này chỉ làm cho mi không bị nát tim chết. Còn loại thuốc thứ nhì nữa, mới chữa dứt hẳn bệnh. 

Nó tiến đến Sún Hô nói: 

– Sư huynh cho Mã tướng quân ba viên thuốc trị độc. 

Miệng nói, mắt nó nháy lia lịa. Sún Hô làm gì có thuốc giải? Trong túi chàng chỉ có bình thuốc chữa khỉ. Nguyên khỉ từ vùng Giao-chỉ tới đây tham chiến, thường bị bệnh táo bón. Chàng cho chúng uống một thứ thuốc để dễ đi đại tiện. Chàng móc túi đưa ra ba viên thuốc trao cho Cu Bò. Cu Bò đưa cho Mã Viện: 

– Tướng quân nuốt mau đi. 

Mã Viện do dự một chút, rồi bỏ vào miệng nuốt trửng. 

Đám binh sĩ Hán thấy Mã Viện bị khống chế, đồng buông vũ khí đầu hàng. 

Cu Bò làm mặt nhân đạo nói với Phật-Nguyệt: 

– Chị Phật-Nguyệt! Xin chị sinh phúc tha cho tên Mã Viện một lần. Y đã trúng độc của em. Tuy được uống thuốc giải, nhưng trong mười ngày, y không dám dùng võ đâu. Con sâu, cái kiến còn muốn sống, huống hồ con người. Sư tỷ ơi! Sư tỷ hãy tha mạng cho Mã tướng quân. 

Nó nói với Mã Viện: 

– Mã tướng quân. Đại ca Xích Hầu chỉ có Trâu Trắng, Trâu Xanh với ta dẫn Thần-hầu, Thần-ưng mà đánh tan trại Tam-sơn đốt hết lương thảo. Hơn sáu vạn thủy quân của ngươi bị sư tỷ Phật-Nguyệt đánh tan. Đạo quân năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh của Chu Long đang bị vây ở phía tây hồ Động-đình. Không chừng giờ này đã bị tiêu diệt hết rồi cũng nên. 

Mã Viện liếc mắt nhìn về phía tây, ở đó có Thần-ưng đang bay rợp trời. Tiếng quân reo, tiếng hổ gầm rung động. Y tin lời nó. Nó được thể dọa tiếp: 

– Bây giờ, Mã tướng quân hãy về thành Trường-sa yết kiến Lĩnh-nam vương với Hán-trung vương. Lĩnh-nam vương thường nhắc đến tướng quân luôn. Đại quân Lĩnh-Nam đóng dài từ Trường-sa đến Linh-lăng, gồm năm mươi vạn người, chia làm mười đạo. Mỗi đạo có một quân đoàn Tây-vu. Mỗi quân đoàn Tây-vu có tám sư đoàn. Tướng quân có biết là những sư đoàn gì không? 

Trên đời Mã Viện, y sợ nhất là Trần Tự-Sơn, sau này tới Trưng Nhị, Phùng Vĩnh-Hoa, Đào Kỳ, Phương-Dung. Bây giờ nghe năm người đóng đại quân ở Trường-sa. Y không còn hồn vía nào nữa. Trong lòng tự nghĩ: 

– Cũng may mình gặp đạo quân Phật-Nguyệt ở đây. Chứ mình kéo quân đến Trường-sa, e rằng mất mạng. 

Y đánh trống lảng: 

– Tôi không biết. 

Cu Bò cười: 

– Đó là Thần-tượng, hầu, phong, ưng, ngao, hổ, báo, long. 

Mã Viện kinh hoàng. Hồi giúp Hán đánh Thục, Lĩnh-Nam chỉ mang có một quân, mà đã làm cho Thục đại bại. Huống hồ nay tới mười quân. 

Thuốc đã ngấm. Mã Viện ôm bụng nhăn nhó, mặt tái mét. Cu Bò nói với Đào vương phi: 

– Đệ tử biết Mã tướng quân bị trúng độc. Chắc không dám đem quân đánh Lĩnh-Nam nữa đâu. Xin sư bá đại ân đức tha cho Mã tướng quân về bắc. 

Nó quay lưng lại phía Mã Viện, mắt nháy liên tiếp, ngón tay trỏ giật giật, ra hiệu cho Đào vương phi. Bà biết nó mưu kế gì đây. Bà nói với Mã Viện: 

– Thôi, Mã tướng quân, ngươi hãy về đi. 

Mã Viện bái tạ. Y cầm đao, hú lên một tiếng, biến vào rừng. 

Phật-Nguyệt nhìn theo bóng Mã Viện. Bà quay lại khen Cu Bò: 

– Em tôi giỏi quá. Nếu không có em ném ám khí vào Mã Viện, chị e giờ phút này cũng chưa thắng được y với Trịnh Sư. Y bị khống chế, thành ra hơn vạn quân Hán đều đầu hàng. Nếu chúng không đầu hàng, Lĩnh-Nam có diệt được, cũng hao đến bảy tám ngàn người. 

Sún Hô, Cu Bò cùng ôm bụng cười rũ rượi. Đào vương phi nghiêm nghị: 

– Các con không được vô phép. Sư tỷ Phật-Nguyệt tuy hiền hậu, nhưng cũng là chúa tướng. Các con cười như vậy, là thiếu lễ độ, không phải tác phong đệ tử danh gia. 

Sún Hô chắp tay tạ lỗi với Phật-Nguyệt. Chàng nói: 

– Chúng em cười vì Mã Viện mắc mưu Cu Bò. Nó làm gì có ám khí với độc dược? Chẳng qua đôi dầy của nó, từ lúc mới đan đến giờ hơn hai tháng chưa giặt. Hôi thối kinh khiếp. Nó bôi phấn mốc mèo vào. Mã Viện thấy ngứa, tưởng ám khí, đâm hoảng. Cu Bò được thể dọa già. Nó xin em thuốc táo bón chữa khỉ cho Mã uống. Sau khi uống một giờ, y sẽ đau bụng, đại tiện chảy ít ra đến mười ngày mới khỏi. 

Đào Quí-Minh cũng đã tới. Ông nói: 

– Cu Bò giỏi thực. Dù em ném ám khí, dù em đánh lừa Mã Viện, cũng khiến cho hơn vạn quân Hán đầu hàng. 

Phật-Nguyệt gọi một tướng Lĩnh-Nam: 

– Sư huynh dùng chiến thuyền giải đám tù binh này về Trường-sa chờ tôi về phát lạc. Nhớ cho ăn uống tử tế, để giữ tình với nhau. Chủ trương đánh chúng ta là bọn Quang-Vũ, chứ họ vô tội. 

Bà quay lại nói với Đào vương phi: 

– Chúng ta trở lại trợ chiến với sư bá Tiên-yên, Đinh Bạch-Nương: 

Bà ra lệnh: 

– Các em Trần Quốc-Dũng, Hắc Phong, trấn giữ Tam-sơn, cùng với một vạn thủy quân. Bảo vệ mặt hậu cho chúng ta. Còn lại, tất cả cùng theo Đào sư bá với tôi đánh tiêu diệt quân Chu Long. 

Bà nói với Đào vương phi: 

 – Đinh Bạch-Nương đã mang hơn vạn thủy quân, đổ bộ đánh vào sườn phải Chu Long. Phía trước mặt y có Tiên-yên nữ hiệp, sư muội Lê Thị Lan, Hắc Hổ. Sư bá dẫn toàn bộ kị binh, bộ binh đánh vào phía trái. Theo giúp sư bá có Quí-Minh, Trâu Trắng, Trâu Xanh, Hồ Nam. Tôi với Quách A, Sún Hô, Cu Bò đánh vào trước mặt chúng. 

Phật-Nguyệt nhảy lên ngựa đi trước. Khoảng nửa giờ sau, đã nghe tiếng hổ gầm, voi rống. Tiếng ngựa hí, quân reo. Bà cỡi ngựa đi giữa. Bên phải có Cu Bò, bên trái có Quách A. Phía sau có Sún Hô chỉ huy hơn vạn thủy quân. Trước mặt bà, xa xa hiện ra, một chiến trường. Tiên-yên nữ hiệp cầm kiếm đứng trên ngọn đồi nhỏ dốc chiến. Xung quanh bà, đoàn Thần- hầu, Thần-hổ phục dài trên sườn đồi. Phía dưới kị binh, bộ binh bao vây kín như thành đồng vách sắt. Xích Hầu mặt đầy máu. Vai Hắc Hổ băng vải đẫm máu. Chắc hai người đã bị thương. 

Ngoài bờ hồ: Đinh Bạch-Nương, Cao Cảnh-Khê đang đốc thủy quân đánh với quân Hán. Cuộc xung sát chưa ngã ngũ. Quân Đinh Bạch-Nương, là quân thiện chiến, can đảm, nhưng phải dựa vào năm dàn Thần-nỏ, thành ra không dám tiến xa chiến thuyền. Còn quân Hán tuy đông, cũng không thể nào tiến được, vì bị thủy quân Lĩnh-Nam chắn phía trước. 

Phật-Nguyệt cầm cờ xanh phất về phía Tiên-yên nữ hiệp mấy cái. Đó là biểu hiệu: Phá vòng vây tiến lên. Bà cầm cờ đỏ hướng về phía Đinh Bạch-Nương phất mấy cái. Đó là biểu hiệu, giữ nguyên trận tuyến. 

Tiên-yên nữ hiệp, Hắc Hổ, Xích Hầu xua quân đổ đồi. Hổ gầm lên đồng xung vào trận Hán. Quân Hán đang vây cứng đoàn Thần-hổ, Thần-hầu. Bỗng thấy quân Lĩnh-Nam có viện binh, vội lui trở xuống. 

Quách A bảo Cu Bò: 

– Em cho Thần-ưng đánh vào đội hình quân Hán, yểm trợ sư bá Tiên-yên. Đánh xả láng. Đánh không thương xót. 

Hàng ngũ quân Hán bị Thần-hổ, ưng, hầu, thủy quân đồng vây. Hàng ngũ rối loạn, lui trở lại. Hai đạo quân Lĩnh-Nam đã bắt liên lạc được với nhau. 

Tiên-yên nữ hiệp nói: 

– Thằng Chu Long võ công cao không thể tưởng được. Khi y đem quân trở lại. Ta dùng Thần-hầu, đốt cỏ trong rừng làm nghi binh. Nó dừng quân lại, cho tế tác dọ thám. Tên tế tác nào vào rừng, cũng bị Thần-hầu đập chết. Được mấy giờ, Chu Long đã nhận ra chủ ý của ta. Nó xua binh tiến lên. Ta dùng Thần-hổ cản đường. Lúc đầu kị binh Hán rối loạn. Sau bộ binh tiến lên. Chúng bao vây, định diệt ta. May nhờ Đinh Bạch-Nương tới kịp. Song binh sĩ của Bạch-Nương ít quá. Thành ra chỉ cản trở không cho chúng về cứu Tam-sơn mà thôi, không giải vây được cho ta. Cháu tới vừa lúc. 

Phật-Nguyệt dàn quân: Phía phải, đội Thần-hổ, Thần-hầu do Hắc Hổ, Xích Hầu chỉ huy, thêm Cu Bò. Phía trái Đinh Bạch-Nương, Cao Cảnh-Khê, Trâu Đen. Chính giữa, bà với Tiên-yên, Quách A, Sún Hô. Tuy quân Lĩnh-Nam chỉ hơn vạn, song uy thế như hàng chục vạn. Trên trời Thần-ưng bay lượn, trong tư thế sẵn sàng xung trận.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 17 : Tinh trung nhất khí quán sơn hà, thử dân, thử thổ,Huynh muội tam nhân tòng đại nghĩa, vi tướng, vi thần.(Câu đối ở đền thờ Quách Lãng, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương)

 Chu Long xuất thân là một đại tôn sư võ học. Y đứng đầu Liêu-đông tứ ma. Trước đây hơn hai mươi năm, người em út của y, Vương Hùàng đã đấu với đệ nhất cao thủ triều Hán là Sầm Bành ngang tay. Vì vậy, người ta biết bọn Liêu-đông tứ ma, võ công cao hơn Phùng Dị, Sầm Bành nhiều. Từ khi Mã thái hậu viết thư mời bốn người ra làm quan, mở đầu giữ chức hiệu úy trong cung cấm. Bây giờ, anh em y được gửi giúp Mã Viện đánh chiếm Trường-sa. Mã thái hậu muốn Viện chiếm Kinh-châu, hầu thế lực họ Mã mạnh, để Quang-Vũ phải nể. Trong triều bà khống chế quần thần dễ dàng. Chu được Mã Viện trao cho năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh, đi bọc phía tây hồ, cùng hội quân với Mã ở Trường-sa. 

Sau khi xuất quân hai ngày, thám mã báo cho biết quân Lĩnh-Nam đánh tập hậu, chiếm Tam-sơn, Yên-lăng, lương thảo bị đốt sạch. Chu Long kinh hồn. Giữa lúc đó, có tin Mã Viện trúng kế Phật-Nguyệt, sáu vạn thủy quân tan rã. Lĩnh-nam vương Nghiêm Sơn, Bắc-bình vương Đào Kỳ dồn trú năm mươi vạn quân cùng với Phương-Dung, Trưng Nhị, Phùng Vĩnh-Hoa đã có mặt ở Trường-sa. Tuy Chu Long chưa biết lợi hại của năm người, song y đã nghe tướng Hán mỗi khi nói đến năm người, đều kinh tâm động phách. 

Y ban lệnh rút quân về bờ sông Trường-giang. Vừa đến đây, thấy khói bốc lên nghi ngút trong rừng, y gửi tế tác dò thám, song cho toán nào đi, mất toán ấy. Y chưa kinh nghiệm cầm quân, vội xua binh đánh mở đường rút lui. Kị binh vừa lên, gặp một đoàn Thần-hổ, Thần-hầu xông ra chặn đường. Ngựa thấy cọp, bỏ chạy tán loạn. Y cho bộ binh tiến lên, dùng cung tên bắn, đoàn Thần-hổ, Thần-hầu, phải rút chạy. 

Chu không đuổi theo, truyền rút quân, thì Thần-hổ, Thần-hầu lại đổ ra đánh. Y nổi giận cho quân bao vây đoàn Thần-hổ, Thần-hầu trên cái đồi, thì vừa lúc đó, một đoàn chiến thuyền kéo đến, định đổ bộ, đánh vào sau lưng. Y kinh hoảng, chia quân đánh với đám thủy quân Lĩnh-Nam. Y định cướp chiến thuyền trốn về bắc, không cần cứu Tam-sơn. Không ngờ trên chiến thuyền, Nỏ-thần bắn như mưa. Y hao trên một vạn quân, mà không chiếm được chiếc nào. Bây giờ lại gặp đạo quân Phật-Nguyệt xuất hiện. 

Chu Long quan sát mặt trận. Y yên tâm phần nào, vì bên Lĩnh-Nam chỉ có hai vạn quân. Trong khi y có năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh. Tuy trong trận giao tranh vừa qua. Y bị thiệt hại trên hai vạn vừa kị binh, bộ binh. 

Y gò cương trước trận hỏi: 

– Ta, Chu Long, muốn được đối thoại với chúa tướng Lĩnh-Nam. 

Phật-Nguyệt, thủng thỉnh thúc ngựa ra trước trận. Hai tay nàng chắp lại hành lễ: 

– Công chúa Phật-Nguyệt, lĩnh ấn Trấn-bắc đại tướng quân, kính cẩn ra mắt Chu tướng quân. Tôi nghe Chu tướng quân võ công kinh thế hãi tục, đứng đầu Liêu-đông tứ vương. Hôm nay hân hạnh được diện kiến. 

Chu Long từng nghe danh Phật-Nguyệt. Y cười: 

– Ta tưởng Phật-Nguyệt ba đầu, sáu tay thế nào. Hóa ra cũng tầm thường thôi. Thì ra nghe không bằng thấy. Người chỉ có hai vạn quân, liệu mà tránh đường sang một bên, cho ta đi. Bằng không, năm vạn kị binh, bốn vạn bộ binh của ta cùng tiến lên, thì bọn ngươi tan xương nát thịt. 

Quách A chỉ sang trận Hán cười: 

– Chu tướng quân đã lớn tuổi, mà sao không tự biết mình? Mã Viện hung hăng, sáu vạn thủy, bảy vạn bộ, năm vạn kị vào Tam-sơn, chỉ một trận nhỏ, trên mặt hồ, sáu vạn thủy binh tan. Trại Tam-sơn, ba vạn bộ binh bị diệt hết. Còn Chu tướng quân, xuất chinh năm vạn kị, bốn vạn bộ, chỉ với đoạn Thần-hổ, Thần-hầu, và hơn vạn thủy binh của sư tỷ Đinh Bạch-Nương, tướng quân đã hao tới hơn hai vạn. Phía trước, đường rút không còn. Phía phải, là mặt hồ, Thủy quân Lĩnh-Nam hùng mạnh, thêm mấy dàn Nỏ-thần, đội Thần-ưng. Phía trái, đại quân của Lĩnh-Nam trấn đóng. Phía sau, Bắc-bình vương Đào Kỳ đang từ Trường-sa tới với hai mươi vạn binh. Tôi nghĩ, tướng quân nên hàng đi là phải. 

Các tướng Hán nghe Quách A nói, mặt nhìn mặt, ngơ ngác. Chu Long cười: 

– Ta nghe nói, xưa kia Vạn-tín hầu Lý Thân, chế ra Lĩnh-Nam kiếm pháp, vô địch thiên hạ. Công chúa Phật-Nguyệt đã học được kiếm pháp đó. Ta muốn lĩnh giáo mấy chiêu. 

Phật-Nguyệt dặn nhỏ Quách A, Sún Hô mấy câu, rồi bà quay lại nói với Chu Long: 

– Tiểu nữ xin tuân lệnh Liêu-đông đệ nhất vương. Nào mời. 

Miệng nói, bà vọt người lên cao. Chân đá gió một cái. Người tà tà đáp xuống trước mặt Chu. Phật-Nguyệt mặc quần áo trắng, dây lưng hồng, từ trên cao đáp xuống, trông như một tiên nữ giáng phàm. 

Chu Long rút kiếm nhắm ngực bà đâm. Kiếm lực rít lên vo vo. Phật-Nguyệt không đỡ. Bà đưa kiếm vào cổ đối phương. Chu Long hoảng kinh, lộn người đi hai vòng tránh. Song Phật-Nguyệt cũng lộn theo. Chu vọt người lên cao, thoát khỏi kiếm chiêu của bà, bà cũng vọt người đuổi theo. Ở trên không hai người đấu với nhau hơn mười chiêu, mới rơi xuống đất. 

Người ngoài chỉ rhấy hai vòng kiếm bạc bao phủ lấy hai người. Phật-Nguyệt vừa đánh, vừa nghiên cứu kiếm thuật đối phương: Kiếm thuật Chu Long cao hơn Hoài-nam vương, Vũ Chu nhiều. Y lại kinh nghiệm chiến đấu, kiếm pháp của y tinh diệu, không một chút sơ hở. Bà đã dùng hết tuyệt chiêu, y vẫn chống đỡ được. 

Đấu với nhau hơn hai trăm hiệp. Phật-Nguyệt đã tìm ra được cách phá kiếm pháp của Chu Long. Song bà muốn kéo dài trận chiến, để Đào vương phi kịp chuyển quân đánh vào hông y. 

Giữa lúc đó Quách A cầm tù và thổi lên ba hồi dài. Trâu Đen, Trâu Trắng, Trâu Xanh, Cu Bò cùng cầm cờ chỉ huy Thần-ưng đánh xuống trận Hán. Xích Hầu, Hắc Hổ, cho lệnh Thần-hổ xung vào yểm trợ. 

Chu Long vội chém bậy một chiêu, nhảy lui lại dốc chiến. 

Quân Hán bị dồn vào cùng đường. Họ quyết tử chiến. Trong khi quân Lĩnh-Nam can đảm, yêu nước, nhất định tiêu diệt giặc. Đoàn bộ binh tiến lên bị Thần-hổ xông vào, đánh lui lại. Trên trời Thần-ưng lao xuống. Có đến năm, sáu ngàn bộ binh Hán tử thương. Phía Thần-hổ, hơn ba mươi con bị chết. Hắc Hổ được lệnh đánh xả láng. Chàng thân cầm dùi thúc trống, nhất quyết không lui. Đoàn Thần-hổ càng bị đánh, càng hăng, xông vào. 

Phía bờ hồ, kị binh xung vào trận Đinh Bạch-Nương, bị Thần-ưng đánh từ trên. Nỏ-thần bắn từng loạt. Xác người, xác ngựa chết chồng đống lên nhau. Chu Long đứng sau dốc chiến. Một lữ trưởng kị binh lui lại, lập tức y chém đầu. Kị binh liều chết xông lên. 

Giữa lúc đó, quân reo, ngựa hí, đoàn Thần-tượng với đạo quân Đào vương phi đánh vào sườn trái quân Hán. Chu bảo phó tướng: 

– Ngươi chỉ huy bộ binh cầm cự. Để ta đánh chiếm chiến thuyền của chúng, cướp lấy một thuyền mà chạy. Bằng không thì chết hết. 

Một tay y cầm kiếm, một tay cầm mộc, nhấp nhô mấy cái y đã xung vào giữa trận Đinh Bạch-Nương. Cao Cảnh-Khê dương cung bắn một lúc tám mũi. Chu gạt được sáu. Hai mũi trúng ngựa y. Ngựa đau quá ngã xuống. Chu bỏ ngựa, tiếp tục xông vào trận. Cao Cảnh-Khê bắn liền năm loạt, cũng không cản được. Phút chốc Chu đã đến bờ hồ. Đinh Bạch-Nương nhảy đến, vung kiếm cản. Hai kiếm chạm nhau. Choang một tiếng, kiếm Đinh Bạch-Nương bay vọt lên trời. 

Trong khi đó, kị binh xung phong theo sau y. Năm dàn Nỏ-thần bắn liên tiếp. Hết đợt này ngã, đợt khác tiến lên. Phút chốc xác ngựa, xác người chồng chất thành đống, quân tướng Hán kinh hoàng lui lại. Chu vung kiếm chém liền mười người. Chúng sợ hãi tiến lên. 

Chu bỏ Đinh Bạch-Nương. Y nhảy lên chiến thuyền chở Nỏ-thần. Hơn mười đệ tử Hoa-lư trấn giữ Nỏ-thần, dùng vũ khí đánh y. Chỉ mấy hiệp, năm người đều bị giết. Phía sau y, một đoàn võ sĩ, đánh mở được một đường. Chúng cũng tràn xuống chiếm mất mười chiến thuyền. Trong đó có năm chiến thuyền chở Nỏ-thần. 

Thấy Nỏ-thần bị chiếm, Trâu Đen kinh hãi nghĩ: Nếu bọn Hán chiếm được Nỏ-thần, ắt chúng theo đó chế ra, đánh lại Lĩnh-Nam thì nguy. Nó cầm tù và thổi, gọi Thần-ưng nhào xuống đánh xả láng. Thần-ưng không còn lao xuống đánh rồi vọt lên nữa, mà xung vào mổ mắt, cấu mặt đội võ sĩ Hán. 

Chu-Long thấy, một thiếu niên đứng trên cột buồm chỉ huy Thần-ưng. Y nhấp nhô mấy cái, đã đến thuyền Trâu Đen. Kiếm lóe lên. Hơn chục Thủy-thủ rơi đầu. Y vung chưởng hướng cột buồm, Trâu Đen đang đứng trên đó chỉ huy. Binh một tiếng. Cột buồm gãy, từ từ đổ nghiêng xuống hồ. 

Thần-ưng thấy chúa tướng lâm nguy, vội vã lao xuống tấn công Chu-Long. Chu-Long quả xứng với võ công đệ nhất Trung-nguyên, y múa tít đao đánh dạt Thần-ưng, rồi nhảy đến chụp Trâu Đen. Trâu Đen bỏ cột buồm, nhảy xuống hồ. Chu-Long nhặt một thanh đao trên sàn thuyền phóng theo. Người nó đứt làm hai đoạn. Đoàn Thần-ưng không người chỉ huy. Bay vọt lên cao. 

Đám võ sĩ của Chu-Long đánh vỡ mặt trận phía bờ hồ của Đinh Bạch-Nương, làm tê liệt năm dàn Nỏ-thần, Chu đứng ở mũi thuyền, chỉ huy quân chống trả với đạo binh Đào vương phi. 

Quách A đang đứng tổng chỉ huy phối hợp các đạo quân Tây-vu, nàng thấy đoàn Thần-ưng củaTrâu Đen bay lên cao. Chúng kêu lên những tiếng bi thương thảm não, thì nó lành ít dữ nhiều. Nàng vội cầm cờ phất gọi chúng lại, thay thế Trâu Đen chỉ huy đoàn Thần-ưng của nó. 

Các chúa tướng Tây-vu thấy tình trạng đoàn Thần-ưng của Trâu Đen, họ biết nó đã tử trận. Tình đồng môn sống dậy. Họ cùng xua quân đánh xả láng. Đào vương phi đánh như vũ bão. Quân Hán kinh hoàng, bỏ trận tuyến, đánh thục mạng, mở đường máu ra phía bờ hồ. 

Giữa lúc đó có tin Thần-ưng báo: Đạo quân Hán gồm ba vạn kị, sáu vạn bộ, đã đổ bộ vào Tam-sơn, đang đánh dọc bờ Đông hồ Động-đình tiến về Trường-sa, đạo này do Ngô Anh chỉ huy. Ngô Anh với Chu Tái-Kênh, Quách Lãng đang giao chiến bất phân thắng bại. 

Còn ba vạn thủy quân của Lưu Long đã rời Tam-sơn tiến về nam, đang giao chiến ác liệt với Đinh Tĩnh-Nương. 

Phật-Nguyệt đứng trên cao cầm cờ dốc chiến. Bà hô lớn: 

– Các chiến sĩ anh hùng Lĩnh-Nam nghe đây. Chúng ta phải tiêu diệt đạo quân Chu Long. Không để một tên chạy thoát. 

Bà phất cờ, cho Đinh Bạch-Nương lui lại, nhường bờ hồ, cho chiến thuyền Chu Long có đường tháo chạy. Thủy quân của Đinh Bạch-Nương chưa quá một vạn đã bị kị binh, bộ binh Hán đánh thục mạng, đành lui lại phía sau. Nhưng các dàn Nỏ-thần vẫn xạ kích binh Hán từng đợt từng đợt ngã xuống. 

Chu Long thấy quân Lĩnh-Nam đánh dữ quá. Y ra lệnh cho một số tướng sĩ cùng rút xuống chiến thuyền chiếm được của Đinh Bạch-Nương, nhổ neo ra khơi. Có tất cả hai mươi chiến thuyền rút chạy, trên chở khoảng một vạn người. 

Đám kị binh, bộ binh còn lại, thấy chúa tướng chạy, đồng bỏ vũ khí qui hàng. Phật-Nguyệt nhờ Đào vương phi ở lại tiếp nhận tù binh. Bà cùng Đinh Bạch-Nương, Tiên-yên nữ hiệp, dẫn Quách A, Sún Hô, Cu Bò, Trâu Trắng, Trâu Xanh xuống chiến thuyền đuổi theo. 

Phật-Nguyệt bảo Cu-Bò: 

– Em gọi một Thần-ưng đưa thư cho chị. 

Thần-ưng đưa thư tới. 

Bà viết mấy chữ, truyền lệnh cho Trần Quốc-Dũng đem thủy quân chặn đầu, đánh không cho Chu Long rút ra Trường-giang. 

Bà truyền chiến thuyền đuổi theo thực gấp. Trên các cột chiến thuyền, Quách A, Sún Hô, Cu Bò, Trâu Trắng, Trâu Xanh cầm tù và, cờ chỉ huy Thần-ưng tiếp tục đánh trên đầu chiến thuyền rút chạy của Chu Long. Bọn Chu Long chia người làm hai. Một nửa chèo thuyền. Một nửa chống với Thần-ưng. 

Hai bên, một đuổi bắt giặc trả thù. Một bên chạy lấy sống. Đến giữa hồ, thì phía trước một đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam dàn hàng ngang chặn mất đường. 

Chu Long nói với tướng sĩ: 

– Phía trước có quân chặn. Phía sau có quân đuổi. Phải tử chiến mới hy vọng sống. 

Đoàn chiến thuyền Chu Long xung về trước. Các tướng Hán cũng liều chết tử chiến. Đoàn thuyền Lĩnh-Nam của Trần Quốc-Dũng bao vây hai mươi chiến thuyền Chu Long. Y dùng kiếm, đánh dạt thủy thủ Lĩnh-Nam tìm đường chạy. Song chỉ một mình chiến thuyền y thoát vòng vây, chạy về phía núi Quân-sơn. Quân sĩ trên các chiến thuyền còn lại đầu hàng. 

Phật-Nguyệt truyền lệnh thu quân. Không đuổi theo. Cao Cảnh-Khê than: 

– Nguy quá. Trên chiến thuyền của Chu Long chở một dàn Nỏ-thần. Chúng ta để y chạy thoát. Trở về, Hán sẽ chế Nỏ-thần đánh chúng ta, thì nguy tai. 

Đinh Bạch-Nương cầm kiếm chỉ về trước nói: 

– Tôi là Đô-đốc, để giặc cướp chiến thuyền, làm lộ cơ mật Nỏ-thần, tôi mang tội nặng với Lĩnh-Nam. Tôi xin đuổi theo. 

Bà truyền năm chiến thuyền đuổi theo. Cu Bò nhảy sang chiến thuyền của bà. Nó cầm tù và gọi Thần-ưng trực thuộc theo yểm trợ. Chỉ một lát Đinh Bạch-Nương đuổi kịp chiến thuyền Chu Long. Cả năm chiến thuyền cùng bao vây chiến thuyền của y. 

Chu Long đứng trên mũi thuyền tả xung hữu đột. Song chỉ một lát, trên thuyền y, bao nhiêu tướng sĩ đều chết hết. Y hoảng kinh, vọt người lên cao, nhắm đầu Đinh Bạch-Nương phóng một chưởng. Đinh Bạch-Nương vung chưởng đỡ. Bình một tiếng. Người bà bật tung lại sau. Cu Bò thấy vậy, thúc Thần-ưng xúm vào tấn công Chu Long. Chu Long tuy gặp đường cùng, song y vẫn múa tít kiếm bảo vệ thân mình. Quách A đã tới kịp. Nàng mở cái túi trên lưng, thả trăn xuống sàn thuyền, huýt sáo ra lệnh. Cu Bò biết ý Quách A. Nó thúc Thần-ưng đánh Chu Long thực rát. Chu Long đang mải đánh với thần ưng, y cảm thấy như chân bị dây trói, kinh hoàng y nhảy lên ca. Y nhìn chân : Có hai, rồi ba, rồi bốn sợi dây quấn chặt lấy y. Bất giác y toát mồ hôi lạnh, vi không phải dây mà là trăn. Y nghiến răng vận công giật mạnh. Ghê cho kình lực của y. Bốn con trăn bị đứt đôi. Chu Long thoát khỏi. 

Quách A chợt nhớ đến một việc. Nàng cầm ống tre bên mình, mở ra, miệng huýt sáo. Hơn trăm con ong bầu bay ra. Chúng xúm lại bu trên người Chu Long. Chu Long biết Quách A thả ong đốt y. Y vọt người tới, đánh một chưởng trên người nàng. Biết chưởng đó trúng Quách A, ắt nàng tan xương nát thịt, Đinh Bạch-Nương vội nhào theo, một tay ôm Quách A,một tay nhả chưởng vứu nàng. Bình một tiếng. Cả Quách A, lẫn Đinh Bạch-Nương bay vọt về sau đến hai trựơng, rơi trên sàn thuyền. 

Chu Long không tha, y phóng theo một chưởng. 

Giữa lúc đó, một quân nhân Hán, từ trong chiến thuyền vọt người lên tấn công Chu Long. Chưởng của y hùng mạnh vô cùng. Chu Long kinh hoàng, vung chưởng đỡ. Binh một tiếng. Cả hai cùng bật lùi lại. 

Không những Chu Long, mà cả Đinh Bạch-Nương cũng kinh ngạc. Nào ai ngờ, trong hàng ngũ quân Hán còn có người võ công cao ngang với Chu. 

Hai người thi diễn cuộc đấu trên chiến thuyền. 

Phật-Nguyệt, Đào vương phi cũng đã tới. Bà truyền các chiến thuyền Lĩnh-Nam lùi lại, bao vây chiến thuyền Chu Long như thành đồng vách sắt. Đinh Bạch-Nương hỏi Đào vương phi: 

– Thưa cô! Con tưởng trên đời này chỉ có anh Kỳ, hay Khất đại phu mới có chưởng lực đấu ngang tay với Chu Long. Không ngờ, trong hàng ngũ quân Hán, còn có người võ công cao đến thế kia. Người này dùng võ công Cửu-chân. Trong môn phái mình, sao lại còn một cao nhân như thế? 

Đào vương phi nhận ra người đấu với Chu Long, chính là người từng nhập bản dinh Bát-Nàn công chúa Vũ Trinh-Thục báo cho nhiều tin tức. Cũng người này từng đánh bại Lê Đạo-Sinh ở cổng bắc thành Luy-lâu. Bà nghe Phật-Nguyệt nói, hôm hội quân ở Phiên-ngung, người này xuất hiện, cung cấp tin tức Hán cho Trưng đế, Đào Kỳ. Ông đấu với Đào Kỳ, hai bên ngang tay, Trưng đế hỏi tên ông. Ông tỏ ý buồn bã rằng mình là người vô dụng... Bà đã nghĩ nát óc, mà không tìm ra một chút ánh sáng về nguồn gốc cao nhân Cửu-chân này. 

Bà nhìn trận đấu. Chưởng lực của cao nhân Cửu-chân với Chu Long ngang nhau. Bà nói với Đinh Bạch-Nương: 

– Dù anh Kỳ có mặt ở đây, chưa chắc đã thắng được Chu Long. Vì cả hai bên cùng luyện tới mức tối cao của võ học. Chu Long công lực mạnh, lại kinh nghiệm chiến đấu. Cao nhân cũng kinh nghiệm. Ta e, trận đấu này sẽ kết thúc, khi một trong hai người sơ xảy. Nếu không, cả hai cùng kiệt lực. 

Bỗng Chu Long nhảy lui lại hỏi: 

– Ngươi là cao nhân Lĩnh-Nam, thân phận ngươi không tầm thường. Ta e lão già chưa chết Trần Đại-Sinh, với tên ôn con Đào Kỳ cũng không hơn ngươi. Tại sao ngươi phải che mặt? Tại sao ngươi phải giả làm quân Hán? 

Người bịt mặt cười gằn: 

– Ta bịt mặt, vì ta không muốn cho bậc con cháu Lĩnh-Nam thấy bản mặt vô dụng của ta. Ta... ta đã từng khởi binh đánh Hán, bị thất bại. Còn mặt mũi nào nhìn thấy con em Lĩnh-Nam nữa? 

Miệng nói, hai người vẫn đấu với nhau bằng những chiêu sát thủ kinh khủng. Bỗng người bịt mặt quát lớn một tiếng. Ông phát ra một chiêu mạnh kinh người. Đào vương phi kêu lên: 

– Hải triều lãng lãng. 

Chu-Long vung chưởng đỡ. Bình một tiếng. Cả hai cùng lùi lại. 

Đào vương phi nói: 

– Chu Long chết đến nơi rồi. 

Bà bảo Đinh Bạch-Nương: 

– Con xem: Công lực hai người ngang nhau. Cao nhân nhà mình dùng võ công Cửu-chân, khắc chế với võ công Trung-nguyên, thì Chu phải thua.. 

Bên thuyền bên kia, cao nhân bịt mặt đã đánh lớp thứ ba. Chu Long bật lùi lại phía sau thuyền, thì lớp thứ tư đến. Binh một tiếng. Chiến thuyền bị vỡ làm đôi. Chu Long bay vọt ra xa, rơi xuống hồ. Người bịt mặt nhảy theo. Cả hai người bị chìm dưới đáy hồ. Không hiểu những gì xảy ra dưới nước. Sóng hồ nổi lên cuồn cuộn. 

Lát sau, ầm một tiếng. Cao nhân túm tóc Chu Long vọt lên đầu chiến thuyền, liệng y xuống. 

Quách A trói lại. 

Đào phu nhân vẫy Đinh Bạch-Nương, Đào Quí-Minh, Sún Hô, Cu Bò cùng quì gối hành lễ: 

– Bọn hậu bối phái Cửu-chân xin bái kiến cao nhân tiền bối. 

Người bịt mặt thở dài: 

– Các ngươi đứng dậy đi thôi. Các ngươi thành công, thành anh hùng. Ta, ta tuy lớn vai hơn các người, mà trở thành người vô dụng. Ta thực không xứng đáng. 

Cu Bò tiến lên chắp tay nói: 

– Tiền bối không chịu cho chúng cháu xem mặt, biết tên, chúng cháu không dám nói rằng tiền bối đúng hay sai. Có điều tiền bối vừa nói với Chu Long rằng tiền bối từng khởi binh chống Hán. Chắc tiền bối khởi binh bị thất bại. Tiền bối tự cho mình thành người vô dụng. Cháu không phục. 

Người bịt mặt cười: 

– Bé con. Cháu không phục ta ở điểm nào? 

Cu Bò đáp: 

– Cháu không phục tiền bối ở điểm tiền bối cho rằng mình thành người vô dụng. Tiền bối ơi! Phàm anh hùng, chỉ cần có chí lớn. Tiền bối khởi binh đánh Hán, từ đó đã thành anh hùng rồi. Anh hùng đâu cần phải thành công? Cháu nhớ dường như tục ngữ nói: Đừng đem thành bại luận anh hùng. Tiền bối ơi! Tiền bối có chí khởi binh đã thành anh hùng rồi. Tiền bối thực hiện cái chí, phất cờ khởi binh, trở thành đại anh hùng. Thế mà tiền bối không tự biết mình, cháu mới không phục. 

Người bịt mặt bế bổng Cu Bò dậy, ông hôn lên trán nó: 

– Cháu bé nói phải. Ta ngu quá. 

Ông gọi Phật-Nguyệt: 

– Cháu đoán được ta là ai chưa? 

Phật-Nguyệt kính cẩn đáp: 

– Cháu nghe tiếng tiền bối rất quen. Nhất là hai vai, với lưng. 

Người đó vẫy Phật-Nguyệt lại gần: 

– Cháu lại đây. Ta cho xem mặt. 

Phật-Nguyệt lại bên cạnh. Người đó mở khăn ra. Phật-Nguyệt la lên một tiếng kinh ngạc: 

– Úi cha! Không bao giờ cháu ngờ tới. 

Người đó nói nhỏ vào tai Phật-Nguyệt mấy câu. Phật-Nguyệt gật đầu, kính cẩn nói: 

– Cháu xin giữ kín. 

Bà truyền Quách A chỉ huy một chiến thuyền, đưa cao nhân vào bờ. 

Phật-Nguyệt truyền lệnh thu quân. Bà nói với Đào vương phi, Đinh Bạch-Nương: 

– Sư bá với Bạch-Nương ở nhà giữ Tam-sơn. Cháu sợ quân Hán bên kia sông đổ sang đánh tập hậu. Cháu đi tiếp viện sư bá Chu Tái-Kênh. 

Đào vương phi nói: 

– Không nên! Cháu hiện cầm vận mệnh khu Trường-sa, Linh-lăng, hồ Động-đình. Cháu cần phải trấn giữ trên hồ. Để ta, Quí-Minh, Bạch-Nương đi được rồi. 

Vừa lúc đó thám mã báo: 

– Có một đạo quân, rất hùng tráng, khoảng năm vạn người, đang tiến từ Trường-sa đến hồ Động-đình. Song chưa rõ là đạo quân nào? 

Đào Quí-Minh ngơ ngác hỏi Phật-Nguyệt: 

– Sư tỷ, chúng ta dốc toàn bộ quân mã về đây. Vậy đạo này chỉ có thể là quân Hán, đã vượt sông, đánh bọc hậu bọn ta mà thôi. 

Phật-Nguyệt muốn sai Thần-ưng thám sát, bà lên tiếng gọi Quách A, Sún Hô, thì hai người đang cùng Trần Quốc-Dũng, Cao Cảnh-Khê, thu nhặt tử thi chiến sĩ. Bà truyền gọi Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng, thì chúng đang... ăn. 

Một lát ba đứa vào. Miệng đang nhai nhồm nhoàm, tay mỗi đứa còn cầm một con gà quay, đã ăn một nửa. Phật-Nguyệt vốn nhu nhã, khoan hòa, đứng trước nguy cơ một mất một còn của đất nước. Bà vẫn bình tĩnh, bảo Cu Bò: 

– Em cho Thần-ưng thám thính xem đạo quân từ Trường-sa đến đây là của Mã Viện hay của Đoàn Chí? 

Trong khi các tướng soái, Phật-Nguyệt, Đào vương phi, Tiên-yên nữ hiệp lo sợ cuống cuồngï, thì Cu Bò vẫn ăn uống nhồm nhoàm ỉnh bơ. 

Đào Quí-Minh quát: 

– Quân lệnh, phải thi hành ngay. Sư đệ còn ngồi ăn được ư? 

Cu Bò nhìn Trâu Trắng, Trâu Xanh. Ba đứa cùng cười. Nó táp hết miếng thịt gà rồi mới nói: 

– Em nghe sư tỷ Đào Phương-Dung nói, trong các đệ tử Đào gia, sư huynh Đào Quí-Minh nhu nhã, ôn tồn, bình tĩnh nhất, tại sao hôm nay nóng tính, dữ dằn hơn sư tỷ Hồ Đề nữa. Bọn em đang ăn, phải cho nuốt đã chứ? 

Thấy tình hình nguy hiểm đến trước mắt, mà bọn Cu Bò cứ dềnh dàng mãi. Đào vương phi bảo nó: 

– Con thi hành lệnh ngay. 

Cu Bò không dám đùa với sư bá. Nó méo mặt, lè lưỡi trêu Đào Quí-Minh, chỉ lên trời nói: 

– Phàm làm tướng soái, phải biết hết khả năng, thói quen tật xấu của hạ cấp. Sư huynh làm tướng của em, mà không biết chúng em tý nào. Trước đây Trâu Đen làm sư trưởng Thần-ưng, nó có trách nhiệm canh phòng trên không phận. Nay Trâu Đen tử trận. Em đương nhiên thay thế nó. Em phải có trách nhiệm chứ? Lúc nào em cũng duy trì Thần-ưng trên khu vực Tam-sơn, bờ sông Trường-giang, trên mặt hồ Động-đình và thành Trường-sa. Đừng nói quân giặc, đến một con chồn, con cáo chạy trong khu vực bọn em cũng biết. 

Mọi người nghe Cu Bò nói, cùng ngửa mặt nhìn lên. Quả nhiên các nơi đều có Thần-ưng bay lượn. Đào vương phi nhận Lục Sún làm đệ tử, bà hiểu đám tướng lĩnh Tây-vu nhiều hơn. Bà gật đầu nói với Quí-Minh: 

– Con đừng lo. Các em tuy nó đùa nghịch suốt ngày, nhưng tự biết trách nhiệm như người lớn, không trễ nại việc tuần phòng. 

Cu Bò nói: 

– Sư bá nhìn về phía Trường-sa mà xem. Sư bá suy nghĩ kỹ, sẽ biết tại sao bọn con bình tĩnh ăn uống. 

Đào vương phi nhìn về Trường-sa, thấy đội Thần-ưng bốn con bay lượn khoan thai, nhịp nhàng. Bà hiểu ra: 

– Sư bá hiểu rồi. Thì ra đạo quân đó từ Linh-lăng tới. Thần-ưng tuần phòng nhận ra người nhà. Nó đang dẫn đường cho viện quân tới mặt trận. 

Đào Quí-Minh như cất được gánh nặng. Ông bảo Cu Bò: 

– Em nói đúng. Ta mới gặp em. Ta quên rằng đệ tử Tây-vu, là con cháu An-Dương vương, dù nhỏ, dù lớn, dù già cũng có đại tài. Ta không thẹn, mà thế phụ thân ta nhận em làm đệ tử. 

Phật-Nguyệt đứng lên nói với Đào vương phi: 

– Xin sư bá suất lĩnh Quí-Minh, Bạch-Nương, Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng tiếp viện Đinh Tĩnh-Nương. 

Đào vương phi đeo kiếm đứng dậy. Bọn Cu Bò vọt người leo lên đỉnh các cột buồm. Tay cầm cờ phất liên tiếp. Thần-ưng nượp nượp bay theo. 

... 

Vi Lan tuân lệnh Phật-Nguyệt, nàng dẫn trăm nữ đệ tử Tây-vu, dùng thuyền vượt hồ Động-đình, đến Quân-sơn. Vi Lan đang ở tuổi mười sáu, mười bảy, tuổi của con gái dậy thì về cơ thể, về tư tưởng. Nàng sống ở Tây-vu với Hồ Đề, Quách A từ nhỏ, nên cũng như các đệ tử khác, đùa nghịch hồn nhiên. Nàng mới mười sáu tuổi được làm sư trưởng Thần-long, thống lĩnh trăm thiếu nữ. Hàng ngày nàng được đặt dưới quyền Đào Ngũ-Gia, luyện tập, phối hợp giữa đám sư Tây-vu với nhau. Bây giờ, trong trận giặc lớn, Phật-Nguyệt giao cho nàng trọng trách quấy phá, đốt lương. Hơn nữa nàng còn được thống lĩnh cả sư Thần-ngao của Vi Đại-Nham. 

Thuyền ghé Vân-khê, nằm giữa cửa hồ Động-đình thông với Trường-giang. Nàng truyền cho đoàn Ngao-thần đổ bộ. Còn Thần-long vẫn để dưới thuyền. 

Nàng dặn mấy người phụ tá, trông coi cẩn thận. Nàng cùng Vi Đại-Nham đi quan sát trận địa. Sau khi nghiên cứu kỹ. Nàng bàn với Vi Đại-Nham: 

– Lão bá thử nghĩ xem, cháu đoán có cúng không nghe. Nếu Lưu Long đem quân đến, tất y đổ bộ đại quân lên bờ phía đông hồ, tức vùng Đào-lâm. Còn lương thảo, chứa ở bắc hồ Động-đình. Vì vùng này hai mặt sông, một mặt hồ, một mặt rừng, khả dĩ bảo đảm an ninh kho lương thực. 

Vi Đại-Nham gật đầu: 

– Cháu bàn đúng. Đạo quân này có hai đại tướng Ngô Anh, Lưu Long. Ngô Anh đứng hàng thứ nhì trong Liêu-đông tứ ma, võ công kinh nhân. Chắc y đi đường bộ. Còn Lưu Long vốn thông thạo thủy chiến, y sẽ đi đường thủy.

Vi Lan tiếp: 

– Bọn tướng Hán, đều do đại ca Trần Tự-Sơn đào tạo ra. Chúng làm việc có kế hoạch, phối hợp nhịp nhàng. Đạo thứ nhất Mã Viện đi đường thủy. Chu Long đánh vòng bờ tây của hồ. Chắc chắn chúng sẽ xuất phát cùng một lúc. Kế hoạch sư tỷ Phật-Nguyệt đưa ra: Chúng ta đợi thủy quân, bộ binh, kị binh xuất phát hết, lập tức đột nhập trại, đốt lương thảo. Lúc thủy quân Hán đang giao chiến, thấy lương bị đốt tất rối loạn. Lưu Long sẽ cho bộ binh, kị binh vội trở về cứu viện. Bấy giờ lão bá Chu Tái-Kênh, sư huynh Quách Lãng mới chặn đường về của chúng. Cái khó khăn của chúng ta, làm sao hoàn thành nhiệm vụ trong vòng nửa buổi. Cái khó khăn của lão bá Chu Tái-Kênh, là chỉ với ba vạn bộ, hai vạn kị, đánh tiêu diệt ba vạn kị, sáu vạn bộ của Hán. 

Vi Đại-Nham đề nghị: 

– Cháu chia Thần-long làm trăm toán. Do trăm người điều khiển, chúng ta tạm ẩn thân trên núi Quân-sơn. Đợi khi chúng đóng trại xong, sẽ chỉ định toán tấn công từng khu. Chỉ cần sao, trong đêm tối, mỗi Thần– long cắn ba tên quân, thì một giờ sau, vạn rưỡi quân Hán chết hết, ta sẽ xua đoàn Thần-ngao vào chiếm trại. 

Hai người, một già, một trẻ. Một chân thật, một ngỗ nghịch, hợp tính nhau. Họ cho đổ bộ đoàn Thần-ngao, Thần-long lên núi Tam-sơn. Họ mang theo mười Thần-ưng, trinh sát. 

Hai người thay phiên nhau, lên đỉnh núi cao sai Thần-ưng quan sát. Chiều hôm sau, Thần-ưng báo: Phía nam có quân bạn tới. Quả nhiên lát sau, một chiến thuyền từ từ tiến lại. Vi Lan ra lệnh cho Thần-ưng hướng dẫn thuyền vào bờ hồ, gần chỗ nàng đóng quân. 

Nàng vội vàng xuống tiếp đón, thì ra Đinh Tĩnh-Nương phái Trần Quốc Dũng dẫn đội Giao-long Thiên-trường hơn trăm người tới, nhiệm vụ của ho là, phải phối hợp với Vi Lan, Vi Đại-Nham đợi khi thủy quân Lưu Long đến, thì đội Giao-long bí mật lặn xuống đáy hồ, đục chiến thuyền Hán. 

Vi Đại-Nham lắc đầu: 

– Không ổn rồi. Nếu các cháu đục thuyền, dĩ nhiên bao nhiêu chiến thuyền chìm hết. Hơn ba vạn thủy binh giặc biến thành bộ binh, ta làm sao địch lại chúng mà đốt lương thảo? 

Trần Quốc-Dũng cười: 

– Sư bá yên tâm. Chúng cháu không đục thủng thuyền đâu. Trước đây trong trận Độ-khẩu chúng cháu đã thành công rồi: Dùng dao, vận thủ kình đục đáy thuyền, chỉ đục nhớm, gần xuyên qua, thì ngưng lại. Chúng cháu đục thành lỗ lớn như cái mâm, giữa đóng một chốt thực lớn. Đầu chốt buộc một sợi dây. Đợi khi hai bên đang giao chiến, chúng cháu lặn xuống, giật mạnh sợi dây, lập tức đáy thuyền lủng lỗ lớn. Bao nhiêu thủy quân biến thành tôm cá hết. 

Trần Quốc-Dũng cho chiến thuyền chuyên chở đội Giao-long binh về phía nam, để địch tới, không thấy vết tích gì. 

Vi Lan hỏi Trần Quốc-Dũng: 

– Anh Dũng à! Em hỏi anh câu này nghe: Làm cách nào các anh có thể lặn dưới nước lâu hàng giờ? Không lẽ có thứ nội công, khiến người ta lặn dưới nước như tôm cá hay sao? 

Trần Quốc-Dũng thấy cô em xinh xinh, thông minh, chàng vui vẻ đáp: 

– Làm gì có thứ võ công nào lặn lâu dưới được như vậy? Chúng tôi sống ở Thiên-trường, đồng ruộng nước ngập mênh mông, riết rồi chế ra thứ võ công bơi lội giỏi. Như em, lặn dưới nước, mở mắt ra, sẽ thấy cay mắt. Ngược lại, bọn tôi đi dưới nước, mở mắt ra nhìn rõ mọi vật như đi trên bờ. Mỗi đứa chúng tôi dắt trong mình hai hay ba ống sậy. Các ống sậy đã được đục thủng đầu mặt. Chúng tôi lặn dưới nước, khi ngộp hơi, trồi lên gần sát mặt nước, cho ống sậy vào miệng, ngậm lấy, chía lên mặt nước, mà thở. Sau khi thở đầy hơi ngực, lại nín hơi, lặn xuống đáy nước tiếp. Chúng tôi luyện tập riết rồi thành quen. Cũng như các em luyện Thần-long vậy. 

Vi Lan phát cho tráng sĩ Giao-long mỗi người một cái túi nhỏ, trong đựng cỏ khô rất thơm. Nàng dặn: 

– Các anh phải bỏ cái túi này vào người. Nếu không, rắn sẽ cắn chết. 

Vi Lan thấy đội Giao-long chỉ mang gạo, mà không mang theo thức ăn. Nàng ngạc nhiên hỏi: 

– Các anh biết tiết kiệm quá há! Chỉ ăn cơm không thôi sao? 

Trần Quốc-Dũng phì cười: 

– Chúng tôi cũng như đạo binh Tây-vu. Em dùng Thần-ưng, Thần-ngao săn thú hoang làm thức ăn. Còn chúng tôi, chúng tôi lặn xuống nước bắt tôm, cá, nấu nướng ăn. 

Chiều hôm đó, Trần Quốc-Dũng mời đệ tử Tây-vu cùng ăn chung. Chàng cho đội Giao-long binh lặn xuống hồ bắt cá. Họ luyện tập dưới nước lâu ngày, đừng nói bắt tôm, bắt cá, dù bắt cả thủy quái, giao long họ cũng làm được. Họ lùa bắt những con cá chiều dài từ hai gang trở lên, tươi béo, đem nướng ăn. Trong khi đó, đệ tử Tây-vu đem thịt nai, thịt gà rừng ra nướng. 

Vi Lan ngồi cạnh Trần Quốc-Dũng. Nàng cứ luôn miệng hỏi hết cái này, đến cái kia. Quốc-Dũng thấy trong cô bé Vi Lan, có cái thông minh, ngỗ nghịch, kèm theo cái hồn nhiên, chân thực của núi rừng. Chàng xuất thân là con trai đệ thất thái bảo phái Sài-sơn, bác học, hiệp nghĩa nức tiếng thiên hạ. Vi Lan ngược lại, không biết cha mẹ là ai. Hai tâm hồn cùng gặp nhau ở một điểm: Yêu nước, hy sinh vì nước. 

Quốc-Dũng hỏi về cách điều khiển Thần-long. Vi Lan cho biết, nàng dùng một thứ ống tre thổi lên. Có tất cả ba mươi sáu điệu nhạc, ra lệnh cho Thần-long thi hành ba mươi sáu động tác khác nhau. Nàng cầm ống tre thổi biểu diễn. Đám đệ tử Thiên-trường, xuất thân phái Sài-sơn tinh thông âm nhạc. Chỉ cần Vi Lan thổi một lần thôi, là họ bắt chước thổi được liền. Vi Lan thích quá. Nàng nói: 

– Như vậy, các anh có thể thay bọn em chỉ huy Thần-long được rồi. 

 – Như vậy, các anh có thể thay bọn em chỉ huy Thần-long được rồi. 

Giữa đêm hôm đó, Thần-ưng báo, có chiến thuyền xuất hiện phía Nam sông Trường-giang. Vi Lan leo lên đỉnh ngọn cây cao chót vót quan sát. Nàng leo nhanh như vượn, làm Trần Quốc-Dũng kinh ngạc không ít. Nàng nói vọng từ trên xuống: 

– Chiến thuyền nhiều quá. Chúng chia làm ba đoàn, mỗi đoàn trăm chiếc, toàn thứ lâu thuyền lớn, mỗi chiếc chở được đến hơn ba trăm quân. 

Nàng đứng trên cây. Mỗi biến chuyển lại báo xuống dưới cho Trần Quốc-Dũng, Vi Đại-Nham biết. Sang canh hai, đoàn chiến thuyền đỗ vào cửa sông, thông với hồ Động-đình. 

Đến sáng, quân Hán đã đổ bộ xong. Trần Quốc-Dũng khen Vi Lan: 

– Em tôi giỏi quá! Đúng như em ước tính, bên kia Đào-lâm, bộ binh, kị binh đã đổ bộ xống. Còn bên này chúng đổ lương thảo. Còn thủy quân, đóng ở bắc hồ. Chúng ở dưới hồ, đâu ngờ, chúng ta đang ở trên núi Quân-sơn quan sát, sắp ăn thịt chúng. 

Trần Quốc-Dũng viết thư báo cáo tình hình, gửi cho Quách Lãng. Đinh Tĩnh-Nương. Chàng nhờ Vi Lan sai Thần-ưng mang đi dùm. 

Chàng họp đoàn tráng sĩ Giao-long tường trình về vị trí thủy trại của Lưu Long, ra lệnh: 

– Tình thế này, có lẽ chúng nghỉ ngày mai., hay đêm mai chúng sẽ xuất phát. Đêm nay chúng mới đến, chúng ta phải đục thuyền cho kịp. Thế thường, quân mới di chuyển tới, mệt mỏi, chúng ngủ rất say. Ta hành động không bị lộ. Nếu để đêm mai, lỡ chúng khởi hành từ chập tối, thì hỏng hết kế hoạch. Từ đây xuống thủy trại, có bốn dốc núi. Chúng ta bám núi mà đi xuống. Thủy trại đóng làm bốn khu khác nhau. Chúng ta đục từng khu một. Chúng ta có một trăm người, trong khi Hán có ba trăm bốn mươi chiến thuyền. Mỗi người phải đục đến bốn chiến thuyền. 

Trần Quốc-Dũng dẫn đoàn tráng sĩ Thiên-trường lên đường. Trong khi đó Vi Lan cùng Vi Đại-Nham truyền từ cành cây này sang cành cây khác quan sát chỗ chứa lương thảo của Hán. Nàng đứng trên chót một ngọn cây, gió hồ thổi ào ào. Dù có nói lớn, quân bên dưới cũng không nghe thấy. 

Kho chứa lương thảo chia làm hai khu rõ rệt. Một khu nằm dựa dưới chân núi Quân-sơn, có hai mươi dãy. Một khu sát bờ hồ, gồm hai mươi dãy nữa. Xung quanh trại có mười trạm canh. Ở giữa có bốn dãy trại, dường như chỗ quân canh ở. 

Vi Lan tìm ra được hơn mười đường đi từ đỉnh núi xuống tấn công kho lương. Đường đi của nàng không bằng lối đi thông thường, mà bằng lối truyền cành cây như vượn. Còn Thần-long, sẽ trườn dưới các bụi cây. Nàng cũng tìm ra hơn hai mươi đường đi cho đội Thần-ngao. 

Trở về nàng chỉ cho các tướng toán Thần-long, Thần-ngao biết rõ vị trí đổ dốc của họ, nàng chia nhiệm vụ từng toán một. 

Trời gần sáng, đoàn Giao-long Thiên-trường đã trở về. Người nào cũng mệt nhoài, vì trải qua một công tác căng thẳng, nguy hiểm, khó khăn. Họ đặt mình là ngủ liền. 

Suốt ngày hôm sau, đoàn chiến thuyền Hán không ngớt chuyền trở lương đến, chất như núi dưới chân Quân-sơn. Trần Quốc-Dũng than: 

– Lương thảo thế kia, mà đốt đi thực tiếc. Song không đốt không được. Có đốt lương, địch mới nản lòng. Vì quân ta ít. Quân giặc đông. Bằng không ta giữ lương thảo mà dùng. Ăn đến bao giờ mới hết. 

Vi Lan chợt nghĩ ra được một kế. Nàng nói: 

– Anh Dũng à! Em nghĩ được một đường lối hành động. Đêm nay, bộ binh, kị binh, thủy binh Hán xuất phát hết. Em bí mật nhập trại, cho Thần-long cắn đám quân giữ lương. Chỉ hơn giờ sau, chúng sẽ chết hết. Giữa lúc đó, còn tên nào sống sót, mình dùng Thần-ngao tấn công, thế là mình chiếm được trại, bao nhiêu lương thuộc mình hết. 

Quốc-Dũng lắc đầu: 

– Lực lượng Tây-vu bất quá hai trăm người. Thiên-trường hai trăm người nữa, cộng lại bốn trăm người. Khi quân Hán đánh quật trở lại, mình làm sao giữ nổi. Chi bằng đốt đi cho rồi. 

Vi Đại-Nham góp ý: 

– Vậy thế này. Chúng ta chất cỏ gần các các nhà chứa lương. Nếu quân Hán bị Chu Tái-Kênh đánh tan thì thôi. Nhược bằng chúng đánh quặt trở lại mạnh quá, tất Thần-ưng báo cho chúng ta biết trước. Chúng ta đốt lương thảo cũng vừa. 

Trần Quốc-Dũng xuất thân phái Sài-sơn, tính tình cẩn thận đã quen. Ngược lại đệ tử Tây-vu chuyên hành sự táo bạo. Vì vậy họ đưa ra kế hoạch kinh khủng. Đứng trước một lão già chân thực, một cô bé ngỗ nghịch. Không lẽ chàng chịu thua họ về can đảm ?. Chàng đành chấp thuận kế hoạch đó. 

Chiều hôm đó, theo kế hoạch đã định sẵn. Các đội Thần-ngao, Thần-xà tới vị trí xuất phát. Họ kiên nhẫn chờ đợi. Sang canh bốn, thì đoàn kị binh, bộ binh bắt đầu xuất phát. Thủy quân nhổ neo hướng về phía nam hồ. Đợi cho các đạo quân xuất phát đã xa. Vi Lan nói với Trần Quốc-Dũng: 

– Anh ở không chẳng có việc gì làm, anh có buồn không ? 

– Buồn thì cũng phải chịu. 

– Vậy anh đi đánh nhau với bọn em cho vui. 

Quốc-Dũng phì cười, vì đánh giặc là đem tính mạng ra đứng đầu mũi tên, hứng đao, hứng búa, mà Vi Lan bảo cho vui. Chàng gật đầu : 

– Vậy thì anh xin được tuân lệnh em. 

Vi Lan đánh gió Quốc-Dũng một cái. Tuy vậy nàng cũng hạ lệnh : 

– Anh cùng với đoàn chiến sĩ Thiên-trường, dẫn theo đội Thần-ngao hai mươi con, phục trên đường từ Đào-lâm đến bờ hồ, đề phòng khi bọn em tấn công trại, chúng chạy đi báo tin cho Ngô Anh biết. Anh nhớ để người phục sẵn ở bờ hồ. Vì Lưu Long còn để lại tới bốn chiến thuyền. Nếu bốn chiến thuyền này nhổ neo chạy về phía nam cầu cứu. Anh cho người lặn xuống, giật dây, cho đáy thuyền lủng. 

Trần Quốc-Dũng trố mắt nhìn cô bé mười sáu tuổi. Chàng nghĩ thầm: 

– Cô bé này mà đọc sách nhiều, chắc sau không thua Trưng Nhị, Phương-Dung, Phùng Vĩnh-Hoa làm bao. 

Trời sang canh tư, trại Hán lại im lìm nằm trong bóng đêm. Vi Lan cầm ống tre thổi lên vi vu. Mười toán, mỗi toán mười nữ đệ tử Tây-vu, cầm ống tre thổi theo. Đoàn Thần-long trườn mình bò xuống dưới chân núi. Tới trước các chòi canh, họ huýt sáo, lập tức mỗi chân chòi, mấy con trăn lớn, bò lên vọng lầu. Chúng quấn những tên quân canh. Chúng chỉ cần vặn lưng một cái. Những tên quân này bị gãy xương sống chết liền. 

Các thiếu nữ Tây-vu tiếp tục lùa trăn vào trại Hán, không một tiếng động. Tới các dãy trại dành cho quân canh phòng. Họ thổi lên những tiếng sáo vi vu. Đoàn Thần-long chui vào trại. Lát sau trong trại bật lên những tiếng kêu lớn: 

– Trời ơi rắn cắn tôi! 

– Ôi! Rắn ở đâu nhiều quá! 

Phút chốc các trại náo loạn cả lên. Có một vài trại đã đốt lửa lên. Quân sĩ thấy nào rắn, nào trăn bò lổm ngổm trong trại, trên đường, chúng leo lên cả nóc trại, lưỡi thè ra đe dọa. Đám quân Hán chỉ còn biết la oai oái. Chúng đứng quay lưng lại với nhau cầm vũ khí đề phòng. 

Vi Lan cho tấn công hết các trại Hán. Nàng tiến ra bờ hồ. Thình lình trên đầu, một ánh đao chém xuống cổ nàng. Nàng kinh hoàng lăn đi một vòng tránh khỏi, thì ánh đao cũng chém theo. Nàng lại lăn đi hai vòng nữa. Đao chém hụt, chạm vào phiến đá đánh choang một tiếng, lửa bắn tung tóe. Nàng vọt người dậy, huýt sáo gọi trăn. Mấy con trăn vọt đến tấn công người kia. Người kia vung đao chém được hai con. Đến con thứ ba, y bị trăn táp vào cổ tay. Vi huýt sáo gọi nữa, hơn mười con trăn nghển cổ, lao tới tấn công. Người kia tỏ ra bình tĩnh, đao vung lên, mỗi lần một con trăn đứt làm hai. Người kia thấy Vi Lan còn nhiều rắn, y vội bỏ chạy. 

Giữa lúc đó, đàn Thần-ngao trên đỉnh núi ào ào đổ dốc. Chúng tru lên xung vào trại Hán. Đám quân Hán bị rắn cắn, nằm nghiêng ngả. Chỉ còn hơn trăm tên không bị cắn. Cố gắng cầm vũ khí chiến đấu chống Thần-ngao. Hai bên hỗn chiến đến trời sáng, Vi Đại-Nham, Vi Lan chiếm được toàn vẹn doanh trại. Thần-long chết khá nhiều. Thần-ngao chết hơn năm mươi con. Trong khi đó tổng cộng hai ngàn quân giữ trại, bị Thần-long cắn chết. Số hơn trăm còn lại bị Thần-ngao, và đoàn chiến sĩ Tây-vu giết sạch. 

Vi Lan ra lệnh đem tất cả các xác chết quân Hán liệng xuống sông Trường-giang, vì sợ Thần-ưng ăn thịt xác chết đó, sẽ bị trúng độc. 

Trần Quốc-Dũng đã trở về. Chàng dẫn theo hơn mười tên quân Hán bị bắt. Tay chàng bị thương nhẹ. Vi Lan ngạc nhiên hỏi: 

– Tại sao anh bị thương vậy? Bản lĩnh của anh dễ gì để ai đả thương được? 

Trần Quốc-Dũng dẫn ra một tên tù binh, người y khá mập. Chàng chỉ vào y giới thiệu: 

– Sư muội không biết y, cũng không lạ. Y chính là Tô Định, thái thú Giao-chỉ trước đấy. Sau trận Luy-lâu y bị bắt, bị đem xử trảm. Lê Đạo-Sinh định cứu y. Y vừa chạy thì bị sư tỷ Trần Năng bắt lại. Y bị giam trong ngục cùng với Đức-Hiệp, Phong-châu song quái. Lê Đạo-Sinh vào ngục cứu y ra. 

Vi Lan nói: 

– Hèn chi võ công y cao cường. Suýt nữa em chết vì đao của y. 

Trần Quốc-Dũng nói: 

– Y mang mười kị mã định chạy đi báo tin cho Ngô Anh. Ta chăng dây, ngựa y vấp ngã, tất cả kị mã bị bắt. Chúng ta bắt y, mà còn bị y đánh trọng thương. Võ công y rất cao cường. Trước đại hội hồ Tây, chỉ có Lê Đạo-Sinh, Khất đại phu, Đào Kỳ thắng được y mà thôi. 

Trần Quốc-Dũng nhắc Vi Lan: 

– Sư muội cho Thần-ưng canh phòng mặt sông, mặt hồ, mặt đường bộ, đề phòng quân Hán. Ta chỉ huy tráng sĩ, chất cỏ xung quanh kho lương. Trường hợp giặc kéo tới. Ta đốt liền. Chúng ta chỉ cần cầm cự, vì trưa nay đạo quân của sư bá Chu Tái-Kênh với sư huynh Quách Lãng tới đây thì không còn sợ gì nữa. 

Trong khi Trần Quốc-Dũng chỉ huy chất cỏ vào các kho lương, thì Vi Lan dẫn các nữ đệ tử Tây-vu đi lục lọi. Dù sao tính trẻ con vẫn còn. Nàng lục suốt từ trại này sang đến trại khác. Song lục chỉ để mà lục, chứ không lấy một món gì. 

Trời về trưa, Thần-ưng báo cho biết, có địch ở mặt sông. Vi Lan vội lên ngọn cây quan sát: Từ bờ bắc, ba chiến thuyền dương buồm đang chạy sang bờ nam. Nàng nói vọng xuống: 

– Anh Dũng ơi! Ba chiến thuyền, ít ra có hàng ngàn tên Hán. Chúng ta chỉ có mấy trăm Thần-ngao, với ba trăm người, phải làm gì đây? 

Trần Quốc-Dũng lo nghĩ, gọi Vi Lan xuống: 

– Có lẽ chúng ta đành đốt kho lương vậy. 

Vi Lan chợt nói: 

– À thế này. Anh cho mười sư huynh trong đội Giao-long ra bờ sông Trường-giang phục sẵn. Nếu chiến thuyền sang bên này, xuôi giòng đi về nam thì thôi. Còn ngược lại, chúng đi vào hồ, lập tức đục thuyền. Thuyền đắm. Chúng đang bơi vào bờ, chúng ta dùng Thần-ngao "đớp" chúng. 

Trần Quốc-Dũng mừng lắm. Chàng cho mười chiến sĩ Giao-long ra bờ sông phục sẵn. Hễ thấy thuyền rẽ vào hồ thì ra tay. Trong khi đó đệ tử Tây-vu, Thiên-trường, cùng Thần-ngao phục trên bờ. 

Chờ đợi không lâu, quả nhiên ba chiến thuyền đã sang tới bên này bờ. Thuyền rẽ vào hồ Động-đình. Trần Quốc-Dũng ngồi bên Vi Lan quan sát. Phút chốc thuyền từ từ tiến đến. Trên chiến thuyền không nhiều binh Hán cho lắm. Song dường như có nhân vật quan trọng. 

Thình lình các chiến thuyền quay ngang. Thủy thủ la hoảng, vì nước tràn vào thuyền như thác. Thủy thủ cùng nhảy xuống sông bơi vào bờ. Ba chiếc mủng thả xuống. Trên thuyền có tất cả chín người, vọt mình vào mủng. 

Họ vừa vào đến bờ. Quốc-Dũng hú lên một tiếng. Đoàn Thần-ngao xông ra tấn công. Đám thủy thủ vừa bơi vào bờ, mệt nhoài thì bị đàn chó sói, cùng các chiến sĩ Tây-vu, Thiên-trường tấn công. Chúng không còn biết đâu mà chống đỡ nữa. 

Đoàn chín người trên ba chiếc mủng, vừa vào đến bờ, đã rút binh khí tấn công đội Thần-ngao. Họ tiến tới đâu, Thần-ngao lui tới đó. 

Vi Lan hoảng kinh. Nàng gọi Thần-long tới. Hơn trăm Thần-long bao vây chín người vào giữa. Đội Thần-ngao bao vây vòng ngoài. 

Người cầm đầu lên tiếng hỏi Trần Quốc-Dũng: 

– Các ngươi có đánh lầm không? Rõ ràng đây là trại Hán. Tại sao các ngươi chưa hỏi han, đã ra tay đánh chúng ta ? Các ngươi có biết ta là ai không? 

Trần Quốc-Dũng làm bộ sợ hãi nói: 

– Tiểu tướng được lệnh trấn thủ hậu cứ, giữ lương thảo. Các vị từ đâu đến, không báo trước cho tiểu tướng. Vì vậy tiểu tướng mới đánh đắm thuyền của các vị, và xảy ra cuộc đụng độ. 

Người cầm đầu móc túi ra cái thẻ bài, y tung cho Trần Quốc-Dũng: 

– Ngươi coi kỹ thì biết. 

Trần Quốc-Dũng cầm lấy coi. Trên thẻ bài có khắc con phụng. Dưới ghi rõ: Vũ vệ hiệu úy, Phan Anh, Trần Nghi-Gia. Trong đầu chàng nhớ lại Sún Rỗ kể cho nghe về Phan Anh là con Xích-Mi Phan Sùng. Trần Nghi-Gia là vợ Phan Anh, mụ xuất thân từ phái Khúc-giang. Chúng phải khuất phục Mã thái hậu, vì mụ có thuốc giải Huyền-âm độc chưởng. 

Chàng chưa kịp lên tiếng, Trần Nghi-Gia đã vọt người lên tấn công chàng. Chưởng lực của thị mạnh kinh người. Chàng vội lùi lại vận khí đỡ. Binh một tiếng. Người chàng bật lui ba bước. Chàng cảm thấy tức ngực. Oẹ một tiếng, chàng phun ra một búng máu tươi. Trong khi đó Phan Anh cùng đám bảy người còn lại, cùng xông vào quyết chiến với đám Thần-ngao. Vi Lan, Vi Đại-Nham, Trần Quốc-Dũng bị đẩy lùi ra bờ sông. 

Nếu một mình Trần Quốc-Dũng, chàng đã nhảy xuống sông bơi mất. Trên đời không có người thứ nhì sau Trần Quốc, bắt được chàng. Nhưng còn Vi Lan, Vi Đại-Nham, chàng không thể bỏ họ được.. 

Trần Nghi-Gia đánh một chưởng, ba con trăn lớn bay tung đi. Y thị đưa tay túm đầu Vi Lan, thì một ánh kiếm xỉa ngay cổ y thị. Y thị kinh hoàng nhảy lui lại ba bước, ánh kiếm theo sát cổ không rời. Hoảng kinh y thị lộn đi ba vòng. Vừa đứng dậy ánh kiếm lại chỉa vào ngực. Y thị lùi đến sát gốc cây ánh kiếm vẫn theo sát. Thủy chung y thị vẫn không nhìn rõ mặt đối thủ là ai. Y thị liệu chừng đối phương võ công cao không biết đâu mà lường. Nếu đối phương định giết chết, thì y thị đã chết ngay từ chiêu đầu. Y thị không lùi nữa nói: 

– Ngươi giết ta đi. Ta hận vì học nghề không tinh mới bị thua ngươi. 

Có tiếng cười the thé: 

– Giỏi! Ngươi can đảm. Ta không giết ngươi. Ta chỉ bắt ngươi thôi. 

Bây giờ Nghi-Gia mới nhìn rõ người tấn công y thị. Đó là một lão bà tuổi khoảng sáu mươi, da mặt tươi hồng. Bà túm Nghi-Gia liệng xuống đất. Vi Lan tung trăn quấn lấy y thị. Nàng kêu lên: 

– Chu lão bá. 

Người cứu Vi Lan chính là Chu Tái-Kênh. Vi Lan quay lại nhìn Hắc Báo đang chỉ huy mười Thần-báo, với đàn Ngao-thần bao vây Phan Anh. Chu Tái-Kênh hỏi Phan Anh: 

– Ngươi có chịu trói hay để bà nội ra tay? 

Mặt Phan Anh tái mét. Y nói: 

– Ta thấy kiếm pháp của ngươi giống kiếm pháp của Phương-Dung, Phật-Nguyệt. Vậy ngươi với hai người đó là thế nào? 

Chu Tái-Kênh cười: 

– Chúng là bậc cháu chắt của ta. 

Phan Anh cười nhạt: 

– Về kiếm thuật ta thua ngươi. Song về chưởng, chưa chắc ngươi hơn ta. Nếu ngươi dùng chưởng thắng được Huyền-âm thần chưởng của ta. Ta mới phục. 

Chu Tái-Kênh cười nhạt: 

– Nội công âm nhu của phái Trường-bạch nhà mi, với nội công âm nhu của ta cùng một gốc. Sau các ngươi dùng nội công luyện Huyền-âm độc chưởng. Ngươi chắc đã biết: Phàm dùng độc chưởng đánh người. Nếu công lực ngươi mạnh hơn, ta bị trúng độc mà chết. Nhược bằng công lực ta mạnh hơn, chất độc trở lại, nhập vào tạng phủ ngươi mà chết. Nào mời. 

Bà phát chiêu Thanh ngưu ư hà trong Phục-ngưu thần chưởng tấn công. Bà vận âm kình. Phan Anh vận khí, phát chưởng đỡ. Trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Bộp một tiếng, người y lảo đảo lui lại. Y hít một hơi, phát chiêu thứ nhì. Chu Tái-Kênh vận khí phát chiêu Ngưu tẩu như phi. Bộp một tiếng nữa, y bật lui lại hai bước. Y mượn đà nhảy lui lại bốn, năm bước, cười đắc chí. 

– Con mụ kia. Mi trúng Huyền âm độc chưởng của ta rồi. Mau quì xuống lạy, ta sẽ tha cho. 

Chu Tái-Kênh cười nhạt, xoè tay cho Phan Anh coi: 

– Đâu có dễ thế được. Ngươi ngu lắm. Công lực của ngươi với ta cách xa nhau quá nhiều. Ta đã dùng thần công đẩy chất độc trở về cơ thể ngươi rồi. Ngươi thử xoè bàn tay ra mà coi. 

Phan Anh xoè tay ra: Bàn tay y có màu tím xanh. Y kinh hoàng, lui lại run run, lấm lét nhìn Chu Tái-Kênh. Bà cười gằn: 

– Ác giả, ác báo. 

Vi Lan tung trăn quấn lấy Phan Anh, trói y lại. 

Quách Lãng đã tới. Trần Quốc-Dũng nói: 

– Nếu không có lão bá đến, bọn cháu ắt bỏ mạng ở bờ sông này rồi. 

Chàng trình bày chi tiết cuộc chiếm kho lương Tam-sơn cho bà. Bà khen: 

– Vi Lan, Quốc-Dũng, thêm lão bá Vi Đại-Nham đã thành công lớn. Kho lương này, dùng cho mười vạn quân, ăn trong ba năm là ít. Tốt lắm. 

Quách Lãng truyền lệnh: 

Ngô Anh đang trên đường tới phía nam hồ. Giờ này y được tin trại Tam-sơn bị đánh, chắc đang dẫn quân trở về. Còn thủy quân Lưu Long đang đánh nhau với Đinh Tĩnh-Nương. Chúng ta mau bố phòng, đối phó với bộ binh, kị binh. Còn thủy quân không sợ. Vì các chiến thuyền sẽ bị đục. Vậy bố phòng như thế này: 

– Sư đệ Quốc-Dũng, Vi Lan, sư bá Vi Đại-Nham, thống lĩnh một đạo quân bảo vệ phía bờ sông. Đề phòng quân bên kia đổ qua. Còn sư bá Chu Tái-Kênh, Tây-vu tiên tử với ta, đắp đồn, đề phòng quân Ngô Anh trở về. 

Ông cho đắp ụ, dàn trận sẵn. Đội Thần-báo, phục rải rác ở trong rừng chờ đợi. Ông dặn Tây-vu tiên tử: 

– Lão bá nhớ theo dõi cả ba mặt. Mặt sau, sợ quân Hán đổ bộ qua sông. Mặt trước, trông chừng thủy quân, kị binh, bộ binh địch. 

Ông ra lệnh cho Vi Lan chất cỏ thành đống trong trại Tam-sơn đốt lên. Khói bốc cao, tỏa ra khắp một bầu trời. Phút chốc, đứng xa nhìn, như cả trại đang bị cháy vậy. 

Tây-vu tiên tử leo lên ngọn cây quan sát. Trong ánh sương mù của hồ Động-đình. Bà nhìn rất rõ đoàn chiến thuyền Lưu Long với đoàn chiến thuyền Đinh Tĩnh-Nương đang giao chiến. Bà nói vọng xuống dưới cho Chu Tái-Kênh, Quách Lãng nghe diễn tiến từng ly từng tý một: 

– Thần nỏ từ thuyền Lĩnh-Nam bắn đợt thứ nhất. Thủy thủ Hán trên năm chiến thuyền bị giết sạch. Thuyền quay ngang. 

– Thần nỏ bắn đợt thứ nhì. Năm chiến thuyền Hán quay ngang. 

– Đoàn Giao-long binh Lĩnh-Nam đang tụt xuống nước. 

– Thần nỏ bắn đợt thứ ba. Năm chiến thuyền Hán quay ngang. 

– Chiến thuyền Hán bị giật dây, đáy thuyền lủng. Hơn ba mươi chiến thuyền đang chìm. Thủy thủ nhảy xuống nước, bơi lại các chiến thuyền khác. 

– Trời ơi, hầu như các chiến thuyền Hán đều bị giật dây. Đáy thủng. Binh lính bơi đầy mặt hồ. 

– Lưu Long cho soái thuyền bỏ chạy. Y đang tiến vào phía bờ hồ. 

– Thủy quân Hán, đầu hàng. Chúng được vớt lên thuyền Lĩnh-Nam. 

– Cẩn thận. Kị binh, bộ binh Hán đang trở về. 

Quách Lãng vội viết thư, truyền Thần-ưng mang ra cho Đinh Tĩnh-Nương. Ông yêu cầu sư muội, sai một số chiến thuyền chở tù binh về hậu cứ. Số chiến thuyền còn lại, đến đậu ngay bờ hồ, lập với trận của ông thành hình thước thợ. Chờ quân Ngô Anh. 

Kị binh Ngô Anh rầm rập đi trước, còn cách chỗ phục binh của Quách Lãng hơn dặm, chúng dừng lại quan sát. Trước mặt chúng, một người bằng hình nộm, mặc quần áo đại quân Hán trong tư thế qùi gối. Viên tướng đi đầu, lui lại báo tin với Ngô Anh: 

– Thưa tướng quân, dường như trại Tam-sơn bị chiếm. Tô thái thú bị hại. Chúng lấy quần áo của người, đem mặc vào hình nộm để giữa đường. 

Ngô Anh suy nghĩ một chút, rồi nói: 

– Có lẽ là nghi binh. Chúng ta cứ tiến lên. 

Kị binh tiến được một dặm nữa. Thình lình trong rừng vọt ra hơn mười con chó sói, chúng tru lên. Nhảy vào cắn ngựa. Đoàn ngựa nhảy dựng. Hơn mười con bị thương, ngã lăn ra. Đám kị binh vừa định ra tay. Đàn chó sói đã biến vào rừng. 

Ngô Anh ra lệnh: 

– Phải cẩn thận. Tiến từ từ. 

Kị binh lại lên đường. Thình lình có tiếng gầm gừ. Hơn mười con beo gấm từ trên cây nhảy xuống cắn cổ chết trên hai chục kị binh, rồi lại nhảy lên cây biến mất. 

Quân Hán ngơ ngẩn, sợ hãi. Chúng tiến được một lát, thì trước mặt chúng, một đoàn kị mã Hán đang phi ngmược chiều như bay. Ngô Anh gò ngựa đứng nhìn. Đám kị binh như không thấy đoàn người ngựa của Ngô, chúng cứ cứ phi tới. Ngô phất tay cản lại. Đám kị binh đó ngã lăn xuống đất. Thì ra chúng chỉ là những xác chết. 

Ngô Anh nói: 

– Thế này thì trại Tam-sơn bị chiếm rồi. Đám hơn trăm kị binh này là quân giữ trại, đã bi giết. Chúng đem xác cột lên ngựa, cho chạy ngược chiều để dọa bọn ta đấy. 

Y còn đang ngơ ngẩn, có tin thủy quân Lưu Long bị tan. 

Lưu Long đã lên bờ, đến hội với y, mặt Lưu tái nhợt. Lưu nói với Ngô Anh: 

– Ta sơ ý bị trúng kế Phật-Nguyệt, thị cho đội Giao-long binh đục thuyền của ta. Ta không bắn được mũi tên, mà toàn bộ ba vạn thủy quân bị chìm dưới đáy hồ. 

Giữa lúc y chưa biết tiến hay lùi, thì đoàn beo gấm từ trong rừng nhảy xổ ra tấn công kị binh. Kị binh kinh hoàng chạy lui trở lại. Lưu Long vì không đề phòng, mà bị trúng kế Phật-Nguyệt, chứ thực sự y là một tướng đại tài. Y cho bộ binh tiến lên, phía trước mặt y, quân Lĩnh-Nam đã đóng thành một lũy dài. Lưu cho dàn trận đánh thẳng về phía trước. Bây giờ y mới thấy quân Lĩnh-Nam xuất hiện. Một bên đánh thục mạng, kiếm đường sống. Một bên quyết đánh tan địch. 

Đánh một lúc. Y giết được hơn chục beo gấm, với chó sói. Y nói với Ngô-Anh: 

– Dù chúng ta có diệt được đám quân này, cũng không còn đường rút lui. Bây giờ tướng quân dùng bộ binh cầm cự với Quách Lãng. Tôi dùng kị binh chiếm thuyền của Đinh Tĩnh-Nương. Mình dùng thuyền rút lui. 

Y dùng kị binh xung vào đội hình thủy quân. Thủy quân rút lui dàn ra bờ hồ, rồi lên chiến thuyền. Kị binh vừa đến gần bờ hồ, thì Nỏ-thần bắn ra. Đợt đầu mấy trăm kị binh ngã xuống. Lưu Long dốc đợt nhì, đợt ba xông lên. Từ đợt nọ đến đợt kia, Nỏ-thần nạp rất lâu, lợi dụng khe hở đó. Lưu dốc kị binh đến sát bờ hồ. Chúng reo hò leo lên chiến thuyền. 

Đinh Tĩnh-Nương cho chiến thuyền rút ra khỏi bờ. Nhưng chúng đã chiếm được trên ba mươi chiếc. Tĩnh-Nương chờ cho chúng chèo thuyền ra khơi, cho thủy quân vây đánh. 

Giữa lùc hai bên đang dằng co, bất phân thắng bại, thì Thần-ưng báo cho biết phía sông Trường-giang, quân Hán đang đổ bộ từ bên kia sang. Hơn trăm chiến thuyền dàn hàng, căng buồm tiến tới. 

Quách Lãng nói với Chu Tái-Kênh: 

– Sư bá đem một vạn chiến sĩ, cùng đội Ngao-thần, đệ tử Tây-vu, Giao-long ra đóng bờ sông, đánh cản không cho chúng đổ bộ. Trong khi tôi đánh với bọn Ngô Anh, Lưu Long. Quân của Hán đã lẫn vào quân Lĩnh-Nam. Ngô Anh đứng trên ngựa dốc chiến, quyết tiêu diệt đám quân Quách Lãng. Hai bên đánh nhau hơn giờ, vẫn chưa phân thắng bại. Bên Lĩnh-Nam quân số chỉ bằng một phần ba, nhưng nhờ có đội Thần-báo, vẫn giữ được phòng tuyến. 

Thình lình Quách Lãng bị một mũi tên trúng giữa bụng. Ông vội vàng vung kiếm chặt đứt phần ở phía ngoài người, rồi dùng dây lưng băng lại. Ông làm thực nhanh. Vì để chậm, binh tướng thấy được, mặt trận vỡ ngay. 

Ông nghiến răng chịu đau, cầm gươm dốc chiến. Tây-vu tiên tử, Hắc Báo xua Thần-báo xông trận. Mỗi đợt xung vào, hơn năm trăm quân Hán bị chết, bị thương. Quân Hán bật lui lại, không dám xông vào nữa. 

Trong khi đó Đinh Tĩnh-Nương đã đánh chiếm lại được ba mươi chiến thuyền. Bà cho thủy quân dàn sát bờ hồ, yểm trợ sư huynh. 

Quách Lãng quan sát phía bờ sông. Thuyền Hán đang đổ bộ, chúng giao chiến ác liệt với đội Thần-ngao, và đội quân Chu Tái-Kênh. 

Ngô Anh thấy có quân tiếp viện. Chúng hô lớn lên, xua quân lăn vào tấn công. Quách Lãng lại bị một mũi tên vào bụng. Ông nghiến răng nhổ tên. Ruột ông cũng theo lòi ra ngoài. Ông cắt mũi tên. Dùng vải băng lấy bụng. Cầm kiếm đứng dốc quân. 

Đinh Tĩnh-Nương đứng trên thuyền dốc chiến. Lưu Long nhìn thấy bà. Khí uất lên cổ, y nghiến răng vọt người lên chiến thuyền. Chỉ nhảy nhót mấy cái. Y đã tới trước bà. Y vung kiếm chém liền. Đinh Tĩnh-Nương cùng các tướng Lĩnh-Nam vây lấy y. 

Giữa lúc đó, trên trời, một đoàn Thần-ưng từ xa bay lại. Chúng ré lên, nhào xuống đội hinh quân Hán tấn công. Xa xa, một đội thủy quân đang tiến tới. Thần-ưng bay rợp trời. Lưu Long kinh hoàng, hướng Đinh Tĩnh-Nương phóng một chiêu kiếm như vũ bão. Bà nhảy lên không tránh. Y vọt người theo, đưa một nhát, trúng bụng bà, rồi y nhảy xuống hồ, lặn mất. 

Đinh Tĩnh-Nương bị trúng kiếm, ruột lòi ra. Bà nghiến răng, lấy dây lưng buộc lại. Bà cầm gươm hô lớn: 

– Tiến lên. Chúng ta có viện binh rồi. 

Giữa lúc đó đoàn thuyền Đinh Bạch-Nương tới. Đào phu nhân nhảy sang đỡ lấy Đinh Tĩnh-Nương. Tĩnh-Nương lắc đầu: 

– Cô cứ mặc cháu. Cháu còn đủ sức chiến đấu. Cô tiến lên diệt giặc đi. 

Đào vương phi, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương kéo thủy quân ra sông Trường-giang, đánh tiếp viện cho Chu Tái-Kênh với Vi Lan, Trần Quốc-Dũng. 

Trận chiến lại diễn ra ác liệt. Đào Quí-Minh đứng trên cột buồm. Ông quan sát trận chiến, tùy nghi ra lệnh cho Trâu Xanh, Trâu Trắng, Cu Bò, dùng Thần-ưng yểm trợ. 

Ông ra lệnh: 

– Cu Bò yểm trợ sư huynh Quách Lãng. Trâu Xanh, Trâu Trắng yểm trợ sư bá Chu Tái-Kênh. 

Tổng số Thần-ưng của Cu Bò có sáu trăm mười hai con. Vì Trâu Đen tử trận, nó chỉ huy cả sư Trâu Đen, thành ra lên tới một ngàn hai trăm con. Thần-ưng, phối hợp nhịp nhàng với Ngao-thần, Thần-báo, Thần-long, thành ra quân Lĩnh-Nam tuy ít mà vẫn không yếu thế. 

Giữa lúc đó, một đạo kị-binh đi trước, phía sau đạo bộ-binh hùng mạnh không thể tưởng được, từ phía nam hồ tiến tới. Quách Lãng kinh hãi hỏi Tây-vu tiên tử: 

– Sư bá thử lên cao xem, đạo quân nào. Nếu là quân Hán, e chúng ta không còn một người sống sót. 

Tây-vu tiên tử lên cao nhìn một lúc. Bà nói vọng xuống: 

– Đạo binh đang tiến tới là đạo Giao-chỉ của Đào Phương-Dung với Lê Ngọc-Trinh. 

Quân Lĩnh-Nam reo hò. Chốc lát đạo quân Đào Phương-Dung tới: Đoàn Thần-hổ, báo, tượng, ngao đi đầu. Đào Phương-Dung đi bên phải, Lê Ngọc-Trinh đi bên trái. Đạo quân Giao-chỉ dàn ra rất mau, bao vây kín quân Hán vào giữa. Đào Phương-Dung đứng trên mình voi. Tay bà cầm kiếm hô lớn: 

– Đừng để một tên giặc thoát vòng vây ! 

Quân tướng reo hò lẫn với tiếng gầm của các đạo quân Tây-vu. Người, thú xông vào trận. Chỉ chốc lát, tiêu diệt đội quân Hán không còn một người. 

Đào Phương-Dung thấy người Quách Lãng đầy máu, mà ông vẫn đứng cầm gươm dốc chiến. Bà hỏi: 

– Sư đệ có sao không? 

Quách Lãng đau muốn đổ mồ hôi, máu ra ướt hết hai chiếc khăn cột bụng. Ông vẫn nhịn đau, nghiến răng nói: 

– Sư tỷ mau tiến lên. 

Đạo binh Đào Phương-Dung gồm toàn chiến sĩ Giao-chỉ, nghỉ ngơi lâu ngày. Vừa nhập trận đã đánh tan quân Ngô Anh, rồi tiến ra bờ sông Trường-giang. Chỉ chớp mắt đánh đoàn quân đổ bộ, rơi xuống sông hết. Đám chiến thuyền Hán vội bơi ra khơi. Đinh Bạch-Nương đã dàn chiến thuyền phía sau bao vây. 

Vi Lan nói với Trần Quốc-Dũng: 

– Anh mau cho chiến sĩ đục thuyền địch ngay lập tức. 

Quốc-Dũng ra lệnh cho đoàn Giao-long binh nhảy xuống nước. 

Trong khi đó trên trăm chiến thuyền Hán mới tới tiếp viện đang dàn ra giao chiến với thủy quân Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương. Đào phu nhân đứng trên mũi thuyền dốc chiến. Cu Bò, Trâu Trắng, Trâu Xanh chỉ huy Thần-ưng yểm trợ. Trận chiến ác liệt, thình lình, trên ba mươi chiến thuyền Hán bị lủng đáy. Nước tràn vào ào ào. Phút chốc trên ba mươi chiếc nữa lại bị lủng đáy.Các chiến thuyền từ từ chìm. Quân Hán bơi đầy mặt sông. Đoàn chiến thuyền Lĩnh-Nam cho vớt thủy thủ Hán bị chìm thuyền, lên trói lại. Còn lại ba mươi chiến thuyền, chúng buông vũ khí đầu hàng. 

Đinh Bạch-Nương nhảy sang chiến thuyền Hán chỉ huy cuộc tiếp thu, dồn tù binh lại một góc. Nàng để ý đến một quân nhân ngồi ủ rũ dưới sàn thuyền, trông lưng rất quen, mà nàng nhận không ra. 

Nàng kéo tóc y dậy nhìn cho rõ. Thình lình y vung tay một cái, con dao trong tay y đã đâm suốt qua ngực nàng. Lê Ngọc-Trinh đứng gần, vội vung chưởng tấn công tên binh này. Bình một tiếng. Người y bật lên không. Bà đánh tiếp chưởng nữa, y kêu thét lên một tiếng lớn: 

– Xin sư tỷ dung tình. 

Lê Ngọc-Trinh nhận ra Vũ Hỷ. Bà vội thu chưởng về. Vũ Hỷ quì gối: 

– Sư tỷ! Xin sư tỷ nghĩ tình đồng môn, tha cho tiểu đệ một lần. 

Khi thu Lê Ngọc-Trinh làm đệ tử. Khất đại phu nhiều lần dặn nàng: Võ đạo phái Tản-viên cấm giết người đồng môn, không được để người ngoài giết đồng môn trước mặt mình. Bây giờ bà có tha cho Vũ Hỷ, thì Đinh Xuân-Hoa, với đám đệ tử Đào gia cũng không tha cho y. Bà vung chưởng đẩy vào lưng y: 

– Mi cút đi cho khuất mắt. 

Vũ Hỷ bay bổng lên cao, rơi tỏm xuống sông, y lặn đi mất tích. 

Đào Quí-Minh đã băng bó cho Đinh Bạch-Nương. 

Đào Phương-Dung, Chu Tái-Kênh truyền lệnh thu binh, kiểm điểm lại nhân mã, rút về phía nam bờ hồ Động-đình. 

Tổng kết trên bốn mặt trận, bên Lĩnh-Nam chết mấy trăm Thần-ngao, trên trăm Thần-báo. Bộ binh, thủy binh, kị binh mặt trận phía tây hồ mất trên hai vạn. Phía đông hồ mất trên hai vạn nữa. Tổng cộng năm vạn. Phía Hán, đạo của Mã Viện, Chu Long, Lưu Long, cả thủy, bộ, kị mất ba mươi vạn. Về các tướng. Bên Hán, Chu Long, Tô Định, Mã Anh, Phan Anh, Nghi Gia, và hơn ba ngàn viên tướng lớn nhỏ bị bắt, bị giết. Bên Lĩnh-Nam gần ngàn tướng lớn nhỏ bị chết. Có ba chúa tướng bị thương nặng là Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương, Quách Lãng. Trâu Đen bị tử thương. 

Thuyền về bến nam hồ Động-đình. Phật-Nguyệt ra đón ở bờ hồ. Quân sĩ khiêng Quách Lãng, Đinh Tĩnh-Nương, Đinh Bạch-Nương lên bờ. Máu ra nhiều quá. Các tướng xúm lại hỏi thăm bệnh thế. 

Quách Lãng nói với Đào vương phi: 

– Sư bá! Sư phụ cháu thường dạy: Con người ta ai cũng phải chết. Kẻ nào may mắn được mới đươc chết cho đất nước. Như vậy cháu đã may mắn lắm rồi. Phái Cửu-chân nhà ta được lập ra chỉ vì Lĩnh-Nam. Nay cháu chết cho Lĩnh-Nam là đúng sở nguyện. 

Ông nhìn Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương: 

– Các sư muội! Các em. Chúng ta vừa là anh em con cô con cậu, vừa là sư huynh sư muội. Hồi nhỏ chúng ta tập võ với nhau. Các em chẳng từng nói: Nếu sau này chúng ta chết vì nước, sẽ được chết cùng trận đó sao? 

Đinh Bạch-Nương nói với Đào vương phi: 

– Cô ơi! Cô về nói với bố cháu, mẹ cháu rằng: Cháu đã làm trọn vẹn những gì bố cháu dạy cháu từ bé đến giờ. Tập võ để đánh giặc. Đọc sách để bày binh giết giặc. Nếu phải chết, thì chết cho xứng đáng. 

 Đinh Tĩnh-Nương nói đứt đoạn: 

– Cô ơi! Chúng cháu sắp chết rồi đây. Bố mẹ cháu chỉ có một Quách sư huynh với hai con gái. Bây giờ chúng cháu cùng tuẫn quốc. Không biết rồi đây, bố mẹ cháu già rồi ai sẽ phụng dưỡng người? 

Đinh Bạch-Nương giật mạnh người một cái. Bà từ từ nhắm mắt lại. 

Quách Lãng gọi lớn: 

– Sư muội! Sư muội! Các em đi mau vậy? Đợi anh với! 

Ông mửa ra một búng máu, rồi nghẻo đầu sang một bên mà chết. 

Trần Quốc-Dũng cầm ống tiêu để lên miệng. Chàng truyền nội lực vào, tiếng tiêu bi ai thảm não, thê lương dài miên miên bất tuyệt. 

Thủy quân đã vớt được xác Trâu Đen, đem về tắm rửa sạch sẽ. Trâu Đen tuy còn nhỏ tuổi, nhưng cấp bậc chỉ thua có Quách Lãng, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương mà thôi. Vì nó giữ chức sư trưởng Thần-ưng. 

Luật lệ Tây-vu định rằng, chiến sĩ Tây-vu coi bốn bể là nhà. Chết đâu, chôn đó, thi hài Trâu Đen sẽ được an táng bên bờ hồ cùng với gần năm vạn chiến sĩ khác. 

Các chúa tướng Tây-vu hàng ngày hay trêu chọc, đùa cợt với nhau. Nhưng họ rất thương yêu nhau. Đứng trước việc Trâu Đen tuẫn quốc. Không ai ngăn được nước mắt. 

Quách A là vợ Đào Ngũ-Gia tức Sún Hô. Song nàng làm phó thống lĩnh đạo Tây-vu. Quyền lực chỉ dưới có Hồ Đề. Nàng đứng ra tổ chức lễ an táng tử sĩ Tây-vu. Thi hài các tử sĩ đựớc tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo, đặt nằm trên một đài gỗ. Bọn Trâu Xanh, Trâu Trắng cùng cầm tù và rúc lên một hồi. Tiếng tù và nức nở, như con mất cha, như vợ mất chồng, liên miên bất tuyệt. 

Trên trời đoàn Thần-ưng cùng ré lên những tiếng thảm não. Chúng bay lượn xung quanh xác các chúa tướng để tiễn đưa. 

Bỗng Sún Hô cầm cờ phất một cái. Chúng bay tán loạn đi khắp nơi. 

Đoàn Thần-hổ, Thần-tượng, Thần-hầu, duyệt qua trước xác tử sĩ. Cho hay thú vật cũng có linh tính, tình cảm. Bọn Thần-tượng, thứ tự qua trước xác Trâu Đen, mỗi con đều quì gối xuống, rống lên một tiếng thảm thiết, nước mắt tuôn rơi, rồi mới đi. 

Phút chốc, Thần-ưng đã trở về. Mỗi con đều ngậm một bông hoa. Chúng lượn ba vòng, rồi từng tốt trăm con tách khỏi hàng, thả hoa xuống xác Trâu Đen. Chúng đậu trên các cành cây gần đó, cúi đầu ủ rũ, cất tiếng kêu bi ai. 

Quách A điều khiển các chúa tướng Tây-vu đến làm lễ trước tử thi Trâu Đen, rồi nàng truyền khâm liệm lại. Đem chôn bên bờ hồ cùng với các tử sĩ khác. 

Tử thi Quách Lãng, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương được tắm rửa sạch sẽ, ướp hoa khô, cho vào quan tài gỗ trầm, đưa về an táng tại ấp phong của ba vị ở Thượng-cát. Trưng hoàng đế đem quần thần tới biên giới Giao-chỉ đón linh cữu ba vị anh hùng tuẫn quốc. Ngài truyền lập dàn tế, xây đền thờ. Sắc phong Quách-Lãng: 

Uy quán sơn hà, chí dũng Đại Vương. 

Sắc phong Đinh Bạch-Nương, ĐinhTĩnh-Nương: 

Nhất khí tinh trung, Uyển-Mị công chúa. 

Ghi chú của tác giả : 

Trận đánh hồ Động-đình xảy ra từ ngày 2 đến 20 tháng 8 năm 40 sau Tây-lịch, tức năm Canh-tý, nhằm niên hiệu Trưng đế nguyên niên. Bên Trung-nguyên là niên hiệu Kiến-Vũ thứ mười lăm đời vua Quang-Vũ nhà Hán. 

Từ hồi ấy đến giờ, dân chúng vẫn thờ kính Quách Lãng, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương. Ngày nay, đền thờ ba ngài vẫn còn tại ba làng Kẻ: Kẻ Thượng-cát, Kẻ Đông-ba và Kẻ Hạ-cát, huyện Từ-liêm, tỉnh Hà-Nội. 

Trước đền thờ, có đôi câu đối, mà chúng tôi đã trích dẫn làm đầu đề cho hồi này: 

Tinh trung nhất khí quán sơn hà, thử dân, thử thổ. 

Huynh muội tam nhân tòng đại nghĩa, vi tướng, vi thần. 

Dịch nghĩa: Khí ngôi sao mạnh khắp non sông, này dân, này đất. Anh em ba người, theo nghĩa lớn, làm tướng, làm thần. 

Theo sử đời Hán, trận đánh hồ Động-đình được kể là trận đánh lớn thứ ba đời Đông-Hán. Trận đánh lớn nhất là trận Nam-hải do công chúa Thánh-Thiên, Trần Quốc chỉ huy. Mặt trận kéo dài trên tuyến dài hơn ngh in dặm, sĩ tốt hai bên chết tới năm mươi vạn. 

Trận đánh lớn hứ nhì là trận Trường-an giữa liên quân Việt-Thục với Hán. Trận này do Hoàng Thiều-Hoa làm chúa tướng. Nguyễn Phương-Dung thiết kế. 

Trận lớn thứ ba là trận hồ Động-đình do Phật-Nguyệt chỉ huy. Thiết kế do toàn thể các tướng với Phật-Nguyệt. Hơn ba mươi vạn quân Hán, năm vạn quân Việt bị chết trong hơn mười lăm ngày. 

Sở dĩ trận đánh kinh khủng, vì vua Trưng chỉ dụ: Đây là trận đầu tiên đánh giữa Hán và Việt trên đất Lĩnh-Nam. Bằng mọi giá, Việt phải thắng Hán. Vì vậy Quách Lãng bị bắn thủng bụng hai lần. Đinh Tĩnh-Nương bị chém lòi ruột, vẫn nghiến răng, băng bó, xung trận đến giọt máu cuối cùng. Khí phách các ngài dĩ nhiên không ai dám so sánh. Song chúng ta rút được một điều: Uy đức vua Trưng phải cao lắm, cho nên chỉ dụ của ngài, mới khiến các tướng lăn mình vào vui lòng chết cho đại nghĩa. 

Trận đánh kinh hồn, đến nỗi sau này, dân chúng trong vùng hồ Động-đình, còn nhắc đến. Họ đã huyền thoại hóa đi trong một vài câu truyện cổ tích. Tiến-sĩ Chu Minh-Văn khi soạn cuốn phổ tại chùa Kiến-quốc trên hồ Động-đình và đền thờ Đế-Minh tên núi Thiên-đài đã chép đại lược như sau: 

" Ngày xưa Ngọc-Hoàng thượng đế, một hôm ngự tại điện Linh-tiêu. Có hai công chúa đứng hầu bên cạnh, lỡ tay đánh vỡ chung rượu bằng ngọc. Ngọc-Hoàng thượng đế nổi lôi đình, truyền đày hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa tuân lệnh đi đầu thai. Công chúa đầu thai được một ngày, thì Nam Tào, Bắc Đẩu giữ sổ tiên lại vào tâu rằng: Công chúa xuống đầu thai, có tới một trăm sáu mươi hai vị tiên trung thành với công chúa, cùng đầu thai theo. Ngọc-Hoàng thượng đế sợ rằng công chúa làm loạn hạ giới. Ngài bèn sai Thanh-y đồng tử xuống thế, cùng với Nhị-thập bát tú. Thanh-y đồng tử đầu thai thành vua Quang-Vũ nhà Hán. Nhị-thập bát tú sau thành hai mươi tám vị tướng thời Đông-Hán. Hai công chúa đầu thai làm con gái Lạc-tướng họ Trưng. Công chúa mới sinh ra đã biết nói, có hương thơm đầy nhà. Lạc tướng đặt tên là chị là Trắc, em là Nhị. Trưng Trắc lớn lên có sức khỏe bạt sơn, cử đỉnh. Đến tuổi trưởng thành. Lạc tướng gả về cho họ Đặng, tên Thi-Sách. 

Thi-Sách "mưu phản" bị thái thú Tô Định giết chết. Trưng Trắc nổi giận cùng em là Trưng Nhị, khởi binh "làm phản". Anh hùng các nơi gồm một trăm sáu mươi hai người nổi lên theo. Chỉ trong một tháng chiếm sáu mươi lăm thành trì. Các quận Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ đều bị chiếm. 

Trưng Trắc tự xưng làm vua, chiếm lĩnh nửa thiên hạ. 

Vua Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Mã Viện, suất lĩnh binh nghiêng nước đánh vua Bà. Vua bà sai nữ vương Phật-Nguyệt dẫn quân từ Trường-sa đến hồ Động-đình đại chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt phép tắc vô cùng, hóa ra ba đầu, sáu tay. Một tay nhổ núi Thái-sơn, một tay nhổ núi Nga-mi, đánh chết trên một trăm vạn quân Hán. Xác người lấp kín hồ Động-đình, sông Trường-giang bị nghẹt. 

Oán khí bốc lên đến trời. Ngọc-Hoàng thượng đế vội truyền thiên binh, thiên tướng xuống giúp Mã Viện. Đánh nhau trong ba năm bất phân thắng bại. Các thiên binh, thiên tướng về Thiên-đình tâu lại. Ngọc-Hoàng thượng đế không biết làm sao, phải phái thần Du Liệt sang Tây-phương cực lạc cầu cứu đức Phật Như-Lai. Phật Như-Lai bèn sai mười tám vị La Hán, năm trăm vị Kim Cương đến trợ chiến, cũng bị thua. Sau ngài nhờ Nam-hải Quan-Thế-Âm đến hồ Động-đình thuyết pháp. Nữ vương Phật-Nguyệt giác ngộ, xin đi tu, thành Phật". 

Câu truyện cổ tích hoang đường, song cũng bắt nguồn từ trận đánh hồ Động-đình. Từ đấy về sau, cha mẹ vùng Trường-giang, đêm đêm con nít khóc, không chịu ngủ, thường dọa rằng: 

"Nín đi, nín đi!! Nữ vương Phật-Nguyệt đến đó". 

Cho đến nay, câu dọa đó vẫn còn. Tại các đền thờ Phật-Nguyệt, có câu đối: 

Tích trù Động-đình uy trấn Hán. 

Danh lưu thiên cổ lực phù Trưng. 

Nghĩa là: Sư tích hiển hách còn lưu ở hồ Động-đình. Danh của bà lưu lại muôn thủa, bởi lòng trung nghĩa phò vua Trưng. 

Để có thể tường thuật trận đánh hồ Động-đình. Cuối năm 1980 thuật giả lấy phi cơ đi Bắc-kinh. Từ Bắc-kinh đổi phi cơ đi Trường-sa, rồi từ Trường-sa đến hồ Động-đình bằng xe. Thuật giả đã du ngoạn xung quanh hồ, lên tận đỉnh núi Tam-sơn, Quan-sơn, ghềnh Tương-giang quan sát địa thế, phong cảnh, hầu thuật cho đúng. 

Trong thời gian làm việc cho Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (CMFC=Commité Médical Franco-chinois), và Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (CEP=Coopérative Européenne Pharmaceutique) từ năm 1977 đến năm 1999, tôi tới vùng đất linh của tộc Việt : Hồ Động-đình, Trường-sa, Tương-đài, Tương-âu, cánh đồng Tương và núi Thiên-đài cả thảy 9 lần.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 18 : Uy danh động đến bắc phương

 Sau khi chôn cất tử sĩ. Phật-Nguyệt đánh trống, truyền các tướng sĩ vào họp. Bà ban lệnh phủ tuất gia đình tử sĩ. Cứ như luật Lĩnh-Nam. Tử sĩ tuẫn quốc đương nhiên được thăng lên một cấp. Lương bổng tử sĩ vẫn tiếp tục phát cho quả phụ, cô nhi. Tử sĩ có mẹ già, lạc hầu, lạc tướng phải cử người nuôi dưỡng, chu cấp đầy đủ. 

Bà mời tướng soái vào họp, định công thăng thưởng. Cuộc họp vừa bắt đầu, có Thần-ưng ré lên trên không. Mọi người đưa mắt nhìn Cu Bò. Nó lắng tai nghe tiếng Thần-ưng, rồi trả lời bằng cái lắc đầu: 

– Không hiểu sao Thần-ưng đang tuần phòng, kêu ré lên báo hiệu có khách tới thăm rồi mất tích. Hay chúng bị người bắn chết cũng nên. 

Mọi người theo Cu Bò ra sân xem: Tất cả Thần-ưng đồn trú trên hồ Động-đình đều cất cánh bay về phương Nam. Chúng dàn ra thành từng tốt trăm con một, lượn vòng tròn, giống như tập trận. Chúng đồng cất tiếng kêu, vui vẻ nhộn nhịp, hòa nhã. Các tướng soái đã được nghe chúng kêu như vậy hai lần. Lần thứ nhất trong khi bay lượn trên bàn thờ Quốc-tổ, hôm đại hội hồ Động-đình và hôm cử hoàng-đế Lĩnh-Nam. 

Đào Phương-Dung nói với Đào vương-phi: 

– Thưa bác, hồi đánh Long-biên trở về Thần-ưng thấy hai bác cùng đạo binh Cửu-chân từ xa đến, cũng bay lượn, reo lên vui vẻ như vậy. Không lẽ bác trai còn sống trên thế gian này ư? 

Tây-vu tiên tử lắc đầu: 

– Không phải thế đâu cháu ơi! Thần-ưng là loài chim có linh tính ở Tây-vu. Khi chúng thấy vị thánh nhân, hoặc chúa tướng tối cao, thì kêu lên báo hiệu cho nhau, bay lượn chào đón. Ta đoán, dường như có nhân vật quan trọng sắp tới Trường-sa. Không phải vua Trưng, ắt Bắc-bình vương Đào Kỳ hoặc công chúa Hồ Đề. 

Sún Hô nhảy nhót mấy cái, chàng đã lên đến cành cao chót vót của cây cổ thụ, phóng mắt nhìn về hướng Nam. Chàng nói vọng xuống: 

– Đúng rồi, Hoàng-đế giá lâm. Xa xa em thấy một đoàn người ngựa. Đi đầu có con voi trắng, hai cái ngà chéo nhau.

Trưng-đế dùng đức cai trị Lĩnh-Nam hơn năm qua. Dân chúng, nhà nhà đều cảm thấy thanh nhàn. Đêm ngủ không cần đóng cửa. Của rơi không có người nhặt. Trẻ kính già. Già dạy trẻ. Liên tiếp ba mùa đều trúng. Dân chúng ấm no, ca ngợi công đức ngày đêm. Họ nói với nhau: Đến vua Hùng sống dậy cũng không làm họ sung sướng hơn. 

Vì vậy các tướng nghe Trưng hoàng-đế giá lâm, đều nhảy nhót vui mừng. Phật-Nguyệt truyền dàn giáp sĩ từ trong thành ra đến ngoài mười dậm chào đón hoàng-đế. 

Trần Quốc-Dũng can: 

– Sư tỷ! Không nên biểu lộ quân khí hùng mạnh. E hoàng-đế nghi ngờ chăng? Sư tỷ có nhớ xưa Hàn Tín cầm quân, tranh thiên hạ cho Lưu Bang. Lưu Bang du Vân-mộng. Hàn Tín dàn giáp sĩ, biểu lộ quân khí hùng mạnh. Lưu Bang nghi ngờ rồi truyền bắt giam Hàn Tín, giáng tước từ Sở vương, xuống làm Hoài-âm hầu. 

Phật-Nguyệt cười: 

– Sư đệ biết một mà không biết hai. Lưu Bang xuất thân từ một tên đình trưởng. Không tài không đức. May mà được thiên hạ. Vì vậy y nghi ngờ tất cả mọi người. Còn Trưng-đế xuất thân hiệp nghĩa. Tài trí thiên hạ không ai bằng. Vì vậy hoàng-đế không nghi ngờ ai. Hàn Tín có tài dùng binh bậc nhất thời Tây-Hán. Cho nên Lưu Bang nghi ngờ. Còn ta, tài dùng binh thua xa Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa, Thánh-Thiên, Đinh Đại, Đô Dương. Làm sao Trưng-đế nghi ta được? Vả xưa, thời bình rồi, mà Hàn Tín muốn tỏ cái tài, cố gắng luyện sĩ tốt, làm Lưu Bang nghi ngờ. Còn đây, trong lúc chiến tranh, Trưng-đế lo sợ ta đương không nổi Hán, mới tới vi hành. Ta cần tỏ ra mạnh, để người yên tâm. 

Các tướng đều phục Phật-Nguyệt minh mẫn. Bà lên ngựa, xuất thành, dẫn Chu Tái-Kênh, Đào vương-phi cùng các tướng đi đón. Từ xa xa, thấy bầy voi, cùng người ngựa tiến đến. Phật-Nguyệt ra lệnh cho mọi người xuống ngựa, đứng chờ ven đường. Chu Tái-Kênh chỉ đoàn người ngựa: 

– Hoàng-đếá Lĩnh-Nam xuất chinh chưa tới hai trăm người ngựa tháp tùng. Trong khi hoàng-đế Trung-nguyên đi đâu, phải tiền hô hậu ủng hàng ngàn, hàng vạn giáp sĩ. 

Cu Bò cười lớn: 

– Hoàng-đếá Lĩnh-Nam được dân yêu, đâu sợ người ám sát, mà cần giáp sĩ? Hoàng-đế của mình có võ công cao, dễ gì ai đến gần được? 

Trưng hoàng-đế tới gần, Phật-Nguyệt hô lớn: 

– Các tướng sĩ Trường-sa, giáp trụ trên người, không hành đại lễ. Mong hoàng-đế miễn tội. 

Hoàng-đếá nhảy vội xuống nói lớn: 

– Chúng ta là sư huynh, sư muội một nhà. Không nên dùng đại lễ. Miễn lễ. Miễn lễ. 

Ngài ra lệnh cho voi của Phật-Nguyệt, Tái-Kênh cùng đi ngang với voi của ngài và Trưng Nhị. Dân chúng trong thành, nhà nhà kéo nhau ra chào mừng hoàng-đế giá lâm. 

Trưng hoàng-đế nói với Phật-Nguyệt: 

– Ta bất thần thăm mặt trận Động-đình. Sư muội bắt dân chúng đón rước chi cho mệt mỏi? 

Phật-Nguyệt chưa kịp trả lời, Cu Bò cỡi ngựa đi phía sau. Nó xen vào: 

– Thưa "chị" hoàng-đế. Chị Phật-Nguyệt đâu có bảo họ đón. Họ nghe hoàng-đế đến, tự bảo nhau, kết hoa, đốt pháo mừng, kéo nhau đi đón đấy chứ. 

Hoàng-đế nhìn Cu Bò. Người nó dơ dáy kinh khiếp. Ngài liếc nhìn Hồ Đề ý muốn hỏi lý lịch. Hồ Đề vội đáp: 

– Sư tỷ! Em có Tây-vu thiên ưng lục tướng, Thập-ngưu. Nó là một trong mười thằng trâu. Cứng đầu như trâu. Tên nó là Trâu Vàng. Vì không có Trâu Vàng, nên gọi là Cu Bò. Nó giữ chức sư trưởng Thần-ưng đạo Giao-chỉ, dưới trướng sư muội Đào Phương-Dung. 

Vua Trưng nhìn Cu Bò, Trâu Xanh, Trâu Trắng mỉm cười nói: 

– Cách đây năm, sáu năm, là thời của Tây-vu thiên ưng lục tướng. Lục Sún lớn thì có mười cu trâu kế nghiệp. Tre già, măng phải mọc. 

Đào Ngũ-Gia, tức Sún Hô trình: 

– Sư tỷ thứ lỗi. Thằng Cu Bò cực thông minh, lanh lợi, chỉ phải cái tội tham ăn và ở dơ. Trận đánh vừa qua, nó lập công đầu trong các tướng lĩnh Tây-vu, thứ đến Vi Lan, Trâu Đen. Không may Trâu Đen tuẫn quốc. 

Hoàng-đế cảm thán, nói với Hồ Đề: 

– Bàn tay của em là bàn tay tiên, chứ không phải bàn tay người thường nữa. Dù ta, dù Đào vương-phi, dù bất cứ người nào cũng không bằng em. Từ tiền cổ đến giờ, chỉ có Quốc-mẫu, sinh trăm con, mới hơn được em. Trẻ mồ côi quá nhiều, em đi lượm về nuôi nấng, dạy dỗ chúng trở thành anh hùng Lĩnh-Nam. Bề ngoài, ai cũng tưởng em đùa nghịch, phá phách. Chỉ có thái thượng hoàng Tự-Sơn với ta biết em: Tính đùa nghịch đó, phát xuất từ trong lòng hồn nhiên, vui vẻ. Chính tính vui vẻ của em, em đã đào tạo được nhiều thiếu niên anh hùng. 

Voi đã vào trong thành. Vua Trưng thấy dân chúng đứng đón đông quá, ngài xuống voi, cùng tể tướng, tam công, triều thần, đi khắp thành, ân cần hỏi thăm từng người một. 

Lạ một điều, người già bu quanh hoàng-đế, đòn trẻ con bu quanh Hồ Đề, mỗi câu, mỗi lời bà nói. Dân chúng lại cười ầm lên. 

Chính lời khen ngợi Hồ Đề của vua Trưng, mà sau này, tại các đền thờ, đều đắp tượng bà ngồi giữa, xung quanh có bảy đứa trẻ, trong bảy tư thế khác nhau. Một đứa đấm lưng, một đứa bắt chí, một đứa bóp vai, một đứa đấm chân, một đứa dâng trái cây, một đứa quạt nước, và một đứa ngồi để "cò" ra ngoài, tay ôm trái dưa. Nhiều nơi còn vẽ hình bà với bảy đứa trẻ, làm tranh tết. Tết đến đua nhau mua tranh treo ở nhà, mong trẻ con hay ăn, chóng lớn. Có người không biết, gọi là tranh Hồ tiên cô và bảy đồng tử, diễn tả tài nuôi dạy người của Hồ Đề thời Lĩnh-Nam. 

Ủy lạo dân chúng đến chiều, hoàng-đế lên ngựa đến bờ hồ Động-đình thăm thương binh đang điều trị tại đây. Ngài đến từng dãy nhà của thương binh thăm hỏi, ban thưởng. Nhiều người cảm động bật lên tiếng khóc. 

Từ hồ Động-đình, ngài trở về Trường-sa, họp với các tướng sĩ, định công, tưởng thưởng. Ngài truyền tất cả binh tướng dù lớn, dù nhỏ, công nhiều, công ít, đều được thăng lên một cấp. Phàm những người có chiến công hiển hách, công chúa Phật-Nguyệt đạt giấy về trang ấp. Lạc hầu, lạc tướng sẽ thay Trưng hoàng-đế ban thưởng cho cha mẹ, sư phụ, có công dạy dỗ con em. Các tướng sĩ anh dũng tử trận, trang ấp quê hương của họ được đổi tên. Dùng tên của họ thay cho tên trang ấp cũ. Dùng tên đặt cho trang ấp, chỉ Lĩnh-Nam mới có. Chứ người Trung-Hoa ngược lại, kiêng, không được nhắc đến húy của danh nhân. 

Trước 1945 khắp vùng Bắc Việt-Nam, và các tỉnh Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam bên Trung-hoa, có nhiều trang ấp mang tên danh nhân như: Xóm Ả-Tắc, Ả-Dị, xóm ông Ba, chòm ông Mãnh v.v. đó là tên những chiến sĩ anh dũng tuẫn quốc được dùng đặt tên trang ấp từ thời Lĩnh-Nam còn sót lại. 

Sau khi tuyên thưởng tất cả chiến sĩ. Ngài đứng dậy, ân cần nói với Chu Tái-Kênh: 

– Thái sư thẩm lần đầu tiên tham chiến, gặp trận giặc lớn. Nếu không có người ra tay, e Lưu Long, Tô Định, Ngô Anh đánh tan đạo quân Tam-sơn của Lĩnh-Nam. Đất Lĩnh-Nam còn phải nhờ đến uy vũ của thái sư thẩm nhiều. Trẫm xin tôn dâng Thái-sư thẩm tước: 

Thiên-đạo hoàng thái hậu. 

Tam công, tể tướng, cùng các tướng sĩ đồng hành đại lễ với Chu Tái-Kênh. Bà vui vẻ, uống rượu, múa kiếm ca hát bài ca chiến thắng hồ Động-đình do Phùng Vĩnh-Hoa sáng tác. Đám trẻ cũng hát theo. Vua Trưng bị cảm ứng, ngài cũng hát. 

Từ sau trận hồ Động-đình. Chu Tái-Kênh trổ thần oai giết giặc. Nhất là gặp đạo quân thiện chiến, liều mạng Lưu Long, bà được xử dụng hết tài thao lược, thắng giặc. Cái uất hận từ bốn mươi năm do đó mất đi. Bà trở lại với bản tính nhu nhã thuở nào. 

Trưng hoàng-đế nói với Vi Lan: 

– Nhờ mưu trí của em, mà chúng ta cướp được kho lương thảo khổng lồ, đủ nuôi mười vạn quân trong vòng hơn một năm. Công này không nhỏ. Ta quyết định phong cho em làm: 

Chí nhu Thiên tắc công chúa. 

Chu Tái-Kênh tiến lên, ghé tai Trưng hoàng-đế nói nhỏ mấy câu. Trưng hoàng-đế nhìn Trần Quốc-Dũng, ngài mỉm cười phán: 

– Trong trận này, em với Vi Lan đều vào sinh ra tử. Ta thăng em lên làm Quân-sơn hầu, lĩnh ấn Đại tướng quân. Ta truyền gả Vi Lan cho em, kể từ hôm nay, để cả hai thành vợ chồng, cùng lo gánh vác sơn hà với chúng ta. 

Hai người cùng lạy tạ. Cu Bò thấy Vi Lan lấy chồng. Nó diễu: 

– Ôi! Từ nay chúng mình phải gọi là Chí nhu thiên tắc công chúa. Tên dài quá. Thôi mình gọi là Ả Tắc cho nó gọn. 

Từ đấy trong bạn hữu Tây-vu gọi nàng là Ả Tắc. 

Hoàng-đế truyền gọi Hắc Phong quận chúa, dạy: 

– Trước em có công đánh thành Xuyên-khẩu, Bạch-đế, sau đánh thành Trường-an, lại có công trong trận Long-biên, Luy-lâu. Ta đã phong cho chức tước cùng trang ấp cho các em rồi. Bây giờ em lại lập công lớn trong hồ Động-đình, em mới hai mươi tuổi, xung phá vào hàng vạn mũi tên Hán. Em chỉ huy đội ong bầu đánh với sáu vạn thủy quân Mã Viện, gặp cường địch không lùi, bị thương đến ba lần vẫn tiến. Trong đời sống, nêu cao tài Lĩnh-Nam. Ta phong em làm: 

Chí nhu dị tài công chúa 

Cu Bò nói nhỏ vào tai Trâu Xanh: 

– Tên dài quá. Bọn mình cứ gọi bằng tên Ả Dị cho tiện. 

Từ đấy, trong quân gọi Vi Lan bằng tước hiệu Thiên-tắc công chúa. Hắc Phong là Dị-tài công chúa. Song bạn bè gọi nàng là Ả-Dị. Hiện nay ở Mê-linh còn có miếu thờ Ả-Dị, Ả-Tắc. 

Vua Trưng cùng cùng quần thần nghe Cu Bò nói đều cười ồ lên. Ngài lại truyền phong cho Trâu Đen được mang họ Trưng, đặt cho tên Trưng Dũng. Sắc phong làm: 

Tam-sơn trung dũng đại tướng quân 

Ngài phong cho tất cả các sư trưởng Tây-vu thuộc đạo Giao-chỉ, Hán-trung lĩnh ấn đại tướng quân, tước Liệt-hầu. 

Cu Bò lắc đầu, không chịu nhận tước Liệt-hầu. Đào vương-phi hỏi: 

– Con chê tước hầu nhỏ hay sao? Con mới mười lăm tuổi, làm đại tướng, tước phong hầu là lớn lắm rồi. 

Nó gãi đầu nói: 

– Không phải vậy. Con gọi chị Phật-Nguyệt bằng chị. Chị Phật-Nguyệt gọi hoàng-đế bằng chị, vì vậy con cũng gọi chị hoàng-đế. Như vậy là con chỉ dưới chị hoàng-đế chút xíu. Bây giờ phong con làm tước hầu, bé xíu xíu. Con không chịu đâu. 

Bọn Trâu Xanh, Trâu Trắng nhao nhao theo Cu Bò. Đào Phương-Dung làm chúa tướng của bọn phá trời đã quen. Bà bảo chúng: 

– Hoàng-đế phong hầu cho các em, để các em có trang ấp. Có trang ấp, tha hồ mà ăn. Ăn gãy răng cũng không hết. Còn nếu các em không muốn nhận tước hầu, thì thôi vậy, hết hành quân, đánh giặc, trở về Tây-vu vẫn phải ăn cơm lính hoài. Ăn cho đến già. 

Cu Bò nói lớn: 

– Ê ! Bọn Trâu chúng mình cứ nhận sắc phong, nhưng bổng lộc thì giữ lấy, đem cho người nghèo. 

Cả bọn lạy tạ ơn. 

Trưng hoàng-đế nghĩ một lúc rồi quay lại nói với lạc vương Lương Hồng-Châu: 

– Trận hồ Động-đình diễn ra trên đất Quế-lâm. Cu Bò được phong hầu, không lẽ cứ dùng tên Cu Bò, Trâu xanh, Trâu Trắng mãi coi không được. Vậy trẫm phiền Lạc-vương nhận ba cháu làm con nuôi, cho chúng mang họ Lương. 

Lương Hồng-Châu bái mệnh. Ngài nói với Cu Bò: 

– Cháu ngoan. Ta nhận các cháu làm con. Ta đặt cho Cu Bò là Lương Tùng. Trâu Trắng là Lương Bạch. Trâu Xanh là Lương Thanh. Bò đã được thu làm đệ tử Cửu-chân rồi, thì thôi. Còn Trâu Trắng, Trâu Xanh sẽ được thu làm đệ tử phái Quế-lâm. 

Bọn Trâu mừng lắm, chúng đến trước Lương Hồng-Châu lạy tám lạy, gọi ông là sư phụ. 

Hai hôm sau hoàng-đế cùng quần thần nghị sự. Chỉ các tướng cấp sư trở lên mới được dự. Bọn Cu Bò tuy ít tuổi, song chúng lĩnh ấn đại tướng quân, tước phong hầu. Cũng được tham dự. 

Công-chúa Bát-Nàn Vũ Trinh-Thục trình bày tin tức: 

– Về mặt trận Thục, Công-tôn Tư đầu hàng Hán. Quang-Vũ truyền Ngô Hán đem quân đi sau yểm trợ cho Tư. Để Tư dẫn bản bộ quân mã cùng đám Lê Đạo-Sinh đánh với Vương Nguyên. Vương Nguyên ít quân, phải lui về cố thủ ở Hán-nguyên. Dân chúng Thục một phần theo Hán, phần còn lại một nửa theo Công-tôn Thi, một nửa theo Vương Nguyên. Hiện Vương Nguyên vẫn cố thủ mười quận phía Nam Ích-châu. Vương Nguyên được đạo binh Tượng-quận của Đào Hiển-Hiệu trợ giúp. Ngô Hán, Công-tôn Thi không sao đánh được. Song nam Ích-châu, dân chúng nghèo khó, Vương Nguyên chỉ có thể cố thủ trong vòng một năm nữa là cùng. 

Tể-tướng Phương-Dung hỏi Phùng Vĩnh-Hoa : 

– Sư tỷ vốn có thâm tình với Thục. Em vẫn lo cho sư-bá Vương Nguyên. Vậy sư-tỷ đừng quản ngại, hãy đi Tượng-quận, vào Ích-châu giúp sư-bá Vương Nguyên với sư đệ Hiển-Hiệu. 

Trưng hoàng-đế hỏi Đào Kỳ: 

– Sư đệ Đào Quí-Minh bị Liêu-đông tứ ma bắt đến hồ Động-đình, được Xích Hầu, Cu Bò cứu thoát, do vậy được dự trận đánh lớn. Ta cho rằng đó là trời định. Vậy nên cử người khác làm phó tướng cho Đào Hiển-Hiệu. 

Đại tư mã, Bắc-bình vương Đào Kỳ nói: 

– Nếu hoàng thượng thuận cho sư-tỷ Vĩnh-Hoa trợ chiến đất Thục, thì không cần để Hiển-Hiệu ở đó nữa. Thần xin đề cử Đào Chiêu-Hiển thống lĩnh đạo Tượng-quận, Đào Đô-Thống làm phó tướng. Đào Tam-Lang trấn thủ Độ-khẩu. Sư đệ Quách Lãng tuẫn quốc, thần xin để Hiển-Hiệu thế Quách Lãng thống lĩnh đạo Hán-trung. Đạo Hán-trung tổn thất mất một phần ba quân số trong trận vừa qua, xin cho rút về Linh-lăng làm trừ bị, để bổ xung, huấn luyện lại. Đạo Giao-chỉ của Đào Phương-Dung tinh lực hùng mạnh, đưa lên trấn thủ hồ Động-đình thay thế đạo Hán-trung. 

Công-chúa Bát-Nàn Vũ Trinh-Thục lại tường trình về khu Nam-hải: 

– Đối diện với Nam-hải có hai đạo quân. Đạo Hạ-khẩu của Phù-Lạc hầu Lưu Long. Đạo Thượng-ngô của Lâu-thuyền tướng quân Đoàn Chí. Đạo Lưu Long thống lĩnh binh mã vùng Hạ-khẩu, uy hiếp Kinh-châu, Nam-hải, Quế-lâm. Giáp sĩ trên dưới ba mươi vạn. Vừa rồi y đem quân vào hồ Động-đình. Bị Phật-Nguyệt đánh tan rã hoàn toàn lực lượng Thủy quân. Tuy vậy y cũng còn trên mười lăm vạn binh. Đoàn Chí thống lĩnh binh mã Thượng-ngô, Uất-lâm. Mấy năm nay ra sức đóng chiến thuyền, tập luyện thủy quân. Mục đích đánh xuống Nam-hải. Binh lực của y trên hai mươi vạn giáp sĩ. Tuy vậy mặt Nam-hải chúng ta không lo sợ. Vì tài dùng binh cả Lưu Long, Đoàn Chí không phải là đối thủ của Vương Phúc, Thánh-Thiên. Về võ công, chúng càng không phải đối thủ của Khúc-Giang ngũ hùng. Về thủy chiến, chúng chưa đáng bậc đệ tử của Trần Quốc. Nếu chúng đánh xuống, không khác gì tự tử.

Trưng-đế hỏi Trưng vương: 

– Em nghĩ sao? 

Trưng vương đáp: 

– Em nghĩ nên chọc cho Đoàn Chí đánh xuống Nam-hải, để Thánh-Thiên, Vương Phúc, Trần Quốc tiêu diệt khả năng thủy quân của chúng. Vừa rồi chúng bị trận hồ Động-đình, Trung-nguyên rung động. Nếu xảy ra trận Nam-hải nữa thì Thủy quân chúng mất hết tiềm lực. Ít ra phải ba năm mới phục hồi. Bấy giờ, chúng ta không còn sợ Hán nữa. 

Trưng hoàng-đế hỏi Phương-Dung: 

– Sư muội biết nhiều về triều Hán, có thể nào, chúng ta chọc cho Đoàn Chí đánh xuống Nam-hải không? 

Phương-Dung ngẫm nghĩ một lúc rồi tâu: 

– Em nghĩ: Quang-Vũ có tài đế vương. Y biết nhận xét thời cuộc không thua gì Thái thượng hoàng Trần Tự-Sơn. Chắc chắn sau trận hồ Động-đình y sẽ ra lệnh chiếm nốt các quận Kinh-châu, Ích-châu. Y không dại gì chọc tay vào tổ ong bầu Nam-hải. Tuy vậy, Mã thái-hậu có thể dùng áp lực, bắt quần thần tâu với Quang-Vũ cho Đoàn Chí đánh xuống Nam-hải. 

Bà ngưng lại một lúc, tiếp: 

– Muốn cho Mã thái-hậu làm như vậy cũng dễ thôi. Mụ đang cần nhiều vàng bạc châu báu, mua chuộc quần thần. Bởi vậy mụ mới sai vợ chồng Nghi-Gia cầm đầu một đội Thị vệ xuống hồ Động-đình tìm kho tàng. Trong khi đó bản đồ kho tàng nằm trong tay chúng ta. 

Phùng Vĩnh-Hoa, nổi tiếng nhiều mưu lắm mẹo. Bà góp ý: 

– Vậy thì thế này. Chúng ta đem Ngọc-tỷ truyền quốc của Trung-nguyên, cùng bản đồ kho tàng giao cho Công-chúa Vĩnh-Hòa. Công-chúa thượng biểu về triều trước rồi sau đó mang Ngọc-tỷ dâng cho Quang-Vũ. Được Ngọc-tỷ nhất định Quang-Vũ sẽ hài lòng. Trong khi đó, chúng ta phao ngôn khắp triều Hán rằng bí mật bản đồ kho tàng để ở đáy hộp Ngọc-tỷ. Mã thái-hậu nghe vậy, ắt cạy đáy hộp ra lấy bản đồ. Chúng ta phải làm một bản đồ giả, đặt trong đáy hộp Ngọc-tỷ sẵn. Mã thái-hậu được bản đồ đó, tất ép quần thần tâu Quang-Vũ đánh Nam-hải, để mụ cho người theo quân đào kho tàng. 

Phương-Dung đồng ý: 

– Chúng ta chế tạo bản đồ cũng phải bịa ra bài thơ, bài quyết bí mật. Để bọn Mã thái-hậu khó nhọc mới đoán ra. Mặt khác, bản đồ chỉ chỗ dấu kho tàng, phải thuận tiện cho chúng ta dùng binh. Nơi đó, làm mồ chôn quân Hán. 

Trưng hoàng-đế giao việc này cho Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa, Phương-Dung nghiên cứu làm với nhau. 

Vũ Trinh-Thục trình bày tiếp: 

– Tại Kinh-châu, trong khi Mã Viện đánh xuống Nam. Thì mặt Ích-châu, Công-tôn Thi đánh ra, mặt trước Phong-châu song quái đánh lại. Công-tôn Thiệu, Vũ Chu binh cô, thế cùng, bị đánh bại. Hai người bị bắt cầm tù. Kinh-châu thất thủ hoàn toàn. 

Sún Hô tức Đào Ngũ-Gia nước mắt đầm đìa. Chàng đến trước Trưng-đế phủ phục xuống khóc: 

– Thần cả gan, dám xin Hoàng-thượng ban cho một đặc ân. 

Trưng-đế phất tay một cái, kình lực nhu hòa đỡ chàng dậy. Ngài phán: 

– Hiền đệ với ta tuy nghĩa vua tôi. Song tình khác chi ruột thịt. Hiền đệ có mối thương tâm gì, cứ nói ra. Ta sẵn sàng giúp hiền đệ. 

Đào Ngũ-Gia tâu: 

– Trước đây Tây-vu thiên ưng lục tướng đánh nhau với Trường-sa vương Công-tôn Thiệu, rồi kết huynh đệ, thề rằng có phúc cùng hưởng. Có họa cùng chịu. Từ sau vụ đó, đưa đến Thục, Việt hòa hợp. Nay... Sún Cao tuẫn quốc. Ngũ Sún mỗi người trọng nhậm một nơi. Tiểu đệ trấn thủ ngay cạnh Kinh-châu, đã qua sông giúp Công-tôn Thiệu đại ca tái chiếm ba thành. Không ngờ quân ít, thế cô, đại ca bị giặc bắt. Lòng tiểu đệ đau như dao cắt. Tiểu đệ dám cả gan xin Hoàng-thượng cho phép tiểu đệ vượt sông, đột nhập nhà tù cứu Công-tôn đại ca. 

Trưng-đế gật đầu: 

– Đào Ngũ-Gia nghĩa khí thực đáng khen. Song cần phải nghiên cứu kỹ. Lỡ ra hỏng việc, cứu người không được, mà mình mất mạng vô ích. 

Trưng hoàng-đế đưa mắt nhìn Đào Kỳ hỏi ý kiến. Đào Kỳ lắc đầu: 

– Sau khi Công-tôn Thiệu, Vũ Chu bị bắt. Chúng đã giải cả gia quyến hai người về Lạc-dương. Đợi bắt được Vương Nguyên rồi mới giết một thể. Việc đem người đến Lạc-dương cứu Công-tôn Thiệu, e rất khó. 

Cu Bò dơ tay xin nói. Hoàng-đế hỏi: 

– Em có ý kiến gì muốn phát biểu? 

Cu Bò cười: 

– Muốn cứu Công-tôn Thiệu, Vũ Chu cùng các tướng Thục bị bắt, cũng dễ thôi. Nếu "chị" Hoàng-đế giao cho em. Cam đoan em cứu được hết. Cứu rất dễ dàng. Em hứa đem họ về đây không bị mất một sợi tóc. 

Trưng-đế biết đệ tử Tây-vu có nhiều sáng kiến. Ý nghĩ của họ không biết đâu mà lường. Bà hỏi: 

– Em thử nói cho chị nghe xem có hợp lý không? 

Cu Bò cười: 

– Các chị bàn giao Ngọc-tỷ cho Quang-Vũ. Y vốn ích kỷ. Tự nhiên được Ngọc-tỷ, chắc chắn y sẽ nghi ngờ. Vậy trước hết, có Công-chúa Vĩnh-Hòa của triều Hán đây. Để Công-chúa thượng biểu về triều rằng Ngọc-tỷ hiện ở Lĩnh-Nam. Nếu Quang-Vũ thuận, Công-chúa đứng trung gian, thuyết phục Lĩnh-Nam trả Ngọc-tỷ cho Quang-Vũ. Ngược lại Quang-Vũ phải trao hết những tù binh của Thục. Tên tuổi do Lĩnh-Nam đưa ra. 

Trưng hoàng-đế cùng quần thần kinh ngạc không ít về đề nghị của Cu Bò. 

Phùng Vĩnh-Hoa ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 

– Trước kia Ngô Hán phục kích bắt được Quí-Minh với Công-chúa Vĩnh-Hòa. Chắc chắn y đã thượng biểu về triều nói xấu Công-chúa. Vậy trước khi Công-chúa thượng biểu cho Quang-Vũ. Chúng ta phải tạo cho Công-chúa nhiều uy tín đã. Hiện chúng ta bắt được gần mười vạn tù binh Hán. Trong đó có ba vạn thương binh. Chúng ta phải nuôi thương binh tốn lương, tốn thuốc. Chi bằng để Công-chúa vào nhà tù thăm họ. Người hứa xin ân xá cho họ về quê. Tất họ hoan hô. Người bảo họ muốn viết thư về cho gia đình thì viết. Thư đó, chúng ta phái người đưa cho Binh-bộ thượng-thư. Bộ binh chắc sẽ mở ra đọc, trước khi chuyển về gia đình. Binh-bộ đương nhiên có sớ tâu trình lên Quang-Vũ về việc làm của Công-chúa. Tự nhiên những lời tâu của Mã Viện không còn hiệu lực nữa. 

Trưng hoàng-đế hỏi: 

– Ai có ý kiến gì khác không? 

Bắc-bình vương Đào Kỳ tâu: 

– Trước đây Đô-đốc Thủy quân hồ Động-đình là Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương. Nay hai sư muội đều tuẫn quốc cả rồi. Vậy xin cho Khâu-Ni Công-chúa Quách A thay thế. 

Trưng-đế thuận, ngài phán: 

– Vậy ngay hôm nay, sư muội Vĩnh-Hòa lên đường đi Ích-châu. Phương-Dung ở lại Phiên-ngung cùng Bắc-bình vương điều khiển chiến trường. Trưng Nhị trở về Lĩnh-Nam, trấn thủ Giao-chỉ. Tây-vu tiên tử ở lại thay thế Cu Bò. Để Cu Bò theo Đào vương-phi với Hoàng thái-hậu Tái-Kênh đi Lạc-dương.... 

Đào vương-phi, Chu Tái-Kênh, Cu Bò cùng lấy ngựa, vượt Trường-giang đi Lạc-dương. Ba người phải tránh né, để không bị quân Mã Viện nhận diện được. Dọc đường qua Kinh-châu, họ bị kiểm soát gắt gao. Nhưng nhờ có binh phù của Mã Vũ, tướng sĩ không dám kiểm soát. Vì bây giờ Đặng Vũ làm Đại tư mã, Mã Vũ đang lĩnh Binh-bộ thượng-thư. 

Ba người tới Lạc-dương. Chu Tái-Kênh đã từng đến Lạc-dương tìm Khất đại phu để trả thù. Bà thông thuộc đường lối. Bà dẫn ba người lên một tửu lầu thực lớn. Tửu bảo thấy ba người trang phục sang trọng, nhan sắc diễm lệ, cho rằng đó là những mệnh phụ phu nhân, từ xa về kinh triều kiến Thái-hậu, Hoàng-hậu. 

Chợt Cu Bò lấy bàn tay khều Đào vương-phi: 

– Sư bá dừng quay lại. Phía sau có người theo dõi mình. Dường như họ hiểu được tiếng Việt. Phải cẩn thận. 

Đào vương-phi nói nhỏ: 

– Những người hiểu được tiếng Việt ở Lạc-dương có ba loại. Loại Tế tác của Bát-Nạn Công-chúa Vũ Trinh-Thục. Loại này thường đeo khăn trắng trên cổ. Loại thứ nhì của Đào Kỳ, Phương-Dung liên lạc với Hàn thái-hậu, Chu Tường-Qui, chân bao giờ cũng đi giày vải xanh. Còn lại thuộc Tế tác của Hán hoặc của đám Lê Đạo-Sinh. Con giả vờ đứng dậy, nhìn xem có thấy dấu hiệu gì khác không? 

Cu Bò liếc mắt nhìn qua, rồi khẽ lắc đầu. Đào vương-phi nói; 

– Như vậy y không phải người của Tế tác Hán, cũng là người của Lê Đạo-Sinh. Phải cẩn thận một chút. 

Chu Tái-Kênh nói nhỏ: 

– Chúng ta ăn xong, rồi xuống lầu. Vờ như không biết. Nếu y theo chúng ta. Bấy giờ mình sẽ có cách. 

Bà kêu tửu bảo, trả tiền, rồi cả bốn người cùng xuống lầu. Quả nhiên bọn người vừa lên ngựa đi, đã thấy tên đó xuống lầu, ẩn phía sau một hàng rong, nhìn theo. Cu Bò bàn: 

– Bây giờ chúng ta kiếm chỗ đồng quang đãng mà đi. Hễ y theo dõi. Cháu cho Thần-ưng nhận mặt. Đêm nay Thần-ưng sẽ dẫn chúng ta đến chỗ ở của hắn. 

Ba người đi về hướng cửa Đông thành, qua một cánh đồng. Quả nhiên xa xa thấy ngựa của tên đó đang đi theo. Y đã thay quần áo màu khác, lại dán lên bộ râu, nhưng Cu Bò vẫn nhận được mặt y. Nó gọi Thần-ưng từ trên trời đáp xuống, huýt sáo ra lệnh. Thần-ưng hướng tên Tế tác bay tới. Nó lượn trên đầu y. Y vẫn không biết gì. Đi vòng vo một lúc, ba người tìm cách lẫn vào chỗ đông, băng qua chợ, ra roi cho ngựa chạy sang cửa Nam. Tên Tế tác đã mất tăm. 

Như đã ước hẹn. Đào vương-phi viết một bức thư, sai Thần-ưng mang vào thành cho Chu Tường-Qui. Chỉ lát sau, Thần-ưng đem thư ra. Chu Tường-Qui cho người ra cửa Nam đón. Ba người tới cửa Nam, gặp một Thái-giám trẻ tuổi chào hỏi. Viên Thái-giám trao cho Cu Bò bộ quần áo Thái-giám, và trao cho Đào vương-phi hai bộ quần áo cung nga. Ba người thay quần áo, rồi ngang nhiên nhập Hoàng-thành. Qua cửa Thanh-tỏa, đến điện Gia-đức, rồi tới Tây-cung. Tây-cung lớn không kém gì điện Gia-đức. 

Nguyên từ khi Chu Tường-Qui xuất lực dẹp tan cuộc phản loạn của đám ngoại thích họ Mã. Quang-Vũ rất sủng ái nàng, truyền xây một ngôi lầu năm tầng lớn, đẹp không thua gì lầu Thúy-Hoa... để tạ ơn về cuộc cứu giá. 

Thái-giám ra hiệu cho ba người ngừng lại, đến trước cửa nói vọng vào: 

– Tâu Quí-phi, có cung nữ, Thái-giám tân tuyển ở Lĩnh-Nam xin cầu kiến. 

Tiếng Chu Tường-Qui đáp: 

– Đỗ Lý đấy phải không? Ngươi hãy về nghỉ. Còn tân cung nga với Thái-giám cho vào. 

Trước mặt Cu Bò, thì Trưng hoàng-đế lớn nhất thiên hạ, đẹp nhất thiên hạ, đạo đức, hiền hậu nhất thiên hạ. Nó còn dám gọi chị Hoàng-đế. Vì vậy nó không coi Tây-cung quí-phi triều Hán ra gì. Nó đẩy cửa bước vào. Chu Tái-Kênh vẫy Đào vương-phi, vào theo. 

Chu Tường-Qui vội đóng cửa. Nàng trông thấy Đào vương-phi, lại nhớ ngày nào ra đảo, đã gặp bà. Cử chỉ từ ái của bà làm nàng nhớ mãi. Tự nhiên nàng bật lên tiếng khóc. 

Chu Tái-Kênh hỏi: 

– Tên Thái-giám vừa qua có tin được không? 

Chu Tường-Qui gật đầu: 

– Y là sư đệ của cháu. Hồi trước thân mẫu cháu sang Lạc-dương có mang theo hai đệ tử nhỏ tuổi. Một tên Đỗ Lý, một tên Chiêu Trung. Cả hai đều họ Chu. Cháu cho hai người giả làm Thái-giám. Bây giờ chúng đã lớn. Cháu cho cải sang làm Thị vệ. Võ công hai sư đệ cũng vào loại khá. Sáng nay Chiêu Trung theo dõi các vị ngoài phố. Sau bị các vị đánh lạc mất. 

Đào vương-phi giới thiệu Cu Bò với Chu Tường-Qui. Sau đó bà chỉ Chu Tái-Kênh nói: 

– Người này đối với cháu có nhiều liên hệ. Thứ nhất người là phu nhân của Thái sư phụ Khất đại phu. Thứ nhì, người là bà cô của cháu. 

Đào vương-phi kể sơ lược truyện Chu Tái-Kênh cho Chu Tường-Qui nghe. Cuối cùng bà tường thuật tỷ mỉ mọi biến cố, kế hoạch Trưng hoàng-đế quyết định tại hồ Động-đình. 

Chu Tường-Qui nghe xong, kính cẩn nói: 

– Thưa sư-bá, hiện Hoàng-thượng vẫn sủng ái cháu hơn tất cả các phi tần khác. Trước, mẹ cháu qua đời. Kế tiếp Tần vương, Hoài-nam vương bị hại. Hoàng tộc bị ngoại thích kiềm chế. Hoàng-thượng cũng đang lo lắng. Hiện chỉ có ba người dám chống lại Mã thái-hậu là Mã Vũ, Phùng Tuấn với Chu Hựu. Ba người này cùng liên kết với cháu. Nếu chúng ta tìm cách tỉa vây cánh ngoại thích, ắt Hoàng-thượng còn vui lòng hơn nữa. Còn Hàn thái-hậu, thì người ôn nhu văn nhã, không lý đến việc triều chính. Hôm trước Hoàng sư-tỷ với Nghiêm đại-ca có ghé Lạc-dương vấn an người, rồi đi ngao du sơn thủy. Không rõ hiện giờ ở đâu. Bây giờ cháu được Trưng sư-tỷ cử Tổ-cô và sư-bá, thêm Cu Bò đến giúp cháu. Cháu dễ xoay sở hơn. 

Ngưng một lúc nàng tiếp: 

– Cháu sẽ nói với mọi người rằng sư-bá là nhũ mẫu cháu hồi xưa. Bây giờ cháu mời sang báo hiếu, sớm hôm gần nhau. Còn Tổ-cô, cháu vẫn nói thực. Cháu mời người sang dậy võ công cho cháu. Cu Bò, mới mười lăm tuổi. Cháu bảo nó là Thái-giám tân tuyển. Hiện Hoàng-thượng bí mật đi Kinh-châu xem xét tình hình. Có lẽ hơn tháng mới về. 

Đinh Xuân-Hoa hỏi: 

– Giữa Hàn thái-hậu với Mã thái-hậu có đụng chạm nhau không? 

Chu Tường-Qui đáp ngay: 

– Hàn thái-hậu vốn tính ôn nhu. Người không lý gì đến truyện triều chính, truyện ở trong cung. Một tháng hai lần người tới cung Huệ-đức thăm Mã thái-hậu, ở lại ăn một bữa cơm với nhau. Mã thái-hậu cũng biết điều lắm. Sau mỗi lần Hàn thái-hậu viếng thăm. Mụ lại tới cung Tuyên-từ thăm Hàn thái-hậu. Còn hai Thái hậu đối với cháu thực trái ngược. 

Chu Tái-Kênh cười khúc khích: 

– Dĩ nhiên! Hàn thái-hậu vì cảm tình với Lĩnh-Nam, với Trần Tự-Sơn, người thương cháu hơn con đẻ. Lại nữa cháu có công cứu giá hồi bọn ngoại thích và Mao Đông-Các làm phản. Ngược lại, Mã thái-hậu thù ghét cháu. Song mụ vẫn ớn cháu có phải thế không? 

Chu Tường-Qui gật đầu: 

– Tuy Hoài-nam vương, Tần vương với mẹ cháu qua đời, mà Mã thái-hậu vẫm tưởng trong Tây-cung có nhiều cao thủ lắm. Mụ sợ cháu quá sợ cọp. Tuy vậy một tháng hai lần, cháu vẫn tới cung Huệ-đức chầu mụ. Mỗi dịp như vậy, mụ chiều đãi cháu lắm. Cháu càng tỏ ra mình là gái Việt. Cháu thân vào điều khiển ngự trù, nấu các món ăn Lĩnh-Nam cho mụ ăn. Mụ thích lắm. Tuy vậy bề trong mụ vẫn ngầm lo hại cháu. 

– Nghĩa là??? 

– Mụ kết đảng với Quách hoàng-hậu. Phe đảng Quách-hậu khá hơn. Ý mụ định cho cháu với Quách-hậu tranh dành. Mụ đứng giữa hưởng lợi. Còn Quách-hậu, hồi xưa bị cháu ra oai một lần, mụ mất vía. Sau này chính mụ được chứng kiến cháu đánh bại Trần Nghi-Gia. Cho nên mụ chưa dám ra mặt. Vả lại Hoàng-thượng sủng ái cháu. Mụ cũng ngại. 

Cu Bò xen vào: 

 – Phe đảng của Quách-hậu có lớn lắm không? Nếu nhỏ thì thôi. Còn lớn, sẵn có hai vị tiền bối với em ở đây. Chúng ta trừ phắt mụ đi cho rồi. 

Chu Tường-Qui lắc đầu: 

– Khổ lắm em ơi! Phe đảng mụ không tầm thường đâu. Nguyên nàng tên là Quách Thanh-Thông, người đất Chân-định. Niên hiệu Cảnh-Thủy thứ nhì (24 sau Tây lịch). Hoàng-thượng cầm quân đánh Vương Mãng thu nạp thị. Niên hiệu Kiến-Vũ nguyên niên (25 sau Tây lịch) thị sinh Hoàng-tử Cương. Anh của mụ tên Quách Hương, có văn tài, võ công cao, giỏi dụng binh. Tính tình của y cẩn trọng, khiêm cung. Hoàng-thượng tin dùng, phong làm Hoàng môn thị lang. Niên hiệu Kiến-Vũ thứ nhì, Quách-thị được phong làm Hoàng-hậu. Hoàng-tử Cương được phong Thái-tử. Quách Hương được phong hầu. Hương khéo chiêu hiền nạp sĩ. Trong nhà có nhiều tân khách giỏi, y tiến cử lên Hoàng-thượng. Vì vậy tại triều vây cánh y rất nhiều. Sau khi xảy ra vụ đụng độ giữa cháu với Quách-hậu. Y tuyển mộ nhiều cao thủ. Song cháu không rõ trong đám Thị vệ Hoàng-hậu có bao nhiêu người? 

Chu Tường-Qui thở dài; 

– Gần đây Mã thái-hậu thường triệu Quách Hương vào triều kiến. Hai bên kết hợp với nhau. Mã hậu mưu đồ gì cháu không rõ. Còn Quách Hương chỉ muốn giữ ngôi Hoàng-hậu của em. Cả hai phe đều muốn tiêu diệt Lĩnh-Nam. Dường như Quách Hương mới chiêu mộ được sư thúc của Sầm Bành, Phùng Dị, võ công cao không biết đâu mà kể được. Chúng định xuống Lĩnh-Nam giết Đào tam ca phục thù. 

Nàng ngưng lại, mỉm cười tiếp: 

– Tuy cháu đã làm cho Mã thái-hậu, Quách hoàng-hậu một phen nghiêng ngửa, mà họ không coi cháu là cái đinh. Họ cho rằng cháu chỉ được Hoàng-thượng sủng ái. Họ đợi một mai nhan sắc cháu tàn phai, sẽ tìm mỹ nhân khác đưa vào, cháu mất sủng ái ngay. Trước đây giữa Hoàng-hậu với các phi tần tranh đấu quyết liệt vì muốn chiếm được lòng quân vương. Bây giờ, họ đều lớn tuổi rồi. Cuộc tranh đấu xoay sang vấn đề khác. Cu Bò ngạc nhiên: 

– Còn vấn đề gì nữa? 

Chu Tường-Qui mỉm cười: 

– Vấn đề các bà tranh dành là mong đưa con mình vào địa vị Thái-tử, để sau này Hoàng-thượng băng hà, con các bà trở thành Thiên-tử. Cháu xuất thân từ Lĩnh-Nam, cha là ngươì Phản Hán phục Việt không thuộc giòng dõi trung lương. Cho đến bây giờ cũng chưa có con. Cháu lại có chồng trước khi vào cung. Bằng ấy vấn đề, khiến các bà không muốn động chạm tới cháu. Vì cháu không phải đối thủ của các bà. Chính Hàn thái-hậu, Hoàng-thượng đều nói: Giữa Hoàng-hậu, phi tần, người nào cũng có ý tranh dành hết. Chỉ một mình Tây-cung là không. Tây-cung dù làm gì chăng nữa, cũng chỉ để bảo vệ triều Hán. 

Chu Tái-Kênh gật đầu: 

– Ta nghe Công-chúa Bát-Nạn Vũ Trinh-Thục nói: Hiện giữa Quách-hậu với Nam cung quí-phi Âm Lệ-Hoa tranh đấu quyết liệt. Âm Lệ-Hoa xinh đẹp, nhu mì hơn. Mụ lại có đến ba con trai, một con gái. Con trai mụ rất thông minh, mẫn tiệp. Mụ định lật Quách-hậu. Khi Quách-hậu bị lật, tất Thái-tử Cương cũng mất vị. Quách-hậu bị lật, mụ sẽ được lên làm Hoàng-hậu. Con mụ đương nhiên thành Thái-tử. Không biết mụ đối với Lĩnh-Nam như thế nào? 

Chu Tường-Qui đáp: 

– Âm thị với cháu rất thân. Hồi Hoàng-thượng đánh Tân-dã gặp Âm thị. Cảnh-Thủy nguyên niên (23 sau Tây lịch), Hoàng-thượng nạp làm Quí-phi, bấy giờ Âm-thị đã 19 tuổi. Vì anh em đều thuộc đại công thần, tính tình bà nhu thuận, nên triều thần rất nể. Năm Kiến-Vũ nguyên niên (25 sau Tây lịch) sinh Hoàng-tử Trang. Hoàng-tử Trang với Thái-tử Cương cùng tuổi. Cương sinh tháng hai lớn hơn Trang chín tháng. Năm sau bà sinh công chúa Đoan-Nhu. Từ hôm xảy ra cuộc đụng độ giữa Quách-hậu với cháu, Âm Quí-phi kết thân với cháu. Bà gửi Hoàng-tử Trang với Công-chúa Đoan-Nhu nhờ cháu dạy võ công. Trên luật lệ, chúng coi cháu như mẹ. Trên tình nghĩa chúng là đệ tử của cháu. 

Đinh Xuân-Hoa cười: 

– Giữa hai đứa trẻ con Âm thị với cháu có tình sư mẫu, đệ tử. Chắc ý cháu cũng muốn giúp đệ tử mình tranh đoạt ngôi Thái-tử. 

Chu Tái-Kênh quyết định: 

– Gặp dịp thuận tiện, chúng ta giúp Âm thị. Nếu Âm thị được làm Hoàng-hậu, Thái-tử Trang trở thành Hoàng-đế, sau này có lợi cho Lĩnh-Nam. Song phải thực khéo léo, tránh biến đám bà con nhà Quách-hậu thành kẻ thù. Chúng ta phải tìm một mưu kế gì tuyệt hảo, hại Quách-hậu, cho mụ mất ngôi Hoàng-hậu, chứ đừng làm mụ chết. 

Cu Bò xen vào: 

– A, cháu hiểu rồi! Ý bà muốn rằng: Mình hại Quách-hậu mất ngôi Hoàng-hậu, là làm giảm vây cánh Mã thái-hậu. Còn không làm Quách-hậu chết, cần Quách-hậu cho Âm Quí-phi có kẻ thù. Nếu Quách-hậu chết, Âm Quí-phi sẽ quay ra đối phó với Chu sư-tỷ. Ngược lại Quách-hậu còn sống, chỉ mất ngôi Hoàng-hậu, Âm Quí-phi lúc nào cũng phải lụy Chu sư-tỷ, hầu có vây cánh. 

Đinh Xuân-Hoa nhìn Cu Bò mỉm cười, vì với tuổi của nó, đã kiến giải sự việc minh mẫn như vậy, thực hiếm có. 

Tường-Qui gọi một cung nga thân tín đến, truyền hướng dẫn hai bà Chu, Đinh với Cu Bò lễ nghĩa triều Hán. 

Tính Cu Bò cũng như các đệ tử Tây-vu khác, hiếu động, chạy nhảy suốt ngày. Bây giờ bị bó cẳng trong cung cấm, nó khổ sở vô cùng. Chỉ một điều duy nhất, khiến nó bằng lòng, là tha hồ ăn uống. Trong Tây-cung, có hẳn một đám ngự trù, biết nấu nướng đủ mọi thức ngon vật lạ trong thiên hạ. Nó được Tường-Qui cưng chiều, muốn ăn cứ vào bếp lục, không úy kị gì hết. Khi mặt trời lặn, thì Đào vương-phi luyện võ cho nó. Chu Tái-Kênh luyện võ cho Tường-Qui, Chiêu Trung, Đỗ Lý. 

Năm trước, khi rời Lạc-dương, Sún Rỗã để lại cho Chu Tường-Qui một cặp Thần-ưng. Bây giờ Cu Bò mang theo hai cặp nữa. Thành ra Tây-cung có tới ba cặp. Hàng ngày Đào vương-phi thu nhặt tin tức, sai Cu Bò nhờ Thần-ưng mang thẳng về hồ Động-đình. Tại đây Tây-vu tiên tử trình Phật-Nguyệt đọc qua, rồi dùng Thần-ưng chuyển từ hồ Động-đình về Phiên-ngung. Tại Phiên-ngung Đào Kỳ đọc, xong nhờ Sún Lé, sai Thần-ưng chuyển về Giao-chỉ hầu Vũ Trinh-Thục khai thác. 

Một hôm Thái-giám tâu với Chu Tường-Qui biết Quang-Vũ đi Kinh-châu đã về tới Lạc-dương. Quang-Vũ báo cho nàng biết trước, đêm nay y sẽ tới ngự ở Tây-cung. Chu Tường-Qui truyền ngự trù chuẩn bị yến tiệc. Gọi nhạc công, cung nữ sẵn sàng tấu nhạc. 

Trời chập choạng tối, Quang-Vũ đến Tây-cung. Chu Tường-Qui xuống lầu rước y lên. Sau khi tung hô vạn tuế. Nàng hỏi: 

– Hoàng-thượng vi hành Kinh-châu, không biết tình hình ra sao? 

Quang-Vũ lắc đầu: 

– Trước đây trẫm rút Đặng Vũ về, sai Mã Viện trấn thủ Nam-dương. Ý trẫm muốn mượn tay Thục, Lĩnh-Nam trừ bớt vây cánh họ Mã. Không ngờ trời chiều chúng. Thục xảy ra biến cố. Ông ngoại khanh giúp Công-tôn Thi giết Công-tôn Thuật, phá nát giang sơn Thục. Mã Viện nhân đó chiếm được Kinh-châu. Y thừa thắng cùng Lưu Long đánh Lĩnh-Nam. Không ngờ bị Phật-Nguyệt đánh một trận, tổn thất trên ba mươi vạn nhân mã. Trẫm vi hành qua Kinh-châu, Mã Viện tâu rằng Công-chúa Vĩnh-Hòa phản trẫm, lấy chồng phản tặc Đào Quí-Minh. Song y không có chứng cớ. 

Quang-Vũ bật cười: 

– Giữa lúc đó trẫm nhận được biểu của Binh-bộ thượng-thư Mã Vũ tâu rằng hiện có khoảng ba vạn binh sĩ Hán bị thương. Lĩnh-Nam định đem giết hết. Công-chúa Vĩnh-Hòa lợi dụng quen thân với Lĩnh-Nam. Nàng vào nhà tù thăm thương binh. Thương binh viết thư, nhờ nàng gửi về báo cho gia đình biết rằng họ còn sống. Nàng thuyết phục Trưng Trắc tha cho ba vạn tù nhân. Trẫm được tin mừng quá. Sai sứ, cùng chiến thuyền đón về. Công-chúa Vĩnh-Hòa nhân đó, xin yết kiến trẫm, báo cho trẫm biết một tin mừng. 

Chu Tường-Qui đã biết tin mừng đó liên quan tới Ngọc-tỷ. Nàng vờ không biết, nói thêm ít lời có lợi cho Công-chúa Vĩnh-Hòa: 

– Muôn đời, người ta ở đâu cũng nghĩ đến huyết tộc. Mã thái-hậu chỉ biết Mã Viện. Còn Công-chúa Vĩnh-Hòa chỉ biết có Bệ hạ, chỉ biết có triều Hán. Dù Công-chúa lấy chồng Lĩnh-Nam đi chăng nữa, mà chỉ nói một lời, cứu hơn ba vạn người Hán. Đủ tỏ nàng nhất tâm, nhất dạ với xã tắc. Hèn chi Mã Viện không ghét nàng. 

Tiếng Chu Tường-Qui ngọt như cam-thảo. Lần đầu tiên Đào Kỳ nghe tiếng nàng nói, đã ngây ngất, si mê, cho đến nay Vương cũng chưa quên, huống hồ Quang-Vũ được nàng liếc mắt tống tình, lại đem lý lẽ xác thực ra tâu. Y gật đầu liên tiếp, công nhận: 

– Quí-phi nói đúng. Từ khi Vương Mãng cướp ngôi, Ngọc-tỷ truyền quốc bị thất lạc. Bây giờ Công-chúa thấy Ngọc-tỷ ở trong tay Trưng Trắc. Công-chúa thuyết Trưng Trắc rằng Ngọc-tỷ đó của Trung-nguyên. Lĩnh-Nam giữ làm gì? Giữa Lĩnh-Nam với Thục có tình kết nghĩa. Vậy sao không đem Ngọc-tỷ đổi lấy đám phản tặc Thục? Bọn Trưng Trắc tự cao mình người nghĩa hiệp. Chúng nghe lời Công-chúa. Công-chúa xin đứng trung gian lo việc này. 

Tường-Qui gật đầu: 

– Trung-nguyên lấy Ngọc-tỷ truyền quốc làm bảo vật tượng trưng uy quyền Thiên-tử. Nếu Bệ hạ lấy lại được Ngọc-tỷ thực đại phúc vậy. Không biết Bệ hạ định thưởng gì cho Công-chúa Vĩnh-Hòa? 

Quang-Vũ cười: 

– Công-chúa vốn đức độ. Người chẳng thích một thứ gì cả. Mấy hôm trước đây, trẫm truyền đem bảy mươi hai tên phản tặc Thục cùng vợ con chúng đến Kinh-châu, giao cho Công-chúa. Công-chúa sẽ đem Ngọc-tỷ về cho trẫm. Hừ! Công-chúa thực được việc. Từ khi nhà Đại-Hán lập ra đến giờ, mới có một vị Công-chúa gánh vác việc xã tắc như thế. 

Chu Tường-Qui lo lắng: 

– Không biết có ai hộ tống Ngọc-tỷ với Công-chúa không? Sợ bọn Mã Viện đón đường cướp thì sao? 

Quang-Vũ cười: 

– Trẫm đã liệu điều đó. Trẫm cử ông ngoại khanh thân hộ tống. Bên Lĩnh-Nam cũng cử Trần Năng đi theo. Với bản lĩnh hai người ấy, e trên thế gian này, không ai cướp nổi. Có lẽ nội đêm nay Ngọc-tỷ về đến đây. 

Chu Tường-Qui hỏi: 

– Thiếp nghe nói. Dường như trong hộp đựng Ngọc-tỷ còn cất dấu một bản đồ kho tàng lớn lắm thì phải. 

Quang-Vũ gật đầu: 

– Đúng thế. Để Ngọc-tỷ về đây, chúng ta sẽ lấy ra xem có đúng thế không? 

Quang-Vũ truyền bày yến. Y cùng Tường-Qui vừa ăn yến, vừa nghe hát. Ăn vừa xong, Thái-giám tâu: 

– Muôn tâu Bệ hạ. Có Tể-tướng xin yết kiến Bệ hạ khẩn cấp. 

Quang-Vũ gật đầu: 

– Mời Tể-tướng vào. 

Lát sau, Giao-đông hầu Giả Phục bước vào tung hô vạn tuế. Giả Phục tâu: 

– Thứ sử Giao-châu Lê Đạo-Sinh hộ tống Ngọc-tỷ đã về tới. Thần cho thiết triều, bá quan văn võ được chiêm ngưỡng Ngọc-tỷ. 

Quang-Vũ gật đầu đồng ý. Các quan thứ tự lên lầu. Lầu của Tây-cung lớn không thua điện Gia-đức. Các quan chia nhau đứng làm hai hàng văn, võ. 

Một lát, Thái-giám xướng: 

– Thử sử Giao-châu Lê Đạo-Sinh, và Y tiên Công-chúa Trần Năng, hộ tống Ngọc-tỷ truyền quốc đã về tới, đang đứng ngoài chờ chỉ dụ. 

Nguyên hồi Trần Năng cùng Khất đại phu đến Lạc-dương trị Huyền-âm độc chưởng cho Quang-Vũ, Mã Vũ, Chu Hựu... Bà dùng Lĩnh-nam chỉ điều trị. Mỗi chiêu phóng ra, thân pháp đẹp vô cùng. Quang-Vũ buột miệng khen Đúng là tay tiên. Không ngờ đất Lĩnh-Nam có một Y tiên, võ công cao như thế. Từ ngày ấy, triều Hán gọi bà là Y tiên. 

Quang-Vũ truyền cho lên. 

Lê Đạo-Sinh đi trước. Phía sau Trần Năng. Bà ôm một cái hộp bọc ngoài bằng chiếc khăn gấm. Lê Đạo-Sinh, Trần Năng cùng quì xuống. Lê Đạo-Sinh hô : 

– Thần Lê Đạo-Sinh, và Trần Năng bảo giá Ngọc-tỷ về dâng Thánh hoàng. 

Quang-Vũ cầm lấy hộp Ngọc-tỷ, phán: 

– Cho các khanh bình thân. 

Y cầm hộp mở ra: Ngọc-tỷ bằng ngọc xanh biếc. Một góc bị bể, đã được nạm vàng lại. Thái-giám dâng hộp đựng son. Quang-Vũ ấn Ngọc-tỷ vào hộp son, in thử xuống tập giấy. Trên tập giấy hiện ra chữ: 

Thụ Mệnh Vu Thiên, 

Thọ Ký Vĩnh Xương. 

Quang-Vũ truyền cho quần thần đều được xem qua. Y nói với Trần Năng: 

– Y tiên Công-chúa. Trước đây Công-chúa xuất mã giúp trẫm, trước chiếm Xuyên-khẩu, sau đánh Bạch-đếá. Y tiên là một trong các tướng đánh tới Bạch-đếâ. Lại nữa trong trận đồi Nghi-dương. Y tiên ra tay đánh bại bọn Văn Thanh-Hoa, Tiêu Hồng-Hoa, giết chết bọn phản tặc Mao Đông-Các, Tạ Thanh-Minh, Trần Lữ... ngoài ra còn đến Lạc-dương trị bệnh cho trẫm và đại thần. Trẫm không bao giờ quên ơn. Nay Y tiên lại thân hộ tống Ngọc-tỷ đến đây, công ấy không nhỏ. 

Trần Năng cũng như Hồ Đề, tính tình vui nhộn, ngay thẳng như nam nhi. Trên đời bà chỉ nể có ba người: Trưng Trắc, Trưng Nhị và sư phụ. Đối với sư phụ. Bà ỷ mình nhỏ tuổi, như cháu nội, cháu ngoại của ngài, nên trêu cả sư phụ. Đối với Quang-Vũ, bà phục y ở điểm: Có chí lớn, có hùng tài như Trưng Trắc. Song bà không sợ hãi y. Bà đáp: 

– Đa tạ Bệ hạ quá khen tặng. Song phàm làm người hiệp nghĩa, ân oán phải phân minh. Đánh Xuyên-khẩu, Bạch-đếá, thần cũng như anh hùng Lĩnh-Nam, chỉ vì muốn lập công, xin phục hồi Lĩnh-Nam. Còn trận đánh Nghi-dương, thần xuất thân thầy thuốc, muốn trừ bọn Mao Đông-Các như trừ mấy con trùng hại người, chứ không phải vì Bệ hạ. Duy có việc đến Lạc-dương trị Huyền-âm độc hưởng cho Bệ hạ với các đại thần thì đúng. Song y đạo Lĩnh-Nam dạy rằng: Dù kẻ thù, dù người nghèo khó bị bệnh hoạn, cũng phải cứu chữa. Còn hôm nay, thần hộ giá Ngọc-tỷ, do chỉ dụ của Hoàng-đế Lĩnh-Nam. 

Quang-Vũ than: 

– Lĩnh-Nam thực là đất linh, nảy sinh không biết bao nhiêu anh hùng. Khắp triều Hán, trẫm không có lấy một anh hùng hào sảng, lỗi lạc như Y tiên. Y tiên sang đây, để trẫm nhờ Tây-cung Quí-phi thù tiếp dùm. 

Quang-Vũ sai cung nga dẫn Trần Năng vào Tây-cung cùng Chu Tường-Qui đàm đạo. Y đâu ngờ, phía trong, Chu Tái-Kênh, Đào vương-phi, Tường-Qui đang lắng nghe mọi diễn biến triều Hán. 

Quang-Vũ nói với Lê Đạo-Sinh: 

– Thứ sử Giao-châu thực tài giỏi. Có công lớn. Trước đã giúp trẫm đánh Thục. Nay lại bảo giá Ngọc-tỷ về đây. Trẫm phong cho khanh tước Lĩnh-nam công, ăn lộc sáu quận vùng Lĩnh-Nam. Từ nay mỗi năm khanh chỉ phải về triều chầu một lần mà thôi. 

Lê Đạo-Sinh quì xuống tạ ơn. 

Quang-Vũ phán: 

– Lê quốc-công hãy gấp đi Ích-châu, gặp Ngô Hán. Y sẽ giúp Quốc-công quân mã, đánh Lĩnh-Nam, dành lại đất của bọn phỉ đồ Trưng Trắc. Thôi Quốc-công lui. 

Trong màn, Trần Năng nhìn Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Chu Tường-Qui. Bà thở dài: 

– Trưng hoàng-đế đã chỉ dụ: Người Hán ảnh hưởng bởi sách vở từ thời Xuân Thu, Chiến Quốc, tự cho mình ở trung tâm thiên hạ. Dân tứ phương phải qui phục. Họ không muốn bất cứ dân tộc nào đứng ngoài uy quyền họ. Muốn họ nể phục, chỉ có cách tạo cho mình sức mạnh, khiến cho chồn tay mà thôi. Cứ xét như Quang-Vũ, dù y có chết đi, sẽ có muôn ngàn Quang-Vũ khác. Y hứa với chúng ta tại điện Vị-ương rồi nuốt lời. Trên đồi Nghi-dương. Y ban đại cáo thiên hạ. Sau đó lại dùng Lê Đạo-Sinh cùng Tô Định chống Lĩnh-Nam. Tô, Lê bại. Mới đây sau trận hồ Động-đình, Hán mất ba mươi vạn quân, mà y cũng không sờn. Bây giờ Lĩnh-Nam trao Ngọc-tỷ cho y, lại thả tù binh, thế mà y vẫn chỉ dụ Lê Đạo-Sinh vào Thục với Ngô Hán, để đánh về Lĩnh-Nam. Vì vậy, chúng ta có khuất phục, kết bạn với tất cả triều thần nhà Hán cũng vô ích. Sư nương, cùng Chu Tường-Qui chẳng cần kết thân với quần thần Hán chi cho mệt. Chúng ta thu lượm tin tức cũng đủ rồi. 

Nhắc lại những hồi trước để độc giả khỏi moi trí nhớ : 

Trước đây ngày đêm Lê Đạo-Sinh mơ màng chức Thái thú Giao-chỉ. Ước mơ cao sang, quyền quí, đã làm y mờ mắt. Y bỏ địa vị đạo đức, bỏ danh hiệu Lục-trúc tiên sinh võ lâm Lĩnh-Nam tặng cho y. Y lao đầu vào khống chế các phái võ. Đến độ bắt giam cả hai người sư điệt, lúc nào cũng kính cẩn, cúi đầu tuân phục y là Nguyễn Thành-Công, Đặng Thi-Kế. Y dùng tiền bạc mua chuộc, đe dọa bọn Lê Nghĩa-Nam, Hoàng Đức-Tiết, Mai Huyền-Sương, hầu khống chế phái Long-biên. Được Trần Tự-Sơn ủy nhiệm tổ chức đại hội hồ Tây, mục đích tuyển cao nhân sang Trung-nguyên cầu phong, xin hủy bỏ Ngũ pháp. Y định biến đại hội thành dịp giết anh hùng Lĩnh-Nam. Mưu kế của y bị Đào Kỳ, Trần Tự-Sơn phá vỡ. Y bỏ sang Trung-nguyên, nhập Thục định phế trưởng, lập thứ, kiếm chức Thái thú, cũng thất bại. Y đến Lạc-dương theo Mã thái-hậu, được phong chức tước giả. Khi biết rõ như vậy, y phản Mã thái-hậu, theo Hàn Tú-Anh. Y được Quang-Vũ phong chức Thứ sử Giao-châu. Trong khi khắp vùng Lĩnh-Nam không còn trong tay người Hán. Y cùng đệ tử trở về giúp Tô Định chống Lĩnh-Nam bị thất bại. Y suýt mất mạng. Giữa lúc đó Tăng-Giả Nan-Đà xuất hiện. Y vờ sám hối theo ngài. Được ngài truyền Thiền công. Y bỏ ngài, trở về Hán. Quang-Vũ sai y nhập Thục, xúi Công-tôn Thi giết cha, giết sư thúc, làm Thục tan nát. Thục, Kinh-châu thuộc về Hán. Quang-Vũ không phong cho y trấn thủ Ích-châu hay Kinh-châu, mà lại phong cho y làm Lĩnh-nam công, như ông vua Lĩnh-Nam, với chỉ dụ y tìm Ngô Hán. Ngô sẽ cho mượn quân về đánh Lĩnh-Nam. Quang-Vũ quả thực có bản lĩnh. Y chỉ mất một tờ giấy, mà gây cho Lĩnh-Nam rối loạn. Lê Đạo-Sinh không biết lẽ đó. Y nghĩ: Trước đây Nghiêm-Sơn võ công kém y. Thân cô, thế cô, thế mà một người, một ngựa, kinh lược được Lĩnh-Nam. Huống hồ y có võ công vô địch thiên hạ, bên cạnh thêm năm đệ tử bản lĩnh nghiêng trời... y cho rằng đoạt lại Lĩnh-Nam không khó. Song y quên một điều, Nghiêm-Sơn được Lĩnh-Nam, vì các Thái-thú đều là người Hán, lúc nào cũng sẵn sàng qui phục Quang-Vũ. Còn đây Lĩnh-Nam đang độc lập. Từ Lạc công tới dân chúng, một lòng chống Hán. 

Sau bức màn, ở trong trướng, Chu Tái-Kênh, Đào vương-phi Chu Tường-Qui nhìn nhau ngán ngẩm. Chu Tường-Qui nước mắt đầm đìa. Nàng nghĩ lại mà thương cho mẹ. Thủa bé, nàng kính trọng ông ngoại biết bao nhiêu. Bây giờ, ông ngoại nàng như thế... hỏi nàng không đau đớn sao được. 

Đào vương-phi hiểu được tâm trạng của Chu Tường-Qui. Bà an ủi: 

– Lục-trúc tiên sinh suốt đời theo đuổi công danh. Thành ra, những ai làm ngược với tiên sinh. Tiên sinh đều coi họ như kẻ thù, như đạo tặc. Chúng ta chịu vậy. Chúng ta có khuyên tiên sinh, cũng bị tiên sinh coi là kẻ thù. 

Bên ngoài Tể-tướng Giả Phục cầm Ngọc-tỷ trao cho các đại thần coi. 

Thình lình binh một tiếng. Hai người từ cửa sổ nhảy vào. Một người mặc quần áo xám phóng chưởng tấn công Quang-Vũ. Mã Vũ quát lên một tiếng đỡ chưởng, cứu chúa. Trong khi đó một người mặc áo xanh, chĩa hai ngón tay vào mặt Tể-tướng Giả Phục. Giả Phục không viết võ. Ông lui lại. Người đó cướp chiếc hộp đựng Ngọc-tỷ cho vào túi. Y vung tay đỡ chưởng của Chu Hựu đánh vào lưng. Bùng một tiếng. Chu Hựu lui lại ba bước. 

Quần thần náo loạn lên. Các văn quan vội lui vào một góc. 

Theo luật lệ nhà Hán, Hoàng-hậu, Quí-phi không được để quần thần thấy mặt, ngoại trừ trường hợp đặc biệt, gọi là Thất miễn tức bảy điều miễn:1. Khi thấy Hoàng-đế thiết triều. 2. Khi đau yếu, phải triệu Thái y vào chữa. 3.Khi phải xuất bôn. 4. Khi phải chống giặc. 5. Khi ở trong căn nhà bị cháy. 6. Khi thuyền bị chìm. 7. Khi phải lễ ở Thái-miếu. Bây giờ giữa lúc quần thần chầu Hoàng-đế. Võ quan chỉ có hai người, gặp thích khách vào tập kích. Chu Tường-Qui lạng người ra đứng trước Quang-Vũ, vận khí vào đơn điền, sẵn sàng ra tay đối phó với thích khách. 

Nội giám thống lĩnh cấm quân An Đức-Huy dẫn Thị vệ bao vây Tây-cung như thành đồng vách sắt. Đám Thị vệ riêng của Chu Tường-Qui bao vây phía ngoài hành lang. 

Đào vương-phi đứng trong rèm nhìn ra. Bà thấy lưng Mã Vũ quen quen, song nhất thời không tìm ra đã gặp y ở đâu. 

Cách đây mấy năm, hồi Đào Thế-Kiệt, Đặng Thi-Sách đi Trung-nguyên. Hai người đã gặp Mã Vũ trong trận đánh đồi Nghi-dương. Với con mắt tinh đời, kinh nghiệm của hai người. Đào Thế-Kiệt tìm thấy ở Mã Vũ như ẩn hiện một điều gì bí mật vô cùng. Ông cùng Đặng Thi-Sách chỉ nhìn con mắt, cũng đoán được Mã Vũ có cảm tình với Lĩnh-Nam. Đào Thế-Kiệt được Trưng Nhị thuật cho biết võ công Mã Vũ rất kỳ lạ. Thông minh như Phương-Dung, Trưng Nhị mà không tìm ra được nguồn gốc. Tuy cùng chiến đấu ở đạo Kinh-châu với nhau, mà không bao giờ Mã Vũ hiển lộ võ công trước hai người, nên hai người không biết võ công y cao đến đâu. 

Phương-Dung nhận thấy, hồi Đào Kỳ, Khất đại phu, Đô Dương với nàng đại náo điện Vị-ương, Trường-an, Mã Vũ chỉ đánh cầm chừng, bằng chiêu thức rời rạc, không chuyên dùng một thứ võ công nào khác. Đào Thế-Kiệt đã kết luận: Thân thế Mã Vũ có điều gì rất bí mật, cho nên y tránh không xử dụng võ công trước mặt anh hùng Lĩnh-Nam. Y là người có cảm tình với Lĩnh-Nam giống như Hoài-nam vương. 

Đào vương-phi dặn Trần Năng: 

– Mã Vũ muốn che dấu võ công trước anh hùng Lĩnh-Nam chỉ có hai điều xảy ra: Một là y muốn giữ kín môn hộ, để sau này hại Lĩnh-Nam. Điều này không phải. Vì Mã Vũ cảm tình với Lĩnh-Nam. Hai là Mã dấu môn hộ, vì võ công của Mã, có liên quan đến Lĩnh-Nam. Điều này có thể xảy ra. Vậy ta nhất định không xuất hiện, để biết võ công của Mã. 

Từ lúc Chu Tái-Kênh thấy Mã Vũ, trong người bà nảy sinh ra một tình cảm khó hiểu: Thương cảm cũng không phải. Buồn rầu cũng không phải. Bà thấy ở Mã có cái gì rất quen thuộc, rất thân ái với bà. Mà bà tìm không ra. 

Đào vương-phi kể hết những gì liên quan đến Mã Vũ cho Chu Tái-Kênh nghe. Ngược lại Chu Tái-Kênh cũng diễn tả tình cảm trong bà cho Đào vương-phi nghe. 

Thích khách mặc áo xanh, quát lên một tiếng, đánh ra ba chưởng rất thô kệch. Các võ quan có mặt đều la hoảng lên. Vì đó là Chu-sa chưởng. Chu Hựu nghiến răng đỡ. Binh một tiếng, y lui lại hai bước. Thích khách áo xanh hú lên, cùng thích khách áo xám vọt khỏi lầu, đáp xuống dưới. 

Quang-Vũ hô lớn: 

– Phải bắt lấy chúng. 

Thị vệ vây hai người kín như thành đồng vách sắt. Mỗi lần hai người vung chưởng lên có hai, ba tên thị vệ bị đánh ngã. An Đức-Huy đứng trên hòn giả sơn, cầm kiếm chỉ huy thị vệ bao vây thích khách. Hai thích khách vẫn bình tĩnh, tả xung hữu đột. 

Đèn đuốc thắp lên sáng rực như ban ngày. Quang-Vũ cùng Tây-cung Quí-phi Chu Tường-Qui đã xuống dưới lầu. Đào vương-phi, Chu Tái-Kênh trong bộ quần áo cung nữ, theo sát phía sau Chu Tường-Qui. Cạnh đó, Cu Bò Lương Tùng đứng bên Trần Năng lược trận. 

Bỗng từ xa, hai con ngựa phi tới. Một đôi thiếu niên nam nữ, tuổi khoảng mười lăm, mười sáu nhảy xuống ngựa. Lưng hai người đều đeo bảo kiếm. Cả hai người đến trước Quang-Vũ, Chu Tường-Qui hành lễ. Nam nói: 

– Chúng con nghe thích khách phạm giá phụ hoàng với sư mẫu. Chúng con tới hộ giá. 

Cu Bò đứng cạnh nghe vậy, nó biết đây là Hoàng-tử Trang với Công-chúa Đoan-Nhu. Hai người đứng cạnh Quang-Vũ, Tường-Qui, tay cầm chắc dốc kiếm, tỏ ra cương quyết bảo vệ. Cu Bò nghĩ thầm: 

– Thực là hai người con có hiếu. Hai đứa này tuy con vua mặc lòng. Song ta là sư đệ của chị Hoàng-đế Lĩnh-Nam. Ta có thể chơi ngang vai với bọn chúng. Dẫu gì chúng cũng là đệ tử của Chị Chu Tường-Qui. Đúng ra, ta là vai sư thúc của chúng. 

Công-chúa Đoan-Nhu thấy cạnh mình còn một thiếu niên khỏe mạnh, mắt tinh anh, lưng đeo bảo kiếm. Tuy nàng không biết là ai, nhưng cũng thấy vui vui, vì có người ngang tuổi mình. 

Quang-Vũ vẫy tay gọi Mã Vũ, Chu Hựu: 

– Các người hãy mau ra sức bắt thích khách cho ta. 

Mã Vũ nhảy vào tấn công thích khách áo xám. Chu Hựu tấn công thích khách áo xanh. Hai bên thi diễn cuộc đấu được hơn năm mươi hiệp, thích khách áo xanh lại phát Chu sa chưởng. Mỗi chưởng của y phát ra, đều có hơi nóng, khiến Chu Hựu cứ phải lùi dần. 

Đào vương-phi nói nhỏ với Chu Tái-Kênh: 

– Bản lĩnh tên thích khách áo xanh này có lẽ cao hơn Lê Đạo-Sinh một bậc. Chưởng lực y ngang với Chu Long, tên đứng đầu Liêu-đông tứ ma chứ không ít. Chu Hựu thua đến nơi rồi. 

Quả nhiên, Chu Hựu đỡ được đến chưởng thứ mười, y thở hồng hộc. An Đức-Huy đứng ngoài nhảy vào, giúp Chu Hựu. Thích khách áo xanh tỏ ra coi thường mọi sự. Y phải đấu với hai đại cao thủ, mà vẫn bình tĩnh. 

Thình lình thích khách áo xanh đổi hẳn cách đánh. Chưởng của y một bên phát ra hơi nóng, một bên phát ra hơi lạnh. Chỉ ba chưởng, đánh An Đức-Huy bay ra xa, y dồn hai chưởng, đánh Chu Hựu. Bình một một tiếng. Chu Hựu bay vọt về sau. Chu oẹ một tiếng, miệng phun máu tươi. 

Thích khách áo xanh vọt người về phía Quang-Vũ. Y tấn công một chưởng mạnh đến long trời lở đất. Quang-Vũ cùng quần thần thét lên kinh hoàng. Chu Tường-Qui đứng cạnh, nàng hít hơi, phát chiêu Ác ngưu nan độ trong Phục ngưu thần chưởng đỡ. Một tay nàng cắp Quang-Vũ vào nách, nhảy lùi lại, để hóa giải kình lực của thích khách. 

Thích khách áo xanh, đánh một chưởng, tưởng kết liễu tính mệnh Quang-Vũ. Y tuyệt không ngờ một thiếu phụ, trong quần áo phi tần, lại đỡ được chưởng của y. Y nhìn lại, bật lên tiếng kêu, vì Tường-Qui đẹp như một thiên tiên. 

Trong khi đó, cuộc giao chiến giữa Mã Vũ với thích khách áo xám đã biến đổi. Mã Vũ bị thích khách dồn đến chân hòn giả sơn. Thình lình y phát một chiêu chưởng mạnh đến long trời lở đất, định kết liễu tính mệnh Mã Vũ. Ai cũng tưởng Mã sẽ bỏ mạng. Không ngờ Mã quát lên, phát một chưởng hùng mạnh vô cùng, đỡ vào giữa chưởng của thích khách áo xám. Binh một tiếng. Thích khách áo xám bật lùi lại đến bốn bước. Người lảo đảo. 

Chu Tái-Kênh, Đào vương-phi, thích khách cùng bật lên tiếng kêu: 

– Úi cha! 

Tiếng úi cha của thích khách, vì chưởng Mã Vũ khắc chế với chưởng của y. Tiếng úi cha của Chu Tái-Kênh với Đào vương-phi vì, Mã Vũ xử dụng chưởng pháp Cửu-chân, đó là chiêu Loa thành nguyệt chiếu. 

Đào vương-phi, Chu Tái-Kênh, mặt nhìn mặt ngẩn ngơ. Chu Tái-Kênh đã đoán ra nguồn gốc Mã Vũ. Còn Đào vương-phi nhận cũng ra Mã Vũ. 

Thích khách áo xám cười nhạt: 

– Không ngờ Bô lỗ đại tướng quân Mã Vũ lại là người Lĩnh-Nam. Người chẳng xử dụng võ công của phải Cửu-chân đó ư? 

Mã Vũ cười nhạt: 

– Ta tuân chỉ đi sứ Lĩnh-Nam. Do vậy ta học được một số tinh hoa võ học Cửu-chân, cũng chẳng có gì lạ. 

Lời nói chỉ qua mặt được Quang-Vũ. Chứ còn đối với Đào vương-phi, bà biết: Chưởng của Mã Vũ tinh diệu, đến Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại với bà cũng còn thua xa, đâu phải của người mới học? 

Hình ảnh cũ hiện về với Đào vương-phi: 

Ngày nọ Mã Vũ đột nhập bản doanh của Công-chúa Bát-Nạn Vũ-trinh-Thục, báo cho bà biết nhiều tin tức của Hán. Sau Mã Vũ, lại xuất hiện ở cổng Bắc thành Luy-lâu, giết bọn tướng Hán, đánh lui Lê Đạo-Sinh, giữa lúc bọn chúng vừa ám sát Đặng Thi-Sách. Cũng chính Mã Vũ xuất hiện tại thành Phiên-ngung hiến kế cho Trưng-đế, cùng đấu võ ngang tay với Đào Kỳ. Rồi trong trận hồ Động-đình, Mã Vũ xuất hiện bắt sống Chu Long. Hôm ấy ông cho Phật-Nguyệt nhìn mặt ông. Phật-Nguyệt kinh ngạc đến ngẩn người ra. Song bà giữ đúng lời hứa, không nói với ai, ngay cả Đào vương-phi. 

Hôm nay Mã Vũ ra chiêu Loa thành nguyệt chiếu. Mối thắc mắc của Đào vương-phi đã được giải. Bà gật đầu: 

– Thì ra trong phái Cửu-chân có một cao nhân, ẩn thân làm quan với người Hán, mưu phục hồi Lĩnh-Nam như Trần Tự-Sơn, dưới tên Mã Vũ. Song ông kín đáo hơn Trần Tự-Sơn, cho đến hôm nay, không ai biết rõ thân thế ông. Song ông là ai? 

Còn Chu Tái-Kênh, nhìn Mã Vũ, nước mắt bà chảy ròng ròng. Quá khứ bốn mươi năm cũ trở về : Bà cùng người anh ruột tên Chu Kim-Hựu, phất cờ khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa bị Thái thú Tích Quang dẹp tan. Trong trận đánh cuối cùng, bà mải ôm cháu là Chu Bá, bảo vệ chị dâu chạy. Bà bị thương, mê man không biết gì. Sau khi được Khất đại phu cứu thoát, chữa tỉnh. Bà dò hỏi tin tức, biết anh mình bị giết, đầu đem về Luy-lâu bêu làm hiệu lệnh. Còn việc Chu Bá không chết, được người nhũ mẫu ôm đến Thái-hà trang ẩn thân nuôi dưỡng, được Lê Đạo-Sinh dạy cho bản lĩnh vô địch. Bà cũng không biết gì. Sau khi tìm được Chu Bá, trong lần đến Mê-linh, bà mừng vô kể. Bà cứ tưởng anh mình chết rồi. Có ngờ đâu, ông thoát khỏi vòng vây. Sợ bị truy lùng. Ông bỏ sang Trung-nguyên, đầu quân với Nghiêm Sơn. Dần dần trở thành Bô lỗ đại tướng, tước phong Dương-hư hầu. 

Khi thấy Lĩnh-Nam phục hồi, ông xin Quang-Vũ cho đi sứ, sang Giao-chỉ. Giữa lúc ấy Lê Đạo-Sinh, Tô Định bày kế giết Thi-Sách. Ông xuất hiện, đánh bại Lê. Trong chiến cuộc Kinh-châu, hồ Động-đình, ông xin Quang-Vũ cho ông bí mật thanh sát mặt trận. Vì vậy ông mới có dịp xuất hiện, nói rõ chủ tâm Quang-Vũ với Trưng-đế. Nhân tiện, ông muốn thử võ công của hậu bối Đào Kỳ... Sau ông xuất hiện ở hồ Động-đình, bắt Chu Long. 

Chu Tái-Kênh nói nhỏ vào tai Đào vương-phi: 

– Có một điều, ta dấu em từ lâu. Anh ta tên thực là Chu Kim-Hựu, cùng với Trần Kim-Hồ là hai đại cao thủ phải Cửu-chân. Khi hai người khởi nghĩa bị thất bại, Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại với em hãy còn nhỏ. Trong môn phái cũng cấm không được nhắc đến truyện này, vì bấy giờ Nhâm Diên truy lùng hai ông rất gắt. 

Đào vương-phi gật đầu: 

– Sư tỷ nói, em mới dám thố lộ. Hồi chồng em còn sống, đã có lần đề cập đến hai đại sư huynh. Hai người bỏ Cửu-chân ra Giao-chỉ khởi nghĩa, bị thất bại, tuẫn quốc. Vì vậy cho nên hôm trước đây, người xuất hiện đấu với Lê Đạo-Sinh em đã nghi... Không ngờ người vẫn còn sống trên thế gian này. Có điều em không hiểu, sao Chu đại sư huynh thuộc phái Cửu-chân, mà sư-tỷ lại thuộc phái Long-biên? 

Chu Tái-Kênh nói: 

– Có gì không hiểu. Song thân chúng ta bị người Hán giết chết. Ta được sư phụ nhận làm đệ tử. Ta là sư muội của Nguyễn Phan. Còn anh ta trốn vào Cửu-chân được thu nhận vào phái này. 

Giữa lúc đó, thích khách áo xanh, đã đấu với Chu Tường-Qui đến chiêu thứ tư. Nàng không đỡ nổi chưởng của y nữa. 

Hoàng-tử Trang, Công-chúa Đoan-Nhu thấy phụ hoàng và sư mẫu bị uy hiếp. Hai người rút kiếm nhảy vào đâm thích khách. Thích khách quơ tay, bắt kiếm hai người, thuận thể búng một cái. Hai thanh kiếm gãy đôi. Y phóng một chưởng vào Công-chúa Đoan-Nhu. Mọi người kêu thét lên. Nếu chưởng đó đánh xuống, ắt Công-chúa nát thây chết tại chỗ. 

Cu Bò kinh hoàng. Nó quát lên một tiếng tay ôm lấy Công-chúa Đoan-Nhu, lăn tròn hai vòng. Chưởng của thích khách đánh hụt, trúng xuống đất sâu năm tấc. Y quát lên một tiếng, phóng chưởng thứ nhì nhanh như chớp, định kết liễu tính mệnh Cu Bò, Đoan-Nhu, thì choac, choac... Sáu Thần-ưng đậu trên nóc điện, thấy chúa tướng lâm nguy, đồng lao xuống tấn công thích khách áo xanh. Thích khách áo xanh vội thu chưởng về chống với Thần-ưng. 

Thình lình Chu Tái-Kênh hú lên một hồi dài liên miên bất tuyệt. Tiếng hú làm mọi người điếc tai. Bà nhảy véo đến tấn công thích khách áo xanh. Chưởng của bà là Phục ngưu thần chưởng. Binh, binh, binh, bà đánh ba chưởng, đẩy lui thích khách áo xanh. 

Quang-Vũ cùng quần thần kinh ngạc đến ngẩn người ra. Quang-Vũ đã được Chu Tường-Qui tâu rằng Chu Tái-Kênh là bà cô của nàng, từ Lĩnh-Nam đến Lạc-dương dậy võ cho nàng. Y không ngờ chưởng lực của bà mạnh đến kinh người. Chu Hựu tự cho rằng bản lĩnh của y chỉ thua có Sầm Bành, Phùng Dị. Nay hai người đó chết rồi, y thành anh hùng vô địch. Hôm nay cả y lẫn An Đức-Huy, đều bị thích khách đánh cho đến trọng thương. Rồi giữa lúc nguy cơ, một cung nữ già của Tây-cung xuất thủ, chưởng lực mạnh kinh người. Chu Hựu đã từng đấu với Lê Đạo-Sinh. Y thấy Chu Tái-Kênh xử dụng. Phục ngưu thần chưởng, công lực mạnh hơn Lê Đạo-Sinh nhiều. Y kinh ngạc đến đờ người ra. 

Chu Tái-Kênh với thích khách áo xám đều xử dụng chưởng pháp dương cương. Mỗi khi chưởng chạm nhau, phát ra tiếng kêu lớn. Áp lực của chưởng phong, khiến đám thị vệ bị đẩy ra xa. Quang-Vũ được Chu Tường-Qui bảo vệ đứng lui lại, giữa đám thị vệ gươm đao tuốt trần. 

Cu Bò ôm Công-chúa Đoan-Nhu nhảy ra xa. Hai người trông thực thảm thiết. Công-chúa vừa thoát khỏi nguy hiểm, đã quan tâm đến phụ hoàng và sư mẫu. Nàng sợ quá, miệng lắp bắp: 

– Phụ hoàng! Sư mẫu! 

Chu Tường-Qui an ủi nàng: 

 – Phụ hoàng với sư mẫu bình an. Con có sao không? Con mau đa tạ sư huynh Lương Tùng đi. 

Công-chúa Đoan-Nhu hướng Cu Bò gật đầu nói mấy câu cảm tạ. Nàng thấy Cu Bò to lớn, ngang tuổi với mình. Mà vừa rồi nó ôm nàng lăn đi mấy vòng. Tự nhiên trong lòng nàng thấy có một cảm giác kỳ lạ. 

Mã Vũ đấu với thích khách áo xám, thắng thế rõ ràng. Bỗng ông quát lên một tiếng, râu tóc dựng đứng, phát chiêu Hải triều lãng lãng lớp thứ nhất. Binh một tiếng. Cả hai người cùng lui lại. Ông phát lớp thứ ba. Thích khách biết không chống được. Y nhảy vọt lên cao, tay cầm hộp Ngọc-tỷ đưa ra đỡ chưởng Mã Vũ. Mã Vũ sợ vỡ Ngọc-tỷ. Ông hướng chưởng vào hòn núi non bộ. Binh một tiếng, hòn núi to như vậy, vỡ tan tành. Nước bắn tung toé. 

Thích khách áo xám cười gằn: 

– Hãy ngừng tay. Nếu không, ta bóp vỡ Ngọc-tỷ tức khắc. 

Mã Vũ quát hỏi: 

– Cứ như thân pháp của ngươi, trong thế gian, hiếm ai thắng nổi. Tại sao ngươi lại phải bịt mặt? Võ công ngươi đến dường này... dù ngươi có dấu tên, che mặt, song tìm đâu có khó. 

Trong khi bên cạnh, Chu Tái-Kênh vận khí một tay cương, một tay nhu phát Phục ngưu thần chưởng đấu với thích khách áo xanh. Sau mười chiêu, thích khách áo xanh thở hồng hộc. Y ngẫm ra, thấy chiêu Dương cương, y có thể thắng nổi. Còn chiêu Âm nhu, thì gia số, nội lực đều khắc chế với y. Cứ mỗi khi hai chiêu đụng nhau. Công lực y yếu dần. Y lui lại hỏi: 

– Lão bà! Ta chịu thua ngươi. Ngươi có thể cho ta biết tên được không? Trọn đời, ta chưa từng thấy ai có võ công kỳ lạ như của lão bà. 

Chu Tái-Kênh tự hào là cao nhân đương thời. Trưng hoàng-đế đối với bà cũng phải bằng một thái độ đặc biệt. Bà muốn tỏ cho y biết võ đạo của mình. Bà vỗ hai tay vào nhau, nói: 

– Ngươi xử dụng hai chưởng pháp khác nhau, một bên Chu sa chưởng của Trung-nguyên. Một bên Hàn băng chưởng của Cao-ly. Trên đời này, ta e rằng không quá ba người thắng được ngươi. Trong ba người đó, ta là một. 

Thích khách áo xanh giọng buồn thảm: 

– Những ba người sao? Còn hai người nữa là ai? 

Chu Tái-Kênh đáp: 

– Người thứ nhất chính thị trượng phu ta. Họ Trần tên Đại-Sinh. 

Khất đại phu Trần-đại-Sinh danh vang thiên hạ. Cả triều Hán đều không ít thì nhiều được ông chữa trị cho. Nay nghe Chu Tái-Kênh bảo ông là chồng của bà, thì họ không ngạc nhiên, khi thấy võ công bà cao. 

Mã Vũ nghe Chu Tái-Kênh nói. Mặt ông nhăn lại, mắt mở lớn nhìn bà. Chu Tái-Kênh tiếp: 

– Người thứ ba chính là Bắc-bình vương, lĩnh chức Đại tư mã Lĩnh-Nam. Họ Đào tên Kỳ. 

Thích khách áo xanh nghe bà nói, thở dài: 

– Ta thua ngươi, không phải võ công ta kém. Mà vì tổ tiên ta thua tổ tiên ngươi. Võ công của ngươi khắc chế võ công của ta. Thôi, ta thua ngươi rồi. Ngươi muốn giết, muốn băm vằm ta thế nào cũng được. Ta không oán than gì cả. 

Trong khi đó thích khách áo xám đưa Ngọc-tỷ ra nói với Quang-Vũ: 

– Bệ hạ hãy ra lệnh mở vòng vây cho chúng tôi rời khỏi đây. Tôi sẽ trả Ngọc-tỷ cho Bệ hạ. Bằng không, chúng tôi chết, Ngọc-tỷ cũng không còn nữa. 

Quang-Vũ nói với Mã Vũ, Chu Tái-Kênh: 

– Các ngươi hãy tha cho chúng đi, đưa chúng ra khỏi Hoàng-thành, rồi lấy lại Ngọc-tỷ cho trẫm. 

Hai thích khách đưa mắt lườm lườm nhìn Quang-Vũ, rồi cất bước. Thình lình mấy sợi dây từ trên trời rơi xuống đầu hai thích khách. Hai người đưa tay lên gạt. Thì hai sợi dây đã cuộn lấy người, và hai tay. Rồi ba, bốn, năm, sáu sợi nữa. Hai người kinh hoàng, vì các sợi dây tanh hôi đến không thể tưởng tượng được, đó là những con trăn. Hai người vội hít hơi, vận hết sức, giật ra. Thì một bóng nhỏ bé, xẹt ngang, bàn tay cầm Ngọc-tỷ của thích khách áo xám bị đau nhói. Y phải buông Ngọc-tỷ ra. Bóng nhỏ đó cướp lấy, nhảy vọt lại, ẩn sau lưng Đào vương-phi. Bóng đó là Cu Bò Lương Tùng. 

Thích khách áo xám biết mất Ngọc-tỷ, tính mệnh khó an toàn. Y giật tay thực mạnh. Ba con trăn cuốn y bật tung ra. Y phóng đến chụp Cu Bò. Đào vương-phi phát chiêu Thiết kình phi chưởng tấn công y. Bình một tiếng. Cả hai người đều lui lại. 

Đào vương-phi cảm thấy khí huyết nhộn nhạo. Song bà cũng kinh ngạc, vì công lực mình tiến mau đến trình độ đó. Ngay hồi Đào Thế-Kiệt còn sống, chưa chắc đã đấu ngang tay với tên thích khách áo xám. Thế mà không ngờ, bà với y đấu một chưởng ngang tay. 

Thích khách áo xám nói với Quang-Vũ: 

– Bệ hạ là chúa tể thế gian. Một lời hứa cho chúng tôi ra đi, sao còn sai người ám toán? 

Cu Bò chửi: 

– Ám toán cái gì? Ta đường đường chính chính đánh mi. Mi bị thua rõ ràng. Sao gọi là ám toán. Mi thực vô liêm sĩ. 

Nó nói tiếng Hán vùng Trường-sa, hơi khác với vùng Lạc-dương. Giọng rất khó nghe. 

Thích khách thấy người tung trăn tấn công mình, đoạt Ngọc-tỷ chỉ là một thiếu niên. Y muốn ăn tươi nuốt sống Cu Bò. Song Cu Bò đứng phía sau Đào vương-phi. Nó méo miệng, thè lưỡi ngạo thích khách. 

Quang-Vũ thấy đoạt lại được Ngọc-tỷ, y mừng lắm, nói với Mã Vũ: 

– Dương-hư hầu! Ngươi để cho chúng đi. 

Hai thích khách hú lên một tiếng, biến mình vào đêm tối. Quang-Vũ truyền quần thần giải tán. Y quay lại hỏi Chu Tường-Qui: 

– Quí-phi mộ ở đâu được những phụ nữ võ công vô địch thiên hạ như vậy? 

Chu Tường-Qui đáp: 

– Thiếp đã tâu với Bệ hạ. Vị lớn tuổi này họ Chu tên Tái-Kênh, Tổ-cô của thiếp. Người là phu nhân Khất đại phu. Còn vị này họ Đinh tên Xuân-Hoa, dưỡng mẫu của thiếp hồi nhỏ. 

Quang-Vũ vẫy tay gọi Cu Bò: 

– Giỏi lắm. Ngươi tên gì? Làm Thái-giám ở đây lâu chưa? Không có ngươi, e Ngọc-tỷ lại bị mất. 

Chu Tường-Qui nhắc Cu Bò: 

– Ngươi quì xuống ra mắt Hoàng-thượng đi. 

Cu Bò tuy đã ở trong Tây-cung lâu, được dậy lễ nghĩa. Song nó quên mất. Nghe Tường-Qui nhắc, nó đến trước mặt Quang-Vũ quì xuống: 

– Ông có phải là vua Trung-nguyên tên Quang-Vũ đó không? Sao ông tử tế quá vậy? Tôi không có họ, cũng chẳng có tên. Người ta quen gọi tôi là Cu Bò. Gần đây một vị họ Lương nhận tôi làm con nuôi, đặt tên tôi là Lương Tùng. 

Tường-Qui sợ lộ truyện. Nàng tâu với Quang-Vũ: 

– Nó không phải Thái-giám. Nó là đệ tử của nhũ mẫu thiếp. Nhân nhũ mẫu sang thăm thiếp. Thiếp cho nó vào cung chơi. Vì thích khách làm lộng. Nó ra tay cứu giá. Nó không biết nói tiếng Hán. Mong Bệ hạ đại xá. 

Đối với Lĩnh-Nam, Quang-Vũ là đại cừu nhân. Còn đối với Trung-nguyên y là một đại anh hùng. Dù Tường-Qui đã tấu như vậy. Y cũng biết Tường-Qui đưa người vào Tây-cung gây thế lực. Y tâm miệm: Tường-Qui gây thế lực chỉ để chống bọn ngoại thích giúp ta. Vậy ta phải trọng đãi chúng. Y nói với Cu Bò: 

– Cháu bé! Cháu đoạt lại được Ngọc-tỷ, lại cứu Công-chúa thoát chết. Công ấy của cháu không nhỏ. Cháu muốn gì, ta sẽ thưởng cho. 

Cu Bò ngẫm nghĩ một lúc, nhớ lại cách xưng hô đã học. Nó nói: 

– Nếu Bệ hạ thưởng cho thần, xin cho phép thần được tự do chạy chơi trong Hoàng-thành. Hoàng-thành đẹp thế này, mà thần bị cấm cản, đi đến đâu, cũng bị thị vệ, cung nga, thái giám đuổi đến đó. Vì vậy thần buồn quá. 

Quang-Vũ cười: 

– Được! Kể từ hôm nay, ta phong ngươi làm Vũ vệ hiệu úy, chỉ huy thị vệ ở Tây-cung. Sau này có công, ta sẽ phong thưởng nữa cho. 

Cu Bò bị giam trong Hoàng-thành mấy tháng nay. Nó khổ sở vô cùng. Bây giờ gặp dịp, nó hỏi: 

– Tôi có được ra ngoài thành chơi không? 

Quang-Vũ gật đầu: 

– Ngươi đã làm Vũ-vệ hiệu úy, được tự do đi lại. Ngươi còn trẻ, lễ nghĩa chưa biết, tất bị người ta bắt lỗi. Để trẫm cho ngươi một cái thẻ bài không ai dám bắt tội ngươi nữa. 

Quang-Vũ móc túi đưa tấm thẻ bài cho Cu Bò. Nó quì xuống tạ ơn. Quang-Vũ phán rằng: 

– Với tấm thẻ bài này, khi ngươi phạm bất cứ tội gì, dù Tể-tướng, dù Tam công cũng không được bắt tội. Lỡ ngươi phạm tội nặng quá, họ chỉ có thể đưa ngươi về cho trẫm trừng phạt mà thôi. 

Quang-Vũ có tài biết người, có con mắt tinh đời, biết nhận xét giá trị từng loại người một. Y nói với Chu Tái-Kênh, Đào vương-phi: 

– Các vị là đấng anh hùng trên thế gian không có hai. Xin các vị ở đây giúp Quí-phi, bảo vệ Hoàng-thành. Nếu các vị cần gì, trẫm sẵn sàng chu toàn. 

Hai vị tạ ơn. 

Mã Vũ liếc nhìn Chu Tái-Kênh, rồi tạ từ Quang-Vũ. 

Trở về phòng ngủ. Chu Tái-Kênh với Đào vương-phi trao đổi với nhau những nhận xét về Mã Vũ. Hai bà ngạc nhiên, không thấy Trần Năng đâu. 

Đào vương-phi nói: 

– Chu đại ca không ngờ bọn mình ẩn ở Tây-cung, nên người mới xử dụng võ công Cửu-chân. Người biết chúng ta ở đây, chắc thế nào cũng tìm cách liên lạc với chúng ta. 

Chu Tái-Kênh lắc đầu: 

– Ta không tin. Tính anh ta kín đáo lắm. Người biết chúng ta nhận ra chân tướng người. Người càng ẩn thân kín hơn. Ta phải đi gặp người mới được. Ta sẽ nói cho người biết con người là Chu Bá vẫn còn sống. Chu Tường-Qui là cháu nội người, để người đỡ tịch mịch. 

Cu Bò góp ý kiến: 

– Hai thích khách vừa rồi, cháu có cảm tưởng như do Mã thái-hậu sai đến. Vậy hai sư-bá thử đi thám thính điện Huệ-đức xem sự thể ra sao? Biết đâu chẳng tìm ra manh mối thích khách. 

Chu Tái-Kênh gật đầu: 

– Hôm nay thích khách đột nhập Hoàng cung, tất cả các nơi đều báo động. Vậy hãy đợi mười ngày sau đã.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 19 : Hiệp tán Trưng vương khuynh Bắc-quốc,Đồng trừ Tô-tặc, trấn Nam-bang.(Câu đối trước đền thờ Chu Kim-Hựu, Trần Kim-Hồ)

 Sáng hôm sau có sắc chỉ Quang-Vũ ban xuống, phong làm Vũ-vệ hiệu úy Tây-cung. Cu Bò lạy tạ, lĩnh chức. Đối với nó, chức tước của Lĩnh-Nam mới oai, hoàng-đế Lĩnh-Nam mới thực sự là hoàng-đế. Từ lúc đẻ ra, nó đâu biết hoàng-đế là gì ? Lần đầu tiên gặp Trưng Trắc, mọi người gọi ngài là hoàng-đế, cử chỉ từ ái, tư thái ôn nhu, đi đâu cũng được tướng sĩ, dân chúng thờ kính như một tiên nữ, một vị thần linh. Hình ảnh Trưng-đế in sâu vào đầu nó: Hoàng đế phải như vậy mới đúng. 

Còn Quang-Vũ, khi ở Lĩnh-Nam nó đã nghe nói nhiều: Nào can đảm, nào thủ đoạn, nào trí dũng, nào hùng tài đại lược... xứng đáng đại anh hùng. Song y càng anh hùng với Trung-nguyên, càng khổ cho Lĩnh-Nam. Trước mắt nó: Làm quan ở Lĩnh-Nam có chị hoàng-đế xinh đẹp, hiền hậu, được mọi người kính phục mới thú. Nó đã toại nguyện vì được làm đại-tướng quân. 

Nay tự nhiên Quang-Vũ phong cho nó chức hiệu-úy nhỏ xíu. Nó chẳng coi vào đâu cả. Nhưng Đinh Xuân-Hoa bảo nó cứ nhận, mình làm quan Hán là giả, thực sự mình làm đại-tướng Lĩnh-Nam. Nó phải tuân lệnh sư bá. 

Nó ra lệnh tập hợp thị vệ Tây-cung. Trên trăm thị vệ, tuổi từ hai mươi tới ba mươi, thấy em nuôi Tây-cung Quí-phi mới mười lăm tuổi được cử làm Vũ-vệ hiệu úy, họ cho rằng nó nhờ thế lực chị, và nhất là có công đoạt lại Ngọc-tỷ được thăng quan. Trong lòng họ không phục. 

Họ đâu có ngờ, nó từng làm đại-tướng, xung phong hãm trận, đánh tan quân Mã Viện trên hồ Động-đình, rất thành thạo điều khiển tướng sĩ. Nó đứng trước đoàn thị vệ, hỏi chức tước từng người, ban lệnh, chia công tác, tỏ ra quen thuộc, sành sỏi. Bọn thị vệ từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác. Họ không thể nào hiểu nổi, một thiếu niên xuất thân từ Nam-Man từ Rợ Việt lại trổ tài năng sớm thế. 

Như thường lệ. Buổi chiều, Chu Tường-Qui đến Nam-cung dạy học. Cu Bò nằng nặc đòi đi theo. Chu Tường-Qui chưa có con, thấy nó dễ thương, nàng đồng ý liền. Nó truyền tên mã phu ở lại, rồi thân đánh xe cho Tường-Qui. Tới Nam-cung. Nam-cung Quí-phi Âm Lệ-Hoa ra cửa đón. 

Chu Tường-Qui bảo Cu Bò: 

– Em quì xuống làm lễ ra mắt Quí-phi đi. 

Cu Bò bỡ ngỡ một chút. Vì trong đầu nó, chỉ có hoàng-đế Lĩnh-Nam Trưng Trắc mới xứng đáng cho nó quì gối. Hôm qua phải quì gối trước Quang-Vũ nó đã khó chịu lắm rồi. Hôm nay nó lại phải quì gối trước Âm Lệ-Hoa là điều nó không muốn. Song Chu Tường-Qui đã bảo. Nó líu ríu tuân theo. 

Trong đầu nó nghĩ: 

– Thì mình cứ tưởng tượng rằng đang quì gối trước sư bá hoặc trước Trưng hoàng-đế. Có sao đâu? 

Nó quì gối, rập đầu ba lần liền, trong đầu nó tưởng tượng người đứng trước mặt, giống như Trưng Trắc. 

Lệ-Hoa hỏi: 

– Cháu có phải Lương Tùng, người hôm qua đoạt Ngọc-tỷ từ tay thích khách, cứu công chúa đó không? 

Chu Tường-Qui đáp thay: 

– Đúng đấy. Nó là đệ tử của nhũ mẫu em. Nhân nhũ mẫu qua thăm em, nó theo qua chơi. Hoàng thượng phong nó làm Vũ-vệ hiệu úy Tây-cung. 

Âm Lệ-Hoa có nhan sắc cực kỳ diễm lệ, tính tình ôn nhu, văn nhã. Lòng dạ bà lại rộng như biển, khoan dung đại lượng, đúng ra bậc mẫu nghi thiên hạ. Bà đỡ Lương Tùng dậy, bảo nó: 

– Cháu xuất thân danh môn có khác, tư cách khó bì. Cháu cứ coi Nam-cung như Tây-cung, lúc nào rảnh rỗi, sang đây cùng hoàng tử, công chúa đàm đạo võ công, văn học. Cháu là sư đệ của Tây-cung Quí phi, hèn chi võ công cao cường. 

Trong khi Tường-Qui truyện trò với Lệ-Hoa, Cu Bò truyện trò với hoàng tử Trang và công chúa Đoan-Nhu. Một bên là cành vàng lá ngọc, suốt ngày phải đọc sách, mà không có kinh nghiệm đời. Ngược lại một bên sống với thực tế, kinh nghiệm đầy người. Qua cuộc cứu mệnh cách đây mấy hôm, giữa anh em hoàng tử Trang và Cu Bò thân với nhau dễ dàng. Chu Tường-Qui lệnh cho quan thái phó của hoàng tử Trang, dạy chữ cho Cu Bò luôn. 

Từ hôm đó, suốt ngày Cu Bò sang Nam-cung chơi. Chu Tường-Qui thấy Cu Bò hàng ngày ôm sách học. Nó đọc sách chăm chú vô cùng. Nàng biết: Nó vốn lười đọc sách, nay chăm học, chắc là đua nhau với hoàng tử Trang và công chúa Đoan-Nhu. 

Được ít hôm, vụ thích khách đã lắng xuống. Đinh Xuân-Hoa cùng Chu Tái-Kênh bàn truyện thám thính cung Huệ-đức. 

Chu Tái-Kênh đồng ý: 

– Kia là điện Huệ-đức, nơi Mã thái-hậu ở. Từ đây sang đó cũng gần thôi. Cu Bò ở nhà, dùng Thần-ưng tuần phòng trên đầu chúng ta, để chúng ta dò thám xem sao? 

Hai người lấy quần áo thị vệ mặc vào, vọt mình trong đêm tối, tới điện Huệ-đức. Cung Mã thái-hậu không canh gác kỹ như nơi ở của hoàng-đế. Hai bà vượt vườn hoa, nhấp nhô mấy cái, tới nơi. Chu Tái-Kênh chỉ lầu thứ nhì có đèn chiếu sáng nói: 

– Chỗ kia là phòng ngủ của Mã thái-hậu. Giờ này đã khuya, mà còn đèn sáng. Chúng ta lên đó xem có gì lạ không? 

Hai người truyền theo mái ngói, đến bên cửa sổ. Nghe ngóng một lúc không có gì lạ. Chu Tái-Kênh đưa ngón tay chỏ lên miệng, thấm nước bọt, chọc vào cửa sổ. Giấy dán cửa nhủn ra liền. 

Hai người ghé mắt nhìn vào trong: Mã thái-hậu ngồi trên cái ghế chạm trỗ hình hai con phụng. Phía sau có đủ mặt Liêu-đông tứ ma Chu Long, Trịnh Sư, Ngô Anh, Vương Hùng. Cạnh đó còn hai lão già tuổi trên sáu mươi. Chu Tái-Kênh nhận ra là hai tên thích khách áo xám, áo xanh đã giao đấu với bà và Mã Vũ. Trong lòng bà nảy ra không biết bao nhiêu thắc mắc: – Hai lão già này là ai mà võ công cao đến trình độ đó? Có lẽ trên đời này chỉ Đào Kỳ, Khất đại phu, Mã Vũ với bà có thể đánh lại chúng? 

Chu Long lên tiếng: 

– Tâu Thái-hậu. Bốn anh em thần theo Mã tướng quân Nam chinh. Hai trong bốn bị bắt. May nhờ triều đình tha bọn phản tặc Thục, đổi lấy Lĩnh-Nam tha bọn thần. Bọn thần trở về đây yết kiến Thái-hậu. Tuy bọn thần chưa tìm ra manh mối vụ đó. Song Ngọc-tỷ đã về triều, lo gì không tìm ra? 

Trịnh Sư tiếp: 

– Hai vị lão sư Phùng Đức, Sầm Anh ra tay đoạt Ngọc-tỷ. Nào ngờ Tây-cung có hai phụ nữ võ công cái thế. Một người thắng Phùng lão sư. Còn Mã Vũ thực khó hiểu. Trước đây võ công y thua cả bốn người trong bọn thần xa. Càng không bằng Sầm Bành, Phùng Dị. Không hiểu sao nay tự nhiên biết xử dụng võ công Cửu-chân, đánh thắng Sầm lão sư. Vì vậy việc đoạt Ngọc-tỷ mới không thành. 

Phùng Anh tiếp: 

– Thần nghĩ, thái-hậu đường đường chính chính cho người tâu với thiên tử đem Ngọc-tỷ cho thái-hậu coi. Bọn thần cam đoan sẽ tìm ra bí mật kho tàng ở trong ấy. 

Mã thái-hậu lắc đầu: 

– Điều đó không xong rồi. Hoàng thượng cũng biết trong đáy hộp có tàng trữ bản đồ cất dấu kho tàng. Vả lại Ngọc-tỷ trước đây vào tay Vương Mãng, rồi Xích-My, rồi Lĩnh-Nam. Không biết bản đồ có còn trong đáy hộp hay không? Hôm trước hai lão sư Phùng Đức, Sầm Anh đại náo Tây-cung, thất bại, thì ta e Hoàng thượng không chịu trao Ngọc-tỷ cho ta. Tuy nhiên ta cũng cố gắng. Được! Nào ta thân hành sang Tây-cung. 

Chu Long nói với Phùng Đức, Sầm Anh: 

– Các vị vừa là thúc phụ, vừa là sư thúc Chinh-nam đại-tướng quân Vũ-dương hầu Sầm Bành, Chinh-tây đại-tướng quân, Dương-hạ hầu Phùng Dị. Hai vị đó tuẫn quốc, đã đành làm tướng, được chết trên chiến trường mới tỏ chí khí anh hùng. Song hai vị đại-tướng quân đều chết về tên ôn con Đào Kỳ ở Lĩnh-Nam. Hai vị đã tới trước giúp thái-hậu, sau trả thù nhà. Tôi nghĩ hai vị nên đi Lĩnh-Nam một chuyến, nhân giúp thái-hậu đoạt kho tàng, và trả thù nhà một thể. Không biết hai vị nghĩ sao? 

Chu Tái-Kênh nhìn Đào vương-phi. Y muốn nói: 

– Thì ra hai thích khách, một tên Phùng Đức, một tên Sầm Anh. Chúng là sư thúc bọn Phùng Dị, Sầm Bành. Hèn gì võ công cao đến dường ấy. 

Phùng Đức nhìn Sầm Anh gật đầu: 

– Được, chúng tôi sẽ đi Lĩnh-Nam giúp thái-hậu. 

Mã thái-hậu đứng dậy tiễn Phùng, Sầm xuống lầu. Bà trở lại nói với Liêu-đông tứ ma: 

– Mã Viện tâu về triều đình phong chức tước cho các vị. Ta vận động với tam công, tể tướng nghị sự chuẩn tấu. Sau đó chính ta nói với thiên tử phong chức cho các vị. Các vị đã biết chưa? 

Chu Long tâu: 

– Thần chưa được rõ. 

Mã thái-hậu nói: 

– Nội ngày mai, chiếu chỉ sẽ ban ra. Chu Long được phong chức Chinh-tây đại-tướng quân thay Phùng Dị. Trịnh Sư được phong chức Chinh-nam đại-tướng quân thay thế Sầm Bành. Ngô Anh được phong chức Trấn-uy đại-tướng quân. Nào các vị cùng ta sang Tây-cung. Nhớ một điều: Không nên gây hấn với bọn cung nữ, thái giám, thị vệ tại đấy. Bản lĩnh chúng không tầm thường đâu. Trong lúc này,ta tránh đụng chạm với chúng. Chính Tây-cung Quí-phi, võ công cao không biết đâu mà lường. Y thị thắng Chu Nghi-Gia trước đây mấy năm. 

Mã thái-hậu đứng dậy cùng Liêu-đông tứ ma xuống lầu. Chu Tái-Kênh ra hiệu cho Đào vương-phi. Cả hai đẩy cửa sổ, lọt vào phòng nhẹ nhàng như hai con én. 

Chu Tái-Kênh nói: 

– Con bé Phùng Vĩnh-Hoa thánh thực. Nó ước đoán đúng từng ly từng tý một. Chúng ta chờ một lát, Mã thái-hậu trở về, sẽ thi hành phần cuối kế hoạch. 

Một lát Mã thái-hậu cùng Liêu-đông tứ ma trở về. Đào vương-phi, Chu Tái-Kênh núp vào phòng trong. 

Mã thái-hậu ngồi xuống bàn, mở nắp hộp Ngọc-tỷ ra ngắm ngía. Mụ cầm hộp đựng Ngọc-tỷ quan sát: Đáy không có gì ngoài miếng gấm mầu hồng. Mụ thở dài: 

– Ta nói có sai đâu! Không biết bản đồ của Vương Mãng, do Xích-My, Lĩnh-Nam hay Hoàng thượng đoạt mất rồi. 

Mụ đưa hộp cho Chu Long coi. Chu Long liếc qua rồi lắc đầu, trả lại thái-hậu. Mã thái-hậu nói: 

– Ta phải cho người dò xem, bản đồ hiện ở đâu mới được. 

Mụ đứng lên, vô tình tay áo gạt chiếc hộp. Chiếc hộp rơi xuống thềm kêu đến cách một cái. Vương Hùng vội vàng nhặt lên. Mắt y hiện ra một tia sáng kỳ lạ. Y tung chiếc hộp lên ba lần, rồi nói: 

– Có rồi đây. Tại sao đáy hộp lại nặng hơn nắp hộp thế này? 

Y chỉ vào đáy hộp: 

– Đáy hộp quá dày. Biết đâu trong đáy không cất dấu một bí mật nào đó? Xin thái-hậu cho thần cậy ra coi. Nếu không có gì, cũng chẳng hại đến Ngọc-tỷ. 

Mã thái-hậu gật đầu. Vương Hùng rút trong bọc ra con dao nhỏ. Y dùng mũi cậy vết hàn ở hai góc hộp. Hộp bị bể ra liền. Y la lên: 

– Đây rối! Thì ra đáy trống ở giữa. Hèn chi thần thấy đáy có chiều dày hơn nắp hai lần. 

Y moi giữa hai ngăn đáy hộp một mảnh lụa. Mảnh lụa đã cũ, màu vàng úa. Trên viết một số chữ. Y trải mảnh lụa ra bàn. Mã thái-hậu, Liêu-đông tứ ma cùng ngồi đọc. Trên mảnh lụa viết một số chữ giống như tên sông, tên núi, tên hồ. Cạnh mỗi địa danh đều ghi chữ, đánh số. 

Chu Long ngơ ngác nhìn Mã thái-hậu hỏi: 

– Thế này thì kỳ lạ thực. 

Nguyên khi Vương Mãng cất dấu kho tàng ở hồ Động-đình. Y cho vẽ bản đồ lên trên một tấm đồng mỏng. Y cắt tấm đồng ra làm mười sáu miếng nhỏ, đánh số thứ tự, truyền đục hai con gấu bằng đồng đen, bụng rỗng. Sau Vương bỏ vào bụng mỗi con gấu tám mảnh đồng, trao cho hai con. Dặn rằng: Nếu sau này nhà Hán trung hưng lên, hai anh em hợp nhau lại, đào lấy kho tàng, đủ tiêu phí đến một trăm đời cũng không hết. 

Dù y đã giết hết bọn binh lính phụ trách chôn kho báu vật. Y sai đúc bản đồ có sông núi, mà không ghi rõ tên. Trên mỗi địa danh, y chỉ ghi chữ số. Rồi y truyền khẩu cho các con, bắt học thuộc: nhất là Trường-giang, nhì là Chu-cảng... cho đến sáu mươi bốn thì hết. Khi Xích-My đem quân vào Trường-an, bắt được hai con Vương Mãng. Y dùng Huyền-âm độc chưởng tra khảo suốt mấy ngày. Con Vương Mãng chịu đau không nổi phải cung xưng hết. Xích-My chép lấy những điều đó. Xích-My tuy có chữ số ghi chú, mà y lại không có bản đồ. Vì vậy y cũng không tìm được kho tàng. Y mới sai cất một dinh thự trên cù lao, giữa hồ Động-đình, sai con trai là Phan Anh ở lại tìm kiếm. Phan Anh tìm không ra. Trong lòng Phan Anh nghi rằng: Chắc giữa y với cha không hợp tính nhau, vì vậy cha y không muốn cho hưởng kho tàng. 

Khi Trần Tự-Sơn, đem Đặng Vũ đuổi đánh Xích-My. Với tài dùng binh vô địch của Tự-Sơn, Xích-My bị đuổi tới Trường-sa. Biết cái nguy đến trước mặt. Y trao mảnh lụa chép chữ số kia cho tỳ thiếp thân tín Trần Thiếu-Lan cùng với Ngọc-tỷ truyền quốc, dặn Thiếu-Lan trao cho con y. 

Trần Thiếu-Lan tuy lưu lạc bao năm. Mà lòng vẫn nhớ cố quốc. Bà mổ bụng, cất dấu Ngọc-tỷ, với tấm lụa vào, rồi may lại. Bà biết Phan Anh lúc nào cũng rình rập bà ở ngoài thành Trường-sa. Bà giả bị câm, ẩn thân làm người nấu ăn cho tù nhân. Khi Trưng Nhị, Trần Năng, Phật-Nguyệt, Hồ Đềà đánh đến Trường-sa, bà mới mổ bụng trao cho Trưng Nhị. Trưng Nhị mở ra xem, không sao hiểu được. 

Trong khi đó, một con gấu bằng đồng đen, bụng đựng bản đồ kho tàng lọt vào tay Hồ Đề. Một con lọt vào tay Tạ Thanh-Minh. Mao bị Đào Kỳ đánh chết trên đồi Nghi-dương, Sún Lé lục hành lý của y mà được. Trong lúc viếng thăm Đặng Vũ ở Nam-dương. Tây-vu thiên ưng lục tướng được Đặng Vũ tặng một con gấu khác. Đặng tịch thu được con gấu này của Tạ Thanh-Minh trong lần tuân chỉ Quang-Vũ lục nhà Tạ ở Trường-an. Lục Sún nghịch ngợm, vô tình khám phá ra mười sáu mảnh đồng trong bụng gấu. 

Sau khi Sún Cao tự nguyện hút chất độc cứu Đào Kỳ. Bị Đào Thế-Kiệt cật vấn. Ngũ Sún phải khai thực. Thế là Trưng Nhị, Phương-Dung đã tìm ra chỗ dấu kho tàng. Lĩnh-Nam phục hồi, Trưng-đế truyền Trưng Nhị lên hồ Động-đỉnh đào lên, đem về dấu ở đỉnh núi Tản-viên. 

Hôm hội quân sau trận hồ Động-đình, Trưng-đế giao cho Vĩnh-Hoa, Phương-Dung, Trưng Nhị ngụy tạo bản đồ, dụ Mã thái-hậu áp lực Quang-Vũ đem quân đánh Nam-hải, hầu tiêu diệt tiềm lực thủy quân Đoàn Chí, Lưu Long. 

Phùng Vĩnh-Hoa sai làm một lá đồng khác, trên khắc bản đồ đảo Đông-sơn và núi Thường-sơn thuộc Nam-hải. Mục đích lấy nơi này làm chiến trường đợi sẵn, tiêu diệt hải quân Đoàn Chí, Lưu Long. Phùng Vĩnh-Hoa cũng cắt tấm đồng làm mười sáu miếng nhỏ, bỏ vào hai con gấu đồng đem trao cho Chu Tái-Kênh, Đào vương-phi, đi Lạc-dương khích Mã thái-hậu. 

Một mặt, Phương-Dung kiếm một tấm lụa cũ, ghi chú chữ số từ một đến sáu mươi bốn ứng với những chữ ghi trên các thẻ đồng, sai thợ làm một cái hộp bằng vàng có hai đáy, bà bỏ mảnh lụa vào, hàn lại. Phương-Dung còn cố ý làm cho hộp móp méo đôi chỗ, tỏ ra cũ kỹ lắm. Bấy giờ bà mới sai bỏ Ngọc-tỷ vào, đem đổi lấy anh hùng đất Thục bị Quang-Vũ bắt. 

Đối với Quang-Vũ, huyền thoại kho tàng, y không chú ý đến. Y chỉ cần được Ngọc-tỷ truyền quốc, lấy uy tín với dân chúng. Cho nên Ngọc-tỷ về tay, y đem cất đi. Giữa lúc đó Mã thái-hậu đến, đòi mang về cung giữ. Quang-Vũ giao cho bà. Vì từ xưa đến giờ, Ngọc-tỷ thường cất ở cung các Thái-hậu. 

Mã thái-hậu cùng Liêu-đông tứ ma tìm kiếm hơn giờ, vẫn không ra manh mối. Mụ đã buồn ngủ phán: 

– Thôi các vị về nghỉ. Chúng ta đã có tấm lụa này, rồi trước sau cũng tìm ra. 

Mụ đứng lên tiễn Tứ ma xuống lầu. 

Mã thái-hậu trở lại. Mụ buông tiếng thở dài, ngơ ngẩn xuất thần. Thình lình mụ thấy có hai cái bóng người chiếu xuống nền nhà. Mụ tưởng bóng mình, song mụ chợt thấy không phải. Vì hai cái bóng ở hai ngả khác nhau. Mụ liếc mắt nhìn: Hai người mặc quần áo thị vệ, ngồi trên hai cái ghế, bất động như người chết. Mụ nghĩ tới những thị vệ chết oan, hiện hồn về báo oán. Phản ứng tự vệ, mụ đưa tay cầm lấy hộp đựng Ngọc-tỷ. 

Chu Tái-Kênh chĩa ngón tay điểm vào nắp hộp. Mã thái-hậu cầm hộp đựng Ngọc-tỷ, mà cảm thấy như chụp vào vách đá. Mụ nghiến răng kéo mạnh. Hộp như dính liền với chiếc án thư. Mụ kinh hoàng định kêu lên, thì Chu Tái-Kênh chĩa ngón tay chỏ ra, hàm mụ như bị cái dùi đục cản lại, miệng không mở ra được. 

Chu Tái-Kênh cầm con phụng bằng ngọc để trên án thư, bóp mạnh, con phụng vỡ ra từng mảnh. Bà bóp mấy cái nữa, những mảnh phụng vỡ nhỏ ra như bột. 

Bà nói: 

– Mụ mà la lên một tiếng, ta sẽ bóp sọ mụ nát như con phụng này. Mụ hiểu không? 

Mã thái-hậu gật đầu. Chu Tái-Kênh thu tay về. Mã thái-hậu run run hỏi: 

– Các ngươi là quỉ hay là người? 

Đào vương-phi đáp: 

– Là người. 

Mà thái-hậu bớt sợ. Mụ hỏi: 

– Nghe tiếng người, rõ ràng là đàn bà. Tại sao lại làm thị vệ? Các ngươi nhập hoàng thành làm gì? 

Đào vương-phi đáp: 

– Dĩ nhiên chúng ta là đàn bà. Chúng ta giết thị vệ, lấy quần áo mặc. Chúng ta đột nhập hoàng thành cũng chẳng làm gì khác hơn, vì muốn có tiền bạc chi dùng. 

Mã thái-hậu kinh ngạc: 

– Thì ra các ngươi đi ăn trộm? Các ngươi to gan thực. Các ngươi có biết rằng ta chỉ cần hô một tiếng, hàng ngàn thị vệ sẽ đến bắt các ngươi không? 

Chu Tái-Kênh cười: 

– Dĩ nhiên ta biết. Ta còn biết hơn nữa, rằng ngươi cũng muốn có nhiều vàng. Chúng ta tới đây thương lượng với ngươi, để chia kho tàng lớn nhất thiên hạ. 

– Nghĩa là? 

– Như ngươi biết, kho tàng đó từ bọn Đông-Các, Xích-My, Phan Anh cho đến ngươi cũng muốn tìm. Có điều ngươi không biết làm thế nào đào lên. Vì vậy ta đến đây rủ ngươi cùng đào. Đào được, chúng ta chia nhau. Ngươi nghĩ sao? 

Mã thái-hậu còn đang ngơ ngẩn. Đào vương-phi tiếp: 

– Ngươi không tin ư? Để ta nói cho ngươi biết. Hồi Xích-My còn sống y rất sủng ái một phi tần tên Trần Thiếu-Lan. Khi biết rằng sắp mất nghiệp, y đã trao bản đồ kho tàng cho Thiếu-Lan. 

Mã thái-hậu gật đầu: 

– Truyện này ta biết rồi. Trần Thiếu-Lan chết ở Trường-sa. Vì vậy bản đồ chỉ dẫn chỗ cất dấu kho tàng ấy hiện ở đâu, không ai biết. 

Chu Tái-Kênh rưng rưng nước mắt: 

– Có người biết. Người đó là ta. Ta biết rất rõ ràng kho tàng đó ở đâu. 

Mã thái-hậu kinh ngạc: 

– Ta không tin. Làm sao ngươi biết được? 

Đào vương-phi chỉ Chu Tái-Kênh: 

– Vị này là sinh mẫu của Trần Thiếu-Lan. Trước khi từ trần, Thiếu-Lan đã nói tất cả bí mật về kho tàng đó cho thân mẫu mình. 

Mã thái-hậu suy nghĩ một lúc rồi hỏi: 

– Kho tàng ấy hiện chôn ở đâu? 

Chu Tái-Kênh móc trong bọc ra hai con gấu bằng đồng đen. Bà thuật chi tiết vụ Vương Mãng vẽ bản đồ trên tấm đồng lớn, cắt ra làm mười sáu tấm nhỏ, dặn hai con như thế nào. Hai con gấu đó tại sao lại lọt về tay Hồ Đề và Tạ Thanh-Minh. Đến đây bà thuật rằng Hồ Đề để con gấu ở thành Lạc-dương, rồi bị Hoài-nam vương lấy được, sau khi Mao chết, chứ bà không thuật rằng Sún Lé lấy được trên xác Mao. Còn con gấu nữa Tạ Thanh-Minh lấy được. Đặng Vũ khám nhà Tạ thấy con gấu, nộp cho Hoài-nam vương. Khi Hoài-nam vương chết, bà vào dinh ông ăn trộm. 

Trước đây Mã thái-hậu đã thấy con gấu bằng đồng đen trong người Đông-Các. Mụ hỏi lão mấy lần. Lão trả lời ấm ớ rằng đó là bảo vật gia truyền. Bây giờ nghe Chu Tái-Kênh kể, mụ mới bật ngửa ra rằng Đông-Các không thực tình với mụ. Trong lòng mụ nổi lên niềm chua xót, cay đắng. 

Mụ thở dài: 

– Ta tin ngươi. Vậy ngươi thử lấy thẻ đồng cho ta coi. 

Đào vương-phi cầm đuôi con gấu kéo mạnh. Kẹt một tiếng. Bụng con gấu mở ta, tám cái thẻ đồng cũng rơi xuống. Bà kéo con gấu thứ nhì. Tám cái thẻ đồng khác lại rơi ra. Bà đếm mười sáu cái thẻ đồng, ghép thành một tấm lớn. Trên tấm đồng khắc chi chít hình thù núi, sông, biển. 

Mã thái-hậu nhìn qua. Mụ hiểu liền: 

– Phải rồi, thẻ đồng của các ngươi không ghi rõ tên núi, sông. Thành ra các ngươi không tìm ra được. Còn ngược lại trong tấm lụa của ta chỉ có tên núi, sông, mà không có bản đồ. Do đó ta cũng không tìm thấy. Được! Ta cộng tác với các ngươi. Nhưng ta muốn biết các ngươi là ai đã? 

Thấy mưu kế của Phùng Vĩnh-Hoa hiệu nghiệm, Đào vương-phi nhìn Chu Tái-Kênh, bà nói: 

– Không dấu gì thái-hậu. Chồng tôi tên Đào-thế-Kiệt. Trăm cay nghìn đắng mưu đồ tái lập Lĩnh-Nam. Không ngờ Nghiêm Sơn gian dối, lập Trưng Trắc lên làm vua. Vì vậy tôi muốn đào kho tàng, dùng vàng, ngọc mua chuộc các lạc vương, lạc công, hầu kỳ sau họ bầu Đào Kỳ thay thế. Còn vị này chính là vợ Khất đại phu Trần Đại-Sinh. Bà quyết theo giúp chúng tôi. 

Mã thái-hậu đã từng thấy bọn gian thần các nước xung quanh Trung-nguyên sang nhờ cậy triều Hán, lật đổ ngôi vua đương triều nước họ, hầu trở về làm vua. Tin lời Đào vương-phi, mụ nói: 

– Thì ra thế. Vương phi muốn tôi giúp Đào Kỳ làm hoàng-đế Lĩnh-Nam thì không khó gì. Với võ công của y. Y lại lĩnh tước Hán-trung vương bản triều, việc ấy dễ dàng. Tôi giúp Vương phi. 

Mụ sai lấy tấm lụa đặt lên bàn, vẽ lại bản đồ trên các tấm đồng. Lấy những chữ trong tấm lụa ghi vào. Cuối cùng mụ reo lên: 

– Vương Mãng chôn kho tàng đó làm hai nơi. Một, trên đảo Đông-sơn, hai, trên núi Thường-sơn. Ngặt vì hai nơi đó, đều thuộc Nam-hải. Mà Nam-hải thuộc Lĩnh-Nam. Làm sao được? 

Chu Tái-Kênh nói: 

– Vì vậy chúng tôi mới phải hợp sức với thái-hậu. 

Mã thái-hậu suy nghĩ một lúc, rồi nói: 

– Được! Tôi sẽ áp lực với tam công, đại thần, họ tâu lên hoàng thượng. Hoàng thượng tất đem quân đánh Nam-hải. Giữa lúc hai bên đánh nhau, chúng ta đào kho tàng. 

Chu Tái-Kênh làm bộ ngơ ngẩn: 

– Liệu triều thần có nghe lời thái-hậu chăng? 

Mã thái-hậu cười: 

– Một nửa bị trúng Huyền-âm độc chưởng của Đông-Các, Phan Anh. Không có thuốc giải của ta, chỉ có chết. 

Đào vương-phi gật đầu: 

– Truyện này mới có thái-hậu với chúng tôi biết mà thôi. Đến Tây-cung Quí-phi cũng không biết. Vì vậy xin thái-hậu giới hạn số người biết. 

Mã thái-hậu gật đầu: 

– Được! Ta chỉ cho một mình Đoàn Chí biết thôi. Bọn Liêu-đông tứ ma, hai lão già Phùng, Sầm, ta càng phải che dấu. Bọn chúng xuất thân đạo tặc. Ta sẽ dối rằng: Hai vị do ta cài vào Lĩnh-Nam, mưu đại sự. 

Mụ lấy trong ngăn tráp ra hai chiếc thẻ bài bằng ngọc, trên khắc con phụng. Mụ đưa cho Chu Tái-Kênh: 

– Phiền hai vị khắc phương danh quí tính vào đây. 

Chu Tái-Kênh phất tay trên đầu Đinh Xuân-Hoa, bà rút cái châm cài đầu, vận âm kình vào tay, viết lên tấm thẻ bài thứ nhất chữ: Đinh Xuân-Hoa, tấm thứ nhì chữ Chu Tái-Kênh. Nét chữ cứng, sắc, sâu vào trong. Mã thái-hậu hài lòng: 

– Thường những người của ta mang thẻ bài chia làm nhiều hạng: Thị vệ mang thẻ bài bằng gỗ trầïm. Vũ vệ hiệu úy mang thẻ bài bằng thép. Cung nga, thái giám thân tín mang thẻ bài bằng bạc. Còn thẻ bài bằng ngọc chỉ người ở vai sứ thần, hoặc thái-phi, công-chúa, quốc-cữu mới có. Hai vị mang thẻ bài này, dù tam công, thứ-sử, thái-thú trông thấy cũng phải kính trọng, giúp đỡ các vị. 

Chợt nghĩ ra điều gì. Mã thái-hậu hỏi: 

– Ta mới chiêu mộ được hai gã sư thúc Sầm Bành, Phùng Dị. Võ công chúng vô địch thiên hạ. Hôm trước đấu với Mã Vũ, và một cung nga Tây-cung bị thua. Các vị có biết cung nga ấy tên gì không? 

Đào vương-phi chỉ Chu Tái-Kênh: 

– Chính thị lão bà này. 

Mã thái-hậu trố mắt nhìn. Mắt mụ ngơ ngẩn, tỏ ý không tin. Chu Tái-Kênh hít một hơi, vận âm kình phát chưởng vỗ nhẹ vào cái bàn bằng gỗ lim. Bịch một tiếng, cái bàn bị tiện đứt làm đôi, bằng phẳng như cưa vậy. 

Mã thái-hậu giật mình. Mụ rùng mình nói: 

– Thì ra lão bà. Như vậy ta càng tin lão bà hơn. Thôi, hai vị cứ yên tâm, chúng ta coi nhau như chị em, cùng mưu đại sự. Ngôi hoàng-đế Lĩnh-Nam nhất định sẽ về tay Hán-trung vương Đào Kỳ. 

Ngẫm nghĩ một lúc, Mã thái-hậu tiếp: 

– Ta nghe nói ở Lĩnh-Nam, đàn bà cũng cầm quân như đàn ông. Ta được biết tài dùng binh của Nguyễn Phương-Dung, Trưng Nhị, Phùng Vĩnh-Hoa và Phật-Nguyệt. Tiếc rằng triều Hán không cho đàn bà cầm quân. Bằng không, ta quyết áp lực tam công, triều thần phong các vị làm đại-tướng quân, mang quân đánh xuống Lĩnh-Nam, một công, đôi việc lưỡng toàn. Từ nay các vị khỏi mặc quần áo thị vệ nữa, cứ mặc quần áo cung nga. Có việc gì khẩn cấp, ta cho người thông báo các với vị sau. Các vị có việc gì cần liên lạc với ta, cứ đến đây. Thị vệ, cung nga hỏi, các vị đưa thẻ bài ra, chúng đưa các vị vào gặp ta. 

Hai bà từ biệt Mã thái-hậu. Thấp thoáng một cái, hai người đã vọt khỏi lầu, xuống đất. Hai bà đang trở về Tây-cung, thình lình có người từ trong bóng tối cười khằng khặc một tiếng rồi bỏ chạy. 

Chu Tái-Kênh giật mình, cùng Đào vương-phi đuổi theo. Người kia chạy đến chân Hoàng-thành, vọt người một cái, đã lên mặt thành, ra ngoài. Chu Tái-Kênh vẫy Đào vương-phi. Hai người theo bén gót. Khinh không người kia nhanh không thể tưởng được. Phút chốc đã tới chân thành Lạc-dương. Người kia tung mình ra ngoài. Chu Tái-Kênh vẫn vọt theo. Một người chạy, hai người đuổi. Cho đến lúc trời tảng sáng, thì tới núi Bắc-mang. Người kia từ từ ngừng lại trước gốc cây lớn. 

Tại gốc cây, Mã Vũ đã ngồi đó từ hồi nào. 

Người kia không nói không rằng, ra hiệu cho Chu Tái-Kênh lùi lại. Y phóng chưởng tấn công Đào vương-phi. Chưởng của y là chưởng Cửu-chân. Đào vương-phi xuất chưởng đỡ. Bình một tiếng. Bà cảm thấy khí huyết đảo lộn, ngực muốn nổ tung ra. Bà vội vận khí theo kinh mạch, phát chiêu Thiết-kình phi thiên, đỡ chưởng thứ nhì của người kia. Bình một tiếng. Người kia bật lùi lại hai bước. Còn Đào vương-phi bật lui đến bốn bước. 

Người kia lột khăn bịt mặt, hiện ra một khuôn mặt khá già. Ông cười nói với Mã Vũ: 

– Đại ca nói đúng! 

Mã Vũ nhìn Chu Tái-Kênh tủm tỉm cười. Ông nói với Đào vương-phi: 

– Sư muội! Bản lĩnh người đã đến trình độ này, ta e sư mẫu có sống lại cũng thua sư muội. Tre già măng mọc. Có lẽ từ ngày khai thủy phái Cửu-chân đến giờ, sư muội là người có võ công cao nhất. Đừng nói nữ lưu bản phái, nếu hồi ta bằng tuổi sư muội, bản lĩnh ta cũng thua sư muội xa. 

Chu Tái-Kênh nhìn Mã Vũ, biết ông chính là Chu Kim-Hựu, anh ruột mình. Bà bực mình, giận dỗi: 

– Anh gớm lắm! Giả chết, để em phải khổ sở suốt mấy chục năm. Em những tưởng anh chết rồi. Hóa ra anh sang Trung-nguyên cắp kiếm theo hầu Quang-Vũ. Con anh lưu lạc anh không tìm. Cháu anh bên cạnh, anh không giúp đỡ. Bây giờ gặp lại em, sau hơn bốn mươi năm xa cách, anh còn cười sung sướng. Anh muốn em coi anh như tên Lê Đạo-Sinh chăng? Được! Hãy đứng dậy, chúng ta đấu với nhau vài ngàn chưởng. 

Miệng nói, uất khí bốc dậy, bà vận hết sức, phát chiêu Ác ngưu nan độ phóng vào Mã Vũ. Mã Vũ không ngờ sau bốn mươi năm xa cách, cô em gái vẫn giữ nguyên tính của bà Chằng. Nói là đánh liền. Ông vội nhảy vọt lên cao tránh khỏi chiêu thức quái ác. Bình một tiếng, cây thông phía sau Mã Vũ bị gãy đôi, đổ xuống. 

Mã Vũ cười lớn: 

– Muội muội! Chưởng lực của em mạnh đến độ ta không ngờ. Có lẽ chỉ chồng em với Đào Kỳ hơn được mà thôi. Hèn chi lão già Phùng, Sầm không bị bại về tay em. 

Mã Vũ tức Chu Kim-Hựu hỏi: 

– Em nói cái gì con anh lưu lạc. Cháu anh bên cạnh? 

Đào vương-phi tiến lên chắp tay hành lễ: 

– Tiểu muội Đinh Xuân-Hoa xin tham kiến đại ca, nhị ca. Không ngờ đại ca, nhị ca vẫn còn tại thế. Chị Tái-Kênh muốn nói: Khi anh với chị ấy lạc nhau trong trận đánh cuối cùng. Con anh vẫn còn sống, không những thế, hiện giờ thành đại anh hùng Lĩnh-Nam. Cháu nội anh làm Tây-cung Quí-phi của Quang-Vũ. 

Chu Kim-Hựu hỏi: 

– Chu Báù, con rể Lê Đạo-Sinh là con anh sao? 

Chu Tái-Kênh ngồi xuống kể sơ lược truyện Chu Báù được nhũ mẫu cứu sống, đem về Thái-hà trang, được Lê Đạo-Sinh thu làm đệ tử, lại gả con gái cho, cùng cuộc đời cay đắng của Chu Tường-Qui như thế nào. Mã Vũ (Chu Kim-Hựu) nghe em gái kể, nước mắt ông trào ra. Ông thở dài chỉ người đấu với Đinh Xuân-Hoa: 

– Để ta nói cho hai em nghe. Người này là nhị sư huynh. Họ Trần tên Kim-Hồ. Cách đây bốn mươi năm, chúng ta nổi tiếng Cửu-chân nhị tiên, võ công, văn học nức tiếng Lĩnh-Nam. Có thể nói, ngoài bắc có Nguyễn Phan, Trần Đại-Sinh, Lê Đạo-Sinh, trong nam có Chu Kim-Hựu, Trần Kim-Hồ. 

Chúng ta ra bắc thuyết phục Nguyễn Phan, Trần Đại-Sinh, Lê Đạo-Sinh cùng khởi binh. Không ngờ ba người đều từ chối. Họ cho rằng khí lực chưa đủ, mà khởi binh, chỉ tốn xương máu vô ích. Chính sư phụ cũng không đồng ý. Người cho rằng cần kết hợp hết anh hùng khắp Lĩnh-Nam đã. 

Ta không đổi ý. Vì cho rằng để chậm trễ, hai tên Tích Quang, Nhâm Diên đồng hóa hết người Việt, e sau này không ngóc đầu dậy được nữa. Hai ta bàn luận với Chu Tái-Kênh cùng khởi nghĩa. 

Trong khi sắp sửa khởi thì nghĩa Lê Đạo-Sinh phản bội. Y tố giác với người Hán. Đứng trước thế nguy, dù chưa đủ lực lượng, chúng ta cũng phải khởi binh. Cuộc khởi binh thất bại. Ta lạc vợ, con, em gái ta. Ta cho rằng họ đã chết. Ta xấu hổ, không dám về gặp sư phụ, rủ sư đệ Trần Kim-Hồ sang Trung-nguyên. 

Cuối cùng chúng ta nghĩ được một kế: Muốn có quân trong tay, chúng ta giả người Hán, đầu quân với Nghiêm Sơn, Quang-Vũ. Sau khi lập công lớn, chúng ta xin về làm thái thú Giao-chỉ, Cửu-chân. Từ đó khuyến khích anh hùng địa phương, nổi dậy, chiếm hết sáu quận Lĩnh-Nam. Song chúng ta chưa kịp thi hành, đã có người trẻ hơn, tài trí hơn ra tay trước. Người đó thành công. Y chính là Trần Tự-Sơn vậy. 

Ông ngừng lại một lúc, rồi tiếp: 

– Còn những truyện sau này, hai em đều biết cả. Có điều ta không ngờ Chu Báù là con ta. Chu Tường-Qui là cháu nội ta. 

Đinh Xuân-Hoa thuật tỷ mỉ những truyện trong môn phái cho Chu Kim-Hựu nghe. Cuối cùng bà hỏi: 

– Còn nhị ca Kim-Hồ. Nhị ca làm gì ở triều Hán? 

Chu Kim-Hựu đáp: 

– Nhị ca không làm quan ở Lạc-dương. Người hiện làm Đô-đốc thống lĩnh thủy quân vùng Liêu-đông. Nhân người về kinh chầu Quang-Vũ, ghé thăm ta. Ta kể truyện sư muội Đinh Xuân-Hoa võ công cao cường. Nhị sư huynh không tin, tìm cách đấu thử mấy chiêu. 

Đinh Xuân-Hoa biết hai vị đại sư huynh, nhị sư huynh của phái Cửu-chân. Song bà thấy cái gương Lê Đạo-Sinh, bà cho rằng: Biết đâu hai người chẳng vì công danh, quên quê cha đất tổ? Vì vậy bà không nói gì. Chu Tái-Kênh ruột để ngoài da, bà hỏi: 

– Hai anh định làm gì giúp Lĩnh-Nam? 

Chu Kim-Hựu thở dài: 

– Chúng ta khởi binh thất bại. Còn mặt mũi nào về đất tổ trông thấy phụ huynh nữa? Thôi chúng ta đành làm quan với Hán, mà lòng để ở Lĩnh-Nam. Bất cứ dịp nào thuận tiện, chúng ta cũng làm lợi cho Lĩnh-Nam. Các sư muội thấy: Ta đứng trong bóng tối giúp Lĩnh-Nam biết bao nhiêu mà kể? 

Trần Kim-Hồ nói: 

 – Như vậy từ nay, bọn ta chiếu cố tới Tường-Qui, giúp đỡ nó. Còn mưu kế của Trưng Trắc bày ra diệt thủy quân Đoàn Chí thực phải. Ta nghĩ khi Mã thái-hậu ép quần thần tâu xin đánh Nam-hải, tất Quang-Vũ hỏi ý kiến đại ca. Đại ca vờ xin suy nghĩ vài ngày rồi tâu Quang-Vũ nên đánh. Bấy giờ Quang-Vũ có hỏi ta, ta cũng khuyên đánh. Như vậy tất y làm theo. Giữa lúc thủy quân Đoàn Chí có lâm nguy, tất Quang-Vũ truyền cho ta đem binh xuống cứu. Ta đem bản bộ quân mã làm phản, đánh úp. Thủy quân Hán coi như bị tê liệt hoàn toàn. 

Chu Kim-Hựu nhiều mưu trí hơn. Ông tiếp: 

– Khi Đoàn Chí khởi binh. Hai em rủ Mã thái-hậu cùng theo. Mụ tham vàng, tất bỏ cung xuống Nam-hải. Hai em ở bên cạnh mụ. Giữa trận đánh, hai em trở mặt... Đoàn Chí không biết đâu là thực đâu là hư nữa. 

GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ. 

Tiểu sử hai đại anh hùng Chu Kim-Hựu, Trần Kim-Hồ, các sách chép rất mơ hồ. Đầu tiên cuốn phổ tại đền thờ hai ông ở thôn Kim-đường, nay thuộc thôn Kim-hồ xã Lệ-chi, huyện Gia-lâm, Hà-nội ghi hai ông là hai anh em sinh đôi, quê ở đất Cù-ninh, Cửu-chân, tức Thanh-hóa. Hai ông mồ côi cha mẹ, được bà dì họ Mạc đem về nuôi dưỡng. Hai ông có công giúp Trưng vương đánh đuổi Tô Định, được phong ấp ở Kim-đường. Cuốn phổ ghi một ông tên Đống, một ông tên Hựu ở đất Kim-hồ. 

Trong cuốn phổ, do tổng trấn Bắc-hà Nguyễn Văn-Thanh gửi về triều đình Huế xin phong thần cho hai ông, lại ghi rõ ràng: Hai ông là bạn học cùng thầy ở Cửu-chân. Một ông tên Chu Kim-Hựu, một ông tên Trần Kim-Đống. Khi các ông lưu lạc sang Trung-nguyên, gặp Nghiêm Tử-Lăng (Trần Tự-Sơn), được Nghiêm thu dụng với Quang-Vũ. Ông Chu Kim-Hựu đổi tên là Mã Vũ. Ông Trần Kim-Đống đổi tên là Trần Kim-Hồ. Vì vậy ấp Trưng-đế phong hai ông mang tên Kim-Hồ. 

Trong cuộc tìm kiếm di tích hai ông. Chúng tôi thấy rải rác ở Quảng-đông có hai đền thờ. Sự tích hai đền thờ đều nói các ông người Lĩnh-Nam, sang Trung-nguyên làm quan với triều Hán. Một ông tên Chu Kim-Hựu đổi sang họ Mã được vua Quang-Vũ phong làm Bô-lỗ đại-tướng quân, tước Dương-hư hầu. Tra trong Hậu-Hán thư quyển 22 phần Mã Vũ liệt truyện, thấy ghi rõ ràng: Mã Vũ được phong Bô-lỗ đại-tướng quân, tước Dương-hư hầu. Cũng trong Hán-thư quyển 24 phần "Mã Viện liệt truyện" nói rằng Mã Vũ luôn tìm cách hại Viện. Khi Viện chết, áp lực của Mã Vũ mạnh quá, khiến Quang-Vũ thu ấn Tân-tức hầu của Viện. Vợ con Viện chôn cất qua loa, không dám làm ma lớn, thân thuộc chẳng được điếu tang. Vì vậy chúng tôi quả quyết Mã Vũ với Chu-Kim-Hựu là một người. 

Tại đền thờ hai ông ở Hà-nội, có một đôi câu đối, mà chúng tôi lấy làm đầu đề cho hồi chín mươi: 

Hiệp tán Trưng-vương, khuynh Bắc-quốc, 

Đồng trừ Tô-tặc, trấn Nam-bang. 

Nghĩa là: Hợp giúp Trưng-vương, nghiêng nước Bắc (Trung-nguyên). Đồng trừ giặc Tô, giữ trời Nam. 

Phải hiểu ý câu đối "hiệp tán" nghĩa là cùng góp sức giúp Trưng vương để làm nghiêng ngửa Trung-nguyên. Chứ không phải như thần tích làng Kim-hồ nói rằng hai ngài chỉ giúp vua Trưng đuổi Tô Định. Làm nghiêng ngửa đất Trung-nguyên ứng vào việc hai người làm quan với Hán, giúp Phật-Nguyệt đánh trận hồ Động-đình, giúp Thánh-Thiên đánh trận Nam-hải. Câu "Đồng trừ" nghĩa là cùng vua Trưng trừ Tô Định, ý chỉ việc ngài Chu Kim-Hựu đánh lui Lê Đạo-Sinh và quân Tô Định ở cổng thành Luy-lâu. "Đồng trừ" ý nói không phải hai ngài ở dưới trướng vua Trưng, mà có nghĩa hai ngài cùng ra tay trợ giúp. Vì vậy chúng tôi cần phải biện minh cho rõ nghĩa một chi tiết bí mật lịch sử. 

Chu Kim-Hựu đứng dậy: 

– Thôi hai em cứ về Tây-cung. Ta tìm cách loan báo mọi tin tức triều Hán cho các em. Chúng ta ở ngoài, Chu Tường-Qui với các em ở trong. Chúng ta liên kết trừ tất các bọn đại thần chủ trương gây chiến Lĩnh-Nam, liên kết với người có thiện cảm với người Việt. Hiện tam công, đại thần bị Mã thái-hậu dùng các cao thủ khống chế. Phe đảng mụ khá nhiều. Lại thêm phe đảng Quách hoàng-hậu. Hai phe cùng ác cảm với Lĩnh-Nam. Bọn quốc thích muốn ra ngoài cầm quân đánh Lĩnh-Nam, hầu gây thế lực như Mã Viện. Chúng ta tìm cách trừ bớt vây cánh phe Quách-hậu. Muốn trừ vây cánh phe Quách-hậu phải liên kết với phe Âm Quí-phi. Âm Quí-phi hiện được Quang-Vũ sủng ái. Bà là ngươì nhân từ, khoan hậu, có con trai lớn, đang muốn tranh dành ngôi thái-tử. 

Chu Tái-Kênh vỗ đùi một cái, cười lớn: 

– Vậy được rồi. Chu Tường-Qui hiện là sư phụ của hoàng tử Trang, và công chúa Đoan-Nhu. Giữa Tường-Qui với Âm Lệ-Hoa rất thân với nhau. Chúng ta lại thân với Hàn thái-hậu nữa. Ta liên kết lại, rồi tìm cách gì đổ tội cho Quách-hậu. Quang-Vũ phế Quách-hậu xuống ắt xong truyện. 

Chu Kim-Hựu lắc đầu: 

– Không giản dị như vậy đâu. Chúng ta trừ được vây cánh phe Quách-hậu, lập tức vây cánh phe Âm-hậu lại muốn khống chế triều đình, muốn ra ngoài cầm quân đánh Lĩnh-Nam. Đó là điều cần ghi nhớ. Khi chúng ta ra mặt hại Quách-hậu, vô tình chúng ta hứng tất cả thù hằn của phe này. Đó là hai điều cần nhớ. 

Đinh Xuân-Hoa nhiều mưu trí, bà bàn: 

– Thế này, chúng ta gây ra một điều bất lợi cho Quách-hậu, khiến cho Quang-Vũ nổi lôi đình, phế mụ xuống, đưa Âm Lệ-Hoa lên thay. Mụ tất nhớ ơn ta. Ta lại nhân đó, tiết lộ cho Quang-Vũ biết, việc ấy do phe Âm Lệ-Hoa làm hầu hại Quách-hậu. Như vậy Quách-hậu không nghi ngờ bọn ta. 

Trần Kim-Hồ vỗ tay khen: 

– Thế thì được. Các sư muội tìm cách lẻn vào cung Tuyên-hòa bỏ thuốc độc vào thức ăn. Khi Quang-Vũ đến đó, ăn vào, bị trúng độc, tất y cho điều tra. Y biết Tường-Qui có thù với Quách-hậu, ắt sai Tường-Qui điều tra.Tường-Qui tỏ ra vô tư, biện luận cứu Quách-hậu. Như vậy họ hàng Quách nhớ ơn Tường-Qui. 

Chu Tái-Kênh gật đầu: 

– Thôi được, chúng ta cứ thế mà làm. 

Lại nói về Đinh Xuân-Hoa, Chu Tái-Kênh trở về đến Tây-cung, mặt trời đã quá Ngọ. Trần Năng, Tường-Qui thấy hai bà, mừng lắm. Tường-Qui hỏi: 

– Hai bà đi suốt đêm, đến sáng không về, làm cháu lo lắng quá. Cháu sai Cu Bò cho Thần-ưng tìm hai bà. Nó bảo: Hai bà đang yên lành ở núi Bắc-mang. Cháu mới yên tâm. 

Trần Năng kể cho hai bà nghe: Đêm qua bà đến cung Hàn thái-hậu dâng thư của Trưng hoàng-đế. Hàn thái-hậu giữ bà lại truyện trò. Lúc mặt trời lên cao mới cho về. 

Chu Tường-Qui hỏi: 

– Sư thúc sang đây chỉ với mục đích bảo vệ Ngọc-tỷ, hay còn có truyện gì khác nữa? Thư Trưng sư tỷ gửi Hàn thái-hậu nói gì? 

Trần Năng gật đầu: 

– Ngọc thể Hàn thái-hậu bất an. Ngự y Hán trị không khỏi. Người sai sứ sang thỉnh sư phụ ta. Sư phụ ta như con rồng, ẩn hiện không chừng. Vì vậy Trưng hoàng-đế cử ta sang thay. Ta dùng Lĩnh-Nam chỉ, trị cho người. Bệnh đã khỏi. Người còn muốn lưu ta lại trị cho Quách hoàng-hậu nữa. Ta nhận lời. 

Thấy vắng bóng Lương Tùng (Cu Bò) Đào vương-phi đưa mắt hỏi Chu Tường-Qui. 

Nàng đáp: 

– Sáng nay nó sang Nam-cung cùng hoàng tử Trang, công chúa Đoan-Nhu đi dạo chơi núi Bắc-mang. Bởi nó khoe rằng trước đây Tây-vu thiên ưng lục tướng bắt gà rừng Bắc-mang nướng ăn ngon lắm. Công chúa thèm quá, đòi ăn, nó chiều theo. Nó chỉ huy hơn trăm thị vệ dẫn hoàng tử Trang với công chúa Đoan-Nhu đi chưa về. Không ngờ nó còn nhỏ, mà biết cách chỉ huy binh sĩ như một đại-tướng. 

Chu Tái-Kênh nói: 

– Hai năm qua, nó làm sư trưởng Thần-ưng thuộc đạo binh Giao-chỉ. Suốt ngày phối hợp thao luyện quân sĩ, ban lệnh, thưởng phạt đã quen. Tuổi tuy nhỏ, chứ tài nó không kém gì một đại-tướng. Đừng nói đội thị vệ trăm người Tây-cung, đến một vạn binh nó cũng chỉ huy được. Cứ coi trận hồ Động-đình thì rõ. Khi được lệnh xả láng, trước hàng vạn mũi đao, hàng trăm nghìn mũi tên, nó chẳng coi ra gì. Nó chỉ tiến chứ không lùi. Rất tiếc trận này thằng Trâu Đen tuẫn quốc. 

Chu Tường-Qui cười: 

– Ngự trù cho cháu biết, suốt ngày nó vào bếp. Gặp cái gì cũng ăn, bất kể món đó ngon hay không. Thông thường thị vệ không được vào bếp của các cung. Cũng không được ăn uống trong cung. Chỉ khi nào hoàng-đế, phi tần ban thưởng mới được ăn. Vì vậy cháu phải dặn ngự trù rằng nó là sư đệ của cháu. Nó muốn ăn gì, cho nó ăn. Bọn ngự trù nghe nó tung trăn bắt thích khách, sợ nó như cọp. 

Bỗng một cung nữ mặt hoảng hốt chạy vào, quì xuống khấu đầu: 

– Lệnh bà! Tai vạ đến nơi rồi. 

Tường-Qui vẫy tay cho nó đứng dậy hỏi: 

– Có truyện gì? 

Người cung nữ run run, miệng lắp bắp: 

– Hoàng thượng truyền đem Quách hoàng-hậu thắt cổ chết. 

Chu Tường-Qui ngạc nhiên: 

– Mi có biết tại sao không? 

Người cung nữ lắc đầu: 

– Thần không rõ. 

Đinh Xuân-Hoa liếc nhìn Chu Tái-Kênh, ý muốn nói: Mình chưa ra tay, mà sao Quách-hậu đã bị tai vạ rồi? Không lẽ Chu Kim-Hựu ra tay trước. Dù ông có ra tay trước, đâu có mau như vậy được? 

Chu Tái-Kênh nhớ đến kế hoạch bàn đêm trước. Bà bảo Chu Tường-Qui: 

– Cháu được hoàng-đế sủng ái, tin tưởng. Vậy cháu nhân dịp này, yết kiến hoàng-đế xin khoan hồng tội trạng cho Quách-hậu, để mua chút cảm tình mai hậu. 

Tái-Kênh bình tĩnh nói: 

– Chúng ta nên đến cung Tuyên-từ yết kiến Hàn thái-hậu. Vương phi là chỗ thông gia với bà, có lời của vương phi với ta, chắc Hàn thái-hậu cản ngăn việc này. Như vậy tốt hơn. 

Tường-Qui truyền thái giám chuẩn bị xe. Nàng mời Chu Tái-Kênh, Đào vương-phi, Trần Năng cùng lên xe, đến cung Tuyên-từ. Cung Tuyên-từ ở cách xa Tây-cung. Ngựa đi một lúc mới tới. Tên thái giám giữ cung thấy Chu Tường-Qui, vội vàng quì xuống khấu đầu. Tường-Qui truyền: 

– Ngươi vào tâu với thái-hậu rằng có ta dẫn phu nhân Khất đại phu, Đào vương-phi và Y-tiên Trần Năng đến xin cầu kiến khẩn cấp. 

Uy tín Chu Tường-Qui ở nội cung rất lớn. Một là nàng được Quang-Vũ sủng ái. Hai là từ sau vụ phản nghịch ngoại thích họ Mã. Nàng có công đầu dẹp loạn. Hôm vợ chồng Phan Anh, Nghi-Gia đại náo hoàng cung. Cung nga, thái giám đều trông thấy nàng xử dụng võ công cao đến không bao giờ ngờ tới. Chu Tường-Qui vốn tính ôn nhu, nhã nhặn, cung nga, thái giám được ở với nàng coi như đại phúc. 

Viên thái giám thấy nàng phán, vội vàng vào trong cung. Một lát Hàn Tú-Anh thư thả bước ra. Chu Tường-Qui cùng mọi người định hành đại lễ. Bà vẫy tay: 

– Thôi! Xin miễn nghi lễ phiền phức. Quí phi! Con mời quí khách vào. Không biết trận gió nào thổi, mà được ba quí khách từ Lĩnh-Nam ghé viếng ta vậy? 

Bà dắt tay Đào vương-phi mời ngồi. Đinh Xuân-Hoa nói: 

– Chúng tôi tới đây kính thỉnh thái-hậu một việc. Nghe nói hoàng thượng sắp xử giảo Quách hoàng-hậu. Vì vậy chúng tôi lớn mật xin thái-hậu ban một lời cứu Quách-hậu. 

Hàn Tú-Anh hỏi Chu Tường-Qui: 

– Có việc ấy ư? Sao vậy? Thôi được để ta làm việc này. 

Bà sai thắng xe, đi liền. Xe Hàn Tú-Anh đi trước. Xe Chu Tường-Qui đi sau. Tới cung Tuyên-hòa, thị vệ vây kín phía ngoài. Chúng thấy Hàn Tú-Anh đều quì xuống hành lễ. Hàn Tú-Anh đi trước, Chu Tường-Qui, Đinh Xuân-Hoa... đi theo sau. Vào đến bên trong: Quách hoàng-hậu đang bưng mặt khóc. Cạnh đó Thái-tử Cương nước mắt chan hòa. Cung nga, thái giám hơn ba mươi người bị trói. Quan điện tiền hiệu úy chỉ huy thị vệ điệu chúng ra pháp trường. Mọi người thấy Hàn Tú-Anh, đồng quì xuống khấu đầu. 

Quách-hậu, Thái-tử Cương đến trước Hàn thái-hậu khấu đầu, ôm lấy chân bà mà kêu thảm thiết: 

– Oan ức! Thực oan ức. Xin thái-hậu cứu con với. 

Thái-tử Cương cũng tâu: 

– Con xin chịu chết thay cho mẫu thân. 

Hàn thái-hậu vẫy tay bảo điện tiền hiệu úy: 

– Ngươi hãy lui ra. Việc này để ta xét lại đã. 

Điện-tiền hiệu-úy vâng dạ lui khỏi cung Tuyên-hoà. Hàn thái-hậu mời Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa ngồi. Bà truyền Quách-hậu, Thái-tử Cương đứng sang một bên. Bà nói với Trần Năng: 

– Cháu cởi trói cho cung nga, thái giám. 

Trần Năng kính cẩn: 

– Tuân chỉ thái sư-mẫu. 

Nguyên Hùng Bảo là đệ tử của Hoàng Thiều-Hoa, vì vậy Trần Năng gọi Hoàng Thiều-Hoa bằng sư mẫu. Trần Tự-Sơn lại là con nuôi Hàn thái-hậu. Cho nên bà gọi Hàn thái-hậu bằng thái sư mẫu đã quen. 

Bà vận Lĩnh-Nam chỉ, hướng tay bọn cung nga, thái giám, điểm. Mỗi tiếng véo, dây trói một người đứt ra rơi xuống. Trên từ Hàn thái-hậu, xuống tới Quách-hậu, cung nga, thái giám đều kinh hồn về chỉ lực của bà. 

Hàn thái-hậu chỉ Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa: 

– Hai vị này. Một vị là phu nhân của tiên ông Khất đại phu. Một vị là nhạc mẫu Lĩnh-Nam vương. Hai vị đều là bạn ta. Ta ở trong cung không biết gì cả. Xảy đâu Tây-cung Quí-phi, cùng các vị tới cầu ta đến đây cứu Hoàng hậu. Vậy truyện gì đã xảy ra? 

Quách hoàng-hậu nước mắt ròng ròng nói: 

– Đêm qua Hoàng thượng làm việc có hơi mệt. Sáng nay người không lâm trào. Người từ Tây-cung đến đây ngự điểm tâm. Con truyền cung nữ dâng cháo Vi-yến. Người dùng được mấy muỗng, thấy có vật gì vướng ở đáy bát, người vớt lên, thì ra ba con dán. 

Hàn thái-hậu kinh hãi: 

– Trời đất. Nếu hoàng thượng sơ ý ăn vào ắt ngộ độc. 

Quách-hậu lau nước mắt tiếp: 

– Người nổi trận lôi đình, đập vỡ bát, bỏ đi. Thiếp kinh hoàng truyền quan đình úy bắt cung nữ hầu điểm tâm cùng tên ngự trù điều tra. Một mặt thần đến điện Gia-đức khấu đầu tạ tội. Thần tâu rằng... tâu rằng việc này có thể do Tây-cung Quí-phi hại thần. 

Hàn thái-hậu lắc đầu: 

– Con lầm rồi! Tây-cung Quí-phi là người hiệp nghĩa, không bao giờ làm truyện đó. Vả Quí phi làm truyện đó để làm gì? Nếu để hả giận càng không đúng. Vì Quí-phi giận con, thù con, sẵn võ công vô địch trong tay, Quí-phi chỉ vung tay một cái, là con mất mạng ngay. Còn bảo Quí-phi muốn hại con để chiếm ngôi hoàng-hậu ư? Điều đó Quí-phi không bao giờ muốn, vì luật bản triều, Quí-phi không đủ điều kiện làm hoàng-hậu. Cũng như ta đây vậy. Ta an phận thế nào, Quí-phi an phận thế ấy. 

Quách-hậu tâu: 

– Hoàng thượng cũng phán như mẫu-hậu. 

Quách-hậu khóc lớn: 

– Thế rồi buổi trưa hoàng thượng về đây ngự cơm trưa. Người cùng con ăn món canh thập cẩm. Người cầm đũa vớt miếng nấm lên, thấy đũa vướng, người gạt mạnh, dưới đáy bát có con chuột chết, hôi thối vô cùng. 

Chu Tái-Kênh, Trần Năng suýt bật lên tiếng cười. Hai người vội bụm miệng lại. Quách-hậu tiếp: 

– Người nổi trận lôi đình, dùng đũa bới tìm khắp, thấy trong bụng con gà hấp nấm có ba con cóc chết. Người giận tím mặt, bỏ đi. Thiếp vội vàng cho bắt ngự trù, cung nữ điều tra. Có tin người đau bụng, đại tiện chảy, truyền gọi ngự y chữa trị. Ngự y tới khám, nói rằng người trúng độc rất nặng. Cứ đi đại tiện đều đều. Người lệnh bắt giam thiếp cùng tất cả cung nga, thái giám ở cung Tuyên-hòa bỏ ngục. Sáng mai thiếp bị xử giảo (thắt cổ). Còn tất cả cung nga, thái giám đều bị chém đầu. 

Hàn thái-hậu hỏi: 

– Bệnh tình hoàng thượng ra sao? 

Thái tử Cương tâu: 

– Mặt đỏ bừng, bụng sôi lục sục. Dường như trúng độc nặng. 

Hàn thái-hậu hỏi Trần Năng: 

– Cháu nổi tiếng Y-tiên Lĩnh-Nam. Cháu hãy cùng ta cứu hoàng thượng một phen. 

Bà biết Trần Năng tuy gọi bà thái sư mẫu. Song Quang-Vũ là kẻ thù Lĩnh-Nam. Bà không thể ra lệnh cho Trần Năng cứu Quang-Vũ, mà phải đề nghị. 

Bỗng có tiếng hô: 

– Hoàng-thượng gíá lâm.

Q3 - Cẩm Khê Di Hận - Hồi 20 : Một là báo phục, hai là báo phương(Đại-Nam quốc sử diễn ca)

 Quang-Vũ từ võng bước xuống. Mặt y tái mét. Hai thái giám đỡ y đi vào. Mọi người quì mọp xuống đất. Y gượng cười, dơ tay vẫy, ra hiệu miễn lễ. Y ngồi xuống. Hàn thái-hậu rất quan tâm đến bệnh tình Quang-Vũ, bà sờ trán y rồi hỏi: 

– Bệnh tình hoàng-nhi như thế nào? 

Quang-Vũ đáp: 

– Xin mẫu-hậu đừng lo ngại. Hoàng nhi không sao đâu. 

Chu Tường-Qui nhìn Quang-Vũ lòng nàng lo sợ vô cùng. Nàng hít một hơi chân khí, vận Lĩnh-Nam chỉ điểm vào huyệt Đại-trùy, Bách-hội của y véo, véo hai tiếng. Mặt y đỏ bừng lên. Y đã tỉnh táo hơn. Y nắm tay Tường-Qui: 

– Đa tạ ái khanh. 

Chu Tường-Qui đưa mắt nhìn Trần Năng. Nàng biết Trần Năng căm hận Quang-Vũ ác độc. Bao lần Lĩnh-Nam cứu y, làm lợi cho y, mà y không bỏ ý định tiêu diệt người Việt. Bây giờ nàng muốn cầu cứu vị sư-thúc này, mà không dám nói. Nhưng nếu Trần Năng không cứu, ắt Quang-Vũ chết. Đến nước đường cùng, nàng tới trước Trần Năng, quì mọp xuống thềm, rập đầu binh, binh mấy cái, nước mắt đầm đìa: 

– Sư thúc! Đệ tử kính mong sư-thúc từ tâm, cứu hoàng-thượng. 

Hàn thái-hậu cũng tiếp: 

– Năng nhi! Nếu con không vì ta, cũng nên vì Lĩnh-nam công, Lĩnh-nam vương phi, ra tay tiên cứu hoàng-thượng một phen. 

Trần Năng mỉm cười. Bà vung tay, một kình phong nhẹ nhàng đỡ Chu Tường-Qui dậy: 

– Quí-phi không nên đa lễ. Y đạo Lĩnh-Nam dạy rằng phải cứu chữa cho cả kẻ cướp. Huống hồ hoàng-thượng chưa phải kẻ cướp. 

Bà tiến đến bắt mạch Quang-Vũ, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 

– Mạch bệ-hạ Hoạt, mà khẩn. Hoạt chủ thấp. Khẩn chủ cấp chứng. Bệ hạ đã trúng phải chất độc, làm cho tỳ vị bị lạnh, dương khí kiệt. Nếu để trễ, e đại tiện ra hết nước, tinh khí khô tuyệt, bản mệnh khó toàn. Bây giờ tôi hãy tạm dùng Lĩnh-Nam chỉ cầm lại, không cho đại tiện nữa, rồi tìm xem bệ-hạ trúng độc do chất gì, sẽ giải sau. 

Bà vận khí hướng ngón tay vào giữa ngực Quang-Vũ, điểm vào huyệt Trung-uyển, Thiên-xu, Đại-hoành. Mỗi lần điểm, chân khí phát ra kêu véo, véo. Một lát Quang-Vũ tỉnh táo hẳn. Y đứng dậy nói: 

– Đa tạ Y-tiên. Trẫm hết đau bụng rồi. 

Chu Tái-Kênh nhớ đến kế hoạch bàn với Chu Kim-Hựu. Bà nói: 

– Mụ nhà quê Lĩnh-Nam muốn góp vài câu. Chẳng hay bệ-hạ có cho phép không? 

Quang-Vũ gật đầu: 

– Xin lão bà cứ nói. 

Chu Tái-Kênh chỉ Quách-hậu: 

– Quách-hậu là mẫu nghi thiên hạ. Người theo hầu bệ-hạ hơn mười bảy năm. Ngươì dâng cho bệ-hạ một thái-tử cùng mấy con. Trước là nghĩa vua tôi, sau là tình vợ chồng. Có đâu Quách-hậu hại bệ-hạ? Những việc xảy ra, ắt có kẻ ghét Quách-hậu, hại bà. Tại sao người ta ghét Quách-hậu? Chỉ vì Quách-hậu được bệ-hạ sủng ái mà ra. Xét cho cùng, người chủ mưu không muốn hại tính mệnh bệ-hạ, mà chỉ muốn làm cho bệ-hạ nổi giận mà thôi. Khi bệ-hạ nổi giận, xử giảo Quách-hậu, ai sẽ được thay thế? Cứ suy ra, chính người đó chủ mưu vậy? 

Quang-Vũ biết Chu Tái-Kênh là bà cô của Chu Tường-Qui. Y không bao giờ ngờ bà lại đứng ra bênh cho Quách-hậu là kẻ thù của Tây-cung. Trong lòng y bừng lên một tia sáng: Chu Tái-Kênh xuất thân nghĩa hiệp, vì vậy bà lấy công đạo mà nói.Y có ngờ đâu, bà nói vậy để Quang-Vũ tin tưởng Tường-Qui, hơn nữa gây ra không khí nghi kỵ trong hoàng cung, làm y mất linh mẫn đi. 

Chu Tường-Qui tâu: 

– Thần thiếp thấy việc này dường như có ai hại hoàng hậu với thái-tử Cương. Thần dám xin bệ-hạ điều tra manh mối. 

Hàn thái-hậu cũng nói: 

– Hoàng nhi! Ta ra lệnh hủy bỏ chiếu chỉ xử giảo Quách hoàng-hậu, tha tất cả cung nữ, ngự trù, thái giám. Truyền giao chúng về Tây-cung quí-phi điều tra hư thực. 

Quang-Vũ khấu đầu: 

– Con xin kính cẩn tuân chỉ mẫu-hậu. Bây giờ con xin sang Tây-cung dưỡng bệnh. Vì ở đó, Tây-cung quí-phi có đủ khả năng phòng người ám toán thần nhi. 

Chu Tường-Qui, Trần Năng cùng Quang-Vũ trở về Tây-cung bằng xe. Tới Tây-cung, Chu Tường-Qui để Quang-Vũ nằm nghỉ. Nàng cùng Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa điều tra, thủ phạm. 

Chu Tường-Qui thẩm cung từng thái giám, ngự trù, cung nữ. Chúng đều khóc lóc, chối không biết gì hơn. Riêng Trần Năng, bà chỉ nhìn số tang vật: Bốn con dán, ba con cóc, một con chuột. Bà đã tìm ra thủ phạm. Song bà nín thinh không nói ra. Bà vẫy Đinh Xuân-Hoa xuống vườn ngự uyển ngắm cảnh. Đinh Xuân-Hoa biết ý, theo sau. Nhìn trước nhìn sau không có ai, Trần Năng hỏi: 

– Thái sư mẫu! Chắc người biết thủ phạm rồi chứ. 

Đinh Xuân-Hoa gật đầu, nói nhỏ vào tai Trần Năng: 

– Cu Bò! Nhưng ai đứng sau lưng nó mới được chứ? Nó mới đến đây, không quen biết Quách-hậu. Tại sao nó hại bà ta? 

Trần Năng lắc đầu: 

– Khó hiểu. Đệ tử Tây-vu thường hành sự khác thường. Không ai biết đâu mà lường. Chỉ nghe Quách-hậu thuật, đệ tử đã biết công trình tuyệt hảo của đệ tử Tây-vu. Khi xem các tang vật: Bốn con dán, ba con cóc, hai con chuột, không phải người ta bắt, mà có vết mỏ chim mổ chết. Rõ ràng Thần-ưng bắt. Ở đây chỉ có sư-thúc Cu Bò sai được Thần-ưng làm việc đó. Đệ tử thuộc vai dưới, không dám cật vấn sư-thúc. Vậy thái sư-mẫu cật vấn xem người trả lời ra sao? 

Đinh Xuân-Hoa gật đầu. Chiều hôm đó đến giờ luyện võ. Bà dậy Cu Bò vận khí áp dụng vào khinh công. Hai người chạy đến phía lầu Thúy-hoa. Nhìn trước, nhìn sau không có ai. Bà bảo Cu Bò ngồi xuống, ôn tồn hỏi: 

– Đệ tử Cửu-chân, khi được người trên hỏi, phải nói thực. Sư bá hỏi câu nào, cháu phải trả lời cho đúng. Nếu sai lời, sư bá đánh què chân, đuổi ra khỏi sư môn. 

Bà nhìn thẳng vào mặt Cu Bò : 

– Tại sao cháu lại bỏ dán, bỏ cóc, bỏ chuột vào thức ăn, hại Quách-hậu? 

Cu Bò ôm bụng cười, cười lăn, cười lộn. Một lúc sau nó mới nói: 

– Tại sao sư bá biết là cháu? 

Đinh Xuân-Hoa nghiêm nét mặt lại: 

– Có gì khó đâu. Cứ nhìn mấy con dán, mấy con cóc và mấy con chuột thì biết. Nếu do người thường bắt làm gì có vết nhọn của mỏ chim đâm vào ? Rõ ràng những con vật đó Thần-ưng bắt. Trong thành Lạc-dương này không có người thứ nhì sai nổi Thần ưng, ngoài cháu ra. Ai bảo cháu làm như vậy? Cháu có biết rằng nếu việc này bại lộ, trên từ Chu sư bá, ta, Tường-Qui, Trần Năng và cháu đều mất đầu không? 

Cu Bò sống ở rừng núi, tự do tự tại đã quen. Trong tâm nó, chỉ có Hồ Đề đáng cho nó kính nể. Sau này gặp Trưng Trắc, Trưng Nhị nó vừa kính, vừa nể. Đối với nó Quang-Vũ, triều Hán, chỉ là bọn độc ác, dùng sức mạnh ức chế dân chúng. Bây giờ nghe Đinh Xuân-Hoa hỏi, nó mới biết sợ. Nó đáp gọn lỏn: 

– Sư tỷ Vương Sa-Giang xúi cháu. 

Đinh Xuân-Hoa thất kinh hồn vía hỏi: 

– Vương Sa-Giang cùng với Sún Rỗ thống lĩnh quân đoàn một Tây-vu, yểm trợ đạo binh Nhật-nam của Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa chỉ huy, đóng ở Nam-hải. Sa-Giang đâu có mặt ở đây? Được, cháu thuật hết từ đầu đến cuối mọi truyện cho sư bá nghe. 

Cu Bò thuật: 

– Cách đây hơn tuần, cháu khám phá ra trên bầu trời Lạc-dương, ngoài ba cặp Thần-ưng của cháu, còn có hai cặp nữa. Cháu phất cờ gọi cặp Thần-ưng đó đến, nhìn chữ ở chân cháu biết Thần-ưng Nhật-nam. Cháu viết bức thư, bỏ vào ống đựng thư dưới chân Thần-ưng gửi ra hỏi xem ai tới Lạc-dương. Lát sau có thư đến. Thì ra người mới tới chính là sư huynh Sún Rỗ. Sún Rỗ bắt cháu dấu không cho sư bá với bà Tái-Kênh biết. Đêm hai người đột nhập vào hoàng thành gặp cháu. Hai bên trao đổi tin tức. Sư huynh Sún Rỗ là bề trên, nói gì, cháu chỉ biết tuân theo. Sún Rỗ cho biết anh với Sa-Giang đột nhập Lạc-dương mục đích làm Quang-Vũ tức điên người lên, cho nội cung nhà Hán rối loạn. Có như vậy Quang-Vũ mới không giúp đỡ Ngô Hán đánh chiếm Ích-châu. Lực lượng Ích-châu hiện do Vương-Nguyên với hai con là Vương Lộc, Vương Thọ, cầm cự đang gặp nguy khốn trong sớm tối. 

Suy nghĩ một lúc nó tiếp: 

– Sư tỷ Vương Sa-Giang xúi cháu giết Quang-Vũ cho bõ ghét. Vì Quang-Vũ là chúa Trung-nguyên. Chính y ra lệnh đem quân đánh Lĩnh-Nam. Phải bỏ thuốc độc giết quách cho rồi. Anh Sún Rỗ đưa cháu mấy viên thuốc chữa táo bón cho voi. Nếu cháu bỏ vào thức ăn, Quang-Vũ ắt tiêu chảy mà chết. 

Đinh Xuân-Hoa ngắt lời: 

– Thế nhưng tại sao cháu không bỏ thuốc giết Quang-Vũ, mà chỉ bỏ một ít vào, làm cho y buồn nôn, tiêu chảy nhẹ thôi? 

Cu Bò đáp ngay: 

– Hằng ngày chơi với hoàng tử Trang, công-chúa Đoan-Nhu. Chúng nó đối với cháu rất tốt. Nhất là bà Âm quí-phi, sư tỷ Chu Tường-Qui. Nếu cháu giết Quang-Vũ tất những người ấy họ đau đớn lắm. Cháu nghĩ rằng võ đạo nhà mình dạy chơi với bạn, tránh mọi thương tâm cho bạn, mới phải người nghĩa. Ở cùng người, chẳng nên làm cho thân thuộc người đau khổ, mới phải người hiệp. Vì vậy cháu không giết Quang-Vũ khiến sư tỷ Tường-Qui, Âm quí-phi, hoàng tử Trang, công-chúa Đoan-Nhu phải thương tâm. Cháu mất mẹ từ nhỏ, biết mối buồn không mẹ như thế nào. Cháu đâu muốn bạn cháu mất cha? 

Đinh Xuân-Hoa hỏi: 

– Cháu với Đoan-Nhu đã yêu thương nhau rồi à? 

Cu Bò không hiểu ý sư bá. Nó ngớ ngẩn đáp: 

– Không... không, cháu không biết nữa. Cháu với nó chơi cùng nhau, luyện võ với nhau. Khi xa nó, cháu nhớ, không chịu được. Nó bảo, nó cũng nhớ cháu như vậy. 

Đinh Xuân-Hoa đã tìm ra được đầu mối: Thì ra Cu Bò với công-chúa Đoan-Nhu yêu thương nhau. Bà hỏi tiếp: 

– Còn việc bỏ dán, cóc, chuột vào đồ ăn Quang-Vũ do ý cháu hay do Sa-Giang sai bảo? 

Cu Bò đáp: 

– Hôm trước cháu với hoàng tử Trang, công-chúa Đoan-Nhu đang dạo chơi, bỗng gặp xe Quách-hậu. Con mụ này phách lối lắm. Chúng cháu đã xuống ngựa đứng ven đường, mà mụ còn mắng tại sao bọn cháu không quì. Thái tử Cương cầm roi đánh cháu với Đoan-Nhu. Trở về Đoan-Nhu khóc lóc thảm thiết. Nó cho biết nếu mai này Quang-Vũ băng hà. Tất thái-tử Cương lên làm vua. Quách hoàng-hậu sẽ giết nó, bắt Nam-cung quí-phi cắt chân tay, khoét mắt bỏ vào chuồng lợn như xưa kia Lã hậu đã làm Thích-Cơ. 

Nó liếc nhìn Đinh Xuân-Hoa, thấy mặt bà dịu xuống, nó kể tiếp: 

– Nam-cung quí-phi, hoàng tử Trang, cùng Đoan-Nhu hỏi rằng cháu có thể ra tay giết Quách hoàng-hậu không? Cháu bảo để cháu nghĩ xem đã. Cháu ra ngoài thành vấn kế sư tỷ Sa-Giang cùng Sún Rỗ. Hai người xúi cháu bỏ dán, cóc, chuột vào đồ ăn. Nhất định Quang-Vũ sẽ giận lắm, truất phế Quách hoàng-hậu với thái-tử Cương. Vì vậy cháu mới làm. 

Đinh Xuân-Hoa tìm được đầu mối, bà hỏi: 

– Làm thế nào cháu bỏ dán, cóc, chuột vào đồ ăn được? 

Cu Bò cười: 

– Có gì khó đâu. Cháu lẻn vào cung Tuyên-hòa, dùng trăn quấn lên xà nhà, rồi nằm ở đó. Bọn cung nữ thường núp ở sau rèm, nhìn trộm Quang-Vũ với hoàng hậu ăn. Khi thấy hoàng hậu ra hiệu, chúng mới vào bưng thức ăn ra. Trong thời gian đó, cháu từ xà nhà, tay nắm con trăn như dây, đu mình xuống, bỏ dán, cóc vào đáy bát đựng thức ăn. Cháu nghĩ làm như vậy ắt Quang-Vũ giận uất người lên mà chết được. 

Đinh Xuân-Hoa nắm được hết chi tiết trong vụ này: Cu Bò bị Sún Rỗ, Sa-Giang kiềm chế, xúi nó giết Quang-Vũ. Nó vì tình Đoan-Nhu công-chúa nên chỉ bỏ ít thuốc cho y đau bụng mà thôi. Nó bỏ dán, cóc, chuột vào thức ăn, mục đích hại Quách hoàng-hậu, do Đoan-Nhu xui. Như vậy đầu dây mối nhợ việc hại Quách-hậu chính là Nam-cung quí-phi Âm Lệ-Hoa. 

Bà bảo Cu Bò : 

– Cháu dẫn ta đến chỗ trú ngụ của Sa-Giang, Sún Rỗ. 

Cu Bò ngỡ ngàng: 

– Cháu không biết anh chị ấy ở đâu. Thường, anh chị ấy vào cung gặp cháu. Muốn tìm anh chị ấy, phải nhờ Thần-ưng dẫn đường. Làm như vậy sợ bị lộ tông tích nguy hiểm. 

Vừa lúc đó có tiếng gọi: 

– Lương Tùng! Ngươi đi đâu, để ta tìm ngươi mãi không thấy! Ngươi lại đây ta nói cho nghe truyện này vui lắm. 

Công chúa Đoan-Nhu từ phía bờ hồ chạy lại. Nàng thấy Đinh Xuân-Hoa, vội vàng thi lễ: 

– Đệ tử tham kiến thái sư-bá. 

Đinh Xuân-Hoa vẫy tay gọi: 

– Cháu lại đây! Có truyện gì vui, nói cho ta nghe được không? 

Công chúa Đoan-Nhu lễ phép đáp: 

– Thưa thái sư bá! Có chiếu chỉ ban ra, phong mẫu thân cháu làm chánh cung hoàng-hậu, phế Quách-hậu xuống làm quí-phi. Vì mẹ bị tội. Con cũng bị tội theo. Thái-tử Cương bị giáng xuống làm Trung-sơn vương. Nội ngày mai phải lên đường đi trấn nhậm. Anh cháu được lên ngôi thái-tử. 

Đinh Xuân-Hoa bỏ mặc hai đứa trẻ nô đùa với nhau. Bà trở về Tây-cung tường thuật mọi truyện cho Chu Tái-Kênh với Trần Năng nghe. Trần Năng nói: 

– Thái sư mẫu đừng trách Sa-Giang với Sún Rỗ. Chẳng qua họ vì thù nhà mà phải ra tay. Có điều chúng ta cần dấu Hàn thái-hậu với Chu Tường-Qui. Bằng không tính mệnh Sa-Giang, Sún Rỗ khó toàn. Đối với Hàn thái-hậu, Chu Tường-Qui hay với thái thượng hoàng Trần Tự-Sơn, Thục vẫn là giặc. Chỉ Lĩnh-Nam mới xứng đáng. Hàn thái-hậu, hay Chu Tường-Qui biết truyện này, ắt hai người điểm thị vệ bắt Sún Rỗ, Sa-Giang giết liền. 

Trần Năng đã biết rõ Quang-Vũ không bị đánh thuốc độc, chẳng qua vì uống phải thuốc xổ quá nặng nên sinh bệnh. Bà dùng Lĩnh-nam chỉ, điều trị cho Quang-Vũ trong bảy ngày, bình phục như thường. 

Quang-Vũ phán: 

– Đa tạ Y-tiên cứu mạng trẫm. Có một điều trẫm phải nói thực trước. Y-tiên vì Y-đạo Lĩnh-Nam cứu trẫm. Trẫm luôn nhớ ơn. Còn thế giữa Lĩnh-Nam với Trung-nguyên, trẫm không thay đổi được. 

Trần Năng hỏi: 

– Thần nghĩ, bệ-hạ là Trung-nguyên. Trung-nguyên là bệ-hạ, cái thế giữa Trung-nguyên với Lĩnh-Nam đều nằm trong tay bệ-hạ. Không lẽ sư phụ thần, chính hạ thần... cứu chữa cho bệ-hạ không đủ minh chứng rằng Lĩnh-Nam không thù hận Trung-nguyên ư? 

Chu Tường-Qui xen vào: 

– Hán-trung vương Đào Kỳ chịu chết, cứu bệ-hạ. Thái sư-thúc cứu bệ-hạ một lần. Chu thái sư-mẫu đánh đuổi thích khách. Lương Tùng cứu thái-tử, công-chúa, đoạt Ngọc-tỷ từ tay kẻ gian... và bây giờ Trần sư-thúc cứu bệ-hạ lần nữa... không lẽ bệ-hạ chẳng thay đổi ý định hay sao? 

Sử Trung-quốc chép, Quang-Vũ là người có hùng tài, đại lược, chí lớn nuốt sao Ngưu sao Đẩu. Quang-Vũ sẵn sàng hy sinh tất cả, từ tình máu mủ của mẹ, của các anh, của vợ, của con chỉ để bảo vệ đất Trung-nguyên, làm chúa thiên hạ. Không một hành động, một ý nghĩ nào của Quang-Vũ mà rời xã-tắc. Y xứng đáng đại anh hùng Trung-nguyên. Nghe Tường-Qui tâu, y nói: 

– Ta sủng ái quí-phi. Nhờ quí-phi, ta được cứu thoát bao phen. Các vị hào kiệt Lĩnh-Nam cứu ta là cứu Lưu Tú. Sau này Lưu Tú có chết đi, người kế nghiệp Lưu Tú vẫn phải giữ kỷ cương xã-tắc. Mà dù nhà Đại-hán có mất đi, triều đại khác lên thay, các nước trong thiên hạ vẫn phải phục tùng. 

Y nói với Chu Tái-Kênh: 

– Ta biết lão bà võ công bậc nhất thiên hạ. Ta đã nói thực hết cả. Nếu lão bà không đồng ý, cứ phóng chưởng giết ta đi. Ta chết, mà thành đại anh hùng Trung-nguyên. Người thay thế ta, cũng sẽ bắt Lĩnh-Nam thần phục như thường. Lĩnh-Nam không thần phục, Trung-nguyên đem quân chinh phạt. 

Y nói với Đinh Xuân-Hoa: 

– Đào vương phi là người trông rộng, nhìn xa. Nếu vương phi ở vào địa vị ta, chắc vương phi cũng làm như ta. Vương-phi thử nghĩ xem. Đất không hai mặt trời. Nước chẳng hai vua. Tổ tiên ta gây dựng lên nhà Đại-hán đã mấy trăm năm. Nay nhờ anh hùng thiên hạ, mà trung hưng nghiệp lớn. Ta nhờ nghĩa đệ Nghiêm Sơn đem đại quân diệt Thục. Giữa lúc Thục sắp mất, anh hùng Lĩnh-Nam giúp Thục, làm mất một nửa giang sơn của ta: Lĩnh-Nam, Kinh-châu, Hán-trung, Ích-châu, Trường-an. Trận Trường-an trẫm mất ba mươi vạn hùng binh, mấy ngàn dũng tướng. Ta suýt bị Nguyễn Phương-Dung giết chết. Thục trở thành hùng mạnh, hướng về Trung-nguyên tranh hùng với ta. 

Y thở dài: 

– Lĩnh-Nam với Thục còn liên kết, chia ba thiên hạ. Ta phải diệt Thục, diệt Lĩnh-Nam mới tự tồn. Ta không đánh Thục. Thục cũng đánh ta. 

Quang-Vũ sai lấy một lá cờ đỏ của triều Hán. Y cầm bút viết lên hàng chữ lớn: 

Kiến-Vũ Hoàng Đế nhà Đại-hán. 

Sắc phong Hùng phu nhân làm Y-Tiên. 

Bất kỳ bách quan, từ tam công, tể tướng trở xuống, đều phải tôn trọng. Thấy cờ này, như thấy thiên tử. Khâm thử. 

Y tiếp: 

– Y-tiên cứu trẫm. Trẫm tặng Y-tiên lá cờ này. Biết đâu sau này Y-tiên chẳng dùng tới. Không biết bao giờ Y-tiên về Lĩnh-Nam? 

Trần Năng đáp: 

– Thần sẽ rời Lạc-dương sau đây ba ngày. 

Quang-Vũ nói với Tường-Qui: 

– Xin quí-phi thay trẫm, thù tiếp Y-tiên dùm. 

Mấy hôm sau, Đinh Xuân-Hoa bắt Cu Bò dẫn tới chỗ trú ngụ của Sa-Giang, Sún Rỗ. Cu Bò vâng lệnh. Nó hiện lĩnh chức Vũ-vệ hiệu úy, được tự do xuất thành. Buổi chiều, nó nói dối Chu Tường-Qui rằng, cần đánh xe đưa Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Trần Năng dạo chơi Lạc-dương. Nó ruổi xe đến cửa tây, xe đi vào một ngõ hẻm. Trời chập choạng tối. Xe ngừng lại trong một thửa vườn. 

Sún Rỗ, Sa-Giang từ trong nhà chạy ra reo lên: 

– Cu Bò, sao em tới sớm thế? Ta được Thần-ưng mang thư bảo em sẽ tới đây vào đêm nay. Có một mình, mà em đem cả chiếc xe lớn như thế này đi sao? 

Đinh Xuân-Hoa từ trong xe, mở màn, nhảy xuống nói: 

– Còn ta, còn nhiều người nữa, chứ không phải mình nó đâu. 

Sa-Giang, Sún Rỗ thấy sư mẫu, thì kinh hãi, vội quì xuống hành lễ. Đinh Xuân-Hoa lạnh lùng hỏi: 

– Các con thực lớn mật. Tới đây mà dấu cả ta. Xui sư đệ hành sự liều lĩnh, suýt nữa hỏng cả đại cuộc. 

Sa-Giang ứa nước nắt: 

– Sư mẫu xá tội! Mọi truyện do đệ tử chủ trương cả. Đào nhị ca chỉ thuận theo ý đệ tử mà thôi. Sư mẫu ơi! Ích-châu lâm nguy như ngọn đèn trước gió. Phụ thân đệ tử cùng hai anh Lộc, Thọ không biết sẽ chết về tay Ngô Hán lúc nào. Bọn đệ tử đến đây, hy vọng làm cái gì cứu Ích-châu. 

Chu Tái-Kênh lòng đầy hùng khí. Bà nghe Sa-Giang nói, vội đỡ nàng dậy, an ủi: 

– Ta hiểu cháu. Được! Ta hứa sẽ làm bất cứ điều gì, khả dĩ cứu được Ích-châu ta cũng làm. 

Sa-Giang tươi nét mặt. Nàng nói: 

– Được lời hứa của lão bà, cháu muôn vàn cảm tạ. 

Bỗng Thần-ưng đậu phía sau Sa-Giang ré lên một tiếng, vọt lên cao, nhào xuống bụi cây gần đó trong tư thế tấn công. Trần Năng nhấp nhô một cái, bà đã đứng trước bụi cây, phóng chưởng tấn công. Một người từ bụi cây, vọt lên cao tránh thế chưởng ác liệt. Trần Năng đổi chiêu, hướng chưởng lên trời, xuất chiêu Thanh ngưu nhập điền. Người kia vội đánh từ trên cao xuống một chưởng. Hai chưởng gặp nhau, binh một tiếng lớn. Người kia vọt lên cao. Trần Năng cảm thấy ngực nặng nề, khí huyết đảo lộn. Bà vội vận khí theo kinh mạch, xử dụng Thiền-công, áp dụng Vô ngã giả tướng, phát chiêu Ngưu tẩu như phi. Người kia lộn trên không ba vòng, tà tà đánh xuống một chiêu dũng mãnh. Trần Năng nhận ra chiêu đó chính là chiêu Loa thành nguyệt hạ của phái Cửu-chân. Binh một tiếng nữa. Người kia kêu lên tiếng Ái chà lớn, người bật ra xa hơn hai trượng, rồi đáp xuống. Trần Năng không nhân nhượng, bà chuyển động thân mình, ra chiêu Tứ ngưu phân thi. Người kia chuyển động chân khí, ra chiêu Hải triều lãng lãng. Binh một tiếng lớn. Trần Năng bật lui lại hai bước. Còn người kia đứng im, chưởng lực của y mất tích. Y ngẩn người ra. 

Trần Năng nhận ra người kia. Bà la lớn: 

– Thì ra Bô-lỗ đại tướng quân. Người đường đường làm đại tướng, tước tới hầu. Tại sao lại theo dõi, ẩn núp nghe truyện của chúng ta? 

Mã Vũ (Chu Kim-Hựu) trước đây đã từng theo đạo Kinh-Châu của Đặng Vũõ đánh Thục. Ông rất thân với Trưng Nhị, Trần Năng, nhưng vẫn dấu võ công của mình. Từ hôm Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa khám phá ra Mã Vũ chính là Chu Kim-Hựu. Hai bà chưa nói cho Trần Năng biết. Vì vậy Trần Năng ngạc nhiên. 

Chu Tái-Kênh hỏi Chu Kim-Hựu: 

– Anh Cả! Anh thấy chưa? Chỉ mới bốn mươi năm xa cách, mà võ công Lĩnh-Nam đã tiến đến bậc đó. Người thấy thế nào? 

Đinh Xuân-Hoa bảo Trần Năng: 

– Vị này xuất thân phái Cửu-chân. Người là đại sư huynh của chúng ta. Vì truyện phục hồi Lĩnh-Nam, nên phải ẩn thân làm quan với triều Hán. Con mau ra mắt thái sư bá đi. 

Chu Kim-Hựu vẫy tay: 

– Miễn lễ. Miễn lễ! Hùng phu nhân. Võ công người tiến đến trình độ, mà ta không ngờ tới. Tăng-Giả Nan-Đà quả thực là một vị Phật! Thiền công vô địch thiên hạ. 

Bỗng ông hạ giọng: 

– Thôi chúng ta vào nhà nói truyện. Có nhiều biến chuyển mới rồi đây. 

Sa-Giang pha trà mời khách. Cu Bò cho Thần-ưng gác phía ngoài cẩn thận. 

Chu Kim-Hựu buồn rầu nói: 

– Quang-Vũ mới cho nghị sự với tam công đại thần. Y cương quyết trước diệt Thục, sau đánh Lĩnh-Nam. Y cho xuất phát năm đạo binh. Tổng số hơn trăm vạn. Trong khi Lĩnh-Nam chỉ có ba mươi vạn. Mối nguy khó cứu vãn. 

Chu Tái-Kênh gật đầu: 

– Y đã nói với Trần Năng rằng: Y chịu ơn Lĩnh-Nam. Song vì xã-tắc y phải đánh Lĩnh-Nam với Thục. Em nghĩ y sẽ cho Ngô Hán đánh Ích-châu thực gấp, rồi đổ quân đánh xuống Lĩnh-Nam qua ngã Độ-khẩu, đó là đạo thứ nhất. Ngô Hán có ba mươi vạn quân. Trong khi công-chúa Nguyệt-đức Phùng Vĩnh-Hoa chỉ có bảy vạn. Về tài dùng binh, Ngô hơn Vĩnh-Hoa. Về mưu kế, Vĩnh-Hoa hơn Ngô. Ta khó giữ nổi Tượng-quận. 

Trần Năng xen vào: 

– Đạo thứ nhì chắc hẳn do Mã Viện đem quân từ Kinh-châu, vượt Trường-giang đánh xuống hồ Động-đình. Mã không phải địch thủ của công-chúa Phật-Nguyệt. Quân Mã khoảng ba mươi vạn. Tuy Phật-Nguyệt mới thắng trận, song nguyên khí tổn hại quá nhiều. Nếu đánh nữa, e không còn quân bổ xung. Trường-sa nguy mất. 

Bà hỏi Sa-Giang: 

– Không biết tình hình Nam-Hải thế nào? 

Sa-Giang đáp: 

– Tại Nam-hải có đạo binh Nhật-nam, Nam-hải. Lực lượng thủy quân của Đô-đốc Trần Quốc. Tổng cộng khoảng mười lăm vạn, cộng với năm vạn quân địa phương Nam-hải. Trong khi Đoàn Chí có mười lăm vạn thủy quân. Lưu Long có ba mươi vạn quân kị, bộ. Nếu xảy ra chiến tranh, Đoàn Chí không phải địch thủ của Trần Quốc. Lưu Long không phải địch thủ của công-chúa Thánh-Thiên. Mặt này yên tâm. 

Chu Kim-Hựu gật đầu: 

– Ta cũng nghĩ thế. Ta lo nhất là đạo quân thứ tư. Đó là đạo của Lê Đạo-Sinh và đám đệ tử của y. Chúng đang len lỏi trong đám dân chúng, chiêu mộ, đe dọa, hứa hẹn các Lạc hầu theo chúng, làm nội ứng, khi quân Hán kéo sang. Đạo thứ năm còn đáng sợ hơn. Đất Tượng-quận, mười người Hán mới có một người Việt. Quân tướng, hầu hết là người Hán. Quang-Vũ cho người len lỏi đến phong chức tước cho bọn tướng sĩ, bọn Lạc hầu nổi lên làm nội ứng. 

Ông hỏi Trần Năng: 

– Lĩnh-Nam còn quân trừ bị không? 

Trần Năng lắc đầu: 

– Chỉ còn đạo Cửu-chân, phải đề phòng Nhật-nam, Cửu-chân, Giao-chỉ. Theo sư-thúc Đào Kỳ, vạn nhất xảy ra chiến tranh, chúng ta chỉ thủ, hoặc nếu cần, rút lui, nhử địch vào sâu, rồi một mặt dùng du kích đánh phía sau như hồi An-Dương vương đánh Tần. Đợi chúng mệt mỏi ta mới phản công. 

Chu Kim-Hựu gật đầu: 

– Đành như thế thôi. Lĩnh-Nam đất rộng, người thưa, lại mới phục hồi. Hán đông gấp trăm mình. Đánh một trận, hai trận mình thắng. Chứ đánh mười trận, trăm trận thì mình bại. Đánh một tháng, hai tháng, thì mình chịu được. Chứ đánh một năm, hai năm thì mình thua. 

Ông ngưng lại đặt câu hỏi với Chu Tái-Kênh: 

– Hiền muội có biết tại sao Quang-Vũ phải dốc toàn lực quân nghiêng nước đánh Lĩnh-Nam không? 

Chu Tái-Kênh suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu. Trần Năng nói: 

– Quang-Vũ đã nói với cháu. Y phải đánh Lĩnh-Nam, mới mong bảo vệ sự nghiệp tổ tiên. Sư thúc Lương Tùng thân với thái-tử Trang, được thái-tử cho biết Quang-Vũ thường làm việc khuya. Trong khi làm việc, y bắt thái-tử Trang đứng cạnh, giảng giải cho nghe, hầu quen việc. Y nói: Từ khi Lĩnh-Nam phục hồi, anh hùng suy cử Trưng Trắc làm hoàng-đế. Lĩnh-Nam dùng đức cai trị dân. Trên dưới một lòng. Từ vua đến quần thần, đối xử như cha con, anh em. Các đại thần triều Hán rục rịch nhìn về Lĩnh-Nam, muốn Quang-Vũ cải tổ nền nội trị. Một vài nơi, anh hùng nổi dậy, kéo cờ Thế thiên hành đạo. Đánh đến đâu, cho dân chúng suy cử hào kiệt như bên Lĩnh-Nam. Vì vậy y phải diệt Lĩnh-Nam bằng mọi giá, hầu bảo vệ sự nghiệp triều Hán. 

Chu Kim-Hựu gật đầu: 

– Đúng như thế. Thuế Lĩnh-Nam nhẹ, dân ra sức trồng cấy. Nếu cứ đà này, trong năm năm nữa, Hán không đương nổi Lĩnh-Nam. 

Cu Bò móc trong túi ra một bức thư. Nó trình cho Chu Tái-Kênh coi. Nó nói: 

– Sư bá! Hồi chiều Thần-ưng từ Giao-Chỉ mang sang bức thư. Đệ tử không dám coi. Trình sư bá định liệu. 

Chu Tái-Kênh nói lớn: 

– Bọn thần kính cẩn tiếp chiếu chỉ. 

Bà cầm chiếu đọc nói: 

– Hoàng-thượng đã biết vụ Quang-Vũ quyết chí diệt Lĩnh-Nam. Ngài họp tam công, triều thần nghị sự. Đào Kỳ ước tính rằng: Đoàn Chí, Lưu Long, cũng như Mã Viện đánh xuống Lĩnh-Nam, hai mặt Trường-sa, và Nam-hải đủ sức chống cự. Duy mặt Tượng-quận quá yếu, thiếu đại tướng võ công cao. Hoàng-thượng ban sắc chỉ cho Đào vương phi làm: 

Tĩnh-trai công-chúa. 

Đinh Xuân-Hoa hướng về phía nam lễ tạ. Chu Tái-Kênh tiếp: 

– Ngài muốn ta, cùng với Tĩnh-trai công-chúa, dẫn Yên-Lãng công-chúa Trần Năng đến Tượng-quận, trợ công-chúa Nguyệt-đức Phùng Vĩnh-Hoa. Mọi việc ở đây, trao cho đại ca với Lương Tùng lo liệu. 

Chu Kim-Hựu quì xuống, hướng về phía Nam lễ bốn lễ: 

– Thần xin kính cẩn tuân chỉ dụ của hoàng-thượng. 

Ông bảo Chu Tái-Kênh: 

– Ngày mai, em đến yết kiến Mã thái-hậu, từ biệt bà, nói rằng về Lĩnh-Nam chờ đợi. Khi quân Đoàn Chí đánh xuống Thường-sơn, Đông-sơn, hai em sẽ làm nội ứng. Rồi dùng thẻ bài của mụ vào Thục, đánh lừa Ngô Hán, dò tin tức, hầu giúp công-chúa Nguyệt-đức. Không chừng Mã hậu còn ra lệnh đến Ngô Hán giao cho em một đạo quân. Vì chúng tưởng hai em cũng giống như thầy trò Lê Đạo-Sinh. Bấy giờ hai em dùng quân Hán, đánh Hán mới vui. 

Trần Năng nói với công-chúa Tĩnh-trai Đinh Xuân-Hoa: 

– Thái sư-mẫu. Đệ tử có cảm tưởng như Quang-Vũ biết hết việc làm của chúng ta, của Tường-Qui và của Mã thái-hậu. Vì vậy y mới có quyết định đi ngược với chủ trương chúng ta. Chúng ta vừa hạ được phe Quách-hậu chủ trương diệt Lĩnh-Nam. Lập tức y truyền chỉ kéo quân nghiêng nước đánh Lĩnh-Nam. Hoàng-thượng cho chúng ta sang Trung-nguyên, khích Mã thái-hậu dùng áp lực đánh xuống Nam-hải. Quang-Vũ dùng năm đạo quân đánh Lĩnh-Nam, và chọn mặt trận Thục làm chính. 

Tĩnh-trai công-chúa suy nghĩ một lúc, đáp: 

– Có thể như thế. Không chừng chúng ta hành sự sơ hở để Quang-Vũ cài người vào, hoặc để y biết được kế sách. Mà dù y không biết kế sách của ta. Y cũng hành động như thế. Từ trước đến giờ, khi một người lên làm vua Trung-nguyên, lập tức họ muốn đánh chiếm các nước xung quanh. Anh hùng, hiệp nghĩa như Thiên-sơn thất hùng, mới làm chúa Ích-châu, lo chống đỡ lấy bản thân mình không xong. Thế mà khi Lê Đạo-Sinh đến xin giúp đỡ. Đã vội vã hứa khi chiếm được thiên hạ, phong cho Lê làm vua Lĩnh-Nam. Trưng hoàng-đế đã phán: Dù ai làm chúa Trung-nguyên, dù ở thời nào cũng thế. Chúng ta phải làm cho nước giàu, dân mạnh, trên dưới một lòng, mới hy vọng làm mất dã tâm xâm chiếm đất nước mình. Cứ coi cái gương Tần Thủy-Hoàng mạnh biết dường nào. An-Dương vương diệt Đồ Thư và năm mươi vạn quân. Thủy-Hoàng không dám đánh Lĩnh-Nam nữa. 

Chu Tái-Kênh thở dài: 

– Ta thực xấu hổ. Hoàng-thượng cử em với ta sang Trung-nguyên giúp Chu Tường-Qui, liên kết đại thần, nội cung triều Hán, hầu làm cho Quang-Vũ bỏ ý định diệt Lĩnh-Nam, hoặc giả kéo dài được ít năm. Giúp Tường-Qui thì chúng ta thành công. Liên kết với hậu cung, đại thần, chúng ta đã làm được. Đánh phá phe chủ trương chiếm Lĩnh-Nam, chúng ta đã làm xong. Không ngờ, chúng ta không diệt được cái ông con trời trong tâm Quang-Vũ. Y nghĩ mình là con trời, nhất định diệt hết lân bang để ngồi trùm thiên hạ. Đất không hai mặt trời. Nước không hai vua. Bây giờ chỉ còn một đường. Dùng võ lực. 

Yên-lãng công-chúa Trần Năng nổi giận: 

– Sư mẫu! Nếu phải dùng võ lực, chúng ta chọn đường lối nào ít tốn xương máu nhất mà thi hành. Ngay đêm nay, chúng ta bất thần giết chết Quang-Vũ, tam công, tể tướng. Nếu có chết, chỉ chết ba chúng ta với Cu Bò là cùng. Làm như vậy, khiến cho triều đình nhà Hán rối loạn. Các hoàng tử tranh nhau ngôi vua. Họ không còn nghĩ đến đánh Lĩnh-Nam nữa. 

Tĩnh-trai công-chúa Đinh Xuân-Hoa suy nghĩ một lúc, rồi bà đưa mắt hỏi ý kiến Vương Sa-Giang. Vì bà biết cô nàng dâu này kiến thức không thua gì Trưng Nhị, mưu mẹo chẳng nhường Phùng Vĩnh-Hoa, nàng lại hiểu nhiều về Trung-nguyên. Sa-Giang biết ý sư mẫu. Nàng kính cẩn thưa: 

– Thưa sư mẫu, cần tính toán cho cẩn thận. Khi đã ra tay, phải thành công. Ở đây chúng ta có bảy người. Giết Quang-Vũ dễ nhất, ta để cho Cu Bò thi hành. Cu Bò vào cung Tuyên-hòa, thông thuộc đường lối, chạy chơi với Đoan-Nhu, không ai để ý. Bất thần y bỏ thuốc độc giết Quang-Vũ. Còn tể tướng, tư không, tư đồ không biết võ công. Chúng ta ba người có thẻ bài của Mã thái-hậu, đường đường chính chính đến dinh của họ, xin vào yết kiến, roi bất thần phóng chưởng giết chết. Còn đại tư mã Đặng Vũõ là bạn của Lĩnh-Nam. Chúng ta xuất thân nghĩa hiệp, không thể giết bạn. 

Chu Tái-Kênh tính xa hơn: 

– Việc này rất quan trọng. Chúng ta cần tấu chương về xin chỉ dụ của hoàng-thượng, rồi hãy làm. 

Chu Kim-Hựu bàn: 

– Chúng ta giết Quang-Vũ, tam công, tể tướng nhất định là thành công rồi. Ta đề nghị thế này: Chỉ còn mấy ngày nữa. Quang-Vũ cùng đại thần đến tế nhà Thái-miếu. Trước lễ tế Thái miếu mấy ngày, ngự trù dâng rượu ngon. Rượu này quan Thái-y, ngự trù phải nếm trước xem có thuốc độc hay không. Sau đó rượu được đưa vào cung Tuyên-hòa, giao cho hoàng hậu cất giữ. Sáng hôm tế, hoàng hậu mới đem ra trao cho thái giám mang đi. Sau khi tế Quang-Vũ uống một ly. Sau đó ban cho quần thần. Vậy chúng ta giao thuốc độc, với liều nhẹ trao cho Cu Bò. Cu Bò lén bỏ thuốc vào. Quang-Vũ, quần thần uống xong tất sinh bệnh. Y mời Yên-Lãng công-chúa tới chữa trị. Công chúa chỉ việc dùng Lĩnh-Nam chỉ, phóng vào ngực y, giết chết tại chỗ. Trong khi đó, Tái-Kênh, Xuân-Hoa với ta cùng ra tay giết tam công, tể tướng. Hoàn tất kế hoạch chúng ta bỏ chạy lên phía bắc, rồi đến Nam-xương. Sư đệ Trần Kim-Hồ cấp thuyền cho chúng ta về Lĩnh-Nam. 

Cu Bò ngơ ngác hỏi: 

– Thưa sư bá sao không chạy về phía Nam? 

Chu Tái-Kênh đáp: 

– Lĩnh-Nam ở phương Nam. Chúng ta giết Quang-Vũ, tất chúng cho thiết kị đuổi về phương Nam. Trong khi đó, chúng ta chạy lên phía Bắc. 

Chu Kim-Hựu biểu đồng tình: 

 – Chúng ta chia làm hai toán. Hiền muội Trần Năng, với ta giết Quang-Vũ, quần thần. Còn Xuân-Hoa, với Cu Bò, Đào Nhị-Gia và Sa-Giang chia nhau ẩn núp trong hoàng cung. Khi Trần Năng, giết Quang-Vũ rồi, ra hiệu cho Thần-ưng bay vọt lên cao. Các vị ở ngoài biết đã thành công, cùng ra tay đốt cung điện. Xuân-Hoa đốt lầu Thúy-hoa. Cu Bò Lương Tùng đốt cung Tuyên-hòa. Sún Rỗ Đào N hị-Gia đốt điện Gia-đức. Cháu Sa-Giang đốt điện Ôn-minh. Hoàng cung náo loạn lên, chúng ta có dịp chạy trốn. 

Bỗng có tiếng vọng lại: 

– A Di Đà Phật! Tại sao bỗng nhiên sát nghiệp lại nổi lên thế này. Giết kẻ bạo tàn, mình cũng thành kẻ bạo tàn. Có khác gì đâu? 

Trần Năng nói nhỏ với mọi người: 

– Bồ-tát Tăng-giả Nan-đà đấy. 

Bà kêu lớn lên: 

– Sư phụ! Sư phụ ở đâu? Xin xuất hiện cho đệ tử được tương kiến? 

Không có tiếng đáp lại. 

Cu Bò hỏi Đào-nhị-Gia: 

– Anh Sún Rỗ! Tại sao có người đến, mà Thần-ưng không báo cho mình? 

Đào-nhị-Gia lắc đầu: 

– Em phải nhớ rằng: Thần-ưng không khôn như người. Chúng chỉ phân biệt được kẻ địch với chúng ta. Kẻ địch chúng báo động. Còn giữa chúng ta, chúng để nguyên. Với chúng, Tăng-giả Nan-đà là thánh nhân, ngài đã từng thân thiện với chúng ta. Chúng tưởng là bạn. 

Chàng huýt sáo. Một Thần-ưng bay tới, chàng chỉ, trỏ ra lệnh. Nó bay vút lên cao, tới ngôi vườn trống đâm bổ xuống, kêu lên mấy tiếng. Cu Bò reo: 

– Có nhiều người nhà ở vườn bên kia. 

Chu Tái-Kênh vẫy mọi người cùng chạy sang. 

Trên một mỏm đá, Tăng-giả Nan-đà đang ngồi nhập định. Cạnh ngài còn hai người nữa: Nguyễn Phan, Trần Tự-Sơn. 

Trần Năng đến trước Tăng-giả Nan-đà quỳ xuống hành lễ: 

– A Di Đà Phật! Đệ tử có phúc duyên, lại được tham kiến sư phụ ở đây. Sư phụ giá lâm đã lâu chưa? 

Trong khi đó Chu Kim-Hựu đến trước Trần Tự-Sơn cung kính hành lễ: 

– Thần, Mã Vũ kính cẩn ra mắt vương gia. 

Trần Tự-Sơn vẫy tay: 

– Bô-lỗ đại tướng quân. Việc làm của ngươi ta biết từ lâu rồi. Lần đầu tiên gặp ngươi ở Trường-an, ta đã biết ngươi thuộc giòng dõi trung lương đất Lĩnh-Nam nhà mình. Song ngươi cũng như ta, cùng mưu đồ phục quốc. Việc làm phải giữ bí mật. Lộ ra, không những mất mạng, mà việc phục quốc càng thêm khó khăn. Trong trận đánh nhau với Sầm Bành ở Côn-dương. Ngươi bị Sầm Bành đánh bại. Sầm đuổi theo ngươi đến phía Nam. Người quay lại, đánh lui Sầm bằng võ công Cửu-chân. Ta lược trận phía sau nên biết rõ hết. 

Chu Kim-Hựu nghe nói, mồ hôi ướt đầy áo. Nguyên hồi đó, võ công Cửu-chân của ông thừa sức thắng Sầm Bành, mà không dám xử dụng. Ông trá bại, đến phía nam, tưởng không có ai. Ông xử dụng võ công Cửu-chân chỉ đánh hơn năm mươi chiêu, đã thắng y. Việc đó, ông tưởng chỉ mình ông với Sầm biết. Không ngờ Trần Tự-Sơn biết từ lâu. Nếu Tự-Sơn không cùng một chí hướng với ông, việc ông ẩn thân trong quân Hán đã bị lộ. Ông bị chặt đầu từ lâu. 

Tăng-giả Nan-đà chắp tay nói: 

– Các vị bàn việc ám sát Quang-Vũ, với các đại thần thực không ổn. Giữa Lĩnh-Nam với Trung-nguyên, nên tìm cách hóa giải. Hơn là cứ chém giết nhau mãi. Quang-Vũ ác độc thực. Nay các vị giết Quang-Vũ, tức lấy bạo tàn thay bạo tàn, còn đâu là đức của người nghĩa hiệp? 

Chu Tái-Kênh chưa biết Tăng-giả Nan-đà. Bà không phục: 

– Như lời đại sư nói, chúng tôi đành đưa cổ cho Quang-Vũ giết sao? 

Trần Tự-Sơn thở dài, nói với Chu Tái-Kênh: 

– Trần phu nhân. Tôi không dám tự hào mình có đại công với Lĩnh-Nam. Tôi với Khất đại phu có tình chú cháu. Phu nhân là thím của tôi. Tôi không dám dùng chức tước Thái thượng-hoàng mà hoàng-đế Lĩnh-Nam tặng cho tôi. Tôi chỉ xin tất cả các vị hãy vì tôi, mà hứa: Không bao giờ giết nghĩa huynh Quang-Vũ. 

Đinh Xuân-Hoa, Chu Kim-Hựu, Trần Năng, Sún Rỗ, Sa-Giang tuân phục Trần Tự-Sơn đã quen. Tất cả đều gật đầu. Riêng Cu Bò, nó mới được cử làm tướng chỉ huy sư Thần-ưng gần đây. Nó nghe nói về Trần Tự-Sơn, mà chưa biết mặt. Bây giờ thấy ngài như hạ lệnh cho sư bá, sư huynh. Nó thấy sư bá Chu Kim-Hựu gọi ngài bằng vương gia, nay nghe ngài kể rằng Quang-Vũ là nghĩa huynh. Nó cho rằng ngài là đại thần nhà Hán. Nó bực mình: 

– Chúng tôi, là con dân Lĩnh-Nam, chỉ biết tuân chỉ chị hoàng-đếá thôi. Ông muốn bảo chúng tôi đừng giết Quang-Vũ, e còn khó hơn bắc thang lên trời. Ông không tự biết mình tí nào hết. Bộ ông không muốn sống nữa sao? 

Trời cho Trần Tự-Sơn có con mắt tinh đời. Ông từng lãnh đạo hàng triệu tướng sĩ Hán, Lĩnh-Nam. Cho nên chỉ liếc qua một cái, ông phân biệt được kẻ trung người nịnh. Chính ông đã nhìn ra chân tài Trưng Nhị, Nguyễn Phương-Dung, Đào Kỳ, Phùng Vĩnh-Hoa, khi cha mẹ, sư phụ của họ chưa biết được họ. Nghe Cu Bò nói, ông vẫy tay ra hiệu cho Chu Kim-Hựu, Đinh Xuân-Hoa đừng ngăn cản Cu Bò. 

Ông mỉm cười hỏi: 

– Chú em, chú tên gì? Sư phụ tên gì? 

Cu Bò thấy Trần Tự-Sơn không giận dữ. Nó bớt nóng nảy hơn: 

– Tôi sinh ra, không biết tên cha mẹ. Sư tỷ Hồ Đề bảo cha tôi tên Lạc-Long-Quân, mẹ tôi tên Âu-Cơ. Sư phụ tôi họ Đào tên Thế-Hùng người là đại anh hùng, đại hào kiệt Lĩnh-Nam, người đã tuẫn quốc. 

Trần Tự-Sơn mỉm cười sung sướng: 

– Thì ra thế. Chú em xuất thân danh gia có khác. Hèn chi khí phách hơn đời. Ta hỏi chú nhé: Nếu chú có người anh kết nghĩa, bị người ta bàn kế giết chết. Chú có ngăn cản không? 

Cu Bò vỗ tay vào nhau: 

– Thông thường tôi ngăn cản. Ngược lại nghĩa huynh làm hại Lĩnh-Nam. Không những tôi ngăn cản, mà đích thân tôi giết nghĩa huynh nữa. Giết một nghĩa huynh, mà yên trăm họ Lĩnh-Nam tại sao không? 

Trần Tự-Sơn liếc nhìn Chu Kim-Hựu, Đinh Xuân-Hoa mỉm cười. Ông sống bên cạnh Hoàng Thiều-Hoa, Đào Kỳ đã lâu. Ông không lạ gì đường lối võ đạo Cửu-chân: Đặt đất nước trên hết. Cu Bò được Đào Quí-Minh thay cha nhận làm sư đệ. Võ công, võ đạo của nó hoàn toàn do Đào Quí-Minh dạy. Từ ngày đến Lạc-dương, do Đinh Xuân-Hoa dạy. Ông cười: 

– Chú chỉ biết một mà không biết hai. Nếu bây giờ Lĩnh-Nam giết Quang-Vũ, đương nhiên thành công. Ngặt một điều, trong triều hiện có nhiều phe phái thân Lĩnh-Nam. Nhiều phe phái muốn diệt Lĩnh-Nam. Khi các vị giết Quang-Vũ, tam công, đại thần, Trung-nguyên sẽ có hoàng-đế mới. Toàn Trung-nguyên, triều Hán đều trở thành thù hận Lĩnh-Nam. Bấy giờ họ kéo đại binh sang đánh, lấy lý do trả thù, triệu người như một. Lĩnh-Nam làm sao chống nổi? 

Ông ngừng lại nhìn Trần Năng tiếp: 

– Ta dựng lên triều đình Đông Hán, ta hiểu các đại thần hơn hết. Không phải ai cũng ác độc. Ai cũng muốn diệt Lĩnh-Nam. Ngươi thấy đó, triều thần Đông-Hán có người như Hoài-nam vương, như Đặng Vũ, như Ngô Hán, và cũng có loại người như ta, như Mã Vũ. Hiện nay phe thân Lĩnh-Nam có những người xung quanh Hàn thái-hậu, Âm hoàng-hậu, Chu quí-phi. Đại thần có Đặng Vũ, Mã Vũ, Chu Hựu, Trần Kim-Hồ... và nhiều nữa. Phe chủ trương diệt Lĩnh-Nam có phe đảng của Mã thái-hậu, Quách hoàng-hậu, Chu-Long. Hai phe gờm nhau từng bước, từng bước. Quang-Vũ lo sợ ngai vàng lung lay, y ngả theo phe chủ chiến. Trong năm mặt trận. Đáng sợ nhất là mặt trận của thầy trò Lê Đạo-Sinh với đám người Hán ở Lĩnh-Nam. Còn ba đạo Ngô Hán, Mã Viện và Lưu Long, Đoàn Chí không đáng lo. Tại sao? Cả ba người đều dùng dằng không muốn tiến binh. Họ sợ tiến binh trước, sẽ anh hùng Lĩnh-Nam phản công. Đạo nào cũng chờ cho hai đạo kia tiến binh trước. Dù thắng, dù bại, Lĩnh-Nam hao tổn nguyên khí. Bấy giờ họ mới tiến binh. Vậy ta chỉ cần phái ba người, miệng lưỡi cho giỏi, tới thuyết Ngô, Mã, Lưu. Khiến ba nơi đều chần chờ. Ta bất thần tập họp binh mã, đánh một trận, dẹp tan một trong ba đạo. Hai đạo kia kinh hồn táng đởm. Trong khi đó phe chủ hòa ở triều sẽ bàn truyện bãi binh. 

Chu Tái-Kênh liếc nhìn Đinh Xuân-Hoa, Sa-Giang, Sún Rỗ gật đầu. Bà nói: 

– Bọn chúng tôi không nghĩ sâu xa. Suýt nữa hồ đồ, làm hại đại cuộc. Mong thái thượng hoàng đại xá cho. 

Trần Tự-Sơn cười: 

– So vai vế, người là thím của tôi. Thím đừng dạy quá lời. Huống hồ nay tôi đã theo Bồ Tát, pháp danh của tôi là Tử-Lăng. Nghiêm Sơn thành Trần Tự-Sơn. Trần Tự-Sơn chết rồi. Từ nay chỉ còn Tử-Lăng mà thôi. Xin các người nhớ cho. Các người muốn gọi tôi bằng danh từ Trần Tử-Lăng, Nghiêm Tử-Lăng tùy ý. 

Sún Rỗ hỏi: 

– Đại ca Tử-Lăng! Thế còn sư tỷ Thiều-Hoa đâu? 

Tử-Lăng chỉ về phía hoàng thành: 

– Nàng nhập hoàng thành vấn an Hàn thái-hậu. 

Tăng-giả Nan-đà lên tiếng: 

– Chúng ta đi thôi. 

Thấp thoáng một cái. Ba người đã biến vào đêm tối mất dạng. 

Chu Kim-Hựu bàn: 

– Vậy hiền muội, sư muội Trần Năng trở về Lĩnh-Nam tường trình mọi sự lên hoàng-đếá. Sa-Giang, Sún Rỗ về Nam-hải. Ta với Cu Bò ở lại đây. 

Hôm sau ba người vào cung cáo từ Hàn thái-hậu, Quang-Vũ, Chu Tường-Qui lên đường về Lĩnh-Nam. Trong con mắt của Quang-Vũ, Chu Tường-Qui, ba người là anh hùng Lĩnh-Nam không thể nào chiêu dụ được. Còn Mã thái-hậu, vì cái kho tàng lớn lao, làm mụ mê muội. Mụ tưởng ba người cùng một thứ như Lê Đạo-Sinh, mụ có thể dùng công danh sai bảo. Mụ ban chỉ dụ cho ba người phải làm nội ứng khi quân Hán đánh xuống. Nếu có điều gì cần, cứ đưa thẻ bài ra. Dù Ngô Hán, Mã Viện, Lưu Long cũng phải giúp đỡ. 

Ba người lấy ngựa, hướng Hán-trung tiến phát. Hơn một ngày mới tới Trường-an. Trần Năng chỉ cho Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa biết nơi đã diễn ra trận chiến kinh hồn táng đởm giữa quân Việt-Thục với Hán, khiến Quang-Vũ phải bỏ Trường-an rút về Đồng-quan. Chu Tái-Kênh than thở: 

– Nếu không xảy ra vụ Công-tôn Thi. Có lẽ giờ này Hán vẫn còn sợ Thục, Lĩnh-Nam. Chứ có đâu Lĩnh-Nam phải ưu tư như thế này. Không biết tên Công-tôn Thi hiện giờ ở đâu? Chúng ta phải tìm y, băm vằm ra cho bỏ ghét. 

Bỗng Trần Năng nói sẽ: 

– Có sáu người đang phi ngựa từ phía sau sắp tới. 

Quả nhiên, lát sau, sáu người phi ngựa tới. Một người trang phục theo lối đại quan, và năm người theo lối đại tướng quân. Họ thấy ba phụ nữ đeo kiếm, gò ngựa đứng bên đường, thì liếc mắt nhìn, rồi phi tiếp. 

Trần Năng rất kinh nghiệm về quan chế nhà Hán. Bà nói: 

– Người quyền quí ít ra cũng tước hầu, bá. Còn năm người võ tướng, võ công rất cao, e họ không thua gì bọn Phong-châu song-quái. Có lẽ họ từ Lạc-dương vào Thục gặp Ngô Hán đây. Không chừng họ là sứ giả của Quang-Vũ cũng nên. 

Hôm sau, ba người đi vào địa phận Dương-bình-quan. Trần Năng nhìn lại thành xưa. Trước đây anh hùng Lĩnh-Nam đánh Thục giúp Hán, rồi phản Hán trợ Thục. Bây giờ, thành lại thuộc Hán. Cuộc đời như lớp sóng. Lớp này lên, lớp kia xuống, khó biết sau này sẽ ra sao. Rời Dương-bình-quan, ba người đi về phía Kiếm-các. Bỗng Trần Năng chỉ về phía trước. Chu Tái-Kênh nhìn theo: Vẫn người quyền quí, và năm võ tướng hôm trước, đang thả ngựa ăn cỏ. Họ cùng ngồi dưới gốc cây nghỉ ngơi. Chu Tái-Kênh nháy hai người, rồi cùng gò ngựa, cột vào gốc cây gần đó lấy lương khô ra ăn. 

Một võ tướng nói với người quyền quí: 

– Vương đại ca. Đại ca thử đoán xem, ba người đàn bà kia võ công đến trình độ nào ? Kiếm của họ dài và nhỏ. Tiểu đệ chưa hề thấy qua. 

Người quyền quí họ Vương đáp: 

– Đúng đấy! Kiếm của họ là kiếm Lĩnh-Nam. Có lẽ ba người này từ Lĩnh-Nam tới. Đàn bà Lĩnh-Nam võ công rất cao cường. Trước đây họ theo Lĩnh-Nam vương đánh Thục, rồi phản Hán trợ Thục. Các đại tướng vô địch như Sầm Bành, Cảnh Yểm, Phùng Dị đều mất mạng về tay họ đấy. Phạm lục đệ không nên gây hấn với họ. 

Nội công Chu Tái-Kênh rất cao. Bà nghe rõ hết. Bà sẽ thuật cho Trần Năng với Đinh Xuân-Hoa nghe. 

Phía bên kia, gã họ Phạm lại nói: 

– Đệ không tin. Để tiểu đệ thử xem. 

Miệng nói, gã họ Phạm đứng lên tiến về phía ba người. Chu Tái-Kênh bảo Trần Năng: 

– Năng nhi! Con đừng quay lại, con nhắm đầu gối tên họ Phạm, điểm một chỉ. Cốt đánh ngã y, chứ đừng giết y. 

Trần Năng nghe sư mẫu nói. Bà chĩa ngón tay trở về sau, nhắm đầu gối gã họ Phạm điểm một cái. Gã họ Phạm tiến tới cách ba người hơn trượng. Tự nhiên thấy đầu gối như bị cái dùi đâm vào, khiến gã không tự chủ được, kêu lên một tiếng, ôm gối ngã lăn ra. 

Người họ Vương kêu lên: 

– Cái gì vậy? 

Cả năm người chạy lại, đỡ gã họ Phạm lên. Đầu gối bị sưng lớn, máu bầm tím. Trong khi đó bọn Chu Tái-Kênh vẫn không quay trở lại. Người họ Vương tiến tới phía sau, mà bọn Chu Tái-Kênh vẫn lờ đi như không biết. Y lên tiếng hỏi: 

– Các vị là ai? Vào Ích-châu có việc gì? Tại sao lại đánh lục đệ của ta bị thương? 

Chu Tái-Kênh, vốn tính ngỗ nghịch. Đến Trưng-đế bà còn không sợ. Bà trả lời bằng giọng ngang tàng: 

– Chúng ta là công-chúa, con Ngọc-hoàng-thượng đế. Chúng ta có việc vào Ích-châu cũng như các ngươi vậy. Còn gã họ Phạm kia, chắc đi ăn trộm, bị người ta đánh cho bị thương. Thế mà ngươi bảo chúng ta đánh y, thực vô lý. Chúng ta đánh bằng gì? Chiêu thức nào? Các ngươi có tới mười hai con mắt, các ngươi có mù đâu mà không thấy? 

Một người to lớn, mặt đen như nhọ chảo nổi giận quát lên: 

– Ta là Lê Hựu, một đời dọc ngang. Há để cho bọn đàn bà các ngươi nhục mạ sao? 

Miệng nói y phóng chưởng tấn công Chu Tái-Kênh. Chưởng lực của y hùng hậu vô cùng. Chưởng phong ào ào chụp tới. Trần Năng ngồi gần y nhất. Bà vọt người lên cao. Còn lơ lửng trên không, bà đã phất chiêu Loa thành nguyệt ảnh đánh xuống đỉnh đầu gã Lê Hựu. Lê Hựu thấy chưởng lực của bà hung dữ, khắc chế với chưởng của y. Y vội nhảy lui lại, đổi chiêu, hướng chưởng lên cao đỡ. Binh một tiếng. Người y bật lui lại ba bước. Trong khi Trần Năng đáp xuống đất, ung dung nhìn y. 

Lê Hựu hít một hơi, vận chưởng đánh tiếp, miệng hô lớn: 

– Thì ra ngươi là một cao thủ. Hãy tiếp chưởng nữa của ta. 

Trần Năng ra chiêu Ngưu tẩu như phi. Bà vẫn chưa vận Thiền-công. Chưởng phong ào ào tuôn ra. Binh một tiếng. Lê Hựu lui lại ba bước. Còn bà vẫn đứng ung dung. Thắng bại đã phân. Người họ Vương nói: 

– Ngô nhị đệ! Ngươi giúp Lê ngũ đệ một tay. 

Gã họ Ngô dạ một tiếng. Y vung chưởng tấn công Trần Năng, trong khi Lê Hựu cũng đánh tới. Trần Năng phát chiêu Lưỡng ngưu tranh phong. Bà mượn sức của hai người, đẩy chưởng lực họ vào nhau. Binh một tiếng lớn. Chưởng gã họ Lê, họ Ngô đụng nhau. Cả hai mặt đỏ gay, đều lui lại. 

Hai gã quát lên, đồng nhảy vào tấn công. Trần Năng bình tĩnh chống trả. Bà dùng thân pháp Thiền-tông. Khi phải, khi trái, lúc có lúc vọt lên không ; cũng có khi bà dùng Phục-ngưu thần chưởng, hay chưởng pháp Cửu-chân. Bà vận Thiền-công. Chưởng pháp trở thành nhẹ nhàng, phiêu hốt, nhàn tản. Mặc hai người ra chiêu, hiểm độc thế nào, bà cũng tránh được. 

Người họ Vương hô lên: 

– Ngừng tay! 

Ba người cùng nhảy lui trở lại. Người họ Vương tiến lên cung kính hỏi Trần Năng: 

– Chẳng hay cô nương với Lục trúc tiên sinh là chỗ như thế nào? 

Nghe đến bốn chữ Lục trúc tiên sinh, Trần Năng biết người họ Vương thuộc loại thân thiết với Lê Đạo-Sinh. Bà định nói dối, không nhận người sư-thúc hại dân, hại nước, thân danh tàn tệ đó. Hình ảnh ngày xử tội Tô Định, chính Lê Đạo-Sinh giết Đào Thế-Hùng, Hồng-Thanh, anh hùng thiên hạ đều nghiến răng căm hận. Thế nhưng Khất đại phu vẫn nhận y là sư đệ. Võ đạo phái Tản-Viên như thế đó. Bà đành miễn cưỡng trả lời: 

– Tiểu nữ gọi người bằng sư-thúc. Chẳng hay các vị là ai? Tại sao biết sư-thúc tiểu nữ? 

Cả bọn sáu người cùng kêu lớn lên một tiếng ái chà. Người họ Vương càng tỏ vẻ khách sáo: 

– Thì ra người nhà cả. Chúng tôi đã có dịp đàm luận võ công với người. Vì vậy khi cô nương ra chiêu. Chúng tôi mới nhận được. 

Y tự giới thiệu cả bọn: 

– Chúng tôi là sáu anh em kết nghĩa. Tôi họ Vương tên Bá. 

Trần Năng đã nghe Trần Tự-Sơn nói nhiều về các nhân vật triều Hán. Bà kêu lớn lên: 

– Thảo nào! Thì ra ngài là Hoài-dương hầu. Hiện lĩnh chức thái thú Thượng-dung thì phải. Thực đắc tội. 

Tuy miệng nói vậy, mà trong lòng nghĩ: 

– Hỏng bét. Người này thân với sư-thúc. Ta cứ ậm ờ, để do la tin tức sư-thúc xem sao. 

Người họ Vương tên thực là Vương Bá. Cách đây gần hai mươi năm, y cắp gươm theo Nghiêm Sơn, Quang-Vũ. Y là người tài kiêm văn võ, vào sinh ra tử biết bao phen, mới được Quang-Vũ phong cho tước Hoài-dương hầu, lĩnh chức thái thú Thượng-dung. Vương tự thị võ công, văn học, công trạng đều lớn hơn bọn Ngô Hán, Đặng Vũõ, Mã Viện, mà không được cầm quyền đại tướng quân. Sau y mới tìm ra rằng. Sở dĩ ba người kia văn không hơn, võ không bằng mà được cầm đại quân. Vì họ biết thu dùng nhân tài, có nhiều cao thủ dưới quyền. Khi trấn Thượng-dung, y thu dùng năm cao thủ, rồi kết huynh đệ. Y lớn tuổi nhất đứng đầu. Thứ đến Ngô Bình, Vũ Đạt, Hà Chi, Lê Hựu, Phạm An. Y cho các nghĩa đệ cầm quyền tướng quân. Tiếng tăm Thượng-dung lục hữu vang danh Trung-nguyên. 

Cách đây mấy hôm, Vương Bá nhận được chiếu chỉ của triều đình, cử y lĩnh chức Thứ-sử Thành-đô, kiêm tổng trấn Ích-châu thay Ngô Hán, để Ngô đem quân vượt Độ-khẩu đánh Lĩnh-Nam. Y vội vàng trao chức thái thú cho tân nhậm, cùng năm nghĩa đệ lên đường vào Thành-đô. Giữa đường y gặp bọn Chu Tái-Kênh. Y thấy hai nghĩa đệ của mình, võ công nức tiếng Thượng-Dung, mà đấu không lại một thiếu phụ trẻ. Thoáng một cái, y đã nhận ra võ công thiếu phụ rất cao siêu. Đối phương chỉ muốn đùa cợt. Chứ thực sự đối phương ra tay, hai nghĩa đệ của y đã mất mạng trong chốc lát. Y thấy ngoài Trần Năng ra còn hai người đàn bà cao niên, dường như sư trưởng của Trần Năng. Nếu đụng độ bên y sẽ bị đánh bại. Là người khôn ngoan, y muốn kết thân với hào kiệt, để gây thanh thế như Mã Viện, Đặng Vũõ. Vì vậy y mới có lời lẽ khách khí. 

Trần Năng chỉ Chu Tái-Kênh: 

– Đây là sư mẫu của tôi. Người là sư tỷ của Lục-trúc tiên sinh. 

Vương Bá đã có dịp tiếp xúc với Lê Đạo-Sinh. Vương thấy võ công Lê ngang với bọn Sầm Bành, Phùng-Dị. Sầm, Phùng chỉ có cái dũng. Còn Lê tỏa ra một bác học, đại tôn sư võ học. Y sinh lòng kính trọng. Lê hiện theo giúp trong quân Ngô Hán, được Quang-Vũ phong tước Lĩnh-nam công, lĩnh chức đại tướng quân. Bọn Đức-Hiệp, Vũ Hỷ, Hoàng Thái-Tuế, Ngô Tiến-Hy đều được lĩnh chức thái thú, tước phong hầu. Hôm nay y thấy võ công Trần Năng cao hơn bọn Vũ-Hỷ nhiều. Bà còn giới thiệu Chu Tái-Kênh là sư tỷ Lê Đạo-Sinh. Khiến Vương Bá càng thêm kính trọng. 

Y kính cẩn hành lễ: 

– Tiểu tướng được nghe danh Lĩnh-nam tiên ông từ lâu. Hôm nay mới được diện kiến với phu nhân. Thực là tam sinh hữu hạnh. 

Trần Năng lại giới thiệu Đinh Xuân-Hoa: 

– Vị này là thái sư mẫu của chồng tôi. 

Vương Bá không biết võ công của Đinh Xuân-Hoa ra sao. Trong đầu y nghĩ: Chỉ cần võ công bà ngang với Trần Năng cũng đủ. Y cung kính nói: 

– Tiểu tướng mới được sắc phong làm Thứ sử Thành-đô, kiêm tổng trấn Ích-châu. Trên đường đi nhậm chức, gặp các vị. Có đôi chút hiểu lầm. Mong các vị thứ lỗi. 

Chu Tái-Kênh đã nghĩ được một kế. Bà móc túi ra ba cái thẻ bài khắc con phụng của Mã thái-hậu: 

– Thì ra quân hầu mới được tân thăng. Mừng cho ngài. Chúng tôi tuân chỉ dụ Thái-hậu, vào Thành-đô, rồi đi Lĩnh-Nam có việc khẩn. 

Vương Bá cầm thẻ bài xem xét kỹ. Y trả lại Chu Tái-Kênh nói: 

– Các vị là khâm sai của Mã thái-hậu. Hèn gì võ công cao thâm. Tiểu tướng cả gan, dám xin các vị đi cùng cho vui. Không biết các vị có chấp thuận không? 

Chu Tái-Kênh đáp: 

– Như vậy chúng tôi mạo phạm quá. Nào chúng ta cùng lên đường. 

Trần Năng móc trong túi ra bình thuốc nhỏ đến trước mặt Phạm An. Bà lấy viên thuốc để lên tay búng đến véo một cái. Viên thuốc quay tròn với tốc độ thật mau. Khi sắp chạm vào đầu gối Phạm An thì vỡ tan thành bụi. Bụi thuốc phủ lên đầu gối Phạm An. Đầu gối y hết sưng liền. 

Phạm An cung kính: 

– Đa tạ Y-tiên. 

Trên đường đi, Chu Tái-Kênh dò la Vương Bá: 

– Chúng tôi tối tăm lắm. Dám hỏi hiện giữa Xa-kị đại tướng quân Ngô Hán với Vương Thứ-sử, ai ở trên? 

Vương Bá đáp: 

– Chúng tôi đều được phong hầu cả. Không ai ở trên ai. Ngô tướng quân cầm quân đánh sang Lĩnh-Nam. Còn tôi thì trấn thủ thay cho người. 

Trần Năng đã kinh nghiệm qua vụ Trần Tự-Sơn, với những khúc mắc trong quan trường. Bà nhận ra chủ ý của Quang-Vũ: Y trao đại quân cho Ngô Hán mà trong lòng nghi ngờ. Ngô vừa đánh chiếm được Trường-an, triều đình đã vội cử người thay thế. Khi Ngô chiếm xong Hán-trung, triều đình lại cử người trấn thủ. Bây giờ Ngô chiếm được Ích-châu. Quang-Vũ muốn cho y đánh xuống Lĩnh-Nam, vì sợ Ngô nắm Ích-châu, Lĩnh-Nam, lỡ y trở mặt thì nguy. Vì vậy y mới nghĩ đến cử người đi trấn Ích-châu. Y biết xưa nay giữa Vương Bá với Ngô Hán có chỗ ganh nhau vì tiếng tăm. Y mới cử Vương vào chức tổng trấn Ích-châu hầu đề phòng Ngô Hán. 

Trần Năng cười: 

– Vương thứ-sử! Người thử nghĩ xem hoàng-thượng tin Ngô Hán hay tin Thứ-sử? 

Vương Bá biết Ngô Hán được tin cẩn hơn. Song y vẫn nói lảng: 

– Tôi cũng không biết nữa. 

Trần Năng cười lớn: 

– Ngu như tôi mà cũng biết Vương thứ-sử được ân sủng hơn Ngô Hán, có lẽ Thứ-sử nhún nhường đấy thôi. 

Vương Bá hỏi: 

– Tôi không nhận ra. 

Trần Năng vỗ hai tay vào nhau: 

– Này nhé! Nếu triều đình ân sủng Ngô Hán, tất đã phong cho Ngô trấn thủ Ích-châu. Ích-châu thế đất hiểm, dân giàu, tiến ra có thể tranh dành Trung-nguyên. Rút về cố thủ thành một nước. Xưa đức Cao tổ, sau này Công-tôn Thuật đều giữ Ích-châu, hùng cứ một phương. Triều đình không tin Ngô Hán, mà tin Thứ-sử, vì vậy mới cử Thứ-sử làm tổng trấn Ích-châu. 

Vương Bá như người mù được mở mắt. Y kính cẩn: 

– Đa tạ Y-tiên chỉ dẫn. 

Chu Tái-Kênh thêm vào: 

– Bây giờ vào Thành-đô. Trước hết Thứ-sử cử năm vị nghĩa đệ nắm lấy binh quyền. Trước Thứ-sử thao luyện sĩ tốt, tích trữ lương thảo. Sau đó thu dùng hiền tài, tổ chức nội trị thực vững. Lĩnh-Nam anh tài nhiều, Ngô Hán đánh xuống khó mà thành công. Đợi khi Ngô thất bại. Thứ-sử sẽ được cử thay thế. Bấy giờ cái tước công, tước vương không xa là mấy. 

Vương Bá rất thông minh. Y nghĩ trong đầu: 

– Khi Ngô Hán đánh Lĩnh-Nam, quân sĩ lương thảo hao hụt. Ta cứ chần chờ bổ xung, đợi y bại, ta sẽ thay y nắm quyền, đánh Lĩnh-Nam. Công ấy không nhỏ. 

Y hỏi Chu Tái-Kênh: 

– Không biết các vị đi Thành-đô có việc gì? 

Chu Tái-Kênh đáp: 

– Mã thái-hậu muốn chúng tôi trợ giúp Ngô Hán đánh Lĩnh-Nam. Song Ngô thân với sư đệ Lê Đạo-Sinh. Vì vậy chúng tôi không muốn giúp Ngô tý nào cả. Có lẽ chúng tôi nằm chơi ở Thành-đô mà thôi. 

Vương Bá như bắt được của quí: 

– Thế thì các vị hãy giúp tôi. Đợi khi Ngô Hán thất bại, tôi cầm quân đánh Lĩnh-Nam. Bấy giờ triều đình sẽ cắt Lĩnh-Nam phong cho các vị. 

Chu Tái-Kênh gật đầu: 

– Được! Tôi xin theo lời Vương Thứ-sử.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #dihan