Không Tên Phần 1
Chiến dịch Đông tiến 2
(Đảng Việt Tân do Hoàng Cơ Minh cầm đầu
23 giờ ngày 18/7/1987 xâm nhập biên giới Việt - Lào lần 2 nhằm chống phá nhà nước và những trò hề lừa đão công đồng hải ngoại .Tổng số tiền bọn Hoàng Cơ Minh thu được, theo số liệu của Cục Điều tra liên bang và Sở Thuế Mỹ sau này, là khoảng 10 triệu USD. Phần lớn số tiền ấy ngoài việc chui vào túi bọn cầm đầu, chúng còn dùng để ăn chơi, du hí ở Nhật, Pháp, Thái Lan, Đức bằng hình thức "đi công cán", cũng như để mua lương thực, vũ khí, mua vàng cho các "chiến dịch Đông tiến".)
Sau khi "chiến dịch Đông tiến 1" tổ chức hồi tháng 8/1986 thất bại, rồi bị cộng đồng người Việt hải ngoại vạch trần âm mưu bịp bợm vì thực chất của "chiến dịch" này, chỉ là đưa một nhóm tay chân về vùng rừng núi biên giới tiếp giáp giữa Thái Lan, Lào, dưới vỏ bọc công nhân liên doanh lâm nghiệp, và sau đó cho mặc quần áo rằn ri, vai đeo balô, tay cầm súng, lăn lê bò toài để quay phim, chụp ảnh, đưa về Mỹ tuyên truyền rằng, "mặt trận" đã thành lập được nhiều "khu chiến" bên trong lãnh thổ Việt Nam, thì Hoàng Cơ Minh, chủ tịch "Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam" (từ đây gọi tắt là Mặt trận Hoàng Cơ Minh) cùng đám tay chân thân tín nhận ra rằng, trò lừa đảo của "mặt trận" đang có nguy cơ đổ bể.
Nếu như trước kia, hệ thống "phở Hòa" – là cơ quan kinh tài của "mặt trận", có chi nhánh trên nhiều tiểu bang của nước Mỹ, liên tục kêu gào cộng đồng người Việt vào... ăn phở để góp phần ủng hộ "kháng chiến", thì nay dù thúc ép, thậm chí hăm dọa, họ cũng chẳng vào. Những cuộc biểu tình do "mặt trận" tổ chức, người tham dự cũng ngày càng thưa thớt.
Đã thế, trong nội bộ "mặt trận" lại xuất hiện sự chống đối, nhiều người thẳng thừng gọi tổ chức Hoàng Cơ Minh là "kháng chiến tái nạm béo", Hoàng Cơ Minh là chủ tịch lừa.
Vì thế, tên trùm phản động quyết tâm tiến hành một chiến dịch nữa nhằm tạo tiếng vang và lấy lại uy tín, hầu dễ bề quyên góp tiền bạc. Đầu tháng 7/1987, y cho di chuyển khoảng 130 người (cả số đang còn nằm lại ở biên giới Thái Lan, Lào sau "chiến dịch Đông tiến 1", lẫn số từ Mỹ sang), đến một khu rừng thuộc tỉnh U Bon – Thái Lan, rồi móc nối với bọn thổ phỉ người Lào để thuê bọn này dẫn đường vượt qua đất Lào.
Theo kế hoạch – được Hoàng Cơ Minh đặt tên là "chiến dịch Đông tiến 2", nhóm phản động chia thành 4 bộ phận: Đó là "Quyết đoàn tiền phương", gồm 40 tên do Phan Thanh Phương làm quyết đoàn trưởng (mỗi quyết đoàn lại chia thành nhiều dân đoàn, mỗi dân đoàn gồm 9, 10 tên), có nhiệm vụ mở đường. "Quyết đoàn Bắc Bình", gồm 29 tên do Lê Đình Bảy làm quyết đoàn trưởng, đi giữa. Bộ chỉ huy chiến dịch gồm Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Huy, Trần Khánh, Võ Hoàng (là ủy viên trung ương mặt trận) cùng một số tên chóp bu khác.
Đi sau cùng là "Quyết đoàn Anh dũng" gồm 40 tên, do Khu Xuân Hưng làm quyết đoàn trưởng. Các quyết đoàn ngoài vũ khí cá nhân như súng AK, M16, lựu đạn, mìn claymore, còn có một hoặc hai khẩu B40, B41, và vài máy bộ đàm tầm hoạt động khoảng 3km.
Tất cả những thứ ấy, bọn chúng mua lại từ các nhóm thổ phỉ Lào hoặc từ các chợ trời vũ khí dọc theo biên giới Lào, Thái Lan. Riêng bộ chỉ huy của Hoàng Cơ Minh, còn được trang bị thêm 2 khẩu lựu cá nhân M79. Quần áo, giày dép, mũ nón chúng sử dụng cũng vậy, hầu hết đều mua ở chợ trời biên giới với đủ chủng loại.
Về lương thực, mỗi tên mang trên lưng 20 – 30 kg, gồm gạo, mì ăn liền, mắm muối, nồi niêu xoong chảo. Bên cạnh đó, các quyết đoàn còn được cấp một ít tiền kíp để mua lương thực nếu đi ngang thôn bản người Lào. Riêng các quyết đoàn trưởng và các ủy viên mặt trận, Hoàng Cơ Minh giao cho mỗi tên từ 2 đến 5 lượng vàng, một số USD và đồng bạt Thái Lan để... hối lộ bộ đội Lào nếu bị bắt!
Theo kế hoạch, cả bọn sẽ vượt sông Mê Kông, sang tỉnh Xa La Van – miền Nam nước Lào rồi từ đó, dưới sự dẫn đường của 20 tên thổ phỉ Lào, chúng sẽ đi về tỉnh Sê Kông và xâm nhập khu vực ngã ba biên giới, thuộc tỉnh Kon Tum, Việt Nam. Tại đây, chúng sẽ lập căn cứ, tiến hành phục kích xe cộ, đặt mìn phá cầu, tấn công các đồn biên phòng Việt Nam để gây tiếng vang, tạo cơ hội cho bọn ở lại bên Mỹ, thúc ép cộng đồng người Việt góp tiền ủng hộ...
23 giờ ngày 18/7/1987, nhóm phản động Hoàng Cơ Minh lên đường, đi đầu là "Quyết đoàn Tiền phương". Càng đến gần biên giới Thái – Lào, bọn chúng càng hoang mang, lo sợ, nhất là những tên chỉ huy các quyết đoàn, dân đoàn vì chúng biết chuyến đi này không phải để dàn cảnh, quay phim, mà dữ nhiều, lành ít. Khi chỉ còn cách điểm tập kết là bờ sông Mê Kông ngăn đôi hai nước Lào, Thái Lan chừng 3km, Hoàng Cơ Minh sai "Quyết đoàn trưởng quyết đoàn Tiền phương" Phan Thanh Phương, cử một dân đoàn đi trinh sát.
Thế nhưng, 9 gã trong dân đoàn ấy chỉ đi khoảng 300 mét, rồi lủi vào bụi rậm nằm chờ đến giờ quay về báo cáo. Tuy nhiên lúc quay về, thì một tên trong "dân đoàn" bỗng dưng biến mất. (Do quá sợ hãi, gã vứt bỏ toàn bộ lương thực, súng ống, vạch rừng mò ngược trở lại rồi sau một thời gian sống chui lủi, khi nghe tin toàn bộ nhóm xâm nhập đã bị bắt hoặc bị giết, gã dạt về Campuchia, chạy xe ôm kiếm sống, cạch mặt "mặt trận" tới già).
Tin một gã "dân đoàn viên" bỏ trốn được Phạm Thanh Phương giấu kín vì sợ bị Hoàng Cơ Minh trừng trị mặc dù y rất lo gã kia ra hàng chính quyền, bộ đội cách mạng Lào. Trong suốt ngày thứ hai, rồi ngày thứ ba của cuộc xâm nhập, Phương đứng ngồi không yên, lúc nào cũng nơm nớp.
Đám thổ phỉ Lào ở riêng một góc, lo sợ không kém vì chúng được trả tiền để dẫn đường, nhưng Hoàng Cơ Minh dùng dằng nửa đi, nửa ở khiến chúng như ngồi trên chảo lửa. Chúng không biết Hoàng Cơ Minh đang chờ một bộ phận nữa, là "đoàn đặc nhiệm" do Nguyễn Quang Phục, biệt danh Hải "xăm" cầm đầu.
Đoàn đặc nhiệm này chỉ gồm 7 tên nhưng hầu hết đã từng tham gia các sắc lính trong quân đội Sài Gòn nên dạn dày kinh nghiệm, được Hoàng Cơ Minh đặc biệt tin tưởng. Thế nhưng, lúc nghe tin Hải "xăm" không đến điểm hẹn vì bất ngờ lên cơn sốt rét, và cả "đoàn đặc nhiệm" còn cách nơi tập kết khá xa, nên Hoàng Cơ Minh đành ra lệnh cho Hải "xăm" khi nào hết sốt, sẽ dẫn quân đuổi theo các "quyết đoàn". Việc Hải "xăm" bị sốt ít nhiều gây hoang mang trong hàng ngũ, và có tin đồn truyền tai nhau, rằng sốt chỉ là cái cớ để Hải "xăm" được nằm lại.
Xẩm tối ngày 20/7/1987, Hoàng Cơ Minh cùng bọn phản động nhắm hướng sông Mê Kông thẳng tiến. Tại đây, nhóm thổ phỉ Lào đã thuê sẵn mấy chiếc ghe máy, mỗi chiếc có thể chở được 30 người nên việc vượt sông diễn ra êm ả. Nhưng ở bờ bên kia, là những vách đất cao, trơn trợt nên đám phản động phải mất hơn 10 phút mới trèo lên được.
Sau này, khi bị bộ đội cách mạng Lào bắt, nhiều tên phản động khai rằng, tinh thần của hầu hết các "dân đoàn viên" đã rệu rã ngay từ khi vượt sông, và chúng cầu mong chỉ vào sâu trong đất Lào chừng vài cây số để quay phim, chụp hình rồi rút về như "chiến dịch" trước. Thậm chí có tên trong khi trèo lên con dốc dựng đứng ở bờ sông, đã lén vứt đi mìn, lựu đạn và đạn.
Có tên giả bộ ngã trặc chân để mong được cho ở lại. "Dân đoàn viên" Nguyễn Văn Náo khai: "Lúc vượt sông, lợi dụng trời tối không ai để ý, tôi thả xuống nước 2 băng đạn và 1 quả lựu đạn. Tôi tính nếu đụng trận, tôi sẽ tìm cách trốn về Thái Lan".
Vượt qua được bờ dốc, Hoàng Cơ Minh cho cả bọn nghỉ đêm. Bên các bụi tre, chúng ngủ chập chờn trong tư thế ngồi co quắp. Mờ sáng, sau khi nhai trệu trạo nắm mì gói vì không dám nổi lửa, chúng đi ngang một trảng lớn, cỏ mọc lưa thưa rồi bắt đầu leo lên dãy núi đá, sườn núi đầy những bụi cây nhỏ lúp xúp.
Đến 9 giờ, khi bọn phản động đang ở ngang lưng chừng núi thì bất ngờ trên trời có tiếng động cơ máy bay, rồi một chiếc máy bay trinh sát xuất hiện khiến đám phản động đứa lủi vào bụi cây, đứa lăn ra đất nằm im như chết.
Thoạt đầu, Hoàng Cơ Minh cùng bộ chỉ huy nhận định đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng khi thấy chiếc máy bay đảo đi đảo lại hai, ba vòng, chúng liền đặt câu hỏi, rằng đó chỉ là nhiệm vụ hàng ngày của Không quân cách mạng Lào trên vùng biên giới, hay chúng đã bị lộ?
Khoảng 10 phút sau, chiếc máy bay trinh sát biến mất, Hoàng Cơ Minh ra lệnh tiếp tục lên đường vì y tin rằng sự xuất hiện của chiếc máy bay chỉ là sự tình cờ. Các "quyết đoàn", "dân đoàn" lầm lũi bước, mắt dáo dác nhìn chung quanh. Gần tối, khi đến cạnh một con suối lớn, Hoàng Cơ Minh cho dừng chân, bố trí đội hình phòng thủ và nấu cơm.
Bữa cơm một phần ăn với mắm kem còn phần kia nắm lại, để dành hôm sau. Bốn năm gã – trong đó có Nguyễn Văn Dũng lén lút mang theo được mấy bi đông rượu từ đất Thái, giờ tụm lại dưới bụi cây, chuyền tay nhau tu. Bị "dân đoàn trưởng" là Đỗ Bạch Thố phát hiện, chửi bới, Dũng toan chụp khẩu M16, lia cho Thố một băng nhưng đồng bọn ngăn cản. Sau này khi Dũng kiệt sức, chính tay Đỗ Bạch Thố đã dùng dây giày, xiết cổ Nguyễn Văn Dũng đến chết để trả thù hành động Dũng định bắn mình.
Sáng ngày thứ 5 của chuyến xâm nhập, bọn phản động khởi hành sớm. Lúc mặt trời lên, chúng nhận ra địa hình đang đi khá trống trải và nếu xảy ra đụng độ, sẽ chẳng khác gì phơi lưng ra làm bia. Hỏi nhóm thổ phỉ Lào dẫn đường, thì chỉ nhận được câu trả lời là cứ đi tiếp. Y như rằng, khoảng 8 giờ sáng, ở cuối đội hình bọn phản động bỗng vang lên từng loạt súng.
Trận chạm súng giữa bộ đội cách mạng Lào và nhóm phản động đi đoạn hậu diễn ra rất ngắn, cả hai bên không ai thương vong nhưng chứng tỏ rằng việc xâm nhập đã bị lộ và điều này khiến tinh thần của hầu hết bọn chúng đều hoang mang. Bất lợi hơn nữa là theo kế hoạch, các dân đoàn, quyết đoàn sẽ tìm cách tiếp cận với những bản làng người Lào trên đường đi qua để mua thức ăn tươi, cũng như tìm hiểu tình hình.
Nhưng nay cuộc chạm súng đã khiến chúng phải lùi sâu vào rừng trong lúc gạo, mì bắt đầu vơi dần. Đã vậy, một số tên từ Mỹ, Pháp, Nhật về, do không quen với khí hậu, địa hình, không quen với cuộc di hành chỉ bằng đôi chân nên đâm ra cáu kỉnh. Hầu như lúc nào cũng có những cuộc cãi vã – không ở dân đoàn này thì cũng ở quyết đoàn khác. Hơn 100 tên xâm nhập nhưng chỉ có 1 y tá. Các vết lở loét ở chân do giày thấm nước, vết rách ở tay, ở cổ do đá cắt, gai cào, muỗi đốt, vắt cắn, chỉ được rửa ráy, băng bó sơ sài nên nhiều tên bị nhiễm trùng, bước đi phải có kẻ xốc nách hoặc chống gậy.
Sau cuộc chạm súng, Hoàng Cơ Minh hạ lệnh đi nhanh hơn. Đến 4 giờ chiều, lúc lên tới một triền núi và khi nhóm phản động chuẩn bị dừng chân qua đêm, thì vài gã dân đoàn viên thuộc "Quyết đoàn Anh dũng" mò xuống những bụi tre phía dưới kiếm măng tươi. Chỉ vài phút sau đó, đột ngột tiếng súng AK nổ từng loạt dài, cùng tiếng la hét inh ỏi.
Lúc bọn lấy măng tháo chạy về, kiểm điểm lại thấy mất Nguyễn Văn Náo. Theo lời bọn chúng, một toán bộ đội cách mạng Lào đã bí mật bám theo, rồi bất ngờ tập kích, bắt sống Nguyễn Văn Náo. Điều này rất nguy hiểm vì Hoàng Cơ Minh nhận định, nếu Náo bị bắt, toàn bộ kế hoạch xâm nhập cũng như lực lượng và trang bị vũ khí của cả đoàn, coi như hoàn toàn bị lộ.
Đã đâm lao thì phải theo lao. Quay về cũng dở mà ở cũng không xong, Hoàng Cơ Minh ra lệnh đi tiếp. Đường đi càng lúc càng khó vì phải leo lên những tảng đá, tảng nọ chồng tảng kia. Sẩm tối, khi toán đoạn hậu báo cáo không thấy dấu hiệu bộ đội cách mạng Lào đuổi theo, Hoàng Cơ Minh mới dám cho dừng chân nấu cơm gần một con suối.
Để đề phòng, y chỉ thị cho các quyết đoàn trưởng, là từng dân đoàn lần lượt cử người xuống suối lấy nước chứ không đi đồng loạt. Lúc này, nhiều bếp lửa đã được nhóm lên, "dân đoàn viên" Trần Văn Thảo đang ngồi hong khô đôi giày thì phát hiện bóng người thấp thoáng. Gã hỏi lớn: "Ai đó?". Phía bên kia đáp lại một chữ ngắn gọn, nghe như tiếng Lào, rồi lập tức, hàng loạt đạn AK quạt xối xả vào đội hình bọn phản động, kèm theo những tiếng nổ tức ngực của đạn B40. Một quả B40 nổ ngay cạnh bếp cơm của "dân đoàn viên" Nguyễn Văn Hòa khiến gã bật ngửa, đầu tung tóe máu.
Đến lúc ấy, cả bọn phản động vẫn không hay biết, rằng chúng đã bị một tổ dân quân Lào tuần tra biên giới phát hiện ngay từ khi chúng đang vượt sông Mê Kông. Và bởi vì lực lượng ở khu vực đó mỏng, hơn nữa chưa rõ nhóm phản động vượt sông có phải là nhóm đi đầu mở đường cho những nhóm tiếp theo hay không, nên bộ đội cách mạng Lào quyết định chỉ cử một toán nhỏ bám theo, trinh sát, tìm cách bắt tù binh đưa về khai thác, điều tra...
Xuống đến lưng chừng núi, gặp một khe cạn, Hoàng Cơ Minh cho quân tản ra, rồi sai một bộ phận quay lại tìm Quyết đoàn Anh dũng. Dưới một con suối, xác dân đoàn viên Nguyễn Văn Hoàng nằm úp, Khu Xuân Hưng và toàn bộ những tên còn lại trong Quyết đoàn Anh dũng thì chẳng thấy đâu.
Sau trận chạm súng đầu tiên kể từ khi nhóm phản động đặt chân lên đất Lào, dẫn đến việc dân đoàn viên Trần Văn Náo bị bắt, rồi tiếp theo là cuộc tập kích khiến dân đoàn viên Nguyễn Văn Hòa bị thương, Hoàng Cơ Minh cùng bộ chỉ huy "chiến dịch" hiểu rằng yếu tố bất ngờ đã không còn nữa.
Những kiểu chết yểu trên đường xâm nhập
Điều nguy hiểm nhất là từ sự khai báo của Nguyễn Văn Náo, bộ đội cách mạng Lào hẳn sẽ biết rõ sự có mặt của Hoàng Cơ Minh, cũng như nhóm phản động gồm bao nhiêu người, vũ khí trang bị có những gì, tình hình lương thực ra sao. Dĩ nhiên, họ cũng sẽ thông báo cho chính quyền Việt Nam biết về mục đích của nhóm phản động và như vậy, Hoàng Cơ Minh bị đặt vào thế "lưỡng đầu thọ địch".
Một điều bất lợi nữa: Theo hợp đồng thì nhóm thổ phỉ Lào sẽ chỉ dẫn đường cho bọn phản động đến địa phận tỉnh Xa La Van, tiếp giáp tỉnh Sê Kông vì chúng không dám đi vào sâu hơn. Nghe chúng trao đổi với nhau, Hoàng Cơ Minh biết rằng chỉ nội ngày mai, nhóm thổ phỉ Lào sẽ rút.
Tuy nhiên, từng là Phó đề đốc trong quân đội Sài Gòn, Hoàng Cơ Minh ít nhiều cũng hiểu về binh pháp. Tiến hành họp với bộ chỉ huy, y vạch ra chiến thuật "tương kế tựu kế": Đó là cho Nguyễn Văn Hòa cùng "chủ tịch mặt trận quốc nội" Nguyễn Thế Minh, theo nhóm thổ phỉ Lào quay lại Thái Lan.
Động tác này có thể khiến toán trinh sát của bộ đội cách mạng Lào tưởng lầm là bọn phản động đã từ bỏ ý đồ xâm nhập, và sẽ chỉ bám theo, tấn công nhóm thổ phỉ chứ không tiếp tục truy đuổi. Như thế, nhóm thổ phỉ và Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Thế Minh sẽ trở thành mồi nhử, thành bia đỡ đạn cho cuộc "đông tiến".
Đêm hôm đó, bọn phản động không dám nổi lửa nấu cơm, mà chỉ nhai mì sống cầm hơi. Mờ sáng, khi sương mù còn dày đặc, cả bọn lên đường, khiêng theo Nguyễn Văn Hòa trong tình trạng nửa mê, nửa tỉnh vì mất máu. Đến trưa, tên cầm đầu nhóm thổ phỉ sau khi cùng Hoàng Cơ Minh xem lại bản đồ, thì gã đồng ý cho Nguyễn Văn Hòa, và "chủ tịch mặt trận quốc nội" Nguyễn Thế Minh theo chúng, quay lại biên giới Lào, Thái. Nhưng rất nhiều năm sau đó, chẳng ai còn nghe được bất cứ một tin tức gì về Minh và Hòa.
Mãi đến năm 1998, một thông tin nhỏ mới được tiết lộ trên một tờ báo của người Việt ở Mỹ. Ấy là một nông dân Lào khi vào rừng chặt cây làm nhà, đã gặp bọn phỉ đang rút lui. Nghe chúng nói chuyện, rằng tự dưng lãnh cái của nợ phải khiêng là Nguyễn Văn Hòa, nên chúng giết y chết. Mà nếu đã giết Hòa chết, thì dĩ nhiên phải giết cả Nguyễn Thế Minh.
Trở lại chuyện xâm nhập, khi bọn thổ phỉ vừa đi khỏi, Hoàng Cơ Minh cho các "quyết đoàn" rải ra, hình thành những cụm phòng ngự với mệnh lệnh súng ống trên tay sẵn sàng chiến đấu, không nấu cơm, không ra suối lấy nước, không giăng võng hay dựng lều. Suốt buổi chiều rồi cả đêm, bọn phản động thức trắng trong tâm trạng lo âu vì sợ bị tập kích.
Gần sáng, nghĩ là đã đánh lừa được toán truy đuổi, cả bọn lục tục kéo nhau lên đường. Đi khoảng 30 phút, Quyết đoàn trưởng Quyết đoàn Anh dũng là Khu Xuân Hưng nhận được tin báo, rằng dân đoàn trưởng Hà Hoài Hùng đã bỏ trốn cùng với chiếc balô đựng tiền, vàng của quyết đoàn.
Đây là trường hợp bỏ trốn thứ hai khiến Khu Xuân Hưng rất hoang mang vì từ lâu, Hà Hoài Hùng vẫn được Hoàng Cơ Minh tin cậy. Vì thế, một mặt, gã cử người lên bộ chỉ huy báo cho Hoàng Cơ Minh. Mặt khác, gã sai 4 dân đoàn viên quay lại tìm Hùng với mệnh lệnh "nếu không gọi về được thì lấy chiếc balô rồi bắn bỏ".
Nhưng 4 gã dân đoàn viên vừa quay lưng, thì có tiếng AK và B40 nổ dồn dập ở phía xa. Điều này chứng tỏ bộ đội cách mạng Lào vẫn bám theo nhóm phản động, và Hà Hoài Hùng trên đường bỏ trốn, đã gặp họ.
Từ đó cho tới khi bị đánh tan tác, không còn ai nghe được tin gì về Hà Hoài Hùng.
Đã là ngày thứ 10 của cuộc xâm nhập, mà nhóm phản động vẫn chưa đến được tỉnh Sê Kông vì thiếu người dẫn đường, sự di chuyển dựa vào những tấm bản đồ do quân đội Mỹ vẽ từ năm 1972. Vì thế, có những đoạn chỉ cần lội xuống khe rồi đi vòng chừng 6 tiếng là đã vượt qua được dãy núi, nhưng chúng lại phải leo trèo suốt 2 ngày. Lương thực càng lúc càng cạn, bữa cơm 1 phần gạo thì có đến 3 phần củ rừng. Quần áo không giặt nên bốc mùi hôi hám. Hầu hết đều bị ghẻ do muỗi đốt, vắt cắn.
Việc Hà Hoài Hùng bỏ trốn – rồi sau đó súng nổ khiến Hoàng Cơ Minh hiểu rằng kế ly gián đã thất bại. Trước ngày lên đường, tin tình báo của nhóm thổ phỉ Lào cho biết trên địa bàn tỉnh Xa La Van, bộ đội cách mạng Lào có khoảng 1 trung đoàn, chưa kể dân quân, du kích địa phương. Quân số của một trung đoàn khoảng gần 3.000 người, được trang bị, tiếp tế đầy đủ trong lúc nhóm phản động chỉ hơn 100 tên nên nếu chạm nhau trực diện, thì chết là cái chắc.
Sáng ngày thứ 12 trong lúc các dân đoàn viên, kẻ loay hoay tháo võng, kẻ nấu cơm thì bất ngờ, có tiếng súng nổ dồn dập từ phía quyết đoàn đi đoạn hậu. Lợi dụng lúc bọn phản động đang chuẩn bị di chuyển, toán trinh sát bộ đội cách mạng Lào bất ngờ tập kích rồi nhanh chóng biến mất. Kiểm điểm lại, chỉ có Huỳnh Văn Tiến bị thương nặng vì mảnh B40.
Y tá Lý Hổ được gọi đến nhưng trước khi đến, "ủy viên trung ương mặt trận" Nguyễn Huy kéo Lý Hổ ra một góc, nói nhỏ vài câu. Băng vết thương cho Tiến xong, Lý Hổ chích cho gã một mũi thuốc. Vài phút sau, Tiến nấc lên, mắt trợn ngược. Lúc này, cả nhóm phản động thuộc
Quyết đoàn Anh dũng đều biết rằng Nguyễn Văn Tiến đã bị chích thuốc cho chết, để khỏi trở thành gánh nặng cho cả đoàn. Xác Nguyễn Văn Tiến bọc trong mảnh nylon, kéo lá rừng phủ lên vì chẳng còn thời gian đào huyệt. Tài sản của Tiến, mỗi gã lấy một vài món. Riêng phần cơm mà lẽ ra sẽ chia cho Nguyễn Văn Tiến ăn bữa sáng, thì dân đoàn viên Thạch Chen bỏ ngay vào trong balô.
Sau khi bị tập kích, bọn phản động được lệnh đi nhanh hơn nhưng tốc độ xem ra cũng chỉ được khoảng 3km mỗi giờ. Một phần vì địa thế hiểm trở, phần nữa vừa đi vừa dò dẫm. Suốt buổi sáng, tình hình yên tĩnh nhưng đến giữa trưa, đột ngột từng loạt đạn súng cối nổ tung giữa đội hình Quyết đoàn Anh dũng. Lúc này, bọn phản động đang ở trên một đỉnh núi.
Khi nghe tiếng nổ, chúng nháo nhào xô nhau lao xuống, mạnh ai nấy chạy. Nhiều tên vứt cả balô, bao đựng đạn, có tên còn không kịp đi giày. Đoán được ý đồ của chúng, đạn cối chuyển làn, bắn đuổi theo khiến dân đoàn viên Trần Văn Thảo chết ngay tại chỗ.
Xuống đến lưng chừng núi, gặp một khe cạn, Hoàng Cơ Minh cho quân tản ra, rồi sai một bộ phận quay lại tìm Quyết đoàn Anh dũng. Dưới một con suối, xác dân đoàn viên Nguyễn Văn Hoàng nằm úp, Khu Xuân Hưng và toàn bộ những tên còn lại trong Quyết đoàn Anh dũng thì chẳng thấy đâu.
Sau này khi vào tù, chúng mới biết khi đạn cối nổ, Quyết đoàn trưởng Khu Xuân Hưng dẫn quân quay đầu chạy thẳng về phía tây – là hướng Thái Lan. Trên đường đi, Nguyễn Văn Hải đạp phải mìn, nát chân nên Khu Xuân Hưng đã bắn chết Nguyễn Xuân Hải. Lúc băng qua con suối, Quyết đoàn phó Nguyễn Minh Dục trượt chân té xuống, nước cuốn mất xác.
Dân đoàn trưởng Trần Văn Quốc đi đầu mở đường, bị một phát CKC bắn tỉa, vỡ sọ, còn Lê Thanh Tùng lãnh nguyên một băng AK. Riêng Khu Xuân Hưng cũng bị một viên vào bụng. Sợ các "chiến hữu" sẽ bắn mình để khỏi trở thành gánh nặng như mình đã bắn Nguyễn Văn Hải, Hưng tự sát, dân đoàn phó Nguyễn Văn Mi cùng các tên khác, bị dân quân du kích Lào bắt sống sau đó hai ngày.
Từ đây, Quyết đoàn Anh dũng coi như bị xóa sổ, và Quyết đoàn Bắc bình do Lê Đình Bảy chỉ huy trở thành bộ phận chặn hậu. Hai sự kiện nữa xảy ra khiến tinh thần cả bọn đã xuống dốc lại càng thêm xuống dốc: Ấy là trên đường tháo chạy, dân đoàn viên Nguyễn Văn Hợi đột ngột nằm vật xuống đất vì kiệt sức dù thân thể không một vết thương.
Ngay lập tức, Lê Đình Bảy ra lệnh cho các dân đoàn viên, lấy hết đồ đạc trong balô Hợi rồi bỏ mặc Hợi nằm đó. Một gã trong đoàn là Phạm Hoàng Tùng cầm bi đông đưa Hợi uống hớp nước, coi như vĩnh biệt. Hợi chết vì đói chứ chưa cần đến phát súng "ân huệ" hay mũi tiêm thuốc độc.
Lương thực mang theo càng cạn dần dù Hoàng Cơ Minh đã chỉ thị tiết kiệm đến mức tối đa, nên lúc tình cờ gặp một căn nhà sàn nhỏ của người Lào, dựng lên để trông coi rẫy và trong nhà có bao lúa, đám phản động quên cả việc đang bị truy đuổi, xúm nhau vào đâm, giã lấy gạo nấu cơm. Nhiều tên đói quá, không chờ được, bốc cả nắm thóc cho vào miệng nhai sống.
Gạo ít, chỉ nấu được vài nồi cháo nhỏ nên khi thấy dân đoàn viên Lê Văn Nguyên đi khập khiễng vì bắp chân trúng mảnh B40, mấy gã trong dân đoàn kéo Nguyên ra một góc, dùng báng súng đập chết, rồi moi gan Nguyên ra nướng, chia nhau ăn. Ngửi thấy mùi thơm, Quyết đoàn phó Nguyễn Ngọc Cường mò đến. Nghe đồng bọn nói là gan con heo rừng chết vì lạc đạn, Cường vừa xắn một miếng cho vào miệng, gần như nuốt chửng vì đói quá, vừa hỏi xác con heo ấy ở đâu, đi kéo về xẻ thịt, nướng ăn tiếp.
Sáng ngày thứ 15 của cuộc xâm nhập, lại có tin "dân đoàn trưởng" Phan Minh Mẫn thuộc Quyết đoàn Cải cách đào ngũ với một balô tiền, vàng. Đặng Quốc Hùng, Việt kiều từ Đan Mạch về, được lệnh lên thay. Ngang qua một rẫy khoai mì, mặc dù chưa có củ nhưng nhiều tên trong nhóm phản động vẫn xúm vào nhổ, rồi nhai sống cả rễ.
Dân đoàn viên Nguyễn Văn Dũng quá kiệt sức, khi ngồi xuống gốc mì thì không đứng dậy nổi. Cơ hội trả thù đã tới vì trước đây Dũng từng định bắn dân đoàn trưởng Đỗ Bạch Thố khi Thố phát hiện Dũng uống rượu, Thố quay lại, ra lệnh cho dân đoàn ai ở đâu thì ở nguyên đó, cấm quay đầu nhìn lại phía sau. Đến bên cạnh Dũng, Thố tháo dây giày, vòng qua cổ Dũng, xiết cho đến khi lưỡi Dũng lè ra, mắt trợn trừng.
Lúc này, Quyết đoàn Bắc bình vẫn giữ nhiệm vụ chặn hậu. Đang đi, đột ngột có lệnh từ Quyết đoàn trưởng Lê Đình Bảy truyền xuống, là bộ chỉ huy yêu cầu tất cả dân đoàn viên trong quyết đoàn nộp hết phần mì gói còn lại. Những gói mì này trước ngày lên đường xâm nhập, bọn phản động đã xé bỏ bao bì, rồi bóp vụn, nén thật chặt xuống đáy balô để mang được nhiều hơn. Cả bọn sững sờ nhưng lệnh là lệnh, từng tên một mở balô, nộp mì cho Bảy mà không hề biết lệnh "nộp mì" do Bảy tự đặt ra với mục đích dùng nó làm lương thực để bỏ trốn. Tổng cộng gom được một balô đầy.
Lợi dụng cả quyết đoàn đang vất vả luồn lách qua dãy núi đá, Lê Đình Bảy ôm balô mì, biến mất. Chưa hết, nhóm mở đường thuộc Quyết đoàn Tiền phương sau một hồi chui, bò trong những bụi rậm, thì không còn thấy Quyết đoàn trưởng Phan Thanh Phương đâu nữa. Kiểm điểm lại quân số, mất thêm cả Lê Trường Dũng, là cận vệ của Phương.
Tình hình càng lúc càng bi đát. Sự bỏ trốn của những tên chỉ huy được coi là trung kiên, cốt cán đã khiến tinh thần bọn phản động bệ rạc đến nỗi sau mỗi bước đi, chúng không còn bận tâm đến việc xóa dấu vết như những ngày đầu. Rải rác đây đó là những chiếc balô chứa truyền đơn, tài liệu của "mặt trận", quần áo, bao đựng đạn.
Thậm chí, khi có kẻ gục xuống vì đói – như dân đoàn viên Nguyễn Văn Phẩm, chúng cũng chẳng buồn quan tâm, cứ để mặc Phẩm nằm đó, thoi thóp. Cứ vài tiếng, lại thêm một hay hai dân đoàn viên biến mất. Chúng biến mất không phải vì bỏ trốn, mà vì kiệt sức, không đi được. Các báo cáo của toán bộ đội trinh sát Lào sau đó cho thấy trên đường hành quân của chúng, nhiều xác chết trong đủ mọi tư thế, nằm rải rác dọc đường.
Có tên chết, trên tay vẫn còn cầm một nắm lá tàu bay. Lại có tên, miệng cắn chặt đuôi con rắn hổ trâu nhỏ bằng 2 ngón tay. Con rắn vẫn còn sống. Có lẽ khi bị gã dân đoàn viên cắn đuôi để ăn thịt, con rắn đã quay mình lại, mổ cho gã một phát.
Ngày thứ 19, những cuộc đột kích của bộ đội cách mạng Lào diễn ra thường xuyên hơn, bất kể sáng sớm hay nửa khuya, giữa trưa hay xế chiều. Có vẻ như lực lượng Lào không còn là một toán nhỏ, mà là những đơn vị lớn, được súng cối 61, 82 ly, sơn pháo 75 ly yểm trợ. Lúc này, bọn phản động chẳng nghĩ gì đến việc chống trả, mà chỉ tìm cách bỏ chạy thật nhanh, thật xa. Lại thêm một tên chỉ huy nữa, trúng đạn chết là Quyết đoàn phó Nguyễn Ngọc Cường – kẻ đã ăn gan Lê Văn Nguyên.
Tuy nhiên, cái chết làm cho cả bọn mất tinh thần nhất là cái chết của Trương Ngọc Ny. Vốn là cựu sĩ quan binh chủng nhảy dù của quân đội Sài Gòn, Ny giỏi đọc bản đồ, giỏi mưu sinh thoát hiểm, biết phân biệt lá nào, củ nào, trái nào có thể ăn cầm hơi, được Hoàng Cơ Minh giao nhiệm vụ điều phối cuộc xâm nhập, vạch kế hoạch hành quân, lập tuyến phòng thủ, tổ chức đánh trả. Ny chết, bọn phản động như rắn mất đầu dù rằng "cái đầu" Hoàng Cơ Minh vẫn còn đó...
Trong những ngày cuối cùng của "chiến dịch Đông tiến 2", nhóm phản động Hoàng Cơ Minh chỉ còn chưa đầy 40 tên, hầu hết đều bị thương hoặc kiệt sức vì đói. Lương thực mang theo cạn kiệt nên nhiều tên dù muốn trốn, cũng chẳng biết về đâu. Hơn nữa, các bản án tử hình mà Hoàng Cơ Minh thi hành với đồng bọn khi phát hiện âm mưu đào ngũ đã làm bọn chúng kinh sợ.
Ngày tàn của bọn xâm nhập
Trước khi "chiến dịch Đông tiến 2" bắt đầu, Hoàng Cơ Minh quyết định giết bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều, Ngô Chí Dũng vì cho là chống đối, giết Trần Tuyết Ánh, A Hừng, Bùi Duy Hiền, Lưu Tuấn Hùng, Võ Sĩ Hùng, Đào Văn Lâm do nghi ngờ bỏ trốn, giết Thạch Kim Ca, Trần Tự Nhiên... vì nghi là nội gián.
Trên đường hành quân, Hoàng Cơ Minh còn cho các quyết đoàn trưởng, dân đoàn trưởng được quyền giết những tên thương binh như Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Anh Điền, Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Văn Hòa..., hoặc bỏ mặc nằm chết giữa rừng để khỏi phải khiêng, cáng. Ngay cả Lê Hồng (bí danh Đặng Quốc Hiền), cựu trung tá nhảy dù quân đội Sài Gòn, được Minh phong làm "thiếu tướng, tư lệnh quân kháng chiến", cũng bị Hoàng Cơ Minh giết vì đã dám chất vấn Minh về những mờ ám trong việc sử dụng tiền.
Sáng 24, nghĩa là đúng 1 tháng 6 ngày kể từ khi "chiến dịch Đông tiến 2" bắt đầu, bọn phản động tiến gần đến bản Phón, thuộc tỉnh Xa La Van. Đêm hôm trước, lại có thêm 3 tên bỏ trốn là Phạm Hoàng Tùng, Hà Văn Lâm và Đặng Quốc Hùng. Trốn khoảng nửa ngày, chúng gặp Nguyễn Văn Thông, cũng đang trốn nên cho đi cùng. Lúc đi hái măng, Phạm Hoàng Tùng bị lạc rồi bị bộ đội cách mạng Lào bắt sống. Hai ngày sau, 3 tên còn lại cũng vào trại giam.
Trở lại chuyện bản Phón, từ trên đỉnh núi nhìn xuống thấy mấy nóc nhà, Đinh Văn Bé, khi đó được đưa lên làm "quyết đoàn trưởng", đã đề nghị Hoàng Cơ Minh cho 2 dân đoàn viên vào bản mua lương thực với mệnh lệnh "không mua được thì cướp".
Tài sản duy nhất mà chúng còn lại là 5 chỉ vàng, do Hoàng Cơ Minh giữ, được lấy ra đưa cho Trần Văn Yên và Huỳnh Văn Miền. Cũng cần nhắc lại khi thành lập "mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam", bên cạnh hệ thống kinh tài là một chuỗi những tiệm "phở Hòa", Hoàng Cơ Minh và bọn cầm đầu như Hoàng Cơ Định, Phạm Văn Liễu, Nguyễn Kim còn tổ chức nhiều đợt quyên góp trong cộng đồng người Việt hải ngoại dưới chiêu bài "ủng hộ kháng chiến". Và nếu ai không đóng góp, thì bị bọn chúng chụp cho cái mũ "cộng sản nằm vùng", rồi cho tay chân hành hung, hăm dọa, thậm chí ám sát mà cụ thể là giết vợ chồng nhà báo Lê Triết khi Triết cho đăng loạt bài vạch trần sự bịp bợm của "mặt trận Hoàng Cơ Minh".
Sau khi "chiến dịch" bị đánh tan nát, Hoàng Cơ Minh phải đền tội, một số tên cầm đầu còn lại lặng lẽ lấy tiền chia nhau, mua cổ phần trong những công ty chứng khoán, hoặc lập những đội tàu đánh cá, và nó nghiễm nhiên trở thành tài sản riêng.
Cầm 5 chỉ vàng, Trần Văn Yên và Huỳnh Văn Miền xuống núi. Nhưng mới đi chưa được 50 mét, một loạt AK vang lên đanh gọn, khiến Trần Văn Yên chết ngay. Cùng lúc, tứ bề súng nổ giòn, cả tiếng AK lẫn tiếng đạn cối, đạn sơn pháo. Huỳnh Văn Miền lủi vào một hốc đá, giơ khẩu M16 lên đầu, bắn bừa. Ở phía trên, Hoàng Cơ Minh lăn xuống khe suối cạn, cánh tay trái máu tuôn xối xả vì mảnh đạn cối ghim phải. Trên ghềnh đá bên bờ suối, dân đoàn viên Tạ Hoàng Thiện lãnh nguyên một trái M79 nổ tung vào mặt.
Lẫn trong tiếng súng nổ, là tiếng quát gọi hàng của bộ đội cách mạng Lào. Trần Đế, Quyết đoàn phó Quyết đoàn Cải Cách dẫn 4 dân đoàn viên, vừa bắn loạn xạ, vừa lùi xuống khe suối cạn nơi Hoàng Cơ Minh đang nằm lăn lộn. Chưa kịp đặt chân xuống lòng suối lổn nhổn đá củ đậu, dân đoàn viên Nguyễn Văn Sĩ ngã bổ ngửa ra, máu từ ngực phun thành tia, còn dân đoàn viên Ngô Tấn Nghiêm, chân phải đứt tới háng, chỉ còn dính lại bằng mẩu da lủng lẳng. Cạnh đó, "ủy viên trung ương mặt trận" Trần Khánh nằm chết.
Khoảng 40 phút sau, tiếng súng im hẳn. Bọn phản động chết 6, bị thương 3, còn vài tên bỏ trốn hoặc chạy lạc. Thuốc men hầu như chẳng có gì nên cánh tay Hoàng Cơ Minh chỉ được băng bó bằng một miếng giẻ, xé ra từ chiếc khăn rằn quấn cổ. Kiểm điểm lại, chúng chỉ còn 26 tên trong đó 4 tên không vũ khí vì chúng đã vứt bỏ khi tháo chạy.
Đạn dược cũng thế, mỗi tên chỉ còn chừng 3 băng với vài quả lựu đạn. Bên bờ suối, tiếng rên của Ngô Tấn Nghiêm lúc nghe như con lợn bị chọc tiết, lúc chỉ ư ử trong cuống họng nhưng chẳng tên nào còn đủ tinh thần để kết thúc nỗi đau đớn cho mình.
Cái chết của Trần Khánh khiến Hoàng Cơ Minh mất tinh thần. Đây là lần đầu tiên, bọn phản động nhìn thấy Hoàng Cơ Minh mặt tái mét, tay run rẩy, mắt mở trừng trừng nhìn xác Trần Khánh. Là nhân vật thứ hai – chỉ đứng sau Hoàng Cơ Minh trong "chiến dịch Đông tiến", phụ trách tâm lý chiến, Trần Khánh còn có bí danh là Trần Thiện Khải, một thời gian dài chỉ huy và điều hành đài phát thanh "kháng chiến" đặt trên đất U Bon, Thái Lan.
Tự nhận là mình có họ hàng với nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, tức ca sĩ Nhật Trường, Khánh đã sáng tác một số bài hát nhằm lên dây cót tinh thần đồng bọn. Những gã bị bắt sau này cho biết, Trần Khánh có tác phong quân phiệt, thường xuyên la hét, đánh chửi "chiến hữu". Trong suốt thời gian thực hiện "chiến dịch Đông tiến 2" cho đến khi chết, Khánh đã trực tiếp hạ lệnh cho các dân đoàn, quyết đoàn giết chết ít nhất là 7 tên đồng bọn bị thương, đồng thời bỏ rơi hàng chục tên khác khi thấy chúng kiệt sức.
Trời bắt đầu đổ mưa, cơn mưa càng lúc càng nặng hạt. Lợi dụng thời tiết, Hoàng Cơ Minh ra lệnh cho bọn phản động nhanh chóng rời con suối lúc này đã ngập nước, bỏ mặc 3 tên bị thương nằm lại với đất trời. Xẩm tối, chúng phát hiện ra một hang đá, cả bọn chui vào ẩn náu. Nếu không kể những tên từ Mỹ, Pháp, Nhật, Đức về, thì hầu hết dân đoàn viên đều là những tên vượt biên – trong đó không ít là các sắc lính quân đội Sài Gòn, vào trại tị nạn Sikhiu ở Thái Lan, rồi được Hoàng Cơ Minh tuyển mộ với lời hứa "sẽ cho đi định cư tại Mỹ" sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Nhưng đến giờ phút này, chẳng tên nào còn nghĩ đến giấc mơ được tới nước Mỹ, mà chỉ mong thoát khỏi vòng vây của bộ đội Lào. Trước lúc lên đường, chúng bóp nhỏ những gói mì, nhét xuống đáy ba lô. Thịt gà, thịt heo, chúng xé nhỏ, rang thật mặn rồi ém chặt. Bây giờ vét kỹ, còn được vài nắm nên chúng hứng nước mưa, nấu thành một thứ canh lõng bõng, chia nhau húp.
Mưa suốt cả ngày hôm sau. Và có lẽ cơn mưa cũng gây khó khăn cho bộ đội cách mạng Lào, nên chúng tạm thời yên ổn. Đói quá, một vài tên liều mạng bò ra ngoài, hái mấy mớ rau rừng về luộc. Tâm trạng tuyệt vọng khiến cả bọn hầu như chẳng còn suy nghĩ gì nữa. Chúng đốt lửa sáng rực, vừa để hong khô những bộ quần áo, vừa đỡ lạnh. Vết thương trên cánh tay nhiễm trùng khiến Hoàng Cơ Minh lên cơn sốt. Y nằm co quắp trong một góc, chẳng "chiến hữu" nào còn để ý đến y. Tất cả chỉ lo cho mạng sống của mình. Nhiều tên thì thào với nhau, rằng nếu bộ đội Lào đánh vào, chúng sẽ đầu hàng hết.
Sáng 28/8, trời tạnh. Khoảng 9 giờ, Hoàng Cơ Minh ra lệnh lên đường. Trước lúc di chuyển, y nói với đám tàn quân, rằng ai có thể quay về đất Thái thì cứ về. Chẳng phải y tốt lành gì nhưng có lẽ y nghĩ đến phát súng "ân huệ" của đồng đội khi cánh tay y sưng to vì nhiễm trùng, đi phải chống gậy. Nhưng về thế nào được nữa khi tấm bản đồ duy nhất, đã nằm cùng với xác Trương Ngọc Ny.
Cả bọn dò dẫm ra khỏi cửa hang. Sau cơn mưa, vắt xuất hiện nhiều vươn mình bám chặt vào những ống chân khẳng khiu, ghẻ lở, nhưng chẳng tên nào còn tinh thần đâu mà gỡ. Võ Hoàng, "Tổng thư ký hội văn nghệ sĩ mặt trận" kéo "dân đoàn trưởng" Võ Văn Tuấn lùi lại phía sau, vừa bước vừa hỏi nhỏ "Nếu quay lại Thái Lan thì đi đường nào, mất bao nhiêu ngày?".
Tuấn dáo dác nhìn quanh như sợ có người nghe thấy, rồi vẫy "dân đoàn viên" Nguyễn Linh lên: "Hồi trước nghe nói mày có đi khai thác gỗ ở Lào phải không?". Linh gật đầu: "Dạ. Em đi tuốt tới gần biên giới Thái Lan, rồi em chạy qua đó xin... tị nạn luôn" – "Vậy mày còn nhớ đường không?" – "Nếu đi đường từ Quảng Trị lên thì em nhớ, chứ đường này lạ quá. Thái Lan nằm ở phía Tây, là sau lưng mình...". Võ Văn Tuấn gừ gừ trong cuống họng: "Thôi, nghe thì biết vậy thôi. Hó hé ra là mày chết trước. Từ bây giờ, mày đi sát với tao".
9 giờ 30 sáng, trời không có nắng nên quang cảnh vẫn âm u. Đám tàn quân nặng nề lê bước nhưng không phải là tản ra theo đội hình vừa đi, vừa sẵn sàng nổ súng như những ngày đầu, mà co cụm lại với nhau. Qua một trảng cỏ tranh trống trải, chúng cũng chẳng buồn ngụy trang vì đối với nhiều tên trong bọn, cái chết lúc này chính là sự giải thoát, còn bị bắt thì coi như được sinh ra lần thứ hai.
Mặc dù Hoàng Cơ Minh đã tuyên bố cho phép đám phản động được trở lại đất Thái, nhưng chẳng tên nào dám công khai quay lưng bởi lẽ đường sá không rành, lương thực không có, lại thêm bộ đội cách mạng Lào lúc ẩn lúc hiện nên chúng chẳng còn cách nào khác hơn là bám theo bầy đàn. Sau này, trong trại giam, "dân đoàn viên" Nguyễn Văn Đức kể lại: "Kể cả Hoàng Cơ Minh, chẳng ai còn tinh thần và cũng chẳng ai có một tí hy vọng gì về cuộc "Đông tiến".
Trước lúc lên đường, ông Minh nhiều lần thao thao bất tuyệt về các "khu chiến quốc nội", về các "đường dây xâm nhập", về các "trạm dưỡng quân" đã được thiết lập từ nhiều năm trước. Thực tế cho thấy Hoàng Cơ Minh chỉ giỏi nói dóc, đánh lừa...".
Đi được chừng 1km, lúc cả bọn đang dò dẫm bước xuống những tảng đá trơn trợt, thì súng lại nổ. Võ Hoàng – "tổng thư ký hội văn nghệ sĩ mặt trận" bị một quả M.79 vào đầu. Nguyễn Văn Đẩu, tên còn khỏe nhất, đeo balô đựng quần áo, tài liệu của Hoàng Cơ Minh lĩnh nguyên một loạt AK vào bụng. Quyết đoàn phó Trần Đế vừa giương súng bắn bừa, vừa kéo Hoàng Cơ Minh, xuống con suối cạn, là điểm tiếp giáp giữa hai ngọn núi. Dân đoàn trưởng Đinh Văn Bé, có nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Cơ Minh và Nguyễn Tấn Phát, "dân đoàn viên" nhỏ tuổi nhất, mới có 16 tuổi cũng vội vã lao theo.
Bộ đội cách mạng Lào tràn xuống tiếp tục bắn Dân đoàn phó Nguyễn Vĩnh Lộc trúng đạn, giãy đành đạch, dân đoàn trưởng Võ Văn Tuấn ngã gục như thân chuối bị phạt ngang. Biết là chẳng còn làm gì được nữa, Hoàng Cơ Minh rút khẩu súng ngắn Browning đeo bên mình, kê lên thái dương bóp cò tự sát. "Ủy viên trung ương" Nguyễn Huy cũng tự sát. Riêng Lưu Minh Hưng, "ủy viên mặt trận" khi vừa buông chốt quả lựu đạn ra, định ném thì bất ngờ lựu đạn nổ. Cả nửa thân trên của Hưng chỉ còn là nhúm thịt bầy nhầy...
* * *
Sáng ngày 1/12/1987, Tòa án nhân dân TP HCM đã mở phiên xét xử những tên phản động trong nhóm Hoàng Cơ Minh do Chính phủ nhân dân Cách mạng Lào chuyển giao vì mục tiêu của chúng là xâm nhập, bạo loạn lật đổ Nhà nước Việt Nam. Chúng đã lĩnh án từ 3 năm tù đến chung thân. Tổng cộng trong số 130 tên xâm nhập, có 83 tên chết. 19 tên bị bắt, số còn lại bỏ trốn khi đang trên đường xâm nhập.
Năm 1990, khi tình hình Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều biến động, hí hửng tưởng rằng thời cơ đã tới, "quyết đoàn trưởng mặt trận Hoàng Cơ Minh" là Đào Bá Kế, nguyên sĩ quan Binh chủng nhảy dù, quân đội Sài Gòn, đã dẫn 30 tên mở cuộc "Đông tiến 3". Nhưng cũng như nhóm phản động do Hoàng Cơ Minh cầm đầu, "chiến dịch Đông tiến 3" bị đánh tan tác. Nhiều tên chết, nhiều tên bị bắt trong đó, Đào Bá Kế lĩnh án tù chung t
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top