cải cách hành chính
Trước hết, Vụ cải cách hành chính cảm ơn Bạn đã có sự quan tâm tới vấn đề cải cách hành chính.
Cải cách hành chính là một khái niệm đã được nhiều học giả, các nhà nghiên cứu hành chính trên thế giới đưa ra, dựa trên các điều kiện về chế độ chính trị, kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, cũng như phụ thuộc vào quan điểm và mục tiêu nghiên cứu, do đó hầu hết các định nghĩa này là khác nhau. Tuy nhiên, qua xem xét, phân tích dưới nhiều góc độ định nghĩa của khái niệm, có thể thấy các khái niệm về cải cách hành chính được nêu ra có một số điểm thống nhất sau:
- Cải cách hành chính là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Cải cách hành chính không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn so với trước, chất lượng các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả thi, đi vào cuộc sống hơn, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước sau khi tiến hành cải cách hành chính đạt hiệu quả, hiệu lực hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế – xã hội của một quốc gia;
- Cải cách hành chính tuỳ theo điều kiện của từng thời kỳ, giai đoạn của lịch sử, yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, có thể được đặt ra những trọng tâm, trọng điểm khác nhau, hướng tới hoàn thiện một hoặc một số nội dung của nền hành chính, đó là tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, thể chế pháp lý, hoặc tài chính công v.v...
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào chính thức định nghĩa khái niệm cải cách hành chính là gì. Tuy nhiên, nhiều văn bản quan trọng của Đảng đã đề cập đến thuật ngữ này, như Nghị quyết Đại hội VII, Nghị quyết TW 8 - khoá VII, Nghị quyết Đại hội VIII v.v... đã nêu ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho công cuộc cải cách hành chính nhà nước. Đồng thời, Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010 của Chính phủ được ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ cũng đã nêu 4 nội dung cơ bản của cải cách hành chính Việt Nam, đó là cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Mục tiêu của cải cách hành chính nhà nước đến 2010 theo Chương trình tổng thể là “Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Các nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của 4 nội dung được nêu trên, Bạn có thể tham khảo đầy đủ trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010 được ban hành kèm theo Quyết định số 136 nêu trên của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra còn một số văn bản triển khai cụ thể Chương trình tổng thể, như các quyết định của Thủ tướng Chính phủ sau đây:
+ Quyết định số 902/2003/QĐ-TTg ngày 14/8/2003 phê duyệt Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật;
+ Quyết định số 121/2003/QĐ-TTg ngày 11/6/2003 phê duyệt Chương trình nghiên cứu xác định vai trò, chức năng và cơ cấu tổ chức của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước;
+ Quyết định số 69/2003/QĐ-TTG ngày 29/4/2003 phê duyệt Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức;
+ Quyết định số 08/2004/QĐ-TTG ngày 15/01/2004 phê duyệt Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công;
+ Quyết định số 112/2001/QĐ-TTg ngày 25/7/2001 phê duyệt Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2005;
+ Quyết định số 169/2003/QĐ-TTg ngày 12/8/2003 phê duyệt Đề án Đổi mới phương thức điều hành và hiện đại hoá công sở của hệ thống hành chính nhà nước giai đoạn I (2003- 2005);
+ Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 ban hành Quy chế thực hiện cơ chế "một cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương;
+ Quyết định số 178/2003/QĐ-TTg ngày 03/9/2003 phê duyệt Đề án tuyên truyền Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010, v.v...
Trên đây là ý kiến trả lời của Vụ cải cách hành chính về vấn đề Bạn nêu.
II. VÌ SAO PHẢI TIẾN HÀNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH (3 lí do):
· Dẫn luận:
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp (kinh tế thời chiến) sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (kinh tế thị trường định hướng XHCN).
Trước đây, trong thời kì chiến tranh, bao cấp chưa tiến hành CCHC được vì những lí do lịch sử: tất cả vì tiền tuyến, vì thời đó những nhu cầu mang tính xã hội còn ít ỏi (kinh doanh, sổ đỏ, xây dựng nhà ở, thu hút đầu tư...còn chưa có), đời sống nhân dân khó khăn cho đến khi bước vào thời kì đổi mới xuất hiện và phát triển nhiều nhu cầu…
Nền kinh tế từ quốc doanh và tập thể là chính chuyển sang nền kinh tế 6 thành phần (Nghị quyết Đại hội Đảng IX), đó là: Kinh tế nhà nước, Kinh tế tập thể, Kinh tư bản tư nhân, Kinh tế tư bản nhà nước, Kinh tế cá thể, tiểu chủ, Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
1. Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa và hội nhập với khu vực và trên thế giới.
- Việt Nam là thành viên của khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) từ tháng 7/1995, đang tiến tới thực hiện các cam kết nhằm tự do hoá thương mại của các nước ASEAN: cắt giảm thuế quan, loại bỏ rào cản thương mại cho trao đổi hàng hoá giữa các nước thành viên.
- VN đang đề nghị trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đây là nhiệm vụ mới, khó khăn nếu bản thân Nhà nước không đổi mới tổ chức và hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý thì không thể hoàn thành nhiệm vụ trên. Do đó, yêu cầu tất yếu phải đổi mới để phù hợp với đổi mới kinh tế.
Đổi mới về kinh tế ® đổi mới về quản lý hành chính.
2. Thực tiễn tổ chức, hoạt động quản lý HC nhà nước:
Bên cạnh những thành tựu trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN còn tồn tại những yếu kém, hạn chế như: bệnh quan liêu, xa dân, quản lý thiếu tập trung thống nhất, trật tự kỷ cương buông lỏng, bộ máy cồng kềnh ® giảm sút hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.
Ví dụ: trước tháng 11/1986 TW có 76 bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ; đến trước 9/2002 TW có 46 bộ ngành và cơ quan thuộc CP; đến nay giảm chỉ còn; Ví dụ: Bộ NN&PTNT gồm: Nông nghiệp, lương thực thực phẩm, lâm nghiệp, thuỷ lợi và tổng cục cao su VN. Nhập bộ điện than, cơ khí luyện kim, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và tổng cục hoá chất thành bộ Công nghiệp, hiện nay các bộ này hoạt động bình thường, có hiệu quả.
3. Tình hình phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ:
Trên thế giới hiện nay diễn ra những biến đối rất nhanh chóng, to lớn đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước dẫn đến thích ứng kịp thời với diễn biến tình hình và nhịp điệu phát triển của thời đại.
- Trong vòng 50 năm qua, thành quả của biến đổi về KHCN bằng sự biến đổi của tất cả thời gian trước cộng lại.
- Hàn Quốc: Chính phủ điện tử năm 2004 công khai hoá việc xử lí các vấn đề của dân, của doanh nghiệp trên mạng internet (theo dõi được tiến độ và kết quả cơ quan HC giải quyết công việc của mình).
- Singapo: năm 1999 áp dụng ISO 9000 trong toàn bộ bộ máy hành chính.
Kết luận: CCHC là một đòi hỏi tất yếu mang tính khách quan (không đổi mới sẽ bị tụt hậu).
III. TIẾN HÀNH CCHC NHƯ THẾ NÀO ?
1. Sơ lược quá trình CCHC:
a. Từ thời phong kiến:
* Triều Lê Thánh Tông (1460 - 1497): Luật Hồng Đức chia lại hợp lí hơn về địa giới hành chính cả nước (gồm 13 đạo, sắp xếp bộ máy thành 6 bộ: Lại, Lễ, Hộ, Hình, Binh, Công).
* Triều Minh Mạng (1820 - 1840): Chia nước thành 30 tỉnh và 1 kinh đô, xếp lại ngoài 6 bộ còn thêm 4 viện, bộ máy cai trị từ Triều đình đến Phủ đến Huyện đến xã.
b. Việt Nam dân chủ cộng hoà (giành được độc lập dân tộc từ Cách mạng tháng Tám năm 1945).
+ Cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc Hội, Hội đồng nhân dân.
+ Cơ quan HC nhà nước (Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc CP, UBND tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, UBND cấp quận, huyện và xã, thị trấn).
+ Cơ quan Tư pháp: Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân.
c. Thời kỳ đổi mới
Cải cách hành chính ở Việt Nam là công việc mới mẻ, diễn ra trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà nước trong thời kỳ mới, có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi rút kinh nghiệm. Vì vậy, việc hình thành quan niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành chính cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo không ngừng, là một quá trình nhận thức liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới được khởi đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986.
Từ xác định những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng, Đại hội VI đã chỉ rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân là do công tác tổ chức, cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng do vậy Đảng đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước tuy đã được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối, song nhìn chung còn cồng kềnh và chồng chéo.
Khắc phục những hạn chế trên, đến Đại hội VII, Đảng xác định tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước và đề ra những nhiệm vụ về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương. Trên cơ sở những nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra, trong nhiệm kỳ này đã tiến hành đợt sắp xếp lần thứ hai kể từ Đại hội VI hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII thông qua đã khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành chính nhà nước. Cương lĩnh đã nêu: về Nhà nước “phải có đủ quyền lực và có đủ khả năng định ra luật pháp về tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà nước”. Chiến lược cũng nêu trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có
đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tháng 4/1992, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992 thể hiện sự nhận thức đầy đủ hơn về phân công, phối hợp giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong tổng thể quyền lực thống nhất của Nhà nước.
Sau Đại hội VII, từ 1992 đến 1995 là giai đoạn phát triển mạnh tư duy, quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về cải cách hành chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) xác định Cải cách một bước nền hành chính nhà nước là nhiệm vụ trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Lần đầu tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành chính nhà nước được trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8, đó là: cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy tiến trình CCHC, đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển biến thật sự trong cải cách hành chính ở nước ta.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) nhấn mạnh yêu cầu tiến hành cải cách hành chính phải đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là một giải pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch KT-XH 5 năm 1996- 2000.
Đại hội VIII nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế mới; cải tiến quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, và sắp xếp lại bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương, hợp nhất một số cơ quan quản lý chuyên ngành về kinh tế trên cơ sở xác định rõ và thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành. Theo đó, Nghị quyết của Đảng bổ sung 4 điểm quan trọng
về cải cách hành chính là:
- Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính;
- Tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá sự phân cấp quản lý nhà nước giữa các cơ quan của Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Đổi mới chế độ công chức và công vụ (bao gồm sửa đổi quy chế thi tuyển, bồi dưỡng, đào tạo mới và trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức, kiên quyết xử lý và sa thải những người thoái hoá, biến chất; tăng cường biện pháp và phối hợp lực lượng đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cửa quyền trong bộ máy cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước);
- Thành lập Toà án hành chính và thực hiện xã hội hoá đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ công.
Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) họp tháng 6 năm 1997 ra Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về cải cách hành chính được nhấn mạnh trong Nghị quyết quan trọng này là bảo đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ nhà nước, trong giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoạt động của cán bộ, công chức. Từ đó, Chính phủ ban hành các quy chế
thực hiện đan chủ ở cơ sở.
Trong việc xây dựng chiến lược về cán bộ cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020, Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực, coi đó là yếu tố quyết định đến chất lượng bộ máy nhà nước. Cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, được bố trí, điều động theo nhu cầu và lợi ích của đất nước.
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII), đã khẳng định tiếp tục tiến hành cải cách hành chính và đặt cải cách hành chính trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị.
Từ việc kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm từ thực tiễn, Đảng đã đi đến khẳng định, trong điều kiện một đảng cầm quyền, sự đổi mới chưa đồng bộ các tổ chức trong hệ thống chính trị là trở ngại lớn của công cuộc cải cách hành chính trong thời gian qua. Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Cũng không thể cải cách hành chính một cách biệt lập mà không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập pháp và tư pháp.
Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giảm biên chế, cải cách chính sách tiền lương.
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá, đẩy mạnh cải cách hành chính coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trên các mặt của hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức cán bộ, phương thức hoạt động. Định rõ những việc Nhà nước phải làm và bảo đảm đủ các điều kiện để làm tốt; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc làm thay, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan Đảng và cơ quan Nhà nước; hiện đại hoá nền hành chính; đề ra chủ trương và giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới là: điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, phân định rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng…
Đại hội X của Đảng (năm 2005) đã khẳng định tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội; thực hiện đồng bộ, kiên quyết các giải pháp để phßng, chống tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước.
Kết luận: CCHC là một quá trình liên tục đổi mới từ xua tới nay
Phần 2. CHƯƠNG TRÌNH TỔNG THỂ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2001-2010
(Theo Quyết định số 136/QĐ-TTg, ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010)
I/ MỤC TIÊU:
Làm cho Nhà nước trở thành chủ thể quản lý có hiệu quả, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh để phục vụ nhân dân, chuyên nghiệp hoá, hiện đại hoá hoạt động của Nhà nước.
Nhà nước có 2 chức năng: cai trị (thuần tuý quản lý nhà nước) và phục vụ (dịch vụ công cho xã hội).
Yêu cầu chính cần đạt: Chuyển từ nền hành chính truyền thống (cai trị) sang nền hành chính phát triển (phục vụ):
+ Truyền thống: cơ chế mệnh lệnh, can thiệp xin-cho.
+ Phát triển: tách chức năng hành chính khỏi chức năng kinh doanh và dịch vụ công.
Để bộ máy hành chính đích thực thực hiện công việc nhà nước, còn chức năng kinh doanh, dịch vụ công do Nhà nước và công dân cùng thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, ví dụ: uỷ quyền cho các hội, tổ chức phi Chính phủ đảm nhận các loại hình như là bảo vệ môi trường, y tế (phòng khàm bệnh tư, chất lượng cao), giáo dục (trường bán công, dân lập, tư thục: Vĩnh Phúc có Đại học, trung cấp dân lập...), văn hoá, thể thao, xoá đói giảm nghèo...
Kết luận:
- Xây dựng quan hệ giữa Nhà nước và công dân trên cơ sở của sự bình đẳng, chuyển từ nền hành chính mệnh lệnh sang nền hành chính phục vụ.
- Công việc cải cách là công việc nội bộ, công việc tự thân của Nhà nước, còn tổ chức, công dân là đối tượng thụ hưởng những kết quả của cải cách.
II/ NỘI DUNG CCHC GIAI ĐOẠN 2001- 2010:
Trở lại các yếu tố cấu thành Nhà nước (hình 1), 3 yếu tố này muốn hoạt động được phải có tài chính (chuyển động được như một cỗ máy, phải có xăng dầu).
Nội dung CCHC gồm 4 vấn đề:
1. Cải cách thể chế:
Những quy định luật lệ của một xã hội bao gồm Hiến pháp, Luật...những quy tắc và thủ tục hành chính.
Gồm 3 vấn đề chính:
+ Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
+ Tổ chức thực thi pháp luật của cơ quan, cán bộ, công chức.
+ Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, khâu đột phá giải quyết vấn đề nóng bỏng đụng chạm đến công dân.
2. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước:
a. Phân cấp, phân quyền cho các cơ quan quản lý nhà nước tiến tới bộ máy gọn nhẹ.(vấn đề này có chuyên đề riêng)
b. Tách quản lý hành chính với quản lý sự nghiệp, hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công trong tổ chức và hoat5j động. Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ hoặc các doanh nghiệp làm các công việc về dịch vụ (không nhất thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện) nghĩa là giảm (tinh giản) bộ máy hành chính.
c. Hiện đại hoá nền hành chính (ứng dụng công nghệ thông tin, Đề án 112, áp dụng ISO 9001- 2000 quản lý hành chính theo quy trình, tiêu chuẩn chất lượng Quốc tế):
+ Đầu tư xây dựng trụ sở làm việc.
+ Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị.
+ Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Đến năm 2005 có 1,5% dân số sử dụng internet, dự kiến đến 2010 mạng thông tin quốc gia phủ trên cả nước nối mạng từ TW đến cơ sở (xã, phường, thị trấn).
3. Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức:
- Công tác quản lý cán bộ, công chức (đào tạo, tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng). Công chức cấp xã: 7 chức danh (Công an, Quân sự, Văn phòng-Thống kê, Địa chính-Xây dựng, Tài chính, Tư pháp-Hộ tịch, Văn hoá-Xã hội).
- Cải cách tiền lương và chính sách đãi ngộ.
- Đào tạo, bồi dưỡng...nâng cao trách nhiệm và đạo đức công vụ.
4. Cải cách tài chính công:
- Khoán biên chế gắn với khoán chi hành chính ở các cơ quan hành chính (trước đây Nghị định 192/2003, nay có Nghị định 130/2005).
- Trao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp có thu (trước đây Nghị định 10/2004 nay có Nghị định 43/2006).
- Cơ chế khoán một số dịch vụ công cộng: vệ sinh đô thị, cấp thoát nước, cây xanh, công viên, nước phục vụ sinh hoạt.
III. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU:
1/ Giải pháp 1: Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành, đổi mới tư duy lí luận, nhận thức, quyết tâm của người lãnh đạo (quyết tâm chính trị cao).
2/ Giải pháp 2: Thực hiện CCHC đồng bộ với cải cách hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội), đổi mới về tổ chức hoạt động của Đảng trước hết là phương thức lãnh đạo của Đảng; CCHC gắn với đổi mới hoạt động lập pháp và tư pháp.
3/ Giải pháp 3: Thực hiện cải cách đồng bộ từ TW đến địa phương, làm từ trên xuống dưới (từ đầu đến chân).
Có bước đi thích hợp: tỉnh, huyện trước, xã (va chạm rõ nhất quyền, lợi ích của nhân dân) sau, rồi đến TW.
4/ Giải pháp 4: Bố trí nguồn tài chính và nhân lực.
5/ Giải pháp 5: Tăng cường công tác thông tin và tuyên truyền (nhân dân đồng tình ủng hộ, đội ngũ cán bộ công chức chấp nhận CCHC.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top