Các trận hải chiến nổi tiếng thời Cận Đại - cuối thế kỷ 17 -- > 19 Châu Âu

Kỷ tầu buồm - The Age of Sail

Giới thiệu về chiến thuật hải quân kỷ Tầu Buồm

Chiến thuật hải quân trong trong kỷ tầu buồm đã được sử dụng từ những năm 1600 trở đi khi tầu buồm thay thế tầu Galley sử dụng máy chèo. Chúng được sử dụng cho đến thập niên 1860 khi tàu chiến bọc thép động cơ hơi nước thay thế dòng tầu chiến chạy bằng buồm đã lỗi thời.

chiến thuật

Chiến thuật hải quân trong Age of Sail chủ yếu được xác định bằng:Kỹ thuật, trình độ sử dụng buồm.Kỹ thuật chiến đấu thuỷ thủ đoàn (đặc biệt thuật sử dụng pháo) Và chất lượng của các tầu chiến chạy buồm thời gian đó.Ba yếu tố đó hạn chế những gì một đô đốc hạm đội tầu buồm có thể ra lệnh cho hạm đội của mình có thể làm. Các hạn chế đầu tiên được rằng, giống như tất cả các tàu chạy bằng buồm, tàu chiến cơ động bằng buồm không thể đi trực tiếp vào trong cơn gió. Hầu hết các tầu buồm không thể vào gần hơn 70 độ khi tắt gió. Điều này là hạn chế khả năng cơ động của hạm đội trong một trận cận chiến. chiếm lợi thế gió ( weather gage ), tức là chiếm được hướng ngược gió của một của đối thủ, được coi như là một lợi thế chiến thuật đáng kể.Khó khăn thứ hai là các tàu thời gian này thường biên chế cơ số súng của chúng thành hai khẩu đội lớn, mỗi khẩu đội bên mỗi mạn tầu, chỉ một số ít được bắn trực tiếp từ phía trước hay ở phía sau. Các tàu chiến chạy buồm vô cùng mạnh mẽ khi sử dụng các pháo mạn của nó, nhưng hoả lực lại rất yếu ở mũi và đuôi tầu. Các mạn của con tàu được chế tạo bằng gỗ cứng, chắc nhưng đuôi tầu lại đặc biệt là mỏng manh với một hệ thống lớn các cửa sổ của khoang hành lý của các sỹ quan. Khu vực mũi và đặc biệt là đuôi tầu dễ bị tổn tương bởi súng bắn thia lia. Bắn thia lia vào một con một tàu bằng cách bắn theo chiều dài của một con tàu từ mũi tầu đến đuôi tầu sẽ gây một thiệt hại rất to lớn, bởi vì một phát đạn duy nhất sẽ bay dọc theo chiều dài của sàn tầu, trong khi tàu đang bị bắn thia lia không thể bắn trả bằng các pháp mạn của nó được ( Đạn đại bác các thế kỷ trước hình cầu, sức xuyên phá yếu, nên khi chạm vào sàn tầu đối phương không đủ sức xuyên qua mà chỉ lăn ầm ầm trên sàn --> quét sạch những gì nó gặp ,đây là cách bắn thia lia).Khó khăn thứ ba là khó khăn trong việc liên lạc trên biển. liên lạc bằng thư tín là gần như không thể được trong một hạm đội tàu đang vận động, trong khi sử dụng những lời gọi là vô cùng khó khăn vì tiếng ồn của gió và thời tiết. Vì vậy, các đô đốc đã buộc phải dựa vào sự bố trí của một bộ cờ tín hiệu có sẵn trên tàu kỳ hạm của đô đốc. Trong khói lửa của trận đánh, thường rất khó khăn hoặc không thể nhìn thấy các tín hiệu này.Thế kỷ cuối 15 người ta chứng kiến sự ra đời của lớp tầu chiến the man-of-war, một tàu chiến đi đại dương thực sự mang buồm vuông có thể được phép chạy nương vào gió, và trang bị rất nhiều pháo. Việc mang súng nặng làm cho phần đầu của fore và after castles bị suy yếu hơn trước đây, nơi qua vị trí này chống các loại vũ khí cá nhân thời Trung Cổ, tạo ra khả năng bị lật thuyền. Điều này có nghĩa rằng những nơi trước đó đã giữ cho tàu có thể được sử dụng được hoặc là tàu buôn hoặc là tàu chiến bây giờ đã chứa đầy súng pháo và đạn dược. Do đó tàu đã trở thành như là một tàu chiến chuyên nghiệp, do đó sẽ dẫn đến một hạm đội thường trực thay vì dựa vào hợp đồng tạm thời. Tầu chiến lớp the man-of-war cuối cùng đã kết thúc thời của các galley quá lạc hậu, ngoại trừ cho các hoạt động gần với bờ biển trong thời tiết không có gió. Với sự phát triển của Tầu chiến lớp the man-of-war , và sự bắt đầu của những hạm đội tầu buồm vĩ đại có khả năng chiếm cứ một vùng biển trong thời gian dài, tạo ra một sự cần thiết cho một thích ứng mới về nguyên tắc cũ của chiến thuật hải quân.Một chiếc tàu mà sự cơ động của nó phụ thuộc vào gió thì không thể hy vọng để sử dụng đòm ram ( đòn bơi ngoặt và húc và sườn tầu đối phương bằng Ram - mũi nhon bọc đồng của tầu mình). Một tàu buồm không thể sử dụng đòn ram, trừ khi nó được cơ động trong một cơn gió đủ mạnh. Trong một cơn gió nhẹ sức tấn công của nó là không hiệu quả, và đòn này không thể được thực hiện ở ở tất cả các vị trí ngược gió. Hải quân Tây Ban Nha vẫn duy trì dài lâu dài chiến thuật là đâm mũi tầu của mình vào sườn tầu đối thủ, và tung thủy thủ đoàn lên chiếm boong của nó. Để thực hiện chiến thuật tấn công như thế này, tự nhiên người Tây Ban Nha phải sẽ cố gắng đến vị trí lợi gió (windward) và sau đó lao xuống theo chiều gió để tấn công tầu đối phương. Nhưng khi đối thủ ở vị trí dưới gió (leeward) luôn luôn có thể ngăn cản chiến thuật tấn công này bằng cách cơ động ra xa, và nổ hết các pháo mạn của mình để làm tê liệt đối thủ bằng cách bắn gục các cột buồm. Một sự đổi mới quan trọng về tổ chức đã được thực hiện bởi Sir Francis Drake. Trước khi có sự chỉ huy của ông, một tàu chiến thường được điều hành bởi một ủy ban bao gồm sỹ quan phụ trách hệ thống buồm (sailing master), hoa tiêu, pháo thủ trưởng và thủy thủ trưởng chủ trì bởi một quý tộc. Drake thấy không cần thiết trong việc có một thành viên của tầng lớp quý tộc, người không có kiến thức chuyên môn và ông ta thiết lập một nguyên tắc là thuyền trưởng của con tàu sẽ chỉ huy duy nhất, dựa trên kỹ năng và kinh nghiệm của mình chứ không phải là vị trí xã hội.Chuyển đổi này đã không bao giờ được thực hiện trong Hải quân Tây Ban Nha nơi mà các quý ông tiếp tục cản trở các hoạt động trong suốt thời kỳ tầu buồm. Hải quân Cách mạng Pháp thì lại mắc một sai lầm ngược lại trong việc thăng chức những chỉ huy hải quân, những người không có kinh nghiệm hoặc đào tạo đầy đủ, hoặc làm việc tốt trong bộ binh chứ không phải ở biển.Hải quân Hoàng gia Anh thì ngược lại được phục vụ bởi nhiều chỉ huy có nguồn gốc bình dân, chẳng hạn như Horatio Nelson (con trai của một giáo trưởng), Jervis (con trai của một luật sư), hoặc Collingwood (con trai của một hàng thịt) cũng như của quý tộc người đã chứng tỏ được mình trên biển như: Thomas Cochrane và thậm chí là người làm việc cho Hội đồng Hoàng gia chẳng hạn như John Benbow ( Ý là thế này người Tây Ban Nha hay sử dụng những quý tộc, những người kém chuyên môn nhưng lại có địa vị chính trị lớn vào các vị trí chủ chốt của một con tầu buồm, người Pháp thì ngược lại, sau cách mạng họ chặt đầu các quý tộc và cử các bình dân - những người thiếu đào tạo vào vị trí này, còn người Anh thì chọn những người có chuyên môn giỏi mà bất kể xuất thân --- > có lẽ chính vì vậy mà thời này người Anh liên tục chiến thắng người Pháp trên biển ?)

Sự Phát triển các chiến thuật trong Hải quân Pháp

Trong Hải quân Pháp, các chiến thuật chèo thuyền được phát triển bởi các chiến thuật gia người Pháp Paul Hoste, Bigot de Morogues và Bourde de Villehuet, những người đã phát triển từ các mã truyền thống của tất cả các thực hành và dịch sang ngôn ngữ khác. Trong suốt thế kỷ 18, chính phủ Pháp phát triển học thuyết chiến lược là Hải quân Pháp phải tập trung vào hoàn thành một nhiệm vụ nào đó (ví dụ hộ tống tầu hàng chẳng hạn), thay vì đánh nhau để kiểm soát biển. Chính phủ Pháp thường miễn cưỡng chấp nhận rủi ro chiến thuật để đạt được mục tiêu chiến lược của họ. Hải quân Pháp bị hạn chế bởi các rụt rè trong các mệnh lệnh của chính phủ. Hạm đội và các hải đội Pháp thường tìm cách để tránh những trận đánh hơn là chấp nhận rủi ro trong một cuộc chiến đối đầu với lực lượng hải quân Anh, như De Ternay đã làm trong tháng 6 1780 về một cuộc chạm trán với một hải đội nhỏ của Anh do Cornwallis chỉ huy ngoài khơi Bermuda. Chiến lược này có dựa vào một chiến thuật. Tàu Pháp thường có xu hướng nổ súng vào buồm của các đối thủ của họ để làm cho chúng mất sự cơ động và cho phép các tàu Pháp trốn thoát và tiếp tục với nhiệm vụ của họ.Tàu Pháp thường bắn các pháo mạn của họ trong những ô súng phía trên của con tầu nhằm vô hiệu hoá đối thủ của họ, nhưng lại gây ít thiệt hại đển các tàu của đối phương và thủy thủ đoàn của họ. Điều này thường xảy ra bởi xu hướng các tầu của Pháp thường nổ súng từ gage dưới gió. Tàu Anh và tầu Hà Lan thì ngược lại, xu hướng sử dụng chiến thuật đối diện, bắn vào cuộn xuống vào thân tầu đối phương, gây ra một cơn bão các mảnh vụn bay làm chết người và giết chết các pháo thủ của các khẩu đội súng của đối phương. Điều này khác biệt trong chiến thuật tạo ra một số cách để giải thích sự khác biệt về con số thương vong giữa hạm đội Anh và Pháp, hạm đội Pháp có xu hướng không chỉ bị thương vong nhiều hơn mà còn có một tỷ lệ chết cao hơn bị thương.

Chiến thuật Ship of the line bị mất hiệu quả vào giữa thế kỷ 18

Khi các cuộc xung đột xảy ra giữa Anh và Pháp trong thế kỷ 18, các trận hải chiến giữa các lực lượng ngang bằng hoặc xấp xỉ bằng nhau đã trở thành phần lớn những trận đánh không quyết định thắng thua. Người Pháp, người thường có ít tàu chiến hơn người Anh trong suốt thế kỷ, đã đau đầu để chiến đấu với chi phí ít nhất có thể, vì sợ hạm đội của họ sẽ bị hao mòn trong trận chiến, tạo cho người Anh một loạt các ưu thế. Vì vậy người Pháp rất ưa thích để tham gia trận đánh ở vị trí dưới gió, một vị trí mà họ có thể tự do rời bỏ trận chiến. Người Pháp thường cho phép Hạm đội Anh chiếm vị trí đầu hướng gió ( Windward) và khi tầu Anh tiến song song với họ và lách lên trước gió để tấn công, họ (người Pháp) vẫn di chuyển về phía trước. Hạm đội tấn công cũng phải tiến về phía trước, tàu của họ (người Anh) di chuyển dọc theo các đường vuông góc với đội hình của những kẻ bị tấn công (người Pháp), nhưng theo đường xiên hoặc đường cong. Những kẻ tấn công sẽ ở vào vị trí "a bow and quarter line" - với phần mũi của lớp thứ hai với phần sau của lớp đầu tiên và như vậy từ đầu đến cuối. Trong trường hợp của một số tàu có sức cơ động của buồm khác nhau, chúng sẽ tạo nên sự khó khăn để duy trì đội hình.Kết quả thường là các tàu của line tấn công cố gắng lái vào để tấn công trung tâm đội hình của đối phương bắt đầu nổ súng trước và đã bị đánh trả vào buồm -- > giảm mức cơ động. Nếu đội hình tấn công vẫn được duy trì, những tầu khác là bây giờ bị giảm tốc độ vì vướng các tàu bị thương, và để đối phương trượt đi dưới gió. Ở tất cả các lần một hạm đội tiến lên từ vị trí đầu hướng gió (Windward) thường bị thương vào xà dọc, ngay cả khi các đội tàu dưới gió không cố ý nhắm vào họ. Các tàu ở vị trí dưới gió có xu hướng là bỏ chạy, và phát đạn của họ luôn luôn có xu hướng bay cao. Vì vậy cứ là các tầu tấn công chiếm vị trí đầu hướng gió (Windward) thì các tàu dưới gió luôn luôn có thể trượt ra và chạy mất.Chiến tranh ở thế kỷ 18 tạo ra một loạt các trận hải chiến không có người chiến thắng về chiến thuật giữa các hạm đội xếp thành các tuyến dài, chẳng hạn như trận Malaga (1704), Rügen Island (1715), Toulon (1744), Minorca (1756), Negapatam (1758), Cuddalore (1758), Pondicherry (1759), Ushant (1778), Dogger Ngân hàng (1781), Chesapeake (1781), Hogland (1788) và Öland (1789). Mặc dù một vài trận trong số này là trận đánh có kết quả quan trọng chiến lược, như trận Chesapeake trận mà người Anh đã giành chiến thắng, tất cả các trận này đều không có các chiến thắng về chiến thuật. Nhiều vị Đô đốc bắt đầu tin rằng một trận đánh giữa hai hạm đội không thể tạo ra một kết quả quyết định. Những trận đánh có ý nghĩa quyết định về chiến thuật của thế kỷ 18 là tất cả những trận rượt đuổi, mà một trong những hạm đội tàu này đã rõ ràng vượt trội hạm đội khác, chẳng hạn như trong hai trận đánh tại Finisterre (1747), và những c Lagos (1759), Quiberon Bay (1759) và Cape St Vincent (1780).Sự đổi mới về chiến thuật của hải quân Anh là rất chậm chạp bởi một vụ tranh chấp giữa hai đô đốc do hậu quả của Trận Toulon. Hạm đội Anh của Đô đốc Thomas Mathews đã không thể rút lui khỏi trận chiến với hạm đội Pháp, và Mathews ra lệnh cho một cuộc tấn công, ý định của các tàu Anh là tấn công phía sau tầu Pháp. Ông không có tín hiệu mà qua đó ông có thể truyền đạt ý định của mình cho hải đội phía sau theo do Phó Đô đốc Richard Lestock chỉ huy, đối thủ chính trị của ông và là vị chỉ huy cao cấp thứ hai, vẫn duy trì một cách cứng nhắc hướng về trước, đi xa về phía sau của địa điểm xảy ra trận đánh này. Một loạt những diễn biến tiếp theo của tòa án quân sự, và phiên tòa này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị xâm nhập vào bởi bạn bè của Lestock trong Nghị viện, đã trừng phạt Mathews và các thuyền trưởng người đã ủng hộ ông trong trận đánh, và minh oan cho Lestock. Trong một loạt các trận đánh sau đó, các đô đốc những người muốn đi chệch khỏi hướng dẫn cẩm nang chiến đấu của Hải quân đã được nhắc nhở về số phận của Mathews.

Phát triển trong thời gian chiến tranh độc lập của Mỹ

Các đặc điểm không đạt yêu cầu của chiến thuật chấp nhận giao chiến của các trận hải chiến trên biển đã bắt đầu rõ ràng đến các sỹ quan hải quân của cả Pháp và Anh, vào thế kỷ 18 và sau đó vấn đề này bắt đầu được giải quyết trong nhiều trận đánh ở Chiến tranh giành độc lập của nước Mỹ. Rõ ràng là cách duy nhất để tạo ra kết quả quyết định là tập trung các cuộc tấn công vào một phần của dòng tầu của đối phương, tốt nhất là tấn công vào phía hậu quân để cách trung tâm phải quay về hỗ trợ nó.Vị đô đốc vĩ đại người Pháp Suffren lên án chiến thuật của hải quân Pháp có rất ít các cải thiện và rằng chiến thuật này của người Pháp là để bào chữa cho việc cố trốn tránh một cuộc hải chiến thực sự. Ông tìm một phương pháp chiến thuật tốt hơn, bằng cách tập trung lực lượng vượt trội so với từng phần của dòng tầu của đối thủ của ông trong một số trận hải chiến của ông với hạm đội Anh tại Ấn Đông trong năm 1782 và 1783, chẳng hạn như Trận Sadras nơi Suffren cố gắng tập trung đông gấp đôi đội hậu quân của dòng tầu Anh. Nhưng mệnh lệnh của ông bị từ chối và không được tuân theo, đối thủ của ông Sir Edward Hughes có thẩm quyền, và chất lượng của các hạm đội của ông đã không cao hơn hẳn của những người Anh.Tương tự như vậy, đô đốc Anh Rodney trong trận Martinique ở Tây Ấn năm 1780, đã cố gắng tập trung một lực lượng vượt trội so với một phần của dòng tầu (line) của kẻ thù của mình bằng cách tung ra một số lượng lớn các tàu Anh về phía hội hậu quân của dòng tầu Pháp. Nhưng chỉ dẫn của ông bị hiểu lầm và không được thực thi đúng cách. Hơn nữa ông đã không đi xa hơn cố gắng đó để đặt một số lớn hơn của tàu của mình trong trận đánh ở vị trí đầu hướng gió Windward để tấn công một số nhỏ hơn ở dưới gió bằng cách sắp xếp chúng ở khoảng cách ít hơn hai chiều dài cáp. Kẻ thù, những người đã quá hiểu rõ ràng chiến thuật Ship of the line của ông đã phá vỡ cuộc tấn công, và trong khi rút lui ở dưới gió và thoát ra ngoài. Giống như Suffren, Rodney là một nhà chiến lược lớn, nhưng là người không thể giải thích về ý định của mình với cấp dưới.Tại Trận Saintes trong 12 tháng 4 năm 1782, Rodney đã gây ra, và cũng bởi một sự thay đổi của hướng gió, các rối loạn trong line tầu Pháp, bằng cách phá vỡ dòng tầu của mình và đi qua dòng của đối phương. Hiệu quả đã được quyết định. Súng của các tàu Anh đã tập trung vào một số ít các tàu Pháp và người Anh đã phá vỡ qua line tầu của Pháp tại ba điểm, và gắn kết chiến thuật của hạm đội Pháp đã bị phá hủy. Đến cuối trận đánh, Rodney đã bắt giữ được kỳ hạm của Pháp và bốn tàu khác. Kết quả của thành công này xuất phát từ chiến thuật cũ là giữ dòng tầu nguyên vẹn trong suốt cuộc chiến đã phá hủy quan niệm cũ của hệ thống chiến thuật chính thống.

Phát triển trong Chiến tranh Cách mạng Pháp & Napoleon

Bởi sự bùng nổ của Chiến tranh cách mạng Pháp năm 1793, các cải tiến kỹ thuật và sự vô tổ chức của Hải quân Pháp trong cách mạng đã kết hợp và tạo ra cho tàu chiến của Anh một ưu thế khác biệt so với tàu của hải quân Pháp và Tây Ban Nha. Anh đã có một đại dương lớn thương mại lớn hơn nhiều so với bất cứ kẻ thù nào của chính của mình, và có sự phục vụ của một lực lượng lớn thủy thủ chuyên nghiệp sẵn sàng được chuyển sang lính thủy khi cần. Trong suốt thế kỷ 18 hải quân Pháp và, đặc biệt là hải quân Tây Ban Nha phải liên tục đối phó với những khó khăn nghiêm trọng và thường xuyên bị buộc phải thành lập các thủy thủ đoàn bằng binh lính hoặc người từ đất liền.Tàu Anh không những chỉ có một tỷ lệ cao hơn về lính thủy có kinh nghiệm, mà còn có những chuyến đi biển dài hàng tháng để phong tỏa bờ biển hoặc gia nhập các đoàn hộ tống, thuyền trưởng Anh đã cho rất nhiều cơ hội để đào tạo thủy thủ đoàn của họ. Đội pháo thủ Anh dường như đã đạt được một tỷ lệ bắn cao hơn so với đội pháo thủ của Pháp Tây Ban Nha, góp phần vào sự thương vong cao hơn nhiều từ các tầu chiến của hạm đội Pháp - Tây Ban Nha. Có các thủy thủ đoàn tốt hơn, các đội pháo thủ nhanh hơn và tinh thần cao của hạm đội Anh là một lợi thế quyết định mà không thể không thể thay thế bằng bất kỳ sự dũng cảm trong các phần của đối thủ của họ.Đô đốc hàng đầu của Anh Lord Howe dành những suy nghĩ của mình để làm thế nào để phá vỡ dòng của đối phương để tung ra những trận hải chiến kiểu ( pell mell - không biết là gì) để mang lại kết quả là một chiến thắng quyết định. Tại trận đầu tiên của tháng sáu vào năm 1794, Lord Howe đã ra lệnh hạm đội của mình đi xuyên qua hàng ngũ của đối phương, và sau đó tấn công các tàu Pháp từ dưới gió, để cắt rút lui bình thường của họ. Điều này có hiệu lực như là đưa hạm đội của mình vào một melee ( đánh hỗn chiến ) trong đó với ưu thế của cá nhân từng chiếc tầu chiến Anh,ông đã có thể tấn công thoải mái.Trong suốt cuộc chiến tranh kéo dài chỉ với một khoảng thời gian hòa bình ngắn ngủi 1793-1815, các đô đốc Anh như Jervis, Duncan và đặc biệt Nelson đã phát triển liên tục các phương pháp họ đã áp dụng để tạo ra các trận Melee mà họ mong muốn trận Cape St Vincent, Camperdown và Trafalgar. Chiến thuật cơ bản nhất là cách tiếp cận (head -on không biết là gì ) theo cột được sử dụng bởi Nelson tại Trafalgar (đến trận Trafalgar ta sẽ xem nó là cái quái gì), ông đã để cho tầu đối phương nổ súng vào các tầu của mình mà không bắn trả cho tới khi họ đến gần, nhưng sau đó ông đã tạo ra một sự tàn phá khủng khiếp khi các tầu của Anh bắn trả vào đội hình tầu của Pháp-Tây Ban Nha.Người ta đôi khi cho rằng chiến thuật mà các đô đốc của Anh đã sử dụng và có thể trở nên là tai hại nếu họ tấn công vào các đối thủ lành nghề.Nhưng đây là một trong những lời phê bình chỉ có giá trị đối với những người nghĩ rằng có thể có một hiệu quả kỳ diệu - mang tính chất phép màu trong bất kỳ cuộc tấn công cụ thể nào, tạo ra một sự thành công tuyệt đối. Chiến thuật của các đô đốc người Anh trong các cuộc chiến tranh lớn năm 1793-1815 trong chính họ không có hiệu quả như vậy đã được chứng minh đầy đủ ở Trận Lissa năm 1811. Người ta đã chứng minh sự tin cậy của các đô đốc vào chất lượng cao của các hạm đội của họ. Cần nhớ rằng một chiếc tàu chiến, trong khi tấn công xuống một dòng tàu của đối phương, không thể lộ mục tiêu để dính đạn của ba tầu của đối phương cùng một lúc khi ở khoảng cách xa hơn 950 yards, vì các pháo thủ có thể không được đào tạo để hội tụ tại một điểm gần. Phạm vi toàn bộ của súng hải quân có hiệu quả chỉ là một nghìn mét hoặc rất ít hơn. Xác suất mà tàu sẽ bị bắn hỏng buồm và dừng lại trước khi tiếp cận dòng của đối phương là nhỏ.

Pháo hải quân kỷ tầu buồm

Pháo hải quân trong Age of Sail bao gồm các khoảng thời gian 1571-1863: khi tàu chiến hải quân bằng gỗ lớn, cơ động bằng buồm thống trị biển cả, chúng được gắn nhiều loại và kích cỡ pháo khác nhau như là các vũ khí chính. Theo tiêu chuẩn của thời đó, những khẩu pháo này rất kém hiệu quả, rất nặng để tải, và tầm súng thì rất ngắn. Với những đặc điểm này, cùng với tay nghề của thủy thủ đoàn của chiếc tàu chiến mà chúng được vũ trang, đã xác định môi trường cho chiến thuật của Hải quân trong kỷ tầu buồm phát triển

Bắn sung

Việc bắn một pháo hải quân yêu cầu một số lượng lớn lao động và sức lực. Liều phóng là thuốc súng, chúng có số lượng lớn phải được giữ trong một khu vực lưu trữ đặc biệt dưới boong cho an toàn.Các cậu bé thuốc súng, thường là trẻ em 10-14 tuổi, được cho gia nhập để chạy từ kho thuốc súng lên đến sàn súng của một tàu theo yêu cầu. Thủ tục cho một lần bắn súng như sau: Một que thông nòng với bông ướt được sử dụng để lau ra bên trong của nòng súng, lau sạch bất kỳ đám tro tàn nào của phát bắn trước đây có thể làm cho thuốc súng của phát bắn tiếp theo tắt sớm. Thuốc súng, hoặc là dạng bột hoặc được bọc trong một miếng vải hoặc trong giấy da, và được đặt trong nòng, sau đó được đút nút bằng vải, và được tống vào nòng súng với một que thông nòng. Phát đạn tiếp theo được cho vào, tiếp sau là nút vải ( để ngăn chặn quả đạn pháo hình cầu lăn ra khỏi nòng súng nếu miệng súng bị chúc xuống ). Sau một phát bắn, nòng súng được đặt trong một chiếc bệ có bánh xe chạy giật lùi - các pháo thủ đẩy bệ súng cho đến khi mặt trước của bệ súng áp vào thành của con tàu, và nòng súng thò ra khỏi cổng súng. Công việc này làm tốn phần lớn nhân lực của pháo đội vì tổng trọng lượng của một nòng pháo lớn trong chiếc bệ của nó có thể đạt tới hơn hai tấn, và tàu có lẽ sẽ ngả nghiêng. Các lỗ kim hỏa ở phía sau ( khóa nòng súng) nòng pháo chứa đầy bột thuốc súng mịn và dễ bốc cháy.Phương pháp bắn pháo trước đó sử dụng một linstock - Một cọc gỗ giữ một mồi lửa đang cháy âm ỷ ở phía cuối - để châm vào lỗ kim hỏa của súng. Việc này là khá nguy hiểm và làm thế nào để bắn chính xác từ một con tàu di chuyển là khá khó khăn, khi súng được bắn từ phía bên trong, để tránh giật súng (recoil), và đã có một sự chậm trễ đáng kể trong việc ứng dụng linstock vào bắn súng. Năm 1745, người Anh bắt đầu sử dụng khóa nòng súng ( gunlock ) (cơ chế súng kíp FLINTLOCK được trang bị để bắn pháo).Gunlock này được điều hành bởi một dây kéo, hoặc Dây buộc. Pháo thủ trưởng có thể đứng đằng sau khẩu súng, một cách an toàn ngoài phạm vi giật lùi của khẩu súng, và ngắm dọc theo nòng súng, nổ súng khi sự tròng trành của con tầu tạo một đường thẳng từ khẩu súng tới đối phương và để tránh những phát bắn trượt xuống biển hoặc bay cao lên trên boong của đối phương. Với lợi thế của nó, việc sử dụng của gunlock dần dần lan tỏa nhưng họ không thể trang bị chúng vào các súng cổ hơn. Người Anh đã ứng dụng phương pháp này nhanh hơn Pháp, người nhìn chung vẫn không chịu ứng dụng chúng tới tận thời gian xảy ra trận Trafalgar (1805), và người Pháp đã tự đặt họ vào một bất lợi trước Hải quân Anh. Sau khi đưa gunlock vào sử dụng, linstock được giữ lại, nhưng chỉ như là một phương tiện bắn dự phòng.Ngòi lửa cháy chậm của Linstock, hoặc các tia lửa từ FLINTLOCK làm bốc cháy bột thuốc súng, tạo nên một lực đẩy, mà chúng đẩy các quả đạn hình cầu bắn ra khỏi nòng súng. Khi súng ngừng bắn, khẩu súng chạy giật lùi khi nó bị chặn ngừng lại bởi sợi dây breech - một sợi dây thừng vững chắc được đóng bu lông cho vào thành tầu. Một pháo mạn điển hình của một tàu Hải quân Hoàng gia Anh ở cuối thế kỷ 18 có thể bắn 2-3 phát trong khoảng 5 phút, tùy thuộc vào việc đào tạo của các thủy thủ đoàn, một pháo thủ được đào tạo tốt là rất cần thiết cho quá trình chuẩn bị bắn đơn giản nhưng chi tiết. Trớ trêu thay, Hải quân Anh đã thường không cung cấp bổ sung thuốc súng cho các thuyền trưởng để đào tạo cho các đội súng của họ, họ thường chỉ cho phép tải lên tàu 1 / 3 lượng bột thuốc súng cần thiết và sẽ được sử dụng trong sáu tháng đầu tiên của một chuyến đi điển hình, để ngăn chặn các hành động thù địch. Thay vì thực hành bắn súng thực tế, hầu hết các thuyền trưởng rèn luyện các pháo đội của họ bằng cách đẩy những khẩu súng vào trong và ra ngoài - thực hiện tất cả các bước kết hợp khi bắn và nghỉ bắn như thực tế xảy ra. Một số thuyền trưởng giàu có - những người đã chiếm giữ nhiều tiền giải thưởng hoặc từ các gia đình giàu có - đã phải bỏ tiền ra mua bột thuốc súng bằng quỹ riêng của họ để cho phép pháo đội của mình bắn đạn thật vào các mục tiêu thực tế.

Pháo các loại

Một danh sách đầy đủ và chính xác các loại súng hải quân đòi hỏi phải phân tích theo quốc gia và theo giai đoạn thời gian. Các loại súng được sử dụng bởi các quốc gia khác nhau tại cùng một thời điểm rất không giống nhau, ngay cả khi chúng được đặt tên tương tự như vậy. Các loại súng được sử dụng bởi một quốc gia nhất định sẽ thay đổi rất nhiều theo thời gian, cũng như công nghệ, chiến thuật, thời trang và vũ khí hiện đã tiến hóa.Một số loại bao gồm: • Gun - pháo lớn • Demi-cannon pháo loại • Culverin súng thần công cỡ lớn • Demi-culverin súng thần công cỡ vừa • Súng Carronade • Súng Paixhans .Một mô tả đặc tính được sử dụng phổ biến để xác định cỡ súng là dùng đơn vị đo lường pound: theo lý thuyết, trọng lượng của một đơn vị sắt rắn (đạn) được bắn từ nòng pháo. Kích cỡ thông thường là 42-pounders, 32-pounders, 24-pounders, 18-pounders, 12-pounders, 9-pounders, 8-pounders, 6-pounders, và các cỡ nòng (calibre) nhỏ khác nhau. Tàu chiến Pháp sử dụng súng có cỡ nòng tiêu chuẩn 36-pound, 24-pound và 12-pound, bổ sung thêm các khẩu carronade và loại nhỏ hơn. Nói chung, các tàu lớn hơn sẽ mang nhiều súng hơn và cỡ súng sẽ to hơn.Kiểu súng nạp đạn đầu nòng và trọng lượng của sắt thép được tính toán cho độ dài và kích thước của súng hải quân. Kiểu nạp đạn đầu nòng yêu cầu các khẩu pháo phải được đặt vị trí bên trong thân tàu. Thân tầu chỉ còn cách là thật rộng, với các khẩu súng ở cả hai bên, và cửa xuống hầm ở trung tâm của boong cũng hạn chế khoảng không sẵn có trên tầu. Trọng lượng luôn luôn là một mối quan tâm lớn trong thiết kế các tàu buồm vì nó ảnh hưởng đến tốc độ, sự ổn định, và khả năng nổi trên mặt nước. Ước muốn chế tạo súng dài hơn để có tầm bắn lớn hơn và độ chính xác cao hơn, và trọng lượng của viên đạn lớn hơn làm cho sức công phá hơn, dẫn đến một số mẫu thiết kế súng thú vị.

Long Nine

Một súng hải quân duy nhất có tên là Long Nine. Đó là một nòng súng tương ứng bắn đạn nặng 9 pound. Điển hình nó thường được gắn ở phần mũi hoặc đuôi tầu, nơi mà nó không vuông góc với đáy tầu keel, và có nhiều khoảng không hơn, cho phép sử dụng những vũ khí dài hơn. Trong tình huống truy đuổi đối phương, tầm bắn lớn hơn của súng sẽ có tác dụng. Tuy nhiên, mong muốn để giảm trọng lượng ở phía cuối của tàu và sự mong manh một cách tương đối của mũi tầu đã giới hạn cỡ súng phải là 9 pound chứ không phải là 12 hoặc 24 pound.

Súng Carronade

Súng carronade được thiết kế như một thỏa hiệp. Nó bắn một đi một viên đạn rất nặng, nhưng lại có trọng lượng súng giảm xuống vì nó có một thân súng rất ngắn, do đó tầm bắn là ngắn và độ chính xác thấp hơn.Tuy nhiên, ở tầm gần trong nhiều trận hải chiến súng carronade rất có hiệu quả. Trọng lượng của nó nhẹ hơn và yêu cầu các đội pháo thủ ít người hơn cho và phép chúng được sử dụng trên các tàu nhỏ hơn.

Súng Paixhans

Súng Paixhans là súng đầu tiên của hải quân sử dụng đạn nổ. Nó được phát triển bởi tướng Pháp Henri-Joseph Paixhans năm 1822-1823, bằng cách kết hợp đường bắn thẳng của một khẩu súng với một quả đạn nổ có thể vỡ ra và tạo ra lửa cháy vào thành tầu của quân địch. Súng Paixhans cuối cùng tạo ra số phận bi đát cho các tầu đóng bằng gỗ, và buộc các bên tham chiến phải cho ra đời các lớp tầu bọc thép ( ironclad ) sau khi Trận Sinop vào năm 1853.

Đạn

Ngoài việc trọng lượng khác nhau của viên đạn, các loại đạn khác nhau cũng được dùng cho các tình huống khác nhau: • Đạn tròn (Round shot) - Những quả đạn hình cầu bằng gang, đây là đạn tiêu chuẩn trong trận chiến hải quân. • Đạn hộp (Canister shot) - Một hộp đạn đầy với hàng chục viên đạn súng hỏa mai. Các hộp vỡ ra sau khi bắn để tạo thành một phát shotgun khổng lồ, đạn này sử dụng để chống lại nhân lực của đối phương. • Đạn chùm (Grapeshot) - Một số lớn đạn tròn nhỏ được gói lại bằng vải buồm sao cho vừa với nòng súng, điển hình là mỗi nòng súng được tống vào ba hoặc nhiều hơn ba lớp. Một số đạn chùm được làm bằng kim loại mỏng hoặc đĩa gỗ giữa các lớp, được nối với nhau bằng một cái chốt ở trung tâm. Những gói này bị phá vỡ sau khi bắn và các quả đạn vung ra rải rác với các hiệu ứng chết người. Nho được thường được sử dụng để tấn công vào boong lái của đối phương để giết hoặc gây thương tích cho các sỹ quan của họ, hoặc chống lại kẻ thù khi chúng nhảy lên chiếm boong. • Đạn Xích ( Chainshot) - Hai quả đạn sắt được xích lại với nhau. Loại đạn đặc biệt này có hiệu quả để phá buồm, khi được bắn đi viên đạn sẽ giống như một chiếc bolas và quấn rách nhiều buồm của đối phương. • Đạn Bar (Barshot) - Hai quả đạn cầu hoặc bán cầu được gắn với nhau vào cùng một thanh rắn. Hiệu quả của nó là tương tự như đạn xích. • Đạn hình mũi tên (Fire Arrow)- Một quả đạn hình mũi tên lớn có ngạnh, quấn với vải buồm tẩm dầu hắc ín sẽ bắt lửa khi súng bắn. Ngạnh làm nó mắc kẹt trong buồm, thân hoặc xà dọc và đốt tàu địch. • Đạn nổ (Exploding Shell) - Loại đạn này làm việc như một quả lựu đạn, nổ và tung mảnh ra khắp mọi nơi, Hoặc viên đạn có thể bay trúng mục tiêu, hoặc có thể nổ trên không do một chiếc cầu chì hẹn giờ. Vỏ đạn thường được dùng cho súng cối, và được dùng chuyên dụng ở "các tàu phóng bom" được thích nghi để bắn súng cối có kích cỡ lớn lên bờ biển.Những quả bom nổ tung trong không khí như trận đánh ở pháo đài Fort McHenry ở Hoa Kỳ.

Tàu tiền tuyến (ship-of-the-line)

Một tầu tiền tuyến là một loại tàu chiến của hải quân được đóng từ thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19, để tham gia vào chiến thuật hải chiến được gọi là Ship of the Line, trong đó hai cột tàu chiến đối lập sẽ vận động uyển chuyển để sử dụng tối đa các hệ thống pháo mạn. Kể từ khi áp dụng chiến thuật này thì kết quả của các cuộc hải chiến hẩu như không thay đổi, kẻ chiến thắng thường là các tầu hạng nặng nhất và mang súng mạnh nhất, dẫn đến tiến trình tự nhiên là phải dựng các tàu buồm lớn nhất và mạnh nhất trong thời gian này.

Các tiền nhiệm

Nguồn gốc của tàu tiền tuyến có thể được tìm thấy trong các tầu vĩ đại tàu lớn được đóng ở nước Anh trong thế kỷ 15 và 16, các tầu Nau được đóng bởi người Bồ Đào Nha và tương tự như tầu carrack được đóng bởi các quốc gia châu Âu khác cùng lúc này. Những tàu này, được phát triển từ dòng tầu COGS dùng để giao dịch mua bán tại Biển Bắc và Baltic, đây là loại có một lợi thế hơn tầu Galley bởi chúng được đóng những phần rất cao gọi là (Castle) tại mũi tầu và đuôi tầu để các cung thủ bắn trên tàu của đối phương. Theo thời gian các Castle đã trở thành cao hơn và lớn hơn nữa, và cuối cùng đã bắt đầu được đóng trong cơ cấu của tàu để làm tăng sức mạnh tổng thể.Chiếc Mary Rose là một chiếc carrack của Anh, đã được trang bị với 78 súng (91 sau khi nâng cấp trong Thập niên 1530. Đóng tại Portsmouth, Anh 1510-1512, nó là một trong những tàu chiến được đóng sớm nhất để phục vụ trong Hải quân Anh, người ta là nghĩ rằng nó ấy không bao giờ phục vụ như là một tàu buôn. Nó có tải trọng 500 tấn và một cái đáy (keel) dài hơn 32 m (106 ft) với một thủy thủ đoàn bao gồm 200 người, 185 chiến binh, và 30 pháo thủ. Mặc dù nó là niềm tự hào của hạm đội Anh, nó vô tình bị đắm trong Trận chiến Solent chống lại quân đội Pháp ngày 19 tháng bảy năm 1545.Henri Grâce à Dieu, biệt danh (Great Harry), là một chiếc tàu lớn của Anh ở thế kỷ 16. Cùng thời với chiếc Mary Rose, chiếc Henri Grâce à Dieu dài 165 feet (50 m), cân nặng 1,000-1,500 tấn và có một thủy thủ đoàn lên tới 700-1,000 người. Người ta nói rằng nó đã được đóng theo ý định Henry VIII để làm đối trọng với tàu của Scotland chiếc Great Michael, hạ thủy năm 1511. Nó (Great Harry) ban đầu được đóng tại Woolwich Dockyard 1512-1514 và là một trong những tàu đầu tiên có tính năng gunports (có các ô súng) và có hai mươi khẩu pháo bằng đồng nặng mới, cho phép bắn pháo mạn. Tổng nó gắn 43 khẩu súng hạng nặng và 141 khẩu súng hạng nhẹ. Nó là chiếc đầu tiên của Anh có hai tầng boong, và khi ra mắt nó là chiếc tàu chiến lớn nhất và mạnh nhất ở châu Âu, nhưng chỉ tham gia những hành động nhỏ. Nó đã có mặt tại trận Solent để chống lại Francis I của Pháp năm 1545 (trong đó Mary Rose chìm) nhưng dường như đã có thêm chức năng chính là một tàu ngoại giao với những cánh buồm vải mầu vàng. Thật vậy, các tàu lớn hầu như cũng biết đến vì thiết kế trang trí độc đáo của chúng Những chiếc tàu đầu tiên sử dụng thí nghiệm với việc mang súng có cỡ nòng lớn trên tàu. Do phần thân tầu của nó cao và lớn hơn nên khả năng mang tải tốt hơn, loại tàu được cho là phù hợp hơn với vũ khí nóng (vũ khí sử dụng thuốc súng) so với tầu galley. Do sự phát triển của nó là từ tàu biển trên Đại Tây Dương, những tàu lớn thì chịu được thời tiết tốt hơn tầu Galley và phù hợp hơn để đi ra vùng biển mở. Việc không dùng mái chèo có nghĩa rằng đối với tầu lớn, đội chèo là không cần thiết, và có khả năng tham gia những chuyến đi dài ngày hơn. Bất lợi của chúng được rằng chúng hoàn toàn phụ thuộc vào gió để cơ động. Tầu Galley vẫn có thể áp đảo các tàu lớn, đặc biệt là khi trời có rất ít gió và galley đã có một số lợi thế, nhưng khi các tàu lớn có kích thước ngày càng lớn, tầu Galley trở nên ít hơn và ít có ích.Một tổn hại là phần forecastle quá cao, can thiệp vào những phẩm chất của các cánh buồm của con tàu; mũi tầu sẽ bị buộc phải chúc xuống dưới thấp trong khi bơi trước gió. Tuy nhiên, vào thời gian mà súng đã được biết đến và bắn súng để thay thế cho việc đổ bộ chiếm boong tầu chở thành chiến thuật chủ yếu của hải chiến trong suốt thế kỷ 16, những forecastle thời kỳ Trung cổ đã trở nên không còn cần thiết, và tàu buồm sau này cũng như tầu Galleon chỉ có một boong thấp và phần forecastle cao. Vào khoảng năm 1637 với việc hạ thủy chiếc tầu mạnh mẽ của của Anh Quốc, chiếc Sovereign of the Seas, các forecastle cao đã hoàn toàn biến mất.Từ 16 đến thế kỷ 18, các tàu lớn và các tầu carrack tiến hóa thành tàu Galleon, thân tầu trở nên dài hơn, nhiều loại tàu được điều khiển dễ dàng hơn cộng với tất cả những lợi thế của tàu lớn. Các hạm đội tầu đối địch Anh và Tây Ban Nha trong chiến dịch Tây Ban Nha Armada đều có xương sống là các Galleon lớn. Vào thập kỷ 1710 các nước ở châu Âu có hải quân tiên tiến đều đóng những loại tầu như thế này.Với tầm quan trọng ngày càng tăng của các thuộc địa và việc thăm dò cũng như nhu cầu duy trì các tuyến đường thương mại trên đại dương bão tố, tầu Galley và galleasses đã được sử dụng ít hơn và ít hơn nữa, và vào khoảng 1750 (tầu Galley và galleasses) chỉ có rất ít tác động đến các trận hải chiến

Chấp nhận chiến thuật Line-of-battle

Từ đầu đến giữa thế kỷ 17, kỹ thuật chiến đấu mới được sử dụng bởi hải quân một số nước Châu Âu, đặc biệt là người Anh và Hà Lan. Trước trận đánh thường là trận chiến của các đội tàu lớn gồm các tàu bơi nhau và tấn công lẫn nhau tại bất kỳ vị trí nào mà họ nhìn thấy đối phương, chiến thuật thường là áp mạn tầu và tấn công lên bong tầu. Tuy nhiên, việc phát triển hơn nữa của súng và sự chấp nhận của việc sắp xếp súng ở các mạn tầu yêu cầu một sự thay đổi về chiến thuật. Với loại vũ khí quyết định chính là các pháo mạn, phát triển các chiến thuật để đảm bảo rằng tàu chiến có thể nổ càng nhiều pháo mạn càng tốt. Chiến thuật line-of-battle đòi hỏi sự cần thiết để tập hợp một đội hình dài đơn dòng và gần với hạm đội đối phương trên cùng một hướng, nổ các khẩu đội súng mạn tầu vào hạm đội đối phương cho đến khi một bên cảm thấy đã lĩnh đủ và rút lui. Mọi thao tác được thực hiện với các tàu còn lại trong đường dây để bảo vệ lẫn nhau.Việc chấp nhận chiến thuật trận đánh theo tuyến line-of-battle đã gây những hậu quả cho việc thiết kế tàu. Lợi thế chiều cao của các bộ phận Forcastle và Aftcastle đã giảm, bây giờ chiến đấu hand-to-hand là không cần thiết. Sự cần thiết để có một khả vận động uyển chuyển trong trận chiến với trọng lượng Forcastle là một bất lợi. Vì vậy, họ tìm cách giảm mạnh phần này, làm cho con tàu tiền tuyến (of-the-line) trở nên nhẹ hơn và nhiều khả năng cơ động hơn, dễ điều khiển hơn nữa manoeuvrable hơn so với bậc tiền bối của nó với cùng một sức mạnh chiến đấu. Như một hệ quả phát sinh, các thân tầu trở nên rộng lớn hơn, cho phép tăng kích thước và số lượng súng lên nhiều hơn.

Sự tiến hóa của thiết kế

Trong thế kỷ 17 hạm đội có thể bao gồm gần một trăm tàu thuyền các kích cỡ khác nhau, nhưng vào giữa thế kỷ 18, tàu of-the-line được thiết kế để giải quyết một vài loại tiêu chuẩn cũ: loại hai decker (nghĩa là, với hai sàn súng )với khoảng 50 khẩu súng (đã trở thành quá yếu cho trận tuyến nhưng có thể được sử dụng để hộ tống đoàn convoys), loại hai boong ( decker) có 64 đến 90 khẩu súng hình thành phần chính của hạm đội, và loại lớn hơn với ba hay thậm chí bốn decker với 98-140 khẩu súng đã được sử dụng như là tàu kỳ hạm của đô đốc. Một hạm đội gồm khoảng 10-25 tầu chiến, với các tàu cung cấp hàng hóa, hướng đạo và các tàu khu trục, thông báo hạm, đã giữ quyền kiểm soát biển-- > làn đường cho chính cho các quốc gia có hải quân phát triển ở châu Âu để hạn chế đường thương mại trên biển của kẻ thù.Kích thước phổ biến nhất của các tầu chiến tuyến là (74) (đặt tên theo 74 khẩu súng của nó), ban đầu được phát triển bởi người Pháp trong thập kỷ 1730, và sau này được chấp nhận bởi tất cả các cường quốc hải quân. Cho đến thời điểm đó người Anh đã có 6 loại kích cỡ của tàu tiền tuyến, và họ thấy rằng nếu tầu tiền tuyến nhỏ hơn loại có 50 -- >60 súng thì trở nên quá nhỏ cho trận đánh theo tuyến (battle of the line), trong khi các loại tầu có hơn 80 súng và hơn 3 boong súng (decker) thì lại khó sử dụng và không ổn định ở vùng biển sóng to. Loại tốt nhất của họ là loại có 70 súng và 2 gundecker, gundeck dài khoảng 46 mét (150 ft), trong khi loại tầu tiền tuyến 74súng của người Pháp chỉ dài khoảng 52 mét (170 ft). Năm 1747 người Anh bắt giữ một vài chiếc trong số các tàu Pháp trong Chiến tranh Kế vị Áo. Trong thập kỷ tới Thomas Slade (Thanh tra trưởng của Hải quân từ 1755, cùng với William Bately) đã đột phá từ những thiết kế cũ và tạo ra thiết kế mới cho một số lớp tàu tiền tiến, loại dài 51 - > 52m và có 74súng để cạnh tranh với các mẫu thiết kế Pháp, và bắt đầu với các lớp tàu Dublin và Bellona (thế này là nhái lại của người Pháp rồi còn gì). Những chiếc kế tiếp chúng dần dần được cải tiến và xử lý các kích cỡ vào thập kỷ 1780. Hải quân của các nước khác cũng kết thúc nghiên cứu và họ cũng tiến hành đóng lớp 74 vì chúng đã đạt được sự cân bằng giữa sức mạnh tấn công, chi phí, và dễ dàng điều khiển. Cuối cùng khoảng một nửa số tàu tiền tuyến của Anh Quốc là lớp 74. Tàu lớn hơn vẫn được đóng, như là tàu chỉ huy, nhưng chúng chỉ hữu dụng hơn nếu chúng chắc chắn áp vào gần được kẻ thù, hơn là trong một trận chiến liên quan đến các hành động truy đuổi kẻ thù hoặc phải ngoặt gấp liên tục.Các tầu lớp 74 vẫn là lớp tàu được ưa thích cho đến 1811, khi phương pháp đóng tầu của Sepping cho phép tàu lớn được đóng với sự ổn định hơn. Trong một vài chiếc tàu, thiết kế bị thay đổi khá lâu sau khi tàu được đưa vào phục vụ chiến đấu. Trong Hải quân Hoàng gia, các lớp nhỏ hơn lớp tầu tiền tuyến có hai boong 74 - hoặc 64 súng không thể được sử dụng một cách an toàn trong hoạt động của hạm đội, sàn trên của họ bị loại bỏ (hay razeed), Kết quả tạo ra một lớp tầu chiến rất chắc chắn, lớp tàu chiến đơn boong súng được gọi là razee. Các tàu razeed có thể được phân loại như là một tàu khu trục nhỏ và mạnh hơn rất nhiều. Thành công nhất trong lớp tầu razee của Hải quân Hoàng gia là chiếcHMS Indefatigable, được chỉ huy bởi Sir Edward Pellew. Chiếc Mahmudiye (1829), được đặt hàng theo lệnh của hoàng đế Ottoman Sultan Mahmud II và đóng bởi Công xưởng của Hải quân Hoàng gia tại Golden Horn tại Istanbul, trong nhiều năm nó là tàu chiến lớn nhất trên thế giới. Nó là chiếc tầu tiền tuyến có kích cỡ 62x17x7-mét và trang bị 128 khẩu pháo trên 3 boong súng. Nó tham gia nhiều trận đánh quan trọng của hải quân, bao gồm cả Cuộc vây hãm Sevastopol (1854-1855) trong Chiến tranh Krym (1854-1856).Nó đã ngừng hoạt động năm 1875. Chiếc tàu tiền tuyến ba tầng boong lớn nhất được đóng là chiếc Valmy của Pháp (chắc là để kỷ niệm chiến thắng quyết định của quân đội cách mạng Pháp trước quân đội can thiệp của các nước Châu Âu tại làng Valmy cuối TK 18), ra mắt vào năm 1847. Nó có tumblehome ở bên phải, do đó tăng đáng kể khoảng không gian có sẵn cho các khẩu đội pháo ở bên trên, nhưng giảm sự ổn định của tàu, những bộ phận tạo sự ổn định bằng gỗ được thêm vào dưới mực nước để giải quyết vấn đề này. Valmy được phân loại có thể là tàu buồm lớn nhất, và những lớp tầu buồm lớn hơn có thể thực hiện các vận động uyển chuyển của bằng buồm là không thực tế với chỉ bằng sức lực của con người. Nó tham gia vào cuộc chiến tranh Crimean, và sau khi quay trở Pháp nó nằm ở Học viện Hải quân Pháp dưới cái tên Borda 1864-1890.

Động cơ hơi nước

Thay đổi quan trọng đầu tiên về khái niệm của tàu là sự ứng dụng của động cơ hơi nước như là một hệ thống đẩy phụ trợ. Việc ứng dụng vào mục đích quân sự đầu tiên của tầu hơi nước là trong thập niên 1810, và trong thập niên 1820 một số thử nghiệm với tàu chiến hải quân paddle steamer (tầu bánh xe hơi nước). Sự lan tỏa của ứng dụng này trong những năm 1830, với việc các tàu chiến paddle-steamer tham gia vào các cuộc xung đột như Chiến tranh Nha phiến đầu tiên cùng với các tàu tiền tuyến và các tàu khu trục.Các tầu kiểu paddle steamer, tuy nhiên lại có bất lợi lớn. chiếc bánh xe ở trên mực nước dễ trúng đạn của đối phương, trong khi chính nó ngăn chặn chính tàu của mình trong việc sử dụng pháo mạn một cách hiệu quả. Trong thập niên 1840, chân vịt hình cánh quạt trở nên như là phương pháp có khả năng nhất cho động cơ hơi nước, cả Anh và Mỹ hạ thủy các tàu chiến có chân vịt hình cánh quạt năm 1843. Qua các thập niên 1840, hải quân Anh và Pháp hạ thủy nhiều hơn nữa các tầu chiến chân vịt hình cánh quạt lớn hơn và mạnh hơn , bên cạnh những tầu tiền tuyến cơ động bằng buồm. Năm 1845, Viscount Palmerston có chỉ rõ vai trò của tầu hơi nước đã tạo căng thẳng mới trong quan hệ Anh-Pháp, mô tả English Channel như là một cây cầu hơi nước, hơn là một rào cản để ngăn chặn cuộc xâm lược từ Pháp. Cũng là một phần vì những lo sợ về chiến tranh với Pháp mà Hải quân Hoàng gia đã chuyển đổi một số tàu lớp 74 súng cũ thành lớp tầu hơi nước 60 súng blockship từ năm 1845. Các blockship (ban đầu được hình thành như những khẩu đội pháo động cơ hơi nước chỉ duy nhất cho việc bảo vệ bến cảng, trong tháng chín năm 1845 chúng bị giảm buồm đi chứ không phải là bỏ tất cả, để làm cho chúng thành tầu đi biển .... Các tầu blockship có một hiệu quả thử nghiệm giá trị lớn đồng thời tiết kiệm chi phí.). Chúng sau đó vẫn phục vụ tốt trong Chiến tranh Krym.Tuy nhiên Hải quân Pháp, phát triển với mục đích chế tạo tàu chiến hơi nước đầu tiên với chiếc Lê Napoléon 90 súng vào năm 1850. Nó cũng được xem là chiếc tàu chiến hơi nước thực sự, và hơn bao giờ nó là tàu chiến chân vịt hình cánh quạt đầu tiên. Napoléon được trang bị như là một tàu tiền tuyến thường, nhưng động cơ hơi nước của nó có thể cung cấp cho một tốc độ 12 knots (22 km / h), mà không phụ thuộc vào điều kiện gió-một lợi thế tiềm năng quyết định trong một trận hải chiến.Tám chị em của chiếc Lê Napoléon được chế tạo tại Pháp trong một khoảng mười năm, nhưng Anh sớm dẫn đầu trong việc sản xuất, trong số cả hai mục đích đóng mới và chuyển đổi thành tầu hơi nước. Nhìn chung, Pháp đóng 10 thiết giáp hạm hơi nước mới bằng gỗ và chuyển đổi từ 28 chiếc tàu chiến cũ hơn, trong khi Anh Quốc đóng 18 và chuyển đổi 41 chiếc. Cuối cùng, Pháp và Anh là hai quốc gia duy nhất có phát triển đội tàu chân vịt hình cánh quạt gỗ động cơ hơi nước, mặc dù một số cường quốc hàng hải khác thực hiện một số sử dụng một số hỗn hợp của tàu chân vịt hình cánh quạt và các tàu khu trục paddle-steamer. Những quốc gia này bao gồm Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Napoli, Phổ, Đan Mạch, và Áo.

Sự thoái trào của tầu tiền tuyến

Việc đưa vào sử dụng súng bắn đạn nổ trong thập niên 1820 đã tiên đoán kết cục của tất cả các tàu chiến bằng gỗ. Việc một hải đội Thổ Nhĩ Kỳ bị tiêu diệt tại Sinope năm 1853 bởi các tàu chiến bắn đạn nổ của Nga chỉ ra thời kỳ kết thúc của chúng trong các trận hải chiến. Vào giữa thế kỷ 19 các tàu tiền tuyến bằng gỗ được cho là quá lạc hậu so với lớp tàu chiến bọc thép, Một tàu bọc trong các tấm sắt và được đẩy bởi các động cơ hơi nước có khả năng tốt hơn để chọn vị trí của mình trong trận đánh. Sự yếu kém của tàu tiền tuyến bằng gỗ so sới tàu bọc thép đã không được nhận ra đầy đủ cho đến ngày 08 tháng 3 năm 1862, trong ngày đầu tiên của trận Hampton Roads, Khi hai tàu chiến hạng nặng bằng gỗ bị chìm và bị phá hủy bởi chiếc tàu bọc thép CSS Virgini của Liên minh miền Nam. Tuy nhiên sức mạnh ẩn chứa trong tầu tiền tuyến cũng sẽ được tìm thấy ở tầu bọc thép khi chúng phát triển trong vài thập kỷ sau trong khái niệm thiết giáp hạm.

Chiến đấu

Mặc dù các hạm đội của các nước Tây Ban Nha, Hà Lan, và Pháp được xây dựng rất lớn, và trong trường hợp của Pháp, ngay cả với tàu tốt hơn, họ ít khi có thể kết hợp được các kỹ năng như của hạm đội hải quân Anh. Thủy thủ đoàn của Anh thì rất xuất sắc, một phần vì họ có nhiều thời gian trên biển hơn, nói chung là được chăm sóc tốt hơn, cũng được đào tạo thuật pháo tốt hơn (cho phép có một tốc độ bắn nhanh hơn), và nói chung là có quyền lực hơn, như Hải quân Hoàng gia căn cứ để thăng thưởng dựa nhiều hơn vào khen hơn là mua bán ( chẳng biết ở ta thì thế nào???). Quân đội Anh thường nhỏ hơn so với so với quân đội của các nước nổi bật tại lục địa, trong khi hải quân hải quân của họ lại có xu thể lớn hơn hải quân của bất kỳ cường quốc lục địa đươn lẻ nào đó ( vì Anh là một quốc đảo nên họ có thể tập trung mọi nguồn lực vào phát triển Hải quân, không như Pháp tập trung phát triển lực lượng bộ quân, đặc biệt là đạo quân vĩ đại thời Napoleon. Còn nếu bảo là phát triển cả hai vào thời đó thì thật là hoang đường).Trong Bắc Hải và Bắc Đại Tây Dương, Các đội tàu của Vương quốc Anh, Hà Lan, Pháp, và Tây Ban Nha đã chiến đấu với nhau rất nhiều trận trong hỗ trợ của quân đội của họ mặt đất để ngăn chặn sự tiếp cận của đối phương vào các tuyến đường thương mại. Trong biển Baltic, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, và Nga đã làm vậy, trong khi ở các Địa Trung Hải, Nga, Đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ, Venice, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp đã đánh nhau nhiều trận chí tử để kiểm soát các con đường này.Trong các cuộc chiến tranh thời Napoleon, Anh đã đánh bại các cường quốc Hải quân của châu Âu ở trận đánh như Copenhagen, Cape St Vincent, Aboukir ( trận sông Nile), và Trafalgar (các bài viết sau em xin phép đi sâu vào từng trận), cho phép Hải quân Hoàng gia thiết lập một sức mạnh hải quân hàng đầu của thế giới. Tây Ban Nha, Đan Mạch, Bồ Đào Nha và phần lớn đã ngừng đóng tàu tiền tuyến trong suốt thời gian bị câu thúc từ Anh. Anh nổi lên từ các cuộc chiến tranh thời Napoleon năm 1815 với lực lượng hải quân lớn nhất và chuyên nghiệp nhất trên thế giới, bao gồm hàng trăm tàu thuyền gỗ dùng động cơ buồm với tất cả các lớp và các kích cỡ. Hải quân Hoàng gia đã hoàn thành uy quyền của hải quân trên toàn thế giới sau chiến tranh Napoleon, và nó đã chứng tỏ ưu thế này trong Chiến tranh Krym trong những năm 1850.Tuy nhiên, chiến tranh Napoleon, cũng như chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ năm 1812, đã cho thấy những thiếu sót của tàu tiền tuyến khi kẻ thù tìm đến các chiến thuật bao gồm cả việc sử dụng quy mô lớn các tầu cướp biển. Cả Pháp và Mỹ đã chứng minh một tầu nhỏ, vũ trang nhẹ, nhưng nhanh nhẹn, và đặc biệt có thể là những tàu như lớp sloop và schooner, chúng có thể lan trên khắp các đại dương, hoạt động đơn lẻ hoặc theo nhóm nhỏ. Chúng nhắm vào và tiêu diệt các thương thuyền vận tải, đây là huyết mạch kinh tế của Anh Quốc, mà tàu tiền tuyến lại quá ít, quá chậm, và quá vụng về để chống lại chúng. Áp đảo về hỏa lực sẽ không được sử dụng nếu nó không được mang theo( thì không thể hộ tống được tất cả các đoàn convoy đúng không ạ), phản ứng đầu tiên của Hải quân Hoàng gia đến các tầu cướp biển của Napoléon, các tầu này phần lớn xuất phát và hoạt động từ các lãnh thổ thuộc Tân Thế giới của Pháp, ( Anh ) là mua Bermuda sloop. Tương tự, tàu buôn vũ trang của công ty Đông Ấn đã trở thành nhẹ và khá có chất lượng trong chiến đấu trong thời gian này, chúng điều hành một hệ thống theo một đoàn tầu buôn vũ trang, thay vì phụ thuộc vào số lượng nhỏ của tàu có vũ khí mạnh hơn.

Những trận hải chiến tiêu biểu cho chiến thuật dàn thành tuyến - Battle of the line

Chiến tranh Anh - Hà Lan

Ở cuối thời Trung Cổ và thời kỳ Phục Hưng, nước Anh cũng như các tỉnh hàng hải chính của các vùng đất thấp (Flanders và Hà Lan), vẫn chưa phải là những cường quốc về hải quân ở châu Âu, để có quyền hạn ngang bằng được với các quốc gia và đô thị như Bồ Đào Nha, Castile, Aragôn hoặc Venice. Trong Chiến tranh tôn giáo tại thế kỷ 16 giữa Triều đình Công giáo Habsburg với các quốc gia mới đổi theo đạo Tin lành. nước Anh dưới sự cai trị của Nữ Hoàng Elizabeth I đã xây dựng được một lực lượng hải quân mạnh mẽ, được dự định để thực hiện những chuyến đi dài ngày, hoặc tổ chức để cướp bóc các đoàn convoy của Đế chế Tây Ban Nha, ví dụ điển hình là những cuộc tấn công của Francis Drake. Những cuộc tấn công này được tài trợ bởi Hoàng gia hoặc các quý tộc cao cấp, bước đầu có lợi nhuận vô cùng cao, cho đến khi có sự nâng cấp của hải quân và các hệ thống tình báo của Tây Ban Nha đã dẫn đến một loạt những thất bại tốn kém. Một phần của những lý do tạo ra sự thù địch của Tây Ban Nha với nước Anh là sự hỗ trợ của Elizabeth cho Cuộc cách mạng Hà Lan Cuộc bằng cách ký Treaty of Nonsuch vào năm 1585 với nước Hà Lan mới của Liên hiệp các Vùng đất thấp. Trong chiến tranh Anh-Tây Ban Nha người Hà Lan chỉ đóng một vai trò phụ vì lãnh thổ của họ đã hoàn toàn bị chiếm đóng trong cuộc chiến chống lại quân đội triều đình Habsburg.Tuy nhiên vào cuối thế kỷ đó, mối quan hệ giữa Anh-Tây Ban Nha bắt đầu được cải thiện, dẫn đến hiệp ước hòa bình vào 1605, kết thúc phần lớn các hoạt động cướp biển và dẫn đến một sự bỏ bê của Hải quân Hoàng gia. Việc không thành công của chiến tranh Anh-Tây Ban Nha năm 1625 chỉ là một thay đổi trong chính sách tạm thời. Trong cùng thời gian này Hà Lan tiếp tục cuộc xung đột của họ với Triều đình Habsburg, bắt đầu thực hiện những đợt tấn công ở khoảng cách xa, không chỉ là rất thành công trong các hoạt động cướp biển, đô đốc Piet Heyn năm 1628 trở thành một người duy nhất thành công trong việc bắt giữ một lượng lớn hạm đội kho báu Tây Ban Nha, mà còn thay thế Bồ Đào Nha chở thành các thương nhân châu Âu chính ở châu Á. Họ (người Hà Lan) tiếp quản hầu hết các cứ điểm thương mại của Bồ Đào Nha ở Đông Ấn, tạo điều kiện cho họ kiểm soát mảng thương mại cực kỳ sinh lợi, đó là gia vị. Điều này trùng hợp với một tốc độ tăng trưởng rất lớn của hạm đội tầu buôn Hà Lan (chắc có bác nào còn nhớ người ta gọi họ là gã đánh xe trên biển cả), họ đã có thể có của đóng hàng loạt lớp tầu rẻ tiền Fluyt. Một cách nhanh chóng Hà Lan đã có các đội tàu buôn lớn nhất châu Âu, và một vị trí thống trị tại châu Âu, đặc biệt là thương mại vùng Baltic. Mặc dù có vẻ không được ngoạn mục cho lắm, nhưng dần dần sức mạnh của hải quân Hà Lan đã tăng trưởng.Từ tháng 1 năm 1631 Charles I của Anh tham gia vào một số thỏa thuận bí mật với Tây Ban Nha, để chống lại sức mạnh trên biển của người Hà Lan. Ông cũng bắt tay vào một chương trình xây dựng lớn của hải quân, thi hành thu thuế tiền tàu để đóng những tàu mạnh mẽ như HMS Sovereign of the Seas. Tuy nhiên chính sách của Charles đã không hoàn toàn thành công. Lo sợ nguy hiểm đến quan hệ tốt đẹp của mình với phó vương Hà Lan đầy quyền lực Frederick Henry, Hoàng tử của xứ Orange (Hé hé chính vì vậy mà người ta gọi Hà lan là da cam đây mà), sự giúp đỡ của ông tới Tây Ban Nha là hạn chế và chỉ cho phép quân đội Habsburg trên đường đến Dunkirk để sử dụng tầu vận tải của Anh; năm 1636 và 1637 ông đã thực hiện một số nỗ lực để giành lấy quyền đánh bắt cá trích ở Bắc Hải từ ngư dân Hà Lan, cho đến khi sự can thiệp của hải quân Hà Lan ông ta đã bị buộc phải chấm dứt các hành động như vậy. Năm 1639 một đội tàu vận tải lớn của Tây Ban Nha tìm cách tị nạn và thả neo ở Downs thuộc Anh, Charles đã không dám bảo vệ nó chống lại một cuộc tấn công của người Hà Lan; kết quả trận Downs làm suy yếu cả quyền lực trên biển của Tây Ban Nha lẫn uy tín của Charles.Cuộc nội chiến Anh, Bắt ngay sau đó, làm suy yếu nghiêm trong vị trí của hải quân Anh. Hải quân của nó cũng bị chia rẽ như trong nội bộ quốc gia vậy. Hà Lan bắt đầu có sự vượt trội về đất đai mà họ đã chiếm được trên biển, thậm chí còn tước đoạt nhiều lãnh thổ thương mại hàng hải của Anh ở các thuộc địa Bắc Mỹ của nó. Giữa 1648 và 1651 tuy nhiên tình hình lại đảo ngược hoàn toàn. Năm 1648 Liên Bang các Tỉnh (Hà lan) ký kết Hòa ước Münster với Tây Ban Nha, và phần lớn quân đội và hải quân Hà Lan đã ngừng các chiến dịch. Điều này dẫn đến một cuộc xung đột giữa các thành phố lớn Hà Lan và Phó vương mới William II của Orange, đưa nước Cộng hòa đến bờ vực của nội chiến chiến, cái chết bất ngờ của phó vương năm 1650 chỉ làm tăng thêm những căng thẳng chính trị. Trong khi đó Oliver Cromwell (Huân tước bảo trợ nước Anh) đã thống nhất quốc gia của mình vào Khối Thịnh vượng chung Anh và trong một vài năm đã tạo ra một lực lượng hải quân hùng mạnh, mở rộng số lượng tàu thuyền và cải thiện rất nhiều tổ chức và kỷ luật. Anh đã sẵn sàng để thách thức sự thống trị thương mại của người Hà Lan.Tâm trạng của người Anh là khá xung đột khi nghĩ về phía người Hà Lan. Điều này bắt nguồn một phần từ mặc cảm: người Hà Lan đã cho thấy mình vô ơn đối với sự trợ giúp của họ (người Anh) để chống lại người Tây Ban Nha, và người Hà Lan đã phát triển mạnh hơn cả người Anh, người cựu bảo hộ của họ; người Hà Lan đánh bắt phần lớn cá trích ngoài khơi bờ biển phía Đông của nước Anh, họ đuổi người Anh ra khỏi Đông Ấn bằng những cuộc thảm sát tàn bạo như vụ Thảm sát ở Amboyna trong khi khăng khăng chống lại các nguyên tắc của thương mại tự do để phá vỡ hệ thống thuế ở các thuộc địa của Anh. Nhưng có cũng những điểm mới của cuộc xung đột: sự xuy thoái của người Tây Ban Nha vào cuối của cuộc chiến tranh Ba mươi năm năm 1648, các thuộc địa thuộc sở hữu của Bồ Đào Nha, và thậm chí hệ thống thuộc địa của Tây Ban Nha bị bao vây có thể bị chiếm đoạt. Người Hà Lan sau năm 1648 nhanh chóng thay thế người Anh trong thương mại ở vùng Iberia truyền thống của họ. Cromwell sợ ảnh hưởng của phe Orangist và người Anh lưu vong tại Cộng hòa Hà Lan vì Phó vương đã luôn luôn ủng hộ nhà Stuart, người Hà Lan ghét cay ghét đắng việc xử trảm Charles I.Đầu năm 1651 Cromwell đã cố gắng để giảm bớt căng thẳng bằng cách gửi một phái đoàn đến Hague và đề xuất rằng nước Cộng hoà Hà Lan gia nhập Khối thịnh vượng chung và Hà Lan sẽ giúp người Anh trong việc chinh phục hầu hết thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ. Hành động này che dấu cố gắng kết thúc việc Hà Lan mở rộng lãnh thổ bằng chiến tranh. Phe chủ hòa trong chính quyền Hà Lan không thể có được một câu trả lời cho lời mời đầy bất ngờ và quá xa vời này được. Những kẻ ủng hộ nhà Stuart Orangists xúi giục đám thường dân để sách nhiễu các thành viên của phái đoàn. Khi đoàn quay trở lại Anh Quốc, cảm nhận sâu sắc thái độ không hài lòng với người Hà Lan, người Anh quyết định theo đuổi một chính sách đối đầu. ( Những người anh em cùng chiến tuyến với nhau trong mấy chục năm nay lại trở mặt đánh nhau trong khoảng thời gian tổng cộng hơn 100 năm qua bốn cuộc chiến tranh, chủ yếu bằng hải quân)

Trận Hải chiến Lowestoft

Ngày Ngày 13 tháng 6 1665

Vị trí gần Lowestoft, Anh

Kết quả Anh chiến thắng quyết định

Các bên tham chiến

Anh

Chỉ huy

James Stuart, Duke of York

Sức mạnh

109 tàu chiến

Thương vong và thiệt hại

1 tầu Anh bị tiêu diệt

300-500 lính thiệt mạng

Cộng Hòa Hà Lan

Chỉ huy

Jacob van Wassenaer Obdam

Sức mạnh

103 tàu chiến

Thương vong và thiệt hại

17 tàu Hà Lan bị tiêu diệt

2000 -2500 lính bị giết

2.000 bị bắt làm tù binh

Trận hải chiến Lowestoft diễn ra vào ngày 13 tháng 6 (lịch mới) năm 1665 trong cuộc chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ 2.

Một hạm đội gồm hơn một trăm tàu của các Tỉnh Hà Lan dưới sự chỉ huy của Chuẩn-Đô đốc Jacob van Wassenaer Obdam tấn công một hạm đội của Anh có kích cỡ tương đương dưới sự chỉ huy của James Stuart, Duke of York ở địa điểm bốn mươi dặm về phía đông của cảng Lowestoft vùng Suffolk, Anh. Người Hà Lan đang ngăn chặn một cách tuyệt vọng một cuộc phong tỏa thứ hai của người Anh vào các cảng của họ sau khi đợt phong tỏa đầu tiên đã bị phá vỡ do người Anh thiếu nguồn cung cấp. Chính trị gia hàng đầu của Hà Lan, Johan de Witt, ra lệnh cho đô đốc Van Wassenaer tấn công mãnh liệt vào hạm đội Anh trong khoảng thời gian gió Đông ổn định mà khoảng thời gian này có thể tạo cho người Hà Lan lợi thế thời tiết (Weather gage). Tuy nhiên Van Wassenaer có lẽ cảm giác rằng hạm đội của ông vẫn còn quá kém trong việc đào tạo và chưa đủ mạnh để thực sự thách thức người Anh trong một trận chiến chính quy, ông cho hoãn trận đánh cho đến gió đổi chiều để tìm một cuộc đối đầu nhỏ trong một vị trí phòng thủ dưới gió vị trí mà từ đó ông có thể rút quân một cách nhanh chóng và trở về mà không công khai tỏ ra bất tuân mệnh lệnh. Thái độ của ông đã phải trả giá bằng 17 tầu chiến tronghạm đội của mình và cuộc sống của chính bản thân ông.Trong ngày 11 Tháng 6 Van Wassenaer nhìn thấy hạm đội Anh bao gồm 109 tàu chở 4.542 súng và 22.055 lính thủy, hạm đội này bao gồm ba hải đội.James tự mình chỉ huy đội tiên phong, hải đội có lá cờ đỏ,Prince Rupert of the Rhine chỉ huy trung tâm, hải đội có lá cờ màu trắng Edward Montagu, 1st Earl of Sandwich chỉ huy lực lượng hậu quân, hải đội có lá cờ màu xanh lam.Hạm đội Hà Lan gồm 103 tàu chở 4.869 súng và 21.613 lính thủy chia thành không ít hơn bảy hải đội: Hải đội đầu tiên (từ Hải quân của Amsterdam) chỉ huy bởi Van Wassenaer trên chiếc Eendracht; Hải đội thứ hai chỉ huy bởi chuẩn Trung-Đô đốc Johan Evertsen trên chiếc Hof van Zeeland; Hải đội thứ ba (từ Hải quân của Maas) chỉ huy bởi chuẩn Đô đốc Egbert Bartholomeusz Kortenaer trên chiếc Groot Hollandia; Hải đội thứ tư (hạm đội Frisia) chỉ huy bởi Đô đốc Auke Stellingwerf trên chiếc Sevenwolden; Hải đội thứ năm (từ Hải quân của các phố Bắc) chỉ huy bởi Phó Đô đốc Cornelis Tromp trên chiếc Liefde;Hải đội thứ sáu (hạm đội Zealandic) chỉ huy bởi Phó Đô đốc Cornelis Evertsen the Elder trên chiếc Vlissingen Và hải đội thứ bảy chỉ huy bởi Phó Đô đốc Volckert Schram trên chiếc Wapen van Nassau.Lý do cho việc hạm đội bị chia thành nhiều hải đội là do chúng được tập hợp từ các Hạm đội nhỏ thuộc các tỉnh của Hà Lan, và rất nhiều đô đốc mới được chỉ định gần đây - để khẳng định rằng họ có các hải đội riêng của họ; các hạm đội của Amsterdam và Maas (là Rotterdam) Sau đó chia hạm đội của họ thành các hải đội có kích thước bằng với những người có các đội tàu nhỏ hơn.Trong ngày 11 Tháng 6 biển rất bình lặng và trận chiến không thể diễn ra. Trong Ngày 12 tháng 6 gió lại bắt đầu thổi - và thổi từ phía đông, tạo cho Van Wassenaer lợi thế thời tiết (Weather gage). Tuy nhiên, ông này chỉ đơn giản là không ra lệnh tấn công, bất chấp mệnh lệnh rõ ràng của cấp trên là phải làm điều đó trong những điều kiện như vậy. Buổi sáng tiếp theo gió đã quay sang phía tây và bây giờ hạm đội của ông đã tiếp cận với các hạm đội của đối phương.

Trận đánh

Vào buổi sáng sớm ngày 13 tháng 6, Hạm đội Hà Lan đã chiếm vị trí về phía đông nam của hạm đội Anh. Hầu hết các nhà sử học Anh giả thiết Van Wassenaer (người mà trong ngày 12 tháng 6 đã gửi tất cả các đồ bạc và vật dụng có giá trị khác của mình về nhà như là để cho thấy rằng ông ta có bao nhiêu sự tự tin - chưa gì đã chuẩn bị làm đám ma thì thua là phải) đã thực hiện một rẽ ngang đột ngột về phía tây, cố gắng để lấy lại lợi thế thời tiết - hoặc có thể gọi là vị trí đầu gió (Weather gage), và người Anh đánh bại cố gắng đó của ông ta. Nếu vậy, phải có gió thổi từ phía tây nam - nếu không thì không thể có được vận động uyển chuyển này - nhưng điều này làm cho nó khó để giải thích làm cách nào hạm đội Anh bơi được về phía nam, có thể người Anh đã nhanh hơn người Hà Lan. Một giải thích khác phù hợp hơn với các nguồn tài liệu từ Hà Lan, là có gió thổi từ phía tây bắc và Van Wassenaer cố gắng giao chiến với người Anh từ ở một vị trí phòng thủ dưới gió, chiến thuật ưa thích của ông ta. Trên thực tế cả hai hạm đội đi qua các đường vát đối diện và sau đó quay ngược lại. Lần lượt HMS Great Charity (ban đầu nó là chiếc tầu của thống đốc Amsterdam tên là Groote Liefde bị bắt giữ trong Trận Portland năm 1653) đã bị cô lập và bị đột kích boong tầu và bắt giữ bởi thuyền trưởng Jan de Haen, viên đô đốc này sau đó, ngay lập tức quay trở lại với chiến lợi phẩm của mình để về Hà Lan, rõ ràng là hành động này sẽ bị cấm sau khi trận chiến này.Sau đó là phần thứ hai của trận đánh. Mặc dù người Anh đã có một số vấn đề trong việc kiểm soát liên lạc của đội hình chiến đấu, người Hà Lan bây giờ hoàn toàn thất bại trong việc duy trì một đội hình tuyến chiến đấu (Line of battle). Theo lý thuyết của họ đang ở vị trí dưới gió đã có thể sử dụng súng với phạm vi bắn lớn, cho phép họ có thể tiêu diệt đối phương từ một khoảng cách an toàn để tránh bị chiến thuật đột kích boong của người Anh bằng đạn xích. Trong thực tế một số hải đội bắt đầu chặn tầm nhìn của nhau, các đô đốc và các thuyền trưởng quá hăng hái với trận đánh bỏ lại những tầu ít nhiệt tình và tàu cũ ở phía sau một cách nhanh chóng, trong khi các tàu của công ty (Đông Ấn) - chưa từng bao giờ được đào tạo trong chiến thuật - một lối hành xử cứ như thể không có tàu của đồng đội ở bên cạch và điều này gây ra rối loạn một phần của tuyến tầu của người Anh để vượt qua một số tàu Hà Lan nặng hơn, những tầu đang chỉ cố gắng để thoát khỏi lực lượng chính của họ. Sau đó họ sẽ tuyên bố họ đã cố tình tìm cách trực tiếp tấn công đối phương theo mệnh lệnh chung. Một số tàu khác đã ở trong một phạm vi tối ưu cho các tầu Anh để tập trung bắn vào họ và đã thiệt hại nặng. Cuộc sống của vị chỉ huy trẻ của hạm đội Frisia, Chuẩn Đô đốc Auke Stellingwerf, đã chấm dứt khi ông bị bắn hai phát đạn. Chuẩn Đô đốc Kortenaer kỳ cựu, có lẽ là có quyền chỉ huy cao nhất của Hà Lan lúc đó, không may bị thương ở hông bởi một phát đạn hình cầu. Sỹ quan hoa tiêu Ate Stinstra tạm quyền chỉ huy tàu của Kortenaers. Van Wassenaer bấy giờ cố gắng đình chỉ cơ cấu chỉ huy theo hải đội, hy vọng bằng cách đặt tất cả các tàu chiến trực tiếp theo mệnh lệnh của chính mình để mang lại một tính mạch lạc hơn với các lực lượng của Hà Lan. Điều này tuy nhiên lại chỉ tạo nên thêm những rắc rối. Một lần nữa cả hai hạm đội lại quay ngược trở lại. và bây giờ một điều kỳ lạ xảy ra và đã được chứng minh rằng rất khó để giải thích. Sau khi phía sau vận động uyển chuyển tầu của hậu quân Anh rõ ràng cần phải ở phía bắc của đội hình trung tâm. Tuy nhiên, tất cả các nguồn tài liệu lại nhất trí rằng nó tạo ra một thứ tự đảo ngược của hạm đội Anh và rằng đội hậu quân của Anh lại ở phía nam của đội hình trung tâm. Các giải pháp truyền thống của Anh để giải thích điều này là hạm đội của họ đồng loạt đi vát theo gió thổi tức là mỗi tàu cá thể cùng lúc quay ngược trở lại và làm ngược thứ tự của hạm đội, thay vì quay một đằng khác. Nếu đúng thì điều này có thể được coi là một kỷ lục thật sự duy nhất cho thời đó. Nguồn tài liệu của Hà Lan đề xuất một lời giải thích khác: trong khi thực hiện lần quay thứ ba hạm đội Hà Lan bị mất tất cả sự gắn kết, vì gió đột ngột quay sang phía tây nam. Sau đó gió lại thổi tiếp vào đội tiên phong và trung tâm của người Anh. Đội hậu quân Anh, cố tránh khỏi một đám đông tầu đang bị mất liên lạc (tầu Hà Lan), bơi phía sau hạm đội Hà Lan ở phía nam. Một đội tầu nhỏ tách ra từ đội tầu tiên phong sau đó hoàn toàn đóng cửa cái bẫy, ngăn chặn ý định quay trở lại bờ biển Hà Lan. Kịch bản này giải thích tại sao tất cả các vận động đều ngừng lại và lý do tại sao một số đội tàu nhỏ Anh theo báo cáo rõ ràng đang cố gắng giong buồm về phía tây, theo đó sẽ không thể giải thích được nếu họ không được đến phía đông của hạm đội Hà Lan.Nếu thực sự là bị bao vây người Hà Lan đã có thể ở một vị trí vô vọng. Các lực lượng chính của Anh ở về phía tây của họ, và có thể có vị trí đầu gió (weather gage) ngăn chặn đột kích lên boong là một chiến thuật khả thi. Phía hậu quân Anh, bắn từ một vị trí dưới gió, có thể đã bị hư hỏng tầu của Hà Lan không bị đánh trả. Người Hà Lan lại một lần nữa có vị trí đầu gió so với đội hậu quâm Anh, một số tàu của họ kiên trì ở lại phía đông để tấn công nó (Hậu quân Anh). Qua hành động này chiếc kỳ hạm Montague đã bị đột kích lên boong và tạm thời bị chiếm giữ bởi thủy thủ đoàn của chiếc Oranje, được chỉ huy bởi thuyền trưởng Bastian Senten, người đã tấn công cả chiếc kỳ hạm Ang, Royal Prince, cho đến khi Rupert tự mình trên chiếc Royal James đến cứu và chiếm lại con tàu. Tại thời điểm đó toàn bộ trận chiến dường như đã hóa thành một trận melee ( ẩu đả, hỗn chiến) khổng lồ. Trong trận đánh Bá tước của Marlborough và Bá tước của Portland (các sỹ quan Anh) đã thiệt mạng. Một vài giờ sau đó khoảng giữa trưa Montague kéo lá cờ màu xanh lam lên đỉnh cột buồm giữa của ông - ( Một dấu hiệu để hải đội của tôi theo sau) - và thực tế là phần lớn các thuyền trưởng của đội hậu quân Anh theo sau lãnh đạo của họ khi ông đi thẳng đội hình tuyến của Hà Lan và đã phá xuyên qua nó (nhiều khả năng ông đã đi qua một khoảng cách) tạo ra hiệu quả phân chia hạm đội Hà Lan và bao quanh một phần của hạm đội này (nếu theo truyền thống kịch bản của Anh thì đúng tới giờ lần đầu tiên chỉ một phần của hạm đội Hà Lan bị bao vây).Ngoài những vấn đề về định vị người Hà Lan có một bất lợi về cấu trúc tầu: trên ở các tầu trung bình của súng của họ là loại nhẹ hơn. Đặc biệt là tám tàu lớn nhất của Anh hầu như được coi như là không thể chìm ( Unsinkable ) và có thể nhấn chìm chiếc tầu nhỏ nhất của người Hà Lan chỉ với một loạt pháo mạn duy nhất. Do đó các tàu lớn hơn của Hà Lan phải cố gắng để bảo vệ những chiếc bé hơn. Chiếc kỳ hạm Hà Lan Eendracht đọ súng với chiếc Royal Charles. James (Tư lệnh hạm đội Anh) đã gần như bị giết bởi một chuỗi đạn xích của Hà Lan, phát đạn này đã lấy đầu nhiều phụ tá của ông, trong số đó có Lord Falmouth. Khoảng ba giờ vào buổi chiều trận đấu tay đôi giữa Royal Charles và Eendracht đã kết thúc bất ngờ khi Eendracht phát nổ, giết chết Van Obdam và tất cả thủy thủ đoàn. Kortenaer là chỉ huy cao cấp thứ hai, mặc dù bị thương nặng nhưng ông ta vẫn chưa chết và các đô đốc khác lại không biết hoàn cảnh của ông ta. Bấy giờ hạm đội Hà Lan đã không còn có những mệnh lệnh có hiệu quả nữa. Sau khi chiếc Eendracht phát nổ, những chiếc tầu Anh ngay lập tức trở nên phấn khích, trong khi nhiều thuyền trưởng Hà Lan nản chí, một số tàu Hà Lan bỏ chạy một chút sau đó, tiếp theo của tàu Kortenaer Groot Hollandia bây giờ dưới sự chỉ huy của Stinstra. Không cần quá nói rằng tất cả những điều này có hiệu quả tiêu cực lên tinh thần của người Hà Lan. Vào buổi tối phần lớn các tầu của hạm đội Hà Lan đã tẩu thoát an toàn, cứu mạng sống hoàn toàn cho 40 tàu, hay theo Phó Đô đốc Cornelis Tromp và chuẩn Đô đốc Johan Evertsen, cả hai đều có mệnh lệnh không đúng với chỉ thị ( chỉ ra sự nhầm lẫn ở phía Hà Lan - mệnh lệnh được truyền đạt bằng cách đánh tín hiệu cờ, các đội tầu Hà lan mới tập hợp nên nhầm lẫn là điều có thể), họ đã thoát ra an toàn và lập lại hạm đội, do đó ngăn ngừa được thảm họa lớn hơn nữa xảy ra, mặc dù 16 tàu khác đã bị mất. Anh chỉ bị mất có một tàu, chiếc HMS Great Charity đã được đề cập ở trên. Tám tàu Hà Lan bị chìm do người Anh; sáu trong số này đã bị đốt cháy trong hai vụ việc riêng biệt khi họ có vướng mắc vào nhau trong khi chạy trốn và bị bắt lửa bởi tầu hỏa công: Điều này xảy ra với chiếc Tergoes mắc vào chiếc Maarseveen và chiếc tầu buôn Swanenburg, và cũng như vậy với chiếc Koevorden, Stad Utrecht và Prinse Maurits. chiếc Oranje được nói tới ở đoạn trước đã phát nổ sau khi bị lây lan đám cháy từ một tàu khác, sau một nỗ lực để dập tắt đám cháy đã tiến hành nhiều đợt tấn công lên boong và chiếm chiếc HMS Charles, sau đó nó đã ngăn cản các tợt tấn đầu tiên của thủy thủ đoàn của chiếc Mary dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Jeremy Smith (Mary mất 99 lính thủy trong thủy thủ đoàn của nó), một trong những chiếc thuộc hải đội của York, và sau đó các tầu HMS Royal Oak, Essex và Royal Katherine quây vào tấn công nó. Theo một số nguồn tin thì chiếc Oranje mất đi một nửa trong số 400 thủy thủ đoàn của nó khi ngừng kháng cự, một số thủy thủ người gốc Senten bị thương (những lính thủy đánh thuê người Scotlan) đã bị bắt giữ bởi tầu Anh không lâu sau khi ngừng kháng cự. Ngoài số đó người Hà Lan còn bị, người Anh tiếp tục bắt giữ thêm chín tàu: Hilversum, Delft, Zeelandia, Wapen van Edam và Jonge Prins, tàu Nagelboom và tầu buôn Carolus Quintus, Mars và Geldersche Ruyter. Chiếc Tromp cũng bị bắt nhưng lại trốn thoát. Tám tàu cũ phải hủy sau đó vì các chi phí sửa chữa đã có thể vượt quá giá trị của chúng.Người Anh mất một Sỹ quan chỉ huy cao cấp: Chuẩn Đô đốc Sampson, trong khi Phó Đô đốc Lawson bị thương trầm trọng. Các thuyền trưởng Anh đáng chú ý trong trận này bao gồm Thuyền trưởng của Hạm đội, William Penn, trên chiếc HMS Royal Charles, cựu cướp biển Christopher Myngs và George Ayscue. Luôn luôn là một bí ẩn tại sao hạm đội Anh không ít nhất là cố gắng theo đuổi Hà Lan. Một số giai thoại được kể để giải thích điều này. Theo nguồn tin của Penn, ông ta nghe được từ James rằng ông này (James) đang chờ đợi một trận đánh lớn vào ngày hôm sau - kể từ khi ông tin rằng người Hà Lan đã ổn định lại khi họ tập hợp được với nhau. James bị thương đến mức suýt chết, sau đó có thể ông đã hoàn toàn bị mất tinh thần. Có truyền thuyết kể rằng vợ của James đã ra lệnh cho Lord Henry Brouncker là phải giữ an toàn cho chồng của bà, ông này đã tuân lệnh bằng cách cho John Harman thuyền trưởng của chiếc kỳ hạm một mệnh lệnh giả để dừng chiếc Charles lại trong đêm. Trong mọi trường hợp thì chiếc Royal Charles vẫn hạ buồm trong buổi tối và phần còn lại của hạm đội Anh tập hợp theo sau.Kết quả của trận đánh một phần gây ra bởi một sự mất cân bằng về sức mạnh về hỏa lực (Người Hà Lan có nhiều súng, nhưng người Anh có súng to hơn), làm cho Hà Lan bắt tay vào một chương trình đầy tham vọng mở rộng, đóng tàu nặng hơn nhiều với súng to hơn. Người Anh đã không tận dụng lợi thế của chiến thắng của họ. Họ không bao giờ cố gắng phong tỏa được một cách hiệu quả bờ biển Hà Lan và không thể ngăn chặn được các đội tầu VOC trở về từ Đông Ấn (Trận Vågen). Các Hạm đội bây giờ trở nên cân bằng nhau cả về chất lượng và chất lượng, một lần nữa gặp nhau tại tại Trận Bốn Ngày vào tháng Sáu 1666.

Trận hải chiến bốn ngày

Ngày Ngày 01 tháng 6--Ngày 04 tháng 6 1666

Vị trí gần Bắc Forland, Anh

Kết quả Hà Lan chiến thắng

Các bên tham chiến

Anh

Chỉ huy

George Monck

Sức mạnh

79 tàu chiến

Thương vong và thiệt hại

10 tàu bị mất,

~ 1.500 người chết,

1.450 người bị thương,

1.800 bị bắt

Hà Lan

Michiel de Ruyter

Sức mạnh

84 tàu

Thương vong và thiệt hại

4 tàu bị mất,

~ 1.500 người chết,

1.300 người bị thương

Trận Bốn Ngày là một hải chiến của cuộc chiến tranh lần thứ hai giữa Anh-Hà Lan. Trận đánh đã diễn ra từ ngày 01 tháng 6 tới ngày 04 tháng 6 năm 1666 trong lịch cũ (11 tháng Sáu-14 tháng Sáu lịch mới) ngoài khơi bờ biển Flemish và biển nước Anh, nó là một trong những trận hải chiến dài nhất trong lịch sử.Trong tháng sáu 1665 hạm đội Anh đã đánh bại hoàn toàn người Hà Lan trong trận Lowestoft, nhưng không tận dụng triệt để lợi thế của chiến thắng. Hạm đội gia vị của Hà Lan, chất đầy với những hàng hóa đắt tiền đã cố gắng một cách an toàn để trở về nhà sau trận Vågen. Hải quân Hà Lan đã được cải tiến rất nhiều thông qua việc mở rộng chương trình xây dựng lớn nhất trong lịch sử của nó. Trong tháng 8 1665 nó đã bị hạm đội Anh một lần nữa thách thức, mặc dù không có trận đánh lớn mang ý nghĩa quyết định. Năm 1666 thì người Anh lại trở nên lo âu để tìm cách tiêu diệt hải quân Hà Lan một cách hoàn toàn trước khi nó có thể phát triển trở thành quá mạnh và (Hải quân Anh) đã cố gắng tuyệt vọng để kết thúc kiểu tấn công đột kích của Hà Lan, các cuộc tấn công này sẽ làm sự sụp đổ nền thương mại của Anh.Sau khi có thôngg tin rằng hạm đội Pháp dự định tham gia với hạm đội Hà Lan ở Dunkirk, người Anh quyết định phải ngăn chặn hành động này bằng cách chia tách hạm đội của họ. Lực lượng chính của họ sẽ cố gắng để tiêu diệt hạm đội Hà Lan đầu tiên, trong khi một hải đội dưới quyền của Prince Rupert được gửi đến chặn Eo biển Dover chống quân Pháp - những người đã thực tế không tham gia.Vào giai đoạn đầu của trận chiến hạm đội của Anh có 56 tàu, dưới sự chỉ huy của George Monck, 1st Duke of Albemarle, ông cũng là người chỉ huy hải đội cờ đỏ, ít hơn 84 chiếc của hạm đội Hà Lan dưới sự chỉ huy của Chuẩn - Đô đốc Michiel de Ruyter. Trận đánh kết thúc với sự rút lui thành công của người Anh sau khi cả hai hạm đội đã tiêu tốn phần lớn đạn dược của họ.Người Hà Lan gây ra thiệt hại đáng kể vào hạm đội Anh. Người Anh đã đánh cược rằng nhiều đội thủy thủ của nhiều tàu tiền tuyến (ship of the line) mới đóng Hà Lan sẽ không có đầy đủ quân số và chưa được đào tạo nhuần nhuyễn, nhưng họ tự lừa dối mình với hy vọng hão của họ: người Anh bị mất mười tàu, với trên 1.000 người thiệt mạng trong đó có hai Phó đô đốc, Sir Christopher Myngs và Sir William Berkeley, trong khi khoảng 2000 người Anh đã bắt làm tù binh. thiệt hại của Hà Lan là bốn tàu bị phá hủy bởi cháy và hơn 1.550 người thiệt mạng, trong đó có Chuẩn - Đô đốc Cornelis Evertsen, Phó đô đốc Abraham Van der Hulst và Chuẩn đô đốc Frederik Stachouwer.

Ngày đầu tiên

Vào ngày đầu tiên Monck đi trong đội hình tiên phong với Hải đội cờ trắng của George Ayscue phía sau ông ta và Hải đội cờ màu xanh của Thomas Teddiman hình thành đội hậu quân, (Monck) ngạc nhiên khi các đội tàu Hà Lan neo gần Dunkirk. Mặc dù điều kiện thời tiết bất lợi Monck đã quyết định tấn công từ phía sau Hạm đội Hà Lan thuộc Chuẩn - Đô đốc Cornelis Tromp với hy vọng sẽ làm tê liệt nó trước khi các hạm đội trung tâm và tiên phong của Hà Lan có thể can thiệp. Sau khi gửi một tin nhắn đến Rupert, yêu cầu ông ta tham gia với mình nếu có thể, Monck mạnh dạn tấn công Tromp lúc này bỏ chạy trên bãi cát ngầm Flemish. Monck thì chiếm giữ vị trí phía tây bắc, để ứng chiến với các hải đội trung tâm của Hà Lan (do De Ruyter chỉ huy) và tiên phong (chỉ huy bởi Chuẩn -Đô đốc Cornelis Evertsen the Elder). Tromp quay trở lại, nhưng chiếc tàu của ông, chiếc Liefde đã va chạm với chiếc Groot Hollandia. Phó Đô đốc Berkeley đã thấy điều này và đột kích lên boong từ chiếc HMS Swiftsure. Ngay lập tức các chiếc Callantsoog và Reiger đến để cứu chỉ huy của họ, tiêu diệt quân đột kích Anh bằng đạn xích, chiếc Reiger sau đó cũng cố gắng để đánh đột kích bong chiếc Swiftsure. Berkeley thách thức lính thủy Hà Lan bằng cách reo hò: Chúng mày là chó, Chúng mày là lũ ma cà bông , chúng mày có nghe thấy không, nhảy lên tầu đi! nhưng thật chẳng lành ông ta bị thương vào cổ họng bởi một phát đạn súng hỏa mai, sau đó Swiftsure đã bị bắt. Trong phòng thuốc súng đô đốc đã được tìm thấy với cổ họng bị cắt của mình, ông đã cố gắng để cho nổ tung tàu nhưng thủy thủ đoàn của ông đã giết ông trước và rồi làm bột thuốc súng, sau trận đánh những người còn sống sót nói rằng người đã cắt cổ họng của chỉ huy của mình thuần túy là do quá thất vọng. Chiếc tầu hư hỏng HMS Seven Oaks (trước là chiếc Sevenwolden) bị bắt bởi chiếc Beschermer trong khi chiếc HMS Loyal George cố gắng giúp Swiftsure nhưng điều này chỉ dẫn đến việc cả hai tàu đều bị chiếm. Xác của Berkeley được ướp và sau đó được trưng bày ở Hague, sau đó trả lại Anh trong một cuộc ngưng bắn, kèm theo một bức thư của Thống đốc các Tỉnh ca ngợi đô đốc Berkeley vì lòng dũng cảm của ông. Chiếc HMS Rainbow, một trong hai chiếc đã đầu tiên để trinh sát phát hiện hạm đội Hà Lan đã bị cô lập và bỏ chạy đến cảng trung lập Ostend, và bị truy đuổi bởi mười hai tàu từ hạm đội của Tromp trong khi chiếc khác, Kent, rời chiến trường để tìm kiếm Hải đội của Rupert.Cả hai hạm đội pháo kích vào nhau trong một đội hình trận chiến theo tuyến (battle of the line). Chiếc Hof van Zeeland và Duivenvoorde đã bắn trúng đạn cháy và bị đốt cháy. Người Hà Lan đã không biết sự tồn tại của loại đạn dược, bao gồm 2 chảo đồng trũng úp lại ở giữa đầy một chất dễ cháy, do đó, họ đã rất ngạc nhiên. May mắn cho họ là người Anh chỉ có một nguồn cung cấp nhỏ loại đạn này vì chi phí sản xuất cao.Monck rút lui trong ban đêm, nhưng con tàu của Chuẩn đô đốc Harman, chiếc HMS Henry, trôi dạt đến đội hình tuyến của Hà Lan và đã bị bắt lửa bởi hai chiếc tầu hỏa công. Người giáo sỹ (đi trên tầu) hỏi Harman là có thể làm gì để cứu cuộc sống của họ, câu trả lời mỉa mai sau đó rằng một giáo sỹ tốt thì luôn sẵn sàng nhảy qua boong tầu, bởi sự kinh dị của ông làm vị mục sư sợ phát khiếp và ông này ngay lập tức làm theo lời khuyên của Harman cùng với một phần ba thủy thủ đoàn. Tất cả đều chết đuối. Harman đã chấm dứt sự hoảng sợ bằng sự đe dọa với một thanh kiếm đã được rút ra để đâm xuyên qua bất cứ người nào tỏ thấy độ muốn bỏ tàu dù là nhỏ nhất. Evertsen bây giờ bơi gần vào và hỏi xem Harman có muốn đầu hàng không?, câu trả lời đến tai ông ta một cách không quá bất ngờ rằng ông ta đã từ chối và la hét ( I''''''''m not up to it yet ). Mặc các cuộc tấn công lặp đi lặp lại của người Hà Lan, và mất đi hai cột buồm, một trong hai rơi xuống và nghiền nát chân của Harman, đám cháy đã được dập tắt và chạy Henry chạy thoát, và bắn những phát đạn cuối cùng của nó, hai phát trong số này đã trúng vào người Evertsen.

Ngày thứ hai

Sáng ngày thứ hai Monck đã quyết định tiêu diệt những người Hà Lan bằng một cuộc tấn công trực tiếp và khởi hành đến chỗ họ từ phía tây nam, nhưng De Ruyter trong chiếc De Zeven Provinciën bơi vượt qua tuyến của họ (người Anh) về phía đông nam, gây hư hại nặng cho hạm đội Anh và có được ưu thế đầu gió weather gauge. Chiếc HMS Anne, HMS Bristol và HMS Baltimore đã phải quay trở lại Thames. Sau khi bình tĩnh chờ đợi sửa chữa ông đã quay sang tấn công tầu Anh từ phía nam với cờ đỏ được giương lên, ra dấu cho tất cả hãy tấn công, nhưng chỉ khi ông tiếp cận đội hình tuyến của kẻ thù, những gì ông nhận thấy làm ông mất tinh thần rằng một phần của đội hậu quân dưới sự chỉ huy của Tromp cũng đã tách ra và bây giờ ở một vị trí đầu khác của đội hình tuyến của người Anh những người đã bao quanh Tromp. Thông thường việc này được giải thích bằng cách giả sử Tromp đã không tuân theo mệnh lệnh, nhưng mặc dù ông đã thực sự nổi tiếng vì sự cứng đầu cứng cổ của mình, thời gian này ông ta chỉ đơn giản là đã không nhìn thấy những lá cờ tín hiệu và người theo dõi về phía Hải đội trung tâm đã báo cáo nhầm lẫn một dấu xác nhận. De Ruyter đã giương cờ đỏ và phá vỡ rồi đi xuyên qua đội hình tuyến của đối phương với Phó Đô đốc Johan de Liefde, trong khi phần còn lại của hạm đội Hà Lan dưới sự chỉ huy của Aert van Nes lại hướng về phía nam. Ông ta cứu được tất cả các tàu của Tromp trừ chiếc Liefde bị cháy và Spieghel bị chìm và Phó Đô đốc Abraham van der Hulst vừa bị giết bởi một phát súng hỏa mai bắn trúng ngực và quay trở lại tham gia với van Nes và lực lượng chính rồi lại một lần nữa chọc thủng phòng tuyến đối phương, và nhận thấy một cách hơi tự mãn rằng lần thứ hai tàu Anh phải giạt ra xa.Tromp, chuyển đổi sang tàu thứ tư của ông, sau đó đến gần De Ruyter để cảm ơn ông vì đã cứu viện đúng lúc. Cả hai người đã ở một tâm trạng xấu. Chuẩn đô đốc Frederick Stachouwer cũng đã bị giết. Ngày hôm trước tầu hư hỏng Hollandia đã được gửi về nhà cùng với chiếc Gelderland, Delft, Reiger, Asperen và Beschermer để gác ba chiếc tầu Anh bị bắt; bây giờ lại thêm chiếc Pacificatie, Vrijheid, Provincie Utrecht và Calantsoog bị hư hỏng cũng phải quay trở lại và chỉ có một ít tầu ở đội hậu vệ là vẫn còn nguyên vẹn. Bên cạnh đó, kẻ thù lại một lần nữa có được vị trí đầu gió weather gauge, những nguy hiểm đó ngay lập tức được tháo gỡ bởi George Ayscue, thấy hai đô đốc cùng nhau trong một vị trí dễ bị tổn thương, cố gắng cô lập họ, với nhiều khó khăn họ cố gắng để trở về lực lượng chính của họ.Cả hai hạm đội bây giờ đã qua ba lần tấn công đối diện theo tuyến, trong lần thứ hai chiếc De Zeven Provinciën đã bị hư hại và De Ruyter rút lui khỏi cuộc chiến để sửa chữa tàu của ông. Sau đó ông bị một số nhà sử học buộc tội hèn nhát, nhưng ông đã có lệnh nghiêm ngặt bằng văn bản từ Thống đốc các Tỉnh và phải hành động một cách chính xác như vậy, để ngăn chặn sự lặp lại của những sự kiện trong trận Lowestoft, khi sự mất mát của người chỉ huy tối cao đã làm tan vỡ cơ cấu chỉ huy của Hà Lan. Chuẩn - Đô đốc Aert van Nes đã lãnh đạo hạm đội Hà Lan qua lần đối đầu thứ ba.Rồi người Hà Lan lại ở một vị trí dưới gió súng của họ đã có một tầm bắn cao và một số tàu Anh bây giờ đã bị thiệt hại đáng sợ. Chiếc HMS Loyal Subject bị chuyển về cảng nhà và phải tự phá hủy. Chiếc HMS Black Eagle ( tên cũ là Groningen) giương cao cờ tai họa sẵn sàng tan rã trước khi có bất kỳ tàu nào có thể hỗ trợ.Sau đó, khoảng ba giờ vào buổi chiều, một đội tầu Hà Lan khoảng mười hai tàu xuất hiện trên đường chân trời. Monck đã bị sốc, không phải vì sự kiện này là hoàn toàn bất ngờ nhưng vì lo sợ tồi tệ nhất của ông dường như trở thành sự thật. người Anh đã có được từ mạng lưới tình báo xuất sắc của họ rằng người Hà Lan dự định sẽ giữ một Hải đội mạnh thứ tư đằng sau như một chiến thuật dự phòng. Chắc chắn những con tàu mới phải là lực lượng xung kích tràn đầy mãnh lực. Monck ra lệnh kiểm tra số lượng tàu còn dùng được của hạm đội Anh. Khi nghe báo cáo chỉ có 29 tàu sẵn sàng cho cuộc chiến còn lại trong bọn họ, và Rupert vẫn biến mất mà không làm cho người ta nhìn thấy, ông quyết định rút lui. Trong thực tế, De Ruyter đã ngay trước khi trận đánh bị thuyết phục bởi các đô đốc khác chỉ sử dụng có ba hải đội. Monck không bao giờ nhận thấy rằng chiếc Rainbow đã biến mất - quả thật ông ta cũng không thể hiểu nơi Berkeley đã đi là đâu. Hơn một chục tàu chiếc tàu (chính xác là 12) đã được những người trong hải đội của Tromp tung ra và đuổi theo con mồi (chiếc HMS Rainbow) có ý định trốn thoát đến Ostend và lại ra nhập vào cuộc chiến. Toàn bộ hạm đội Anh chạy vát theo chiều gió về phía tây nam vào lúc bốn giờ. Chiếc tầu bị lạc đội hình St Paul (tên cũ Sint Paulus) bị bắt vào buổi tối

Ngày thứ ba

Vào ngày thứ ba Hạm đội của Anh tiếp tục rút lui về phía tây. Người Hà Lan tiến lên trên một mặt trận rộng, Van Nes vẫn chỉ huy, với hai mục đích là để bắt bất kỳ tầu lạc ngũ nào và để tránh pháo lớn lớn 32 pound ở phần đuôi tàu lớn. Vào buổi tối Rupert, khi ngày đầu tiên đã nhận được lệnh phải tham gia Monck, cuối cùng cũng xuất hiện với hai mươi chiếc tàu. Ông đã không thể tiếp cận với Monck vì trước đó ông đã cho tàu đi xa cũng như Wight để tìm kiếm hạm đội Pháp tưởng tượng. Monck đã ra lệnh cho hạm đội của mình để thiết lập một đội hình thẳng cho hải đội màu xanh lá cây phi đội cảnh báo rằng điều này sẽ làm họ bị trừng phạt bởi Galloper Shoal lúc thủy triều thấp. Chiếc HMS Royal Charles và HMS Royal Katherine gần như đã chạm đáy nhưng lại thoát được đúng lúc, Tuy nhiên chiếc HMS Prince Royal đã bị mắc kẹt. Phó Đô đốc George Ayscue, chỉ huy của hải đội trắng, kêu gọi với người của mình để giữ bình tĩnh cho đến khi lũ sẽ nâng con tàu; nhưng khi hai tàu hỏa công tiếp cận các thủy thủ đoàn đã khiếp sợ. Khi chiếc tầu Lambeth tấn công chiếc kỳ hạm và Ayscue đã phải đầu hàng Tromp trên chiếc Gouda, Lần đầu tiên và cuối cùng trong lịch sử của một đô đốc của Anh xếp hạng cao như vậy lại bị bắt trên biển. De Ruyter đã có mệnh lệnh rõ ràng để tiêu diệt bất cứ tầu chiến lợi phẩm, khi hạm đội Anh vẫn ở gần ông ta (Tromp) không thể không tuân theo lệnh chỉ huy và ra lệnh cho đốt cháy tầu Prince. Tromp đã không dám thực hiện bất kỳ sự phản đối nào mặc dù ông vẫn trái lệnh và gửi về nhà một số chiến lợi phẩm, nhưng sau đó ông tự do bày tỏ sự bất mãn của mình, trong 1681 ông vẫn đang cố gắng để có được bồi thường từ bộ trưởng hải quân của Amsterdam cho mệnh lệnh sai trái này.Van Nes bây giờ vẫn cố gắng để ngăn chặn sự gia nhập của cả hai hạm đội Anh. Nhưng khi họ bơi lại từ cả hai phía sau của đội hình khóa đuôi của mình, De Ruyter lấy lại quyền chỉ huy và ra lệnh phải chờ đợi. Bằng cách này, ông lấy lại ưu thế đầu gió weather gauge.

Ngày thứ tư

Sáng sớm hôm sau hạm đội Anh có sự tăng cường của hơn năm tàu (các tầu Convertine, Sancta Maria, Centurion, Kent và Hampshire) và tầu hỏa công khác (Happy Entrance); Và ngược lại, sáu trong các tàu bị hư hại nhiều nhất đã được gửi về nhà để sửa chữa. Vì vậy, lực lượng chiến đấu bao gồm 23 tràn đầy sinh lực trong tổng số 60-65 chiếc lớp Man-of-war và 6 fireships, các tầu Anh tấn công trong đội hình tuyến vào ngày thứ tư với Sir Christopher Myngs bây giờ phụ trách các tầu tiên phong, Rupert phụ trách đội trung tâm và Monk của các đội hậu quân. Hạm đội Hà Lan bây giờ ở về phía tây nam của họ và bấy giờ giảm xuống còn 68 tàu (và một số 6 hoặc 7 tàu hỏa công), đã chiếm được ưu thế đầu gió weather gauge và tấn công rất mạnh. De Ruyter cố gắng để gây ấn tượng trên lá cờ của ông rằng cuộc chiến của ngày hôm đó sẽ quyết định cho toàn bộ cuộc chiến tranh . Người Anh tấn công và, dễ bị tổn thương từ một vị trí dưới gió. Một cách ngập ngừng De Ruyter dự định phá đội hình tuyến chiến đấu của người Anh bằng cách đập vỡ nó tại ba vị trí và cắt hạm đội Anh thành nhiều phần trước khi tiêu diệt từng phần còn lại. Phó đô đốc Johan de Liefde trên chiếc Ridderschap và Myngs trên chiếc HMS Victory bắt đầu một trânh cận chiến, Myngs bị trúng hai viên đạn súng hỏa mai và không thể cứu được vết thương, chết trong ngày trở về London. Các tầu Anh đang cố gắng tập hợp lại để phá vỡ vòng vây ở phía nam bằng cách thực hiện bốn đợt tấn công nương theo chiều gió vào phía đối diện, nhưng Tromp và Van Nes đã bao quanh họ. Monck thì đeo ở phía bắc. Đội của Tromp đã bị chặn đường, chiếc Landman bị đốt cháy bởi một fireship. Van Nes buộc phải rút lui. De Ruyter, lúc này lo lắng nhiều hơn tại bất kỳ thời điểm khác trong cuộc chiến và cuộc chiến vì sợ bị thua, giương lên lá cờ đỏ và giong buồm qua Rupert Monck để tấn công từ phía sau. Khi Rupert cũng cố gắng làm như vậy với ông ta, ba phát đạn bắn rất nhanh đã thành công trong việc bắn tung cột buồm chiếc HMS Royal James của Rupert và toàn bộ Hải đội có cờ màu xanh lá cây rút ra khỏi trận đánh ở phía nam để bảo vệ và kéo chiếc kỳ hạm. Bây giờ không có gì ngăn cản De Ruyter từ việc tấn công Monck và các lực lượng chính của Anh đã bị chặn đường. Nhiều chiếc trong số các con tàu của Anh đã sắp hết bột thuốc súng sau ba ngày chiến đấu liên tiếp trong khi hầu hết các tàu Hà Lan vẫn có một nguồn cung cấp đầy đủ vì họ đã có một đội tầu vận chuyển đồ cung cấp tương đối lớn, các tầu vận tải có súng nhỏ và thuỷ thủ đoàn ít được đào tạo hơn, nên do đó bắn chậm hơn. Bốn tầu lạc ngũ đã bị bắt bởi người Hà Lan, đó là chiếc HMS Clove Tree (cựu tàu VOC Nagelboom), bị bắt do chiếc Wassenaar, HMS Convertine và HMS Essex cùng với chiếc HMS Black Bull; cả hai bị bắt bởi chiếc Frisia của Chuẩn đô đốc Hendrik Brunsvelt ; HMS Black Bull sau đó bị chìm. De Ruyter nhìn thấy hạm đội Anh trốn thoát trong sương mù dày đặc và quyết định chia ra theo đuổi. Riêng hải đội của ông đã bị hư hại quá nặng, nhật ký hàng hải của ông chỉ nói của sự sợ hãi đối với các bãi cát ngầm ở Anh. Theo niềm tin tôn giáo sâu sắc De Ruyter giải nghĩa ở các bờ sương mù đột ngột một cách không lý giải nổi như là một dấu hiệu của Thiên Chúa, có ý nghĩa với ông rằng ( rằng ông chỉ nên hạ nhục đối phương để cho tạo niềm tự hào của mình nhưng không cho phép hủy diệt họ hoàn toàn). ( Bây giờ lại đến lượt Hà Lan bỏ qua cơ hội tận diệt đối phương)

Sau trận đánh

Đó là trận hải chiến lớn nhất của cuộc chiến Anh-Hà Lan lần thứ hai. Tuy nhiên, kết quả của nó là đôi khi được mô tả như là một trận chiến không có ý nghĩa quyết định, bởi vì cả hai bên ban đầu đều tuyên bố chiến thắng. Ngay sau khi trận chiến các thuyền trưởng của hải đội Anh Rupert, không thể thấy kết quả cuối cùng, buộc tội De Ruyter đã ra lệnh rút lui trước, sau đó thường được xem như là tạo ưu thế cho hạm đội của đối phương. Mặc dù hạm đội Hà Lan dần dần buộc phải theo đuổi đến cùng, họ đã cố gắng để làm tê liệt hạm đội Anh, và cũng bị mất những bốn tàu của họ, mặc dù chiếc Spieghel đã cố gắng không để chìm và đã được sửa chữa. Những người Hà Lan đương thời thể hiện chính kiến về vấn đề này trong một bài thơ châm chích nổi tiếng của nhà thơ Constantijn Huygens: là bị đánh đập - nhưng vẫn tồn tại.Hai tháng sau hạm đội Anh đã hồi phục và lại thách thức hạm đội Hà Lan một lần nữa, lần này họ (người Anh) có nhiều thành công hơn tại Bắc mui đất ở trong trận St James Day. Mặc dù điều này được chứng minh là một chiến thắng, đội tàu Hà Lan một lần nữa lại không bị phá hủy và các chi phí sửa chữa lớn sau trận trước đã cạn kiệt ngân khố nước Anh, do đó, trận bốn ngày thường được coi là một thắng lợi chiến thuật nhỏ nhưng lại là một thắng lợi chiến lược quan trọng cho Hà Lan

Trận hải chiến ngày Thánh James - St. James''''''''s Day Battle

Ngày 25 tháng 7 (Lịch Julian) hoặc Ngày 04 tháng 8 (Lịch Gregory), 1666

Vị trí gần Bắc Forland, Anh

Kết quả Anh thắng

Các bên tham chiến

Anh

Chỉ huy

Prince Rupert of the Rhine

George Monck, 1st Công tước của Albemarle

Sức mạnh

90 tàu, cộng thêm 16 fireships

Thương vong và thiệt hại

1 tiếng tàu (HMS Resolution) chìm, 300 bị giết

Cộng Hòa Hà Lan

Chỉ huy

Michiel de Ruyter

Sức mạnh

89 tàu, cộng thêm 20 fireships và 9 du thuyền

Thương vong và thiệt hại

2 tàu Hà Lan (Sneek và Tholen) bị thương

chết 800

thương vong 5.000

Trận Hải chiến St James Day diễn ra vào ngày 25 tháng 7 1666 - ngày thánh St James trong Lịch Julius sau đó được sử dụng tại Anh (Ngày 04 tháng 8 1666 trong lịch Gregory), trong cuộc chiến thứ hai Anh-Hà Lan và đó là cuọc hải chiến giữa hạm đội tàu của Anh, dưới sự chỉ huy của Prince Rupert of the Rhine và George Monck, 1st Công tước của Albemarle, và hạm đội Hà Lan dưới sự chỉ huy của Chuẩn - Đô đốc Michiel de Ruyter. Tại Hà Lan, trận chiến này được gọi là Trận Hai Ngày.

Ý định của người Hà Lan

Sau khi Hà Lan đã gây ra thiệt hại đáng kể vào hạm đội Anh trong trận Bốn Ngày, nhà chính trị gia hàng đầu của Hà Lan, Grand Pensionary ( Chức danh chỉ sau Phó vương Hà Lan ) Johan de Witt, ra lệnh cho Chuẩn - Đô đốc Michiel de Ruyter để thực hiện một kế hoạch đã được chuẩn bị sẵn sàng trong hơn một năm: đổ bộ xuống Medway tiêu diệt hạm đội Anh trong khi nó đã được sửa chữa tại các ụ tầu ở Chatham. Để tiến hành chiến dịch này, mười tầu fluyt chở 2.700 lính thủy của đơn vị mới được thành lập Thủy quân lục chiến Hà Lan, Một trong những lực lượng đầu tiên trong lịch sử có chuyên môn đổ bộ chiến đấu lưỡng cư. Ngoài ra, De Ruyter muốn hạm đội của mình được liên hợp với một hạm đội của Pháp.Tuy nhiên Hạm đội Pháp đã không xuất hiện và thời tiết xấu ngăn cản việc đổ bộ. De Ruyter phải hạn chế hành động của mình ở một cuộc phong tỏa sông Thames. Trong ngày 01 tháng Tám, ông đã quan sát thấy rằng hạm đội Anh đã rời cảng - sớm hơn dự kiến. Sau đó, một cơn bão đã lái hạm đội Hà Lan trở lại bờ biển Flemish. Vào ngày 03 tháng bảy, De Ruyter một lần nữa vượt qua Biển Bắc, để lại phía sau đoàn tàu trở quân.

Ngày đầu tiên

Vào buổi sáng sớm của ngày 25 Tháng bảy, hạm đội 88 chiếc tầu của Hà Lan phát hiện ra hạm đội Anh gồm 89 tàu ở gần Bắc Forland, đang dong buồm ở phía bắc, và theo đuổi nó từ phía đông nam ở vị trí dưới gió, khi gió thổi từ phía tây bắc. Đột nhiên, gió đã chuyển sang phía đông bắc. Chỉ huy của hạm đội Anh, Prince Rupert of the Rhine, sau đó chuyển nhanh về phía đông để lấy lại ưu thế đầu gió weather gauge và De Ruyter theo sau để canh chừng nó. Hàng động này được chứng minh là một vận động uyển chuyển chết người cho Hà Lan. Bây giờ họ đi đúng vào trọng tâm của một khu vực bị sức ép lớn. Các tầu tiên phong của Hà Lan dưới sự chỉ huy của Chuẩn - Đô đốc Johan Evertsen, thất tốc và không thể duy trì đội hình tuyến trận đấu. Tình trạng khó xử này kéo dài trong nhiều giờ sau đó, một lần nữa, một gió thổi nhẹ bắt đầu từ phía đông bắc. Ngay lập tức, các tầu tiên phong của Anh dưới sự chỉ huy của Thomas Allin, và một phần của đội hình trung tâm hình thành một đội hình tuyến của trận chiến và bơi về phía bên phải của các tầu tiên phong Hà Lan, (các tầu Hà Lan ) lúc này vẫn đang bị rối loan và về cơ bản thì không tự vệ được. Từng tàu một của Hải đội Frisia bị nện tơi bời bởi súng bắn liên hoàn của đội hình tuyến của Anh. Phó Đô đốc Rudolf Coenders bị giết. Chuẩn - Đô đốc Tjerk Hiddes de Vries có một cánh tay và một chân gãy ra, nhưng ông vẫn cố gắng gắn kết các lực lượng của mình lại với nhau nhưng không nổi. Không thể kết nối họ với cánh trung tâm của mình, De Ruyter kinh hoàng khi thấy đội tàu Frisia trôi về phía nam, bây giờ trông họ không khác gì những xác tầu trôi với đầy người chết, tiếng rên rỉ của những người sắp chết còn rõ ràng hơn cả các âm thanh khác của cuộc chiến.Bây giờ Rupert kết hợp toàn bộ các đội tiên phong và trung tâm của mình để tung ra một đòn Coup-de-Grâce (chắc là đòn knock-out) vào đội hình trung tâm của Hà Lan. George Monck đi kèm với Rupert dự đoán rằng, De Ruyter sẽ cho bắn cả hai loạt pháo mạn và bỏ chạy, nên sau đó ông này (Monck) giăng bẫy một đợt súng giữ dội vào chiếc kỳ hạm Hà Lan De Zeven Provinciën. Ông ta tạo ra một cuộc tấn công bằng cách kết hợp chiếc Sovereign of the Seas và chiếc Royal Charles và buộc Rupert phải rời khỏi chiếc Royal Charles đã bị hư hỏng và chuyển sang chiếc Royal James. Trong lúc này, De Ruyter vẫn đang mải mê cố gắng để thu thập các tầu đang rút lui của đội tiền quân Hà Lan.Trong khi đó, Chuẩn - Đô đốc Cornelis Tromp, chỉ huy hậu quân của Hà Lan, đã nhìn thấy những sự việc đáng buồn xảy ra từ một khoảng cách xa. Bực mình bởi chưa nhận được mệnh lệnh, ông quyết định làm một ví dụ chính xác. Ông quay ngược nhanh về phía tây, vượt qua đội hình hậu quân của Anh lúc đó được chỉ huy bởi Jeremy Smith, tách nó khỏi phần còn lại của hạm đội Anh và sau đó, có thế đầu gió weather gauge, liên tục tấn công một cách điên cuồng cho đến khi người Anh không thể chịu nổi và chạy về phía tây. Ông theo đuổi và vào ban đêm, và đã phá hủy chiếc HMS Resolution bằng với một chiếc fireship. Sau khi Tromp ba lần bắn gục toàn bộ thủy thủ đoàn trên buồm của nó, chiếc kỳ hạm HMS Loyal London của Smith đã phải được kéo về nhà. Chỉ huy phó của Hải đội hậu quân của Anh là Edward Spragge, người cảm thấy bị sỉ nhục bởi sự kiện này khiến ông ta trở thành một kẻ thù cá nhân của Tromp, đã tự tử trong khi đang cố gắng để diệt kẻ thù của mình trong Trận Texel.

Ngày thứ hai

Sáng ngày 26 tháng bảy, Tromp tự phá vỡ đội hình, và cảm thấy hài lòng với chiến thắng đầu tiên thật sự của ông như là một chỉ huy hải đội. Trong đêm một chiếc tàu mang thông điệp nói rằng De Ruyter dường như đã chiến thắng này, vì vậy Tromp có một một tâm trạng phở phơ. Điều đó đột ngột thay đổi khi ông ta phát hiện ra chiến hạm đang trôi dạt của Chuẩn đô đốc Tjerk Hiddes de Vries (đã chết). Đột nhiên, ông sợ rằng tàu của ông là bây giờ chỉ dấu tích của hạm đội Hà Lan và rằng ông trong hiểm tọa sinh tử. Đằng sau ông, những tàu của hậu quân Anh vẫn còn hoạt động đã trở lại và quay sang phía đông. Ở phía trước, các Hải đội khác của đối phương chắc chắn đang chờ ông ta. Trên đường chân trời chỉ có cờ Anh là được nhìn thấy. Ra lệnh cho hải đội quay đầu một cách bừa bãi, Tromp uống nhiều rượu gin để phục hồi thần kinh của ông, lẩn tránh bất kỳ nỗ lực để bẫy ông ta và đưa hải đội của mình một cách an toàn vào nhà cảng Flushing vào sáng ngày 26 tháng bảy. Ở đó ông đã phát hiện phần còn lại của đội tàu Hà Lan.Phải mất sáu giờ Tromp mới thu thập đủ can đảm để đối mặt với De Ruyter. Rõ ràng một điều với ông ta rằng ông ta không bao giờ được phép tự mình hoàn toàn tách khỏi lực lượng chính. Thật vậy De Ruyter, không với thái độ lịch sự bình thường hàng ngày của mình, ngay lập tức đổ lỗi cho cho ta về trận thua và ra lệnh cho Tromp và các cấp dưới của mình Isaac Sweers và Willem van der Zaan đứng ra xa khỏi tầm mắt của ông, và nói với họ không bao giờ được đặt chân lên chiếc De Zeven Provinciën. Các chỉ huy của đội tàu Hà Lan vẫn chưa phục hồi được tinh thần từ những sự kiện của ngày hôm trước.Sáng ngày 05 tháng 8 (lúc Tromp chưa quay về), sau một đêm mùa hè ngắn, De Ruyter phát hiện ra rằng vị trí của mình đã trở thành vô vọng. Chuẩn-Đô đốc Johan Evertsen đã chết sau khi bị mất một chân, lực lượng của De Ruyter bây giờ đã bị giảm xuống còn khoảng bốn mươi tàu xúm với nhau và hầu hết số tầu sống sót của đội tiên phong ở vào tình trạng không hoạt động được nữa. Một số khoảng 15 tàu còn tốt có vẻ như đã bị bỏ rơi trong ban đêm. Một cơn gió mạnh từ phía đông đã ngăn ngừa một cuộc rút lui dễ dàng về phía bờ biển lục địa, và về phía tây của hải đội tiền quân và trung tâm của Anh (khoảng năm mươi tàu) đã bao quanh hạm đội của ông ta theo hình bán nguyệt, và thoải mái bắn phá vào hạm đội của ông ta từ một vị trí dưới gió.Tuy nhiên người Anh, cũng có những vấn đề riêng của họ. Cơn gió mạnh ngăn cản họ tiến lại gần với vị trí của người Hà Lan. Họ gắng sử dụng tàu hỏa công, nhưng cũng đã có sự cố khi tiếp cận đối phương. Chỉ có chiếc thông báo hạm Fan-Fan, du thuyền cá nhân của Rupert, chèo được đến gần chiếc kỳ hạm Hà Lan De Zeven Provinciën để quấy rối nó với hai khẩu súng nhỏ của mình, tạo nhiều cảnh hài hước, vui nhộn cho hạm đội Anh.Khi các tàu của ông (De Ruyter) đã một lần nữa tránh được một cuộc tấn công bởi một chiếc tàu hỏa công ( chiếc Land of Promise) và Tromp vẫn biến mất, đã tạo căng thẳng lên De Ruyter một cách khó chịu. Ông ta đã tìm cái chết bằng cách cố ý xuất hiện trên boong tầu. Khi ông không thể đạt được điều ông muốn, ông ta đã kêu lên: (Ôi Chúa ơi làm sao tôi không may đến vậy! Trong số hàng ngàn phát đạn của kẻ thù, không có một phát nào có thể trúng được tôi?) Con rể của ông, đội trưởng Johann de Witte của lực lượng Thủy quân lục chiến, nghe thấy và nói: ( Cha, làm gì mà tuyệt vọng đến vậy, nếu cha chỉ muốn chết!, cho chúng con sau đó lần lượt giương buồm xông vào giữa kẻ thù của chúng ta và đánh nhau cho tới chết ). Đề xuất dũng cảm nhưng ngu ngốc này đã làm Đô đốc lấy lại được tinh thần của mình, và ông thấy rằng ông không nên quá tuyệt vọng và trả lời: ( Con không biết con đang nói về cái gì đâu. Nếu cha làm như vậy, chúng ta sẽ mất hết. Nhưng nếu! Ta có thể mang bản thân mình và những con tàu một cách an toàn về nhà, chúng ta sẽ lại có cơ hội vào lúc khác.)Sau đó, cơn gió trận chiến này đã mang rất nhiều bất hạnh cho người Hà Lan, bất ngờ đổi chiều và đảm hảo an toàn cho người Hà Lan bằng cách thổi về phía Tây. Người Hà Lan lập tức tổ chức một đội hình tuyến chiến đấu và đưa hạm đội của họ đi an toàn qua các bãi cát ngầm Flemish, Phó Đô đốc Adriaen Banckert của hạm đội Zealandic điều hành việc rút lui của tất cả các tàu thuyền bị hư hỏng bằng các tàu còn hoạt động, số tầu đến chậm từ từ tăng lên và chó vẻ như rằng chỉ có rất ít tàu thực sự bị bỏ rơi trong đêm, phần lớn chỉ bị trôi dạt , và bây giờ từng chiếc một, họ tái gia nhập cuộc chiến.

Kết quả

Trận đánh rõ ràng là một chiến thắng của người Anh, mặc dù trong cuộc đụng độ riêng biệt của hai đạo hậu quân lại là một chiến thắng cho Tromp. Hà Lan bị thương vong rất lớn, ước tính ngay sau trận đánh xảy ra là khoảng 5.000 người, so với 300 người Anh bị giết sau đó, thông tin chính xác cho thấy chỉ có khoảng 1.200 người trong số này đã bị chết hoặc bị thương nặng. Tuy nhiên, người Hà Lan chỉ mất hai chiếc tàu: De Ruyter đã thành công ở việc thu hồi lại gần như hoàn toàn đội tiền quân, chỉ có chiếc Sneek và Tholen là bị gục cột buồm chính của họ, và họ có thể nhanh chóng sửa chữa những thiệt hại. Tuy nhiên, hai chiếc tầu bất hạnh chiếc HMS Great Plague of London và Great Fire of London kết hợp với những thiếu hụt về tài chính của mình, đã làm cho Charles II (vua của Anh) không có tiền để tiếp tục chiến tranh. Trong thực tế, ông ta chỉ có dự trữ đủ cho cuộc chiến này thôi. Người Hà Lan sớm hồi phục, trong vòng một tháng, họ lại kiểm soát được vùng biển, nhưng cũng chỉ có một vài đụng độ nhỏ. Về cuối của cuộc chiến này, De Ruyter đã trở nên quá căng thẳng và tưởng như thần kinh của ông không thể chịu nổi, ông chỉ thật sự phục hồi trong thời gian giáng một đòn mạnh vào hải quân Anh trong trận đột kích vào Medway trong năm 1667.Trong tuần mà hạm đội Hà Lan đang được sửa chữa, đô đốc Robert Holmes ( của Anh )được sự trợ giúp của một kẻ phản bội Hà Lan, Laurens van Heemskerck, đột nhập vào cửa sông Vlie, đốt cháy một đội 150 thương thuyền (Holmes Bonfire) và phá hủy thị trấn Ter Schelling (nay là Tây-Terschelling) trên đảo Frisia Terschelling. Chiếc du thuyền Fan-Fan lại một lần nữa xuất hiện.Tại Cộng hòa Hà Lan, thất bại cũng luôn có rất nhiều nơi có hiệu ứng chính trị. Tromp là ứng cử viên vô địch của đảng Orangist, nay ông bị cáo buộc do sơ suất nghiêm trọng, đất nước bị chia rẽ vì vấn đề này. Để bảo vệ mình, Tromp cho anh rể là Johan Kievit xuất bản một số tài liệu của mình. Ngay sau đó, Kievit bị phát hiện là có kế hoạch một cuộc đảo chính, và bí mật đàm phán một hiệp ước hòa bình với vua Anh. Ông này (Johan Kievit) đã trốn sang Anh và nhận một án tử hình vắng mặt, gia đình Tromp đã bị phạt và bản thân ông bị cấm không được phục vụ trong hạm đội. Vào tháng 1669 những người ủng hộ Tromp đã cố gắng đâm De Ruyter tại lối vào nhà của ông. Phải đến năm 1672 Tromp mới trả được thù của mình, khi Johan de Witt (người đứng đầu Hà Lan) bị ám sát, một số người nói rằng Tromp đã nhúng tay vào vụ này. Người cai trị mới, William III của Orange, đã thành công mặc dù gặp nhiều khó khăn, trong việc hòa giải giữa De Ruyter với Tromp trong năm 1673.

Trận đột kích Medway

Ngày Ngày 09 tháng 6-- >14 tháng 6 1667

Vị trí gần Chatham, Anh

Kết quả Hà Lan chiến thắng quyết định

Các bên tham chiến

Anh

Chỉ huy

Prince Rupert of the Rhine

George Monck, 1st Duke of Albemarle

Sức mạnh

nhiều tàu, các đơn vị đồn trú ở các pháo đài Upnor và Sheerness

Thương vong và thiệt hại

13 tàu Anh bị tiêu diệt

các tầu HMS Unity và Royal Charles bị bắt về Hà Lan

Cộng hòa Hà Lan

Chỉ huy

Michiel de Ruyter

Joseph Willem van Ghent

Cornelis de Witt

Sức mạnh

khoảng 60 tàu; 1500 lính thủy đánh bộ

Thương vong và thiệt hại

Khoảng 50 Thủy quân lục chiến

Trận đột kích vào Medway, Đôi khi được gọi là Trận Medway hoặc Trận Chatham, Là một trận tấn công thành công nhất của người Hà Lan vào tàu hải quân Anh lúc này đang được đặt lên trong ụ tầu của căn cứ hải quân chính của họ ở Chatham, sự việc diễn ra trong tháng 6 năm 1667 trong cuộc chiến lần thứ hai Anh-Hà Lan. Người Hà Lan, dưới sự chỉ huy danh nghĩa của Chuẩn - Đô đốc Michiel de Ruyter, oanh tạc và chiếm giữ thị trấn Sheerness, họ đi lên dọc Sông Thames tới tận Gravesend, sau đó ngược sông Medway đến tận Chatham, nơi họ đốt cháy ba tàu chính và nhiều hơn mười tàu chiến nữa của hải quân và kéo đi các tầu HMS Unity và HMS Royal Charles, các Kỳ hạm vốn là niềm tự hào của hạm đội Anh. Cuộc tấn công dẫn đến một kết thúc nhanh của cuộc chiến tranh và một lợi thế cho Hà Lan trong đàn phán hòa bình.

Bối cảnh trận đánh

Các hoạt động của hạm đội của nhà vua Anh Charles II đã bị cắt giảm để phù hợp với các hạn chế về kinh phí gần đây với những ( con tàu lớn) vẫn còn phải nằm lại trên ụ tàu, do đó, người Hà Lan uốn bắt lấy cơ hội của họ tốt. Họ trước đó đã có kế hoạch cho một cuộc tấn công như vậy trong năm 1666 sau trận Bốn Ngày nhưng những gì ngăn cản không cho họ thực hiện cuộc tập kích lại chính là thất bại của họ trong trận St James Day. Người thực sự đứng đằng sau kế hoạch này là nhà chính trị gia hàng đầu của Hà Lan Grand Pensionary Johan de Witt. Anh trai của ông ta, Cornelis de Witt, được phái đi kèm với các đội tàu để tăng cường giám sát. Đàm phán hòa bình đã được tiến hành tại Breda kể từ tháng ba, nhưng Charles đã cố gắng để trì hoãn việc ký kết hòa bình, hy vọng cải thiện vị trí của mình thông qua sự trợ giúp bí mật của người Pháp, do đó, De Witt nghĩ rằng tốt nhất là chấm dứt chiến tranh một cách nhanh chóng với một chiến thắng rõ ràng của Hà Lan, trong đó tất nhiên có thể dẫn đến nhiều điều kiện thuận lợi. Hầu hết các kỳ hạm đô đốc của Hà Lan đều nghi ngờ về tính khả thi của cuộc tấn công, vì sợ những bãi cát ngầm nguy hiểm ở cửa sông Thames, nhưng họ vẫn tuân lệnh. Người Hà Lan đã sử dụng hai hoa tiêu bỏ trốn người Anh, một trong hai người là dissenter (một giáo phái ly khai từ Anh giáo ) tên là Robert Holland, còn người kia là một tay buôn lậu đang chạy trốn khỏi công lý Anh.

Trận đột kích

Người Hà Lan xuất phát

Vào ngày 17 Tháng Năm các Hải đội của Hải quân Rotterdam khởi hành đển Texel để gia nhập với các đơn vị của Amsterdam và khu phía Bắc. Họ nói rằng các hải đội của Frisia là chưa sẵn sàng vì có vấn đề trong tuyển dụng (cưỡng ép trưng binh bị cấm tại Cộng hòa Hà Lan), ông rời khỏi Schooneveld ra ngoài khơi bờ biển Hà Lan để gia nhập vào hải đội Zealand, tuy nhiên hải đội này cũng phải chịu từ những vấn đề tương tự. De Ruyter sau đó khởi hành đến Thames ngày Ngày 04 tháng 6 ( Lịch cũ) với 62 tàu khu trục (frigate) và tàu of-the-line cùng với khoảng mười lăm tàu nhẹ và mười hai tầu hỏa công (fireship), khi gió quay sang phía đông. Hạm đội này được tổ chức lại thành ba hải đội:Hải đội đầu tiên dưới sự chỉ huy của bản thân De Ruyter cùng với Phó Đô đốc Johan de Liefde và Chuẩn đô đốc Jan Jansse van Nes.Hải đội thứ hai dưới sự chỉ huy của Chuẩn - Đô đốc Aert Jansse van Nes cùng với Phó Đô đốc Enno Doedes Star và Chuẩn đô đốc Willem van der Zaan.Hải đội thứ ba dưới sự chỉ huy của Chuẩn - Đô đốc Baron Joseph Willem van Ghent với Chuẩn - Đô đốc Jan van Meppel dưới quyền có Phó đô đốc Isaac Sweers và Volckert Schram cùng với các Hậu quân - đô đốc David Vlugh và Jan Gideonsz Verburgh.Hải đội thứ ba có tới hai bộ máy chỉ huy; sở dĩ có việc này là để sử dụng những đô đốc này vào một lực lượng tàu khu trục nhỏ đổ bộ đặc biệt, được thành lập vào ngày đến nơi và được lãnh đạo bởi Đại tá và Chuẩn - Đô đốc Van Ghent, trên chiếc tàu khu trục nhỏ Agatha. Baron Van Ghent trong thực tế, là chỉ huy thực sự của đoàn viễn chinh và cũng là người xây dựng tất cả những kế hoạch hoạt động, ông cũng là chỉ huy của Thủy quân lục chiến Hà Lan, lực lượng lần đầu tiên trong lịch sử có khả năng trong hoạt động lưỡng cư, bây giờ lực lượng này được lãnh đạo bởi đại tá Anh Thomas Dolman.Trong ngày 06 tháng 6 một đám sương mù được thổi đi xa và bộc lộ lực lượng đặc nhiệm Hà Lan, lúc này đang dong buồm vào cửa sông Thames. Trong ngày 07 tháng 6 Cornelis de Witt cho thấy chỉ thị tối mật tới ông ta trực tiếp từ Thống Đốc các Tỉnh, bằng văn bản vào ngày 20 tháng năm, trong sự hiện diện của tất cả các chỉ huy. Đã có rất nhiều tiếng phản đối (người Hà Lan bao giờ cũng vậy - luôn luôn 10 người thì có 10 ý tưởng khác nhau ), trong khi chỉ có những đóng góp của De Ruyter là đáng kể vào cuộc thảo luận (bevelen zijn bevelen - mệnh lệnh là mệnh lệnh), ngay cả Cornelis sau khi nghỉ ngơi tại cabin của mình vào cuối đêm, lúc viết trong báo cáo hàng ngày của mình, rằng ông không cảm thấy chắc chắn là ông sẽ tuân thủ theo mệnh lệnh. Tuy nhiên ngày hôm sau lại hóa ra là hầu hết các sỹ quan đều sẵn sàng cho một chút phiêu lưu: họ chỉ đưa ra ý kiến chuyên môn của họ để ghi lại để họ có thể đổ lỗi cho các chính trị gia nếu khi kết thúc toàn chiến dich nằm trong thảm họa. Đó là ngày một nỗ lực đã được thực hiện để bắt lấy một đội khoảng hai mươi tầu Anh buôn được thấy đang đi ngược lên phía của sông Thames theo hướng London, nhưng việc này không thành công vì họ bỏ chạy về phía tây, về phía Gravesend.Cuộc tấn công đã làm cho người Anh bất ngờ. Không có sự chuẩn bị kỹ càng được thực hiện cho các tình huỗng ngẫu nhiên như vậy, mặc dù người Anh đã được cảnh báo rất nhiều từ mạng lưới gián điệp rộng rãi ( Mà cảnh báo liên tục thì khiến người ta phải cảnh giác cao độ -- > mệt mỏi -- > mất cảnh giác thôi ). Hầu hết các tàu frigate đang được tập hợp tại các hải đội ở Harwich và ở Scotland, làm cho vùng London chỉ được bảo vệ bởi một số nhỏ các tàu đang hoạt động, hầu hết trong số họ là chiến lợi phẩm trong cuộc chiến tranh trước đó Hà Lan. Như một biện pháp kinh tế - thắt chặt chi tiêu hơn nữa vào ngày 24 Tháng 3 Công tước của York đã ra lệnh giải tán hầu hết các thủy thủ của các tàu chiến lợi phẩm, chỉ để lại ba tàu ba bảo vệ Medway, để bồi thường cho thủy thủ đoàn của một trong số đó, tàu frigate Unity ( trước là chiếc Eendracht của Hà Lan, con tàu đầu tiên bị bắt giữ trong năm1665, là tàu cướp biển của Cornelis Evertsen) đã được nâng cấp từ 40- >60 súng, ngoài ra người Anh cũng có số tầu hỏa công fireship từ một đến ba chiếc. Còn có khoảng ba mươi chiếc sloop lớn đã được chuẩn bị để ngăn chặn bất kỳ tàu nào để đảm bảo an toàn trong trường hợp khẩn cấp. Sir William Coventry còn mạnh miệng tuyên bố rằng một cuộc đổ bộ của Hà Lan gần London là rất khó xảy, theo ông ta thì người Hà Lan để củng cố tinh thần của họ, sẽ khởi động một cuộc tấn công với một hạm đội có kích cỡ trung bình và tiếp cận với mục tiêu như Harwich, mà nơi đó đã được tăng cường mạnh mẽ trong mùa xuân. Không có dòng nào rõ ràng trong các lệnh tới hầu hết các cơ quan chịu trách nhiệm ra lệnh một cách vội vã mà không đòi hỏi phải phối hợp với chúng trước đã. Kết quả là có nhiều rắc rối. Charles đã không đưa vấn đề vào tay của chính mình, mà chiều theo chủ yếu là ý kiến của người khác. Người Anh có tinh thần thấp. Không có trả lương trong nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm cho hầu hết các thủy thủ và binh sĩ nên đã làm cho họ ít hơn nhiệt tình hơn so với nguy cơ đe dọa cuộc sống của họ. Anh chỉ có một đội quân nhỏ và các đơn vị có số ít được phân tán bởi vì ý định của Hà Lan là không rõ ràng. Điều này lý giải tại sao không có một biện pháp đối phó hiệu quả nào được đưa mặc dù người Hà Lan phải mất khoảng năm ngày để đến được Chatham, vì phải di chuyển chậm qua các bãi cát ngầm, để lại đằng sau những tầu chiến hạng nặng hơn như là một lực lượng yểm trợ. Họ chỉ có thể tiến lên khi nước thủy triều thuận lợi.Sau khi nâng mức báo động vào ngày 06 tháng 6 tại xưởng đóng tầu Chatham , Ủy viên Peter Pett dường như không có lấy bất kỳ hành động nào hơn nữa cho đến ngày 09 tháng 6 khi vào cuối buổi chiều, một đội khoảng ba mươi tàu Hà Lan đã được nhìn thấy ở Thames ngoài khơi Sheerness. Vào lúc này, các Ủy viên ngay lập tức tìm cách giúp đỡ từ bộ Hải quân gửi một tin nhắn đầy bi quan đến Ban Hải quân, buồn phiền vì sự vắng mặt của quan chức cao cấp Hải quân và lời khuyên mà ông tin rằng ông cần có. Ba mươi tàu chính là những tầu trong hải đội tàu khu trục của Van Ghent. Hải đội tàu Hà Lan mang theo khoảng hơn một nghìn lính thủy quân lục chiến và các địa điểm để đổ bộ là Đảo Canvey ở Essex và mặt đối diện với Kent tại Sheerness. Những người lính này đã nhận mệnh lệnh nghiêm ngặt từ Cornelis de Witt là không được cướp bóc, vì Hà Lan muốn làm người Anh xấu hổ vì quân đội đã cướp bóc Terschelling trong trận đột kích Holmes Bonfire tháng 8 năm 1666. Tuy nhiên, thủy thủ đoàn của thuyền trưởng Jan van Brakel đã không thể kiểm soát bản thân mình. Họ bị đẩy lùi bởi dân quân Anh và bị đe dọa trừng phạt nghiêm trọng khi quay trở về hạm đội Hà Lan. Van Brakel được cho phép để chỉ huy cuộc tấn công ngày hôm sau để tránh bị phạt. Nhà vua (Anh) ra lệnh cho Bá tước Oxford ngày 8 Tháng Sáu để huy động dân quân của tất cả các quận xung quanh London cùng tất cả các sà lan có thể sử dụng được để lập một cầu tàu trên thấp của sông Thames, vì vậy mà kỵ binh Anh có thể nhanh chóng chuyển đổi vị trí từ một trong bờ khác. Sir Edward Spragge, phó Đô đốc nổi tiếng, phát hiện thấy ngày 09 tháng 6 đội đột kích Hà Lan đã đến bờ của Isle of Grain (một bán đảo nơi sông Medway chảy qua từ Kent, và gặp sông Thames). Lính hỏa mai từ đồn trú ở đồn Sheerness đối diện được gửi đến để điều tra tình hình.Vào buổi chiều Ngày 10 tháng 6 nhà vua Anh ra chỉ thị cho Đô đốc George Monck, Công tước của Albemarle đi đến Chatham để phụ trách các vấn đề an ninh và Đô đốc Prince Rupert tổ chức bảo vệ trặt trẽ tại Woolwich ba ngày sau đó. Đầu tiên Albermarle đi đến Gravesend nơi ông ta hoảng hồn khi phát hiện ra rằng ở Tilbury chỉ có một vài súng đã được chuẩn bị, quá ít để ngăn chặn người Hà Lan trước khi có thể đến được sông Thames. Để ngăn ngừa tai họa này, ông ra lệnh cho tất cả các khẩu pháo sẵn có từ thủ đô được chuyển đến vị trí tại Gravesend. Trong 11 Tháng 6 (Lịch cũ), ông đã đến Chatham và hy vọng rằng các nơi đã được chuẩn bị tốt cho một cuộc tấn công. Hai thành viên Hội đồng Hải quân, Sir John Mennes và Lord Henry Brouncker, đã đi cùng trong cùng một ngày. Khi Albemarle đến, tuy nhiên, ông chỉ tìm thấy mười hai trong tám trăm người của xưởng đóng tầu và nơi này đang trong trạng thái hoảng sợ; trong ba mươi chiếc sloop chỉ được chiếc xuất hiên, hai mươi khác được sử dụng để mang những tài sản cá nhân của một số sỹ quan đến chỗ an toàn , như con tàu hiện đại Pett. Không có thuốc súng và xích chuỗi để chặn cửa sông Medway được không được bảo vệ bởi các khẩu đội pháo. Ông ngay lập tức ra lệnh di chuyển pháo từ Gravesend đến Chatham, và việc này đã tốn mất một ngày quý giá.

Cuộc tấn công

Hạm đội Hà Lan đến đảo Sheppey vào ngày 10 tháng 6, và tổ chức một cuộc tấn công vào pháo đài chưa kịp chuẩn bị đầy đủ Sheerness Fort. Thuyền trưởng Jan van Brakel trên chiếc Vrede, theo sau là hai chiếc Man-of-war khác, càng tiến gần đến pháo đài cho tới khi có thể tấn công nó bằng đạn pháo. Sir Edward Spragge chỉ huy tất cả các tàu thuyền đang tại neo tại Medway và ngoài khơi Sheerness, nhưng chỉ có một con tàu có thể để chống lại được người Hà Lan là chiếc tàu khu trục Unity thì không được đóng ở gần pháo đài.Chiếc Unity được hỗ trợ bởi một số tầu ketches và fireships tại Garrison Point, và do pháo đài, nơi mười sáu khẩu súng đã được đặt một cách vội vàng. Chiếc Unity bắn một loạt pháo mạn, nhưng sau đó, khi bị tấn công bởi một fireship của Hà Lan, nó rút lên phía sông Medway, theo sau là fireship và ketche của Anhs. Người Hà Lan bắn vào các pháo đài; hai đã Man-of-war bắn trúng. Sau đó bác sĩ phẫu thuật đã biến mất và hầu hết các binh sĩ đồn trú người Scotland đã bỏ chạy. chỉ còn bảy người ở lại giữ vị trí của họ, nên pháo đài trở nên không thể bảo vệ nổi khi 800 lính thủy đánh bộ Hà Lan đã đổ bộ ở khoảng một dặm cách đó. Với pháo đài Sheerness, toàn bộ số súng của nó bị chiếm bởi người Hà Lan và pháo đài bị cho nổ tung, Spragge trên chiếc du thuyền của ông là Henrietta tới đi dọc theo dòng sông tới Chatham. Trong thời gian diễn ra trận đánh bấy giờ nhiều sỹ quan tập trung vào đó: ngày hôm sau bản thân Spragge cùng với Monck và một vài người trong bộ trưởng hải quân. Tất cả mọi người đều đưa ra những chỉ thị hủy bỏ các mệnh lệnh trước để những người khác khỏi nhầm lẫn mà tiếp tục giữ nguyên vị trí.Như đã nói pháo binh của ông không thể đến sớm, Monck trong ngày 11 ra lệnh cho một đội kỵ binh và một đại đội bộ binh đến để củng cố Upnor Castle. Sông được bảo vệ một cách vội vã với các tầu blockship bị đánh chìm, và các chuỗi xích bên kia sông được bảo vệ bởi các khẩu đội pháo hạng nhẹ. Pett đề xuất rằng một số tầu lớn và tàu nhỏ phải bị đánh chìm để chặn kênh Musselbank ở phía trước của chuỗi xích. Bằng cách này, các tàu lớn HMS Golden Phoenix và HMS House of Sweden (cựu Tàu VOC Gulden Phenix và Huis van Swieten) và HMS Welcome và HMS Leicester và và các tầu nhỏ Constant John, Unicorn và John và Sarah đã bị đánh đắm; Khi việc đo độ sâu của một kênh thứ hai được thực hiện bởi cá nhân Spragge, bất chấp sự bảo đảm bởi Pett, cho thấy là không đủ, họ tiếp tục đánh dắm chiến Barbados Merchant, Dolphin, Edward và Eve, Hind và Fortune. Và như vậy những tàu chiến đầu tiên làm nhiệm vụ phòng thủ đã được sử dụng (vào việc đánh chìm để chặn quân địch), bởi vì về cơ bản là không có đủ thủy thủ đoàn cho chúng (các tầu chiến Anh). Những blockships được đặt khá dày đặc ở một vị trí trên tuyến đường Upchurch -- Stoke và không thể bị phá hủy bởi pháo kích. Monck sau đó quyết định đánh chìm vài tàu ở của ra vào Upnor Reach gần Upnor Castle, tạo ra một rào cản đối với người Hà Lan khi họ vượt qua chuỗi xích ở Gillingham. Chuỗi xích phòng thủ được đặt ở điểm thấp nhất bên kia sông, thực tế ở khoảng chín feet (khoảng ba mét) dưới mực nước giữa các đoạn của nó và do trọng lượng của nó, vì vậy vẫn có thể cho phép các tàu hạng nhẹ vượt qua. Người ta đã được cố gắng để nâng cao nó (chuỗi xích) bằng cách kéo các đoạn dưới nó về gần với bờ biển.Vị trí của các tầu Charles V và Matthias (tầu buôn cũ của Hà Lan Carolus Quintus và Geldersche Ruyter), ngay trên chuỗi xích đã được điều chỉnh để giúp chúng sử dụng các pháo mạn mà chúng có. Chiếc Monmouth cũng được thả neo trên chuỗi xích, ở vị trí để nó thể nổ súng vào khoảng không gian giữa chiếc Charles V và Matthias. Các tàu khu trục nhỏ Marmaduke và Norway Merchant bị đánh chìm phía ngoài chuỗi xích; chiếc tầu lớn Sancta Maria ( tàu VOC cũ Khe van Honingen có 70 pháo) tạo đội hình trong khi khi chuyển cho cùng một mục đích. Pett cũng thông báo cho Monck rằng chiếc Royal Charles đã được chuyển ngược sông. Ông đã được lệnh của Công tước của York vào ngày 27 Tháng Ba để làm việc này, nhưng chưa tuân theo lệnh. Monck lúc đầu tiên từ chối để cung cấp một số lượng nhỏ tầu sloop vì chúng là cần thiết để di chuyển nguồn cung cấp; khi cuối cùng ông thấy rằng thuyền trưởng của chiếc Matthias sẵn sàng hỗ trợ, Pett trả lời rằng lúc này đã quá muộn vì ông ta đang bận rộn để đánh chìm blockship ở phía ngoài và đồng thời cũng không có hoa tiêu đủ táo bạo để chấp rủi ro như vậy. Trong khi đó, các tàu khu trục đầu tiên của Hà Lan đã bắt đầu di chuyển đến chỗ các chiếc Edward và Eve, và chiếm một con kênh vào trước lúc hoàng hôn.Đội củaVan Ghent bây giờ đi ngược sông Medway và ngày Ngày 12 tháng 6 tấn công tuyến phòng thủ của Anh tại chuỗi xích. Đầu tiên chiếc Unity bị tấn công bởi Van Brakel. Sau đó, chiếc fireship Pro Patria dưới sự chỉ huy Jan Daniëlsz van Rijn đã phá vỡ qua chuỗi xích (hoặc đi thuyền qua nó theo một số nhà sử học), các tuyến phòng thủ trong đó đã ngay lập tức bị phá hủy bởi các kỹ sư Hà Lan dưới sự chỉ huy của Chuẩn đô đốc David Vlugh. Sau khi tiêu diệt chiếc Matthias đạn pháo. Các tầu fireships Catharina và Schiedam tấn công chiếc Charles V, chiếc Catharina dưới sự chỉ huy Hendrik Hendriksz bị đánh chìm bởi pháo bờ biển nhưng chiếc Schiedam dưới sự chỉ huy Gerrit Andriesz Mak đã thành công trong việc đốt cháy chiếc Charles V, thủy thủ đoàn của chiếc này bị bắt bởi Van Brakel. Chiếc Royal Charles chỉ với ba mươi khẩu pháo trên tàu và thủy thủ đoàn đã bỏ chạy khỏi bộ khung của nó khi họ nhìn thấy chiếc Matthias bị đốt cháy, sau đó nó (chiếc tầu) đã bị bắt bởi Thomas Irishman Tobiasz thuyền trưởng kỳ hạm của Phó Đô đốc Johan de Liefde, và mang về Hà Lan dù họ gặp thủy triều bất lợi. Chỉ có chiếc Monmouth chạy thoát. Khi Monck thấy thảm họa này ông ta ra lệnh cho đánh đắm tất cả 16 chiếc tàu chiến còn lại để ngăn chúng khỏi bị bắt, làm cho tổng số khoảng ba mươi chiếc tầu cố ý bị đánh chìm bởi chính người Anh. Ngày hôm sau, ngày 13 tháng 6, toàn bộ mặt sông Thames cũng như ở London chìm trong một cơn hoảng loạn - một số tin đồn lây lan rằng tầu Hà Lan đang trong quá trình vận chuyển quân đội Pháp từ Dunkirk để cho một cuộc xâm lược quy mô - và nhiều công dân giàu có đã bỏ chạy khỏi thành phố, lấy tài sản của họ có giá trị nhất với họ. Người Hà Lan tiếp tục tiến lên phía trước và họ vào bến cảng Chatham với các tầu fireship Delft, Rotterdam, Draak, Wapen van Londen, Gouden Appel và Princess dưới làn đạn của người Anh từ lâu đài Upnor và từ ba khẩu đội pháo bờ biển. Một số tàu khu trục Hà Lan dập tắt hỏa lực của người Anh, và chịu thương vong khoảng bốn mươi người chết và bị thương. Ba trong số những chiếc tầu tốt nhất và hạng nặng nhất của hải quân Anh, đã đánh chìm để ngăn việc bị bắt giữ, bây giờ lại tiếp tục ăn đạn (chắc là chỗ này nước nông nên tuy bị đánh chìm nhưng tầu vẫn nửa chìm nửa nổi): đầu tiên là chiếc Loyal London, bị đốt cháy bởi chiếc Rotterdam dưới sự chỉ huy Cornelis Jacobsz van der Hoeven, sau đó là chiếc Royal James và cuối cùng là chiếc Royal Oak, nỗ lực trụ lại của hai fireship (của Anh) nhưng bị đốt cháy bởi chiếc thứ ba (của Hà Lan). Thủy thủ đoàn của Anh bỏ rơi con các tàu của họ(lúc này) đã ngập nước đến một nửa, chủ yếu là trong một cuộc giao chiến nào, có một ngoại lệ đáng chú ý là đại úy Archibald Douglas, của lực lượng bộ binh Scotlan, đã từ chối bỏ chạy khỏi chiếc Oak và chết trong ngọn lửa (các tầu chiến vẫn có bộ binh đi kèm để chiến đấu cận chiến - chắc bác nì không biết bơi ). Chếc Monmouth một lần nữa trốn thoát (phải đổi tên là chạch). Cuộc tấn này, làm phí tổn bốn trong tám tàu còn lại của người Anh với hơn 75 khẩu pháo. Ba trong bốn "tàu vĩ đại - trên 1.000 tấn" nhất của hải quân Anh đã tiêu. Chiếc "tàu vĩ đại" Royal Sovereign (tên cũ HMS Sovereign of the Seas đóng lại như một tầu hai tầng pháo), còn nguyên donó đang ở tại Portsmouth vào lúc đó (chả khác trận Trân Châu Cảng là mấy các bác nhề). De Ruyter lúc bây giờ mới gia nhập vào hải đội Van Ghent.

Người Hà Lan rút lui

Có lẽ vì ông ta lo sợ có một sự kháng cự dai dẳng của người Anh, Cornelis de Witt vào ngày 14 tháng 6 đã từ bỏ một quyết định đột kích sâu hơn nữa và thu hồi, kéo chiếc Royal Charles đi cùng như là một chiến lợi phẩm; chiếc Unity cũng được mang về như là một giải thưởng cho các thủy thủ đoàn. Quyết định đánh đắm một cách an toàn ở ngoài khơi các tầu HMS Royal Katherine, HMS Unicorn, HMS Victory và HMS St George. Tuy nhiên các đội phá hủy của Hà Lan vào ngày đó nhảy lên bất cứ con tàu nào mà họ có thể tiếp cận để đốt cháy nhiều như họ có thể làm, vì việc này bảo đảm tiền thưởng của họ. Bấy giờ một con tầu còn lại ở bến cảng thì cũng không ai biết chắc chắn rằng nó là phần còn lại của chiếc Oak, James và London, do bị cháy tai nạn như chiếc Slot van Honingen, Mặc dù người ta đã dự định để cứu hộ chiếc tầu buôn này. Bây giờ các làng của Anh lại bị cướp phá - bởi chính quân đội của họ. Hạm đội Hà Lan, sau khi kỷ niệm tập thể cám ơn Chúa cho "một chiến thắng lớn trong một cuộc chiến tranh chỉ để tự vệ" (hơ hơ người Anh theo đạo Tin lành mà người Hà lan cũng theo đạo Tin lành - > Chúa đứng về phía bên nào?) sau đó họ đã cố gắng để lặp lại sự thành công của mình bằng cách tấn công một số cảng khác trên bờ biển phía đông của Anh nhưng bị đẩy lùi theo mỗi lần tấn công. Ngày 27 tháng 6 một cố gắng để tiến vào sông Thames từ phía ngoài khơi Gravesend đã bị hủy bỏ bởi họ biết rằng con sông này đã bị chặn bởi các tầu blockships và năm tầu fireship đang chờ đợi cuộc tấn công của người Hà Lan. Ngày 02 tháng 7 là một lực lượng hải quân Hà Lan đổ bộ tại Woodbridge gần Harwich và ngăn chặn thành công việc người Anh tăng cường cho pháo đài Landguard Fort bằng một cuộc tấn công trực tiếp vào pháo đài với 1.500 thủy quân lục chiến và họ đã dập tắt sự kháng cự của các lực lương đồn trú. Vào ngày 03 tháng bảy một cuộc tấn công vào vịnh Osleybay đã thất bại. vào ngày 21 tháng 7 Lịch Julius hòa bình đã được ký kết.

Tuy nhiên Samuel Pepys vẫn ghi trong nhật ký của mình vào ngày 17 tháng 7 1667: "Các tầu Hà Lan trong hạm đội chính của họ vẫn ở khắp mọi nơi trong khoảng từ Harwich, đến gần Portsmouth; và chữ cái cuối nói ở Plymouth, và bây giờ họ kéo đến Dartmouth để tiêu diệt hạm đội của chúng tôi gần đây tại chỗ này hoặc chỗ kia; nhưng chỉ Chúa mới biết liệu họ có thể làm được điều đó hay không, nhưng thông tin thì loang ra quá nhanh rằng các đội tàu Hà Lan xuất hiện ở quá nhiều nơi, làn Ngài W. Batten phải đập bàn và kêu lên, vì Chúa, Tôi nghĩ rằng bọn Hà Lan là một lũ Quỷ sứ ..."

Hậu quả

Nhân viên ở cầu tầu John Norman ước tính thiệt hại do cuộc đột kích là khoảng ₤ 20.000 chưa tính những chi phí để thay thế cho bốn tàu vốn đã bị mất; những thiệt hại hoàn toàn của Hải quân Hoàng gia phải tính gần đến 200.000 ₤. Pett thực hiện một chạy chốn cùng với £ 5.000 trong văn phòng của ông ta, những người khác trước đó bỏ qua lời cảnh báo của ông ta rằng sẽ trị tội bất cứ sự bỏ chốn nào và họ lặng lẽ trốn thoát. Các chiếc Royal James, Oak và chiếc Loyal London cuối cùng được vớt và đóng lại, nhưng với chi phí rất lớn; trong khi London từ chối chia sẻ gánh nặng này, Charles đã đổi tên con tàu sau này thành đơn giản là London. Trong một vài năm sau đó hạm đội Hà Lan trở thành hạm đội mạnh nhất thế giới, nhưng khoảng năm 1670 một chương trình đóng mới đã làm cho Hải quân Anh phục hồi được quyền lực trước đây của nó.Trận đột kích vào Medway là một đòn nghiêm trọng đến danh tiếng của Hoàng Gia Anh. Cá nhân Charles cảm thấy bị xúc phạm bởi thực tế của Hà Lan đã tấn công, trong khi ông đặt hạm đội của mình ở các cầu tầu và các cuộc đàm phán hòa bình đang được thảo luận liên tục. Sự tức giận của ông ta là một trong những nguyên nhân của cuộc chiến lần thứ ba Anh-Hà Lan và nó thúc đẩy ông ta tham gia vào Hiệp ước Dover với Louis XIV của Pháp.Tổng thiệt hại cho người Hà Lan là tám tầu fireship và chỉ có khoảng năm mươi thương vong. Trong khắp Cộng hòa Hà Lan dân chúng hân hoan sau chiến thắng này, nhiều lễ hội được tổ chức, lặp đi lặp lại cho tới khi hạm đội quay trở lại vào tháng mười, các đô đốc được ca ngợi là các anh hùng. Họ được thưởng bằng hàng đống lời tán dương và dây chuyền vàng danh dự và lương hưu của Thống đốc các tỉnh và các tổng đốc, De Ruyter, Cornelis de Witt và Van Ghent được vinh dự của quý cốc rựu lễ mạ vàng, mô tả lại các sự kiện. Cornelis de Witt đã có một bức tranh lớn "Sea Triumph", với hình của ông ta như là chủ đề chính, được hiển thị trong tòa thị sảnh của Dort. Việc kỷ niệm chiến thắng kiểu này của phe De Witt Hà Lan gây phẫn nộ cho phe Orangist đối thủ, khi chế độ Cộng hòa Hà Lan bị mất quyền lực của mình ở sự kiên rampjaar 1672 (tuyển hầu Bavaria, nước Anh và chủ yếu là nước Pháp chiếm được Hà Lan trong chiến tranh kế vị vua Tây Ban Nha), đầu của Cornelis được vẽ trong bức tranh đã bị xóa và sau khi Charles (vua Anh) đã cho một số thái độ giận dữ bức tranh đã được gỡ bỏ.Chiếc Royal Charles, rất khó để nó sử dụng trong vùng nước cạn Hà Lan, và nó đã nằm vĩnh viễn ở xưởng đóng tầu Hellevoetsluis như là một điểm du lịch, cho những chuyến đi trong ngày được tổ chức cho các đoàn lớn, thường là khách nước ngoài; sau các phản đối của Charles rằng điều này xúc phạm danh dự của ông ta, các chuyến đi chính thức được kết thúc và Royal Charles cuối cùng đã được tháo dỡ trong 1672; nhưng trong hầm rượu của Rijksmuseum Amsterdam là một phần của chiếc Huy hiệu với con Sư tử và Unicorn và dòng chữ Dieu et mon droit vẫn còn được trưng bày.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top