Buồn nôn, Sartre thơ thẩn trước cổng chùa_Kiệt Tấn

"Je comprenais la Nausée, je la possédais."

Sartre

"Xá lợi tử! Thị chư pháp không tướng"

Bát nhã Tâm Kinh

A. Dẫn nhập

L’existentialisme, Thuyết hiện sinh của Sartre là triết thuyết rất thịnh hành trong thập niên 1960. Buồn nôn, phi lý là thái độ rất thường thấy trong giới trí thức trẻ vào thời kỳ này. Lúc đó, người viết mới vào lứa tuổi 20 nên không rõ Thuyết hiện sinh là cái gì cho lắm. Bây giờ, hơn 40 năm sau mới có dịp trở lại tìm hiểu cái hiện tượng “buồn nôn, phi lý”, “rong rêu sỏi đá” của các bậc đàn anh mình thời trước.

Rồi buồn nôn chợt đến

[…] Như vậy, khi nãy tôi ở trong công viên. Rễ cây marronnier lặn sâu trong đất, ngay dưới băng ghế tôi ngồi. Tôi không còn nhớ ra đó là một cái rễ cây. Các từ ngữ đã tan biến, và cùng tan biến theo nó ý nghĩa của sự vật, cách sử dụng chúng, những dấu ghi mờ nhạt mà người ta đã vạch trên mặt chúng. Tôi ngồi, người hơi cong, đầu cúi, một mình đối diện với khối vật đen đúa và gút mắc, hoàn toàn thô thiển và nó làm tôi sợ. Và rồi trong tôi chợt bừng sáng. Điều đó khiến tôi ngộp thở. Trước những ngày gần đây, chưa bao giờ tôi linh cảm "hiện hữu" muốn nói lên điều gì. Nếu có ai đó hỏi tôi hiện hữu là gì, có lẽ tôi sẽ trả lời một cách thành thật rằng nó chẳng là gì cả, nó chỉ vỏn vẹn là một hình thể trống rỗng (forme vide) ghép lên sự vật từ phía bên ngoài mà không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của sự vật. Và rồi thế đó; bất thình lình, nó có đó, sáng trưng như ban ngày: hiện hữu thình lình được vén màn. Nó đã đánh mất cái dáng vấp vô hại của thể loại trừu tượng: chính nó là cái chất bột (pâte) của sự vật, cái rễ cây này được nhồi nặn trong chất hiện hữu. Hoặc đúng hơn, cái rễ cây, hàng rào của khu vườn, băng ghế, loại cỏ mọc lơ thơ trên thảm cỏ, tất cả đều tan biến; cái đa dạng (diversité) của sự vật, tính cá biệt (individualité) của chúng chỉ là cái dáng dấp bên ngoài, một lớp sơn. Lớp sơn đã tan chảy, chỉ còn lại những khối chất (masses) quái dị và mềm nhão, hỗn độn – trần truồng, một sự trần truồng kinh khiếp và tục tĩu (obscène).

[…] Khoảnh khắc đó thật là phi thường. Tôi ngồi đó, bất động và lạnh cóng, đắm chìm trong một nỗi tê mê khủng khiếp. Nhưng, ngay trong lòng tê mê đó, một điều mới tinh khôi vừa chợt xuất hiện: tôi hiểu sự Buồn nôn, tôi mang nó trong người. Nói đúng ra thì tôi không tự diễn đạt các khám phá của mình. Nhưng tôi tin rằng, giờ đây, rất dễ cho tôi dựng chúng lên thành chữ. Điều cốt lõi là tính ngẫu nhiên (contingence). Tôi muốn nói, theo định nghĩa, hiện hữu không phải là điều tất định (nécessité). Hiện hữu là có đó, giản dị như vậy thôi; các thể vật hiện hữu (existants) xuất hiện, chúng để cho ta gặp gỡ, nhưng không bao giờ ta có thể diễn dịch (déduire) được chúng. (Trích La Nausée, J.P. Sartre, Gallimard xuất bản 1938)

Sartre (Jean-Paul Sartre / JPS) nổi tiếng là người có lối viết triết học vô cùng bí hiểm và tối tăm. Tác phẩm nền tảng của triết thuyết hiện sinh, L’Être et le Néant (Hữu thể và Hư vô) không có mấy ai đọc nổi và thấu triệt được hết những gì mà Sartre muốn thuyết giảng. Chẳng hạn như câu Sartre viết như sau về ý thức: "La conscience est un être pour lequel il est dans son être question de son être en tant que cet être implique un être autre que lui." (Cái gì être? Và être cái gì? Giống như là viết truyện trinh thám. Bí mật hoàn toàn). Theo sự hiểu biết thô thiển của người viết thì đại ý của câu nói "hoả mù" đó là: "Ý thức là ý thức về một cái gì đó khác hơn mình." Và cái ý này là của Husserl. Có thể là đã hoàn toàn hiểu sai ý của Sartre. (Nói khó hiểu thì bị người khác hiểu sai là điều… dễ hiểu). Có người đã diễu cợt: "Triết lý là gì ? Triết lý là nói thật rắc rối về những điều rất là giản dị." Có dụng ý gì trong cái "rắc rối" (cuộc đời) đó chăng?

Bởi lẽ đó, trước khi trình bày quan điểm của mình, người viết thấy cần lược dịch bài diễn giải bản văn trên của JPS, do Jean Vioulac (JV), một giáo sư và học giả am tường triết học Tây phương viết ra, để làm sáng tỏ những điều mà Sartre muốn diễn đạt.

Hữu thể trong trạng thái thô thiển (état brut)

La Nausée (Buồn nôn) mà Sartre viết ra trong đầu những năm 1930 vẫn còn là một trong những ví dụ thành công nhứt của thể loại "tiểu thuyết triết lý". Quyển sách được trình bày như là nhựt ký thân thiết của một người trai trẻ, Antoine Roquentin. Nó dựa trên một phần lớn đời sống của Sartre ở Le Havre, nơi mà ông được bổ nhiệm làm giáo sư trung học sau khi được nhận vào cấp thạc sĩ triết học.

Qua hành động viết lách, Roquentin cố thử tìm hiểu cái cảm giác bất ổn lan man đang làm cho mình khắc khoải, cái mà anh ta gọi là "buồn nôn". Trích đoạn trên là giải đáp cho sự bí ẩn, khoảnh khắc mà Roquentin chợt hiểu buồn nôn là gì: một kinh nghiệm hiện sinh, qua đó cái sự thật của hữu thể hiển lộ. thì ra buồn nôn là một kinh nghiệm của hữu thể trong trạng thái thô thiển (état brut), nơi đó con người đối đầu với thế giới mà không có sự trợ giúp của các điểm chuẩn (repères) quen thuộc, những chữ (mots) hoặc nghĩa (significations). Sự đóng góp có tính cách quyết định của khái niệm "ý hướng" (intentionnalité) chính ở chỗ nó chỉ cho thấy rằng các sự vật tự nó không có ý nghĩa (sens), chúng tiếp nhận một ý nghĩa từ một ý thức (conscience) nhắm vào chúng và quan sát chúng.

Như vậy, đối với một người đi dạo ngồi trong công viên, không có một cái cây nào tự nó, một cái cây bằng chính nó và bởi chính nó, và nó được người ngồi đón nhận y như vậy: thoạt tiên có một mớ dữ kiện thô thiển, những màu sắc và hình thể tiến đến với ý thức trong một luồng (flux) liên tục và không phân biệt, giữa những dữ kiện khác cũng không phân biệt như nhau. Rồi khi đó, ý thức sẽ sắp xếp các dữ kiện, phân biệt màu xanh lục của tàng lá với nền xanh lơ của bầu trời, nhưng lại nối liền nó với màu nâu sậm của thân cây và ban cho tổng hợp đó cái nghĩa (sens) "cây". [(NDT) sens: nghĩa, ý nghĩa].

Lúc đó, buồn nôn (nausée) chính là cái kinh nghiệm qua đó ý thức không thêm gì hết, không áp đặt một ý nghĩa (sens) nào hết lên thế giới, và chỉ bằng lòng đón nhận: kinh nghiệm đó cho thấy rằng hữu thể chẳng là gì khác hơn là sự hiện diện thuần túy ù lì (massive) và không nghĩa lý (insignifiante), cái "chất bột" (pâte) của sự vật có đó, giản dị như vậy, không nguyên do (cause), không lý do (raison).

Sartre định nghĩa cái đặc tánh (caractéristique) căn bản đó của hữu thể là "ngẫu nhiên" (contingence). Nó xuất phát từ tiếng la-tinh contingencia, sự "tình cờ" (hasard). Cái ý niệm triết học của "ngẫu nhiên" đối chọi với ý niệm "tất định" (nécessité): ngẫu nhiên là tất cả những gì cũng có thể khác hơn cái nó đang là (autrement qu’il n’est), tất cả những gì có thể không hiện hữu, và cũng không có lý do gì để hiện hữu (raison d’être). Như vậy, ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể là phi lý (absurde), và chính đó là kết luận của Roquentin trong La Nausée (Buồn nôn): "Khi nãy, tôi đã làm một kinh nghiệm về tuyệt đối (absolu): tuyệt đối hoặc phi lý". [(NDT) Absurde: phi lý, vô nghĩa]

L’Être et le Néant (Hữu thể và Hư vô) hoàn toàn đặt nền tảng trên sự phân biệt giữa hai vùng của hữu thể triệt để đối nghịch nhau, vùng của "être pour soi" (hữu thể cho nó, quy ngã) nghĩa là vùng của ý thức, và vùng "être en soi" (hữu thể tự nó, tự ngã) vốn là cái chất bột ù lì và phi lý mà ta chỉ có thể chứng kiến sự hiện diện của nó. Sartre ý niệm hoá như thế, cái điều mà buồn nôn là kinh nghiệm trực tiếp. (Jean Vioulac - trích Le Point HS. n° 17-2008)

Trích đoạn của Sartre và bài viết trên của Jean Vioulac xác định những từ ngữ thông thường và triết học sẽ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bài viết này: buồn nôn, chất bột, hình thể, khối chất, thô thiển, lớp sơn, có đó, hiện diện, hiện hữu, hữu thể, hư vô, ý thức, bản chất, ngẫu nhiên, tất định, ý hướng, phi lý, ý niệm, en soi, pour soi

Đó là những từ ngữ và ý niệm khá phổ thông trong triết học tây phương. Bài viết này cố thử làm một cuộc đối chiếu các quan niệm và ý niệm của triết học tây phương với các quan niệm và tư tưởng đông phương. Đúng hơn là với giáo lý của đạo Phật. Và chính xác hơn nữa là với những luận thuyết được đưa ra trong Ma ha Bát nhã Ba la mật đa Tâm Kinh, gọi tắt là Tâm Kinh. Để cho việc đối chiếu được dễ dàng và mạch lạc, trước hết xin dẫn lại dưới đây một vài trích đoạn bằng Hán văn của Tâm Kinh, sẽ được bàn tới trong bài này.

Bát nhã Tâm Kinh

Quán tự tại bồ tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá lợi tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức […]; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới […] vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc.

Đối với các vị đã làu thông kinh Phật, người viết xin lãnh ý, không dám lạm bàn. Đối với các vị chưa có dịp làm quen với Phật pháp, quý vị có thể tìm hiểu Tâm Kinh qua những kinh sách bày biện trong các chùa hay trong các web sites về Phật giáo. Tuy nhiên, để cho người đọc bình thường có thể theo dõi việc đối chiếu và lý luận, người viết xin trình bày thêm bản dịch từ chữ Hán sang chữ Việt của Sa môn Thích Thiện Hoa, và tóm lược các khái niệm căn bản trong giáo lý nhà Phật liên hệ tới Tâm Kinh:

Ngài Quán tự tại Bồ tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát nhã rồi, ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát nhã) nên không còn các khổ.

Ngài gọi ông Xá lợi tử dạy rằng: "Này Xá lợi tử! Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) chẳng khác với "không" (Bát nhã), "không" chẳng khác với năm uẩn; năm uẩn tức là "không", "không" tức là năm uẩn.

Này Xá lợi tử! "Tướng không" (Bát nhã) của các pháp đây, nó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.

Bởi thế nên, trong "Tướng không" (Bát nhã) này, không có năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức […]; không có nhãn thức, cũng không có ý thức […] Không có "Trí" tu chứng và cũng không có đạo quả để chứng đắc.".

Giải thích các từ ngữ:

Bát nhã: Trung Hoa phiên âm chữ Phạn Prajnà, có thể dùng tạm nghĩa Trí huệ (có chỗ dùng Trí tuệ). Tiếng Anh gọi là Wisdom, tiếng Đức là Weisheit, tiếng Pháp là Sagesse.

Sắc, tức là Sắc uẩn: Các vật chất chứa nhóm lại thành ra những hình tướng, như thân thể và cảnh vật…

Tinh thần: gồm 4 uẩn: thọ, tưởng, hành, thức. Cộng với "sắc" thành ngũ uẩn.

Thọ, tức là Thọ uẩn: Sau khi tiếp xúc với cảnh rồi, sanh ra lãnh thọ (khổ, vui, buồn…)

Tưởng, tức là Tưởng uẩn: Tưởng là tưởng nhớ hình tượng của các cảnh.

Hành, tức là Hành uẩn: Hành là sự thay đổi, biến chuyển của tâm niệm.

Thức, tức là Thức uẩn: Thức là hiểu biết phân biệt.

Pháp: chỉ chung cho tất cả sự vật: tinh thần, vật chất, hữu hình, vô hình, hữu vi, vô vi, thánh, phàm, vân vân… Chẳng những bàn ghế là pháp, cho đến hư không cũng là pháp. Bóng trong gương, trăng dưới nước là pháp, mà lông rùa, sừng thỏ cũng là pháp, cho đến tư tưởng tâm niệm cũng là pháp. Phàm những cái gì, tự nó giữ được cái bản chất của nó, làm cho người ta biết được nó là cái gì, thì đều gọi là pháp.

Niệm: nghĩa là ý tưởng, ý nghĩ. Chánh niệm là nghĩ đúng. Vọng niệm là nghĩ sai, hoang tưởng.

Tướng: tướng của các pháp thì có hình tướng

Tánh: tánh của các pháp thì không có hình tướng

Sắc bất dị không, không bất dị sắc: Tướng của các pháp chẳng khác với Tánh của các pháp. Tánh của các pháp chẳng khác với Tướng của các pháp.

Sắc tức thị không, không tức thị sắc: Tướng của các pháp tức là Tánh của các pháp. Tánh của các pháp tức là Tướng của các pháp.

Nhãn thức: cái biết của mắt, phân biệt các cảnh sắc.

Ý thức: cái biết của ý, phân biệt các pháp trần (cảnh nội tâm)

Tướng không (Bát nhã): trong Bát nhã chơn không, không có các pháp thế gian, cũng không có các pháp xuất thế gian. Trong Bát nhã Tâm Kinh, sau rốt cũng không có quả vị Phật. Tóm lại, là "không có Đặng cái gì hết cả".

Cái không trong tướng không (không tướng) đây không phải là hư không, ngoan không hay là cái không đối đãi với cái . Cũng không phải thủ tiêu hết các vật hữu hình mà nói là không. Và cũng không phải là cái không của Tiểu thừa (Thiên không).

Cái không đây tức là bản tánh thanh tịnh (bản tánh không), vì không có các hình tướng nên gọi là không tướng (tướng không). Vì nó không sanh diệt, không hư dối nên cũng được gọi là chơn không, hay thật tướng, chơn tướng, chơn tánh, chơn tâm, chơn như, vân vân…

Tóm lại Tánh của các pháp là "chơn tâm thanh tịnh sáng suốt" không có các hình tướng nên gọi là không tướng, hay Bát nhã chơn không.

Bát nhã Tâm Kinh: nội dung của bài kinh Bát nhã (gồm 260 chữ) mô tả về Không, về Không. Người nào nhận thức được rằng sự hiện hữu này là không thường còn (vô thường), không bất biến, luôn luôn thay đổi, thì đó là cái nhìn của Bát nhã.

Khuôn khổ bàn luận

Đã có rất nhiều bộ sách khảo cứu, tham luận được viết ra để diễn giải, giải thích và minh chứng Bát nhã Tâm Kinh. Bài viết này không có tham vọng lặp lại công việc đó. Tuy nhiên, nếu không có công việc tham luận và diễn giải thì khó lòng mà lãnh hội được Tâm Kinh. Đó là chướng ngại không thể nào tránh được. Bởi lẽ, đối với một người được đào tạo trong truyền thống tây phương, rất khó mà thấu triệt được và chấp nhận cái lý luận có vẻ đầy mâu thuẫn và bí hiểm của Tâm Kinh. Dù biết vậy, nhưng người viết cũng sẽ cố gắng hết sức mình để cho bài viết được mạch lạc, cũng như lập luận và dùng chữ sao cho một người bình thường cũng có thể theo dõi và hiểu được. Do đó sẽ không tránh được các đoạn dài dòng và lặp lại, hầu cho lý luận ở đoạn đó được liên tục và dễ lãnh hội. Các ý chính thường khi xen kẽ nhau, không thể nào tách rời minh bạch được, thành thử phải nhắc lại. Bài viết sẽ sử dụng nhiều ví dụ và ẩn dụ cụ thể để diễn đạt các ý niệm trừu tượng, hầu cho việc tiếp nhận các ý niệm và các lập luận được dễ dàng.

Trước tiên, người viết sẽ duyệt qua các quan điểm của Sartre và diễn giải của Jean Vioulac trong hai trích đoạn dẫn ở đầu bài. Sau đó, sẽ đem các điểm này đối chiếu với khoa học, đồng thời cũng đối chiếu với Tâm Kinh và nhãn quan của Phật giáo. Trong lúc đối chiếu, người viết sẽ đóng góp ý kiến và phát biểu quan điểm của riêng mình. Quan điểm nào cũng chỉ là một quan điểm. Nó có thể đúng, có thể sai, như mọi quan điểm khác. Nó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với quan điểm của người đọc. Nó có thể được thảo luận thêm, bổ túc thêm, hoặc phản bác toàn bộ.

Cũng cần minh định là bài viết này chỉ giới hạn trong nội dung của trích đoạn La Nausée của Sartre và bài diễn giải của Jean Vioulac về quan niệm triết học của Sartre. Người viết không có tham vọng, và cũng không có đủ kiến thức để bàn về triết thuyết mà Sartre đề ra trong L’Être et le Néant. Người viết cũng không tập trung bài viết vào sự thuyết giảng giáo lý nhà Phật, bởi lẽ đó không phải là mục đích của bài viết này. Bài viết này không có tính cách khảo cứu chuyên môn. Vì vậy, sẽ có những sơ hở thiếu sót không tránh được. Bài viết được phân làm 3 tiết mục chính. Người đọc có thể tìm hiểu thêm các đề tài thảo luận qua những sách vở chuyên khoa.

Bàn luận là bàn luận trên quan điểm. Sartre và Jean Vioulac chỉ là những cái tên được nêu ra để làm qui chiếu, chớ không phải để nhắm vào. Bàn luận quan điểm. Không đả kích cá nhân. Tuy nhiên…

MỘT: Lý do hiện hữu – Ý nghĩa – Phi lý / Vọng chấp – Hý luận

Đi vào vấn đề

Sartre: Hiện hữu là có đó, giản dị như vậy thôi; các thể vật hiện hữu xuất hiện, chúng để cho ta gặp gỡ, nhưng không bao giờ ta diễn dịch được chúng.

Đoạn văn cho thấy, khi bất ngờ đối diện với sự vật, công việc đầu tiên của Sartre là cố gắng diễn dịch sự hiện hữu của nó. Bởi có cố gắng diễn dịch nên mới thấy rằng nó không thể nào diễn dịch được. Diễn dịch là nỗ lực nhằm diễn giải, giải thích. "Hiện hữu là có đó". Đây là một ghi nhận, không phải là giải thích. Nhưng vì nguyên do gì và lý do gì mà thình lình sự vật xuất hiện và có đó? Nó không có đó không được sao? Đâu có gì bắt buộc nó nhứt thiết phải có đó. Vậy mà nó vẫn ngang nhiên có đó, ù lì, câm nín. Không tìm được giải thích, Sartre ớn lạnh. Và buồn nôn.

Jean Vioulac: Kinh nghiệm đó cho thấy rằng hữu thể chẳng là gì khác hơn là sự hiện diện thuần tuý ù lì và không nghĩa lý, cái "chất bột" của sự vật nó có đó, giản dị như vậy, không nguyên do (cause), và không lý do (raison) […] Như vậy, ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể là phi lý (absurde).

Khi đặt vấn đề nguyên do và lý do là ta muốn giải thích cái hiện hữu của sự vật: "Nó từ đâu đến? Đến để làm gì? Và đi về đâu?" Đại để là như vậy. Những câu hỏi muôn đời. Và mỗi người đáp một cách.

Trước hết, cần minh định một điều: Khi đặt câu hỏi, khi đặt vấn đề mà không có giải đáp, có thể là đã đặt sai câu hỏi, hoặc đã ngụy tạo ra vấn đề ngay từ đầu. Triết học và siêu hình có rất nhiều vấn đề ngụy tạo. Chẳng hạn hỏi: "Tại sao (vũ trụ) khởi đầu lại có một cái gì, thay vì không có gì hết?" Đáp: "Phải có một cái gì để cho ông mới có chuyện để mà hỏi!" Cũng giống như “To be or not to be, that’s the question”, thay vì “that’s not the question”. Phải “to be” thì ông mới có “question” chớ.

“Từ đâu đến?” Theo Thiên Chúa: “Con người đến từ cát bụi, và trở về với cát bụi.” Theo đạo Phật: “Con người lẩn quẩn trong luân hồi.” Hỏi: “Cái rễ cây này từ đâu đến?” Nó đến từ hạt mầm của cây. Hỏi: “Sartre từ đâu đến?” Sartre đến từ bụng mẹ. Nếu cứ hỏi tiếp và phăng ngược trở về nguồn, trở về khởi điểm, thì ta sẽ gặp cái “Big Bang”, một trong những thuyết về sự sáng tạo của vũ trụ. Đây là một giải đáp về nguyên do của hiện hữu.

“Đến để làm gì?” Đó là chất vấn về cái lý do hiện hữu (raison d’être) của sự vật. “Cái rễ cây có đó để làm gì? Sartre có đó để làm gì?” Đó là chất vấn về cái “lẽ sống”, cái ý nghĩa của hiện hữu. Nếu có ai đó cắc cớ hỏi Sartre: “Sartre có mặt trên đời này để làm gì? Cái lẽ sống, cái lý do hiện hữu của ông là như thế nào?” Chắc chắn Sartre sẽ nhíu mày và quắc mắt: “Từ từ đã nào. Chuyện đâu còn có đó. Anh phải để cho tôi sống hết cuộc đời của tôi đã, rồi mới biết tôi hiện hữu để làm gì, mới biết cái lý do hiện hữu của tôi là cái gì chớ.” Bởi lẽ đó, cái lý do để hiện hữu đầu tiên và trước tiên chính là hiện hữu chớ chẳng là gì khác. “L’existence précède l’essence”, Sartre cũng không nói gì khác hơn. Hỏi “Để làm gì?”, hỏi lý do hiện hữu là đặt cái cày trước con trâu! Ta thường tìm kiếm một cái gì bên ngoài hiện hữu để giải thích, để minh chứng, để ban ý nghĩa cho hiện hữu. Theo quan điểm của người viết: “Ý nghĩa của đời sống, chính là đời sống. Lẽ sống của “sống”, chính là sống. Cái lý do để hiện hữu chính là hiện hữu.”

Khi hỏi Đến để làm gì?” và ban cho hiện hữu một ý nghĩa, thiết tưởng cái điều này chỉ có chính đương sự mới trả lời cho hiện hữu của mình được mà thôi. Còn như nếu trông mong vào tôn giáo, thì phải chờ đợi cho đến lúc cuộc đời ta hoàn toàn kết thúc, phải đợi đến phán xét cuối cùng của Thượng đế mới biết được. Khi đi từ cái rễ cây không lý giải được mà sang đến cái kết luận phổ quát: “Hữu thể là phi lý ngay từ trong yếu tính của nó”, Roquentin đã kết luận một cách hấp tấp, chủ quan, và cường điệu. Roquentin không phải là Thượng đế. Sartre cũng vậy.

“Đi về đâu?” Quo vadis? Cái thắc mắc và giải đáp cho thắc mắc này thuộc lãnh vực tôn giáo và siêu hình, xin miễn bàn. Một điều chắc chắn: Cuối cùng, mọi người đều đi về nghĩa địa, hoặc là giàn hoả. Không bàn chuyện siêu hình. Ở đây chỉ bàn những chuyện có hình. Dù biết rằng cái hình tướng đó chỉ là giả tướng. Có bàn, càng bàn, càng thấy nó là giả tướng.

Khoa học nói gì?

“Hữu thể có đó, không nguyên do, không lý do.” Tranh luận trong lãnh vực trừu tượng là tranh luận bất tận, và rất thường khi, lúc tạm kết, không thể nhứt quyết là ai có lý, và ai thắng ai bại rõ rệt như hai đội túc cầu trong một trận đá bóng. Bởi lẽ đó, trước hết nên bàn cãi trong lãnh vực cụ thể: khoa học. Đối với khoa học thì khi một vật có đó, là nó có nguyên do và lý do để có đó. Có điều là trong khả năng hiện tại (dụng cụ quan sát, đo lường, phương pháp khảo sát…), đôi khi ta chưa giải thích được, chưa biết được vì lý do nào mà nó có đó. Ta chưa giải thích được tại sao (pourquoi?), và như thế nào (comment?) mà nó có đó. Cái “như thế nào” còn mong có ngày biết được. Còn cái “tại sao” có lẽ ta sẽ không biết được bao giờ. Nhưng cái sự kiện ta không biết không có nghĩa là nó không có. Bằng chứng hiển nhiên: sự vật có đó. Vậy thì giải thích làm sao đây? Đáp: “Chưa giải thích được!” Và tạm đặt tên cho nó là bí ẩn (énigmes). Trong trời đất, trong cõi người, có những bí ẩn từ hàng trăm hàng ngàn năm nay, cho tới giờ vẫn còn là bí ẩn. Người ta gọi là bí ẩn chớ không gọi là phi lý. Kiên nhẫn thì gọi là bí ẩn. Hấp tấp thì la lên phi lý! Nếu tuyên bố vội vàng "Hữu thể là phi lý", thì cũng không có thể kiên nhẫn mà nhủ thầm "Hữu thể là bí ẩn". Cũng đâu có sao.

Những tình trạng "chưa giải thích được" này cũng không hiếm trong hai lãnh vực thiên văn và vật lý. Thiên văn: Trong vũ trụ người ta quan sát được những thiên thể và những hiện tượng mà tạm thời không lý giải được với những thuyết hiện có (thuyết tương đối, nhiệt động, điện từ, cơ khí lượng tử…). Vật lý: Có những hạt tử và hiện tượng nguyên tử mà khoa học, tuy rằng đã quan sát được, nhưng chưa hiểu được nguyên do và lý do xuất hiện của nó. Ngược lại, cũng có những vật chất, tuy rằng trên lý thuyết nó có, nhưng mà ta vẫn chưa quan sát được, như vật chất đen (matière noire), phản vật chất (antimatière)… Tuy nhiên, trong tinh thần khoa học thì không có gì có thể là ex nihilo, nghĩa là từ hư vô mà xuất hiện.

Nhân nói về vật chất, chính vật lý là khoa chuyên nghiên cứu về vật chất, hiện nay cũng không biết vật chất là cái quái gì hết. Hỏi các nhà vật lý đã đoạt giải Nobel: "Vật chất là gì?", các nhà bác học trứ danh này cũng ú ớ luôn. Vật chất là những hạt tử nhỏ li ti? Hay là một làn sóng? Hay là năng lượng cô đọng lại? Hay chỉ là một ảo tưởng do nhiều hiện tượng (nhiều nhân duyên) trong Trời Đất hiệp lại mà tạo ra? Một cái maya, một cái ảo tưởng, nói theo Phật ngữ. Hơn nữa, chính cái "sự thật khoa học" xưa nay được coi như là vững chắc nhứt, bây giờ cũng trở thành nghi vấn. Bởi lẽ các thuyết khoa học cũng đã "trợt vỏ chuối" nhiều phen. Trở lại cái rễ cây của Roquentin, tới khoa học cũng còn chưa biết nó là cái quái gì, mà bây giờ Sartre lại nói về cái bản chất, cái yếu tính và phán rằng "nó không có lý do để hiện hữu" thì quả thiệt là… phiêu lưu văn nghệ (hay triết lý? hoặc siêu hình?). Cái có hình còn chưa biết được, ở đó mà…

Hư vô (néant) khác với chơn không (vide). Hư vô (theo nghĩa của Sartre?) là cõi không còn gì hết, đi vào đó là biến mất tuyệt đối, "tiêu tùng" vĩnh viễn. Còn chơn không (phần nào hiểu theo nghĩa Phật giáo và Lão tử) là cõi không có giới hạn và cũng không có gì, vật chất lẫn không vật chất, nhưng lại có tiềm năng tái tạo hiện hữu (chơn không diệu hữu). Tiềm năng của chơn không nó vô biên. Một bằng chứng cụ thể: chơn không chứa được hết muôn vật, muôn loài, muôn pháp. Theo nghĩa này thì chơn không là "Mẹ của tất cả". Thí dụ: không có chơn không thì lấy gì mà chứa đựng vũ trụ? Lấy đất mà chứa sắt, phỏng đặng chăng? Ngay cả cho rằng quặng sắt "nằm trong" lòng đất đi nữa (thiệt ra thì sắt và đất trộn lẫn nhau, hoặc nằm cận kề bên nhau), thì lấy một chất khác (như không khí) mà chứa thì lại hỏi tiếp: "rồi lấy gì mà chứa?" rồi lại vân vân… vân vân…

Ngay cả Đấng Sáng tạo là Người (?) đã tạo ra vũ trụ (và muôn loài), nhưng thử hỏi Đấng Sáng tạo đứng ở đâu để mà tạo tác? Chẳng lẽ Thượng đế "vô gia cư"? Nếu cho rằng chính Đấng Sáng tạo đã tạo ra chơn không, thì cái chuyện này ai cũng có thể khoanh tay mà làm được. Mà thôi, bàn cái chuyện nầy chỉ là hý luận. "Bất khả tư nghì". Không thể nghĩ bàn.

Cho xem cái "lý do hiện hữu"!

Giờ đây, hãy rời lãnh vực "cụ thể" để đi vào lãnh vực "trừu tượng". Trước hết, tuyên bố "Hữu thể có đó là "ngẫu nhiên", do đó nó không có lý do để hiện hữu" là cướp đoạt ngay từ đầu quyền hiện hữu, quyền sống của hữu thể. Là ngăn chận ngay từ đầu, không cho nó thực hiện các dự tính qua đó nó chứng minh lý do hiện hữu của nó. Tuyên bố như vậy là mù quáng, ngớ ngẩn và độc đoán. Tuyên bố như vậy là tự phong cho mình làm một thứ "Thượng đế bỏ túi", một bạo chúa tự tung tự tác hoàn toàn trong hoang tưởng. Nó cũng giống như chận đầu một đứa nhỏ trước cổng trường, đốt bỏ cặp sách của nó rồi tuyên bố: "Học vấn là "ngẫu nhiên", không có lý do hiện hữu, hoàn toàn phi lý!" Đó là ngăn chặn ngay từ đầu không cho đứa nhỏ học hỏi trước khi ra đời và thể hiện học vấn của mình qua đời sống thực tiễn. Tất cả chỉ vì cái hoang tưởng bày đặt và nằm ở trong đầu của "Thượng đế bỏ túi"!

Kế đến ta lại tuyên bố "Hữu thể không nghĩa lý, không nguyên do, không lý do, phi lý". Đó là những phán xét mang nặng cảm tính và chủ quan. Sự vật có đó. Nhưng ta lại tuyên bố "nó không có nguyên do gì, và cũng không có lý do gì để có đó". Có thể hiểu là "lẽ ra nó không được (phép?) có đó". Nhưng nó vẫn lù lù có đó. Hai điều này nghịch lý. Chỉ một bên có thể đúng mà thôi. Vậy thì bên nào đúng? Cho dù sự vật không hề lên tiếng, nhưng sự hiện diện của nó là một bằng chứng hùng hồnhiển nhiên cho cái lý do hiện hữu của nó. Nó bất cần cái lý do mà ta ban cho hoặc không ban cho nó. "Ông tuyên bố tôi không có lý do để hiện hữu, nhưng tôi vẫn hiện hữu, ông làm gì được tôi? Ông là ai mà đòi tước đoạt quyền hiện hữu của tôi? Ông là Thượng đế chăng?"

Nếu tuyên bố "nó không có lý do để hiện hữu", thì thử hỏi ngược lại: "Sao dám chắc là nó không có lý do để hiện hữu? Cái lý do nào bắt buộc nó không được (quyền) hiện hữu? Nhân danh gì mà tước đoạt quyền hiện hữu của nó?" Nhân danh một cái tín ngưỡng siêu nhiên? Hay một cái triết thuyết siêu đẳng nào đó? Liệu có thể minh chứng được hành động "phủ nhận" hiện hữu của một sự vật, một khi nó đã có đó chăng? Và liệu có thể trả lời những nghi vấn vừa đặt ra chăng? Hay chỉ đáp ngớ ngẩn rằng: "Tại vì tôi (chủ quan) cho rằng nó không có nguyên do và lý do hiện hữu. Không có gì phải chứng minh hết. Thế thôi!"? Bởi lẽ đó, tuyên bố sự vật không có nguyên do và lý do hiện hữu là một khẳng định hàm hồ và độc đoán. Tuyên bố như vậy là "không có lý do" gì vững chắc.

Giờ đây cái rễ cây nó có đó rồi. Bỗng nhiên ta tuyên bố: "Hữu thể là phi lý, ngay từ trong yếu tính của nó!" Rồi chỉ tay vào mặt cái rễ cây mà quát lớn: "Này! Cái rễ cây lạng quạng kia! Mày là ngẫu nhiên! Mày không có lý do gì để hiện hữu. Mày là hữu thể phi lý! Vậy đừng có láng cháng ở đây. Đi chỗ khác chơi!" Được chăng? Nhưng cho dù cái rễ cây nó có riu ríu tuân lịnh đại ca mà đi chỗ khác chơi đi nữa, thì khi di tản, nó cũng bê sự hiện hữu của nó theo. Có phủ nhận cái lý do hiện hữu của nó cũng chỉ là ngớ ngẩn và vô ích. Tuy nhiên, nếu vì cái đầu óc duy lý của mình mà đòi hỏi (mà xét giấy) cái rễ cây phải trình cái lý do (giấy tờ) hiện hữu của mình thì xin hỏi lại cho rõ: "Cái lý do nầy là do ai cấp phát, và của ai chế tạo? Của Thượng đế? Của Descartes? Của Karl Marx? Hay là do Sartre chế biến và độc quyền? Ai mới là người có thẩm quyền (và tại sao có thẩm quyền?) cấp phát lý do hiện hữu? Tại sao cấp phát? Và tại sao lại cấp phát cái lý do hiện hữu đó mà không là một lý do nào khác"? Trả lới được chăng?

Bởi lẽ đó, một khi sự vật đã có đó rồi thì chính sự vật tự khẳng định một cách hùng hồn cái lý do hiện hữu của nó: Nó hiển nhiên. Nó sờ sờ ra đó. Tuy nhiên, có lẽ vì cái nguyên do và lý do hiện hữu "thực sự và tối hậu" của nó vốn quá "bí ẩn", không thể nào diễn tả được bằng ngôn ngữ con người, cho nên ta mới mờ mịt không thể nào thấu rõ được đó thôi. Vả lại, nghĩ cho cùng, nó cũng đâu có cần gì tới một cái "lý do hiện hữu" le lói do một "đỉnh cao trí tuệ" nào đó ban phát mới có thể, có quyền và được phép hiện hữu. Không lẽ nó tự ý hiện hữu trước, rồi mới làm đơn xin cái lý do hiện hữu sau, để hợp thức hoá sự có mặt của mình? Cái rễ cây có đó! Như vậy là được lắm rồi. Và tự nó, cũng là đủ lắm rồi. Chớ có vẽ rắn thêm chưn, cho dù là 1.000 cái chưn tràn trề ý nghĩa, và lai láng lý do đi nữa. Chẳng có cái vấn đề "lý do / không lý do", cũng chẳng có cái vấn đề "ý nghĩa / phi lý" lộn xộn rườm rà rắc rối gì hết ráo. Cái rễ cây có đó. Có chịu hay không chịu gì thì cũng phải rán mà chịu. Ở đó mà "lẽ ra…" (lẽ vô) cũng vô ích. Nó có đó. Vậy thôi. Chấm. Và hết.

Sự vật cần ta giải thích?

Sự vật có đó, có thể ngay từ lúc chưa có ta (hoặc chưa có con người) trên đời. Sự vật có đó tự đời nào. Rồi thình lình ta xuất hiện, đối diện, và tìm cách giải thích. Giải thích là tìm cách làm cho đầu óc duy lý chấp nhận. Sự vật có trước. Giải thích đến sau. L’existence précède l’explication. Giả dụ như không có ta và không có giải thích thì sao? Liệu sự vật có biến mất? Liệu sự vật có mất hết "lý do để hiện hữu", mất hết "nghĩa / ý nghĩa"? Nếu Roquentin (Sartre) không xuất hiện trong công viên và đến ngồi trên băng ghế thì cái rễ cây sẽ vĩnh viễn không có lý do để hiện hữu, và sẽ vĩnh viễn không được cái ý thức nào đó ban phát cho một nghĩa / ý nghĩa cho sự hiện hữu của mình. Rồi thì cái rễ cây sẽ ra sao? Nó có hề hấn gì không? Giả thử như Roquentin có xuất hiện trong công viên, nhưng Roquentin mù mắt, không nhìn thấy cái rễ cây, không đặt vấn đề "lý do hiện hữu", không đặt vấn đề "ý nghĩa" của cái rễ cây, và cũng không "buồn nôn" gì hết thì liệu các "vấn đề" đó nó có tự đặt ra không? Liệu trong đêm khuya, cái rễ cây nó có gác tay lên trán và tự hỏi: "Ta từ đâu đến, đến để làm gì và đi về đâu?" hay không?

Như vậy, tự nó, "vấn đề lý do hiện hữu và ý nghĩa" có một thực thể gì độc lập của riêng mình hay không? Hay nó chỉ là một hoang tưởng được nguỵ tạo bởi một tâm trí cực kỳ dao động, phát xuất từ cái tâm vọng chấp. Một khi cái tâm vọng chấp rồi thì nó vọng hiện, làm xuất hiện các vấn đề. Và những lời nói của ta trong trạng thái đó cũng giống như lời mê sảng của một người đang trải qua một cơn mộng dữ trong lúc mê ngủ. Roquentin đã để cho mình bị cái rễ cây thôi miên, như một người ngó dây thấy rắn, rồi đâm ra loạn tưởng. Trong cơn mộng mê, những cảnh trí ta ngó thấy đều tưởng chừng như có thiệt. Chúng chỉ tan biến khi nào ta đã tỉnh mộng hồi lâu. Có khi rất lâu. Có khi trở thành hoài niệm thương động, hoặc ám ảnh dai dẳng, khó lòng mà dứt tuyệt cho được.

Lấy một cảnh sông núi hùng vĩ nào đó. Nó có đó từ đời kiếp nào. Chợt một bữa đẹp trời nọ, có người đến chiêm ngưỡng và làm thơ để ca tụng. Rồi hôm sau, có kẻ đến thưởng thức và vẽ tranh để diễn tả. Rồi hôm sau nữa, có một người buồn nôn đến đặt vấn đề hiện hữu và buông lời nguyền rủa để thể hiện cái tâm bất ổn của mình. Thơ, tranh, lời nguyền rủa cũng giống như là cái giải thích chủ quan của ta về sự vật vậy thôi. Nó không mắc mớ gì tới sự vật hết ráo. Nó cũng chẳng nói lên được một sự thật nội tại nào của sự vật. Sự vật không cần tới những thứ sản phẩm nhân tạo đó để hiện hữu, hoặc để làm nguyên do, làm lý do, làm nghĩa, làm ý nghĩa, hoặc để làm cái chi chi cho mình hết ráo. Có hay không có gì thì nó cũng vậy thôi: Nó có đó. Lấy trường hợp của Sartre đây. Sartre có cần tới một Đấng nào, hay một ai đó đứng bên ngoài ban cho Sartre một lý do hiện hữu (raison d’être) để có thể hiện hữu? Nếu có, thì tại sao phải là Đấng đó, người đó, và tại sao phải là cái lý do hiện hữu đó? Nếu không có ai ban cho mình một lý do hiện hữu nào hết thì Sartre tính sao? Thế còn cái L’existence précède l’essence của ông, ông để nó ở đâu?

Tuy nhiên, mặc dù diễn giải của ta chỉ có tính cách nguỵ tạo, nhưng cái tâm vọng chấp của ta cũng có thể tác hại tới sự vật và tới ngay cả ta. Chẳng hạn như ta tuyên bố cái cây marronnier "phi lý", nó không có lý do gì để hiện hữu, rồi ta vác búa tới đốn bỏ. Hoặc ta tuyên bố "cuộc đời ta phi lý" rồi ta uống thuốc độc tự tử để phản đối (phản đối ai? phản đối gì?) Hoặc là cầm súng leo lên tháp chuông, rồi bắn đại vào đám đông vì cho rằng "cuộc đời họ phi lý", và hiu hiu tự cho rằng mình đã làm được một hành động vô cớ (acte gratuit). Vô cớ thiệt sao? Thử nghĩ kỹ lại đi. Nếu không mê muội và nghĩ lầm rằng "cuộc đời phi lý" thì liệu cái hành động vô cớ (cố tình mà vô cớ được sao?) nó có xảy ra hay không? Vô cớ hay là vô minh, hoặc mê lầm? Nói tóm, đối với sự vật, diễn giải và giải thích của ta là không thiết yếu, là nguỵ tạo, có thể sai lầm và tác hại.

Tướng không và giả danh

Sartre: "[…] nó (hiện hữu) chỉ vỏn vẹn là hình thể trống rỗng ghép lên sự vật từ phía bên ngoài mà không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của sự vật." Khi viết như vậy, có phải Sartre đã linh cảm mơ hồ cái tính cách "vô bổ và vô hiệu" của "hiện hữu" (theo chữ của Sartre dùng trong câu này) đối với sự vật? Và khi Sartre kết luận: "[…] nhưng ta không bao giờ có thể diễn dịch được chúng (thể vật hiện hữu)", phải chăng Sartre cũng ngụ ý rằng mọi sự diễn dịch, giải thích, diễn giải đều "vô bổ và vô hiệu", không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của sự vật? Tính cách "vô bổ vô hiệu" này cũng có thể áp dụng cho "cái nhìn, cái tên, cái nghĩa, cái ý nghĩa" mà ta ghép lên sự vật. Jean Vioulac: "Rồi khi đó, ý thức sẽ sắp xếp các dữ kiện […] và ban cho tổng hợp đó cái nghĩa "cây"".

Cái nghĩa "cây" (và luôn cả ý nghĩa) không giống như chất bổ mà cây hút được từ trong đất và trở thành thực sự những sớ cây cấu tạo cây marronnier. Cái nghĩa và ý nghĩa không bao giờ nhập thể được vào thân cây như là chất bổ và sớ cây. Nó vĩnh viễn đứng bên ngoài, và sẽ "không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của cái cây (sự vật)", như Sartre đã linh cảm.

Cái nghĩa "cây" ở đây cũng đồng thời là cái tên gọi (nom) của sự vật đã được ý thức hướng tới và chiếu rọi. Tuy nhiên, có gọi cái khối chất hình ống màu nâu ù lì sừng sững trước mặt là cây, là arbre, là tree, hoặc là cái chi chi khác đi nữa thì cũng chẳng ăn nhập gi tới nó hết. Cây, arbre, tree, tất cả đều chỉ là những tên gọi. Không có cái tên gọi nào đúng hơn tên gọi nào. Tất cả đều chỉ là qui ước và đều là giả danh.

Trong Trời đất, muôn pháp vốn có "tướng không" và không có tên gọi (vô danh). Mọi tên gọi, mọi nghĩa, mọi ý nghĩa đều là do con người bày đặt ra, vì vậy đều là giả danh, giả ý, giả nghĩa, phát xuất từ cái tâm chia chẻ phân biệt của mình mà nguỵ tạo ra. Chẳng hạn như thoạt tiên trái đất là nguyên một khối liền lạc, mà mọi đất đai đều không có tên. Sau đó con người xuất hiện, chia phe đánh nhau, vạch ra biên giới rồi đặt một cái tên (Việt Nam, Pháp, Anh, Đức…) cho vùng đất nằm trong vòng một biên giới khép kín, trước đây vô danh. Cũng giống như là mua một con chó con rồi đem về đặt cho nó cái tên Mực vậy. Nhưng trong Trời đất, không có vùng nào tự nó có tên là France, không có con thú nào tự nó có tên là chó, là chien, là dog, và cũng không có một con chó nào tự nó có tên là Mực hết. France, chóMực đều là giả danh.

Nói "tướng không" là nói sự vật không có hình tướng riêng của mình, chớ không phải là "không có gì hết". Tướng là hình tướng. Diễn rộng ra, nói "tướng không" có thể hiểu là mọi vật, mọi pháp đều không có hình tướng (tướng) riêng, không có bản chất (tánh) riêng, hay một cái gì riêng của nó hết. Chỉ do nhơn duyên tạo tác mà xuất hiện, và đều có tính cách vô thường, không ngừng biến đổi. Bởi lẽ đó nên các pháp đều là giả tướnggiả danh, do cái tâm vọng chấp, chia cắt và nguỵ tạo ra.

Ở đây, qua cái nhìn được thể hiện trong câu hiện hữu chỉ là hình thể trống rỗng ghép lên sự vật từ phía bên ngoài, Sartre đã thấp thoáng thấy được cái "tướng không" theo nhãn quan của Phật giáo, nhưng vẫn hãy còn chấp có (ngũ uẩn). Trong khi đó, theo nhãn quan của Tâm Kinh thì năm uẩn đều "Không" (Bát nhã). Việc trình bày lập luận và giảng giải Tâm Kinh không nằm trong khuôn khổ bài này.

Khái niệm và cái tháp Eiffel

Jean Vioulac: Sự đóng góp có tính cách quyết định của khái niệm (notion) "ý hướng" (intentionnalité) chính ở chỗ nó chỉ cho thấy rằng các sự vật tự nó không có ý nghĩa (sens), chúng tiếp nhận một ý nghĩa từ một ý thức nhắm vào chúng và quan sát chúng […] Hữu thể chẳng là gì khác hơn là sự hiện diện thuần túy ù lì và không nghĩa lý (insignifiante), cái chất bột (pâte) của sự vật có đó, giản dị như vậy, không nguyên do (cause) và không lý do (raison) […] Như vậy, ngay từ trong yếu tính (essence) của mình, hữu thể là phi lý (absurde).

"Khái niệm" (và ý niệm) chỉ là một sản phẩm của trí tuệ, tự nó không có thực thể: nó do trí tuệ bày đặt ra, chớ không tự có trong Trời đất. Dựa vào một khái niệm không có thực thể mà tuyên bố là sự vật không ý nghĩa, không nguyên do, không lý do, phi lý, liệu khẳng định đó có vững chắc hay không? Phi lý? Thiệt vậy sao? Bất cứ một sự vật nào, khi nó có đó, thì là nó có lý do để có đó. Điểm này sẽ được khai triển ở mục "nhân quả" và "nhân duyên" thuộc phần HAI của bài. Nói rằng nó không có lý do để hiện hữu, chẳng qua là chỉ để lộ cái dốt nát, cái mê muội của mình mà thôi: "Tôi không biết cái lý do hiện hữu của nó". Cũng giống như một người dân quê ở Việt Nam không biết có cái tháp Eiffel ở bên Pháp, nên đối với cái tâm trí của mình, cái tháp Eiffel không có, mặc dù cái tháp Eiffel quả thiệt có đó. Nhưng cũng có thể là: "Nó có lý do để hiện hữu, nhưng tôi không chấp nhận cái lý do đó". Hoặc đúng hơn: "Tôi không bày đặt ra được một lý do hiện hữu nào cho nó hết". Mà bày đặt là nguỵ tạo.

Nhưng nếu quyết định tìm ra cho bằng được nguyên do và lý do hiện hữu của cái rễ cây thì cũng không khó. Thoạt tiên, có cái hột marron còn sống. (Nếu hỏi "Hột marron nguyên thủy từ đâu đến?" thì xin kiếm Thượng đế hoặc ông Darwin mà hỏi). Kế đến, có người làm vườn ươm cái hột marron, bón phân, tưới nước, nó mọc cao lên khoảng một mét. Kế đến, trong làng lập ra một công viên nên cần có bóng mát. Người làm vườn bèn đem cây marronnier còn non tới trồng ở giữa vườn. Rồi nhờ phân bón, nhờ nắng, nhờ nước… cây non mọc lớn lên thành cây marronnier cao ngất. Cũng như mọi loại cây khác, cây marronnier cần có nhiều rễ lớn để giữ chặt nó xuống đất. Nhưng gần gốc cây thì rễ bò trên mặt đất. Rồi bỗng một hôm có anh chàng Roquentin lần xần bước vô công viên, đến ngồi trên băng ghế, chợt ngó thấy cái rễ cây, rồi thắc mắc, rồi quăng câu hỏi lớn lên không trung: "Sao cái rễ cây nó không có lý do gì để hiện hữu mà nó vẫn ù lì có đó?" Roquentin không tìm được giải đáp, cái rễ cây rớt xuống trúng u đầu người hỏi. Rồi buồn nôn. Rồi ói mửa tới mật xanh, vân vân…

Nguyên do và lý do hiện hữu của cái rễ cây, đối với tất cả những người "bình thường" là như vậy đó. Tại sao? Tại trong thiên nhiên nó như vậy. Rất là bình thường và giản dị. Cái rễ cây nó không cần đến một "lý do hiện hữu" thiêng liêng, siêu nhiên hoặc siêu triết nào đó do Thượng đế, hoặc Thần Brahman, Thần Tháp Rùa, ông Bành Tổ, bà Thánh mẫu, hay một triết gia siêu việt nào đó ban cho mới có quyền hiện hữu hết ráo! Mà cho dù là như vậy đi nữa cũng không phải là giải thích cuối cùng. Nếu hỏi tiếp: "Tại sao nó lại như vậy?" thì trả lời làm sao đây? Làm gì có cái vấn đề nhức đầu "Cái rễ cây nầy từ đâu đến? Đến để làm gì? Rồi đi về đâu?". Nó có nguyên do và lý do để hiện hữu ngay trong sự hiện diện của nó. Vậy thôi. Rất là trần tục. Rất là có hình chớ chẳng có siêu hình gì hết ráo. Đâu có cái chi mà phải rắc rối cuộc đời (một cách lẩm cẩm) như vậy?

Ý thức làm "Xà vương chịu phép"!

Tương tự, nói rằng: "Sự vật tự nó không có ý nghĩa, hữu thể là phi lý", rất có thể là chỉ vì "tôi không bày đặt ra được một ý nghĩa nào cho nó hết". "Ý nghĩa" chỉ là một "ý niệm", một sản phẩm của trí tuệ, không có thực thể, không tự có trong Trời đất – cũng như "khái niệm". Ta có thói quen nghĩ rằng cái gì cũng phải có ý nghĩa để minh chứng cho sự hiện hữu của nó. Ta phải có ý nghĩa. Vợ ta phải có ý nghĩa. Con ta phải có ý nghĩa. Cái ý nghĩa đó phải như thế nào mới xứng với cái tên "ý nghĩa" (AOC ?) Ta cũng bù trất. Tuy nhiên, điều đó cũng không ngăn được ta tiếp tục đòi hỏi: Con chó của ta cũng phải có ý nghĩa. Cục gạch cũng phải có ý nghĩa. Cho tới "rong rêu sỏi đá" gì cũng đều phải có ý nghĩa hết ráo. Bằng không thì "rong rêu sỏi đá" sẽ phi lý buồn nôn. Cái rễ cây cũng bị kẹt luôn. Nếu không muốn mang tiếng là "phi lý" thì cái rễ cây phải nghe lời ta phán: "Cái rễ cây kia! Mày phải có ý nghĩa!" "Nhưng cái ý nghĩa gì vậy đại ca?" Biết cái rễ cây nó phải mặc cái áo "ý nghĩa" như thế nào mới được ta chấp nhận? Chẳng lẽ ta muốn cái rễ cây phải cạo đầu đi tu hay phải đi tìm gặp Thượng đế thì cuộc đời của nó mới có ý nghĩa?

Bởi có bày đặt ra cái ý niệm "ý nghĩa" nên mới nảy sanh ra cái ý niệm "phi lý", phát xuất từ cái tâm đối đãi nhị nguyên của mình. Nói rằng sự vật "tiếp nhận ý nghĩa" nhưng thiệt ra thì không hề có sự tiếp nhận. Chỉ có ý thức muốn dán cái ý nghĩa hư giả do tâm trí của mình bày đặt ra lên sự vật nhưng mà nó không dính (cũng như là ta đổ nước và nước trợt trên lá sen). Vậy thôi. Ý thức (hoặc tâm trí) đã tinh ranh tự biểu diễn cái trò ảo thuật "dán ý nghĩa" với chính mình. Rồi tin thiệt là sự vật quả có thực sự tiếp nhận cái ý nghĩa do mình bày đặt ra. Cũng giống như là vẽ rắn mà thêm chưn. Cái "chưn ý nghĩa" vốn nó rất là trừu tượng nên ta muốn vẽ nó như thế nào đó thì cứ vẽ, miễn là có chưn và cái chưn đó đúng goût của ta là được. Vẽ xong rồi, ta xoa tay khoan khoái tuyên bố là con rắn đã hoan hỉ tiếp nhận những cái chưn mà ta đã vẽ thêm: "Xà vương phen này đã chịu phép!" Nếu không có ta làm phước vẽ thêm cho cái "chưn ý nghĩa" thì Xà vương làm sao có cẳng để mà chạy jogging mỗi buổi sáng? Bởi lẽ đó, ta có thể tuyên bố: "Con rắn không có chưn (cái chưn ý nghĩa!) là con rắn phi chưn (!) ngay từ trong yếu tính của nó". Hoặc giả, trước cái thời điểm (khúc quanh lịch sử!) sự vật (hữu thể) được ý thức phù thuỷ của ta dán cho một ý nghĩa, ta hiên ngang tuyên bố: "Hữu thể là phi lý, ngay từ trong yếu tính của nó! » Có ai dám nghi ngờ hay phản đối gì không?

Nhưng may mắn thay! Bỗng một phép màu xuất hiện: Trên thinh không thình lình vang lên một tiếng nổ rợp trời. Rồi chợt có một Ý thức tràn đầy từ tâm độ lượng cỡi trên đám mây ngũ sắc chói loà từ từ giáng lâm. Ý thức mở thần nhãn nằm ngay giữa trán cao rộng phóng hào quang chiếu rọi "Hữu thể phi lý" (sỏi đá rong rêu), trong lòng vô cùng thương xót. Đoạn Ý thức nghiêng chiếc hồ lô mầu nhiệm của mình trút ra một Ý nghĩa chói ngời và hỉ xả bố thí cho "Hữu thể phi lý" để làm phước. "Hữu thể phi lý" hoan hỉ quỳ xuống tiếp nhận ý nghĩa, đoạn cúi rạp người đảnh lễ và chắp cả hai tay mình lên trán mà lạy như tế sao. Bèn cất tiếng tán thán để hồi hướng công đức của Ý thức từ bi rối rít. Và kể từ đó "Hữu thể (hết) phi lý" cùng vợ con sống một cuộc đời lai láng tràn trề ý nghĩa, không biết để đâu cho hết! Cái trò ảo thuật này là tuồng ruột của cái tâm phô diễn ngã mạn. "Tự biên tự diễn" một mình từ đầu đến cuối là nghề của chàng. Cái nghề của ý thức!

Ý nghĩa vẽ rắn thêm chưn

Nói "Hữu thể phi lý ngay từ trong yếu tính của nó", điều này không sai, nhưng cũng không đúng. Hữu thể vốn tự nó không có một cái lý riêng hay ý nghĩa riêng nào của nó hết – không giống như mỗi người chúng ta có một trái tim riêng của mình trong lồng ngực. Thường khi, trong đời sống, mỗi người chúng ta đề ra cho mình một mục tiêu để nhắm tới, và gọi nó là ý nghĩa cuộc đời (cho nó le lói?) Đối với một đầu óc duy lý, thì bất cứ việc gì cũng cần phải có một ý nghĩa thì nó mới chấp nhận. Bất luận ý nghĩa nào, miễn phù hợp với cảm quan của chàng là được. Bởi vậy, nếu ý nghĩa đó do chính chàng bày đặt ra thì quá good! Nhưng xét cho kỹ lại thì cuộc đời giống như một quả cầu pha lê trong suốt không màu. Ta sơn lên quả cầu đó một màu chọn theo ý ta, rồi gọi cái màu đó là ý nghĩa đời ta. Biết màu nào mới thực sự là ý nghĩa và thực sự thuộc về bản chất của cuộc đời, không tuỳ thuộc vào phê phán chủ quan của cá nhân? Nhưng tại sao ý nghĩa đó mà không là một ý nghĩa khác? Nếu cho rằng dựa trên những tiêu chuẩn "khách quan" để chọn lựa, thì tại sao lại chọn lựa những tiêu chuẩn đó? Rồi cứ thế mà lòng vòng.

Như đã nói, thường khi ta ban cho đời mình một ý nghĩa cho nó le lói là để tự trấn an. Đó là một nhu cầu tâm lý. Chẳng hạn như ta đặt cái mục tiêu "gặp gỡ Thượng đế" (và xưng hô mày tao với Người?) để cho cuộc đời mình có vẻ "siêu nhiên". Như vậy, cái ý nghĩa minh chứng cho sự hiện diện của ta trên cõi đời này: "Đời tui rất là hữu ích và có mục đích, bởi vì nó có… mục tiêu"! Bèn vỗ ngực mình thùm thụp mà tuyên bố: "Bởi cuộc đời của tui có một ý nghĩa (do tui bày đặt ra) cho nên nó rất là… ý nghĩa"! Ý nghĩa gì? "Ý nghĩa cuộc đời", dĩ nhiên. Nói gọn: "Cuộc đời tui nó rất là có ý nghĩa cuộc đời do tui ban cho!" Logique không chịu được! Hết cãi!

Tuy nhiên, hữu thể "không" có lý riêng, nhưng cũng đồng thời "chẳng phải không" có lý. Vừa "không" vừa "chẳng phải không", đó là cách lập luận của Trung quán luận. Một đầu óc logique theo kiểu tây phương khó lòng mà nắm bắt được cách lập luận này. Sở dĩ ta tuyên bố "hữu thể phi lý" là tại vì ta muốn cho nó có một cái lý riêng nằm sẵn bên trong yếu tính của nó và thuộc về nó (như trái tim của ta thuộc về ta). Nhưng vì ta muốn một điều nghịch lý mà không thể được, nên bèn tuyên bố "hữu thể không có lý (riêng)", và do đó mà hữu thể phi lý!

Cũng giống như con rắn vốn tự nó không có chưn, nhưng cũng chẳng phải (là nó) không có chưn. Nói con rắn có chưn cũng sai, mà nói nó không có chưn cũng không đúng. Bởi lẽ nếu cho rằng đúng thì ta cũng có thể kể ra một loạt: con rắn không có lông, con rắn không có sừng, con rắn không có túi, con rắn không có tóc, vân vân và vân vân… Tuy rằng nó không sai, nhưng mà nói như vậy là nói nhảm. Vì vậy, khi xét kỹ lại, ta sẽ thấy là cái "vấn đề chưn" không đặt ra cho con rắn. Không có gì bắt buộc nó phải có chưn hết ráo. Nó không có chưn là nó không có chưn, vậy thôi. Thí dụ như bất thần có ai đó trách "Tại sao trái xoài nó không có chưn?" Rồi tuyên bố liền tù tì sau đó: "Trái xoài phi chưn là trái xoài phi lý!" Bảo đảm ta sẽ nghĩ thầm: "Cha nội nầy bị chạm dây… là cái chắc!" Tương tự như đối với con rắn, ta cũng có thể phán: "Cái cây nó mù, nhưng cũng chẳng phải là cái cây nó mù. Nó không thấy đường, nhưng cũng chẳng phải là nó không thấy đường. Nó không có mắt, nhưng cũng chẳng phải là nó không có mắt". Cũng bởi lẽ ta quá quen thuộc và nghiện ngập cái logique của mình (mọi con thú đều bắt buộc phải có chưn), nên ta muốn con rắn nó cũng phải có chưn (như mọi con thú khác) thì mới hợp lý, nghĩa là hợp với cái logique của ta. Nhưng vì muốn quái gở như vậy mà không thể được, ta bèn tuyên bố: "Con rắn (không có chưn) là phi lý, ngay từ trong yếu tính của nó". Có chưn là có lý, không chưn là phi lý, giản dị như vậy thôi. Con rắn không có chưn là tại vì sự tiến hoá đã đưa đẩy nó như vậy, chớ không phải tại vì cái lý do "ngẫu nhiên" hoặc vì cái lý do phi lý (phi lý mà lại là lý do!) mà nó không có chưn. Tuyên bố "Con rắn không có chưn (ý nghĩa) là phi lý" cũng giống như phán rằng: "Đồng hồ không người lái là phi lý". Hoặc: "Giữa trời không nở hoa sen là phi lý". Ai phi lý? Có biết đâu ta đã quên rằng chưn rắn – ý nghĩa là cái chuyện hoàn toàn hoang tưởng. Hoang tưởng tới mức phi lý!

Cogito hay "ăn gatô"?

Như vậy, "phi lý" là vấn đề của ta và do ta bày đặt ra, chớ không phải là vấn đề (yếu tính) của con rắn (hay nói chung là của hữu thể). Bởi lẽ đó, tuyên bố rằng "Hữu thể phi lý, hữu thể không có ý nghĩa" thì cũng giống như là tuyên bố "con rùa không có lông, con thỏ không có sừng, con rắn không có chưn, trái xoài không có cẳng"… vậy thôi. Đó chỉ là những niệm khởi trùng trùng của cái tâm mê lầm, chấp trước, cái tâm vọng hiện. Sở dĩ cái tâm nó chấp trước (chấp vào ý nghĩa) nên khiến cho niệm khởi, rồi từ đó mà vấn đề nảy sinh, là để nó chứng minh rằng nó (cái tâm) thường trực có mặt và nó rất là năng động. Giống như một đứa con nít khoái "quậy" để cho mọi người chú ý tới nó. Cái kiểu: "Ta suy tưởng không ngừng, ta không ngừng khám phá ra những vấn đề "nhớn", ta không ngừng quăng những câu hỏi "nhớn" lên không trung (rớt xuống u đầu!) Vậy ta rất là (đỉnh cao) trí tuệ!" Rất là le lói! Rất là nặng phần trình diễn. Đó là cái tâm phô diễn và ngã mạn. Thứ đến, nếu không còn một niệm nào sanh khởi nữa hết thì tâm trí nó cũng bị dập tắt theo. Vì tâm trí lo sợ mình bị diệt nên nó cứ khởi niệm không dứt, cứ trùng trùng niệm khởi để duy trì sự hiện hữu của mình: "Cogito ergo sum!". "Tôi suy nghĩ, vậy tôi có!". Và do đó, để cho đúng với cái logique cartésienne: "Nô cogito thì nô ergo sum". Tuy nhiên, trong đời sống hằng ngày, cho dù có "nô cogito, ta vẫn ergo sum" như thường. Không tin, thử lấy kim nhọn đâm vào đít triết gia đang say ngủ thì biết. Nhưng nghĩ cho cùng thì chỉ có: "Ăn gatô, ergo sum!" là đúng hơn hết và chắc ăn hơn hết. "Đỉnh cao trí tuệ" mà nghe được cái khẳng định phàm tục này chắc chắn sẽ nổi giận đùng đùng, giận bầm gan tím ruột, giận tới mức bỏ ăn. Một cơn thịnh nộ tuyệt đỉnh siêu hình, nhuốm đầy màu sắc triết lý và thông minh, phóng ra bốn phía hào quang ngũ sắc chói loà lấp lánh (… quá cỡ thợ mộc!) Cho nó le lói lói le le lói!

Nãy giờ bàn luận dông dài về ba cái chuyện "ý nghĩa" với lại "phi lý" là bàn về những cái chuyện nguỵ tạo, những cái chuyện lẽ ra không nên có. Thì có khác chi là luận bàn về những cái chuyện không có. Không có mà vẫn bàn. Cũng rất hào hứng giống như là bàn về ba cái chuyện lông rùa sừng thỏ. Rốt cuộc, cũng chỉ là hý luận mà thôi.

Tuy nhiên, vì rùa thỏ vẫn hãy còn đó nên thử bàn thêm chút nữa về cái chuyện không có cho nó rốt ráo. Tuyên bố: "Ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể phi lý, hữu thể không có ý nghĩa". Nhưng một khi đã nói tới những cái mà hữu thể không có rồi thì là nó vô cùng. Chẳng hạn như: "Hữu thể không có màu sắc, không có mùi vị, không có âm thanh, không có hương thơm, không có tình cảm, không có…, không có…, không có…" Biết chừng nào mới kể hết ra cho được những cái mà hữu thể không có? Nếu bây giờ, tuyên bố: "Ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể không có màu sắc, vậy hữu thể phi lý", có ai chấp nhận chăng? Hoặc tuyên bố: "Vì hữu thể không có màu sắc nên nó không sắc màu", tương tự như là đã tuyên bố: "Hữu thể không (tự) có lý nên nó phi lý", hoặc: "Hữu thể không (tự) có ý nghĩa nên nó vô nghĩa"! Quá logique! Không phản bác vào đâu được. Đúng là nói chuyện huề vốn!

Ý niệm và logique của cái lỗ rún

Trở lại cái buồn nôn của Roquentin. Thoạt tiên, cái rễ cây có đó. Nó thực sự hiện hữu đầy đủ trong tất cả cái nghĩa vật chất của nó. Chợt có người tới ngó nó lom lom, rồi chiếu rọi ý thức của mình lên nó. Rồi vì không lý giải được sự hiện hữu của nó nên xao động. Một khi ta bị xao động rồi thì cái tâm ta nó vọng hiện, và do đó mà niệm niệm sanh khởi. Từ đó phát sinh ra cái ý niệm ý nghĩa, rồi kế đến là ý niệm đối nghịch của nó là phi lý theo cái logique nhị nguyên của ta.

Khởi đầu, ý niệm chỉ là một pháp ở dạng thức trừu tượng. Nhưng khi ta bắt đầu khảo sát, suy diễn và thuyết lý về nó rồi thì ý niệm dần dần khoác lên mình nó những lớp thịt da hư giả. Rồi cứ thế mà ý niệm tiếp tục tăng trưởng, cho tới lúc tưởng chừng như nó chuyển sang dạng thức cụ thể và trở thành có thiệt: một thực thể (tưởng chừng như) có "chất bột" rắn chắc không thua gì cái rễ cây. Ý niệm ý nghĩa / phi lý cũng giống như là một cái tin đồn. Cứ đồn riết rồi tin chắc cái chuyện đồn đãi là có thiệt. Hồi Đệ nhị Thế chiến, Hitler nghe theo cái tin đồn là chắc chắn quân Đồng minh thế nào cũng đổ bộ ở Pas-de-Calais nên đã dồn hết quân lực và chiến xa ở địa điểm này để chận đánh. Dè đâu Đồng minh lại đổ bộ ở Normandie! Hậu quả: Hitler đã đại bại và tự tử chết, chết vì một cái tin đồn không có thiệt. Cũng như đã có vô số người đã chết vì một cái ý niệm không đâu, một lý thuyết không tưởng, một chủ nghĩa hoang tưởng sai lầm nào đó. Hoặc cũng giống như một người mắc chứng tâm lý "huyền thoại" (mythomane), cứ đội nón trái ấu, đút tay dưới áo và ngày đêm săm soi bóng mình trong gương, và cuối cùng tin thiệt mình là Nã phá luân đệ nhứt. Rồi ra ngoài xa lộ Biên Hoà kéo quân con nít ở truồng và chiến xa ba bánh cà tàng… đi đánh Nga ở miệt Cà Mau!

Ý niệm trở thành có thiệt cho tới mức đối với một đầu óc duy lý, các ý niệm trừu tượng trở nên còn quan trọng hơn là cái rễ cây cụ thể hiện hữu lù lù trước mặt. Giờ đây, đối với đầu óc duy lý, các ý niệm "ý nghĩa" và "phi lý" đã trở nên còn quan trọng hơn là cái "hữu thể" rễ cây. Trong cách thức biến chuyển và tạo tác của mình, ý niệm cũng giống như là loại dây leo từ từ lớn lên, bò quấn chằng chịt, và cuối cùng siết chết cái thân cây đã khứng chịu làm giàn cho nó leo. Đó là cái cực kỳ nguy hiểm của hý luận và ngụy biện: sự vọng chấp tột bực sẽ đưa tới cuồng tín.

Tự đời đời kiếp, trong Trời đất vạn pháp vốn nó Như vậy, không có nghĩa, cũng chẳng phải không có nghĩa. Không hề có cái gì thực sự là cái "ý nghĩa" cả. Thực sự trong cái nghĩa "tự nó thực có", tự nó có thực tướng. Ý nghĩa và phi lý chỉ là hoang tưởng, hoàn toàn do ta bày đặt ra, hoàn toàn do ta nguỵ tạo ra.

Như trái đất nó quay, thì nó quay như vậy, chẳng ý nghĩa, cũng chẳng không ý nghĩa. Như loài khủng long xuất hiện, con khủng long có đó, nó chẳng ý nghĩa, cũng chẳng không ý nghĩa. Nó xuất hiện rồi nó tuyệt chủng. Như vậy đó, chẳng ý nghĩa, cũng chẳng không ý nghĩa. Điều đó thuộc về đời sống của Trái đất. Đơn giản vậy thôi. Loài khủng long không tuyệt chủng để cho loài có vú vươn lên. Đó chỉ là do nhơn duyên mà sinh diệt. Nhưng tiến tới Bát nhã thì trong "tướng không" chẳng có sinh, cũng chẳng có diệt: Vạn pháp chỉ là vô thường. Chẳng có pháp nào sinh ra, chẳng có pháp nào diệt đi. Chỉ có một dòng biến dịch bất tận, vô thủy vô chung. Các pháp cứ thế mà biến hoá lăn trôi hoài hoài.

Và loài có vú vươn lên cũng không phải để cho giống homo xuất hiện. Đó chỉ là cách diễn giải do con người bày đặt ra nhằm hợp lý hoá cái vận hành của Trời đất, sao cho nó phù hợp với cái logique, cái logique của con người dĩ nhiên! Hợp lý hoá để có thể nhờ đó mà ban cho sự vận hành của Trời đất một ý hướng, một dự án, một phương hướng, một mục tiêu, một cứu cánh, để cuối cùng dán cho sự vận hành đó một ý nghĩa (do ta bày đặt ra), một ý nghĩa mà tự nó không hề có (hoặc không bao giờ ai biết được). Trời đất vận hành theo cái lẽ của Trời đất. Cái lẽ này không mắc mớ gì tới cái logique của con người hết ráo. Cũng như một ông già 90 tuổi không thể nào hành động theo cái logique của thằng lỏi 5 tuổi, và lăn ra nằm vạ khi bị trái ý. "Trời chẳng chìu lòng người!", con người thường hay than thở làm như đó là một điều bất hạnh. Nhưng nghĩ kỹ lại, đó là một điều rất tốt đẹp và may mắn cho tất cả muôn loài. Thử tưởng tượng nếu Trời chìu lòng Tần Thủy Hoàng, chìu lòng Hitler, Staline, chìu lòng Pol Pot, Bush con! Ngay cả cái rễ cây nó không mắc mớ gì hết tới cái logique cartésienne hay cái triết thuyết siêu đẳng nào đó của con người. Cái rễ cây nó có cái logique của cái rễ cây. Con người léo nhéo à? Thì "Đi chỗ khác chơi! Hãy xê ra cho người ta mọc! Và chớ có quên bê cái phi lý của ông theo!"

Con người có thói quen đem cái lỗ rún của mình ra mà làm chuẩn cho trăng sao. Và đem cái "đỉnh cao trí tuệ" của mình ra mà đo lường Trời đất. Nhưng than ôi! Cái lỗ rún của con người thì nó méo tứ tung, còn cái trí tuệ của con người thì nó mê lầm không dứt. Trời đất không hề đòi hỏi và cũng không hề cần đến một ý nghĩa nào đó do con người ban phát để vận hành hết ráo. Trời đất vận hành tự đời đời kiếp kiếp, từ lúc chưa có con người (thì lấy ai mà ban phát ý nghĩa?). Con người chỉ mới xuất hiện ở sát na chót cùng của vũ trụ. Không có một hữu thể nào, không có một vật nào, không có một pháp nào cần tới con người (hay ý thức nào đó) ban cho một cái nghĩa, một cái tên, một cái giả danh, một cái lý do hiện hữu, một cái ý nghĩa hiện hữu gì hết ráo!

Nói "sự vật, mọi pháp không hề có ý nghĩa, nhưng cũng chẳng phải vô nghĩa" bởi lẽ "ý nghĩa" chỉ là một ý niệm, một vấn đề do con người nguỵ tạo ra. Chớ chẳng phải là sự vật, mọi pháp nó vô nghĩa, nó phi lý, hay là nó cái chi chi, nó phi cái chi chi hết ráo. "Ý nghĩa" và "phi lý" là những ý niệm do con người nguỵ tạo ra như là một cái "tiểu xảo" (như những ký hiệu toán học trong một phương trình), nhằm để chứng minh một điều gì đó mà mình cho là hợp lý, là đúng. Hoặc chỉ đơn giản vì bởi Trí tuệ (đỉnh cao!) nó muốn biểu diễn cái trò "ban phát ý nghĩa / phi lý", như một Đấng "Thượng đế bỏ túi". Cho nó le lói với Trời đất. Le lói với đời sống. Le lói với thiên hạ. Vậy thôi! Khi dùng ý thức của mình để từ chối ban phát ý nghĩa hoặc lý do hiện hữu cho một sự vật nào đó là "Thượng đế bỏ túi" đã sử dụng quyền năng siêu nhiên của mình để mà "hư vô hoá" (néantisation, chữ của Sartre) sự vật(!) Tuy nhiên, mặc dù đã bị hư vô hoá, nhưng nếu chẳng may sự vật từ trên không trung rớt xuống trúng cái "đỉnh cao trí tuệ" thì bảo đảm và hiển nhiên Thượng đế bỏ túi sẽ vẫn bị u đầu hay bị lủng túi như thường!

Ngẫu nhiên mà ông Christophe…

Một sự vật, khi nó có đó rồi, là nó có lý do để có đó. Sự kiện “nó có đó” là một bằng chứng hùng hồn. Cái “nó có thể không có đó” chỉ là một giả thuyết và là chuyện đã qua. Cái “nó có đó” là một thực tại và là chuyện bây giờ. Trước khi nó có đó thì sự xuất hiện của nó có tính cách xác suất (probable), may rủi. Nhưng một khi “nó có đó rồi” thì sự hiện hữu của nó là một điều hiển nhiên (évidence), không thể nào khác hơn được: nó không thể nào không có đó, nó có lý do để có đó, và giờ đây nó đã thực sự có đó, không có cách gì phủ nhận được hết, và cũng không có vấn đề chọn lựa hay tự do chối bỏ ở đây. Có nhắm mắt lại thì nó vẫn còn đó. Mở mắt ra lại thấy nó có đó.

Chẳng hạn như khi xưa Christophe Colomb lên đường đi tìm xứ Ấn Độ. Nhưng vì dụng cụ định hướng thời đó không chính xác và thô sơ nên đoàn thuyền thám hiểm của ông có thể lạc tới bất cứ nơi nào. Tuy nhiên, một khi ông đã đặt chưn lên Mỹ châu rồi thì đó là một sự kiện lịch sử và là một điều hiển nhiên: khi phân tích lại lộ trình, điều kiện thời tiết, giông bão, trăng sao… ta có thể biết được vì nguyên do nào và vì lý do nào (mặc dù không do chính ông chọn lựa) mà cuộc thám hiểm trên đại dương đã đưa đẩy đoàn thuyền của ông tới châu Mỹ thay vì Ấn Độ. Tuyên bố rằng sự hiện diện của Christophe Colomb tại châu Mỹ không có nguyên do và không có lý do là một khẳng định hàm hồ và nguỵ biện. Nó chẳng khác gì cái lập luận: “Một buổi sáng nọ Christophe Colomb từ trên giường ngủ bước xuống, và đùng một cái, ông đặt chưn lên châu Mỹ”. Không! Chẳng có cái gì là ảo thuật. Chẳng có cái gì là “khi không” hết ráo. Ông đã lên đường. Và ông đã tìm kiếm. Ông có nguyên do để có đó! Ông có lý do để có đó! Cho dù có phản bác rằng nguyên do này và lý do này là ngẫu nhiên thì cũng chỉ là cãi cọ nhau về ba cái từ ngữ và ý niệm mà thôi (cái trò vọc giỡn và quăng bắt chữ nghĩa).

Chung chung, ngẫu nhiên có nghĩa là tình cờ, may rủi. Ngẫu nhiên là cái cách thức (mode), là cái “như thế nào” (comment) của sự xuất hiện của nguyên do và lý do. Hỏi: “Nó xuất hiện như thế nào?” Đáp: “Nó xuất hiện một cách ngẫu nhiên”. Ngẫu nhiên có nghĩa là không đoán trước, không định trước được. Nó chẳng có ý nghĩa, cũng chẳng vô nghĩa hoặc phi lý và cũng không hàm ý là “không có lý do”. Ngẫu nhiên chỉ là một cách thức, chẳng hạn con chim nó bay bằng cách đập cánh. Ngẫu nhiên chẳng những không làm thay đổi hoặc phủ nhận, mà trái lại chính nó đã đưa tới sự kiện: “Lần đầu tiên Christophe Colomb đã đặt chưn lên châu Mỹ vào giờ đó, ngày đó, tháng đó, năm đó. Và sự kiện này có nguyên do và lý do của nó. Nguyên do: thám hiểm. Lý do: đi lạc”. Mọi bàn luận chỉ là diễn giải, có thể đúng, có thể sai, hoặc cả hai. Nhưng chắc một điều: nó không cần thiết cho sự kiện. Sự kiện có trước. Giải thích đến sau. Mà không đến cũng được, cũng chẳng có trăng sao gì hết.

Sự vật đã có đó rồi thì sao?

Một khi sự vật đã có đó rồi thì những giả thuyết bày đặt ra về sự không hiện hữu, về những cái “lẽ ra…” của sự hiện hữu của nó chỉ là vọng tưởng. Một sự vật, khi nó có đó rồi, thì nó “hiển nhiên”: tự nó là lý do hiện hữu cho chính nó. Tự nó là giải thích cho chính nó. Tự nó là sự thật cho chính nó. Mọi tranh luận xung quanh, mọi bàn cãi xung quanh, mọi lý thuyết được dựng ra xung quanh cái chuyện “không có lý do hiện hữu” của nó chỉ là hý luận. Bàn chơi cho vui. Thuyết chơi cho vui. Vậy thôi.

Bất cứ vật nào, một khi đã có đó rồi, thì ta không có cách nào khác hơn được là phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Đó là thái độ “biết điều” nhứt. Chấp nhận theo cái nghĩa là phải nhìn nhận. Bởi lẽ ta không có cách nào phủ nhận được sự hiện hữu của nó, cho dù ta có nại cái lý do là “nó không có lý do nào để hiện hữu” – theo cách suy diễn của ta, theo cái logique của ta, dĩ nhiên. Nại cái lý do như vậy là nguỵ biện. Là vọng chấp. Là ngã mạn. Có buồn nôn tới mật xanh, có vò đầu bứt tóc tơi bời hoa lá, hoặc có bày đặt ra một luận cứ rất là “siêu việt”, hay một luận thuyết rất là “siêu triết” nào đó để phản bác hoặc để chối bỏ thì cũng chỉ là tự biểu lộ cái tâm chấp trước, cái tâm ôm giữ, cái tâm ngã mạn, cái tâm vọng động của mình mà thôi. Chớ sự vật, nó tuyệt nhiên bất động. Cái rễ cây nó có đó, nó nằm đó, và nó sẽ vẫn tiếp tục nằm đó, bất động. Tuy bất động, nhưng nó vẫn không hề ngưng biến dịch trong cái lẽ vô thường.

Bây giờ thử đặt vấn đề ngược lại. Hôm đó Roquentin lần xần bước vô công viên và đến ngồi trên băng ghế. Rồi vân vân… Chợt có một người lần xần thứ hai bước vô công viên, dùng ý thức chiếu rọi Roquentin, thấy anh ta chỉ là “chất bột” ù lì, mềm nhão, không có lý do gì để hiện hữu. Rồi buồn nôn và tuyên bố: “Cái anh chàng ngồi kia là phi lý!” Liệu cái tuyên bố này có khiến cho Roquentin trở thành phi lý vĩnh viễn? Hoặc hết lần xần? Hay là không hề hấn gì? Và cũng chẳng hay biết gì hết.

Giả dụ như thay vì xảy ra trong công viên, cảnh đó xảy ra ở tiệm Café de Flore. Anh chàng lần xần nọ bước vô tiệm café, ngắm nghía Sartre ngồi nhâm nhi café nóng, hút ống vố, mũi dí vào sách. Hồi lâu, thấy Sartre chỉ là “chất bột” ù lì ngớ ngẩn, không có lý do hiện hữu (raison d’être), và sự hiện hữu của Sartre cũng chẳng có nghĩa lý gì hết ráo. Bèn tuyên bố lớn tiếng cho hết mọi người trong tiệm café nghe rõ: “Hữu thể Sartre là phi lý!” Liệu Sartre sẽ phản ứng ra sao? Sẽ ngợi khen rối rít cái “ý thức sáng suốt”? Hay là sẽ lập tức phản đối liền tù tì: “Sao? Cái đồ nhảm nhí! Ông là triết gia đây mà lại không có lý do hiện hữu à? Ông đây mà lại là phi lý à?”

Bởi các lẽ đó, khi xét kỹ lại, nếu ta có đặt vấn đề nguyên do và lý do hiện hữu, hoặc vấn đề ý nghĩa hiện hữu của cái rễ cây thì vấn đề đó là cái vấn đề của ta, chớ không phải là vấn đề (yếu tính) của cái rễ cây: cái rễ cây nó không có vấn đề hiện hữu hay bất cứ một vấn đề gì hết ráo. Từ mấy trăm triệu năm nay, từ lúc con người chưa xuất hiện trên trái đất này, dòng họ “rễ cây” nó vẫn mọc như vậy, và nó vẫn ù lì như vậy. Sự thể: Con người chỉ mới xuất hiện từ 5 triệu năm nay. Rồi mãi cho tới đầu thế kỷ 20 này, chợt có một người lần xần bước vô công viên, rồi tình cờ tới ngồi trên băng ghế bắc bên trên cái rễ cây, rồi xao động, rồi buồn nôn, rồi bày đặt ra vấn đề hiện hữu của cái rễ cây. Và tiếp theo đó, dùng ý thức ảo thuật của mình mà dán lên cái rễ cây một ý nghĩa, rồi hô toáng lên là cái rễ cây đã tiếp nhận ý nghĩa của mình ban cho (nhưng thiệt ra thì cái ý nghĩa đó nó không dính và chỉ là lớp sơn hoa hoè bên ngoài). Rồi khóc thét, rồi tuyên bố là “Cái rễ cây nó phi lý”! Hết! Cái sự thể đó nó không ăn nhập gì tới cái rễ cây, và nó cũng không hề hấn gì tới cái rễ cây hết ráo. Cái người lần xần đó cũng giống như một người đang lo sợ, lúc chạng vạng đi vào một bến tàu. Anh ta nhìn thấy những sợi dây luộc ngổn ngang, nhưng vì tâm trí mình đang dao động nên cứ đinh ninh đó là những con rắn độc, rồi hoảng hốt la hét bỏ chạy. Và kể từ đó, cứ tin chắc là cái bến tàu vốn nó đầy rắn độc – tương tự như cái người lần xần tin chắc rằng “cái rễ cây phi lý ngay từ trong yếu tính của nó” vậy.

Nói rộng ra, cho dù là cái rễ cây hay bất luận một sự vật nào khác, bất luận một pháp nào khác, bất cứ một hữu thể nào khác, thì cũng vậy thôi. Cái vấn đề có chăng là ở chỗ thường khi chính ta đã bày đặt ra vấn đề. Chính ta đã nguỵ tạo ra vấn đề. Bởi lẽ chính cái tâm của ta đã vọng chấp. Bởi lẽ chính cái tâm của ta đã vọng hiện. Và cũng vì lẽ đó mà niệm niệm sanh khởi. Trí tuệ hay cái tâm của ta là một nhà ảo thuật chuyên môn vọc giỡn ý niệm và quăng bắt chữ nghĩa. Gần cuối cuộc đời mình, Sartre cũng đã phần nào ý thức ra được mình là nạn nhân của chữ nghĩa khi viết Les Mots. Ý niệmchữ nghĩa đối với trí tuệ cũng giống như là những ký hiệu toán học đối với Einstein hoặc Poincaré và những nhà toán học khác. Chúng chỉ là những ký hiệu không có thực thể, không tự có trong Trời đất. Nếu cần, trí tuệ sẽ dùng nguỵ biện để tráo trở chữ nghĩa, và dùng hý luận để bẻ cong ý niệm hầu mê hoặc ta. Một khi ta bị nó mê hoặc rồi, ta sẽ trở thành cuồng tín và lôi kéo kẻ khác vào tròng cho nó mê hoặc theo. Và tin rằng “hữu thể là phi lý”!

Từ chơn không tới hiện hữu

Hiện hữu là một lễ hội, một cuộc vui. Hay ít ra cũng là buồn vui, sướng khổ lẫn lộn. Bởi lẽ đó, khi khám phá ra hiện hữu, lẽ ra ta phải thú vị và vui mừng chớ sao lại buồn nôn và rùng mình ớn lạnh? Có phải vì bởi vọng chấp, vì bởi mê lầm, ta ngỡ ngó thấy phi lý và hư vô lấp ló đằng sau hiện hữu? Tuyên bố rằng hiện hữu, rằng hữu thể là phi lý, phải chăng là ngụ ý rằng lẽ ra hiện hữu, lẽ ra hữu thể không đưọc (quyền) có đó thì mới hữu lý, thì mới hợp lý. Nhưng cái lý ở đây là “cái lý” gì? Và tại sao phải là “cái lý” như vậy mới là hợp lý? Đã nói “hiện hữu”, đã nói “hữu thể”, mà lại cho rằng lẽ ra nó “đừng có đó”, như vậy chẳng phải là nghịch lý lắm sao? Nhưng nếu không có hiện hữu, không có hữu thể thì đâu còn gì nữa để mà bàn, mà luận. Hơn nữa lại là bàn luận cái thuyết về sự hiện hữu?

Jean Vioulac: Ngẫu nhiên là tất cả những gì có thể không hiện hữu, và cũng không có lý do gì để hiện hữu. Nhưng nếu nó không hiện hữu thì làm sao biết được nó là cái gì để mà nói, mà bàn, mà thuyết, mà luận? Luận về cái “không hiện hữu”, luận về cái “không có”, phỏng đặng chăng? Vậy mà vẫn luận, thì luận ra làm sao? Chẳng lẽ cái “không hiện hữu” là nền tảng của luận thuyết về cái “có hiện hữu”. Cái đó, kinh Phật gọi là hý luận. Luận chơi cho vui vậy thôi. Luận chơi cho đỡ buồn vậy thôi. Cũng giống như là hý luận dông dài về ba cái chuyện sừng thỏ lông rùa, rễ mù cây điếc, chó gáy gà sủa, cánh khỉ vảy heo. Hay là hý luận về một cái chuyện hoang tưởng hoa hoè nào khác đó phát xuất từ cái tâm chấp trước vọng hiện của mình mà ra.

Trong khoa thiên văn, thuyết Big Bang cho rằng thoạt tiên có cái vụ nổ (khủng bố?) ban đầu. Rồi kế đó vật chất bị năng lượng của chơn không thúc đẩy tràn ra muôn hướng trở thành vũ trụ. Đó là thuyết lấy cái làm khởi điểm. Cần lưu ý là chơn không tuy rằng không có vật chất mà vẫn có năng lượng. Tuy nhiên, trong khoa thiên văn và vật lý hiện đại, giờ đây có thêm hai thuyết mới về sự sáng tạo của vật chất và vũ trụ lấy cái không làm khởi điểm – nhưng có lẽ không bao giờ chứng minh được một cách cụ thể. Một thuyết cho rằng khởi đầu, trong chơn không (vide) có những sợi dây (cordes) phi vật chất cực nhỏ, không bao giờ có thể thấy được (không tướng?). Không rõ vì lẽ gì, những sợi dây này chợt rung động (vibrations), và tuỳ theo tần số (fréquence) mà phát sinh ra mọi chất trong vũ trụ, cũng giống như sợi dây đờn rung theo 7 tần số khác nhau mà phát ra 7 âm đô, rê, mi, fa, sol, la, si. Vì vậy mà có thể ví vũ trụ như là một hợp tấu khúc vĩ đại. Các sợi dây cấu trúc này có thể là một dạng thức của năng lượng, vì năng lượng có thể biến thành vật chất và ngược lại. Các vật chất do dây “không tướng” tạo ra hợp lại tạo thành thiên thể, trăng sao, ngân hà, vũ trụ. Thuyết kia cho rằng khởi đầu chỉ có chơn không (vide). Rồi không rõ vì lẽ gì bỗng nhiên chơn không chợt dao động (fluctuations) “Maria hỡi ! Linh hồn con ớn lạnh!”, và làm nảy sinh ra nhiều vũ trụ khác nhau. Lạ lùng thay! Có một sự trùng hợp hi hữu: Ngay từ nguyên thủy, trong kinh Phật đã có thuyết “chơn không diệu hữu”: Từ trong chơn không, khi hội đủ nhơn duyên, sẽ xuất hiện những sắc tướng, rồi từ đó mà vạn pháp tương tạo lẫn nhau. Và cũng bởi đó mà chúng sanh trùng trùng duyên khởi, không hề ngừng nghỉ một sát na nào. Vô thủy vô chung. Bất tận…

Ý chính

Tóm lược các ý chính trong phần MỘT:

Tuyên bố sự vật không có nguyên do và lý do hiện hữu là một khẳng định hàm hồ độc đoán.

Bởi cái tâm dao động, vọng chấp và vọng hiện nên nó làm xuất hiện các vấn đề "lý do, ý nghĩa, phi lý"

Đối với sự vật, diễn giải và giải thích của ta là không thiết yếu, nguỵ tạo, có thể sai lầm và tác hại.

Bởi cái tâm phô diễn vốn nó "tự biên, tự diễn" nên nó bày đặt ra các vấn đề "lý do, ý nghĩa, phi lý" để được tự diễn giải lấy một mình như một trò múa rối.

Cái tâm cứ khởi niệm không dứt là để duy trì sự hiện hữu của mình: Cogito ergo sum!

Trong Trời đất, vạn pháp vốn nó Như vậy, không có nghĩa, cũng chẳng vô nghĩa. Ý nghĩa và phi lý phát xuất từ cái tâm trí nhị nguyên của con người.

Ý nghĩa của đời sống, chính là đời sống. Lẽ sống của sống, chính là sống. Lý do để hiện hữu, chính là hiện hữu.

Sự vật vốn tự nó hiển nhiên: Nó là lý do hiện hữu của chính nó, nó là sự thật cho chính nó.

Trí tuệ là một nhà ảo thuật, chuyên môn vọc giỡn ý niệm và quăng bắt chữ nghĩa.

Khi ta đặt cái vấn đề "lý do, ý nghĩa, phi lý" đối với sự vật, thì đó là vấn đề của ta, chớ không phải là vấn đề của sự vật.

Từ chơn không, khi hội đủ nhơn duyên, sẽ xuất hiện các sắc tướng. Và chúng sanh trùng trùng duyên khởi.

Bài 2

"Je comprenais la Nausée, je la possédais"

Sartre

"Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng"

Bát nhã Tâm kinh

Dẫn nhập

Trước khi khai triển bài 2, tưởng cần nhắc lại hai điểm chính đã được phân tích và lý luận ở bài 1/ Phần một:

Thứ nhứt: Theo Sartre: "Hữu thể là sự hiện diện thuần tuý, không nguyên do và không lý do." Theo quan điểm người viết: "Khi sự vật có đó thì nó là một điều hiển nhiên: nó có nguyên do và lý do để có đó. Tuyên bố nó không có nguyên do và lý do để hiện hữu là hàm hồ và độc đoán."

Thứ hai: Theo Sartre: "Ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể là phi lý." Theo quan điểm người viết: "Ý nghĩa và phi lý là hai ý niệm do con người nguỵ tạo ra. Trong Trời Đất, vạn pháp vốn nó như vậy, không có nghĩa, cũng chẳng vô nghĩa."

HAI: Ngẫu nhiên - Tất định / Nhân duyên - Nhân quả

Trước hết, xin nhắc lại trích đoạn của Jean Vioulac (JV) diễn giải các quan niệm của Sartre: "Hữu thể là sự hiện diện thuần tuý (...), không nguyên do và không lý do. Sartre định nghĩa cái tính chất căn bản đó của hữu thể là "ngẫu nhiên" (...) đối chọi với ý niệm "tất định": Ngẫu nhiên là tất cả những gì cũng có thể khác hơn cái nó đang là, tất cả những gì có thể không hiện hữu, và cũng không có lý do gì để hiện hữu. Như vậy, ngay từ trong yếu tính của mình, hữu thể là phi lý."

1. Khoa học nói gì về ngẫu nhiên?

Những cuộc tranh cãi về "ngẫu nhiên" và "tất định" chẳng phải là mới mẻ gì trong nhiều lãnh vực khác nhau: khoa học, triết lý, tâm lý, đạo đức, thần học... Để mở đầu, xin bàn luận trong lãnh vực cụ thể, lãnh vực khoa học, cho nó dễ hiểu. Chẳng hạn các quy luật vật lý, nó có tính cách tất định: nguyên do nầy thì kết quả nầy, nguyên do kia thì kết quả kia, không có gì phải bàn cãi. Rờ điện thì điện giựt. Nếu muốn cãi thì cứ rờ thử đi, ắt biết. Tuy nhiên, một kết quả hay một hiện tượng thường có nhiều nguyên do khác nhau phát xuất từ nhiều nguồn gốc khác nhau, bởi vậy cho nên mới rắc rối cuộc đời. Bàn rộng ra thì nó vô cùng. Vì vậy chỉ xin tóm tắt các quan niệm khoa học gần đây nhứt.

Mở đầu trong toán học, có quan niệm về "xác xuất" (probabilités), đại khái là tính trong bao nhiêu lần thì một hiện tượng có cơ hội xảy ra. Chẳng hạn như lái xe chạy được 100.000 km thì có một tai nạn giao thông. Cho tới một bữa đẹp trời nọ, tai nạn bất thần xảy ra. Vì vậy ta có cảm tưởng là nó ngẫu nhiên. Nhưng theo toán học thì nó tất định - tất định theo cái nghĩa "xác xuất".

Chưa hết. Có khi ngẫu nhiêntất định trộn lộn lẫn nhau nên không thể dứt khoát được. Chẳng hạn, một chuyến xe lửa thường nhựt chạy từ Sài Gòn ra Hà Nội. Điểm phát xuất và điểm đến là tất định. Đường rầy là tất định. Nếu vẫn là chiếc xe lửa đó thì nó tất định. Thế nhưng, hành khách trên xe thì không tất định: nó ngẫu nhiên. Hàng hoá chuyên chở cũng ngẫu nhiên. Nếu xảy ra tai nạn thì tai nạn đó là ngẫu nhiên (nhưng nếu tính theo xác xuất thì nó tất định). Vì vậy, thường khi tiến trình (processus) thì tất định, còn điều kiện thì lại ngẫu nhiên. Tương tự, thai nhi phát triển trong bụng mẹ cũng vậy. Tiến trình phát triển của thai nhi từ một tế bào cho tới đứa trẻ sơ sinh thì tất định. Nhưng điều kiện phát triển của thai nhi trong tử cung thì ngẫu nhiên.

2. Còn tất định thì sao?

Sự phê phán và xếp loại "ngẫu nhiên" hoặc "tất định" tuỳ thuộc vào phương pháp khảo sát và cách diễn giải các dữ kiện. Phương pháp khảo sát có thể là chi tiết hay tổng thể, nhìn xa hay nhìn gần, nhìn cỡ lớn hay nhìn cỡ nhỏ, dụng cụ khảo sát, đo lường, áp dụng khảo sát ngay trong đời thực hay trong phòng thí nghiệm... Việc diễn giải các dữ kiện thường khi lại tuỳ thuộc vào nhãn quan của tác giả: chủ quan hay khách quan, vô tư hay có thành kiến... Lắm lúc trong đầu ta muốn tìm cái gì thì ta sẽ thấy ngay cái đó trong đám dữ kiện loạn xà ngầu. Chẳng hạn như sự sáng tạo của vũ trụ và trái đất: Phe khoa học thì giải thích bằng "Big Bang" và Thuyết tiến hoá (Evolutionnisme), nghĩa là "ngẫu nhiên". Phe Thiên Chúa thì giải thích bằng Thuyết Sáng Tạo (Créationnisme), chủ trương mọi thứ đều do Đấng Sáng Tạo quyết định và tạo tác hết cả. Nó có tính cách "tất định". Mỗi phe đều có lối giải thích và chứng minh riêng của mình. Vì vậy chuyện tranh cãi giữa hai phe "ngẫu nhiên" và "tất định" nó lê thê như là chuyện dài "Nhân Dân Tự Vệ". Đôi lúc nó trở thành hý luận, "chả za nàm thao" cả! Thì thôi, "Bất khả tư nghì", không thể nghĩ bàn được vậy.

Tuy nhiên, nói chung, theo sự quan sát, hiểu biết và tính toán của mình thì hiện nay các khoa học gia nhận thấy rằng chính "ngẫu nhiên" đã chỉ đạo đời sống trên trái đất này và chi phối sự tiến hoá của nó. Một thí dụ: sự chào đời của đứa nhỏ. Trước hết, thí dụ như trong đời sống lứa đôi, cứ 5 năm thì có một đứa nhỏ chào đời. Tính ra có khoảng 60 cái trứng của mẹ và khoảng 100 đến 500 triệu con tinh trùng của cha (tùy theo trên bảo mà dưới nó có nghe hay không) được cung cấp trong thời gian 5 năm này. Cái xác xuất (cơ may) để cho con tinh trùng đó gặp gỡ cái trứng đó để tạo ra đứa nhỏ đó thì nó rất là... phiêu lưu (văn nghệ)! Bởi lẽ đó mà sự thụ thai có tính cách ngẫu nhiên, ngay cả trong trường hợp có sự can thiệp để chọn lựa của con người.

3. Homo "phe ta"

Còn như sự xuất hiện trên địa cầu của giống người hiện đại, homo sapiens, nó cũng có tính cách ngẫu nhiên. Những biến cố xảy ra trên trái đất (động đất, núi lửa, băng tuyết...), điều kiện thời tiết (hạn hán, giông bão...), số lượng thực phẩm kiếm được (rau củ, hoa quả, thú mồi...). Tất cả đều không được định trước, nghĩa là không tất định (trừ phi là theo tín ngưỡng tôn giáo). Nói tóm, thay vì giống homo sapiens, trong những hoàn cảnh khác và điều kiện khác, có thể là giống homo sẽ không bao giờ xuất hiện. Hoặc nếu có đi nữa, thì sẽ là giống homo xyz nào đó sẽ chiếm ưu thế chớ chẳng phải "phe ta". Chẳng hạn như giống homo néandertalensis, cũng một thời nhưng thông minh hơn "phe ta". Thế nhưng, không rõ vì lý do nào đó mà đã tuyệt chủng. Nhường chỗ cho phe ta thừa thắng xông lên và trở thành bạo chúa. Rồi tha hồ mà "quậy" và làm ô nhiễm trái đất như hiện nay. Than ôi! Nếu có một cái giống "homo biết điều" nào đó thắng thế thì dân lành sẽ đỡ khổ biết mấy!

Cho đến sự xuất hiện của muôn loài cũng có tính cách ngẫu nhiên. Đời sống trên trái đất tiến hoá theo hai mô thức: tiệm tiến (từ từ), và đột biến (mutations). Nếu giữ nguyên di sản ADN thì giống nào sinh ra y chang giống nấy. Nhưng đôi khi trong lúc di truyền, ADN bị sao chép sai - giống như làm photocopy mà không được giống hịch như bản chánh. Vì ADN bị sao chép sai nên một giống khác xuất hiện. Và cứ thế... cứ thế... cuối cùng đưa tới tình trạng đa dạng (biodiversité) của đời sống (cho nó đỡ buồn!) như hiện nay. Cái sự kiện "sao chép sai" có tính cách ngẫu nhiên. Khoa học chưa giải thích được minh bạch vì sao. Đại khái, khoa học quan niệm: "Ngẫu nhiên là những gì không thể định trước được". Tuy nhiên, có một điều mà khoa khảo cổ biết chắc là giống primates, tổ tiên chung của giống khỉ và giống người homo đã xuất hiện trên trái đất cách đây khoảng 10 triệu năm. Loài primates sinh ra giống khỉ trước. Sau đó, cách đây khoảng 5 triệu năm, khi sao chép ADN của mình, một loài khỉ vụng về (chimpanzé?) đã lơ đễnh không sao y bản chánh, bởi vậy nên giống người homo mới xuất hiện: ADN của con khỉ chimpanzé và "con khỉ homo" giống nhau tới mức 98%, khoa di truyền đã phân tích kỹ và xác nhận như vậy. Khi biết được điều nầy, con khỉ có "đỉnh cao trí tuệ" (như Hitler chẳng hạn) chắc sẽ giận run cả người. Có biết đâu giống khỉ chimpanzé cũng đang hối hận ngày đêm vì đang bị con cháu mình săn đuổi và diệt chủng khắp nơi trên trái đất. Một gương báo hiếu kỳ lạ, không có trong bộ "Nhị thập tứ hiếu" của Ba Tàu. Đức Khổng Tử mà biết được chắc sẽ buồn năm phút. Ngài sẽ ngửng mặt lên trời khóc ba tiếng cười ba tiếng mà than rằng: "Di hầu nan! Di hầu nan!" "Làm khỉ khó lắm thay! Làm khỉ khó lắm thay!" Tới Hầu VươngTề Thiên đã từng đánh Trời cũng phải khỏ thiết bảng lên đầu mà khóc thét! Mới biết "ham vui một phút, để hận muôn đời!".

4. Khi triết học định nghĩa ngẫu nhiên

Trở lại cái quan niệm của Sartre về hiện hữu và "ngẫu nhiên". Theo Sartre, "Sự hiện diện của hữu thể có tính cách ngẫu nhiên: Hữu thể không có nguyên do, và cũng không có lý do gì để hiện hữu. Hữu thể là phi lý". (Xem trích đoạn dẫn đầu của Bài 1). Nhắc lại cái ý niệm của triết học về "ngẫu nhiên" (theo JV): "Ngẫu nhiên là tất cả những gì cũng có thể khác hơn cái nó đang là, tất cả những gì có thể không hiện hữu, và cũng không có lý do gì để hiện hữu." (Bắt đầu rắc rối cuộc đời! Lần sau xin đại ca làm ơn làm phước "thuyết pháp" giùm cho thiệt là "bình thường... sát mặt đất" cho đàn em nó nhờ. Một cách bình dân: "Muốn nói gì thì nói phứt mẹ nó đi! Bộ hổng được sao? Ở đó mà tả chân tả cẳng hoa lá cành! Ở đó mà "xuyên lá cành trăng lên lều vải"..."

Ý niệm triết học về "ngẫu nhiên" gồm 3 mệnh đề. Thử tìm hiểu từng mệnh đề một cho nó dễ nuốt. Trước hết, sở dĩ có cái vấn đề "ngẫu nhiên" và "phi lý" là do bởi anh chàng Roquentin, một buổi sáng nọ, lần xần bước vô công viên, ngồi lên cái băng ghế (phải gió), và dùng ý thức chiếu rọi cái rễ cây (mắc dịch). Rồi buồn nôn! Vì vậy, nên khảo sát cái trường hợp này (case study!) cho nó cụ thể và dễ thấm nhập (triết học).

5. Rắc rối cuộc đời

Mệnh đề một: "Ngẫu nhiên là tất cả những gì cũng có thể khác hơn cái nó đang là". Hai chữ "có thể" hàm ngụ một giả thuyết, nghĩa là có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Một cách cụ thể, "khác hơn cái nó đang là" có thể diễn đạt như sau: "Thay vì là cái rễ cây, cũng có thể là một cái gì khác hơn là cái rễ cây, một cục đá chẳng hạn". (Nhưng chỉ là có thể thôi chớ cũng chưa chắc, quả thiệt là rắc rối hết cỡ nói!). Tuy nhiên, nói "có thể" là nói cái chuyện trước đó, trước khi cái rễ cây xuất hiện. Một khi nó có đó rồi, một khi nó đang là cái rễ cây, thì không còn có thể nào là một cái gì khác hơn được nữa. Khác hơn làm sao được mà khác? Chẳng lẽ cái rễ cây rùng mình biến thành cục đá (như Tôn Ngộ Không?) Cái ý niệm triết học về "ngẫu nhiên" chỗ nầy có hơi khó hiểu. Hay là ý muốn nói: "Không thể tiên đoán được cái vật sẽ xuất hiện ngay tại chỗ đó là cái rễ cây"? Như vậy, cũng có thể hiểu: "Ngẫu nhiên là tất cả những gì không thể tiên đoán trước được". Chẳng hạn như lúc mở một gói quà sinh nhựt (Ô! Surprise!): Món quà có thể là cái rễ cây, nhưng cũng có thể là cục đá! Tuy nhiên, cho dù là cục đá, hay là cái rễ cây, hoặc là "rong rêu sỏi đá" gì đi chăng nữa thì cũng đều là rất là đáng ngạc nhiên trong một bữa sinh nhựt. "Chơi cái kiểu gì mà kỳ dzậy đại ca? Làm cho em nhỏ thất dzọng wá chời!"

6. Ô surprise!

Mệnh đề thứ hai: "Ngẫu nhiên là tất cả những gì có thể không hiện hữu". Cái nầy thì hơi khó đa! Vì hiện hữu thì còn biết được nó là cái gì (là cái rễ cây chẳng hạn), chớ "tất cả những cái có thể không hiện hữu" thì nó minh mông thiên địa, rộng dài mút chỉ cà tha, biết nói làm sao được mà nói (giống như nói tràng giang đại hải về những cái chuyện "không hiện hữu" như sừng thỏ lông rùa, cẳng xoài chưn rắn, cánh khỉ vảy heo, rễ mù cây điếc...) Nói cho tới sáng, nói từ năm này sang năm khác cũng không hết được những chuyện "không hiện hữu". Hơn nữa, chẳng những "không hiện hữu" mà lại còn là "có thể". (Có hiện hữu hay không hiện hữu thì nói phứt mẹ nó đi cho người ta nhờ!) Lại phải tả chưn tả cẳng một cách cụ thể: Mở gói quà sinh nhựt ra (Ô! Surprise!). Thay vì còn có được cái rễ cây (an ủi), đằng này (có thể) không có một cái gì hết ráo! Ngay tới một cục đá (chọi chim) cũng không có. Surprise totale! Ngạc nhiên toàn diện! Bật ngửa! ("Làm sao em biết cục đá không đau?" "Đau bỏ mẹ chớ ở đó mà không đau!").

7. Cũng tại cái định nghĩa

Mệnh đề thứ ba: "Ngẫu nhiên là (cũng) không có lý do gì để hiện hữu"! Xin nhấn mạnh đây chỉ là một định nghĩa. Thường khi định nghĩa phát xuất từ chủ quan, không có giải thích. Vì vậy định nghĩa nào cũng có tính cách giản lượcđộc đoán. Định nghĩa như vừa nói đương nhiên tước đoạt quyền hiện hữu của sự vật. Ở đây, Sartre đã dùng định nghĩa của mình như một cái tiểu xảo (astuce) trong lập luận nhằm đi tới cái điều mà mình muốn chứng minh, mà mình muốn kết luận: "Hữu thể là phi lý, ngay từ trong yếu tính của nó".

Thoạt tiên, theo Sartre, đặc tính căn bản của hữu thể là "ngẫu nhiên". Kế đến, dựa trên cái định nghĩa của mình ("ngẫu nhiên" là không có lý do gì để hiện hữu), Sartre suy ra: "Hữu thể không có ý nghĩa, hữu thể vô nghĩa" (vì lẽ nó "ngẫu nhiên" nên nó không có lý do gì để có đó. Nó có đó là vô nghĩa! Lô gíc?). Rồi từ cái vòng "vô nghĩa" này mà đi tới cái kết luận "phi lý" chỉ có một bước. "Tự biên tự diễn" một cách ngoạn mục. Lô gíc không chê vào đâu được. Lẽ ra không cần phải kết luận như vậy. Nó quá thừa!

Tuy nhiên, nếu phản bác và chỉ cho thấy cái định nghĩa "Ngẫu nhiên là không có lý do hiện hữu" tự nó quả thiệt là ngớ ngẩn và sai bét thì cái kết luận "Hữu thể là phi lý" nó cũng ngớ ngẩn và sai bét như vậy thôi.

Sự vật có đó. Nhưng Sartre tuyên bố: "Nó có đó một cách ngẫu nhiên. Do đó nó không có lý do để hiện hữu. Vậy nó phi lý". Giả thử như sau khi ta tuyên bố nó "không có lý do để hiện hữu", bỗng nhiên sự vật xét lại và đâm ra hổ thẹn, bèn bẽn lẽn rón rén rút lui rồi biến mất, không thèm hiện hữu nữa. Một cách nào đó: hiện hữu là phi lý, không hiện hữu là có lý (có ý nghĩa). Cái rễ cây hiện hữu là phi lý. Cái rễ cây không hiện hữu là có ý nghĩa. Nhưng "cái gì" có ý nghĩa? Cái rễ cây biến mất rồi, làm sao "nó" nhận cái ý nghĩa cho được? Nhưng mà bàn chơi cho vui vậy thôi. Vì nếu tất cả mọi hữu thể đều không có "lý do hiện hữu", và nếu theo đúng cái logique đó, tất cả mọi hữu thể đều không hiện hữu, kể cả Sartre, thì đâu còn có gì, và cũng đâu còn có ai để mà nói mà bàn cái khỉ mốc gì nữa. Và bàn để ai nghe? Chẳng lẽ nói chuyện với "đầu gối"? Mà khi đó cũng chẳng còn cái "đầu gối" để mà trò chuyện, vân vân… Xin thỉnh ý các bậc cao kiến. Thôi thôi! Đừng có hý luận nữa. Nhảm!

Cái vấn đề "không có lý do hiện hữu" đã được bàn cãi sâu rộng trong bài 1/ Phần Một. Vấn đề này và ý niệm "ngẫu nhiên" cũng đã được phân tích và lý luận nhân cuộc thám hiểm của Christophe Colomb đi tìm Ấn Độ, mà kết quả lại là khám phá ra Châu Mỹ.

Theo Sartre, "ngẫu nhiên" (contingence) là một đặc tánh (caractéristique) căn bản của hữu thể, cái đặc tánh "không có lý do để hiện hữu". Cái đặc tánh này thuộc về bản chất (nature) của hữu thể. Trong khi đó, theo cách giải thích và cách hiểu của khoa học thì "ngẫu nhiên" chỉ là "cách thức" vận hành (mode opératoire) của sự việc đưa tới một kết quả: "Hữu thể có đó. Nó hiện hữu". Hỏi: "Nó có đó như thế nào?" Đáp: "Nó có đó một cách ngẫu nhiên, không thể đoán trước được". Nhưng "không thể đoán trước được" không có nghĩa là "không có nguyên do và không có lý do".

8. Chàng và nàng: “Love story”

Trở lại các ví dụ ban đầu về “ngẫu nhiên” và “tất định”. Chẳng hạn sự kết thai của hài nhi. Một cách cụ thể, cái nguyên do: chàng và nàng (hoặc theo Lão Tử: âm và dương). Lý do: có thể hôm đó, nhân dịp sinh nhựt hôn lễ, chàng tặng cho nàng một chiếc nhẫn ngọc thạch. Nàng cảm động nên “thưởng” công cho chàng đã lặn suối trèo non, vất vả làm overtime để gom được món tiền lớn mua chiếc nhẫn quý. Rồi lần đó, trong bóng đêm, con tinh trùng đó đã đột nhập cái trứng đó, kết thai thành đứa nhỏ đó. Sự kiện này, theo khoa học, nó có tính cách “ngẫu nhiên”, không thể đoán trước được. Tuy ngẫu nhiên, nhưng mà nó có nguyên do và lý do của nó như đã phân tích. Có điều là ta không thể đoán trước được, thế thôi. Theo Sartre, sự kết thai đã đưa tới sự hiện hữu của đứa nhỏ. Nhưng sự hiện hữu của đứa nhỏ tự bản chất nó là “ngẫu nhiên”, vì thế nó không có lý do gì để hiện hữu (theo định nghĩa). Tuy nhiên, một điều rất hiển nhiên, không thể nào phủ nhận được (ngoại trừ dùng ngụy biện hay “tiểu xảo”): Đứa nhỏ có đó. Nhưng Sartre nhứt định là nó không có lý do để có đó. Sartre từ chối, Sartre tước đoạt quyền hiện hữu của nó. Tại sao? Tại cái “định nghĩa”. Như vậy, quan niệm và định nghĩa của Sartre về “ngẫu nhiên” như vừa nói có hợp lý lắm chăng? Hay là nó có tính cách hàm hồđộc đoán, mang nặng cảm tính. Hoặc nói xa hơn nữa, nó có dụng ý: đi tới kết luận “Hữu thể là phi lý”. Như vậy, ngẫu nhiên, và hệ quả của nó là phi lý, đã sai lầm ngay từ trong định nghĩa. Như ta thấy, mặc dù đều là “ngẫu nhiên”, nhưng khoa học và triết học đã đi tới hai cách diễn giải và hai cách nhận định hoàn toàn khác biệt nhau, nếu không muốn nói là đối nghịch. Theo khoa học: ngẫu nhiên là không đoán trước được, nhưng nó có nguyên do và có lý do để xảy ra, nó có lý do để có đó, nó có lý do để hiện hữu. Theo triết học/ Sartre: ngẫu nhiên là không có lý do để hiện hữu, tại vì đó là cái định nghĩa. Tuy nhiên, chớ nên quên rằng phủ nhận hiện hữu cũng mặc nhiên là đã công nhận hiện hữu: Hiện hữu phải có đó rồi thì sau đó mới có thể phủ nhận nó được. Bởi lẽ đó, “phủ nhận hiện hữu” là một việc làm hết sức lẩm cẩm, cũng giống như “con kiến mà kiện củ khoai”!

9. Một thuở bạo chúa lên ngôi

Tương tự, thử phân tích sự “lên ngôi” của homo sapiens, thay vì homo néandertalensis. Một trong những giả thuyết: Góc lệch so với trục quay đã khiến cho trái đất vận chuyển khác hơn khi trước so với mặt trời. Vì lẽ đó, đột nhiên vùng cư ngụ của homo néandertalensis nhận ánh sáng mặt trời ít hơn, trở thành lạnh hơn, và do đó thực phẩm trở nên khan hiếm hơn. Trong khi đó, vùng cư ngụ của homo sapiens trở nên ấm áp hơn vì nhận được nhiều ánh sáng mặt trời hơn. Do đó cây cỏ mọc lên nhiều hơn, rừng rú trở nên rộng lớn hơn, thú mồi sinh sản nhiều hơn, homo sapiens chiếm được ưu thế. Thêm nữa, homo néandertalensis có “văn hoá” và hiền lành hơn. Trong khi đó, homo sapiens thô lậu hơn và hiếu chiến hơn (chằn hơn). Cũng bởi những lý do đó mà homo sapiens đã tiêu diệt homo néandertalensis và “lên ngôi” (Than ôi! để tha hồ mà “quậy”!).

Xin lập lại lý luận cho trường hợp của homo sapiens. Theo khoa học, sự xuất hiện và lên ngôi của homo sapiens có tính cách ngẫu nhiên, không đoán trước được, nhưng nó có nguyên do và lý do để xảy ra như vậy: nó có lý do để có đó, nó có lý do để hiện hữu. Nếu ông cứ nhứt định đặt câu hỏi nhớn: “Nó có đó để làm gì?” thì đó là vấn đề của ông. Thứ đến, phải để cho nó hiện hữu và sống cuộc đời của nó. Phải để cho nó thực hiện những gì mà nó dự tính, thì sau đó mới biết được nó có đó để làm gì, mới biết được cái lý do hiện hữu của nó. Khi đặt câu hỏi nhớn là ông đã đặt cái cày trước con trâu. Và khi tuyên bố ngay từ đầu: “Nó không có lý do để hiện hữu” là ông đã tước đoạt cái quyền sống của nó, ông đã ngăn cản ngay từ đầu, không cho nó chứng minh cái lý do hiện hữu của nó trên đời. Một cách ngớ ngẩn và độc đoán! Theo Sartre thì sự xuất hiện và lên ngôi của homo sapiens cũng có tính cách ngẫu nhiên, nhưng lại không có lý do để hiện hữu, bởi tại cái định nghĩa của “ngẫu nhiên” là “không có lý do để hiện hữu”. Homo sapiens không có lý do gì để hiện hữu. Nó phi lý! Homo sapiens không có lý do gì để lên ngôi. Lên ngôi là phi lý! Homo sapiens hiện hữu “ẩu”! Homo sapiens lên ngôi “ẩu”! Một cách nào đó, là tuyên bố: “Homo sapiens có đó là trái phép (phép gì? ai cho?). Homo sapiens không có quyền lên ngôi (quyền gì? ai cho?)”. Tất cả đều là “ẩu tả”. “Khi không” thằng homo sapiens nó hiện hữu. “Khi không” thằng homo sapiens nó lên ngôi, không có nguyên do, không có lý do gì hết ráo! Đả đảo! Đả đảo! Mời bạo chúa xuống ngôi và biến mất lập tức! Hoan hô cách mạng hiện sinh! Đảng phi lý muôn năm!

10. Rồi gió lạnh gặp hơi nước...

Quan niệm về ngẫu nhiêntất định của khoa học và triết học (Sartre) đã đưa tới hai cách giải thích và nhận định rất khác biệt nhau về sự xuất hiện và sự hiện hữu của sự vật. Nhưng giáo lý đạo Phật quan niệm về vấn đề này ra sao?

Đại để, đạo Phật có hai thuyết Nhân DuyênNhân Quả để giải thích các hiện tượng trong Trời Đất. Nó có tính cách định luật, như những định luật vật lý chẳng hạn. Nhân như là nguyên nhân. Duyên như là cơ duyên. Quả như là hệ quả (hoặc kết quả). Sự diễn giải của người viết về đạo Phật có tính cách thô thiển, nhằm chuyển đạt một cách giản dị các ý chính tới những độc giả “bình thường”, chưa có dịp làm quen với Phật học. Vì vậy sẽ có những sơ hở không tránh được.

Để cho lập luận được dễ hiểu, không gì bằng những ẩn dụ cụ thể. Giả dụ như hơi nước là nhân, khí lạnh là duyên. Nhân gặp duyên kết thành mưa, là quả: hiện tượng mưa xuất hiện. Rồi nhân mưa gặp duyên cực lạnh khiến cho hiện tượng tuyết (quả) xuất hiện. Nếu khi đó có duyên gió lớn thổi tới, sẽ làm xuất hiện quả bão tuyết. Đại khái là như vậy. Nó có vẻ “tất định”. Nhưng Phật giáo không dùng từ ngữ “tất định”, và cũng không dùng “ngẫu nhiên” để mô tả sự vận hành của vạn pháp. Mà chỉ dùng Nhân DuyênNhân Quả.

Như vậy, đối với nhãn quan của Phật giáo, không có pháp nào là không có nguyên nhân (nhân), và không có lý do (duyên) của nó. Pháp nào cũng có lý do để có đó. Không có pháp nào là phi lý. Đồng quan niệm với khoa học, nhưng đối nghịch với triết học Sartre, vốn quan niệm “ngẫu nhiên” và “phi lý” về sự hiện hữu của sự vật. Nhưng luật Nhân Quả không chỉ áp dụng trong lãnh vực vật chất. Nó áp dụng cho cả đời sống vật chất lẫn tinh thần, nói chung. Nó được thể hiện qua các câu ngạn ngữ như: “Gieo gió thì gặt bão”, “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, vân vân... Khi ta làm một hành động tốt thì ta tạo nghiệp tốt, sau này ta sẽ được hưởng lộc tốt. Nếu ta làm một việc ác thì ta tạo nghiệp xấu, sau này ta sẽ gánh chịu hậu quả xấu. Đại khái là như vậy.

11. Bão tố thổi tới từ cánh bướm...

Nhưng trong đời sống và trong Trời Đất, mọi chuyện không xảy ra giản dị như vậy. Không phải chỉ nhân này, duyên này thì là quả này. Nhân kia, duyên kia thì là quả kia. Hầu hết mọi hiện tượng đều có rất nhiều nhân và nhiều duyên khác nhau. Chẳng hạn như mưa xuất hiện do hơi nước gặp lạnh. Nhưng hơi nước được tạo ra bởi nước biển, sức nóng mặt trời, mây bay, gió thổi đưa đẩy tới địa điểm mưa. Hơi lạnh lại do khí quyển trên cao, hàn nhiệt đến từ không gian, từ địa cực, rồi lại mây bay gió thổi... Do đó, khó lòng mà xác định được tất cả các nhân và tất cả các duyên của một hiện tượng. Hơn nữa, khi nhân tạo ra quả, thì quả này đến lượt mình lại trở thành nhân cho quả kế tiếp, rồi cứ thế mà tiếp tục. Có khi quả trở lại tác động lên cái nhân đã sinh ra nó. Thí dụ như con người làm ô nhiễm môi sinh. Môi sinh ô nhiễm trở lại tác hại trên con người, nhưng đồng thời cũng tác hại trên những kẻ vô can, cỏ cây, thảo mộc, và luôn cả những thế hệ kế tiếp. Khi bị tác hại thì nạn nhân sẽ có phản ứng, và do đó lại gieo nhân, lại tạo quả... Nói ra thì nó vô cùng. Bởi lẽ đó, khó lòng mà xác định được đâu là nhân, đâu là duyên, đâu là quả trong một dây chuyền hiện tượng.

Tuy nhiên, trong đạo Phật lại có thêm một thuyết nữa, đó là Thuyết Tương Tuỳ (interdépendance). Theo thuyết này thì tất cả mọi pháp, muôn vật, muôn loài trong Trời Đất đều tương tác, ảnh hưởng và tuỳ thuận lẫn nhau. Một pháp ảnh hưởng trên vạn pháp. Và ngược lại, vạn pháp cũng ảnh hưởng trên một pháp. Chẳng hạn như trong lòng đại dương, tất cả thực vật, san hô, thảo mộc, rong rêu, tôm cá, sò ốc... đều tuỳ thuộc lẫn nhau và nương tựa lẫn nhau để mà sống. Giống này nuôi giống kia, tạo thành một dây chuyền thực phẩm. Con nhỏ nuôi con lớn. Khi con lớn chết đi thì thân xác nó lại nuôi con nhỏ. Một thí dụ khác: Con người làm nóng địa cầu, khiến cho băng tảng địa cực tan chảy. Sự kiện này ảnh hưởng đến khí hậu và địa dư trái đất. Con người và muôn loài thực vật động vật bị thay đổi môi sinh, có thể đi đến tuyệt chủng. Hiện nay, con người đã ý thức được sự tương tuỳ của mọi loài và mọi hiện tượng, nhưng liệu có đủ sáng suốt, đủ trí huệ (sagesse) để mà sống hoà hợp với thiên nhiên chăng?

Thế giới này giống như là một màng nhện vĩ đại, mà mỗi điểm trên mạng lưới là một pháp. Một điểm rung động thì tất cả mạng lưới cũng rung động theo nhiều ít tuỳ theo xa hay gần. Cũng trong nhãn quan này, khoa học có Thuyết Hỗn Mang (théorie du chaos), chủ trương rằng “tất cả” ảnh hưởng trên “tất cả”, “tất cả” đều tương tác lẫn nhau. Do đó không thể ước tính được hết hệ quả của một tác động nào đó. Vì vậy mà sinh ra hỗn mang. Một hệ quả điển hình trong thuyết này: Cái đập cánh của một con bướm ở trời Đông có thể tạo ra một trận cuồng phong ở trời Tây. Đó là để diễn tả cái tác động dây chuyền của nhânquả. Và khoa học đã chứng minh được điều đó (than ôi! Một cách thê thảm!): Bom nguyên tử! Khởi đầu chỉ có một nguyên tử uranium bị con người dùng kỹ thuật để xé ra (fission). Rồi tiếp theo là phản ứng dây chuyền: nguyên tử bị xé đến lượt mình xé hai nguyên tử khác. Rồi hai xé bốn, bốn xé tám... đi tới một vụ nổ nguyên tử tàn độc! Ai nấy đều đã rõ, xin miễn bàn.

12. Cửu Long trôi mãi một dòng...

Sở dĩ có sự khó khăn tới mức “không thể” nào xác định được đâu là nhân, đâu là duyên, đâu là quả là do bởi cái tâm chia chẻ, cái tâm phân biệt của ta. Khởi đầu, tất cả chỉ là Một theo trật tự thiên nhiên của Trời Đất. Con người cho đó là hỗn mang. Để khép Trời Đất vào trật tự của mình cho trí tuệ dễ nhận hiểu, con người phân biệt, chia cắt, đặt tên cho sự vật đã bị mình chia cắt. Do đó mà giả danh xuất hiện. Và cái trật tự của con người dựa trên giả danh đó, chính nó là hỗn mang. Đây chỉ là nhận định của người viết. Nó không nhất thiết phản ảnh vũ trụ quan của Phật giáo.

Một khi cái Một đã bị chia chẻ rồi thì các pháp xuất hiện, có cái nầy khác với cái kia, rồi từ đó mà phát xuất vấn đề “đâu là nhân, đâu là duyên, đâu là quả” và “cái nào sinh ra cái nào”? Vũ trụ là một dòng biến dịch liên tục, vô thủy vô chung, không bao giờ ngừng nghỉ. Không có cái gì sinh ra cái gì hết và cũng không có cái gì bị diệt đi. Vũ trụ không ngừng biến đổi. Vạn pháp trong vũ trụ đều vô thường. Giác quan ta không đủ nhạy cảm để ghi nhận những thay đổi trong từng sát na, vì vậy ta có cảm tưởng các pháp đều cố định: có cái nhà, có cái cột đèn, có cái bàn, có cái ghế, có cái ta... tất cả dường như bất biến. Giả thử như ta trân trối ngó mình trong gương giây này qua giây khác, phút này qua phút khác, giờ này qua giờ khác, ta sẽ không thấy mình từ từ già đi chút nào. Tuy nhiên, nếu có một người bạn tình cờ gặp lại ta sau 10 năm, bạn ta chắc chắn sẽ thốt kêu: “Ồ! Sao bây giờ mầy đổi khác quá!” Nghĩa là già hơn, mập hơn, ốm hơn, khỏe mạnh hơn, bết bát hơn...

Lúc từng lúc, ta nhìn ngó quanh ta và ghi nhận (một cách lơ đãng). Sự ghi nhận đó cũng giống như là “ảnh chụp có liền” (kiểu polaroide) trước một cảnh vật, nó chỉ “đúng cho lúc đó”, nó như là một bằng chứng để làm kỷ niệm sau này. Trong đời sống hằng ngày, trí tuệ của ta, ý thức của ta cũng hoạt động như là một cái máy chụp ảnh “lấy liền” vậy thôi. Nó không ngừng bám chặt vào những giả tướng mà nó đinh ninh là không thay đổi. Bởi lẽ đó, khi ta mở miệng nói về một điều gì đó thì trên lý thuyết, nó đã sai rồi. Vì trong khi ta nói, cái điều đó hoặc cái vật đó đã biến đổi thành một cái gì khác, một vật gì khác, dù sự biến đổi rất là tiểu ly.

Nói về bất sinh bất diệt, lấy thí dụ như nước của con sông Cửu Long. Trên dòng Cửu Long, nước của khúc sông Tây Tạng không sinh ra nước của khúc sông Trung Quốc, nước sông Trung Quốc không sinh ra nước sông Ai Lao, nước sông Ai Lao không sinh ra nước sông Cao Miên, nước sông Cao Miên không sinh ra nước sông Việt Nam. Không thể nói nước khúc sông này sinh ra nước khúc sông kia, mà chỉ có thể nói nước khúc sông này biến đổi thành nước khúc sông kia. Rồi sông Cửu Long đổ ra chín cửa biển Thái Bình. Nước biển bốc hơi. Gió đẩy hơi nước, gặp lạnh thành mưa, mưa xuống núi cao Tây Tạng, từ đó phát nguồn sông Cửu Long. Rồi cứ thế mà luân lưu. Như vậy, không có cái gì sinh ra cái gì hết. Và cũng chẳng có cái gì bị mất đi. Chỉ có sự biến dịch của các hiện tượng.

Nói nhân, nói duyên, nói quả là dựa trên cái nhìn phân biệt của thế gian, là dựa trên cái giả danh mà nói. Chớ trong Trời Đất làm gì có sông nào mang tên gì và chảy qua một quốc gia nào đó mang một cái tên chi chi đó. Mọi tên sông, mọi tên quốc gia đều là do con người đặt ra. Do đó đều là giả danh. Một khi đã lột bỏ cái giả danh rồi muốn nói nhân quả, mới biết nói ra làm sao?

13. Khi mặt nạ đã rớt...

Đại dương cũng vậy. Lấy cái trí phân biệt mà ngó thì thấy có xao động không ngừng, có sóng lớn sóng nhỏ, chỗ cao, chỗ thấp, có khói sóng, có bụi nước... Nhưng nếu nhìn đại dương như là Một, không có những cái giả danh tách biệt đang xao động kia, thì thử hỏi làm sao biết được, làm sao nói được giọt nước nào xô đẩy giọt nước nào? Đâu là nhân? Đâu là quả? Tuy nhiên luận là luận như vậy thôi, chớ trong đời sống thường nhựt, không có phân biệt thì không thể sống chung với nhau được. Thí dụ như một bữa nọ, vì không phân biệt, ta bèn cầm nhầm bàn tay ngọc ngà của cô vợ đẹp thằng hàng xóm! Phân biệt, nhưng ý thức rằng sự phân biệt này chỉ có tính cách giả tạo, tạm bợ. Và nhờ đó mà bớt đi được phần nào mê lầm. Ta không còn chấp chặt khư khư là mỗi pháp đều có tướng riêng, đều có tánh riêng. Và TA cũng có một cái “Ngã” bự xộn riêng biệt mà ta bám chặt, binh vực và bảo vệ chết bỏ. Mới biết vì sao trong thế giới con người cứ chiến tranh triền miên: rớ tới cái Ngã của TA là phải bước qua xác chết của TA. Hoặc như bạo chúa, thổi cái Ngã của TA phình lớn đè lên mọi người và bắt mọi người phải sụp lạy cái “Ngã mạn” của mình.

Vạn pháp đều có “tướng không”, và vạn pháp đều vô thường. Hiểu được như vậy thì tránh đi phần nào những hành động tạo ra khổ đau cho người khác, và cho ngay cả chính mình. Do mê lầmcuồng tín.

14. Ý chính

Tóm lược các ý chính trong phần Hai:

Khoa họcPhật giáo đồng quan điểm là mọi vật, mọi hiện tượng đều có nguyên do và lý do để xuất hiện và hiện hữu của nó.

Định nghĩa: “ngẫu nhiên là không có lý do hiện hữu”, và hệ quả của nó: “hữu thể là phi lý” đã sai lầm ngay từ trong định nghĩa.

Tuyên bố: “Hữu thể là phi lý. Hữu thể không có lý do để hiện hữu” là cướp đoạt ngay từ đầu quyền hiện hữu và quyền sống của hữu thể. Là ngăn cản không cho nó chứng minh cái lý do hiện hữu của nó qua đời sống mà chỉ một mình nó mới có thể thực hiện được.

Trong vũ trụ, tất cả mọi pháp đều tương tuỳ lẫn nhau.

Vũ trụ là một dòng biến dịch vô thuỷ vô chung. Không có cái gì sinh ra cái gì hết, và cũng không có cái gì bị diệt đi: Bất sinh bất diệt là tánh của vạn pháp.

Tất cả vũ trụ là “Toàn Thể” không phân biệt. Con người phân biệt, chia cắt và đặt những cái tên giả cho sự vật. Và cái thế giới dựa trên giả danh đó, chính nó là hỗn mang.

Một khi lột bỏ cái giả danh rồi thì không thể nói nhân nói duyên, nói nhân nói quả. Nói nhân duyên, nói nhân quả là còn ở trong vòng đối đãi, nhị nguyên.

(Đón đọc bài 3: “Être en soi” – “Être pour soi” / Ý thức - Sắc không - Tướng không – Tánh không)

Bagnolet, ngoại ô Paris, tháng Năm 2008

Bài 3

“Je comprenais la Nausée, je la possédais”

J.P. Sartre

“Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng”

Bát nhã Tâm kinh

La nausée là quyển tiểu thuyết triết lý mà JP. Sartre viết về kinh nghiệm Buồn nôn của mình khi thình lình phát hiện ra sự hiện hữu của sự vật trong một công viên. Từ kinh nghiệm “buồn nôn” này, Sartre nghiền ngẫm về hiện hữu và viết ra quyển đại luận (essai) L’Etre et le Néant, đặt nền tảng cho Thuyết Hiện sinh (Existentialisme).

Tiểu luận này bàn về các ý niệm chính trong tư tưởng của Sartre. Tiểu luận chia làm ba bài, mỗi bài đề cập một đề tài riêng biệt:

Bài 1: Lý do hiện hữu – Ý nghĩa – Phi lý / Vọng chấp – Hý luận

Bài 2: Ngẫu nhiên – Tất định / Nhân duyên – Nhân quả

Bài 3: “Être en soi” – “Être pour soi” – Ý thức / Sắc và Không – “Tướng không” – “Tánh không”

BA: “Être en soi” – “Être pour soi” – Ý thức / Sắc Không – Tướng không – Tánh không

L’Existentialisme, Thuyết Hiện sinh của Sartre bắt nguồn từ kinh nghiệm Buồn nôn. Kinh nghiệm đó được diễn đạt bằng ngôn ngữ triết học qua L’Être et le Néant (Hữu thể và Hư vô). Tác phẩm này đặt nền tảng trên hai ý niệm căn bản là “être en soi” (hữu thể tự ngã) và “être pour soi” (hữu thể quy ngã), có thể hiểu tổng quát là phần vật chất và phần ý thức trong hữu thể (xem bài viết của JV trong Bài 1). Vì dịch ra tiếng Việt có thể làm sai nghĩa của Sartre nên người viết để nguyên các từ ngữ “en soi”“pour soi” trong bài viết này. Để cho việc góp ý kiến và lập luận được cụ thể và minh bạch, người viết xin phiên dịch bản văn sau đây của Jean Vioulac (JV). Bài viết của JV nhằm mục đích giải thích các ý niệm căn bản của Sartre trong tác phẩm "L’Être et le Néant", vốn được viết bằng lối văn bí hiểm và kín mít đặc thù của triết gia lớn này. (C’est barbant! Nói theo kiểu Tây Phú lang sa). Kèm theo bài viết của JV là một trích đoạn của “L’Être et le Néant” để minh chứng cho điều mình diễn giải. Nhưng người viết tự lượng sức mình nên “không dám” dịch ra tiếng Việt sợ làm sai ý của triết gia. Chẳng hạn như câu Sartre viết như sau: “Cela signifie que, par un double mouvement de néantisation, il néantise le questionné par rapport à lui, en le plaçant dans un état neutre, entre l’être et le non-être – et qu’il se néantise lui-même par rapport au questionné en s’arrachant à l’être pour pouvoir sortir de soi la possibilité d’un non-être.” Sartre giải thích như thế này là quá rõ (Nghe rõ, trả lời!). Riêng mình, người viết xin quăng khăn lên đài chịu thua. Có cảm tưởng như mình đang coi phim Hitchcock đoạn mở đầu, và ra về trước khi phim kết thúc. Vị nào liệu mình có đủ nội lực thâm hậu và có đủ khả năng phiên dịch thì xin mời. Please! S’il vous plait. Merci “bổ cu”.

Ý THỨC NHƯ LÀ “HƯ VÔ HÓA”

Chân không (vide) trong hữu thể

"(…) Nếu hữu thể được định nghĩa như là “être en soi”, nghĩa là một tổng thể chặt cứng và kín mít, một hệ thống đan khít của những tiền định và nhân quả thì nó sẽ không thể nào là hữu thể tự do được. Hữu thể là cái nó đang là, và nó không thể là cái gì khác hơn: nó không có một khoảng du di điều động nào so với cái nó đang là. Một tảng đá tự nó là như vậy: nó được ban cho một căn cước, và tất cả những gì có thể xảy đến cho nó được định trước bởi cái bản chất “đá” của nó. Để cho tự do có thể hiện hữu, cần phải có một khoảng cách biệt (écart) so với hữu thể, một hành động vượt khoảng cho phép (nó) tự rút ra và tự giải thoát khỏi cái mạng lưới của tiền định. Và ý thức chính là khoảng cách biệt đó, chính một mình nó tạo ra một vùng của hữu thể độc đáo, khác biệt hẳn với “en soi”: Sartre gọi nó là “pour soi” cái cách thức hiện hữu riêng biệt này của ý thức.

Cái tên gọi khác của tự do

Bằng cách đó, ý thức hành xử (se comporter) ngay trong lòng hữu thể: nó thoát ra khỏi vũng lầy ù lì (opacité) và nặng khối (massivité) của hữu thể bằng cách tạo ra một khoảng trống (espace vide) xung quanh mình, khoảng trống này cho phép nó giữ khoảng cách đối với các sự vật và nhờ đó mà ý thức được chúng. Thế nhưng, đưa chân không (vide) vào hữu thể là đưa vào đó hư vô (néant). Với tư cách là quyền năng đưa chân không vào hữu thể, ý thức là một quyền năng dọn trống (évidement), với tư cách là quyền năng đưa hư vô (vào hữu thể), ý thức là một quyền năng hư vô hoá (néantisation). Do đó, hư vô hoá chính là yếu tính của ý thức.

Và như thế, Sartre bắt đầu tác phẩm L’Être et le Néant (Hữu thể và Hư vô) của mình, bằng cách chỉ cho thấy rằng, để cho con người có thể đặt vấn đề hữu thể, cần phải giả định trước một sự cách biệt so với hữu thể, và vì vậy, cần phải có một “liều” hư vô (dose de néant) nào đó. Bằng cách rời xa hữu thể, ý thức tự giải phóng mình ra khỏi hữu thể, và theo Sartre, hư vô chính là cái tên gọi khác của tự do (…)

L’Être et le Néant hoàn toàn đặt nền tảng trên sự phân biệt giữa hai vùng của hữu thể triệt để đối nghịch nhau, vùng của “être pour soi” nghĩa là vùng của ý thức, và vùng “être en soi” vốn là cái chất bột ù lì và phi lý mà ta chỉ có thể chứng kiến sự hiện diện của nó". Jean Vioulac Một ngòi bút khác nữa diễn giải các ý niệm của Sartre là Michel Contat (MC), một chuyên gia về Sartre, phụ trách việc ấn hành các tác phẩm của triết gia này trong bộ “Bibliothèque de la Pléiade”. Trích đoạn sau đây của bài viết “Lire Sartre aujourd’hui” của MC sẽ làm sáng tỏ thêm (?) quan niệm của Sartre về tự dohư vô hoá:

"(…) Tôi hiện hữu tại vì thế giới hiện hữu, và tại vì tôi ý thức về điều đó, nhưng tôi cũng ý thức rằng tôi không phải là nó, tôi có một quyền lực mà nó không có, quyền lực tưởng tượng những gì không hiện hữu. Quyền lực đó, Sartre gọi nó là sự hư vô hoá: con người là hữu thể xuyên qua nó hư vô đến với thế giới. “Tôi tìm Pierre, bạn tôi, tại quán Café de Flore, nhưng hắn ta không có đó, tôi hư vô hoá cả tiệm café để được thấy hắn xuất hiện, hắn ta, Pierre; tôi chỉ thấy sự vắng mặt của hắn: tôi tưởng tượng hắn đang ở một nơi khác, cái trò phù thủy này (sorcellerie) chính nó là tự do của tôi". Michel Contat

KHAI TRIỂN QUAN NIỆM CỦA SARTRE

Coi chừng bị hư-vô-hoá

Trước khi luận bàn, hãy thử động não cho tợn lên và tưởng tượng… tưởng tượng… để theo cho kịp Sartre: “Tôi đi tìm Pierre, bạn tôi, trên hè phố. Tôi chỉ thấy sự vắng mặt của hắn. Để được thấy hắn xuất hiện, tôi hư vô hoá tất cả đường phố. Cái trò phù thủy này, chính nó là tự do của tôi: cái tự do… cụng đầu vào cột đèn (vốn đã bị tôi hư vô hoá)! Và gã phù thủy gà mờ té ngửa trên vỉa hè! Khóc thét! Cái đỉnh cao trí tuệ u lên liền một cục lớn. Và cũng quê (rất) lớn một cục!” Dĩ nhiên, cái câu chuyện “tìm Pierre trên hè phố” chỉ là chuyện (khoa học) giả tưởng. Nhưng cái chuyện này là có thiệt: nửa thế kỷ sau cái thời điểm lịch sử “Sartre hư vô hoá” tiệm Café de Flore, tuần qua người viết có dịp dạo chơi ở khu Saint-Germain-des-Prés. May quá! Thấy cái tiệm café khét tiếng này vẫn hãy còn nguyên vẹn đó (hú hồn!). Tuy nhiên, rất tiếc là nhà triết gia nhớn không còn ngồi đó nhâm nhi café và hút ống vố nữa (có lẽ đã bị ông chủ tiệm café hư vô hoá để trả thù rồi chăng?) Thêm một điều “théc méc” khác nữa: Trong cái hoạt động “hư vô hoá” có tính cách tiểu công nghệ của mình, Sartre lấy cái “hư vô” từ đâu, hay được ai cung cấp? Thượng đế chăng? Hay là cái hư vô ex nihilo? Thứ đến, Sartre cứ nói “hư vô hoá” mà không nói rõ là hư vô hoá cái gì? Và sau khi bị hư vô hoá thì cái gì đó nó có bị sứt mẻ gì không?

Cung cách “hiu hiu” của Sartre cũng là cái cung cách điển hình của triết học Tây phương: Tôn vinh cái đỉnh cao trí tuệ, tôn vinh cái “Cogito ergo sum!” Coi trí tuệ như là một thứ Thượng Đế toàn năng không bao giờ có thể sai lầm, rất đáng tin cậy. Từ sự thờ phượng trí tuệ đó mà đẻ ra biết bao là lý thuyết, biết bao là chủ nghĩa đưa đến xung đột địa phương và chiến tranh toàn cầu làm điên đảo thế giới. Vẫn chưa tởn! Vẫn hiu hiu cái “ngã mạn” (bự xộn), cái “volonté de puissance” kiểu Nietzsche (đã chết trong nhà thương điên). Và cũng đã có biết bao triết gia Tây phương đã từng bị cái “đỉnh cao trí tuệ” nó hành tới mức phải tự tử chết trong điên loạn. Trước khi tự tử còn vọt tít lên tận trời cao để thích khách Thượng Đế, xong la toáng lên rầm trời “Thượng Đế đã chết!” Rồi đây, sẽ có một đấng triết gia bự xộn le lói khác nữa đột nhiên nổi xung kéo 3 sư đoàn thuỷ quân lục chiến đùng đùng lên đánh Trời (như Tôn Ngộ Không hồi nẫm). Rồi bắt cóc Thượng Đế trói ké đem về giải giao trại tù Guantanamo cho Bush Con khai thác để lấy khẩu cung nhẹ nhàng bằng phương pháp “phân tâm học” của tổ sư Freud. Bravo! Bravo! Thiệt tình!

Thiệt ra thì cái ý niệm “en soi”“pour soi” của Sartre cũng chẳng mới mẻ gì cho lắm so với cặp bài trùng “vật chất”“tinh thần” muôn thuở của cái gút thắt không thể nào tháo gỡ nổi của loài người (mặc dù rất là thông minh nổi tiếng cầm đồ). Có khác chăng là ở chỗ Sartre đặt cho nó một cái tên là lạ “en soi”“pour soi” (cho nó có vẻ mô đẹc?) (Tiếng Tây đã có chữ anchois (mắm cá cơm), nhưng chưa có từ ngữ “en soi”). Và lạ lùng hơn hết là ở chỗ Sartre đã dùng ý thức của mình để giải phẫu hữu thể và nhét cái hư vô vào đó, và gọi nó là tự do (!) “Hư vô” tự nó có nghĩa là “không có gì hết”. “Tự do” là cái “không có gì hết”! Cũng tiện. Đỡ phải vất vả để mang nó theo người, và vất vả để bảo trì nó cho hoàn hảo. Nó cũng không ăn bánh mì, không ăn gạo, không ăn bắp, không uống nước, không uống rượu, không biết khóc không biết la. Do đó, cái “tự do” theo kiểu “hư vô” lúc nào cũng nín khe cho ta hoàn toàn yên ổn để được tự do mà tha hồ “quậy” cho tới bến. Kể ra cái “mẹo vặt” này của Sartre cũng khá đắc dụng.

Hơn nữa, cái ý thức của Sartre nó rất là toàn năng, đủ hết mọi thứ quyền lực. Nó ban ý nghĩa (cho cái rễ cây), nó ban phi lý (cho cuộc đời). Nó hư vô hoá tiệm café, nó hư vô hoá cột đèn (cái nầy thì có hơi bất tiện). Nó chiếu dọi, nó buồn nôn, nó phán xét (cuối cùng!). Nó tuyên bố “Hữu thể không có lý do hiện hữu”. Nó dẹp tiệm hiện hữu, nó dẹp tiệm café ngay từ đầu (chưa kịp mở cửa). Cái ý thức toàn năng (hay là Sartre?) nó cũng giống như đứa nhỏ gái chơi trò búp bê. Em nhỏ ban phát vai trò cho bốn năm con búp bê của mình rồi dựng kịch. Các nhân vật búp bê đều “có quyền” và có “tự do” phát biểu ý kiến y chang như em nhỏ tự ý viết ra trong vở kịch. Và em nhỏ là phát ngôn viên chính thức và có thẩm quyền của toàn ban. Em nhỏ biểu đẹp thì đẹp, biểu xấu thì xấu, biểu trung thành thì trung thành, biểu gian ác thì gian ác. Và trên hết: Em nhỏ ban cho búp bê ý nghĩa thì búp bê có ý nghĩa, ban cho phi lý thì búp bê phi lý, biểu sống thì sống, biểu chết thì chết. Em nhỏ rất là toàn năng. Và em nhỏ rất là hài lòng! Búp bê nào lạng quạng cãi lời thì sẽ bị cái “ý thức búp bê”hư vô hoá (ráng chịu). Sartre thừa biết đó là trò phù thủy (sorcellerie), chữ dùng của Sartre để ám chỉ trò chơi “hư vô hoá” của mình. Nhưng cũng đâu có sao. Sartre dựng lâu đài Existentialisme (Thuyết Hiện sinh) trên các ý niệm cột trụ “être en soi”“être pour soi”. Từ Buồn Nôn đi tới “L’Être et le Néant” tuy có hơi vất vả, nhưng Sartre làm được. Có vất vả chăng là vất vả cho người đọc: “La conscience est un être pour lequel il est dans son être question de son être en tant que cet être implique un être autre que lui” (Ouf!). Đã hiểu rõ cái “conscience”, đã hiểu rõ cái “ý thức” là cái gì chưa?

Con người có bộ não khiến cho nó hiu hiu với cái “ý thức” nuốt hết vũ trụ, với cái “đỉnh cao trí tuệ” chúa tể muôn loài giống như Tề Thiên có “thất thập nhị huyền công” biến hoá khôn lường, vác thiết bảng phom phom lên đánh Trời. Cái bộ não này cho phép con người vượt trội hơn muôn thú là do ở khả năng bày ra trong đầu óc mình những “trình diễn trí tuệ” (représentations mentales), nôm na là tưởng tượng, nhờ đó mà thiết lập kế hoạch và dự phóng rất xa trong tương lai. Hầu hết các loài thú khác đều chỉ sống trong hiện tại: đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì nghỉ, rảnh thì giỡn, vui thì hót, buồn thì đi chỗ khác chơi. Nhưng “sống trong hiện tại” chính là cái mà các thiền sư khổ công tu luyện để đạt tới, và gọi đó là “ngộ” . Muông thú thì đã “ngộ” ngay từ đầu, khỏi cần phải ngồi toạ thiền cho ê đít mỏi lưng gì hết ráo. Sống trong hiện tại, không thấp thỏm lo âu cho tương lai, con thú hoàn toàn tuỳ thuận vào thiên nhiên. Sống trong hiện tại nên con thú không tích trữ đầu cơ, làm giàu, sở hữu để tài sản, để ngôi báu lại cho con, không gây chiến tranh qui mô để giành giựt. Nói tóm, vì chỉ sống trong hiện tại, nên con thú không tham lam, cái căn bịnh đứng đầu sổ của con người.

Cái ưu điểm “đỉnh cao” của con người cũng đồng thời là một tai hoạ: Con người không bao giờ sống trong hiện tại. Con người luôn luôn rượt đuổi theo một cái gì đó: một chuyến bus, một giờ hẹn đào nhí, bồ bịch, ông chủ, lương bổng, sự nghiệp, bảo hiểm, học hành, cái mả đá, lăng tẩm, kim tự tháp, vân vân… Nhưng không sống trong hiện tại thì là sống với cái đã có hoặc sẽ có (chắc không?), sống với những cái mà mình không thể hưởng được liền tức khắc, nghĩa là sống trong hoang tưởng. Chính cái bộ não, chính cái “đỉnh cao” nó khiến cho con người sống thường trực trong hoang tưởng: Văn hoávăn minh của con người đặt nền tảng trên hoang tưởng. Nó chỉ để lại điêu tàn, hoang địa, ô nhiễm, những đống gạch vụn giữa sa mạc, những cái xác ướp.

Bị đày phải tự do

Xuyên qua quyền lực phù thủy “hư vô hoá”, Sartre đã thực hiện được một phép mầu: “Con người là hữu thể xuyên qua nó hư vô đến với thế giới” (nhẹ nhàng, ướt át và lãng mạn như em đến thăm anh một chiều mưa). Sartre mang đến cho thế giới một gói quà sinh nhựt độc đáo. Mở ra (ô! Surprise!): “Hư vô!” Hổng có gì hết! (Làm cho em nhỏ thất dzọng wá chời!) Ấy! Coi vậy chớ hư vô là quý lắm đó nghe: Hư vô là cái tên gọi khác của tự do. Vì vậy, không có “hư vô” là con người kể như bó tay. Bất ly cục cựa! Nhờ có cái “tự do hư vô” đó mà con người mới có quyền chọn lựa, và chọn lựa để mà dấn thân (s’engager). Tuy nhiên, có một điều quả thiệt là lạ lùng và vô cùng khó hiểu đối với một người bình thường, có cái logique rất là bình thường (sát mặt đất): Sartre đã khổ công tận dụng phẫu thuật tinh và ly kỳ để nhét “hư vô” vào thế giới, và nhờ đó mà nhọc nhằn lôi ra được cái tự do vô cùng quý giá. “Mừng húm?” Nhưng không! Vì kế đó Sartre lại than thở và kêu trời như bộng: “Chúng ta bị đày phải tự do!” (“Nous sommes condamnés à être libres”) Nghĩ kỹ lại, sao khi không lại đi kiếm “chuyện khó” mà làm? Mệt cầm canh! Mệt dài dài. Như Sisyphe bị đày phải lăn cục đá (mắc dịch!) lên đỉnh núi Hy mã Lạp sơn. Lên tới đỉnh núi, cục đá (mắc dịch) lại đùng đùng rơi xuống. Lại lăn lên… lại rớt xuống… lại lăn lên… Thiệt là bị Trời hành! “Mệt bỏ mẹ!” Rồi bây giờ bỗng nhiên khi không Sartre trổ phép thần thông “hư vô hoá” rồi đày cả thế giới phải lăn cục đá tự do (mắc dịch). Nhưng vốn là “cục đá-hư vô” nên chắc là nó nhẹ hều, chỉ cần lấy một ngón tay mà khều nó cũng lăn cù… mệt nghỉ!

Nhưng giờ đây thử cố gắng nghiêm chỉnh và đặt một câu hỏi rất là thường tình: “Trước khi Sartre mang cái tự do/ hư vô đến cho thế giới, con người có tự do hay không?” Trước đó, con người có cái tự do để chọn lựa, có cái tự do để dấn thân hay không? Con người có bị bó tay bó cẳng, bị bịt miệng, bịt mũi, bị áp đặt hoàn toàn từ đầu đến cuối hay không? Cũng có, phần nào. Bởi lẽ con người không thể sử dụng được hoàn toàn 100% cái tự do lý thuyết: như tự do mua xe Mercedes, tự do lái du thuyền, tự do mua sắm hột xoàn, tự do mời Marylin lên giường để nói chuyện triết lý một cách nghiêm chỉnh, hoặc tự do thương lượng để mua cái Tháp Eiffel, tự do ứng cử tổng thống, vân vân… Nhưng trong đời sống hàng ngày, trước khi được Sartre ban cho cái “tự do hư vô”, con người vẫn sử dụng được ít nhiều cái tự do thực tiễn của mình: như tự do ăn uống (vừa túi tiền), tự do nhậu nhẹt (lade rượu đế ở Xè Gòn), tự do đấu láo (nhứt là ở Hà Lội), tự do dòm lén ngực đàn bà, tự do đi đứng (ngoại trừ người ngồi xe lăn), tự do tới lui (nhà thổ), tự do tụ họp (chợ trời), tự do bầu cử (gian lận)… tuỳ theo bản tánh, tuỳ theo phương tiện, tuỳ theo xứ sở, tuỳ theo chế độ.

Còn dấn thân thì ôi thôi! Nó là một tai hoạ của con người! Chẳng hạn dấn thân để đổ máu cho bộ lạc mình, dấn thân để tàn sát sạch bách kẻ thù của quê hương ta. Dấn thân cho đại ca, dấn thân cho Đảng Ta, liều mình cho Hitler, hy sinh cho Pol Pot, phơi thây cho Mao Trạch Đông. Dấn thân để tử vì đạo cho Thượng Đế, dấn thân để sạt nghiệp vì Nình Bà, dấn thân để đốt tiền cho Las Vegas. Dấn thân để trèo lên tuyệt đỉnh Hy mã Lạp sơn, chờ có cơ hội sút tay té xuống chưn núi cho lòi bảng họng, để được chết có mề đai và ngậm cười dài dài nơi Chín Suối. Ối thôi! Kể làm sao cho hết được những kiểu “zấn thân” ly kỳ của con người! Còn trong lãnh vực chính trị, Sartre đã dấn thân cả đời cho đảng cộng sản Nga, bất chấp chế độ toàn trị chuyên chế, độc tài đẫm máu của Staline. Như vậy là dấn thân một cách “triết lý”? Hay chỉ nôm na là chọn đảng, là theo phe, là xả thân mù quáng, là liều mạng điên khùng, là “phóng lao phải theo lao”? Là cuồng tín, nói cho gọn. Là cuồng tín, bởi lẽ không có từ ngữ nào khác đúng hơn. Là cuồng tín, bởi lẽ nó đích thực là cuồng tín! Có vặn vẹo chữ nghĩa, có bóp méo ý niệm, có tung ra cái “mẹo vặt”, có uốn ba tấc lưỡi cũng chỉ là ngụy biện mà thôi. Ý thức! Ôi cái “ý thức xa lông”! Cái ý thức trí thức… trí ngủ!

Hư vô đẻ ra ý thức

Nhưng thử bình tĩnh để tìm hiểu vì lẽ gì mà Sartre tôn vinh cái ý thức tới mức gần như là bái vật (fétichisme). Vì lẽ gì mà Sartre coi nó như một ngọn đèn pha thiêng liêng, thông minh sáng suốt tột bực, tới mức gần như nó không bao giờ có thể lầm lẫn được – hay ít ra, đó là cái ý thức của Sartre. Đọc lại cái ý niệm của Sartre về ý thức (theo JV):

“Để cho tự do có thể hiện hữu, cần phải có một khoảng cách biệt (écart) so với hữu thể, một hành động vượt khoảng cho phép nó tự rút ra và tự giải thoát khỏi cái mạng lưới của tiền định. Và ý thức chính là khoảng cách biệt đó, chính một mình nó tạo ra một vùng của hữu thể độc đáo, khác biệt hẳn với “en soi”: Sartre gọi nó là “pour soi”, cái cách thức hiện hữu riêng biệt này của ý thức”.

Ý chính: Hữu thể có 2 phần: phần “en soi” (hiểu là vật chất), và một khoảng “cách biệt” (écart) gọi là “pour soi” và chính nó là ý thức (có nên hiểu là tinh thần?)

Đọc tiếp: “Bằng cách đó, ý thức hành xử ngay trong lòng hữu thể: nó thoát ra khỏi vùng lầy ù lì và nặng khối của hữu thể bằng cách tạo ra một khoảng trống (espace vide) xung quanh mình… Thế nhưng, đưa chân không (vide) vào hữu thể là đưa vào đó hư vô (néant)… Với tư cách là một quyền năng đưa hư vô (vào hữu thể), ý thức là một quyền năng (puissance) hư vô hoá (néantisation). Do đó hư vô hoá chính là yếu tính (essence) của ý thức. Và theo Sartre, hư vô chính là cái tên gọi khác của tự do”.

Ý chính: Ý thức tạo ra một khoảng trống (hiểu là chân không). Đưa vào hữu thể, chân không trở thành hư vô (còn gọi là tự do). Và trên hết: ý thức là một quyền năng hư vô hoá (hư vô hoá cái gì thì không thấy nói rõ ở đây).

Phân tích kỹ, ta mới thấy rõ được cái “thủ thuật phù thuỷ” (Càn Khôn Nã Đại Di) của cao thủ võ lâm JP. Sartre: Khởi đầu ý thức tự mình chỉ là một khoảng cách biệt (kể như không có gì hết). Rồi không biết bằng cách nào, ý thức đã đưa chân không vào hữu thể. Rồi sau đó, cũng không biết bằng cách nào, chân không chợt (rùng mình) biến thành hư vô (nghĩa là tuyệt đối không có gì hết!) Tóm tắt: Khởi từ cái “không có gì hết”, ý thức đã trổ nghề “hư vô hoá” chuyên nghiệp của mình để đi tới cái… “tuyệt đối không có gì hết”! Hư vô Terminus! Như vậy, ý thức đã đi đúng đường lối cách mạng Mác-Lê và thực hiện được một cuộc cách mạng vô sản đích thực: Trước cách mạng, ta “ở trần”. Sau cách mạng, ta vẫn “ở trần”, nhưng hơn thế nữa, ta được thêm phép “ở truồng”… cưỡng bách. Cho nó mát. Kể cũng tiện.

Mới biết: “Lao động chưa chắc gì lúc nào cũng vinh quang!” Chỉ có “phù thuỷ” JP. Sartre mới tự nguyện làm nổi cái chuyện “dã tràng xe cát biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì!” Nhưng tự mình vốn đã là “không có gì hết” mà ý thức lại có quyền năng “hư vô hoá” sự vật thì phải tin là phép mầu có thiệt: “Le miracle existe! Si si. Il esiste, vraiment il existe!” Tuy nhiên, nghĩ cho cùng thì cái phép mầu này chỉ có trong đầu của Sartre. Cái khả năng “hư vô hoá” của ý thức chỉ có trong đầu của Sartre. Cái chuyện hư vô hoá tiệm Café de Flore chỉ có trong đầu của Sartre. Từ cái chuyện tưởng tượng trong đầu, Sartre đồn riết ra thành một cái ý niệm (ý thức/hư vô) tưởng như có thiệt! Bravo! Cái chuyện này, tâm lý học gọi là “bịnh hoang tưởng”.

Theo Sartre ý niệm, ý thức chính là cái “pour soi”. Như đã thấy, vẫn theo Sartre, ý thức tự nó “tuyệt đối là không có gì hết”, thì cái “pour soi” (có lẽ?) cũng tuyệt đối là không có gì hết cho đúng với cái logique cartésienne.

Dựa trên nền tảng “en soi” “pour soi” (vốn tuyệt đối là không có gì hết), mà Sartre xây dựng lâu đài L’Être et le Néant và lập thuyết “Existentialisme” thì liệu cái lâu đài đó và cái thuyết đó có bị đe dọa sụp đổ ngay từ đầu? Hay là rốt cuộc, sẽ không còn “Être” nữa mà chỉ còn lại “Néant”. Sẽ không còn Hữu thể nữa, mà chỉ còn lại Hư vô. Hữu Thể đã bỏ Sartre mà ra đi.

Bonjour tristesse! “Buồn ơi! Ta xin chào mi… khi người yêu đã bỏ ta đi…” Ô voa! Ô voa Bế Bì! Bái bai! Bái bai darling! “You say you love me, and then you say good bye!” Buồn năm phút. Nhận định về Sartre và Thuyết Hiện Sinh, nhà nhân chủng học kiêm triết gia Claude Lévi-Strauss đã phát triển: “Hiện sinh là một công trình tự chiêm ngưỡng, trong đó, với ít nhiều ngốc nghếch, con người hiện đại tự giam mình đối diện với chính mình và rồi đâm ra tột khoái (orgasme) với chính mình.” Cũng đâu có xa lạ gì cái tuồng ruột Sartre tự biểu diễn và mê mẩn với cái trò phù thuỷ “hư vô hoá” tiệm café quanh quẩn trong cái “đỉnh cao trí tuệ” của chính mình. Nhưng nhìn kỹ thì thiên hạ vẫn tiếp tục uống expresso xì xụp và ăn croissants ào ào tỉnh bơ trong tiệm Café de Flore (trên nguyên tắc đã bị triết gia phù thủy “hư vô hoá”). “Hư vô hoá” có nghĩa là làm cho “biến mất”, chớ không có cái kiểu nguỵ biện mở ngoặc đóng ngoặc, “mettre le monde entre parenthèses” gì hết ráo. Nếu “hư vô hoá” chỉ là “khép thế giới trong ngoặc đơn” thì tới thằng con nít ke cũng làm được, đợi gì tới phải rước phù thuỷ triết gia! Nói chuyện gì mà thiệt là như giả ngộ! Hết làm phù thuỷ thì đổi sang nghề “Thượng đế” cho nó sướng: Tột khoái (đến xuất tinh?) trong vai kép độc tự biên tự diễn vai trò “Thượng Đế bỏ túi” hiu hiu trên ngôi cao, ban phát ý nghĩa cho muôn loài, cả người chóa loà hào quang ngũ sắc và Ánh sáng Phúc Âm! Và nhứt là rất tự hài lòng, dĩ nhiên “Không có TA thì cả thế giới này sẽ (có chửa) buồn nôn và phi lý (rong rêu sỏi đá) hết... là cái chắc!” Ấy vậy mà khi hay tin sư phụ mình buồn nôn ở bên Tây, phe trí thức (?) trẻ Xè Gòn ta cũng vụt cấn thai ngang xương và kéo nhau ra ngồi cú rũ ở Quán Cái Chùa mà ói mửa cho tới mật xanh!

Khi khảo sát cái ý niệm“ý thức” của Sartre, ta thấy “hư vô” gần như là một ám ảnh không rời của Sartre. Nó cũng giống như một người bị ám ảnh tình dục. Phải giải quyết cho bằng được, kể cả hiếp dâm. Có cảm tưởng Sartre rất kinh sợ cái khối “chất bột” ù lì của “en soi”, coi nó như là một vũng keo lầy có thể nhận chìm ý thức. Vì vậy, Sartre đã cố gắng trổ hết tài mọn của mình và dùng phẫu thuật để “nhét” hư vô vào khối bột đó như là một cái “air bag” chắn ngang giữa “en soi” ù lì và “pour soi” thanh khiết để làm trái độn, hầu ngăn chặn vũng keo “en soi” tràn qua vùng “pour soi” của ý thức: Sartre đã dùng “tiểu xảo-phù thuỷ” để giải quyết nỗi ám ảnh về “hư vô” của mình. Đây chỉ là một giả thuyết. Nó có thể đúng, cũng có thể sai. Nhưng điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là: “Ta có thể tách rời tinh thần ra khỏi vật chất, tách rời ý thức ra khỏi thân xác (như Sartre đã tưởng tượng ra trong đầu) được không?”

Tên phù thủy và cái “air bag”

Trừ phi ta học được 72 phép thần thông biến hoá khôn lường như Tôn Ngộ Không, hoặc luyện được phép “xuất hồn” của ông Đạo Tám (bỏ đi Tám!), ta không thể nào bứt rời ý thức ra khỏi phần vật chất (en soi), vốn là chỗ trụ (support) của nó. Con chim có thể đậu trên cành cây mà hót. Và cũng có thể bay lên khỏi cành cây mà hót. Nhưng ý thức không phải là con chim. Chưa hề thấy một ý thức nào đó rời khỏi chỗ trụ của mình là não óc để được tha hồ mà ngao du sơn thuỷ. Cũng chưa hề thấy một ý thức nào, không cần thân xác, mà đi dạo khơi khơi dọc theo bờ sông Seine, rồi đến ngồi trên băng gỗ để chiêm ngưỡng Nhà thờ Đức Bà. Xong thả bộ tà tà xuống khu Saint-Germain-des-Prés, rồi chui vào tiệm Café de Flore nhâm nhi cái expresso, hút cái ống vố, và bóp trán (?) động não để tìm cách nhét cho bằng được cái hư vô vào trong hữu thể, mặc tình cho em nhỏ rên đau tỉ tê và khóc thét lâm ly “Em chả! Em chả!” Chưa hề thấy một cái ý thức nào khơi khơi như vậy và cũng chưa hề có cái chuyện như vậy trên đời. Nếu có thì đó không phải là ý thức: mà đó là một cô hồn. Mà cô hồn thì không thuộc về cõi người, xin miễn bàn.

Một giai thoại về cô hồn và về linh hồn: Sau khi Christophe Colomb khám phá ra Châu Mỹ, các conquistadors Tây Ban Nha đã đổ bộ thuyền bè súng ống, chở theo các linh mục để ban phép lành cho các conquistadors được yên tâm mà chém giết thổ dân tưng bừng để thôn tính Nam Mỹ. Chém giết thả giàn vì Toà Thánh Vatican đã tuyên bố công khai là thổ dân Nam Mỹ không có linh hồn. Cũng giống như là mèo chuột nên có giết thì cũng giống như là giết mèo chuột vậy thôi. Hoàn toàn vô tội. Dĩ nhiên là thổ dân Nam Mỹ kháng cự kịch liệt với giáo mác thô sơ của mình. Có lần bắt được một linh mục, thổ dân mang cái vị khả kính này xuống sông trấn nước. Và ngồi chờ. Chờ gì? Chờ xem cái linh hồn của linh mục thoát ra khỏi thân xác và bay bổng về trời đoàn tụ với Thượng Đế! Chờ hoài không thấy. Ngâm tiếp vài ngày. Thấy thân xác linh mục cũng rã bèng và thúi tha y chang như là xác của thổ dân. Mới biết, trong thực tế, không có một linh hồn nào có thể tách rời khỏi thân xác một cách hiên ngang không sợ chết. Nếu có, thì điều đó thuộc về tín ngưỡng và tôn giáo.

Thay vì linh hồn, thì ý thức cũng y chang vậy thôi. Có đem trấn nước hữu thể cũng sẽ không thấy cái ý thức nó bay bổng về trời. Có chêm cái “air bag-hư vô” vào cũng không đem tới được một kết quả thiết thực nào hết, trừ phi là trong hoang tưởng. Cái air bag-hư vô không thể nào tách rời “pour soi” ra khỏi “en soi”. Ý thức “hư vô hoá” chỉ là chuyện hoàn toàn hoang tưởng!

Sartre cũng ý thức mình là một tay phù thuỷ. Không phải là phù thuỷ theo cái nghĩa làm ra phép lạ, mà là phù thuỷ ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để trổ phép thần thông. Sartre rất nhiều lần “đại ngôn”, và tin rằng mình chỉ cần đọc lên “thần chú” ngôn ngữ là mọi việc sẽ xảy ra y chang như vậy. Như khấn thần chú “Hữu thể phi lý” thì hữu thể sẽ bắt buộc phải phi lý, khấn thần chú “hư vô hoá” thì tiệm café sẽ biến mất – ít ra là trong tâm trí của Sartre, vân vân… Cái bệnh “phù thuỷ ngôn ngữ” này rất thường thấy trong triết học và văn chương cường điệu, cái kiểu “đâm nổ mặt trời”, “thét vỡ không gian”, “thách thức thần linh”… Con người thường bị ngôn ngữ mê hoặc, bỏ bùa, và tin ở sự mầu nhiệm của ngôn ngữ. Thực ra thì ngôn ngữ (và kể cả ý niệm) chỉ là những qui ước để trao đổi ý kiến, suy tưởng và ngôn ngữ chỉ diễn tả sự vật như là nó xuất hiện trong tri thức của mình.Ngôn ngữ chỉ diễn giải, mô tả sự vật. Như ảnh chụp. Chẳng đúng cũng chẳng sai. Nhưng nó không trung thực là cái chắc. Sự vật “thực sự” là gì và như thế nào, điều đó vĩnh viễn nằm bên ngoài tri giác. Nói thực sự, nhưng định nghĩa thế nào là thực sự. Có lần, một nhà báo yêu cầu Einstein, cha đẻ của Thuyết Tương Đối giải thích được mọi hiện tượng trong Trời Đất, mô tả ngắn gọn vũ trụ là gì. Einstein cầm cục phấn trắng viết trên bảng đen một phương trình dài ngoằn cả thước tây, có đủ thứ ký hiệu toán học phức tạp kỳ bí, và nói “Vũ trụ là như vầy đây!” Nhà báo lại kỳ kèo Einstein giải thích thêm đôi lời cho mọi người dễ hiểu. Einstein: “Tôi không thể nói thêm được gì hết!”

Mới biết, khi đi vào bản thể đích thực của sự vật thì ngôn ngữ không còn thích hợp nữa. Mà ngay cả bản thể, bản chất, bản tánh… cũng chỉ là những ý niệm do con người bày đặt ra, chớ chưa chắc gì sự vật tự nó đã có những thứ lỉnh kỉnh đó. Ngay cả đưa ra cái định nghĩa của bất cứ một sự vật nào đó cũng chưa xong, còn nói gì xa hơn nữa cho mất công. Kinh Phật dạy: “Mọi pháp có tánh không” nghĩa là “hổng có tánh gì hết”, đố ai biết nó là cái gì? Vào khoảng cuối đời mình, Sartre cũng đã nhận thức mình là nạn nhân của chữ nghĩa, của ngôn ngữ trong quyển “Les Mots”. Thay ngôn ngữ bằng biểu tượng hoặc ký hiệu, như mẫu tự braille của người mù, các nốt viết của âm nhạc, đèn chớp tắt của hải quân cũng không thể đi xa hơn được. Cũng chỉ là qui ước. Tương tợ như là lấy mắt mà nhìn thì thấy dáng dấp bên ngoài của người đẹp. Chiếu tia X thì thấy xương tim gan ruột của mỹ nhơn. Chiếu IRM, chiếu scanner thì thấy các vùng não óc, những đoạn cắt ngang của nhũ hoa nàng. Tất cả cũng chỉ là một cách nhìn ngó vậy thôi, chớ chẳng có cách nhìn nào đúng hơn cách nhìn nào. Muốn tìm hiểu người đẹp thiệt sự là “như thế nào” thì chỉ còn một cách duy nhất: Muốn biết viên kẹo nó ngọt như thế nào thì chỉ có nước bỏ nó vô miệng mà ngậm, rồi gật gù… và nín khe. “Ngọt hết cỡ nói!”

Một điều hiển nhiên khác nữa: Nếu không được nối liền với năm giác quan và không được năm giác quan cung cấp cho tin tức và dữ kiện của thế giới bên ngoài, ý thức sẽ bị thui chột, và sẽ không thể nào ý thức được về một cái gì hết ráo. May mắn thay, cái “hư vô” của Sartre nó đã không cắt lìa được “pour soi” ra khỏi “en soi” của triết gia. Bằng không thì ta đã không có được cái luận thuyết (essai) “L’Être et le Néant” để đọc. Và đọc để mà nhức đầu! Cần phải có người diễn giải và nắm tay dắt đi cắt nghĩa từng chút may ra mới hiểu được chút đỉnh (mà cũng chưa chắc!)

Ý THỨC TRONG KHOA HỌC

Khoa thần kinh nói gì về “ý thức?”

Các mối liên hệ giữa ý thức và não óc đã được khoa thần kinh học (neurosciences) nghiên cứu, trắc nghiệm, phân tích, tìm hiểu và nhận định. Trong khoa này, có hai phe đối nghịch nhau. Phe “toàn diện” (holisme) chủ trương rằng sự vận hành của não óc phải được tìm hiểu như là một tổng thể, không thể nào chia cắt được. Phe “định vùng” (localisationnisme) thì tìm cách xác định những vùng não cần thiết cho việc thực hiện một chức năng. Theo quan điểm người viết thì cho dù có định được các “vùng não” thật là chính xác dành cho một chức năng đi nữa, nhưng nếu không có toàn bộ não óc thì các “vùng não” đó trụ ở đâu? Có cái “vùng não” bên trán trái nào đó bay phất phơ trong không gian và điều khiển cho ta phát ngôn (bừa bãi)? Hoặc cái “vùng não” nào đó nằm sâu trong óc của ta, tự nhiên bị ai đó “hư vô hoá”, bèn bay bổng lên trần nhà, rồi từ cao điểm chiến lược nầy mà ra lịnh cho “thằng bé của ta có ý kiến”? Cứ tha hồ mà “thét roi cầu Vỵ ào ào gió thu”: No is no! Abosutely no! Thứ đến, các vùng não đó cũng phải được nối liền với các vùng khác, với các giác quan khác mới nhận được tin tức và dữ kiện để mà điều hành chức năng do mình phụ trách một cách tốt đẹp. Ví dụ: nếu hữu thể bị bịt mắt bắt dê thì cho dù “vùng-não-thấy” có tinh vi và nhạy cảm tới mức nào đi nữa, thì hữu thể cũng sẽ cụng đầu vào cột đèn (bất chấp cái cột đèn đã bị ý thức của ai đó hư vô hoá). Sẽ u đầu một cục lớn… là cái chắc! Không tin cứ tự bịt mắt rồi bước ra vỉa hè mà thử đi, ắt biết liền.

Qua các thí dụ trên đây, ta có thể nói rằng nếu không có “en soi”, và nếu không có cái thế giới bên ngoài, thì cái “pour soi”, cái ý thức sẽ không có cách gì mà hiện hữu cho được. Nói như Husserl: “Ý thức là ý thức về một cái gì đó.” Nếu suy diễn ngược lại, câu này cũng có thể hiểu là nếu không có một cái gì đó để làm đối tượng thì ý thức không thể nào có (hoặc hoạt động) được. Chính cái rễ cây, chính cái “chất bột” ù lì đã ban cho ý thức lý do để hiện hữu. Không có đối tượng, sẽ không có ý thức. Chính cái rễ cây, chính cái “chất bột” ù lì có khả năng hư vô hoá ý thức, trên lý thuyết. Chớ không phải nhân câu nói này của Husserl mà tấn phong cho ý thức một quyền lực toàn năng, và truyền cho sự vật (cái rễ cây, cái cột đèn…) phải đứng xếp hàng làm “cơ” đợi đấng Ý Thức chiếu dọi và ban cho một ý nghĩa mới có được lý do để hiện hữu. Cho dù không có đấng Ý Thức toàn năng (của Sartre?) ban cho lý do hiện hữu (!) thì sự vật cũng vẫn tỉnh bơ mà hiện hữu như thường. Nếu con người không xuất hiện vào phút chót trên địa cầu thì mọi vật, mọi loài vẫn có đó, và có đó từ khuya. “Làm sao biết được?” Điều này vốn nó hiển nhiên: Nếu trái đất, nếu núi sông, nếu thảo mộc, nếu muôn loài, nếu giống homo đã không xuất hiện và không hiện hữu thì liệu có cái thằng homo sapiens sapiens cà chớn với cái “đỉnh cao trí tuệ” hiu hiu chường mặt ra đó như bây giờ hay không? Và liệu có cái đấng triết gia nhớn ra ngồi ở Café de Flore mà “cogito” cho toé khói để rồi cuối cùng tuyên bố: “Hữu thể là phi lý!” (kể cả Sartre) hay không? Thử hỏi ai mới thiệt sự là phi lý đây?

Tuyên bố: “Mọi vật chỉ hiện hữu xuyên qua (nhờ ở) ý thức” (Tout n’existe que par la conscience) chỉ là một cách nói “hoa mỹ” cho nó có vẻ “triết”. Giống như diễn tả “màu mè” một cách hiu hiu rằng: “Mọi vật chỉ hiện hữu nhờ ở ý thức của tôi” (phải hiểu là hiện hữu đối với tôi, dĩ nhiên). Cái gì không lọt được vào “ý thức” hiu hiu của tôi là kể như hổng có! (vẫn đối với tôi, dĩ nhiên). Thì chẳng thà nói phứt mẹ nó là: “Vì tôi dốt nên có rất nhiều thứ tôi không biết”. Chẳng hạn như anh nông dân ở Trèm Trẹm “không ý thức” có cái Tháp Eiffel ở bên Tây. Hoặc giả như anh dân ngu khu đen ở Roumanie “không ý thức” có vụ nổ lò nguyên tử Tchernobyl bên Nga. Dù không biết (ý thức) nhưng rốt cuộc cũng vẫn bị ung thư cuống họng mà chết thẳng cẳng. “Tôi không ý thức” hoặc “tôi không biết” là một lẽ. Còn “Nó vẫn có” là một lẽ khác hẳn. Không thể từ “tôi không biết” hoặc “tôi dốt” mà suy ra là “nó không có” được. Bởi lẽ đó, thay vì nói “tôi không ý thức” thì nói phứt mẹ là “tôi dốt” đi cho nó đỡ mất thời giờ! Mắc cở gì nữa hả triết gia nhớn?

Cái ý thức có toàn năng?

Chẳng những ý thức nó không toàn năng, nó không phù phép hư vô hoá, mà nó cũng chẳng phải là “inoxydable”, nghĩa là đấng “Ý Thức” ngự trên ngôi cao ngất ngưởng, bất biến, không ai rớ tới Ngài được hết. Cái sự thể đấng Ý Thức bị xâm thực và rỉ sét nó nhan nhản trong đời thường: Khi ta quá “xỉn”, khi ta chích choác ma tuý thì cái ý thức của ta bị biến đổi khủng khiếp, có khi đi đến giết người hoặc tự sát. Cái ý thức của ta cũng bị biến dạng hoàn toàn trong những hoàn cảnh cùng cực: Khi ta bị khủng bố, bị đánh đập, bị tra tấn, bị tẩy não, bị rửa óc, bị tai nạn, bị tàn tật, bị thương tích sọ não, bị sốc tâm lý dữ dội.

Nói gần cho dễ hiểu: Ta bị “giựt dây” tâm lý đều đều hằng ngày bởi quảng cáo trên TV. Mà tâm lý và ý thức lại vốn liên hệ với nhau vô cùng mật thiết. Cũng bởi lẽ đó mà cái ý thức của ta về giá trị của sự vật, của hàng hoá được quảng cáo đề cao cũng bị “giựt dây” và nhồi sọ theo. Kết quả: ta ùn ùn chạy đi mua những món hàng được quảng cáo bốc thơm! Đó là nguy hiểm của việc áp dụng các khám phá của khoa thần kinh học vào quảng cáo, tiếp thị và thương mại. Ta có thể “nổi loạn” và phản đối. Thì ta cứ “nổi loạn” tự nhiên, và cứ phản đối tự nhiên. Nhưng sự thể là như thế đó. Hơn nữa, cũng không có luật lệ nào cấm đoán việc áp dụng khoa học thần kinh vào các hoạt động quảng cáo “láo” và kiếm tiền “thấp hèn” đó hết. Cho dù cái ý thức của ta có phép thần thông “hư vô hoá”, nó cũng không dẹp bỏ được cái hoạt động quảng cáo “nhồi sọ” trên TV, hoặc dẹp bỏ được các bảng quảng cáo “ngộp thở” nhan nhản trong thành phố. Hơn thế nữa, cái ý thức bị xâm nhập, bóp méo và tiêm nhiễm của ta nó cũng tự quảng cáo lấy một mình với ta ngay cả trong giấc ngủ. Và cũng có thể là ngay từ lúc ta còn nằm nôi không chừng. Có mà chạy đằng zời! Cho dù ta có chêm được cái “air bag hư vô” vào hữu thể cũng không chận được cú sốc của “bàn tay sắt bọc nhung” của các tay cao thủ võ lâm thuộc môn phái “quảng cáo”. Cái bộ mặt toàn năng của “ý thức hư vô hoá” phen này e cũng phải sặc máu mũi… là cái chắc! Nếu bây giờ Giáo Chủ ta có đây và trổ tuyệt chiêu “Hư Vô-Càn Khôn Đại Nã Di” danh bất hư truyền của chánh phái Hiện Sinh ra để mà hoá giải cái đòn hèn của bọn ma giáo “Quảng Cáo” thì sẽ đỡ khổ cho dân lành biết mấy!

Thôi, giờ đây hãy tạm giã từ các môn phái võ lâm và trở về với lãnh vực khoa học. Như đã nói, các khoa thần kinh gần đây đã thực hiện được nhiều tiến bộ đáng kể. Trí tuệ, ý thức, và tâm linh không còn là lãnh vực chuyên biệt của triết lý và các khoa xã hội học nữa. Nhưng một khi đã đi vào lãnh vực khoa học thì đối tượng khảo cứu nhất định phải cụ thể. Phải có trắc nghiệm cụ thể, đo lường cụ thể, và kết luận cụ thể. Không thể có đòn phép phù thuỷ nhiệm mầu và hư vô hoá phiêu lưu ở đây. Muốn nói gì thì cũng phải có bằng chứng. Bởi lẽ đó, trên nguyên tắc, khoa thần kinh không thể nào trắc nghiệm và đo lường cái ý thức vô hình cho được. Vì vậy, nó đành phải nghiên cứu “chỗ trụ” (support) của ý thức là não bộ. Đành rằng ý thức không phải chỉ là một tổng hợp của các tế bào thần kinh (neurones), nhưng không có tế bào thần kinh thì không thể có ý thức. Cũng giống như cái TV. Cái TV không phải chỉ là một tổng hợp của các mạch điện. Nhưng không có các mạch điện thì không có TV. Điểm khác biệt: các mạch điện tự nó không có tính chất “phát hình”. Nhưng cái TV thì có.

Khi các bộ phận khác nhau được kết hợp đúng theo một mô thức đặc biệt nào đó thì khi đó, sẽ có một tính chất mới xuất hiện từ kết hợp này: khoa học gọi đó là “tính đột hiện” (émergence). Não bộ là một mô thức sinh học đặc biệt của các tế bào não. Khi các tế bào não được kết hợp đúng mô thức thì từ não bộ sẽ nảy sinh một tính chất “đột hiện” hoàn toàn mới lạ: ý thức. Ý thức của con người thuộc hàng ý thức thượng đẳng (conscience supérieure). Nó khác biệt với ý thức của con thú ở chỗ con người ý thức rằng mình có ý thức. Còn con thú thì không biết mình có ý thức, và không phải loại thú nào cũng có ý thức về bản thân mình. Chỉ một số ít loài có ý thức về mình như khỉ, voi, cá nược, két… Sau nhiều cuộc khảo sát và trắc nghiệm công phu, khoa thần kinh đã đi tới những nhận định chính yếu như sau về ý thức:

Trước hết, ý thức được kinh nghiệm hình thành dần dà theo thời gian. Kế đến, ý thức không trụ ở một vùng não nhứt định nào hết, chính sự tác động liên vùng mới là trọng yếu. Thêm một quan niệm và cách nhìn đứng đắn khác nữa về ý thức: Phải suy gẫm và kết luận ý thức như là tiến trình của biện chứng tam giác “não bộ-thân thể-môi sinh” không thể tách rời. Vì thế, ý thức không phải là một vật thể độc lập mà là một tiến trình (processus) chặt chẽ và liên tục. Bởi lẽ đó, ý thức cũng tiến hoá trong dòng thời gian như là đời sống. Qua các nhận định của khoa học thần kinh, nhứt là ở điểm cuối, ta bắt gặp lại thuyết “Vạn vật tương tuỳ” của Phật giáo. Và ta cũng sẽ thấy ở phần sau cái tiến trình biện chứng tam giác của khoa học cũng phù hợp với quan niệm về “ý thức” của Phật giáo (xem mục “Pháp trần”).

Nhắc lại: Sartre ý niệm ý thức như là một vùng “pour soi” (tinh thần) tách biệt với vùng “en soi” (vật chất) trong hữu thể, và ý thức có quyền năng “hư vô hoá”. Đem ý niệm này đối chiếu với những nhận định như vừa nói của khoa học về ý thức thì khó lòng mà chỉ ra được những điểm tương đồng. Trái lại, còn đối nghịch nhau ở chỗ Sartre tách rời ý thức ra khỏi phần vật chất, còn khoa học thì gắn liền ý thức với bộ ba “não bộ-thân thể-môi sinh”.

(Còn 1 kì)

Ý THỨC TRONG PHẬT GIÁO

Có bao nhiêu “thức” trong Phật giáo?

Luận về ý thức, quan điểm của triết lý (Sartre) và của khoa học thần kinh đã được phân tích và đối chiếu: rất là khác biệt nhau. Nhưng về phần mình, Phật giáo nghĩ gì và nói gì về ý thức? Tuy đặt câu hỏi là đặt vậy thôi, nhưng người viết không dám lạm bàn. Bởi lẽ Duy thức học là môn khó khăn nhứt và hóc búa nhứt của Phật học. Để tránh lầm lạc, trước khi trình bày quan điểm riêng của mình, người viết xin trích dẫn lại đây những đoạn giảng giải liên quan đến Bát Nhã Tâm Kinh của hai vị am tường về Phật học, đó là Sa môn Thích Thiện Hoa và Thích Như Điển. Trước hết, để cho việc trình bày các điều giảng giải được mạch lạc, xin nhắc lại đầy các trích đoạn của Bát Nhã Tâm Kinh đã được dẫn ở đầu Bài 1, sau đó sẽ bổ túc thêm phần giảng giải. Sau khi bổ túc, sẽ đem đối chiếu quan niệm của Phật giáo với các quan niệm của triết lý và khoa học.

“Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng hành thức (…) vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới(… ) vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc (…)”

Bản dịch sang tiếng Việt trích đoạn trên của Tâm Kinh và định nghĩa của các từ ngữ sử dụng trong kinh này đã được trình bày trong Bài 1. Người viết xin bổ túc thêm các đoạn giảng giải về nghĩa kinh của Sa Môn Thích Thiện Hoa, và đặc biệt là các điểm liên quan tới ý thức:

Phần giải thích từ ngữ

“Ngũ uẩn”, hay là “năm uẩn” gồm: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Tất cả sự vật trong vũ trụ không ngoài thế giới và chúng sanh. Cõi sống của chúng sanh không ngoài Sắc (vật chất) và Tâm (tinh thần). Sắc tức là sắc uẩn. Tâm tức là bốn uẩn: thọ, tưởng, hành, thức (xem thêm giải thích “Bát Nhã Tâm Kinh”, Bài 1).

Bát Nhã Tâm Kinh nói: “năm uẩn” tức là bên Duy thức nói “94 pháp hữu vi”. Kinh nói “không” hay “không tướng”, tức là bên Duy thức nói “sáu pháp vô vi”.

Tâm Kinh nói “sắc bất dị không” và nói “sắc tức thị không” là nói: “pháp hữu vi (tướng) không khác với pháp vô vi (tánh)”, và nói: “pháp hữu vi tức là pháp vô vi”.

SẮC tức là sắc uẩn. Các vật chất chứa nhóm lại thành ra những hình tướng, như thân thể và cảnh vật, gọi chung là sắc uẩn.

Sắc uẩn gồm năm căn và sáu trần.

Năm căn là: nhãn căn (mắt), nhĩ căn (tai), tỷ căn (mũi), thiệt căn (lưỡi), và thân căn (thân thể).

Sáu trần là: sắc trần (thấy), thanh trần (tiếng), hương trần (mùi), vị trần (vị), xúc trần (thân xác), và pháp trần (ý).

Pháp trần là cảnh giới do ý thức nhận biết, tức là “vô biểu sắc”. Sắc này không biểu lộ ra ngoài, nhưng đối với nội tâm, tức là đối với ý thức, thì nó được nhận biết rõ ràng (Chú thích của người viết: Pháp trần tuy thuộc về cảnh giới trừu tượng (vô biểu sắc, nội tâm, ý thức), nhưng lại nằm trong nhóm “sắc uẩn”, tức là vật chất. Điểm này sẽ được khai triển ở phần sau của bài viết).

THỨC tức là Thức uẩn. Thức nghĩa là hiểu biết phân biệt, có khả năng biến hiện ra các cảnh và phân biệt các cảnh. Thức chia làm 6 loại: Nhãn thức (cái biết của mắt), nhĩ thức (tai), tỷ thức (mũi), thiệt thức (lưỡi), thân thức (thân), và ý thức. Ngoài ra, còn có thêm 2 thức cuối cùng là “mạt-na thức” và “a-lại-da thức”.

Ý thức là cái biết của ý, phân biệt các pháp trần thuộc cảnh giới nội tâm.

Mạt-na thức là cái biết thứ bảy, chấp thức thứ tám làm “ngã” (cái “ta”).

A-lại-da thức là cái biết thứ tám, chứa chủng tử các pháp.

Kinh dạy: “… Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách… Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc”.

Phần giảng giải

KHÔNG tức là “Không tướng (Bát Nhã)” Cái “không” đây không phải là hư không, ngoan không, hay cái “không” đối đãi với cái “có”. Cái “không” đây là bản tánh thanh tịnh không có hình tướng (không tướng hoặc tướng không). Vì nó không sanh diệt, không hư dối nên cũng gọi là “chơn không” hay thật tướng, chân tướng, chơn tánh, chơn tâm, chơn như…

Phật dạy: Chúng sanh vì mê muội bản thể chơn tâm thanh tịnh của mình nên vọng hiện ra thế giới chúng sanh, tức là cảnh giới của chúng ta đang sống đây (cảnh giới đại mộng). Cũng giống như người chiêm bao (tiểu mộng), chúng sanh vọng chấp cảnh trong chiêm bao là cảnh thật nên sanh ra buồn vui, mừng giận…, vì vậy nên gọi là “điên đảo mộng tưởng”.

Nói rõ hơn, tuy đồng bản thể với chơn tâm thanh tịnh, nhưng chúng sanh vì vô minh mà sinh ra mộng tưởng điên đảo, do đó thấy có năm uẩn tức là thế giới của chúng sanh, rồi theo cảnh đại mộng này mà thọ khổ.

Trái lại, Bồ tát là bậc đã giác ngộ (đã thức giấc đại mộng), nên Ngài dùng trí tuệ Bát nhã mà soi thấy cảnh đại mộng này (tức là năm uẩn hay các pháp) đều không có thật, vốn chỉ do tâm vọng chấp mà hiện ra. Do đó, Ngài không còn thọ các nỗi khổ của cảnh đại mộng nầy nữa (độ nhứt thiết khổ ách).

Tóm lại:

Vì chúng sanh còn mê muội, nên từ “tánh không” mà hiện ra “sắc tướng”, bởi vậy mà nói “sắc chẳng khác với không” hoặc “sắc tức là không”

Vì Bồ tát đã giác ngộ nên từ “sắc tướng” quay trở về với “tánh không”, bởi vậy mà nói “không chẳng khác với sắc”, hoặc “không tức là sắc”.

“Ngũ uẩn giai không” có nghĩa “năm uẩn đều không”: Hàng Nhị thừa phá cái “chấp ngã” nhưng còn “chấp pháp”: nghĩa là thấy không có cái “ngã”, nhưng vẫn còn thấy có “năm uẩn”. Với hàng Đại thừa Bồ tát thì ngã và pháp đều bị phá hết, vì vậy mà “ngã” không còn mà “năm uẩn” cũng không.

Kết luận: Nói “ngũ uẩn giai không” tức là nói “thế giới và chúng sanh hay tất cả sự vật trong vũ trụ đều không”. Thích Thiện Hoa

Sắc không / Không sắc

Kinh dạy: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” có nghĩa “có tức là không, không tức là có”. Điều này đối với một người có cái logique Tây Phương thì vô cùng nghịch lý, khó hiểu và cũng khó lòng mà chấp nhận. Để làm sáng tỏ điểm này, người viết xin mượn giải thích và ví dụ sau đây trích từ quyển “Có và Không” (Sein und Nichtsein) của đạo hữu Thích Như Điển:

Tại sao “có tức là không?” Như chúng ta thấy đó, mọi vật tồn tại nơi thế gian đều không có gì chắc thật, luôn luôn thay đổi và luôn luôn biến hoá. Con người chỉ an trụ trong những giây phút ngắn ngủi, rồi quên đi, tưởng rằng chúng “có” thật, nhưng trên thực tế lại là “không”. Tuy rằng không đó, nhưng những vi trần nhỏ li ti, những biến động của gió, của không khí sẽ làm cho từ chỗ không biến thành có, vân vân…

Cho đến sự cảm nhận nơi tâm thức, tư tưởng của mỗi người cũng giống như vậy thôi. Sự tạo tác, sự biến đổi của tâm thức cũng đều như vậy cả. Nghĩa là không có cái gì dừng lại và không có vật gì là không biến đổi. Tâm chúng ta luôn thay đổi và tư tưởng của chúng ta thì niệm niệm sinh diệt. Do vậy mà “có cũng như không, không cũng như có” là thế.

Ví dụ ta đứng trên một bờ hồ, chúng ta thấy thân hình của mình soi bóng xuống dưới mặt nước. Nếu ta tự hỏi: “Đó là ai?” Dĩ nhiên ta sẽ trả lời là “ta”, nhưng trên thực tế không phải là “ta”. Vì đó chỉ là ảnh hiện của cái “ta” mà thôi. Vì lẽ khi sóng dội đến, hay mặt nước bị một hòn sỏi làm gợn sóng thì hình hài kia không phải là của “ta” nữa. Do vậy mà nói “có tức là không”.

Đến câu hỏi thứ hai ta tự đặt ra cho mình: “Vậy thì ai ở dưới mặt nước đó, nếu không phải là “ta”? Như thế đó từ cái “không biến thành có” và từ cái “có lại biến thành không”. Và chính những sự thay đổi này làm cho chúng ta bị phân biệt. Thế rồi bị rơi vào vòng “ngã chấp”“chấp pháp”. Thích Như Điển

(Chú thích: Các chỗ viết đứng là do người viết thêm vào để nhấn mạnh)

Sự vận hành của ý thức

Sau khi trích dẫn các phần giảng giải về Tâm Kinh, thử tìm hiểu quan niệm về “ý thức” của Phật giáo và đối chiếu nó với quan niệm của triết lý và khoa học. Đề tài ý thức không tập trung vào một tiết mục riêng biệt nào mà rải rác đó đây trong phần giảng giải. Trở lại cái “chú thích” của người viết về Pháp trần trong bài giảng của Thích Thiện Hoa.

Pháp trần tuy thuộc về cảnh giới trừu tượng (vô biểu sắc, nội tâm, ý thức), nhưng lại nằm trong nhóm “sắc uẩn”, tức là vật chất. Sắc uẩn bao gồm 5 giác quan và 6 loại cảnh giới được 5 giác quan vật chất và giác quan phi vật chất thứ sáu là ý thức nhận biết. Như vậy cảnh giới vừa có loại vật chất (sắc uẩn), vừa có loại trừu tượng (pháp trần). Pháp trần được định nghĩa như là cảnh giới do ý thức (nội tâm) nhận biết. Như thế đó, “ý thức” là gạch nối giữa ba phần: “cảnh giới (vật chất và phi vật chất) - giác quan (vật chất) - nội tâm (phi vật chất)”. Ý thức là tiến trình của “bộ ba” bất khả phân ly này, nếu thiếu một món thì tiến trình ý thức sẽ bị tê liệt.

Lấy thí dụ như cảnh giới là một cảnh vườn có hoa có bướm. Giác quan là mắt thấy. Não bộ (nội tâm) của người ngắm cảnh là chỗ trụ của ý thức. Nếu không có cảnh hoa bướm thì không có vấn đề thấy cảnh, do đó cũng chẳng có vấn đề ý thức. Nếu có cảnh hoa bướm mà không có mắt thấy thì sẽ không có ý thức (giống như người mù đứng trước vườn hoa). Nếu có cảnh hoa bướm, có mắt thấy mà không có não bộ (nội tâm) để diễn giải thì sẽ không có ý thức. Đó là trường hợp của cái “caméra vidéo” canh chừng. Nó chỉ làm công việc ghi nhận hình ảnh đơn thuần, không có động tác “thấy” đúng nghĩa ở đây. Vì vậy không có vấn đề cái caméra ý thức cảnh giới hoa bướm. Chỉ người canh gác mới thực sự “thấy” hình ảnh được caméra ghi nhận trên màn ảnh rồi diễn giải và ý thức tình trạng an ninh nơi chỗ canh gác. Nghĩa là người canh gác đóng vai não bộ (hoặc nội tâm) để ý thức cảnh giới qua cái caméra.

Như thế đó, trong tiến trình của bộ ba “cảnh giới-giác quan-nội tâm”, nếu thiếu một món thì không thể nào có cái tính chất “đột hiện”ý thức được. Husserl nói: “Ý thức là ý thức về một cái gì đó”. Mệnh đề này chỉ nói về đối tượng của ý thức, nhưng không đề cập tới chủ thể và phương tiện của ý thức. Muốn cho quan niệm về “ý thức” được trọn vẹn, cần phải bổ túc: “Ý thức là ý thức về một cái gì đó, qua một cái gì đó, và bởi một cái gì đó”. Không có một chỗ trống nào cho “hư vô” ở đây. Và ý thức theo quan niệm Phật giáo cũng không có quyền năng “hư vô hoá”. Nó chỉ giúp cho con người hiểu biết thế giới trong đó mình sống và hướng dẫn hành động thích nghi. Như vậy, quan niệm “ý thức” của Phật giáo rất xa lạ so với quan niệm của Sartre. Cái ý thức của Sartre thì toàn năng, le lói và xếp sòng. Còn cái ý thức của chúng sanh trong Phật giáo thì rất thường tình, dễ bị mê lầm và vọng chấp, chấp ngã, chấp pháp, như đã thấy trong phần giảng giải của Thích Thiện Hoa và Thích Như Điển. Chính vì tính chất dễ “mê lầm” này của ý thức mà chúng sanh thọ khổ không dứt.

Nhưng xã hội Âu Mỹ vốn tôn thờ cá nhân chủ nghĩa “Tôi! Tôi! Và Tôi!”, và tôn thờ tự do dưới mọi hình thức (tự do làm, tự do tiêu thụ, tự do ô nhiễm, tự do hưởng lạc, tự do “quậy”…) tới mức gần như vô trách nhiệm, không có bổn phận gì với một ai hết, ngay cả với thế hệ con cháu mình. Trong một xã hội kiểu đó, nói chuyện xoá bỏ cái “ngã chấp” là nói chuyện với người điếc (nói chuyện với đầu gối!). Mặc dù bây giờ nhân loại đang đối đầu với những vấn đề nan giải ngút trời như nạn ô nhiễm, nạn khan hiếm nhiên liệu, khan hiếm thực phẩm, trái đất sốt nóng, thời tiết hỗn loạn… nhưng hình như mọi người chỉ nói hờ một câu cho lương tâm được nhẹ đi chút đỉnh rồi lại tiếp tục lao đầu vào cái chủ nghĩa “Tôi! Tôi! Và Tôi!” Chết sống mặc bây, tiền thầy bỏ túi. “Après moi, le déluge!”

Trở lại cái quan niệm “ý thức” trong khoa học. Như đã nói ở phần trước, khoa thần kinh đã đi tới quan niệm ý thức như là tiến trình của biện chứng tam giác “não bộ-thân thể-môi sinh”, không thể tách rời. Về phần mình, Phật giáo cũng đã nhận thấy ý thức như là kết quả “liên tạo tác” của bộ ba “cảnh giới-giác quan-nội tâm”. Sự trùng hợp giữa hai quan niệm nầy rất là hiển nhiên: môi sinh và cảnh giới, thân thể và giác quan, não bộ và nội tâm. Phật giáo ra đời cách đây hơn 2500 năm. Thời đó chưa có khoa học chính xác, nói chi tới khoa thần kinh học. Phật giáo đã đi tới quan niệm ý thức của mình qua sự phân tích và lập luận bằng trí tuệ. Khoa học đã rút tỉa quan niệm ý thức của mình từ trắc nghiệm và khảo sát (sau Phật giáo 2500) và đã xác nhận quan niệm của Phật giáo.

Cần nói rõ là Phật giáo không đề cao cái “trí tuệ” (esprit) thông thường. Điều mà Phật giáo hướng tới là “Trí Huệ Bát Nhã” (Prajnà, sagesse), một Trí Huệ không bị nhiễm trược, mê lầm và vọng chấp. Còn cái trí tuệ đời thường của con người như hiện nay, theo người viết, nó còn ở trình độ khôn vặt. Một loại trí khôn chỉ nhằm phục vụ cho cá nhân mình và phe đảng mình. Cái trí khôn mà người đời gọi lầm là thông minh này, một mình nó, không giải quyết được gì hết. Nó tạo vấn đề nhiều hơn là giải quyết. Bằng chứng: đối đầu với những vấn đề nan giải do trí “thông minh” tạo ra hiện nay, con người đứng trước ngõ cụt. Vì sao? Vì muốn giải quyết hiệu quả các vấn đề, bên cạnh trí thông minh, con người cần phải có thêm lòng tốt, có thêm thiện tâm. Điều nầy không có gì mới lạ, nhưng nó vẫn đúng. Bởi lẽ đem trí thông minh mà phục vụ cho cái xấu, phục vụ cho lòng ích kỷ, “Tôi! Tôi! Và Tôi!” thì nó trở nên vô cùng nguy hiểm và vô cùng khủng khiếp: Đệ nhứt Thế chiến, Đệ nhị Thế chiến và đe doạ chiến tranh nguyên tử đã và đang chứng minh cho điều đó một cách hùng hồn. Kể từ lúc đời sống xuất hiện trên trái đất cho đến giờ (4 tỉ năm!) đã có nhiều loài bị tuyệt chủng. Nhưng tuyệt chủng vì trái đất biến đổi, môi sinh biến đổi, chớ không do loài bị tuyệt chủng trực tiếp gây ra. Nhưng với con người, loài tự cho rằng mình có “đỉnh cao trí tuệ” thì khác. Nếu chẳng may (?) nó bị tuyệt chủng thì bởi đâu? Có phải là bởi con người tự đưa loài người (và nhiều loài khác) tới tuyệt chủng?

Hiện nay, thay vì đem lòng tốt ra để mà giải quyết các vấn đề, con người lại sử dụng đạo đức giả và đểu ác, cynisme. Tới mức đạo đức giả và đểu ác trở thành lối cư xử bình thường trong mọi lãnh vực: chính trị, xã hội, kinh tế, tài chánh, xã giao, ngoại giao, vân vân. Không cư xử như vậy là người bất thường. Có lẽ người viết nói quá trớn. Hy vọng là như vậy. Tuy nhiên đợi đến bây giờ mới tìm cách giải quyết thực sự các vấn đề của con người, e rằng đã có hơi quá muộn. Cho tới bây giờ, thay vì giải quyết, con người chỉ dời chỗ vấn đề, hoặc thay thế vấn đề này bằng một vấn đề khác, có khi còn lớn hơn. Nhưng thực sự giải quyết thì không!

BUỒN NÔN, SARTRE THƠ THẨN…

Bản chất, “en soi” và “pour soi”

“Buồn nôn, Sartre thơ thẩn trước cổng chùa”, đó là tựa đề của bài viết này. Khi đặt ra cái tiêu đề đó, người viết đã nhận thấy thấp thoáng một vài điều “là lạ” trong kinh nghiệm Buồn Nôn (La Nausée) của Sartre, vốn là một triết gia Tây Phương đặc ruột. Thử trở lại cái kinh nghiệm buồn nôn của Sartre. Nhân vật Roquentin sống kinh nghiệm này không ai khác hơn là Sartre. Sartre đã diễn tả biến chuyển tâm lý và cảm nghĩ của mình khi ngồi trong công viên, đối diện với cái rễ cây như sau:

“Nếu có ai đó hỏi tôi hiện hữu là gì, có lẽ tôi sẽ trả lời một cách thành thật rằng nó chẳng là gì cả, nó chỉ vỏn vẹn là một hình thể trống rỗng ghép lên sự vật từ phía bên ngoài mà không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của sự vật”.

Một biến chuyển gì đó đang xảy ra trong cách cảm nhận thế giới của Sartre về hiện hữu. Nhưng điều gì? Sartre cảm thấy hiện hữu như là “một hình thể trống rỗng ghép lên sự vật từ phía bên ngoài”. Có điều gì đó không ổn. Hiện hữu phải là cái gì tự nó có đó, tự nó là như vậy, cái gì nằm bên trong chớ sao lại nằm bên ngoài? Sartre đã lẫn lộn hiện hữu với cái dáng dấp bên ngoài, cái giả tưởng chăng? Hay là đã lẫn lộn hiện hữu của cái rễ cây với cái tên gọi của nó, cái giả danh? Vì cái giả tướng, cái giả danh chỉ là cái bên ngoài, nó “không làm thay đổi một mảy may nào bản chất của sự vật”. Vì bản chất là cái nằm bên trong. Nhưng cái bản chất phải có thiệt thì mới có thể nói chuyện thay đổi bản chất. Khi nói tới “bản chất của sự vật”, có phải Sartre tin rằng mỗi sự vật đều có một bản chất riêng của mình: cái rễ cây có cái bản chất của cái rễ cây, cái băng ghế có cái bản chất của băng ghế, Sartre có cái bản chất của Sartre?

Nhưng cái rễ cây, nó bắt đầu từ chỗ nào và chấm dứt ở chỗ nào, đâu là giới hạn thực sự của nó? Trọn vẹn cái cây có bản chất riêng. Thân cây, nhánh cây, lá cây, rễ cây…, mỗi phần đều có bản chất riêng? Bản chất của rễ cây liên hệ với bản chất của trọn cây như thế nào? Như vậy, bản chất của sự vật có thiệt chăng? Giả thử trưa nay đem cái rễ cây chặt ra làm 3 khúc, vậy thì mỗi khúc sẽ lại có một bản chất riêng, nghĩa là sẽ có 3 bản chất mới? Bây giờ, nếu đem cái rễ cây đốt thành tro thì cái bản chất của nó có bị cháy theo không? Và ta sẽ có hàng triệu cái bản chất mới cho hàng triệu bụi tro mới? Nếu đem tro khuấy tan trong nước thì cái bản chất của tro nó trở thành cái gì? Như vậy, có cái gì thiệt sự là bản chất riêng của từng sự vật hay không? Chẳng hạn như cái “bản chất rễ cây” là có thiệt? Hoặc là cái “bản chất Sartre” là có thiệt?

Sau này, khi đã nghiền ngẫm, sâu rộng về hiện hữu, Sartre đã bày đặt ra một ý niệm rất là đặc biệt: Hữu thể gồm có 2 vùng hoàn toàn tách biệt nhau bởi “hư vô”. Vùng “en soi” là phần vật chất, và vùng “pour soi” là ý thức của hữu thể. Trở lại trường hợp cái rễ cây: rễ cây cũng là một hữu thể, vậy nó có cái “en soi” và cái “pour soi” (tức là ý thức) của riêng nó hay không? Và ai sẽ là người đem cái hư vô chắn ngang để chia vùng trong cái rễ cây?

“En soi” là phần vật chất, tương đối còn dễ nhận biết. Nhưng còn cái “pour soi”, cái ý thức của cái rễ cây, nó là cái gì? Và cái ý thức rễ cây nó có quyền năng “hư vô hoá” hay không? Hơn nữa, lại còn có cái “bản chất” của rễ cây. Cái bản chất này thuộc về “en soi” hay thuộc về “pour soi”? Hay là (nằm vùng) thuộc về cả 2 vùng?

Thơ thẩn trước cổng chùa

Lại tiếp tục đặt vấn đề “lẩm cẩm”: Nếu bây giờ đem rễ cây chặt ra làm 3 khúc, thì sẽ có 3 cái “en soi” và 3 cái “pour soi” mới? Rồi đem đốt đi, rồi hoà tan tro vào nước, vân vân… Thiệt là nhức cái đầu! Có lẽ vì vậy mà không thấy Sartre bàn về cái vấn đề vạn vật biến thiên này. Nghĩa là bàn về cái lẽ “vô thường” của vạn vật, của vạn pháp. Sartre lý luận như thể là sự vật bị ngưng đọng, bất biến trong dòng thời gian: cái rễ sẽ vẫn muôn đời là cái rễ cây, cái băng ghế muôn đời là cái băng ghế, cây marronnier muôn đời là cây marronnier, Sartre muôn đời là Sartre (dù thời 5 tuổi hay thời 30 tuổi gì cũng vậy), cái “en soi”“pour soi” của Sartre vẫn không thay đổi. Nếu nó thay đổi thì lúc nào Sartre mới là Sartre thực sự? Và khi ta nói “Sartre” thì là Sartre nào mới được? Bởi không nhận được cái lẽ vô thường nên đối với Sartre sự vật nào cũng đều có thực tướng (hình tướng thiệt), có bản chất thiệt, có “en soi” thiệt, có “pour soi” thiệt riêng biệt của mình. Nhưng dưới nhãn quan của Phật Giáo thì sự vật, vạn pháp đều là vô thường và đều là giả tướng, nghĩa là cái hình tướng ta ngó thấy trước mắt là hình tướng giả. Do đó, cái “en soi” theo nghĩa của Sartre cũng là “en soi” giả, cái “pour soi” cũng là “pour soi” giả.

Nếu nghiền ngẫm cho thiệt kỹ và nếu có nhơn duyên đưa tới có lẽ Sartre đã khám phá ra cái lẽ vô thường và cái “tánh không” của vạn vật. Khi đó cái rễ cây (hay sự vật/hữu thể nói chung) sẽ không còn cái tướng giả, không còn cái tên giả, sẽ mất đi hết những thứ lỉnh kỉnh gọi là “bản chất” riêng, “en soi” riêng, “pour soi” riêng. Và cái “hư vô” riêng cũng mất theo luôn, dĩ nhiên (cái này thì quá dễ!) Bởi lẽ Sartre không bước thêm bước nữa nên mới nói “Sartre thơ thẩn trước cổng chùa”. Sao không đẩy cổng mà bước vô chùa hả triết gia? “A di đà Phật! Xin mời”. (Nhắc lại: “Không” là bản tánh thanh tịnh sáng suốt, không có các hình tướng, nên còn gọi là “không tướng” hay “Bát Nhã chơn không”. Các pháp không có tánh riêng của mình. Tánh chung của các pháp là “không”).

Tuy nhiên, trong cái kinh nghiệm “buồn nôn” của mình, Sartre cũng đã tiến đi khá xa trên con đường nhận diện ra chân tướng, nhận diện ra cái tướng thật của sự vật đằng sau cái tướng riêng hư giả:

“Hiện hữu thình lình được vén màn. Chính nó là cái “chất bột” của sự vật, cái rễ cây nầy được nhồi nặn trong chất hiện hữu. Hoặc đúng hơn, cái rễ cây, hàng rào của khu vườn, băng ghế, loại cỏ mọc lơ thơ trên thảm cỏ, tất cả đều tan biến; cái đa dạng của sự vật, tính cá biệt của chúng chỉ là cái dáng dấp bên ngoài, một lớp sơn. Lớp sơn đã tan chảy, chỉ còn lại những khối chất quái dị và mềm nhão, hỗn độn – trần truồng, một sự trần truồng kinh khiếp và tục tĩu”.

“Thiện tai! Thiện tai!” Sartre đã lột được cái lớp vỏ bên ngoài, lột được cái tướng giả của sự vật. Cái tướng riêng có vẻ khác biệt bên ngoài của mỗi sự vật đã biến mất. Mọi vật trở nên cùng một dạng, đồng một tướng. Quá tốt! Nhưng sau khi lột xong, Sartre đã bắt gặp gì bên dưới? Than ôi! Bắt gặp… “những khối chất quái dị, mềm nhão hỗn độn”. Sartre vẫn chưa nhận ra cái tướng thật, cái “tướng không” không phân biệt của sự vật. Tiếc thay! Tiếc thay! Tuy đã nhận ra cái chất hiện hữu chung của sự vật, nhận ra cái “chất bột” của hiện hữu, nền tảng và đồng bản thể, Sartre vẫn còn thấy có khối chất nầy, có khối chất nọ, những khối chất riêng rẽ “quái dị, mềm nhão và hỗn độn”. Do đó, thay vì khám phá ra cái chất sống hiển nhiên và hồn nhiên tràn ngập khắp nơi, cái hiện hữu đồng thể giản dị lan rộng khắp cùng vũ trụ, cái hiện hữu sờ sờ, rạng rỡ, mầu nhiệm, Sartre chỉ thấy được trước mắt mình những khối chất “trần truồng, một sự trần truồng kinh khiếp và tục tĩu”. Khi phát hiện ra được cái “chất bột” của sự vật, cái chất cấu tạo chung của hiện hữu, Sartre đã gần như nắm bắt được cái “tính đồng thể” của sự vật, cái “tướng không”“tánh không” của mọi pháp.

Từ cái “chất bột” của hiện hữu, vũ trụ nặn ra các hình tướng. Xong, thu hồi trở lại. Rồi lại nặn ra các hình tướng khác. Và cứ như thế… Nó giống như ta tháo ráp các lego đơn thể, đồng tính và đồng dạng, tháo hình tướng này, ráp hình tướng khác. Để rồi lại tháo, lại ráp… Bất tận. Vũ trụ cũng giống như một thân thể mà mỗi ngân hà, mỗi lỗ đen, mỗi ngôi sao, mỗi hành tinh, mỗi vẩn thạch, mỗi bụi sao… là não óc, là tim gan, là phèo ruột, là mắt mũi, là răng tóc, là lỗ chưn lông của một thân thể. Tất cả các thiên thể đều đồng một chất, tất cả các bộ phận đều được cấu tạo bởi cùng một loại tế bào. Tuy khác mà lại giống nhau, tuy giống mà lại khác nhau. Như thế đó, mọi vật, mọi pháp không có hình tướng riêng bền chặt của mình. Mọi pháp chỉ là vô thường và đều là vô thường. Và chính cái đổi thay làm nên đời sống. Cái hằng thường, cái bất biến là cái chết tuyệt đối.

Thay vì việc khám phá ra “chất bột” hiện hữu khiến cho Sartre buông xả, đằng này nó lại càng thúc đẩy Sartre bám chặt hơn, cố thủ hơn, vọng chấp hơn vào các hình tướng. Sartre “chấp ngã” nên vẫn thấy có mình. Và “chấp pháp”, nên vẫn còn thấy có các khối chất riêng rẽ. Do đó mà thấy có mình đang đối đầu với những khối chất có tướng riêng “quái dị mềm nhão, hỗn độn, kinh khiếp và tục tĩu”. Vì vậy, Sartre cảm thấy mình bị đe doạ, khiếp sợ, và buồn nôn.

Than ôi! Hiện hữu mà là kinh khiếp và tục tĩu được ư? Kể từ khi thế giới là thế giới, tất cả những gì đã và đang hiện hữu đều là tục tĩu hết sao, kể cả Sartre? Cái tâm vọng chấp của Sartre tới đây là đã lên đến tuyệt đỉnh. Cái logique cartésienne, cái “đỉnh cao trí tuệ” nó bóp méo hiện hữu, nó bóp méo cuộc đời khủng khiếp như thế đó! Thay vì la toáng lên: “Hiện hữu là tục tĩu!” lẽ ra Sartre phải hét lên om sòm: “Đỉnh cao trí tuệ là tục tĩu!” Cái “đỉnh cao” nó tục tĩu là vì bởi nó “thấy tục tĩu” ngay cả ở những chỗ không có một chút gì là tục tĩu hết ráo: cái rễ cây, hàng rào, khu vườn, băng ghế, thảm cỏ. Các sự vật hết sức tầm thường và vô hại này nó tục tĩu ở chỗ nào? Và kinh khiếp ở chỗ nào? Sự tục tĩu tưởng tượng, nghĩ cho kỹ, nó thực sự chỉ nằm trong đầu của “đỉnh cao”. Cái “đỉnh cao” mang kè kè cái tục tĩu trong đầu của mình như một tật nguyền, như một chứng bịnh nan y. Như vậy mà gọi là “đỉnh cao” được ư? Chính cái “đỉnh cao” nầy đã hiếp dâm cái rễ cây, chính cái logique cartésienne nầy đã hiếp dâm hữu thể và bắt buộc nó phải có lý do để hiện hữu, bắt buộc nó phải có ý nghĩa. Ý nghĩa nhưng phải là ý nghĩa phù hợp với cảm quan và cái logique của mình. Cuộc hiếp dâm đã thất bại: Lý do hiện hữu không phát sinh, ý nghĩa không phát sinh. Thất vọng thảm hại! Thất vọng hoàn toàn! Vì vậy, Sartre đâm ra buồn nôn và tuyên bố: “Hữu thể là phi lý!” Hữu thể phi lý, hay người tuyên bố phi lý?

Cái phản ứng buồn nôn của Roquentin/Sartre trong công viên trĩu nặng chủ quan, cảm tính và bắt nguồn từ tâm lý. Nó không có tính cách triết lý hay siêu hình gì cho lắm. Nhưng khi Sartre phát huy và khai triển kinh nghiệm buồn nôn này thành triết thuyết “Hiện Sinh” lấy hư vô và phi lý làm nền tảng (“hiện hữu là phi lý và chỉ đi tới hư vô”), Sartre đã sa lầy ý niệm, sa lầy chữ nghĩa, sa lầy triết lý. “Thiện tai! Thiện tai!” Sartre đã đứng trước cổng chùa, Sartre đã thấp thoáng thấy được mái chùa, nhưng tiếc thay Sartre vẫn chưa đẩy cổng bước vào chùa để gặp gỡ cái tướng thật, cái chơn tướng của sự vật. Vì lẽ đó mà nói “Sartre thơ thẩn trước cổng chùa” là vậy.

Nếu trong công viên, sau khi gột rửa lớp sơn hư nguỵ bên ngoài của sự vật, gỡ bỏ cái giả tướng, giả danh, Sartre cũng tự vứt bỏ lớp vỏ của mình, vứt bỏ cái giả tướng của mình, và vứt bỏ luôn cái tên “Sartre” của mình!… Khi đó, Sartre sẽ trở thành một khối chất vô danh giống như những khối chất vô danh khác trong công viên. Hơn thế nữa, Sartre hoà nhập hiện hữu của mình vào mọi khối để sau cùng trở thành một “chất hiện hữu” đồng bản thể của tất cả mọi pháp, cái “tướng không”, cái “tánh không” của tất cả mọi pháp. Nhưng than ôi! Từ bỏ cái “ngã” của mình là một điều khủng khiếp nhứt trong cái thế giới mà “Tôi! Tôi! Và Tôi” của Tây phương ngự trị. Sartre làm nổi chăng?

TO BE OR NOT TO BE

Tự tử một cách nghiêm chỉnh

Khi khảo sát và định hướng cho hành động, con người ít khi đặt mình trong một môi sinh có kẻ khác, có muôn loài, có thiên nhiên vây quanh, và tìm cách sống hoà thuận với môi sinh của mình. Con người mê mẩn ngắm nghía cái “lỗ rún” của mình và lắng nghe thiệt kỹ xem nó đòi hỏi cái gì? Nghe xong, con người lấy làm hài lòng và vô cùng đắc ý, rồi nhân danh cái lỗ rún của tôi, đoạn chuyển sang “nhân danh TÔI”, nhân danh cái tự do tuyệt đối của tôi, nhân danh cái “đỉnh cao” trí tuệ của tôi, nhân danh cái tham vọng của tôi, nhân danh vợ con tôi, nhân danh đạo tôi, nhân danh đảng tôi, nhân danh… “của tôi”“của tôi” mà đòi hỏi đủ hết mọi thứ, mà bắt tất cả phải phục vụ cho TÔI, mà nổi loạn với tất cả, mà bạo động với tất cả. Và rốt cuộc tự hại mình trong bạo động đó.

Tuy nhiên, trong khi chờ đợi, Thượng Đế hãy liệu hồn: “Nếu nhà Ngươi mà dám trái ý TA thì TA sẽ tự tử để phản đối, Thượng Đế sẽ… bỏ mẹ! Nghe rõ chưa?” Thượng Đế đừng có tưởng bở mình tạo ra con người rồi mà làm Trời! Ta đã có, đang có, sẽ có và vẫn luôn luôn có tự do để cãi lại Trời: “Tự do tự tử!” Bắt tui sống trái với ý tui đâu có được. Ông là ai mà dám đòi rớ tới cái lỗ rún của tui? Bộ hổng nghe Đại “đặt kịch” (!) sĩ Shakespeare phán: “To be or not to be, that’s the question!” hay sao? Ông cho tui “to be”, nhưng đâu có nhằm nhò gì. Tui dẹp bỏ cái một. Và chính đó mới là cái “quét sân”! Thuốc chuột rẻ rề, tui cho ông biết để mà liệu hồn, đừng có chọc tui xì nẹt.

Bộ ông điếc hay sao mà hổng nghe đại văn hào Phú Lang Sa Camus phán: “Chỉ có một vấn đề triết học nghiêm chỉnh: Tự tử!” Sống đâu có nghiêm chỉnh (đồ bỏ!). Chỉ có “Chết vì tự tử” mới nghiêm chỉnh. Chết mà ngậm cười là chết lãng nhách. Lúc chết mặt mũi phải quạu đeo, cù mãi chả chịu cười, như vậy mới đúng cái kiểu “chết triết lý” nghiêm chỉnh, tốt nghiệp Sorbonne, hay đại học Nietzsche (cái tên khó viết bỏ mẹ!) Đời sống đâu có đáng sống. Chỉ có “Chết” mới là đáng sống: sống cái kinh nghiệm chết! Chết, nhưng đâu phải bạ đâu chết đó, chết đầu đường xó chợ, chết lãng nhách. Phải chết vì tự tử mới đúng là có ý nghĩa, mới là lên hương le lói, mới thiệt sự là chết nghiêm chỉnh, và mới thiệt sự là nghiêm chỉnh để mà chết. Di chúc: “Không nhận tiền và vòng hoa phúng điếu của bất cứ những ai cười mỉm chi”. Chết vì tự tử là kinh nghiệm sống nghiêm chỉnh đỉnh cao năm bờ oan! Tuy biết vậy nhưng mà Camus không được toại nguyện. Camus chết, đã đành. Nhưng chết (không nghiêm chỉnh) vì đụng xe chớ không phải chết (nghiêm chỉnh) vì tự tử. Thiệt là uổng cả cuộc đời! Bởi lẽ “chết vì tự tử” nó mới nghiêm chỉnh và le lói hơn nhiều. Còn chết vì đụng xe thì ối thôi! ai chết mà chẳng được.

Ngoài ra, khi bàn về kiếp người, Sartre đã xạc cà rây một câu ngắn xỉn mà đi tuốt luốt vào văn học sử thế giới: “Con người là một đam mê vô ích!” Vô ích? Nhưng “có ích” là như thế nào thì không nghe ông nói. Đam mê, nhưng mà đam mê cái gì? Đam mê phi lý? Đam mê hư vô? Hay đam mê tự tử? Chính cái “đỉnh cao” nó cho phép con người sống trong hoang tưởng. Cái hoang tưởng đó nó tác hại khủng khiếp trên đời sống địa cầu, trong đó có cả con người, dĩ nhiên. Tuy phán một câu xanh dờn về kiếp người như vậy, nhưng rốt cuộc cũng như Camus, Sartre không được toại nguyện: chết vì đam mê, cho dù là đam mê vô ích. Sartre chết rất hữu ích: chết vì quá già! Sích kên đoi wê ri ôn! Mới biết, khi rớ tới mấy ông triết Tây là chỉ có từ chết tới bị thương. Gẫm lại, khi C.Lévi-Strauss nhận định về Sartre và cho rằng “con người hiện đại tự chiêm ngưỡng và tự đạt tới tột khoái với chính mình” quả thiệt là quá đúng! Cái đó, tâm lý học gọi là “thủ dâm trí tuệ”. “Đỉnh cao trí tuệ” mà xuất tinh thì phải biết! Chắc không thua gì Châu Du hộc máu thời Tam Quốc. Cho dù không tự tử chắc cũng bắt buộc phải đáp liền chuyến tàu cao tốc về chầu Diêm Vương gấp gấp để tránh thượng mã phong mà bỏ mạng dọc đường.

Trở về với chính mình

Ngoài cái thái độ rứt mình ra khỏi môi sinh, con người còn có một thát độ hiu hiu khác nữa: Tự cắt mình ra khỏi dòng tiến hoá. Không xem con người như một giai đoạn phù du trong dòng biến dịch của Trời Đất. Rồi nó sẽ qua, cũng như tất cả mọi giai đoạn khác, cũng như tất cả muôn loài, cũng như tất cả muôn vật. Con người cũng nằm trong cái lẽ Vô Thường của Trời Đất. Trời Đất không có một lý do riêng biệt nào để ưu đãi con người hết ráo. Thay vì vậy, nhờ cái “đỉnh cao”, con người vô cùng đắc chí và cảm thấy bỗng nhiên “đùng một cái”! Con người hiên ngang giáng trần với cái “đỉnh cao trí tuệ” (nặng mùi!) rồi hiu hiu tấn phong mình lên ngồi “chúa tể” (ăn bám) muôn loài và tự nhận mình ngang xương là “sở hữu chủ” trái đất, mặc dù con người chỉ là một loài ăn nhờ ở đậu. Chưa hết. Lại còn ngất ngưởng cho rằng vũ trụ chỉ tiến hoá để đưa tới sự xuất hiện của Con Người, nghĩa là của con khỉ lai căn Homo sapiens. Cả 13,7 tỉ năm trường đằng đẳng sau cái Big Bang rầm trời chỉ để đẻ ra con khỉ không có lông, trên là răng, dưới là dái! Chấm hết. Terminus! Không thể nào tiến xa hơn được nữa. Xưa nay trong Trời Đất chưa từng thấy một thái độ nào xuẩn ngốc hơn thái độ đó. Cái “chấp ngã” đã cho phép cái thằng người nhỏ nhít thổi cái chất hư vô vào THẰNG TÔI cho nó phình ra lớn hơn cả vũ trụ! Rồi cái THẰNG TÔI hiu hiu đòi đâm nổ mặt trời, đòi thét vỡ không gian, đòi ám sát Thượng Đế, đòi hiếp dâm trái đất, đòi vọc cu voi, đòi lấp đít ruồi, đòi hư vô hoá tiệm café, đòi leo tít lên tận đỉnh Hy Mã Lạp Sơn mà hú một tiếng thiệt dài cho vũ trụ lạnh buốt đóng băng thành… cục nước đá cho con nít uống xi rô mau lớn để mà tiếp tục đâm nổ luôn mặt trăng cho nó đủ bộ bình tích. Than ôi! Cái huyền thoại Chúa Khỉ bay lên chín từng mây để đánh Trời cũng là nằm trong cái nghĩa đó vậy.

Chớ lầm lẫn hành động xoá bỏ “ngã chấp” với sự tha hoá. Tha hoá là đánh mất cái “tôi” của mình một cách vô ý thức. Trong khi đó, từ bỏ cái ngã của mình là một hành động tự nguyện và có ý thức cao nhứt: đó là sự trở về với cái gốc nguyên thủy của vũ trụ, trở về với cội nguồn hằng cửu nhiên nhiên tự tại của mọi pháp. Nó không thường còn, cũng chẳng vô thường. Nó là Như Vậy: nó là cái Gốc. Thế thôi. Đại khái như là cái “Big Bang”, nhưng không hẳn như vậy. Là ngay trước cái Big Bang. Không thể dùng trí tuệ đời thường mà hiểu được. Chỉ có thể dùng trực giác mà cảm nhận. Cái kinh nghiệm nầy nằm ngoài ngôn ngữ. Cũng như một đêm trong sáng, ngó lên trăng sao mà bỗng chợt thấy mình.

Thử dùng một ẩn dụ để tìm hiểu kinh nghiệm buồn nôn của Sartre trong công viên. Khi Sartre đã lột rửa lớp sơn bên ngoài của cái rễ cây, hàng rào, băng ghế, thảm cỏ… thì các sự vật này trở thành những khối chất vô danh, giống như những tảng băng đồng thể chất trôi nổi bập bềnh trên đại dương. Tiến về xích đạo, các tảng băng này tan dần, và trở thành những khối nước. Thay vì khối nước nào cũng chỉ là nước của đại dương (vũ trụ). Sartre vẫn còn thấy cái khối nước này là của tảng băng nầy, cái khối nước kia là của tảng băng kia, cái khối nước nọ là của tảng băng nọ. Rồi dưới mắt của Sartre, và ngay cả trong ý thức mình, những khối nước đồng thể chất này bỗng trở nên “quái dị, hỗn độn, kinh khiếp”, và trên hết, “trần truồng và tục tĩu”. Phải công nhận đây là một lối nhìn (một vũ trụ quan) cực cùng kỳ lạ! Một cái vũ trụ quan đúng là “quái dị và tục tĩu”!

Giả như khi đó Sartre chợt nhận thức và vứt bỏ cái giả tướng, vứt bỏ luôn cái tên “Sartre” của mình để trở thành một tảng băng vô danh đang tan chảy, cũng giống như mọi tảng băng khác. Để rồi cái khối nước mang tên “Sartre” giả danh và giả tướng ngày xưa hoà hợp cùng các khối nước vô danh khác mà nhập thể vào “đại dương hiện hữu” đời đời của vạn pháp: Như giọt nước cuối cùng trở về với đại dương mẹ của muôn loài. Nếu được như vậy, Sartre sẽ thình lình đạt một “tiểu ngộ” hoát nhiên bừng sáng. Khi đó, nói có giọt nước cũng sai mà nói không có giọt nước cũng không đúng. Nói mất giọt nước “ngã chấp” để được cả đại dương cũng sai luôn. Nếu nói được, thì còn ai ở đó để mà được? Không có “được” một cái gì hết ráo! Và cũng chẳng có “tiểu ngộ”, cũng chẳng có “đại ngộ”. Đó chỉ là một sự “Trở Về”. Một sự trở về của Nó với chính Nó. Chẳng có ai là chủ thể cho cái được, và cũng chẳng có được một cái gì hết. Chỉ có đại dương trở về với đại dương. Đại dương vẫn là đại dương từ đời đời kiếp kiếp. Thế nhưng, tuy đại dương tự “tánh không” là phẳng lặng, mà gió chướng nghiệp vẫn khiến cho chúng sanh cứ trùng trùng duyên khởi. Đợt này nối đợt kia, sóng lớn sóng nhỏ tiếp nối nhau mà dấy lên không dứt. Khi còn một dợn sóng lăn tăn, cho dù là tiểu ly, cũng không thể nói là đại dương đã hoàn toàn yên lặng. Thì nói “tiểu ngộ”, nói “đại ngộ” mới biết nói ra làm sao? Cái gì “ngộ”?“ngộ” cái gì? Tâm Kinh dạy: “Vô trí diệc vô đắc”, “không có Trí tu chứng, và cũng không có đạo quả để chứng đắc”, là nghĩa như vậy chăng?

Tiếc thay! Tiếc thay! Cơ hội ngàn năm Sartre đã bỏ lỡ! Và ngàn năm, còn buồn nôn, Sartre vẫn hãy còn thơ thẩn trước cổng chùa!

Ý CHÍNH

Tóm lược các ý chính trong phần BA:

Cái cung cách điển hình của triết học Tây Phương là tôn vinh cái “đỉnh cao trí tuệ”, tôn vinh cái “cogito ergo sum”.

Dựa trên nền tảng “en soi”“pour soi” (vốn là tuyệt đối không có gì hết) mà Sartre dựng cái lâu đài “L’Être et le Néant” thì liệu cái lâu đài đó có bị đe doạ sụp đổ ngay từ đầu?

Sartre ý niệm một ý thức có toàn năng và quyền năng “hư vô hoá”. Và theo Sartre, hư vô chính là cái tên gọi khác của tự do.

Phật giáo và khoa thần kinh đã gặp gỡ nhau ở quan niệm ý thức như là tiến trình của bộ ba “cảnh giới-giác quan-nội tâm” hoặc “não bộ-thân thể-môi sinh”: Ý thức là ý thức về một cái gì đó, qua một cái gì đó, và bằng một cái gì đó.

“Không” là bản tánh thanh tịnh sáng suốt, không có các hình tướng, nên còn gọi là “không tướng” hay “Bát Nhã chơn không”. Tánh chung của các pháp là “tánh không”.

Chẳng có “tiểu ngộ” cũng không có “đại ngộ”. Chỉ có sự “Trở Về” của Nó với chính Nó. Chẳng có gì được, và cũng chẳng có được một cái gì hết. Tâm Kinh: “Vô trí diệc vô đắc”.

Khi dừng lại ở kinh nghiệm buồn nôn, Sartre đã bỏ lỡ cơ hội ngàn năm để nhận thức cái “tánh không” của vạn vật: Sartre hãy còn thơ thẩn trước cổng chùa.

BẤT KHẢ TƯ NGHÌ

“Không” là bản tánh thanh tịnh sáng suốt, không có các hình tướng, nên còn gọi là “không tướng” hay “Bát Nhã chơn không”. Vì nó không sanh diệt, không hư dối nên cũng gọi là “chơn không, chơn tướng, thật tướng.

“Không tướng” là như vậy, và như vậy là “không tướng”? Thiệt vậy sao? Nhưng thế nào là thanh tịnh? So với gì mà thanh tịnh? Thế nào là sáng suốt? So với gì mà sáng suốt? Nếu so với động mà thấy tịnh thì là tịnh thiệt sao? Nếu so với dơ mà thấy sạch thì là sạch thiệt sao? Nhưng nếu không so sánh thì có thể nói gì được chăng? Nếu không thể nói thì làm sao có đối thoại, làm sao có truyền đạt tư tưởng? Phải có nói trước khi đi tới yên lặng để cảm thức.

Còn nói là còn trong vòng đối đãi, nhị nguyên. Ngôn ngữ con người vốn nó như vậy. “Bất nhị”“không hai”, nhưng không phải là Một. Nói “Một” là còn đếm. Muốn đếm phải có hai, ba, bốn… nhiều, nhiều lắm, hằng hà, sa số. Bất nhị thì chẳng còn ai đếm, và cũng bởi nó “không hai” nên không thể đếm được. Đếm là vô nghĩa. Vì vậy không thể nói Bất nhị là “Một”.

Ngôn ngữ là qui ước, tự nó không có nghĩa lý gì. Muốn hiểu nghĩa của ngôn ngữ thì lại phải dùng ngôn ngữ. Dùng chữ để cắt nghĩa chữ. Dùng lời để giải thích lời. Lòng vòng. Chẳng đi tới đâu. Muốn biết điều gì thì phải thực sự trải nghiệm điều đó. Muốn biết nóng như thế nào thì phải lấy tay mà sờ. Muốn biết ngọt tới mức nào thì phải lấy lưỡi mà nếm. Lấy lời mà diễn tả, làm sao biết được nóng, biết được ngọt? Chưa hiểu thì còn nói. Một khi đã hiểu rồi thì không còn gì để nói nữa. Im lặng mà cảm thức.

Còn trong nhị nguyên mới có thể nói. Còn vọng chấp mới có thể nói. Dùng ngôn ngữ để diễn tả sự thật cũng giống như mang găng võ sĩ mà dạo dương cầm “Khúc Nhạc Trăng” của Beethoven. Thì thử hỏi diễn tả được gì? Ngôn ngữ vốn hữu hạn. Còn vũ trụ thì vô biên. Dùng hữu hạn để diễn tả vô biên, như dùng ly uống nước để mà chứa đại dương, phỏng đặng chăng? Sự thật của vũ trụ nằm ngoài ngôn ngữ. Nó vô ngôn, không thể nghĩ bàn. “Bất khả tư nghì”.

Phật dạy: “Như Lai nói thật tướng tức không phải thật tướng, chỉ tạm gọi là thật tướng”. Sau 49 năm thuyết pháp, trước khi nhập diệt, Phật dạy:

“Ta chưa nói một lời.” Bagnolet, ngoại ô Paris, tháng Tư 2008

Tài liệu tham khảo

Jean Paul Sartre: La nausée (Gallimard 1938, Poche)

A. Cohen – Solal: Sartre, 1905 –1980 (Gallimard 1990, Follio)

Thích Thiện Hoa: Kinh Kim Cang & Bát nhã Tâm kinh (Dịch & giảng 1965)

Thích Như Điển: Có & Không (Sein und Nichtsein, PL– 254 –TC 2000)

Magazine Littéraire (HS – no7): J. P. Sartre

Le Point (HS – no17): Penser L’Homme: Sartre, Camus, Foucault, Lévinas…

Yves Coppens: L’Odyssée de L’espèce (Hachette 2003, Poche)

3è millénaire (no65): Quel est le sens de l’existence? (no71): Vide et Création (no 87): Illusion et Réalité

La Recherche (Dossiers no30): La Conscience – (no343): Les Dimensions cachées de l’Univers

Sciences & Vie (no1029): Le Vide – (no1079): Le Hasard.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: