Mùa Thu Nga, Mùa Xuân Estonia

Hỡi linh hồn phù du...

Vì ai mãi chờ đợi, nơi rừng thẳm hoang vu?

 

Bị tước đi nanh vuốt,

Con sói khép mắt trong lặng lẽ.

Nỗi đau đã tan đi,

Con sói không còn khóc nữa.

Ngôi sao bạc dịu dàng,

Tha thẩn chốn nhân gian,

Ôm lấy thân xác đắm trong mộng tưởng vĩnh hằng, trao về vòng tay bầu trời.

An giấc, an giấc đi... an giấc ngủ yên bình.

Hoá thân thành vì sao.

Dưới âm hưởng của em, người sẽ là một con sói tự do, giữa Siberia lạnh giá.

Bản nhạc cuối cùng, em dành tặng người, để giấc mộng hoàng kim không chìm vào uế nhiễm.

 

Chốn rừng thiêng nhiệm màu,

Đưa hồ điệp vượt qua cả thời gian.

Cuộc gặp gỡ định mệnh,

Nó không còn cô đơn nữa.

Lá sồi thu úa vàng,

Nhẹ sa trên đất bằng.

Ngày hôm ấy còn biết bao nhiêu điều huyền bí? Em chưa thể nói hết được.

Tỉnh giấc, tỉnh giấc đi... tỉnh giấc ngủ yên bình.

Một cơn gió thoảng qua.

Khung cảnh chị gợi nên, cho em biết thế nào là rung động, giữa Estonia rực rỡ.

Bản nhạc đầu tiên, em dành tặng người, để mối nối hoàng kim không bao giờ tách rời.

 

Gửi đến người, người đã hoá thành ánh sáng.

Gửi đến người, người đã hoá thành ngọn gió.

Em sẽ không ngừng gọi tên người,

Để trở thành hàng trăm, hàng nghìn, hàng triệu giai điệu.

Ngay cả khi định mệnh định sẵn sẽ bỏ lỡ hoặc biến mất đi.

Thì đây vẫn có một câu chuyện...

...Sẽ không bao giờ bị lãng quên.

~•°•~

Cạch một tiếng, chiếc bàn gỗ nặng trịch đã được đặt xuống sàn. Thời điểm giao mùa đầu tháng Hai, tuyết vẫn chưa tan mà vẫn còn đóng thành từng lớp trên mặt đất và khắp các mái nhà. Dư vị lạnh lẽo của mùa đông còn sót lại đã ngăn những giọt mồ hôi rịn ra trên trán cô gái tóc xám bạc khi cô giúp trại trẻ mồ côi vận chuyển đồ đạc.

Bronya tiếp tục đẩy cái bàn vào góc tường, lắc thử vài lần xem chân bàn đã chắc chắn hay chưa. Sau khi cảm thấy không có vấn đề gì, Bronya ngoái đầu nhìn bóng dáng màu hồng ngoài cửa và hỏi vọng ra. “Rozaliya, đây là món cuối cùng rồi phải không?”

Rozaliya, người lúc này đang loay hoay bê đống thùng các tông quá khổ che khuất tầm nhìn, thở gần như không ra hơi. “Còn mấy thứ này nữa... Nhanh... lên... Đến đây... giúp em một tay...”

Thấy Rozaliya chật vật như vậy, Bronya nhẹ lắc đầu rồi bước tới lấy bớt vài cái thùng trên tay cô gái, dường như mấy thứ này hơi nặng tay. Rozaliya lách người qua chỗ Bronya, đặt đống thùng các tông lên cái bàn gỗ cũ. Xong việc, cô chống nạnh nhìn chúng một cách hài lòng. “Thế là xong.”

“Trong đó là gì thế?” Bronya tiến tới, để những thùng các tông còn lại cạnh chân bàn. Cô nhận ra có một cái thùng vẫn chưa được niêm phong kĩ càng, và có thứ gì đấy sẫm màu đang nhô ra khỏi miệng thùng trông vô cùng bắt mắt, thế nên cô đã tò mò hỏi.

“Em nói rồi mà. Quần áo, đồ đạc linh tinh quyên góp cho trại trẻ.”

“Không.” Bronya chỉ vào vật kì lạ kia. “Ý chị là cái đó.”

Rozaliya nghi hoặc, vội mở toang thùng các tông xem thử. “Ra là cái này.” Cô reo lên khi cầm món đồ nọ trên tay – một chiếc hộp hình chữ nhật có niên đại khá lâu đời, sau đó đặt vào tay Bronya. “Em lấy được nó ở một tiệm đồ cổ với giá ba nghìn rúp.”

“Thực ra chị ấy có nó từ một sạp đồ cũ lề đường chỉ bằng mười rúp thôi ạ.” Một cô gái có gương mặt tương tự Rozaliya chợt xuất hiện sau lưng hai người, không ngần ngại vạch trần cô chị song sinh của mình.

“Liliya!” Rozaliya ngay tức thì phản ứng dữ dội. “Em không cần nói huỵch toẹt ra như thế đâu!”

“Đó là sự thật.”

“Mà sao cái hộp lại ở đây? Chẳng phải chị cất nó trong phòng ngủ à?”

“Rozaliya không những ngốc nghếch mà trí nhớ còn ngắn hạn nữa.” Liliya đáp bằng chất giọng ngái ngủ. “Hôm kia là người nào bảo em cứ quăng nó vào thùng làm đồ chơi cho bọn trẻ?”

Rozaliya nghệt mặt ra. “A...”

Không bận tâm đến cuộc tranh cãi nhỏ nhặt của cặp song sinh, Bronya chăm chú quan sát chiếc hộp trông như rương kho báu được chạm khắc tinh xảo trong tay. Trước nhất là nắp hộp, ở đó có một chú bướm đuôi phượng đang lặng lẽ đậu trên một đoá thanh cúc sáng ngời, những cánh hoa mảnh mai dang rộng tựa một mặt trời nhỏ muốn ôm trọn chú bướm ấy vào lòng. Thân hộp thì có vẻ hơi dày và lớn hơn nhiều các loại hộp nhạc thường thấy. Hơn nữa quanh hộp đã được quét nhiều lớp dầu sáp bóng loáng giúp hộp không bị thời gian mài mòn, và dường như mùi gỗ xưa cũ vẫn cỏn thoang thoảng đâu đây.

Bronya vuốt nhẹ lên bức hình chạm khắc, tâm trí dần mường tượng ra màu sắc của chú bướm kia. Có lẽ nó sẽ có màu xanh, một màu xanh rực rỡ hệt như bầu trời vào những ngày đầu thu, một màu xanh lam dịu dàng mà không phải là bất cứ màu sắc nào khác. Dù không hiểu lý do nhưng Bronya có một niềm tin tưởng mãnh liệt rằng nó nhất định phải như vậy. Kế đến cô nhìn đến mặt trước hộp, những tia nắng buổi sớm mai rọi qua cửa sổ, làm biểu tượng khoá Sol mà người ta hay thấy ở đầu các khuông nhạc ánh lên.

Bronya mải mê nhìn chiếc hộp, tự hỏi chủ nhân của nó là ai. Mãi đến khi có một giọng cao vút vang vọng bên tai, cô mới thoát khỏi dòng suy nghĩ.

“Bronya, chị có hứng thú với nó sao?”

“Một chút.”

“Vậy chị nhìn nè, có cái này hay lắm.” Rozaliya hớn hở giành lấy hộp và mở nắp cái rương.

Một con bướm dần nhô lên từ chiếc hộp. Nó bất động đôi cánh xanh của mình như thể vẫn còn sợ sệt môi trường xung quanh. Gió từ cửa sổ bỗng lùa vào làm một góc cánh bướm lay động, trông chẳng khác gì con bướm đó đang thực sự run rẩy.

“Ơ? Tay quay rơi đâu mất rồi?” Rozaliya gãi gãi đầu. Thế rồi cô vội vàng đến chỗ thùng các tông lục lọi. Khoảng một phút sau, cô trở lại với một tay quay kim loại. Rozaliya thuần thục gắn tay quay vào hộp, xoay vài vòng, tức khắc cặp cánh của con bướm bắt đầu bung ra rồi khép lại một cách tự tin khiến không gian vang vọng một giai điệu ling ding êm tai.

Bấy giờ Bronya mới biết đó là một hộp nhạc. Cô tập trung lắng nghe, giai điệu kia giống như cơn sóng dập dìu vỗ về những linh hồn lang thang. Thành thật thì cô gần như đã bị giai điệu của hộp nhạc cuốn hút.

“Giai điệu này có tên không?”

“Không có.” Rozaliya nói. “Em đã thử tìm trước đó rồi, nó không thuộc về nhạc sĩ nổi tiếng nào hết. Nên em nghĩ dù có tên thì cũng không ai biết.”

Bronya lầm bầm. “Tiếc thật.”

“Chị thích thì cứ việc mang đi đi.” Rozaliya chợt nói sau khi nhìn ánh mắt đầy vẻ quan tâm của cô gái tóc xám bạc. “Cũng không nhiều nhặn gì.”

“Ồ, cảm ơn em.” Bronya vừa mỉm cười vừa liếc nhìn đồng hồ. “Thế là xong xuôi hết rồi nhỉ? Giờ chị về công ty luôn đây.”

“Sáng nay đã phiền chị rồi.”

“Chuyện nhỏ thôi.”

Bronya vẫy chào cặp song sinh, sau đó ôm chiếc hộp bước ra xe. Cô đeo găng tay, đội mũ bảo hộ, cuối cùng rồ ga lao vút đi khỏi khuôn viên trại trẻ. Chẳng mấy chốc, Bronya đã hoà mình vào dòng xe cộ đông đúc của thành phố Moscow hoa lệ. Cơn gió cuối mùa đông lạnh ngắt luồng qua gáy cô, luồng qua những khe hở giữa các toà nhà rồi mạnh mẽ cào lên những cành cây trụi lá bám đầy tuyết trắng.

Khi băng ngang cây cầu bắc qua sông Moskva, Bronya có thể thấy rõ những mái chóp vàng của toà thánh đường Tổng lãnh thiên thần lấp ló sau toà tháp đỏ đồ sộ(1). Bronya ngẩng đầu nhìn những mái chóp vàng kia, rồi cô vặn tay ga, nhanh chóng tăng tốc độ để kịp giờ làm.

Đúng tám giờ ba mươi, Bronya đã có mặt trong văn phòng của mình tại Reason Studio. Một số nhân viên tới trước cô đã bắt đầu nghiêm túc làm việc, âm thanh gõ phím lạch cạch là tiếng động Bronya nghe rõ ràng nhất lúc này. Bronya đặt chiếc hộp nhạc lên bàn, gần kề ống đựng bút. Và như mọi ngày, cô sẽ tự pha cho bản thân một tách cà phê trước khi bật máy tính rồi vùi đầu vào những dòng code.

Bẵng đi một vài giờ, một dáng người nhỏ nhắn, đầu đeo băng đô tai thỏ dần tiếp cận Bronya. Gương mặt cô ấy hốc hác như bị rút sạch sức sống, thậm chí hai mắt còn thâm quầng đến mức người ta chắc chắn sẽ giật nảy mình nếu có lỡ bắt gặp.

Project Bunny, nhân viên năm tốt điển hình của công ty,  vừa đặt xấp báo cáo xuống bàn vừa uể oải thông báo. “Sếp, em sửa xong hai mươi cái bug đó rồi. Và còn bài hát chủ đề cho trò chơi sếp xem thử chưa?”

“Quả nhiên là Project Bunny, rất năng suất.” Bronya gật đầu. “Bài hát tôi vừa xem xong đêm qua, phần lời và phối nhạc không có vấn đề gì nhưng quan trọng là...”

Cô nhớ lại bản nhạc đã nghe tối hôm trước. Một con sâu sẽ biến thành nhộng trong một cái kén. Tiếp đến con sâu sẽ chui ra khỏi cái vỏ bí mật của mình, trong hình hài của một con côn trùng có cánh – một sự thay đổi ngoạn mục khác xa hình dáng cũ của nó. Bronya nhìn con bướm vỗ cánh, phấn bướm li ti rơi ra, lấp lánh trong ánh mặt trời xuyên qua cửa sổ, và cô cảm thấy nhẹ lòng khi con bướm bay đi.

“...Phần tựa chưa được ưng ý lắm.”

“Chúng ta vẫn còn bốn tháng cho đến lúc phiên bản thứ hai cập nhật sau khi phát hành chính thức trò chơi, sếp có thể từ từ nghĩ.”

“Cũng đúng, vẫn còn nhiều thời gian.”

“Suýt thì quên, quyết định cuối cùng của sếp với người lính trong cốt truyện là gì?”

“Hừm...” Bronya đặt ngón trỏ dưới cằm. “Hay là cứ cho hy sinh ngoài chiến trường đi.”

“Rõ ạ.” Project Bunny gật đầu. “Mà em nói sếp cái này.”

Bronya nhướng mày.

“Đêm qua em mơ thấy ác mộng mình phải sửa hơn một nghìn tám trăm bug một ngày.”

“Bug trong mơ cũng ám ảnh em. Cho nên sếp có thể cho em nghỉ một tuầ... à không, một ngày thay vì khen ngợi đấy ạ.”

Bronya lập tức nở một nụ cười thân thiện khiến Project Bunny không khỏi rùng mình, kế tiếp cô chẳng nói chẳng đẩy tới trước mặt Project Bunny bản kế hoạch chi tiết cho tháng sau. Project Bunny há hốc miệng, mở mắt thao láo nhìn bản kế hoạch, khoé mắt giần giật vì kinh hãi.

“Sếp...”

“Em quay lại làm việc tiếp đi.” Bronya phất tay.

Project Bunny bất mãn cầm lấy bản kế hoạch, vừa quay ngoắt đi, cô liền hậm hực lầm bầm. “Đúng là ác quỷ mà, chẳng lẽ kiếp trước chúng ta mắc nợ nhau hả?”

Bronya chậm rãi nhấp một ngụm cà phê, vờ như bản thân không nghe thấy những lời Project Bunny vừa nói. Nhưng ngay khi Project Bunny vừa đi khuất, Bronya đã thở ra một hơi. Cô mở lịch, lẳng lặng chọn cho nhân viên chăm chỉ của mình một ngày nghỉ thích hợp. Dù sao thì cô cũng không quá đáng đến thế.

Chẳng mấy chốc đã đến giờ nghỉ trưa. Hầu hết nhân viên đều đã rời văn phòng, chỉ còn mỗi Bronya ở lại. Cô đảo mắt quanh văn phòng có vẻ trống vắng, cảnh tượng này chẳng có điểm gì khác với mọi ngày cả, vẫn là những cái bàn, cái ghế quen thuộc. Rồi cô lại nhìn xuống con phố qua ô cửa kính trong suốt, cô nhìn dòng xe cộ dưới lòng đường, nhìn người qua kẻ lại trên vỉa hè, có người đi rất vội vàng, nhưng cũng có người lại đi cực kì thong thả như đang tận hưởng luồng khí lạnh. Bronya bỗng nghĩ. Moscow vẫn bình lặng như mọi khi. Đúng thế, hết thảy đều bình lặng.

Tuy nhiên, khoảnh khắc suy nghĩ đó vừa vụt qua tâm trí thì một âm thanh sột soạt kì lạ không biết phát ra từ đâu chợt lôi kéo sự chú ý của cô.

Bronya xoay đầu, nhìn chằm chằm hộp nhạc kia, hình như nó chính là nguồn gốc của âm thanh.

Để xác nhận, cô quyết định chờ đợi.

Một giây, hai giây, ba giây,... âm thanh bí ẩn lại một lần nữa vang lên, nghe thoáng qua giống như có con gì đấy đang mắc kẹt bên trong. Bronya dứt khoát với tay cầm lấy hộp nhạc, nghi ngờ mở nắp hộp. Thế rồi tay cô như bị đóng băng, mặc dù bên trong chẳng có bất kì con côn trùng hay động vật nhỏ nào, nhưng lại có một đồ vật – một thứ mà lẽ ra tuyệt đối không thể xuất hiện ở đây mới đúng.

Quyển sổ bìa xanh nằm lặng thinh giữa lòng hộp như có một sức hút mạnh mẽ khiến Bronya không tự chủ mà nâng nó lên. Cô lấy làm khó hiểu bởi vì một quyển sổ sao có thể tự nhiên bay vào trong một cái hộp kín mít được chứ? Bronya lật đi lật lại quyển sổ hai lần, và khẳng định không có gì bất thường.

Bronya áp tay lên bìa trước, cô nhận ra rằng chất liệu của nó khá thô ráp, trông không giống loại giấy được sử dụng thời đại này chút nào. Cô thử mở trang sổ đầu tiên, trên mặt giấy đã ngả màu nâu nhạt, tại vị trí cao nhất, có một cái tên được viết gọn gàng ở đấy. Seele Vollerei. Bronya lẩm nhẩm đọc, đó ắt hẳn phải là tên chủ sở hữu của quyển sổ.

Năm đầu ngón tay Bronya khẽ động, tiếp tục lật sang trang tiếp theo, ngay tức khắc thứ đập vào mắt cô là những dòng chữ thẳng tắp được viết bằng tiếng Estonia. Cô dán mắt lên các con chữ thanh mảnh và có phần mềm mại trên giấy, thầm nghĩ rằng người đã viết ra chúng nhất định phải là một cô gái rất tinh tế.

Thế rồi với một gương mặt bình tĩnh, Bronya đã bắt đầu đọc quyển sổ trong vô thức. Bên góc phải có ghi ngày, tháng, năm chi tiết. Sau khi lướt nhanh qua đoạn đầu tiên, không tốn nhiều thời gian để Bronya biết được đây là một quyển nhật ký thuộc về một cô gái Estonia có điều kiện vào khoảng đầu thế kỷ hai mươi.

Nội dung chủ yếu trong quyển nhật ký là những sự kiện xoay quanh cuộc sống hằng ngày của nữ quý tộc kia. Có vẻ như cô ấy là một người vô cùng thích viết lại những khoảnh khắc, bao gồm cả những điều nhỏ nhặt nhất, mà cô ấy cho là đáng nhớ vào nhật ký của mình. Có khi là một chú chim đang hót trên cành, có khi là một ngọn gió thổi qua, hoặc cũng có khi là một món ăn ngon cô ấy được nếm thử.

Với mỗi sự việc hay sự vật tình cờ đi ngang cuộc đời, nữ quý tộc tên Seele Vollerei luôn ghi chép bằng một thái độ thật sự nghiêm túc. Rốt cuộc, nó đã thành công làm Bronya bật cười vì sự đáng yêu đó, nghiêm túc đến mức đáng yêu.

Bronya miệt mài lật từ trang này qua trang khác mà quên mất thời gian đang dần trôi tuột đi mất.

Bất chợt Bronya ngưng lại trong thoáng chốc khi lật đến trang nhật ký cuối cùng.

 

“Chủ nhật, ngày 31 tháng 8 năm 1919.

Đã quá nửa đêm nhưng tôi không thể ngủ được. Ngoài trời có tiếng mưa rơi, có lẽ đây sẽ là cơn mưa cuối cùng của mùa hè rồi.

Cả cha và mẹ đều mong muốn tôi kết hôn với một người đàn ông mà tôi không yêu. Suốt 25 năm qua, tôi chưa từng cãi lời họ lần nào, và giờ mọi chuyện cũng không có sự khác biệt. Để có thể làm cha mẹ vui lòng, tôi biết mình phải cố gắng thử và làm tròn bổn phận của một người con.

Tôi luôn ước ao sẽ được trở thành một nghệ sĩ âm nhạc dù tôi hiểu rõ việc này gần như không thể trước tình hình căng thẳng của Estonia hiện tại... Có lẽ tôi đã quá mơ mộng rồi.

Giá như sự ích kỉ của một người không làm tổn thương người khác thì hay biết mấy.

Và, giá như tôi có thể chia sẻ nỗi lòng của mình cho ai đó ngoài kia.

Liệu người như vậy có tồn tại không?

Dù chỉ là trong ảo mộng...”

 

Bronya rũ mắt, đọc lại đoạn nhật ký thêm ba lần nữa. Cô nhắm mắt. Lúc này, Bronya có thể dễ dàng dàng tưởng tượng ra hình ảnh một thiếu nữ đang ngồi trong một căn phòng sang trọng giữa đêm khuya tịch mịch, dưới ánh nến hay ngọn đèn dầu, cẩn thận chấm ngòi bút vào lọ mực rồi nắn nót viết từng nét chữ vào quyển nhật ký. Thỉnh thoảng cô ấy sẽ dừng bút, lắng tai nghe tiếng cơn mưa cuối hè rơi rả rích ngoài sân, hoặc đưa mắt nhìn cơn mưa nọ qua cửa sổ. Đó là một khung cảnh buồn tẻ, chắc cũng giống như tâm trạng Seele lúc ấy vậy. Và khi đã hoàn thành trang nhật ký, Seele trở lại giường, cuộn mình trong chăn, thao thức vì những suy nghĩ ngổn ngang.

Bronya nhẹ nhàng đóng lại quyển nhật ký, để nó ngay trong tầm mắt. Chốc sau, cô trầm ngâm đặt tay duới cằm, thắc mắc tại sao Seele không viết tiếp dù nhật ký vẫn còn trống hơn nửa quyển? Đã có chuyện gì đã xảy ra với cô ấy ư? Và tại sao nhật ký của một tiểu thư người Estonia sống cách đây một trăm năm lại vô cớ hiện hữu ở đây? Thật khó hiểu. Mọi thứ đến với Bronya quá đột ngột, thế nên cô không thể giải thích nổi cách câu chuyện kì quặc này diễn ra.

Buổi chiều, Bronya không thể chú tâm vào công việc như bình thường, cứ cách một khoảng thời gian cô sẽ cố ý liếc nhìn hộp nhạc và quyển nhật ký. Tâm trí Bronya giờ đang bị cuốn vào một vòng luẩn quẩn không có hồi kết về điều cô đã đọc.

Cả cha và mẹ đều mong muốn tôi kết hôn với một người đàn ông mà tôi không yêu.

Bronya giật mình, cô vừa gõ sai một dòng code.

Tôi luôn ước ao sẽ được trở thành một nghệ sĩ âm nhạc.

Bronya thở dài rồi tựa lưng vào ghế. Mặc dù chỉ là một quyển nhật ký, thậm chí chủ của nó có lẽ cũng chẳng còn sống trên thế giới này nữa, dẫu vậy nó vẫn khiến Bronya phân tâm nhiều hơn những gì cô nghĩ. Cân nhắc một lát, Bronya mở giao diện văn bản, cho rằng sẽ tốt hơn nếu cô có thể giải phóng những khúc mắc đang dồn ứ trong đầu càng lúc càng nhiều.

Nếu là cô thì cô sẽ viết gì cho vị tiểu thư Estonia sống năm 1919 kia?

Từ tốn, ngón tay Bronya bắt đầu di chuyển theo cảm tính.

“Quý cô Vollerei thân mến,

Tôi đã tình cờ đọc được nhật ký của cô theo một cách điên rồ mà chắc cô sẽ không dám tin tưởng nếu như tôi nói ra. Tôi biết cô đã trải qua một quãng thời gian khó khăn với gia đình, có thể làm tròn bổn phận của một người con quả thực là một việc không hề dễ dàng. Mặc dù chẳng biết gì về cô hay cuộc sống của cô cả, thưa cô Vollerei, nhưng tôi tin rằng cô không nên từ bỏ ước mơ. Cô phải thành thật với trái tim của mình, đừng làm bản thân phải hối tiếc.

Mơ mộng không có gì sai cả, bởi vì tất cả chúng ta người đều mơ mộng. Không phải lúc nào mơ mộng cũng là chuyện xấu, đôi khi nó viển vông, nhưng đôi khi lại là động lực để chúng ta thực hiện những điều không tưởng. Chúng ta khao khát được bay lượn như loài chim, thế nên máy bay đã ra đời. Chúng ta muốn nói chuyện với nhau mà không cần thấy nhau, vậy là chúng ta có điện thoại. Chẳng phải thế sao?

Và cũng đừng ngừng hy vọng, người có thể thấu hiểu cô nhất định vẫn ở đâu đó xung quanh, chờ đợi được gặp cô.”

Khi viết đến đoạn này, Bronya bất chợt nổi hứng muốn trêu chọc cô gái ấy một chút. Cô tủm tỉm cười, thế nhưng lại không nhận ra rằng cô đang cười.

“Nhưng biết đâu được tôi lại chính là người quý cô đang tìm kiếm thì sao?

Trân trọng,

Bronya Zaychik.”

Bronya nhấn phím lưu trong lúc nhìn lá thư đã hoàn thiện trên màn hình không chớp mắt, sau đó cô đẩy ghế đứng dậy, tìm đến một nơi yên tĩnh gọi điện video cho cặp song sinh. Không mất nhiều thời gian để họ bắt máy, người trả lời cô là Rozaliya.

“Bronya, có chuyện gì vậy? Chị quên đồ ở chỗ bọn em hay gì à?”

Cô gái tóc xám bạc phủ nhận. “Không, chị muốn hỏi về hộp nhạc đó, em đã mua ở đâu?”

“Hộp nhạc? Em mua nó năm ngoái trong chuyến du lịch hồ Baikal. Nhưng sao thế?”

Bronya im lặng trong thoáng chốc, tuy nhiên cô cũng không giấu giếm. “Chị vừa tìm thấy một quyển nhật ký của một cô gái Estonia, từ năm 1919.”

“Cái gì cơ?” Rozaliya gần như hét toáng lên làm Bronya buộc phải để loa điện thoại tránh xa lỗ tai tội nghiệp của cô. Rozaliya hốt hoảng đặt hàng loạt nghi vấn. “Đúng là cái hộp đó đủ lớn để chứa một quyển nhật ký thật nhưng sao có thể được chứ? Rõ ràng nó trống không ngay từ đầu mà? Này, chị sẽ không nói dối để đùa giỡn với em phải không?”

“Chị hoàn toàn không đùa Rozaliya. Nó tự dưng xuất hiện, tin hay không tùy em.”

“Năm 1919, nếu em nhớ không lầm thì đó chẳng phải là thời điểm nội chiến Nga diễn ra sao?”

“Không sai, và đó cũng là lúc Estonia đấu tranh giành độc lập, còn trước nữa là Thế chiến I.”

“Nghe tệ thật đấy.” Rozaliya buột miệng. “Ai mà biết khi nào bom sẽ dội lên đầu chứ.”

Bronya hạ thấp giọng. “Phải, tệ thật.”

“Cụ thể thì nhật ký viết gì?”

Bronya bắt đầu thuật lại nội dung quyển nhật ký cho Rozaliya, tuy không cụ thể nhưng vừa đủ để nắm bắt trọng điểm. Đôi lúc cô sẽ trích một vài đoạn trong nhật ký cho người ở phía bên kia dễ hình dung. “Giá như sự ích kỉ của một người không làm tổn thương người khác thì hay biết mấy. Nguyên văn là như thế.”

“Khoan đã, đừng bảo là chị nhớ hết mọi thứ của nó chỉ trong một buổi chiều nhé?”

Chính xác hơn là buổi trưa. Bronya ngấm ngầm chỉnh lại lời Rozaliya. “Bởi vì có gì đó... hơi buồn về quyển nhật ký chị không cắt nghĩa được. Nên chị đã thử trả... Khụ, chỉ là về mặt cảm giác thôi, không biết chị có đang quá nhạy cảm hay không nữa.”

“Du hành thời gian!” Rozaliya chợt nói một cách phấn khích. “Đích thị là du hành thời gian! Chị viết thư hồi âm cô ấy xem! Là loại thư viết tay ấy!”

“Rozaliya ngốc, chị bao nhiêu tuổi rồi?” Bronya nghe thấy loáng thoáng giọng thiếu năng lượng đặc trưng của Liliya vọng tới từ xa. “Chị chỉ vừa mới kể chuyện du hành thời gian cho bọn trẻ vỏn vẹn mười phút trước thôi, đừng có cuốn vào nó. Thời buổi này mà chị còn tin du hành thời gian có thật hả?”

“Vậy em giải thích vụ nhật ký thế nào?”

“Cái đó... Chắc là có con ma... hay là Baba Yaga phù phép vào hộp...”

Rozaliya bò lăn ra cười khiến màn hình rung lên từng hồi. “Ha ha ha! Liliya ngốc, Baba Yaga với con ma của em còn khó tin hơn đấy.”

“...”

Bronya bất lực ôm trán, không biết làm gì trước sự trẻ con của cặp song sinh.

“Tóm lại là Bronya, chị cứ thử viết đi, cũng đâu mất mát gì đâu.” Rozaliya hắng giọng và nở một nụ cười tươi tắn, vẫn không từ bỏ ý tưởng trong đầu cô. “Đến H.G.Wells(2) còn tin vào du hành thời gian mà, vả lại cũng đâu ít người tin chuyện linh hồn có thể đi xuyên thời gian. Chị viết thư, bỏ vào hộp nhạc, đóng nắp chờ đợi, thế là xong rồi.”

“Em có chắc cách này sẽ có tác dụng không?”

“Nếu thật sự có tác dụng thì chẳng phải quá tuyệt vời sao? A, lũ trẻ đang gọi chúng em. Quyết định vậy đi, bao giờ có kết quả thì chị nhớ nhắn em một tiếng.” Rozaliya giơ ngón cái lên và gí sát vào camera, đồng thời cười tít mắt. “Chúc chị may mắn.”

Tín hiệu liên lạc bị ngắt, Bronya buông lỏng tay cầm điện thoại, bần thần nhìn lên bầu trời trong veo của buổi chiều. Cô mím môi trở lại văn phòng, tranh thủ làm nốt công việc còn dang dở. Còn về hộp nhạc cùng lá thư, có lẽ tan làm rồi cô mới tính sau.

Hầu như lúc nào cũng thế, Bronya luôn là người cuối cùng rời khỏi Reason Studio. Bên ngoài trời đã tối mịt, những con đường, những giao lộ và cả những toà nhà cao tầng đều đã lên đèn, rực sáng khắp thành phố Moscow. Trên đường về nhà, đầu óc Bronya lại lơ đễnh khi nhớ đến lời Rozaliya. Cô cho xe rẽ sang một ngã ba thay vì về thẳng căn hộ, rồi cô dừng trước một cửa hàng văn phòng phẩm.

Đó là một cửa hàng khá lớn nằm giữa lòng thành phố. Bronya đẩy cửa bước vào trong, lập tức cô ngửi thấy mùi giấy mới, mùi mực và vô số mùi hương dìu dịu khác trong không khí. Bronya đi nhanh qua mấy thứ mình không cần, cô đi sâu vào cửa hàng, tìm lấy một xấp giấy nâu có vẻ hoài cổ, một lọ mực, một cây bút máy mà người của thế kỷ trước thường dùng khi bút bi vẫn chưa phổ biến, cuối cùng là bao thư. Cô thậm chí còn định mua cả tem thư, nhưng vì sực nhớ rằng loại tem của năm 1919 giờ chẳng có nơi nào bán nữa nên cũng đành thôi. Và cô cảm thấy bản thân có hơi ngu ngốc vì đã có ý tưởng mua một con tem tuổi đời trăm năm tại một cửa hàng thế này.

Sau khi cẩn thận kiểm tra những món đồ đã chọn một lượt, Bronya đến quầy thanh toán xếp hàng.

Có một thiếu niên đang đứng trước cô, trong lúc chờ nhân viên thu ngân, thiếu niên buồn chán nghịch điện thoại, lướt không ngừng nghỉ trên mạng xã hội. Thiếu niên nọ chợt dừng động tác để xem một thước phim ngắn. Bronya không nhìn thấy cậu ta đang xem gì, tuy nhiên âm thanh của thước phim lại là một vấn đề khác. Rất nhỏ, tựa như tiếng rừng xì xào, từng lời bài hát rời rạc bắt đầu len lách qua thính giác của cô.

Và thiên thần bắt đầu chìm,

Chìm mãi...

...Sâu xuống lòng đại dương vô hình.

Tăm tối, chẳng thấy được bình minh.

Trong một tích tắc, tâm trí Bronya như bị sóng biển cuốn đi mất. Cô vắt óc suy nghĩ, hình như cô đã từng nghe giai điệu này ở đâu rồi thì phải? Một cảm giác déjà vu quái dị chợt kéo tới và nó mạnh mẽ đến mức Bronya cũng phải nghi ngờ bộ não của bản thân.

Thiếu niên thanh toán hoá đơn rồi rời đi. Một vị khách đứng sau Bronya thấy cô không có động tĩnh gì liền đã khều nhẹ lên vai cô một cái. “Cô ổn chứ?”

“À vâng.” Bronya định thần lại, cô vừa lúng túng đến chỗ người thu ngân vừa trả lời vị khách. “Tôi ổn, chỉ là tôi hơi phân tâm, không có việc gì đâu.”

Cùng lúc đó Bronya ngoái đầu, dáo dác tìm kiếm thiếu niên kia để có thể hỏi về bài nhạc nhưng cậu ta đã biến mất không thấy tăm hơi đằng sau cửa ra vào. Bronya cảm thấy mình vừa lỡ mất một chuyện trọng yếu, song cũng chẳng thể thay đổi được. Bronya lắc đầu ngán ngẩm, trả tiền cho nhân viên rồi quay ra xe.

Quái lạ, rốt cục tại sao bài hát đó lại nghe quen đến thế? Ngay cả khi đã tra chìa vào ổ khoá của căn hộ nơi mình sống, Bronya vẫn chưa ngừng canh cánh về sự việc xảy ra ở cửa hàng.

Bronya vặn tay nắm cửa rồi vào nhà. Bên trong căn hộ tối om om, chỉ có tiếng tích tích khô khan của đồng hồ điện tử, tiếng gió đập lên cửa sổ, tiếng cành cây khẳng khiu ngoài sân va vào nhau lập cập và bọn chim én thì vẫn chưa trở lại. Có lẽ sau vài tháng nữa, khi lá mới của những cái cây mọc nhiều hơn, dày hơn thì chắc sẽ có thêm tiếng xạc xào the thé, nhưng bây giờ thì không.

Cô gái tóc xám bạc chẳng còn xa lạ gì với sự yên lặng nhạt nhẽo này nữa, Bronya với tay bật công tắc đèn, tháo giày, treo áo khoác lên giá, để những món đồ linh tinh tạm lên kệ, bao gồm cả hộp nhạc.

Chuyện đầu tiên Bronya muốn làm khi về nhà là tắm một cái vì nước ấm sẽ giúp cô thoải mái hơn sau một ngày dài mệt mỏi. Bước ra khỏi nhà tắm với bộ thường phục, Bronya tiện tay mở tủ lạnh khi đi ngang bếp. Các ngăn tủ lạnh trống không, chỉ còn đúng hai củ cà rốt lăn lóc ở ngăn trên cùng và một ít cá trích đóng hộp. Mặc dù dưới gầm giường còn trữ một số loại đồ đóng hộp khác song hôm nay Bronya không có tâm trạng nấu nướng, vậy nên cô đã đặt một chiếc pizza để giải quyết qua loa bữa tối.

Bronya mở nắp một lon coca rồi ngồi xuống bàn. Kim đồng hồ đã gần nhích đến con số mười, thường thì vào khoảng thời gian này cô sẽ chơi game một lát hoặc bận tối tăm mặt mũi với mớ công việc của công ty, tuy nhiên đêm nay lịch trình đó đã bị xáo trộn mà không hề có một lời cảnh báo nào.

Tất cả đều tại hộp nhạc ở ngay trước mặt cô.

Hộp nhạc không có mắt nhưng cô có cảm tưởng nó đang nhìn mình chằm chặp.  

Bronya nheo mắt, khoanh tay áp trên mặt bàn.

Bronya muốn tin phải có ý nghĩa gì đấy cho việc cô nhận được quyển nhật ký từ nó. Cô mở hộp nhạc, lần mò đến tay quay bên vách. Chợt Bronya dừng lại nửa nhịp, vì hình như cô vừa chạm phải một vách gỗ nham nhám cực kì đáng nghi nếu đem so với cấu trúc tổng thể của hộp. Có thể người ta sẽ nghĩ đây là lỗi vặt vãnh trong khâu chế tác nhưng Bronya không cho là vậy. Một thợ thủ công lành nghề sẽ chẳng bao giờ mắc một sai lầm ngớ ngẩn như thế, trừ khi...

Như nhận ra điều gì, Bronya ngay lập tức bắt tay vào kiểm tra kĩ càng hộp nhạc.

Sau vài giây sờ soạn, Bronya phát hiện ra có một rãnh nứt mờ nhạt gần kề tay quay mà nếu không chú ý quan sát thì sẽ rất dễ bỏ qua. Cô thử tăng lực nhấn một chút và ngoài mong đợi, một phần của hộp nhạc bật ra để lộ một ngăn nhỏ được che giấu kín đáo. Chứa trong ngăn bí mật là chiếc chìa khoá bạc cũng mang hoạ tiết hình bướm, giữa thân bướm còn đính một viên lam ngọc xanh biếc tựa biển khơi.

Bronya cầm chiếc chìa khoá lên rồi ngắm nghía nó thật lâu.

Trên thân chìa có khắc một dòng chữ bằng tiếng Nga nho nhỏ: “Gửi đến chị”, và sau dòng chữ là một dấu phẩy như muốn nói với Bronya rằng nó vẫn còn vế sau, chỉ là người ta không khắc tiếp thôi.

Nhưng... Bronya mơ hồ nghĩ. Tại sao lại là tiếng Nga? Chìa khoá này được gửi cho ai? Tiểu thư Seele sẽ mong muốn gửi nó đến tay ai đây?

Trong lúc đắm chìm vào suy nghĩ riêng, Bronya đã vô thức xoay tay quay.

Bên trong căn nhà sáng đèn dìu dịu, ngoài tiếng tích tích khô khan của đồng hồ điện tử, tiếng gió đập lên cửa sổ, tiếng cành cây khẳng khiu ngoài sân va vào nhau lập cập, thì giờ đây lại có thêm tiếng nhạc thanh bình, xoa dịu và mơ mộng.

Dường như nơi này đã bớt hiu quạnh đi ít nhiều.

Và, giá như tôi có thể chia sẻ nỗi lòng mình cho ai đó ngoài kia.

Liệu người như vậy có tồn tại không?

Dù chỉ là trong ảo mộng...

Xuôi theo hộp nhạc, những câu chữ của nhật ký lần nữa xâm nhập vào tâm trí Bronya. Cô hít một hơi rồi khởi động laptop, tìm đến lá thư nháp mình đã viết ban sáng và mở nó ra. Sau khi bơm đầy mực đen vào ống mực, Bronya còn nấn ná thêm một lúc nữa mới chầm chậm hạ bút xuống. Ngòi bút bắt đầu trượt dài trên giấy kèm theo những tiếng soàn soạt dễ chịu.

“Quý cô Vollerei thân mến...”

Cô gái tóc xám bạc dồn hết tinh thần cho lá thư, cố không phạm lỗi dù chỉ là một lỗi sai nhỏ.

“...Nhưng biết đâu được tôi lại chính là người quý cô đang tìm kiếm thì sao?”

Nội dung trên giấy được viết y như đúc lá thư nháp, có điều Bronya đã chuyển hẳn thư sang ngôn ngữ của quốc gia láng giềng toạ lạc ở phía Tây nước Nga. Đến phần cuối thư, Bronya đắn đo nhìn tên đầy đủ của cô. Hình như hơi trang trọng quá. Cô tặc lưỡi, quyết định đổi tên “Bronya Zaychik” thành cụm “Từ một người bạn”, thậm chí bỏ luôn từ “trân trọng” vì cảm thấy không cần thiết.

Bronya buông bút kiểm tra lá thư trong tay, mỉa mai chép miệng. “Thật buồn cười khi mình đi xa đến mức này chỉ vì một quyển nhật ký Chúa ném xuống. Mình đang cố gắng tin vào cái gì vậy chứ?”

Tuy ngoài mặt nói vậy nhưng Bronya vẫn gập lá thư làm đôi, bỏ vào bao rồi cẩn thận dán kín nó bằng keo. Ở ngoài bao thư, Bronya tỉ mỉ đề: “Gửi đến tiểu thư Seele Vollerei” kèm địa chỉ mình biết nhờ quyển nhật ký. Sau cùng cô ấu trĩ đặt lá thư vào hộp nhạc như những gì Rozaliya gợi ý, và cũng không quên trả chìa khoá bạc về đúng vị trí cũ.

Bronya tắt đèn, nằm trên giường, với tay ôm lấy gấu bông Homu và nhắm mắt.

Một ngày của Bronya đã kết thúc như vậy.

Đêm khuya, gió đông cuối mùa vẫn dập dìu bên tai cô.

~•°•~

Sớm mai, một giọt nước mưa đọng trên lá.

Mưa.

Trong suốt.

Tươi mới.

Mát lạnh.

Cái lá mỏng manh không chịu nổi sức nặng của giọt mưa, nó oằn mình, thế rồi giọt mưa trượt xuống dọc theo sống gân lá, thấm vào đất. Cứ thế, nó sẽ tiếp tục cuộc hành trình cho đến khi hoàn thành một vòng chu kì của tự nhiên.

Đó đã là giọt mưa cuối cùng của mùa hè rồi.

Thiếu nữ với màu mắt xanh như đại dương ngồi xổm bên những khóm hoa đủ màu sắc, nhẹ vuốt một đoá dạ yến thảo xinh xắn rung rinh trong gió. Cảm giác mềm mại truyền qua xúc giác làm dấy lên trong thiếu nữ một điều gì đó tưởng chừng như thú vị lắm. Seele thả tay khỏi đoá hoa dạ yến thảo, khoé môi khẽ cong lên khi cô nhấc bút và hí hoáy viết xuống mảnh giấy trên tay một nốt nhạc. Bản nhạc vẫn chưa trọn vẹn, nhưng sẽ sớm thôi, chỉ cần cô có đủ thời gian và nguồn cảm hứng, nó sẽ sớm hoàn thành thôi.

Seele ôm bản nhạc dang dở và quyển nhật ký của mình đứng lên, nhìn nữ hầu gái đang bận bịu dọn dẹp lá cây rụng đầy đất do cơn mưa tầm tã đêm qua. Seele đi ngang những bụi thanh cúc xanh biên biếc đương trong giai đoạn nở đẹp nhất, nhưng vẫn còn một bụi vẫn đang lớn khiến cô không thể không thắc mắc vì sao nó lại sinh trưởng muộn đến vậy.

Seele đến gần nữ hầu gái tóc ngắn rồi nhẹ giọng nói. “Flora, em nghỉ một lát đi, như thế là được rồi.”

“Mưa lớn làm hoa rụng nhiều quá ạ.” Flora tỏ vẻ tiếc nuối nhìn những cánh hoa dập nát dưới mặt đất. “Chúng đẹp đến vậy mà.”

Seele khẽ nghiêng người nhặt lấy một bông hoa nguyên vẹn bị mắc giữa hai cành lá. “Flora thích hoa lắm nhỉ? Nhưng đó vẫn chưa phải điểm kết thúc của chúng đâu. Một cánh hoa rụng sẽ phân hủy, trở thành nơi trú ẩn cho côn trùng và vi khuẩn, rồi những mầm sống mới sẽ dần hình thành từ đó.” Cô vươn tay, bất ngờ cài bông hoa nhỏ lên tóc mái nữ hầu. “Hoặc làm như thế này chẳng hạn... Đây, hợp với em lắm.”

Flora ngại ngùng sờ bông hoa. “Tiểu thư...”

Còn chưa kịp nói thêm câu nào, hai người chợt nghe thấy tiếng bước chân của một người khác đang tới gần. Ông Vollerei – dáng người cao cao trong bộ trang phục chỉnh tề, chống một cây gậy quý tộc tiếp cận con gái ông. Thấy thế, Flora liền nép người vào gần Seele rồi cúi đầu chào ông.

Seele nở một nụ cười. “Cha sắp đi đâu sao?”

“Đúng thế.” Ông Vollerei đáp, và bỗng dừng lại giữa chừng trước khi tiếp tục. “Tuy nhiên đây không phải lý do ta tìm con Seele. Mẹ con và ta đang tự hỏi con có điều gì muốn nói với chúng ta không?”

Seele nhận ra ánh mắt quan tâm của cha, cô cũng biết ông muốn đề cập đến chuyện gì. Tuy nhiên, bây giờ Seele chỉ muốn tránh né vấn đề này. “Không, con không có gì muốn nói ạ.”

“Ta vừa nói chuyện với thằng nhóc đó đêm qua.” Ông Vollerei kín đáo quan sát Seele. “Và thằng nhóc bảo rằng hai đứa đang dần hiểu nhau hơn.”

Seele cố giấu đi sự khó xử của bản thân, cô tiếp lời ông Vollerei. “Là giai đoạn đầu tiên của việc tìm hiểu nhau thưa cha. Anh ta là một chàng trai chu đáo, nhưng con...” Seele lựa chọn lời nói ra thật cẩn thận. “Con cảm thấy bản thân vẫn chưa sẵn sàng.”

Ông Vollerei nhấn mạnh. “Con đã hai mươi lăm tuổi rồi, Seele.”

“Vâng, con biết.” Seele đáp, giọng gần như biến thành tiếng thì thào.

“Ta vừa nhận được tin Hồng quân đã chính thức đề nghị một cuộc đàm phán hoà bình rồi. Đất nước này rồi sẽ sớm bớt bất ổn lại thôi. Đây là một tin tốt với chúng ta.” Ông Vollerei vẫn thao thao.

Seele khiên cưỡng đáp. “Cha à... nhưng chúng ta vẫn chưa biết Estonia sẽ đồng ý đàm phán với họ hay không mà.”

Nhận ra sự khiên cưỡng đó, ông Vollerei nhượng bộ, và cũng vì con gái ông nói không sai. “Được rồi, chúng ta sẽ bàn về chuyện này sau bữa tối.”

Nói xong, ông Vollerei xoay gót rời đi khỏi khu vườn đầy hoa. Ông lên một chiếc xe ngựa đã chờ sẵn trước nhà. Chiếc xe ngựa bắt đầu lăn bánh và mất hút sau hàng cây mọc hai bên vệ đường.

Seele nhìn lên khoảng không trên bầu trời, lặng lẽ thở dài. “Flora, tản bộ cùng chị một lát đi.”

Thời tiết sáng nay không gay gắt lắm và có phần ẩm ướt. Quận Toila nơi Seele sống chỉ là một quận nhỏ của hạt Ida-Viru, một nơi yên ổn, không có quá nhiều người sống quanh đây. Trên con đường dẫn tới công viên Oru gần nhà, Seele có thể nghe được tiếng sóng biển vỗ rì rào từ vịnh Narva, cùng với đó là mùi vị mằn mặn của biển trộn lẫn giữa các cơn gió vi vu.

Seele dạo một vòng quanh công viên Oru, bước đến rìa công viên, vốn được xây dựng trên một vách đá hướng ra biển nhìn xuống vịnh Narva xanh ngắt dưới ánh nắng mặt trời. Mặt biển buổi sáng ánh lên, lốm đốm các chấm trắng li ti trông như những viên ngọc trai trôi nổi. Những con chim én tụ thành từng nhóm kiếm ăn trên mặt nước lao vút đi như tên bắn. Khoảng cách dù xa đến thế nhưng dường như Seele vẫn nghe được tiếng ríu rít của chúng văng vẳng bên tai.

Nhìn khung cảnh bình yên trước mắt, Seele bỗng nghĩ đến thành phố Narva giáp biên giới. Chiến tranh bao giờ mới kết thúc? Liệu sẽ có bao người nữa phải đau khổ vì chiến tranh? Mặc dù may mắn được sinh ra ở một nơi không bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến tại Narva quá nhiều, nhưng cô không biết được bao giờ thì làn sóng hủy diệt đó sẽ lan đến ngôi làng ven biển bình dị này. Có thể sẽ rất lâu nữa, hoặc có thể là ngay ngày mai cũng không chừng.

Tương lai là một thứ vô thường không thể đoán trước, vì thế Seele luôn trân trọng mỗi khoảnh khắc của hiện tại và sẽ tỉ mỉ ghi chép chúng. Do vậy Seele chưa từng rời bỏ quyển nhật ký của mình mỗi khi cô rời nhà. Với nó, sẽ luôn có nhiều thứ hay ho chờ đợi được lưu giữ bên trong.

Trong lúc mải mê nghĩ ngợi, Seele đã đi tới khu rừng lưa thưa ngay cạnh công viên Oru. Nữ hầu gái vẫn bám theo Seele sát nút và không rời mắt khỏi cô dù chỉ một giây. Họ đi dưới những cây bách xù uốn cong thân mình như một thiếu nữ e thẹn, những cây vân sam lá kim cao lêu nghêu và những cây sồi sum suê mà mọi người tin rằng chúng rất linh thiêng.

Cách con sông ào ào nước chảy khoảng trăm mét là một cây sồi già, thân sồi sần sùi bám đầy rêu xanh. Trên cành cây cao tít có vài con sóc thập thò, chúng căng đôi mắt tròn xoe của mình cảnh giác dõi xuống đất. Có một hốc cây sâu hoắm dưới gốc sồi, trông bí hiểm như cái hang thỏ kì diệu mà Alice đã chui tọt vào khi đuổi theo con thỏ mặc áo gi-lê. Seele dừng trước cây sồi, hết đăm chiêu quan sát những cành cây lại nhìn xuống gốc cây cổ thụ, và rồi cô lại mơ màng nghĩ đến cây đàn vĩ cầm, nghĩ đến điều mình muốn làm, cuối cùng nghĩ đến những tiếng pháo nổ đùng đoàng, những con tàu kiên cố vượt biển, những chiếc máy bay gầm rú trên bầu trời,...

Seele mở nhật ký bằng hai tay, phiền muộn nhìn bản nhạc kẹp bên trong.

Quả nhiên chuyện đó quá xa vời. Seele nói thầm.

Chợt một con sóc nhảy vọt xuống từ trên cây, nó tỏ ra không sợ Seele chút nào mà càng lúc càng tiến tới gần cô. Bất thình lình, con sóc trèo lên vai Seele khiến cô giật bắn mình. Seele loạng choạng lùi lại và suýt ngã nhưng Flora đã kịp đỡ lấy Seele từ sau lưng trước khi chuyện không may này xảy ra. Quyển nhật ký cũng rơi khỏi tay Seele gần như cùng lúc, nó đụng phải một tảng đá, nảy mạnh rồi lọt thỏm vào hốc cây sồi nọ chỉ trong chớp mắt.

“Tiểu thư có sao không?” Vẫn ôm lấy vai Seele, Flora lo lắng hỏi.

“Chị không sao, cảm ơn em.”

Con sóc lúc này vẫn đang ngồi chễm chệ trên vai Seele, ra vẻ vô tội như thể nó chưa làm gì cả.

Seele chỉ biết cười trừ, cô đưa tay chạm nhẹ lên mũi con sóc. Thật kì lạ khi nó không chạy đi mà hành xử cứ như nó là thú cưng của cô. Seele hạ thấp trọng tâm cơ thể, định tìm lại quyển nhật ký.

“Để em làm cho.” Flora vội vàng lên tiếng. “Rủi như có rắn trong đó thì nguy hiểm lắm.”

“Em cũng nên chú ý nhé.”

“Em biết rồi ạ.” Flora trả lời, sau đó nhanh nhẹn mò mẫm trong hốc cây.

Seele cúi người nhặt bản nhạc đã rơi khỏi quyển nhật ký ban nãy, phủi đi một ít đất và vụn lá cây bám bên trên. Trong khi đó, nữ hầu gái vẫn chưa tìm thấy nhật ký của Seele. Tuy nhìn có vẻ tối nhưng hốc cây thực tế không sâu cho lắm, ấy thế mà quyển nhật ký nhỏ giống như đã bốc hơi khỏi thế giới vậy, dù Flora có quờ quạng thế nào cũng không thấy tăm tích.

Flora bối rối không biết tại sao, thế nên càng ra sức vung tay khắp mọi ngóc ngách của hốc cây. Tay Flora chợt động phải thứ gì đấy có cạnh nhòn nhọn, nữ hầu gái liền rướn người tới moi nó ra. Đó là một lá thư vẫn được dán kín. Flora liếc mắt nhìn mặt sau lá thư, thử đọc tên người nhận và địa chỉ, tức thì đồng tử cô co rụt vì kinh hoảng tột độ.

“Tiểu thư, tiểu thư.” Nữ hầu gái gấp gáp gọi.

“Làm sao vậy Flora?”

“Nhật ký của chị biến đâu mất rồi.” Flora chìa lá thư ra, giọng vẫn chưa hết sững sờ. “Nhưng tiểu thư hãy nhanh xem cái này đi.”

“Đây là...?” Seele nhìn lá thư. Chân mày cô khẽ hạ thấp ngay khi thấy tên người nhận hằn trên bề mặt giấy trơn láng, cô cũng cảm thấy không thể tin được như Flora. “Sao tên chị lại được viết ở đây?”

Seele chắc mẩm rằng mình không nhầm lẫn. Có thể trên thế giới có nhiều người tên Seele, và cũng có thể có nhiều người dùng họ Vollerei. Nhưng cá nhân mang tên Seele Vollerei, sống ở quận Toila, Estonia thì chưa từng có người thứ hai.

Flora nuốt khan, đảo mắt quanh quẩn. “Chẳng lẽ có kẻ quấy rối nào đang theo dõi chúng ta?”

“Bình tĩnh đi nào, có lẽ chuyện không tệ đến thế đâu.” Seele dùng ngữ điệu nhẹ nhàng trấn an nữ hầu gái. “Thư không bị nước mưa làm ướt, một giọt cũng không, nghĩa là nó chỉ vừa mới xuất hiện thôi. Làm sao lại có người xuất quỷ nhập thần đến mức bỏ lá thư vào hốc cây ngay trước mũi chị và em mà chúng ta không phát hiện được? Chưa hết, em vừa nói nhật ký của chị không thấy đâu nữa phải không?”

“Tiểu thư nói đúng.” Flora ngẩn người. “Vậy chị nghĩ sao về chuyện quái đản này?”

Seele vừa nhận lấy lá thư vừa ngờ ngợ nhìn hốc cây sồi, cô thở nhẹ một hơi. “Chị không chắc, Flora. Biết đâu gốc sồi này...” Cô liên tưởng tới những khu rừng thiêng hay được mọi người truyền tai nhau, và hình như mảnh đất cô đang đứng cũng là một trong số các khu rừng thần thánh đó. Nhiều khả năng việc siêu nhiên vượt quá nhận thức người thường vừa xảy ra có dính líu đến nó, nhưng tất cả chỉ là phỏng đoán của riêng cô nên chẳng có gì đảm bảo cả.

“Chị sẽ nói rõ khi ta quay về.” Seele ra hiệu cho nữ hầu gái. “Mặt trời sắp lên cao rồi.”

Flora gật đầu. Trước khi quay lại lối cũ rời khỏi khu rừng, nữ hầu gái vẫn còn ôm chút hy vọng nhìn hốc cây lần cuối, rằng quyển nhật ký có lẽ đã kẹt lại ở một khe nào đó chứ không thể nghênh ngang biến mất như một con ma được. Flora cảm thấy mình như vừa bị khu rừng âm hiểm này trêu một cái.

Sau khi về đến nhà, Seele lên thẳng phòng mình, sử dụng một con dao nhỏ rọc theo mép lá thư. Cô lấy thư khỏi bao, ngồi trên giường đọc nội dung của nó. Đọc đến đâu, mắt Seele càng mở to đến đấy vì không giấu nổi sự sửng sốt.

Cô như chết lặng.

Tay giữ thư của Seele run run.

Cô siết chặt lá thư, nghiền ngẫm từng chữ một.

Một người xa lạ đã đọc được nhật ký của cô, rồi còn viết thư động viên cô đừng ngừng theo đuổi ước mơ. Nghe qua chẳng khác nào cô đang lạc trong một giấc mơ điên khùng giữa ban ngày vậy.

Chị là ai? Liên tục lặp đi lặp lại câu hỏi đó trong đầu, Seele ngồi ngay vào bàn, cuống quýt mở lọ mực để viết một lá thư trả lời cho người bạn tự xưng kia. Chị là ai? Vì sao nhật ký của tôi lại ở trong tay chị?

~•°•~

“Chị nói rồi đấy thôi, nó nằm gọn bên trong hộp nhạc, to cỡ chừng này, cũng không lớn lắm.”

Bronya dang tay với khoảng cách vừa đủ, mô tả cách quyển nhật ký xuất hiện cho cặp song sinh đang đứng trước bàn làm việc của mình. Hôm nay Bronya không mang theo hộp nhạc đến chỗ làm, thế nên khi cặp song sinh bỗng ghé qua và hỏi thăm chuyện hôm trước, Bronya chỉ có thể thuật lại chi tiết những gì đã xảy ra, song vẫn quyết định giấu nhẹm đi việc cô đã viết thư cho cô gái người Estonia đó, nếu không cặp song sinh nhất định sẽ cười sặc sụa.

Rozaliya gật gù. “Ra vậy, ra vậy.”

“Thế, hai đứa rảnh rỗi tìm chị chỉ để hỏi chuyện này?” Bronya dùng ánh mắt nghi ngờ nhìn họ.

“Dĩ nhiên là không rồi!” Mắt Rozaliya chợt sáng lên, cô đập mạnh hai tay lên bàn và chồm tới gần sát mặt Bronya. “Chị đi Tallinn cùng bọn em đi!”

“Tallinn? Bây giờ?” Bronya khó hiểu chau mày, nhớ đến những vật trang trí hình mặt trời đã bắt đầu được treo lác đác trên phố sáng nay, tạo cho người ta một cảm giác ấm áp. “Hai đứa muốn đi Estonia khi mà lễ Maslenitsa sắp đến à? Để làm gì?”

“Rozaliya ngốc.” Bấy giờ Liliya, người vẫn luôn mơ màng, mới hờ hững lên tiếng. “Chị đốt cháy giai đoạn làm chị ấy hiểu lầm rồi kìa.”

Project Bunny ngồi ở xa dừng tay gõ code, mặt đầy hứng thú vểnh tai nghe ngóng ba người nói chuyện.

Liliya mở một trang web thông báo sự kiện trên điện thoại, đưa qua cho cô gái tóc xám bạc. “Lễ hội hát và múa Estonia được tổ chức vào tháng Bảy năm nay tại Tallinn, vẫn còn tận năm tháng nữa đấy ạ. Chị Rozaliya vừa thấy trên kênh tin tức tối qua nên...”

“Vodka Girls không thể bỏ qua sự kiện âm nhạc tầm cỡ năm năm mới có một lần này được.” Rozaliya tràn đầy hứng khởi nói chen. “Bronya, chị thấy sao? Chắc chắn lễ hội sẽ rất thú vị cho xem.”

Bronya đọc sơ thông tin trên trang web, về ngày tháng, địa điểm tổ chức lễ hội. Dưới tiêu đề được in hoa là một số đường liên kết dẫn tới trang web khác. Bronya đã không tự chủ đọc một đường liên kết với nội dung: Có những khu rừng xung quanh chúng ta, và có một khu rừng ẩn giấu ngay trong chính chúng ta. Cô dời tầm mắt, trả lời Liliya. “Nếu là tháng Bảy thì chắc chị sẽ sắp xếp được, có điều chị không hứa trước với hai đứa đâu nhé.”

“Vậy khi nào chị có quyết định thì gọi điện cho bọn em được chứ?”

“Chị sẽ gọi.”

“Bọn em mong chờ lắm đấy.”

Sau câu nói này, cặp song sinh còn tán gẫu thêm vài câu nữa rồi mới từ biệt Bronya.

Chạng vạng, cô gái tóc xám bạc thả lỏng cơ thể trên ghế, chống cằm nhìn đường chân trời xa xa đã nhuộm một màu cam vàng chói mắt. Lễ hội hát và múa Estonia ấy à? Nghe cũng được đó chứ. Cô nghĩ bâng quơ, sau đó đứng dậy duỗi người.

Hôm nay là ngày hiếm hoi Bronya kết thúc công việc sớm và về nhà cùng với một túi thực phẩm tươi mới mua ở siêu thị. Cô cất những thứ đã mua vào tủ lạnh, gồm củ dền, khoai tây, bắp cải, thịt bò,... và gia vị như thì là, lá nguyệt quế khô các loại.

Ngay khi vừa đóng cửa tủ lạnh, Bronya liền ghé vào phòng ngủ muốn kiểm tra hộp nhạc một cái bởi vì cô chưa kịp làm thế lúc rời căn hộ sáng nay.

Dường như lá thư vẫn không xê dịch khỏi vị trí mà cô đã đặt đêm qua. Tuy nhiên, chỉ đúng một giây sau, Bronya đã sốc đến độ hoá đá tại chỗ. Đó không phải lá thư của cô. Nhìn nét chữ mềm mại vừa quen cũng vừa lạ trên bao thư, không hiểu sao tim Bronya lại đập thình thịch như thể mình vừa vận động mạnh ngoài trời vậy. Adrenaline do tuyến thượng thận tiết ra càng lúc càng nhiều khiến cô hít thở cũng dồn dập hơn. Bronya không chắc đây là cảm giác phấn khích, lo lắng hay căng thẳng, cô chỉ là quá bất ngờ.

Bronya ngay tức khắc mở thư, ngồi phịch xuống ghế. Cô rất nóng lòng muốn đọc lá thư kia.

 

“Gửi người lạ mặt,

Tôi vừa đọc xong thư chị viết, sự táo bạo của chị làm tôi choáng ngợp. Tôi đã vô tình đánh rơi nhật ký xuống một hốc sồi và nó đã biến mất không dấu vết. Chị làm cách nào có được nhật ký của tôi? Tôi đang hoang mang không biết mình đang gặp ảo giác, hay chuyện phi lý như Alice lạc vào xứ sở thần tiên này đã thực sự xảy ra với tôi.

Chị có phải là con thỏ mặc áo gi-lê không?

Hay chị là quý ngài Mad Hatter?

Chị rốt cuộc là ai?

Tôi băn khoăn khi đặt lá thư vào đúng hốc cây đó. Phải chăng nó sẽ biến mất lần nữa và chạy đến tay chị? Làm ơn hãy hồi âm nếu chị nhận được thư, để tôi biết rằng tất cả những chuyện này không phải do mình hoá rồ tưởng tượng ra.

Seele Vollerei.”

 

Bronya dao động nuốt nước bọt. Có tác dụng ư? Chuyện tưởng chừng như một vở hài kịch rẻ tiền này có tác dụng thật ư? Nhưng làm sao mà... Liên lạc với một người sống cách đây một trăm năm...

Nhưng dù có khó tin đến đâu, cô buộc phải chấp nhận sự thật đang hiện rõ mồn một trước mặt. Giọng thư của Seele tuy cứng rắn nhưng không quá gay gắt, và nó cũng có đủ sự trầm tĩnh của một người trưởng thành. Cô đọc lại, đầu óc như chìm vào cơn mê.

Bronya lập tức trải phẳng giấy, mở nắp bút, cắn đầu bút suy nghĩ một lát trước khi hạ ngòi.

“Seele thân mến,

Tôi chắc rằng hẳn tiểu thư cũng cảm thấy không thể tin được giống hệt tôi bây giờ vậy...”

~•°•~

“...Chà, mặc dù khá thích cách tiểu thư ví von, nhưng đáng tiếc rằng tôi không phải con thỏ mặc áo gi-lê, và cũng không phải quý ngài Mad Hatter ở xứ sở thần tiên. Tôi là một người sống sờ sờ như cô, hít chung một bầu không khí với cô, thưa tiểu thư Seele.

Tên tôi là Bronya Zaychik, một người Nga sống ở Moscow, song tôi e đó không phải Moscow tiểu thư biết. Thành phố Moscow mà tôi nhắc đến ở đây, một Moscow êm đềm và lộng lẫy, là Moscow không chìm trong bom đạn xa rất xa vào năm 2019, là thành phố vượt ngoài sức tưởng tượng của cô.

Tôi có được nhật ký của cô nhờ một hộp nhạc kì lạ, và tôi cũng không chắc hộp nhạc này có phải của tiểu thư hay không. Tôi đã cố tìm cách lý giải vì sao tất cả những điều này lại xảy đến với chúng ta. Làm gì có loại năng lượng toàn năng nào để ta có thể đổ lỗi tồn tại trên thế giới này chứ? Cách giải thích duy nhất mà tôi nghĩ đến, đó là vì nguyên nhân gì đó mà mối liên kết giữa tôi và tiểu thư lại mạnh mẽ đến mức giúp chúng ta có thể nói chuyện với nhau xuyên thời gian.

Tiểu thư không nằm mơ hay gặp ảo giác đâu, thế nên hãy đặt lá thư tiếp theo vào hốc cây cô nói càng sớm càng tốt.

Mong chờ liên lạc của tiểu thư,

Bronya Zaychik.”

 

Seele tựa người bên cửa sổ tầng hai trong phòng cô, lẳng lặng khép lại lá thư Bronya gửi. Cửa sổ mở toang, gió mùa thu lùa vào làm vài sợi tóc dài của cô bay lất phất.

Không phải mơ. Seele đứng dậy, bước đến chiếc rương cỡ vừa mà cô dùng để lưu giữ những món đồ kỷ niệm. Cô xếp thư vào rương, kẹp giữa hai quyển sách viết về âm nhạc và thơ ca. Đều là thật.

Seele lại nhìn sang cây đàn vĩ cầm của mình, nó im lặng, nó bất động, nhưng bản thân cây vĩ cầm lại có gì đó như thể đang mời gọi cô. Seele cầm lấy đàn rồi đi ra vườn. Đến một khoảng sân giữa các khóm hoa, Seele để cây đàn vĩ cầm lên vai, sau đó bắt đầu nhịp nhàng kéo dây đàn. Cô chơi bản nhạc do mình tự viết cách đây chưa lâu. Ngoài xa, tiếng sóng biển ầm ầm xô vào bờ cát đầy đá cuội hoà với âm thanh vĩ cầm du dương của cô gái tóc xanh tạo thành một bản hoà tấu nhịp nhàng giữa người và biển.

Khoảnh khắc này, Seele có cảm giác rằng mình như thuộc về đại dương vậy.

Seele chợt khép hờ hai mắt, nhớ đến nét chữ trên thư, cô cố thử hình dung xem người viết thư sẽ trông thế nào? Thế giới một trăm năm sau sẽ trông thế nào? Estonia và nước Nga sẽ trông thế nào?

Tiếng đàn vĩ cầm kéo dài một khoảng thời gian dài. Ngay khi âm thanh vừa dứt, tiếng vỗ tay bốp bốp truyền vào tai Seele. Cô xoay người, nhìn thấy Flora đang đứng phía sau, ngay cạnh bàn trà giữa vườn với một nụ cười tươi tắn trên khoé miệng.

Nữ hầu gái reo lên. “Tuyệt lắm ạ.”

“Chị còn phải luyện tập nhiều lắm.” Seele ngại ngùng nói. “Em đến từ bao giờ thế?”

Flora kéo ghế cho Seele, sau đó rót một tách trà nghi ngút khói. “Vừa mới đây thôi ạ. Lâu lắm rồi em mới thấy tiểu thư nhập tâm như thế, chị có chuyện gì vui đúng không?”

“Rõ ràng đến thế sao?” Seele ngồi xuống, vuốt ve thân đàn.

“Vâng.” Flora mạnh dạn suy đoán. “Có phải nó liên quan tới cây sồi hôm nọ không?”

“Có lẽ vậy.” Seele đưa tách trà lên, duyên dáng nhấp một ngụm. “Em hãy ngồi trước đi đã.”

Flora gãi má, làm theo lời Seele. “Sau tất cả em vẫn cảm thấy khó mà tin nổi. Chuyện về những khu rừng thiêng chị kể cho em nghe hôm kia, nó hơi phi thường.”

“Ai cũng sẽ phản ứng như em thôi.” Seele cười khúc khích. “Mà Flora biết chứ? Không riêng gì các khu rừng đâu, Estonia chúng ta có tới hàng trăm địa điểm linh thiêng như vậy. Có nơi là một tảng đá, còn có nơi lại là một dòng suối thánh thiện. Ví như khu rừng cạnh công viên Oru chúng ta hay tới thì có một cây sồi già và cả một con thỏ mặc áo giáp sống trong hốc sồi nữa.”

“Tiểu thư vừa mới nói... thỏ mặc áo giáp sao?”

Seele chống má nói bông đùa. “Phải, là thỏ mặc áo giáp chứ không phải thỏ mặc áo gi-lê. Vả lại, chị nghe con thỏ đó có thể đoán trước tương lai đấy. Chị thậm chí cũng đang định hỏi nó vài điều.”

“Được rồi.” Flora vừa nửa tin nửa ngờ đáp vừa châm đầy tách trà đã cạn nước cho Seele. “Cứ cho là con thỏ mặc áo giáp trong hốc sồi chị bảo có thật đi. Vậy thì tiểu thư muốn hỏi nó chuyện gì?”

Seele mỉm cười, chạm ngón trỏ xuống dưới cằm mình. “Ừm thì, chắc chị sẽ hỏi là...”

~•°•~

“Chị Bronya, em hy vọng chị không thấy đường đột khi em gọi chị như vậy. Em đã chấp nhận một cách tự nhiên rằng chuyện chúng ta có thể liên lạc với nhau, theo cách chị gọi, xuyên thời gian. Em tò mò về chị, chị đọc nhật ký của em, biết được bí mật riêng tư nhất của em trong khi em chẳng biết tí gì về con người chị cả. Vậy nên, em muốn hỏi chị lần nữa, ‘chị là ai?’. Chị có phiền nếu kể cuộc sống của mình một trăm năm sau cho em biết không?”

 

Bronya sắp xếp lại giấy tờ, dặn dò Project Bunny một số vấn đề liên quan đến thời gian ra mắt phiên bản mới trước khi hai người tắt đèn văn phòng và ra về.  

Bronya không lái xe đi ngay, cô dừng trước cửa công ty chừng năm phút, ngước mặt nhìn biển hiệu công ty rồi thở ra những luồng khí buốt giá. Bầu trời tối đen như mực chỉ thấy rải rác vài ngôi sao, ánh sáng xanh dìu dịu từ biển “Reason Studio” hắt xuống nền tuyết là khung cảnh bắt mắt nhất đối với Bronya vào chính thời khắc này.

Cô là Bronya, giám đốc điều hành của Reason Studio.

Cô là Bronya, một công dân bình thường sống ở nước Nga như bao người khác. Cô có một gia đình, dù bây giờ họ đang sinh sống tại vùng bình nguyên Siberia chứ không ở cùng cô. Cô cũng có bạn bè thân thiết, có một niềm đam mê sâu sắc với trò chơi – thứ đã giúp cô có được công việc yêu thích như hiện giờ.

Và cũng là Bronya đó, người vẫn luôn cố gắng truyền tải những thông điệp tốt đẹp nhất của thế giới trong từng sản phẩm mình tạo ra.

Nếu có người hỏi “Bronya là ai?” thì cô sẽ trả lời như vậy.

Cô gái tóc xám bạc nhoẻn miệng cười rồi cho xe lăn bánh. Tấm biển “Reason Studio” cũng dần khuất dạng sau lưng.

“Thời đại chị đang sống là một thời đại như thế nào?”

Bronya chạy trên một con đường dẫn đến Quảng trường Đỏ đông đúc. Sau khi đến nơi, Bronya đỗ xe vào bãi, vượt qua tượng đài Zhukov cưỡi ngựa dựng trước Bảo tàng Lịch sử Quốc gia để chính thức bước vào quảng trường tấp nập khách ghé thăm.

Bronya thong thả cước bộ dọc quảng trường rực sáng ánh đèn điện. Cô ngoảnh mặt, phía sau bảo tàng trông như một toà lâu đài đỏ nguy nga có một nhóm du khách đang tụ tập chụp ảnh. Một thằng bé hớn hở dang cao hai tay lên trời tạo dáng mà nó nghĩ sẽ rất hoành tráng như một gã khổng lồ. Một đứa khác thì tay chân lóng ngóng không yên, thế là bày trò nghịch ngợm, cúi người hốt một vốc tuyết ném vào mặt đứa kia rồi khoái chí bật cười khanh khách.

Cánh phải của quảng trường là bức tường đỏ bao quanh điện Kremlin – nơi được mệnh danh là trái tim của nước Nga. Cạnh tường có những hàng thông đều tăm tắp, giờ đang bị tuyết phủ kín trên tầng lá, giúp điểm thêm một chút vẻ đẹp cho nơi này. Đầu bên kia quảng trường, Nhà thờ Thánh Basil với kiến trúc mái chóp củ hành đặc trưng bệ vệ bừng lên, khiến người ta không khỏi đưa mắt ngắm nhìn.

Cô bỗng nhớ tới đêm Giáng sinh, Quảng trường Đỏ thậm chí còn sặc sỡ hơn hiện giờ hàng tá lần. Sẽ có những món đồ trang trí đẹp mắt, sẽ có những gian hàng lưu niệm xinh xắn dọc quảng trường, sẽ có các dây đèn giăng kín trên đỉnh đầu, có dây lại rũ xuống tựa như một nhành liễu mảnh mai. Từ khắp nơi, mọi người sẽ đổ ra đường nhân dịp Giáng sinh về. Dòng người nườm nượp ngang dọc khắp quảng trường và khắp những đại lộ, đi kèm với tiếng chuông nhà thờ reo vang làm thành phố Moscow căng tràn sức sống ngay giữa trời đông rét buốt.

Bronya kéo cao cổ áo khoác che chắn những cơn gió, tăng dần tốc độ.

Càng đi về hướng Nhà thờ Thánh Basil, Bronya càng thấy nhiều người giơ điện thoại chụp ảnh hoặc quay những thước phim làm kỷ niệm. Rồi sau đó họ sẽ gửi chúng đi chỉ trong nháy mắt cho những người thân thiết nhờ vào mạng lưới internet tiên tiến.

Đúng lúc này, một chiếc máy bay dân dụng bay ngang bầu trời đêm, Bronya có thể nghe thấy tiếng máy bay ồ ồ ngay bên tai. Sẽ không có ai sợ hãi thứ âm thanh này như trong quá khứ nữa. Chẳng có quả bom kinh khủng nào rơi xuống đầu, cũng chẳng có những cơn mưa đạn rồ dại ngẫu nhiên tước mất sinh mệnh của một ai đó xấu số.

Đây là một Moscow ồn ào, nhưng cũng là một Moscow vui vẻ.

Đây là một Moscow xô bồ, nhưng cũng là một Moscow bình yên.

Cả thế giới không còn quá khắc nghiệt với người ta như trước kia, mỗi người đều có quyền làm những chuyện họ thích và từ chối những gì họ không thích. Chí ít thì, phần lớn thế giới hiện nay là vậy.

Rốt cuộc, đây chính là thời đại của cô.

“Chị có ước mơ nào không? Nếu có, chị đã đạt được mong muốn của mình chưa?”

Trở về nhà sau khi dành ra bốn mươi lăm phút ở Quảng trường Đỏ, Bronya lấy từ ngăn tủ ra phiên bản đầu tiên của trò Alahato. Nhìn tấm ảnh bìa in trên vỏ hộp, cô chợt cảm thấy hoài niệm. Mới đó thôi mà đã ba năm rồi. Cô cho đĩa trò chơi Alahato vào máy, bắt đầu chơi lại các màn. Bronya rất vui khi làm chuyện này, cô chưa từng cảm thấy nhàm chán với trò chơi mình làm ra chút nào. Thanh âm lách cách của máy chơi game đều đặn vang lên, kéo cô vòng ngược về khoảng thời gian đâu đó cách đây ba năm.

Bronya luôn mơ rằng mình sẽ tạo ra một trò chơi ấn tượng cho mọi người. Phiên bản Alahato cô đang giữ chính là kết quả của ước muốn đơn thuần đó.

Tuy nhiên, Bronya còn nhớ những ngày đầu tiên Alahato ra mắt, doanh số bán ra không được tốt lắm. Lúc đó cô có thất vọng không? Đương nhiên câu trả lời là có. Nỗi thất vọng ấy như một cây gậy đập mạnh vào đầu khiến cô đau điếng. Nhưng không vì thế mà Bronya sẽ ngã khuỵu hay bỏ cuộc dễ dàng.

Thất bại có thể làm người ta nản lòng, nhưng thất bại cũng có thể thúc đẩy người ta cố gắng hoàn thiện bản thân hơn để tiến tới phiên bản hoàn hảo nhất của chính mình. Bronya là loại thứ hai, sự thất bại này là một bài học, và là nguồn động lực lớn lao để cô càng lúc càng tiến xa hơn trên con đường đã chọn.

Và giờ... Bronya gần như đã chạm được vào giấc mơ của mình, chỉ còn thiếu một chút xíu nữa mà thôi. Tháng Tư tới, khi trò chơi chính thức công bố, cũng có nghĩa là cô sắp cán vạch đích rồi.

Chơi đến màn game cuối cùng đã gần mười một giờ đêm, Bronya tắt máy rồi trở lại phòng ngủ. Gần đây cô vừa có thêm một thói quen nhỏ. Sau khi gửi thư đi, cô sẽ mở hộp nhạc, thả hồn vào giai điệu êm ái của nó cho đến lúc bị cơn buồn ngủ đánh gục.

Âm nhạc có một ngôn ngữ cho riêng mình. Khi khép mắt lại, Bronya có thể cảm nhận được thứ ngôn ngữ quyến rũ này. Tuy có vẻ mập mờ, thế nhưng cô vẫn nghe ra một nỗi buồn không thể diễn tả bằng lời chất chứa bên trong bản nhạc. Và ngoài nỗi buồn vô hình đó, dường như còn có sự hy vọng, tựa như bình minh soi rọi đêm đen, tựa như biển cả đang ôm lấy những sinh mệnh héo tàn để rồi trao cho chúng một cuộc sống mới khác hẳn với xưa kia.

Bronya muốn hiểu ý nghĩa của giai điệu này.

Liệu rằng người vừa xuất hiện trong cuộc đời cô có thể giúp Bronya giải đáp thắc mắc đó hay không?

Khi nhắc về cô gái sống cách thời đại của cô một trăm năm, lòng Bronya lại chợt nổi lên một cảm xúc lạ lẫm mà cô chưa bao giờ trải qua trước đây. Họ chưa từng gặp mặt, và cũng không biết đối phương trông ra sao, vì vậy mà chuyện này chỉ càng khiến Bronya muốn biết nhiều hơn về cô ấy, muốn được nhìn thấy cô ấy, hay có khi còn tham lam hơn cả thế.

Bị những suy nghĩ về Seele quấy nhiễu, Bronya không ngủ được. Cô trở mình nhiều lần trên giường, sau đó vì trằn trọc, cô bật hẳn dậy bước ra ban công nhìn lên bầu trời không một gợn mây. Ô nhiễm ánh sáng nặng nề khiến những ngôi sao sáng nhất cũng phải trốn mất. Không như vùng bình nguyên Siberia nơi cô sinh ra và lớn lên, ở Moscow, thật khó để mọi người ngắm được một bầu trời đầy sao đúng nghĩa. Chợt Bronya tự hỏi Estonia năm 1919 hiện đang là ban ngày hay ban đêm? Seele hiện đang làm gì? Cô ấy có đang chơi đàn không?

Bronya khoanh tay tì người vào lan can, lẩm bẩm với chính mình. “Cô ấy có thể đang làm gì?”

~•°•~

Seele tách lớp bắp cải ngoài cùng đã héo ra trong lúc Flora bận bịu gọt vỏ cà rốt, khoai tây và củ dền. Vỏ ngoài của cà rốt có một số vị trí bị dập nhưng không nghiêm trọng, một vài củ khoai tây đã mọc mầm, và củ dền thì cũng đã mềm oặt như một động vật thân mềm nào đó, khi nhấn nhẹ xuống, nó sẽ để lại một vết lõm có thể nhìn thấy rõ ràng trên thân củ. Song Seele không có lời phàn nàn nào, vì chúng là những nông sản tốt nhất họ có được ở thời điểm này, nhất là đối với một ngôi làng nhỏ ven biển như Toila.

Flora để những thứ vừa gọt vào rổ. “Sao tự dưng trưa nay chị lại muốn làm món borsch vậy?”

“Chắc là vì con thỏ đã gợi ý chăng?” Seele bỗng giơ lên một tờ giấy. “Nhìn xem này, con thỏ dễ mến thậm chí còn cho chúng ta công thức nấu món borsch tiêu chuẩn của người Nga nữa.”

“Vậy nó là một con thỏ Nga sao ạ?” Nữ hầu gái cố tình nhấn nhá một chút ở từ “Nga”. Dựa vào hành động của Seele dạo gần đây như: hăng hái hơn bình thường, vui vẻ hơn bình thường, cười nhiều hơn bình thường, Flora có thể lờ mờ đoán được “con thỏ” mà cô chủ của mình hay sử dụng là để ám chỉ một ai đó chứ không phải là một con thỏ theo đúng nghĩa đen.

“Ừ, đó là một con thỏ Nga, nhưng có lẽ chúng ta sẽ không có cơ hội gặp mặt đâu.”

Nói xong, Seele vươn tay lấy con dao và bắt đầu thái bắp cải thành sợi một cách nhuần nhuyễn.

Flora có thể nhận thấy giọng Seele vừa hạ thấp trong một tích tắc vô cùng ngắn ngủi. Nhưng nữ hầu gái quyết định giữ im lặng mà không đả động gì đến chuyện nhạy cảm này. Flora quay lại với nồi thịt bò đang hầm, vớt toàn bộ chúng ra rồi lọc nước thịt qua một cái rây, cuối cùng cho nước đã lọc lại vào nồi.

Seele tiếp tục nhìn tờ công thức. Nếu Flora quan sát kĩ, cô nhất định sẽ thấy dưới mảnh giấy ghi công thức là một mảnh giấy khác chi chít chữ. Tuy thế, nữ hầu gái hoàn toàn không để ý tới nó.

“Seele, em vừa hỏi chị một điều quan trọng.”

Seele đặt hai mảnh giấy vào sách dạy nấu ăn.

Sau khi rửa sạch và cắt nhỏ các loại nguyên liệu cho món borsch, Seele bắc chảo lên bếp và đổ dầu ô liu vào chảo. Cô cho hành, cà rốt, củ dền vào xào cho đến khi những phần nguyên liệu trộn đều vào nhau, dĩ nhiên xốt cà chua cũng là một thứ không thể thiếu của món borsch. Mùi thơm nức mũi từ chảo bốc lên, hoà cùng với hương thịt bò dần lan ra khắp căn bếp ấm cúng. Công việc còn lại là đổ hết nguyên liệu vào nồi cùng gia vị rồi đặt lên bếp khoảng ba mươi phút.

Khi đôi tay không cần làm gì nữa, Seele cầm lấy quyển sách, mắt nhìn nó không rời.

“Chị có ước mơ không?

Đương nhiên là có rồi.

Chị đã thực hiện được mong muốn đó chưa?

Trong một tương lai không xa, chị sắp sửa phát hành một trò chơi mà bản thân ấp ủ nhiều năm. Tuy vẫn còn nhiều vấn đề cần xem xét, nhưng chị tin rằng mình sắp đạt được nó.

Mà thực ra, chị vẫn có hơi lo lắng một chút.”

Seele vô tình thì thầm. “Lo lắng.”

Vừa đậy xong nắp nồi, Flora liền hỏi theo phản xạ. “Tiểu thư vừa nói lo gì ạ?”

Seele giật mình. “À không, ý chị là, chị đang lo không biết chúng ta còn đủ rượu vang đỏ cho món borsch không.”

Nói đoạn, Seele vội tìm tới tủ chứa rượu vì muốn làm những gì vừa nói trở nên chân thật hơn trong mắt Flora. Cô đi ngang một ô cửa sổ giúp cô nhìn thẳng ra vườn. Và trên xà nhà sát mái hiên, có một đôi én vừa xây xong tổ. Seele đã để mắt đến tổ én này hôm kia, cô ngạc nhiên vì tận bây giờ chúng mới chuẩn bị ấp những quả trứng. Seele chỉ mong bầy chim con sẽ kịp trưởng thành bay đi trú đông trước khi mùa đông khắc nghiệt kéo tới, nếu không chúng có thể sẽ chết vì cái lạnh hoặc không tìm đủ thức ăn.

Rời khỏi dòng suy nghĩ về tổ én, Seele lấy một chai rượu rồi định quay lại bếp. Đúng lúc này, có một giọng nói phụ nữ vang lên sau lưng. Biết ngay đó là bà Vollerei, cô lập tức xoay người đối diện với người phụ nữ có khuôn mặt ôn hoà tương tự mình. “Vâng, mẹ.” Seele đáp lời bà, chờ bà lên tiếng.

“Trông con rất ổn.” Bà Vollerei nhận xét, nhưng vẫn còn điều gì đó ẩn trong lời nhận xét của bà. “Có phải con vừa tìm thấy cảm hứng gì mới không?”

Seele thành thật gật đầu. Bà Vollerei chưa từng thất bại trong việc đoán tâm tư của cô, có lẽ vì bà là một người mẹ, và mọi người mẹ đều hiểu rõ con cái họ. Seele bất giác đưa mắt về hướng công viên Oru, nơi cô tìm thấy cây sồi màu nhiệm và lá thư.

“Thành thật thì mẹ cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy con như thế này, Seele.” Bà Vollerei dịu giọng như thể vừa trút được gánh nặng. “Ít nhất là hai tuần gần đây con không còn tỏ ra ủ rũ nữa, đấy là một chuyện đáng mừng.”

Seele siết chặt lấy chai rượu vang đỏ. “Trước đó nhìn con tệ lắm ạ?”

“Mặt con không tệ đến thế, con gái. Nhưng kể từ khi chúng ta đề cập đến việc kết hôn hai tháng trước, con cứ luôn tỏ ra rằng mình vẫn ổn. Con không nghĩ rằng mẹ sẽ không nhìn ra giống như người cha thiếu tinh tế của con đấy chứ?” Bà nhẹ mỉm cười.

Seele im lặng vì không biết nên nói gì.

“Mẹ vừa bàn bạc với cha con tối qua về chuyện của hai đứa.” Bà Vollerei thình lình thay đổi chủ đề.

Seele hạ thấp tầm mắt. “Nhưng như mẹ vừa nói, mẹ vốn đã biết rằng con...”

“Con không muốn.” Bà Vollerei tiếp lời, nhưng không phải với kiểu nói trách cứ. “Con không thích thằng bé mà là âm nhạc và cây đàn vĩ cầm. Chúng ta còn có một cây dương cầm làm bằng gỗ bạch dương bạc trong phòng khách nữa.” Rồi bà thở dài một hơi. “Đúng là chúng ta muốn tốt cho con, nhưng thấy con chẳng vui vẻ gì khiến cha mẹ trăn trở rất nhiều. Thời buổi bây giờ không dễ dàng gì với phụ nữ chúng ta, cha mẹ chỉ là muốn con có một chỗ dựa thôi.”

“Mẹ, con hiểu được sự khó khăn của hai người mà. Nếu đó là điều sẽ giúp cha mẹ cảm thấy yên tâm về con thì con sẽ làm theo.”

“Ồ, không đâu Seele.” Bà Vollerei lắc đầu. “Giờ mẹ đang muốn hỏi con một chuyện, con nghĩ sao về Petrograd(3) sau khi cuộc chiến này kết thúc? Con nắm chắc bao nhiêu?”

Seele thất thần. Trong một giây, cô vẫn chưa kịp hiểu ra ý định của bà.

Bà Vollerei khẽ gọi. “Seele?”

“Nhất định.” Và khi nhận thức được mẹ cô vừa nói gì, Seele kiên định nhìn bà Vollerei. “Con nhất định sẽ tới được Nhạc viện Petrograd.”

Bà Vollerei nở một nụ cười, mà trong mắt Seele thì đó là nụ cười hiền hậu nhất cô từng thấy. “Chỉ cần con không hối hận về quyết định của mình là được.”

“Mẹ, cảm ơn mẹ.”

Bà Vollerei ôm lấy cô con gái bà một lúc. Seele cảm thấy dễ chịu khi bà làm vậy, sau đó bà Vollerei quan tâm nhìn cánh cửa bếp. “Mùi thơm quá.”

Hai người cùng đi vào bếp. Seele kể cho bà nghe về món borsch đang nấu, thậm chí cô còn định cho bà xem qua mảnh giấy công thức. Nhưng khi thấy bà đang đi thẳng đến phía quyển sách nấu ăn, Seele hơi hốt hoảng nên đã nhanh chân hơn bà một bước, nhấc bổng quyển sách lên bằng tay còn lại.

Seele liền đưa ngay chai rượu vang cho Flora và hỏi lớn nhằm đánh lạc hướng. “Em đã thêm quế vào nồi chưa?” Vừa dứt lời, cô vờ lật quyển sách, len lén giấu lá thư đi trước khi bà phát hiện.

Bà Vollerei nhìn nồi borsch vẻ ngờ vực. “Quế ư? Trong món borsch có quế sao?”

“Lá nguyệt quế.” Seele vội sửa miệng, đưa mảnh giấy công thức ra. “Là lá nguyệt quế, không phải quế đâu, con nói nhầm thưa mẹ.”

Seele nhận được một cái gật đầu từ Flora.

Bà Vollerei không nhìn ra chuyện gì bất thường ở con gái, bà bảo. “Hy vọng trạng của cha con sẽ tốt lên khi thử món này. Từ hôm qua đến giờ ông ấy cứ than phiền suốt vì cái chân lại giở chứng. Nếu đồ ăn giúp cha con bớt cáu kỉnh hơn thì hay biết mấy.”

“Con nghĩ ta nên hẹn gặp bác sĩ cho cha.”

“Mẹ cũng cảm thấy như thế.” Bà đồng tình.

Rồi bà Vollerei rời bếp lên lầu tìm chồng. Seele mới thở phào đi đến khung cửa sổ thông thoáng.

“Chị không muốn làm người hâm mộ thất vọng, không muốn bản thân phải thất vọng. Nhưng không phải cứ kì vọng thì chúng ta sẽ có được kết quả như mong đợi, sẽ luôn có rắc rối theo cách này hay cách khác mà ta không lường trước được. Ngay cả Alice cũng đâu thể ngờ mình sẽ rơi xuống hang thỏ và lạc vào một thế giới thần tiên đúng không?

Ừm... và đúng là chị có thấp thỏm, nhưng không hiểu sao mỗi khi dành thời gian viết thư cho em thế này thì nỗi lo đó không còn quá nặng nề nữa. Đây là quãng thời gian đặc biệt nhất trong ngày với chị kể từ khi chúng ta biết nhau. Thật khó để chị giải thích cảm giác này cho ai khác ngoài em.

Chị tuyệt đối sẽ cố gắng hết sức.

Và em cũng vậy Seele, chúc cho giấc mơ của em thuận buồm xuôi gió.

Sẽ luôn đồng hành cùng em,

Bronya.”

Seele mỉm cười, không chỉ vì nội dung lá thư mà còn là vì chính cô cũng có cảm giác giống cô ấy. Khi hai người bắt đầu trao đổi thư từ thường xuyên hơn, Seele được nghe Bronya kể rất nhiều điều về thế giới một trăm năm sau, có những thứ vượt qua sức tưởng tượng, và có những thứ khiến cô hâm mộ vì thời đại của cô không tồn tại những thứ thần kì ấy. Chẳng rõ từ bao giờ, Seele đã trở nên ngóng trông những lá thư của người kia từng ngày. Họ không có khả năng gặp nhau, thế nên những lá thư chính là sợi dây duy nhất kết nối hai người, cũng là sợi dây duy nhất đưa cô và Bronya xích lại gần đối phương hơn.

Chỉ cần nó không biến mất thôi. Seele thầm cầu nguyện từ tận đáy lòng.

Ba mươi phút trôi qua, món borsch đã được dọn ra trên cái bàn gỗ theo kiểu cách đầu thế kỷ hai mươi. Seele dùng bữa cùng ông bà Vollerei, bữa ăn của ba người rất hoà hợp, chỉ trừ chuyện ông Vollerei thỉnh thoảng lại càu nhàu vì cái chân đau của ông lại nhói lên. Seele nói vài lời an ủi cha, sau đó cho một ít súp borsch vào miệng nếm thử.

~•°•~

Hương vị ngọt dịu của món borsch nóng hổi dần tan trên đầu lưỡi làm cơ mặt Bronya giãn ra một cách hưởng thụ. Nhưng đó là trước khi có một cuộc gọi từ ai đấy cắt ngang bữa sáng của cô. Tiếng chuông ồn ã reo từng hồi như thể đang giục cô bắt máy. Bronya thả muỗng borsch xuống, ấn nút nhận cuộc gọi. Liền đó toing giọng gấp gáp như ma đuổi của một nhân viên công ty truyền qua tai cô. “Sếp, lớn chuyện rồi, sếp xem mail chưa?”

Bronya chau mày vì có một dự cảm chẳng lành. Cô vội vàng mở điện thoại lên kiểm tra, sau khi đọc mail, Bronya không ngần ngại bỏ dở món súp đang ăn rồi gọi điện cho Project Bunny.

Lúc này nhân viên chăm chỉ của studio vẫn đang cuộn mình trên giường say giấc mộng đẹp cùng với những củ cà rốt. Nghe thấy tiếng chuông kết nối cuộc gọi ầm ĩ, Project Bunny không mở mắt mà chỉ dùng tay mò tìm điện thoại mình ném đâu đó quanh nệm tối qua. Nhấc điện thoại lên, Project Bunny mơ ngủ trả lời. “Idol Thỏ Con của mọi người... nhầm, Bunny nghe đây.”

“Project Bunny, tôi cần em đến studio ngay.”

Nhận ra đó là giọng của ai, Project Bunny tức thì không dám chậm trễ bật dậy, cơn buồn ngủ cũng vì thế mà sợ hãi chạy biến đi mất. Bronya cảm thấy dạ dày cô đang quặn lên khi giải thích ngắn gọn tình hình hiện tại cho người ở đầu dây bên kia.

Project Bunny cuống cuồng nhảy khỏi giường. “Vâng, vâng... em xuất phát liền đây sếp.”

Chấm dứt cuộc gọi, Bronya phóng xe ngay đến Reason Studio. Ngay khi vừa ngồi xuống bàn làm việc, cô lập tức yêu cầu một nhân viên báo cáo tất tần tật về lỗi chương trình họ vừa phát hiện sáng nay một cách chi tiết. Càng nghe, mặt mày Bronya càng tối sầm lại như một đám mây giông kèm sấm sét, bởi vì đó là một lỗi nghiêm trọng đến mức có thể khiến mọi kế hoạch sắp tới của công ty đảo lộn.

Kết thúc báo cáo, nhân viên nọ lo lắng nói. “Nếu không nhanh làm gì đó thì khả năng rất cao chúng ta phải hoãn thời gian ra mắt trò chơi thưa sếp.”

Cô gái tóc xám bạc cảm thấy đầu mình đang âm ỉ đau, cô mệt mỏi bóp trán. Không biết nhân viên nào đã bất cẩn gây ra chuyện này, tuy nhiên Bronya hiểu rõ hơn ai hết giờ không phải lúc đổ lỗi cho nhau mà họ cần cố gắng sửa chữa sai lầm trước khi quá muộn.

“Sếp, chuyện sếp mới nói là thật hả?” Project Bunny hớt hải mở tung cửa văn phòng, gương mặt tái mét không còn một giọt máu.

“Tôi e rằng thời gian tăng ca sắp tới sẽ không ít đâu.” Bronya nghiêm trọng đáp. “Và chúng ta cũng không thể vừa đua xe vừa vá lỗi như những lần trước nữa, rất tiếc khi phải thông báo như thế.”

Ngoài đường, tuyết vẫn đóng thành từng mảng, cứ như muốn chôn chân ở đấy mãi mãi. Bronya liền yêu cầu một cuộc họp khẩn cấp. Cuộc họp kéo dài suốt buổi sáng, lấn sang cả giờ chiều khiến tinh thần của những ai tham gia đều trầm đi trông thấy. Nhiều phương án giải quyết được đề xuất, và sau khi thống nhất ý kiến, họ lập tức bắt tay vào công việc.

Vì gấp rút sửa lỗi chương trình và đưa bánh răng về đúng trật tự, Bronya hoàn toàn không có đủ thời gian viết thư cho Seele. Cô thức trắng mấy đêm liền, thậm chí còn qua đêm ở studio mà không về nhà. Và Bronya không biết Seele ở một trăm năm trước đang sốt ruột chờ thư của cô khi những lá thư đột ngột im bặt. Dù là đêm khuya, văn phòng Bronya vẫn không ngừng sáng đèn. Khoé mắt cô đau nhức khi vừa phải nhìn màn hình máy tính liên tục vừa không ngủ đủ giấc. Nhìn khuôn mặt tái nhợt thiếu hụt sinh khí đó, tưởng như cô có thể gục xuống bất cứ lúc nào.

“Chị Bronya, đã một tuần hơn rồi em chưa nhận được thư của chị. Em tự hỏi có phải điều chị đang lo lắng mà chị từng kể cho em đã xảy ra không?”

“Thực tế chị đã lo ngay từ đầu.” Bronya nốc cạn tách cà phê đậm đặc, hy vọng chất cafein có thể giúp cô tỉnh táo thêm tí chút.

“Chị có vẻ mệt mỏi lắm, chị vẫn ổn chứ? Chị có ăn uống đầy đủ không? Có ngủ đủ giấc không?”

“Làm sao em biết?” Hoàn thành một dòng code, Bronya chuyển sang dòng khác. Cô dụi mắt, và cảm nhận được rằng cơ thể này sắp đến giới hạn.

“Vì nội dung thư ngắn hơn mọi khi, nét chữ của chị cũng run nữa. Rõ ràng chị đã viết thư trong một tình trạng tồi tệ.”

“Chị không còn cách nào khác, Seele. Một người bạn của chị từng nói ‘đông tan rồi xuân sẽ tới’, nhưng đầu óc chị giờ cứ như băng vĩnh cửu Bắc Cực vậy.”

“Đừng thúc ép bản thân quá nhiều, em ước mình đang ở cạnh chị lúc này.”

“Nhưng... sự thật phũ phàng là chị và em không thể.” Bronya gõ phím rất mạnh như muốn trút hết đi sự muộn phiền trong lòng. Cô hít vào rồi thở ra. “Chị không nhìn thấy em, Seele.”

“Em cũng không nghe được chị.”

“Càng không chạm được vào em.”

“Nhưng chúng ta có thể viết cho nhau, tựa như bây giờ vậy. Một cơn bão tuyết kinh hoàng có thể đột nhiên ập đến, một mùa đông có thể kéo dài hàng tháng trời, nhưng không có gì là mãi mãi, rồi tuyết sẽ tan thôi. Khi những hạt tuyết không còn nữa, hãy cho em biết ý nghĩa của việc tuyết tan là gì.”

Bronya nhướng mắt nhìn nhúm tuyết trắng đọng sát mé cửa sổ. “Cho đến khi tuyết tan...” Mí mắt nặng trĩu như hai quả tạ nghìn cân, Bronya dần lịm đi trên bàn làm việc. Màn hình xanh lạnh ngắt vẫn le lói, hắt vào má trái của cô gái tóc xám bạc. Đêm đó, Bronya mơ một giấc mơ. Trong mơ có vị mằn mặn của biển, có vị thanh mát của rừng và có hương hoa ngạt ngào.

Bronya thấy bản thân đang đứng ở bìa của một khu rừng. Không nghĩ ngợi nhiều, cô bước qua thảm cỏ xanh mướt để tiến sâu vào trong. Đây là một khu rừng lạ thường, bởi lẽ những giấc mơ luôn luôn hỗn loạn và khó nắm bắt, cho nên nó mới lạ thường như thế. Cánh trái có một con sông lớn, dòng chảy sông chảy vào một hồ nước phẳng lặng ở trung tâm. Giữa hồ là một hòn đảo chia tách hồ nước thành hai phần riêng biệt, tạo nên biểu tượng của sự tái sinh. Bronya bước tới mép hồ. Nước hồ trong vắt, có thể thấy rõ những sinh vật bên trong: những con sứa bồng bềnh trôi giữa lòng hồ, những con cá bướm tụ thành đàn lớn bơi vòng quanh, và một con cá voi khổng lồ đang ngấp nghé quẫy đuôi gần mặt nước.

Một con bướm xanh lượn quanh khóm hoa trắng muốt cạnh bờ hồ, sau đó thình lình rẽ hướng bay luẩn quẩn quanh chân Bronya. Chợt có một con nai trắng không biết từ đâu xuất hiện, nó đứng ở bên kia hòn đảo nhìn cô chằm chằm, Bronya cũng nhìn lại nó. Mấy giây sau, con nai nọ bất ngờ cúi đầu với cô rồi khẽ hất mõm về một hướng như đang ám chỉ điều gì. Đoạn nó xoay người, lững thững quay về rừng thẳm.

Bronya bối rối. Cô loay hoay tìm cách băng qua hồ nước không một bóng thuyền. Đúng lúc này, một con sứa nhô lên từ lòng hồ chở cô qua bờ bên kia của hòn đảo. Ở vị trí con nai biến mất, có một âm thanh ngâm nga khẽ khàng vọng tới thôi thúc Bronya tiến lên. Cô bước đi càng lúc càng nhanh, rồi chẳng rõ từ lúc nào, đi đã chuyển thành chạy, chạy chuyển thành dốc hết sức mà chạy. Bronya vừa chạy về phía giọng hát vừa lấy tay gạt phăng đi những cành cây rậm rạp đang ngăn cô nhìn thấy chủ nhân của nó.

Bronya chỉ giảm dần tốc độ khi một bóng người duyên dáng đập vào mắt cô. Cô dừng hẳn lại, thở dốc sau một nhành thanh lương trà chi chít những chùm quả đỏ mọng. Xa xa, mà thực ra cũng không xa lắm, Bronya trông thấy một thiếu nữ với mái tóc xanh dài ngồi trên xích đu bằng dây leo, dưới một gốc sồi cổ thụ có tán lá che rợp cả một vùng trời rộng lớn. Thiếu nữ lắc lư trên xích đu, lưng đưa về phía cô đang ngân nga một bài hát mà dường như Bronya đã biết từ lâu.

Vùng đất thánh linh thiêng,

Nơi thiên đường gặp mặt đất,

Nơi biển cả gặp rừng già.

Tôi nghe thấy tiếng thiên thần đang gọi...

Con nai trắng ban nãy giờ đang đứng cạnh thiếu nữ, hơi nghiêng người về trước, lim dim mắt. Nàng tiên hoa cũng bay vòng quanh thiếu nữ. Thiếu nữ dịu dàng xoa đầu con nai và bài hát vẫn tiếp tục. Đây là giai điệu thần tiên nhất Bronya từng nghe, dù cho đó chỉ là một bản nhạc trong một giấc mơ hư ảo.

Bahal

Telocvovim

Od zildar

Bronya nhìn thiếu nữ không rời. Trống ngực cô gõ dồn dập khi tiếp cận cô ấy. Bronya rất muốn biết mặt thiếu nữ như thế nào. Chốc sau, cô chỉ còn cách người trước mặt non chục bước chân.

Thế rồi thiếu nữ dừng hát, chầm chậm xoay đầu lại như thể đã nhìn thấu suy nghĩ của Bronya.

Bronya nuốt nước bọt.

Gần lắm rồi.

Chỉ một chút nữa thôi.

Thời gian trong mắt cô chưa từng trôi chậm đến thế. Bronya cảm thấy như cả năm trời đã qua rồi.

Nhưng...

Khoảnh khắc sắp nhìn thấy khuôn mặt của thiếu nữ kia, cô gái tóc xám bạc giật mình tỉnh dậy vì tiếng ô tô trên đường. Tuy đã bảy giờ sáng song mặt trời vẫn chưa ló dạng. Lúc này Bronya cảm thấy cổ mình cứng đơ như bị cố định tại chỗ, hai vai thì đau nhức, lưng mỏi nhừ do đã ngủ cả đêm trên cái bàn cứng ngắc. Cảm giác này không dễ chịu tí nào, khi toàn thân cô chẳng có chỗ nào không ê ẩm.

Bronya xoa bóp cổ mình giúp nó khá lên chút ít. Cô liếc nhìn chồng thư xếp ngay ngắn cạnh máy tính, nhớ tới giấc mơ trêu ngươi đó, Bronya tặc lưỡi không vui. Mỉa mai đến thế là cùng. Cô đứng dậy, đến nhà vệ sinh rửa mặt cho tỉnh táo. Bronya ngẩng đầu nhìn hình ảnh phản chiếu vẻ suy kiệt của mình. Chợt ảnh phản chiếu bất ngờ biến thành hình bóng mơ hồ của cô gái trong giấc mơ, vẫn chính xác là dáng vẻ yêu kiều cô nhớ, nhưng mặt mũi lại hoàn toàn bị bôi đen bởi những đường vằn vện như một đám chỉ rối.

“Đó có phải Seele không?” Bronya tự nhủ.

Hình bóng của thiếu nữ chậm rãi tan đi, Bronya chau mày nhưng cũng tạm thôi bận tâm đến nó vì cô thừa biết mình chẳng thể làm gì hết.

Bronya kiểm tra những lỗi chương trình oái oăm lần nữa trong lúc dùng bữa sáng. Tất cả đang đi đúng hướng. Nếu thần may mắn đứng về phía cô thì có thể sự cố này sẽ kịp khắc phục đúng hạn.

Mai là chủ nhật, ngày 3 tháng Ba. Theo như tính toán ban đầu thì cô vẫn ở lại công ty, nhưng vì giấc mơ đó cứ lởn vởn không thôi nên một ý tưởng táo tợn đã loé lên trong tâm trí cô gái tóc xám bạc. Cô mở điện thoại, xem xét các chuyến tàu khởi hành từ Moscow đến Tallinn trong khung giờ thích hợp, vì cô phải trở về Moscow ngay trong ngày để chuẩn bị cho sáng thứ hai bận rộn, và vì đó cũng là ngày khai màn của lễ Maslenitsa truyền thống nữa.

Nếu gộp luôn thời gian kiểm tra hải quan ở biên giới Narva thì tám giờ tối nay xuất phát có vẻ hợp lý. Bronya liền đặt vé tàu hòng tránh tình huống đêm dài lắm mộng xảy ra, rồi hài lòng tắt máy. Bảy rưỡi tối, Bronya đã có mặt tại nhà ga Leningradsky trong bộ quần áo kín kẽ và một đôi bốt cao. Ngoài ra cô còn đem theo vài món đồ lặt vặt có thể sẽ có ích, ví như một chiếc ô.

Đúng tám giờ, đoàn tàu bắt đầu lăn bánh, dần rời xa nhà ga Leningradsky. Được khoảng hai giờ, tiếng bánh tàu xình xịch trượt trên đường ray làm Bronya cảm thấy hơi buồn ngủ. Dù sao khung cảnh ngoài kia cũng chẳng có gì mới trừ ánh đèn điện mà cô đã quá quen thuộc, vậy nên Bronya quyết định chợp mắt bù cho những đêm thức trắng sửa lỗi trò chơi. Trước khi thiếp hẳn đi, cô tơ tưởng tới Toila cùng bờ biển sóng gợn lăn tăn, thử hình dung ra căn nhà mình sắp ghé thăm, cuối cùng cô nghĩ đến cây sồi trong thư – cái cây dấy lên sự tò mò trong Bronya.

Tang tảng sáng, bảy giờ theo giờ địa phương và tám giờ theo chiếc đồng hồ trên cổ tay, Bronya thức giấc giữa những tia nắng đầu tiên, nhưng nắng cũng sớm bị các đám mây xám xịt che lấp không lâu sau đó. Quang cảnh xung quanh cũng đã thay đổi một cách đáng kinh ngạc khi cô còn đang mê man. Những hàng thông trải dài như những người lính vững vàng, những cái cây xơ xác liên tiếp vụt qua trước mặt cô.

Thêm mười lăm phút nữa, tàu dừng ở trạm Oru, Bronya thu dọn đồ đạc xuống tàu, rồi cô dõi mắt nhìn theo con tàu tiếp tục chuyến hành trình của mình đến Thủ đô Tallinn, Estonia. Mãi đến khi con tàu khuất hẳn phía chân trời, cô mới lên taxi đi thẳng tới quận Toila nơi Seele từng sống.

Trước nhất Bronya tạt qua bờ biển Toila một lát. Đường bờ biển có đá cuội trải dài từ đầu bên này đến đầu bên kia, phủ một lớp tuyết mỏng là thứ khiến cô ấn tượng khi quan sát ở khoảng cách gần. Nước biển xám ngắt như bầu trời bên trên nó. Những con sóng dồn dập xô vào bờ, có vẻ thô bạo hơn trong một ngày gió thổi mạnh, có thể nghiền nát mọi thứ.

Đã đến lúc làm chuyện chính sau khi ngắm bờ biển chán chê, Bronya rảo bước tìm tới địa chỉ nhà trong nhật ký. Hoá ra không mất nhiều thời gian để Bronya tìm thấy nó vì căn nhà nằm ở một vị trí khá thông thoáng. Căn nhà hai tầng im ắng tách biệt với khu dân cư gần đó, trông có hơi cô đơn. Và mặc dù vẫn tồn tại sau một trăm năm với đủ loại thăng trầm, nhưng cô hiểu rằng người sống ở đây, dù bất kể là ai, đã không còn là người của ngày xưa nữa rồi.

Bronya nhấn chuông cửa và chờ đợi.

Không có người trả lời.

Bronya thử nhấn lần hai.

Vẫn không có bất cứ âm thanh phản hồi nào.

Chắc họ đi vắng rồi. Bronya chán nản quay gót, đưa mắt nhìn căn nhà lần cuối trước rời đi. Giấc mơ không ủng hộ cô, và giờ thì tình hình cũng quyết tâm không ủng hộ cô.

Bronya thở dài, nhìn về hướng Tây. Chỉ còn một nơi cô cần ghé qua trong chuyến đi hôm nay.

Công viên Oru được xây dựng vào những năm cuối của thế kỷ mười chín, đó là một công viên xinh đẹp cùng những cây cổ thụ giá trị và hàng trăm loài cây khác. Đường Linden dẫn đến Cổng Gấu đi vào công viên với hai hàng cây bồ đề già nua đơn giản là một câu chuyện cổ tích, ngay cả khi ngập trong tuyết, chúng quả thật vẫn là một câu chuyện cổ tích giữa đời thực. Nhìn những đường cong trên thân cây, có vẻ cổ kính, kì quái giống như một khu rừng thần tiên nào đó vậy.

Theo như Bronya biết, nơi này đã từng có một lâu đài, tuy nhiên nó đã bị bom đạn phá hủy đến mức không thể khôi phục trong Thế chiến II. Bronya vô định đi loanh quanh công viên, nhìn vách đá chỗ bọn én thường làm tổ, rồi lại tới hang Suối Bạc nhìn dòng nước trong vắt róc rách chảy. Cô lắng tai nghe tiếng suối, tiếng gió, và hình như cô nghe thấy cả tiếng ai đó say mê kéo đàn vĩ cầm đâu đây. Tất nhiên cô cho rằng đó chỉ là ảo thanh mà thôi, là một chuyện không tưởng. Chợt Bronya nghiêng người, tay vươn ra vuốt bức tường sa thạch của cái hang.

Seele đã trải nghiệm những thứ bình dị này một trăm năm trước.

Cô muốn thấy những gì Seele thấy thay cho việc không thể thấy cô ấy.

Cô muốn nghe những gì Seele nghe thay cho việc không thể nghe thấy cô ấy.

Cô muốn chạm vào những gì cô ấy từng chạm thay cho việc không thể chạm vào cô ấy.

Liệu làm thế này có lẽ sẽ giúp cô cảm thấy được gần gũi với Seele hơn chăng? Cô không thật sự chắc lắm về lối suy nghĩ này của mình.

Bronya cho hai tay vào túi áo khoác, dù rất muốn nhưng vốn thời gian hạn hẹp không cho phép cô tần ngần ở đây lâu hơn. Bronya tiếp tục đi xuống những bậc thang đá, men theo dòng chảy của hang Suối Bạc tìm một lối đi thuận tiện xuống sông Pühajõgi, trong tiếng Estonia có nghĩa là “linh thiêng”, chảy xuôi ra vịnh Narva. Bronya đi xuống ngọn đồi thoải, đảo mắt quanh quẩn và không ngừng lẩm bẩm. “Cây sồi... cây sồi, cây sồi gần thung lũng sông Pühajõgi.”

Rốt cuộc cô đã đến được cây sồi thiêng kia. Nó đứng hiên ngang như một gã khổng lồ cự phách, vóc dáng giống y hệt cây sồi trong giấc mơ. Tuy trông nó chẳng khác bao nhiêu những cây sồi cùng loài mọc quanh khu này nhưng có gì đấy khiến cây sồi này trở nên khác hơn, đặc biệt hơn mà cô không cách nào có thể diễn tả bằng ngôn từ thông thường. Cái hốc sồi vẫn nguyên vẹn, tuy nhiên cành cây thì có dấu vết bị hủy hoại. Nó là một cành cây to làm người ta chú ý, ở chỗ gãy thậm chí còn sót lại những vệt đen xì như bị lửa thiêu. Bronya tự hỏi điều gì đã gây nên những vết tích đó. Có phải nó cũng chịu chung số phận với toà lâu đài của công viên Oru trong Thế chiến II hay không? Cô ngồi xổm xuống đăm chiêu nhìn hốc sồi mà không động đậy thật lâu. Bởi vì nó là cây sồi kết nối hai người, thế nên cô có phần xúc động.

Ngày xuân năm 2019, tiết trời đang dần trở xấu, lúc này tuyết cũng bắt đầu rơi lất phất. Bronya chìa tay trái đeo găng hứng lấy những hạt tuyết giá buốt đang rơi càng lúc càng dày đặc, sau đó cô đứng lên, mở ô chuẩn bị ra về. Đôi mắt bạc hiện ra một tia tiếc nuối vì cô không muốn rời khỏi đây sớm đến thế.

Nhưng có một điều, Bronya không hề biết Seele cũng đang ở đây, cách cô chỉ mười bước chân.

Ngày thu năm 1919, bấy giờ trời đang nắng đẹp, lá cây vẫn còn xanh nhiều chứ chưa chuyển hẳn sang màu vàng cam mà người ta thường biết. Đầu đội một chiếc mũ rộng vành, Seele đi nhanh đến chỗ cái cây. Dưới ánh nắng chiều, lá thư trong tay và khuôn mặt đầy sự chờ mong của Seele nhất định sẽ làm Bronya đứng thừ người ra nếu cô có thể nhìn thấy cô ấy.

Bronya bước tới một bước, nhưng hành động đột nhiên chững lại như bị thứ gì đó chắn ngang. Cô chau mày và cố gắng vượt qua bức tường vô hình, tuy vậy Bronya đã nhanh chóng nhận ra cô không làm được.

Seele cách đây một trăm năm cũng sững người khi va phải “bức tường”. Dù ngẩn ngơ không hiểu ra sao, nhưng Seele tuyệt nhiên không cảm thấy sợ hãi hay lo lắng trước sự việc khác thường này.

Có lẽ vì sốc, Bronya đã đánh rơi chiếc ô xuống đất. Gió thổi cái ô lăn lông lốc trên nền tuyết rồi kẹt lại giữa một rễ cây lộ thiên. Rồi như có người mách bảo, Bronya tháo găng, mặc kệ tuyết làm đầu ngón tay cô tê cóng như bị kim châm, lẳng lặng đưa tay về phía bức tường từng tí, từng tí cho đến khi cô đụng trúng nó lần nữa. Seele cũng hành động y hệt cô gái tóc xám bạc, cô áp lòng bàn tay mình lên bức tường vô hình rồi cư nhiên giữ nó như vậy một lúc.

Trong tích tắc, một cảm giác kì diệu không bút nào tả xiết bất chợt quấn lấy hai con người thuộc về hai thời đại khác nhau. Ấy là một cảm giác tiếp xúc gần gũi, một cái đụng chạm vô cùng chân thật mà họ không dám mơ đến. Rào cản không – thời gian giữa hai người chưa bao giờ lỏng lẻo đến thế, cứ như thể chỉ cần một cú huých nhẹ là bọn họ có thể dễ dàng bước qua thời đại của đối phương để gặp nhau.

Sự mềm mại từ gò má truyền qua xúc giác khiến Bronya không khỏi buột miệng, nhưng không mong sẽ được hồi đáp. “Là em đấy sao Seele?”

Gió như ngừng gầm rú, tuyết như ngừng rơi, âm thanh như ngừng kêu vang, trong phút chốc mọi thứ bỗng trở nên tĩnh lặng đến nôn nao. Cái động chạm dịu dàng trên ngực trái như muốn trả lời cho câu hỏi của cô. Bronya nhắm mắt, giữa cái lạnh thấu xương của một ngày tuyết tháng Ba, cô lại có thể cảm nhận được sự ấm áp của ánh mặt trời mùa thu, một chuyện tưởng chừng như hão huyền nhưng giờ đã biến thành sự thực. Thế nhưng cảm giác tuyệt diệu đó cũng biến mất đột ngột nhanh như lúc nó đến. Chỉ chớp mắt, sự mềm mại ở năm đầu ngón tay đã không còn, thứ chờ đợi Bronya khi cô sực tỉnh táo là một khoảng không lạnh tanh và sự trống vắng trong lồng ngực.

Bronya rụt bàn tay đã đỏ ửng vì tuyết, nội tâm vẫn chưa hết bàng hoàng. Cô đeo găng, nhặt lại cái ô mình đánh rơi, bùi ngùi vòng lên những bậc thang, ngược về đường cũ rời công viên Oru. Dưới cơn mưa tuyết, hình bóng của một người Nga cầm ô trông cô độc đến lạ. Cây sồi già lẻ bóng nhìn cô gái biến mất khỏi tầm nhìn của nó, cành cây như thể đang run nhè nhẹ.

Cô gái tóc xám bạc nhớ về tiếng đàn ở công viên Oru, bỗng dưng cảm thấy nó thật hơn bất cứ điều gì, và cô nghĩ. Giá như mình có thể trực tiếp nghe tiếng đàn của em ấy thì tốt rồi.

Khi về nhà vào khoảng hai giờ sáng, Bronya như quên hết mọi mệt mỏi tích tụ suốt ngày hôm nay, cô lao vội vào bàn lục tung xấp giấy viết thư trong hộc tủ lên. Sau đó bắt đầu hăng say viết không màng tới thời gian đang trôi vùn vụt như tên bắn.

~•°•~

“Seele,

Hôm nay, ngày 4 tháng Ba là ngày đầu tiên của lễ hội đưa tiễn mùa đông Maslenitsa ở chỗ chị. Mọi người đều cảm thấy rạo rực khi chào đón một mùa xuân mới hứa hẹn những điều lành.

Tuyết tan là khi không khí trở nên ấm áp hơn, là khi chồi non bắt đầu mọc xua đi sự u uất. Tuy tuyết vẫn chưa hoàn toàn tan đi, nhưng chị muốn em biết người chị đang ấm áp hơn bao giờ hết, ngay lúc này.

Hôm qua chị đã đến chỗ em, đến sông Pühajõgi và đã nhìn thấy cây sồi. Phải, cả ngôi nhà và cây sồi đều còn ở đó. Nghe thật điên rồ, nhưng chị không thể nào quên... Lúc đó, dưới gốc sồi, chị đột nhiên cảm nhận được sự hiện diện của em ngay bên cạnh. Chị biết đó chỉ có thể là em thôi, Seele. Chị gần như đã chạm vào má em, và em gần như đã chạm vào ngực chị. Cảm giác này thật đến mức nếu chị phớt lờ nó, thì chẳng khác nào chị đang phủ nhận sự kì diệu hai ta đang cùng nhau trải qua.

Chị xin lỗi vì đã đột ngột im lặng làm em lo lắng. Chuyện đó sẽ không xảy ra lần thứ hai đâu, chị hứa.

Mà này, em có nhìn thấy Polaris đang toả sáng ở chân trời phương Bắc xa xôi kia không? Chúng ta cũng có một ngôi sao chung đấy chứ.

Và, hình như chị đã nghe thấy tiếng đàn vĩ cầm của em, ở hang Suối Bạc.

Chị thích tiếng đàn đó, nghe hay lắm.

Bronya.”

 

Âm sắc trong vắt của cây dương cầm kiểu đứng đặt ở phòng khách vang lên đều đặn, bắt đầu bằng những nhịp chậm rãi như lá vàng rơi mùa thu, rồi bất chợt tăng tốc, dồn dập như những con sóng vội vàng. Đó là bản Prelude in C-sharp minor, Op.3 No.2 của nhà soạn nhạc người Nga Rachmaninoff, và thường được người ta gọi là The Bells Of Moscow vì nó như đang tái tạo lại tiếng chuông carillon ngân vang của điện Kremlin hào nhoáng. Có một Moscow với điện Kremlin như thế, ngay cạnh Quảng trường Đỏ. Seele chơi bản nhạc này một cách có chủ đích, khi tâm trí cô đang nhìn về Moscow ở một trăm năm sau, rực rỡ trong ánh mặt trời. Giữa quảng trường tuyết phủ, có một cô gái người Nga cầm ô đứng đấy, nhìn cô bằng ánh mắt bạc nhu hoà, chìa tay và mỉm cười ấm áp.

Seele không thể ngừng nghĩ đến cái đụng chạm chân thật dưới gốc sồi. Đó là một bàn tay mềm như bông, mang theo một chút lạnh man mát trong ngày tuyết rơi. Giống như, cô đã có thể ở đó để gặp mặt người tên Bronya Zaychik. Chỉ tiếc rằng cảm giác thần kì ấy trôi đi quá nhanh, chẳng khác nào ngôi sao băng lướt ngang bầu trời và biến mất trong nháy mắt, bỏ lại vô vàn lời nguyện ước chưa kịp gửi gắm.

Một bản nhạc hoàn mỹ là như thế nào? Nó không đơn giản chỉ là âm sắc tinh tế của cây đàn, không chỉ là sự điêu luyện của người diễn tấu, cũng không chỉ đến từ nhạc phổ của một nhà soạn nhạc thiên tài nào đó. Mà điểm mấu chốt chính là sự cộng hưởng giữa đàn và người. Người diễn tấu phải thật sự hiểu rõ cây đàn của mình, tìm kiếm sự đồng điệu giữa nó và tâm hồn để tạo nên một giai điệu say đắm chạm đến linh hồn sâu thẳm của người nghe.

Mỗi nốt nhạc phát ra đều là duy nhất ở khoảnh khắc hiện tại. Ta không thể nhìn thấy được thời gian, nhưng thính giác thì thần kì hơn thế. Những khi lắng nghe tiếng đàn du dương, thì đó cũng là lúc chúng ta đang nghe thấy dòng chảy của thời gian.

Seele nhớ cô giáo dạy nhạc cho mình lúc bé từng bảo rằng âm nhạc, người diễn tấu và đàn không phải là những thứ duy nhất có thể cộng hưởng. Giữa con người với con người cũng là một loại cộng hưởng. Ở mỗi người, cách bọn họ cộng hưởng lại không giống nhau mà trông như một khối nước có thể biến hoá khôn lường. Có người tìm thấy sự cộng hưởng trong âm nhạc, có người tìm thấy sự cộng hưởng trong thơ ca, thậm chí còn nhiều hơn cả thế. Nhưng mạnh mẽ nhất, chấn động nhất, có lẽ ta chẳng thể nào không kể đến sự cộng hưởng giữa hai linh hồn với nhau. Đó là một thứ gì đấy trừu tượng, được thể hiện dưới lớp áo khoác ngoài mà con người thường gọi là tình yêu hoặc cũng có thể là sự đồng cảm, thấu hiểu.

Tay Seele vẫn mê mẩn lướt trên phím đàn.

Rachmaninoff đưa Seele lâm vào trạng thái say sưa của một người đã ngà ngà men rượu. Cô nắm bắt khoảng lặng của bản nhạc rất chuẩn xác, những đoạn không có âm thanh cũng là đang diễn tấu, đưa thính giả đắm vào vẻ đẹp của cái tĩnh trong tiếng đàn.

Hình bóng cô gái tóc xám bạc một lần nữa hiện ra. Dường như Seele đã tìm thấy sự cộng hưởng cho riêng mình, điều chưa từng có tiền lệ trước đây.

Bản Prelude in C-sharp minor dần bước vào hồi kết. Ở dư âm của nốt nhạc cuối cùng, đôi tay người diễn tấu vẽ một đường cong hoàn hảo giữa không trung, sau cùng nhẹ nhàng hạ xuống đầu gối.

Áng trăng vằng vặc thắp sáng gian phòng khách mờ ảo làm mọi vật trở nên sinh động hơn. Seele hết quan sát lá thư trên kệ đàn rồi lại ngước mắt lên bầu trời đêm. Ngôi sao phương Bắc – Polaris chói lọi của chòm Tiểu Hùng ở chân trời đối mặt với cô một cách hài hoà giữa hằng sa số những ngôi sao khác, như thể đang nhắc nhở cô hãy kiên định trên con đường phía trước. Polaris vẫn luôn ở đó, quá khứ, hiện tại, tương lai, mãi mãi là một phần của con gấu vĩ đại, tựa như tiếng đàn vượt thế kỷ. Một trăm năm sau, thậm chí còn xa hơn thế nữa, nó sẽ tiếp tục dẫn lối cho Seele, cho tất cả mọi người trên miền đất này.

1919 hay 2019 đều chẳng có sự khác biệt, ngôi sao Bắc Đẩu đã phản chiếu bên trong con ngươi của hai người, kết nối họ giống như cây sồi ngoài kia.

Seele từ từ đóng nắp đàn dương cầm, ánh mắt xa xăm nhìn Polaris, không rõ đang nghĩ chuyện gì. Lát sau Seele với tay lấy thư, chăm chú ngắm những bức ảnh màu kèm theo nó. Bức ảnh đầu tiên chụp toàn cảnh nơi tổ chức lễ hội, những cây thông, những gian hàng, những bộ trang phục Nga truyền thống, những con đường sạch bóng không có tuyết mà thay vào đó là ánh mặt trời sáng sủa. Bức thứ hai là một hình nộm bắt mắt, đầu trùm khăn trơn đỏ được người ta dựng lên trước Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Vào ngày cuối của lễ hội, lửa nổi lên sẽ vây lấy hình nhân này, như đốt hết mọi xui xẻo, bệnh tật, mọi ưu phiền, để xua đi cái lạnh của mùa đông và chào đón mùa xuân mới.

Seele quan tâm xem đến bức ảnh cuối cùng, chốc chốc lại nở một nụ cười khẽ, tỏ ra thích thú trước các bức chụp cận cảnh những món đồ trang trí xinh xinh đủ màu sắc trên những cây thông.

Lật mặt sau bức ảnh chụp cây thông Maslenitsa treo chi chít vật trang trí mặt trời và các dải dây màu, Seele chợt trông thấy một dòng nhắn nho nhỏ.

“Chị đã mơ thấy em nhưng không thể nhìn thấy mặt em. Thế nên em có thể gửi cho chị một bức chân dung của mình không?”

Seele mỉm cười, bỏ toàn bộ ảnh vào lại bao thư. Cô ôm thư về phòng mình, và như thường lệ, cất giữ chúng trong chiếc rương kỷ niệm quý giá.

Chiều hôm sau, Seele sắp xếp cho một thợ chụp ảnh đến nhà, trong khu vườn tràn đầy hương hoa thu ngào ngạt. Bụi thanh cúc mọc muộn giờ đã đủ cứng cáp, vài nụ hoa bé tí xíu đã bắt đầu nhú ra nhưng vẫn còn rụt rè lo sợ. Hôm nay Seele mặc bộ váy đẹp nhất mình có trong tâm trạng trông đợi hiếm thấy. Trong khi chờ người chụp ảnh chuẩn bị phim, Flora bước đến sau lưng Seele, cài một chiếc vòng nguyệt quế thơm ngát vừa mới tết xong lên mái tóc cô.

Seele sờ sờ vòng nguyệt quế nửa nhịp, sau đó cô nghiêm chỉnh quay lại tư thế chụp ảnh.

“Tốt lắm.” Người chụp ảnh vừa nói vừa ra hiệu. “Đừng cử động.”

Tay ôm một bó hoa tươi, Seele duyên dáng cười trước ống kính.

Tách. Một âm thanh giòn giã vang lên khi người chụp ảnh nhấn nút.

~•°•~

Bức ảnh đen trắng của thập niên hai mươi thế kỉ hai mươi hoàn thiện nằm gọn gàng trong tay Bronya, rốt cuộc giờ đây cô đã có thể nhìn thấy rõ gương mặt của thiếu nữ bản thân vẫn không ngừng nghĩ về. Dẫu cho chỉ là ảnh đen trắng, song nó không thể giấu nổi đi vẻ rạng ngời của thiếu nữ trong ảnh. Vòng nguyệt quế tết bằng lá thường xuân trên tóc Seele là lời hồi đáp cho bức ảnh cây thông Maslenitsa của cô – ngoài chiến thắng, còn là biểu tượng cho một tương lai tươi sáng, mùa xuân đầy hơi ấm và hy vọng.

Đặc biệt là nụ cười cười chân thành tựa như mặt trời kia, nó khiến Bronya chao đảo.

Sự cộng hưởng, nếu Bronya biết Seele nghĩ như thế nào khi chụp bức chân dung này thì cô chắc chắn sẽ nói rằng nó chính là sự cộng hưởng giữa họ.

Đây chính là dáng vẻ của em ấy... Cô nghĩ, vẫn chưa hết choáng váng sau nét đẹp giấu trong hai màu đen trắng kia. Bronya cũng tự chụp cho bản thân một bức ảnh trong bộ thường phục rồi in nó ra. Thời nay, việc chụp ảnh đã dễ dàng hơn trước rất nhiều, không cần đến những cái máy cồng kềnh, không cần phim, cũng không cần tốn hàng giờ để rửa ảnh. Bronya nhét bức ảnh vào lá thư, cười vui vẻ khi mở nắp hộp nhạc.

Chiếc hộp gửi thư đi đến hốc sồi chỗ dòng sông Pühajõgi. Khi thư được chuyển đi, có một con sóc nâu đang lởn vởn trong cái hốc kín đáo ấy. Con sóc giật mình vì lá thư đột ngột hiện ra ngay bên cạnh, nó thận trọng khịt mũi vài lần quanh lá thư. Sau khi xác nhận lá thư không phải là mối đe doạ, con sóc lôi thư khỏi hốc sồi, kéo lê trên mặt đất một khoảng với ý định đem nó về tổ. Tuy nhiên, thư đã mắc lại trên đường bởi thứ gì đó, lập tức con sóc từ bỏ mảnh giấy vừa tìm thấy rồi leo vụt lên cây chui vào tổ.

Gió thổi hiu hiu làm mấy chiếc lá vàng trên cành sồi xao động, thổi qua lá thư bơ vơ như an ủi.

Thư cùng ảnh lặng yên trên mặt đất, chờ đợi một ngày sẽ có người tìm thấy mang nó đi.

Cùng lúc đó Bronya nhận một cuộc điện thoại từ Reason Studio thông báo về tình hình sửa lỗi chương trình. Đây là một tin tốt, chí ít nó là tin tốt nhất kể từ lần cuối cùng cô được báo về sự cố. Mọi việc có vẻ đã sắp trở lại quỹ đạo ban đầu. Họ sẽ kịp xử lý vấn đề trước tháng Tư, cũng là tháng phát hành trò chơi. Bronya chộp lấy chìa khoá xe, lái đến Reason Studio để đảm bảo rằng phần còn lại không có sai sót.

Xe chạy băng băng trên con đường rộng rãi dọc sông Moskva, song song với con thuyền du lịch lướt trên mặt nước. Có một chiếc ô tô đen đi ngược chiều với cô. Chiếc ô tô trông vẫn ổn định khi khoảng cách giữa nó và Bronya đang dần thu hẹp. Chợt bánh xe ô tô chao đảo dữ dội như một người say bí tỉ. Nhận ra có chuyện gì đó không ổn, Bronya tức thì phanh gấp tránh chiếc ô tô, nhưng đã muộn, cô không kịp ngăn vụ va chạm xảy ra. Chiếc ô tô đâm sầm vào Bronya, tạo ra một tiếng động kinh khủng. Đầu cô đập mạnh xuống đường, ngay cả khi có mũ bảo hộ, não bộ của cô vẫn bị chấn động mạnh khiến cô xây xẩm.

Một bánh ô tô chèn cứng lên chân phải Bronya, dù vậy cơ thể cô bây giờ hoàn toàn tê liệt, cô không cảm nhận được cơn đau hay bất cứ cảm giác gì khác tương tự. Cứ mỗi giây trôi qua, mắt Bronya lại mờ dần đi. Tai cô nghe thấy loáng thoáng một giọng hốt hoảng của người qua đường. “Ai đó gọi 103 nhanh lên!” Đó là câu cuối cùng Bronya đủ nhận thức nghe được, rồi cô ngất đi, chẳng còn biết gì nữa.

Bronya được xe cấp cứu đưa vào bệnh viện. Họ gọi điện thông báo cho gia đình cô. Sau khi biết tin, Alexei và Alexandra tức tốc đáp chuyến bay gần nhất từ Siberia đến Moscow. Tim Alexandra như bị treo lủng lẳng giữa vực thẳm khi bà đến phòng bệnh của con gái. Cặp song sinh đã có mặt ở đó từ lâu, nét mặt cũng chẳng khá hơn hai vợ chồng Alexei là bao.

Alexandra vội bước tới nắm chặt lấy bàn tay tái nhợt của con gái, vành mắt bà đỏ hoe chực khóc.

Rozaliya lí nhí nói. “Bác sĩ bảo rằng não bộ của chị ấy không có tổn thương, nhưng...” Cô ngần ngừ, liếc nhìn máy điện tâm đồ. Rozaliya mím môi hít sâu một hơi rồi mới dám tiếp tục. “Nhưng không hiểu vì sao tín hiệu sinh tồn rất yếu, không biết bao giờ chị ấy mới có thể tỉnh lại. Cháu rất tiếc.”

Alexandra lấy ngón trỏ quệt đi những giọt nước mắt đang trào ra. Alexei tiến đến ôm lấy vai bà, ông không nói gì, chỉ dùng hành động để an ủi vợ.

Dù đang là ban đêm, hành lang bệnh viện vẫn ồn ã bởi những tiếng lao xao của bệnh nhân, tiếng bước chân lộp cộp của bác sĩ và y tá. Từ cửa sổ hành lang nhìn về nơi tiếp nhận bệnh nhân, đèn vẫn sáng, và nó sẽ không bao giờ tắt cho đến khi bình minh lên.

~•°•~

“Xin mời người kế tiếp.”

Sảnh phòng khám có hai hàng ghế dài dành cho những bệnh nhân chờ đợi được gọi tên. Seele nhìn quanh sảnh, cô cảm thấy bầu không khí ảm đạm đang bao trùm nơi này. Ông Vollerei ngồi cạnh cô, da mặt nhăn nhúm vì cái chân đáng nguyền rủa của ông giờ đang nhức nhối kinh khủng. Xoa bóp không giúp ông thấy khá hơn. Ông Vollerei ngửi mùi bụi bặm của hai gã lính người Anh ngồi cách ông một ghế, hình như ông còn ngửi thấy mùi thuốc lá gay mũi nữa, và điều đó chỉ càng làm ông bực bội hơn.

Phòng khám này rất gần vùng chiến sự ở Narva, vì thế sự căng thẳng đến mức người ta tưởng chừng lá phổi đang bị bóp nghẹt là chuyện không thể tránh khỏi. Trên quãng đường ngồi xe ngựa đến đây cùng ông Vollerei, không khó để cô nhìn thấy những hố bom oanh tạc hay những người lính bê bết, vai đeo súng đi lại ngang dọc khắp con phố.

“Con nhỏ Bạch vệ đó đáng gờm thật đấy, chân bị thương như thế vẫn một chọi ba được.” Chợt một gã người Anh nói, chất giọng gã khàn đặc đậm chất miền nam nước Anh. “Ra tay cũng rất tàn nhẫn.”

“Ai bảo đám người Đức đó chọc giận cô ta.” Gã kia đáp. “Đáng đời, tôi chẳng ưa gì đám người Đức.”

“Tôi nghe nói cô ta từ dãy Ural tới đây.”

“Bạch vệ với quân đoàn Tiệp Khắc ở đó bị Hồng quân cho tiêu tùng rồi đúng không?”

“Ừ, họ tiêu từ tháng Bảy rồi, có khi sắp đến lượt chúng ta không biết chừng. Thật là, cơn ác mộng này không biết đến bao giờ mới chịu kết thúc nữa. Cứ đà này thì Bạch vệ không trở mình nổi đâu.”

“Suỵt, nhỏ tiếng thôi, cô ta ra tới kìa.”

Gã người Anh hất mắt ra hiệu cho đồng bạn, sau đó cả hai im bặt khi thấy cánh cửa phòng khám từ từ mở ra. Người đầu tiên xuất hiện là một vị bác sĩ trung niên, ông nói. “Mời ông Vollerei.” Ông Vollerei cởi mũ đứng dậy, bước từng bước chậm chạp, Seele vẫn theo sau dìu lấy cha phòng khi ông ngã. Ngay sau đó, một người lính buộc tóc đuôi ngựa cao lặng lẽ đi ra từ phòng khám. Chân trái người lính quấn băng kín mít, phải dùng một cây nạng gỗ đỡ lấy trọng tâm cơ thể. Đôi khuyên tai thánh giá hơi đưa đẩy khi người lính bước đi. Gương mặt người lính không có một tí cảm xúc nào, vẻ lạnh lùng và xa cách.

Seele bất giác dời ánh nhìn lên người lính.

Người lính Bạch vệ vô tình ngẩng đầu. Khoảnh khắc đó ánh mắt hai người đã giao nhau. Một đôi mắt bạc lạnh lẽo như băng tuyết và một cặp mắt xanh như đại dương hoàn toàn đối lập, như thể chúng đến từ hai thế giới khác nhau. Một bên là sự thanh bình, còn bên kia chỉ có sự u ám cùng tiếng súng chát chúa từ ngày này sang ngày nọ vĩnh viễn không có hồi kết. Tim Seele chùng xuống như phím đàn dương cầm bị lỡ nhịp khi lướt ngang người lính. Họ chỉ nhìn nhau đúng hai giây, nhưng Seele có cảm tưởng đã một lúc lâu trôi qua. Cô không có thì giờ đọc chi tiết ánh mắt của người lính, thế nên tất cả những gì Seele biết chỉ là sự quen thuộc kì lạ mà cô không thể giải thích.

Người lính không nói gì mà chống nạng đi thẳng ra cửa. Nhưng khi tầm nhìn bị ngăn trở bởi cánh cửa, người lính bỗng nhiên ngừng lại rồi ngoái đầu, chân mày khẽ chau vì cảm thấy khó hiểu. Người lính rời khỏi phòng khám nhưng lại không đi ngay, cô quyết định nép mình vào một con ngõ nhỏ nơi mình có thể quan sát đầy đủ phòng khám. Có một đứa bé gầy rộc đi ngang qua, người lính liền gọi thằng bé.

Đứa bé sợ sệt hỏi. “C-có chuyện gì ạ?”

Người lính dúi vào tay đứa bé ba xu và nói bằng giọng đều đều. “Cái này là của nhóc, chỉ cần lát nữa giúp tôi một việc nhỏ thôi.”

Nhìn ba đồng tiền lấp lánh trong tay, mắt đứa bé sáng lên và tức khắc gật đầu lia lịa.

Thế rồi chẳng khác gì một con sói đang rình rập cô bé quàng khăn đỏ, người lính im phăng phắc, bắt đầu chờ đợi một thời cơ thích hợp.

Sau khi ông Vollerei vào gặp bác sĩ, Seele được phép ra bên ngoài đợi ông. Cô đi ra trước cửa phòng khám, muốn thử nhìn khung cảnh xung quanh. Trong con ngõ, cặp mắt bạc sáng quắc khoá chặt thiếu nữ. Khi ước chừng khoảng cách giữa cả hai đã đủ, người lính vờ đi ra từ con ngõ thật tự nhiên. Bỗng một đứa bé chạy ra ở một góc phố, bộ dạng hớt hải như đang chạy trốn khỏi máy bay ném bom, cuối cùng nó đâm thẳng vào người lính. Người lính cố tình buông lỏng tay cầm nạng, cái nạng rớt xuống đất, còn đứa bé thì đã mất hút tại một ngã tư ở cuối phố.

Người lính lảo đảo muốn ngã. Nhìn thấy cảnh ấy ngay trước mắt, phản xạ đầu tiên của Seele là lao đến đỡ lấy cô ấy. Người lính vịn vào tay Seele làm điểm tựa đứng dậy, tay trái không quên nhặt lại cây nạng. Seele quan tâm hỏi. “Chị không sao chứ?”

“Cảm ơn, tôi không sao.” Mặc dù đã ổn định cơ thể, người lính vẫn không thả tay khỏi Seele.

“Thằng bé trông vội quá.”

“Ở đây luôn là vậy.” Người lính nhìn Seele, thản nhiên đáp. “Ai cũng vội vàng, lo bữa ăn hôm nay rồi ngày mai. Ngay cả khi bị bỏ bom thì chỉ vài phút sau đời sống lúc nhúc bần tiện của nơi này sẽ tiếp tục như không có gì xảy ra.” Cô dừng vài giây. “Dường như tiểu thư không phải người sống quanh đây.”

Seele khẽ gật đầu. “Em từ Toila đến.”

“Thế à? Để bày tỏ lời cảm ơn, tôi có thể mời tiểu thư một tách trà không?”

“Không, không cần đến mức đó đâu.” Seele liền lắc tay. “Chỉ là chuyện nhỏ thôi mà, hơn nữa em còn phải đợi cha nữa.”

“Chỉ ngay kia thôi.” Người lính chỉ vào một căn nhà cách phòng khám chưa đầy mười mét.

“Một lát có lẽ cũng được...”

Ông Vollerei chắc còn lâu mới khám xong, và rõ ràng Seele cảm thấy bản thân không thực sự muốn từ chối lời mời của người lính này.

Hai người đi sóng đôi bằng một tốc độ vừa phải, ngang một cây phong, vừa đi họ vừa trò chuyện hoà hợp đến bất ngờ. Bất chợt người lính dừng chân, đôi mắt bạc nghiêm túc nhìn thẳng vào mắt Seele. “Thứ lỗi cho sự đường đột của tôi, nhưng tôi có cảm giác hình như tôi biết tiểu thư.”

Seele sửng sốt. Trong thoáng chốc, ngôn từ của cô như bị những con sóng cuốn đi. Mãi năm giây sau, cô mới thì thầm. “Em cũng vậy.” Cô nở một nụ cười. “Tên em là Seele Vollerei, còn chị?”

“Alexeievna.” Người lính liền đáp. “Alexeievna Pavlovna.”

 

“Chị Bronya,

Chiều nay em đã gặp một người lính. Tên chị ấy là Alexeievna Pavlovna, một Bạch vệ đang chiến đấu cùng với người Estonia.

Khoảnh khắc nhìn thấy chị ấy, em đã bị cuốn vào một cách mạnh mẽ, và chị ấy cũng có chung một cảm nhận với em. Có thể chị sẽ không tin, nhưng điều làm em kinh ngạc đó là khi ở bên chị ấy, nó khiến em cảm thấy em và chị đang xích lại gần nhau hơn, gần hơn bất cứ điều gì. Cứ như... chị đang ở đây với em vậy.

Đã có quá nhiều điều kì diệu xảy ra giữa chúng ta rồi. Nếu là chị, chị có thể lý giải không?”

 

“Đây là gì thế?”

Người lính giơ một vật kim loại nhỏ hình chữ U có cán ở giữa cho Seele xem và hỏi. Hiện cả hai đang ngồi trước cây đàn dương cầm của Seele trong phòng khách. Từ vị trí hiện tại có thể quan sát được một góc vườn. Lá trong vườn đã chuyển vàng gần hết, ngoài ra những khóm hoa cũng đang tàn dần khi mùa đông mỗi lúc một gần. Chỉ độc một bụi thanh cúc vẫn đang không ngừng vươn lên, và nó sẽ nở sau vài hôm nữa.

“Đó là Âm Thoa.” Seele nhỏ nhẹ giải thích. “Em thường dùng nó để lên dây đàn.”

“Bằng cách nào?” Người lính lắc nhẹ thanh Âm Thoa. “Gõ lên dây đàn ư?”

“Không phải đâu.” Seele bước đến lấy Âm Thoa trong tay người lính. Tay cô vô tình sượt qua vết chai do cầm súng quá nhiều của người trước mặt. Các vết chai thô ráp, sờ vào có cảm giác cứng. Cô tự hỏi một đôi tay bình thường phải bắn bao nhiêu viên đạn mới biến thành thế này? Nó phải còn bắn thêm bao nhiêu viên? Seele ngẩn người. Mãi đến khi người lính nhẹ giọng gọi, cô gái mới sực tỉnh. Seele bối rối nói tiếp. “Âm Thoa hoạt động như thế này này.”

Seele nâng cán Âm Thoa lên bằng ngón trỏ và ngón cái, khéo léo không để tay chạm vào phần chữ U của nó. Cô dựng Âm Thoa thẳng đứng rồi nhẹ đặt cán xuống nắp đậy phím đàn, tức thì âm thanh coong tựa tiếng chuông vang lên, kéo dài một khoảng ngắn, sau đó dần dần tan biến vào hư không.

“Âm thanh chị vừa nghe có tần số 440Hz, tương đương với nốt La của tầng quãng tám thứ nhất trên đàn dương cầm. Đôi khi lên dây em phải dựa vào nó để điều chỉnh dây đàn đúng với âm chuẩn này. Ừm, nói cho dễ hiểu thì Âm Thoa trong âm nhạc đóng vai trò như một thước đo vậy.”

Người lính khẽ gật đầu. “Nhưng chị không nghĩ em lại tự lên dây đấy.”

“Bởi vì đứa trẻ này rất khó tính, nếu không hiểu ý thì âm thanh cho ra sẽ không chuẩn. Vả lại tự lên dây cũng giúp em hiểu cây đàn hơn, em biết mình cần gì ở đứa trẻ này và nó cần gì khi bị ốm.”

“Nghe rất giống Thỏ Con.”

“Thỏ Con?”

“Là một khẩu Berdan II đã đi theo chị hơn mười năm rồi. Nó là một khẩu súng kiên cường từng cứu mạng chị rất nhiều lần. Khi tham chiến ở Ural, nếu không phải Thỏ con chặn một viên đạn lạc, có lẽ bây giờ chị đã không thể ngồi đây. Dù hầu hết quân đội hiện nay đã tái vũ trang thành súng Mosin nhưng chị không định thay thế Thỏ Con thành bất kì loại súng nào khác.” Liếc nhìn cây dương cầm, người lính tiếp tục. “Không như đàn của em, Thỏ Con rất dễ dãi, có điều thi thoảng nó lại bắt đầu chống đối.”

Seele nghi hoặc. “Như thế nào cơ?”

Người lính nhàn nhạt đáp. “Kẹt đạn.”

“Ngoài đó...” Mi mắt Seele hơi cụp xuống. “Hẳn là cực khổ lắm.”

“Chị quen rồi.” Người lính nói như một lẽ đương nhiên, ánh mắt hoàn toàn không dao động. “Khi ở đó đủ lâu, có những thứ cuối cùng sẽ chai sạn, có những thứ em sẽ xem là chuyện thường ngày như hít thở.”

Dưới góc nhìn của Seele bây giờ, người lính như một bức tường rắn rỏi không gì có thể vượt qua, một bức tường đã trải qua nhiều đợt càn quét nhưng vẫn đứng vững mặc kệ những điều đó. Liệu cái gì có thể làm nó lung lay? Liệu cái gì có thể làm nó dao động? Seele không thể tưởng tượng được những chuyện ấy. Cô bắt đầu tò mò về cuộc sống của người lính, những sự kiện đã xảy ra với cô ấy. Người lính tạo cho Seele một ấn tượng rằng không gì là cô ấy không làm được.

Trong một tích tắc nhỏ nhoi, sự hiếu kì đã khiến Seele đặt ra câu hỏi cho người lính. “Điều dũng cảm nhất chị từng nói hay từng làm là gì?”

“Giúp.” Người lính tựa lưng vào ghế, mắt hướng về phía bờ biển dù chẳng hề nhìn thấy nó, trả lời ngay tắp lự. “Giúp tôi.”

Giống hệt như một con sói Siberia đơn độc lang thang giữa thảo nguyên. Con sói không tin tưởng bất kì ai, cũng không muốn bắt tay với ai. Con sói chỉ tin tưởng chính mình khi sinh tồn, nó rèn giũa mọi giác quan của nó: Một cặp mắt tinh tường, răng nanh, và bộ móng vuốt sắc lẹm luôn sẵn sàng xé rách cổ họng kẻ thù ngay khi vào tầm tấn công.

Một con sói mạnh mẽ, kiêu hãnh nhưng lại đáng thương. Vì chỉ có một mình nên nó mới đáng thương. Bởi vì không tìm được người hiểu mình nên nó mới cô độc.

Con sói có tất cả, từ thể lực, giác quan nhạy bén đến sự nhanh nhẹn, nhưng đồng thời nó cũng chẳng có gì. Nó là một con sói khốn cùng.

Seele ngồi xuống đối diện người lính, nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay đầy vết chai kia rồi xoa nhẹ. Cô dịu giọng. “Tìm kiếm sự giúp đỡ không phải là bỏ cuộc, mà chính là không chấp nhận bỏ cuộc.”

Người lính nhìn vào màu xanh lam trong veo của Seele, im lặng một lát, khoé môi hơi cong lên. “Ừm.” Chợt người lính vươn tay, chạm lên vết bầm tím sậm màu trên cổ Seele. “Em cũng có đây này.”

“A, vết này...” Seele liền nhận ra ngay người lính đang nói chuyện gì. “Là do cây đàn vĩ cầm.”

Đấy là một vết chai hằn với thời gian vì phải tì đàn vào vai và cổ khi tập luyện. Những vùng da này đã không còn lại bao nhiêu cảm giác, lúc để đàn lên Seele cũng không còn cảm thấy đau như hồi đó nữa.

“Seele, chị muốn nghe em đàn.” Người lính hạ tay xuống. “Không có lý do cụ thể, nhưng chị đã luôn nghĩ đến chuyện đó kể từ giây phút đầu tiên chị gặp em. Ngay bây giờ, được chứ?”

“Dĩ nhiên rồi, vậy chị có đặc biệt muốn nghe bài nào không?”

Khi Seele hỏi, người lính rơi vào trạng thái trầm tư. Cô không biết. Từ trước đến nay, người lính chưa từng nghe một bản nhạc hoàn chỉnh nào, huống gì có một bản nhạc mình thích. Thứ âm thanh cô vẫn nghe chưa bao giờ có trật tự rõ ràng như âm nhạc mà là sự hỗn loạn từ chiến trường. Có một đống tạp âm oang oang ở đó, và người lính phải dùng đôi tai của mình phân biệt chuẩn xác những âm thanh kia, chẳng hạn như tiếng bước chân kẻ địch, để có thể sống sót.

Trên bàn bên tay trái người lính là một xấp nhạc phổ do Seele đưa cô xem thử. Mặc dù không có chút kiến thức gì về âm nhạc, nhưng người lính vẫn xem từng tờ nhạc phổ với hy vọng sẽ tìm thấy gì đó. Sột soạt, lần lượt tờ nhạc phổ này đến tờ nhạc phổ khác bị lật xem. Bất ngờ người lính dừng lại, chú ý nhìn một bản nhạc trông có vẻ mới với tựa đề Biển Xanh, Rừng Thẳm và Thiên Thần. Bản nhạc đã thu hút cô ngay lập tức, nhất là ở phần lời nhạc phía sau. Người lính chìa bản nhạc cho Seele rồi đặt những bản phổ kia trở lại vị trí cũ. “Cái này là...?”

Seele nhìn bản nhạc, hết sức ngạc nhiên bởi đây là bản nhạc cô chỉ vừa viết xong cách đây mấy ngày. Vốn dĩ nó là một bài thơ được phổ thành nhạc. “Bản nhạc đó, em lấy cảm hứng từ cuộc đại chiến Thiên Đàng, hơn một trăm triệu thiên thần đã bị trục xuất sau cuộc chiến. Đây là về một thiên thần sa ngã. Chị muốn em chơi nó sao?”

“Phải, chọn nó đi.” Người lính chống má, không tự chủ nói thêm. “Chị cảm thấy nó rất giống với tình cảnh của mình hiện tại... chỉ có thế thôi.”

Bạch vệ và Hồng quân, thiên thần và thiên thần sa ngã, nội chiến và đại chiến Thiên Đàng, cứ tưởng chừng khác nhau song thì ra giữa chúng lại có nhiều điểm tương đồng đến bất ngờ. Đều là một chủng tộc tranh đấu với nhau, sẽ có những kẻ bị gọi là “ác quỷ”, và khi một bên chiến thắng thì bên còn lại sẽ bị xem là tội đồ. Là một kẻ lấy chiến trường làm nhà, người lính đã nhận ra ranh giới đúng sai không rõ ràng đến vậy. Không có nhiều sự khác biệt giữa phe này phe kia, không có trắng hay đen, chỉ có xám.

Người lính thoáng nheo mắt, sau đó vứt hết mọi suy nghĩ không liên can khỏi đầu.

Giờ cô chỉ muốn nghe tiếng đàn mà thôi.

Seele ngồi trước cây đàn, hít sâu một hơi trước khi bắt đầu đặt tay mình lên phím đàn. Một nốt, hai nốt, rồi ba nốt, tốc độ Seele tăng dần, tạo thành một bản hoà âm tuyệt hảo bằng âm sắc tươi sáng của cây đàn. Người lính tập trung quan sát tư thế người diễn tấu, yên lặng nhẩm theo lời bài hát.

Cơn mưa mùa hạ rơi tí tách trên tán vân sam.

Ánh sáng thần thánh chiếu rọi.

Vùng đất thánh linh thiêng,

Nơi thiên đường gặp mặt đất,

Nơi biển cả gặp rừng già.

Tôi nghe thấy tiếng thiên thần đang gọi,

Bằng một trái tim trơ trọi.

Là tổn thương, là sương khói.

Tôi đến và chạm vào ngón tay thiên thần, xin hãy để tôi bước vào “khu rừng” của người.

Đôi lúc thiên thần nghĩ cô độc tốt hơn nỗi đau,

Và thiên thần bắt đầu chìm,

Chìm mãi...

...Sâu xuống lòng đại dương vô hình.

Tăm tối, chẳng thấy được bình minh.

Đây là khung cảnh trong ký ức của người sao?

Lạc lối giữa đại ngàn và sóng vỗ?

Đôi cánh trắng nhuộm đỏ bởi máu,

Không gì có thể gột rửa.

Nhưng dẫu thế chăng nữa,

Thiên thần vẫn vươn tay,

Tìm về chốn thiên đường vốn thuộc về người.

 

Thiên thần lại gọi.

Khao khát nghe lời nguyện cầu xa xăm ngân vang khắp vùng đất mưa rơi.

Người hát lên,

Một giai điệu cổ xưa,

Giữa biển khơi dậy sóng,

Giữa rừng xanh xào xạc.

Bahal (Lệ tuôn rơi)

Telocvovim (Sa ngã)

Od zildar (Và hãy cất cánh đi)

Bay lên nào, hỡi đôi cánh vỡ nát kia ơi.

Bay đến nơi người có thể lấy được tự do.

Đến cổng thiên đường người hằng mong mỏi.

Sẽ không có ngoại lệ,

Dù trái tim người bị đè nặng bởi tội lỗi.

Để người biết mình vẫn ở cạnh Thiên Chúa.

Để người biết tôi vẫn luôn ở bên người.

Thế nên, người sẽ không còn cô đơn, tựa như tôi chưa từng rời xa người...

Thế nên, người sẽ không còn lạc lối, tựa như giờ đây tôi đã tìm thấy người...

Nương theo âm thanh mềm mại như tiếng suối chảy của cây đàn dương cầm, người lính thả lỏng cơ thể, lim dim mắt. Đôi tai cô đã được nghỉ ngơi. Một bên là tiếng đạn pháo, một bên là tiếng đàn. Một bên là mùi thuốc súng khó chịu, một bên là mùi vị mằn mặn từ biển lẫn trong cơn gió thu. Một bên chỉ thấy chiến trường thảm khốc, một bên lại nhìn thấy khu rừng xanh thẳm. Khi lạc tới đây, giữa vùng đất của rừng và biển, nội tâm người lính trở nên thanh thản chưa từng có. Cô có thể mặc kệ những gì đang diễn ra ngoài chiến trường, tận hưởng sự bình yên hiếm hoi mà không cần căng não ra để cảnh giác.

Người lính cũng nghe thấy tiếng chim én líu ríu ngoài mái hiên. Hai quả trứng trong tổ én đã nở, tiếng chíp chíp của chúng là âm thanh của thiên nhiên, như thể đang đệm thêm cho bản nhạc.

Trong ánh nắng vàng rực, có một người diễn tấu và một thính giả đặc biệt.

Người lính khoanh tay, đầu gục xuống, chìm vào giấc ngủ sâu khi bản nhạc chỉ vừa qua đoạn cao trào.

Kết thúc bản Biển Xanh, Rừng Thẳm và Thiên Thần, Seele quay lại, phát hiện người lính đã thiếp đi tự bao giờ. Cô đứng dậy đến gần người lính, hứng thú nhìn gương mặt say ngủ không hề có sự phòng bị kia. Thật ra thì nó trông hiền hoà hơn hẳn so với lúc người này tỉnh táo. Seele tự hỏi người lính nào cũng có thể rơi vào giấc ngủ nhanh đến thế ư? Chợt Seele dùng ngón trỏ chọc nhẹ lên má người lính. Chân mày cô ấy nhíu lại một tí, và cô cảm thấy phản ứng đó thật đáng yêu.

Nhưng sau đó Seele không làm phiền người lính nữa, vì cô biết cô ấy cần nghỉ ngơi, một lần nghỉ ngơi thực sự chứ không phải những giấc ngủ chớp nhoáng ở vùng chiến sự tùy thời đều có thể cướp đi một sinh mệnh của một người.

Những ngày tiếp theo, Seele và người lính dành thời gian làm rất nhiều việc cùng nhau. Cùng đi dạo, cùng ngắm biển, cùng câu cá,... Seele cho người lính nghe những bản nhạc hay nhất trong khả năng, người lính thì lại kể những câu chuyện thú vị mà Seele chưa từng biết đến. Một ngày, họ đi dưới những tán cây lá nhuộm vàng ở quanh sông Pühajõgi. Chân trái người lính đã lành hẳn và hiện đã có thể cử động linh hoạt. Người lính đỡ Seele khi họ bước xuống một con dốc, rồi nhìn Seele và khu rừng, thời gian như ngưng đọng tại thời khắc này, vĩnh viễn không thay đổi.

 “Em thích nơi này lắm.” Seele dang tay, nói.

“Có những khu rừng xung quanh chúng ta, và có một khu rừng ẩn giấu ngay trong chính chúng ta. Em giống như rừng vậy, Seele. Khu rừng của em là một khu rừng chẳng khác nào rừng cổ tích cả.”

“Cách chị nói rất giống Thoreau(4) đấy.”

 “Thoreau đã nói gì?”

Hai người kề vai bước song song nhau, đạp lên lớp lá mỏng sàn sạt, tựa như một bản hợp tấu không dây.

“Ông ấy nói ai cũng có một vùng biển riêng.”

“Vậy thì những dòng chảy và đại dương của em phải là những dòng chảy và đại dương dịu dàng nhất tại vùng biển đó.”

Seele đỏ bừng má, ngại ngùng quay mặt sang nơi khác. “Chị... Chị đừng nói những lời xấu hổ như vậy mà.”

“Được.” Người lính trộm cười. “Nghe em.”

Họ tiếp tục đi, thế rồi người lính đột ngột không bước nữa. “Seele, có một việc chị cần cho em biết.” Giọng người lính không hăng hái như ban nãy. Dừng lại vài giây, đôi mắt bạc như muốn truyền tải điều gì đấy. “Chị sắp phải quay lại chiến trường.”

Seele cố giấu đi sự buồn bã, giả vờ bình tĩnh hỏi. “Chúng ta còn bao nhiêu thời gian?”

“Nhiều nhất là hai ngày nữa. Bạch vệ cùng đồng minh đang tập trung quân lực chiếm Petrograd, họ đã quyết tâm tiến công, vì họ cần Petrograd làm bàn đạp để đánh thẳng vào Moscow. Trước khi mùa đông tới, họ bắt buộc phải chiếm được nơi đó.”

Seele lặng thinh, mặc dù trong thâm tâm cô hiểu chuyện này không sớm thì muộn, nhưng khi nó đang xảy ra, cô lại cảm thấy nó tới quá nhanh.

Người lính ôm lấy vai Seele trấn an. “Sẽ không sao đâu. Đêm mai hãy gặp chị ở bờ biển.”

Seele gật đầu, không nói gì thêm. Đêm hôm sau, cả hai gặp nhau tại bờ biển như đã định. Những ngôi sao giăng kín bầu trời, chói loá ngỡ như dải ngân hà lạc xuống mặt đất. Họ ngồi cạnh một mỏm đá, lắng tai nghe tiếng sóng vỗ rì rào, từng đợt, từng đợt lên dải đá cuội. Seele tựa đầu mình vào vai người lính, cảm nhận sự an toàn do nó mang đến.

“Kia là chòm Thiên Cầm.” Người lính chỉ tay về phía Đông của bầu trời. “Còn ngôi sao sáng đó là sao Chức Nữ. Nếu đang là mùa xuân, em còn có thể thấy chòm Thiên Thố và chòm Đại Khuyển ở gần đường chân trời nữa.”

Thiếu nữ hứng thú hỏi. “Thế ngôi sao nào là ngôi sao sáng nhất vậy?”

Người lính trả lời. “Là sao Thiên Lang của chòm Đại Khuyển, nó thậm chí còn sáng hơn cả Mặt Trời.”

Seele nở nụ cười. “Chị biết nhiều thật.” Cô tựa sát vào cơ thể người lính hơn một chút, muốn gần gũi với cô ấy thêm một chút. Bởi lẽ...

...Đêm nay chính là đêm cuối cùng.

Bỗng người lính xoay người, ngồi quỳ một chân đối diện Seele. Cô không biết lần này mình sẽ đi bao lâu, cũng không biết tương lai sẽ như thế nào. Trước khi rời đi, người lính muốn để lại gì đó cho Seele, để bản thân không phải tiếc nuối nếu như phạm sai lầm. Người lính lấy trong túi ra một món đồ nho nhỏ ánh bạc. Không để Seele kịp hỏi, người lính rướn người, cẩn thận cài vật đó lên mái tóc cô. Chiếc kẹp tóc hình nhung hươu đính vầng trăng lưỡi liềm lấp lánh, dưới ánh trăng bàng bạc, là món quà vô giá đối với Seele.

“Mạnh mẽ, huyền bí, sinh sôi. Chị cảm thấy hình dáng kẹp tóc này hợp với em lắm.” Người lính hôn lên mái tóc dài màu thiên thanh. “Chúc mừng sinh nhật sớm, Seele.”

Thần thoại Estonia kể rằng Nữ thần Murumemm là người bảo vệ của đồng cỏ và những khu rừng. Nữ thần có tính cách vui vẻ, thường xuất hiện trong hình hài của một con nai trắng thuần khiết. Người có thể dễ dàng giao tiếp với mọi loài sinh vật. Các linh hồn tôn kính Murumemm vì người mang lại sự sống cho khu rừng, bảo hộ nó, người làm hoa nở, người nâng đỡ tinh thần cho các loài vật sống bên trong nó.

Nếu Murumemm có hoá thân, thì hình dáng của Nữ thần hẳn phải giống như Seele.

Nếu Murumemm cất giọng, thì giọng nói của Nữ thần hẳn phải êm dịu như Seele.

Thế nên, người lính mới chọn tặng món quà này cho thiếu nữ.

“Nè, chị có biết Estonia có một lễ hội mà mọi người sẽ tập trung lại, sau đó hát và nhảy múa cùng nhau không?”

Người lính thành thật lắc đầu.

Bỏ qua cái lắc đầu kia, Seele tiếp tục. “Lễ hội đã không được tổ chức chín năm rồi. Nhưng khi nó tái khởi động, em muốn tham gia lễ hội bài hát dưới tư cách là một nghệ sĩ... cùng chị.”

Người lính hiểu ra, lập tức giơ ngón út lên. “Vậy hứa nhé, chị nhất định sẽ trở lại nghe em đàn ở lễ hội. Khi đó, chúng ta sẽ luôn ở cạnh nhau.”

Seele ngoéo tay với người lính. “Sau đó, chúng ta sẽ luôn ở cạnh nhau. Em chờ chị.”

“Phải rồi, chị lại gần một chút đi.”

Người lính ngoan ngoãn làm theo.

Seele đưa tay gắn lên ngực áo người lính một đoá hoa xanh tím đẹp mắt, bao quanh cụm hoa trung tâm là mười hai tia hoa trông như những chiếc kèn trumpet của dàn nhạc giao hưởng. Sau khi làm xong, Seele trượt nhẹ ngón trỏ lên cánh hoa mềm mịn như nhung. “Đây là đoá thanh cúc duy nhất còn lại trong vườn. Kiên nhẫn và hy vọng, mong cho hoà bình sẽ sớm đến với Estonia và nước Nga.”

Người lính cúi nhìn đoá thanh cúc rồi lại ngẩng đầu nhìn vào mắt Seele. “Rõ ràng em biết thanh cúc còn có một ý nghĩa khác, đúng không?”

Khuôn mặt của hai người giờ đang gần nhau đến mức họ có thể dễ dàng cảm nhận được nhịp thở đều đều của đối phương. Người lính càng lúc càng áp sát. Như có một sự hiểu biết ngầm, Seele nhắm mắt, mãi đến khi cảm giác mềm mại từ đôi môi truyền tới, cô vòng hai tay quanh cổ người lính, dễ dàng để cơ thể mình thuận theo nhịp điệu đó, êm ả như suối.

Bên dưới dải ngân hà, môi hai người tựa đôi ve sầu mùa hạ, trải qua mười bảy năm ròng rã mới chui lên khỏi mặt đất, giờ đây đã tìm thấy nhau.

Đâu đó ở chân trời phương Bắc thăm thẳm, một dải cực quang chợt xuất hiện như thể chúc phúc, như là một món quà tạm biệt của tự nhiên.

 

“Chị Bronya, Alexeievna, chị ấy... phải quay lại chiến trường, ở Petrograd.

Em không biết chị có nhận được lá thư này và cả những lá thư trước hay không vì em không thấy thư hồi âm của chị. Chị đã hứa sẽ không đột nhiên im lặng nữa, vậy nên em tin chị sẽ giữ lời.

Nếu chị vẫn có thể liên lạc được với em...

Thì xin hãy cho em biết.”

 

Những người lính Estonia và Bạch vệ xếp thành hàng, chuẩn bị băng qua cây cầu bắc qua sông Narva tiến vào lãnh thổ nước Nga. Người lính tần ngần giữa cầu, mắt nhìn về một nơi, về phía bờ biển Toila.

“Alexeievna.” Một bàn tay thô ráp bỗng đặt lên vai người lính.

“Chú Maxim.” Cô nói, nhưng ngay lập tức chỉnh lại giọng điệu. “Không, Trung úy Maxim.”

“Đang đợi ai à?”

Người lính không đáp, lẳng lặng nắm quai khẩu Berdan II kéo cao lên vai.

Maxim cũng không cố dò hỏi, ông ra hiệu. “Lên đường thôi, Petrograd đang chờ chúng ta.”

“Rõ.”

Người lính quay gót, bắt đầu cuộc hành quân qua biên giới Estonia.

Ở một nơi cao, Seele có thể nhìn thấy cây cầu và lâu đài Narva. Cô nhìn thấy những đống đổ nát lộn xộn do đạn pháo gây ra, cũng nhìn thấy những bóng người mặc quân phục sắp rời khỏi cầu. Seele không thể đến gần hơn. Cô chỉ đứng đó nhìn trong một tâm trạng nặng nề. Thời gian trôi nhanh, bóng dáng của đoàn người càng lúc càng nhỏ. Seele giơ tay khẽ vẫy chào dẫu biết rằng người lính sẽ không thấy cô.

Seele thì thào. “Hãy bình an nhé.”

Thế rồi cây cầu trở lại dáng vẻ yên lặng như nó vốn có. Flora khoác áo choàng cho Seele, cùng quay về ngôi làng nhỏ ven biển.

Ngày qua ngày, lá thu rụng dần, rải đầy mặt đất tạo thành một tấm thảm úa nhợt nhạt. Nhìn những cái cây xơ xác trước nhà, Seele chợt dấy lên một nỗi bất an mơ hồ, tâm trạng thường xuyên trở nên bồn chồn, đôi lúc chẳng thể ngủ an giấc. Seele cảm thấy trống vắng, không chỉ vì người lính không còn ở đây nữa mà còn là vì những lá thư. Như có một mối liên hệ nào đấy, chúng đột ngột đến rồi lại đột ngột đi, biến mất nhanh như cơn gió thoáng qua. Seele cứ ngỡ chính mình đã trở về những tháng ngày buồn tẻ trước đây, trước khi các lá thư xuyên thời gian đó và người lính hiện diện trong cuộc sống của cô.

Seele bước ra mái hiên, ngước mắt nhìn lên tổ én. Cái tổ trống rỗng, chỉ còn sót lại vài nhúm lông tơ xám ngắt. Nhúm lông tơ bay lất phất theo gió, vô vị không nhịp nào theo nhịp nào. Có lẽ bọn chúng là những con én cuối cùng di cư khỏi vùng đất này.

Khí lạnh đã và sẽ tiếp tục đến.

Mùa đông, trong phần lớn thời gian, là một mùa lạnh lùng và nhàm chán.

Trong những ngày mùa thu này, Seele luôn chú ý đến tình hình chiến sự căng thẳng ở Petrograd. Cô muốn biết người lính có ổn không, tuy nhiên Seele không có tin tức gì của cô ấy, thậm chí một lá thư gửi về từ chiến trường cũng không. Như thế chỉ càng làm Seele bồn chồn và lo lắng nhiều hơn.

Nhiều ngày sau, bầu trời bất ngờ nổi lên một cơn mưa giông giữa mùa thu. Cơn giông to, quật ngã hết những ngọn cỏ nhỏ bé rạp xuống mặt đất. Sấm chớp nối đuôi nhau kéo tới, gầm gừ trên bầu trời ào ào gió. Bỗng nhiên có một tia sét giáng xuống từ những đụn mây giông đen kịt, đánh trúng một nhánh của cây sồi cổ thụ. Nhánh cây văng mạnh xuống đất, vụn gỗ bay khắp nơi sau cú đánh kinh hoàng. Và rồi, trời bắt đầu đổ cơn mưa, mưa ồ ạt, mưa như trút nước, như muốn nhấn chìm cái hốc sồi kia để không ai tìm thấy.

Các cây bạch dương trong rừng đung đưa dữ dội vì trận cuồng phong, cành cây xác xơ quất vào nhau như những bàn tay xương xẩu của thần chết, tạo nên một âm thanh răng rắc ghê rợn.

~•°•~

Bạch dương là biểu tượng của nước Nga, chúng xuất hiện trên khắp đất nước rộng lớn này. Ở mỗi con đường của Gatchina – một thành phố cách Petrograd chỉ khoảng hai mươi tám dặm, đều được lót bằng hai hàng bạch dương già cỗi. Nhưng hiện giờ làm gì có ai còn tâm trạng nhớ tới những cái lá xanh bóng vào mùa xuân, hay bộ cánh lộng lẫy, vương giả với màu vàng, màu chanh, hổ phách và đỏ thẫm vào mùa thu. Mùi hương bạch dương nồng nàn tựa mùi rượu quý hoàn toàn không đủ vực dậy tinh thần những người lính đang vật lộn với kẻ thù tại đây.

Có một người đàn ông cơ thể đầm đìa máu nằm sấp dưới bờ rào. Trên song sắt, một tấm bích chương cùng nội dung: “Xét đến tình hình thực tế, có những kẻ ở hậu phương R.S.F.S.R ủng hộ chủ nghĩa tư bản, những tên khốn nạn Bạch vệ, lính đánh thuê và đồng minh của chúng đang tiến hành tuyền truyền Tư sản – Mỗi người Cộng sản đều có nghĩa vụ xử lý chúng ngay tại chỗ, không cần bắt bớ chúng ra toà nếu nhìn thấy ở bất kì đâu” ngạo nghễ nhìn ông ấy.

Nếu tấm bích chương nọ có mắt, thì đó sẽ là ánh mắt phẫn nộ với người đang nằm kia.

Bóng người xám bạc từ bóng tối bước đến cạnh người đàn ông bị đạn pháo làm bị thương nặng đến mức không thể di chuyển, im lặng nhìn xuống.

Không nghi ngờ gì nữa, ông ấy chắc chắn không thể vượt qua bàn tay của tử thần.

Có những lời hứa chúng ta muốn thực hiện bằng mọi giá, nhưng cũng có những lời hứa chỉ làm chúng ta ước rằng nó chưa bao giờ tồn tại.

Tương tự, người lính cũng thế.

“Chú Maxim.” Người lính rút từ thắt lưng ra một khẩu súng lục rồi chĩa thẳng nòng súng lạnh lẽo vào giữa trán người đàn ông. “Đây là chuyện cháu không muốn xảy ra nhất, nhưng rốt cuộc... thế giới này luôn tàn nhẫn như vậy. Chúc chú có một giấc mơ đẹp, và cảm ơn vì đã chăm sóc cháu suốt thời gian qua.”

ĐOÀNG!

Người lính dứt khoát bóp cò súng, người đàn ông đã không còn nhúc nhích nữa. Cô làm dấu thánh cầu nguyện cho linh hồn ông sẽ trở về với Chúa.

Xa ở vùng ngoại ô, tiếng pháo vẫn nối tiếp nhau từng đợt đùng đoàng như sấm rền.

Tình hình của người lính lúc này cũng không hề dễ chịu. Ban nãy có một viên đạn đã bắn trúng sườn phải của cô, mặc dù đã sơ cứu kịp thời song cơn đau âm ỉ ở mạn sườn khiến mắt cô mờ đi một tí. Có một vết thương nữa trên cổ, man rợ và sâu hoắm, cô phải xử lý nó thật nhanh. Người lính ngồi bệt xuống đất rồi lấy ra ba viên đạn, dùng dao cạy đầu đạn ra khỏi thân, cô rắc thuốc súng lên miệng vết thương khủng khiếp vẫn đang chảy máu, cuối cùng dùng diêm đốt cháy phần thuốc súng đen ngòm ngòm.

Ngọn lửa bùng lên, bao trọn lấy vết thương, cơn bỏng rát cũng theo đó truyền qua từng thớ thịt khiến người lính nghiến răng để nhịn đi cơn đau. Khi ngọn lửa tản hết thì cũng là lúc máu ngừng chảy, cô chống tay đứng dậy, bắt đầu tính toán bước kế tiếp.

“Chúng ta phải làm sao đây?” Một lính Bạch vệ hoảng loạn chạy tới từ cánh trái cùng hai người nữa, đề phòng nhìn quanh quẩn. “Không thể liên lạc được với các Tư lệnh sư đoàn, Hồng quân đã bao vây kín nơi này rồi, ta phải làm gì trong tình cảnh này chứ?”

“Rút lui và tập hợp với quân đội Estonia, không cần chờ họ ra lệnh nữa.” Người lính quyết đoán nói. “Chúng ta sẽ rút dọc khu rừng.”

Nếu bị bắt, số phận của họ thậm chí sẽ còn tồi tệ hơn so với việc bị mang lên giá treo cổ.

Người Bạch vệ đỡ lấy người lính, sau đó đơn vị của họ bắt đầu di chuyển về phía khu rừng. Nhờ có bóng đêm che chở nên hành tung của họ không dễ bị quân địch phát hiện. Tiếng chân giẫm lên lá khô sột soạt vang lên giữa đêm khuya thanh vắng. Mặc dù di chuyển cực kì cẩn thận song bọn họ vẫn có thể nghe thấy tiếng Hồng quân truy đuổi ngay sau lưng.

Khi đi tới một đoạn rừng lưa thưa nhìn thẳng ra sông, người lính vội ra hiệu cho tất cả dừng lại.

“Chuyện gì vậy?” Một Bạch vệ bước tới.

“Có địch.” Người lính thận trọng quan sát những bóng đen nhấp nhô trong màn đêm.

“Nhưng có gì đó không đúng.” Bạch vệ kia nói.

Người lính nhíu mày. “Đúng vậy, bọn chúng còn không buồn che giấu bản thân.”

Quả nhiên có chuyện gì rất kì lạ với đám người Hồng quân trước mặt. Cách tổ chức đơn vị hỗn loạn không giống với quân đội chính quy, ngay cả những Hồng quân cô giao chiến vài giờ trước cũng thế, bọn họ phấn khích một cách bất thường, không màng tới mưa đạn của kẻ địch, thậm chí rất cuồng loạn.

Xảy ra tình huống này không phải lần đầu.

Người lính chợt nhận ra vấn đề nhưng đó không phải tin tốt lành gì. “Cocaine.” Cô gằn từng chữ trong hơi thở nặng nề. “Chúng đã dùng cocaine.”

“Cocaine? Mẹ nó! Lũ quỷ đỏ điên đến mức này rồi sao?”

“Phải phá vòng vây, bằng không chúng ta sẽ chết hết.” Cô nhìn những người lính Bạch vệ xung quanh. “Các anh cứ đi trước, tôi sẽ bắn yểm hộ.”

“Làm sao chúng tôi có thể bỏ cô lại chứ?”

“Nghe rõ đây, mang tôi theo trong tình trạng này chỉ tạo thêm gánh nặng thôi. Suy nghĩ sáng suốt vào, bên đó là một đám Hồng quân bị cocaine kích thích, không biết sợ chết là gì. Nếu đi trước, tỉ lệ trốn thoát của các anh sẽ cao hơn không chỉ gấp đôi đâu.”

“Nhưng...”

Người lính chợt đưa cho người Bạch vệ đang do dự một lá thư dán kín. “Xem như các anh giúp tôi đi. Nếu như có thể thoát khỏi thành phố này, đến Narva thì hãy giúp tôi trao nó cho một người...”

Những bóng người bắt đầu tiếp cận họ, cộng với tiếng bước chân càng lúc càng dồn dập sau lưng buộc họ phải nhanh chóng quyết định.

“Được, xin thề với Chúa tôi sẽ trao tận tay người đó.” Người Bạch vệ cầm lấy lá thư, cắn răng nói. Sau đó anh ta đưa cho cô một khẩu súng lục còn nguyên băng đạn. “Chúng tôi nợ cô, bảo trọng.”

Ngay khi đồng đội bị bóng tối che phủ, ánh mắt người lính lập tức thay đổi, sắc bén như dao lam. Cô không quan tâm vết thương ở mạn sườn, không quan tâm cocaine, không quan tâm quân địch có bao nhiêu người. Giết hoặc bị giết, quy tắc ở nơi chết bẫm này chỉ có thế. Người lính lên đạn khẩu Berdan II và nấp sau một thân cây bạch dương bạc cao lớn. Cô lần mò vào túi quân phục, lấy ra ống morphine(5) duy nhất còn lại. Người lính nhìn dòng chất lỏng trong suốt trong ống tiêm, không chần chừ một giây bơm toàn bộ vào bắp tay mình. Giờ cô cần nhẫn nại chờ một thời gian cho đến khi liều morphine phát huy tác dụng.

Cô đã nói với Seele rằng sẽ trở về, thế nên cô có lý do để sống sót bằng mọi giá.

Liều morphine dần lan ra khắp cơ thể, cơn đau ở sườn giảm xuống rõ rệt, người lính siết chặt Thỏ Con trong tay, nhìn vào ống ngắm rồi khoá cứng các bóng đen đang hướng về phía mình. Khoảng cách hiện tại không phải khoảng cách bắn tỉa tối ưu, ánh sáng ban đêm cũng không đủ, tuy nhiên hai yếu tố hạn chế đó không thể làm khó con sói đang chuẩn bị săn mồi.

Cô đã hứa sẽ đến xem Seele ở lễ hội hát và múa, lời hứa đó làm cô thoả lòng.

Người lính bắn một phát đạn, viên đạn ngay tức khắc xuyên qua đầu một bóng đen. Cái bóng ngã vật ra đất, song quân địch chẳng mảy may bối rối khi bị bắn bất ngờ mà vẫn ngoan cố xông tới.

Cô đã hứa rằng họ sẽ luôn ở cạnh nhau, chỉ nghĩ đến thôi cô đã cảm thấy rạo rực.

Khẩu súng đã giật mạnh làm vết thương ở sườn hở miệng, máu ấm lại bắt đầu rỉ ra.

Người lính gạt cần, vỏ viên đạn văng xuống đất, cô tiếp tục ngắm và hạ gục thêm một lính Hồng quân.

Seele là người đã mang ánh sáng đến với cô, nó còn sáng hơn cả hào quang của một Cherubim.

Người lính rời khỏi vị trí bắn, vừa lẩn vào trong bóng tối vừa lắng nghe tiếng bước chân kẻ địch. Có khoảng bảy tên. Tuy cocaine kích thích hệ thần kinh của chúng song đó cũng là một điểm yếu chết người, chúng sẽ không thể tỉnh táo phán đoán tình hình hay đưa ra quyết định hành động hợp lý. Sự phối hợp ăn ý giữa các cá nhân sẽ trở nên lỏng lẻo mặc kệ cho cô khai thác. Có hai lính Hồng quân đã cách cô rất gần, chúng chợt điên tiết xả súng về phía tiếng súng phát ra của người lính. Hình như chúng đang hò hét gì đó nhưng cô không thể nghe rõ.

Âm thanh quá ồn ào, quá chói tai, khác xa tiếng đàn cô được nghe.

Chờ đợi kẻ địch bắn hết băng đạn, người lính bất thình lình xuất hiện từ phía sau, kết liễu gọn gàng cả hai tên với khẩu súng lục.

Âm nhạc của Seele làm tâm hồn cô bình yên, nốt nhạc đó là tiếng sóng và tiếng lá dịu êm.

“Bên này!” Gã Hồng quân hét lớn báo động.

Người lính thận trọng lùi về sau. Mùa thu lá cây rụng sạch khiến việc ẩn nấp đâm ra không dễ dàng, tuy nhiên người lính có bóng tối làm đồng minh. Đối với một kẻ săn mồi mà nói, không có người bạn đồng hành nào đáng tin cậy hơn bóng đêm cả.

Sống là để đi săn, hoặc trở thành con mồi cho kẻ đi săn. Cuộc sống vốn dĩ không công bằng, ở thời đại này lại càng không.

Máu từ vết thương chảy càng lúc càng nhiều. Dù morphine giúp người lính không cảm nhận được cơn đau, nhưng áp lực đè lên cho cơ thể vẫn tồn tại. Nếu cứ tiếp tục liều mạng với Hồng quân như thế này, cô chắc chắn sẽ chết vì mất máu.

Người lính mím đôi môi trắng bệch, cô không có con đường khác để đi.

Seele đã cho cô rất nhiều thứ mà ngỡ như cả đời này cô không bao giờ có được, như một giấc mơ vậy.

Ẩn mình trong màn đêm rồi lại đột kích.

Lặp đi lặp lại như một vòng lẩn quẩn không bao giờ có thể nhìn thấy điểm kết thúc.

Thêm nhiều kẻ địch nữa ngã xuống.

Những viên đạn cạn dần, tri giác của cô cũng tê dại theo chúng.

Cô nhận ra rằng Seele quan trọng với mình đến nhường nào, ở bên cô ấy khiến cô hân hoan.

Người lính thẳng tay cắt cổ tên Hồng quân truy đuổi cuối cùng bằng dao găm. Sau khi quăng thi thể sang một bên, cô ôm lấy vết thương, nhọc nhằn nhích từng bước về một phía vô định. Bản thân đi đâu? Cô không biết. Cô đang nhìn cái gì? Cô cũng chẳng biết. Nhưng cô biết, ngay lúc này đây, cô muốn gặp cô ấy.

Phải, rõ ràng đã hứa như vậy rồi.

Ấy thế mà bây giờ cô lại...

Mặt trời đang lên.

Tia sáng yếu ớt chiếu rọi khắp rừng bạch dương, làm hiện rõ cơ thể đầy thương tích của người lính.

Hai bàn tay cô cũng nhuốm đầy máu, không thể phân biệt được đâu là máu của cô, đâu là máu của kẻ thù nữa. Bên tai người lính chợt văng vẳng giai điệu của bản Biển Xanh, Rừng Thẳm và Thiên Thần. Có một thiên thần sa ngã đã rơi khỏi Thiên Đàng, cánh thiên thần nhuộm thành màu đỏ chói mắt, thế nhưng thiên thần vẫn khát khao tìm về chốn thiên đường ấy.

Nhích thêm một bước nhỏ, người lính dừng hẳn lại. Cô tự hỏi, thiên thần đó còn có thể quay lại thiên đường được chăng?

Người lính choáng váng ngã quỵ dưới một gốc bạch dương. Cô cố hết sức xoay xở trở mình để lưng có thể tựa vào thân cây. Hơi thở của cô mạnh và ngắt quãng như thể phổi đang bị ép chặt bởi một tảng đá nặng hàng tạ. Xen lẫn giữa những hơi thở dồn dập là mùi tanh tưởi của máu và mồ hôi. Người lính ngẩng đầu, nhìn lên những cành bạch dương đã nhoè đi bởi vì thị lực của cô giờ đã yếu đến mức không còn nhìn rõ được gì nữa, ngay cả khi vật đó đang ở trước mắt.

Yên ắng.

Lạnh.

Và tịch mịch.

Không có tiếng động vật hay chim chóc.

Gió thổi. Không khí vẫn rét buốt.

Cô chỉ có một mình ở giữa rừng bạch dương này.

Nhưng cũng không hẳn là thế, ít nhất người lính vẫn còn khẩu súng đã làm bạn với cô hơn mười năm dài dằng dặc. Khẽ liếc nhìn khẩu súng có vô số vết trầy xước trên thân, cô cảm thấy mình đã có thể nói với nó rằng “Nghỉ ngơi được rồi, Thỏ Con”, nhưng cổ họng cô khô khốc, không thể thốt ra nổi một chữ.

Người lính mò mẫm đôi tay không còn vâng lời và đang run rẩy vào túi áo, lấy ra một đoá thanh cúc nhợt nhạt đã được ép khô. Cô định dùng tay kia vuốt cánh hoa, song cái tay đã hoàn toàn bất động.

Bóng người màu bạc lại ngẩng đầu lên bầu trời mùa thu giữa nước Nga buổi bình minh.

Liệu chiếc lá cuối cùng đã rơi khỏi cành cây?

Liệu con én cuối cùng đã bay đi hay chưa?

Có lẽ là rồi đi...

Bỗng, người lính trông thấy hình bóng của một con bướm. Không phải con bướm đuôi phượng xinh đẹp mà là một con bướm khổng lồ màu nâu sẫm. Nó dang rộng cánh bay về phía cô, cặp cánh trông như áo choàng của thần chết phất phơ trong gió. Và khi con bướm bay xuyên qua ánh nắng, một biểu tượng chết chóc trên lưng nó hiện ra – một cái đầu lâu u lên với gò má hóp vào trong hoàn hảo đang nhìn người lính đăm đăm. Con bướm đêm đầu thần chết, cô biết nó. Hình thù của chiếc sọ kia là một con Acherontia styx có nguồn gốc từ châu Á chứ không giống là con Acherontia atropos đến từ châu Âu. Con bướm có vẻ ngoài rợn gáy, và bí hiểm theo nhiều nghĩa.

Con bướm đêm đầu thần chết lượn lờ trước mặt người lính mang tên hai con sông của Địa Ngục, như thể là sứ giả của cái chết, tới để đưa cô đi.

Con bướm đáp lên đầu ngón tay người lính, bên cạnh đoá thanh cúc khô, khẽ phe phẩy cặp cánh. Đến đây, ảo giác về con Acherontia styx chợt tan vào hư không, mạch suy nghĩ của người lính cũng dần đứt đoạn, tay cầm đoá thanh cúc buông thõng xuống mặt đất, cô cảm thấy ý thức đang chìm xuống một vùng biển tối tăm không thấy ánh mặt trời.

Thế rồi, hai mắt người lính từ từ nhắm nghiền. Nhìn thoáng qua, khuôn mặt bình thản dưới gốc bạch dương kia như thể đang say giấc ngủ êm đềm.

Chị xin lỗi.

See...

~•°•~

...le.

Bronya chầm chậm mở mí mắt nặng trịch trên giường bệnh. Đầu cô ong ong như có ai đó chụp quả chuông carillon vào đầu rồi gõ mạnh một cái. Dường như cô vừa trải qua một giấc mơ dài thật dài, tuy thế cô không sao nhớ ra được nội dung giấc mơ đó là gì, mà chỉ còn cảm giác hư ảo đọng lại. Khởi đầu bằng sự vui vẻ, tăng tốc bằng sự rộn ràng và kết thúc bằng một nỗi buồn sâu thẳm như bị dao cứa vào tim. Một giấc mơ ngọt ngào nhưng cũng rất cay đắng.

Mùi thuốc khử trùng mạnh xộc vào mũi Bronya giúp tâm trí cô tỉnh táo lên một chút. Cô hơi nghiêng mặt nhìn qua cửa sổ. Hai con én đang nhảy nhót trên cành cây ngoài đó, cứ thỉnh thoảng lại vểnh đầu nhìn cô bằng đôi mắt tròn xoe. Cành cây đã nhú chồi mới, chồi non mơn mởn đắm mình trong ánh nắng ấm áp, hoà hợp với lũ chim én đậu xung quanh.

Hả...? Chim én? Một suy nghĩ không biết vì sao lại vụt qua tâm trí Bronya. Seele...

“Tỉnh. Liliya! Liliya! Bronya tỉnh rồi kìa!”

“Rozaliya ngốc, chị đừng lay nữa, em thấy mà.”

“Nhanh gọi cho bác sĩ và bố mẹ chị ấy đi!”

Cặp song sinh ồn ào cạnh giường bệnh khiến cô gái tóc xám bạc sực tỉnh. Bronya nhớ lại chuyện đã xảy ra, cô đã bị một chiếc ô tô mất lái đâm phải, sau đó... Cô thử cử động chân, chân trái vẫn bình thường nhưng chân kia thì không may mắn đến vậy, nó cứng đơ như bị dây buộc cố định một chỗ. Bronya từ bỏ ý nghĩ nhấc chân phải lên, cứ thế mặc kệ nó.

Sau khi bác sĩ kiểm tra xong xuôi, Bronya được Rozaliya cho biết người đã đâm cô vì đột nhiên lên cơn động kinh nên mới gây ra vụ việc đáng tiếc. Gia đình của tài xế cũng đã đến xin lỗi, thậm chí họ còn chủ động ngỏ lời trả viện phí cho cô. Khi nghe xong, Bronya tỏ ra không bận tâm mấy về chuyện này. Dẫu sao thì đây cũng là tai nạn không ai mong muốn cả, vì thế không có lý do gì phải làm lớn chuyện.

Một ngày sau khi tỉnh lại, Bronya ngồi dựa lưng vào giường, yên tĩnh một mình trong phòng bệnh mở xem những lá thư mà cô đã nhờ Rozaliya mang tới. Trong khi cô hôn mê sâu, hộp nhạc đã chất đầy thư của Seele, tổng cộng có chín bức. Bronya vừa uống một ngụm nước ấm trong cốc vừa chăm chú đọc thư.

“...Tên chị ấy là Alexeievna Pavlovna, một Bạch vệ đang chiến đấu cùng với người Estonia.”

Nhìn thấy tên người lính trong thư, Bronya chợt dâng lên một cảm giác lạ lùng, đâu đó sâu thẳng bên trong cô. Vui mừng, buồn bã, tiếc nuối và bi thương.

Tại sao cô lại vui mừng? Tại sao cô lại buồn bã? Tại sao cô lại tiếc nuối? Tại sao cô lại bi thương? Cô không hiểu được dù chỉ một trong số chúng.

Những cảm xúc bất chợt đó dai dẳng quấn lấy Bronya, như lúc chơi một bản nhạc trên dương cầm, khi thì xuống một nốt nhạc trầm ảm đạm, khi thì lại lên một nốt cao tươi sáng, trong trẻo. Đó là một giai điệu có chút đượm buồn giống như giai điệu của hộp nhạc mà Bronya đang giữ.

Đúng lúc này, Project Bunny mở cửa đi vào, tay xách một túi táo mọng nước. “Sếp, em đến thăm sếp này.”

“À, ừ.” Bronya không cố ý đáp, vì nội dung bức thư đang đọc đã chiếm hết sự chú ý của cô.

“Chị Bronya, Alexeievna, chị ấy... phải quay lại chiến trường, ở Petrograd.”

Đồng tử Bronya bỗng mở to, giật thót mình đánh rơi lá thư xuống bụng. Nhìn xuống lá thư phẳng phiu, ngày tháng viết ở góc rạch ròi là ngày 3 tháng Mười Một. Một sự kiện vào ngày này chạy thoáng qua đầu cô như tên bắn. Cô nhỏ tiếng lẩm bẩm. “Alexeievna. Alexeievna Pavlovna... Con sói bạc vùng Ural, ngày 3 tháng Mười Một, ngày 3 tháng Mười Một...” Cô vô thức vò nát một góc lá thư. “Trận Petrograd? Không, hình như không phải Petrograd. Đúng rồi! Gatchina ngày 3 tháng Mười Một, ở Gatchina.”

“Sếp làm sao thế?”

“Cho tôi mượn dùng điện thoại của em một lát.”

Project Bunny đưa điện thoại cho người trên giường khi mặt đang hiện ra một dấu chấm hỏi to đùng. Bronya cầm lấy điện thoại, vội vã tìm kiếm thông tin về cuộc tiến công mùa thu năm 1919 của Đội quân Tây Bắc vào Petrograd và Gatchina.

Không khó để Bronya nhìn thấy các bài viết với nội dung tương tự nhau như “Bạch vệ bị Hồng quân đẩy lùi khỏi Petrograd” hay “Bạch vệ tháo chạy”, cô bỏ qua tất cả chúng, chỉ tập trung vào Gatchina ngày 3 tháng Mười Một. Sau khoảng một phút, Bronya đã tìm thấy bài viết mình muốn.

Bài viết nói rõ rằng vào đêm ngày 3 tháng Mười Một, Gatchina đã bị Bạch vệ bỏ rơi. Quân đội đã rút lui hỗn loạn do không có sự chỉ dẫn. Không có bất kì mệnh lệnh nào được cấp trên đưa ra sau đó, cho nên cuộc rút lui đã biến thành cuộc rút lui tự phát, không mục đích. Cũng vào đêm này, tay bắn tỉa khét tiếng của Đội quân Tây Bắc, kẻ từng gây ra vô vàn tổn thất và nỗi kinh hoàng cho Hồng quân – con sói bạc vùng Ural, được người ta phát hiện đã tử trận ở rừng bạch dương gần thành phố Gatchina.

Bronya bần thần trả điện thoại lại cho Project Bunny. Thật khó miêu tả những gì cô cảm nhận lúc này. Seele có vẻ đã phải lòng người lính đó, nhưng cô ấy đã mất trên chiến trường, nếu Seele biết tin thì cô ấy sẽ đau buồn đến mức nào? Thứ gì đó chợt bị xé toạc trong sâu thẳm linh hồn cô. Bronya muốn gửi một lá thư cho Seele ngay, ít nhất để có thể an ủi cô ấy. Bronya bảo Project Bunny mua giúp mình những dụng cụ cần thiết để viết thư. Project Bunny, mặc dù cảm thấy kì lạ nhưng vẫn làm theo ý sếp.

Một giọt mực đen rơi lên tờ giấy trắng tinh khi Bronya hạ bút xuống. Tay cô đột ngột chững lại giữa không trung, vì cô không biết mình nên viết thế nào nữa. Bronya nghĩ, nếu như mình tỉnh lại sớm hơn thì cô đã có thể cảnh báo Seele về chuyện sắp xảy ra với người lính đó, và tương lai có lẽ sẽ khác đi. Nhưng thực tế chẳng có cái “nếu như” nào ở đây cả. Bronya thở dài rồi bắt đầu trượt ngòi bút trên giấy. Lần này cô mất gần một giờ để viết xong lá thư. Khi đặt thư vào hộp nhạc, cô đụng phải lá thư vẫn chưa kịp mở trong xấp thư của Seele. Bronya đẩy nhẹ lá thư sang góc phải với dự định sẽ đọc nó sau, chuyện về người lính Bạch vệ đó là điều cô cần ưu tiên.

Project Bunny đặt quả táo vừa gọt xong vào đĩa. “Sếp viết thư cho ai vậy? Em chưa thấy sếp hớ hênh thế này bao giờ.”

“Cho một người quan trọng.” Bronya nhìn cành cây ngoài cửa sổ. “Chỉ sợ nói ra em không tin.”

“Ồ.” Project Bunny ngân dài. “Phải rồi, sếp đã đọc tin về trò chơi của chúng ta chưa?”

“Vẫn chưa. Tôi thật sự đã quên khuấy mất, tình hình thế nào rồi?”

“Bọn em đã cật lực vá lỗi để kịp ngày ra mắt khi sếp hôn mê. Kết quả là mọi thứ đều vận hành trơn tru và mọi người cũng phản hồi rất tích cực nữa. Sếp thử xem đây này, đạt hạng nhất trên bảng xếp hạng.”

Bronya nhìn qua số liệu thống kê trên màn hình, có thể nói rằng trò chơi của đã có màn thể hiện tuyệt vời ngay cả khi cô vắng mặt gần một tháng. Dĩ nhiên là không thể không kể đến những đêm gần như thức trắng của Project Bunny, nhân viên cần mẫn đã cống hiến hết mình cho Reason Studio, khi đạt được thành tựu này. Bronya nhìn lại, hình như quầng thâm dưới khoé mắt Project Bunny vẫn chưa tan hết. Nghĩ nghĩ một lát, cô đề nghị. “Sau khi tôi thu xếp xong, hay là mấy ngày nữa chúng ta đi nghỉ dưỡng đi.”

Project Bunny mắt long lanh nhìn Bronya. “Sếp nói thật ư? Đi nghỉ dưỡng?”

“Được rồi, em không cần làm vẻ mặt đó đâu, là thật, chúng ta sẽ có một kì nghỉ ở Toila Rand.”

Vẫn đang đắm chìm trong niềm vui không phải làm việc, thế nên Project Bunny không nghe rõ đoạn sau Bronya nói gì, cô nhướng mày hỏi lại. “Hả? Sếp vừa nói đi đâu? Bronya Rand?”

“Là Toila Rand, bãi biển Toila. Ngoài biển ra, ở đó còn có một khu rừng và một công viên tuyệt đẹp. Hình như Toila có cả khách sạn spa đấy, họ sử dụng dầu đá phiến, mật ong hay mấy thứ đại loại vậy.”

Project Bunny tỏ ra hào hứng trước tin tức vượt ngoài mong đợi này, một kì nghỉ phép dài hạn với bờ biển, rừng, công viên và spa, không có gì tốt hơn thế.

Buổi chiều, Bronya nửa buồn chán nửa sốt ruột nhấc hộp nhạc lên rồi mở nắp. Thế nhưng cô gái tóc xám bạc như đông cứng tại chỗ vào khoảnh khắc cái nắp bật ra trước khi cô kịp xoay tay quay.

Tại sao? Bronya hoảng sợ nghĩ. Tại sao thư vẫn chưa được gửi đi cơ chứ? Chuyện gì đang xảy ra thế này? Seele... Không, chắc chắn chỉ là nhầm lẫn thôi, mình chỉ cần kiên nhẫn thôi. Đừng sợ, đừng sợ.

Trung bình mỗi dây đàn dương cầm có lực căng dây lên đến 90kg, như vậy nghĩa là tổng tải trọng cây đàn phải chịu là gần hai mươi tấn. Bronya đã giữ một thần kinh căng như dây đàn suốt đêm hôm đó, cô tin rằng lá thư sẽ bốc hơi như bình thường sau đêm nay. Ngay khi thức dậy, điều đầu tiên Bronya làm là xem xét hộp nhạc, nhưng trớ trêu thay lá thư vẫn còn ở y vị trí cô đặt nó. Bronya lúc này không muốn tin vào mắt mình, lá thư đã thực sự không biến mất để quay ngược về một trăm năm trước.

Như một trò đùa lố bịch của Chúa, hộp nhạc giờ đã mất đi sự màu nhiệm của nó, biến thành một món đồ phát ra âm thanh thông thường mà người ta có thể dễ dàng mua được ở bất cứ đâu.

Bronya cắn môi, chuyển ánh mắt nhìn lá thư thứ chín trên cái bàn nhỏ cạnh giường bệnh. Nếu cô mở nó ra, có lẽ đó sẽ là lần liên hệ cuối cùng giữa cô và Seele.

Do dự cầm lá thư lên, Bronya lại thở dài, nhưng sau cùng cô vẫn quyết định mở thư.

Nội dung trong thư vẫn như cũ, vẫn là những câu chuyện nhỏ xảy ra hằng ngày và cảm nhận của Seele, và đều có liên quan đến người lính kia. Bronya hoàn toàn không có cảm giác khó chịu, đổi lại cô còn cảm thấy có chút chờ mong không rõ ràng lắm.

Bronya nghiền ngẫm từng từ trong lá thư, và khi đến một đoạn nọ, cô suýt nữa đã không cầm chắc lá thư vì đôi tay rã rời của chính mình.

Cô không mong đợi sẽ đọc được chúng.

“Chị ấy đã nói với em sẽ trở về, em sẽ đợi dù có tốn bao nhiêu thời gian đi chăng nữa.

Chị ấy đã hứa sẽ đến xem em ở lễ hội hát và múa, lời hứa đó làm em vui sướng.

Chị ấy đã hứa rằng em và chị ấy sẽ luôn ở cạnh nhau, chỉ nghĩ đến thôi em đã thấy hồi hộp.

Chị ấy mang đến cho em biết bao nhiêu là niềm vui, em đã cười rất nhiều khi gần gũi với chị ấy.

Bóng lưng của chị ấy làm em cảm thấy yên tâm, em muốn dựa vào đó thật lâu.

Chị ấy đã kể cho em nhiều thứ mà em chưa bao giờ biết đến, chị ấy bảo sẽ kể cho em nhiều hơn nữa.

Em nhận ra rằng chị ấy quan trọng với em đến nhường nào, ở bên chị ấy khiến em hạnh phúc.

Thế nên, dù tương lai có ra sao...

Thì ngay lúc này đây em thật sự mãn nguyện.

Mùa đông sắp tới rồi...”

Khoảnh khắc đọc đến dòng cuối cùng, một giọt nước âm ấm lăn khỏi má Bronya và rơi xuống, thấm vào lá thư. Những giọt nước mắt này là vì cái gì mà rơi ra? Như rằng có ai đó trong cô đang khóc nhưng không thật sự là bản thân cô. Khi đó, tâm trí Bronya chập chờn hình ảnh cây đàn dương cầm kiểu cách Victoria(6) với vô số hoa văn độc đáo trên thân đàn, và cô như nhìn thấy Seele đang chơi nó ngay trước mặt mình, ngón tay thanh thoát trên phím đàn. Phía sau Seele có một bóng người màu xám bạc ngồi trên ghế, toàn tâm toàn ý nghe bản nhạc được diễn tấu.

Ngoài trời có tiếng gió và hương vị của mùa thu, có cả mấy con chim én nép mình dưới mái hiên.

Và hình như có một lời hứa. Một lời hứa cứ mãi vất vưởng trong vực thẳm linh hồn như hồn ma bóng quế không bao giờ tiêu tan.

Bronya cố gắng ngắm nhìn cây đàn dương cầm Victoria trong ảo ảnh mơ màng. Nếu như cây đàn đó vẫn tồn tại đến ngày nay thì nó vẫn có thể chơi được chứ? Nếu có, ai sẽ là người chơi nó? Vẫn là thiếu nữ ngày xưa kia, hay là một người xa lạ tình cờ có được cây đàn? Hay nó đã lặng im dưới dòng chảy của quá khứ trong một bảo tàng nhạc cụ hiu hắt?

Thế nhưng tất cả vẫn chưa phải điều tồi tệ nhất có thể xảy đến với cây đàn. Một khi không còn ai sử dụng nó nữa vì quá cũ, khi cũng không tìm được bộ phận thay thế để bảo dưỡng, cây đàn sẽ bị quăng vào kho của nhà xưởng, sau đó họ sẽ tháo phăng nó ra như một lời tuyên bố chắc nịch rằng cây đàn sẽ chấm dứt cuộc đời của mình tại đây. Cái gì của cây đàn có thể tái sử dụng thì họ giữ lại, lắp vào một cây dương cầm khác bóng bẩy hơn, trong khi những linh kiện vô giá trị thì bị chôn vùi vào bãi phế liệu. Còn vụn gỗ sau khi tháo dỡ, họ ném chúng vào lò mà đốt, làm như củi sưởi ấm trong mùa đông. Đến cuối cùng, sẽ chẳng còn gì của cây đàn dương cầm sót lại để minh chứng nó đã từng tồn tại trên thế giới này.

Càng nghĩ Bronya càng cảm thấy chuyện bị ngắt liên lạc này không chân thật, cứ như những gì cô trải qua trước đây chỉ là một cơn mê sảng điên rồ. Nhưng cô biết mình không mơ. Không như cây đàn dương cầm bị phá bỏ, những lá thư của Seele vẫn còn trong tay cô, kể từ ngày đầu tiên Bronya nhìn thấy quyển nhật ký thì chúng vẫn luôn ở đó, là bằng chứng đanh thép nhất cho việc Seele đã từng hiện diện.

Nhưng dù có thắc mắc nhiều thế nào thì Bronya vẫn không thể nghĩ nổi nguyên nhân khiến các lá thư ngừng biến mất.

Bronya gấp lại lá thư, quệt đi giọt nước mắt trên khoé mi. Cô không muốn chấp nhận rằng chiếc hộp nhạc đã trở thành một hộp nhạc bình thường. Cô vẫn còn nhiều điều muốn nói với Seele, chẳng lẽ chuyện giữa bọn họ sẽ chấm dứt như thế này thật ư?

Giữ một bộ dạng mờ mịt và thiếu hăng hái suốt hai ngày, Bronya khiến những người xung quanh lo lắng, đến mức mà mẹ cô, bà Alexandra không thể vờ như không nhìn thấy gì. “Con có tâm sự sao?”

“Mẹ, con...”

Cái nhìn ân cần của Alexandra khiến Bronya chỉ muốn kể hết mọi chuyện cho bà nghe. Và quả thật cô đã làm thế. Sau đó, Bronya đưa những lá thư cho bà rồi chờ đợi bà đọc hết chúng.

Bẵng đi một thời gian, Alexandra kinh ngạc nói khi trả lá thư về người lính lại cho Bronya. “Chuyện này thật sự không thể tin nổi.”

“Con biết.”

“Con đã nhận bao nhiêu thư rồi?”

“Mười tám, tính từ lá thư đầu tiên.”

“Bronya, con có chắc là mình không...”

“Mẹ.” Bronya kiên định nhìn mẹ mình vì dường như đã đoán được gì bà sắp nói. “Con không nằm mơ hay gặp ảo giác đâu. Ngay cả khi có ba trăm nghìn ý thức trong đầu, con cũng không thể làm ra chuyện tự viết thư cho chính mình rồi tự đọc. Nếu Seele không tồn tại, vậy thì ai đã viết và gửi những lá thư này cho con? Seele không phải nàng tiên cá sẽ tan thành bọt biển khi bình minh lên, sẽ bị người khác lãng quên.”

Bronya lặp lại, cô khăng khăng. “Những bức thư có thật, Seele có thật, em ấy có thật mà mẹ. Seele chỉ không sống cùng thời đại với chúng ta thôi.”

Alexandra im lặng, lát sau bà nói bằng giọng an ủi. “Mẹ rất tiếc về những gì đã xảy ra. Mẹ biết con sẽ buồn khi mẹ nói điều này, nhưng có lẽ đây là kết thúc tốt nhất rồi. Seele không thuộc về thời đại của chúng ta, con cũng không thuộc về thời đại của con bé. Hai đứa cách nhau tròn một thế kỷ, nếu như tiếp tục, con nghĩ chuyện sẽ đi đến đâu được đây?”

Bronya không trả lời, lẳng lặng siết chặt tay trái dưới tấm chăn vì cô hiểu bà nói đúng.

“Liên lạc giữa quá khứ và tương lai, bản thân nó đã là một phép màu.” Alexandra xoa đầu con gái bà. “Dù phép màu giờ đã biến mất, nhưng con sẽ không bao giờ quên đúng không? Cứ việc khắc nó vào tâm trí con đi, biến câu chuyện cổ tích giữa đời thực này thành kỷ niệm quý giá, con có quyền làm vậy. Con sẽ cần thời gian vượt qua chuyện này, Bronya.”

Bronya không chút sức lực đáp. “Vâng, mẹ.”

Bronya chưa từng nghĩ rằng đó sẽ là lần liên lạc cuối cùng của Seele với cô.

Tuy nhiên, đó không hề là lần cuối cùng.

Vẫn còn một cách để thiếu nữ có thể gửi thư cho cô thêm một lần cuối, một cách mà Seele phải tốn rất rất nhiều thời gian gửi thư đi. Nếu là Seele, chắc chắn cô ấy sẽ nhận ra cách mà Bronya đang nghĩ tới.

Cô gái tóc xám bạc thầm nghĩ đến địa chỉ ngôi nhà gần bờ biển. 18 đại lộ Mere, Toila, 41702 quận Ida-Viru, Estonia.

~•°•~

Ngôi nhà đó, ngôi nhà hai tầng gần bờ biển một thế kỷ trước chưa bao giờ trở nên yên tĩnh đến vậy. Đối với Seele, dù là mùa nào trong năm thì nơi này vẫn luôn có một nét đẹp đặc trưng cho mỗi mùa, thế nhưng giờ đây cảnh vật quanh cô lại trông u ám như có một màn sương đen tù mù vây lấy.

Hoặc chỉ đơn giản là Seele đang không vui.

Đã có nhiều chuyện xảy ra trong mấy ngày này. Bóng dáng màu bạc kia không ở bên cạnh cô, những lá thư vẫn tiếp tục im bặt, và cây sồi thiêng... lần cuối khi Seele ghé thăm thì nó đã bị một tia sét hung bạo đánh gãy một nhánh cây. Kể từ hôm ấy trở đi, Seele dần nhận ra rằng cái cây cổ thụ đã không thể gửi thư đi được nữa. Nếu như những lá thư trước đó im lặng vì người gửi có lý do bất đắc dĩ thì giờ đây những lá thư im lặng vì cây sồi đã mất đi sự nhiệm màu.

Âm thanh thắng xe ngựa của người đưa thư trước nhà chợt phá vỡ bầu không khí ngột ngạt trong phòng khách. Nghe thấy tiếng xe ngựa, Seele liền bước ra nhận thư. Người đưa thư bước xuống xe ngựa và ngả mũ chào cô, sau đó ông chọn hai lá thư trong túi vải giao cho Seele. Nhìn tên người nhận là ông Vollerei, Seele hỏi người đưa thư rằng có bức thư nào gửi cho mình không với một chút hy vọng. Nhưng khi người đưa thư trung niên trước mặt trả lời “Không, thưa cô” sau khi kiểm tra tên họ người nhận lại lần nữa, cô chỉ đành nói lời cảm ơn rồi quay vào trong.

Một lát sau, ông Vollerei từ bên ngoài trở về, ông còn chưa kịp cởi mũ, cô đã nghe thấy giọng nói khàn đặc của cha vọng khắp nhà. “Đội quân Tây Bắc chạy tan tác như ong vỡ tổ, cho nên ta mới bảo không thể tin được lời hứa hẹn viện trợ của lũ người Anh mà.”

Seele giật mình, lo lắng hỏi.“Thưa cha, tình hình hiện tại thế nào?”

“Rất hỗn loạn. Dân tị nạn, lính Bạch vệ bại trận đang dồn về Narva càng lúc càng đông. Bạch vệ sụp đổ rồi, còn Hồng quân thì đang được đà lấn tới, quỷ đỏ sẽ kéo tới Narva sớm thôi.”

Seele không thể nghe rõ những gì ông Vollerei nói sau đó nữa. Một ý nghĩ kinh hoàng bất chợt kéo đến trong cô. Nếu Bạch vệ đã thất bại trong cuộc tấn công này, vậy người lính đó bây giờ ra sao? Cô chợt nhớ đến một chuyện, có lẽ nào nguyên nhân không có thư gửi về từ chiến trường là vì...

Đó là viễn cảnh tồi tệ nhất.

Mọi thứ trước mắt Seele như tối sầm lại.

Ngay giây tiếp theo, Seele đưa ra một quyết định bốc đồng, thuận theo cảm xúc của bản thân mà không quan tâm hậu quả có thể xảy ra. Cô muốn đến Narva ngay lập tức dù biết rằng nơi này hiện đang rất nguy hiểm. Nếu như đến đó, có lẽ cô sẽ hỏi thăm được tin tức của người lính, có lẽ người lính cũng đã rút quân về đây giống như lần đầu cả hai gặp gỡ.

Seele lao nhanh ra khỏi nhà trước sự ngỡ ngàng của cha mẹ cô. Ông Vollerei vội hô lớn. “Seele! Con đi đâu? Seele! Quay lại đây ngay!”

Ông Vollerei toan đuổi theo, thế nhưng cái chân không nghe lời khiến ông chỉ có thể bước tập tễnh ra cửa và bất lực nhìn Seele mất hút phía xa.

Seele đến Narva nhanh nhất có thể, tìm đến khu tị nạn dù người như cô không thích hợp xuất hiện tại nơi này chút nào.

Ở trại tị nạn, Seele nhìn thấy những người lấm lem, những người lính Bạch vệ Nga bất hạnh. Bất chấp cái lạnh rét buốt, mọi thứ của những người lính này đều bị tước đi. Những cây thánh giá bị lấy khỏi ngực, ví bị lấy khỏi túi, nhẫn bị lấy khỏi ngón tay, gần như chẳng còn gì sót lại trên cơ thể trần trụi của những kẻ bại trận khốn khổ ngoài cái áo rách rưới.

Seele vừa nhìn quanh vừa hỏi thăm những người ở tị nạn về người lính nhưng không có người nào biết cô ấy. Seele vẫn kiên trì tìm kiếm tung tích của người lính ở trại tị nạn. Seele không rõ thời gian đã trôi qua bao lâu, và cô cũng chẳng có tâm tình để tâm đến nó. Chỉ khi một người lính Bạch vệ mặt mũi nhếch nhác chủ động tìm tới, cô mới nhìn thấy một chút tia sáng. Anh ta đưa cho Seele một lá thư rồi nói. “Cô ấy... đã nhờ tôi trao nó cho cô. Tôi không chắc tình hình của cô ấy bây giờ thế nào, nhưng tôi e là... ” Anh ta không nói hết song Seele có thể đoán ra phần còn lại.

E là cô ấy không thể thoát khỏi nơi đó.

Cầm lấy phong thư, Seele bất giác trở về nhà lúc nào không hay. Toila vắng tênh, gió khô lạnh thổi ù ù từng cơn. Hướng mắt ra phía tận cùng của bờ biển, cô trông thấy một đám mây tích to che khuất mặt trời. Mãi đến khi màn đêm buông xuống khu rừng, Seele mới ý thức được bản thân đang làm gì. Cô ngồi nhìn lá thư trên bàn dưới ánh đèn dầu mờ mịt. Dường như có một vài nốt nhạc đã im bặt, dù cho có nhấn đi nhấn lại nhiều đến thế nào thì cũng vô ích.

Khoảng lặng như kéo dài đến vô tận.

Phím đàn dương cầm câm lặng thể hiện cho điều gì? Có hàng tá nguyên nhân khiến phím đàn không thể phát ra tiếng, do dị vật mắc kẹt bên trong, do búa đàn gãy, do các bộ phận đã quá cũ,... hoặc do đã có thứ gì đó quan trọng mất đi. Seele nghĩ, có phải bản thân vừa đánh mất một người quan trọng, giống như phím đàn không thể đánh lên nốt nhạc kia?

Tiếng gõ cửa cộc cộc bên ngoài đưa Seele thoát khỏi trạng thái thất thần. Khi bước ra mở cửa, cô thấy người đến tìm cô là Flora.

Seele hỏi bằng ngữ khí nhẹ nhàng. “Có chuyện gì vậy, tìm chị vào giờ này?”

“Tiểu thư.” Flora nhỏ giọng vì biết Seele đang buồn, sau đó rụt rè chìa cho cô một bức thư đã nhàu nát vì nước mưa. “Em tìm thấy nó gần gốc sồi, nó bị nhánh cây gãy đó đè lên, em không kịp đưa bức thư cho chị lúc chiều, thế nên...”

Nhìn lá thư nhàu nhĩ, nét mặt Seele thoáng qua vẻ kinh ngạc lẫn vui mừng. “Cảm ơn em Flora, thật sự cảm ơn em.”

Sau khi nhận lấy lá thư, Seele ngồi xuống ghế, đăm chiêu quan sát nó. Ánh đèn dầu như bừng sáng lên một chút. Cô thận trọng mở lá thư cáu bẩn do lo sợ sẽ làm hỏng thứ bên trong.

Chỉ có một tấm ảnh màu đã ép nhựa đặt trong lá thư khi Seele lấy nó ra.

Một tấm ảnh hết sức bình thường từ một thế kỷ sau nhưng lại cũng vô cùng bất thường.

Hả? Seele kích động dùng tay che miệng. Bức ảnh này, chẳng phải là...

Rồi Seele lập tức mở lá thư của người lính ra để xác nhận điều gì đó. Những hàng chữ viết vội in lên mặt giấy thô ráp, tuy có đôi điểm khác biệt nhưng cô vẫn có thể nhận ra sự quen thuộc của chúng.

“Seele, chị hy vọng lá thư này đến được tay em.

Tình hình chiến sự ở đây rất căng thẳng nên chị không có nhiều thời gian viết thư cho em. Có lẽ em sẽ không để bụng đến mấy dòng chữ nguệch ngoạc này đâu phải không? Em là vậy mà.

Chị vẫn thường xuyên nghĩ về em, muốn được ở gần em, chị đã luôn nghĩ tới điều đó khi cuộc chiến kết thúc, và lời hứa giữa chúng ta. Nhưng thú thật là tình thế hiện tại rất không khả quan, Bạch vệ chiếm ưu thế ở vài nơi, song cũng bị đẩy lùi ở nhiều nơi, có thể họ sẽ thất bại trong cuộc tấn công tổng lực này, bị nghiền nát như ở dãy Ural. Dù chỉ là một trong số các khả năng, thế nhưng trong trường hợp chị không thể quay lại... Trong trường hợp đó, dù rất khó chấp nhận, thì chị mong rằng em đừng quá đau buồn.

Chúng ta không thể thay đổi số mệnh. Số mệnh quá nghiệt ngã ở thời đại này, giống như một sợi tóc mong manh không biết bao giờ thì đứt.

Đừng bao giờ ngừng viết xuống những nốt nhạc của em ngay cả khi chị không ở cạnh em. Chị muốn em hãy sống thật tốt, tiếp tục hát vì âm nhạc của em đã chạm đến trong sâu thẳm trái tim chị.

Khi đó, nếu như Chúa rộng lượng tặng cho chị một cuộc sống mới, chị sẽ lại tìm được em, nghe thấy tiếng đàn của em lần nữa.

Seele, liệu em sẽ gửi một giai điệu thật hay cho chị chứ? Đến cuộc sống mới đó?”

Bức thư viết vội vàng và dừng lại cũng vội vàng như lúc viết. Seele mím môi, lồng ngực như bị siết chặt lại đến mức khó thở. Cô đặt tấm ảnh song song với lá thư, nước mắt âm ấm chảy ra nhưng đồng thời cô cũng đang nở một nụ cười trên môi. Khoảnh khắc đó, Seele không biết bản thân nên khóc hay nên cười, hoặc có lẽ là cả hai. Nỗi buồn và niềm hạnh phúc đan xen nhau, biến tâm tình cô trở nên phức tạp.

Seele lại nhìn xuống bức ảnh và lá thư.

Gương mặt trong ảnh, nét chữ trong thư... Hai người bọn họ, Bronya và người lính giống hệt nhau, chẳng khác gì hai giọt nước.

Số phận có thể tàn khốc nhưng không phải lúc nào cũng sẽ như thế.

Seele thều thào trong khi vuốt bức ảnh và cả lá thư. “Phải, như một trò trốn tìm, chị đã tìm thấy em rồi...”

Phím đàn bị kẹt giờ đã lại ngân lên.

Trong trẻo.

Trầm tĩnh.

Và sâu lắng.

Giữa đêm khuya, như có tiếng đàn dương cầm vượt qua lớp sương mù mịt mùng, tiến thẳng đến một tương lai tràn ngập ánh nắng ấm áp của mùa xuân.

Hôm sau, bầu trời mùa thu chợt trở nên lộng lẫy một cách lạ thường, như thể có điều gì vừa được giải thoát khỏi sự trầm luân. Seele bước xuống cầu thang rồi gặp Flora ở đấy. Nữ hầu gái phát hiện tâm trạng Seele đã thay đổi, thay đổi theo hướng tích cực. Tuy Flora không rõ đêm qua đã xảy ra chuyện gì sau khi mình đưa lá thư cho Seele, song nữ hầu gái vẫn cảm thấy nhẹ nhõm thay cho cô chủ.

“Nè Flora, cành sồi bị gãy trông cũng khá to phải không?” Seele tươi tỉnh nói. “Em nghĩ sao nếu chúng ta nhờ ai đó biến nó thành một hộp nhạc?”

~•°•~

“Có lẽ cũng được.”

Bronya gật đầu khi Project Bunny cho ô tô vượt qua một ngã tư. Họ đang trên đường đến Toila và chỉ còn hai giờ nữa sẽ tới khách sạn. Project Bunny vừa đề nghị bật radio, sau khi người ngồi sau đồng ý, cô liền chọn ngẫu nhiên lấy một kênh radio. Trùng hợp đó là kênh radio đang phát các bản nhạc cổ điển của những nhà soạn nhạc lừng danh như Chopin, Richter và Beethoven. Chiếc ô tô tiếp tục lướt ngang những hàng cây bạch dương nhô ra chồi mới khi mùa đông đã thực sự nhường chỗ cho mùa xuân. Bronya chẳng nói chẳng rằng, chỉ im lặng nghe radio.

Khi bản Für Elise của Beethoven kết thúc, kênh radio bị gián đoạn vài giây để chuyển sang bản nhạc kế tiếp. Lúc đầu bản nhạc đó không thu hút Bronya cho lắm, nhưng khi nó chơi được một nửa, một đoạn giai điệu ngắn vang lên, giống hệt giai điệu cô từng nghe cách đây hai tháng ở cửa hàng nơi mình đã ghé mua giấy bút để viết lá thư đầu tiên. Bronya lập tức tự hỏi tên bản nhạc này là gì và người sáng tác là ai. Bronya thử hỏi Project Bunny. “Này, em có biết bản piano đang phát tên gì không? Nghe rất quen.”

“Hình như là của một nữ nhạc sĩ người Estonia.”

“Nữ nhạc sĩ người Estonia? Seele Vollerei?”

Project Bunny nghĩ một lát rồi lắc đầu. “Không, em nhớ không phải tên Seele Vollerei.”

Thế rồi Project Bunny nói ra một cái tên lạ lẫm mà Bronya không biết. Mặc dù cảm thấy thất vọng song cô vẫn dành ra thời gian tìm hiểu về nữ nhạc sĩ người Estonia và bản piano đó. Bronya tìm vào mục giới thiệu đọc bối cảnh bản nhạc ra đời.

 “Tôi viết bản nhạc này như một lời tri ân dành cho người lên dây đàn của mình, dựa trên bản nhạc gốc do chính cô ấy sáng tác.

Hai chúng tôi gặp nhau lần đầu ở Narva. Cô ấy có tài năng và một đôi tai tuyệt vời. Mỗi lần lên thính phòng, việc chơi một cây đàn xa lạ luôn làm tôi cảm thấy bất an, cuối cùng tôi phải nhờ cô ấy chỉnh dây thì bản thân mới có thể an tâm được.

Tôi thường xuyên được dịp nghe cô ấy chơi đàn sau những lần lên dây. Phong cách âm nhạc của cô ấy thật sự đã gây ấn tượng mạnh với tôi, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất đó là cô ấy chưa từng học ở bất kì trường đào tạo chính quy nào. Người lên dây và âm nhạc của cô ấy luôn tạo cho tôi một cảm giác buồn man mác kì lạ, giống như búa đàn dương cầm đã trải qua phương pháp châm kim(7), đã phải gồng mình lên chịu đau đớn, mình thủng lỗ chỗ để trở nên cứng cáp hơn, sau đó mới cho ra được một âm sắc mạnh mẽ.

Từ đầu đến cuối, tôi vẫn hoàn toàn không biết vì sao tôi lại cảm thấy như thế về cô ấy, và cũng không biết cuộc sống của người lên dây đã gặp phải những nốt nhạc thăng trầm ra sao.

Thế nhưng chuyện này không quan trọng, người lên dây đã giúp đỡ tôi rất nhiều, tôi biết ơn cô ấy, và cây đàn của tôi cũng biết ơn cô ấy.

Gửi đến người lên dây, cô Seele Vollerei, tôi xin cảm ơn sau tất cả vì sự tận tụy của cô.”

Seele. Cái tên làm cô gái tóc xám bạc thổn thức, trằn trọc khi cả đêm không thể ngủ được. Giờ cô mới biết, thì ra Seele chưa từng đến Nhạc viện Petrograd, mà nay đã đổi tên thành Nhạc viện Saint Peterburg, như những gì cô ấy từng kể trong thư. Vì cớ gì Seele lại quyết định không đến nhạc viện? Vì sao cô ấy lại chọn trở thành thợ lên dây đàn dương cầm? Nếu như hộp nhạc vẫn có thể gửi thư đi thì cô đã hỏi cô ấy rồi nhưng rốt cuộc... cô phải chấp nhận hiện thực.

Một sợi dây đàn dương cầm khi bị đứt sẽ cho ra một âm thanh khủng khiếp và đinh tai. Có lẽ đối với Bronya, khoảnh khắc sợi dây liên kết giữa cô và cô gái ấy bị cắt đứt đã cho cô cảm giác tương tự. Dây đàn dương cầm đứt sẽ không có dấu hiệu báo trước, mối liên kết này lúc bị đứt cũng như vậy.

Bầu trời xanh trong, chiếc xe chở bọn họ bắt dầu tiến vào địa phận Toila. Bronya quan sát con đường, sau đó bỗng nói. “Bunny, rẽ phải vào đại lộ Mere.”

“Ơ, nhưng khách sạn rẽ trái mà sếp.”

“Chúng ta không đi khách sạn Toila, có một nơi tôi muốn tạt qua trước.”

Chưa đầy năm phút sau, căn nhà số 18 nằm trên đại lộ Mere đã xuất hiện. Căn nhà trông sáng sủa hơn so với lần trước cô đến, khi tuyết vẫn còn đóng đầy xung quanh. Từ vị trí này đi bộ thêm ba phút nữa sẽ gặp bờ biển dậy sóng, nó quả thật cách biển rất gần. Bronya bảo Project Bunny chờ cô một lát rồi xuống xe, chống nạng đến chỗ căn nhà, thâm tâm hy vọng rằng lần này sẽ không trắng tay ra về.

Một người giúp việc đã ngoài sáu mươi mở cửa sau khi Bronya nhấn chuông hai lần. Bà nhìn Bronya rồi hỏi. “Cô cần gì thưa cô?”

“Xin lỗi vì đã đột nhiên quấy rầy bà thế này, tên cháu là Bronya Zaychik, cháu tới đây để gặp... để tìm hiểu về tiểu thư Seele Vollerei...” Bronya cảm thấy lời cô nói ra đang không thật sự trôi chảy. “Người từng sống ở đây vào thế kỷ hai mươi. Seele có thể là một nhạc sĩ hoặc có lẽ là người lên dây đàn dương cầm, bà có biết hay từng nghe qua về cô ấy không?”

“Tại sao?” Người giúp việc già hỏi.

“Cháu... Ừm, cháu tình cờ có được hộp nhạc của cô ấy, do rất thích giai điệu này nên chủ nhân của nó – tiểu thư Seele làm cháu tò mò.”

Người giúp việc không thắc mắc gì thêm, bà mở rộng cánh cửa. “Được rồi, cô vào đi, ông chủ của tôi biết cô ấy.”

Bronya mừng rỡ nhưng không thể hiện nhiều ra ngoài. Sau đó người giúp việc bảo cô chờ tại phòng khách trong khi mình thì lên tầng trên thông báo cho chủ nhân hiện tại của ngôi nhà.

Bronya đảo mắt vòng quanh, phòng khách được bày trí đơn giản và có vẻ trống trải. Nơi đáng ra phải có một cây đàn dương cầm kiểu đứng thì giờ đây lại trống không, chỉ còn những tấm gỗ lát sàn lạnh tanh. Nhìn khoảng không tưởng như vô tận trước mặt, cô bỗng nghĩ. Cây đàn Victoria đã lưu lạc đến đâu sau một trăm năm? Hay nó thực sự đã bị hủy diệt trong lò thiêu? Bronya chầm chậm bước đến chỗ khoảng không, vươn tay sờ vào không khí như đang cố gắng tìm kiếm hình bóng của cây đàn xưa cũ.

Hình ảnh cây đàn Victoria kiểu đứng hiện ra rồi tan đi trong ánh nắng ấm áp, nó nhanh đến nỗi dù có ngay lập tức lao đến chụp lấy cũng chẳng kịp.

Chợt chất giọng trầm thấp của người giúp việc vang lên sau lưng khiến cô hơi giật mình. “Thưa cô, ông chủ muốn gặp cô.” Rồi bà nhìn xuống chân phải bó bột của Bronya, quan tâm hỏi. “Cô ổn với chuyện lên tầng trên chứ? Ông chủ đã có tuổi rồi, ông ấy chỉ vừa xuất viện bốn hôm nay.”

Cô liền đáp. “Không vấn đề gì, cháu ổn.”

Bronya tự xoay xở lên tầng hai cùng người giúp việc. Bà dẫn cô vào phòng đầu tiên sau khi đi hết cầu thang. Trên giường là một ông cụ da mặt nhăn nheo, tóc trắng xoá đang nằm bất động. Thời gian tàn khốc không thiên vị ai cả, vẫn sẽ luôn như vậy. Trông thấy Bronya, ông cụ gắng sức mở đôi mắt mờ đục ra nhìn cô, ông cụ khó nhọc thì thào. “Giống hệt như những gì tiểu thư Seele nói, cô nhất định sẽ đến.”

Bronya kinh ngạc nhìn ông cụ. “Thưa cụ, cụ nói như vậy là sao? Seele biết cháu sẽ đến đây? Cụ quen cô ấy ư?”

“Quen...? Tất nhiên, tất nhiên...” Môi ông cụ run bần bật. “Dì Flora của tôi đã làm người hầu của tiểu thư trong một thời gian dài. Dì đã kể cho tôi nghe rất nhiều điều về cô ấy. Tiểu thư Seele là người xinh đẹp và dịu dàng nhất tôi biết. Tiểu thư vẫn sống ở nơi này cho đến khi Thế chiến II bắt đầu, tiểu thư và gia mình phải ra nước ngoài lánh nạn một thời gian. Cuối cùng tiểu thư vẫn quyết định quay lại đây trong những năm cuối đời... Tiểu thư nói ngôi làng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với mình, cô ấy không muốn đi đâu cả.”

“Cụ có biết tại sao Seele lại trở thành người lên dây không? Cuộc sống của cô ấy sau cuộc nội chiến như thế nào? Xin cụ hãy cho cháu biết.”

“Tôi không biết...” Ông cụ lắc đầu. “Nhưng tiểu thư cả đời không lấy ai, dì tôi đã nói vậy.”

“Thưa cụ...”

Bronya còn muốn hỏi thêm mấy câu nhưng ông cụ đã ngắt lời cô và nhìn người giúp việc. “Mang nó ra đưa cho người này đi, tôi cần phải ngủ.”

Nói xong, ông cụ liền nhắm nghiền mắt. Bronya đành rời khỏi phòng ông cụ theo sau người giúp việc, bà dẫn cô tới một căn phòng khác cùng tầng rồi nói. “Đây đã từng là phòng của tiểu thư Seele, cô có thể xem tùy ý.”

Bronya đi một vòng căn phòng – nơi vẫn còn giữ lại một chút dáng dấp của thế kỷ hai mươi, cô bước đến cạnh cửa sổ nhìn ra bên ngoài và thấy rất rõ khu rừng đầy những cây vân sam ở bên kia đường. Tiếng chim én lanh lảnh giữa những nhánh cây, tiếng chim vang to, vọng mãi cho đến bầu trời và bờ biển mênh mông.

Mải mê quan sát khung cảnh Seele từng thấy mỗi ngày, Bronya không nhận ra người giúp việc đã cầm trên tay một cái rương gỗ. Bà gọi Bronya, cô lập tức xoay người lại nhìn chằm chằm bà và cái rương kia. Bà giải thích sau khi đặt cái rương lên bàn. “Nhật ký, thư từ, nhạc phổ,... Mọi thứ của tiểu thư Seele đều ở trong này, nhưng chúng tôi không có chìa khoá.”

“Chìa khoá?” Bronya nhấc nó lên rồi tỉ mỉ quan sát lỗ khoá nhẵn nhụi. Có lẽ nào chính là chiếc chìa khoá đó? Phải rồi, nhất định là nó. Cô cảm thấy may mắn khi có đem theo hộp nhạc đến Toila, và hiện giờ nó đang ở ngay trong xe. Cô vội bảo người giúp việc đợi mình trong khi gọi Project Bunny mang hộp nhạc tới cho cô.

Mất một lúc để Bronya cầm cả hộp nhạc quay lại phòng Seele. Cô tra chiếc chìa khoá bạc có hoạ tiết hình bướm vào cái rương rồi hồi hộp vặn chìa trước vẻ ngạc nhiên của người giúp việc, bà không hiểu lý do vì sao cô có chìa. Chỉ khi âm thanh cạch vang lên báo hiệu cái rương kỷ niệm vừa được mở thành công, Bronya mới thở phào nhẹ nhõm.

Đến tận thời khắc này Bronya mới vỡ lẽ, chiếc chìa khoá đó dành cho cô chứ không phải là ai khác.

Chiếc rương chia làm hai ngăn lớn, những món đồ trong rương đều được sắp xếp gọn gàng, một ngăn dành cho thư từ, còn một ngăn dành cho nhạc phổ và nhật ký. Cô gái tóc xám bạc cầm một xấp thư đã xỉn màu được buộc bằng dây vải, bắt đầu giở từng lá lên thật cẩn thận. Bronya lướt nhanh mắt trên những con chữ, hết lá này đến lá khác, sau đó nhẹ tay đặt chúng sang một bên. Sau khi đọc chúng, bản thân cô không thể không nở một nụ cười trên khoé môi.

“Chỗ thư này đều là lời cảm ơn của những người Seele từng giúp lên dây đàn, có cả học sinh của em ấy nữa.” Bronya lẩm bẩm. “Seele... em ấy không có cơ hội trở thành nhạc sĩ vì chiến tranh nhưng đã trở thành người lên dây và một giáo viên âm nhạc tuyệt vời, quá tốt rồi.”

Tiếp đến Bronya mở xem xấp nhạc phổ, hầu hết đều là những bản nhạc lạ lẫm đối với cô. Tuy nhiên Bronya vẫn chăm chú lật từng tờ một, và khi gặp tờ nhạc phổ có tựa là Biển Xanh, Rừng Thẳm và Thiên Thần, cô dừng tay rất lâu mà không nhúc nhích.

Bronya có cảm giác hoài niệm khi đọc bản nhạc.

Dù không biết nhiều về nhạc lý, nhưng giai điệu của bản nhạc này lại tự khắc chảy trong đầu cô, nhịp nhàng tựa như một dòng suối.

Bây giờ, liệu thiên thần đã tìm thấy thiên đường của mình hay chưa? Một thiên đường, nơi những tội lỗi sẽ được tha thứ để làm lại tất cả từ đầu.

Bronya hít một hơi sâu, sau đó đặt xấp nhạc phổ xuống. Cô nhìn vào rương, ở đó chỉ còn một xấp thư cuối cùng. Hình dáng, chất giấy, nét chữ đều không nhầm đi đâu được, chúng đích thị là những lá thư cô gửi cho Seele. Có điều sau một trăm năm đằng đẵng thì tất cả đều trở nên ố vàng và bốc lên một mùi giấy cũ đặc trưng. Bronya lật nhanh đến gần cuối xấp thư, chợt một góc của bức ảnh nhô ra làm cô chú ý.

Đây là... Cô lôi bức ảnh đen trắng ra khỏi sự kìm kẹp của những lá thư. Trong ảnh là Seele đang đứng chung với người lính Bạch vệ đó, người lính vai đeo súng, còn sau họ chính là cây đàn Victoria kia. Trong một tích tắc ngắn ngủi, đại não Bronya như tê liệt khi khuôn mặt của người lính phản chiếu qua đôi mắt cô.

Bronya còn chưa kịp phản ứng, người giúp việc sửng sốt thốt lên sau khi nhìn cô và người lính cạnh Seele. “Lạy Chúa! Hai người trông giống hệt nhau!”

Còn có một bức ảnh khác đính phía sau bức ảnh đen trắng, Bronya tiếp tục lật nó lên, cô lập tức nhận ra đấy là bức ảnh chụp chính mình mà cô đã gửi cho Seele. Tuy ảnh đã phai màu nhưng tình trạng của nó vẫn tương đối tốt vì được bảo quản cẩn thận. Nếu có người hỏi Bronya phép màu là gì, thì cô sẽ tự tin trả lời rằng đây chính là phép màu. Giống như bản giao hưởng của quá khứ và tương lai, xuyên qua thời gian để rồi vọng lại thành một bản hoà âm tuyệt hảo.

Và có lẽ ngay cả thanh âm ngân vang của chuông carillon hay cây đại phong cầm lớn nhất cũng không thể sánh bằng bản giao hưởng này.

“Đó là cô.” Người giúp việc chỉ vào bức ảnh, bà nói. “Vì sao tiểu thư Seele lại có ảnh của cô? Những chuyện này rốt cuộc là sao?”

Bronya cười trừ. “Cháu không biết nên giải thích thế nào nữa, e rằng câu chuyện rất khó tin.”

Cô cúi đầu, lại tiếp tục xem thư.

Bronya đã mong rằng Seele sẽ để lại một lá thư dài, rất dài, nhiều trang. Thế nhưng thực tế lại không phải vậy. Sau khi kiểm tra hết những thứ chứa trong rương, ngoài hai bức ảnh kia thì chỉ có duy nhất một bản nhạc phổ kẹp giữa các bức thư xưa cũ cùng một dòng chữ nhỏ màu ngà ở tờ nhạc phổ cuối cùng.

Sao Thiên Lang Dưới Ngọn Gió, đó chính là tựa đề của bản nhạc trên tay Bronya. Khi thử ghép nó với giai điệu du dương của hộp nhạc thì cô chợt phát hiện chúng hoàn toàn ăn khớp tựa như hai bánh răng đang chuyển động nhịp nhàng, không thể tách rời. Lời thứ hai của nhạc dường như viết về cô, và dường như nó cũng dành cho một người nữa.

Bản nhạc này có tên! Bản nhạc Seele đã gửi cho mình có tên! Nó không phải là một bản nhạc vô danh nào cả. Bronya mừng thầm. Kể từ lần đầu tiên nghe âm thanh kia, cô đã luôn nghĩ rằng một giai điệu ấn tượng đến thế nhất định phải có riêng cho mình một cái tên hay, và Bronya đã đúng. Chuyện này làm tâm trạng cô nhẹ bẫng, như thể bản thân vừa trút bỏ được một gánh nặng đã dồn nén từ rất lâu vậy.

Liếc mắt xuống góc phải tờ nhạc phổ, dòng chữ màu ngà bỗng nhiên trông bắt mắt đến lạ lùng trong mắt Bronya. Cô hoàn toàn bỏ qua mọi thứ hiện diện xung quanh chỉ để tập trung quan sát dòng chữ. Bản nhạc phổ và dòng chữ nắn nót kia suýt nữa đã khiến nước mắt Bronya lăn dài xuống gò má. Bởi vì Seele đã viết: Em nhớ chị nhiều lắm. Ngay cạnh dòng chữ thậm chí vẫn còn vương lại dấu vết của những giọt nước mắt sau ngần ấy thời gian.

Tuy đó chỉ là một câu ngắn, thế nhưng nó đã bao hàm hết toàn bộ tâm trạng của Seele khi hạ bút.

Rất rõ ràng, nhưng cũng thật đau đớn làm sao.

Vành mắt Bronya đỏ hoe nhưng vẫn cố gắng kìm nén cơn nghẹn ngào. Chị cũng rất nhớ em, Seele.

Thẫn thờ một lát, Bronya ngẩng mặt nhìn người giúp việc. “Cháu có thể giữ hết chúng sao?”

“Dĩ nhiên cô có thể, ông chủ đã bảo tôi thế.”

“Cảm ơn hai người rất nhiều.”

Người giúp việc lại nói. “Đã đến tận đây rồi, vậy cô có muốn thăm cô ấy một lát không?”

“Vâng? Thăm ai ạ?”

“Tiểu thư Seele.”

Ở sân sau, giữa những tấm bia mộ bằng đá đã bị phong hoá nặng nề dưới hàng cây vân sam yên tĩnh, có một tấm bia nổi bật hơn hẳn so với phần còn lại. Không phải vì tấm bia lớn hơn hay có đặc điểm nổi trội hơn mà là vì những cây hải quỳ gỗ xanh um mọc xung quanh khi mùa xuân đến. Hoa hải quỳ gỗ cánh trắng nhụy vàng be bé vươn ra từ ngọn cây thân thảo, khẽ khàng lắc lư thân mình trông như đang khiêu vũ trong cơn gió xuân, còn bầy chim chính là nhạc công.

Một con chim sà xuống từ cành vân sam, đáp lên tấm bia rồi tròn mắt nhìn bóng người trước mặt.

Bronya đứng trước bia mộ, lặng lẽ đọc những gì được khắc trên tấm bia.

SEELE VOLLEREI, 18/10/1894 – 8/08/1966. Và ngay bên dưới là dòng chữ. MÃI MÃI KHÔNG BAO GIỜ QUÊN.

“Seele...” Cô gái tóc xám bạc dịu giọng. “Chúng ta cuối cùng đã gặp nhau, nhưng lại không phải theo cách chị muốn, chị đã mơ nhiều hơn thế – một cuộc gặp gỡ thật sự giữa em và chị, nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Chị đã thấy những món đồ em để lại rồi, cả bản nhạc nữa. Giá như em có mặt ở đây, tự tay chơi nó cho chị nghe, và cho chị biết em đã nghĩ gì khi viết ra những nốt nhạc đó.”

Con chim vỗ cánh bay mất, Bronya thoáng chốc rơi vào trạng thái trầm mặc. “Thật kì lạ, rõ ràng là có vô vàn điều chị muốn nói với em, nhưng giờ chị lại không biết mình phải nói thế nào cả. Cảm ơn em sau tất cả những điều em đã làm. Và chị cũng thế, Seele, không phải Alice, không phải cô bé quàng khăn đỏ, không phải nàng tiên cá, mà chính là câu chuyện cổ tích của chúng ta... chị sẽ không quên đâu.”

Bronya còn đứng yên trước ngôi mộ một lúc lâu nữa mới quyết định quay trở lại chỗ chiếc xe. Project Bunny cảm thấy tâm trạng sếp mình có gì đấy không đúng lắm kể từ lúc bước vào ngôi nhà kia, thế nhưng cô không dám chủ động hỏi. Project Bunny chỉ đành vờ như bản thân không biết gì. “Bây giờ chúng ta đi khách sạn luôn ạ?”

“Tôi sẽ đi bộ đến công viên Oru từ đây.” Bronya nhìn rừng vân sam. “Tôi muốn yên tĩnh một lát, em cứ tới khách sạn trước đi rồi quay lại đón tôi sau.”

Project Bunny gật đầu, nổ máy, cho ô tô quay lại đường cũ rồi mất hút phía xa. Trong lúc đó, Bronya đi xuyên qua khu rừng có địa hình khá bằng phẳng. Lần trước đến, vì quá gấp nên cô vẫn chưa có cơ hội tham quan hết công viên. Cô nhớ rằng ngoài đường Linden có hai hàng bồ đề già cỗi thì vẫn còn hai con đường nữa. Một đường là đường đất lẫn trong rừng với những cây dương Berlin, và còn lại là con đường trải nhựa có hai hàng sồi hai bên. Bronya định sẽ ghé qua hai con đường này vào ngày mai, còn bây giờ cô quyết định đến vọng lâu Tổ Én – nơi có một tầm nhìn thoáng đãng ra vịnh Narva. Ở đó người ta còn có thế thấy bầy én lượn trên mặt nước kiếm ăn nữa.

Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, vọng lâu Tổ Én hiện ra trong một màu trắng dìu dịu. Bronya bước vào vọng lâu, phóng ánh mắt xuống mặt biển bao la, xanh ngắt màu thiên thanh. Mùa xuân nắng ấm, biển xanh hơn rất nhiều so với màu biển xám xịt trong ký ức, cứ như thể nó chưa bao giờ xanh đến thế. Bronya ngồi xuống chiếc ghế trong vọng lâu, thơ thẩn ngắm mặt biển dịu mắt như để gợi nhớ về thiếu nữ ấy.

Bronya chợt nghĩ lung tung, nếu như... chỉ là nếu như thiếu nữ có tồn tại trong thời đại này thì cô ấy và cây đàn hiện giờ đang ở đâu? Giống như trò trốn tìm của đám trẻ, liệu cô sẽ tìm thấy con bướm ấy chăng?

Không thể nào. Bronya tặc lưỡi. Chắc mình điên mất rồi. Cô lại thở dài, sau đó cúi nhìn bản nhạc phổ Sao Thiên Lang Dưới Ngọn Gió mà bản thân đã tiện tay mang tới đây.

Cùng với thời điểm đó, Project Bunny vừa hoàn thành thủ tục nhận phòng khách sạn và đang định tản bộ đến công viên. Bunny băng qua khu rừng, lần mò tìm đường đến vọng lâu Tổ Én trong tin nhắn Bronya đã gửi. Vì là lần đầu tiên đến đây nên Project Bunny vẫn chưa kịp định hình phương hướng của vọng lâu ngay cả khi đã xem qua bản đồ công viên.

Project Bunny loay hoay dưới những tán cây vân sam một lúc rồi chợt trông thấy một bóng người cách mình không xa đang dắt theo một chú chó Samoyed trắng. Bunny quyết định sẽ hỏi đường thay vì cứ phí thời gian tìm loanh quanh thế này. Cô vội chạy đến chỗ người kia và gọi. “Chị ơi, cho em hỏi...” Nhưng chưa kịp nói hết câu, Project Bunny đã vấp phải một hõm đất rồi ngã chúi thẳng về phía trước.

Gần như lập tức, một bàn tay mềm mại chìa đến trước mặt Project Bunny. “Em có sao không?”

“Đau quá.” Project Bunny xoa xoa mũi rồi nắm lấy bàn tay kia đứng lên. “Cảm ơn chị.”

Project Bunny ngẩng đầu, cô phát hiện ra người này là một thiếu nữ thật sự xinh đẹp với mái tóc dài màu biển. Project Bunny hoàn toàn bị vẻ đẹp này hút hồn, mãi đến khi chú chó trắng của thiếu nữ liếm láp tay cô, Project Bunny mới choàng tỉnh.

“Khi nãy em muốn hỏi gì thế?” Giọng nói thiếu nữ êm dịu như sóng biển.

“Vâng, chuyện là em muốn đến vọng lâu Tổ Én nhưng lại không biết đi hướng nào cả.”

“Chị cũng đang tới đó đây, sao chúng ta không đi cùng nhau nhỉ?”

“Thật sao? Như thế thì tốt quá.”

Bóng của những cây vân sam dần bị bỏ lại phía sau bước chân của thiếu nữ và Project Bunny.

Hai người rẽ trái ở một góc rừng, vừa đi Project Bunny vừa hỏi thiếu nữ. “Chị sống ở đây à?”

Thiếu nữ trả lời. “Không phải, chị ở tận Tallinn cơ. Đây chỉ là một kì nghỉ ngắn của chị trước khi bắt đầu giai đoạn tập luyện cho cuộc thi.”

“Chị nói cuộc thi nào?”

“Cuộc thi Tchaikovsky, em có biết không?”

Project Bunny reo lên. “Biết chứ! Đó là cuộc thi âm nhạc cổ điển nổi tiếng kia mà. Hoá ra chị là một nhạc sĩ sao?”

Thiếu nữ nhẹ nhàng lắc đầu. “Không đâu, gọi là nhạc sĩ thì hơi quá, không đến mức đó, chị chỉ là một sinh viên vừa tốt nghiệp Nhạc viện Tallinn thôi.”

“Chị đã tốt nghiệp chuyên ngành nào thế?”

“Là chuyên ngành piano.”

“Năm nay cứ như là năm của âm nhạc vậy. Hết cuộc thi Tchaikovsky ở Moscow rồi còn lễ hội hát và múa ở Tallinn. Hai sự kiện âm nhạc lớn được tổ chức cùng một năm.” Project Bunny cảm thán. “Chắc chị cũng có tham gia lễ hội phải không?”

“Ừm, chị có.” Thiếu nữ gật đầu. “Chị sẽ chơi vĩ cầm trong dàn hợp xướng của lễ hội.”

“Nghe tuyệt thật đấy. Chẳng bù cho sếp em lúc nào cũng ru rú trong văn phòng, lại còn bắt em tăng ca mệt chết người nữa chứ. Nếu không phải nhờ em giỏi giang thì công ty chắc phá sả...”

Vọng lâu Tổ Én đã xuất hiện trong tầm mắt hai người. Project Bunny hốt hoảng khi nhìn thấy bóng dáng Bronya trong vọng lâu nên liền cuống quýt sửa miệng. “E hèm, nếu không phải nhờ sếp phát hiện ra tài năng thiên bẩm của em thì em đã không có thành tựu hôm nay rồi. Người ngồi đằng kia là sếp em đó.”

Thiếu nữ chú tâm lắng nghe rồi mỉm cười. “Em vất vả rồi.”

Lúc này Bronya không nhận ra có người đang đến từ đằng sau, mắt cô vẫn dán chặt vào mặt biển. Thiếu nữ chú ý đến người ngồi trong vọng lâu, cảm thấy dáng người đằng kia có một chút quen mắt, cô đã từng gặp qua cô ấy trước đây chưa?

Bỗng, chú chó của thiếu nữ sủa lớn một tiếng rồi giật sợi dây lao thẳng một mạch vào vọng lâu, chạy đến trước mặt Bronya. Chú chó liên tục quẫy đuôi và nhảy xổ lên người cô gái tóc xám bạc như thể nó vừa gặp lại một người bạn cũ. Bronya lúng túng nhìn chú chó đang có hành vi khác thường, sau đó cô dùng cả hai tay giữ chú chó để nó có thể bình tĩnh. Cô quan sát chiếc vòng có gắn quả chuông nhỏ trên cổ nó và tự hỏi. “Nhóc con này ở đâu ra vậy? Chủ nó đâu?”

“Gâu, gâu.” Chú chó vui vẻ sủa tiếp hai tiếng.

Thiếu nữ bước vào vọng lâu ngay sau chú chó, khẽ gọi. “Diana, quay lại đây với chị nào, đừng làm phiền người khác như thế.”

Nghe thấy tiếng gọi, chú chó xoay một vòng rồi chạy về bên cạnh chủ nhân. Thiếu nữ cúi xuống xoa đầu nó. Cái mũ rộng vành che mất một phần gương mặt nên Bronya không nhìn rõ dáng vẻ cô ấy.

Thiếu nữ nói. “Thành thật xin lỗi chị, đứa trẻ này hơi năng động, vì chẳng mấy khi nó được chạy nhảy thoải mái trong rừng thế này.”

Bronya đáp. “Không sao.”

“Hình như Diana rất thích chị đấy.”

Nói rồi thiếu nữ đứng thẳng người, đôi mắt xanh hướng về phía cô gái tóc xám bạc.

Vào tích tắc ấy, Bronya như có thể nghe thấy rõ tiếng sóng biển rào rạt vỗ vào bờ. Cô sững sờ tại chỗ, thậm chí quên cả việc phải hô hấp.

“Em...” Bronya ngỡ ngàng, mở to mắt nhìn thiếu nữ chằm chằm. “Em là See...” Nhưng cô không dám nói hết câu, tựa như đang lo sợ điều gì đó.

Trước biểu cảm có vẻ phức tạp kia, thiếu nữ chỉ nhẹ giọng hỏi. “Có chuyện gì sai với em sao?”

“Ồ không... Không có gì... Không có gì đâu. Chị chỉ...” Bronya cố gắng bịa ra một lý do, cô nhìn bản nhạc phổ trên tay rồi chợt loé lên một ý tưởng. “Chị chỉ đang quá nhập tâm vào lời bài hát của bản nhạc phổ này thôi. Cũng có một số chỗ chị không hiểu vì chị không rành nhạc lý cho lắm.”

“Nếu có liên quan đến âm nhạc thì có lẽ em giúp chị được đấy.” Thiếu nữ nở một nụ cười. “Chị không hiểu chỗ nào vậy?”

Không chần chừ một giây, Bronya tức khắc giơ bản nhạc phổ lên, cô chỉ vào một ký hiệu lạ mắt viết trên khuông nhạc thứ tư. “Chính là cái này, D.C. al Fine nghĩa là gì thế?”

Thiếu nữ tự nhiên tiến sát đến chỗ Bronya để tiện quan sát bản nhạc mà bản thân cô không cảm thấy kì quặc tí nào. “Nó là viết tắt của cụm Da Capo al Fine, có nghĩa là bắt đầu lại từ đầu đấy ạ. Khi gặp D.C. al Fine thì chị phải quay lại phần đầu của đoạn nhạc và lặp lại đoạn đó cho đến khi gặp từ ‘Fine’ là được.”

Không biết là vô tình hay cố ý, Bronya thì thầm. “Bắt đầu lại từ đầu và mọi chuyện sẽ ổn thôi.”

“Vâng?” Thiếu nữ chớp mắt.

“Khụ... Là bắt đầu lại từ đầu một đoạn nhạc đến khi gặp từ ‘Fine’ thì dừng, chị hiểu rồi. Biết là chúng ta chỉ vừa mới gặp nhưng em có phiền không nếu chị hỏi thêm một số thứ nữa?”

“Được chứ, em không phiền đâu.”

Project Bunny bên này nhìn vào vọng lâu, bỗng dưng cảm thấy bầu không khí đang trở nên kì quặc. Nếu làm phiền họ bây giờ thì sau đó cô có bị Bronya “xử” luôn không? Chỉ nghĩ đến thôi đã rợn gáy rồi. Project Bunny lắc đầu quầy quậy, vẫn là không nên tới đó thì tốt hơn. Cô cũng tự hỏi sếp mình có hứng thú với nhạc cổ điển từ khi nào vậy?

Chú chó Samoyed được thiếu nữ tháo dây ra cho đi chơi xung quanh, nó lắc đuôi chạy đến chỗ Project Bunny. Dùng hai tay bóp lấy má chú chó, cảm nhận bộ lông xù mềm mượt của nó, Project Bunny không nhịn được nói. “Chúng ta bị cho ra rìa rồi này.”

“Gâu.”

“Hà.” Project Bunny thở dài thườn thượt. “Thôi, tao với mày tìm chỗ khác gần đây đi dạo đi.”

“Gâu.”

“Thôi nào, đừng có ‘gâu’ nữa.”

Cứ thế, một người một chó rời khỏi khu vực đó, chờ một thời gian mới quay lại.

Trong vọng lâu, tim Bronya đập thình thịch như muốn nhảy khỏi lồng ngực khi tiếp xúc với thiếu nữ. Ý nghĩ vài chục phút trước tưởng chừng như điên rồ nhưng không ngờ đã xảy ra ngay lập tức. Bronya có cảm giác như “sợi dây đàn” đứt lìa đã được thiếu nữ trước mặt nối lại hoàn hảo như ban đầu, hệt như một người lên dây và bảo dưỡng đàn chuyên nghiệp.

Khi một sợi dây đàn dương cầm bị đứt rồi được nối lại, nhưng đa số trường hợp phải thay mới hoàn toàn, thì thật khó để sợi dây ấy trở nên đồng điệu với cả cây đàn lần nữa. Bởi lẽ sợi dây mới đó gắn vào hệ thống dây cũ sẽ khiến cho âm sắc của cây đàn không đều, cứ như thể biến nó thành một cây đàn khác mà chẳng còn là bản thân nó nữa. Thế nhưng... thiếu nữ ngồi cạnh bên không làm Bronya cảm nhận được sự không đồng điệu này. Thay vào đó, cô thấy chỉ có sự cộng hưởng tuyệt đối giữa bản thân và cô ấy.

Như thế chẳng phải quá tuyệt diệu ư?

Bronya nghĩ có lẽ cô sẽ phải tìm kiếm con bướm trong vô vọng vì nó trốn quá kĩ, nhưng giờ, hãy nhìn thử xem...

Bronya bỗng nhớ đến hai câu cuối của bản Biển Xanh, Rừng Thẳm và Thiên Thần, thế rồi cô bất giác mỉm cười như một đứa trẻ.

Thế nên, người sẽ không còn cô đơn, tựa như tôi chưa từng rời xa người...

Thế nên, người sẽ không còn lạc lối, tựa như giờ đây tôi đã tìm thấy người...

Không phải cô tìm được con bướm ấy.

Mà lần này, con bướm đã tìm thấy cô.

Cũng như cách chiếc hộp nhạc đã tìm thấy cô.

Bronya chống má, sắc bạc nghiêm túc nhìn thiếu nữ đang hăng say nói về bản nhạc phổ. Từ giọng nói, biểu cảm cho đến từng cử chỉ nhỏ bé, Bronya không muốn bỏ qua dù chỉ một chút.

Bất chợt có âm thanh điện thoại vang lên ở phía thiếu nữ khiến cô ấy dừng chủ đề đang nói. Thiếu nữ nhìn Bronya. “Chị chờ em một lát nhé.”

Bronya gật đầu. “Cứ làm việc của em trước đi.”

Cuộc điện thoại diễn ra chóng vánh, Bronya cảm thấy thiếu nữ có vẻ rất vui khi nói chuyện với người gọi đến. “Họ đã đồng ý nhượng lại cây đàn đó sao ạ? Vâng, em hiểu rồi, cảm ơn thầy nhiều lắm, em sẽ sắp xếp sớm nhất có thể thưa thầy.”

Sau khi thiếu nữ gác máy, Bronya nghi hoặc hỏi. “Em mua đàn dương cầm đã qua sử dụng sao?”

“Cũng không hẳn.” Thiếu nữ trả lời. “Đó là một cây đàn Victoria kiểu đứng cũ của Steinway, tuổi đời có lẽ cũng gần trăm năm rồi nên không thể chơi được nữa. Em chỉ tình cờ bắt gặp nó nhưng không hiểu sao em lại rất muốn có nó. Việc sửa chữa một cây đàn đã cũ đến thế thì không có khả năng nên em đang định biến nó thành bàn làm việc cho mình.”

“Một cây đàn Victoria cũ.” Bronya mập mờ nói. “Nó rất có ý nghĩa.”

Thiếu nữ trả tập nhạc phổ cho Bronya. “Em rất tiếc nhưng bây giờ em cần quay lại lo liệu chuyện cây đàn, hình như chị cũng ở khách sạn Toila phải không? Nếu thế chúng ta có thể gặp lại tối nay.”

“Ừm.” Bronya nhìn thiếu nữ đứng lên, chần chừ mấy giây và hỏi. “Em, có thích ngắm sao không?”

“Đương nhiên là em có rồi.”

“Đang là mùa xuân nên chúng ta có thể thấy rất rõ nó đấy... ngôi sao Thiên Lang đó.”

“Vậy chị cảm thấy ở bờ biển thế nào?”

“Rất thích hợp để ngắm sao, chúng ta có thể gặp nhau tại sảnh khách sạn rồi cùng đến bờ biển.”

“Được rồi, hãy quyết định như thế đi.” Thiếu nữ dịu dàng nói. “Gặp chị sau, ở khách sạn.”

Bronya giơ tay vẫy chào thiếu nữ. “Gặp em sau.”

Bronya cảm thấy số phận huyền diệu vô cùng.

Một khẩu súng và một cây đàn. Một người lính Bạch vệ và một vị tiểu thư người Estonia. Một sinh viên vừa tốt nghiệp nhạc viện và một giám đốc điều hành người Nga. Giống như hai nốt nhạc cách nhau một quãng tám(8) trên phím đàn dương cầm, dù cách xa nhau song hai nốt nhạc ấy vẫn có sự tương đồng đến lạ kì. Đó điều kì diệu cơ bản nhất trong âm nhạc, sự cách quãng cứ lặp đi lặp lại, ở mỗi quãng lại cho ra sự cộng hưởng khác nhau, nhưng dù là ở quãng âm nào thì thứ âm thanh trong vắt và êm dịu ấy luôn mang tới cho người ta sự rung cảm.

Nếu như quãng âm năm 1919 là sự nuối tiếc thì quãng âm năm 2019 chính là hy vọng.

Sẽ có một thứ gì đó bị làm tổn thương.

Nhưng vẫn có một thứ gì đó sẽ được chữa lành.

Những nốt nhạc vụn vỡ của số mệnh xuyên suốt trăm năm ghép lại tạo nên một bản nhạc hoàn chỉnh. Bản nhạc được tấu lên bởi sự hiện diện của thiếu nữ, để rồi khi âm thanh dịu dàng ấy vang lên, nhất định luôn sẽ có một người ở cạnh lắng nghe.

Mọi thứ đều đã thay đổi nhưng lại trông giống như chẳng thay đổi gì cả.

Thiếu nữ gọi chú chó của mình rồi đi về hướng khách sạn Toila. Bấy giờ Project Bunny mới dám đi vào vọng lâu đến cạnh Bronya. Không cần phải nói, câu đầu tiên của Project Bunny là về thiếu nữ. “Em có nghe chị ấy bảo sẽ tham gia cuộc thi Tchaikovsky và lễ hội hát và múa của Estonia, giỏi thật.”

Bronya sững người một lúc, như thể có một công tắc nào đó vừa bật lên trong cô. “Lễ hội hát và múa ở Tallinn, Rozaliya có nhắc tới sự kiện này. Hình như nó được tổ chức vào tháng Bảy đúng không?”

“Vâng, vào đầu tháng Bảy.”

“Được, quyết định rồi, chúng ta sẽ tới lễ hội đó. Lát nữa em gọi Rozaliya thông báo một tiếng đi.”

“Tận hai kỳ nghỉ trong một năm!” Project Bunny không tin được mà nhìn Bronya chằm chặp, rồi nghĩ. Người này có phải là người tham công tiếc việc mình biết không thế? Hay mình nghe nhầm rồi?

“Và còn...” Như chợt nhớ ra một chuyện gì quan trọng, Bronya bảo. “Tôi nhớ bài hát chủ đề phiên bản tới vẫn chưa có tựa nhỉ? Đúng lúc tôi vừa nghĩ ra cái tựa thích hợp nhất với nó rồi.”

Một cái tựa mà chỉ có thể là nó chứ không thể là cái gì khác hơn.

Một cái tựa mà Bronya cảm thấy cực kì hài lòng.

Project Bunny tò mò. “Là gì thế sếp?”

Một con sâu sẽ biến thành nhộng trong một cái kén.

Tiếp đến, con sâu sẽ chui ra khỏi cái vỏ bí mật của mình trong hình hài của một con côn trùng có cánh.

Một sự thay đổi ngoạn mục...

Như được tái sinh thành con người mới, một sự khởi đầu mới trong vòng tuần hoàn của sự sống và cái chết. Nó đẹp đến mức điên cuồng.

“Rebirth.” Bronya mỉm cười, dõi theo bóng lưng thiếu nữ đang khuất dần cùng chú chó. Tuyết đã tan trên hàng vân sam xanh mướt. Cô nhắc lại, ánh mắt không che giấu được sự mừng rỡ. “Sẽ là Rebirth.”

.

.

.

Nước Nga mùa thu năm xưa, em đã lỡ mất chị.

Estonia mùa xuân năm nay, chị đã gặp lại em.

~End~

__________

(1) Tháp Vodovzvodnaya, là toà tháp phòng thủ ở phía Tây Nam điện Kremlin, được xây dựng vào năm 1488.

(2) Một nhà văn người Anh. “Cỗ máy thời gian” là một trong số các tác phẩm tiêu biểu của ông.

(3) Petrograd: Saint Peterburg ngày nay.

(4) Thoreau: Nhà văn, nhà thơ, nhà sử học, triết học người Mĩ.

(5) Morphine: Thuốc giảm đau họ thuốc phiện.

(6) Đàn Victoria: Ám chỉ những cây đàn được sản xuất từ thời Victoria, có đặc điểm là các hoa văn độc đáo.

(7) Phương pháp châm kim: Người ta thay đổi độ cứng của búa đàn bằng cách bơm vào đó một số chất hoá học.

(8) Đô Rê Mi Fa Sol La Si Đố (C D E F G A B C2), đây là một quãng tám (bát độ). Nốt Đô (C) và nốt Đố (C2) cách nhau một quãng tám.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top