Chương 369:Thiên hạ ai hiểu quân. (3) -389
Hắn hơi cúi người về phía trước trầm giọng nói: “Khi Tống Quốc chiếm Đại Biện, hắn là một trong những nước của Trung Nguyên. Tống Quốc khi chiếm Kinh Hồ, hắn đã trở thành nước mạnh đệ nhất Trung Nguyên. Ngay sau đó, bình Thục, diệt Hán, giờ lại đến tấn công Đường Quốc, lãnh thổ quốc gia không ngừng mở rộng, nhưng đế quốc càng lớn, lãnh thổ quốc gia tuy mở rộng nhưng vẫn chỉ có một người cầm đầu.
Sau khi diệt Đường Quốc, thống nhất Trung Nguyên thì sao? Lại về phía nam diệt Đại Lý sao? Đại lý nếu bị mất đi, sẽ diệt Giao Chỉ, chiếm thành, Thực Lạp, Phiêu Quốc sao? Đi về hướng đông, sẽ qua biển diệt Cao Ly, Nhật Bản, Lữ Tống, vươn xa tận trùng dương, đi thìm những quốc gia hải ngoại nhiều hơn nữa sao? Đi về hướng bắc diệt Khiết Đan sao? Diệt xong Khiết Đan, sẽ diệt Thất Vi, Nữ Trực, tộc Mô Hơ, Oát Lãng Cải sao? Ba thế lực nếu diệt, có phải là cần diệt Hồ Hức, Thổ Phiên, Nê Bà La, đại tiểu Bột Luật, theo sát đánh Hắc Hãn, Cát Tư, Hoa Lạt Tử Mô, Ba Tư, Thiên Trúc, Đại Thực…”
Thôi Đại Lang nói một hồi ra rất nhiều quốc gia có khi còn chưa nghe thấy bao giờ, thở dài nói: “Trời đất vô cùng vô tận, bất kỳ một quốc gia nào đều không thể mở rộng quá lớn vô hạn được, Tống đã chiếm cứ được vùng giàu có nhất, lại tiếp tục mở rộng, đã không phải là cần con dân và quốc gia, do là muốn chiếc vương miệng thêm sáng rọi vài phần.
Hán Vũ Đường Tống không có thực lực thực sự thống trị những nơi đó, đồng nghĩa Tống Quốc cũng không có lực lượng khống chế, và cũng không cần thiết xâm chiếm nơi đó, dốc hết binh lực để đi gây chiến thì cuộc sống của dân lầm than, lòng người tự khắc sẽ quy về Tống Quốc, nếu Tống Quốc theo thiên hạ mà nhiều lần gây chiến tranh, không phải cầu phúc cho dân, thế thì dân chúng Trung Nguyên sẽ nổi dậy phản lại. Đánh giặc không phải để đánh giặc mà là đánh dân.
Thừa Tự đường ta vốn đại đường thất tông ngũ tính tộc nhân, vì dự đoán Đại Đường sẽ diệt, Tạp Hồ loạn Trung Nguyên ta, lúc này trước tiên phải phòng bị từng bước, bảo toàn hậu thế và vinh hoa phú quý thất tông ngũ tính của ta, cho nên từ nay về sau trong Thừa Tự đường chuyên có một tốp trưởng lão phụ trách việc thu thập tình báo thiên hạ, phân tích đại thế thiên hạ.
Theo nghiêm phán của chúng ta, Tống được Đường Quốc, sau khi thống nhất Trung Nguyên, chiếm được chẳng qua chỉ là Hà Tây và U Vân, và mục đích không phải mở rộng đất đai, mà là để chiếm lĩnh được hai miếng đất quan trọng trong chiến lược, để giang sơn gấm vóc của bọn họ được che chở. Nhưng mà, họ rất khó làm được, cho dù là chiếm đoạt tây bắc trước, hay là tấn công Khiết Đan trước, kết quả chỉ có thể là uổng công vô ích”.
Dương Hạo ngẩn người, những điều Thôi Đại Lang nói rất giống với lịch sử, từng có người không mất công sức gì nhiều mà giành được ranh giới rộng lớn, quy tội Tống có chính sách sai lầm với tây bắc, cũng có người cho rằng là võ công Triệu Nhân không đề cập tới Triệu Đại Thần Dũng, Dương Hạo vẫn là lần đầu gặp và được thương nhân phân tích từ góc độc của hắn, và nó lại có thể chính xác như vậy, cách nhìn của Thừa Tự đường thực như Gia Cát Lượng phải mời ba lần mới ra nhà gianh và cách nói ba phần thiên hạ của ông, xu thế tình hình tương lai nắm được quá là chuẩn xác.
Thôi Đại Lang thấy sắc mặt của hắn, biết hắn đã bị kích thích, liền cười ha ha nói: “Không có người nào có cái nhìn thông suốt như thương nhân chúng ta, chiếc mũi rất nhạy bén, cũng không có ai có thể hiểu về các nước như chúng ta, họ giàu nghèo, quân đội mạnh yếu…chúng ta đều rõ hết.
Lý Tồn Húc của Đường Quốc, Thạch Kính Đường của Tấn Quốc đều vì Khiết Đan mà vong, nhưng lúc đó Khiết Đan vừa mới lập quốc, chẳng có cách nào thống trị Trung Nguyên, họ nhúng tay vào chuyện Trung Nguyên, chẳng qua chỉ là muốn nuôi dưỡng một Nhi Hoàng đế nghe lời, thay họ quản lý Trung Nguyên. Mà giờ lại không giống, Khiết Đan giờ tuy chính ồn nội loạn, nhưng lập quốc gần 60 năm, thời gian nghỉ ngơi lấy lại sức 60 năm, quốc lợi ngày càng mạnh, họ đã là là một thực lực của nam hạ.
Mà Trung Nguyên cũng lúc này thống nhất, Triệu Quan Gia hùng tài đại lược, cũng là một đại anh chủ, tuy đi sau mà tới trước, lại là lực lượng mới, lực lượng quốc gia phát triển không ngừng, đủ để chống lại Khiết Đan, chỉ đợi Đường Quốc sau khi bị diệt bỏ thì sẽ lên kế hoạch bắc thượng. Nhưng thực lực và lãnh thổ hai nước, dân số đông, nếu có danh tướng, có tốt xấu gì hoặc có bất đồng, lại không thể xóa bỏ các nước Trung Nguyên dễ dàng được.
Tống Quốc bắc thượng, bản đồ là 16 châu U Vân, muốn đoạt vào tay mình để làm bức thành che chở, bảo đảm Trung Nguyên vững như núi Thái Sơn, nhưng chỉ tính theo ý mình muốn thì không đánh như vậy, nơi màu mỡ nhất họ cũng chiếm rồi còn muốn chiếm nơi nguy hiểm, dị tộc lại há có thể kháng cự, mảnh đất bần hàn tự sinh tự diệt, ai mà không muốn đến nơi tốt nhất? Khiết Đan nội loạn, tất cũng huy binh nam hạ mưu đồ Trung Nguyên.
Giờ hai nước dân số tương đương nhau, nói đến binh lính, quân Tống huấn luyện hoàn hảo, người Hồ thiên tính dũng mãnh, người Tống có mấy chục vạn binh lính tinh nhuệ phòng thủ tốt, còn Khiết Đan lại có mấy chục vạn tinh nhuệ giỏi tấn công, tự Thạch Kính đường chắp tay dâng 16 châu U Vân, người Khiết Đan dốc lòng tạo dựng mấy chục năm, nơi nguy hiểm này đã vững như thành đồng, người Tống sao có thể chiếm dễ dàng vậy được sao?
Người Tống đánh sao lại được với người Khiết Đan, chỉ có thể kéo dài, hai nước đều hao người tốn của, khó mà tiếp tục tấn công. Nếu Tống Quốc trước khi giành lấy tây bắc cho rằng cần dưỡng mã thì sao? Không xuất toàn lực, khó mà toàn công, còn nếu như xuất công toàn lực, người Khiết Đan há không thừa cơ mà xông vào? Hai nước đấu nhau, tây bắc đặc biệt quan trọng, người Khiết Đan không ngu xuẩn, tuyệt đối sẽ không ngồi nhìn tây bắc thành đất Tống đâu. Nếu như vậy, nếu có người có thể thống nhất tây bắc, thì cho dù là Tống hay Khiết Đan, người Tống chiếm nơi phồn hoa nhất, tài lực thì hùng hậu, người Khiết Đan chiếm ưu thế về địa lý và ưu thế về binh mã, chủ của tây bắc này lại chiếm ưu thế về tình hình chính trị, tiến khả công, thối khả thủ”.
Dương Hạo hơi nheo mắt lại, trầm giọng nói: “Đại Lang quả nhiên không hổ thẹn là thương nhân xuất chúng, một lời nói ra vô cùng sắc bén, nhưng ta có năng lực gì mà có thể chiếm tây bắc chứ?”
Thôi Đại Lang mỉm cười nói: “Ngươi được trời ưu ái, giờ đã được Đảng Hạng Lục Thị ủng hộ, được họ tôn làm chúa của Hạ Châu, lại có Chiết Thị và Dương Thị ủng hộ nữa, nếu thêm Thừa Tự đường ủng hộ về tài lực, thì ngươi dựa vào thân thế là nghĩa tử của Lý Quang Sầm mà giành lấy Lý Thị, trở thành bá chủ tây bắc thì có gì là không khả năng chứ? Nếu ngươi trở thành tây bắc vương, triều đình chỉ có mời chào ngươi mà thôi, chẳng lẽ còn dám giết ngươi? Như vậy, chẳng phải là an toàn nhất sao?”
Dương Hạo trầm ngâm một lúc lâu sau nói: “Trung Nguyên thống nhất, thiên hạ thái bình, buôn bán mới tốt được, các hạ chỉ có tâm làm thương nhân, vì sao không trở thành tây bắc nhất phương thế lực?”
“Nguyên nhất rất là đơn giản”.
Thôi Đại Lang chậm rãi nói: “Bất kỳ hàng hóa đều có một nơi sản xuất riêng, thông hữu vô, đó chính là nguồn thu lợi của thương nhân. Tống và Khiết Đan thành lập, đương thế song hùng, để suy yếu đối phương, tất phải chịu trao đổi đồi mồi, ngà voi, sừng tê giác, đồng thiếc, hương trầm, da lông, bò dê, ngựa, lương thực, vải vóc, dược liệu...
Đường mạt loạn thế tới nay, chuyện buôn bán Thừa Tự đường dần dần rời về tứ phương và những nơi xa hơn, nếu như muốn chuyển về, thay đổi ngành nghề khác, cũng không phải là dễ, nếu không đả thương vào xương thịt, thì nguyên khí đại thất. Đành chịu bán lệch một chút, không biết bao nhiêu người ăn cháo đá bát. Hơn nữa, triều đình trọng sĩ, cũng rất chèn ép thương nhân chúng ta”.
Thôi Đại Lang băn khoăn rằng chính sách nguyên tự triều Đường tới nay, thời kì triều Đường địa vị chính trị của thương nhân vô cùng thấp hèn, luật pháp triều đình có quy định vô cùng nghiêm ngặt, các công thương chi sĩ không thể làm quan, các thương nhân không thể kết hôn với sĩ tộc, Đường Thái Tông từng nói: “Công thương tạp sắc chi lưu. Tất không thể vượt quá thời gian làm quan mười năm’.
Thương nhân có thân phận thấp hơn cả thứ dân, thứ dân phục vụ Hoàng thượng, công thương tạp hộ không được phục vụ Hoàng thượng, cấm thương nhân sử dụng ngựa. Tài sản tư hữu của thương nhân cũng không được sự bảo hộ của luật pháp, triều đình có thể mặc ý thu hồi. Nếu Khai Nguyên hai mươi hai năm không thu của cải thương nhân Kinh Triệu. Ba năm Kiến Trung, vơ vét tiền tài của thương nhân, lấy nó cung cấp cho quân đội, tất cả hàng hóa của thương nhân trong Trường An, người dân lầm than, khó qua nổi cửa ải chết”.
Triều đình bức hại thương nhân quá mức, như vậy, các thương nhân tất phải duy trì các phiên trấn, thế lực để đối kháng lại với triều đình Đại Đường, để giành lại vị trí xã hội nhất định, từ đó nó trở thành nền tảng của các thế lực. Kết quả hơn hai trăm năm nay, luôn là sĩ nhân khinh thương, võ nhân trọng thương, mà sau khi Tống thống nhất xong Trung Nguyên, hiện tượng thực tế dìm thương nhân không còn nghiêm trọng như trước nữa, nhưng giờ thì ai biết được đây? Triều đình trọng sĩ, đã thành tập tục, thiên hạ sau khi thái bình, trời biết được họ có theo Đường luật hay không? Tác phong Thừa Tự đường chính là trong thời bình nghĩ đến thời loạn, họ sẽ không ngồi đợi chính sách triều đình đưa ra rồi mới phản ảnh lên.
Huống hồ triều đình không dìm thương nhân, buôn bán của họ có quá nhiều thứ đề cập tới nam bắc, một khi hai nước xảy ra chuyện gì, ảnh hưởng đối với họ sẽ càng lớn hơn, họ đã phán đoán nam bắc cùng tồn tại định kết cục, cần phải tìm ra một cây cầu để nối liền nam bắc, trong suy nghĩ của họ, cây cầu này chính là việc tây bắc có thể hòa hoãn xung đột. Phân tích này, cùng với địa vị đặc thù của các lần phân tích của Dương Hạo, thì có lựa chọn mang tính hiệu quả như nhau.
Hắn hơi cúi người về phía trước trầm giọng nói: “Khi Tống Quốc chiếm Đại Biện, hắn là một trong những nước của Trung Nguyên. Tống Quốc khi chiếm Kinh Hồ, hắn đã trở thành nước mạnh đệ nhất Trung Nguyên. Ngay sau đó, bình Thục, diệt Hán, giờ lại đến tấn công Đường Quốc, lãnh thổ quốc gia không ngừng mở rộng, nhưng đế quốc càng lớn, lãnh thổ quốc gia tuy mở rộng nhưng vẫn chỉ có một người cầm đầu.
Sau khi diệt Đường Quốc, thống nhất Trung Nguyên thì sao? Lại về phía nam diệt Đại Lý sao? Đại lý nếu bị mất đi, sẽ diệt Giao Chỉ, chiếm thành, Thực Lạp, Phiêu Quốc sao? Đi về hướng đông, sẽ qua biển diệt Cao Ly, Nhật Bản, Lữ Tống, vươn xa tận trùng dương, đi thìm những quốc gia hải ngoại nhiều hơn nữa sao? Đi về hướng bắc diệt Khiết Đan sao? Diệt xong Khiết Đan, sẽ diệt Thất Vi, Nữ Trực, tộc Mô Hơ, Oát Lãng Cải sao? Ba thế lực nếu diệt, có phải là cần diệt Hồ Hức, Thổ Phiên, Nê Bà La, đại tiểu Bột Luật, theo sát đánh Hắc Hãn, Cát Tư, Hoa Lạt Tử Mô, Ba Tư, Thiên Trúc, Đại Thực…”
Thôi Đại Lang nói một hồi ra rất nhiều quốc gia có khi còn chưa nghe thấy bao giờ, thở dài nói: “Trời đất vô cùng vô tận, bất kỳ một quốc gia nào đều không thể mở rộng quá lớn vô hạn được, Tống đã chiếm cứ được vùng giàu có nhất, lại tiếp tục mở rộng, đã không phải là cần con dân và quốc gia, do là muốn chiếc vương miệng thêm sáng rọi vài phần.
Hán Vũ Đường Tống không có thực lực thực sự thống trị những nơi đó, đồng nghĩa Tống Quốc cũng không có lực lượng khống chế, và cũng không cần thiết xâm chiếm nơi đó, dốc hết binh lực để đi gây chiến thì cuộc sống của dân lầm than, lòng người tự khắc sẽ quy về Tống Quốc, nếu Tống Quốc theo thiên hạ mà nhiều lần gây chiến tranh, không phải cầu phúc cho dân, thế thì dân chúng Trung Nguyên sẽ nổi dậy phản lại. Đánh giặc không phải để đánh giặc mà là đánh dân.
Thừa Tự đường ta vốn đại đường thất tông ngũ tính tộc nhân, vì dự đoán Đại Đường sẽ diệt, Tạp Hồ loạn Trung Nguyên ta, lúc này trước tiên phải phòng bị từng bước, bảo toàn hậu thế và vinh hoa phú quý thất tông ngũ tính của ta, cho nên từ nay về sau trong Thừa Tự đường chuyên có một tốp trưởng lão phụ trách việc thu thập tình báo thiên hạ, phân tích đại thế thiên hạ.
Theo nghiêm phán của chúng ta, Tống được Đường Quốc, sau khi thống nhất Trung Nguyên, chiếm được chẳng qua chỉ là Hà Tây và U Vân, và mục đích không phải mở rộng đất đai, mà là để chiếm lĩnh được hai miếng đất quan trọng trong chiến lược, để giang sơn gấm vóc của bọn họ được che chở. Nhưng mà, họ rất khó làm được, cho dù là chiếm đoạt tây bắc trước, hay là tấn công Khiết Đan trước, kết quả chỉ có thể là uổng công vô ích”.
Dương Hạo ngẩn người, những điều Thôi Đại Lang nói rất giống với lịch sử, từng có người không mất công sức gì nhiều mà giành được ranh giới rộng lớn, quy tội Tống có chính sách sai lầm với tây bắc, cũng có người cho rằng là võ công Triệu Nhân không đề cập tới Triệu Đại Thần Dũng, Dương Hạo vẫn là lần đầu gặp và được thương nhân phân tích từ góc độc của hắn, và nó lại có thể chính xác như vậy, cách nhìn của Thừa Tự đường thực như Gia Cát Lượng phải mời ba lần mới ra nhà gianh và cách nói ba phần thiên hạ của ông, xu thế tình hình tương lai nắm được quá là chuẩn xác.
Thôi Đại Lang thấy sắc mặt của hắn, biết hắn đã bị kích thích, liền cười ha ha nói: “Không có người nào có cái nhìn thông suốt như thương nhân chúng ta, chiếc mũi rất nhạy bén, cũng không có ai có thể hiểu về các nước như chúng ta, họ giàu nghèo, quân đội mạnh yếu…chúng ta đều rõ hết.
Lý Tồn Húc của Đường Quốc, Thạch Kính Đường của Tấn Quốc đều vì Khiết Đan mà vong, nhưng lúc đó Khiết Đan vừa mới lập quốc, chẳng có cách nào thống trị Trung Nguyên, họ nhúng tay vào chuyện Trung Nguyên, chẳng qua chỉ là muốn nuôi dưỡng một Nhi Hoàng đế nghe lời, thay họ quản lý Trung Nguyên. Mà giờ lại không giống, Khiết Đan giờ tuy chính ồn nội loạn, nhưng lập quốc gần 60 năm, thời gian nghỉ ngơi lấy lại sức 60 năm, quốc lợi ngày càng mạnh, họ đã là là một thực lực của nam hạ.
Mà Trung Nguyên cũng lúc này thống nhất, Triệu Quan Gia hùng tài đại lược, cũng là một đại anh chủ, tuy đi sau mà tới trước, lại là lực lượng mới, lực lượng quốc gia phát triển không ngừng, đủ để chống lại Khiết Đan, chỉ đợi Đường Quốc sau khi bị diệt bỏ thì sẽ lên kế hoạch bắc thượng. Nhưng thực lực và lãnh thổ hai nước, dân số đông, nếu có danh tướng, có tốt xấu gì hoặc có bất đồng, lại không thể xóa bỏ các nước Trung Nguyên dễ dàng được.
Tống Quốc bắc thượng, bản đồ là 16 châu U Vân, muốn đoạt vào tay mình để làm bức thành che chở, bảo đảm Trung Nguyên vững như núi Thái Sơn, nhưng chỉ tính theo ý mình muốn thì không đánh như vậy, nơi màu mỡ nhất họ cũng chiếm rồi còn muốn chiếm nơi nguy hiểm, dị tộc lại há có thể kháng cự, mảnh đất bần hàn tự sinh tự diệt, ai mà không muốn đến nơi tốt nhất? Khiết Đan nội loạn, tất cũng huy binh nam hạ mưu đồ Trung Nguyên.
Giờ hai nước dân số tương đương nhau, nói đến binh lính, quân Tống huấn luyện hoàn hảo, người Hồ thiên tính dũng mãnh, người Tống có mấy chục vạn binh lính tinh nhuệ phòng thủ tốt, còn Khiết Đan lại có mấy chục vạn tinh nhuệ giỏi tấn công, tự Thạch Kính đường chắp tay dâng 16 châu U Vân, người Khiết Đan dốc lòng tạo dựng mấy chục năm, nơi nguy hiểm này đã vững như thành đồng, người Tống sao có thể chiếm dễ dàng vậy được sao?
Người Tống đánh sao lại được với người Khiết Đan, chỉ có thể kéo dài, hai nước đều hao người tốn của, khó mà tiếp tục tấn công. Nếu Tống Quốc trước khi giành lấy tây bắc cho rằng cần dưỡng mã thì sao? Không xuất toàn lực, khó mà toàn công, còn nếu như xuất công toàn lực, người Khiết Đan há không thừa cơ mà xông vào? Hai nước đấu nhau, tây bắc đặc biệt quan trọng, người Khiết Đan không ngu xuẩn, tuyệt đối sẽ không ngồi nhìn tây bắc thành đất Tống đâu. Nếu như vậy, nếu có người có thể thống nhất tây bắc, thì cho dù là Tống hay Khiết Đan, người Tống chiếm nơi phồn hoa nhất, tài lực thì hùng hậu, người Khiết Đan chiếm ưu thế về địa lý và ưu thế về binh mã, chủ của tây bắc này lại chiếm ưu thế về tình hình chính trị, tiến khả công, thối khả thủ”.
Dương Hạo hơi nheo mắt lại, trầm giọng nói: “Đại Lang quả nhiên không hổ thẹn là thương nhân xuất chúng, một lời nói ra vô cùng sắc bén, nhưng ta có năng lực gì mà có thể chiếm tây bắc chứ?”
Thôi Đại Lang mỉm cười nói: “Ngươi được trời ưu ái, giờ đã được Đảng Hạng Lục Thị ủng hộ, được họ tôn làm chúa của Hạ Châu, lại có Chiết Thị và Dương Thị ủng hộ nữa, nếu thêm Thừa Tự đường ủng hộ về tài lực, thì ngươi dựa vào thân thế là nghĩa tử của Lý Quang Sầm mà giành lấy Lý Thị, trở thành bá chủ tây bắc thì có gì là không khả năng chứ? Nếu ngươi trở thành tây bắc vương, triều đình chỉ có mời chào ngươi mà thôi, chẳng lẽ còn dám giết ngươi? Như vậy, chẳng phải là an toàn nhất sao?”
Dương Hạo trầm ngâm một lúc lâu sau nói: “Trung Nguyên thống nhất, thiên hạ thái bình, buôn bán mới tốt được, các hạ chỉ có tâm làm thương nhân, vì sao không trở thành tây bắc nhất phương thế lực?”
“Nguyên nhất rất là đơn giản”.
Thôi Đại Lang chậm rãi nói: “Bất kỳ hàng hóa đều có một nơi sản xuất riêng, thông hữu vô, đó chính là nguồn thu lợi của thương nhân. Tống và Khiết Đan thành lập, đương thế song hùng, để suy yếu đối phương, tất phải chịu trao đổi đồi mồi, ngà voi, sừng tê giác, đồng thiếc, hương trầm, da lông, bò dê, ngựa, lương thực, vải vóc, dược liệu...
Đường mạt loạn thế tới nay, chuyện buôn bán Thừa Tự đường dần dần rời về tứ phương và những nơi xa hơn, nếu như muốn chuyển về, thay đổi ngành nghề khác, cũng không phải là dễ, nếu không đả thương vào xương thịt, thì nguyên khí đại thất. Đành chịu bán lệch một chút, không biết bao nhiêu người ăn cháo đá bát. Hơn nữa, triều đình trọng sĩ, cũng rất chèn ép thương nhân chúng ta”.
Thôi Đại Lang băn khoăn rằng chính sách nguyên tự triều Đường tới nay, thời kì triều Đường địa vị chính trị của thương nhân vô cùng thấp hèn, luật pháp triều đình có quy định vô cùng nghiêm ngặt, các công thương chi sĩ không thể làm quan, các thương nhân không thể kết hôn với sĩ tộc, Đường Thái Tông từng nói: “Công thương tạp sắc chi lưu. Tất không thể vượt quá thời gian làm quan mười năm’.
Thương nhân có thân phận thấp hơn cả thứ dân, thứ dân phục vụ Hoàng thượng, công thương tạp hộ không được phục vụ Hoàng thượng, cấm thương nhân sử dụng ngựa. Tài sản tư hữu của thương nhân cũng không được sự bảo hộ của luật pháp, triều đình có thể mặc ý thu hồi. Nếu Khai Nguyên hai mươi hai năm không thu của cải thương nhân Kinh Triệu. Ba năm Kiến Trung, vơ vét tiền tài của thương nhân, lấy nó cung cấp cho quân đội, tất cả hàng hóa của thương nhân trong Trường An, người dân lầm than, khó qua nổi cửa ải chết”.
Triều đình bức hại thương nhân quá mức, như vậy, các thương nhân tất phải duy trì các phiên trấn, thế lực để đối kháng lại với triều đình Đại Đường, để giành lại vị trí xã hội nhất định, từ đó nó trở thành nền tảng của các thế lực. Kết quả hơn hai trăm năm nay, luôn là sĩ nhân khinh thương, võ nhân trọng thương, mà sau khi Tống thống nhất xong Trung Nguyên, hiện tượng thực tế dìm thương nhân không còn nghiêm trọng như trước nữa, nhưng giờ thì ai biết được đây? Triều đình trọng sĩ, đã thành tập tục, thiên hạ sau khi thái bình, trời biết được họ có theo Đường luật hay không? Tác phong Thừa Tự đường chính là trong thời bình nghĩ đến thời loạn, họ sẽ không ngồi đợi chính sách triều đình đưa ra rồi mới phản ảnh lên.
Huống hồ triều đình không dìm thương nhân, buôn bán của họ có quá nhiều thứ đề cập tới nam bắc, một khi hai nước xảy ra chuyện gì, ảnh hưởng đối với họ sẽ càng lớn hơn, họ đã phán đoán nam bắc cùng tồn tại định kết cục, cần phải tìm ra một cây cầu để nối liền nam bắc, trong suy nghĩ của họ, cây cầu này chính là việc tây bắc có thể hòa hoãn xung đột. Phân tích này, cùng với địa vị đặc thù của các lần phân tích của Dương Hạo, thì có lựa chọn mang tính hiệu quả như nhau.
Còn về nói thiên hạ thái bình, buôn bán của thương nhân mới hưng thịnh, nó cũng chưa chắc. Thời Xuân Thu các nước san sát nhau, có trở ngại rất nặng, theo lý mà nói điều này đối với các thương nhân là không hợp, mà trên thực tế thương nhân đương thời không những thu nhập cao, mà địa vị xã hội cũng rất cao. Các phương chư hầu từ Đường mạt năm đời lại đây cũng như vậy.
Dương Hạo chậm rãi nói: “Trưởng lão các người cho rằng, đất tây bắc tự lập, hòa hoãn Trung Nguyên và Khiết Đan, cũng là thương nhân các người muốn có bao chiếc cầu, cho nên các người muốn bồi dưỡng thế lực ở đó, có thể bảo vệ các người, mang đến cho các người khoản lợi nhất?”
Thôi Đại Lang sờ cằm nói: “Đúng, kỳ thực Thừa Tự đường ta hai mươi năm trước đã làm thử rồi. Lần đó, chúng ta chọn Lân Châu Dương gia, Chiết gia sống yên lâu dài, vị tất mang đến sự tiện lợi cho chúng ta. Huống hồ, tuy nói Thừa Tự đường ta sớm không còn tôn chỉ, giờ kéo dài mình là có mục đích, nhưng các trưởng lão vẫn mong mỏi có thể giúp đỡ đồng tộc. Dương gia là người Hán, Chiết gia lại không phải, cho nên các trưởng lão càng muốn cho Dương gia đến khống chế sự ra vào cửa ngõ Tây Vực. Tiếc thay…”
Hắn thở dài, méo mó nói: “Tiếc là Dương gia cuối cùng lại không có quyết đoán, không có can đảm để đối kháng lại Chiết gia. Cân nhắc một chút, Hỏa sơn vương Dương Cổn vẫn là quyết định bám lấy Lân Châu, cùng Phủ Châu giảng hòa đối kháng Hạ Châu, ngược lại trở mặt đối phó với chúng ta, khiến mưu kế của ta thất bại trong gang tấc. Vốn dĩ các trưởng lão đã mất lòng tin, không ngờ trên trời lại phái ngươi xuống.”
Thôi Đại Lang mỉm cười: “Người cơ bản dễ hiểu nhất, có thể giúp đỡ chúng tôi, mà người thì lại có liên quan với Hạ Châu Lý thị, Phủ Châu Chiết thị, Lân Châu Dương thị, là người có tiềm lực phát triển nhất trong số họ. Điều đặc biệt quan trọng là, ngươi lập Lô Châu là khẳng định chỗ đứng của mình, phát triển công thương, trọng công trọng thương nhất phương chư hầu, thực là xưa chưa từng có, cho nên các trưởng lão rất ưu ái với ngươi.”
Dương Hạo gượng cười.
Thôi Đại Lang lại nói: “Mấy trăm năm nay, Thổ Phiên và Hồi Hột cắt cứ tây bắc và Lương Châu, cảnh giác lẫn nhau, không qua lại, vị trí yếu đạo Trung Nguyên đi hướng Tây Vực vì thế ngưng hẳn, một con đường tài sản quan trọng đối với tThừa Tự đường và toàn bộ Trung Nguyên cũng phải đóng cửa. Người thống trị bế quan tự thủ chính là thiên địch lớn nhất của thương nhân chúng ta, ngươi hiển nhiên không phải loại người này.
Thổ Phiên tấn công Hồi Hột, Hà Tây, Lũng Hữu, đều nắm trong tay, sau khi trở thành bá chủ Tây Vực, tây bắc vẫn thái bình. Nhưng người Thổ Phiên giỏi tác chiến lại không giỏi về kinh doanh, họ thống ngự Tây Vực, nếu làm ầm đến tây bắc bách nghiệp tiêu điều, mọi người khó khăn, dân chúng lầm than. Một người thống trị ngu muội lạc hậu, đồng nghĩa là thiên địch của thương nhân chúng ta, ngươi vẫn không phải loại này.
Thổ Phiên bại lộ, người Khương sau khi nổi dậy, ba môn hộ Hạ Châu, Phủ Châu, Chiết Châu, và ở giữa tạp khi Hồi Hột, Thổ Phiên. Chiến tranh giữa các thế lực này không ngừng nghỉ, chiến loạn thường xuyên không hợp với sự sinh tồn của chúng ta. Cục diện lý tưởng nhất là tây bắc thống nhất, tạo thành thế chân vạc với Khiết Đan và Tống quốc, chúng ta mới có thể nắm chắc được.”
Dương Hạo nói: “Ngươi dường như là tình nguyện, dựa vào Đảng Hạng Lục thị bị Hạ Châu Lý thị áp bức, nhận ta làm cộng chủa cỉa họ? Ta không tiền không đất cũng không lương thảo, chỉ có mấy nghìn binh trong tay, dựa vào cái gì mà ngươi cho rằng ta có bản lĩnh thay thế được Hạ Châu Lý thị lớn mạnh, giỏi hơn Phủ Châu Chiết thị có bề dày kinh doanh hơn hai trăm năm, để trở thành cộng chủa tây bắc?”
Thôi Đại Lang than thở: “Ta đã nghĩ nhiều lắm rồi, trừ ngươi, ai cũng có thể có nhiều cơ hội như vậy sao? Ngươi có cơ hội, cho nên ngươi chính là thiên cơ, chính là thiên mệnh sở quy. Chỉ cần ngươi chắc chắn, tây bắc vương không phải ngươi thì là ai nữa đây? Ngươi muốn làm hoàng đế, cũng không phải là không có khả năng.”
Dương Hạo cười đau khổ, hắn luôn dùng thiên mệnh sở quy khuyên Chiết Tử Du bỏ đi sự phản kháng, đầu hàng Đại Tống, giờ lại bị người dùng thiên mệnh sở quy để khuyên nhủ, thực là báo ứng.
Thôi Đại Lang đương nhiên không phải dùng lời nói này để sai Dương Hạo, hắn cổ vũ tiếp: “Khi Thổ Phiên hùng bá Tây Vực, Đại Đường cũng không có cách chinh phạt, chỉ có thể làm mưa làm gió. Nhưng trong lúc đó, Thổ Phiên khi bị Trương Nghĩa Triều nhất giới bố y vung tay một cái thì sụp đổ tan tành, sao vậy? Thời thế tạo anh hùng mà thôi.
Thế cục tây bắc hiện giờ, nam bắc Thổ Phiên liên hợp Hồi Hột, đang ức hiếp Hạ Châu Lý thị khổ chiến không ngớt, hai châu Lân Phủ chặn Hạ Châu qua lại với Trung Nguyên, Đảng Hạng lục thị nội bộ lục đục, nội ngoại Lý thị khó khăn dồn dập, bộ tộc tha hồ oán giận, các loại tranh chấp nổ ra, tương tự như Thổ Phiên đương quốc?
Lại thấy Dương Hạo hôm nay có những điều kiện để so sánh với Trương Nghĩa Triều. Năm xưa Trương Nghĩa Triều khởi binh, nguồn cung cấp binh lực, tài lực đến từ ba phương. Một, danh môn vọng tộc của Đôn Hoàng, ví dụ Sách thị, Trương thị, Lý thị… các tộc tiền nhiều, có thể cung cấp quân tư. Hai, tăng chúng phật môn; phật giáo Tây Vực vô cùng phát triển, tín đồ vô số, các phật sống rất thân với Trương Nghĩa Triều, hắn có thể sử dụng các tín đồ. Ba, mới là dân chúng đã chịu đủ áp bức. Mà Dương huynh thì sao, giờ đã có một châu Lô Lĩnh, nam bắc hào thương tập trung đủ cả, lại còn có Thừa Tự đường ta toàn lực giúp đỡ, tiền tài không thành vấn đề…”
Dương Hạo cười nói: “Ta cũng biết vậy, dân chúng Tây Vực sùng bái phật sống vô cùng, tiếc là ta đồng thời xuất hiện với các cao tăng Tây Vực.”
Thôi Đại Lang mỉm cười nói: “Chưa chắc, giờ đã có rồi.”
Dương Hạo kinh ngạc nói: “Nói vậy có ý gì?”
“Ngươi trên đỉnh Lô Lĩnh từng đúc một pho tượng sắt Khai Bảo phủ?”
“Không sai.”
“Lệnh huynh Đinh Thừa Tông đã dựng thêm một pho tượng, mời phật sống Tây Vực đến chủ thiền viện, Tịch do đạt thổ Phật sống qua lại với các cao tăng Tây Vực, giờ quan hệ vô cùng thân thiết, hơn nữa…”
Thôi Đại Lang cười nói: “Ngươi, trong khai bảo thiền viện nhiều lần xuất hiện điềm lành, giờ không chỉ Hạ Châu Lý thị, đến Thổ Phiên, Hồi Hột và rất nhiều người tin yêu cũng lén truyền nhau, nói Dương huynh ngươi là cương kim cống bảo chuyển thế, lệnh huynh vì ngươi… mà tạo thanh thế mà.”
“Từ từ đã, cương kim cống bảo… nghĩa là gì?”
Thôi Đại Lang nói: “Đây là tiếng Thổ, dịch sang tiếng Hán là Quan Thế Âm Bồ Tát.”
Dương Hạo ngẩn người, Quan Thế Âm Bồ Tát? Dương Hạo hơi lúng túng, nghĩ một lúc, mới nghĩ ra Quan Thế Âm Bồ Tát hình tượng vốn có trong phật giáo là nam, về sau trung thổ phật giáo tuy đã tạo hẳn thành nữ, nhưng trong phật giáo Tây Vực vẫn là hình tượng nam.
Thôi Đại Lang nói: “Trong truyền thuyết Tây Vực, Công Tán Can Bố, Gia Ngõa Nhân Ba Thiết một đời anh hùng, đều là hiện thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. Giờ dân chúng Tây Vực coi ngươi là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, đều này đối với dân chúng Thổ Phiên, Hồi Hột mà nói có ý nghĩa gì, đối với người Khương chờ đợi hòa bình có nghĩa gì, ta nghĩ là ngươi hiểu.”
Dương Hạo lẩm bẩm: “Ta hiều, ta đương nhiên hiểu…, có nghĩa là các ngươi đã chuẩn bị tất cả sẵn sàng, kiệu hoa đã chuẩn bị xong, chỉ chờ đưa ta vào động phòng, ta đây một tân nương đồng ý cũng phải đồng ý, không đồng ý cũng phải đồng ý. Nếu không… tin đồn ta là cương kim cống bảo chuyển thế truyền đến triều đình, thì ta không chết cũng không được.”
Thôi Đại Lang không nhịn được cười phá lên: “Ngươi không cần lo lắng, giờ tạo thế còn ở giai đoạn làm nền, chỉ có tín đồ thành kính mới biết, họ sẽ không nói lung tung, càng bí mật họ càng tin tưởng. Không dấu ngươi, lệnh huynh còn tạo ra một cái thanh thế, nói Tống dựa vào ngũ vận chuyển rời mà lấy được mạng đế quyền, được thiền vu chu quốc. Nãi mộc đức, mộc sinh hỏa, cho nên Tống là hỏa đức, Tống lấy hỏa đức thừa chính thống. Mà ngươi ở Trục Lãng Xuyên đáng chết không chết, mới là thần thủy đức phù hộ, rồi rời quan Khai Phong, xây Hỏa Tình viện chuyên diệt hỏa, đây là thiên mệnh sở quy. Ta cũng cảm thấy hoang đường nực cười, nhưng đích thân đi tây bắc một chuyến, ta mới hiểu…”
Hắn trầm lặng một lát, khẽ thờ dài nói: “Ta mới hiểu hắn tại sao lại làm vậy. Đây là cường quyền võ lực, tiền bạc của cải đều không có cách nào đổi lấy tín phục và sùng bái. Mức sùng bái của người Tây Vực đối với thần linh chúng ta không thể tưởng tượng nổi, nếu ngươi thấy họ thành kính với thần linh, ngươi sẽ biết tại sao họ thà một năm bốn mùa ôm bọc rách, ăn uống kham khổ, nhưng mỗi quan tiền kiếm được đều đi nặn kim thân, trang sức cho thần phật.”
Hắn ngẩng đầu nhìn Dương Hạo, nói: “Hồi Hột, Thổ Phiên tranh đấu triền miên với Hạ Châu Lý thị, áp bức môn hộ của Lân Châu đối với ngươi lạc kiến kỳ thành, nội ngoại Lý thị khốn đốn, các bộ tộc đều rất oán giận, trên dưới Lô Châu duy chỉ có ngươi đáng tin, Đảng Hạng lục thị ngầm quy về ngươi, Thừa Tự đường ta nguyện giúp đỡ chính là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Như vậy, Dương huynh nếu như quay về tây bắc, vung tay lên, sợ gì tây bắc không thuộc về Dương thị? Thời thế tạo anh hùng mà Dương huynh!”
Biết rõ hắn miệng lưỡi có sự khích lệ, Dương Hạo nghe vậy vẫn nhiệt huyết sôi trào. Đúng vậy, thiên hạ đã có phương hướng không giống với cái vốn dĩ của nó, mình chuẩn bị những điều kiện được trời ưu ái ở tây bắc, chỉ cần làm, sao lo làm không nổi. Dù Trung Nguyên có Triệu Khuông Dận là vị anh chủ, ta khó mà nhòm ngó ngôi báu, nhưng là lấy tây hạ, trở thành chủ của tây bắc thì có gì không thể chứ? Nếu ta đến làm tây bắc vương, lẽ nào không mạnh hơn tây hạ mà Lý thị xây sao?
Dương Hạo trầm ngâm không nói gì, Thôi Đại Lang biết hắn lúc này đang phân vân khó xử, đưa ra một sự lựa chọn quan trọng nhất trong đời. Những lời hắn muốn nói đã nói hết, lúc này chỉ ngồi nhìn biểu hiện của Dương Hạo, không thúc dục.
Một lúc lâu sau, Dương Hạo liền dừng bước, ngẩng đầu nhìn trời, thở dài: “Người ở giang hồ, thân bất do kỷ, ta mộng tưởng hão huyền, mãn ý có thể giả chết để bình yên, từ nay sẽ tránh xa thế giới này. Điều ta nghĩ thật quá đơn giản.”
Thôi Đại Lang vừa nghe thấy thì vô cùng vui mừng nói: “Dương huynh có thể quyết định một lần nữa trở lại Lô Châu sao? Nếu như kế sách đã định, Thôi mỗ yên tâm vô cùng, lần này về tây bắc, tìm một cái thân phận khác, dứt khoát gọi là Thác Bạt Hạo, khi triều đình biết được, lúc đó Dương huynh căn cơ đã định, có đôi cánh khỏe mạnh, triều đình cũng chỉ đành quay mặt làm ngơ.”
Dương Hạo nói: “Không, ta đã thề với nương của ta, đời này chỉ mang họ Dương, sống cũng họ Dương, chết cũng họ Dương, mãi mãi không đổi. Đúng vậy, ta đồng ý về, Thôi huynh có sắp xếp cho ta từ Thái Thạch cơ qua sông không?”
Thôi Đại Lang nói: “Dương huynh nếu đã chắc chắn về tây bắc, ta bố trí đi men đường nhỏ, Thái Thạch cơ có đại quân tập trung dày đặc, nếu muốn thần không biết quỷ không hay mà đi qua thực là làm khó ta.”
“Không, ta phải đi gặp Tấn vương Triệu Quang Nghĩa.”
Thôi Đại Lang sửng sốt, Dương Hạo nhìn hắn cười, bình tĩnh nói: “Lòng ta vốn có một chuyện rất khó giải quyết, có sự ràng buộc giả chết, mọi chuyện đều bị giới hạn, cuối cùng cũng vẫn không nghĩ ra cách gì hay ho. Giờ nếu không phải chết nữa, ta có ý này, Đại Lang giúp ta đưa gia quyến về, còn ta về Tống quốc, tranh thủ lực lượng Tống quốc đang lộn xộn giải quyết cái đại sự đang khúc mắc trong lòng, đồng thời, nghĩ ra cách có thể quang minh chính đại về tây bắc. Với Tống quốc, chớ có làm ầm lên là tốt nhất.”
Thôi Đại Lang nói: “Dương huynh đi gặp Tấn vương, sẽ giải thích mình vẫn sống với hắn như thế nào?”
“Ta tự có cách của mình. Giờ họ chưa cảnh giác lắm,ta chủ động xuất hiện, ai sẽ còn nghi ngờ ta đã từng giả chết?”
“Nhưng… có chuyện gì cần lực lượng triều đình giúp vậy? Hơn nữa, làm sao có thể đường đường chính chính về tây bắc?”
Dương Hạo chau mày nói: “Đại Lang, đây có lẽ không phải là cách khởi đầu tốt.”
“Cái gì?”
Dương Hạo trầm giọng nói: “Ta và Đại Lang chỉ là một sự giao dịch, ta được đầu tư, phải hồi báo. Nếu ta thực sự có thể bảo đảm nắm trong tay tây bắc, tuyệt đối không nuốt lời và sẽ ủng hộ, đưa lại sự tiện lợi nhất cho các ngươi, nhưng các ngươi không nhất định không được can thiệp vào, hơn nữa càng không được nhúng tay vào, không được có ý đồ cản trở ta, ảnh hưởng đến ta. Hơn nữa, một khi bị ta phát hiện ra manh mối gì, giao dịch của chúng ta sẽ bị hủy bỏ, thứ các ngươi đã trả ra, ta sẽ không bồi thường.”
Thôi Đại Lang ngẩn người, không hiểu ra sao, ngược lại còn cười lớn, vỗ tay nói: “Dương huynh là ngọc thạch, giờ đã được dùi mài, quả nhiên có giá trị cao ghê gớm, đã là một sản phẩm tốt rồi. Được được được, Thôi mỗ đây sẽ không hỏi thêm gì nữa, ta sẽ đưa gia quyến của Dương huynh bình an đi tây bắc. Dương huynh, hãy đợi tin tốt lành của ta!”
***
“Diễm Diễm, nàng yên tâm, lần này về Tống doanh, ta tự có lý thoái thác, sẽ không có chuyện gì đâu.”
“Thiếp sao có thể yên tâm được? Thiếp đi theo chàng, nếu chết thì cũng chết cùng nhau.”
“Lại nói linh tinh gì vậy, nếu không định kế, ta bằng lòng đi vào chỗ chết sao? Nàng trở về tây bắc, còn có chuyện đại sự phải làm. Nàng cần đi gặp nghĩa phụ, bảo ngài lệnh cho Phi Vũ liên lạc với ta, từ nay về sau, ta đến thao túng, tin tức có động, ta đều cần nắm được kịp thời. Trước đây ta ở ẩn, làm chuyện đường hoàng, giờ ta tuy xuất hiện trước mặt người khác, việc làm lại phía sau màn, không có Phi Vũ liên lạc kịp thời, ta không làm gì được.”
Đường Diễm Diễm vui vẻ nói: “Hạo ca ca giờ như vậy, có vài phần giống khi ở Trung Nguyên, không chỉ nhượng bộ, nhượng bộ nữa, hi hi, như vậy khiếng người ta thích chết đi được.”
Dương Hạo cười nói: “Hoặc là không làm, hoặc là làm cho cẩn thận, không thể tùy ý sắp xếp. Nếu ta đồng ý xuất hiện, thì phải nghĩ cách khống chế hết thảy bọn họ. Ta có thể chủ động nhượng bộ, nhưng tuyệt đối không được để họ xỏ dây dắt đi.”
Đường Diễm Diễm gật đầu cười nói : “Vâng, vừa nãy bị người của Thôi Đại Lang khống chế, thực khiến người ta tức chết đi. Hắn cầu xin chàng, còn dám kiêu ngạo như vậy, phải cho hắn vài bài học mới được. Chàng tạm thời vể Tống triều cũng tốt. Nếu một mình đi Khiết Đan, thực sự là quá nguy hiểm, nếu có thể có chiêu bài của Tống quốc cũng an toàn hơn chút. Chỉ cần qua được cửa ải giả chết hồi sinh, thì mọi chuyện coi như yên tâm nhiều rồi.”
“Đương nhiên vậy rồi, các nàng thu dọn đi, mau chóng cùng với Thôi Đại Lang lên đường. Ta đi gặp Phàn tú tài cái đã, bàn bạc chuyện qua sông.”
Dương Hạo gặp Phàn Nhã Băng bàn bạc lúc lâu, nói xong chuyện đêm nay qua sông đi Tống doanh, Phàn Nhã Băng vui vẻ đồng ý. Dương Hạo lại gọi Bích Túc lại dặn dò, nói quyết định của mình cho hắn nghi: “Ngươi đi nói với Thủy Nguyệt cô nương một tiếng, bảo cô ấy cùng đi với Diễm Diễm bọn họ, tối nay chúng ta qua sông đi Tống doanh rồi.”
Bích Túc nghe vậy trầm ngâm một lúc, bỗng nói: “Đại nhân, tôi… tôi không muốn đi nữa…”
“Hả?” Dương Hạo nhướn mày: “Không đi, thế ngươi muốn đi đâu?”
“Đại nhân, Bích Túc vốn là một tên trộm lưu lạc giang hồ, chẳng có gì đáng giá, sau khi đi theo được, có lòng hướng thiện, muốn đi theo đại nhân xây dựng tiền đồ. Đại nhân quyết tâm quy về ở ẩn, Bích Túc cũng không oán hận một câu. Giờ đại nhân lại trở lại giang hồ, vốn hợp với ý của Bích Túc, nhưng… nhưng Bích Túc giờ đã có Thủy Nguyệt rồi. Thủy Nguyệt hiền từ dịu dàng, Bích Túc muốn… muốn sống cùng cô ấy, chẳng sợ một gian nhà tranh, hai mẫu đất cằn, nhưng lại có thể vui vẻ mà sống. Sự nghiệp… so sánh với cô ấy, thì không là gì nữa rồi.”
Dương Hạo ngẩn người, bỗng bật cười. Hắn vỗ vào vai Bích Túc, nhẹ nhàng khuyên nhủ: “Không ngờ lãng tử như ngươi mà cũng có lúc động lòng, thực là giờ ta không thể ở ẩn được nữa, thì ngươi lại muốn ở ẩn. Thôi vậy, đi theo ta lâu như vậy, chịu kham chịu khổ, làm tùy tùng của ta cũng chẳng có lợi lộc gì, Dương mỗ cũng cảm thấy thẹn với ngươi. Ngươi quyết về ở ẩn, thế… Thiếu Hoa sơn bên đó có nhà cửa và vài mẫu đất, vậy nói sẽ là món quà ta tặng cho phu thê ngươi nhé. Ngươi và Thủy Nguyệt đến đó, sắp xếp cho Hạnh Nhi và Nguyệt Nhi bọn họ về Lô Châu, còn phu thê ngươi… hãy sống ở đó. Ở đó non xanh nước biếc, vô ưu vô lo, là một phú gia cũng tốt.”
Bích Túc từ chối không nhận, hắn vốn sợ Dương Hạo tức giận, không ngờ Dương Hạo lại còn tặng quà cho hắn nữa, không cầm nổi sự cảm kích và xấu hổ. Dương Hạo lại nói: “ Ta và ngươi hoạn nạn có nhau, tuy là chủ tớ, kỳ thực là huynh đệ thân thiến, có gì phải cảm ơn chứ. Ngươi có thể đi theo Đại Lang bọn họ chứ?”
Bích Túc nói: “Chưa chắc, con đường họ đi là hướng bắc trước, nếu như đi Thiếu Hoa sơn, không khỏi phải đi đường vòng. Ta và Thủy Nguyệt tạm thời tìm một chỗ ở tạm đã, đợi quân Tống qua sông, chúng ta sẽ tự qua sông mà đi về phía tây, tránh đi đoạn đường dài.”
Dương Hạo nghĩ ngợi giây lát, nói: “Cũng được, thế nhé, lên đường bảo trọng.”
“Đại nhân bảo trọng.”
Đêm hôm đó, bên bờ Trường Giang, Dương Hạo và Phàn Nhã Băng lại mang theo những bộ hạ biết bơi, tay cầm tiểu thuẫn, kéo chiếc thuyền nhỏ từ bụi cỏ ra, lặng lẽ cập vào bờ đợi người của Thôi Đại Lang cố ý gây động tĩnh gây sự chú ý của thủy quân đi tuần.
Đối diện bên kia, lửa trại mười dặm liên doanh. Nước sông cuồn cuộn, Dương Hạo vô cùng bình tĩnh, nghĩ đến lời của Thôi Đại Lang nói, Dương Hạo mất đi cảm giác căng thẳng, bật cười: “Trục Lãng Xuyên bị phá bởi nước, nghĩ đến đại sự Lô Châu, giờ ta tiếp tục đi qua sông, sẽ có vị thần nào đó che chở ta không đây?”
Chương 370:Xây cầu.
“Hôm nay không có ta, ngày mai có còn vua? Một khi thiên tử nhà Tống dễ báo đền công lao, quốc vương cũng như dân ảo vải”.
Lá thư rất ngắn, không dài quá hai dòng, cũng không có những từ ngữ hoa lệ như văn phong thường thấy của Lý Dục, nhưng nội dung thì không hề đơn giản. Đây là lá thư Lý Dục viết cho Đông Nam Thăng Châu, là nguyên soái đại binh mã trong thien hạ, mật tín Ngô Việt Vương Tiền Thục đã trình Biện Lương, đồng thời cũng lưu giữ lại một bản, chuyển cho chủ soái Triệu Quang Nghĩa. Và lúc này đây Triệu Quang Nghĩa đang ngồi đọc bức mật thư đó.
Lý Dục viết bức thư này cho Tiền Thục không hề có ý phản loạn gì, Ngô Việt Vương Thẩm hổ tử nhìn một lúc lâu, cho rằng Ngô Việt không liên kết với Đường để chống Tống, cũng không xuất binh đi diệt Đường. Nếu nước Đường mà bị diệt thì Ngô Việt cũng không thể tồn tại, đại vương Tiền Thục không thành công thì cái tên tể tướng như hắn cũng phải về vườn. Tiền Thục ngay lập tức về quê nên bức mật thư này bị lưu lạc vào tay anh em Triệu Thị.
Triệu Quang Nghĩa ung dung cười, hắn đã sớm biết Tiền Thục không dám phản Tống. Hoặc giả, hắn có một phần nghìn hy vọng thì cũng sẽ bày tỏ lòng trung thành của mình với Tống, trợ giúp cho những kế hoạch của nhà Tống, có thể làm cảm động Triệu Thị, có thể giữ lại Ngô Việt Vương – cái tên chẳng hại nổi ai, nhưng nếu như nhà Tống thực sự muốn thôn tính Ngô Việt thì hắn cũng chỉ có thể tuân theo mà thôi.
Tiền Thục là một quân vương tuy không sánh được với Triệu Khuông về tài thao lược, không văn hay chữ tốt được như Lý Dục, nhưng hắn nhìn người rất chuẩn, cũng rất rõ sức lực của mình thế nào. Hắn đã nhìn ra bất kể Tiền Thục có tham chiến hay không thì kết cục của nhà Đường cũng sẽ thế, chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Nhưng kết cục của Ngô Việt Vương lại nằm hoàn toàn nằm ở vua Triệu, phản kháng hay không, đối với Ngô Việt Vương mà nói thì không có gì khác biệt, nhưng đối với gia tộc Tiền Thị thì lại rất khác, do đó hắn cần phải đưa ra lựa chọn thông minh nhất.
Triệu Quang Nghĩa không hề để ý đến lòng trung thành của Tiền Thục mà chỉ liếc mắt qua một cái, sự chú ý của hắn tập trung ở bản báo cáo tình hình quân sự. Tiền Thục bỏ qua tể tướng Thẩm hổ tử, tiếp tục tấn công mạnh mẽ, tấn công Nghi Hưng, Giang Âm, bao vây Thường Châu, Tín Trung Thuyết. Quân Đường ở Thường Châu khổ chiến, Ngô Việt quyết định bao vây Thường Châu, để tránh có viện binh hắn chỉ chờ đánh bại quân viện binh rồi lại tiếp tục tiến công vào Thường Châu, sau đó mới coi đây là cứ điểm, phối hợp với quân Tống để bao vây Đường, từng bước khép chặt vòng vây, ép quay về Kim Lăng.
Triệu Quang Nghĩa thấy trong lòng cấp bách, Tào Bân phá Kim Lăng, hôm nay chính là đêm tấn công Vu Hồ, Tiền Thục liên tục phá Nghi Hưng, Giang Âm, vây Thường Châu, thế còn mình thì sao? Bản thân mình là chủ lực của quân Tống, là cấm quân tinh nhuệ của kinh sư, nay cứ ngồi thủ mà không tấn công, nếu như đợi Tào Bân và Tiền Thục đến rồi mới tiếp thì còn mặt mũi nào nữa?
Triệu Quang Nghĩa bỏ bức mật thư của Tiền Thục xuống, cúi người nhìn tấm bản đồ phòng thủ tấn công Thải Thạch Phàn, đôi lông mày khẽ nhíu lại.
Hắn mặc giáp sáng loáng, toàn thân sáng ngời và tỏa ra nét lạnh lùng, ngồi ở đó. Mặc lâu ắt không thấy thoải mái, nhưng Triệu Quang Nghĩa lại thích cảm giác này, đã bao nhiêu năm không trải qua chiến đấu thế này, bây giờ mặc lại hắn dường như thấy mình lại là một đại nguyên soái thống lĩnh ba quân, hắn thích cảm giác trong khung cảnh cờ bay máu chảy, hàng nghìn người cúi đầu hô lớn, mặc áo giáp thế này hắn dường như lại được quay trở về thời thiếu niên huyết khí bừng bừng.
Nhưng khi hắn đang khí thế bừng bừng cầm kiếm hướng về Giang Nam thì khó khăn ầm ầm kéo đến, lại chắn đường đi Thải Thạch Phàn của hắn. Việc này khiến hắn cảm thấy thật trắc trở, lửa giận trào lên ngực, cúi người nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ, hắn tức giận đấm mạnh lên bàn, quắc mắt đứng dậy, đi lại phía bức trướng.
“Thiên tuế, đêm đã khuya rồi, hay là ngài hãy đi nghỉ trước đi”
Vương Kế Ân chậm rãi nói, mang đến một ấm trà nóng từ trong lò rồi rót ra một chén.
Triệu Quang Nghĩa đứng dậy, tay nhẹ nhàng vuốt bảo kiếm bên hông, trầm ngâm trong chốc lát rồi lùi lại đằng sau tấm trướng, dặn dò hai đại tướng tiên phong đang đứng trong trướng: “ Đêm qua bản tướng đã qua sông thành công, nhưng đáng tiếc là không còn chút sức lực nào, quân sĩ lên bờ rất khó đánh lại quân Đường, sự việc sắp thành lại bại. Sáng sớm ngày mai, ba quân sau khi dùng bữa hãy tạm nghỉ một lúc rồi lại tiếp tục tiến công”.
Hai viên đại tướng thi lễ nói: “Tuân lênh!” hai người vừa cử động, bộ áo giáp đã vang lên những tiếng kêu loảng xoảng, làm gia tăng thêm sát khí. Triệu Quang Nghĩa đưa mắt nhìn, nói với viên tướng đứng bên trái: “Ngũ Cáo Phi, sáng mai hãy tập trung lục soát từng thuyền đánh cá một, tự mình tấn công quân Thải Thạch Phàn”.
“Tuân lệnh!”
“Dương Hải Thanh, ngươi hãy phái quân theo sau viện trợ, một khi Ngũ Cáo Phi ra tay ngươi hãy lập tức lên bờ, dẫu cho tất cả đều chết hết thì cũng phải thủ ở bãi đầu, cho thuyền lập tức quay về đón quân ta qua sông”.
“Tuân lệnh!”
“Thư ký Thường, ngươi hãy viết một chiến thư, sáng sớm mai cho người mang sang bờ bên kia”.
Thư ký Thường Huy nắm chặt cây bút lông, mở giấy ra, chỉ nghe thấy Triệu Quang Nghĩa đằng đằng sát khí nói: “Nói với Dương Thu, Tôn Chấn, chiến thắng của bọn chúng chỉ là nhỏ, cũng chỉ là nhất thời được mất. Khó khăn lớn nhất chính là thiên binh hùng hậu của ta, nếu chúng tỉnh ngộ, nhanh chóng xin thua thì bản vương bảo đảm sẽ cho chúng hưởng vinh hoa phú quý. Còn nếu không biết điều mà cố chống đối đến cùng thì bản vương qua sông nhất định sẽ dốc sức thủ quân, bọn chúng gặp phải đại quân của ta thì bọn chúng sẽ biến thành biển máu, sức hai bọn chúng có gánh nổi không? Hãy suy nghĩ cho kỹ rồi tự định lượng”.
Triệu Quang Nghĩa nói dứt lời bộ áo giáp của hắn cũng rung lên từng hồi, quát: “Đi đi”.
Triệu Quang Nghĩa bước những bước lớn ra khỏi trướng, đi về phía phòng mình. Vương Kế Ân cũng nhìn hai vị tướng quân, bưng tách trà trên bàn lên uống một hớp hết sạch, rồi đuổi theo Triệu Quang Nghĩa.
Vào trong trướng của Triệu Quang Nghĩa, Vương Kế Ân mỉm cười khuyên nhủ: “Thiên tuế, thiên tuế, ngài chớ vội, Tào Bân thủy sư vừa đến sẽ hợp nhất thủy lục, Thải Thạch Phàn ắt sẽ là của Vương gia thôi”.
Triệu Quang Nghĩa nói: “Tào Bân phái người đưa tin đến, quân Hồ Khẩu phái thuyền quấy rối, tàn quân Đường liên tục phóng hỏa tiễn, cản trở trên sông, thủ quân ở Vu Hồ quyết tử chiến đấu đến cùng, hắn còn muốn mất mấy ngày nữa mới đến Thải Thạch Phàn? Bản vương cần gì phải đợi lâu như thế”.
Triệu Quang Nghĩa vừa nói vừa cởi áo giáp, khoát tay cho Vương Kế Ân ngồi: “Biết rồi, ngồi đi”.
Vương Kế Ân mỉm cười ngồi xuống, nói: “Dục tốc bất đạt, Thiên tuế nóng lòng lập công làm gì, chỉ sợ Dương Thu, Tôn Chấn nhận chiến thư của Thiên tuế lại càng kiên quyết thà chết thì mới nên chuyện”.
Triệu Quang Nghĩa cười lạnh nói: “Người Nam trước nay luôn khiếp nhược, chẳng phải sao?”
Vương Kế Ân chần chừ nói: “ Nhưng… nếu như Dương Thu và Tôn Chấn quả thực không hàng thì Thiên tuế thực muốn tàn sát cả thành ư?”
Triệu Quang Nghĩa cười lạnh nói: “Tàn sát cả thành là thế nào?”
Vương Kế Ân chần chừ, hơi cúi người về phía trước nói: “Thiên tuế đừng quên chuyện của Vương Toàn Bân”
Triệu Quang Nghĩa ngẩn ra, rồi lập tức cười lớn: “Vương Toàn Bân là Vương Toàn Bân, bản quan là bản quan, làm sao có thể đem ra để bàn luận với nhau?”
Vương Toàn Bân là danh tướng nhà Tống, chiến công hiển hách, không hề kém cỏi so với Tào Bân, Phan Mỹ. Khi Tống đem quân diệt nước Thục, hắn là chủ soái ba quân. Khi đó Tào Bân còn ở dưới trướng hắn, nhưng hắn có sát tâm quá nặng, sau khi chiếm thành hắn dung túng cho thuộc hạ giết người cướp bóc, hãm hiếp con gái nhà lành, ngược đãi chiến phu, cuối cùng bị dân nổi dậy, quân Ngụy đem toàn bộ quân tạo phản, Đặng, Thục, Mi, Nhã, Đông Châu… mười ba nước lần lượt hưởng ứng, phản quân nhanh chóng tập trung, số lượng lên đến mười mấy vạn người.
Kết quả là Vương Toàn Bân lo lắng quân binh sẽ đi hàng bọn phản quân nên đã ra một chiếu giết toàn bộ chiến phu, đến người già và ốm yếu bệnh tật cũng không tha, kích động người Thục phản loạn. Cuộc chiến kéo dài hơn hai năm, trả giá rất đắt mới có thể yên ổn. Vua Triệu hết sức phẫn nộ, ra lệnh cho thu giữ toàn bộ tang vật, sau khi giữ lại để quan sát tiết độ sứ, hắn cũng cho đến các tỉnh.
Vương Kế Ân nhắc đến Vương Toàn Bân cũng là có ý muốn nhắc nhở Triệu Quang Nghĩa, e rằng hắn sẽ khiến cho vua không vui.
Triệu Quang Nghĩa không cho là đúng, cười ha hả nói: “Tội của Vương Toàn Bân không nằm ở việc hắn cho lính cướp bóc hãm hiếp dân lành, cũng không nằm ở chỗ hắn giết chết mấy vạn chiến phu, mà nguyên nhân là do hắn đã kích động dân Thục làm phản, vua mới phẫn nộ. Người Đường nhu nhược, thấy thủ đoạn độc ác của ta ắt sẽ kinh hãi, làm sao dám phản? Nội trong Giang Nam không có nguy hiểm gì, lại không có lợi về địa hình, ai dám làm phản? Huống hồ bản vương đã nói với quốc vương muốn xây dựng một khu công nghiệp lớn để khai thác, nếu như không lấy của cải và gái đẹp cổ vũ tinh thần hướng sĩ thì làm sao mà được?”
Hắn cười dài nói: “Ta đã biết thành ý của ngươi rồi, bản vương rất hiểu, thôi ngươi nên về nghỉ ngơi sớm đi, sáng sớm ngày mai sẽ dấy binh đánh Thải Thạch Phàn, nếu như thành công thì ngươi cũng sẽ có một phần công trong đó đấy, haha, nên hãy an tâm mà đi ngủ đi”.
Triệu Quang Nghĩa đích thân tiễn Vương Kế Ân đi về trướng nghỉ ngơi, chắp tay từ biệt, nhìn theo bóng Vương Kế Ân xa dần, hắn mới lộ ra một nụ cười nơi khóe môi: “Làm thế nào có thể bình định Giang Nam nội trong ba tháng được? Không sát tâm quá nặng thì sẽ mất lòng dân, làm sao hóa giải được cảnh giác của vua?”
Mười năm làm quan ở Khai Phong, đến nay lật lại Triệu Phổ, cương vị của hắn trong triều Tống dưới một người mà trên vạn người, kể cả lư đa tốn hàng quan tam vị tể tướng cũng không dám làm trái hắn, nhưng uy lực của hắn chỉ có thể khuếch trương trong triều văn. Có thực tế thế thì hắn mới dám mạo hiểm ra tay, mạnh mẽ xuất binh. Đây chính là động lực cổ vũ hắn có dũng khí, nhưng thực ra trong lòng vẫn thấp thỏm không yên.
Hắn cũng đang suy nghĩ đến việc đại ca e rằng sẽ vì vấn đề này mà lo lắng, nhưng có được ắt có mất, đây cũng là chuyện không thể làm khác được.
Nhưng hắn hy vọng rằng quyền lực của hắn sẽ không bị tổn hại gì, nếu như hắn phát binh đến Giang Nam, ba tháng sau diệt được Đường, rồi quân nghiêm minh, không đả thương người vô tội, hết lòng quan tâm đến dân chúng Giang Nam, vậy thì thời huy hoàng của hắn cũng đến hồi kết thúc.
Nhưng nỗi khổ tâm này của hắn lại không thể nói rõ với bất kỳ ai, kể cả với Vương Kế Ân, người có mối tư giao lâu nay với hắn.
Hắn quay lại trướng cởi áo, nằm trên phản quay lưng ra ngoài, trong đầu đang thầm tính toán kế hoạch ngày mai đi đánh Thải Thạch Phàn, rất lâu sau mới tắt đèn, ngáp một cái rồi đi ngủ. Chỉ nghe thấy phía ngoài trướng tiếng bước chân chạy gấp lại, một người nói lớn: “Thiên tuế, thiên tuế, mạt tướng Trúc Vũ Minh có việc quan trọng xin cấp báo”.
Triệu Quang Nghĩa ảo não ngồi dậy hỏi: “Có chuyện gì?”
Trúc Vũ Minh nói: “Thiên tuế, quân phòng ngự tại bờ sông đã bắt được bốn tên từ bờ bên kia lặn sang…”
Triệu Quang Nghĩa vội hỏi: “Nhưng có phải là người nhà Đường không?”
Trúc Vũ Minh nói: “Trong số bốn tên đó có một tên tự xưng mình là hồng lư tự của nhà Tống – Dương Hạo, mạt tướng không biết phân biệt thật giả, chỉ nghe nói Thiên tuế có biết hắn nên mới đến bẩm báo thiên tuế”.
“Hồng lư tự Dương Hạo…” Triệu Quang Nghĩa vẫn còn chưa nhớ rõ ra là ai, bỗng chợt giật mình hỏi lại: “Dương Hạo? Ngươi nói hắn là Dương Hạo?”
“Đúng ạ, hắn tự xưng là Dương Hạo”.
Triệu Quang Nghĩa vội vứt chăn sang một bên, mặc quần áo lót vào rồi nhảy xuống đất, vừa chạy vừa hỏi: “Người đâu”
“Hắn vẫn còn trong lều chủ soái”.
Triệu Quang Nghĩa chạy nhanh, Trúc Vũ Minh ngẩn người, mãi sau mới nói: “Thiên tuế, ngài vẫn còn chưa mặc quần áo…”
Lúc này Triệu Quang Nghĩa đã chạy đến trước cửa lều…
**************************************
“Ngày xưa Bái công gặp Lệ Sinh, lấy chân trần chạy lại đón, nay Tấn Vương gặp Dương Hạo không cho cổ nhân, hạ quan thực quả rất cảm động”.
Vừa nhìn thấy Triệu Quang Nghĩa tóc tai bù xù, mặc bộ quần áo lót, Dương Hạo lập tức tiến lại gần, nhưng bị hai gã thị vệ giữ lại, hắn đành đứng tại chỗ nói.
Triệu Quang Nghĩa nhìn theo, người này quả nhiên là người đã khuất, sau đó được triều đình gia phong làm quốc bá, khắp nơi ai ai cũng thương tiếc. Dương Hạo đeo bên hông một chuỗi hồ lô, mặc một bộ quần áo dạ hành.
Triệu Quang Nghĩa kinh ngạc nói: “Dương Hạo không phải đã chết rồi sao?”
Dương Hạo than thở nói: “Việc này… thật là khó nói một lời mà hết”.
Triệu Quang Nghĩa thấy hắn đang đứng bên một tăng lữ, hai người đều mặc quần áo đen, vội hỏi: “Đến đây, đến đây, ngồi xuống, chúng ta từ từ nói”.
Bọn thị vệ dâng trà. Dương Hạo ngồi xuống, tựa hồ như chính mình vừa từ cõi chết trở về kể lại. Hắn kể rằng hôm đó sau khi bị hành thích, khi thê thiếp của hắn đều bị cướp giết chết, hắn chợt nhớ ra trên bờ có hai đoàn người ngựa, sợ rằng là sứ giả Khiết Đan và nhà Đường hợp sức muốn giết hắn nên hắn sợ hãi nên hắn nhảy xuống nước tháo thân, tìm đến chỗ thuộc hạ đang chờ sẵn rồi trốn mất.
Triệu Quang Nghĩa nghe xong liền nghi ngờ hỏi: “Dương đại nhân lo lắng nước Đường và sứ giả Khiết Đan một chủ một khách liên kết với nhau gây bất lợi cho ngài ư? Giả chết để ẩn náu, điều này có thể lý giải được, có điều… tại sao bao lâu như vậy rồi ngài không cho triều đình hay biết?”
“Cái này…” Dương Hạo mặt có vẻ bi phẫn nói: “Thiên tuế che chở được cho Dương Hạo, cũng là có lòng nên Dương Hạo không giấu Thiên tuế. Thuộc hạ một vợ một thiếp, dẫu cho có chết thảm trên thuyền, thù này không trả thì cũng uổng một đời trai. Do đó Dương Hạo ta phải làm vậy để tìm cách báo thù, như Gia Luật Văn bị chết trong lửa cũng là thê thiếp của ta ôm mối hận mà trả thù cho Dương Hạo. Dương Hạo báo được mối tư thù này e rằng sẽ kích động quan gia, giáng tội vào hạ quan, nên vừa quy về ở ẩn, vừa nghĩ cách thông báo cho tiêu tự thừa.
Nghe nói cũng thông, Triệu Quang Nghĩa nói: “Nếu ngài đã quyết định lui về ở ẩn rồi thì tại sao còn đến đây gặp bản vương?”
Dương Hạo nói: “Hạ quan dưỡng thương xong vốn định tĩnh tâm, muốn quy
về ở ẩn, không ngờ thiên binh lần này tới lại là quân của Thiên tuế. Thiên tuế đối với hạ quan ân trọng như núi, Dương Hạo có lòng báo đáp Thiên tuế nên mới mạo hiểm tìm hiểu tình hình quân sự của Thải Thạch Phàn, hy vọng có thể giúp sức được cho Thiên tuế. Cũng nhờ hồng phúc của Thiên tuế mà hạ quan đến được đây và gặp được vị tú tài này”.
Dương Hạo vừa nói vừa chỉ vào Phàn Nhược Băng, Nhược Băng vội vàng thi lễ, Triệu Quang Nghĩa kinh ngạc nói: “Vị hòa thượng này là một tú tài?”
Dương Hạo tiếp lời: “Đúng thế, vị tú tài này sớm đã có ý phò tá nhà Tống ta, hắn giả mạo làm tăng lữ để đến Thải Thạch Phàn, vất vả bao lâu mới vẽ ra được bản đồ sông Trường Giang. Thiên tuế mà có được tấm bản đồ này thì sẽ nắm rõ từng đoạn nông sâu rõ như lòng bàn tay. Dùng cầu nổi có thể đưa đại nhân qua sông. Hạ quan nắm được tin tức quan trọng này liền quyết định đi gặp Thiên tuế ngay”.
Triệu Quang Nghĩa mừng rỡ nói: “Dương đại nhân đúng là cái phúc của bản vương. Ngươi tới thật tốt, thật tốt quá. Việc này nếu như thành công thì cũng có phần của ngươi đó”.
Dương Hạo chần chừ nói: “Nhưng mà… hạ quan nhất thời tức giận giết chết sứ giả Khiết Đan, e rằng sẽ dẫn đến chiến tranh hai nước. Nếu như hạ quan chết rồi thì đã đành, nay lại sống sờ sờ quay về, triều đình sẽ phải ứng phó ra sao với bọn Khiết Đan?”
Triệu Quang Nghĩa cười lớn: “Chỉ là một tên Gia Luật Văn thôi mà, chết thì cũng chết rồi, người Khiết Đan làm sao? Giá mà Dương đại nhân biết được, tên Gia Luật Văn đó cùng cha hắn mưu phản ở Thượng Kinh, ấm mưu giết hết giới quý tộc Khiết Đan, nay binh lính phản loạn, âm mưu giết vua không thành, ngươi giết được con trai của tên phản loạn người Khiết Đan không trách tội ngươi đâu, mà còn phải cảm kích ngươi phen này ấy chứ, ha ha ha…”
“Có việc này sao?” Dương Hạo không hề biết tin từ Thượng Kinh nên vừa nghe được tin này đã không nén nổi niềm kinh ngạc.
Trời đã sáng. Triệu Quang Nghĩa nghi binh dẫn quân áp Thải Thạch Phàn, cho lính ra phá thuyền, nhân cơ hội gõ trống tiến vào, đánh tập kích doanh trại nhà Đường. Bên cạnh đó quân lính cũng đi gom được hàng đống thuyền nhỏ, bè gỗ, xếp chi chít trên mặt sông tạo thành một chiếc cầu nổi trên mặt sông Trường Giang.
Nhược Băng tự mình lấy tấm bản đồ ra chỉ điểm, chỗ nào nông, chỗ nào sâu, tất cả những cọc trụ dài ngắn, mặt nước rộng thế nào… tất cả những số liệu đó đều được hắn đo đạc lại. Đợi chiếc cầu nổi được kết xong, buộc chắc chắn vào hai cọc thì có thể đi lại vững vàng trên mặt nước được rồi.
Mục Vũ đứng sau lưng Dương Hạo trên con đường, nhìn thấy mặt sông xuất hiện một công trình như vậy mới hạ giọng hỏi: “Đại nhân chạy tới đây đúng lúc cấp bách thế này, hiến thủy đồ, hiến kế xây cầu nổi, đã được lòng tin của Tấn Vương rồi, bước tiếp theo ngài tính làm gì?”
Dương Hạo nói: “Ta vẫn cứ nghĩ ta đối với người Khiết Đan như thế thì sao có thể vào Thượng Kinh? Ngọc Lạc tuy là đã đi trước nhưng nàng không biết rõ thân thuộc nơi này, lại không thể tiếp cận với người trong hoàng cung.
Nếu muốn cứu Đông Nhi quay về thì tuy biết nàng đang ở đâu nhưng cung tường bao vây thế muốn khó thể với tới. Nhưng ta không muốn giả chết, như vậy sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nếu như lấy thân phận Tống sứ đi sang Khiết Đan vào Thượng Kinh thì với tình thế hoàng hậu là người lên nắm quyền như hiện nay liệu ta muốn gặp nàng có còn dễ dàng? Đợi ta gặp được Đông Nhi, ta sẽ lập tức vạch kế hoạch cùng nàng tháo chạy, nàng chạy rồi ta sẽ về nước.
Ta là Tống sứ, ai dám khám xét xe của ta? Hoàng hậu Khiết Đan bị mất người cũng không dám nghi ngờ ta giấu trong xe. Nếu như có thể cứ thể cho qua chuyện thì ta sẽ có thể bình an đem nàng đi”.
Mục Vũ nghi ngờ nói: “Vậy… chúng ta làm sao có thể về được Lô Châu?”
Dương Hạo nhìn mặt nước sông trước mắt mà lo lắng bộn bề, trầm mặc một lúc lâu rồi mới nói: “Mọi việc tại nhân, ta cũng dò dẫm từng bước mà qua sông thôi, cứ tiến từng bước một”.
Coi thường người Tống thế công kém, bờ bên kia Dương Thu không hề nghi ngờ một chút gì. Đợi đến sáng, khi quân đi tuần ven sông phát hiện ra người Tống đaang làm cầu nổi trên sông mới vội vã bắn tên. Nhưng do mặt cầu dao động lại thêm có gió nên mũi tên bị gió thổi tạt bay hết xuống sông, không cách nào ngăn cản người Tống. Đến lúc này Dương Thu mới vội vàng chạy về Kim Lăng cấp báo.
Lý Dục đang cùng ngồi trong cung cầu phúc cùng các đạo sĩ, biết được tin không khỏi kinh ngạc, lập tức ra chiếu tập trung hết các quan trong triều nghị sự. Mọi người biết tin đều không khỏi bật cười: “Người Tống không biết đặc tính của nước, không biết nước sông tuy hiền hòa mà rất đỗi lợi hại, nếu như bắc cầu nổi trên những con sông nhỏ thì còn dễ, đằng này nước sông chảy cuồn cuộn, xem ra thì vô hại nhưng cả trăm trượng mặt sông như thế, sức công phá cũng không phải nhỏ, mà cầu phao lại dễ bị hủy, dễ gì làm nổi”.
Những đại thần tín cẩn của hắn cũng nói: “Từ trước đến nay chưa từng nghe thấy chuyện tương tự, người Tống quá ư mơ mộng viễn tưởng rồi”.
Lý Dục nghe thấy vậy cũng yên tâm, vui vẻ cười nói: “Đúng vậy, trẫm cũng cảm thấy Triệu Quang Nghĩa quá giỏi giở trò, người Tống ắt hẳn hết kế nên mới dùng hạ sách này. Xem ra trẫm kiên quyết chống chọi với quân Tống
cũng là có kết quả!”
Chương 371:Không một vết tích.
“Trò trẻ con” của Triệu Quang Nghĩa đã thành công. Khi người Tống tập trung hơn tám trăm binh lính lên bãi đầu, Dương Thu, Tôn Chấn đang chuẩn bị bổn cũ soạn lại thì cầu nổi của nhà Tống đã thành công cập vào bên kia bờ. Trên cầu, binh sĩ lập tức đem vô số những cây cọc ngắn dài cắm xuống nước, ngắn dài kết hợp vừa vặn, dùng thêm dây nối, thiết liên… làm thành già đỡ chắc chắn cho chiếc cầu nổi trên mặt sông Trường Giang cuồn cuộn.
Vô số binh lính nhà Tống đã lăm lăm qua sông.
Quân canh phòng thấy quân Tống đã làm nên kỳ tích, từ một điều ngỡ như không thể lại thành có thể nên tinh thần như chùng xuống, trái ngược với khí thế đang bừng bừng của nhà Tống. Dương Thu, Tôn Chấn tuy gắng gượng chống đỡ nhưng cũng chẳng chống được mấy, sau một thời gian cũng người chết kẻ hàng, kẻ chạy người trốn. Thải Thạch Phàn sa lưới.
Triệu Quang Nghĩa thân mặc áo giáp, ngạo nghễ sải bước qua sông Trường Giang, ngó ra bốn bề xung quanh.
Thuộc hạ của hắn chạy tới hỏi: “Thiên tuế, chúng ta có phải chiếm luôn doanh trại nhà Đường không hay đợi Tào tướng quân đến?”
Triệu Quang Nghĩa cười ngạo nghễ nói: “Binh quý thần tốc, đã qua sông rồi thì cứ đánh thôi. Chiếm lấy Kim Lăng. Thiêu cháy hết doanh trại của bọn lính Đường, hiệu lệnh cho ba quân lập tức lên đường”.
Tên lính nghe lệnh làm theo, để lại một đội binh mã dọc hai bên bờ Trường Giang bảo vệ cầu, còn lại những người khác lập tức tập hợp, không ngừng tiến về phía trước.
Cây cầu nổi này không được đứt, nếu như không có nó thì quân Tống khó lòng qua sông. Trận chiến này chỉ có thắng chứ không được phép bại. Nếu như nhất thời địch mạnh ta yếu, muốn tránh được thương vong là điều không thể. Hơn nữa nhà Đường lại kiên quyết phòng thủ, lương thảo cạn dần cũng nhất quyết thủ trong thành, nếu như cầu mà đứt thì quân Tống cũng chỉ còn nước ôm bụng đói mà đánh nhau. Do đó Triệu Quang Nghĩa tuy vội vàng đánh nhanh thắng nhanh nhưng cũng không dám không coi trọng sợi dây sinh mạng này.
Hắn cho Dương Hải Thanh và Trục Vũ Minh ở lại cùng bọn lính canh giữ cây cầu, còn mình thì đích thân dẫn quân chạy không ngừng về phía trước.
Ngoài thành Vu Hồ, Tào Bân được tin Triệu Quang Nghĩa đã qua được sông và đang thẳng tiến về phía Kim Lăng. Đại tướng Hắc Ân Thành thì không khỏi lo lắng: “Tấn Vương Thiên tuế khinh địch mạo hiểm vào thành, ngộ nhỡ có gì xảy ra thì tướng lĩnh ba quân đi đời mất. Chúng ta không nên ở lại đây nữa, mau nhập hội với Tấn Vương đi thôi”.
Tào Bân trầm ngâm trong chốc lát rồi lắc đầu nói: “Hồ Khẩu mười vạn quân Đường còn đang không chút thương vong, bọn chúng nhất định sẽ đuổi theo. Nếu như ven đường không có quân của chúng ta chặn đánh thì chúng có thể đi tiếp lương thảo, chúng ta sẽ không có đường lui. Tốt nhất là chúng ta cứ tận lực ở đây, còn về phía Tần Vương…”
Tào Bân mỉm cười nói: “Từ sau khi Lâm Hổ tử mất, nước Đường đã mất đi kiện tướng, mà Tần Vương lại là cấm quân tinh nhuệ, dưới trướng ông ấy thì mỗi người đều là bách chiến, gặp phải cường địch nào cũng không cần phải lo lắng”.
Hoắc Ân Thành nhíu mày nói: “Nhưng… chúng ta cứ ở đây không rút binh thì bao giờ mới có thể hợp binh cùng Tần Vương? Như vậy có đi ngược lại kế trước khi quan gia dấy binh chúng ta phải tập hợp vào không?”
Tào Bân cười nói: “Trên chiến trường phải lập tức vạn biến. Ngươi hãy nghe theo hiệu lệnh của ta, lập tức tấn công thành”.
Hoắc Ân Thành không khuyên nữa, chỉ biết nghe theo mệnh lệnh, nhanh chóng chỉ huy quân tiến vào thành.
Tào Bân đứng ở chỗ cao, nhìn xuống thành Kim Lăng, như nghĩ ngợi gì đó rồi lẩm bẩm: “Tần Vương vội gì chứ, đợi không nổi ta sao? Nếu như không muốn đợi ta thì ta cứ thức thời một chút, đợi Tần Vương chiếm được thành Kim Lăng rồi ta sẽ gặp vậy…”
*************************************
Tin Dương Hạo vẫn còn sống đã được Triệu Quang Nghĩa phái người tốc mã cấp báo về kinh thành.
Dương Hạo gặp cơn nguy hiểm mà không chết. Sau khi cuộc tự thuật của hắn được các quan chỉnh lý lại đã tập hợp và báo cáo cả công lao của Nhược Băng, lập tức công lao to lớn này không thể không thiếu hắn được.
Nhược Băng tuy chịu khổ hơn hai năm trời bên bờ sông Trường Giang nhưng giờ thì một bước lên trời, công sức cực khổ hai năm trời cũng không phải vô ích. Cả ngày cứ tỉ mẩn như ong đi hút mật, giờ thì đã có thể suốt ngày ở bên hầu hạ Tấn vương.
Dương Hạo không biết được việc Triệu Quang Nghĩa tự mình báo thẳng tin về kinh, hơn nữa chiến cuộc ở Giang Nam vẫn chưa kết thúc, e rằng quan gia cũng không có lòng dạ nào mà nghĩ về chuyện Bắc quốc, nên hắn tạm thời ở bên cạnh Triệu Quang Nghĩa.
Giang Nam nát vụn, đội quân rã rời, Lý Dục thấp thỏm trong lòng, cố kham đánh một trận nhưng kế kéo dài thời gian chống đỡ cũng đã bị phá sản. Nước Đường bị nước Tống đè bẹp đã là một kết cục tất nhiên. Dương Hạo hiện chỉ hy vọng kết cục này sớm kết thúc. Chỉ cần ở đây một ngày còn là chiến trường thì sẽ càng có nhiều người dân vô tội bị liên lụy, người chết là bách tính trăm họ. Sớm một ngày tiêu diệt nước Đường là sớm một ngày người dân được yên ổn, hắn cũng có thể sớm một ngày quay trở về Biện Lương.
Ở bên Triệu Quang Nghĩa, hắn không hề lãng phí cơ hội tốt này, điều động quân thế nào, tác chiến thế nào, bố trí hành quân thế nào, vận chuyển lương thực ra sao, trấn an lòng quân như thế nào, thậm chí cả các chiến thuật tiến công, phòng ngự hắn đều ra sức tìm hiểu và học hỏi.
Đúc kết kinh nghiệm từ thực tế trực tiếp tốt hơn nhiều so với việc học trong sách vở. Ở bên cạnh Triệu Quang Nghĩa, xem hắn nghị sự, phát hiệu lệnh, chỉ huy tác chiến qua sông, xem hắn tiếp thu tình hình quân sự, điều khiển chỉ huy chiến đấu, đứng ở chỗ cao mà quan sát toàn cục, càng dễ nắm bắt được rất nhiều chiến thuật.
Trong hoàn cảnh bị buộc phải lựa chọn để đánh Giang Nam, nhưng hắn đã chuẩn bị rất nhiều những điều kiện có lợi ở Tây Bắc, đối với những tiền đồ trước mắt hắn cũng không dám đắc ý. Những cái ở tương lai là những cái chưa biết, dẫu cho có thực lực nhưng những đánh giá khách quan về chuyện được mất trong chiến tranh rồi cũng ghi nhớ mãi trong lòng. Cũng rất hữu dụng nhưng hắn rất hiểu, đó không phải là cách sáng suốt để giành chiến thắng.
Cái mà học giả đời sau hiểu được, thì ở thời đại này người ta có thể thực sự lý giải hay không? Không, họ còn hiểu hơn bất cứ một người nào khác, không một ai có thể hiểu rõ hơn chính kẻ địch của mình, càng hiểu rõ những sở trường và điểm yếu của kẻ địch. Nhưng lý giải và hiểu khoogn có nghĩa là nhất định phải giải quyết, nằm ở muôn vàn điều kiện, họ chỉ có thể khống chế, lựa chọn những cách thích hợp mà không phải là lựa chọn khách quan thích hợp nhất của lịch sử.
Từ sau khi trở thành một phần của lịch sử, trong cái mê cung này hắn chỉ có thể tuân theo hết thảy những nguyên tắc, lợi dụng những điều kiện khách quan ở đây chứ không thể chỉ đạo hành vi của bản thân dựa trên những căn cứ sau này. Huống hồ…người hậu thế đứng ở góc độ tất cả đã xong xuôi để suy nghĩ, những kết luận được đưa ra có phải là khách quan hay không, ai là người đúng nhất? Tất cả đều rất khó nói.
Khi hắn đặt mình trong đó, khi ứng biến với tất cả dựa trên những kinh nghiệm của bản thân, những phản ứng và lựa chọn của đối thủ có thể khiến động tác của hắn thay đổi, thế là dựa vào những đánh giá và lựa chọn của lịch sử khi hắn đưa ra bước đầu tiên thì những kinh nghiệm đó cũng không có tác dụng gì.
Ví dụ như trong lịch sử hắn đã được mất gì đó trong một trận chiến với kẻ địch, sau đó vượt thời gian, tiến vào trận chiến này thì hắn có thể thành thần của cuộc chiến không? Đó chỉ là những hoang tưởng vô tri của thuở nhỏ. Khi hắn bước chân vào cuộc chiến này nếu như không thể chỉ đạo cuộc chiến thì chỉ có thể làm một tấm bia đỡ đạn, dẫu cho hắn có nắm chắc kết cục thì cũng không thể thay đổi được kết quả.
Nhưng nếu như hắn trở thành một chủ soái, hắn sẽ có thể thay đổi được những sai lầm này không? Đối với đối phương còn có cơ hội để đi theo những nguyên tắc này hay không? Đối phương cũng nhờ đó mà thay đổi, thì những thứ mà hắn nắm chắc trong lòng bàn tay cũng vô dụng. Đây giống như một quan sát viên, ngồi dưới võ đài rồi nhìn ngó quan sát hai quyền sư khác. Trên võ đài ai là người thảm bại hắn nhìn rất rõ, cũng có thể phân tích rõ mồn một trong đầu, nhưng để cho thời gian đảo ngược lại, trên võ đài lấy kẻ bại trận thì hắn đã quá lợi dụng rồi.
Từ việc thay đổi đấu pháp, khi chiếm lợi thế từ cú đấm thứ nhất, phản ứng của đối phương cũng theo đó mà thay đổi, tiếp sau đó không thể nào diễn tiến tình hình theo những lý giải trước đó được nữa, trừ phi cú đấm thứ nhất đó khiến đối phương gục ngay tại chỗ, nếu không hắn chỉ có thể dựa vào thực lực mà tiếp tục chiến đấu. Những dự tính ban đầu đã không còn tác dụng, những kế hoạch của hắn dường như đều mất hiệu quả, nếu như hắn vẫn cứ ngoan cố hành động theo những phân tích ban đầu thì hắn sẽ chết một cách còn thảm hơn lúc trước.
Do vậy, hắn phải dốc toàn lực để học hỏi, những dự tính tương lai đã thay đổi, hắn không cách nào có thể đi ngoài quỹ đạo, chỉ có thể dựa vào tài trí của bản thân.
“Đại nhân” Mục Vũ thúc ngựa chạy tới bên cạnh hắn, Dương Hạo khen: “Cấm quân huấn luyện có chất. Ngàn người như một, tiến lên như một tòa thành trì bằng thép đang đi động, quả nhiên rất giỏi”.
“Đúng vậy!” Ánh mắt của Mục Vũ lướt qua đoàn quân trước mặt, hỏi nhỏ: “Đại nhân, nếu như chúng ta có được đất Bắc thì triều đình sẽ có ngày… phát động chiến tranh không?”
“Hy vọng là không, nếu như có, cũng sẽ không đánh đến cùng…” Dương Hạo nhẹ thở dài: “ Nếu như không phải sự đã rồi thì ta cũng không muốn gây chiến với họ. Quân vương muốn thần chết, thần chỉ còn nước chết, ta giả chết để thoát thân cũng là vì mục đích này, tiếc là đã bại. Nếu như sau này… quân bắt thần chết…”
“Vậy đại nhân làm thế nào?”
Dương Hạo trầm mặc trong chốc lát rồi mở miệng cười: “Vậy thì thần cũng không còn cách nào khác, đành bắt vua… chết trước thần!”
Mục Vũ nghe thấy liền nắm chặt đuôi đao, mặt đỏ gay lên nói: “Tiểu nhân xin thề sẽ đi theo đại nhân!”
Phía trước có một người cưỡi ngựa đi tới, Dương Hạo vội nói: “Chớ có lên tiếng”.
Người đó đeo một lá cờ đỏ hình tam giác trên lưng, thúc ngựa đi, lá cờ bay phấp phới trong gió. Vừa nhìn thấy lá cờ đó bọn binh lính vội dạt sang hai bên nhường đường, người kị mã như ngọn gió lốc lướt qua bọn vệ binh, xông thẳng vào chỗ của Triệu Quang Nghĩa rồi mới thắng ngựa. Bước lại gần, hắn quỳ xuống bẩm báo: “Bẩm, phía trước có một đoàn quân Đường đang tiến đến”.
Triệu Quang Nghĩa ghìm cương hạ giọng nói: “Người tới ở phương nào? Có bao nhiêu binh mã?”
Tên kia vội báo: “Trên cờ có thêu chữ Đỗ, xem lai lịch thì chắc là thuộc hạ của quân thiên đức Đỗ Chân, khoảng hơn vạn người”.
Triệu Quang Nghĩa ngửa mặt lên trời cười to: “Chỉ có khoảng hơn vạn binh mã thôi ư, dám đến xin chết à? Ha ha ha, truyền cho ba quân nhanh tiến lên phía trước, san bằng bọn hắn cho bản quan”.
“Thiên tuế xin chậm đã”.
Đoàn cấm vệ quân của đô chỉ huy sứ nghe hiệu lệnh vội chậm bước, đến bên Triệu Quang Nghĩa nói: “Vương gia, đoàn quân của chúng ta mới qua sông, quân sĩ tuy mạnh nhưng thể lực không đủ, tuy là quân ta nhiều hơn chúng nhưng nếu như cương chiến thì cũng bị tổn thất không ít. Nếu như quân của chúng chỉ hơn vạn người mà dám nghênh chiến chúng ta thì hiển nhiên là chúng chỉ biết rằng bị mất Thải Thạch Phàn mà không biết chúng ta có bao nhiêu người đã qua sông, càng không dự liệu được chúng ta không hề nghỉ ngơi gì mà đã lên đường. Nếu đã như thế thì hà tất phải đương đầu, chúng ta chi bằng cứ lùi một bước, mai phục chúng, giết chúng sau cũng không muộn, vừa giảm được số lượng thương vong của chúng ta vừa tránh được cảnh chúng chạy toán loạn bốn phía khó bề truy kích”.
“Ừm.. lời của ngươi nói cũng có lý”.
Sau khi qua sông Triệu Quang Nghĩa đã thấy không còn vội vã nữa, hơn nữa tướng lĩnh cấp cao Lục Diệp Lan cũng là người mà Triệu Quang Nghĩa tin tưởng, lời của hắn lẽ nào lại không được xem trọng. Hơn nữa phân tích của Lục Diệp Lan cũng thấu tình đạt lý, nếu như giảm bớt được thương vong thì chẳng tốt hơn sao?
Triệu Quang Nghĩa lập tức hạ lệnh cho ba quân dừng bước, chạy trở về. Ba mươi dặm phía Bắc từ Thải Thạch Phàn có một cái hồ lớn gọi là Từ Hồ, cách Từ Hồ về phía tây không xa lắm là Trường Giang. Triệu Quang Nghĩa phái quân chặn đầu đoàn quân của Đỗ Chân, còn mình là Lục Diệp Lan dẫn hai vạn binh đến chỗ giữa Từ Hồ và Trường Giang, đợi đội quân giả vờ bại trận quay về, dẫn theo hai vạn người ngựa đến chỗ phục kích này.
Trong bụi cỏ, Dương Hạo nằm sấp ở đó náu mình, đột nhiên nghe thấy một loạt tiếng động ầm ầm, Phàn tú tài bò lại. Dương Hạo lười nhác gọi hắn lại, Phàn Nhược Thủy biết được hắn là tâm phúc của Triệu Quang Nghĩa, lại là bá nhạc của mình nên vừa thấy hắn liền lộ vẻ thân thiết: “Dương tả sứ, mấy ngày nay chỉ thấy Tống quân luyện tập, có thể chinh chiến, nay mới biết danh tiếng không phải là hư. Binh mã nước Tống tướng có mưu, sĩ có dũng, quân nước Đường làm sao mà có thể trở thành đối thủ được? Đỗ Chân chỉ có hơn vạn người, đội quân hơn năm vạn của thiên tuế còn cần phải đánh ư? Chỉ cần lấy số đông áp đảo bọn chúng thì Thiên tuế lại quá cẩn thận như vậy, đội quân như vậy mà không đánh thắng thì còn đánh thắng nổi ai nữa?”
Dương Hạo thấy tên này có chút vô xỉ, bèn cười lạnh mà nói: “Trên chiến trường thì phải có thiên thời địa lợi nhân hòa, cơ mưu, đó là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thắng thua của trận đánh, không phải cứ đông là có thể giành thắng lợi, từ cổ chí kim lấy ít địch nhiều, thậm chí lấy tám trăm người mà đánh bại đội quân hơn mười vạn người cũng không phải là không có, thiên tuế cẩn thận như vậy là đúng chứ sao”.
Phàn tú tài cười khô nói: “Tả sứ nói đúng, Phàn mỗ không biết dụng binh đã thành trò cười rồi”.
Dương Hạo cười cười, hắn đang nằm chỗ đó đến vô vị, có người nói chuyện cũng hay, bèn nói: “Đỗ Chân là người thế nào? Ngươi có biết không? Binh mã của hắn tuy ít nhưng nghe nói Thải Thạch Phàn bị tấn công liền không nề hà sinh tử mà dẫn binh đến, cũng là một tướng tài hiếm có đấy chứ”.
Phàn Nhược Băng nói: “Tại hạ ở Thải Thạch Phàn đã ba năm rồi, cũng có hiểu đôi chút về tướng lĩnh và nơi trú quân. Mạt Lăng quan có hai tướng cố thủ, một người là Trịnh Ngạn Hoa, là chủ soái của Mạt Lăng quan, túc trí đa mưu, là một nho tướng, dưới trướng hắn có hơn một vạn quân. Còn người kia là Đỗ Chân, là một đại tướng dưới trướng của Trịnh Ngạn Hoa, dũng mãnh thiện chiến, Trịnh Ngạn Hoa phái hắn tới đây hiển nhiên là đã biết rõ Thải Thạch Phàn đã thất thủ, hắn cũng không giữ vững Mạc Lăng quan nữa rồi. Nhưng hắn xuất binh đến giải cứu thế nào đây?”
Dương Hạo cảm khái mà thở dài nói: “Đúng vậy, trên đời này tuy có nhiều việc đã thay đổi nhưng có những việc mà chỉ có một người mới có thể ảnh hưởng tới, cái gì đến sẽ phải đến, vận mệnh của nước Đường đã được định đoạt rồi”.
Phàn Nhược Băng không biết suy nghĩ kỳ quái này của hắn có ở đâu ra, nghe nói thế không hiểu ra sao chỉ biết cười bồi theo một tiếng.
Dương Hạo thay đổi tư thế, thuận miệng hỏi: “Phàn tiên sinh trong nhà có ai?”
Phàn Nhược Thủy than thở: “Song thân phụ mẫu, thê tử con cái đều có, than ôi, ba năm nay Phàn mỗ xa nhà, rời xa vợ con và song thân phụ mẫu, ở lại Thải Thạch Phàn, đúng là hổ thẹn với họ quá. May thay được tả sứ dẫn tiến, Tấn vương ưu ái, Phàn mỗ cuối cùng cũng có ngày xuất đầu lộ diện, những ngày sắp tới có thể báo hiếu cho cha mẹ, đối xử tử tế với thê tử”.
Dương Hạo trêu chọc nói: “Như thế là tốt, Phàn tiên sinh phải ghi nhớ những gì mà phụ mẫu và thê tử bỏ ra vì ngươi mới đúng. Những ngày tới được làm quan to, có ngựa cưỡi, tuy là những điều đang mừng nhưng cũng đừng có mới nới cũ, đừng có là một kẻ như Trần Thế Mỹ bị người đời sau khinh ghét hahaha…”
“Đại nhân chỉ dạy phải ạ”. Phàn tú tài tươi cười hớn hở: “Chỉ là không biết cái tên bị người đời khinh ghét Trần Thế Mỹ đó là vị nào ạ?”
“Haha, người ấy hả, hắn ta là đồng hương của ta… Không phải, không phải…”
Đang muốn lấy lòng Dương Hạo, Phàn Nhược Băng đột nhiên căng thẳng nói: “Đại nhân bảo cái gì không phải?”
“Không phải là không phải, mà là người thủ giữ ở Mạc Lăng quan – Đỗ Chấn có gì đó không phải…”
Dương Hạo nhíu đôi lông mày, suy nghĩ một hồi lâu rồi đột nhiên đứng phắt dậy nói: “Thiên tuế ở đâu, Thiên tuế ở đâu?”
Đang đứng ở chỗ mai phục đột nhiên thấy có người đứng lên, đang muốn quát lớn chợt nhận ra thân tín Tấn vương thiên tuế đang đứng bên cạnh hắn, có vài người nữa không có thân phận gì nhưng cũng đã từng thấy cưỡi ngựa đi bên cạnh Tấn vương, Tấn vương nói chuyện với bọn hắn cũng hết sức hòa nhã, vừa nói vừa cười, lập tức không dám răn dạy mà vội vàng chạy khỏi chỗ ẩn nấp, chạy lại chỗ Thiên tuế đang đứng.
Triệu Quang Nghĩa đang cúi thấp người sau một lùm cây để trông tình hình của địch, Dương Hạo liền vụt xuất hiện sau lưng, đứng bên cạnh Triệu Quang Nghĩa, dồn dập hỏi: “Thiên tuế, hạ quan đột nhiên nảy sinh nghi ngờ, do vậy nên phải cấp tốc chạy đến bẩm báo. Xin thiên tuế tham khảo”.
Triệu Quang Nghĩa giờ rất khách khí với Dương Hạo, vốn xuất thân đã là quan của triều đình, khi đó lại còn là người được coi trọng. Dù chỉ là đồng hương hoặc là môn đồ của cùng một thầy giáo đã có thể cảm thấy gần gũi mà giúp đỡ lẫn nhau rồi, huống hồ đây là một viên quan trong triều. Hơn nữa Dương Hạo còn đem tấm thủy đồ tới, khiến hắn nhờ đó mà qua sông được nên hắn mới có được chiến thắng đáng mừng này. Khi nghe Dương Hạo nói thế hắn làm mặt ôn hòa mà nói: “Dương tả sứ có gì nghi vấn không tiện nói ra?”
Dương Hạo bèn kể lại câu chuyện hắn mới nghe được từ Phàn Nhược Băng thuật lại, rồi nói: “Thiên tuế, nếu như những tin tức Nhược Băng nghe được là đúng thì Mạc Lăng quan chỉ có hai vạn binh mã, Trịnh Ngạn Hoa liều lĩnh phái một nửa số quân đến thật khiến người ta nghi ngờ. Thiên tuế nghĩ xem, Trịnh Ngạn Hoa túc trí đa mưu như thế làm sao có thể dễ dàng để cho người ta biết rõ hắn có bao nhiêu binh mã? Mà thông tin về hai vạn quân đóng tại Thải Thạch Phàn bị tiết lộ thì ắt hẳn hắn cũng đã biết. Chúng ta là bên tấn công, binh lực ắt hẳn là nhiều, Trịnh Ngạn Hoa làm sao có thể yên tâm mà phái một nửa số quân của hắn đi như thế? Chắc chắn là có thể thu phục Thải Thạch Phàn hay sao?”
Ánh mắt Triệu Quang Nghĩa chợt lóe lên, mặt dần dần sầm lại.
Dương Hạo nói: “Mạc Lăng quan không phải là nơi khó tấn công, đến Phàn Nhược Băng một kẻ không biết gì về binh mã còn hiểu được việc Thải Thạch Phàn bị mất, Mạc Lăng quan căn bản không có nguy hiểm và có thể thủ, chắc chắn bị mất. Trịnh Ngạn Hoa không biết ư? Hắn tập trung toàn bộ lực lượng tử thủ, hoặc là muốn vứt bỏ cả thành mà chạy trốn, hoặc là khuynh sào xuất động, cứu lấy Thải Thạch Phàn, vốn binh lực yếu kém mà còn phân ra như thế, đó là cách làm của một tướng giỏi túc trí đa mưu đó ư?”
Ánh mắt Triệu Quang Nghĩa lóe lên không ngừng, rồi hắn trầm giọng hỏi: “Vậy Dương tả sứ cho rằng hắn có ý đồ gì?”
Dương Hạo trầm giọng nói: “Mạc Lăng quan có đến một nửa là thủy binh, một nửa là bộ binh, đều là nhưng lực lượng mà Đỗ Chân dẫn đến nghênh chiến với chúng ta, vậy một nửa số thủy binh đến nay vẫn còn ở Mạc Lăng phải không?”
Triệu Quang Nghĩa biến sắc, nói từng chữ từng chữ: “Dương đông kích tây, muốn phá hủy cầu phao của ta ư?”
************************************
Triệu Quang Nghĩa dụng binh tuy không được như các lão tướng Tào Bân, Phan Mỹ, nhưng sát phạt quyết đoán, cũng có phong thái của một tướng lĩnh. Những nghi ngờ của Dương Hạo tuy chỉ là có khả năng, nhưng Triệu Quang Nghĩa không dám coi thường, lập tức chia một vạn binh ra lệnh cho Dương Hạo và Nghiêu Lưu dẫn cấm vệ quân lập tức quay về Thải Thạch Phàn.
Nghiêu Lưu vẫn còn rất trẻ, cơ thể cường tráng, ánh mắt cương nghị, trông có vài phần có cái thần vận giống như La Khắc Địch
Nơi này cách Thải Thạch Phàn không xa, hai người vội vã dẫn binh quay lại, khiến Dương Hải Thanh và Trúc Vũ Minh không khỏi giật mình, còn tưởng rằng Tấn vương chưa chi đã bại trận nhanh như vậy. Vừa nghe thấy Dương Hạo nói, hai người vội cẩn thận cảnh giác, vội chèo những chiếc thuyền của nhà Đường ra xa, bố trí quân cảnh giác đi men theo Trường Giang.
Thuyền chiến của quân Đường đều rất sắc bén, nếu như chúng chủ động xuất kích thì chiến cục cũng chẳng có ngày hôm nay, tiếc rằng chúng đã sớm khiếp sợ uy phong của nhà Tống, lại có kế vườn không nhà trống của Lý Dục, kiên quyết cố thủ, tuyệt đối không chủ động xuất binh nên hôm nay mới thất bại.
Từ xa xa nơi bóng chiều quả nhiên có một đoàn quân đang giương buồm đến. Quân Tống hai bên bờ sớm đã chuẩn bị nên lập tức vào thế sẵn sàng chiến đấu, giương cung, đội thuyền chiến mười mấy chiếc tiến lên phía trước, bên trên chất đầy củi và cỏ, chi cần đợi thuyền của địch đến thì sẽ đốt lửa cho thuyền chạy về hướng địch. Tuy những con thuyền không thiện chiến nhưng hai bên bờ đã có cung thủ hỗ trợ, sẽ tập trung hết thuyền chiến lại với nhau, chuẩn bị một trận sống chết để bảo vệ cây cầu.
Người tới quả nhiên là Trịnh Ngạn Hoa. Hắn sai cấp dưới là Đỗ Chân dẫn binh đi giương đông kích tây, còn mình thì đích thân xuất binh, mục đích là muốn phá hỏng cây cầu phao này. Cây cầu này rất quan trọng, chỉ cần phá được cầu thì quân Tống sẽ hết đường lui. Có cây cầu, bọn chúng có thể đem vô số quân đến đây, vận chuyển lương thực đến cho quân Tống, bọn chúng lại hùng dũng tiến bước mà không phải lo nghĩ, thế nên nhất định phải đánh sập cây cầu, bất kể có phải trả giá gì đi chăng nữa.
Khi hắn vội vàng tới, hai bên bờ cung tên bắn ra như mưa, trên mặt nước có mười mấy chiến thuyền cháy rừng rực lao đến, quân Tống đã sớm dự liệu nên trận đánh lén đã biến thành một trận địa chiến. Lúc này, quân của Đỗ Chân hơn một vạn quân đang thảm bại mà chạy tán loạn, cho quân Tống thuận lợi xiết chặt vòng vây.
Lúc này đây, ngọn cờ giương cao, pháo hiệu nổ liên hồi, phía Tây có Trường Giang, phía Đông có Từ Hồ, phía Nam là Lục Diệp Lan, Triệu Quang Nghĩa đang cắt đứt hết đường tháo lui của hắn, đánh cho hắn không còn lối thoát.
Chương 372:Vây thành.
Nói thực, Đỗ Chân thực là một viên mãnh tướng, nhưng nếu như bàn về dũng mãnh, quân Đường tuyệt đối sẽ không thể so sánh được với quân Tống, thêm nữa sự gia tăng binh lực còn kém xa, tiến vào vòng vây, nhân mã của hắn lập tức bước vào trận chiến gian khổ, bị bên quân Tống giết hại.
Đỗ Chân không phá vây ngay lập tức, cho dù sự dũng mãnh của quân Tống, hắn lập tức phá vây chưa chắc đã thành công, nhưng hắn đến thử cũng không dám làm, vì hắn cần tranh thủ thời gian cho tuyến binh mã Trịnh Ngạn Hoa, dù toàn quân bị diệt đi chăng nữa, chỉ cần chủ soái Trịnh Ngạn Hoa có thể hủy được cầu nổi của người Tống thì cũng xứng đáng. Hủy bỏ cầu nổi, người Tống lại muốn vơ vét vật tư để làm cầu mới, lại còn cần thời gian mấy ngày, thời gian vàng bạc mấy ngày ấy, chỉ cần quân Đường nắm bắt được thời cơ cuộc chiến, tập trung các lộ binh mã tấn cong và tiêu diệt thì có thể xóa bỏ quân xâm lược.
Mà cái sự tính toán này, bọn họ thậm chí còn không kịp báo cho Kim Lăng, hôm nay quả nhiên đã ứng chiến, là sự bàn bạc của Trịnh Ngạn Hoa và cá nhân hắn, sứ mệnh của họ chỉ như con thiêu thân mà thôi, liều chết lao vào đám lửa hoàn thành sứ mệnh, còn về triều đình có nắm bắt được thời cơ cuộc chiến hay không, thì các quan văn võ trong triều phải tự phán đoán, hoặc là họ sẽ vứt bỏ cái cơ hội khó có được này, vẫn cứ chờ đợi một cách bị động co rút thành trì, nhưng đó đã không phải là chuyện mà hắn có thể hao tâm nữa, hắn là người Đường, là một viên Đường tướng, hắn tự biết thân phận của mình, chết không uổng.
Đỗ Chân quyết tâm chết để làm một mồi nhử khi nước gặp nạn, thấy bị chủ lực quân Tống bao vây không sợ hãi, mà hắn còn lấy làm mừng, hắn chỉ huy một bên kháng lại, một bên thì chuyển dời số lượng nhỏ của Triệu Quang Nghĩa, làm ra cái tư thái phá vây, cố gắng lôi kéo quân chủ lực quân Tống, vì chủ soái Trịnh Ngạn Hoa mà chiếm lấy thời gian vàng ngọc.
Chiến hạm của Trịnh Ngạn Hoa còn chưa đến bên cầu phao, liền gặp một trận mưa gió rền dữ, mỗi chiến hạm đều bị cắm đầy tên, chưa giao chiến mà đã thiệt nhân mã, lập tức có mấy chục hỏa thuyền phong tỏa mặt sông đại giang, đánh tới chiến hạm không hề nể nang.
“Tướng quân sớm đã có sự chuẩn bị!”
Trịnh Ngạn Hoa giật mình, lập tức nhìn về phía cột buồm xa xa rồi lại quay về phía binh sĩ hô: “Đã phát hiện ra quân Tống, tướng quân Đỗ Chân đã bị bao vây”.
Mặt Trịnh Ngạn Hoa biến sắc, tập kích bất ngờ, tập kích bất ngờ, công kích chưa có chuẩn bị mới gọi là tập kích bất ngờ, không thể ngờ kế giương đông kích tây này lại dễ dàng bị quân Tống phá được, xem ra, quân Tống sớm đã đoán được sự đến của hắn, hắn còn có thể đắc thủ sao?
Trong lòng tràn ngập hi vọng mình có thể dựa vào kỳ quân mà có được kết quả kỳ diệu, thật không ngờ Triệu tiết độ lại bị rơi vào nơi đáng hối hận, nhìn thấy hỏa thuyền lái tới bị thu, rồi hàng loạt tiếng hò reo ầm ĩ của người Tống càng ngày càng gần hắn, Triệu đại tướng quân quả nhiên đưa ra quyết định: “Đi!”
Một mũi tên chưa được bắn ra, vài huynh đệ đồng đội lấy tính mạng làm mồi nhử và Triệu tướng quân tung hoành đại giang giỏi thủy chiến đã tiền đội biến thành hậu đội, hậu đội biến thành tiền đội, dựa vào tốc độ vô địch, triển khai thủy quân đã được huấn luyện nghiêm chỉnh của hắn rat rước mặt quân Tống, sự cao siêu của việc điều khiển thuyền, trước khi hai quân giao đấu, họ bỏ trốn mất dạng.
Dương Hạo và Nghiêu Lưu bất chấp khó khăn chỉ huy cấm quân chiến sĩ đã từng được huấn luyện vội vàng và sơ lược biết cách điều khiển thuyền, một nửa lưu động nhờ vào lực nước Trường Giang, đi từ từ tiến về phía quân địch, do tốc độ thuyền chậm, các binh sĩ dùng lực ở hai bả vai dùng để gõ trống trận, tiếng trống gõ vang, sau đó họ thấy quân địch đến trước mặt và kỹ thuật điều khiển thuyền thành thạo liền xoay thuyền lại, sau đó lướt trên mặt nước như bay, nhanh đến mức chúng muốn đuổi cũng chẳng thể đuổi được.
Đội quân như vậy, làm sao có thể thất bại!
Dương Hạo thầm than thở, hắn giờ đã hiểu, sự nhanh và mạnh của con bướm nhỏ đập cánh, thế giới này đã có sự thay đổi rất mạnh mẽ, sự thay đổi này đã đủ để ảnh hưởng tới rất nhiều đại sự của lịch sử, nhưng có vài thứ không phải hắn có thể thay đổi được, thực lực quân sự, cục diện chính trị, nhân tính,……
Quân Đường nhiều năm gom góp, một quốc chúa đùa gió trêu trăng, trước mặt quân Tống, căn bản chẳng có sức mà kháng lại, vị tướng như Lâm Hổ Tử vẫn còn sống thì đã không ra nông nỗi này, song giờ hắn chẳng qua kéo dài vài ngày, để Đường Quốc kéo dài hơi tàn vài ngày, chẳng có ai giúp được Lý Dục, đến thần Phật cũng đành bất lực.
Đỗ Chân toàn thân nhuốm máu đứng ở trên cao nhìn xuống phía Thái Thạch cơ, nhìn về phía cột buồm di động, đã hiểu được kế hoạch tập kích đánh úp bị thất bại, nhân mã của Triệu soái bị hủy nhanh như vậy, sợ…sợ rằng chúng căn bản chưa từng giao đấu với quân Tống, hắn trở thành một binh tốt vô dụng bỏ đi, tất cả những cái đã có hy sinh hết sạch.
Đỗ Chân buồn bã, tình hình giờ hắn báo quốc, chỉ có thể một đường sinh nào đó cấp dưới thề sống chết, Đỗ Chân dẫn thân binh vệ đội đến ngăn chặn đường lui của Triệu Quang Nghĩa, vì các huynh đệ đồng chí mà giành lấy con đường sống, hắn dùng máu thét ra lệnh lập tức phá vây, còn mình thì dẫn thân binh vệ đội thắt cổ phải trái, đảm bảo lỗ thủng sẽ không bị quân Tống lấp kín.
Triệu Quang Nghĩa phân một nửa quân để Dương Hạo dẫn binh, kết quả cuộc ẩu đả liều chết của Đỗ Chân bị hắn phá ra một lỗ thủng, không khỏi vừa giận vừa sợ, Triệu Quang Nghĩa cũng không kiềm chế được, lập tức mặc giáp lao vào đoàn chiến, cầm lấy một cây côn thép, lao về phía Đỗ Chân, thân binh bên cạnh sợ hắn gặp nguy hiểm vội bảo vệ bên cạnh hắn, Triệu Quang Nghĩa cầm thanh côn khí thế hừng hực, đằng đằng sát khí lao đến.
Máu nhuốm đỏ chiến bào của Đỗ Chân, tay cầm cây thương, máu tươi chảy theo cây thương, đang cố gắng ngăn cản sự tấn công mãnh liệt của quân Tống, Triệu Quang Nghĩa đến, hét lớn một tiếng, tay cầm côn thép vung mạnh về phía Đỗ Chân.
Đỗ Chân còn chưa kịp nhìn xem đó là ai thì nghe thấy một tiếng sét đánh ngang tai, tiếng côn đập trúng vào đầu, Đỗ Chân lập tức giơ vai lên chặn ngang hét: “Khai”.
Tiếng “Keng” phát ra, thương côn tương giao, trường thương hơi cong, sau đó lại thẳng lại, hai vai Đỗ Chân run rẩy, bàn tay cũng run lên, không khỏi thầm giật mình: “Tên này là tên nào, côn mạnh quá”.
Chiếc côn kia văng ra, đại hán mặc giáp cầm côn xoay người, đứng ở phía không xa mượn thế lại tiếp tục đánh xuống, không để cho hắn có thời gian thở, trước sau phải trái Đỗ Chân toàn là người, muốn xê dịch cũng khó, đại thương không kịp đánh trả lại quân địch, dưới tình thế cấp bách chỉ có thể đưa ngang cây thương ra đỡ.
“Haiizzzz”. Côn thứ nhất vừa đỡ được thì côn thứ ba lại bổ tới, chỉ nghe thấy tiếng “Răng rắc”, đại thương trong tay Đỗ Chân không ngăn được lực cực mạnh từ cây côn thép bổ tới, thương gãy, tiếng côn giáng mạnh bổ vào đầu Đỗ Chân, máu tươi tóe ra, cây côn của Triệu Quang Nghĩa dường như bổ một mạch xuống dưới bụng.
Triệu Quang Nghĩa thu côn lại, nhìn đám quân Đường bỏ chạy, gằn giọng hét lớn: “Năm vạn giết một vạn, còn để chúng bao vây, bổn vương còn mặt mũi gì nữa? Đuổi theo!”
****
Dương Hạo thu thập tình hình của Thái Thạch cơ, dặn dò các thủ tướng men theo sông lập trạm canh gác ngoài ba mươi dặm, lúc này mới huy quân đến giúp Triệu Quang Nghĩa, đợi hắn đến, Triệu Quang Nghĩa đã đích thân dẫn đại quân đuổi theo giết quân Đường, bộ đội đến sau thu dọn chiến trường, Dương Hạo hỏi rõ chuyện gì đã xảy ra, lập tức đuổi theo hướng Triệu Quang Nghĩa.
Quân Đường tháo chạy về phía thành Đương Đồ gần đó, Đương Đồ là một tòa thành nhỏ, không có đại quân bảo vệ xung quanh, đợi họ chạy đến Đương Đồ, thấy truy binh vẫn bám riết không tha. Tòa thành nhỏ không chống lại được, nên lại phải liều mạng bỏ chạy, quân Tống lao vào thành, bắt đầu cuộc đánh giết mới.
Khi Dương Hạo đuổi đến nơi, chỉ thấy lửa chiến hừng hực trong thành, gian dâm, bắt người cướp của, người dân bị giết trong tay không có mảnh vũ khí đâu đâu cũng thấy, binh sĩ bị giết thậm chí đến cái chùa chiền cũng không bỏ qua. Tuy nói người Tống tín Phật khá đông, nhưng người không tín Phật cũng có. Trước đây Sài Thế Tông diệt Phật, lệnh phá hủy các pho tượng Phật, các sư tăng hoàn tục giờ rất nhiều đã làm quân quan hạ cấp trong quân, họ bất kính thần minh, lâm nguy mang theo đồ châu báu trốn vào trong chùa miếu, dân chúng coi chùa miếu ấy thành nơi bảo vệ cũng bị cướp bóc trắng trơn, cô gái nào có chút nhan sắc cũng bị cưỡng trước Phật đường.
Dương Hạo vừa kinh ngạc vừa tức giận, thấy binh sĩ như bọn thổ phỉ, làm các nơi tan tác, muốn ngăn lại cũng không đủ sức, đành tức giận lao đi tìm Triệu Quang Nghĩa.
Khi Dương Hạo gặp Triệu Quang Nghĩa, phẫn nộ bẩm: “Thiên Tuế, vương sư quân Tống ta tới Giang Nam, tên cần thảo phạt là Đường chúa, còn dân chúng kia, vài ngày nữa cũng sẽ trở thành con dân Đại Tống cả, sao lại để binh như đám thổ phỉ, tùy tiện bắt người cướp của thế kia”.
Triệu Quang Nghĩa không cho là đúng, mỉm cười nói: “Bổn vương đã sớm hẹn với tam quân, nếu tam quân dũng mãnh tấn công, được một thành thì có thể bắt người cướp của, giờ quân ta phá được Thái Thạch cơ, diệt được Đỗ Chân sở bộ, ai nấy đều thiện chiến không sợ chết, ta nên khao thưởng chứ, bổn vương há có thể thất tín với tam quân?”
“Thiên Tuế, thảo phạt Đường Quốc, dân chúng nào có tội tình gì, nhìn thấy bọn họ phải chịu oan ức, Thiên Tuế cũng chịu được sao?”
Triệu Quang Nghĩa cười ha ha nói: “Hiền thì không nắm binh, mà chẳng lẽ không quan tâm đến tài của. Dương tả sứ há có thể có lòng dạ đàn bà như vậy? Thê thiếp ngươi chết thảm ở Đường Quốc, lẽ nào không hận bọn Đường, sao lại xin tha mạng thay chúng vậy?”
Dương Hạo chắp tay nói: “Dương Hạo có hận, song không muốn tội tình đến với dân chúng vô tội, nếu binh sĩ mà như thổ phỉ, mất đi niềm tin của con dân Giang Nam, quân dân Giang Nam khó bảo đảm không dẫm vào vết xe đổ của người Thục. Mất đi thành an dân, quân kỷ nghiêm minh, thì sao có thể lấy được lòng dân?”
Triệu Quang Nghĩa dung túng cho bộ đội sở thuộc, còn khích lệ tam quân thề sống chết cống hiến, cũng là có ý tự làm ô nhục, đồng thời quân quyền trong tay, chiến công của bản thân nhuốm tì vết, đây là quyết định sớm định ra ở bờ tây Trường Giang, lời khuyên của Dương Hạo đương nhiên là không có tác dụng gì.
Nhưng hắn giờ vô cùng nể trọng Dương Hạo, kế giương đông kích tây của người Đường bị phá công là ở Dương Hạo, hắn cũng không muốn chỉ biết mình, mục đích hiện giờ đã đạt được, hắn cười tỏ vẻ biết thời biết thế nói: “Nếu trong thành không gặp chống cự, bổn vương còn cần phải hạ lệnh giết hại dân trong thành ư, Dương tả sứ có tấm lòng nhân hậu, song không thích hợp là người dẫn binh, thôi, bổn vương nể tình ngươi, thu binh là được chứ”.
Quân Tống tuy khi đánh cướp như thổ phỉ, nhưng cuối cùng quân đội cũng có quân kỷ nghiêm minh, gọi một tiếng lập tức về đội, Dương Hạo dẫn người dập tắt ngọn nửa ở các nơi trong thành, sau đó mang theo thân binh đi vòng xem nơi này một lượt, thấy Bích Túc và Thủy Nguyệt tiểu sư thái đã không còn ở đó, lúc này mới yên tâm.
Dắt ngựa quay trở về, nhìn thấy khắp nơi bị phá, chiến hỏa la liệt, Dương Hạo không khỏi tức giận, nhưng cũng không biết làm thế nào. Cùng với chiến loạn, tai ương đều là dân chúng chịu, cái gọi là nhân nghĩa chỉ tồn tại ở trong thần thoại sách sử.
Cái gọi là sự khác biệt giữa vương giả và quân đội khác cũng có ít thôi, lúc đó kiêu căng, dân chúng thường chịu sự chỉ huy của mình. Dương Hạo bùi ngùi thở dài: “Một ngày kia ta là soái thống binh cũng sẽ thạo thành sự lưu lạc của vô số người sao?”
“Nhưng ý chỉ của thống soái, phá bỏ chiến thời, xây lại sau chiến tranh có ảnh hưởng rất lớn. Cái gọi là không phá mà xây, máy móc chiến tranh nắm trong tay ta, còn hơn rất nhiều những cái có trong tay Lý Thị. Nếu không thể từ chối sứ mệnh lịch sử này, ta sẽ thử đi đón nhận nó.
Trận chiến Giang Nam này, là binh lính khó ta thống binh trước, cũng sau chẳng mấy thời gian, ta sẽ đích thân ra trận, cầm cung, cưỡi ngựa, dấy lên chiến trận ở tây bắc, hoặc là, ta sẽ trở thành một kẻ bại trận, hoặc là sẽ trở thành vương tể tây bắc. Chiến công, hậu nhân bình luận, lịch sử sẽ viết tên ta vào sử sách hay không đây?”
*********
“Sau trận chiến này, ta sẽ ghi danh sử sách!”
Triệu Quang Nghĩa ghìm cương ngựa, đắc ý nhìn bờ sông đối diện.
Cục diện đang phát triển có lợi cho bên quân Tống, Võ Ninh Khiêm đô giam nhân mã Hoàng Châu lục tục qua sông, tấn công chiếm Phàn sơn trại; hành doanh tả sương chiến trạo đô giam điền Khâm Tộ dẫn quân phá Lật Thủy( thuộc Giang Tô – TốNG QUốC), tấn công quân Nam Đường, giết đô thống Lý Hùng, mà Triệu Quang Nghĩa thì đích thân dẫn chủ lực lao tới Kim Lăng, sau đó Tào Bân kịp thời đuổi tới phối hợp với Triệu Quang Nghĩa.
Lý Dục vội vàng triệu tập thủy quân hơn mười vạn người trên sông Tần Hoài, dựa vào thành Giang Ninh để lập thế trận phòng thủ, đúng, phòng thủ vẫn là phòng thủ.
Triệu Quang Nghĩa hăng hái đối diện với đối thủ xác định mình trong một cái vòng không thể vượt qua, trận này đánh thoải mái vô cùng.
Triệu Quang Nghĩa ghìm ngựa đứng ở bờ sông, bên cạnh là giáp sĩ san sát, phía sau là quân đội đông nghìn nghịt. Bờ đối diện, quân Đường sẵn sàng chờ đón quân địch, đội hình san sát nhau đang ở tiền quân tiến hành điều động, như mạch nước ngầm lưu động. Song phương có mấy chục vạn quân, song lại lặng ngắt như tờ, chỉ có tiếng bước chân vang lên, tiếng trống khiến lòng họ chợt động, không khí bị áp lực ở quân mã, bộ quân và thủy quân Tống, đại quân hai bờ sông lưu động.
Dương Hạo cưỡi trên yên ngựa, lặng lẽ nhìn cục diện đôi bờ. Hắn qua một lượt thấy cục diện mấy chục vạn đại binh ở bờ đối diện, lần đó, song phương đều đã sẵn sàng, thống soái tam quân là nhất đế nhất hậu, giờ bên cạnh hắn hoặc sẽ nhận Hoàng đế của Tống Quốc, mà Hoàng đế bờ đối diện vẫn tránh ở trong đại viện thâm cung thành Kim Lăng không lộ diện, nhưng mà khí thế lần này căng thẳng vì đây là cuộc chiến then chốt của vệ quốc và diệt quốc.
Lần đó, hắn là một vị khách; Lần này, hắn là người xem, lần sau thì sao đây?
Tào Bân và Lý Hán Quỳnh đang một tả một hữu, điều động thủy binh, như một mỏ cặp, kìm chặt quân Đường, sau khi họ lay động trận thế quân Đường, Triệu Quang Nghĩa sẽ có thẻ phát động tổng tấn công, vừa mới phá hủy mười vạn đại quân, nhưng Triệu Quang Nghĩa không thích cách đánh này, giờ, người người theo dõi, hắn là thống soái tam quân, lẽ ra nhất mã đương tiến, há có thể bị người ta đoạt mất danh dự?
Hắn từ từ giơ roi ngựa lên, tam quân nín thở nhìn theo động tác của chủ soái, Triệu Quang Nghĩa vung roi giục ngựa, hét lớn: “Toàn quân, tấn công!” Câu vừa nói, chiến mã tiến về nước sông phía trước.
Dũng sĩ trái phải ngẩn người, lần lượt giục ngựa xông về phía trước, hò la phi về phía nước, mùa đông rét buốt lao vào nước để tấn công, thủy sư điều binh thấy chủ soái phát động, bất chấp trận hình tấn công có lợi nhất, lập tức tập trung vào chiến đấu. Triệu Quang Nghĩa lớn tiếng dọa người, làm tam quân Đường Quốc khiếp sợ, chúng vọi vàng phản lại.
Kim Lăng bảo vệ chiến, phát hỏa rồi.
Trận chiến này rốt cuộc thắng thế nào, người trong cục diện không thể nhìn rõ, Dương Hạo chỉ là bị động theo bên cạnh Triệu Quang Nghĩa, thúc ngựa, qua sông, trận địa địch, Triệu Quang Nghĩa dùng kiếm của hắn chém quân địch nghênh diện, tay cầm côn thép, sát khí đằng đằng đích thân lao về phía quân địch, tiếng chém giết, toát mồ hôi ra toàn chiến giáp, khi nghe thấy tiếng hét: “Người bắc rất mạnh, không thể địch lại được, mau lui, trở lại vị trí thủ thành!”
Tiếng hét inh tai nhức óc, quân Đường lập tức binh bại như núi đổ, quân Tống được họ cuốn theo, vừa đuổi vừa giết, sau khi vô số tử thi quân Đường nằm xuống, tàn binh thì rút vào trong thành, thế là…quân Tống thắng.
Hoàng Phủ Kế Huân cũng không biết quân Đường bại như thế nào, hắn quăng mũ cởi giáp trốn vào trong thành, kinh hồn bạt vía ngồi ở ghế, một lúc sau mới hoàn hồn. Hắn quan thần vệ thống quân đô chỉ huy sứ là đại tướng của Đường Quốc, nhưng hắn chưa bao giờ khuếch trương thanh thế, trong vạn mã thiên quân, mỗi một sự mãnh liệt đều mất đi vô số tính mạng, giống như nhành hoa bị chặt đứt.
Hắn được thân binh liều mạng che chở, trong mắt hắn tràn ngập bóng hình của quân Tống, tai dường như còn nghe được tiếng la hét của quân Tống, cuối cùng, hắn cảm thấy không thể đánh tiếp được nữa, nếu có đánh tiếp thì quân bảo vệ Kim Lăng sẽ bị tiêu diệt toàn bộ, hắn nhất định phải làm được gì đó cho triều đình, thế là hắn hét lớn: “Người bắc mạnh lắm, không địch lại được…”
Sự thực đã chứng minh hắn đúng, quân Đường quả nhiên đã bị đánh bại.
*****
Đêm đến gió bắc mang theo luồng không khí lạnh tràn vào toàn thành Kim Lăng.
Trong cung của Lý Dục, nội thị, quan nhân bước đi lại vội vàng, vẻ mặt vô cùng lo lắng, tin tức về mười vạn đại quân đã bị bại họ đã biết, Lý Dục ngồi đần ra ở trên ghế, tay buông thõng, lạnh ngắt.
Hơn mười vạn đại quân tham chiến bị rơi vào kết cục ấy, hắn đâu phải có trái tim băng giá. Quân cảm tử chết ở chiến trường, Lý Dục đến giờ vẫn chưa hiểu mười mấy vạn đại quân sao lại bại được, lẽ nào trời trừng phạt mình? Nếu không, mười mấy vạn đại quân sao có thể bại một cách dễ dàng như vậy? Tiểu sư phụ thần thông quảng đại tại sao lại không cáo mà từ biệt?
Lý Dục đăm chiêu, vẻ mặt vô cùng khó coi.
“Bệ hạ, Trần Kiều, Từ Huyễn cầu kiến”.
“Mau, mau mời vào”. Lý Dục giật mình, giờ nếu như có ai đó hiến kế, hắn chắc chắn sẽ nghe theo.
Trần Kiều vừa gặp Lý Dục, phẫn nộ nói: “Bệ hạ, hôm nay quân ta thảm bại, thần vệ quân đô chỉ huy Hoàng Phủ Kế Huân lâm trận bỏ chạy, khiến nhuệ khí tam quân bị mất sạch, bệ hạ không trảm tên này để lấy lại nghiêm pháp, thì ý chí tam quân sẽ mất, không thể chiến đấu được nữa”.
“Lý Dục giật mình nói: “Cái gì? Hoàng Phủ Kế Huân? Hoàng Phủ Kế Huân thẳng thắn vậy, sao…sao lại…?”
Trần Kiều tức giận giậm chân nói: “Bệ hạ, Hoàng Phủ Kế Huân chỉ có trung dũng một nửa thôi, hơn mười vạn đại quân bối thành, tấn công cái là quân Tống phải tan rã”.
Trần kiều thuật lại chuyện Hoàng Phủ Kế Huân lâm trận cởi giáp và câu nói ‘người bắc mạnh lắm, không thể địch lại’ cho Lý Dục nghe, rồi lại nói tiếp: “Hắn còn xứng đáng là thần vệ quân chỉ huy sứ Trịnh Bất Phàm nói với thần rằng, khi đó hắn đứng gần bên trái Hoàng Phủ Kế Huân, Hoàng Phủ Kế Huân nói vậy xong liền quay đầu bỏ chạy, tam quân mất đi nhuệ khí, thất bại thảm hại.
Trịnh tướng quân còn nói, Hoàng Phủ Kế Huân sợ hãi quân Tống, nói là người Tống không thể địch lại nổi, khi nghe tin quân ta bị bại, còn nói là ‘người bắc mạnh lắm, ngoài người Đường ta có thẻ địch lại, giờ thì sao? Hắn là thần vệ quân đô chỉ huy sứ, chủ tướng oai phong vô cùng, chưa chiến đã nghĩ đến bại, quân ta sao lại bại chứ?
Chiến bại ngày hôm nay, Trịnh tướng quân đi gặp Hoàng Phủ Kế Huân, nói quân Tống có chiến thắng mới, binh lính kiêu ngạo vô cùng, tất sẽ sơ hở phòng bị, binh sĩ cảm tử có thể đêm hôm tập kích doanh trại địch, không ngờ Hoàng Phủ Kế Huân nghe vậy sợ hãi, phản đối và quát Triệu tướng quân, Triệu tướng quân hơi cãi lại, hắn bèn thẹn quá thành giận, trách Triệu Bất Phàm làm nhiễu loạn lòng dân, lệnh thân binh trói hắn lại, quất cho vài roi, Trịnh tướng quân vô cùng phẫn nộ, lúc này mới đi báo với thần, nếu không…thần cũng giống như Bệ hạ, chẳng hay biết gì”.
Lý Dục nghe vậy tức giận run người, không kiềm chế được quát: “Người đâu, người đâu, nhanh chóng đưa Hoàng Phủ Kế Huân lại đây chịu tội! Lập tức cho hắn vào ngục!”
Nội thị vội chạy đi truyền chỉ, Lý Dục nói xong ngồi sụp xuống ghế, lẩm bẩm: “Giờ…quân Tống đã hưu binh Kim Lăng, Trẫm…Trẫm phải làm gì đây?”
Từ Huyễn liền an ủi nói: “Bệ hạ, các châu phủ được triều đình ta cai quản, mười vạn thủy quân Hồ Khẩu không bị đả thương, tuy sự việc xảy ra thế này, chưa chắc đã không có cách giải quyết, bệ hạ chớ nên nổi giận”.
Lý Dục trừng mắt nói: Tình hình hiện nay, Trẫm có thể làm được gì chứ?”
Trần Kiều nói: “Thần và Từ đại nhân đã bàn bạc với nhau, thần cho rằng, bệ hạ đã diệt trừ gian nịnh, quân dũng mãnh thiện chiến, quân thủ thành trì, binh sĩ không đủ sao, có thể đưa thanh niên trai tráng tập trung lại thủ thành; Đồng thời phái người phá vây ra, viện trợ cho mười vạn đại quân Hồ Khẩu, thêm nữa hạ thánh chỉ, kêu gọi các châu phủ giúp đỡ, nội ngoại hợp tác, cái nguy của người Tống chưa chắc đã không giải được”.
Lý Dục tuyệt vọng nói: “Triệu Quang Nghĩa giương giương mắt hổ dưới thành, hắn há có thể để Trẫm phòng bị?”
Từ Huyễn bước đi thong thả, thản nhiên nói: “Thần nguyện vì bệ hạ mà làm sứ giả, kéo dài thời gian bên quân Tống”.
“Từ Huyễn? Không gặp, nếu cần bổn vương hưu binh, ngoài Lý Dục phơi thịt ra xưng hàng với bổn vương ra, Từ Huyễn đến làm cái gì? Bảo hắn về đi”.
“Từ đã!”
Tào Bân tiến lên phía trước nói: “Thiên Tuế, Lý Dục không hàng, lại còn đưa sứ giả tới, danh nghĩa là cầu hòa, thực chất là kéo dài thời gian ra. Đại quân triều đình gặp tình thế hết sức nguy ngập, đương nhiên không thể đồng ý điều kiện gì của hắn, nhưng thành Kim Lăng tường dày, dễ thủ mà khó công, nếu như để hắn nghỉ ngơi vài bữa, khí thế quân thủ trong thành mất đi, là có lợi với chúng ta. Hơn nữa, nhất lộ tấn công của quân ta chiếm Kim Lăng, các thành trì Giang Nam vẫn nằm trong tay Lý Dục, Hồ Khẩu càng có mấy vạn đại binh chờ lệnh, nếu đi đánh, khó tránh khỏi điều động binh lực, giờ nếu như vây lấy Kim Lăng có thể dẹp các đường giúp đỡ quân Đường. Mà lương thảo quân nhu của quân ta giờ tiếp tế không kịp, Đường Quốc kiên trì vườn không nhà trống, chẳng có cách nào bổ sung, cần phải đợi đồ trong nước vận chuyển đến, thời gian chờ đợi kéo dài. Thứ tư, đường binh tốt tập kích bất ngờ đã mỏi mệt không chịu nổi, cũng cần có thời gian nghỉ ngơi, Thiên Tuế, không gặp Từ Huyễn sao”.
Dương Hạo cũng tiến lên trước nói: “Tào tướng quân nói phải lắm, nếu có thể ép Lý Dục cùng đường chủ động đầu hàng, không chiến mà khuất phục, thực tế tấn công sẽ khiến cho sinh linh kêu thán. Kim Lăng phồn hoa, không kém Khai Phong, nếu như ép hắn, Lý Dục học Lưu Kế Hưng của Hán Quốc, cho toàn bộ thành một bó đuốc, há không tiếc sao? Huống hồ, giờ kiên thành tuyệt đối không chỉ dựa vào nhân lực thì có thể leo lên mà tấn công, cần chế tạo ra các loại vũ khí công thành cũng cần có thời gian, giờ bọn họ cần thời gian để điều binh khiển tướng, ta thì cũng cần thời gian để chuẩn bị cho tốt, có thể tính được kế nào thì tính, còn về giảng hòa…trận chiến này đánh hay không đánh, cần xem xem Lý Dục hàng hay không hàng; Trận chiến này là thắng hay bại, cần xem xem thực lực mạnh yếu của song phương, Từ Huyễn chỉ khéo nói, có thể xoay đổi thời cuộc sao, hắn là ai chứ?”
Triệu Quang Nghĩa nhướn mày, mặt giãn ra vui vẻ nói: “Hai vị đại nhân nói đều có lý. Được, người đâu, đánh trống lên, kêu Từ Huyễn tới gặp ta”.
Chiến tướng trong lều lớn nhiều vô kể, ai ai cũng mặc bộ giáp, đứng trang nghiêm sừng sững như núi, nhìn vô cùng nghiêm túc, khí thế giết, khiến người ta phải khiếp sợ. Từ Huyễn đội cao quan, ngang nhiên vào lều, thấy tình hình không nề hà, ung dung tự nhiên đi đến. Đến trước mặt Triệu Quang Nghĩa, Từ Huyễn thi lễ nói: “Đường Quốc Từ Huyễn, bái kiến Tấn Vương”.
Triệu Quang Nghĩa cười hỏi: “Bổn vương phụng lệnh Hoàng thượng thảo phạt nhị thần, giờ binh đang vây thành Kim Lăng, Lý Dục không ra mà thỉnh tội, lại còn phái Từ đại học sĩ ra, xin hỏi có ý gì vậy?”
Từ Huyễn nghiêm túc đáp: “Tấn Vương nói vậy sai rồi, Đường Quốc ta đã hồi phục quốc hiệu, xưng Hoàng đế. Giờ chúa ta vẫn là Hoàng đế Đường Quốc, là độc nhất vô nhị với quý quốc quân thượng, đều là chí tôn, hà tất lại nói là nhị thần - bề tôi thờ hai triều đại (quan triều đại trước đầu hàng và ra làm quan cho triều đại sau)? Từ Huyễn phụng quốc thư, lần này đi sứ, gặp Hoàng đế bệ hạ quý quốc giáp mặt Trần Từ, Tấn Vương có thân thế cao quý, không phải là nhân vật bình thường, há lại coi đại sự quốc gia này như vậy là có ý gì?”
Triệu Quang Nghĩa bật cười nói: “Hóa ra Từ đại học sĩ lần này xuất thành xuất sứ đến Tống Quốc ta, lãnh thổ quý quốc giờ chẳng phải là trong thành Kim Lăng sao? Ha ha, thất kính, thất kính, thực sự thất kính, không biết Hoàng đế Kim Lăng quý quốc có lời gì không?”
Các tướng đứng trong trại đều cười ồ lên, Từ Huyễn vẫn rất bình tĩnh, cũng cười theo một lúc rồi điềm tĩnh nói: “Từ Huyễn phụng chỉ Hoàng đế ta, mong gặp được Hoàng đế bệ hạ Tống Quốc, hưu binh giải hòa. Nếu Tấn Vương làm chủ, thế thì Từ Huyễn sẽ đưa quốc thư cho Tấn Vương, bàn bạc với Tấn Vương”.
Nói rồi, Từ Huyễn mỉm cười, tay hơi cong, rút ra từ trong một cái quyển vải, tháo sợi lụa vàng ra, tiến lên một bước dâng.
Triệu Quang Nghĩa thấy quốc thư trong tay Từ Huyễn, hai hàng mày rậm rạp nhướn lên, mặt đen xì xì, tức giận vô cùng, nhưng không biết làm thế nào. Trong lều lặng ngắt như tờ, các tướng lĩnh không ai nói gì, lặng yên nín thở quan sát, Triệu Quang Nghĩa im lặng một lúc lâu, rồi bỗng bật cười, mặt mày vui vẻ nói: “Từ đại học sĩ nói gì lạ vậy, đại sự quân quốc Tống Quốc được quyết định bởi thánh chỉ, Triệu Quang Nghĩa nào dám làm chủ. Từ đại học sĩ lần này lấy thân phận quốc sứ tới gặp Hoàng đế của chúng tôi, bổn vương há dám ngăn cản, giờ đâu đâu cũng là loạn binh, con đường hướng bắc không hề an toàn, hôm nay trời cũng đã tối rồi, mời Từ đại học sĩ vào trong doanh trại bổn vương nghỉ ngơi tạm, sáng sớm ngày mai, bổn vương sẽ đích thân phái người đưa các người tới kinh”.
Từ Huyễn mỉm cười, nhận lại quốc thư, cung kính đáp: “Đa tạ Tấn Vương Thiên Tuế”.
Sau khi Từ Huyễn ra ngoài, văn võ tướng quân ra khỏi lều, Triệu Quang Nghĩa ngồi trước bàn, trán nhăn lại, tức giận, quát: “Ân Duy, vào đây”.
Một viên quan đứng trước lều bước lên phía trước, cung kính thi lễ. Người này là thân tín của Triệu Quang Nghĩa, nguyên là một công tào ở Khai Phong, người này vô cùng thông minh, lo liệu mọi việc rất được, Triệu Quang Nghĩa khong thể không mang theo một thân tín như này theo bên mình, hắn cùng ở trong quân trại, chỉ đứng trước lều nghe ngóng sự tình.
Triệu Quang Nghĩa dặn dò nói: “Ân Duy, ngươi mau chóng đem trăm tên đại hán biết sử dụng thông thuộc thuyền bè, chọn ra một cái thuyền nhanh, đồng thời chuẩn bị khoái mã xe kiệu, gặp nước dùng thuyền. Gặp đường dùng ngựa, hộ tống bọn họ, ngày đêm đưa tới Biện Lương, nếu như Từ Huyễn có ý kéo dài, ngươi phải coi chúng như mạng chó chết, kéo dài cũng phải kéo tới Biện Lương, không được để họ trì hoãn một ngày nào giữa đường “.
Ân Duy ngầm hiểu, lập tức nhận lệnh.
Triệu Quang Nghĩa hừ nhạt một tiếng, nói: “Từ Huyễn hao tâm tổn khí, muốn kéo dài thời gian cho Lý Dục, thì có thể thay đổi được gì chứ? Bổn vương giờ vừa tĩnh dưỡng binh mã, vừa chuẩn bị khí giới, đợi ngươi quay lại, lập tức sẽ san bằng Kim Lăng, dựa vào tài khéo ăn khéo nói của ngươi thì có tác dụng gì chứ! Ha ha!”
******
“Dương tả sứ, ôi, tại hạ khi ở trong thành nghe nói Dương tả sứ có phúc lớn mạng lớn, rơi xuống nước mà không chết, hôm nay được gặp, mới biết lời đồn có thật”.
Dương Hạo đi ra lều chủ tướng thì gặp một sứ tiết đoàn của Đường Quốc vô cùng to lớn, có mấy chục người với thân phận là tòng sứ, tướng từ trong lều đi ra nhìn thấy một sứ tiết đoàn, cảm thấy vô cùng lạ, đứng ở đó chỉ chỉ trỏ trỏ, bàn tán với nhau. Dương Hạo cũng dừng chân, vừa đúng lúc có một quan văn bước ra từ sứ đoàn thi lễ với hắn.
Dương Hạo nhìn, chẳng có chút ấn tượng gì về người này, liền ngạc nhiên nói: “Vị huynh đài là…Dương mỗ quen ngươi sao?”
Vị quan văn đó vuốt vuốt chòm râu cười nói: “Hạ quan là Lý Thính Phong là Đường quan Hồng Lư tự của Đường Quốc, đã từng cùng Dạ phu nhân tiếp đãi Dương tả sứ, Dương tả sứ quý nhân hay quên, hạ quan nghĩ tất là bất nhận ra”.
Dương Hạo cười nói: “Trí nhớ tại hạ kém quá…”
Hắn đang nói, Lý Thính Phong cười theo, tay trái vỗ vào hắn, nhét một tờ giấy lấy từ trong ống tay ra đưa cho hắn, Dương Hạo ngạc nhiên, cầm lấy giấy, cười nói: “Tại hạ vụng quá, không giỏi nhớ người, nói thế này, ta nhớ ra rồi. Thế…lần này Dạ Vũ Dạ đại nhân không cùng đi xuất sứ với Từ đại nhân sao?”
Chương 373:Đàm phán.
Người đó nói: “Sứ tiết Tống Quốc, sứ tiết Khiết Đan ngay cả xảy ra chuyện trong thành, bệ hạ thì tức giận, bãi đi chức quan của Dạ đại nhân, Dạ đại nhân đã về quê nhà Bành Thành rồi”.
Dương Hạo ngây người, khẽ thở dài nói: “Tái ông mất ngựa, yên tri phi phúc…giờ quan này…bãi rồi cũng tốt. Ha ha, lần trước xuất sứ quý quốc, nhận được khoản đãi, Dương mỗ luôn khắc ghi trong lòng, hôm nay lại gặp túc hạ trong doanh ta, hôm nay Dương mỗ có móc câu con cá béo ú ở sông tần Hoài, đúng lúc đến cùng nhậu, Lý Đường quan có thể uống cùng Dương mỗ vài chén được chứ?”
Lý Thính Phong mặt vui mừng nói: “Đại nhân nói vậy, hạ quan nào dám chối từ”.
Vui mừng đi theo Dương Hạo, các vị quan trong sứ tiết đoàn thấy Lý Thính Phong nhanh chóng giao hảo với quan bậc trên của Tống Quốc, nhìn hắn đầy vẻ thán phục.
Đến trong lều của Dương Hạo, Dương Hạo bảo quân lui đi, chỉ để lại thân tín bảo vệ cửa lều, mở giấy ra, chỉ thấy bên trên có vài tên người, nghiêm mặt hỏi: “Các hạ đây là gì vậy?”
Lý Thính Phong vào lều, cười không nhìn nữa, hắn bình tĩnh nhìn Trình Vũ đứng bảo vệ ở cửa lều, hỏi: “Người này có đáng tin không?”
Dương Hạo trả lời: “Là thuộc hạ của ta, không phải lo đâu”.
Lý Thính Phong gật đầu, chắp tay nói: “Lý mỗ được Đại Lang báo tin, biết đại nhân giờ có quan hệ với đẳng ta. Hôm nay nguy hiểm hết sức, có việc cần nhờ đại nhân, mong đại nhân đưa tay giúp đỡ”.
Dương Hạo giật mình, thất thanh nói: “Đại Lang? Các hạ cũng là Thừa…người trong Thừa Tự đường?”
Lý Thính Phong mỉm cười, nói: “Đúng”.
Dương Hạo nhìn không chớp mắt hỏi: “Không biết Lý huynh đến tìm ta có chuyện gì?”
Lý Thính Phong nói: “Chẳng qua là phòng mà thôi. Không giấu gì đại nhân, Triệu Quan Gia ý xuất binh thảo phạt Đường là chắc chắn, chúng ta đã được tin, sản nghiệp nội cảnh Đường Quốc, tộc nhân quan trọng, chỗ nên dời, chỗ nên trốn, đã bắt đầu có sự chuẩn bị rồi”.
Dương Hạo thầm nghĩ: “Thừa Tự đường này thực to lớn, sợ bất cứ thế lực mạnh nào cũng có tai mắt của họ, đây quả thực là một hệ thống gián điệp vô khổng bất nhập, nếu có thể đến giúp họ, muốn dụng binh như thần có gì khó. Nghe khẩu khí của hắn, và ý của Thôi Đại Lang, giữa chúng không phụ thuộc, hắn họ Lý, hay cũng là nhân vật quan trọng trong thất tông ngũ tính? Nếu như vậy, năng lượng vĩ đại có thể dùng được ở Thừa Tự đường không thể lập đại sự, thực là tổ chức quy mô của Thừa Tự đường, thất tông ngũ tính của Thừa Tự đường là chính, hình thức thì tương đương với thương gia hội, chẳng có duyên cớ nào lấy lực lượng các thị cùng thống nhất dùng. Giờ ta hợp tác với Thừa Tự đường, nếu có thể thông qua Thôi Đại Lang, có mối quan hệ với các thị tộc khác, thì mới có thể xoay chuyển được cục diện, hóa bị động thành chủ động, không bị chúng dắt mũi, ngược lại có thể dễ dàng không chế chúng trong lòng bàn tay”.
Dương Hạo nghĩ đến đây, liền tỏ ý thân thiết nói: “Lý huynh mời ngồi, thế các người sớm đã có sự chuẩn bị, không biết muốn Dương mỗ làm gì vậy?”
Lý Thính Phong nói: “Có vài tài sản song không thể kịp thời ra tay, trong tộc ta có vài người vì thân phận đặc biệt công khai cũng không tiện nói đi thì đi, ví như tại hạ và người nhà, ở lại trong thành, mãi đến hôm nay, giờ chúng ta muốn đi thì cũng không đi được, nếu Lý Dục hiến thành đầu hàng, vạn nghìn sinh linh trong thành hoặc những tai bay vạ gió khó tránh được, bằng không, đại quân một khi tấn công thành, thì coi như Triệu Quan Gia đích thân chỉ huy cũng không thể bắt người đốt giết, trong lúc quân loạn cũng không thể khống chế được, như vậy thì tộc người chúng ta ở lại trong thành càng nguy hiểm”.
Dương Hạo giật mình nói: “Lý huynh có ý là…bảo ta phá thành cứu lấy bọn họ?”
Lý Thính Phong thản nhiên nói: “Đúng vậy”.
Dương Hạo nói: “Lý huynh đến tìm ta, Dương mỗ không thể từ chối, nhưng mà, một khi đại quân phá thành, nơi nơi có báo động, khói lửa khắp nơi, chiến tranh loạn lạc, tại hạ không có nghìn tay nghìn mắt, nào có thể lo liệu được những người trong danh sách thoát khỏi nguy hiểm được?”
Lý Thính Phong cười nói: “Điều này không có gì khó cả, một khi phá thành, tộc người chúng tôi lập tức sẽ tập trung đến một địa điểm đã hẹn, đại nhân vào thành xong thì đi đến chỗ đó, ngăn được quân binh giết người, đương nhiên có thể bảo vệ được chúng ta rồi”.
Dương Hạo bừng tỉnh hiểu ra, nghĩ đi nghĩ lại, trong thành tiện cho họ tập trung, nơi mà mình biết lại không nhiều, nghĩ đi nghĩ lại ngoài cái Lễ Binh viện, Kê Minh tự, thì cũng chẳng còn nơi nào nữa. Hắn bỗng nghĩ đến một nơi, vội vỗ vào trán mình nói: “Thế…hẹn nhau ở Giang Nam thư viện, thấy sao? Ở đó là thư viện, không có tiền tài, nữ tử, nếu tướng lĩnh như thổ phỉ, cũng chưa chắc đã chọn nơi đó, nếu như có phá thành thật, ta sẽ đến thẳng nơi này”.
Lý Thính Phong vui vẻ nói: “Như vậy là tốt nhất, ta lập tức sẽ truyền tin này về trong thành, hiểu dụ tộc nhân của các nơi”. Nói rồi, hắn rút từ ngực ra một cái bọc, đặt lên trên bàn, mở cái bọc đó ra là vàng bạc châu báu.
Dương Hạo chau mày, nói: “Ta và Lý huynh, kết giao với nhau không vì tiền tài, chỗ vàng bạc châu báu này không cần dùng đến đâu”.
Lý Thính Phong cười ha ha nói: “Đại nhân, ngươi nói Từ đại học sĩ xuất sứ Biện Lương, có biết bao quan viên cố sống cố chết đâm vào cái sứ đoàn? Họ đều muốn có bí quyết trước, khẩn cầu các vị tướng quân, bảo đảm nhà họ bình an. Giờ nghĩ các vị tướng quân tất đang hoạt động, chỗ tài của này của ta, chỉ là chút ít thôi, đại nhân đồng ý nhận lấy, mà không nhận thì nó giao cho Tấn Vương”.
Hắn cười dài và đứng dậy, chắp tay nói: “Lý mỗ còn lưu lại lâu sẽ gây bất lợi cho đại nhân, xin cáo từ”.
Dương Hạo tiễn hắn tới cửa lều, nhìn thấy sứ giả Đường Quốc, Tào Bân, Tào Hàn đi ra, gật đầu khom người thi lễ, Tào Hàn đứng ở cửa mỉm cười và nói gì đó với hắn, bỗng nhìn thấy Dương Hạo, thấy trong lều Dương Hạo đi ra một sứ tiết Đường Quốc, Tào Hàn cười ngụ ý với hắn, chắp tay thi lễ xa, rồi mới xoay người vào trong lều.
Dương Hạo thấy vậy không khỏi lắc đầu: “Tai vạ đến nơi tự bay, Giang Nam quan lại đã bawtd đầu tìm lối ra, nhưng Lý Dục…lối ra của ngơi ở đâu vậy?”
******
Đầu thành Kim Lăng, Hoàng La Tản Cái Hạ, Lý Dục đang đích thân tuần thành, ủng hộ sĩ khí tam quân.
Đầu thành, giáp sĩ san sát, trong đó có rất nhiều binh sĩ đều đội giáp trắng, loại nón giáp sắt/khôi giáp dùng giấy làm, bình thường là lấy vải cứng dán lên phần khung, rồi sau đó lấy giấy dán lên, vô cùng nhẹ, chất lượng lại ngăn cản được cung nỏ, gọi là giấy giáp, bình thường cũng sẽ dựa vào màu vải mà trang trí các loại hình vẽ, giờ Lý Dục đều nắm các tráng đinh trai tráng sĩ nông công thương trong thành, khôi giáp tự chế vội vã, không nhuộm màu cũng chưa tô điểm gì, còn về bên trong không ăn bớt nguyên vật liệu, thì không thể biết được.
Dân chúng Kim Lăng thường xuyên nhìn thấy Quốc Chúa Lý Dục, khi hắn xuất cung, hoặc là đi vào chùa chiền bái Phật, hoặc là đi du lãm sông Tần Hoài, lần này vẫn là nhìn thấy long bào của hắn, đầu đội vương miện, uy nghi đi tuần tra tam quân.
Tiếc là khi cổ vũ sĩ khí tam quân, bộ mặt vui buồn của Lý Dục không thể che dấu, hắn chau mày, bộ dạng lo lắng. Một loạt những binh giáp trắng cầm đao thương đứng ở đầu thành, khi nghe tiếng bước chân Tống Quốc dưới thành điều động, những binh sĩ chưa từng được huấn luyện, chưa từng thấy chém giết chiến trận thì sợ hãi mặt tái xanh, Lý Dục ở chỗ bọn họ, xung quanh là giáp trắng/bạch giáp, cứ như đưa ma.
“Từ Huyễn có thể hoàn thành sứ mệnh không? Thủ quân Hồ Khẩu khi nào có thể cứu trợ? Cần Vương của Trẫm đều ở đâu hết rồi?”
Lý Dục mù tịt nhìn doanh trại Tống Quốc dài liên miên không thấy đuôi đâu cả, nối tiếp nhau về phía bắc, lại nhìn về phương hướng Khai Phong, cái tên Triệu Đại Lang thô bỉ bất văn, bất kính thần Phật, chỉ là một thối quân mà thôi, sao lại có thể kiêu ngạo vậy, may mắn vậy, trở thành bá chủ Trung Nguyên? Trẫm…lần này có thể thoát khỏi bàn tay quỷ dữ của hắn không đây? Cứu binh, cứu binh rốt cuộc ở đâu?”
Da Luật Văn từng để cho hắn một cơ hội, đầu tiên để hắn vui mừng an nhàn thụ hưởng cuộc sống, và bắt đầu dã tâm xưng bá Trung Nguyên, hắn từng mơ tưởng hợp tác với Khiết Đan, một nam một bắc đánh Tống, rồi từ nay về sao làm cửu ngũ chí tôn của toàn phương nam, nhưng…
Nhưng cái tên Dương Hạo đáng chết lại sống trở lại, Da Luật Văn lại thực đáng chết đi, giờ cũng không biết Khánh Vương mưu phản của bắc quốc có thành công hay không, nếu hắn thành công, thì cái khế ước của mình có hiệu lực, vấn đề là, nếu như hắn thành công, mình có thể kéo dài tới ngày đó sao? Thượng Kinh, giờ sao rồi? Da Luật Hiền là Đế vương có được quốc gia cường mạnh, hắn…giờ đã làm con quỷ dưới đao Khánh Vương rồi sao?
******
Thành Thượng Kinh, một đoàn tướng lĩnh đang đi tuần thành.
Đi ở giữa là một viên nữ tướng, người mặc bộ trường bào màu lam, khoác ngoài áo giáp, trước ngực là ngọc kính bảo hộ sáng chói, đầu đội mũ lông cáo, trên mũ có lông trĩ bay bay, da trắng môi đỏ, khuôn mặt đẹp vạn phần, oai hùng hiên ngang, bước chân đi rõ ràng, chính là hoàng hậu Khiết Đan Tiêu Xước.
Bên phải cô là một viên nữ tướng, mặc chiến bào trắng, sườn dắt bội kiếm, trên vai đeo cung, sau lưng là lông chim, mắt ngọc mày ngài, đoan trang quyến rũ, là một thân tín được sùng ái lục cung thượng quan La Đông Nhi.
Bên trái là một thanh niên võ tướng anh tú, chính là đại thích ẩn ti, cung vệ quân nguyên soái Da Luật Hưu Ca, sau đó có mấy viên tướng lĩnh, La Khắc Địch, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu. Bọn họ ai nấy đều chiến bào, giờ cũng là tướng lĩnh trong cung vệ quân, sau khi giết lui phản quân, Tiêu Xước lập tức phong tướng cho họ, thành Lang quân, giống như tiến sĩ trong kỳ thi của Tống Quốc, có nghĩa là có thể làm quan. Quả nhiên, Da Luật Hiền sau khi mang thương tuần thành, thì một đạo chiếu lệnh được ban, ba người họ trở thành đại tướng cung vệ quân.
Tiêu Xước sắp xếp Thượng Kinh thiết dũng, mỗi ngày cô đều tuần thành, xử lý quốc sự, ban thưởng cho quan binh thủ thành, những tên nào tung tin vịt ra thì giết bất luận tội, khó khăn chống đỡ cục diện Thượng Kinh. Hôm qua, nam viện cuối cùng cũng đã đưa tin tới, quân Tống đã nam phạt.
Tiêu Xước nghe vậy không khỏi thở dài, người Tống lần này nam phạt, chứng minh là Tống Quốc đã quyết định vứt bỏ cơ hội bắc phạt, lúc này, cô mới hạ chiếu lệnh cho nam viện đại vương Da Luật Tà Chẩn phân binh phó viện, giải vây Thượng Kinh. Tiêu Xước không lệnh cho Da Luật Tà Chẩn phân binh đi Thượng Kinh, Thượng Kinh được cô phòng ngự thiết dũng, Khánh Vương tuy ngày đêm công thành, tạm thời cũng không có cơ hội mà tiến thêm. Tiêu Xước lệnh cho Da Luật Tà Chẩn phân binh tập kích bổ sung bộ tộc lãnh địa, đặc biệt mấy người ủng hộ kiên định nhất đối với Khánh Vương, ví như bạch cam bộ lạc.
Trước lúc này, cô đã phái các tù lĩnh xuất thành bí mật tiếp xúc với các đồng phản, và kẻ đầu cơ chiến tranh phản loạn ý chí vô cùng kiên định của cải kim tiền, mỹ sắc, phân hóa phản quân, tin tưởng mấy bộ tộc phản loạn bị máu rửa bộ lạc xong, công phu cô dự trước lên men để phản quân tứ phân ngũ liệt.
Quá trình tuần tra đã xong, Tiêu Xước về cung, trước tiên đi thăm Hoàng đế, Hoàng đế bộ dáng già cả, bị hôn mê, bất tỉnh nhân sự. Tuy nói hai người không có tình cảm gì, song vẫn là phu thê, nhìn Da Luật Hiền hai má hóp lại trắng xanh, bộ dạng hấp hối, Tiêu Xước mắt đẫm lệ.
Cô không chỉ buồn thương cho Hoàng đế, mà cũng tự buồn thương cho mình. Da Luật Hiền vốn gầy còm ốm yếu, sau khi bị trúng kiếm độc thì bệnh càng nặng hơn, cả ngày chỉ hôn mê, lúc tỉnh lúc không, thời gian hôn mê thì nhiều mà thời gian tỉnh chẳng được bao lâu, thực ra không chỉ là cô, mà người trong tẩm cung Hoàng đế đều biết, Da Luật Hiền giờ là một cái xác sống, chỉ dựa vào dược vật đem mạng đi mà thôi.
Tiêu Xước thành thân với Hoàng đế không lâu, không có con, nếu Hoàng đế băng hà không người nối nghiệp, lúc đó phải làm sao đây? Gia tộc Da Luật vì xã tắc giang sơn, vì tình đoàn kết các bộ lạc, sẽ chọn ra một Hoàng đế mới, thậm chí giảng hòa với phản quân cũng không phải là không có khả năng, còn mình thì sao? Cảnh tượng cuối cùng chính là bị bãi chức thái hậu, chuyển lãnh cung, từ đó về sau bị giam cầm trong một góc cung điện, cách biệt với thế giới bên ngoài, sống vậy cả quãng đời còn lại.
Một Thái hậu mười bảy tuổi…
Nước mắt lăn dài trên má nàng, đôi vai non nớt khẽ run run, lúc này ai còn có thể nói nàng là một nữ trung hào kiệt sát phạt tuyệt đoạn, dẫn ngàn quân, là nữ đế Khiết Đan nữa? Tiếng thút thít vọng ra từ trong tẩm cung, các quan nhân nội thị đều bị đuổi rồi, ai cũng sẽ không thấy cô rơi nước mắt.
Khi cô đi khỏi tẩm cung, thay bộ áo khác, áo màu xanh, cổ tay áo có điểm vài bông hoa thêu, bộ váy ôm lấy eo thon được buộc bằng một sợi dây, mái tóc đen bóng được búi cao. Vai nhỏ nhắn, đi lại nhẹ nhàng không tiếng động, nhưng khuôn mặt thì lạnh lùng vô cùng, uy nghiêm vô cùng, khiến người ta không dám nhìn, ai cũng sẽ không ngờ tới, một vị Hoàng hậu như vậy, cô cũng có lúc mềm yếu, cũng có lúc khóc.
Cô khẽ thở dài, chỉ thấy trong cung điện còn lạnh băng hơn cả phía đầu thành, cô khẽ chớp mắt nhìn quanh, tất cả nội thị trong cung nhìn thấy cô đều nơm nớp lo sợ không ai dám nhìn trực diện, trong cung điện lo lớn, không một ai nói chuyện. Tiêu Xước buồn rã rời, thở khẽ, phất tay áo đi ra ngoài.
Tiêu hậu không mang theo người phục vụ trong cung, như bình thường lại đến chỗ ở của La Đông Nhi.
Mở cửa đi vào, vòng qua bình phong, là một chiếc giường, trước giường là hai chậu than cháy. Trong trướng, một chiếc quần lót ôm lấy cơ thể mềm mại đang duỗi thẳng tắp trên giường, hai tay đỡ eo, từ ngực xuống mũi chân thẳng tắp một đường, đầu và ngực gãy thành góc chín mươi độ.
Tiêu Xước nhìn thấy, môi cô hơi mấp máy, bước về phía trước, người trên giường thấy có động tĩnh, hai chân hơi động, định buông xuống.
“Đừng động, cứ luyện đi”.
Tiêu Xước mỉm cười, đưa tay để vào một bên hông, áo bào không tiếng động chảy xuống đất, lộ ra cơ thể mềm mại, nàng khẽ lên giường, vào bên trong giường, ưỡn bụng, cơ thể cong lại, lưng kề sát với mông, hai chân gãy về phía trước, hai chân để lên vai, Tiêu Xước dùng tay đan chéo, cầm lấy hai mũi chân, toàn người trở thành cái tam giác.
Cô để cằm lên giường, tạo thành trung tâm của chiếc tam giác, nhìn La Đông Nhi, Tiêu Xước thản nhiên cười nói: “Ngươi đã lớn, xương cốt đã cứng, không ngờ ngươi có thể tập luyện động tác khó như này, đây là công phu mà tăng nhân tây vực truyền cho Trẫm, nghe nói là Thiên Trúc. Võ công này không chỉ có thể cường thân kiện thể, còn có tác dụng tu chỉnh thân thể đấy, ngươi cũng biết, người ở thảo nguyên ngay ngày cưỡi ngựa, nếu không chú ý, hai chân sẽ vòng kiềng, trông rất buồn cười, nhưng…võ công này còn có một môn kỳ hiệu…”
“Gì ạ…kỳ hiệu?” Công phu của Đông Nhi mềm hơn của cô, giờ còn không làm được động tác khó của cô nữa, lúc này mới trở về tư thế đầu và hít thở sâu, cô điều phối hơi thở, lúc này mới cất tiếng nói.
Tiêu Xước nở nụ cười, nói nhỏ: “Còn có thể có tác dụng làm tình trong khuê phòng”.
Đông Nhi xấu hổ mặt đỏ ửng, không biết vì đứng chống ngược quá lâu hay là do xấu hổ.
Tiêu Xước mỉm cười nói: “Đông Nhi, Trẫm và ngươi tình như tỷ muội, có gì mà không dám nói vậy? Ngươi còn trẻ, có dự định cô đơn tuổi già không? Hưu Ca rất tốt với ngươi, lẽ nào ngươi không động lòng sao? Sau khi thê tử của hắn bệnh chết, theo phong tục Khiết Đan ta, là em gái hoặc chị gái phải lấy thay tiếp tục thay em là thê tử của người ta, nhưng Hưu Ca vì để lại vị trí chính thất cho em, quyết định không lấy cô ấy.
Cho dù là nữ chân nhân, người Bắc Hán hiến mỹ nữ cho hắn, hay là Trẫm ban thưởng cho hắn những cô gái đẹp, dù những người con gái đó đều quan tâm yêu thương hắn đến mấy, cuối cùng cũng không được làm thê tử của hắn, Da Luật Hưu Ca vẫn để ngôi vị chính thất đó cho em đấy, hắn coi trọng em đến nhường nào chắc em cũng tự rõ. Phẩm chất con người Hưu Ca, võ nghệ, quan vị, chẳng lẽ không xứng với em sao? Em trở thành chính thất của hắn cũng chính là người của nhà Tiêu chúng ta, cô ta đã nhiều lần tìm tới Trẫm làm ầm lên, Trẫm vì các người nên đều đuổi cô ấy về”.
“Nương nương…”, Đông Nhi ngăn lời của cô, ngập ngừng một lát nói: “Nương nương, sau khi nam viện đại vương xuất binh, Khánh Vương sẽ biết khó mà lui, giải vây cho Thượng Kinh không?”
Tiêu Xước thầm thở dài, biết cô ấy sẽ không chịu tái giá, bèn nói: “Khánh Vương chẳng qua là dựng một vở hài kịch mà thôi, Trẫm nể nang không để ý tới hắn, Trẫm giờ để ý là bàn long Biện Lương đó”.
Ánh mắt nàng đăm chiêu nói: “Đường Quốc dễ đánh, Khiết Đan khó công, Triệu Khuông Dận bỏ cơ hội trời cho là nội loạn của ta đoạt U Vân, mà tập trung lực lượng đánh Đường Quốc, thực ngoài dự tính của ta. Xem ra, mấy năm này hắn tuy ở Trung Nguyên đông chinh tây phạt, lại chưa từng bỏ qua Khiết Đan ta. Thế nhân đều nói Trẫm và Khánh Vương theo thành tử chiến, cho rằng cơ hội chiếm lấy U Vân, trên thực tế, hắn nếu như bắc phạt thật, bộ tộc Da Luật vì bảo vệ xã tắc giang sơn, sẽ buông tha cho chỗ này không đến ba năm, Hoàng đế lâu rồi không lo được triều chính, cùng Khánh Vương giảng hòa cộng ngự ngoại địch. Triệu Khuông Dận có cái nhìn xuyên suốt, giỏi giang, nhân vật này, xưng chúa, nếu Trẫm lo liệu không chu toàn, sau khi Tống thống nhất trung Nguyên, chắc chắn sẽ là kẻ địch mà Đường Quốc ta không thể coi thường…”
******
Triệu Khuông Dận ngồi trên cao nói: “Tuyên Đường Quốc sứ tiết Từ Huyễn, Chu Duy Giản tiến kiến!”
Trước hoàng nghi điện, một tiếng hô lớn, chính phó Đường sứ vào tấn kiến.
Từ Huyễn là sứ bộ thượng thư của Đường Quốc, còn phó sứ Chu Duy Giản là một đạo sĩ, gần đây Lý Dục mê mẩn “Chu dị”, Chu Duy Giản bình thường vào cung giảng Dị kinh cho Lý Dục nghe, vì thế trở thành thân thiết, hoàn tục làm ngu bộ lang trung, lần này xuất sứ, Lý Dục lại gia phong hắn là điện tiền cấp sự trung, tu văn quán học sĩ thừa chỉ đưa theo lão đạo này đến, đại khái là mượn võ công thái cấp của hắn và Triệu Khuông Dận chăm chỉ luyện thôi thủ, nhưng không biết, Triệu Khuông Dận có thói quen dùng côn và có cái tâm tình kia không.
Hai người lên điện, bước lên bậc thang, Từ Huyễn dừng lại hít một hơi sâu, hô to: “Lý Dục vô tội, bệ hạ xuất binh vô danh”.
Triệu Khuông Dận ngồi ở ghế trên, nhìn hai bên, mỉm cười nói: “Từ Huyễn lão này đến thực quá vội, để hắn vào rồi mới nói”.
Từ Huyễn tiến vào điện, thất thanh nói: “Lý Dục dựa tiểu sự đại, như tử sự phụ, tất cung tất kính, chưa bao giờ thất lễ, giờ vì ốm yếu, không thể đi xa, nên mới tới chỗ bệ hạ xin khẩn từ, và bảo sứ giả mang theo trọng lễ, thần lấy thân phận quân quốc, những hành vi của Lý Dục, đều rất kính trọng tôn sùng bệ hạ, không hề có gì khiển trách, bệ hạ có tâm nhân hậu, thiên hạ hữu đạo minh quân, dựa vào cái gì tự nhiên hưng binh thảo phạt, 19 châu Giang Đông chiến hỏa loạn lạc, vô số lưu dân khóc lóc kêu than, tội của bệ hạ cũng…”
Từ Huyễn vừa đi vừa nói, lời nói của hắn dõng dạc vô cùng, nhịp điệu trầm bổng, khi hắn đi đến chính diện điện thì bách quan nghe vậy mặt biến sắc.
Triệu Khuông Dận bễ nghễ cười nhạt, hỏi: “Từ đại học sĩ nói hết chưa? Đại học sĩ đọc nhiều thi thư, há lại không nghe bách hành chi thủ? Ngươi nói Lý Dục đối với Trẫm như con với cha, thế Trẫm thấy lạ lắm, nếu Trẫm và Lý Dục có tình là phụ tử, thì sao lại ăn cơm hai nơi?”
Từ Huyễn cứng họng không nói được gì, không ngờ ngôn từ của Triệu Khuông Dận sắc bén như vậy, đấu tài ăn nói quá là mạnh, và không ngờ gậy ông lại đập lưng ông, hắn đem Lý Dục và Triệu Khuông Dận so sánh với tình quân thần cha con, giờ bị Triệu Khuông Dận dùng một lời nói chặn cứng họng hắn, ngay cả hắn đầy bụng kinh luân, tuyệt chiêu đòn chí mạng của hắn không sao xoay chuyển được.
Chu Duy Giản thấy tình thế không ổn, vội lấy ra quốc thư giấu trong tay áo, cao giọng nói: “Bệ hạ tức giận, khởi binh thảo phạt, Lý Dục tự biết mình đắc tội, xin thỉnh bệ hạ nguôi ngoai cơn giận, Lý Dục nguyện sẽ nhượng triều, chịu cơn thịnh nộ của bệ hạ. Mong bệ hạ hiểu tấm chân tình của Lý Dục, hạ chiếu hoãn binh, bảo toàn mệnh nhất bang”.
Lý Dục phái sứ đến Tống Quốc, nhằm vào khả năng phản ứng của Triệu Khuông Dận, chuẩn bị hơn mười quốc thư, lần lượt giấu ở trên người của hai vị sứ giả, hai vị đại sứ giống như nghệ nhân Biện Lương, tùy lúc mà hành sự, và lấy quốc thư ra ứng biến. Giờ thấy Triệu Khuông Dận không buông tha, Chu Duy Giản bèn lấy một quốc thư ra, chuẩn bị nhượng ngôi của Lý Dục, phù nhi tử lên đài.
Nội thị nhận lấy quốc thư, dâng lên ngự giá, Triệu Khuông Dận cầm lấy nhìn, cười khinh miệt, rồi để luôn sang một bên bàn, thản nhiên nói: “Lời của chúa ngươi nói, Trẫm xem không hiểu”.
Từ Huyễn thấy Triệu Khuông Dận đùa dỡn như vậy, tức giận run người, râu bay bay, nhưng không thể làm gì được đành cúi đầu, sức người không đông, làm sao đây? Rắn cũng không được, mềm cũng không xong, Triệu Khuông Dận quyết lấy Đường Quốc, giờ còn định sao nữa?
Từ Huyễn mặt tím tái, bỗng nhiên ngã bịch luôn xuống đất, bỏ mũ, khấu đầu cầu xin, tiếng nói tiếng khóc, văn võ trong triều thấy vạy không khỏi động lòng, Triệu Khuông Dận nghe vậy không kiên nhẫn được, từ từ đứng dậy nói: “Từ Huyễn!”
Từ Huyễn ngẩn người, ngẩng đầu dậy, nghe thấy Triệu Khuông Dận gọi tên mình, nói: “Chớ nhiều lời, Trẫm hôm nay nói thực cho ngươi biết, chúa ngươi tội gì. Một mái nhà thiên hạ, chỉ biết nằm, rồi ngủ. Ngươi tự về, nói với Lý Dục hắn đừng có mơ tưởng, mau mau hiến thành xưng hàng, Trẫm tất sẽ không bạc đãi, bằng không nếu như dụng binh, thì Trẫm sẽ không nể nang gì đâu”.
Từ Huyễn mặt mày ảm đạm, quỳ ngu si trên đất, không nói được câu nào, nào thì xuất quân vô danh hữu danh không tính toán nữa, Triệu Khuông Dận đã nói thẳng vào mặt hắn trước văn võ bá quan, chính là cần phẫn cường đạo, hắn còn có thể nói gì đây? Đường Quốc, thực là đại thế đã mất…
Từ Huyễn và Chu Duy Giản bị bẽ mặt trước điện, không dám ở lại lâu, lập tức trở về Kim Lăng báo tin của Triệu Quan Gia, nhìn Từ Huyễn đi lảo đảo, Triệu Khuông Dận có điều suy nghĩ: “Lý Dục xem ra còn chưa có ý quy hàng. Mệnh kinh tây chuyển vận sứ Lý Phù Ích vận chuyển lương thảo từ Kinh Hồ, tiếp tục vận chuyển hướng Giang Đông, vừa chuẩn bị chiến tranh, vừa dùng để chiến hậu an dân, Đường Quốc này, nay tất phải bị diệt”.
Hắn lại gọi người mang tấm bản đồ Đường Quốc mà Ân Duy tiến kinh sứ tiết Đường Quốc đến, đây là bản đồ bố trí quân sự của Triệu Quang Nghĩa ở Kim Lăng, Triệu Khuông Dận tỉ mỉ xem một lúc lâu, gọi Ân Duy đến, chỉ vào ngoại thành Kim Lăng bắc trại nói: “Lý Dục dựa vào địa thế hiểm trở, khó bảo toàn sẽ không xuất binh đánh lén, Trẫm thấy tình hình Kim Lăng, chỉ có bắc trại thích hợp đánh lén, ngươi về báo cáo với Tấn Vương, làm hoa tiêu, làm bức thành che chở, để phòng Lý Dục dùng cảm tử quân ban đêm xông vào đại doanh, tuyệt đối không được lơ là”.
Ân Duy vội nhận chỉ, Từ Huyễn đáng thương và Chu Duy Giản bị hắn ngày đêm chạy đi, một phần gây sức ép, hai tên sứ giả một hớp nước cũng không uống, vội vội vàng vàng ngay cả cửa viện cũng chưa vào thì bị Ân Duy tiễn luôn về Đường Quốc.
Lúc này, dưới thành Kim Lăng, Dương Hạo cũng đội mũ cao, thân mặc bộ long trọng, đeo ngọc bội, cùng tùy tùng đang dưới thành đợi thủ quân trong thành phóng cầu vào thành, phụng lệnh Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa, hắn cần vào thành khuyên Lý Dục đầu hàng.
Chương 374:Hỏa (1+2)
Tiếng hô hào chém giết vọng lại ngày càng gần, Lý Dục ngồi ở trong điện Thanh Lương cả người trong ngoài đều lạnh ngắt.
Mùa đông phương nam vốn ẩm ướt và lạnh, vì Kim Lăng bị vây lâu như vậy, than trong cung không đủ dùng, không thể có chậu than sưởi ẩm, trong đại điện trống trải gió lạnh thổi vào từng cơn. Nhìn cung nữ hoảng sợ, nội thị như đám u hồn, vẻ mặt Lý Dục buồn thiu, ngẩn ngươi ngồi ở đó như khúc gỗ.
Đại thế mất đi, quân Tống đến rồi, ngày này, cuối cũng cũng không tránh được…
Trước đây, Dương Hạo đã nhiều lần vào Kim Lăng giảng hòa, trao đổi với hắn về chuyện đầu hàng.
Lần thứ nhất đến, Dương Hạo khuyên hắn: “Kim Lăng lục triều cố đô, cung điện lầu các, văn hóa, đều là tâm huyết của tổ tiên, những bảo vật còn tồn tại đến nay có bị hủy diệt bởi chiến hỏa hay không, đều là nằm trong tay của bệ hạ hết. Như đại quân vây thành bây giờ, sự đã không thể làm. Hà tất phải như thế chứ? Kim Lăng có mấy chục vạn dân, nhiều năm nay vất vả lao động, lấy mồ hôi nước mắt của dân để phục vụ quân thượng, giờ quân thượng không có sức để bảo vệ xã tắc, thì cũng nên nghĩ đến con dân nhiều năm nay đi.”
Dương Hạo nói thẳng như vậy, không như lần trước kiêu ngạo ở Giang Nam, Lý Dục nghe vậy không phải không động lòng, nhưng lúc đó Từ Huyễn vẫn chưa về, hắn mong Triệu Khuông Dận có thể đồng ý với điều kiện xưng thần của hắn, bảo vệ giang sơn xã tắc. Hắn vẫn ôm một tia hy vọng như vậy, thế là từ chối khéo léo.
Khi lần thứ hai Dương Hạo đến, tuyến ngoài quân Tống tác chiến, tuyến bắc quân Tống lần lượt chiếm lĩnh Viêm Châu, Bạch Lộc Châu, Giang Âm… Ngô Việt vương tiền thích quan đông lộ cũng diệt quân Đường phó viện, phá được Thường Châu. Tuyến Nam Vương Minh Sở Bộ ở Võ Xương Giang Châu đánh bại được hơn vạn quân Nam Đường, đoạt được 500 chiến hạm.
Với tình hình như vậy, nếu như Lý Dục thức thời, nhanh chóng xuất binh mã, ra thành đầu hàng, có bại cũng là bại đẹp, hoặc là tập trung tam quân, quyết tử một trận với quân Tống, thế thì vị vua vong quốc này cũng được coi là oanh liệt. Nhưng Lý Dục lại không đánh cũng không hàng, vẫn làm như bình thường, kéo dài thời gian, rồi ngầm đưa ra mật chỉ, thúc dục thủ quân Hồ Khẩu đến Kim Lăng giải vây giúp, dùng cơ hội quý giá Từ Huyễn dành được làm cái giãy dụa cuối cùng.
Song, mười vạn đại quân Hồ Khẩu, trong khoảnh khắc tan biến từ lúc nào không hay.
Thủ tướng Hồ Khẩu Chu Lệnh Uân chỉ huy mười vạn đại quân, lấy chiến hạm lớn để đối phó với đại quân đến, muốn phá cầu nổi Thái Thạch, lao thẳng tới dưới thành Kim Lăng, chúng gặp thủy quân Tống Lưu Ngộ ở Hoàn Khẩu.
Song phương lập tức triển khai đại chiến. Nhân mùa đông nước cạn, mặt nước không rộng, đại quân Chu Lệnh Uân chỉ có thể xếp thành hành dài hơn mười dặm, tuy chiếm cứ ưu thế về số người, song lại khó có thể thi triển. Lúc đó đang có gió đông nam, Chu Lệnh Uân nắm thời cơ, lập tức thổi kèn thu binh, đổ vô số dầu hỏa trên mặt sông, rồi châm lửa đốt. Lửa cháy ngùn ngụt, trong khoảnh khắc thiêu hơn tám ngàn quân tiên phong Tống, mấy trăm chiến chiến hạm.
Không ngờ đến ông trời cũng trêu đùa với Đường quốc. Lửa vừa mới bùng lên, gió bỗng nhiên đổi hướng, gió đông nam trở thành gió tây bắc, đám lửa cháy lại bị gió thổi về phía bọn chúng. Chiến hạm Chu Lệnh Uân, những chiếc bè mảng chật chội trên sông, không có khe hở nào, cùng với thể lửa chảy hừng hực, trong chốc lát từng chiếc thuyền bị thiêu cháy, diện tích mặt sông Trường Giang hơn mười dặm biến thành đống tường thành bị thiêu rụi.
Tướng Tống đối diện Lưu Ngộ thấy vậy há hốc mồm. Lúc này đại tướng Tống quốc Vương Minh lại nghe tin vội đến, trấn thủ đôi bờ Trường Giang, không cho quân Đường lên bờ. Chu Lệnh Uân lên trời không đường, xuống đất không cửa, vô cùng đau đớn, chỉ oán trời than đất bất công, sau đó thì tự sát.
Cường viện duy nhất của Kim Lăng lúc này sụp đổ tan tành, Lý Dục khi nghe thấy tin thì người đần ra. Lúc này, Từ Huyễn đã về, tin mang đến không phải hi vọng mà là tuyệt vọng. Từ Huyễn mang nguyên vẹn danh ngôn của kẻ xâm lược Triệu Khuông Dận: “Bên giường há lại dung người khác ngủ say.”
Dương Hạo cũng theo Từ Huyễn vào thành lần ba khuyên hàng. Lần này, Dương Hạo mang đến một chiến báo mới nhất của quân Tống, Tống tướng Đinh Đức Dụ và Ngô Việt quân thống soái Tiền Thích đánh bại năm nghìn quân Đường ở Nhuận Châu, thủ tướng Nhuận Châu Lưu Trừng mở thành đầu hàng. Cửa bảo vệ cuối cùng của Kim Lăng để kéo dài thời gian bị phá hỏng, Kim Lăng đã trở thành một tòa thành cô độc.
Lý Dục buồn bã, lâm vào đường cùng, chỉ có thể đầu hàng, tình nguyện phái sứ xuất thành Biện Lương, sau khi bàn bạc chi tiết thì hiến đất đầu hàng. Nhưng đến đêm, hắn lại triệu tập năm nghìn danh sĩ quả cảm tập kích doanh trại quân Tống, mơ tưởng rằng có thể đánh bất ngờ xoay chuyển thế cuộc.
Về mặt địa lý mà nói, thích hợp nhất là đêm hôm tập kích đánh úp phía bắc doanh trại Tống. Địa **** tấn công mà hắn chọn không sai, tiếc rằng, các tướng lĩnh thủ hạ của hắn nhìn ra được, thì chẳng lẽ Triệu Khuông Dận cả đời chinh chiến lại không nhìn ra? Triệu quan gia đã sớm đích thân hạ chỉ, lệnh cho Triệu Quang Nghĩa để phòng nghiêm mật mặt bắc, đại quân bắc doanh đã sớm được bảo vệ.
Một đêm khổ chiến, năm nghìn binh sĩ quả cảm Đường quốc không chịu thối lui, bị giết toàn bộ trong quân doanh Tống. Khi sáng sớm dọn dẹp chiến trường, từ trên người thi thể phát hiện ra phù ấn cấp soái tướng, đội cảm tử ấy là những chiến sĩ tinh anh của thủ quân Đường quốc, trong đó thậm chí còn có những tướng tá đích thân dẫn quân đảm đương làm cảm tử quân, họ tất cả đều bị chôn vùi ở đó, lực lượng nòng cốt của quân Đường đã không còn nữa.
Lần tập kích này còn chọc giận tới Triệu Quang Nghĩa. Hắn lệnh cho Dương Hạo bao vây toàn thành Kim Lăng, lần này, điều kiện giảng hòa không phải là khuyên Lý Dục nữa, mà là một lá chiến thư của Triệu Quang Nghĩa, trong thời gian đêm nay, địa điểm ở Kim Lăng, quyết một trận tử chiến.
Đêm, quân Tống công thành, đạn thạch như mưa, vô vàn thang, phi câu, xe pháo… thành Kim Lăng rộng lớn được coi thành trận chiến, trong thành những quân quan trung, hạ cấp có kinh nghiệm phần lớn đều đã tử trận trong trận đánh úp đêm qua, giờ đều là những viên quan mới được đề bạt, mang những bạch giáp quân vừa mới nhập ngũ không hiểu phải bắn cung tiễn thế nào, hoảng sợ chạy đến đầu thành Kim Lăng.
Thành trì mặc dù vững chắc, còn cần cường binh tới thủ, quân đội như vậy, làm sao có thể phát huy được lợi thế phòng thủ của thành Kim Lăng được?
Lúc này, tiếng la hét ngày càng gần, quân Tống nhanh chóng công tường.
***
Lý Dục ngờ nghệch đứng dậy, đi chầm chậm ra ngoài, trong điện quá ư âm u, hắn mặc ấm một chút, cơ thể vốn hơi béo nên trông càng thêm mập, cái long bào mặc bên ngoài cũng không thể cho hắn thêm tinh thần được nữa.
Dưới điện, tập trung rất nhiều vũ kỹ, cung nga, nội thị, mặt mày ai nấy đều tái xanh, có người không kiềm chế được sợ hãi đang khóc thút thít. Lý Dục đứng lại, ngẫm nghĩ, rồi nói với bọn họ: “Thành, không giữ được nữa rồi!”
Lời này nói ra, mọi người trong cung vừa khóc vừa khấu đầu, tiếng khóc rung trời. Lý Dục lấy lại tinh thần, rưng rưng nói: “Các ngươi không cần ở lại trong cung, cùng trẫm đi đến chỗ chết nữa. Các ngươi lập tức rời cung, tìm một nơi yên tĩnh mà trốn tạm thời đi đã, các ngươi đều có tài âm nhạc, sau này dù Kim Lăng họ Lý hay là họ Triệu, nơi quyền quý môn đình đều không thể thiếu các ngươi. Haiz, truyền chỉ, mở tất cả các cửa cung, tài sản trong cung, cầm đủ dùng thôi, đi đi, đi đi. Các ngươi đều đi cả đi, sống cho tốt…”
Các ca kỹ trong cung, cung nhân nội thị khóc lóc dập đầu tạ ơn Lý Dục, hoảng loạn bỏ chạy.
Lúc này, lại có một tốp người hoảng sợ chạy tới, có khoảng mấy chục người. Lý Dục còn cho rằng đó là tốp người ca kỹ lúc nãy chạy lại, nguyện đồng sinh cộng tử với mình, lòng không khỏi cảm động, nhưng định thần nhìn lại, lại là các văn võ quan viên. Xem ra chức quan của họ không cao lắm, và phần lớn là không quen, nhưng quốc nạn đương đầu, còn có trung lương tiến đến hộ giá, so với tâm phúc của mình, thủ tướng Nhận Châu Lý Trừng mở thành đầu hàng quân Tống, đáng quý cỡ nào? Hai mắt Lý Dục ướt nhòe.
“Các vị ái khanh…”
Giọng Lý Dục run run, hai hàng lệ lăn dài trên má.
“Bệ hạ, đại thế đã đến đường cùng rồi, thần liều chết tiến lên, xin bệ hạ đổi quần áo dân tráng, đem theo bảo vật, chúng thần nguyện giấu bệ hạ vào đám dân mà trốn chạy thoát thân. Mười chín châu Giang Nam giờ đã rơi vào tay người Tống rồi, nếu có được thời cơ, bệ hạ chưa chắc đã không thể đông sơn tái khởi.”
Lý Dục nhìn cẩn thận, vị quan này có hơi quen quen, hình như là một Đường quan của hồng lư tự, cũng là họ Lý.
Lý Dục hỏi: “Ái khanh là?”
Lý Thính Phong nói: “Thần là Lý Thính Phong, Đường quan hồng lư tự.”
Lý Dục giữ chặt tay hắn, khóc lóc nói: “Lý ái khanh, quân Tống bao vây Kim Lăng chặt như nêm cối, trẫm không thuộc đường, có thể đi về hướng nào? Lại đây, các người theo trẫm lại đây.”
Lý Thính Phong nhắc đến bảo vật, Lý Dục bỗng nhớ đến bảo vật mà hắn quý trọng nhất, thế là đưa họ vội vàng đi đến Trừng Tâm điện, bên cạnh Trừng Tâm điện là Thanh Huy đường, hai nơi này đều là kho chứa những bảo vật vô giá. Lúc này thái giám trông coi ở đây nghe nói Lý Dục mở cửa cung, đầu hàng lấy đường sống, sớm đã bỏ chạy hết.
Bảo vật Mạnh Sưởng Thục quốc là kim ngân ngọc khí, các loại ngọc thạch, bảo vật trong mắt Lý Dục lại không phải là kim ngân châu ngọc, mà là sách quý truyền thế, văn học bảo điển. Từ Tần Hán tới nay, mỗi lần Trung Nguyên chiến loạn, sĩ gia đại tộc lần lượt di dời về phía nam, điển tích sử sách cũng lưu lạc đến vùng Giang Nam. Lý thị tổ tôn có sức mạnh, bỏ ra rất nhiều tiền của để thu trữ, kết quả thì có thể thấy, mấy chục năm đã thu được những trân phẩm điển tích cô bản trong thiên hạ.
Khổng Tử đọc Dị kinh Vi biên tam tuyệt, dùng da trâu và dây thừng đóng quyển. Bản thảo của Lã Bất Vi, Lý Tư, Tư Mã Tương Như, ngự bút của Hán Vũ Đế, bản thảo cuốn sử ký Tư Mã Thiên, bản tấu chương thỉnh chiến của quán quân Hầu Hoắc, lan đình tự của Đường Thái Tông đích thân vẽ, bút tích của Vương Duy, Lý Bạch, Bạch Cư Dị…
Đây là bảo vật tổ tiên ba đời hắn khó nhọc tích lũy được mà truyền lại tới ngày nay, nhìn từng cuốn, từng trang đều có thể nói rằng nó là báu vật vô giá, máu trong lòng Lý Dục hừng hực, liền cao giọng nói: “Trẫm ban đầu từng nói, nếu người Tống thảo phạt, sẽ đích thân mặc giáp, dẫn hổ binh bắc cự quân Tống, nếu như sự bất thành, thì tự sát chứ không quy hàng. Giờ thành trì đã bị phá, quân địch vào thành, trẫm đã khó thực hiện được hứa hẹn thứ nhất, nhưng về cái thứ hai, trẫm nhất định phải làm cho bằng được.”
Hắn đứng thẳng lưng dậy, tay nắm chặt nói: “Các khanh, trẫm… giờ có thánh chỉ cuối cùng cho các khanh.”
Lý Thính Phong vội dẫn các tướng và quan viên nghe chỉ. Lý Dục lớn giọng nói từng chữ một: “Quốc sự đã không thể làm gì nổi, quân vương phải bảo vệ xã tắc, song ta đã không thể bảo vệ, làm chết đi xã tắc. Trẫm tức khắp nhập hậu cung, cùng với hoàng hậu châm lửa tự sát, tận trung với xã tắc. Các ngươi đi lấy vật dễ cháy ở quanh đây, mang vào Trừng Tâm điện, Thanh Huy đường đốt quách bảo vật đi cho rồi, chôn nó cùng với trẫm, sau đó thì tự mà trốn đi.”
“Bệ hạ, bệ hạ, tuyệt đối không được.” Các quan viên nghe vậy mặt mũi tím tái, quỳ lạy khuyên can. Lý Dục phất tay áo một cái, nghiêm nghị quát: “Thánh chỉ cuối cùng của trẫm, các ái khanh cũng không tuân theo?”
Ngừng giây lát, Lý Dục lại nói: “Trẫm đã quyết vậy, chớ nhiều lời!” nói rồi đi về phía hậu cung.
Lý Thính Phong nghe thấy tiếng bước chân Lý Dục dần xa, từ từ ngẩng đầu dậy, mắt lạnh lùng nói: “Chư vị, tính mạng toàn gia các người có thể bảo toàn hay không, đều ở số bảo vật trong cung điện này. Trong Tống doanh có một vị đại nhân, không thích vàng bạc châu báu, chỉ thích văn thơ cổ chương, khi bổn quan xuất xứ Tống quốc đã biết được điều này. Nếu có thể bảo vệ chỗ báu vật này, hắn sẽ bảo vệ ta ngươi chu toàn. Huống hồ những thứ này đều là tâm huyết của người trước để lại, là những bảo vật quý giá, các ngươi nhẫn tâm cho nó một mồi lửa sao? Ý bổn quan là, chi bằng cứu lấy những bảo vật này, cứu lấy tính mạng gia tính ta ngươi, các vị thấy thế nào?”
Mấy chục vị quan nhìn nhau, lòng mỗi người đều có chung ý nghĩ, rồi một người bước ra tức giận nói: “Lý đại nhân có ý vậy là kháng lại thánh chỉ ư? Ta tuy là tiểu thần, cũng biết tận trung với xã tắc. Giờ bệ hạ có mong muốn chết theo xã tắc, ta còn tiếc gì cái thân này, nguyện đi theo bệ hạ. Nếu ngươi sợ chết, thì cứ chạy đi, việc gì phải kháng lại thánh chỉ như thế?”
Lý Thính Phong ảm đạm cười, đảo mắt nhìn xung quanh nói: “Các vị, đại thần trong triều, tất cả đều như quần áo mặc, nếu có thể bảo vệ được thân quyến, ta ngươi tiểu quan, nếu như vô công, trong chiến loạn, ai còn dám bảo toàn ta ngươi? Chỗ cô bản điển tàng này chính là vật bảo vệ tính mạng ta ngươi, các vị chết vì xã tắc, thế còn phụ mẫu thê tử có muốn bảo vệ không?”
Đám người im lặng không nói câu gì, chỉ nghe thấy tiếng thở, vị quan đó tức giận đến mặt mũi đỏ gay, hét lớn: “Được, được, các người được lắm. Ta còn tưởng các người lâm nguy nhập cung, thực lòng hộ giá, hóa ra đều chỉ tính toán cái lợi của bản thân. Đừng có xem thành phá thế nguy, quân Tống vào thành, cung này trái lại vẫn là thiên hạ của bệ hạ. Ta sẽ đi báo cáo hoàng thượng, giết hết bọn gian nịnh các ngươi.”
Người này phất tay áo bỏ đi, bên cạnh có một vị quan đột nhiên hét một tiếng, bổ nhào đến bóp cổ hắn. Các vị quan bên cạnh cũng phản ứng được, có người hoang mang đứng nhìn xung quanh, có người chạy đến bàn cầm lấy nghiên mực, có người thì cầm lấy lư hương, có người thì cầm lấy đồng hạc, nghiến răng nghiến lợi đập, coi đồng nghiệp ngày xưa thành đại thù sinh tử hung hăng mà đập vào. Ngọn đèn lay động, in cử động của bọn họ lên tường, tiếng hét của bọn họ còn thê lương hơn vị quan đó, mấy viên quan mơ hồ như bóp lấy máu thịt, nhìn mặt người nọ chết thảm, tay chân run rẩy buông ra, mặt còn trắng hơn cả người chết.
“Các vị, sự việc hôm nay, các vị đều là người thông minh, nên biết tự giữ lấy mình, nếu không, đừng nói vị đại quan Tống quốc đó không tha cho các vị, tội kháng chỉ, giết đồng nghiệp, cả thiên hạ không dung. Bổn quan đã mua được ngự thiện phòng chủ sự và tây môn thủ tướng, các vị lập tức đưa bảo vật lên xe, ta theo xe xuất cung, chạy về thư viện Giang Nam!”
Mấy chục viên tiểu quan hoang mang lo sợ, gật đầu lia lịa như gà mổ thóc, đồng ý chạy đi.
***
“Hoàng thượng…”
Vừa thấy Lý Dục, tiểu Chu hậu nước mắt ngắn dài nói.
“Nữ Anh, giang sơn của trẫm… đã mất rồi.”
Lý Dục rưng rưng nước mắt nói: “Trẫm sẽ lấy thân này chết theo xã tắc, ái khanh có nguyện đi cùng trẫm xuống suối vàng không?”
Tiểu Chu hậu nức nở nói: “Hoàng thượng, thiếp chỉ là thân nữ yếu đuối, còn có thể đi đâu nữa đây? Thần thiếp là phi tử của hoàng thượng, thành bị phá cung bị nghiêng, thiếp sao có thể chịu được nỗi nhục này? Hoàng thượng nếu đi như vậy, thần thiếp xin đi theo hầu hạ.”
“Được, được!”
Lý Dục mỉm cười, hắn bỏ chụp đèn, cầm lấy ngọn nến, châm vào các rèm, màn che. Lửa nhanh chóng lan ra, thị tị nội thị trong cung khuyên can không kịp, ôm đầu chạy ra ngoài.
“Nữ Anh…”
Lửa cháy hừng hực, Lý Dục ôm lấy thân thể mềm mại.
“Bùm!” Cửa thành bị phá, quân Tống đã giết chết thủ quân và mở cửa thành ra, đại quân ngoài thành chen chúc xông vào. Triệu Quang Nghĩa hăng hái vung tay lên vẫy, lớn tiếng cười nói: “Huy quân vào thành!”
Tẩm cung hoàng hậu biến thành ngọn lửa ngùn ngụt trong đêm, lửa cháy ngút trời.
“Bùm!”
Một góc điện sập xuống, đám lửa như hàng ngàn con đom đóm bay lên, Lý Dục ôm tiểu Chu hậu lo sợ lùi vào mấy nàng, long bào của hắn đã bị đốt mất một góc, tóc tai dựng đứng lên, mặt mũi nhem nhuốc, bộ dạng lúc này như một tên ăn mày.
Hắn quyết tận trung chết vì nước, nhưng hắn không thể ngờ rằng, khi đám lửa cháy, lại có nỗi sợ ấy. Lửa cháy xèo xèo, da thịt tựa hồ vỡ tan cả ra, hắn không thể tưởng tượng khi lửa đốt tới người hắn, lại đau đớn khó chịu đến vậy. Vì thế khi long bào của hắn bị đốt một góc, Lý Dục vội thay đổi quyết định, nhắm mắt ôm lấy tiểu Chu hậu vào lòng chạy ra ngoài.
“Bùm!” Lại là một cây cột bị đổ. Lý Dục run rẩy, lắp bắp: “Ta… chúng ta hàng đi…”
Lý Thính Phong ở Thanh Huy điện, Trừng Tâm đường, mang theo những quan lại và ngự thiện phòng chủ sự cùng đám tôi tớ lên xa, lúc đi vứt một mồi lửa, hủy bỏ dấu tích.
Lý Dục hoảng sợ chạy đến điện Thanh Lương, trên đường đi nhìn thấy Thanh Tâm đường lửa cháy cuồn cuộn, khóc lóc thảm thiết.
Những tinh hoa văn chương được truyền lại tự thời Xuân Thu chiến quốc, Tần Hán Tấn Đường, Hoa Hạ dân tộc mấy nghìn năm, chỉ một tiếng thánh chỉ của hắn mà bị đốt thành tro bụi. Vô số bảo vật hóa thành đám tro tàn, bảo vật quý giá đều do hắn thiêu đốt, hắn sao không khóc được.
“Bệ hạ!”
Vừa vào điện Thanh Lương, thì thấy Trần Kiều cầm lấy kiếm chạy đến. Vị khu mật sứ đại nhân này sau khi giết chết Hoàng Phủ Kế Huân, đích thân kiêm nhiệm thần vệ quân đô chỉ huy sứ, chủ trì Kim Lăng phòng ngự. Vừa thấy Lý Dục, Trần Kiều rưng rưng nói: “Bệ hạ, tướng lĩnh Mã Thành Tín, Mã Thừa Tuấn đang dẫn quân trên đường ngăn chặn quân Tống, bệ hạ sao lại mở rộng cửa cung để người tùy tiện ra vào lấy hết tài vật đi. Rất nhiều cung vệ quan binh đã cởi giáp, chạy hết rồi.”
Lý Dục cười thảm nói: “Trần ái khanh, sự đã đến nước này, còn đóng cửa cung làm gì nữa chứ? Kệ bọn họ đi, trẫm… đã quyết định đầu hàng rồi.”
“Gì ạ?”
Trần Kiều vừa ngạc nhiên vừa giận: “Bệ hạ vốn đã thề chết không hàng, tướng sĩ toàn thành nguyện đồng sinh cộng tử với bệ hạ, giữ nước đến giây phút cuối cùng. Giờ cửa thành bị phá, lại quay ra quy hàng, há chẳng phải là trò cười cho thiên hạ sao? Bệ hạ, từ cổ chí kim, nước mất mới quy hàng, nhục nhã lắm bệ hạ à. Xin bệ hạ phong bế cung môn, quyết tử một trận đi, đại trượng phu có chết cũng phải chết cho oanh liệt chứ.”
Lý Dục định chết rồi lại không chết, lúc này không còn dũng cảm đi chết nữa. Hắn lắc đầu thở dài, không nói gì.
Trần Kiều thấy tình hình như vậy, quỳ xuống nói: “Đã như vậy, xin bệ hạ giết thần đi cho rồi. Thần là quan Đường quốc, phục vụ bệ hạ, xin bệ hạ nhân lúc quân Tống chưa đến nơi, kết liễu mạng thần đi, chờ đến lúc Triệu quan gia hỏi tội bệ hạ, bệ hạ có thể đổ hết tội vạ lên đầu thần.”
Lý Dục nghe xong không khỏi khóc lớn, giữ chặt hắn nói: “Vận số đã đến gần, khanh chết đi còn ích gì, trẫm không nỡ ra tay!”
Mặt cho Trần Kiều khẩn cầu, Lý Dục vẫn không làm. Trần Kiều bi phẫn nói: “Thần không chết đi, còn mặt mũi nào mà đi gặp kẻ sĩ Giang Nam? Bệ hạ muốn đầu hàng, thần không nỡ nhìn bệ hạ hàng.” Nói rồi chạy ra điện, nhìn khói lửa trong thành, hét lớn một tiếng rồi tự vẫn.
Nội thị tận tâm đều chạy vào điện, hét lớn: “Bệ hạ, bệ hạ, quân Tống đã đến ngoài cung môn rồi…”
Lý Dục run rấy, mặt mày tái nhợt ngẩng đầu hỏi: “Ai lãnh quân?”
Nội thị đô tri run run: “Quân Tống đến cung môn thì thủ tại ngoại môn không vào, nô tì không biết là ai lãnh quân.”
Lý Dục nghe vậy an tâm một chút, trầm mặc lúc lâu nói: “Ngươi đi nói với quân Tống ngoài cung môn, nói là… trẫm… xin hàng…”
Vừa vào thành, các lộ tướng lĩnh phân nhau đi các nơi. Tào Bân dẫn quân vào cung môn, quân Tống vào thành đốt giết, nếu ngộ nhỡ để chúng vào cung làm bẩn hoàng hậu, bức tử hoàng đế, thì trước mặt Triệu quan gia còn đâu mặt mũi mà mở mồm. Khi đợi hắn chạy đến cung môn, chỉ thấy cửa cung được mở, rất nhiền quan nhân nội thị bịch lớn bịch nhỏ chạy ra, thủ tướng cung môn cũng đã hồn bay phách tán, còn tưởng Lý Dục đã tự vẫn.
Tào Bân ngăn hai tên trong cung hỏi rõ tình hình, lúc này mới yên tâm, vội phái người đi thủ tất cả cung môn, không được vào mà cũng không được ra, đồng thời phái người đi báo tin cho Triệu Quang Nghĩa.
Chương 374:Hỏa (3)
Sau khi Dương Hạo vào thành, bèn dẫn thân vệ khiêng cờ chữ Tống từ sông Tần Hoài đến thẳng thư viện Giang Nam, hắn từng qua đây, rất quen các nơi gần đây, trước khi hắn đến thư viện Giang Nam, thì gặp mấy sĩ tử đang vội vàng chạy về hướng đại môn thư viện, đập tay vào viện môn, mong muốn được vào tránh nạn, mà lúc này một tốp quân Tống nhìn thấy họ đang lao tới.
Mấy sĩ tử Giang Nam cơ thể gầy gò vô cùng, người nào người nấy như thân liễu, một đại hán thô xì lao tới, họ chỉ kịp hét lên, giọng nói vừa thanh vừa nhỏ hệt con gái. Mấy quân hán ban đầu còn sững người, sau đó cười hô hô ha ha: “Là con gái, họ là con gái”. Nói rồi càng lao đến, bỗng một thư sinh hét:
“Dừng tay! Bệ hạ nghiêm chỉ, Tào tướng quân nghiêm lệnh, không được dâm tà, ngươi dám mạo phạm quân lệnh không?”
Dương Hạo đứng một bên giục ngựa chạy tới, vừa lớn tiếng quát mắng, Mục Vũ đưa tay cầm đao, đánh vào má của quân hán kia, làm chúng hoảng sợ.
Mượn ánh lửa ngẩng đầu, hắn nhìn Dương Hạo nhung trang, cưỡi ngựa cao lớn, phía sau có mấy tên hổ vệ, trong đó một người cầm đại kỳ, rõ ràng là một viên thượng tướng, không dám kháng lệnh, vội nhảy cẫng lên, xin lỗi vài tiếng, nhân lúc Dương Hạo vẫn chưa nhìn rõ bộ dáng, lệnh cho người của hắn chuồn đi.
Dương Hạo đến gần, ghìm cương ngựa nhìn, chỉ thấy mấy sĩ tử quả nhiên là con gái, dung nhan xinh đẹp, tuy giả trai song không giảm chút nhan sắc, không khỏi nhẹ nhàng nói: “Binh rối loạn, các người chạy ra ngoài làm gì, mau mau về nhà của mình đi, đóng cửa cho chặt lại, thủ quân trong thành một khi bỏ kháng cự, ý chỉ trấn an sẽ đến, khi đó, các người tự khả vô ngu”.
Một người bị quân hán đẩy ngã nhào, mũ đội lệch sang một bên, tóc rối tung lồm cồm bò dậy, nhìn Dương Hạo, bỗng nói: “Tướng quân trên ngựa, có phải là Dương tả sứ không?”
“Hả?” Dương Hạo định thần lại nhìn, người con gái đứng trước ngựa tóc tai rối bù, đôi mắt nhanh nhẹn, khuôn mặt vô cùng xinh đẹp, có vẻ đã gặp đâu đó, nhưng do trời nhá nhem, hơn nữa cô ấy lại mặc đồ nam nhi, nên không nhớ ra cô ấy là ai.
Dương Hạo không khỏi ngạc nhiên, giữ chặt chuôi kiếm: “Ồ, cô là?”
“Dương đại nhân, nô gia là Diểu Nương, từng gặp đại nhân…một…hai lần…hic…gặp đại nhân mấy lần rồi…”
“Diểu Nương?”
Dương Hạo vô cùng ngạc nhiên, chăm chú nhìn, quả nhiên là cô, Dương Hạo không khỏi giật mình nói: “Diểu Nương, sao cô lại ở đây?”
Diểu Nương buồn bã nói: “Khi cửa thành bị phá, Hoàng thượng bảo đám nô tì rời cung, Diểu Nương từ nhỏ đến lớn trong cung, không có chỗ nào đi, liền cùng với vài tỷ muội thu dọn đồ đạc, cải trang nam nhi, vốn là muốn chạy đến Tịnh Tâm thiền viện trốn, không muốn để cho quân hung hãn biết, thiền viện cũng bị họ thiêu cả rồi, đồng Phật cũng bị họ phá bỏ, nô gia sợ quá, nghĩ đến chỗ thư viện là nơi mà các quân hung hãn không thích nên chạy lại đây, không ngờ lại gặp họ…”
“May mắn mà gặp được đại nhân, đại nhân, làm ơn cứu mạng…” Diểu Nương nói rồi, quỳ sụp xuống đất.
Dương Hạo nghe lời khẩn khoản vô cùng do dự, hắn không có năng lực cứu giúp thiên hạ, thế gian bao chuyện bất bình làm sao lo được hết, nhưng nếu sự việc chính mắt mình trông thấy mà cũng làm ngơ, thực không phải với lương tâm, nếu giờ đuổi bọn họ đi, họ chẳng có chỗ nào có thể trốn, tất sẽ bị loạn binh tóm được, binh sĩ giờ đánh đến đây, ngày mai đánh nơi khác, không thể mang con gái theo người kè kè được, sợ rằng sau khi đưa họ đi như thế sẽ bị một đao làm thịt, đến lúc đó mình sao có thể yên tâm được?
Nhưng nếu như muốn giúp, thì giúp thế nào đây? Trong thư viện đều là tộc người thân tín của Lý Thính Phong, cơ nghiệp Lý Thính Phong ở Giang Nam bị quét sạch, đang cần tìm nơi ở, hắn có lòng lôi kéo Lý Thính Phong làm cho mình, lúc này mới liều mạng tới, bảo vệ nhà hắn chu toàn, vốn trong doanh rất nhiều đại tướng đều hứa hẹn phải bảo vệ quan lại cho chu đáo, quy tắc ngầm này mọi người ngươi biết ta biết, ai cũng sẽ không làm trái. Nhưng mình không muốn văn vật Giang Nam bị hủy bởi loạn chiến, muốn làm của riêng, nếu Lý Thính Phong lần này sự thành, thì bảo vật vô giá kia giờ sẽ nằm trong thư viện, nếu để cho Diểu Nương bọn họ thấy…
Diểu Nương ngại ngùng nhìn tướng lĩnh quân Tống không nói lời nào, thấy Dương Hạo ngồi trên ngựa chần chừ, Diểu Nương sợ hắn phẩy tay áo bỏ đi, liền khấu đầu liên tục, cầu xin: “Dương đại nhân, tính mạng của bọn nô tỳ đều nằm trong tay đại nhân, cầu xin đại nhân khai ân, cứu lấy chúng tôi với”.
Diểu Nương quỳ xuống, mấy cô gái kia cũng lần lượt quỳ xuống, khóc thút thít cầu xin, Dương Hạo ghìm ngựa hơi xoay người, nghĩ ngợi một lúc nói: “Diểu Nương, bổn quan phái người bảo vệ các người rời khỏi đây, tìm nơi vắng lặng mà trốn tạm một thời gian, đợi khi chiến sự dừng lại, các người có thể tự tìm đường ra nhé”.
Diểu Nương đâu chịu, tự dưng nhặt được một cây cỏ cứu mạng, có đánh chết cô cô cũng không chịu đi, sau Dương Hạo là mấy võ sĩ xem ra giống như bọn cường đạo, trời mới biết bảy tám cô gái như hoa như ngọc đi theo họ, bọn họ lại không nảy sinh ý đồ gì, giết người diệt khẩu thì sao.
Hơn nữa, giờ nhìn tình hình trong thành, sợ rằng quan lại thân hào, ai nấy đều trốn hết rồi, nhà giàu bị phá, khắp thành là lưu dân, ngày mai tự tìm đường ra…đường ra ở đâu? Binh phỉ, dân phỉ, đến lúc đó chỉ có cùng đường, nếu như có thể bảo vệ tính mạng ở chốn loạn lạc này cũng được coi là tốt lắm rồi.
Giờ nghe khẩu khí của Dương Hạo, rõ ràng là đang chối từ, người thương hoa tiếc ngọc lại là một đại quan, nếu bỏ qua hắn, sợ rằng sẽ không còn đường nào tốt nữa, tìm một chủ nhân tốt còn khó hơn lên trời.
Diểu Nương lập tức khấu đầu cầu xin nói: “Thân thiếp bạc mệnh, không nơi an thân, ngay cả đại nhân cũng khai ân, bảo vệ đám nô tỳ, bọn nô tỳ này không có đường sống có thể đi, cầu xin đại nhân khai ân, thu lưu lại nhóm nô tỳ, đại nhân đại từ đại bi, xin hãy khai ân, đại nhân, cầu xin ngài…”
“Dừng lại đi!”
Dương Hạo nhướn mày, nhìn quanh, không có binh sĩ nào tới, mới nhỏ nhẹ nói: “Diểu Nương, nếu như hôm nay các cô theo ta, thì sẽ không được tự do đâu, huống hồ…nhất định phải rời xa quê hương Giang Nam, cô…hiểu không?”
Dương Hạo thực khong nhẫn tâm đuổi bọn họ đi, nhưng nếu như giữ bọn họ lại, thì cái bí mật có điển tàng cô bản quý giá truyền từ xưa để lại sẽ bị họ phát hiện mất, mà chỉ có thể để họ theo Lý Thính Phong cùng đến Lô Châu, còn mình thì trở về Lô Châu ván bài lật ngửa với Đại Tống, tuyệt đối không được để họ tự do, đây là một câu hỏi lớn.
Diểu Nương đương nhiên là hiểu, mặt cô không khỏi nóng ran, đại nhân có ý như vậy với mình, cả đời có thể dựa vào, tuy xấu hổ, song nỗi sợ hãi đã được trấn định lại, mấy cô gái vội đáp: “Nhưng được đại nhân bảo vệ tính mạng, đại nhân chính là phụ mẫu tái sinh của đám nô tỳ, bọn nô tỳ cảm kích cả đời này, nguyện cả đời bên cạnh đại nhân…”
Dương Hạo thở dài, quay đầu nói: “Tiểu Vũ, ngươi mang bọn họ vào trong thư viện. Mấy người các ngươi đứng đều sang hai bên phải trái, chớ để loạn binh quấy rầy”.
*****
Trời sáng, Triệu Quang Nghĩa mặc long bào cưỡi ngựa đến trước cung môn.
Tối qua chiến loạn, đắc tri Tào Bân đã thủ viện môn, không để cho Lý Dục tẩu thoát, Triệu Quang Nghĩa đã yên tâm rất nhiều, hắn không vội tới tiếp nhận đầu hàng của vua một nước, đó là việc quan trọng đến mức nào, thời khắc này sẽ ghi danh sử sách, đương nhiên cần phải rõ như ban ngày, được vạn dân chiêm ngưỡng.
Trải qua một đêm loạn ly, quân Đường trong thành Kim Lăng đã hàng, đã chết, đã hoàn toàn không còn sự kháng cự, Triệu Quang Nghĩa cũng ước thúc loạn binh, khôi phục lại trật tự. Hắn ngồi trên ngựa đi trên quãng đường tới cung thành Đường Quốc la liệt xác chết và những vết máu còn chưa khô, sĩ binh đứng bên đường san sát nhau, kéo dài đến tận cung môn, sau binh sĩ là dân chúng Đường Quốc chạy tới xem, lúc này, Triệu Quang Nghĩa nhiệt huyết sôi trào.
“Bệ hạ…” Nội thị đô tri đứng trước điện, gọi Lý Dục một tiếng.
“Đất nước bốn mươi năm, ba nghìn dặm địa sơn hà, …
Lý Dục mặc bộ quần áo trắng, rơi lệ, nhìn đám nội thị trong cung, buồn bã nói: “Đi thôi!”
Cung môn từ từ được mở ra, quân Tống đứng thành hàng trước cửa, Triệu Quang Nghĩa, Tào Bân, Dương Hạo, Tào Hàn và đám văn võ xuống ngựa xong, lặng lẽ nhìn đội ngũ đi ra từ trong cung.
Mấy chục quan viên Đường Quốc, mặc quần áo trắng, Lý Dục đứng giữa, để lộ thịt trắng béo mập, cầm một đầu bạch dương, rối bù đi tới, nghiêm túc dâng lễ vật xin hàng. Phía sau hắn, hai tên nội thị, một tên đưa cao thư xin hàng, một tên thì cầm quốc tỉ, ở chỗ đội ngũ còn bê một cái quan tài, ý là đáng chết vạn phần.
Lúc này tinh thần Triệu Quang Nghĩa rất tốt, ba tháng bình định Đường Quốc, hắn làm được rồi. Quân vương Đường Quốc sống không bằng chết nhận tội trước mặt hắn, hắn đã làm được. Hắn còn gì không hài lòng nữa?
Khi Lý Dục quỳ xuống nhận tội, Triệu Quang Nghĩa nhảy xuống khỏi ngựa, nhẹ nhàng nâng hắn dậy, hiến hàng lễ tất, cởi áo bào ngoài của mình phủ lên người Lý Dục, vỗ về một lúc, rồi mới mời Lý Dục cùng về trong doanh trại của hắn.
Lúc này Lý Dục bị giam lỏng trong doanh, đợi Lý Dục được mang ra, Triệu Quang Nghĩa thu vẻ tươi cười lại, nghiêm túc nói: “Giờ Lý Dục đã hàng, thông báo tin Lý Dục quy hàng cho khắp thiên hạ, châu phủ Đường Quốc, thủ thành định ngày mà dâng thành đầu hàng, người nào kháng mệnh không theo, một khi thành bị phá, tàn sát hết dân trong thành”.
Dương Hạo rùng mình, Triệu Quang Nghĩa hạ lệnh sẽ tàn sát hàng loạt dân trong thành, giờ đường hoàng hạ lệnh, thế là thế nào? Dương Hạo nhúc nhích người, Triệu Quang Nghĩa đã nói tiếp: “Quốc Chúa Giang Nam đã hàng, tên nào vẫn theo thành không hàng, làm sĩ binh tận trung với Đường Quốc, tiêu diệt hết, tro tàn một khi đốt hết, không biết sẽ chiến loạn ra sao, cô độc chống lại cũng chẳng ích gì, đây là quân lệnh, chớ nhiều lời”.
Dương Hạo thở dài, dừng bước chân.
Rời khỏi lều soái, Tào Bân nhìn Dương Hạo, nói: “Dương đại nhân có cách nghĩ khác với Tấn Vương sao?”
Dương Hạo lắc đầu: “Nếu Giang Nam nhất như người Thục, kéo cờ tạo phản, tập hợp đại quân, không biết sẽ dẫn đến bao nhiêu người ly loạn đây, Tấn Vương lấy giết chỉ giết, Dương Hạo hiểu nỗi khổ của Thiên Tuế, trường thông không bằng đoản thông, nhưng…sau khi thành phá còn cần giết dân trong thành, không khỏi gánh nặng chết chóc quá nặng. Rất nhiều dân chúng bất đắc dĩ mà ở tron thành, và cũng không thề sống chết nguyện trung thành với Đường, nếu như ngọc thạch đốt hết, không khỏi làm người ta oan thán”.
Tào Bân nói: “Đúng vậy, Tào mỗ cũng nghĩ vậy, cho nên đã lệnh cho khoái mã về bẩm báo với Kinh thành, để Bệ hạ lo liệu chuyện này, chứ giết thế này…hic…mong…thánh chỉ sớm tới”.
Hắn nhìn về phương bắc thở dài nói: “Dương tả sứ, chúng ta đi gặp Lý Dục, Tào Bân có việc, kính nhờ đại nhân”.
Dương Hạo không biết Tào Bân tại sao như vậy, chỉ đi cùng với hắn, đến nơi giam lỏng Lý Dục, Lý Dục vội chạy ra nghênh đón, Tào Bân nói: “Bệ hạ nhớ Quốc Chúa đấy, nay Quốc Chúa trung thành đến hàng, Bệ hạ tất sẽ khen ngợi. Ngày mai Tấn Vương Thiên Tuế sẽ sắp xếp cho Quốc Chúa đến Biện Lương gặp Bệ hạ, Quốc Chúa giờ lệnh cho gia quyến đi chuẩn bị đi, chuẩn bị vàng bạc đồ cống nạp, có bao nhiêu thì cầm hết đi, nếu không sau khi tài vật bị niêm phong, rồi không cầm ra được nữa”.
Lý Dục buồn bã nói: “Tội thần khiến Bệ hạ tức giận, lần này đi Biện Lương, tính mạng khó mà bảo toàn, còn mang theo tiền của đi có ích gì?”
Tào Bân mỉm cười nói: “Bệ hạ nhân từ, tuyệt đối sẽ không làm thương Quốc Chúa. Nhưng…lần này đi nhận chức quan, bổng lộc chắc sẽ ít, cuộc sống sợ sẽ không hậu đãi được như trước kia. Quốc Chúa sống an nhàn sung sướng lâu rồi, sao chịu được cảnh thanh bần cực khổ. Nếu Quốc Chúa có ý, bổn tướng sẽ phái một đạo nhân mã, mời Dương đại nhân chiếu ứng, theo ngươi vào cung mang vác tiền của”.
Tào Bân nghe vậy vừa mừng vừa lo, vội vàng bái tạ, rồi lập tức bảo nội thị bên người theo Dương Hạo vào thành.
Binh tướng thủ cung môn là bộ hạ của Tào Bân, được tướng lệnh bèn theo Dương Hạo vào cung, trong cung rắn mất đầu, hoảng sợ, vừa nghe Dương Hạo đến, Tiểu Chu hậu cũng bất chấp lễ nghi, vội vàng ra nghênh đón nói: “Dương đại nhân, Quốc Chúa nhà ta giờ sao rồi, gắn vào tội trạng gì?”
Tiểu Chu hậu lúc này như mơ ngủ, kiều diễm, lúc này vô cùng tiều tụy, mặt mày ảm đạm. Dương Hạo hơi thi lễ về phía cô, vẻ mặt ổn hòa nói: “Nương nương chớ nên lo lắng, Quốc Chúa giờ vẫn rất tốt. Ngày mai sẽ đưa Quốc Chúa và nương nương đến Biện Lương gặp Bệ hạ, Dương mỗ hôm nay đến là theo sự phó thác của Quốc Chúa, bảo nương nương chuẩn bị vàng bạc và các đồ châu báu, trước tiên đưa chúng vào trong doanh, để mai khởi hành tránh không kịp chuẩn bị”.
Tiểu Chu hậu nghe nói Lý Dục không sao, thở phào nhẹ nhõm, cô cảm ơn Dương Hạo, nghĩ chi li, không biết nên mang theo vật nào, cô từ nhỏ tới lớn sinh ra và lớn lên trong gia đình phú quý, đến khi trưởng thành thì trở thành Hoàng hậu của Đường Quốc, cầm kỳ thi họa thì không ai sánh bằng, song lại không có sở trường về quản lý tài sản, nghĩ ngợi một lúc lâu, bèn dặn dò nội thị đô tri, tùy ý sắp xếp tiền của, đặc biệt là tứ bảo trong phòng Lý Dục luôn nâng niu giấy trừng Tâm điện, nghiên Long Vĩ, mực Lý Đình Khuê và gói chúng thật kỹ lưỡng vào bảy tám mươi chiếc hòm, nghìn ơn vạn tạ giao cho Dương Hạo.
Dương Hạo nhìn mỹ nữ buồn bã, và vô cùng lo sợ, không đành lòng, hơn nữa hắn còn trộm vật quý vô giá của nhà người ta, giờ thấy chủ nhân vậy cũng hơi không vững tin, cho nên hắn cũng không ở lại lâu, thấy cô đã thu dọn kha khá, liền cáo từ đi ra.
Dương Hạo hộ tống bảy tám chục hòm ra khỏi cửa thành Kim Lăng, phía trước có thân binh Tào Bân không có gì đáng ngại, lúc này đi, kính bôn thư viện Giang Nam.
Người của hắn còn thủ ở thư viện, Dương Hạo vào thư viện Giang Nam, Lý Thính Phong lập tức ra nghênh đón.
Dương Hạo hỏi: “Việc đã lo ổn thỏa chưa?”
Lý Thính Phong cung kính cười nói: “May mắn không sao”.
Dương Hạo thở phào, mặt tươi cười nói: “Vàng bạc châu báu, nếu mất có thể lấy lại được, chỗ văn chương vô giá đó có từ thời Hoa Hạ mấy nghìn năm tinh túy, một khi có bị mất mát, cũng không thể nào lấy lại được, Lý huynh có thể giữ gìn, cho dù ngàn năm sau, hậu thế cũng sẽ cảm động và nhớ nhung công lao to lớn của huynh đài”.
Lý Thính Phong xua tay cười nói: “Không dám, không dám, điều đó xuất phát từ ý của Dương huynh, Lý mỗ chỉ là người thực hiện thôi. Ha ha, không ngờ Dương huynh thực là người thích sách, hao hết cả tâm tư, không cần đồ châu báu mỹ nữ, lại chỉ thích văn thơ kinh điển, thực là khiến người ta bái phục”.
Hắn nói đến châu ngọc mỹ nữ, Dương Hạo bèn nghĩ tới hôm qua cứu Diểu Nương và mấy ca kỹ vũ trong cung, liền mỉm cười hỏi: “Đúng, hôm qua bảo Tiểu Vũ đưa mấy cô gái vào đây, đã sắp xếp ổn thỏa chưa? “
Lý Thính Phong nói: “Đại nhân đã an bài, ai dám quấy rầy họ, giờ đã dàn xếp phía sau rồi”.
Dương Hạo gật đầu, mặt lại tươi cười hỏi: “Cơ nghiệp Lý huynh đều ở Đường Quốc, giờ cơ nghiệp bị hủy, dự tính đợi Giang Nam bình lặng lại, lại khôi phục Đông Sơn, hay là…muốn di cư?”
Lý Thính Phong mắt sáng lên, hỏi lại: “Giờ Giang Nam đã quy Tống, liệu trong mấy năm Tống Quốc nghỉ ngơi lấy lại sức, hưu binh nghỉ dân, kiểm kê nội chính, lấy lại lực lượng, không biết Dương huynh khi nào về tây bắc, chủ trì đại cục?”
Dương Hạo hơi tính toán, nói: “Muộn nhất sẽ không quá tháng 7 năm nay, cây cỏ tươi tốt, dê béo mã tráng”.
Lý Thính Phong cười nói: “Đã như vậy, Lý mỗ lần này đi Lô Châu, thì sẽ qua đó cung hầu đại nhân, còn về gia nghiệp Lý Thị, cũng sẽ lần lượt rời đến Tây vực”.
Dương Hạo thầm nghĩ: “Người trong Thừa Tự đường thực cẩn thận, xem ra Lý Thính Phong này còn chưa hết hy vọng đạp chiến thuyền của ta. Thế giới này không có chế độ tiên tiến nhất, hoàn mỹ nhất, chỉ có nhập gia tùy tục, thích hợp với chế độ của địa phương, nếu ta quật khởi tây vực, tuyệt đối không thể giống như tân triều Vương Mãng hoàng đế rập khuôn với một chế độ hoàn mỹ trên giấy, còn về thực hiện, sợ kéo dài chế độ môn phiệt Tùy Đường trở lại đây, mới có thể có được sự ủng hộ thế lực người ta”.
Trong lòng nghĩ vậy, Dương Hạo nói: “Được, quay đầu lại Dương mỗ sẽ thu thư nhất phong, sau khi Lý huynh đến có thể giao cho nghĩa phụ Dương mỗ, ông ấy nhất định sẽ nhận. Dương mỗ nghĩ mấy vị cô nương, sợ…họ cũng không thể không phó thác Lý huynh, cùng đi Lô Châu”.
“Đại nhân đến rồi, đại nhân đến rồi”. Mấy cô nương sống sót sau tai nạn vừa nhìn thấy Dương Hạo thì như gặp được người đáng tin cậy kêu lên. Họ vẫn giả trang nam nhi, tuy hơi gượng song vẫn xinh đẹp vô cùng. Người trong Đường cung đi ra, quả nhiên bộ dạng thướt tha Giang Nam, mỗi người đều là một giai nhân trong thiên hạ.
“Đại nhân đến rồi sao?”
Diểu Nương ở trong phòng nghe thấy, vội nở nụ cười hỏi han, lúc này tuy không son phấn, nhưng được ánh mặt trời chiếu, khuôn mặt nhẵn không tì vết, cô đưa ngón tay ngọc ra, vuốt lại mấy sợi tóc bay rối, và nhìn về phía hắn, và đi đến.
Đối với vị ân chủ của mình, cô chỉ là một thiếu nữ mà thôi, trong thời loạn, có thể tìm một nơi yên bình chính là sự thỏa mãn lớn nhất, giờ Dương Hạo đã là chỗ dựa đáng tin duy nhất của cô, đến thư viện, nhìn thấy đống văn chương vô giá, cô càng hiểu Dương Hạo không có dã tâm giết bọn họ diệt khẩu, nên cô vô cùng cảm động.
Cô vội vàng đến gặp Dương Hạo, Dương Hạo mỉm cười với họ nói: “Các cô yên tâm ở đây mấy ngày, ngày mai Lý Dục sẽ vào kinh, thành Kim Lăng qua vài bữa nữa sẽ không còn nghiêm mật thế này nữa, đến lúc đó bổn quan sẽ sắp xếp cho các cô một nơi an toàn”.
Diểu Nương giật mình: “Đi nơi nào? Nô gia…nô gia và mấy tỷ muội không theo đại nhân về Biện Lương sao?”
Dương Hạo cười lớn nói: “Chớ có hỏi nhiều, các cô chỉ cần yên tâm ở đây, bổn quan đồng ý cứu các người, thì sẽ không bỏ rơi giữa đường đâu”.
Diểu Nương vội dịu dàng nói: “Vâng, nô gia nào dám hỏi đại nhân nhiều, chỉ là…được đại nhân giúp đỡ, cứu lấy tính mạng của mấy tỷ muội tôi, chúng tôi đều vô cùng cảm ơn đại nhân, muốn ở bên cạnh đại nhân, bưng trà rót nước, trải giường trải chiếu, nghiên mực mài mực, thơ ca, hầu hạ đại nhân…”
Dương Hạo cười ha ha, nói: “Diểu Nương, nếu cô có thực là thông minh thì không cần nói những lời đó với ta, các cô ở trong cung cũng là vũ nhạc ca kỹ, không phải là cung nữ bình thường, Dương mỗ há lại giận dữ, đem các cô làm nha đầu sai khiến? Các cô cho dù yên tâm đi đến nơi ta đã sắp xếp cho các cô, sau này nếu có phu quân vừa ý, bổn quan làm chủ, để về sau các cô có cuộc sống yên ổn”.
Đám người Diểu Nương không chịu tin, vội nhẹ nhàng nói: “Bọn nô tỳ giờ được đại nhân thu nhận, đương nhiên là toàn tâm toàn ý phụng dưỡng đại nhân, chỉ cần đại nhân không chê, thì đám nô tỳ cả đời sẽ hầu hạ đại nhân”.
Dương Hạo thở dài nói: “Đừng say đắm quá vậy, chỉ nói đến đây thôi, đến nơi đó các cô nhất định phải cẩn thận lời ăn tiếng nói, nếu không…một khi hai hổ mẹ nhà bổn quan tức giận, bổn quan cũng không bảo vệ được các người đâu. Nữ nhân nhà Dương gia ghê gớm lắm.
Mấy cô gái nghe hắn nói vậy, khúc khích cười, mấy cô gái cải trang nam nhi che miệng cười, liếc mắt nhìn, thực xinh đẹp vô cùng.
Diểu Nương thản nhiên nói: “Đại nhân là chủ một nhà, còn không quản nổi nương tử của mình sao?”
Dương Hạo nghiêm mặt nói: “Thực không giấu gì các cô, ở chỗ bổn vương, bổn vương là loại bỏ đi, các cô lần này đi Lô…à, nhất thiết phải cẩn thận, bổn quan có thể cứu được tính mạng các cô trong nghìn mã quân, nhưng các cô không nghe lời, rơi vào miệng cọp, bổn quan cũng không thể cứu được”.
Diểu Nương nhìn Dương Hạo, thầm nghĩ: “Vị đại nhân này xem ra cũng khôi hài, hoàn toàn không giống với đám người trước đây trước mặt Quốc Chúa. Đi cùng với vị chủ nhân này, về sau…sẽ không khổ đâu…”
Chương 375:Vướng mắc.
Triệu Quang Nghĩa phái đại tướng thủy quân Lưu Ngộ, hộ tống thống soái kỵ binh Đinh Đức Dụ dẫn trọng binh. Tào Bân đích thân đi theo, đưa phu thê Lý Dục và toàn bộ hoàng tộc Lý Thị tới Biện Lương, đồng thời viết một bức chiến báo, dâng lên Hoàng đế.
Trong tấu biểu có viết: quân Tống thảo phạt quân Đường, phụng chỉ dụ của Hoàng đế, khi tấn công Kim Lăng nghiêm cấm tàn sát kẻ vô tội, nghiêm cấm cưỡng dâm bắt người cướp của, đại quân vào thành, quân kỷ nghiêm minh, những sĩ hào dân chúng Đường Quốc vô tội, sĩ phu Giang Nam phải được bảo toàn, không được cướp bóc hào thân Kim Lăng, kho phủ triều đình chiếm giữ đều phải được niêm phong, không được mất kiện nào. Vương giả Đại Tống hùng binh có nhân có nghĩa, cho nên đến đâu, dân chúng Giang Nam không thể không kính phục, đây là hồng phúc của Bệ hạ…
Lần này, các sĩ binh từ trong tiền thành gia Cần Chính điện đại học sĩ, Tiền đại học sĩ vì có loạn binh vào nhà cướp bóc không kịp thời lên án mạnh mẽ, một nhà sáu mươi tám người không phân biệt già trẻ trai gái đều bị giết hại.
Các ngõ hẻm, chân tường kẽ tóc, đi qua thì sẽ phát hiện rằng, thi thể nữ tử trần trụi non nớt nằm ngửa mặt lên, trên người một mảnh che thân cũng không có.
Thời kì Kiến Vu lương triều, cao có tòa tháp Thăng Nguyên Kim Lăng nguy nga hơn mười trượng, dư âm vẫn còn, sập tòa tháp, có hơn một ngàn oan hồn, đây là vì dân chúng trốn chiến loạn nên chạy đến Phật tháp, vốn nghĩ rằng tự viện tương đối an toàn, song lại bị loạn binh châm lửa thiêu, và họ ở trong đó chờ chết…
Song, chiến báo của Triệu Quang Nghĩa không coi là nói dối, so với sự mãnh liệt cướp bóc Vương Toàn Bân khi đánh chiếm thành đô, Kim Lăng thực sự dân chúng lầm than khắp nơi, sát thần Vương Toàn Bân chỉ là phụ trợ thêm, Triệu Quang Nghĩa mới chính là Phật sống vạn nhà, nên thưởng cho ông ấy chút hoa hồng.
Mặt Triệu Quang Nghĩa giờ cười giống như đóa hoa hồng đáng yêu, nụ cười của hắn nhìn già trẻ nhà Lý Dục lên thuyền rời đi, mùi vị sinh sát đó khiến hắn vô cùng hài lòng. Lý Dục đã được đưa vào Kinh rồi, các châu phủ Giang Nam đều đã cắm cờ Tống, bình định nơi đó xong, sẽ trở về Khai Phong, hắn sẽ nhận được sự hoan nghênh long trọng cỡ nào? Đến lúc đó, thành tựu quân công hắn đều chiếm thượng đỉnh, Hoàng huynh còn dám phiêu lưu giang sơn, truyền ngôi vị cho Hoàng tử sao?
Đọc đến đây, Triệu Quang Nghĩa xoa tay, nhiệt huyết sôi trào.
Đầu thuyền, nhìn về thành Kim Lăng càng ngày càng xa, Lý Dục không khỏi buồn bã, hắn vịn vào mép thuyền, nhìn về Kim Lăng xa xa, ngâm:
“Đường thuỷ sơ trừng tự ngọc dung
Sở tư hoàn tại biệt ly trung
Thuỳ tri cửu nguyệt sơ tam dạ
Lộ tự trân châu nguyệt tự cung
Thâm viện tĩnh
Tiểu đình không
Đoạn tục hàn châm đoạn tục phong
Vô nại dạ trường nhân bất mị
Sổ thanh hoà nguyệt đáo liêm lung
Dịch thơ:
Hồ nước vừa in tựa ngọc dung
Vẫn trong ly biệt, kẻ ta mong
Mồng ba tháng chín đêm hôm đó
Móc tựa trân châu, nguyệt tựa cung
Thâm viện tĩnh
Tiểu đình không
Chày chập chùng khua, gió chập chùng
Khốn nỗi đêm trường không chợp mắt
Nguyệt đưa từng tiếng lọt liêm lung ”
Ngâm đến đây, thì nấc nghẹn không thành tiếng.
“Bệ hạ…”
Tiểu Chu hậu đi nhẹ lại đến trước mặt hắn, kéo khăn che mặt, khuôn mặt khả ái đẹp hơn hoa ngọc, cũng đã đẫm lệ, hai phu thê nắm tay nhau không nói gì.
Nước sông lững lờ chảy, chiếc thuyền đi từ từ, lòng người buồn bã, lần này, từ miếu ly quốc, sẽ có ngày trở về không….
*****
Kim Lăng nhanh chóng được mở cấm thành, các tướng lĩnh đều cho rằng, Kim Lăng đã không còn thế lực phản kháng, cũng không chuẩn bị nổi thế lực phản kháng nữa, nhanh chóng hồi phục lại bình thường, để dân chúng an cư lạc nghiệp, để giúp uy vọng của triều đình được tăng lên, Triệu Quang Nghĩa làm việc thiện.
Mở cấm thành, các vị tướng quân mới tiện đưa tiền của vợ con người nhà ra thành, đưa về Biện Lương, Triệu Quang Nghĩa trong lòng biết rõ điều này, tự cũng sẽ không làm hỏng việc tốt của đám viên tướng dũng mãnh này.
Dương Hạo quan sát hai ngày, phát hiện rất nhiều tướng lĩnh ngông nghênh hộ tống đội xe rời Kim Lăng, không bị chất vấn gì, mới thông báo Lý Thính Phong lên đường. Đoàn người họ lại không ít, hai mươi mấy đại xe, hơn trăm người, Dương Hạo đích thân hộ tống, khi đi ở trên đường, gặp ngay Tào Hàn.
Tào Hàn là một viên đại tướng dưới quyền của Tào Bân, hung dũng vô cùng, đôi mày như nhuộm mực đen xì, đôi mắt đằng đằng, uy vũ bất phàm. Hôm qua hắn vừa mới hộ tống mấy chục chiếc xe rời thành, không ngờ hôm nay lại gặp Dương Hạo lén lút rời đi.
Tào Hàn nhìn thấy hắn từ xa, nhếch miệng cười, đoàn người Dương Hạo đi vô số nữ quyến cải trang thành nam nhi. Dáng điệu uyển chuyển, rõ ràng là thư sinh con gái, đâm ra càng vui, đi đến trước mặt Dương Hạo, còn giơ ngón cái lên, khen hắn: “Được lắm, rất nhiều võ tướng đều đánh không qua ngươi”.
Dương Hạo hơi xấu hổ, mặt hắn đỏ gay, thấy Tào Hàn mặc giáp, cầm thương thúc ngựa, bên cạnh là độ ngũ dài, khi hai người chào hỏi nhau, Dương Hạo ghìm dây ngựa, mỉm cười nói: “Tào tướng quân vất vả, đang đi tuần thành đó sao?”
Tào Hàn cũng ghìm ngựa lại, cười dài thi lễ nói: “Không phải, mỗ phục lệnh Tấn Vương Thiên Tuế đang đi chinh phạt Giang Châu”.
Dương Hạo ngạc nhiên hỏi: “Giang Châu? Giang Châu chưa chịu hàng sao?”
“Đúng”.
Tào Hàn cười rộ lên: “Thủ quân Giang Châu đã được tin Lý Dục hiến thành xin hàng, song lại không chịu quy thuận. Giờ toàn 19 châu Đường Quốc, chỉ còn thừa lại một thành đó, thực không biết thời thế, rồi đừng có trách đao người Tống ta không có mắt?”
Dương Hạo có vẻ hơi bất an nói: “Tào tướng quân, quân Đường còn cố giữ thành không hàng. Những dân chúng vô tội trong thành, chẳng lẽ cũng chấp họ sao, thực đáng thương, đâu phải chuyện gì cũng có thể do tự họ làm chủ? Tào tướng quân uy phong lẫm liệt, một tòa Giang Châu có thể mã đáo thành công, song đức thượng thiên, mong Tào tướng quân có thể thông cảm cho nỗi khó khăn của bách dân, khi thành bị phá, cũng nên mở rộng lòng tha thứ, đó sẽ là công đức lớn cho con cháu về sau”.
Tào Hàn cười càng to hơn nói: “Dương đại nhân quả nhiên là một thư sinh, mở miệng là nói đến nhân nghĩa. Công huân tướng quân chắc được, chủ yếu là dựa vào nhát đao thôi, Lý Dục tín Phật, thế mà có ai đến cứu con cháu hắn? Đạo thần Phật, ta khuyên Dương đại nhân chớ có tin hắn. Tàn sát là tội, tàn sát vạn là vi hùng, đồ đắc 900 vạn, vi hùng trung hùng, cứ coi như cái thế gian này có thần Phật, Tào Hàn tu cũng là đạo A Tu La, không giết gì? Ha ha, Dương đại nhân giờ đang bận thì đưa người về quý phủ đi? Tào mỗ không làm phiền nữa, cáo từ…”
Tào Hàn nghe lời Dương Hạo, chỉ thấy buồn cười ghê gớm, nhưng biết hắn là người thân cận bên Triệu Quang Nghĩa, nên không dám đắc tội, lời nói còn rất khách khí, nói xong Tào Hàn cưỡi ngựa chắp tay thi lễ, rồi lệnh cho quân đi.
Dương Hạo nhìn theo bóng dáng của hắn không khỏi thở dài: “Tào Bân tướng quân đã phái người đi đưa thánh chỉ cho Triệu Khuông Dận rồi, không biết thánh chỉ khi nào mới đến, nếu như muộn, thành Giang Châu bị phá, sợ lại bị tàn sát khủng khiếp. Chẳng lẽ từ hậu Đường diệt vong, cuối cùng là triều Tống, Kim Lăng không bì được với Tô Hàng, cho nên Minh Thanh mới hồi phục nguyên khí, các nơi cướp bóc thực rất nghiêm trọng, mọi thứ phá rồi có thể hồi phục lại, sĩ thân thương nhân đều giết hết rồi, sợ hãi mà chạy hết rồi, muốn hồi phục lại đâu có dễ…
********
Giang Châu không có trọng binh trấn thủ, thủ tướng cũng không nổi tiếng, nhưng thành trì cô độc không có sự viện trợ, toàn Giang Nam một lá cờ độc lập, sau khi Đường chúa Lý Dục xưng thần đầu hàng, đầu thành của nó đã bay theo cờ Đường rồi.
Họ cũng biết mình không thể trấn thủ được Giang Châu, nhưng vẫn trấn thủ ở đó, không màng sinh tử. Chỉ vì mình nhiều năm ăn bổng lộc Đường Quốc, cần phải có bổn phận quân nhân đến cùng.
Không biết thời điểm sao? Đúng.
Trung thành tận nghĩa sao? Đúng.
Họ là người Tống, vốn có trách nhiệm bảo vệ đất, nhưng lúc này bảo vệ, mang lại những sự thương vong cho dân chúng trên mảnh đất đó, nhưng ai có thể chịu trách nhiệm cho họ đây? Dù có là Dương Hạo, cũng không thể đứng ở góc độ hậu thế mà đi khuyên họ đừng kháng cự lại nữa.
Sau khi Tào Hàn đi được bốn ngày, tin thành Giang Châu bị phá vẫn chưa được đưa đến, khoái mã của triều đình đã đến, thánh chỉ của Triệu Khuông Dận được đặc sứ mang đến, trên thánh chỉ nói Lý Dục đã hàng, những kẻ không đủ gây sợ hãi một khi tấn công thành trì, nhất thiết không được tàn sát người vô tội, để khỏi sinh linh kêu thán, dân chúng bất an.
Dương Hạo nghe được tin này vui mừng khôn xiết, vội đi gặp Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa nhìn hấy Tào Bân dấu hắn thánh chỉ triều đình, lòng vô cùng không vui, vừa nhìn thấy Dương Hạo đến chung ý nghĩ với Tào Bân, lòng càng bất mãn, nói với Dương Hạo: “Tào Hàn đã đi được mấy ngày rồi, tin thành Giang Châu bị phá vẫn chưa đến, Bệ hạ đưa ra chiếu thư này cùng đã muộn mất rồi”.
Dương Hạo bất chấp vội nói: “Thiên Tuế, tin Tào Hàn phá thành không phải còn chưa tới sao? Chiếu thư này vị tất không thể cứu được bách tính Giang Châu. Nếu chúng ta nhận thánh chỉ mà không nói với đại quân công thành, một khi đồ tăng bị giết hết, mặt mũi Quan Gia phải để đâu, chúng ta cũng không còn mặt mũi nào nữa”.
Dương Hạo đứng ở góc độ dân chúng thay hắn nghĩ, Triệu Quang Nghĩa nghe cũng có vẻ hiểu, cân nhắc lại thánh chỉ của Quan Gia, nếu như thuyền thuận dòng mà trôi thì không có vấn đề gì, thế là mặt buồn thiu, trầm ngâm nói: “Thế…bổn vương ngày mai phái người đi Giang Châu truyền ý chỉ”.
Dương Hạo vội nói: “Hà tất phải ngày mai? Giờ trời chưa tối, nếu như Thiên Tuế đồng ý, hạ quan nguyện đi Giang Châu một chuyến”.
Triệu Quang Nghĩa mặt đần ra, vuốt cằm nói: “Thôi vậy, thế ngươi đi giang Châu truyền chỉ đi, giờ khắp nơi đều có loạn binh, ngươi đi một mình nhớ cẩn thận”.
Dương Hạo vui mừng, lập tức nhận lấy thánh chỉ, lệnh cho một đội thị vệ nhân mã, khoái mã tăng tốc đến Giang Châu, trên đường đi Dương Hạo không dám nghỉ ngơi, chỉ nghĩ đến dân chúng Giang Nam, thì thúc khoái mã chạy như bay, mau chóng đến thành Giang Châu không chậm trễ.
Chân núi Lư Sơn, thành Giang Châu.
Dương Hạo cầm thánh chỉ vào chỗ cửa thành bị phá, chỉ thấy hỏa chiến bốn bề trong thành, mọi nơi đều là phế tích, ngõ hẻm vô số thi thể, thi thể già trẻ trai gái la liệt, không còn một ai sống.
Thành đã bị phá, người đã chết, lúc này ở hang cùng ngõ hẻm, khắp nơi là quân Tống cướp bóc. Sáu vạn quân dân Giang Châu, xác chết la liệt.
Dương Hạo bàng hoàng, buồn bã đứng ở đầu đường, nhìn thấy vô số thi thể nằm ngổn ngang, không dám để ngựa dẫm lên, hắn nhảy xuống ngựa, dắt ngựa đi trên đường, máu me be bét, hắn muốn có một cái lễ rửa tội.
Tào Hàn phi đến, vừa đi vừa dặn dò đám thân tướng: “Tiền tài có được từ Giang Châu, cần ba trăm đại thuyền chở đi, ngươi lập tức đi thu xếp thuyền bè, mau chóng chở mấy thứ đó về, không cần để ở đây làm gì cho chướng mắt. Sau khi đi, mỗ sẽ lấy nó mang biếu Thiên Tuế và các vị tướng quân”.
“Tướng quân, mấy trăm đại thuyền, thanh thế quá lớn, ngài cũng biết, các ngự sử trong triều đều rảnh rỗi cả, bàn tán nhau, ngỗ nhỡ họ biết, trước mặt Quan Gia lại nói vài lời gièm pha…”
“Ồ,…mấy trăm chiếc thuyền hơi chướng mắt, để thư sinh nghèo đi nói huyên thuyên không tốt thật…”
Tào Hàn dừng bước lại trầm ngâm giây lát, mắt bỗng sáng lên nói: “À, vừa nãy qua chỗ cổ tự, trong tự không phải có năm trăm tôn thiết La Hán sao, dời chúng hết lên thuyền, lần lượt đặt ở các đầu thuyền, nói là La Hán hiến cho Quan Gia, hắc hắc, họ còn dám lên thuyền kiểm tra xem thuyền ta đựng cái gì nữa không? Dùng thiết Phật chặn mồm nhà nho nghèo, không để họ om sòm”.
“Vâng vâng vâng, tướng quân nói phải lắm…”
Tào Hàn liền ngẩng đầu lên, giật mình sợ hãi nói: “Dương đại nhân, ngươi sao lại đến Giang Châu thế này”.
Dương Hạo nhìn vô số phế tích, thi thể tràn lan, lạnh lùng hỏi: “Giang châu? Xin hỏi tướng quân, Giang Châu ở đâu?”
Tào Hàn cười ha ha nói: “Dương đại nhân chẳng lẽ say rượu sao, người đang đứng ở Giang Châu sao lại không biết là Giang Châu, ha ha, Dương đại nhân của tôi ơi, đây là thành giang Châu mà…”
Tay Dương Hạo hơi buông thõng, ống tay chảy xuống, che đi tấm thánh chỉ, hắn nhìn xung quanh, buồn bã nói: “Dương mỗ chưa nhìn thấy thành Giang Châu, chỉ nhìn thấy…một toàn thành Tu La…”
*******
Dưới chân núi Lư Sơn, trên người tuấn mã chở đám người bị cắm mũi tên nhọn đang hí dài, tiêu hao hết sức lực, té ngã trên mặt đất, một tiểu hòa thượng trên xe ngựa suýt ngã xuống, người đổvề phía trước, rồi lập tức lại lăn vào trong khoang xe, nói: “Thủy Nguyệt, Thủy Nguyệt, nàng sao thế?”
Thủy Nguyệt hấp hối nằm ở trong khoang xe, tăng y trắng đã bị máu nhuốm đỏ, trước ngực cô bị cắm một mũi tên nhọn, mũi tên cắm khá sâu vào trong người, Bích Túc hoảng quá, muốn đưa tay ra nhổ, song lại không dám, ôm lấy Thủy Nguyệt, chỉ khóc.
Một góc xe làthi thể bảo nguyệt nữ ni Tịnh Tâm am, cô bị người ta cho vài nhát đao, xương sườn bị chặt ba khúc, nội tạng theo vết thương lồi ra, nhìn vô cùng thương tâm.
Bích Túc cũng thân nhuốm máu, chân trái bị cắm một mũi tên, ngực phải bị vũ khí sắc bén xoẹt cho một nhát, nhìn người đều bị mũi tên cắm, không biết làm sao có thể ôm chặt.
Tịnh Thủy Nguyệt mở mắt vô hồn nhìn bộ dạng khóc như mưa của Bích Túc, khóe miệng nở nụ cười hiền lành, cô gắng gượng mình dậy, khẽ lau đi nước mắt trên mặt Bích Túc, rồi khẽ lắc đầu, Bích Túc gật đầu, nín không khóc nữa, nước mắt cũng không lăn dài nữa.
Bích Túc không đi cùng đám người Thôi Đại Lang, vốn muốn đưa Tịnh Thủy Nguyệt ở quân Tống qua sông xong thì lén vượt qua Trường Giang tới Thiếu Hoa sơn, không ngờ sau khi quân Tống qua sông, Thái Thạch cơ bị tranh đoạt cầu nổi, song phương đại chiến không ngừng nghỉ, Bích Túc muốn đưa Tịnh Thủy Nguyệt đến nơi khác lấy thuyền nhỏ qua sông, kết quả tướng Đường tàn quân Đỗ Chân trốn ở Đương Đồ thành, gây sự chú ý, quân Tống quay lại. Lúc đó Bích Túc vừa mới về thành, sớm hơn một bước, vội mang Thủy Nguyệt từ cửa Nam thành trốn ra.
Nhìn thấy quân Tống không kính thần Phật, đến tự miếu mà cũng phá, hòa thượng còn giết, Thủy Nguyệt lại lo lắng sư phụ tình như mẹ con, Bích Túc bị cầu xin không từ chối, biết đây là chiến trường khốc liệt, còn đạo nghĩa không cho phép chùn bước mang cô về. Hai người về đến Kim Lăng, khó khăn khuyên Bảo Nguyệt nữ ni rời đi, Bảo Nguyệt nghĩ đến các am, không nỡ rời đi, Bích Túc rơi vào đường cùng, đành phải mạnh mẽ đưa cô đi, đường tướng được báo là trong am có ni cô, bảo họ tháo chạy, liền núp vào thâm sợ tự viện, nói hết cũng cho dù họ có nghe hay không cũng lập tức trốn ra thành Kim Lăng.
Lúc này các đạo quân Tống đang chạy tới hướng Kim Lăng, bất luận là hướng bắc hay hướng tây đều không thể, nếu hướng đông, cách nơi đến của hắn càng ngày càng xa, Bích Túc chỉ có thể chọn hướng nam, trốn sự tấn công của quân Tống, khó khăn đến Giang Châu. Hắn vốn có dự định ở đây tìm một cái thuyền qua sông, không ngờ thần xui quỷ khiến đâm vào chỗ chết, thủ tướng Giang Châu phong tỏa tất cả các con đường thủy ra vào thành, bảo vệ thành trì quyết chiến với quân Tống, ba người họ cũng nhàn rỗi ở trong thành, mãi đến khi Tào Hàn phá thành, lúc này loạn quân mới xông vào giết, và chạy tới chân núi Lư Sơn.
“Thủy Nguyệt, nàng không được chết, nàng đã đồng ý với ta, nghe ta cả đời niệm kinh, cả đời theo ta, cả đời theo ta, ta và nàng sinh hai tiểu hòa thượng, Thủy Nguyệt…”
Bích Túc khóc rống lên, Thủy Nguyệt gượng sức giơ tay lên, chỉ vào ngực của mình, rồi chỉ vào Bích Túc, ngón tay nhuốm máu chỉ vào ngực Bích Túc, lẩm bẩm không nên lời, không có giọng nói phát ra, chỉ có thể nhìn miệng cô mấp máy, sau đó, tay cô từ từ buông thõng xuống, hai mắt nhìn Bích Túc đắm đuối….
Tay buông hẳn xuống, đôi mắt dịu dàng cũng từ từ khép lại, Bích Túc đờ đẫn, kêu lên: “Thủy Nguyệt…”
Tiếng gọi vang trời, len lỏi vào từng vách núi…
*******
Bích Túc xuống núi, miệng lẩm bẩm niệm kinh, đi từng bước tới bờ sông, dẫm lên chiếc thuyền đi về hướng bắc, nước sông Trường Giang cuồn cuộn, chảy về phía đông. Tăng y của Bích Túc đã rách bươm, nhưng vẫn trang nghiêm, tuổi còn trẻ, nhưng khách trên thuyền không dám khinh thường, hắn đứng ở đầu thuyền, mắt đờ đẫn, song ít ai có thể nhìn thấy mắt hắn tràn ngập sát khí.
Lúc này, Triệu Quang Nghĩa công lao viên mãn đã mau chóng chạy về Khai Phong.
Lý Dục đã bị mất hữu ngàn ngưu vệ, thêm tước vi mạng hầu, Từ Huyễn, Trương Ký thì sĩ bác học, đều có quan chức hết, Triệu Khuông Dận đã lệnh cho người khẩn cấp lấy mười vạn hộc gạo chuyển đến cho lưu dân Giang Nam, mảnh đất Trung Nguyên màu mỡ, cẩm tú giang sơn giờ đã nằm trong tay, vô cùng vui mừng.
Nhưng, Triệu Khuông Dận lại không biểu lộ vẻ vui mừng ra mặt, lấy giang sơn không dễ, giữ được giang sơn còn càng khó hơn, diệt Đường Quốc không là gì, Thần Thủy Hoàng hợp được sáu nước lại, chiến công so sánh với hắn thế nào? Nhưng giang sơn chuyển mấy đời? Cái hắn cần là giang sơn lâu bền, nhưng giờ làm được điều đó đâu phải đơn giản?
Hắn lúc này đang nghĩ đến vấn đề dọn sạch Đường Quốc càng thêm khó khăn, dựa vào hùng tài đại lược của hắn, quyết định sát phạt, diệt một nước chẳng qua chỉ là chuyện trong chốc lát, nhưng vấn đề này lại khiến hắn vô cùng đau đầu. Lập quân công, văn trị võ công nhất thời nhị đệ uy phong trở về, hắn nên làm gì với huynh đệ này đây?
Người, đều có nhược điểm, Triệu Khuông Dận cũng không phải ngoại lệ, nhược điểm lớn nhất của hắn chính là mặt không đủ dày, tâm không đủ đen tối, hắn trọng tình nghĩa. Biết rõ là đại tướng tay có trọng binh soái vị mưu phản như cơm bữa, hắn kết nghĩa huynh đệ một khi chim đủ lông đủ cánh, đuôi lớn không rụng, vì tất không phản, nhưng lại không giống như Hán Cao Tổ, Minh Thái Tổ giết sạch công thần, thà ban thưởng họ tiền tài con dân, ruộng đất màu mỡ, tốn thêm chút theo dõi họ, không để họ tác loạn quyền hành; Dù biết rõ hoàng thất vị tất sẽ không bị người ta ngụy trang tạo phản, Kinh Hồ, Thục Hán, Đường Quốc các vị minh chủ một khi bị người ta cứu ra, có thể minh chính ngôn thuận giương cờ tạo phản, nhưng vẫn là quan chức được ban thưởng, không đành lòng giết bọn họ.
Đối với người ngoài, uy nghi rõ ràng, hắn đều không nhẫn tâm loại trừ, huynh đệ thân có dã tâm với mình, hắn cũng không nhẫn tâm làm hại, thân thiết như tay chân, có lần Triệu Quang Nghĩa ốm, cần ngải thảo trị thương, Triệu Quang Nghĩa không chịu nổi được đau, Triệu Khuông Dận nhìn vậy không đành lòng, cầm lấy ngải thảo đốt, dùng cánh tay của mình dùng thử cách gì có thể làm giảm đau đớn vào chính vết thương của mình, một vị Hoàng đế, không cần phải làm vậy, hắn là huynh đệ của nhau mà.
Nhưng, người đều có tư tình, con mình đã lớn, Trung Nguyên đã thống nhất, giữa huynh đệ và con cái, con cái gần hơn chút. Hắn biết huynh đệ nhà mình thèm nhỏ rãi vị trí Đế vương, song chỉ muốn dùng cách mềm dẻo đều dùng để xóa dã tâm của họ, nếu có thể làm mất ý nghĩ xằng bậy, không làm tổn thương đến tình huynh đệ, nhưng, phải làm thế nào đây?
“Nhị đệ sắp vào điện, hắn đã là Tấn Vương, phong cũng không được mà không phong cũng không xong, quân quyền này, không thể lập tức đoạt lại từ công thần của hắn. Quân quyền, chính quyền, hắn đều có mặt, thế lực tiềm ẩn càng ngày càng mạnh, nội hoạn phòng ngoại hoạn, ta phải làm thế nào mới được đây?”
Triệu Khuông Dận bễ nghễ, giữa công tư quốc gia, cũng phải có lúc lâm vào tình huống khó giải quyết.
Lúc này, Tấn vương vội vã về Khai Phong, lệnh cho Mục Vũ chạy tới Nhạn Môn Quan, Dương Hạo thì theo kế hoạch của hắn xuất sứ Khiết Đan chế tạo thời cơ đang đứng ở bậc cửa hoàng cung đợi tấn kiến. Vì vừa mới từ phương nam về, cả đường ngồi xe ấm, mặc không nhiều, nên đứng dưới bậc thềm cung một lát, hai chân đã lạnh cóng. Hắn trốn vào một góc khuất tránh gió, nhìn ngược nhìn xuôi, bỗng nhiên, hắn nhìn xuống chân, bỗng nhớ tới một chuyện lớn.
Kế hoạch của hắn vốn là giả chết thoát thân, chạy đến Thiếu Hoa sơn ôm ấp kiều thê, thụ hưởng cuộc sống an nhàn, không ngờ giờ lại trở về Biện Lương. Tất cả mọi chuyện ở Biện Lương hắn đã sắp xếp thỏa đáng, duy nhất có Diệu Diệu vẫn chưa yên tâm, cũng dùng cách nạp vợ bé trên danh nghĩa để giao tài sản của hắn cho nàng.
Giờ… mình lại về, giờ thì Diệu Diệu phải làm sao đây?
Mặt Dương Hạo trở nên ngốc nghếch, hắn cảm thấy mình giống như một tên ngốc, dời hòn đá lớn đi thì lại bị nó rơi ngay vào chân. Nhưng hòn đá ấy lại là một tiểu mỹ nữ xinh xắn thông minh, rơi vào chân cũng không đau…
“Hic… Diệu Diệu không biết ta giả chết đó chứ? Hic… ôi, tiểu mỹ nữ…” Dương Hạo dậm chân, bỗng cảm thấy chân đông cứng lại tê tê…
Dương Hạo đến Kim Lăng mới biết, mình không cẩn thận đã được thăng quan. Nhưng chức quan được thăng cũng không lớn, chỉ là làm thuê cho người ta, chức quan to cũng có to bằng Triệu Phổ hay không? Dương Hạo giờ đã quyết định sự nghiệp của mình, phong thưởng của Triệu Khuông Dận hắn không để ý tới nữa.
Cảm tạ hoàng ân, rời kim điện, vừa ra khỏi ngọ môn, Dương Hạo gặp ngay Tao Trư Nhi và Tụ Nhi đang ngồi trên xe ngựa bên ngoài cung.
“Trư Nhi”
Dương Hạo chạy ra đón, Tao Trư Nhi lập tức gọi với: “Tên xui xẻo ngươi lại về đó à? Diễm Diễm bọn họ đâu?”
Dương Hạo thở dài: “Một lời khó nói hết, sau này chúng ta nói sau. Hic, Diệu Diệu giờ sao rồi?”
“Diệu Diệu cô ấy…” Trư Nhi nói không nên lời lắp ba lắp bắp, quay đầu nhìn Tụ Nhi.
Dương Hạo nghi ngờ: “Diệu Diệu làm sao?”
Tụ Nhi mặt méo xệch nói: “Đại nhân, từ khi biết đại nhân thân tử Giang Nam, Diệu Diệu cô nương đau buồn vô cùng, còn để tang cho đại nhân, rồi tự nhốt mình trong phòng tuyệt thực đi theo đại nhân.”
“Cái gì?” Dương Hạo mặt mũi trắng bệch hốt hoảng: “Cô ấy, cô ấy hết hy vọng rồi sao? Giờ cô ấy sao rồi?”
Trư Nhi ngượng ngùng nói: “Còn làm sao nữa? Đương nhiên là, đương nhiên là…”
Tụ Nhi tiếp: “Diệu Diệu cô nương cho người hầu trong phủ về nghỉ rồi tuyệt thực, chuẩn bị một ngôi mộ ở ngoài thành cho mình. Sư ca ta cũng không cho hay tin đại nhân vẫn còn sống, song giờ không biết thế nào. Xem ra đại nhân cũng nên đi gặp cô ấy.”
“Cái gì?” Dương Hạo giận tím mặt mũi, quát Trư Nhi ầm lên: “Đồ bỏ đi, ta đã dặn dò ngươi là huynh đệ thân nhất của ta, sao ngươi lại làm vậy hả?”
Tụ Nhi khó chịu khi Dương Hạo như vậy, còn tức thay cho Diệu Diệu.
Trư Nhi còn không thèm để ý, Tụ Nhi thấy người bị đánh không vui, vừa đỡ Tiết Lương, vừa cười nhạt nói: “Người cần tìm cái chết, ai lại ngăn cô ấy, ngươi không tự trách mình, lại còn trách sư ca ta cái nỗi gì?”
Dương Hạo buồn bã nói: “Trách ta, trách ta, đương nhiên là trách ta rồi, nhưng ngươi, ngươi…”
Hắn chỉ Trư Nhi, cũng bấp chấp nói tiếp: “Ngươi đã thấy cô ấy tìm chết, sao không nói rõ chân tướng ra cho cô ấy biết?”
Tụ Nhi lạnh lùng nói: “Ngươi tưởng mình là một pho tượng bồ tát sống sao? Diệu Diệu cô nương vốn tuẫn tiết, nghe được chân tướng, càng nản lòng thoái chí, chẳng còn thiết tha gì sống nữa, thế thì còn ra thể thống gì nữa.”
Dương Hạo kỳ lạ hỏi: “Sao lại vậy? Cô ấy…” Hắn cứng họng, nhảy luôn lên ngựa, lao về phía nhà.
Trư Nhi lồm cồm bò dậy, nói: “Tụ Nhi, chúng ta làm vậy với Dương Hạo, liệu có quá đáng quá không?”
Tụ Nhi thản nhiên đáp: “Có gì là quá đáng chứ? Dương Hạo hắn nghĩ mình là gì chứ, rất giỏi sao? Hắn cho người ta một cái ơn huệ, là bố thí? Dù người ta muốn hay không, dù cô nương tình thâm nghĩa nặng với hắn vẫn là sự nhục nhã? Hừ! Thứ kênh kiệu đó, không giáo huấn cho hắn một trận, hắn cứ tưởng mình là một nhân vật gớm lắm ấy.”
Trư Nhi ngượng ngùng nói: “Nhưng, nhưng huynh đệ ta, thực có ý tốt. Hơn nữa Diệu Diệu cô nương cũng không muốn giấu hắn, muội hà tất phải làm điều thừa.”
Tụ Nhi trừng mắt lên nói: “Diệu Diệu bị hắn ức hiếp mãi quen rồi, lúc này không dám đấu lại hắn, ta sợ gì hắn chứ? Hừ! Việc này là ý của ta, chàng không cần làm bộ dáng thương xót như cha chết đó. Mau đi thôi, chúng ta đi xem có gì hay ho. Để hắn ta đau đớn một phen, ta mới trả được nỗi hận này.”
Dương Hạo một mạch về nhà, xuống khỏi yên ngựa nhìn quanh, quả nhiên không thấy người giúp việc đâu, trong viện lặng ngắt như tờ, đến một con chim cũng không có. Dương Hạo càng sợ hãi, xông vội vào phòng, chỉ thấy phòng trống không, câu đối phúng điếu được treo trên cao, giữa là một cái điện tự lớn, chiếc bàn và chiếc quan tài. Trên bàn có một linh bài, viết: “Dương môn Lâm thị chi linh vị”.
Dương Hạo rùng mình đờ đẫn. Hắn đến từ hậu thế, bao nhiêu cách nghĩ, cách làm không giống với người thời đại này, làm việc luôn tính đến kết quả, không cần thủ đoạn.
Dương Hạo bổ nhào về quan tài, đập đập vào nó. Diệu Diệu một cô gái thông minh xinh đẹp vì hắn mà phải chết, nội tâm hắn rối như tơ vò, khóc: “Diệu Diệu, ta sai rồi, ta sai rồi, tất cả là lỗi của ta. Sao nàng ngốc như vậy, nàng đợi ta quay về, dù có mắng có đánh ta, ta cũng không oán trách lời nào. Tại sao lại đi tìm cái chết, tại sao…”
Lúc Trư Nhi và Tụ Nhi đến, Dương Hạo vẫn vịn vào quan tài, nói gì đó rất lâu. Trư Nhi nhìn thấy vậy không nỡ, ho khan một tiếng, xoa tay nói: “Hạo Tử, việc này, thực sự, hic…”
Vạt áo của hắn bị Tụ Nhi kéo lấy, nên câu nói bị đứt đoạn. Dương Hạo vẫn ôm lấy quan tài, không quay đầu lại, nghiến răng nói: “Cái đầu lợn nhà ngươi, ta giao cô ấy cho ngươi, ngươi chăm sóc thế này đây hả? Ngươi đi ra ngay cho ta, giờ ta không muốn nhìn thấy mặt ngươi nữa.”
Trư Nhi dụi mũi, ngượng nói: “Đúng vậy, Diệu Diệu cô nương…”
“Cô ấy làm sao?” Dương Hạo quay ngoắt người lại, hét: “Cô ấy là người của Dương Hạo ta, hậu sự đương nhiên là ta đến lo liệu. Nếu không phải coi ngươi là huynh đệ tốt, giờ ta sẽ không khách khí với ngươi nữa. Đi!”
Tiết Lương thấy hắn tức giận, lòng hơi xấu hổ, đồng ý một tiếng rồi chần chừ không đi ra ngoài.
“Bùm!”
Dương Hạo tức giận: “Cái đầu lợn chết nhà ngươi, ở trong linh đường làm ô uế, đi ngay.”
“Ta không, ta nào có…” Trư Nhi vội xua tay lia lịa, lén nhìn sang Tụ Nhi, Tụ Nhi tức giận, hai tay chống nạnh, quát: “Nhìn gì mà nhìn, bổn cô nương cần gì phải nhìn ?”
“Bùm!”
Lại một tiếng nữa vọng về phía Dương Hạo. Trư Nhi và Tụ Nhi đều quay lại nhìn hắn, Tụ Nhi nói: “Ồ, tự mình làm nên, còn quay sang nói người khác.”
“Bùm!”
Lại một tiếng nữa, Dương Hạo nghe thấy âm thanh vọng lại từ phía sau, vội quay người lại, chỉ nghe thấy nó vọng đến từ trong quan tài, không khỏi vừa mừng vừa sợ. Nghe thấy lại một âm thanh vọng ra từ quan tài, Dương Hạo liền đập tiếp.
Hắn cuối cùng đã thấy, rõ như ban ngày thế này không còn gì băn khoăn nữa, không đóng đinh. Dương Hạo vui vẻ cậy nắp quan tài ra.
Trong quan tài, Diệu Diệu bị trói, người nằm thẳng duỗi ra. Không biết cô phí bao nhiêu công sức, mới làm phát ra tiếng động, trán cô đỏ ứng, nguyên nhân do cô dùng đầu đập vào nắp quan tài, miệng cô bị nhét vải. Nắp quan tài được mở, ánh sáng chiếu vào chói mắt, nên cô ti hí mở mắt ra từ từ. Cô dịu dàng nhìn Dương Hạo, mặt lộ vẻ vui mừng, nước mắt rưng rưng.
Dương Hạo thở phào, quay sang nhìn Tiết Lương. Trư Nhi vội lùi lại một bước, cười mếu máo: “Hạo Tử.”
Dương Hạo trừng mắt: “Trư Nhi, ngươi nói với ta là Diệu Diệu chết rồi cơ mà?”
“Cái này… cái này…” Trư Nhi bỗng quay người toan bỏ chạy, vừa chạy vừa hét: “Không phải do ta làm, ta không liên quan, là Tụ Nhi bảo cần cho ngươi một bài học.”
“Nhưng ta và ngươi là huynh đệ tốt cơ mà.” Dương Hạo hét theo, cầm lấy giá nến trên bàn ném về phía hắn. Trư Nhi ngã lăn trong sân, xấu hồ lồm cồm bò dậy, nhìn thấy Tụ Nhi đứng phía trước hắn, cười hì hì: “Bán đứng ta? Hứ!”
“Không được, oa.” Nhìn thấy giày của Tụ Nhi giẫm mạnh lên, Trư Nhi hét toáng lên.
***
Đây là đêm động phòng muộn màng của Diệu Diệu.
Cô một tay cầm vào eo, một tay thì cầm vào đùi, chân dẫm lên thảm mềm. Nghĩ đến tất cả những gì có thể xảy ra, Dương Hạo không thể không thừa nhận, người con gái xinh đẹp mà thông minh này, có tư cách làm chủ nhân của phòng này.
Nhưng vị chủ nhân này thực quá non nớt, ngoài khuôn mặt xinh đẹp ra thì đôi vai nhọn, bộ ngực gầy, tuy nói là có ba vòng, song vẫn chưa đến mức nở nang như Đông Nhi và Diễm Diễm, nhưng thậm chí đã được coi là thành niên, còn Diệu Diệu thì quá là non nớt. Dương Hạo cảm thấy hơi có lỗi khi làm chuyện này, mà dưới bộ quần áo mềm mại kia, là cơ thể đang tràn đầy sự thanh xuân, sức hấp dẫn mê người, Dương Hạo dường như không khống chế nổi mình, hắn nhìn thấy sương mù uốn lượn trong mắt Diệu Diệu, hắn không thể không trìu mến ôm lấy nàng vào lòng.
Nàng xinh đẹp, ngọt ngào, vô cùng đáng yêu, dịu dàng như Oa Oa, song sự quyến rũ hoàn toàn không giống, Diệu Diệu có một sức hút kì lạ của vị thành niên đang căng tràn sức sống. Hai chữ phong tình không hợp với cô. Con gái chưa đến độ tuổi nhất định, chưa qua sự từng trải nhất định, thì lấy đâu ra phong tình. Con trai chưa đến độ tuổi nhất định, chưa qua sự từng trải nhất định, cho hắn nhìn hắn cũng không thể bình phẩm con gái thế nào là phong tình. Sự hấp dẫn tuyệt vời, chưa chắc cần phải phong tình, cô gái đáng yêu như Diệu Diệu, có mấy ai biết được nó có sức hút thần kỳ.
Dương Hạo hôn cô, âu yếm cô. Diệu Diệu nằm trong lòng hắn đã mềm yếu vô cùng, mang theo một vị mê hoặc, khuôn mặt nhỏ nhắn, ánh mắt trong suốt nhìn hắn, cô ngọt ngào và hài lòng về người đàn ông của mình, đợi thời khắc quan trọng. Nhưng Dương Hạo tuy đã ngắm nhìn cô thể của cô, song vẫn không có cách nào lấy hết dũng khí cho kiếm vào vỏ.
Thế là, hắn tức giận, nghĩ ngợi: “Mục Vũ đã đến Nhạn Môn Quan rồi sao? Ngày mai đi Hồng Lư tự, xem can thiệp bên Khiết Đan ra sao, tốt nhất là tìm cơ hội đi Khiết Đan, nếu không có cơ hội thích hợp, thì ta chỉ có tạo ra cơ hội mà thôi. “Phi vũ” lẽ ra đưa tin liên lạc với ta rồi chứ nhỉ?”
“Quan nhân, chàng đang nghĩ gì vậy?” Diệu Diệu mở to đôi mắt to nhìn hắn say đắm, giọng nói không hề oán trách. Con gái là loại động vật có trực giác rất mạnh, Dương Hạo phân tán tư tưởng, lập tức sẽ bị phát hiện ngay, nào có người con gái nào thấy người đàn ông của mình trong lúc thân thiết với mình lại không tập trung mà vui được.
Dương Hạo giật mình xấu hổ, vội phân bua: “Hic, ta đang nghĩ, lần này chinh phạt Giang Nam, Tấn vương lấy thân phận Khai Phong phủ doãn thống soái tam quân, thực là uy phong, nghĩ đến ta xuất thân hành ngũ, nếu có cơ hội thống ngự đại quân, chinh chiến sa trường, thì có uy phong được như vậy không?”
Diệu Diệu thấy hắn nghĩ một đằng nói một nẻo, liền nhìn hắn oán trách, rồi hai má ửng hồng, tay ngọc bỗng xuyên qua quần Dương Hạo, cầm lấy xy của hắn. Dương Hạo giật mình, cảm thấy tay hơi lạnh, mềm, trơn…
“Diệu Diệu, nàng, nàng làm gì vậy?” giọng Dương Hạo hơi khàn.
Diệu Diệu vẫn nằm ở đó, mềm mại, như đang điều khiển hắn. Chuyện khuê phòng không phải là cô không hiểu, song đêm đầu tiên, cô cảm thấy mình nên rụt rè một chút, để cho quan nhân làm chủ mới đúng. Nhưng, quan nhân nhà mình có bộ dạng thế này, cô sao chịu được. Lẽ nào đêm động phòng cũng phải giống như con gái có chồng, nàng phải chết lần nữa mới có thể để Dương Hạo ngoan ngoãn đáp ứng sao?
Dương Hạo vừa hỏi, Diệu Diệu nũng nịu đáp: “Quan nhẫn đã muốn làm đại tướng quân, giờ cửa ải khó trước mắt, tướng quân có thể cưỡi ngựa vượt qua, xông pha chiến đấu?”
Câu hỏi này của Diệu Diệu, tay dưới đồng thời nắm chặt. Dương Hạo nhìn bộ dáng vô cùng non nớt của cô, không khỏi nhụt chí, chỉ ho đáp: “Bổn tướng quân đang nghĩ, hic, đang nghĩ, làm thế nào có thể không chiến mà có được binh.”
Diệu Diệu nhìn hắn với con mắt trong suốt, hai con ngươi ướt át rưng rưng. Cô dịu dàng đáp: “Tôn Tử mười ba trang đều là vi chiến. Không chiến mà cần có chiến, tướng quân chần chừ không lên ngựa, tiểu nữ sao biết đại tướng quân chàng có năng lực không chiến mà cũng có binh?”
Diệu Diệu, thực là người phụ nữ của khuê phòng.
Dương Hạo toát mồ hôi hột, lắp bắp: “Cái này, cái này… quân địch yếu, không chịu nổi một kích, bổn tướng quân, bổn tướng quân không đành lòng ra tay.”
Diệu Diệu dịu dàng nhìn hắn nói: “Tướng quân không làm thì thôi, quan nhân nhà ta hay là thành quan văn đi.”
“Được, ha ha, làm quan văn tốt đấy.” Dương Hạo cười khan, cố gắng nhét xy vào cái nơi vừa mềm vừa chặt, xy của hắn như bị trêu chọc đã không kiềm chế được.
Diệu Diệu nghiến chặt răng, mặt đỏ gay như lửa, mặt cô gục vào lòng Dương Hạo, hơi thở nóng rực phả vào ngực hắn, nũng nịu hỏi: “Thế một quan văn cũng cần thi, rồi trúng tiến sĩ, nhập kim điện, thì mới có thể là bạch ngọc trụ. Quan nhân, chàng nói đúng không?”
Dương Hạo không nhịn nổi cười phá lên, cô gái hiểu chuyện khuê phòng này, ai dám nói là cô chưa thành niên, dịu dàng đáng yêu, đêm nay phải trả ơn mĩ nữ mới được.
Hắn yên tâm cúi người lên cơ thể mềm mại kia, nhìn nhũ hoa phập phồng nói: “Được, thế ta thành lão gia cử nhân, giờ phải đỗ tiến sĩ, vào kim điện, rồi đại đăng khoa, làm một cái bạch ngọc trụ, nương tử à.”
***
Triệu Quang Nghĩa về đến Khai Phong, quyền Khai Phong phủ doãn Triệu Quang Mỹ giao đại ấn, Triệu Quang Nghĩa vẫn là quan phụ mẫu của thành Biện Lương. Chức vụ hắn vốn là chức vụ chiến tranh, lúc này các bộ quân đội đã về bản doanh, binh quyền tự nhiên tan hết.
Nhưng trận chiến này, Triệu Quang Nghĩa không những tạo được thế uy phong và công trạng ở Tống quốc, mà hắn còn bắt đầu làm tan chảy lớp băng giữa cấm quân. Hắn lần này là chủ soái nam chinh bình định Đường quốc, đương nhiên là hắn tự ứng cử, và thu được chiến công, hoàng đế chắc chắn sẽ phong thưởng.
Qua chuyện này khiến hắn giành được mối quan hệ giữa các tướng lĩnh trong quân đội, thế là đủ. Chỉ cần quân đội quan tâm ủng hộ hắn, thế là đủ, hắn không cần binh quyền kè kè. Hắn biết đó là không thể, toàn Đại Tống ngoài hoàng đế ra ai cũng không thể.
Nhưng thế thì có can hệ gì? Hắn chưa bao giờ nghĩ đến chuyện cầm binh tạo phản, tranh đoạt ngôi vị hoàng đế của đại ca. Lương tâm thiên địa, hắn chỉ muốn dựa vào chiến công mình lập được, có cái thanh danh lớn lớn, tạo tầm ảnh hưởng với vua và dân.
Sau khi ban thưởng cho các tướng và tam quân, văn võ bá quan thượng thư hoàng đế, bắt đầu tôn sùng hoàng đế. Như La Công Minh đã nói, dù người khác lập bao nhiêu công lao, vòng nguyệt quế lớn nhất của chiến công là đội lên đầu hoàng đế.
Trong triều, tam tể tướng đưa thượng thư của văn võ bá quan lên hoàng đế, cầu xin hoàng đế Triệu Khuông Dận “Thống nhất thái bình” đã bị từ chối, văn võ bá quan không thấy có gì lạ, hoàng đế đương nhiên phải khiêm nhường, thế là lại thỉnh, lại chối, ba lần thỉnh, ba lần chối.
Lần này văn võ bá quan không thể hiểu nổi, theo lệ thường, lần một lần hai không được thì đến lần ba lần bốn. Hoàng đế từ chối nhiều nhất không quá hai lần. Hoàng đế từ chối ba lần rồi, hắn thực không muốn phong hiệu sao?
Lúc này Triệu Khuông Dận mới nói: “Yến, Tấn chưa phục, có thể nói là thống nhất thái bình ư?”
Văn võ bá quan mới hiểu ra, hóa ra vị hoàng đế này lại nhớ đến 16 châu U Vân và lãnh thổ nước Bắc Hán. Dã tâm, haiz, hùng tâm quả thực không nhỏ, chỉ là vừa mới đánh được Đường quốc, giờ Đại Tống có thể liên tục tác chiến sao?
Triệu Khuông Dận nói với quần thần: “Thạch Kính Đường cắt nhường Khiết Đan, khiến bách tính lầm than, trẫm xót thương vô cùng.”
Khiết Đan giờ đã là một nước mạnh, hoàng đế Khiết Đan không phải dùng một bóng thủy tinh có thể đổi lấy tù trưởng, dự trữ tiền tài dân chúng thì có thể khiến cho Khiết Đan cắt nhường nửa giang sơn? Ai sẽ tin chuyện ma quỷ của Triệu Khuông Dận, ai sẽ tin hoàng đế Khiết Đan ngu xuẩn như trứng thối, mà giao ra con gà? Ai cũng biết, đây chẳng qua là một mình Triệu Khuông Dận cần ngụy trang nhân nghĩa chí tận, U Vân 16 châu, hắn nhất định phải giành được.
Song Tống vừa mới lập được hơn mười năm, vừa mới có được toàn Trung Nguyên, hắn cần thời gian tiêu hóa lãnh thổ mới chiếm được, lo liệu cho dân chúng, quân đội cần nghỉ ngơi. Tạm thời, hắn không có ý gây chiến với Khiết Đan, cần có sự chuẩn bị đầy đủ thì cần đến mấy năm sao?
Triệu Quang Nghĩa nghe xắn tay áo lên, mong có thể lãnh quân bắc phạt. Hắn chưa bao giờ tự mình dẫn binh, phạt Đường là lần đầu tiên. Chiến tranh lần này, hắn cảm thấy đánh giặc không như vậy, có sự luyện tập, sự chuẩn bị lương thực và vũ khí cho quân địch, quân địch vốn không chịu nổi một kích, nếu chiến công bắc phạt có thể rơi vào tay hắn, thì người kế thừa hoàng vị, không có ai có thể đoạt được khỏi tay hắn.
Nhưng, hưng phấn quá, hắn hoàn toàn không nghĩ đến vị hoàng huynh biết tính toán kia. Triệu Khuông Dận đã chuẩn bị những đòn phản công cho các thân huynh đệ nhòm ngó ngôi báu.
***
Dương Hạo sáng sớm đã đuổi tới Hồng Lư tự.
Diệu Diệu lần đầu làm chuyện đó, Diệu Diệu dưới hắn hóa mềm như bún, Dương Hạo chưa bỏ ra hết sức chiến đấu, hắn mới chỉ bỏ ra 1/3 vì sợ làm đau Diệu Diệu, sợ làm tổn thương cơ thể mềm mại là khó mà thừa nhận.
Buổi trưa, Dương Hạo đã có các tin liên quan đến Khiết Đan, không ngoài dự đoán, thời gian này vì Khiết Đan nội loạn, Tiêu hậu đứng lên dàn xếp ổn thỏa, tạm thời giảng hòa với Tống quốc, cho nên thở phào nhẹ nhõm. Tống quốc đang nam phạt, đồng thời chưa có ý nghĩ về bắc phạt, song phương đều có ý giảng hòa tranh chấp, song phương đã hòa giải kha khá rồi, nếu Dương Hạo muốn xuất sứ Khiết Đan, tạm thời chưa mượn cớ được.
Dương Hạo thầm nghĩ: “Không ngoài dự đoán của ta, xem ra trước phái mc đi Nhạn Môn Quan là đúng. Tìm không được cái cớ, thì ta cũng phải tạo ra một cái cớ. Tình hình giữa Khiết Đan và Tống quốc hiện nay, xung đột mà ta tạo ra tuyệt đối có thể khống chế trong phạm vi và dùng thủ đoạn hòa bình để giải quyết, đây là lợi ích của song phương. Còn Khánh vương phản loạn Khiết Đan lại là: “Chết trong tay ta, ta sẽ đi sứ Khiết Đan gặp người mà Tiêu hậu quý mến nhất.”
Hắn đang tự cân nhắc, Tiêu Hải Đào chạy tới, kích động nói: “Ha ha, đại nhân, quả nhiên đại nhân vừa về, chuyện tốt liên tiếp tới…”
Chương 377:Rút củi dưới đáy nồi, khó hạ thủ
Tiêu Tự cười dài, nói: "Quả nhiên là đại nhân vừa về, nha môn nước trong (ý nói nha môn nhàn rỗi) của chúng ta liền bắt đầu bận rộn rồi. Ha ha, xin nói cho đại nhân biết, quốc vương Tiền Thục của Ngô Việt vào triều thăm thánh thượng rồi, quan gia lệnh cho Ngụy vương Đước Chiêu và Dương tả sứ phụ trách nghênh đón khoản đãi."
Dương Hạo "ừ" một tiếng, thầm nghĩ: "Nơi ta muốn đến là Khiết Đan, chỉ cần Phi Vũ phái người đến, ta sẽ chế tạo ra một cái cớ để xuất sứ Khiết Đan. Tiền vương ư? Hắn tới thì tới, liên quan chó gì tới ta."
Dương Hạo nghĩ thầm trong lòng rồi thuận miệng hỏi: "Lúc trước tiếp kiến Tiền vương có quy cách gì, có lệ cũ gì có thể tuân theo, còn phiền Tiêu tự thừa sắp xếp một chương trình, Dương mỗ sẽ chiếu theo mà làm là được. Tiêu đại nhân cũng biết đó, những lễ nghi phiền phức như thế này, Dương mỗ không hiểu lắm."
"Không sao cả, không sao cả, chuyện này cứ giao cho hạ quan là được."
Tiêu tự thừa cười hì hì, nói: "Nói tới lệ cũ, kể ra thì cũng không có. Tiền vương và triều ta qua lại là mật thiết nhất, cũng nhận được lễ ngộ của quan gia nhất, lúc trước tiếp đón Tiền vương, luôn luôn đều là do Tấn vương thiên tuế chủ trì, Tấn vương nắm cả phủ Khai Phong, trên địa bàn Biện Lương này quản nhiều việc hơn Hồng lư tự của chúng ta. Nhân thủ nghênh đón tiễn đưa, an bài tiếp đón khoản đãi, người của Nam Nha một tay làm hết. Hồng lư tự của chúng ta căn bản không cần phải ra mặt. Lần này là lần đầu tiên Hồng lư tự của chúng ta tiếp nhận đại sự nghênh đón Tiền vương, có điều thuộc hạ tự sẽ xử lý việc này thỏa đáng, đại nhân hiện giờ là cột trụ của Hồng lư tự ta, không cần phải lộ mặt nhiều."
Dương Hạo mỉm cười, cảm ơn: "Như vậy thì phiền Tiêu tự thừa và chư vị đồng liêu rồi."
Đợi Tiêu tự thừa bước ra, Dương Hạo xoay xoay chén trà, tâm tư hoạt động thật nhanh: "Lúc trước là do phủ doãn Khai Phong, cũng chính là đương kim tấn vương phụ trách tiếp đãi vị Tiền vương này, lần này sao lại đổi người nhỉ?"
Mắt hắt hơi híp lại, chính trị của nước ta, huyền diệu vô cùng, một chỗ đứng, một thái độ đều có thể trở thành một tín hiệu của chiều hướng chính trị nào đó. Trước giờ người do Tấn vương phụ trách tiếp đại lại đột nhiên đổi thành Ngụy vương tiếp đãi. Ý tứ gì đâu? Chắc hẳn Tấn vương hiện tại đã có chút đứng ngồi không yên rồi...
Có đám quan lại có kinh nghiệm như bọn Tiêu tự thừa đứng sau xuất mưu tính kế cho hắn, chuyện Dương Hạo và Ngụy vương Đức Chiêu tiếp đón Tiền vương tuy là làm lần đầu tiên, nhưng cũng xử lý đâu ra đấy. Tiền Thục lần này tới, là rất thức thời vụ chuẩn bị tới Khai Phong làm con tin, cùng với quốc quân của các nước Kinh, Hồ, Hán, Đường gặp mặt, uống trà, tiếp nhận sự kết nạp hòa bình của Triệu Khuông Dận, cái mà hắn muốn chính là một nhà già trẻ được bình an.
Nhưng chẳng ai biết được quan gia nghĩ thế nào, tựa hồ như ông ấy không muốn dệt hoa trên gấm, lập tức tiếp nhận lãnh thổ của Ngô Việt. Trên quốc yến long trọng, Tiền Thục thấp thỏm bất an ở ngay tại đương trường đọc lời chúc tụng, biểu lộ hết tâm ý của hắn.
Triêu Khuông Dận nghe lời chúc mà hiểu ý, lập tức trịnh trọng tỏ thái đội: "Trẫm thề không giết Tiền vương! Ta sống trọn một đời thì ngươi cũng sống trọn một đời. Con cháu của họ Tiền, vĩnh viễn hưởng phú quý!" Tiền Thục ở Biên Lương ngông nghênh dạo một vòng, được bản thưởng rất nhiều, rồi được trả về Ngô Việt một cách nguyên vẹn.
Tiền Thục lần này tới rõ ràng là vì hiến đất, không cần một binh một tốt, xòe tay ra là chiếm được lãnh thổ, quan gia lại không thuận nước đẩy thuyền mà tiếp nhận. Bệ hạ rốt cuộc là đang nghĩ gì đây? Chẳng lẽ hiện tại còn có chuyện quan trọng hơn việc tiếp nhận Ngô Việt ư? Thánh ý thật sự là khó dò.
Vào lúc văn võ bá quan đang suy đoán không ngớt, Triệu Khuông Dẫn thánh ý khó dò đột nhiên tuyên bố muốn tây hạnh Lạc Dương, thăm lại Lạc Dương giáp mã doanh, nơi mà ông ta sinh ra để tế bái mộ địa của tổ tiên.
Đây là chuyện đương nhiên, nhất thống Trung Nguyên, chiến công hiển hách như vậy, đương nhiên phải bẩm cáo với tổ tiên rồi. Thế là văn võ bá quan bắt đầu rộn ràng chuẩn bị. Triệu Quang Nghĩa nghe vậy cũng vội vàng vào cung gặp hoàng đế, lúc trước bất kể là Triệu quan gia ra ngoài xuất chinh hay là tuần du, người ở lại thủ Biện Lương đều là hắn. Lần này Triệu quan gia muốn tây hạnh Lạc Dương, hắn tất nhiên phải tới hỏi an bài hành trình, thời gian quay về của hoàng đế, cùng với lời dặn lưu thủ kinh thành.
Vào đại nội rồi, tới thẩm điện của hoàng đế, vừa thấy Triệu Khuông Dận, Triệu Quang Nghĩa liền dùng gia lễ thân thiết chào hỏi đại ca: "Đại ca, lần này tới Lạc Dương, đại ca chuẩn bị đi bao lâu? Đối với chuyện trong kinh, đại ca có lời dặn dò gì không?"
Triệu Khuông Dận đang uống trà, nghe thấy câu hỏi của hắn, thản nhiên như không, nói: "Hiện giờ Trung Nguyên được nhất thống rồi, đại sự như thế này, nên đốt nhang báo cáo với tổ tiên. Chúng ta nhiều năm chưa từng về gia hương rồi, lần này về, ngươi và ta cùng về đi."
Triệu Quang Nghĩa ngây người, tim đập có chút nhanh hơn, hắn do dự nói: "Đệ cũng phải đi ư? Vậy... vậy phía Biện Lương..."
Triệu Khuông Dận ung dung mỉm cười, nói tiếp: "Hiện giờ Giang Nam được bình định, Trung Nguyên đã nhất thống, Hán quốc chỉ còn thoi thóp chút hơi tàn, tự bảo vệ còn hiềm không đủ sức, Khiết Đan nội loạn không ngừng, nghe nói, Nam Viện đại vương Da Luật Tà Thương phái binh vớ lấy nguyên quán của phản quân, Khánh vương thì bị bức phải dẫn quân chạy tới cương vực Nữ Chân, Tiêu hậu hạ chiếu, cùng người Nữ Chân liên thủ tiêu diệt cỗ đại địch này, nước ta hiện giờ yên ổn như Thái Sơn, cũng không có đại sự gì. Biện Lương ư, cứ để Đức Chiêu và Quang Mỹ tạm thời chăm lo là được."
Triệu Quang Nghĩa trong lòng trầm xuống, gượng cười, nói: "Cũng được, nhiều năm rồi không về gia hương, trong lòng huynh đệ cũng rất nhớ, hiện giờ cùng ca ca về một chuyến vậy."
Sau khi trời khỏi tẩm điện, sắc mặt của Triệu Quang Nghĩa lập tức trở nên âm trầm: "Tiền vương bắc thượng, Ngụy vương nghênh đón. Đại ca tế tổ, Ngụy vương lưu thủ. Những cái này trước giờ đều là công việc của ta, đại ca an bài như vậy, rốt cuộc là có ý tứ gì, xem ra Vương Kế Ân đối những sự an bài này cũng không hề biết chút gì, cho nên trước đó mới không thông báo cho ta.”
Triệu Quang Nghĩa càng nghĩ càng thấy bất an, hắn nặng nề đi xuống hành lang, lẩm bẩm nói một mình: "Đây là sự trừng phạt đối với việc ta nhúng tay vào binh quyền ư?"
"Đồ lưu manh, đánh rắm gì vậy!"
Giọng nói của Triệu Quang Nghĩa tuyệt đối không thể bị người ta nghe thấy, không đề phòng trên không trung đột nhiên truyền tới một tiếng kêu quái lạ, dọa cho Triệu Quang Nghĩa giật bắn mình, sắc mặt đại biến. Hắn đột nhiên ngẩng đầu lên, quát: "Là ai?"
Ngẩng đầu lên nhìn, nào có ai đâu, lại nghe thấy giọng đó vang lên: "Cái miệng chó của ngươi, khiến cho thiếu gia đây đầy một bụng tức." Triệu Quang Nghĩa tập trung nhìn, chỉ thấy trên cột nhà có một con anh vũ đang đậu, dùng mỏ chải lông, sau đó trừng hai con mắt chim hướng tới hắn vận khí. Triệu Quang Nghĩa đã nghe nói trong cung nuôi một con anh vũ rất thích mắng người, chính là vật cưng của Vĩnh Khánh công chúa, từng chọc cho quan gia nửa đêm biến hoàng cung thành chiến trường.
Hắn bị con chim này dọa cho giật nảy mình, không khỏi vừa tức lại vừa buồn cười, nhìn ra xung quanh, Triệu Quang Nghĩa thuận tay thò ra, từ vườn hoa ở ngoài lan can nhặt lên một viên gạch, nhắm chuẩn vào con anh vũ đó mà mắng: "Con súc sinh lông lá mày, dám vô lễ với bản vương à, ăn đòn này!" Nói xong liền ném viên đá trong tay ra.
Con chim đó ngay cả Triệu Khuông Dẫn cũng phải bỏ qua không chấp nhặt với nó, những ngày này hoành hành trong hoàng cung đại nội, quả thực là một tổ tông sống, bất kể là ai cũng không sợ. Sớm đã biến thành không sợ người, ngàn vạn lần không ngờ rằng lại có người dám cầm gạch ném nó, kết quả né không kịp, bị gạch của Triệu Quang Nghĩa ném trúng, rít lên một tiếng từ trên xà nhà ngã xuống.
Con anh vũ đó rơi xuống đất, vừa kêu thảm vừa dãy dụa đứng dậy, vỗ cánh vội vàng chạy trốn, nghiêng nghiêng ngả ngả bay lên không trung, rơi rụng mấy sợi lông mao, từ đằng xa còn truyền tới tiếng kêu thống khổ của nó: "Đồ lưu manh, đồ lưu manh."
Triệu Quang Nghĩa sợ bóng sợ gió một hồi, dở khóc dở cười lắc lắc đầu, lúc này lại nghe thấy từ đằng xa truyền tới tiếng kêu còn sắc bén thê thảm hơn cả giọng của con chim: "Tên khốn nào đả thương chim của ta!"
Triệu Quang Nghĩa ngây người: "Thủy Khánh? Ài, con gái con đứa, đường đường là công chúa điện hạ, cả ngày đều tên khốn tên khốn, đúng là bị con chim này dạy hư rồi!"
Triệu Quang Nghĩa lắc lắc đầu, vội vàng chuồn mất.
...
Dương Hạo ở Khai Phong không đợi người của "Phi Vũ" tiếp xúc với hắn thì lại bị Triệu Khuông Dận dắt tới Lạc Dương. Văn võ bá quan tùy hành, hoàng thượng bãi giá tới Lạc Dương, trước tiên tới An lăng cúng mộ tổ tiên, sau đó Triệu Khuông Dận làm hai chuyện, hai chuyện khiến văn võ bá quan nghị luận phân tích không ngừng.
Chuyện đầu tiên là triệu tri phủ đương nhiệm chủ quản quân chính Lạc Dương, hữu võ vệ thượng tướng quân Tiêu Kế Huân tới, không có công mà được phần thưởng, tấn thăng hắn làm Chương Đức quân tiết độ sứ. Một bước lên trời, lên tới vị trí mà võ tướng không thể lên được nữa.
Chuyện thứ hai, là đến thăm Triệu Phổ, Triệu Phổ sau khi bãi tướng, tuy có quan hàm Tam thành tiết độ sứ, kỳ thực đều là hư chức, không có chức vụ cụ thể phái cho hắn, cho nên hắn một mực nhà cư ở tây kinh Lạc Dương, bình thường đóng cửa không ra ngoài, cũng không tham dự bất kỳ chính sự nào. Triệu Khuông Dận đột nhiên đăng môn bái phỏng, ý vị là gì đây?
Nhất cử nhất động của đế vương không cái nào là không có thâm ý, liên hệ tới việc Ngụy vương Triệu Đức Chiêu thay Tấn vương Triệu Quang Nghĩa nghênh đón Tiền vương vào triều, Triệu Đức Chiêu, Triệu Quang Mỹ thay Triệu Quang Nghĩa lưu thủ thành Biện Lương, rất nhiên quan viên đột nhiên hiểu ra. Hoàng thượng muốn ra sức nâng đỡ trưởng tử và hoàng tam đệ, Triệu Quang Nghĩa đã chế thành thế đuôi to khó vẫy rồi.
Hoàng thượng triệu kiến Triệu Phổ, rõ ràng là có ý lại muốn trọng dụng hắn, hiện giờ chỉ có tư lịch và nhân mạch của Triệu Phổ, sau khi quay lại triều đình, mới có thể đối kháng với Triệu Quang Nghĩa. Nhưng vô duyên vô cớ đều bạt Tiêu Kế Huân là ý tứ gì? Chẳng lẽ cấm quân cũng phải thanh tẩy một lần ư?
Nhất thời nhân tâm hoảng hốt, nghị luận rào rào, Triệu Khuông Dận thì lại bất động thanh sắc, mỗi ngày đều du sơn ngoạn thủy, thăm viếng bạn cũ, kiểm duyệt quân đội trú thủ Lạc Dương. Lúc mới đầu Dương Hạo cũng không hiểu được ý đồ của Triệu Khuông Dận, cho tới một ngày khi Triệu Khuông Dận đông du long môn thạch quật, khen "từ Võ vương phạt Trụ, tám trăm chư hầu hội Mạnh Tân, Chu công phụ chính, chuyển cửu đỉnh tới Lạc Ấp. Tướng nhân noi theo, mười ba vương triều đều định đô ở Lạc Dương. Khí tượng của Lạc Dương thật không hổ là đệ nhất đế đô của thiên hạ" thì Dương Hạo mới đột nhiên tỉnh ngộ, nhớ tới một chuyện lớn trong lịch sử.
"Vĩnh Hoài hà lạc gian, hoàng hoàng tổ tông nghiệp, thượng thiên hữu nhân thánh, vạn bang tẫn thần thiếp", nghiền ngẫm bốn câu thờ bỗng nhiên nhớ tới này, hồi tưởng một loạt những hành vi bất thường từ lúc Tiền vương vào kinh của Triệu quan gia. Dương Hạo đột nhiên minh bạch mục đích của ông ta.
Ông ta là muốn rời đô!
Hơn nữa là rời đô một cách gấp rút, thậm chí ngay cả ốc thổ Ngô Việt mà Tiền vương dâng tặng hai tay cũng tạm thời gác sang một bên, lập tức chuẩn bị chuyện rời đô. Trong lịch sự, chuyện đại sự này liên quan tới quốc vận ba trăm năm tới của Tống quốc. Ông ta chưa hề thành công, lần này, liệu có thể thành công hay không?
Trong phủ của Triệu Phổ, ánh mắt của Mộ Dung Cầu Túy chậm rãi di động theo bóng người của Triệu Phổ.
Triệu Phổ nhíu chặt lông mày, vuốt râu, trầm ngâm nói một mình: "Rời đô là chuyện tốt, khí tượng một nước, quyết định bởi đế đô. Trường An nằm ở Quan Trung đối mặt với thiên hạ, cổ phác đại khí, hào hùng vạn quốc. Lạc Dương ở giáp Lạc Thủy, là trung tâm của trung nguyên, văn hóa hưng thịnh, cũng không mất hùng phong. Kim Lăng có sơn thủy, hưởng sự giàu có vào đông đúc của Giang Nam, là vùng giao tranh chấn hưng và kéo dài Hán thất. Khai Phong, dùng cái lợi của Hoàng Hà, thiên hạ tài phú hội tụ, vật nhiều người đông, cực kỳ phồn thịnh. Song Khai Phong có hai chỗ bất lợi lớn, một là Hoàng Hà tứ ngược, nước tràn thành tai, đế đô của một nước thường không nên đối mặt nguy hiểm phải biến thành vùng ngập nước được. Hai là về địa lý thì không có chỗ hiểm trở để thủ, vùng đất bằng phẳng, Bắc nhân nếu muốn nam hạ, thoáng cái là có thể tới, không có trăm vạn hùng binh thì không thể thủ được. Vài ba năm thì có lẽ là không sao, nhưng về lâu dài thì triều đình khó mà gánh vác được. Chỉ là..."
Hắn ngẩng đầu lên, nhìn về nơi nóc nhà hư vô, nhẹ nhàng lắc lắc đầu.
Mộ Dung Cầu Túy nói: "Đại nhân, quan gia đi một bước thật tuyệt diệu. Rời đô, đối với giang sơn xã tắc mà nói thì có lợi rất lớn. Đây chính là chuyện liên quan tới lợi ích ngàn thu. Còn trước mắt ư? Tấn vương một nhà độc đại, đã dẫn tới sự nghi kỵ của quan gia rồi, quan gia rời đô, có thể rời khỏi Khai phong, nơi mà Tấn vương khổ tâm kinh doanh mười năm, thế lực thâm căn cố đế, tai mắt khắp triều, tới Lạc Dương bắt đầu từ con số không.
Tình hình hiện giờ, Tấn vương nằm trong tay bệ hạ, Khai Phong đã rơi vào trong tay tay hoàng tam đệ và Ngụy vương Đức Chiêu. Quan gia đề bạt Tiêu tiết độ, trọng hưởng thủ quân Lạc Dương, lại cân nhắc ý của Ân tướng, một khi như vậy, bất kể thế nào, thế lực của Tấn vương ắt sẽ bị nhổ tận gốc!"
Triệu Phổ lắc lắc đầu, trầm giọng nói: "Cái đó cũng chưa chắc."
Trầm mặc một hồi lâu, hắn mới phân phó: "Ngươi về đi, không cần tới nữa, cứ một lòng một ý làm việc cho Tấn vương. Tuyệt không được để lộ ra nửa điểm dị tâm. Bệ hạ rời đô có thành công hay không, chúng ta cứ yên lặng chờ xem, tuyệt không nhúng tay vào."
Mộ Dung Cầu Túy nghi hoặc không hiểu, do dự một hồi mới chắp tay nói: "Vâng, Cầu Túy cẩn tuân phân phó của Ân tướng."
Nhìn bóng lưng của Mộ Dung Cầu Túy khuất xa, Triệu Phổ lặng im không nói gì, không biết được hắn đang nghĩ gì, cho tới khi một cỗ gió lạnh thổi tới, khiến cho hắn lạnh run, Triệu Phổ mới phất tay áo quy lại, lẩm bẩm: "Tiềm cư ở đây, không đếm xỉa gì tới chính sự, Triệu mỗ đã nhìn rất rõ ràng rồi, địch nhân cường đại nhất của bệ hạ, không phải là người khác mà là chính bản thân ông ta. Nếu ông ta không chiến thắng được mình, vậy thì tất cả đều là nói suông.”
Triệu Khuông Dận quả nhiên tuyên bố rời đô. Rời đô tới Lạc Dương, chia Khai Phong, trung tâm kinh tế, chính trị ra làm hai, kinh tế thì để lại ở Khai Phong, chính trị thì rời tới Lạc Dương, đây chính là một phát hỏa giải thế lực ngầm mà Triệu Quang Nghĩa khổ tâm kinh doanh mười năm. Chia cách, hạn chế, chính là thủ đoạn sở trường của Triệu Khuông Dận, chính là nhờ vào loạn thủ đoạn này mà ông ta đã triệt để giải quyết phong trào võ tướng soán vị từ thời Ngũ Đai tới nay. Lập quốc mới được mấy năm ngắn ngủi đã khống chế quan lại châu phủ của thiên hạ trong tay triều đình, phàm là nơi chiếm được, không để một phiên trấn nào xuất hiện.
Hiện giờ ông ta dùng kế điệu hổ ly sơn, lại thi ân cho thống soái tối cao đóng quân ở đương địa, gần thêm một bước lung lạc quân đội. Triệu Quang Nghĩa sẽ như hổ rời núi, còn không ngoan ngoãn để mặc cho ông ta bài bố ư? Đây chính là thủ đoạn giải quyết nguy cơ nội bộ mà không cần phải binh đao nhuốm máu của Triệu Khuông Dận. Nhưng, ông ta ngàn vạn lần không ngờ rằng, ý tứ rời đô vừa được biểu đại ra ngoài liền gặp phải sự nhất trí phản đối của triều dã. Bá quan xôn xao là điều mà ông ta đã đoán trước được rồi, nhưng ông ta ngàn vạn lần không ngờ rằng, bá quan lại cờ xí liên minh tỏ ý phản đối, chẳng lẽ văn võ toàn triều đều bị nhị đệ mua chuộc hết rồi ư?
Không, không thể nào.
Ánh mắt của Triệu Khuông Dận quét qua các đại thần đang tranh biện đến đỏ mặt tía tai, hơi lắc lắc đầu. Ngự sự trung thừa Lưu Ôn Tẩu không thể phản bội ông ta, cấm quân điện tiền ti Khống Hạc, chỉ huy sứ Điền Trọng Tiến không thể phản bội ông ta, xu mật sứ Tào bân không thể phản bội ông ta. Lô Đa Liêu, Tiết Cư Chính, Lữ Từ Khánh, ba vị tể tướng mà ông ta một tayđề bạt không thể phản bội ông ta, cấm quân mã bộ quân đô chỉ huy sứ Đảng Tiến, đại tướng Hô Duyên Tán, bọn họ đều không thể phản bội ông ta, nhưng đại đa số trong bọn họ cũng kiên quyết phản đối rời đô. Vì sao? Đây là vì sao?
Một vị văn quan đỏ mặt tía tai kêu lên: "Thần cho rằng, những lời nói trước tiên rời đô tới Lạc Dương, nhìn thiên hạ đại thế rồi lại dời đô tới Trường An của bệ hạ là rất có đạo lý, hơn hẳn định đô ở Khai Phong. Trường An có Hoàng Hà, Tần Lĩnh làm lá chắn, ngồi ở Quan Trung mà nhìn thiên hạ, có đế vương chi khí. Lạc Dương phía bắc có sông lớn vắt ngang, phía nam có y khuyết khóa chặt, phía đông có thành cao, Hổ Lao vững trãi, phía tây có Long môn, Khẳng sơn hiểm trở. Mà Khai Phong lại không có núi non để dựa vào, hoàng hà ngược lại lại thành họa hoạn, một khi địch tới từ bất kỳ một phương hướng nào đều có thể tiến công dễ dàng. Càng lợi cho chiến mã người phương bắc tung hoành, tương lại một khi giằng co với bắc quốc, không có trăm vạn đại quân thì khó mà thủ được. Cần binh lực nhiều như vậy, quốc lực làm sao mà gánh được? Không bằng rời đô tới Lạc Dương, dựa vào núi sông hiểm trở mà nuôi binh, có thể an thiên hạ."
Một tướng quân nhảy ra, cao giọng nói: "Chỉ biết nói bậy, triều ta mới lập, quốc lực có hạn, xây dựng rầm rộ ắt sẽ làm dao động nền tảng của đất nước. Hiện giờ Quan Trung đã không còn là Quan Trung ngày trước nữa, bách nghiệp điêu linh, nhân khẩu thưa thớt, làm thế nào mà trở thành trung tâm thiên hạ được? Còn Lạc Dương, cũng không thuận lợi bằng Khai Phong, thuế phú toàn quận dựa vào vận hà mà cung cấp, một khi rời đô tới Lạc Dương, xe ngựa nườm nượp, cả ngày không ngớt, phí dụng chẳng phải lại đánh vào quân phí ư?"
"Không đâu, không đâu" lại có một vị văn quan bước ra, gật gù đắc ý, nói: "Dựng nước xây đô đều phải dựa vào nơi hiểm trở, thành trì ắt phải dùng núi sông vây quanh. Khai Phong thì bốn phía trống không..."
Hắn còn chưa nói xong thì một văn quan liền nhảy ra phản bác: "Lạc Dương không phải là nơi tứ thông ngũ đạt (ý nói giao thông không thuận tiện), không đủ để cung dưỡng hoàng thất, cứu giúp vạn dân. Biện Lương tuy không có núi non hiểm trở vây quanh, nhưng có thể dùng binh làm hiểm, thiên hạ giàu có đông đúc, chẳng lẽ lại không đủ để nuôi binh cho Biện kinh ư?"
"Hai tên nhà nho nghèo các ngươi nói linh tinh cái gì vậy!" Lại có một tướng quân nhảy ra, vị tướng quân này dốt đặc cán mai, nghe hai người trước chi hồ giả dã, cũng không nghe ra ai là người có cùng ý kiến với hắn, dứt khoát mắng cả hai: "Cái gì mà hiểm với cả không hiểm, Giang Nam lấy Đại Giang làm hiểm, hiểm này không phải là hiểm ư? Tướng hùng binh mạnh, tấn công một cái là có thể đánh gục, mỗ cho rằng, biện kinh là tốt nhất, không cần phải rời đo."
"Tướng quân nói vậy sai rồi, quốc đô không phải ở mãi một nơi vĩnh viễn không di chuyển, khi xưa Bàn Canh rời Ân, triều Thương phục hưng. Triều Chu từ Chu Nguyên rời tới Cảo kinh, cuối cùng cường thịnh lên rồi diệt được Ân Thương. Ngụy Hiếu văn đế từ Bình thành rời đô tới Lạc Dương, làm suy yếu thế lực của của các tù trường mà lập được vương quyền, từ đó có thể xưng bá thiên hạ. Hiện giờ rời đô tới Lạc Dương, dùng tinh binh tới bắc phạt Yến Vân, thì giang sơn sẽ vĩnh viễn vững chắc!"
"Bệ hạ, bệ hạ!"
Mắt thấy văn võ bá quan trang biện không ngừng, thiết kỵ tả hữu sương đô chỉ huy sứ Lý Hoài Trung không nhịn được mà bước ra khỏi hàng, Lý Hoài Trung kiêu dũng thiện chiến, trung tâm cảnh cảnh, chính là tâm phúc do một tay Triệu Khuông Dận đề bạt lên, vừa thấy hắn đứng ra, Triệu Khuông Dận đã có chút sứt đầu mẻ trán rất là vui mừng, vội vàng cúi người, nói: "Ái khanh có gì muốn nói?"
Lý Hoài Trung cẩn thận tìm từ, nói: "Bệ hạ, đông kinh Biện Lương có thủy vận của Biện hà, mỗi năm từ Giang, Hoài vận tới mấy trăm ngàn gánh gạo, để cứu giúp trăm vạn người trong kinh sư, nếu bệ hạ rời đô tới Lạc Dương, vậy thì vận lương như thế nào? Hơn nữa, kho khố căn bản đều ở tại Biện Lương, hiện giờ Trung Nguyên vừa mới thống nhất, thiên hạ lại chưa ổn định, thực sự là không nên vội vàng dao động. Thần cho rằng, chuyện này hãy để sau hẵng bàn, từ từ thực thi, để tránh làm tổn thương nguyên khí của đất nước."
Triệu Khuông Dận lại chậm rãi ngồi thẳng lên, mặt không có chút biểu tình, trong mắt lại lóe lên vẻ thất vọng, thậm chí là thống khổ.
Ông ta hiểu rồi, ông ta cũng nhìn rõ rồi, ông ta nhìn ra chỗ không tốt của Biện Lương, những khai quốc công thần này làm sao mà không nhìn ra chỗ thiếu sót trí mạng của Biện Lương? Song, bọn họ vẫn một mực phản đối, bọn họ không phải là vì bị Triệu Quang Nghĩa mua chuộc, mà là bị lợi ích mua chuộc rồi.
Nhà của bọn họ ở Biện Lương, tài phủ, thổ địa, thân quyến, nhà cửa của bọn họ toàn bộ đều ở Biện Lương, cửa hàng lương thực, cửa hàng quần áo, hiệu cầm đồ, tửu lâu mà bọn họ kinh doanh toàn bộ đều ở Biện Lương, bọn họ làm sao mà chịu rời đi? Cho dù bọn họ cảm thấy nên di dời kinh sư, bọn họ cũng tuyệt không hi vọng lại di dời vào lúc mà bọn họ đang làm quan.
"Tấn vương, khanh thấy thế nào?" Triệu Khuông Dận trầm mặc một hồi lâu, quay sau hỏi Triệu Quang Nghĩa cũng im lặng đã lâu.
Triệu Quang Nghĩa thấy phản ứng của quần thần, tảng đá đang treo trong lòng cũng được hạ xuống, hắn chậm rãi đứng dậy, trầm ổn bước tới trước ngự tọa, đột nhiên quỳ xuống, trịnh trọng hành lễ, cao giọng đáp: "Thần, phản đối rời đô."
Triệu Khuông Dận cười khổ, nói: "Tấn vương, ý tứ trong lời nói của trẫm, người đã từng nghe rõ chưa?"
"Thần nghe rõ rồi!" Triệu Quang Nghĩa trầm ổn nói: "Nhưng thần cho rằng, sự vững chắc của giang sơn là ở đức chứ không phải là ở hiểm!"
Triệu Khuông Dận sắc mặt trầm xuống, một hồi lâu vẫn không nói gì.
Ở đức chứ không phải ở hiểm? Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa? Chỉ cần có được dân tâm thì nhất định sẽ có được thiên hạ? Lý Dục tuy là hỗn đản, nhưng dân tâm Giang Nam lại không hướng về Tống. Thuế của Mạnh cơ thu nặng hơn, nhưng người Thục lại không ngóng trông người Tống tới "giải" cứu bọn họ, bọn họ bảo vệ giang sơn ư?
Từng có một vị môn đồ của thánh nhân cả ngày kêu gọi đối phó với Hung nô là ở đức không phải ở hiểm. Đó là thời của Hán Võ đế, Hán Võ đế không nói câu nào, trực tiếp cho hắn tới biên cương dùng đức phục người, đối phó với Hung Nô. Kết quả là, không lâu sau Hung Nô liền chém đầu hắn, tấn công vào thành, tự ý chém giết cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ.
Nhưng, ông ta có thể dùng biện pháp đó để đối phó với Triệu Quang Nghĩa ư? Đây là thân huynh đệ của ông đó!
Lần này vì rời đô, ông ta quả thật đã chuẩn bị rất nhiều, bảo gồm cả về mặt quân sự, nhưng có một chuyện ông ta không ngờ tới, có một chuyện mà ông ta không hạ quyết tâm được. Ông ta không ngờ văn võ đại thần trung thành với mình nhất cũng dám ở ngay trước mặt phải đối ý kiến rời đô của ông ta. Ông ta không thể hạ quyết tâm giết một răn trăm, lấy huynh đệ của mình ra khai đao được.
Làm sao đây? Bất chấp tất cả, hung hãn chuyên quyền ư? Ông ta không làm được, lưu manh Lưu Bang giết người như ma dưới tính huống văn võ toàn chiều nhất trí phản đối cũng không dám tự tiệt thay đổi thái tử. Hiện giờ giang sơn mới định, là lúc cần bình ổn, ông ta cũng không thể chuyên quyền độc đoán, khăng khăng rời đô được.
Dương Hạo lặng lẽ nhìn cảnh ở trước mặt, hắn và La Công Minh là hai trong số ít những quan viên không tỏ thái độ. La Công Minh là người lão làng đã trải qua mấy triều, quyết không tùy tiện tỏ thái độ. Còn Dương Hạo, Dương Hạo kỳ thực cũng nhìn thấy rất rõ, Tống quốc sau này chuyện quân sự, chính trị trở nên rối ren tất nhiên là có nguyên nhân khác, nhưng Biện Lương làm quốc đô, là một nguyên nhân quan trong không thể coi thường ở trong đó.
Lạc Dương không tốt ư? Trường An không tốt ư? Nơi đó hiện tại kinh tế không phát đạt, nhân khẩu quá ít ư? Cái này mà cũng gọi là lý do được à, một khi trung tâm chính trị chuyên tới đó, sao có thể không một lần nữa hưng vượng được? Trường An, đó là nơi mà hai trăm năm sau thiết kỵ mông cổ tung hoành thiên hạ, không đâu địch nổi cũng không thể chính diện công phá, rời đô có thành công hay không, chỗ yếu hại chân chính không phải là ngươi đưa ra được bao nhiêu lý do đường hoàng, mà là ở cuộc đọ sức giữa hai huynh đệ họ Triệu, mới là điều then chốt có tính quyết định.
Triệu Khuông Dận là đế vương, lần này tới Lạc Dương tế tổ, ông ta đã chuẩn bị rất nhiều. Hiện tại, chỉ xem xem ông ta có thể sát phạt quyết đoán, dùng thủ đoạn thiết huyết mà Minh Thành Tổ Chu Lâm thường làm, dẹp yên tất cả những tiếng nói không đồng ý. Ông ta có bá lực này không, có dụng tâm lãnh huyết như vậy không?
"Chuyện này, thạm thời gác lại, về sau sẽ thương nghị tiếp, bãi triều!" Triệu Khuông Dận khó nhọc đứng dậy, chầm rãi bước ra sau điện, Triệu Khuông Dận luôn luôn long tinh hổ mãnh, đây là lần đầu tiên lộ ra vẻ mệt mỏi ở trước mặt văn võ bá quan.
Dương Hạo nhìn bóng lưng của ông ta, trong lòng lờ mờ có chút chua xót. Hắn bắt đầu có chút đồng tính với vị hoàng đế này. Có những chuyện, ông ta làm không phải là không đúng, ông ta không phải là không làm được, mà là ông ta không thể làm. Ông ta là một anh hùng, nhưng ông ta không làm được một vị anh hùng cái thế, sát phạt quyết đoán, thái thượng vong tình.
Vài ngày liên tiếp, hoàng thượng cáo ốm không ra ngoài, cũng không du lãm chỗn cũ, cũng không lên triều, nhìn tình hình này, Triệu quan gia khúc mắc chưa giải, tạm thời không có tâm tình du sơn ngoạn thủy nữa rồi. Văn võ bá quan cũng thanh nhàn hơn, Dương Hạo rất nhàn, hắn cả ngày đi dạo khắp nơi, nhìn thấy ai cũng cảm giác giống như là người của "Phi Vũ", cho dù là tên ăn xin, hắn cũng hi vọng tên ăn xin sẽ vèo một cái chạy tới trước mặt hắn, hỏi khẽ: "Muốn mao phiến không?" À không, nên là thấp giọng bẩm báo: "Đại nhân, phi vũ đến đây đợi lệnh."
Đáng tiếc, đợi mãi vẫn không thấy người của Phi Vũ tới, Dương Hạo bắt đầu hoài nghi phải chăng là sau khi mình rời khỏi Tô châu, Phi Vũ đã triệt để tan rã rồi.
Đúng vào lúc này, người mà hắn trông mòn con mắt cuối cùng cũng tới.
"Đại nhân, đại nhân" Dương Hạo dẫn hai thân binh vừa bước ra khỏi chùa Bạch Mã, phía sau sư tử đá đột nhiên có một nữ nhân đầu tóc tán loạn vẫy tay với hắn, Dương Hạo lấy làm lạ: "Làm sinh ý cả ở đây ư? Không sợ Phật tổ trách tội à.”
Tập trung nhìn lại thì giật nảy mình: "Diệp đại thiếu ư?" Dương Hạo nhìn xung quanh, vội vàng lên xe, đánh mắt ra hiệp cho Diệp Chi Tuyền đang ăn mặc giả nữ. Diệp đại thiếu hiểu ý, bước tới lên xe, ngồi ở bên cạnh hắn. Dương Hạo lập tức buôn rèm xa, kinh ngạc nhìn bộ dạng phong trần của hắn, hỏi: "Ngươi sao lại thế này?"
Diệp đại thiếu mặt mày bi thương nói: "Có phải rất giống vừa bị người ta cưỡng gian không?"
"Giống lắm!"
Diệp đại thiếp lại u oán hỏi: "Có phải là giống vừa bị mấy người cưỡng gian không?"
Mặt Dương Hạo co giật mấy cái: "Ngươi... không không phải là thực sự "gì đó" rồi chứ?"
Chương 378:Nghi ngờ lớp lớp
Diệp đại thiếu nghe thấy câu hỏi chế giễu của Dương Hạo, tức giận nói: "Ai mà mắt kém như vậy, ngay cả trống mái cũng không phân biệt được?"
Dương Hạo tắt cười, nói: "Là ngươi nói vậy thì ta mới hỏi vậy, ta còn cho rằng tên cường nhân nào đó dục hỏa công tâm, cũng đành làm tạm."
Diệp đại thiếu tức dận trợn mắt lên lườm hắn, đưa tay ra múa loạn, hậm hực nói: "Nói ra thì đúng là xui thật, ta vốn là tới Biện Lương gặp ngài..."
Dương Hạo chen vào, nói: "Ngươi không biết ta theo quan gia tây tuần à?"
Diệp đại thiếu nói: "Quan gia tây tuần thì ta biết, ta còn biết Tấn vương, ba tể tướng, xu mật sứ, tam ti cũng đều đi theo, nhưng không nghe thấy tên của ngài."
Dương Hạo nói: "So với bọn họ, chức quan của ta quả thực là nhỏ hơn một chút. Được rồi, ngươi nói đi, tới Biện Lương tìm ta, sao lại thành bộ dạng như thế này?"
Diệp đại thiếu nghe thấy vậy liền cười khổ, nói: "Vốn là đang êm đẹp, tới Khai Phong ta liền đi tìm ngài, đang đi trên đường thì thì nhìn thấy quan binh đầy đường, không nói câu nào lao ngay về phía ta, ta còn cho rằng là bị lộ thân phận rồi, bị ty cấp hoàng thành theo dõi, dọa cho ta phải nhảy xuống xe co giò chay trốn. Đại nhân ngài cũng hiểu mà, cái mà ta dùng là xe nhà, nếu như bọn họ tìm thấy ta, chứng thực được thân phận của ta, vậy thì Diệp gia của ta sẽ tan tành mất."
Dương Hạo khẩn trương hỏi: "Bọn họ sao lại theo dõi ngươi, không bị bọn họ xác nhận được thân phận thực của ngươi chứ?"
Diệp đai thiếu vỗ đùi, nói: "Cực kỳ không may, khi ta chạy rồi mới hiểu ra người bọn họ muốn bắt không phải là ta, mà là tất cả những người ăn mặc kiểu thư sinh như ta. Lén lút nghe ngóng mới hiểu rằng có một vị đại nhân vừa bị đâm, hung thủ chính là một người ăn mặc kiểu thư sinh giống ta, những quan binh đó nhất thời không phân biệt được, chỉ đành bắt tất cả, để người đã từng thấy hung thủ tiến hành xác nhận, cả đông kinh thành đều đại loạn, các học sinh phu tử của thái học viện đều chạy tới chỗ Ngụy vương kháng nghị.
Dương Hạo hiếu kỳ hỏi: "Là vị đại tướng quân nào bị đâm?"
Diệp đại thiếu nói: "Chính là Tào Hàn Tào đại tướng quân vừa lập đại công trong trận chiến diệt Đường. Tào đại tướng quân áp tải năm trăm bức tượng La Hán sắt, vừa tới bến tàu Biện Lương thì có một vị sĩ tử giơ cao một bức tranh cuộn, nói là chúc mừng Tào đại tướng quân khai cương thác thổ, chiến công hiển hách, vẽ một bức Hoàng sa bách chiến hoàng kim giáp tặng cho Tào đại tướng quân, vì hắn lập được đại công.
Tào đại tướng quân rất là vui mừng, còn bảo thư sinh đó bước lên tặng tranh, tên thư sinh đó dưới ánh mắt của mọi người, vào lúc đưa tranh tới trước mặt Tào tướng quân liền rút một thanh đoản nhận từ trong quận tranh ra, đâm thẳng vào cổ trái của Tào tướng quân, rồi lập tức giống như một con chim to, xuyên tường vượt vách, chạy mất tăm. Đáng tiếc bên cạnh Tào đại tướng quân tùy tùng như mây, lại có một thân võ công cao, vậy mà vẫn phải chết một cách oan uổng..."
Dương Hạo giật mình nói: "Tào Hàn bị người ta ám sát ư?"
Diệp đại thiếu nói: "Đúng vậy, người khắp phố đều đồn đại, có người nói, vị thư sinh có một thân khinh công cao tuyệt đó ngày đi ngàn dặm, chính là kiếm hiệp của nhà Đường, dùng kế hành thích là thủ đoạn Kinh Kha hành thích Tần vương, nói chung là đồn đại rào rào. Người đó cũng chạy rồi, nhưng những người ăn mặc kiểu thư sinh như bọn ta thì xui xẻo. Người khác không sợ bị bắt, ta thì trong lòng có quỷ, trốn đông trốn tây, nhân đêm tối chạy vào phủ của ngài. Lúc này mới biết ngài đã theo hoàng thượng tới Lạc Dương rồi. Thế là ta liền vội vàng chạy tới đây, trên đường, họa ảnh đồ hình, tới chỗ nào cũng thấy đang truy nã thư sinh đó, ta mà mặc như thư sinh một bước cũng khó đi, thế là liền cơ linh, đổi sang nữ trang..."
"Được rồi, được rồi. Ta biết ngươi khổ sở rồi. Ha ha, có điều nói đi cũng phải nói lại, đi chuyến này, ngươi đừng chỉ dựa vào hộ vệ, bản thân ít nhiều gì cũng nên luyện chút công phu, sau này rảnh rỗi thì tìm một vị sư phụ học công phu đi..."
Dương Hạo vừa an ủi hắn vừa trầm ngâm nói: "Tào Hàn chết rồi ư? Ta biết hắn sát nghiệp quá trọng, ông trời không báo thì cũng ắt sẽ có người tới báo thù. Trận chiến Giang Châu đồ sát sáu vạn sinh linh cả thành, đây nhất định là nhân vật trên giang hồ khó chịu với thủ đoạn của hắn, cho nên mới thế thiên hành đạo."
Diệp đại thiếu nói: "Hắn chết thì mặc cha hắn, liên quan chó gì đến chúng ta. Đại nhân bảo tiểu nhân tới đây là có chuyện gì muốn phân phó?"
Dương Hạo hồi phục lại tinh thần, nói: "Ừ, phía Lô châu tình hình thế nào rồi, ngươi kể tường tận lại cho ta nghe đi. Còn nữa, thần ưng mà ngươi huấn luyện, có gắng nhanh chóng nghĩ biện pháp đưa cho ta một con. Bắt đầu từ bây giờ, để người ở lại bên cạnh ta, có tin tức gì thì kịp thời thông báo. Còn nữa, ngươi phải nhanh chóng truyền tin tức về, bảo nghĩa phụ phái một nhánh nhân mã tới Nhạn Môn quan chờ Mục Vũ phân phó. Đúng rồi, thân thể của nghĩa phụ hiện giờ sao rồi?"
"Ài, thân thể của Mộc lão gia tử... yếu lắm rồi. Đinh đại gia mời danh y tới chuẩn trị cho ông ta nhưng cũng không thể giúp ông ta đỡ bệnh. Không ai để cho ông ta uống rượu, bọn Mộc Ân đều quỳ xuống van cầu, nhưng ông ta có chịu nghe ai đâu..."
Bánh xe lộc cộc, dần dần biến mất trên đầu đường Lạc Dương...
....
Trong hành cung Lạc Dương, Triệu Khuông Dận đi đi lại lại trong ngự hoa viên. Lúc này đông tuyết đã tan hết, mầm xuân hé nở, cột băng dưới mái nhà không ngừng tan chảy thành nước, không khí đầu xuân khiến lòng người thêm ấm áp.
Triệu Khuông Dận mặc tiện bào màu vàng, trán buộc khăn cùng màu, dưới chân là giày vải, miệng rộng mày rậm, long hành hổ bộ, chậm rãi bước trong ngự hoa viên, giống như một võ phu cáo lão về quê.
Ông ta quả thực là bệnh rồi, có điều chỉ là bệnh nhẹ, với thể phách cường kiện của ông ta, căn bản không phải là vấn đề, mấy ngày liền không thượng triều, một mặt cũng là tâm tính không tốt, hai là đang suy nghĩ kế hoạch tiếp theo.
Ông ta dùng kế điệu hổ ly sơn, lung lạc thủ quân Lạc Dương, chỉ là thủ đoạn phòng hoạn theo thói quen, trên thực tế ông ta cũng không tin rằng nhị đệ sẽ gây bất lợi cho ông ta, dám gây bất lợi cho ông ta. Từ ngay lúc đầu, ông ta đã muốn dùng thủ đoạn nhu hòa để giải quyết bất đồng giữa huynh đệ. Nhưng không ngờ nhị đệ lại không hề bị trận thế mà ông ta bày ra dọa ngã, hơn nữa tất cả trọng thần văn võ toàn triều cơ hồ đều phản đối rời đô, ông ta cũng không thể ngoảnh mặt làm ngơ, rời đô chiêu này hiện giờ mà nói là rút củi dưới đáy nồi, từ dài lâu mà nói thì lợi ở đại kế thiên thu, nên chỉ đành tạm thời gác lại.
Cái mà ông ta còn là thời gian, thủ đoạn, có gì mà phải gấp?
Từ sau loạn An sử hơn trăm năm trước, Trung Nguyên dần dần bắt đầu tiêu vong, dị tộc xâm nhập, chư hầu cát cứ, không ngừng thay triều đổi đại, không ngừng chém giết cướp đoạt. Nhưng ông ta, con của một võ quan Lạc Dương giáp mã doanh, hoành không xuất thế, chỉ dùng hơn chục năm ngắn ngủi, thống nhất lại Trung Nguyên đại địa, xây dựng một bá nghiệp chính quyền cường đại ổn định, đại sự như vậy mà ông ta còn làm được thì còn có gì mà ông ta không làm được?
Ông ta không gấp, nhị đệ thì vẫn cứ không chịu bỏ qua, ông ta có thể dùng mười năm, hai mươi năm thời gian, dần dần mài bớt đi tráng khí của nhị đệ. Nhị đệ không có gan phản ông ta, cũng không thể phản được ông ta, nhị đệ chỉ muốn sáng tạo ra một danh vọng không ai sánh bằng ở trong triều, ép buộc ông ta suy nghĩ nếu một khi lựa chọn hoàng tử để kế thừa đại thống, vậy thì sau khi ông ta băng hà, đại Tống ắt sẽ xuất hiện cục diện nguy hiểm chủ yếu thần mạnh, ép ông ta không thể không đưa cả huynh đệ vào trong mục tiêu lựa chọn lập trữ.
Không sao cả, không phải chính là chủ yếu thần mạnh ư? Chiêu này của nhị đệ sao có thể làm khó được ta?
Triệu Khuông Dận ung dung mỉm cười, dừng bước lại, ánh mắt nhìn về bầu trời ở phía Tây Bắc.
Nơi đó còn có một vương quốc, một vương quốc đang lảo đảo sắp đổ.
Trung Nguyên đã nằm trong tay, tiếp theo, ông ta muốn tiêu diệt Bắc Hán quốc, đoạt lại U Vân mười sáu châu, vào lúc ông ta còn sống, khiến cửu châu lại một lần nữa được thống nhất. Nhưng thiện hạ mới ổn định, Tống quốc hiện cần phải nghỉ ngơi dưỡng sức, tích súc lực lượng rồi mới có thể bắc phạt. Ông ta ý thức rõ ràng được rằng, người Khiết Đan không phải là dễ đối phó như vậy, nó cường đại hơn Thục, Hán, Kinh, Hồ rất nhiều, hơn nữa còn cường đại hơn những nước đó cộng lại, thậm chí còn cường đại hơn Tống quốc hiện tại. Bắc phạt chi chiến không thể một lần là xong, nhất định phải tính toán cho kỹ. Nếu không một khi thất bại, rất có thể sẽ từ đó mà làm tổn thương sĩ khí của Tống quốc, lần sau muốn bắc phạt sẽ khó khăn hơn nhiều.
Do đó, Bắc Hán quốc đang núp dưới bóng Khiết Đan, trước khi quyết định chính diện khai chiến với Khiết Đan thì sẽ không động đến nó. Nhưng hiện tại cơ hội đã tới rồi, Khiết Đan chủ yếu đăng cơ, dẫn tới những kẻ có dã tâm nhao nhao chiếm quyền. Khánh vương sau khi ám đấu cuối cùng cũng xé rách da mặt làm phản loạn, dẫn tới Khiết Đan chư tộc quyết chiến. Hiện giờ Nam Viện đại vương Da Luật Tà Thương dẫn binh đi qua nguyên quán của bọn họ, Khánh vương tuy từ thượng kinh hoảng sợ lui binh, nhưng thực lực của hắn lại bị tổn thất rất lớn. Nếu như vậy, một khi muốn binh chinh Bắc Hán quốc, Khiết Đan sẽ bị Khánh vương kéo ra sau, rất khó giúp đỡ. Không có người Khiết Đan chống lưng, Bắc Hán há có thể kham nổi một kích, sao không nhân cơ hội này mà chiếm lấy nó?
Triệu Khuông Dận mỉm cười: "Lần này sau khi hồi kinh, sẽ bảo Đức Chiêu tự mình suất binh bắc phạt, tướng lĩnh thiện chiến trong triều có thể trợ giúp cho hắn. Những tướng lĩnh lần này nam chinh không giành được chiến công tất sẽ nhao nhao hưởng ứng, lại sai Triệu Phổ làm tham tán, theo quân phụ chiến, đợi hoàng nhi thành công trở về, thì chính là vương gia chi tôn, có công diệt quốc. Quang Nghĩa là Tấn vương, cũng có công diệt quốc, hai người coi như là ngang nhau.
Lúc đó lại lập thêm chiến công. Triệu Phổ sau khi nhận được lần giáo huấn này, chắc sẽ thu liễm một chút, có hắn chế ngự nhị đệ, sau này ta sẽ giao thêm nhiều quốc sự cho Đức Chiêu đi làm, có ta một tay nâng đỡ, sau năm ba năm, sau năm lần bảy lượt, uy vọng quyền thế của Đức Chiêu chẳng lẽ lại không hơn Quang Nghĩa ư?
Quang Nghĩa, ngươi cho dù là một gốc đại thụ che trời, hiện giờ cũng đã mọc tới tận cùng rồi. Còn Đức Chiêu vẫn chỉ là một khúc mầm mới nhú, đợi khi bọn họ song song nhau, tới lúc đó, ngươi tự nhiên sẽ hiểu phải rút tay, cho dù không chịu rút tay, lúc đó ngươi cũng không còn sức xoay chuyển trời đất nữa rồi....
Triệu Quang Nghĩa cưỡi trên lưng ngựa, hứng thú nói: "Lúc đi thì hứng thú, lúc về thì thất vọng. Ài, nhớ lúc nhỏ cùng đại ca tới Lạc hà du ngoạn, phong quang vô hạn, đẹp không sao tả xiết. Hiện giờ nhìn lại, sao cảm thấy chẳng hứng thú chut nào."
Mộ Dung Cầu Túy mỉm cười, nói: "Thiên tuế, hiện giờ tuyết vừa mới tan, còn chưa tới lúc xuân ấm hoa nở mà. Lạc hà tất nhiên không có cảnh đẹp gì để xem."
Triệu Quang Nghĩa lắc đầu, than: "Lúc đó cũng là thời tiết vừa mới ấm..."
Mộ Dung Cầu Túy cười nói: "Tình thú thời thiếu niên không giống như sau lúc thành niên. Ha ha, lúc đó thiên tuế tới bờ Lạc hạ, là muốn tới phá băng câu một con cá béo, chính là chuyện vui lớn nhất. Hiện giờ thì khác rồi, nếu là tới Lạc hà này, có thể có Lạc thần tới đón, đó mới là cái vui vô thượng?"
Triệu Quang Nghĩa ngẩng mặt lên cười to: "Không sai, không sai, nhạc thú lúc thiếu niên tất nhiên là khác biệt rất lớn với sau khi thành niên. Ồ... Lạc thần, bản vương từ lúc nhỏ đã nghe nói rồi, Lạc thần Bí phi vốn là nữ nhi của Phụ Hy, nàng ta định cư ở bên bờ Lạc hà, bị hà bá Hoàng Hà đánh thắng, bắt vào trong thủ cung, muốn bức nàng ta phải làm vợ. Lúc này thê tử trộm linh dược chạy về thiên cung, Hậu Tị một mình ở lại nhân gian nghe nói tới chuyện này liền tới đánh hà bá, cướp nàng ta về nhân gian, hai người lâu ngày sinh tình, kết thành phu thê. Thiên Đế liền phong Hậu Tị làm Tống Bố thần, Bí phi là Lạc thần."
Mộ Dung Cầu Túy nói: "Đúng vậy, về sau Tào Tử Kiến thầm yêu đại tẩu Chân thị, còn từng lấy lý do ở bờ Lạc thủy gặp Lạc thần thái phi, viết xuống một thiên "Lạc thần phú", để ký thác tấm tình mê luyến đối với Chân thị. Kỳ hình dã, phiên nhược kinh hồng, uyển nhược du long, vinh diệu thu cúc, họa mậu xuân tùng. Tông man hề nhược khinh vân chi tế nguyệt, phiêu diêu hề nhược lưu phong chi hồi tuyết. Viễn nhi vọng khởi...., viễn nhi vọng khởi...,"
Triệu Quang Nghĩa cười cười nói tiếp: "Sao, Mộ Dung tiên sinh không nhớ câu tiếp à? Viễn nhi vọng chi, kiều nhược thái dương thăng triều hà. Bách nhi sát chi, chước nhược phù dung xuất lục ba. Cảm tiêm đắc trung, tu đoản hợp lộ. Kiên nhược tước thành, yêu như ước tố. Duyên cảnh tú hạng hạng, hạo chất trình lộ, phương trạch vô gia, duyên hoa phất ngự. Vân kế..."
"Vương gia, cũng không phải là hạ quan quên lời, ngài thấy vị nữ tử đó, có được xem là cổ nhỏ, dài ngắn phù hợp, vai như vót mà thành, eo như được đặt làm không?"
Triệu Quang Nghĩa liếc mắt nhìn, chỉ thấy ở phía trước có một vị nữ tử áo trắng, thân hình thon dài, thắt lưng quấn hông, đi đường trông rất thướt ta, không khỏi hai mắt sáng lên, khen: "Phong tư như tiên, quả nhiên..."
Hai người bình phẩm từ đầu đến chân, cước bộ dần dần chậm lại, đi tới trước mặt nữ nhân đó, hai người không hẹn mà cùng nhìn lại, muốn được thấy tư dung của nữ tử đó có được kinh diễm như bóng lưng của nàng ta không. Vừa quay đầu lại nhìn mắt của hai người đồng loạt sáng lên, nữ tử trước mặt quả nhiên tư dung mỹ lệ. Triệu Quang Nghĩa chỉ cảm thấy đôi mắt hoa đào của nữ tử ấy mị khí bức người, còn chưa kịp lộ ra thần sắc kinh ngạc thì nữ tử áo trắng đó đột nhiên phất tay áo, hàn quang bắn ra, thân ảnh bật lên, tung ra một kiếm nhanh thiểm điện, đâm tới yết hầu của hắn.
"A!" Mộ Dung Cầu Túy hét lên một tiếng kinh hãi, thân hình muốn bay lên, nhưng trong lòng đột nhiên nghĩ gì đó, bất giác lại dừng lại, trong thời gian một cái chớp mắt này, kiếm quang đã tới yếu hầu của Triệu Quang Nghĩa. Triệu Quang Nghĩa ngửa người, hai chân hất ra, dùng sức đạp lên lưng ngựa, thân hình khôi vĩ không ngờ lại cực kỳ nhanh nhẹn né tránh một kiếm hiểm hóc ấy.
Mày liễu của nữ tử đó nhướn lên, tựa hồ như có chút kinh ngạc vì thân thủ của hắn. Ả ta đưa tay ra ấn lên lưng ngựa, lại đâm tiếp một kiếm, vẫn là nhắm tới yết hầu của hắn. Triệu Quang nghĩa vừa rơi xuống, bịch bịch bịch lui liền mấy bước, tay áo quận tròn, bọc lấy mũi kiếm của nữ tử áo trắng đo, chỉ nghe thấy "xoạt" một tiếng, tay áo rách toách như bươm bướm, kiếm trong tay nữ tử đó bị hất lên không. Triệu Quang Nghĩa thổ khí khai thanh,vỗ một chưởng lên bộ ngực đang nhấp nhô của nàng ta, xuất thủ ngoan độc, không hề có ý thương hương tiếc ngọc.
Thị vệ của Tấn vương lúc này toàn bộ đều xông tới, Triệu Quang Nghĩ phủi phủi tay, cảm thấy kiếm thuật của nữ tử này cũng không được tính là cao minh lắm, vừa rồi một kiếm kinh diễm đó của ả ta hoàn toàn là nhờ vào thân pháp quá nhanh của ả ta nên mới cấu thành uy hiếp đối với mình, cho nên lớn tiếng quát: "Đựng ở bên cạnh, đợi bản vương bắt ả."
Triệu Quang Chỉ gập tay thành móc, liên tục thi triển cầm nã, kiếm pháp của nữ tử áo trắng quả nhiên rất kém, chỉ có thể dựa vào thân pháp kỳ diệu vô cùng của mình mà vừa chiến vừa lui. Mộ Dung Cầu Túy giục ngựa chầm chậm, ánh mắt lấp lánh, nhìn song phương đại chiến, đột nhiên thò tay ra, rút bội kiếm giắt trên hông một thân binh, ném ra rồi cao giọng hô: "Thiên tuế, tiếp kiếm!"
Triệu Quang Nghĩa lui ra một bước bắt lấy kiếm, đột nhiên hô lên một tiếng như sấm nổ. Kiếm này ở trong tay hắn, cảm thấy mạnh hơn nữ tử đó không biết bao nhiêu lần. Nữ tử đó thối lui, Triệu Quang Nghĩa lại tung kiếm đuổi theo, nữ tử đó giao thủ với hắn mấy hiệp, đoản kiếm trong tay mấy lần suýt tuột khỏi tay mắt thấy không địch được, nhờ vào thân pháp kỳ diệu, trước tiên muốn thoát thân mà đi. Triệu Quang Nghĩa nào có chịu bỏ qua, sử kiếm cản ả lại, mắt thấy nữ tử áo trắng đó dần dần không địch nổi, ngoài tường thấp ở bên đường đột nhiên có một người nhảy ra, cũng một thân y sam nữ tử, trên mặt lại che vải đen, trong tay cầm một thanh kiếm, giống như thiên ngoại phi thiên bay tới.
"Keng, keng, keng", hai người mũi kiếm chạm nhau, Triệu Quang Nghĩa bị bức phải lui ba bước liên tục. Triệu Quang Nghĩa kinh nghi bất định nhìn người che mặt, vừa kinh ngạc vì kiếm pháp cao diệu của người này lại vừa kinh ngạc vì thanh kiếm mà ả sử dụng. Hai người đều sử dụng kiếm bản to mà trong quân hay dùng, có thể dùng hai tay để cầm, chém xuống như đao phủ.
"Ngươi là ai?" Vừa thấy đối phương dùng đại kiếm trong quân đội, Triệu Quang Nghĩa vừa kinh ngạc lại vừa tức giận, cao giọng quát.
Người đó trên mặt che khăn, đầu lại đội mũ nỉ, mũ nỉ sụp xuống tận lông mày, đầu hơi cúi xuống, không nhìn thẳng vào hắn, đưa tay ra kéo nữ tử áo trắng. Triệu Quang Nghĩa quát lớn một tiếng, hai tay nắm kiếm, chém liền ba phát vào người đó, đều bị người đó dùng một tay cầm kiếm, với thủ pháp cực kỳ xảo diệu hóa giải hết. Triệu Quang Nghĩa vốn không giỏi kiếm thuật, vừa thấy kiếm thuật của người đó rõ ràng là cao minh hơn mình, keng một tiếng ném kiếm đi, tung người ra đoạt lấy một cây thương trong tay một thị vệ.
Thương đâm một đường dài, côn đánh một mảng lớn, song côn lắp thêm mũi nhọn thì là thương, thương bỏ mũi nhọn thì là côn, cho nên thương và côn tương thông, thương cũng có thể dùng quất, bổ, đánh, đập, côn cũng có thể đâm, hất, vẩy.
Cây thương này lọt vào tay Triệu Quang Nghĩa, đúng là may mẽ hơn hẳn, lúc thì dùng thương pháp, lúc thì dùng côn pháp, chính là cái gọi là dài một tấc thì mạnh hơn một tấc, cây thương lớn này lọt vào tay Triệu Quang Nghĩa, người dùng kiếm liền có chút cật lực.
Triệu Quang Nghĩa thương như du long đâm một cái, côn như gió cuốn quét một cái, đem kỹ nghệ của thương côn phát uy tới vô cùng nhuần nhuyễn, người dó tựa hồ như muốn kéo nữ tử đi, mắt thấy côn pháp của Triệu Quang Nghĩa lợi hại như vậy, đột nhiên buông nữ tử ra, hay tay cầm kiếm phản kích.
Triệu Quang Nghĩa cười lạnh một tiếng, đại thương trong tay đong đưa, đột nhiên điểm tới trước ngựa người đó. Thương sợ lắc đầu côn sợ đâm, đại thương lắc một cái, giống như phượng hoàng gật đầu cái, mũi thương bị rung thành một vòng tròn vừa nhanh lại vừa nhỏ, đột nhiên nhanh như thiểm điện hướng về cổ họng và hai vai của người đó, một thương là thực, một thương là hư, khiến người ta khó đoán.
Một thương của hắn di lắc, móc, đâm, ba động tạc liền mạch lưu loát, không ngờ kiếm pháp của người đó cũng cao tuyệt, một thanh trọng kiếm ở trong tay, không ngờ lại sử dụng cực kỳ nhẹ nhàng, một thương tất sát này không ngờ lại bị hắn phá giải, hơn nữa còn lật tay chém vào tay đang cầm thương của Triệu Quang Nghĩa.
Thương như du long, khó mà nắm bặt, cáng thương đó không phải là đi thẳng tới thẳng, mũi thương sắc bén đâm ra, cán thân run rẩy, giống như long xà đang trườn về phía trước, một kiếm này chém tới, Triệu Quang Nghĩa chấn động cổ tay một cái, trước tiên dùng cán thương hất văng thanh kiếm đó, đại thương lật một cái, dùng đuôi thương đánh vào hạ âm của người đó. Người đó một kiếm bức lui thế công hắn, nhân cơ hội kéo nữ tử áo trắng, quát khẽ: "Đi!" rồi song song nhảy qua đầu tường.
Triệu Quang Nghĩa đại thương rung lên, giống như một con rồng bay thoát khỏi tay lao vút theo người đó, người đó thân ở trong không trung, vung kiếm gạt đi, nhờ lực phản chấn của một thương này, càng bay nhanh hơn về phía sau tường.
Triệu Quang Nghĩa đường đường là vương gia, đương nhiên không có đạo lý ở ngay trên đường mà đuổi theo, hắn quát lớn một tiếng: "Đuổi! Đuổi theo cho ta!" Những sĩ binh đó liền lập tức nhao nha chạy về phía đầu tường.
"Thiên tuế..." Mộ dung Cầu Túy bước lên, Triệu Quang Nghĩa xua tay ngăn hắn lại, nhìn bách tính ở xung quanh đang vậy lại xem náo nhiệt, sầm mặt nói: "Quay về rồi nói."
Hắn nhảy lên ngựa, các thị vệ lập tức vây quanh, bảo vệ hắn ở giữa, lại có người xua đuổi bách tính, Triệu Quang Nghĩa thúc ngựa chạy về phía trước, đi không xa liền thấy ở phía trước có một cỗ xa kiệu, trên càng xe có người đứng, đang nhìn về phía này. Người đó vừ quay dầu lại liền thấy Triệu Khuông Dận đang phi ngựa tới, vội vàng nhảy xuống vái chào: "Thiên tuế."
Triệu Quang Nghĩa thấy người này chính là Dương Hạo, chỉ có một cỗ xa kiệu, cũng không có thị vệ tùy tùng, thấy bộ dạng của hắn giống như là vừa đi dạo về, Triệu Quang Nghĩa vội ghìm cương ngựa, nói: "Dương tá tử từ đâu tới vậy?"
Dương Hạo nói: "Hạ quan hôm nay tới chùa Bạch mã, vừa mới quaylại, vừa rồi thấy mấy sĩ tốt của vương phủ vội vàng chạy về phía trước, không biết..."
Triệu Quang Nghĩa mắt sáng lên, vội vàng hỏi: "Vậy vừa rồi ngươi có thấy hai nữ tử hối hả chạy qua không?"
Dương Hạo nói: "Đích xác là có thấy, có điều... một người trong đó tuy mặc nữ trang, nhưng nhìn thân hình dáng đi của hắn giống như là một nam tử, bọn họ đi rất nhanh, hạ quan đang bực bội thì thấy thân binh của vương phủ chạy tới. Thấy hạ quan cũng hỏi nơi hạ lạc của họ, hạ quan vừa chỉ hướng xong. Bọn họ lại vội vàng cám ơn rồi đuổi theo. Thiên tuế, xảy ra chuyện gì vậy, không biết hạ quan có giúp gì được không?"
Triệu Quang Nghĩa cố nặn ra một nụ cười, nói: "Không có chuyện lớn gì cả, chỉ là hai dân nữ đụng phải nghi trượng của bản vương, các thị vệ chuyện bé xé ra to mà thôi. Dương tả sứ cứ đi làm việc của mình đi." Nói xong liền vung roi giục ngựa đi tiếp. Dương Hạo vội vàng né sang một bên, chắp tay đưa tiễn. Đợi đoàn người của Triệu Quang Nghĩa đi xa rồi. Dương Hạo mới thầm thở phào một hơi. Hắn vội vàng tung người lên xe, vào trong khoang xe, lại thấy Diệp đại thiếu và một nữ tử áo trắng đang ngồi sánh vai.
Dương Hạo vội vàng buông rèm xuống, trầm giọng hỏi: "Bích Túc, nàng là gì vậy?"
Thì ra, nữ tử đó chính là Bích Túc cải trang, một màn ám sát ở trên đường đều lọt vào mắt Dương Hạo vừa hay đi qua nơi này. Dương Hạo vừa nhìn một cái đã nhận ra là Bích Túc, không khỏi kinh hãi, mắt thấy Bích Túc không địch được, đỡ trái hở phía sắp bị bắt, dưới tình huống khẩn cấp Dương Hạo cũng không nghĩ nhiều, hắn một mặt lệnh cho xe tiếp tục tiến về phía trước, một mặt hớt hải đổi nữ trang của Diệp đại thiếu, lấy khăn tay che mặt, lại từ trong tay của hai thị vệ thân tín lấy một thanh kiếm, bảo bọn họ một mình về trước, sau đó thì vội vàng tới cứu Bích Túc về, còn chưa kịp hỏi nàng ta nguyên do, sau khi lừa những quan binh đuổi bắt đó đi, liền đứng ở càng xe làm trò.
Nghe thấy hắn hỏi, Bích Túc mắt đỏ ngầu, nghiến răng nghiến lợi nói: "Muội muốn... giết Triệu Quang Nghĩa!"
"Thiên tuế..."
Triệu Quang Nghĩa đi đi lại lại, khiến cho Mộ Dung Cầu Túy hoa cả mắt, Triệu Quang Nghĩa lúc này mới dừng bước, nhẹ nhàng lắc đầu, nói: "Không thể, không thể là ông ta, ông ta không thể phái người giết ta được, không thể..."
Mộ Dung Cầu Túy mắt lóe sáng, vội vàng hỏi dồn: "Thiên tuế chẳng lẽ biết là ai phái người tới hành thích ngài ư?"
Triệu Quang Nghĩa trợn mắt lên, sắc mặt càng lộ ra vẻ lo lắng, hắn trầm ngâm một lát rồi lại lắc đầu, thấp giọng phân phó: "Ngươi đi nghỉ ngơi đi, bách tính bình thường sẽ không thể tự dưng tới tố cáo dâu. Chuyện này cứ cố gắng áp chế xuống, nếu thật sự có người hỏi thì cứ nói chuyện này không tiện làm to..."
"Vâng, Mộ Dung cáo lui." Mộ Dung Cầu Túy nhìn xoáy vào hắn một cái, chắp tay lui xuống.
Triệu Quang Nghĩa quay về ngồi lên ghế, lẩm bẩm nói: "Người đó sử dụng đại kiếm trong quân... có thể là ai muốn giết ta nhỉ? Không thể, không thể là ông ta, tuyệt đối không thể là ông ta. Đại ca cho dù giận ta giành hoàng vị, với tính tình của đại ca cũng không thể nổi sát tâm với ta. Cuộc đọ sức này là tính toán thực lực, ai có thể lập trữ quân, người đó liền có thể giành được ngôi báu, đại ca với thân phận chí tôn, tuyệt không thể dùng thủ đoạn này được."
Hắn suy tính kỹ càng, lại thấy lung lay vì phán đoán của mình: "Nhưng... hoàng huynh liệu có thể vì bá quan phản đối rời đô, cho rằng là vì bị ta mua chuộc, cho nên mới nảy sinh kiêng kỵ không?"
Hắn giơ hai tay lên, lại đi đi lại lại trong sảnh, trên mặt âm tình bất định: "Ta tự diệt đường về, thân thế nhất thời quá lớn. Lý Hán Quỳnh, Tào hàn, những cấm quân đại tướng chịu chấp hành quân lệnh của ta một cách tuyệt đối này, ta đều cố gắng nghĩ cách xin công cho bọn họ. Bọn họ cũng có đi có lại, đối với ta có chút thân cận, qua lại cũng mật thiết hơn. Tào Hàn cướp được vô số kim ngân, còn nhớ tặng ta một phần hậu lễ, hiện giờ lại có bá quan cùng ta trăm miệng một lời phản đối rời đô, đại ca liệu có phải vì nghe thấy những tin tức này, mà hạ thủ đối với ta.., nhưng... ống ta thật sự hạ quyết tâm hạ thủ đối với ta ư?"
Nghĩ tới tình tính trước giờ của Triệu Khuông Dận, và cảm tình thâm hậu đối với huynh đệ nhà mình, Triệu Quang Nghĩa do dự khó quyết, đang trầm ngâm thì nghe thấy ngoài cửa đột nhiên có người bẩm báo: "Thiên tuế, trong cung có người mang tin tức khẩn cấp đến."
Triệu Quang Nghĩa đột ngột ngẩng đầu lên, phân phó: "Cho hắn vào đi."
Tên đó là một tiểu lại của Nam nhan, cũng là tâm phúc của Triệu Quang Nghĩa, vừa vào đại sảnh, thấy Triệu Quang Nghĩa lập tức thi lễ. Triệu Quang Nghĩa hỏi: "Trong cung xảy ra chuyện gì vậy?"
Người đó nói: "Thiên tuế, Tào Hàn tướng quân vào ngày về kinh, ở bến tàu Biện hà bị đâm mà bỏ mình rồi."
"Cái gì?"
Triệu Quang Nghĩa nghe vậy lập tức ngây người, người đó lại nói: "Chuyện này vốn chẳng gây trở ngại gì cho Nam nha chúng ta, có điều thiên tuế đã từng phân phó, trong cung có gió thổi cỏ lay gì, bất kể là có liên quan tới Nam nha chúng ta hay không thì cũng đều phải bẩm báo cho thiên tuế. Cho nên Trình phán quan lệnh cho thuộc hạ tới bẩm báo."
Triệu Quang Nghĩa hơi nhướn mắt lên, hỏi: "Tào Hàn tướng quân bị đâm là chuyện khi nào?"
Người nọ bẩm: "Ba ngày trước, bởi vì không phải là chuyện gấp liên quan tới Nam nha chúng ta, lại có người tập nã hung thủ khắp nơi, sợ dẫn tới sự chú ý của người hữu tâm, cho nên thuộc hạ không dám dùng khoái mã của quán dịch, cũng không dám để lộ thân phận của Nam nha, chỉ dùng thân phận thương nhân tới đây, di đường không dám vội vã, cho nên hôm nay mới tới được Lạc Dương."
Triệu Quang Nghĩa biến sắc: "Ba ngày? Đã ba ngày rồi, đường đường là trọng thần trong triều bị ám sát, ngày hôm sau đã nên bẩm báo cho quan gia rồi, vì sao phía Lạc Dương này lại không có một chút tin tức nào?"
Người đó ngạc nhiên nói: "Cái gì? Ngụy vương thiên tuế và hoàng tam đệ tạm thời giữ chức phủ doãn Khai Phong chưa hề thượng tấm việc này lên quan gia ư? Cái này... thuộc hạ không biết..."
Ngụy vương Đức Chiêu và Triệu Quang Mỹ quả thức đã áp chế việc này xuống, bởi vì hoàng đế lần này tây tuần, là sau khi nhất thống Trung Nguyên, vui vui vẻ vẻ đi bái tế tổ tiên. Lúc này mà thông báo chuyện đại thần trong triều bị ám sát, sẽ khiến quan gia mất vui. Hơn nữa, hai người là lần đầu tiên đảm nhiệm đại sự lưu thủ Biện Lương, lập tức lại có án tử lớn như vậy xảy ra khi mình quản lý, hung thủ là ai cũng không hay, thế thì biết ăn nói với quan gia như thế nào? Hai người cũng muốn bắt hung thủ, nếu có thể ở trước lúc bẩm báo cho Triệu Khuông Dận mà bắt được hung thủ, mặt mũi cũng dễ coi hơn một chút. Lo lắng như vậy, cho nên thân là giám quốc, tạm thời áp chế chuyện này xuống, không muốn để Triệu Quang Nghĩa vốn đã đa nghi mà trong lòng còn có quỷ thấy nghi kỵ.
Triệu Quang Nghĩa mặt đảo mấy vòng, lại hỏi: "Tào tướng quân bị ám sát thế nào?"
Người đó nói: "Hôm đó Tào tướng quân áp tải năm trăm pho tượng La Hán sắt về kinh, lúc ở bến tàu Biện hà, đột nhiên có một vị thư sinh cầm thư họa tới tặng..."
Tên tiểu lại đó kể lại từ đầu tới cuối, Triệu Quang Nghĩa sau khi hỏi tử tế thì phất tay đuổi hắn ra, sắc mặt lập tức biến thành càng khó coi hơn. Trong chư tướng, người hiện tại có qua lại thân mật với hắn nhất chính là Tào Hàn. Tác phong sát thần của Tào Hàn rất hợp với vị khẩu của Triệu Quang Nghĩa, lúc xin công, hắn cũng dùng nhiều lời lẽ đẹp đẽ cho Tào Hàn nhất. Tào Hàn cũng có qua có lại, sớm đã sai người đưa tin tức về, nói là dẫn theo một lượng lớn tài vật về kinh, trong đó đặc biệt chọn lữa kỹ càng mười thuyền bảo vật để tặng cho Tấn vương.
Hiện giờ hắn chết rồi, giám quốc không ngờ lại không công khai, tiếp theo chính lại là chuyện mình cũng bị ám sát, hung thủ hành thích dùng thủ pháp tương tự, đều là cải trang, kinh công như linh viên, đi lại như gió, há chẳng phải là một chuyện lạ ư.
Đại thần bị ám sát, đại sự mười năm không gặp, trong vòng ba ngày ở Đông Kinh, Tây Kinh liên tiếp xảy ra chuyện, giữa hai người bị ám sát lại có quan hệ thân mật, lại nghĩ tới tên thích khách hấp tấp nhảy ra, thân mặc nữ trang đó chính là có thân hình nam nhi, tay lại cầm đại kiếm trong quân, Triệu Quang Nghĩa trong lòng liền trầm xuống: "Đại ca, vì lưu lại hoàng vị cho nhi tử của huynh, huynh thực sự muốn dồn huynh đệ vào chỗ chết ư?"
....
Trong phủ nơi Dương Hạo ở tạm, nghe thấy Bích Túc nuốt lệ thuật lại những gì đã xảy ra, khi nhắc tới Thủy Nguyệt cô nương chết thảm, nhớ tới tiểu cô nương chỉ biết hàm súc ôn nhu mỉm cười với hắn, không ngờ lại chết như vậy, Dương Hạo trong lòng như bị kim châm, Diệp đại thiếu ở bên cạnh chõ miệng vào, có lòng muốn khuyên Bích Túc mấy câu, nhưng nhìn thấy bộ dạng của hắn, không ngờ lại nói không ra lời.
Bích Túc nói xong, nuốt lệ đứng dậy, nói: "Cám ơn đại nhân đã ra tay giúp đỡ, ân này đức này, Bích Túc xin ghi nhớ trong lòng, một thích khách như Bích Túc, không tiện ở lại nơi này để rồi gây họa cho đại nhân, xin cáo tử."
Dương Hạo trầm giọng nói: "Nàng muốn đi đâu?"
Bích Túc dừng bước, nghiêm giọng nói: "Không giết được tên khốn Triệu Quang Nghĩa, Bích Túc uổng thân làm người. Muội sẽ tìm tới cơ, hành thích một lần nữa."
Dương Hạo lạnh lùng nói: "Nàng không phải là đối thủ của hắn, một lần đánh lén không thành, khó mà tìm được cơ hội để hạ thủ nữa, không muốn ta giúp đỡ à?"
Bích Túc chậm rãi quay người lại, vái hắn một cái, nói: "Tập sát hoàng tộc trọng thân là tội tày trời, Bích Túc cô độc một mình, không có gì vướng mắc, đại nhân có gia quyến và tiền đồ cẩm tú, lại có nhiều huynh đệ muốn dựa vào đại nhân để mưu đồ đại sự, Bích Túc sao dám làm liên lụy tới đại nhân? Bích Túc chỉ hận lúc đó không nghe lời đại nhân, không đồng hành cùng Đại Lang, hiện giờ gặp phải tai bay vạ gió, có thể được đại nhân liều chết cứu giúp đã thấy cảm động bất tận rồi, không thể kéo đại nhân xuống nước được nữa."
Dương Hạo bước từng bước về phía nàng ta, trầm giọng, nói: "Ngày trước nàng và ta tương phùng ở bến đò, hai người vong mệnh chạy tới Tây Bắc, sống dựa vào nhau như thế nào, nàng quên rồi ư?
"Trên thảo nguyên, Dương mỗ bị độc xà cắn mà mạng nguy trong sớm chiều, là nhờ vào thuốc rắn của nàng mà cứu lại được một mạng, nàng quên rồi ư?"
"Từ lúc tới Lô châu, ta làm quan cũng được, làm dân cũng được, làm phỉ cũng được, nàng tận tụy đi theo, vì ta mà bôn tẩu, không một câu oán trách, nàng quên rồi ư?"
"Nàng quên rồi, nhưng ta thì lại không quên, ta như huynh đệ của nàng, há lại đối xử như chó săn? Thiên hạ này có thể bớt đi một Tấn vương, chứ Dương Hạo ta lại không muốn mất đi một huynh đệ như nàng!"
Bích Túc cảm động, lệ nóng chứa chan, rung giọng nói: "Không, đại nhân cơ đồ rất lớn, há có thể vì cừu oán của bản thân Bích Túc mà chịu chết, Bích Túc không dám đáp ứng, không thể đáp ứng."
Dương Hạo bước lên phía trước, đặt tay lên vai nàng ta, nhìn thẳng vào mặt nàng ta, nói: "Nàng sai rồi, ta biết nàng hiện giờ hận còn cao hơn trời, nhưng ta vẫn chưa muốn lập tức cùng nàng đi báo cừu. Võ công của hắn... thực sự là nằm ngoài dự liệu của ta. Kiếm mà hôm nay ta sử dụng không vừa tay, với tình hình giao thủ vừa rồi cho thấy, nếu đơn đả độc đấu, với võ công hiện tại của ta, vẫn không làm gì được hắn. Huống chi trải qua chuyện lần này, hộ vệ của hắn, tất sẽ nghiêm ngặt hơn, chúng ta cho dù đắc thủ thì cũng khó toàn thân mà lui được. Ta sẽ giúp nàng đối phó với cừu nhân của nàng, nhưng không phải là góp thêm cả tính mệnh của hai chúng ta vào. Quân tử báo thù, mười năm chưa muộn, nếu muốn một kích mà thành công, nàng hiện tại phải đợi."
Bích Túc gật đầu một cái, trầm giọng nói: "Muội có thể đợi, cho dù phải là suốt đợi thì muội cũng sẽ đợi."
Dương Hạo mỉm cười, nói: "Vậy thì được rồi, nàng hiện tại chớ có lộ mặt, trước tiên cứ tiềm cư ở đây, đợi mấy ngày cho yên ổn lại, ta mới đưa này rời khỏi."
Hắn quy sang nhìn góc trời ở bên ngoài, nói khẽ: "Thế giới này đã thay đổi nhiều rồi, nhưng có rất nhiều thứ chưa hề thay đổi, cho dù thương hải tang điên, nhân tâm, nhân tính, dục vọng... những thứ này đều không thay đổi, có một số lựa chọn của con người sẽ không thay đổi, chỉ cần lựa chọn của hắn không thay đổi, hành động của hắn chưa chắc là không thể không nắm bắt được. Ta đáp ứng nàng, nhất định sẽ tìm được một cơ hội thỏa đáng nhất, để nàng tự tay đâm chết cừu nhân!"
Chương 379:Tam diện mai phục.
Triệu Khuông Dận muốn rời giá về kinh, tren đường ông ta chậm rãi đi qua nơi ở cũ, nhìn mái hiên chưa hề tay đổi, nhìn đầu thường mà mình từng bò qua, nhìn cây táo nhà hàng xóm mà mình từng hái trộm, phảng phất như quay lại thời trẻ con vậy, đế quân một đời cũng không khỏi ruột mềm trăm mối.
Chuyện xưa vẫn như sờ sờ ở trước mắt, nhưng ông ta đã từ một người hán tử cô độc, cầm một cây gậy bước ra khỏi nhà lang bạt thiên hạ, biến thành cửu ngũ chí tôn, chủ của Trung Nguyên, vô số chúng thần vây quanh, thân ở đỉnh cao của nhân thế, nhưng trong lòng lại cảm thấy tịch mịch vô hạn.
Đứng trong một ngõ hẻm, trầm ngâm một hồi lâu, Triệu Khuông Dận mỉm cười: "Ta nhớ là, lúc nhỏ từng có một nhận được một con ngựa đá nhỏ, quý như trân bảo, thường bị bạn chơi cùng trộm mất, cho nên chôn ở đây, không biết nó hiện tại có còn không?"
Lập tức lại có đại hán cấm quân bước lên đào, ở gần nơi mà ông ta chỉ đào ra một cái lỗ lớn, quả nhiên tìm thấy một con ngựa đá nho nho, Triệu Khuông Dận nhận lấy cầm trong tay, cũng không để ý tới bùn đất bên trên, nhẹ nhàng vuốt ve, trên mặt lộ ra vẻ ấm áp vô hắn.
Ông ta hít sâu một hơi, nói: "Đi thôi, đi thôi..."
Bánh xe lộc cộc, vó ngựa rền vang, đại đột nhân mã lại biến mất trước phần mộ của phụ mẫu ông ta, chào tạm biết với hai ông bà.
Sau khi khóc tế song thân xong, Triệu Khuông Dận lên vọng gác của nghĩa trang, nhìn ra xung quanh, chỉ thấy phía nam có núi non, phía đông có chòm sao Thanh Long, người đá, phía tây rừng dựa sông Lạc thủy, phía bắc nối Hoàng Hà.
"Địa phương tốt như vậy, cho dù Quan Trung điêu linh, ít nhất cũng nên chọn nơi này làm đế đô của ta, nơi này, ta sẽ không bỏ qua đâu!"
Ông ta bỗng gọi một thị vệ cấm quan tới, lấy kình cung của hắn, đặt một mũi tên lên, hướng tới phía Tây Bắc ra sức bắn một phát, cao giọng phân phó: "Điểm dừng của tên này sẽ lấy làm hoàng đường, ta ngàn năm sau sẽ táng ở đó!"
Ông ta lấy ra con ngựa đó đó, lệnh cho người chôn ở nơi tên rơi làm ký hiệu, lập tức có đại tướng thân tín tới nhận ngựa dá, dẫn hơn trăm thị vệ vội vàng phi đi, tìm nơi tên rơi.
Triệu Khuông Dận lại nhìn núi cao nước xanh, nói: "Đi, về Biện Lương!"
Lúc này, Dương Hạo dang trên đường bắc hành, dẫn một ngàn tám trăm cấm quân, nghênh ngang tiến về phía bắc, tới thẳng Thượng kinh.
Triều hội hôm qua, Tấn vương Triệu Quang Nghĩa đột nhiên báo bệnh, không thượng triều. Đây là chuyện bình thường, trời mới vào xuân, người rất dễ sinh bệnh. Các văn võ đại thần trong mấy ngày nay cũng không ít người bỗng dưng mắc bệnh vặt, không có ai để chuyện này ở trong lòng.
Vốn cho rằng triều hội ngày hôm nay không có việc gì, khi đang muốn kết thúc lệ hành thì đột nhiên nhận được quân tình cấp báo, ngoài Nhạn Môn quan có bắc nhân cướp ngũ cốc, cướp phá phóng hỏa một ven, hại vô số bách tính, thủ quân Nhạn Môn đưa tin gấp tới, song phương đại chiến, ai cũng có tử thương.
Bá quan văn võ xôn xao, Dương Hạo cũng rất kinh ngạc, hắn đang chuẩn bị phái người tới bên ngoài Nhạn Môn quan chế tạo xung đột, tạo cơ hội cho mình xuất sứ Khiết Đan, nhưng tin tức của Diệp đại thiếu vẫn chưa truyền ra, không thể là người của hắn làm. Hiện giờ tình hình của bắc quốc e rằng con rối loạn hơn Tống quốc, bọn chúng còn dám tới trêu chọc người Tống ư?
Văn võ trong triều nhao nhao nghị luận, có người cho rằng Bắc nhân lúc này còn dám sinh sự, phải trừng phạt thật nặng, có vị lão thành cẩn trọng thì cho rằng triều ta chiến đấu nhiều lần, chinh nam phạt bắc, lúc này nên nghỉ ngơi dưỡng sức, tích góp quốc lực, chuyện này nói không chừng là một bộ lạc cùng khổ nào đào vào đầu xuân không có thực vật, cả tộc đều sắp chết đói, bất đắc dĩ nên mới đi cướp bóc, nên giải quyết một cách hòa bình.
Dương Hạo nắm lấy cơ hội này, thỉnh cầu được xuất sứ Khiết Đan, dùng thủ đoạn ngoại giao giải quyết tranh chấp. Triệu Khuông Dận đang định sau khi về kinh sẽ phái hoàng tử đi phạt Bắc Hán quốc, đây là một quả đào nhất định phải giành tới tay, tuy dự liệu Khiết Đan đang có nội loạn, sẽ không phải binh cản trở, nếu có thể nhân chuyện tới phái sứ giải tới vỗ về Khiết Đan, rõ ràng là càng thỏa đáng hơn, thế là Dương Hạo nhất phách tức hòa, lập tức đáp ứng.
Lúc triều hội, Triệu Khuông Dận bí mật triệu Dương Hạo, bảo hắn tùy cơ ứng biến, hai người nói chuyện một lúc lâu, hôm sau Triệu Khuông Dận lại tới bái tể lăng mộ tổ tông rồi về Biện Lương, còn Dương Hạo thì dẫn đội tới Khiết Đan.
Lúc sắp xuất quan, Dương Hạo mang theo một phong quốc thư, phong quốc thư này là Triệu Khuông Dận tự tay viết, chứ không phải là hắn thảo. Trong quốc thư có cả mềm lẫn cứng, yêu cầu Khiết Đan đừng quản chuyện Hán quốc, nếu vậy Khiết Đan bình loạn, Tống quốc sẽ giúp đỡ, bên trong có lời lẽ rất hào hùng: "Hà Đông nghịch mệnh, đáng bị hỏi tội, nếu Bắc triều không giúp, thì vẫn thân như xưa. Nếu không, chỉ có chiến mà thôi!"
Triệu Khuông Dận đúng là hào kiệt, vì ông, cũng vì huynh đệ của bản thân ta, ta sẽ mạo hiểm đối phó với vị Tấn vương thiên tuế đó. Có điều, chuyện này không phải là hiện tại có thề đồ mưu được, ta phải xuất sứ Khiết Đan đã. Lần đi này, trước tiên đón Đông Nhi mệnh khổ đã rồi hẵng nói.
"Đông Nhi, Đông Nhi!"
Dương Hạo lẩm bẩm danh tự này, nhớ lại tình cảnh hai người từ lúc quen nhau tới nay, hai mắt liền ươn ướt, nhẹ nhàng vuốt ve bức quốc thư ở trong lòng, nói: "Đông Nhi của ta, theo lý nên đưa về. nếu Tiêu hậu chu toàn chuyện này thì vạn sự đều tốt đẹp, nếu không, ta nhất định sẽ đại náo thượng kinh, khiến cho bà sứt đầu mẻ chán, không đón được kiều thê, thề không quay lại!"
Tới Nhan Môn quan thì dừng lại nghỉ ngơi chỉnh đốn, mấy thiếp thân thị vệ bọn Mục Vũ sớm đã đợi ở đó liền tới hội hợp với Dương Hạo, đoàn người xuất quan tiến về phía Đông Bắc.
Tái ngoại lúc này là một đế chế văn minh khác, nếu như nói Hung Nô, Tiên Ti, Đột Quyết trước đây đều bị Trung Nguyên chế giễu là man di, không có quy phạm quốc gia, cũng không có kết cấu tổ chức hoàn thiện, càng không có thể hệ tư tưởng chín muồi, cơ cấu tổ chức của họ chỉ là một liên minh các bộ lạc, nhưng bắt đầu từ khi Khiết Đan lập quốc, tình huống đã nảy sinh biến hóa.
Khiết Đan bát bộ thống nhất, tiếp đó Thất Vi, Ô Cổ, Hồi Hột, Nữ Chân các loại bộ lạc cùng với các nước Bột Hải học, phế trừ thể chế bộ lạc, bắt chước Trung Nguyên xây dựng thể chế đế quốc, thiết lập thể chế quan lại phủ đài tể tướng, tam tỉnh lục bộ và đơn vị hành chính châu, quận, huyện, xây dựng một hệ thống quốc gia giống như đế quốc Hán Đường, ra sức chiêu nạp Hán dân, cổ vũ nông canh và công thương, thu nạp văn minh của người Hán, hưng kiến Khổng miếu.
Một nước hai chế độ, lấy Hán nhân của U Vân mười sáu châu làm con dân, chứ không phải là làm nô đãi, loại đế chế văn minh này, chính là nhân tố quan trọng đưa các đế quốc cường đại như Khiết Đan, Tây Hạ, Nư Chân sau này có thể vượt qua các bộ tộc du mục trước kia, trở thành đối thủ cường đại nhất của dân tộc Hán.
Khi Trung Nguyên vẫn đang chiến loạn không ngừng, quốc gia Khiết Đan này dần dần lớn mạnh, thảo nguyên phương bắc, Tây Vực, thế giới Ả Rập, thậm chí là Châu Âu cũng đều cảm nhận được sức ảnh hưởng của nền văn minh của đế quốc Khiết Đan, rất nhiều dân tộc phương tây đều hiểu lầm đế quốc Khiết Đan này chính là đế quốc Trung Hoa trong truyền thuyết.
Song văn minh Trung Hoa dẫu sao cũng có mấy ngàn năm nền tảng, tuy trải qua trường kỳ hỗn loạn và chiến tranh, nhưng sau khi thống nhất nó lại, lập tức sẽ lại được trút vào sinh mệnh lực cường đại. Tống quốc cái sau vượt cái trước, hiện giờ đã có được năng lực ngang vai ngang vế với Khiết Đan, hơn nữa còn có xu thế vượt lên, bắt đầu dần dần đoạt lại địa vị đáng có của Trung Nguyên trong mắt thế giới.
Dương Hạo trên đường đi, phát hiện bách tính nơi này đa phần lầm canh tác làm chủ, chăn thả là phụ, đại thể giống với biên dân ở cảnh nội Tống quốc, nếu tới gần nói chuyện, sẽ phát hiện bọn họ cũng mặc Hán phục, nói Hán ngữ, không khác gì người Trung Nguyên cả. Những người sinh hoạt ở đẫn, đại đa số vẫn là người Hán, ngươi cơ hồ nhìn không ra được bọn họ với người Hán ở quan nội có gì khác nhau.
Chỉ có điều hơn năm mươi năm phân cách và sự thống trị của Khiết Đan, bởi vì ở giữa hai bên dựng một tấm chắn gắn cờ hiệu của Đại Tống, Dương Hạo không nhìn thấy hình ảnh mà Tống triều tuyên truyền tư liệu cho hậu nhân. Người Hán phương bắc không hề kích động rơi nước mắt, hoan hô chiêm ngưỡng sứ giá của tổ quốc mà bọn họ ngày đêm mong ngóng như trong tưởng tượng của Dương Hạo, mà ánh mắt của bọn họ xa cách và lạnh lùng, thậm chí còn mang theo một tia địch ý. Nhìn thấy bọn họ, ngươi liền minh bạch, ngăn cách giữa hai bên không phải là ngăn cách của trọng binh và quan ải, mà là tồn tại trong lòng bọn họ.
Hơn năm mươi năm trước, chính là lúc các lộ chư hầu Trung Nguyên lấy thiên hạ bách tính làm thịt cá, tàn sát lẫn nhau. Bách tính của U Vân mười sáu châu lúc đó đã bị Khiết Đan thống trị, sau đó Trung Nguyên lại trải qua rất nhiều triều đại, mới có Tống quốc ngày hôm nay. Đối với Tống quốc, bách tính của U Vân mười sáu châu không hề có cảm giác trung thành và thân thiết gì cả, Tống quốc đối với bọn họ mà nói, là một quốc gia hoàn toàn xa lạ trong ký ức.
Chín cửa ải thiên hạ, Nhạn môn quan dựa vào núi, hai bên đông tây, núi non mấp mô. Lưng núi trường thành, thế núi uyển chuyện, phía đông qua Bình Hình quan, Tử Kinh quan, Đảo Mã quan là có thể tới thẳng U Yên. Nếu như là từ Biện Lương trực tiếp đi ra, vậy thì ra thẳng Dung quan, qua Thạch Môn quan, nếu đi qua Hãn châu Phó Kê Minh sơn thì nhanh hơn một chút. Có điều là bọn họ đi từ Lạc Dương, người mà Dương Hạo phái đi trước lại đợi ở ngoài Nhạn Môn quan, cho nên Dương Hạo liền lấy cớ rằng trước tiên tới Nhạn Môn quan thăm dò tình hình một chút, nắm được thêm tình báo có lợi rồi mới từ đó tới thượng kinh, cho nên chọn con đường khác. Có điều khác đường cùng đích, sau cùng vẫn sẽ tới Hóa châu.
Sau khi xuất quan, bọn họ đã liên hệ với thủ quân ở phía Khiết Đan, thủ quân Khiết Đan phái đội ngũ năm trăm người hộ tống bọn họ cùng lên đường, lại dùng khoái mã truyến tới Nam viện và Thượng kinh.
Nhánh thủ quân này thuộc Nam viện, tám thành chiến sĩ trong quân đều là người Hán, thống lĩnh thủ quân được phái tới hộ tống cũng là người Hán, tên là Phùng Tất Vũ, trên vấn đề ngôn ngữ thì không có vấn đề gì với bọn họ.
Trên đường đi, Dương Hạo và Phùng Tất Vũ thường tìm cơ hội để nói chuyện, thăm hỏi tin tức về các phương diện, biết được sau khi Thương kinh nội loạn, Nam viện tể tướng của Khiết Đan nghiêm khắc ước thủ sở bộ không được phát sinh xung đột với người Tống. Lần này biên trại người Tống bị quấy nhiễm, bọn họ cũng rất kinh ngạc, không biết là lộ nhân mã nào vi phạm cấm lệnh.
Dương Hạo còn biết được rằng, Khánh vương sau khi bộ tộc của mình bị quan binh Nam viện tập kích, đã bỏ qua thành Thượng kinh đánh lâu mà không hạ được, di chuyển về phía khu vực của người Nữ Chân, nhưng đây chỉ là một giả vờ,, sau khi hấp dẫn binh của Cần vương đi về phía Nữ chân, bọn họ đã vứt bỏ những người già yếu, nhanh chóng chạy về hướng Tây.
Tuy nói nơi này là phạm vi thống trị của Nam viện, nhưng bởi vì đất rộng người thưa, phạm vi có thể hoạt động càng lớn, hơn nữa không phải là hu vực hoạt động chuyên thống chủ lực của Khiết Đan, Nam viện lại không thể điều động đủ nhân mã để cản dường chúng, cho nên bọn chúng giống như mỗi một bộ lạc thảo nguyên mỗi khi tranh quyền thất bại, ý đồ vượt qua đại thảo nguyên, giết tới hướng Tây bắc nơi mà sức khống chế của Khiết Đan yếu nhất, ở đó xây dựng lãnh thổ cho mình. Nam viện tể tướng lần này phái thám mã dò xét lộ tuyến của bọn chúng khắp nơi, cố gắng hết sức để ngăn cản đám phản quân này.
Dương Hạo nghe xong liền mừng thầm, Khiết Đan và Tống quốc đứng cùng một chỗ, giống như là một đại hán lam lũ mặt mày dữ tợn đứng cạnh một công tử cẩm y ngọc ***, nói tới tính xâm lược và tính uy hiếp, bọn họ rõ ràng là mạnh hơn bất kỳ ai khác, nếu nhánh nhân mã của Khánh vương có thể thành công đột phá trọng vậy, ở tây bắc xây dựng một chính quyền có thể đối kháng với Thượng kinh, thì có thể khiên chế cả quân đoàn Khiết Đan không có sức để nam hạ, vậy thì vô luận là đối với Hán nhân Trung Nguyên mà nói, hay là đối với tương lai hắn sinh tồn ở Tây bắc mà nói, rõ ràng càng có lợi hơn. Hắn hiện tại đã có chút chờ mong Khánh vương thành công.
Những ngày này, vẫn đi tới tây kinh, phía trước dẫn dần là nơi hoang lương vắng bóng người. Phùng Tất Vũ dùng roi ngựa chỉ vào mảng cỏ xanh mượt ở bên đường, nói: "Dương đại nhân nhìn xem, loại cỏ này chính là cỏ nuôi súc vật mà ngựa của quan ngoại chúng ta thích ăn nhất, gọi là Tức Kê thảo, Tức Kê thảo rễ to mà lại béo, đối với ngựa mà nói thì là ngon nhất, chiến mã quan ngoại của chúng ta to béo chắc khỏe, phần lớn là nhờ vào cỏ này. Ngựa được cho ăn mười ngọn là no rồi."
Dương Hạo nghe vậy liền dõi mắt nhìn, cỏ đó so với cỏ lau của quan nội thì có tám phần tương tự, không ngờ cỏ dại không hề bắt mắt này là lại thực liệu chủ yếu của chiến mã phương bắc. Dân tộc phương Bắc có đồng cỏ và nguồn nước dôi dào thích hợp làm bãi có với quy mô chăn thả lớn, bộ lạc du mục sinh trưởng trên mảng thảo nguyên này có năng lực cơ động cường đại có thể tùy thời nam hạ xâm lược Trung Nguyên, một khi gặp phải phản kích thì có thể lui về thủ sa mạc thảo nguyên, khiến người Hán kó mà xâm nhập được. Đợi khi người Hán binh phong giảm đi, lại trùng xuất giang hồ, cái này gọi là tiến lui tự nhiên.
Giống ngựa Mông Cổ của bọn họ so với giống ngựa Ả Rập và giống ngựa Bắc Âu mà nói thì kém hơn nhiều, nhưng lại rất dễ sinh sôi nảy nở, dễ chăn nuôi, cho nên rất dễ dàng xây dựng được một đội ngũ kỵ binh với số lượng khổng lồ, nếu dân tộc Hán một khi mất đi nguồn ngựa có thể trông cậy, không thể xây dựng một quân đoàn kỵ binh cường hãn có thể đối kháng, chỉ dựa vào bộ binh, tác chiến chính diện rất khó thủ thắng, cho dù chiến thắng cũng rất khó truy kích để khoách đại chiến quả, chỉ có thể ngồi đợi bọn chúng tập kết rồi lại đánh ra, cho tới tận khi kiệt quệ mà bại thì mới thôi.
Không biết binh khó làm được tướng, không trọng nông canh khó thành chủ nhân Trung Nguyên, mà hắn nếu muốn khống chế Tây Bắc, đối với ngành chăn nuôi không thể không trọng thị. Dương Hạo chỉ cần không ngại học hỏi kẻ dưới, tìm hiểu thêm một số tri thức về phương diện này. Đột nhiên trong không trúng có một tiếng gèo thét bén nhọn vụt qua, Phùng Tất Vũ ngây người, giục ngựa tiến về phía trước.
Phùng Tất Vũ lao lên một sườn núi thấp ở phía trước, nhìn về phía xa một lát rồi quát lên: "Dừng tại chỗ, bảo vệ Tống sứ."
Năm trăm kỵ binh Khiết Đan lập tức tản ra, hộ vệ một ngàn quân Tống ở giữa. Những binh lính Khiết Đan này chỉ có năm trăm người, nhưng lại bảo vệ bọn họ ở giữa như người già trẻ em, bọn họ cũng là anh hùng hán tử bên dưới có ngựa, trong tay có thương, há lại chúng để người ta khinh thường như vậy. Thống binh chỉ huy sứ Trường Đồng Chu lập tức giục ngựa, hô to với Dương Hạo: "Đại nhân, bọn họ chỉ có năm trăm người mà muốn bảo vệ chúng ta ư, đã có địch nhân lại không cho phép chúng ta động võ, khó tránh khỏi không coi ai ra gì quá!"
Dương Hạo cười nói: "Trương chỉ huy chớ có nóng nảy, đây là chức trách của bọn họ, chúng ta là sứ giả triều đình, hiện giờ tình thế chưa rõ, tất nhiên không tiện động đao động thương rồi?"
Hắn liếc Trương Đồng Chu một cái, mỉm cười nói: "Các ngươi ở nội tuyến bố trí thêm một đạo phòng ngự, cố gắng giữ an toàn là được."
"Vâng!" Trương Đồng Chu nhận lệnh, lập tức lớn tiếng hạ lệnh, quân Tống hành động khẩn cấp, những binh sĩ đã được huấn luyện kỹ càng liền bố trí một trận tròn, cử chỉ tiến thoái đều chỉnh tề vô cùng, nhất thời đao thương san sát, cũng nỏ lên dây, sự chỉnh tề của quân dung hơn hẳn năm trăm binh lính Khiết Đan, đây đều là cấm quân tinh nhuệ, tuy chỉ có ngàn người, nhưng ngàn người như một, uy thế tất nhiên bất phàm, một chút hành động để lấy le này, lập tức dẫn tới sự chú ý của các binh sự Khiết Đan.
"Xảy ra chuyện gì vậy?"
Phùng Tất Vũ lớn tiếng quát, giục ngựa chạy ra sau hỏi.
"Phùng đại nhân, phái trước có một toán nhân mã, ít nhất cũng trên dưới ngàn người, đang hướng về phía này, thuộc hạ liên tiếng hỏi mấy lần, nhưng bọn họ thế tới không giảm, ngược lại còn phi nhanh hơn, xem ra là không có ý tốt."
"Ngươi tới có cờ hiệu gì không?"
"Cờ hiệu màu sắc lòe loẹt, rất khó đoán lai lịch."
Phùng Vũ nghe thấy vậy không khỏi nhíu mày, lúc này phía trước tiếng vó ngựa như sấm, một nhánh kỵ binh nhanh chóng phi tới, Phùng Tất Vũ quát lớn: "Cảnh cáo, không được dừng lại, nếu không dừng lại, báo rõ thân phận, cung tiễn sẽ tiếp đón!"
Nhìn nhân mã ở phía trước, Phùng Tất Vũ quay đầu lại nói với Dương Hạo: "Dương đại nhân đừng lo lắng, người tới cờ hiệu tán loạn, đội hình không nghiêm chỉnh, nhìn thì hung hãn nhưng giữa hai bên rất khó phối hợp chiếu ứng, không thể là quân đội, cũng không thể là tộc binh của bộ tộc cường đại, nếu thật sự có ác ý, mỗ tất sẽ cho đám ô hợp này có đi mà không về!"
Mắt thấy địch ở ngay phía trước, hắn lớn tiếng hạ lệnh, đội hình của binh lĩnh Khiết Đan lập tức có biến hóa, lai lại hai trăm người bảo vệ hai bên cánh của quân Tống, ba trăm người còn lại thì giục ngựa phi lên trước, bố thành một trận hình mũi tên sắc bén, kỵ sĩ trên lưng ngựa nhao nhao rút cung đặt tên, mũi tên giơ lên trước, chuẩn bị chiến đấu.
Tên lệnh cảnh báo bắn ra, người đang lao tới ở phía tước không chậm lại một chút nào, ngược lại còn hô hoán bắt đầu chạy nước rút. Phùng Tất Vũ sắc mặt hơi biến đổi, nhìn đội ngũ đang nhe nanh múa vuốt đó, nghiến rằng cười gằn: "Là mã tặc, bọn chúng lớn gan thật, phóng tên!"
Một loạt tên được bắn ra, đột ngũ mã tặc đang cuồn cuộn lao đến lập tức hỗn loạn, có tên cầm lá chắn ra để che, có tên thì nấp sau bàn đạp, có tên trúng tên rơi xuống ngựa, lập tức bọn chúng cũng trả đũa, vô số lợi tiễn bắn ra, binh sĩ quân Tống lập tức giơ thuẫn lên che thân. Dương Hạo từ trong hộ vệ giật lấy một chiến thuẫn da, chăm chú nhìn quân địch ở phía trước.
Đối phương tuy đông, nhưng chẳng qua là mã tặc mà thôi, đối với với bộ lạc tầm thường hoặc là thương lữ thì tất nhiên là kiêu dũng, nhưng quân chinh quy của Phùng Tất Vũ thì không để bọn chúng vào trong mắt. Mắt thấy quân địch lao tới rất nhanh, chỉ bắn ra được ba loạt tên là đối phương đã ở ngay trước mặt, Phùng Tất Vũ lập tức quát to: "Xông lên trước, giết chết đám chó không có mắt này đi, giết sạch chúng cho ta!"
Ba trăm chiến sĩ Khiết Đan lấp tức hò hét xông lên, khi song phương còn cách nhau không tới trăm bước, bọn họ đã dùng sống đao vỗ vào mông ngựa, hai chân đạp lên bàn đạp, mông tách khỏi yên ngựa, khoái mã như tên, cương đao sáng choang, nhìn thế tới, nếu bị bọn họ chém một đao, e rằng cả người và ngựa đều bị chẻ thành hai phần.
Song phương rầm rầm đụng vào nhau, máu và xương cốt vỡ nát bắn lên không, binh lĩnh Khiết Đan giống như một thanh đao sắc bén, đâm xuyên đội ngũ của mã tặc. Kỵ binh phải trùng phong thật nhanh mới lộ ra được uy lực của bọn họ, cho dù giết vào địch trận thì ngựa cũng không dừng vó, quyết chí tiến thẳng về phía trước, nếu ghìm cương ngựa chiến đấu giằng co tại chỗ, song phương đều sẽ bị chôn sâu ở đây. Phùng Vũ Tất dẫn người vung cương đao chẻ mã tặc ra làm hai, giống như một mũi tên rời cung bắn về phía trước, bọn họ muốn xông qua đội ngũ của mã tặc, rồi lại quay lại trùng sát trở về, đội ngũ của mã tặc bị chia làm hai nữa cũng không dừng một giây nào, cùng bọn họ đan qua nhau, trên đường binh khí giao kích, leng keng lao về phía binh lĩnh Khiết Đang đang ở tại chỗ đợi lệnh và sở bộ của Dương Hạo.
Mắt thấy bọn chúng xông tới trước, hai trăm binh Khiết Đan giống như là lang cẩu khiêu chiến, gầm gừ lao tới, đúng vào lúc này, tiếng kèn lệnh vang lên, vọng khắp cả bầu trời, từ phía sau có một nhánh đội ngũ giết ra, nhân số ít nhất cũng hơn ngàn người, ai ai cũng nhe nanh múa vuốt, gầm gừ lao tới.
Nếu không thể phát huy ưu thế của kỵ binh phía mình, để mặc cho quân địch lao tới phía trước, vậy thì chỉ có thể để mặc cho người ta giết mổ. Trương Đồng Chu thấy vậy, lập tức ra lệnh cho hậu đội chuẩn bị, chuẩn bị đợi khi địch binh xông tới gần thì cũng sẽ xung phong giống như là binh lính Khiết Đan. Dương Hạo thấy vậy, trong lòng đột nhiên cảm thấy có chút bất diệu.
Mã tặc chỉ muốn tài vật, tập kích mình làm cái gì? Nếu bọn chúng hiểu lầm mình là thương đội, lúc này nên nhận ra mà rút lui rồi chứ, vì sao vẫn liều mạng như vậy? Đặc biệt là đội ngũ mà tặc này không ngờ lại chia binh làm hai đường, tiến hành dẫn dụ binh Khiết Đan, kế đó đột kích bản bộ của mình, rõ ràng là có chuẩn bị mà tới, thậm chí ngay cả lộ tuyến hành tung, nhân số nhiều ít của bọn họ cũng bị dò la rõ ràng rồi, e rằng bọn chúng không phải đơn giản là mã tặc.
Đúng vào lúc này, trong bụi Tức Kê thảo xanh mượt giống như cỏ lau đột nhiên có vô số mũi tên bắn ra, bắn ngã rất nhiều quân Tống đang nghiêm trận chờ đợi, sau đó một nhánh nhân mã đột nhiên giết ra, người đi phía trước trong tay cầm cương xoa sáng loáng, thân hình khôi ngô, một mắt bịt vải che mắt màu đen, chính là một tên độc nhãn long.
Hắn vung vẩy cương xoa, từ đằng xa hét lớn: "Giết Tống sứ Dương Hạo, giết, giết, giết!"
"Quả nhiên là vì ta mà tới! Người khác làm sứ tiết, đó là việc tốt, sao công việc mà ta tiếp nhận luôn không tránh được đánh giết thế nhỉ?"
Dương Hạo thở dài một hơi, rút lợi kiếm ra, quát lớn một tiếng: "Toàn quân, giết!" Nói xong liền suất lĩnh quân mình, lao về phía trước. Hướng mà hắn xông tới không phải là hậu lộ, cũng không phải là bên cánh, mà là cỗ mã tặc ở phía tước đang giằng co với binh Khiết Đan.
Chương 380:Thân cừu Khiết Đan(1+2)
Vừa thấy ba nhóm mã tặc có xu thế vây kín, Dương Hạo đã cảm thấy tình huống không ổn. Đám mã tặc này rõ ràng là đến có chuẩn bị, tuy vị thiên phu trưởng đại nhân Phùng Tất Vũ của Khiết Đan này vừa thấy mã tặc liền cười nhạt, nhưng đám mã tặc này tuy biết rõ ràng lai lịch của bọn họ mà còn dám tấn công bọn hắn, điều này nói lên rằng, bọn chúng rất tin tưởng vào lực lượng của mình, và không chỉ là một đám ô hợp như vậy.
Hơn nữa, trong tay hắn chỉ có một ngàn cấm quân thị vệ, Phùng Tất Vũ có năm trăm binh Khiết Đan, đám mã tặc đánh tới tổng cộng ít nhất cũng phải hơn bốn ngàn người. Đây không phải là đánh trận trên chiến trường, chỉ cần binh tinh tướng dũng, chỉ cần có chiến thuật thích hợp là có thể dùng ít thành nhiều. Hiện giờ là hỗn chiến. Dưới tính huống đánh hỗn chiến, những thứ như đội hình, nhịp điệu quân nhân luyện được đều không có tác dụng, phát huy ra nổi sức chiến đấu, lại đối mặt với quân địch đông gấp mấy lần mình thế này thì rất khó thủ thắng.
Vì thế Dương Hạo quyết định thật nhanh, đột nhiên hét lớn, lệnh cho toàn quân bỏ mặc phòng thủ phía sau cùng cánh trái, tập trung toàn lực gia nhập vào chiến cuộc phía trước. Ở phía trước, địch ta song phương đang lâm vào thế giằng co, hắn dẫn toàn quân gia nhập chiến cuộc, làm cho hai đội mã tặc đang lao tới sợ ném chuột vỡ đồ, không dám bắn tên, đồng thời trong một mạch trùng kích mở đường. Chẳng biết có thể thoát khỏi vòng vây hay không, nhưng ít nhất cũng không đến mức ba mặt thụ địch.
Còn về phần sơn lĩnh bên phải, Dương Hạo căn bản không hề quan tâm tới. Nếu đám mã tặc này đã sớm có chuẩn bị, chọn nơi này phát động tấn công, thì toàn sơn lĩnh này cho dù không có mai phục thì cũng là cái bẫy chết người. Dương Hạo không tin đám mã tặc này lại đi tuân thủ nghiêm chỉnh luật ngầm, cấm kỵ phóng hỏa như những bộ lạc thảo nguyên bình thường. Lúc này hướng gió đang là từ triền núi thổi xuống, nếu như bọn chúng phóng hỏa đốt núi, cho dù bọn hắn không bị lửa thui chết thì cũng bị hun thành thịt xông khói.
Hành động khác hẳn với người thường của Dương Hạo đã hoàn toàn vượt ra khỏi dự liệu của đám mã tặc, hơi chững lại trong giây lát, quả nhiên khiến bọn chúng bỏ lỡ mất cơ hội siết chặt vòng vây tốt nhất. Toàn quân Dương Hạo đánh giết, hung mãnh xông vào chiến cuộc phía trước, khiến tên một mắt kia lửa giận ngút trời, lớn tiếng quát tháo chỉ huy đám thuộc hạ đuổi theo.
Tên chột này chính là Lô Nhất Sinh. Lô Nhất Sinh từ khi được người Khiết Đan ngầm đồng ý, ở giữa miền quan nội đánh giết ngang dọc, không kiêng nể kẻ nào, lập tức khiến tiếng tăm hắn nổi như cồn, rất nhiều nhóm mã tặc nhỏ đều nghe tiếng mà tới đầu quân, rất nhanh chóng trở thành một thế lực mã tặc mạnh mẽ nhất trong khu vực này.
Chỉ là sau khi Khiết Đan cùng Tống quốc ngưng chiến, lo cho thân mình, trên danh nghĩa hắn vẫn là mã tặc, mà trên thực tế cũng chính là mã tặc, chỉ là sau khi được Hoàng đế Khiết Đan bí mật phong cho hắn một cái chức Lô đại tướng quân, người Khiết Đan vẫn chưa từng cấp một hạt quân lương nào cho bọn hắn, vì thế bọn hắn luôn phải tự cung tự cấp, tự túc hết thảy. Từ khi Khánh Vương mưu phản, Thượng Kinh bị vây, liên lạc giữa hắn với triều đình Khiết Đan cũng bị gián đoạn. Đến lúc này tình hình lại càng gian nan, vì thế Lô Nhất Sinh chỉ có thể mạo hiểm chạy tới vùng Nhạn Môn Quan để cướp bóc, thu hoạch được rất nhiều của cải.
Mấy ngày nay hắn đang tính toán làm một chuyến nữa, nhưng không ngờ mật thám phái ra lại báo về cho hắn một tin tức đặc biệt: Triều đình Tống quốc phát sứ đi Khiết Đan, sứ giả là Hồng Lư Tự Khanh - Dương Hạo.
Trước đó, Lô Nhất Sinh đã từng phát thuộc hạ tâm phúc xâm nhập vào Tống cảnh, hỏi thăm tin tức huynh trưởng Lô Cừu Tử. Không ngờ đến khi tên thuộc hạ kia trở về lại báo tin, huynh trưởng đã chết thảm, chất nhi ( cháu trai) mất tích. Mà kẻ đầu xỏ chuyện này chính là Đinh Hạo, hiện giờ đã đổi tên thành Dương Hạo, còn làm quan trong Tống triều cơ đấy.
Lô Nhất Sinh nghe xong bẩm báo, hận một nỗi không thể lập tức bay tới cắt lấy đầu hắn, tế vong linh huynh trưởng. Chỉ là đội quân mã tặc dưới tay hắn lúc này đã rất khổng lồ rồi, thuộc hạ bè phái đông đảo, chỉ có hắn mới trấn trụ được, không thể dễ dàng rời đi, chỉ có thể tạm thời ẩn nhẫn, một mặt phát người vào Tống cảnh tìm kiếm tin tức chất nhi, một mặt khổ sở tìm kiếm sinh tồn cho cả sơn trại.
Bây giờ chẳng hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà tên đốn mạt kia lại tìm tới tận cửa, Lô Nhất Sinh hắn làm sao có thể dễ dàng bỏ qua, để cho tên khốn kia chuồn mất ngay trước mắt. Thế là hắn vội vàng triệu tập đầu lĩnh thuộc hạ lớn nhỏ tới, nói rằng, Tống quốc phái một vị sứ giả, mang theo rất nhiều của cải đi sứ Khiết Đan. Chỉ cần phi vụ này thành công, ai nấy cũng có thể dùng chậu vàng rửa tay, làm một đại phú ông rồi. Đám mã tặc liều mạng kia nghe xong mừng rỡ như điên, lập tức lên kế hoạch tấn công, đánh cướp sứ giả Tống quốc.
Bọn chúng phái người dò xét số lượng nhân mã hộ tống sứ giả, cân nhắc chênh lệch binh lực giữa song phương địch ta, cẩn thận vạch ra một kế hoạch hoàn hảo, có tới tám phần chắc thắng. Nhưng phản ứng của Dương Hạo thật sự đã vượt ngoài dự tính của bọn hắn. Sau khi Dương Hạo dẫn người xông về phía trước, gia nhập vào trong chiến cuộc hỗn loạn, vòng vây săn giết đang kín kẽ, không chút sơ hở bỗng mất đi hiệu lực. Phùng Tất Vũ dẫn người đánh giết thành một con đường máu, đang định vòng ngựa quay lại, Dương Hạo dẫn người liền phi ra, Phùng Tất Vũ quyết tâm giao chiến với bọn đạo tặc này đến cùng, song cũng chỉ giết được chút ít mã tặc.
Dương Hạo vội la lên: "Phùng đại nhân, đi mau, mã tặc có mai phục." Sau đó hắn cũng chẳng kịp nói rõ ràng, liền dẫn người chạy về phía trước, Trong cánh rừng trên sườn dốc kia quả nhiên chui ra bảy tám trăm người, vừa thấy địch nhân không bỏ chạy, trốn lên sườn núi như dự đoán, liền lập tức xông ra, bốn nhóm mã tặc hợp binh lại với nhau, cố gắng đuổi theo phía sau.
Đám mã tặc này tuy trang bị hơi kém một chút, nhưng nghề của bọn chúng chính là giết người cướp của, cướp phải nhanh, chạy phải lẹ mới có thể sống sót được. Cho nên đám mã tặc này chẳng những kỹ thuật điêu luyện mà chiến mã cũng tốt vô cùng, đều cực kỳ dai sức. Trong lúc truy đuổi, đám mã tặc vừa đuổi vừa bắn tên, còn binh lính Khiết Đan phía trước cũng không ngừng bắn trả, song phương vừa bắn vừa chạy. Chạy đượcmột hồi lâu, binh lính Khiết Đan còn đỡ chứ người ngựa dưới tay Dương Hạo đã không còn giữ được tốc độ như ban đầu nữa, càng lúc càng chậm lại.
Sứ mạng của Phùng Tất Vũ chính là hộ tống sứ giả Tống quốc an toàn về tới Thượng Kinh, nếu để cho mã tặc giết chết bọn họ ở nơi này, vậy tính mạng Phùng Tất Vũ hắn cũng kết thúc theo luôn. Tình huống vạn bất đắc dĩ, đột nhiên lại thấy dải núi phía trước uốn lượn, ngoằn ngoèo, lại nhìn quân Tống phía sau càng lúc càng chậm, Phùng Tất Vũ chỉ có thể cắn răng quát lớn: "Dương đại nhân, vứt ngựa lên núi thôi. Chúng ta dựa vào địa lợi đánh cầm chừng với đám mã tặc này. Phùng Hổ, ngươi dẫn mấy người nhanh chạy tới Tây Kinh, xin viện binh tới cứu."
Một gã thuộc hạ đang chạy bên cạnh hắn lập tức ứng tiếng, quất ngựa dẫn theo một ít kỵ binh tiếp tục phi về phía trước, gia tăng tốc độ xuyên qua khe núi xông về phía trước. Phùng Tất Vũ cùng Dương Hạo thì nhanh chóng nhảy xuống ngựa, bắt đầu chạy lên núi. Sườn núi này đều là nham thạch phong hóa, đối diện là một cánh đồng cỏ bát ngát, phía trên sườn núi là một cánh rừng tùng thấp, trải qua ngàn năm, rừng tùng này đã trở nên um tùm, rậm rạp, hoàn toàn không thể đi lọt người. Bọn họ nhanh chóng leo lên núi, dựa lưng vào sườn dốc, đứng ở trên cao, lấy cung nỏ, đá vụn làm vũ khí, bày sẵn trận địa nghênh đón quân địch.
Đám mã tặc đuổi theo đang định tấn công lên núi thì bị mũi tên, đá tảng từ trên cao giáng xuống, tử thương thảm trọng, nửa bước không tiến lên được.
Gặp tình hình này, Lô Nhất Sinh vội vàng quan sát địa hình sườn núi, vừa cho người dùng cung tiễn áp chế nhân mã trên núi, vừa cho người tiếp tục tấn công.
Phùng Tất Vũ vừa chỉ huy nhân mã ngăn cản, vừa tính toán lộ trình từ đây tới Tây Kinh, ước lượng thời gian viện binh chạy tới nơi này.
Lần công phòng này, nhân mã của Phùng Tất Vũ cùng Dương Hạo coi như chiếm được địa lợi, nhưng đám mã tặc dưới chân núi lại đông gấp mấy họ, chia ra vừa dùng cung tiễn khống chế, vừa cho người tấn công lên, khiến cho lực lượng phòng thủ phải phân tán, tình hình cũng cực kỳ nguy hiểm. Phùng Tất Vũ tính kế an toàn, vội chạy tới bên người Dương Hạo nói: "Dương đại nhân, đám mã tặc này rõ ràng đến là vì đại nhân. Bản quan có trách nhiệm bảo vệ, không dám để quý sứ bị thương. Song tình hình hiện giờ, nhất thiết không thủ được đến lúc viện quan tới đây, sợ rằng sẽ gây bất lợi cho đại nhân. Theo bản quan, quý sứ nên thay quần áo, mang theo mấy thị vệ bên người, phá rừng mở đường, tạm thời trốn vào trong rừng rậm trên kia đi."
Dương Hạo nhìn tướng sĩ Tống quốc đang khổ chiến, phòng thủ trên sườn núi, không khỏi có chút do dự. Trương Đồng Chu nghe thấy vậy cũng quay đầu lại kêu lên: "Phùng đại nhân nói đúng lắm. Đám mã tặc dưới chân núi quá đông và hung hãn. Đại nhân mau thay y phục, tạm thời lánh đi. Nơi này đã có hạ quan, cho dù phải chiến tới người cuối cùng cũng tuyệt đối không để bọn chúng lên núi."
Đúng lúc này, một đợt những tiếng ầm ầm như sấm động vang lên, Trương Đồng Chu mừng rỡ nói: "Chẳng lẽ sắp có mưa to rồi?"
Nếu như có mưa to, nước rơi như trút, đám mã tặc dưới chân núi ai nấy đều mặc ủng da áo da, bị mưa xối ướt lập tức sẽ trở nên nặng nề vô cùng, đi trên đường bằng đất phẳng còn khó khăn, chứ còn muốn leo núi thì tuyệt đối không thể, khi đó bọn họ chỉ cần nấp dưới tán cây, không phải khổ cực như lúc này.
Dương Hạo kinh ngạc nói: "Hiện giờ cây cỏ mới nảy mầm, sao lại có mưa to được?" Hắn nhìn bầu trời một chút, quả thực không hề giống như sắp có mưa to.
Phùng Tất Vũ hơi ngẩn người ra một chút rồi lập tức mừng rỡ nói: "Đây không phải là tiếng sấm, là tiếng vó ngựa, có đại đội nhân mã đang chạy tới đây. Tiếng vó ngựa từ trong sơn cốc vang ra, chẳng lẽ là cứu binh Tây Kinh tới rồi?"
Phùng Tất Vũ vũ nói xong liền quay đầu nhìn về phía sườn núi nhô ra, Dương Hạo cùng Trương Đồng Chu cũng không hẹn mà cùng nhìn về phía đó.
Tiếng vó ngựa nổ vang như sấm động cũng khiến cho Lô Nhất Sinh sinh lòng phòng bị. Hắn do dự nhìn lại, không tin có viện binh tới đây nhanh như vậy. Đang lúc không biết nên xử lý thế nào thì thấy một tên kỵ binh phóng đi như bay lao tới. Kỵ binh nọ chính là Phùng Hổ mới rời đi không lâu. Lúc này trên đầu vai phía sau lưng hắn đã bị găm mấy mũi tên, song hắn vẫn cố gắng hô lớn: "Tướng quân chạy mau, tướng quân chạy mau, nhân mã Khánh Vương, nhân mã Khánh Vương tới rồi."
Chưa kịp nói xong hắn đã ngã nhào sang một bên, nhưng chân vẫn bị mắc trên bàn đạp, không rời ra được, lập tức bị chiến mã kéo lết đi trên sơn đạo toàn đá vụn, chỉ trong chốc lát đã máu thịt lẫn lộn. Đám Dương Hạo, Phùng Tất Vũ đứng trên sườn núi còn thấy không quá rõ ràng, song đám người Lô Nhất Sinh dưới chân núi lại thấy rất rõ ràng. Khi con ngựa kia kéo theo thi thể Phùng Hổ chạy vào trong đội ngũ bọn chúng, ngay cả đám mã tặc man rợ, giết người như ngóe nhìn thi thể máu thịt be bét kia cũng phải thấy buồn nôn.
"Khánh Vương? Nhân mã Khánh Vương giết tới đây rồi?" Phùng Tất Vũ kinh hãi ngẩng đầu lên, chỉ thấy dưới vách núi phía trước đột nhiên tràn ra vô số người ngựa như hồng thủy, chiến mã lao như bay, ánh đao chớp lóe.
Đột nhiên thấy phía trước có một đạo nhân mã chặn đường, đội quân kia vẫn không hề ngừng lại, bọn họ tràn tới như hồng thủy sau đê vỡ, cùng lúc đó, một cơn mưa tựa như một đám mây đen kịt từ trong đội ngũ của bọn họ bay lên, nhìn uy thế, thật giống như gặp người giết người, Phật cản giết Phật, muốn mạnh mẽ đạp nát đạo nhân mã của Lô Nhất Sinh trên sơn đạo.
Một màn hí kích đột nhiên xuất hiện.
Dương Hạo cùng bọn Phùng Tất Vũ đứng trên sườn núi nhìn xuống, đám mã tặc vừa rồi còn diễu võ dương oai, ngông cuồng tự đại dưới đòn công kích bất ngờ của đội ngũ kỵ binh kia, giống như một lưỡi đao cháy hồng cắt lên tấm da trâu, nhanh chóng tan vỡ...
Nhân mã Khánh Vương tới quá nhanh, hơn nữa còn chẳng hỏi phải trái đúng sai, gặp người là giết, nhân mã Lô Nhất Sinh vội vàng bỏ ngựa chạy lên núi. Cả một đám mã tặc ở phía ngoài chen chúc với nhau ở một chỗ, nhất thời không kịp lên ngựa chạy thoát chết, lập tức bị loạt tên bắn chết hơn một nửa. Đám mã tặc còn lại thấy vậy cũng vội vàng bỏ chạy lên núi. Lúc này quân phòng thủ trên núi tự lo cho mình còn không xong, làm gì có ai dám bắn tên ngăn cản, nếu bắn tên ra không khéo lại lấy lửa đốt mình chứ chẳng chơi. Thế là hai đám nhân mã vừa rồi còn đánh nhau đến người sống ta chết trong chớp mắt lại thành cùng cảnh ngộ, ai nấy tự chiếm lấy một góc sườn núi của mình.
Đại quân dưới chân núi dừng lại không tiến tới, một người bộ dáng giống như thủ lĩnh mang theo vài người chạy tới trước đám mã tặc, hỏi bọn chúng cái gì đó, thỉnh thoảng còn nhìn về phía sườn núi chỗ bọn Dương Hạo. Không lâu sau, tên đầu lĩnh kia bỗng nhiên rút dao, chỉ thẳng về phía bọn Dương Hạo trên sườn núi, ngửa mặt lên trời hét dài một tiếng, lập tức có vô số binh lĩnh đưa tên lên cung, hướng về phía bọn Dương Hạo mà bắn, đồng thời có rất nhiều binh lính lập tức xuống ngựa, dựa vào đám mưa tên yểm trợ mà xông lên sườn núi, bắt đầu công kích phe bọn Dương Hạo.
Nhân mã dưới chân núi đông đảo, tên bay tán loạn như mưa, quân trên sườn núi tuy chiếm được địa lợi, nhưng quân đội của Khánh Vương dưới chân núi lại người đông thế mạnh, mưa tên gào rít, trên sườn núi vẫn không ngừng có binh lính trúng tên ngã xuống. Trong những tiếng kêu thảm thiết, Phùng Tất Vũ biến sắc kêu lên: "Mau, lui vào rừng tạm tránh!"
Đám thuộc hạ Lô Nhất Sinh dưới chân núi vẫn còn nỗi khiếp sợ chưa tan hô lớn vài câu. Lô Nhất Sinh nghe xong cắn răng một cái, mặc dù hận nhân mã Khánh Vương không hỏi trái phải trắng đen đã giết vô số huynh đệ của hắn, chỉ là với tình hình trước mắt, không cúi đầu tất sẽ bị chôn cùng Dương Hạo. Hơn nữa Dương Hạo lại là kẻ thù hắn phải giết, nghĩ tới đây, hắn liền lớn tiếng hét lên, dẫn theo tàn binh tấn công nhân mã Dương Hạo.
Phùng Tất Vũ vừa giận vừa sợ, vung đao lên gạt một mũi tên bắn tới rồi hét lớn: "Nhân mã Khánh Vương từ Thượng Kinh bỏ trốn, không lo chạy trốn đi, còn cố gắng quấn lấy chúng ta làm gì đây? Ngũ kinh hương binh ta với tộc trướng quân hắn trước nay nước sông không phạm nước giếng, con mẹ nó, chó chết thật!"
Dương Hạo vung kiếm gạt tên bắn tới, trong lòng cũng hiểu rõ, chuyện Chiết Tử Du giết chết Da Luật Văn đã bị hắn nhận tội, Khánh Vương tất nhiên đã biết được, giờ lại biết người trên núi chính là mình, đám nhân mã Khánh Vương này buông ta cho mình mới là chuyện lạ.
Nguyên nhân bên trong hắn cũng không tiện nói tỉ mỉ với Phùng Tất Vũ, phản quân Khánh Vương dưới chân núi tuy nhiều, nhưng nhất thời vẫn không thể công lên núi được. Chỉ là tàn quân của Lô Nhất Sinh đã xông tới trước mặt, hắn lập tức vung kiếm xông tới.
Mấy tên mã tặc vừa nhảy tới trước mặt đã bị bọn họ phản kích mãnh liệt, dưới ánh thương của người Tống cùng đại đao của ngũ kinh hương quân Khiết Đan, nếu không bị chém thành hai đoạn thì cũng bị chọc thành cái sàng. Bất quá Lô Nhất Sinh lại mang theo rất nhiều thuộc hạ giết tới, rất nhanh cuốn lấy bọn họ, đánh giết thảm thiết. Đúng lúc này Dương Hạo suất lĩnh thân binh xông tới trước mặt, vung kiếm đằng đằng sát khí đâm về phía Lô Nhất Sinh.
"Keng!" Lô Nhất Sinh gạt trường kiếm của Dương Hạo ra, nhe răng cười nói: "Dương Hạo, bây giờ ngươi rơi vào ta, e rằng ngươi phải chôn thây trên ngọn sơn lĩnh này rồi!"
Dương Hạo quát: "Nhìn bộ dạng của ngươi, chắc cũng không phải vì tiền tài. Ta với đám mã tặc các ngươi không thù không oán, vì cớ gì lại đuổi giết không tha?"
Lô Nhất Sinh giọng căm hận nói: "Ngươi đi hỏi đại ca Lô Cửu Tử của ta đi!" vừa dứt lời liền đâm tới một nhát.
Dương Hạo tránh sang một bên, lớn tiếng mặng: "Chó chết, ngươi làm nhảm cái gì thế? Lô Cửu Tử cái rắm gì, ta hoàn toàn không biết!"
Lô Nhất Sinh đứng ỷ vào thế cương xoa lực lớn nặng, không để cho Dương Hạo tới gần người. Hắn từng xoa từng xoa hung hăng đâm tới, tựa như chỉ hận không thể đục mấy cái lỗ máy trên người Dương Hạo, lớn tiếng mà quát: "Huynh trưởng của ta chính là Nhạn Cửu. Bây giờ thì ngươi đã hiểu chưa?"
"Nhạn Cửu?"
Hình ảnh một người đã dần dần phai nhạt trong tâm trí Dương Hạo đột nhiên trở nên cực kỳ rõ ràng. Dương Hạo vừa giật mình vừa nghi hoặc: "Nhạn Cửu là Lô Cửu Tử? Các ngươi rốt cuộc là ai?"
"Là người muốn giết ngươi! Dương Hạo, hôm nay ngươi nhất định phải chết! Lên trời không đường, xuống đất không lỗi, còn ai có thể cứu được ngươi nữa đây?"
Lô Nhất Sinh không hề hồi đáp, hắn điên cuồng cười lớn, trong mắt hắn, Dương Hạo đã hoàn toàn đã biến thành một kẻ đã chết.
Người ta thường nói thời tiết thất thường, tựa như tính cách một đứa trẻ, thay đổi thất thường. Lúc này Dương Hạo cũng xem như cảm nhận được rồi.
Trên núi dưới núi đều xảy ra đại chiến. Quân Khánh Vương dưới núi đã từ bỏ tấn công lên núi, quay lại cùng một đạo nhân mã từ đồng cỏ phía sau xông tới, bắt đầu chém giết lẫn nhau trong khu vực dưới chân núi chật hẹp. Nhân mã song phương tổng số không dưới hai vạn người.
Đội quân này đột nhiên xuất hiện, mang theo cờ hiệu Nam viện đô giám Da Luật Túng Hoành, nhân số không dưới nhân mã Khánh Vương, lại cộng thêm yếu tố tấn công bất ngờ, phản quân Khánh Vương lập tức trở tay không kịp, dần dần rơi xuống thế hạ phong.
Thì ra Khánh Vương dương đông kích tây, một mạch chạy trốn về phía tây, lúc này đã chiếm lĩnh Tây Kinh, đoạt lấy lương thực bắt đầu nghỉ ngơi chỉnh đốn binh lính. Nam viện tể tướng hay tin liền phái Nam viện Đại vương Da Luật Tà Thâu đích thân lãnh binh thảo phạt, cùng với quân của Da Luật Hưu từ phương Bắc đuổi tới, hai mặt giáp công Tây Kinh. Khánh Vương không dám đánh lâu, lập tức chia bình làm mấy đường, tiếp tục bỏ chạy về phía bắc. Một lộ nhân mã này chính là một trong mấy lộ đại quân đang bỏ chạy về phương Bắc, đại tướng cầm bính là thân tộc của hắn. Tên đại tướng kia vừa nghe trên sườn núi này chính là Dương Hạo Tống quốc đã giết chết Da Luật Văn, tự nhiên không chịu buông tha. Mắt lại thấy trên sườn núi không có bao nhiêu nhân mã liền muốn bắt giết đối phương rồi đem về tranh công với Khánh Vương. Không ngờ nhân mã Nam viện lại phản ứng như vậy, chỉ có một đạo nhân mã đã đánh tới, muốn tiêu diệt hoàn toàn bọn hắn.
Song phương huyết chiến một trận dưới chân núi, vô số tính mạng trong khoảnh khắc đã ngã xuống mặt đất, bị những chiếc vó ngựa to bằng cái bát đạp thành đống máu thịt nhầy nhụa. Lúc này đá vụn trên đường đã nhuộm đỏ máu tươi, vô số máu thịt bị đạp nát nhanh chóng lấp đầy khe hở giữa những viên đá. Bọn họ đều là quân đội thiện chiến, binh lính phối hợp với nhau rất thành thục, chém giết lại càng tàn nhẫn, người thường tuyệt đối không thể sánh được.
Da Luật Túng Hoành tự mình dẫn một lộ quân, tính toán định cắt đôi phản quân Khánh Vương rồi tiêu diệt từng phần. Hắn chọn một chỗ giữa đội hình quân địch làm chỗ đột phá, dẫn quân liều chết xung phong, giống như hắt nước nóng vào trong tuyết, biến quân địch thành từng mảnh từng mảnh huyết nhục dát mặt đường dưới chân. Thủ lĩnh phản quân Khánh Vương mắt thấy nếu tiếp tục chiến nữa thì toàn quân tất bị diệt sạch. Chỉ một đội quân đội Nam viện hắn đã địch không lại, có trời mới biết có đạo nhân mã thứ hai nào nữa đang đuổi tới đây nữa hay không?
Hắn không cam lòng quay lại nhìn về phía sườn núi rồi cắn răng gằn ra một chữ: "Lui!" Nói xong hắn liền xuất lĩnh tàn quân hường về phía tây mà liều mạng phá vòng vây bỏ chạy. Da Luật Túng Hoành không hề đuổi theo, dưới sự chia cắt của hắn, phản quân Khánh Vương trốn thoát được còn không đến một nửa, nếu hắn dẫn binh đuổi theo, đám phản quân còn lại nhất định cũng phá vây chạy thoát. Nhóm phản quân kia vừa đi, nhân mã của hắn liền nhanh chóng nhảy vào chiến cuộc tiêu diệt đám tàn quân phản quân còn lại. Mắt thấy đại thế đã mất, sau khi tiếp tục trả giá bằng gần một ngàn sinh mệnh, nhóm phản quân này cuối cùng cũng buông vũ khí đầu hàng.
Sau khi cho tướng lãnh thuộc hạ dọn dẹp chiến trường, Da Luật Túng Hoành ghìm cương đứng lại nhìn lên sườn núi. Phùng Tất Vũ hoan thiên hỉ địa vội vàng phái người xuống núi liên lạc với hắn. Chỉ trong chốc lát đã thấy Da Luật Túng Hoành vung tay lên, rất nhiều binh sĩ liền nhanh chóng tấn công lên núi.
Lô Nhất Sinh đang từ trên thiên đường một bước rơi xuống địa ngục. Hắn như thế nào cũng thể ngờ tới, từ sống tới chết lại gần nhau đến vậy, cuộc đời đúng là biến hóa khôn lường. Lúc này thuộc hạ bên người hắn đã chẳng còn được bao nhiêu, nhìn thấy uy thế đại quân dưới chân núi, rất nhiều mã tặc đã hoàn toàn mất đi ý chí chiến đấu. Mà lúc trước rất nhiều huynh đệ đã chết dưới tay phản quân Khánh Vương, vậy mà hắn lại nghe lời uy hiếp của phản quân Khánh Vương, nghe lệnh của bọn chúng, làm cho rất nhiều mã tặc sinh lòng oán hận, người cố gắng chống cự đến cùng đã ít này lại càng ít.
Mắt thấy đại thế đã mất, Lô Nhất Sinh hồn bay lạc phách, gần như chẳngcòn sức lực cầm nổi thanh cương xoa nặng nề trong tay nữa.
Dương Hạo tra kiếm vào vỏ. Mỉm cười nhìn hắn rồi nói: "Bây giờ, túc hạ đã nói cho ta biết thân phận của ngươi được chưa?"
Chương 380:Thân cừu Khiết Đan(3)
Khiết Đan Thượng Kinh, hoàng cung.
Tiêu Xước mở tấu chương của thủ quân Nhạn Môn Quan đọc thật kỹ một lượt, nhẹ nhàng thở dài: “Tống quốc phái sứ giả tới đây, bọn họ đã bình định Nam Đường, thống nhất Trung Nguyên, lần này định đến Khiết Đan chúng ta diễu võ dương oai đâu mà.”
La Đông Nhi nhẹ nhàng bước tới, dâng cho Tiêu Xước một tách trà, tò mò hỏi thăm: “Tống quốc phái sứ giả đến đây? Vì chuyện gì vậy?”
Tiêu Xước cười ảm đạm: “Nói là vì dân chúng Nhạn Môn Quan bị người Khiết Đan chúng ta đánh cướp lương thảo. Hừ, bao nhiêu năm qua, chuyện mấy bộ tộc ở biên cương đánh cướp lương thảo còn ít sao? Vậy mà không hề thấy bọn họ sai sứ vấn tội. Hiện giờ bọn họ thống nhất Trung Nguyên, khí thế đang thịnh, lại đúng lúc Khiết Đan chúng ta nội loạn, một chuyện nhỏ như vậy cũng bị bọn họ lôi ra lấy cớ.”
Nàng đứng dậy, chậm rãi đi lại rồi nói: “Haiz, nếu giờ Khiết Đan chúng ta trên dưới một lòng thì người Tống làm sao uy hiếp? Chỉ là tình hình hiện giờ không ổn a. Từ khi bản triều khai quốc tới nay, nhược chủ đương quốc (vua trẻ, bệnh tật gánh việc nước” luôn luôn nguy hiểm, chuyện mưu nghịch nhiều lần xảy ra. Hiện giờ sức khỏe hoàng đế càng ngày càng sa sút, Khánh Vương lại công khai mưu phản, trong hoàng tộc có khối kẻ cũng đang thèm rỏ dãi ngôi vị hoàng đế. Thái Tông, Lý Hồ cũng đang nhìn chằm chằm về nơi này. Mà Da Luật Tâm Minh…
Nói đến đây, nàng hơi dừng lại một chút, cũng không nói đến chuyện Da Luật Tâm Minh hối lộ, chạy chọt tộc nhân Tiêu Thị, du thuyết nàng nhận con trai hắn làm hoàng tử, chỉ thở dài: “Người Tống tới đây nhất định là có mưu đồ mà đến, không thể chỉ vì một chuyện đánh cướp lương thảo cỏn con như vậy, chỉ hoa hỏi quả bất quá chỉ là một thủ đoạn mà thôi. Haiz, trong triều bất ổn, lòng người khó định, hoàng đế Nam triều cũng nhân cháy nhà mà tới hôi của. Uổng cho Triệu Khuông Dận hắn tự phụ một đời anh hùng, đi khi dễ một nữ tử yếu nhược như ta thì tính là cái bổn sự gì?”
Đông Nhi nhu thuận nói: “Nương nương tuy là nữ tử, nhưng anh dũng không nhường tu muội, so với Triệu hoàng đế cũng không thua kém chút nào.”
Khuôn mặt Tiêu Xước khẽ dãn ra, nở một nụ cười, trừng mắt nhìn La Đông Nhi một cái mà rằng: “Vậy mà ngươi cũng nói ra được.” Nàng suy nghĩ một chút rồi nói: “Hồng Lư tự khanh triều bị ta giết trong Ngũ Phượng lầu, hiện giờ vẫn chưa tuyển ra được chủ sự Hồng Lư mới. Hơn nữa bệnh thể hoàng đế khó hết, tất nhiên phải cử người khác ra mặt. Ô, Tống quốc phái Hồng Lư tự khanh – Dương Hạo, ngươi lại là lục cung thượng quan, hơn nữa cũng là người Hán, tinh thông Hán học. Chức vị cũng không chênh lệch bao nhiêu, vậy để ngươi tiếp đãi hắn đi.”
Tiêu Xước nói xong, bỗng phát hiện không thấy La Đông Nhi trả lời, không khỏi kinh ngạc ngẩng đầu lên, chỉ thấy hai mắt La Đông Nhi mở lớn, nhìn chằm chằm vào mình. Tiêu Xước ngạc nhiên hỏi: “Làm sao vậy? Có gì đã có ta sau lưng, hơn nữa lần này bất quá chỉ là tiếp đãi một sứ giả Tống quốc mà thôi, ngươi sợ cái gì?”
“Không, không phải.” Đông Nhi cố gắng nuốt một ngụm nước miếng, khó khăn nói ra: “Nương nương, Tống quốc phái ai làm sứ giả cơ?”
“Hồng Lư tự khanh – Dương Hạo. Người này giết Da Luật Văn, khiến cho Khánh Vương phải chịu đả kích lớn. Ha ha, cái này cũng coi như đã giúp chúng ta một việc lớn. Tiếp đón hắn cũng nên long trọng một chút. Này, Đông Nhi, ngươi làm sao vậy?”
Trái tim La Đông Nhi lúc này đập thình thịch tựa như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, hô hấp cũng có chút không liền lạc. Nàng vội vàng nói: “À, Đông Nhi nhớ ra rồi, Dương Hạo này chính là tên quan Tống quốc đã viết lá thư vô lại hí lộng nương nương mà. Nếu là Đông Nhi, lần này gặp hắn thì nhất định sẽ không tha cho hắn. Cũng chỉ có nương nương người mới có thể khoan hồng độ lượng như vậy, bỏ qua hiềm khích lúc trước. Đúng là trong bụng tể tướng chứa được thuyền a!”( chỉ người bụng dạ rộng rãi, khoan hồng độ lượng.)
Tiêu Xước dù sao vẫn là một thiếu nữ, nghe như vậy không khỏi đắc ý nói: “Ha ha, ta há có thể so sánh được với tể tướng? Trong bụng tể tướng chứa được thuyền, chứ bụng ta làm sao mà chứa được?”
Ngẫm lại lời này có chút kì cục, nàng không khỏi phì cười, hoa dung khẽ trừng mắt nhìn Đông Nhi một cái: “Đi đi, chuẩn bị cho tốt một chút, chúng ta không thể để thua uy phong trước mặt người Tống, nhưng lúc này cũng không thể để họ tức giận, gây ra chuyện binh đao vô ích. Còn chuyện xử lý chi tiết thế nào, ngươi cứ tự mình suy nghĩ thật kỹ đi.”
“Vâng.” Đông Nhi khẽ khom người thi lễ rồi rời khỏi cung điện. Nàng đứng dưới bậc thềm thở hổn hển ra mấy hơi thật lớn, lúc này mới áp chế được trái tim đang đập thịnh thịch như trống, rồi cất bước đi tiếp.
Nàng càng đi càng nhanh, đến khi vừa bước ra khỏi nội cung một bước liền nhấc cả váy lên, vội vàng chạy đi như một con chim én vui vẻ.
“Tứ ca, tứ ca!” tiến vào trong viện, Đông Nhi liền hưng phấn kêu lên.
La Khắc Địch cùng Loan Đao, Tiểu Lục, Tiểu Ngưu hiện giờ đã là tướng quân, có phủ đệ của riêng mình. Đông Nhi cũng không về phủ đệ của mình, mà lập tức chạy tới phủ của La Khắc Địch. La Khắc Địch nghe tiếng đi ra, vừa thấy La Đông Nhi trước ngực phập phồng, hô hấp dồn dập, hai má ửng hồng, đôi mắt đen huyền lúc này tựa như đang tỏa sáng. Từ trước tới nay hắn chưa bao giờ thấy nàng lộ ra thần sắc kích động như vậy, không khỏi ngạc nhiên hỏi: “Đông Nhi, có chuyện gì vậy?”
Đông Nhi tựa như một con cá nhỏ hít thở không thông, há cái miệng nhỏ nhắn cố gắng thở dốc, sau một lúc mới đè ép được tâm tình đang kích động xuống, nói: “Hạo ca ca tới rồi, Hạo ca ca làm sứ Tống, đi sứ Khiết Đan rồi.”
Nói xong lời này, nước mắt nàng đã không kìm được mà như những hạt trân châu thi nhau rơi xuống: “Tứ ca, Hạo ca ca… tới rồi!”
Nói xong nàng liền nhào vào trong lòng La Khắc Địch, nước mắt vui mừng lại càng không ngăn được mà tuôn rơi.
La Khắc Địch mang theo tùy tùng, tuần tra kinh thành như thường ngày. Mặc dù lúc này thân hắn đang bước trên đường trong Thượng Kinh, nhưng hắn lại chẳng hề quan sát xung quanh, mà cúi đầu suy nghĩ, trong lòng tràn đầy tâm sự nặng nề.
“Đến Thượng Kinh rồi, Dương Hạo sẽ lập tức đi gặp hoàng hậu nương nương, hắn lại không biết Đông Nhi còn sống, một khi nhìn thấy, khó tránh khỏi lộ ra dấu vết, có trời mới biết Tiêu hoàng hậu có phát giác ra điều gì hay không. Nhưng phải làm thế nào mới có thể thông báo trước cho hắn? Haiz, khó, thật sự là khó. Ta vừa ra ngoài đã tiền hô hậu ủng, Dương Hạo lại càng không cần phải nói. Hiện giờ mặc dù làm tướng quân, nhưng người có thể tin dùng đến một mống cũng chẳng có.”
La Khắc Địch nhíu chặt hai hàng lông mày, đang cố gắng suy nghĩ thì bên đường đột nhiên có một thiếu nữ vội vàng chạy về phía hắn. Từ sau biến cố Ngũ Phượng lâu, mọi quan lại trọng yếu của triều đình đi lại trong Thượng Kinh đều phải mang theo rất nhiều binh sĩ bảo vệ an toàn. Mặc dù người kia chỉ là một nữ tử nhưng cũng không thể có cơ hội tới gần hắn. Nếu không phải nhìn thấy nữ tử kia dung mạo xinh đẹp hiếm thấy thì với sự liều lĩnh của nàng, đám binh sĩ này đã sớm một thương giết chết nàng rồi.
“Đứng lại, làm cái gì vậy, không được tới gần!”
Đinh Ngọc Lạc vội vàng dừng bước chân. Nàng đến Thượng Kinh nhiều ngày nay, mà vẫn không có cơ hội gặp được La Đông Nhi. Mỗi khi La Đông Nhi xuất cung thì đều là đi cùng với hoàng hậu, thị vệ đông như mây, đừng nói tới gần, cho dù muốn đứng từ xa nhìn thấy bóng dáng của nàng cũng cực kỳ khó khăn. Điều này khiến cho Đinh Ngọc Lạc vội đến độ ăn ngủ không yên. Mấy ngày nay nàng đã nghe được một tin tức, trong triều gần đây có ba viên tướng quân cung vệ quân mới được thăng chức, hơn nữa ba người này trước kia đều là môn hạ gia nô của La thượng quan. La thượng quan tuy chỉ là lục cung thượng quan nhưng trong triều lại có sức ảnh hưởng rất lớn. Ai cũng nói nàng là đệ nhất tâm phúc bên người hoàng hậu nương nương, không thể động vào.
Đinh Ngọc Lạc nghĩ rằng, mình muốn đến trực tiếp gặp mặt La Đông Nhi tuyệt đối là không thể, lại nghe được vị tướng quân người Hán đang tuần hành này xuất thân là môn hạ của La Đông Nhi, mới cắn răng quyết định đập nồi dìm thuyền, tới cầu xin hắn dẫn kiến. Hôm nay nàng chuyển qua mặc nữ trang chính là để tới gặp hắn. Bị quân sĩ ngăn cản, nàng lập tức kêu lớn: “Tướng quân dừng bước, tướng quân xin hãy dừng bước, dân nữ có chuyện muốn nói.”
La Khắc Địch đang tâm sự ngập lòng thì chợt nghe thấy một âm thanh êm tai truyền đến. Vừa ngẩng đầu lên, liếc mắt một cái đã nhìn thấy diện mạo của Đinh Ngọc Lạc. Hai mắt hắn lập tức sáng ngời: “Một nữ tử thật thanh lệ động lòng người. Không tưởng được trong Thượng Kinh lại có một nữ nhi như vậy.”
La Khắc Địch vội vàng ghìm cương, giơ tay ra hiệu nói: “Cho nàng đến đây.”
Binh sĩ của hắn lập tức tuân lệnh, tránh sang nhưng vẫn cẩn thận đề phòng, áp đao vào lưng nữ tử. La Khắc Địch quan sát nàng từ trên xuống dưới một lượt, thần sắc càng lộ ra vẻ nhu hòa. Hắn bám yên nhảy xuống ngựa, hiền hòa hỏi han: “Cô nương gọi bản tướng quân, có chuyện gì sao?”
“Ta muốn xin tướng quân đại nhân dẫn ta đi gặp La thượng quan.”
“Ồ?” Ánh mắt La Khắc Địch lập tức trở nên ngưng trọng, cảnh giác nói: “La thượng quan? Cô nương là ai, vì sao lại muốn gặp La thượng quan?”
“Ta…” Đinh Ngọc Lạc cố lấy hết dũng khí, ưỡn bộ ngực sữa lên nói: “Ta là muội muội của nàng.”
La Khắc Địch ngẩn ngơ, kinh ngạc nói: “Cô nói gì? Cô là muội muội của La thượng quan?”
“Đúng.” Vừa thấy ánh mắt hoài nghi của hắn, Đinh Ngọc Lạc cũng không còn đường lùi nữa rồi, chỉ có thể kiên trì: “Ta từ Trung Nguyên, ngàn vạn dăm xa xôi tới đây tìm tỷ tỷ nương tựa, song cung cấm sâm nghiêm, không thể gặp được tỷ tỷ, đành phải xin tướng quân đại nhân giúp đỡ.”
Ánh mắt La Khắc Địch thoáng lóe lên, hỏi lại: “Cô thật sự là muội muội La thượng quan?”
“Không sai, nếu tướng quân không tin thì hãy dẫn ta tới gặp nàng, chỉ cần La thượng quan nhìn thấy ta là nàng sẽ xác nhận ta là muội muội của nàng.”
La Khắc Địch nhìn nàng một hồi lâu mà không nói.
Đinh Ngọc Lạc vội la lên: “Tướng quân, ngươi còn không tin sao? Một nữ tử yếu ớt như ta, tay không tấc sắt, lại ở dưới giám thị của tướng quân, làm sao có thể gây bất lợi cho La thượng quan được chứ? Nếu tướng quân không tin thì hãy trói ta lại, chỉ cần thấy tỷ tỷ là nàng tự khắc nhận.”
La Khắc Địch nở một nụ cười đầy thâm ý, nói: “Bản tướng quân không phải là không tin ngươi, chỉ là, bản tướng quân đang suy nghĩ, trừ ngươi ra, rốt cuộc là còn có mấy người muội muội tốt nữa đây?”
Đinh Ngọc Lạc nghe xong, mặt ngọc khẽ đỏ lên, sẵng giọng nói: “Ai là muội tử của ngươi? Ta thật sự là muội muội của La thượng quan, nếu ngươi đắc tội với ta, tỷ tỷ ta sẽ không tha cho ngươi đâu!”
La Khắc Địch thở dài: “Được rồi, ta dẫn ngươi đi gặp nàng là được chứ gì, muội muội!”
Chương 381:Thượng Kinh (1)
Nhìn huynh đệ bên người càng lúc càng ít, rất nhiều quân Tống cùng binh sĩ Khiết Đan giương cung lắp tên vây mình vào giữa, Lô Nhất Sinh thở dài một tiếng, vứt cây cương xoa trong tay xuống đất.
"Nhạn Cửu là huynh đệ ruột của ngươi? Nói đi, hai huynh đệ các ngươi, một người làm nô cho hào môn, một người làm cường đạo ngoài tái ngoại, rốt cuộc là vì cái gì?"
Lô Nhất Sinh nghe hỏi mà chỉ cười lạnh không nói.
Dương Hạo cười cười: "Bí mật này có giải được hay không cũng chẳng liên quan gì tới ta, ngươi muốn giữ bí mật, vậy cứ mang theo nó xuống âm tào địa phủ đi."
Dương Hạo vừa mới vung tay, một đợt những tiếng cung tiễn lên dây vang lên, vô số mũi tên lập tức chĩa về phía Lô Nhất Sinh, chỉ cần Dương Hạo hạ tay xuống là những mũi tên lạnh lẽo này sẽ găm chặt vào cơ thể Lô Nhất Sinh. Đúng lúc này, ánh mắt Lô Nhất Sinh chợt lóe lên, đột nhiên hô lớn: "Chậm đã!"
Dương Hạo lắc đầu nói: "Ta sẽ không tha mạng cho ngươi đâu. Rất nhiều huynh đệ của ta đã chết, vì vậy ngươi đừng cố gắng xin ta tha mạng, khiến cho bọn họ khinh thường ngươi. Nếu đã phải chết thì nên chết cho xứng hai chữ hán tử!"
"Ta không xin ngươi tha mạng. Từ ba mươi năm trước, đáng ra ta đã nên chết rồi. Lô mỗ cửu tử nhất sinh, còn sống tới bây giờ đã là may mắn lắm rồi!" Lô Nhất Sinh ngạo nghễ ưỡn ngực lên nói: "Dương Hạo, ta chỉ muốn biết, Đinh Thừa Nghiệp hiện giờ thế nào? Hắn hiện tại đang ở nơi nào? Ngươi có tin tức gì của hắn không?"
Dương Hạo nhìn hắn, trong mắt không khỏi lộ ra một vẻ cổ quái. Lô Nhất Sinh có chút kích động nói: "Ta sắp phải chết, hiện giờ ta chỉ muốn biết nơi hạ lạc của hắn. Nếu ngươi biết tin tức của hắn, xin hãy nói cho Lô mỗ, Lô mỗ cầu xin ngươi."
Dương Hạo chậm rãi nói: "Định Thừa Nghiệp có quan hệ gì với ngươi?"
Lô Nhất Sinh nghe hỏi lập tức ngậm chặt miệng không đáp.
Dương Hạo hít thật sâu rồi nói: "Đinh Thừa Nghiệp đã chết rồi."
"Cái gì?" Con mắt còn lại của Lô Nhất Sinh lập tức mở lớn, mang theo vẻ hoảng loạn vội vàng bước lên phía trước hai bước, khàn giọng kêu lên: "Ngươi nói cái gì? Ngươi nói cái gì? Nó đã chết, nó thật sự đã chết rồi?"
Dương Hạo thản nhiên nói: "Đúng, hắn đã chết rồi. Ngay trước cuộc chinh phạt Nam Đường, hắn đã chết trong một cái cống rãnh bẩn thỉu ở Kim Lăng."
Sắc mặt Lô Nhất Sinh chuyển sang trắng bệch, thống khổ gào lên: "Nó đã chết? Nó đã chết! Hậu duệ cuối cùng của Lô gia ta, hậu duệ cuối cùng a. Là ngươi giết hắn? Lô Nhất Sinh ta có thành quỷ cũng không tha cho ngươi, họ Dương kia!"
Lô Nhất Sinh gào lên một tiếng rồi đột nhiên nhào về phía Dương Hạo. "Sưu sưu sưu sưu" vô số lợi tiễn lập tức bắn ra. Dương Hạo vừa nghe hắn gào lên hậu duệ cuối cùng của Lô gia liền giống như bắt được điều gì đó, vội vàng hô lớn: "Dừng tay!"
Nhưng không còn kịp nữa rồi. Lô Nhất Sinh trong khoảnh khắc đã bị bắn thành một con nhím, một con nhím mang theo vô số tên trên người, giương nanh múa vuốt bổ nhảo tới trước người Dương Hạo. Hai gã thị vệ bên cạnh Dương Hạo nhanh tay nhanh mắt, khi Lô Nhất Sinh còn chưa kịp lao đến gần thì đã bị hai thanh khoái đao vung ra như hai dải lụa, trong tiếng kêu gào thê thảm của hắn mà chặt đứt hai bàn tay.
Máu tươi phun ra, Lô Nhất Sinh cả người rơi bịch xuống mặt đất một cái nặng nề. Hai bàn tay cùng bị chặt đứt, trên người găm đầy lợi tiễn, trong cổ họng hắn vẫn tiếng gầm gừ, ánh mắt mang theo vô tận hận ý cùng oán độc, dùng hết sức lực toàn thân là trườn về phía Dương Hạo. Mắt thấy không còn cách nào giết được kẻ thù diệt tộc nữa, hắn gầm lên một tiếng rồi đột nhiên ngửa đầu ra, cắn chặt lấy vạt áo Dương Hạo, dùng hết sức lực mà cắn nghiến, phảng phất như đang cắn vào cổ họng Dương Hạo vậy.
Dương Hạo nhìn vậy nhưng vẫn bất động. Hắn chậm rãi ngồi xổm xuống nhẹ nhàng nói: "Đinh Thừa Nghiệp không phải chết trong tay ta. Là tỷ tỷ hắn tự tay giết hắn đó, giết chết một thằng nghịch tử giết cha hại huynh, thanh lý môn hộ."
Trong ánh mắt mờ đục của Lô Nhất Sinh thoáng hiện lên một chút mê mang, hắn từ từ há miệng, lẩm bẩm: "Hắn không giết cha hại huynh, hắn không giết cha hại huynh. Lô Cửu Tử đại ca ta mới là phụ thân của hắn, ta là thúc thúc duy nhất của hắn, trừ hắn ra, chúng ta không còn người thân nào nữa, không còn một người thân nào nữa rồi, không còn một người nào, không còn người thân nào nữa rồi. Hắn... là hậu duệ duy nhất của Lô gia nhất mạch chúng ta."
Một hàng nước mắt từ từ theo gương mặt hắn chảy xuống, đem những vệt máu đỏ tươi trên mặt hắn hòa tan vào bên trong.
"Cáo hóa thái tử!" Dương Hạo trong chớp mắt đã hiểu ra huynh đệ bọn họ đã làm những chuyện gì. Tinh quang trong mắt hắn chợt lóe lên, túm chặt lấy Lô Nhất Sinh mà hỏi: "Đứa nhỏ thực sự của Đinh gia hiện ở nơi nào?"
Trên mặt Lô Nhất Sinh lộ ra một vẻ tươi cười quỷ dị, nói: "Nó đã sớm chết từ lâu rồi. Nó cùng mẹ nó đều bị ném xuống đáy giếng, sớm hóa thành một đống xương khô. Chết hết, tất cả đều chết hết, Lô gia ta cũng xong rồi. Thừa Tự đường, thất tông ngũ họ, mối thù diệt môn rốt cuộc cũng không báo được nữa rồi."
Dương Hạo tuyệt đối không thể ngờ tới, ở tại nơi này, từ miệng một tên mã tặc tái ngoại lại có thể nghe được cái tên của tổ chức thần bí kia, hắn giật mình gặng hỏi: "Thừa Tự đường? Thất tông ngũ họ, ngươi rốt cuộc là ai?"
Lô Nhất Sinh chỗ song chưởng bị cụt phun máu như suối, trên người lại cắm vô số lợi tiễn, sớm đã lâm vào trạng thái hấp hối sắp chết. Lúc này hắn đã như ngọn đèn hết dầu, mọi âm thanh hình ảnh bên ngoài đã không còn ảnh hướng tới hắn nữa. Hắn chỉ lẩm bẩm: "Phạm Dương Lô thị ta từ triều Hán tới nay, nhất lưu cao môn, huyết mạch chúng ta... tới đây... đã tuyệt."
"Các ngươi là một chi trong Thừa Tự đường thật sao?
Dương Hạo hỏi những không thấy trả lời, nhìn lại thật kỹ chì thấy Lô Nhất Sinh đã trợn con mắt độc nhất lên, không ngờ khí đã tuyệt.
Từ chỗ Da Luật Túng Hoành, Dương Hạo liền biết được phản quân Khánh Vương đã tiếp tục bỏ chạy về phía tây còn Da Luật Hưu cũng đích thân dẫn đại quân đuổi theo quân đội chủ lực của Khánh Vương. Sau không biết được thân phận của Dương Hạo, Da Luật Tunh Hoành không dám chậm trễ, lại phái thêm nhân thủ, hộ tống hắn đi thẳng tới Thượng Kinh.
Dương Hạo từng nghe Thôi Đại Lang nói qua những chuyện về Thừa Tự đường, bây giờ lại từ miệng Lô Nhất Sinh mà biết thêm một chút tin tức. Tổng hợp tất cả lại, hắn đã mơ hồ đoán được ra chân tướng thảm kịch ở Đinh gia. Đinh gia quả thật là bị tai ương oan uổng, bị người ta lợi dụng làm công cụ báo thù, cho nên mới có kết quả thê thảm như vậy.
Hắn biết Đinh Thừa Nghiệp tuy đáng chết, nhưng khi Đinh Ngọc Lạc tự tay đâm chết huynh đệ ruột thịt, trong lòng nàng chắc chắn vẫn có chút gì đó không vui. Nếu như bây giờ kể lại mọi chân tướng cho nàng, nhất định có thể cởi bỏ gánh nặng đó trong lòng nàng.
Lúc này, có trọng binh Da Luật Túng Hoành bảo hộ, Dương Hạo bình tĩnh mà đi, không hề gặp chuyện gì trắc trở.
Đi qua Quy Hóa Châu là tới Thiên lĩnh. Khi nơi này còn thuộc sự thống trị của Trung Nguyên, người ta lại gọi nơi này là Từ Hương lĩnh. Cả dãy Từ Hương lĩnh kéo dài từ đông sang tây, trùng trùng điệp điệp, mây vàng cỏ trắng, đứng trên đỉnh mà nhìn cũng không thể nhìn thấy điểm cuối cùng.
Dương Hạo nhìn mà cũng chẳng có bao nhiêu xúc động, cái gì mà Quy Hóa châu, Từ Hương lĩnh, giống như chân trời góc biển. Chuyến đi này, hắn đi thực sự là để đón Đông Nhi trở về, đã sớm hận không thể chắp thêm một đôi cánh mà bay thẳng đến Thượng Kinh Khiết Đan, thì nào còn để ý tới vất vả mệt nhọc lặn lội đường trường.
Đi trong thảo nguyên mênh mông bốn ngày là tới Hắc Du lâm. Mặc dù ở Dương Hạo trong lòng cũng không biết chỗ này còn cách xa lắm không, song lúc này cảnh tượng đã có sự khác nhau rất lớn, kéo dài kéo dài kéo dài liên miên, không phải vô tận của thảo nguyên, là núi hoang tích lĩnh, người ở rất thưa thớt, đến giờ nó vẫn hoang vắng, cảm nhận trong lòng vẫn khác nhau rất lớn .
Đi xa hơn nữa chính là Tà cốc. Bay qua hơn năm mươi dặm cao nhai tuấn cốc dài dằng dặc, qua Hoàng thủy, Hắc thủy, Mỹ Hương hà, tiếp đó lại đi tiếp năm sáu ngày, cuối cùng mới tiến vào thủ đô Thượng Kinh của người Khiết Đan.
Sau khi tới nơi này, Dương Hạo bắt đầu có chút lo âu. Một là bởi vì rất nhanh sẽ được gặp lại Đông Nhi, trong lòng không tránh khỏi hồi hộp. Mặt khác, cho đến tận bây giờ, hắn vẫn chưa từng liên lạc được với Đông Nhi, nếu như lúc lên kim điện gặp mặt Đông Nhi, mà lúc trước Đông Nhi cũng không biết hắn đã đổi tên từ Đinh Hạo thành Dương hạo, đột nhiên gặp được hắn, khó tránh khỏi sẽ để lộ dấu vết.
Tuy đó cũng không phải là mối quan hệ xấu xa, bẩn thỉu gì, cũng chẳng thể vì thế mà đưa tới họa sát thân. Nhưng một khi để Tiêu Xước biết được mối quan hệ giữa hai người bọn họ, nếu nàng khảng khái thả người thì thôi, còn không kế hoạch trộm người của mình tất khó mà thi hành được. Chỉ cần tung tích Đông Nhi đột nhiên biến mất, khi đó mình lập tức sẽ trở thành mục tiêu đầu tiên bị hoài nghi, như vậy thì còn mang theo nàng về Trung Nguyên làm sao được?
Song hắn có lo lắng cũng vô ích. Nơi này là Thượng Kinh của người Khiết Đan, nhất cử nhất động của hắn đều nằm trong tầm mắt bọn họ. Nếu hắn đột nhiên phái ra một người đơn độc ra ngoài tìm Ngọc Lạc, tất sẽ khiến bọn họ hoài nghi. Hơn nữa, lúc này rốt cuộc là Ngọc Lạc đã gặp được Đông Nhi hay chưa thì hắn cũng không chắc.
Chương 381:Thượng Kinh (2)
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Đả tự: Okita Soujirou - Lương Sơn Bạc
Tới gần Thượng Kinh, dân cư sinh sống cũng càng lúc càng đông, thị trấn bắt đầu trở nên phồn hoa, đến khi vào kinh thành rồi, phố phường lại càng trở nên nhộn nhịp. Nơi nơi đều là phòng xá, mà cũng có không ít trướng bồng. Chỉ nhìn cũng biết là kiến trúc nơi này chính là được dung hợp từ bản sắc văn hóa du mục của người Khiết Đan cùng bản sắc định cư của người Trung Nguyên, tràn đầy phong vị dị quốc.
Nơi này cũng có phường thị, giống như Biện Lương của Trung Nguyên, dân cư đông đúc, thương nhân tụ họp, võ sĩ Khiết Đan, sĩ tử mặc Hán phục đi lại trên đường, tạp kỹ, đô vật trong câu lan (nơi hát múa diễn kịch thời Tống) thì ra sức biểu dẫn, thu hút khách khữa. Hòa thượng hóa duyên, ni cô, đạo sĩ cũng đi lại tập nập trên đường.
Từ khi Khiết Đan lập quốc đến hôm nay, bọn họ cũng có đúc tiền, nhưng mà lấy vải làm tiền, lấy vật trao đổi vật vẫn là chủ lưu trong giao dịch phường thị. Cái này so với thói quen dùng tơ lụa để giao dịch, thay thế tiền mặt của người Tống về cơ bản là giống nhau. Điều này cũng là bình thường, vì lượng tiền lưu thông lúc này không đủ, hơn nữa tơ lụa cùng vải vóc cũng đảm bảo giá trị rất hiệu quả, so với tiền lại càng nổi bật hơn.
Sau khi tiến vào rồi, được Hồng Lư tự, Lễ Tân viện nghênh đón, đám sứ giả Tống quốc mới phát hiện ra quan chế, lễ nghi của người Khiết Đan trên cơ bản cũng rất giống với Trung Nguyên, hoàn toàn không có chút gì gọi là dân tộc man rợ, không biết lễ nghi cả.
Bọn họ cũng không hề lập tức dẫn đám sứ giả Dương Hạo vào hoàng cung mà đi tới Lễ Tân viện trước. Càng làm cho Dương Hạo cùng mấy đặc phái viên Trung Nguyên cảm thấy kinh ngạc chính là trước Lễ Tân viện còn có sứ giả do hoàng đế phái tới trái phải nghênh tiếp, giống y hệt với Trung Nguyên.
Ngay sau khi tiến vào Lễ Tân viện, thông sự xá nhân (phiên dịch viên) Khiết Đan ngồi xuống đối diện với Dương Hạo, cười dài rồi nói: “Quý sẽ từ xa tới, dọc đường vất vả, hôm nay cứ thư thả nghỉ ngơi một ngày, ngày mai bản quan sẽ tới nghênh đón quý sứ nhập cung. Hoàng đế chúng ta vừa không may mắc chút bệnh nhẹ, sức khỏe không được tốt, vậy nên hoàng hậu nương nương sẽ nghênh tiếp quý sứ.”
Vị thông sự xá nhân Khiết Đan này là một người Hán, họ Mặc tên Thùy Ngân. Bởi vì người Khiết Đan rất tôn sùng văn hóa Hán, những nhân vật thuộc giới thượng lưu đều lấy chuyện thông thạo Hán ngữ để kiêu ngạo. Hán ngữ là tiếng mẹ đẻ của hắn tự nhiên hắn phải biết, tuy rằng từ đời ông nội hắn đã tới định cư ở Thượng Kinh, nhưng hắn vẫn nói Hán ngữ rất tốt.
Dương Hạo thấy không phải tiến cung ngay lập tức nên trong lòng hơi an tâm trở lại. Hắn mỉm cười chắp tay nói: “Đa tạ Mặc đại nhân. Dương mỗ dọc đường tới đây, đều là nhờ quý quốc hộ tống chiếu cố, mệt thì cũng không phải mệt, nhưng mà dọc đường phong trần, không tiện lập tức kiến giá hoàng hậu nương nương quý quốc. Ta vẫn nên tắm rửa, thay quần áo, sau đó ngày mai mới vào cung trình quốc thư.”
Mặc xá nhân cười nói: “Như vậy là tốt nhất. Vậy bản quan xin nói một lượt chuyện tiếp đón quý sứ ngày mai, tránh để đến lúc đó trong lúc vội vàng lại sai sót, làm mất lễ nghi đi.”
“Làm phiền Mặc đại nhân.”
Mặc Thùy Ngân ho khan một tiếng rồi nói: “Sáng sớm ngày mai, bản quan sẽ tới nghênh tiếp đại nhân, dẫn đại nhân đi qua Thừa Thiên môn, sau đó tới ngoài Ngũ Phượng lâu. Theo viên sứ giả mang theo vàng ngọc tới làm cống phẩm. Cổ nhạc hợp tấu, hoàng hậu nương nương lên ngự tọa, mặt nam lưng bắc, tiếp kiến quý sứ. Quý sứ đăng lâu, đại nhân dập đầu hành lễ với hoàng hậu nương nương. Ta hướng về phía lục cung thượng quan tuyên đọc chế thư, tuyên sắc lệnh. Trung thư thị lang nhận lệnh đi tới trước mặt quý sứ, quý sứ trình quốc thư, thị lang đem quốc thư lên trình cho hoàng hậu. Quý sứ lại đem cống vật giao cho lễ quan đồng thời cùng với nhân viên tùy hành hành lễ một lần nữa. Tiếp kiến xong, quý sứ cùng tùy viên hành lễ lui ra ngoài, trở về lễ tân viện. Ngày tiếp theo, hoàng hậu ta sẽ thiết quốc yến, mở tiệc chiêu đãi quý sứ.”
Dương Hạo nghe thấy La Đông Nhi tuyên đọc chế thư, tuyên sắc lệnh, trong lòng không khỏi trở nên kích động: “Đông Nhi, tiểu Đông Nhi của ta, nàng thật sự khiến ta nếm biết bao đau khổ. Quan nhân đến đây, quan nhân tới đón nàng về nhà, sau này chúng ta không bao giờ rời xa nhau nữa.”
Mặc xá nhân nói xong, thấy Dương Hạo đang mỉm cười, vẻ mặt rất quỷ dị, dường như đang thần hồn xuất khiếu, không khỏi mờ mịt, chẳng hiểu ra làm sao. Hắn ho khan một tiếng, hỏi: “Dương đại nhân, ngài đã hiểu hết sắp xếp chưa?”
“Hiểu rồi, hiểu rồi.” Dương Hạo liên tục gật đầu, trong bụng vui mừng không thôi: “Đại nhân nói là, bản quan hành lễ với hoàng hậu nương nương quý quốc, sau đó lục cung thượng quan La đại nhân của quý quốc tuyên chế thư. Ha ha, đúng rồi, ngài còn nói gì nữa.”
Mặc đại nhân vừa mới nâng được cái tách lên uống trà, nghe Dương Hạo nói như vậy thiếu chút nữa phun hết cả nước trà trong cổ họng ra ngoài. Hắn vội vàng ho khan một luc rồi mới đỏ mặt nói: “Bản quan nói, sáng sớm ngày mai, bản quan sẽ đến nghênh đón đại nhân. Đại nhân mặc lễ phục, bản quan dẫn đại nhân đi qua Thừa Thiên môn, sau đó tới bên ngoài Ngũ Phượng lâu, tùy viên sứ giả bưng vàng ngọc tới làm đồ cống nạp. Ta vào xin tấu, hoàng hậu nương nương lên ngự tọa, mặt nam lưng bắc, đón tiếp quý sứ…”
Hắn lại kể lại một lượt rồi hỏi lại: “Quý sứ nhớ rõ hết chưa?”
Dương Hạo làm việc ở Hồng Lư tự cũng được một thời gian khá lâu, đối với những lễ nghi này cũng hiểu khá rõ, hắn cẩn thân suy nghĩ một chút rồi nói: “Hoàng hậu quý quốc mặt nam lưng bắc mà ngồi, vậy bản sứ sẽ hướng về phía bắc mà bái sao?”
Mặc đại nhân mỉm cười nói: “Cái này có gì không ổn sao?”
Dương Hạo nói:” Tất nhiên là không ổn. Đại quốc chi khanh tương đương với tiểu quốc chi quân, ta là đặc phái viên Trung Nguyên, như thế nào lại hành lễ hạ thần với hoàng hậu quý quốc? Cái này chẳng phải làm mất thân phận bản sứ sao? Lẽ ra phải là bản sứ cùng quý quốc chi chủ, một đông một tây mà đứng, sau đó dâng lên quốc thư mới đúng.”
Mặc xá nhân không cho là đúng nói: “Dương đại nhân, cái này làm sao được? Hoàng đế triều ta không phải là phiên thuộc (chư hầu) của quý quốc, hai nước đứng ngang hàng với nhau, quốc chủ làm sao có thể đứng đối diện với ngài, yêu cầu như thế thật sự có phần quá đáng rồi. Dương đại nhân, ta cũng là người Hán, biết tư tưởng người Hán là coi Trung Nguyên làm trung tâm thiên hạ, trừ bản quốc ra, tứ phương đều là man di. Đây không phải là tự cao tự đại sao? Trung Quốc ngày xưa và Trung Quốc bây giờ mặc dù giống nhau, nhưng Khiết Đan bây giờ không phải là tứ di ngày trước. Nước ta lập quốc lâu như vậy, đã không còn sống theo kiểu bộ lạc man hoang, chăn ngựa thả dê như ngày trước. Đây là chưa nói tới lãnh thổ nước ta càng ngày càng rộng, thực lực cả nước ngày càng mạnh mẽ, thậm chí còn hơn cả Trung Nguyên. Quý sứ không biết là yêu cầu này rất quá đáng sao?”
Hắn hơi dừng lại, mỉm cười rồi nói tiếp: “Lại nói, lúc trước Thạch Kính Đường xưng thần xưng tử với Khiết Đan ta, xin chủ ta xuất binh trợ giúp mà đoạt được đế vị. Sau khi xưng thần với triều ta, Thạch Kính Đường dựng lên Tấn quốc. Tấn quốc Hà Đông tiết độ sứ Lưu Tri Viễn chiếm cứ một nửa giang sơn mà xưng đế, dựng lên Hán quốc, lập nên nhà Chu. Hoàng đế quý quốc đoạt được đế vị xưng Tống, quốc gia của ta hiện giờ đối xử khoản đãi với ngoại quốc, chẳng lẽ còn không đủ tôn trọng sao?”
Khổng lão phu tử từng nói: “Di thu chi hữu quân, bất như chư hạ chi vô”. Lịch đại sĩ phu thực là như vậy, song ở thời điểm Trung Quốc cường đại, dân ngay cả đốt rẫy gieo hạt cũng không biết, quả thật chẳng khác nào một đám dã nhân ma hoang, hoàn toàn không có một chút gì liên quan đến văn minh, nói như vậy tất nhiên không có gì không ổn.
Nhưng thời gian trôi qua, vật đổi cảnh dời, phải nhìn nhận rằng, bọn họ đang dần trở nên hùng mạnh, thậm chí còn có dị tộc xưng chủ Trung Nguyên. Khổng lão phu tử từng nói: “Di thu chi hữu quân, bất như chư hạ chi vô”, nhưng cũng từng nói: “Quân quân thần thần, phụ phụ hồ hồ.” Ngay khi thời điểm dị tộc thành quân, đám sĩ phu đem lời Khổng Tử cung phụng như thần dụ cũng có chút không biết theo ai rồi. Phu tử nói phải lắm, còn Tôn Vương nữa, hiện giờ man di thành vương, là nên Tôn Vương ư? Hai người lấy ai làm trọng?
Nếu đổi lịch sử, chỉ sợ sẽ vì vấn đề này đánh nhau vỡ đầu và gây ra chiến tranh, kiên quyết yêu cầu Khiết Đan tôn Tống quốc là chính thống. Dù là ngoại quốc, nhưng Dương Hạo này sau này lấy được lòng người thì sao? Chớ nói Khiết Đan chính quyền hiện giờ không kém gì Tống, cho dù là một cái quốc gia nhỏ yếu, hắn cảm thấy cũng có thể ngang hàng đối đãi, mà không ứng với vọng lấy thiên triều xưng tôn, lễ tiết đòi chỗ tốt hơn, lại lấy lợi ích kinh tế thật lớn đi trấn an người ta.
Huống chi, thế giới này cũng không phải trời tròn đất vuông, duy ngã độc tôn, đại đế quốc cũng không chỉ có một mình chúng ta. Không nói đâu xa, trải qua mấy ngày năm phát triển, một triều đinh Khiết Đan cường đại, có thể chống lại đế quốc Hoa Hạ Trung Nguyên đã xuất hiện rồi. Khiết Đan hiện giờ đã không phải bộ lạc liên minh như Hung Nô, Đột Quyết nữa, bọn họ đã là một quốc gia cường đại, có nền văn hóa, hành chính, lãnh thổ hoàn thiện, lực thống trị của triều đình cũng đi vào quỹ đạo. Hơn nữa, Trung Nguyên trải qua hơn trăm năm chiến loạn, khiến cho lực ảnh hưởng của Trung Nguyên ở khu vực Á Âu thua xa Khiết Đan. Muốn khiến quốc chủ bọn họ nhận mình là thần quốc (thần trong hạ thần) thì hoàn toàn không có khả năng. Nhìn thẳng vào thực tế trước mắt, dùng lễ ngang hàng mới là hành vi sáng suốt.
Chương 381:Thượng Kinh (3)
Dương Hạo trước tiên đưa là một cái yêu cầu mà đối phương tuyệt đối không thể đáp ứng, chẳng qua song muốn khiến cho cuộc cò kè mặc cả phía sau lại càng dễ ép bọn họ đáp ứng hơn mà thôi. Vì thế hắn làm ra bộ dáng cực kỳ khó khăn, suy nghĩ một hồi lâu mới lên tiếng: "Lời của Mặc đại nhân cũng có lý, bản sứ kỳ thật cũng không có ý tứ khinh thị quý quốc. Bất quá khi Hoàng hậu quý quốc lên ngự tọa, yết kiến bản sứ, cũng phải chung cổ tề minh ( nhạc kèn vang lên), tấu lễ nhạc tiếp đón. Đây là lễ nghi để tiếp đón sứ giả nước lớn, không thể bỏ qua."
Mặc đại nhân suy nghĩ một lát rồi chắp tay nói: "Cái này thì được."
Dương Hạo lại nói: "Bổn sứ tuy là ngoại thần ( thần tử triều khác), nhưng dù sao cũng là đại biểu cho Hoàng đế bệ hạ triều ta tới. Ngoại thần lễ tọa ( được ngồi), là đại biểu cho Hoàng đế bệ hạ nước ta nói chuyện với Hoàng hậu nương nương quý quốc, há có thể khom người nói chuyện? Khi quý quốc thượng tọa yết kiến, bản sứ phải được ngồi nói chuyện với Hoàng hậu bệ hạ."
Trước khi Mặc Thủy Ngân tới tiếp đón Dương Hạo, đối với quy cách đón tiếp và phương diện lễ chế đã từng gặp mặt thỉnh giáo Hoàng hậu. Từ xưa đến nay, Trung Nguyên vẫn duy ngã độc tôn, tôn Trung Quốc là chính thống, đối với tứ di chư quốc ( bốn nước man di) cũng đã thành thói quen. Hiện giờ tuy Khiết Đan đã trở thành một quốc gia cường đại, muốn mưu cầu tôn nghiêm cùng thể diện một quốc gia, vì thế hiện giờ có thể cùng ngồi cùng ăn, đứng ngang hàng với Trung Nguyên thì bọn họ cũng coi như đắc chí rồi. Dù sao Trung Nguyên cũng có ngàn năm văn hiến, há có thể dễ dàng vượt qua như vậy. Tứ di chư quốc đối với văn hóa Trung Nguyên vẫn mang ấn tượng tôn sùng, tự ti cùng kính sợ rất sâu, trước mắt vẫn không thể đè lên đầu Tống quốc được. Về điểm này thì Tiêu Xước đã dặn dò hắn rất kỹ.
Mặc xá nhân cũng là tay đàm phán lão luyện, làm ra vẻ rất khó nghĩ một hồi lâu mói nói: "Được rồi, chuyện này bản quan sẽ nhanh chóng tấu lên nương nương, xin nương nương định đoạt. Bản quan nhất định sẽ cố gắng, thuyết phục nương nương chấp nhận điều kiện này của quý sứ. Ha ha, Dương đại nhân, ngươi cũng đừng đưa ra điều kiện nào nữa đấy, nếu không bản quan thật khó mà đáp ứng được."
Dương Hạo cười ha ha nói: "Đó là tất nhiên, hai nước chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao. Lần này bản sứ cũng là vì mục đích hòa bình mà tới, không phải là giương thương múa kiếm, muốn khơi lên chiến tranh giữa hai nước. Được rồi, hai chuyện quan trọng, thứ nhất là khi bản sứ lên điện cũng như hạ điện, quân chủ quý quốc phải dùng lễ nhạc để nghênh đón cùng đưa tiễn. Thứ hai, khi nói chuyện trên điện, quý quốc phải thiết tọa cho bản sứ (cho ngồi). Còn những thứ khác thì không có vấn đề. À đúng rồi, lần này bản sứ tới đây, thấy thủ đô quý quốc thật phồn hoa, hàng hóa chất đầy như núi, kỳ trân dị bảo vô số, lát nữa ta muốn đi thăm thú đường phố một chút, không biết có tiện không?"
Mặc xá nhân nói: "Quý sứ xin cứ tự nhiên, nhưng có cần bản quan phái người dẫn đường không?"
Dương Hạo mỉm cười nói: "Không cần đâu. Ta từ ngàn dặm xa xôi tới đây, khó mà thấy được dị vật không có ở Trung Nguyên. Bản sứ chỉ muốn mua một số thứ, làm quà cho mấy vị bằng hữu đồng nghiệp thôi. Đa tạ ý tốt của đại nhân."
Tiễn Mặc xá nhân về, Dương Hạo cùng Trương Đồng Chu ăn xong xuôi rồi dẫn theo mấy thị vệ thân tín đi dạo phố. Hắn dự tính, tin tức mình đi tới Thượng Kinh nhất định sẽ được Ngọc Lạc nghe được, bây giờ hắn phải tìm cơ hội ra khỏi quán dịch ( nơi ở cho sứ giả) thì nàng mới có cơ hôi gặp hắn.
Dương Hạo đi trên đường cứ nhằm về phía náo nhiệt mà đi. Thượng Kinh thành chia thành Nam thành cùng Bắc thành. Bắc thành là nơi người Khiết Đan ở, còn Nam thành phần lớn là người Hán sinh sống. Điện vũ lâu các ở khu vực người Hán sinh sống mặc dù không thể hào hoa bằng kiến trúc ở đế đô Khai Phong, Kim Lăng, nhưng so với nhiều thành nhỏ khác thì hoành tráng hơn nhiều.
Về phần Bắc thành thì chính là nơi người Khiết Đan cùng hoàng tộc sống với nhau. So với Nam thành, Bắc thành lại khác hẳn. Hoàng thành chia làm nội ngoại, cho dù là trong nội thành cũng có rất nhiều khoảng đất trống, chuyên dùng để dựng trướng bồng. Thứ nhất là để nghênh đón các vương công ở bên ngoài, quen với cuộc sống du mục. Thứ hai là để hoàng tộc thường xuyên đến ở, tránh gặp phải tình trạng quên gốc gác.
Lễ Tân viện nơi Dương Hạo đang ở thật ra cách hoàng cung rất gần, hắn muồn tìm được Ngọc Lạc cũng phải đi về phía Nam thành, nơi người Hán tập trung sinh sống. Nam thành không những không phải khu dân tị nạn, mà ngược lại còn là nơi phồn hoa nhất Thượng Kinh. Trong khu vực Nam thành, cửa hàng tửu lâu mọc lên san sát. Từ rượu ngon, tơ lụa, rau quả, lương thực, công cụ lao động cho tới các loại mặt hàng quý hiếm cũng đều có bán, hơn nữa ở nơi này cũng có chợ đêm.
Bình thường, rất nhiều hoàng tộc Khiết Đan, quý tộc cũng mặc Hán phục, đến nơi này dạo chơi, mà ngay cả vị Thụy Vương Hoàng đế bị phụ thân của Tiêu Hoàng hậu - Tiêu Ôn Tư ám sát chết, trước kia cũng thường xuyên mặc Hán phục tới khu vực buôn bán này uống rượu xem hát, uống đến trời đất quay cuồng, say ngoắc cần câu mới hồi cung.
Trên phố xá, ngọc châu, sừng tê giác, hổ phách, thủy tinh, mã não binh khí đều bán tất. Thậm chí còn có cả đồ bạc của Đông Doanh, nhân sâm của Cao Ly, đồ da của Nữ Chân cùng với đồ của đám thợ săn kiếm được trong rừng như mật ong, hạt thông, nấm khô vân vân. Lúc này trên đường đầu người lúc nhúc, phi thường náo nhiệt. Dương Hạo cứ thế đi một mạch trên đường, chuyên nhằm vào mấy nữ tử hoặc nam nhân trẻ tuổi, dáng người gầy gầy mà nhìn, thử xem có thể đột nhiên bắt gặp Ngọc Lạc hay không.
Bên cạnh đường cái có mấy đại hán người Khiết Đan mặc áo da truyền thống kéo theo những chiếc xe, chọn mua rau xanh lương thực. Lúc mới đầu, thân phận của người Hán trong đất Khiết Đan kém hơn người bản địa một bậc, những chuyện như người Khiết Đan nổi giận, giết luôn người Hán trên đường xảy ra như cơm bữa. Song trải qua một thời gian dài, người dân Hán trong đất Khiết Đan càng lúc càng phát triển, số lượng đông đảo, vì để trong nước ổn định và phát triển, người thống trị Khiết Đan mới dần dần thực hiện nghiêm túc luật pháp. Đừng nói chuyện giết người giữa ban ngày ban mặt, ngay cả chuyện dựa vào ưu thế chủng tốc ép người Hán mua bán hàng hóa cũng trở nên hiếm thấy, mấy người đại hán Khiết Đan kia muốn mua chút hàng rẻ cũng phải cò kè mặc cả.
Một hán tử mập mạp mặc trang phục truyền thống của người Khiết Đan, nhưng giọng nói của hắn lại đặc sệt khẩu âm của người phương bắc Trung Nguyên: "Lưu lão đầu, chúng ta lâu nay vẫn chiếu cố không ít tới buôn bán của ngươi nha. Cơm canh của một ngàn mấy trăm cái miệng trong nhà lao chúng ta không phải lâu nay vẫn mua ở chỗ người sao. Nếu ngươi bán mắc quá, chúng ta phải tìm người khác mua thôi."
Tiểu thương ( buôn bán nhỏ) bán đồ ăn là một lão đầu gầy gò, khuôn mặt đầy những nếp nhăn, tóc hoa râm. Lúc này hắn đang khom lưng cúi đầu, cười bồi với tên mập mạp kia: "Vương gia (người họ Vương), ngài thường mua hàng ở chỗ chúng ta, lão Lưu ta làm sao lại không để giá tốt cho ngài chứ? Song hiện giờ vừa mới đầu xuân, giá cả lương thực lên cao, nếu bán như cũ thì lão Lưu ta lỗ vốn mất. Vương gia, lão Lưu ta cũng có lão bà, con nhỏ phải nuôi mà. Nghe nói gần đây Vương gia mới sinh được quý tử nha, đây chính là chuyện đại hỉ nha. Chúc mừng, chúc mừng, Vương gia có chuyện đại hỉ như vậy, còn đi so đo hai cắc bạc này với lão Lưu sao? Đây đây, túi rau khô này coi như là lão Lưu ta kính hiếu ngài, coi như là chút lễ mọn mừng ngài sinh được quý tử. Còn tiền chỗ đồ ăn này, xin Vương gia giơ cao đánh khẽ, đừng làm khó lão Lưu ta nữa."
Người được gọi là Vương gia kia cả người vừa béo vừa lùn, lùn đến độ gần như không nhìn thấy cái cổ đâu nữa, chỉ thấy một cái đầu béo tròn đặt trên thân thể, miệng dẹp, hai mắt cũng hẹp dài, nhìn chẳng khác nào hình vẽ mặt người trên quả bóng cả.
Nghe Lưu lão đầu nói xong, hắn liền bật cười ha ha, hai mắt híp lại như sợi chỉ, không để ý chắc chẳng phát hiện được mắt hắn ở nơi nào: "Lưu lão đầu này, ngươi càng ngày càng láu cá rồi đấy, tưởng ta không biết hả? Được rồi được rồi, thấy ngươi có thể nói như vậy, ta cũng không so đo với ngươi nữa, cứ tính theo giá này đi, Ngột Diễn, đưa tiền cho hắn đi."
Lưu lão đầu vừa nghe hắn nói xong liền ngoác miệng tới tận mang tai, cười bồi: "Đa tạ Vương gia, đa tạ Vương gia. Vương gia là lão đại chủ sự trong thiên lao, gia quyến phạm quan ai mà không phải hòm vàng thúng bạc vác tới hiếu kính ngài chứ? Làm sao lại đi chấp nhặt với chúng dân đen như lão. Hắc hắc, lão thấy ngài có tâm địa bồ tát, nhìn lại phúc tướng của ngài, ta nghĩ ngài chắc chắn là Phật Di Lặc chuyển thế đó."
Vương Bằng cười mắng: "Con mẹ nó, bớt nịnh nọt đi. Bây giờ ngươi được hời rồi. Chờ khi thức ăn tươi hạ giá, ngươi phải để cho ta giá tốt một chút đấy."
Nói xong hắn vừa cười dài vừa quay đầu đi, trong lúc ánh mắt chuyển đi, trong lúc vô tình lại chiếu thẳng về phía Dương Hạo cùng mấy tên thị vệ đang chậm rãi đi tới đây. Trong chớp mắt, hắn lập tức như bị sét đánh trúng, sắc mặt trở nên trắng bệch, cả thân thể giống như lá vàng rơi trong gió thu, bắt đầu run rẩy kịch liệt.
Lưu lão đầu đang mặt mày hớn hở đếm tiền chợt ngẩng đầu lên nhìn thấy sắc mặt của hắn, không khỏi giật mình nói: "Ôi, Vương gia, ngài làm sao vậy?"
Lúc này Dương Hạo vừa đi vừa ngó đông ngó tay, sắp đi tới nơi này, mập mạp vội vàng xoay người ra chỗ khác, lệ rơi đầy mặt, cổ họng nghẹn ngào, khàn khàn nói: "Không có gì, bụi bay vào mắt đấy mà."
Chương 382:Khiêu tình
Dương Hạo trước tiên đưa là một cái yêu cầu mà đối phương tuyệt đối không thể đáp ứng, Dương Hạo không chú ý tới mấy tên Khiết Đan bên đường, kẻ giống như vậy ở thành Thượng Kinh thì đâu đâu cũng có thể gặp, đó là chuyện quá bình thường. Hắn đi qua chỗ mấy tên bọn chúng, ánh mắt săm soi nhìn theo bóng dáng hắn, ánh mắt có vẻ đang đấu tranh, mãi đến khi có một tên nói: “Vương Đầu Nhi, đến lúc chúng ta nên đi rồi”. Ánh mắt của hắn lúc này mới mất đi, rồi lại nhìn vào mắt Dương Hạo, lúc này mới quay đầu đi.
Lão Lưu Đầu thầm kinh ngạc: “Vương Đầu Nhi nhìn ai không biết? Chẳng lẽ là một cô nương xinh đẹp vạn phần nhà ai đó đi trên phố sao?”
Hắn rướn cái cổ nhìn ngó trên đường, chỉ thấy có một công tử mặc áo bào xanh đang đi, và mang theo mấy tên thuộc hạ tạo sự chú ý, ánh mắt hắn trở nên băn khoăn, bông nhiên thấy một người đàn bà đã có chồng(thiếu phụ) cung cấp rau xanh đi trên đường, nhìn dáng đi, sao lại không nhận ra là có chồng rồi nhỉ, dáng người nhỏ nhắn, làm rung động biết bao trái tim đàn ông.
“Ôi, một cô nương làm dáng lẳng lơ, gia nhập binh lính ba năm, Vương Đầu Nhi trong tù cả ngày chỉ nhìn thấy không phải là bọn ngục tốt phát nôn thì là đám tù tội kêu gào, hắn chưa từng thấy người phụ nữ có chồng, chẳng trách vừa nhìn thì đã mê mẩn”.
Lão Lưu Đầu cắn vào lưỡi mình, bên tai bỗng vọng tới tiếng hét của một tên béo: “Ngươi, tên chó chết kia, xểnh ra không nhìn đến ngươi, ngươi đã bắt đầu không thành thực, nhìn cái gì mà nhìn hả? Cô nương nhà ai làm đỏm hả?”
“Oan uổng quá, bà ơi”. Tiếng Lão Lưu Đầu đáng thương thốt lên, rồi bị người vợ đanh đá véo tai lôi vào nhà.
Dương Hạo đến chỗ khách **** mà Đinh Ngọc Lạc nói, thấy lầu 1 của khách **** là một trà viên/vườn trà, liền đi vào và ngồi xuống, gọi một chén trà ra, sau đó rỉ tai nói với Mục Vũ vài câu, Mục Vũ bèn đứng dậy đi ra, như thể đang tìm nơi nào đó đi wc.
1 lúc sau, Mục Vũ trở về, nhìn ngang ngó dọc, rồi ngồi xuống bên cạnh Dương Hạo, thì thầm to nhỏ gì đó với hắn.
Dương Hạo chỉ nghe vài câu, người bỗng dưng run lên, chén trà nóng đang cầm trong tay trào nước ra tay hắn, hắn giật mình nhìn Mục Vũ, Mục Vũ gật đầu khẳng định lời mình nói, Dương Hạo kinh ngạc run rẩy, lắp bắp nói: “Sao, sao lại, Tiểu Lục, Thiết Ngưu, La, Quân chủ…, họ đều còn sống? Đang ở đâu? Ông trời có mắt”.
“Đại nhân, đề phòng tai vách mạch rừng, mọi chuyện chúng ta về nhà hẵng nói” .
“Được, chúng ta về luôn thôi”.
Dương Hạo lập tức đứng dậy, mua vài thứ đồ đặc sản của vùng này ở đường rồi vội vội vàng vàng trở về Lễ Tân viện.
Sáng hôm đó, thông dịch viên xá nhân Mặc Thủy Ngấn đuổi tới Lễ Tân viện, dẫn Dương Hạo đã ăn mặc chỉnh tề đến Ngũ Phượng lầu. Lễ Tân viện cách nội thành tương đối gần, chẳng cần ngồi xe ngựa, đi bộ một đoạn là đến, nên đi bộ một đoạn đường, trước mặt đã hiện ra cửa tòa lầu nguy nga, hai bên cổng lầu là tường cung, song tường cung này với lối kiến trúc mang tính cho có, nó chỉ dài có 1km, cung cung thành nửa vòng tròn bảo vệ nội thành, giống như lần đầu Dương Hạo với thân phận thiếu chủ của Đảng Hạng Thất Thị đến thăm doanhh trại Ngũ Liễu Thư, nha môn sừng sững trên đám cỏ phía dưới, hai bên cắm hàng rào khá cao, kéo dài, làm cái cổng thành, không che hoàn toàn nội thành.
Dương Hạo y phục chỉnh tề như đang ở triều Tống, quần áo màu xanh, đầu đội mũ tiến hiền, đeo ngọc bội sang một bên và túi cá ngọc, vải trắng cuốn quanh chân, áo mũ chỉnh tề, mặt mũi tuấn tú, trông không giống với quan lại Khiết Đan, nhiều thị vệ, cung nữ khi đứng cạnh hắn đều không tránh khỏi ánh mắt hiếu kỳ.
Chẳng được bao lâu, tiếng trống nhạc đã nổi lên, Dương Hạo hồi hộp: Tiên Hậu lên triều rồi, Đông Nhi, Đông Nhi giờ đang ở trong điện, nàng nhớ ta, nhất định nhớ ta mỏi mòn.
Một nội thị đi đến đứng trước bậc thềm hô dõng dạc: “Hoàng hậu có chỉ, truyền Tống sứ Dương Hạo vào triều”.
Dương Hạo thở phù một cái, tim hắn đập nhanh hơn bao giờ hết, , hai tên đi theo phía sau hắn cầm lễ vật mang vào yết kiến. Mặc xá nhân đi dẫn trước, vừa vào Ngũ Phượng lầu, thì có cảm giác đại điện của vương triều bắc này không rộng cho lắm, đặc biệt là vừa mới đi qua chỗ Khánh Vương, quan lại trong triều thì lèo tèo, quan đứng không nhiều. Dương Hạo không rảnh chú ý soi xét, chỉ nhìn thẳng hướng hồng bào mũ phượng, chưa ngồi xuống, thì có một khuôn mặt xinh đẹp lọt vào mắt hắn, hắn không tiện nhìn ngang ngó dọc tìm Đông Nhi của mình, chỉ nhìn người đó không chớp mắt, ưỡn ngực thẳng dậy, đi đến ngự giá phía trước năm bước rồi dừng chân lại, vái dài thi lễ, cao giọng nói: “Ngoại thần Dương Hạo, phụng chỉ Hoàng đế tới bái kiến Hoàng đế quý quốc, Hoàng hậu”.
Trên ngự có một tiếng thở nhẹ, giọng nói của một người đàn bà: “Hoàng đế Trung Nguyên rất chú trọng tới tình hữu nghị hai nước, phái sứ giả lặn lội đường xa tới, thực vất vả, vất vả, xin hãy bình thân”.
Giọng nói nghe rất hiền dịu dễ nghe, song lại không bị mất chút uy nghiêm nào, tiếng Hán được nói ra vô cùng chuẩn xác, Dương Hạo không dám ngẩng đầu nhìn nhiều, chỉ cảm ơn một tiếng rồi cong lưng, thối lui một bước nói: “Bổn quốc và quý quốc núi liền núi sông liền sông, gắn bó thân thiết. Tháng trước dân vùng biên giới và dân gần Nhạn Môn quan bị tộc người quý quốc cướp bóc, Hoàng Bệ hạ ta vô cùng trách móc. Vì sợ binh bất ngờ nổi dậy, đại cục hỗn loạn, đã đặc lệnh cho thần xuất sứ sang quý quốc, mong quý quốc có hình phạt thích đáng với những dân phạm tội”.
Tiêu hậu mỉm cười, nói: “Dân ở Nhạn Môn quan quý quốc bị trộm cướp là một chuyện, Trẫm cũng đã được biết. Trẫm nghe nói vậy mà cũng tức giận lắm, bách tính quý quốc chịu khổ như vậy, Trẫm cũng chỉ biết than thở mà thôi. Gần đây khu vực biên giới trộm cướp như cơm bữa, cướp của hơn nữa còn giết người không trừ nơi nào. Bách tính nước ta cũng chịu khổ khôn cùng. Hợp thời, vì nội quốc ta Khánh Vương mưu phản, Trẫm không có thời gian lo cho chuyện đó, về sau mới phái người đi bao vây và tiêu trừ chúng, Trẫm mới được tin quý sứ trên quãng đường đến đây đã gặp phải năm nghìn mã tặc sát hại, may mà bọn thổ phỉ đó đã bị tiêu diệt, may quá, may quá, hóa ra bách tính Nhạn Môn quan bị cướp bóc, là do bọn thổ phỉ này gây ra. Giờ bọn mã tặc ấy đã phải đền tội, quý sứ tận mắt thấy, có thể trở về báo với quý quốc Hoàng đế Bệ hạ.
Dương Hạo trầm ngâm nói: “Hoàng đế Bệ hạ ta lần này phái sứ đến trước, tuy vì địch của dân Nhạn Môn quan, cũng có quốc sự muốn thương lượng với Hoàng đế quý quốc, Hoàng hậu Bệ hạ, giờ có một bức Hoàng thân bỉ quốc thư, phục duy kính khải.
Dương Hạo nói xong, người ở phía sau bước lên một bước, hai tay cầm lấy quốc thư, hắn cúi người cầm quốc thư giơ cao lên, Khiết Đan nội bộ thị lang cầm trình lên ngự giá, Tiêu hậu nhận lấy, và để trên bàn, nói: “Quốc thư của Hoàng đế quý quốc, Trẫm sẽ bàn bạc với Hoàng đế Bệ hạ, rồi sau đó đưa ra câu trả lời. Giờ quý sứ đường xa lặn lội tới đây, Hoàng đế Bệ hạ ta cũng rất vui vẻ, song vì long thể không được khỏe, không tiện tiếp kiến, và đã có chỉ dụ, để an ủi quý sứ, Đông Nhi, đọc chế thư của Bệ hạ”.
“Đông Nhi”.
Tiêu hậu dặn dò gì đó, Dương Hạo trở nên hồi hộp hơn bao giờ hết, người hắn rùng mình một cái, đầu từ từ ngẩng đầu lên, hắn nghiến chặt răng, cố gắng lấy lại bình tĩnh, khóe mắt hơi nhìn sang bên cạnh, mới thấy một quan văn đi ra, tà áo người này hơi động, đôi giày được thêu tinh xảo, đứng trước mặt hắn năm bước.
“Trẫm nghe tin bọn thổ phỉ quấy nhiễu vùng biên giới Tống, cướp bóc giết hại vô số, tổn thất vô cùng nặng nề, Trẫm vô cùng tức giận. Hoàng đế Bệ hạ quý quốc không khởi chiến, làm phiền sứ ở xa tới, gặp lúc can thiệp, Trẫm thấy được an ủi phần nào. Thiên hạ hiện giờ lớn mạnh, và chỉ có hai nước nam bắc đứng trụ, dân Nhạn Môn quan bị thiệt thòi, thực bất hạnh thay, nếu có chiến trận xảy ra, khói lửa trận mạc dấy lên, hai nước chúng ta người khổ chính là dân, có phải không? May mà Hoàng đế quý quốc anh minh, đã lấy binh xa làm quần áo, lấy binh lính làm ngọc, ánh sáng chiếu rọi khắp nơi, láng giềng hòa thuận”.
Đông Nhi đọc gì đó, Dương Hạo chẳng bỏ được chữ nào vào tai, hắn chỉ nhăm nhăm nhìn chân của Đông Nhi, nghe giọng nói quen thuộc của nàng, cảm xúc dâng trào, khó mà bình tĩnh được. Giọng nói của Đông Nhi vẫn như ngày nào, vẫn là giọng nói êm tai dễ nghe ấy, giọng nói ấy vang lên bên tai, người đẹp thì ở trước mặt, Dương Hạo hai mắt rưng rưng.
Lục cung thượng quan La Đông Nhi tuy đã được La Khắc Địch nhiều lần dặn dò, nàng nhất định phải khống chế được mình, không được lộ ra chút sơ hở nào, nhưng khi thấy người mà mình mong nhớ ngày đêm, đồng nghĩa với việc bị kích động là chuyện đương nhiên, đọc chế thư, từng câu từng chữ, một lúc lâu sau mới bình tĩnh lại được, giọng đọc mới lưu loát hơn.
Tiêu Xước lần đầu giao cho cô sứ mệnh trọng đại này, cho nên hơi rụt rè là chuyện đương nhiên, không nghĩ gì nhiều, đợi Đông Nhi đọc xong, từ từ ngẩng đầu, lúc này hướng ánh mắt về phía Đông Nhi, Đông Nhi mặc một bộ viên lĩnh tả nhẫm, quan bào màu khói xanh, đầu đội mũ cánh chuồn, mặt không thoa phấn, vẻ đẹp tự nhiên, nghiêm chỉnh.
Hai tay nàng cầm lấy chế thư, đang từ từ ngẩng đầu lên, đôi mắt vừa rời khỏi bức chế thư, thì ánh mắt hai người chạm nhau, có một sự trao đổi dữ dội trong cơ thể con người, tim đập thình thịch nhanh hơn bao giờ hết, đôi mắt sáng trong của Đông Nhi long lanh, cũng may hai năm nay đã được vào cung Hoàng đế Khiết Đan, nhờ có kinh nghiệm rèn dũa, và cứng cáp hơn cô gái thôn nữ ngày nào, cô vội cúi đầu, hai mắt chớp chớp, lúc này mới lấy lại được bình tĩnh.
“Người đâu, dọn chỗ cho Tống sứ ngồi”.
Hai người chạm mặt nhau, Tiêu Xước ngồi trên cao không hề nghi ngờ gì, cô thấy vị Tống sứ này ăn mặc chỉnh tề, phong độ ngời ngời, hàng mày tuấn tú, trả lời rõ ràng gãy gọn, thực không hổ danh là nam nhi thảo nguyên vừa hiền dịu vừa thông minh, nhân vật Trung Nguyên quả nhiên bất phàm, lòng có đến mấy phần ngưỡng mộ, thế là vẻ mặt ôn hòa nói: “Dọn chỗ cho Tống sứ ngồi”.
Dương Hạo lấy lại bình tĩnh, làm như không hề quen Đông Nhi, cảm ơn Tiêu hậu rồi ngồi xuống, Tiêu Xước mỉm cười nói: “Tống sứ lần đầu xuất sứ tái ngoại phải không? Lần này Tống sứ đến, trên đường thấy phong thổ bắc quốc thế nào?”
Dương Hạo lúc này mới cẩn thận nhớ lại vị Tiêu thái hậu được nổi danh trong lịch sử, Tiêu thái hậu trong bình thư thích tìm con rể Trung Nguyên, lần này thì lại đầu đội tán hoa, mặc hồng bào, khuôn mặt khả ái, song lại là một cô gái, hơn nữa hai hàng lông mày vừa đen vừa dày, trông anh khí vô cùng, không khỏi khiến người ta mê mẩn.
Dương Hạo cúi đầu xuống, chắp tay cười nói: “Nước bắc thảo nguyên cây cỏ xanh tươi, phong cảnh thực có khác với Trung Nguyên, trên đường đi tuy gian khổ, song ngoại thần đi vẫn cảm nhận được sự thư thái vui vẻ, và cảm thấy phong cảnh quá ư là đẹp, tất cả đều được thu vào tầm mắt ngoại thần. Đặc biệt là con người phía bắc, cho dù già trẻ trai hay gái đều giỏi cầm cung cưỡi ngựa, khiến cho ngoại thần vô cùng thán phục.
Tiêu Xước nghe vậy mày ngài hơi nhướn lên, vui vẻ nói: “Ồ? Con người Trung Nguyên thì giỏi thơ phú, thơ từ mà quý sứ làm, nhất định là rất hay, Trẫm có thể thưởng thức không đây?”
Dương Hạo cười nói: “Ngoại thần vốn là một quan võ, bảo ngoại thần Hồng tư lự khanh làm thơ từ thì khác gì không trâu bắt chó đi cày, nhiều khi bị đồng nghiệp chê cười thì lại nhắc đến vốn thơ từ của ta, so với các sĩ tử Trung Nguyên thì ta còn kém vạn phần, song thường nghe họ ngâm thơ ứng đối, mưa dầm thấm đất, nhất thời có hứng làm vài bài, nếu có chỗ nào vụng về, xin mọi người lượng thứ”.
Tiêu Xước mỉm cười, nói: “Quý sứ quá khiêm tốn rồi, chi bằng cứ ngâm ra đi”.
Nụ cười của cô như hoa thêm nắng, kiều diễm và quyến rũ vô cùng, Dương Hạo hơi nhói trong lòng: “Thực là lợi hại, nụ cười này, phong tình quá, Oa Nhi phải luyện từ nhỏ, kiều diễm thế này không có gì lạ, nếu để nàng thấy có một cô gái quyến rũ nghiêng nước nghiêng thành thế này, sợ rằng cũng sẽ ngưỡng mộ vạn phần”.
Tiêu Xước không nhìn ra vị này chính là tên phế vật bị mình đá ngất lịm ở phủ Trình Thế Hùng lần đầu gặp ở Quảng Nguyên, đội quân Tử Ngũ cốc cũng chính là do hắn lao ra cứu người, nhìn từ xa,khi đó hắn râu ria xồm xoàm, đầu tóc rối bù, múa may áo cà sa trong tay, nào có biết được lại có lần thứ ba gặp lại người này.
Cô không ngờ vị áo mũ chỉnh tề này khi nhìn thấy mình lại nảy sinh sự ngưỡng mộ về sắc đẹp của mình, bèn nói: “Ha ha, con người của nước ta thường thích làm thơ, song vì tiếng Hán nông cạn, bình phẩm không giỏi, nhấn vần không đúng, và đó là chuyện thường thấy, quý sứ xuất thân là võ nhân, có thể ngâm thơ, đó là đáng quý lắm rồi, ai sẽ cười ngươi chứ?”
Văn võ đại thần đứng một bên gật gù cái đầu cho là đúng, bài thơ của Dương Hạo là bài đêm qua nổi hứng khó ngủ mà nghĩ ra, sáng sớm đã kịp đọc lại một lần cho lưu loát, lúc này hắn làm ra vẻ nghĩ ngợi, rồi mới nói: “Thế thì xin lượng thứ”.
Hắn ho khan một tiếng rồi ngâm:
“Ta đi sứ bắc quốc, chim hót reo vang nghênh đón ta.
Nghe nói bắc quốc nhiều hào kiệt, người cưỡi ngựa bắn cung trăm phát trăm trúng.
Đông đi xuân đến cây cỏ xanh tươi, vó ngựa đưa ta đến kinh thành.
Đứa trẻ cầm cung ngắm bắn đại bàng trên trời cao.
Dương Hạo ngâm đến đây, vuốt vuốt sống mũi, cười gượng nói: “Bài thơ của ngoại thần thế nào ạ?”
“Hay, hay lắm!” Hai vị quan đưa ra tiếng khen, những tên mà đến chữ còn không biết viết, thì có thể to tiếng với ai, rung đùi đắc ý làm ra vẻ mình nghe hiểu được. Họ tuy nghe không ra hay dở gì, nhưng lại sùng bái mù quáng văn hóa Trung Nguyên, tuyệt đối không tin là Dương Hạo khiêm tốn, lúc nãy nghe đọc chế thư dài dằng dặc u hết đầu, giờ được nghe thơ ca, sao có thể không tốt chứ?
Tiêu Xước mặt giãn ra, cười nói: “Thơ hay, thực là áng thơ hay”.
Cô nghe xong bài thơ của Dương Hạo, quả nhiên hiểu được khá nhiều, chân vần cũng hoàn toàn hiểu hết, hắn nói hắn xuất thân là võ nhân, xem ra là giả rồi. Song sức hút của bài thơ quả thực rất hay, không nói điêu chứ bài thơ đọc lên khiến ngươi ta liên tưởng đến chim chóc, địa hình đất bắc nguy hiểm, cỏ mọc um tùm, dễ thủ mà khó công, khen thay cho vị anh hùng hào kiệt phương bắc, người người đều giỏi võ nghệ, sự miêu tả không chỉ dừng lại ở đó, mà trong đất đá bay mù trời(gió to) sẽ có mấy mũi tên nhọn, ngoài thành Thượng Kinh còn nhìn thấy đứa trẻ giương cung ngắm tên bắn chim điêu(đại bàng), còn là một thượng Kinh đông đi xuân về, chứng tỏ đất bắc rộng lớn thế nào.
Tiêu hậu tán dương, các quan hiểu được bài thơ cũng vỗ tay khen ngợi, còn quan không hiểu được bài thơ thì cứ dương dương tự đắc, chỉ cảm thấy nó độc đáo, tiếng vỗ tay ủng hộ vang lên, Tiêu hậu cười, đưa tay cầm lấy bội đao, vui vẻ nói: “Bài thơ này Trẫm rất là thích, Đông Nhi, đưa bội đao này của Trẫm tặng cho sứ giả Tống quốc làm phần thưởng”.
Bộ đao này là đao nhỏ luôn theo sát người, dùng để xé hoặc cắt thức ăn trâu bò, ngoài ra nó còn là vũ khí tùy thân. Bội đao của Tiêu hậu bằng vàng, đá ngọc được trang trí lên, thực là một vật quý giá. Đông Nhi lên bậc nhận đao, và đưa đến trước mặt Dương Hạo, nhìn hắn một cái thôi mà tim lại đập dồn đập, cô vội cúi đầu xuống.
Dương Hạo đưa tay ra nhận đao, lớn giọng nói: “Đa tạ Hoàng hậu và Bệ hạ”. Dương Hạo đưa tay ra nhận, ngón tay hắn chạm vào ngón út của Đông Nhi, Đông Nhi giật mình vội nắm chặt tay lại, ánh mắt trong suốt như pha lê, khẽ liếc nhẹ hắn một cái.
Ánh mắt ấy khắc ghi vào lòng Dương Hạo không thể phai mờ, hắn lại lớn tiếng nói: “Đa tạ La thượng quan”. Rồi lại khẽ nói: “Quan nhân làm thơ này, là dành cho nàng đấy”.
Đông Nhi giật mình, lui về phía bên cạnh nghĩ: “Bài thơ này rõ ràng là để ca ngợi phong cảnh nước bắc, nào có đề cập đến ta, sao lại là dành cho ta được”.
Cô lẩm nhẩm lại mấy lần, bỗng nhiên giật mình bừng tỉnh, mở cờ trong bụng nhìn Dương Hạo.
Tiêu hậu nói: “Đông Nhi, thay Trẫm đưa sứ tiết Tống quốc về quán dịch, ngày mai Trẫm và các quan mở tiệc khoản đãi Tống sứ, Bãi triều!”
“Tuân chỉ”.
“Cảm ơn Bệ hạ”.
Dương Hạo và Đông Nhi bốn mắt nhìn nhau, tình cảm chứa đựng như được bộc bạch hết thông qua ánh mắt.
“Dương đại nhân, bổn quan cáo từ”.
“La thượng quan, đã đến rồi thì vào phòng ngồi chơi. Ngày mai đến dự yến tiệc của Hoàng hậu nương nương, Dương mỗ cần phải có lễ nghi gì, xin chỉ giáo”.
“Cái này…” Đông Nhi chớp mắt nhìn đám tùy hành, lạnh lùng nói: “Thế, Dương đại nhân, mời”.
“La thượng quan, mời”.
Vào trong phòng, người ngồi bên chủ, người ngồi bên khách, Dương Hạo ho khan một tiếng nói: “Bọn ngươi lui ra, bản quan có việc muốn bàn với La thượng quan”.
Đám người Mục Vũ khom người đi ra, La Đông Nhi cũng xua tay cho đám thị vệ nữ binh đi ra, mấy thị vệ đó cũng đi theo hàng ra.
“Hạo ca ca”.
“Đông Nhi”.
Hai người rời khỏi chỗ ngồi, chạy tới ôm chầm lấy nhau.
“Hạo ca ca, thiếp tưởng cuộc đời này không thể gặp chàng nữa”.
“Đông Nhi, ta còn tưởng rằng nàng đã bị Lý gia ghìm dưới sông, ông trời có mắt, để ta biết được tin tức của nàng”.
“Hạo ca ca, sao chàng lại nhanh chóng được làm đại quan Tống quốc thế? Khi vừa nghe được tin này, thiếp không dám tin là chàng cơ. Chàng giờ thế nào rồi, tất cả đều ổn chứ?’
“Mọi chuyện khó nói trước, nàng cũng khác nhiều lắm đấy, ta sẽ mang nàng về với ta. À, đúng rồi, La Khắc Địch chưa chết sao? Tiểu Lục và Thiết Ngưu cũng ở chỗ này cùng nàng sao? Đại đầu đi đâu rồi?”
Hai người nói những câu chuyện bất tận, cứ người hỏi người trả lời, hai người nhìn nhau, ôm chặt lấy nhau, người mình thương yêu bao năm không gặp ngay trước mặt, mọi vấn đề đều để sau hẵng hay.
“Kế hoạch của ta vốn là lén đưa nàng về, song không ngờ La Khắc Địch và Tiểu Lục, Thiết Ngưu đều ở đây, như vậy thì phiền rồi đây, ta cần phải sắp xếp lại kế hoạch”.
“Mấy ngày nay tốn ông thăm dò đường xá nam hạ, nhưng đường đi thực quá xa, thực sự là không nắm chắc là sẽ an toàn mà trốn về được. Cơ hội chỉ có một lần, chúng ta không thể hành động thiếu suy nghĩ được, ai biết lúc nà chàng lại đến. Hạo ca ca, Tiểu Lục và Thiết Ngưu nghe nói chàng đến, đều vui mừng khôn xiết, nhưng La tứ ca nói, càng vào thời điểm này, thì càng phải bình tĩnh, không thể lộ dấu vết được, nên không cho họ gặp chàng”.
“La tứ ca? Sao nàng lại nhân hắn là La tứ ca”.
La Đông Nhi cười phá lên nói: “Không phải là nhận, mà hắn chính là ca ca của thiếp”.
“Hạo ca ca, ta không thể ở lại lâu được, phải về cung giờ đây”.
“Đông Nhi, ta thực sự không nỡ để nàng rời xa ta nửa bước”.
“A, không được, Hạo ca ca, ngoài cửa, ngoài cửa có rất nhiều thị vệ”.
Những tiếng loáng thoáng trong phòng bỗng nhiên im bặt, phòng yên tĩnh lạ thường, Mục vũ và đám nữ binh thị vệ đứng ngoài cửa nhìn vào, sau đó lại nghiêm mặt nhìn ra.
“Hạo ca ca” La Đông Nhi thở gấp ngồi vào lòng hắn, hai cánh tay vòng qua cổ hắn, người mềm mại thả lỏng ngồi.
“Nàng giờ là Lục cung thượng quan, muốn tìm gặp được nàng đâu có dễ, ta có rất nhiều chuyện muốn nói với nàng, tối nay ta gặp nàng có được không?”
“Không được, không được đâu”. Đông Nhi lắc đầu nói: “Rất là nguy hiểm, nếu như bị ai phát hiện ra thì ta và chàng đều coi như xong. Hơn nữa, Hoàng hậu nương nương lại thường xuyên đến, ngộ nhỡ bị cô ấy gặp, thì mọi chuyện sẽ ra sao đây?”
“Thế thì phải làm sao?” Dương Hạo ôm chặt cơ thể của nàng, nũng nịu hỏi.
“Thiếp, thiếp”. Nàng nhìn Dương Hạo, dựa người vào bộ ngực rắn chắc của hắn, hít mùi trên cơ thể hắn, La Đông Nhi cũng muốn bên hắn lắm, mắt nàng rưng rưng.
“Quan nhân, quan nhân tạm thời hãy cố chịu đựng nhé, đợi Đông Nhi đi sắp xếp mọi chuyện trong phủ đã, xem xem tối nào Hoàng hậu nương nương không đến thì sẽ nghĩ cách nói với quan nhân”.
Hic, còn ta thì mấy ngày này sẽ nghĩ cách để chúng ta thoát khỏi đây. La Khắc Địch bọn họ đến chỗ nàng sẽ không sinh nghi. Thế được rồi, tìm cơ hội gọi bọn họ qua đây vậy, ta cũng muốn gặp bọn họ.
“Vâng, được ạ”.
Một Lục cung thượng quan dám làm dám chịu, thống lĩnh cả đám nữ thị vệ trong cung, thế mà trong lòng Dương Hạo chẳng khác gì con chim nhỏ, hắn có nói thế nào cũng gật đầu đồng ý.
“Ôi”. La Đông Nhi bỗng dưng giật nảy người, mặt đỏ lựng, khẽ nói: “Người ta đã bị người ta làm hỏng rồi, quang thiên bạch nhật thế này, ngoài hành lang có rất nhiều thị vệ, sao có thể làm chuyện đó với chàng được”.
Nàng cúi mặt xuống, hơi liếc nhìn Dương Hạo, nói: “Hạo ca ca, thiếp, về đây”.
“Đông Nhi, thế khi nào chúng ta mới gặp lại được”.
La Đông Nhi nhìn xuống mũi giày, nói: “Mai nhé”.
“Ơ”.
Ôi! Ý Dương Hạo hỏi là khi nào hắn và Đông Nhi mới có thể gặp riêng và làm chuyện ấy cơ mà.
La Đông Nhi cười gượng: “Đã bảo là phải sắp xếp bên phủ xong xuôi đã mà”.
Cô nhìn Dương Hạo, rồi lại nhìn xuống mũi giầy, hai má ửng đỏ rất đáng yêu hôn nhẹ vào má hắn một cái, rồi quay người thối lui, liếc nhìn hắn cái nữa, lớn tiếng nói: “Dương đại nhân xin dừng bước, bổn quan cáo từ”.
Đi trên đường, hơi thở của La Đông Nhi dồn dập, má hây hây đỏ, hai thị vệ đi bên cạnh liếc nhìn cô, La Đông Nhi không để ý, ho khan một tiếng, lắc đầu thở dài nói: “Vị Tống sứ này, thực là cái chày gỗ, phải bảo hắn về lễ nghi, thật là mệt”.
Một nữ binh tò mò hỏi: “Đại nhân, chày gỗ nghĩa là gì ạ?”
“Chày gỗ là ngốc nghếch đấy, chả hiểu cái gì cả í”.
Đông Nhi nói rồi, mặt lại càng đỏ hơn, nóng bừng bừng.
Chương 383:Cung đình
La Đông Nhi cước bộ nhẹ nhàng, giống như hồ điệp xuyên hoa trên đường bay thẳng tới Nguyệt Hoa Cung, nội thị trong cung thấy vậy liền ríu rít kêu lạ, vị La thượng quân trước giờ ngồi không động, đi không đong đưa, nói không cao giọng, cười không lộ răng giờ lại cước bộ nhẹ nhàng, mặt mày hớn hở, đúng là lần đầu tiên nhìn thấy.
Tới Nguyệt Hoa cung của mình, La Đông Nhi dừng lại một chút, để hô hấp và vể mặt bình tĩnh trở lại rồi mới rảo bước vào trong.
Màn trường vải vàng, thắp hương tiên hạc, ở phía dưới chính giữa trần nhà đặt một thư án, trên thư án bày văn phòng tứ bảo và hai chồng văn kiện cao cao. Tiêu Xước ngồi ở giữa, đang lật xem một bức tấu chương, hàng lông mày rậm hơi nhíu lại, như đang trầm ngâm gì đó. La Đông Nhi thấy vậy liền vội vàng bước khẽ, rón rén tiến tới cạnh bà ta.
Tiêu Xước tay nâng bút son, sắc mặt lo lắng, thần tình do dự, bút son cứ vậy được giữ nguyên, một hồi lâu vẫn chưa thể hạ bút. Một lúc sau, bà ta đột nhiên thở dài một tiếng, đặt bút xuống, dựa lưng vào ghế, nhắm mắt lại.
Đông Nhi bước tới sau ghế, nhẹ nhàng xoa bóp vai thơm của bà ta. Tiêu Xước thoáng động đậy, lập tức thả lỏng cơ thể, một lúc sau liền mở miệng hỏi: "Tống sứ trở về quán dịch, có nói gì với ngươi không?"
"Không hề nói gì cả," Đông Nhi sắc mặt thoáng hồng, mắt sáng lên, nàng ta mím mím môi, ôn nhu nói: "Hắn chỉ bảo hoàng đế Tống quốc rất để ý tới chuyện lần này hắn xuất sứ giao tiếp, hi vọng nương nương có thẻ sớm đưa ra quyết định, có một câu trả lời thuyết phục, để tránh sai lầm làm chậm trễ quy trình của hắn."
Tiêu Xước hơi nhếch môi, tựa cười mà như không cười, nói: "Hừ Hừ, Triệu Khuông Dận nóng lòng như vậy ư?" Nàng ta lại nhấc tay lên, nhẹ nhàng đặt lên tay Đông Nhi, thở dài nói: "Ta đã đọc qua quốc thư, trong lòng do dự khó quyết. Đông Nhi, nên làm thế nào mới tốt đây?"
Đông Nhi do dự, hỏi: "Triệu quan gia nhắc tới yêu cầu gì mà lại làm khó nương nương như vậy?"
Tiêu Xước cười lạnh: "Hắn có tài cán gì mà làm khó được ta chứ? Hoạn của Khiết Đan ta, trước giờ không ở Trung Nguyên mà là ở trong nội bộ triều ta!"
Bà ta đột nhiên đứng dậy, chậm rãi đi lại trong điện: "Thái Tổ chinh phạt Hải quốc, trên đường về thì bệnh chết. Thái Tông hoàng đế trên đường thảo phạt Trung Nguyên, cũng ở trong quân mà bệnh chết. Da Luật Nguyễn được ba quân đưa lên, theo quân tác chiến làm đế, lên làm Thế Tông. Song thái hậu muốn lập hoàng đệ Da Luật Lý Hồ làm đế, trong nước nổi chiến loạn. Đây là lần nội loạn đầu tiên của triều ta. May mà đại tướng quân Da Luật Chất Ốc ở bên trong khuyên bảo, thái hậu hiểu rõ đại nghĩa, thừa nhận hoàng vị của Thế Tông, quốc nội mới được yên bình.
Thế Tông hoàng đế khi giúp Hán quốc công đánh Chu quốc, khi đang nằm ngủ thì bị đại tướng Da Luật Sát Ca một đao chém chết trong trướng, tự lập làm đế. Trưởng thử của Thái Tông là Da Luật Trăn và đại tướng Da Luật Chất Ốc lại suất binh thải phạt, giết chế Sát Ca. Da Luật Trăn xưng đế, là Mục tông. Thời Mục tông làm đế, triều ta phản loạn thường xuyên, Tiêu Mi Cổ, Da Luật Ủy Quốc, Da Luật Địch Liệt, Da Luật Uyển, Da Luật Thọ Viễn, Sở A Bất, Da Luật Hỉ Ẩn trước sau khởi binh tạo phản, dần dần làm yếu đi lực lượng của triều ta. Lúc này, chính là lúc Triệu Khuông Dận khoác lên hoàng bào, nếu không phải triêu ta nội loạn thường xuyên, hắn sao có cơ hồi ngồi yên ổn trên đế vị, nhất thống Trung Nguyên? Mục Tông ngu ngốc khát máu, chư bộ nội bộ lục đục, lúc tuần du bị người hầu ám sát ở trong trướng. Triều đình lập kim thượng (hoàng đế hiện tại). Kim thượng trọng dụng Hán quan, chỉnh đốn lại trị, giảm nhẹ hình phạt, hưng tu thủy lợi, phát triển nông canh. Trong thời gian hai năm ngắn ngủi, triều ta đã có hiện tượng phục hưng, kim thượng chính là một vị minh quân hiếm có. Đáng tiếc, kim thượng long thể một mực yếu đuối, sau khi bị ám sát càng nằm riết trên giường, lúc mê lúc tỉnh, ta vì thế mà lo lắng vô cùng."
La Đông Nhi không biết Tiêu hậu lần này vì sao lại cảm khái, liền cẩn thận rụt rè nói: "Hoàng thượng tuy long thể bất an, nhưng may có nương nương nữ trung cần cố, văn võ song toàn, có tài trị quốc, toàn triều văn võ, thiên hạ bách tính không ai là không khen ngợi. Khánh vương hám lợi đen lòng, tuy mưu phản nhưng đã bị đuổi đi xa rồi. Nương nương cớ sao lại đột nhiên cảm khái như vậy."
Tiêu Xước cười buồn bã, u sầu nói: "Ta có làm tốt hơn nữa thì cũng chỉ là một nữ tử, người mà thiên hạ cần là một vị hoàng đế. Đế là mặt trời, hậu là mặt trăng, chủ của Khiến Đan trường sinh vạn năm nên là một nam nhi thật tốt, ánh trăng vĩnh viễn không thể biến thành thái dương được. Ta cho dù là đầy một thân bản lĩnh, nhưng là một nữ nhân, vẫn không thể nào trấn áp được giang sơn thiên hạ này."
Bà ta thở dài một tiếng rồi nói tiếp: "Thế Tông, Mục Tông, Da Luật Sát Ca, những người đó đều không phải là nhân vật dũng quá ba quân. Kim thượng bệnh thể yếu ớt, người bên cạnh sao mà không nhăm nhe hoàng vị cho được?"
Mắt Đông Nhi lóe sáng, do dự nói: "Khánh vương mưu phản thất bại rồi, nương nương cớ gì mà lo lắng nhiều như vậy?"
Tiêu Xước cười nhạt một tiếng: "Nội ưu há chỉ có thế thôi đâu!"
Bà ta dừng lại một chút, chỉ vào bức tấu chương đó, nói: "Đó, Thất Vi (Mông Cổ) nói rằng năm ngoái liên tiếp gặp thiên tai, quốc khốn dân cùng. Công vật năm nay thực sự là không lấy đâu ra được, cầu xin vua ta khoan dung độ lượng, kỳ thực chẳng qua là thấy triều ta tự lo còn không xong, hết lòng thuần phục. Nhưng tình hình hiện giờ, có thể không khoan dung được ư?"
Bà ta cười lạnh một tiếng rồi lại nói tiếp: "Nữ Chân bằng mặt mà không bằng lòng, năm trước sai sứ cống nạp, xưng thần với triều ta. Hiện giờ lại phái người tập kích các bộ tốc ở biên tái nước ta, cướp bò dê, bắt nữ tử, giống như là bộ lạc biên tái của nước ta đi cướp bóc Tống quốc vậy. Nữ Chân cũng tới chiếm lúa gạo của chúng ta. Kẻ giàu có, luôn luôn bị cướp. Nhưng nếu triều ta không có nội loạn, quốc thế mạnh mẽ, binh cường mã tráng, bọn chúng sao dám làm vậy?"
Giọng nói của Tiêu Xước càng lúc càng mệt mỏi: "Khánh vương mưu nghịch thất bại, chạy trốn về phía tay, hiện giờ đã trốn vào Hoành Sơn, dùng thế sét đánh không kịp bưng tai chiếm lấy Ngân châu, dựa vào thành mà thủ. Chư bộ Thổ Phiên, Hồi Hột thấy hắn đã diệt kẻ thù truyền kiếp của nhà mình, đã có ý thân cận với hắn. Khánh vương có được lương thảo, tiền tài vô số ở trong thành, lại ỷ vào địa lợi nhân hòa. Da Luật Hưu Ca lao sư viễn chính, đã không có viện binh lại không có lương thảo, ta thấy không yên tâm nên đã hạ lệnh triệu hắn hồi sư. Khánh vương một khi đứng vững ở đó, lại muốn thảo phạt thì thực sự là cực kỳ phiền phức. Hắn là đại tông nhất mạch, có thể xúi giục được quần thần trong triều ta. Đây chính là tâm phúc đại hoạn của triều ta đó!"
Đông Nhi hơi suy tư, trầm ngâm nói: "Đông Nhi từng nghe nương nương luận về thiên hạ đại thế, có nói rằng Ngân châu là địa bàn của Hạ châu Lý thị? Khánh vương chiếm đoạt Ngân châu, Hạ châu Lý thị há lại chịu để yên? Có lẽ không cần nương nương động thủ, Hạ châu Lý thị sẽ tự thu thập hắn."
Tiêu Xước cười khinh thường: "Hạ châu Lý thị ư? Nay không bằng xưa nữa rồi. Hai năm nay, Hạ châu Lý thị nội ưu ngoại hoạn, sứt đầu mẻ trán. Ta phân tích tin tức mà mật thám thám mã đưa về, tình hình Tây Bắc hiện giờ quỷ dị như vậy, đứng đằng sau nhất định có chủ ý đen tối của Hạ châu Lý thị."
Bà ta trong mắt hơi lộ ra vẻ suy tư, nói: "Mỗi một lần, khi Lý Quang Duệ phí hết tâm tư muốn nghị hòa với Thổ Phiên, Hồi Hột, luôn luôn sẽ xuất hiện biến cố thế này, thế kia, dẫn tới việc hòa đàm thất bại. Thực sự là cổ quái, trong bát bộ Đảng Hạng, trừ Thác Bạt thị nhất tộc ra, phản ứng của các chư bộ khác cũng vô cùng cổ quái. Tình hình hiện tại, Ngân châu đối với Hạ châu Lý thị đã là ngoài tầm với, Khánh vương chắc chắn là chiếm được tiện nghi lớn này rồi."
Nói tới đây, Tiêu Xước cười khổ, nói: "Lúc này, Tống quốc không ngờ lại sát phạt Hán quốc. Hán quốc tuy chỉ còn lại lưa thưa mấy thành, nhân khẩu ít ỏi, đối với ta mà nói, chẳng qua là một khối gân gà. Nhưng Hán quốc trước giờ luôn xưng thần, cống nạp đối với triều ta, lại kính lễ có thừa. Nếu triều ta không chịu cứu viện, vậy thì Thất Vi, Nữ Chân, Đông Hài, Oát Lang Cải, Hạt Kiết Tư, Niêm Bát Cát tất sẽ mất đi lòng kính sợ với triều ta. Nếu triều ta binh viện Hán quốc, vậy thì ắt phải trực tiếp khai chiến với Tống quốc, với tình hình hiện tại của triều ta, lao sư viễn chinh vị tất đã chiếm được phần thắng. Tống quốc nếu vì thế mà lại tư trợ cho Khánh vương, vậy thì nguy hiểm rồi."
Nhìn vị hoàng hậu tuổi chỉ tương đương mình mà cả ngày vất vả lo chuyện quân sự, đại sự. Đông Nhi trong lòng cũng có chút đồng tình, nhưng bà ta hiện tại đã lên bảo tọa hoàng hậu, làm sao mà quay đầu lại được nữa. Gánh nặng này, ai có thể chia sẻ với bà ta được đây?
Tiêu Xước trút được tâm sự, tâm tình cũng bình tĩnh hơn: "Triệu Khuông Dận quyết tâm giành Hán quốc cho bằng được, mà ta hiện giờ đã không còn lý do phải bảo vệ Hán quốc nữa rồi. Quân cờ Hán quốc này, là nhất định phải vứt bỏ. Nhưng thể diện của triều ta cũng phải cố gắng làm cho chu toàn. Đông Nhi, ngươi qua đây, ta có lời muốn phân phó cho ngươi."
"Vâng" Đông Nhi vội vàng bước tới gần. Tiêu Xước ghé tai dặn dò nàng ta một hồi, Đông Nhi trước tiên ngây người, sau đó thì gật đầu lia lịa.
Tiêu Xước vừa nói được một nửa thì trước cửa xuất hiện một nội thị, nhỏ giọng nói: "Nương nương, Da Luật Tam Minh đại nhân cầu kiến."
Tiêu Xước hơi nhíu mày, lại vội vàng dặn dò Đông Nhi mấy câu. Đông Nhi theo lệnh lui xuống, Tiêu Xước lại quay về ngồi thẳng sau bàn, thoáng chốc đã khôi phục lại dáng vẻ uy nghiêm. Bà ta cầm ngự bút lên, vừa đọc lướt tấu chương vừa chậm rãi nói: "Truyền Tam Minh đại nhân tiến kiến."
Đích hệ hoàng tộc có tư cách kết thừa hoàng vị của Khiết Đan hiện giờ có ba chi, phân biệt bắt nguồn từ Thái Tông, Thế Tông và Lý Hổ. Đương kim hoàng thượng Da Luật Hiền là con của Thế Tông, Khánh Vương là nhất mạch của Thái Tông, mà Da Luật Tâm thì là nhất mạch của Lý Hổ. Hiện giờ Khánh vương làm loạn, chạy tới tây bắc, trong triều rất nể trọng phái Lý Hồ. Da Luật Minh là đại biểu của phái Lý Hồ, gần đây cũng hành động mạnh dị thường."
Da Luật Tam Minh vào điện, vừa thấy Tiêu Xước, liền mỉm cười thi lễ, nói: "Nương nương đúng là cần chính, đang phê duyệt tấu chương phải không?"
Tiêu Xước đặt bút son xuống, miễn cưỡng nặn ra một nụ cười: "Tam Minh đại nhân tới rồi à, mau mau ngồi xuống đi. Tam Minh đại nhân tới đây là có chuyện gì vậy?"
Da Luật Tam Minh nhíu mày, lộ ra bộ dạng lo lắng trùng trùng, than: "Ài, chẳng phải là vì chuyện trên triều đình sao. Nương nương, hiện tại lòng người hoang mang, triều dã bất an. Thân là trọng thần của triều đình, Tam Minh thực sự là vô cùng lo lắng."
Tiêu Xước nhíu mày, nói: "Phản nghịch đã bị đuổi, thượng kinh đã khôi phục lại sự phồn hoa ngày trước, có gì mà lòng người hoang mang, triều dã bất an, ta sao lại không biết gì?"
Da Luật Tam Minh nói: "Những chuyện này, người ở bên cạnh tất nhiên là không dám nói cho nương nương nghe rồi. Hiện giờ dân gian đồn đại, nói rằng hoàng đế đã băng hà, hoàng thượng lại vô hậu, nữ chủ giấu diếm không phát tang, là có ý soán đoạt hoàng quyền. Rất nhiều bộ lạc trung thành với triều đình cũng nhân tâm hoảng hốt, thỉnh thoảng phái người bí mật tới kinh thăm hỏi, loại tình hình này nếu cứ tiếp tục tất sẽ sinh họa hoạn."
Tiêu Xước mặt ngọc lạnh băng, nói: "Hoàng thượng vẫn còn sờ sờ ở đó, Tam Minh đại nhân chẳng lẽ không biết ư? Hôm qua hoàng thưởng thân thể đã khỏe hơn một chút, còn bảo người đỡ ra ngoài vườn sưởi nắng nữa."
Da Luật Tam Minh cười bồi, nói: "Vâng vâng vâng, cái này thần tất nhiên có biết. Nhưng vấn đề là bách tính trong kinh, các thủ lĩnh chư bộ lại không tin. Chúng ta dẫu sao cũng không thể mời hết bọn họ tới, để bọn họ vào gặp hoàng thượng được."
Tiêu Xước lạnh lùng nói: "Thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc, lời đồn lâu ngày rồi tự mất đi, sợ gì chứ?"
Da Luật Tam Minh cười giảo hoạt: "Tuy nói là vậy, nhưng Khánh vương ở bên ngoài, vừa hay nhân chuyện này mà sinh sự, nói hắn vì muốn gìn giữ giang sơn của Da Luật thị, cách làm này thực sự đã mê hoặc dân tâm, hấp dẫn không ít bộ tộc đến nương tựa. Cứ tiếp tục như vậy thì rất đáng để lo lắng. Các đại thần ở trong triều đều lo âu vô cùng, thân là một phần tử của hoàng tộc, Tam Minh cũng ăn không ngon ngủ không yên." Hắn liếc trộm Tiêu Xước một cái, vuốt râu, chậm rãi nói: "Tam Minh đã thương nghị một phen với mấy vị vương công đại thần, cảm thấy phải vỗ yên lòng dân, lòng dân yên tình quân tâm mới yên. Thảo phạt phản nghịch vừa hay có khả năng thành công. Mà để vỗ yên lòng dân, trước tiên phải dập tắt lời đồn không có thực trong dân gian. Thần nguyện đưa con trai lớn làm con thừa tự của hoàng đế, sau này hầu hạ dưới gối hoàng hậu. Tốt xấu gì thì nó cũng là đích hệ hoàng tộc của Da Luật thị, trong triều có thái tử rồi, cái gì nước không có ấu chủ, Tiêu thị soán quyền, tất cả lời đồn tự nhiên mất hết."
"Lập con hắn làm hoàng tử ư? Nếu thật sự làm vậy, e rằng hoàng thượng không chết cũng phải chết, ngay cả ta cũng khó mà sống được qua ngày. Nực cười, có điều hắn nói rằng đã thương nghị với mấy vị vương công đại thần, nhưng mấy vương công đại thần này là ai?” Tiêu Xước kinh nghi trong lòng, trầm giọng nói: "Hoàng thượng xuân thu đang thịnh, cớ gì phải lo rằng không có con? Vào lúc này, nếu vội vàng lập thái tử, vậy thì càng khiến người trong thiên thạ thêm lo lắng bất an. Đạo lý trong đây, Tam Minh đại nhân chẳng lẽ không hiểu?"
Da Luật Tam Minh sắc mặt trầm xuống, lạnh lùng nói: "Thần một lòng vì xã tắc, vì triều đình, nhưng lại nhận được sự hiềm nghi của hoàng hậu? Hoàng thượng nếu long thể khỏe mạnh, hoàng hậu sớm đã sinh rồng con rồi, vậy tất nhiên là tốt nhất. Chỉ là hoàng thượng một ngày không khỏe, hoàng trữ một ngày không được đản sinh, triều dã chư bộ một ngày không được an sinh. Khánh vương cũng sẽ không có gì phải sợ hãi, lâu ngày lòng dân ắt có biến, khi thượng kinh lại sinh họa hoạn, e rằng sẽ không dễ dàng dẹp loạn như vậy đâu. Tam Minh đã nói hết lời rồi, xin cáo từ!"
Da Luật Tam Minh cười lạnh một tiếng, phất tay áo bỏ đi.
Tiêu Xước mặt tái xanh nhìn hắn nghênh ngang bỏ đi, tức đến nỗi cả người run rẩy: "Tình hình hiện giờ đã gần như là bức vua thoái vị rồi, ta là thân nữ tử, vốn là nhờ có sự ủng hộ của hoàng tộc và Tiêu thị mới có thể chính lệnh thông suốt. Nếu văn võ triều đình thực sự sinh dị tâm..." Tiêu Xước trong lòng bỗng dưng lạnh toát: "Ta liệu có giống như Thế Tông, Mục Tông, Da Luật Sát Ca ở trong tẩm trướng, đang ngủ thị bị người ta một đao chém bay đầu không đây?"
Tuy thân ở trong đại nội hoàng cung, được hộ vệ bảo vệ, nhưng Tiêu Xương bỗng dưng có cảm giác như đang ở trong vực sâu, đầu ngón tay lạnh toát.
Quốc yến của Khiết Đan được bày ở trong một tòa trướng nỉ, án chiếu theo truyền thống tập tục của người Khiết Đan, hoàng hậu Tiêu Xước ngồi trên thượng vị, thượng quan La Đông Nhi là thị hầu ở bên cạnh. Đức vương Da Luật Tam Minh, Bắc phủ tể tướng gia, cùng với nam viện xu mật sứ Quách Tập vừa về triều báo cáo công tác, mấy vị nhân vật cấp cao tự mình đến khoản đãi, Liêu thông sứ cũng đột nhiên có mặt.
La Khắc Địch, Loan Đao tiểu Lục và Thiết Ngưu lại bỗng dưng được thăng quan. Tối ngày hôm qua, hoàng hậu đột nhiên hạ ý chỉ, thăng La Khắc Địch làm đô chỉ huy sứ, Loan Đao tiểu Lục và Thiết Ngưu làm chỉ huy sứ, chấp chưởng cung đình ngự vệ. Bọn họ vốn là một trong những tướng lĩnh phụ trách an nguy của thượng kinh, trong nháy mắt biến thành thống lĩnh thị vệ phụ trách an toàn cho toàn thành, phạm vi chức quyền tuy bị thu nhỏ, nhưng thực quyền lại đề thăng hơn nhiều. Hiện giờ nội thành thị vị của hoàng thành do thượng quan La Đông Nhi phụ trách, tám chỉ huy thị vệ ở ngoài thành vốn đều là người của hoàng tộc, hiện giờ La Khắc Địch ba người mới lên quyền quý cũng góp mặt trong đó.
Trong bữa tiệc, Tiêu hậu hồi quốc lễ, da hồ ly tuyết ngọc một bộ, da hồ ly hỏa hồng một bộ, bắc châu một hòm, tuấn mã mười con.
Thất Phưởng, Quách Lập hai vị đại thân ân cần mời rượu. Dương Hạo đành thu liễm tâm thần, cùng bọn họ cười nói vui vẻ, ngẫu nhiên chú ý thấy một đôi mắt u buồn đang nhìn vào mình, ngẩng đầu lên liền thấy Đông Nhi đang ngượng nùng nhìn tới. Một đôi phu thê, dùng mắt truyền tình, tuy rằng bị khắc chế những cũng cảm thấy vui.
Đương nhiên, hắn cũng không quên chính sự, khi rượu uống đến lúc cao hứng, Dương Hạo hướng tới vị hoàng hậu nương nương xinh đẹp động lòng người kính một chén rượu, nói: "Hôm qua, ngoại thần đã dâng quốc thư, hoàng hậu nương nương thánh minh, xin hãy sớm đưa ra quyết định. Nếu chuyện này mà thành, tin rằng tình hữu nghị giữa hai nước láng giềng chúng ta sẽ càng thêm thân mật, có thể cùng nhau vĩnh viễn hưởng phúc thái bình."
Tiêu hậu ở trước mặt lệ sắc sáng rỡ, dung nhan tươi tắn, quyết không có nửa điểm yếu đuối mệt mỏi như lúc ở trong thẩm cung, nghe những lời nói hòa bình của Doãn Hạo nhớ tới những lời trong quốc thư của Triệu Khuông Dận: "Hán quốc nghịch mệnh, phải bị hỏi tội. Nếu bắc triều không cứu viện thì vẫn thân như xưa, nếu không, duy chỉ có chiến!" Trong lòng không khỏi cười lạnh, trên mặt lại tươi cười như hoa, thản nhiên nói: "Quý sứ từ xa tới, tuy là mang quốc mệnh, nhưng hạ tất phải vội vã trở về như vậy? Không bằng ở lại thượng kinh của ta vài ngày. Thượng kinh thành của ta chính là một tòa thành không hề có phòng bị đối với quý sứ, cảnh vật các nơi, ngài cứ mặc sức hân thưởng. Đợi khi quốc thư viết xong, ta sẽ sai người hộ tống quý sứ về nước, chắc không làm chậm trễ thời gian đâu."
"Như vậy, xin đa tạ hoàng hậu nương nương."
Dương Hạo nói xong liền liếc Đông Nhi một cái, thầm nghĩ: "Phong cảnh của thượng kinh, mặc ta tới lui quan thưởng, không chút phòng vệ sao? Ta chỉ muốn tới một chỗ, chỉ muốn quan thưởng một vật tuyệt vời, không hiểu có ý chỉ này của hoàng hậu rồi, có thể tới lui thoải mái hay chăng?"
Đông Nhi thấy ánh mắt của hắn, liền hiểu ra tên gia hỏa này không có ý tốt, nàng ta vừa tức giận lại vừa buồn cười, lại vừa cảm thấy ngọt ngào vô cùng, nhớ tới bộ ngực ấm áp của Lý Mạnh, nhớ tới gió trăng vô biên trên nóc kho lúa của Đinh gia, trong lòng bất giác giống như nổi sóng, vội vàng cầm một chén rượu lớn lên, uống một ngụm to, trong bụng lập tức nóng bừng, mắt đỏ tai hồng, càng xinh đẹp như một bông hoa đào.
La Khắc Địch mới lên đô chỉ huy sứ đang nhàn nhãn tuần du trong hoàng thành, mặt mày tươi rói, vì thế các đường nét trên khuôn mặt đầy râu ria vốn lãnh khốc cũng nhu hòa hơn.
Bởi vì đứng cạnh hắn là một thiếu nữ mắt ngọc mày ngài xinh đẹp động lòng người.
Đinh Ngọc Lạc đảo mắt, hiếu kỳ hỏi: "Trong hoàng cung vì sao lại dựng nhiều trướng nỉ như vậy?"
La Khắc Địch mỉm cười nói: "Cái này, chính là tập tục của người Khiết Đan, có một số vương công đại thần vào kinh tấn kiến, không quen sống trong nhà như Hán nhân chúng ta, cho nên dùng những trướng nỉ này. Hơn nữa, người Khiết Đan là dân tộc trên lưng ngựa, hoàng đế cũng không thể vừa sinh ra đã biết kỵ xạ du mục, trong cung thiết lập trướng nỉ, có thể để các hoàng tử hoàng nữ quen thuộc từ nhỏ."
"La tứ ca, nữ nhân này là ai vậy?"
Trong khóm hoa đào đột nhiên xuất hiện một thiếu nữ mặc Hán trang mày rậm mắt to, mặt đầy vẻ ghen ghét nhìn chằm chằm vào Đinh Ngọc Lạc, hậm hực nói.
Chương 384:Thâu hương thiết ngọc
"Nhã công chúa!" Vừa thấy Da Luật Nhã, La Khắc Địch liền chắp tay thi lễ, lễ số tuy không hề thiếu sót, nhưng thần thái lại rất lãnh đạm: "Nhã công chúa, vị này là bằng hữu của tại hạ."
"Bằng hữu ư?"
Da Luật Nhã cười lạnh, nữ tử trước mặt mặc xiêm y màu trắng, phiêu diêu trong trắng như một đóa hoa lê, thân hình thon dài, eo nhỏ xíu, ngũ quan xinh đẹp tuyệt trần, sóng mắt trong veo, loại vị đạo có anh khí nhưng lại không mất đi vẻ mềm mại này ngay cả mình vô luận như thế nào cũng không có được, trong lòng lập tức vừa ghen ghét lại vừa hận, buột miệng nói: "Bằng hữu ư? Ta thấy là người yêu của ngươi thì đúng hơn."
Đinh Ngọc Lac nghe vậy hai hàng lồng mày không khỏi nhướn lên, trong lòng bốc nộ khí, La Khắc Địch thì mặt sầm xuống, lạnh lùng nói: "Công chúa, xin tự trọng thân phận."
Da Luật Nhã thấy thái độ của hắn đối với nữ tử áo trắng khác hắn với mình, trong lòng vừa tức lại vừa đau khổ, mặt đỏ bừng lên, nói: "Thân phận ư? Tựa hồ La tướng quân mới nên tự trọng thân phận. Địa phương này đâu phải là ai cũng có thể đi lại tự nhiên?"
La Khắc Địch bật cười: "Điện hạ, nơi này là hoàng thành chứ không phải là nội thành. Huân khanh quyền quý, quan viên sĩ trọng đều không bị cấm túc. Đinh cô nương là bằng hữu của La mỗ ta, cung vệ đô chỉ huy sứ muốn dẫn bằng hữu của mình du lãm hoàng thành, phải chăng là vẫn còn có tư cách này? Nếu công chúa cảm thấy La mỗ vượt quyền, có thể bẩm báo với hoàng thượng, nương nương. Công chúa tuy thân phận quý trọng, nhưng không có quyền cam thiệp vào hành vi của mệnh quan triều đình như ta đây. Nhã công chúa, người nói sao?"
"Ngươi, ngươi giỏi lắm!" Da Luật Nhã tức giận đến nỗi cả người run rẩy, nước mắt không kìm được mà tuôn ra. Nàng ta không muốn mất mặt trước tình địch Đinh Ngọc Lạc, quay người phất tay áo bỏ đi. Cử động này sớm đã lọt vào mắt một người hữu tâm đứng đó không xa, thấy Da Luật Nhã bỏ đi, người đó đảo mắt lia lịa, vội vàng chặn trước đường mà nàng ta đang đi tới.
Đinh Ngọc Lạc bất an nói: "La huynh, bởi vì muội mà đắc tội với công chúa, vậy e rằng là huynh sẽ không tiện."
"Không sao đâu, ít ngày nữa là chúng ta sẽ ly khai rồi, sợ gì nàng ta." La Khắc Địch cười nói: "Vả lại, ta đối với Ngọc Lạc cô nương vừa thấy đã... ặc, như quen từ lâu. Cô lại là muội tử của Dương huynh, về tình về lý, đều nên ái hộ, sao có thể để cô bị người ta khi nhục được."
Đinh Ngọc Lạc đưa bàn tay nhỏ nhắn ra, ấn cành hoa lê che ở trước mặt xuống, thấy bóng lưng đã đi xa của Nhã công chúa, oán giận nói: "Huynh sao không nói ta là muội tử của huynh? Vậy há chắc phải sẽ bớt đi được rất nhiều phiền phức ư?"
La Khắc Địch buột miệng nói: "Ta sao có thể nhận cô làm muội tử được."
"Hả?" Đinh Ngọc Lạc kinh ngạc nhướn mày lên, buồn cười nói: "Kế quyền nghi thôi mà tướng quân đại nhân, binh thư của huynh đọc đến đâu rồi?"
La Khắc Địch ngượng ngùng nói: "Cái này..., lý do đó của cô... bởi vì biết quan hệ giữa ta và Đông Nhi cho nên mới lấy ra làm cớ. Ta và Đông Nhi là bị bọn họ bắt tới Khiết Đan, nào có thể có muội tử nào từ Trung Nguyên nghe ngóng được tin tức của chúng ta mà ngàn dặm xa xôi chạy tìm? Một khi nói ra, ngược lại sẽ khiến người ta hoài nghi. Lý do này ở trước mặt Nhã công chúa căn bản là không nên lấy ra. Cô ta muốn hoài nghi từ cứ mặc kệ cô ta, ta chẳng ngại gì cả."
Đinh Ngọc Lạc nghe vậy liền tức giận trừng mắt lườm hắn một cái: "Đại nhân, huynh không ngại, nhưng mà ta ngại!"
Khuôn mặt đầy râu ria của La Khắc Địch thoáng ửng đỏ, cười gượng, nói: "Cái này, không biết Ngọc Lạc cô nương khi nào thì mới không ngại nhỉ?"
Đinh Ngọc Lạc đưa tay chỉ về phía xa, cười chế giễu: "Đợi thương hải biến thành tang điền, thiên hoang địa lão, ừ... có lẽ bản cô nương sẽ không ngại nữa."
La Khắc Địch thở phào một hơi, mặt mày vui vẻ nói: "Cô nương cho ta thời gian là được rồi. Thiên hoang địa lão, thương hải tang điền, La Khắc Địch đợi được."
Đinh Ngọc Lạc liếc xéo hắn một cái, thầm nghĩ: "Tên gia hỏa này đúng là quân chủ sát phạt quyết đoán, La Khắc Địch dẫn ba trăm tử sĩ hoành đao cản ngàn kỵ binh mà nhị ca đã nói ư? Cái miệng mạnh như Trương Phi của hắn, sao lời nói ra so với công tử ca nhi giỏi ngâm gió ngợi trăng còn dễ nghe hơn..."
Thấy nước mắt của Đinh Ngọc Lạc, La Khắc Địch lo sợ bất an, hớt hải nói: "Ngọc Lạc cô nương, La mỗ quá càn rỡ rồi, nếu đắc tội với cô nương, xin cô tha thứ cho.”
Đinh Ngọc Lạc chợt tỉnh lại, má có chút nong nóng, nàng ta né tránh ánh mắt của La Khắc Địch, chậm rãi nói: "Huynh không hề đắc tội với ta, túc hạ đã có lòng kiên trì như vậy thì cứ kiên trì mà đợi tiếp đi." Nói xong liền phất tay áo, bước đi thật nhanh.
La Khắc Địch ra sức vỗ đầu, ảo não nói: "Tiểu Lục nói nữ nhi gia thích nói ngược, nàng ta nói không hề đắc tội, vậy là ta thực sự đã đắc tội với nàng ta rồi. Ài, sao ta lại ăn nói vụng về như vậy nhỉ. Từ nhỏ chỉ biết vung thương múa gậy, nào có hiểu cách lấy lòng nữ hài đâu, sớm biết có ngày hôm nay, ta lúc đó nên theo tam ca học một chút bản sự phong hoa tuyết nguyệt mới đúng."
Hắn vừa tự trách vừa đuổi theo Đinh Ngọc Lạc.
Nhã công chúa vừa rời khỏi thị tuyến của La Khắc Địch, nước mắt lập tức rơi rớt như trân châu, tí tách chảy xuống. Lúc này trước mặt đột nhiên xuất hiện một người, Nhã công chúa né tránh không kịp, qua màn nước mắt mờ mịt có thể nhìn ra người đó là đường huynh của mình, Da Luật Sở Cuồng, trưởng tử của Đức vương Da Luật Tam Minh, một trong hoàng cung bát đại chỉ huy sứ. Nàng ta vội vàng cụp mắt xuống, sợ hắn cười chê mình.
"Ái cha, kẻ nào ăn tim gấu gan báo, khi phụ Nhã nhi nhà ta thế hả?"
Lệ quang trên mặt nàng ta cuối cũng vẫn không thoát khỏi mắt Da Luật Sở Cuồng. Da Luật Nhã hơi dừng bước, gắng gượng chào hỏi: "Sở Cuồng tướng quân."
"Ấy, gọi đường huynh là được rồi, cái gì mà tướng với chả quân. Nhã nhi, có chuyện gì vậy? Ai khi phụ muội thế?" Da Luật Sở Cuồng mỉm cười bước tới gần, liếc xéo một cái về phía La Khắc Địch đang bỏ đi ở xa xa, tức giận nói: "Là vì cái tên mọi rợ đó hả?"
"Đương huynh, La tướng quân và huynh đồng điện xưng thần, lại là đồng liêu, gọi như vậy e rằng là không thỏa đáng đâu."
"Ha ha ha, lúc này mà còn bảo vệ hắn à? Nhã nhi à, đường huynh không biết nên nói gì với muội nữa."
Da Luật Sở Cuồng cười dài, nói: "Ta biết, cái tên mọi... à không, La chỉ huy đó, giỏi viết văn, thạo võ nghệ, tuy râu ria xồm xoàm như kỳ thực lại rất anh tuấn. Nếu như cạo đi, khẳng định là một tên mặt trắng khiến nữ nhi gia mê tít. Hiện giờ, hắn được kim thượng sủng tín, tiền trình như cẩm. Mới chưa được bao lâu đã làm quan tới đô chỉ huy sứ rồi, tương lai có cơ hội được cho đi đánh mấy trận, lập mấy đại công quay về, vậy có khi được cưới được muội nữa ý chứ?"
Da Luật Nhã má nóng bừng, sững giọng nói: "Đường huynh chớ có nói linh tinh, giữa Nhã nhi và La tướng quân không có gì cả."
Da Luật Sở Cuồng cười hắc hắc, nói: "Nhã nhi, ở trước mặt đại ca của mình thì cần gì phải che giấu nữa? Tâm ý của muội đối với La tướng quân, hoàng cung trên dưới có ai mà không nhìn ra?"
Hắn hạ giọng xuống, nói khẽ: "Có điều, nhìn tình hình này, La tướng quân tựa hồ như không có ý làm phò mã của Khiết Đan chúng ta rồi."
Da Luật Nhã sắc mặt lập tức buồn bã. Da Luật Sở Cuồng cười hắc hắc: "Có điều, nếu Nhã nhi thật sự có lòng muốn gả cho La chỉ huy, cũng chưa hẳn là không có biện pháp. Đường huynh dạy muội một cách, đảm bảo thành công."
Da Luật Nhã mắt lập tức sáng lên, buột miệng hỏi: "Đường huynh, huynh có cách gì vậy?"
Da Luật Sở Cuồng khó xử nói: "Có điều, cách này..."
Da Luật Nhã lâu nước mắt, kéo tay áo hắn, giậm chân nói: "Ài chà, đường huynh à, mau nói đi mà."
Da Luật Sở Cuồng lén lút nhìn xung quanh, ghé vào Da Luật Nhã thủ thỉ một hồi. Da Luật Nhã nghe vậy mặt lập tức đỏ bừng, tức giận nói: "Đường huynh có cái chủ ý xấu xa gì vậy hả? Nhã nhi đường đường là công chúa một nước, há lại... há lại có thể bỉ ổi như vậy!"
Da Luật Sở cuồng trợn mắt, không đồng tình: "Không hạ bẫy thì làm sao mà bắt được hùng ưng tên trời? Không đặt bẫy thì làm sao mà bắt được sói thảo nguyên hung ác? Bất kể là dùng cách gì, thì trước tiên cũng phải thả mồi đã. Ta thấy La chỉ huy sứ đã bị vị cô nương áo trắng đó làm cho mê muội rồi, cơ hội chỉ hơi hiện ra rồi mất ngay. Muội nếu còn do dự không quyết, vật săn tới tay rồi lại bay đi mất đấy. Chỉ cần có thể có được nam nhân mà mình yêu thương, dùng chút thủ đoạn thì có sao. Nhã nhi, chớ có lầm lỡ đó." Da Luật Sở Cuồng mỉm cười, bước qua Nhã Nhi đang đăm chiêu suy nghĩ: "Nếu nghĩ thông rồi thì tới tìm đường huynh nhé."
Da Luật Sở Cuồng dương dương đắc ý, mới bước đi được không xa thì thấy phụ thân đứng ở trước mặt mình, dọa cho hắn giật nảy mình, vội vàng đứng lại, nói: "Phụ thân đại nhân, người không phải là đang dự tiệc ư, đã tan tiệc rồi à!"
Da Luật Tam Minh sầm mắt ừm một tiếng, hỏi: "Nói gì với Nhã công chúa đấy?"
Da Luật Sở Cuồng nhếc mép cười, kể lại một lượt những lời mà mình vừa nói. Da Luật Tam Minh nhíu mày bảo: "Ngươi sao lại ra loại chủ ý này cho ả, cả ngày không chịu làm việc đàng hoàng."
Da Luật Sở Cuồng vội vàng biện giải: "Phụ thân đại nhân, nhi tử sao lại không làm việc đàng hoàng chứ. Đây chẳng phải là vì nghĩ cho đại nghiệp của phụ thân đại nhân ư?"
Da Luật Tam Minh râu dựng đứng, mắng: "Loại sự tình này thì có quan hệ chó gì với đại nghiệp của ta. À, ta hiểu rồi."
Da Luật Tam Minh mắt sáng lên, đột nhiên như chợt hiểu. Da Luật Sở Cuồng trong mắt lộ ra vẻ âm độc: "Phụ thân đại nhân, hiện giờ Khánh vường ở bên ngoài xé cờ tạo phản, vừa hay có lợi cho chúng ta, đây là cơ hội hiếm có, nhưng nương nương mềm cứng đều không ăn. Hiện giờ bà ta ra sức đề bạt La Khắc Địch, Đồng Vũ, Vương Thiết Ngưu, rõ ràng là không yên tâm với hộ vệ trong cung, muốn cài người của mình vào. Nếu chúng ta dùng thủ đoạn này nắm được ba người đó ở trong tay. Cha nói xem, liệu có phải là có được con bài tối hậu không?"
Da Luật Tam Minh trầm ngâm vuốt râu, nói: "Ngươi cũng không tính là ngu xuẩn. Có điều, nước cờ này của ngươi liệu có phát huy được tác dụng hay không thì thực sự là không có hi vọng quá lớn. Âm mưu quỷ kế chỉ là tiểu đạo, không đủ để thành công. Nếu muốn khiến cường giả khuất phục, vậy thì phải nắm trong tay lực lượng khiến hắn phải cúi đầu. Thực lực cường đại mới là bảo chứng cho tất thắng."
Miệng hắn nhếch lên, lạnh lùng cười nói: "Hôm nay thiết yến khoản đãi một sứ giả của Tống quốc mà cần cả Bắc phủ tể tướng và nam viện xu mật sứ cùng có mặt ư? Bà ta chẳng qua là muốn dùng sự ủng hộ của hai vị đại nhân này đối với bà ta để tạo áp lực với cha ngươi mà thôi. Ngươi đi làm việc của mình đi, nếu Nhã công chúa không có hành động gì thì cũng không được sinh sự nghe chưa? Tối nay, cha phải tới gặp lão hồ ly Tiêu Triển Phi đó, nếu có thể tranh thủ được sự ủng hộ toàn lực của Tiêu gia, vậy thì, nương nương còn có gì mà trông cậy nữa?"
Trên tiệc rượu, Bắc phủ tể tướng Thất Phưởng và Nam viện xu mật sứ Quách Tập, hai vị nhân vật cấp cao ân cần mời rượu. Đối với những lời trong quốc thư, ít nhiều gì cũng phải nghị luận vài câu, ba người ở trước mặt Tiêu hậu thần thương thiệt tiễn một hồi, Da Luật Tam Minh tâm ý không đặt ở đây, sớm đã lấy lý do thân thể không khỏe rút lui trước.
Thất Phưởng ân cần mời rượu, lời nói ra cũng mang đầy hơi rượu: "Dương đại nhân, quốc thư của hoàng đế quý quốc, bản tướng cũng đã đọc qua. Hán quốc từ lúc mới lập nước đã xưng thần với Khiết Đan ta, hàng năm cống nạp, hàng năm tới triều, tự nhận mình là nước phụ thuộc của Khiết Đan. Hiện giờ quý quốc ý muốn công đánh Hán quốc, nếu Khiết Đan ta tụ thủ bàng quan, chư bộ trong nước sẽ nhìn nhận thế nào đây? Tứ phương phiên quốc sẽ nhìn nhận thế nào đây? Nếu trao đổi vị trí, đổi lại là Dương đại nhân, liệu có thể đáp ứng dạng yêu cầu vô lý như thế này không?"
Dương Hạo ho khan một tiếng, nghiêm mặt nói: "Đại nhân nói sai rồi, nếu Ất Thất bộ lạc của quý quốc thoát ly Khiết Đan, xưng thần với Tống quốc ta, hàng năm cống nạp, hàng năm tới triều, vậy khi hoàng hậu hưng binh thảo phạt, Tống quốc chúng ta có phải cũng lẽ thẳng khí hùng xuất binh viện trợ ư?"
Nam viện xu mật sứ Quách Tập nói: "Lời này của Dương đại nhân là từ đâu mà có? Khiết Đan bát bộ vốn là một thể, nếu Ất Thất bộ thoát ly triều ta mà xưng thần với quý quốc, vậy chính là hành động phản quốc, triều ta hưng binh thảo phạt cũng là điều thiên kinh địa nghĩa."
Dương Hạo chắp tay nói: "Quách đại nhân nói rất có lý, Tống quốc ta và Hán quốc vốn cũng là một thể, về sau tuy một phân thành hai, nhưng cũng là thiên hạ Hán nhân."
Tiêu Xước hướng sang đây, thản nhiên chen vào, nói: "Hán quốc Lưu thị là tộc nhân Sa Đà, từ khi nào lại thành Hán nhân, ta sao không biết nhỉ."
Dương Hạo mặt đỏ lên, trong lòng mắng thầm: "Ngươi nói người Sa Đà nghe mốt quá nhỉ, vậy sao chúng lại mang họ người Hán, làm hại ta thường quên đi xuất thân vốn có của ngươi."
Nhưng trên mặt hắn lại bất động thanh sắc, dõng dạc nói: "Khiết Đan hôm nay là Hung Nô, Tiên Ti dung hợp mà thành. Hoàng hậu hiện giờ lại phân chia Khiết Đan bát bộ rõ như vậy ư? Hán quốc và Tống quốc đều thuộc hán thổ, vả lại vốn chính là một nước. Đây là sự thực không thể tranh cãi. Hiện giờ hoàng đế Tống quốc muốn di hợp quốc thổ, cái này trên hợp với thiên lý, dưới thuận với lòng dân, có gì mà không thỏa.
Hán quốc hiện giờ phong vũ phiêu linh, lung lay sắp đổ là một khối bùn không trát lên tường, hoàng hậu cớ gì mà phải vì một Hán quốc mà xích mích với Tống quốc ta. Hoàng hậu chắc hẳn cũng nhìn rõ được lợi hại trong đây. Vả lại cứu viện Hán quốc đối với Khiết Đan mà nói thì không phải là quan trong, Khiết Đan nếu muốn ngạo thị chư quốc, chỉ cần Khiết Đan bát bộ đoàn kết một lòng, cùng tiến cùng thoái, thử hỏi ai dám khinh thường? Hiện giờ Khánh vương ở bên ngoài, mê hoặc nhân tâm, đối với triều đình mà nói mới là họa hoạn lớn nhất. Nếu hoàng hậu có thể đáp ứng ngồi yên không để ý tới việc của Hán quốc, vậy thì triều ta sẽ có đi có lại, đối với việc bình loạn của quý quốc sẽ có sự giúp đỡ và ủng hộ lớn nhất. Thế chẳng phải là hai bên cùng có lợi ư?"
Đông Nhi ở bên cạnh nhìn phu quân của mình ăn nói dõng dạc trước mặt hoàng hậu, thái độ ung dung, trong mắt không khỏi lộ ra vẻ ái mộ vui mừng, vừa hay nội tình của Tiêu hậu Dương Hạo sớm đã thông qua miệng của Đông nhi mà biết hết rồi. Mắt thấy Dương Hạo một bước cũng không nhường, cũng không chịu hứu hẹn nhiều, hai vị đại thân hiểu rằng nội tình của mình sớm đã bị người ta nhìn rõ, còn cho rằng Triệu Khuông Dận lần này phạt Hán đã suy xét rõ khả năng Khiết Đan có xuất binh hay không rồi. Thất Phưởng Và Quách Tập than thầm một tiếng, trao đổi ánh mắt bất lực với nhau: "Xem ra, từ trong miệng người Tống, không thể moi ra được lợi ích lớn hơn rồi."
Tiêu Xước thấy hai vị đại thần buông súng, liền đứt khoát không đề cập tới chuyện này nữa, khách chủ chỉ luận về phong thổ nhân tình của hai nước, cười nói vui vẻ, sau đó bảo La Đông Nhi tiễn Dương Hạo ra khỏi nội thành.
Tới rìa nội thành, Dương Hạo quy người lại thi lễ: "La thượng quan dừng bước."
La Đông Nhi dừng bước, uyển chuyển thi lễ: "Dương đại nhân đi chậm rãi." Sau đó thị hạ thấp giọng, nói khẽ: "Tối nay cứ tới chỗ thiếp."
Dương Hạo lập tức mừng rỡ, cơ cảnh liếc nhìn mấy nữ binh áo đỏ đứng sau Đông Nhi không xa, nhướn mày nói khẽ: "Nương tử, đêm nay rảnh không? Lâu lắm mới gặp, từ lúc thấy nương tử, vi phu vẫn là đêm đêm giường trống."
La Đông Nhi đỏ mặt, gắt khẽ: "Nói gì vậy, bọn La tứ ca đều đến, cùng nhau thương lượng sự tình."
Dương Hạo nghe vậy liền ủ rũ than: "Ài!" rồi cao giọng nói: "Nhận được sự khoản đãi, cảm kích vô cùng, xin La thượng quan khi quay về hầu hạ nương nương thì gửi lại cảm tạ giúp ta."
La Đông Nhi thấy hắn buồn rầu ủ rũ, vẻ mặt bất mãn, trong lòng không khỏi mềm ra, vừa giả vờ tỏ ý đưa tiễn, vừa nói khẽ: "Có điều, đợi khi bọn tứ ca đi rồi..."
Dương Hạo vừa nghe thấy vậy tinh thần lại phấn chấn, vội vàng cao giọng cười nói: "Có lễ có lễ, dừng bước, dừng bước" sau đó thì quay người lại, ưỡn ngực như một con gà trống bỏ đi.
Chỗ ở của La Đông Nhi người làm tạp vụ sớm đã đi hết. Mấy người Dương Hạo, La Khắc Địch, Loan Đao tiểu Lục, Thiết Ngưu khi tương phùng thì kích động vạn phần, mấy huynh đệ ôm chầm lấy nhau, mồm năm miệng mười, ai ai cũng hỏi han không ngừng. La Đông Nhi ở bên cạnh thì mỉm cười nhìn, thỉnh thoảng lại lau nước mắt bên má.
Một lúc sau, tâm tình của mấy người mới bình tĩnh trở lại, ngồi xuống quanh một cái bàn, thượng nghi kế sách bỏ trốn.
La Khắc Địch nói: "Những ngày này, chúng ta không lúc nào là không nghĩ cách trốn về, cũng phí hết tâm tư kiếm được một tấm địa đồ về nam. Từ tình hình hiện tại cho thấy, nếu như cường hành chạy trốn là vô cùng khó khăn. Trên đường về hiểm quan trùng trùng, đâu đâu cũng có trọng binh. Chúng ta chỉ vừa rời khỏi thượng kinh, tin tức sẽ lập tức được loan báo. Đừng nói chỉ có mấy người chúng ta, cho dù là một nhánh đại quân theo chúng ta, muốn xông qua quan ải cũng không dễ dàng. Quân đội của Khiết Đan đóng ở phương hướng tới Tống quốc luôn luôn là nhiều nhất. Khánh vương chạy về phía tây cũng bởi vì trọng tâm của bọn họ không đặt ở đó, cho nên mới có dư địa mà chạy thoát."
Dương Hạo gật đầu, nói: "Trên đường tới đây, ta cũng dụng tâm quan sát, nếu bằng vào mấy người chúng ta mà có thể qua năm quan chém sáu tướng, mạnh mẽ giết về Tống quốc, đó quả thật là chuyện nghìn lẻ một đêm."
"Hạo ca ca, cái gì là nghìn lẻ một đêm?"
"Đừng ngắt lời, ta đang... À, Đông Nhi à, đợi có cơ hội, ta sẽ một mình nói tỉ mỉ cho nàng nghe."
Mấy người bọn La Khắc Địch trao đổi cho nhau một ánh mắt ám muội, cái mặt rỗ của Loan Đao tiểu Lục cười như nở hoa, bỡn cợt nói: "Đại ca, tối nay có thể đấy."
Hắn vừa nói vậy, Đông Nhi lập tức đỏ bừng mắt, nhưng lại liếc Dương Hạo với ánh mắt ngọt ngào hạnh phúc, trầm mặc không nói gì. Dương Hạo mặt cũng nóng bừng, ho khan một tiếng: "Nói chính sự đi, nói chính sự đi. Cường hành vượt quan ải căn bản là không được, vậy thì chỉ có thể vượt biên một cách lén lút thôi. Kế hoạch của ta là lợi dụng thân phận khâm sai Tống quốc của ta, lén lút đưa Đông Nhi về. Lúc đó, ta vẫn chưa biết các người cũng ở Khiết Đan. Nếu triều đình Khiết Đan không biết quan hệ giữa ta và Đông Nhi, bọn họ đột nhiên mất một người, cũng chưa chắc đã nghi ngờ đến ta. Là sứ tiết, xa giá nghi trượng của ta bọn họ không có quyền kiểm tra. Ta muốn dẫn nàng ấy ly khai cũng dễ thôi. Nhưng hiện giờ thì lại có chút khó khăn, bốn người các ngươi nếu như thoáng chốc toàn bộ đều biến mất, e rằng con hổ cái Tiêu hậu đó sẽ phát điên, cho dù là trong xa giá là Triệu quan gia đang ngồi thì bà ta cũng phải tra xét một lượt."
Đông Nhi lặng yên ngồi ở bên cạnh, đôi mắt to thỉnh thoảng lại vụt sáng, lẳng lặng nghe bọn họ nói chuyện, lúc này đột nhiên chen vào, nói: "Hạo ca ca, nếu như chúng ta trực tiếp nói rõ với nương nương thì sao? Nương nương đối với thiếp rất tốt, nói không chừng sẽ thanh toàn cho chúng ta."
La Khắc Địch thở dài một hơi: "Nếu Đông nhi muội chỉ là một thị tỳ trong cung, ta và tiểu Lục, Thiết Ngưu đều là nô đài trong phủ của muội, vậy thì Tiêu hậu quả thức có thể bán ơn huệ, giao ta và muội cho Dương huynh. Nhưng, hiện giờ muội là ai? Là thượng quan lục cung. Chúng ta là ai? Là đô chỉ huy của cung vệ quân.
Lúc trước liều mạng an bài như vậy, vốn là muốn nắm được tiền vốn để chạy trốn, hiện giờ lại thành gánh nặng. Tiêu hậu liệu có thể giao một vị nữ quan, ba vị tướng quân ra được không? Chuyện này một khi truyền ra, người mà hoàng hậu trọng dụng không ngờ lại phản bội bà ta? Nếu chúng ta không chịu hiệu trung với bà ta, vậy thì sự lựa chọn duy nhất của bà ta chính là hạ quyết tâm, diệt trừ toàn bộ chúng ta."
Đông Nhi nghe vậy thì lặng yên không nói gì, nàng ta biết, Tiêu hậu tuy đối với mình thì tình như tỷ muội, nhưng nếu sự tồn tại của mình trở thành chướng ngại làm ảnh hưởng tới sự thống trị của bà ta, vậy thì bà ta chắc gì đã không thể giết mình. Bà ta giống như một con mèo ôn nhu, nhưng móng sắt thì giấu bên trong, khi cần thiết, bà ta sẽ biến thành một con mãnh hổ, bà ta và mình là hai loại người hoàn toàn khác nhau.
Thiết Ngưu đột nhiên vỗ bà, dứt khoát nói: "Một là không làm, mà đã làm thì quyết không thôi. Chúng ta đi bắt cóc hoàng hậu đi, lấy bà ta làm con tin, một đường chạy thẳng về Tống quốc!"
"Ai dám!" La Khắc Địch trừng mắt lườm hắn: "Không chịu động não, bắt cóc hoàng hậu Khiết Đan rồi, chúng ta chạy về, đại quân của Khiết Đan sẽ bất chấp tất cả mà đuổi theo. Hai quốc sẽ rơi vào cảnh đại chiến là điều không thể tránh khỏi, cho dù là chúng ta thả bà ta về cũng không thể nào dẹp yên được. Huống chi, hiện giờ Khiết Đan đang ở trong tình hình gì chứ? Tiêu hậu tại vị, bà ta là loại tồn tại giống như hoàng đế, một khi bà ta rơi vào tay chúng ta, bao nhiêu kẻ quyền quý sẽ ngóng trông bà ta chết. Chúng ta sẽ phải bồi táng cùng Tiêu hậu, một người cũng đừng hòng chạy khỏi thượng kinh."
Thiết Ngưu nghe thấy vậy lại đặt mông ngồi xuống ghế không nói gì nữa.
Tiểu Lục phiền não nói: "Mềm cũng không được mà cứng cũng không xong, chẳng lẽ chúng ta ở đây đợi cả đời à?"
Hắn nhìn mọi người rồi đột nhiên thốt lên: "Kỳ thực, nếu đại ca cũng tới, vậy thì đợi cả đời cũng không sao cả. Nhưng với thân phận của đại ca, tuyệt đối sẽ không thể lưu lại đây. Phụ mẫu song thân của La tứ ca đều ở Tống quốc, kiểu gì cũng nhất định phải quay về, chỉ là chưa có biện pháp bỏ đi mà thôi."
Dương Hạo trầm ngâm một lúc rồi chậm rãi nói: "Ta thấy, chỉ có kế hoạch nguyên bản là còn có chút hi vọng. Có điều vẫn phải làm biến báo. Hay là thế này đi, tới lúc đó ta khởi hành trước, để lại bốn thị vệ tiềm phục ở thượng kinh, bốn người các ngươi sau đó thoát đi, tạm thời che giấu hành tung. Bắc địa Khiết Đan đa số là những bộ lạc du mục, lại thêm có nhiều thương nhân lai vãng ở phụ cận thượng kinh, tìm một địa phương trốn tạm chắc cũng không khó.
Bốn thị vệ của ta sẽ giả làm các người rồi tìm một đường khác mà chạy trốn, hiện giờ tình hình trong kinh rất rối loạn, các ngươi là người mà bà ta trọng dụng nhất lại đột nhiên thất tung, Tiêu Hậu nhất thời nửa khắc chưa chắc đã đoán ra là các người đào tẩu. Phản ứng đầu tiên của bà ta chắc sẽ là nghĩ rằng có người muốn hạ thủ với bà ta, nên ắt sẽ ứng phó, đợi khi bà ta ra tay tìm nơi hạ lạc của các người thì đã được một đoạn thời gian rồi.
Sau đó, bốn thị vệ của ta sẽ đem tin tức chạy về nam truyền tới tai bà ta. Bà ta tất sẽ phái người truy bắt. Thị vệ thân tín của ta đều tinh thông tiếng Khiết Đan, hoàn thành nhiệm vụ rồi có thể giả trang thành người chăn nuôi bình thường, ẩn cư dân gian, không thể nào tìm được. Một khi như vậy, manh mối của bà ta sẽ bị cắt đứt."
La Khắc Địch ngắt lời: "Biện pháp này không làm được đâu, như vậy chưa chắc đã không nghi ngờ huynh, cũng chưa chắc không tìm tới huynh."
Dương Hạo mỉm cười: "Không sai, chỉ là, cái mà chúng ta luôn luôn mong muốn là làm sao chạy về được phái nam, làm sao cùng nhau chạy về phía nam? Vậy vì sao không đổi đường khác? Các người căn bản không cần chạy về nam, bốn thị vệ của ta sau khi hoàn thành nhiệm vụ không tìm ta mà ngược lại sẽ quay lại, ước định một địa phương để hội hợp với các người, tám người cùng nhau đi về phía tây bắc. Các người sẽ từ đó vòng về, vô luận là bà ta điều tra ta thế nào cũng sẽ không có vấn đề. Các ngươi men theo thảo nguyên đi về phía tây, không phải qua quan ải, người ở lại thưa thớt, hi vọng chạy thoát sẽ tăng lên nhiều. Chỉ là..." Hắn nhìn về phía Đông nhi, nói khẽ: "Chỉ là chung quy không thể tự mình dẫn nàng rời đi, ta thực sự là có chút không yên tâm."
"Hạo ca ca, thiếp không sao đâu." Má Đông Nhi đỏ lên, nắm chặt song quyền, nói: "Hai năm nay, Đồng Nhi chăm chỉ luyện tập kỵ xạ, lại thêm có tuấn mã trong tay, sẽ không dễ dàng bị người ta bắt được đâu. Hạo ca ca không cần phải lo lắng cho thiếp."
Dương Hạo nói: "Ừ, ta sở dĩ quyết định như vậy là cảm thấy khả năng thành công thực sự cũng khá lớn. Tiêu hậu bị mất người tâm phúc của mình, cho dù là lửa giận vạn trượng thì cũng không thể gióng trống khua chiêng đi bắt người được. Huống chi, khi một thân một mình, mấy người mà mình coi trọng nhất lại nhao nhao trốn chạy, Tiêu hậu nhất định sẽ phát cuồng, bản thân bà ta còn có thể suy xét chu toàn thấu đáo hay không thì rất khó nói."
Đông Nhi không nhịn được lại hỏi: "Cái gì gọi là phát cuồng?"
La Khắc Định vỗ bàn đứng dậy, nói: "Cứ là vậy đi, có thể thành công hay không thì cứ tận hết sức người rồi nghe lệnh trời mà thôi. Còn cái gì gọi là phát cuồng ư?" Hắn liếc Đông Nhi, tựa cười mà như không phải cười, nói: "Lát nữa khi chúng ta ở riêng cùng nhau, ta sẽ nói cho nàng nghe."
Vừa nghe thấy vậy, La Đông Nhi mặt lại đỏ bừng như một đóa hoa lựu mới nở.
Tiễn xong La Khắc Địch, Loan Đao tiểu Lục và Thiết Ngưu, hai người đứng dưới hành lang, La Đông Nhi liếc trộm hắn, xấu hổ cứu đầu, mân mê vạt áo ngượng ngùng không thôi, không còn bộ dạng trang nhã như ở trước mặt người khác nữa.
Dương Hạo dắt tay nàng ta, thở khẽ một tiếng, nói: "Đúng là không dễ dàng chút nào, nương tử của bản thân ta mà phải qua bao trắc trở mới có thể thân cận với nàng, giống như là trộm người vậy."
Đông Nhi đánh khẽ hắn một cái, giận dỗi nói: "Cái gì mà trộm người, nói sao mà khó nghe thế."
Dương Hạo cười hắc hắc: "Thâu hương thiết ngọc, kỳ thực tư vị cũng không tồi. Nàng có cảm thấy vậy không?"
Đông Nhi tim đập bình bịch, mặt đỏ tới tận mang tai, xấu hổ nói: "Người ta... người ta không biết, quan nhân nói không tồi thì chính là không tồi."
"Thế mới là nương tử ngoan của ta chứ." Dương Hạo mỉm cười, đột nhiên cúi người xuống bế ngang nàng ta lên. Đông Nhi úi chà một tiếng, vội vàng ôm chặt lấy cổ hắn: "Hạo ca ca, chàng muốn làm gì vậy?"
"Bế nương tử của ta vào động phòng chứ còn gì nữa. Dương Hạo mỉm cười bước vào phòng, dùng chân khép cửa lại. Đông Nhi nằm trong lòng hắn, si ngốc nhìn hắn, đột nhiên thở ra một hơi, dụi khuôn mặt đỏ bừng vào ngực hắn.
Vòng qua bình phong, tới phòng ngủ, vừa nhìn thấy nơi đây Dương Hạo không khỏi ngây ngốc. Trên bàn là một đôi nến đỏ to như tay trẻ con, mèn che trên giường được rủ xuống, trên bàn có một bình mỹ tửu, mùi thơm thoang thoảng, căn phòng rất ấm áp. Vì đêm nay, Đông Nhi rõ ràng đã sớm chuẩn bị kỹ càng rồi.
Dương Hạo không nhịn được liền khen: "Nương tử, đêm nay là một lần động phòng giống mẫu nhất của chúng ta đó."
"Đồ ngốc!" Đông Nhi nằm trong lòng hắn bật cười, đôi tay ngọc càng ôm chặt hơn, thân thiết nói: "Ngươi ta sớm đã trao thân cho chàng rồi, còn động phòng cái gì nữa."
"Lão bà của mình mà còn phải trộm, thế không phải là khoái hoạt như động phòng à?"
Đông Nhi mở hé mắt, bàn tay nhỏ mềm mại nhẹ nhàng ve vuốt khuôn mặt, mũi, miệng của Dương Hạo, nói: "Ủy khuất cho Hạo ca ca rồi, quân nhân nếu thích trộm, vậy thì Đông Nhi sẽ để cho chàng trộm, cho chàng trộm cả đời."
Dương Hạo nghe thấy những lời ân áy, tâm thần nhộn nhạo, không ngờ lúc này bảo bối hay hiếu kỳ của hắn lại nhớ tới một vấn đề, vội vàng hỏi: "Đúng rồi, Hạo ca ca, cái gì gọi là phát cuồng?"
Dương Hạo hổn hển đáp: "Lát nữa nàng sẽ biết thế nào là phát cuồng thôi."
Dương Hạo vén màn trướng màu đỏ lên, đặt thân hình mềm mại của Đông Nhi lên giường, cởi áo người cho nàng ta, giống như là nam nhân lần đầu tiên thử tư vị động phòng, kích động cởi y sam của mình.
Đông Nhi đỏ mặt kéo tay hắn, dịu dàng nói: "Hạo ca ca, thổi tắt nến đi."
Dương Hạo nói: "Thổi cái gì mà thổi, để đèn sáng mới thú chứ."
"Hảo quan nhân, thổi tắt nến đi mà. Sáng vậy người ta sợ lắm."
Mỹ nhân thẽ thọt năn nỉ, Dương Hạo khó tránh khỏi mềm lòng, chỉ đành phụng phịu quay lại, vừa đi vừa lẩm bẩm: "Đã muốn tắt đèn thì còn châm hai cây nến to như thế này làm cái gì."
Đông Nhi bật cười, nói: "Như thế này quan nhân không cảm thấy thú vị sao?"
"Đông Nhi nhà ta thao luyện hai năm ở trên triều đường Khiết Đan, quả nhiên có thêm kiến thức, trong khuê phòng cũng dám nói những lời tình thú đó." Dương Hạo lần đầu tiên được kiến thức bộ mặt khác của Đông Nhi, không khỏi vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng, quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Đông Nhi lúc này đang nằm dựa lên giường gấm thêu uyên ương ngịch nước, giống như là một pho tượng ngọc.
Một tay chống cằm, tay áo màu vàng mỏng tan hơi tụt xuống, lộ ra cánh tay non mịn như do bạch ngọc vót thành. Áo lót mỏng manh, bờ vai nhỏ nhắn, đường cong tinh trí như nước, cứ như là không xương. Cổ áo hơi hé ra, để lộ rãnh ngực trắng ngần dụ người, trong sự ưu nhã hàm súc lại lộ ra vẻ vũ mị vô hạn.
Dưới ánh đèn, mỹ nhân mày ngài nhàn nhạt, đôi mắt híp lại như nước xuân, đôi môi hồng nhuận mà nhỏ nhắn mang theo nét ngượng ngùng. Thấy hắn nhìn lại, Đông Nhi ngượng ngùng rút chân ngọc lại vào trong váy, tư thái ghẹo người vô cùng. Dương Hạo trong lòng nổi sóng, một hơi thổi tắt nến. Một giường xuân quang vô hạn mỹ hảo tiến vào trong bóng đêm, nhưng cũng chiếu sâu vào trong đầu của nàng ta.
Hai năm sinh sống ở tái ngoại, không chỉ rèn đúc ý chí của nàng ta, tăng cường kiến thức cho nàng, hơn nữa thỉnh thoảng theo Tiêu Xước săn bắn diễn võ, cưỡi ngựa bắn cung, khiến thân thể của nàng ta càng thêm dẻo dai có lực, hai chân càng thêm săn chắc tròn trịa, nhưng so với khai sơn đại đệ tử của tửu sắc tài khí Lữ Động Tân, tiểu Đông Nhi đáng thương đương nhiên không phải là đối thủ.
Một đôi chân thon dàn săn chắc kẹp chặt lang quân của mình, một đôi tay nhỏ cuộn tròn trước ngực, như có như không đẩy lên bộ ngực săn chắc của hắn, kháng cứ sự công kích hết đợt này đến đợt khác, không hề biết mệt mỏi của hắn, cũng kháng cự khoái cảm giống như thủy triều trong lòng mình, để tránh phải hét ra tiếng, bị phu quân coi là phóng đãng.
Hai năm tương tư, một bầu tình khổ, đều hóa thành ân ái triền miên trong đêm nay, sóng triều lên rồi lại rút, rút rồi lại lên, cho tới khi Đông Nhi mồ hôi nhễ nhại, người mềm như bún, mắt híp lại, không thể chịu được được nữa thì Dương Hạo mới không khắc chế nữa, cùng ái thê của mình trong sự run rẩy cùng tới đỉnh vu sơn, sau đó thì vuốt ve thân hình mềm oặt của nàng ta rồi rủ rỉ tâm tình.
Chương 385:Thiết kế
"Đinh Thừa Nghiệp làm nhiều việc ác, cuối cùng cũng gặp báo ứng ở Giang Nam. Chỉ là, ta không ngờ lần này tới tái bắc lại có thể nghe được tin tức về hắn. Hắn không ngờ là nhi tử thân sinh của Nhạn Cửu thay mận đổi đào. Đinh Thừa Nghiệp không chuyện xấu nào là không làm, chuyện tốt duy nhất mà hắn làm được trong đời chính là đem tin tức của nàng nói cho ta hay. Nếu không phu quân thật sự không biết được rằng nàng vẫn còn sống, đang ở thượng kinh thành ngày đêm ngóng trông được tương hội với ta."
Dương Hạo hôn một cái lên bờ môi mềm mại của nàng ta: "Tiểu Đông Nhi của ta, hai năm nay ta không ở bên cạnh nàng, không có ai khi phụ nàng chứ hả?"
Đông Nhi nói khẽ: "Nhờ được nương nương yêu quý, thu nhận thiếp tới bên cạnh, ai dám khi phụ thiếp chứ. Chỉ có chàng, đồ xấu xa, khi phu người ta phải khổ sở cứ như là chết vậy!"
Dương Hạo cười nói: "Khổ sở lắm ư? Nhưng có khoái hoạt không?"
Đông Nhi hạnh phúc ôm lấy người hắn, ngọt ngào nói: "Vừa khoái hoạt lại vừa khổ sở. Nhưng Đông Nhi nguyện ý bị quan nhân khi phụ, khi phụ cả đời."
Hai người ôm nhau, lại quấn quít thân thiết một hồi, Dương Hạo vuốt ve đầu vai mịn màng của nàng ta, ôn nhu nói: "Ta nghe nói nàng được Tiêu hậu thưởng thức, làm quan tới lục cung thượng quan, cũng đoán rằng không có ai dám khi phụ nàng, nhưng những người Khiết Đan quyền quý lại không có ai có chủ ý với nàng ư?"
Đông Nhi dựa sát vào lòng hắn, nói khẽ: "Có, có một người, Đại cụ ẩn Da Luật Hưu Ca của Khiết Đan."
"Cái gì? Đông Nhi nhà ta mỹ lệ như vậy mà chỉ có một người nhìn trúng nàng thôi sao?"
Đông Nhi đánh nhẹ hắn một cái, giận dỗi nói: "Chàng còn ngại ít à? Ài, nhờ có hắn ở bên cạnh, không biết đã giúp thiếp dọa lui bao nhiêu Khiết Đan quyền quý. Hắn là Đại cụ ẩn, hoàng tộc tư pháp, quyền cao chức trọng, không có ai dám tranh giành với hắn. Dấn thân vào trong, một khi không cẩn thận, không biết sẽ có kết cục như thế nào. Nô gia tuy thờ ơ với hắn, nhưng cũng không dám quá đắc tội với hắn, bởi vì có mặt hắn, thiếp không biết bớt được đi bao nhiêu phiền phức. Hưu Ca tuy là người Khiết Đan, nhưng lại là một quân tử quang minh lỗi lạc, không cưỡng ép gì thiếp, chỉ chờ thiếp hồi tâm chuyển ý. Nếu không phải là vậy, cho dù là nương nương có đối tốt với thiếp hơn đi chẳng nữa, vì để lung lạc vị đại tướng quân tay nắm trọng binh này, cũng sẽ cưỡng bách gả thiếp cho hắn thôi!"
Dương Hạo ôm chặt lấy nàng ta, ray rứt nói: "Đông Nhi đấn thân vào trong hang sói này, để bảo vệ lấy mình, phải chơi trò lá mặt lá trái với họ, đúng là phí hết tâm tư, may mà trời chiều lòng người."
Hắn vừa nói tới đây, thân hình của Đông Nhi đột nhiên run bắn lên, kinh hô nói: "Chết rồi, không tốt!"
Dương Hạo vội vàng hỏi: "Sao vậy?"
Đông Nhi khẩn trương nắm lấy tay hắn: "Hạo ca ca, Hưu Ca sắp về kinh rồi."
"Vậy thì sao?"
Đông Nhi hấp tấp nói: "Người nơi này tuy đều không biết Tống sứ Dương Hạo là phu quân Đinh Hạo của nô gia, nhưng ngày đó Da Luật Hưu Ca đại nhân một đường truy sát, song bị chàng thành công dẫn mấy vạn bách tính qua cầu, khiến hắn tay không mà về, chuyện này một mực bị hắn coi là sự sỉ nhục lớn, hắn đã vẽ chân dung của chàng, coi chàng là đối thủ. Tuy hắn giấu thiếp, nhưng có một lần hắn không kịp giấu, bức chân dung này vẫn bị thiếp nhìn thấy, có điều với thân phận của thiếp, chỉ có thể coi như là không biết mà thôi. Hắn lúc đó mặc dù ở cách chàng rất xa, chân dung vẽ ra lại cũng không quá giống, nhưng cũng có bảy tám phần tương tự. Thiếp lo lắng người bên cạnh không nhận ra chàng, hắn đối với chàng canh cánh trong lòng, vị tất đã không nhận ra bộ dạng của chàng, vạn nhất..."
Dương Hạo nghe vậy cũng không khỏi biến sắc, hắn sờ sờ mặt mình, do dự nói: "Bộ dạng lúc đó của ta rất khác bây giờ, có điều, quả thật là không thể không đề phòng. Nếu nhất thời sơ ý, thua bởi chuyện này thì đúng là hối cũng không kịp. Tiêu hậu khi nào thì mới ký quốc thư, ta thấy tốt nhất là mau mau lấy được quốc thư, rời khỏi đây trước khi Da Luật Hưu Ca về thượng kinh là tốt nhất."
Đông Nhi nói: "Phải hai ngày nữa, nương nương hiện giờ nội ưu ngoại hoạn, cũng không có lòng sinh sự với Tống quốc, chỉ là bà ta bố trí cho mình một bậc thang để xuống đài..."
Nói tới đây, Đông Nhi buồn bã thở dài, nói: "Ai ai cũng đều nhìn chằm chằm vào hoàng vị này, song thiếp thấy nương nương cao cao tại thượng lại không thấy khoái hoạt. Nương nương là một vị nữ trung hào kiệt chân chính, duệ trí anh minh, đáng tiếc lại là một nữ nhân, nếu không, nhất định sẽ trở thành một đại minh quân."
Dương Hạo cười nhạt một tiếng, đằm chiêu vuốt ve tay nàng ta, nói khẽ: "Cho dù bà ta là nữ nhân, chỉ cần không có biến hóa quá lớn, bà ta cũng sẽ trở thành một đại minh quân. Trong tương lại, người ta có lẽ không nhớ được hoàng đế triều này là ai, nhưng nhất định sẽ nhớ tới bà ta."
Đông Nhi nói: "Quan nhân cũng nhìn ra được là nương nương rất giỏi ư? Nương nương tuy so với nô gia còn nhỏ hơn một chút, nhưng là kỳ nữ hiếm có trong thiên hạ, sát phạt quyết đoán, người thường không thể sánh bằng. Khánh vương mưu phản, khi binh khốn thượng kinh, bà ta lên triều thì quản lý chính trị, xuống triều thì nắm quân đội, trắng đêm tuần hành, không cởi y giáp. Bà ta tuần thị phố phường, ngẫu nhiên nhìn thấy một tiểu hài tử vì không được chữa trị, không có thuốc uống mà bệnh chết, cũng buồn bã rơi lệ. Nhưng ngẫu nhiên nhìn thấy một người ở đầu phố nói rằng hoàng thượng đã băng hà, cho dù hắn chỉ là một kẻ rỗi hơi, không có ý xấu mà chỉ thuận miệng khoác lác, nương nương cũng không chút do dự hạ lệnh giết cả nhà hắn, ngay cả trẻ nhỏ còn trong tã lót, lão phụ tuổi hơn tám mươi cũng không bỏ qua.
Nương nương rất khoan hậu với người bên cạnh, từng có một nội thị mới vào cung không cẩn thận đánh rơi một cái vòng ta mà bà ta thích nhất, bà ta cũng không tức giận, chỉ gọi người lôi hắn xuống đánh cho mấy roi. Nhưng có một đêm, hai cung thân thị hầu hoàng thượng bởi vì quá mệt mỏi là dựa lưng vào giường thiếp đi, bị nương nương nhìn thấy, nương nương lập tức nổi giận, mặc kệ bọn họ dập đầu đến chảy máu, nương nương vẫn hạ lệnh lôi ra đánh chết, không mềm lòng một chút nào. Đối với nương nương, người trong cung đều vừa kính lại vừa úy, vừa yêu lại vừa sợ."
Dương Hạo nói: "Thế mới đúng là Tiêu thái hậu chứ?"
"Cái gì?"
"Ta nói, đây mới là Tiêu hoàng hậu chân chính, một vị nữ hoàng cao cao tại thượng, khoáng thế vô song căn bản không cần để ý người bên cạnh nhìn nhận bà ta như thế nào, tất cả những gì bà ta làm đều là có mục đích, không phải là hỉ nộ vô thường, tùy hứng mà làm đâu. Bà ta quả thật rất lợi hại, chỉ hi vọng, chúng ta có thể thành công chạy thoát khỏi lòng bàn tay của bà ta, nếu không hậu quả khó lường."
Dương Hạo phát hiện biểu hiện gần đây của La Khắc Địch đối với muội muội của mình có vẻ như nhiệt tình quá mức tầm thường. La đại tướng quân mặt ngoài lãnh khốc này một khi rơi vao lưới tình thì dễ xúc động như một tên tiểu tử vậy.
Muội muội sớm đã được hứa gả cho người ta, nếu không phải là bởi vì bạc mệnh chết sớm, Ngọc Lạc hiện tại sớm đã thành thân rồi, hài tử của nàng cũng chắc cũng biết chơi trốn tìm rồi.
Muội muội tuy nhìn thì mặt mày non nớt, nhưng đã qua hai mươi rồi. Nữ hài vào tuổi này còn chưa thành thân, ở thời đại này tuyệt đối với một nữ thanh niên lớn tuổi.
Muội muội đã không còn nhỏ rồi, thanh xuân còn có thể theo nàng ta bao lâu nữa? Nữ hài thời đại này không có đạo lý tự mình đi tìm chồng, người làm huynh trưởng như mình đương nhiên phải lo lắng cho nó rồi. La Khắc Định tuổi trẻ đầy hứa hẹn, là nhất biểu nhân tài, đối với muội muội lại một mực si tình, nếu có thể kết làm lương phối với hắn, đối với muội muội mà nói chưa chắc đã không phải là lương phối một đời.
Nhưng mình lần này quay về là phải về Lô châu, một khi về tới Lô châu rồi, tự dựng thế lực, cho dù là không có lòng đối kháng với Tống đình thì quan hệ giữa hai bên sợ rằng cũng vô cùng khó xử. La Khắc Địch là thế gia quan lại, một nhà trên dưới đều ở triều đình, nếu kết thân với muội muội của mình, rất khó nói rằng triều đình liệu có điều gì nghi kỵ với La gia hay không. La gia không bằng Phách châu Dương gia, Dương Nghiệp ủng hộ Hán quốc, Phách châu Dương gia là phiên trấn một phương, triều đình nhất thời vẫn chưa can dự vào được. Nếu đổi lại là La gia, La Công Minh liệu có đáp ứng không? E rằng ngay cả đứa cháu Đông Nhi này cũng không dám nhận.
Nghĩ đi nghĩ lại, Dương Hạo vẫn quyết định nói điều mà mình lo lắng cho Ngọc Lạc nghe, để nàng ta sớm đưa ra lựa chọn. Đinh Ngọc Lạc tuổi cứ lớn dần, dưới sự theo đuổi nhiệt tình của La Khắc Địch, dần dần cũng có chút cảm tình với hắn, lại quên mất một tầng quan hệ này. Dương Hạo thẳng thắng nói chuyện với nàng ta, Đinh Ngọc Lạc mới bừng tỉnh, quyết định như thế nào, quả thực là rất khó. Tâm sự của Ngọc Lạc cứ vậy nặng trĩu dần.
La Khắc Địch tin chắc mình sẽ cưa được Đinh Ngọc Lạc.
Hắn vốn tin rằng vừa gặp đã như quen từ lâu, nhưng không tin vào loại chuyện hoang đường như nhất kiến chung tình, có điều hiện tại hắn tin rồi, thì ra duyên phận lại kỳ diệu như vậy. Khi ngươi có hào cảm với một người, ngươi rất nhanh sẽ mang người ta ở trong lòng. Hắn cảm giác được, Ngọc Lạc cũng có tình ý với hắn, nhưng hai biết được mới qua có mấy ngày, nàng ta đột nhiên biến thành không vui, đối với mình cũng trở nên như gần như xa.
La Khắc Địch không nghĩ ra mình có chỗ nào khiến nàng ta không vui, chỉ đành chú ý hơn, thi thoảng mời nàng ta ra ngoài chơi, chỉ hi vọng có thể hiểu rõ tâm tư của nàng ta. Nhưng với bản sự mới bước vào tình trường của hắn, nào có đoán được ra tâm sự của Ngọc Lạc, quả thực khiến cho La đại tương quân sầu lo đến nỗi ăn ngủ không ngon.
Đương nhiên, La Khắc Địch càng không nghĩ được rằng, mình và Ngọc Lạc kè kè bên nhau lại lọt vào một đôi mắt thỉnh thoảng lại mang theo ghen ghét nhìn bọn họ, chủ nhân của đôi mắt đó, những ngày này cũng ăn ngủ không ngon.
Vị khẩu của Da Luật Sở Cuồng rất tốt. Hắn vui mừng hớn hở, đại đao kim đao ngồi trên thảm nỉ dưới hành lang, trước người đặt một cái lò đất, trên lò đặt thịt cừu đang sôi sục trong nồi đồng, tỏa ra mùi thơm ngây ngất. Da Luật Sở Cuồng một tay cầm bình rượu uống môt ngụm, một tay cầm dao thái thịt cho vào miệng.
Trong viện, hai tay vật đang đọ sức, Da Luật Sở Cuồng một mặt uống rượu, một mặt cầm dao chỉ điểm, cười mắng công phu của hai người không thôi.
Đột nhiên, một tay vật sơ hở, bị đối thủ vật ra đất, gia phó gia tướng đứng xem lập tức cười ồ. Da Luật Sở Cuộng đặt bình rượu xuống, cắm dao vào thịt dê, dùng tay lau mỡ trên miệng, đứng dậy mắng: "Đúng là đồ ngu, tránh ra tránh ra, xem bản sự của gia gia ngươi nè!"
Da Luật Sở Cuồng dang hai tay ra, rùn ngươi xuống rồi tiến gần tới tay vật đó. Công phu của Da Luật Sở Cuồng quả nhiên không kém, đá, gạt, quấn, khều, móc, hơn chục kỹ xảo, hơn trăm loại biến hóa sử ra một cách xuất thần nhập hóa, mới chỉ hơn chục hiệp, hắn liền hét lên một tiếng, nắm lấy vạt áo của người đó, giống như vẽ hồ lô, vật người đó ra đất.
"Đại nhân giỏi quá, giỏi quá" Gia tướng nô phó nhất loạt hoan hô, Da Luật Sở Cuồng há miệng cười lớn.
"A, công chúa điện hạ, công chúa điện hạ tới rồi."
Hai gia phó ngẫu nhiên quay đầu lại, đột nhiên thấy Nhã công chúa đứng ở bên cạnh, vội vàng phục xuống hành lễ. Da Luật Sở Cuồng nghe thấy tiếng, quay đầu lại nhìn, vội vàng hất đầu ra sau, đẩy mấy gia tướng, nói: "Nhã công chúa, muội sao lại tới đây?"
Da Luật Nhã mân mê chéo áo, lí nhí nói: "Đường huynh, cái thứ lần trước mà huynh nói, hiện tại, hiện tại có ở trong tay chưa?"
"Hả?" Da Luật Sở Cuồng đầu tiên là ngớ ra, tiếp đó thì vỗ trán, ha ha cười lớn: "Có, tất nhiên là có rồi, ặc."
Hắn nhìn xung quanh, vội vàng kéo Da Luật Nhã, đi tới một nơi vắng vẻ, móc một bao gì đó từ trong ngực ra, híp mắt cười nói: "Thứ này đường huynh tốn một đống tiền mới mua được đấy, chỉ cần cho vào rượu, lập tức có kỳ hiệu."
Da Luật Nhã cầm lấn, mặt đỏ bứng, nói: "Dương huynh, huynh không không được nói cho ai biết đâu đấy!"
Da Luật Sở Cuồng vỗ ngực nói: "Muội cứ yên tâm đi, đường huynh tuyệt đối không nói một câu nào với người khác đâu."
Da Luật Nhã gật gật đầu, đột nhiên nghiến răng quay người bỏ đi. Da Luật Sở Cuồng ngớ người, gọi: "Sặc, muội để lại cho huynh một ít đi, muội đâu có cần dùng nhiều, thứ đó quý lắm đấy."
Thấy bóng hình của Da Luật Nhã đã đi khuất không thấy đâu, khóe miệng Da Luật Sở Cuồng lộ ra nụ cười đắc ý, hắn vẫy tay gọi một gia nô tâm phục tới, ghé vào tai gã thì thầm mấy câu, tên nô gia đó nghe xong liền gật đầu lia lịa rồi bước đi.
...
Một đôi tay trong suốt như ngọc, cầm chắc một cái ấn lớn vuông vức, khảm rồng cuốn làm tay cầm.
Do dự một lúc, chủ nhân của đôi bàn tay này mới hít sâu một hơi, nhấn ấn xuống.
Trên quốc thư được đóng tám chữ lớn màu đỏ như máu: "Hạo thiên chi mệnh, hoàng đế thọ xương."
Cái quốc ấn này tới từ Tấn quốc. Ngày xưa, Khiết Đan Thái Tông hoàng đế dẫn binh nam hạ, diệt Tấn quốc, chiếm được quốc ấn của họ, từ đó tôn sùng là ngọc ấn truyền quốc của Khiết Đan.
Dư nghiệt của nước Tấn tạo thành Hán quốc, một chi của Hán quốc đản sinh Chu quốc, mà Chu quốc lại đổi màu cờ biến thành Tống quốc. Hiện giờ, bà ta, hoàng hậu Khiết Đan cao quý lại không thể không khuất phục trước sự uy hiếp của Tống chủ, buông bỏ phiên quốc như cánh tay phải của mình, để mặc cho Tống quốc diệt nó. Nhớ tới uy phong ngày trước, Tiêu Xước trong lòng không khỏi thấy hổ thẹn.
Nhưng trên khuôn mặt tiếu mỹ của bà ta lại không hề nhìn ra một chút ba động tình tự nào. Ba ta thu lại ngọc ấn, hờ hững nói: "Đông Nhi, nhận lấy quốc thư đi, ngày mai giao cho Tống sứ."
"Vâng."
Đông Nhi thấy quốc thư mà quan nhân ngày đêm mong ngón cuối cùng cũng được viết xong, cảm thấy vô cùng mừng rỡ, vội vàng cẩn thận bỏ nó vào trong hộp.
Tiêu Xước thở dài một hơi, đứng dậy, bất kể ủy khuất bao nhiêu, khuất nhục bao nhiêu, bà ta hiện tại cũng chỉ có thể nhẫn nại và nhẫn nại tất cả, cứ đợi bà ta ổn định xong quốc nội rồi tính tiếp. Bà ta phất nhẹ tay áo, lại nói: "Tối nay, ta mở tiệc mời Thất Phưởng, Quách Tây hai vị đại nhân tới, ngươi đi an bài đi."
"Vâng!"
Đông Nhi do dự một chút, lại hỏi: "Tiệc tối nay, nương nương có muốn Đông Nhi đi cùng không. Nếu nương nương muốn, Đông Nhi có thể chuẩn bị canh giải rượu trước để nương nương dùng."
Tiêu Xước do dự một chút rồi xua tay nói: "Bỏ đi, tối nay ngươi không cần đi đâu. Ngươi đi chuẩn bị đi."
Đông Nhi dạ một tiếng rồi lui xuống, tới trong viện thì đứng lại, Đông Nhi nhìn xung quanh, tiện tay vẫy một nữ binh: "Thoát Nhi Quả Quả, nương nương tối nay muốn mời hai vị trọng thần trong triều, ngươi đi bảo La đại nhân tối nay điều thêm hai đô binh mã tới để hộ tống đại nhân về phủ. Còn nữa, nói rằng ta dặn dò, bảo La tướng quân chú ý thân thể, uống ít rượu thôi."
"Vâng!"
Nữ binh có mấy phần tư sắc đó mắt cong lại như trăng, người Khiết Đan ít có ai không uống rượu, không những nam nhân uống mà nữ nhân cũng uống. Dạng đại tướng quân quyền cao chức trọng như La chỉ huy, ngay cả uống rượu cũng bị đường muội ước thúc, hỏi sao không khiến bọn họ cảm thấy buồn cười.
Đông Nhi là thượng ti trực tiếp của bọn họ, cung vệ quân đô chỉ huy sứ hiện tại La Khắc Địch là tứ ca của La thượng quan, bọn họ cũng rất quen thuộc. Đối với vị La Tướng quân ngọ môn cứu giá, một thương đánh lui Khánh vương này, rất nhiều nữ binh sùng bái anh hùng đều sinh lòng ái mộ với hắn, còn từng có lúc nghỉ ngơi vào ban đêm, một nữ binh từng nằm mơ gọi tên La chỉ huy.
Có điều ai ai cũng biết rằng Nhã công chúa thích La chỉ huy, bọn họ không dám dính vào cấm kỵ của Nhã công chúa. Mặc dù là như vậy, có cơ hội tiếp cận với anh hùng trong lòng mình, vẫn là một chuyện cầu còn không được. Thoát Nhi Quả Quả hưng phấn bừng bừng chạy đi truyền lệnh.
Thoát Nhi Quả Quả đặt tay lên đao treo ở thắt lưng, sải đôi chân dài bước tới chỗ ở của La Khắc Địch. La Khắc Địch vừa hay đang đứng dưới hành lang, tay cầm một bình rượu, Thoát Nhi Quả Quả thấy vậy không khỏi hé cười: "Chẳng trách La thượng quan đặc ý phân phó, La tướng quân đúng là thích rượu."
La Khắc Địch mày mày ủ rũ cầm bình rượu đang định bước vào trong sảnh thì thấy một nữ binh trong cung bước tới, liền dừng bước hỏi: "Chuyện gì vậy?"
Thoát Nhi Quả Quả cúi người thi lễ, lớn tiếng nói: "Khải bẩm tướng quân, hoàng hậu nương nương tối nay thiết yến trong cung, mời trọng thần triều đình, La thượng quan thỉnh tướng quân tối nay điều thêm hai đô sĩ binh để chuẩn bị sau yến tiệc thì hộ tống triều thần về phủ."
La Khắc Địch nói: "Biết rồi!"
Hắn quay người định đi thì Thoát Nhi Quả Quả lại nói: "La thượng quan còn nói, thỉnh tướng quân đại nhân yêu quý thân thể, chớ có uống rượu quá độ."
"Hả?" La Khắc Địch nghe thấy vậy hơi dừng lại, trong mắt lóe lên tiếu ý cổ quái, bảo: "Biết rồi, ngươi về hồi phục thượng quan đại nhân, nói rằng bản tướng quân nghe lệnh, ha ha ha."
Thì ra, sự phân phó của Đông Nhi còn có huyền cơ, câu dặn dò cuối cùng là ám hiệu ước định giữa Dương Hạo và đường huynh. Chỉ cần nghe thấy câu này, chính là đêm nay bình an vô sự, Dương Hạo có thể qua phủ nàng ta. Đông Nhi tính tình hay ngượng, tuy cũng muốn đêm đêm được ở cùng với lang quân mà mình hằng đêm mong nhớ, nhưng cho dù biết rõ hoàng hậu tối nay không cần nàng ta đi cùng, nàng ta cũng xấu hổ khi nói ra ám hiệu này, đây vẫn là lần đầu tiên dùng. La Khắc Địch chỉ biết đường muội lại nhớ phu quân rồi chứ không biết bởi vì tối nay Tiêu hậu đã ký quốc thư, Đông Nhi mới vội vàng nói tin tức này cho hắn.
"Ài, người ta hai phu thê ân ân ái ái, ta lớn vậy rồi khó khăn lắm mới thích một nữ tử, hai ngày trước còn tốt, sao đột nhiên lúc này lại không nóng không lạnh với ta nhỉ?"
La Khắc Địch đặt bình rượu lên bàn, chán nản lắc lắc đầu.
Bình rượu này là Nhã công chúa đưa đến. Nhã công chúa đối với hắn lúc mềm lúc cưng, hỉ nộ vô thường, kỳ thực vẫn là bởi vì không bỏ hắn cho được. La Khắc Địch trong lòng biết rõ, nhưng hắn biết sống cũng được, chết cũng được, đều phải rời khỏi thượng kinh thành, không thể có kết quả với Nhã công chúa được, sao mà phải giả dối với nàng ta. Hơn nữa, thích chính là thích, không thích thì là không thích, chuyện cảm tình cũng thực sự là không miễn cưỡng được. Chỉ là nàng ta có ý tốt tặng rượu, lại không thể chối từ, để tránh làm mất mặt nàng ta quá.
Nhớ tới sự ân ái giữa đường muội và Dương Hạo, lại nhìn khúc mắc tình trường của mình, La Khắc Địch đột nhiên trong lòng thoáng động: "Ngọc Lạc là muội tử của Dương Hạo, nàng ta có tâm sự gì, nói không chừng Dương Hạo cũng biết, mình có sao không hỏi hắn nhỉ?"
Qua lại với nhân vật của cố quốc, vốn là chuyện tị hiềm, có điều qua mười ngày nữa là rời khỏi nơi này rồi, vì người trong lòng mình, La Khắc Địch cũng chẳng buồn để ý nhiều. La Khắc Địch vỗ vỗ đầu, gọi quản gia tới, nói: "Ngươi tới Lễ Tân viện, mời Tống quốc sứ tiết Dương Hạo đại nhân qua phủ, bản tướng quân rời nhà đã lâu, muốn mời Dương đại nhân phó yến, hỏi tình hình cố hương."
Gia nô đó là người Khiết Đan, tên là Nữ Lục Cát, vừa nghe thấy lời phân phó của La Khắc Địch, vội vàng dạ một tiếng. La Khắc Địch lại nói: "Đúng rồi, chuẩn bị một bàn rượu thịt chỉnh tề một chút, bình ngự tửu này để lên tiệc rượu rồi uống."
Nữu Lục Cát vâng dạ, ôm bình rượu cung kính lui ra ngoài.
Chương 386:Mái chèo.
Dương Hạo nhận được lời mời, đầy một bụng kinh ngạc chạy tới phủ của La Khắc Địch. La Khắc Địch đứng ở ngoài cửa nghênh đón, vừa thấy hắn liền mỉm cười vái dài: "Dương sứ giả, hôm nay mạo muội gửi lời mời, được ngài nể mặt nhận lời, La mỗ cảm kích vô cùng. Nào nào nào, mời đại nhân vào trong."
Dương Hạo thấy bên cạnh hắn đứng mấy gia nô Khiết Đan đỉnh đầu trọc lốc, thắt bút xung quanh, cũng giả vờ như lần đầu tiên gặp nhau, mỉm cười hoàn lễ: "La tướng quân khách khí rồi, không biết tướng quân hôm nay mời bản quan đến là vì chuyện gì?"
La Khắc Địch nói: "La mỗ vốn là người Trung Nguyên, rời gia hương lâu rồi, giờ Dương đại nhân từ cố hương tới, La mỗ nhớ nhung cố thổ cố nhân, đặc biệt bày rượu cùng đại nhân ẩm yến, hỏi tình hình ở gia hương thôi chứ không hề có ý gì khác. Ha ha, đại nhân cứ yên tâm."
Hai người sánh vai ngồi xuống, đuổi gia nô ra, Dương Hạo liền nhíu mày, thấp giọng nói: "Chúng ta đường hoàng gặp nhau như vậy, không sợ người khác dị nghị ư?"
La Khắc Địch liếc gia nô đứng hầu ở cửa, nói khẽ: "Dẫu sao thì vài ba ngày nữa chúng ta cũng rời khỏi đây gì, sợ gì người ta dị nghị, vả lại ta là người Trung Nguyên, mời người cố hương tới gặp mặt uống rượu cũng là điều hợp tình hợp lý, nếu như tị hiềm không mời, e rằng ngược lại sẽ khiến người ta hoài nghi đó."
Dương Hạo lắc đầu cười khổ: "Huynh có đạo lý của huynh, vậy huynh tìm ta tới rốt cuộc là có chuyện gì."
La Khắc Địch nói: "Đông nhi từ trong cung truyền ra tin tức, nói rằng tối nay Tiêu hậu sẽ không tới chỗ nàng ta."
Dương Hạo mặt lập tức đỏ lên, ho khan một tiếng, nói: "Vì chút chuyện này mà huynh phải vất vả mời ta tới đây rồi mới nói ư? Hơn nữa.... tình hình hiện tại vẫn nên cẩn thận một chút, để tránh nhất thời sơ ý làm lộ vết chân ngựa. Sau này rồi cũng phu thê sống với nhau cả đời, đâu phải chỉ trong nhất thời nửa khắc đâu..."
Dương Hạo nói rất đường hoàng, La Khắc Địch nghe xong trợn mắt lên: "Được được được rồi, mấy cái chuyện đó của hai phu thê các người chớ có nói với ta làm gì. Mời huynh tới, quả thực là có chút chuyện riêng muốn thỉnh giáo..."
Hắn vừa nói tới đây thì lập tức ngậm miệng lại, tổng quản Nữu Lục Cát bước vào cửa, cung kính hành lễ, nói: "Đại nhân, tửu yếu đã chuẩn bị xong rồi."
La Khắc Địch đứng dậy, vui vẻ cười nói: "Dương đại nhân, mời..."
Trên tửu yến, La Khắc Địch ấp úng một hồi lâu mới nói: "Là thế này... Dương huynh, ta và huynh là sinh tử chi giao, giữa hai bên cũng không có gì là không thể nói, thôi thì ta cứ khai môn kiến sơn (mở cửa thấy núi - đi thẳng vào vấn đề) vậy..."
Dương Hạo trong lòng lờ mờ đã đoán ra được mấy phần, nhưng giả vờ như không biết, cười nói: "Huynh mở cửa rất lâu rồi, nhưng núi thì vẫn chưa thấy đâu, rốt cuộc là có chuyện gì vậy?"
La Khắc Địch sắc mặt hơi đỏ, nhăn nhó nói: "Dương huynh, thực không dám giấu, La mỗ lớn vậy rồi mà trước giờ vẫn chưa động tình với một nữ tử nào, nhưng... hiện giờ lại thật lòng thích lệnh muội..."
Dương Hạo vẫn im lặng, thấy vẻ mặt của hắn, La Khắc Địch vội vàng nói: "La mỗ đối với lệnh muội quả thực là nhất kiến chung tình. La mỗ cho tới giờ vẫn chưa cưới vợ, luận về thân phận gia thế, tự nghĩ cùng với lệnh muội cũng tính là xứng đôi. Vốn là, ta nghĩ khi nào chiếm được sự yêu thương của lệnh muội rồi mới đề thân với Dương huynh. Nhưng nói ra cũng lạ, mấy ngày trước lệnh muội đối với ta có nói có cười, hai hôm nay lại tâm sự nặng nề, đối với ta như gần như xa. La mỗ nghĩ mãi vẫn không hiểu, không biết đã làm chuyện gì thất lễ, nói ra lời gì không đúng mực mà chọc giận nàng ấy. Dương huynh là huynh trưởng của nàng ấy, ta nghĩ nàng ấy nếu có tâm sự gì chắc sẽ nói với huynh. Nếu Dương huynh biết, xin vui lòng cho ta được biết...."
Vừa nói xong những lời này, La Khắc Địch đã đỏ mặt tía tai, lúng túng đến nỗi mặt đầm đìa mồ hôi.
Dương Hạo chẳng nói chẳng rắng xé niêm phong trên vò rượu, rót cho hắn một chén rượu, cười ha ha, nói: "Lòng dạ của nữ nhân, tuy nói ta là ca ca của nó, nhưng cũng không thể hiểu được tâm sự của nó đâu. Nào nào nào, chúng ta uống rượu, trước tiên uống rượu cái đã..."
La Khắc Địch nóng ruột không dằn nói, cầm chén lên một hơi uống cạn, lau lau miệng, chẳng cảm giác được thứ đổ vào bụng là cái gì, lại van cầu: "Dương lão huynh, Dương đại nhân, huynh đệ đối đãi với hynh không bạc, huynh không thể thấy chết mà không cứu được. Lúc này huynh không kéo huynh đệ một cái, vậy thì huynh đệ chết chắc rồi. Ta đang buồn bực, lệnh muội sao đội nhiên đối với ta lại như thành một người khác. Cái này cứ thắt nút ở trong lòng, ta ăn ngủ không ngon."
Dương Hạo cũng rót cho mình một chén, chỉ thấy màu rượu trong chén như hổ phách, hương thơm xộc vào mũi, hai mắt không khỏi sáng lên: "Ái chà, rượu Bồ Đào? Từ lúc tới.... à, ta trước giờ vẫn chưa từng uống thử rượu Bồ Đào."
Hắn cầm chén rượu lên nhấp một ngụm, bình phẩm: "Vào miệng thơm phức, vô cùng hồi vị, quả nhiên là rượu ngon. La huynh... La huynh đã uống hết một bình rồi à."
La Khắc Địch hơi tức giận, nói: "Dương huynh, ta đang nói chính sự."
Dương Hạo lại uống một ngụm rượu rồi mặt mày buồn bã đặt chén rượu xuống.
Nếu không phải thân phận đặc thù của mình tạo thành trở ngại cho mối quan hệ giữa bọn họ, vị muội muội đã một đao chém đứt đường tình cho tới giờ của mình có thể có được duyên lành với La Khắc Địch rồi. Dương Hạo rất vui mừng khi thấy được điều này. Nhưng hiện giờ lại không được, đám cưới chính trị là vô cùng mẫn cảm, nếu bọn họ kết hợp, e rằng không phải là chuyện tốt, ngược lại sẽ trở thành bi kịch mất.
Triều đình Tống quốc liệu ở ngồi yên mà nhìn quan lớn trong triều kết làm thân nhân với nhất phiên Tây Bắc hay không? La Công Minh liệu có thể vì một đứa con dâu mà hủy đi tiền đồ của La gia hay không? Đau dài không bằng đau ngắn, đã như vậy, không bằng sớm cắt đứt đi. Nhưng nỗi khổ ở bên trong này, hắn không thể nói thẳng ra với La Khắc Địch được. Hắn cũng đắn đo bất định, cho dù La Khắc Địch coi hắn là sinh tử chi giao, nếu biết được chân tướng, biết được hắn muốn tự lập ở Tây Bắc, liệu có đại nghĩa diệt thân, vừa tới Tống cảnh đã một đao chém chết hắn ngay trên lưng ngựa hay không?
La Khắc Địch thấy hắn thần tình do dự, biết rằng chắc có duyên cố, sốt ruột đến miệng khô lưới rát, cũng không cần Dương Hạo khuyên bảo, hắn cầm bình rượu lên rót cho mình một chén, sau đó một hơi uống cạn, coi như là nước mát làm ướt cổ họng, mắt nhìn chằm chằm vào Dương Hạo với vẻ mong chờ.
Dương Hạo do dự mãi mới trầm ngâm nói: "Cái này... trong đây quả thực là có một duyên cố..."
La Khắc Địch vội vã hỏi: "Duyên cố gì?"
Dương Hạo cười khổ, nói: "Vấn đề là... không thể nói..."
La Khắc Địch trừng mắt lên, Dương Hạo thành khẩn bảo: "La huynh, với dạng nhân vật anh hùng như huynh, có thể nhìn trúng xá muội, Dương mỗ thật sự là vô cùng vui mừng. Theo Dương mỗ thấy, nếu hai người có thể kết thành phu thê, đó là phúc khí của xá muội. Còn xá muội, xá muội một mực thanh cao, nam tử có thể khiến nó coi trọng chỉ đếm trên đầu ngón tay, mà La huynh là một trong số đó. Nếu hai người ở cùng một chỗ, ta nghĩ xá muỗi cũng sẽ thật lòng thích huynh."
La Khắc Địch sốt ruột đến độ vò đầu bứt tai, nói: "Dương huynh, vậy vì sao..."
"Ta đã nói rồi, không thể nói thẳng ra chính là bởi vì ta và La huynh là sinh tử chi giao, ta không muốn lừa huynh, cho nên mới nói là không thể nói được. Nếu không đã tùy tiện tìm một lý do gì đó để lừa huynh rồi."
Dương Hạo nhấp một ngụm rượu, lại nói: "Có điều, ta sẽ không giấu huynh quá lâu. Đợi khi chúng ta bình an trở về Trung Nguyên, ta sẽ nói rõ chân tướng với huynh. Lâu nhất cũng không quá ba tháng, được không? Trong ba tháng, ta nhất định sẽ nói cho huynh biết nguyên do trong đây. Nếu huynh có biện pháp giải quyết vấn đề này, có dũng khí ứng phó với nan đề này, vẫn nguyện ý theo đuổi muội muội của ta, người làm ca ca như ta tuyệt sẽ không cản trở..."
Câu cuối cùng này của hắn đã tiết lộ thiên cơ rồi, nói ra rằng hắn mới là thủ phạm tạo thành sự lãnh đạm đột ngột của Đinh Ngọc Lạc đối với La Khắc Địch. Nhưng La Khắc Địch đang tâm phiền ý loạn nào có hiểu ra được, chỉ thầm nghĩ: "Ba tháng ư? Bấm tay mà tính thì ba tháng cũng chẳng qua là thời gian trên đường về Trung Nguyên, về tới Biện kinh mới ứng phó với những người trong triều đình và trong nhà xong vừa hay có thời gian nhàn rỗi. Ta đã nói với nàng ta rồi, thương hải tang điền, thiên hoang địa lão ta còn đợi được, đợi ba tháng thì có nhằm nhò gì?"
Thế là, hắn gật đầu, Dương Hạo mỉm cười cầm chén lên, nói: "Vậy thì La huynh hiện tại đã có thể buông bỏ tâm sự, thoải mái mà uống rượu chưa?"
La Khắc Địch tức giận trừng mắt lườm hắn một cái, nhắc tơi bình rượu lại bực bội nói: "Rượu này ngòn ngọt mềm mềm, nào có vị đạo gì đâu? Nữu Lục Cát, màng cho ta một vò rượu mạnh tới đây."
Nữu Lục Cát đứng ở ngoài bậc cửa, thấy hai người ngồi trên tiệc uống hả hê, trong nháy mắt hai chén rượu lớn đã tiếng vào miệng La đại tướng quân, trong lòng không khỏi mừng rơn. Hắn vội vàng gọi một gia nô tâm phúc, nói với gã mấy câu, người đó liền lĩnh mệnh mà đi.
Nữu Lục Cát mặt mày rạng rỡ nhìn bóng lưng của người đó: "Lần này tiền thưởng của công chúa điện hạ tới tay ta rồi."
Đột nhiên nghe thấy trong phòng truyền tới tiếng phân phó của La Khắc Địch, hắn vội vàng dạ một tiếng rồi chạy vào hầm rượu như một làn khói.
...
Trong chướng nỉ sáng sủa rộng rãi, bốn ngọn nến đổ to như tay trẻ con dựng ở bốn góc, Tiêu hậu ngồi chính giữa, Thất Phưởng, Quách Tập chia ra ngồi hai bên, hai đội vũ kỹ cung đình đang múa may ở giữa bọn họ. Vũ đạo cung đình của Khiết Đan không có khí lệ của vũ đạo Trung Nguyên, nhưng lại tràn ngập phong tình thảo nguyên. Hai đội thiếu nữ hết hát lại múa, động tác chỉnh tề đồng đều, theo tiết tấu mà vui thích khiêu động bước nhảy.
Thất Phưởng và Quách Tập mặt mày tươi cười cầm chén lên, nói với Tiêu Xước: "Nương nương đãi lão thần rộng rãi như vậy, lão thần cảm kích vô cùng. Giờ mượn mỹ tửu của nương nương, kính hiến nương nương, chúc vua ta long thể sớm khỏi, nương nương thanh xuân vĩnh trú."
Tiêu Xước cầm chén lên, cao giọng nói: "Hoàng thượng từ lúc đăng cơ đến nay, vì thân thể yếu ớt, quốc sự đành giao hết cho bản cung. Bản cung là hạng nữ nhân yếu đuối, từ lúc phụ quốc tới nay, may mà được hai vị đại nhân giúp đỡ, nhờ có sự tương trợ của hai vị đại nhân Thất Phưởng, Quách Tập, mới khiến giang sơn Khiết Đan được vững chắc, chư tộc cung tuần. Chén rượu này, nên là Tiêu Xước kính hai vị đại nhân. Hai vị đại nhân, mời."
Tiêu Xước nói xong liền cầm chén lên một hơi uống cạn, Đông Nhi hầu hạ ở bên cạnh vội vàng rót đầy chén cho bà ta.
Tiêu Xước tửu lượng không cao, bình thường chỉ nhấp môi, hôm nay không biết vì sao lại rất hứng trí, uống một cái là cạn chén, cười nói vui vẻ. Thấy nương nương uống cạn rượu trong chén, hai vị lão thần tất nhiên không dám chậm trễ, vội vàng cũng một hơi uống cạn.
Tiêu Xước cúi xuống cụng ly với hai vị đại nhân, thuật lại công tích một đời của hai người, tuyệt không có nửa câu sai lệch thiếu xót. Hai vị đại nhân không ngờ vị hoàng hậu nương nương trẻ tuổi này lại nắm rõ rất nhiều công lao sự nghiệp mà cả đời này mình lấy làm vinh dự như lòng bàn tay, không khỏi cảm kích rơi nước mắt, đột nhiên nảy sinh cảm giác tri kỷ.
Khách chỉ nói chuyện đang hào hứng thì một vị nữ quan lặng lẽ bước vào đại trướng, vị nữ quan này tên là Tháp Bất Yên, là nha hoàn thiếp thị hầu Tiêu Xước từ lúc còn ở Tiêu gia, cũng giống như Đông Nhi, đều là nữ quan mà bà ta hiện giờ sủng ái nhất, chỉ là Tháp Bất Yên không thức thời, cho nên một mực đảm đương những chức vị không lấy gì làm quan trọng.
Tháp Bất Yên nói với Tiêu Xước mấy câu, Tiêu Xước liền đặt chén rượu xuống, vẫy tay với Đông Nhi, gọi nàng ta tới trước mặt, nói khẽ: "Bọn họ đã tới rồi, thứ bảo ngươi chuẩn bị đâu?"
Đông Nhi sờ vào hông, hồi bẩm: "Nương nương, thứ đó vẫn ở trên người Đông Nhi."
Tiêu Xước nói: "Rất tốt, ngươi và Tháp Bất Yên lập tức dẫn người xuất thành, ở trên đường phục kích bọn chúng, phải nhớ, không lưu lại một người sống nào."
Đông Nhi ngớ người, thất thanh nói: "Hiện tại ư?"
Tiêu Xước nói: "Không sai, bọn chúng vội vàng đi trong đêm, còn có hai tiếng nữa là tới thượng kinh rồi, đêm hôm vừa hay dễ động thủ, một khi xuất hiện sơ xuất, bọn chúng cũng không dễ dàng thăm dò được thân phận của các ngươi."
Đông Nhi thầm nghĩ: "Hỏng rồi, vốn đã ước hẹn với Hạo ca ca, tối nay e rằng lại đành để Hạo ca ca bơ vơ giường trống rồi."
Tiêu Xước thấy vẻ mặt của nàng ta, còn cho rằng nàng ta có chút khẩn trương, liền mỉm cười, nói: "Ngươi không cần phải lo lắng, cứ án chiến theo cách săn thú mà bình thường ta dạy ngươi, coi bọn chúng là cáo bay thỏ rừng là được rồi. Bọn chúng đi đường xa, sớm đã mệt mỏi rồi, khi tới thượng kinh cũng là thời khắc thiếu cảnh giác nhất, dưới sự xuất kỳ bất ý, nhất định có thể tiêu diệt toàn bộ bọn chúng."
Bà ta hơi trầm ngâm một chút rồi lại nói: "Chuyện này cơ mật, ta không muốn để qua nhiều người trong hoàng tộc biết. Thế này đi, bảo đường huynh của ngươi dẫn mấy tâm phúc đi theo, với võ công và kinh nghiệm chiến trận của hắn, có thể đảm bảo các ngươi vạn vô nhất thất."
Bà ta quay đầu lại nói với nữ quan đó: "Tháp Bất Yên, ngươi chọn một số nữ vệ trung thành đáng tin cậy, lại gọi La tướng quân đến, những người khác thì đừng kinh động."
Bảo tâm phúc tham dự cơ mật, là thủ đoạn khiến bọn họ hiệu trung còn hiệu quả hơn cả ban thưởng, Tiêu Xước tất nhiên là hiểu rõ đạo lý trong đây.
Tháp Bất Yên nghe xong dạ một tiếng, kéo La Đông Nhi ra ngoài.
Bọn họ lần này đi là muốn phục kích Niêm Bát Cát sứ tiến.
Niêm Bát Cát là một bộ lạc chính quyền liên minh ở tây thùy Khiết Đan, vào đời Hán triều là nơi du mục của tộc Thiết Lặc, vào triều Tùy thì thuộc Tây Đột Quyết, vào triều Đường thuộc Bắc Đình đô hộ phủ. Chính quyền trung ương triều Đường lụi tàn nhanh chóng, khi ngay cả các lộ tiết độ Trung Nguyên đều không có sức khống chế, nơi này liền đứng lên giành quyền tự chủ, khi Khiết Đan lập quốc, càng ngày càng cường đại, bọn họ lại xưng thần với Khiết Đan.
Người Bắc Hán quốc là ỷ lại Khiết Đan nhất, cho nên sứ giả Hán quốc thường trú ở thượng kinh. Năm ngoái sứ tiết Niêm Bát Cát tới thượng kinh, từng có khúc mắc với sứ tiết Hán quốc, người Niêm Bát Cát tính tình thô dã, có men rượu là bất kể hậu quả, ngay tại đương trường rút đao chém chết phó sứ Hán quốc, Bắc Hán quốc hiện giờ quốc lực suy yếu, không dám đắc tội với ai, chỉ đành bấm bụng nuốt giận, có điều cái này cũng tính là song phương đã kết thù.
Tiêu Xước trong tình thế bức bách, vì rơi vào đường cùng nên chỉ đành khuất phục với Tống quốc, nhưng bà ta lại sợ chuyện này sẽ tổn hại tới quốc uy của Khiết Đan, sẽ trở thành một lý do để các hoàng tộc Khiết Đan có rắp tâm khác công kích mình, cho nên muốn tìm một lý do đường hoàng để cự tuyệt việc không cứu viện Bắc Hán. Mà lý do này chính là lợi dụng thù cũ giữa Hán quốc và Niêm Bát Cát bộ, chế tạo một sự cố ám sát, từ đó mà tìm một lý do để Khiết Đan vứt bỏ Bắc Hán.
Do đó, bà ta liền lệnh cho Đông Nhi từ quán dịch của Bắc Hán sứ tiết thường trú ở thượng kinh kiếm được một tín vật thân phận đủ để vu khống, chỉ đợi sứ tiết Niêm Bát Cát vào kinh liền dùng thân phận của người Bắc Hán ở trên đường phục kích, từ đo giá họa cho Bắc Hán. Tới lúc đó Khiết Đan liền có thể dùng lý do này để đuổi sứ tiết Hán quốc, tuyên bố hai nước đoạn tuyệt quan hệ.
Chế tài nghiêm khắc như vậy, thứ nhất có thể phủi sạch quan hệ giữa Khiết Đan và Hán quốc, tìm một lý do đường hoàng để bọn họ cự tuyệt cứu viện Hán quốc, còn có thể mượn việc này để kéo gần quan hệ giữa họ và Nam Bát Cát bộ. Khánh vương hiện giờ chạy tới Ngâu châu, xây dựng quan hệ rất thân mật với Niêm Bát Cát bộ ở phía tây tây bắc, như vậy sẽ có thể cô lập được Khánh vương, kế hoạch này chính là một đá ném chết hai con chim.
Tháp Bất Yên trung tâm cảnh cảnh với Hán quốc, đối với mệnh lệnh của Tiêu hậu luôn luôn thi hành chính xác, lập tức kéo Đông Nhi đi. Đông Nhi thầm kêu khổ, nhưng lại đành bất lực, cũng không tìm được cơ hội đế nói với quan nhân nhà mình. Thế là chỉ đành theo Tháp Bất Yên đổi y phục, mặc áo giáp mềm, khoác áo ngoài, âm thầm gọi một số nữ vệ tâm phúc rồi lặng lẽ ra khỏi cung.
La Khắc Địch vừa tiễn Dương Hạo đi liền trở về phủ, cầm bình trà nóng uống hai chén thì Tháp Bất Yên và Đông Nhi tới. La Khắc Địch không hiểu gì ra phủ nghênh đón, Tháp Bất Yên đuổi người hầu, nói mật chỉ, La Khắc Địch không thể cự tuyệt, chỉ đành mặc giáp trụ chỉnh tề, dẫn theo mấy thị vệ tâm phúc, cùng bọ họ sải bước rồi ngoài rồi lên tuấn mã phi ra khỏi thành, hội hợp với những nữ vệ sát khí đằng đằng đứng ở cửa thành rồi đi về phía tây.
La Khắc Địch vừa đi, Nhã công chúa liền đến, nghe nói La Khắc Địch theo Tháp Bất Yên, La Đông Nhi hai người rời đi. Nhã công chúa không khỏi trợn trừng mắt, lại muốn hỏi han lại kỹ càng, nhưng Nữu Lục Cát thì lại chẳng biết gì.
Nhã công chúa khẩn trương, La Khắc Địch uống rượu thuốc một khi dược tính phát tác, Tháp Bất Yên thì không sao, nhưng La Đông Nhi chính là đường muội của hắn, một khi bọn họ có chuyện loạn luân gì, há chẳng phải là mình tạo thành nghiệt chướng ư?
Nhã công chúa càng nghĩ càng thấy hoảng hốt, nàng ta có lòng tìm La Khắc Địch để ngăn chặn bi kịch xảy ra, nhưng chuyện mà tối nay La Khắc Địch phải làm quá cơ mật, Nữ Lục Cát chỉ nhìn thấy hắn cưỡng ngựa đi về phía thành tây, nào có biết chính xác được hắn đi đâu. Nhã công chúa muốn tới hỏi hoàng hậu, nhưng mình vô duyên vô cớ lại đi thăm hỏi mục đích của họ, nếu nương nương hỏi tới thì phải giải thích như thế nào đây? Nếu bị người ta biết được nàng ta đường đường là một công chúa mà lại đi hạ độc một nam tử, cho dù với tác phong thô dã hào phóng của người Khiết Đan, nàng ta là con cháu hoàng thất, từ giờ cũng không còn mắt mũi nào mà gặp người khác.
Nhã công chúa vừa kinh lại vừa sợ, trong lòng đắn đo, đi đi lại lại ở ngoài phủ trạch của La Khắc Địch, không biết nên đi đâu.
Người nhận lệnh của Da Luật Sở Cuồng, giám thị hành tung của Nhã công chúa dẫn theo một đội cung vệ quan binh của Da Luật Sở Cuồng, âm thầm mai phục ở chỗ tối, hắn vốn muốn án theo sự phân phó của Da Luật Sở Cuồng, tới bắt đôi thông dâm, tới lúc đó sẽ mời chủ tử ra mặt hòa giải, thu phục La đại tướng quân này, ai ngờ...
Hắn cũng không hiểu vị Nhã công chúa này đi đi lại lại dưới hiên nhà làm cái gì, trong lòng ngu ngơ mù mờ, nhưng không dám để lộ hành tung, chỉ đành dẫn người kiên nhẫn nằm trong bụi cỏ, lẳng lặng tiềm phục.
Đông Nhi từ nhỏ đã chịu kham khổ quen rồi, không thích được người khác phục thị, lại thêm tính tình của nàng ta điềm tĩnh, lại thỉnh thoảng sống ở trong cung, Do đó trong phủ không có một ai, chỉ có một đôi phu thê già vô cùng chất phác làm người sai vặt, quét dọn đình viện, phòng gian.
Dương Hạo từ phủ của La Khắc Địch đi ra, trên đường lại đi qua chỗ ở của La Khắc Địch, khi hắn đi qua hậu viện, liền lặng lẽ nhảy vào trong trạch viện của Đông Nhi. Lúc này đã là buổi tối, nơi đây chính là bắc thành, người sống ở hoàng thành đều là quyền quý huân khanh, cao trạch đại viện, cứ tới buổi tối là trên đường không còn ai đi lại, do đó không có ai chú ý tới hành tung của hắn. Với thân thủ cao minh của hắn, tất nhiên nhảy tường vào nhà là chuyện hết sức dễ dàng.
Dương Hạo tiến vào phòng ngủ, thấy Đông Nhi vẫn chưa trở về, hắn cũng không dám đăng đèn, liền cởi áo ngoài ra, chỉ mặc áo lót nằm tên giường mềm mang theo hương thơm nữ nhi của Đông Nhi, hai mắt nửa khép nửa mở điều dưỡng tính thần.
Rượu Bồ Đào này quả thật là có tác dụng thúc tình, Dương Hạo cảm thấy trong bụng nóng phừng phừng, không khỏi cười thầm. Rượu đúng là thứ làm mốii cho tình dục, lại thêm rượu đỏ có tác dụng rất lâu, chỉ có điều... tựa hồ như tác dụng hơi quá rõ thì phải, chẳng lẽ rượu Bồ Đào thuần một màu xanh của thời đại này lại có tác dụng lớn vậy?
Dương Hạo đột nhiên cảm thấy phản ứng thân thể hình như quá cường liệt, chỉ biết là thân thể của mình thả lỏng đã lâu, công pháp song tu lại tu luyện quá dài, một khi bị Đông Nhi dẫn đốt lửa dục, nhưng lại không thể thỏa thích phát tiết, cho nên tâm ma phát sinh, do đó cũng không nghi ngờ gì. Hắn nghĩ đến đây liền ngồi khoanh chân lại, có ý đứng muốn kháng cự với tâm ma của mình.
Người tu đạo bình thường chú trọng rửa sạch tục miệm, thái thượng vong tình để củng cố đạo tâm, nhưng người tu đạo của một phái khác lại tìm ra lối tắt, dùng phàm nhân chi dục vốn luôn làm trở ngại tu đạo, ngược lại trở thành đá tốt của đạo, đó là hoan hỉ thiện của phật gia, song tu công pháp của đạo gia, tức mang theo ý dâm nhập định, để khắc chế tâm ma, làm kiên định đạo tâm, cuối cùng rời khỏi dục giới, sinh ra sắc giới.
Loại tu hành này đạt tới đại thành giả, ở đạo gia được xưng là Ma Sư, ở Phật gia được xưng là Thượng Phẩm Ma Vương, mang theo một chữ ma, là bởi vì khi thừa nhận công phu cao thâm của bọn họ, đồng thời cũng bởi vì bọn họ thủy chung có một chỗ thiếu xót lớn. Bởi vì loại công pháp này tuy dễ tu hành, nhưng đạo cao một thước thì ma cao một trượng, định lực càng mạnh thì dâm dục càng cao, cho dù là người đạt tới dại thành cũng không thể tránh khỏi, cho nên với đạo hành của Lữ Đông Taân cũng không rời khỏi được nữ sắc.
Công pháp của Dương Hạo vốn có loại tác dụng phụ này, cho nên không mảy may có chỗ nghi ngờ khác. Ý chí lực của hắn dần dần có tác dụng, hô hấp nặng nề cũng từ từ biến thành dài ra. Dương Hạo rất mãn ý với sức khống chế của mình, hai tay hắn đan vào nhau đặt trên tiểu phúc, từ từ thổ nạp.
Hắn sao biết được mình hiện giờ không ngờ đã ăn lầm thượng phẩm, với định lực thiền của hắn, lại thêm phát tiết thỏa đáng, vốn đã đủ để áp chế tâm ma rồi, nhưng hắn lại uống bầu rượu Bồ Đào có thuốc, giống như là rót thêm dầu lên lửa, lúc này dược tính vẫn chưa phát tác, tựa như lửa còn chưa bùng cháy liền bị hắn cách tuyệt với không khí. Nếu một khí ý chí thất thủ, sẽ giống như bếp lò bị bịt kín đột nhiên có không khí lọt vào, lúc đó sẽ bùng cháy, hậu quá khó mà tưởng tượng được. Nhưng hắn lại hồn nhiên không phát giác ra, còn cho rằng định lực của mình càng lúc càng thâm hậu, trong lòng có chút dương dương đắc ý.
Lúc này, trên đường xuất thành, La Khắc Địch đang mai phúc ở trên Hải Lặc lĩnh cách thượng kinh thành sáu dặm, nằm giữa một đám nữ vệ cung đình, lại có chút không nhịn được, bắt đầu nổi lòng hươu ý vượn.
Trên lĩnh cỏ dại mọc um tùm, còn có cây cối thưa thớt, dưỡi lĩnh có một con suối nhỏ uốn lượn, nước suốt chảy róc rách. La Khắc Địch nằm ở trên lĩnh, dần dần cảm thấy thân thể có gì đó khác lạ. Hắn không uống nhiều rượu Bồ Đào bằng Dương Hạo, nhưng định lực thiền của hắn cũng không bằng Dương Hạo, tuy nói rằng hắn là một vị đại tướng quân, sát phát quyết đoán, dù Thái Sơn sụp đổ ở trước mặt cũng không đổi sắc, nhưng đó là ở trên chiến trường. Còn trên chiến trường tình dục, hắn chẳng qua chỉ là một mao đầu tiểu tử huyết khí phương cương mà thôi. Đặc biệt là trên đường cưỡi ngựa phóng nhanh, khí huyết cả người tản ra, nằm ở đó, hắn cảm thấy trong cơ thể nổi lên từng trận từng trận sóng triều tình dục xa lạ, khó trấn áp, khiến hắn sinh lòng hốt hoảng.
Hắn nằm sấp ở đó, hai tâm nắm chặt một túm cỏ, thân kéo căng như một cây thương, những nữ binh mà bình thường hắn căn bản không nhìn thêm dù là một lần, lúc này tựa hồ như có sức hấp dẫn rất lớn đối với hắn. Cảm quan của hắn dường như mẫn duệ hơn bình thường gấp nhiều lần, cho dù là tiếng hô hấp khe khẽ, tiếng nói chuyện nho nhỏ, thậm chí là thân hình mặc kình trang rất khó nhìn ra đường cong của họ đều kích thích sự hô hấp của hắn, trêu trọc lỗ tai của hắn, hấp dẫn ánh mắt của hắn.
"Không đúng, không đúng..." La Khắc Địch lẩm bẩm.
"Tướng quân đại nhân, có chuyện gì không đúng vậy?" Thoát Nhi Quả Quả ở gần nhất, hỏi khẽ.
La Khắc Địch quay đầu nhìn xung quanh, phun ra một hơi khí nóng, nói khẽ: "Nơi này... gọi là Hải Lặc lĩnh phải không? Vốn mọc đầy cây cỏ mới phải? Truyền thuyết nói rằng cây dẫn tính âm, thường tụ khí âm hồn, ta hình như trúng tà rồi..."
Thoát Nhi Quả Quả ồ một tiếng, nói khẽ: "Đại nhân, trong tiếng Khiết Đan chúng ta, Hải Lặc có nghĩa là cây du, không phải là cây cột buồm. Nơi này có thể tụ quỷ hồ gì chứ, sát khí của tướng quân nặng như vậy, nếu thực sự là có cô hồn dã quỷ gì thì cũng phải... ai sờ ta đó...A!
Thoát Nhi Quả Quả hô khẽ một tiếng, vội vàng ôm lấy miệng, nàng ta đang ghé sát vào La Khắc Địch để nói chuyện, đột nhiên cảm thấy một cánh tay sờ vào mông của mình, còn cho rằng là tỷ muội nào đó đùa giỡn mình, vừa dùng sức đập ra thì lập tức chủ nhân của bàn tay to đó chính là La Khắc Địch, không khỏi ôm lấy miệng, giật mình trừng mắt nhìn hắn.
La Khắc Địch dược tính phát tác, vốn đã tâm tình lay động, không thể tự kiềm chế, khi Thoát Nhi Quả Quả "ồ" lên một tiếng, lọt vào trong tai giống như là tiếng gió vi vu, một bàn tay bất tri bất giác đặt lên phần mông của nàng ta, khi sờ tới cặp mông tròn trịa đẫy đà đàn hồi mà mềm mại ấy, La Khắc Địch lần đầu tiên phẩm vị mị lực của dị tính đã triệt để mất đi ý thức, tay hắn lại sờ lên dần.
Tim Thoát Nhi Quả Quả đập thình thịch, lại kinh ngạc lại vừa vui mừng, nói: "La tướng quân... không ngờ... không ngờ lại thích ta... nhưng ở chỗ này... tướng quân đại nhân gan hình như cũng lớn quá rồi..."
Thoát Nhi Quả Quả nắm lấy bàn tay lợn đang ăn đậu hủ trên mông mình, xấu hổ nói: "Nơi này không được đâu, tướng quân nếu thích ta, đợi khi trở về..."
Nàng ta vừa nói tới đây, đột nhiên cảm thấy một luồng hơi nóng rực phả lên mặt, kinh ngạc ngẩng đầu lên thì thấy La Khắc Địch hai mắt trợn tròn, giống như một con sói tung người lao tới nàng ta.
Thoát Nhi Quả Quả đầu tiên là ngây ngốc, sau đó thì lập tức "xoạt" một tiếng, trước ngực lạnh toát, y phục đã bị xé rách rồi, Thoát Nhi Quả Quả sợ tới phát khóc, nói: "Người đâu, La đại nhân hắn... hắn trúng tà rồi!"
Nữ binh ở xugn quanh giật nảy mình trừng mắt nhìn về phía này...
...
Trong đại trướng vắng lặng như tờ, Thất Phưởng và Quách Tập chậm rãi đứng dậy, rời khỏi chỗ ngồi.
Vừa thấy Tiêu Xước đuổi người hầu đi, bọn họ liền hiểu rằng hoàng hậu tất cả chuyện cơ mật muốn thương nghị, không khỏi thấp thỏm đứng dậy.
Tiêu Xước chậm rãi rời khỏi chỗ, hai hàng lệ đột nhiên ứa ra, Thất Phưởng và Quách Tập thấy vậy liền giật nảy mình, hoảng hốt nói: "Nương nương.. đây... là ý gì?"
Tiêu Xước đột nhiên khóc lóc quỳ xuống đất, nức nở nói: "Hai vị đại nhân, cha ta chết sớm, lại không có huynh đệ, trong tộc không có trợ lực thân tín. Hiện giờ hoàng thượng thân thể yếu đuối, khó mà để ý được tới triều chính, chư vương tông thất nắm binh tự lập, giống như hổ đói rình mồi. Tiêu Xước tuy có phong quang ngày hôm nay, nhưng là một gốc cây không rễ, tộc chúc hùng cường, ai ai cũng mang dị tâm, biên phòng chưa yên, tứ phương đã nổi dậy, Tiêu Xước thật sự không biết nên làm thế nào mới tốt."
Vừa thấy bà ta quỳ xuống, Thất Phưởng và Quách Tập liền sợ hãi quỳ xuống theo, liên tục khấu đầu, vừa nghe thấy Tiêu Xước nói vậy, hai vị lão thần liền dập đầu nghe binh binh, kích động nói: "Chỉ cần có lão thần ở đây, thề sẽ bảo vệ hoàng thượng, nương nương, quyết không dung thứ cho gian nịnh làm loạn. Lão thần tuy đã già, nhưng cam nguyện đứng trước ngựa để nương nương sai bảo, một khi có mệnh lệnh gì, lão thần không bao giờ không tuân. Nương nương xin đứng dậy đi, chớ có làm tổn thọ của lão thần."
Tiêu Xước được bọn họ đỡ dậy, rưng rưng nước mắt, nói: "Hai vị đại nhân, thực sự không dám giấu, Khánh vương tuy phản, Ngưu Cánh đã lộ móng vuốt, trầm đều có thể phòng bị. Nhưng trong triều... lại có một đám người khác nhăm nhe hoàng vị, đối với bản cung minh thương ám tiễn, thi triển thủ đoạn. Bọn họ thấy bản cung trọng dụng hiền thần giống như hai vị ái khanh đây, liền nói rằng bản cung xa rời hoàng tộc, trọng dụng dị tính (người khác họ), lôi bè kết phái, đối với bản cung vừa đấm vừa xoa, bản cung… thật sự là không thể chịu nổi."
Thất Phưởng và Quách Tập nghe vậy không khỏi biến sắc, bọn họ không phải là hoàng tộc, hiện giờ có thể nắm giữ đại quyền của nam bắc lưỡng viện, toàn là nhờ vào sự sủng tín của hoàng hậu. Bọn họ sớm đã biết rằng người trong hoàng tộc đối với việc bọn họ chiếm cứ vị trí cao này mà sinh lòng bất mãn, nhưng không ngờ lại đã đấu tranh tới mức độ này. Bọn họ trị chính hai năm nay, trung tâm cảnh cảnh làm việc gì triều đình, quả thực đã đắc tội với không ít người quyền quý phạm pháp, nếu hoàng hậu một khi không chống nổi mà buông bỏ bọn họ, vậy thì kết cục của bọn họ đúng là sống không bằng chết rồi.
Tiêu Xước lại nói: "Nhưng bản cung biết hai vị đại nhân là trung lương, há chịu vứt bỏ? Hiện giờ bản cung có ý quét sạch gian nịnh trong triều, hai vị đại nhân có nguyện cùng tiến cùng lui với bản cung hay không?"
Thất Phưởng và Quách Tập nghe thấy vậy, không khỏi suy nghĩ nhiều, dưới cái nhìn ngân ngất lệ của Tiêu Xước, hai vị lão thần trong lòng không khỏi sinh ra hào khí thời niên thiếu, lập tức đặt tay lên ngực, trầm giọng nói: "Lão thần xin phát thệ với lão thiên chí cao vô thượng, hoàng hậu một khi có lệnh gì, sẽ quyết nghe theo, thề phục vụ quên mình vì nương nương!"
Tiêu Xước lau nước mắt, nói: "Được, Da Luật Hưu Ca tướng quân đối với ta một mực trung tâm cảnh cảnh, hắn không lâu nữa sẽ về kinh, ta có ý muốn dùng thủ đoạn lôi đình để làm sạch gian nịnh trong triều, chỉ bằng vào Hưu Ca tướng quân thì khó có thể được như ý, vẫn cần phải nhờ hai vị đại nhân ra sức tương trợ."
Hai người vừa nghe thấy Da Luật Hưu Ca tay nắm mười vạn cung vệ quân cũng ra sức vì nương nương, trong lòng càng vững trãi hơn, trầm giọng nói: "Xin tùy nương nương phân phó."
Tiêu hậu mừng rỡ, lập tức cầm một cái chén lớn tới, tự mình rót đầy rượu ngon, lấy bội đao cắt ngón tay, nhỏ máu vào trong chén. Thất Phưởng và Quách Tập thấy vậy liền biết rằng nương nương là muốn uống máu ăn thề với bọn họ, thế là hai người cũng rút bội đạo ra rạch ngón tay, nhỏ máu vào trong chén rượu.
Tiêu hậu bưng chén lớn, cao giọng nói: "Hôm nay ta cùng hai vị đại nhân uống máu ăn thề, sau này đồng sinh đồng tử, cùng chung phú quý!" Nói xong liền cầm chén lớn lên uống.
Thất Phưởng và Quách Tập hai vị lão thần vội vàng cũng cầm chén rượu của mình lên uống.
Một chén rượu nóng vào bụng, Tiêu hậu mặt đỏ bừng, mắt mơ màng, bà ta lại cầm một chén rượu, nói: "Sau khi thành công, ta sẽ gia phong hai vị đại nhân làm Đại Vu Việt, con cháu đời sau vĩnh viễn được hưởng sự che trở."
Nói xong lại một hơi uống cạn, Thất Phưởng và Quách Tập nghe vậy liền mừng rơn.
Đại Vu Việt vốn là quan chức Khiết Đan, khi Khiết Đan mới lập tước quan chức rất đơn giản, Vu Việt là tương đương với tể tướng, nắm toàn bộ quân chính đại quyền, đợi sau khi học tập theo Trung Nguyên thiết lập thể chế quan chức kỹ càng rồi, Vu Việt lại thành một tước vị, gần như là thuộc quý tộc công huân lớn nhất, địa vị hiển hách, hơn cả bá quan và vương tước, trên lễ nghi là bình đẳng với đế vị, cùng xưng là sánh ngang với vuia Đây là điều vô cùng vinh diệu.
Thất Phưởng và Quách Tập vui mừng quá đỗi, đừng nói một thân phú quý của bọn họ đều lệ thuộc vào Tiêu Xước, chỉ vì phần vinh diệu vô cùng này thôi thì còn có gì mà phải sợ?
Tiêu hậu lại cầm chén thứ ba lên, thân hình lảo đảo, hai má đỏ rực, nhưng anh khí bức người, nói: "Bát thứ ba này là ta cung hai vị đại nhân ăn mừng trước, chúc chúng ta đại kế ắt thành, vì trăm năm thái bình của Khiết Đan ta!"
"Cạn!" Ba người chạm cốc, đỏ cả bát rượu đầy vào bụng.
Cổ gắng đứng vững để tiễn hai vị đại thần cưỡi ngựa rời đi, đại sự mà Tiêu Xước bày mưu đã thành công, tuy là men say trào lên, nhưng không thể kìm được mà lòng tràn đầy vui sướng chỉ hận không thể cùng người ta nói hết nỗi vui mừng trong lòng. Cung nữ ở bên cạnh vội vàng bước lên đỡ Tiêu Xước, Tiêu Xước đã say mèm hồn nhiên quên mất đã sai Đông Nhi đi làm sứ mệnh bí mật, bà ta hai mắt lờ đờ bám lên người thị nữ đó, hàm hồ phân phó: "Tới... tới phủ thượng của La thượng quan..."
Chương 387:Cơn giận của nữ hoàng
Hai nữ vệ đỡ Tiêu Xước tới trước phòng của La Đông Nhi, gọi khẽ: "La thượng quan...."
"Không cần... gọi nàng ta đâu." Tiêu Xước sắc mặt đỏ như ráng chiều, mắt lờ đờ xua tay bảo, nói xong liền giãy khỏi tay họ, lắc lư đẩy cửa tiến vào phòng.
Trằng treo trên cao, sáng rỡ lọt qua khung cửa sổ mà vào, màn giường hơi lay động, lờ mờ nghe thấy tiếng hít thở gấp rút.
"Nha đầu này, lại tu luyện công pháp mà ta truyền thụ cho ư?"
Tiêu Xước mơ màng nghĩ, cảm giác buồn ngủ xộc lên đầu, nàng ta ngáp một cái, bước tới trước bàn, sờ thấy một ấm trà lạnh, thuận tay cầm lên uống một ngụm thật thống khoái, sau đó nhắm mắt lại cởi quần áo, mặc đồ lót lảo đảo bước tới cạnh giường, vừa vén màn vừa rón rén thò đầu vào.
"Ô… đừng... luyện nữa..., hơi sớm, hơi sớm..." Còn còn chưa nói xong một câu, Tiêu Xước liền mơ mơ màng màng thiếp đi, đầu óc của nàng ta đã quay cuồng, cảm giác như trời đất quay mòng mòng, thò tay ra sờ thấy người bên cạnh liền dang tay ra ôm, muốn mình ngủ được yên ổn hơn.
Thần chí của Dương Hạo đã hoàn toàn rơi vào trong hỗn loạn, chỉ bằng vào bản năng trường kỳ tu hành, cố gắng chống đỡ trong khổ sở, cái thân hình mềm mại ở bên cạnh dựa sát vào mình, mùi thơm dụ người của da thịt ùa vào mũi, cảm giác thân thể nữ nhân mềm mãi đẫy đà, một chút tâm trí đang khổ sở chống đỡ của Dương Hạo giống như là sông lớn làm vỡ đê, thất thủ toàn diện, hắn rống lên một tiếng, đè lên Tiêu Xước.
Hắn hiện tại giống như một khuôn sắt bị nung đỏ, cần được nhúng vào nước suối mát lạnh thì mới có thể giảm bớt được nhiệt độ cao tới thấu xương của hắn. Trong bụng hắn giống như có từng cơn sóng lớn đang kêu gào phẫn nộ, cần một chỗ để phát tiết, hòng phóng thích khí thế cuồn cuộn. Hắn cần một nữ nhân, hắn mẫn duệ cảm giác được rằng, bên cạnh chỉ có một nữ nhân, hơn nữa là một nữ nhân trẻ tuổi thơm phức, hắn lao tới, xé rách cái áo lót mỏng manh đó...
Tiêu Xước nằm mơ, mơ thấy một giấc một xuân. Trong mộng hư hư ảo ảo, bà ta tựa hồ như trở về đêm đầu của mình. Phu quân ở trong mộng so với bộ dạng yếu ớt vô lực hiện giờ thì dũng mãnh hơn cả trăm lần. Giấc mộng này quá chân thực, hai mắt bà ta tuy vì men rượu mà không thể mở ra được, nhưng cơn đau giống như là bị xé rách đó lại vẫn vô cùng chân thực, truyền vào óc bà ta một cách rất rõ ràng...
Dương Hạo tận tình phát tiết, cặp đùi đang quấn vào hông thon dài đẫy đà, so với mỹ ngọc còn ôn nhuận hơn, so với gốm mịn còn trơn nhẵn hơn, thân thể dưới sự trùng kích của mình đang không ngừng uốn éo thì mềm oặt như không xương. Dưới người hắn tuyệt đối là một cực phẩm vưu vật, nhưng Dương Hạo lúc này lại không thể thưởng thức kỹ càng, hắn giống như là trâu xéo mẫu đơn, hai tay dày xéo hai quả đào ngọc phong mãn mềm mại, rồi đâm sự phấn khích của mình vào trong cái chỗ sâu thẳm nhất, đổi lại là tiếng kêu như thiên nga trúng tên.
Thổng khổ không kéo dài quá lâu, dần dần, trong tiếng giường kêu kẽo kẹt bắt đầu xen lẫn tiếng rên rỉ tiêu hồn của Tiêu Xước, sự sát phạt hung mãnh chưa bao giờ nàng ta được thể nghiệm đã khơi dậy dục vọng chôn sâu trong lòng nàng ta.
Tiếng động lạ thường ở trong phòng không khỏi truyền tới tai cái nữ vệ đứng ở bên ngoài, mấy nữ vệ nghe thấy tiếng rên rỉ như tiêu hồn ở trong phòng thì đều sợ hãi không thôi, những bí mật trong cung bọn họ cho dù là chưa hề nhìn thấy thì cũng đã được nghe thấy rất nhiều. Bọn họ không biết ở trong phòng là La thượng quan được nương nương sủng ái đang chơi trò giả phượng hư hoàng với nương nương, hay là hoàng hậu nương nương đêm xuân tịch mịch đang ở trong nhớ tới tình lang. Bọn họ chỉ biết rằng loại chuyện này tuyệt không phải là một chuyện tốt, thế là không hẹn mà cùng lui ra xa, lui tới chỗ mà bọn họ không nghe thấy được thanh âm này nữa.
Tiêu Xước trước giờ chưa từng có loại xuân mộng như thế này, không những vô cùng chân thực, hơn nữa còn tràn trề hưng phấn. Bà ta mở mắt ra, muốn làm tỉnh táo lại ý thức, nhưng hiệu lực của men rượu lại khiến thần chí của bà ta phiêu hốt bất an, trong lúc đang điên điên đảo đảo, Tiêu Xước chỉ cảm thấy thân hình cũng mình tê rần khó có thể động đậy, xương cốt trên người như muốn dũng động, tình dục như sóng gợn, từng đợt từng đợt trùng kích thân tâm của bà ta...
Đột nhiên, bà ta ta hét lên một tiếng, ôm chặt lấy nam nhân ở trên người, cắn một miếng vào đầu vai của hắn, máu tanh ngọt tràn vào miệng, thân hình của bà ta run lên, bà ta đây là lần đầu tiên thể nghiệm được dạng khoái nhạc này, không ngờ lại tiêu hồn thực cốt như vậy. Bà ta thở hổn hển, chỉ mong sao giây phút này là vĩnh hằng, vĩnh viễn dừng tỉnh lại.
Mộng đẹp vẫn chưa tỉnh, bà ta vẫn đang tiếp tục mơ. Một lần rồi lại một lần, Dương Hạo giống như một con sư tử không biết mệt mỏi, hết lần này tới lần khác phát tiết dục vọng giống như là lửa cháy của mình, cho tới lần phát tiết lâm li sướng khoái cuối cùng, mới nằm bẹp trên thân hình sớm đã mềm oặt như bùn mà ngủ say.
Trời sáng rồi, Dương Hạo mấp máy mắt, thần chí chưa tỉnh đã lập tức nhớ tới điều cổ quái đêm qua. Ký ức giống như là mộng cảnh xộc lên đầu, Dương Hạo lập tức kinh hãi: "Hỏng rồi, ta đêm qua tâm ma phản phệ, thần trí mất hết, không biết đã dày vò Đông Nhi thành thế nào rồi."
Hắn trong lòng quýnh lên, ngồi bật dậy. Hắn vừa động đậy, hình người ngọc thể nhẵn mịn, tóc tai tán loạn, mặt đầy dấu lệ đang nằm co quắp trên giường lập tức phát giác ra.
Dương Hạo vừa mở mắt liền thấy một đôi chân ngọc lăng không bay tới, "bốp" một tiếng đá vào yết hầu của hắn. Hai mắt Dương Hạo nhìn chằm chằm vào chân ngọc vắt ngang trước ngực, săn chắc nhẵn mịn, thẳng băng thon dài, da thịt óng ánh trong suốt, ngay cả đầu gối cũng không lồi ra một chút nào, cái duy nhất làm hỏng mỹ cảm của nàng ta chính là một chuỗi vết hôn lấm tấm trên đôi chân giống như là mỡ dê, đậu hủ của nàng ta...
Hắn chỉ nhìn được tới đây, sau đó thì hai mắt trợn lên, ngẩng mặt lên trời rồi ngã xuống.
…
Vương Bằng ngồi trong đại lao u ám, một mình vui vẻ uống rượu, trước mặt là một cái đầu dê, còn có một đĩa tai lợn.
Hắn từng có một biệt danh, gọi là Đại Đầu. Hiện tại, hắn được người ta kính xưng là vương gia, trên một mẫu ba phân đất của hắn, hắn quả thực đáng được xưng vương.
Tiểu Lục và Thiết Ngưu bỏ hắn một mình truy cản quân đội Khiết Đan đi sau, Đại Đầu giống như là một con ruồi ở phụ cận tìm bọn họ rất lâu, sau cùng không tìm thấy tiểu Lục và Thiết Ngưu, nhưng đụng phải một nhánh tán binh Khiết Đan, bị chúng lôi về thượng kinh.
Nhánh tán binh đó hộ tống một vị tướng quân, vị tướng quân này tên là Da Luật Hàn, hắn trong trận chiến ở Tử Ngọ Cốc bị chặt đứt cánh tay trái, sau khi làm công tác cứu hộ bảo vệ tính mạng, liền do hơn một trăm thân vệ hộ tống hắn về nước, Đại Đầu bị bắt tới thị hầu việc ăn ngủ của hắn.
Sau khi về tới thượng kinh, Da Luật Hàn bởi vì mất đi một cánh tay mà không thể tái nhiệm quân chức, liền bị điều tới Di Ly Tất viện, đảm nhiệm chức Hữu Di Ly Tất, chấp chưởng hình ngục tư pháp. Đại Đầu thì ở trong nhà Da Luật Hàn làm gia nô, việc gia nô này căn bản cũng vẫn an phận, cho tới khi có nữ nhân dần dần nổi lòng xuân thì mới không được yên phận nữa.
Nữ nhân này chính là trưởng nữ của Da Luật Hàn, một phụ nhân về nhà mẹ thủ tiết, chính vì vậy Đại Đầu liền nổi vận đào hoa. Tuy nói rằng đóa hoa đào này thân thể quá béo mập, so với hắn còn to hơn, hơn nữa so với hắn còn lớn hơn ba tuổi, nhưng tự dưng có vận đào hoa như vậy, ngày tháng cũng hắn liền thăng hoa. Từ một gia nô, lắc mình biến thành cô gia tử của Da Luật lão gia gia, lão trượng nhân còn cho hắn làm chức lao đại quản sự ngày hôm nay.
Mặc dù lão bà hơi già một chút, hơi xấu một chút, nhưng đối với chồng lại rất ôn nhu, một lòng một dạ theo hắn sống qua ngày. Hiện tại hai người lại có con nhỏ, Đại Đầu cũng chấm dứt những ý nghĩ khác, một lòng định cư ở nơi này.
Hắn vốn chỉ là một tên lưu manh ở Phách châu, nếu không phải là nhờ vào hai vị huynh đệ rất giỏi đánh nhau, vậy hắn sẽ luôn bị người ta khi phụ. Nhưng hiện giờ, hơn trăm ngục tốt ở đây đều cung kính gọi hắn một tiếng vương gia, bất kể vốn là quan nhi bao lớn, nhưng phàm là phạm nhân tiến vào thiên lao này, đều phải gọi hắn một tiếng vương gia.
Trong đây, hắn nắm đại quyền sinh sát trong tay, cho dù là một đại tướng quân thống binh mấy vạn, một hoàng tộc quyền quý, tiến vào nơi này rồi đều phải quỳ gối trước hắn. Ngày trước Khánh vương mưu phản, những người quyền quý bị tống vào trong lao thực sự là không ít, trực tiếp chết trong tay hắn cũng có mấy người. Người tiến vào thiên lao rồi, có thể trở lại nhân gian cũng chẳng có được mấy ai. Chẳng may đánh chết nạn nhân rồi, chỉ việc báo một tiếng là phạm nhân mắc bệnh nên qua đời, giống như là bóp chết một con kiến vậy, không có ai thực lòng đi thẩm vấn làm gì cả.
Ở trong đại lao này, hắn đương nhiên chính là vương, ngục vương.
Mấy ngày trước, hắn nhìn thấy Dương đại ca rồi, hắn sớm đã biết tiểu Lục, Thiết Ngưu bọn họ đều đã làm đại tướng quân. Hắn đoán rằng Dương đại ca lần này tới đây, bất kể có phải đúng là xuất sứ vì Tống quốc hay không, thì hắn nhất định cũng sẽ nghĩ biện pháp cướp đại tẩu đi. Sau này muốn lén lút gặp bọn họ một lần cũng khó khăn, nhưng hắn thỏa mãn rồi. Biết rằng chị dâu không sao, sẽ không bởi vì mình lam nguy mà sợ chết khiếp nữa, hắn thỏa mãn rồi. Biết rằng huynh đệ đều khỏe mạnh, thế là hắn thỏa mãn lắm rồi.
Điều tiếc nuối duy nhất là hắn không còn cơ hội cùng đại ca, tiểu Lục, Thiết Ngưu cùng nhau uống rượu nữa, giống như là lúc còn ở Phách châu vậy, bốn huynh đệ ngồi cùng nhau, uống một cách sướng khoái lâm ly, những ngày tháng như vậy sẽ không còn nữa. Nhưng hắn không thể đi gặp bọn họ được, huynh đệ sẽ không tha thứ cho sự hèn nhát của hắn, hắn cũng không còn mặt mũi nào mà đi gặp đại tẩu của mình. Khi bọn họ làm đại tướng quân, Đại Đầu hắn không thể bò lên, lúc này, càng không thể đi gặp bọn họ.
Nhưng đại ca, đại tẩu bọn họ có thể bình an quay về cố thổ, còn hắn, chỉ có thể vĩnh vĩnh ở lại nơi này, Đại Đầu ngày trước kết nghĩa ở Phách châu, sớm đã nên chết ở Tử Ngọ cốc rồi. Đại Đầu... đã chết rồi.
"Haizzz."
Lại một chén rượu nữa vào bụng, Đại Đầu thở dài một tiếng, lúc này "két" một tiếng, cửa nhà lao được mở ra, ánh sáng chói chang chiếu vào, Đại Đầu hơi nheo mắt lại, hắn còn chưa kịp ồ lên thì đã thấy mấy bóng người từ ngoài cửa lách vào, áo đỏ, thắt lưng bó chặt màu xanh, giày bó tới đầu gối, ngực nhô cao.
Đại Đầu giật nảy mình, vội vàng đứng dậy, hắn nhận ra thân phận của những người vừa tới, những người này đều là cấm vệ trong cung, bởi vì hiện tại người nắm quốc chính là hoàng hậu nương nương, cho nên nhánh cấm vệ quân này là đều là nữ binh.
"Mấy thị vệ tỷ tỷ đích thân đến, phải chăng là dẫn theo phạm nhân trọng yếu nào đó theo?"
Đại Đầu đã nhìn thấy mấy nữ vệ đó dẫn theo một phạm nhân bị trói chéo tay, trên mặt phạm nhân có đeo mặt nạ, miệng thì bị buộc dây thừng, kiểu phạm nhân bị trói như thế này hắn trước giờ chưa từng thấy.
Một nữ vệ lạnh lùng nhìn hắn một cái, quát: "Vấn đề không nên hỏi thì đừng có hỏi."
"Vâng vâng vâng!" Đại Đầu xoa xoa tay, trợn mắt lên ra hiệu cho mấy tên ngục tốt đang chạy đến, phất tay bảo chúng đứng sang một bên, gật đầu cười xiểm nịnh, nói."Vậy mấy vị thị vệ tỷ tỷ có phân phó gì không?"
Nữ vệ binh đó trầm giọng, nói."Tìm một lao phòng yên tĩnh."
"Dạ."
"Bỏ trống toàn bộ lao phòng xung quanh."
"Dạ."
"Một ngày ba bữa chúng ta sẽ đưa đến, người của các ngươi không được phép tiếp cận."
"Dạ."
Đại Đầu không cười nữa, hắn đột nhiên ý thức được phạm nhân này nhất định là không đơn giản.
"Người này ngươi cần phải trông chừng cho tốt, ai nhìn thấy mắt hắn thì móc mắt, ai nghe thấy giọng nói của hắn thì chọc thủng tai. Ai dám nói chuyện với hắn thì cắt lưỡi."
Đại Đầu biến sắc, có chút hèn mọn nói: "Dạ."
Nữ vệ dẫn đầu lại nói thêm một câu:"Ai làm trái những quy củ trên, sau khi móc mắt chọc thủng tai cắt lưỡi thì sẽ bị bắn quỷ tiễn, ngươi hiểu chưa!"
Bắn quỷ tiễn, là một loại hình pháp đặc biệt của Khiết Đan, chính là treo người ta lên rồi loạn tiễn xuyên tim, bắn cho chết tươi, nghe thấy những lời phân phó nghiêm khắc này, Đại Đầu không khỏi biến sắc, những ngục tốt cũng đều rùng mình sợ hãi, khi nhìn tên tù phạm đeo mặt nạ đó, quả thực là như thấy ôn thần. Tên này rốt cuộc là ai? Lần trước Khánh vương mưu phản, có một vị vương gia phản nghịch bị tống vào lao ngục đợi trị tội cũng không có loại đãi ngộ đặc biệt như thế này. Tuy rằng mọi người đều rất hiếu kỳ, nhưng không ai dám hỏi.
Nữ vệ đầu lĩnh nói xong liền trừng mắt hạnh lên, quát: " Còn không mau đi chuẩn bị!"
"Vâng vâng vâng..." Đại Đầu hoảng hốt dẫn vài ngục tốt chạy vào trong đại ngục.
"Tên ôn thần này là ai vậy, trực tiếp xử tử không phải là xong ư, tống tới chỗ chúng ta làm cái gì. Sờ vào là tử, chạm vào là chết, hắn quả thực còn đáng sợ hơn là diêm vương."
Đại Đầu vừa kêu khổ vừa thu xếp lo liệu, àn bài một lao phòng yên tĩnh, xung quanh lao phòng toàn bộ đều trống không , hắn rút tất cả lao phòng ở một phía ra, hơn một trăm lao phòng, từng gian từng gian toàn bộ bỏ trống, để một gian ở trong cùng làm phòng giam. Còn những phạm nhân khác, toàn bộ ép vào trong các lao phòng ở phía bên kia, mọi người chen chúc nhau cũng được, chết một tên thì bớt một tên.
Đợi hắn thu thập thỏa đáng xong, nữ vệ binh đó dẫn người tự mình vào tuần sát một vòng, hài lòng gật đầu rồi gọi người tống phạm nhân vào trong. Lúc này, Đại Đầu và đám thủ hạ sớm đã chạy mất.
La Khắc Địch vốn được Tháp Bất Yên và La Đông Nhi gọi đi giúp đỡ một tay lại mang lại không ít phiền phức, suýt nữa thì làm bại lộ hành tung của họ, may mà vào lúc nguy cấp cuối cùng cũng bị chế trụ, bảo đảm các nàng thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ.
La Khắc Địch sau khí "trúng tà" khí lực lớn vô cùng, mấy nữ binh cùng nhau động thủ cũng không chế trụ được hắn, trong lúc đánh nhau La Khắc Địch lăn xuống chân núi, rơi vào khe suối, bị nước suối lạnh toán khiến cho tỉnh lại, cho nên mới bị các nữ binh ùa lên vật xuống đất, trói lại như giết lợn.
Đợi khi trói xong được La Khắc Địch, các nữ binh đều mệt đến đầm đìa mồ hôi, vừa hay lúc này xa đội của Niêm Bát Cát tới nơi, nếu sớm hơn một khắc, e rằng sẽ nghe thấy tiếng đánh nhau ở sau sườn núi rồi.
Tháp Bất Yên và La Đông Nhi lập tức hành động, mấy loạt mưa tên đột ngột bắn ra đã giết chết một nửa người trong xa đội, lại giục ngựa tiến lên trước giết chết những kẻ còn may mắn sống sót. Sau cùng kiểm tra từng tên một, không lưu lại một người sống nào. Đợi khi kiểm ta xong lại ném một tín vấn của sứ giả Hán quốc vào trong đống tử thi, sau đó thì vội vàng rời khỏi hiện trường.
La Khắc Địch đáng thương thì bị trói ở đó, bị tình dục dày vò, đám hổ cái ở bên cạnh thì đều xông lên giết người rồi. Đợi khi bọn họ kết thúc chiến đấu mà quay lại thì La Khắc Địch đã không còn như si như cuồng nữa, lại biến thành đầu óc không tỉnh táo. Đám người La Đông Nhi không dám cởi trói cho hắn, chỉ đàng khênh hắn lên một con ngựa, do thị vệ của hắn chăm sóc.
Tất cả nữ binh nhất trí cho rằng La tướng quân trúng tà rồi, cho nên mới là ra chuyện hoang đường như vậy. Tháp Bất Yên còn vỗ ngực bảo chứng với La Đông Nhi, sau khi về thành nhất định sẽ giúp nàng ta tìm một đại vu sư đạo hạnh cao thâm gọi đại thần đuổi tà cho đường huynh của nàng ta. La Đông Nhi thực sự là không nghĩ ra lý do khác, chỉ đành đáp ứng.
Trong đám nữ binh có không ít người hoặc nhiều hoặc ít cũng mang theo thương tích, bọn họ không dám lập tức vào thành, sợ bị mật thám của người khác nhìn thấy, chỉ dành băng bó qua loa một phen rồi giục ngựa tới phía sau một tòa núi cách thượng kinh không xa, đợi sau khi trời sáng người qua lại đông đúc mới lén lút trà trộn vào thành.
Tới trưa ngày thứ hai, bọn họ mới ra khỏi khe núi, từ cửa đông về thành. Thị vệ trong cung thường xuất thành săn bắn diễn võ, trên người cho dù có vết máu cũng có thể là máu mà vật săn, chỉ là người bị thương nặng thì phải che giấu, để tránh bị người khác nhìn ra sơ hở. Bọn La Đông Nhi trên đường về thành, trước tiên đưa La Khắc Địch về phủ, sai người trông chừng thật kỹ rồi mói hớt hải vào cung.
Tiêu Xước sắc mặt trắng bệch lúc này đang ngồi trong phòng làm việc trong thiên điện của thượng quan Lục cung, cổ áo dựng cao, buộc chặt lưng áo, cố gắng không để lộ ra thể thái lả lướt động lòng người của bà ta, cũng để che giấu vết răng tím xanh trên cổ.
Bà ta đang mở mật trát (thư mật) ra chăm chú đọc. Đây là chỗ làm việc của thượng quan thự nha Lục cung, thân là hoàng hậu mà bà ta vẫn là lần đầu tiên vào đây.
Mật trát là mật thám Khiết Đan được phái tới nàm vùng ở Trung Nguyên gửi về, từ ngữ khí hành văn đối đáp cho thấy, đây chắc là điều tra của mật thám mà La Đông Nhi dùng thân phận Lục cung thượng quan phái tới đóng ở Trung Nguyên, đối tượng điều tra của mấy bức mật trát này chỉ có một người: Dương Hạo. Mặc dù trong mật trát thuận tiện báo cáo một số chiều hướng có liên quan tới triều đình Trung Nguyên, nhưng chủ đề báo cáo đều liên quan tới Dương Hạo, có thân thế, lai lịch, sở tác sở vi liên quan tới hắn ở Trung Nguyên, mỗi một hạng mục đều được ghi chép rất tỉ mỉ.
Tiêu Xước giở mật trát, tựa hồ lại cảm thấy tình hình khi nam nhân đó tùy ý vũ nhục mình, trong mắt dần dần dâng lên lửa giận. Tối qua là thời khắc mà bà ta bị khuất nhục nhất. Bà ta, hoàng hậu một nước, mẫu nghi thiên hạ, đại nữ chủ chấp chưởng quyền trượng của Khiết Đan, không ngờ lại bị Dương Hạo ô nhục như vậy, khi bà ta tỉnh dậy thực sự là nổi trận lôi đình, kinh hãi không biết nên làm thế nào mới tốt.
Khi bà ta phát hiện tên nam nhân thối tha đáng chết này sắp tỉnh dậy, bà ta không thèm nghĩ ngợi mà tung ra một cước, đá hắn ngã xuống giường. Khi bà ta ngượng ngùng mặc quần áo nhảy xuống giường thì lảo đảo như sắp ngã, hai chân vừa tê lại vừa mềm, xương cốt cả người giống như là lỏng lẻo hết, cảm giác lạ lùng khiến bà ta vừa xấu hổ lại vừa tức giận, thân thể trong trắng của bà ta cứ vậy mà mất đi ư? Bà ta không cam tâm, thật sự là không cam tâm, cái đáng hận là, nam nhân mang tới sự khuất nhục cho bà ta lại là Dương Hạo, tên Tống quốc sứ tiết bức bách bà ta phải cúi đầu, ký hạ một bức quốc thư không bình đẳng.
Một đêm phong lưu như mộng như ảo đó, mang tới cho bà ta một ký ức không thể xóa nhòa, bà ta không quên được khoái cảm cực nhạc mà ngay cả linh hồn tựa hồ như cũng phải gào thét đó. Đó là cảm giác mà bà ta trước đây chưa từng được thể nghiệm. Nhưng bà ta không dám nghĩ, không dám hồi vị nữa, cực nhạc trong sinh lý, không thể nào áp chế được sự tự tôn cao ngạo của bà ta.
Đặc biệt khiến bà ta khó tha thứ nhất là, bà ta không thể đối diện với sự mềm yếu của mình, bà ta nhớ tới khi mình bị khi nhục giày vò, đã phát ra tiếng rên rỉ và vòng eo không tự chủ được mà nghênh hợp với đối phương, nữ nhân xa lạ đắm chìm vào nhục dục đó thật sự là mình ư? Bà ta không dám tưởng tượng, một nữ nhân yếu đuối, bà ta một mực lấy sức tự chủ để kiêu ngạo mà không ngờ lại không kham được một kích.
Lúc đó, bà ta trói Dương Hạo lại, bịt miệng hắn, che mặt hắn, lại tự tay mặc lại quần áo cho tên nam nhân mà bà ta hận không thể phân thây thành vạn mảnh này. Khi thu dọn xong, bà tới mới bình tĩnh lại, bảo người vào trong ném người thân bí bị trói như cái bánh tét này vào trong thiên lao.
Đột nhiên gặp đại biến, bà ta rất nhanh liền tỉnh táo lại, sứ tiết Tống quốc Dương Hạo vì sao lại xuất hiện ở trong phòng của Đông Nhi? Chuyện này lập tức khiến bà ta ngửi ra vị đạo không tầm thường. Quả nhiên, ở dây, bà ta tìm thấy mấy phong thư mà La Đông Nhi chưa kịp tiêu hủy, từ nếp gấp nhiều lần của thư cho thấy, nàng ta chắc không chỉ đọc những mật trát này một lần.
"Nương nương, La thượng quan và Tháp Bất Yên hồi cung rồi."
Tiêu Xước chậm rãi ngẩng đầu lên, sắc mặt đỏ bừng, trong mắt nổi lên hàn quang như mũi đao, bà ta bất động thanh sắc gật gật đầu, đút mấy phong thư đó vào trong tay áo, chậm rãi đứng dậy.
Vào trong Nguyệt Hoa điện, vừa thấy Tiêu Xước, Tháp Bất Yên liền hưng phấn nói: "Nương nương, chuyện đã được làm xong rồi, không có một chút sơ xuất nào."
Tiêu Xước cắn môi, trợn mắt nhìn La Đông Nhi, lạnh lùng nói: "La chỉ huy sao lại không về cùng phục chỉ với ta?"
La Đông Nhi vẻ mặt có chút khó coi, nói: "Nương nương, La chỉ huy hắn... không biết bị sao, ở Hải Lặc lĩnh đột nhiên mất lý trí như bị trúng tà, chúng ta phải phí sức lắm mới khống chế được hắn, vì sợ hắn ở trước mặt nương nương lại thất lễ, cho nên đưa hắn về phủ nghỉ ngơi rồi."
Tháp Bất Yên cũng chứng thực: "Đúng vậy thưa nương nương, La đại nhân lúc đó mất hết thần trí, như điên như cuồng, nhìn rất là dọa người..."
Tiêu Xước hơi nhíu mày, từ từ nói: "Biết rồi, Đông Nhi, ngươi đi an bài cho các binh sĩ đã bị thương, sau đó thì về chiếu cố lệnh huynh đi. Tháp Bất Yên thì ở lại, trẫm có lời muốn hỏi ngươi."
La Đông Nhi dạ một tiếng, quay người bước ra. Tiêu Xước một mực nhìn hằm chằm vào bóng lưng của nàng ra, cho tới khi nàng ta biến mất ở ngoài cửa mới quay lại lạnh lùng nói với Tháp Bất Yên: "Tháp Bất Yên, vào đi, trẫm có chuyện muốn phân phó!"
Tháp Bất Yên bước tới trước mặt Tiêu Xước, chỉ nghe được hai câu liền biến sắc, kinh ngạc nhìn Tiêu Xước, lẩm bẩm: "Nương nương... vì sao lại vậy?"
Tiêu Xước lạnh lùng bảo: "Đừng có hỏi gì cả, chỉ cần hành sự theo lệnh là được rồi!"
La Đông Nhi an trí cho nữ binh bị thương, lại mời ngự y trong cung chẩn trị cho bọn họ, an bài thỏa đáng tất cả xong, lập tức xuất cung về nhà của mình. Nàng ta đoán rằng Dương Hạo thấy nàng ta đêm rồi chưa về, chắc sớm đã bỏ đi, nhưng vẫn muốn xác nhận một chút. Nếu quan nhân vẫn còn ở đây, vừa hay có thể nói cho hắn nghe chuyện xảy ra với Đường huynh, nhờ hắn ra chủ ý giúp. Nếu hắn không có ở đây, vậy thì chỉ đành tới phủ của La Khắc Địch, đợi Tháp Bất Yên mời Tát Mãn vu sư tới rồi tính.
Nàng ta hối hả về phủ của mình, gõ gõ cửa, không thấy có người ra mở, kinh ngạc đẩy nhẹ một cái, cửa không ngờ lại mở ra. La Đông Nhi bước vào trong viện, gọi: "Vương bá."
Trong nhà không thấy có ai bước ra, La Đông Nhi lại thấy cửa phòng đóng hở, bước tới đẩy ra nhìn, chỉ thấy phu phụ Vương bá mặc đồ lót nằm trong vũng máu, không ngờ đã chết rồi. La Đông Nhi không khỏi kinh hãi, vội vàng rút đao cẩn thận bước vào, chỉ thấy máu trên mặt đất đã ở vào trạng thái đông, rõ ràng là chết đã khá lâu rồi.
La Đông Nhi tim đập thình thịch, trong lòng thầm nghĩ: "Chuyện gì xảy ra vậy? Chẳng lẽ trong hoàng thành có phỉ đạo dám tới giết người ư? Hoặc là.... hoặc là hành tung của quan nhân không bí mật, bị phu phụ Vương bá phát hiện, liền giết người diệt khẩu? Nhưng... không giống, phu phụ Vương bá mặc đồ ngủ, rõ ràng là chưa ra khỏi cửa, sao lại phát hiện ra quan nhân được? Ối trời, quan nhân không phải là..."
La Đông Nhi kinh hãi, quay người lại định chạy, vừa xông ra tới cửa thì thấy bốn năm nữ cấm vệ áo xanh đeo yêu đao mặt trầm như nước đang đứng đó, La Đông Nhi kinh ngạc dừng bước, hỏi: "Da Luật Phổ Hoàn, các ngươi tới đây làm gì vậy?"
Da Luật Phổ Hoàn phất tay, hai nữ vệ sớm đã có chuẩn bị bước tới gần, giơ đao lên bức trụ nàng ta. Da Luật Phổ Hoàn chậm rãi bước tới, đoạt lấy yêu đao trong tay nàng ta, lạnh lùng nói: "Phụng ý chỉ, bắt thượng quan đại nhân, La thượng quan, đắc tội rồi."
"Cái gì? Nương nương muốn bắt ta ư?" La Đông Nhi trong lòng trầm xuống, chẳng lẽ kế hoạch của mình đã bị nương nương biết rồi, nhưng miệng thì vẫn nói cứng: "Rốt cuộc là có chuyện gì? Nương nương nhất định là hiểu nhầm gì đó rồi, Phổ Hoàn, ngươi mau nói cho ta biết...."
Da Luật Phổ Hoàn cụp mắt xuống, ôm quyền với nàng tới, trầm giọng nói: "Ti chức không biết gì cả, chỉ là phụng mệnh hành sự, La thượng quan xin đừng phản kháng, nếu không... giết chết không luận tội!"
Một cái khăm trùm đập được chụp xuống, che đi con mắt đang kinh ngạc của La Đông Nhi, sau đó hai tay của nàng ta cũng bị trói chặt, La Đông Nhi bị đẩy đi, cảm giác mình ra khỏi cửa, lên một chiếc xe ngựa, sau đó thì đi tới nơi mà khó có thể đoán được...
"Đại nhân tỉnh rồi ư?"
Vừa thấy La Khắc Địch tỉnh lại, Nữ Lục Cát liền vui mừng nói.
"Ừ, ta... tỉnh rồi, đây là.... có chuyện gì vậy?"
Dược lực đã bớt, La Khắc Địch bị tình dục hành hạ mà không được âm dương điều hòa nên nguyên khí đại thương, lúc này uể oải vô cùng, sắc mặt cực xấu, giống như là vừa mắc bệnh nặng. Hắn vừa hỏi vừa dần dần nhớ lịa được chuyện ngày hôm qua. Thế là sao? Chẳng lẽ mình trúng tà thật rồi?
Nữ Lục Cát nhe răng cười nói: "Tiểu nhân cũng không hiểu, khi La thượng quan đưa đại nhân về thì có nói là đại nhân trúng tà rồi, muốn tiểu nhân cẩn thận hầu hạ, lát nữa sẽ mời ngự y và đại vu sư tới khám, không ngờ đại nhân lại tự tỉnh.”
Đúng vào lúc này chỉ nghe thấy trong viện có người nói: "Tất cả mọi người đều tới tiền viện, có việc gấp phân phó cho các ngươi, mau lên, mau lên."
La Khắc Địch ngồi thẳng dậy, lúc này mới phát hiện mình bị cột vào ván cửa, có chút giống như thủ pháp đối phó với người bị động kinh. Hắn vừa tức giận lại vừa buồn cười, cố gắng ngẩng đầu lên, nói: "Còn không mau cởi trói cho ta? Trong viện có chuyện gì vậy?"
Nữ Lục Cát vội vàng cởi trói cho hắn, đồng thời nói: "Tiểu nhân cũng không hiểu, đợi cởi trói cho đại nhân rồi..."
Hắn ta vừa nói tới đây thì nghe thấy trong viện có người hô lên kinh hãi: "Các ngươi muốn làm gì...a!"
Tiếng hô thảm liên tiếp vang lên, Nữ Lục Cát giật nảy mình, cũng không kịp cởi trói cho La Khắc Địch, hắn ta xông tới cửa nhìn ra ngoài, sau đó thì thất thanh hớt hải quay về: "Đại nhân, không ổn rồi, người của chúng ta toàn bộ..."
"A!" Hắn ta còn chưa nói hết thì đã ngã xuống đất, sau lưng cắm một thanh yêu đao đang rung rung, tiếp theo từ bên ngoài có mấy người tiến vào. La Khắc Địch kinh ngạc nhìn lại, những binh sĩ đó phần lớn là xa lạ, chỉ có một người có chút quen mắt, tựa hồ như là thị vệ trưởng của Bắc phủ tể tướng Thất Phưòng.
La Khắc Địch vừa kinh ngạc lại vừa tức giận, quát hỏi: "Các ngươi làm gì vậy, muốn phản à?"
Người đó lạnh lùng cười một tiếng, cũng không trả lời, chỉ phất tay một cái, lập tức có một binh sĩ xông ra, cắt một mảnh áo của Nữ Lục Cát, vo lại rồi nhét vào miệng La Khắc Địch. Sau đó liền xé một đoạn khăn trải giường đắp lên người hắn, rồi khênh cả ván cửa lên, rảo bước ra ngoài.
"Nương nương, La Đông Nhi, La Khắc Địch, Đồng Vũ, Vương Thiết Đầu, toàn bộ bị bắt rồi."
"Có bị ai nhìn thấy không?"
"Không có, ngoại trừ La Đông Nhi, La Khắc Địch được dẫn ra khỏi phủ, tất cả những người còn lại đều bị giết. Hai người họ được nô tỳ bí mật dắt ra, không có ai nhìn thấy cả."
"Tốt, trẫm đã hạ chiếu lệnh cho Thất Phưởng đại nhân tự mình tiếp quản cung vệ, nắm binh lực của Thượng kinh rồi. Bắt đầu từ bây giờ, ngươi phụ trách cấm vệ, phụ trách an nguy của hoàng cung, phải cẩn thận đề phòng sinh biến."
"Vâng!" Tháp Bất Yên do dự một thoáng rồi lại hỏi: "Thuật Luật thống lĩnh... và mấy nữ vệ sao không thấy đâu cả?"
Thuật Luật là thiếp thân thị vệ của Tiêu Xước, tối qua hộ tống Tiêu Xước tới chỗ ở của Đông Nhi chính là ả và thủ hạ của ả.
Tiêu Xước mắt lóe sáng, lạnh lùng nói: "Bọn họ... phụng ý chỉ của trẫm, có phân công khác rồi, hành tung của bọn họ, ngươi không cần phải hỏi."
Tháp Bất Yên vội vàng dạ một tiếng, lặng lẽ lui ra ngoài.
Tiêu Xước lại gọi một người tới, phân phó: "Lập tức thông tri cho Da Luật Hưu Ca, bỏ lại đại đội, dẫn ba ngàn khinh kỵ, ngày đêm kiêm trình, nhất thiết trong vòng ba ngày phải tới Thượng kinh!"
"Tuân lệnh!" Người đó khom mình dạ một tiếng, bước nhanh ra ngoài.
Tiêu Xước ngồi xuống ghế, vừa nhấc bút lên vừa gọi: "Truyền Quách đại nhân vào cung tấn kiến."
Người ở bên ngoài cũng ngửi ra một loại không khí khẩn trương không tầm thường, nội thị đó ngoan ngoãn dạ một tiếng, không dám thở mạnh rồi hớt hải chạy ra...
"Da Luật Tam Minh đại nhân cầu kiến..."
Ngòi bút của Tiêu Xước khựng lại, cất mấy tờ giấy đã viết xuống dưới bàn, tiếng truyền báo vừa dứt, Da Luật Tam Minh đã vội vàng chạy vào, cố nén nụ cười vui mừng trước tai họa của người khác, giả vờ ngạc nhiên nói: "Ái chà chà, hoàng hậu nương nương, lão thần nghe nói, Niêm Bát Cát sứ giả ở kinh giao bị ám sát? Thế này.... ở dưới chân thiên tử, ngoại sứ bị giết, trị an của kinh sư cũng quá không an tĩnh rồi."
Tiêu Xước lạnh lùng nói: "Trẫm đã biết rồi, đang sai người điều tra, một khi tra ra nguyên hung, tất sẽ có câu trả lời cho người Niêm Bát Cát, đem kẻ hành hung ra trừng trị nghiêm minh."
Da Luật Tam Minh cười hắc hắc, nói: "Vâng vâng." Hắn liếc Tiêu Xước một cái, lại thần bí tiếp cận, nói: "Nương nương, thần còn nghe nói... người nhà trong phủ của La thượng quan bị giết, La thượng quan vừa về tới phủ thì thất tung, còn có La tướng quân cũng thất tung, cả nhà bị giết, ngoài ra... Đồng Vũ, Vương Thiết Ngưu trong cung vệ quân cũng không rõ nơi hạ lạc?"
Thần tình trấn tĩnh của Tiêu Xước cuối cùng cũng biến mất, biến sắc nói: "Đức vương đã nghe nói gì rồi? Tin tức... tin tức không ngờ đã được truyền ra rồi ư?"
Da Luật Tam Minh nhìn thấy vẻ hoảng hốt của bà ta, trong lòng mừng rơn, lại giả vờ đau đớn giậm chân thốt lên: "Đúng vậy, hiện giờ lời đồn khắp nơi, chuyện này không phải là tầm thường, mấy người này bất kỳ ai cũng đều là nhân vật giậm chân một cái là khiến cả kinh thần rung động, trong một đêm lại đồng thời thất tung, há chẳng phải là chuyện lạ ư? Từ máu tanh trong phủ La thượng quan và La tướng quân mà xét, e rằng... có người muốn gây bất lượng cho hoàng hậu nương nương."
Tiêu Xước nghe xong lại càng hoảng hốt, cố gắng trấn tĩnh lại, run giọng nói: "Trẫm đang cảm thấy kỳ quái..., chẳng lẽ... chẳng lẽ trong kinh thành vẫn có dư nghiệt của Khánh vương tiềm phục?"
Da Luật Minh cũng không biết là vương gia nào có dã tâm giành hạ thủ trước, dẫu sao thì người tham luyến hoàng vị cũng không chỉ có hắn. Hiện giờ có người hành động trước, càng có lợi cho hắn dùng thân phận trung thần thanh trừ phản loạn, nắm triều chính, liền nói: "Không thể nào, hiện giờ thế chưa rõ ràng, quả thực là không có chỗ nào an toàn, nương nương nên ứng biến sớm mới đúng."
Tiêu Xước trước giờ luôn trấn tĩnh đối mặt với biến cố này cũng có chút luống cuống chân tay, do dự hỏi lại: "Vậy.... trẫm nên làm thế nào?"
Da Luật Tam Minh nói: "trước tiên sai thân tín bảo vệ hoàng thành, lại sai tâm phúc khống chế Thượng kinh, sao đó thì tra xét toàn thành, tìm nơi hạ lạc của mấy vị đại nhân đã thất tung, tập nã hung thủ."
Tiêu Xước hỏi: "Tam Minh đại nhân có nhân tuyển nào không?"
Da Luật Tam Minh nói: "Con trai Sở Cuồng của thần trung tâm cảnh cảnh với hoàng thượng và nương nương, có thể lệnh cho nó đảm nhiệm hoàng thành bát đại chỉ huy, còn cung vệ, lão thần có lẽ..."
Tiêu Xước ngắt lời: "Tam Minh đại nhân trước giờ chỉ xử lý chuyện văn án, điều độ binh mã e rằng là không thuận tiện."
Da Luật Tam Minh vội vàng nói: "Vâng vâng vâng, lão thần quả thật không phải là nhân tuyển thích hợp. À... nương nương cảm thấy Tiểu Triển Phi thế nào? Ông ta là thúc phụ của nương nương, một mực trung thành với nương nương và triều đình, lại là võ tướng có chiến công lớn lao, đàn áp Thượng kinh chi biến chẳng phải là dễ như trở bàn tay ư?"
Tiêu Xước vui vẻ nói: "Không sai, thúc phụ có thể giúp trẫm một tay."
Da Luật Tam Minh thấy bà ta đồng ý, không khỏi cười thầm: "Rốt cuộc vẫn chỉ là một đưa trẻ mà thôi, bình thường nhìn thì anh minh duệ trí, hiện giờ họa từ trong nhà, cuối cùng cũng loạn cả thôi."
Hắn lập tức đánh rắn theo gậy, nói: "Thái Bình vương Yểm Tát Cát cũng không tồi, Yểm Tát Cát đối với hoàng thượng là trung tâm nhất, lại là tỷ phu của nương nương, nếu bảo hắn lãnh binh, nhất định sẽ hiệu trung với nương nương, ông ta là em của tiên hoàng, ở trong triều là lão thần rất có danh vọng, nếu như ủy thác trọng trách cho ông ta, tất cả thể trấn an dân tâm."
Tiêu Xước lại do dự một lúc rồi nói: "Tất cả cứ theo ý của Tam Minh đại nhân đi, trẫm lo lắng... lo lắng trong cung có người muốn gây bất lợi cho trẫm, hiện giờ đúng là không biết nên làm thế nào, tất cả nhờ vào sự phụ tá của hoàng huynh vậy."
Da Luật Tam Minh vội vàng nói: "Thần tuân mệnh!" Sau đó lại khuyên: "Hoàng thượng lâu rồi không lâm triều, khó tránh khỏi gian nịnh tiểu nhân nổi dị tâm. Nương nương, hoàng trữ nếu được lập sớm, hôm nay dẹp yên loạn này, ngày mai khó mà không nổi loạn khác. Nương nương nên sớm phòng bị đi. Trước tiên cứ chọn một người trong hoàng thất tông thân làm hoàng trữ để trấn an lòng người trong thiên hạ, sau này nương nương có con ruột thì có thể lập lại mà."
Tiêu Xước do dự một lát rồi từ chối: "Chuyện này... trẫm sẽ suy xét."
Da Luật Tam Minh thầm nghĩ: "Lúc này không thể bức bách quá được, trước tiên nắm được quân quyền, giết mấy hoàng tộc có uy hiếp, có dã tâm với ta, một khi đứng vững rồi, sợ gì bà ta không khuất phục?" Thế là không nhắc tới truyện này nữa, giục Tiêu Xước lập thánh chỉ rồi vui vẻ bước ra ngoài.
"Tiêu Triển Phi, Yểm Tát Cát... thì ra minh hữu của ngươi chính là đường huynh và tỷ phu của ta. Nhìn bóng lưng dương dương đắc ý của hắn, khóe miệng Tiêu Xước lộ ra nụ cười lạnh, trong mắt từ từ nổi lên sát khí.
Lúc này một nữ vệ lặng lẽ lách vào, ôm quyền bẩm báo: "Nương nương, ta tăng cường giám sát phạm nhân đó, sáng trưa hai bữa chưa ăn cơm, hiện giờ có vẻ sắp ngất..."
"Phạm nhân nào?"
Tiêu Xước đột nhiên nhớ ra, lập tức mắt đảo quanh, mặt đỏ như gấc, nói: "Không ăn một hai bữa không chết được đâu, ngày mai chọn một tử tù mang thức ăn cho hắn, sau đó thì lập tức giết tên tử tù đó!"
Nữ vệ đó hoảng sợ nói: "Vâng!"
"Chậm đã!" Thấy ả ta nhấc chân, Tiêu Xước đột nhiên nhớ tới mình từ sáng tới giờ cũng chưa ăn gì, liền hậm hực nói: "Truyền chỉ Ngự thiện phòng, làm chút gì đó cho trẫm ăn!"3
Chương 388:Huyết tinh mã lệ
Trong phòng giam đã chật kín người, cũng may, mang vào nhốt đã nhanh mà kéo ra ngoài xử tử còn nhanh hơn, cho nên mới bảo chứng thiên lao không đến nỗi chật ních.
Sau buổi trưa, gió đã mang tới ý vị ấm áp, cây tường vi ở góc tường nở những đóa hoa mỹ lệ. Trong viện lạc của thiên lao, Đại Đầu và đám ngục tốt đang bận rộn làm việc lặc vặt, ai ai cũng chuyền trò vui vẻ, thần thái an nhiên. Trong gió tanh mưa máu, ai ai cũng thấy bất an, trong thành Thượng kinh, lúc này chỉ có nơi đây là an toàn nhất, thái bình nhất, nghiểm nhiên là một thế ngoại đào nguyên.
"Vương gia, nghe nói sứ tiết Hán quốc dẫn người mai phục ở khu vực ngoại thành, ám sát toàn bộ nhân mã của sứ đoàn Niêm Bát Cát."
"Ừ..." Đại Đầu hoảng hốt ừ một tiếng.
"Vương gia, nghe nói sứ tiết Tống quốc Dương Hạo cũng thất tung trong một đêm, hiện tại ai cũng hoài nghi là bị sứ tiết Hán quốc ám sát rồi, ngài nói xem người của sứ quán Hán quốc thật sự có bản sự và gan lớn như vậy ư?"
Gương mặt của Đại Đầu trở nên co quắp, lại ừ một tiếng. Hắn đang lo lắng cho Dương Hạo, Dương đại ca thật sự thất tung ư? Còn cả đại tẩu, Tiểu Lục, Thiết Đầu, nghe nói toàn bộ đều bị người ta giết rồi, nhưng tới giờ lại vẫn chưa thấy tử thi, bọn họ thật sự gặp bất hạnh rồi ư? Rốt cuộc là ai đã hạ thủ?
Một lão ngục tốt thở dài nói: "Chết thì chết rồi, bất kể là người Niêm Bát Cát hay là người Tống, chết rồi thì sao chứ? Nương nương không phải là đã tuyệt giao với Hán quốc rồi ư? Còn tạ lỗi với người Tống ở trên quốc thư, bọn chúng còn có thể thế nào nữa? Thành Thượng kinh của chúng ta, tới lúc nào mới có thể thái bình đây. Ba đại tướng quân của cung vệ quân cùng thất tung trong một đêm, La thượng quan thì đến cái bóng cũng không thấy, nô phó trong phủ toàn bộ bị giết, nhất định là có tên chủ mưu không sợ chết, giống như là Khánh vương vậy làm phản rồi."
Một ngục tốt khác nói: "Nhưng hiện tại ngay cả thi thể của bọn họ cũng không tìm thấy, nếu như nói là bọn họ bị người ta giết, người giết bọn họ cho tới giờ lại không có hành động gì đặc biệt, ngài nói xem chuyện này có kỳ quái hay không?"
Lão ngục tốt cười xòa nói: "Có gì mà kỳ quái chứ? Ngươi không thấy thủ đoạn, khí phách của hoàng hậu nương nương à, nương nương ứng biến nhanh như vậy, ai còn dám có hành động tiếp theo chứ? Ba ngày nay, bắt vào mấy vương gia rồi?"
Tên ngục tốt đó nói tiếp: "Hiện giờ nhốt trong lao còn bốn người, hai ngày nay tổng cộng lôi ra chém chín người."
"Chính vậy đó, Da Luật Tam Minh đại nhân hiện giờ nắm triều chính, Thái Bình vương Yểm Tát Cát, Bắc viện đại tướng quân Tiêu Triển Phi nắm quân quyền, ở trong thành Thượng kinh giết đến chó gà cũng không tha, máu chảy thành sông..."
Tên ngục tốt trẻ tuổi nói: "Ta nói nè Tề Đầu nhi, ngươi nói xem những người mà Da Luật Tam Minh giết, thật sự đều là phản nghịch ư?"
Lão ngục tốt tựa cười mà như không phải cười, nói: "Sao mà không phải? Chẳng phải là ngay cả binh khí giáp trướng đều tìm ra từ trong phủ của bọn họ ư? Thế còn là giả được à?"
Tên ngục tốt hừ một tiếng, nói: "Ta thấy không giống, nếu nhiều vương gia như vậy đều làm phản, còn đợi tới hôm nay ư? Theo như ta thấy, Tam Minh đại nhân này là mượn việc công mà báo thù riêng, thừa cơ diệt trừ quyền quý trong triều không một lòng với ông ta, muốn nhất gia độc đại. Tề Đầu nhi, ngươi thử bấm tay tính xem, người bị giết mấy ngày nay không phải đều là những đại thần quyền cao chức trọng, bình thường ngay cả hoàng thượng, nương nương nương đều phải kính úy ba phần ư?"
Lão ngục tốt ho khan một tiếng, chậm rãi nói: "Cơm không thể ăn linh tinh, nói cũng không thể nói lung tung được. Tiểu tử, họa là từ miệng mà ra. Nếu để thủ hạ của Tam Minh đại nhân nghe thấy, một lát thôi người được phái tới đưa cơm cho tên ôn thần đó sẽ chính là ngươi đấy."
Lão ngục tốt vừa nói vậy, tên ngục tốt trẻ tuổi đó lập tức biến sắc, hắn nhìn xung quanh, rụt cổ lại không dám nói gì nữa.
Một tên ngục tốt mặc đầy râu nói: "Chuyện này quả thực là kỳ quặc, các người đoán xem, tên ôn thần đó rốt cuộc là ai nhỉ? Đưa một bữa cơm, giết chết một người, cái mà tên ôn thần đó ăn không phải là cơm mà căn bản chính là mạng người đó. Sát khí lớn như vậy, điệu bộ dữ như vậy, ở Khiết Đan chúng ta, đó chính là bò cạp ăn phân."
Đại Đầu tâm loạn như ma, buồn bực không muốn nghe, mắng: "Con mẹ nó sao nói thối thế? Muốn biết hả? Muốn biết thì đi mà hỏi tên ôn thần đó đi."
Tên râu quai nói toét miệng cười nói: "Vương gia, ngài đừng tức giận, đây chẳng phải là mấy người chúng ta ngồi nói chuyện phiếm thôi sao. Ngài bảo tôi đi ư, tôi còn muốn sống mà, chẳng dám đâu."
Mấy người đang nói thì nghe thấy bên ngoài xôn xao, có người lớn tiếng nói: "Đi, đi mau một chút, đừng có lề mề, ai dám lộn xộn, giết chết không luận tội."
Lão ngục tốt bật dậy với độ mẫn tiệp không tương xứng với tuổi tác của mình, khẩn trương nói: "Lại đưa phạm nhân tới rồi, trời đất ơi, lúc nào mới hết đây."
Hắn vừa nói xong, cả đám người ùa vào viện tử, ở giữa các binh sĩ đang cầm đao thương là Bắc viện tể tướng Da Luật Tam Minh, Thái Bình vương Yểm Tát Cát, Bắc viện đại tướng quân Tiểu Triển Phi.
Vừa thấy ba đại cự đầu này cùng tới, bọn Đại Đầu vội vàng đứng dậy chắp tay thi lễ, Đại Đâu nơm nớp lo sợ hỏi: "Mấy vị đại nhân, phạm nhân quan trọng nào mà khiến ba vị đại nhân cùng phải đưa tới vậy?"
Da Luật Tam Minh và Yểm Tát Cát, Tiêu Triển Phi chắp tay sau lưng, mặt lạnh lùng, cao ngạo hất cằm lên.
"Đây là bệnh quái gì vậy?" Đại Đầu không hiểu gì, không biết mình nói sai chỗ nào.
Lúc ngày thì nghe thấy một người nói: "Phạm nhân hôm nay được đưa tới chính là ba vị đại nhân này, Lao đầu nhi, mau thu thập lao phòng, mời ba vị đại nhân vào."
Theo tiếng nói, một hán tử khôi ngô thân hình cao to, eo đeo bội đao, mỉm cười bước vào.
Tên ngục tốt vừa thấy người này liền ồ lên một tiếng: "Đại dịch ẩn? Đại nhân... ngài về thành Thượng kinh lúc nào vậy."
Da Luật Hưu Ca mỉm cười bước vào viện, trầm giọng nói: "Đức vương Da Luật Tam Minh, Thái Bình vương Yểm Tát Cát, Bắc viện đại tướng quân Tiêu Triển Phi dùng thế lực bắt ép hoàng thượng, hoàng hậu, giả truyền thánh chỉ, mưu hại đại thần trong triều, mưu đồ bất chính, ý đồ soán ngôi tự lập. Bản đại dịch ẩn bí mật về kinh, dưới sự giúp đỡ của hai vị đại nhân Thất Phưởng, Quách Tập, một mẻ lưới bắt gọi phản nghịch, hiện tại giam giữ trong thiên lao đợi thẩm vấn, các ngươi phải trông chừng bọn họ cho tử tế."
Da Luật Tam Minh vốn vẫn được tính là bình tĩnh, nghe tới đây cuối cùng cũng kích động, hắn trợn mắt lườm Da Luật Hưu Ca, rít lên: "Da Luật Hưu Ca, ngươi dám ngậm máu phun người à? Bản vương trung thành tận tâm, lúc nào có ý mưu phản hả? Ngươi dẫn binh về kinh, đột nhiên bắt ta, còn muốn hãm hại, Ta hiểu rồi, ta hiện giờ đã hiểu rồi, lão phu mắc phải cái bẫy lớn, mắc phải bẫy của con **** Tiêu Xước đó rồi!"
Hắn vừa nói vừa lao về phía Da Luật Hưu Ca, bọn Đại Đầu lúc này mới thấy, ba người bọn họ chắp tay sau lưng không phải là vì tâm cao khí ngạo, mà là bởi vì hai tay bị trói ngoặt ra sau.
Da Luật Hưu Ca mặt sầm xuống, quát: "Da Luật Tam Minh, ngươi không ngờ lại dám vô lễ với hoàng hậu nương nương như vậy ư? Người đâu, vả vào miệng hắn."
Da Luật Tam Minh cười thảm: "Kết cục của lão phu đã được dự liệu rồi, còn nói gì tới việc vô lễ hay không, ta còn sợ ai nữa?"
Hắn vừa nói xong thì vai đã bị hai thị vệ ấn xuống, có một thị vệ khác bước lên, vung yêu đao lên, dùng vỏ đao "bốp bốp bốp" đánh vào miệng hắn, khiến cho hai má phù lên, răng rơi đầy đất. Da Luật Tam Minh do đau đớn lên mắng chửi không ngừng, chỉ là miệng đầy bọt máu, ngay cả lời nói cũng không được rõ ràng.
Da Luật Hưu Ca cười lạnh, phân phó: "Phụng ý chỉ của nương nương, tất cả phạm nhân hai ngày nay được đưa vào trong lao ngục, đều là do đám phản nghịch Da Luật Tam Minh giảm lỏng hoàng thương, nương nương, giả truyền thánh chỉ bắt vào ngục, theo lệnh lập tức phóng thích toàn bộ. Đưa ba tên khâm phạm Da Luật Tam Minh, Yểm Tát Cát, Tiêu Triển Phi vào thiên lao đợi xử trí."
Trong đình viện ở ngoài Nguyệt Hoa cung, người quỳ đông nghịt , ở phái trước nhất là hai phu nhân đầu tóc tán loạn, trán đã tím xanh.
"Hoàng hậu nương nương, muội muội, thân muội muội, cầu người khai ân, tỷ phu của người chỉ là nhất thời hồ đồ, nhất thời hồ đồ mới bị Da Luật Tam Minh khiến cho động tâm. Ông ấy vốn chính là kẻ bỏ đi, không có bản sự gì cả, dựa vào ca ca nhà mình từng làm hoàng thượng nên mới đượcphong làm Thái Bình vương, muội muội đại từ bi, tha cho ông ấy đi, ông ấy sẽ không..."
Nữ nhân bò trên đất khóc đến nỗi nước mắt giàn dụa, bà ta chính là nhị tỷ ruột thịt của Tiêu Xước, phu nhân của Thái Bình vương yểm Tát Cát.
Cha mẹ sinh con trời sinh tính, chẳng ai giống nhau cả, nhị tỷ của Tiêu Xước, so với em ruột thì mặt mũi cũng không quá giống nhau. Tuy mặt mày rất tú lệ, nhưng lại hình chữ quốc, cằm hơi rộng, lông mày cũng khá rậm, so với bộ dạng cằm nho nhỏ, lông mày nhàn nhạt của muội muội thì lộ ra vẻ cường hãn hơn một chút.
Nhưng, ngày hôm nay, vị muội muội mặt như hoa đào, trông rất nhu mị tính tình thật sự không cường hãn bằng bà ta ư? Bà ta đã khóc một tiếng trời, đến nỗi khản cả giọng rồi nhưng trong Nguyệt Hoa điện vẫn không hề có tiếng động.
Một phu nhân khác là thẩm nương của Tiêu Xước, phu nhân của Tiêu Triển Phi, bà ta nước mắt lưng tròng nhìn Tiêu nhị tỷ, không dám lên tiếng van cầu. Trượng phu của mình bị bắt rồi, nhưng hắn vốn là chú ruột của nương nương, nương nương và thúc thúc không phải là còn thân thiết hơn so với một người là thẩm nương như mình ư? Muốn xin thì cũng không đến lượt bà ta. Bà ta hiện tại chỉ đợi nương nương lên tiếng bỏ qua cho tỷ phu, chỉ cần nàng ta bỏ qua cho Thái Bình vương Yểm Tát Cát, lại cầu nàng ta thả một mặt lưới cho người khác tất nhiên cũng dễ dàng hơn.
Nhưng, nương nương liệu có tha cho bọn họ không?
Nghĩ tới Da Luật Sở Cuồng đột nhiên bị tướng lĩnh bên cạnh một đao chém bay đầu, thân và đầu hiện giờ còn bị chia ra treo trên hai cột cờ ở thành lâu, tim bà ta lại như thắt lại...
Trong Nguyệt Hoa cung, trên ngự thư án phủ vải vàng đặt một bình trà nóng.
Trà đã uống đến không còn tư vị gì nữa cả, Tiêu Xước cũng không gọi người lên đổi, có điều nước thì vẫn nóng, nước nóng vào bụng, nhưng trong lòng vẫn lạnh toát, ngay cả hơi thở phả ra cũng đều lành lạnh.
Tiêu Xước mặt ngọc như phủ sương, mắt phượng hơi nhắm lại, suy nghĩ kỹ càng lại thế cục của Thượng Kinh hiện giờ.
Trong triều, ba cỗ xe ngựa quyền lực do thế lực hệ hoàng tộc của ba chi Thái Tông, Thế Tông, Lý Hồ Tam tổ thành đều bị tiêu diệt hết rồi, đồng thời tông thất, các hậu duệ của Mục Tông vị cao quyền trọng, đoàn kết thành thể lực đủ để uy hiếp hoàng quyền phía dưới ba cỗ xe ngựa này cũng đã thất linh bát đảo.
Không phá thì không xây lại được, phá rồi sau đó xây lại, chính biến tiếp theo đây nhìn thì sẽ tạo thành đả kích trầm trọng đối với chính quyền Khiết Đan, nhưng lửa Thiên Lôi đốt cây bệnh, chỉ lưu lại một mạch của Thế Tông, chỉ cần xử trí thỏa đáng, là có thể là một mạch siêu quần xuất chúng, đây là cơ hội ngàn năm khó gặp.
Các loại ứng phó, biến hóa, công tác chuẩn bị, tự có căn nguyên của nó, đó chính là cuộc đấu võ giữa các ban thế lực đối với hoàng quyền, mà tất cả những cái này cuối cùng cùng trồi lên mặt nước, cũng dưới sự dẫn dắt khéo léo của nàng ta, hướng tới phương hướng phát triển có lợi đối với bà ta, nguyên nhân của nó không nó không ngờ lại từ đám người La Khắc Địch ý đồ chạy trốn, mình thì loạng quạng thế nào lại say rượu bị người ta lăng nhục, từ đó bí mật bắt giữ đám người này. Đây là điều mà ngay cả bà ta cũng không thể dự liệu được. Nhưng bà ta lại là người rất giỏi nắm bắt cơ hội, sau những chuyện này, bà ta lập tức bí mật thương nghị với Thất Phưởng, Quách Tập, bày ra kế hoạch nhắm vào Da Luật Tam Minh, thúc đẩy một cuộc thanh trừ trên chính đàn Thượng kinh.
Da Luật Tam Minh thì nóng lòng tự nhảy vào. Tốt, ta cho ngươi cơ hội, ta chỉ là một phu nhân yếu đuối, một khi bị người ta bức thoát vị, còn có thể có được chủ ý gì nữa? Chính quyền, binh quyền, giao chết cho ngươi, ta thì tránh vào thâm cung, không lộ mặt nữa.
Da Luật Tam Minh quả nhiên đắc ý như điên, dưới sự thanh trừng đầy máu tanh của hắn, trừ đám người Thất Phưởng, Quách Tập thức thời, kịp thời "nương nhờ", tông thất quyền quý có quyền có thế, đuôi to khó vẫy của cả hoàng thất Khiết Đan cơ hồ là bị đồ sát sạch sành sanh. Hiện tại, đã đến lúc tiêu hủy thanh đồ đao này rồi.
Tháp Bất Yên hối hả bước vào điện, mặc dù nàng ta là nữ nhân, cũng bởi vì đột nhiên nắm quyền lực sinh sát trong tay mà kích động đến nỗi hai má đỏ hồng. Quyền lực quả thật là giống như là thứ đồ uống khiến người ta dễ say nhất trên thế gian này.
"Nương nương, các đại nhân bị nhốt ở trong thiên lao đều được thả ra, biết rằng nương nương bị Da Luật Tam Minh giam lỏng, Da Luật Tam Minh giả truyền thánh chỉ, giết hại rất nhiều triều thần, các đại nhân đều không nén được giận. Hiện giờ phụng lệnh của nương nương, do bọn họ thanh tra chứng cứ mưu đồ bất chính của bọn Da Luật Tam Minh, Yểm Tát Cát, Vũ Triểu Phi, đã có manh mối rồi."
Tiêu Xương lẳng lặng đặt chén trà xuống, mày ngài hơi nhướn lên, cười có chút yêu dị: "Thế nào?"
"Tìm thấy rất nhiều chứng cứ. Đã đủ chứng cứ nên Thất Phưởng đại nhân đinh tội những tên phản nghịch này theo điều một trăm ba mươi mốt của luật Khiến Đan chúng ta."
Tiêu Xước cười khẽ một tiếng: "Tốt, rất tốt, Thất Phưởng đại nhân không hổ là bề tôi có năng lực, trong thời gian ngắn như vậy đã có thể làm xong chuyện lớn như vậy rồi."
Tháp Bất Yên nói: "Tội danh cũng không phải toàn là do Thất Phưởng đại nhân đề ra. Những đại nhân mới được thả ra đều tận hết sức lực, các loại tội danh mà đám người Da Luật Tam Minh mấy ngày nay vắt hết óc để nghĩ ra hòng để đồ sát tông thất quyền quý, hiện giờ tất nhiên đều phải tính lại trên đầu họ. Đám người Da Luật Tam Minh đã hết đường chối cãi, chết trăm lần cũng không đủ để chuộc tội rồi!"
Tiêu Xước mỉm cười nói: "Hết đường chối cãi, chết trăm lần cũng không đủ để chuộc tội, nói hay lắm, không ngờ nha đầu ngươi không đọc sách mà cũng có thể nói ra được những lời như vậy."
Tháp Bất Yên đỏ mặt, nói: "Đây... không phải là tỳ nữ nói mà là Quách Tập đại nhân nói, tỳ nữ... tỳ nữ nghe lỏm được thôi."
Tiêu Xước bật cười, bà ta chậm rãi đứng dậy, đi đi lại lại một lúc ở trong điện, hai tay chắp sau lưng, sau đó thì dừng lại, hơi hất cằm lên, lạnh lùng phân phó: "Truyền lệnh, Da Luật Tam Minh mưu đồ bất chính, tội ác rõ ràng, lập tức xử pháp theo mức cao nhất của pháp luật, tất cả người trong phủ của Da Luật Tam Minh đều giết hết."
"Tuân lệnh!" Thát Bất yên không chút do dự đứng thẳng người dậy.
Trong mắt Tiêu Xước lấp lánh hàn quang, lại nói: "Thát Bình vương Yểm Tát Cát, phụ nghịch phản loạn, xử tử, ban cho được toàn thây. Vương phi và vương nữ, thế tử giam cầm trong phủ đệ, cả đời không được bước ra khỏi cửa phủ một bước."
"Vâng!" Hô hấp của Tháp Bất Yên biến thành có chút nặng nề.
"Tài sản của hai người thì thu về hoàng thất, tộc nhân tất cả giao cho những tông thân hoàng thất đã bị chúng hãm hại làm nô."
Tháp Bất Yên run giọng nói: "Vâng."
"Còn Tiêu Triển Phi..." Tiêu Xước hơi trầm ngâm một chút, nhẹ nhàng nói: "Xử tử! Gia quyến trong phủ, ban cho vải trắng (để treo cổ tự tử), những vây cánh liên quan thì nhất loạt chôn sống."
Tháp Bất Yên sắc mặt trắng bệch, run rẩy nói: "Vâng... vâng..."
Tiêu Xương nhìn chằm chằm vào nàng ta, đột nhiên hỏi: "Nếu bọn chúng thành công, ngươi nói xem ra sẽ có kết cục như thế nào?"
Tháp Bất yên cúi đầu xuống, cả người run rẩy, không trả lời.
Tiêu Xước lại nói: "Ngươi nói xem tỷ phu, thúc phụ của trẫm liệu có có niệm tình thân với trẫm hay không, tỷ tỷ, thẩm nương của trẫm liệu có cầu tình vì trẫm hay không?"
Tháp Bất yên thở dốc mấy cái, lí nhí nói: "Tỳ nữ minh bạch."
Thiên tử giận dữ, xác chết trăm vạn.
Nữ hoàng giận dữ, máu chảy thành sông.
"Thật không nhờ, trẫm khốn khổ chịu nhục, chỉ vì một cơ hội mà dẫn tới nhiều biến hóa như thế này."
Tiêu Xước nằm trên giường, không hề có chút mệt mỏi nào: "Từ lúc cầm quyền tới nay, trong tay có hai khối khoai lang nóng bỏng, nội chính và ngoại giao, hiện giờ giải quyết được một rồi. Cựu thần chính khách, cơ hồ đều hầu như không còn, ai làm địch với triều đình - giết. Ai hữu dụng với ta, lôi kéo. Trẫm có thể mạnh dạn sử dụng người mới, những người có năng lực ngoài tông thất, củng hố hoàng quyền. Trước mắt tuy là nguyên khí đại thương, nhưng so với tình huống sâu mọt đầy rẫy trước kia, về lâu về dài thì chỉ có lợi chứ vô hại.
Ngoại giao, Cao Lệ ở phương đông, Nữ Chân ở đông bắc, Niêm Bát Cát ở mặt tây, Đảng Hạng ở tây bắc, Tống quốc là phía nam, ai ai cũng đều là đồ ba gai, ai cũng khó trêu vào. Hiện giờ dựa vào việc Hán sứ ám sát sứ giả Niêm Bát Cát, thành công vứt bỏ gánh nặng Hán quốc này, lại chiếm được hào cảm của Niêm Bát Cát. Về phương diện Tống quốc, tuy tổn thất một sứ giả, nhưng lại có được lời hứa hẹn đầy thiện ý của trẫm, hiện giờ bọn họ chí hướng đặt ở Hán quốc, cũng không thể làm làm khó trẫm, trẫm có thể an tam thu thập sơn hà. Và... còn có một người đang rình rập nữa, đó chính là Khánh vương. Cây kim mắc trong lòng trẫm này, lúc nào mới có thể nhổ ra được đây?"
"Nhưng bất kể là nói thế nào, thành Thượng kinh vẫn đã có thể được coi là thái bình rồi, trẫm rốt cuộc cũng có thể ở trong cung ngủ một giấc yên ổn, thành Thượng kình, hiện giờ chân chính thuộc về trẫm rồi, không còn có gì khiến trẫm lo lắng nữa, chuyện phải bận tâm..."
Tiêu Xước nghĩ tới đây, một bóng hình hiện lên trong đầu, không khỏi khiến bà ta nhảy cẫng lên.
"Còn có một số người chưa xử trí... hai ngày nay bận rộn quốc sự, không ngờ lại quên mất hắn.” Vừa nghĩ tới người này, sự khuất nhục của đêm đó, tư vị khó quên đó lại xộc lên đầu, đặc biệt là trong đêm khuya vắng lặng, cảm quan và ký ức lại linh mẫn rõ ràng đến dị thường.
Tình cảnh điên cuồng giao hợp của đêm đó, nhao nhao xộc lên đầu, khoái cảm dị dàng tiêu hồn thực cốt đó, tự vị sướng khoái chưa từng được thể nghiệm đó, khiến cho tuyên phòng ngự lãnh khốc cứng rắn trong tim của nữ chủ một đời nắm quyền lực vô thượng, cao cao tại thường dần dần dung hóa, cặp đùi săn chắc của bà từ từ khép chặt lại, hô hấp cũng biến thành nặng nề.
Một khi đã thể nghiệm qua loại tư vị điên cuồng cực nhạc đó, tâm tình của thiếu phụ phải tịch mịch trong cung bấy lâu nay bắt đầu dao động, hai mắt bà ta từ từ nhắm lại, ôm chặt lấy gối, một tiếng rên khe khẽ từ trong cổ họng bật ra.
Tiêu Xước đột nhiên lật chăn, tóc tai rối bù từ trên giường ngồi dậy, đưa tay ra nắm lấy cây trâm vàng đặt bên cạnh gối, đâm vào lòng bàn tay của mình, máu lập tức ứa ra, cảm giác đau nhói lập tức làm thanh tỉnh thần chí của bà ta.
"Trẫm, không làm tù binh của bất kỳ ai cả, trẫm không thể để cho bất kỳ ai thao túng, cho dù là tình dục của tẫm!"
"Đêm đó chỉ là một giấc mộng... một giấc mộng mà thôi. Ngày mau, trẫm sẽ tự mình xử trí bọn chúng, giấc mộng hoang đường này, sẽ được xóa đi trong lòng trẫm, không còn dấu vết nữa!"
...
Dương Hạo lặng lẽ ngồi trong lao phòng, tới hiện giờ hắn vẫn chưa hiểu được là rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Cặp đùi sáng bóng không chút tỳ vết đó rốt cuộc là thuộc về ai? Đông Nhi đi đâu rồi, nơi này là đâu?
Điều cơ hồ khiến hắn phát cuồng chính là bụng hắn thì đầy những nghi vấn không được giải thích, mà lao phòng thì lại yên tĩnh đến mức ngay cả tiếng gián bò ở góc tường cũng nghe rõ ràng. Mỗi ngày, đều sẽ có một người mặt mày bẩn thỉu đưa thức ăn đến cho hắn, thức ăn không tồi, làm cũng rất tinh tế, nếu phạm nhân mỗi ngày đều có thể được ăn loại thức ăn như thế này, vậy thì giám ngục cũng có thể là hoàng cung rồi. Vấn đề là... chỉ có một bữa ăn, mỗi ngày chỉ có một bữa ăn, mặc dù hắn cố gắng giảm bớt hoạt động, nhưng bụng vẫn xẹp lép.
Kỳ thực hắn muốn hoạt động cũng không có cơ hội, mỗi ngày, chỉ có lúc ăn cơm hắn mới được người ta cởi trói khỏi ván giường. Mỗi ngày chỉ có một tiếng, hắn có thể nghe thấy tiếng bước chân, thậm chí có thể phân biệt rõ đó là tiếng bước chân của ba người, đối với người ngay cả một chút âm thanh cũng không nghe thấy như hắn mà nói, tiếng bước chân đó cứ như là tiếng chim hót.
Tiếng bước chân sẽ dừng lại trước cửa lao phòng của hắn, cửa phòng được mở ra, một người bước vào, sau đó cửa phòng sẽ bị khóa lại. Sau đó sẽ nghe thấy tiếng hai người đó vội vã chạy đi giống như là gặp ôn thần. Tiếp theo, người tiến vào sẽ rút vải nhét trong miệng hắn ra, bỏ mũ chùm đầu của hắn xuống, cởi trói cho hắn, nhìn hắn ăn cơm xong, sau đó lại trói hắn lại như cũ...
Muốn giành nhiều thời gian hơn để hoạt động, hắn chỉ có thể kéo dài thời gian ăn cơm, nhai đi nhai lại thức ăn ở trong bát rồi mới nuốt xuống. Hắn thử nói chuyện với người đưa cơm, nhưng không biết người đưa cơm đã được dặn dò gì, giống như là người câm vậy, tuyệt đối sẽ không nói một câu nào với hắn. Người đưa cơm của mỗi ngày đều là người mới, cứ thế thực hiện lại những chuyện cũ, tất cả ở trước mắt, thường khiến hắn sản sinh ra một loại cảm giác: Đây liệu có phải là một giấc mơ không?"
Vào lúc đang nghĩ ngợi lung tung, hắn lại nghe thấy tiếng bước chân, mở cửa, đóng cửa, chạy đi...
Kỳ quái là, người ở lại chần trừ không bước tới cởi trói cho hắn.
Đợi một lát, Dương Hạo rốt cuộc không chịu nổi liền giãy dụa, mũi phát ra tiếng thở phì phò. Lúc này, hắn nghe được một giọng nói của nữ nhân, giọng nói rất nhẹ, rất dễ nghe, rất êm tai, cũng rất... lạnh lùng: "Dương sứ giả, ngươi vẫn khỏe chứ?"
Dương Hạo nằm yên trở lại: "Giọng nói của nữ nhân? Giọng nói rất quen thuộc, nàng ta là...?"
Nữ nhân đó cười khanh khách rồi lại nói: "Người dám bất kính với trẫm, đều chết rất thảm, còn ngươi, ngươi không ngờ lại lăng nhục trẫm, trẫm... nên xử trí ngươi thế nào đây?"
"Tiêu Xước!" Dương Hạo trong lòng giống như điện quang hỏa thạch, vốn đã nghi ngờ, hoặc nói là nghi vấn mà hắn căn bản không dám nghĩ tới đột nhiên nhận được lời giải đáp: "Trời ạ, tối đó.. là bà ta, là hoàng hậu Khiết Đan!"
Mũi ngửi thấy một luồng hương thơm, giọng nói yếu ớt của Tiêu Xước bỗng nhiên gần lại sát bên tai, một bàn tay mềm mại nhẹ nhàng sờ lên ngực hắn, giọng nói yếu ớt, phảng phất như tình nhân đó mang theo hận ý sâu đậm, nói: "Kể ra, ngươi cũng tính là nam nhân của Tiêu Xước, nam nhân của ta, cho dù không phải là anh hùng cái thế thì cũng nên có chút cốt khí. Ngươi nếu bị dọa chết thì trẫm sẽ cảm thấy mất mặt lắm đó."
"Thượng đế ơi, ta đã cưỡi nữ hoàng!"
Dương Hạo đột nhiên nắm chặt song quyền: "Ta không thế cứ chết như vậy được, ta muốn được tiếp tục sống! Bách khoa toàn thư trí tuệ quốc học, ngoại giao mưu lược học, ba mươi sáu kế, cố sự của trí giả trong và ngoài nước, mười vạn điều tại sao... ở đâu có tiền lệ cường bạo nữ hoàng rồi vẫn có thể sống sót đây?
Chương 389:Ngàn lẻ một đêm
Vải nhét trong miệng được lấy ra, mũ chùm trên đầu cũng được cởi xuống, Dương Hạo hoạt động cái miệng đã tê rần, im lặng nhìn nữ nhân ở trước mặt.
Áo màu đỏ, thắt đai lưng xanh, đột mũ lông cáo trắng, ăn mặc như một nữ vệ trong cung.
Lông mày quyến rũ, hai mắt sáng quắc, mũi dọc dừa môi trái tim, kiều diễm như hoa, nhưng ánh mắt đang nhìn hắn lại khiến người ta phi thường không thoải mái, cao ngạo, căm hận, lạnh lùng, còn có một tia nhục nhã được ẩn tàng rất sâu.
Một lúc sau, Dương Hạo mới thở dài một hơi, nói khẽ: "Hôm đó là là..... nàng ư!"
Tiêu Xước lạnh lùng nói: "Nếu không thì nên là ai?"
"Nàng ta thế nào rồi? Còn... còn...!"
"Không cần phải ôm ảo tưởng làm gì, trẫm có thể từ ngươi mà nghĩ rằng ả ta có vấn đề, tất nhiên cũng có thể từ ả ta mà nghĩ tới bọn La Khắc Địch, Khoái Vũ, Vương Thiết Ngưu cũng có vấn đề. Mấy ngày nay, ta giết rất nhiều người, có điều bọn chúng thì vẫn còn sống, bởi vì ta muốn biết bọn chúng vì sao mà tới, lại muốn làm cái gì. Hiện tại ta đã biết rồi, bọn chúng cũng không có ác ý gì với trẫm cả, nhưng bọn chúng phản bội trẫm, lý do này là đủ rồi, bọn chúng sẽ cùng chết với ngươi."
Dương Hạo hơi biến sắc, lập tức cười nhạt: "Cái này cũng không nằm ngoài ý liệu của ta, ngoại thần đã làm nhục bệ hạ, cũng không nghĩ rằng còn có thể được sống. Có điều.... Đông Nhi không biết gì cả, đêm đó, ta căn bản không biết là nàng tới, nếu không thì căn bản sẽ không… nàng ta nói với ta rằng đêm đó bệ hạ sẽ không..."
Gương mắt trắng bệch của Tiêu Xước cuối cùng cũng ửng đỏ, giọng nói mang theo sự phẫn nộ không kiềm chế của, quát khẽ: "Cho dù là đối với nương tử của mình, ngươi cũng có thể dùng thủ đoạn cường bạo như vậy ư?"
Dương Hạo cười khổ, nói: "Ngoại thần... luyện tập một loại nội công tâm pháp, là công pháp song tu của đạo gia. Đêm đó, ngoài thần bị tâm ma phản phệ, thần chí mơ màng, cho nên mới... Nếu không, cũng không ngu ngốc đến mức như điên như cuồng cùng với bệ hạ...."
"Đừng nói nữa." Đôi thỏ ngọc nhô lên ở trước ngực Tiêu Xước kịch liệt nảy lên mấy cái, ngực của bà ta nhô cao săn chắc, tròn trịa ưu mỹ, tuy không quá lớn, nhưng khi bà ta cúi xuống, vô hình trung lại càng nhô ra hơn.
Bà ta cố gắng bình trụ hô hấp, nói: "Nữ quan mà trẫm tin cậy nhất, không ngờ lại là nương tử của ngươi. Mấy tướng lĩnh cung vệ mà trẫm đề bạt trọng dụng, không ngờ lại là huynh đệ của ngươi, trẫm thực sự là không ngờ. Không sai, đêm đó xảy ra chuyện gì, bọn họ đúng là không biết, nhưng chỉ bằng vào điểm này, bọn chúng đã đáng phải chết rồi."
Dương Hạo nhìn xoáy vào vị hoàng hậu đứng trước mặt mình, trầm giọng nói: "Cũng chính là nói, bọn họ bởi vì nàng nhận người không rõ mà phải trả giá đắt?"
Tiêu Xước cười lạnh: "Thế thì sao? Trẫm đãi bọn chúng không bạc, từ nô tài đề bạt lên làm tướng lĩnh, thượng quan. Chẳng lẽ hiện giờ còn phải giả vờ độ lượng đá chúng đi, để người thiên hạ đều biết rằng tâm phúc của Tiêu Xước chạy trốn về trung nguyên ư? Tim của bọn chúng đã không ở đây, vẫy thì vĩnh viễn chôn luôn ở đây đi."
Dương Hạo thấy hôm nay bà ta xuất hiện ở đây, mình và bọn Đông Nhi đã tới giây phút cuối cùng rồi. Khi bà ta xuất hiện, có nghĩa là sinh mệnh của bọn họ đã đi tới chung kết, nhưng chết một cách oan uổng, vô thanh vô tức như vậy, hắn thực sự là không cam tâm, biết rõ là không thể, nhưng hắn vẫn phải đấu tranh tới cùng.
Hắn hỏi vặn: "Bệ hạ giết Tống sứ, không sợ vì thế mà dấy lên chiến tranh giữa hai nước hay sao?"
Tiêu Xước mỉm cười: "Ngươi và trẫm viết ra một bức quốc thư nhượng bộ như vậy, ai nặng ai nhẹ đây? Tống quốc chinh chiến liên miên, nước khốn dân khổ, nếu lúc này khai chiến với trẫm, chẳng qua là một kết cục lưỡng bại câu thương, Triệu Khuông Dận tội phải vì ngươi mà khai chiến? Huống chi, Tống đình vĩnh viễn sẽ không biết được chân tướng, kẻ chết thay đã được tìm thấy rồi. Kể ra, trẫm còn phải cảm tạ ngươi nữa, nhờ có ngươi, mấy ngày nay, rất nhiều người đã chết. Quyền lực của trẫm ổn đỉnh một cách trước giờ chưa từng có, sẽ không còn ai đến cản trở trẫm. uy hiếp trẫm nữa. Những cái này đều là ngươi ban cho."
Dương Hạo đây đã lần thứ hai nghe thấy bà ta nói rằng mấy ngày này đã có rất nhiều người chết, hắn không nhịn được bèn hỏi: "Đông Nhi, La Khắc Địch, Đồng Vũ bọn họ đều bình an vô sự, vậy người chết là ai?"
Tiêu Xước dương dương đắc ý kể lại nhất nhất thủ đoạn của mình. Dương Hạo yên lặng một lúc, sau đó than khẽ một tiếng, nói: "Hảo tâm cơ, hảo thủ đoạn!"
"Cám ơn lời khen." Tiêu Xước chậm rãi rút một thanh đoản đao ra, dùng mũi đao sắc nhọn gạt vạt áo của Dương Hạo, mũi đao nhắm chuẩn vào ngực trái của hắn, nói khẽ: "Hiện tại ngươi có thể đi chết được rồi, ngươi không cần phải lo lắng, nương tử và huynh đệ của ngươi, trẫm sẽ tiễn từng người lên đường, ngươi trước tiên tới Hoàng Tuyền đợi bọn họ một lát đi."
Mũi đao sắc bén lạnh toát rạch một vết thương trên da thịt ở ngực, máu lập tức trào ra, bà ta dùng ngón tay đẫy đà nhẹ nhàng vuốt qua ngực Dương Hạo, dính một chút máu trong suốt, nhẹ nhàng đưa lên khóe miệng, chậm rãi mút, tựa hồ như đang hồi vị vô cùng, rồi liếm liếm môi, dùng ánh mắt mơ màng nói: "Ngươi đối với ta như vậy mà ta lại chỉ dùng một đao để kết liễu ngươi, vậy đã là làm trái với nguyên tắc làm người của Tiêu Xước ta rồi. Nơi đây không có người ngoài, ta không ngại nói cho ngươi một bí mật, bất kể lúc đó là không tình nguyện như thế nào, nhưng, là ngươi giúp ta được thể hội khoái nhạc làm nữ nhân, cho dù cả đời này.... cũng chỉ có một lần này mà thôi."
Hai má Tiêu Xước đỏ như máu, trong mắt lộ ra một tia ôn nhu, bà ta nhẹ nhàng vuốt ra cái má đầy râu của Dương Hạo, giọng nói có chút run rẩy: "Có lúc, ta cũng khao khát được làm một nữ nhân, một nữ được người ta yêu, được người ta thương chứ không phải là một hoàng hậu cao cao tại thương, mẫu nghi thiên hạ.
Đáng tiếc, nhân sinh trên đời, đa phần là thân bất do kỷ, rất nhiều chuyện không phải là do ngươi tự mình làm chủ được, cho dù ngươi là hoàng đế thì cũng không thể. Ngươi đã phải chết thì chỉ có thể chết trong tay ta, ta không cho phép người khác tới giết ngươi...
Dương Hạo cuối cùng cũng tuyệt vọng rồi, hắn biết, trong cái sân săn bắn của quyền lực này, Tiêu Xước giống như là một nữ lang vương, bà ta chỉ có thể lộ ra bộ mặt kiên cường, lãnh khốc, đầy lý trí để đối diện với người khác, một khi bà ta xé lớp ngụy trang này ở trước mặt người khác, không hề cố kỵ lộ ra bộ mặt yếu đuối của mình, cảm giác hoàn toàn không cần phải che giấu bản thân ở trước mặt người khác nữa, người nào mới khiến bà ta hoàn toàn không cần phải đề phòng? Chỉ có người chết.
Hắn nhắm mắt lại, cười khổ nói: "Ta cho rằng, kế hoạch của mình cho dù có sơ hở, có thể ở trên đường chạy trốn bị nàng bắt được, nhưng không ngờ lại thua ngay ở đây. Ta ngàn dặm xa xôi chạy tới tái bắc, chỉ là để tìm lại ái thê, mang huynh đệ của ta về, mạo phạm bệ hạ, thực sự không phải là ý của ta, âm soa dương thác, không phải là cái sai của Dương Hạo! Đông Nhi là ái thê của ta, La Khắc Địch và Đồng Vũ, Thiết Ngưu là huynh đệ của ta, bọn họ nhờ có được sự coi trọng của bệ hạ, nhận được quân cao hậu lộc, nhưng bọn họ cũng từng vì bệ hạ mà vào sinh ra tử, lập được công lao hãn mã. Tới Khiết Đan, vốn không phải là mong muốn của họ, hiện giờ bọn họ chỉ muốn được quay về cố thổ, về với thân nhân của mình mà thôi, cũng không có ý mưu hại bệ hạ, càng đừng nói gì tới việc phản bội. Bọn họ cũng không sai.
Nếu như là nữ tử bình thường gặp tao ngộ như thế này, chắc hắn sớm đã đau đớn đến không muốn sống, mà bệ hạ sau khi hồi cung, lại có thể bình tĩnh nắm lại cơ hội lợi dụng sự kiện "thất tung" của nữ thượng quan và ba vị tướng trong cung vệ mà bố trí ra một liên hoàn kế như vậy, quét sạch thế lực tông thất có uy hiếp tới hoàng quyền, từ đó có thể thấy, hành vi của Dương Hạo, vị tất đã là nguyên nhân khiến bệ hạ phải xấu hổ đến muốn chết."
Tiêu Xước cảm thấy ở trước mặt hắn, mình đang bị bóc từng lớp từng lớp ngụy trang, giống như là lõa lồ đứng trước mặt hắn, vẻ mặt không khỏi có chút hoảng loạn, bà ta mở miệng ấp ủng nói: "Ta..."
Dương Hạo lại tiếp tục nói: "Kỳ thực đây cũng là việc bình thường, bất kể là nữ nhân nào, có được thân phận địa vị như bệ hạ, tất nhiên như ở trên chính tầng trời nhìn xuống chúng sinh, không thể giống như một thâm khuê nữ tử được nuôi dưỡng trong thâm trạch đại viện, coi trọng chuyện trinh tiết. Bệ hạ muốn giết ta, nói là bởi vì một nam nhân mạo phạm một nữ nhân, nhưng thật ra bởi vì sự chạy trốn của bọn ta làm ảnh hưởng với danh vọng và quyền lực của bệ hạ. Là một người thống trị, nàng làm vậy cũng không phải là sai..."
"..."
Dương Hạo nhìn chằm chằm vào bà ta, khóe miệng phác ra một nụ cười bình tĩnh, an tường: "Bệ hạ thân là hoàng hậu giám quốc, là một người thống trị gần như là hoàn mỹ. Bệ hạ thân là một nữ nhân, càng là nữ nhân trong nữ nhân. Tất cả những gì xảy ra vào đêm đó, ta đều nhớ hết. Bẹ hạ đã nói thẳng thắn với ta, ta sắp chết rồi nên cũng không cần phải giấu diếm. Đêm đó, Dương Hạo cũng nhớ như in, hiện giờ hồi vị vẫn cảm thấy ngây ngất!"
Mặt Tiêu Xước càng lúc càng đỏ, ngay cả tai cũng đỏ như một con tôm luộc.
Bỏ đi lớp ngụy trang, bỏ đi trách nghiệm nặng nề trên vai bà ta, bà ta chẳng qua cũng chỉ là một nữ tử trẻ tuổi hai mươi tám tuổi, bà ta có lẽ là thiên tư thông minh, sinh ra đã có tư chất làm người thống trị, nhưng nếu bà ta sinh ra trong một nhà nghèo, cưới một nam tử bình thường, vậy thì hiện tại cùng lắm cũng chỉ là một thê tử có chút thông minh, có năng lực, có chút lợi hại mà thôi.
Nhưng bà ta không phải, bà ta sinh ra trong Tiêu gia đời đời làm hoàng hậu Khiết Đan. Khi bà ta vào hoàng cung, làm hoàng hậu Khiết Đan, sự lãnh khốc, duệ trí, năng lực sát phạt quyết đoán mà một người thống trị nên có đang tiềm tàng trên người bà ta giống như là một hạt mầm được chôn vào thổ nhưỡng thích hợp, có được sự tưới tắm của mưa móc, sẽ nhanh chóng phát triển. Bà ta cả ngày chôn mình trong đống tấu chương công văn chất cao như núi, đã dần dần sắp quên mất mình là một nữ nhân rồi.
Mà lúc, bà ta lại khôi phục bản tính của mình, đối với tên nam nhân đã dùng thủ đoạn thô bạo để chiếm hữu bà ta, bà ta lại có một loại tình cảm phức tạp khó nói thành lời.
Hiện giờ hắn sắp phải chết rồi, bà ta cũng không ngại cho hắn được làm càn một lần trước lúc lâm tử. Vào lúc này, bà ta không còn là một nữ hoàng máu lạnh, chỉ hô một cái là cả trăm cả ngàn cái đầu phải rơi xuống đất mà mắt không chớp lấy một cái nữa rồi, bà ta chỉ là một nữ nhân, một nữ nhân có đủ thất tình lục dục.
Dương Hạo chậm rãi nhắm mắt lại, nói khẽ: "Nghe Đông Nhi nói, bệ hạ thành thạo cung mã, thân thủ cực cao, phiền nàng xuất đao nhanh một chút, ta khi theo Trình đại tướng quân học đao, từng nghe ông ấy nói, từ vị trí xương sườn thứ hai ở bên trái mà đâm vào một đao, có thể đâm trúng tâm tạng, lập tức toi mạng, chết mà không đau khổ một chút nào..."
Hai mắt Tiêu Xước dần dần phủ lên một lớp sương, nhưng mắt lại sáng như bảo tháp, lấp lánh hàn quang.
Giọng nói của bà ta biến thành rất khẽ, rất ôn nhu: "Ngươi yên tâm, ta xuất đao sẽ rất nhanh."
Đao được giơ lên cao, bàn tay nắm chặt chuôi đao, gân xanh trên mu bàn tay đều phồng lên, nhưng lại nắm rất vững, không run rẩy một chút nào.
"Nhân sinh một đời, cây cỏ một thu, đời này của ta tuy rằng ngắn ngủi, nhưng sống rất đặc sắc, thế là đủ rồi. Tiêu nương nương, ta và Đông Nhi ở dưới Hoàng Tuyền đợi nàng, có lẽ khi chúng ta gặp nhau, nàng vẫn sẽ dung nhan như hoa, vô cùng diễm lệ, tới lúc đó, chúng ta chắc có thể vứt bỏ thân phận giữa hai bên, gạt đi sự ngăn cách về địa vị, quên đi ân oán hôm nay, nâng cốc nói cười, mặc sức mà say!"
Tiêu Xước thở khẽ một hơi: "Sao chuyện gì ngươi cũng đều nghĩ tới mặt tốt đẹp nhất vậy? Khi chúng ta gặp lại dưới Hoàng Tuyền, rất có thể... trẫm đã là một bà già tóc bạc da mồi, đi đường mà run rẩy như tàn trúc trước gió, lúc đó e rằng ngươi căn bản là không nhận ra ta, cũng không muốn nhận ra ta nữa rồi."
"Có lẽ vậy, vốn là đối với cách nói của nàng ta tuyệt sẽ không hoài nghi, nhưng hiện tại xem ra... lại chưa chắc. Ngày mà chúng ta gặp lại dưới Hoàng Tuyền, có lẽ rất nhanh sẽ tới thôi, rất... rất nhanh..."
Giọng nói của Dương Hạo càng lúc càng thấp, tới sau cùng thì tựa hồ như lẩm bẩm, Tiêu Xước gần như là nghe không rõ: "Triệu Quang Nghĩa dẫn binh xuống Giang Nam, Hàn Đức Nhượng một mạng về tây, hoàng đế Khiết Đan bị ám sát rồi bệnh tình nguy kịch, Tiêu hoàng hậu khống chế quốc gia có vũ lực mạnh nhất trước thời hạn, thay đổi rồi... rất nhiều thứ đã thay đổi rồi."
Một trận mưa lớn bức phản Trần Thắng, dẫn tới sự sụp đổ của đế quốc Tần. Một tờ báo quyết định ngòi nổ (ví với sự kiện dẫn tới bùng nổ sự kiện) của Hồng quân... Một Dương Hạo... tuy giống như là một ngôi sao băng chỉ lóe lên rồi chợt tắc, vội vàng tới rồi rời khỏi thế gian này, nhưng lại mang tới rất nhiều thay đổi cho thế giới này.
Sự thay đổi này có bao lớn thì ta không biết, hướng đi tương lai của thế giới này ta cũng không biết, càng không biết cái đó đối với thế nhân sau này là họa hay là phúc, ta chỉ biết, ta ở tiền thế là một cái kén, ta ở đời này là một con bướm, tuy ngắn ngủi, nhưng lại rực rỡ vô hạn, cuộc đời này... ta sống không uổng. Hu hu, Diễm Diễm, Diệu Diệu, xin lỗi..."
Tiêu Xước cố gắng lắng nghe, nhưng vẫn không nghe rõ được là hắn nói gì, bèn lạnh lùng nói: "Có gì mà chưa chắc? Hiện giờ, trẫm nắm đại quyền, triều đình trên dưới cũng không còn lực lượng nào có thể kháng cự lại trẫm nữa rồi. Trẫm đang tuổi thanh xuân, làm sao mà chết được? Ai có thể giết được trẫm?"
Dương Hạo không thèm nhìn vào thanh đoản đao sắc nhọn đang dí lên ngực, mỉm cười nói: "Trên đại thảo nguyên không bờ không bến, sư tử, báo, thổ lang, linh dương, hươu vàng... đủ các loại động vật đều sinh sống ở đó, khi trên thảo nguyên có một trận hạn hán lớn, ao hồ sẽ biến mất dần dần, sông ngòi sẽ đoạn tuyệt, chỉ còn mấy cái hồ nước lớn nhất, sâu nhất trở thành cơ hội sinh tồn cuối cùng cho dã thú, nàng nói xem, động vật nào sẽ là con sống sót cuối cùng?"
Tiêu Xước cho dù là ý chí cứng rắn như thép, nhưng chung quy vẫn chỉ là một nữ tử trẻ tuổi, khó tránh khỏi hiếu kỳ ở trong lòng, không nhịn được liền đáp: "Cái đó còn cần phải suy nghĩ à, đồng vật cuối cùng có thể sống sót đương nhiên là hùng sư rồi."
"Sai rồi, là linh dương và hươu vàng."
"Sao lại vậy?"
"Sao mà không thể? Nguồn nước càng lúc càng ít, để tranh đoạn nước, dã thủ cường tráng nhất sẽ phải ngày đêm trông chừng ở cạnh nước, động vật nhỏ yếu tới gần nguồn nước là sẽ bị chúng ăn thịt, thế là động vật nhỏ yếu chỉ có thể bỏ qua cái hồ đang dần dần cạn kiệt này, chạy tới một nơi xa xôi hơn để tìm nguồn ngước.
Trên đường, bọn chúng không ngừng đói khát mà chết, không ngừng ở bên cạnh ao hồ bị đám dã thú cường đại đã đợi ở đó từ lâu ăn thịt, nhưng tộc quần của bọn chúng, luôn có một số có thể chạy ra được, sau cùng tìm thấy một đường sống. Song những con dã thú cường đại thủ ở các ao hồ trên thảo nguyên, khi những ao hồ mà bọn chúng đang canh chừng khô đi dần, thực vật mà chúng đợi không tới nữa, lúc bọn chúng muốn rời khỏi mảnh đất tử vong này thì đã muộn rồi, bọn chúng trên đường đi không thể nào tìm được một giọt nước nào nữa, không tìm được thực vật, bọn chúng chỉ có thể chết hết toàn bộ trên đường chạy trốn.
Khiết Đan hiện giờ, chính là thảo nguyên bị đại hạn đó, còn nương nương, chính là con sư tử thủ hộ nguồn nước, tất cả mọi người đều run rẩy ở dưới chân nàng, nhưng căn nguyên của họa hoạn lại chưa bị diệt trừ, khô hạn một ngày không giải, nguy cơ thủy chung vẫn tồn tại. Sau cùng, kết cục của nương nương sẽ giống như là con sư tử đó thôi. Có lẽ, trận mưa sẽ tới sau khi giọt nước cuối cùng đã cạn? Ha ha, cái mà Dương mỗ nói chỉ là một loại khả năng thôi...”
Nguy cơ đại hạn mà Dương Hạo lấy ra làm ví dụ, chính là chỉ Khánh vương đã chạy về hướng tây bắc, hắn đã ôm lòng chết chắc, tâm tình bình tĩnh lại một chút, linh đài trái lại trở nên thư thái, hắn đột nhiên nhớ tới, thân phận bí mật đó của mình, có lẽ sẽ trở thành cách tối hậu để hắn thoát chết, nếu có thể đạt thành liên minh chính trị với Tiêu Xước, vậy thì có thể cứu được tính mệnh của mình và Đông Nhi cùng với bọn La Khắc Địch, mặc dù là lợi thế vẫn ngại là hơi nhỏ.
Nhưng, hắn đột nhiên nghĩ tới, Tiêu Xước liệu có nhất định sẽ lựa chọn hắn hay không? Liệu có tin rằng cỗ lực lượng mà hắn đang nắm có đủ cường đại hay không? Nếu bà ta lựa chọn hợp tức với Hạ châu Lý thị thì sao? Mình thân rơi vào ngục thì đã đành, nhưng những người ở Lô châu cũng phải vì mình mà rơi vào nơi vạn kiếp bất phục.
Nghĩ tới đây, Dương Hạo không khỏi do dự, không chú ý thấy Tiêu Xước sau khi nghe những lời nói này của hắn, không biết đã dấy lên tâm sự gì. Thanh đao mà Tiêu Xước đang giơ ca dần dần hạ xuống, bản thân bà ta cũng rơi vào trầm tư. Trong lao phòng trở nên yên tĩnh, Tiêu Xước ánh mắt chớp động, không biết đang nghĩ cái gì, tình thái của tiểu nhi nữ vừa rồi đã ngẫu nhiên lộ ra dần dần bị tiêu diệt, vẻ mặt của bà ta đang từ từ khôi phục, lại giống như là trên mặt có một chiếc mặt nạ thần kỳ, vừa rồi ngẫu nhiên tan ra, lúc này đang đọng lại, che đi dung nhan của bà ta.
Vẻ xấu hổ và ôn nhu vừa rồi ngẫu nhiên hiện lên trên mặt bà ta đang bị vẻ lãnh tĩnh, ưu nhã, cao quý mà kiên định thay thế, khi mắt bà ta khôi phục lại vẻ lãnh mạc và tinh minh, Tiêu Xước đã trở lại là Tiêu hoàng hậu.
Bà ta đút đao vào vỏ, từ từ đứng dậy, cao cao tại thượng, nghi thái vạn thiên, thoáng chốc đã quay lại trên chín tầng trời.
Dương Hạo kinh ngạc nhìn bà ta, Tiêu Xước giơ tay lên, thả khăn che mặt xuống, nói: "Cố sự rất hay, trẫm sẽ ngẫm nghĩ thật kỹ."
"Ừm, tốt."
"Cám ơn đã nhắc nhở, trẫm thay đổi chủ ý rồi."
Dương Hạo cả người run bắn lên, vui mừng nói: "Nương nương muốn tha cho ta ư?"
"Nghĩ thử xem có thể hay không?"
Tiêu Xước cười lạnh một cái, bước về phía cửa, lạnh lùng nói: "Trẫm cảm thấy cố sự mà ngươi nói rất thú vị, trẫm rất muốn nghe ngươi kể cố sự nữa, khi cố sự của ngươi được kể hết rồi, tính mạng của ngươi cũng kết thúc theo."
Cửa lao được đóng lại, tiếng bước chân xa dần, Dương Hạo nhìn chằm chằm nên nóc phòng, mặt mày ngu ngơ không hiểu gì: "Còn muốn nghe ta kể cố sự... ngàn lẻ một đêm ư? Vị hoàng hậu Khiết Đan này là bạo quân Harry thích nghe cố sự đầu thai chuyển thế à? Vậy thì ta tính là ai? Sách ta rất ít khi đọc, thế giới động vật cũng không hay xem, ta một ngày chỉ có một bữa cơm... sức đâu mà kể?"
Dương Hạo ngày mai phải kể cố sự gì? Tiêu Xước là muốn nghe kiểu cố sự gì?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top