394-416

Chương 394:Công việc cuối cùng 

Trong điện Văn Đức, Triệu Khuông Dận đang mở kinh diên, cùng Lô Đa Tốn và mấy vị học sĩ đang thảo luận về học vấn, chủ đề hôm nay là “lễ”, mấy vị học sĩ dẫn ra cả những kinh điển quân lễ, phụ lễ, phu lễ, thậm chí cả những nội dung về quân vi thần cương, mọi người đều rất say sưa thảo luận.

Mà Lô Đa Tốn lúc này đang kiêm cả chức sai sứ của nội sử quan, nên sớm đã biết đến những sách Triệu Khuông Dận mấy hôm nay hay đọc, lại thấy thấy buổi kinh diên hôm nay quan gia còn đem theo cả công chúa Vĩnh Khánh đến nghe, hắn đối với ý đồ Triệu Khuông Dận cũng đã có biết chút xíu, bởi thế hắn đã cố ý tỏ ra nói chuyện có chút tùy tiện, cứ thuận mồm mà tuôn ra một tràng nào là phu vi thê cương, phu xướng phụ tuỳ, vợ chồng tương kính như tân, ăn ở hoà thận, mọi việc đều lấy luân thường đạo lý làm trọng, thật đúng là hợp ý Triệu Khuông Dận.

Triệu Khuông Dận nghe mà liên tiếp gật đầu. Thỉnh thoảng còn ngắt giữa chừng hỏi chêm vào một hai câu, một quân một thần đối đáp với nhau thật ăn ý, lúc ấy phía ngoài cửa địên có tiếng người nói to: “Thưa trung quan, bổn quan có việc quan trọng cần gặp Hoàng thượng, buổi kinh diên chẳng phải đã hết rồi sao?”

Triệu Khuông Dận mờ hồ nghe được tiếng nói, quay đầu nhìn đồng hồ cát ở bên cạnh, không khỏi bật cười nói: “Trẫm với các ái khanh nói chuyện hợp ý quá, quên mất cả thời gian, ha ha, được rồi, buổi kinh diên ngày hôm nay tạm thời thế đã, chư vị ái khanh, xin mời lui ra.”

“Vâng, chúng thần cáo lui.” Đám người Lô Đa Tốn vội vàng rời ghế ra thi lễ với Triệu Khuông Dận, rồi từng người một lui ra.

Triệu Khuông Dận ngồi thẳng người, ho khan một tiếng: “Ai đang ồn ào ngoài điện thế?”

Nội thị hiểu ý liền phất cây phất trần, vội vàng chạy ra phía ngoài điện, lúc sau thấy với sắc mặt kì quái trở về, hổn hển nói: “Bẩm quan gia, thái tử Doãn Trung Trương Bạc đang chờ yết kiến ở ngoài.”

“Hả?” Triệu Khuông Dận hoài nghi hỏi: “Hắn ta đến làm gì? Truyền hắn vào đi.”

Triệu Khuông Dận mỉm cười nói: “Con gái à, đạo lý mà Lô tướng cùng mấy vị học sĩ nói, con có để tâm nghe không?”

Triệu Khuông Dận nói xong không thấy Vĩnh Khánh trả lời, quay đầu lại nhìn, công chúa Vĩnh Khánh vẫn ngồi một mình trên ghế, tay nâng lấy cằm. Triệu Khuông Dận tò mò xem xét khuôn mặt mà nàng đã lấy tay che, chỉ nhìn thấy Vĩnh Khánh đang nhắm mắt, nghiêng nghiêng khoé miệng, hơi thở đều đều, đang vô cùng sâu giấc.

Triệu Khuông Dận thấy vậy vừa bực mình vừa buồn cười, rồi vỗ vỗ: “Tỉnh giấc được rồi đấy.”

“Gì thế?” công chúa Vĩnh Khánh giụi mắt tỉnh giấc, vui vẻ nói: “Giảng xong rồi ạ?”

Triệu Khuông Dận tức giận nói: “Ta hôm nay nghe “lễ” không phải vì con hay sao? Năm ngoái xuất binh đến Mân Hán, Giang Nam, liên tiếp là chiến sự, ngay cả hôn sự của con cũng bị hoãn lại, nay cũng nên bắt đầu giúp con rồi. Đợi hoàng huynh của con chiến thắng trở về, ta sẽ giúp con lo chuyện hôn sự, sau này con sẽ được gã làm vợ người ta, phụng dưỡng cha mẹ chồng, phu quân là người nhà tể tướng, tri thư đạt lễ, nha đầu con đường đường là công chúa của một nước, không lo mà học lễ, rồi đến nhà người ta lại bị chê cười, ai ngờ con...”

Công chúa Vĩnh Khánh ngáp nói: “Dạ, phụ thân yên tâm, con gái nhất định sẽ học lễ thật tốt.”

Triệu Khuông Dận bực mình nói: “Ngủ còn học cái gì?”

Vĩnh Khánh làm vẻ cây ngay không sợ chết đứng nói: “Xuân khó khăn Thu thiếu thốn, mấy vị học sĩ toàn là chi, hồ, giả, dã, chi a chi a, làm con ngủ thiếp đi mất.”

“Hừ, thế còn mùa hè?”

“Mùa hè chói chang, trong lúc ăn dưa lạnh, ngủ ghế mát, nằm trong phòng thông gió, gió thổi vi vu, rồi đang ngủ ngon thì phụ thân lại đánh con.”

Triệu Khuông Dận giận dữ nói: “Con ngủ vậy thì bao giờ mới học được lễ, không học lễ không biết lễ. Không biết lễ nghĩa là vô lễ, kẻ vô lễ.”

“Quan gia, tân nhậm chức đại hồng lư Dương Hạo thật là vô lễ!”

“Quan gia, tân nhiệm chức đại hồng lư Dương Hạo thật là vô lễ!”

Triệu Khuông Dận quay đầu lại nhìn. Bất giác giật mình, chỉ thấy thái tử Doãn Trung Trương Bạc đang mặc bộ triệu phục nhăn nhó, đầu đội chiếc mũ quan chỉ còn một bên có long, trên mặt có một vết xanh, lại còn có vết máu khô dưới mũi nữa, một tay cứ nâng, như thể nâng một cái chén vô hình.

Công chúa Vĩnh Khánh cười lên một tiếng, vội vàng che miệng lại.

Trương Bạc bước lên phía trước, thi lễ với vẻ mặt cầu xin, giọng khàn khàn nói: “Quan gia, tân nhậm chức Đại hồng lư Dương Hạo thật là vô lễ!”

“Sao cơ ? Hắn ta làm sao?”

“Thưa quan gia, tân nhậm chức đại hồng lư tự Dương Dạo là kẻ vô lễ!”

“Được rồi, được rồi. Trẫm biết hắn ta vô lễ, hắn, vô lễ thế nào?”

Trương Bạc lại vẻ mặt đau khổ nói: “Đây không phải là thần nói.”

“Vậy thì ai nói?”

“Thưa quan gia, tân nhậm chức Đại hồng lư Dương Hạo thật là vô lễ!”

Triệu Khuông Dận ngẩng đầu lên, mới phát hiện con vẹt đang đứng trên tấm rèm nói nhại lại, không khỏi tức giận phất tay áo một cái nói: “Không cần để ý nó, ngươi nói, hắn vô lễ như thế nào?”

Trương Bạc nuốt nước bọt nói: “Hoàng thượng, vi mệnh hầu vay của thần năm trăm quan tiền, đã nói rõ là mùng sáu tháng này trả ba phần lãi, trả cả vốn lẫn lãi. Nhưng vi mệnh hầu nợ không trả, thần hạ triều liền đến phủ hắn đòi nợ, vi mệnh hầu cầm một cái chậu vàng ra trả thần. Kết quả là đại hồng lư đi qua đấy, cũng không biết vì sao, mang cái chân thọt xuống xe, cầm cái chậu đánh thần một trận.”

Công chúa Vĩnh Hằng cười một tiếng rồi vội vàng che kín miệng lại.

Con vẹt trên tấm rèm hình như mới tỉnh ngủ, nó nghoe nguẩy cái đuôi, nói nhại: “Mang cái chân thọt xuống xe, cầm cái chậu đánh thần một trận.” “Mang cái chân thọt xuống xe, cầm cái chậu đánh thần một trận.”

Triệu Khuông Dận quay người trừng mắt một cái, giận dữ nói: “Vĩnh Khánh, mang con chim ầm ĩ của con ra ngoài đi!”

Vĩnh Khánh công chúa cười không ngừng, vội vàng “Suỵt suỵt” mấy tiếng, con chim đó nhận được tín hiệu của chủ nhân, liền bay ra ngoài đại điện. Chọn xong một cành cây để đứng, quay đầu lại nói: “Mang cái chân thọt xuống xe, cầm cái chậu đánh thần một trận.”

Ở trong địên, Triệu Khuông Dận hỏi Trương Bạc rõ ràng mọi chuyện, vô cùng giẫn dữ, đập bàn nói: “Giết người đền mạng, nợ thì phải trả, đây là chuyện xưa nay của trời đất, huống hồ, cho dù ngươi có sai, việc này cũng không liên quan đến hắn đâu? Đường đường là mệnh quan triệu đình, lại đánh nhau giữa đường giữa chợ, mất hết thể diện của quan, thật là không biết điều!”

Trương Bạc đau khổ nói: “Thần không có đánh nhau với Dương Hạo đại nhân, là Dương Hạo đại nhân đánh thần, thần không hề ra tay. Quan gia, người nhìn xem, đây là răng của thần.” Vừa nói hắn giơ bàn tay đang nắm ra.

Triệu Khuông Dận lại càng thêm giận dữ: “Cái tên Dương Hạo này, thật là không coi vương pháp ra gì, phải nghiêm trị, phải nghiêm trị.”

Trương Bạc rơi lệ nói: “Xin quan gia làm chủ cho thần.”

Triệu Khuông Dận nói: “Đó là chuyện đương nhiên, trẫm nhất định sẽ nghiêm trị, trả lại công bằng cho Trương khanh, Trương khanh cứ yên tâm.” Triệu Khuông Dận vừa giận dữ dứt lời, rồi quay sang giọng ôn hoà nói với Trương Bạc: “Trương ái khanh biết đến đại thể, không có chấp vặt cái kẻ thô lỗ đó, rất tốt, rất tốt, đúng là người có học, ôi, kẻ vô lễ thật không thể so với khanh được. Trương ái khanh, với bộ dạng hôm nay, khanh cứ về phủ trước đi đã, trẫm đã biết chuyện này, sẽ không dung cho hắn. Còn khanh, mấy ngày này không cần phải lên triều nữa, đợi vết thương chữa lành rồi nói tiếp.”

Trương Bạc vội vàng cảm tạ hoàng ân. Khẳng khái từ chối nói: “Thần ăn bổng lộc của triều đình, vì quan gia trung thành, vết thương nhỏ này, cả chiếc răng này, thần sẽ không vì chuyện này mà làm lỡ chuyện công.”

Câu nói này thật nghĩa chính từ nghiêm, đáng tiếc là mất hai cái răng cửa, nói là bị hở ra, hiểu quả không khỏi bị suy giảm lớn.

Triệu Khuông Dận ngậm cười nói: “Ái khanh trung thành với nước, trẫm vô cùng thấu hiểu. Ái khanh nên sớm về phủ nghỉ ngơi, chuyện này trẫm sẽ lấy lại công bằng cho khanh.”

Trương Bạc thi lễ cáo lui.

Triệu Khuông Dận không nhịn được lắc đầu cười mắng: “Cái tên Dương Hạo này đúng là cũng có chút bộ dạng năm nào lúc trẫm mới vào giang hồ, giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha. Nhưng...thân là mệnh quan triều đình lại có thói quen của một thân giang hồ, như thế thì không được. Có điều phẩm chất của hắn thì vô cùng tốt, đáng tiếc…đã thành tàn phế.”

Triệu Khuông Dận lại thêm một câu từ đáy lòng mình: “Đáng tiếc hắn xuất thân bất chính, lại là người bên phía nam nha, nếu không trung lương như vậy thật có thể trờ thành người dùng được của trẫm.”

Vĩnh Khánh công chúa ngồi thẳng mình nói: “Cái tên Dương Hạo đó, món cá ngọt hắn biếu đúng là rất ngon, phẩm tính người này thật không tồi, ôi, một con người tốt biết mấy, sao lại tàn phế được? Nhưng mà phụ thân, cái tên Trương Bạc này thật làm người ta khinh bỉ, Lý Dục dù sao cũng là chủ cũ của hắn, từng là quân thượng của hắn. Nay hắn đến đòi nợ, làm cho Lý Dục phải mang chậu ra trả nợ, thật là quá bức người, làm cho người ta phải rùng mình.”

Triệu Khuông Dận mỉm cười nói: “Thứ người này phẩm tính đúng là cho người ta khinh bỉ, nhưng tài hoa của hắn cũng không phải hạng thường. Người cốt ở tài, vật cốt ở dụng, làm đế vương phải có lòng dạ biết dung nạp mới phải. Cái tên Dương Hạo này, trẫm phải dạy hắn một chút mới được.”

Vĩnh Khánh công chúa nói: “Phụ thân, Dương Hạo hành hung Trương Bạc, cũng chỉ vì hắn là kẻ trơ trẽn, nếu phụ thân nghiêm trị hắn, sợ rằng làm mất lòng những người trung lương trong thiên hạ.”

Triệu Khuông Dận cười nói: “Khánh vương Khiết Đan mưu phản, nếu phụ thân liên thủ với hắn thì đúng là chuyện có lợi lớn cho nước Tống chúng ta. Nhưng vì hắn là kẻ loại loạn thần tặc tử, phụ thân thật không thể hoà hảo với hắn. Nay Dương Hạo đã thế, phụ thân sao có quá hà khắc đây?”

“Vậy phụ thân định xử lý thế nào?”

“ừm, ta sẽ phạt hắn ba tháng, à không, nữa năm bổng lộc.”

“Nửa năm? Nhiều quá không?”

“Với người khác mà nói, đương nhiên là nhiều, nhưng đối với Dương Hạo, chỉ là mất một sợi lông trâu thôi. Hắn còn chỗ tiền của Thiên Kim Nhất Tiều lầu mà.”

Triệu Khuông Dận hừ lạnh một tiếng, rồi nói: “Tiền vương lại sắp vào kinh cống nạp rồi, trẫm để hắn chủ trì tiếp đại sự này. Vậy thì để hồng lư tự khanh nghỉ thôi.Tuổi tác như thế, thì cho làm cửu khanh, trẫm cũng không để hắn chịu thiệt chứ. Được rồi, được rồi, chuyện của triều đình, con không phải lo, hài, mang cái này về đi, ta cho ba ngày để học thuộc đấy.”

Vĩnh Khánh nhận về rồi hỏi: “Cái gì thế ạ?”

Nàng mở ra nhìn, không khỏi thảm thiết nói “<Nữ giới>? Phụ thân, có đến hơn một nghìn chữ đấy!”

Triệu Khuông Dận ngẩng mặt nói: “Hơn một nghìn chữ mà nhiều sao? <Nữ tắc> có hơn ba nghìn chữ, hoàng hậu chỉ mất có nửa tháng đã đọc thuộc trôi chảy rồi.”

Với ngữ khí vừa chậm, lại vừa nói bằng tâm mình: “ Vĩnh Khánh à, con sắp phải gả chồng rồi, vậy mà vẫn hay nghịch không biết lễ nghĩa. Thế làm sao được chứ? Dù con có là công chúa, nhưng một khi đã là vợ người ta, thì cũng phải phụng dưỡng cha mẹ chồng, là một người vợ hiền mẹ tốt mới đúng. Quyển <Nữ giới> này, con không phải chỉ là học thuộc mà còn phải học cẩn thận, thành tâm khắc ghi trong lòng mới được. Cầm đi, cố gắng mà học tốt!”

Triệu đình mở quốc yến long trọng, trước giờ chưa từng long trọng quy cách như thế để đón Ngô Việt Tiền vương.

Ngô Việt Tiền vương vào kinh lần này cũng với quy mô chưa từng có, hơn hai mươi chiến thuyền lớn giả mà cống phẩm các màu, trong đó có ít nhất ba mươi vạn lượng vàng, hai mươi vạn tấm lụa, năm vạn cân nhũ hương, năm nghìn kiện vàng bạc đá quý khác, hơn nghìn bình rượu quý.

Xem ra Ngô Việt Tiền Thúc thực lòng muốn quy về Đại Tống rồi, hắn mang cả phu nhân Tôn Thị, con trai cả Tiền Duy Đạm đi theo, rõ ràng là chỉ cần Triệu Khuông Dận chiếu thư một cái là ở lại Khai Phong, đem cả nước Ngô Việt mà chắp tay dâng lên.

Quần thần đều biết lần đưa quân hướng bắc lần này của hoàng trưởng tử Đức Chiêu, tất nhiên là thành công trở về, Trần Hồng Tiến của Mẫn Nam ở Nam Hán sau khi nằm trong sự bao vây hai mặt của quân Tống thì cũng đã ngoan ngoãn quy phục, đưa mắt là thấy cả Trung Nguyên. Chỉ còn lại Ngô Việt là một quốc gia có chính quyền hoàn chỉnh, bởi thế nên liên tiếp dâng mật trát, xin quan gia hạ chỉ lưu lại tiền căn, thống nhất thiên hạ.

Nhưng Triệu Khuông Dận không biết nên suy nghĩ thế nào về các tấu chương. Đối với chuyện từ chối hay không đành để Dương Hạo chủ trì buổi yến tiệc long trọng để tiếp đón Tiền Thúc.

Dương Hạo bị cắt bổng lộc nửa năm, bổng lộc của triều đình mặc dù nhiều, nhưng đối với hắn đương nhiên hình phạt này chẳng đáng là. Những ngày này, hắn dần dần chuyển việc làm ăn của Nhất Tiếu Lâu sang tay Trương Ngưu Nhi và Lão Hắc. Để Đông Nhi và Ngọc Lạc làm tốt công việc chuẩn bị di cư.

Trong thời gian này, La Khắc Địch có thời gian rỗi lại đến tìm Ngọc Lạc. Lúc này phải cố tình xa lánh, bất hoà nhưng tìm cái cớ đối với Ngọc Lạc thì thật là làm khó nàng, may mà La Khắc Địch đang là Quân Đô Chỉ Huy Sứ, phụ trách sự an nguy của cả hoàng thành, việc công rất nhiều, thời gian có thể đến chơi cũng không nhiều, thế mới giúp nàng khỏi miễn cưỡng nói dối.

Ngưu Thiên Vệ Thương Tướng Lý Trọng Ngụ bị giới hạn trong hậu phủ, quả nhiên nhờ đến cửa Dương Hạo, Dương Hạo khẳng khái giúp đỡ. Nhận được sự trợ giúp như vậy, đối với Lý Trọng Ngụ đang rơi vào cảnh khốn khó mà nói, thật là hoạn nạn mới thất chân tình, bởi thế giao tình với Dương Hạo ngày càng sâu hơn.

Dương Hạo cũng chẳng giúp không hắn, hắn dù chưa đòi Lý Dục một đồng lãi, số tiền cho vay cũng không thúc giục trả lại, nhưng lại hay mời vợ chồng họ đến “Nữ nhi quốc” du lãm, mua sắm, dù cho Lý Dục bây giờ đã là phụng hoàng gãy cánh nhưng hổ gầy vẫn hơn mèo béo, danh khí của hắn vẫn vậy.

Lại thêm tiểu Chu hậu tươi đẹp như hoa, từng là đệ nhất mỹ nhân Giang Nam. Lúc nàng còn ở Giang Nam, liền là người đi đầu cho trào lưu trang sức Giang Nam, nhưng phàm là phục sức với châu ngọc mà tiểu Chu hậu thích thì chả mấy chốc thịnh hành khắp cả Giang Nam, đến Khai Phong, hiệu ứng thần tượng này vẫn không hề giảm, Dương Hạo đưa phu thê họ du thưởng “Nữ nhi quốc” lại tặng họ thêm một chút lễ quý, khiến những người giàu có ở Khai Phong, đều đến “Nữ nhi quốc” chọn mua những phục trang, trang sức giống Giang Nam quốc chủ Lý Dục, Giang Nam đệ nhất mỹ nhân tiểu Chu hậu.

Cứ thế thu nhập của “Nữ nhi quốc” tăng lên gấp bội, lợi nhuận đã cao hơn rất nhiều so với những thứ Dương Hạo tặng Lý Dục.

Vài ngày đầu từ khi Dương Hạo về Khai Phong, cái tin chết đi sống lại cũng dần dần tĩnh lại, tiếp đáp thù lao , yến tiệc tiếp đáp cũng đã tan, liền mời mấy vị “danh y” đến trị thương, cầm được kết quả chứng nhận vết thương khó mà khỏi hẳn đến gặp quan gia, lại lần nữa xin cáo quan, nay đã được Triệu Khuông Dận trả lời trước mặt : Sau khi Ngô Việt Tiền vương Tiền Thúc về sẽ cho hắn từ chức đại hồng lư.

Dương Hạo mừng rõ. Lúc này mới tĩnh tâm lại, chuẩn bị tiếp đón Ngô Việt Tiền vương.

Quốc yến hôm nay vô cùng long trọng, có mặt hầu hết mọi nhân vật quan trọng, khắp sảnh chén tạc chén thù, chủ khách đều vui vẻ. Triệu Khuông Dận uống mấy chén mà mặt mày đã đỏ cả lên, cười ha ha nói: “Chư vị khanh gia, chư vị khanh gia, Trâm hôm nay đựoc tiếp đón Việt vương, vô cùng vui mừng, Tiền vương đối với trẫm nhất mực tôn kính, trẫm đối với Việt vương há lại thiếu lễ đựơc? Trẫm hôm nay đặc biệt ban thưởng Tiền vương hai ân huệ.”

Tiền Thúc nghe vậy, liền vội vàng rời ghế ra nghe chỉ, Triệu Khuông Dận dựng thẳng một ngón tay, nói: “Một: từ nay về sau, Tiền vương lâm triều, có thể mang kiếm vào điện, chiếu thư không danh.”

Tiền nghe xong vội vàng khom lưng thấp xuống nữa, sợ hãi nói: “Thần không dám, thần tạ ơn bệ hạ.”

Triệu Khuông Dận lại nói: “Lấy triều đình điển chế, sắc phong Tiền vương phu nhân Tôn Thi làm Vương Phi, trưởng tử của Tiền vương Duy Tuấn làm thế tử, Tiền vương chư nữ làm quận chúa.”

Tiền bản lặng người, cúi người nói: “Long ân của bệ hạ, trong lịch sử chưa từng có tiền lệ, thần không dám nhận.”

Lô Đa Tốn, Lữ Kháp Khánh và Tiết Cư Chánh ba người cúi đầu vào nhau thì thầm chuyện gì đó, nói tiền triều có thảo một trường hợp đặc biệt như thế. Xương Du Khánh liền đứng dậy nói: “Bệ hạ. Chúng thần đều biết trong luật lệ, sắc phong chư hậu vương thê họ khác làm phi, chưa từng có trong điển cố, tựa hồ có chút không ổn, điển chế triều đình không thể dễ dàng thay đổi được, xin bệ hạ thu lại thánh mệnh.”

Triệu Khuông Dận không cho là đúng, mỉm cười nói: “Ân từ trẫm ra, có gì không thể?”

Triệu Quang Nghĩa cười nhạt nói: “Các vị tướng công không nên nói nữa, quan gia là chủ của thiên hạ, lời của quan gia, chúng ta dĩ nhiên phải tuân theo.”

Triệu Khuông Dận vui mừng, cười nói: “Lời của Tấn vương thật có lý, cứ y theo khâm phong. Quang Nghĩa, đến gần đây, khanh cùng Tiền vương hãy chào lễ với nhau như huynh đệ nào.”

Tiền quyền vô cùng sợ hãi, vội vàng xua tay đáp: “Thần không dám, thần không dám.”

Nhưng Triệu Quang Nghĩa lại vui vẻ bước lên, mỉm cười thi lễ nói: “Quang Nghĩa ra mắt vương huynh.”

Tiền vương cảm kích xúc động, nắm tay Triệu Quang Nghĩa, nước mắt ròng ròng.

Dương Hạo cầm chén thờ ơ lạnh nhạt quan sát, nhưng không tin kẻ trước giờ luôn cho rằng dưới quan gia chỉ mình hắn độc tôn Triệu Quang Nghĩa lại vui vẻ tiếp nhận lão già Tiền sơ này làm huynh đệ.

Lúc đầu, trong hai huynh đệ họ Triệu, hắn thích cái phẩm tính làm người của Triệu đại, cho nên hắn rất khinh bỉ Triệu nhị. Vì thế rõ ràng xuất thân từ nam nha, dựa vào Triệu nhị mới là có tiền đồ, nhưng hắn với Triệu như như gần như xa, bỏ qua không biết bao nhiêu cơ hội, mãi vẫn không trở thành tâm phúc của hắn.

Nhưng nay lại không giống nữa rồi, hắn chấp nhận Bích Túc, phải tạo ra cơ hội, đem cái huyết án Giang Châu do bàn tay này tạo ra, hại hết Nguyên Hung của thuỷ nguyệt giao vào tay hắn, lúc nhìn Triệu Quang Nghĩa, hiển nhiên thấy được mấy phần.

Tiền Thúc rưng rưng nước mắt nhìn Triệu Khuông Dận, run giọng nói: “Lễ ngộ mà bệ hạ đối với thần, thần thật không biết nên báo đáp thế nào. Mùa thu năm nay, thần…thần sẽ trở lại yết kiến bệ hạ.”

Triệu Khuông Dận cười nói: “Đường xa không tiện, có chiếu cứ đến, không cần tấn kiến quá đặc biệt.”

Đám người La Đô Tốn và Lữ Từ Khánh lén lút đưa mắt nhìn nhau, mật trát của bách quan Hoàng thượng đã thông qua rồi, chẳng lẽ “Hoàng thượng vẫn muốn cho Tiền Thúc về? Rõ ràng có thể có lãnh thổ một quốc gia dễ như trở bàn tay, quan gia rốt cuộc có chủ ý gì?”

Tiệc rượu đã tàn, Triệu Khuông Dận đích thân tiễn Tiền Thúc xuất cung, lại còn lệnh cho Tấn Vương và Triệu Quang Nghĩa đích thân đưa hắn về đến tận nơi ở của khách, hết sức lễ ngộ. Đợi cho đoàn người họ đã ra khỏi Ngọ Môn, bách quan xin cáo từ, Triệu Khuông Dận mới liếc mắt với Dương Hạo một cái, hỏi: “Dương khanh, chuyện cuối cùng trẫm nhờ khanh làm, cũng đã làm xong rồi?”

“Vâng. Thần đã làm xong rồi.”

“ừm…ngươi đi theo ta.”

Dương Hạo theo Triệu Khuông Dận trở lại cung. Thẳng hướng đại nội, đến một cung điện bị che ở dưới một cái cây, nội thị đều biết Vương Kế Ân đang cung kính đứng ở đằng kia, vừa thấy Triệu Khuông Dận đến liền thi lễ: “Quan gia.”

Triệu Khuông Dận hơi hơi hất hàm, Vương Kế Ân liền đi theo phía sau hắn, đứng song song cùng Dương Hạo.

Trong điện trống vắng, không một bóng người, đi đến chỗ tấm rèm buông xuống, Triệu Khuông Dận dừng bước, Dương Hạo tập tễnh bước lên phía trước, nhẹ nhàng kéo màn ra, chỉ thấy phía trong một khoảng trống rỗng, duy chỉ có một tấm bia đá.

Trên bia có hai chữ lớn: “Giới thạch!”

Triệu Khuông Dận nhẹ nhàng bước nào, đến đứng phía sau tấm bia, chỉ nhìn thấy phượng bay rồng múa trên bia là ba hàng chữ lớn do Triệu Khuông Dận tự tay khắc ra.

Triệu Khuông Dận nhẹ nhàng sờ vào những chữ trên bia. Dương Hạo đứng ở một bên, bất giác cũng nhẹ nhàng nín thở, sợ sệt nhìn tấm bia thần bí từ tay hắn ra.

“Phàm là con cháu Sài Thị, có tội không được thêm hình, cho dù là tội lớn mưu nghịch, cũng không được chu di cả tộc, chỉ có thể ban chết trong nhà lao, chứ không thể giết chóc.”

“Không cho phép sát hại bất cứ ai.”

“Tử tôn có lời thề như vậy, trời nhất định sẽ biết.”

Triệu Khuông Dận trong lòng canh cánh, người mà cả đời này cảm thấy có lỗi nhất chính là Sài Thị, điều đầu tiên trên bia thệ chính là muốn Triệu Tống còn một ngày thì phải đối đãi tốt với người Sài Thị ngày ấy, đấy chính là điều thứ nhất được hắn liệt ra trên bia thệ. Điều thứ hai mới là quốc sự, từ trước đến nay, cho dù đến cả Đường Thái Tông nổi tiếng dùng tâm nạp lời can gián nhưng đấy cũng chỉ là phong cách nắm chính quyền của hắn, chứ không phải quy tắc của triều đình, vậy mà Triệu Khuông Dận lại làm nó trở thành quy tắc lập quốc của nước Tống.

Thời đại Hoàng quyền, dám nói thẳng với Hoàng đế thật là không dễ, có điều này rồi, con đừơng tiến gián mới có thể khơi thông một chút, điều này đối với Hoàng đế trên ngai cao có rất nhiều ích lợi, lúc ấy, một đế vương phong kiến có được tầm nhìn như thế, thật là đáng quý.

“Việc này, không thể nói cũng người khác nghe. Sau khi tấm bia này hoàn thành, con cháu Triệu Thị ta sau này có đăng cơ làm đế, cũng có thể cho những thái giám không biết chữ bái tế, đọc lời thệ.”

Dương Hạo cùng Vương Kế Ân đang đứng ở ngoài nhất tề hô vâng, Triệu Khuông Dận lại nói: “Phải trả công thật cao cho người khắc tấm bia này, nghiêm dặn bọn họ không được tiết lộ việc này.”

“Tuân chỉ.” Thấy Triệu Khuông Dận có ý muốn rời đi, Dương Hạo vội vàng cầm một tấm hoàng lăng, phủ lên tấm bia.

Triệu Khuông Dận bước ra ngoài, nói với Dương Hạo: “Vật trong này là mật trát bách quan khuyên trẫm giữ Tiền Vương ở lại, đợi khi Tiền Vương về nước, ngươi hãy đưa cho hắn, bảo hắn trên đường về có thể xem cẩn thận.”

“Tuân chỉ.” Dương Hạo chần chừ một lúc, nói: “Tiền vương đã có ý quy phụ, sao quan gia không giữ hắn lại?”

Triệu Khuông Dận mỉm cười, nói: “Tiền vương trong tương lai sẽ cầu nguyện thần phật, nếu có thể bình an trở về sẽ lại xây tháp nối tháp, hắn lúc này vẫn chưa chặt đứt hẳn ý muốn trong lòng, hà tất phải cho phép cái tâm nguỵên này? Nếu cưỡng ép hắn ở lại, Tiền vương mặc dù sẽ quy phụ nhưng e người đất Việt sẽ tạo phản. Ngô Việt đối với trẫm nhất mực cung kính, trước giờ không làm nghịch, trẫm không muốn Ngô Việt lại có tai binh như Giang Nam. Nếu như lúc ấy, người dân Ngô Việt đều nhìn ra đại thế, lúc đó tiếp nhận Ngô Việt sẽ càng thỏa đáng, đảm bảo không làm cho một Ngô Việt phồn vinh bị huỷ hoại trong chiến loạn.”

Dương Hạo tự đáy lòng nói: “Bệ hạ thật nhân từ.”

Triệu Khuông Dận hơi chút mỉm cười, đưa mắt nhìn một cái rồi nói: “Nhưng mà Tấn vương lại cho rằng trẫm lầm như vậy là mang lòng dạ đàn bà.”

Miệng hắn bỗng thở dài một tiếng, giương mắt nhìn về phía trước, hắng giọng nói: “Giết là vì để ngừng giết, chứ không phải để giương uy. Làm Tần hoàng Hán Vũ, cố nhiên tiếng để ngàn thu, nhưng chịu khổ lại là dân chúng đương thời. Trẫm là Triệu Khuông Dận, Triệu Khuông Dận chỉ là Triệu Khuông Dận. Trẫm không cần cách của người ngoài, thiên hạ của trẫm, trẫm sẽ dùng cách trị của trẫm.”

Lúc bước đến Ngọ Môn, Dương Hạo khe khẽ thở dài, hắn thực sự mong Triệu Khuông Dận có thể bình an mà sống, nhưng hắn không biết cái người huynh đệ ruột thịt của Triệu Khuông Dận khi nào sẽ ra tay với hắn, có thể chặn lại được hay không? Trong tâm hắn, là nguyện làm địch với Triệu Quang Nghĩa, cũng không nguyện làm đối thủ của Triệu Khuông Dận.

Mặc kệ như thế nào, con đường của mình vẫn cứ phải bước tiếp, cũng như lời quan gia nói, mỗi người đều là chính mình, hắn có con đường của mình phải đi, không phải đi dưới cái bóng của người khác, nay mọi chuyện tồi tệ cũng đã qua đi, từ sau khi nhậm chức, hắn cũng phải về rồi. Bây giờ, là lúc nên ngả bài với La Khắc Địch rồi.

Dương Hạo nghĩ suốt đoạn đường, một mạch bước ra khỏi Ngọ Môn. Trong lúc vô tình liếc nhìn thủ tốt đang canh gác, mơ hồ trào lên một cảm giác lạ, nhưng hắn đang nghĩ nên mở miệng nói với La Khắc Địch như thế nào để đảm bảo mình rời đi một cách an toàn rồi mới cho hắn biết được chân tướng, bởi vậy cũng chẳng suy nghĩ sâu sa, liền lên xe đi…

Chương 395:Khi hoa rụng lả tả 

Bên cạnh Biện kiều, trong một tòa tiểu lâu.

Đỗ Văn Hạo và La Khắc Địch ngồi đối diện với nhau. Giữa tri kỷ hảo hữu, không có gì phải phô trương, bốn món thức ăn, một bình rượu trắng, vậy là có thể vui vẻ.

Nhưng hôm nay, La Khắc Địch hối hả chạy tới lại giống như ngồi trên đống lửa, hắn nhìn Dương Hạo chậm rãi nhai một miếng lại uống một ngụm rượu, cuối cùng không nhịn được liền nói: "Dương huynh a, huynh đệ hiện giờ là đô chỉ huy sứ của cấm vệ bộ quân rồi, quân vụ rất là bận bịu, huynh nói hôm nay sẽ nói cho ta hay nguyên nhân mà Ngọc Lạc cô nương xa cách ta, cho nên ta mới tranh thủ lúc rảnh mà chạy tới đây. Rốt cuộc là nguyên nhân gì, huynh mau nói ra đi."

Dương Hạo đặt bình rượu xuống, từ trong ngực chậm rãi rút ra một phong thư, nhẹ nhàng đẩy về phía trước.

La Khắc Địch ngây người, ngạc nhiên nói: "Ngọc Lạc cô nương viết cho ta ư?"

Hắn đưa tay ra định lấy thì năm ngón tay cứng như đá của Dương Hạo đè chặt lên bức thư, trầm giọng nói: "La huynh, phong thư này là ta viết cho huynh."

"Hả?"

La Khắc Địch ngạc nhiên, vẻ mặt cũng biến thành ngưng trọng, Dương Hạo ở ngay trước mặt, vì sao phải viết thư cho hắn? Hắn tuy không rõ nguyên nhân, nhưng đoán rằng tất có chuyện trọng đại, thế là không dằn nổi mà rụt bàn tay đang hướng về phong thư lại.

Dương Hạo nói: "Ngọc Lạc không phải là không thích huynh, chỉ là... nó có nỗi khổ bất đắc dĩ, mà trong nỗi khổ này, có quan hệ rất lớn đến huynh đệ chúng ta, cho nên nguyên do đều viết hết trong phong thư này, nhưng phong thư này huynh hiện tại không được mở ra đọc."

La Khắc Địch hỏi ngược lại: "Vậy khi nào thì mới được đọc?"

Dương Hạo ánh mắt chớp động, do dự môt lát, cuối cùng cũng nói: "Sau khi ta rời khỏi Biện Lương."

La Khắc Địch ngạc nhiên nói: "Rời khỏi Biện Lương?" lập tức hoảng hốt: "Tiền vương sắp quay về Ngô Việt rồi, quan gia bảo huynh tự mình tiễn Tiền vương về nước ư?"

Dương Hạo mỉm cười, chẳng có chẳng không nói: "Cứ coi là vậy đi. Nói chung, phải đợi khi ta rời khỏi Biện Lương, huynh mới được mở phong thư này ra đọc."

La Khắc Địch bật cười, nói: "Được, ta đáp ứng huynh."

Dương Hạo lắc đầu: "La huynh là một chính nhân quân tử, nhất ngôn cửu đỉnh, huynh đệ vốn không có đạo lý không tin huynh, có điều... chuyện quá quan trọng, ta muốn La huynh phải thề, lấy tên của lệnh tôn ra thề, quyết không được mở thư ra trước, như vậy mới giao cho huynh được."

La Khắc Địch biến sắc, trầm giọng nói: "Dương huynh, yêu cầu này quá đáng quá rồi, là người quân tử, há có thể lấy tên của phụ thân ra thề. La mỗ thà không đọc phong thư này, vĩnh viễn không biết được gì, cũng tuyệt đối không lấy tên phụ thân ra thề!"

Thấy hắn phất tay áo định bỏ đi, Dương Hạo vội vàng kéo hắn lại, cười nói: "Được được được, không lấy tên của lệnh tôn ra thề nữa, vậy thì... huynh lấy mình ra thề đi, nếu huynh mở phong thư này ra trước, vậy thì... đời này kiếp này, huynh không thể thành đôi được với Ngọc Lạc!"

La Khắc Địch kinh nghi bất định, nói: "Rốt cuộc là chuyện gì mà quan trọng thế, La mỗ không lập thệ thì không được à?"

Dương Hạo cười có chút đau khổ: "Chuyện này, quan hệ trọng đại, một khi lộ ra thì sẽ có kết cục đầu rơi, huynh nói xem có quan trọng hay không?"

La Khắc Địch kinh ngạc nói: "Dương huynh phải chăng là có chút nói quá rồi? Chuyện gì mà đến nỗi chịu tội rơi đầu?"

Dương Hạo hỏi lại: "Vậy huynh có thề hay không nào?"

La Khắc Địch do dự một lát, kích động nói: "Được, để làm yên lòng Dương huynh, La mỗ thề là được chứ gì."

Hắn giơ ba ngón tay lên trời, trịnh trọng nói: "Hoàng thiên tại thượng, thần minh chứng giám, La Khắc Địch nhận phong thư này của Dương Hạo, phải đợi khi Dương huynh rời khỏi Biện Lương mới mở ra đọc, nếu như trái lời thề, hôn nhân khó thành, cô đơn cả đời!"

Dương Hạo toét miệng cười: "Được, La huynh nhận lấy phong thư này đi."

La Khắc Địch bực bội nhận lấy phong thư, nói: "Huynh và ta là huynh đệ đồng đội đồng sinh đồng tử, lại có tầng quan hệ này của Đông Nhi, có lời gì mà không thể nói rõ ràng trước mặt chứ? Cứ quỷ bí như thế này, gia phụ một mực không quên nơi hạ lạc của thúc phụ, nếu lão nhân gia người có thể nhận cháu gái, nhất định sẽ được an lòng, nhưng... hiện giờ ta lại phải giúp huynh che giấu chuyện này, sau này phụ thân đại nhân biết, nhất định sẽ trách ta đó."

Dương Hạo cười khổ, nói: "Huynh đệ thực sự là có nỗi khổ bất đắc dĩ mà, sớm muộn gì huynh cũng sẽ rõ thôi."

La Khắc Địch lắc đầu, nói: "Bất kể là như thế nào, ta đã đáp ứng huynh rồi thì nhất định sẽ tuân thủ lời thề. Thư ta đã nhận, ta còn có việc, giờ phải quay về đây."

Dương Hạo nói: "Sao đi vội thế, không ở lại uống mấy chén được à?"

La Khắc Địch nói: "Không uống rượu được, tối nay ta còn phải đi tuần quân doanh, đây là lần đầu tiên ta tuần thị đại doanh của cấm quân kể từ khi nhậm chức đô chỉ huy sứ bộ quân, hiện giờ phải quay về chuẩn bị."

Dương Hạo cũng đứng dậy theo, nói: "Tuần thị quân doanh nào, huynh không phải là sống ở trong quân doanh à?"

La Khắc Địch nói: "Huynh chưa từng làm việc trong cấm quân, không biết quy của trong quân ngũ. Cấm quân tam ti nha môn, điện tiền ti là đóng ở trong thành Biện Lương, hộ vệ an nguy cho hoàng thành, mà thị vệ của mã quân, bộ quân nhị ti thì đóng ở ngoài thành. Binh mã của cấm quân rất nhiều, không phải chỉ có hai đại doanh, lần lượt hướng ra bên ngoài, còn có rất nhiều quân doanh. Hiện giờ Đảng thái úy, Hô Diên tướng quân đều đi chinh thảo Hán quốc, chủ quan các ti chỉ có một mình bản quan, ta tuy không điều động được binh mã của bọn họ, nhưng nhận trách nhiệm kiểm duyệt tuần thị thay."

Dương Hạo thuận tay đặt xuống một xâu tiền, theo hắn đi xuống, La Khắc Địch nói: "Thiên hạ chưa định, kỷ luật trong quân ngũ sâm nghiêm, mỗi lần đi tuần, chủ quan đều phải đột ngột tuần sát cả đại doanh một lần, xem xem quan dung có chỉnh tề hay không, có ai tự tiện rời khó vị trí hay không, có ai lén lút uống rượu, chơi gái hay không. Ta có trọng nhiệm bên ngoài, sao có thể biết pháp mà vẫn phạm pháp, hôm nay thực sự là không thể nhấp một giọt rượu, đợi ngày sau rảnh rỗi, ta và huynh lại tận tình uống một phen."

Hai người vừa nói vừa đi trên đường, thấy một đội cấm quân đang hướng về phía ngự nhai, ở giữa là một vị chủ tướng, ngồi trên một con ngựa đen sì, râu dài mắt báo, trông rất uy nghi.

Nhìn từ xa, Dương Hạo liền cảm thấy có chút quen mắt, nhìn kỹ lại, không khỏi thất thanh nói: "Sở đại nhân? Đó chẳng phải là tiền tam ti sứ Sở đại nhân ư? Ta nhớ Sở đại nhân bởi vì chuyện Biện Lương thiếu lương mà bị bãi quan làm dân rồi, hắn uy phong như vậy, chắc lại được triều đình đề bạt ư?"

La Khắc Địch liếc về phía xa xa một cái, nói: "À, đó quả thật là Sở tướng quân. Sở tương quân vốn đã bị bãi quan, nhưng trong triều đang là lúc cần người, Sở tướng quân lại là lão tượng có công theo rồng, trải qua cuộc nói chuyện với Tấn vương, quan gia hồi tâm chuyển ý, liền bổ nhiệm hắn lam điện tiền ti hổ tiệp quân đô chỉ huy sứ, hiện giờ phụ trách cảnh vệ hoàng thành. À... tính toán thời gian thì hôm nay chắc là Sở tướng quân trực, thay cho Khống Hạc quân của Điền Trọng Tiến tướng quân phụ trách đại nội thị vệ."

"Thì ra là như vậy, Lão Sở vốn cũng chỉ gắng gượng mà làm thôi, vẫn là lệnh tôn giỏi việc này hơn, có điều Lão Sở làm việc cũng tính là cần mẫn, quay lại làm nghề này, cũng tính là dùng đúng sở trường của hắn."

Hai người vừa đi vừa nói rồi chia tay ở đầu cầu, La Khắc Địch cầm phong thư khiến hắn hiếu kỳ không thôi về quân doanh, Dương Hạo đứng ở đầu cầu nhìn theo bóng hắn đi xa, quay đầu lại nhìn về phía nước Biện Hà dào dạt, ánh mắt trôi theo nước sông, rồi dừng lại trên phi ngôi đấu giác kim bích huy hoàng của Thiên Kim Nhất Tiếu lâu.

Đỉnh lâu cao chót vót, dùng màn trời xanh thẳm làm bối cảnh, ngạo nghễ đứng trong thành Khai Phong, bên sông Biện hà.

"Đây vốn là một di tích duy nhất mà ta lưu lại trong thành Biện Lương, hậu nhân nếu như có nhắc tới phong cảnh của thành Khai Phong, có lẽ sẽ từ trong bút khí của một số Tống nhân mà nhắc tới vẻ hùng vĩ của Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, còn chủ nhân của Nhất Tiếu lâu ta đâu, thì lại sẽ không nhắc tới, giống như hậu nhân chỉ biết có Phàn lâu, không biết chủ nhân của nó là ai. Nhưng hôm nay rời khỏi thành Biện Lương, trong sách sử nhất định sẽ ghi chép về ta, nếu ta có thể đứng vững ở tây bắc, vậy thì sẽ càng ghi chép kỹ càng hơn.

...

Liễu Đóa Nhi mặc quần áo trắng tinh, thướt tha ngồi đó, ở trước mặt đặt một cột hương an thần, khói hương lượn lờ. Nàng ta ngồi khoanh chân, mười ngón tay gảy đàn, tiếng đàn như nước chảy cuồn cuộn. Hiện giờ tuy là mùa xuân, trăm hoa đua nở, nhưng trong cầm khúc của Liễu Đóa nhi, vẫn thấp thoáng đâu đó vẻ đìu hiu, gió thu vi vút.

Tiếng đàn của nàng ta du dương trôi trảy, nhắm mắt lại nghe, phảng phất như ngửi thấy không khí trong lòng của cuối thu, gió lặng cát yên, mây trôi vạn dặm, chân trời sáng trong, tự có nhạn đỏ bay lượn, tràng cảnh rất mỹ lệ. Khúc điệu lên lên xuống xuống, réo rắt không ngừng, du du nhã nhã, trong tĩnh có động, dưới mười ngón tay đang nhảy múa trên giây đàn của Liễu đại gia, càng trở nên diệu kỳ hơn.

Phía đối diện có một người mặt vuông tai to, thân hình khôi vĩ, lặng lẽ ngồi đó, hai mắt khép hờ, ngón tay nhẹ nhàng gõ lên mặt bàn theo tiếng đàn.

Một khúc được đánh xong, Liễu Đóa Nhi mỉm cười, nói: "Khúc Bình Sa Lạc Nhạn này của Đóa Nhi còn lọt được vào tai thiên tuế không?"

Triệu Quang Nghĩa mở bừng mắt, mỉm cười, nói: "Đóa Nhi tài nghệ quán tuyệt thiên hạ, cho dù là một khúc bình thường, nhưng dưới mười ngón tay của Liễu đại gia, vẫn giống như là tiếng gió trời vậy, huống chi là khúc nhạc nổi danh này? Có điều ý khách của khúc nhạc này quá nhàn nhã. Ồ, Đóa Nhi có biết chơi khúc Quảng Lăng Tán không?"

Liễu Đóa Nhi nhướn mày, cười duyên, nói: "Khúc này cũng có tên là Nhiếp chính thứ Hàn vương. Nghe nói là dẫn từ cố sự Nhiếp Chính đâm Hàn vương thời chiến quốc. Trong thiên hạ người biết khúc này rất ít, mà Đóa Nhi lại là một trong số đó."

Nàng ta nói tới đây, liền mỉm cười với Triệu Quang Nghĩa, nói: "Không ngờ thiên tuế lại tinh thông đạo âm luật như vậy, còn biết được khúc này vẫn lưu truyền trong nhân gian, nếu Đóa Nhi đoán không lầm, thiên tuế nhất định đã từng nghe qua rồi."

Triệu Quang Nghĩa cười nói: "Không sai, Mộ Dung Cầu Túy, phụ tá trong phủ bản vương từng lấy khúc này để hiến cho bản vương, bản vương rất thích, Đóa Nhi đã biết khúc này, không ngại thì đánh ra nghe thử đi, bản vương xem xem cầm phong của Đóa Nhi so với Mộ Dung tiên sinh thì như thế nào."

Đóa Nhi gẩy dây đàn, nói: "Quảng Lăng tán miêu tả tình cảnh Nhiếp Chính đâm Hàn vương, có các thiên chương như đâm Hàn vương, trùng quân, tức giận, tuốt kiếm, mặc dù âm điệu tuyệt luyện, nhưng lại phẫn nộ nóng nảy, không thể bình hòa, có hiện tượng gọi là bề tôi xúc phạm vua trong khúc nhạc, e rằng không hợp để thiên tuế di thần dưỡng tính."

Triệu Quang Nghĩa vuốt râu cười nói: "Đóa Nhi cứ đánh đi đừng ngại, một cầm khúc, há có thể làm lay động tâm thần của bản vương?"

Liễu Đóa Nhi thản nhiên nói: "Vậy thì Đóa Nhi đành lộ ra cái xấu vậy."

Nàng ta ngưng thần nín thở một lát, dần dần mười ngón tay bắt đầu gẩy đàn, một khúc "Quảng Lăng tán" thiên cổ tuyệt xướng vang lên, khiến cho gió ngừng mây đặng, người quỷ đều yên lặng, duy có công xích nhảy múa trên dây đàn, tiếng đàn vang vọng trời xanh, thiên nhạc réo rắt như hành vân lưu thủy, tiếng đàn leng keng như có tiếng thiết qua, kinh thiên địa, nhiếp quỷ thần, khiến người nghe không thể không biến sắc.

Triệu Quang Nghĩa nhắm mắt lắng nghe, ngực phập phồng, cầm tới chỗ vội vã, hắn đứng bật dậy, thở ra một hơi trọc khí, than: "Khúc này tuy là nữ tử đánh ra, nhưng vẫn có tiếng sát phạt, nghe mà khiến tâm tình kích động!"

Tiếng đàn véo von chợt im bặt, Đóa Nhi nhẹ nhàng giơ hai tay lên, cười đầy quyến rũ: "Khúc này vốn lấy sự mãnh liệt mà nổi danh, nhưng bên trong lại có ba phần thần ngôi, tất nhiên không thay đổi được âm sát phạt."

Nàng ta đứng dậy, yểu điệu bước tới cạnh Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa lại nhìn từng hàng điển tịch văn chương trên giá sách bằng gỗ tử đàn ở bên cạnh, nói: "Bản vương biết Đóa Nhi tài thức uyên bác, chỉ là không ngờ, chỗ này của nàng lại... không thiếu thứ gì."

Đóa Nhi cười khẽ: "Đóa Nhi thích đọc sách, bộ sứ ký này rất quý, tới sau khi vào làm chủ Nhất Tiếu lâu mới mua được."

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười, tay lướt qua hàng sách đó, trong lòng thầm nghĩ: "Hôm nay, bản vương đã phá cột dìm thuyền, hữu tiền vô hậu, thành bại hoàn toàn không tính toán. Không biết sau này hậu nhân biên soạn sử sách, có nhắc tới hay không?"

Song quyền của hắn hơi nắm chặt lại, lòng đầy kích động, mắt lấp lánh hàn quang, ngay cả mùi thơm dụ người của mĩ nhân ở bên cạnh ùa vào mũi mà cũng như không phát hiện ra.

"Ngày mai Tiền vương phải về Ngô Việt rồi, sau khi tiễn hắn đi, ta lập tức có thể lấy thân phận Đại hồng lư để về hưu. Một khi về hưu, ta không cần phải ở trong kinh nữa. Dẫu sao thì bất kể chỉ sống một ngày hay là một năm, chỉ cần ta quay về Tây Bắc rồi, thì đều đã chọc phải tổ ong.

Mặc dù là không đủ lực lượng để đọ với Triệu lão đại, nhưng ít nhất cũng có thể khiến ông ta cố kỵ ba phần. Mặt mũi, hiện giờ ta cấp cho Triệu lão đại rồi, ông ta không thể không cho ta một chút ẩn tình. Ông ta nếu thực sự không chịu thả ta đi, nói không chừng, ta chỉ đành đem quan hệ với Khiết Đan ra, dọa con hổ to như ông ta vậy.

Dương Hạo trên đường vừa đi vừa nghĩ, trong lòng không ngờ lại dâng lên cảm giác nhiệt huyết sôi trào. Triệu Khuông Dận, Tiêu Yến Yến, đây đều là những nhân vật mà hắn vốn không thể làm lung lay được, cho dù hắn tới thế giới này rồi, trở thành một phần tử trong thế giới này, trời đất của hắn lúc mới đầu chỉ có một góc đại viện của Đinh gia, những nhân vật mà hắn phải cẩn thận rụt rè đi ứng đối cũng chẳng qua chỉ là dạng gia nô của hào môn như Liễu Thập Nhất, Nhạn Cửu.

Hiện giờ, hắn đang từng bước bước lên đỉnh cao của thế giới, đứng sánh vai với hạng nhân vật thiên cổ phong lưu như Triệu Khuông Dận, Tiêu Yến Yến, chỉ điểm giang sơn, tiếu ngạo phong lưu, nhân vật kiểu như Nhạn Cửu, hiện giờ đã dần dần trở thành một con kiến dưới chân hắn. 

Dương Hạo quay về phủ, nghe nói Đông Nhi, Ngọc Lạc, Diệu Diệu đang cùng Lý Dục, tiểu Chu ở du thưởng hoa xuân ở trong Nhất Tiếu lâu, không khỏi vui vẻ mỉm cười, rồi cũng quay người bước ra khỏi phủ, tới Như Tuyết phường.

Như Tuyết phường nằm ở giữa Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, tường viện vốn đã dỡ xuống, ở trên cơ sở vốn có lâm viên trồng thêm rất nhiều hoa cỏ, hoa tươi cỏ lạ, nhìn rực rỡ màu sắc.

Dương Hạo tuy lập tức muốn rời khỏi Biện Lương, nhưng ý nghĩ muốn tiếp cận phu phụ Lý Dục vẫn không thay đổi, hắn không thể quên cố sự "Chúc quang phủ ảnh". Hiện giờ bởi vì sự xen vào của hắn, lịch sử đang lặng lẽ phát sinh biến hóa, nhưng có một số thứ sẽ không biến đổi, ví dụ như lòng tham, nhân tính, những thứ này không thay đổi, có một số thứ nhất định sẽ phát sinh, chỉ chẳng qua là ở thời gian, địa điểm, phương thức có chút ít thay đổi mà thôi.

Nếu Triệu nhị soán vị thành công, vậy thì tây bắc liệu có lập tức có chiến tranh hay không thì rất khó đoán trước. Từ cổ người có được ngôi vị một cách bất chính, đều nóng lòng kiến công lập nghiệp, để đảm bảo cho sự ổn định của địa vị của mình, dùng đại công để chính danh cho hắn trong sách sử. Tùy Diễm đế là vậy, Đường Thái Tông cũng vậy, Triệu Quang Nghĩa cũng không ngoại lệ.

Lúc đó... Phu phụ Lý Dục có lẽ sẽ có chỗ dùng, nếu như có thể, Dương Hạo thậm chí không ngại kết giao với hậu nhân của Thục, Kinh, Hồ, Hán, đặc biệt là Sài thị. Chỉ đáng tiếc hắn và những người này trước giờ không có giao tiếp gì, đột nhiên lui tới, tất nhiên sẽ khiến người khác chú ý, không giống như phu phụ Lý Dục, hai bên đã có một đoạn giao tình khi còn ở Đường quốc.

Đang là lúc cuối xuân, trong rừng hoa lá rụng lác đá, có những bông hoa nở đang đẹp, có bông thì dần dần khô héo. Dương Hạo chậm rãi bước trong rừng, giẫm lên hồng trần, thỉnh thoảng lại hỏi tiểu tỳ áo xanh đi trên đường một câu, dần dần liền vòng tới cạnh Biện hà.

Bên bờ Biện hà mấy cây lê giống như mũ bông, trắng xóa một mảng, phía trước nước sông cuồn cộn, buồm giăng như mây. Một trận gió thổi tới, hoa lê bay phấp phới, thướt tha như tuyết.

"Lâm hoa tạ liễu xuân hồng, thái thông thông, vô nại triêu lai hàn vũ vãn lai phong.

Yên chi lệ, tương lưu túy, kỷ thời trọng, tự thì nhân sinh trường hận thủy trường đông..."

Lý Dục đứng dưới một gốc cây, đối diện với mặt sông Biện hà, buồn bã ngâm thơ.

"Hay quá, đúng là thơ hay!"

Đông Nhi, Ngọc Lạc, Diệu Diệu đều là những nữ tử có tài học, nghe thấy mấy câu thơ này, không khỏi kích động cất tiếng khen, trong mắt ai cũng đầy vẻ sùng bái và khâm phục.

Tiểu Chu Hậu đứng bên cạnh, khóe miệng lộ ra một nụ cười khổ. Trước kia, khi nghe những câu thơ này, trong mắt bà ta cũng giống như mấy nữ nhi ở trước mặt, kính Lý Dục như thần minh, trong mắt đầy vẻ khâm phục, sùng bái, so với bọn họ còn nhiều hơn một phần tình ý, ái mộ.

Nhưng hiện tại nghe thấy từ ngữ động lòng người như thế này, bà ta cũng không còn loại cảm giác động lòng như lúc xưa nữa, chỉ có sự chán ghét. Bà ta hiện tại đang nghĩ : Người hầu ở đây nhiều như vậy, vốn không cần phải thuê nhiều người như vậy làm gì, tiền công tháng này lại phải chi một khoản lớn rồi. Phu quân một ngày ba bữa vẫn toàn vật ngon của lạ, lại phải cầm cố một số thứ đi rồi. Phu quân ăn, khoản đãi khách khứa đều cần tiền, ca kỹ vũ nữ nuôi trong phủ cũng cần tiền, chẳng lẽ tới chỗ Dương tả sứ mượn chắc? Tương lai lấy cái gì ra mà trả người ta đây?

Phu thê nghèo khổ lo chăm điều, cả ngày phải băn khoăn về củi, gạo, dầu, muối, trà, dấm, Tiểu Chu Hậu nào có có được tình hoài lãng mạn như xưa. Khi mỗi ngày đều phải đắp những thứ phấn son rẻ tiền mà ngày trước ngay cả nhìn cũng không thèm lên dung nhan thiên kiều bách mị, khi mỗi ngày phải vì gạo trong nhà còn nhiều hay ít mà tính toán chi li, khi mỗi ngày đều phải giật gấu vá vai, vì trượng phu mỗi ngày một xuống dốc, nhưng vẫn sống trong lý tưởng của bản thân mình mà đau đầu, còn có thể giữ được nhu tình lãng mạn của ngày xưa hay không?

Phong sương của năm tháng đã bào mòn từng chút từng chút ảo tưởng lãng mạn và mỹ lệ của ngày trước đi rồi. Rất tàn khốc phải không? Nhưng đây chính là cuộc sống.

Cố sự cổ tích lãng mạn, nhân vật chính nhất định là vương tử và công chúa. Tiểu Chu Hậu hiện giờ, từ trong miệng trượng phu nghe thấy những từ ngữ này, chỉ nảy sinh sự phản cảm, bà ta nguyện để nam nhân của mình thành cột trụ trong nhà, sinh kế tiền trình của một nhà, có thể nằm dưới sự an bài của hắn, tiến hành một cách ngăn ngắn, chứ không phải là một kẻ chỉ biết bi xuân thương thu, không ốm mà rên, rồi để nhi tử và nương tử của hắn phải chống đỡ cái nhà này.

"Quan nhân, thời gian không còn sớm nữa rồi, phiền bọn Dương phu nhân lâu như vậy rồi, chúng ta cũng nên về thôi."

Tuy thấy Lý Dục thơ hứng chưa giảm, tiểu Chu Hậu vẫn bước lên khuyên. Đúng vào lúc này, chỉ nghe thấy một tiếng ho khan, Dương Hạo từ trong rừng bước ra ,mỉm cười vái dài: "Ha ha, Lý tướng quân, thì ra các người ở đây, để Dương mỗ tìm một phen mệt quá."

Lý Dục hiện giờ tước tới hầu gia, làm quan tới chức tướng quân, nhưng hầu gia đó gọi là "vi mệnh hầu", không khỏi có ý vũ nhục, cho nên Dương Hạo khi qua lại với Lý Dục, thường chỉ gọi ông ta là Lý tướng quân, chứ không gọi là hầu gia.

Dương Hạo đã tới rồi, tất nhiên là không để cho ông ta rời khỏi nơi này, hai bên cười nói một phen, Dương Hạo liền mời ông ta tới Bách Vị lâu ẩm yến, phu phụ Lý Dục không thể chối từ, liền đi theo hắn.

Tới Bách Vị lâu, liền thấy một nam tử thân hình khôi vĩ, cùng với một mỹ nhân lả lướt như hoa đang chậm rãi đi tới.

Dương Hạo vừa thấy người này không khỏi ngây người, phía trước chính là Triệu Quang Nghĩa và Liễu Đóa Nhi đã lâu rồi không qua lại.

"Hỏng rồi!" Dương Hạo thoáng chốc đã nghĩ tới bức "Hi Lăng (Triệu Quang Nghĩa" hạnh tiểu Chu". Hiện giờ nữ quyền trong phủ của mình mời phu phụ Lý Dục du xuân, tiểu Chu Hậu không mang khăn che mặt giống như ngày trước, hiện giờ bị Triệu Quang Nghĩa gặp phải, nhìn thấy gương mặt quốc sắc thiên hương của bà ta rồi, một khi nổi sắc tâm. Vậy ta không phải là gián tiếp dẫn mối ư?

Dương Hạo vội vàng đẩy Đông Nhi và Diệu Diệu đang đỡ ở hai bên trái phải hắn ra, hấp dẫn ánh mắt của Triệu Quang Nghĩa, nói: "Hạ quan Dương Hạo, bái kiến thiên tuế."

Lý Dục thấy vậy cũng vội vàng bước lên bái kiến, Triệu Quang Nghĩa liếc bọn họ một cái, ánh mắt lập tức lướt qua người tiểu chu Hậu thành thục vũ mị, chính trực nữ tính, xinh đẹp như một trái đào, rồi lại lướt qua người Đông Nhi, Ngọc Lạc, Diệu Diệu cũng thiên kiều bá mị, chỉ là lộ ra chút ngây ngô non nớt so với tiểu Chu Hậu, vẻ mặt bình tĩnh, không có gì khác lạ.

Dương Hạo thầm thở phào một hơi, lại cảm thấy có chút kỳ quái, Triệu Quang Nghĩa đã không đã có thể không để ý tới danh dự, cưỡng chiếm tiểu Chu Hậu, tất nhiên là vô cùng thèm thuồng bà ta, cho dù hắn hiện tại là vương gia, không dám khinh cử vọng động, nếu có hào cảm, trong thần sắc không thể nào không có biểu lộ gì, chẳng lẽ Triệu nhị đổi tính rồi ư?"

Ánh mắt của Triệu Quang Nghĩa rơi lên cái chân què của Dương Hạo, mày hơi nhíu lại, vẻ mặt càng lộ ra vẻ lạnh lùng, chỉ là vẫn miễn cưỡng đáp: "Lý hầu gia và Đại hồng lư cũng tới thưởng xuân đạp thanh ư?"

Lý Dục trên mặt hơi ửng đỏ, ngượng ngùng đáp: "Vâng, hạ quan nhận được lời mời của Đại hồng lư, đang định tới Bách Vị lâu ẩm yến một phen, tiên tuế nếu rảnh thì..."

Triệu Quang Nghĩa mặt cười mà da không cười, nói: "Bản vương vừa uống rượu xong, đã hơi ngà ngà say rồi. Các ngươi cứ đi đi, trong Nam Nha còn có rất nhiều việc chờ bản vương làm, bản vương phải về đây."

Triệu Quang Nghĩa quay lại cười với Liễu Đóa Nhi: "Liễu đại gia xin dừng bước, bản vương xin cáo từ ở đây."

Liễu Đóa Nhi vội vàng nói: "Đóa Nhi cung tống vương gia."

Lúc này ở bên đường có một chiếc kiệu nhỏ được khênh tới, Dương Hạo dõi mắt nhìn, hơi ngây người, hôm nay Triệu Quang Nghĩa đã tới Như Tuyết phường gặp tiểu mỹ nhân, ẩm yến tiêu khiển, đương nhiên sẽ ngồi kiệu lớn tám người khiêng của phủ doãn Khai Phong, gõ chiêng dẹp đường, cờ hiệu dẫn đường, ngồi một chiếc kiệu nhỏ cũng là việc bình thường. Nhưng... dạng ẩm yến tư nhân này, người ước hẹn lại là hoa khôi Biện Lương, chỉ dẫn hai ba tâm phúc gia nhân theo là được rồi, mà những người mặc áo xanh như danh sĩ này đi theo kiệu, không ngờ lại là Trình Đức Huyền, thương tào hiện giờ của Nam Nha, điều này có chút kỳ quái. Đường đường là mệnh quan triều đình, không có lý nào lại đi ăn mặc như gã sai vặt, muốn vỗ mông ngựa thì cũng không cần phải vỗ ở chỗ này chứ."

Trình Đức Huyền liếc nhìn cái chân què của hắn, bộ dạng vai cao vai thấp, kinh thường cười lạnh một cái, vén rèm kiệu lên, cúi người nói với Triệu Quang Nghĩa: "Vương gia, mời lên kiệu."

Triệu Quang Nghĩa vẫy tay một cái với Lý Dục, Dương Hạo rồi cúi người lên kiệu.

"Cung tống thiên tuế." Mấy người vái dài thi lễ, thấy kiệu của Triệu Quang Nghĩa kẽo kẹt rồi đi, Liễu Đóa Nhi nhìn lén Dương Hạo một cái, khẽ cắn môi mỏng, chỉnh lại tay áo, bước lên chào: "Đóa Nhi bái kiến Dương đại nhân."

Dương Hạo vẫn nhìn kiệu của Triệu Quang Nghĩa tới thất thần, mắt điếc tai ngơ, Liễu Đóa Nhi vẻ mặt khó tránh khỏi có chút xấu hổ.

Diệu Diệu bước lên hành lễ với nàng ta: "Diệu Diệu bái kiến tiểu thư."

Liễu Đóa Nhi nghiêng người, lạnh lùng nói: "Không dám nhận."

Đông Nhi khẽ khàng kéo tay áo của Dương Hạo, gọi khẽ: "Quan nhân."

"Hả? A! Liễu đại gia, thất lễ, thất lễ."

Dương Hạo tỉnh táo lại, vội vàng mỉm cười vái hắn một cái: "Bản quan muốn mời Lý tướng quân tới Bạch Vị lâu ẩm yến, xin lỗi không tiếp chuyện được."

Dương Hạo nói xong liền làm tư thế mời với Lý Dục, bước về phía trước.

Liễu Đóa Nhi thân hình hơi chao đảo, cuối cùng cũng mỉm môi đứng tại chỗ, từ phía sau nhìn Dương Hạo kéo lê cái chân què bước thấp bước cao, buồn bã thở dài một tiếng, vẻ mặt phức tạp quay người rời đi.

Dương Hạo cùng Lý Dục ngồi sáng vai trong một nhã tọa ở lầu ba, đối diện với cửa sổ, phía trước bên trái chính là hoàng cung, phía trước bên phải là chùa Đại Tướng Quốc, xa xa ở đối diện là Lam lâu, dưới mắt chính là biển hoa như tuyết, mỹ cảnh của Khai Phong được thu hết vào trong tầm mắt, hai bên là Đông Nhi, tiểu Chu Hậu, Ngọc Lạc, Diệu Diệu, bốn nữ nhân ai ai cũng xinh đẹp, có khí chất riêng, gió mát thổi tới khiến vạt áo của họ tung bay, giống như là tiên tử ở trên trời.

Lý Dục quả nhiên có khí chất của thi nhân, rượu được ba tuần, nhìn phong cảnh của Khai Phong, không khỏi thi hứng đại phát, dưới sự vui sướng thúc giục của Đông Nhi, Ngọc Lạc, Diệu Diệu bắt đầu ngâm thơ. Dương Hạo thì cầm chén trầm ngâm, tai không nghe thấy gì, trong lòng thủy chung có chút cảm giác quỷ quái, nhưng không biết mấu chốt ở chỗ nào.

HIện giờ hắn sắp phải rời khỏi Biện Lương rồi, mọi việc đều không thể không cảnh giác cẩn thận, gặp phải bất kỳ chuyện không tầm thường nào cũng phải đặc biệt cẩn thận, trầm ngâm một hồi lâu, đột nhiên nghe thấy Đông Nhi, Ngọc Lạc, Diệu Diệu vỗ tay khen hai. Dương Hạo cũng không nghe thấy Lý Dục ngâm cái gì, cũng nâng chén lên khen: "Thơ hay, thơ hay, nào, nào, mời, mời."

Lý Dục rụt rè giơ chén lên, hai người chạm khẽ một cái, nâng chén lên uống, Dương Hạo lấy tay áo che mặt, chén rượu vừa lên tới miệng, hai mắt đột nhiên trợn trừng lên, hắn nghĩ ra được loại cảm giác cổ quái không thoải mái đó rốt cuộc từ đâu mà có rồi.

Từ khi hắn rời khỏi ngọ môn, trong lòng thủy chung cảm thấy có chút không thoải mái, hiện tại đột nhiên nghĩ ra, lúc đó trong vô ý nhìn thoáng một cái, thấy mấy cấm vệ đứng gác ở ngọ môn tựa hồ không phải là thị vệ bình thường.

Thị vệ của ngọ môn có ba ban, Dương Hạo mấy ngày nay nghênh đón Tiền vương, thỉnh thoảng phải vào cung chờ lệnh và thông báo, ra ra vào vào không biết bao nhiêu lần, mỗi lần vào cung những thị vệ đó đều phải kiểm ta thẻ bài, ít nhiều gì cũng có chút quen mặt, nhưng mấy người hôm nay mà hắn thấy không phải là mấy vệ binh thường ngày hay gác cửa. Đặc biệt là... trong đó có một người hiện tại mới nhớ ra, hình như là người trong Nam Nha, lúc đó khi hắn đảm nhiệm chức hỏa tình viện trưởng (viện trưởng cứu hỏa), dẫn một số bọn lâu la bóc dỡ nhà cửa khắp thành Đông Kinh, trong đó có một ban đầu nhi (trưởng ban), tựa hồ chính là người đứng trước ngọ môn đó.

Tên ban đầu nhi này giống như là một đầu sợi của một cái lưỡi được bện dày đặc chặt chẽ, thuận theo hắn mà thăm dò tiếp, rất nhiều chuyện nhìn thì không có gì đáng nghi nhưng đều có liên hệ với nhau. Trong lòng Dương Hạo hiện ra đầu mối của nó, một ý nghĩ rất lớn mật đột nhiên nảy ra trong đầu Dương Hạo. Chẳng lẽ... cố sự tiếp theo lớn ngập trời rơi lúc nửa đêm, sẽ phát sinh vào lúc hoa rụng lác đác này ư?"

Một trận gió thổi tới, làm hoa lê bốc lên như tuyết.

Dương Hạo giống như là tâm trí hóa đá, khí lạnh ùa ào mặt... 

Chương 396:Đêm trăng sáng

Triệu Quang Nghĩa từ lúc tranh thủ được cơ hội thống binh phạt Đường, điều binh khiển tướng, thỉnh công phong thưởng, trong quá trình này khó tránh khỏi phải tiếp xúc với rất nhiều tướng lĩnh cấm quân, tuy thời gian ngắn ngủi không đủ để hắn nắm được một chi vũ trang, hoặc khiến tướng lĩnh cấm quân một lòng theo hắn, nhưng hắn đã xây dựng được một quan hệ nhất định với họ, tăng thêm sự chấp nhận và hảo cảm của họ cũng rất dễ dàng.

Nhờ quan hệ này, với địa vị của hắn, chỉ cần hơi tỏ ý, an bài mấy người có bối cảnh của Nam Nhan ở trong cấm quân làm giáo úy là việc dễ như trở bàn tay, dẫu sao thì hắn cũng không phải là muốn thống binh tạo phản, mà là muốn tính kế soán vị, ở những bộ vị quan kiện, chỉ cần có một tên lính hầu đắc lực là đủ làm thành đại sự rồi, giống như là Tiêu Tư Ôn mưu sát hoàng đế Khiết Đan vậy, chỉ cần mua chuộc được một tên đầu bếp ở bên cạnh hoàng đế là xong.

Sở Chiêu Phụ vốn không có đại tài, "nghĩa xã thập huynh đệ" năm xưa, có ai không phải là nhân vật tay nắm trọng binh, oai phong một cõi? Mà hắn thì chẳng qua là một quan lại quản lý kho quân khố mà thôi, đã không có năng lực hơn người, cũng không có được chiến công, toàn là nhờ hắn kiên định đứng ở phía Triệu Khuông Dận, có công theo rồng, cho nên mới tích góp được công lao mà leo tới vị trí cao như tam ti sứ. Hiện giờ hắn bị bãi chức làm dân thường, đi theo đường của Triệu Quang Nghĩa mà lại được làm quan, phải chăng là lại muốn một lần nữa có công theo rồng? Cho dù hắn không có gan tạo phản, một người đối với Triệu Quang Nghĩa cảm ân *** đức, nắm lực lượng vũ trang trong tay, trước khi thành sự thực, cũng sẽ dễ dàng ngả về phía Triệu Quang Nghĩa.

Hơn nữa, Triệu Quang Nghĩa thích nữ sắc, đây là sự thực mà trên sách sử không thể né tránh được. Hắn lúc trước cố gắng kiềm chế, toàn là bởi vì hắn vẫn không phải là một hoàng đế tứ vô kỵ đạn, hắn hiện giờ đang nhăm nhe đế vị, không thể không chú trọng tới ảnh hưởng của mình trong mắt danh lưu sĩ lâm, bá quan triều đình, mặc dù như vậy, hắn cũng không che giấu sự hân thưởng của mình đối với nữ sắc, ngày đó ở bến tàu Biện Hà nhìn thấy Liễu Đóa Nhi, từng vui vẻ hướng tới người khác mà hỏi thân phận của nàng ta.

Gần đây, quan gia hơi có chút lạnh nhạt với hắn, những đại sự thường giao cho hắn làm hiện tại cũng đều giao cho người khác, lần trước khi tuần thú Lạc Dương, còn lệnh cho hoàng trưởng tử giám quốc, gần đây Triệu quan gia lại càng đi lại mật thiết hơn với tam đệ Triệu Quang Mỹ, hắn mười năm rồi chưa từng dùng đế vương chi tôn tới phủ đệ của Triệu Quang Nghĩa, nhưng kể từ khi từ Lạc Dương quay về, đã tới ba lần, người có mắt đều nhìn ra. Triệu Quang Nghĩa đang dần bị thất sủng.

Mà Triệu Quang Nghĩa đối với chuyện này dường như không thèm để ý, thậm chí vẫn mặc sức tửu sắc, từng không để ý tới thanh danh người chỉ đứng sau đế vương, Triệu nhị ca từng cưỡng chiếm vợ của quan lại, hơn nữa còn cưỡng chiếm cả hoàng hậu của Đường quốc đã quy hàng, sao khi thấy tiểu Chu Hậu còn kiều mị động nhân hơn cả Liễu Đóa Nhi lại vẫn không chút động tâm? Ngay cả mắt cũng không có một gợn sóng nào?

Kết hợp các loại ý nghĩ lại, chỉ có một khả năng, đó là có một thứ quan trọng hơn đã hoàn toàn chiếm cứ tâm thần của hắn, khiến hắn không rảnh để ý xung quanh. Thứ gì so với tuyệt sắc mỹ nhân càng khiến nam nhân động tâm hơn, thậm chí là coi thường lệ sắc của mỹ nhân? Chỉ có một loại, đó chính là quyền lực, đối với Tấn vương Triệu Quang Nghĩa mà nói, còn có quyền lực gì mà hắn phải truy cầu nữa? Duy có bảo tọa của đế vương mà thôi.

"Triệu Quang Nghĩa, đã cảm giác thấy sự nguy hiểm của việc bị thất sủng, hơn nữa muốn được ăn cả ngã về không, tiến hành phản công rồi!"

Đây chính là kết luận của Dương Hạo, bằng vào một chút dấu vết này, vốn bất kỳ ai cũng không thể suy đoán ra hắn muốn sắp đặt cung biến, hơn nữa lập tức muốn cung biến. Trong mắt Dương Hạo, trong trí giả từ cổ trí kim "Võ Hầu Gia Cát Khổng Minh trí gần như yêu quái không thể, Lãnh đại tiên sinh, giang hồ đệ nhất trí giả cũng không thể, nhưng Dương Hạo hắn thì lại có thể.

Bởi vì chỉ có người tới từ tương lai như hắn, biết rằng Triệu Quang Nghĩa sớm muộn gì cũng làm phản. Hơn nữa hắn một mực suy đoán rằng do ảnh hưởng của mình đối với lịch sử, Triệu Quang Nghĩa là hành động sớm hơn hay là hành động muộn hơn, dùng phương thức gì, vào lúc nào, dùng thủ đoạn gì để hành động? Ý nghĩ này một mực quấy nhiễu đầu óc hắn, hiện giờ phát hiện ra những chỗ quỷ dị này, hắn tất nhiên dễ dàng nghĩ ra rằng Triệu Quang Nghĩa đang muốn làm gì.

Bộ dạng đờ đỡn của Dương Hạo trong mắt mọi người đã lộ ra rằng hắn không cảm thấy hứng thú gì với bữa tiệc ngày hôm nay. Hoàn cảnh hiện giờ của Lý Dục và tiểu Chu Hậu khiến cho tâm cảnh của họ vô cùng mẫn cảm, lập tức phát giác ra hắn có tâm sự, hứng tình ẩm yến cũng nhạt đi dần, uống thêm mấy chén liền đứng dậy cáo từ.

Dương Hạo cũng không giữ họ lại, tiễn phu phụ Lý Dục xuống lầu, rồi nói với ba người bọn Đông Nhi: "Lập tức về phủ."

Đông Nhi và Ngọc Lạc, Diệu Diệu ngơ ngác nhìn nhau, không biết hắn vì sao lại không vui, chỉ đành dạ một tiếng, theo hắn quay về. Vì Nhất Tiếu lâu chỉ cách nhà của hắn có hai con đường, đi bộ là tới, cho nên bốn người không ngồi kiệu. Đi được một lát, Đông Nhi không nhịn được, gọi khẽ: "Quan nhân..."

"Hả?" Dương Hạo đang cân nhắc lại kết luận của mình, nghe thấy tiếng gọi liền quay đầu lại.

Đông Nhi lắp bắp nói: "Quan nhân... có phải là thấy nô gia tán thưởng thi từ của Lý tướng quân, cho nên... cho nên mới không vui phải không?"

Đinh Ngọc Lạc và Diệu Diệu đều giỏng tai lắng nghe, Dương Hạo ngây người, bật cười, nói: "Làm gì có chuyện đó, thơ của Lý Dục có thể gọi là đệ nhất thiên hạ, các nàng tán thưởng thì có gì mà không đúng? Phu quân của nhà nàng chẳng lẽ lại là người có lòng dạ hẹp hòi như vậy sao? Có thể vì chút chuyện nhỏ này mà đố kỵ người ta ư?"

Diệu Diệu và Đông Nhi mấy ngày này qua lại với nhau, chỉ cảm thấy vị đại phụ (vợ cả) này tính tình ôn nhu, rộng lượng, thực sự là người sống chung tốt nhất, cũng cực kỳ hòa hợp với nàng ta, cho nên ở trước mặt Đông Nhi cũng không quá câu nệ, nghe thấy lời của Dương Hạo liền bước lên một bước, quàng lấy tay Dương Hạo, vui vẻ nói: "Chàng không nói thì người ta làm sao mà biết được? Lão gia đột nhiên biến thành trầm muộn, nô gia còn cho rằng không vui vì sự hâm mộ của nô gia đối với Lý tướng quân, lão gia phải chăng là có tâm sự gì đó?"

Dương Hạo vỗ vỗ bàn tay nhỏ của nàng ta, hơi trầm ngâm một lát rồi hỏi: "Nữ Nhi quốc đã chuyển sang tên của Trương Ngưu Nhi và lão hắc chưa?"

Diệu Diệu đảo mắt, mi dài chớp chớp, mỉm cười gật đầu: "Ơ... rồi."

Dương Hạo nghiêm mắt nói: "Muốn lừa lão gia nhà nàng vậy thì phải lừa cho khéo một chút, lắp bắp như vậy thì làm sao mà lừa được?"

Diệu Diệu cúi đầu, lí nhí nói: "Lão gia, Nữ Nhi quốc này là sản nghiệp của chúng ta, lão gia bỏ ra nhiều tâm huyết như vậy, nô gia... quản lý nó cũng lâu rồi, sao lại tùy tiện đưa cho người ngoài..."

Dương Hạo cười khổ, nói: "Ta thấy nàng đúng là một con chuột nhỏ, có cái gì tốt là chỉ lo kéo vào tay mình. Lúc nên bỏ thì phải bỏ mới được, nàng nói đi, lại làm ra trò gì rồi?"

Diệu Diệu nhìn lén Đông Nhi một cái, Đông Nhi mỉm cười nói: "Quan nhân, chuyện này... Diệu Diệu đã nói với nô gia rồi, nô gia thấy có chút đạo lý cho nên mới cho phép nàng ta đi làm."

Dương Hạo nói: "Các nàng làm gì rồi?"

Diệu Diệu đem ý nghĩ của mình nói ra, thì ra nàng ta được Dương Hạo nói cho biết rằng muốn giao phó sản nghiệp mà hắn khổ tâm kinh doanh cho người khác, nói rằng Trương Ngưu nhi và lão Hắc đối với lão gia nhà mình cũng tính là trung thành, sản nghiệp nếu như phải vứt bỏ như vậy thì sản nghiệp vô chủ rồi cũng bị quan phụ thu lấy, không bằng hứa cho người nhà trung thành.Đó chính là vẫn có một tia hi vọng, ai lại nỡ giao phỏ sản nghiệp của mình cho người ngoài, cho nên Diệu Diệu liền đụng tay đụng chân ở trong, sang tên Nữ Nhi quốc cho Trương Ngưu nhi và lão Hắc, đồng thời một phần khế ước khác lại từ trong tay Trương Ngưu nhi và lão Hắc giao cho người khác, hai bản khế ước đều thời ký tên đồng ý, nhưng phần tên người được chuyển nhượng của bản khế ước thứ hai lại bỏ trống.

Đối với Trương Ngưu nhi và lão Hắc, Diệu Diệu tất nhiên tìm một lý do để lấp liếm, Trương Ngưu nhi và lão Hắc không biết Dương Hạo có ý đem sản nghiệp giao khoán cho bọn họ, hiệu giờ chỉ chẳng qua là đang giúp đi làm thủ tục, đóng dấu vân tay, sản nghiệp to lớn này tạm thời đứng tên bọn họ, trở thành chủ nhân , quản lý cao cấp trên thực tế trên danh nghĩa của sản nghiệp nhà họ Dương, bọ họ vui đến nỗi lúc ngủ cũng bật cười, làm gì có chút không hài lòng nào.

Huống chi La Đông Nhi, nữ chủ nhân của Dương gia còn tự mình xuất hiện, ký bản khế ước thứ ba với họ, quy định trong khế ước, nếu bọn họ quản lý kinh doanh phần sản nghiệp này thật tốt cho Dương gia, sau mười năm, một phần ba sản nghiệp của Nữ Nhi quốc sẽ hoàn toàn sang tên cho bọn họ. Hai người là một đôi đả thủ, sai vặt trong kỹ viện, thoáng cái biến thành người trên người, cho nên đối với bọn họ cảm kích rơi nước mắt, đương nhiên quyết tâm quản lý, phấn đấu vì Nữ Nhi quốc mười năm sau mà được hưởng vinh quang một đời. 

Dương Hạo nghe vậy không khỏi cười khổ: "Hai cô gái này, phu nhân nhà mình dang tính chủ ý mưu quốc, bọn họ thì vắt hết óc cố gắng suy nghĩ xem nên bảo toàn sản nghiệp nhà mình như thế nào. Có điều như vậy cũng tốt, lưu lại tòa Nữ Nhi quốc này thì có thể bảo trì được sự qua lại thân mật với các vương hầu phu nhân, rất nhiều nam nhân sẽ không đem chuyện của mình ra nói với đồng liêu và bằng hữu, nhưng lại sẽ nói với người nhà của mình, nói không chừng tòa Nữ Nhi quốc này sau này sẽ có tác dụng lớn, dựa vào một phần cảm kích và nghĩa khí để duy trì quan hệ lâu dài, không bằng dùng lợi ích để khống chế bọn họ.

Nghĩ tới đây, Dương Hạo liền cười ha ha: "Ừ, xử trí như vậy cũng được. Vậy là trong thành Khai Phong đã không còn gì phải xử trí nữa rồi, chúng ta bây giờ về phủ đi, thu thập đồ đạc, trước khi trời tối các nàng lập tức xuất thành."

Đông Nhi và Diệu Diệu nhìn về vầng mặt trời đỏ ở chân trời, ngạc nhiên nói: "Hiện tại xuất thành ư?"

"Không sai, chính là hiện tại!"

Đông Nhi vội vàng hỏi: "Quan nhân, xảy ra chuyện gì vậy?"

Dương Hạo cười khẽ một tiếng: "Vừa rồi ta là Lý tướng quân ẩm tửu đàm tiếu, nàng nói xem liệu có chuyện trọng yếu gì không? Chỉ là chúng ta đã quyết rồi thì khởi hành sớm một chút càng thỏa đáng hơn, để tránh đêm dài lắm mộng."

Đinh Ngọc Lạc vội vàng hỏi: "Nhị ca, còn huynh thì sao?"

Dương Hạo nói: "Các người đi trước đi, sáng mai tiễn Tiền vương rồi, nhị ca sẽ xin về hưu một cách phong quang, lúc đó sẽ hợp hợp với các người."

Đông Nhi hoài nghi nhìn hắn: "Đã như vậy, chúng ta hà tất phải gấp nhất thời làm gì? Chúng ta ở lại cùng quan nhân, ngày mai cả nhà chúng ta cùng nhau lên đường."

Dương Hạo cự tuyệt: "Không được, ta nói đi hôm nay là đi hôm nay!"

Đông Nhi và Diệu Diệu thốt lên: "Thiếp không đi!"

Dương Hạo trừng mắt lên, tức giận nói: "Phản rồi! Chúng ta ai là chủ hả?"

Hai nàng bị hắn trừng mắt lườm, không khỏi cúi đầu xuống, lí nhí nói: "Tất nhiên là quan nhân (lão gia) người rồi..."

Dương Hạo nói: "Vậy là được rồi, ta nói hôm nay đi vậy thì hôm nay đi, không muốn đi cũng phải đi. Hiện tại quay về, lập tức thu thập hành trang rồi lên đường."

Đinh Ngọc Lạc do dự một lát rồi nói: "Nhị ca, đã như vậy thì muội ở lại nhé."

Dương Hạo hỏi lại: "Muội ở lại vậy thì ai chiếu ứng cho hai vị tẩu tẩu?"

Đông Nhi và Diệu Diệu vội vàng nói: "Bọn thiếp có thể tự chiếu cố cho mình, không cần ai chăm sóc đâu."

Dương Hạo thở dài một hơi, nói: "Ta biết các người đang lo lắng điều gì, ta đột nhiên quyết định bảo các người đi, còn mình thì đơn độc ở lại, quả thật là có một chuyện cần phải làm rõ, có điều chuyện này đối với ta mà nói thì không có nguy hiểm gì cả, ta chỉ là muốn làm rõ đâu đuôi chân tướng của nó mà thôi, để tiện đưa ra đối sách. Nếu như không có gì bất ngờ, tảo triều ngày mai tiễn Tiền vương đi rồi, ta sẽ từ quan về hưu, thành người tự do, lúc đó tự sẽ tìm các người.

Còn nếu tối nay thực sự có chuyện, nàng nói xem một nhà chúng ta đều lưu lại Khai Phong thì dễ thoát thân hơn hay là một mình ta đi thì dễ thoát thân hơn? Loại địa phương như thành Thượng kinh mới là long đàm hổ huyệt, dị tộc tha hương, chắp cánh cũng khó bay, ta chẳng phải vẫn yên bình trở về ư? Huống chi sau khi các người đi rồi, ta tuy trông thì chỉ có một mình, nhưng còn Trư nhi giúp ta, còn có Phục Thung của Kế Tự đường âm thầm liên lạc với ta, nếu các người cứ khăng khăng ở lại bên cạnh ta, đối với ta không có ích lợi gì cả, ngược lại khiến ta vướng chân vướng tay, không thể hành động tự nhiên. Hiểu chưa?"

Đông Nhi và Diệu Diệu do dự một lúc, quay sang nhìn nhau một cái rồi Đông Nhi mới miễn cưỡng nói: "Vâng, vậy nô gia xin tuân theo sự phân phó của quan nhân, quan nhân... cố gắng bảo trọng."

Đồ đạc ở trong phủ sớm đã được thu thập xong xuôi, xe ngựa cũng đã được chuẩn bị tốt, vừa nói phải đi, đi cũng nhanh. Ngọc Lạc hai năm nay lang bạt thiên hạ, đi đường nghỉ trọ đã cực kỳ quen thuộc, lại có Mục Vũ dẫn mấy thị vệ đi theo, trên đường không có chuyện gì.

Dương Hạo lại gọi Mục Vũ sang một bên, dặn dò hắn vừa ra khỏi thành, lập tức đi cả đêm về phía tây, nhất định phải đưa cả nhà về Lô châu một cách nhanh nhất.

Nhìn xe ngựa đã khuất khỏi tầm mắt, Dương Hạo lập tức lên ngựa, phi về phía đầu kia của ngõ. Ra khỏi ngõ, qua Biện kiều, đầu cuối của con phố dài chính là phủ Khai Phong nguy nga tráng lệ. Dương Hạo tới trước phủ Khai Phong, chỉ thấy sai dịch gác phủ Khai Phong, tiểu La ra ra vào vào vẫn như bình thường, không hề có gì khác lạ.

Dương Hạo vốn vẫn hay lui tới Nam Nhan, tiểu lại gác cửa đều nhận ra hắn, lúc này hắn tuy một thân tiện trang, nhưng vẫn không bị ai ngăn trở. Dương Hạo buộc ngựa xong, hắn lê chân vào cửa lớn của Nam Nha, trên đường đi, một mực chú ý quan sát nhất cử nhất động ở bên trong.

Căn cơ của hắn ở Lô châu, Lô châu vốn không phải là một nơi thích hợp để sinh tồn an cư, nếu không cũng không đến nỗi trải qua bao nhiêu năm mà vẫn là một địa phương thưa thớt bóng người. Hắn có thể dẫn mấy vạn bách tính đóng rễ ở đó, phải tạo ra hình thế vi diệu giữa tây bắc tam phiên và tạp hồ dị tộc, mới có thể như cá gặp nước.

Lô châu, là lợi dụng các phương thế lực đấu đá lẫn nhau, các loại mâu thuẫn chế ngự lẫn nhau mới ở một khu vực vốn tuyệt không thể quản lý mà giành được cơ hội sinh tồn và phát triển, nhanh chóng lớn mạnh. Hiện giờ hắn tuy có thế lực ngầm rất lớn, nhưng chỉ dựa vào khu vực Lô Châu, không có chiến lược đi sâu, không có dư địa quay về, cho dù là có Đảng Hạng thất thị âm thầm chống lưng, căn cơ không ổn, thủy chung khó có thể phát triển xa hơn, mở rộng không gian phát triển và không gian sinh tồn. Lô châu và Phủ châu tuy ủng hộ sự tồn tại của hắn, hòng cắm một cái đinh vào mắt của Hạ châu Lý thị, nhưng tuyệt đối không muốn để thế lực của hắn ngấm sâu vào địa bàn của mình. Mà đối với Hạ châu mà nói, mặc dù Hạ châu hiện giờ nội ưu ngoại hoạn đến sứt

đầu mẻ trán, cũng không phải là hắn vỗ kiếm vung lên, dựng thẳng đại kỳ là lập tức có thể chiến thắng được.

Hắn cần nhiều thời gian hơn, càng nhiều cơ hội hơn. Nếu hắn có thể bí mật quay về Lô châu, dưới tình huống không có cái lo về sau mà giải quyết Ngân châu Khánh vương trước, chiếm cứ được yếu địa chiến lược này, vậy thì trên phương diện ngoại giao, hắn có thể giành được sự ủng hộ của Khiết Đan, đồng thời mở rộng tầm ảnh hưởng của mình ở Tây Bộ.

Xuất phát từ sự lo lắng này, nếu hắn có thể danh chính ngôn thuận rời khỏi Biện Lương, không đến nỗi khiến triều đình lấy cớ đi thảo phạt hắn, vậy thì hắn sẽ có thể không tiếc dư lực mà đi thực hiện, điều này khiến trở lực của hắn giảm đi ít nhất, chế tạo cho hắn một cục diện có lợi hơn, giảm bớt thương vong và chiến tranh tới mức nhỏ nhất.

Nhưng nếu hắn có thể chứng minh Triệu Quang Nghĩa lập tức sẽ động chính biến, vậy thì hắn không thể ung dung chờ đợi được. Dã tâm của Triệu Quang Nghĩa so với Triệu Khuông Dận thì lớn hơn nhiều, lại không có được lòng dạ và sự nhìn xa trông rộng của Triệu Khuông Dận, nếu để hắn xưng đế, với tính tình của hắn, mình rất khó có cơ hội rời khỏi Biện Lương nữa.

Triệu Quang Nghĩa giành được đế vị một cách bất chính phải cố gắng khuếch đại ảnh hưởng của mình một cách nhanh chóng để ngồi vững trên đế vị. Lựa chọn duy nhất chính là kiến lập quân công. Nếu lúc đó Bắc Hán quốc đã bị Triệu Đức Chiêu tiêu diệt, Ngô Việt quốc lại lộ ra vẻ hăng hái quy thuận một cách hòa bình, mà Bắc quốc Khiết Đan lại không thể dễ dàng chiếm được, vậy thì khả năng dùng binh lớn nhất của Triệu Quang Nghĩa chỉ còn lại một nơi: Tây Bắc.

Cho dù Triệu Quang Nghĩa không xuất binh, cơ hội để mình có thể chết già cũng nhỏ tới đáng thương. Dưới sự che chở của Triệu Khuông Dận, tiền quốc quân các nước Đường, Kinh, Hồ, Hán ai ai cũng đều được phong vương phong hầu, được hưởng những năm cuối thái bình ở Khai Phong, nhưng Triệu Quang Nghĩa một khi kế vị, những quốc quân các nước nhìn thì đã không còn uy hiếp gì vẫn khó mà tránh khỏi bị "sống thọ và chết tại nhà" trong tay hắn.

Dương Hạo nhớ rằng, Mạnh Cơ, quốc chủ của hậu Thục lúc đang ăn mừng sinh nhật thì bạo bệnh mà chết, trước đó, cùng ông ta nắm tay nói cười, thống ẩm mừng sinh nhất chính là Nam Nha phủ doãn Triệu Quang Nghĩa. Quốc chủ Lý Dục của nam Đường cũng đột tử vào lúc đang mừng sinh nhật, ngay cả Ngô Việt Tiền vương từ đầu tới cuối chưa từng động một đao một thương với Tống quốc, hai tay dâng cả giang sơn lên cho Tống quốc sau khi quay về Tống quốc, vào lúc mừng sinh nhật cũng đột tử mà chết ,quân chủ có thể sống sót đều là những hôn quân khi còn tại vì thường tác oai tác quái, không để ý một chút nào tới dân tâm của cố quốc.

Dân tâm và danh vọng của Dương Hạo hắn ở Lô châu, Triệu Quang Nghĩa thông qua Trình Đức Huyền e rằng cũng sớm đã biết được rồi, trước đây hắn có thể không để ý, nếu như hắn làm hoàng đế rồi, hắn lại không thể không để ý. Đinh Thừa Tông và nghĩa phụ Lý Quang ở tây bắc hiện giờ sút thế đã lâu,sẵn sàng ra giận, các loại hiện tượng dị thường hiện giờ đều che dấu rất tốt, nhưng không thể một mực khống chế đến mức gió mưa không lọt, đây lại là một uy hiếp khác. 

Nếu hắn hiện giờ không nhanh chóng rời khỏi Biện Lương, ngày sau trong sử sách e rằng sẽ dụng một câu rất không hay để miêu tả lại kết cục của hắn: Phách châu Dương Hạo, từng là một phiên vương của Lô Châu, về hưu, tới Biện Lương tiềm cư. Vào ngày sinh nhật tháng này năm này, được vua ban cho ngự tửu, hôm sau, chết."

Thế là còn tốt đấy, nếu nữ quyến của hắn lọt vào tay Triệu nhị ca, khó đảm bảo được là lại không truyền ra cái gì "Hi lăng hành Đông Nhi đồ", "Hi lăng hạnh diễm diễm đồ..." "Hi lăng hạnh..." nếu như vậy, e rằng một ngàn năm sau, trên mộ phần của hắn đều là một mảng cỏ xanh không ai đoái hoài.

Nghĩ tới đây, Dương Hạo không khỏi lạnh toát người: Đi! Chỉ cần để ta xác nhận được Triệu Quang Nghĩa sắp động thủ, vậy thì lập tức phải đi, vô luận là cục thế của tây bắc hay là tình hình Trung Nguyên, đều không cho phép ta được chậm trễ."

Dương Hạo nghĩ tới đây, hai mắt híp lại, đột nhiên ngẩng đầu lên, thấy Mộ Dung Cầu Túy đang mỉm cười đứng trên bậc đá trước nghi môn, chắp tay nói: "Dương đại nhân, lâu rồi không gặp."

"Quan gia nhân hậu, đề bạt Dương mỗ làm Đại hồng lư, nhưng Mộ Dung tiên sinh cũng thấy rồi đấy, Dương Hạo đã tàn... ài, đi lại khó khăn rồi, không còn hình tượng gì cả, làm sao mà lập được quan uy nữa? Làm sao mà đứng trên triều đường được nữa? Với tuổi này của Dương mỗ, hai năm ngắn ngủi từ một kẻ áo vải trèo lên tới cửu khanh cũng thấy đủ rồi. Ngày mai, bản quan muốn xin từ chức vinh quy với quan gia, từ khi vào kinh đến nay, Dương mỗ nhận được sự hậu ái của Tấn vương thiên tuế, được ngài chiếu cố nhiều, hôm nay đặc biệt tới bái phỏng thiên tuế để tỏ lòng biết ơn."

Mộ Dung Cầu Túy cười nói: "Dương đại nhân quan lộ thuận buồm xuôi gió, tiền trình rộng lớn, tương lai làm tới tướng quốc, dưới một người mà trên vạn người vốn cũng là chuyện trong dự liệu. Chỉ là đại nhân vinh thăng quá nhanh, sĩ đồ thuận lợi, trước đây không có ai bằng, dẫn tới gặp phải thiên kỵ, cho nên mới có nạn này. Hiện giờ đại nhân về hưu với quan chức Đại hồng lư, triều đình tất nhiên vẫn có phong thưởng, nói không chừng có thể phong làm Khai Quốc hầu, đắc thực phong âm, con cháu được nhờ, đời này cũng tính là phong quang vô hạn rồi.

Tống triều tướng vị có thân vương, tự vương, quận vương, quốc công, quận công, khai quốc công, khai quốc quận công, khai quốc huyện công, khai quốc hầu, khai quốc bá, khai quốc tử, khai quốc nam, tổng cộng mười hai loại, người được phong khai quốc hầu đã là người phải lập được công lao cực lớn. Dương Hạo nghe vậy liền vội vàng xua tay, nói: "Không dám, không dám, có thể có được địa vị như ngày hôm nay, Dương mỗ đã thấy thỏa mãn rồi, nào dám tham lam hơn nữa. Đúng rồi, thiên tuế chắc đã làm xong việc công rồi? Bản quan hiện giờ bái phỏng, không biết có làm phiền thiên tuế không?"

Mộ Dung Cầu Túy mỉm cười, nói: "Đại nhân tới không đúng lúc rồi, thiên tuế cùng huyện lệnh Tuấn Nghi Tống đại nhân tới thuần thị Hoàng Hà thủy đạo, thương nghị chuyện mở hà đạo rồi, hiện giờ không có ở trong phủ."

Hắn ngẩng đầu nhìn đàn quạ bay quanh gốc cây, một vầng tà dương còn treo trên ngọn cây, Mộ Dung Cầu Túy ánh mắt chớp động, mỉm cười nói: "Mời đại nhân trước tiên tới Thanh Tâm lâu uống trà đã, thiên tuế chắc cũng sắp về rồi đó."

"Ồ, thiên tuế bận rộn công vụ, chỉ là không ngờ hiện tại hoàng hôn sắp buông xuống rồi mà thiên tuế vẫn phải bôn ba vất vả vì quốc sự." Dương Hạo giả vờ cảm thán, nói: "Bản quan đằng nào cũng đang rảnh, vậy thì đợi thiên tuế vậy."

Hắn mỉm cười, bất động thanh sắc bước qua bậc cửa, thuận miệng hỏi: "Xuân vừa tới, hà đạo nên khai thông một chút, thiên tuế tới đê lúc nào vậy?"

Mộ Dung Cầu Túy nói: "Thiên tuế vừa hạ triều đã tới hà đạo rồi, bận đến nỗi ngựa không ngừng vó, lão thân là phụ tá của thiên tuế, nhưng lại không giúp gì nhiều được cho thien tuế, thực sự là xấu hổ vô cùng."

"Tan triều đã tới sông rồi ư? Vậy người mà ta thấy ở Nhất Tiếu lâu là ai?" Dương Hạo nghĩ thầm trong lòng, nhưng trên mặt thì vẫn mỉm cười rất ung dung. Lững thững bước về phía trước, dõi mắt nhìn xung quanh, Dương Hạo đột nhiên thấy một tên nha sai dắt ngựa vòng qua một con đường ở bên phải, hai mắt Dương Hạo híp lại, chú ý thấy đó là một thớt quân mã, thị lực của hắn rất tốt, lờ mờ thấy trên cổ quân mã có đóng dấu của cấm quan mã quân doanh. Dương Hạo vội vàng thu lại ánh mắt, chỉ vào một gốc cây hoa ở bên cạnh, khen: "Cây hạnh này nở đẹp thật."

Mộ Dung Cầu túy cười nói: "Ha ha, dưới Thanh Tâm lâu, chỗ nào cũng là ngọc lan, đinh hương, không những so với cây hạnh này còn đẹp hơn gấp mười lần, hơn nữa mũi thơm nức mũi, nào nào nào, Dương đại nhân, đi bên này.

Dương Hạo theo Mộ Dung Cầu Túy vào trong viện, không khỏi sảng khoái tinh thần, chỉ thấy một mảng biển hoa, mũi thơm khắp nơi, lập tức khiến người ta tinh thần phấn chấn, trong biển hoa, Thanh Tâm lâu mái cong sừng dựng đã hiện ra trước mắt.

...

Trong điện Vạn Tuế, Triệu Khuông Dận và Tấn vương Triệu Quang Nghĩa ngồi đối diện với nhau.

Huynh đệ vẫn là huynh đệ, nhưng so với trước kia thì lại lãnh đạm hơn mấy phần, tửu yến vẫn là Triệu Khuông Dận đặc biệt dặn dò, thức ăn là đồ mà huynh đệ nhà mình thích ăn nhất, nhưng ăn vào trong miệng lại như là nhai sáp, hoàn toàn không có một chút mùi vị nào. Loại lãnh đạm giữa hai người bọn họ không phải là biểu hiện ở ngoài mặt, mà là tồn tại trong lòng bọn họ, thế là giống như cách nhau một lớp băng, không dễ dàng có thể tan ra như vậy.

Triệu Khuông Dận vừa từ chỗ Triệu Quang Mỹ uống rượu về, hiện giờ ông ta đã là lần thứ tư đến thăm phủ đệ của tam đệ Triệu Quang Mỹ rồi. Từ lúc từ Lạc Dương về, ông ta liên tiếp tới thăm phủ đệ Triệu Quang Nghĩa, người tinh mắt đều nhìn ra, hoàng đế là đang tạo thế nhập sĩ (lên làm quan) cho Triệu Quang Mỹ, e rằng không lâu nữa sẽ dùng hắn.

Triệu Quang Nghĩa cũng vừa từ Như Tuyết phường uống rượu về, sắc mặt cũng giống như đại ca, hơn đỏ ửng. Nghĩ tới sự thân cận của đại ca với tam đệ, sự bồi dưỡng đối với hoàng trưởng tử, nghĩ tới sự lãnh đạm của ông ta đối với mình, nghĩ tới việc đại tướng quân Tào Hàn bị ám sát, nghĩ tới thích khách nam mặc nữ tranh, tên tiếp ứng tay cầm đại kiếm trong quân, trong lòng cũng ngổn ngang trăm mối.

"Nào, nhị đệ, uống thêm một chén nào."

Triệu Khuông Dận phá tan sự im lặng, nâng chén nói với Triệu Quang Nghĩa. Sự trầm lặng của Triệu Quang Nghĩa bị ông ta nhìn thành sự kháng nghị không lời đối với mình. Ông ta rất cao hứng, nhị đệ rất lâu rồi không vào cung tìm ông ta, hiện giờ hắn tới rồi, có thái độ còn mạnh hơn là không có thái độ, hắn có thể biểu lộ sự bất mãn của bản thân ra ngoài, vậy hai huynh đệ còn có thể thổ lộ tình cảm.

Gia nghiệp khổng lồ đều có thể chia, nhưng bá nghiệp đế vương lại không thể chia cho người nhà được, hoàng đế chỉ có thể có một người, đợi khi mình già rồi, tuổi của nhị đệ cũng không còn nhỏ nữa, mình tính toán để nhi tử tiếp vị, tất nhiên là không phải không có lòng riêng, nhưng điểm này cũng là một lý do để ông ta hạ quyết tâm, tin rằng chuyện nói ra rồi, nhị đệ cho dù bất mãn, nhưng ngày tháng trôi qua, có lẽ ân oán cũng sẽ trôi theo mây khói.

"À, đại ca, mời!" Triệu Quang Nghĩa miễn cưỡng nâng chén lên, hơi tỏ ý với Triệu Khuông Dận, ngẩng đầu uống cạn.

"Nhị đệ..." Triệu Khuông Dận trầm ngâm nói: "Từ lúc từ Lạc Dương về, huynh đệ ta đây là lần đầu tiên đơn độc ẩm yến."

"Đúng vậy." Triệu Quang Nghĩa cười khổ, nói: "Từ lúc từ Lạc Dương về, đại ca ngày đêm bận rộn quốc sự, huynh đệ làm sao dám tới làm phiền?"

Triệu Khuông Dận trầm mặt một lát, đứng dậy, từ trên long thư án lấy một ngọn đèn, quay về ngồi lên bàn tiệc, đặt đèn ở trước mắt, ánh đèn chiếu sáng gương mặt vuông vắn rất giống nhau của hai huynh đệ. Ánh mắt của Triệu Quang Nghĩa có chút lấp lánh, lập tức né tránh ánh mắt của Triệu Khuông Dận.

Triệu Khuông Dận ánh mắt ngưng trọng, hỏi: "Nhị đệ, đệ sao vậy?"

Triệu Quang Nghĩa cúi đầu nói: "Không sao cả, chỉ là... rất lâu rồi không cùng ẩm tửu với đại ca, hôm nay ngồi đây, không ngờ lại có chút không tự nhiên." Nói xong, hắn rụt bàn tay đang hơi run run của mình vào trong tay áo.

Triệu Khuông Dận mỉm cười, nâng chén lên nhấp, sau đó đặt chén rượu xuống rồi vuốt râu than: "Nhị đệ, chỗ này không có người ngoài, hai huynh đệ chúng ta có khúc mắc gì, thì cứ nói đi đừng ngại. Từ thời Đường mạt tới nay, một quốc gia hưng thịnh, một quốc gia diệt vong, lập một vua, diệt một vua, nhấp nhô lên xuống, cứ giống như trò đùa. Nếu không thể tiếp nhận sự giáo huấn của tiền nhân, đại ca cũng chẳng qua là một trong những đế vương hưng vong trong chốc lát mà thôi. Tống quốc ta cũng chẳng qua là chư hầu một phương không đáng được nhắc đến trong sử sách.

Vi huynh tính toán mọi cách mới có được thành quả ngày hôm nay, thiên hạ ổn định, bốn biển bình yên. Nhưng nếu muốn ổn định và hòa bình lâu dài, thì phải có một quy củ, xác lập hoàng trữ kế thừa, chính là sự căn bản để triều đình được lâu dài." Ông ta vỗ đùi mình, nói: "Nhị đệ, bảo tọa này, ai mà không muốn ngồi chứ? Nhưng cuối cùng người có thể ngồi lên cũng chỉ có một mà thôi. Tâm ý của đệ, vi huynh không hẳn không biết, nhưng hôm nay vi huynh phá lệ truyền ngôi vua cho ngươi, ngày sau giữa huynh đệ, chú cháu, liệu vẫn có người làm theo lệ này hay không? Liệu có người vì thế mà khiến huynh đệ hoàng thất tàn sát lẫn nhau, hậu hoạn vô thường hay không?"

Triệu Quang Nghĩa lo sợ nói: "Đại ca, huynh đệ không hề có ý tranh giành bảo tọa, đại ca..."

Triệu Khuông Dận giơ tay lên ngắt lời hắn, kích động nói: "Nhị đệ, huynh đệ chúng ta, hôm này thẳng thắn nói ra ý kiến của mình, được không?"

Triệu Quang Nghĩa hơi ngây người, nói: "Được!"

Triệu Khuông Dận cầm chén lên uống cạn, ánh mắt của Triệu Quang Nghĩa ở đối diện không khỏi hơi lấp lánh, có chút khẩn trương giơ chén lên, cũng một hơi uống cạn. Triệu Khuông Dận trầm giọng nói: "Từ cổ chí kim, cách lập trữ luôn luôn không bao giờ thập toàn thập mỹ, duy có chọn người thích hợp lâu dài làm lựa chọn.

Thương vương triều huynh chết đệ lên, từ đó về sau đời đời huynh đệ tranh giành, dẫn tới loạn chín đời, cuối cùng là mất nước. Nhà Chu giành được thiên hạ, châm biếm nguyên nhân triều Thương bị diệt vong là Ân Trụ hoang dâm, không có chữ tín. Chu công lấy cái này làm gương, lập đích không lập trưởng, lập trưởng không lập hiền. Từ đó mới có tông pháp, lễ pháp, cương kỷ thiên hạ, tiếp nhận đạo đức trên dưới, từ đó về sau, để con nối tiếp đế vị là chế định mà trăm vua không đổi.

Kỳ thực Chu công cũng được, đại ca của đệ cũng được, có ai mà không biết rằng lập hiền hơn hẳn lập đích, nhưng... duy có chế định truyền cho con, có sự phân biệt giữa đích và thứ mới có thể dập tắt được ham muốn của người thiên hạ. Không lập con trưởng thì khó mà tránh khỏi khiến thiên hạ tranh giành nhau.

Hơn nữa có tài đức và không có tài đức, khó mà phân rõ được, đệ cho rằng hắn có tài đức, người khác chắc gì đã cho rằng hắn có tài đức, lại có kẻ giỏi dối trá, lúc chưa lên bảo tọa thì nhìn thấy là một nhân tài, sau khi đăng cơ cũng chẳng qua là như vậy, không thể trước sau đều vẹn toàn được, đây không phải là vấn đề mà lập hiền có thể giải quyết được.

Nếu áp dụng kế sách lập hiền không lập đích, nhưng phàm là kẻ muốn tranh vị, ai chịu nói rằng mình không phải là kẻ hiền?Kẻ dùng soán nghịch chiến loạn để đoạt vị, tất nhiên có kẻ hiền, nhưng kẻ hiền đúng là có thật, nhưng hôn quân bạo tàn thì lại không thiếu, phải không?

Lấy nam triều Tiêu Diễn mà nói, cùng với loạn Hầu Cảnh, trong hàng con cháu của Lương Vũ Đế Tiêu Diễn, không biết có bao nhiêu kẻ tự cho rằng mình xứng đáng với ngôi vị hoàng đế, thực ra chỉ là bọn hoàng khố tử đệ giá áo túi cơm, ai ai cũng cầm binh tự giữ mình, thấy chết không cứu, tàn sát lẫn nhau. Kết quả là người thân thì đau mà kẻ thù thì vui, bị bắc nhân chê cười là đồ khỉ. Gia quốc thiên hạ, gia quốc thiên hạ, chỉ cần một ngày vẫn là gia quốc thiên hạ, vậy thì lập đích không lập trưởng, lập trưởng không lập hiền chính là sự lựa chọn duy nhất. Mặc dù nó cũng không phải là kế sách vạn toàn, nhưng là thủ đoạn tốt nhất để bảo chứng gia quốc thiên hạ có thể tiếp tục tồn tại. Lựa chọn lập trữ, càng đơn giản rõ ràng thì càng tốt, một khi rối ren phức tạp, sẽ có tình trạng mượn cớ xuất quân, chiến loạn không ngừng, vì đế vị mà tranh chấp không thôi, lệ này nếu bị thay đổi, bách tính ắt sẽ không có một khắc được yên bình. Dùng cách lập tử lập đích, chính là làm lợi cho thiên hạ hậu thế..."

Nói tới đây, Triệu Khuông Dận cảm thương nói: "Nhị đệ, ngươi theo đại ca nhiều năm, lại quản lý Khai Phong mười năm, tài năng của ngươi, Đức Chiêu làm sao sánh bằng, đại ca trong lòng hiểu rõ. Nhưng cho dù bỏ đi tư tâm, nếu như không phải là vạn bất đắc dĩ, đại ca cũng không thể chọn ngươi làm trữ. Hiện giờ thiên hạ đã thái bình, đại ca nhiều năm hao tổn tâm huyết, vứt bỏ ảnh hưởng chính trị thời Đường, không để phiên trấn địa phương tự cai quản, chỉ cần không nổi nội loạn, Triệu gia ta thế nào cũng ngồi yên ổn nắm giang sơn hai ba trăm năm. Nhưng chư vương họ Triệu vì đế vị mà tàn sát lẫn nhau, không quá hai chục năm, thiên hạ sẽ đổi chủ. Đại ca chính là lo lắng về chuyện này cho nên mới lựa chọn như vậy."

Hắn rót đầy một chén rượu cho Triệu Quang Nghĩa, lại rót cho mình một chút, cầm chén nói: "Nhị đệ, hôm nay đại ca thật tâm giãi bày, hi vọng nhị đệ có thể minh bạch sự khổ tâm của đại ca. Ta và đệ huynh đệ đồng tâm, cùng giữ gìn giang sơn Triệu Tống. Nhị đệ nếu hiểu rõ sự khổ tâm của đại ca, tiếp nhận sự lựa chọn của đại ca, vậy thì xin hãy uống hết chén này."

Triệu Quang Nghĩa hơi do dự, sau đó chậm rãi đưa hai tay ra, cầm lấy chén rượu.

Trong mắt Triệu Khuông Dận lộ ra vẻ vui mừng, giơ chén về phía hắn, nói: "Cạn!" Nói xong liền ngẩng đầu lên uống cạn.

Triệu Quang Nghĩa lại vẫn chưa uống, chỉ nhìn chằm chằm vào Triệu Khuông Dận, Triệu Khuông Dận nhíu mày, kinh ngạc nói: "Nhị đệ, đệ...?"

Sắc mặt của Triệu Quang Nghĩa trầm xuống, nói: "Đại ca, huynh đệ còn có một việc, muốn ở ngay trước mặt đại ca hỏi cho minh bạch, khúc mắc này một khi chưa giải, huynh đệ giống như mang gạch trên lưng, như nghẹn trong cổ, chén rượu này, bất kể là như thế nào cũng không thể nuốt xuống được."

Triệu Khuông Dận nghe vận liền giãn mặt, cười nói: "Nhị đệ cứ nói đi, đại ca sẽ tri vô bất ngôn."

Triệu Quang Nghĩa hơi rướn người về phía trước, trầm giọng hỏi: "Đại ca, đại ca ruột của ta, nếu huynh nhân chí nghĩa tận như vậy với huynh đệ, không biết... Thích khách ở Lạc Dương ngày đó... tại sao lại có?"

Trên mặt hắn không khỏi lộ ra nụ cười nhạt, dưới ánh đèn, nụ cười đó hơi có chút co quắp, lộ ra vẻ dữ tợn.

Dương Hạo nhìn thấy sắc trời đã tối, tia mặt trời cuối cùng đã sắp biến mất, liền đặt chén trà xuống, đứng dậy nói: "Mộ Dung tiên sinh, xem ra thiên tuế nhất thời sẽ không về phủ rồi, Dương mỗ về trước vậy, ngày mai sau khi từ quan, lại tới bái kiến thiên tuế."

Mộ Dung Cầu Túy đứng dậy cười nói: "Như vậy cũng được, vậy lão hủ xin được tiễn Dương đại nhân."

Mộ Dung Cầu Túy đưa Dương Hạo ra khỏi Thanh Tâm lâu, tới thẳng trước nha môn. Dương Hạo không dám lộ ra thần sắc nóng vội, lê cái chân què khập khiễng rời khỏi Nam Nha, chắp tay cáo từ với Mộ Dung Cầu Túy, đợi hắn lên ngựa rồi, chậm rãi giật cương ngã phóng đi, vòng ra khỏi thị tuyến của Mộ Dung Cầu Túy mới đánh ngựa, hối hả phi đi.

Mộ Dung Cầu Túy vuốt râu, thở phào một hơi, dõi mắt nhìn về phía trời cao ảm đạm, lẩm bẩm: "Lúc này, chắc đã động thủ rồi đây."

Lão lại nhìn về phía Lạc Dương ở xa xa, lẩm bẩm: "Tướng công, ngài đối với Mộ Dung có ơn chi ngộ, phần nhân tình này, Mộ Dung sẽ nhớ kỹ trong lòng. Nhưng Mộ Dung già rồi, cho dù tướng công trở lại tướng vị, Mộ Dung cũng khó mà có cơ hội xuất đầu nữa. Nhưng... nhưng hiện giờ lại khác rồi, công theo rồng, công theo rồng.... Ân tướng, Mộ Dung xin lỗi ngài..."

Dương Hạo rẽ tới góc tường Nam Nha liền giục ngựa phóng thẳng tới ngự nhai.

Người đi lại trên đường như mắc cửi, Dương Hạo không đi được nhanh, kiên nhẫn lắm mới tới được ngự nhai, liền phóng nhanh về phía ngọ môn.

Hắn nhớ thủ quân ngọ môn mặt mũi lạ lẫm, trong đó còn có một người tựa hồ như xuất thân từ Nam Nha, do đó không dám tới gần, chỉ lòng vòng ở xung quanh. Nhìn thấy ở phía bên trái sư tử đá dựng một cỗ kiệu lớn, Dương Hạo liền chậm rãi đi tới, kéo cương ngự hỏi: "Hay cho một cỗ kiệu lớn, đây là vị tướng công nào vẫn còn làm việc ở trong cung vậy?"

Một kiệu phu đang ngồi trên đất, lười biếng liếc một cái về phía hắn, thấy một con ngựa đen trong bóng tối, trên ngựa là một văn sĩ áo xanh, sắc trời đã tối mờ, cũng không nhìn rõ tướng mạo, liền xua xua tay, nói: "Đi đi đi, tế tướng ngồi được kiệu lớn này ư? Đây là kiệu của Tấn vương thiên tuế đó."

"A, thì ra là vậy, đắc tọi, đắc tội."

Dương Hạo xin lỗi một tiếng rồi phóng ngựa bỏ đi. Dương Hạo đi tắt qua đường nhỏ rồi rẽ trái rẽ phải, càng đi càng nhanh, khi tới Kim Lương kiều ở thành tây, trên trời đã có một vầng trăng nhô lên. Dương Hạo đột nhiên kéo cương ngựa, cúi đầu nhìn trăng sáng lay động theo mặt nước đang lăn tăn, trầm ngâm suy nghĩ.

"Đi, lập tức đi thôi, ta không phải sớm đã quyết định, chờ Triệu Quang Nghĩa hành động là ta liền lập tức ly khai sao? Còn do dự cái gì nữa?"

Hắn giục ngựa vòng một vòng trên đầu cầu, khiến cho mấy người đi đường mắng to: "Sắc trời đã tối còn phóng ngựa trong thành, kiện ngươi lên quan cho ăn ba mươi hèo bây giờ..."

Dương Hạo cũng không thèm để ý, trong lòng đang đấu tranh dữ đội, giữ tiền trình an nguy của mình và sự kính trọng ái hộ của hắn đối với đối thủ Triệu Khuông Dận trên một loại ý nghĩ nào đó, khó khăn đưa ra lựa chọn.

"Lý trí một chút đi nào, cho dù ta quay lại, thì có tác dụng gì? Nếu Triệu Quang Nghĩa vẫn chưa động thủ, một chút đầu mối này của ta liệu có thể coi là chứng cứ để hướng tới hoàng đế mà tố cáo huynh đệ ruột của ông ấy không? E rằng... e rằng ta ngay cả cửa cung còn chưa tiến vào được thì đã bị thị vệ ở cửa cung ngăn lại rồi.

Kẻ không có đạo đức, chuyện đi cướp vợ người ta; ở Giang châu đồ sát cả thành, giết người vô số, thiên hạ thái bình lâu rồi, nhưng vẫn cứng ngắc không thay đổi, chống cự ở bên trong. Bắc phạt thất bại, vứt bỏ mấy chục vạn đại quân mặc cho người ta tàn sát, từ đó bỏ luôn chí giành lại U Yên. Hắn làm hoàng thượng, liệu có làm tốt thơn Triệu Khuông Dận được không? Ta có thể cải biến tây bắc, nhưng liệu có thể thay đổi được Trung Nguyên không? Nếu nhất định phải có một đối thủ, ta thà lừa chọn dạng nhất đại hùng chủ như Triệu Khuông Dận còn hơn. Nhưng.. hiện tại tới còn kịp không?"

Dương Hạo ngẩng mặt lên trời, dưới trời chỉ có một vầng trăng, sáng trong như ngọc, ánh sáng xanh hắt xuống, chiếu lên mắt hắn.

Dương Hạo hít sâu một hơi đột nhiên thúc mạnh bụng ngựa, kiện mã ngẩng đầu lên trời hí dài một tiếng rồi tung vó lao về hướng trong thành...

Chương 397:Trộm trời

Trong điện Vạn Tuế, rượu tàn thịt lạnh, đèn đuốc chập chờn.

Triệu Khuông Dận ôm bụng dưới, hơi thở mong manh, ánh mặt phẫn nội nhìn huynh đệ cùng một mẹ của mình, sắc mặt lộ ra vẻ vàng vọt kỳ dị.

Triệu Quang Nghĩa khuôn mặt co quắp, mặc dù hắn muốn cố gắng trấn tĩnh lại, nhưng thủy chung khó mà che giấu được vẻ mặt khẩn trương và sợ hãi, mặc dù đại ca của hắn đã tới nước này, ngay cả khí lực bò dậy cũng không có, nhưng hắn vẫn không dám tới gần một bước.

Nếu không có đại ca của hắn, Triệu Quang Nghĩa ngày hôm nay có thể vẫn phải sống trong Lạc Dương giáp mã doanh, trong quan phủ chỉ có một chức vị tiểu lại, sống nốt quãng đời còn lại như vậy. Tất cả những gì hắn có lúc này đều là đại ca của hắn truyền cho, sự uy nghiêm của Triệu Khuông Dận đã ăn sâu vào trong xương cốt của hắn, chỉ cần còn một hơi thở, sự kính úy của hắn đối với huynh trưởng thủy chung vẫn còn.

Đây chính là chuyện khiến hắn thấy ảo não nhất, cho dù hắn cảm thấy mình anh minh ngút trời, nhưng chỉ cần nhìn thấy Triệu Khuông Dận, hắn lại bất giác nhớ ra, ở trước mặt hắn còn có một người, chỉ cần còn sống một ngày, sẽ vĩnh viễn đứng trên đầu hắn. Hắn chỉ có thể dùng giọng nói độc ác để che giấu sự ảo não và sợ hãi của mình, ngang ngược gầm lên: "Đại ca, cho dù huynh không có ý giết ta, nhưng chuyện ngày hôm nay, huynh đệ ta cũng tuyệt không hối hận."

Hắn nắm chặt song quyền, phẫn nộ nói: "Ta cũng muốn huynh nhường đệ kính, làm một đệ đệ ngoan, nhưng ta càng muốn được làm một hoàng đế tốt, được ca tụng vạn thế.

Thiên hạ này là ta và đại ca cùng nhau giành được, bằng vào gì mà phải truyền cho nhi tử của huynh, để con cháu của huynh đời đời làm cửu ngũ chí tôn, còn ta và cháu chắt của ta lại phải xưng thần với cháu chắt của huynh?"

Triệu Khuông Dận lẩm bẩm: "Huynh đệ chúng ta... cùng nhau đánh hạ giang sơn."

"Không sai!"

Triệu Quang Nghĩa phất mạnh tay, kích động đến nỗi mặt đỏ bừng: "Đại ca, huynh biết lúc đó là ai ngụy tạo quân tình, nói rằng Khiết Đan xuất binh phạt biên cảnh Chu quốc ta, mới khiến đại ca huynh lĩnh binh xuất chinh được không? Là ta! Là Triệu Quang Nghĩa ta! Huynh biết lúc đó là ai âm thầm thương nhị với bọn Triệu Phổ, Cao Hoài Đức, Thạch Thủ Tín, Vương Thẩm Diễm ở Trần Kiều khoác hoàng bào lên người huynh, đưa huynh lên làm hoàng đế không? Vẫn là ta, là Triệu Quang Nghĩa ta!"

Triệu Khuông Dận trợn trừng mắt, nhìn về phía huynh đệ của của mình giống như là chưa từng quen biết, cho dù tự tai nghe hắn nói ra, ông ta vẫn không dám tin nhị đệ năm đó mới gần hai mươi tuổi, một mực vâng vâng dạ dạ ở bên cạnh mình lại có tâm cơ và thủ đoạn như vậy.

Ánh mắt của Triệu Quang Nghĩa có chút trở nên điên cuồng, miệng run rẩy, nói: "Là ta, đều là ta làm. Đại ca huynh tuy có một thân bản sự, lập được nhiều chiến công hiển hách, có được sự ủng hộ của đại tướng các lộ, nhưng nếu không phải là ta, huynh có thể trở thành khai quốc chi quân hay không? Thế Tông mất sớm, cô nhi quả mẫu nắm triều đình, Phù thái hậu là hạng nữ lưu, hoàng đế thì là một thằng nhãi bảy tuổi, có thể nắm vững được giang sơn hay không? Huynh bị ngốc à? Thứ chỉ trở tay là có được, huynh không đi tranh, huynh mà không tranh, sớm muộn gì nó cũng rơi vào tay người khác."

Triệu Quang Nghĩa lớn gan hơn một chút, bước gần thêm hai bước, gầm khẽ: "Thạch Thủ Tín, tiết điện sứ kiêm điện tiền đô chỉ huy sứ, Trương Lệnh Phong, tiết độ sứ kiêm thị vệ bộ quân đô chỉ huy sứ, chức vị đều tương đương với huynh; Cao Hoài Đức, tiết độ sứ kiêm điện tiền đông tây ban đô chỉ huy sứ, còn có Triệu Ngạn Huy, binh quyền và chức vị của bọn họ đều hơn huynh. Ngoài ra còn có Trương Quang Hoàn, Vương Thẩm Diễm, Hàn Trọng Thải, Lý Kế Huân, Vương Ngạn Thăng, có ai mà không phải là kẻ tay nắm trọng binh, tài cao khí ngạo?

Chỉ có huynh, chỉ có chiến công và uy vọng trọng quân của huynh mới có thể áp chế được họ, nhưng nếu huynh không làm hoàng đế, còn làm trở ngại tiến trình của họ, huynh biết bọn họ liệu có coi huynh là một vật cản phải một cước đá bay hay không? Trong loạn thế, một anh minh chi chủ đều chưa chắc đã có thể cầm chắc được bảo tọa của mình, huống chi là một thằng nhóc mới bảy tuổi? Ai chịu bán mạng cho hắn chứ, nếu không phải là ta thương nghị với chư vị tướng quân, nâng đỡ huynh lên đăng cơ tọa điện, ngồi lên giang sơn, liệu có Triệu quan gia của ngày hôm nay không? Huynh sớm đã bị người ta thay thế, biến thành một đống xương khô từ lâu rồi!"

Triệu Quang Nghĩa nắm chặt quyền đầu, từng bước tiến lại gần, hung hăng nói: "Rõ ràng người được lợi là huynh, nhưng huynh lại cứ làm ra bộ dạng canh cánh trong lòng, oán hận người bên cạnh bắt huynh phải gánh nỗi oan to lớn này. Đó là hoàng đế mà! Đó là cửu ngũ chí tôn mà! Vì thế, cho dù bị người thiên hạ thóa mạ thì tính là gì chứ?

Ta, ta mới là đệ nhất khai quốc công thần của Đại Tống, nhưng công lao này của ta lại chẳng được nhắt tới. Hiện tại huynh biết rồi chứ? Nếu như không có ta thì không có Triệu quan gia huynh, không có một Đại Tống nhất thống Trung Nguyên! Thiên hạ này vốn nên thuộc về ta! Bằng vào gì mà phải truyền cho nhi tử của huynh?"

Triệu Khuông Dận cười thảm: "Đã như vậy, ngươi sao không nói thẳng ra, ta liền nhường cho ngươi làm hoàng đế. Vậy thì sao chứ?"

Triệu Quang Nghĩa vẻ mặt cứng đờ, không nói gì cả.

Triệu Khuông Dận thở hổn hển, trong mắt lộ ra ý vị giễu cợt: "Bởi vì ngươi biết ngươi không được, có phải không? Bởi vì chỉ có ta mới có thể áp chế được những kiêu tướng tay nắm trọng binh, kiêu ngạo bất tuân đó, còn ngươi thì không được. Trăm phương ngàn kế của ngươi, thủy chung cũng chỉ là vì bản thân ngươi, cái mà ngươi cho ta, lại không phải là thứ mà ta muốn, đại ca ta đây vì sao phải cảm kích ngươi?"

Ông ta mắt lệ chứa chan, nói khẽ: "Nhị đệ, bảo tọa hoàng đế thật là quan trọng như vậy ư? Quan trọng tới mức phải vứt bỏ cả tình thân? Ngươi dùng độc giết chết anh ruột, đoạt bảo tọa đế vương lạnh căm đó. Người thiên hạ sẽ phục ngươi ư? Thủ đoạn này, người độc ác như thế này, có thể trở thành bá chủ một phương ư?"

"Vì sao lại không thể?"

Triệu Quang Nghĩa cười lạnh, kích động đến nỗi cả người run rẩy: "Ta có thể quản lý Khai Phong đâu ra đấy, lại có thể quản lý Đại Tống giống như mặt trời giữa trưa, giết huynh soán vị thì sao? Dương Quảng giết huynh giết cha, tất nhiên là hôn quân vong quốc, nhưng Dương Kiên, Lý Thế Dân thì sao? Dương Kiên chính là đoạt hoàng vị của ngoại tôn tám tuổi; Lý Thế Dân thì càng tâm ngoan thủ lạt hơn, bố trí ám sát huynh đệ ruột thịt. Năm đứa con của Lý Kiến Thành, năm đứa con của Lý Nguyên Cát, đứa lớn mới chỉ hơn chục tuổi, đứa nhỏ còn đang bú sữa, toàn bộ đều bị hắn giết hết, ngay cả em dâu của Tề Vương phi trẻ tuổi xinh đẹp cũng bị hắn chiếm làm của riêng. Hắn thậm chí còn thay đổi sử thư, nói thái tử Lý Kiến Thành và Tề vương Lý Nguyên Cát là gian trá vô năng. vậy thì sao chứ? Hắn là một đại minh quân, thập cổ đế vương."

Hắn chậm rãi bước tới trước mặt Triệu Khuông Dận, hơi cúi người xuống, da mặt không khống chế được mà run rẩy, nói khẽ: "Nếu lúc đó ở trạm dịch Trần kiền, huynh kiên trì muốn làm một người tốt, làm một trung thần, vậy thì sẽ thế nào? Sẽ có huynh của ngày hôm nay không? Không đâu, huynh hoặc là bị Phù thái hậu giết chết, hoặc là bị chư tướng cùng đường giết chết, làm gì có được Đại Tống khai quốc chi chủ ngày hôm nay?

Đại ca, người đại gian đại ác chắc gì đã không thể trở thành một hoàng đế tốt, mà một người tốt, chắc gì đã có thể làm được một hoàng đế tốt, làm một người tốt và làm một hoàng đế tốt, đó là hai việc hoàn toàn khác nhau. Vì sao huynh sắp chết rồi mà vẫn chưa chịu hiểu vậy?"

Thân hình của Triệu Khuông Dận run lên, đột nhiên dồn hết sức lực còn lại, nắm lấy áo bào của Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa sợ đến nỗi cả người run bắn lên, rụt người lại muốn nhảy ra, nhưng đột nhiên hóa thành chân tay cứng đờ, ngay cả sức để nhảy ra cũng không có.

Triệu Khuông Dận nằm ở đó, mặt ở ngay gần chân hắn, chỉ cần giơ chân lên là có thể đá trúng, nhưng hắn không có gan này, sợ đến nỗi run giọng nói: "Buông ra, huynh buông ra."

Triệu Khuông Dận nắm chặt lấy áo bào của hắn, thấp giọng mà có lực, nói: "Đối xử thật tốt với vợ, con của ta! Ngươi phải... phải đối xử... tốt với vợ con ta."

Triệu Quang Nghĩa vội vàng thoát thân, nói: "Cái mà ta muốn chỉ là hoàng vị, có thể làm gì với họ chứ. Ta... đáp ứng."

Triệu Khuông Dận vẫn nhìn chằm chằm vào hắn, Triệu Quang Nghĩa bị nhìn cho tim lạnh buốt, không dám phản kháng, thế là vội vàng giơ ba ngón tay lên, hướng lên trời mà thề: "Ta đáp ứng huynh, nhất định sẽ đối đãi tốt với vợ con của huynh, nếu trái lời thề sẽ phải chết nơi hoang dã, thân nằm trong bụng dã thú!"

Triệu Khuông Dận mắt nhìn chằm chằm vào hắn, nói với giọng gắng gượng nhưng rõ ràng: "Tốt, ta nhớ lời hứa của ngươi, ngươi nếu làm trái lời thề, ta dù làm quỷ cũng tuyệt không bỏ qua cho ngươi!"

Triệu Quang Nghĩa miễn cưỡng mỉm cười, nói: "Vua không nói chơi!"

Trong lúc nói, hắn vô thức ưỡn ngực lên, lúc này hắn mới ý thức được, hắn đã không còn phải sợ đại ca nữa, càng không cần phải cúi người trước mặt ông ta, đại ca sắp chết rồi, hắn mới là chủ nhân sau này của Trung Nguyên.

"Tốt! Tốt! Tốt!"

Triệu Khuông Dận thở dài, ngẩng mặt nằm trên đất, si ngốc nhìn trần nhà, lẩm bẩm: "Ngày trước xách một cây côn, lang bạt thiên hạ, ta không hề chết. Đầu nhập quân ngũ, bách chiến sa trường, ta không hề chết. Thực không ngờ, giờ đã là hoàng đế, lại bị nhị đệ giết chết!"

Mắt ông ta ứa lệ, gào lên thảm thiết: "Thực sự không ngờ, giờ đã là hoàng đế lại bị nhị đệ giết chết!"

Tiếng rống phẫn nộ này dọa cho Triệu Quang Nghĩa mặt trắng bệch, liên tiếp lui ra sau, không ngờ còn đập cả người vào bàn rượu. Con anh vũ đang bám lên góc vuông trên trần nhà mà ngủ cũng bị tiếng rống này làm cho tỉnh dậy, may mà chim khi ngủ toàn thân thả lỏng, trọng lượng tất nhiên trầm xuống làm căng cơ bắp phần chân, hai móng nắm chặt, cho nên mới không bị rơi xuống.

Đại khái là vẫn còn mơ màng, hoặc là chán ghét tửu khí khắp phòng, con anh vũ rũ rũ lông, giương cánh bay ra ngoài. Triệu Quang Nghĩa đang hoảng hốt không thôi hoàn toàn tậm trung sự chú ý lên người Triệu Khuông Dận, chỉ sợ ông bật dậy đả thương người, không ngờ lại không hề phát giác ra con anh vũ.

Nhưng Triệu Khuông Dận không hề nhảy dậy, sau tiếng rống này, hai mắt ông ta trợn tròn, không ngờ đã tuyệt khí rồi.

Triệu Quang Nghĩa khẩn trương nhìn ông ta, mắt không chớp lấy một cái, một lúc sau hai chân mới nhũn ra, ngột bệt xuống giữa đống bát đĩa, run giọng nói: "Cái mà ta cho huynh, huynh không cần. Cái mà huynh cho ta, ta cũng không cần, huynh không cho ta cái ta cần, vậy thì huynh đệ chỉ đành tự mình lấy vậy. Thiên hạ huynh đã ngồi rồi, cửu ngũ chí tôn huynh cũng làm rồi, huynh còn có gì mà không hài lòng nữa. Huynh... huynh cứ an tâm mà đi đi, từ nay về sao, cái gì nên là của ta sẽ thuộc về ta."

Gió đêm vi vút, khi Dương Hạo quay về tới Ngự nhai thì cả người đã đẫm mồ hôi.

Phía trước là hoàng cung nguy nga của Đại Tống, Dương Hạo đột nhiên kéo cương ngựa đứng ở đó.

Lúc này hắn đột nhiên nhớ tới một vấn đề vô cùng quan trọng: Làm thế nào để thông tri cho Triệu Khuông Dận?

Xông vào cung? Xông vào được không? Cho dù không bị người ta lập tức chém thành thịt băm, nếu như Triệu Khuông Dận chưa chết, vậy thì để có cái ăn nói với hoàng đế và văn võ toàn triều, Dương Hạo hắn cũng chỉ có chết. Nếu Triệu Khuông Dận đã chết rồi, vậy thì lần này chẳng phải là tự chui vào miệng cọp sao? Còn có thể sống sót mà trở ra hay không?

Có thể tìm ai? Có thể đi tìm ai?

Dương Hạo khẩn trương suy nghĩ, Ngụy vương Triệu Đức Chiêu vốn là nhân tuyển tốt nhất, đáng tiếc hắn hiện giờ đang lĩnh binh ở bên ngoài. Triệu Quang Mỹ? Trước giờ mình không có quan hệ với hắn, hắn liệu có tin lời mình nói hay không? Hơn nữa, hắn hiện giờ không có quan chức gì, làm sao mà ngăn cản được Triệu Quang Nghĩa?

Còn có ai nữa?

Dương Hạo gấp đến nỗi đầu đầy mồ hôi, đột nhiên nhớ tới người duy nhất có tiếng nói trong triều đình mà hắn quen: La Công Minh. Nhưng lão gia hỏa này gian trá như cáo, lão có chịu ra mặt không? Đây chính là mạo hiểm mất đầu đó.

Nghĩ đi nghĩ lại, Dương Hạo đột nhiên nhớ tới một nhân vậy, thế là liền nghiến răng giục ngựa phóng đi.

Điện Vạn Tuế, màn trướng chợt vén lên, nội thị đô tri Vương Kế Ân lách ra như u linh, hắn vẫn khiêm ti cúi mình, lặng lẽ ngồi xuống cạnh Triệu Quang Nghĩa, liếc Triệu Khuông Dận mặt vàng như nghệ một cái, rồi khom mình với Triệu Quang Nghĩa đang ngây ngốc ngồi đó, nói nhỏ li ti: "Quan gia."

Nghe thấy cách xưng hô này, gương mặt trắng bệch của Triệu Quang Nghĩa hồi phục lại vẻ hồng hào, hắn đã tỉnh lại rồi, từ trên đất bò dậy, xốc lại tinh thần rồi mới hổn hển nói: "Đều chuẩn bị xong rồi chứ?"

Vương Kế Ân cười xiểm nịnh: "Quan gia yên tâm, trên dưới điện Vạn Tuế này, người không liên quan đều sớm đã bị nô tài đuổi ra rồi, những người ở lại đều là người tuyệt đối có thể tin tưởng, còn cửa cung các nơi, nô tỳ cũng đều an bài tốt rồi."

"Được, được. Đây là tiền trình mất đầu, ngươi đối cô... à không, đối với trẫm trung tâm cảnh cảnh, trẫm sẽ không bạc đãi ngươi đâu, tất cả cứ theo kế mà hành sự."

"Tuân lệnh... à, nô tì tuân chỉ."

Vương Kế Ân cười siểm nịnh dạ một tiếng, hai nghĩa tử của hắn lập tức tiến vào, hai tiểu hoàng môn khênh thi thể của Triệu Khuông Dận dậy, đặt lên giường mềm ở phía sau bình phong, lại quét dọn gian phòng, dựng lại bàn rượu lên, bố trí thành bộ dạng như vừa ăn xong.

Mà Vương Kế Ân thì triệu hồi những nội thị bị hắn đuổi đi về, sau khi tất cả được chuẩn bị thỏa đáng Vương Kế Ân gật đầu với Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa liền cao giọng nói: "Đại ca, huynh đệ say rồi, không uống nữa. Thôi... thôi đệ về đây."

"Ha ha, nhị đệ cứ về đi.. về đi. Hôm sau huynh đệ chúng ta lại ẩm yến tiếp."

Thanh âm này không ngờ lại là thanh âm của Triệu Khuông Dận, người nói là một nghĩa tử của Vương Kế Ân. Tiểu nội thị này học được tuyệt kỹ bắt chước giọng nói rất tuyệt diệu, ngữ khí giọng điệu ồm ồm hào phóng y như Triệu Khuông Dận, còn mang thêm mấy phần hàm hồ vì đã ngà ngà say, bắt chước thực sự là giống như đúc.

Triệu Khuông Dận chân chính thì lúc này nằm trong ngọc cung, thi thể lạnh dần, phía trước có một người, người này đang bắt chước giọng của hắn, nghe mà rợn cả tóc gáy. Nến đỏ đã cháy hết một nửa hắt bóng của bọn họ lên tường, càng lộ ra vẻ đáng sợ u linh như quỷ hồn, nhưng mấy người ở trong cuộc thì rõ ràng là không có cảm giác này.

Triệu Quang Nghĩa diễn kịch xong, liền nhìn xoáy vào Vương Kế Ân một cái, sau đó xoay người bước ra cửa, vừa ra khỏi cửa điện, chân liền lảo đảo, mắt lờ đờ, hai tiểu nội thị vội vang bước lên đỡ.

"Người đâu, mang tỉnh tửu thang tới, hầu hạ trẫm trẫm đi ngủ!"

Khi Triệu Quang Nghĩa lảo đảo bước ra khỏi tẩm cung, trong cung lại truyền ra thanh âm hào phóng của Triệu Khuông Dận, sau đó trong trướng vang lên tiếng ngáy như sấm, cung nữ, thái giám thị hầu ở bên ngoài đều nghe rõ mồn một.

"Vị tráng sĩ này, ngươi muốn gì?"

Lô Đa Tốn từ trong mộng tỉnh lại, chỉ thấy trong buồng đã sáng đèn, phía trước có một người áo đen che mặt đang đứng, tay cầm kiếm, không khỏi vừa kinh ngạc lại vừa sợ hãi. Có điều hắn dẫu sao cũng làm quan nhiều năm, vẫn cố giữ được bình tĩnh, vội vàng đẩy nàng thiếp đang ôm ở trong lòng ra, cố gắng trấn tĩnh ngồi dậy.

"Đứng lên, lập tức mặc y phục vào. Ngươi, cút ra xa một chút!"

Người dạ hành đó ồm ồm nói, hắn lật chăn ra, dùng sống kiếm vỗ một cái lên đùi nàng thiếp mười sáu mười bảy tuổi đang hoa dung thất sắc, run lẩy bẩy như cầy sấy đó, dọa cho nữ tử nọ ngã xuống đất, eo phấn cổ tuyết, ngực sữa đẫy đà, dưới lớp áo lót mảng manh như cánh ve như ẩn như hiện, khiến cho nàng ta vội vàng dùng tay che những chỗ xấu hổ mà áo lót không che được.

Lô Đa Tốn biến sắc, trầm giọng nói: "Tráng sĩ nếu muốn tiền tài thì cứ mặc sức mà lấy, nếu là tới ám sát đại thần triều đình, ngươi chắc cũng biết, thiên hạ tuy lớn, nhưng không có chỗ cho ngươi dung thân đâu."

Người dạ hành bật cười một tiếng quái dị, mắt sáng lấp lánh, quát khẽ: "Bản nhân không phải là cần tiền, cũng không cần sắc, mà là tới để đảm bảo tiền trình của ngươi, đảm bảo tiền trình của Đại Tống."

"Cái gì?" Lô Đa Tốn vừa kinh ngạc lại vừa nghi hoặc, hỏi: "Tiền... tiền trình gì?"

Triệu Quang Nghĩa quay về phủ, bọn thân tín Tống Kỳ, Cổ Diễm, Trình Vũ, Mộ Dung Cầu Túy, Trình Đức Huyền sớm đã đợi ở Thanh Tâm lâu, vừa thấy Triệu Quang Nghĩa, đám tâm phúc không hẹn mà cùng đứng bật dậy, hai mắt phóng ra ánh sáng khẩn trương nỏng bỏng, nhưng thấy Triệu Quang Nghĩa, nhất thời lại không hỏi ra được nửa chữ.

Triệu Quang Nghĩa thở hắt ra một hơi, nói: "Đại sự đã thành được một nửa rồi, hiện giờ cứ yên lặng chờ tin lành."

Tất cả tâm phúc nghe thấy câu này không hẹn mà cùng thở phào nhẹ nhõm, Triệu Quang Nghĩa bước thẳng tới chủ vị rồi ngồi xuống. Thấy trước mặt sớm đã có sẵn một bình trà, liền cầm chén lên rót, miệng bình chạm vào chén trà, phát ra tiếng leng keng rất nhỏ, bàn tay đó không ngờ thủy chung vẫn không giữ được ổn định.

Mọi người đều nhìn nhau, chậm rãi vây lại bên cạnh hắn, Triệu Quang Nghĩa đặt bình trà xuống, cố gắng trấn định lại rồi mỉm cười: "Chuyện đã tới nước này rồi còn khẩn trương làm cái gì. Ha ha, các ngươi đều ngồi xuống đi."

Mọi người dạ một tiếng, mặt miệng đều lộ ra nét cười, chỉ là nét cười đó có chút gượng ép, Mộ Dung Cầu Túy nghĩ một chút rồi đột nhiên nói: "Thiên tuế, tối hôm nay, Đại hồng lư Dương Hạo từng tới phủ bái phỏng."

Triệu Quang Nghĩa vừa giơ chén lên, nghe thấy vậy không khỏi ngây người, dừng tay lại, nói: "hắn tới làm gì?"

Mộ Dung Cầu Túy nói: "Dương Hạo nói hắn chân cẳng đi đứng không tiện, quyết ngày mai từ quan, hôm nay đặc biệt tới từ biệt thiên tuế."

Nói tới đây, hắn mỉm cười, nói tiếp: "Người này đối với thiên tuế thủy chung như gần như xa, không ra sức vì thiên tuế, hiện giờ đã thành tàn phế mới nghĩ tới đến ôm chân thiên tuế, thực sự là đáng cười. Lão hủ nói thiên tuế sau khi tan triều đã đi gặp Tống đại nhân của huyện Tuấn Nghi, cùng nhau đi tuần thị đường sông rồi, hắn đợi lâu không chờ được nên đã đi rồi."

Triệu Quang Nghĩa nghe vậy liền biến sắc trầm giọng nói: "Bản vương đại sự sắp đến, trong lòng thấp thỏm, khó giữ được bình tĩnh, lúc chiều từng tới Như Tuyết phường, đối ẩm nghe đàn với Liễu đại gia để làm hòa hoãn cõi lòng."

Hắn dừng một lát rồi lại gằn từng chữ: "Bản vương lúc quay về từng chạm mặt với Dương Hạo."

Mộ Dung Cầu Túy nghe vậy không khỏi ngớ người, lúc sau mới gượng cười, nói: "Thiên tuế sau khi tan triều chưa hề về nhà, cho nên lão hủ tất nhiên không biết được tung tích của thiên tuế. Thiên tuế từ đường sông về, thân thể mệt mỏi, liền tới Như Tuyết phường tiêu khiển một phen, lấp liếm như vậy cũng được mà."

Triệu Quang Nghĩa đột nhiên đứng bật dậy, chắp tay đi đi lại lại trong Thanh Tâm lâu một lúc, đột nhiên dừng bước, quát: "Vũ Tích."

Trình Đức Huyền bước lên trước, ôm quyền nói: "Có thuộc hạ."

Triệu Quang Nghĩa nói: "Ngươi lập tức dẫn người tới phủ Dương Hạo, đem cả nhà..."

Triệu Quang Nghĩa chặt tay xuống, Trình Đức Huyền hiểu ý, gật đầu một cái, quay người bước ra khỏi Thanh Tâm lâu.

Triệu Quang Nghĩa bước tới cạnh cửa sổ, đẩy cửa ra ngắm trăng. Ánh trắng trong sáng như nước, trong lòng hắn lại dậy sóng, lẩm bẩm: "Ngày hôm nay trôi qua chậm quá, mặt trời ngày mai lúc nào mới nhô lên đây?" 

Một cỗ kiệu lớn dọc theo ngự nhai kẽo kẹt tiến về phía ngọ môn, tám kiệu phu không ngừng đổi vai, trong lòng thầm kinh ngạc: Bình thương khiêng dễ dàng lắm mà, Lô tướng công hôm nay sao lại biến thành nặng thế?"

Trong kiệu, người áo xanh bịt mặt, đương triều tể tướng Lô Đa Tốn và Như phu nhân Nhược Tửu mà hắn sủng ái nhất chen chúc thành một đống. Nhược Tửu cô nương bị trói gô như cái bánh tét, miệng thì bị nhét vải, đôi mắt đẹp đang trợn to, kinh hãi nhìn người áo xanh ngồi ở giữa kiệu, trong tay cầm một thanh kiếm sắc sáng quắc, ngay cả thở mạnh cũng không dám.

Cánh mũ của mũ quan trên đầu Lô Đa Tốn dài gần bằng vương gia, lúc này chỉ có thể ngồi nghiêng, hắn nhìn người áo xanh ở giữa, hỏi khẽ: "Tráng sĩ, ngươi rốt cuộc là ai vậy?"

Người áo xanh ồm ồm nói: "Chớ có hỏi nhiều."

Lô Đa Tốn nuốt bước bọt, lắp bắp nói: "Tráng sĩ, ngươi cầm lợi kiếm, lại che mặt, căn bản không thể tiến vào cung được đâu."

"Ta căn bản không cần vào cung."

Người áo xanh cười lạnh: "Ta chỉ muốn bức ngươi vào cung, ngươi vào cung rồi, chung quy cũng phải có một lý do để ăn nói với quan gia, nói rõ rằng ngươi vì sao đang đêm lại vào cung, phải không? Không cần lo lắng, ngươi không cần phải gánh trách nhiệm gì cả, chỉ cần đem những lời mà ta đã nói với ngươi nói thẳng lại với hoàng đế, có Như phu nhân ở trong kiệu làm chứng cho ngươi, đủ để chứng minh tất cả đều là xuất phát từ sự bức bách của ta, ngươi có được sự nể trọng của quan gia, quan gia cho dù là kiếm được chứng cứ gì từ người ngươi thì cũng sẽ không trách tội ngươi đâu."

Lô Đa Tốn vội vàng ừ một tiếng, ánh mắt liên tiếp chớp động, không biết là đang nghĩ cái gì.

Người áo xanh đó mắt không nhìn nghiêng, nhưng lại rõ tâm tư của hắn như lòng bàn tay, cười lạnh nói: "Ngươi đừng phí công suy nghĩ làm gì, bản nhân kiếm thuật thông thần, ra vào phủ đệ của ngươi như chốn không người, ngươi chắc rõ bản sự của bản nhân rồi. Ngươi dám tính kế linh tinh, bản nhân cho dù là ở trước mặt cấm vệ ngọ môn lấy cái đầu trên cổ ngươi cũng dễ như trở bàn tay thôi, không chỉ ngươi phải chết, ả ta cũng phải chết. Đôi uyên ương các ngươi không còn được hưởng phú quý nhân gian nữa mà phải tới âm tào địa phủ để tiếp tục ân ái đó."

Lô Đa Tốn cả người run bắn lên, vội vàng nói: "Không dám, không dám, chuyện này với nước với vua đều chỉ có ích chứ không có hại. Vô luận là thật hay giả đều không ngại thử một lần, Lỗ mỗ ăn lộc của vua, nhận ơn sâu của vua, cho dù phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng cũng không từ, sao lại mang tâm tư khác chứ."

Tới ngọ môn rồi, cấm vệ đứng canh ngạc nhiên quát một tiếng: "Giờ thượng triều còn lâu mới tới, đây là vị đại nhân nào mà sao lại đêm khuya tới cửa cung?"

Người áo xanh vung vẩy kiếm trong tay, nói: "Lần này xông vào cung, chuyện thành thì ngươi có công hộ giá, chuyện bại thì là người vì bị thích khách áp nhập cung, nói chung không có hại gì cho ngươi cả, bản nhân có bản lĩnh lấy đầu tướng quân trong trăm vạn quân, cho dù là đứng ở đây, muốn giết ngươi cũng rất dễ dàng, hi vọng ngươi có thể suy nghĩ cho kỹ."

Lô Đa Tốn nuốt nước bọt, chậm rãi vén một góc rèm kiệu lên, mỹ thiếu Nhược Tửu nép vào góc kiệu, mắt đen lúng liếng nhìn quan nhân của mình, rồi lại nhìn sang tên áo xanh đang ngồi cầm kiếm, lộ ra vẻ mặt vô cùng đáng thương.

Lô Đa Tốn thò nửa người ra, vô thức ngoái lại nhìn một cái, người áo xanh lật tay, kiếm sắp đã đặt ngang lên cổ ái thiếp của hắn, dọa cho Nhược Tửu sợ đến nỗi co lại thành một khối, trong con mắt to tròn lập tức ứa lệ, Lô Đa Tốn nghiến răng rồi cả người cứng đờ bước ra.

"Ái chà, là Lô tướng gia à. Giờ vẫn là nửa đêm khuya khoắt, ngài hình như thượng triều hơi sớm thì phải?"

Lô Đa Tốn cố nặn ra một nụ cười, vô thức lại nghiêng đầu nhìn rèm kiệu lặng lẽ phủ kín ở đằng xa, nói: "Bản tướng có quốc sự khẩn muốn bẩm tấu với quan gia."

"Cái gì?"

Tên giáo úy gác cửa mặt lộ ra vẻ khó xử: "Tướng gia à, nửa đêm khuya khoắt, cấm cung đã khóa rồi, chưa đến bình minh, không được phép mở. Cái này... tướng gia cũng biết mà."

Lô Đa Tốn cười nhạt một tiếng, nói: "Quy củ là quy củ, quan gia có bao giờ chú ý đến những quy củ chết này đâu? Những năm gần đây, quan gia nửa đêm triệu kiến đại thần cũng không phải là một hai lần. Triệu tướng công lúc xa thường nhiều lần nửa đêm vào cung, sớm đã có tiền lệ rồi, sao đổi thành bản quan thì lại không được?"

Giáo úy đó cười gượng, nói: "Lô tướng gia, Triệu tướng gia nhập cung cũng phải có quan gia hạ chỉ tuyên triệu mới được, Lô tướng gia không được triệu mà tới..."

Lô Đa Tốn nhướn mày, nói: "Bản tướng đã nói rồi, có chuyện vô cùng khẩn cấp nên không thể không tới. Ngươi rảnh rỗi ở đây om sòm với bản tướng, cớ sao không vào cung mà hỏi ý của quan gia đi, nếu làm chậm trễ việc của lão phu, ngươi gánh nổi không?"

Một giáo úy ở bên cạnh âm trầm nói: "Lô tướng gia, có chuyện gấp gì mà phải ngay đêm vào cung thế này? Quan gia hiện giờ đã ngủ rồi, bọn ta chỉ là tiểu giáo gữ cửa, kinh nhiễu bệ hạ, không gánh nổi tội đâu."

Người áo xanh ở trong kiệu vén một góc kiệu lên nhìn tình hình ở ngọ môn, dưới ánh đèn, chỉ thấy tiểu giáo đang nói chuyện chính là người mà hắn thấy có chút quen mặt đó, từng là một thuộc lại làm việc trong Nam Nha.

Lô Đa Tốn híp mắt lại, trầm giọng hỏi: "Quan gia thức khuya dậy sớm, thường xử lý công vụ cho tới tận đêm khuya, ngươi là một tiểu giáo giữ cửa, làm sao biết được quan gia đã ngủ hay chưa?"

Giáo úy đó cười hi hi, nói: "Tối nay quan gia giữ Tấn vương thiên tuế lại ở trong cung ẩm yến, quan gia ẩm tửu với huynh đệ, uống say vừa mới ngủ. Hiện giờ thiên tuế đã rời đi rồi, quan gia làm gì có chuyện chưa ngủ.

Lô Đa Tốn biến sắc, thất thanh nói: "Tấn vương thiên tuế đã đi rồi sao?"

Giáo úy đó nói: "Đi chắc được khoảng một tiếng rồi."

Dương Hạo ở trong kiệu nghe thấy vậy trong lòng không khỏi trầm xuống. Tấn vương đã đi rồi sao? Trừ phi là hắn không hạ thủ ngày hôm nay, Sở Chiêu Phụ hoán phòng mới vào, một ban trực ba ngày. La Khắc Địch nhanh nhất cũng phải hai ngày mới về, trừ ngày hôm nay, ngày mai cũng là thời cơ thích hợp nhất để động thủ. Trời cao phù hộ, chỉ mong hắn vẫn chưa động thủ.

Lô Đa Tốn nghe nói Tấn vương đã rời đi, trong lòng liền chấn động. Chuyện mưu nghịch soán vị mà người áo xanh đó nói, thực sự là nghe mà khiến tim hắn đập thình thịch.

Thật lòng mà nói, hắn căn bản không muốn chen vào chuyện trong nhà của hoàng thất, hắn đã là vị cực nhân thần (ý nói làm quan tới mức cao nhất( rồi, bất kể là ai đăng cơ làm đế, để ổn định lòng dân xã tắc, tạm thời đều không thể động tới những lão thần như hắn, bằng vào bản lĩnh của hắn, chẳng lẽ không thể giành được lòng tin của tân đế ư?

Nhưng ý nghĩ xấu xa này chỉ có thể chôn sâu ở trong lòng, không biết là một chuyện, biết rồi mà không làm thì lại là một chuyện khác, cho nên dưới sự bức bách của lợi kiếm, hắn mới ỡm ờ tới đây.

Hiện giờ nghe nói Tấn vương đã rời khỏi cung, Lô Đa Tốn lập tức nghĩ rằng, nếu hiện tại cường hành xông vào cung, mà quan gia đang ngủ ngon, hắn nói rõ nỗi khổ, quan gia tất nhiên sẽ không trách tội hắn, nhưng cũng sẽ không nhận được lợi ích gì. Nếu quan gia thật sự đã băng hà, vậy thì hắn hiện tại tự tiện xông vào cung, người hạ chỉ bảo hắn vào là ai? Không vào thì hậu hoạn vô cùng, mà vào thì càng hung hiểm hơn, trừ phi phụ ngịch làm đồng đảng của kẻ soán vị ra, còn không thì kiểu gì cũng mất đầu, cả nhà bị giết, thanh danh một đời trôi theo mây khói.

Lô Đa Tốn tâm tư chuyển động cực nhanh, trong một lát đã nghĩ ra rõ sự lợi hại trong đây, cân nhắc lợi hại được mất, hắn đột nhiên nắm lấy tên giáo úy mặt cười mà da không cười đứng đối diện với hắn, kéo một cái về phía mình, hai người thoáng chốc đã đổi vị trí cho nhau.

Tên giáo úy bị hắn túm liền ngây người ra: Hôm nay Lô tướng gia nhã hứng không cận, định ở ngọ môn chơi đánh vật với ta ư?

Lô Đa Tốn kéo một cái đổi vị trí, rồi rùn người xuống, dùng tên giáo úy che trước người, cao giọng hô: "Trong kiệu có thích khách, trong kiệu có thích khách, chư vị binh sĩ, mau mau bắt lấy hắn!"

"Thiên tuế, thiên tuế!" Trình Đức Huyền thở hổn hển chạy về Nam Nha: "Người của Dương gia đã biến sạch, không thấy một ai cả.

"Cái gì?" Triệu Quang Nghĩa đứng bật dậy.

Cổ Diễm nhíu mày, nói: "Thiên tuế, đại sự quan trọng, một Dương Hạo thì làm được gì? Chuyện này giao cho bọn thuộc hạ đi, lập tức chấp hành kế hoạch thứ hai, khống chế chính thành!"

"Được!"

Triệu Quang Nghĩa nghiến răng cười gằn: "Ta không tin chỉ một Dương Hạo có thể làm hỏng đại sự của ta! Các ngươi lập tức đi làm đi!"

Cổ Diễm, Trình Đức Huyện ôm quyền thưa: "Vâng!" rồi lập tức hối hả chạy ra ngoài.

Lúc này lại có một tâm phúc hớt hải chạy vào, nói: "Thiên tuế, Vương đô tri trong cung tới rồi."

Triệu Quang Nghĩa biến sắc, nói: "Mau mời!"

Còn chưa kịp mời thì Vương Kế Ân đã lên tới Thanh Tâm lâu, vừa thấy Triệu Quang Nghĩa liền nói: "Thiên tuế, chuyện bệ hạ băng hà, trong cung đã biết rồi."

Triệu Quang Nghĩa bước vội lên đón, hỏi: "Nương nương có chủ trương gì?"

Vương Kế Ân nói: "Khóc lóc thảm thiết ở trong cung, nhưng tinh thần chưa loạn, lệnh cho nô tỳ xuất cung, triệu Lô, Lữ, Tiết ba tướng vào cung."

"Hả?"

Triệu Quang Nghĩa vẻ mặt ngưng trọng, cười lạnh nói: "Nương nương làm vậy là sao?"

Vương Kế Ân hạ thấp giọng, gằn từng chữ một: "Bí mật triệu hoàng trưởng tử Đức Triêu hồi kinh."

Triệu Quang Nghĩa ngẩng mặt lên cười lớn: "Giỏi cho một Tống hoàng hậu. Đi! Chúng ta vào cung!"

Trình Vũ, đám người Mộ Dung Cầu Túy vây quanh Triệu Quang Nghĩa lập tức ra khỏi cung, chiến mã ở dưới lâu đã được chuẩn bị đầy đủ, ai lên ngựa nấy, phi nhanh về phía hoàng thành. 

Chương 398:Đổi ngày 

Dương Hạo đã suy nghĩ vô cùng chu toàn cho Lô Đa Tốn, khiến hắn "bị ép" phải vào cung cảnh bảo cho Triệu Khuông Dận, vô luận thành hay không thành, có tên "thích khách" như mình đây, hắn sẽ không có tội gì cả. Lô Đa Tốn là bác học đại nho, lại nhận được sự coi trọng của quan gia, vì sự an nguy của quốc gia, không có lý nào lại không chịu đồng ý.

Nhưng ngàn vạn lần không ngờ rằng, Lô Đa Tốn lại ở ngay trước mặt mọi người làm lộ hành tung của hắn, dưới sự kinh ngạc và tức giận, Dương Hạo phá kiệu lao ra, chém giết một hơi thoát khỏi trọng vây, sau đó chạy vào trong ngõ. Khi hắn tìm đường về lại gần phủ đệ của Lô Đa Tốn, tìm con ngựa mà mình buộc ở bên đường, nhảy lên kiện mã rồi giục ngựa phi về hướng tây, đột nhiên thấy trong thành có hai nơi bốc lửa, trong bóng đêm tăm tối càng thêm rõ rệt vô cùng.

Lập tức, không biết từ đâu đột nhiên xông ra vô số sai dịch, người của tả hữu quân tuần thị cũng chạy khắp phố, tốc độ phản ứng so với khi hắn làm hỏa tình viện trưởng thì còn nhanh hơn cả chục lần. Án chiếu theo quy định bảo hiểm hỏa hoạn mà hắn chế định lúc đó, một khi nổi lửa, lập tức thủ tiêu chợ đêm, người không phận sự lập tức về nhà, giới bị chín cổng, tìm nguyên do đám cháy, chỉ có quan binh phòng hỏa, nha dịch công sai cùng với xe cứu thương được phép đi lại, lần này Dương Hạo nửa đêm nửa hôm một mình cưỡi ngựa trên đường lập tức trở nên bắt mắt.

Dương Hạo một mình cưỡi ngựa, mục tiêu quá rõ ràng, do bất đắc dĩ nên chỉ đành bỏ ngựa, men theo đường nhỏ mà đi. Lúc này hắn phát hiện, nha sai, địa bảo, tráng đinh cầm qua của phủ Khai Phong đang xộc vào tất cả các ngõ. Dương Hạo đi xuyên qua một ngõ nhỏ, phía trước gần như đã đầy là lính tuần tra, Dương Hạo chỉ đành giấu mình ở trong ngõ rồi tùy thời mà hành động.

Quả nhiên một lát sau, lại thấy phía trước có một chiếc xe lớn phi tới, cũng hướng về phía tây mà đi, bị mấy lính tuần tra chặn lại, người trong xe cũng không biết là lấy ra tín vật gì, mấy tên lính tuần tra cầm đuốc lên soi xong, lập tức hiện ra vẻ cung kính, vội vàng nhường đường.

Dương Hạo thấy vậy trong lòng không khỏi rúng động, đợi khi chiếc xe đó đi vào ngõ, hắn để ngựa và xe đi qua, sau đó thì nhẹ nhàng như linh viên, đột nhiên từ phía sau bánh xe lách vào, hai tay bám lấy gầm xe, thân hình dính chặt vào đó.

Bánh xe lộc cộc, Dương Hạo ép mình vào gầm xe, khẩn trương nhìn xung quanh, chỉ thấy người đi lại trên đường rất ít, xe thỉnh thoảng lại bị chặn lại, có điều sau khi kiểm tra tín vật, chiếc xe này luôn luôn có thể đi thông suốt không bị ngăn trở, phương hướng cũng là một mực tiến về phía tây. Dương Hạo lúc này mới cảm thấy dần dần yên tâm hơn.

Lúc này, hắn đoán rằng Triệu Khuông Dận đã bị hại rồi, Triệu Quang Nghĩa đúng như ý nguyện, đã sắp có thể ngồi lên bảo tọa của hoàng đế.

Nhưng hắn lúc này lại không hề mất tinh thần vì bị thất bại, trong lòng ngược lại còn dâng lên huyết khí sôi trào: "Lịch sự vẫn đi tiếp theo con đường vốn có của nó ư? Không, tuyệt đối là không! Thay đổi rồi, đã thay đổi ra, nếu không thay đổi thì tự ta sẽ thay đổi. Triệu Quang Nghĩa, hắn không xứng! Ta nhất định sẽ đá hắn xuống khỏi bảo tọa mà hắn vốn không xứng đáng được ngồi lên! Nhất định!"

Điện vạn tuế, Tống hoàng hậu phục trước giường, gào khóc không thôi. Bà ta năm nay hai mươi tư tuổi, tuổi còn trẻ mà lại phải làm góa phụ, vị đại quân yêu thương bà ta đã mất rồi, mình lại chưa hề sinh hạ một đứa con nào, sau này man trường tuế nguyệt, thâm cung lạnh lẽo, làm sao mà sống được đây?

Đang khóc rất thương tâm thì ngoài điện đột nhiên truyền tới một tràng tiếng bước chân gấp rút. Tống hoàng hậu lập tức lau nước mắt rồi đứng dậy. Bà ta tuy là hạng nữ lưu, nhưng dẫu sao cũng vào cung mấy năm, tôi luyện lâu ngày trong hoàng cung, tất nhiên người bình thường không thể sánh bằng. Bà ta biết rõ lúc này không phải là lúc khóc lóc thảm thiết, gia sự của hoàng đế chính là quốc sự, hiện giờ hoàng trưởng tử lĩnh binh ở bên ngoài, bà ta nếu hoang mang lo sợ, vô kế khả thi, giang sơn này sẽ sinh biến.

"Nương nương!"

Vương Kế Ân tiến vào, cúi người thi lễ.

Tống hoàng hậu vội vàng bước lên trước hỏi: "Lô tướng, Lữ tướng, Tiết tướng đến rồi à?"

Vương Kế Ân lui ra sau một bước, chậm rãi hướng sang bên cạnh, nói: "Nương nương, ba vị tướng gia không tới, thế nhưng... Tấn vương thiên tuế tới rồi."

Tống hoàng hậu nghe vậy, sắc mặt lấp tức trắng bệch như tờ giấy, lại thấy Triệu Quang Nghĩa bước nhanh vào trong, mặt mày bi thương nói: "Tẩu tẩu, thần đệnghe tin... hoàng huynh... băng hà rồi ư?"

Tống hoàng hậu kinh hãi lui ba bước, ánh mắt nhìn chằm chằm vào Vương Kế Ân, Vương Kế Ân cúi người, khóe miệng hơi nhếch lên, dưới ánh đèn lờ mờ lộ ra vị đạo âm hiểm.

Tống hoàng hậu run lập cập, thầm biết đại thế đã mất, quyết đoán rất nhanh, rùn người làm lễ về phía Triệu Quang Nghĩa, khóc lóc nói: "Bệ hạ... đã băng hà rồi, tính mệnh của nữ tử ta, sau này đều phải giao phó cho quan gia rồi."

Triệu Quang Nghĩa thấy bà ta thức thời như vậy, trong lòng mừng thầm, vội vàng lách người tránh lễ, vái dài nói: "Chúng ta là người một nhà, tất nên cùng giữ phú quý, nương nương đừng lo lắng quá!"

Tống hoàng hậu cười buồn bã, quay người lại phục trước giường Triệu Khuông Dận, bị thương gào lên: "Bệ hạ..." rồi lập tức khóc ngã ra đất.

Triệu Quang Nghĩa lặng lẽ bước tới cạnh giường, quỳ xuống, không dám nhìn lên giường lấy một cái, chỉ giả vờ khóc lớn.

Vương Kế Ân rón rén bước tới cạnh hắn ta, nói khẽ: "Thiên tuế, hoàng thượng đã lên trời rồi, nước không thể một ngày không có chủ, hiện giờ triều đình duy có thiên tuế là đức cao vọng trọng, có được sự ủng hộ của bá quan vạn dân, có thể kế thừa bảo tọa. Mong thiên tuế thuận theo thay đổi, sớm lên hoàng vị để vỗ yên thiên hạ, chớ có thương tâm quá độ, làm tổn hại tới long thể."

Tống hoàng hậu nghe thấy vậy thì càng khóc lóc thê thảm hơn. Triệu Quang Nghĩa lau nước mắt, để Vương Kế Ân đỡ dậy, nghẹn ngào nói: "Giang sơn xã tắc, nặng nề biết bao, hoàng huynh để lại trọng trách lớn như vậy, Quang Nghĩa làm sao mà nhận cho được. Tâm huyết một đời của hoàng huynh, nên làm thế nào mới tốt đây? Vương đô tri, đi bảo người may áo tang cho tiên hoàng. Mời Lô Đa Tốn, Lữ Thâu Khánh, Tiết Cư Chính, tam tướng vào cung cùng bản vương lo liệu hậu sự cho tiên hoàng."

Vương Kế Ân cung kính nói: "Nô tỳ tuân chỉ."

Triệu Quang Nghĩa bước tới trước mặt Tống hoàng hậu đang phục dưới đất mà khóc lóc, nhẹ nhàng đỡ bà ta lên, ôn nhu noi: "Hoàng hậu, sáng sớm bá quan vào triều, sẽ phải chiếu cáo phó văn cho tiên hoàng, hoàng hậu phải bảo vệ phượng thể mới đúng. Người đâu, đỡ hoàng hậu về cung nghỉ ngơi."

Nhìn bóng dáng cứ đi một bước lại quay đầu lại một lần của hoàng hậu khuất xa, khóe miệng Triệu Quang Nghĩa lộ ra nụ cười âm lãnh, trầm giọng nói: "Triệu điện tiền ti hổ tiệp quân đô chỉ huy sứ Sở Chiêu Phụ tấn kiến."

Sở Chiêu Phụ mặc khôi giáp, cước bộ len keng chạy vào trong cung. Triệu Quang Nghĩa đã đứng ở ngoài đợi, vừa thấy Triệu Quang Nghĩa, Sở Chiêu Phụ lập tức khóc lóc quỳ xuống đất vái lạy, bi thương thốt lên: "Quan gia..."

Tiếng gọi này không biết là đang khóc tiên đế hay là đang bái kim thượng.

Triệu Quang Nghĩa đỡ hắn dậy, nuốt lệ nói: "Hoàng huynh bạo bệnh qua đời, đã lên trời rồi, Sở tướng quân... hiểu không?"

Sở Chiêu Phụ bi thương nói: "Lão thần vừa nghe nói rồi, không ngờ quan gia thân thể một mực long tinh hổ mãnh, mà lại..."

Triệu Quang Nghĩa ho khan một tiếng, Sở Chiêu Phụ giật bắt mình, vội vàng ngừng khóc. Triệu Quang Nghĩa u buồn nói: "Hoàng huynh cả đời chinh chiến, sớm đã có bệnh cũ. Từ lúc xưng đế tới nay, thức khuya dậy sớm, ngủ không ngon giấc. Hiện giờ lại dùng hết sinh lực để lo chuyện quốc sự, thủy chung không được nghỉ ngơi, cho nên có bạo bệnh ngày hôm nay...."

Sở Chiêu Phục không dám ngẩng đầu lên, liên tục nói: "Vâng..., vâng..."

Triệu Quang Nghĩa nhẹ nhàng thở dài một tiếng, lại nói: "Nước không thể một ngày không có vua, tiên hoàng mất sớm, hoàng tử lại chưa thành niên, bản vương sao nỡ để tâm huyết một đời của hoàng huynh phải tan thành mây khói, thật sự dù bất đắc dĩ nhưng vẫn phải gắng gượng mà làm, quyết tâm nhận lấy phần trọng nhiệm này, không biết... Sở tướng quân có nguyện phụ tá bản vương hay không?"

Sở Chiêu Phụ mới chỉ nghe được một nửa đã hiểu được tâm ý của hắn, lúc này nào dám lộ ra nửa phần do dự. Triệu Quang Nghĩa vừa dứt lời, Sở Chiêu Phụ đã bốp một tiếng quỳ xuống đất, cao giọng nói: "Lão thần nguyện hiệu trung với quan gia, thề chết gìn giữ Đại Tống."

Triệu Quang Nghĩa sắc mặt trở nên hòa hoãn, vội vàng đỡ lão dậy: "Lão tướng quân trung tâm cảnh cảnh, trẫm... tất nhiên là tin tưởng ngươi. Ái khanh mau mau bình thân, chính trị quốc gia đang là lúc càn người, trẫm quyết định đề bạt lão tướng quân là xu mật phó sứ, thủ quân trong ngoài hoàng thành đều thuộc tiết chế của ngươi, không có khẩu dụ của trẫm, không được rời khỏi bản doanh, ai tự ý hành động, giết!"

Sở Chiêu Phủ giật bắn người, run giọng nói: "Vâng!"

Triệu Quang Nghĩa lại nói: "Tiên hoàng vừa băng hà, kinh kỳ chấn động, trẫm ban một đạo thánh chỉ, ngươi cho thêm xu mật quân ấn, tới nơi đại quân đang phạt Hán đóng quân, bảo Ngụy vương lập tức khinh kỵ về kinh chịu tang.

Ngoài ra, xu mật viện bố trí công văn, hiện giờ tất cả binh mã, trong thời gian quốc tang, không có chiếu thư do chính trẫm viên và xua mật phủ ấn thì không ai được điều động một binh một tốt!"

"Lão thần tuân chỉ." Sở Chiêu Phụ hành quân lễ với hắn, rồi quay người bước ra ngoài.

Xe đi càng lúc càng xa, trên đường người đi lại càng lúc càng thưa thớt. Dương Hạo dán chặt người vào gầm xe, trong tiếng lộc cộc, nghe thấy trong xe có tiếng động truyền ra. Hắn đang kinh ngạc vì không biết người trong xe có thân phận gì mà có thể ung dung đi lại không ai ngăn trở trong tình cảnh toàn thành đang giới nghiêm, vội vàng ghé tai lắng nghe tiếng động ở trong xe. Giọng nói ở trong xe không tính là quá cao, nhưng lờ mờ vẫn có thể nghe được rõ, lại nghe thấy một giọng nói của nam tử: "Tối nay... tựa hồ như có chút không bình thường..." 

Dương Hạo nghe thấy giọng nói của người này có chút quen thuộc, nhưng nhất thời không nghĩ ra được là ai, vội vàng ghé tai vào sát hơn. Nhưng thấy trong xe lặng yên một lúc, giọng nói trước tựa hồ như đang thở dài, nói: "Chuyện gì thì mới liên quan tới chúng ta? Lão tổ tông sống ở kinh thành không quen, muốn quay về tây bắc, kể ra, chúng ta từ lúc tới đây, cũng đứng được vững, sinh ý cũng càng làm càng lớn, nhưng dưới chân thiên hạ, lúc nào cũng phải cẩn thận dè dặt, chung quy không sảng khoái được như ở tây bắc..."

Giọng nói còn lại trách cứ: "Nhị ca sao lại nói vậy? Cái gì mà sống yên không quen, tây bắc sảng khoái hơn? Một khi binh qua nổi lên, thì chỗ nào cũng tiêu điều thôi. Lão tổ tông muốn quay về, rõ ràng là vì nhớ tiểu muội. Huynh cũng biết đó, lão tổ tông yêu thương nó nhất. Huynh không nên đem tin tức nó còn sống nói cho lão tổ tông biết..."

"Không nói làm sao được, từ lúc nghe thấy tin tức tiểu muội theo tên hỗn đản đó bị ám sát, bỏ mạng ở trên thuyền. Lão tổ tông ăn không ngon ngủ không yên, hình dung tiều tụy. Chúng ta đã biết chân tướng, nếu không nói cho lão tổ tông nghe, e rằng lão tổ tông sẽ phải day dứt nơi cửu tuyền. Đúng rồi, tên hỗn đản đó chạy tới Khiết Đan, lại truyền về tin tức là dã chết rồi, hại ta nơm nớp lo sợ, chỉ lo bị lão tổ tông biết. Ai ngờ không tới hai ngày sau, hắn lại khập khiễng chạy về, ta hiện ta vẫn không biết cái chân què đó của hắn là giả hay là thật. Đệ thấy… hắn có phải là tàn phế thật rồi không?"

Dương Hạo nghe đến đây mới chợt hiểu ra, thì ra người trong xe không ngờ lại là Đường Dũng, Đường Hàm, mình một mực không quan hệ với Nhị cữu ca và Tam cữu ca. Bọn họ được Triệu Quang Nghĩa trọng dụng, chế tạo chiến hạm cho Tống quốc, cũng tính là người trong quân, chẳng trách bọn họ lại không bị ai ngăn trở. Bọn họ đang rời khỏi kinh thành ư? Vậy ta cứ theo cỗ xe này, chắc có thể rời khỏi nơi long đàm hổ huyệt này...

Không đúng, tin tức ta chết rồi sống lại trở về truyền ra cũng là chuyện thường, nhưng tin tức Oa Oa và Diễm Diễm chưa táng thân bọn họ làm sao mà biết được? Dương Hạo trong lòng suy nghĩ cực nhanh, lát sau dường như ngộ ra gì đó.

Lại nghe thấy một tiếng cười lạnh ở trong xe: "Ngươi cũng không phải không biết hắn ở tây bắc làm ra những gì, đúng không? Ta thấy đây là thủ đoạn lấy lùi làm tiến của hắn mà thôi. Lão tổ tông muốn về tây bắc, vô luận là có như thế nào thì chúng ta cũng không thể có nửa điểm dính dáng tới hắn nữa. Đại tiểu tư của Đường gia chúng ta đã chết ở Đường quốc rồi, Đường gia chúng ta của cũng không nhận được giấy mời của hắn, chưa hề thừa nhận tên nữ tế hắn, Dương Hạo hắn và Đường gia chúng ta không có nửa điểm quan hệ gì cả, chuyện quan hệ tới sự hưng vong sinh tử của gia tộc họ đường, không thể lơ là được đâu."

"Nhị ca tất nhiên biết, kể ra..."

Bánh xe tròng trành, Dương Hạo không nghe thấy tiếng nói tiếp theo nữa, nhưng những lời vừa nghe thấy đã khiến hắn thầm kinh hãi rồi: "Nghe khẩu khí này, bọn họ biết những việc của ta ở Tây bắc rồi ư? Chăng lẽ Thôi đại lang và bọn họ có quan hệ? Hoặc là Lý Thính Phong hoặc ai đó đã để lộ ra? Kế Tự đường tuy tan rã, nhưng giữa hai bên lại có liên hệ chồng chéo, không thể cắt đứt. Đây chính là lý do bọn họ tuy đã qua nhiều triều đại những thủy chung vẫn bất diệt. Những người này, chỉ thể lợi dụng, ngàn vạn lần không được tin tưởng, giao trọng nhiệm cho bọn họ.

Đang nghĩ thì nghe thấy Đường tam thiếu ở trong xe lại nói: "Chúng ta là người làm sinh ý, làm sinh ý càng lớn, nguy hiểm càng lớn, một khi thất thủ là có thể mất sạch, không thể lật người dậy được nữa. Phía tây bắc, coi như là để lại một chút tiền vốn, kệ cho hắn làm, hắn bại rồi thì cũng chẳng có nửa điểm liên quan tới Đường gia của chúng ta, nếu thành rồi, lại có tầng quan hệ của Diễm Diễm, chúng ta cũng có thể móc nối lại được. Nhưng hiện tại, cái duy nhất mà chúng ta có thể dựa vào chỉ có cây đại thụ Tấn vương mà thôi, phải ôm thật chặt, không được tùy tiện buông tay..."

Dương Hạo lúc này mới lờ mờ hiểu nguyên nhân sở dĩ bọn họ coi mình là người ngoài, bất kể là Diễm Diễm chết hay sống, thủy chung vẫn không qua lại, không khỏi cười khổ: "Người ngoài mưu quốc đánh thiên hạ, luôn luôn là có tiến không lui, một khi bước lên rồi thì không còn đường quay lại nữa. Bọn họ làm sinh ý, cũng có thể đào ba cái hàng, dự trữ sẵn hậu lộ, thủy chung bảo trì gia môn không đổ, chẳng trách người của Kế Tự đường nếm được mật ngọt bên trong rồi, thủy chung lợi dụng tài phú khổng lồ của bọn họ để bảo trì quan hệ mật thiết, lại có thể thủy chung không cùng với đối phương buộc chặt trên một con thuyền, một khi sự cơ không đúng, lập tức tìm đường khác.

Xe đi qua một cây cầu, vòng về hướng bắc, Dương Hạo hơi dịch về phía mép xe, nhìn ra bên ngoài, phát hiện cây cầu này chính là cầu Kim Lê, xe tới đây thì vòng sang hướng bắc, vừa đi qua một mặt tiền của tiệm thuốc, Dương Hạo thầm nghĩ: "Hỏng rồi, chỗ ở của bọn họ không phải ở ngòai thành, mà đang đi tới cầu Đại Tam, những tòa nhà mới xây đó chẳng lẽ chính là trạch viện của Đường gia? Hai vị cửu huynh này không quá đáng tin, bọn họ biết ta muốn phản, lại giả vờ như không biết, chỉ cố né tránh liên hệ. Nếu ngày mai biết rằng Triệu Quang Nghĩa mà bọn họ đang ôm chân cũng phản rồi, vậy khó tránh khỏi sẽ đem hậu lộ là ta đây ra làm tiền trình tiến thân, dựa vào người không bằng dựa vào mình, tẩu vi là thượng sách!"

Phía trước lại là một cửa hàng tạp hóa, Dương Hạo đột nhiên tung người ban ra, lăn mình tránh dưới sạp hàng, chiếc xe chỉ bị lực giẫm của hắn khiến cho hơi lung lay một chút, người trên xe đều cho rằng đường đi gồ ghề đâm ra xe bị xóc, cho nên không nghi ngờ gì cả.

Dương Hạo đợi chiếc xe đó đi xa rồi mới đứng dậy. Nơi này bởi vì đã tiếp cận ngoại thành, cho nên hộ gia đình sinh sống ở đây không nhiều, tuẩn kiểm dày đặc trong thành cũng không hề thấy có tên nào ở đây. Bênh cạnh chắc là ngục giam, đi thêm về phía trước là trụ sở thủ thành, là nơi khi quân đội địa phương được điều động tới kinh kỳ đóng tạm, hiện tại là một tòa doanh trống, rất quạnh quẽ.

Phía trước ra khỏi Vạn Thắng môn là thoát khỏi kinh thành, nhưng Vạn Thắng môn bình thường không được mở, do đó ở phía nam Vạn Thắng môn lại mở một cửa nách gọi là Tây thủy môn. Dương Hạo thấy nơi này vắng lặng không có ai, đoán rằng tin tức mình bỏ trốn, chấn động ở trung tâm kinh thành vẫn chưa truyền tới đây. Tây tủy môn là một cửa nách, nơi thuyền nhỏ ra vào, tuy bên cạnh cũng có môn lộ, nhưng môn lộ này đã đóng rồi, từ trong thủy lộ cũng dễ dàng thoát thân, thế là liền một đường nhờ cây cối để che giấu hành tung, rón rén tiến về phía trước.

Phía trước sắp tới cầu, Dương Hạo nấp sau cây, nhìn ra xung quanh, thấy không có động tĩnh gì liền từ dưới cây lách ra, hắn vừa xuất hiện, liền đột nhiên dừng bước, ánh mắt co rút lại.

Ở phia trước từ trong góc tường của một hộ ra đình có một người đi ra, từ từ bước tới giữa đường, tay chắp sau lưng, ngẩng mặt lên nhìn trời, tóc hơi rung rung theo gió, giống như một học sĩ đang ngắm trăng.

"Ngươi nói xem... sinh lộ là ở mặt tây... hay là ở mặt đông?"

Người đó đột nhiên thốt lên, nghe giọng không ngờ chính là Trình Đức Huyền, Dương Hạo lặng im không nói gì.

Trình Đức Huyền cười khẽ một tiếng: "Ta cho rằng... sinh lộ là ở mặt đông, có đâu an toàn hơn so với ở dưới chân thiên tử? Nhưng ngươi lại cứ đi về phía tây." Trình Đức Huyền nhẹ nhàng lắc đầu: "Ngơi muốn đi về phía tây, mặc dù là đi được, nhưng vẫn phải lôi kéo nhóm người La Khắc Địch, Hách Long Thành, cuốn bản quan cùng nhau đi về hướng tây. Kết quả, ngươi thắng rồi... người thắng rồi được làm quan cao, được cưỡi tuấn mã, thành Lô châu chi chủ, vô cùng phong quang. Còn ta, lại bị ngươi hại cho thân bại danh liệt, thành trò cười cho các đồng liêu."

Hắn thở dài một tiếng, cúi đầu xuống, nhẹ nhàng lau lưỡi kiếm sáng loáng: "Tới sau cùng, ngươi cuối cùng cũng không thể không đi về hướng đông, một đạo thánh chỉ, ngươi muốn tới Khai Phong làm quan. Ngươi cũng nên lưu lại một đường ra cho bản quan, phải không? Bản quan kỳ thức không có ý nghĩ khác, ta chỉ muốn trở thành tri phủ nhiệm kỳ hai của Lô Châu, hơn nữa phải làm tốt hơn ngươi, xuất sắc hơn ngươi. Nhưng, ngươi thì không, nữ nhân của ngươi... dùng kế hại ta, hại ta lại một lần nữa thân bại danh liệt, cùng đường bí lối, phải ôm nhục trở về Biện Lương."

"Vốn là, nếu ngươi và ta đều hiệu lực cho Tấn vương thiên tuế, một chút tư oán cá nhân, bản quan sẽ không để trong lòng. Ta đây vẫn hiểu được đại thể. Nhưng tiền trình cẩm tú ở phía trước, mà ngươi lại vẫn muốn về tây." Trình Đức Huyền chậm rãi quay sang Dương Hạo, chỉ về phía hắn, gằn từng chữ: "Lần này, ta chọn đúng, còn ngươi thì chọn lầm rồi!"

Dương Hạo cười lạng một tiếng, ánh mắt nhìn sang hai bên, hỏi: "Chỉ bằng vào ngươi? Người của ngươi ư?"

Trình Đức Huyền cười nhạt: "Sỉ nhục của ta, ta tự mình xóa sạch, ngươi chẳng qua là một tên gia nô nhà quê, hiện giờ lại là một phế nhân què một chân, lưỡi kiếm của bản quan, chẳng lẽ không lấy được tính mạng của ngươi ư?"

Trình Đức Huyền nói xong, tung người lao tới, kiếm khí lạnh buốt, nhắm thẳng vào yết hầu của Dương Hạo.

Dương Hạo nghe hắn nói tới một nửa, ánh mắt liền rực sáng, khi hắn tung người lên thì đã rút kiếm nghênh đón.

Tiếng "keng keng" vang lên không ngớt, Trình Dức Huyền dưới ánh trắng trong chốc lát đã tung liền támkiếm, kiếm pháp của Dương Hạo tuy kỳ diệu, nhưng chân lại không tiện, cho nên thân pháp không theo kịp lộ số của kiếm pháp, kiếm pháp khó tránh khỏi có sơ hở, suýt nữa thì bị một kiếm của Trình Đức Huyền đâm trúng, hắn vội vàng lùi tới bên đường, một tay chống lên đại thụ mới thể ổn định lại thân hình.

Trình Đức Huyền đắc ý mỉm cười, từng bước từng bước bức lại gần, nói: "Ta một mực không hiểu, ngươi rốt cuộc là muốn cái gì? Vì sao luôn phải tự chịu khổ như vậy? Có điều hiện tại, ta đã không còn hứng thú để biết nữa rồi, người chết là người chết, một người chết nghĩ gì thì không còn ai muốn biết nữa."

Hắn hét lên một tiếng, cầm kiêm đâm tới, Dương Hạo phía sau có cây lớn cản được, chân đi lại không tiện, hắn có mười phần nắm chắc, một kiếm này có thể xuyên qua cơ thể của Dương Hạo. 

Nhưng đúng vào trong sát na này, khi hắn đắc ý tung người bay tới, Dương Hạo đột nhiên động rồi, động tác đột nhiên nhanh hơn không dưới ba lần, giống như một trận gió vòng tới cạnh người Trình Đức Huyền.

Trình Đức Huyền không phải là không biết cao thủ quá chiêu không được tùy tiền đằng không, một khi đằng không thân hình không thể biến đổi được nữa, nhưng hắn tuyệt đối không ngờ thân pháp của Dương Hạo lại đột nhiên trở thành nhanh như vậy.

Thân hình của hắn đang đằng không, trơ mắt nhìn Dương Hạo giống như một trận gió lóc cuốn tới cạnh hắn, ngoại trừ vội vàng thu kiếm lại để đỡ ra, hoàn toàn không thể làm ra ứng biến nào khác. Kiếm còn chưa kịp rút lại thì đã có một mũi kiếm từ sườn trái đâm sâu vào trong tâm tạng của hắn.

Dương Hạo rút kiếm, máu bắn ra, Trình Đức Huyền hạ xuống đất, hai chân mềm ra, còn chưa kịp ngã thì Dương Hạo lại giống như gió cuốn tới, cái chân vốn là đã gãy đó mang theo tiếng gió rít, rầm một cước đá trúng ngực hắn. Trình Đức Huyền cảm thấy xương ngực của mình vỡ vụn, hắn phun ra một ngụm máu, cả người bị Dương Hạo đá cho bay lên, "rầm" một tiếng ngã lên tường viên của hộ gia đình đó.

Do tốc độ bay ngược của hắn quá nhanh, tường của nhà bách tính nghèo khó lại không được chắc chắn, cho nên đập ra một cái lỗ lớn, thân hình thì găm vào trong tường, máu từ khóe miệng và dưới sườn túa ra, đầu nghẹo xuống, không còn động đậy nữa rồi.

Dương Hạo lăng chân mà bước, nhanh nhẹn như bay, lao tới chỗ cầu rồi nhìn về phía trước, không khỏi hít một hơi lạnh, đường về phía tây đã bị phong tỏa, phía trước lấp loáng rất nhiều bóng người, Trình Đức Huyền đâu phải chỉ có một mình giống như hắn nói.

"Hỏng rồi, phủ nha là biết quan hệ của ta với Lô châu rõ nhất, ta chỉ cần vừa chạy, bọn họ lập tức nghĩ rằng ta sẽ đi về phía tây, phái trước không biết còn có bao nhiêu người đang đợi ta. Không đi được về phía tây rồi, ta mà đi thì không chỉ có ta không chạy thoát, bọn Đông Nhi cũng không có cách nào thoát thân." Dương Hạo tâm tư suy nghĩ nhanh như điện xẹt, lập tức co giò chạy lại.

Hộ nhân gia ở bên đường đó ngủ đang say, lại nghe thấy hai tiếng "rầm rầm", cụ bà ở trong nhà rời khỏi giường, quát: "Nhị ngạc tử, nhị ngạc tử, đi xem có cái gì mà là ầm một tiếng như vậy, định làm hỏng viện tử của nhà ta à?"

Trong phòng đối diện có một giọng nói thật thà chất phác dạ một tiếng, bật sáng đèn lên.

"Mặt thêm y phục vào, cầm theo gậy, nếu là trộm thì đánh cho hắn một trận." Đây là giọng nói ôn nhu của một tức phụ. Hộ nhân gia này sống ở nơi hẻo lánh, thường có bọn vô lại vào trộm gà bắt chó, cho nên tức phụ này mới nói vậy.

Một tiểu hỏa từ mười sáu mười bảy tuổi, trông rất cao lớn thô hào một tay cầm đèn, một tay cầm gậy bước ra, tới dưới tường viện nhìn thấy đá gạch vỡ vụn, lại hoang mang nhìn thứ cắm vào trong tường, tiểu hỏa tử bọn gậy xuống, lấy tay ấn ấn máy cái rồi lập tức gào lên.

Vợ của hắn đứng bám vào cửa thò đầu ra, nơm nớp lo sợ hỏi: "Ngạc tử, là thứ gì vậy?"

"Mông, một cái mông to!" Nhị ngạc tử gầm lên. Dương Hạo xách trường kiếm đẫm máu chạy vội ra ngoài tường, nghe thấy tiếng hét ở trong viện, hắn nhìn một cái về bóng đen cắm trên tường, khóe miệng lộ ra một nụ cười lạnh: "Ngươi nói đúng, sinh lộ hiện giờ của Dương mỗ là ở mặt đông. Trình huynh, ngươi cứ yên tâm mà về tây đi..."

Phúc Ninh cung, Tống hoàng hậu và và hoàng tử Triệu Đức Phương còn nhỏ tuổi ôm nhau khóc lóc, Vĩnh Khánh công chúa nắm chặt quyền đầu, trong mắt phun ra lửa hận vô tận.

"Nương nương, cha là bị thúc thúc hại chết, chúng ta phải báo thù cho cha!"

"Im miệng!"

Tống hoàng hậu biến sắc, hớt hải đứng dậy bước ra cửa quan sát, sau đó mới quay lại, nước mặt đầy mặt, gắt: "Vĩnh Khánh, không được nói lăng tùy tiện!"

"Con không nói năng tùy tiện!"

Vĩnh Khánh công chúa ngực phập phồng, hai hàng lệ nóng tí tách chảy xuống: "Ai cũng có thể lừa con, nhưng con chim đó lại không thể lừa con. Con anh vũ này chuyên học vẹt, nương nương không phải là không hiểu mà, nó nói với con "Giờ đã là chí tôn, không ngờ lại bị nhị đệ giết ta!"

Anh anh vũ đó nghe thấy vậy, lập tức gân cố lên nói: "Giờ đã là chí tôn, không ngờ lại bị nhị đệ giết ta!"''

Nghe thấy tiếng kêu này, Vĩnh Khánh công chúa và Triệu Đức Phương lại khóc rống lên.

Tống hoàng hậu cũng sợ đến mặt trắng bệch, nhìn con anh vũ đang đứng trên vai bà ta, sau đó lại nhìn ra xung quanh, con chim đó đang dương dương đắc ý, Tống hoàng hậu đột nhiên tóm lấy nó, mặc kệ nó giãy dụa, đặt nó lên giường rồi lấy chăn chùm lên, sau đó thì tung người tới, đè nó ở dưới.

Vĩnh Khánh công chúa kinh hãi, nói: "Nương nương, mẹ làm gì vậy?" Rồi lập tức lao tới định giành lại.

Tống hoàng hậu mặt đẫm nước mắt: "Vính khánh, con chim này không lưu lại được đâu, nó là họa tinh của sự sinh tử tồn vong của chúng ta đó."

Vĩnh Khánh vùng vẫy nói: "Trả lại cho con, trả lại nó cho con, nó là chứng cứ, chúng ta phải ở trước mặt văn võ toàn truyền vạch trần tên hung thủ này."

Vĩnh Khánh làm sao mà hiểu biết bằng được Tống hoàng hậu, hoàng hậu vẫn đè chặt cái chăn, nói: "Không có tác dụng gì đâu, một con chim thì làm sao mà làm chứng cớ được? Người ta có thể nói là con dạy nó cơ mà? Hiện tại đại thế đã mất, đừng nói là một con chim, cho dù đổi lại là một vị đại thần ở trong triều ra mặt làm chứng cũng chẳng làm gì được hắn đâu. VĨnh Khánh, con cố hiểu chuyện một chút đi, từ bây giờ, ngàn vạn lần không được nói năng lung tung nữa, bản cung và con, còn có đệ đệ, ca ca của con, tính mạng của tất cả mọi người đều nằm trong tay hắn, con có hiểu không? Có hiểu không hả!"

Ngón tay đang định tranh đoạt của Vĩnh Khánh vô lực hạ xuống, buồn bã ngồi ở mép giường, đột nhiên nàng ta lại đứng bật dậy: "Đúng rồi, đại ca, còn có đai ca, đại ca đang lĩnh binh ở bên ngoài, nên thông tri cho đại ca, để đại ca dẫn binh về triều, tiêu diệt phản nghịch."

Tống hoàng hậu lai nói: "Cả hoàng cung hiệu tại đều nằm dưới sự khống chế của Tấn vương, cái mà ta có thể khống chế, hiện giờ chỉ còn lại tòaPhúc Ninh cung này. Đợi tới ngày mai, ngay cả Phúc Ninh cung này ta cũng không chỉ huy được nữa rồi. Ba người chúng ta ở sâu trong nội cung, không được tiếp xúc với bên ngoài, làm sao mà thông báo cho đại ca của con biết được?"

Vĩnh Khánh trong mắt lóe sáng, nói: "Ngày mai! Ngày mai chúng ta phải túc trực bên linh cữu của cha, bá quan đều phải tới trước lĩnh cữu phục tang, chẳng lẽ không tìm được cơ hội để tiếp xúc với ngoại thần ư?"

Tống hoàng hậu hỏi ngược lại: "Cho dù có thể tiếp xúc được với ngoại thần, nhưng ai có thể tin tưởng được? Ai có thể giao phó được?"

Vĩnh Khánh nghe thấy vậy không khỏi lại ủ dột.

Một lát sau, nàng ta đột nhiên nhảy cẫng lên, nói: "Con nghĩ tới một người, Đại hồng lư Dương Hạo, Dương Hạo là trung thành, nhất định có thể tin tưởng được."

Tống hoàng hậu biến sắc: "Ngàn vạn lần không được, hắn xuất thân từ Nam Nha, là người của nhị thúc con, không đáng tin cậy."

Vĩnh Khánh cười lạnh, nói: "Nhị thúc là huynh đệ ruột của cha, vậy có đáng tin cậy không?"

Hoàng hậu ngây người, Vĩnh Khánh lại nói: "Hai ngày trước Trương Bạc tới tố cáo với cha, nói là hắn bắt Vi Mệnh hầu trả nợ, bị Dương Hạo hiểu lầm đánh cho một trần. Dương Hạo là quan nhi triều đình, Vi Mệnh hầu là quân chủ của nước hắn, Dương Hạo cũng không sợ cha tức giận, thấy Trương Bạc sĩ nhục chủ cũ, tính cách trơ trẽn, trước tiên xuất thủ đánh Trương Bạc. Hắn lại há có thể bởi vì xuất thân Nam Nha mà vứt bỏ trung lương đại nghĩa?"

Triệu Đức Phương lúc này cũng nhảy bật dậy: "Người này con nhớ, chắc là đáng tin cậy đó. Hắn và đại ca có quan hệ rất tốt, nhớ rằng có lần con cùng hắn tới phủ đại ca, trên đường gặp một tên lưu mạnh chòng ghẹo phụ nữ, hắn liền nhảy xuống xe đánh cho một trận, không hề để ý tới quan nghi. Người này tính tình nóng như lửa, ghét ác như thù, chắc là một người trung tâm."

Tống hoàng hậu cũng bị bọn họ nói cho động lòng, nhưng nghĩ tới, nhưng nghĩ tới kết cục khó đoán khi thất bại, lại do dự nói: "Vĩnh Khánh, Đức Phương, các con còn nhỏ, không biết lợi hại trong đây. Các con nên biết, một khi thất bại, tên Dương Hạo đó trở tay bán đứng chúng ta, sẽ có kết cục gì không?"

Vĩnh Khánh ưỡn ngực, lẫm liệt nói: "Cùng lắm là chết mà thôi! Nhị đệ! Đệ nói sao?"

Triệu Đức Phương bước tới cạnh Vĩnh Khánh công chúa, đứng song song với nàng ta, cũng ưỡn ngực lên, hai tay nắm chặt, mặt đỏ bừng, nói: "Nam nhi Triệu gia, phải tự tay giết cừu nhân, chết thì chết, có gì mà sợ!"

Sắc trời chưa sáng, các quân viên đợi thượng triều đã đứng đầy ngoài Ngọ môn quan.

Mỗi người đều có đường lối của mình, phái hệ của mình, tin tức hoàng đế băng hà tuy vẫn chưa được công bố chính thức, nhưng bọn họ đã thông qua người của mình mà nghe nói rồi. Đại sự như vậy, ai còn có thể kê cao gối mà ngủ không chịu dậy chứ, tất cả các quan viên buổi sáng phải lên triều, khi gà còn chưa gáy đã nhao nhao chạy tới ngoài Ngọ môn.

Cấm quân hoàng thành dưới sự điều động của xu mật phó sứ mới thượng nhiệm Sở Chiêu Phụ, vây kín cả hoàng thành đến một giọt nước cũng không lọt, chỗ nào cũng thấy binh đinh đóng giữ dày đặc. Hai nơi có lửa cháy ở trong thành đã được dập tắt, phủ Khai Phong lại khôi phục như bình thường, bọn họ tất phải cố gắng hết sức để mình tránh xa khỏi các khả năng có thể liên quan tới chuyện hoàng đế băng hà tối hôm qua.

Cho nên, mọi người phải dậy sớm những vẫn náo nhiệt vô cùng, bách tính bình thường vẫn buôn bán mua sắm ở trên đường như bình thường, ngẫu nhiên có người nghị luận tới hai cuộc hỏa hoạn không hề nghiêm trọng tối quá, không có ai chú ý thấy trong đám người có những đôi mắt âm lãnh đang chú ý nhất cử nhất động của bọn họ, những người đó đều là mật thám của Nam Nha.

Hôm nay bá quan tới sớm hơn tất cả mọi ngày, nhưng ngọ môn ngày hôm nay lại mở muộn hơn bất kỳ một cuộc triều hội nào.

Nhưng văn võ bá quan không có ai lộ ra vẻ không kiên nhẫn, bọn họ lặng lẽ đứng ở dưới ngọ môn, cho tới khi mắt trời từ từ nhô lên, hắt một mảng vàng óng ánh lên tường cung ngói ngọc.

Mắt trời đã lên rồi.

Lúc này, có một quan viên khấp khiễng bước về phía ngọ môn. Các quan viên kinh ngạc nhìn về phía hắn, các quan viên đang đứng đối diện với ánh mặt trời giơ tay lên che mắt, thấy ở cuối ngự nhai, ở giữa vầng mặt trời đang nhô lên, có một bóng người càng lúc càng bước tới gần. Khi tới gần, các quan viên mới phát hiện, quan nhi tới ngọ môn đúng giờ này, chính là Đại hồng lư Dương Hạo. 

Chương 399:Khóc than 

Vừa vào cửa cung, bá quan văn võ liền phát hiện võ sĩ, nội thị, cung nữ trong cung đều mặc áo gai để tang, ngay cả thương kích trong tay các võ sĩ cũng bọc vải trắng. Một thái giám đứng trước một đống quần áo trắng chất cao như một ngọn núi nhỏ, ai oán xướng lễ: "Hoàng đế băng hà, văn võ bá quan tới nhận áo táng rồi vào điện.”

Văn võ bá quan sớm đã biết được tin tức hoàng đế băng hà, cho nên cũng không có ai gây nên rối loạn, bọn họ lặng lẽ bước tới, nhận một bố áo trắng mặc ra ngoài quan bào, lại dùng khăn trắng buộc lên mũ, ai ai cũng lặng lẽ bước về kim điện, rất nhiều người đã cúi đầu khóc.

Trên kim điện, Triệu Quang Nghĩa mặc áo gai để tang đứng dưới ngự tọa, đứng cạnh là ba vị tể tướng Lô Đa Tốn, Lữ Dư Khánh và Tiết Cư Chính cũng mặc đồ tang, lặng lẽ nhìn văn võ bá quan đang nối đuôi nhau bước vào.

"Các vị đại nhân, đêm qua... bệ hạ bạo bệnh qua đời rồi." Triệu Quang Nghĩa trầm giọng nói, hai hàng lệ nóng không ngăn được mà rơi xuống, văn võ bá quan đồng loại quỳ xuống, lớn tiếng khóc rống lên, nhất thời trên kim điện tiếng khóc vang trời, các loại tiếng khóc thô co, the thé có, cao có, thấp có tụ lại thành một tiếng gầm quái dị.

Triệu Quang Nghĩa và ba vị tể tướng không dám chính diện nhận vái lạy của bá quan, liền lui sang một bên cùng với bọn họ hướng lên bộ long ỷ trống không đặt trên ngự giai mà cúng bái than khóc. Một lát sau, Lữ Dư Khánh và Tiết Cư Chính mới lau nước mắt, bước lên trước đỡ Triệu Quang Nghĩa đã khóc không ra tiếng dậy. Lô Đa Tốn bước lên, lớn tiếng nói: "Bá quan xin dừng bi ai, đứng dậy."

Đợi bá quan nhất loạt đứng lên, Lô Đa Tốn lại nói: "Tiên đế tân tụy chăm lo việc nước, cuối cùng long thể mắc bệnh, bệnh phát đột ngột mà chết. Nước không thể một ngày không có chủ, nghe tin bệ hạ băng hà, Lô Đa Tốn hoảng hốt bi thương, nhưng không dám quên trách nhiệm của một tể tướng, vội vàng thương nghị với Lữ tướng, Tiết tướng. Tấn vương Triệu Quang Nghĩa sáng suốt khiêm cung, nhân phẩm quý trọng, đức hạnh cao thượng. Bề tôi ủng hội, tấu thỉnh hoàng hậu nương nương cho phép, quyết định: Đưa Tấn vương lên ngôi vua, làm chủ của Tống quốc ta! Tấn vương, xin thăng tọa, bá quan tam bái tân quân."

Triệu Quang Nghĩa khóc lóc không ngừng, liên tục xua tay cự tuyệt, nghẹn ngào đến nỗi không nói được câu nào, được Lữ Dư Khánh, Tiết Cư Chính cường hành đỡ lên long ỷ, lại ở trước mặt hắn kéo hai tay hắn ngồi xuống. Bá quan ở bên dưới thấy vậy, giống như câu liêm xoẹt một cái cắt lúa mạch, đồng loạt quỳ xuống, đồng thanh hô: "Chúng thần khấu kiến ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế."

"Chúng khanh gia... bình thân."

Giọng nói nghẹn ngào của Triệu Quang Nghĩa vang vọng trên kim điện: "Tiên đế băng hà, trời rung đất nứt. Trẫm... bị thống vô cùng. Nay trong điện Hoàng Nghi đã bày linh đường cho tiên đế, trẫm dẫn bá quan đi tế bái tiên đế, khóc than bên linh cữu, và thương nghí miếu hiệu cho tiên đế. Quốc sự một ngày không thể hoang phế, nhưng tiên đế chính là anh em của trẫm, tiên đế thăng thiên, trẫm đau thương muốn chết, thực sự khó mà lo liệu quốc sự được. Quyến định tạm dừng triều hội ba ngày, ba ngày sau lại lâm triều thính chính. Hi vọng chúng khanh tận tâm phụ tá, để Đại Tống ta được hưng thịnh hơn...

Hắn đứng dậy, lại vừa khóc vừa nói: "Chuyện lớn của tiên đế, ứng với quốc tang. Lô tướng, chuyện này nên do ai phụ trách."

Lô Đa Tốn cung kính nói: "Phàm là những chuyện như triều hội, tân khách, cát hung và đại điển lễ của quốc gia, giao miếu, tế tự, yến tiệc, sắc phong, vào xuân, vào lịch, ban truyền quy định, báo chiến thắng, quan lại nước ngoài triệu kiến, chư phiên vào kinh tấn cống , phục lệnh với sứ thần bá quan, đều là do... Hồng lư tự chủ trì."

Lễ bộ lúc đó, chủ yếu phụ trách khoa cử khảo thí, tất cả triều đình đại lễ, đều do Hồng Lư Tự chủ trì. Triệu Quang Nghĩa biết Dương Hạo đã chạy trốn từ lâu rồi, nhưng vẫn giả vờ như không biết, liền nuốt lệ nói: "Như vậy, Hồ lư tự khanh ở đâu?"

Đôi mắt đẫm lệ của hắn nhìn về phía quần thần, lại nghe thấy trong bá quan văn võ ở dưới có một tiếng hô to: "Có thần!"

Một quan nhi mặc đồ tang đang tập tễnh từ trong hàng của quan văn bước ra, lắc lư vái Triệu Quang Nghĩa, nói: "Thần, xin nghe chỉ!"

"Hả!"

Triệu Quang Nghĩa giật nảy mình, giống như là gặp quỷ, nhìn chằm chằm vào Dương Hạo.

Dương Hạo hồn nhiên như không hề phát giác ra, lại vái một cái, cao giọng nói: "Xin bệ hạ phân phó."

"A!" Vẻ kinh hoàng chỉ hiện lên trong mắt Triệu Quang Nghĩa trong thoáng chốc, hắn lập tức nói: "Hồng lư tự phụ trách quốc tang lễ nghi, Dương khanh thân là Hồ lư tự khanh, phải gánh trách nhiệm này, chủ trì lo liệu hậu sự của tiên đế."

"Thần... tuân chỉ..."

Dương Hạo cao giọng lĩnh chỉ, ngẩng đầu lên, ánh mắt của hai người chạm nhau, trong mắt Triệu Quang Nghĩa chợt lóe lên một ngọn lửa, ánh mắt của Dương Hạo thì trong suốt, vẻ mặt tự nhiên, không hề có nửa điểm khác lạ. Triệu Quang Nghĩa thấy vậy cũng không khỏi do dự.

Trên điện không có việc gì làm, Dương Hạo cùng với ba vị tể tướng nghị luận về lễ nghi đại tang, và trưng cầu sự đồng ý của Triệu Quang Nghĩa. Bại vị tể tướng liền cáo từ đi ra, dẫn bá quan tế bái linh vị của tiên đế.

Triệu Quang Nghĩa ngồi sau thư án, nhìn Dương Hạo đứng ở trước mặt, nhất thời không biết nên nói gì mới tốt. Dương Hạo cũng đứng đó, bình tĩnh nhìn Triệu Quang Nghĩa, hai người nhìn nhau một lúc lâu, Triệu Quang Nghĩa đột nhiên nói: "Trẫm... nghe nói tối qua Dương khanh có tới Nam Nha?"

"Vâng, thần có tới. Quan gia lúc đó đang bận rộn chuyện hà đạo mới đắp, tới khuya vẫn chưa về nên thần đi trước."

"Ồ..."

Triệu Quang Nghĩa cầm chén trà ở trước mặt lên, nhẹ nhàng uống một ngụm, trên mắt lộ ra nụ cười khiến người ta khiếp sợ: "Trẫm còn cho rằng Dương khanh có đại sự gì, sau khi quay về liền bảo Vũ Tích đi tìm ngươi, ai ngờ Vũ Tích tới phủ thượng của ngươi thì thấy đã trống không, trẫm thực sự lấy làm lạ, vì trong thành có hai nơi bốc cháy, bận việc cứu hỏa, về sau lại nghe thấy tiên đế băng hà, trong lòng đại loạn, nhất thời không để ý được tới Dương khanh. Phủ thượng của Dương khanh... không có gì chứ?"

"Không có gì!"

Nụ cười của Dương Hạo cũng lộ ra vẻ vô cùng cổ quái: "Thần trẻ tuổi như vậy mà đã làm quan tới Đại hồng lư, được liệt vào hàng cửu khanh, vị cực nhân thần. Thường tự cảm động và nhớ nhung ơn giáo dưỡng của từ mẫu. Đáng tiếc là từ mẫu mất sớm, không thể phụng dưỡng tận hiếu, đây là sự nuối tiếc lớn nhất của thần. Do đó... hôm qua thần bảo gia quyển thay mắt thần tới Phách châu ở phương bắc cúng mộ gia mẫu, vì phải tiễn gia quyến ra khỏi thành, nên tới giờ tuất mới trở về, chắc vì thể nên không gặp Trình đại nhân."

Triệu Quang Nghĩa lông mày hơi nhướn lên, mang theo chút sát khí, lạnh lùng nói: "Thế cũng lạ thật, trẫm nhớ khi bảo Trình Đức huyền tới tìm Dương khanh thì đã là giờ tuất ba khắc rồi, sao lại không thấy Dương khanh đâu?"

Dương Hạo mặt không đổi sắc, nói: "Thần nhớ rất rõ ràng là giờ tuất một khắc, thần đã về phủ, sau khi về phủ còn ăn bữa khuya, tắm rửa, ngủ một giấc cho tới tận khi trời sáng mới vội vàng thượng triều. Nếu Trình đại nhân quả thực là tới sau khi thần về phủ, thần không lý nào lại không biết, quan gia một ngàn bận cả trăm ngàn việc, chắc là nhớ lầm thời gian rồi..."

Đồng tử của Triệu Quang Nghĩa hơi co rút lại, mỉm cười nói: "Giờ tuất một khắc ngươi đã về rồi ư?"

Dương Hạo nói như chém đinh chặt sắt: "Tuyệt đối không sai, giờ tuất một khắc, thần đã về phủ rồi, và cũng không hề đi đâu nữa."

Triệu Quang Nghĩa nhìn chằm chằm vào hắn một lúc mới giãn mặt cười nói: "Nói như vậy chắc là trẫn nhớ nhầm rồi. Tiên đế băng hà trước mắt chính là chuyện quan trọng nhất, ngươi thân là Đại hồng lư, nên tận tâm tận lực, phải làm sao cho đại tang của tiên đế thật phong quang. Đi đi, tới phía linh đường chiếu ứng đi, lo liệu cho tốt vào"

"Thần tuân chỉ." Dương Hạo ái dài một cái, lui ra ngoài.

Vương Kế Ân lách tới trước mặt Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa xua tay, khiến Vương Kế Ân phải nuốt lại những lời đang muốn nói vào bụng. Vương Kế Ân chỉ đành chậm rãi thu lại cái tay đang hung hăng giơ lên, chuẩn bị làm tư thế chém xuống.

"Tào Bân có chịu cùng Sở Chiêu Phụ hợp ký công văn, gửi tới đại quân đang bắc phạt, điều Ngụy vương về kinh hay không?"

“Có ạ!"

Lưng Vương Kế Ân cong xuống rất tự nhiên: "Lúc sáng sớm Tào xu mật cuối cùng cũng ký tên đóng dấu, Sở tướng quân đã sai khoái báo khẩn cấp tám trăm dặm truyền tới quân bắc phạt rồi."

Triệu Quang Nghĩa thở ra một hơi, nói: "Chuyện này mới là chuyện quan trọng nhất hiện giờ. Đại quân nếu chịu dừng lại, Ngụy vương đồng ý quay về, giang sơn này... mới tính là yên ổn. Ngươi tới phía linh đường xem xem bá quan có phản ứng gì, nếu có gì dị thường thì lập tức bẩm báo cho trẫm."

"Tuân chỉ." Vương Kế Ân dạ môt tiếng, nhưng lại vẫn không động đậy.

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười, nói: "Công lao của ái khanh, trẫm sẽ không quên đâu. Đại sự tiểu tình trong cung, hiện tờ còn phải dựa vào ngươi, trẫm phong ngươi làm cung uyển sứ, phụ trách tất cả sự nghị của lục cung. Tiên đế băng hà, tuân theo di chúc của tiên đế, sẽ mai táng người ở chỗ con ngựa đá, ái khanh phụ trách việc lăng tẩm đi."

Cung uyển sứ phụ trách tất cả sự nghi của hậu cung, đó là quan chức tôn quý nhất của nội quan. Mà chủ trì công trình thì lại có nhiều màu nhất, cho dù không quá tham thì cũng có thể kiếm được đầy chậu đầy bát. Vương Kế Ân cung kính tạ ơn, trên mặt lộ ra vẻ mừng vui quá đỗi.

Triệu Quang Nghĩa lại nói: "Ngươi làm việc khóe léo, lại giỏi cả văn lẫn võ, cứ làm kẻ sai vặt cho người ta mãi khó tránh khỏi đại tài tiểu dụng. Trẫm sau khi đăng cơ, sẽ phải xuất binh bắc phạt, mở mang bờ cõi. À... đợi chuyện lăng tẩm của tiên đế xong xuôi, sẽ đưa người ra làm ngoại quan, tạm thời đảm nhệm chức Hà bắc đạo thứ sứ, tương lai theo trẫm chinh thảo thiên hạ, nếu lập được chiến công, tiền đồ không thể hạn lượng."

Vương Kế Ân vội vàng quỳ xuống, vui mừng ra mặt nói: "Tạ ơn bệ hạ, nô tỳ tuân chỉ, bệ hạ cả đêm mệt mỏi, xin nghỉ ngơi để giữ gìn long thể, nô tỳ cáo từ."

Ngoại quan và nội quan là quan viên hoàn toàn khác nhau. Nội quan tuy cũng có phẩm cấp, bổng lộc cũng không thấp, nhưng nói tới gốc thì chẳng qua chỉ là một thái giám sai vặt hầu hạ hoàng đế và vương phi. Nhưng ngoại thần..., đó là phải dựng nha mở phủ, làm phụ mẫu một phương. Thấy hoàng đế cũng chỉ xưng thần, không cần phải hành đại lễ, cũng không cần phải quỳ xuống, há chẳng phải là hơn hắn một nô tỳ nam nữ bất phân ở trong cung.

Vương Kế tâm lòng hoa nở rộ, cước bộ nhẹ nhàng lui xuống.

Trong điện lại im lặng, Triệu Quang Nghĩa nhíu mày, kinh nghi bất định lẩm bẩm: "Kỳ quái thật, hắn rốt cuộc là định làm trò gì? Không ngờ lại dám quay về ngay dưới mí mắt của trẫm?"

Phân vân một hồi lâu, Triệu Quang Nghĩa cắn răng bật cười: "Cho rằng ở trước mặt nhiều người thì trẫm không động đến ngươi được ư? Trẫm không tin ngươi dám ở trước mặt bá quan hồ ngôn loạn ngữ. Hừ hừ, ngày tháng còn dài, chúng ta cứ chờ xem!"

Lúc này nội thị thông báo một tiếng, Tống Kỳ, Cổ Ngọc bước vào. Những người này đều là những tâm phúc ngầm của Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa vừa được hoàng vị, liền cấp cho bọn họ thẻ bài được ra vào cung cấp. Toàn bộ ban để của hắn hiện tại vẫn ở Nam Nha, trước khi chính thức đăng cơ tọa điện, những tâm phúc này không tiện an bài vào trong cung làm quan, chỉ có thể thông qua loại phương thức này để liên lạc.

Vừa thấy Triệu Quang Nghĩa, Tống Kỳ và Cổ Ngọc liền vái một cái: "Thần tham kiến bệ hạ cung hỉ bệ hạ vinh đăng đại vũ."

Triệu Quang Nghĩa mặt mày hớn hở, rời khỏi chỗ ngồi đỡ bọn họ dậy. Tống Kỳ lại lập tức nói ngay: "Quan gia, Trình Đức Huyền chết rồi."

Triệu Quang Nghĩa giật nảy mình, thất thanh nói: "Vũ Tích chết rồi ư? Sao mà chết?"

Tống Kỳ liền thuật lại chuyện tìm thấy tử thi của Trình Đức huyền, Triệu Quang Nghĩa vẻ mặt âm tình bất định lắng nghe. Tống Kỳ lại nói: "Quan gia, vô duyên vô cớ, ai có thể canh ba nửa đêm giết chết mệnh quan triều đình? Vũ Tích là đang đi truy đuổi Dương Hạo, theo ý kiến của thần, kẻ giết người chắc chắn là Dương Hạo. Dương Hạo lúc này e rằng đã chạy trốn rồi, đường đường là một trong cửu khanh, đột nhiên thất tung, há chẳng phải là đáng cười ư? Quan gia xin hãy hạ chỉ, truy nã khắp thiên hạ, chỉ cần tìm được nơi hạ lạc của hắn, thần tự có thủ đoạn khiến hắn chết một cách thần không biết quỷ không hay..."

Triệu Quang Nghĩa âm trầm nói: "Không cần tìm, Dương Hạo hiện tại đang ở trong cung."

Tống Kỳ giật nảy mình, thất thanh nói: "Sao cơ?"

Triệu Quang Nghĩa nói: "Việc cần kíp bây giờ là phải ổn định đế vị, củng cố hoàng quyền, ổn định nhân tâm thiên hạ. Trẫm đang có chuyện muốn thương nghị với các ngươi. Nào nào, các ngươi ngồi đi."

Tống Kỳ, Cổ Ngọc vội vàng nói: "Quan gia ở trước mặt, chúng thần đâu dám ngồi."

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười, vẫn gọi người bưng ghế gấm vào, hai người cảm tạ rồi ngồi xuống, ba người bắt đầu thương nghị.

"Quân viễn chinh đóng quân tại chỗ, đối với chư tướng trong quân vẫn phải trấn an. Quan gia đăng cơ, đại xá thiên hạ, quần thần cũng phải phong thưởng, chư tướng bắc phạt thì không tiện thưởng, nhưng từ Đảng Tiến trở xuống, các tướng lĩnh quan trọng đều nên có phong thưởng để trấn an họ.

"Cái này trẫm biết. Hiện giờ Tào Bân đồng ý, truyền lệnh ba quân không được tiến tiếp, chỉ là một cái thăm dò. Tào Bân đã thức thời, xu mật chính phó sứ đều chịu nghe theo mệnh lệnh của trẫm, cấm quân kinh kỳ thì nằm trong lòng bàn tay của trẫm, chỉ bằng vào điểm này, Đảng Tiến tự biết suy nghĩ mà làm theo.

"Quan gia, phía Lạc Dương đã ngay đêm phải người đi rồi, Triệu tướng ở đó không gây nên được mưa gió gì cả, hoàng tam đệ và các hoàng tộc phủ đệ khác cũng đều nằm trong sự giám sát nghiêm ngặt. Ngoài ra gia quyến của đám tướng lĩnh bắc phạt như Đảng Tiến, những người này cũng bị giám thị nhất cử nhất động, chắp cánh cũng khó bay."

"Tốt!"

"Lương thảo vận tới cho đại quân bắc phạt đã bị cắt rồi, đợi khi Ngụy vương nhận được thánh chỉ, trong quân sẽ biết được tin tức này."

"Tốt."

"Trước mắt còn phải đại xá thiên hạ, chiến cáo thiên hà và bề tôi rằng tân đế đăng cơ, còn phải định niên hiệu nữa.”

"Cái này… định niên hiệu.. sớm vậy ư? Niên hiệu nên từ năm tới sau khi tiên đế băng hà mới định chứ?"

"Hiện giờ còn có hơn nửa năm thời gian nữa, đêm dài lắm mộng, nên sớm định ngày đi. Niên hiệu, hoàng hiệu, thái tử đều sớm nên xác định. Danh phận thỏa đáng rồi thì thiên hạ cũng sẽ ổn định."

"Tốt!"

….

Dương Hạo rời khỏi điện, liền khập khễnh tới linh đường.

Hắn và Triệu Quang Nghĩa phen này so chiêu, chính là tới chỗ chết mà tìm đường sống. Trình Đức Huyền có tới Dương gia hay không? Có qua! Hắn có ở trong phủ hay không? Không có!

Nhưng hắn lại ở ngay trước mặt Triệu Quang Nghĩa, luôn miệng chắc chắn rằng mình có ở nhà, Triệu Quang Nghĩa làm gì được hắn? Hoàng đế tân nhiệm cùng một thần tử tranh cãi mãi về chuyện hắn tối qua rốt cuôc là đi đâu. Thế chẳng phải là một lão bà một mình trên giường trống, bụng đầy oán khí ư? Ngươi cảm thấy có giống trò trẻ con không?

Dương Hạo dẫu sao cũng biết rằng hắn tuyệt đối sẽ không bỏ qua cho mình, bày ra bộ dạng lợn chết không sợ nước sôi như vậy, Triệu Quang Nghĩa ngược lại sẽ cố kỵ, không mò được hắn rốt cuộc là có con bài gì, do đó lòng sinh nghi hoặc, sẽ không dám tùy tiện hạ thủ nữa. Hắn chính là một trong cửu khanh, Triệu Quang Nghĩa lấy tội danh gì ra mà dám công khái giết hắn? Nếu âm thầm hạ thủ... Hắn chính là Đại hồng lư, cả ngày phải lo liệu tang sự cho tiên đế, mấy ngày này e rằng ngay cả hoàng đế cũng không thấy được hắn, cả ngày tung tăng trước mặt người ta, ai có thể hạ thủ được? Huống chi hắn mấy ngày này đại đa số thời gian là sống ở trong cung. Triệu Quang Nghĩa tuyệt không dám để hắn chết trong cung, tăng thêm chút gia vị không dễ chịu cho cuộc đăng cơ của hắn.

Còn ở ngoài cung, buổi sáng trước khi hắn thượng triều, đã ầm thầm gặp Trư nhi, liên lạc với Kế Tự Đường ở Biện Lương, có giang hồ hảo hán của Biện Hà bang âm thầm tương trợ, lại có thế lực ngầm khắp tam giáo cửu lưu của Kế Tự đường, mấy ngày này bảo bọn họ an bài thật tốt, ngày sau hắn vừa ra khỏi cửa cung, liền giống như cá vào sông hồ, ai còn có thể tìm được tung tích của hắn.

Trong đại điền bố trí linh đường là một mảng trắng thuần.

Quan tài của Tiệu Khuông Dận ở cuối đại điện, phía trước đặt hương án, linh bài. Văn võ bá quan xếp hàng tế bái, dưới sự chỉ dẫn của lễ quan mà khóc tế tiên đế.

Dương Hạo thuộc hàng cửu khanh, địa vị gần bằng ba vị tể tướng, cho nên đi thẳng tới vị trí trước nhất, quỳ xuống phía sau ba vị tể tướng, tế bái một lúc, sau đó liền đứng dậy bước sang bên cạnh. Các quan viên của Hồng lư tự đều vây lên, bọn Tiêu Hải Đào hồi báo những sự nghị mà mình phụ trách. Dương Hạo chỉ điểm an bài một hồi, quan viên các ti lập tức chia nhau đi lo liệu những việc thuộc quyền của mình.

Dương Hạo thì lại quỳ xuống bên sườn phía trước, tránh hàng của văn võ bá quan, để tiện cho quan viên của Hồng lư tự tùy thời có thể xin chỉ thị của hắn, an bài các loại lễ nghi của đại tang.

Dương Hạo vừa khóc vừa dõi mắt nhìn xung quanh, chỉ thấy vẻ mặt của các bá quan ở trước linh cữu mỗi người có một vẻ riêng, rõ ràng là đối viện việc Triệu Khuông Dận đột nhiên bệnh chết, rất nhiều người trong lòng chưa kịp có chuẩn bị tâm lý, đột ngột gặp phải đại biến này, khó tránh khỏi có chút thất thố. Đám quan viên như Tào Bân, Điền Trọng Tiến thì sắc mặt càng trầm trọng, nhưng lại không có ai dám nhìn đông nhìn tây, nói chuyện với nhau.

Tân quân đã bái rồi, bọn họ là quan nhi của Đại Tống, trợ giúp và bảo vệ xã tắc của Triệu gia, người ngồi trên giang sơn và người của Triệu gia, bọn họ trừ việc tiếp nhận hiện thực ra thì còn biết làm gì nữa?

Dương Hạo lại chuyển ánh mắt tới trước linh cữu, quỳ ở phía trước nhất trước lĩnh cữu tất nhiên là Tống hoàng hậu và đôi con trai con gái của Triệu Khuông Dận. Tống hoàng hậu mặc đồ tang, trông rất trẻ, chỉ mới hơn hai mươi tuổi, xinh đẹp như hoa, chỉ là hai mắt đã khóc đến nỗi sưng húp như quả đào, lúc này bà ta đã khóc đến khản cả cổ rồi, không khóc to được nữa, chỉ không ngừng lau nước mắt.

Dương Hạo thấy vậy không khỏi sinh lòng trắc ẩn. Bỗng nhiên hắn phát hiện có ánh mắt đang nhìn chằm chằm vào mình, trong lòng không khỏi lạnh toát, vội vàng cúi đầu xuống, giả vờ khóc lóc đau đớn giống các bá quan. Mượn động tác lau nước mắt, hắn che mặt, nhìn lén về phía ánh mắt đó, vừa nhìn thấy liền ngây người ra.

Hắn còn cho rằng là tai mắt của Triệu Quang Nghĩa đang chú ý tới nhất cử nhất động của hắn, không ngờ vừa ngửng đầu lên, chạm phải ánh mắt đó, lại thầm thấy kinh hãi. Người đó không ngờ lại là Vĩnh Khánh công chúa, nàng ta mặc áo gai màu trắng, tóc xanh cũng vén sau lụa trắng, khuôn mặt thanh tú đẫm nước mắt, mũi vì khóc mà đỏ hồng, hai mắt lại nhìn chằm chằm vào hắn không hề chớp.

Vừa chạm phải ánh mắt của hắn, Vĩnh Khánh công chúa lập tức nghiêng người, theo tiếng hô to của quan xướng lễ mà vái lạy, miệng chu ra về phía trước thân mình. Dương Hạo nhìn về phía trước nàng ta, không khỏi ngớ người, Vĩnh Khánh công chúa lại chu miệng ra một lần nữa. Dương Hạo nghi hoặc nghĩ: "Người quỳ ở trước mặt nàng ta chính là Tống hoàng hậu, nàng ta muốn mình nhìn cái gì? Chẳng lẽ... cái bồ đoàn đó quỳ không được thoải mái, nàng ta muốn bảo mình đổi cái khác ư?" 

Chương 400:"Hẹn hò" 

Vĩnh Khánh thấy hắn không động đậy, trong lòng khó tránh khỏi sốt ruột, nhưng nàng ta cũng biết rằng, Dương Hạo là ngoại thần, không thể dễ dàng tới gần mình được.

Nàng ta linh cơ máy động, nảy ra ý hay, tựa hồ như muốn đứng dậy, nhưng giả vờ như hai chân đã bị tê nên đứng không vững, Dương Hạo nắm bắt thời cơ, tiến lên một bước đỡ nàng ta, Vĩnh Khánh công chúa lập tức nói khẽ một câu: "Tìm cơ hội gặp ta!"

Chỉ trong thời gian nói câu này, Vương Kế Ân mặc áo gái để tang, giống như một con mèo trắng rón ra rón rén lướt tới. Dương Hạo rụt tay lại, mặt mày u sầu nói: "Công chúa xin nén bi thương, cố gắng bảo trọng ngọc thể."

Vương Kế Ân nói khẽ: "Công chúa nếu thân thể không khỏe, xin hãy nghỉ ngơi một chút." Vĩnh Khánh công chúa lắc đầu nói: "Bản công chúa tới điện phía tây điện một chút." Nói xong liền nhẹ nhàng lui sang bên cạnh.

Phía cuối điện ở mặt tây là nhà vệ sinh trong cung, các văn võ đại thần, hoàng thân quốc thích túc trực bên linh cữu của hoàng đế nhưng cũng không thể không ăn không uống, không đại tiểu tiện, ai mót quá thì đều tới chỗ ngũ cống tuần hoàn ở phía tây điện để giải quyết. Vương Kế Ân nghe thấy vậy vội vàng lui một bước, Vĩnh Khánh công chúa liền đi về phía tây điện, thủy chung không nhìn Dương Hạo lấy một cái.

Dương Hạo vẻ mặt như thường quay về chỗ cũ rồi quỳ xuống, theo tiếng hô của xướng lễ quan mà tế bái, trong lòng thì thầm suy đoán: "Hành tung của công chúa quỷ bí như vậy, muốn lén lút gặp ta để làm gì."

Dương Hạo trăm điều không có giải đáp cho tới tận khi Vĩnh Khánh công chúa quay lại vẫn không nghĩ ra được nguyên do trong đó. Một nhà hoàng đế tuy đều sống trong đại nội, nhưng gia đình đế vương quy củ xâm nghiêm, trọng môn điệp hộ, đâu phải là nhà ngói ba phòng, đồ đạc bừa bãi như các hộ gia đình bình thường. Phòng này mà đánh rắm thì phòng ngoài cũng nghe rõ ràng, hại cho các tân tức phụ mới qua cửa đến đánh rắm cũng phải nhịn.

Nguyên nhân cái chết của Triệu Khuông Dận Dương Hạo biết rất rõ, nhưng không cho rằng hoàng hậu và công chúa, hoàng tử cũng biết. Cho dù bọn họ có biết thì cũng không có đạo lý lại tìm đến mình, trong mắt người đời, mình có thể tính là người của Nam Nhan. Vĩnh Khánh công chúa quỷ bí như vậy, rốt cuộc là muốn làm gì.

Vĩnh Khánh công chúa thỉnh thoảng lại liếc Dương Hạo một cái, nhưng Dương Hạo thì lại không dám nhìn nàng ta nữa. Hiện giờ người ở trong cung bị Triệu Quang Nghĩa chú ý nhất chính là Dương Hạo, trong bóng tối không biết có bao nhiêu con mắt đang nhìn chằm chằm vào hắn, sao có thể gặp mặt với công chúa được. Vĩnh Khánh công chúa không đoán ra được tâm ý của hắn, trong lòng sốt ruột không thôi nhưng cũng không dám ra hiệu cho hắn nữa.

Một lát sau, Tiêu Hải Đào tới góc điện, ra hiệu về phía Dương Hạo. Dương Hạo thấy vậy liền đứng dậy, Tiểu Hải Đào nhỏ giọng nói: "Đại nhân, các thợ lều đã tới rồi."

Dương Hạo gật đầu rồi bước ra bên ngoài.

Đi tới cửa điện thì Vương Kế Ân không biết từ góc nào chui ra, giả vờ như chẳng may đụng phải Lý Mạnh, gật đầu cúi lưng nói: "Ái chà Đại hồng lư, ngài đi đâu vậy."

Dương Hạo gật đầu với hắn rồi hờ hững nói: "Các thợ lều đã tới rồi, bản quan tới thu xếp một chút."

"Ồ, tốt tốt. Oản nhi!"

Một tiểu hoàng môn từ cạnh cửa điện đứng ra. Vương Kế Ân nói: "Oản nhi hầu hạ Đại hồng lư, trong linh đường công việc rối rắm, không thể thiếu Đại hồng lư được, có việc gì thì ngươi chạy đi truyền báo một tiếng."

Dương Hạo cười nhạt một tiếng: "Đứng dậy ra khỏi đại điện.

Lúc đó có việc ma chay cưới hỏi gì thì phải dựng lều, mà nghênh đón đưa tiễn thì cũng phải dựng lều, chúc mừng khánh thành cũng phải dựng lều. Lều thường dùng dải lụa màu và cọc gỗ, lá xanh và cờ ngũ sắc trang trí bên trên, trông giống như là cổng chào. Mười lăm tháng giêng, đêm thất tịch, rằm tháng tám, giao thừa mỗi năm cả thành đều kết cổng màu để chúc mừng, cho nên trong thành Biện Lương nghề làm lều màu cực kỳ phát đạt.

Dương Hạo khập khiễng tới gặp các thợ lều được chọn vào cung. Tiểu hoàng môn Oản Nhi theo sát một bước cũng không rời. Tới bên ngoài thì thấy một tên thương nhân mắt nhỏ tai nhỏ ở dẫn một đám công tượng mặc tạp dề áo ngắn cầm các loại công cụ đợi ở đó.

Tiểu Hải Đào bước nhanh lên trước, nói: "Đại nhân, vị này là Hầu chưởng quỹ, là công đầu nhi của liên hiệp thợ lều này. Hầu chưởng quỹ, vị này chính là Đại hồng lư, còn không mau bước lên tham kiến đi."

Tên Hầu chưởng quỹ đó vội vàng bước lên kiến lễ, cười bối rối nói: "Đại hồng lư, đây đều là những thợ lều có tay nghề tốt nhất ở trong thành Đông Kinh, cho dù là dựng một cái lều lớn ba cửa, cửa giữa cho xe qua, hai cửa cho người đi, cũng không cần một búa một cưa, lều được dựng lên bên trên có nóc, hai bên có tường chống, toàn bộ là dùng gỗ mục cọc nhỏ để dựng giá đỡ, bên ngoài buộc lại mà thành. Cọc gỗ không đóng, dựng lều trên đất bằng, không đào lỗ không cắm cọc, toàn bằng vào dây thừng buộc giữ cho cổng chào đứng, gió thổi không đổ người đẩy không lỏng..."

Hắn nói liên tục không ngừng, người ngoài không dễ dàng phát diện ra những động tác ảo diệu do tay của hắn làm ra. Dương Hạo thấy vậy mắt hơi sáng lên, hờ hững nói: "Thế thì có gì đâu mà phải khoác lác, đại nội hoàng cung cho phép các ngươi mang búa mang cưa, đào hố khắp nơi chắc? Chính là cần loại thủ nghệ này của các ngươi, cho nên mới mời các ngươi tới. Hầu chưởng quỹ, cần cọc gỗ dài bao nhiêu dày bao nhiêu thì các ngươi ước lượng đi. Ở ngoài cung làm xong rồi sau đó bưng vào dựng lều. Lều này từ nội đình, linh cung dựng ra tới ngọ môn, cho tới cuối ngự nhai. Thời gian rất có hạn, các ngươi định thế nào thì đi làm đi. Bản quan sẽ chỉ chỗ, ngươi nói cho bản quan nghe xem, liệu có bị dột thủng gì không?"

Nói xong hắn cũng làm ra động tác không khiến người ta chú ý, khóe mắt hơi hướng sang tên tiểu hoàng môn đang dỏng tai lắng nghe ở bên cạnh.

Ánh mắt của Hầu chưởng quỹ hơi sáng lên, gật đầu cúi lưng nói: "Đại hồng lư yên tâm, Đại hồng lư yên tâm. Bọn tiểu nhân tuy chỉ là làm thuê kiếm cơm, nhưng làm việc rất siêng năng. Vải trắng, lụa trắng, sa trắng, những vật hữu ích này trước kia buộc lều đều là do gia chủ đưa ra, bọn tiểu nhân chỉ là hạng kinh doanh nhỏ, không mua được những vật quái trọng như vậy."

"Cần cái gì thì hoàng gia sẽ cho ngươi thứ đó. Quay về, bản quan sẽ thương nghị với nương nương và Vương đô tri một chút, sẽ từ trong nội đình chuyển ra, dùng bao nhiêu sẽ không thiếu một thước vải nào của ngươi đâu. Ngươi đi đi."

"Vâng vâng."

Tên chưởng quỹ đó dạ một tiếng, phất tay một cái, các thợ lều khiêng hoàng gánh rương lục tục đi theo. Một tên thợ gánh đòn gánh, trước sau có một cái rương, cái rương đó lắc lư, góc sắc đụng phải đùi của tiểu hoàng môn Oản nhi đó.

Cú va chạm này ngay cả một chút thanh âm cũng không có, nhưng chỗ va chạm lại rất hiểm, đau đến tận xương cốt. Oản nhi gào lên một tiếng, ôm đùi ngã xuống đất, đau đến nỗi co giật trên mặt đất. Hầu chưởng quỹ thấy vậy, kinh hãi xông lên mắng tên thợ đó như tát nước vào mặt: "Đồ chết toi ngươi, đây là địa phương nào ngươi có biết không hả, không cẩn thận là chết đó."

"Được rồi."

Dương Hạo lạnh lùng quát một tiếng: "Ở chỗ này cũng có thể lớn tiếng hò hét à. Cút mau!"

Hắn trợn mắt lên liếc tên tiểu hoàng môn đó, quát: "Oải nhi, ngươi cũng không có mắt à, sao cứ đứng sững ra đó để người ta va phải. Đi sang bên kia nghỉ ngơi đi, khi nào khỏe thì tới nghe lệnh."

Oản nhi đau đến nỗi nhòe nhoẹt nước mắt, còn chưa kịp nói gì thì Dương Hạo đã lê cái chân què của hắn khập khiễng bỏ đi rồi.

Điện hoàng nghi, ở cửa cung có mấy tượng nhân đang vừa nói vừa đo đạc, Tiêu Hải Đào ở bên cạnh chỉ điểm, dẫu sao thì tang lễ trong cung và tang sự của các bách tính bình thường khác nhau rất nhiều. Về phương diện lễ nghi thì Tiêu Hải Đào so với cái gậy gỗ Dương Hạo thì rõ hơn nhiều.

Dương Hạo đứng cách đó không xa ngẩng dầu nhìn họ dựng thang, người thợ đang đo đạc tường cung, khóe miệng cong lên, hỏi: "Chuẩn bị xong chưa?"

Hầu chưởng quỹ đứng ở phía sau vẫn là bộ dạng bỉ ổi đó, nhưng trong mắt lờ mờ lộ ra vẻ tinh minh: "Nhận được phân phó của đại nhân, bọn ta lập tức chuẩn bị. Đại nhân muốn đi đường thủy hay là đi đường bộ, trước tiên về tây hay là tiềm cư trong thành, vì chưa nhận được dặn dò chính xác của đại nhân nên bọn tiểu nhân chỉ đành chuẩn bị tất cả, để đảm bảo không có sơ sót."

Hắn nhoẻn miệng cười, nói khẽ: "Trên đường này, có đường sáng, cũng có cống ngầm, mương tối, đào tường khóe vách, quan phủ có giỏi hơn nữa thì cũng không có bản sự thò tay được tới những chỗ đó."

Dương Hạo cười ha ha, nói: "Các ngươi trước tiên đi chuẩn bị đi, trốn đi như thế nào thì hiện tại vẫn chưa có manh mối, cũng phải tùy cơ ứng biến, gặp cơ hội thì hành sự. Đúng rồi, ta ở trong cung chỗ nào cũng có tai mắt theo dõi, nhưng ta muốn gặp một nhân vật cực kỳ quan trọng trong nội cung, các ngươi... có cách nào dẫn nàng ta tới gặp ta không."

Hầu chưởng quỹ hơi nhíu mày, nói: "Đại nhân, nhân vật trong nội cung e rằng không dễ gặp đâu. Trong cung thực sự là bọn ta không thò tay vào được."

Dương Hạo mỉm cười, nói: "Chuyện là ở ngươi, chắc gì đã không nghĩ ra biện pháp. Nội đình cũng phải dựng lều, lát nữa ta dẫn ngươi tới linh đường, trước tiên nhận người đã, kế sách chi tiết thì chúng ta sẽ thương nghị sau."

...

Đại sự của hoàng đế, văn võ bá quan luân phiên khóc lóc, túc trực bên linh cữu. Triệu Quang Nghĩa tuy bận đến sứt đầu mẻ trán nhưng ngày nào cũng dẫn đầu khóc lóc. Tới buổi chiều ngày thứ hai, trong cung đâu đâu cũng thấy người kiện sức, các quan nhi được thay vào khóc còn tính là có chút tinh thần. Nhưng Vương Kế Ân thì đến ngay cả di chuyển cũng có chút khó khăn.

Từng hòm vải trắng chưa bị nhuộm màu từ trong hậu cung chuyển ra, các công tượng bận rộn làm việc, lều trong nội đình đều được dựng xong, từng chiếc từng chiếc lều dựng thẳng ở đó, trông rất trang nghiêm.

Hoàng tử Đức Phương tuổi còn nhỏ nên sớm đã không chịu nổi, được người đưa xuống nghỉ ngơi. Hoàng hậu nương nương và Vĩnh Khánh công chúa thì vẫn trực trước linh cữu, cũng chỉ nghỉ ngơi hai tiếng, ăn chút đồ. 

Dương Hạo bận rộn một phen rồi quay về đứng ở góc linh đường. Vĩnh Khánh công chúa nhìn lén hắn một cái, Dương Hạo giải vờ ho khan rồi gật đầu. Vĩnh Khánh công chúa lúc trước đã nhận được ám hiệu của hắn, lúc này thấy hắn gật đầu liền lui sang một bên, dẫn hai cung nữ thiếp thân đi về phía tây của điện.

Vương Kế Ân đang giám sát cử động văn võ bá quan trong điện, đặc biệt là nhất ngôn nhất hành của Dương Hạo, đối với vị công chúa nhỏ tuổi này thì lại không chú ý. Cái mà hắn để ý là các triều thần có nghi ngờ gì không, có hành động gì không, nhưng ngàn vạn lần không ngờ rằng tiểu công chúa thân ở thâm cung lại có thể biết chân tướng về cái chết của tiên hoàng. Hơn nữa có ý nghĩ viển vông muốn tiếp xúc với ngoại thần. Huống chi nàng ta tới phía tây diện để đi vệ sinh cũng không phải là một lần hai lần, cho nên cũng không để ý.

Vĩnh Khánh công chúa dẫn hai cung nữ tâm phúc ra khỏi linh đường, đi về phía tây điện, hai người thợ khênh rương hòm vừa hay từ bên trong bước ra. Vĩnh Khánh công chúa quay đầu lại nhìn một cái, đột nhiên bước nhanh lên trước.

Khi song phương đi qua nhau, nắp rương đột nhiên bật mở. Vĩnh Khánh công chúa nghiêng người một cái, liền ngã vào trong rương, nắp rương đóng lại, hai người vẫn bình tĩnh đi về phái trước, hai cung nữ thì như không hề biết gì tiếp tục đi về phía tây điện, cả quá trình chỉ trong nháy mắt, hai nội thị vừa hay vòng qua góc tường đi tới mơ hồ như phát giác ra gì đó.

Lều tang đã được dựng ở bên ngoài linh đường, Dương Hạo khập khiễng bước ra chỉ huy. Vương Kế Ân ngáp một cái liếc về về phía Oản nhi ra hiệu, Oản nhi mặt mày đau khổ gật gật đầu, khập khiễng đi theo sau Dương Hạo.

Mắt thấy ngoài cửa điện toàn là thợ lều đang vung vung buộc buộc, Oản nhi không dám tới gần, chỉ đứng dưới hành lang giám thị tất cả những người tiếp cận với Dương Hạo.

"Bên trên cho cao hơn một chút, đặt thêm mấy mảnh vải trắng lên. Miệng cửa để rộng hơn một chút, phải khênh quan tài của tiên đế ra vào đấy."

Dương Hạo ra sức chỉ huy, khập khà khập khiễng đi đi lại lại, bên cạnh cũng không có ai tiếp cận.

"Ài, đặt cái rương xuống để bản quan nghỉ chân một chút."

Dương Hạo đột nhiên thấy hai người thợ khênh rương tới, liền vội vàng gọi một tiếng, lệnh cho bọn họ đặt rương xuống, đuổi họ ra chỗ khác rồi đặt mông ngồi xuống, bộ dạng mệt mỏi vô cùng. Hắn vừa nhìn các thợ dựng lều, thỉnh thoảng còn cao giọng chỉ điểm mấy câu. Oản nhi nhìn phát chán liền dựa vào cột điện, ngồi lên bậc đá.

"Ngươi tránh ra."

Dương Hạo đột nhiên cảm giác mông bị người ta dùng tay chọc một cái, không khỏi kinh hãi, âm thầm dịch sang một bên, chỉ thấy trên nắp cái rương đó lộ ra một cái lỗ rộng chừng một thước, một bản tay nhỏ đang rụt lại, sau đó thì lộ ra một gương mặt đang tươi cười.

Dương Hạo cúi đầu nhìn một cái rồi lại tiếp tục ngẩng đầu lên nhìn về phía trước, dùng tay che miệng, làm ra tư thái đang trầm ngâm, khẽ giọng hỏi: "Công chúa có chuyện gì mà muốn gặp Dương mỗ vậy, lại còn bí mật như vậy nữa."

Vĩnh Khánh công chúa tức giận nói: "Bản công chúa tất nhiên có lý do không thể không cẩn thận, nhưng ngươi... ngươi tựa hồ so với bản công chúa còn cẩn thận hơn. Đây là... đây là làm cái trò gì vậy."

Dương Hạo đâu thể nói ra mình hiện tại là nhân vật được chú ý nhất trong cung, hắn cười khan một tiếng, nói: "Thần cũng có nỗi khổ bất đắc dĩ, công chúa có gì thì xin nói mau đi."

Vĩnh Khánh công chúa, cố gắng ổn định lại hô hấp, trầm giọng nói: "Đại hồng lư vốn là một bách tính của Phách châu, tuổi tác như vậy mà trong hai năm đã được liệt vào hàng cửu khanh, có thể là người đầu tiên của bản triều. Không biết Đại hồng lư ăn lộc của vua có chịu là những việc trung thành với vua hay chăng?"

Dương Hạo nghe thấy câu nói này, tim liền đập thình thịch, nhưng loại câu hỏi này căn bản là không có câu trả lời nào khác, chỉ đành trơ mắt nói: "Công chúa, thần tuy là xuất thân quân nhân, cũng không được đọc nhiều sách, nhưng cũng hiểu được đại nghĩa quân thần. Quân nghĩa là nhan ái, thân nghĩa là trung thành, phụ nghĩa là hiền hậu, tử nghĩa là hiếu thảo, nhân luân ngũ thuần, quân thần trung nghĩa đứng đầu. Thần nhận được hoàng ân, phát cách đề bạt lên tới chức vụ ngày hôm nay, làm sao mà không cảm niệm ơn vua, hiệu trung với triều đình.

Vĩnh Khánh công chúa trong mắt ngấn lệ, nói khẽ: "Tốt, vậy ta hỏi ngươi, hiện tại nếu có người bất trung bất nghĩa, thí quân phạm thượng. Đại hồng lư ngươi sẽ nên làm gì?"

"Tự dưng sao công chúa lại hỏi một câu như thế này, chẳng lẽ..."

Vĩnh Khánh công chúa thấy hắn không nói gì, giọng nói của chút run rẩy nhắc lại: "Đai hồng lư ngươi nên làm gì?"

Dương Hạo cúi đầu nói khẽ: "Thần sẽ thận hết sức để duy trì cương kỷ triều đình."

Vĩnh Khánh hỏi dồn: "Nếu người đó... người đó hiện tại một tay che trời, một lời có thể khiến người ta mất mạng, có thể ra lệnh cho người ta phải chết thì sao?"

Dương Hạo quyết tâm nói: "Nhờ ơn vua nên Dương Hạo mới có được ngày hôm nay, cho dù phải thịt nát xương tan cũng không thể trơ mắt nhìn ơn vua có vạn nhất gì, trước mặt có loạn thần tặc tử khi quân phạm thượng, thần tự sẽ lấy thân báo đáp, dù chết cũng không hốn hận."

"Tốt."

Vĩnh Khánh công chúa ừm một tiếng, trên khuôn mặt lộ ra dưới nắp rương đã đẫm lệ: "Đại hồng lư, phụ hoàng của ta đột ngột qua đời thực ra là vì bị gian thần hãm hạn. Gian thần này hiện tại đã soán ngôi đoạt nước, sắp lên ngồi trên bảo tọa chí tôn rồi. Vĩnh Khánh cùng đường bí lối, giờ xin cầu Đại hồng lư trợ giúp, Đại hồng lư ngài có thể tận lòng trung nghĩa của bề tôi mà trừ gian vì nước hay không?"

Dương Hạo nghe thấy vậy liền biến sắc, vội vàng ho khan hai tiếng để che giấu: "Chuyện này quá lớn, công chúa có bằng chứng gì không, nhưng ngàn vạn lần không được nói linh tinh đâu đấy."

"Bản công chúa không nói linh tinh." Vĩnh Khánh nghẹn ngào nói: "Đại hồng lư có còn nhớ con anh vũ mà bản công chúa cướp từ tay bằng hữu của ngươi không?"

"Nhớ."

"Con anh vũ đó quen học vẹt, Đại hồng lư cũng tự mình nhìn thấy. Con anh vũ đó từ lúc được bản cung mang về trong cung, một mức thích ban đêm đậu trên trần nhà ở trong cung mà ngủ. Con anh vũ đó khi quay về trong điện của bản công chúa đã học theo giọng điệu của phụ hoang mà hót lớn: "Giờ đã làm đến chí tôn, không ngờ nhị đệ lại giết ta". Thử hỏi nhị đệ trong miệng phụ hoàng ngoài nhị thúc ra thì còn có thể là ai ngữa. Long thể của phụ hoàng trước giờ luôn khỏe mạnh, đêm qua vô duyên vô cớ lại bạo bệnh mà mất. Há chẳng phải là tương ứng với việc này ư. Một con anh vũ, nếu không phải tận tai nghe thấy thì sao có thể bắt chước giọng điệu của phụ hoàng mà nói ra câu này."

Dương Hạo biến sắc, nói: "Con anh vũ đó hiện tại ở đâu?"

Vĩnh Khánh ai oán nói: "Con anh vũ đó... đã bị nương nương đè dưới chăn mà ngạt chết rồi. Nhưng đại sự lớn như thế này nếu không phải là sự thực thì bản công chúa há lại dám vọng ngôn. Đại hồng lư không tin bản công chúa, muốn tự mình kiểm chứng ư?"

Dương Hạo hít sâu một hơi, lẩm bẩm: "Giết rồi thì tốt, giết rồi thì tốt. Con anh vũ đó không chết thì họa lớn bằng trời sẽ ập xuống đó."

Vĩnh Khánh công chúa nhìn chằm chằm vào hắn, hỏi: "Đại hồng lư, bản công chúa đã nói ra chân tướng rồi, lại đem tính mạng cả nhà mình giao cho ngươi, ngươi hiện giờ.. sẽ nói sao?"

"Cái này..."

Dương Hạo hơi do dự, Vĩnh Khánh công chúa lại nghiêm nghị nói: "Đại hồng lư nếu muốn vinh hoa phú quý thì hiện tại có thể tới chỗ tân hoàng đế mà tố cáo. Cái mạng này của Vĩnh Khánh ngươi cứ cầm đi mà dùng, máu của ta sẽ hóa thành tiền trình của ngươi."

Dương Hạo vội vàng nói: "Công chúa nói gì vậy, Dương Hạo nếu không có một chút nhân tâm nào thì há lại làm ra loại chuyện này."

Vĩnh Khánh vui mừng nói: "Vậy thì Đại hồng lư ngôn hành như một, rửa sạch oan khuất cho phụ hoàng ta. Vĩnh Khánh tất sẽ kết cỏ ngậm vành để báo ân báo đức."

Dương Hạo nhìn ra xung quanh, cố gắng bảo trì bộ mặt bình tĩnh, lẩm bẩm: "Công chúa không biết đó thôi, người bảo thần là sao mà rửa sạch oan khuất cho tiên đế được đây. Dương Hạo trong tay không có một binh một tốt, chẳng lẽ phải đi ám sát Tấn vương ư. Tấn vương một thân võ công cao tuyệt, cho dù thần mang lòng quyết tử thì cũng chưa chắc đã giết được ông ta."

Vĩnh Khánh công chúa hưng phấn nói: "Đại hồng lư không cần phải lo lắng, bản công chúa sao lại bắt đại nhân đi ám sát tên gian nhân soán vị thí quân đó chứ, Vĩnh Khánh là muốn nhờ đại nhân đi báo tin cho đại ca của ta biết. Đại ca Ngụy vương của ta hiện giờ thống lĩnh đại quân ở bên ngoài, nếu biết được chân tướng sẽ huy sư quay về kinh sư thảo phạt gian thần, dựa vào binh lính trong tay huynh ấy ắt có thể diệt trừ quốc tặc."

Vĩnh Khánh nó xong, đôi mắt đang hưng phấn nhìn chằm chằm không chớp vào Dương Hạo, nhưng thấy Dương Hạo mặt đờ đẫn nhìn về phía trước. Nàng ta ngây người, sau đó mới tỉnh ngộ, nói: "Đại hồng lư chặn cơn sóng giữ, lập tức công lao bất thế, đợi khi đại ca ta diệt trừ quốc tặc, lên ngôi hoàng đế tất nhiên sẽ không bạc đãi đại nhân, sẽ phong đại nhân làm tể tướng. À không, sẽ phong đại nhân là quận vương. Lập được công lao bất thế như thế này, phong làm quận vương cũng không phải là quá đáng."

Dương Hạo đờ đẫn nói: "Ý tứ của công chúa là, muốn thần đuổi theo đại quân của thiên tuế, nói rõ với hắn chân tướng tiên đế băng hà, sau đó để Ngụy vương thiên tuế thống lĩnh đại quân quay về kinh sư diệt trừ gian nịnh, khôi phục lại chính thống."

"Đúng rồi" Dưới nắp rương lộ ra một đôi mắt ngây thơ: "Có gì không đúng à."

Dương Hạo hít sâu một hơi, nói: "Thân là Đại hồng lư, lo liệu việc tang lễ cho hoàng đế. Khi tân quân đăng cơ thì phải làm thế nào mới có thể thần không biết quỷ không hay mà rời khỏi Biện Lương đây."

Vĩnh Khánh ngớ người. 

Dương Hạo lại hỏi: "Thần khi gặp Ngụy vương thiên tuế nói với hắn rồi hoàng đế băng hà, người giết vua chính là Tấn vương tiên tuế, em ruột của quan gia. Ngụy vương thiên tuế liệu có tin vi thần không."

Vĩnh Khánh lắp bắp nói: "Cái này... thật ra cũng dễ thôi. Hoàng huynh nhận ra bút tích của ta."

Dương Hạo ngắt lời nàng ta, nói tiếp: "Ngụy vương thiên tuế cho dù tin vi thần đi chăng nữa, nhưng lúc đó Tấn vương thiên tuế đã đăng cơ xưng đế rồi. Ngụy vương chưa từng lĩnh binh, ở trong quân không có uy vọng gì, hắn muốn thống binh về kinh sư thảo phạt tân quân, chúng tướng trong quân, mười vạn cấm quân liệu có chắc chắn sẽ đi theo Ngụy vương không?"

Vĩnh Khánh công chúa lắp bắp hỏi: "Dương... Dương đại nhân... vậy ngài nói xem nên làm thế nào mới tốt."

Dương Hạo lắc đầu, im lặng không nói gì: "

Ván đã đóng thuyền, một người là Tấn vương theo Triệu Khuông Dận đánh thiên hạ, lại làm phủ doãn Khai Phong mười năm, sớm đã kết giao với văn võ bá quan, thế lực rối rắm phức tạp; một người là một thằng nhóc mới lớn, không có căn cơ, lại thêm Triệu Quang Nghĩa lập tức sắp đăng cơ rồi mà hoàng trưởng tử ngay cả thân phận hoàng trữ cũng không có. Đến thằng ngu cũng biết nên lựa chọn ai, thằng mù cũng biết là hắn không có khả năng trở mình.

Cái lắc đầu của hắn khiến khuôn mặt của Vĩnh Khánh công chúa sớm đã trắng bệch như tờ giấy rời xa khỏi miệng rương. Mắt Dương Hạo lại đột nhiên sáng ngời, hắn nhớ tới một chuyện mà khiến tim hắn đập thình thịch.

Hắn suy nghĩ một lát rồi mới chậm rãi nói: "Thần... thần có cách truyền tin tức cho Ngụy vương thiên tuế. Còn Ngụy vương có thể điều động quân đội thảo phạt hay không thì thần lại không nắm chắc."

Vĩnh Khánh công chúa kích động nắm lấy bàn tay đang đặt trên miệng rương của hắn, nói: "Vậy là được rồi, vậy là được rồi. Ngươi nói xem phải làm thế nào đi."

Dương Hạo nhẹ nhàng rụt tay lại, ánh mắt chớp động, chậm rãi nói: "Ý của thần là nên làm thật ổn thỏa. Trước tiên dò xét rõ ý chí của quân đội, nếu quân đội ủng hộ, theo Ngụy vương huy sư thảo nghịch, vậy thì không ngại liều một phen. Nếu quân đội không chịu theo Ngụy vương. Vậy thì, quân tử báo thù mười năm chưa muộn, sự cơ không nên tiết lộ. Công chúa và nương nương, Ngụy vương cũng không đến mức gặp họa sát thân, có thể tạm thời ẩn nhẫn, non xanh còn đó, sợ gì không có củi đốt.

Vĩnh Khánh công chúa vội vàng nói: "Đại nhân suy nghĩ tất nhiên là chu toàn hơn Vĩnh Khánh, xin đại nhân dạy Vĩnh Khánh ta nên làm như thế nào đi."

Dương Hạo chậm rãi nói: "Công chúa trước tiên phải đáp ứng thần ba chuyện."

Vĩnh Khánh công chúa vội vàng nói: "Ngài nói đi, nói đi, đừng nói là ba chuyện, cho dù là một vạn chuyện ta cũng đáp ứng ngài."

Dương Hạo nói: "Chuyện đầu tiên là nhờ hoàng hậu nương nương viết một phong thư thảo nghịch, hiệu triệu toàn dân thỏa phạt phả nghịch, dùng hoàng ấn của hoàng hậu làm chứng để lấy lòng tin của thiên hạ."

"Việc này có thể làm được, nương nương và cha ân nghĩa sâu nặng, hận không được đi theo cha. Chỉ vì lo lắng cho sự an nguy của huynh muội chúng ta nên mới nhận nhục gánh trọng trách, ẩn nhẫn không ra mặt. Đại nhân nếu chịu tương trợ, nương nương nhất định sẽ đáp ứng."

"Chuyện thứ hai là xin công chúa tự mình viết một bức thư nhà, đặc biệt viết rõ về chuyện tiên đế ngộ hại, và tình cảnh hiện giờ trong cung của các vị. Thần sẽ đem bức thư này giao cho Ngụy vương xin ngài quyết định. Dù sao nếu Ngụy vương huy sư phạt nghịch, sự an nguy của nương nương và công chúa rất khó được đảm bảo, rốt cuộc là quyết đoán như thế nào, vẫn xin hoàng trưởng tử quyết định."

Vĩnh Khánh gật đầu, nói: "Cái này không thành vấn đề, thù giết cha, không đội trời chung. Sự an nguy của bản thân Vĩnh Khánh thì tính là gì. Huống chi đại ca một khi báo thù, hắn sẽ không tùy tiện hạ độc thủ với chúng ta. Sự lợi hại trong đây, đại ca nhất định sẽ nghĩ kỹ càng."

Dương Hạo gật đầu, nói: "Chuyện thứ ba là có liên quan tới thần, chuyện này hi vọng vào công chúa."

"Ta ư?"

Vĩnh Khánh ưỡn ngực lên, mặt hướng vào cái lỗ trên nắp rương, rắn rỏi nói: "Ngươi nói đi, bất kể là chuyện gì, ta cũng sẽ làm."

Ba ngày trôi qua, tân đế đăng cơ.

Phía linh đường là một mảng trắng xóa, điện Văn Đức thì đã khôi phục bộ dạng tường vàng huy hoàng.

Hoàng gia khác hẳn nhà bách tính bình thường, gia sự cũng là quốc sự, tân đế đăng cơ chính là ngày mà cả nước cùng chúc mừng, không được phép trễ nải, cũng không thể để xuất hiện một điềm xui nào.

Đại điện đăng cơ vô cùng long trọng, từ nội triều, ngoại triều, cho tới Ngọ môn, ngự nhai, tất cả lều tang đều bỏ khăn trắng, đổi sang vải màu, trang trí màu sắc sặc sỡ, duy có chỗ linh đường là vẫn để tang, các cung nhân mặc áo trắng, đeo khăn trắng tạm thời cũng bị ước thúc ở trong linh đường, trong thời gian đại điển không được đi lại lung tung.

Tân đế đăng cơ, văn võ bá quan, hoàng thân quốc thích, nguyên lão quan lại, theo hàng mà đứng theo thứ tự mà vào điện, tham bái gửi lễ, trong tiếng hô vạn tuế, Triệu Quang Nghĩa cẩn thận rụt rè đặt mông lên bảo tọa của hoàng đế , trong lòng cuối cùng cũng thấy vững tâm hơn một chút.

Hôm nay, vạn người ngắm nhìn, hắn là nhân vật chính duy nhất. Nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hành của hắn đều là tuân theo ý trời, hắn là hoàng đế cao cao tại thượng, nhìn quần thần đang quỳ bái dưới ngự giai, hắn chính là thần minh cao cao tại thượng, còn họ là đám kiến hôi nằm dưới chân mình, loại cảm giác này, thực sự là lâng lâng bay bống.

Tham bái tân quân đã xong, Lô Đa Tốn, Lữ Dư Khánh, Tiết Cư Chính liền dẫn trung thư, môn hạ, xu viện hai phủ một viện, lục bộ, cửu khanh vào xin bệ hạ đổi niên hiệu.

Theo lệ cũ, năm mà tiên hoàng băng hà, niêu hiệu sẽ không thay đổi, hoàng đế tân nhiệm mùng một tháng giêng năm sau mới được lập niên hiệu mới, nhưng nếu vẫn tiếp tục sử dụng niên hiệu cũ, đối với Triệu Quang Nghĩa mà nói, ám ảnh của người anh đã mất sẽ không thể nào xua đi được, đế vị của mình thủy chung không được vững chắc, cho nên hắn cũng mặc kệ lệ cũ, dưới sự gợi ý của hắn, ba tể tướng dẫn bá quan xin lập niên hiệu mới, Triệu Quang Nghĩa sớm đã có chuẩn bị giả về từ chối một phen, sau đó thì đổi niên hiệu thành "Thái bình hưng quốc"..

Theo đó, Triệu Quang Nghĩa lại đổi tên của mình.

Hắn vốn tên là Triệu Khuông Nghĩa, sau khi Triệu Khuông Dận đăng cơ, thần tử phải tránh tên húy của Hoàng Đế, hắn lại đổi tên thành Triệu Quang Nghĩa, mà hiện giờ tất nhiên không có đạo lý lại lấy lại tên cũ, hắn cũng không muốn lấy lại tên cũ, Triệu Khuông Nghĩa cái tên này luôn khiến hắn không kìm được mà nghĩ tới một danh tự khác đọc nghe cũng na ná. Thế là hắn bí mật mời danh tướng sư trong kinh để nghĩ cho mình một cái tên mới, tên chỉ có một chữ Hạo, sau đó, Triệu Quang Nghĩa liền được gọi là Triệu Hạo.

Tống lấy hỏa đức để hưng quốc, cái tên tự Hạo này dưới nhật có hỏa, chính hợp với quốc vận Đại Tống, trong mắt hắn là đại cát đại lợi, tuy nói rằng phong thủy mệnh tướng chung quy có chút hư vọng, nhưng đối với Triệu Quang Nghĩa vội vàng muốn củng cố chính quyền mà nói, phàm là thứ có chút điềm may mắn, hắn hiện tại đều không ngại phiền phức mà làm theo.

Lập niên hiệu, danh hiệu xong, sau đó chính là đại xá thiên hạ, ban bố tân chính (chính quyền mới), tân đế hoàng ân to lớn, người trong thiên hạ đều được hưởng mưa móc, trừ những kẻ mắc phải tội chém đầu ra, tất cả tù tội đều được xử trí là được thả hoặc giảm nhẹ hình phạt.

Đồng thời, kỳ thi mùa xuân đang được khẩn trương tiến hành, Triệu Quang Nghĩa hạ chỉ, kỳ thi mùa xuân này, mở rộng danh ngạch thủ sĩ, nhân số trúng tuyển mỗi khoa so với mấy chục người trong mỗi kỳ thi thời Thái Tổ hoàng đế thì mở rộng hơn gấp chục, thậm chí là một trăm, đạt tới mấy trăm người, thậm chí là hơn ngàn người, lại quy định rằng từ rày về sau sẽ theo lệ này. Hành động này tất nhiên là giành được sự ủng hộ của người đọc sách thiên quân vạn mã qua cầu độc mộc, chỉ cầu được vào quan trường và gia quyến của họ.

Khoa cử khảo thí, các tiến sĩ thi đậu cùng khoa xưng hô với nhau là đồng niên, gọi quan chủ khảo và tọa chủ, tọa sư hoặc là ân môn, tự xưng là môn sinh. Như vậy, giữa tân tiến sĩ và quan chủ khảo xây dựng nên một quan hệ thày trò vô cùng đặc thù. Tân tiến sĩ thường coi việc mình trúng tuyển là một loại ân tình của quan chủ khảo đối với mình mà cảm ân *** đức, thế là khoa cử khảo thí trở thành một con đường để quan chủ khảo kết bè kết đảng, xây dựng và bồi dưỡng thế lực của mình, Ngưu Lý đảng thời Đường mạt chính là ví dụ đầu tiên.

Triệu Khuông Dận xét thấy việc này, liền dùng đại quyền cuối cùng quyết định thí sinh có được trúng tuyển hay không dời tới tay mình, từ đó mà hình thành khảo thí cấp ba của khoa cử: Điện thí. Hoàng đế trở thành quan chủ khảo cuối cùng, thành ân môn của tất cả tân tiến sĩ, tất cả tân tiến sĩ đều thành học sinh của hoàng đế, đối tượng mà bọn họ cảm ân *** đức chỉ có thể là hoàng đế. Như vậy, hoàng đế liền nắm chặt quyền quyết định thủ sĩ ( người trúng tuyển) của khoa cử trong tay mình.

Triệu Quang Nghĩa trắng trợn mở rộng danh ngạch thủ sĩ, lại bổ sung một lượng lớn thành phần chính mới trong đội ngũ quan hoạn, những tiến sĩ này tương lai đều nhậm chức trong quan phủ, vậy chẳng khác nào thoáng chốc đã nắm trong tay đội ngũ quan viên dự bị trung thành với hắn. Thủ đoạn này cực kỳ cao, người hiến kế chính là Tống Kỳ và Mộ Dung Cầu Túy.

Lập tức, Triệu Quang Nghĩa liền trắng trợn phong thưởng quần thần.

Đảng Tiến, Phan Mỹ, Hô Duyên tán, đám người đang viễn chinh ở bên ngoài tất nhiều đều được phong thưởng, văn võ trong triều cũng không ngoại lệ. Đám người Lô Đa Tốn, Tiết Cư Chính, Lữ Dư Khánh, Trầm Luân, Tào Bân và Sở Chiêu Phụ đều được thăng quan tấn tướng, những người bản thân đã lên tới chức mà không thể lên được nữa thì thăng quan, ban tước, lên chức cho con cháu của bọn họ. Ngoài ra tiến hành dọn dẹp điều tra, một số nguyên lão trọng thần giống như Triệu Phổ, ở trong triều vẫn là thế lực ngầm cực lớn, đều bị hắn hạ từng đạo chiếu thư, chuẩn bị điều tới gần Khai Phong để tiện khống chế. 

Chương 401:Kịch hài 

Triệu Quang Nghĩa hạ một đạo chiếu lệnh, văn võ bá quan liền hô bách tuế một lần, thanh âm giống như trời long đất lở, Triệu Quang Nghĩa ngồi trên ngự tọa cao cao cảm thấy sóng âm cực lớn ập vào mắt, không khỏi nhiệt huyết sôi trào, đây chính là quyền lực, quyền lực vô thượng, mỗi một người ở dưới bậc thềm đều là văn võ trọng thần uy chấn một phương, mà bọn họ ai ai cũng phải quỳ dưới chân mình, đây chính là đế vương.

Vương gia, cho dù là vương gia tôn quý đến thế nào đi chăng nữa, so với hoàng đế thì vẫn khác nhau một trời một vực, không ngồi lên vị trí này, vĩnh viễn sẽ không cảm thụ được tư vị giang sơn thiên hạ đều nằm trong tay mình, tuy cố gắng duy trì vẻ trang nghiêm, nghiêm túc, và bi thương tưởng nhớ tiên đế, hắn vẫn không khỏi lộ ra một nụ cười, thế là học theo động tác quen thuộc trước kia của hoàng huynh, đưa một tay ra, hạ xuống một cách chậm rãi nhưng có lực, trầm giọng nói: "Chúng khanh bình thân."

"Tạ vạn tuế!" Chúng thần bò dậy, đứng vào chỗ của mình. Trong đó có một người khập khiễng, lộ ra vẻ vô cùng bắt mắt.

Triệu Quang Nghĩa vừa nhìn thấy người này, trong lòng đặc biệt thấy chán ghét.

Dương Hạo, người mà hắn từng muốn lôi kéo, đối với hắn thủy chung như gần như xa, điều này khiến Triệu Quang Nghĩa trong lòng thủy chung có một tia không hài lòng và cảm giác nhục nhã, loại phản cảm phải áp chế này sau khi Dương Hạo biến thành tàn phế, cuối cùng cũng xóa đi hết một chút kiên trì còn sót lại trong lòng hắn.

Hiện giờ, tên Dương Hạo này rất khó được gọi là tâm phúc của mình, lại rất có thể nắm chân tướng việc giết huynh soán vị, giống như là một cái đinh trong mắt hắn, phải nhổ ra thì mới chịu được.

Nhưng... hiện tại vẫn chưa phải là lúc, ngồi lên được bảo tọa này chỉ là khởi đầu, ngồi vững trên bảo tọa này mới là kết thúc. Dương Hạo không có đảm lượng, cũng không có năng lực ở trước mặt mọi người vạch trần chuyện xấu của hắn. Cái mà hắn có là thời gian và cơ hội để chậm rãi thu thập Dương Hạo, cho đến khi vĩnh viễn nhổ cây đinh này ra khỏi mắt mới thôi.

Hắn từ ngự tọa cao cao nhìn xuống Dương Hạo, trong mắt lóe lên một tia sáng lẹnh lẽo rồi lập tức ngẩng đầu lên, nhìn thẳng về phía trước, trầm giọng nói: "Trẫm khi còn quản lý phủ Khai Phong, đám can lại (chức vụ không có phẩm cấp) Tống Kỳ, Cổ Ngọc, Trình Vũ, Mộ Dung Cầu Túy ở trong phủ chăm chỉ siêng năng làm việc, đáng để trọng dụng, hiện giờ trẫm kế thừa đại bảo, là muốn thăng chức bổ nhiệm. Vương Kế Ân, tuyên chiếu chỉ đi."

"Nô tài tuân chỉ."

Vương Kế Ân dạ một tiếng, đọc: "Chỉ dụ, Mộ Dung Cầu Túy làm cấp sự trung, Tống Kỳ làm môn sứ đông các, Cổ Ngọc làm đông đầu cung bổng, Trình Vũ làm tây các môn sứ, Thương Phượng làm điện tiền tả ban, Trần Tòng Tín làm hữu ban điện trực, Trần Tán làm quân khí khố phó sứ, Vương Duyên Đức làm ngự trù phó sứ. Trương Hải làm... Chu Oánh làm... Vương Kế Anh làm...

Vương Kế Ân đọc từng người một, thuộc lại của Nam Nha đại đa số đều được an bài chức vụ, những quan chức này không những len vào trung thư, môn hạ, cơ mật và lục bộ, hơn nữa còn trải khắp hệ thống quân đội của kinh sư và địa phương, tổng nhân số, phải tới hơn tám mươi người. Cái gì gọi là một triều thiên tử một triều thần? Chính là cái này đây. Chức quan mà bọn họ đảm nhiệu đều không tính là lớn, nhưng ai cũng biết rằng, không tới năm ba năm sau, những người này sẽ liên tiếp được thăng chức, trở thành lực lượng trung kiên trong ban văn võ của hoàng đế.

Trong đám người này lấy Tống Kỳ, Cổ Ngọc, Trình Vũ, Mộ Dung Cầu Túy làm đại biểu, các đại biểu nhận thụ phong chức xong liền lên điện tạ ơn. Triệu Quang Nghĩa vẻ mặt tươi cười sau khi bảo bọn họ đứng dậy, đột nhiên nước mắt lưng chòng, run giọng nói: "Tiên đế không chỉ là vua của thiên hạ mà còn là anh ruột của trẫm, hoàng huynh cưỡi rồng lên trời, trẫm trong lòng vô cùng bi thương. Khi tiên đế còn, hậu ái người nhà, chưa từng tự cho mình là chí tôn. Trẫm lên ngồi báu, há lại dám không làm theo tiên đế? giờ trẫm đăng cơ, đại xá thiên hạ, văn võ bá quan đều được phong thưởng, vạn dân thiên hạ đều hưởng yến ân, há lại có thể quên người nhà, nương nương, hoàng đệ, hoàng nữ xin lên trước nghe phong."

Tống hoàng hậu, hoàng tử Đức Phương, hai vị hoàng nữ đã lập gia đình và Vĩnh Khánh công chúa, còn có hoàng tam đệ Triệu Quang Mỹ bước lên kiến lễ với hoàng đế. Triệu Quang Nghĩa sớm đã rời khỏi long tọa, chạychậm xuống phía dưới đỡ họ dậy, nước mắt chứa chan, nói: "Hoàng tẩu, hoàng đệ, hoàng chất, các người đề đứng dậy đi, đứng dậy đi. Đạo chỉ ý này của trẫm, các ngươi không cần phải quỳ mà tiếp, cứ đứng nghe là được rồi."

Vương Kế Ân đợi Triệu Quang Nghĩa lui ra một bước mới ho khan một tiếng, cao giọng tuyên chỉ: "Ngụy vương Đức Chiêu, đổi tước là Ngô vương, làm Vĩnh Hưng tiết độ sứ, bình chương sự; Hoàng thứ tử Đức Phương, gia phong Sơn Nam tây đạo tiết độ sứ, cùng là bình chương sự; Hoàng đệ Triệu Quang Mỹ, gia phong Hoài Na tây lộ tiết độ sứ kiêm thị trung, trung thư lệnh, tri phủ Khai Phong, phong làm Tế Vương; Tử nữ (con gái) của tiên đế, tử nữ của kim thượng, tử vương (con trai) của hoàng dệ Tề vương, sau này đều xưng là hoàng tử hoàng nũ, không có phân biệt..."

Sau đó, lại truy phong cho hai vị hoàng hậu đã mất của tiên đế, cấp tôn hiệu cho Tống hoàng hậu. Triệu Khuông Dận vốn có bốn trai sáu gái, hai vị hoàng tử ba vị công chúa mất sớm, trong ba vị công chúa hiện tại, Chiêu Khánh công chúa đã xuất giá được phong làm Trịnh Quốc công chúa, Duyên Khánh công chủ thì được tấn phong làm Hứa Quốc công chúa, Vĩnh Khánh công chúa chưa xuất giá cũng được phòng là Cảng Quốc công chúa. Công chúa vẫn là công chúa, nhưng được phong tước là có phẩm lộc, nhờ sự tấn phong này, bổng lộc, đãi ngộ của bọn họ cao hơn một tầng...

Hành động này của Triệu Quang Nghĩa, lập tức triệt tiêu hết nghi kỵ và ngờ vực của rất nhiều quan lại. nếu nói gia phong tiết độ sứ, bình chương sự, thậm chí vong gia cũng đều tính là hư hòng, chỉ là tăng thêm bổng lộ và đãi ngộ, chứ không có thực quyền gì, nhưng hoàng tam đệ Triệu Quang Mỹ nhậm chức phủ doãn Khai Phong, đều là quyền lực thực sự, nếu như việc tiên đế băng hà có gì kỳ quặc, kim thượng há lại dám phóng quyền như vậy?

Triệu Quang Nghĩa thu hết phản ứng của mọi người vào trong mắt, trong lòng cũng không khỏi dấy liên một tia đắc ý, hắn đảo mắt, đột nhiên nhìn thấy cái đinh trong mắt Dương Hạo, phát hiện khóe miệng hắn tựa hồ như nở một nụ cười chế giễu, định thần nhìn lại thì lại thấy hắn giống như những đại thần khác, kính cẩn đứng đó, mắt không nhìn nghiêng, không hề có một chút ý bất kính nào, tựa hồ như vừa rồi mình đã nhìn lầm. Mặc dù như vậy, trong lòng hắn vẫn cảm thấy không thoải mái.

Lúc này, hoàng tam đệ Triệu Quang Mỹ bước lên tạ ơn, hắn không nghĩ nhiều nữa, vội vàng bước tới đỡ tam đệ dậy, dùng lời lẽ ngon ngọt an ủi một phen, khi nhắc tới vong huynh, hai huynh đệ nắm tay nhìn nhau, nhiệt lệ chưa chan, tràng diện xúc động huynh hiền đệ kính này, văn võ bá quan đều nhìn thấy, có người nhớ tới tiên đế, cũng không khỏi nước mắt lưng tròng theo.

Sau đó, Tống hoàng hậu liền dẫn một đôi tử nữ bước lên tạ ơn.

Trước mặt Triệu Quang Nghĩa, Tống hoàng hậu không dám lộ ra một tia oán hận nào. Bà ta sau khi vào cung, không có con cái gì, hoàng tử Đức Phương do tiên hoàng hậu sinh ra liền được bà ta nhận làm con trai ruột, được bà ta thương yêu nhất. Tống hoàng hậu rất sợ Triệu Đức Phương trẻ người nói dại, bị Triệu Quang Nghĩa nhìn ra sơ hở, cho nên một mực kéo chặt nó, ôm nó ở trong lòng. Vĩnh Khánh công chúa thì đi sau hai vị tỷ tỷ, cúi đầu xuống, nước mắt lưng tròng.

"Quan gia, thiếp thân dẫn nhất tử tam nữ, khấu tạ hoàng ân..."

"Tẩu tẩu mau đứng dậy đi."

Triệu Quang Nghĩa vội vàng đỡ bà ta dậy, nghẹn ngào nói: "Hoàng tẩu, hoàng chất... chúng ta tuy là tuy là gia đình đế hoàng, không thể bỏ được lễ, nhưng xưng hô như vậy, chỉ khi ở kim điện thôi. Án theo quy củ lúc hoàng huynh còn sống, một nhà chúng ta thường xuyên gặp nhau, chỉ xưng hô kiểu người nhà, trẫm vẫn là nhị thúc của tẩu tẩu, nhị ca của Quang Mỹ, thúc phụ của ba vị công chúa và Đức Phương.

Hoàng tẩu, các người đừng quá bi thương, người mất thì cũng mất rồi, không thể sống lại. Trẫm sau khi kế thừa đại bảo, trên triều chính sẽ lo liệu chủ trương trước giờ của hoàng huynh, trong vỗ về ngoài nhường nhịn, cùng hưởng thái bình với lê dân thiên hạ. Ở trong nhà, trẫm sẽ giống như hoàng huynh lúc sinh tiền, làm một người đứng đầu nhân hậu hữu ái."

Tống hoàng hậu ôm chặt lấy Triệu Đức Phương, cúi đầu xuống, lí nhí nói: "Tạ quan gia."

Triệu Quang Nghĩa gật gật đầu, nhìn quanh văn võ, bước lên hai bước, xoày tay áo ra, cao giọng nói: "Các vị khanh gia, thừa thiên ban ân, mới có Tống triều, tiên đế hùng tài đại lược, nam chinh bắc chiến, diệt Kinh, Hồ, Thục, Hán, Đường chư hầu, trấn trường tiên mà ngự vũ nội, xây dựng nền tảng thịnh thế, mở điềm báo vạn cổ, nhờ thế quốc vận hưng thịnh, bốn biển phục tùng. Trẫm từ nhỏ đã theo tiên đế chinh thảo thiên hạ, đã là thân tử của tiên đế, lại là em ruột của tiên đế, nhận được sự ân sủng của tiên đế, giờ lại nhận được di thác của tiên đế, kế thừa cơ nghiệp thiên cổ..."

Những lời này chuẩn bị đã lâu, sớm đã thuộc làu, nói rất dõng dạc, có lực, trên kim điện vang vọng hồi lâu, chấn hãm tâm linh của mỗi người, văn võ bá quan đều biết đây là bài diễn văn cuối cùng khi tân nhiệm hoàng đế đăng cơ, cho nên đều giỏng tai lắng nghe.

"Trước giờ đế vương trị vì, đều lấy kính thiên pháp tổ làm mẫu, tiên đế mềm xa nặng gần, bồi dưỡng thương sinh, lấy cái lợi của bốn biển làm lợi, tâm của thiên hạ làm tâm, giữ nước không lọt vào cảnh nguy khốn, để thái bình không bị loạn, anh minh thần võ, là minh quân thiên cổ. Thiên tư của trẫm không bằng một phần vạn của tiên đế, duy có ngày đêm cần mẫn, tự mình cần chính, lấy siên năng để bổ khuyết, cần tuân di chính di chí của tiên đế, không phụ sự phó thác của tiên hoàng. Mong chúng khanh tận sức giúp đỡ, cùng trẫm sáng lập Đại Tống thái bình cả vạn năm!"

Kinh thiên pháp tổ, đó chính là hắn sẽ không đại động can qua đối với triều chính, tất cả di chính di mệnh của Thái Tổ hoàng đế, hắn đều sẽ làm theo không thay đổi, đây không những là hắn tự coi bản thân là người thừa kế tốt nhất của di chí của tiên đế, cũng khiến những văn võ bá quan đang thấp thỏm bất an được an tâm. Văn võ bá quang đồng loạt quỳ xuống, rầm rầm nói: "Phù bảo Đại Tống, chúng thần bụng làm dạ chịu. Chung sức đồng lòng, hiệu trung với triều đình! Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!"

Triệu Quang Nghĩa rất đắc ý ngẩng mặt lên trời cười lớn ba tiếng, nhưng tang kỳ của tiên đế chưa qua, làm vậy khó trách khỏi không hợp thời, thế là hắn đành chép chép miệng, tỏ ý với bá quan.

Trong tiếng tuyên thệ ầm ầm, đột nhiên có một tiếng khóc rất không đúng lúc từ xa xa truyền tới. Triệu Quang Nghĩa nhíu mày, liếc sang nhìn, thấy Vĩnh Khánh công chúa che miệng khóc thút thít, liền cố nén vẻ không vui, giả vờ hòa nhã, ôn nhu nói: "Vĩnh khánh, đừng thương tâm nữa, phụ hoàng của con tuy đã cưỡi rồng lên trên, nhưng sau này thúc phụ sẽ chăm sóc con thật tốt như cha của con vậy."

"Tạ ơn quan gia."

Vĩnh Khánh công chúa khom mình với hắn,rơi lệ nói: "Thúc phụ hình dung khóc cười giống như cha, hôm nay lên điện, thấy thúc phục mặc long bào, đội mũ thông thiên, long hành hổ bộ, khí vũ hiên ngang, quả nhiên là giống như cha. Vĩnh khánh nhìn thúc phụ mà nhớ đến cha, nhớ tới sự kém hiểu việc đời trước kia của mình đã làm cha thường tức giận, hiện giờ nhớ lại, thật sự rất hối hận."

Triệu Quang Nghĩa nghe vậy liền mỉm cười, nói: "Vĩnh Khánh, đừng áy náy nữa, con có thể hiểu rõ đạo lý này, phụ hoàng của con ở dưới cửu tuyền cũng sẽ cảm thấy an ủi.

Vĩnh Khánh sụt sùi nói: "Vĩnh Khánh vẫn nhớ, lần cuối cùng gặp mặt cha là ở trên yến tiệc. Hôm đó, cha nói cha truyền Lô Tướng Công và mấy vị đại học sĩ vào kinh giảng lễ cho Vĩnh Khánh..."

Lô Đa Tốn nghe thấy nàng ta nhác tới tiên hoàng, vội vàng chắp tay lên trời, than: "Đúng vậy, thần nhớ rất rõ, ngày đó tiên hoàng đặc biệt nhắc tới lễ tự, bảo chúng thần giảng giải cho công chúa. Tiên hoàng chính là chủ chung của thiên hạ, có bao nhiêu quốc sự phải lo toan, vẫn vất vả lo nghĩ vì chuyện chung thân đại sự của công chúa, tiên đế đúng là... dụng tâm đến khổ."

Vính Khánh vừa khóc vừa nói: "Nhưng Vĩnh Khánh lại không biết quý trọng, không ngờ lại lén lút ngủ gật. Nhớ rằng sau khi bọn Lô tướng công đi, Trương Bạc đại nhân lại tới, vạch tội Đại hồng lư Dương Hạo, nói ầm ầm ở trong điện đường nên Vính Khánh mới tỉnh dậy..."

Triệu Quang Nghĩa rất mất kiên nhẫn, nhưng hiện tại chẳng qua là một nữ nhi đang nhớ cha hiền của mình, mà người nàng ta nói tới lại là tiên đế, thế là chỉ đành giống như bá quan, hai tay chắp lại, đứng nghiêm ở bên cạnh, lặng lẽ lắng nghe.

Vĩnh Khánh công chúa thở dài một tiếng, nói: "Ài..., đó là lần cuối cùng mà Vĩnh Khánh nói chuyện với phụ thân. Vính Khánh vẫn còn nhớ, phụ thân nghe Trương Bạc đại nhân nói xong thì vô cùng tức giận, muốn phạt Đại hồng lư nửa năm bổng lộc. Vính Khánh lúc đó cũng chèn miệng vào, nói là xử phạt nặng quá.

Nhưng phụ hoàng lại nói với Vĩnh Khánh rằng, Dương Hạo đại nhân tuy hành sự lỗ mãng, nhưng lại là một vị lương đống triều đình trung tâm cảnh cảnh, làm việc chăm chỉ. Hắn di dân tới tây bắc, thực sự có công mở mang bờ cõi. Về sau xuất sứ Đường cuồng, vì chuyện bình định Giang Nam của triều ta mà lập được công lao hãn mã. Xuất sứ Khiết Đan, lại chế tạo ra một cơ hội tốt để triều ta bình định Hán quốc. Những việc này, đều là vào sinh ra tử.

Hiện giờ tây bắc quân chính hủ bại, đang thiếu một vì năng thần trấn thủ biên cương, Dương Hạo đại nhân tuy chân cẳng hơi bất tiện, nhưng là nhân tuyển tốt nhất, quốc gia vào lúc cần người, không câu nệ tiểu tiết, cha qua hai ngày nữa muốn gia phong cho Dương Hạo làm Hoành sơn quan tiết độ sứ, kiểm giáo thái ý, khai phủ nghi đồng tam ti, phán Lô châu phủ sự.

Trẻ tuổi như vậy, trọng nhiệm như vậy khó tránh khỏi hắn tuổi trẻ khí thịnh, bồng bột nhất thời. Hiện giờ phải trừng phạt một chút, mài bớt nhuệ khí của hắn đi, cũng là khổ tâm tài bồi cho hắn. Cha vô luận là đãi hạ thần hay là đãi người nhà, ít khi trách mắng, thường khổ tân ân cần khuyên bảo. Nói xong những lời này lại dậy Vĩnh Khánh, không học là thì không biết lễ, không biết lẽ thì chính là vô lễ, phạt Vĩnh Khánh học thuộc lòng "Nữ Giới". Vĩnh Khánh lười biếng, liền có ý né tránh cha, ai ngờ... Đây lại chính là lần gặp mặt cha cuối cùng, hôm nay thấy long nhan của thúc phụ, nhớ tới giọng nói và dang điệu của cha, làm sao mà không thương tâm cho được, hu hu hu..."

Vính Khánh nói xong liền che mặt khóc lóc không ngừng, văn võ toàn triều lại một trận xôn xao. Triệu quan gia... Triệu Quang Nghĩa thì mặt tối sầm.

Tiên hoàng muốn gia phong Dương Hạo làm Hoành sơn quan tiết độ sứ, kiểm giáo thái úy, khai phủ nghi đồng tam ti, phán Lô châu phủ sự ư? Thế... thế không phải là thả hổ về rừng, cho cái tâm phúc đại hoạn này về lại tây bắc ư?

Nhưng hắn vừa mới tuyên bố với văn võ toàn triều rằng, pháp trị của đế vương sẽ đi theo kinh thiên pháp tổ, lại bảo chứng như đinh đóng cột hắn hắn sẽ ẩn tuân tất cả di chính di chí của tiên đế, không phụ sự phó thác của tiên hoàng.

Vĩnh Khánh công chúa là nữ nhi của tiên đế, nàng ta ở trước mặt văn võ bá quan nói ra những lời như vậy, thế chẳng khác nào nói ra một đạo di chiếu của tiên đế, hắn tuân theo hay không? Để xây dựng cho mình một hình tượng được lòng người, xóa bỏ nghi kỵ trong lòng bá quan, Triệu Quang Nghĩa đã bỏ vốn lớn, ngay cả phủ doãn Khai Phong cũng nhường cho tam đệ làm, nếu ngoảnh mặt làm ngơ với đạo di mệnh tiên hoàng mà Vĩnh Khánh vừa kể lại, vậy vở kịch vừa diễn ngày hôm nay há chẳng phải là vô ích ư?

Dương Hạo cũng ngớ người, sắc mặt trắng bệch nhìn về phía Vĩnh Khánh công chúa, thầm nghĩ trong lòng: "Thượng đế, A La, Đức Mẹ Maria ơi, ta chỉ là muốn được sai về làm tri phủ Lô châu, đường đường chính chính mà quay lại tây bắc, bảo nàng ta tìm cho ta lý do là được rồi... Sao, sao lại còn cả Hoành sơn quân tiết độ sứ, kiểm giáo thái úy, khai phủ nghi đồng tam ti, phán Lô châu phủ sự? Ta có dạy nàng làm vậy đâu! Như thế thì có khác gì là sứ tướng, nàng muốn để ta dùng thân phận tể tướng quay về Lô châu à? Nàng chẳng phải là muốn giúp lại hóa thành gây thêm rắc rối ư, Triệu Quang Nghĩa có thể đáp ứng ư?"

Nói ra, Vĩnh Khánh trên những từ mà Dương Hạo dạy nàng ta tự tác chủ trương cho vào thêm như vậy, cũng là xuất phát từ một phen khổ tâm. Theo nàng ta nghĩ, Dương Hạo là một trung thần có thể tin tưởng, đại ca muốn khởi binh trừ nghịch, nếu bên cạnh có một nhân vật cấp tể tướng áp trận, phân lượng sẽ nặng hơn một chút, thế là liền ở trên di ngôn của "Triệu Khuông Dận" cho thêm vài điều.

Văn võ bá quan toàn bộ đều há miệng như bị đau răng, nhìn về phía vị quan gia vừa rồi luôn miệng nói phải kinh thiên pháp tổ,cẩn tuân tất cả di mệnh của tiên đế, xem ông ta rốt cuộc là có đáp ứng hay không. Nếu ông ta đáp ứng, vậy ngoại trừ vị Cam La chưa hai mươi tuổi đã được Tần Chiêu vương bái làm tể tướng thời chiến quốc đó ra, Dương Hạo có thể tính là tể tướng trẻ tuổi nhất trong thiên hạ từ cổ chí kim.

Triệu Quang Nghĩa cũng giống như là bị đau răng, hắn há hốc miệng, quay sang Dương Hạo, vẻ mặt tựa cười mà như không cười, hắn vẫn chưa nói gì, Dương Hạo đã nhảy ra, thật khó tin là với một cái chân què mà hắn vẫn làm ra được động tác có độ khó cao như vậy. Dương Hạo kích động cao giọng hô: "Thần sợ hãi, thần không dám, thần bất hảo thô bỉ, không đáng được dùng, tiên đế coi trọng như vậy, thần cảm kích rơi nước mắt, như ưu ngộ như vậy, thần thực sự là không dám nhận, không dám nhận..."

Triệu Quang Nghĩa tức đến ngứa cả răng, chỉ muốn tung cước đá bay hắn, hắn nếu không chạy ra, Triệu Quang Nghĩa còn có tâm tư mà lấp lửng cho qua chuyện, hắn chạy ra nói như vậy, Triệu Quang Nghĩa muốn giả vờ không nghe rõ cũng không được nữa rồi.

Mí mắt hắn đột nhiên rung rung mấy cái, nghiến răng nghiến lợi gượng cười với Dương Hạo: "Tiên đế tinh mắt biết người, không thể nào nhìn lầm đâu. Xuất thân của Dương khanh từ Nam Nha của trẫm, có thể nhận được sự coi trọng tán thưởng của tiên đế như vậy, trẫm cũng thấy thơm lây, kể ra, bình Đường quốc, phạt Hán quốc, mở mang bờ cõi, Dương khanh bôn ba vất vả, tuy chưng từng thống binh, nhưng công huân lập được lại không kém hơn thập vạn đại quân chi lực, tài năng như vậy của đất nước, nên trọng dụng. Trẫm... theo di mệnh của tiên đế, gia phong Dương khanh làm Hoành sơn quân tiết độ sứ, kiểm giáo thái úy, khai phủ nghi đồng tan ti, phán lô châu phủ sự, đợi đại điển đăng cơ của trẫm xong rồi, Dương khanh sẽ tới Lô châu ..."

Dương Hạo vừa rồi còn hốt hoảng sợ hãi, thần không cám đâu, nhưng Triệu Quang Nghĩa còn chưa nói hết câu, hắn đã lập tức tiếp lời: "Bệ hạ coi trọng như vậy, thất nhất định là cho dù là máu chảy đầu rơi cũng phải báo ơn vua!"

Hắn bái lậy dưới chân Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa nhìn lưng hắn, trong mắt lấp lánh hàn quang: "Dù phong vương cho ngươi thì sao chứ? Ngươi có thể quay về được Lô châu chắc?"

Dương Hạo hết sức lo sự quỳ dưới đất, khóe miệng phác ra một nụ cười lạnh: "Ta cho dù tin lợn cái có thể trèo cây, cũng không tin Triệu lão nhị ngươi, nhưng danh phận này đã để ta cầm vào tay rồi, xem ngươi chó cắn nhím, còn hạ thủ với ta như thế nào!"

Chương 402: Rời Kinh 

Dương Hạo rời kinh rồi.

Hắn lấy thân phận phong cương đại lại (đại quan biên giới) trước tiên tới bái kiến hoàng đế, cung kính nghe quan gia giáo huấn một hồi, sau đó liền tới trước linh cữu của tiên đế bái tế lần cuối cùng. Tới linh đường, hành lễ tham bái, hoàng hậu, Vĩnh Khánh công chúa và Triệu Đức Phương vừa được phong tiết độ sứ vẫn đang trông coi lĩnh cữu cũng không tiện nói chuyện với hắn. Dương Hạo mắt không nhìn nghiêng, chân thành hành lễ, cho tới khi bái biệt tiên đế, đứng dậy cáo từ, mới liếc qua ba mẹ con bọn họ một cái.

Những gì nên nói thì cũng đã lén lút nói rồi, Dương Hạo chỉ nhìn bọn họ một cái, từ trong im lặng hướng tới bọn họ mà làm ra một lần hứa hẹn cuối cùng, sau đó thì vẻ mặt tự nhiên, không hề lộ ra một chút sơ hở nào, quay người rời di. Ở một góc linh đường, ánh mắt âm độc của Vương Kế Ân một mực dõi theo bóng hắn, cho tới khi hắn hoàn toàn biến mất ở cửa linh đường mới thôi.

Tuyên chỉ sứ mà Triệu Quang Nghĩa an bài hộ tống Triệu Quang Nghĩa gồm hai người, một văn một võ.

Võ là Đại Tống cấm quân Nhật Bản trực tướng ngu hậu Vương Bảo Tài.

Trực, là một đơn vị võ trang của cấm quân, trong cấm quân Đại Tống có mấy đội ngũ đặc biệt, là do một số binh sĩ của dân tộc tiểu số đầu nhập vào Đại Tống tổ thành, quy mô khá lớn có "Quy Minh Bột Hải trực, Thổ Hồn trực, Khiết Đan trực"...

Bộ Hải trực là do binh sĩ của Bột Hải quốc su khi bị Khiết Đan tiêu diệt chạy tới Trung Nguyên, Thổ Hồn trực thì do người Tiên Ti và người Khương làm chủ, Khiết Đan trực tất nhiên là tộc nhân Khiết Đan. Do tộc nhân Khiết Đan tương đối nhiều, còn chia ra làm Khiết Đan nhất trực, Khiết Đan nhị trực. Những bộ đội lấy dân tộc thiểu số làm chủ này đại đa số là mã quân, kiêu dũng thiện chiến, rất được triều đình coi trọng.

Mà Nhật Bản trực thì không quá nổi danh, bởi vì Nhật Bản trực chủ yếu là do lãng nhân Nhật Bản và võ sĩ Cao Lệ tổ thành, bọn họ sau khi vượt biển tới Trung Nguyên thì nghèo túng vô cùng, sau cùng chỉ đành dựa vào một thân võ nghệ đầu nhập quân đội để làm lính, nhân số của bọn họ tương đối ít, cũng không giỏi phối hợp tác chiến, cho nên thanh danh không được nổi, có điều nhân mã của một trực này giỏi kỹ kích cá nhân, cũng tính có sở trường.

Võ tướng hộ tống Dương Hạo tây hành là thống lĩnh Nhật Bản trực, quan chức là tướng ngu hậu. Vị tướng ngu hậu là người Nhật Bản, vốn tên là Tá Tá Mộc Tắc Phu, là một võ sĩ lụi bại, sau khi lưu lạc Trung Nguyên vốn định bỏ võ đi kinh doanh, cho nên lấy một cái tên rất màu mè là Vương Bảo Tài, không ngờ khi hắn tới Trung Nguyên, Trung Nguyên cũng đang ở vào lúc chiến loạn liên miên, Tá Tá Mộc không kinh doanh được gì, sau cùng đành gia nhập quân đội.

Vị tướng ngu hậu này tuy tên có chút tục khí, nhưng vừa mới tới tứ tuần, đang là lúc thể lực, trí lực đạt tới đỉnh phong, thân hình không cao nhưng săn chắc, mặc giáp vào trông cũng uy phong lẫm lẫm, ở hông đeo một thanh đao to, mặt đầy sát khí.

Văn là lễ bộ viên ngoại lang Công Tôn Khánh, Công Tôn Khánh cũng khoảng tứ tuổi, thân kỳ cao to, mặt trắng râu ít, vừa nhìn đã biết là một thư sinh hào hoang phong nhã, có điều trong ngôn đàm cử chỉ cũng không đến nỗi quá cổ hủ.

Trừ nhân mã mà bọn họ mang theo ra thì chính là người nhà của Dương Hạo. Ngày đó khi Trình Đức Huyền tới phủ của Dương Hạo, trong phủ của Dương Hạo chỉ còn lại mấy gia phộ trông coi hộ vệ. Chủ nhân thì không hề thấy ai. Hôm sau sau khi Dương Hạo bí mất gặp Vính Khánh công chúa, lập tức thay đổi kế hoạch của mình, thế là Kế Tự đường lập tức động tay động chân, thần không biết quỷ không hay gọi người trong phủ của hắn về, chuẩn bị tốt bước thứ hai.

Bước thứ nhất quả nhiên dùng được, Dương Hạo hiện giờ đã dùng thân phận phong cương đại lại quay về Lô châu, tất nhiên không thể án chiếu theo phương thức và lộ trình chạy trốn mà Kế Tự đường đã an bài lúc ban đầu để ly khai, thế là những nha hoàn sử nữ (hầu gái), viện tư môn tử (người sai vặt trong nhà) vừa được nhận vào làm, giống như một đàn ong đều theo hắn lên đường.

Đối với những cử động rất nhỏ này, Triệu Quang Nghĩa hoàn toàn không phát giác, cái mà hắn chú ý chỉ là Dương Hạo và gia quyến của hắn, đâu rảnh mà chú ý Dương gia có bao nhiêu hạ nhân. Môn tử là ai, trù tử (đầu bếp) là ai, nha đầu họ gì tên gì. Hắn chỉ muốn Dương Hạo chết, Dương Hạo phải chết, những thứ khác thì không quan trọng.

Đối với người sắp chết, Triệu Quang Nghĩa trước giờ luôn rất khách khí, hắn tự mình tiễn Dương Hạo tới trước lầu Tuyên Đức, lại để ba vị tể tướng tiễn vị sư tướng này tới cuối ngự nhai, có thể nói là cực kỳ phong quang, vinh diệu, sao đó là do các quan lại cấp dưới thay thế, tiễn Dương Hạo ra khỏi thành.

Sau khi tiễn Dương Hạo tới lầu Tuyên Đức, Triệu Quang Nghĩa liền quay trở về thiên điện, nơi này đang có hơn chục vị tướng quân đang đứng đợi ở đó. Những người này là Triệu Quang Nghĩa điểm danh triệu kiến, Tào Ban, Lý Hán Quyền, Điền Khâm Kê, Đinh Đức Dụ, đều là những công thần ngày đó theo Triệu Quang Nghĩa phạt Đường.

Bởi vì trong thời gian để tang tiên đế không thể ca múa, không thể có ẩm yến cỡ lớn, cho nên Triệu Quang Nghĩa chỉ có thể chuẩn bị một chút thức ăn, rượu ngon, mời những tướng lĩnh này. Những người có công phạt Đường, đều là tướng lĩnh đã từng lập được quân công dưới sự thống soái của Triệu Quang Nghĩa, khao thưỏng bọn họ đã là sự nhìn nhận đối với bọn họ và cũng là sự khẳng định của mình, đồng thời cũng có thể khiến những cấm quân tướng lĩnh có quan hệ khá thân cận với mình lại càng thân thiết hơn một chút.

Ngô vương Triệu Đức Chiêu đang xuất chinh ở bên ngoài liệu có chịu ngoan ngoãn về kinh hay không, các binh lính theo Ngụy vương xuất chinh tuy được hắn gia quan tấn tước, lại khống chế người nhà của bọn họ, nhưng bọn họ liệu có lại khoác áo bào nữa không? Triệu Quang Nghĩa hiện tại vẫn chưa nắm chắc mười phần. Cho nên việc cần thiết bây giờ lại phải nắm quân quyền, ổn định cấm quân lưu thủ Đông Kinh, tuy nói là hắn an bài rất nhiều người, khống chế rất nhiều chức vị yếu hại trong cấm quân lưu thủ, nhưng đối với những tướng lĩnh trọng yếu trong quân, vẫn phải rất nể trọng.

Cho nên Triệu Quang Nghĩa không hề ra vẻ hoàng đế, hắn đổi sang tiện phục đi tới dự tiệc, cùng mọi người ngồi uống rượu nói chuyện. Rượu qua ba tuần, thức ăn qua năm món, sau khi ôn lại những ngày tháng chiến tranh khi cùng nhau nam chinh, Triệu Quang Nghĩa đột nhiên ngân ngấn nước mắt, cảm thương nói: "Ngày đó trẫm cùng các vị tướng quân băng qua lạch trời, chiến Giang Nam, có tình đồng đội. Hôm nay tuy phân quân thần, trẫm ngồi cùng với các vị tướng quân, vẫn như tràng diện trước kia, chỉ là, trẫm cùng các vị ái khanh uống rượu nói cười, trên bàn tiệc lại thiếu mất một người, nhớ tới mà khó tránh khỏi khiến người ta thương cảm.”

Chúng tướng quay sang nhìn nhau, không biết người mà hắn nói thiếu là ai, chẳng lẽ có ai dám nhận chiếu chỉ mà không tới ư? Nhưng quay sang nhìn xung quanh, tướng lĩnh chủ yếu đều có mặt cả, tựa hồ như không thiếu một nhân vật quan trọng nào, mọi người không khỏi ngỡ ngàng không hiểu gì.

Triệu Quang Nghĩa nói: "Người thiếu ở đây, chính là Tào Hàn Tào tướng quân. Tào đại tướng quân chiến công hiển hách, vốn có thể tiếp tục ra sức cho triều đình. Đáng tiếc lại bị gian nhân hãm hại, còn trẻ mà đã mất sớm. Hôm nay thấy chư vị tướng quân, trẫm không khỏi nhớ tới Tào tướng quân, hỏi sao mà không cảm thương?"

Hắn vỗ đùi than khóc một hồi rồi nhướn mày nói: "Vương Kế Ân, truyền chỉ, từ trong nội khố lấy ra ba mươi vạn tiền thưởng cho Tào gia. Phong vợ góa của Tào Hàn là chiếu mệnh, nhi tử của Tào Hàn năm nay đã mười hai tuổi rồi, gia phong cho hắn làm Vi địch công lang, cấp cho tiền trình xuất thần để an ủi vong linh của Tào tướng quân nơi cửu tuyền."

Vương Kế Ân vội vàng tiếp chỉ, chư tưởng đang ngồi đây nghe thấy vậy không khỏi động lòng. Tào Hàn sau khi bị ám sát, Triệu Khuông Dận đã thăng quan thêm một cấp cho Tào Hàn, an táng long trọng. Đối với gia quyến của hành cũng tiến hành an bài thích đáng. Mà Triệu Quang Nghĩa lại gia ân nữa, đối với vị tướng quân bị ám sát này ân ngộ như vậy, chúng tướng cũng cảm động lây, có ai mà không thấy cảm kích khác nào như chính mình được chịu ơn?

Hành động này của Triệu Quang Nghĩa, ngay cả xu mật sứ Tào Bân một mực luôn hờ hững, vẻ mặt bình đạm cũng không khỏi thấy cảm kích vô cùng, tân đế đăng cơ, có bao nhiêu đại sự phải làm. Vào lúc này mà còn nhớ tới những tướng lĩnh đã từng theo ông ta phạt Đường, đơn độc thưởng yến tiếp kiến, đã là vinh quang vô thượng rồi. Mà Tào Hàn bị ám sát đã trải qua bao ngày rồi, Triệu Quang Nghĩa không những vẫn nhớ tới hắn, hơn nữa còn gia ơn ban thưởng, không quên tình cũ, điều này đối với những tướng quân cả đời sống trên lưng ngựa như họ mà nói, chính là sự an ủi lớn nhất.

Tào Hàn vốn là bộ hạ trực thuộc của Tào Bân, quan gia quan ái như vậy, Tào Bân thân là thượng ti cũ của Tào Hàn, lúc này tất nhiên là phải ra mặt bái tạ thay cho hắn. Tào Bân mắt ngấn lệ, rót đầy một chén rượu, bước tới trước mặt Triệu Quang Nghĩa nghiêm nghị quỳ xuống, dùng đại lễ để tham bái, thay Tào Hàn tạ ơn với quan gia.

Triệu Quang Nghĩa gia ân cho Tào hàn, tất nhiên là có ý tứ lấy lòng chúng tướng, nhưng lúc này hắn đặc biệt nhắc tới việc quan lớn triều đình bị ám sát mà bỏ mình, thực ra là có dụng ý khác nữa, chỉ là nguyên do bên trong, không nên để người ngoài biết. Hiện giờ thấy Tào Bân một mực có chút như gần như xa cuối cùng cũng bị hắn đả động, quỳ xuống trước mặt hắn mà kính rượu, Triệu Quang Nghĩa không khỏi sướng rơn.

Hắn vội vàng đứng dậy, đỡ Tào Bân lên, nâng chén nói: "Chư vị ái khánh đều là lương đống trong triều, trẫm kế thừa Đại Tống, sau này vẫn phải dựa vào sự phụ tá của các vị tướng quân. Giờ vì quốc tang, tạm dừng chiến sự, ngày sau thảo phạt Hán quốc, xuất binh U Yến, trẫm tất sẽ ngự giá thân chinh, cùng chư vị tướng quân giống như ngày xưa chinh phạt Giang Nam, kề vai sát cánh. Chư vị tướng quân, xin uống cạn chén này!"

Chúng tướng nhao nhao dạ ran, nâng chén uống cùng.

Ở cửa thành đưa tiễn Dương Hạo vốn là đám quan lại xuất thân từ Nam Nha như Tống Kỳ, Cổ Ngọc, Trình Vũ, Mộ Dung Cầu túy và toàn bộ quan viên của Hồng lư tự. Tiền nhiệm Đại hồng lư đã nghỉ hưu là Chương Đài Sâm vì tuổi già sức yếu, không tự mình tới, nhưng cũng bảo trưởng tử của lão thay mặt đưa tiễn.

Không những Hồng lư tự điển khách thừa Tiêu Hải Đào, ti nghi thừa Tào Dật Đình, chủ bộ Ninh Thiên Sắc cùng với một đám cấp dưới đều tới, mà ngay cả vị hồng lư hữu khanh rất ít khi qua lại với Dương Hạo, hôm nay cũng mặt mày tươi rói xuất hiện, hầm đi hầm lại, hắn cuối cùng cũng được hầm xong rồi. Dương Hạo vừa biến, chức Đại hồng lư chính là vật trong túi hắn, những ân oán ngày trước, tất nhiên cũng bị gió thổi đi, nên có chút độ lượng mới phải.

Các thuộc quan của Hồng lư tự thấy vị đại nhân nhà mình rời chức, đều mặt mày hâm mộ. Làm quan, ai có thể làm tới sướng khoái như Dương đại nhân chứ? Cho dù Dương dại nhân sau này cả đời không có thêm bất kỳ chiến tích nào nữa, nhưng chỉ bằng những năm hắn làm quan đã làm tới sứ tướng, cũng đủ để trở thành một truyền kỳ trong chính sử Đại Tống rồi, có lẽ... cũng không còn ai có thể đạt tới như truyền kỳ này nữa.

Các quan viên của Nam Nha nhìn Dương Hạo, trong mắt đã không còn vẻ hâm mộ, cũng không còn đố kỵ mà là một loại đồng tình rất khó bị người ta phát giác ra. Cho dù Dương Hạo khiến người ta chán ghét đi chăng nữa, lúc này bọn họ cũng không keo kiệt sự đồng tình của mình, cho dù không cần Dương Hạo tiếp nhận sự đồng tình của mình, cũng là để cho các đồng liêu khác nhìn thấy, mình không thiếu lòng đồng tình.

Ánh mắt của bọn họ nhìn Dương Hạo, rõ ràng là đang nhìn một người chết.

Khuyên chàng uống cạn một chén rượu, lần này tới hoàng tuyền không cố nhân!

Dương Hạo trong ánh mắt phức tạp của quan viên hai nha ra khỏi cửa thành, khi vừa đi ra, hắn quay đầu nhìn lại, các quan viên đó vẫn đứng nguyên tại chỗ, Dương Hạo liền vẫy tay tỏ ý chào với họ, tay hắn vừa huy động trên không trung được hai cái, đột nhiên phát hiện trên đầu thành có một nữ tử đang đứng, áo trắng như tuyết, vạt áo bay bay, lặng lẽ đứng một mình, tựa hồ như đang chăm chú nhìn hắn.

Dương Hạo đứng thẳng người lại, chăm chú nhìn lên đầu thành, người đó đã biến mất không thấy đâu, trời cao xanh thẳm, mây trắng bồng bềnh, trên đầu thành chỉ có đại kỳ in chữ Tống đón gió phần phật, những gì nhìn thấy vừa rồi giống như giấc mộng Nam Kha, mất tăm mất tích.

"Đại nhân, mời lên xe để khởi hành."

Tướng ngu hậu Vương Bảo Tài hơi cúi người ở trên ngựa, cao giọng nói với hắn.

Dương Hạo gật đầu, nhìn về phía các gia phó đi theo ở phía sau một cái, gia phó của Dương Hạo so với gia quyến của hắn ở kinh thành thì đầy đủ hơn một chút, quản gia, nô phó, nha hoàn tất cả đều có. Nhưng .... hắn lại chẳng nhận ra người nào, những người này đều là sau khi hắn thay đổi kế hoạch chạy trốn, được Kế Tự đường đưa tới.

Dương Hạo chỉ biết quản gia của hắn tên là Lý Khánh Phong, Dương Hạo nhìn tuổi tác của hắn, nghe tên của hắn, rất hoài nghi liệu hắn và gia tộc Lý Thính phong mà mình cứu ở Đường quốc có liên quan gì không, có điều cho tới tận bây giờ, hắn vẫn chưa nói chuyện tỉ mỉ với vị quản gia này lần nào.

Dương Hạo lên xe, buông rèm kiệu, cả đội ngũ liền gia tăng tốc độ.

Qua một sườn núi, đường ở phía trước đột nhiên xuất hiện một cái cổng chào, nói là cổng chào, bởi vì đại sự của hoàng đế, đang ở vào lúc quốc tang, không có lụa đỏ treo trước cửa, chỉ trang trí một ít lá cây bên trên, để tránh danh không hợp với thực. Phía dưới cổng chào cũng không có cổ nhạc nghênh đón, chỉ có môt đám bách tính quần áo hai màu trắng đen đứng ở đó, từ xa cao giọng gọi: "Vị quân gia này, xin hỏi phía trước có phải là Dương thái uy không?"

Một binh sĩ của Nhật Bản trực dùng tiếng Trung Quốc cứng ngắc đáp ứng một tiếng, các bách tính đó lập tức xôn xao, cũng không biết là từ đây biến ra một đống dân chúng chen chúc tới nghênh đón.

Vừa thấy là đưa tiễn Dương đại nhân rời kinh, Công Tôn Khánh, Vương Bảo Tài hai người cũng không tiện ngăn trở, hai người quay sang nhìn nhau, rồi ra lệnh cho người ở đằng sau đi truyền báo, thông tri cho Dương Hạo. Một lát sau, Dương Hạo liền đi lên.

Dẫn đầu đám bách tính này là một viên ngoái thể thái vên mãn, chỉ thấy ông ta cung kính bước lên trước vái một cái, nói: "Dương thái úy, tiểu nhân là Vu Viên, làm hương bảo. Đại nhân lúc ở kinh, đức chính huệ dân, khiến vô số bách tính được nhờ, giờ thái úy phải rời kinh tới tây bắc thượng nhiệm, các binh tính cảm ân *** đức, không nỡ để đại nhân rời đi, đặc ý ủy thác tiểu dân, hướng tới thái úy mà kính hiến một cây Vạn Dân tán (ô Vạn Dân), mười vò mỹ tửu, mong thái úy vui lòng nhận cho."

Ở đằng xa, võ sĩ Nhật Bản Vương Bảo Tài tiên sinh nghe thấy vậy liền rất bực bội, quay đầu nói với Công Tôn Khánh: "Công tôn đại nhân, mạt tướng là võ quan, đối với chuyện của Dương thái úy không biết nhiều lắm. Hắn là từng làm quan địa phương ở đây ư?"

Lúc này, Dương Hạo đang tạ ơn không ngớt, các bách tính thì ùa lên như thủy triều, thi nhau vỗ mông ngựa liên tục, lễ bộ viên ngoại lang Công Tôn Khánh nghe mà phát ngán, hắn cười lạnh một tiếng, thấy xung quanh không có người của Dương Hạo thì mới nói: "Vương tướng quân, đây chẳng qua là tật xấu trong quan trường mà thôi. Từ xưa tới nay, quan tốt thương dân như con khi rời nhiệm thì bách tính dứt bỏ không được, tặng Vạn Dân tán để tỏ kính ý, nhưng quan nhi về sau, bất kể có phải là thanh quan hay không, bất kể là có yêu dân như con hay không, đều thích khi rời nhiệm thì chơi các trò này.

Quan có thanh danh tốt thì có thân dân chủ động tặng Vạn Dân tán, quan có thanh danh không tốt thì hắn cũng không muốn lặng lẽ mà đi, thế là nghĩ cách tìm người tới tặng. Ví dụ như nói ở tiền triều, huyện lệnh Khang Viễn là một tham quan, bách tính hận hắn đến thấu xương, khi hắn rời nhiệm cũng muốn các bách tính tặng Vạn Dân tán, nhưng các bách tính ai chịu tặng hắn chứ?

Ngươi không tặng ư? Ngươi không tặng thì hắn ở lại trong huyện nha không đi, tân quan không có cách nào tiếp nhiệm, thế là vị tân nhiệm huyện thái gia đó đành đi khuyên các thân sĩ đương địa tặng Vạn Dân tán cho hắn, các thân sĩ lại vẫn không chịu đáp ứng, vị tân nhiệm huyện thái gia đó hết cách, đành tự mình làm một cái, rồi bảo người nhà giả trang làm bách tính đương địa, mới đuổi được vị huyện lệnh tiền nhiệm đó đi.

"Ặc" Vương Bảo Tài lúc này mới hiểu ra, liên tục gật đầu, nói: "Ta hiểu rồi, ta hiểu rồi." Rồi khi nhìn sang Dương Hạo, trong mắt Vương Bảo Tài lộ ra vẻ mặt khinh thường.

Công Tôn Khánh cười nói: "Quan nhi về sau luôn muốn so với quan nhi rời nhiệm trước phải long trọng hơn, thế là đổi mới da dạng, không chỉ tặng Vạn Dân tán, còn lập Đức Chính bi (bia Đức Chính). Còn có kẻ không biết liêm sỉ, thuê trước mấy tên lưu manh vô công rồi nghề, nằm xuống bùn đất ở phía kiệu của hắn, cứ lăn lộn như thế không chịu đứng dậy, ý tứ là cản đường, không để hảo quan của bọn họ đi. Trê nquan trường, loại này được gọi là "nằm lăn". Hắc hắc, trò hề của quan trường như vậy, nhưng lan truyền ra ngoài thì lại thành là được bách tính kính yêu vô hạn."

Hai người nói xong cùng ngẩng mặt lên trời cười to.

Ở phía trước, Dương Hạo chối từ mãi, sau cũng mới ỡm ờ chịu nhân lấy Vạn Dân tán mà Vu Viên đại biểu cho dân chúng đương địa tặng, do Vạn Dân tán là dùng vải có màu sắc bất đồng làm thành, vào lúc quốc tang không tiện mở ra, cho nên dùng vải lĩnh bọc lại rồi đặt lên xe. Dương Hạo trực tiếp nhận lấy mười vò rượu, đặt hết lên xe rồi tiếp tục lên đường. Bọn Vu Biên làm ra vẻ quyến luyến không rời đuổi theo xe một hồi lâu rồi mới tản đi.

Thấy các hương thân diễn trò đi rồi, Công Tông Khánh mới thở phào một hơi, phân phó: "Đi nhanh hơn đi!"

Khi bọn họ rời khỏi kinh thành đã là giờ ngọ rồi. Ngày hôm nay không đi được bao xa, lúc trời tối, bọn họ tới gần trấn Bản Kiều, lúc này tịch dương đã ngả về tây, mắt trời xuống dần, để cuối ngày có thể tới được trấn, tốc độ của xa đội không ngừng tăng nhanh. Mắt thấy một cây cầu gỗ ở phía trước, các võ sĩ đi trước đột nhiên thả chậm tốc độ. Công Tôn Khánh trong lòng có việc, cảm thấy tốc độ đi chậm lại, lập tức ngẩng đầu hỏi: "Xảy ra chuyện gì?"

"Đại nhân, ngài nhìn xem!"

Một võ sĩ chỉ về phía tước, Công Tôn Khánh nhìn lên, chỉ thấy đầu cầu dựng một chiếc cổng chào, người ở dưới cổng cũng không nhiều, chỉ có năm sáu người, hai người đứng, còn mấy người còn lại thì nằm ngổn ngang trên cầu.

Vương Bảo Tài thấy vậy liền ngây người, lập tức thốt lên: "Nằm lăn ư?"

Lại nhìn sang Công Tôn Khánh, hai người không nhịn được mà cùng bật cười.

"Phía trước có phải là Dương thái uy không, sĩ tử Vu Chu Nhất dẫn dân chúng bản địa xin được gặp thái úy."

Dương Hạo được báo tin, lại mặt mày tươi cười bước lên trước tiếp kiến. Thế là hỏi tên, tiếp kiến, cảm ân, chối từ, hai bên lại dây dưa một hồi.

Vương Bảo Tào sốt ruột rồi, nói khẽ với Công Tôn Khánh: "Công tôn đại nhân, cứ đi đi rồi lại dừng như thế này, lúc nào mới có thể rời khỏi đây được. Người mà chúng ta an bài ở trấn Bản Kiều..."

"Câm miệng!"

Công Tôn Khánh lập tức ngắt lời hắn, nhìn Dương Hạo mặt mày tươi cười ở phía trước, cười lạnh nói: "Vương đại nhân, cứ để hắn phong quang thêm một chút thì có sao chứ, đối với người chết.... chúng ta phải có chút kiên nhẫn. Ngài thấy sao?"

Vương Bảo Tài cười khổ: "Công tôn đại nhân dạy rất phải. Ặc? Mấy người đó làm cái gì vậy?"

Công Tôn Khánh ngẩng đầu lên nhìn, lại thấy Dương Hạo đã bị đẩy lên cầu, bên cạnh đang có người cởi giày cho hắn, lại có một người khác ôm một đôi giày mới đứng ở bên cạnh. Công Tôn Khánh không khỏi trợn trừng mắt, một lúc sau mới lẩm bẩm: "Trơ trẽn quá đi đi, trơ trẽn quá đi!

"Hả?" Vương Bảo Tài liếc một cái, kinh ngạc hỏi: "Xảy ra chuyện gì vậy?"

Công Tôn Khánh nghiến răng nghiến lợi cười hắc hắc: "Vị Dương thái úy này cũng không biết là nghe ngóng được từ đâu, không ngờ lại biết màn kịch để lại giày này."

“Để lại giày?”

"Ừ, cái này cũng giống như là Vạn Dân tán, Đức Chính bi, nằm lăn."

Công Tôn Khánh hít sâu một hơi, nói: "Có một số sĩ thân địa phương, ôm giày thối vỗ mông ngựa. Để chơi trội, quan viên khi rời nhiệm, bách tính xin hắn để lại đôi giày cũ dưới chân, treo giày ở trên cổng chào, mặc cho gió thổi mưa phất cho tới khi mủn ra. Hắc hắc, Vương tướng quân, sau này ngài tới địa phương nào, nếu nhìn thấy mấy đôi giày mục nát bất kham, hình thù quái đản treo trên cổng chào, chắc nơi đó từng có không ít "hảo quan". Ha ha ha ha!"

Vương Bảo Tài lắng nghe rất nghiêm túc, gật đầu liên tục, nói: "Mạt tướng hiểu rồi, đa tạ đã chỉ giáo."

Đúng vào lúc này, chỉ nghe thấy một tiếng hét quái dị vang lên, lại thấy Dương Hạo hai chân trần khập khiễng chạy về, sĩ tử tên là Vu Nhất Chu đó trong tay cầm một tay truy thủ sáng loáng ở phía sau đuổi theo không tha. Vương Bảo Tài trợn trừng mắt, kinh ngạc nói: "Phong tục của nước ta thực sự là kỳ quái, Công Tôn đại nhân, xin chỉ giáo. Bọn họ.... vẫn muốn lưu lại thứ gì đó nữa à?"

"Vẫn muốn... vẫn muốn..."

Công Tôn Khánh đột nhiên hú lên một tiếng, kinh ngạc nói: "Thích khách?"

Lúc này thấy Dương Hạo hết nhảy lên rồi lại ngụp xuống, hổn hển hét lên: "Có thích khách, có thích khách, cứu mạng, cứu mạng với!"

Nói xong thì Dương Hạo đã chạy tới bên cạnh Vương Bảo Tài, trốn sau ngựa của hắn. Vương Bảo Tài chỉ mong sao hắn bị người ta chém chết luôn, để mình khỏi phải khổ tâm an bài thủ đoạn, nhưng hắn đã chạy tới cạnh mình, mình thân là võ tướng hộ tống, vô luận là như thế nào cũng không thể giả vờ thất trách được, thế là gầm lên một tiếng rồi rút đao ra, hậm hực mắng: "Là người phương nào dám to gan ám sát mệnh quan triều đình?"

Lăn lộn ở Trung Nguyên gần hai chục năm, Hán ngữ của hắn nói cũng khá tốt. Vương Bảo Tài vừa động, binh sĩ dưới tay hắn nhao nha rút đao ra khỏi bao, hò hét xông tới.

Trắng sáng sao thưa, đoàn người của Dương Hạo phong trần mệt mỏi xuất hiện ở trấn Tạo Hóa, trấn Tạo Hóa nằm ở phía bắc trấn Bản Kiều, cách trấn Bản Kiều hơn ba mươi dặm.

Mấy tên thích khách thành sự không đủ, bại sự có thừa đó không thể giết được Dương Hạo, ngược lại còn đánh rắn động cỏ. Bọn chúng thấy việc không ổn, nhao nhao nhảy xuống nước chạy trốn, các binh sĩ đuổi theo chạy lên cầu, cây cầu đó lập tức đổ rầm, thì ra cây cầu đó sớm đã bị người ta động tay động chân rồi. Dương thái úy kinh hãi chưa hết đánh chết cũng không chịu tới trấn Bản Kiều nữa, tự tác chủ trương đổi lộ tuyến, vòng tới trấn Tạo Hóa. Vương Bảo Tài nổi trận lôi đình, nhưng cũng đành chịu, may mà trên đường cơ hội còn nhiều, bố trí ở trấn Bản Kiều coi như là uổng phí rồi.

Y sam ở phía sau của Dương Hạo bị tên Vu Nhất Chu đó rạch một vết rách dài, dọa cho Dương Hạo vưa thấy trấn Tạo Hóa, liền chui vào trong một gian phòng không dám ló mặt ra nữa. Hương thân đương địa nghe nói có quan nhi lớn như vậy tới, vội vàng chạy đến bái kiến, nhưng hắn căn bản không chịu lộ mắt. Công Tôn Khánh và Vương Bảo Tài dở khóc dở cười, tùy ý đuổi những hương thân đó đi. Vừa quay về tới khách sạn nhỏ trưng dụng được thì bên ngoài lại có một người tiến vào. Người vừa tới nghênh ngang hỏi: "Xin hỏi, Dương thái úy tá túc ở đâu?"

Công Tôn Khánh đến cả một ngụm trà cũng chưa kịp uống, hắn tức giận hỏi lại: "Ngươi là ai?"

Tên trung niên đó mỉm cười, chắp tay nói: "Tạ hạ họ Dư, là..."

Công Tôn Khánh giật mình đánh rơi chén trà nóng trong tay, làm ướt hết cả vạt áo trước: "Lại họ Vu nữa à (chữ vu và chữ dư phát âm giống nhau, nên Côn Tôn Khánh hiểu lầm)?"

Vương Bảo Tài ở bên cạnh keng một tiếng rút đao ra, hung hăng lao lên, gầm to: "Bắt hắn lại!"

Nghe thấy cái tên Vương Bảo Tài này, ngươi tuyệt đối không ngờ rằng hắn lại là một võ sĩ, nhưng chẳng ai quy định rằng chỉ loại người có tên gọi bá đạo uy phong kiểu như Tây Môn Xuy Tuyết, Yến Nam Thiên mới có thể trở thành võ sĩ võ công trác tuyệt.

Vương Bảo Tài chỉ thò tay ra, một đao hoa hình chữ thập rất xinh đẹp liền nổ tung trước mặt người trung niên, chém bổ gạt vòng rất nhanh nhẹn gòn gàng, liền mạch lưu loát, đao thuật thật sự rất khá. Đao pháp của hắn không màu mè gì cả, chém, bổ, vòng, gạt đều là động tác trực tiếp nhất, nhưng xuất đao trầm ổn mà có lực, nhanh như gió, đủ để phá giả tất cả những chiêu pháp màu mè, dùng thủ phát đơn giản nhất để giết người.

Đao pháp gia truyền của Tá Tá Mộc tuy lăng lệ, nhưng người trung niên không ngờ cũng có một thân công phu rất khá, chỉ là quá bất ngờ nên căn bản không kịp phản ứng, may mà hắn thân thủ mạnh mẽ, lập tức ngửa người nhảy ra khỏi cửa, mũi đao sắc bén chém xẹt qua người, một mảnh áo liền rơi ra.

"Người làm gì vậy?" Tên trung niên đó lúc này mới kịp hét lên.

Vương Bảo Tài gầm lên một tiếng như mãnh thú, xông ra ngoài đuổi theo, đám lãng nhân Phù Tang, võ sĩ Cao Lệ ở phái sau còn chưa kịp vào phòng cũng nhao nhao chạy ra theo.

Công Tôn Khánh cao giọng cười nói: "Đừng giết hắn, bắt sống đi, hỏi rõ thân phận của hắn."

Hắn còn chưa dứt lời, những võ sĩ đó đã thoắt cái lại lùi lại về viện tử. Công Tôn Khánh ngạc nhiên ngước nhìn, lại thấy tướng ngu hậu Vương Bảo Tài cũng từng bước từng bước lui lại viện tử, ở phía trước hắn, trên dưới trái phải mấy chục thanh trường thương sắc bén đang bức tới người hắn, phong tỏa tất cả những chỗ yếu hại trên người hắn. Coi bộ chỉ cần hắn hơi có động tác kháng cự thì một lượt đâm thôi cũng khiến trên người hắn có thêm hơn chục cái lỗ, người đang bức hắn quay trở vào không ngờ lại là hơn chục đại hắn ăn mặc như cấm quân.

Cho dù là dạng cao thủ tu luyện tới cảnh giới hành tiên như Lữ Động Tân, ở trên chiến trường cũng chẳng có được tác dụng mang tính quyết định nào cả, ngày đó Trần Đoàn nếu không mượn hiệu quả khoách âm và tiếng vọng của sơn cốc, dùng tiếng huýt dài của âm tần kích động ngựa, chỉ bằng vào võ lực, hắn đừng hòng cản được đội ngũ võ sĩ Khiết Đan gồm một ngàn người tổ thành.

Binh sĩ được huấn luyện động tác tác chiến chỉnh tề như một, trừ phi ngươi có thân thể kim cương bất hoại, nếu không hơn chục cây thương lớn như vậy đồng thời đâm vào những chỗ yếu hại trên người ngươi, cho dù ngươi có ba đầu sáu tay cũng chẳng đỡ được. Võ nghệ của một người luyện hai mươi năm ở trước mặt đại đầu binh chỉ luyện thuật hợp kích có hai năm chính là thứ vứt đi, võ nghệ của một người trước trận của hai quân tác dụng hữu hạn, chính là bởi vì như vậy đó.

Công Tôn Khánh thấy đội phương cũng có phục trang cấm quân, không khỏi vừa kinh ngạc lại vừa phẫn nộ, đứng bật dậy, quát: "Các ngươi muốn làm phản hả, bản khâm sai phùng triệu xuất kinh, tuyên phủ tây bắc, bọn ngươi là bộ hạ của vị tướng quân nào, không ngờ lại dám vô lễ như vậy?"

Được hắn nhắc nhở, Vương Bảo Tài lúc này cũng nhớ ra thân phận của mình, ngực hơi ưỡn ra một chút, cao giọng quát: "Chúng ta là người của điện tiền ti, các ngươi là ai?"

Người trung niên mặc tiện trang được cái binh sĩ bảo vệ quay trở lại, cười lạnh nói: "Chúng ta là người của thị vệ ti, người của điện tiền ti có thể không kiêng nể ai mà ra tay giết người như vạy ư?"

Vương Bảo Tài quát: "Bản quan là điện tiền ti Nhật Bản trực tướng ngu hậu Vương Bảo Tài, các ngươi cùng nhau ám sát thượng quan, đáng tội gì hả?"

"Bốp!"

Tên trung niên đó vung tay tát cho hắn một cái, tính khí so với hắn còn nóng hơn, giọng nói cũng như sấm rền: "Bản quan là thị vệ ti bộ quân đô ngu hậu Dư Khiêm, các ngươi ám sát thượng quan, đáng tội gì hả?"

Vương Bảo Tài ngây người, ngực vừa ưỡn lên lại xẹp xuống,. Tuy nói hai người đều là ngu hậu, nhưng chức quan thì lại cách nhau mười vạn tám ngàn dặm. Đô hậu có phân biệt rõ ràng là đô ngu hậu, ngu hậu, tướng ngu hậu, viện ngụ hậu, địa vị cũng kém nhau rất xa, vị bộ quân đô ngu hậu ở trước mắt này tương đương với thiếu tướng lục quân, cán bộ cấp phó quân, còn hắn chỉ là một liên trưởng thiếu úy.

"Cái này... chỉ là hiểu lầm thôi, mạt tướng phụng mệnh hộ tống Dương thái úy tới Lô châu, trên đường gặp thích khách, thích khách cũng họ Vu, cho nên vừa nghe đại nhân báo danh tính… liền hiểu lầm..."

"Bốp!"

Hắn lại ăn thêm một phát tát vào mặt bên kia.

"Hiểu lầm ư? Con mẹ ngươi đánh rắm!" Dư Khiêm nổi trận lôi đình, nói: "Lão tử vừa rồi lui hơi chậm một chút, hiện tại đã bị một đao của ngươi chém thành bốn mảnh rồi, tới lúc đó nói là hiểu lầm có được không?"

Công Tôn Khánh thấy vậy vội vàng tươi cười bước lên hòa giải: "Ái chà chà, hiểu lầm, thuần túy là hiểu lầm thôi, đây quả thực là hồng thủy tràn vào miếu Long vương, người nhà không nhận ra nhau thôi. Vị tướng quân này xin chớ tức giận, bọn ti chức mang trọng nhiệm trên người, không dám lơ là, có gì đắc tội thì xin tướng quân bỏ quá cho."

Dư tướng quân lườm hắn một cái, tức giận nói: "Hay nhỉ, ngươi gặp phải thích khách họ Dư, vậy thấy ai họ Dư cũng giết hết hả?"

Rồi hắn hơi biến sắc, vội vàng hỏi: "Thích khách ư? Vậy Dương thái úy của bị thương không?"

Công Tôn Khánh cười khổ: "Dương thái úy hình như chân hơi bị thương, nhưng không có gì đáng ngại cả."

Dư tướng quân kinh ngạc hỏi: "Đã gặp thích khách, sao trên chân lại bị thương?"

Công Tôn Khánh vuốt mũi, lắp bắp nói: "Cái này... là đi chân trần mà chạy nên thành ra lòng bàn chân bị đá đâm."

"Hả?"

Dư tướng quân nghe mà như lọt vào sương mù, mặt đầy vẻ hồ nghi nhìn về phía Công Tôn Khánh, Công Tôn Khánh đang không biết nên giải thích như thế nào thì Dương Hạo đã nhận được tin tức, thất tha thất thểu từ trong phòng chạy ra, dùng thế kim kê độc lập đứng ở dưới hành lang, tươi cười nói: "Vị tướng quân này, bản quan chính là Dương Hạo, nhưng bộ quân ti La huynh muốn gặp ta làm gì?"

Dư tướng quân nghe vậy liền vội vàng bước lên trước chắp tay trước ngực, nói: "Mạt tướng bái kiến thái uy, chính là bộ soái nhà ta muốn gặp thái úy đại nhân."

Chương 403: Trấn Tạo Hóa 

Bên ngoài thôn là một mảng tĩnh lặng, ánh trăng sáng trong.

Người của La Khắc Địch đóng ở cuối phía bắc thôn, sau khi Triệu Khuông Dận đột nhiên băng hà, tân hoàng đế hạ nghiêm lệnh, tất cả quân đội đóng tại chỗ đợi tin tức, không được phép tự ý điều động một binh một tốt, nếu sẽ bị luận tội mưu phản, chém đầu ngay lập tức, dẫn tới việc La Khắc Địch đang tuần thị ở trong quân doanh cũng không thể động đậy được, chỉ đành đóng quân tại chỗ, mỗi ngày từ công báo của triều đinh và công văn mà xu mật viện đưa tới mới biết biết sự tình trong triều.

Cho tới khi tân đế chính thức đăng cơ, cấm lệnh mới được giải trừ, La Khắc Địch lúc này mới hớt hải chạy về Biện Lương. Hắn mang theo hơn trăm thân binh, khi qua trấn Tạo Hóa thì trời đã tối, cho nên đành đóng trại ở đây, nhưng vẫn án chiếu theo quy củ trong quân mà tỏa người đi tuần tra. Đám người của Dương Hạo vừa tới thì bị bọn họ phát hiện, biết được là Dương Hạo tới, La Khắc mới ra lệnh cho bộ tướng tới đón.

Hai người chậm rãi đi trên con đường nhỏ, phía trước là một đoạn dốc thoải, Dương Hạo chậm rãi bước lên, cười nói: "La huynh có lời cơ mật gì muốn nói với ta mà phải đuổi thủ hạ đi vậy?"

La Khắc Địch bước càng lúc càng chậm, trầm ngâm nói: "Ngày đó nhận được bức thư của thái úy đại nhân, La mỗ một mực mang bên người, chốc lát cũng không rời, vừa rồi được biết thái úy đại nhân đã tới thôn Tạo Hóa, mạt tướng liền lấy thư ra đọc qua rồi!"

Dương Hạo hơi kinh hãi, chậm rãi quay người lại, La Khắc Địch nhìn chằm chằm vào hắn, trong mắt mang đậm vẻ đau khổ, thấp giọng hỏi: "Thái úy đại nhân không phải là sau khi từ quan về hưu sẽ lặng lẽ rời khỏi Biện Lương ư? Sao giờ lại phong phong quang quang, với thân phận sứ tướng triều đình, phong cương đại lại mà tới Lô châu thế?"

"Cái này..."

Tay Lý Mạnh nhẹ nhàng nắm lên trường kiếm ở bên hông, nghiêm nghị hỏi: "Tiên đế là làm sao mà chết?"

Dương Hạo ngớ người, buột miệng hỏi: "La huynh sẽ không cho rằng, chuyện tiên đế băng hà là có liên quan tới Dương mỗ chứ?"

La Khắc Địch chậm rãi nói: "Vốn là, ta cũng tuyệt đối sẽ không nghi ngờ tới ngươi, nhưng sau khi biết được một thân phận khác của người, ta lại không thể không nghĩ như vậy. Tiên đế đang đội tuổi xuân, thân hình cực kỳ khỏe mạnh, sao lại đột nhiên bạo bệnh mà chết? Nếu tiên đế là bị ám sát, vậy thì còn có ai đáng ngờ hơn ngươi nữa?"

Dương Hạo cười khổ không thôi, Triệu Khuông Dận là kiêng bị bị hạ thần phản bội nhất, từ việc ông ta thà bỏ qua lợi ích cực lớn, cũng không hợp tác với Khánh vương, loạn thần tặc tử của Khiết Đan là có thể nhìn ra thái độ kiên quyết của ông ta, mình ở Biện Lương làm quan lâu như vậy, một khi về Lô châu, dùng thân phận công chủ của Đảng Hạng Thất thị mà ra mặt, Triệu Khuông Dận rất khó mà dung thứ được.

Từ thái đội của La Khắc Địch có thể thấy, mình quả thật là có lý do khá đầy đủ để mưu sát Triệu Khuông Dận, có điều một mình hắn không thể làm thành được chuyện này, làm xong chuyện này cũng không thể từ bên trong mà có được lợi ích công khai nào. Triệu Khuông Dận bị ám sát, hắn thì được thăng chức, nếu quả thật là một trong số những hung thủ, vậy thì kim thượng và hắn tất nhiên cũng là đồng mưu. La Khắc Địch không thể nghĩ tới điểm này, nếu thông minh một chút, hắn nên giả vờ hồ đồ, nhưng hắn lại trực tiếp nói ra với mình, người này, quả thật là khác hẳn với ông già gian manh của hắn, là một người trung can nghĩa đảm thực sự.

La Khắc Địch thấy hắn không nói gì, ngón tay án lên chuôi kiếm, keng một tiếng bảo kiếm rời khỏi bao nửa thước, La Khắc Địch từ từ rút kiếm, trầm giọng nói: "Ta và thái úy cùng nhận lệnh vua, từ Hán quốc mà vượt qua xa mạc, qua Tử Ngọ cốc, đồng sinh cộng tử, có giao tình thân thiết. Lần này có thể từ Khiết Đan bình an trở về, quay lại cố thổ, La mỗ càng nhận thêm ân tình của thái úy, nhưng, tình riêng là tình riêng, bề tôi thí vua, ai ai cũng phải tru diệt. Dương thái úy, La mỗ đắc tội rồi."

"Chậm đã, Dương mỗ vẫn có lời muốn nói." Trong lúc nói, Dương Hạo liền có quyết định, đưa tay ra thò về phía hông, La Khắc Địch biết rằng hắn muốn rút kiếm phản kháng, lập tức gầm lên một tiếng, giơ kiếm đâm tới.

Dương Hạo trở tay không kịp, lắc mình vội vàng thối lui, lúc này bên cạnh vang lên tiếng quát khẽ, từ trong cánh đồng xanh có một bóng người bay ra, nhanh không gì sánh được lao về phía La Khắc Địch. "Keng" một tiếng, hai người giao nhau một kiếm, hoa lửa tóe ra, người đố đã phi thân hạ xuống đất, bảo vệ trước mặt Dương Hạo.

La Khắc Địch vừa thấy người này, không khỏi thốt lên kinh hãi: "Ngọc Lạc."

Người áo xanh đang đứng thẳng ở trước mặt, chính là Đinh đại tiểu thư.

Dương Hạo cũng giật nảy mình: "Ngọc Lạc, sao muội cũng tới đây?"

La Khắc Địch vừa kinh ngạc lại vừa tức giận, quát: "Ngọc Lạc, nàng biết nhị cacủa nàng hắn..."

Đinh Ngọc Lạc ngắt lời hắn: "Ta không biết gì cả, cũng không cần biết làm gì, chỉ cần nhị ca không làm chuyện thương thiên hại lý, ta sẽ giúp huynh ấy, ta không phải là mệnh quan triều đình, cũng không phải là đại anh hùng lấy thiên hạ làm trách nhiệm của mình, ta chỉ là một tiểu nữ tử, chỉ muốn bảo vệ gia đình mình. Thiên hạ, đại nghĩa, có liên quan quái gì tới ta?"

"Nàng..." La Khắc Địch cứng lỡi, dưới cơn tức giận lại lách người muốn lao về phía Dương Hạo, Đinh Ngọc Lạc giơ kiếm đón đánh, u sầu nói: "Hiện tại, người biết ta vì sao lại né tránh ngươi, lạnh nhạt với ngươi rồi chứ?"

La Khắc Địch tức giận nói: "Nàng muốn giúp kẻ phản nghịch ư?"

Đinh Ngọc Lạc nói như chém đinh chặt sắt: "Ta chỉ biết huynh ấy là nhị ca của ta!"

"Tốt! Tốt!"

La Khắc Địch cực kỳ tức giận, trầm giọng quát: "Loạn thần tặc tử, ai ai cũng phải tru diệt! Đã là như vậy, La mỗ là nam nhi đại trượng phu, há lại luyến tiếc tư tình với nữ nhi? Đắc tội rồi!" Nói xong liền cầm kiếm lao tới.

Đinh Ngọc Lạc không chịu yếu thế, giơ kiếm nghênh đón, hai người lại chiến đấu với nhau. Dương Hạo ngưng thần quan sát một lúc, phát hiện La Khắc Địch tuy đang rất tức giận, nhưng vẫn lưu lại ba phần tình ý với Ngọc Lạc. Xem ra hắn là muốn đánh ngã Ngọc Lạc trước rồi tự tay lấy tính mạng của mình. Kiếm pháp của Đinh Ngọc Lạc tuy kém hắn, nhưng vì hắn là có lòng nhường nhịn nên tạm thời đánh ngang tay, không có nguy hiểm tới tính mạng. Dương Hạo lúc này mới thấy yên tâm.

Hắn từ trong ngực lấy ra thì gì đó, chậm rãi bước tới, nhân lúc hai người đan chéo qua nhau, giơ kiếm chém tới, liền phi thân lên, đứng giữa hai người, giơ đồ trong tay lên, quát: "Không được đánh, La huynh, huynh nhìn xem đây là gì?"

La Khắc Địch thấy thứ đồ vuông vức trong tay Dương Hạo, không giống như là vũ khí, không khỏi ngạc nhiên nói: "Đây là gì?"

Dương Hạo gằn từng chữ: "Miễn tử kim bài!"

Miễn tử kim bài mà dân gian thường gọi, ở thời cổ đại quả thực có thứ như vậy, tên gọi chính thức mà quan lại hay gọi là "Kim thư thiết khoán", hoặc là "đan thư thiết khoán". Ví dụ như nhi tử của Hậu Chu Thế Tổ của tiền triều, nhờ có "đan thư thiết khoán" mà Triệu Khuông Dận ban cho, nếu không mắc đại tội mưu phản thì không được giết.

La Khắc Địch kinh hãi, thất thanh nói: "Ông ta ban cho ngươi đan thư thiết khoán?"

Rồi lập tức cười lạnh, nói: "Nói như vậy, ngươi quả nhiên là kẻ thông đồng với bọn giết vua. Chức quan của La mỗ là tiên đế phong cho, hiện giờ trừ gian vì tiên đế, thứ cho không tiếp chiếu mệnh của kim thượng, đan thư thiết hoán này của ngươi..."

"Đồ ngu! Ngươi đã thấy đan thư thiết khoán này? Cớ sao không mở ra mà nhìn?"

La Khắc Địch chán nản ngồi bệt xuống đất, nhìn cánh đồng sanh nhấp nhô như sóng một hồi lâu không nói gì.

Dương Hạo ra hiệu cho Ngọc Lạc rồi khập khiễng đi tới.

La Khắc Địch lạnh lùng lườm hắn một cái, nói: "Đừng có giả vờ làm gì nữa?"

Dương Hạo cười ha ha, ngồi xuống cạnh hắn, thân thiết ôm vai hắn, nói: "Xin lỗi, giả vờ quen rồi, không giả vờ thì thấy không được thoải mái."

La Khắc Địch tức giận tránh ra, lạnh lùng hỏi: "Giờ ngươi định làm gì? Phụng mật chiếu phụ tá Ngụy vương, hay là về Lô châu vào thảo đầu vương?"

Dương Hạo nhìn cánh đồng xanh nhấp nhô như sóng dưới ánh trăng, chậm rãi nói: "La huynh, công bằng mà nói, ta làm Thất thị cộng chủ, là trước khi vào triều. Khu vực tây bắc, trên danh nghĩa mà nói là giang sơn của Đại Tống ta, nhưng trên thực tế là phiên trấn dân cư hỗn tạp, triều đình chi phối được không? Lân châu Dương gia, Phủ châu Chiết gia, Hạ châu Lý gia, lại thêm Hồ Hột và Thổ Phiên, họ mới là chủ nhân thật sự của tây bắc. Nếu ta tới địa phương đó, có thể chiếm được một khoảng nho nhỏ, đối với Đại Tống mà nói chẳng lẽ sẽ nguy hại lắm ư?"

La Khắc Địch cười lạnh, nói: "Nói vậy là ngươi muốn về tây bắc ư? Vậy huyết chiếu của nương nương thì sao? Nương nương đem quốc sự ra nhờ cậy ngươi, ngươi cứ vật phất tay bỏ đi ư?"

Dương Hạo thở khẽ một hơi, than: "La huynh, trung nghĩa tất nhiên là tốt, nhưng lao đầu vào chỗ chết một cách vô ích là trung nghĩa vô bổ, là ngu xuẩn."

La Khắc Địch hỏi lại: "Thế là có ý gì? Nếu Ngụy vương huy sư về kinh, chẳng lẽ không thể đánh được một trận ư?"

Dương Hạo ngắt lời: "Nương nương và công chúa, nhị điện ở ở trong thâm cung, suy nghĩ khó tránh khỏi quá đơn giản. La huynh thì không nên phạm sai lầm này, huynh chắc biết rõ, đây vẫn là lần đầu tiên Ngụy vương lĩnh binh, những kiêu tướng đó sở dĩ chịu nghe lệnh hắn, là bởi vì hắn đại biểu cho hoàng đế. Nhưng trong triều giờ đã đổi tân hoàng đế, Ngụy vương nghĩ thế nào không hề quan trọng, quan trọng là những võ tướng đó có chịu theo hắn làm phản hay không?

La huynh, huynh hiện tại vừa mới làm bộ quân đô chỉ huy sứ được nửa năm, ở trong quân chưa lập được đủ uy vọng, chưa bồi dưỡng được bộ tướng một lòng theo huynh. Huynh hiện tại nếu hạ một đạo quân lệnh, các binh sĩ quyết không dám không tuân, cho dù phía trước là núi đao biển lửa, vì sao vậy? Bởi vì huynh có quyền uy vô thượng, có thể tùy ý xử trí bọ họ. Nhưng quyền uy này là tới từ triều đình. Nếu huynh hiện tại chỉ huy bộ tướng tấn công về phía thành Biện Lương, thử hỏi có mấy người chịu nghe mệnh lệnh của huynh?"

"Ta..."

"La huynh, cầu người được người, đổi lấy trong lòng được thanh thản, cho dù huynh tận hết trách nhiệm thì sao? Đó chẳng phải là lừa mình dối người ư. Nếu Ngụy vương có thể khởi binh, ta có thể hiệu triệu quân dân Lô châu hưởng ứng, vừa hay minh chính ngôn thuận mà lập vua. Nhưng nếu Ngụy vương không điều động được ba quân, huynh định làm thế nào? Mang kiếm gặp vua, ám sát kim thượng, đổi lấy cả nhà bị chém ư? Huống chi, huynh đã không thể mang kiếm vào cung, với võ công của kim thượng, huynh cũng chưa chắc đã giết được hắn."

La Khắc Địch ngẩng mặt lên trời thở dài, nói: "Bỏ đi, La mỗ ở trong cung đợi tin tức của Ngụy vương là được, nếu Ngụy vương khởi binh thì thôi, nếu không, La Khắc Địch sẽ từ quan không làm nữa, thà làm một bình dân bách tính, cũng không làm bề tôi dưới chân kim thượng."

Dương Hạo thở dài: "Huynh lại sai rồi, ngốc nghếch như thế này. Ta đột nhiên cảm thấy muội muội ta thích huynh, chắc là một sai lầm."

Đinh Ngọc Lạc vốn đang chăm chú nghe bọn họ nói chuyện, vừa nghe thấy Dương Hạo nhắc tới mình, mặt không khỏi nóng lên, vội vàng quay đầu đi, nhưng vẫn dỏng tai lắng nghe bọn họ nói chuyện.

La Khắc Địch tức giận nói: "Ta sao lại là kẻ ngốc nghếch chứ? Thuận trời ứng mệnh, làm trung thần của kim thượng mới là kẻ thông minh à?"

Dương Hạo hỏi: "La huynh, khi huynh bị người Khiết Đan bắt làm nô đãi, có thể làm đại tướng quân của Khiết Đan, hiện tại làm đại tướng quân của kim thượng thì có gì mà không được?"

La Khắc Địch lạnh lùng nói: "Đó là chuyện khác, lúc trước thuận nước đẩy thuyền, làm quan nhi của Khiết Đan, chỉ là vì tranh thủ cơ hội để chạy về Trung Nguyên, ngươi nghĩ La mỗ cam tâm làm khuyển mã cho địch quốc ư?"

Dương Hạo mỉm cười: "Hiện giờ vì sao lại không được?"

La Khắc Địch đột nhiên như chợt hiểu ra gì đó, do dự nói: "Huynh là nói..."

Dương Hạo bảo: "Thù giết cha, không đội trời chung, Ngụy vương nếu không biết thì thôi, một khi biết được chân tướng rồi, huynh nghĩ hắn há lại chịu bỏ qua? Nếu ba quân không thể sử dụng, vì để báo cừu, Ngụy vương chỉ có thể ẩn nhẫn chờ đợi cơ hội. La huynh không chịu làm việc cho giặc, cứ vậy bỏ đi, ngày sau Ngụy vương nếu muốn đối phó với kẻ đã thí huynh soán vị, còn có ai mà dùng đây?"

La Khắc Địch mắt lóe sáng, Dương Hạo mỉm cười: "Huynh không cảm thấy huynh ở trong triều làm quan càng lớn, binh mã nắm trong tay càng nhiều hơn, sự giúp ích đối với Ngụy vương cũng lớn hơn ư? Nếu như vậy, tuy phải chịu cái nhục nhất thời, nhưng không phụ lòng một phen tài bồi của quan gia, La huynh có chấp nhận hay không?"

La Khắc Địch cúi đầu suy nghĩ một hồi lâu, sau đó nói: "Dương huynh một câu làm người đang ở trong mộng phải bừng tỉnh, ra hiểu rồi."

Dương Hạo mỉm cười, nói: "Huynh và ta đồng sinh cộng tử, kề vai tác chiến, ngày sau nếu có thể cùng nhau diệt trừ tên quốc tặc này, há chẳng phải là chuyện vui lớn nhất của đời người ư?"

"Tốt!" La Khắc Địch nhướn mày, trầm giọng nói: "Ta về Biện Lương tùy cơ mà hành động, hi vọng huynh có thể nhớ kỹ những lời mà chúng ta đã nói ngày hôm nay."

"Tất nhiên rồi, huynh và ta vốn có giao tình, trên đường lại tương phùng, gặp nhau đàm đạo một phen cũng là thường tình của con người. Chỉ là La huynh nhớ giữ phần tâm tư này, còn phải thật là cẩn thận, quan hệ với ta không được quá thân thiết, huynh tốt nhất là quay về sớm một chút đi, Dương mỗ cũng phải mau mau về khách sạn rồi."

La Khắc Địch đã quyết là làm, tuyệt không dây dưa mất thời giờ, ôm quyền với hắn, nói: "Dương huynh nói đúng, La mỗ về đây."

Hắn ưỡn lưng đứng dậy, bước nhanh xuống sườn núi, đột nhiên nhớ ra gì đó, dừng chân quay phắt lại nhìn Đinh Ngọc Lạc, rụt rè hỏi: "Ngọc Lạc, nàng có trách ta động kiếm với nàng không?"

Ngọc Lạc nói: "Ta là nữ nhân, người nhà là quan trọng nhất. Huynh là nam nhân, quân phụ trên vai, ta không trách huynh muốn làm một đại anh hùng quang minh lỗi lạc thì huynh cũng đừng trách ta là một tiểu nữ tử chỉ trọng người nhà, không trọng đại nghĩa."

La Khắc Địch cười rất thoải mái: "Đó là tất nhiên rồi, nàng muốn theo lệnh huynh tới Lô châu ư?"

Đinh Ngọc Lạc quay đầu lại nhìn Dương Hạo, nói khẽ: "Phải, ta muốn về Lô châu, người nhà của của ta đều ở đó."

La Khắc Địch trầm mặc một lát, rồi nói: "Ta xin thề rằng, cả đời này chỉ yêu mỗi mình nàng, hiện giờ đã biết nỗi khổ trong lòng nàng rồi, nhưng ta lại vẫn không thay đổi nguyện ước ban đầu. Vì nàng, nán lại một phần tiền trình thì tính là gì chứ, chỉ không biết Ngọc Lạc cô nương là có một phần tâm ý nào với La Khắc Địch ta hay chăng?"

Đinh Ngọc Lạc u sầu nói: "Tướng quân tuổi trẻ đầy hứa hẹn, Ngọc Lạc lần này đi, xa cách phương trời, không biết ngày nào mới có thể gặp lại."

La Khắc Địch lớn tiếng nói: "Ta đợi được."

Đinh Ngọc Lạc thở dài, nói: "Huynh có thể đợi được bao lâu?"

La Khắc Địch chỉ tay lên trời, nói: "Trăng sao trên trời làm chứng, đợi tới biển khô đá nứt, đất già trời hoang, tuyệt không hối hận!"

Ánh mắt của Đinh Ngọc Lạc sáng lên, một lúc sau mới đỏ mặt nói: "Được, chàng nếu có thể cả đời không cưới vợ, thiếp sẽ cả đời không lấy cồng, chỉ chờ được làm người của chàng."

La Khắc Địch vui mừng nói: "Một lời đã định."

Dương Hạo lười biếng ngáp một cái, nói: "Hai vị chàng chàng thiếp thiếp, coi ta như không tồn tại hả?"

Hai người mặt lập tức đỏ bừng, Dương Hạo nói: "Ta không thể để muội muội duy nhất của mình biến thành một lão cô nương được, chỉ là trước mắt vẫn chưa phải là lúc, đợi sau khi tất cả rõ ràng rồi hẵng nói đi."

Hai huynh muội đứng trên sườn núi, nhìn bóng dáng của La Khắc Địch biến mất trong cánh đồng xanh, sắc mặt của Dương Hạo liền trầm xuống, nói: "Ta không phải đã bảo muội hộ tống mấy vị tẩu tẩu về Lô châu rồi ư, sao muội lại lén lén quay lại làm gì?"

Đinh Ngọc Lạc lẽ thẳng khí hùng, nói: "Nếu nhị ca có ba dài hai ngắn gì, huynh nghĩ mấy vị tẩu tẩu có thể sống một mình được ư? Huynh một mình ở lại trong thành, lại không nói rõ nguyên do, ai mà yên tâm cho được? Bọn muội vốn đã ly khai rồi, nhưng nghe nói hoàng đế băng hà, đều không biết trong cung đã xảy ra chuyện gì. Ngọc Lạc mới phụng lệnh của mấy vị tẩu tẩu, quay về nghe ngóng tin tức. Huynh vừa xuất thành là muội đã theo huynh rồi, chỉ là vẫn chưa có cơ hội gặp mặt mà thôi. Muội là phụng lệnh của tẩu tẩu mà tới, huynh muốn trách tội thì tìm tẩu tẩu mà trách."

Dương Hạo nghiêm mặt, nói: "Còn muốn lừa ta à? Đông nhi là nghe lời ta nhất, nàng ta há lại để cho muội phải dấn thân vào nguy hiểm. Nếu đúng là chủ ý của nàng ta, nàng ta nhất định sẽ tự mình quay về, muội là lén lút chạy về, còn muốn đổ tội lên người Đông Nhi nữa."

Trong mắt Đinh Ngọc Lạc lóe lên một tia cười, bảo: "Nhị ca, lần này huynh đoán sai rồi, quả thực là tẩu tẩu bảo muội quay về đó."

"Sao có thể như vậy được, nàng ta..."

"Nếu như là bình thường, tẩu tẩu đương nhiên sẽ tự mình quay về nghe ngóng tin tức, có điều tẩu tẩu lại không đi được."

Dương Hạo lập tức khẩn trương, nói: "Sao vậy? Có chuyện gì xảy ra với Đông Nhi à?"

Đinh Ngọc Lạc thở dài, nói: "Tẩu tẩu cũng không xảy ra chuyện gì cả, nàng ta chỉ là không dám đi, không thể đi, bởi vì.... nàng ta đã mang cốt nhục của huynh rồi."

"Cái gì?" Dương Hạo cả người ngây ngốc đứng sững ra đó.

Đinh Ngọc Lạc nói: "Đó chính là hài tử đầu tiên của nhà ta, vạn nhất có mệnh hệ gì, huynh và đại ca đều sẽ đau lòng rồi nổi trận lôi đình. Huynh nói xem tẩu tẩu há lại dám tự mình đi mạo hiểm."

Dương Hạo thốt lên: "Cái cái... gì gì? Nàng ta có thai rồi ư? Mới có mấy ngày thời gian, ta sao lại không biết nhỉ?"

Đinh Ngọc Lạc nhìn bộ dạng hoan hỉ của hắn, bĩu mỗi nói: "Vốn là chỉ có chút hoài nghi, nhưng tẩu tẩu cũng là lần đầu tiên, nàng ấy dám khảng định chắc chắn ư? Chỉ là trên đường đi, dần dần có triệu chứng, nửa đường tìm một y sĩ chẩn trị, lúc này mới xác nhận."

Dương Hạo vui mừng như điên, Đinh Ngọc Lạc cười nói: "Muội muội mang tới một tin vui như vậy cho nhị ca, nhị ca chắc sẽ không giận muội đâu nhỉ."

Dương Hạo trừng mắt lườm nàng ta, mắng: "Ai nói là ta không tức giận, tin tức này sớm muộn gì thì ta cũng biết, đáng để muội mạo hiểm quay về ư?"

Đinh Ngọc Lạc ủy khuất cúi đầu xuống, Dương Hạo lại mỉm cười nói: "Có điều lần này muội về cũng chó ngáp phải ruồi, ở chỗ ta chỉ có một đại sự, cần một người ổn thỏa đáng tin cậy đi làm, vốn vẫn muốn tối nay cùng Lý quản gia thương lượng một chút, muội đã tới rồi, tất nhiên là nhân tuyển tốt nhất."

...

Trong khách sạn, phòng của Công Tôn Khánh.

Công Tôn Khánh và Vương Bảo Tài hai má sưng phù đang bí mật thương nghị sự tình.

Công Tôn Khánh nói: "Những tên thích khách đó không biết là ai phái tới nhỉ, làm hỏng đại sự của chúng ta, bố trí tỉ mỉ của quan gia ở trong trấn Bản Kiều toàn bộ đều uổng phí rồi."

Vương Bảo Tài cười hắc hắc, năm vết ngón tay trên mặt càng nổi bật, nói: "Công Tôn đại nhân hà tất phải tức giận, cho dù không có bố trí trong trấn Bản Kiều, mạt tướng cũng có thể thần không biết quỷ không hay khiến hắn táng mạng tại đây."

Công Tôn Khánh tinh thần chấn động, vội vàng hoi: "Vương tướng quân có diệu kế gì vậy?"

Vương Bảo Tào mỉm cười, đưa tay ra vỗ ba cái, đột nhiên từ cửa chính, cửa sổ, trên xà nhà, dưới gầm giường có bốn người che mặt hiện ra, sau vai đều đeo hai thành võ sĩ đao một dài một ngắn, dọa cho Công Tôn Khánh giật thót mình, hắn thực sự không nghĩ ra được những người này chui vào trong phòng mình từ lúc nào.

Công Tôn Khánh vừa kinh ngạc lại vừa nghi hoặc hỏi: "Bọn họ là ai vậy?"

Vương Bảo Tài cười với vẻ khoe khoang, nói: "Bọn họ gọi là nhẫn giả, là những thám báo xuất sắc nhất, và cũng là thích khách xuất sắc nhất."

Bốn người che mặt lập tức hành lễ với Công Tôn Khánh.

Vương Bảo Tài nói: "Bình thường, bọn họ đều là những binh sĩ bình thường trong Nhật Bản trực, có ai biết được bọn họ có thể thân hoài tuyệt kỹ chứ? Tối nay ta sẽ bảo bọn họ thi triển thủ đoạn, tới ám sát Dương Hạo. Sáng sớm ngày mai, cái mà đại nhân nhìn thấy chỉ có thể là thi thể lạnh băng của Dương Hạo, hắn tuyệt đối không thể nhìn thấy ánh mặt trời của sáng mai đâu."

Công Tôn Khánh nói với vẻ hoài nghi: "Bọn họ thực sự có bản sự hay như vậy ư?"

"Không sai, bọn họ không những có một thân bản sự, hơn nữa còn là thủ bí giả (ngươi giữ bí mật) xứng đáng với chức vụ nhất, từ lúc một số võ sĩ xuống dốc của Y Hạ, Giáp Hạ triều Đường kết hợp binh pháp trung thổ, ngũ hành độn thuật của đạo gia, sáng ạo ra nhẫn thuật tới nay, bọn họ giữ nghiêm bốn giới luật: Một, không sử dụng nhẫn thuật vì mục đích riêng; Hai, bỏ hết tất cả tự tôn; Ba, phải thủ khẩu như bình; Bốn, tuyệt không được tiết lộ thân phận. Tất cả nhẫn giả đều làm theo bốn giới luật này, chưa từng có một ai trái với lời thề, bọn họ nhất định sẽ không khiến đại nhân thất vọng đâu."

Vương Bảo Tài mỉm cười xua xua tay, bốn nhẫn giả lập tức cúi người hành lễ rồi biến mất.

Chương 404: Nhẫn 

Màn đêm buông xuống, ai ai cũng vội vã mà đến nên không có chuẩn bị gì cả, chỉ ăn qua loa thứ gì đó, Dương Hạo thì về phòng ngủ của mình. Ở chốn thôn quê, phòng ốc đơn sơ, nhưng cũng có khác lạ, phòng còn có một cửa sau, ngoài cửa sau là hành lang gỗ được dựng trên mặt nước, hành lang gỗ còn có lan can.

Phòng ở hai bên và đằng trước đều do gia nhân của Dương Hạo sống, quản gia Lý Khánh Phong vừa rồi mới có cơ hội tiến vào phòng ngủ, cùng Dương Hạo bí mật thương nghị một hồi lâu, sau đó thì rời khỏi phòng.

Lý Khánh Phong vừa ra khỏi cửa, Dương Hạo liền mặc cả quần áo nằm trên giường, suy nghĩ kỹ càng về tiền trình của mình.

Ngọc Lạc gan dạ cẩn trọng, lại nhanh mồm nhanh miệng, chuyện quan trọng này giao cho nó có thể yên tâm được. Mà La Khắc Địch cũng không phải là một kẻ lỗ mãng, nhìn cơ hội mà hành sự như thế nào thì hắn tất nhiên có thể lĩnh hội, không cần mình phải lo lắng. Hắn tiếp tục đi trên con đường này, e rằng sẽ là sát cơ bốn phía, có điều kế hoạch của Kế Tự đường cũng khá chu mật, Công Tôn Khánh và Vương Bảo Tài không thể hạ thủ một cách lộ liễu, duy có dùng âm mưu quỷ kế, lộ đấu pháp này, có sự giúp đỡ mạnh mẽ của Kế Tự đường, vị tất cả không thể an nhiên tới Lô châu.

Vấn đề quan trọng hiện giờ là Ngụy vương

Nếu chúng tướng ủng hộ, Triệu Đức Chiêu quả nhiên làm phản, vậy thì hắn phải theo chiếu mà khởi binh, đã nhận bức huyết thư này của nương nương, nếu hắn án binh bất động, tất sẽ bị thiên hạ thóa mạ ,trên đạo nghĩa cũng không thể nào đứng vững được. Mà xuất binh tương trợ, vị sứ tướng này có thể danh chính ngôn thuận trở thành phụ chính đại thần. Triệu Đức Chiêu nếu có thể đánh bại Triệu Quang Nghĩa, lúc đó hắn phe cánh đầy rẫy, ở tây bắc đã đủ để đứng vững. Nếu Ngụy vương Triệu Đức Chiêu binh bại, hắn cũng có thể lui về thủ Lô châu, một lần nữa dùng sách lược nhờ vào Khiết Đan mà khống chế Đại Tống, mượn Đại Tống để kiềm chế Khiết Đan, giống như ngày trước Lô châu ở khe hở của thế lực chính trị ba phía, có thể đứng vẫn chân, lợi dụng sự kiêng kỵ lẫn nhau giữa hai nước lớn này để bảo đảm bản thân được bình yên vô sự.

Cách nghĩ này tuy khác với sách lước lúc trước lấy Ngân châu, thống nhất Hoành Sơn, lại chiếm lấy Hạ châu, định cơ Tây Bắc, có điều cũng là trăm sông đổ về một biển, kết quả giống như nhau mà thôi.

Hắn hiện tại giống như là đặt mình vào một con thuyền trên biển lớn, trước mắt là sóng to gió lớn, dưới chân là mạch nước ngầm, mục đích của hắn tuy đã được xác định, nhưng làm thế nào mà thực hiện được, là lái thẳng, đi vòng, hắn là tạm tránh nơi đầu sóng ngọn gió, lựa chọn có rất nhiều, phải tùy thời mà thay đổi, cứ khăng khăng giữ kế hoạch ban đầu, không nhìn biến hóa mà thay đổi tình hình, đó là ngu xuẩn nhất, sau cùng chỉ có thể rơi vào kết cục thuyền chìm người chết.

Nhưng, cho dù là cừu giết cha, không đội trời chung, nếu Ngụy vương nhát gan, đại cừu như vậy cũng bỏ qua như không biết thì không nói, nhưng hắn liệu có thể chỉ huy được ba quân, để các tướng lĩnh trong quân người trước hy sinh, người sau tiếp bước, quyết chí tiến lên vì hắn hay không? Triệu Đức Chiêu hiện tại, có uy vọng và năng lực này hay không? Dương Hạo vô cùng hoài nghi.

Nếu không thể, vậy thì hắn chỉ có thể nhẫn. Nếu như vậy, mình vẫn phải án chiếu theo kế hoạch ban đầu, trước tiên giành lấy Ngân châu, củng cố nền móng, rồi lại lấy tiếp Hạ châu. Đây là mộ trận đọ sức trên chính trị, làm thế nào để bố trí được những nước cờ quan trọng. Mà hiện giờ nơi để cho hắn bày bố, chính là biên hoang tây bắc.

Thiên hạ hiện giờ giống như là một bàn cờ, chính giữa đã một phân làm hai, bị Tống quốc và Khiết Đan chiếm rồi, nếu như hắn chen vào đây, tất sẽ bị bốn phía tập kích, phải chống đỡ không ngừng. Bố cục càng hoa lệ, càng dễ lọt vào sự công kích của đối thủ. Ẩn mình một chút, làm dần từng bước, so với người bên ngoài thì hào nhoáng, bên trong thì trống rỗng sẽ càng dễ dàng thành công hơn.

Tây bắc bất kể là mục đích cuối cùng của hắn, hay chỉ là một cứ điểm để tấn công thì cũng đều là lựa chọn duy nhất và thích hợp nhất của hắn. Lấy đất lấy thế, tây bắc có thể khiến uy vọng của hắn được tăng cao. Còn chiếm được thế l rồi, có thể biến ảo thành chính cục khó lường để từ đó vạch ra con đường của riêng mình hay không, đó không phải là chuyện mà hiện tại hắn có thể suy tính được, mựu sự tại nhân, thành sự tại thiên, biến số mỗi ngày đều có, mỗi ngày đều nảy sinh biến hóa, có ai mà biết trước được.

Người hay thắng thì không tranh, người hay tranh thì không đánh, người hay đánh thì bất bại, người hay bại thì không loạn, mà người đã bỏ lỡ tiên cơ như hắn, tất phải nhẫn, phải tránh mang trong đầu ý nghĩ một bước lên trời, cứ đặt chân cho vững đã rồi tính tiếp.

Vào lúc đang suy nghĩ, cửa nhẹ nhàng mở ra, một nữ tử áo xanh thân hình yểu điệu đi vào, trong tay cầm một bình trà, mỉm cười nói với hắn: "Lão gia muốn uống trà rồi đi ngủ, hay là muốn đi tắm? Nếu muốn tắm, tỳ nữ sẽ bảo người chuẩn bị nước nóng."

Dương Hạo đứng dậy, ngồi ở mép giường nhìn thị tỳ áo xanh này, mặt mày như tranh, cười tươi như hoa, tuy là nha hoàn, nhưng thần tình khí chất lại tự nhiên trang nhã, không quá giống như một nha hoàn quen phục vụ chuyện ăn ngủ của người ta.

Dưới đôi lông màu cong cong như trăng khuyết là một đôi mắt mỹ lệ, nhưng khi nhìn về phía hắn, lại mang theo một tia hiếu kỳ, giống như làvẻ mặt của một người được nghe người ta nhắc nhiều tới sự tích của hắn, hiện giờ lần đầu tiên nhìn thấy vậy. Thấy Dương Hạo nhìn lại, khóe miệng của thiếu nữ hơi cong lên, lộ ra nụ cười xán lạn như hoa, rất là thanh tú.

Dương Hạo đứng dậy, thị nữ áo xanh liền nhẹ nhàng đặt ấm trà lên bàn, nhanh nhẹn lui một bước.

"Ngươi tên là..."

Trúc Vận mỉm cười, nói: "Tỳ nữ tên là Trúc Vân, lão gia xin nhớ cho, để tránh ở trước mặt người khác lại gọi nhầm."

"Ồ, Lý quản gia không phải là quản gia thật sự, Trúc Vận cô nương chắc cũng không phải là thị tỳ thật sự phải không?"

Trúc Vận nhoẻn miệng cười: "Trước khi lão gia bình yên tới được Lô châu, Trúc Vận chính là thị tỳ của đại nhân."

Dương Hạo cười nhạt, cũng không truy hỏi nữa, hắn ngồi xuống bàn, rót cho mình một chén trà, vuốt cằm trầm ngâm một lát, nói: "À... hôm nay đi đườngmệt mỏi, quả thực là cũng muốn tắm một trận. Ta trước tiên uống một chén trà cho tỉnh táo đã, phiền cô nương bảo người chuẩn bị nước nóng."

"Vâng!"

Trúc Vận cô nương hơi cúi người, lại cười khẽ, nói: "Trúc Vận hiện tại là tỳ nữ của lão gia, lão gia phải cố gắng chú ý tới ngôn ngữ, đối với tỳ nữ xin đừng quá khách khí như vậy."

Nàng ta nhẹ nhàng quay người bước ra ngoài. Dương Hạo chú ý thấy, vòng eo của nàng ta mặc dù gió thổi dương liễu, nhưng bước chân lại rất vững, đi vào đi ra nhanh thoăn thoắt, nữ hài nhi này, e rằng không yếu đuối gió thổi cũng bay như vẻ ngoài của nàng ta đâu. Quản gia không phải là quản gia, thị tỳ không phải là thị tỳ, những người mà Kế Tự đường tìm tới, vốn là làm gì vậy?

Trời đã khuya, Trúc Vận cô nương mặc cả quần áo nằm trên giường ở gian ngoài, hít thở đều đều, giống như đã ngủ say đột nhiên mở bừng mắt, ngọn đèn trên bàn chưa tắt, chiếu lên đôi mắt đẹp long lanh vừa ánh lên ánh sáng động lòng người của nàng ta.

Nàng ta nhẹ nhàng nhảy xuống đất, tay cầm thanh bảo kiếm sớm đã tuốt khỏi vỏ, tiếng hít thở vẫn đều đều, giống như là đang nằm ngủ trên giường vậy. Hai chân di chuyển như mèo, ghé sát vào tường, lỗ tai nhẹ nhàng rung động, cứ tựa sát vào tường mà tiến về phía trước.

Bên ngoài, có tiếng sột soạt khe khẽ, giống như là một con rắn bò trên bãi có điểm sương sớm, nhỏ vô cùng, e rằng phần lớn mọi người đều không chú ý tới dạng tiếng động nhỏ gần như là không có này.

Đi theo tiếng sột soạt một lúc, trong mắt Trúc Vận chợt lóe sáng, đột nhiên xuất kiếm nhanh như điện xẹt, "bộp" một tiếng, trường kiếm xuyên qua tường, cho tới tận chuôi kiếm dài ba tấc chạm tường thì mới dừng lại, bởi vì vận kiếm kỳ quái, cho nên chỉ phát ta một tiếng "bộp" rất khẽ.

Khóe miệng xinh đẹp của Trúc Vận hơi cong lên, lộ ra một nụ cười mỉa mai, thuận tay rút một cái khăn dắt ở hông ra, bọc lên chuôi kiếm, rút thật nhanh ra sau, không phát ra một chút thanh âm nào, dưới ánh đèn, trên mũi kiếm lờ mờ hiện ra vết máu, nàng ta ưỡn thẳng người lên như không có chuyện gì, dùng khăn lau kỹ mũi kiếm, vừa lau hai cái, lại nghe thấy bên ngoài vang lên tiếng "rầm" như có vật nặng gì đó rơi xuống, sau đó thì không còn tiếng gì nữa.

Trúc Vận lau kiếm đến sáng loáng, lại đưa kiếm lên mũi ngửi, thấy không còn mùi máu nữa thì mới giống như là u linh quay về giường nằm.

Trong phòng bếp, Chu bàn tử lè nhè hát một bài hát không có giai điệu gì cả, đang cọ rửa cái thùng tắm mà Dương Hạo vừa dùng xong. Phía sau không xa có một nồi nước nóng sôi sùng sục.

Chu bàn tử tên là Chu Trì Nghiệp, mặt vuông vức, thân hình tròn vo, dưới cằm có tới ba thớ thịt, lộ ra vẻ cực kỳ phúc hậu. Như bản thân hắn nói thì hắn vốn là một đầu bếp xuất sắc nhất trong Nhất Tiếu lâu, bởi vì thủ nghệ giỏi quá, thái úy lão gia không nỡ bỏ, cho nên thái úy lão gia lần này về Lô châu mở nha xây phủ, đặc biệt dẫn hắn theo.

Có điều thủ nghệ của hắn có thật là giỏi như vậy không thì người ngoài không biết được. Hắn chỉ chuyên nấu ăn cho thái úy đại nhân, người ngoài chỉ có thể chú ý thấy được là tên Chu đại trù (Chu đầu bếp) này cực kỳ sạch sẽ, không những rửa thức ăn rất sạch mà nồi niêu xoong chảo đều cọ rất sạch, trên người cũng không có mùi dầu mỡ như những đầu bếp bình thường khác.

Sau khi đun nước nóng cho thái úy đại nhân tắm rửa xong, hắn còn đặc biệt đun một nồi nước nóng cho mình, định tắm nước nóng một trận cho thoải mái.

Rầm rì hát mà so với lợn rống còn khó nghe hơn, Chu bàn tử bước tới cầm gáo vừa định múc một gáo nước nóng lên thì đột nhiên nghiêng đầu lắng nghe sau đó thì bước ra ngoài. Tuy nói rằng phòng bếp này không lớn, nhưng thân hình của Chu bàn tử béo như vậy, một bước thôi mà có thể bước ra được ngoài, thân hình nhẹ nhàng như một chiếc lá, trong tay hắn vẫn cầm cái gáo nước nóng, nước không ngờ lại không vãi ra ngoài tới một giọt nào.

Chu bàn tử nhìn xung quanh, ánh trăng lờ mờ, chỉ thấy bóng cây lắc lư, trong viện không có một người nào, Chu bàn tử cúi đầu nhìn nước sôi bốc hơi nóng lên mặt, đột nhiên quay người trở về phòng, cầm cái thùng gỗ lớn đủ để ba đứa trẻ tắm rửa lên, vừa khoái trí hát vừa đổ nước vào trong.

Chu đại bàn tử rất nhanh đã đổ đầy một bồn nước nóng, hắn cầm thùng gỗ lên bước ra khỏi phòng, trong viện một thảm cỏ nhẹ nhàng nhu động, phương hướng chính là phòng của Dương Hạo, Chu bàn tử vừa bước ra, mặt đất lại bình lặng như thường, không có nửa điểm động tĩnh gì. Chu đại bàn tử bê một bình nước đầy, nghiêng mặt né hơi nóng phả vào mặt, tới trong viện rồi róc rách đổ một bồn nước nóng xuống.

Thảm cỏ đột nhiên rung động, lập tức lại có một chút động tĩnh nào nữa, Chu bàn tử lắc lắc đầu, ba thớ thịt ở dưới cằm rung rinh, hắn lẩm bẩm than: "Nhẫn, quả nhiên có thể nhẫn, thật sự có thể nhẫn, bội phục, bội phục..."

Chu đại bàn tử thở ngắn than dài quay về phòng, thảm cỏ đó lặng yên không động, rất lâu sau, nhiệt khí ở bên trên đã hoàn toàn tiêu tan, thảm cỏ đột nhiên trồi lên, một bóng người chợt hiện ra, nhoáng một cái giống như linh viên nhảy ra ngoài tường viện, nhanh như tên rời cung, sau thời gian một chén trà, trên cánh đồng hoang vắng ngoài trấn Tạo Hóa, vang lên một tràng tiếng sói tru thê lương...

Điền Thôn Lương Phu điều chỉnh thể năng tới trạng thái tốt nhất, lặng lẽ tiến về căn phòng mà Dương Hạo đang ở.

Từ sau khi tới Trung Nguyên, hắn đã rất lâu rồi chưa tiến hành dạng huấn luyện thống khổ này, cảm giác mình hiện tại so với trạng thái đỉnh phong khi xưa thì còn lâu mới bằng, chân tay cũng không còn nhanh nhẹn nữa, nhưng hắn tự tin rằng với kỹ năng giết người được ma luyện từ nhỏ, muốn thần không biết quỷ không hay giết chết một người đang ngủ là chuyện hết sức dễ dàng.

Thân là hậu đại của một gia tộc nhẫn giả, hắn vừa sinh ra đời đã phải tiếp nhận một vận mệnh tàn khốc, hoặc là thành nhẫn giả, hoặc là phải chết, mà hắn hiện tại thì vẫn còn sống.

Hắn từ nhỏ đã luyện tập các loại kỹ xảo nghe trộm và giết người, thiện trường các loại binh khí như kiếm, câu, cùng với các loại ám khí như phi tiêu, có thể vượt nóc băng tường, chạy trên cát mà không lộ ra một chút thanh âm nào, có thể nín thở ở trong nước rất lâu, dùng dùng cụ đặc thù ngồi ở đáy nước một ngày một đêm, thậm chí còn nấp ở đáy thuyền, nghe trộn người ở trên thuyền đối thoại.

Thân là một nhẫn giả, hắn phải vượt qua rất nhiều sự rèn luyện khó khăn đối với tử vong, cô độc, bóng tối, thậm chí là đói rét, bệnh tật. Phải có lực lượng tinh thần và thể năng cường đại. Là một nhẫn giả, hắn từ nhỏ đã theo sư phụ tu hành mật pháp của Đông mật, mật pháp của Đông mật giống như Tàng mật và Tạp mật của Ấn Độ, là một chi của Phật giáo Mật tông, có tác dụng cường đại đối với ma luyện khổ hạnh và nhục thể. Thông qua tu luyện bí pháp của Đông mật, thể năng của hắn có thể đạt tới hạn độ lớn nhất, ý chí tinh thần cũng cứng rắn vô cùng.

Nhưng nỗ lực chịu khổ và vào sinh ra tử như vậy, sự hồi báo tương ứng lại quá nhỏ. Trong mắt cái đại danh, võ sĩ là gia thần, mà nhẫn giả chỉ là gia nô, bọn họ không chỉ phải chấp hành nhiệm vụ nguy hiểm nhất, thỉnh thoảng còn bởi vì tiếp cận với những điều cơ mật mà bị chủ nhân của mình giết người diệt khẩu. Cho dù lập được chiến công hiển hách, sự ban thưởng mà bọn họ nhận được cũng chỉ là được cùng với võ sĩ đi chấp hành nhiệm vụ.

Điền Thông Lượng Phu là một người rất có suy nghĩ, hắn không thể chịu đựng được loại đãi ngộ đó, nhưng lại biết dưới sự khống chế nghiêm ngặt, mang lòng phản kháng thì chỉ có một con đường chết, thế là thông qua sự chuẩn bị tinh thâm, hắn trong một lần đi chấp hành nhiệm vụ đã giả chết để thoát thân, vượt qua đại dương chạy tới trung thổ, hơn nữa trở thành một võ sĩ cấm quân có quân lương hậu hĩnh.

Hôm nay làm lại nghề cũ, hắn không có ngờ lại có chút cảm giác hưng phấn. Hắn lặng lẽ bò lên nóc phòng, bất giác nhíu mày, nóc phòng không được lợp là ngói mà là phủ cỏ, thế này có chút phiền phức, có điều vẫn không làm khó được hắn, trả qua sự tìm tòi mấy trăm năm của các nhẫn giả, bọn họ có thể ở các loại địa hình, kịp thời đưa ra những lựa chọn thỏa đáng nhất.

Trong ngực hắn có một bình độc dược, chỉ cần để hắn bò lên phía trên đối diện với giường của Dương Hạo, dùng một sợi tơ đổ độc dược vào miệng của Dương Hạo, có thể khiến Dương Hạo vô thanh vô tức chết đi trong giấc ngủ. Hắn ngồi xổm ở nóc phòng, quan sát tình hình một lúc, phòng ốc rất đơn sơ, hai bên nóc phòng lộ ra một xà nhã gỗ, từ móc một sợi dây thừng ở bên hông ra, đang định buộc lên xà nhà thì bên cạnh đột nhiên hiện ra một bàn tay lớn, nắm lấy dây thừng.

Điền Thôn Lương Phu kinh hãi đến vãi linh hồn, giật cùi trỏ một cái rồi ngã ra sau. Dưới cùi trỏ của hắn dấu một mũi dao sắc bén, bên trên cũng phết độc dược kiến huyết phong hầu, chỉ cần rạch một chút lên da. Nhưng cánh tay của hắn lại bị một bàn tay hữu lực nắm lấy, Điền Thôn Lương Phu chỉ cảm thấy cả cánh tay tê rần, nửa người lập tức không còn khí lực.

Người ở phía sau là dùng Hồng quyền, đây là một trong những loại quyền cổ xưa nhất của Trung Nguyên, Đường thủ bắt nguồn từ nó. Thái Tổ Hồng quyền của Triệu Khuông Dận cũng bắt nguồn từ nó, Đồ thủ võ đạo của Nhật Bản cũng bắt nguồn từ nó, biến hóa ngàn năm, khắc địch chế thắng mỗi cái đều có chỗ xảo diệu riêng, bộ võ công này tuy lấy kích đả làm chủ, nhưng phương diện cầm nã cũng có chỗ đặc sắc riêng, sắc bén mà có lực.

Lúc này tinh thần lực cường đại của Điền Thông Lương Phu đã phát huy tác dụng, cơ bắp bị chế trụ, thân hình theo bản năng sẽ mềm oặt vô lực, nhưng nửa người kia của hắn lại làm ra phản ứng, song người ở phía sau sớm đã có chuẩn bị, nhanh chóng vô cùng nhặt dây thừng lên, quấn ba vòng quay cổ hắn rồi lập tức tung người nhảy xuống đất, tay giật một cái, kéo cả hắn xuống cùng.

Thể trọng của nhẫn giả đều rất nhẹ, bình thường không thể vượt qua một trăm cân, thân hình một trăm cân của Điền Thôn Lương Phu ở trong tay người đó lại nhẹ như vô vật, trong thoáng chốc đã bị người đó hoàn toàn chế trụ, bị hắn kéo vào trong bóng đêm...

Một lát sau, quản gia Lý Khánh Phong xoa bụng cười tủm tỉm bước vào, giống như là vừa mới đi vệ sinh xong, mặt mày thoải mái, thân thể nhẹ nhõm...

...

Trời sáng rồi, Trúc Vận cô nương mỉm cười dứng ở trước cửa phòng Dương Hạo, tươi cười nói: "Chào lão gia, nghỉ ngơi có tốt không?"

Dương Hạo liếc nàng ta một cái, tựa cười mà như không phải cười, nói: "Tốt, chỉ là lúc đêm khuya có nghe thấy một chút động tĩnh dị thường, không biết là chuyện gì."

Trúc Vân thản nhiên như không, nói: "Ặc, chốn thôn quê, chắc là mèo bắt chuột ấy mà, nhà bếp đã chuẩn bị đồ ăn sáng rồi, lão gia muốn dùng một chút không?"

"Đương nhiên rồi, Công Tôn đại nhân và Vương tướng quân đã dậy chưa? Mời mọi người tới dùng chung đi."

Hắn duỗi hai tay, muốn đi lên hành lang gỗ, Trúc Vận đột nhiên bước lên một bước, nói: "Lão gia hay là đừng đi hành lang, hoàng lão gia tử đang câu cá ở đằng sau."

Hoàng lão gia tử tên là Hoàng Tân, là người quét vườn trong phủ của Dương Hạo,vừa hơn năm mươi tuổi, tóc hoa râm, nhưng tai không điếc, mắt không mờ, rất xứng với tên.

"Ặc?"

Dương Hạo chớp chớp mắt, hỏi: "Lão Hoàng câu bao lâu rồi?"

Trúc Vận thản nhiên nói: "Chẳng khoảng một đêm rồi?"

"Câu được cá chưa?"

"Cá vẫn ở dưới nước."

Dương Hạo thở dài một hơi, lẩm bẩm: "Con cá này... thực là khổ cực quá."

Trúc Vận nhịn cười, nói: "Lão gia nói phải."

Dương Hạo xoay người bước ra ngoài, khi đi qua Trúc Vận, đột nhiên đưa tay ra vỗ vai nàng ta, cười nói: "Ngươi cũng khổ cực rồi, nếu chưa ngủ thì trên đường đi ngủ cũng được."

Dương Hạo vừa đưa tay ra, Trúc Vận theo bản năng định né tránh, nhưng động tác của nàng ta tuy nhanh, song động tác của Dương Hạo còn nhanh hơn, một chưởng này vẫn vỗ lên vai của nàng ta, căn bản không né kịp, Trúc Vận mặt không khỏi cứng đờ.

Dương Hạo mỉm cười bước ra ngoài, thở dài: "Cứ đi tiếp như thế này, sợ rằng ta và ngươi đều ngày đêm đảo lộn, nghỉ ngơi vào ban ngày rồi."

Trúc Vận cô nương nhìn bóng lưng của hắn, mũi dọc dừa hừ khẽ một tiếng, hậm hực nói: "Đáng đời ngươi, có phúc mà không biết hưởng."

Nước sông ở gần bờ đối diện, trong đám bèo dày đặc bỗng dưng có một đoạn cỏ lau nhô lên, ở chỗ sâu trong bèo thỉnh thoảng lại nổi lên một chuỗi bọt nước rất nhỏ, giống như là một con cá bướng bỉnh đang phun bọt nước ở đó.

...

Tây lộ Hà Bắc, dưới chân núi Tán Hoàng, tinh kỳ phất phới, ba quân đóng tại chỗ. Ở trước viên môn dựng cờ trắng, trông rất thê lương.

Triệu Đức Chiêu vừa nhận được chiếu thư cải phong thành Ngô vương đang thu thập hành trang chuẩn bị khinh kỵ về Biện Lương chịu tang, thái phó Tông Giới Châu đột nhiên dẫn một người trẻ tuổi mặt mũi phờ phạc tiến vào trướng.

Triệu Đức Chiêu hai mắt sưng húp vừa nhìn thấy vội vàng nghênh đón: "Lão sư."

Tông Giới Châu gật đầu, nhìn xung quanh thấy trong trướng không có ai, liền nói: "Thiên tuế, người trẻ tuổi này từ trong cung tới, nói là có chuyện quan trọng muốn nói với ngài."

"Hả?"

Triệu Đức Chiêu nhìn người trẻ tuổi kiêu ngạo, cũng không bước lên thi lễ tham kiến này, thấy hắn tuy mặt mũi phong trần, nhưng vẻ mặt tuấn tú, là một thiếu niên đẹp trai oai hùng hiên ngang, không khỏi có chút kinh ngạc. Triệu Đức Chiêu quan sát hắn thêm một chút rồi hỏi: "Tráng sĩ từ trong cung tới ư? Không biết có chuyện gì mà muốn gặp bản vương vậy?"

Đôi mắt to trắng đen rõ ràng của mỹ thiếu niên đó liếc Tống Giới Châu một cái, Tông Giới Châu hiểu ý, cười nhạt nói: "Lão phu tránh đi một chút."

"Lão sư dừng bước." Triêu Đức Chiêu gọi một tiếng, nói với mỹ thiếu niên: "Tráng sĩ, đây là ân sư của bản vương, bất kể là chuyện như thế nào, đều không cần phải giấu ông ấy."

Mỹ thiếu niên đó nói: "Chuyện này quan hệ trọng đại, thậm chí quan hệ tới cả sự an nguy của thiên tuế, cũng có thể... để cho người ta nghe ư?"

Hắn vừa cất tiếng nói, không hề che giấu bản âm, giọng nói của hắn trong trẻo dễ nghe, không ngờ là một nữ tử. Triệu Đức Chiêu càng kinh ngạc, lại nói: "Đã là như vậy thì càng cần ân sư có mặt. Trong quân nếu nói chỉ có một người đáng tin, vậy cũng chỉ có ân sư của ta thôi, cho dù là chuyện có lớn thế nào đi chăng nữa cũng không cần phải giấu ông ấy."

Tông Giới Châu nghe vậy mặt liền lộ ra vẻ kích động, không khỏi hơi chắp tay với học sinh của mình.

"Tốt!" Nữ tử đó liếc Tông Giới Châu một cái, nói: "Ở đây có một phong thư, xin thiên tuế đọc thật kỹ, có bàn bạc với ai khác không là chuyện của thiên tuế." Nói xong liền cẩn thận rút một phong thư từ trong tay áo ra, dùng hai tay đưa lên.

Triệu Đức Chiêu nhìn một cái, nhận lấy bức thư, vừa nhìn thấy tính danh của người viết thư, mặt liền lộ ra vẻ kinh ngạc, vội vàng nói: "Tráng sĩ... mời cô nương ngồi, bản vương trước tiên đọc thư đã."

Triệu Đức Chiêu vội vàng mở bức thư ra, chỉ đọc được một nửa liền đứng bật dậy, tức giận gầm lên: "Không ngờ lại có chuyện này! Không ngờ lại có chuyện này!" Nói xong, hai hàng lệ nóng đã tí tách rơi xuống.

Tông Giới Châu tuy ở lại trong trướng, nhưng không tiện đọc thư, chỉ rót một chén trà cho Đinh Ngọc Lạc, ngồi ở bàn để đợi, mắt thấy Triệu Đức Chiêu kinh hãi như vậy, Tông Giới Châu vô cùng ngạc nhiên, nói: "Thiên tuế, lâm nguy mà không loạn, thấy biến mà không kinh hãi."

Triệu Đức Chiêu lệ lăn dài trên má, bi phẫn nói: "Lão sư, học sinh sao có thể thấy biến mà không kinh hãi được, phong thư này... phong thư này..."

Đinh Ngọc Lạc khịt mũi nói: "Thiên tuế đọc kỹ một chút xem đây có đúng là công chúa điện hạ tự mình viết không?"

Triệu Đức Chiêu nói: "Không thể sai được, bức thư này quả thật là bút tích của Vĩnh Khánh, trong thư để khiến ta tin, còn đặc biệt nhắc tới những chuyện thời nhỏ mà chỉ có hai huynh muội chúng ta biết."

Đinh Ngọc Lạc cười ha ha, nói: "Vậy thì tốt, trong kinh quả mẫu ấu đệ, đều ngóng trông ngài, thiên tuế nên sớm quyết định mới đúng, thiên tuế đường đường là một đáng nam như, khóc lóc sụt sùi như vậy, có ích lợi gì không?"

Triêu Đức Chiêu bị Đinh Ngọc Lạc nói cho phải xấu hổ, đưa thư cho Tông Giới Châu, nói: "Mời lão sư xem."

Tông Giới Châu do dự nhận lấy thư, Đinh Ngọc Lạc ở bên cạnh nói: "Bức thư này quan hệ trọng đại, nếu lão tiên sinh đọc qua rồi, là họa hay là phúc, là dữ hay là lành đều phải tự mình gánh chịu, thậm chí còn liên lụi tới cả người nhà nữa, ngài hãy nghĩ cho kỹ."

Tông Giới Châu nghe xong, nhướn mày tức giận nói: "lão phu nhận ủy thác của tiên đế, dạy dỗ hoàng trưởng tử, dù máu chảy đầu rơi cũng không tiếc, đã là như vậy, phong thư này lão phu không xem không được."

Tông Giới Châu mở thư ra, đọc được một nửa, sắc mặt trắng bệch, đoạn sau phần lớn là Vĩnh Khánh công chúa để khiến huynh trưởng của mình tin rằng đây là bút tích của mình, thuật lại một số chuyện nhà thời nhỏ, cùng với yêu cầu muốn hắn suất binh phục cừu. Tông Giới Châu không tiện đọc, hai tay ông ta từ từ rủ xuống, mặt mày trắng bệch, nói: "Tiên đế đột nhiên băng hà, lão thần vốn thấy kỳ lạ, nhưng ngàn vạn lần không ngờ... giờ... giờ nên làm gì đây?"

Triệu Đức Chiêu mặt đỏ như máu, phẫn nộ gầm lên: "Thù giết cha, không đội trời chung, ta... ta phải suất quân về kinh, giết vào Biện Lương, trừ tặc cho nước, báo thù cho cha, giết chết tên gian tặc tự lập làm vua đó."

Tông Giới Châu trấn tĩnh hơn, khuyên: "Thiên tuế chớ có lỗ mãng, hiện giờ Tấn vương đã đăng cơ rồi, danh phận đã định, thiên tuế nếu thống binh giết về kinh, phải ăn nói thế nào đây? Nêu không cẩn thận sẽ rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục, thiên thuế phải nghĩ cho kỹ."

Triệu Đức Chiêu phẫn nộ nói: "lão sư bảo cô nghĩ kỹ thế nào đây? Thù giết cha, thân là phận con, có thể giả vờ như không biết được ư?"

Đinh Ngọc Lạc nhìn Tông Giới Châu với ánh mắt tán thưởng, nói: "Thiên tuế, thái phó nói rất có đạo lý, thiên tuế muốn báo thù cha, trừ quốc tặc, cũng phải bàn tính một phen, suy nghĩ kỹ càng mới được, đại sự như vậy, làm sao mà tùy tiện được."

Tông Giới Châu nói: "Cô nương là phụng lệnh của Dương thái úy mà tới ư? Không biết Dương thái úy có chủ trương gì?"

Đinh Ngọc Lạc nói: "Phản ứng của thiên tuế cũng nằm trong ý liệu của thái úy. Thái úy đại nhân khi sai ta tới đưa thư, từng dặn đi dặn lại, Tấn vương vừa đăng cơ, đế vị chư ổn định, nếu chư quân bắc phạt chịu đi theo thiên tuế, thiên tuế lấy thân phận hoàng trưởng tử, đem việc ác của Tấn vương tuyên cáo với thiên hạ, vị tất đã không có sức tranh đua.

Lúc đó, chỉ cần công bố ý chỉ của nương nương, các lộ binh mã, quan viên mười phần có chín phần là án binh bất động, không cần vương (giúp vua), cũng không tương trợ hoàng trưởng tử, mà cứ đợi xem tình hình, đó cũng là chuyện thường tình, không thể cưỡng cầu được. Binh lính mà thiên tuế có thể dùng chính là đại quân bắc phạt tinh nhuệ, còn binh mà Tấn vương có thể dùng là cấm quân lưu thủ Biện Lương, thái úy còn có thể nhờ Tây Bắc chư phiên trợ lực cho thiên tuế."

Đinh Ngọc Lạc còn chưa nói xong, Triệu Đức Vương đã hoan hỉ nói: "Thái úy đúng là trung lương của nước nhà, như vậy, đại sự có thể thành công rồi."

Tông Giới Châu trợn mắt nhìn ái đồ một cái, chán nản lắc lắc đầu, quay sang Đinh Ngọc Lạc, nói: "Cô nương, ý của thái úy là quan trọng là thiên tuế có thể điều động được chư quân bắc phạt hay không."

"Không sai!"

Đinh Ngọc Lạc nói: "Thiêu tuế lần đầu lĩnh binh, dưới loại tình hình này, có thể chỉ huy được ba quân hay không thì khó mà liệu trước được. Thái úy nói, nếu thiên tuế tùy tiện nói chân tướng cho chư tướng biết, mà chư tướng không chịu mạo hiểm đi theo, thì sự cơ đã bại, thiên tuế sẽ không còn sinh lộ chứ đừng nói gì đến tạm thời ẩn nhẫn, chờ đợi thời cơ."

Tông Giới Châu nói: "Tất nhiên là vậy, nhưng... thiên tuế nếu không nói rõ chân tướng, làm thế nào mà thử được tâm ý của chư tướng?"

Đinh Ngọc Lạc cười nhạt một cái, nói: "Đây chính là vấn đề mà thiên tuế phải giải quyết, dân nữ... chỉ ở đây đợi hồi âm thôi!"

Chương 405:Lương cầm. 

Trời tháng năm, cũng không tính là quá nóng, đặc biệt là đóng quân dưới chân núi.

Nhưng khi Ngô vương Triệu Đức Chiêu đột nhiên xuất hiện ở trong đại trướng của Đảng Tiến, vẫn thấy vị Đảng thái úy này mặc áo ngắn, để mình trần, bộ ngực săn chắc lộ ra lông ngực đen bóng, giống như là một con cọp gặp nguy, đang đi loanh quanh trong trướng.

Vừa thấy Triệu Đức Chiêu, Đảng Tiến không khỏi ngây người, vội vàng bước lên trước, chắp tay thi lễ, nói: "Đảng Tiến bái kiến thiên tuế, thiên tuế muốn tới sao không sai người nói một tiếng, lão Đảng ăn mặc như vậy, khó tránh khỏi thất lễ."

Triệu Đức Chiêu vội vàng nói: "Tướng quân trung dũng kiêu mãnh, tính tình thô hào, trước giờ vốn đã như vậy, cô sao lại chê bai được."

Đảng Tiến liên tục vâng dạ, mời Triệu Đức Chiêu thượng tọa, lại gân cổ lên, gọi lão binh đang nằm trong góc trướng ngủ gật dậy, bảo hắn đi đun trà cho Triệu Đức Chiêu, lúc này mới hỏi: "Thiên tuế ngày mai phải về kinh rồi. Lúc đó, lão Đảng sẽ tự phải dãn chúng tướng đi tiễn thiên tuế, lão Đảng đang nghĩ, một lát nữa sẽ tới gặp thiên tuế trước, trong doanh có an bài gì thì xin thiên tuế dặn dò, không ngờ thiên tuế lại hạ cố tới đây, xin hỏi thiên tuế, ngài cần dặn dò chúng tướng điều gì?"

Triệu Đức Chiêu than khẽ một tiếng, buồn bã nói: "Lần này chinh phạt Hán quốc, phụ hoàng muốn nhất định phải giành cho được, cô và tướng quân màn trời chiếu đất, đi gấp mà đến, vốn cho rằng Hán quốc chỉ nhấc tay một cái là có, không ngờ... phụ hoàng đột nhiên lại băng hà, cưỡi rồng lên trời..."

Đảng Tiến nghe vậy, trong đôi mắt hổ cũng không khỏi lấp lánh lệ quang, khuyên nhủ: "Lão Đảng cũng không ngờ, quan gia thân thể long tinh hổ mãnh, ngồi trên ngai vàng ba mươi năm nữa cũng không có gì là lạ, không ngờ... trời có gió mây bất ngờ, thiên tuế xin cố nén bi ai."

Triệu Đức Chiêu rơi lệ, buồn bã nói: "Phụ hoàng lúc còn sống, tận sức nhất thống Trung Nguyên, tương lai thu hồi U Yến, nhất thống giang sơn Hán thất, để thiên hạ trở thành thế giới yên bình. U Yến hiện tại nằm trong tay người Khiết Đan, nếu không chuẩn bị đầy đủ, khó mà giành lại được. Nhưng Hán quốc nho nhỏ, búng tay một cái là diệt được, thực sự không đáng để suy nghĩ. Hiện giờ Khiết Đan nội ưu ngoại hoạn, không có sức để giúp đỡ, đây là thời cơ tốt mà trời ban cho, một khi để lỡ, không biết còn có biến hóa gì."

Hắn ngẩng đầu lên, nhìn Đảng Tiến với ánh mắt tha thiết, xúc động nói: "Cô nghĩ đi nghĩ lại, có lòng hoàn thành di chí của phụ hoàng, tiếp tục xuất binh, bình định Hán quốc rồi mới về kinh chịu tang, mang thắng lợi này để thắp nhang báo cho phụ hoàng ở trên trời, để an ủi vong phụ, không biết tướng quân thây ssao?"

Đảng Tiến biến sắc, trầm ngâm nói: "Sợ là làm trái ý của quan gia."

Triệu Đức Chiêu nói: "Thời cơ chỉ chợt hiện lên rồi vụt tắt."

Đảng Tiến do đự nói: "Cái này..."

Triệu Đức Chiêu vội vàng nói: "Đây chính là di chí của phụ hoàng, cũng là Tống quốc chinh chiến thiên hạ, một đại công cuối cùng để diệt quốc mở đất, cơ hội hiếm có đó. Cô tuổi trẻ nông cạn, muốn hoàn thành di chí của tiên đế, lại sợ trái với thánh ý, rốt cuộc nên làm thế nào, trong lòng không thể quyết định được, cho nên mới tìm tới lão tướng quân, xin Đảng thúc thúc ra một chủ ý cho chất nhi."

Đảng Tiến vội vàng rời khỏi chỗ tạ ơn nói: "Thiên tuế khách khí rồi, lão Đảng thực sự không đáng để thiên tuế xưng hô như vậy. Chuyện này quá trọng đại, một mình Đảng Tiến không thể quyết định được, thiên tuế hãy để cho lão Đảng suy nghĩ thật kỹ, thương nghị với các vị thương quân đã."

"Tốt, vậy... vậy cô đợi quyết định của các vị tướng quân."

Triệu Đức Chiêu đứng dậy chắp tay, lại nói: "Lúc tiên hoàng còn sống, thường nói tướng quân lòng son dạ sắt, thẳng thắn bộc trực, là người đáng để tin tưởng nhất. Hiện giờ cơ hội hiếm có, chính là cái gọi là tướng ở bên ngoài, quân mệnh có thể không tuân. Huống chi, chúng ta hiện giờ gần Hán quốc như vậy, cách Biện Lương lại xa, Hán quốc không kham nổi một kích, đại công chỉ xòe tay ra là có. Một khi lấy được Hán quốc rồi, cho dù là lấy công đỡ tội, quan gia cũng sẽ không trách đâu, xin tướng quân hãy nghĩ cho kỹ. Cô xin đợi hồi âm của tướng quân."

Kế này là thái phó Tông Giới Châu nghĩ ra, nguyên nhân cái chết của tiên đế, trước khi chưa xác định được tâm ý của chư tướng, không thể dễ dàng nói ra, nếu không trước tiên đã cắt đứt hết đường lui của mình rồi, một khi chư tướng không chịu nghe theo, vậy thì trừ tự tận ra sẽ không còn con đường thứ hai.

Hiện giờ lấy di mệnh của tiên hoàng ra để bức bách, lấy công diệt nước mở đất ra để dụ dỗ, lấy tướng ở bên ngoài quân mệnh không cần phải tuân ra để khuyên nhủ, nếu chúng tướng có ý kháng chỉ tiến quân, vậy thì tiếp theo tất nhiên có thể tiếp tục kháng chỉ. Cho dù bọn họ chịu tiến binh mà không chịu tạo phản, chỉ cần bọn họ chống lại nghiêm chỉ của tiên đế, dẫn bọn họ rời khỏi nơi đóng quân, cũng có thể tuyên cáo là chư tướng đã phản với bên ngoài, nói thẳng chân tướng tiên đế bị giết với bên trong, dùng đại nghĩa là sự thực đã thành để bức ép bọn họ, bọn họ không thể không phản.

Mà hiện giờ Triệu Đức Chiêu ngôn từ thắm thiết, đẩy vấn đề vào trong tay Đảng Tiến, hắn cũng biết chư quân bắc phạt mỗi người có thuộc cấp riêng, Đảng Tiến tuy quyền uy cao nhất, bảo hắn tùy tiện quyết đoán, hắn cũng tất nhiên có cố kỵ, cùng với mấy chủ tướng thương một phen là phản ứng tất nhiên của hắn, cho nên chỉ có thể quay về chờ đợi, không dám lộ ra bộ dạng nôn nóng.

Sau khi Triệu Đức Chiêu đi, Đảng Tiến quay người lại sau cùng vỗ đùi quát: "Người đâu, gọi Phan Mỹ tới gặp ta."

Một lát sau, Phan Mỹ một thân nhung trang, nghiêm chỉnh bước vào trong soái trướng của Đảng Tiến, ôm quyền nói: "Phan Mỹ bái kiến Đảng soái, Đảng soái..."

Hắn ngẩng đầu lên, lại thấy Đảng Tiến để chân trần, mặc áo ngắn ngang vai, khoanh chân ngồi trên giường, giống như là một lão nông, phất tay với hắn: "Được rồi, được rồi, không phải là thăng trướng điểm tướng, ngươi mặc khôi giáp làm cái gì, ngồi xuống, ngồi xuống."

Phan Mỹ mỉm cười, bước ngồi cạnh Đảng Tiến, hỏi: "Thái úy triệu ta tới đây làm gì?"

Đảng Tiến thở dài, nói: "Hỏi ý kiến, lão Đảng trong lòng có một đại sự không quyết định được, cho nên muốn thương lượng với ngươi một phen, tiểu tử ngươi nhiều mưu kế, nghĩ chu toàn, chuyện này, hai chúng ta cùng nhau hoạch kế."

Đảng Tiến thuật lại những lời của Triệu Đức Chiêu cho hắn, Phan Mỹ nghe thấy liền trầm giọng nói: "Nếu theo lời của Ngô vương, dù thắng thì hậu hoạn cũng vô cùng."

Đảng Tiến gật đầu nói: "Cái này... lão Đảng biết."

Phan Mỹ có chút kinh ngạc nhìn Đảng Tiến, Đảng Tiến cụp mắt xuống, không nhìn thẳng vào hắn, chỉ chậm rãi nói: "Thiên tuế tuy là hoàng tử giám quân, nhưng lại không biết binh, hơn nữa tính tình khiêm tốn, hôm nay đột nhiên có chí nguyện to lớn như vậy, muốn kháng chỉ phạt Hán..."

Hắn nói tới đây thì ngừng lại, rồi lại thở dài: "Từ ngày rời kinh, tiên đế tự mình tiễn chúng ta qua cửa Vạn Thắng, uống cạn ba chén rượu tiễn đưa, tiên đế một thân võ nghệ, long thể cường tráng, so với lão Đảng ta thì thân thể còn cường tráng hơn ba phần, không ngờ lại gặp bạo bệnh, thế sự thần sự khó lường, Ngô vương thương xót, muốn lập công lao bất thể để an ủi vong linh của tiên đế, tâm tư này cũng xuất phát từ lòng hiếu thảo..."

Hắn vừa nói vừa lén lút nhìn Phan Mỹ, tuy chức quan của hắn cao hơn Phan Mỹ, hơn nữa rất được Triệu Khuông Dận sủng ái, nhưng trong quân so với văn quan càng chú trọng phái hệ xuất thân hơn, thật thà mà luận, Phan Mỹ mới là đích hệ, còn hắn chỉ là hạng tạp nham.

Hắn vốn là thị tòng của quân quốc trọng thần Đỗ Trọng Uy triều Tấn, sau khi Đỗ Trọng Uy bị giết thì lưu lạc vùng Trung Nguyên, đầu nhập quân ngũ, rất nhanh dựa vào chiến công mà được thăng làm tán chỉ huy sứ của triều Chu, vệ sau lại tích công tới thiết kỵ đô ngu hầu, sau khi Triệu Khuông Dận được thiên hạ, hắn lại thăng quan tới bản quân đô giáo, lĩnh khâm châu thứ sử, dần dần làm quan tới trung tâm.

Mà Phan Mỹ và Triệu Khuông Dận, trước khi Triệu Khuông Dận chưa xưng đế có giao tình thâm hậu, hơn nữa việc ủng hộ lập Triệu Khuông Dận, hắn cũng là một trong những người tham dự, là khai quốc công thần của Đại Tống, có công theo rồng, mấy năm nay chiến công hiển hách, thanh danh càng nhất thời vang dội, luận thân sơ giảng phái hệ, lão Đảng hắn thủy chung vẫn kém một bậc, đại sự như vậy, tất nhiên là xem tâm ý của Phan Mỹ.

Phan Mỹ sắc mặt hơi biến đổi, khi ngẩng đầu lên nhìn Đảng Tiến thì thấy Đảng Tiến vẻ mặt tự nhiên, giống như là đang cảm động thật vậy.

Phan Mỹ cúi đầu xuống, trên mặt âm tình bất định. Ngày, hắn là bộ tướng của Thế Tông Sài Vinh, lúc Sài Vinh còn, thề chết bảo vệ, khi Sài Vinh chết lại hiệu trung với Triệu Khuông Dận soán vị tự lập. Vì sao? Dẫu không bởi vì sinh linh thiên hạ, chỉ vì nghĩ cho mình, thì người mà hắn phải bảo vệ cũng nên là một vị minh chủ. Đúng như cái gọi là chim khôn chọn cành mà đậu, chẳng lẽ lại khởi binh giết Triệu Khuông Dận, đưa một đứa nhỏ bảy tuổi không hiểu thế sự lên làm vua?

Triệu Khuông Dận nếu còn, dù phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng vì ông ta, Phan Mỹ cũng tuyệt không nhíu mày, song bất kể là nguyên nhân như thế nào, Triệu quan gia dẫu sao cũng đã đi rồi, giữa Triệu Quang Nghĩa và Triệu Đức Chiêu, nên chọn ai đây? Triệu Quang Nghĩa cho dù bất kham nhưng Triệu Đức Chiêu văn thành võ đức, ở phương diện nào có thể phục chúng đây? Huống chi Triệu Đức Chiêu không phải là Triệu Khuông Dận, quân tâm hiện tại, so với đại quân ở Trần kiều ngày trước thì thế nào?

Suy nghĩ một hồi lâu, Phan Mỹ cuối cùng cũng thở dài nói: "Tiên đế đã đi rồi, chỉ lưu lại một tòa giang sơn khổng lồ để hậu nhân lo liệu. Ngày trước Trần kiều binh biến, khoác áo bào lên người, kể ra... kim thượng..., ài, nháy mắt đã qua hơn chục năm trời rồi, ngày trước còn là thiếu niên khí phách hào hùng, giờ cũng đã đầu hai thứ tóc."

Hắn nói một cách hàm hồ, giống như là đang nhớ lại chuyện xưa, thở khẽ một tiếng, đột nhiên nói với Đảng Tiến: "Thiên hạ... vừa mới thái bình, nhân tâm mới yên. Tiên đế hùng tài đại lược, không ai sánh bằng, thái uy cho rằng kim thượng thế nào?"

Đảng Tiến trầm ngâm một lúc, nói: "Kim thượng trị quốc cầm quyền, trừ tiên đế ra, e rằng không còn ai sánh bằng..."

Phan Mỹ nói: "Đã là như vậy, cớ gì phải lo lắng Hán quốc ở trong tay kim thượng không thể diệt được? Trong lúc quốc tang, kim thượng đã hạ nghiêm chỉ, các quân đóng trại tại chỗ, không được điều động một binh một tốt, ai trái lệnh luận tội mưu phản. Huống chi, lương thảo đã bị cắt rồi, chỉ do địa phương cung ứng mỗi ngày, lương thảo bị cắt, Hán quốc tuy yếu, nhưng dẫu sao cũng là một quốc gia, làm sao mà tùy tiện xuất binh được?"

Hắn hơi ngừng lại, hai mắt híp lại, nói: "Còn nữa, Hổ tiệp hữu sương đô chỉ huy sứ Dương Quang nghĩa là trung quân đô ngu hậu, hắn và kim thượng giao tình thâm hậu, thái úy nếu kháng chỉ, Dương tướng quân há lại không có dị nghị?Lại có Hà Đông hãn, đại đẳng châu hành doanh mã bộ quân đô giám Quách Tiến, vốn là chư hầu một phương, không có giao tình với thái úy, thái uy cho dù vì hoàn thành di chí của tiên đế mà kháng chỉ, bộ quân của Quách Tiến khẳng định sẽ không chịu theo.

Lộ quân của Diêm Ngạn Tiến cũng còn có thể, lộ quân của Hô Duyên Tán… có lẽ không có trở ngại, hai lộ quân của Tôn Yên Tuyên và Tề Duyên Sâm cũng chỉ là đứng giữa có thể và không thể, đây vẫn chỉ là chư tướng trong quân, cho dù là bản bộ binh mã của thái úy, một khi biết rằng lần này bắc phạt là kháng chỉ mà làm, không những không có công mà hơn nữa còn có tội, tất nhiên quân tâm oán thán, chưa biết Hán quốc có dễ diệt hay không, tới lúc đó khí thế hùng hổ mà đi, một khi thất bại, nói không chừng sẽ phản lại chúng ta đó."

Phan Mỹ lạnh lùng phân tích một cách khách quan, Đảng Tiến càng nghe càng lạnh người, cuối cùng thở dài một hơi, nói: "Nhưng... nên ăn nói thế nào với Ngô vương đây?"

Ngô vương dẫu sao cũng là trưởng tử của tiên đế, chuyện của hoàng gia khó ai mà dự liệu được, chỉ có trời mới biết hắn có ngày ngẩng mặt lên hay không, vô cớ đắc tội với một hoàng tử, chung quy cũng không phải là một chuyện hay.

Phan Mỹ trầm mặc một lát, chậm rãi nói: "Vậy mời Ngô vương thương nghị với các tướng... có gì cũng không trách chúng ta được."

Đảng Tiến gật đầu.

Dương Hạo đã yên ổn tới huyện Giáng.

Lại là lúc chạng vạng, Vương Bảo Tài và Công Tôn Khánh ngồi ở trong nhà, ngồi đối diện với nhau, một hồi lâu không nói gì, thậm chí còn có chút muốn khóc.

Dương Hạo vào sáng sớm ngày hôm sau ở trấn Tạo Hóa khởi hành mới đột nhiên chỉ định lộ tuyến, hắn là sứ tướng đương triều, muốn đi đường nào thì Công Tôn Khánh và Vương Bảo Tài tất nhiên là không dám xen vào, thế là chỉ đành tuân lệnh. Buổi trưa tới một trấn nhỏ, Dương Hạo thấy mọi người đi đường mệt mỏi, liền ra lệnh lấy mỹ tửu mà vị Vu viên ngoại tặng ra, mời mọi người thưởng thức.

May mà quản gia vô cùng cảnh giác, ra lệnh cho người trước tiên thử rượu trước, Trúc Vận cô nương cầm một cây ngân trâm cắm vào, lập tức biến thành màu đen, dọa cho mọi người thầm kêu may mắn. Dương Hạo vừa kinh hãi lại vừa phẫn nộ sai người cẩn thân mở cây dù đó ra, bên trong không ngờ lại bắn ra độc châm, thế là Dương Hạo nhìn thảo mộc cũng ngỡ là binh, trên đường đi, xe thường đổi liên tục, mỗi lần ngồi đều để người nhà thân tín lên kiểm tra kỹ càng trước, thực vật chỉ dùng đồ mà đầu bếp của mình làm ra, tuyệt không qua tay người thứ ba.

Đối với việc này, ban đầu Công Tôn Khánh còn mang theo ý châm chọc nói với Vương Bảo Tài rằng hắn mới được thăng chức, cũng biết tiếc mạng, nhưng rất nhanh hắn liền không cười được nữa. Cũng không hiểu Dương Hạo ở đâu ra mà đắc tội với nhiều người như vậy, trên đường đi không thể trách hắn quá cẩn thận được, đầu độc, hành thích, bố trí mai phục, liên tục không ngớt. Dương Hạo còn chưa chết nhưng thủ hạ của Vương Bảo Tài thì lại chết rất nhiều.

Ngươi đã bao giờ thấy người mang lòng ám sát người khác lại cả ngày bị người ta giết, mà người mà bọn họ chuẩn bị hành thích lại vẫn sống sờ sờ giữa bọn họ, nhận được sự bảo hộ của bọn họ chưa?

"Không thể... cứ thế này mãi được!"

Công Tôn đại nhân đau lòng nói.

Vương Bảo Tài lập tức gật đầu, lập tức mặt ủ mày chau nói: "Nhưng... hắn hiện tại cảnh giác như vậy, làm sao mà hạ thủ?"

Công Tôn Khánh trừng mắt lườm hắn một cái, tức giận nói: "Ngươi không phải nói rằng bộ hạ của người đều là những thích khách xuất sắc nhất hay sao, có thể khiến hắn chết trong lúc đang ngủ cơ mà? Vì sao hắn hiện tại vẫn sống khỏe mạnh?"

Vương Bảo Tài ủy khuất nói: "Đại nhân, ta là một võ sĩ, không phải là nhẫn giả, nhưng ta biết, tuy bọn họ được coi là cực kỳ thần kỳ, nhưng kỳ thực không phải là vạn năng. Dương Hạo này mỗi ngày hành tung bất định, dừng lại ở một địa phương tuyệt không quá một đêm, người bên cạnh hắn lại..."

"Được rồi, được rồi..."

Công Tôn Khánh bực bội nói: "Ta là một văn nhân tay trói gà không chặt, loại chuyện hành thích này, ngươi phải phụ trách hoàn toàn, nếu vẫn không hoàn thành được sứ mệnh, phải gánh hậu quả gì thì ngươi tự biết rồi, hiện tại ngươi nói xem nên làm thế nào?"

Vương Bảo Tài nghiến răng nghiến lợi nói: "Nhẫn giả, thiện trường các loại các dạng ám sát. Không chỉ là ám sát, còn có minh sát. Hiện tại Dương Hạo vô cùng cảnh giác, hắn ngồi trong xe ngựa nghi trượng thì không phóng ám khí vào được, thích khách sát thủ lại không tiếp cận được hắn. Vậy... biện pháp tốt nhất.... chỉ còn lại một thôi."

Công Tôn Khánh rướn người lên trước, vội vàng hỏi: "Biện pháp gì!"

Vương Bảo Tài gằn từng chữ, nói: "Mỹ... nhân... kế!" 

Chương 406: Mỹ nhân kế.

Công Tôn Khánh kinh ngạc nói: "Mỹ nhân kế?"

Vương Bảo Tài cười âm hiểm: "Không sai, mạt tướng lúc trước khi còn ở Nhật Bản, vị chủ công do mạt tướng bảo vệ cùng với mấy đại danh ở xung quanh thường chiến tranh không ngừng, lúc đó dưới trướng chủ công có hơn bốn mươi võ sĩ, cũng tính là chư hầu khá cường đại, nhưng...

Công Tôn Khánh cơ không hồ tin vào tai mình, thất thanh nói: "Ngươi nói bao nhiêu võ sĩ?"

"Hơn bốn mươi."

Công Tôn Khánh nghĩ ngợi một lát bỗng dưng nói: "Ặc, hơn bốn mươi tướng lĩnh ư? Quả thật cũng tính là hùng bá một phương rồi."

Vương Bảo Tài lắc đầu, nói: "Không phải, là hơn bốn mươi võ sĩ, ặc... cũng chính là chiến sĩ."

Công Tôn Khánh sờ sờ mũi, không nói gì nữa.

Vương Bảo Tài cười khan, nói: "Chỗ chúng ta, hiện giờ không thể so với trung thổ được... khu vực đó, đại danh cường đại nhất cũng chỉ có hơn sáu mươi bộ hạ.

Công Tôn Khánh trợn mắt lên, thầm nghĩ: ": "Đại danh cái rắm, ở chỗ chúng ta, thế được coi là thổ phí, mà còn là hạng yếu trong thổ phi."

Hắn không biết lúc đó ở Nhật Bản, một dại danh dưới trướng có mấy chục võ sĩ, quả thật đã đạt tới cực hạn mà tài lực của hắn có thể nuôi dưỡng được rồi, cho dù là sáu năm mươi năm, ở đó có chiến tranh quy mô lớn, vũ lực mà hai đại danh điều động cũng chẳng qua là trên dưới một ngàn. Song hắn chỉ là một thư sinh, cho nên mới từ con số mà đưa ra suy đoán đơn giản, không biết được hơn sáu trăm năm sau, khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích khởi binh, cũng chẳng qua là binh không tới một trăm, giáp gần ba mươi bộ, nhưng sau cùng vẫn lập được công lao hiển hách.

Vương Bảo Tài nói: "Chủ công nhà ta muốn khoách trương vũ lực, nhưng tài lực lại có hạn, lúc đó, ở gần nhà có một tự miếu cực lớn, hương hỏa nghi ngút, vô cùng giàu có. Chủ công nhà ta liền có chú ý với tòa miếu đó, nhưng tên chủ trì đó giấu tài bào vô cùng kín đáo, hòa thượng ở chỗ chúng ta lại được người ta rất tôn trọng, gia chủ nhà ta không tiện cường hành bắt chẹt, thế là liền nghĩ ra một kế, phái một nhẫn giả, nhẫn giả này tuổi trẻ đẹp trai, hát hay múa giỏi, hắn giả vờ là một thị đồng xin vào chùa, rất nhanh liền thành nam sủng mà các tăng lữ ở thượng vị yêu thích, nhao nhao muốn hắn thị tẩm, thế là hắn lợi dụng cơ hội chính phó chủ trì tranh giành tính nhân với nhau, tìm được nơi giấu tài phú, kết quả thần không biết quỷ không hay... hắc hắc hắc...."

Công Tôn Khánh vừa nghe xong, lập tức thấy ghê tởm, hắn phẫn nộ quát: "Đúng là ngu hết thuốc chữa, ngươi nhìn Dương Hạo, giống như là một kẻ thích nam nhân à?"

Vương Bảo Tài ngượng ngùng nói: "Mạt tướng chỉ là muốn nói, dùng vũ lực rất khó mà hoàn thành được chuyện này, có lúc dùng sắc lại dễ dàng đạt được mục đích hơn."

Công Tôn Khánh nói: "Nhưng... trong lúc vội vã, đi đâu mà tìm một nữ thích khách đây, lại còn phải trẻ tuổi xinh đẹp nữa?"

Mắt hắn đảo lia lịa, lại nói: "Thị tỳ Trúc Vận ở bên cạnh Dương Hạo đó, chính là một nữ tử xinh đẹp bất tục, nếu muốn đả động được hắn, nữ thích khách này ít nhất thì cũng phải xinh đẹp hơn Trúc Vận mấy phần thì mới được."

Vương Bảo Tài nói: "Ở cố quốc của ta, dạng nhẫn giả này có rất nhiều, nhưng trong lúc cấp bách, mạt tướng cũng không thể tìm được một nhân tuyển thích hợp, có điều... chúng ta có thể biến báo một chút, hắc hắc hắc...."

Công Tôn Khánh trầm ngâm nói: "Cũng được, có thể giải quyết hắn mà không khiến người ta hoài nghi, đó là tốt nhất, còn phương pháp ám sát cụ thể thì do ngươi phụ trách, ngươi cứ mặc sức mà làm. Có điều, ta nhắc nhở ngươi trước, Dương Hạo rất nhanh sẽ rời khỏi địa phương mà chúng ta có thể khống chế rồi, một khi tiến vào phạm vi thế lực của tây bắc, vậy thì càng khó hạ thủ. Nếu lần này hành thích không thành...

Lông mày của hắn nheo lại, sát khí đằng đằng nói: "Vậy thì xuất thủ trên đường, giải quyết toàn bộ chúng đi, chỉ có điều như vậy, cũng phải dùng thuốc mà đầu độc hết những bộ hạ của ngươi, tuyệt không thể lưu lại một người sống nào."

Vương Bảo Tài lập tức nói: "Mạt tướng hiểu rồi."

Trong phòng của Dương Hạo, Lý Khánh Phong và Dương Hạo ngồi đối diện nhau, Trúc Vận cô nương thì ngoan ngoãn ngồi ở gian ngoài, trong tay không ngờ lại đang thêu khăn hồng, nhìn bộ dạng nhàn nhã của nàng ta, thực sự khó khiến người ta tin được nàng ta là một nữ anh hùng giết người không chớp mắt. Nàng ta cúi đầu thêu hoa, đôi tai thì cảnh giác nghe ngóng động tĩnh bốn phía.

Danh tự ban đầu của nhẫn thuật vốn chính là thuật ẩn thân, bộ hạ của Vương Bảo Tài tuy không phải đều xuất thân từ nhẫn giả, nhưng bên trong không thiếu năng nhân dị sĩ giỏi tiềm phục ẩn tung, nàng ta tự nhiên là không dám lơ là.

"Thái úy, ngày mai chúng ta tới thành Giang châu rồi, đi thêm nữa là vào phạm vi thế lực của Phủ châu, ta thấy bọn chúng đã quẫn bách, có ý trắng trợn ra tay rồi. Để phòng vạn nhất, chúng ta phải tiên hạ thủ vi cường."

Dương Hạo cười ha ha: "Ngươi định hạ thủ ở Giang châu ư?"

Lý Khánh Phong cười ha ha, nói: "Chuyện trọng đại như thích sát thái úy đương triều, tin rằng người nhận được mệnh lệnh sẽ không quá nhiều, từ tình hình của đoạn thời gian này cho thấy, chắc chỉ có Công Tôn Khánh và Vương Bảo Tài hai người này biết, nếu hai người này bị khống chế, những người khác không đáng để lo lắng."

Dương Hạo gật đầu, nói: "Bọn họ là tuyên chỉ sứ, không thể giết được, ta dẫu sao cũng không thể tự mình quay về Lô châu rồi hướng tới tri phủ hiện nhiệm Trương Kế Tổ mà truyền đạt ý chỉ được?"

Lý Khánh Phong mỉm cười, nói: "Được, vậy thì giải quyết Vương Bảo Tài đi, khống chế Công Tôn Thắng, đợi khi chúng ta tiến vào tây bắc rồi, bọn chúng chẳng dở được trò gì nữa đâu."

Dương Hạo ừ một tiếng, lại có chút không yên tâm, nói: "Đám người các ngươi đều đã để chúng thấy mặt, trước mắt bao người có tiện động thủ không?"

Lý Khánh Phong cười nói: "Thái úy yên tâm, chúng tôi ở trong bóng tối còn có nhân thủ."

Dương Hạo nói: "Cái này ta biết, nếu không thì trên đường, người “hành thích” bản quan từ đâu mà có? Chỉ là... vừa vào Giáng châu, quan lại địa phương của Giáng châu tất sẽ tới nghênh đón, người của các ngươi có cơ hội tiếp cận bọn chúng không?"

Ký Khánh Phong vẫn cười cười: "Nếu là ở nơi khác, chưa chắc đã có cơ hội, nhưng nếu ở Giáng châu thì không có vấn đề."

Dương Hạo nhìn vẻ mặt của hắn, đột nhiên nhớ tới Lý Thính Phong làm quan ở Đường quốc, thành Giáng châu này ở khu vực giao giới giữa tây bắc và Trung Nguyên, là địa phương quan trọng để trao đổi tin tức, đoán rằng trong quan phủ đương địa ắt đã bị người của bọn họ trà trộn vào, cho nên cũng không hỏi nhiều, chỉ nói: "Như vậy rất tốt, tất cả nhờ Lý huynh an bài."

Giang châu bắc dựa vào núi Lữ Lương, nam kề dãy Nga Mi, lịch sử lâu đời, thời kỳ Xuân Thu từng là đô thành của nước Tấn. Thời chiến quốc thì thuộc nước Ngụy, đây là một tòa "Ngọc Ngưu thành" (thành trâu nằm), chỉ có hai cửa thành nam bắc, nam là miệng bắc là mông, đông tây thiên trì là mắt trâu, chòi canh làm sừng trâu, con đường duy nhất từ bắc tới nam là cột sống của trâu, mấy chục con ngõ nhỏ ở trái phải là xương sườn của trâu, bảo tháp xây từ thời Đường chính là đuôi trâu.

Dương thái úy vừa tới, tri phủ Tiêu Nguyệt Sinh của Giáng trâu liền dẫn quan viên ra khỏi thành nghênh đón từ xa, mời Dương Hạo vào châu phủ đãi khách. Phủ nha Giáng châu là một đại đường lớn nhất trong tất cả châu nha trên thiên hạ, tòa phủ nha này xây từ thời Đường, từng là soái phủ của danh tướng Đại Đường Trương Sĩ Quý, sâu năm gian, rộng bảy gian, vô cùng hùng tráng. Dương Hạo chào hỏi quan lại trên dưới của châu phủ, sau khi hàn huyên một phen, liền được Tiêu tri phủ tự mình dẫn vào Tùy viên (công viên). Tùy viên được xây vào sáu mươi năm Tùy Khai Hoàng, lại có tên là Liên Hoa trì, Cư Viên trì, phong cảnh tú lệ nhã trí, là viên lâm duy nhất của nơi này, bình thường chính là nơi mà quan liêu, sĩ đại phu cùng với vợ con tới dạo chơi.

Dương Hạo tới Tùy viên, chỉ thấy trúc mộc hoa liễu, đài đình suối đầm, giống như thời nguyên thủy, là một tòa viên lam sơn thủy tự nhiên. Trong rừng cây đan xen với nhau, nước từ phía tây bắc rót vào suối, hình thành thác nước, phun châu bắn ngọc. Trong viên có một cây cầu Tử Ngọ nối nam với bắc, trên cầu có một chỗ nghỉ chân tên là Hồi Liên đình, cao cao sừng sững, nhìn về xa xa mà như nhìn cảnh gần. Bên cạnh suối là cây cỏ, tường vi, thúy mạn, cùng nhau khoe sắc.

Phía nam của con suối là một tòa hương đình, dùng gỗ để chế thành hành lang gấp khúc. Hương đình dựng ở giữa tương thông với tẩm thất đã được an bài cho Dương Hạo. Phía tây nam con suối có "Hổ Báo môn" thông thẳng tới đại đường của châu nha. Trên bức tường bên trái của hổ báo môn có treo một bức tranh mãnh hổ và dã trư đánh nhau, trên bức tường bên trái là tranh hồ nhân ngọc báo, phong cảnh khá nhã trí.

Tiêu Nguyệt Sinh đưa Dương Hạo vào hương đình, mỉm cười nói: "Thái úy từ xa tới chắc mệt rồi, ngài cứ nghỉ ngơi một chút. Buổi trưa, hạ quan cùng đồng liêu bản phủ sẽ mở tiệc tẩy trần cho thái úy."

"Phiền phủ đài rồi."

Dương Hạo tiễn Tiêu tri phủ ra, quay lại nhìn quản gia Lý Khánh Phong ở bên cạnh một cái, Lý Khánh Phong hơi gật đầu. Dương Hạo cười nhạt một tiếng rồi bước về phía Hương đình.

Tiệc tẩy trần được bày trong hành lang có mái che của Tùy viên, Tiêu Nguyệt Sinh và Dương Hạo, Công Tôn Khánh, Vương Bảo tài ngồi ở ghế thủ tịch, trái phái xếp thành hình chữ nhất, là một số quan lại, thân sĩ danh lưu cao cấp của phủ Giáng châu. Bên cạnh mỗi một quan viên đều có một quan kỹ mặt mày xinh đẹp, mồm miệng lanh lẹ bồi tiếp, phía trước còn có một đội nhã nhạc.

Trong viện không cầm người đi lại, có điều có rất nhiều công sai tuần tra ở xung quanh, rất nhiều người đi tới đây liền tự giác quay lại, không dám làm phiền.

Khách chủ mời rượu nhau, lúc tửu hứng đang bốc cao thì phía trước đột nhiên truyền tới một tiếng quát, Dương Hạo ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy một thiếu nữ nằm ở đó, hai tay đang hoảng hốt lần mò xung quanh, sờ được một cái ống tiêu và một cây gậy trúc mới bò lên được.

Ở hành lang ẩm yến đối diện, mấy người dạo chơi bộ dạng như sĩ tử đang nhìn chằm chằm động tác của Dương Hạo, lúc này cũng quay hết về phía kia. Ở trước mặt thiếu nữ đó là một tên nha sai, hung ác quát: "Đi chỗ khác, nơi đây mà ngươi cũng dám xông bừa vào à."

Thiếu nữ đó hoảng hốt nói: "Nô gia chỉ ở trong công viên này thổi sáo, ca hát, nhờ các vị đại gia thưởng cho mấy văn tiền mà sống qua ngày, vị đại gia này vì sao lại đuổi ta đi?"

Dương Hạo nhìn ra xa, thấy thiếu nữ này quần áo thô lậu, dung mạo thanh tú, hai mắt không có trọng tâm, không ngờ là một thiếu nữ mù. Nữ tử dung mạo thanh tú, thân thế đáng thương vốn rất dễ giành được lòng đồng tình, che chở của nam nhân, mà nữ tử mù này, bộ dạng yếu ớt đáng thương cực kỳ động lòng người. Dung mạo của nàng ta không phải là tuyệt sắc, nhưng bộ dạng đáng thương mà nàng ta biểu hiện ra lại là thứ có thể đả động lòng người nhất, tên nha sai giống như hung thần ác sát đó thấy vẻ mặt này của nàng ta cũng không nỡ lấy tay đẩy nữa.

Thấy bộ dạng đáng thương như một con chim én bị kinh hãi của nàng ta, Tiêu tri phủ không khỏi nổi lòng thương hương tiếc ngọc, vội vàng cao giọng nói: "Chẳng qua là một nữ tử mù đáng thương mà thôi, hà tất phải dọa nàng ta, dùng lời lẽ nhẹ nhàng mời nàng ta đi đi, chớ có quấy rầy nhã hứng của thái úy.."

Thiếu nữ đó nghiêng tai lắng nghe, đã biết được nguyên nhân, vội vàng cúi người hành lễ với phía vừa phát ra tiếng nói, sợ hãi thưa: "Dân nữ không biết chư vị lão gia đang ẩm yến ở đây, đã mạo phạm chư vị lão gia, dân nữ xin tránh đi."

Cây gậy trúc trong tay của nàng ta hoảng loạn gõ xuống đất, bởi vì vội vàng bỏ đi, suýt nữa thì lại trượt chân ngã.

Dương Hạo thấy nữ tử này đáng thương như vậy, không khỏi cảm thấy động lòng trắc ẩn, liền nói: "Ngẫu nhiên nghe thấy một khúc nhạc thôn quê, nghĩ chắc cũng có phong vị khác lạ. Cớ sao không mời vị cô nương này vào, thổi một khúc cho bản quan và chư vị đại nhân nghe để trợ tửu hứng."

Tiêu tri phủ nghe thấy thái úy đã lên tiếng, vội vàng đáp ứng ngay, sai người đỡ nữ tử mù đó vào.

"Đa tạ chư vị đại nhân, không biết chư vị đại nhân muốn nghe khúc gì." Nữ tử mù đó tiến vào hành lang liền cúi người xin lỗi, giọng nói trong trẻo, nghe rất lọt tai, khiến người ta có thêm hào cảm với nàng ta.

Dương Hạo giơ chén lên, cười nói: "Không biết cô nương biết thổi những khúc gì?"

Nữ tử mù rụt rè nói: "Nô gia biết 'mai hoa dẫn', 'tiểu đơn vu', 'đại đơn vu', 'đại mai hoa', 'tiểu mai hoa', 'hư đạc'!"

Mắt Dương Hạo sáng lên, đột nhiên hỏi: "Ngươi nói...'hư đạc'?"

"Vâng, đại nhân đã từng nghe khúc này rồi ư?"

Đồng tử của Dương Hạo hơi co rút lại, nhìn chằm chằm vào nữ tử mù ở trước mặt, cười một cách rất cổ quái, nói: "Không sai, bản quan... đã từng nghe qua khúc này rồi. Vậy... mời cô nương tấu cho chúng ta một khúc 'hư đạc' đi."

"Vâng!"

Nữ tử mù dạ một tiếng, dùng môi thôi sáo, một thanh âm nhu mỹ, thâm trầm hàm súc, kỳ ảo phiêu dật từ từ vang lên. Dương Hạo nhẹ nhàng thở ra một hơi, nhắm mắt lại. Bọn Tiêu tri phủ thấy thái úy nghe đến nhập thần như vậy, cũng vội vàng thôi nói cười, nhao nhao giỏng tai lắng nghe.

Tiếng sáo vang lên bên tai, đồng thời trong đầu hắn nhớ lại giọng nói của Liễu Đóa Nhi: "Đây không phải là cây sáo, chuẩn xác mà nói, nên gọi là xích bát, xích bát vốn bắt nguồn từ sáo của người Khương, so với sáo và tiêu thì không có khác biệt quá lớn. Có điều ở Trung Nguyên lại hiếm khi nhìn thấy. Thiếp thân nghe hào thương hải ngoại nói, sau khi Nhật Bản sai sứ tới Trung Thổ học xích bát, mang về tuyên truyền ở Đông Doanh. Nghe nói một vị thái tử của bọn họ đam mê xích bát đến nỗi ngày nào cũng thổi, giữ khư khư bên người. Có điều khúc mục mà bọn họ lưu truyền phần lớn là truyền tới từ thời Đường, ví dụ như..."

Lập tức, hắn lại nhớ tới một đoạn hội thoại của phu nhân Phúc Điền Tiểu Bách Hợp của đại đương gia Biện Hà bang Trương Hưng Long.

"Trương phu nhân..."

"Nô gia không dám đâu, phu nhân là Trương thị, nếu để phu nhân nghe thấy đại nhân xưng hô như vậy rất sẽ trách phạt nô gia, nô gia chỉ là một thị thiếp của phu quân, đại nhân cứ gọi thẳng tên của nô gia là được rồi."

"Ặc, Tiểu Bách Hợp phu nhân, nàng vừa rồi có phải là thôi khúc "hư linh" hay không?"

"Đại nhân từng nghe qua khúc này rồi à? Ừ, cũng đúng, khúc này vốn là từ Trung Nguyên truyền vào Đông Doanh của chúng ta mà, đại nhân tất nhiên là nghe qua rồi.

Có điều ở chỗ chúng ta, khúc này không gọ là "hư linh", mà gọi là "hư đực", nghe nói vốn là một đoạn nhạc của Phật gia, nô gia nhớ cố thổ, ngẫu nhiên thổi ra, không ngờ lại làm kinh động tới đại nhân..."

"..."

Khóe miệng Dương Hạo nở một nụ cười mỉa mai: "Không ngờ bản quan ở Biện Lương ngủ với hoa ở bên liễu, mặc sức thưởng thức múa hát và sắc đẹp, không chỉ từ tay Triệu quan gia nhặt lại một cái tính mạng, bằng vào đống tri thức loạn thất bát tao này, hôm nay lại may mắn cứu lại một tính mạng của mình. Hư linh, hắc, một âm là thành Phật ư? Thế nhưng, bản quan tuy là đi về hướng tây, nhưng hoàn toàn không có ý muốn làm Phật!"

Chương 407: Tiên hạ thủ vi cường

Tiếng sáo văng vẳng, tràn ngập vị đạo thê lương, có chút không phù hợp với tràng diện vui vẻ này, Tiêu tri phủ nhíu mày, cảm thấy có chút không thỏa đáng nhưng thấy Dương Hạo hai mắt khép hờ, vẻ mặt thản nhiên, tựa hồ như nghe rất nhập thần, cho nên cũng không tiện ngăn lại. Hắn vẫy tay gọi một gia phó tới, đang muốn phân phó chuẩn bị thưởng tiền thì tiến sáo đột nhiên cao vút lên, giống như là phá âm.

Tiêu tri phủ ngẩng đầu lên thì thấy Dương Hạo đang nâng chén rượu, phần cổ lộ ra ngoài, tay trái của hắn cầm một quả táo che trước cổ, bên trên lộ ra hai cái lỗ giống như đôi mắt.

Quả táo bộp một tiếng, một chiếc cương châm rơi xuống bàn, lúc này đôi mắt mờ đục của của nữ tử mù mỏng manh đáng thương đó khôi phục lại vẻ sáng trong, ả ta mặt đầy sát khí nhìn chằm chằm vào Dương Hạo, xích bát đã bị ả ném xuống đất.

Trong sáo chỉ giấu một mũi độc châm, một khi bắn ra rồi thì trở thành phế vật.

Chỉ thấy nữ tử mù đột nhiên biến thành một con nhện tám chân, hai tay liên tiếp vung vẩy, từ bên hông, cổ áo, tay áo phi ra rất nhiều ám khí, cơ hồ như là đồng thời, Dương Hạo đá bay cái bàn ở trước mặt, rầm một tiếng, cái bàn rơi xuống đất, bảy tám mũi ám khí toàn bộ cắm hết lên bàn.

Những ám khí này đều là phi tiêu có hình dáng giống như bông tuyết, ở Đông Doanh được gọi là thủ lý kiếm (kiếm trong tay), dưới ánh dương, những mũi phi tiêu đều lộ ra màu xanh sậm, rõ ràng là có bôi độc dược.

Trên người nhẫn giả không thể mang theo quá nhiều ám khí, bởi vì có thứ sắc bén, có thứ bôi kịch độc, giấu rất không tiện, hơn nữa mang nhiều vũ khí quá sẽ ảnh hưởng tới thể trọng, mà cái nhẫn giả yêu cầu chính là phải nhẹ như chim yến. Bảy tám mũi ám khí bắn ra mà không đạt được kết quả, nữ tử mù đó trên người cũng không còn ám khí, ả quát lớn một tiếng, không ngờ lại là thanh âm của nam nhân, chỉ thấy ả xoay tròn rút một cái, từ trong gậy trúc kéo ra một thanh kiếm dài nhỏ sắc bén rồi đâm về phía Dương Hạo, thì ra gậy của người mùlại là một thanh nhẫn trượng.

Lúc này bàn đã lật rồi, chư vị đại nhân há miệng trợn mắt ngồi đó, trên áo bào đầy là dầu mỡ, có người trong tay vẫn còn cầm đũa. Dương Hạo một tay cầm khay nhỏ, một tay cầm chén rượu, vẫn ung dung ngồi ở đó, mắt thấy thanh kiếm hẹp dài như lưỡi rắn đâm tới, ngon táy Dương Hạo buông lỏng, chén rượu trong tay rơi xuống, nát vụn.

Dương Hạo vừa ném chén, mấy thư sinh đang dạo chơi ở dưới hành lang lập tức bay lên, nhanh như sấm sét, xông về phía các quan viên mà chém giết, trong tay đều rút ra vũ khí sáng loáng, lúc này những đại nhân đó mới có phản ứng, ai ai cũng gào thét chạy tứ tán.

Khay nhỏ trong tay Dương Hạo bay về phía thích khách, đồng thời chân móc ra sau, móc cái ghế ở dưới mông ra trước mặt, mũi kiếm hẹp dài xuyên qua chân ghế, Dương Hạo xoay ghế, đánh rơi thanh trường kiếm đó. Năm ngón tay của thích khách hét khép lại rồi xòe ra, tóm về phía ngũ quan của Dương Hạo, vào lúc này ngón tay của hắn đã đeo năm cái câu nhọn giống như là ưng trảo, ác độc tóm về phía ngũ quan của Dương Hạo.

"Bắt thích khách, bắt thích khách!"

Vương Bảo Tài vừa giả vờ gào thét vừa giả vờ tìm vũ khí, cố ý kéo dài thời gian không chịu chạy lên trước tương trợ, nhưng hắn lập tức không giả trang được nữa, mấy người bộ dạng như thư sinh cầm vũ khí lao về phía trước, mục tiêu không ngờ lại là hắn.

Tên nhẫn giả đó dùng thủ giáp câu mà vẫn thất bại trong gang tấc, hắn một mặt rướn người tiếp tục tóm về phía mặt Dương Hạo, vừa lật tay từ dưới váy rút ra một thanh nhẫn đao buộc ở đùi. Lúc này, tỳ nữ áo danh mặt mày xinh đẹp đột nhiên lách tới trước mặt Dương Hạo, thanh kiếm dài ba thước trong tay ào ào vung ra, keng keng keng một chuỗi tiếng vang, gạt hết năm miếng thủ giáp câu trên bàn tay của thích khách, nếu không phải là hắn rụt tay lại kịp thời, năm ngón tay e rằng đã bị chặt đứt rồi.

Giao thủ ba hiệp, tên nhẫn giả đó biết rằng nữ tử này võ nghệ không tồi, hôm nay khó mà đắc thủ, liền lập tức tung người bỏ chạy. Hắn hớt hải chạy vào trong viện, tay giơ lên, chỗ vỏ bao của nhẫn đao bay ra một sợi dây nhỏ, bắn trúng vào một cây đại thủ ở bên ngoài hành lang, tên nhẫn giả đó tung người bay lên, dưới lực kéo của sợi dây thừng đó nhảy ra ngoài tường viện. Trúc Vận đuổi tới phái tường, rút một cái cây lên, một tay đặt lên viện tường, nhảy ra tường cao hơn trượng, hối hả đuổi theo.

Khi các nha sai xách đao, xích sắt vây lên thì các thích khách đã chạy hết rồi. Dương thái úy thấy biến không kinh hãi giơ tay hô to: "Chư vị đại nhân, chư vị đại nhân, chớ có kinh hoàng, chớ có kinh hoàng, thích khách đã chạy hết rồi. Bản quan trên đường đi hiểm trở trùng trùng, gặp thích khách vô số, sớm đã quen rồi..."

Tiêu tri phủ mặt vàng như nghệ chạy lên trước, nói: "Thái úy, thái úy..."

Dương Hạo vẻ mặt ôn hòa nói với hắn: "Bản thái úy bình an vô sự, Tiêu tri phú không việc gì phải lo lắng."

Tiêu tri phủ nói năng lộn xộn, bảo: "Không phải là thái úy, là tuyên chỉ sứ, Vương tuyên chỉ đã tuyệt khí thân vong, Công Tôn tuyên chỉ hôn mê bất tỉnh. Thế... thế này... trong phạm vi quản hạt của tại hạ lại xảy ra chuyện này, hạ quan biết ăn nói thế nào với triều đình đây."

"Không ngờ lại có chuyện như vậy ư?"

Dương Hạo giật nảy mình, vội vàng chạy tới nhìn, chỉ thấy Vương Bảo Tài ngồi dưới một cái cột, hai mắt trợn tròn, dưới cổ hỏng là một mảng máu, đã chết rồi.

Vị Tá Tá Mộc Tắc Phu này là võ sĩ, binh khí quen dùng là đao, hôm nay ẩm yến, hắn tất nhiên không thể mang binh khí theo người, nhưng hắn ngàn vạn lần không ngờ rằng các thích khách trên đường như hình với bóng đuổi theo hành thích Dương Hạo lại dám theo cả vào thành Giang châu, dưới mắt các quan viên mà dám công nhiên hành thích, càng đáng ghét là, hoàn toàn giống như trước đây, bọn chúng giết không được chính chủ mà luôn là người ở bên cạnh gặp tai ương. Vương Bảo Tài không có binh khí vừa tay hôm nay gặp phải thích khách có võ nghệ cao cường, dưới sự công kích liên thủ dũng cảm quên mình của hai tên thích khác, bị người ta một đao chém đứt cổ họng, táng mệnh tại đương trường.

Còn Công Tôn đại nhân không có sức hoàn thủ thì sau khi bị thích khách một quyền đánh bay, vì bận vây công Dương Hạo nên hắn mới nhặt lại được một cái mạng.

Dương Hạo bi phẫn ôm Vương ngu hậu chết không nhắm mắt này lên, hướng tới đám quan viên địa phương mặt cắt không còn giọt máu nào này mà khẳng khái nói: "Những thích khách này trong mắt không có vương pháp, thích sát mệnh quan triều đình, đúng là tội không thể tha, nhất định phải bắt bọn chúng hỏi tội, xử phạt theo mức cao nhất của pháp luật!"

Nói xong lại an ủi Tiêu tri phủ: "Những thích khách này súc mưu đã lâu, trên đường truy sát bản quan nhiều lần, không phải là vì địa phương Giang châu không yên bình đâu, chuyện này không liên quan gì tới các vị đại nhân cả, bản thái úy sẽ thượng tấu lên triều đình, nói rõ chân tướng."

"Vâng vâng vâng!"

Tiêu tri phủ cảm kích đến rơi nước mắt, nói: "Hạ quan lập tức điều động hương dũng binh đinh của châu phủ, truy bắt hung thủ, bảo hộ đại nhân, không thể dung thứ cho bọn thích khác tiếp tục theo chân đại nhân nữa."

Dương Hạo cao giọng nói: "Đa tạ mỹ ý của Tiêu đại nhân, từ lúc bản thái úy rời khỏi Khai Phong, bọn thích khách giống như âm hồn bất tán theo mãi không buông, người mà bọn chúng muốn giết là bản quan, tất nhiên không muốn bản quan nhậm chức. Người nào mới không muốn để bản quan nhậm chức, cản trở đại kế của triều đình? Tất nhiên là gian nhân mang lòng bất chính, bản thái úy muốn phá vỡ âm mưu của bọn chúng, biện pháp tốt nhất chính là an toàn tới Lô châu, hoàn toàn sứ mạng mà quan gia giao phó."

Hắn cười lạnh một tiếng, dứt khoát nói: "Biết rõ núi có hổ, vẫn cứ lên núi, không ai có thể ngăn cản bước chân tây hành của bản quan được đâu. Tiêu tri phủ cứ phái đinh dũng hương dịch truy bắt hung thủ, còn bản thái úy ư, bản thái úy phải lập tức lên đường, ngày đêm kiêm trình tới Lô châu!"

Hắn nhét thi thể hai mắt trợn tròn của Vương Bảo Tài vòng lòng Tiêu tri phủ, dọa cho Tiêu tri phủ vội vàng đỡ lấy, chân tay mềm nhũn ra. May mà có châu phán đại nhân hay xử án bắt giặc thường thấy người chết, gan lớn hơn một chút, vội vàng bước lên nhận lấy thi thể.

Dương Hạo nói: "Thi thể của Vương tướng quân, tạm thời để lại nơi này, phiền Tiêu tri phủ an bài thoảng đáng giúp. Bản thái úy mang Công Tôn tuyên chỉ tới Lô châu, đợi khi việc công đã xong, Công Tôn tuyên chỉ trên đường quay về, sẽ đưa quan tài của Vương tướng quân về Biện Lương."

Tiêu tri phủ nghe thấy vậy, vội vàng đáp ứng: "Vâng, vâng. Thái úy cứ yên tâm, chút chuyện nhỏ này, ti chức nhất định sẽ làm thật thỏa đáng..."

Trúc Vận đuổi theo thích khách đó ra tới tận ngoài thành, thích khách đó qua đường xuyên ngõ, thủy chung vẫn không thoát khỏi được Trúc Vận, thế là không đi qua cửa thành nữa mà xông về một chỗ tường thành. Gạch của tường thành bởi vì lâu năm nên đã phong hóa, dùng nhẫn đao có thể cắm vào được, hắn mượn vào vào trợ lực của nhẫn đao thuận lợi bay qua tường thành cao năm trượng.

Hắn vốn cho rằng như thế này là có thể thoát khỏi được Trúc Vận, nhưng không ngờ Trúc Vận cũng là cao thủ tinh thông "quải họa"

Quải họa chính là công phu vượt tường mà người sau gọi là bích hổ công, dựa vào những khe hở rất nhỏ của gạch tường thành, Trúc Vận cô nương giống như là thạc sùng bò trên tường, dễ dàng lao ra khỏi thành.

Hai người một chạy một đuổi, tên nhẫn giả đó giống như là một con hồ ly giảo hoạt, Trúc Vận thì giống như là một thợ săn có kinh nghiệm, có kiên nhẫn, hai người thi nhau thi triển thủ đoạn của mình, thủy chung không để tên nhẫn giả chạy thoát.

Tên nhẫn giả đó trốn trong một con kênh rạch, dùng đầu kia của vỏ kiếm có lỗ thủng thò ra khỏi mặt nước, mượn vào sự yểm hộ của cỏ dại mà hít thở, rốt cuộc cũng cảm thấy sự sợ hãi từ đánh lòng.

Hắn chính là tên thích khách hôm đó bị Hoàng lão đầu nhi bức cho phải ngâm mình trong con sông phía ngoài cửa sổ của Dương Hạo cả một đêm, hắn một mực nghĩ không thông, những người phe mình tuy rằng không phải là nhẫn giả xuất sắc nhất, nhưng hành tung tại sao lại dễ dàng bị người ta phát hiện như vậy, trên đường cùng Trúc vận công nương đấu trí đấu pháp, thi triển các loại thủ đoạn, hắn cuối cùng cũng tìm ra được chút manh mối: Nữ nhân này cũng tinh thông ngũ hành độn thuật.

Nhẫn thuật chính là từ ngũ hành thuật của trung thổ mà phát triển biến hóa thành, tuy phát triển ra rất nhiều biến hóa, nhưng trăm khoanh vẫn quanh một đốm, một cao thủ tinh thông ngũ hành thuật, muốn phá giải nhẫn thuật của hắn tất nhiên là không khó. Lần này, hắn còn có thể chạy đi đâu được nữa?

Mặc dù bảo trì tâm tình bình tĩnh, nhưng nhẫn giả vẫn chậm rãi thở một hơi dài, một hơi này vừa hít vào trong miệng, tiếp theo vỏ kiếm trên miệng hắn đột nhiên bị người ta đoạt mất, tên nhẫn giả đó hoảng hốt nhìn lấy, gợn sóng nổi lên trên mặt nước đã bị dòng nước lưu động nhanh chóng cuốn đi, xuyên qua nước kênh, chỉ thấy trời xanh thẳm, ánh dương xán lạn, còn đâu không còn gì nữa, vậy nàng ta… ở đâu?

Nhẫn giả vốn là sinh cũng vô danh, chết cũng vô danh, hắn đã dự cảm thấy mình rất nhanh sẽ phải chôn thây trong con kênh vô danh này, địch nhân đang lặng lẽ quan sát đang chờ hắn thở ra một hơi cuối cùng.

...

Bách Hoa ổ, Tùng Phong đường.

Gió thổi từng trận, khắp pòng mát mẻ.

Trên chiến bàn uống trà đặt một bình rượu Lương châu thuần túy, một con cá Hoàng Hà thơm ngon vàng dòn nặng gần hai mươi cân, mỹ tửu đều xếp đầy bàn, bọn trẻ con của Chiết gia ngồi ở hai bên, đang ngồi khoanh chân, đạo mạo trang nghiêm.

Chiết đại tướng quân nhất gia chi chủ ngồi ở cuối bàn dài, mặt như quả táo, hai con mắt xếch chéo lên, đôi lông may như dán hai con tằm, râu dài tới ngực, giống như là Quan Vũ Quan Vân Trường ngồi ở đó, đặc biệt là đôi mắt xếch hiếm có đó, nửa nhắm nửa mở, không chỉ hình dáng giống mà thần vận cũng giống.

Chiết Duy Xương tuổi còn khá nhỏ nuốt nước bọt, lén lút cầm đũa lên.

"Bốp!" Mu bàn tay lập tức bị tam ca Chiết Duy Tín gõ cho một cái, Chiết Duy Xương ủy khuất bĩu môi, lén lút nhìn phụ thân một cái. Chiết Ngự Huân mí máy hơi động đậy, nhưng lại vẫn không ngước lên.

Lúc này, cửa bình phong ở bên hông gian phòng được kéo lên, Chiết Tử Du giống như một đóa mâu trắng phiêu diêu bước vào.

Chiết Ngự Huân tinh thần rúng động, ngồi thẳng người lên, cao giọng nói: "Bắt đầu ăn, bắt đầu ăn, tiểu muội, nào nào nào, mau ngồi xuống đi."

Chiết Tử Du ngồi xuống trước mặt hắn, hai mắt quét qua hai bên, mấy đứa cháu giống như là nhận được hiệu lệnh của tướng quân, lập tức cầm bát cơm ở trước mặt lên.

Chiết Tử Du hừ khẽ một tiếng, bưng cái bát cơm so với lòng bàn tay của nàng ta còn nhỏ hơn mấy phần ở tước mặt lên rồi gắp một hạt cơm trong suốt như ngọc do Trác châu cống tặng cho vào miệng rồi chậm rãi nhai.

Chiết Ngự Huân mặt mày tươi cười rót một chén rượu bồ đào cho mình, nâng chén lên nói: "Tiểu muội, có thể uống vài chén không?"

Chiết Tử Du rất thẳng thắn trả lời một tiếng: "Không uống."

"Được, được, được."

Chiết Tử Luân luôn miệng đáp ứng, tự mình rít một chén lớn, lông mày con tằm nhướn lên, gặp một khúc thịt cá béo ngậy cho vào miệng.

Mấy đứa cháu ở hai bên không thể thoải mái được như cha của chúng, gặp thức ăn, và cơm, động tác chỉnh tề, giống như là thực hành đúng theo giáo huấn ăn không nói chuyện, ngủ không lên tiếng của Khổng lão phu tử vậy.

Mấy huynh đệ nghe nói, nữ nhân mỗi tháng đều có một phần tư thời gian là dễ nóng giận, nhưng sau khi vị tiểu cô cô này của mình từ Trung Nguyên trở về, mỗi tháng chỉ có một phần tư thời gian lộ ra vẻ tươi cười đã là cám ơn trời đất rồi. Bốn huynh đệ chỉ sợ chọc giận nàng ta, cho nên khi ở trước mặt nàng ta một mực rất rụt rè cẩn thận.

Thế nhưng Chiết Tử Du lại phụ trách cơ cấu tình báo của Chiết gia, mỗi ngày làm việc ở phủ tiết soái, bọn họ muốn tránh cũng tránh không được, bữa cơm mỗi ngày trở thành thời gian khổ sai của bọn họ.

Chiết Ngự Huân gặp một miếng đầu cá lên cắn răng rắc. Chiết Tử Du nhíu mày, rất bực bội nhìn hắn, nói: "Ăn cơm không phát ra tiếng động lớn như vậy có được không? Dạy hư bọn trẻ con rồi!"

Mấy đứa cháu đứa năm nay tuổi lớn nhất thì còn lớn hơn cả nàng ta, đứa nhỏ nhất thỉ mười ba tuổi lập tức nhất loạt nhìn về phía phụ thân với ánh mắt khinh thường, cờ xí liên minh đứng ở bên cô cô.

Chiết Ngự Huân cười khan hai tiếng, cầm khăn lên lau miệng, ho khan một tiếng, nói: "À... triều đình vừa bổ nhiệm tri phủ Lô châu mới."

"Hả?"

Chiết Tử Du nhướn mày, nói: "Trương Kế Tổ phải dời chức à? Tri phủ tân nhiệm chắc là tâm phúc của Triệu Quang Nghĩa phải không? Trương Kế Tổ vừa đi, Lô châu phải ứng phó với vị tri phủ tân nhiệm này, e rằng tạm thời phải thu liễm một chút."

Chiết Ngự Huân nhìn lén nàng ta một cái, nói: "Vị tri phủ tân nhiệm này, so với Trương Kế Tổ thì rất không tầm thường, người này được triều đình gia phong là Hoành sơn tiết độ sứ, kiểm giáo thái úy, khai phủ nghi đồng tam ti, phán Lô châu phủ sự. Luận quan chức, so với Trịnh quốc công nhà ta cũng không thua một chút nào...

Chiết Tử Du cuối cùng cũng động dung, nói: "Lai lịch lớn vậy cơ à? Chẳng lẽ tân đế đăng cơ, lập tức muốn hạ thủ với tây bắc? Người tới là ai?"

Chiết Ngự Huân ho khan hai tiếng, nói: "Chính là tiền nhiệm Lô châu tri phủ, Dương Hạo."

Chiết Tử Du ngây người, một lát sau, nàng ta đảo mắt lia lịa, thấy mấy đứa cháu đồng loạt quay đầu lại nhìn nàng ta, lập tức trừng mắt hạnh, quát: "Không ăn cơm đi nhìn cái gì mà nhìn."

Mấy đứa cháu vội vàng câm như hến cúi đầu xuống, Chiết Tử Du thản nhiên như không có chuyện gì, nói: "Bất kể là Triệu Khuông Dận hay là Triệu Quang Nghĩa, đều không thể thả hổ về rừng được, trong đây ắt có nguyên do."

Chiết Ngự Huân nói: "Đúng vậy, Dương Hạo lần này trở về, bất kể là xuất phát từ mưu kế của triều đình hay là hắn đã nổi dã tâm, đối chúng ta đều có ảnh hưởng rất lớn, đối với nhất cử nhất động của hắn chúng ta không thể không chú ý. Tiểu muội..."

"Hả?"

"Tiểu muội sau khi từ Trung Nguyên trở về, liền chỉ phụ trách tình báo về Thổ Phiên, Hồi Hột và Hạ châu Lý thị, nhưng hai phương diện Trung Nguyên và Lô châu, đối với phủ châu của ta cũng có ảnh hưởng cũng rất lớn. Cửu thúc tuổi già rồi, e rằng không chiếu ứng được, tiểu muội không ngại thì tiếp quản luôn chuyện của cả hai phương diện này đi. Cửu thúc vất vả cả đời rồi, cũng nên được hưởng an nhàn."

"Cái gì..."

"Tiểu muội, dưới tay đại ca cũng không phải không có người, chỉ có điều người có thể nắm vững toàn cục lại có hạn, hơn nữa...nơi trọng yếu như thế này, luôn luôn là do tộc nhân của Thiết thị chúng ta đảm nhiệm, lại không tiện làm trái với quy củ của tổ tông, giao cho người ngoài phụ trách. Trừ muội ra, đại ca thực sự không nghĩ ra được nhân tuyển thích hợp nào nữa."

Chiết Tử Du do dự một lát rồi miễn cưỡng gật đầu: "Vậy được rồi, muội tiếp nhân là được chứ gì..."

Nàng ta lại tiếp tục ăn cơm, rồi đột nhiên bỏ bát cơm xuống khom lưng đứng dậy.

Chiết Ngự Huân giơ chén lên ngạc nhiên nói: "Tiểu muội đi đâu vậy?"

Chiết Tử Du mặt ngọc bình tĩnh không hề nổi lên một gợn sóng nào, hờ hững trả lời: "Muội ăn no rồi."

Chiết Tử Du phiêu nhiên bỏ đi, đợi khi cửa bình phong được kéo xuống, bọn Chiết Duy Chính, Chiết Duy Tín, Chiết Hải vốn đang ngồi rất nghiêm trang lập tức ùa lại một chỗ.

Chiết Duy Chính kích động đến nỗi mặt đỏ bừng, nói năng lộn xộn: "Cứu tinh tới rồi, hết khổ rồi, huynh đệ chúng ta cuối cùng cũng thoát khỏi biển khổ rồi. Cha, hôm nay vô luận là như thế nào, cha cũng phải để huynh đệ chúng con uống một chút rượu ăn mừng.”

….

Lý Khánh Phong ghìm cương ngựa, nhìn về phía tòa thành bảo hiểm trở xây dựa vào núi ở phía trước, vui vẻ nói: "Thái úy đại nhân, phía trước chính là Phi Diên bảo, tiến vào địa giới Phủ châu rồi."

"Hả?"

Dương Hạo vội vàng đút một tờ giấy vào trong ống trúc, dùng keo dán do "Phi Vũ" đặc chế đán lại, buộc lên chân ưng, tay rung một cái, con ưng đó lập tức tung cánh bay đi.

Dương Hạo bước ra khỏi khoang xe, nhìn tòa thành bảo hiểm trở ở phía trước, nói với Lý Khánh Phong: "Có thể mời vị Công Tôn đại nhân đó tỉnh lại không?"

"Vâng... Lý Khánh Phong trong mắt lộ ra tiếu ý, hắn phất tay về phía Trúc Vận, Trúc Vận liền nhảy xuống ngựa, tới chiếc xe ở phía sau vén rèm lên rồi chui vào. Công Tôn Khánh giống như là say rượu, nằm trong khoang xe ngủ rất ngon. Từ ngày ở Giang châu bị thương ở đầu, Công Tôn đại nhân một mực ngủ mê mệt, thủy chung chưa từng tỉnh lại.

Dương Hạo cự tuyệt hảo ý giữ Công Tôn Khánh lại trị bệnh của Tiêu tri phủ, nói trong đội ngũ của hắn tự có danh y, rồi dẫn vị tuyên chỉ sứ này tiếp tục lên đường. Trên đường đi, mỗi ngày Trúc Vận đều đúng hạn cho Công Tôn đại nhân uống thuốc, kết quả uống thuốc chính là Công Tôn đại nhân cả ngày ngủ mê mang, thủy chung không tỉnh lại. Võ sĩ ở dưới trướng Vương Bảo Tài không biết nội tình, chỉ phụng mệnh hành sự, hai chủ quan một chết một hôn mê, bọn họ cũng ngoan ngoan nghe theo sự sắp xếp của Dương Hạo.

Được cho uống một bình thuốc, một lát sau, Công Tôn Khánh liền từ từ tỉnh lại, hôn mê nhiều ngày, thần chí của hắn có chút hồ đồ rồi, hai mắt nhìn chằm chằm vào Trúc Vận cô nương cả nửa ngày rồi ngu ngơ hỏi: "Ngươi là ai? Ta sao lại ở đây?"

Trúc Vận mỉm cười ngọt ngào, nói: "Cung hỉ đại nhân, hạ hỉ đại nhân, đại nhân không nhớ tiểu tỳ ư? Tiểu tỳ là nha hoàn trong phủ của Dương thái úy, ngày đó ở Tùy viên, đại nhân bị thích khách tập kích mà hôn mê, cho tới hôm nay mới tỉnh lại, thật sự là phúc lớn mạng lớn..."

"Ặc... ặc.. ặc..."

Công Tôn Khánh hơn khôi phục lại một chút thần chí: "Bản quan hôn mê bao lâu rồi? Hiện giờ vẫn ở Giang châu ư?"

Trúc Vận rất nhanh liềm mỉm cười nói: "Đại nhân hôn mê đã bảy tám ngày rồi, hiện tại không còn ở Giang châu nữa, chúng ta đã tới Phi Diên bảo của Phủ châu rồi."

"Cái gì?"

Công Tôn Khánh giật nảy mình, đầu nặng chân nhẹ chui ra khỏi khoang xe, híp mắt nhìn về phía trước, thấy Dương Hạo đứng ở trên xe phía trước, đang chắp tay nhìn về phía trước, hắn cũng nhìn theo hướng mà Dương Hạo đang nhìn, một đám nhân mã đang từ phía Phi Diên bảo phi tới, Công Tôn Khánh trước mắt tối sầm, ngã cắm đầu xuống đất.

Chương 408: Thẳng thắn thành thật

Đã đến Phủ Châu thì không thể không đến Phủ Cốc. Dương Hạo đến thẳng Phủ Cốc với sự hộ tống của đoàn binh mã, Công Tôn Khánh đến lúc này cũng không còn kế gì khác. Hắn và người của hắn được binh mã Phủ Châu “ bảo vệ” nghiêm ngặt đến mức không thể cựa quậy. Đi suốt quãng đường này kẻ đau thương nhất chính là vị tuyên chỉ sử này.

Bốn việc thất ý nhất của đời người là: Sĩ tử thi rớt, tướng quân bị bắt, hậu phi thất sủng, quả phụ tử nhi. Công Tôn Khánh thấy hắn còn bi đát hơn 4 việc đó. Kẻ bi đát gặp việc bi đát, thế mà vẫn phải cười gượng, muốn giống Trình Tự Đức xưa kia mượn rượu giải sầu mà cũng không được. Công Tôn đại nhân chỉ có thể lấy gương về Văn Vương bị giam mà diễn Kinh Dịch, Trung Ni gặp nguy mà viết Xuân Thu, Tả Khâu bị mù mà viết Luận Ngữ, Khuất Nguyên bị đi đày mà phú Li Tao, Tôn Tử bị hình túc mà truyền lại cho đời sau những bài học Binh pháp để an ủi bản thân.

Đến Phủ Châu lần này, không giống như 2 lần trước, nhớ lần đầu tiên đến Phủ Châu vào 2 năm trước, đừng nói muốn gặp hoàng đế đất Phủ Châu Chiết Ngự Huân, đến người huynh đệ của hoàng đế tiết độ sứ Chiết Ngự Khanh cũng khó. Mà lần này Chiết Ngự Huân nghị trượng long trọng, phái Mã Tông Cường đi đón từ khi còn cách thành 10 dặm, hơn nữa lại cử Chiết Ngự Khanh, Nhậm Khanh Thư nghênh đón ở tận cửa thành, và còn đích thân đứng đón ở bách hoa ổ.

Vị đại sứ có đôi mắt phượng mày tằm,mặt đỏ phùng phừng và bộ râu dài nghiễm nhiên là Quan Vân Trường, đứng ở đầu cầu bách hoa ô, vừa nhìn thấy Dương Hạo đã mặt mày hớn hở, hai phía cười nói làm lễ, Quan nhị ca liền vịn vào cánh tay của Dương nhị ca vui mừng cùng bước vào cửa thành cao hiểm, nơi được mệnh danh là một người giữ nhưng vạn người khó vào của bách hoa ổ.

Còn về Công Tôn đại nhân sứ truyền chỉ, đã trực tiếp đi đến quán dịch vẽ một vòng tròn và rủa: Ồ……là “Văn Vương bị bắt mà diễn kinh dịch…….đi rồi…….”

“Dương Thái Uý thật sự rất phi phàm, là thiếu niên anh hùng, từ xưa đến nay trẻ tuổi mà được như vậy quả thật là không nhiều, hơn nữa phong thái lại nho nhã, thật xứng đáng được ghi vào sử sách”

Quan nhị ca cười dài mà nói: “Hôm nay đã qua Phủ Châu, Chiết mỗ với danh nghĩa chủ nhà, thái úy ở xa đến, mời thiếu úy ở lại thung lũng của chúng tôi nghỉ ngơi giây lát, uống chén trà, tôi đã cho người sắp xếp rượu thịt, mời thái úy dùng bữa.

“Vậy Dương Mỗ đã làm phiền các vị rồi.”

Dương Hạo vừa nói vừa nhìn xung quanh, cuối cùng cũng không thấy tiểu nha đầu mặc xiêm y màu đen, mặt mày tươi tỉnh đâu cả, trong lòng không tránh khỏi thất vọng. Bước đi tiếp, ngước đầu lên, Dương Hạo lặng lại, thật không ngờ trước mắt là Bạch Hổ lễ đường.

Bày trà mời khách tại sao lại ở Bạch Hổ lễ đường? Nói thẳng ra đây là bộ tư lệnh của Chiết Ngự Huân, nếu ko phải là việc đại sự, không thể ở đây, Chiết Ngự Huân……

Dương Hạo đưa mắt nhìn kĩ Chiết Ngự Huân một lúc, Chiết Ngự Huân cười đầy hàm ý, đưa tay về phía Dương Hạo: “Dương thái úy, mời”

“Phải đi thẳng vào vấn đề, như thế mới thoải mái” Dương Hạo nghĩ xong liền cười và nói: “Tiết soái, mời ”

Trong lễ đường Bạch Hổ, hai người ngồi theo thứ cấp, tiểu giáo rót trà xong cũng lui, đến ngay như cả những người thân cận với Chiết Ngự Huân như Chiết Ngự Khanh, Nhậm Khanh Thư , Mã Vũ Cường cũng phải lui. Trong lễ đường chỉ còn lại Chiết Ngự Huân và Dương Hạo.

Chiết Ngự Huân mắt nhìn, miệng cười đầy ẩn ý: “Dương đại nhân với thân phận tiết độ Hoàng Sơn, thái úy Tiếu Giáo, công danh thật hiển hách . Sợ rằng trừ lễ điếu kinh Biện Lương ra, có lẽ không có phủ nào vinh dự bằng phủ này. Xem ra, quan gia rất coi trọng Lô Châu, không biết lần này đến đây quan gia có nhận xét gì không? ”

Dương Hạo mỉm cười đáp: “Tiết sứ đã hỏi như thế thì bản quan cũng xin thành khẩn trả lời, quan gia cho phép tôi được nói thẳng, ta hy vọng có thể quật khởi từ Lô Châu, lập nên một đội quân lớn mạnh, thẳng tay dồn ép ý đồ của tiết soái, lấy đại quân của triều đình khởi binh vấn tội, ép tiết soái theo thế mạnh mà hàng. Không máu chảy đầu rơi mà vẫn chiếm được Phủ Châu.”

Chiết Ngự Huân lặng đi một lát, sau đó cười lớn mà đáp: “Thái úy nói đùa rồi, Phủ Châu vốn là đất Tống, Chiết mỗ vốn là thần của nước Tống, trung thành hết mực với triều đình, sống một lòng với triều đình. Triều đình hà tất phải khởi binh vấn tội? ”

Dương Hạo nói: “Phủ Châu đã là đất Tống, tiết soái đã là thần nước Tống, tại sao chỉ có bách tính nạp phú tiết độ, còn các quan đều theo phủ tiết soái. Đây chẳng phải là khinh thường triều đình sao? ”

Chiết Ngự Huân mặt biến sắc: “Tiên đế thay giang sơn cho Sài thị, thời thiên hạ chưa định, Phủ Châu tiên phong sát nhập, tiên đế cảm kích, đã từng đứng trước mặt văn võ triều Mãn hứa hẹn: “Từ nay về sau con cháu đời đời cai quản công việc Phủ Châu, được dùng bộ khúc của nó, tự làm chủ dân chúng của mình và cha truyền con nối, chứ đâu có phải Phủ Châu chúng tôi dám trong mắt không có vua?”

Trong “Tức vị xá thiên hạ chế” cũng nói: Hèn lấy thần khí, giao cho trùng nhân…….phàm làm việc gì, cũng cố gắng quy thằng, nương nhờ vào pháp độ, không dám làm phản, trước sau đều tuân theo tiên chỉ….làm sao dám bỏ lời ngoài tai, lại muốn nuốt lời đã hứa sao? ”

Dương Hạo mỉm cười: “Nếu không phải vì lí do này, Dương Hạo hà tất phải quay lại Lô Châu, mà được cất nhắc thành một phương khiến tương, trong lòng tiết độ chẳng lẽ không có chút nghi ngờ? ”

Chiết Ngự Huân mắt sáng lên, trầm ngâm nói : “Trong lòng ta vốn có hoài nghi, ta mới mời thái úy vào Bạch Hổ đường.”

Hắn đứng lên, đến trước mặt của Dương Hạo cao giọng nói: “Trong tiết đường này chỉ có ngài và tôi, bất kể nói gì, từ chính miệng ta nói ra và chỉ vào tai ngài, ta biết ngài biết, một khi bước ra khỏi căn phòng này, sẽ không còn bất cứ chứng cứ gì nữa nên xin thái úy cứ nói thẳng”

Dương Hạo sờ chóp mũi và nhìn ngó nghiêng xung quanh, cười mỉm nói: “Ý của tiết sư là, bất kể có nói những lời đại nghịch bất đạo như thế nào, ở nơi này, chúng ta cũng không bị phát hiện?”

Chiết Ngự Huân cười ha hả, hỏi lại một cách xảo quyệt: “Thái úy tuy rời Lô Châu đã lâu nhưng Lô Châu vẫn phong thái úy làm chủ, thái úy có lẽ nên biết, Lô Châu làm bao điều như vậy, Chiết mỗ còn muốn chuyện đại nghịch bất đạo sao?”

Dương Hạo cười: “Lô Châu và Phủ Châu là hàng xóm lại nhận được sự giúp đỡ nhiều phía của tiết soái, nếu nói tiết sư không cài người vào chỗ tôi thì mới thật là lạ. Nếu nói Lô Châu chúng tôi có hành động gì giấu diếm Chiết tướng quân, thì Chiết tướng quân đã sớm ngồi không yên vị trí làm chủ Phủ Châu của ngài rồi.”

Dương mỗ cho rằng, tiết sư hùng bá một phương, lại cũng không phải hạng thiện nam tín nữ, như Hạ Châu ốc không mang nổi mình ốc, Phủ Châu không thể khống chế, lấy thực lực của tiết sứ mà hy vọng mưu sự Lô Châu, chưa chắc đã không thuận lợi, vì sao tiết sư luôn án binh bất động, điều này khiến cho ta suy nghĩ trăm đường cũng không thể nào mà hiểu nổi.”

Chiết Ngự Huân cười lạnh nói : Nghĩ trăm đường cái nỗi gì? Lô Châu của thái úy tự hôm miếu thờ của triều đình không tha. Chương Kế Tổ tuy diễn đạt không lưu loát nhưng lại làm quan nhi của khâm mệnh triều đình. Chiết mỗ nếu dùng binh với Lô Châu các người, là đã cho triều đình mượn cái cớ, đất Lô Châu thế cao và hiểm yếu, là vùng đất có thế chiến tốt, được chi không tiếc, có chi cũng không hơn. Đặc biệt nghe đồn thuộc hạ của thái úy vẫn đang đóng ở Hạ Châu, cái này đối với Chiết mỗ càng có lợi. Chiết mỗ mưu đồ Lô Châu hà tất phải khổ thế này? Ta đây cũng chỉ mong muốn giữ được sự nghiệp mà tổ tông để lại thôi.”

Dương Hạo đột nhiên đứng dậy nói: “Nếu đã nói như thế này, vậy Dương mỗ và tướng quân đều có chung lợi ích, có thể bắt tay hợp tác rồi ”

Chiết Ngự Huân vuốt ve chòm râu dài, mắt phượng lim dim, nhìn Dương Hạo một cách hoài nghi nói: “Triều đình đối với thái úy, không chút nghi ngờ. Hôm nay quan gia không những thả hổ về rừng mà lại thu nhận tiết độ ngài, cho ngài mở phủ đệ, thiết lập quan lại. Trong lòng ta thật không hiểu nổi, cho nên Chiết mỗ không thể yên tâm được”

Dương Hạo cười đau khổ nói : “Ta nói là phụng ý chỉ của triều đình để mưu sự Phủ Châu nhà ngươi, ngươi đã không tin, lại còn nghi ngờ chồng chất.”

Chiết Ngự Huân cười lạnh đáp: “Ta chỉ muốn nghe xem lí do thật sự của thái úy là gì?”

Dương Hạo thở dài một cái, đáp: “Lí do thật của nó, nói ra thật sự là 1 câu chuyện dài……..”

Chiết Ngự Huân ngồi xuống, nâng chén, trầm ngâm nói: “Bổn soái sẽ đợi để nghe, xin thái úy cứ nói ra hết sự tình……”

Câu chuyện nói mất hàng giờ, khi hai người lần nữa bước ra khỏi tiết đường, thì đã lại thân thiết như huynh đệ lâu năm.

Chiết Ngự Huân cười tươi “Ha ha, hôm nay Dương Hạo thái úy đến đất Tống, bổn soái bầy đại tiệc để đón tiếp thái úy, các vị tướng lĩnh hãy cùng chung vui, hôm nay chúng ta uống không say không về.”

Tướng lĩnh răm rắp nghe lệnh, Dương Hạo lại lo lắng nói: “Tôi có chuyện muốn hỏi tiết soái, Tử Du cô nương ở đó………”

Chiết Ngự Huân lại lim dim đôi mắt, vuốt ve chùm râu dài, lấy hết khí phách anh hùng của quan nhị ca, hùng uy như phong vũ mà đáp: “Theo người bên ta mới tính kế, ngày mai bổn soái sẽ phái người đến gặp Dương Sùng Ngọc, kể lại rõ chi tiết tình hình, sau đó 3 người chúng ta sẽ gặp nhau để nói về Tử Du, khỏi phải băn khoăn lo lắng về muội ấy, Dương lão đệ, Chiết gia chúng ta đời đời sống trong Vân Trung, đã hơn 300 năm rồi, nữ nhi của gia đình chúng ta được dạy giỗ nghiêm khắc, rất tôn trọng quy tắc, muội ấy đâu dám chen ngang nói bừa? Hơn nữa đây là việc của nam tử hán”

Chiết Ngự Huân vẻ mặt hào hứng, nói say mê đến mức nước bọt tung tóe, thì Mã Tông Cường đứng bên cạnh trộm kéo tay áo của Chiết Ngự Huân, Chiết Ngự Huân không nói mà nhìn hắn: “ Làm cái gì thế?”

Mã Tông Cường nhìn xuống khóm hoa bên cạnh giảu môi nhọn mỏ, Chiết Ngự Huân quay lại nhìn, bất giác hoảng hốt.

Chỉ nhìn thấy từ khóm hoa lặng lẽ bước ra 1 cô nương, áo trắng hơn cả tuyết, dài như thác nước,1 bàn tay nhỏ của nàng hướng lên trên, một con nai nhỏ đang liếm cành cây trên tay nàng, có vài con bướn ngũ sắc đang bay lượn xung quanh, nàng đẹp như trong tranh, đôi mắt đẹp yêu kiều nhìn hắn một cách lạnh lùng.

Chiết đại nhân đang nói huyên thuyên lập tức nhìn ngang nhìn dọc: “Bổn soái quên mất, trong lễ đường còn có 1 việc gấp chưa giải quyết được, thung lũng của ta phong cảnh tuyệt đẹp, thật biết làm người ta lưu luyến, thái úy xin mời dừng chân ngắm cảnh, bổn soái xin đi trước.”

Dương Hạo khi chưa gặp Tử Du thì trong lòng rất muốn gặp, khi gặp rồi lại bối rối chẳng biết phải nói gì, liền vội vã níu giữ Chiết Ngự Huân cầu cứu “Tiết soái……”

“Quan nhị ca” lật mặt không nhận người: “Đây là việc giữa nữ nhi và nam nhi, thái úy muốn kéo huynh đệ xuống nước, thì thật không trọng lễ nghĩa rồi.”

Dương Hạo bối rối không biết nói gì, nhìn thấy tướng quân làm bộ không biết rồi đi, lúc này mới lấy hết can đảm quay người lại.

Chiết Tử Du nhẹ nhàng xoa đầu con nai nhỏ, rẽ đôi khóm hoa bước tới chỗ hắn, con nai nhỏ cũng theo ngay sau chân nàng.

Người nàng như tỏa ra một ánh sáng làm mê mẩn lòng người, nhẹ nhàng và yêu kiều bước đến, đại tiểu thư họ Chiết trong dáng điệu thướt tha , giống như một bông hoa thùy mị mà rất đỗi nho nhã vậy.

Nhìn kĩ lại cô nương ấy đã gầy đi nhiều, cằm nhọn ra, chỉ có hai con mắt là vẫn sáng long lanh, đầy sức hấp dẫn. Đôi mắt đó cứ nhìn sâu thăm thẳm vào Dương Hạo,còn Dương Hạo có vẻ như tim đang muốn nhảy ra khỏi lồng ngực .

Hắn tiến lùi không được, bất giác ho lên một hơi dài, rồi lấy hết can đảm lên tiếng: “Đã lâu không gặp, cô nương ………..dường như gầy đi khá nhiều.”

Chương 409: Người thông minh

“Chúc mừng Dương đại nhân, mới chỉ vài ngày không gặp đã khiến người khác thay đổi cách nhìn,như địa vị công danh của ngài hôm nay đã có thể lưu danh sử sách” Chiết Tử Du nói.

“Quá khen, quá khen, công danh lợi lộc chẳng qua cũng chỉ là mây khói thoáng qua” Dương Hạo nói.

Ánh mắt Chiết Tử Du dừng lại trên chân Dương Hạo, cười nhạt mà nói: “Ta nghe nói chân của ngài hiện giờ không được thuận tiện lắm”

Dương Hạo trong lòng dao động, dường như đã tìm được sự đồng tình giữa hai phía rồi, bèn lập tức nâng chân phải, bước tập tễnh về phía trước, chán nản nói: “Đúng vậy, khi sang sứ Khế Đan, vừa đúng lúc Khế Đan đang có nội loạn, Dương mỗ gặp phải họa không ngờ, cái chân này...ai da...”

Mắt Chiết Tử Du lóe lên một tia sáng, khẽ nheo đôi mắt đẹp lại nói: “Sao ta lại nghe nói chân trái của ngài mới là chân bị tàn phế?”

“À...vậy sao?”

Dương Hạo vội vã đổi sang chân kia, cười ngượng: “Gặp cô nương, ta vui đến nỗi không còn nhớ gì cả, nhất thời quên mất là chân nào”

Chiết Tử Du thở dài khẽ nói: “Lẽ nào ngài không thể nói với ta một câu thật lòng sao?”

Trông thần sắc ngữ khí thì như thâm khuê oán phụ khiến Dương Hạo trong lòng bất giác bị lay động, lẽ nào nàng đã không còn tính toán đến chuyện khi ở nước Đường ta giả chết khiến nàng phải đau khổ sao?

Còn đang mải suy nghĩ, Chiết Tử Du đã than trách: “Ta biết, ngài giả chết cũng được, giả là phế nhân cũng được, đều là vì muốn thoát khỏi sự khống chế của triều đình, nhưng đã muốn diễn thì phải diễn cho giống. Bị bao vây tứ phía, khó có thể nói là không có tai mắt của triều đình, ngài lúc thì nói chân trái, lúc lại kêu chân phải, có thể không bị bại lộ sao?”

Dương Hạo vô cùng cảm kích, vội nói:“Tử Du, nàng đối với ta tình nghĩa sâu nặng như vậy mà ta lại cảnh giác với nàng, thật đáng hổ thẹn. Vốn dĩ trước đây ta chỉ muốn lui về ẩn cư, tìm sự yên bình, cho nên mới có những hành vi kì quái như vậy. Nhưng về sau nàng có thể yên tâm”

Chiết Tử Du nhẹ nhàng nói: “Ngài bây giờ mới hiểu ta đối với ngài như thế nào sao? Nếu ngài không muốn bị lộ thân phận, ta còn có cách giúp ngài”

Dương Hạo tự mình cũng đã có cách, dự định về đến Lô Châu sẽ rêu rao tìm một vị danh y đến nói đã chữa khỏi cái chân bị tàn phế, triều đình dù có nghi ngờ cũng chẳng thể làm gì được, nhưng Chiết Tử Du có thể coi là Gia Cát Lượng trong đám nữ nhi, hẳn cách của nàng phải cao minh hơn cách của mình nhiều. Nghĩ đến đó liền vội hỏi: “Cô nương có cách gì vậy?”

Chiết Tử Du từ từ rút từ trong tay áo ra một thanh đoản kiếm sáng loáng sắc nhọn, từ tốn nói: “Chính là đây, làm một chân của ngài bị tàn phế thật”

Dương Hạo vô cùng kinh ngạc, lập tức xua tay vội nói: “Đa tạ ý tốt của cô nương Tử Du, nhưng ta nghĩ chắc không cần nữa đâu”

Chiết Tử Du nửa cười nửa không nói: “Không cần khách khí, chỉ tốn chút công sức thôi”. Nói đoạn nàng liền cầm kiếm lao đến.

Dương Hạo thấy vậy không còn nghĩ gì đến việc giả què nữa, quay người bỏ chạy ra ngoài .Đôi mắt nâu to tròn của Chiết Tử Du nhìn chăm chú không chớp, quay người đuổi theo sau. Con nai phương Bắc thấy hai người chạy nhanh như vậy, chỉ nghĩ chủ nhân đang chơi đùa cùng vị khách đó, do vậy cũng vui vẻ đuổi theo sau. Một nam một nữ, hai người và một con hươu cùng nhau chạy điên cuồng trong bách hoa ổ.

Trong một ngôi đình cách đó rất xa, hai huynh đệ Chiết Ngự Huân ngồi trên đài sen nhìn theo một đôi nam nữ, phía sau là con nai nhỏ đang chạy nhảy vui vẻ trong khu vườn cây cối hoa cỏ xum xuê rậm rạp. Chiết Ngự Khanh thẳng thắn nói: “Đại ca, Dương Hạo ngày nay là tiết độ sứ . Theo tin từ Lô Châu truyền đến thì với thực lực hiện giờ của hắn, nếu quả thật hắn có thể giành Hạ Châu mà lên nắm quyền, vậy thì kẻ phi phàm bậc nhất Tây Bắc ngày nay còn ai khác ngoài hắn? Giờ hắn đã kết làm đồng minh với chúng ta, ngày ngày qua lại với nhau, nếu lỡ tiểu muội làm bị thương hắn, e rằng hai bên sẽ nảy sinh hiềm khích không hay”

“Hoàng đế chưa vội thái giám đã phải lo, đệ nghĩ tiểu muội thật sự nỡ đâm hắn sao?” Chiết Ngự Huân khẽ cười, vô cùng gian sảo nói.

“Tại sao? Hắn hết lần này đến lần khác làm tổn thương tiểu muội, lẽ nào tiểu muội còn có thể tha cho hắn?” Chiết Ngự Khanh vô cùng ngạc nhiên.

“Nếu tiểu muội có thể buông tha hắn thì đã chẳng làm cả nhà phải loạn cả lên, tiểu muội được lão gia và chúng ta nuông chiều quá rồi. Tính khí cao ngạo, coi trời bằng vung, biết bao kẻ gia cảnh xuất chúng đều không lọt vào mắt muội ấy, trước giờ chỉ có kẻ khác bị muội ấy sắp đặt theo ý mình, chứ đã có kẻ nào bắt nạt được muội ấy? Nếu như tên Dương Hạo này nỡ đắc tội với tiểu muội rồi lại trước sau nhún nhường nghênh đón, nói không chừng tiểu muội còn thật sự không để ý đến hắn, nhưng hiện giờ...” Chiết Ngự Huân than thở mà nói

Chiết Ngự Khanh chớp mắt, kinh ngạc cười lớn: “Haha, đây thật sự như đậu phụ chấm nước tương vậy, cái này phải đi cùng cái kia.Tên Dương Hạo này cũng thật là kẻ ngốc, không nhận ra tâm ý của tiểu muội, nếu không đã đứng lại để tiểu muội đâm hắn, khi thấy tiểu muội không nhẫn tâm làm hắn bị thương, như vậy chẳng phải sẽ rõ cả rồi sao? Nữ nhi mà, phải biết dỗ dành nâng niu”.

Chiết Ngự Huân khinh thường nháy mắt nói:“Dừng lại sao? Lẽ nào đã rút đao ra mà không đạt được mục đích, dựa vào tính khí của tiểu muội, đệ có chắc muội ấy sẽ không ra tay? Chỉ e muội ấy lén nuốt nước mắt vào trong chứ cũng không để tên tiểu tử kia trốn mất. Tiểu muội vì hắn mà chịu uất ức, cứ để muội ấy đuổi theo, trút oán giận đi”.

“Đại ca trừ phi có ý muốn tác thành cho hỉ sự của hai người bọn họ? Không đúng, theo tin mật chúng ta nhận được, Dương Hạo chẳng phải đã có vợ cả rồi sao? Nếu tiểu muội quả thật bị gả cho hắn, chẳng lẽ đường đường là đại tiểu thư Chiết gia lại phải đi làm vợ lẽ?” Chiết Ngự Khanh hoài nghi hỏi.

Chiết Ngự Huân trừng mắt nhìn Ngự Khanh rồi nói: “Sao lại có thể thành được? Vậy thì danh tiếng Chiết gia nhà chúng ta sẽ thế nào? Lấy vợ cả vợ lẽ, mình không phụ kẻ khác thì kẻ khác cũng chẳng phạm đến mình, nhưng cũng không phải là chuyện gì may mắn. Trước mặt đệ, đại ca hãy thử nói xem ”

Chuyện vợ cả vợ lẽ từ xưa đã có, điển tích Ngu Thuấn lấy Nga Hoàng, Nữ Anh đều được ghi chép lại trong sách “lễ chí”. Lấy hai người phụ nữ mà nói, bất thù đích đằng. Thời Xuân Thu chiến quốc, hợp tung liên hoành, chuyện lấy hai vợ bắt đầu ngày càng nhiều, đến thời Ngụy Tấn, cưới hai vợ bắt đầu tiếp diễn không ngừng. Thói đời, sớm đã thành lệ, Chiết Ngự Huân cứ thế mà áp dụng.

“Ta lại rất ủng hộ chuyện này, về lí mà nói, nếu có hôn ước với Lô Châu, đối với Chiết gia chúng ta vô cùng có lợi, Dương Hạo lại là ý trung nhân của tiểu muội, cũng không khiến muội ấy phải chịu ấm ức, nhưng đường đường là Hoành Sơn tiết độ, thái úy hiệu chuẩn, bị tiểu muội đuổi phải bỏ chạy, xem tình hình này, khó có thể giải quyết được ’’. Chiết Ngự Khanh buồn bã nói。

“Vậy thì ta cũng chẳng có cách nào mà quản được”

“Tiểu muội của chúng ta vốn đã không dễ đối phó rồi, nếu có thể dỗ dành muội ấy hồi tâm chuyển ý, vậy thì xem ra hắn rất có bản lĩnh rồi. Ta để tiểu muội phụ trách tin mật thám giữa Lô Châu và trung nguyên, với Lô Châu Phi Vũ, không thể tránh khỏi phải qua lại. Phi Vũ lại chỉ có Dương Hạo một mình phụ trách, còn lo họ sau này không có cơ hội gặp mặt sao? Đại ca thử nói xem” . Chiết Ngự Huân phủi phủi quần áo rồi nhảy lên mặt đất

“Đi, chúng ta đến Bách Hoa đình đợi, đệ hãy dăn dò trước, lát nữa Dương Hạo đến, bất kể hắn có thảm hại thế nào, mọi người cũng phải coi như không có chuyện gì, đùng cười hắn, tránh cho hắnngại không ngóc đầu lên được”

Chiết Ngự Khanh vuốt chùm râu dài, dương dương tự đắc mà nói: “Người Sơn Tây chúng ta vốn trượng nghĩa, mà đại cữu ca Tây Sơn ta đây lại là người vô cùng trọng nghĩa khí”

Chiết Ngự Khanh giải quyết mọi việc quả thật rất trượng nghĩa khí, những tin nhắc đến chuyện thái úy đương triều bị đuổi giết ở Bách Hoa ổ chỉ lưu truyền trong nội bộ Bách Hoa ổ, nghe nói bên ngoài không một ai hay biết.

Nhưng sau khi Dương Hạo đến dự tiệc đón tiếp ở Bách Hoa đình, liền rời khỏi phủ châu ngay ngày hôm đó, khi hộ vệ của Mã Tông Cường đuổi theo đến Lô Châu thì đã đi rồi, nếu không đã chẳng thể diễn trò đuối giết ở Quán Dịch Trung, trở thành đề tài bàn tán của người dân phủ châu tại các quán trà. Ngày Dương Hạo rời đi, các mật thám thuộc khu tình báo “Tùy Phong” của Chiết gia nhận được chỉ thị tối cao của tân nhiệm chủ quản-đại tiểu thư Chiết gia: Quan sát chặt chẽ mọi động tĩnh ở Lô châu.

Đội xe đánh trận đã về đến Lô châu, vừa bước vào phạm vi Lô châu, Dương Hạo đã có cảm giác trở về nhà vô cùng thân thiết, bầu trời ở đây vô cùng trong xanh, cỏ vô cùng mềm mượt, gió thổi vi vu đều đem đến mùi vị của sự tự do tự tại. Nơi này do Dương Hạo một tay xây dựng nên, nếu nói từ trước đến giờ nơi nào khiến hắn khó quên nhất thì không nghi ngờ gì đó chính là Lô Châu

Khi nhìn thấy cánh cổng thành kiên cố cao lớn của thành Lô Châu từ đằng xa, không giống như khung cảnh đầy gió và tuyết trắng xóa khi hắn rời khỏi đó. Cổng thành tụ tập tất cả quan lại và rất nhiều người thân của binh lính, tình cảm của Dương Hạo bây giờ cũng không giống với khi vừa mới ra đi, hắn có một cảm giác lâu ngày được về lại cố hương.

Mã Tông Cường vô cùng mừng rỡ dắt đến một con ngựa. Dương Hạo lập tức nhảy lên ngựa, phóng về phía những người đang nghênh đón trước cổng thành.

Nơi yên bình này chính là gia đình của ta, nhà ta chính là ở phủ Lô châu này.

Những người đang ở trước mắt tuy đã lâu ngày không gặp nhưng vô cùng quen thuộc: Mộc Ân, Mộc Khôi, Điềm Tửu, Kha Trấn Ác, Mục Thanh Tuyền, Phạm Tư Kỳ, Lâm Bằng Vũ, Lý Ngọc Xương, còn có người nhà Dương Hạo: Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa. Mặc quan phục đứng ngay phía trước là Trương Kế Tổ Trương đại lão gia

Trương tri phủ vẫn giống như ngày trước, không giống như người vừa từ chức mà như vừa được thăng quan, trông vui mừng phấn khởi nhất trong đám người đứng đó. Nhìn thấy Dương Hạo một mình một ngựa từ xa phi đến, Trương tri phủ liền tiến lên phía trước nghênh đón, cười tươi như được thăng quan phát tài, nghiêng mình, vui mừng chào đón: “Hạ quan Trương Kế Tổ, thay mặt các quan lại và thân sĩ bách tính thành Lô Châu xin nghênh đón thái úy đại nhân. Thái úy đi đường vất vả. Chúc mừng thái úy đại nhân được thăng quan”

Dương Hạo nhìn lướt qua một loạt những khuôn mặt quen thuộc, khẽ nghiêng mình, vẫy vẫy tay với mọi người. Rồi đi theo Trương Kế Tổ trong tiếng hoan hô tưng bừng. Lúc trước, hắn thường không để ý, đều đi gặp bạn bè thân thích của mình trước tiên, giãi bày với họ tâm tình của mình khi phải li biệt, nhưng lần trở về này không giống như mọi lần, nhất định phải xử lí việc công trước rồi mới nghĩ đến việc tư, công tư phân minh.

Hai người nói với nhau vài câu, đội người ngựa đã đuổi đến nơi, do đó tất cả cùng quay về nha phủ. Các quan lại đều tiến vào đại đường. Dương Hạo liền cho người truyền chỉ sử Công Tôn Khanh vào.

Công Tôn Khanh run rẩy ngã cả ra đất đến nỗi đầu cũng bị chảy máu, trên đầu quấn một tấm vải trắng dày, mũ quan cũng không đội được, chỉ có thể đặt hơi nghiêng nghiêng trên đầu. Công Tôn Khanh đội lệch chiếc mũ quan, tay nâng thánh chỉ, tiến lên về phía trước một cách khó khăn, đứng trước mặt tất cả mọi ngừơi, như đang xướng hỉ nhạc tuyên đọc thánh chỉ một lượt.

Tuyên xong thánh chỉ, hắn liền giống như đồ phế thải bị mọi người ném sang một bên, không còn ai bận tâm đến nữa.

Chương 410: Giương oai

Trương Kế Tổ cười cúi mình với Dương Hạo rồi nói: “Mời đại nhân xem, đóng dấu ghi danh, nhiệm vụ được giao phó, hạ quan đã sắp xếp ổn thỏa, tất cả đều xếp ở đây, xin đại nhân hãy nhận lấy”

“Việc này không cần phải vội. Bổn quan và Trương đại nhân gặp nhau rồi đều là đến đến đi đi. Lần này Trương đại nhân từ chức, cũng không cần đi vội, việc tiếp giao này để đến mai vẫn chưa muộn” Dương Hạo cười nói

“Không giấu đại nhân, hạ quan từ xa đến Lô Châu nhậm chức, tất cả gia quyến đều không thể đi theo, suốt hai năm trời không được gặp mặt, con nhỏ cũng sắp được gần một tuổi rồi, vẫn chưa cho nó được biết mặt cha”.

“Trương đại nhân đã phải chịu nhiều vất vả rồi, à...” Dương Hạo cúi đầu nói.

Dương Hạo chợt cảm thấy có gì đó không ổn, mở to đôi mắt kinh ngạc, Trương Kế Tổ đã cảm động mà nói:“Ai! Làm quan ở xa, quả thật là không dễ dàng. Từ lúc được biết đại nhân trở về, hạ quan cũng mong mỏi nhanh chóng được về nhà nên sớm đã thu xếp xong hành lí, mong mỏi được sớm đoàn tụ với gia đình. Bây giờ ngựa xe đều đang chờ bên ngoài, mong đại nhân niệm tình cho hạ quan, nhanh chóng nhận bàn giao để hạ quan có thể sớm lên đường về đoàn tụ với gia quyến”

Trương Kế Tổ vô cùng thành khẩn cầu xin, Dương Hạo cũng chẳng thể từ chối. Hai người liền cho lôi kẻ như là thứ đồ phế thải bị ném sang một bên Công Tôn Khanh đến làm chứng, tiến hành bàn giao tất cả. Bàn giao xong, Trương Kế Tổ lập tức xin cáo từ, Dương Hạo vô cùng quyến luyến. Trương Kế Tổ vội vã ra đi, do đó Dương Hạo vừa nhận chức lại dẫn các quan lại đi tiễn Trương Kế Tổ rời khỏi thành Lô Châu

“Trương An, mau đóng thêm yên ngựa đi suốt ngày đêm, nhanh chóng trở về Biện Lương” . Vừa bước lên xe, Trương Kế Tổ đã dặn dò.

Quay đầu nhìn Dương Hạo vẫn đang đứng trước cổng thành, Dương An lớn tiếng hỏi: “Thúc, chúng ta vội vàng như thế để làm gì?”

Trương Kế Tổ vội mắng:“Tên ngu xuẩn này, Dương Hạo vừa đến đây, người đến bất thiện. Nhanh chóng trở về kinh đô, nhanh chóng tự do ở bên ngoài. Cắt đứt quan hệ với Lô châu sớm ngày nào, thúc ngươi mới có thể kê cao gối mà ngủ ngon giấc”.

Trương Kế Tổ vội vã về nhà ôm đứa con trai đi, Công Tôn Khánh cùng nhóm thuộc hạ lại bị dao động vì lời “mời” vô cùng khách khí nên cũng đã an tâm. Những kẻ xung quanh giờ đã là thuộc là hạ của hắn, cho dù những kẻ này đến với hắn với những mục đích khác nhau, và chỉ có những hiểu biết nông cạn về con người hắn ta.

Dương Hạo nhìn theo chiếc xe chở Dương Kế Tổ khuất dần, đột nhiên hỏi : “ Sao không thấy Mộc Đoàn Luyện?”

Mộc Ân bước tới chắp tay bẩm báo : “Khởi bẩm đại nhân. Mộc đại nhân cơ thể bất an, nghe tin đại nhân giá đáo cũng muốn đích thân ra nghênh tiếp đại nhân nhưng bệnh tình ngày càng nặng hơn…”

Dương Hạo suy nghĩ rồi gật đầu ra lệnh : “Hãy dẫn ta tới gặp Môc đại nhân.”

Một đoàn binh lính hộ tống Dương Hạo tới nơi ở của Mộc đại nhân. Thân phận thực của Lý Quang Nghĩa và mối quan hệ giữa hắn ta với Dương Hạo vẫn còn là một điều bí mật, thuộc hạ bên cạnh hắn ta đa phần ít nhiều đều biết về Lô Châu Sở Đồ, còn mối quan hệ giữa hai người rất ít người biết, và càng có nhiều người không biết về nội tình bên trong. Vì vậy trong những lúc đông người, khi Dương Hạo và Mộc Ân nói về Lý Quang Sầm thì chỉ xưng là Mộc đại nhân.

Nơi ở của Lý Quang Sầm ở Khương Trại. Một đoàn binh lính đã đến trước lầu, Dương Hạo hạ giọng nói : “ Nơi ở của người bệnh không nên có nhiều người ra vào, các ngươi hãy đợi ta ở đây, bản quan sẽ tự lên.”

Dương Hạo theo lối cầu thang đi lên, một thiếu nữ đang sắc thuốc, mùi thuốc ngào ngạt theo gió thổi đến. Vừa nhìn thấy Dương Hạo, người thiếu nữ vội vàng buông quạt xuống, bước lên trước, cung kính hành lễ.

Thiếu nữ này chính là Mỗ Y Khả. Người ngoài không biết thân phận của Dương Hạo và Lý Quang Sầm nhưng những phu nhân của hắn đều biết. Tuy Diễm Diễm tính tình qua loa, đại khái nhưng không có nghĩa là nàng ta không hiểu thế sự, huống hồ Oa Oa và Diệu Diệu đều là những người tinh tế, Đông Nhi thì càng không cần phải nói, đều là những người có bản tính hiền lành, không hề có trù tính gì. Họ coi nghĩa phụ như cha đẻ của mình , nhưng với thân phận của mình, bọn họ không tiện đích thân tới chăm sóc nên đành phái Mỗ Y Khả tới chăm lo cho Lý Quang Sầm, thay mặt họ làm tròn đạo nghĩa.

“Được rồi…”

Mỗ Y Khả đứng dậy, vui mừng bật khóc.

Dương Hạo vỗ nhẹ vào vai nàng, nhìn lên lầu : “Nguyệt Nhi, lâu rồi không gặp, ngươi đi xem nồi thuốc thế nào đi, ta lên lầu thăm nghĩa phụ…”

“Dạ!”

Mỗ Y Khả vái lạy, khi nàng ngẩng đầu lên Dương Hạo đã đi vào trong.

Lý Quang Sầm đang nằm trên giường , mắt long lanh nhìn Dương Hạo, sắc mặt lộ rõ vẻ vui mừng, toan ngồi dậy, Dương Hạo vội vàng bước tới, nắm chặt hai tay, quỳ xuống phía dưới đầu giường, thấp giọng : “Nghĩa phụ, con đã về rồi”

Lý Quang Sầm hiện giờ không còn dũng mãnh cường tráng như khi xưa. Bệnh tình trầm trọng khiến hắn ngày càng tiều tụy, khuôn mặt hốc hác, khí sắc xấu đi, chỉ còn hai mắt là còn thần khí, Dương Hạo không ngờ rằng bệnh của nghĩa phụ lại trầm trọng như vậy, nước mắt trào ra không ngừng.

“Hạo Nhi, cuối cùng thì con đã về rồi!” Lý Quang Sầm nắm chặt tay Dương Hạo, cười hạnh phúc.

Dương Hạo nhìn thấy bình rượu bên cạnh giường liền chau mày nói : “Nghĩa phụ, bệnh như vậy mà người còn uống rượu ư?”

Lý Quang Sầm cười nói : “Không sao đâu, ta đã là con sâu rượu rồi, không được uống rượu còn khó chịu hơn là chịu đựng cái bệnh này. Nhưng con yên tâm, ta đã lâu rồi chưa uống rượu, những lúc thèm rượu ta chỉ ngửi mùi rượu thôi”

Dương Hạo nhấc bình rượu và mở nút ra xem, quả nhiên rượu trong bình đã hết nhưng vẫn còn mùi rượu, Lý Quang Sầm đưa bình rượu lên sát mũi, ngửi một hơi rồi lại lập tức đậy lại, cười nói : “Ta vốn mong muốn gia tộc ta có một nơi ở ổn định, được vậy cả đời này sẽ không còn mong muốn gì hơn, nhưng lòng người chưa nguyện… Thực ta vẫn còn muốn sống cho đến ngày đánh bại được thành Hạ Châu, giành lại được những gì vốn thuộc về gia tộc ta”

Hắn ta nắm chặt tay Dương Hạo nói : “Nghĩa phụ muốn đợi chính tay con trai giết chết Lý Quang Duệ, đăng cơ làm vua Hạ Châu, đợi được bế đứa cháu của ta, ta làm sao có thể chết bây giờ được.”

Lý Quang Sầm dù đã tiều tùy gầy rộc đi nhưng nhìn vẫn rất có uy, đột nhiên ngồi dậy vui vẻ nói: “Từ nhỏ ta đã bị coi là kẻ ngoại tộc, ngày nào cũng sống trong nỗi sợ hãi về cái chết, mười ba tuổi đã lưu lạc tới đất Thổ Phồn, mấy chục năm phiêu bạt khắp thiên hạ, có ngày nào ta được ngủ yên, cũng chẳng biết có sống được đến ngày mai không. Ha ha, nhưng lão phu ta chẳng phải vẫn sống được đến hôm nay sao? Tới bây giờ thì ta chỉ muốn được bế cháu, tận mắt nhìn thấy con trai ta làm rạng danh tổ tiên, Diêm Vương dám không nể mặt ta ư?”

Dương Hạo siết chặt tay cha, mỉn cười : “Ai dám không nể mặt cha thì chúng con sẽ bắt chúng phải nể mặt!”

Lý Quang Sầm lặng đi trong giây lát rồi cười lớn, vỗ mạnh vai Dương Hạo: “ Đây mới đúng là khí phách của con trai ta, ha ha………”

Hắn ta ho vài tiếng rồi bất giác nói: “Thân phận của cha con ta, người ngoài vẫn chưa biết, con nên cẩn thận.”

Dương Hạo nói : “Không sao cha ạ, quan lại Lô Châu đều ở bên ngoài, một lát nữa đi con sẽ cho họ biết là đã bái Mộc Đại nhân làm nghĩa phụ.”

Lý Quang Sầm ban đầu rất ngạc nhiên sau chợt ngộ ra và vui vẻ nói: “Con chuẩn bị làm đại sự ư?”

Dương Hạo mỉm cười : “Khi tâm chưa quyết thì cần phải suy nghĩ thật kĩ rồi mới hành động. Khi mà tâm đã quyết thì không cần nhìn trước ngó sau. Nếu như việc gì cũng giấu diếm thì bọn thuộc hạ sẽ chia bè phái, khó mà nhất tâm phục tùng ta, ngoài thân phận là chủ nhân của Thất Thị Đảng Hạng và thân phận thực của nghĩa phụ có ảnh hưởng đến việc đánh Hạ Châu không nên công bố, những việc khác ta nên cho họ biết.”

“Được , được” Lý Quang Sầm phấn khích nói : “Thu phục thiên hạ, cần phải có tấm lòng quang minh lỗi lạc, làm việc gì chỉ biết âm mưu thủ đoạn, sẽ chẳng có ai nguyện chết vì mình.”

Dương Hạo nói : “Hạo nhi cũng đã nghĩ tới những điều đó, nên mới nói hết lòng mình với các quan lại”.

Ngừng một lúc, hắn nói tiếp: “Cha hãy uống thuốc đều đặn, nghe lời thầy thuốc, an tâm dưỡng bệnh, con sẽ sớm cùng người trở lại thành Hạ Châu.”

Nói xong , Dương Hạo nhìn thần sắc Lý Quang Sầm đã kém đi, liền đưa ông về giường nằm nghỉ. Hắn đứng nhìn cha, không chợp mắt, chỉ lo cha đã kiệt sức. “Con còn có nhiều việc muốn bàn cùng nghĩa phụ, nhưng các quan đang đứng ngoài kia, không thể để họ đợi lâu được, giờ xin nghĩa phụ hãy nghỉ ngơi chút, làm xong những việc này con sẽ đến thăm nghĩa phụ.”

Dương Hạo nở một nụ cười nhẹ nhõm, hạ giọng nói : “Giờ Hạo nhi đã trở về, nhân cơ hội này con sẽ danh chính ngôn thuận xây dựng đại nghiệp của Lô Châu ta!”

Dương Hạo dời lầu xuống nhà, hắn nói là đã bái Mộc Đoàn Luyện làm nghĩa phụ, các quan lại không rõ chân tướng cũng biết mối quan hệ giao tình cùng vào sinh ra tử giữa Dương Hạo và Mộc đại nhân. Hiện giờ đại nhân đã là quan thái thú, thế mà không những rất coi trọng người cũ, thấy hắn không có nơi nương tựa còn bái ngài làm nghĩa phụ, làm tròn đạo hiếu của người con, thật là cảm động!

Dương Hạo cũng không nói nhiều lời, dẫn đầu đoàn tùy tùng trở về nha phủ.

Ngồi vào vị trí quen thuộc, trước mặt vẫn là khuôn mặt quen thuộc ngày nào, đôi mắt vẫn chan chứa tình yêu thương, nó khác xa với ánh mặt của một vị quan đại thần của Lô Châu.

Giờ hắn đã trưởng thành, không còn là bày tôi tớ nhà Bá châu mà giờ đã ngồi lên ngai vàng, trở thành bậc anh hùng một phương. Hai năm trở lại đây, hắn chu du thiên hạ, văn võ song toàn, đã gặp không biết bao nhiêu loại người. Hắn cũng đi qua ba nước, đã từng được diện kiến qua ba vị vua, ba vị hoàng hậu, đã đấu trí đấu tài cùng bọn họ, tầm mắt được mở rộng, suy nghĩ thấu đáo hơn, và có nhiều điểm khác biệt.

Dương Hạo ngày xưa chỉ là một vị quan lục phẩm tri phủ bình thường, giờ ngồi ở đại từ đường này, chẳng khác gì như nhân nghĩa đại ca ngồi trong tụ nghĩa sảnh, sự thân tình thì có thừa nhưng khí thế lại không đủ. Ngay cả bộ quần áo xanh hắn mặc cũng không làm nổi bât vẻ uy nghiêm đó, nữa là làm cho các quan nể phục.

Giờ đây, hắn là tiết độ sứ Hoành Sơn, thái úy Kiểm Hiệu, là vị đại quan văn võ song toàn, cử chỉ hành động đều tỏ ra rất oai phong lẫm liệt, trên người luôn khoác chiếc bào phục vàng. Hắn như đã trở thành người khác, cử chỉ đều rất phong độ, mặc dù miệng nói cười nhưng luôn có một thế lực vô hình nào đó làm các tướng lĩnh quan quân luôn khiếp sợ hắn, nể phục.

Hai năm nay, họ đã làm rất nhiều việc, mọi việc đều làm vì Dương Hạo. Trong khi Dương Hạo lại không ở Lô Châu. Cho dù Lý Quang Sầm , Ninh Thừa Tông có giỏi thu phục lòng người, giỏi thu thập binh lực đến mức nào, mà người tin cậy không ở đó, thì đối với Dương Hạo điều đó thật là vô nghĩa, chỉ là hư ảo mà thôi.

Nhưng bây giờ, Dương Hạo đã trở lại rồi, viên đá thô trước kia đã được mài giũa thành một viên ngọc quý, đối với họ mà nói, tự nhiên có ý nghĩa trọng đại khác thường. Đó là điều mà bọn họ vô cùng mong chờ. Hai năm qua, tất cả mọi bí mật đều đợị Dương Hạo mở ra. Tương lai tốt đẹp của bọn họ đều chờ đợi ở Dương Hạo.Tất cả đều mong mỏi, chờ đợi . Điều bọn họ muốn nghe nhất đó chính là Dương Hạo đích thân nói ra những lời mà họ muốn nghe. Đó sẽ là những câu nói làm thay đổi vận mênh ở Lô Châu này.

Nhưng Dương Hạo lại là người bình tĩnh hơn bất cứ ai, hắn kể lại với mọi người về những việc hắn trải qua 2 năm vừa qua, nhưng những dự định ở Lô Châu sau này thì hắn một chữ cũng không hề nhắc đến, cũng không nói một chút về những việc bí mật đã làm hai năm qua ở Lô Châu. Điều đó làm cho quan quân Lô Châu thấp thỏm không yên.

Chương 411: Nghĩa nặng tình thâm (1).

Dương Hạo không hề để tâm tới phản ứng của quần thần, hắn tỏ ra như không biết chút gì hết. Thế còn chưa vững chắc và lực còn chưa hùng mạnh, hà cớ chi mà phải vội vã, từ khi sinh ra số mệnh hắn luôn bị sắp đặt, nhưng từ giờ trở đi, hắn sẽ nắm giữ số phận của chính mình, làm theo ý mình, từ việc xây dựng nha môn, liên kết các thế lực, đến thâu tóm quyền lực chính trị ngoại giao. Một khi đã quyết thì sẽ thành.

Quan quân lùi về trong tâm trạng thất vọng và nghi ngờ. Bọn họ lũ lượt đi gặp Phạm Tư Kì, Lâm Bằng Vũ, Mộc Ân để tìm hiểu xem Dương Hạo đang nghĩ gì và cùng nhau thương lượng kế sách. Đại giáo đường bỗng trở nên vắng lặng.

Dương Hạo nhìn xuống, chau mày. Có một người mà hắn vẫn chưa nhìn thấy, người này ở Lô Châu có quyền lực rất lớn, tuyệt nhiên không phải là người vô danh, tại sao lại không ra mặt?. Hơn nữa Dù là Mộc Ân hay là nghĩa phụ, trong những lúc nói chuyện kín với nhau cũng không hề nhắc đến. Rốt cuộc là có chuyện gì đây?

Đinh Thừa Tông!

Suy nghĩ của Đinh thiếu gia, hắn là người rõ nhất. Hắn cũng biết, cả đất Lô Châu này không có ai có thể giúp hắn gây dựng cơ nghiệp tốt bằng Đinh Thừa Tông. Mọi ân oán giờ đã là mây khói. Huynh muội Đinh Thừa Tông đã bí mật giúp hắn rất nhiều việc. Chỉ mong xóa bỏ mọi thù hằn trước kia, vậy tại sao lại không muốn gặp mặt hắn?

Dương Hạo suy nghĩ rất nhiều lần nhưng vẫn không hiểu tại sao lại như vậy, hắn lắc đầu không hiểu: “Ngài đã bình tĩnh như vậy, thì ta sẽ không quan tâm nữa, nhưng ta không tin, giờ ta đã trở về Lô châu, ngài tránh không gặp mặt ta mà có thể giải tỏa được mọi nghi hoặc, và tiếp tục làm quân sư bí mật của ta.

Hắn phất áo toan đứng dậy, ngước nhìn đại sảnh, đột nhiên nhìn thấy hai con người đứng im lặng bất động, hóa ra là vợ chồng Kha Trấn Ác.

Dương Hạo cau mày, ngạc nhiên hỏi : “ Hiền Thù Lệ còn có việc gì nữa ư?”

Vợ chồng Kha Trân Ác nhìn nhau băn khoăn, Kha Trấn Ác quỳ xuống, Dương Hạo không hiểu gì nói : “Kha Đại nhân, như vậy là sao?”

Hắn lấy làm ngạc nhiên, hai bàn tay bám chặt vào thư án.

Kha trấn Ác chắp tay nói: “Kha mỗ…….xin thái úy tha tội”

Dương Hạo ngồi xuống, mỉm cười đáp: “Kha huynh nói gì vậy, Kha phu nhân với phu nhân Diễm Diễm của ta là bạn khuê môn. Kha huynh lại là người thân cận của ta, chúng ta đã đồng cam cộng khổ, nghĩa nặng tình thâm. Hơn nữa đã vì ta mà làm bao chuyện, công của huynh quả là rất lớn. Bản quan khi không có ở đây, Hiền Thù Lệ, Mộc Bổn và Mộc Ân đã giúp ta rèn luyện binh sĩ, giúp nhân dân Lô Châu tránh được loạn lạc của bốn phương, có thể nói là công lao quá lớn. Những gì mà ta làm cho nhân dân Lô Châu còn kém quá nhiều so với Hiền Thù Lệ, Hiền Thù Lệ công lớn hơn cả lỗi, hà tất có lỗi gì?”

Hắn nói vậy khiến cho Kha Trấn Ác không biết để mặt vào đâu, ấp úng nói không ra lời. Mục Thanh Hoàn lườm người chồng vô dụng của mình, bước nhanh lên phía trước, quỳ trước mặt Dương Hạo, lấy hết dũng khí nói: “Đại nhân, Mộc Thanh Hoàn xin được nói thẳng. Mộc Thanh Hoàn vốn ở Hạ Phủ Châu, luôn chịu sự quản chế của Phủ Cốc.

Tiểu đệ của Thanh Hoàn cũng phò giúp đại nhân, Mộc Kha Trại ta cũng một lòng phò giúp đại nhân, cũng có ý là để chăm sóc tiểu đệ. Nên vợ chồng ta mới đến Lô Châu, thật lòng rất muốn giúp đại nhân. Nhưng nhà của Thanh Hoàn vẫn ở Phủ Châu, người của Tùy Phong đường đã tìm thấy vợ chồng chúng ta, muốn chúng thông báo nhất cử nhất động ở Lô Châu. Song mẫu của vợ chồng ta vẫn đang ở trong tay họ, nên đâu dám từ chối, nên… nên…”

Kha Trấn Ác lấy hết dũng khí nói: “Nên vợ chồng chúng ta là tai mắt của Phủ Châu, hai năm qua bất kể chuyện gì lớn bé to nhỏ, chúng ta đều thông báo về Phủ Châu, vợ chồng ta đã phụ lòng tin của đại nhân, muốn chém muốn giết, xin đại nhân quyết định.”

Nói xong, Kha Trấn Ác rút đao ra, dâng hai tay đưa về phía trước.

Dương Hạo nhìn hắn hồi lâu, đột nhiên cười to, đứng dậy khỏi thư án, mặt mày tươi tỉnh nói: “Lô Châu từ trước đến giờ chưa bao giờ coi Phủ Châu là kẻ thù, có tin gì của Lô Châu mà không thể để cho Phủ Châu biết. Hai vợ chồng ngươi hai năm qua đã lập không ít công lao cho Lô Châu, công nhiều hơn tội, cũng là do người nhà bị khống chế, chứ không Kha ngươi cũng sẽ không bao giờ làm như vậy, ngươi có nỗi khổ riêng của ngươi, có thể nói thẳng với ta như thế này là ngươi đã coi ta như huynh đệ rồi, sao ta có thể giết ngươi được.”

Dương Hạo đưa tay ra đón lấy thanh kiếm của Kha Trấn Ác, tay của Kha Trấn Ác bỗng dưng nhẹ bỗng. “Keng”, thanh gươm lại được Dương Hạo cho vào bao đeo bên hông Kha Trấn Ác.

Dương Hạo đỡ hai vợ chồng họ dậy, thản nhiên đáp: “Phủ Châu đối với Lô Châu luôn là người đồng hành, nhưng về nguyên tắc để đề phòng , khi xuất hiện một con mãnh hổ, bất kể là thù hay bạn, phải phòng bị là điều tất nhiên. Kha huynh vì người nhà mà chịu thiệt, bị ép tiết lộ tin tức về Lô Châu, không thể nói là không có lỗi, nhưng ngươi công nhiều hơn tội, Dương mỗ sao dám trách tội ngươi. Nếu có tội thật, cũng là do Dương mỗ không suy nghĩ thấu đáo, khiến cho Kha huynh phải chịu tội, Dương mỗ cũng gánh một phần trách nhiệm.”

Kha Trấn Ác là một nam tử hán rất thẳng thắn, nghe được những lời này, cảm động đến tuôn trào nước mắt, ấp úng không biết nói gì mới có thể bày tỏ niềm xúc động của mình.

Dương Hạo cười tươi đáp: “Bản quan trên đường về, đã gặp Chiết đại tướng quân, và xây dựng đồng minh với Phủ Châu. Vài ngày nữa, Chiết đại nhân sẽ đích thân đến Lô Châu, khi đó ta sẽ xin với Chiết tướng quân cho gia quyến của Kha huynh và Kha phu nhân được chuyển đến Lô Châu, ha ha, đương nhiên nếu hai vị đây không muốn rời xa quê hương, Dương mỗ sẽ cho các vị về, tuyệt đối không níu kéo. Quyết định như thế nào là do các vị.”

Kha Trấn Ác vô cùng kinh ngạc, hắn ban đầu đi theo Dương Hạo là thành tâm thành ý, sau này do sắp đặt của người nhà nên không còn cách nào khác. Nhưng hắn vốn là kẻ quang minh lỗi lạc, làm một kẻ tiểu nhân đứng trong bóng tối khiến hắn luôn bị dày vò.

Vậy nên khi Tùy Phong ra mệnh lệnh, sai hắn đi nói hết với Dương Hạo, mặc dù biết lành ít dữ nhiều song Kha Trấn Ác vẫn không do dự mà nói thẳng hết, thật không ngờ Dương Hạo lại khoan dung như vậy.

Kha Trấn Ác trong lòng vô cùng cảm động, nhưng vẫn do dự không thể đưa ra quyết định: “Đại nhân rộng lượng như thế này, làm sao Kha mỗ dám không dốc sức dốc lực cho huynh. Nhưng tất cả những gì mà từ trước đến nay ta làm, đại nhân……….vẫn tin tưởng ta sao? Sao lại không lo lắng về ta?”

Dương Hạo cười lớn: “Dương Nghiệp Bảo vốn là nước Hán, khi Triệu quan gia phạt Hán gặp khó khăn cũng vẫn phải viện đến sự trợ giúp về người ngựa của Dương Sùng Ngọc ở Lô châu đó sao? Bọn họ vẫn là huynh đệ, đó chính là nghi người thì sẽ không dùng, đã dùng thì không nghi ngờ. Trong lòng Dương Hạo, Kha huynh luôn là một trang nam tử hán, đầu đội trời chân đạp đất, trước đây cũng thế, sau này cũng thế., Dương Hạo không những cần đến huynh mà còn không tính đến phân chia binh quyền địa vị, lập công thì được thưởng, luận theo công lớn nhỏ mà ban,tuyệt đối không nuốt lời”

Kẻ sĩ có thể chết vì người hiểu mình, nghe Dương Hạo nói xong những lời này, hai hàng nước mắt hắn giàn giụa, liền quỳ xuống nói: “Như vậy, Kha mỗ cả đời này sẽ hết lòng vì thái úy, đến chết cũng không hối hận”

Dương Hạo tiễn hai vợ chồng họ Kha ra tận cổng nha môn, nhìn bóng bọn họ rời xa , hắn liền nhau mày: “Nha đầu thối, ta vừa trở về đã đi nước cờ này sao? Vừa để thử lòng chân thành vừa để thăm dò. Nếu ta giết bọn họ, sẽ là không có thành ý với Phủ Châu, hơn nữa vừa trở về đã giết tướng quân, mà tội danh lại là nội gián,liệu cái đất Lô Châu còn đứng vững không?

Bọn họ là người của ta, làm những gì, đối với ta có bao nhiêu phần trung thành chẳng lẽ ta ko biết sao? Thật đáng coi thường những tên đàn ông như vậy! Bổn quan đây giơ cao đánh khẽ, như thế này ta lại có thêm được hai kẻ chân thành với ta, vậy chẳng phải các người đình đem rắc rối đến cho ta nhưng lại vô tình tặng ta món của hồi môn lớn sao? haha……….”

Nghĩ đến hôm bị Chiết Tử Du truy sát dọc đường, cả dọc đường nói những lời khiến nàng đỏ mặt, Dương Hạo bỗng nhiên cười mỉm.

Hắn đã biết cách đối phó với cô nương Tử Du rồi, cô nương đó nhẹ không ưa, lại ưa nặng.

Cứng nhắc một chút là loại đàn ông mà cô nương ấy chưa bao giờ gặp, sẽ khiến cho nàng không có cách nào đối ứng; Mạnh bạo một chút cũng là cách mà nam tử hán không bao giờ dùng với những cô nương có tính cách kiêu kì cao sang như thế này, hai loại nam tử có tính cách này đều là những người mà Tử Du chưa gặp bao giờ, khoảng cách nảy sinh tình cảm, mới lạ thì sâu sắc, hậu nhân quả là không lừa ta.

Ha ha, nếu như môt người hiểu biết, thông minh như cô nương đứng trước một người như công tử đây văn võ song toàn, kiến thức sâu rộng mà biết được vị tiểu tiên nữ trong mắt họ, kì thực trong lòng thích những kẻ thô lỗ, vô lại một chút với họ thì không hiểu liệu những vương tôn công tử đó sẽ kinh ngạc đến mức như thế nào…….

Dương Hạo dường như cảm thấy địa vị, quyền lực và dã tâm ngày càng nhiều, hắn dần dần hiểu ra cách dùng tâm cơ, cũng bắt đầu có dã tâm hung hăng hơn, ngay cả dã tâm chinh phục con thiên nga cô độc xinh đẹp Chiết Tử Du.

Đấu với trời, với đất với Chiết Tử Du vô cùng hứng thú. Tiểu nương tử, còn chiêu gì, nàng mau thể hiện hết ra đi!

Dương Hạo đang suy nghĩ, đắc trí mãn nguyện quay đầu lại, chợt nhìn thấy Mục Vũ đang đứng ngay đằng sau, đang cảm kích nhìn hắn, là người tin cẩn của Dương Hạo, mọi hành động của Phương Tài và vợ chồng Kha Thị đều bị Mục Vũ theo sát.

Dương Hạo không nhắc lại chuyện vợ chồng Kha Thị nữa, hắn vỗ vai Mục Vũ, cười nói : “Giờ ta đã lấy lại được cơ đồ, hà cớ gì ngươi vẫn theo ta? Sư tỉ ngươi Mục Y Kha ở bên nghĩa phụ ta, hãy đi thăm nàng ta đi.

À, phải rồi, nhà người tiện đường đi tìm Lão Lâm, bảo hắn ta chuẩn bị cho ta.một chút, ngày mai ta sẽ lên chùa Khai Bảo, cầu phật Bát Thổ Hoat.

“Tuân chỉ” Mục Vũ đáp lại một tiếng, cúi đầu lui ra ngoài.

Dương Hạo vội đi ngay vào nhà sau, đến cửa Nguyệt Lượng đột nhiên đứng sững lại, phía trong hậu viện có bốn vị phu nhân, người nào mà có được bốn vị phu nhân xinh đẹp như vậy, có thể xem như có phúc lắm rồi, nhưng…Hậu viện lại bài bố không tốt, vậy thì nhà sẽ chẳng được yên. Oa Oa và Diệu Diệu đều là những người tính tình thùy mị nết na, thông minh lanh lợi. Trước đây thì bọn họ đều lần lượt sống cùng Đông Nhi và Diễm Diễm, cũng chẳng hề có xích mích gì. Nhưng giờ đây, đối diện với Đông Nhi và Diễm Diễm lại không thể tùy ý như trước nữa, cứ phải dòm trước sau, sợ ai đó lại không vui mà làm mất lòng người ta.

Dương Hạo nghĩ đi nghĩ lại, rốt cục vẫn chưa biết làm sao, trong chuyện trong nhà còn không lo huống hồ đi lo cho thiên hạ? Lo chuyện trong nhà trước đã” 

Chương 411:Nghĩa nặng tình thâm (2).

Dương Hạo nhẹ bước theo lối vào hoa viên, ngồi yên lặng một lúc, rồi gọi to : “Người đâu, mời phu nhân ra hoa viên.”

Trong lúc đó, người đầy tớ mang một ấm trà nóng đi tới, Dương Khiết nói, âm thanh giòn giã : “Mấy vị phu nhân đang bận tay rồi, bây giờ mời đại nhân uống chén trà trước, rồi xin hãy ngồi đây đợi ”.

Dương Hạo ngồi trong phòng, uống no một bụng nước vậy mà bốn vị phu nhân vẫn không xuất hiện, không chịu nổi nữa, liền quay ra hỏi Hạnh Nhi: “Mấy vị phu nhân hiện ở đâu?”

Hạnh Nhi mặt tươi cười nhìn hắn nói: “Lão gia cứ yên tâm. Nhất phu nhân, nhị phu nhân, tam phu nhân, tứ phu nhân chút nữa thôi sẽ ra yết kiến lão gia.

Dương Hạo nghe xong toát mồ hôi, may mà không có ngũ phu nhân, nếu thêm Tiểu Phan, chắc hắn đã thành đại nhân Tây Môn rồi. Hắn vội vàng hỏi: “Cái gì mà nhất, nhị, tam, tứ phu nhân, cái này là do ai sắp xếp vậy?”

Hạnh Nhi chớp chớp mắt nói: “Là mấy vị phu nhân tự thương lượng ạ”

Dương Hạo nghi ngờ hỏi: “Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa, Miêu Miêu, thứ tự như thế, đúng ko?”

Hạnh Nhi vỗ tay cười tươi: “Lão gia thật anh minh, ngài đoán đúng rồi ạ”

Dương Hạo thở dài một tiếng, nghĩ thầm: “Phá bỏ quan niệm giai cấp phong kiến, gánh nặng đường xa đây”

Hắn đứng dậy, vẫy tay nói: “Đi, đưa ta đi gặp bọn họ”

Hạnh Nhi khó xử đáp” “Lão gia, các phu nhân đã dặn dò, muốn lão gia..”

Dương Hạo trừng mắt nói: “Các nàng ấy dặn dò ngươi chứ không phải dặn dò ta. Ngươi mau đi trước dẫn đường đi, nếu không mai ta sẽ gả ngươi cho tên Mộc Ân thô lỗ đó.”

Hạnh Nhi chớp chớp mắt, đáp: “Người mà lão gia nói là Mộc Đoàn Luyện sao? Nô tì nếu được gả cho một vị tướng quân, quả là phúc mấy đời của tiểu nhân.”

Dương Hạo mặc nhiên đáp: “Mộc Đoàn Luyện rất thích đánh vợ, hắn đã đánh chết bốn người, đánh đuổi ba người, nếu ngươi đồng ý, ngày mai ta sẽ nói với người nhà ngươi, hy vọng ngươi có thể kiên trì đến lúc chết.”

“Hả?” Hạnh Nhi vội vàng xua tay: “Nô tì nghĩ rồi, nô tì muốn hầu hạ lão gia cả đời, không muốn lấy chồng.”

Dương Hạo cười to: “Còn không mau dẫn đường?”

Hai người cười nói thật thật giả giả, đi ra khỏi phòng khách, đi qua chỗ ngoặt hành lang, vòng qua hòn non bộ, đi qua vườn hoa, liền đến phòng bếp Tây Sương, từ đằng xa đã ngửi thấy mùi thơm nức mũi, Dương Hạo liền hỏi: “Phu nhân đang bày tiệc rượu sao?”

Hạnh Nhi bĩu môi đáp: “Dạ vâng, phu nhân muốn cho lão gia ngạc nhiên nên dặn nô tì không được nói ra, nhưng lão gia cứ nhất định muốn xem.”

Trong nhà có người trên kẻ dưới, có tôn ti trật tự, dường như rất thích hợp với một gia đình thời đại này, rõ ràng thê thiếp đủ cả, còn muốn bình đẳng với nhau nữa, chẳng phải ta tự mình chuốc khổ ư?

Nhìn thấy cảnh tượng đầm ấm sung túc trong bếp, suy nghĩ của Dương Hạo có phần bị lay động. Hắn đi vào trong bếp, bốn vị phu nhân đang tập trung chăm chú không ai để ý hắn đang bước vào. Bỗng có người reo lên một tiếng: “ Đại nhân, ngài về rồi sao?”

Dương Hạo nhìn kĩ thì nhận ra đó là Diệp Đại Thiếu và Diệp Chi Toàn ngồi đó, ba mặt nhìn nhau. Trong góc bếp chất hai đống củi lớn, họ vừa vứt thêm củi vào bếp, mặt nhễ nhại cuốn đầy bụi khói bếp.

“Quan nhân.” Đông Nhi vội vàng lau tay đứng dậy, Oa Oa đỡ lấy chiếc môi cơm cho nàng, vừa nhanh tay đảo thức ăn vừa ngoài đầu vui vẻ cười với Dương Hạo.

Đông Nhi nói trách móc : “Các tỉ muội nói phải tự tay làm một bữa tiệc thịnh soạn tiếp đại nhân trở về, còn đặc biệt dặn dò Hạnh Nhi nếu đại nhân có trở lại từ đường thì hãy mời ra ngoài hoa viên nói chuyện, sao đại nhân lại tới đây?”

Dương Hạo hít một hơi rồi cười nói : “Quân tử sao lại không được vào bếp? Ha ha, đại nhân nhà các nàng há không phải là quân tử ư? Đông Nhi, nàng đang mang thai, sao lại làm việc vất vả như vậy?”

Đông Nhi cười nói : “ Cũng không có gì ạ” vừa nói nàng vừa xoa tay vào bụng, trên mặt rạng rỡ nét hạnh phúc của người mẹ. Nhẹ nhàng nói: “Thiếp lúc ở Khiết Đan được nhìn thấy những người phụ nữ nơi đây mang thai vẫn cưỡi ngựa săn bắn. Thiếp mới được một tháng, chỉ làm một số việc vặt, không có gì là mệt cả, thưa đại nhân.”

Dương Hạo nhìn sắc mặt nàng, quả nhiên khí sắc rất tốt, vừa cười vừa nói : “Vậy thì tốt, nhiều người mang thai chỉ ngửi chút mùi dầu mỡ là đã không chịu được, không giống như nàng, đứa con trai này của ta nhất định sẽ rất gan dạ.”

Đông Nhi nghi ngờ nhìn Dương Hạo : “Quan nhân làm sao biết được đó là con trai, không chừng lại là con gái đấy.”

Dương Hạo nói : “Con gái thì đã sao, đều là cốt nhục của Dương Gia, dù là con trai hay con gái đều tốt cả mà”

Oa Oa và Diễm Diễm ngưỡng mộ nhìn Đông Nhi ngưỡng mộ rồi lại nhìn Dương Hạo, nhìn đến nỗi hắn thấy nổi da gà, bụng nghĩ mấy nha đầu này chắc đang mong được sinh con cho hắn, phu quân đây vất vả cực nhọc thật không uổng phí, nhưng bụng các nàng chưa phình ra thì đó là do các nàng, nhìn ta làm cái gì?”

Dương Hạo bước tới và ngắm nhìn bàn ăn được bày biện đẹp đẽ, liền tiện tay gắp thử một miếng, từ từ nhai và cảm nhận hương vị của nó, xong hỏi : “Đây là món gì vậy?”

Đông Nhi hai má ửng hồng nói : “Đây là Bát Thao Điểu, đây là tay thiếp làm nhưng do Oa Oa nghĩ ra đấy ạ.”

Oa Oa khẽ liếc nhìn Dương Hạo, hỏi : “Có hợp khẩu vị quan nhân không ạ?”

Dương Hạo lập tức gật đầu : “ Tay nghề cừ đó, rất ngon”

Ngài bước về phía Oa Oa mỉm cười nói lớn : “Vậy thì có đi có lại, lần này là nàng mời ta, lần sau ta sẽ mời nàng.”

“ Dạ?” Oa Oa ngớ ra một lúc, rồi lập tức hiểu ra, hai má nàng đỏ lên, mím môi, đầy tính ý nói : “ Bữa tối nay như vậy là tốt rồi, đại nhân hãy nhớ lời hứa đấy.”

Dương Hạo lập tức nói : “ Đây không phải là trò đùa, ta sẽ không bao giờ gạt nàng đâu”

Diệu Diệu liền cảnh giác nói : “Đại nhân nói gì ạ?”

Dương Hạo ho lên một tiếng, nhìn bàn đầy thức ăn rồi nói: “Nương tử chuẩn bị món ăn gì cho ta vậy?”

Đông Nhi hớn hở nói : “ Hôm nay thiếp đã chuẩn bị Bách Điểu Yến, mời đại nhân thử nhìn xem, đây là bồ câu hầm ngũ vị hạnh, thịt thú rừng hầm cay, canh long phi... đều rất tươi ngon đấy ạ.”

Các món ăn làm từ phi điểu một món ăn được người Tống rất yêu quý, và chúng cũng rất đắt. Đây là những món ăn được làm từ những loài chim rất hiếm”. Dương Hạo nghĩ tới tấm chân tình của các vị phu nhân, cảm động nói : “ Để làm được những món như này phải tốn nhiều công sức lắm phải không?”

Diễm Diễm nói : “Không có gì là vất lắm đâu ạ, biết đại nhân trở về, tỉ muội thiếp rất vui mừng, nghĩ rất lâu mới có được những món ăn này tiếp đãi đại nhân. Đây là chút tấm lòng mà thôi”

Diệp Chi Toàn nhăn mặt nói : “Đương nhiên phu nhân không vất vả gì, lũ chim này đều do thuộc hạ vất vả tìm kiếm, mấy vị phu nhân còn làm tội nô tài, bắt nô tài nấu. Đại nhân, từ trước nô tài chưa từng làm những món này bao giờ.”

Đường Diễm Diễm nhìn hắn ta chằm chằm : “Chẳng phải do Lão Lưu Lỗ ốm hay sao? Chưa từng làm thì cũng sợ gì chứ? Mà chẳng phải ngươi đã làm rất tốt sao? Cho thêm ít củi vào, lửa nhỏ quá.”

Diệp Chi Toàn nhìn nàng, chẳng nói được gì nữa, lại ngoan ngoan cho củi vào bếp.

Dương Hạo nhìn ông lão, đột nhiên lại nhớ tới Bích Túc liền hỏi : “ Bích Túc đâu rồi? Chẳng phải ta đã sai ngươi và hắn cùng trở lại cơ mà?

Diệp Chi Toàn ngẩn ra một lúc : “ Đại nhân vẫn chưa nhìn thấy hắn ư? Ồ, thưa đại nhân có lẽ hắn ta đang sau núi luyện khí công, tên tiểu tử này giờ như một kẻ điên vậy, hễ cứ ai có món nghề gì là hắn lại luyện mỗi ngày mà chẳng thèm bận tâm tới chuyện gì, ắt hẳn hắn chưa biết ngài đã trở về Lô Châu.”

Dương Hạo trong lòng lắng xuống :“Bích Túc giờ ra sao rồi?” nghĩ vậy bèn vội nói :“Đi, đưa ta đi, chúng ta cùng đến thăm Bích Túc”.

Diệp Đại Thiếu vừa nghe thấy vậy đã nhảy lên vì vui mừng. Dương Hạo nhìn sang phía những hiền thê của mình nhẹ nhàng nói: “ Ta đi một lát rồi sẽ quay lại”

Các nàng đừng giận ta nữa, chúng ta còn cả một tương lai dài sống cùng nhau.”. Đứng trước mặt Diệp Đại Thiếu, Dương Hạo bỗng nói ra những câu nói đầy tình ý như thế làm cho những người có da mặt dày như Oa Oa cũng phải đỏ lên. Cứ nghĩ đến câu “ cả tương lai còn dài sống cạnh nhau” làm cho người còn trẻ như Đông Nhi cũng phải nghĩ đến nhiều chuyện linh tinh.

Sau núi Khương Trại chính là nơi người Lô Châu bí mật chế tạo vũ khí, cửa vào ở sau núi chính là nơi tộc người nhà Lý Quang Sầm sinh sống. Ngay cả người Khương ở những vùng có núi che chắn khác cũng không có cách nào vào sâu được huống hồ là nhưng lão bá tánh người Hán bình thường. Vì thế nơi bí ẩn này trước nay không có người nào biết. Nhưng khi đi ngang qua Khương Trại, tiến sâu vào trong núi sẽ nhìn thấy một con đường khá bằng phẳng đã được làm từ rất lâu rồi. Đá được xếp thành hàng rất thuận tiện cho việc vận chuyển vũ khí và nguyên liệu.

Trong khe núi người Khương Trại đã cử người canh gác lối ra vào, Diệp Chi Toàn rất thông thạo việc đi lại ở nơi này, hắn ta dẫn Dương Hạo lên núi, chỉ về phía tay trái nói: “Đây là nơi Bích Túc thường luyện võ, bây giờ hắn ta quá si mê võ học đã dựng nhà dưới gốc cổ tùng để ở, không giao du với mọi người, mỗi ngày ba bữa đều do các binh lính trong núi mang tới, hắn ta chỉ ở đó luyện võ, không màng tới thế sự.

Dương Hạo thở dài nói: “ Bích Túc vốn là một tên trộm phiêu bạt khắp nơi, không ngờ tình cảm lại sâu đạm như vậy, chỉ là bây giờ trái tim hắn ta chứa đầy thù hận, nếu Thủy Nguyệt trên trời có linh chắc cũng không muốn hắn ta như vậy”

Diệp Chi Toàn gượng cười nói: “ Cũng chẳng còn cách nào ta cũng đã nhiều lần khuyên răn nhưng hắn ta chỉ để ngoài tai”

Hai người vừa đi vừa nói đã lên tới chỗ đất có địa hình bằng phẳng, nơi này cây cối thưa thớt chỉ còn một cây tùng lây năm, cỏ mọc phía trên đã bị dẫm ngả về một bên. Trước mặt có một lán gỗ. Phải chặt một cây tùng to khoảng 6 đến 7 người ôm mới dựng được cái lán này.Chiếc lán vừa nhỏ vừa thấp chỉ đủ để che mưa gió, cửa vẫn mở nhưng không có ai ở trong cả.

Diệp Chi Toàn ngạc nhiên nói: “Kì lạ hắn ta đi đâu rồi từ trước tới nay đều không hề rời khỏi đây mà

Dương Hạo bỗng nhiên vỗ vào vai Diệp Chi Toàn, hắn ta liền quay đầu lại thì nhìn thấy Dương Hạo đang ngước lên phía trên, hắn ta cũng ngửng đầu lên liền mở to mắt kinh ngạc. Ở độ cao khoảng hơn mươi trượng có hai mươi mấy cột trúc dài đặt xen kẽ với những hàng cột nhỏ và ở giữa có vài cây gỗ lớn, có thể thấy rất rõ những cây cột trúc đó rất trong và mịn nhưng lại không có gì trói buộc. một người mặc bộ y phục màu xám có sọc lớn, trong tay cầm một chiếc cung dài đang không ngừng bắn tên ngang dọc lên các cây cột.

Cột trúc rung lên, lúc đó gió thổi làm cột trúc lệch khỏi vị trí, dưới chân hắn ta cũng bị lung lay. Người hắn gầy gò đi đôi giày vải giống như một con vượn đeo con thoi, lúc đó không một chút sợ hãi. Ở độ cao như vậy nếu có sảy chân ngã xuống nhất định sẽ bị tan xương nát thịt. Hai người đứng dưới gốc cây tùng vì thế không dám gọi to chỉ sợ là hắn ta giật mình ngã xuống.Người đó đi trên cây cột như đi trên đường bằng phẳng. Đi lại một hồi lâu rồi bỗng nhiên hắn dừng lại, rồi rất nhanh đưa tên lên bắn. Chiếc tên bay xuyên qua nhiều cây rồi trúng thẳng vào một cây to ở đằng xa, cái cây đó bị mất một miếng vỏ khá to và chảy ra rất nhiều nhựa. 

Chương 412:Đòn cảnh tỉnh.

Dương Hạo lúc này mới thở phào cất tiếng gọi Bích Túc.

Người đó đi lại trong không trung nhảy lên những cây tùng trượt xuống đất, chỉ một lát đã leo đến hàng cây thứ hai. Diệp Chi Toàn càng mở to đôi mắt kinh ngạc nói: “Hắn ta, đó là công phu gì vậy, là thuật ẩn thân sao.”

Dương Hạo thật không tin được trên thế gian lại có loại công phu vậy, trên đường tới đây hắn đã gặp nhiều người với các đạo thần khác nhau biết được các ảo thuật ẩn thân và đã có tìm hiểu về nó. Nhưng trên đường tới đây một người bị hắn ta và Trúc Vận cô nương truy đuổi, hắn ném trả một viên đạn khói rồi chạy về hướng cây to đằng trước, rồi thần bí biến mất, nhưng cuối cùng vẫn bị Trúc Vận cô nương bắt được. Cách mà người đó chạy chốn có vẻ thần kì nhưng thực ra cũng không có gì là kỳ bí, trước khi ám sát, người đó đã sớm tạo cho mình một lối thoát. Chỗ cái cây đó lợi dụng địa hình địa vật, dưới gốc cây đã đào một cái hang động bên trên lấp đầy cỏ, bên dưới cũng phủ một lớp cỏ. Khi người đó ném đạn khói lợi dụng khói thu hút sự chú ý của quan binh đã nhanh chóng chui vào trong động; sau đó dùng cỏ dại đã chuẩn bị trước phủ lên mặt không để lại dấu vết gì, trong mắt người khác thì người đó thực sự đã biến mất bằng cách ẩn thân.

Dương Hạo tin rằng cách mà Bích Túc sử dụng cũng giống như vậy. Hắn mặc bộ y phục màu xám có những đường sọc lại thêm màu sắc của thân cây càng giống và dễ nhầm lẫn. Vì thế khi nhìn nơi hắn biến mất có thể tìm ra một số khe hở. Lúc này hắn đột nhiên cảm thấy như bị phát hiện lập tức quay người tránh đi, chỉ nhìn thấy đằng sau Bích Túc có một chiếc cung lớn.

Bích Túc lúc này mặt mũi bẩn thỉu, tóc tai bù xù lại gầy gò giống như người rừng. Nhìn thấy Dương Hạo hắn ta vui vẻ nói: “Đại nhân, cuối cùng người đã trở về, ta đã đợi người từ rất lâu rồi. Bao giờ thì chúng ta đi giết Triệu Quang Nghĩa?”

Dương Hạo nhìn hắn ta nghiêm mặt nói: “Bích Túc, người có chắc mình vẫn bình thường đấy chứ.'‘

Bích Túc lấy làm lạ hỏi lại: “Chỗ nào không bình thường chứ?

Dương Hạo cười lạnh lùng nói: “Ngươi xem vua một nước là kẻ trông coi việc chăn nuôi gia súc hay một người nơi thôn quê hay sao? Thị vệ đại nội hoàng cung đều được bố trí canh gác nghiêm ngặt có thể để ngươi tự do bay nhảy như vậy sao, có thể hành thích hoàng đế thì tuyệt đối không phải là một tên thích khách bình thường. Hãy đợi thuật ẩn thân cuả người luyện thành thục, cung tên ám khí sử dụng thuần thục hãy nói tới,còn nếu không thì chỉ là đi nộp mạng vô ích mà thôi”

“Triệu Quang Nghĩa đáng giết không phải vì hắn đưa binh đánh Giang Châu. Chỉ mới bắt đầu cuộc chiến mà xương cốt binh sĩ đã chất thành đống vậy nói chi đến nhân nghĩa, nói đấu tranh để bảo vệ lão bá tánh, chỉ làm liên lụy đến những người vô tội mà thôi, những kẻ như hắn trong thiên hạ nhiều vô số nếu giết thì cũng không thể giết hết được. Hắn đáng chết là ở chỗ không nên nơi không cần dùng vũ lực thì hắn lại dùng vũ lực.“

Giang Châu là căn cứ cuối cùng dựng cờ khởi nghĩa ở Giang Nam, thành đã mất, Giang Nam cuối cùng cũng đã thất thủ. Dù là muốn đánh nhanh hay là chỉ để khuếch trương thanh thế khiến quân Giang Nam phải khiếp sợ thì không nhất thiết phải thảm sát lão bá tánh vô tội, những người trong tay không tấc sắt phòng thân. Hắn chỉ vì xả tư hận mà làm vậy, chúng ta dĩ nhiên cũng có thể trả tư thù. Nhưng phủ doãn Nam nha ngày xưa nay đã là hoang đế trung nguyên, ắt phải tính đến hậu quả, hắn ta không thể hành động lỗ mãng như vậy.”

Bích Túc tức giận nói: “Lẽ nào muốn giết hắn cũng phải đợi ngày hoàng đạo sao? Hắn dù có phòng thế nào thì cũng không thể phòng mãi được.Ta không tin là không có cơ hội giết chết hắn”

Dương Hạo cũng phẫn lộ nói: “Ngươi hãy nghĩ đi,nếu thất bại chẳng phải là có biết bao huynh đệ của ta và cả chinh ngươi nữa cũng sẽ phải bỏ mạng vô ích, làm vô số người phải chết như vậy để lại tái diễn một thảm kịch tàn khốc ư ? Ngươi vì tư thù mà cũng không từ bất kỳ thủ đoạn nào há chẳng phải cũng đê tiện như hắn sao? Thủy Nguyệt trên trời có linh nhìn thấy ngươi mất đi lí trí trở thành con người hèn hạ như Lý Quang Sầm liệu có đau lòng ? Ngươi tưởng chỉ luyện được một chút võ công như vậy là có thể giết được hoàng đế ư? Thuật ẩn thân của ngươi học của ai hãy kêu người đó tới gặp ta để ta xem người có thể thao tung được sinh tử của hoàng đế rốt cục là người như thế nào? Hà tất phải ẩn mình nơi hoang sơ cùng tận như vậy.”

Hắn ta nói tới đây rồi đưa tay rút một mũi tên từ sau vai Bích Túc, lấy tên làm kiếm rồi nắm chắc đuôi kiếm đâm về phía sau. Bóng người gần đó vội bay lên để tránh. Dương Hạo đuổi theo cứ thế người chạy người đuổi. Đến trước một cây tùng cổ, người đó thi triển thân pháp đu người rồi hướng sang bên cạnh để tránh. Dương Hạo chỉ cần vặn cổ tay mũi tên đã nằm gọn trên ngực của người đó.

Lúc này Dương Hạo mới quay đầu lại nhìn ngạc nhiên thất giọng nói: “Là cô nương”.

Người đó chính là Trúc Vận, nàng ta đang vận bộ thanh y. Lúc này mũi tên đang nhằm thẳng vào nơi cao nhất bên ngực trái của nàng, mũi tên đâm hơi sâu. Nếu đây không phải là một mũi tên sắc nhọn thì khung cảnh này sẽ rất dễ làm người ta siêu lòng.

Lúc này gương mắt thanh tú của Trúc Vận hơi tái đi vừa xấu hổ vừa giận dữ nói: “Đại nhân cả chặng đường người giả ngây dại quả nhiên chỉ là để ẩn mình, nếu sớm biết người kiến thức tinh thông, thân thủ phi phàm như vậy thì ta cần chi phải vất vả như thế chứ?”

Dương Hạo mỉm cười thu tay lại rồi đẩy mũi tên đâm thẳng về phía cây tùng :“Thì ra là Trúc Vận cô nương, võ công của cô nương là võ công đạo gia, ân sư Dương Mỗ cũng là chân nhân đạo gia. Ân sư chưa từng tu luyện kỳ môn Đôn Giáp và thuật ngũ hành lại càng không phải là người ngoại đạo, mà công phu của phật giáo và đạo giáo đều rất chú trọng tới việc tu luyện “lục thức” , công phu của cô nương vẫn chưa đủ để qua mắt ta”

Trúc Vận cô nương tất nhiên đã biết sư phụ của hắn ta là ai, mắt mở to và nói: “Lệnh sư là đại thánh đạo gia, dám múa rìu qua mắt thợ, Trúc Vận thật không biết trời đất gì.”

Dương Hạo liếc sang phía Bích Túc rồi quay lại hỏi: “Công phu này là cô nương dạy hắn ư?”

Trúc Vận trả lời: “Tiểu nữ từ Biện Giang tới để hộ tống đại nhân trên đường đi, lại không hiểu gi về thuật ẩn thân cả làm sao có thể dạy cho hắn chứ”.

Trúc Vận liếc về phía Bích Túc rồi nói: “Đó là cha ta cùng với Lý Thính Phong đại nhân khi hộ tống Tôn đại nhân về Lô Châu đã nhận ông ấy làm đồ đệ , hôm nay ta chỉ thay mặt cho cha đến để thỉnh giáo chút võ nghệ của sư đệ mà thôi”

Dương Hạo tới bên cạnh Bích Túc nói: “Trong người Triệu Quang Nghĩa lúc nào cũng chứa đầy đại chí, tuy những năm gần đây hắn ở Nam Nha nhưng võ nghệ không hề bị giảm sút chỉ là không thể hiện ra bên ngoài mà thôi, võ công của hắn không hề thua kém ta. Nếu có cơ hội hành thích hắn thì đó sẽ là cơ hội duy nhất không có cơ hội thứ hai nữa.”

Bích Túc hai tay nắm chặt tức giận nói: “Không lẽ chỉ vì hắn đã là hoàng đế có quân lính bảo vệ nhiều mà ta phải từ bỏ việc báo thù hay sao?”

Dương Hạo giơ tay vỗ mạnh vào vai hắn ta rồi nói: “Thiên tử một khi phẫn lộ thì máu chảy thành sông. Triệu Quang Nghĩa đáng chết nhưng phải đợi cơ hội chín muồi mới có thể hạ thủ, Thủy Nguyệt trên trời cao đang theo dõi người, cô ấy không muốn ngươi tự làm mình khổ như vậy đâu, hãy kiên nhẫn một chút cơ hội chắc chắn sẽ tới.”

Bích Túc nhìn Dương Hạo rồi bình tĩnh trở lại, gật mạnh đầu: “Được , đại nhân chưa bao giờ lừa ta , ta tin tưởng người, sẽ kiên nhẫn chờ đợi thời cơ chín muồi”

Dương Hạo vui mừng cười nói: “Ngày mai ta sẽ đi khai bảo thiền viện bái Đạt Thố Hoạt Phật, ngươi đi cùng ta chứ?”

“Không, ta phải ở lại đây” Bích Túc nói.

Dương Hạo ngắt lời hắn ta: “Ta nghe nói Đạt Thố Hoạt Phật là cao nhân phái mật tông, rất tinh thông thuật “đại thủ ấn”.

Nghe nói vậy hai mắt Bích Túc sáng lên liền nói : “Vậy ta sẽ đi”

Dương Hạo mỉm cười nói : “Vậy được sáng sớm ngày mai ta sẽ tới phủ của ngươi”. Hắn nhìn trên dưới Bích Túc một lượt nói : “Phải sửa lại đầu tóc, tắm rửa, thay y phục gọn gàng một chút vì Hoạt Phật là người rất coi trọng lễ nghĩa đấy.”

Trúc Vận đứng bên cạnh Bích Túc ánh mắt thể hiện cảm thông, vì sau khi tới Lô Châu nàng đã được nghe cha kể về thân thế của vị tiểu đệ này. Vì vậy nàng đã không ngại khổ cực nhanh chóng lên núi thay cha dạy võ công cho hắn, giúp hắn sớm hoàn thành tâm nguyện.

Dương Hạo dùng võ thuật để dụ dỗ hắn, dù không có ý định bắt hắn phải thay đổi môn phái nhưng Trúc Vận vẫn cảm thấy không vui. Nhưng khi nhìn thấy hình thù Bích Túc giống như một người hoang vậy, nàng đã thay đổi chủ ý , hãy để hắn ta đến điện đường phật gia nghe giáo huấn, như vậy sẽ giúp hắn hóa giải đi thù hận trong lòng.

Nàng bước nhẹ lên phía trước, nhẹ nhàng nói với Bích Túc: “Dù những ngày tiếp theo có như thế nào, đệ cũng không nên tự giày vò mình như thế. Dương thái úy lần này tới đây, trên đường đi bị nhẫn giả Đông Doanh truy sát, nhẫn thuật của bọn chúng tuy không ở mức cao siêu nhưng sử dụng vũ khí và thủ đoạn rất linh hoạt. Trên đường giao thủ với bọn chúng sư tỉ đã lấy được một số vũ khí, cũng có biết đôi chút về cách sư dụng, tỉ sẽ dạy lại cho đệ, sau này đệ sẽ có thể sử dụng chúng thành thạo.”

Sáng sớm hôm đó , Dương Hạo mặc bộ thường phục có ống tay rộng nhưng rất vừa người,búi tóc và cài chiếc trâm bồ ngọc bích, tinh thần phấn chấn bước ra khỏi phủ.

Sau bữa tiệc đặc biệt “bách điểu yến” ngày hôm qua, không biết Dương đại nhân có mở pháp hội công khai không nhưng ngài đã cùng mấy vị hiền thê mở “đại điểu yến” như bữa tiệc để tiếp đãi những nhân sĩ đã bôn ba hàng nghìn dặm khắp tam quốc. Tiếp mấy vị hiền thê ăn uống no, say thỏa mãn việc tư phòng, điều này không thể để cho người ngoài biết được. Tóm lại cô dương bất trường cô âm bất sinh nhìn Dương thái úy khí sắc hồng hào, đầy khí khái ắt nghĩ tối qua ngài đã “nghỉ ngơi” rất tốt.

Bá quan văn võ Lô Châu mặc thường phục, dáng vẻ có chút e ngại đang đứng ngoài cửa phủ, Dương Hạo trông thấy bọn liền tiến tới cùng họ bộ hành hướng về phía khai bảo thiền viện, được xây dựng trên ngọn tháp cao nhất của Lô Châu.

Dương Hạo biết người hôm nay gặp chính là lãnh tụ tông giáo, người có đức cao vọng trọng. Ở vùng Tây Bắc thế lực tông giáo rất mạnh, bọn họ dựa vào chính quyền vì thế việc truyền bá tông giáo rất thuận lợi, đồng thời có thể sử dụng khả năng kêu gọi sự ủng hộ của vô số tín chúng cho công việc chính quyền.

Ở Tây Bắc thế lực tông giáo tuy không bằng của cơ đốc giáo ở phương Tây là có thể vượt qua hoàng quyền nhưng về lực lượng thì ngang bằng nhau. Nếu có được sự nhìn nhận của bọn thì có được lòng dân Tây Bắc, xây dựng căn cứ ở Tạp Hồ. Nhiều dân tộc và thế lực muốn tập trung họ lại nhưng bất kể dựa vào vũ lực hay là cùng chung một mục đích thì đều không thực hiện được điều đó nhưng tôn giáo thì có thể. Đây là ngày thứ hai Dương Hạo về tới Lô Châu. Vì vẫn chưa xây dựng nha khai phủ nên hắn đã đi bái kiến Đạt Thố Hoạt Phật trước. 

Quyển 10: Tây Bắc lang yên

Chương 413 (C 6): Thời thế tạo anh hùng (1).

Dương Hạo xuống xe bộ hành lên núi.khi cách ngọc tháp không xa, hắn mở to mắt vô cùng ngạc nhiên.trước đó hắn đã từng được nghe qua việc ngọc tháp được xây dựng lại thành một ngôi miếu nhưng không thể ngờ rằng nó lại to lớn như thế.

Trước kia khi lấy danh nghĩa tu bổ lại ngọn tháp, Dương Hạo làm công trình thổ mộc đã san bằng đỉnh núi, bây giờ nhìn lại cả đỉnh núi đã được san bằng thành sân sau của ngôi miếu, nhiều công trình lộng lẫy, nguy nga được xây dựng sát dựa váo núi. Nhìn từ xa sau núi giống như có rất nhiều ngôi miếu nhỏ, tại đây vẫn đang thi công liên tục. Vì phải làm công trình thổ mộc nên khó tránh cậu của Đường Diễm Diễm là Lý Ngọc Xương ở đây mà rất khó gặp.Thì ra ngọc tháp ở trung tâm đỉnh núi đã trở thành hậu viện ngôi đền.

Phạm Tư Kỳ nói : “Đại nhân, phủ đệ của hoạt phật gọi là nang khiêm. Các nang khiêm này căn cứ vào vị trí cao thấp của hoạt phật mà chia thành to nhỏ khác nhau; còn phải tính toán xem giáo đồ nhiều hay ít, của cải vật chất có dư dật hay không. Nang khiêm lớn nhất vốn ở trong Thổ Phồn cảnh, nhưng ở đây chiến tranh xảy ra liên tục, ngay cả nang khiêm của hoạt phật cũng bị tàn phá, đợi ngôi miếu sau núi xây xong thì nang khiêm Lô Châu của ta sẽ là ngôi chùa lớn nhất ở vùng Tây Bắc này.

Dương Hạo mỉm cười gật đầu nói: “Kế này thật hay, cao tăng phật môn vốn không ham tiền tài tửu sắc, lại lấy việc truyền bá kinh đạo làm nhiệm vụ chính, vô cùng coi trọng danh tiếng。 Những việc này chắc chắn sẽ tốn nhiều tiền của nếu không thì Hoạt Phật đã không phải dời nhà như vậy. Việc xây dựng ngôi chùa mật tông lớn nhất thiên hạ đã biến Lô Châu trở thành vùng đất thánh phật giáo, thu hút vô số tín đồ quy tâm, chỗ tiền này bỏ ra cũng rất đáng.”

Phạm Tư Kỳ cười nói: “Lô Châu chúng ta cũng không phải đóng góp gì nhiều, khi tin sắp xây dựng ngôi chùa lớn nhất được truyền đi thì lão bá tánh Hồi Hất, Thổ phồn và vùng quản hạt khương Trại lần lượt tới cúng tiến. Họ nói chỉ là quyên chút ít dầu hương cúng tiến lên hoạt phật, để cầu mong được hưởng phú quý thái bình.bây giờ họ quyên góp toàn bộ, đặt hết hy vọng lên Lô Châu chúng ta dùng kim quang bảo vệ của phật giáo để che trở cho hàng vạn tín đồ. Hai năm trở lại đây, Lô Châu với Tạp Hồ Chư Khương luôn bình yên không có chiến loạn, một mặt là do trước đây đại nhân đã dùng tâm huyết để tạo lập binh uy, sau đó Lô Châu lại diễn tập binh võ uy hiếp Thổ Phồn và nguyên nhân nữa chính là sự việc trên.”

Dương Hạo nhớn lông mày nói: “Kế sách thật lợi hại, ta đã biến Lô Châu trở thành một trung tâm thương nghiệp của tam phiên, thương nhân từ khắp nơi đổ về họ đã biến Lô Châu trở thành thành thánh. Vùng Tây Bắc của nhất thể chính giáo nhanh chóng tạo lập được địa vị thống trị to lớn. Hây! Lẽ nào lại là chủ ý của hắn ta”. Hắn ta vẫn chưa lộ diện mà, rốt cuộc còn chịu đựng đến lúc nào đây?”

“Ngươi không xuất hiện nhưng hãy để xem ai hơn ai.” Dương hạo mỉm cười.

Lúc này Thái Nhiên nói: “Vào thôi, chúng ta vào lễ phật”

Nang khiêm của Đạt thố Hoạt phật được chia ra là thượng viện , trung viện và hạ viện, quy mô rất lớn đẹp lộng lẫy. Chỉ ở thượng viện đã có tam tiến viện lạc, điện vũ thì vô số. Dương Hạo vừa bước vào thượng viện đã được một vị thượng sư đứng ở đó từ lâu dẫn đường theo lối đi giữa hai bên tường của cung điện hướng về phía hậu viện, còn các vị quan viên vẫn đứng ở bên ngoài cửa núi đợi.

ở chính giữa hậu viện của chính điện cung Ung Đức là con đường thông ra phía trung viện , trái phải mỗ bên đều có hai khoa viện, giữa mỗi khoa viện đều có một lầu gỗ hai tầng, phía bên trái của khoa viện là Hạ Giang của Hoạt Phật, phía bên phải là đông cung của người. Tùy thuộc vào thời tiết các mùa hạ đông mà ở những nơi khác nhau.

Vị thượng sư đó dẫn Dương Hạo leo lên lầu bên trái, bước vào phòng chính của lầu hai chỉ thấy trong phòng bầy đầy những bức bình phong được chạm khắc bằng gỗ cây thanh đàn, trên bình phong vẽ nhiều hình họa về câu chuyện phật giáo, còn có ghế ngồi, cơ án làm bằng gỗ cây thanh đàn và gỗ hoa lê. Một người đã già mặc tăng y màu đỏ đang ngồi phia sau cơ án, nhìn dáng vẻ đã ngoài lục tuần, thân hình cao lớn, mặt mũi hồng hào, nhìn thấy Dương Hạo đi vào liền mỉm cười đưa tay ra vẫy rồi nói: “Thái úy , mời ngồi’

Dương Hạo hành lễ sau đó ngồi xuống chỗ dành cho khách, vị thượng sư hành lễ với Hoạt Phật, cúi lạy rồi từ từ lui ra ngoài. Một người rón rén bước vào, bưng hai ly trà mời Hoạt Phật và Dương Hạo, rồi lại nhẹ nhàng đi ra.

Đạt Thố Hoạt Phật mở cửa nhìn về phía núi rồi nói: “Bổn tọa từ khi chủ trì ngọc tự đã nghe danh tháu úy từ lâu, hôm nay lần đầu gặp mặt mà có cảm giác như đã quen từ lâu. Từ trước tới nay Tây Bắc chiến sự liên miên không thể sinh sống ổn định như chiến tranh giữa Thổ Phồn với Hồi Hất, giữa Thổ Phồn, Hồi Hất với Đảng Hạng, giữa Đảng Hạng với Đảng Hạng rồi giữa Phủ Châu với Lân Châu cứ liên tiếp không ngừng khiến lão bá tánh lưu lạc không chốn nương thân, người xuất gia như chúng ta thực không thể yên lòng. Bổn tọa hưởng hương hỏa của lão bá tánh,s ao có thể chịu được cảnh lão bá tánh Tây Bắc rơi vào biển khổ như vậy. Thái úy có lòng từ bi hãy lấy đại uy đức của mình để thống nhất tây vực , bình định chiến loạn. Bổn tọa muốn biết nếu có một ngày thái úy trở thành quân chủ các dân tộc tây bắc thì thái úy sẽ làm gì?’

Dương Hạo lúc này hơi bối rối nhưng nhanh chóng lấy lại tinh thần nói: “nếu các bộ tộc tây bắc có thể thống nhất đươc, diệt trừ được chiến loạn thì lão bá tánh ắt có thể an cư lạc nghiệp.Đây chính là công đức vô thượng. Hoạt Phật với công đức to lớn của người cùng với sự tương trợ của bản quan chắc chắn Tây Bắc sẽ trở thành vùng Tây vực của Hoạt Phật, thống nhất mật giáo, càng tạo điều kiện cho việc truyền bá phật pháp, lúc đó hoạt phật có tấm lòng từ bi, tín đồ khắp thiên hạ sẽ chịu ơn huệ to lớn của người.

Ánh mắt Hoạt Phật vẫn mở nhỏ không hề thay đổi sắc thái.

Khi đó mật giáo thịnh hành khắp thiên hạ, Giang Nam Lý Dục cũng rất sung bái mật giáo, hắn ta mỗi hôm sau khi bế triều đều cùng tiểu chu hậu thay tăng y, lấy đồ để lễ bái phật. Ngô Việt Quốc Vương cũng cho xây dựng đạo trường, mời đại sư mật giáo vào ở. Trong biên giới Tống quốc có không ít cao tăng mật giáo, Tống quốc vẫn thực hiện theo lễ cũ của nhà Đường để thưởng cho cao tăng mật giáo cửu đỉnh đức cao vọng trọng; còn ở Khiết Đan và vùng Tây Bắc thì việc truyền bá đạo giáo lại càng không cần phải nói đến, có điều tín đồ mật giáo lực lượng rất lớn nhưng liên kết lại rời rạc. Lúc này lãnh tụ của mật giáo là các Hoạt Phật, giữa những Hoạt Phật này không có phụ thuộc gì, giới quy giới luật, phật pháp mật tông cũng có sự khác nhau, nếu có thể trở thành hoạt phật thống nhất mật tông, điều đó đối với một tăng nhân mà nói thì đó quả là công đức và vinh dự vô cùng to lớn, nhưng điều đó cũng không hề khiến Đạt Thố Hoạt Phật động lòng.

Dương Hạo lại nói : “Nếu bản quan có thể thống nhất tây vực, sẽ ủng hộ hoạt phật phát triển phật pháp, bổn quan sẽ cho xây dựng kinh dịch viện để dịch mật kinh, xuất bản kinh trường,khiến người dân ai nấy đều nhất loạt tôn trọng mật tăng,tạo điều kiện thuận lợi nhất để truyền bá đạo giáo. Nhưng nay vì chiến loạn, vấn đề về lương thực vẫn là quan trọng nhất nên việc truyền bá đạo giáo gặp nhiều khó khăn, nếu có thể thống nhất tây bắc, bổn quan sẽ chú trọng mở rộng phát triển thương nghiệp. Khi đó mật giáo trung thổ ta sẽ theo con đường này mà truyền bá sang tây phương, phát triển khắp thiên hạ, không biết hoạt phật thấy thế nào?”

Đạt Thố Hoạt Phật nét mặt có chút thay đổi, ông nhắm mắt lại một lúc rồi mở ra mỉm cười nói: “Thái úy có chí nguyện to lớn, nhưng đạo giáo chúng ta chỉ tôn đạo pháp mahagiala, mãkhabala.

Thần hộ pháp tối cao của mật tông là Đại Hắc Thiên,đó cũng là mahagiala , mãkhagiala.Mật giáo thấy rằng hắn ta chính là phần phẫn lộ trong tâm từ bi được hóa sinh từ chữ “kiện” trong lục tự chân ngôn trong tâm quan thế âm bồ tát. ánh sáng xanh đen bao quanh cơ thể trông rất đáng sợ vì vậy gọi là Đại Hắc Thiên. Hắn ta là người được kính trọng nhất trong số những thần hộ pháp của mật giáo. Hình tượng tuy rất hung dữ nhưng là tam bảo để bảo vệ ngũ chúng. Theo truyền thuyết nếu cúng tế vị thần này sẽ có được thêm uy đức , hành sự thuận lợi, đồng thời hắn ta còn là thần thi phúc có thể mang lại phú quý cho thế gian, thậm chí là cả quan vị và bổng lộc…

Đạt Thố Hoạt Phật đã gọi hắn ta là Đại Hắc Thiên vì thứ nhất hắn ta là thần hộ pháp,thứ 2 nếu cúng tế vị thần này sẽ có được uy đức , làm ăn thuận lợi, thứ 3 là vị thần này có thể mang lại phú quý , quan vị và bổng lộc cho thế gian.

Đáng tiếc là Dương Hạo chỉ hiểu được một phần ba trong số những gi hắn ta nói chỉ hiểu được chí tôn hộ pháp. Biết được mình đã có được sự chấp nhận của Hoạt Phật, lấy đó làm điều kiện để xây dựng mối quan hệ đồng minh giữa hai người. Hắn nói :“Dương Hạo nguyện cùng với Hoạt Phật cùng tôn cùng vinh xây dựng đại nghiệp”

Hoạt Phật mỉm cười bưng ly trà lên :“Thái úy, mời”

Hoạt Phật là chủ trì của tự, vì vậy về y, thực hay lễ nghĩa nghênh tiếp hàng ngày cũng đều rất nghiêm. Hoạt Phật thăng tọa cũng là một sự kiện vô cùng quan trọng. Khi tiếng hiệu trống chiêng vang lên thì các tín đồ đang tập trung trong đại điện lập tức yên lặng, bọn họ đến từ nhiều nơi khác nhau với đây để bái phật. Có thể đứng ở đây vào thời khắc này đều là những nhân vật có máu mặt, nhưng ở đây họ chỉ là những tín đồ trung thành; tiếng chiêng vừa vang lên thì đều thành tâm nhất loạt quỳ xuống.

Dương Hạo lại ra trước cửa cung Ung Đức, được thượng sư dẫn đường hướng về phía thượng viện, bước vào chính điện cung Ung Đức, ở giữa chính điện là một bảo tọa cao 3 thước rộng 4 thước, toàn bộ đều làm bằng đồng vàng; 4 mặt đều có 9 con rồng vàng, bên trên đều trạm rất nhiều hoa , rồng, sư tử bằng bạc; trên tọa có trưng bày pháp y, pháp khí bên phải , trái của bảo tọa đều có những cây cột lớn bên trên có khắc 4 con rồng vàng, phía dưới là 8 con sư tử bằng đồng trông giống như thật. Trên điện có treo bộ đèn màu kích thước to nhỏ khác nhau, lung linh huyền ảo, bốn bên đều treo tranh thêu nhiều màu sắc, tổng có khoảng hơn 200 pho tượng phật bằng đồng vàng, phong cách có khác biệt với phật giáo đại thừa trung nguyên.

Đạt Thố Hoạt Phật, đội ngũ tăng, mặc y tăng ngồi trên bảo tọa, nhìn về phía Dương Hạo. Dương Hạo không đợi người chỉ dẫn liền bước lên dọc 6 chữ nguyền rủa Đại Minh.

Đạt Thố Hoạt Phật ngồi trên bảo tọa thân thái vững trãi như núi. Dương Hạo bước tới trước mặt, chắp tay cúi lưng quì xuống bái lạy Hoạt Phật 3 lễ.

Mộc Vũ lúc này đang đứng trước cửa điện, nhìn thấy như vậy 2 bên lông mày đang cong hình kiếm bỗng thẳng ra, giơ tay rút đao, Diệp Đại Thiếu đứng bên cạnh nhìn thấy vậy liền giữ chặt tay hắn nói nhẹ :“Người muốn làm gì vậy?”.

Mộc Vũ từ trước tới nay đền ở bên cạnh Dương Hạo, đặc biệt tối qua Dương Hạo còn tha cho tỉ tỉ và tỉ phu của hắn ta, không những không phạt tội cũng không tước đi binh quyền, Mộc Vũ vô cùng cảm kích xem hắn ta như cha mẹ của mình vậy.Nhìn đại nhân phải hành lễ trước hòa thượng Tây vực thấy vô cùng tức giận, mặt đỏ tưng bừng, phẫn nộ nói :“Con lừa hói này vô lễ, đại nhân của chúng ta là Tiết độ Hằng Sơn, là thái úy đương triều, đến ngay cả khi gặp hoàng thượng cũng không cần phải hành lễ như vậy. Đại nhân bái hắn ta thì hắn cũng phải bái lạy đại nhân, đằng này lại ngông ngênh nhận của đại nhân ta 3 lễ, để ta đi lấy cái đầu chó của hắn, xem hắn còn dám ngông ngênh như vậy không.”

Chương 413 (C 6): Thời thế tạo anh hùng (2).

Bích Túc ăn vận gọn gàng đang đứng ở bên cạnh nói :“ Người đại nhân bái lạy không phải là hắn”

Mục Vũ hỏi lại :“Thế là thế nào?”

Mộc Bằng Vũ từ từ nói :“Đại nhân bái lạy phật có quyền thế trí cao vô thượng, là tấm lòng của mấy mươi vận lão bá tánh Hồi Hất, Thổ phồn, Hán, Khương Tây Bắc”

Mục Vũ không hiểu được hết, chỉ hiểu rằng đại nhân làm như vậy là có dụng ý, chắc không phải chịu thiệt, vì thế dần dần nuốt cơn tức và cất dao đi.

Dương Hạo hành lễ xong đứng dậy, lập tức có người dâng lên Cáp Đạt. Dương Hạo đưa hai tay ra nhận lấy, đưa lên qua đỉnh đầu rồi cúi lưng xuống đi về phía Đạt Thố Hoạt Phật.

Khuôn mặt vốn gầy guộc của Hoạt Phật lúc này mới hơi tươi tỉnh, người đưa tay ra nhận Cáp Đạt mà Dương Hạo dâng lên rồi đứng dậy. Từ bên trái bảo tọa bước xuống năm bậc, từ từ tiến về phía Dương Hạo, hai tay bê Cáp Đạt đưa lại cho Dương Hạo.

Dương Hạo sớm biết lễ nghĩa liền cúi xuống nhận lễ, tiếp nhận Cáp Đạt. Hoạt Phật để Cáp Đạt lên trên cổ Dương Hạo, cười nói :“ Đi theo ta”. Nói xong Hoạt Phật liền quay người về phía bảo tọa, Dương Hạo chắp hai tay từng bước từng bước theo sau. Chúng cao tăng thượng sư trong điện và quan lại ở Lô Châu đều vô cùng kinh ngạc, còn nhiều tín đồ thì càng lo sợ hơn không biết vì sao, chỉ thấy hai người vai sát vai ngồi trên bảo tọa, Đạt Thố Hoạt Phật liền hướng về phía cao tăng tín đồ nói :“Bổn tọa nhận thấy, Dương thái úy tài vật vô số, chuẩn thế linh thần, giáo pháp ta chỉ tôn hộ pháp Mahagiala, Maxkhabala phổ độ chúng sinh, cứu thế hồng trần. Tính phật căn linh không mất đi, tìm tới trước xa giá của bổn tọa khiến bổn tọa nhận Dương thái úy làm môn đồ, tự hiệu là Cụ Bá , chỉ là hộ pháp phủ đỉnh khai chí, chỉ ra những sai lầm. Bổn tọa tu luyện là lai thể pháp, còn Dương thái úy tu luyện là thần gian pháp có thể nói là khác đường đi nhưng cùng chung một đích. Đó đều là phật pháp vô thượng, tu hành thành quả, không cao không thấp, có thể coi là thượng sư của nhau không phải hành lễ đệ tử” 

Dưới điện bỗng ồn ào

“Cương kim cống bảo quả nhiên là cương kim cống bảo chuyển thế linh”

“makhagiala...”

“makhabala...”

“Hoạt Phật Tây Vực ta có đến hơn trăm người, cương kim cống bảo chuyển thế linh thân chỉ tìm đến Đạt Thố Hoạt Phật để học hỏi mở mang trí tuệ, quả nhiên Đạt Thố Hoạt Phật thần thông quảng đại, đaọ hành thâm hậu”

Thượng sư cao tăng, tín đồ khắp nơi đều lần lượt bái lạy. Phạm Tư Kì, Lâm Bằng Vũ cùng nhiều người khác thở phào nhẹ nhõm cũng cúi xuống bái lễ

Tin Dương Hạo Lô Châu là kim cương cống bảo chuyển thế được truyền đi như gió. Có tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn. Chẳng bao lâu Lô Châu đã là một nơi vô cùng quan trọng trong lòng hàng vạn lão bá tánh Tây Bắc. Điều này có tác dụng to lớn đối với việc nâng cao vị thế chính trị của Lô Châu.

Dương Hạo đã giành được cái khó giành nhất của đất Tạp Hồ Tây Bắc này, đó là lòng dân. Nhưng cũng không thể phá vỡ cái cơ sở không tốt để đưa mật giáo vượt lên trên chính quyền, phải tranh thủ khi lực lượng của mật giáo đang hùng hậu mạnh mẽ, nhưng Hoạt Phật mật tông không có cách nào để thống nhất chế ngự được lực lượng to lớn như vậy. Vì thế nhu cầu cấp thiết là phải có được sự ủng hộ mạnh mẽ của chính quyền, cùng tạo dựng đồng minh với Đạt Thố Hoạt Phật, chính quyền và giáo quyền cần có sự tách biệt rõ ràng. Lợi dụng uy thế đó trong khi lòng người vẫn đang ủng hộ, nha phủ Lô Châu lại được thăng cấp đã cho xây dựng Tiết Lập phủ.

Công Tôn Khánh được mời ra nghe tuyên đọc chiếu mệnh ban thưởng hai tinh nhị tiết, có được tinh tiết này là có được chuyên quyền quân sự. Phía trước nha phủ dựng lên lục cán đai mâu, ở phía Tây lại dựng Bạch Hổ tiết đường uy thế rất hùng mạnh.

Tiết độ sứ tập trung quân, dân, tài ba quyền chính trong tay, toàn quyền nắm giữ bộ hạ. Có thể điều động binh lính bất cứ lúc nào không cần đến lệnh của triều đình. Trong nội hạt có thể nhận được cung ứng về tiền của và lương thực, khống chế thuế. Vốn dĩ những việc này thuộc về quản lí dân sự mà chính phủ trung ương nhận mệnh, quan lại tài chính vì thế trở thành người dưới quyền mà hắn có thể tự bổ nhiệm. Tiết độ sứ chỉ nắm binh quyền điều đó không đáng sợ, vấn đề quan trọng là hắn ta có thể khống chế được dân chính và tài chính của cả nội hạt. Chính hai điều này đã giúp tiết độ sứ nắm chắc được binh quyền, có thể không ngừng mở rộng quân binh 

Từ khi thái tổ kế vị để cắt bổ đi quyền vây binh và nhiều tệ nạn khác đã sử dụng nhiều chính sách linh hoạt để làm giảm đi quân quyền, chính quyền, tài quyền của tiết độ sứ. Càn Đức năm thứ 3 Triệu Khuông Dận hạ lệnh tăng cường quyền lực cho chuyển vận sứ, tiền thuế thu được ở các địa phương ngoài việc sử dụng cho quân phí hằng ngày thì toàn bộ đều chuyển về trung ương, tước bỏ đi quyền tự sử lí tiền thuế của tiết độ sứ. Cũng trong năm đó lệnh cho Châu phủ phải phái hết tinh binh lên trung ương giảm bớt binh quyền ở địa phương. 

Sau khi bình định Kinh Hồ người đã hạ lệnh các châu phủ Kinh Hồ thuộc về triều đình chứ không thuộc về tiết độ sứ nữa, đồng thời rất nhiều quan lại được bổ nhiệm khiến tiết độ sứ không được phái ra ngoài mà chỉ ở lại kinh sư hoặc giả có được phái ra ngoài thì cũng chỉ ở những vùng nội hạt, những địa phương lân cận thuộc về triều đình hay những nơi mà Triệu Khuông Dận có quyền uy tối cao mà thôi. Vì thế tiết độ ở các địa phương ắt sẽ không dám lạm quyền. Phương pháp tập quyền mà Triệu Khuông Dận sử dụng rất ôn hòa và tiệm tiến.

Trên danh nghĩa thì tiết độ sứ vẫn giữ quyền lực rất lớn, chỉ có điều bọn họ sẽ không có cơ hội để thực sự được nắm giữ quyền lực này, tiết độ sứ cuối cùng trở thành hư danh. Trên danh vận cũng không còn nắm quyền lực về quân, chính, tài quyền nữa.

Sau khi Triệu Quang Nghĩa kế vị tròn một năm hạ lệnh tất cả quân binh và thuộc hạ của tiết độ sứ đều thuộc về triều đình lấy thần triều bổ nhiệm tri châu tri phủ.

Giờ đây Dương Hạo đã dành được phần lớn ưu thế Lô Châu cách Lân Châu hai châu, trời ở trên cao, hoàng đế thì ở xa, lại không chịu sự quản chế của bất kì châu phủ nào, vì thế có thể nắm giữ được quyền lực trên cả thực tế và danh nghĩa. Chiến loạn khắp nơi, trong thời thế loạn lạc, anh hùng xuất hiện khắp tứ phương. Trong đó có Thảo Đầu Vương, hắn ta là tiết độ một phương cũng là hoàng đế trên nước đó rồi.

Quan lại của tiết độ sứ có phó sứ, chi sứ, hành quân tư mã, phán quan, thôi quan...Tướng tá gồm: át nha, ngu hầu, binh mã sứ, tiết độ sứ, phó đại sứ biết rõ từng người tiết độ sự, hành quân tư mã, phán quan, chi sứ, thôi quan, tuần quan, nha chùy.Tiết độ phó sứ có mười người, quán dịch tuần quan bốn người, phủ viện pháp trực quan, yếu tịch, trục yếu thân sự mỗi chức vụ một người, tùy quân bốn người.

Về căn bản Triệu Quang Nghĩa chưa thực hiện kế hoạch để Dương Hạo sống sót trở về Tây Bắc. Vì vậy hắn ta không những khảng khái rộng lượng mà ngay cả quan sát sứ, chi độ sứ cũng không hề phái đi chỉ là trên chiếu thư nói một câu do hắn ta biết phủ châu sự. Lúc này Dương Hạo có thể chọn ra một tiết độ sứ trong số những thuộc hạ của mình, nhưng vì vừa mới nhận chức nên không dám lạm quyền chỉ có thể xin chỉ thị từ triều đình. Dương Hạo lần này trở về không muốn chịu sự khống chế của Triệu Quang Nghĩa nữa mà tự mình kiêm quan sát sứ và chỉ độ sứ, lại lập doanh điền, chiêu quá, khiển vận phán quan, tuần quan mỗi chức một người. Lúc này trên danh phận lẫn luật pháp hắn ta đều hợp lí để nắm toàn bộ đại quyền của đất Lô Châu trong tay, trên địa vị ngang bằng với Triết thị ở phủ châu, Dương thị ở Lân Châu, Lí thị ở Hạ Châu trấn giữ một phương.

Dương Hạo giành được tiên cơ, đoàng hoàng trở thành tiết soái, thuộc hạ đều có định chế, nhưng từ đó quan lại thuộc hạ của hắn ta có hạn. Từ một phủ nha đã có thể trở thành một tiết trấn, rất nhiều chức quan vẫn còn trống nhưng Dương Hạo không vội bổ sung thêm, chi bằng cứ để trống một số chức quan, Lô Châu bé như vậy cũng không cần quá nhiều quan lại. Tiếp đó hắn ta tạo dựng thế lực mạnh hơn nữa cho đến khi có được Ngân Châu có thế ngang bằng với Tây Bắc tam phiên, có những chức quan trống như thế này còn sợ gì tướng sĩ không tận tâm tận lực.

Còn Công Tôn Khánh vì đã hết giá trị lợi dụng nên Dương Hạo đã sai trở về Dịch Châu tiếp nhận tướng ngu hầu phò tá quan trùy Mộc Tắc phu. Lần này từ Phan về kinh , thiên uy của hắn ta khó có thể đoán trước được. Nhưng Công Tôn Quyền vốn là thư sinh bất lực phản kháng, gia tộc lại ở Biện Lương cũng không dám phản kháng chỉ biết lấy đầu ra để tiếp nhận, số mệnh không thể đoán trước được. 

Còn Dương Hạo từ khi là cương kim cống bảo chuyển thế linh thân, makhagiala hộ pháp tái thế, tiết độ Hằng Sơn tiến hành khai nha kiếm phủ tập trung vào quyền thế, tiếp tục nghênh tiếp hắn ta còn có phủ cốc Chiết Ngự Huân, Lân Châu Dương Sùng đích thân đến Lô Châu bái kiến chúc mừng. Hai vị tiết độ sứ này chỉ tới đất Minh thôi đã làm cho 4 phương phải chấn động, Tây Bắc vốn có tam thuộc quốc giờ lại có thêm một Dương Hạo nữa. Dương Hạo vừa khai nha kiếm phủ thì trong số tam thuộc quốc đã có hai vị đích thân đến để chúc mừng, điều đó có ý nghĩa gì? Điều đó cho thấy chỉ trong một thời gian ngắn Dương Hạo đã định vị được địa vị của mình ở Tây Bắc, tin tức này đã nhanh chóng được truyền tới Hạ Châu và Biện Lương. Triệu Quang Nghĩa ở Biện Lương không biết sẽ cảm thấy chấn động như thế nào, ít nhất đối với Hạ Châu bốn bề đều là địch mà nói thì Dương Hạo bỗng nhiên nổi lên như thế cũng chẳng phải tốt lành gì

Tới hội kiến Dương Hạo còn có tiết độ hai châu, Lân Phủ, Thất thị Đảng Hạng cũng bí mật phái tín sứ đến, Đạt Thố Hoạt Phật còn phái đệ tử là Xích Bang Tùng tặng Dương Hạo lễ vật lớn. Xích Bang Tùng là người đứng đầu bộ lạc lớn nhất trong số những bộ lạc ở Thổ Phồn, Thổ Phồn ngày nay đã khác xa nhiều với khi xưa rồi nhưng rải rác trở thành nhiều bộ lạc riêng rẽ với nhau, võ lực của họ vẫn rất mạnh.

Còn người đã lâu chưa lộ mặt Đinh Thừa Tông khi đó cũng mang 2 món lễ vật bí mật, xuất hiện ở Lỗ Vĩ cách phủ Lô Châu đến trăm dặm.

Chương 414 (C 7): Lễ vật (1).

Trong Bạch Hổ tiết đường vô cùng đông đúc, quan văn có Phạm Tư Kì, Lâm Bằng Vũ; quan võ có Lý Quang Sầm, Mộc Ân, Mục Qùy, Kha Trấn Ác. Hôm nay là lần đầu tiên Dương Hạo lấy tư cách tiết độ sứ để triệu tập binh tướng, Lý Quang Sầm dù thế nào cũng phải thể hiện vai trò tiết độ phó cho nên đã gắng gượng để đến, trên người còn khoác bộ giáp trụ, có điều do cơ thể đang bị suy nhược nên Dương Hạo đặc cách ban cho được ngồi.

Phủ Châu Chiết Ngự Huân, Lân Châu Dương Tông Huấn cũng đến cùng nhau. Hôm nay triệu tập tướng sĩ, vừa là lần đầu từ khi Dương Hạo nhận lệnh đến xây dựng phủ nha các quan lại đến tấn kiến, cũng là để thuận tiện trong việc nghênh đón hai vị chư hầu hùng bá hai phương ấy.

Vừa mới sáng sớm tinh mơ, nghe tiếng trống thăng đường, mọi người liền vội lần lượt đứng dậy, sau khi gặp chủ soái, không khí náo nhiệt mới dần dần yên tĩnh trở lại. Lâm Bằng Vũ vui mừng nói: “Lô Châu là vùng đất nổi dậy từ tứ chiến Tây Bắc, thương nhân các phương đến buôn bán đều được hoan nghênh chào đón, lại nhận được sự giúp đỡ của hai châu Lân phủ, các tầng lớp sĩ, nông, công, thương dần dần xuất hiện, chỉ trong hai năm đã có được cục diện như ngày hôm nay. Việc tiết độ sứ thăng chức...theo suy đoán, chắc chắn sẽ được ủng hộ. Xây dựng nha phủ, lấy song tinh song tiết để trở thành tiết độ sứ của triều đình, lại còn đảm nhiệm chức mật tông hộ giáo pháp quan. Trong chốc lát được lòng nhân dân Tây Bắc, thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều đủ cả. Lão già cổ hủ này khi theo tiết soái đến nơi này, quả thực không nghĩ đến sẽ có ngày hôm nay. Tiết soái sau này có dự định gì, nhân lúc bá quan văn võ đều có mặt ở đây, xin tiết soái cứ nói với mọi người”.

Lão quan hôm nay có chút xúc động, lão cũng từng trải qua thời thanh niên, cũng có năm tháng chỉ tay định giang sơn, chí hướng bay bổng, chỉ là do sinh ra không gặp thời, không có được cơ hội như thế, cũng chẳng có được bản lĩnh như thế, chí lớn vì đó cũng dần dần bị mai một, tuy đã giữ một chức quan nhỏ nhưng cũng không còn tham vọng lớn như trước nữa. Thật sự không ngờ rằng đến tuổi xế chiều lại có cơ hội gặp được một vị minh chủ, gây dựng bá nghiệp một phương, cũng coi như ở nơi hẻo lánh Tây Bắc này, tuy không tránh khỏi việc thân phận nhỏ bé một chút nhưng nam tử hán, thà làm ngọc vỡ còn hơn làm ngói lành, đây cũng là một phần giang sơn gấm vóc, ai lại không muốn trở thành khai quốc công thần, lưu danh thiên cổ chứ.

Văn võ bá quan cũng đều có chung suy nghĩ với ông, tuy hiện giờ họ đều biết Lô Châu vẫn cần tiếp tục giương lá cờ nước Tống làm những việc chỉ có thể biết để mà làm chứ không thể nói rõ, nhưng mọi người vẫn nuôi hi vọng Dương Hạo có thể đem chí hướng của họ đến với bách tính trăm họ, rốt cục, suy cho cùng đây cũng chỉ là suy nghĩ nông cạn của bản thân, chỉ có thể giữ trong lòng, vì người mà họ dốc sức phù trợ nếu không cùng chung chí hướng thì trong lòng họ cũng có chút không thỏa đáng

Dương Hạo vốn là vị quan lên trên ngựa nắm tài thao lược điều binh khiển tướng, xuống lưng ngựa hết lòng tận tụy chăm lo coi sóc nhân dân, thế nhưng khi khoác trên người bộ áo giáp oai phong đứng trong Bạch Hổ đường, tay cầm ấn soái, trong lòng cũng có chút thấp thỏm không yên. Lâm Bằng Ninh không ngờ sẽ có ngày hôm nay, lẽ nào hắn không có ngày như vậy? Hai năm trước, khi hắn nằm tranh luận trên đống cỏ khô trong phủ Đinh gia, mong ước của hắn cũng chỉ là sau này nhà có ba mẫu ruộng, một gian nhà ngói, lấy một người vợ, phụng dưỡng mẹ già, yên ổn sống qua ngày, vậy mà trong khi đó tên huynh đệ đáng chết ấy còn đang bối bối bứt rứt vì không biết giữa việc ngủ với phụ nữ và ăn thịt mỡ cái nào đáng để nói hơn, chẳng ai có thể ngờ được rằng, hai năm sau, con heo chỉ biết thịt mỡ thơm ấy lại trở thành tiểu bang chủ bang Biện Phong, lại có được một cô nương thông minh xinh đẹp, còn hắn, lẽ nào vẫn trông coi ấn phù, trở thành một tên chư hầu?

Đời người thật là khó đoán, thế nhưng đó cũng chính là sức mê hoặc của nó.

Dương Hạo khẳng khái nói: “Bổn soái vốn là một thường dân ở Bá châu , bị gian tế mưu hại nhờ trời phù hộ, may vẫn giữ được mạng sống, khi đầu quân cho triều đình, đã vô số lần vào sinh ra tử, tuy chẳng có tài cán gì nhưng được chư vị phù trợ, mới có được ngày hôm nay. Mẫu thân ta còn phải vì ta chịu liên lụy, lại thêm đau ốm mà chết. Ta hãy còn nhớ, khi chôn cất mẫu thân trên núi Kê Minh, ngay cả đến một chiếc quan tài gỗ cho người cũng không có”.

Trong mắt hắn lấp lánh những giọt nước mắt. Nhớ lại những kí ức đó khiến trong lòng hắn đau như bị đâm vào tim: “Khi Dương mỗ ra đi, đã từng thề với trời, lần li biệt đau khổ này nhất định phải đi lang bạt giang hồ, gây dựng sự nghiệp, làm nên được công trạng lớn rồi khi đó ta sẽ trở lại Bá châu, an táng mẫu thân tử tế”

Hắn cười nhạt rồi nói tiếp: “Khi đó Dương mỗ tuổi trẻ ngông cuồng, đã từng thề rằng, sau này sẽ sửa mộ xây lăng, xây cho mẫu thân một phần mộ thật lớn. Bây giờ nghĩ lại, chẳng qua cũng chỉ là những lời lẽ ngông cuồng trong cơn uất hận, khi đó Dương mỗ tài sản, địa vị đều bị tước đoạt, làm sao có thể nghĩ sẽ có được địa vị như ngày hôm nay, không biết chừng mẫu thân ta trên trời đã phù hộ cho ta trở thành một thống soái trấn giữ biên cương”.

Dương Hạo thở dài rồi nói tiếp: “Giờ đây ta đã là tiết độ sứ Lô Châu, được ăn bổng lộc triều đình, trấn giữ một phương, bảo vệ sự bình yên cho bách tính trăm họ . Vì tranh giành lợi lộc, Ngân châu đang bị quân phản loạn Khiết Đan chiếm đóng, nơi đó cũng chỉ cách Lô châu trong gang tấc, nếu để chúng đứng chắc chân, chiếm đánh xuống phía Nam, Lô châu của chúng ta cũng sẽ gặp nguy hiểm, bổn soái khai phủ giữ ấn là một việc lớn, chính là để liên minh với phủ Lân, trước tiên là loại trừ tận gốc quân địch ở Ngân châu, liên kết Lô Kiện với Ngân châu lại với nhau. Có như thế mới có thể đúng với danh nghĩa một tiết độ sứ Hoành Sơn.”

Văn võ quan lại nghe xong đều xôn xao, ai ai cũng đều vui mừng hớn hở, đại soái cần giương cao ngọn cờ đại Tống bảo vệ lãnh thổ và cuộc sống an bình cho nhân dân, chuẩn bị nâng cao thế lực sức mạnh của mình. Nếu có ngày tiết soái trở thành tiết sứ một vùng thì họ cũng được ra làm quan, có điều địa bàn khống chế thực chất rộng lớn từng nào? Chẳng qua chỉ là vùng Lô châu bốn bên toàn núi bao phủ cách biệt mà thôi. Chỉ có mở rộng lãnh thổ, không ngừng mở rộng địa bàn, khí thế, sức mạnh của họ mới ngày càng lớn mạnh. Ở nơi này chỉ có huấn luyện xây dựng quân đội mới có thể bảo đảm tiền đồ chắc chắn cho bọn họ, mũi tên này của Dương Hạo một khi đã bắn ra thì nhất định sẽ trúng.

“Đợi đến khi đã bình định được Ngân châu, bổn soái sẽ xây cho mẫu thân một phần mộ, đưa phần mộ của mẫu thân ta rời đến Lô châu này” Dương Hạo nói tiếp.

Quan lại nghe xong càng vui mừng, rời phần mộ của mẫu thân hắn đến Lô châu? Tiết độ sứ của nhà Tống cũng là một chức quan phải luân chuyển, hoàng đế điều đi thì không thể không đi, khi lên nhậm chức tất nhiên có thể đưa gia quyến theo cùng, nhưng chẳng có lí do gì để phải chuyển cả phần mộ của tổ tông theo. Dương Hạo muốn rời mộ mẫu thân đến đây, tâm ý chẳng phải đã rõ cả rồi sao? Hắn nhận chiếu đến nhưng sẽ không nhận chiếu rời đi, hắn coi Lô châu là nhà, coi đây là đất của tổ tông nhà hắn

Lâm Bằng Vũ học rộng hiểu nhiều vẫn cảm thấy có chỗ chưa được thỏa đáng...tiểu sinh nha thấy vậy bèn quyết truy hỏi đến cùng: “Điểm khác biệt của mộ phần với lăng, chùng đó là thứ bậc. Mộ là nơi an táng của bậc thánh nhân, chưa cần tính đến điều đó thì vẫn còn bốn quy tắc xây dựng mộ phần, trong đó phần là nơi an táng như dân thường. Tiết độ quyền cao chức trọng, theo quy tắc, lão phu nhân được hưởng chùng táng. Tiết độ đã có ý muốn di rời phần mộ cho lão phu nhân, xin hãy sớm thỉnh cầu với triều đình lệnh phong, bỉ chức phụ trách nội vụ Lô châu sẽ lập tức chọn nơi sông núi hữu tình an táng cho lão phu nhân”

Dương Hạo nói: “Sao có thể phiền đến Lâm đại nhân. Bổn soái sẽ tìm thời cơ đích thân về Bá châu để lo bốc mộ mẫu thân, còn về việc sau khi rời về Lô châu...” mắt Dương Hạo lóe lên ý nghĩ, chầm chậm nói tiếp: “Đợi khi xương cốt mẫu thân được chuyển về, tạm thời đem gửi vào Khai Bảo tự. Còn về quy định xây phần mộ thế nào sau đó sẽ bàn thêm vậy”

Là tướng đương triều, theo quy tắc mẫu thân thân sinh ra có thể xin lệnh phong, đây là một vinh dự, còn gì mà phải bàn bạc nữa? Lâm Bằng Vũ đã đưa ra ý kiến về việc phải xây chùng, hắn vẫn thoái thác không đồng ý, cũng không chịu xin triều đình lệnh phong. Vậy rốt cuộc hắn muốn xây cho thân mẫu mộ phần theo quy tắc gì?

Các quan lại nghe ra ý của hắn thì vui mừng không sao kể xiết nhưng phản ứng của những quan như Lâm Bằng Vũ, Tần Giang, Lô Vũ Hiên, Tịch Sơ Vân đã gặp phải sự ngáng trở phía trước: “Tiết độ sứ thân phận cao quý, luôn hết mình cho bá tánh Lô châu, không màng đến bản thân xông pha vào nơi nguy hiểm, việc này tiện chức có thể thay ngài lo liệu, tiết độ sứ không cần phải tự mình đứng ra”

Dương Hạo là trọng thần nhà Tống, hắn muốn xây mộ phần cho mẫu thân trong lãnh thổ Tống thì có gì là nguy hiểm? Chỉ câu nói này cũng đã vạch trần tâm địa của quan lại Lô châu rồi, chẳng qua ở đây đều là người tâm phúc, ngay cả đến một viên quan xuất thân từ triều đình cũng không có. Vô ý để lộ ra cũng chẳng cần phải lo lắng.

“Bốc mộ đương nhiên phải do con cháu đích thân lo liệu, ta không đi thì ai có thể đi thay? Chư vị yên tâm, bổn soái sẽ không khinh xuất hành sự. Việc này nhất định giải quyết chu toàn, cẩn thận xử lý” Dương Hạo nói

Hắn vừa nói đến đấy, có tiếng nói nhỏ ở cửa lễ đường: “Chu toàn thế nào thì cũng sẽ phải mạo hiểm, tiết soái là gốc rễ của Lô châu này, không thể rời đi dễ dàng, người ngoài cũng không thể làm thay, nhưng ta thì có thể”

Quan lại đưa mắt tìm kiếm xung quanh, hướng về phía cửa chờ đợi, Dương Hạo cũng ngạc nhiên ngẩng đầu lên, trên mặt tràn đầy sự hoài nghi. Chỉ thấy trước cửa xuất hiện hai người, trên mình đều mặc đồ tang. Người đứng ở đó dáng vẻ yêu kiều như hàn mai trong tuyết, đẹp mà thoát tục, chính là muội muội của hắn Đinh Ngọc Lạc. Còn người ngồi trên chiếc ghế gỗ có bánh xe kéo trước muội hắn chính là người đã lâu chưa xuất đầu lộ diện Đinh Thừa Tông.

Việc Đinh Ngọc Lạc trở về cũng vừa đúng với dự kiến của Dương Hạo , Ngụy vương Đức Thiệu lần đầu dẫn quân, trong quân không hề có vai trò thực sự của hắn, căn bản không thể chỉ huy binh hùng tướng mạnh, cho nên Dương Hạo cũng không cần phải làm gì để đối phó,chỉ cần trực tiếp tiến về phía Tây là được. Khi đó hắn đang cùng Công Tôn Khánh, Vương Ngọc Tài đấu pháp, Đinh Ngọc Lạc nếu giữ bên cạnh thì sẽ rất nguy hiểm, bèn nghĩ cách để mình tiểu muội trở về Lô châu, nhưng đúng lúc hắn nghĩ ra một việc quan trọng, do vậy bèn để Đinh Ngọc Lạc trở về Biện Lương một chuyến trước, xử lí ổn thỏa mọi việc rồi thì quay lại Lô châu. Dương Hạo sau khi về đến Lô châu thì không thấy Đinh Ngọc Lạc, vẫn cho rằng Đinh Ngọc Lạc chưa trở về, không ngờ muội ấy lại một mình một ngựa, nhanh chóng quay lại, không những đuổi lên phía trước mình mà còn xuất hiện cùng Đinh Thừa Tông.

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 10: Tây Bắc lang yên

Chương 414 (C 7): Lễ vật (2).

Đinh Ngọc Lạc chầm chậm đẩy chiếc ghế của Đinh Thừa Tông tiến vào bên trong, Đinh Thừa Tông ngồi trên ghế, trong lòng ôm chiếc hũ đá, cung kính nói: “Hiếu tử Thừa Tông, hiếu nữ Ngọc Lạc bình thành cổ lễ, đã bốc xương cốt mẫu thân rời đến Lô châu rồi” 

Đinh Ngọc Lạc hướng về phía Dương Hạo nói nhỏ: “Nhị ca, điều đại ca canh cánh trong lòng chính là chuyện di cốt của mẫu thân”

Dương Hạo rời khỏi soái đường, bước vội về phía trước. Hắn đi đến trước mặt Đinh Thừa Tông, nhìn như mất trí vào chiếc hũ đá mà Đinh Thừa Tông ôm bằng hai tay, nghĩ đến cuộc đời bất hạnh của mẫu thân, bỗng nhiên quỳ xuống, hai tay nhận chiếc hũ đá, than khóc không ngừng.

Trong hoa đình, Dương Hạo bình tĩnh đánh giá Đinh Thừa Tông.

Thành Tông bây giờ thật là thay đổi quá nhiều so với dáng vẻ trước đây, dường như phân đôi thành hai người vậy.

Đinh Thừa Tông khi trước tinh thần sáng suốt, uy nghi oai phong lẫm liệt, trong nhà mọi người từ trên xuống dưới đều có chút sợ hắn, là một vị thiếu chủ, huynh trưởng của Đinh gia, hắn đảm nhận những trọng trách lớn trong nhà, tính cách lại điềm tĩnh chín chắn khác với mọi người.

Đinh Thừa Tông sau nhiều đêm mê man bất tỉnh cuối cùng cũng tỉnh lại, tuy uy phong vẫn như trước song hai má trũng xuống, sắc mặt trắng bệch, giống như người bị bệnh nặng chỉ cần đẩy nhẹ đã lăn ra, vậy mà Đinh Thừa Tông ngày hôm nay, sức khỏe dần dần hồi phục, tuy đôi chân bị chặt đứt, chỉ có thể ngồi trên xe lăn, nhưng lưng vẫn vươn thẳng, khiến kẻ khác không thể xem thường. Chỉ có điều hắn đã già đi rất nhiều, mới hơn ba tuổi đầu, hai bên thái dương đã toàn là tóc bạc, dung mạo vẫn kiên nghị như trước, nhưng đôi lúc lộ ra những vết nhăn chứa đựng sự thăng trầm.

Đối với Đinh Thừa Tông, thì có liên quan đến thân thế của Dương Hạo rồi. Đinh Thừa Tông là con trưởng nhà họ Đinh, chỉ có hắn mới có quyền thừa nhận thân thế của Dương thị, đưa bà lên làm nhị phu nhân, thừa nhận bà là nữ chủ nhân của Đinh gia. Việc này đối với Dương Hạo tất nhiên có ý nghĩa quan trọng.

Thân là hộ giáo pháp vương của Cương Kim Công Bảo chuyển thế, Hoành sơn tiết độ sứ, thái úy đương triều, nếu là con riêng của một tì nữ, đối với hắn mà nói sẽ là vết dao chí mạng, tin tức một khi đã truyền ra ngoài, rất khó có thể giành được sự kính trọng của danh môn vọng tộc, con cháu thế gia ở Tây Bắc này, hơn nữa còn bị kẻ thù lợi dụng thân phận để đạt được mục đích của mình.

Từ cổ chí kim, những người đã lên làm hoàng đế đều phải hao tâm tổn chí, diệt khẩu... hung tổ tông cùng các vị thánh hiền đều có mối quan hệ nhất định, huống hồ Dương Hạo cần phải xây dựng nghiệp đồ, muốn thống trị những danh gia thị tộc tự cao tự đại đó thì xuất thân của hắn cho dù không vô cùng cao quý cũng nhất định phải nâng cao địa vị của mình bằng mọi cách, cho nên văn võ quan lại Lô châu đối với việc huynh đệ hắn vô cùng quan trọng.

Mấy vị ái thê của Dương Hạo cũng hết sức tán thành, việc Đinh Thừa Tông thanh toán hết sạch mọi ân oán thù hận với Dương Hạo họ đều để tâm. Đặc biệt là quan hệ qua lại giữa họ và tiểu muội nhà họ Đinh, Đinh Vương Ngọc rất tốt đẹp, một đứa trẻ khiến người khác phải động lòng thương như vậy đã cầu xin, Đông Nhi, Diễm Diễm sao có thể nỡ khiến huynh đệ Dương Hạo mất đi hòa khí, làm khó dễ cho Đinh muội, ngày ngày nước mắt đầm đìa.

Thực ra đối với Dương Hạo, cứ cho là không có đám Lâm Bằng Lâm thống thiết khẩn cầu, La Đông Nhi và mấy ái thê ca thán bên tai thì trong lòng hắn cũng đã sớm tiêu tan mọi hận thù. Chuyện thế gian, nhiều việc không thể theo ý mình, Dương Hạo đã có lĩnh hội sâu sắc. Đứng trên lập trường của Đinh Thừa Tông, đã không có người nào có thể làm tốt hơn được. Hôm nay hắn phong cho Dương thị là nhị phu nhân của Đinh gia, lấy thân phận là hiếu tử đi bốc mộ mẫu thân, trong thời đại vô cùng coi trọng hoàn cảnh xuất thân này, Đại thiếu gia Đinh gia đi tới bước đường này còn lí do gì để có thể trách cứ hắn đây?

Cởi bộ đồ tang ra khỏi người, bên trong là chiếc áo cà sa, Dương Hạo ngạc nhiên nhìn hắn, cuối cùng không nhịn nổi nữa bèn hỏi: “Ngươi xuất gia rồi sao?”

Đinh Thừa Tông cười nhạt mà nói: “Ta đã bái Phật Đạt Thố Hoạt làm thầy, theo người tu luyện Phật pháp, cho nên duyên trần đã hết, chư chính thức cạo đầu nên hiện giờ chỉ là một thiền sinh” (cư sĩ của mật giáo)

Dương Hạo nhất thời im lặng, lại hỏi: “Vương Lạc đã nói với ngươi về thân thế của ta?”

Đinh Thừa Tông khẽ gật gật đầu : “Ta cũng không ngờ. Thì ra chính là vì nguyên nhân này, Nhạn Cửu thật sự có thể nhẫn nhịn, cũng thật sự đã giành được”.

Đinh Thừa Tông nói, nghĩ đến nhà mình bị Nhạn Cửu hãm hại đến mức thê thảm thế này, không cầm được nước mắt, Dương Hạo trong lòng cũng xót xa, không nhịn được bèn nói: “Đại huynh, chuyện cũ đã qua, nhắc lại cũng chẳng để làm gì”.

Đinh Thừa Tông toàn thân run lên, đột nhiên ngẩng đầu, vui mừng nhìn Dương Hạo, run rẩy nói: “Đệ, đệ cuối cùng cũng chịu gọi ta một tiếng đại huynh rồi sao?”

Dương Hạo trong mắt cũng lấp lánh: “Đại huynh, huynh đệ chúng ta cũng đều là người bị kẻ khác âm mưu hãm hại, giữa chúng ta có vài hiểu lầm, nhưng chúng ta nên bỏ qua hết, thực ra đệ sớm đã coi huynh là huynh đệ của mình, là đại huynh của đệ”.

Đinh Thừa Tông nghi ngờ hỏi: “Từ sớm à?”

“Đúng vậy, chính là từ khi huynh bị hôn mê bất tỉnh, đệ đến chỗ huynh để cáo từ, từ lúc đó đệ đã coi huynh là huynh đệ của mình”.

“Nhưng mà...”

“Nhưng mà huynh đệ cũng phải có cãi vã đúng không?”

“Đúng, đương nhiên là vậy”.

Đinh Thừa Tông vịn chặt vào tay chiếc xe lăn, hai dòng lệ cứ thế tuôn dài, lần này là những giọt nước mắt của hạnh phúc.

Trong lòng đã bình tĩnh lại, Đinh Thừa Tông vui mừng nói: “Nhị đệ, đại ca lần này trở về, ngoài việc đem di cốt của mẫu thân đến còn đem đến cho đệ một vi khách quý. Người này vô cùng quan trọng đối với đại nghiệp của đệ, vì thân thế của người này là chuyện cơ mật, cho dù là quan lại lớn nhỏ ở Lô châu, tất cả những kẻ thân tín đều không được biết, vậy nên ta không thể đưa người ấy đến đây gặp đệ”.

“Người nào lại quan trọng đến vậy?” Dương Hạo sốt ruột hỏi.

“Ngọc Lạc” Đinh Thừa Tông không đáp, quay ra cửa gọi lớn.

Đinh Ngọc Lạc đột nhiên xuất hiện,vui mừng nói: “Đại ca, nhị ca, hai người đã hóa giải hết mọi hiểu lầm rồi sao?”

Đinh Thừa Tông khẽ gật đầu, Dương Hạo bèn nói: “Tiểu muội, gia đình chúng ta, trong lòng có nhiều đau khổ nhất chính là muội, nhị ca thật đã làm khó muội rồi”.

Đinh Ngọc Lạc vui mừng đến nỗi không kìm được nước mắt, má ngọc còn vương những giọt nước mắt long lanh, cô nhẹ nhàng lấy tay lau nước mắt, mỉm cười mà nói: “Không sao, chỉ cần cả nhà chúng ta có thể xóa bỏ hết mọi ân oán hận thù, thì đó chính là điều khiến muội hạnh phúc nhất rồi. Cho nên dù phải chịu bao nhiêu đau khổ muội cũng cam lòng”.

“Đám người phiền phức đó đều đã đuổi đi hết rồi chứ?” Đinh Thừa Tông cười hỏi.

“Vâng, trong vườn ngòai muội ra không còn ai khác” Ngọc Lạc đáp.

“Tốt, muội hãy đưa người ấy đến đây” Đinh Thừa Tông gật đầu nói.

Đinh Ngọc Lạc vâng dạ, thoáng cái đã biến mất, Dương Hạo trong lòng thấp thỏm, vô cùng hiếu kì. Không hiểu Đinh Thừa Tông ngoài việc đem di cốt mẫu thân đến còn đưa đến lễ vật nào nằm ngoài dự đoán đây.

Một lúc sau, trong vườn có tiếng bước chân, Đinh Ngọc Lạc đã quay lại, nói: “Đại ca, nhị ca, khách quý đã đến rồi” rồi quay lại vừa định gọi người đó vào thì người đó đã tự mình bước vào hoa đình.

Người này mắt mũi hùm beo, toàn thân tỏa ra sự hoang dã tàn bạo, trên giữa đỉnh đầu cạo trọc một nửa, ánh sáng chiếu vào lấp lánh, tóc xung quanh tết thành những bím nhỏ rủ xuống, khuôn mặt vuông vuông, miệng rộng lông mày sâu róm, bộ râu hai bên má như rồng uốn lượn, đó quả là một nam tử Hán có phần uy phong hết mực như vậy. Hai bên tai hắn còn đeo đôi bông tai lớn làm bằng vàng lấp lánh.

Thời tiết vào tháng 7, người này lại khoác trên mình bộ áo lông thú, trên tay áo choàng được thêu bằng lông sói thể hiện thân phận cao quý tôn nghiêm. Trên hông người này còn đeo một thanh đao lớn, xem ra sát khí ngút trời, vô cùng lỗ mãng.

Dương Hạo vừa nhìn đã nhảy dựng lên. Vừa lúc đang mặc bộ áo giáp, bèn đưa tay tìm bảo kiếm, ngón tay cái đã chạm được đến chuôi thanh kiếm, thì mới phát hiện ra đây là lần đầu tiên gặp người này ở Tây Bắc, bề ngoài giống như tiết độ sứ định nan quân Lý Quang Duệ, nhưng so với thượng thư bộ công, chỉ huy sứ do triều đình sắc phong Lý Kế Quân thì chỉ có bảy, tám phần tương tự, không hoàn toàn giống nhau. Thấy vậy không kiềm chế được bèn hỏi: “Ngươi là ai?”

Người đó vừa đến đã dùng đôi mắt lang sói đầy vẻ hiểm ác nhìn Dương Hạo từ đầu đến chân, đôi lông mày khẽ chau lại, vừa lúc người đó cũng mở miệng ra hỏi: “Ngài chính là Dương thái úy?”

Đinh Thừa Tông đẩy chiếc xe lăn đến giữa hai người, mỉm cười nói: “Thái úy, vị này là Hạ Châu Thác Bát Hào Phong đại nhân, Thác Bát đại nhân,vị này chính là Hoành sơn tiết độ sứ Dương thái úy.”

Dương Hạo trong lòng dao động, ở vùng Tây Bắc, đại nhân không nhất thiết để chỉ quan lại triều đình, người này dường như cũng không giống quan lại trong triều, vậy chắc chắn là người đứng đầu bộ lạc hoặc tầng lớp quý tộc cao qúy, người này lại là họ Thác Bát ở Hạ châu, vậy chắc có quan hệ mật thiết với bộ lạc Đảng Hạng của người Khương, Đinh Thừa Tông sao có thể liên hệ với người của Lý gia ở Hạ châu?

Kì thực người này cũng có một chức quan trong triều, mỗi một thủ lĩnh của bộ lạc lớn được coi trọng ở Hạ châu thì đều được triều đình nhà Tống ban cho chức quan, trên người vị này đeo quan hàm của chỉ huy sứ, cho dù gia tộc không phải nhân vật quan trọng của Lý gia ở Hạ châu thì gia phụ cũng giữ chức phòng ngự sứ ở Hạ châu, vì gia phụ làm quan ở Hạ châu nên vị tộc trưởng dân tộc thiểu số này chắc là chỉ huy thức sự của bộ lạc.

Thác Bát Hào Phong nhìn Dương Hạo một lượt như để đánh giá, chép miệng, có ý khinh miệt mà nói: “Đinh tiên sinh, người này...chính là nghĩa tử của Lý Quang đại nhân, Hoành sơn tiết độ sứ sao? ở chỗ chúng ta, phải thực sự có bản lĩnh mới có thể khiến người khác tâm phục, chỉ dựa vào phong thưởng của triều đình, thật không xứng với danh hào kiệt Tây Bắc”.

Người này tính khí nóng như lửa, lời vừa dứt đã rút đao ra khỏi bao, hét lớn: “Tiếp đao của ta đây”.

Ánh đao như chớp hướng về phía Dương Hạo. Dương Hạo vốn đã nắm sẵn kiếm trong tay, kinh ngạc nhìn người đó rút đao, sát khí đao mạnh mẽ không chút nể nang, bất giác thầm kinh ngạc, không cần suy nghĩ đã rút kiếm đâm lại.

Sức mạnh trong lưỡi đao của Thác Bát Hào Phong đủ để chem người ta ra làm đôi, nhưng hắn giương đao lên đao lại chém xuống các động tác tuy nhanh nhẹn song rốt cuộc không thể bì được với tốc độ kiếm của Dương Hạo, đao của hắn vừa chém xuống, lưỡi kiếm của Dương Hạo đã chạm vào yết hầu hắn, Thác Bát Hào Phong vô cùng sửng sốt, cứng người lại trước mũi kiếm, hai cánh tay dùng lực quá sức, gân xanh trên trán cũng nổi hết lên.

“Đường kiếm thật là nhanh” Thác Bát Hào Phong kêu lên.

Đinh Thừa Tông cũng bị những đường đao tỉ thí mạnh mẽ ấy làm cho hoảng sợ, đợi Dương Hạo đánh trả lại mới bình tĩnh trở lại, mỉm cười nói: “Nghe nói Thác Bát đại nhân cùng Lý Kế Quân tỉ thí võ nghệ, đã từng bại dưới tay ông ấy, còn Lý Kế Quân lại là bại tướng dưới tay thái úy của chúng ta, thái úy nhà chúng ta đã từng theo danh sư luyện kiếm, võ công đạt đến được cảnh giới như ngày hôm nay không thể nói trong một hai ngày, Thác Bát đại nhân bại dưới tay thái úy nhà chúng ta cũng không thể coi là chuyện mất mặt...”

“Ấy, thua thì vẫn là thua, võ công không bằng người mà thôi, có gì mà phải mất mặt”.

Thác Bát Hào Phong lại vô cùng sảng khoái, tra đao vào vỏ, cười lớn mà nói rằng: “Ngài thắng được Lý Kế Quân, vậy thì chính là một anh hùng, Lý Quang Mục đại nhân quả nhiên nhận được nghĩa tử tốt, Thác Bát Hào Phong tâm phục khẩu phục rồi”.

Quyển 10: Tây Bắc lang yên

Chương 415: Thác Bát Hào Phong

Dương Hạo thấy người đó thu đao bèn tra kiếm vào vỏ, khi đó Thác Bát Hào Phong đột nhiên xông đến trước một bước, Dương Hạo chỉ nghĩ người này gian trá, miệng nói nhận thua lại vẫn muốn đánh lén mình. Nhưng nếu luận đến công phu đánh quyền cước thì Dương Hạo không bằng một đứa trẻ lăn lộn chịu trận, Thác Bát Hào Phong tinh thông công phu đấu vật, huống hồ đánh mất thời cơ rồi, rốt cuộc bị hắn dùng đôi tay to lớn giữ chặt lấy hai vai.

Dương Hạo thầm nghĩ trong đầu, đang định dùng chiêu “cua lột xác” để thoát khỏi sự khống chế thì Thác Bát Hào Phong đã vô cùng xúc động nói :“Thái úy đại nhân, ngài là nghĩa tử của Lý Quang Mục đại nhân, tính ra thì ta và ngài có thể coi là huynh đệ một nhà, huống hồ còn có quan hệ với Nạp Bố Y Nhĩ, hai ta càng thân thiết hơn, hôm nay Thác Bát Hào Phong nguyện quy thuận theo đại nhân, tùy đại nhân định đoạt, dốc sức vì đại nhân, mối thù lớn của tại hạ đại nhân nhất định phải giúp đỡ mới thành.”

Dương Hạo nghe xong mới buông lỏng hai vai, nhìn hắn mà hỏi :“Cái gì mà Nạp Bố Y Nhĩ , thân càng thêm thân, ồ..., đó là người con gái của ngươi? Cô nương ấy làm sao?”

Thác Bát Hào Phong cắn chặt răng, căm hận mà nói :“Nạp Bố Y Nhĩ vốn là người con gái của tại hạ, lại bị lão già khốn khiếp Lý Quang Duệ đó cướp mất, người Đảng Hạng tại hạ có ân tất trả, có thù phải báo, thù giết phụ thân, hận cướp thê tử, phàm là nam nhân đại trượng phu đều không thể nhẫn nhục mà bỏ qua, để rửa sạch mối hận này, tại hạ mới nghe theo lời khuyên của Đinh tiên sinh, bí mật đến đây bái kiến đại nhân, xin được theo đại nhân.”

Dương Hạo vô thức nghe mối thù không đội trời chung của hắn bèn truy hỏi :“Nhưng Nạp Bố Y Nhĩ đó có quan hệ gì với ta? Sao lại nói thân càng thêm thân?”

Thác Bát Hào Phong vẫn căn chặt răng, nghe đến câu này bèn lớn tiếng cười ha ha, đấm vào vai Dương Hạo một quyền khá mạnh cười mà nói :“Thác Bát Hào Phong hôm nay xuất hiện ở đây chính là thành tâm quy thuận đại nhân, đại nhân cần gì phải giấu diếm? Nạp Bố Y Nhĩ là chị của Nhĩ Mã Y Nạp, Nhĩ Mã Y Nạp là nguời phải được gả cho thái úy đại nhân, theo bên Lý Quang đại nhân mà nói, ta phải gọi ngài một tiếng em rể, ha ha ha, đây không phải là thân càng thêm thân sao?”

Thác Bát Hào Phong cười lớn một cách sảng khoái, Dương Hạo cũng cười theo vài tiếng, quay lại phía Đinh Thành Tông hỏi :“Thác Bát Hào Phong đang nói gì vậy?”

Thác Bát Hào Phong vuốt bộ râu lớn, nói với Đinh Thành Tông một cách khó khăn :“Phải chăng tiếng Hán của ta nói rất khó nghe?”

Đinh Thành Tông vội nói :“Nạp Bố Y Nhĩ và Nhĩ Mã Y Nạp là con gái của tộc trưởng Ngũ Liễu Thư tộc Tế Phong Thị, ngoại trừ gia tộc họ Lý ở Hạ châu ra thì đó là bộ lạc giàu có nhất trong tám thị tộc của người Đảng Hạng. Họ có thể coi là hai viên minh châu của thảo nguyên, Nạp Bố Y Nhĩ từ nhỏ đã được gả cho con trai tộc trưởng tộc Vãng Lợi, nhưng người Nạp Bố Y Nhĩ thật sự yêu lại là Thác Bát Hào Phong”

Thác Bát Hào Phong ưỡn ngực, nghiến chặt răng mà nói :“Đúng, tộc Tế Phong có thể trở thành tộc giàu có nhất, lớn mạnh nhất ngoài gia tộc họ Lý ở Hạ châu chính là vì có được sự giúp đỡ của bộ lạc ta. Ta vốn định mời phụ thân đứng ra xin được kết thân với Ngũ Liễu Thư đại nhân, tuy Nạp Bố Y Nhĩ đã có hôn ước, theo quy tắc trên thảo nguyên, là kẻ mạnh ta có thể cướp thê tử, huống hồ với sự giúp đỡ của bộ lạc ta cho tộc Tế Phong, Ngũ Liễu Thư đại nhân không thể không hủy hôn tái giá, nhưng... Lý Quang Duệ không biết từ đâu nghe được tin đồn về dung nhan mĩ miều của Nạp Bố Y Nhĩ, liền ra lệnh cho bộ lạc Tế Phong phải dâng hiến mĩ nữ, chính là chọn Nạp Bố Y Nhĩ.”

Đinh Thành Tổ vội phụ họa theo :“Lý Quang Duệ là người cai trị ở Hạ châu, những người đứng đầu các tộc ai dám tạo phản? Haiz, chỉ tiếc cho đôi trẻ, do vậy mà...”

Nói đến đây mặt Thác Bát Hào Phong đã đỏ phừng phừng, nghiến răng nghiến lợi đòi báo thù cho phụ thân, hận cướp thê tử, là nỗi nhục không thể nhẫn nhịn của một nam tử, huống hồ truyền thống từ xưa đến nay của người Khương là coi trọng việc có thù tất phải báo, nhưng muốn hắn giết chết tên vua hữu thực vô danh Lý Quang Duệ thì quả thật hắn không có cái bản lĩnh ấy, cho dù có được thời cơ như thế thì hắn cũng phải suy nghĩ đến hậu quả sau này, mạng sống của phụ mẫu huynh đệ, vô số người trong tộc hắn luôn nghĩ đến, tuy hắn rất yêu Nạp Bố Y Nhĩ, lại không dám liều lĩnh, người mình yêu ngày ngày mua vui cho tên béo đen xấu xí Lý Quang Duệ, tim hắn đau như bị nhúng vào chảo lửa, không lúc nào là không phải chịu đựng sự đau đớn ấy.

Đám nội thám mật giám mà Đinh Thành Tổ phái đến Hạ châu lợi dụng các thân phận khác nhau để theo hầu bên cạnh các vị đại nhân Hạ châu, có người giúp chúng vui chơi sa đọa, có người lại giúp tăng thêm ảnh hưởng, không ngừng truyền bá tư tưởng Lý thị không xứng đáng đứng đầu, lại có người gây ra hỏa hoạn ở khắp nơi, lan truyền các tin đồn. Rất nhanh, họ đã chú ý đến Thác Bát Hào Phong.

Các tin tức lần lượt gửi về Lô châu, Đinh Thành Tổ sau khi phân tích nghiên cứu, lập tức coi hắn là tâm điểm, là đối tượng để lôi kéo, Thác Bát Hào Phong vốn có thù với Lý gia ở Hạ châu, Đinh Thành Tổ lại vạch ra tiểu kế, khiến hắn và Lý Kế Quân kết thành thù hận, như thế Thác Bát Hào Phong càng kiên định với phe phản Lý. Đinh Thành Tổ nhiều lần thăm dò,sau khi xác định tâm ý người này mới xin đến bái kiến, cuối cùng dựa vào ba tấc lưỡi của mình mà thuyết phục được Thác Bát Hào Phong, lôi kéo hắn về phía mình.

Trong tổ chức của chính quyền Lý gia ở Hạ châu, bộ lạc của Thác Bát Hào Phong có thể coi là bộ lạc lớn mạnh nhất, mà tác dụng quan trọng nhất của việc lôi kéo được người này chính là lợi dụng người ngựa cuả bộ tộc này để làm phản, phối hợp trong ngoài với Lô châu, lợi dụng thân phận đạc biệt của hắn để có thể hạn chế được tối đa những sự bất mãn phát sinh từ những người trong đẳng cấp quý tộc do trách nhiệm không thể thoái thác của họ trong chính quyền Lý gia.

Lý gia lấy thân phận là đời sau của hoàng tộc Bắc Ngụy trở thành thủ lĩnh cảu tám bộ tộc Đảng Hạngngng, cai trị Hạ châu nhiều năm, rễ bám sâu vào đất, thực lực lớn mạnh, vậy mà Hạ châu ngày nay trong lo ngoài loạn, lại có sự chống đối của 7 thị tộc Đảng Hạng, trước sau gì cũng không thể trụ vững, nhưng nếu tầng lớp quý tộc đứng đầu ở Hạ châu lên tiếng thì việc truất ngôi sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

“Vậy chuyện gì đã xảy ra với Nạp Bố Y Nhĩ?” Dương Hạo tiếp tục hỏi.

Đinh Thành Tông hắng giọng rồi nói :“Là thế này, một năm trước thái úy đến thăm tộc Tế Phong, liên minh bảy bộ lạc, cô nương Nhĩ Mã Y Nạp vừa gặp đã nảy sinh tình cảm với thái úy, Ngũ Liễu Thư đại nhân cũng có ý muốn kết thân với thái úy, ý này...đã từng nhắc qua với thái úy rồi, thái úy lại không có ý kiến phản đối, chỉ là cách đó không lâu,thái úy rời vệ làm quan ở Biện Lương, việc này đành phải tạm gác lại...,nhưng tin đồn mà, đã nhanh chóng bị truyền ra ngoài rồi...”

Nghe câu nói này, Dương Hạo đột nhiên nhớ ra tình cảnh trong tối hôm tổ chức đại lễ của tộc Tế Phong, có rất nhiều mĩ nữ người Khương nhảy múa ca hát trước mặt họ. Giữa các thiếu nữ, có một tiểu cô nương nổi bật nhất, mặc bộ trang phục ngắn, thắt chiếc đai có hoa ván ở ống quần, để lộ sự khỏe khoắn đẹp đẽ, tấm lưng ong tròn lẳn và đôi chân đẹp như màu lúa mạch, chiếc cằm nhọn và chiếc mũi thẳng rất đẹp, trên đầu đội tấm vải hoa xanh rất đặc biệt, trước ngực đeo đồ trang sức bằng bạc nhảy mua hết sức vui vẻ, đôi chân nhỏ trơn láng mềm mại nhảy múa uyển chuyển theo tiết tấu, như một chú ngựa nhỏ đang phóng đi trên thảo nguyên...

Người Khương là đời sau của người Nhung, người Nhung từ thời Xuân Thu chiến quốc đã sản sinh ra nhiều “hồ li tinh”, Nhĩ Mã Y Nạp của buổi tối hôm đó chính là một tiểu hồ li tinh, tuy tuổi còn nhỏ đã có dung mạo xinh đẹp khác thường. Tối đó có rất nhiều thiếu niên Đảng Hạngngng tỉ thí võ nghệ chính là vì nàng mà ghen tức nhau. Cũng chính buổi tối hôm đó, tự mình Dương Hạo giành được sự tương trợ của Cung Động binh, theo học được công phu của một vị thánh nhân Đạo gia, cũng phải đến hai năm rồi không gặp lại, chắc vị tiểu cô nương đó đã khác trước nhiều.

Dương Hạo tỉnh lại từ trong hội ức, dùng ánh mắt nghiêm nghị nhìn Đinh Thành Tông, rồi mới quay sang Thác Bát Hào Phong mỉm cười nói :“Người mà Thác Bát huynh yêu say đắm lại bị kẻ khác cướp mất, vì hồng nhan mà chịu uất hận, Dương mỗ đây có thể lí giải, có điều...nhiều năm như vậy rồi, Thác Bát huynh vẫn ôm hận không giải, rõ ràng là có sự kiêng kị đối với Lý Quang Duệ nếu không đã chẳng đợi đến ngày hôm nay để đối phó với hắn? Huynh tin ta có khả năng đơi phó với hắn? Huynh định làm thế nào để giúp ta?”

Đinh Thành Tông thấy Dương Hạo nghiêm nghị nhìn mình nên không dám tham gia vào câu chuyện nữa, bất giác khẽ thở dài.

Sau khi hắn đến Lô châu, thấy hiện nay Dương Hạo đã gây dựng được ở đây tiềm lực sức mạnh to lớn như vậy, cũng như đã mở ra một thiên hạ mới, rất nhanh hắn đã cảm thấy bất kể giành được phần tài sản lớn hơn đi nữa cũng không nhất thiết phải đánh động đến Dương Hạo, nhưng nếu giúp Dương Hạo xây dựng sự nghiệp thì nhất định có thể khiến Dương Hạo hồi tâm chuyển ý, mà con trai Đinh gia đã không gây dựng được gia nghiệp thì vĩnh viễn chỉ đơn giản là có lớp vỏ bề ngoài giàu có mà thôi, do đó bèn toàn tâm toàn ý giúp đỡ Dương Hạo gây dựng danh tiếng, phát triển thực lực, không tiếc sức mình để lôi kéo những kẻ có thể lôi kéo.

Đến khi hắn đã được bách tính Lô châu đón nhận, cử làm quân sư, hắn sẽ bắt đầu từ những thông tin bí mật lấy được từ chính miệng Lý Quang, chẳng có đạo lí nào là không thể lợi dụng, cứ nói Nhĩ Mã Y Nạp được ca ngợi là con chim bách linh trên thảo nguyên, vô cùng xinh đẹp mĩ miều, thì cho dù cô nương ấy có xấu xí thế nào thì vì đại nghiệp trước mắt hắn cũng sẽ không tiếc công sức tác thành chuyện này, thu được món hời nhất chính là nguyên tắc làm việc của hắn, cái gì mà tâm đầu ý hợp mới có thể kết thành phu thê, đối với hắn mà nói chẳng có ý nghĩa gì cả, Ngũ Liễu Thư cũng là một lão hồ li già, hai bên kết thành phu thê, chuyện vốn dĩ không thể có như thế này chẳng phải đã trở thành hiển nhiên như chuyện phải có mắt và mũi sao.

Thác Bát Hào Phong lớn tiếng nói :“Thực lực Lý Quang Duệ lớn mạnh nhất trong vùng Tây Bắc trù phú, đừng nói Thác Bát Hào Phong ta, nhìn về Tây Bắc ai có thể thắng được hắn? Nhưng hắn lại tự mình tạo dựng nghiệp chướng, gây thù chuốc họa với vô số người, trong tình cảnh như vậy, dân tộc ta Thổ Phiên còn giữ được gì như thuở ban đầu đây? Nhớ lại lúc đầu, dân tộc Thổ Phiên đánh bại hàng trăm ngàn quân Đường, chiếm được bốn trấn Quy Từ, Du Khuất, Yên Giả, Sơ Lặc, hưng thịnh một thời, hùng bá Tây Bắc, kết quả chúng lại đi gây thù chuốc oán khắp nơi, phía Tây giao tranh với đế quốc Đại Thực, phía Bắc thù địch với nước Hồi Nhiễm, phía Nam khiêu chiến với nước Nam Thiệu, còn phía Đông bế quan tỏa cảng với Đại Đường, không giao lưu với bên ngoài, trong ngoài Thổ Phiên khó khăn liên tiếp, chuyển sang suy tàn, cuối cùng trở nên thê thảm như ngày hôm nay.”

Cha con Lý Quang Duệ cướp đoạt ngôi vị, ngông cuồng ngang ngược, phía Đông gây hiềm khích với Phủ châu, Lân châu, phía Nam đối địch với Thổ Phiên, Hồi Hất, phía Tây cự tuyệt buôn bán với Ba Tư, Thiên Ta và Đại Thực, gây thù oán khắp nơi, hoàn toàn bị cô lập. cứ nhìn những gì người Thổ Phiên đã phải chịu thì sớm muộn gì tộc Thác Bát ta cũng bị chúng dồn đến bước đường cùng, những người đứng đầu các bộ lạc cũng vì thế mà lo lắng bất an, tiếc là không có ai có đủ tư cách để lên thay thế, vừa đúng lúc đó thì nghe tin nói về tin tức của Lý Quang Bổn đại nhân”

Thác Bát Hào Phong nhìn Dương Hạo,nói một cách thân thiết :“nếu biết người thảo phạt được Lý Quang Duệ là Lý Quang Giới đại nhân, tại hạ đã kêu gọi thủ lĩnh các bộ lạc bất mãn ở Hạ châu không xuất binh, khiến họ đứng một bên, chờ sự việc qua rồi thì cũng không bị làm khó dễ, thuyết khách thích hợp nhất để liên hệ với các bộ lạc về chuyện này không ai khác ngoài Thác Bát Hào Phong ta đây, chỉ có điều...thái úy đại nhân phải làm cho họ phải tâm phục khẩu phục tại hạ, còn phải thể hiện được vũ lực của Lô châu, ngài ở đây càng uy phong, tại hạ càng dễ nói những lời hoa mĩ”.

Dương Hạo nghe xong chợt cười lớn :“Diễu võ dương oai sao? Ha ha, cái này thì chẳng có gì khó, trong vòng nửa tháng, ta sẽ cho các người thấy uy lực của Lô châu mạnh đến mức nào, nào đến đây, đến đây, ngồi xuống rồi chúng ta tiếp tục bàn bạc cẩn thận”.

Dương Hạo thân mật cầm tay Thác Bát Hào Phong đưa đến chỗ ngồi, có ý lãnh đạm với Đinh Thành Tổ, coi như đó là một sự dạy dỗ nho nhỏ cho hắn. Đinh Thành Tổ cũng không cho đó là hiềm khích vẫn khẽ mỉm cười, tự mình đẩy chiếc xe lăn đi về phía sau Dương Hạo, đứng vào vị trí quân sư phò tá chính là vào lúc này. Bên ngoài hoa viên hình như có động tĩnh, Đinh Ngọc Lạc vội chạy ra xem, trong tích tắc đã quay trở lại, vội vã báo :“Nhị ca, Lân phủ lưỡng châu Dương đô đốc tướng quân đã đến bên ngoài thành rồi, các quan lại đang cho người đi tìm đại nhân để ra nghênh đón”.

Dương Hạo nghe xong bèn quay sang nói với Thác Bát Hào Phong :“Không đón tiếp chu đáo Thác Bát huynh, thật là quả thất lễ, chỉ có điều với thân phận của huynh không tiện xuất đầu lộ diện trong ngày hôm nay. Ngọc Lạc, mau đưa Thác Bát đại nhân vào nội viện nghỉ ngơi, cử người tâm phúc nhất đến hầu hạ, bổn quan ra trước để nghênh đón hai vị khách quý”.

Quyển 10: Tây Bắc lang yên

Chương 416: Kết nghĩa 

Đại môn động mở ra. Dương Hạo cùng Chiết Ngự Huân và Dương Sùng cùng nhau bước vào.

Bước vào trong thành Ngự Huân và Dương Sùng thầm kinh ngạc. Trong thành vốn dĩ rất yên tĩnh, nhưng không ai có thể ngờ được rằng vừ vào bên trong đã trông thấy đội binh mã hùng dũng đã đứng nghiêm trang ở đó từ trước. Hàng ngàn người ai nấy cũng đều khí thế ngút trời, khí thế mạnh mẽ như bức tường sắt kiên cố khiến hai vị đại soái cả đời theo binh nghiệp cũng không thể tránh khỏi có chút kinh động trong lòng.

Chiết Ngự Huân và Dương Sùng mỗi người đều đem theo khoảng ba trăm thị vệ và một đám liêu thuộc, tất cả lần lượt tiến vào thành, nhìn thấy cảnh tượng trước mắt không thể tránh khỏi có những lời xì xào nho nhỏ.

Nhân việc hai thủ lĩnh vùng Tây Bắc đến thăm, Dương Hạo lần đầu để lộ ra thực lực thật sự của mình, giờ đây hắn không còn là một con côn trùng đáng thương phải tiếp tục luồn lách để thỉnh cầu giữ được mạng sống, cũng chẳng cần phải giả bộ là hảo hán không tranh giành thị phi với đời, hắn nhất định phô diễn hết thực lực thật sự của mình mới có thể giành được sự tin cậy tín nhiệm của quân dân Lô châu, sự tin cậy tín nhiệm của các thương hội như Tác Cổ và Kế Tự đường, phô diễn hết thực lực thật sự của mình mới có thể giành được sự ủng hộ lớn nhất của hai bên Chiết Dương.

Lý Thính Phong đứng bên ngoài một con hầm giữa núi, vuốt râu quan sát đội quân chỉnh tề, chỉ xuống mà nói :“Trường đao mà đội quân đó cầm chẳng phải chính là mạch đao đã từng bị thất truyền từ lâu rồi sao?”

Ánh mắt Tùy Đại Lang khẽ cười nói :“Nói thanh đao này không phải mạch đao cũng đúng, nói là mạch đao cũng không sai, có điều nếu đem so sánh với thanh mạch đao nhà Đường, thì đao này còn lợi hại hơn nhiều lần. Thanh mạch đao triều nhà Đường vì kĩ thuật luyện sắt có hạn, trình độ rèn cũng không cao, do đó mỗi thanh mạch đao cán gần năm cân trở lên, còn thanh mạch đao này chất gang tinh luyện rất tốt, thân đao kiên cố, lưỡi đao sắc bén, uy lực không sao kể xiết, nhưng quan trọng là chỉ nặng bằng một nửa thanh mạch đao nhà Đường mà thôi”.

“Nếu đã như vậy, Dương Hạo phải chăng sớm đã có dã tâm hùng bá một phương? Nếu không sao hắn có thể mời được thợ rèn danh tiếng đến luyện đao trong một thời gian ngắn như vậy? Từ đó đến nay không biết đã luyện được bao nhiêu binh khí?”

Ánh mắt Tùy Đại Lang khẽ dao động, lắc đầu cười nói :“Đó là cơ mật tối cao của Lô châu, ngay cả ta cũng không biết, nhưng theo động tĩnh của hắn, nếu hắn thực sự có dã tâm không để lộ ra ngoài thì đó chẳng phải là điều càng có lợi cho ta sao?”

Lý Thính Phong gật gật đầu nói :“Từ trước đến nay, bộ kì binh lợi. Những thứ như kình mã bân xung, cường nỗ cự chi lại gần trong chốc lát , cũng khiến kẻ sai lầm gặp phải họa sát thân, duy có đội quân này vẫn là khắc tinh của kỵ binh, nhưng sức mạnh uy lực nhất chính là thanh đại đao này, hàng nghìn lưỡi đao sắc nhọn như bức tường thành kiên cố, trên chém người dưới chặt đứt ngựa, nếu kỵ binh quân địch đánh áp sát, bất kể là vượt qua chân quân ta, giày xéo lên bộ túy của ta, chỉ cần có đại đao này chắn ở phía trước thì tất cả đều như tự mình tìm vào chỗ chết. Ta hãy còn nhớ, từ khi thanh mạch đao này được tạo ra, phàm là trận nào dùng mạch đao trận cũng không phát huy được hết tác dụng to lớn”.

“Dùng binh là ở mưu kế. Pháp quý thiện biến, tác dụng của kỵ binh chỉ ở chỗ xông pha trận mạc, chỉ dựa vào một đội quân dùng mạch đao trận đó đương nhiên không thể trở thành vô địch thiên hạ được, nhưng có được đội quân này kỵ binh của kẻ địch mà cận chiến nhất định sẽ chuốc lấy đau khổ, tác dụng của mạch đao chủ yếu là khống chế kỵ binh địch cận chiến, tác dụng của cung tên chủ yếu là để khống chế kỵ binh địch viễn chiến, ngươi hãy nhìn đội cung tên đối diện với đội quân dùng mạch đao xem, mạch đao và cung tên phối hợp với nhau đúng thật là khắc tinh của kỵ binh..”

“Xem ra Lô châu không những sớm đã có sự chuẩn bị mà còn bước đầu đã xây dựng được quân đội để đối phó với đối thủ có đội quân chiến mã ở Tây Bắc, đối thủ như vậy còn có thể là ai? Dĩ nhiên là Lý đại nhân của Hạ châu rồi. Từ xưa đến nay anh hùng sinh ra nhờ gặp vận, thời thế sinh anh hùng, anh hùng dễ gặp thời thế, Tây Bắc có thể thay thời đổi vận trong tay hắn hay không, chúng ta cứ từ từ chờ đợi rồi sẽ rõ”.

Đùng! Đùng! Đùng!

Ba tiếng pháo hiệu lệnh nổ ra, dàn nhạc cũng cất lên lập tức. Hai bên giáp trượng chỉnh tề, đao kiếm sừng sững, ba người Dương Hạo cùng bước chậm lại, duyệt binh diễu hành.

“ Mạch đao trận !”

Dương Sùng vừa nhìn thấy đội quân sừng sững như bức tường kiên cố con người suýt nữa rơi ra ngoài, ánh mặt trời chiếu trên lưỡi gươm phát ra những tia sáng lấp lánh như phản chiếu trên mặt hồ nhưng lại để lộ ra sát khí kinh người, Dương Sùng trông thấy mà hơi thở cũng trở nên gấp gáp hơn.

Từ cuối thời Đường đến nay, mạch đao đã dần dần trở thành binh khí được các tướng lĩnh có thân phận cao quý sử dụng, trước nay chưa từng có đội quân nào có binh lính chuyên sử dụng mạch đao, đội mạch đao khi ra trận áp sát nhau tiến lên theo hàng ngang, cán đao dài lớn như bức tường, theo tiết tấu tiếng trống lùi tiến vung chém khiến quân thù trước mặt không có cách nào chống lại được.

Trong số những trận chiến đã được ghi vào trong sử sách, sự tham chiến của mạch đao trận đều giữ vai trò quyết định quan trọng, đặc biệt là khi tham gia giao chiến với các dân tộc du mục giỏi cưỡi ngựa bắn cung,mạch đao trận đã thay đổi được tình trạng đội quân người ngựa yếu của quân trung nguyên, phát huy khí thế của bộ binh, phối hợp với các cung thủ trên chiến trường để truy đuổi kỵ binh cũng không phải là chuyện hiếm.

Nhưng bất cứ đội binh nào cũng đều có nhược điểm của nó, mạch đao trận cũng không phải là ngoại lệ. Trước tiên nó cũng cần phải phối hợp với kỵ binh và cung thủ, không thể đơn độc tác chiến, hơn nữa xây dựng binh đội như vậy rất đắt, thời gian luyện tập cũng gấp mấy lần những binh lính khác, chí ít cũng phải mất hai năm mới có thể cho binh sĩ ra tham chiến, đợi đến lúc luyện thành thục rồi thì đạt đến cảnh giới tĩnh lặng như lâm, bất động như núi, nhanh như sớm chớp, lan tỏa như lửa.

Từ cuối thời Đường các chư hầu nhất loạt nổi lên, tự ý tuyển mộ nạn dân, nhét vào tay họ một thanh đao, thế là thành binh lính, kẻ thảo dân nào có thể chịu đựng một thời gian dài nhẫn nại luyện tập thông tỏ được binh pháp phối hợp mới có thể phát huy được tác dụng to lớn của mạch đao trận, huống hồ phí tổn để chế tạo mạch đao và lớp giáp nặng bên ngoài rất lớn, cũng chẳng có kẻ điên cuồng nào dám bỏ ra.

Đúng như Tùy Đại Lang nói, dùng binh phải ở mưu kế, pháp quý thiện biến. Thời đầu Đường, binh lực của các dị tộc như Thổ Phiên, Đột Quyết còn hạn chế, quân đội do triều Đường điều động cũng có hạn, khi Lý Tịnh Đại đánh bại Tây Đột Quyết cũng không dùng quá ba nghìn quân, trận chiến Thản La Tư quân Đường điều động đại quân cũng không đến ngàn người, cho nên mạch đao tuy đắt nhưng vẫn có thể trang bị cho toàn quân đội, đến sau này, quy mô doanh trại không ngừng mở rộng, chẳng ai còn có thể chống đỡ được cho một đội quân hao tốn quá nhiều tiền bạc như vậy nữa.

Đến sau này, bản thu nhỏ của mạch đao...nhất thái đao đã lưu truyền đến Nhật Bản, trở thành vũ khí chiến đấu chủ yếu của các võ sĩ, đó là bởi vì cho dù theo sử sách ở đấy có những chiến dịch với quy mô lớn,nhưng binh lực được huy động cũng không quá vài nghìn người, mà trên chiến trường trung nguyên nếu động chút đã huy động cả vài chục ngàn người thì thứ binh khí này sẽ dần dần bị suy tàn, thay thế nó là thương và rìu, hai thứ này giá cả rẻ, có thể trang bị với số lượng lớn, tuy uy lực có bị sụt giảm song nhất thời cũng có thể khống chế được kỵ binh của địch.

Ban đầu khi Dương Hạo xây dựng Lô châu đã lấy danh nghĩa là xây Khai Bảo tự để thu được khối lượng lớn đồng thiếc, khi đó kẻ thù giả tưởng của Lô châu chính là người Khương ở Tây Bắc, cho nên vũ khí chiến đấu chủ yếu của Lô châu chính là dùng cung tên cho viễn chiến và đao rìu cho cận chiến, khi đó đã từng có người đưa ra ý kiến chế tạo mạch đao song vì để tiết kiệm tối đa đồng thiếc, đồng thời cũng là để nhanh chóng chế tạo vũ khí đưa ra chiến trường nên Dương Hạo đã bãi bỏ ý kiến đó, cho đúc lượng lớn rìu chiến.

Nhưng sau này tình hình thay đổi, Lô châu đã có mỏ thiếc của riêng mình, mà diện tích binh lực của Lô châu có hạn, chỉ có thể dựa vào tinh binh mà thôi. Do đó Dương Hạo bèn thay đổi chủ ý, lệnh cho phẩm đường Lý Hưng Tinh tuyển chọn tinh binh. Cuối cùng cũng chế tạo ra được thanh mạch đao có nhiều cải tiến hơn trước, thanh đao này nhẹ hơn rất nhiều so với thanh đao nhà Đường, các binh sĩ khi tập luyện cũng nhanh chóng sử dụng được.

Nghệ thuật chiến tranh không chỉ là trên chiến trường chém chém giết giết, nhưng phàm là nhân tố có thể khắc chế quân địch giành chiến thắng, thân làm chủ soái tất nhiên sẽ phải nghĩ cách mà lợi dụng nó.

Mạch đao là thứ vũ khí lợi hại thời thịnh Đường dùng để đối phó với người Thổ Phiên, Đột Quyết, đến ngày hôm nay nhà Đường mới bị diệt vong chưa đến trăm năm, triều đại trung nguyên cũng đã phát sinh nhiều biến cố kinh thiên động địa, trong khi văn hóa và phương thức sống của cấc dân tộc phía Bắc vẫn phát triến một cách chậm chạm, loại vũ khí có tính sát thương đáng sợ này vẫn còn trong kí ức của các dân tộc này như vừa mới hôm qua, xây dựng lại một đội quân mạch đao, sẽ có tác dụng tâm lý to lớn, khi nó đã thành công trên chiến trường,dương uy trở lại với Tây Bắc sẽ tạo ra áp lực tâm lí không thể chế ngự được với đối thủ, kẻ địch càng mạnh, nếu trước đó khiến chúng phát sinh sự lo lắng sợ hãi thì khả năng chiến đấu nhất định cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Hôm nay mạch đao trận lần đầu phô diễn quả nhiên đã khiến cho Chiết Ngự Huân và Dương Sùng vô cùng kinh ngạc. Trăm ngàn thanh mạch đao đứng sừng sững cao lớn, dày đặc như một bức tường vuông vắn, bọn hắn có thể tưởng tượng đến cảnh cả đội quân giơ cao thanh mạch đao lên, tiến từng bước vững chãi về phía trước theo tiếng trống, trăm ngàn đao lớn giương lên hạ xuống, đó sẽ chính là cảnh tượng đang ở trước mặt, chỉ huy cầm trên tay thanh mạch đao lớn, bên trong người ngựa ngay ngắn chỉnh tề, khí thế không cưỡng lại được.

Đi giữa con đường rộng rãi,cách trận mạch đao mười mấy bước, đám ngựa đều cảm thấy sát khí từ bên đó thì bất an thở phì phò không yên, những vệ binh tinh nhuệ do hai vị tiết độ sứ thống lĩnh mặt cũng biến sắc.

Khi Dương Sùng còn đang tham lam dán mắt vào đánh giá trận mạch đao, Chiết Ngự Huân lại nhìn sang phía đội cung thủ ở một bên, Chiết Ngự Huân thông qua “Tùy Phong” sớm đã biết Lô châu bí mật luyện trận mạch đao, bí mật này đối với bản thân đã không thể xem là bí mật nữa rồi, tuy hôm nay mới là lần đầu hắn được thấy uy thế của trận mạch đao song hắn vẫn có thể làm ra vẻ thản nhiên như không.

Điều hắn thật sự quan tâm đến chính là đội cung thủ của Lô châu.

Hắn sớm đã nghe nói Lô châu nghiên cứu chế tạo một loại cung nỏ mới, nghe nói phạm vi và khả năng sát thương đều khác biệt vượt trội, đáng tiếc loại vũ khí này quá bí mật, chỗ bí mật của nó chính là khi thiết kế sử dụng rất nhiều các bộ phận hỗ trợ tinh xảo trợ lực, điểm cơ bản nhất của xạ tiễn cũng giống như các loại cung nỏ bình thường, một binh sĩ tinh thông cưỡi ngừa bắn cung cũng chưa chắc đã nhìn thấy nó, chỉ cần luyện tập qua cũng có thể nhanh chóng lên tay, cho nên loại nỏ thần do Lô châu chế tạo này hoàn toàn không ai hay biết, bình thường cũng không giao cho binh sĩ luyện tập cho nên hắn cũng không rõ được tường tận.

Hôm nay là lần đầu tiên hắn tận mắt nhìn thấy loại nỏ thần do Lô châu bí mật chế tạo, hắn ngồi trên lưng ngựa, khép hờ đôi mắt, vuốt chòm râu dài quan sát một cách tỉ mỉ, nếu so sánh ra thì cung của chiếc nỏ bình thường dường như to hơn loại nỏ thần này, theo lẽ thường, nếu muốn bắn xa bắn nhanh thì cánh cung cần phải dài hơn một chút, mà khoảng cách bắn đã xa hơn các loại cung bình thường thì bắn càng khó hơn, vậy lí do nó có thể ưu việt hơn cung bình thường hiển nhiên là nhờ sự tinh xảo của các bộ phận thêm vào.

Chưa nhìn thấy họ phô diễn thì ngay cả đến uy lực của nó thế nào cũng khó có thể biết được, dùng mắt để đoán thế này cũng chẳng thể nhìn ra sự tinh xảo của nó, vậy nên hắn chỉ có thể ngắm nhìn một cách nuối tiếc đội cung nỏ được trang bị chỉnh tề.

Mỗi người đều mặc áo giáp nửa người, giữa lưng có dắt dao, ngay phía trước người là tấm lá chắn lớn, trên tay một tấm lá chắn nữa, khả năng phàng thủ của đội cung thủ được tăng lên nhiều lần, bồi dưỡng một xạ thủ không phải là chuyện dễ dàng, phải cho họ đem theo bên mình một tấm chắn lớn, đương nhiên có thể giảm đi rất nhiều tổn hại trên chiến trường, nhưng nếu như vậy, sức chiến đấu của cung thủ sẽ thế nào?

Chiết Ngự Huân rất nhanh đã phát hiện ra, tấm khiên chắn khi chuyển động vô cùng nhẹ nhàng, dường như dùng một vật có độ dai như mây để chế tạo nên, bên ngoài tráng qua lớp thiếc, vậy mà, chiếc khiên đó thả ra có thể đặt đứng thẳng trên mặt đất, Chiết Ngự Huân kinh ngạc không thể lí giải nổi, nhìn nghiêng hướng khiên xem mới chú ý đến mặt sau của chiếc khiên có một giá trụ, hai góc chân trụ kết hợp với một chân trụ thứ ba ở chỗ thấp nhất khiến tấm khiên có thể đứng vững trên mặt dất, như vậy các xạ thủ có thể chuyên tâm vào việc cung nỏ mà không cần thiết phải để ý đến tấm giáp phong hộ che chắn của mình, đồng thời lại có thể nâng cao hiệu quả phòng ngự một cách tốt nhất.

Chiết Ngự Huân thầm ca ngợi sự kì diệu của nó, trong lòng nghĩ :“Chỉ thêm vào vài thứ đồ chơi be bé đã có tác dụng lớn đến như vậy, khi trở về ta nhất định phải lệnh cho thợ mộc ở Phủ châu mô phỏng theo”.

Đi về phía trước, hai bên đều là đội khinh kỵ binh và giáp kỵ binh, khinh kỵ binh thì không cần phải nói, nhìn thấy những con ngừa A La Bác cao lớn đẹp đẽ bên phải, trên chân ngựa, cả trên lưng ngựa, toàn thân đều được trang bị giáp sắt, phía trước là võ sĩ giấu mặt thân cao trượng tám , giống như quái thú giáp sắt, Dương Sùng ghen tị mà nói :“ Ta đây nếu có được đội kỵ binh trọng giáp như thế này, bất kể người hay phật ngáng trở đường đi của ta ta đều không tha, hành sự lẽ nào còn phải nể nang kẻ khác hay sao?”

Chiết Ngự Huân lại càng ghen tị :“Thật không ngờ Dương Hạo lại có nhiều tiền của như thế, nhớ lúc đầu ta còn hào phóng tặng cho hắn không ít binh khí, sớm biết thế này, ta nên trở tay lấy một vài thứ của hắn mới đúng, tên tiểu tử này luôn miệng than nghèo khó, đại ca đây đã bị hắn lừa rồi, không được, sau này nếu tiểu muội ta thật sự được gả cho hắn, nói không chừng sẽ nhận được một món hồi môn đáng giá, huynh đây trượng nghĩa, lẽ nào ngươi lại không chịu nể mặt người huynh đệ này”.

Hắn nghĩ rồi không nhịn được, quay đầu nhìn theo đám thị vệ, trong đám thị tùng, tên thị vệ mặt mày tuấn tú, để râu chữ bát chính là Chiết Tử Du cải trang.

Nhìn thấy binh lính Lô châu bày binh bố trận chỉnh tề uy nghiêm, đôi mắt Chiết Tử Du long lanh khác thường, nàng vốn cho rằng “Tùy Phong” của mình chỗ nào cũng có thể xâm nhập, nhìn khắp cả Tây Bắc này không có thứ gì có thể qua khỏi tầm mắt của nàng, không ngờ nhìn ngay xuống mũi mình bất giác đã thấy Dương Hạo có được thực lực to lớn đến vậy, muốn vậy cũng phải tiêu tốn biết bao tiền bạc sức lực, phải chuẩn bị huấn luyện trong bao nhiêu lâu? Vậy mà hắn còn mở miệng ra là nói muốn tránh xa thế sự, lui về ở ẩn, khuyên ta không cần phải đối đầu lại với số phận, ai có thể tin được hắn? Tên lừa đảo, thật là kẻ đại lừa đảo !”

Chiết Tử Du một mặt nhớ nhung, một mặt lại căm hận, hận đến nỗi nghiến răng nghiến lợi lại, không hề chú ý đến việc huynh trưởng đang quan sát mình một cách đê tiện, con người trong đôi mắt phượng đã biến thành hai tấm “Tống Nguyên thông bảo”

Thấy hai tên Chiết Dương đi qua trận kỵ binh, Tùy Đại Lang và Lý Thính Phong đứng từ trên cao nhàn xuống không nén nổi nhìn nhau mà cười, trên mặt lộ rõ sự kiêu căng. Đội kỵ binh thùy giáp này Lô châu đã sớm bắt đầu huấn luyện rồi, nhưng những phiến giáp trụ đồng, lại có A La Bá mã cao lớn anh tuấn, tất cả đều dựa vào sự giúp đỡ của Kế Tự đường mới có thể trang bị được, thấy mình dùng tài lực lớn một tay trang võ trang quyền uy tự nhiên cảm thấy vinh quang tột cùng.

Phía trước lại là một đội trường thương và đoản đao, trường thương và đoản đao trận còn phân ra thành các động tác như vung thương (đao) , chặt đâm, thu đao...các động tác nhất loạt chỉnh tề, trăm nghìn người ầm ầm khí thế, nhất tề đồng loạt, trông vô cùng đẹp mắt, cảm giác thị giác đem lại khiến người xem phải rung động.

Tuy nói thứ đồ chơi này trên chiến trường không phát huy được tác dụng gì nhưng điều quân đội coi trọng chính là luyện tập sự nhanh nhẹn, nhất loạt theo hiệu lệnh, những binh sĩ này đều có thể thực hiện các động tác vuông vắn nhất tề như cùng một người xuất ra, còn phải e ngại khi ra trận họ không tuân thủ theo quân lệnh như sơn sao?

Chiêu này là do Dương Hạo học tập theo từ trong binh pháp hậu thế, quả nhiên dành được những lời tán thưởng, các võ tướng xem xong cũng gật gù tán thành, các quan văn võ đi cùng Chiết Dương cũng không nén nổi sự phải lớn tiếng tán thưởng.

Nơi nghênh đón lưỡnng phiên tướng quân lại không phải trong phủ tiết độ sứ mà là ở lầu cao bên ngoài nha phủ, ở đó dựng một chiếc cổng chào cao, hai bên là hai dòng thác nước tuôn chảy, cảnh sắc vô cùng tráng lệ.

Hôm nay hai phía khâm chỉ đến thăm quan có ý nghĩa to lớn phi phàm, đây chính là một sự thể hiện rõ rệt nhất của chính trị.Dương Hạo cũng là muốn nhân dịp này để thể hiện sức mạnh một cách công khai, cho nên nơi nghênh đón phải chọn chỗ sáng sủa nhất.

Trong số đám thương nhân đến Lô châu này không thể không có tai mắt của triều đình, thậm chí còn có cả tai mắt của phe Hạ châu Lý Quang Duệ và Ngân châu Khánh vương, từ ngày hôm nay, Dương Hạo lấy thân phận của một kẻ mạnh để xuất hiện trước mặt thế nhân, phô trương? Đó là điều tất nhiên.

“Hai vị tiết độ sứ đến đây, ta xin giới thiệu với các vị hai người bằng hữu tốt”.

Dương Hạo cầm tay Chiết Ngự Huân và Dương Sùng lôi đi, đứng trên lầu cao rồi cười mà nói :“Vị này là Tiểu Dã Khả Nhi, là tộc trưởng bộ lạc Dã Lợi Thị, bổn quan có thể vinh dự được thăng làm tiết độ sứ, trở lại Lô châu, Đảng Hạng kết giao hữu hảo với Lô châu ta, đó là niềm vui mừng khôn xiết, đặc biệt còn ủy thác cho tộc trưởng tộc Tiểu Dã thay mặt các tộc Đảng Hạng đến trước chúc mừng.”

Tiểu Dã Khả Nhi tiến lên phía trước một bước, chắp tay hành lễ với Chiết Ngự Huân và Dương Sùng, tươi cười nói :“Tiểu Dã Khả Nhi tham kiến hai vị tiết sứ, sớm đã nghe danh tiếng hai vị, hôm nay được gặp thật là phúc đức ba đời”.

Hai nhà Chiết Dương đương nhiên hiểu rõ các bộ lạc ở Tây Bắc như lòng bàn tay, họ đều biết trong số tám bộ lạc của người Đảng Hạng thì bộ lạc Dã Lợi Thị là hung bạo nhất, cũng đã từng nghe nói danh tiếng của Tiểu Dã Khả Nhi, nghe nói người thanh niên anh vũ dũng mãnh trước mặt mình chính là Tiểu Dã Khả Nhi thì không giấu nỗi sự hoan hỉ, khách khí đáp lễ lại, hai bên hỏi han nhau một lượt.

Hai bên hành lễ đã xong, Dương Hạo bèn nói :“Ở đây còn một vị khách quý nữa, đó là Thổ Phiên Á Long Giác A Vương Hậu Thương, người đứng đầu lạc Á Lũng Giác Xích Bang Tùng Xích đại nhân, Xích Bang Tùng đại nhân, vị này là Chiết đại soái Phủ châu, vị này là Dương đại soái Lân châu, đến đây, mọi người gặp nhau”.

Chiết Ngự Huân và Dương Sùng nghe xong đều thầm kinh ngạc :“Dương Hạo ngay cả người Thổ Phiên cũng đã lôi kéo được quan hệ”.

Thổ Phiên đã từng cai trị Tây Bắc, từ thời Võ Tắc Thiên đến Đường Huyền Tông họ đã chiến tranh liên miên với Đại Đường, bên này hòa hiếu, bên kia lại gây chiến, đến sau này rốt cục cũng tranh đoạt được bốn trấn An Tây, tiêu diệt Thổ Cốc Hỗn, cướp được Hà Tây và Lũng Hữu, thậm chí có lúc còn tấn công áp sát thành Trường An của nhà Đường.

Nhưng khi đó thế lực của đế quốc Đại Thực đã bắt đầu xâm chiếm phía Đông, thay thế thế lực nhà Đường kéo dài đến Thổ Phiên của Thông Lĩnh, liên tiếp gây chiến với người Đại Thực, bên này chiến tranh không dứt, đế quốc Hồi Hất bên kia nhân đó vùng dậy, hai bên Thổ Phiên đều rơi vào chiến tranh. Sức mạnh tiêu hao cạn kiệt, cuối cùng sụp đổ.

Sau khi Tán Phổ Đạt Ma cuối cùng chết, Thổ Phiên tan rã sụp đổ, phân tách thành 4 chính quyền lớn, là A Li Vương Hệ, Á Trạch Vương Hệ, La Sa Vương Hệ, Á Lũng Giác A Vương Hệ. Bốn thế lực này cũng phân thành nhiều thế lực nhỏ khác, ví dụ A Li Vương Hệ phân chia thành ba bộ phận Mãnh Vực, Tượng Hùng, Bố Nhượng; La Sa Vương Hệ phân chia thành Sùng Ba Ba, Khương Giao Ngõa, La Ba Lãng Ba, Trị Ba, Nghiệp Đường Ba, Lô Ba Tạng Ba...

Tuy nói Thổ Phiên phân chia ra rất nhiều, người Khương của Hồi Hất và Đảng Hạng xâm lược nơi khác, đàn áp nô dịch người dân, nhưng ngựa thồ gầy yếu vẫn lớn hơn ngựa thường, bộ lạc lớn mạnh nhất trong đó vẫn là bộ tộc có vũ lực lớn mạnh nhất, không dễ bị xem thường, từ Phủ châu và Lân châu mà nói, nếu Hạ châu đi xâm lược nơi khác, họ nhất định sẽ xuất quân đánh lại, nhưng nếu để hai vị tiết độ sứ bọn họ liên thủ lại, họ cũng không dám khinh xuất khêu chiến với Hạ châu, trong khi đó Thổ Phiên lại có thực lực này.

Vừa nghe nói Dương Hạo có quan hệ mật thiết với Thổ Phiên, Chiết Ngự Huân và Dương Sùng không thể không thay đổi cách nhìn với tay láu cá này, phải đánh giá lại thực lực thật sự của hắn.

Xích Bang Tùng tuổi tác không lớn lắm, cũng tầm tầm với Tiểu Dã Khả Nhi, chỉ ít hơn Tiểu Dã Khả Nhi vài tháng, nhưng tướng mạo khôi ngô cường tráng, để râu trên mặt, nên xem ra có vẻ lớn hơn Tiểu Dã Khả Nhi vài tuổi, xem chừng tính khí thẳng thắn dũng cảm, nhất định không thể là gian tế, vừa nghe Dương Hạo giới thiệu, hắn đã nhanh chân bước lên trước, giơ cao hai cách tay, cúi người khom lưng hành lễ, vui vẻ nói :“Xích Bang Tùng bộ lạc Á Lũng Giác bái kiến Phủ châu Chiết soái, Lân châu Dương soái, danh tiếng hai vị đại nhân đã sớm lưu truyền đến chỗ tại hạ, hôm nay gặp mặt thật là vinh hạnh”.

Nói sau mấy câu nói khách sáo, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân suýt chút nữa không hiểu gì, tiếng Hán của Xích Bang Tùng rất lưu loát, chỉ là hắn nói một hơi rồi mới ngắt một câu, cũng chẳng cần quan tâm ngắt ở chỗ nào, nghe xong khiến người khác sũng sờ một lúc, hắn nói khó khăn, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân nghe còn khó khăn hơn.

Dương Hạo cười lớn rồi tiến lên phía trước giải thích vài câu rồi mời mọi người vào chỗ, sau khi đã sắp xếp ổn thỏa bèn nâng cốc lên, vô cùng đắc ý nói :“Chư vị, bổn quan trở lại Lô châu, nhận thánh chỉ của triều đình, nhận chức tiết độ sứ Hoành sơn, hôm nay vinh hạnh được bạn bè từ u nơi đến chúc mừng, Dương mỗ vô cùng cảm kích, bát rượu này, Dương mỗ xin kính mọi người trước, xin mời”.

Dương Hạo nâng bát uống cạn, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân liếc nhìn nhau, cũng mỉm cười nâng bát rượu lên, các quan lại hai bên cũng lần lượt nâng cốc đứng dậy, lớn tiếng hưởng ứng, âm thanh rung động cả khe núi, vọng lại từng hồi không dứt.

Đặt bát rượu xuống, Dương Hạo vẫn chưa quay về chỗ ngồi, nâng lên một bát rượu, cao giọng nói :“Đã nhậm chức quan, phải tạo phúc cho dân, giữ yên sự bình an cho triều đình. Ngân châu vốn là vùng đất nằm dưới sự cai trị của nhà Tống ta đây, chịu sự cai trị của Định Nam Thảo, nay lại bị quân phản nghịch Khiết Đan chiếm lấy làm của mình, Định Nam quân ngay đến thân mình còn chưa lo nổi nên không cách nào thu hồi lại được quốc thổ, Dương mỗ thân là tiết độ sứ Hoành sơn, lại gần kề với Ngân châu trong gang tấc, lẽ nào có thể nhắm mắt làm ngơ?

Hôm nay Dương mỗ khai nha xây phủ, việc thứ nhất chính là muốn chinh phạt Ngân châu, hôm nay các vị bằng hữu tề tựu đông đủ, xin hãy làm chứng cho lời tuyên thệ trước khi xuất quân của Dương mỗ, hi vọng đại quân giành được thắng lợi, mã đáo thành công, thu hồi lại được Ngân châu, đánh đuổi quân phản loạn Khiết Đan. Các vị bằng hữu, mời cạn chén”.

Chiết Ngự Huân và Dương Sùng nghe xong những lời nay mà vui mừng ra mặt, chúng đến đây vốn có ý muốn thuyết phục Dương Hạo tạm thu hồi binh lính ở Hạ châu, giành lấy Ngân châu trước vì hiện tại Ngân châu đang nằm trong tay Khánh vương, mà Khánh vương lại là tên vua phản loạn của Khiết Đan, Khiết Đan tuyệt đối sẽ không chịu ngồi nhìn Khánh vương cai trị Ngân châu, sớm muộn cũng sẽ cho quân đến khiêu chiến.

So với đại Tống, người Khiết Đan càng có dã tâm, họ một khi đánh bại Khánh vương chiếm lấy Ngân châu thì nhất định sẽ không bao giờ chịu nhả miếng mồi ngon đó ra nữa, một khi Ngân châu đã trở thành bàn đạp để tấn công của Khiết Đan rồi thì đó sẽ là một cơn ác mộng đối với các vùng Tây Bắc. So với con mãnh hổ này thì Hạ châu Lý Quang Duệ nhất thời sẽ không còn nguy hại đến bọn chúng nữa, thật không ngờ anh hùng cùng chung chí hướng, Dương Hạo vốn đã có dự tính như vậy.

Quan Lô châu Nham Phàn Nặc dẫn đầu tướng lĩnh uống cạn bát rượu.

Dương Hạo trở về chỗ ngồi. Dương Sùng đã tán thưởng :“Thái úy quả nhiên là bậc anh hùng trong thiên hạ, thật khiến nguời khác phải khâm phục, có điều tên Khánh vương của Khiết Đan này từ Đông đến Tây , đi đến đâu cũng chém giết, sức mạnh ngày càng lớn, không thể xem thường được, thái úy tuyên chiến trước rồi mới đánh đương nhiên là hành động anh minh lỗi lạc, nhưng để cho hắn có thời cơ chuẩn bị như vậy, trận này...e rằng không dễ đánh”.

Dương Hạo cười một cách xảo quyệt :“Thu hồi lại vùng đất đã mất đương nhiên là phải tuyên chiến trước rồi mới đánh, đó mới gọi là uy vũ. Có điều, Dương mỗ lại không phải là Tống Tương Công trên chiến trường còn nói lý lẽ với kẻ thù. Ha ha, Dương mỗ tuy hôm nay tuyên chiến, quân đội hùng mạnh như vậy nhưng chưa chắc sẽ xuất quân ngay bây giờ”.

“Hả?”

Ngự Huân khẽ khép đôi mắt phượng lại, thầm nghĩ :“Tên tiểu tử này rõ ràng bên trong quang minh lỗi lạc nhưng bản lĩnh làm trò hắc ám của hắn có phong cách của ta ngày trước, lúc đầu hắn cũng từng tập kích bất ngờ vào Ngân châu, cha con Lý Thế Thiên hèn nhát cuối cùng mất mạng vào tay hắn, chẳng lẽ hắn muốn lật lọng, lặng lẽ phái người lén tập kích?

Nhưng hôm nay hắn lại đi công khai chuyện này, còn không trừ khi hắn đã sớm phái quân đi trước, nhưng xem năng lực quân sự của hắn lẽ nào hắn còn đang giấu diếm sức mạnh lớn hơn?”

Chiết Ngự Huân càng ngĩ càng cảm thấy kinh ngạc, không nhịn nổi bèn thử thăm dò :“Chiết mỗ cũng là thần tử của nhà Tống, việc giành lại vùng lãnh thổ bị cướp mất là trách nhiệm chung của mọi người, thái úy đã có ý định chinh phạt Ngân châu, nếu cần bổn soái giúp đỡ, chỉ cần nói một tiếng,Chiết mỗ sẽ lập tức xuất quân trợ chiến”.

Dương Hạo cười lớn, nửa thật nửa đùa nói :“Đa tạ ý tốt của Chiết soái, có điều, việc lấy lại Ngân châu vẫn chưa cần phiền đến binh mã của Chiết soái, Dương mỗ theo đạo giáo đại thánh Thuần Dương chân nhân học được chút bản lĩnh lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh, đại quân thảo phạt Ngân châu lần này, ha ha, sớm đã có rồi”.

Phía bên dưới, Chiết Tử Du đang cải trang thành một tên tự vệ chép miệng nói :“Lại nói lung tung để gạt người khác rồi”.

Ánh mắt Dương Sùng chợt lóe sáng, cười lớn mà nói :“Thái úy lại nói đùa rồi, nếu thật sự có cái bản lĩnh đấy vậy đế vương thiên hạ này đều là cao nhân đạo giáo rồi, làm gì có cơ hội cho đám phàm nhân tục tử chúng ta trở thành anh hùng đây?

Chắc thái úy sớm đã có dự trù, binh gia đại sự càng cơ mật càng tốt, chỉ cần thái úy không lỗ mãng hành sự là được, chúng ta cũng không hỏi nhiều nữa. Ha ha, ta và thái úy đều họ Dương, năm trăm năm trước vốn là một nhà, hôm nay được gặp gỡ với thái úy càng có cảm giác chúng ta có duyên kì ngộ, bổn soái có ý cùng thái úy kết thành huynh đệ sinh tử có nhau, không biết ý thái úy thế nào?”

“Dương mỗ cũng đang có ý này, được tiết soái nâng đỡ, Dương mỗ quả là cầu được ước thấy” Dương Hạo vui mừng nói.

Chiết Ngự Huân chưa từng nghĩ đến việc Dương Sùng lại có ý này, bất giác trong lòng có chút tức giận, hai người bọn chúng kết hợp lại, Lân châu trước nay luôn dựa vào Phủ châu, hôm nay Dương Sùng lại đột nhiên tự mình làm chủ, Chiết Ngự Huân tự nhiên thấy không vui, nhưng nhìn thấy Dương Hạo thì đành phải đồng ý.

Chiết Ngự Huân không nghĩ ngợi nhiều cười một tràng dài nói :“Dương lão đệ, Chiết mỗ cũng đang có ý này, không ngờ lại để đệ đi trước một bước, ha ha, Dương thái úy, bổn soái cũng có ý muốn kết nghĩa kim lan với ngài, từ nay chúng ta kết làm huynh đệ kết nghĩa, có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu, không biết ý thái úy thế nào?”

Xích Bang Tùng nhảy nhót reo mừng nói lớn :“Đúng, đúng, ý kiến này thật là hay, tính cả ta, và tộc trưởng Tiểu Dã cùng các vị, năm người chúng ta cùng kết nghĩa huynh đệ ở đây, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu!”

Bộ râu Chiết Ngự Huân nghếch lên, lạnh lùng nói :“Giữa đàn ông với nhau không có sự tranh giành đấu đá”.

Dương Hạo vô cùng vui mừng, lệnh cho người đem nến thơm đến, năm người cùng thắp hương cầu khấn, sau đó cắt máu ăn thề, kết nghĩa kim lan. Luận theo tuổi, Chiết Ngự Huân lớn nhất rồi đến Dương Sùng, Dương Hạo thứ ba, sau đó là Tiểu Dã Khả Nhi, Xích Bang Tùng nhỏ tuổi nhất, năm người đại diện cho năm thế lực ở năm vùng liền kết nghĩa anh em trước sự chứng kiến của mọi người.

Dương Hạo ban đầu cũng không ngờ đến việc sẽ cùng họ kết bái, việc này đối với hắn chỉ có lợi mà không có hại, kinh ngạc vui mừng không để đâu cho hết, nhanh chóng bái làm huynh đệ. Dương Hạo bèn dặn dò Mục Vũ nhanh chóng đi mời các vị phu nhân ra để gặp gỡ các thúc bá. Lát sau, Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa, Miêu Miêu trang sức quần áo gọn gàng, muôn hình muôn vẻ đi ra, lần lượt bái kiến hai vị đại thúc và nhận hành lễ của Dã Khả Nhi và Xích Bang Tùng.

Xích Bang Tùng chắp tay hành lễ :“Tiểu đệ Xích Bang Tùng bái kiến đại tẩu, nhị tẩu, tam tẩu, tứ tẩu”.

Vừa hành lễ xong liền hoa mắt chóng mặt ngẩng đầu lên, luôn miệng cười nói :“Đại ca, nhị ca, tam ca, tứ ca, bốn vị đại ca phúc khí lớn có được bốn vị đại tẩu, đều đẹp hơn nhiều so với những cô gái đẹp nhất trên thảo nguyên Thổ Phiên của Xích Bang Tùng, như là kẻ phàm nhân nhất thời được gặp nhiều tiên nữ như vậy”.

“Hả?” Đám người Dương Hạo sững sờ một lúc, mọi người phải thuật lại một lần từ đầu đến cuối lời của Xích Bang Tùng mới có thể hiểu ý hắn.

Lúc mọi người vẫn còn chưa hiểu rõ, Chiết Tử Du ở bên dưới trong bộ dạng của một tên hiệu úy có bộ râu nhỏ không nhịn được bật cười thành tiếng, vội vã đưa tay lên che miệng lại.

Động tác của nàng lộ rõ thân phận nữ nhi, may mà mọi người đều đang bị những câu nói của Xích Bang Tùng làm cho hồ đồ nên không ai chú ý đến động tác ấy.

Dương Hạo nghĩ thật kĩ lời của Xích Bang Tùng mới hiểu ra, nhất thời mặt mũi tối sầm lại, Tiểu Dã Khả Nhi cũng hiểu ra, nhanh chóng kéo Xích Bang Tùng sang một bên, cười đau khổ :“Lão ngũ, đệ nói năng mạo phạm như vậy, các vị đại tẩu đều là phu nhân của mình tam ca”.

Xích Bang Tùng chớp mắt ra bộ không hiểu gì, Tiểu Dã Khả Nhi đành phải hạ giọng giải thích lại một lần nữa, Xích Bang Tùng lúc này mới hoảng hốt ngộ ra, không kìm được đỏ mặt đi lên trước tạ lỗi, lắp bắp nói :“ Xin bốn vị tẩu tẩu thứ lỗi cho Xích Bang Tùng đệ không hiểu phép tắc lễ nghĩa trung nguyên,dẫn đến hiểu lầm đáng xấu hổ như vậy”.

Chiết Ngự Huân cười lớn nói :“Lão ngũ à, đại ca đệ ở nhà cũng có tám vị phu nhân, theo cách nói của đệ, đại ca còn phải kết nghĩa lại với ba vị huynh đệ mới có thể thu thập đủ con số ấy sao”.

Chiết Ngự Huân lấy đó làm trò cười khiến mặt Xích Bang đã đỏ gay như uống rượu nay lại chuyển sang màu tím, không ngừng chắp tay xin lỗi, đám Đông Nhi lại thích sự ngây thơ chất phác đó bèn nhấc hắn dậy an ủi một lúc, còn hỏi thăm gia cảnh thân thế.

Trước mặt vô số các quan lại, bốn vị phu nhân lại rất chú ý đến cử chỉ hành động của mình, thái độ ung dung, cử chỉ lịch thiệp, giữ gìn gia phong phép tắc. Bên dưới có rất nhiều người bao gồm cả quan lại Lô châu cũng là lần đầu tiên diện kiến bốn vị phu nhân của Dương Hạo, không tránh khỏi ngắm nhìn bình phẩm, tán dương không ngớt.

Chiết Tử Du nhìn thấy trong lòng không có cảm giác gì, khẽ chép chép miệng, ghen tức nói :“Giữa nữ nhi với nhau tranh giành càng không có gì là thú vị”.

Lời Chiết Tử Du vừa nói ra, Trúc Vận trong miệng ngậm đoạn cỏ đuôi chó không biết từ đâu xuất hiện, không hứng thú gì nói :“Tranh đấu giữa nam nữ với nhau không biết có thú vị không, đáng tiếc nếu người lại gặp phải một đống gỗ mục chỉ muốn xuất gia, thì lúc đó chính là muốn tranh đấu cũng không thể”.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: