345-Chương 369:Thiên hạ ai hiểu quân. (3)

Một người luôn âm trầm như Dương Hạo đột nhiên lại rầm rộ tổ chức hôn sự, chỉ có điều cái gọi là “luôn âm trầm” chỉ là cảm giác bằng lòng của hắn. Quan thân bách tính Khai Phong luôn cảm thấy rằng vị quan nhi làm việc gì cũng hấp tấp, rầm rộ, tuyệt đối không phải là kẻ âm trầm.

Dương Hạo lấy một vợ và nạp hai thiếp, nghi thức ba mĩ nhân quy phòng được đồng thời tổ chức. Vị thê này họ Đường tên Diễm Diễm, Dương Hạo sớm đã loan tin khắp nơi, người trong toàn thành đều biết vị Đường Diễm Diễm này là đại tiểu thư của Đường gia Tây Bắc. Còn một trong hai vị thiếp kia nguyên là đệ nhất hành thủ Biện Lương Ngô Oa Nhi, đây chỉ là bổ sung nghi thức, người bên cạnh sớm đã biết nàng ta đã được Dương Hạo nạp phòng rồi. Còn một vị thiếp khác lại là Lâm Âm Thiều, dò hỏi kĩ lưỡng mới biết đó chính là trạng nguyên Diệp bảng trong cuộc thi hoa khôi lần thứ nhất. Hồng hoa lục diệp đều ở bên cạnh, ai lại không ngưỡng mộ tán thưởng Dương Hạo có diễm phúc tề nhân chứ.

Trong hôn sự này của Dương Hạo, ngay cả một quan viên trong quan trường hắn cũng không mời, người tham gia hôn lễ duy chỉ có tứ đại bang chủ tào vận Biện Lương và các thuộc hạ. Hắn tổ chức một bữa tiệc rất khoa trương tại Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu. Điều hắn sợ chính là Đường gia ngăn cản hoặc Tấn vương gia quấy nhiễu từ bên trong. Nhưng rất lạ là Đường gia ngay cả một chút động tĩnh cũng không có, còn bên Tấn vương thì kì thực hoàn toàn không biết Đường gia muốn kết thân với mình, đương nhiên cũng không có cử động gì.

Dương Hạo rất cẩn thận, hắn vốn nghĩ hôn sự này không biết sẽ phải trải qua bao nhiêu sóng gió, không ngờ lại bình yên tổ chức thành. Diệu Diệu nhận được một tờ hôn thư, tuy chưa viên phòng, nhưng thân phận đã được xác lập, Diệu Diệu vô cùng vui mừng, nhưng nàng lại không biết Dương Hạo là có ý định khác.

Ngô Oa Nhi và Đường Diễm Diễm sớm đã cùng thương nghị ngầm với Dương Hạo, đợi khi hắn vừa đi thì hai người sẽ mang theo của cải âm thầm đi theo, đầu tiên là phải dàn xếp thỏa đáng, sau đó sẽ đi về Đường quốc hội họp với hắn, để ba người có thể “cùng chết”. Còn về phía Diệu Diệu, nàng đã có tờ hôn thư này thì chính là thiếp thất theo pháp định của hắn, nếu như hắn xảy ra chuyện thì Diệu Diệu sẽ trở thành người thân duy nhất trên đời của Dương Hạo, sẽ có quyền thừa kế tất cả tài sản của hắn.

Dương Hạo sắp xếp thỏa đáng “hậu sự”, buổi sáng ngày hôm sau liền lên kim điện chào từ biệt quân vương. Triệu quan gia ở trên điện bảo hắn có thể tùy cơ ứng biến, hành động chủ yếu của hắn trong chuyến đi này là đến Đường quốc thăm dò tình hình quân thần Đường triều, nắm vững địa lý Đường quốc để Tống quốc có thể chuẩn bị tốt cuộc thảo phạt Đường quốc, biến Đường quốc thành đất của Trung Nguyên.

Để cho hắn có thể thuận tiện hành sự, quan gia cho hắn tự lựa chọn người đi cùng, Triệu Khuông Dận còn phái thêm hồng lư tự Tiêu Hải Đào làm tuyên phủ phó sứ, rút một số lính trinh thám từ hoàng thành ti ra, ngoài ra còn điều động một đội quân hơn một trăm người từ cấm vệ quân làm nghi trượng cho hắn. Những cấm vệ quân này đều là những đại hán cao tám thước trở lên, thân hình vạm vỡ khôi ngô, võ thuật cao cường, do một vị chỉ huy sứ tên Trương Đồng Chu dẫn đầu.

Khi ra khỏi đại nội hoàng cung, Dương Hạo lại bị Trình Đức Huyền đang đứng đợi ở cửa cung kéo đến Nam nha. Dương Hạo trong lòng không yên ổn, vốn nghĩ Triệu Quang Nghĩa chịu đựng đến bây giờ mới ra tay, không ngờ khi gặp Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa lại đẩy vẻ tươi cười, không chút giận dữ, hoàn toàn không nhắc đến việc hắn thành thân, chỉ nói đến việc hắn phạt hành.

Dương Hạo không hiểu rõ chân tướng, nhưng thấy hắn thể hiện như vậy, thì cũng thấy yên lòng lại. Nếu như vị vương gia này giữ cái thái độ “quân tử báo thù mười năm chưa muộn”, thì hắn cũng không sợ. Lầm này hắn đi giống như giao long vào biển, một khi đã ra biển thì sẽ không có ngày gặp lại, Triệu Quang Nghĩa có âm mưu quỷ kế gì thì đều không thể dùng được.

Theo như người bên cạnh thì lúc này lại nhìn ra Tấn vương lễ hiền hạ sĩ như thế nào, biết làm người như thế nào. Cho dù bây giờ Triệu Phổ đã đổ, trong triều Triệu Quang Nghĩa là độc đại, cái tên khâm sai Dương Hạo bây giờ cũng chỉ thuộc vào hàng nha nam nhàn rỗi, đối với Triệu Quang Nghĩa không có tác dụng gì nữa, nhưng Triệu Quang Nghĩa lại vẫn quan tâm thân thiết đến hắn, ngược lại hẳn với Ngụy vương. Dương Hạo đã từng làm phó sứ cùng với hắn đến Giang Nam tuần hành, vậy mà lúc này hắn lại hoàn toàn không có thể hiện gì, có phần giống như khúc gỗ.

Từ biệt Tấn vương, điểm lại cấm quân, mang theo mật thám mà hoàng thành ti sai đến, Dương Hạo và tuyên phủ phó sứ Tiêu Hải Đào hẹn Sử bộ thượng thư Đường quốc Từ Huyễn ở lễ binh viện, đang định cùng đến bến thuyền để rời đi thì đại hồng lư tự, kẻ luôn mang danh bạo bệnh Chương Đài Liễu chạy đến, ngồi cùng kiệu với hắn, trong kiệu nói mấy lời ân cần dạy dỗ.

Dương Hạo còn tưởng rằng vị đại hồng lư tự có chuyện gì cấp bách, nghe hắn nói một tràng mới biết hóa ra hắn toàn nói về việc phải chú ý khi làm sứ thần ngoại giao. Xuất sứ là đại biểu cho triều đình, nhất cử nhất động đều phải cẩn thận, đề phòng thất lễ, quá tự nhiên thì không được, còn nếu quá khiêm nhường thì cũng sẽ tổn hại quốc thể, đại loại là các việc như thế, việc nào Dương Hạo cũng gật gật đồng ý.

Chương Đài Liễu lại nói: “Tả khanh sứ, lần này đi phàm chuyện gì cũng phải tùy cơ ứng biến, cần cẩn thận. Có những lúc ngôn từ của ngài không có chỗ nào thất lễ, nhưng đối phương vẫn có thể gài bẫy làm cho ngài mất mặt. Nếu như không cẩn trọng sẽ giống như Đào thượng thư năm xưa, rơi vào vòng vây của người ta, rồi để cả thiên hạ chê cười.”

Dương Hạo có chút ngạc nhiên, thượng thư đương triều họ Đào chỉ có một vị, chính là hàn lâm học sĩ thừa chỉ, hộ bộ thượng thư Đào Cốc, nhưng vị này đã từng đi sứ Đường quốc sao? Lại còn có chỗ thất lễ bị người khác chê cười nữa ư?

Dương Hạo vội vàng hỏi, Chương Đài Liễu liền nói: “Đào thượng thư khi ở tiền triều Thế Tông hoàng đế đã là hàn lâm học sĩ, nếu như ông ta không xảy ra chuyện xấu hổ thì sao bây giờ chỉ là một hộ bộ thượng thư hữu danh vô thực chứ? Đáng nhẽ ông ấy sớm đã phải là tể tướng rồi. Nguyên nhân chính là khi ông ấy làm hàn lâm học sĩ tiền triều đã từng xuất sứ Đường quốc, lại trúng phải kế của người ta, làm cho thân bại danh liệt.”

Chương Đài Liễu tỉ mỉ kể lại chuyện, Dương Hạo mới hiểu được căn nguyên. Lúc đó Đường quốc vẫn là do phụ thân của Lý Dục Lý La làm hoàng đế, còn Triệu Khuông Dận lúc đó mới chỉ là một vị quan triều Chu, đồng điện xưng thần với vị đại học sĩ Đào Cốc này. Đào Cốc phụng mệnh Thế Tông hoàng đế xuất sứ Nam Đường, lúc đầu khi đến Đường quốc, không hề nói cười, đầy vẻ nghiêm trang, người người đều biết hắn là một quân tử đạo đức nên đối xử rất nghiêm túc kính cẩn với vị sứ thần Đại Chu này.

Lúc đó người phụ trách tiếp đón Đào Cốc chính là đại thần Đường quốc nổi tiếng “phóng đãng” Hàn Tái Hi. Hàn Tái Hi lại tỏ vẻ coi thường sứ giả bày, hắn đã giở trò với Đào Cốc. Đào Cốc sáng sớm nào cũng đi tản bộ trong dịch quán mà hắn ở. Có một hôm hắn đột nhiên phát hiện có một nữ nô tì mới đến. Nữ nô này tuy chỉ là một hạ nhân quét dọn trong viện, quần áo rách rưới, cả người là vẻ bần hàn, thoa cài tóc cũng là dùng một cành trúc nhỏ gọt mỏng đi, dáng vẻ cân đối, nhưng khuôn mặt dáng điệu lại vô cùng bất tục.

Đào Cốc rất kinh ngạc, cảm thấy một nhân vật như vậy không nên làm hạ nhân, liền dừng lại hỏi han vài câu với nàng, lúc này mới biết người thiếu phụ này họ Tần tên Nhược Lan, vốn cũng là thư hương môn đệ (người có học), vì chồng bị bệnh mà chết, không có chỗ nương nhờ nên mới phải vào dịch quán tìm một công việc tạm thời để qua ngày.

Trời còn thương xót cỏ cây huống hồ là con Giang Nam. Đào Cốc thấy một người xinh đẹp như vậy không khỏi có lòng thương tiếc, thường xuyên chăm sóc cho nàng. Qua lại nhiều lần, vị Đào đại nhân này đã nảy sinh tư tình với vị thiếu phụ xinh đẹp. Có một buổi tối, vị thiếu phụ này không rời khỏi dịch quán mà lại bước vào phòng ngủ của Đào Cốc.

Cái cảm giác lưu luyến bịn rịn thật là khó chịu, Đào Cốc biết làm vậy sẽ phải gánh hậu quả, nhưng lại không thể buông được.

Một đêm tình không đủ liền tình đêm đêm. Từ đó hai người cùng ở với nhau như phu thê. Khi tình nồng thắm, Đào Cốc đã đồng ý với lời thỉnh cầu của nàng, còn vì nàng mà viết một bài thơ để làm vật chứng cho tình yêu. Bài thơ đó viết: “Hảo nhân duyên, ác nhân duyên, nại hà thiên, chích đắc bưu đình nhất dạ miên. Biệt thần tiên, tỳ bà bát tẫn tương tư điều, tri âm thiểu, đãi đắc loan yêu tục đoạn huyền. Thị hà niên?”

Qua mấy ngày, chủ của Đường quốc, Lý La mở yến tiệc trong cung mời Đào Cốc. Lý La bảo mĩ nhân tiếp rượu, Đào đại học sĩ giả vờ gượng ép, làm ra vẻ chính nhân quân tử, miệng thì liên tục từ chối, làm cho Lý La rất mất hứng.

Hàn Tái Hi đứng bên cạnh cười lạnh một tiếng, vỗ tay ba cái, lạc khúc liền vang lên, một mĩ nhân xinh đẹp từ sau bức màn uyển chuyển bước ra, giọng thanh thoát cất tiếng hát: “Hảo nhân duyên, ác nhân duyên, nại hà thiên, chích đắc bưu đình nhất dạ miên. Biệt thần tiên, tỳ bà bát tẫn tương tư điều, tri âm thiểu, đãi đắc loan yêu tục đoạn huyền. Thị hà niên?”

Đào Cốc vừa nghe thấy mặt liền tái nhợt, ca từ này chính là lúc hắn tình nồng trên gối đã viết cho thiếu phụ góa bụa. Một lúc liền định thần nhìn lại, ca nữ xinh đẹp đó chẳng phải là người thiếu phụ đã đầu ấp tay gối mấy đêm trước với hắn – Tần Nhược Lan hay sao?

Hóa ra nàng ta hoàn toàn không phải là thiếu phụ ở góa, mà là một ca kĩ của phủ Hàn Tái Hi. Bài thơ tình mà sứ tiết Chu quốc xuất sứ thông gian với thiếu phụ ở góa lại được vang lên ở quốc yến, làm cho Đào Cốc xấu hổ không có đất để chui xuống. Từ lúc đó hắn không thể ngẩng mặt trước người Đường. Khi hắn về nước, người Đường chỉ phái mấy tiểu lại bưng một hũ rượu nhạt ra bờ sông tiễn hắn, thể hiện sự khinh thường cực độ đối với hắn.

Đào Cốc xấu hổ, nhẫn nại quay trở về Khai Phong, vốn tưởng rằng sự nhục nhã của mình đã kết thúc, ai ngờ đây mới chỉ là bắt đầu. Hắn cho rằng sẽ chỉ bị tiêu tan tiền tài, ai ngời tin tức đã nhanh chóng về tới Chu quốc, khi hắn trở về Khai Phong, hắn đã cảm nhận sâu sắc sự oán trách của mọi người với sự thiếu đạo đức của hắn.

Vì chuyện này mà Đào Cốc tuy tài học đầy mình, nhưng trên con đường thăng tiến luôn gặp phải trở ngại. Từ khi có bài học phản diện này, người Chu mỗi lần xuất sứ Đường quốc, quả thật ai cũng rất thanh liêm, tuyệt đối không nhận hối lộ, làm chuyện bậy, nữ sắc càng tuyệt đối không chạm tới, họ sợ sẽ dẫm lại vết xe đổ của người xưa. Bây giờ triều Chu đã trở thành triều Tống, tể tướng phóng đãng Hàn Tái Hi cũng đã bệnh chết hai, ba năm trước, nhưng quy củ này vẫn không thay đổi. Cho nên chỉ cần có người xuất sứ Đường quốc thì cái kẻ xui xẻo Đào Cốc này lại bị lôi ra, làm bài học nhắc nhở mọi người phải cẩn thận.

Lão già Chương Đài Liễu cảm thấy Dương Hạo là một kẻ khác lạ trong triều đình Đại Tống. Người ta thường nói: “nhất mệnh, nhị vận, tam phong thủy, tứ tích âm đức, ngũ đọc sách.” Người ta vận khí tốt, tường thành cũng không ngăn nổi, còn mình, một kẻ đọc sách đã lớn tuổi như thế này mà lại không thể bì được với hắn, tên thuộc hạ này sớm muộn cũng sẽ trèo lên đầu mình. Cho nên hắn không từ gian khổ mà chạy tới ân cần dặn dò, vừa là vì quốc thể, vừa là để thể hiện sự thân tình.

Dương Hạo nghe hết câu chuyện thì kiệu cũng tới bến thuyền. Dương Hạo chắp tay chào tạm biệt đại hồng lư hồi phủ, hắn mỉm cười: “Dám chắc vị Chương Đài Liễu này cả đường đưa tiễn chính là vì nhắc nhở ta cẩn thận với viên đạn bọc đường của Đường quốc.

Ha ha ha, ta còn sợ người ta đến quyến rũ ta sao? Không có người đến cấu xé ta, ta còn phải chủ động gây họa thị phi ấy chứ. Lần này đi sứ Đường, ta đây là đi chết mà. Chương đại nhân, xin lỗi, Dương mỗ đã phụ lòng tốt của ngài rồi.”

***

Trường Giang mấy nghìn dặm bắt nguồn từ Thanh Hải, chảy qua Tam Hiệp, bắt qua Giang Hán, thông với Ngô Việt, khí thế hừng hực, sóng xiết cuồn cuộn. Hạ du Trường Giang mênh mông sâu không thấy đáy, chỉ có hai bến đò, một là bến Thái Thạch, một là bến Qua Châu.

Giữa hai bến này lại có một Kim Lăng thiên cổ Nhất Giang Vũ Thành.

Kim Lăng lấy núi làm thành, lấy Trường Giang làm rãnh trời. Cái thế hiểm dựa sông núi làm cho một số người vừa nhìn đã dậy lên khí độ vương giả, coi đây là đất đóng đô. Nhưng những vương triều đã định đô ở đây người nào cũng đoản mệnh. Nghe nói đó là vì phong thủy của Kim Lăng quá tốt, sớm đã bị người ta phá hỏng.

Nghe nói thời chiến quốc, có một phương sĩ (chỉ những người cầu tiên học đạo) đã nhìn ra mảnh đất này vương khí cực thịnh, đã hiến kế giấu vàng để trấn vương khí, cho nên Sở Uy Vương lệnh cho người điêu khắc một người bằng vàng, giấu bên dưới cầu Bảo Tháp của Sư Tử Sơn trong thành Kim Lăng bây giờ, sau có còn xây một kim lăng để trấn vương khí, từ đó nơi đây có cái tên Kim Lăng này.

Khi Tần Thủy Hoàng tuần du Vân Mộng, phương sĩ trường sinh với đạo thuật cực cao của hắn một lần nữa đã nhìn ra nơi đây có vương khí rất mạnh, liền bẩm báo lại với Tần Thủy Hoàng. Sự quyết đoán của Tần Thủy Hoàng mạnh hơn nhiều Sở Uy Vương, cái gì mà chôn người bằng vàng, cái gì mà trấn vương khí? Tần Thủy Hoàng cười lạnh một tiếng, trực tiếp sai người cắt đứt long mạch của Phương Sơn, lại dẫn sông Hoài xuyên qua thành Kim Lăng để trôi hết vương khí.

Từ đây Phương Sơn bị cắt đứt, sông Hoài xuyên qua, tảng đá hổ cứ long môn đã bị mất đi khí bá vương. Dòng sông Hoài tĩnh lặng chảy qua hơn mười dặm.

Nhưng những quân chủ không tin vào điềm gở cũng có, hơn nữa địa giới Giang Đông quả thực cũng không tìm ra được nơi nào thích hợp hơn Kim Lăng để làm đô thành, cho nên Đường quốc vẫn dựng đô ở đây. Bây giờ đã truyền tới ba đời, đã đến tay Lý Dục. Lý Dục e ngại thế lực của Đại Tống, đã tự tước bỏ đi cái tên Nam Đường quốc, mà trở thành thần tử của Đại Tống, đổi tên thành Giang Nam quốc chủ, khí thế của vương giả này đã mất đi một nửa.

Tin tức Lý Tòng Thiện xuất sứ Tống quốc, lại bị giam lỏng ở Khai Phong đã được truyền về, Lý Dục hay tin liền vô cùng kinh hãi. Chưa đợi tuyên phủ khâm sai Tống quốc đến đã hạ lệnh gọi Triệu Khuông Dận là hoàng đế, hắn xưng quốc chủ, trung thư môn hạ đổi thành hữu tả nội sứ, thượng thi tỉnh thành ti hội phủ, ngự sử đài đổi thành ti hiến phủ, triều lâm viện đổi thành tu văn quán, khu mật viện đổi thành quang chính viện, hồng lư tự hạ thẳng xuống lễ tân viện, lập tức dỡ bỏ biển, đổi thành biển của nha môn theo chế độ mới.

Mấy đệ đệ đã phong vương cũng nhất loạt đổi thành công. Lý Tòng Thiện phong làm Sở quốc công, Lý Tòng Tỏa phong thành Giang quốc công, Lý Tòng Khiêm phong thành Ngạc quốc công. Khi con thuyền lớn mà Dương Hạo và Từ Huyễn đi dừng ở bến Qua Châu thì Lý Dục đang chỉ huy người bắc thang trèo lên phía trên của cung điện, dùng búa để đập hết những hình thiên nga, long phượng đi, cải chế thì phải cải chế triệt để.

Lý Dục đang bận rộn thì một nội thị luống cuống chạy tới, thì thầm to nhỏ mấy tiếng với hắn. Lý Dục nghe xong mày liền nhíu lên, chần chừ một lúc, đành thở dài một tiếng rồi phất áo bước ra khỏi Thanh Lương điện.

Vừa bước ra khỏi Thanh Lương điện thì có một mĩ nhân mặc y phục trong cung liền chạy tới trước mặt hắn, khóc lóc thảm thiết, quỳ xuống và liên tục nói: “Quan gia , quan gia, người nhất định phải cứu Trịnh vương nhé, bây giờ ngài ấy ở Tống quốc không biết sống chết như thế nào, thần thiếp vô cùng nóng ruột. Quan gia, ngài ấy là huynh đệ của người, quan gia nhất định phải cứu ngài ấy nhé.”

Lý Dục lúng túng không biết phải làm thế nào, áo bào bị vị phu nhân đó giữ chặt, không thể dứt ra. Hắn đành phải cúi xuống đỡ phu nhân đó dậy, an ủi mấy câu: “Nàng mau đứng dậy đi, mau đứng dậy đi, làm như thế này chẳng ra thể thống gì cả. Trẫm đã ra quốc thư khẩn cầu với Tống đế, Tống đế chắc sẽ thả Tòng Thiện về nước, nàng không phải lo lắng đến thế đâu.”

Vị phu nhân quỳ dưới đất này chính là vương phi của Trịnh vương Lý Tòng Thiện, nghe nói tướng công bị giam lỏng ở Tống, không được về triều, nên không khỏi lo lắng sốt ruột, vội vàng chạy đến cung để kiến giá. Vương phi của Trịnh vương nước mắt ngắn nước mắt dài, Lý Dục đỡ nàng dậy, lại nói: “Còn nữa, sau nhất định không được gọi trẫm là quan gia nữa, chỉ có thể gọi là quốc chủ thôi. Trịnh vương cũng không được gọi, gọi là Sở quốc công, nhớ đấy, nhớ đấy.”

Trịnh vương phi gạt nước mắt nói: “Quan… quốc chủ, hoàng đế Tống quốc nếu đã giam cầm Trịnh… Sở quốc công thì sao có thể dễ dàng thả được. Là quốc chủ đã phái phu quân của thần thiếp đi, bây giờ ngài ấy không về được, thiếp chỉ có thể đến cầu khẩn quốc chủ thôi. Nếu như phu quân của thần thiếp có mệnh hệ gì thì thần thiếp cũng không thể sống nổi. Quốc chủ nhất định phải cứu tính mạng của ngài ấy.”

Lý Dục mặt đỏ tía tai, dùng lời ngọt để trấn an: “Không cần lo lắng, ta nhất định sẽ nghĩ cách, nhất định sẽ nghĩ ra cách. Bây giờ sứ tiết Tống quốc sắp đến rồi, ta phải đi làm quốc lễ, bây giờ không tiện nói chuyện, có chuyện gì đẻ sau hẵng tính tiếp.”

Trịnh vương phi nói: “Khiển sứ người Tống đến sao? Quốc chủ, chúng bất nhân thì ta bất nghĩa, hay quốc chủ cũng giam lỏng sứ tiết của chúng, bảo Tống triều lấy phu quân của thần thiếp để trao đổi.”

Lý Dục dậm chân nói: “Đúng là nữ nhân thiển cận, nếu như vậy chẳng phải là chuẩn bị gặp nhau bằng đao kiếm hay sao?”

Thấy Trịnh vương phi ngẩn ra, Lý Dục lại thở dài một hơi, lẩm bẩm: “Còn cần phải giam lỏng hắn sao? Tuyên phủ… tuyên phủ, cũng biết Tống sứ này muốn tuyên phủ đến bao giờ mới được coi là tuyên phủ kết thúc để trở về nước. Ôn thần muốn tống mà cũng không tống didc, nàng lại còn muốn trẫm giữ hắn lại sao?”

Trịnh vương lúng túng nói: “Vậy… vậy phải làm như thế nào mới được?”

Lý Dục dung hòa lại vẻ mặt, nói: “Nàng cứ hồi phủ đi, đừng quá lo lắng, trẫm sẽ nghĩ ra cách. Tòng Thiện là huynh đệ máu mủ của trẫm, trẫm sao có thể không cứu nó?”

Sau khi dùng một loạt những lời ngon ngọt an ủi, khuyên nhủ Trịnh vương phi đang khóc lóc hồi phủ, Lý Dục đứng ở trước Thanh Lương điện, lẩm bẩm tự nói: “Triệu Khuông Dận phong Tòng Thiện là Thái Ninh tiết độ sứ, phong phủ đệ ở Lương Dương, chỉ ở lại kinh sư lĩnh bổng lộc, không cần phải lập chức. Lại phong mẫu thân của Tòng Thiện – Lăng thị làm đại phu nhân Ngô quốc, những người đồng hành với nó đều được ban thưởng gia phong. Đây chẳng phải là làm cho ta xem sao, muốn ta đầu hàng Đại Tống hắn.

Nhưng ta vốn là quân vương của một nước, bây giờ đã tự hạ mình làm vương, xưng thần với Tống, làm như vậy vẫn chưa đủ sao? Không biết Triệu Khuông Dận có cái mồm to đến mức nào nữa? Hắn cũng nên biết đủ chứ. Ừm… hắn nên biết đủ, bên ta vẫn còn mấy mươi đại tinh binh, vượt xa Thục Hán, Triệu Khuông Dận hắn cũng không thể không kiêng kị chút nào. Đợi khi sứ tiết Khiết Đan đến rồi, ta sẽ để cho hắn biết Đường quốc ta với Khiết Đan có quan hệ mật thiết, đến lúc đó Tống triều e sợ bị địch đánh hai mặt, tất sẽ thả cho Tòng Thiện trở về, nhất định sẽ là như thế!”

***

“Nương nương người xem, mặc Hồ phục tà ngắn cổ gập này vào, lại phối thêm những trang sức mà quan gia đã đích thân thiết kế, phải chăng có mùi vị khác?”

Hai mĩ nhân đứng trước gương, trong đó một người mặc Hồ phục tà ngắn, cổ áo lật được làm bằng lông hồ ly trắng, mắt ngọc mày ngà, đầy vẻ chói lóa, thần thái hiền dịu, giọng nói mượt mà, đó chính là Tiểu Chu hậu. Còn người kia mặc một bộ y phục màu xanh ngọc, có dáng vẻ phiêu diêu thoát tục, đôi mắt long lanh như sóng mùa thu.

Hai người đều có dáng vẻ vô cùng thon thả, cân đối. Tiểu Chu hậu vốn là một thiếu phụ nho nhã xinh đẹp, giờ lại mặc Hồ phục này vào lại có thêm vài phần anh tuấn, xem ra rất giống một cô nương mười bảy, mười tám chưa từng xuất giá.

Tiểu Chu hậu không khỏi tươi cười nói: “Quả nhiên Minh Nhi muội tử thật khéo tay. Kiểu cách y phục may rất đẹp, hơn nữa mặc vào lại vô cùng vừa vặn. Đợi quan gia hồi cung, sẽ làm cho ngài ấy ngạc nhiên. Nào, chúng ta đánh cờ đi.”

Hai mĩ nhân cùng đi tới một bên, ngồi xuống bệ, bàn cờ đã được bày sẵn. Thiếu nữ mặc y phục màu ngọc bích vừa sắp cờ vừa nói: “Nghe nói quan gia đã đến xưng thần với Tống triều, đổi đế thành vương, sợ rằng cách gọi quan gia này từ giờ về sau cũng sẽ không thể xưng được nữa.”

Tiểu Chu hậu cười không cho là thật, nói: “Minh Nhi nghĩ quá rồi, chẳng qua chỉ là đổi cách xưng hô thôi mà, Nam Đường ta vẫn là Nam Đường, có gì khác biệt chứ. Mà có đổi tên thì chúng ta xưng ở trong cung, Tống triều sao có thể biết được chứ?”

Minh Nhi thở dài một tiếng, lắc đầu không nói.

Tiểu Chu hậu nhíu mày lên, có chút kinh ngạc nhìn nàng ta, hỏi: “Minh Nhi, có chuyện gì vậy?”

Minh Nhi thở dài nói: “Minh Nhi chỉ là lo lắng, lo lắng Tống đế sẽ không chịu buông tha.”

Tiểu Chu hậu ngạc nhiên nói: “Sao lại thế được? Phải biết rằng Đường quốc không những có Trường Giang tam hào yểm hộ, lại còn có mười mấy vạn dũng sĩ Giang Đông muốn đánh là có thể đánh ngay, chúng có thể làm được gì ta chứ? Đường quốc ta đã xưng thần với chúng, Trung Nguyên nhất đế, duy chỉ có hắn Triệu thị mà thôi, bá nghiệp đế vương đã vào tay hắn, hắn còn muốn gì nữa chứ?”

Minh Nhi muốn nói lại thôi, Tiểu Chu hậu thấy vậy liền nói: “Minh Nhi muội muội, chúng ta quen biết nhau tuy thời gian có ngắn nhưng hai bên đều rất tâm đầu ý hợp, ta xem muội như tỷ muội người thân, có lời gì muốn nói muội cứ nói thẳng ra, cho dù có chỗ nào không thỏa đáng thì bổn cung cũng sẽ không trách đâu.” Nói rồi Tiểu Chu hậu xua xua tay, bảo mấy nội thị cung nhân lập tức lui ra khỏi điện.

Minh Nhi này họ Mạc tên Dĩ Minh, Mạc Dĩ Minh Mạc cô nương là cháu gái xa của tiết độ sứ trấn hải Lâm Nhân Triệu, khi mệnh phụ quý nữ nhập cung làm Ngụy hoàng hậu, phu nhân Lâm Nhân Triệu đã đưa nàng ta tới đây. Cô nương này dáng vẻ yêu kiều, ăn nói lễ phép, rất được lòng Tiểu Chu hậu, qua lại nhiều hai người đã trở thành bằng hữu thân thiết trong chốn khuê phòng.

Mạc Dĩ Minh nhìn xung quanh, che mồm nhỏ tiếng nói: “nương nương ở trong thâm cung không biết chuyện trong thiên hạ. Nương nương có biết dã tâm của Triệu Khuông Dận vô cùng lớn, không những chí ở thiên hạ, mà hơn nữa lại là một kẻ vô cùng háo sắc không?”

Tiểu Chu hậu ngạc nhiên nói: “Không phải chứ? Bổn cung nghe nói phi tần của Triệu Khuông Dận rất ít, không phải là kẻ đam mê tửu sắc?”

Nói đến đây, nàng đột nhiên hừ nhẹ một tiếng, có chút không vui nói: “Phi tần của Triệu Khuông Dận so với hoàng đế Đường quốc ta còn ít hơn bảy, tám phần. Nếu hắn đã bị coi là háo sắc thì vị quan gia của chúng ta phải gọi là gì?”

Mạc cô nương bĩu môi ra, khinh thường nói: “Điều đó không có nghĩa là hắn không háo sắc. Chỉ là người này tầm mắt quá cao mà thôi. Người nói xem, nếu hắn không háo sắc tại sao lại có nhiều phi tần để chọn như thế mà lại nạp Hoa Nhị phu nhân Thục quốc nhập cung chứ? Người ta đã có chồng rồi, chồng lại từng là quân vương của một nước, lại đã đầu hàng Tống, là Tống thần. Làm gì có cái đạo lý quân đoạt thần thê chứ, nếu hắn không háo sắc sao có thể bất chấp lễ nghĩa như vậy?”

“Minh Nhi nghe ai nói vậy?”

“Minh Nhi ở trong dân gian, có thể nghe được rất nhiều tin tức mà nương nương không thể nghe thấy. Nghe nói Triệu Khuông Dận đã từng hạ quyết tâm, thứ nhất là bình định Trung Nguyên, có được tứ hải, hai là có thể chiếm được hai đại mĩ nhân trong thiên hạ, như thế sẽ không phụ cuộc đời này.”

Nữ nhân đều có lòng thích cái đẹp. Tiểu Chu hậu luôn tự phụ với sắc đẹp của mình, vừa nghe thấy lời này lập tức nổi sự hiếu kì, hỏi: “Là hai vị mĩ nhân nào cơ?” 

Minh Nhi nói: “Một là Hoa Nhị phu nhân của Thục quốc, người kia chính là nương nương người đấy.”

Tiểu Chu hậu nghe xong kinh ngạc nói: “Sao lại có chuyện này được?”

“Ham muốn của nam nhân một là quyền, hai là sắc. Triệu Khuông Dận có dã tâm như vậy có gì là lạ chứ? Năm đó Tào Mạnh Đức nhất thế kiêu hùng không phải cũng đã có một sủng nguyện chính là ‘ta nguyện thứ nhất quét sạch tứ hải, để thành nghiệp đế; thứ hai nguyện đạt được nhị kiều Giang Đông, chết cũng không hối tiếc’ hay sao?”

Tiểu Chu hậu trong lòng rối bời nói: “Tống đế lại là một con người như vậy sao?”

Minh Nhi thở dài nói: “Nếu không phải là như vậy thì tại sao Thục đế Mạnh Thác đang khỏe mạnh như vậy mà vừa đến Khai Phong, nhận gia phong Thái Sư kiên Trung Thư Lệnh Tần quốc công thì chỉ bảy ngày sau đã bị bạo bệnh một cách ly kỳ rồi chết? Tất cả âm mưu chính là vì Hoa Nhị phu nhân. Thục thái hậu rõ ràng biết con trai chết một cách kỳ lạ, nhưng không thể làm gì được. Bà ta vốn là người Bắc Hán, liền thỉnh cầu Triệu Khuông Dận cho trở về cố hương để mong thoát họa. 

Một vị phu nhân già yếu còn có thể có uy nghiêm gì nữa, vậy mà Triệu Khuông Dận vẫn không thả bà ta đi, lại còn vờ vịt nói rằng đợi khi hắn diệt Bắc Hán xong sẽ đích thân đưa bà ta về cố hương. Thục thái hậu tự biết khó tránh khỏi kiếp nạn vì vậy mới tuyệt thực mà chết. Nếu không, người nghĩ mà xem, bà ta vốn muốn thỉnh cầu trở về cố hương, sao lại đột nhiên có ý muốn chết? Quan gia nếu như không sớm tính mưu thì… tha cho muội muội có lời bất kính, sợ rằng… sẽ có một ngày quan gia sẽ bước theo gót của Mạnh Thác.”

“Bộp!” Quân cờ rơi xuống bàn cờ, Tiểu Chu hậu mặt biến sắc.

Minh Nhi mỉm cười, không nói nhiều lời nữa. Cơm phải ăn từng miếng một, thuốc phải uống từng ngụm một, đầu tiên là phải làm cho vị Tiểu Chu hậu này tâm trí rối loạn, rồi từ từ thông qua nàng ta để ảnh hưởng đến vị hoàng đế kém cỏi này.

Vị hoàng đế Đường quốc bình sinh chỉ có bốn cái tốt. Một là mĩ nhân, hai là thơ từ, ba là nịnh phật, bốn là chơi cờ. Đứng đầu chính là nữ sắc. Mĩ nhân trong hậu cung của Lý Dục, tiểu Chu hậu là người được sủng ái nhất. Có lẽ là nếu thông qua sự can ngăn của văn võ bá quan trong triều sẽ không làm được việc gì, còn nếu dùng vị nương tử này, thông qua màn chăn gối của tiểu Chu hậu lại có thể đạt được mục đích của mình.

Minh Nhi không nói nữa, chỉ yên lặng đánh cờ. Khi tiểu Chu hậu từ từ tiêu hóa được cái tin tức đáng sợ này, tiểu Chu hậu liền lẩm bẩm tự nói: “Tin tức này thực sự ta chưa từng nghe thấy. Nếu như Tống đế mong có được bổn cung thì e rằng không ổn rồi. Sứ tiết Tống triều Dương Hạo lại sắp đến rồi, bổn cung sẽ bào người cẩn thận theo dõi hắn, nếu như Tống đế có dã tâm không từ với Đường quốc ta thì tất sẽ có hành động khác thường.”

“Bộp!” Quân cờ trong tay Mạc cô nương liền rơi xuống.

Mạc Dĩ Minh kinh ngạc nói: “Nương nương nói… sứ tiết Tống triều sắp tới sao? Người đó họ tên là gì?”

Tiểu Chu hậu nói: “Người này họ Dương tên Hạo, sao thế, Minh Nhi muội muội đã từng nghe thấy cái tên này ư?”

“Chưa từng nghe thấy.” Mạc cô nương mắt lóe lên, cắn nhẹ môi, trong lòng thầm oán hận: “Sao ta đến đâu thì hắn lại đến đấy vậy, tên khốn này không chịu để cho người ta yên.”

***

Dương Hạo và Từ Huyễn ra khỏi bến thuyền, đi theo sự dẫn dắt của quan viên lễ tân viện Đường quốc lên kiệu đến thành Kim Lăng.

Lý Dục bây giờ xưng thần với Tống, không dám huênh hoang ra vẻ để sứ thần Tống quốc nhìn thấy. Dương Hạo vừa đến thành Kim Lăng liền tiến thẳng đến phía vương cung, đến cổng vương cung Dương Hạo lại do một ti lễ cung đình đích thân dẫn vào trong đại điện, quốc chủ Giang Nam Lý Dục đã đích thân ra nghênh đón. Bây giờ Lý Dục đã bỏ bộ long bào để khoác lên tử y.

Dương Hạo vừa nhìn thấy đại nhân vật có tiếng trong sử sách, không khỏi thấy thất vọng. Sự đẹp đẽ không có từ nào sánh nổi, không có ai bì kịp của Lý Dục trong lòng Dương Hạo cho dù bây giờ tuổi tác có lớn một chút thì tuyệt đối không thể là một công tử nho nhã, ít nhất cũng nên là một đại thúc có diện mạo đẹp đẽ, mặt ngọc mày ngà.

Nhưng con người mặc tử y trước mặt lại quan chẳng ra quan, dân chẳng ra dân, người hơi béo một chút, khuôn mặt tròn và hơi béo, hơn nữa cả mồm đầy răng to, điểm đặc biệt là trong mắt hắn mọc ra hai cái đồng tử mà khi nhìn về phía người đối diện mà lại như đang liếc nhìn chỗ khác, làm cho người ta thấy không được thoải mái.

Con người này trong truyền thuyết là một đấng hoàng đế của thơ ca, chính là người đã viết ra những câu thơ tuyệt thế sao? Cảm giác của hắn giống như vỡ mộng vậy, hoàng đế thơ ca trong lòng hắn hóa ra lại cà một người có dáng vẻ như thế này.

Dương Hạo thầm thở dài. Lý Dục bước lên trước: “Đường quốc chủ Lý Dục xin ra mắt khâm sai thượng quốc, hậu chỉ.”

Khí độ của Lý Dục vẫn rất ung dung bình tĩnh, vừa thấy Dương Hạo đến liền chắp tay thi lễ. Dương Hạo nhớ đến cái phong thái lúc Lục Nhân Gia đến Quảng Nguyên dự tiệc với Trình đại tướng quân, Dương Hạo liền cúi mặt xuống, miệng hơi nhếch lên, mô phỏng lại cái dáng vẻ đáng ghét không coi ai ra gì của Lục Nhân Gia, hắn giơ tay lên nói: “Hóa ra là Giang Nam Đường quốc chủ, xin mời.”

Vừa nói vừa vẫy tay, tuyên phủ phó sứ Tiêu Hải Đào liền chạy tới hai tay dâng lên thánh chỉ, Dương Hạo tuyên đọc thánh chỉ trên kim điện, chính thức gia phong Lý Dục làm Giang Nam quốc chủ, đọc xong một loạt những lời an ủi gia miễn, Lý Dục tạ ân lĩnh chỉ, Dương Hạo lúc này mới bỏ cái thế của sai sứ, làm lễ kiến gặp vương gia.

Dương Hạo hành lễ chính là học cái đức tính của Lục Nhân Gia, chắp tay tùy ý, mắt lại không nhìn vào mắt Lý Dục, thể hiện rất rõ cái ý làm lễ lấy lệ, qua quýt. Thấy trên khuôn mặt của những tùy thị, đại thần Đường quốc có chút phẫn nộ, thái độ của Dương Hạo càng ngông nghênh hơn, ngay cả hồng lư tự tuyên phủ phó sứ Tiêu Hải Đào của Tống quốc cũng đều thấy lo lắng, luôn ra hiệu bằng mắt với hắn, bảo hắn thu bớt lại cái sự hống hách.

Lý Dục phái huynh đệ và Từ Huyễn đến Tống quốc xưng thần, bây giờ hắn đã trở thành Tống thần, Từ Huyễn trở về rồi, nhưng huynh đệ hắn thì lại trở thành con tin của Tống quốc. Hắn đường đường là đế vương của một nước, bây giờ lại chắp tay xưng thần với người ta thì cũng thôi vậy, nhưng giờ lại còn phải nịnh nọt, hạ vế với một tên quan nhỏ ngũ phẩm Tống triều như Dương Hạo, vậy mà trên mặt hắn lại không có chút phẫn nộ nào.

Dương Hạo thấy vậy không khỏi thầm than thở: “Nêu như Lý Dục có nửa phần khí chất, có gan chủ động chiến với Tống triều, cho dù có bị thất bại, bây giờ ngầm chịu đựng thì vẫn được coi là một đấng kiêu hùng. Đáng tiếc con người này lại cam chịu khuất phục, chỉ là loại muốn an phận thủ thường mà thôi. Hắn có thể an nhàn đến khi nào chứ?”

Lý Dục đưa Dương Hạo vào điện ngồi. Sau một hồi nói chuyện, liền sai người bày tiệc trong cung, văn võ bá quan cùng tiếp đón. Chức quan nhỏ bé này của Dương Hạo vốn không xứng để ngồi ngang hàng với Lý Dục, cho dù hắn là sứ thần của thượng quốc, truyền xong ý chỉ cũng không có tư cách nhận lễ của Lý Dục. Bảo hắn vào ngồi cùng chẳng qua là lời khách sáo, không ngờ Dương Hạo lại không hề có một chút khiêm nhường nào, liền thoải mái bước vào chỗ ngồi ngang hàng với quốc chủ một nước.

Có một số đại thần Đường quốc tức đến cắn chặt răng, dường như sắp đứng dậy chiến đấu ngay tại chỗ, nhưng họ đều bị ánh mắt ra hiệu đầy nghiêm khắc của Lý Dục ngăn lại. Vì thế, trong tiếng nhạc hân hoan của bữa tiệc lại ngầm ẩn chứa một luồng phẫn nộ cực lớn, không khí trở nên có chút kì dị, nhưng Dương Hạo lại làm như hoàn toàn không cảm thấy.

Rượu đã qua tam tuần, Lý Dục liền thử dò xét, nói: “Dương tả sứ hôm nay nhận mệnh thánh thượng đến Đường quốc ta, thuyền xe mệt nhọc, cả đường vất vả, hôm nay ta bày yến tiệc này để tẩy phong trần, bày tỏ sự thăm hỏi tới ngài. Đường quốc ta tuy không thể thịnh vượng bằng Đại Tống, nhưng Giang Nam vẫn có cảnh đẹp của Giang Nam. Dương tả sứ khó lắm mới có được một chuyến đến đây, mời ngài ở lại mấy hôm để ta có thể tận nghĩa chủ nhà.” 

Dương Hạo cười mà như không cười, nói: “Ha ha ha, quốc chủ khách khí rồi. Hạ quan phụng mệnh của thánh thượng tuyên phủ Giang Nam, tuyên phủ thôi mà, chung quy tuyên ý chỉ cho quốc chủ là được rồi, còn dân quân Giang Nam đương nhiên cũng cần phải an ủi, địa lý Đường quốc cũng phải đi một lượt để xem, phong tục dân gian cũng cần hiểu một chút. Trở về mà quan gia hỏi ở Đường quốc biết được những gì mà hạ quan lại không đáp được, há chẳng phải làm quan gia không vui hay sao?”

Lý Dục nghe xong trong lòng thầm nghĩ: “Đúng là không ngoài dự liệu, hắn sẽ không cam tâm rời khỏi đây. Bây giờ ta đã xưng thần với Tống quốc, tên Dương Hạo chắc chắn sẽ mượn thế của Tống để ức hiếp làm nhục ta, làm tăng uy thế của Tống quốc. Hắn vừa tới đây mà đã kiêu ngạo như vậy, không biết nếu hắn ở lại thêm mấy ngày nữa thì sẽ gây ra thêm chuyện gì đây. Phải làm thế nào để cho hắn sớm rời khỏi bây giờ?”

Màn múa đã kết thúc, tám mĩ nữ mặc y phục màu phỉ thúy thi lễ chào rồi từ từ lui ra ngoài. Chiếc màn trước cung điện buông xuống, đột nhiên một đài hoa sen bằng vàng ngọc nhẹ nhàng trượt vào, đài sen đó xoay chuyển nhẹ, ánh sáng kì ảo của nó làm cho người ta cảm thấy lóa mắt, ngay cả Dương Hạo, kẻ đang nghênh ngang kiêu ngạo cũng không khỏi phải thu lại cái vẻ ngông cuồng, nhìn chăm chú về phía trước. 

Đài hoa sen đó dừng lại ở giữa điện, giữa đài sen mọc ra một đóa hoa sen tuyệt đẹp, từng cánh hoa nở ra, nhìn như một đóa hoa thật, tiếp theo đó là có một làn hương thơm ngát từ trong đóa sen đó tỏa ra. Dương Hạo không hề ngờ rằng ca vũ trong cung đình Đường quốc lại có một thiết kế tinh xảo như thế này, so với thiết kế vũ đài trong Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu cũng có phần nhỉnh hơn.

Vì đài hoa sen này đều là dùng vàng để tạo thành, cho nên so với thiết kế vũ đài của Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu có hiệu quả làm cho người ta chú ý hơn. Nhưng thiết kế vũ đài trong Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu lại là thứ mà người ở thời đại này không thể tưởng tượng ra được. Đài hoa sen mà có chứa người bên trong này đã dùng kĩ thuật trượt để mở ra, hơn nữa bên trong còn ngầm đặt vào một loại hương thơm đặc biệt, để tăng thêm tính thực của nó. Đây là thủ bút của ai vậy, sao lại có được tế bào nghệ thuật, tâm tư lãng mạn như vậy?

Dương Hạo không khỏi tán thưởng nói: “Đài hoa sen này là do ai nghĩ ra vậy, thật là quá tuyệt mĩ.”

Lý Dục không khỏi lộ ra vẻ đắc ý, cười nói: “Đài hoa này là do ta và vương hậu kết hợp nghĩ ra, thật là đã lọt vào mắt thần của Dương tả sứ.”

“Tuyệt, quá tuyệt.”

Lý Dục mỉm cười: “Dương tả sứ có thể tiếp tục xem xem, bên trong đài hoa kì diệu này vẫn còn có một diệu nhân nữa.”

“Sao cơ? Vậy ta phải đợi để tận mắt xem mới được.”

Sau đó tiếng sáo trúc vang lên, cánh hoa mở dần ra, khi hương thơm bay khắp đại điện thì một mĩ nhân ẩn giữa đóa hoa nhẹ nhàng uyển chuyển đứng dậy. Dương Hạo không khỏi kinh ngạc kêu lên. Một đóa hoa nhỏ như vậy, bên trong nếu mà giấu một đứa bé bốn năm tuổi thì còn dễ dàng, nhưng đây rõ ràng lại là một nữ tử xinh đẹp mười bảy mười tám tuổi, quả thật là kì diệu.

Từ sau cái lần đến Quảng Nguyên gặp nữ thích khách giả mạo lên đài hiến nghệ, tận mắt thấy một người xương mềm một cách kì diệu, thì đây là lần đầu tiên Dương Hạo thấy một nữ tử có thể luyện được nhuyễn cốt công đến mức này.

Nàng ca kĩ đó mặc một bộ y phục màu hồng, cơ thể mềm mại yểu điệu, nàng đứng trên đài sen cong lưng uốn lượn. Lúc này Dương Hạo mới phát hiện ra chân nàng chỉ đi một đôi tất làm nổi rõ đôi chân thon thả của nàng, tà váy bay bay, cơ thể cũng chuyển động theo, như thể đang lướt trên mặt nước vậy.

Ánh mắt của Dương Hạo rất nhanh đã tập trung lên đôi chân của mĩ nữ đang múa đó, đôt tất đó không phải là một đôt tất vải bình thường, mà là đôi tất tầng màu trắng, làm cho đôi bàn chân của nàng bó lại, giúp cho nàng khi múa động tác xoay chuyển có thể dùng đầu mũi chân mà đỡ được cả cơ thể. Xem ra đôi tất này cũng có tác dụng như giày múa ba lê.

Cái đẹp của mĩ nhân thường được người ta chú ý đến bởi bộ ngực đầy đặn, cổ tay thon nhỏ, eo nhỏ nhắn, màu da, ngũ quan, nhưng vẻ đẹp ở đôi chân lại khó làm người ta chú ý đến nhất, chỉ có một người đầy linh tính và cảm tính mới có thể cảm nhận được một mùi vị kiều diễm từ đôi chân ngọc nhẹ nhàng đó.

Dương Hạo không phải là người mắc bệnh yêu chân, lúc này cũng không phải đã nhìn ra nước da của đôi chân đẹp đó có phải là mượt mà óng ả hay không, nhưng đôi mắt vẫn không ngừng nhìn vào đôi chân ấy, trong lòng có cảm giác như đôi chân của Lăng Ba tiên tử, một cảm giác phong trần. Ngôn ngữ cơ thể của mĩ nhân nếu có thể biểu đạt được tốt thì tuyệt đói sẽ làm cho nam nhân động lòng hơn là ngũ quan tuyệt mĩ của nàng ta. Dương Hạo trước đây chưa từng nhìn thấy, hắn tin rằng sau này cũng sẽ không thể lại nhìn thấy được một đôi chân tuyệt đẹp mà lại có kĩ nghệ như vậy.

“Quốc chủ, vị vũ kĩ của cung đình quý quốc quả thật là kĩ nghệ cao cường.” Dương Hạo thầm tán thưởng một hồi lâu, rồi không khỏi thở dài mà khen một câu, đôi mắt vẫn không ngừng nhìn theo sự chuyển động của đôi chân ấy. 

Lý Dục cười tự đắc nói: “Đây là vũ kĩ quan nương trong cung của ta, vũ kĩ tuyệt diệu, là đệ nhất hậu cung.”

“Quan nương?” Trong lòng Dương Hạo động: “Quan nương? Trong các mĩ nữ có tiếng được ghi lại vào sử sách, ngoài tiểu Chu hậu ra thì còn nhắc tới quan nương, hóa ra người đó chính là người đang đứng trước mặt mình. Nghe nói quan nương thích đôi chân nhỏ, nên thường mang đôi tất bó giống như giày ba lê này, mục đích là để cho đôi chân càng đẹp hơn, có thể đứng lên bằng mũi chân, bảo sao hậu nhân của họ vẫn cứ thích bó chân một cách kì quặc đến tận hai triều Minh Thanh.”

Lý Dục thấy Dương Hạo ngẩn ra, hai mắt xuất thần, trong lòng không khỏi giật mình: “Lẽ nào vị sứ thần Đại Tống này đã mê mẩn quan nương rồi? Nếu như hắn cố chấp không đi khỏi Đường quốc ta, ép ta vào thế khó xử, phải chăng ta nên để quan nương…”

Quan nương là vũ kĩ ở trong cung Đường, những vũ kĩ này nếu như hoàng đế có hứng thú với au thì đều có thể triệu họ đến hầu hạ, nhưng họ lại không được coi như là phi tần trong hậu cung, không có thân phận gì, tùy ý có thể điều ra khỏi cung. Nếu như dùng một vũ kĩ là có thể đối lấy được thái bình thì cũng đáng.

Lý Dục trong lòng ngầm có ý như vậy, nhưng khi ngẩng đầu lên nhìn thấy mĩ nhân kiêu sa, nhảy múa điêu luyện lại cảm thấy tiếc không nỡ.

***

“Dương tả sứ, trong dịch quán đã sắp xếp ổn thỏa nơi ở của ngài rồi, hạ quan sẽ đưa Dương tả sứ về đó nghỉ, có được không?”

Cung yến đã tan, mọi người ra khỏi hoàng cung, một viên quan của Đường quốc chạy tới trước mặt Dương Hạo kính lễ nói.

Vị quan viên với vẻ mặt đầy nịnh nọt này vẫn còn khá trẻ, khoảng hai lăm, hai sáu tuổi, dung mạo rất thanh tú. Vị quan này tên là Dạ Vũ, họ của hắn khá là hiếm gặp. Hắn vốn là đại hồng lư của Đường quốc, nhưng bây giờ Đường triều đã cải chế, từ hoàng đế xuống, tất cả đều hạ cấp theo quy cách, vị Dạ đại hồng lư này cũng bị cách xuống làm lễ tân viện trưởng.

Vị Dạ đại nhân này là một quan viên xuất thân chính kinh, hắn vốn là một vị tú tài thi rớt, vì gia đình bần hàn không có lộ phí lên đường đi thi, tạm thời xin sống ở trong chùa, giúp hòa thượng chép kinh để kiếm mấy bữa cơm. Hoàng đế Đường quốc sùng phật đạo, mấy trăm nghìn tự viện đều đương hương khói cường thịnh, đám hòa thượng người nào người nấy đều béo tròn, có quyền tiền bạc, nên thuê vị tú tài này vể làm kẻ chép kinh.

Vị Dạ đại nhân này có giọng ca hay, ngày ngày ở trong chùa chép kinh, nghe thấy đám hòa thượng xướng kinh, tai nghe nhiều thành nhiễm, rồi học được. Rồi đột nhiên một ngày, sau khi hắn chép kinh xong liền đến trước viện, khoa chân múa tay, tùy ý xướng lên một khúc kinh. Tuy không có tiếng gõ mõ, nhưng phật âm lại vang lên thanh thoát nghiêm trang, đúng lúc Lý Dục đến lễ phật nghe thấy được.

Lý Dục giỏi thơ ca, giỏi múa hát, lại giỏi phật học, liền cùng với hắn đàm đạo một hồ. Dạ đại nhân đương nhiên là đối đáp trọn vẹn, vì hắn đã chép không biết bao nhiêu kinh phật. Lý Dục vô cùng vui mừng, biết rằng bụi che ngọc sáng, liền lập tức ban cho hắn một chức quan, cho nhập triều để lo lễ phật mỗi lần xuất cung. Cứ như vậy mà hắn dần dần thăng cao hơn, chưa đầy hai năm mà hắn đã lên được cái vị trí cao ngất ngưởng hồng lư tự này.

Dạ hồng lư nhận được chỉ mệnh của Lý Dục, phải hết sức tiếp đón vị sứ thần Đại Tống này, tránh để hắn gây chuyện thị phi ở Kim Lăng, nhưng hắn có yêu cầu gì thì cố gắng đáp ứng hết. Dạ Vũ vốn chỉ có dựa vào việc nịnh bợ Lý Dục mà thăng quan, chứ thực ra hắn không có mấy tài cán thực sự. Bây giờ tỏ thái độ như vậy cũng là chuyên môn chính của hắn, đương nhiên hắn có thể thoải mái mà làm.

Dương Hạo mỉm cười nói: “Bổn quan vẫn chưa thấy mệt, lần đầu đến Kim Lăng, chưa từng được biết đến sự phồn hoa của nơi này, nên ta muốn đi dạo quanh phố phường một chút.”

Dạ Vũ có chút khó xử nói: “Việc này… những nghi trượng của khâm sứ đều phải dẫn theo sao?”

Dương Hạo lúc này mới chợt nhớ ra, hắn bật cười nói: “Nói cũng đúng, vậy về dịch quán trước đã, uống miếng trà cho mát họng rồi sẽ ra phố dạo.”

Sau đó hắn liền vẫy vẫy tay về đội nghi trượng. Mọi người cùng về dịch quán, Dương Hạo đến phòng của mình, cởi bỏ áo quan, mặc vào y phục nhẹ nhàng thoải mái, thường ngày. Đang sắp xếp đồ đạc của mình thì hồng lư tự thừa Tiêu Hải Đào liền vội vàng chạy tới, lo lắng nói: “Đại nhân, hôm nay trên triều đình Đường quốc, đại nhân làm như vậy với Giang Nam quốc chủ quá thất kính rồi, phô trương như vậy e rằng sẽ gây bất lợi đối với sứ mệnh lần này của chúng ta.”

Dương Hạo cười nói: “Tiêu thừa tự nghĩ nhiều rồi, chúng ta lần này đến Đường quốc, cho dù có cẩn thận như thế nào đi chăng nữa, thì ngài nói xem liệu họ sẽ không nảy sinh sự đề phòng với chúng ta sao? Bất kính với Lý Dục, nếu hắn dám động thủ cũng không sao, nhưng nếu hắn đã nhẫn nhịn như vậy thì việc ta làm đã có hiệu quả đánh phủ đầu. Giang Nam quốc chủ còn phải nhẫn nhịn với chúng ta, vậy người bên cạnh sao dám gây khó dễ với chúng ta chứ. Chúng ta muốn du tẩu tứ phương, thăm dò địa hình, làm tình báo há chẳng phải dễ dàng hơn sao?”

Tiêu Hải Đào chớp chớp mắt nói: “Những lời đại nhân nói, hình như… cũng có chút lý.” 

Dương Hạo vỗ vai hắn, nói: “Không phải có chút lý mà là rất có lý. Chúng ta còn có một sứ mệnh, chính là ly gián quân thần họ, gây bất hòa giữa văn võ. Ngài nghĩ xem, chúng ta hừng hực khí thế tới, Lý Dục lại nhẫn nhịn nhún nhường, một hoàng đế chỉ biết nhún nhường thì trong mắt các thần tử của hắn sẽ có cảm giác gì chứ? Quốc chủ không thể dựa vào được, vậy thì đám thần tử đó sẽ dần có ý định tìm con đường khác, kẻ có lòng trung thành tận tâm cũng sẽ nản lòng, sĩ khí suy giảm. Dương mỗ chỉ cần một hành động đã có thể tiến tới gần mục đích, sao lại không làm chứ?”

Tiêu Hải Đào vuốt chòm râu cân nhắc một hồi, đột nhiên tán thưởng: “Kế này của Dương tả sứ quả thật là tuyệt diệu, hạ quan hồ đồ rồi.”

Dương Hạo cười ha ha nói: “Bây giờ hiểu rõ cũng chưa muộn, cả chặng đường ngài phải chạy ngược chạy xuôi, cũng mệt rồi, đi nghỉ ngơi chút đi, bổn quan ra phố dạo chút.”

Tiêu Hải Đào vội nói: “Đại nhân mới tới Kim Lăng, đây là lúc mà vạn người trông theo, lại còn có Dạ đại nhân Đường quốc đi cùng, sợ là khó có thể thu thập được tin tức tình báo gì có tác dụng.”

Dương Hạo thở dài, buông hai cánh tay xuống nói: “Tiêu đại nhân này, ngài xem, ta là khâm sứ Tống quốc, cho dù ta có không phô trương thì sao lại có thể không gây sự chú ý chứ? Những việc thăm dò quân tình, vẽ địa đồ đương nhiên là phải do ngài đem người đi làm rồi.

Còn bổn quan bây giờ chính là một ngọn đuốc, ta tự thiêu chính mình, để sự chú ý của tất cả mọi người hướng vào người ta, tiện cho ngài hành sự, đây chính là sứ mệnh của ta. Ngài hiểu không?”

“Hiểu rồi.” Tiêu Hải Đào vui vẻ gật đầu: “Đại nhân thật là giỏi.”

Dương Hạo chớp chớp mắt cười với hắn: “Giỏi chỗ nào?”

“Chỗ nào cũng giỏi.”

“Ha ha ha.” Dương Hạo cười lớn vang cả ra ngoài, Dạ Vũ vừa từ ngoài cửa đã nghe thấy tiếng, hắn làm vẻ mặt tươi cười bước tới nói: “Dương tả sứ thật là cao hứng, có chuyện gì mà vui vẻ thế?”

Dương Hạo cười liếc mắt nhìn hắn, nói: “Đại nhân cả người quan phục, bây giờ ra đường không tiện. Ý, Tiêu đại nhân, hai người dáng người tương đương nhau, mượn tạm một bộ thế nào?”

Dương Hạo và Dạ Vũ mặc hai bộ thường phục bước ra ngoài phố, ngay cả một kẻ hầu cũng không mang theo, càng không nói tới thị vệ. Dương Hạo làm như vậy là để hình thành một thói quen, nếu không cái đám thị vệ trước gọi sau hô, lúc nào cũng đi bên cạnh, nếu đột nhiên có một ngày hắn không mang theo thị vệ bên mình mà đột nhiên là “chết”, thì sẽ không tránh khỏi người ta nghi ngờ.

Dạ Vũ thật không biết vị Dương đại nhân này có chỗ nào mà cao hứng đến thế, lại vui vẻ đi dạo, hắn đành phải cố gắng mà đi hầu cùng. Dương Hạo du tẩu đến con phố lớn, một là muốn đến xem đường phố, tìm cớ để đắc tội với người ta, tốt nhất là đắc tội với võ tướng của Nam Đường, như vậy mình đột nhiên “chết” mới có lý do chính đáng, không làm cho đối phương và Triệu Khuông Dận nghi ngờ mình giả chết. Hai là muốn quen với hình thế của Kim Lăng, tìm một nơi để mình “chết”, đồng thời để cho người ta nghĩ rằng mình có thói quen đi dạo phố.

Cứ như vậy, hắn từ từ bước đi, dạo đông dạo tây, đến tận gần trưa mới tới được Kê Lung, nơi phồn hoa náo nhiệt nhất Nam Đường. Phố Kê Lung rất phồn thịnh, nhà nhà đều là cửa tiệm, đủ các loại hàng hóa ngành nghề buôn bán: tiệm gạo, tiệm tơ lụa, tiệm gốm sứ, tiệm dược…

Dương Hạo nhìn đông ngó tây, giống như một con rắn không đầu chạy loạn xạ vậy, làm cho Dạ Vũ Dạ đại nhân chạy theo sau mệt đến mềm nhũn cả chân, khổ không nói lên lời. Mắt thấy Dương Hạo chạy khắp nơi nhìn ngó, giống như đang tìm vật gì vậy, Dạ Vũ đột nhiên chột dạ, hỏi dò: “Dương tả sứ, trời đã vào chính ngọ, ngài xem chúng ta có nên tìm một quán rượu nào đó, gọi mấy món ăn ngon, rồi tìm mấy ca kĩ vũ nữ tiếp rượu cho vui không?”

Dương Hạo vốn không có ý này, nhưng vừa nghe thấy hắn nói vậy liền kêu hay. Dạ Vũ thầm bĩu môi khinh thường: “Chẳng trách hắn ngay cả một thị vệ cũng không muốn mang theo, hóa ra là muốn thưởng thức mùi vị dịu dàng của mĩ nữ Giang Nam ta. Ngươi cứ nói sớm đi chứ, hại ta phải chạy theo ngươi đến mềm nhũn cả chân. Có đều vị sứ thần này cũng quá nóng vội cơ.”

Dạ hồng lư lấy lại tinh thần, đang muốn đưa Dương Hạo đến một thanh lâu mà mình quen thuộc, thì phía trước có mười mấy vị hộ binh đột nhiên vây quanh một vị tướng quân anh tuấn trẻ tuổi, chạy bước lớn tới, bước chân đột nhiên tăng tốc. “Bên trong, xông vào đó.

Vị tướng quân trẻ tuổi kia bước bước lớn rất nhanh, người bên cạnh nhìn thấy đều tự động nhường đường cho hắn, nhưng ai mà ngờ được Dương Hạo lại đột nhiên xông lên. Vị tướng quân đó không kịp tránh bước, va mạnh vào người hắn, lập tức hắn trừng mắt lên, nhưng chưa kịp làm gì thì Dương Hạo đã tức giận nói: “Khốn kiếp, đi đường mà không mở to mắt ra nhìn à?”

Vị tướng quân đó ngẩn ra, không kịp tức giận, một lúc liền cười nói: “Thật là hung hăng càn quấy, ngươi không biết bổn tướng quân là ai sao?”

Trong lúc hai người đang đối đáp nhau thì đám thủ hạ của vị tướng quân đó đã bao vây xung quanh, với cái dáng vẻ hùng hồn ấy, có lẽ chỉ cần vị tướng quân đó hạ lệnh một tiếng thì sẽ lập tức động thủ.

Dương Hạo trong lòng thầm vui mừng. Bây giờ giữa đường gây sự, kết oán với tướng lĩnh Đường quốc, mọi ánh mắt đều nhìn vào, đây đúng là một lý do tốt để “tìm cái chết”. Mặt hắn càng tỏ ra ngông nghênh hơn, cười nói: “Ta thấy ngươi có vẻ giống một tên sở khanh mặt mũi trắng trẻo, giống như một con thỏ trong chỗ đám nữ nhân, không ngờ lại là một vị tướng quân. Thất kính, thất kính, ta cũng đã quên mất người phía nam yếu đuối, hóa ra đường đường là đại tướng thống binh cũng có dáng vẻ như vậy, ha ha…

Vị tướng quân đó lướt mắt qua, trong ánh mắt đầy sự phẫn nộ, không đợi hắn ra lệnh, thủ hạ võ sĩ đã rút binh khí ra, một tên trong số đó liền quát lớn lên: “Sao lại có một tên cuồng nhân như thế chứ, dám bất kính với tướng quân chúng ta như vậy. Người đâu, đánh cho hắn sống dở chết dở rồi tống vào đại lao.”

Dân chúng xung quanh vừa thấy sắp động vũ lực liền lập tức tránh đi, Dương Hạo thầm nghĩ: “Đến đúng lúc lắm, chỉ dựa vào mấy con tép này thì sao có thể làm ta bị thương chứ, cứ đánh với chúng một trận, đợi khi nào thân phận sáng tỏ, cái tên tướng quân đó biết ta là sứ tiết Tống quốc, thì có giận nữa cũng không dám hành hung người giữa đường nữa. Ha ha, cái dây này coi như đã kết xong rồi.”

Dương Hạo dậm chân đứng thế bất đinh bất bát, hai tay dang ra, khinh thường nói: “Thế nào, muốn động thủ sao? Đến đây, đến đây, ta cho ngươi biết sự lợi hại của ta.”

Lúc này Dạ Vũ hốt hoảng xông tới, nói: “Dương tả sứ bớt giận, Hoàng Phủ tướng quân bớt giận. Mọi người đều là… đều là thần tử của một triều. Đừng làm tổn thương hòa khí.”

Vị Hoàng Phủ tướng quân liếc mắt nhìn Dạ đại nhân, lạnh lùng nói: “Đại hồng lư, kẻ này là ai?”

Dạ Vũ toát cả mồ hôi, nói: “Vị này là Dương Hạo Dương đại nhân, sứ thần Tống quốc. Dương đại nhân, vị này là thần vệ thống quân đo chỉ huy sứ của Đường quốc Hoàng Phủ Kế Huân đại nhân. Không đánh không quen biết, hai vị đại nhân chỉ là ngẫu nhiên va phải nhau thôi, đừng động thủ làm thương hòa khí.”

Dương Hạo thật không thể nhớ ra Nam Đường lại có một vị tướng quân Hoàng Phủ gì đó, cái họ kép này hắn biết được cũng chỉ là do đọc các truyện võ hiệp, cái gì mà Nam Cung, Đông Phương, Tây Phương, Bắc Cung, Đệ Ngũ, Hách Liên, Lệnh Cô… những người mà có cái họ kép như thế đều có cơ hội rất lớn trở thành võ lâm thế gia. Hắn nghĩ một lúc rồi trợn mắt lên, cười lạnh nói: “Cái gì mà Hoàng Phủ Bạch Phủ chứ, bổn quan chưa từng nghe thấy. Người này là địa tướng quân của Đường quốc các vị ư? Nhìn không có giống mà, nếu như đổi lại mặc một bộ y phục nữ nhân thì có lẽ lại giống một ngụy nương tuyệt sắc ý chứ.”

Đám quân sĩ không hiểu ngụy nương là thứ gì, nhưng Dương Hạo lại đem tướng quân của họ so sánh với nam xướng ở trong chỗ các cô nương, giờ lại nói thay vào bộ y phục nữ nhân, đoán cũng biết không phải là lời hay ho gì. Những binh sĩ vốn đã rất căm thù, phản cảm với cái sự huênh hoang của người Tống, giờ lại nghe thấy vậy lập tức nổi giận đùng đùng, tiếng binh khí soạt soạt vang lên, xông về phía Dương Hạo. 

Dạ Vũ càng hoảng sợ, định xông tới cản, không ngờ Hoàng Phủ Kế Huân động tác còn nhanh hơn hắn, một bước đã nhảy phắt lên phía trước mặt Dương Hạo. Dương Hạo chuẩn bị tư thế sẵn sàng chờ hắn xuất chiêu để nghênh chiến, thì lại nhìn thấy Hoàng Phủ Kế Huân mặt mày tươi cười, chắp quyền nói: “Hóa ra là sứ thần Tống quốc, Dương Hạo Dương đại nhân. Ngưỡng mộ, ngưỡng mộ đã lâu, hôm nay được gặp mặt quả thật có phúc ba đời.”

Dương Hạo ngẩn ra, con người này thật biết kiềm chế, nếu như với tình hình này mà còn động thủ thì cái thái độ cố tình gây sự cũng sẽ bị thể hiện quá rõ ràng. Trong lúc hắn đang ngẩn ra thì Hoàng Phủ Kế Huân đã quay lại lớn tiếng quát: “Tất cả bỏ kiếm xuống, sao lại dám vô lễ với sứ thần thượng quốc như vậy?”

Hoàng Phủ Kế Huân vừa dứt lời liền quay đầu lại, mặt mày rạng rỡ nói: “Kế Huân sớm biết người bắc to lớn phóng khoáng, anh võ. Nhưng lại không ngờ ngay cả Dương sứ giả là một bậc văn nhân mà tính cũng nóng như lửa vậy. Hôm nay đúng là không đánh không quen biết.”

Dạ Vũ thấy vậy vô cùng mừng rỡ, vội vàng chạy lên trước nói: “Đúng vậy, đúng vậy. Hai vị đại nhân hôm nay gặp được nhau cũng là có duyên phận. Dương tả sứ, vị Hoàng Phủ Kế Huân tướng quân này là thần vệ thống quân đô chỉ huy sứ của Đường quốc ta, phụ trách bảo vệ Kim Lăng, dẫn đầu bốn vạn tinh binh, là tướng lĩnh được quốc chủ tin cậy nhất. Giờ khó có cơ hội được gặp mặt như thế này, chi bằng để hạ quan làm chủ, ba người chúng ta tìm một chỗ nào đó uống mấy chén rượu, nói chuyện một chút.”

Dương Hạo trong lòng cảm thấy rất buồn bực, muốn kết thù một cái mà cũng khó vậy sao? Nhưng hắn chạy đến Giang Nam không thể để chuyện cố tình gây thù chuốc oán quá lộ liễu, hơn nữa Oa Oa và Diễm Diễm còn chưa tới, việc này cũng không gấp. Đành phải đổi thái độ, tuy vẫn kiêu ngạo nhưng ngữ khí đã mềm mỏng hơn nhiều: “Như vậy mới đúng chứ. Hoàng Phủ tướng quân tuy là võ tướng, thủ hạ lại có nhiều binh khí, nhưng nếu muốn vô lễ với bổn quan thì đó sẽ là bất kính với Tống quốc. Dương Hạo tuy không có vật gì phòng thân nhưng cũng sẽ không làm yếu đi uy phong của Tống quốc đâu, cùng lắm thì đánh một trận sống mái với Hoàng Phủ tướng quân.”

“Không đánh được, không đánh được.” Hoàng Phủ Kế Huân mặt mày tươi cười, liên tục xua tay. Đối với những lời bất kính của Dương Hạo dường như không có một chút nào để bụng: “Nam nhi Giang Bắc phóng khoáng, kiêu dũng thiện chiến, đều có võ nghệ cao cường, người Nam chúng ta quả thực không bằng được. Đại quân Tống quốc nếu như nam phạt thì sẽ như núi Thái Sơn đè lên quả trứng vậy, Đường quốc ta chưa đến ba ngày sẽ bị vong quốc. Bây giờ quốc chủ ta đã xưng thần với Tống, lưỡng quốc hữu hảo, chính là thuận theo ý trời. Bổn tướng quân đối với sứ giả thượng quốc luôn có kính sợ từ trong lòng, tuyệt đối không dám bất kính.”

Hoàng Phủ Kế Huân đường hoàng công khai thừa nhận vũ lực của Đường quốc không bằng Tống quốc, hơn nữa lại còn nịnh nọt đến tận mức này, làm cho đám sĩ tốt bên cạnh cũng phải quay sang nhìn nhau vừa giận vừa xấu hổ. Hoàng Phủ Kế Huân lại coi như là không có gì, bước tới nắm lấy cánh tay Dương Hạo, cười nói: “Bổn tướng có chức trách ở đây nên không thể đến nghênh đón sứ thần, hôm nay gặp ở đây quả thật là có duyên phận. Nào nào, chúng ta tìm một chỗ tốt rồi uống mấy chén rượu. Đây là lòng mong mỏi của ta, Dương tả sứ nhất định phải vui lòng đồng ý, chớ chối từ.”

Dương Hạo không ngờ tên tướng quân huyết khí sùng sục, khí khái bất phàm này lại chính là một đối thủ khó đấu, muốn gây hấn đánh nhau với hắn cuối cùng kết cục lại là như thế này, bị hắn nắm lấy cánh tay mà kéo đi, ân cần bắt chuyện, thật đúng là dở khóc dở cười.

“Việc này… bổn quan lúc nãy đúng là có chút vô lễ, Hoàng Phủ tướng quân đừng có giận nhé.”

Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: “Bắc quốc khí thế ngang tàng, đại nhân nóng nảy như thế cũng là bình thường, không có gì vô lễ cả. Bổn tướng quân luôn cho rằng người bắc mạnh mẽ, không có đối thủ. Đường quốc ta nếu như lấy trứng chọi đá thì không tới ba ngày tất sẽ bị diệt vong, giờ thuận theo ý trời mà xưng thần với Tống, bổn tướng quân và đại nhân cũng coi như là đồng liêu cùng một điện rồi. Có chút va chạm gì mà tức giận chứ. Nào nào, chúng ta cùng đi uống rượu.”

“Trời ơi, cái tên Hoàng Phủ này đúng là một trăm cân mỳ nấu được một chút điểm tâm, hắn đúng là đồ bỏ đi. Lý Dục mắt mũi thế nào mà lại để cho một kẻ như thế này làm đại tướng thống lĩnh đại binh vậy. Động một cái là lại nói chưa tới ba ngày sẽ diệt vong, quả thật đúng là một Uông Tinh Vệ (một kẻ hán gian nổi tiếng của Trung Quốc trong thời kháng chiến chống Nhật) của Đường quốc.

Dương Hạo khóc dở mếu dở, đành phải để cho hắn kéo đến một tửu lầu…

Hoàng Phủ Kế Huân luyện võ từ nhỏ, binh thư thao lược, quả thật là võ tướng xuất thân thế gia. Cha của hắn là Hoàng Phủ Huy là một người rất kiêu dũng, lúc trước từng làm thần vệ quân đô ngu hầu, Giang Nam tiết độ sứ. Khi Sài Vinh, chỉ huy sứ của Chu quốc tấn công Nam Đường, Hoàng Phủ Huy là ứng viện sứ hành doanh phía bắc Đường quốc, dụng binh lão luyện, tiến thoái đều có tính toán kĩ lưỡng, Chu binh rất kiêng kị hắn.

Ở trận chiến Đồ Châu thành, Hoàng Phủ Huy nổi dậy sát khí, xông xuống thành đánh nhau với đại tướng công thành Triệu Khuông Dận. Đây cũng là kẻ địch hiếm có xưa nay mà Sài Vinh Chu quốc và Triệu Khuông Dận Tống quốc bây giờ đều rất khâm phục. Sau này qua các trận đánh, Hoàng Phủ Huy bị Sài Vinh bắt được. Sài Vinh rất khoan dung đối với hắn, có lòng thu nạp, nhưng Hoàng Phủ Huy không chịu bị chi phối, người bị trọng thương không chịu chữa trị, vài ngày sau vết thương nặng hơn mà chết. 

Hoàng Phủ Kế Huân là trung thần chi hậu, cho nên Lý Dục rất tin tưởng hắn, không ngừng thăng quan cho hắn, đến bây giờ hắn đã làm phòng ngự Kim Lăng. Chỉ đáng tiếc, hổ phụ sinh khuyển từ. Hoàng Phủ Kế Huân không những không có dũng khí như cha hắn, mà ngay cả lòng trung hiếu cũng không có, hoàn toàn phục tùng Tống quốc mà không có chút ý chí chiến đấu nào.

Theo như hắn thấy thì người bắc thiện võ hơn người nam, nam bắc giao tranh thì nhất định bắc sẽ thắng mà nam sẽ bại. Đây là quy luật vĩnh viễn không thể thay đổi được, cho nên xưng thần với Tống là con đường tốt nhất dành cho Đường quốc. Cho nên Dương Hạo tuy có kiêu ngạo bất kính, Hoàng Phủ Kế Huân không những không giận mà còn tươi cười nịnh nọt, hình như hắn còn muốn lấy dẫn chứng cho luận điệu của hắn cho nên đã nói thêm: “Một quan văn thư sinh mà đã như vậy, thì sự hung tàn của người bắc chỉ nghĩ thôi đã có thể hiểu được. Không thể địch nổi, không thể địch nổi.”

Trên Phiêu Hương lầu, một khúc tỳ bà mượt mà như nước chảy vang lên, tinh tinh tang tang, cao thấp trầm bổng, nhưng vị văn bào sĩ tử ngồi trên chỗ cao đó lại mặt mày nhăn nhó, hoàn toàn không có chút vui vẻ nào, nghe nhạc rồi uống liên tiếp ba chén rượu.

Người này khoảng trên dưới ngũ tuần, dung mạo thanh thoát, nhìn trông phong nhã bất tục, chỉ là mặt mày nhăn nhó buồn phiền, cũng không biết là có chuyện gì không vui. Một thiếu nữ trẻ tuổi xinh đẹp đang gảy đàn liền dừng lại, đưa đàn cho thị nữ ở bên cạnh, nhẹ nhàng đi tới bên cạnh hắn, ngồi xuống đưa tay ra rót rượu cho hắn, dịu dàng nói: “Khu mật đại nhân bình thường thích nhất nghe nô gia gảy đàn, hôm nay sao lại mặt mũi ủ rũ vậy, có phải khúc nhạc này của nô gia không hợp với ý đại nhân không?”

Vị khu mật đại nhân thở dài một hơi, lẩm bẩm tự nói: “Khúc nhạc của nàng vẫn tuyệt diệu như lúc trước, nhưng vận khí Đường quốc ta không còn như xưa nữa, bổn quan chợt cảm thấy cảm khái trong lòng, sao lại không buồn chứ?”

Vị khu mật đại nhân nói rồi liền nâng chén rượu lên uống cạn.

“Khu mật đại nhân…” Người ca nữ đó muốn khuyên giải nhưng lại không biết phải mở lời như thế nào.

Vị khu mật đại nhân đó cười chua chát nói: “Cái gì mà khu mật đại nhân, bây giờ khu mật viện đã bị cách xuống thành quang chính viện. Bổn quan bây giờ là quan chính viện phụ chính. Ha ha, Sanh Hàn cô nương, cô cứ gọi ta là phủ chính đại nhân, nghe như thế thuận tai hơn.”

Ca nữ đó nhìn hắn, không nói gì cả, chỉ nhẹ nhàng tiếp rượu cho hắn.

Vị khu mật đại nhân này họ Trần tên Kiều, tự Tử Kiều, là một trụ cột trong triều của Đường quốc, khi Đường quốc lâm nguy đã từng nói với hoàng thượng và các thần tử: “Đất nước lâm nguy, thần nguyện trung thành với triều đình, thần có chết cũng không oán hận.”

Lý Dục từ sau khi tại vị đã lệnh cho hắn làm sứ bộ thị lang hàn lâm học sĩ thừa chỉ môn hạ thị lang kiêm khu mật viện sứ. Bây giờ Đường quốc đã xưng thần với Tống, tất cả các nha môn đều hạ xuống một cấp, khu mật viện đổi thành quang chính viện, cái chức khu mật viện sứ của hắn trở thành quang chính viện phụ chính. Có điều vẫn là tổng lĩnh của tất cả các đội quân.

Trần Kiều nắm lấy cánh tay thơm ngát của mỹ nhân, cười khổ nói: “Hàn Tái Hi, lão già này thật là có phúc, khi hắn làm tể tướng hoang đường, ngang ngược, hưởng tận phúc, khi đó quân Tống vẫn chưa công phạt Nam Đường thì ông ta đã thoải mái mà lên đường. Bây giờ chỉ còn lại mình ta, một mình hứng chịu, chịu sự sỉ nhục của người Tống mà không làm được gì.”

Đôi lông mày thanh tú của Sanh Hàn cô nương hơi nhíu lên, nhẹ nhàng nói: “Đại nhân, bây giờ Đường quốc chúng ta không phải đã xưng thần với Tống rồi sao, người Tống chẳng nhẽ vẫn xuất binh thảo phạt Đường?”

Trần Kiều cười khổ nói: “Thứ mà Triệu Khuông Dận muốn là đất đai và dân chúng giàu có Giang Nam, chứ không phải là Giang Nam quốc chủ xưng thần với hắn. Dã tâm của hắn nếu như chỉ có vậy thì Trần Kiều ta đã xem thường hắn rồi. Đáng tiếc, hoàng đế không nghe trung ngôn, không nghe trung ngôn nữa rồi.”

Hắn buồn bã lắc đầu, thở dài rồi từ từ nói: “Đắc thì lên cao, thất thì đi xuống, đa sầu đa hận cũng ung dung. Hôm nay có rượu thì hôm nay say, ngày mai buồn thì ngày mai lại buồn. Nào, mĩ nhân, chúng ta hãy vui tận hôm nay, việc ngày mai ngày mai lại nói.”

Nói xong hắn quàng tay qua vai Sanh Hàn cô nương. Sanh Hàn cô nương nâng chén rượu lên uống một ngụm, rồi đưa miệng tới chạm vào miệng hắn. Hương thơm của chiếc chén da thịt làm cho hắn thấy vui hơn.

Khi đôi môi hai người vừa chạm vào nhau thì nghe thấy phía dưới lầu có tiếng người quát lớn: “Cái đồ khốn nạn, bổn tướng quân hôm nay mời khách quý đến đây, sao lại dám để cho đám người tầm thường này đến hầu chứ? Sanh Hàn đâu? Cô nương đó eo nhỏ, môi mỏng, là mĩ nhân thùy mị Giang Nam ta, sao không gọi nàng ấy đến tiếp đãi khách quý của bổn tướng quân?”

Sau đó thì nghe thấy một phụ nhân lên tiếng nói: “Hoàng Phủ tướng quân bới giận. Sanh Hàn cô nương đang tiếp một vị khách quý, tất cả các cô nương khác trong viện của nô gia đều đã được gọi đến đây để tướng quân chọn lựa.”

“Phục vụ khách quý của ta đương nhiên là phải chọn đệ nhất mĩ nữ của lầu này rồi. Lão bà bà, có phải bà không muốn sống ở cái đất Kim Lăng này nữa không? Bổn tướng thân là đệ nhất võ thần của Kim Lăng, thống lĩnh cả mấy vạn hùng binh, ngay cả ta mà cũng phải kính nể vị khách quý này, ta không cho phép bà chậm trễ như thế. Ta mặc kệ nàng ấy đang tiếp ai, gọi nàng ta ra đây cho ta, nếu không bổn tướng sẽ triệu binh tới đập nát cái Phiêu Hương lâu này của bà.”

Trần Kiều nhíu mày lại, đẩy Sanh Hàn ra, nén tức giận xuống dưới lầu. Sanh Hàn vội vàng đuổi theo, nhưng đi được hai bước liền dừng lại, thở dài.

Dương Hạo ngồi bên cạnh, thờ ơ lạnh nhạt, nhưng thấy Hoàng Phủ Kế Huân kiêu ngạo như vậy lại không nói gì. Hắn vốn không phải là người có tính cách như vậy, nhưng lần này đến Nam Đường hắn lại cố ý gàn dở, nếu như lúc này mà lại khuyên giải người ta thì hành động đó khó tránh khỏi sau này làm cho người ta nảy sinh nghi ngờ, vì thế hắn chỉ ngồi yên mà không động sắc.

Hoàng Phủ Kế Huân không thể đắc tội được, nhưng vị khu mật sứ trên lầu kia cũng không thể chọc vào. Lão bà đó vô cùng khó xử, đang không biết nên làm thế nào thì Trần Kiều đột nhiên từ trên lầu bước xuống, lạnh lùng nói: “Ta còn tưởng là ai đang gây rối không để yên cho lão phu uống rượu, hóa ra là Hoàng Phủ tướng quân. Nhìn khắp cả cái thành Kim Lăng này cũng chỉ có Hoàng Phủ tướng quân mới dám khoa trương kiêu ngạo như thế trước mặt lão phu thôi.”

Hoàng Phủ Kế Huân nhìn thấy Trần Kiều, không khỏi có chút xấu hổ. Trần Kiều bây giờ là tổng lĩnh tất cả đại sự của quân đội Đường quốc, văn là tể tướng, võ là khu mật, đó chính là thượng ti của hắn. Cho dù trên thực tế tất cả mọi sự phòng vệ canh phòng đều do Hoàng Phủ Kế Huân phụ trách, hắn mới là võ tướng thực sự của thành Kim Lăng, trực tiếp nhận nhiệm vụ từ hoàng thượng, nhưng trên lễ chế thì hắn vẫn là thuộc hạ của Trần Kiều.

Trần Kiều hừ lạnh một tiếng: “Lão phu đang uống rượu trên lầu, Hoàng Phủ tướng quân nếu đã đến rồi hay là cũng lên trên đó uống mấy chén?”

Hoàng Phủ Kế Huân lúc này đã định thần lại, ung dung nói: “Ta còn tưởng là ai có mặt lớn mà được Sanh Hàn cô nương tiếp đãi, hóa ra là phụ chính đại quan. Trần đại nhân, vị này là khâm sứ Tống quốc, Dương Hạo Dương đại nhân. Hạ quan bây giờ không thể lên trên ấy được, nếu phụ chính đại nhân có nhã hứng thì xin mời xuống đây cùng uống mấy chén rượu nhạt.”

“Dương Hạo?” Trần Kiều chuyển mắt nhìn qua, thấy Dương Hạo không khỏi ngẩn ra. Hắn là phụ chính đại thần, hôm nay đã từng gặp Dương Hạo lúc thượng triều, không ngờ giờ có thể trùng phùng ở đây.

Việc đã rơi vào đầu mình, Dương Hạo cũng không thể đặt mình ở ngoài.

“Đai tướng quân Đường quốc không dám đắc tội với ta, còn cố hết sức nịnh nọt. Người ta khiêm tốn đến mức cứ mở mồm ra là nói ba ngày sẽ vong quốc, quả thực là không có cách nào gây thù kết oán được, vậy chi bằng đắc tội với vị phụ chính đại thần Đường quốc này vậy, hiệu quả chắc chắn sẽ khác.”

Dương Hạo nghĩ đến đây liền cười cười đứng dậy, học cái vẻ mặt cảu Lục Nhân Gia, một cái dáng vẻ “dì không thương cậu không yêu”, nói: “Hôm nay bổn quan ngẫu nhiên gặp được Hoàng Phủ tướng quân, rồi cùng đến Phiêu Hương viện uống rượu, nghe nói Sanh Hàn cô nương ở đây gảy tỳ bà hay tuyệt luân, nên muốn thưởng thức một chút. Bây giờ xem ra Sanh Hàn cô nương đang phục vụ đại nhân, không biết đại nhân có chịu thả Sanh Hàn cô nương xuống đây để bổn quan có thể thưởng thức một chút tiếng đàn tuyệt luân không?”

Hoàng Phủ Kế Huân ngồi bên cạnh mày liền nhíu lên, châm chọc nói: “Sanh Hàn cô nương đâu phải chỉ có gảy đàn hay đâu. Đợi đại nhân thưởng thức mùi vị của nàng ta thì sẽ biết nàng ta còn có chỗ nào hay hơn nữa.”

Trần Kiều thấy hai người họ đứng trước mặt mình mà dám nói ra những lời hạ lưu đó, hoàn toàn không coi mình ra gì, không khỏi tức đến xanh mặt. Dạ Vũ ngồi bên cạnh đổ cả mồ hôi lạnh, hôm nay đúng là bà cô hắn va phải tà rồi, hai vị đại nhân có vị trí cực cao, một văn một võ của thành Kim Lăng, một trước một sau đều bị đụng phải.

“Xem ra vị Trần phụ chính này sẽ không ngon ngọt được như Hoàng Phủ tướng quân, mà hoàng thượng đã chính miệng nói rằng đáp ứng hết các yêu cầu của Dương Hạo, chi mong cho hắn không gây sự ở Đường quốc. Nhưng vị Trần phụ chính này cũng không phải là người dễ dây, giờ phải làm thế nào mới tốt đây?”

Trong lòng Trần Kiều đột nhiên lóe lên. Hắn tuy không sợ Dương Hạo, cũng không sợ vì chuyện hai người tranh đoạt mĩ nhân mà chọc giận triều Tống, nhưng hắn là phụ chính đại thần Đường quốc, hắn không phải là loại tể tướng hoang đường nghìn năm có một như Hàn Tái Hi năm xưa. Bây giờ Dương Hạo dựa vào thế lực của Tống quốc, thể hiện rõ không coi hoàng thượng ra gì, làm sao có thể sợ một tể tướng như hắn. Bên cạnh lại còn có một con chó cậy người như Hoàng Phủ Kế Huân, nếu thật sự tranh chấp, tin tức truyền ra bên ngoài thật sự sẽ trở thành chuyện cười, quét sạch thể diện của Đường quốc. 

Nghĩ đến đây, trong lòng Trần Kiều càng cảm thấy hận, nhưng trên mặt lại chỉ lạnh lùng hừ một tiếng: “Dương tả sứ đã có nhã hứng như vậy thì hãy ở lại đây để Hoàng Phủ tướng quân cùng ngài uống rượu. Tửu hứng của lão phu đã hết, không thể tiếp đại nhân.” Nói rồi ông ta phất áo đi khỏi.

Dương Hạo thấy thế thì vô cùng thất vọng. Vốn tưởng rằng lần này sẽ làm được, nhưng ai ngờ vị Trần Kiều này cũng là loại súng đèn cầy, chỉ có thể nhìn mà không thể dùng. Hắn thầm nghĩ: “Mẹ kiếp, sao ta lại đen đủi như thế, muốn đắc tội với một người mà cũng khó thế sao? Khi ở Khai Phong ta giấu cái đuôi đi để làm người thế mà toàn bị đắc tội với người ta. Nhưng đến đây tác oai tác quái muốn gây thù chuốc oán, nhưng Hoàng Phủ tướng quân hết sức nịnh nọt, tể tướng đương triều lại trốn tránh. Lão tử quyền đả nam sơn kính lão viện, cước đá bắc hải ấu kỉ viên, ta vô địch rồi.”

Hoàng Phủ Kế Huân thấy Trần Kiều bỏ đi thì không khỏi đắc ý, quát lão bà bà: “Còn ngẩn ra đấy làm gì. Mau đi gọi Sanh Hàn cô nương xuống tiếp đãi Dương tả sứ.”

Hoàng Phủ Kế Huân vừa nói dứt lời thì Sanh Hàn cô nương đã từ trên lầu thong thả bước xuống. Hoàng Phủ Kế Huân mặt mày hớn hở nói: “Sanh Hàn cô nương, nào nào, mau đến đây, mau đến đây gặp mặt vị đại nhân này, nàng phải tiếp đãi thật tốt đấy nhé, nếu làm cho Dương đại nhân vui thì bổn quan sẽ trọng thưởng.”

Sanh Hàn cô nương lật mặt, làm một lễ với hắn, lạnh nhạt nói: “Nô gia không giỏi uống rượu, toàn thân mệt mỏi, e là khó có thể phục vụ đại nhân, Hoàng Phủ tướng quân thứ tội.” Nói rồi liền bước đi. Hoàng Phủ Kế Huân vô cùng tức giận: “Đứng lại, vị đại nhân này là sứ giả thượng quốc, ngay cả bổn tướng quân cũng không dám bất kính, ngươi lại dám thất lễ hay sao?” 

Sanh Hàn bỗng nhiên quay người lại, đôi mày xinh đẹp hơi nhíu lên, lạnh nhạt nói: “Nô gia thiển cận, chỉ ở Kim Lăng, chỉ biết đến Trần phụ chính, biết Hoàng Phủ tướng quân, chứ lại không biết cái gì mà sứ giả thượng quốc.”

“Thật là to gan, còn dám cãi lại.” Hoàng Phủ Kế Huân tức giận rút kiếm ra, Dạ Vũ đang ngồi ở một bên liền tiếp tục làm kẻ hòa giải.

Hoàng Phủ Kế Huân nào có thể để mất thể diện như vậy ở trước mặt Dương Hạo, một tay đẩy Dạ Vũ ra, tay cầm kiếm quát lên: “Tiện tỳ không biết tốt xấu, chẳng qua ngươi chỉ là một xướng kỹ lấy thanh sắc làm vui người ta mà thôi, thế mà lại dám nói như vậy với bổn quan, bây giờ ta không thể giữ ngươi lại nữa, nạp mạng cho ta.”

Sanh Hàn cô nương ngẩng khuôn mặt xinh đẹp trắng trẻo lên trước mặt Hoàng Phủ Kế Huân, tươi cười nói: “Hoàng Phủ tướng quân nói sai rồi, nô gia chỉ là một xướng kỹ lấy thanh sắc làm vui người ta mà thôi, là một kẻ hèn không biết khí tiết phẩm hạnh là cái gì.”

Hoàng Phủ Kế Huân không ngờ nàng ta còn dám cãi lại, trong lời nói còn đầy sự châm biếm, đúng là đang mắng mình, càng tức giận không thôi, muốn lập tức rút kiếm ra đâm, nhưng cánh tay lại bị giữ chặt lại, người này có sức cực lớn, Hoàng Phủ Kế Huân không thể động đậy được. Hắn quay đầu lại nhìn thì thấy Dương Hạo đã tiến lên trước. Dương Hạo cười nói: “Hoàng Phủ tướng quân bớt giận, mỹ nhân thì phải dỗ, không thể dọa, ha ha ha. Ép nàng ta ở lại cũng không còn hứng thú, để nàng ta đi đi.”

Dương Hạo đã mở lời thì Hoàng Phủ Kế Huân liền nghe lời ngay, lập tức thu kiếm lại, hừ một tiếng: “Tiện tỳ, hôm nay may cho ngươi đấy.” Rồi hắn quay lại mặt mày tươi cười nói: “Tả sứ đại nhân đại lượng, khí độ phi phàm, có tấm lòng nhân nghĩa, không hổ là nhân vật của thượng quốc.”

Dương Hạo nhìn bóng Sanh Hàn bước đi, thầm cười khổ: “Tể tướng tướng quân Đường quốc lại không thể ngẩng cao đầu bằng một xướng kỹ. Cuối cùng cũng có người chịu đắc tội với ta, nhưng nàng ta đắc tội với ta thì có tác dụng gì chứ, lẽ nào ta phải ngụy tạo hiện trường, nói Dương Hạo chết dưới bụng đàn bà sao? Vậy Oa Oa và Diễm Diễm phải làm sao đây?”

***

Ở phủ đệ của Lâm Nhân Triệu tại Kim Lăng, Chiết Tử Du đổi tên thành Mạc Dĩ Minh sau khi nghe Trương Thập Tam bẩm báo rõ nhất cử nhất động của Dương Hạo sau khi rời cung, không khỏi kinh ngạc nói: “Đây không giống hắn, hắn ngang ngược, ngông nghênh như vậy mục đích là gì?”

Nhíu mày suy nghĩ một hồi lâu, Chiết Tử Du lắc đầu nói: “Hành sự của tên này càng ngày càng làm cho người ta khó đoán ra. Không được, tên này ở lại đây, lại còn cùng cái tên khốn Hoàng Phủ Kế Huân cấu kết với nhau, nói không chừng lại làm hỏng đại sự của ta. Ta phải nghĩ ra cách đuổi hắn trở về Khai Phong.”

Trương Thập Tam buông tay nói: “Tiểu thư, bây giờ Dương Hạo đang dựa thế lực của Tống quốc mà đến đây, đến tể tướng còn không dám đắc tội với hắn, theo như tiểu nhân thấy, Lý Dục cũng sợ hắn, làm thế nào để tống được hắn đi chứ?”

Chiết Tử Du mỉm cười: “Ngươi quên mất câu chuyện Đào Cốc sao? Đi chuẩn bị kiệu, ta muốn lập tức tiến cung gặp tiểu Chu hậu.”

Chương 348:Dục tốc bất đạt

“Nương nương có từng nghe nói tên sứ giả Tống quốc Dương Hạo đó ngày đầu tiên đến Kim Lăng đã khoa trương thế lực, đi khắp nơi gây sự không? Đầu tiên là hắn cố ý va chạm với Hoàng Phủ tướng quân, tiếp đó lại tranh đoạt cô nương Sanh Hàn ở Phiêu Hương lâu với Trần phụ chính đại nhân, suýt nữa đánh nhau, may mà hai vị đại nhân nghĩ cho đại cục, luôn cố nhẫn nhịn, như vậy mới chưa xảy ra xung đột. Vị sứ giả Tống này kiêu ngạo như thế tuyệt đối sẽ không chịu thôi một cách dễ dàng. Theo như Minh Nhi thấy hắn là cố ý khiêu khích để gây chuyện thị phi, sau đó tạo cớ để xâm lược, ý đồ của Triệu Khuông Dận e rằng chính là nhằm vào giang sơn Đường quốc và nương nương.”

Chiết Tử Du sau khi tiến cung, thấy tiểu Chu hậu đang nghiên cứu làm ra một loại bánh mới, nàng ra liền vừa ngồi tham mưu một bên, vừa nịnh nọt mấy câu, khi tiểu Chu hậu đang vui vẻ thì liền nhắc đến câu chuyện này.

Tiểu Chu hậu vừa nghe thấy vậy thì vẻ mặt vui mừng lập tức biến mất, lo lắng nói: “Hôm nay quan gia về cung cũng từng oán trách Tống sứ bất kính, kiêu ngạo vô lễ trước triều đình, làm cho quan gia vô cùng mất mặt.

Tuyên phủ (tuyên chiếu và an ủi) thì tuyên phủ đi, người này đến với danh nghĩa tuyên phủ nhưng hắn chỉ tuyên chứ không phủ, rồi còn dương oai diễu võ, vô cùng bất kính. Triều Tống lại phái một người như vậy đến đúng là không coi Đường quốc ta ra gì. Muội muội bây giờ cũng nói như vậy, xem ra Tống triều quả nhiên có ý đồ khác, việc này… việc này phải làm thế nào bây giờ?”

Chiết Tử Du mắt gợn sóng, mỉm cười nói: “Nương nương đã từng nghe nói tới chuyện hộ bộ thượng thư của đương kim Tống quốc, là đại học sĩ thời Chu Đào Cốc đã từng xuất sứ Đường quốc chưa?”

Tiểu Chu hậu che miệng cười: “Hảo nhân duyên, ác nhân duyên, nại hà thiên… hi hi, bài thơ này đương nhiên là bổn cung đã từng nghe thấy. Sau khi Hàn Tái Hi chết, vị thần tiên tỷ tỷ Tần Nhược Lan cô nương trong bài thơ của vị Đào Cốc đó đã bị bán đến phủ Tào học sĩ, bổn cung lúc đó vẫn chưa nhập cung, đã từng gặp qua nàng ta một lần. Lúc đó Tần cô nương tuy đã lớn tuổi rồi nhưng phong sắc vẫn còn, có thể thấy năm xưa diện mạo quả thật bất tục, khó trách Đào học sĩ đó thần hồn điên đảo. Mà sao muội muội lại nhắc đến chuyện đó?”

Chiết Tử Du thầm thở dài: “Vị tiểu Chu hậu này tuy tuổi lới hơn ta, nhưng đáng tiếc lại là hoa lan trồng trong chậu, được chiều chuộng mà sống, tính tình ngây thơ lãng mạn, chỉ biết thơ ca, cầm kỳ thi họa, hoàn toàn không biết đến sự hiểm ác của con người, thật là không có chút cơ mưu gì cả. Ta đã nói đến như vậy rồi mà vẫn không hiểu ra.”

Vừa thầm thở dài nàng vừa nói: “Dương Hạo này ở mãi Đường quốc mà không chịu đi, chúng ta không thể làm rắn để hắn đi, vậy sao không học cái cách mà Hàn đại học sĩ đã dùng với Đào Cốc, để cho hắn tự thấy xấu hổ mà rời đi, biết khó phải rời? Đó là tự hắn thất lễ nghĩa, không liên quan đến Đường quốc ta.”

Tiểu Chu hậu vui vẻ nói: “Ý! Cách này quả thật không tồi, cách muội muội nghĩ ra quả là diệu kế.”

Nhưng nàng nghĩ một lát rồi lại chần chừ nói: “Nhưng mà tên Dương Hạo này cũng quá thô tục, lại vì một xướng kỹ mà tranh chấp giưa chốn đông người với tể tướng Trần Kiều, không thèm để ý đến thể diện thần tử của Tống quốc, cho dù chúng ta để một vũ kỹ đến mê hoặc hắn, sợ rằng sau khi hắn phong tình hoa nguyệt cũng không cho rằng đó là vô sỉ, ngược lại còn lấy làm vinh dự, lúc đó sao chịu rời đi?”

“Ừm! Nương nương nghĩ thế cũng rất có khả năng.”

Chiết Tử Du trầm tư một lát, vỗ tay cười nói: “Có rồi, Dương Hạo không có yêu thể diện như Đào Côc, nếu như dính líu với một vũ kỹ bình thường thì chắc hắn sẽ không lấy làm xấu hổ, nhưng nếu như nữ nhân này là nữ nhân trong cung Đường ta thì lại không giống. Cho dù hắn có vô sỉ đến mức nào thì nếu như một sứ thần như hắn mà lại dính dáng đến nữ nhân trong cung Đường thì đó là chuyện đại đại thất lễ. Một khi chuyện bại lộ thì ngay cả triều đình Tống quốc cũng mất mặt, nói không chừng một khi hắn trở về Khai Phong sẽ lập tức bị bãi miễn chức quan, làm sao còn dám ngông nghênh nữa.”

Tiểu Chu hậu hơi biến sắc: “Muội muội, lời này là nói sai rồi. Phi tần trong hậu cung tuy nhiều, có một số mĩ nhân cho dù chưa từng được hưởng ân phúc của quan gia, nhưng dù sao cũng đều là phi tần có danh phận, nếu như bảo họ đi dụ dỗ Dương Hạo thì cho dù Dương Hạo không thể tiếp tục ở Đường quốc, nhưng thể diện của quan gia cũng không còn, không biết trong thiên hạ sẽ có bao nhiêu người sẽ chê cười quan gia bị người Tống làm nhục. Đây không phải là vì nhỏ mà mất lớn sao?” 

Chiết Tử Du thản nhiên nói: “Nương nương không cần phải lo lắng, hãy để Minh Nhi nói hết. Đầu tiên, người mê hoặc sai sứ tuy là người trong cung nhưng tuyệt đối không được là phi tần của quốc chủ. Vũ kỹ ca nữ, cung nữ, thị tỳ đều là người trong cung, như thế sẽ không ảnh hưởng tới quốc thể. Đây là điều thứ nhất.

Thứ hai, chúng ta tuy dụ để đuổi Dương Hạo rời đi chứ không phải học Hàn Tái Hi, thật sự để một vũ kỹ câu hợp với hắn. Cái danh Hàn Tái Hi phóng đãng, cả thiên hạ đều biết, nương nương không thể dính vào những chuyện như thế, Minh Nhi sao lại có thể không biết nặng nhẹ chứ? Ý của Minh Nhi là sai một cung nữ xinh đẹp thông minh, tạo ra một số sự kiện hiểu lầm ám muội với hắn. Sự việc chỉ cần làm to lên thì hắn không thể nào biện bạch được, sẽ giống như con bọ hung đội phân về nhà, âm thầm mà cút khỏi đây.”

Tiểu Chu hậu lật mặt nói: “Muội muội là khuê tú đại gia, sao có thể nói ra được những lời lẽ như thế nhỉ?”

Nói rồi nàng ta lại cười khì khì, che miệng nói: “Có điều cách này quả thật không tồi, chúng ta sẽ làm cho cái tên Tống sứ cố tình gây sự đó ăn một vố lớn để phải nhanh chóng rời khỏi Đường quốc ta, Tống quốc cũng không tiện phái một tuyên phủ sứ khác đến nữa. Đến lúc đó chúng không có cớ gì để hại ta nữa, Đường quốc sẽ có thể thái bình rồi.”

Chiết Tử Du nói: “Nương nương thành kính lễ phật, lấy lòng thiện để đối với người, nên luôn quá nhân từ với người khác. Dương Hạo cho dù có phải trở về thì dã tâm của Triệu Khuông Dận cũng sẽ không vì thế mà từ bỏ đâu, chẳng qua chỉ là bớt một cái cớ mà thôi, như thế chỉ có thể giúp Đường quốc ta kéo dài thêm chút thời gian. Nương nương nên khuyên quốc chủ kết giao hảo hữu nhiều với các nước Đại Lý phương nam, Phiên Khương phương tây, Ngô Việt phương đông, Khiết Đan phương bắc, tạo thành một liên kết vững mạnh. Đồng thời trọng dụng các trọng thần tài giỏi trung thành, cải chính tề dân, huấn luyện binh mã, tăng cường thực lực của Đường quốc. Chỉ khi thực lực Đường quốc lớn mạnh, hữu quốc nhiều, thì người Tống mới kiêng nể, không dám dễ dàng động binh.”

Tiểu Chu hậu thở dài nói: “Quan gia trị nước thuận theo thời thế, văn võ trong triều hiền minh, bây giờ chẳng nhẽ lại không biết phải tự cường sao? Chỉ là Đường quốc ta ở một góc của Giang Nam, dù sao cũng khó có thể bì được với cường thế của Tống quốc, đây cũng là chuyện bất đắc dĩ, bổn cung là người ở hậu cung, chăm coi chuyện của lục cung, sao có tiện can dự vào chứ? Hơn nữa, quan gia gần đây vì chuyện này mà thường xuyên mất ngủ, bổn cung cũng không nỡ lại tăng thêm phiền muộn cho quan gia nữa.”

Chiết Tử Du trong lòng tự biết rằng chuyện này không thể gấp, liền không nói nữa, chuyển chủ đề, nói: “Nếu như muốn tên Dương Hạo đó rơi vào cạm bẫy thì đầu tiên là phải chọn được một giai nhân thông minh lanh lợi, trong lòng nương nương có nghĩ tới người nào thích hợp không?”

Tiểu Chu hậu trầm ngâm suy nghĩ một lát, nói: “Diểu nương thế nào? Nàng ấy chính là quan nương. Khi quan gia mở yến tiệc, Tống sứ Dương Hạo thái độ cao ngạo, không coi ai ra gì, duy chỉ đến khi Diểu nương hiến vũ thì hắn mới dán mắt không rời vào, rõ ràng là hắn đã động lòng với Diểu nương rồi. Quan nương là vũ kỹ trong cung, lại không phải là phi tần của quan gia, thân phận rất phù hợp, cộng thêm nàng ấy diệu vũ tài tình, là mỹ nhân của Đường quốc ta, chắc chắn có thể làm cho Dương Hạo động lòng.”

Chủ ý này tuy là do Chiết Tử Du đưa ra, nhưng khi nghe thấy tiểu Chu hậu tán dương đôi chân xinh đẹp của Diểu nương có thể cám dỗ Dương Hạo thì trong lòng nàng lại có chút không vui: “Những tên đàn ông thối này quốc sắc thiên hương đều đã nhìn chán rồi, giờ lại chuyển sang nhìn chân nữ nhân. Một đôi chân cũng có thể quyến rũ đàn ong đến, đúng là chẳng ra sao.”

Tin tức trong quốc tiệc, Tống sứ Dương Hạo nhìn không rời mắt khỏi đôi chân xinh đẹp của Diểu nương đã được truyền ra khắp các ca kỹ vũ nữ, Chiết Tử Du cũng biết chuyện này, nàng khinh thường nghĩ: “Đôi chân của những vũ kỹ đó cả ngày đều bị bó lại, thon nhỏ như măng, đẹp không thể tả, nhưng khi đi tất vào thì so với bổn cô nương còn thua xa. Những tên đàn ông thối đó mù hết cả mắt chó cũng nên, Dương Hạo cũng thế, cá mè một lứa, thật không biết hắn đã mê mẩn cái gì nữa.”

Chiết Tử Du có chút ghen tuông, suy nghĩ vẩn vơ miên man, tiểu Chu hậu thấy vẻ mặt kỳ lạ của nàng, liền hỏi: “Muội muội có phải cảm thấy có chỗ nào không ổn không?”

Chiết Tử Du lấy lại thần thái, vội nói: “Ừm, không phải, Minh Nhi đang nghĩ người này đã chọn được rồi, nhưng phải làm sao để tìm được cơ hội thích hợp ra tay. Diểu cô nương là vũ kỹ trong cung, hắn lại là ngoại thần của Tống triều, muốn họ gặp mặt nhau không phải là dễ. Nơi để “quyến rũ” phải là ở trong cung mới hợp tình hợp lý. A, có rồi, nương nương có thể bảo quan gia thường xuyên mời hắn đến uống rượu. Cứ như vậy thì một là có thể nắm được hành tung của hắn, tránh để cho hắn ra ngoài gây sự, hai là lại có thể thể hiện lễ tiết của Đường triều ta với Tống triều. Còn về việc hắn “không thủ quy củ” ở trong cung, làm ra chuyện thất lễ thì đó cũng hợp lý hơn.”

Tiểu Chu hậu nghe xong thì vô cùng vui mừng, gật đầu cười. Người thiếu nữ xinh đẹp mới hai mươi ba tuổi này quả thực là hoa lan trong nhà kính chưa từng gặp gió mưa, luận đến sự từng trải thì vẫn còn non nớt hơn Chiết Tử Du nhiều. Mỗi ngày, những việc mà nàng ta phải động não suy nghĩ chỉ có mấy chuyện như nghiên cứu thuốc nhuộm vải, mài phấn làm son, khó mà có cơ hội để nàng ta có thể đi trêu đùa một vị sứ thần Tống quốc. Vì thế nên tiểu Chu hậu không khỏi thấy mới lạ, thấy chuyện này rất hứng thú. Nàng xoa xoa tay, nóng lòng như muốn nhảy lên.

Hai người bàn luận một chút, thì Chiết Tử Du thấy sắc trời đã tối, cấm quân sắp sửa đóng cửa, liền đứng dậy cáo từ. Tiểu Chu hậu thấy vậy liền vội kéo tay Chiết Tử Du lại, hăng hái nói: “Việc này ngày mai sẽ bắt đầu làm, cũng cần phải mất mấy ngày mới có thể dụ được Dương Hạo vào bẫy mà không bị sơ hở gì. Muội muội đừng vội đi như thế, bổn cung thiết kế ra mấy chiếc lư hương, bảo đám thợ rèn làm theo, vừa mới làm xong. Đúng lúc muội muội ở đây, hãy chơi cùng ta một lúc rồi đi cũng không muộn.”

Chiết Tử Du dừng lại, tiểu Chu hậu sai người bê mấy chiếc khay được sơn ra. Trên mỗi chiếc khay đều có đặt một vật, bên trên nắp có phủ khăn màu đỏ, cao thấp to nhỏ tương đương nhau, khi kéo chiếc khăn ra thì thấy đó là mấy chiếc lư hương bằng ngọc, tạo hình tuyệt mỹ, điêu khắc tinh xảo, thế gian hiếm thấy. Dám chắc vị tiểu Chu hậu này không những là một thầy thiết kế trang phục múa, thiết kế đồ hóa trang giỏi mà còn là một thầy thiết kể sản phẩm công nghệ tài hoa.

Tiểu Chu hậu vui vẻ nói: “Muội muội đến đây xem, những chiếc lư hương ta thiết kế này có tên là “bát tử liên”, nó được làm bằng mỹ ngọc điêu khắc thành hai đài sen, ở trên đài sen có rất nhiều những lỗ nhỏ, hương thơm sẽ được tỏa ra từ đó, làn khói thơm sẽ tỏa ra từ những lỗ nhỏ này, tạo nên một cảnh tượng rất đẹp. Còn có cái này nữa, tên nó là “chiết yêu sư tử” (sư tử khom lưng). Bên trên chiếc lư có khắc một con sư tử con, hương thơm sẽ từ miệng nó tỏa ra.

Còn cái này tên là “phụng khẩu anh” (miệng phượng hoàng), bên trên chiếc lư khắc một con chim kin phượng xòe cánh, ngẩng cổ lên trời, hương thơm từ miệng tỏa ra, tư thế như thể sắp bay. Muội hãy nhìn tiếp cái này, thời gian điêu khắc nó rất dài. Chiếc lư hương này gọi là “tiểu doanh châu”, chỗ bằng bằng biển cả, chỗ gồ lên làm núi, khói sẽ từ chỗ giữa biển và núi từ từ tỏa ra, rất giống cảnh thần tiên.”

Tiểu Chu hậu giới thiệu một lượt các điểm đặc sắc của từng chiếc lư hương một, những loại ngọc làm thành những chiếc lư hương này như ngọc thái cổ, ngọc dung hoa đỉnh… đều là những thứ kim ngọc hiếm thấy trong nhân gian, thêm nữa các đường nét thiết kế cũng rất tuyệt diệu. Chiết Tử Du thầm nghĩ: “Chu hậu là hoàng hậu của một nước, thân làm quốc mẫu cần phải có trách nhiệm khuyên giải quân vương, quan tâm đến dân chúng, nhưng nàng ta lại không hề bỏ lỡ việc hưởng lạc. Nàng ta là một tài nữ hiếm có trong nhân gian, lại rất có sáng tạo, nhưng đáng tiếc công việc chính của nàng ta lại chẳng có liên quan gì đến an nguy của dân chúng.”

“Người đâu, cho hương vào, đốt lên để xem xem.” Tiểu Chu hậu ra lệnh một tiếng, liền có một cung nữ cho một loại hương thượng đẳng vào bên trong rồi đốt lên. Trong tức khắc, một hương thơm ngát kỳ diệu tỏa ra khắp điện. Làn hương vừa bay lên cao thì đúng lúc Lý Dục từ ngoài điện bước vào, thấy cảnh tượng tuyệt mĩ như thế không khỏi sáng mắt lên.

Hắn phất tay cố ý bảo nội thị không phải hành lễ nữa, nhẹ nhàng bước vào bên trong, đứng bên cạnh bức màn thưởng thức. Sự phong tình vạn chủng của tiểu Chu hậu hắn sớm đã thưởng thức quen rồi, phong thái uyển chuyển không có lời nào có thể miêu tả hết được, nhưng Chiết Tử Du đứng bên cạnh nàng cũng không hề kém cạnh một chút nào. Nhưng điều khó có được chính là vị Mạc Dĩ Minh Mạc cô nương này lại có đầy vẻ anh khí, làm cho khí chất của nàng khác hẳn so với tiểu Chu hậu.

Vị Mạc cô nương quả nhiên không hổ xuất thân từ thế gia võ tướng, anh khí bừng bừng nhưng lại không che mất thiên sắc của nàng. Mỗi người có một vẻ đẹp riêng, họ cùng đứng với nhau làm cho xung quanh như phải nghiêng ngả. Lý Dục không khỏi mừng vui tán thưởng: “Tuyệt, quá tuyệt. Lư hương này thật tuyệt, mĩ nhân đứng trong làn hương khói, mờ ảo càng tuyệt diệu hơn.”

“A, dân nữ không biết quốc chủ giả đáo, thỉnh quốc chủ thứ tội.” Chiết Tử Du đang đứng ung dung ở bên cạnh lư hương, vừa thấy Lý Dục đứng bên cạnh vội vàng quỳ xuống thi lễ.

“Mạc cô nương cứ đứng dậy, trong đại nội không cần phải tuân theo quá nhiều quy tắc.”

Lý Dục vuốt râu mỉm cười, nói: “Ta thấy nương nương và cô nương đứng trong làn khói, mờ ảo như tiên nữ, vẻ đẹp thoát tục, làm cho lòng ta trào dâng một cảm giác khó tả, đột nhiên lại có hứng thơ. Người đâu, đem tứ bảo trong thư phòng của ta tới đây.”

Tứ bảo trong thư phòng chuyên dùng của Lý Dục thứ nào cũng là báu vật. Giấy, nghiên mực, mực, bút, bốn thứ này đều được làm từ những chất liệu quý giá nhất và cực kì tinh xảo. Nó dùng đề Lý Dục viết những bài từ khi có hứng. Còn về từ của hắn càng là thiên hạ nhất tuyệt, không biết đã làm xiêu lòng bao thiếu nữ đang tuổi mộng mơ.

Lúc trước tiểu Chu hậu mới có mười lăm tuổi, vì tỷ tỷ là đại Chu Hậu lâm trọng bệnh nên nhập cung thăm nom, lúc đó đã bị hảo từ tuyệt mĩ vô song của Lý Dục động tới trái tim non nớt lãng mạn của thiếu nữ, trái tim đó dần thắt chặt vào người tỷ phu.

Lý Dục lúc đó nhìn thấy nàng Chu Nữ Anh ngây thơ, xinh đẹp hoạt bát liền bị vẻ đẹp của nàng làm động lòng, lập tức viết cho nàng một bài từ: “Tầm xuân tu thị tiên xuân tảo, khán hoa mạc đãi hoa chi lão. Phiếu sắc ngọc nhu kình. Phôi phù tràn diện thanh. Hà tu tần tiếu sán! Cầm uyển xuân quy vãn. Đồng túy dữ nhàn bình, thi tùy đảo cố thành.”

Câu “Tầm xuân tu thị tiên xuân tảo, khán hoa mạc đãi hoa chi lão” lại rất hợp với câu “Hoa khai kham tiết trực tu chiết. Mạc đãi vô hoa không chiết chi” của Lã Động Tân, có một sự kì diệu dị khúc, rõ ràng lúc đó đã nổi dậy tương tư với tiểu Chu hậu.

Sau một hồi hàn huyên, hắn lại viết cho nàng một bài từ nữa: “Bồng lai viện bế thiên thai nữ, họa đường trú tầm vô nhân ngữ. Phao chẩm thúy vân quang, dụ y văn dị hương. Tiềm khai châu tỏa động, hận giác ngân bình mộng. Kiểm mạn tiếu doanh doanh, tương khán vô hạn tình.” Bài từ này càng thắt chặt lấy trái tim nàng thiếu nữ.

Nữ Anh khi đó mới có mười lăm tuổi, ý tình cũng mới nở, cái tài tình của Lý Dục là không cần nhiều lời, thêm nữa lúc đó hắn cũng còn trẻ, lại là đế quân của một nước, tôn quý vô cùng, vị đệ nhất sát thủ tán gái muốn đối phó với một nàng thiếu nữ xinh đẹp như tiểu Nữ Anh chẳng phải là quá dễ dàng hay sao? Cho nên tiểu Nữ Anh đã bị rơi vào tay hắn.

Hai bài từ đã lấy được một giai nhân, nhưng nó lại giết chết một vị hoàng hậu. Việc Lý Dục viết tăng hai bài từ cho tiểu Nữ Anh đã bị truyền khắp cung, rồi truyền cả ra ngoài. Đại Chu Hậu thần hồn phách lạc. Chuyện nam nhân có thê có thiếp trong nhân gian cũng là chuyện bình thường, trong mắt nữ nhân nó cũng không có gì kì lạ, huống hồ Lý Dục lại là một quân vương. Còn tiểu Chu hậu thì lại không cảm thấy việc mình và tỷ tỷ cùng phục vụ một phu có gì là không thỏa đáng. Nhưng đại Chu Hậu vốn rất được Lý Dục sủng ái, việc Lý Dục và muội muội tư thông thâm tình, gần gũi thân thiết đối với nàng mà nói không tránh khỏi hụt hẫng. Khi nghe thấy cung nữ nói Lý Dục lúc này đang làm chuyện tốt với muội muội thì từng từ từng câu tỏng bài từ ấy càng như dao như tiễn đâm vào người, khiến cho đại Chu Hậu vô cùng đau khổ.

Lúc đó đứa con của nàng vừa mới chết yểu, phu quân lại thay tình đổi ý, bảo sao nàng không đau đớn cho được? Đại Chu Hậu với tâm hồn thiếu nữ đã tan nát, từ khi nghe tin tức này liền ngoảnh mặt vào tường, đến chết cung không chịu nhìn mặt Lý Dục và muội muội. Bệnh của nàng tuy nặng nhưng vốn không phải là chứng bệnh phải chết, nhưng sau này thuốc cũng khó cứu được nàng, việc nàng chết đương nhiên không phải là không có liên quan đến việc nàng suốt ngày buồn bực u uất.

Nhưng nếu như nói Lý Dục hư tình giả ý với nàng thì cũng không đúng, đối với đại Chu Hậu và tiểu Chu hậu hắn quả thật đều yêu thương vô cùng, chỉ là hắn lại không thật sự hiểu được tâm tư nữ nhân, không biết khi đại Chu Hậu lâm trọng bệnh mà mình lại đi tìm niềm vui khác chính là gây một vết thương trầm trọng với nàng.

Hai bài từ của Lý Dục vừa được một hậu lại vừa mất một hậu, ma lực của nó quả thật không nhỏ. Bây giờ nhìn thấy trong làn khói lượn lờ, Chiết Tử Du xinh đẹp tuyệt mĩ đang đứng ẩn hiện, trái tim ngu ngốc thương hoa tiếc ngọc của Lý Dục lại nổi lên, lúc này liền có ý định nạp nàng ta vào cung

Tiểu Chu hậu chính là bị hai bài từ của hắn mê hoặc, vừa thấy hắn tán thưởng hai mĩ nữ mĩ miều, lại nói ý thở lên cao, đôi mắt lại không ngừng nhìn chằm chằm vào người Chiết Tử Du, nàng lập tức hiểu ra tâm ý của hắn. Tuy biết đế vương nạp phi tần, bản thân mình không thể ngăn được, nhưng trong lòng vẫn có chút không vui.

Nhưng thoáng cái nàng ta đã thay đổi ý nghĩ, mình với Lý Dục đã kết tình duyên đến giờ cũng đã được tám năm, lại không có một đứa con trai nối dõi nào. Phi tử hậu cung tuy nhiều, trong đó những người nhận được sủng ái của quan gia cũng không phải là thiểu số, nhưng đến giờ vẫn không có gì, quan gia đến giờ chỉ có một đứa con trai. Thân làm hoàng đế, con trai nếu như có hơi ít thì dẫn đến nếu thái tử bệnh tật sẽ làm cho mọi người lo lắng không yên. 

Chiết Tử Du thường hay nhập vào đầu nàng những thứ như xã tắc, dân sinh, quân chính, kinh tế, tiểu Chu hậu dần dần cũng thấm được một chút ý thức về nguy cơ. Từ góc độ này mà nói thì nàng ta cảm thấy quan gia có nạp thêm mấy nữ tử mà vừa ý hắn thì cũng không có gì là quá tổn hại, cho dù có tổn thất thì chỉ cần hoàng thất có nhiều con trai nối dõi, giang sơn và lòng dân sẽ ổn định thêm vài phần.

Mạc Dĩ Minh vừa nhìn đã thấy có phúc tướng tề phu tề gia, có cơ thể và tướng mạo đa tử đa nữ, lại là tỷ muội tâm đầu ý hợp với mình. Nếu như nàng ấy có thể nhập cung thì mình không những có nhiều thêm một người bên cạnh nói chuyện hầu bạn cho bớt buồn, mà quan gia lại vừa có thêm một trợ thủ đắc lực để duy trì giang sơn, sinh con nối dõi. Mà mình là hoàng hậu, những hoàng tử mới sinh sẽ đều do mình dưỡng dục, đứa bé mới sinh sẽ không giống như đương kim thái tử, chỉ ít hơn mình có mấy tuổi, hai bên khó tránh có mâu thuẫn. Vì thế nên nàng đứng yên không nói gì.

Nhưng Mạc cô nương dường như không hiểu phong tình, hoàn toàn tỏ ra không biết lời tán thưởng của quốc chủ này chính là biểu thị có ý với mình, bài từ đó cũng vì mình mà viết. Nàng vội vàng nhìn ra bên ngoài, rồi nói với Lý Dục: “Quốc chủ, cấm cung sắp đóng cửa rồi, dân nữ không phải là người trong cung, ở lại lâu không tiện, xin cáo từ quốc chủ với nương nương.”

Chiết Tử Du hành lễ rồi từ từ lui ra. Lý Dục ngẩn ngơ, nhìn theo bóng hình nàng xa dần.

Nội thị bê tứ bảo từ trong thư phòng ra, khom lưng nói: “Quan gia, tứ bảo đã được đưa đến.”

Lý Dục phất tay một cái, hết hứng thú nói: “Mang đi đi, ta hết hứng thơ rồi.”

Chiết Tử Du vừa đi ra khỏi cung điện, đứng dưới bậc thang liền mỉm cười: “Đường đường là đế vương của một nước, đất nước lâm nguy thế mà chỉ biết đến thơ với ca, tỏ vẻ phong nhã. Cái loại ngu xuẩn như vậy lại dám có ý với Chiết Tử Du ta. Hừ! Bổn cô nương sao có thể để mắt đến một kẻ bỏ đi như ngươi chứ!”

***

“Đại nhân, đây là thiệp mời của Hoàng Phủ Kế Huân, mời đại nhân đến Tê Hà Sơn du ngoạn.”

Tiêu Hải Đào tiếc nuối đưa thiệp lên nói: “Đáng tiếc không phải là đi Yến Tử Phàn, nếu không đã có thể cẩn thận xem xét tình hình doanh trại thủy binh của quân địch rồi.”

Dương Hạo liếc mắt nhìn, cầm lấy thiệp mời rồi đột ngột vứt đi, cười lạnh lùng: “Hoàng Phủ Kế Huân tuy chỉ là một tên nhu nhược nịnh nọt, nhưng không phải là một con lợn ngu si không có não, sao có thể làm chuyện ấy được?”

“Còn đây là thiếp mời của Đông Đài ngự sử đại nhân Câu Nhật mới ngài đến dự yến tiệc, cũng may là thời gian lệch một ngày với cuộc hẹn của Hoàng Phủ Kế Huân. Ha ha ha, Đường triều thấy Đại Tống ta thế mạnh, các quan viên muốn dưa dẫm vào chúng ta cũng không ít, càng làm quen, kết giao nhiều với đám quyền quý trong triều thì càng có lợi cho việc dò hỏi tin tức của chúng ta, mượn sức của chúng để lật đổ đám trung thần trong triều Đường.”

“Ừm, Tiêu tự thừa nói có lý. Có điều những lời mời yến tiệc quá nhiều, làm sao có thể ứng phó lại đây. Câu ngự sử và Tằng tham quán do Tiêu tự thừa ngài phụ trách nhé, còn về lời mời của Hoàng Phủ Kế Huân…”

Hắn vừa nói tới đây thì đột nhiên có một tiểu lại vội vã chạy vào, khom người làm lễ nói: “Đại nhân, quốc chủ Giang Nam khiển sứ mời đại nhân ngày mai vào cung dự yến tiệc.”

Dương Hạo ngẩn ra, thuận tay nhặt chiếc thiệp của Hoàng Phủ Kế Huân mà hắn vừa vứt xuống, đưa cho Tiêu Hải Đào, nói: “Cái này lại phiền đại nhân rồi.” Sau đó hỏi kỹ càng tiểu lại, rồi xua tay bảo hắn lui ra, hắn trầm tư suy nghĩ: “Khi ở quốc yến ta đã chẳng nể mặt hắn mấy phần, tên Lý Dục chó chết này lại vẫn cảm thấy chưa đủ hay sao? Lại mời ta vào cung dự yến tiệc. Ha ha ha, tình hình bây giờ khá giống lúc ta ở Phủ Cốc, kẻ nào cũng có ý đồ tiếp cận ta, chỉ là lúc đó ta muốn cầu gặp Chiết Ngự Huân một lần mà không được, bây giờ Lý Dục này lại cứ chạy đến để nịnh nọt ta. Không biết bên Diễm Diễm và Oa Oa đã sắp xếp đến đâu rồi, phải cần bao lâu nữa mới đến được đây?”

Chương 349: Lệ ảnh

Khi Dương Hạo đang thắt dây đai áo trong dịch quán thì Bích Túc cũng vừa tới được khu phố náo nhiệt của Kim Lăng. Hắn đứng ở phố Kê Lung hỏi thăm người ta dịch quán ở đâu, rồi tìm một khách điếm để ở tạm, đợi đến tối, lợi dụng cơ hội dùng khả năng trèo tường của mình để lén đi gặp Dương Hạo. Ánh mắt hắn đang nhìn xung quanh tìm khách điếm thì chợt nhìn thấy một bóng người lướt qua ở phía không xa. Hắn nhớ mang máng bóng dáng quen quen đó, trong tích tắc, bất giác người hắn rung lên một cái. Hắn vội vàng nhanh bước đuổi theo.

Nhưng đường phố đông đúc chật ních người, trước mặt nhiều người như thế này hắn không thể giở công phu khinh thân của mình. Khi hắn ra khỏi đám người đông đúc đó thì thấy có tới ba bốn ngõ ngách, cũng không biết mĩ nhân đã đi đằng nào rồi. Hắn đứng lại ở đầu đường, buồn bã vô cớ.

***

Bích Túc sau khi đến thành Kim Lăng thì đầu tiên là tìm một khách điếm ở lại, đến đêm liền thay y phục đột nhập vào dịch quán, tìm đến phòng ở của tiết độ sứ Tống quốc. Khi gặp được Dương Hạo thì hắn báo cáo tỉ mỉ rõ ràng những việc xảy ra gần đây ở phủ Khai Phong.

Sau khi Dương Hạo đi, Diễm Diễm và Oa Oa cũng nhanh chóng thu dọn hành lý và được các thị vệ tâm phúc mà Mục Vũ và Dương Hạo đưa từ Lô Lĩnh Châu về hộ tống. Khi rời khỏi Khai Phong thì đầu tiên là theo đuôi đoàn nghi trượng nam hành của khâm sai vài ngày, sau khi xác định không có ai đi theo liền chuyển sang tây hành, hướng về phía Hoa Sơn. Theo tình hình thực tế mà nói, nơi đó là nơi ít có tranh loạn, đồng thời cũng dễ ẩn cư, đây cũng là việc mà Dương Hạo đã thương lượng ổn thỏa trước với họ, đợi họ sắp xếp xong hết thì sẽ hội ngộ ở Kim Lăng.

Ở bên Khai Phong, biết được chân tướng sự việc, Tao Trư Nhi đã đồng ý chăm sóc cho Diệu Diệu. Còn về trạch viện thì giống như lần trước Oa Oa rời khỏi Biện Lương, tất cả các gia nô hộ viện đều để lại, hoàn toàn không để lộ dấu vết gì. Còn đám người Trương Ngưu Nhi và Lão Hắc cũng giao cho Diệu Diệu quản lý, họ vốn xuất thân từ quản sự nội viện và bảo tiêu hộ viện, làm những việc này còn giỏi hơn cả Mục Vũ, đúng là cánh tay đắc lực của Diệu Diệu.

Dương Hạo nghe thấy mọi chuyện đã sắp xếp ổn thỏa, trong lòng không khỏi vui mừng, liền bảo Bích Túc về khách điếm nghỉ ngơi vài ngày trước, rồi sớm đi tìm Diễm Diễm và Oa Oa thương lượng địa điểm hội hợp, đợi khi họ đến thì kịp thời thông báo với mình.

Bích Túc nghe xong lập tức vui mừng trong lòng vì đúng như ý hắn muốn. Hắn cáo từ Dương Hạo rồi nhân đêm tối lại mò ra khỏi dịch quán, trở về khách điếm.

Mấy ngày tiếp theo đó, Lý Dục năm ngày lại tổ chức một đại yến, ba ngày tổ chức tiểu yến, đối đãi vô cùng ân cần với Dương Hạo. Thực ra Lý Dục vì thái độ cao ngạo của Dương Hạo, trong lòng quả thực không muốn tiếp tục qua lại với hắn nữa, nhưng nghe thấy tiểu Chu hậu kể về những hành động của hắn ở Kim Lăng, hắn thật sự thấy lo lắng cái tính cách thích đi khắp nơi gây chuyện thị phi này của Dương Hạo sẽ làm nảy sinh xung đột với đại thần Đường quốc. Hắn cho dù có bất kính thế nào với mình thì cũng không dám có hành động thái quá, như thế chi bằng mượn yến tiệc để trói chân hắn bên cạnh mình, đợi đến khi hắn về nước.

Cái bệnh mọt sách của Lý Dục rất nặng, hắn luôn cho rằng khi Tống quốc thảo phạt Hán, hắn không những không đồng ý xuất binh trợ giúp Hán, mà còn giúp Tống viết thư cho Hán quốc, khuyên Lưu Kế Hưng đầu hàng. Lại còn nhanh chóng xưng thần với Tống trước khi Hán quốc bị diệt vong, hạ cách cải chế, tự nhận mình là thần tử, đối với Tống quốc cũng được coi như là chí nhân chí nghĩa. Triệu Khuông Dận nếu đã tiếp nhận mình là thần tử Tống quốc thì sẽ không có lí do gì để thảo phạt Đường quốc nữa. Hắn muốn giữ Dương Hạo bên người chủ yếu là sợ thái độ quá kiêu ngạo của hắn sẽ làm cho một số đại thần văn võ Đường quốc bất kính với hắn, sẽ dấn đến bất lợi cho ngoại giao. Cho nên hắn đã làm theo kiến nghị của tiểu Chu hậu, thường xuyên mời Dương Hạo vào cung dự tiệc.

Lời mời của Lý Dục, Dương Hạo không thể không đi. Mấy ngày này Bích Túc lại ở khắp các phố lớn ngõ nhỏ, đi tìm ý trung nhân đó của mình.

Bích Túc là một tên háo sắc, cũng đã từng có rất nhiều nữ nhân, không chỉ là các nữ tử vì tiền bạc ở trong thanh lâu, mà dựa vào tướng mạo của hắn cũng có thể dụ dỗ được cả đống các khuê nữ con đại gia, quý phụ hào môn. Nhưng người mà làm cho hắn động lòng như vậy thì đây lại là lần đầu tiên hắn gặp.

Khi Dương Hạo sai hắn đi dò là tin tức của dân chúng khu Giang Hoài, hắn đã gặp được cô nương ấy. Tuy hai bên chưa từng nói chuyện, cũng chưa từng có bất kỳ tiếp xúc nào, nhưng hắn đã yêu nàng ta mất rồi, đến giờ cũng không thể dứt ra được. Đó cũng chỉ vì cô nương chưa từng nói chuyện với hắn ấy khi nhờ hắn tránh đường để đi đã mỉm cười dịu dàng với hắn.

Nụ cười ấy dịu dàng thân thiết, Bích Túc nhớ mang máng hình như khi còn nhỏ mẫu thân mình cũng mỉm cười như thế. nhiều năm rồi, trong chiến tranh loạn lạc, người thân của hắn đều đã chết hết không còn ai, hắn vô thân vô thích, lưu lạc giang hồ, giống như cây phù du trôi nổi, chưa từng có mùi vị tình yêu, tình thân. Kết quả lại vì một nụ cười hiền dịu của một cô gái không quen biết chạm vào tận sâu trong trái tim hắn.

Cô gái đó lại là một ni cô. Muốn tìm nàng ấy có dễ gì đâu.

Trước đây Giang Nam có bốn trăm tám mươi tự, hương khói nghi ngút. Nhưng bây giờ Giang Nam trong tay Lý Dục đâu chỉ có bốn trăm tám mươi ngôi chùa chứ.

Lý Dục háo mĩ sắc, thi từ, tín phật, đánh cờ. Giang Nam là đất của tín phật, từ sau khi Lý Dục kế vị, càng lúc càng trở nên thịnh vượng. Mỗi ngày sau khi thoái triều, hắn đều cùng tiểu Chu hậu thay y phục mặc tăng y vào, ngồi niệm kinh. Trung thư xá nhân Trương Bạc vốn không tín phật, nhưng muốn nịnh nọt hoàng đế, nên mỗi lần gặp Lý Dục hắn lại ngồi cùng đàm đạo phật pháp, vì thế hắn nhanh chóng nhảy lên trở thành sủng thần bên cạnh Lý Dục. Lấy hắn làm gương, văn võ bá quan trong triều như tổ ong vò vẽ, đều trở nên tín phật. 

Giang Nam phật tự vốn đã rất nhiều, Lý Dục lại hạ chiếu xây thêm cả hơn một nghìn phật tự trên Ngưu Đầu Sơn của thành Kim Lăng, trong cung vì thế mà phải chi ra một khoản không nhỏ, thậm chí ngay cả trong cung uyển cũng xây một tòa Tĩnh Đức tự. Trong một thời gian chỉ ngay trong thành Kim Lăng mà tăng đồ đã nhiều đến gần mười vạn người. Những tăng nhân này không phải làm gì, chỉ ngồi đếm tiền, ăn uống, hưởng lạc, hết việc còn đi hành dân chúng, làm cho dân tình ai oán.

Hơn nữa người xuất gia không cần phải nộp thuế, phục binh dịch, làm lính, cho nên trong cổ đại để đề phòng sức lao động thiếu hụt mà triều đình đa phần đếu nghiêm khắc hạn chế số lượng tăng nhân, nếu không người xuất gia quá nhiều, tài lực, vật lực của quốc gia sẽ bị tổn hại. Thế tông hoàng đế Hậu Chu Sài Vinh cũng chính vì nguyên nhân này mà đã ra tay diệt phật pháp, hủy hơn ba vạn phật tự, để cho mười vạn tăng nhân hoàn tục về trồng ruộng. Nhưng Lý Dục thì lại làm ngược lại. Hắn không những hủy bỏ chế độ tiến hành kiểm tra nghiêm khắc việc “phổ độ” đối với người xuất gia, mà còn vì hắn là tín đồ phật giáo, còn lấy thân phận hoàng đế đích thân ra mặt tranh đoạt tín đồ với Đạo giáo, quy định nếu như đạo sĩ nào đồng ý chuyển sang tín phật thì quan phủ sẽ thưởng cho hai lạng vàng.

Cho nên, khắp nơi từ chỗ phồn thịnh hay những nời hoang dã đều có hòa thượng. Trong đó có rất nhiều người vì lợi ích, ví dụ như có người nương tựa cửa phật thực ra chỉ là đệ tử ghi danh, nhưng sản nghiệp trong nhà đều trở thành đất phật, tiền thuế triều đình một đồng cũng không lấy. Lại có người giả đi làm đạo sĩ, vừa được chứng nhận làm đạo sĩ lập tức đổi sang làm hòa thượng, nhân cơ hội để lĩnh tiền thưởng của triều đình.

Cũng may có sự giàu có sung túc của hai đời tổ phụ của Lý Dục để lại mới có thể chịu nổi sự giày xéo của hắn đến tận bây giờ. Đường quốc lúc này quốc lực suy thoái đến mức độ này, lòng quân lòng dân lay động, không thể không có liên quan đến việc này. Khi những tăng nhân không làm mà có ăn ngày càng nhiều, chỉ dựa vào hương hỏa dân chúng cung phụng thì không có cách nào duy trì sự tồn tại của nhiều tự viện như thế. Lý Dục đã hạ chỉ tăng lữ sẽ do triều đình cung dưỡng, khoản chi cho tăng lữ này còn lớn hơn gấp nhiều lần so với chi cho quân đội.

Vì thế mà làn gió tín phật của Giang Nam càng thịnh, người xuất gia đâu đâu cũng có, chỉ tính am ni cô cũng đã không dưới một trăm chiếc. Nam nhân muốn vào am ni cô không phải là chuyện dễ dàng, huống hồ còn muốn tìm người trong cả đám ni cô đó. Bích Túc lại không thể bảo trụ trì gọi tất cả các ni cô xinh đẹp ra cho hắn nhìn. Hắn đã tìm hai ngày rồi mà không có tin tức gì của nàng ni cô đó, ngược lại còn bị một số lão ni cho rằng hắn là kẻ dâm tặc muốn trộm hương cướp ngọc.

Bích Túc chợt nghĩ ra gì đó, hắn liền cải trang nữ nhân, giả lên am thắp hương khấn phật, cứ như vậy am ni cô nào hắn cũng có thể vào được mà không bị ai ngăn cản. Bích Túc bây giờ cũng đang rảnh rỗi, hắn liền đi dọc khắp các am ni cô tìm một lượt. Theo bình thường mà nói thì quy mô của am ni cô và số lượng ni cô vẫn ít hơn nhiều so với tự viện, nhưng nếu muốn gặp được hết các ni cô trong một am để tìm người cũng không phải là chuyện dễ dàng. Chỉ có lúc tụng kinh trên đại điện thì tất cả các tăng lữ mới tập trung lại, vì thế mỗi lần hắn đến một am ni cô, hắn đều kiên nhẫn đợi đến lúc các ni cô ra tụng kinh. 

Hôm nay hắn đến am Tĩnh Tâm cũng không ngoại lệ. Hắn châm hương, cúng tiền, đi đi lại lại trong am cho đến khi đám ni cô ra đại điện tụng kinh. Bích Túc đứng bên ngoài đại điện đi qua đi lại mấy vòng, vẫn không nhìn thấy nàng ni cô trong lòng hắn đâu, không khỏi thờ dài rồi rời khỏi đại điện. Khi hắn bước vào nhị tiền lạc viện, đang định quay người rời đi thì vô tình quay đầu lại, đột nhiên nhìn thấy một bóng người vừa lướt qua bức tường màu vàng, bước vào khu nhà trái.

Trong lòng Bích Túc đột nhiên rung lên, tất cả các ni cô bây giờ đều ở trong điện niệm kinh, ni cô này sao lại không ở đấy? Hắn vô thức mà đuổi theo, thì nhìn thấy ni cô đó đang gánh hai thùng nước, lững thững đi vào một góc am, bộ y phục màu mã não rộng thùng thình nhưng không có thể che được dáng người thon thả tuổi trăng rằm của nàng. Chỉ cần nhìn lướt qua, hai con mắt của Bích Túc đã sáng lên: “Là nàng ấy. Là nàng ấy! Trời xanh không phụ người có lòng, cuối cùng mình cũng đã tìm được rồi.”

Lập tức Bích Túc như bị trúng tà, hai chân bất giác chủ động di chuyển, từ phía sau đuổi lên.

Những ngày này Dương Hạo thường xuyên ra vào đại nội hoàng cung, đã trở thành thường khách của hậu cung. Qua lại nhiều cũng không thể thường xuyên tỏ ra bất kính với Lý Dục, thái độ của hắn dần dần khách khí hơn. Lý Dục thấy vậy vô cùng vui mừng, nghĩ rằng sự thành tâm thành ý của mình đã có thể làm cho sứ tiết Tống quốc kiêu căng ngạo mạn dần dần có ý sùng kính đối với mình, vì thế hắn càng đối xử ân cần hơn với khách. 

Khi thưởng thức rượu thịt thì tất nhiên phải có ca vũ làm bạn. Diểu nương là đệ nhất ca vũ trong cung, đương nhiên mỗi lần thiết tiệc nàng đều phải lên biểu diễn.

Diểu nương vốn là một nữ tử hái hoa sen ở Giang Nam, mười sáu tuổi đã được chọn vào cung. Mẫu thân nàng vốn là người Ba Tư, cho nên Diểu nương là con lai, mắt hơi có màu xanh, hốc mắt giống người châu Âu, rất gợi cảm, phong tình vạn chủng. Điệu múa hái sen mà nàng đã sáng tạo ra vô cùng tuyệt diệu. Thân hình thon như mạ non của nàng một khi đã chuyển động thì giống như đóa sen Lăng Ba, xinh đẹp quyến rũ vô cùng, cho nên Lý Dục vô cùng thích thú với nàng.

Diểu nương tuy không phải là phi tần của Lý Dục, nhưng cũng là nữ nhân được hắn rất sủng ái, hắn thường để nàng ở bên hầu hạ. Vì tương thân với Dương Hạo, lại không phải là quốc yến nên ngoài Dương Hạo ra thì ở đây chỉ toàn là những vũ kĩ và nội thị trong cung, không cần phải kiêng kị nhiều, vì thế sau khi rượu say sưa, Lý Dục không khỏi có những cử chỉ thân mật với Diểu nương.

Nhất cử nhất động của vị Diểu nương này đều đầy vẻ gợi tình. Trước mặt Dương Hạo nàng càng tỏ ra phong tình hơn, mắt liếc nhìn Dương Hạo.

Dương Hạo không khỏi thở dài, nghĩ: “Giang Nam phong vật, quả nhiên không thể nghiêm cẩn bằng phương bắc. Phi tần, ca kĩ trong cung đình Tống quốc tuyệt đối sẽ không làm ra những hành động như thế này với hoàng đế trước ngoại thần. Tên Lý Dục này quả thật không giống một hoàng đế.”

Những hoàng đế giống Lý Dục thực ra lại ít thấy. Việc mây mưa trước đây của hắn với người nữ tử chưa thành hoàng hậu không cần nói làm gì, mà bây giờ ngay cả Nữ Anh đã làm hoàng hậu, cuộc sống của hai người sau hôn nhân cũng hoàn toàn không che giấu. Cảnh hai người họ phong tình cũng không có giấu giếm. Thế nên, lúc này hắn lại thân mật với một vũ kĩ trước mặt Dương Hạo nào sẽ để ý tới việc cố kị chứ.

Chiếc “chén da” của Diểu nương ngậm rượu rồi mớm vào mồm Lý Dục, nàng ta như ý thức được Dương Hạo đang nhìn mình, cơ thể mềm mại ngả vào lòng Lý Dục, nhưng ánh mắt lại chuyển động nhìn về phía Dương Hạo mỉm cười, rõ ràng mang đầy tình ý trong đó. Dương Hạo chợt giật mình, vội cúi mặt xuống: “ Giai nhân trong hậu cung Lý Dục có cả hơn ba nghìn người, nhưng Lý Dục lại chỉ có một, những oán phụ thâm cung này e là đều muốn mà không được, bất mãn, nên ngay cả trước mặt Lý Dục cũng dám đưa tình với ta.”

Đang suy nghĩ miên ma thì một vị nội thị chạy vào dâng biểu, hắn ghé tai nói với Lý Dục mấy câu. Lý Dục nhăn mày lại, buông tay ra khỏi cái eo thon thả của Diểu nương, không vui nói: “Ta và Dương tả sứ đang thưởng rượu, ngươi không nhìn thấy sao?”

Nội thị đó sợ hãi nói: “Quốc chủ, những cái án tử tù này đã để quá lâu rồi, xin thỉnh quan gia ngự lãm rồi phê chuẩn ạ.”

Dương Hạo thấy thế liền cười nói: “Quốc sự là trọng, quốc chủ hãy đi phê duyệt tấu chương đi. Hạ quan mượn ý rượu cũng đã nhiều, giờ xin cáo từ.”

Lý Dục lại vẫn chưa hết hứng, liền cười với hắn: “Ta rất thích đánh cờ, tuy giỏi nhất cờ vây nhưng cờ tướng cũng rất thích. Lúc nãy nghe thấy hạ pháp cờ tướng đấy của Dương tả sứ, cảm thấy rất hứng thú, ta đang muốn mở mang một chút đây. Dương tả sứ đừng đi vội, Diểu nương sẽ dẫn Dương tả sứ đi thường hoa trong cúc uyển, ta đi một lát rồi sẽ trở lại.”

Rồi hắn hạ lệnh tan tiệc, đi theo nội thị đến thư phòng xử lý tấu chương. Còn Dương Hạo thì được Diểu nương dẫn ra hậu uyển. Diểu nương đã từng được tiểu Chu hậu dặn dò, lại có lòng muốn làm xấu mặt Dương Hạo, đáng tiếc mãi vẫn chưa có cơ hội thích hợp để hai người có thể gặp mặt riêng, chỉ có thể đưa tình bằng ánh mắt, lại thi triển thủ đoạn hồ ly tinh trước mặt Lý Dục để làm cho Dương Hạo động lòng.

Đáng tiếc, khi nàng múa hát trên điện, Dương Hạo tuy không rời mắt nhìn nàng, thường tỏ vẻ tán thưởng với nàng, nhưng trong hoàn cảnh một mình gặp gỡ lại rất quy củ, không hề liếc mắt. Thực ra đây cũng là căn bệnh thường gặp của đại đa số nam nhân, khi ngồi dưới đài thì có thể bình phẩm từ đầu đến chân mĩ nữ trên đài, nhưng khi đối diện với người đó thì lại rất khó mở lời.

Dương Hạo hỏi gì đáp nấy. Tâm tư của nhân vật Giang Nam này lại vô cùng tinh nhanh, thêm nữa là sự trêu chọc của vị Diểu nương này lại quá nho nhã cao siêu, chỉ dựa vào chút học vấn của Dương Hạo sao có thể hiểu ra được?

Nhưng Diểu nương lại không biết điều đó. Nàng ta nói ra một loạt các lời trêu ghẹo, to gan lớn mật, nhưng Dương Hạo lại chỉ ậm ừ gật đầu, vẫn rất tuân thủ lễ nghĩa. Diểu nương không khỏi thầm nghi hoặc: “Vị Tống sứ này rốt cuộc là một chính nhân quân tử không háo sắc hay là cảm thấy kiêng kị với thân phận của ta? Để ta thử hắn xem.”

“Dương đại nhân, ngài thấy hoa cúc nở có đẹp không?”

Dương Hạo nhìn theo hướng chỉ tay của Diểu nương, thì thấy đằng không xa có rất nhiều các loại hoa cúc đủ các màu trắng ngọc, vàng nhạt, phấn hồng, đỏ, tím nhạt đang đua sắc, nở đầy cả vườn, giống như mĩ nữ đang cười, thật làm cho người ta phải trầm trồ khen ngợi.

Diểu nương chỉ tay vào một cành hoa cúc màu trắng gần đó, cười nói: “Cành hoa cúc này có một cái tên, gọi là ‘nguyệt hạ vũ nương’. Đại nhân, ngài xem hình dáng cánh hoa này có giống một mĩ nhân đang múa dưới ánh trăng không?”

Diểu nương làm ra vẻ như rượu say vô lực, nàng ta đứng sát vào Dương Hạo, khi đưa tay ra chỉ nhành hoa thì cố ý dí sát bộ ngực đầy đặn của mình vào ngực Dương Hạo, lại cố ý chà đi chà lại, cái cảm giác mềm nẩy đó đúng là có thể làm chết người. Dương Hạo cảm thấy hơi thở của nàng như một bông hoa lan, cơ thể nghiêng nghiêng, như chỉ cần hắn nghiêng đầu một cái là đã có thể hôn lên trán của nàng, hắn liền dứt khoát lùi lại một bước, cười nói: “Vốn Dương mỗ vẫn chưa nhìn ra hình dạng, nhưng Diểu nương nói như vậy ta quả nhiên thấy rất giống.”

“Haizz, ý rượu của bổn quan lại dậy lên rồi, hơi say rồi. Diểu nương đi nghỉ đi, bổn quan không cần có người đi cùng đâu, quốc chủ công sự bận rộn. Dương mỗ muốn một mình đi lại ở đây để tỉnh hơi rượu.”

Diểu nương nghe thấy thế không khỏi ngẩn ra. Từ khi nàng xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy, không biết đã có bao nhiêu nam nhân muốn theo đuổi, núp dưới váy nàng, nhưng chủ động tránh né nàng Dương Hạo lại là người đầu tiên. Chẳng lẽ người này thật sự là một quân tử có phẩm hạnh cao khiết, hay là chuyện Đào Cốc năm đó đã làm cho hắn cảnh giác hơn? Diểu nương không tiện tỏ thái độ quá nồng hậu, đành phải cười nhạt mà đáp lại, rồi từ từ lui đi.

Lý Dục xử lí công vụ không phải là do tiểu Chu hậu sai người cố ý bảo hắn rời đi, nếu không nói không chừng đã có thể lợi dụng cơ hội này để tạo một vụ tai tiếng tình ái không thể biện bạch được cho Dương Hạo. Lý Dục bị người ta làm mất hứng rượu thực ra là mưu mô của đám nội thị, mục đích của chúng không phải là tạo cho Diểu nương cơ hội mà là muốn mưu tài cho mình.

Hóa ra Lý Dục tín phật, cho nên hắn đã đem luật pháp quốc gia ra làm trò chơi. Mỗi khi có dịp ăn chay mà có án hành quyết tử tù, hắn lại không xử theo luật, mà liền cho mỗi một phạm nhân một chiếc đèn mệnh, đặt ở trong tự viện của hoàng cung, mỗi buổi sáng hắn sẽ đến kiểm tra, nếu như ngọn đèn nào cả đêm không tắt, thì tử tù đó sẽ được miễn tội chết, đổi sang hình phạt khác.

Mỗi tháng phật gia đều có một ngày ăn chay. Nghe nói ngày này sẽ có nhất tôn Bồ Tát hạ thế, theo như dân gian thì ngày này nếu như niệm kinh bồ tát thì có thể diệt được tất cả tội lỗi, tăng thêm phần phúc.

Lý Dục lệnh cho nếu đến không tắt thì sẽ được tha tội cũng chính là mô phỏng Bồ Tát, nhưng hắn không biết trên thực tế hắn lại là Bồ Tát thần tài cho đám hoạn quan và hòa thượng.

Quy định này đã lâu, cả Đường quốc đều biết, nhưng một khi có án xử tử tù thì người thân của tử tù không tiếc tiền tài, hối lộ nội thị trong cung và hòa thượng trong cung miếu, cố ý đem cái án này che giấu lại, đợi đến ngày ăn chay mới dâng lên cho Lý Dục, đặc biệt là chọn lúc Lý Dục đang bận việc khác, làm cho hắn không có lòng dạ nào mà đọc chi tiết án.

Hòa thượng trong cung miếu nhận tiền của gia đình tử tù thì sẽ cẩn thận chăm sóc đến ngọn đèn của tử tù đó, cho dù nửa đêm có bị gió thổi tắt mất, hoặc dầu bị hết thì họ sẽ lén bảo tiểu tăng đi châm lại hoặc cho thêm dầu, để cứu tính mạng người đó. Không biết đã có bao nhiêu tên ác bá đã được bảo toàn tính mạng bằng cách này. 

Ngày ăn chay lại thẩm tra án tù. Nếu đã có quy định như vậy rồi thì Lý Dục nào sẽ giống Triệu Khuông Dận, tỉ mỉ đọc lại từng án thẩm tra, làm như vậy thì làm gì còn hứng thú cho việc khác nữa? Hắn vội vàng đọc lướt qua một lượt, phê chuẩn từng cái một rồi vẫn như quy tắc cũ, viết tên tử tù lên một tấm bài, treo vào đế đèn, rồi đưa vào Tĩnh Đức tự ở hậu cung.

Lý Dục dùng tốc độ nhanh nhất để hoàn thành đám án tử tù đó, rồi vội vàng chạy ra hậu uyển. Hắn rất muốn để Dương Hạo biểu diễn cách chơi cờ tướng với những quy tắc mới cho mình xem, ai ngờ trong vườn cúc lại không có bóng một ai. Lý Dục ngạc nhiên nhìn xung quanh, gọi hai tiểu lại tới sai bảo: “Dương tả sứ chắc đang đi dạo đâu đó trong vườn. Hai người các ngươi chia nhau đi tìm cho ta, bảo là đến gặp ta.”

Hai tiểu nội thị đó đáp một tiếng rồi chia nhau đi tìm, đi một vòng để tìm kiếm.

Dương Hạo vừa nãy đi vào đình để nghỉ, đang bước vào trong đình thì đột nhiên thấy một tiểu cung nữ dẫn một cô nương từ vườn hoa bước ra, nhìn bóng dáng có tám chín phần giống Chiết Tử Du. Dương Hạo vô cùng kinh ngạc, bất giác không tự chủ được mà đuổi theo. Kết quả là đi theo bóng dáng đó lại lọt vào một vườn hoa, rất khó tìm được người, quay đi quay lại nửa ngày trời thì hắn phát hiện ra mình đã bị lạc đường, xung quanh đều là hoa thơm đủ loại, nhưng đều không giống hoa cúc, hắn nghĩ chắc chắn đã lạc vào một biệt viện khác. Hắn cũng biết đại nội cung cấm không được đi lung tung, nhưng cứ nghĩ đến Chiết Tử Du hắn lại cắn chặt răng, tiếp tục men theo con đường hoa đó về phía trước.

Chương 350: Chạy khắp nơi (1) 

Dương Hạo men theo con đường hoa đi về phía trước. Những bụi hoa này dày đặc, cao gần bằng người, đường đi lại quanh co, ở giữa lại có rất nhiều các lối rẽ, cứ lượn đi lượn lại. Hắn đi một cách không mục đích về phía trước, đột nhiên thấy phía trước con đường nhỏ đã hết đường, lúc này lại nghe thấy phía trước có tiếng cười nói của nữ nhân. Dương Hạo liền cúi thấp người xuống chui vào trong bụi hoa. Một lát thì có hai cung nữ xách một chiếc giỏ hoa từ bên cạnh cười nói đi qua.

Dương Hạo đứng thẳng người dậy nhìn theo bóng họ. Lúc nãy hắn ở phía xa nên không nhìn rõ cung nữ dẫn đường cho người thiếu nữ giống Chiết Tử Du đó dáng vẻ như thế nào. Giờ thấy hai cung nữ này mặc y phục hoàn toàn giống người đó, Dương Hạo cũng không chắc có đúng là Chiết Tử Du hay không, liền đi theo hai người.

Theo lí thuyết thì Chiết Tử Du không thể xuất hiện ở cung Đường. Trong thiên hạ những người có dáng vẻ na ná nhau cũng rất nhiều, cũng không thể chỉ dựa vào hình dáng mà đã nhận định đó là Chiết Tử Du. Nhưng nếu Dương Hạo không tận mắt nhìn thì sẽ không thể yên tâm được. Hắn đi ra khỏi vườn hoa thì thấy trước mặt xuất hiện một lầu các. Lầu này được thiết kế rất đẹp, còn cắm đủ các loại hoa để trang trí, giống như động phủ của thần tiên vậy, đầy vẻ hoang dã.

Dương Hạo xoa xoa tay tiến vào trong thì thấy trong đại điện rất rộng, bên trong có mấy bức bình phong bằng ngọc lưu ly dài tám thước, hia bên là cột đèn đủ các loại, bên trên là những ngọn đèn lưu ly rất giá trị. 

Dương Hạo nhìn thấy cảnh tượng bên trong liền có chút giật mình. Lúc này hắn mới nhận thức được đây là hậu cung của Lý Dục. Nếu thật sự Chiết Tử Du ở đây thì lẽ nào nàng ấy là phi tần của Lý Dục? Nghĩ như vậy chân hắn không khỏi bước nhanh hơn, vội vàng đi qua tấm bình phong, bên trong lại là một chiếc mành châu, từng viên ngọc để kết thành bức mành này đều to đều bằng nhau như một, chỉ nguyên bức mành này cũng đã là một báu vật giá trị liên thành rồi.

Dương Hạo không nghĩ nhiều, vén mành lên rồi lướt vào trong, thì thấy lại là một căn phòng đầy hoa, bàn ghế hay đồ trang sức đều là loại cực phẩm, phía sau lại là mấy bức bình phong nữa. Dương Hạo bước nhanh vào trong, thì thấy sau bức bình phong là một chiếc giường gấm, hai bên có rèm buông xuống, bên trên giường có một ngọc nữ đang ngủ rất ngon.

Dương Hạo lập tức ngẩn ra. Nhìn xung quanh thấy không có ai. Ánh mặt trời bây giờ mới chiếu lên giường. Mĩ nhân ngủ trên chiếc giường đó quay mặt vào trong, đang ngủ trưa rất ngon, như thể hoàn toàn không biết có nam nhân đã xông vào khuê phòng của mình. Trên người nàng chỉ mặc một bộ áo ngủ mỏng manh, cơ thể mê người cùng các đường nét đều lúc ẩn lúc hiện dưới lớp áo ngủ.

Dàng người nàng thon nhỏ, lưng có chút gầy nhưng đôi mông lại đầy đặn tròn trịa. Mĩ nhân trong giấc mơ có lật mình mấy lần, chiếc áo ngủ mong manh ôm lấy cơ thể làm cho cánh mông và eo sau lộ ra thấy rõ, ẩn hiện mùi vị xác thịt, mái tóc đen dài buông xuống giường, càng lộ vẻ dịu dàng đáng yêu.

“Nàng có phải là Tử Du không? Chắc không phải, nữ tử này dáng người có vẻ giống Tử Du nhưng cơ thể Tử Du vẫn còn mùi thiếu nữ ngây ngô, đôi chân sẽ không đầy đặn như vậy.” 

Dương Hạo trong lòng nghĩ như thế, nhưng đôi chân lại không tự chủ bước từng bước tới phía đầu giường, hơi nghiêng người ra để nhìn, vẻ đẹp tuyệt mĩ của mĩ nhân đó lọt vào trong mắt hắn. Trái tim Dương Hạo bất giác đập thình thịch. Một nữ tử rất anh tuấn, lông mày đen mượt, mũi cao thanh thoát, má trắng như tuyết, đôi môi đỏ mọng kiều diễm ướt át, dáng vẻ đó tuyệt đối không phải là Chiết Tử Du.

Dương Hạo thở dài nhẹ nhõm, đang định bước nhanh đi thì không ngờ lại đúng lúc mĩ nhân đó mở mắt, uể oải ngáp một cái, đầu cũng quay lại, khóe mắt đột nhiên nhận ra có người. Đôi mắt xinh đẹp của nàng ta mở to ra, Dương Hạo phản ứng cũng nhanh, mĩ nhân vừa xoay người thì hắn cũng nhảy phắt người lui ra khỏi đó, lướt qua tấm bình phong, nhanh như ma quỷ.

Mĩ nhân đó vẫn chưa nhìn thấy dung mạo người đó, vốn còn tưởng rằng đó là nội thị trong cung, nhưng khi thấy hắn biến nhanh như thế lập tức khuôn mặt xinh như hoa tái nhợt đi. Nàng xoay người ngồi dậy, hai tay chống xuống giường, vội vàng di chuyển vào phía trong. Cử động của nàng rất nhanh, làm cho áo ngủ đang mặc hờ bị tuột xuống, lộ ra một mảng vai sáng loáng như ngọc, bộ ngực cũng để lộ đôi gò bồng cao vút. Mĩ nhân đó lại không để ý xuân quang của mình bị lộ, chỉ run giọng kêu lên: “Người đâu! Người đâu!”

“Thật là khổ, đây là hậu cung của Đường triều, truyền ra ngoài ta không cần phải giả chết nữa, Lý Dục cho dù có nhu nhược đến mức nào cũng sẽ không dung thứ cho ta xâm nhập vào hậu cung mạo phạm phi tử của hắn đâu.”

Dương Hạo thầm than khổ, hắn bước nhanh ra khỏi đại điện. Bên trong cung điện có mấy người cung nữ chạy vội vàng ra, lo lắng nói: “Nương nương, nương nương, có chuyện gì thế?”

“Nương nương? Nàng ta là tiểu Chu hậu?”

Dương Hạo ngồi xổm dưới gốc cây, nỗi sợ vẫn chưa tiêu tan, thầm nghĩ: “Nàng ta chính là tiểu Chu hậu, người nổi tiếng thiên cổ? Đáng tiếc lúc nãy không nhìn kĩ dáng vẻ nàng ta. Có điều may mà ta chạy nhanh, nàng ta chắc chưa nhìn rõ bộ dạng của ta.”

Dương Hạo đang nghĩ thì có hai cung nữ đã vội vàng chạy đến, đứng dưới điện đưa tay ra kéo sợi chuông dưới mái hiên. “Tang tang tang” một loạt tiếng kêu vang lên, hóa ra phía dưới mái của cung điện có buộc một tấm bản đồng được chết tạo mất nửa tháng, kéo sợi dây phía dưới nó thì bản đồng sẽ kêu lên. Tiếng kêu càng lúc càng vang dội.

Chỉ trong thời gian chốc lát, từ phía xa xa đã có tiếng kêu hét truyền tới, bước chân nặng nề như sấm. Cũng không biết có bao nhiêu võ sĩ áo giáp sắt, tay cầm thương chạy ào về đây nữa. “Hỏng rồi!” Dương Hạo vốn muốn nhìn rõ đường rồi mới lui, nhưng thấy tình hình này thì không thể phân biệt rõ đông tây nam bắc, lập tức cất bước chuồn mất.

Nếu như mà bị người ta bắt được ở đây thì cho dù có cả trăm cái miệng cũng không thể giải thích được, sẽ có một kết cục như thế nào hắn hiểu rất rõ. Cho dù Lý Dục không giết hắn thì Triệu Khuông Dận cũng sẽ không tha cho hắn. nếu như vậy đợi khi Diễm Diễm và Oa Oa đến đây thì chỉ có thể nhặt xác hắn thôi.

Bốn phương tám hướng đều có người chạy tới tẩm cung của hoàng hậu nương nương. Dương Hạo men theo con đường nhỏ, chạy ra không xa thì phía trước đã có hàng loạt tiếng chân ầm ầm vang lên, Dương Hạo lập tức nghiêng người ẩn vào trong bụi cây. Người hắn luồn luồn dưới bụi cây mà di, dường như không lúc nào dừng lại. Phía trước lại có một khe suối nhỏ, Dương Hạo nhanh chóng mượn sức hai tay mà chống xuống đất, cong lưng nhảy phắt qua như con cá, hai chân chạm nhẹ nhàng xuống đất, rồi lại lập tức chạy tiếp.

Động tác của hắn rất nhanh, mấy cung nữ cũng chạy trên con đường đó dường như hoàn toàn không có phát giác thấy hành tung của hắn mà chỉ vội vàng chạy đến tẩm cung của hoàng hậu. Dương Hạo chạy nhanh trên con đường này, hắn cới áo bào bên ngoài ra, lộn ngược lại mặc lên người, lại dùng tay áo che khuôn mặt lại, chạy một lúc thì thấy phía không xa dần dần hiện lên một chiếc tiểu đình màu đỏ nhạt.

Chiếc tiểu đình này không lớn lắm, có lẽ chỉ cao hơn đỉnh đầu chưa tới nửa thước, độ rộng cũng chỉ khoảng ba thước, nhưng cách thiết kế, trang trí lại khá hoa lệ, bên ngoài còn được bao bọc bởi màn mỏng màu hồng. Chiếc đỉnh này là kiệt tác của Lý Dục. khi hắn thưởng hoa trong ngự hoa viên, nếu như thấy cung nữ, phi tử nào xinh đẹp, vừa lúc có hứng sẽ đưa cung nữ đó vào đình, buông màn xuống và mây mưa luôn ở đó. Nhưng Dương Hạo lại không biết tác dụng đó của tiểu đỉnh này, nên hắn có chút không hiểu.

“Bên kia có người, bắt lấy hắn!”

Ở phía trước đột nhiên có mấy quân sĩ xuất hiện, vừa nhìn thấy Dương Hạo vội vàng chạy tới thì lập tức rút đao ra đánh tới. Bây giờ mà chạy sang bốn bên cũng không kịp. Hắn đột nhiên nhìn thấy một hòn giả sơn rộng hơn một thước, liền lập tức dẫm một chân xuống, mượn lực nhảy lên ngọn giả sơn trước mặt. Dương Hạo luồn nhanh như con mèo con, hai chân đạp lên đỉnh hòn giả sơn, rồi nhảy phắt đi, cả người hắn chui lọt vào trong hoa lâm rồi chạy thẳng vào trong tiểu đình có màn mỏng màu hồng.

“Ý! Ở đây là chỗ để ở sao?”

Trên tiểu đình này có đỉnh che, bốn phía đều có màn màu hồng bao phủ. Khi Dương Hạo xông vào đây mới phát hiện ra bên trong chỉ có kê một chiếc giường, trên trải một chiếc thảm nhung mềm loại cực phẩm. Dương Hạo không biết đây là nơi phong lưu của Lý Dục, lúc này cũng không nhìn kĩ. Hắn ghé mắt nhìn qua lớp màn, thấy mấy tên thị vệ đại nội đang cầm đao đi vòng quanh truy đuổi gần hòn giả sơn.

Dương Hạo không dám quay đầu lại, hắn nhìn ra xa khoảng mười mấy trượng, thì thấy phía trước có mấy cây đại thụ, phía sau lại là một hàng rào cây dày đặc tạo thành một bức tường, không có cách nào xuyên qua được. Dương Hạo chân không chạm đất, mượn lực nhảy vọt tới phía trước, hai chân đạp vào thân cây, lại mượn sức mà nhảy xa hơn mấy thước, tay đưa ra nắm lấy cành cây, hai chân lại co lên, đạp mạnh rồi vọt qua bức tường cây, biến mất trước mắt đám thị vệ đại nội.

Chiết Tử Du đang nhàn nhã đi dạo trong cung điện.

Lúc đầu nàng đã thuyết phục được Lâm Nhân Triệu hiến kế cho Lý Dục, khuyên Lý Dục phải dụng binh với Tống trước, kết quả là Lý Dục sợ thế lực lớn mạnh của Tống, mất cơ hội tuyệt vời nhất để bảo vệ xã tắc, thậm chí còn có thể làm đệ nhất thiên hạ. Lúc đó Chiết Tử Du đã nhìn thấy vị hoàng đế này là một người đàn ông nhu nhược đến mức nào, làm một vị hoàng đế ngu ngốc đến mức nào.

Nhưng nàng tuy khinh thường một kẻ như Lý Dục nhưng lại vẫn phải mượn thế lực của hắn. Những tấu sớ hiến kế của văn võ đại thần không thể được Lý Dục tiếp nhận, nàng liền chuyển sang con đường hậu cung. Trong thiên hạ có những vị hoàng đế nghe không lọt tai những lời can gián của thần tử, nhưng đối với ái phi và cận thị sủng tín bên cạnh thì lại rất nghe theo. Còn về Lý Dục, hắn có phải là loại người này không thì phải thử mới biết được. Cho nên Chiết Tử Du đã chuyển sang con đường đánh từ hậu cung, đặc biệt là từ tiểu Chu hậu, người có sức ảnh hưởng lớn nhất với Lý Dục, lợi dụng nàng ta để nói ra chủ trương của mình, hi vọng có thể ảnh hưởng tới những quyết định của Lý Dục.

Hôm nay nàng tiến cung có sớm một chút, tiểu Chu hậu vẫn chưa ngủ trưa dậy, cho nên Chiết Tử Du được cung nữ dẫn vào điện khác để đợi.

Quy mô của nơi này không hề kém hơn tẩm cung của tiểu Chu hậu. Trên thực tế, ở đây vốn chính là tẩm cung của đại Chu Hậu, đại Chu Hậu đã lâm bệnh và ra đi ở đây. Từ sau khi đại Chu Hậu qua đời, Lý Dục luôn cảm thấy có lỗi với nàng nên từ đó đã không còn đến đây. Còn tiểu Chu hậu thì lúc đó tuổi còn nhỏ, ngây thơ không nhận biết được gì, nhưng dần dần lớn lên, cũng đã nhận thức được cái chết của tỷ tỷ có liên quan rất lớn với mình, vì thế cũng tuyệt đối không bước chân tới đây. Cho nên cung điện làm theo quy cách hoàng hậu này bị bỏ không, nó đã được sửa lại thành nơi để phi tần, mệnh phụ phu nhân nghỉ ngơi chờ ý chỉ của hoàng thượng.

Chiết Tử Du ngồi trong đây một lúc, thấy nhàm chán liền đứng dậy đi ngắm nghĩa các thứ xung quanh. Nàng nhìn thấy trên chiếc án ở góc điện có một chiếc tỳ bà, liền bước tới xem. Đại Chu Hậu tinh thông thư sử, giỏi ca hát, đặc biệt là chơi tỳ bà rất hay. Chiếc tỳ bà này trước đây đại Chu Hậu còn sống đã dùng. Tuy hoàng đế và nương nương không còn đến đây nhưng trong cung điện này mọi thứ vẫn được quét dọn sạch sẽ, chiếc đàn tỳ bà cũng được bảo quản rất tốt.

Chiết Tử Du gảy đàn mấy tiếng, đột nhiên lại nhớ tới chuyện Dương Hạo và khu mật sứ Trần Kiều tranh giành mĩ nhân ở Phiêu Hương lầu. Nàng Sanh Hàn đó cũng là lấy tiếng tỳ bà để trở thành nổi tiếng khắp Giang Nam. Trong lòng nàng đột nhiên nổi lên tính hiếu thắng. Nàng đưa tay lên lấy chiếc đàn xuống, quay trở về ghế cẩm để ngồi, suy nghĩ một lát rồi đưa tay lên gẩy. Những âm thanh sát phạt theo ngón tay nàng mà vang lên.

Chương 351: Hai vị tăng

Dương Hạo, Tiêu Hải Đào, hai vị tống sứ đến Thải Thạch Phàn theo lời mời của Hoàng Phủ. Chuyến đi này không phải theo yêu cầu của quan, nhưng vẫn có những người có trách nhiệm tháp tùng đi theo như Dạ Vũ và Đại Hồng Lư.

Vốn dĩ Hoàng Phủ Kế Huân muốn mời Dương Hạo đến vùng núi non du hý một phen, bởi lúc này khắp núi là rừng phong lá đỏ tựa như lửa Hỏa Diệm sơn, cảnh tượng đẹp mê hồn người, hơn nữa cũng gần thành Kim Lăng. Có điều, Dương Hạo nói: “Cảnh phương Bắc ta đã xem quá nhiều rồi, đã đến Giang Nam thì đi xem song núi, đó mới gọi là biết ‘phong cảnh Giang Nam’”.

Muốn lấy lòng Dương Hạo, viên quan ưa nịnh hót của triều Tống Hoàng Phủ Kế Huân chiều theo nguyện vọng này. Thiết nghĩ, Yến Tử Phàn đã có quân đóng, như vậy hắn không thể bị dẫn thế trước về trọng địa quân sự, vì thế, Hoàng Phủ yên tâm du ngoạn một chuyến đến Thải Thạch Phàn.

Thải Thạch Phàn cũng là một cửa sông quan trọng, có điều nơi đây buôn bán tấp nập, so với vùng Kinh Hồ thì nơi đây người qua kẻ lại đông đúc hơn, không cấm du khách, bình thường cũng không có trú quân. Hơn nữa, nói về phong cảnh, thì Thải Thạch Phàn cũng nổi tiếng trong nước, địa thế hiểm yếu, nước chảy xiết nên có câu “Thiên cổ một tú”, so với Yên Tử Phàn thì nơi đây còn đẹp hơn vài phần. Do có câu chuyện xưa về Lý Thái Bạch say rượu bắt nguyệt ở đây rồi bị chết đuối mà càng tăng thêm không khí thần bí, khiến người ta muốn đi tìm cái u phóng thắng địa.

Đoàn người đến gần Thải Thạch Phàn, xuống kiệu rảo bước, qua cầu Tỏa Khê, thấy từ mặt đất bằng phẳng có núi Ngưu Chử nhô lên, ngọn núi này đối mặt với Đại Giang hướng Tây Bắc, ba mặt có sông bao quanh, giống như một con ốc xanh lơ lửng trên mặt nước. Trong núi cây xanh rậm rì, thâm tú tươi tốt, vách núi đá phía tây nhô lên giữa hồ chính là Thải Thạch Phàn nổi tiếng. Chỗ Tây Bắc giáp chỗ lõm của sông, mọi người gọi là Tây Đại Oa, sườn núi phía Bắc gọi là Oa Ngưu Vĩ, địa thế hiểm trở, rừng cây phía Nam rậm rập, đình các kín đáo.

Trích Tiên Lâu được xây dựng để thờ Lý Bạch trên núi Ngư Chử, lên lầu mà nhìn về phía xa, trước mắt là dòng Trường Giang hùng vĩ, sau lưng là dãy núi liền nhau, vòng vây dày đặc, phong cảnh u nhã, khiến con người ta cảm thấy thật thoải mái.

Tiêu Hải Đào trông ra bốn phía, chỉ cảm thấy nơi đây dễ thủ khó công, một khi chiến tranh xảy ra mà đem quân đến đây, phá bến sông đi, thu nạp đội thuyền, nơi hiểm yếu này có thể đánh bại một vạn quân địch, liền không kìm nén được mà rằng: “Tuy nói rằng có bảo vệ Trường Giang ắt cũng có bảo vệ sông Hoài, nhưng con sông Trường Giang này quả thực là một nơi hiểm yếu, mặc dù Quan Gia ngồi cầm giữ đất Hoài Nam, điều binh khiển tướng, cung cấp quân nhu không thành vấn đề, nhưng có Trường Giang ở đây, muốn lấy nước Đường cũng không phải là chuyện nhỏ. Nếu như loại bỏ Giang Nam thì đã sớm thái bình rồi, nhưng phương Bắc có mãnh hổ, Tây Bắc tam đầu lang, Kinh Hồ Thục Việt tất cả đều mới, lòng dân không yên, một khi tổn hại quá lớn thì e rằng nước Tống ta sẽ trở thành mục tiêu khải du của người khác. Nơi này thiên nhiên hiểm yếu, cần phải bẩm báo cho Quan Gia để Quan Gia thận trọng trong quyết định mới được.”

Tiêu Hải Đào lặng lẽ quan sát địa lý, Dương Hạo lại quấn lấy Hoàng Phủ Kế Huân và Dạ Vũ, niềm nở tiếp rượu, trò chuyện vui vẻ. Rượu quá tam tuần, Dương Hạo tỏ vẻ lơ đãng nói: “Giang Nam sơn thanh thủy tú, thủy thổ nơi đây sinh ra những nhân vật không tầm thường. Giống như Hoàng Phủ tướng quân vậy, một tướng quân trẻ tuổi khôi ngô giỏi giang, Dạ đại nhân cũng học vấn bác học đầy mình, thật đúng là đầu đường gặp thương buôn cũng mang ba phần nhã nhặn”.

Hoàng Phủ Kế Huân vừa nghe vừa khiêm tốn đáp: “Tả sứ quá lời rồi, nếu nói về nam nhi anh hùng thì vẫn thuộc về hào kiệt Giang Bắc, dân chúng gan dạ lại anh võ bất phàm, nếu đấu vũ lực, phương Nam bọn tôi muôn vàn người cũng khó lòng kháng cự. May là ngã chủ anh minh, xưng thần cống nạp cho triều Tống để thiên hạ được hưởng thái bình, nếu không, một khi xảy ra chiến tranh, binh mã của Đường quốc ta…”

Dương Hạo vừa nghe vị tướng quân này nói vừa muốn tung ra “Luận ba ngày mất nước của hắn”, mặc dù mình là Tống thần, nhưng nghe cũng thấy khó chịu, chỉ cảm thấy tên này quả thực là một kẻ vô sỉ cực độ. Dạ Vũ đứng một bên cũng cảm thấy ngại ngùng, bèn cắt ngang câu nói của Hoàng Phủ Kế Huân, cười ha ha mà rằng: “Nếu nói nam nhi thì sao, nam nhi Giang Bắc dù không thua Giang Nam, nhưng nói đến mỹ nhân, thì phải kể tới mỹ nhân Giang Nam nước ta rồi. Mỹ nữ Giang Nam mềm mại như suối chảy, các cô gái phương Bắc hào sảng phóng khoáng, tính tình cởi mở, còn nói đến nhu mì mềm mại thì con gái Giang Nam có vài phần nữ tính ý vị hơn.”

“Ách… người bên cạnh không nói gì, khi Dương Mỗ đến quốc vương tham gia yến tiệc, cung nữ tỳ thị, vũ nữ ca kỹ...ai cũng đều hết sức yểu điệu, vóc người mềm mại. So với con gái Giang Bắc thì những người phụ nữ như vậy có thể hiếm thấy. Những người phụ nữ đó tuy chỉ là vũ nữ nô tỳ mà cũng đã đẹp nhường ấy, con gái Giang Nam ắt hẳn cũng xinh đẹp phong tình. Bởi vậy, Dương Mỗ không thể tránh khỏi suy nghĩ, nếu như trong cung tuyển mỹ nữ, một vạn người chọn lấy một thì nên chọn thế nào đây? Quốc vương ngồi chiếm giữ Giang Nam, trong cung mỹ nữ giai nhân ắt đã phải kín chỗ rồi chăng?”

Hoàng Phủ Kế Huân nghe nói đến chuyện mỹ nữ thì mặt mày hớn hở, cười hì hì đáp: “Những lời này của tả sứ quả không phải là giả, con gái Giang Nam chúng tôi nhu mì như nước mùa xuân, quả đúng là có ý vị rất đặc biệt. Có điều, Quốc vương chỉ sủng ái một người duy nhất là Hoàng Hậu, mấy năm nay đã không nạp thêm phi tần, hi hi, không giấu các vị, Quốc vươngchúng tôi rất yêu nương nương, kể cả nương nương có độ lượng thì Quốc vương cũng sợ bà bực mình mà không dám tuyển thêm thiếp. Quốc vương xưa nay qua đêm với các cung nữ được tuyển vào cung thường bất binh, nhưng cũng không từng sắc phong qua. Nói ra, những cung nữ xinh đẹp này nếu như ai may mắn mang thai cốt nhục của Hoàng thượng thì dẫu Quốc vương không nói, nương nương cũng sẽ sắc phong cho người đó. Chỉ đáng tiếc là, những người may mắn được qua đêm cùng hoàng thượng lại chưa ai có được diễm phúc đó.”

Nói đến đây, hắn quay sang Dương Hạo nháy mắt cười nói: “Dương sứ lần này đến Giang Nam, cảnh vật con người cũng đã xem không ít, nhưng vẫn chưa được nếm thử mùi vị mềm mại của mỹ nữ Giang Nam chúng tôi thì phải, hihi, nếu như có thể đêm nay sau khi về Kim Lăng hãy để tại hạ sắp xếp? Đãi đại nhân mà được thưởng thức hương vị này một lần ắt hẳn sẽ suốt đời không quên…”

“Khụ, khụ!” Hồng Lư tự khanh Dạ Vũ ngồi bên nghe thấy vậy liền vội vàng ngồi lại cho ngay ngắn và ho khan hai tiếng.

Hoàng Phủ Kế Huân liếc hắn một cái, cười mắng: “Đàn ông mà, nói chuyện gió trăng vốn là lẽ đương nhiên, cổ họng Dạ đại nhân thấy ngứa sao, ông chả phải giả vờ ngay thẳng, lầu xanh Họa Toàn chả đã quen nhẵn mặt ông? Tôi nghe nói, mới tháng trước thôi ông đã lấy thêm một thiếp, là một cô gái rất đẹp, năm nay mới chỉ 30, không phải là tuổi mụ chứ? Chà chà, quả là trâu già thích gặm cỏ non, bây giờ lại giả vờ như một người ngay thẳng….”

Dạ Vũ bị hắn bóc mẽ trước mặt Dương Hạo, nhất thời không nói được gì mà chỉ đỏ mặt, nhưng hắn không thể đắc tội với Dương Hạo, Hoàng Phủ Kế Huân và tâm phúc của hoàng đế hắn cũng không thể đắc tội, đành cười khô hai tiếng, suy nghĩ miên man sang chuyện khác, nhất thời không tìm được câu nào để nói cho hợp đề tài.

Dương Hạo tiếp lời cười nói: “Đúng vậy, nơi này phong cảnh hữu tình, Dạ đại nhân có chi phải xấu hổ, nói ra, Dạ đại nhân cũng không thể coi là già, ở quê tôi, có một lão phu tử tên là Tra Ngữ Minh, năm nay hơn 80 mà vẫn cưới một cô gái mới 18 tuổi làm thiếp, có người từng trêu chọc thì hắn nói ‘Tân nương 18 tân lang 80, kẻ đầu bạc đi với người hồng trang, uyên ương bị lý thành song dạ, nhất thụ lê hoa áp hải đường’ ”

Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: “Tuyệt, tuyệt, ‘nhất thụ lê hoa áp hải đường’, lối so sánh này thật tuyệt, dùng chữ ‘áp’ lại càng hay, chỉ có điều vị tiên sinh họ Tra này tuổi cao quá, sợ rằng có muốn ‘áp’ cũng không nổi nữa rồi, hahaha…”

Tiêu Hải Đào và Dạ Vũ nghe nói không nhịn nổi cười, mắt Dương Hạo cũng lấp lánh sáng, nhân cơ hội đó liền nói: “Đúng vậy, lão phu tử trong thôn có diễm phúc như thế thật khiến người ta ngưỡng mộ. Đúng rồi, Hoàng Phủ tướng quân nói rằng Quốc vương mấy năm gần đây không nạp phi tần phải không? Thật kỳ lạ, khi bản quan đến dự yến tiệc cũng đã gặp không ít cung tần mỹ nữ, nhưng họ không để tóc giống như phụ nữ đã có chồng, còn về cách trang điểm cũng không giống thị nữ trong cung, điều này quả có chút kỳ lạ”.

Dạ vũ bị lấy ra so sánh với lão Tra 80 đã có phần xấu hổ, nghe nói vậy liền tiếp lời: “Tả sứ đại nhân, điều đó cũng không có gì là kỳ lạ, các thiên kim đều phải vào cung yết kiến nương nương một lần, như tả sứ đã thấy, đều là người nhà của các vị đại thần cả”.

Hắn khom lưng chắp tay khen: “Quốc vương và nương nương nước tôi thường ngày gần gũi với mọi người, cùng vui cái vui của bách tính, còn thường xuyên xuất cung du ngoạn, lên chùa dâng hương lễ Phật, các chư vị mệnh phụ, thiên kim của triều thần càng thường xuyên được tiếp kiến để tặng lễ vật. Đúng rồi, cháu gái của Lâm Nhân Triệu đại tướng quân Mạc Thu Nương cũng chính là được nương nương để mắt đến trong lần đi tháp tùng Lâm phu nhân vào cung, hiện là tâm phúc của nương nương, tình cảm như chị em vậy”.

“Cháu gái của Lâm Hổ Tử?”

Dương Hạo không khỏi giật mình, Lâm Hổ Tử? Oa Oa đã từng nói rằng Tử Du đã từng đàm luận với Lâm Hổ Tử, muốn mượn quân Đường để thừa cơ nội bộ quân Tống trống rỗng chưa kịp xuất binh để đánh úp, nhưng kế hoạch đó đã bị Lý Dục cản được. Cô nương mình đã gặp ở trong cung trông hao hao giống Tử Du, không lẽ…

Một ý nghĩ táo bạo đột nhiên xuất hiện trong đầu Dương Hạo : Nếu như Tử Du không từ bỏ ý định, sau khi nguy cơ Khai Phong cạn lương thực bị phá sản nàng không chịu quay về Tây Bắc mà lại đến Giang Nam, thì…, cô nương ta từng gặp trong cung có dáng dấp 9 phần giống với Tử Du, e rằng đó đúng là Tử Du, nếu như quả thật là nàng, thì nàng đến nước Đường, trà trộn trong cung nhà Đường với mục đích gì?

Nghĩ như vậy, Dương Hạo thấy như ngồi trên đống lửa, mưu đồ của Tử Du thật to lớn, nàng muốn bằng mọi giá phải thay đổi số mệnh. Ở Khai Phong, nàng bất động thanh sắc mà mang tới cho triều Tống một trận đại họa cơ hồ rung chuyển cả xã tắc, có trời mới biết nàng đến Giang Nam với mục đích gì, ngộ nhỡ gặp phải tai họa gì thì liệu nàng có bị nguy hiểm đến tính mạng? Những chuyện đại sự liên quan đến quân quốc, một khi sự tình đổ bể thì cũng không thương tiếc đến phận nữ nhi.

Trong ấn tượng của hắn, thì Tống quốc diệt Đường đại khái là chuyện của hai năm về trước, khi có chiến tranh, kể cả một con cá vô tội cũng không tránh khỏi bị tai ương, huống hồ Tử Du trà trộn làm việc trong cung đình, cũng tuyệt đối không phải là một con cá vô tội, mà là một con yêu tinh làm mưa làm gió.

Dương Hạo chỉ hận một nỗi là không thể bay ngay về thành Kim Lăng, xem Mạc cô nương rốt cuộc có phải là Chiết Tử Du hay không, nhưng ngoài mặt vẫn phải giả vờ không có gì, chỉ trầm ngâm nói: “Mạc cô nương? À…, ta đã gặp cô nương xinh đẹp ấy rồi, khi đó cô ấy chỉ mới vào cung, không làm bạn với các mệnh phụ khác, nghĩ ra chính là Mạc cô nương mà Dạ đại nhân nhắc đến”.

“Vậy đích là cô nương ấy rồi”. Hoàng Phủ Kế Huân có chút thèm thuồng nói: “Mạc cô nương đích thị là xinh đẹp phi phàm, chẳng trách Dương sứ mới gặp đã khó quên, hihi, không giấu tả sứ đại nhân, cô cháu gái của Lâm Nhân Triệu cũng mới đến Kim Lăng trước đó không lâu, khi tại hạ lần đầu gặp gỡ cũng bị vẻ đẹp của nàng khiến cho động lòng”.

Hắn tiếc hận mà lắc lắc chiếc dĩa, than thở: “Với thân hình diện mạo đẹp như nàng, vốn cũng xứng đôi với bổn tướng quân, chỉ có điều… tại hạ với cậu của nàng không hợp nhau, nếu không thì…quả thật muốn đem người tới cầu thân”.

Dương Hạo nghe nói Mạc cô nương chỉ mới xuất hiện ở Kim Lăng không lâu, trong lòng nghi ngờ rất nhiều, rất muốn ngay lập tức đi kiểm tra thân phận của nàng, nhưng đi du ngoạn Thải Thạch Phàn là chủ kiến của hắn, hắn không thể ngay lập tức đòi về, liền nói: “Dương Mỗ tửu lượng có hạn, không thể uống tiếp được, đêm nay chỉ e không thể ở lại Trích Tiên Lâu này được, hà hà, hai vị đại nhân, chi bằng chúng ta nhân hứng này lại du ngoạn Phàn Thượng một phen, sau khi trở về uống một ấm trà rồi quay lại Kim Lăng thành đi thôi”.

Hoàng Phủ Kế Huân cười ha hả nói: “Tả sứ đại nhân quả thật là nhanh quá, mới nghe nói đến mỹ nhân Giang Nam đã không thể ngồi yên được rồi”.

Dương Hạo cảm thấy buồn cười, thuận miệng nói: “Cái này, vẻ đẹp của sơn thủy đương nhiên khiến người lưu luyến, vẻ đẹp của con người càng khiến hồn xiêu phách lạc, ông và ta chẳng lẽ không phải là người cùng một đạo sao?”

Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: “Đúng, đúng, hơn nữa… trên người mỹ nhân cũng có sơn thủy, còn đẹp hơn gấp 10 lần sơn thủy của Thải Thạch Phàn này, khiến người ta say mê quên trời đất, haha…”

Hắn cười to đứng dậy, một tay kéo Dạ Vũ, cười nói: “Đi thôi, còn ngồi giả vờ làm gì nữa, chúng ta cùng Dương tả sứ đi thăm sơn thủy, rồi về Kim Lăng thưởng thức sơn thủy mỹ nhân”

“ Ôi, cái này…, Hoàng Phủ tướng quân… lão phu…”

Dạ Vũ làm mặt khó, bị Hoàng Phủ Kế Huân lôi kéo đứng dậy: “Cố mà làm”, rồi đi cùng bọn họ đi thăm phong cảnh Trích Tiên lâu.

Đi dọc theo mép sông, nước sông cuồn cuộn sóng, Dương Hạo cùng đoàn người đi qua “Hành Ngâm kiều”, tới “Nghiễm tế tự” được xây dựng vào thời Đông Ngô du ngoạn một phen, dâng hương, rồi bốn người tới “Nga Mi đình” uống trà.

“Nga Mi đình” nằm ở vị trí hiểm mà sâu, cao và nhìn ra xa được, cảnh tượng hết sức tú lệ. Phía trước bên tay trái đình gần sông, vốn là một khối đá bằng phẳng được gọi là Liên Bích Bàn, khối đá nằm cheo leo trên vách, hướng ra ngoài sông, địa hình hiểm trở khó thấy. Theo truyền thuyết, Lý Bạch đã từng ở đây bắt nguyệt mà qua đời.

Dương Hạo đợi đám người ngồi nghỉ ngơi trong đình rồi một mình đi men theo mép đình, chuẩn bị rời Thải Thạch Phàn, đi được một lúc chợt thấy có một tăng nhân đi đến, vị tăng nhân đó thở hổn hển và dừng chân nghỉ tạm, trông thấy Dương Hạo một mình đi tới, phía trước có vài tên binh sĩ đang đuổi người dẹp đường, người bên đường đều dạt sang đi men trên vệ đường sườn núi trơn tuột. Vị tăng nhân mang theo nước, đi một đôi giày rách đứng trên cỏ nơi có những hòn đá vỡ, đi lại có phần khó khăn, Dương Hạo nhìn thấy liền nói: “ Đường này mọi người đều có thể đi, đừng để mọi người bị quấy nhiễu vì bọn ta”.

Đám binh sĩ đang diễu võ dương oai hò hét, không nghe thấy lời của Dương Hạo, Hoàng Phủ Kế Huân lập tức kêu lên: “Không nghe thấy lời của tả sứ dặn dò hay sao, không được đuổi bọn họ đi, đường nhỏ thì tránh, chúng ta hoàn toàn có thể đi lại được”.

Vị tăng nhân áo rách đang định tránh đường, nghe thấy vậy liền dừng bước, mắt nhìn bọn họ, khi Dương Hạo đi đến bên ông ta, vị tăng nhân này đột nhiên chắp tay mỉm cười nói: “ Bần tăng nghe mọi người gọi đại tướng quân là tả sứ, nhưng không biết vị tả sứ này là chức ti trong nha môn nào?”

Dương Hạo nhìn dò xét ông ta, vị tăng nhân này chỉ khoảng 35, 36 tuổi, mặt gầy mà đen, nhưng hai mắt lại có thần, liền nghỉ chân cười nói: “Hòa thượng xuất gia mà vẫn quan tâm đến chức quan của ta sao?”

Vị tăng nhân đó cười nói: “Bần tăng có biết 1, 2 quan chế của chế độ triều đình, nhưng chức quan tả sứ này thì bần tăng lần đầu nghe qua, cảm thấy có chút hiếu kỳ”.

Dạ Vũ đứng bên nói: “Vị này chính là Tống quốc Hồng lư tự tả khanh Dương Hạo đại nhân, khâm thừa lệnh vua mang chức tả sứ, vị hòa thượng này là tăng nhân của Nghiễm Tế Tự sao? Trong chùa không phải có giếng sao, tại sao lại phải mang theo nước?”

“À, hóa ra là quan nhân nước Tống, thảo nào!”

Vị tăng nhân đó nhìn Dương Hạo, vừa mỉm cười và vừa chắp tay nói với Dạ Vũ: “Bần tăng vốn là một gã tú tài, thi nhiều lần không đỗ, buồn chán nên mới cạo đầu đi tu, nhưng không phải là ở Nghiễm Tế Tự, trung tăng lữ, không thể ngồi lại chùa, chỉ có thể ở trên núi, nước cũng phải tự mình xuống núi mà lấy”.

Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: “Hóa ra là một hòa thượng tự do, miếu chưa có, vậy ngươi cũng không có pháp hiệu rồi, ngươi vừa không ngồi sư, lại không có cao tăng cho ngươi quy y, vậy cũng chỉ xem như bỏ đi khỏi nhà?”

Vị tăng nhân đó lại liếc nhìn Dương Hạo, mỉm cười nói: “Người xuất gia tu hành chính là có Phật trong tâm, có hay không cao tăng cho quy y thì có hề gì? Khoác áo cà sa chưa chắc đã là người xuất gia, không có giấy tờ cũng không nhất định không xuất gia, còn về pháp hiệu, bần tăng thật ra đã tự lấy cho mình một pháp hiệu rồi, đó là… “Nhược Băng”.

Hoàng Phủ Kế Huân ngửa mặt lên trời cười to: “Haha, Nhược Băng hòa thượng, ngươi muốn cùng bổn tướng quân nói chuyện thiên cơ sao? Bản tướng quân cũng chỉ là nhàn tình nỗi nhã hứng, tránh ra tránh ra, bản tướng quân phải đi về Kim Lăng, đi thưởng thức cái sơn thủy mà hòa thượng các ngươi không bao giờ được thưởng thức, haha…”

Nhược Băng hòa thượng mỉm cười, khóe miệng ánh lên loe lóe, Hoàng Phủ Kế Huân nghênh ngang đi xuống núi, Dương Hạo đi đến bên Nhược Băng hòa thượng, đột nhiên cảm giác được ánh mắt của ông ta vẫn dõi theo mình, đi được vài bước, Dương Hạo không nén được liền quay đầu lại nhìn, chỉ thấy vị tăng nhân đó vẫn đứng trên đất, mắt vẫn dõi theo hắn, nhìn thấy hắn quay đầu lại, vị hòa thượng cũng không dời mắt nhìn, một cái nhìn thật sâu và chăm chú, hai tay hợp thành chữ thập, mỉm cười tạm biệt hắn…

Dương Hạo hơi chút chần chừ, Dạ Vũ đã nhanh chân chạy tới bên cạnh, ân cần nói: “Tả sứ xin chậm bước, đường núi nguy hiểm, cần hết sức cẩn thận…”

Dương Hạo không rảnh suy nghĩ nhiều, đành xoay người bước đi, đến khi tới được dưới chân núi thì bất giác quay đầu lại, chỉ thấy bóng vị hòa thượng nọ vẫn đứng giữa lưng chừng núi, xa xa dõi theo, giống như…

Một suy nghĩ xuất hiện trong đầu Dương Hạo: “Vị hòa thượng Nhược Băng này, nhất định là có chút cổ quái!”

***

Từng túm tóc rơi xuống đất, cuối cùng hiện ra trước mặt mọi người là một cái đầu nhẵn bóng lưỡng, một bàn tay đặt trên chiếc đầu đó, người xoa chiếc đầu đó là một lão hòa thượng già mặc áo cà sa đại hồng, từ bi thiện mục.

“A di đà Phật, từ hôm nay trở đi, con đã là đệ tử của Kê Minh ta rồi. Bất kể làm người hay tham thiền, đều phải làm điều có đức. Đức, có thể rửa sạch những tạp niệm của con, làm trong sạch trái tim con, không để con bước đi trong mịt mờ khổ ải. Mà hành, thì lại nắm giữ đức, đi làm việc thiện, tích lũy công đức, tu thành chính quả, sẽ được tự tại. Lão nạp xuống tóc cho con, con đã là đệ tử của lão nạp. Đức Hạnh, những điều lão nạp đã dạy con nhất định phải ghi nhớ, biết chưa?”

“Đức Hạnh ghi nhớ lời chỉ dạy của sư phụ!”

Chiếc đầu bóng lưỡng đó dập thật sâu xuống khấu tạ, lòng bàn tay hướng lên đệm, thái độ hết sức thành kính, có điều vẫn phải nói ra điều khúc mắc trong lòng: “Có điều…, sư phụ, pháp hiệu chỉ có thể lấy hai chữ, không thể lấy ba chữ được sao?”

“Haha, điều đó cũng không hẳn, pháp hiệu lấy như thế nào cũng tùy vào các vị tọa sư. Chỉ có điều từ trước đến nay, pháp hiệu hai chữ đã được sử dụng phổ biến trong các tự viện, lâu ngày, các tự viện cũng thành tục lệ dùng hai chữ. Nếu như một tự viện có quá nhiều tăng lữ thì việc dùng hai chữ đặt pháp hiệu cũng không thích hợp nữa, cũng có thể dùng ba chữ, đương nhiên, còn có những sư phụ để khuyên thích kinh nghĩa thêm rõ ràng cũng đặt cho đồ đệ của mình pháp hiệu có ba chữ. Thật ra, pháp dụ của sư phụ cùng với con vốn đã ba chữ rồi, chúng ta là người xuất gia, pháp hiệu chính thức có một chữ thích nữa”.

“ Ách…, sư phụ, chữ thích bình thường đâu có gọi, ý của đồ đệ là, có thể đặt một pháp hiệu có 3 chữ bên cạnh chữ Thích kia ra không?”

Lão hòa thượng hơi nhíu mày, có chút không bằng lòng mà nói: “Đức Hạnh, tại sao con cứ phải chọn pháp hiệu ba chữ mới yên?”

“Đồ đệ cảm thấy… ba chữ thì có uy phong”

“ Vậy để ta đặt cho ngươi một pháp hiệu có bốn chữ, chẳng phải là càng thêm uy phong hay sao?”

“ Thế thì càng tốt, thế càng tốt, đa tạ sư phụ”

Lão hòa thượng giơ tay lên, tay chỉ như Phật đà niêm hoa, dứt khoát vứt trên đầu bóng loáng một chiếc bát nhỏ, nhẹ nhàng nói: “ Đồ nhi này sai trái cũng nhiều, lẽ nào ngươi muốn được gọi là Thích Ca Mâu Ni sao?”

“ Vậy…,…” Hòa thượng quỳ trên mặt đất cười khan hai tiếng nói: “Đồ đệ biết sai rồi”.

“ Thiện tai, thiện tai”.

Lão hòa thượng lại khôi phục lại dáng vẻ cao tăng từ bi của mình: “Đức Hạnh à, con mới quy y, vẫn còn là một tiểu sa di, sau này ở lại bên cạnh lão nạp, theo lão nạp tu hành phật pháp, thế nào?”

Đức Hạnh quỳ gối xuống mà rằng: “Sư phụ, đệ tử vốn là đệ tử nhà giàu, gia cảnh cũng ưu nhai, nay đã hướng Phật, muốn làm lại từ đầu, tu luyện thể xác và tinh thần, khi nhập tự, đệ tử đã từng nhìn thấy tự trái có vườn rau, vài vị sư huynh đang làm việc, dù vất vả nhưng lại lấy đó là việc tích công đức, do đó… đệ tử muốn đến vườn rau, bắt đầu từ chữ ‘Hành’”.

Bảo Kính đại sư ngẩn người, ông là trụ trì phương trượng trong tự Kê Minh, rất được tôn sùng, đã rất lâu rồi không tự mình thu nhận đệ tử, do đệ tử này dung mạo thanh tú, lại được trời phú cho đôi mắt quyến rũ, so với con gái thì còn đẹp hơn vài phần, khiến cho người ta nhìn thấy rất ưng mắt, mà Bảo Kính đại sư lại là đệ nhất thiên tự phương trượng đại sư ở Kim Lăng, thường xuyên tiếp đãi các khách quý từ trong cung đến, nên tự tay cạo đầu xuất gia cho người đệ tử này. Bảo Kính đại sư không nghĩ đến chuyện hắn sẽ chủ động yêu cầu đi trồng rau, yêu cầu này thật sự là…

Nghĩ lại, đệ tử Đức Hạnh này ăn nói đường hoàng, hôm nay thủ tọa cùng hai vị sư đệ trụ trì Giới luật viện, bản thân nắm giữ quyền phương trượng thực sự không tiện làm trái ý. Tên đệ tử đó là đệ tử nhà giàu, vị tất phải chịu khổ như vậy, những ngày tới cứ cho hắn ở bên cạnh là được, vì vậy ông mỉm cười nói: “Thiện tai, thiện tai, con đã có lòng như vậy tức trong tâm đã có phật, thôi được, vậy ta cho con vào vườn rau tu hành một thời gian. Còn về mấy vị tăng lữ trong vườn rau, hà hà… về mặt phật pháp và giới luật, con không được thỉnh giáo họ, bất quá cũng không thể coi như sư huynh, con là thân truyền đệ tử của lão nạp, thân phận cao hơn bọn họ, những người đó đều là hòa thượng của con. Đức Huệ, đưa sư đệ của con đến vườn rau, gặp vài hòa thượng của sư đệ.”

“Vâng!” một tăng nhân tầm trung niên xuất hiện,chắp tay thi lễ và mỉm cười nói với Đức Hạnh: “Sư đệ hãy đi theo sư huynh”.

Đức Hạnh mặt nghiêm túc, theo hòa thượng Đức Huệ đi ra bảo điện Đại Hùng, tiến vào vườn rau phía Đông, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi của phân ủ, mặt hơi chau, khóe miệng nở ra một nụ cười gượng: “Hì hì, lão tử xuất gia rồi, lần này xem lão ni cô có còn tránh được ta hay không”

Xốc mạnh lại bả vai, đột nhiên thấy hành động của mình là hơi bất nhã, liền vội vàng đứng lại thẳng người, mắt nhòm mũi, mũi dòm tim, bước đi dưới cái nhìn nghiêm khắc của hòa thượng Đức Huệ trên đồng ruộng thổ canh.

Hôm đó, Bích Túc theo đuổi người nữ ni trẻ tuổi xinh đẹp nhất thời bị kích động không nói được gì. Người nữ ni đó đặt quang gánh xuống, chăm chú nhìn hắn, mặt nở một nụ cười kinh ngạc mà lễ phép. Sau một hồi kích động, hắn ta mới nói: “Cô nương, ta… ta rất thích nàng, ta có thể biết tên nàng được không?”

Vị nữ ni đó nghe thấy liền hoảng sợ mở to mắt lên nhìn hắn, khi đó, Bích Túc mới sực nhớ ra là mình đang mặc trang phục của con gái, bèn vội vàng nói: “Ta không phải là phụ nữ, ta là nam giới, nàng xem, nàng xem…”

Hắn ta ngửa cổ cho cô xem yết hầu, rồi lại vỗ vỗ vào ngực, tiếng nói cố tình phóng to đôi chút: “Từ khi nhìn thấy cô nương, tại hạ đã nhớ mãi không quên. Nàng không nhớ ta có đúng không? Hôm đó tại quán trọ Chuẩn An, nàng đi ra, ta tiến vào, chúng ta đã đi qua nhau, nàng còn cười với ta, nàng nghĩ xem, nghĩ thử xem có nhớ ra hay không? Nụ cười của nàng ngọt ngào quá, khiến ta hồn xiêu phách lạc, vì vậy nên mới không thể quên được…”

Con ngươi của tiểu ni cô chớp lia lịa, tựa hồ như nhớ ra cái gì, mặt có đôi chút thẹn thùng như một đám mây hồng bay qua, Bích Túc cuối cùng cũng đã nói ra những điều trong lòng, liền đứng dậy nói: “Cô nương, nàng đẹp như vậy, hà cớ sao lại xuất gia làm ni cô, phí uổng cả một đời nơi cửa phật? Quả là lãng phí báu vật trời cho. Tại hạ từ sau lần nhìn thấy cô nương đã tương tư trằn trọc, còn theo cô nương đến tận Giang Nam, đáng tiếc là sau khi qua sông lại để lạc mất bóng nàng, nhưng trời run rủi cho ta hôm nay lại được gặp lại nàng, nàng nói xem, đó không phải là duyên phận thì là gì?”

Vị ni cô nọ mặt đỏ bừng, lắc đầu lia lịa, tay chỉ vào mình, nhìn thấy hắn ta không hiểu mới nắm lấy tràng hạt đeo ở cổ đưa cho hắn xem.

Bích Túc ngạc nhiên nói: “Nàng không nói được ư? Nàng bị câm sao?”

Ánh mắt vị ni cô hiện lên vẻ buồn bã, Bích Túc không kiềm chế được liền nắm chặt lấy đôi tay nhỏ bé của ni cô, xúc động nói: “Không sao, dẫu cho nàng có câm cũng không có vấn đề gì, ta thích nàng, chính là nàng. Khi ta thích nàng, nàng cũng đâu có nói gì với ta, ta nói nhiều như thế, sau này chỉ cần mình ta nói, ta nói nàng nghe, nhà sẽ càng yên tĩnh, nàng hoàn tục đi theo ta được không? Đi theo ta, làm vợ ta nhé, ta rất thật lòng, ta cũng không phải là kẻ xấu xa, ta… Trên thực tế ta là quan đại thần trong triều đình, thân thế trong sạch, tiền đồ sáng lạn…”

Vị ni cô nọ bị hắn ta nắm chặt tay, mặt đỏ lựng, giãy giụa hai cái không được đành đứng yên, không phản kháng nữa mà chỉ lắc đầu lia lịa. Bích Túc vội vàng nói: “Nói cho ta biết, nàng có chịu làm vợ ta không? Nếu như nàng đồng ý, ta sẽ đi tìm trụ trì đại sư đến chuộc nàng… À, không phải, hoàn tục, có phật tổ làm chứng, gật đầu không tính chỉ tính lắc đầu, nàng đồng ý làm vợ ta không?”

Tiểu ni cô quẫn quá đành co người, lắc đầu lia lịa, Bích Túc mới nói: “Nàng lắc đầu? Tức là nàng đồng ý rồi, chúng ta đi thôi.”

Tiểu ni cô lại càng dùng lực để lắc đầu, rồi thoáng cái lại gật đầu, gật đầu lia lịa.

“Nàng gật đầu? Vậy là đồng ý hay không đồng ý?”

Vị tiểu ni cô đơn thuần đáng yêu, vừa nghe hắn hỏi liền kiên quyết và tự nhiên lắc đầu. Bích Túc cười mà nói: “Vậy là đồng ý rồi hả? Vậy chúng ta đi thôi, nếu trụ trì không đồng ý thì chúng ta bỏ trốn! Nàng… nàng là người con gái đầu tiên khiến ta biết rung động.”

Bích Túc quả là mặt dày vô sỉ khi nói như vậy. Trước kia hắn đã từng quyến rũ thiếu phụ nhà đại hộ nhân gia, rồi các thiên kim cũng không ít, những lời ngon tiếng ngọt để lừa gạt phụ nữ hắn cũng không thiếu, nhưng không hiểu sao, đối với vị ni cô không nói được kia hắn lại không giống như trước kia, để lộ ý đồ của mình ngay từ đầu.

Nghe hắn nói vậy, vị vi cô kia không gật cũng không lắc nữa, con ngươi nàng sáng lên một chút, mặt đỏ lên rồi trắng nhợt đi. Bích Túc không để ý, kéo tay cô chạy, khi quay đầu lại nhìn thì Bích Túc mới hoảng sợ giật mình, trước mặt hắn là bốn vị ni cô, trung niên có, nhỏ có, già có, cao có, gầy có, trắng có, đen có, tất cả đều đang trừng mắt nhìn hắn.

Bích Túc kêu lên: “Có thật là các người đi không dẫm phải một con kiến hay không? Tại sao không phát ra âm thanh gì, nửa đêm đồng loạt xuất hiện hù dọa ta.”

Một vị ni cô cao to với làn da đen quát lớn: “Tên điên khùng to gan, dám cải trang thành nữ… Muốn trà trộn vào trong đám ni cô để làm gì đây?”

“Ta…ta… Gia gia đây muốn tìm vợ để cưới, sao hả?” Bích Túc lại giở trò trêu đùa vô lại.

Vị ni cô to béo kia không nói hai lời, trợn mắt, giơ cao tay, rồi chỉ nghe thấy một tiếng “Bốp” vang lên, vòng tràng hạt trên tay bà đã giội mạnh xuống đầu Bích Túc, Bích Túc bị đánh cho lảo đảo, trên đầu sưng lên vài cục, hắn tức giận kêu lên: “Tay khỏe ghê nhỉ, ngươi là một người xuất gia, lẽ nào có thể ra tay đánh…”

“Bốp!” Vòng tràng hạt đó không biết bện bằng loại dây gì mà không đứt, vị ni cô to béo kia vẫn tiếp tục dùng tràng hạt đánh tới tấp, vừa đánh vừa lớn tiếng quát: “Tên lưu manh này, đã cải trang thành nữ vào đây lại còn dám rủ rê đồ đệ của ta, người đâu, bắt tên to gan lớn mật này lại cho ta, đem lên quan xử lý”.

Một đám ni cô ùa lên, Bích Túc thấy vậy liền lập tức ôm đầu trốn như chuột, cố gỡ gạc cục diện: “Gia gia không đánh con gái, bằng không thì ta cho các ngươi biết tay. Tiểu ni cô xinh đẹp, nàng không cần sợ, ta sẽ đưa nàng về, sáng sớm mai ta và nàng sẽ thành thân, ai da, ai dùng gạch đánh ta…”

Đám ni cô đó vẫn quyết không tha, đuổi theo hắn ra tận sân tự, nghe tiếng các ni cô hò hét, dân chúng cũng ùa ra trợ giúp. Ngay lúc đó, Dương Hạo đang đứng ở đầu đường nhìn thấy, Bích Túc đến bước đường cùng bèn giở trò leo tường hòng thoát thân, lần này đích thực là bị mang tiếng kẻ cướp rồi, nhưng cũng chỉ lần này thôi mà.

Từ nay về sau Bích Túc muốn trốn vào gặp vị ni cô xinh đẹp kia cũng không còn dễ nữa rồi, hắn cũng gây chú ý trong đám khách hành hương, hắn muốn giả làm nữ cũng không thành, thế là Bích Túc đành quay về, mỗi tối đều len lén lẻn vào ni am, ẩn nấp ở một nơi bí mật nhìn ngắm tiểu ni cô.

Sau vài ngày quan sát, qua lời nói chuyện của đám ni cô, Bích Túc được biết pháp hiệu của tiểu ni cô đó là Tĩnh Thủy Nguyệt, một pháp hiệu có ba chữ, hắn mới quyết định cũng cạo đầu đi tu, muốn Bảo Kính đại sư đặt cho hắn một pháp hiệu có ba chữ, giống như của tiểu ni cô kia để xứng đôi.

Tĩnh Thủy Nguyệt không cha không mẹ, vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi, năm 9 tuổi bị mắc bệnh nặng nên cổ họng có vấn đề, cô thành ra câm nhưng không điếc. Do không thể nói chuyện nên cô cũng không gây ra bất kì chuyện gì tồi tệ trong tự, khi làm bài tập cũng không phải xướng kinh, do vậy cô chỉ ở trong am quét dọn, nấu cơm, làm vài việc lặt vặt.

Còn vị ni cô to béo kia là trụ trì trong am Bảo Nguyệt, chính bà năm đó đã hóa duyên và thu nhận Thủy Nguyệt về, bà là sư phụ của Thủy Nguyệt, tình cảm giống như mẹ con, do vậy hôm đó khi nhìn thấy Bích Túc lén lút giả gái trà trộn vào am để bắt cóc Thủy Nguyệt, bà mới nổi trận lôi đình, đánh cho hắn một trận nên thân.

Bích Túc hằng ngày ngồi lặng lẽ trong góc tường, ngồi xổm trên xà nhà để nhìn lén tiểu ni cô tát nước, dọn dẹp, vá áo, nấu gơm, sao kinh, mỉm cười…

Dần dà, mỗi nét cười của Tĩnh Thủy Nguyệt in hằn trong đầu của hắn, nếu như hồi đầu hắn để ý cô chỉ vì nét cười mê hồn đó, thì lúc này đây, tình cảm trong hắn đã ngày một trở nên sâu đậm, thứ tình cảm kỳ diệu không thể giải thích mà người ta vẫn hay gọi là “Ái tình”, giờ đây Bích Túc chỉ có thể kín miệng không để lộ ra kế hoạch của mình, chỉ có thể nhốt nó thật sâu mà thôi…

Sau vài ngày quan sát, hắn phát hiện ra rằng những chiếc áo cà sa phải vá không phải chỉ là áo của những ni cô, trong đó còn có những áo khác do các hòa thượng đem tới. Mà theo thường lệ sẽ có hòa thượng đưa rau củ cùng quần áo tới, đồng thời đem quần áo đã được giặt sạch và vá xong xuôi đi. Những ni cô trong am đều đối xử rất hòa nhã với các hòa thượng. Bích Túc lặng lẽ nghe ngóng, rồi sau đó mới hiểu ra những hòa thượng đó đều là người của Kê Minh tự, Tịnh Tâm am cũng là thuộc Kim Minh tự, thuộc quyền quản hạt của Kê Minh tự.

Do thế, Bích Túc liền đến Kê Minh tự xuất gia.

Đi trên điền canh, nhìn những cây cải bắp lên huề huề, Bích Túc cảm thấy giống như được nhìn thấy tiểu ni cô xinh đẹp đang nhìn hắn thản nhiên cười, trong lòng vì thế cũng cảm thấy một cảm giác ngọt ngào…

***

“Hồng Tụ Chiêu” vốn là một lầu xanh có tiếng trong thành Kim Lăng.

Dương Hạo đến Hồng Tụ Chiêu không phải vì danh tiếng của nơi này, mà là vì một câu nói của Hồng Lư Dạ Vũ: “Dương tả sứ nhìn xem, ở bên ngõ chếch đối diện kia chính là phủ của Lâm Nhân Triệu tướng quân.”

Vì câu nói này mà Dương Hạo thấy cũng một công đôi việc, còn Hoàng Phủ Kế Huân thì không ngừng lải nhải khuyên Dương Hạo: “Thế thì đi đến Hồng Tụ Chiêu đi, gọi chút rượu thịt ăn rồi tính tiếp”.

Những cô nương ở Hồng Tụ Chiêu quả thật không tồi, những nha hoàn phục vụ bàn tiệc cũng đều xinh đẹp động lòng người. Bốn người Dương Hạo cùng lên lầu tìm chỗ ngồi, gọi rượu và món nhậu, gọi thêm vài vũ nữ ra nhảy múa, bốn người vừa ăn vằ nói chuyện, Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào còn thi nhau chúc rượu, khiến ý thơ lại lên lai láng, Hoàng Phủ Kế Huân dù là võ tướng cũng nổi hứng đối ứng một phen, chỉ có Dương Hạo là không mấy hào hứng, tuy thế do là chủ tướng nên cũng không ai làm khó cho chàng.

Rượu quá ba tuần, thức ăn cũng nếm đủ năm món, con mắt của bậc chính nhân quân tử Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào bắt đầu xoay vòng theo những vòng eo của vũ nữ, hứng thơ đã hết nhưng hứng tình lại lên. Hoàng Phủ Kế Huân thấy thế liền cười và gọi má mì đến, bảo mụ ta đem vài cô nương xinh đẹp đến cho các đại gia chọn.

Mụ tú bà dù không biết Hoàng Phủ Kế Huân là ai, nhưng xem cách ăn mặc, lại còn có quân binh theo hầu thì cũng đoán ra hắn không phải người thường, liền gọi ngay những cô nương xinh đẹp nhất lầu ra, đứng thành một hàng cho bọn họ lựa chọn.

Dương Hạo là người mà Hoàng Phủ Kế Huân nịnh nọt, đương nhiên phải ưu tiên cho chàng chọn trước. Dương Hạo từ chối, Hoàng Phủ Kế Huân thấy vậy cũng không nài, bèn nhường cho Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào chọn. Hai người liền lẳng lơ mà nhìn mỹ nữ như mèo thấy mỡ, giả đò khước từ hai câu rồi cũng chọn lấy cho mình một cô nương xinh đẹp. Hai người không hẹn mà gặp, cùng chọn trúng một cô nương trẻ tuổi xinh đẹp, mơn mởn như một đóa hoa mới nở.

Hoàng Phủ Kế Huân lại mời Dương Hạo chọn, Dương Hạo biết thời đại này sĩ tử chơi gái cũng vẫn được coi là phong lưu, cũng không phải là chuyện gì ghê gớm lắm. Những cô nương trước mặt dù là gái phong trần nhưng dung mạo cũng diễm lệ, khí chất nho nhã mà không dung tục, không lộ chút gì là gái phong trần, xem ra rất ưng mắt, không khiến cho người khác phản cảm. Thế nhưng cái ngõ chếch đối diện kia vẫn như có sợi dây vô hình nào đó níu giữ Dương Hạo, khiến sự tập trung của chàng đều hướng ra phía ngoài, làm gì có tâm trạng nào mà thưởng ngoạn cái “sơn thủy” này.

Chương 352: Song sát 

Thấy Dương Hạo vẫn dùng dằng không quyết, Hoàng Phủ Kế Huân thầm nghĩ: “Những vị cô nương này đều không phải là dạng tầm thường, chẳng lẽ vị tướng quân này lại không thể chọn ư? Là do không ưng mắt hay là sợ ta ghi nhớ lại chuyện này mà về bẩm báo? Chuyện này thật chẳng ra sao cả, tự hắn muốn chơi đùa một chuyến cơ mà, quả thực muốn lấy lòng tên sứ thần người Tống này cũng không đơn giản chút nào.”

Hoàng Phủ Kế Huân làm mặt rầu mà rằng: “Hiệp kỹ phong lưu, có điều cũng chỉ là sự thường thôi mà. Tả sứ đại nhân nếu như chẳng nể mặt tại hạ thì tại hạ sẽ cảm thấy mình không xứng để giao lưu với đại nhân mất.”

Dương Hạo thấy Hoàng Phủ Kế Huân có chút giận, liền tiến đến gần cười nhỏ nói: “Hoàng Phủ tướng quân chớ trách, bản quan… bản quan thực ra có chút thích sự trong sạch, không muốn dính dáng tới những cô gái phong trần này, chứ không phải chê hảo ý của tướng quân đâu, xin thứ tội, thứ tội”.

Hoàng Phủ Kế Huân chợt hiểu ra, liền chuyển giọng vui vẻ mà rằng: “À, hóa ra là vậy, haha, thế thì không sao”.

Hoàng Phủ Kế Huân phẩy tay, những cô gái đó liền lui vào trong. Trông thấy Hoàng Phủ Kế Huân đứng dậy, mụ tú bà liền thấp thỏm mà hỏi nhỏ: “Vị đại nhân đó… không ưng cô nương nào ư?”

Hoàng Phủ Kế Huân nói: “Ở đây có ai là vẫn còn trong trắng không?”

“À… hóa ra là muốn tìm người mới, vẫn còn trong trắng,thế thì có đấy, tuy nhan sắc không phải là hết sức xinh đẹp, thế nhưng lại là người thông minh lanh lợi, chỉ sợ không hợp để hầu hạ quan khách…”

“Không sao, cứ gọi ra đây, để cho bạn ta lựa chọn. Bạn của ta thích những cô nương vẫn còn trong sáng, hihi…, chậm đã!”

Hoàng Phủ Kế Huân lại gọi bà ta lại, giọng trầm xuống mà nói một cách lạnh lung: “Chỉ cần là hàng chưa bóc tem, bản quan có thể để yên cho ngươi làm ăn, còn nếu dám cả gan dùng máu gà giấu trong người để giả làm gái tân thì, hứ, nếu bị ta phát hiện ta sẽ cho Hồng Tụ Chiêu của các người phải đóng cửa”.

“Lão thân nào dám ạ, nhất định sẽ chọn hàng thật giá trị để mang đến”. Mụ tú bà vừa cười hihi vừa xuống nhà, Hoàng Phủ Kế Huân quay người cười nói: “Dương tả sứ vừa nãy nói, ủa.. Dương tả sứ đang nhìn gì vậy?”

Thấy Dương Hạo quay hẳn nửa người ra ngoài cửa sổ, dường như không nghe thấy những điều hắn vừa nói, hắn liền chạy đến bên cửa sổ, dõi theo ánh mắt của Dương Hạo, nhưng chỉ nhìn thấy một cô gái đang thong thả treo đèn ở đầu thành Kim Lăng, bước chân thanh nhã, dáng vẻ là một cô nương quý tộc. Hai mắt của Hoàng Phủ Kế Huân chợt sáng lên: “Mạc cô nương?”

Dương Hạo nhìn thấy Chiết Tử Du, trong lòng vừa mừng vừa sợ, lại có chút lo lắng cho nàng. Mới nghe Hoàng Phủ Kế Huân kêu tên nàng, Dương Hạo trầm xuống: “Cô nương này chính là cháu gái của Lâm Nhân Triệu đại nhân?”

“ Đúng là vị cô nương này, tả sứ đại nhân…”

Dương Hạo vừa định thần lại, quay người nhìn Hoàng Phủ mỉm cười: “Hôm đó người mà ta đã gặp trong cung điện chính là vị cô nương này, tư thái quyến rũ, quả là không tầm thường. Hôm nay lại nhìn thấy cô ấy ở đây, đúng là không hẹn mà gặp, đi thôi, chúng ta đi gặp cô ấy”.

“Ôi, tả sứ đại nhân…”

Hoàng Phủ Kế Huân còn chưa nói xong, Dương Hạo đã nhanh chóng xuống lầu, Hoàng Phủ Kế Huân chỉ biết há mồm ngạc nhiên mà nghĩ: “Cũng biết là vị tả sứ này thích con gái nhà lành, nhưng mà…. Cũng đừng tìm con gái nhà quan phủ chứ, nàng ta thân phận cao quý, há mà dễ đối phó? Ôi…”

Con ngươi trong mắt Hoàng Phủ Kế Huân vừa liếc vừa nghĩ: “Mạc cô nương là cháu gái của Lâm Nhân Triệu, hắn mà đi, ngộ nhỡ ăn nói không đúng thì Mạc cô nương nhất định sẽ giận hắn, hai người kết thù chuốc oán, Lâm Nhân Triệu ngộ nhỡ đắc tội với đại thần triều Tống thì sẽ hay ho lắm đây, hihi…”

Nghĩ đến đây, Hoàng Phủ Kế Huân lòng mừng vui khấp khởi, nhanh chóng chạy xuống nhà đuổi theo Dương Hạo, mụ tú bà đang dẫn vị cô nương nọ lên lầu, nhìn thấy hai người hớt hải chạy xuống vội nói với theo: “Tướng quân đại nhân, các ngài đi đâu vậy?”

Hoàng Phủ Kế Huân quát: “Tránh ra, tránh ra, đừng làm nhỡ việc bản tướng quân đi đùa giỡn với con gái nhà lành”.

************************************************** ****

Dương Hạo sau khi rời Hồng Tụ Chiêu liền rảo bước nhanh về phía Chiết Tử Du, vẫn nghe văng vẳng tiếng của tú bà đằng sau lưng: “Quan khách đi thong thả, hoan nghênh quan khách lần sau lại ghé chơi…”

Chiết Tử Du nghe được liền quay lại nhìn, vừa đúng lúc Dương Hạo đến bên, lòng nàng đột nhiên lo lắng khiếp hãi, lúc này đây muốn tránh cũng không còn kịp nữa rồi. Dương Hạo chạy đến trước mặt nàng, nhìn sâu vào mắt nàng, thấy nàng lộ vẻ bối rối, thật khó mà nhìn thấy được vẻ mặt này của Tử Du, Dương Hạo không kìm được bèn mỉm cười nói: “Vị cô nương này có phải là Mạc cô nương ở Lâm phủ hay không?”

Trong mắt Tử Du như có gợn sóng vừa chạy qua, bình thản đáp: “Không sai, chính là bản cô nương, không rõ công tử là ai, tại sao lại chặn đường ta?”

“Nàng không rõ ta là ai ư?” Dương Hạo có chút bực tức hỏi: “Ta không phải đã bảo nàng ngoan ngoãn quay về Tây Bắc rồi sao? Tại sao nàng còn chạy đến Kim Lăng làm gì? Nàng e sợ cho thiên hạ bất loạn phải không?”

Tử Du chớp chớp mắt, nhưng vẫn tỏ vẻ kinh ngạc nói: “Xin hỏi vị công tử, ta có quen biết với công tử sao? Những lời công tử nói ta nghe không hiểu gì hết, hay là công tử nhận nhầm ta với ai chăng?”

Dương Hạo ngẩn người, nhìn cô ta không có vẻ gì là nói dối cả, chẳng lẽ đúng là ta đã nhận nhầm người, xem diện mạo thì không thể nhầm được, đến cả giọng nói cũng là độc nhất vô nhị, làm sao có thể nhầm được? Dương Hạo vô thức quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Hoàng Phủ Kế Huân vừa chạy từ Hồng Tụ Chiêu xuống, dáng chứng như đang tọa sơn quan hổ đấu, liền quay đầu lại mà nói: “Ở đây không có người ngoài, nàng còn không thừa nhận?”

Tử Du từ từ ngẩng khuôn mặt xinh đẹp của mình lên nói: “Người nói chuyện thật không có chút đạo lý, bản cô đương đang đi trên đường bị ngươi chặn lại nói những điều hồ đồ, lại còn trách cứ ta? Mau mau tránh ra, bằng không, ta mà cao giọng hô hoán thì những người đi đường sẽ nghĩ ngươi là kẻ lưu manh mà đánh cho ngươi một trận đấy”.

Dương Hạo cười nói: “Võ công của nàng không giỏi sao? Cần gì cứ phải giả bộ yếu mềm để cho người khác đánh ta, nếu nàng có thể giương mắt nhìn người khác đánh ta thì đã không cứu ta lúc ở Châu Quan rồi”. Dương Hạo nhỏ nhẹ nói: “ Tử Du, lúc ở trong phòng ta đã thấy một mũi tên, ta biết, nàng cuối cùng vẫn không nỡ rời xa ta, cho nên mới đi cứu ta, đúng không?”

Vừa nói, hắn vừa đút tay vào trong áo, lấy ra một chiếc khăn tay và mở ra, bên trong là một mũi tên, đầu mũi tên xám xịt, chứng tỏ bị tẩm độc.

Chiết Tử Du nhìn hắn bằng ánh mắt đáng thương, nhẹ nhàng lắc đầu nói: “Ôi, trông người cũng không đến nỗi, không ngờ lại là một kẻ điên”. Vừa nói nàng vừa đi vòng quanh người hắn một vòng, Dương Hạo quay lại chặn trước mặt nàng, cắn răng mà kêu lên: “CHIẾT! TỬ ! DU!”

“Ngươi lớn tiếng như vậy làm gì, dọa ta sợ chết khiếp”. Chiết Tử Du vỗ vỗ ngực, không biết làm sao, nhìn thấy Dương Hạo dáng vẻ bực tức, đột nhiên trong lòng thấy vui vui, khóe miệng mặc dù vẫn không cười những vẫn không nén được mà có hơi chút nhếch lên.

Dương Hạo vui vẻ nói: “Nàng thừa nhận mình là Tử Du rồi sao?”

Tử Du bĩu môi, nửa cười nửa không nói: “Miệng ở trên mặt người, ngươi muốn gọi ta là cái gì chẳng được, trời đã tối rồi, bản cô nương phải về phủ nghỉ ngơi, còn không tránh đường cho ta đi”.

Dương Hạo lại chặn đường nói: “Tử Du, lúc đầu ta hẹn thề son sắt, nói sẽ không phụ nàng, kết quả lại…” là ta hổ thẹn với nàng, cũng không dám níu kéo nàng, nhưng… bất kể như thế nào, tình cảm của ta với nàng vẫn không hề thay đổi, nàng thân gái một mình đến nước Đường này làm gì? Chuyện quân sự không phải là chuyện của nữ nhi có thể giải quyết được, hãy ngoan ngoãn quay về Tây Bắc đi, được không?”

Nghe hắn nói những chuyện như vậy, Chiết Tử Du hết sức tức giận, không nén được mà trợn mắt nhìn hắn, giọng lạnh lùng nói: “Ngươi nhớ kĩ lại được không, ta đã sớm nói với ngươi rồi, Tử Du không phải là tên ta, không cho phép ngươi gọi ta như vậy nữa”.

Dương Hạo nghe xong vừa bực vừa buồn cười, có điều trông thấy Tử Du có dáng vẻ đanh đá như thế, trong lòng cảm thấy nàng rất đáng yêu. Đây mới đích thực là tính cách của nàng, trước kia nàng hơi lý tính, ôm đồm quá nhiều việc, dù rất khả kính, nhưng lại khiến người khác không dám lại gần.

Hắn không kiềm được mà nói: “Nàng vẫn còn không chịu thừa nhận ư? Tử Du, xin nàng nói cho ta biết, nàng chạy đến Kim Lăng này rốt cuộc muốn làm cái gì?”

“Đó là chuyện của ngươi hả? Ngươi nói ta là Chiết Tử Du thì ta chính là Chiết Tử Du đây, thôi được, ngươi cứ việc đứng đó diễu võ dương oai đi, ta là thượng khách của nước Đường, quân thần của nước Đường rất tin tưởng ta, nói không chừng ngươi có thể nói rõ mưu đồ của ta cho nước Tống, còn có thể chặt đầu ta đem dâng nước Tống, như vậy Dương đại nhân có thể lập công lớn rồi”.

Dương Hạo cả giận: “Nàng nói hồ đồ cái gì vậy, nàng biết rõ ta sẽ không để nàng tổn hại đến một cọng tóc, kể cả có phải mất cái mạng này. Ta rất lo lắng cho nàng, Tử Du, nàng không nên tự cho mình là thông minh nữa, nói cho cùng, nàng chỉ là một tiểu cô nương, chuyện thiên hạ nàng sao có đủ sức cứu vãn đại thế được?”

Tử Du cảm thấy lòng rộn ràng, nhưng lại tức giận mà rằng: “Ngươi không hại ta? Ngươi hại ta còn không ít sao? Ta cũng không muốn nói ngươi nữa, chúng ta hiện nay đã không còn quan hệ gì nữa, chuyện của ta ngươi chớ quản”.

Vừa nói nàng vừa liếc nhìn nơi có treo đèn lồng đỏ bên kia đường, không nén được cơn giận mà nói: “Đúng là giỏi quá đi, có được người đẹp cùng búp bê mua vui còn không đủ sao, thản nhiên đi dạo thanh lâu mua vui”.

“Nàng ghen rồi sao? Dương Hạo cảm thấy trong giọng nói Tử Du có vẻ chua chát, đột nhiên thấy vui vẻ hẳn lên.

“Ta ghen ư? Ghen cái đầu ngươi!” Chiết Tử Du đỏ mặt nói: “Ngươi đừng có cho rằng mình đa tình nữa được không? Ta… ta chỉ là cảm thấy ngươi không xứng với hai người phu nhân của ngươi thôi”.

Dương Hạo trong lòng khấp khởi, đổi giọng nghiêm trang nói: “À, về vấn đề này nàng không cần bận tâm. Bọn họ vừa hiền hậu lại vừa hào phóng, thường xuyên dặn dò ta ra ngoài chơi cũng không vấn đề gì, chỉ cần nhớ đường về nhà là được”.

Mũi Chiết Tử Du cảm thấy mũi mình như có ai vặn lấy: “Ngươi… giờ giọng lưỡi của ngươi khá lắm, đã trở thành một kẻ tùy tiện rồi”.

Dương Hạo nhún vai nói: “Cũng chẳng còn cách nào khác, đàn ông không hư hỏng thì đàn bà không yêu mà. Con người ai cũng có thể thay đổi, chung quy cũng là trời sinh thành mà ra, nàng chẳng phải cũng đã thay đổi rất nhiều rồi hay sao?”

Lửa giận bốc lên ngùn ngụt, Tử Du không thèm quay đầu lại nhìn tên vô sỉ này nữa, Dương Hạo thấy dáng vẻ Tử Du như vậy, nụ cười trên môi dần tắt. Rốt cuộc nàng đến thành Kim Lăng làm gì kia chứ? Không được, ta nhất định phải cản nàng, tránh cho nàng đem bản thân và cả họ Chiết không còn đất quay đầu. Thế nhưng… nàng đến nước Đường, ra vào cung như thế là nhằm mục đích gì?”

Hoàng Phủ Kế Huân chạy đến, cười hì hì nói: “Dương tả sứ, vị cô nương này tính tình cứng nhắc, khó đối phó lắm phải không?”

“Ừm, đích xác là rất mạnh mẽ”. Dương Hạo vuốt cằm, mắt mơ mộng liếc nhìn bóng của Tử Du, “có điều, bản quan thích kiểu phụ nữ như thế này,… rất hợp với ta”.

Hoàng Phủ Kế Huân dò xét nhìn Dương Hạo, cười mà nói: “Dương sứ là quan của triều Tống, đến quốc vương nước Đường còn phải nể nang ngài hai ba phần, tất nhiên là không sợ cái ô của cô ta rồi, không…, con ngựa hoang dã này tính tình chưa được thuần dưỡng, nhưng cũng khó mà chạm lắm phải không?”

Dương Hạo bốc đồng nói: “Vậy chúng ta đánh cược nhé?”

“Hay, ta với tả sứ sẽ đánh cuộc với nhau, nếu như tả sứ thắng, bản tướng quân sẽ dâng hai tay tặng tả sứ căn nhà mới tậu của tại hạ, còn nếu như tả sứ thua…”

“Tùy ngươi xử”.

“Haha, nghe nói tả sứ xuất thân người Nam Nha, bản tướng quân vốn rất hâm mộ vương triều Tấn, nếu có cơ hội, xin tả sứ thay mặt dẫn kiến”.

“Nhất định thế, haha, chúng ta đi uống rượu thôi, chờ hai vị đại nhân kia đi ra, chúng ta cùng nhau về phủ nghỉ ngơi, bản quan còn phải suy nghĩ xem dùng cách gì để thắng được căn nhà của ngươi.”

Hai người vừa cuời nói vừa quay trở lại lầu xanh, chỉ trông thấy Tiêu Hải Đào đang sửa sang lại y phục ngồi uống trà, Dương Hạo nhìn hắn kinh ngạc mà rằng: “Tiêu đại nhân nhanh như thế ư?”

Dương Hạo vừa nói ra mới biết mình lỡ lời, nhưng may thay Tiêu Hải Đào cũng không để ý mà nói: “Cái việc này thì chỉ cần sung sướng là ra, chúng ta mất tiền, lẽ nào còn phải tốn công sức cho cái kẻ thu tiền hay sao?”

Dương Hạo cười khan nói: “À… Tiêu đại nhân nói có lý”

Ba người ngồi xuống, lại một lần nữa gọi rượu thịt ra nhắm và tiếp tục nói chuyện phiếm. Mụ tú bà dắt cô gái kia đến rồi thận trọng hỏi dò ý của Hoàng Phủ Kế Huân, lúc này đây hắn mới nhìn được dung mạo của tiểu nha đầu kia. Hoàng Phủ Kế Huân thích vóc dáng thon thả, dáng vẻ phong tình thành thục của cô nương ấy, nhưng không tiện nói. Dương Hạo thì như đang thiếu thiếu cái gì đó, Hoàng Phủ Kế Huân biết rõ bị Tống sứ này chỉ thích thú với việc dụ dỗ con gái nhà lành, nên cũng không nài, xua tay bảo tú bà dẫn cô gái kia đi.

Ba người lại ngồi uống rượu, cho đến khi khách trên lầu đã bắt đầu tản về gần hết, cũng không thấy bóng dáng Dạ Vũ đâu. Dương Hạo không khỏi thầm nghĩ: “Cái tên Dạ Vũ này người gầy như que củi, thế mà lại khỏe như vậy, hắn mà cố được thêm một lúc nữa thì ngay đến cả ta cũng đành bái hắn”.

Hoàng Phủ Kế Huân sớm đã không nhẫn nại được nữa, thấy Dương Hạo lộ vẻ mất kiên nhẫn liền chửi đổng một câu: “Lão già này, da bọc xương, không ngờ lại khỏe thế, vui thú đến hơn nửa ngày rồi mà vẫn còn…”

“A…” Dương Hạo hướng mắt nhìn hắn rồi ho khẽ một tiếng: “Đến rồi”.

Hoàng Phủ Kế Huân quay đầu nhìn, chỉ thấy Dạ Vũ đang từ từ đi đến, cứ như hồn ma đang lượn lờ. Hoàng Phủ Kế Huân không khách khí nói: “Dạ đại nhân già mà kiên cường, thật đúng là sinh ra để được sướng”.

Dạ Vũ cười thỏa mãn: “Cũng được, cũng được. Ba vị đại nhân cũng vui vẻ chứ hả?”

“ Vui, vui chết đi được ấy. Có điều đều không vui như Dạ đại nhân, đã mấy giờ rồi, chúng ta mau về thôi”. Ba người đợi lâu đã sốt ruột, vừa nhìn thấy hắn đi ra bèn đứng dậy hết lượt, Dạ Vũ đi theo đằng sau nói: “Cứ thế đi à? Chúng ta không uống bát canh gà, chậm rãi nhâm nhi chút sao…”

Hoàng Phủ Kế Huân nói: “Lão đại nhân của ta ơi, ông đừng đứng đó mà nhìn nữa, đã mấy giờ rồi? Sắp nửa đêm rồi, sáng sớm mai ông còn phải lên triều, ta không…”

Dạ Vũ cười hì hì nói: “Hổ thẹn, hổ thẹn quá, ai da, cuối cùng cũng đến tuổi rồi, không được như năm đó, không bằng năm đó…”

Dạ Vũ tự biên tự diễn, đoàn người lần lượt xuống lầu, chỉ nghe thấy những tiếng cười nói vọng ra từ phía các gian phòng. Do đêm khuya tĩnh mịch, khách uống rượu đã về hết, những tiếng nói chuyện trong lầu trở nên rõ mồn một, vọng ra tiếng một thiếu nữ nói: “Ai da, đêm nay thật là khiến người ta mệt chết”

Tiếng một người khác nói: “Tỷ tiếp vị khách kia thì nhàn, chỉ bằng thời gian uống một chén trà nhỏ hắn đã ra hết rồi, xem ra muội tiếp tên khách già họ Dạ kia còn gầy hơn khách của ta, thế mà lại mạnh dữ vậy sao?”

Nghe thấy thế, Hoàng Phủ Kế Huân liền lập tức dừng bước, tò mò dỏng tay lên nghe ngóng, phàm là đàn ông thì đều có hứng với những chủ đề này.

Nhưng lại chỉ nghe thấy tiếng của thiếu nữ kia đáp: “ Dũng mãnh cái con khỉ nhà hắn chứ. Mới nằm lên người người ta đã ra rồi, muội còn tưởng lão bất tỉnh, ai ngờ hắn không cam tâm, nhưng trên bảo dưới không nghe, hại muội phải dốc toàn lực giúp lão, qua bốn tuần hương mới thấy có chút biến chuyển, nửa cứng nửa mềm vừa đưa vào đã lại ỉu xìu, đúng là mệt xác với lão già…”

“Phì”, từ miệng Hoàng Phủ Kế Huân phun ra một tiếng xé rách không gian yên tĩnh, vai run lên, Dương Hạo mặt co rúm lại, nhìn vẻ mặt đang cố nhịn cười của Tiêu Hải Đào, lại nhìn gương mặt nửa trắng nửa đen của Dạ đại nhân, chàng khẽ ho khan vài tiếng rồi nói: “Vốn tưởng Dạ huynh là một cái họ hiếm gặp, không ngờ ở Hồng Tụ Chiêu cũng có một vị sư huynh khác họ Dạ”.

Dạ đại nhân như người trút được gánh nặng nói: “Đúng vậy đúng vậy, không ngờ còn có người họ Dạ giống ta, đúng là khéo thật, haha, khéo thật”.

Hoàng Phủ Kế Huân không nhịn được mà bật cười lớn: “Dạ đại nhân, sao ông không đi kết giao với vị huynh đệ họ Dạ kia nhỉ? Biết đâu lại chẳng là người một nhà”.

“Nào có khéo thế…” Dạ đại nhân cười khô nói: “Đêm đã khuya rồi, chúng ta mau đi thôi”. Vừa nói ông ta vừa băng băng đi trước dẫn đường. Khi ánh trăng trên trời soi rọi khắp người, Dạ đại nhân mới cúi mặt chửi thề: “Lần tới nhất định tìm một đứa trẻ hơn chút, những đứa con gái phong tình thế này quả thật không chơi được”.

************************************************** ***

Cũng dưới ánh trăng đó, một con thuyền lớn bỏ neo ngoài khơi Hạo Hàn. Thả neo chắc chắn để con thuyền đứng yên trên mặt biển, theo những con sóng mạnh vỗ, chiếc thuyền giống như một con thú lớn đang thở phì phò.

Trên thuyền, nơi gian phòng xa hoa và lộng lẫy nhất thuyền, bóng hai người mờ ảo giống như những con sóng dập dềnh, những tiếng rên rỉ và hổn hển từ giường vọng ra, cùng với tiếng sóng hòa vào làm một.

“A…” tình cảm mãnh liệt được phóng thích cùng với tiếng gầm nhẹ, có tiết tấu và nhịp nhàng dần lắng vào màn đêm yên tĩnh.

Quá nửa đêm, màn trướng mở ra, một nam tử hán ngực đầy lông thô ráp, người mặc một chiếc quần ngắn màu da báo, tóc tai bù xù trèo xuống đất, đi đến bên bàn trà, rót một ấm trà. Bên trong tấm mành mỏng, bóng một người đang ngồi dậy, từ từ mặc quần áo.

Người đàn ông để ngực trần uống no nước, đi tới phía trước cửa sổ, mở toang rèm cửa, nhìn ánh trăng soi rọi vào trong thuyền, làm mờ cả ánh sáng của hai ngọn nến đang cháy trên bàn. Người đàn ông đó rẽ tóc lại đàng hoàng, nhìn dung mạo thì đúng là hoàng tộc Khiết Đan ở Bắc quốc Da Luật Văn, hắn ngửi theo mùi hương của biển trong gió, hắn chỉ tay lên bờ và hỏi: “Chỗ kia là nơi nào? Chúng ta còn cách thành Kim Lăng bao xa?”

Chiếc màn trên giường được mở ra, một người thanh niên trẻ tuổi mặc quần áo màu trắng như màu của ánh trăng xuất hiện, mặt mũi khôi ngô, răng trắng môi hồng, trên má còn có vài tia đỏ, đó là Đinh Thừa Nghiệp.

Hắn đi tới chỗ Da Luật Văn, nhìn về phía bờ rồi nói: “Nghe lão Đại nói, bên bờ kia là nơi ở của Hoa Đình Huyền. Còn bên cạnh, nơi có nhiều đảo nhỏ là Đại Kim Sơn, Tiểu Kim Sơn và Đảo rùa. Như vậy, cũng không lâu nữa chúng ta có thể đến cửa sông Trường Giang, đi thẳng vào thành Kim Lăng được rồi”.

Hoa Đình Huyền vừa được nhắc tới được xây dựng ở nước Đường như thiên bảo, cũng là Thượng Hải ngày nay. Đinh Thừa Nghiệp tuy không nói ra, nhưng nhà hắn làm nghề buôn, đối với mỗi địa danh đều có biết chút ít, hắn cũng biết chỉ cần đi thêm chút nữa là có thể đến Trường Giang, từ đó thẳng tiến vào thành Kim Lăng.

Da Luật Văn gật đầu, mắt sáng lên, lưỡi đao trên tay hắn sáng lên dưới trăng: “Tốt lắm, sáng sớm mai chúng ta sẽ thả chim ưng Ha Lực Cái, đợi nó bay về đến kinh thành thì chúng ta cũng đến Kim Lăng rồi.”

Đinh Thừa Nghiệp nghĩ tới chuyện sắp xảy ra mà mặt trắng bệch, có chút lo lắng. Da Luật Văn mỉm cười liếc nhìn hắn một cái, nói: “Thành công có được trong những cái nhỏ bé, phú quý có được trong nguy hiểm, muốn có thành công lớn, cũng phải trả một cái giá nào đó chứ, muốn xưng đế xưng bá thì có đôi khi phải tan xương nát thịt, có gì mà phải lo? Nếu như lần này ta có thể trở thành hoàng đế thì ngươi cũng sẽ theo ta mà lên như diều gặp gió, nhưng nếu ta thất bại…”

Da Luật Văn nói lạnh lùng: “có điều sớm thì cũng phải mười mấy năm nữa mới phải vào quan tài, có gì mà phải sợ”.

Đinh Thừa Nghiệp vội nói: “Thần không sợ. Chỉ có điều, đại nhân ở tận Giang Nam xa xôi, lại đòi chiếm phương Bắc khó khăn, cuối cùng có thể thành công được hay không thì cũng khó đoán được. Thần chỉ e rằng…”

Da Luật Văn cười ha hả nói: “Sợ rồi hả? Chuyện này chúng ta đã chuẩn bị rất lâu rồi, chờ đến hôm nay mới phát động, nước chảy thành sông, chúng ta có ở Thượng Kinh hay không thì cũng đã không quan trọng nữa rồi”.

Hắn trở về bên bàn, ngồi nói: “Từ khi Tiêu Tư Ôn giết Mục Tông rồi lập Gia Luật Hiền, chúng ta đã chuẩn bị rồi. Tiêu Tư Ôn chết đột ngột, đó là bước đầu tiên. Chỉ là chúng là sai ở chỗ cứ ngỡ Gia Luật Hiền yếu ớt, không khống chế nổi đại cục, Tiêu Tư Ôn mà chết là xong, ai ngờ hắn không chịu thua, còn lôi ở đâu ra được một mụ hoàng hậu đáng gờm”.

Hắn thở dài, không nén được than thở mà nói: “Cái này, thực ra vốn là nữ trung cân độn, nhìn thấy triều cương không yên, liền đến biên giới Tống ngăn chặn thế hùng, kích động quân Tống Bắc phạt, khiến quân địch bên ngoài tiến đến Thượng Kinh, nhân cơ đó mà phong thưởng lớn, có ân thì kết lão thần, có công được thưởng tân Tấn, Hàn Đức đem toàn bộ gia đình họ Tiêu dồn vào ở khu thân quân, 12 cung một phủ, tổng binh lực cũng có khoảng 10 vạn người, đều là những người tinh nhuệ. Có thể thấy, chúng ta mới chỉ được tạm thời ổn định, chúng ta vẫn tiếp tục chuẩn bị, cho đến hôm nay mới phát động”.

Hắn lại cười nói: “Mượn địch trợ giúp, quả đúng là diệu kế. Tiêu Xước mượn quân Tống để tự bảo vệ mình, phạt Tống lấy lập uy, cái này chỉ có cô ta mới có thể làm được. Ta Da Luật Văn đương nhiên cũng có thể sử dụng. Cô ta mà muốn phản ta bằng cách nhân cơ hội dùng lực lượng của ta ở Thượng Kinh trừ khử ta. Tốt lắm! Ta cho cô ta cơ hội này, tương kế tựu kế, giành được quyền phát động trước, bí mật kết liễu hoàng thượng, Hàn Đức, Gia Luật Cách, Tiêu Thác…

Lý Dục muốn mượn thế của Khiết Đan khiến cho quân Tống bẽ mặt. Ta có thể nể mặt hắn, rồi dìm hắn xuống nước, chuyến đi này đến Giang Nam, tìm cơ hội giết Tống sứ, triều đình nhà Tống đã làm chủ trung nguyên, thế lực không dễ dàng khiêu khích, nhất định nước ta phát động thì nước Đường không còn chỗ tháo lui, chỉ có cách liên minh với chúng ta, chặn đường lui của quân Tống. Quân Tống bắc phạt, khí thế ngùn ngụt, khi đó Thượng Kinh cũng không tránh khỏi loạn lạc.

Ngươi chớ coi ta hôm nay ủng hộ Gia Luật Hiền, nếu như có một ngày thiên hạ thái bình thì thôi, đến khi đó, gia tộc Gia Luật nếu như chỉ có ta Da Luật Văn mới đủ sức nắm càn khôn trong tay, thì bọn họ chỉ có nước mời ta đứng lên thôi”.

Đinh Thừa Nghiệp lo lắng nói: “Vậy còn Tiêu hậu?”

Da Luật Văn nói: “Tiêu Xước, hừ, mụ ta và hoàng đế thì có tình cảm gì đâu chứ? Tiêu Tư Ôn cho bà ta cuộc hôn nhân này, vào cung làm hoàng hậu, chẳng qua là để Vũ gia và hoàng tộc Gia Luật của ta mãi mãi bảo vệ sự hưng thịnh của họ Tiêu mà thôi. Hoàng đế chỉ cần gia tộc Gia Luật của ta thành công, lấy Gia Luật Hiền hay là Da Luật Văn cũng đều có gì khác nhau đâu?

Tiêu Xước vốn là một người thông minh, hiểu được tiến thoái, hiểu rõ được mất, đến lúc đó, để bảo tồn sự an toàn của họ Tiêu, cũng tránh cho Thượng Kinh bị một phen náo động, bà ta chỉ cần thuận tình lập ta lên làm vua, làm hậu của ta, hahaha, giang sơn mỹ nữ, dễ như trở bàn tay, cái nguy hiểm này lẽ nào không đáng để mạo hiểm?”

“Thần rõ rồi”. Trong mắt Đinh Thừa Nghiệp như có một tia sáng lóe lên: “Kế hoạch này mới nghe thì có vẻ khó khăn, chỉ cần ở Thượng Kinh thành công giết hại hoàng thượng, giết được bè lũ Gia Luật Cách, Hán Đức, Hán Thác Trí… rồi dẫn quân Tống bắc phạt, hoàng hậu nương nương bất kể là vì xã tắc hay là vì gia tộc họ Tiêu, hay là vì chính bà ta, thì cũng chỉ có thể vứt bỏ ân oán cá nhân, nghênh đón đại nhân là điều đương nhiên.”

“Không sai!” Da Luật Văn đắc ý cười nói: “Khi rời khỏi Thượng Kinh, ta còn là chi huy sứ của đoàn quân binh mã của gia tộc, khi về Kinh, ta dã là hoàng đế của Khiết Đan, haha.., cái gì mà báo oán, đợi ta lên làm hoàng đế rồi thì ta sẽ sủng ái nàng vài đêm, cái tên ốm yếu vô dụng Gia Luật Hiền đó sẽ bị nàng quên lãng ngay thôi, cô ả sẽ chẳng thể nào quên được cái ngọt ngào mà ta mang lại đâu, hahaha…”

Đinh Thừa Nghiệp lộ vẻ cười hưng phấn: “Không biết vị sứ giả mà nước Tống cử đến nước Đường là người như thế nào, đại nhân chuyến này đi…”

Da Luật Văn cười nói: “Mặc kệ hắn là người thế nào, đợi tin thắng lợi từ Thượng Kinh truyền đến, ta sẽ cho hắn một nhát đi đời nhà ma”.

Chiết Tử Du chậm rãi bước đi trên đường, từ phía xa Trương Thập Tam cũng đang định đi tới, thấy Chiết Tử Du thủ thế, liền cảnh giác, nhìn bốn phía một lượt rồi mới quay lại hòa mình trong dòng người.

Chiết Tử Du tức giận nghiến răng, Dương Hạo, tên khốn nạn, đi theo ta đến nửa ngày rồi, chẳng lẽ sau này ngươi cứ định ngày ngày theo ta, vậy thì muốn làm việc gì cũng khó rồi.

Nàng đi tới một quầy hàng phía trước, tiện tay cầm lên một món đồ trang sức, khóe mắt lấp lánh thì nhìn thấy Dương Hạo đi tới, liền lập tức đứng thẳng người, giả vờ đang ngó quần áo của mấy vị tiểu thư qua đường.

Dương Hạo dày mặt đi đến: “ Hà hà, Mạc cô nương quả thực có con mắt nhìn đời, quần áo của vị tiểu thư kia quả thật là rất đẹp phải không”.

Chiết Tử Du ngẩng mặt nói: “Vậy thì làm sao?”

Dương Hạo cười nói: “Nếu như nàng thích thì ta sẽ cho người lột quần áo của cô ta đem về cho nàng, còn quần áo của nàng thì sẽ thuộc về ta, có được không?”

Chiết Tử Du trừng mắt, nói: “Vô lại!” rồi quay người đi, Dương Hạo khẽ nhíu mày đuổi theo.

Một con đường, hai con đường, ba con đường, Chiết Tử Du chỉ có thể coi hắn là không khí, Dương Hạo lơ đễnh tự hỏi tự đáp, quyết làm một cái đuôi bám theo. Chiết Tử Du không kiềm chế được bèn dậm chân sẵng giọng: “Ngươi theo ta làm gì?”.

“Không có gì, ta chỉ muốn biết nàng muốn làm gì… À, ta biết rồi nhé”

Chiết Tử Du giật mình: ”Ngươi biết cái gì rồi?”

Dương Hạo lộ ra nét cười bí mật: ”Nàng không muốn rời xa ta, biết ta phải đến nước Đường nên nàng mới đến trước để đón ta, cố tình tạo cơ hội cho đôi ta gặp gỡ, có đúng không?”

Chiết Tử Du vừa bực vừa buồn cười, đột nhiên thấy trong lòng rối bời, với dáng điệu không thay đổi, Dương Hạo cảm thấy như có cảm giác được yêu một lần nữa, cái cảm giác lẫn lộn lại ngọt ngào khiến nàng cảm thấy có chút sợ hãi, nàng hỏi: ”Dương công tử, Dương tiên sinh, Dương đại gia, rõ ràng là công tử theo dõi ta có đúng không?”

Dương Hạo làm vẻ mặt vô tội nói: ”Đâu có đâu, chỉ là ta đã có mưu đồ trước là sẽ gặp nàng thôi mà”

” Ngươi... ngươi thật là vô lại!” Chiết Tử Du tức đến dậm chân, đúng lúc hắn ta không biết làm gì thì đột nhiên nghe vọng đến một tiếng la chiêng, phía trước xuất hiện một đoàn binh sĩ, vai khiêng kiệu, vừa đi vừa quát lớn: ”Sứ giả Khiết Đan đến, mau tránh đường!”

Chiết Tử Du tròn mắt, cười nói: ”Khiết Đan xuất sứ đến nước Đường, hihi, từ bây giờ ngươi có việc để làm rồi nhé, không cần phải đi theo quấy rầy ta nữa”.

Dương Hạo quay mặt lại nhìn đám người, vừa nghe được mấy câu, hắn quay đầu lại cười nói nhỏ với Tử Du hai chữ: ”Mơ hão!”

**************************

Vua nước Đường nghênh tiếp sứ tiết Khiết Đan hết sức long trọng. Từ trước đến nay, Khiết Đan và vua nước Đường vẫn giao lưu buôn bán trên biển với nhau, lần này Lý Dục nhiệt tình mời Khiết Đan đến chơi, có thể nói là đã cố nén nỗi khổ tâm trong lòng, một mặt xưng thần với Tống sứ, cốt để quân Tống không tìm ra lý do để đánh Đường, mặt khác vẫn giao du với quân Khiết Đan thế lực hùng mạnh, chiêu này gọi là kim giấu trong bọc, nay tiết sứ Khiết Đan đã đến, hắn tự nhiên lại muốn khoa trương thanh thế.

Dương Hạo không mấy để ý đến sứ giả Khiết Đan. Nhưng Tiêu Hải Đào thì có vẻ hơi căng thẳng, liên tục phái người đến dò la tình hình Khiết Đan. Trước mặt Dương Hạo thì tức giận mà rằng: “Đại nhân, nước Đường đã xưng là thần của nước Tống, là chư thần của nước Tống, nay chưa được sự đồng ý của nước Tống ta lại tự do giao du với Khiết Đan, như vậy há còn đạo lý gì nữa? Thật không hợp lý!”

“Thì sao? Ừm, chờ Mạc cô nương rời khỏi hoàng cung thì ngươi lập tức nói cho ta biết, đi mau, tiếp tục theo dõi cô ta”. Dương Hạo phẩy tay đuổi một gã thị vệ ra ngoài, quay người lại nói một cách lười nhác: “Khiết Đan đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Tống ta, không phải là quân địch của nước Tống. Nước Đường có quan hệ với họ cũng là có gì đáng chỉ trích? Nước Đường chỉ là một nước chư hầu của nước Tống, nhưng cái quyền tự chủ này cũng phải có chứ hả?”

Tiêu Hải Đào tức giận không nói, một lát sau có được chút tin tức lại chạy đến tìm Dương Hạo: “Đại nhân, sứ giả Khiết Đan đến chơi, nhà Đường bày ra yến tiệc thịnh soạn cùng 360 người nghênh đón, Đại nhân, khi chúng ta tới, họ chỉ cử ra có 120 nghênh đón thôi. Bên trọng bên khinh như vậy làm sao hợp lý? Nước Đường là nước chư hầu của chúng ta, đối xử với chúng ta như vậy chẳng phải không hợp đạo sao?”

“Kể cả bọn họ cử ba ngàn sáu trăm người ra thì đã sao? Bản quan không để ý đến những cái đó.”

Tiêu Hải Đào sốt ruột nói: “Đại nhân, đây không phải là chuyện không có lễ với chúng ta, Đại nhân cầm lễ tiền đến là đại diện cho thiên tử của nước Tống, nhưng lễ nghi lại bị thua kém người Khiết Đan, như vậy quả là mất thể diện nước Tống ta quá ạ.”

“Vậy ngươi bảo làm sao bây giờ? Để Lý Dục xin lỗi, sau đó chúng ta ra khỏi thành, phái 360 người hành lễ, rước đón chúng ta lại từ đầu sao? Đó chẳng phải là trò hề hay sao? Tiêu tự thừa, bình tĩnh một chút, ta nghĩ đang có người hy vọng chúng ta giận quá mất khôn đấy!”

“Vâng!”

Chớp mắt đã đến trưa, Dương Hạo vừa dùng bữa xong, vừa mới uống một ấm trà, Tiêu Hải Đào lửa giận bừng bừng đến: “Đại nhân, muốn nhẫn nại cũng không thể nhẫn nại nổi nữa. Sứ giả Khiết Đan đã cống nạp dê cừu mỹ tửu, áo long cừu cho vua Đường, vua Đường lấy vàng bạc châu báu đáp lễ là được rồi, còn trao kim ấn cho họ, làm sao họ có quyền lấy kim ấn ra trao thưởng?”

Dương Hạo trừng mắt nói: “Ai bảo bản quan không biết? Ta nào biết hắn có quyền lực gì ? Ngươi nói xem hắn có quyền đó hay không?”

“Cái này… hạ quan không nhớ rõ có tiền lệ này hay không, đại nhân chờ hạ quan đi kiểm tra luật cổ lễ xem sao. Nếu như không hợp lý, chúng ta có thể căn cứ vào đó để công khai lên án Lý Dục”.

Dương Hạo nghe câu được câu chăng, cũng không để tâm lắm, Tiêu Hải Đào thì đi đi lại lại với Quy thừa tướng, lúc này đây đang hết sức chú ý động tĩnh của triều đình.

“Đại nhân đại nhân” Tiêu Hải Đào lật đật chạy lại “Đại nhân, quốc tiệc thiết đãi sứ giả Khiết Đan sắp kết thúc, đoàn sứ giả sắp về nhà khách. Vua Giang Nam còn phải đích thân đến tiễn ra cửa ngọ môn, đến đại nhân đại diện cho thiên tử nước Tống mà còn không được hành lễ như thế, vua Giang Nam thật đúng là không ra thể thống gì cả.”

Dương Hạo than thở nói: “ Tiêu tự thừa, xem ông vã mồ hôi kìa, đến đây, ngồi uống cốc trà đi”.

“ Tạ đại nhân, hạ quan không uống, người nước Đường quá đề cao dân Khiết Đan, không sợ quân Tống ta sao? Hứ, hạ quan lại đi xem tình hình thế nào”. Tiêu Hải Đào chớp mắt đã không thấy đâu nữa, Dương Hạo nhìn theo bóng ông ta mà dở khóc dở cười: “Cái tên Tiêu tự thừa này, khi tức lên thật đáng yêu, nhưng thật ra như vậy cũng có chút khí tiết”.

Một thị vệ lanh lẹ tay chân đi tới, đứng bên Dương Hạo nhỏ giọng nói: “Đại nhân, thuộc hạ thừa lệnh theo dõi Mạc cô nương, cô ấy vào cung đã lâu mà vẫn chưa thấy ra, sau đó thay quần áo thường phục, nói nhỏ với tên phu xe vài câu, sau đó Mạc cô nương ở trong đó đến đêm mới ra”.

“Hả?” Dương Hạo trợn tròn mắt: “Lâu như vậy sao?” Cô ta đang tính trốn ta hay sao? Hừ, dễ mà qua mặt được ta sao? Ta đi ngủ trước, để mai tập trung tinh thần tiếp tục đấu với cô”.

Dương Hạo vừa đứng dậy, Tiêu Hải Đào mặt mũi đỏ gay chạy lại nói : ”Đại nhân, người chắc chắn là không biết ai là người đích thân ra tiễn đoàn sứ giả Khiết Đan về nhà khách đâu”

Dương Hạo liếc mắt nói: ”Chắc là Dạ Vũ đại nhân chứ gì, ông ta không phải là đại hồng bột hay sao, tiếp đãi sứ giả cũng là nhiệm vụ của ông ta mà”

”Hì!”

Tiêu Hải Đào dậm mạnh chân, tức giận nói: ”Dạ Vũ tất nhiên phải có mặt rồi, nhưng còn có một người trong cung đích thân đến, đó chính là đại thần thủ phủ của Đường Quốc, Khu Mật sứ Trần Kiều, hắn ta vốn là tể tướng của nước Đường mà. Khi đại nhân mới vào cung, hắn còn không đích thân đón tiếp. Đây là điều sỉ nhục và khinh miệt đối với nước Tống ta, đại nhân phải lập tức vào cung, kháng nghị đến cùng với vua Giang Nam!”

Dương Hạo ngáp một cái, nhổ ra một lá chè, rồi làm như không có việc gì mà nói: ”Không có việc gì khác sao? Nếu không có việc gì khác thì bản quan đi ngủ đây, nghe nói ở đây xuân vây thu thiếu, quả thật là không giả. Đất Giang Nam này đã vào đông, đúng là có cảm giác như đang vào thu, thật dễ buồn ngủ, Tiêu đại nhân nếu không có việc gì làm thì cũng đi ngủ đi, cho lại tinh thần, chạy đi thêm vài nơi nữa, cố gắng thu thập hết thông tin về đường đi, sông ngòi, ao hồ, đóng quân... rồi ghi lại, như vậy mới là việc đúng đắn.”

Dương Hạo thắt lại thắt lưng, thản nhiên đi mất. Tiêu Hải Đào đứng nhìn theo bóng chàng đi mất mà phát run.

Dương Hạo nằm khoảng hai tuần hương thì chìm sâu vào giấc ngủ, khi đang say say ngủ thì Tiêu Hải Đào lại tức giận chạy vào: ”Đại nhân, đại nhân.”

Dương Hạo quay lưng ngồi dậy, cười khổ sở nói: ”Tiêu tự thừa, lại nghe ngóng được chuyện gì mà không nhịn nổi như vậy?”

Tiêu Hải Đào phẫn nộ nói: ”Hạ quan không phải là nghe ngóng được tin gì cả, mà là tận mắt nhìn thấy. Sứ giả Khiết Đan vừa mới vào dịch quán đã chê ỏng eo là ở nơi đó xa xôi quá, sân cũng không bằng nơi chúng ta đang ở. Bọn họ còn muốn chúng ta dọn đi nơi khác, nhường nơi này cho bọn họ, Chương chỉ huy lý luận với bọn họ còn bị bọn họ động hủ, đã làm bị thương mười mấy binh sĩ quân ta rồi!”

Dương Hạo ngẩn người, mắt trở nên mơ hồi... Rồi bỗng nhiên quát lớn: ”Thị vệ của chúng ta đều là cấm quân, nói về võ công thì cũng không thua kém bọn Khiết Đan, sao lại để chúng động thủ uy hiếp như thế?”

Tiêu Hải Đào nói: ”Đại nhân không biết đấy thôi, bọn họ chỉ nhằm mục đích gây sự. Chương chỉ huy nghe nói binh sĩ xảy ra tranh chấp đã mang quân đến hòa giải, vốn không muốn động thủ với bọn chúng, đến gươm giáo cũng không mang theo, nhưng đối phương lại dùng binh đao, lẽ nào chúng ta chịu thiệt? Hồng Lư tự Dạ Vũ cũng có mặt nhưng hắn không khống chế được bọn Khiết Đan kia, đại nhân, chúng là theo lý mà nói phải là thượng khách của nước Đường, vua Đường đối đãi, nghênh tiếp chúng ta là trách nhiệm của ông ấy, nhưng đến nay lại để xảy ra chuyện như thế này, ông ta còn như người ngoài cuộc không can dự. Đại nhân nên đến làm rõ lý lẽ với lão ta”.

”Kháng nghị cái đầu ông, Tiêu đại nhân, ông không thể nói chuyện khác được à?”

Dương Hạo tức đến nỗi nói thô lỗ với Tiêu Hải Đào, chàng vừa mặc quần áo vừa nói: ”Phàm mà kháng nghị, thì đa phần đều là những kẻ ở vị thế thấp mà nói cao, chứ nếu không cần chi phải kháng nghị? Kháng nghị có cái tác dụng gì, bọn họ làm như thế nào chúng ta sẽ làm như thế, đánh cho bọn hắn đi về gặp tổ tiên không phải là xong ư?”

”Hả, phải... phải động thủ sao?”

Tiêu Hải Đào lắp bắp nói. Ông ta không ngờ rằng một người tính tình tốt như thế, tốt đến mức tưởng chừng như mềm yếu lại có thể dữ đến như vậy, ông ta kinh ngạc nói: ”Cái này, cái này sợ rằng không ổn, chúng ta là ngoại sứ, đến nước Đường làm khách. Có xảy ra chuyện gì thì cũng cần chủ nhà lộ mặt, nếu như chúng ta ở trong nhà khách đánh nhau với hội Khiết Đan thì chẳng phải cũng là loại vô lễ nghĩa giống chúng hay sao? Nước Đường sẽ được thể mà lên mặt. Vua nước Đường truy ra ngọn ngành thì chúng ta sẽ không bị thiệt đâu”.

”Theo lý cái con khỉ mốc!

Chương 353: Xung đột 

Dương Hạo xỏ giày, đứng thẳng lưng, lấy thanh gươm mà Chiết Tử Du tặng chàng treo trên tường xuống, vừa giơ kiếm, vừa hét lên một tiếng “cha”, chàng nhìn kiếm, đút kiếm lại vào vỏ rồi đeo lên lưng. Vừa buộc lại đai lưng vừa nói: “ Thời Hán vũ đế, đại tướng Lý Nghiễm Lợi đã đổ máu trong cuộc chiến Đại uyển, thây phơi ngàn dặm, đó không phải là vì Tổ quốc của ông ta đó sao? Theo cách nói của ngươi là không hợp đạo lý, không hợp đạo lý thì làm sao? Sau trận chiến đó thắng lợi rực rỡ, các chư quốc Tây vực nhìn ông ta như thế nào? Từng hoàng thổ thế đạo, tịnh thủy bát phố, tất cung tất kính. Nếu như tặng cả thần tiên nữa thì e rằng trên thiên giới các thiên sứ bất mãn. Khi Lý Nghiễm Lợi đem quân đi, các nước chư hầu đều đích thân nghênh tiếp từ 10 dặm, khi về nước thì các quân vương mang theo vàng bạc châu báu ra đích thân đón tiếp thiên tử Trung nguyên.

Cuối cùng Hán vũ đế không còn được cường thịnh như xưa nữa thì thế nào? Quốc vương nước Khang khi tiếp kiến sứ giả chư hầu đã sắp xếp để sứ giả Ô Tôn của Đại Hán sau cùng, rồi quốc vương càng thêm ngạo mạn không nói một lời mà giết chết sứ giả, kết quả nước Hán nổi giận, phái thêm vài sứ giả đến rồi đều bị giết chết, tại sao phải tiền cung hậu cứ? Do thực lực mà thôi. Ngươi có lễ nghĩa và ngươi hy vọng người khác tôn trọng ngươi? Vậy ngươi đi đoạt lấy chức quân vương đi, có một vài người nói nhẹ không ưa chỉ ưa nặng, không cần biết có lễ nghĩa gì hết đâu, đi thôi!”

Dương Hạo vừa nói xong liền bỏ ra ngoài, Tiêu Hải Đào ngẩn ra hồi lâu mới vội vàng giật mình nói: “Nếu biết sớm đại nhân vốn nóng tính thế hạ quan đã không bẩm báo cho ngài, việc này làm to ra cũng đành vậy nhưng chớ có làm đến mức không gì cứu vãn nổi”.

“Bây giờ thần ưng của ta hẳn đã bay về đến Thượng Kinh rồi chứ nhỉ?”

Gia Luật Văn nhìn về phía bầu trời xanh xa xôi, suy nghĩ một lát, rượu Giang Nam mềm mại thơm ngon, dù trên bàn tiệc rất sung sướng thoải mái, nhưng đó chỉ có tác dụng làm cho mặt thêm chút hồng, không thể biến đổi được gì.

Đinh Thừa Nghiệp đi đến trước mặt hắn, nói: “Đúng vậy, với tốc độ bay của Ha Lực Cái thì giờ đã đến Thượng Kinh rồi. Đại nhân không ở Thượng Kinh để tự mình chủ trì đại cục , không biết ở đó tình hình ra sao”

Gia Luật Văn mỉm cười nói: “Ta ở Thượng Kinh, bọn họ lúc nào cũng sẽ đề cao cảnh giác, không chỉ ta, kể cả quân bộ tộc của ta cũng sẽ đều bị quan sát chặt chẽ. Bất kể là ai cũng đều không ngờ tới rằng, khi ta đang ở Giang Nam xa xôi lại có thể xảy ra cuộc phản động công kích, xuất kích bất ngờ mới có công hiệu”.

Hắn vuốt vuốt râu, dương dương tự đắc: “ Người Hán các ngươi binh thư hữu vân, có năng lực mà không thể dương oai, có thể dụng mà không thể dùng, đó chính là đạo lý. Ta rời Thượng Kinh, Tiêu Xước tự cho là được kế, bọn họ mới lơi là cảnh giác và cho ta cơ hội. Lúc này đây ta mà ở thượng Kinh tự tay nắm giữ quân bộ tộc càng dễ dàng đắc thủ. Bọn họ tuyệt đối không nghĩ rằng ra- một kẻ ‘ốm yếu bệnh tật’, phụ thân đại nhân cũng rời đất bộ tộc, bí mật đến Thượng Kinh khống chế quân bộ tộc của ta, haha.. chứ không hề biết phụ thân đại nhân của ta lúc nào sẽ phát động”.

Đinh Thừa Nghiệp an ủi: “Đại nhân không cần phải quá lo lắng, lão Vương gia cưỡi ngựa cả đời, kinh nghiệm chinh chiến cũng phong phú hơn người, chắc chắn sẽ chọn được người thích hợp nhất để tiến hành chiến lược này”.

Lúc này, một thị vệ vội vã chạy vào bẩm báo: “Đại nhân, người Tống không chịu dọn đi, chúng thần đã cãi nhau một phen, hai bên bắt đầu động thủ rồi ạ”.

Gia Luật Văn trừng mắt nói: “Người của chúng ta không bị thiệt chứ?”

Tên thị vệ đó liền cười hi hi mà rằng: “Đại nhân yên tâm, nhờ phúc lớn của đại nhân, chúng ta đã chuẩn bị kĩ trước khi đến, ai cũng có giắt vũ khí theo người, đánh bị thương vài người của bọn chúng, người của chúng ta thì không ai bị thương cả. Có điều, chúng ngậm bồ hòn, đợi binh lính đến đều đã mang theo vũ khí, sợ rằng muốn đánh một trận lớn”.

Gia Luật Văn cười ha hả nói: “Chúng dám? Ta cũng đang muốn bọn chúng mang binh đến đây, đi, ta ra xem”.

Đinh Thừa Nghiệp vội vàng khuyên: “Đại nhân, hiện nay ở Thượng Kinh vẫn chưa có tin tức gì đích xác, chi bằng đừng sinh sự vẫn hơn”.

Gia Luật Văn hiểu ý mà cười: “Đương nhiên bây giờ ta vẫn chưa thể giết Dương Hạo, có điều cũng phải cho hắn mất hết uy phong”.

Đinh Thừa Nghiệp ngẩn người, mặt đột nhiên trắng bệch: “Dương Hạo? Dương Hạo là ai?”

Gia Luật Văn nói: “Sứ giả của nước Tống là Dương Hạo, nghe nói hắn khi ở Tây Bắc đã giao lưu với Gia Luật Cách, ắt hẳn là một con người văn võ song toàn, chúng ta đi gặp hắn”. Gia Luật Văn nắm chặt con dao giắt lưng rồi đi, Đinh Thừa Nghiệp ngây người đứng tại chỗ.

“Dương Hạo, có phải là Dương Hạo không?” Đinh Thừa Nghiệp nghĩ lại cái người đã khiến cho mình sợ đến mức lâm vào cảnh như thế này. Bất giác ngọn lửa căm giận từ từ bốc lên, hắn kéo vành mũ trên đầu xuống che mặt, theo Gia Luật Văn ra ngoài.

Dạ Vũ đứng ở giữa hai bên, khom người thở dài nói: “Chư vị, chư vị, chư vị từ xa đến đây làm khách, đều là thượng khách của nước Đường, có gì thì từ từ thương lượng với nhau, hà cớ gì phải vì chuyện nhỏ này mà mất hòa khí?”

Chương Đồng Châu quát lớn: “Chương Gia chúng ta vốn đường đường là nam tử hán, hôm nay các ngươi làm bị thương vài anh em, ngươi bảo ta là phải nhân nhượng ư, họ Chương chúng ta không sợ, Dạ đại nhân, mời ngài tránh ra một bên, hôm nay Chương Đồng Châu ta nhất định phải đòi công bằng từ bọn Khiết Đan.”

Chương Đồng Châu đứng bên cấm quân thị vệ,quần áo chưa kịp chỉnh tể, rõ ràng là nghe tin xong liền chạy đến ngay, sau lưng có một vài binh sĩ cầm dao, mâu, do đến muộn nên một vài binh sĩ đã bị thiệt, chỉ huy đang cùng giao thiệp với đối phương, do đó chưa có ai lên chiếm thế. Hai bên mặt đối mặt, Gia Luật Văn mặc chiếc quần da báo, chân đi giầy, rõ ràng là một đại hán của Khiết Đan, thế mà trong tay lại cầm theo không ít vũ khí, khiến ai cũng chăm chú nhìn theo, rõ ràng là đã có sự chuẩn bị kĩ trước khi đến đây.

Bọn họ nghe thấy Chương Đồng Châu nói như vậy thì cười ha hả mà rằng: “ Người nhà Tống các ngươi chỉ là giỏi khoa môi múa mép, có bản lĩnh gì thực sự thì mau thể hiện ra đây, người Khiết Đan chúng ta mới thực sự là những bậc anh hùng hảo hán, các ngươi có bản lĩnh thì thử giết ta xem, ta sẽ cho các ngươi nếm mùi lợi hại, chứng thực tiếng tăm hảo hán! Nếu như các ngươi không có tài cán gì thì hãy cuốn gói đi vẫn còn kịp, còn chỗ này bọn ta ở là chắc rồi.”

Hai bên lửa giận bừng bừng, đều đang muốn nhảy vào nhau đánh lộn. Dạ Vũ khổ sở khom mình khuyên giải: “Các ngài bình tĩnh đã, có gì nói chuyện với nhau, ai đó đi mời sứ giả Gia Luật và Dương trái sứ đến, bản quan thật sự không can nổi rồi”,

Ngẩng đầu lên thấy Dương Hạo và Tiêu Hải Đào đang đi đến, Dạ Vũ không nén nổi mừng rỡ: “Tiêu tự thừa ngài đến đúng lúc lắm, mời ngài can ngăn dùm, tử viết, lễ chi dùng, cùng vi quý. Tiên vương chi đạo, tư vi đắc ý. Ồn ào như thế này Đường quốc chúng tôi thật mất mặt quá, thật chẳng giống ai rồi.”

Tiêu Hải Đào vốn định ra mặt khuyên can, để tránh cho Dương Hạo phải ra tay. Nhưng nghe thấy những lời nói này lại thấy rất bực mình, không nén nổi mà lớn tiếng phản bác: “ Dạ hồng lư há lại muốn đoạn chương thủ nghĩa? Đã có câu: ‘Lễ chi dùng, cung vi quý. Tiên vương chi đạo, kỳ vi mỹ’. Vừa muốn cái này lại muốn cái kia, như vậy không được. Biết lễ nghĩa thì hòa hảo, bằng không thì khó lắm. Hôm nay là do người Khiết Đan thất lễ trước, Dạ đại nhân đến không làm gì được lại chỉ trích người Tống chúng tôi thất lễ hay sao?”

Hai bên võ sĩ giương cung giương kiếm, hai người cầm đầu ở hai bên lại không hề qua lại một lời, bên này dường như chuẩn bị biện luận thì bên kia cũng sẵn sàng giở lý, không chỉ những võ sĩ hai bên nghe không hiểu, đến Dương Hạo cũng không hiểu.

Hóa ra Dạ Vũ trích dẫn lời của Khổng Tử, nói về dĩ hòa vi quý. Ở nơi này từ xưa đến nay đều rất chuộng nói đạo lý, khiến người ta mâu thuẫn thì lại không thủ lễ, mà Tiêu Hải Đào lại phản bác ông ta, như vậy theo cách nói của Khổng Tử thì là vạn sự dĩ hòa vi quý. Nhưng Khổng Tử cũng nói rằng nếu như bất kể làm việc lớn nhỏ gì cũng đều dĩ hòa vi quý thì không thể khống chế quy củ pháp luật, như vậy là làm mất nguyên tắc.

Hai tên mọt sách đáng thương bị hai võ sĩ dẹp ra không thương tiếc, dường như trong mắt họ, hai tên ưa lý luận kia chỉ là một cọng cỏ mà thôi. Dương Hạo nghe bọn họ cứ lẩm bẩm những lý lẽ phản biện mà phát bực, tiến lên vài bước mà nói: “Việc này Khổng Tử cũng không thể giải quyết nổi đâu, hãy để lão tử ta giải quyết”.

Quân Tống nghe thấy vậy liền quắc mắt, dạt sang hai bên cho Dương Hạo và Tiêu Hải Đào đi lên, tay nắm chặt gươm, hai người từng bước từng bước đi lên phía trước.

“ Đại nhân, chúng thần có lý trước. Chỉ tại bọn chúng động thủ đả thương người của chúng ta trước. Đại nhân, chúng thần không ngại đi vào cung…”

“Người đâu, Tiêu tự thừa mệt rồi, mau đỡ ông ấy vào trong nghỉ ngơi”

“Tuân lệnh!” Hai tên cấm vệ quân người Hán lưng hùm vai gấu, thân cao thước tám xuất hiện, đỡ hai bên Tiêu tự thừa rồi kéo ông ta vào trong.

Dạ Vũ mặt trắng bệch hỏi: “Dương trái sứ định giải quyết thế nào?”

Dương Hạo sắc mặt trầm xuống, điềm nhiên nói: “Dùng thanh kiếm trong tay ta”.

Dạ đại nhân vừa nghe thấy liền hốt hoảng: “Dương trái sứ tuyệt đối không được, nếu như các ngài ra tay thì sự tình sẽ càng thêm phức tạp, hạ quan…”

“Người đâu, Dạ đại nhân cũng mệt rồi, mau kéo ông ấy đi nghỉ ngơi”

Những lời nói này không phải xuất phát từ miệng Dương Hạo mà là từ thủ lĩnh Khiết Đan. Hắn cười hì hì nhại theo câu nói của Dương Hạo, ngay lập tức cũng có hai tên lính Khiết Đan chạy tới kéo Dạ Vũ sang một bên.

“Không được động thủ, không được giết người” Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào bị kéo vào trong cùng thi nhau hét lớn.

Dương Hạo nhìn con người cao to đang đứng vững như bàn thạch trước mặt, đó chính là thủ lĩnh Khiết Đan. Khí thế như núi, tay nắm chặt chuôi đao to đùng, chuôi đao bằng đồng sáng chói ngời, không biết đã bị ngón tay cái của hắn chạm vào biết bao lần. Hắn híp hai mắt trầm giọng nói: “Bản quan là Chỉ huy sứ của bộ tộc Khiết Đan, các hạ là ai?”

Dương Hạo cũng hơi nheo mắt nói: “Bản quan là Hồng Lư Tự Thiếu Khanh Dương Hạo của Tống quốc, chính là các người đã đến đây làm hại người của ta?”

“Roẹt” một cái, hai bên binh sĩ của Khiết Đan và nước Tống đều nhất tề rút gươm, làm thành một vòng vây hình tròn bao quanh hai người, một quan văn, một quan võ. Một người cầm gươm, một người cầm đao, hai bên nhìn nhau tóe lửa như sắp sửa lao vào nhau đến nơi.

Chương 354:Miệng nói một đằng, lòng nghĩ một nẻo

“ Là lão tử đây, a!”

Lý Giai vừa nói xong, đột nhiên một lưỡi kiếm sáng như tia chớp vụt tới, nhanh tới mức hắn không kịp phản ứng, hắn cảm thấy mặt mày xây xẩm, chỉ có thể hét lên một tiếng thảm thiết, Dương Hạo đã thu lại lưỡi kiếm sắc bén.

Lý Giai hồn xiêu phách tán, tay chân lạnh ngắt, toàn thân run rẩy, đao thị uy này đã khiến hắn tưởng chừng như mình bị bổ ra làm hai, cả người đứng hồi lâu không nhúc nhích được, mãi lâu sau mới bắt đầu nhúc nhích, hai tay hơi động đậy, cúi đầu nhìn lại mình.

Hắn vẫn khỏe mạnh nguyên vẹn, chỉ có điều khi vừa cử động, quần áo trên người bị xẻ đôi làm hai, đai lưng bay lả tả rơi xuống đất, cả thân hình trần như nhộng đứng đó, một dòng máu chảy từ rên mặt xuống sống mũi, xuống ngực, Lý Giai không nén nổi một tiếng kêu rên rỉ.

Dương Hạo thở dài nói: “Bị thương đến da thịt sao? Tại hạ học nghệ không giỏi, quả thực lấy làm xấu hổ”.

“ Ngươi, ngươi…ngươi” Lý Giai như trông thấy quỷ, tay run rẩy chỉ vào Dương Hạo, không nói được lời nào.

“ Xem ra các người cùng nhau xông lên đi, hắn ta một mình sợ không trụ được đâu”.

Dương Hạo cười khinh miệt, lấy ngón trỏ chỉ vào bọn võ sĩ Khiết Đan đang đứng sợ hãi, lúc này đây bọn chúng mới dường như sực tỉnh, lửa giận ngùn ngụt bốc lên, ai nấy đều rút đao ra khỏi bao, nhưng đã bị Chương Đồng Châu kịp thời ngăn lại.

Trong mắt những chuyên gia thì đường kiếm đó của Dương Hạo có tốc độ rất cao, hơn nữa đường kiếm lại chuẩn và ổn định. Kiếm pháp này căn bản là không cần thêm ai tiến lên trợ giúp. Mặc dù như vậy, Dương Hạo chỉ là trái sứ khâm sai của nhà Tống, một khi để xảy ra chuyện gì thì cái chức vụ thị vệ của hắn cũng không gánh nổi trách nhiệm, nên Chương Đồng Châu tự mình dành lấy hai thanh đao, tiến lên trước hai bước, chăm chú dõi theo nhất cử nhất động của Dương Hạo, lúc nào cũng sẵn sàng nhảy lên ứng cứu.

Dương Hạo cầm chặt Thanh Sương kiếm, lưỡi kiếm như cầu vồng, nhân nhược du long, tay áo tung bay phấp phới, mặc dù bốn phương tám hướng đều là những tay võ sĩ Khiết Đan với tay dao sắc bén, ánh mắt lạnh lung giống như cuồng phong ngày tuyết, nhưng hắn vẫn như tuyết trung độc vũ, phóng khoáng tự tại.

“Quan Thiên Hành, bị thương chỗ nào không?”

Bọn thị vệ cấm quân thấy vậy hoa cả mắt, chỉ thấy Dương Hạo hét lớn một tiếng, người thị vệ có tên Quan Thiên Hành kia ngẩn người, bước lên trước một bước hành lễ, cao giọng bẩm báo: “Khởi bẩm trái sứ, thuộc hạ bị đạp ở bên trái”.

“Hừ!”

Lời của Quan Thiên Hành vừa dứt, Dương Hạo liền phi một cước, kiếm thế thượng liêu, hai thanh đao cũng đồng thời trợ giúp, một chân đá vào sườn dưới của tên đại hán Khiết Đan, chỉ nghe thấy tên kia hét lên một tiếng, lăn lộn xuống dưới đất như một con lật đật. “Hự”, máu từ trong mồm hắn tuôn ra ồng ộc, hắn dùng đao chống người dậy, thế nhưng đòn này của Dương Hạo đã khiến hắn trọng thương, không thể nào động đậy được, chỉ hơi động một chút máu lại phun ra, cả người hắn đổ gục trên mặt đất, mặt trắng bệch.

“Lý Trư Bà, ngươi bị thương ở đâu?”

“Thuộc hạ, vai phải của thuộc hạ bị trúng đao”- tên đại hán dâu dài vừa giữ bả vai vẫn đang rỉ máu vừa nói.

Ánh dao như một dải lụa phất qua trước mặt, Dương Hạo đưa lưỡi dao tiến vào nhanh như gió. Lưỡi đao vừa ào ào đưa ra, một võ sĩ Khiết Đan nắm chặt đao trong tay cũng nhanh tay đỡ đòn, đòn của Dương Hạo như gió lốc bay tới. “Leng keng leng keng”, tiếng binh đao chạm nhau tóe lửa, tay cầm đao buông thõng, bị một đao khác bay đến, chỉ nghe thấy “hự” một tiếng, tên đó đi lùi lại phía sau vài bước, đao trong tay rơi xuống đất. Cánh tay phải buông thõng, máu tươi từng giọt từng giọt theo dọc bàn tay nhỏ xuống.

“Ai bị thương ở đâu mau lên báo cáo”.

Dương Hạo gào to một tiếng, bọn cấm vệ quân như lên tinh thần, lần lượt nêu tên như học sinh đi học điểm danh.

“Đại nhân, ty chức Đạm Mãn Đình, đầu gối bị thương”

“Đại nhân, thuộc hạ Quách Tư Thân, bị thương ở ngón tay”

“Đại nhân, thuộc hạ Thu Tội…”

“Thuộc hạ Lưu Lưu…”

Dương Hạo quay lại, nhìn binh sĩ. Hắn không mảy may chú ý đến những việc khác mà chữa trị cho từng người, đợi đến khi không còn một binh sĩ nào đến báo cáo tình hình bị thương nữa, hắn mới lo đến thân mình. Lúc này, đã có bảy, tám võ sĩ Khiết Đan mất sức chiến đấu, đang phải rời chiến tuyến. Dương Hạo cười một tràng dài, lưỡi kiếm trong tay bắt đầu hóa thủ vi công, trên chiến trận không ngừng phát ra những tiếng kêu kinh ngạc cùng những mảnh vụn của quần áo sau trận chiến. Đợi đến khi Dương Hạo hiên ngang thu kiếm trở về, ngang nhiên đứng cách chỗ đối phương ba tấc, trước mặt hắn giờ là một tên thân thể cường tráng, tóc tai bù xù, đứng lẫn trong đám người.

Tên võ sĩ đó tay cầm đao, không tiến cũng chẳng lùi, đứng trước đám quân Tống đang cười nhạo chỉ thấy mặt tím bầm, nhưng lại không biết làm gì cho phải.

Gia Luật Văn vừa mới đến nửa đường, chỉ thấy một viên quan nhà Tống đang đánh cho thuộc hạ của hắn hồn xiêu phách tán, trong lòng cũng không khỏi lo sợ. Hắn không ngờ rằng vị quan văn nhà Tống này lại có thể có kiếm thuật hay như vậy, so với khả năng của hắn thì Gia Luật Văn quả thật không phải là đối thủ. Nếu như người này chính là Dương Hạo, thì chỉ e là có mười nhát, trăm nhát, chứ cả nghìn nhát cũng không thể chặt đứt cơ thể của hắn ta.

Hắn thấy thị vệ của mình bị đánh cho tơi tả, trong lòng hết sức căm hận. Đợi cho Dương Hạo quay người bước đi, trên chiến trường chỉ còn bảy tám tên thị vệ bị Dương Hạo dùng đòn chẻ quần áo vẫn đang nằm đấy. Mỗi người một vẻ xấu xí, nhận cái nhìn chế nhạo của người Tống. Mặt xanh mét, Luật Văn bước tới, trầm giọng mắng tên thị vệ đang trần truồng nằm đó: “Còn không mau cút đi? Còn chưa đủ mất mặt hay sao?”

Dương Hạo ngay lập tức quay người lại, thấy hắn cười trầm nói: “Các hạ thật uy phong, thật là thủ đoạn, tại hạ sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn vẫn còn chưa được thỉnh giáo, chẳng hay các hạ tôn tính đại danh chi?”

Dương Hạo cười ha hả nói: “Nói hay lắm, bản quan là sứ giả nhà Tống, tên Dương Hạo”

Gia Luật Văn bình tĩnh cười nói với “Tống sứ” : “Các hạ thân là sứ giả nhà Tống, đại diện cho quốc phong của một nước. Tuy ngài có kiếm thuật tuyệt diệu, nhưng dùng thủ đoạn đê hèn để lăng nhục võ sĩ nước khác, thật không đáng mặt chính nhân quân tử. Đây là hành vi của riêng mình Tống sứ, hay người Tống các người đều cũng một giuộc như vậy?”

Dương Hạo quay đầu nhìn Tiêu Hải Đào cười nói: “Ngươi xem, khi ngươi hơn hắn, hắn phải chịu cúi đầu hành lễ thỉnh giáo ngươi rồi. Giả dụ hôm nay người bị bại trận thê thảm là ta, thì ắt hẳn hắn sẽ lấy dao mà mổ lợn ăn mừng mất.”

Gia Luật Văn mặt đỏ lên, hắn đích thực đã thấy võ công của Dương Hạo quả rất lợi hại, ắt hẳn nếu hắn mà có ra tay thì cũng không phải là đối thủ của Dương Hạo, cho nên mới giở giọng văn ra. Không ngờ Dương Hạo kiếm đã sắc bén, miệng hắn còn sắc sảo hơn, khiến Gia Luật Văn đột nhiên giận dữ, tay nắm chặt chuôi đao, nghiến răng nói: “Các hạ còn tiếp tục lăng nhục sứ giả Khiết Đan chúng ta? Các hạ tưởng rằng quân Khiết Đan chúng ta không có người tài giỏi hay sao? Người đâu, mau bắt tên sứ giả họ Tống này cho ta, ai có gan dám phản kháng, lập tức giết không tha.”

Đám đông binh sĩ Khiết Đan hô hào ầm ĩ, lần lượt lôi đao ra, xông lên phía trước. Trông thấy bọn người Khiết Đan cố tình khiêu khích trước mặt đông đảo mọi người, ai cũng hằm hằm vác theo binh khí, quân Tống lại không nhiều người, ngay lập tức, họ quây thành vòng, những vệ binh cấm quân bị thương và không có tấc sắt trong tay thì đứng ở giữa, những người có vũ khí đứng ngoài, tạo thành hàng rào bảo vệ.

Đột nhiên, Chương Đồng Châu tiến đến bên Dương Hạo, giọng khẩn cấp: “Mời đại nhân lùi xuống”

“Vội cái gì?” Dương Hạo đủng đỉnh lấy ra một chiếc khăn tay trắng như tuyết để trong áo, để thanh kiếm cao ngang ngực, cẩn thận lau lưỡi kiếm. Cho đến khi trên thanh kiếm hết sạch mùi tanh của máu tươi, Dương Hạo mới dừng tay, ném chiếc khăn thấm máu đi. Chiếc khăn bay theo cơn gió lớn đang nổi lên, lượn vài vòng trong không trung, bay qua mái nhà, bay quá sân sau, qua khóm hoa, qua đầu rất nhiều chiến sĩ quân Tống.

Đa phần vũ khí của quân Tống là cung tên, quân lính ai cũng đều được trang bị cung tên, trên trận địa dày đặc những mũi tên đang được giương lên sẵn, hình thành một phòng tuyến dày đặc không có khe hở, tất cả mũi tên đều đã được giương lên sẵn sàng. Quân Khiết Đan ở đây, có ai là có tốc độ nhanh hơn đường đi của mũi tên đây?

Mặt Gia Luật Văn liền biến sắc, Dương Hạo cười gằn: “Bản quan đem theo Tống quốc lễ tiền mà đến, lễ tiền ở đây, tức là vua nước Tống ở đây. Nơi này là nơi đoàn sứ giả Tống quốc ở, tượng trưng cho lãnh thổ nước Tống, ai dám tiến lên một bước, coi như đó là hành vi xâm phạm lãnh thổ. Các tướng sĩ của ta phải canh giữ nơi này, nếu như có ai dám xâm phạm, giết không tha!”

Quân Tống ầm ầm vâng lệnh, Dương Hạo cũng chẳng thèm nhìn Gia Luật Văn lấy một cái, quay người bước đi, Dạ Vũ cũng đã thoát được khỏi vòng vây của bọn Khiết Đan, vội vàng nói: “Dương trái sứ xin dừng bước, mọi người không nên làm mất hòa khí, có gì thì có thể từ từ thương lượng”.

Dương Hạo mạn tiếng nói: “Nếu như sứ giả Khiết Đan có thành ý và xin lỗi chúng tôi về chuyện xâm phạm Tống quốc, bồi thường cho những binh sĩ bị thương của ta, bản quan sẽ bày tiệc rượu coi họ như thượng khách. Bằng không, chẳng có gì cần phải thương lượng hết. Đây là địa phận nước Đường, nếu như có xảy ra vấn đề gì, quý quốc sẽ khó lòng mà không bị liên lụy. Dạ đại nhân, đại nhân và quốc vương nợ chúng tôi một lời giải thích đó, chúng tôi vẫn đang đợi các ngài.”

Trong cung Đường, Chương Bác đang chơi cờ với Lý Dục tại thư phòng, Chương Bác tuy rằng chỉ là nịnh bợ Lý Dục, nhưng hắn cũng đích thị là một kẻ tài tình. Hắn không tín Phật, nhưng để lấy lòng Lý Dục, hắn lại nghiên cứu tinh thông Phật học, nói những đạo lý nhà Phật làu làu. Hắn đánh cờ cũng rất giỏi, nước cờ của hắn có thể gọi là cao minh, đến Lý Dục cũng còn kém hắn một bậc.

Hắn biết Lý Dục không muốn bị nhường cờ, nếu như giả vờ ngẫu nhiên để cho Lý Dục thắng một ván, hai ván thì còn được, chứ thực ra hai bên đều đã biết rõ thực lực của nhau, muốn nhường cờ mà không để lại dấu thì cũng khó mà làm nổi, do đó khi đánh cờ hai bên tuyệt đối không có chuyện nhường nhịn gì.

Chương Bác giở hết thực lực ra, Lý Dục liền hết cờ ngay lập tức. Lúc này, khi hắn sắp mất nước đến nơi và đang phải đau đầu suy nghĩ, tìm cách gỡ giải thế cờ, thì một người trong cung đi vào, đến gần hắn thủ thỉ: “Quốc vương, đại lý tự khanh Tiêu Nghiễm cầu kiến”.

Lý Dục đang chăm chú với bàn cờ, không buồn ngẩng đầu lên mà phất tay nói: “Bảo hắn đợi ta một lát”

Người cung nhân nọ khẽ “vâng” một tiếng rồi lặng lẽ ra ngoài.

Tiêu Nghiễm chờ ở bên ngoài đi tới đi lui, sốt ruột như đang bị kiến cắn, đợi mãi mà vẫn chưa thấy Lý Dục triệu kiến, bèn nhờ viên cung nhân nọ lại vào lại bẩm báo. Nhưng khi viên thị vệ ra ngoài vẫn chỉ nói hắn đợi thêm một chút. Vì đã vào giục vài lần mà chưa thấy có kết quả, viên thị vệ kia cũng sợ kinh động mà không dám vào gọi nữa.

Tiêu Nghiễm giận dữ, đẩy viên thị vệ sang một bên rồi xông thẳng vào thư phòng, thấy quốc vương vẫn đang ngồi đánh cờ, mặt còn đang hỉ hả vui sướng. Tiêu Nghiễm không suy nghĩ gì, tiến đến gần bàn cờ, Lý Dục lúc này vẫn còn chưa phát giác, cơn giận trong người Tiêu Nghiễm bùng lên, hắn không nghĩ được gì nữa, hất tung bàn cờ đang chơi xuống nền nhà văng tung tóe.

Lý Dục giận dữ, đứng bật dậy, trông thấy Tiêu Nghiễm hắn mới sực nhớ ra lúc nãy thị vệ có vào bẩm báo vài lần là có Tiêu Nghiễm xin yết kiến. Lý Dục tức giận nói: “Hành vi này của ngươi có phải là muốn học Ngụy chinh làm phản phải không?”

Tiêu Nghiễm không sợ mà nổi giận nói: “Ngụy chinh thiên cổ danh thần, Tiêu Nghiễm sao dám so bì! Thần không bằng Ngụy chinh, Quốc vương đương nhiên cũng không bằng Đường Thái Tông”

Thấy Tiêu Nghiễm có vẻ còn tức giận hơn cả mình, Lý Dục quay ra cười ngược: “Thôi đi, ta tham tiếc ván cờ, làm chậm việc bẩm báo của khanh, là ta có lỗi. Vậy rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì mà khiến cho Tiêu Nghiễm đây nóng lòng như lửa đốt vậy?”

Tiêu Nghiễm vẫn chưa hết bực dọc: “Sứ giả Khiết Đan và nhà Tống xung đột, hai bên dánh nhau một trận lớn rồi. Hôm nay hai bên đã đem nước Đường ta ra làm chiến trường, đao ra khỏi võ, tiễn thượng huyền, hết sức căng thẳng, hoàn toàn không coi nước Đường ta ra gì. Thần thấy sắp lớn chuyện rồi, quốc vương còn ngồi đây ung dung đánh cờ?”

Lý Dục trước còn ngơ ngác, sau lại đổi thái độ, vui vẻ cười nói: “Hai bên đã mâu thuẫn nhanh như vậy sao? Nhưng là do bên Tống khiêu khích chăng? Có ai bị chết không?”

Tiêu Nghiễm nói: “Cũng không phải là do bên Tống khiêu khích, mà là sứ giả Khiết Đan đòi chiếm nơi ở của bên Tống. Hai bên sau trận khẩu chiến, sứ giả Khiết Đan đã đánh bị thương bảy, tám người nhà Tống, khiến Dương tống sứ tức giận đả võ sĩ Khiết Đan, hai bên coi như hòa. Nhưng chả ai chịu nhường ai , hôm nay vẫn còn giương cung bạt kiếm, Dạ đại nhân vẫn sợ hãi không dám rời đi, phái người đi bẩm báo với thần, bảo thần cấp báo lên Hoàng thượng để Người cấp tốc nghĩ cách giải quyết!”

“Đúng là do người Khiết Đan khiêu khích sao? Không ai bị thương thật chứ?” Lý Dục tỏ vẻ thất vọng, hắn đã mở yến tiệc thịnh soạn thiết đãi người Khiết Đan là cố ý đón tiếp thịnh soạn hơn nhà Tống một bậc, muốn chọc tức Dương Hạo, nếu như Dương Hạo sách nhiễu lại hắn thì hắn sẽ mượn cơ quân Khiết Đan ở đ ây mà đổ trách nhiệm lên bọn Tống sứ.

Nước Tống vốn là chủ quốc của nước Đường, mâu thuẫn này cũng nhân tiện mà chuyển ra ngoài. Nếu như Dương Hạo căm hận khiêu khích đoàn sứ giả Khiết Đan thì thật đúng ý, hắn khong những có thể mượn đao Khiết Đan để trừ khử cái gai trong mắt, hơn nữa như vậy cũng có cái cớ mà đuổi hắn về nước, nhân tiện trừ bỏ được cái gai trong mắt, sau đó giả vờ là để tránh mâu thuẫn thêm gay gắt giữa hai bên, giữ gìn thượng quốc sứ tiết, làm cho Dương Hạo có cảm giác đã được mang ân đức mà rời đi.

Thật không ngờ, người khiêu khích trước lại chính là đoàn Khiết Đan, nếu như Dương Hạo phẫn nộ phản kích lại, đánh chết người Khiết Đan thì lúc đó tình thế hỗn loạn đến mức không gì cứu vãn nổi nữa rồi. Đó sẽ là chuyện của hai bên nhà Tống và Khiết Đan, Lý Dục không có cách nào giải quyết, thậm chí, hắn có thể ung dung ngồi thế tọa sơn quan hổ đấu.

Thế nhưng cả hai bên đều không đi đến nước không cách gì cứu vãn, hai bên đều chưa dốc hết thế lực, bản thân hắn là vua muốn giả câm giả điếc cũng không xong, chuyện này quả thật giả lơ không được mà ra tay cũng không xong.

Lý Dục chắp hai tay đi đi lại lại trong phòng, cuối cùng thở dài mà rằng: “Triệu ngay Hoàng phủ Kế Huân, phái binh mã đến khống chế cục diện, chớ để sứ giả hai bên lại tiếp tục xung đột”.

“Thật không ngờ tên Dương Hạo này lại có kiếm thuật siêu như vậy, ta thật đã đánh giá thấp bọn sứ giả nhà Tống.” Gia Luật Văn bực mình đi đi lại lại trong phòng, hai mắt đỏ rực đầy sát khí.

Đinh Thừa Nghiệp đứng bên cạnh, khuôn mặt khôi ngô đang méo mó vặn vẹo, hắn cũng không ngờ, tên Dương Hạo này quả thật đúng là người đó, nếu như đây không phải Dương Hạo thì bây giờ hắn sao được tiêu diêu tự tại? Nếu như người đó không phải là Dương Hạo, hắn đã không phải là Đinh Thừa Nghiệp. Hắn đã dời đến Khai Phong, bao vinh hoa phú quý của hắn, hà tất phải bỏ hết để nằm ngửa mua vui cho tên Khiết Đan lỗ mãng này? Là nam mà phải ẻo lả như nữ, leo lẻo nghênh đón, thử hỏi còn có chi nhục hơn?

Nghĩ tới Dương Hạo, Đinh Thừa Nghiệp hận một nỗi không phanh thây hắn ra được thành trăm mảnh, tự mình giày xéo hắn dưới ruộng. Thật không ngờ hắn còn trở thành sứ giả của nhà Tống, đến Giang Nam làm thượng khách. Ngày xưa nhà Đinh là một nhà gia nô, bây giờ lại bị dồn đến tình cảnh này, thử hỏi ông trời có công bằng không?”

Khi nhìn thấy Dương Hạo từ xa, hắn đã phải sợ hãi núp sau lưng những võ sĩ Khiết Đan, xấu hổ khi gặp lại hắn. Nhưng ánh mắt căm hận lại cứ nhìn chòng chọc vào Dương Hạo, hận nỗi không thể giết chết hắn, xé xác hắn ra, như vậy mới thỏa cơn tức. Vừa nghe thấy lời của Gia Luật Văn, Đinh Thừa Nghiệp nói: “Đại nhân, tên đó nếu như võ công cao cường như vậy, nếu chúng ta muốn ra tay e rằng cũng khó. Hơn nữa hắn có vòng trong vòng ngoài bảo vệ, phòng thủ vững chắc, võ công lại cao siêu, muốn hạ hắn, chỉ có thể án binh bất động chờ cơ hội, kiếm vài võ sĩ đắc lực đi khử hắn.”

“Không vội!” Gia Luật Văn cắn răng cười thầm nói: “Đợi Thượng Kinh bên kia có tin tức đã rồi hẵng tính”. Hắn thở dài một hơi, quắc mắt nói: “So với đại sự của chúng ta thì một tên Dương Hạo có là cái gì. Có điều, nỗi nhục này ta quyết không bỏ qua”.

“Đại nhân, tên Dương Hạo này dám làm nhục các võ sĩ Khiết Đan, tước quần áo khiến các võ sĩ trần như nhộng trước mặt các quan thần nhà Đường, điều này thật là một điều phỉ báng lớn, không thể bỏ qua”.

“Ta đương nhiên sẽ không cho qua vụ này, hắn là người ta nhất định phải giết, có điều phải đợi chờ thời cơ”. Gia Luật Văn nhướn lông mày, trên mặt lộ ra một nụ cười đầy hàm ý: “Ngươi khá lắm, coi nỗi nhục của ta là nỗi nhục của ngươi, một lòng một dạ suy nghĩ cho bản quan, haha, đúng là ta đã không nhìn lầm ngươi.”

Vừa nói, Gia Luật Văn vừa nắm lấy bả vai Đinh Thừa Nghiệp, hôn lên trán hắn một cái, Đinh Thừa Nghiệp dù đã quen với kiểu “sủng ái” này của hắn, nhưng giữa ban ngày ban mặt thế này mặt y cũng đỏ lựng lên. Không dám quá mạnh tay đẩy Gia Luật Văn ra, hắn chỉ dám khẽ giãy ra. Thấy biểu hiện đó của Đinh Thừa Nghiệp, Gia Luật Văn càng làm tới, bàn tay to bản của hắn theo đà giật phăng dây lưng của Đinh Thừa Nghiệp, ngón tay thô sần nhéo mông y một cái.

Đinh Thừa Nghiệp lùi lại một bước, nâng chén trà lên đưa cho Gia Luật Văn, nói tránh đi: “Đại nhân, Lý chỉ huy cùng những binh sĩ đang còn quỳ trong điện, nếu như đại nhân đã nguôi cơn giận thì nên thả cho họ đứng dậy thôi”.

“Lý Giai?” Gia Luật Văn quắc mắt, cười lạnh nhạt: “Mười mấy tên võ sĩ mà không làm tổn hại được một sợi tóc của Dương Hạo, đúng là lũ bỏ đi, còn cần làm gì? Bọn chúng bị Dương Hạo làm mất mặt như vậy cũng là nỗi nhục của ta đây, chủ nhục thần tử, bọn chúng lẽ nào không đáng chết?”

Gia Luật Văn nổi cơn giận làm Đinh Thừa Nghiệp như chợt hiểu ra lời nói của y như thêm dầu vào lửa, liền đưa trà tới bên Luật Văn, nghĩ tới Lý Dục cùng những binh sĩ bị lột quần áo trước mặt quân nhà Tống, y cũng không nén nổi tức giận, ném chén trà xuống đất vỡ tan tành.

Đôi lông mày của y khẽ nhíu lại, đằng đằng sát khí: “Đi. Mấy tên ngu xuẩn còn dập đầu tạ tội, gia quyến của bọn chúng có thể vì cái chết của bọn chúng mà nhận được trợ cấp, miễn làm nô lệ, nếu không, hừ!”

Những bộ quần áo giáp của đội quân Đường đang tiến vào sân, chỉ có thể trông thấy cờ của đoàn sứ giả Khiết Đan và nhà Tống bay phấp phới, hai bên lấy cờ làm điểm mốc, mỗi bên tự lấy bao bố, xe cộ làm thành phòng tuyến, từng đoàn quân đi phòng tuyến, giơ gươm rút cung, dường như nơi đây đã thực sự trở thành chiến trường.

Hoàng Phủ Kế Huân vừa nhìn đã kinh sợ thất sắc, luôn miệng nói : “Quân ta mau vào giữa, tránh để hai bên xảy ra xô xát”.

Đoàn quân hòa bình của nhà Đường rầm rập tiến vào sân với những mũi giáo nhọn hoắt dựng đứng, hình thành một phòng tuyến kiên cố dày đặc.

Một vị chỉ huy sứ chắp tay xin chỉ thị: “Tướng quân, nếu như bọn hắn không nghe lời khuyên, kiên quyết tấn công đối phương, làm hại đến cả quân ta thì chúng ta có dùng vũ lực ngăn lại không?”

Hoàng Phủ Kế Huân trừng mắt quát mắng: “ Người Bắc rất mạnh, há cùng một trận chiến? Nhớ rõ, chúng ta cần phải bảo toàn”

Vị chỉ huy kia nghe thấy vậy cố nén giận mà rằng: “Tướng quân, Khiết Đan và nhà Tống đều là người Bắc, không rõ ý của đại nhân là chỉ bên nào?”

“Người Tống và Khiết Đan đều không được phép đắc tội, có điều quân Khiết Đan là hàng xóm của nước ta, là hàng rào che chở cho nước Đường chúng ta. Không được đắc tội, nhớ lấy, nhớ lấy”.

Hoàng Phủ Kế Huân dặn dò kỹ lưỡng, những tấm phòng ngự cũng đã được bố trí thỏa đáng, hắn mới thu mắt nhìn khắp nơi một lượt, quan sát cẩn thận rồi tiến vào sân của đoàn sứ giả Khiết Đan.

Trong sân đoàn Tống sứ, Tiêu Hải Đào vừa đi thăm quan chiến hào một vòng trở về, thấy Dương Hạo đang ung dung ngồi uống trà, không nén được mà nói: “Người Khiết Đan đang theo dõi chúng ta từng tí một, e rằng bọn chúng vẫn chưa từ bỏ được ý đồ đâu, triều đình đang chủ trương trước tiến phía Nam sau mới đến Bắc, một khi đã thống nhất thiên hạ lúc đó mới vui vẻ kết giao cùng Bắc quốc. Hôm nay triều đình đã chuẩn bị lệ binh, chuẩn bị tiến công Giang Nam, nếu ngộ nhỡ kích động Bắc quốc thì ngọn lửa chiến tranh ắt bị dấy lên, làm hỏng việc quốc gia đại sự của chúng ta. Dương trái sứ, ngài và tôi không cáng đáng nổi đâu”.

Dương Hạo mỉm cười nói: “Không sao, người này có thể thay mặt Khiết Đan đi sứ Nam Đường. Nhất định là bên cạnh Gia Luật Hiền và Tiêu hoàng hậu có thân tín bên cạnh. Như hôm nay ta thấy, trong nội bộ Gia Luật Hiền và Tiêu hoàng hậu ắt đã có nhiều bộ tộc nổi loạn không nghe lời, nếu như bọn sứ giả ở nước Đường bị chúng ta xỉ nhục, điều này truyền ra ngoài sẽ khiến dân không phục, nhân cơ hội các bộ tộc nổi loạn sẽ mượn cớ lật đổ Gia Luật Hiền và Tiêu hoàng hậu đó sao? Nước Khiết Đan dựng nước đã lâu, nhưng suy nghĩ vẫn ấu trĩ man di, đừng thấy chúng dã man, tướng mạo thô kệch, chốn quan trường thì thiên hạ như một, báo xỉ không báo thù, báo công không báo quá, việc này bọn chúng đã chịu nhịn một bước, làm sao giấu nổi thiên hạ? Chuyến này trở về sẽ bị thất sủng là cái chắc”.

“Chỉ hy vọng như thế”. Tiêu Hải Đào bán tín bán nghi, lo lắng không yên.

Đúng lúc đó, Dạ Vũ hấp tấp chạy đến, mặt trắng bệch nói: “Xảy ra chuyện lớn rồi, xảy ra chuyện lớn rồi. Sứ giả Khiết Đan đang rất tức giận khi bị Dương trái sứ lột quần áo, đã ra lệnh cho họ tự sát. Bảy tám di thể trần như nhộng vẫn đang nằm trong sân, nhìn sợ phát khiếp. Dương trái sứ à, mối thù này cho qua thôi, có được không, có được không?”

Tiêu Hải Đào vừa nghe thấy đã nhảy dựng lên, kinh hoàng nói: “Có việc này sao? Chết rồi, vậy là đi toi rồi. Chúng ta quân số có hạn, nếu như chúng lợi dụng đêm tối đánh lén thì e rằng nơi đây khó an toàn. Đại nhân, hay là chúng ta vào cung để triều đình cho binh mã bảo vệ an toàn đi thôi”.

Dương Hạo nghe thấy vậy cũng hơi lo lắng, nhưng rồi lại trấn tĩnh lại rất nhanh. Hai vị đại nhân gọi mãi, nhưng hắn vẫn bình chân như vại, đợi hai người nói xong, hắn mới hớp một ngụm trà rồi thản nhiên nói: “Dạ đại nhân, người đã chết chẳng phải tâm tính là ổn định sao?”

Dạ Vũ ngạc nhiên : “Hả?”

Dương Hạo cười như chẳng có chuyện gì xảy ra: “Nếu người chết tâm tính ổn định rồi thì ngay cả cách làm việc cũng tỉnh rồi”.

Nói rồi hắn đứng dậy nói: “Ông xem, bị nhục thì lại giận cá chém thớt, bức thuộc hạ tự sát để tránh làm mất thể diện bản thân, không cho tiếng thất bại lan ra ngoài. Như vậy là triết học lang hả? Mà người Tống chúng ta thì không như thế, chúng ta hành nghĩa nhân đạo, là vương đạo, như vậy mới có thể tin tưởng và thân thiết. Dạ đại nhân, ông nói có phải vậy không?”

Nói rồi hắn vẫy Tiêu Hải Đào lại gần nói nhỏ: “Nay hiểu”

Sau khi nói nhỏ câu đó, Tiêu Hải Đào liên tục gật đầu, vội vã cất bước đi, Dương Hạo đến bên Dạ Vũ, vỗ vai hắn vài cái rồi cười cười nói: “Kết bạn cũng vậy, có khi hai mắt phải lau đi lau lại cho rõ thì mới không nhận lầm người. Vua nước Đường là người thông minh, Dạ đại nhân cũng là người thông minh, tôi nghĩ chắc các ngài cũng không làm chuyện gì ngu xuẩn phải không?”

Trán Dạ Vũ lấm tấm mồ hôi, nghe những lời đó của Dương Hạo hắn nhất thời không dám ho he gì, chỉ nghĩ thầm trong đầu: “Hắn đã nhìn ra dụng ý của ta rồi sao?”

Ánh đèn rực rỡ về đêm, sóng xô mạn thuyền, dập dà dập dềnh.

Lúc này đây ánh trăng đang chiếu rọi sông Tần Hoài, gần hai bên bờ, những cửa hàng rực rõ đèn đuốc. Chiết Tử Du đang thơ thẩn dạo chơi ven sông, nhưng bất giác lại quay đầu lại xem để xác định rõ là không bị ai bám theo, sau đó chợt quay người đi vào một quán trà nhỏ ven thư viện Giang Nam.

Thư viện này được xây dựng từ đời Đông Tấn, tể tướng Vương Đạo nhà Đông Tấn cho rằng “Trị quốc lấy việc bồi dưỡng nhân tài thương nhân làm trọng”. Do đó ven bờ sông Tần Hoài người ta xây dựng nên một thái học, đến nay trở thành thư viện Giang Nam. Do thư viện được xây tựa vào ngói xanh gạch trắng nên quanh đó có rất nhiều cửa hàng bán tứ bảo, cũng có nhiều quán trà và tửu lầu.

Chiết Tử Du tiến vào quán trà, ước chừng thời gian khoảng một nén hương, cô liền tha quần áo giả dạng làm một người dân thường, sau đó chuồn ra ngoài qua lối cửa sau, ngó xung quanh không có ai cô mới nhanh chóng chạy ra khỏi ngõ nhỏ, lẩn vào đám người xung quanh.

Chiết Tử Du tiếp tục ở lại trong trà quán, chậm rãi nhâm nhi cốc trà rồi bỏ lại vài đồng tiền lẻ, chậm rãi lên lầu ngắm cảnh xung quanh. Đứng trên lầu cô vẫn không thấy có người bám theo, lúc này cô mới thở phào nhẹ nhõm, tuy nhiên trong lòng vẫn có chút hậm hực: “Tên xấu xa, chỉ có lời ngon tiếng ngọt là nhanh, chẳng có chút nhẫn nại nào cả, chẳng có chút thành ý nào cả!”

“Haha cô nương đúng là khó chiều. Tiến đến gần thì không thích, mà chạy ra xa thì lại hận. Quay người lại, Chiết Tử Du giống như một con thỏ bị dồn đến bước đường cùng, quay đầu nhìn lại chỉ thấy ngọn đèn lập lòe đằng xa. Nguời đứng kia mặc y phục trắng như tuyết, phong độ nhẹ nhàng. Không lẽ đó là người mà Tử Du gọi là ‘tên xấu xa’?

Chiết Tử Du nhất thời đỏ mặt, đôi mắt không giấu nổi vẻ xấu hổ nhìn vào người kia nói: “Đúng là đáng ghét, tại sao ta đi đâu ngươi cũng theo đó?”

Dương Hạo nói: “Miệng thì nói thế nhưng trong lòng lại không nghĩ thế, âu đó cũng là cái đặc quyền của nữ giới”.

Chiết Tử Du hờn dỗi: “Ngươi nói gì?”

Dương Hạo nhìn sang bên phía “Đào hoa lâu” ở đối diện, mỉm cười nói với Chiết Tử Du: “Mời trước không bằng ngẫu nhiên mà gặp. Mạc cô nương, có thể vui lòng cùng tại hạ đến “Đào hoa lâu” uống vài chung không?”

**************

Trong gian nhã thất, hai chén rượu trắng được rót ra, hai người ngồi bên nhau, bên ngoài cửa sổ là dòng nước sông chảy xuôi về hướng Tần.

Có lẽ đã lâu không bình tâm ngồi với nhau như vậy, quan hệ bây giờ và quá khứ đã không còn như nhau nữa, là bạn? Hay là thù? Có tình? Hay vô tình? Tất cả những suy nghĩ cứ không ngừng xuất hiện trong đầu hai người.

Chiết Tử Du yên lặng ngắm nhìn Dương Hạo, hắn ta không có nhiều thay đổi mấy, do mới chưa đầy hai mươi tám tuổi nên vẫn chưa để râu, dưới cằm rất nhẵn nhụi. Hôm nay người ngồi đây là một vị đại quan ngũ phẩm trong triều đình, một người thanh niên trẻ tuổi có cặp mắt sáng và có hồn, mang theo cái vẻ ôn hòa và hơi có nét cười.

Chỉ có sau khi trải nghiệm được những thăng trầm của cuộc đời, phong thái và ánh mắt của hắn mới có thay đổi, càng thêm tự tin hơn, càng thêm già dặn hơn, và cũng càng thêm sắc sảo. Nhìn lúc này, cái vẻ tự tin, cảm giác trầm trầm khiến cTử Du vừa thấy thân thiết vừa thấy thích thú.

Đàn ông là phải như thế, ngoan cường, cơ trí, có một cảm giác tự tin nắm giữ hết thảy mọi điều, nhưng tuyệt đối không mù quáng tự đại, những người trẻ tuổi nông nổi sẽ không có cái vị thành thục già dặn. Nếu như nói mới đầu điểm hấp dẫn nhất của Dương Hạo là cách ăn nói uyển chuyển thú vị, là nét dịu dàng và lương thiện, nếu như mới đầu Dương Hạo “hớp hồn” Tử Du bằng trái tim si tình hắn dành cho Đông Nhi, thì giờ đây điều khiến Tử Du động lòng chính là bởi vẻ trưởng thành của hắn.

Nhìn Dương Hạo lúc này, Tử Du có cảm giác hắn như một cái cây, cành lá rậm rạp tươi tốt, dần dần mọc lên thành một cây đại thụ, cành cây thô to, có thể che nắng che mưa, có thể tựa vào để nghỉ ngơi, đúng là cảm giác này, thứ cảm giác khiến Tử Du vừa mệt mỏi, lại vừa muốn tránh…

Nàng vốn là người con gái tinh tế, xưa nay vốn ghét loại đàn ông tục tằn, chính vì thế Dương Hạo mới hút hồn nàng bằng nét dịu dàng và tinh tế. Thế nhưng trái tim thiếu nữ cũng rất dễ thay đổi, khi nàng coi Dương Hạo như người đàn ông của đời mình thì nhìn ở góc độ khác, nàng cần một người có năng lực điều khiển được nàng, là một người đàn ông kiên cường, tự tin.

Nàng như ngọn cỏ mọc tự nhiên trên thảo nguyên, mềm mại mà cao ngạo, không phải nam tử hán nào cũng có thể dễ dàng đưa tay ra hái. Nàng sẽ trốn tránh và cự tuyệt, bởi nàng chỉ thuộc về một người, cam tâm tình nguyện trở thành người con gái của người đó, nàng chỉ hy vọng có được một đôi tay vững chắc, một con người mạnh mẽ kiên cường.

Tâm tư tình cảm này thật khó lý giải, giống như khi một cô gái khi kết giao với ngươi, ngươi chỉ tiếc một điều là không thể ngày ngày đem tặng cô ta hoa hồng, nhưng khi cô ta trở thành vợ của ngươi rồi, ngươi lại ham mê theo đuổi những người phụ nữ ở ngoài, đa số phụ nữ đều hay thay đổi, chỉ hận một nỗi ngươi cũng có thể lập tức thay đổi được như thế.

Dương Hạo dần dần đã nhìn ra sự thay đổi nơi suy nghĩ của Tử Du, hắn phát hiện ra rằng mình là người hay thích giở trò trêu chọc và cố ý đả kích, tuy khiến Tử Du tức giận và muốn “xù lông”, nhưng cũng khiến nàng có cảm giác vui vẻ… Hai người dùng một thân phận mới để tiếp cận lẫn nhau, dần dần bị thu hút, dần làm mới mối quan hệ. Dù biết rằng hai người sẽ không thể có kết quả, nhưng nghĩ tới nghĩ lui, hắn vốn chỉ định phá hỏng những việc Tử Du làm ở Nam Đường, nhưng không hiểu thế nào mà lại rơi vào lưới tình, càng thông minh, con người ta lại càng dễ rơi vào sự mê hoặc của tình ái.

Chương 355: Tự thiên cơ

“Mạc cô nương, uống một ly nữa nhé?” Dương Hạo nâng cốc, ranh mãnh gọi tên hiện giờ của nàng.

Chiết Tử Du nhìn thấy nụ cười đó liền hậm hực, nhưng đúng là… nàng không hề ghét Dương Hạo một chút nào. Nàng nâng cốc, nhẹ nhàng chạm cốc cùng Dương Hạo, rượu trôi xuống bụng, hai má càng thêm đỏ hồng: “Dương đại nhân, không phải ngày nào ngài cũng rảnh đấy chứ… thế nên mới có nhiều thời gian nhàn nhã như vậy?”

“Ai nói là ta không có việc gì làm?” Dương Hạo nâng chén rượu, cười đáp: “Hôm nay ta vừa làm chuyện đại sự, đánh nhau một trận lớn, xem ra Mạc cô nương ở Kim Lăng cũng không có nhiều tai mắt lắm, nên mới không biết gì cả”.

“Mới đánh nhau một trận lớn ư?” Chiết Tử Du tròn mắt, vội hỏi: “Với ai thế? Tại sao?”

Dương Hạo kể chuyện xung đột với sứ giả Khiết Đan cho Tử Du nghe, Tử Du nghe xong mỉm cười nói: “Người Khiết Đan vốn ngang ngược dã man… Nếu ngài càng nhân nhượng thì chúng sẽ được voi đòi tiên. Chúng chỉ tôn kính người mạnh, ngài đánh lại chúng quả không sai, nếu như ngài nhân nhượng dàn xếp ổn thỏa thì sợ rằng sẽ có người tạo phản, huống hồ đây là nỗi nhục quốc gia, các quan lại trong triều Tống sẽ không để yên đâu. Thế nhưng ngài chớ cho rằng người Khiết Đan là quang minh chính đại, đường đường nam tử hán. Bọn họ chỉ như những con sói đói ăn, giảo hoạt như hồ ly, chỉ nhân cơ hội lợi dụng ta rồi đâm lén. Trong tình hình như thế này sao ngài còn dám một mình ra ngoài?”

“Ta đã cẩn thận hết sức rồi, bọn chúng mà muốn trả thù ta thì cũng chẳng ra tay nhanh như vậy đâu”.

Tử Du trừng mắt, sẵng giọng: “Ngông cuồng, học được chút bản lĩnh đã vội ra oai trong thiên hạ không có địch thủ? Ngươi phải biết rằng đao thương nhìn thấy thì dễ tránh, nhưng ám tiễn thì khó phòng. Nếu như trên đường bất ngờ có tên phóng ra, ngươi tránh không kịp thì biết làm sao? Hoặc giả lúc ngươi trốn ra đây bọn chúng nhân cơ hội lẻn vào dịch quán ra tay lén sao?”

Dương Hạo thở dài nói: “Ta là hồng tư lự thiếu khanh, là một quan văn. Là thủ lĩnh của đoàn sứ giả, ta là người chịu trách nhiệm chiến hay hòa, coi bọn chúng như địch hay bạn, mà không phải do ta đi quảng cáo ta có nhiều võ nghệ, thì có sao? Nếu như đoàn sứ giả nhà Tống có chuyện gì thì hồng lư thiếu khanh ta thiếu mất một lưỡi gươm bảo hộ rồi, điều đó thật đáng buồn.

Người mà ta đem ra ngoài đều là những thượng đẳng cấm quân, bọn họ võ công cao cường, họ đều biết nên làm gì, cảnh giới, phòng ngự, hoặc tác chiến, không cần ta phải vẽ đường, họ cũng đã tự chuẩn bị tốt, không có chuyện gì đâu.

Hôm nay ta đã kết mối thù với Khiết Đan, nếu còn để tiếp tục bị bọn chúng bắt nạt thì ta quả thật nên bắt chước Gia Luật Văn xin bọn chúng tự sát đi cho rồi”’

Nói đến đây, hắn hiếu kỳ quay mặt nhìn Tử Du, mỉm cười nói: “Đúng là kỳ lạ. Bộ tộc Khiết Đan là bộ tộc bắt nguồn từ dân tộc Tiên Bi, nhưng phủ Chiết cũng bắt nguồn từ bộ tộc Tiên Bi Chiết Lan, nói ra thì nàng có họ hàng tổ tông với bọn chúng đấy, sao lại coi quân Khiết Đan là kẻ thù nhỉ?”

Chiết Tử Du trừng mắt nói với hắn: “Ngươi mới là kẻ không hiểu gì hết. Triệu Khuông rốt cuộc có ân đức gì với nhà ngươi mà đáng cho ngươi phải trung thành và tận tâm đi theo bảo vệ hắn? Cùng chung tổ tiên, đúng là chuyện nực cười, nếu như trong thiên hạ này có cột mốc đánh dấu ai là bạn ai là thù thì nội bộ Khiết Đan cũng sẽ làm loạn không ngừng, Trung Nguyên cũng sẽ chỉ có Đại Vũ vua nước Hạ thôi, vạn thế nhất thống rồi.

Mười sáu châu Yến Vân đa phần là người Hán, nhưng nếu các ngươi xuất binh đi cho bọn họ nhận tổ quy tông… Ngươi thử xem mà xem, bọn chúng nghênh tiếp ngươi mỹ tửu hay là mũi tên nhọn? Bọn họ tuyệt đối không mềm tay hơn Khiết Đan đâu. Nếu như nói là cùng tổ tiên thì hai triều vua Tùy Đường còn được gọi là có huyết thống hơn, ngày xưa Hung nô là dân tộc nô lệ, nhiều người phương Bắc mang họ Dương đều có chung huyết thống với họ.

Ngươi cũng họ Dương, biết đâu ba trăm năm trước hai chúng ta lại chẳng có cùng tổ tiên? Nói không chừng ta còn phải gọi ngươi là biểu ca, tại sao ngươi không giúp ta nhỉ?”

Nói đến đây, nàng ta không nén nổi một tiếng phì cười.

Dương Hạo nghe xong cười khổ não: “Đi thôi, ta đã quen nhìn nhận vấn đề bằng con mắt của người hậu thế rồi, nay nàng nói với ta những điều như thế khác nào đàn gảy tai trâu?”

Chiết Tử Du khẽ thở dài nói: “Họ Chiết chúng ta gia thế cư vận, từ đời Đường đã từng cai quản phủ châu, luôn đi theo người mạnh. Lịch Đường, Tấn, Chu, Tống, tất cả đều là những kẻ mạnh cần chống lại. Mà nguyên nhân giống như ngươi vừa nói, họ Thị của ta có cùng tổ tiên với người Khiết Đan, cư dân vùng Tây Bắc gần gũi với Mạc Bắc, một khi bọn họ được thiên hạ, họ sẽ thâu tóm Tây Bắc còn nhanh và khôn ngoan hơn người Trung Nguyên, chúng ta theo nước Tống, xưng thần cống nạp… xuất quân ra trợ giúp nhà Tống thảo phạt Bắc Hán, kiềm chế Khiết Đan, chỉ là để giúp cho bản thân có đất sinh tồn mà thôi”.

Nói đến đây, mặt nàng bỗng lộ ra một nụ cười chua xót: “Chúng ta vốn tưởng rằng nhà Tống sẽ thu nạp nhà Đường, rồi sau đó phiên chắn người Tây Bắc họ Thị như ta, nhưng ai có ngờ đâu nhà Tống thôn tính các nước chư hầu nhanh quá, Triệu Khuông có dã tâm bành trướng quá kinh tởm, hắn đã thốt ra lời thề rằng chỉ cần họ Chiết ta chịu làm thần phục vụ Trung Nguyên, thì chúng sẽ để cho họ Thị ta tiếp tục cai quản phủ châu, nhưng hài cốt của gia phụ còn chưa tàn hắn đã nuốt lời hứa”.

Dương Hạo nghe xong khẽ lắc đầu nói: “Bất kể Triệu quan gia có giữ lời hay không, Tây Bắc vẫn không thể có sức để chống lại Trung Nguyên, đó là sự thực… biết rõ là không thể nào vậy thì còn ngoan cố làm gì? Ngoài những người đã chết thì bách tính biết làm sao đây?”

Chiết Tử Du buồn rầu nói: “Huynh trưởng nhà ta không cam tâm giao tổ tông cơ nghiệp ra, ta đây cũng chỉ có bổn phận trợ giúp huynh ấy. Bất kể nhà Chiết của ta tốt hay Triệu gia nhà các ngươi tốt, đều là vì một nhà một họ mà thôi. Thiên hạ cũng đều dùng chiêu đó, dùng để xem lòng dân trong thiên hạ thế nào. Ngươi đi khuyên nhủ Triệu Khuông xem hắn có vì thiên hạ thái bình mà vứt bỏ đi mục đích thôn tính Tây Bắc hay không? Chẳng những thế, hắn còn muốn con cháu nhà họ Triệu phải có được một cơ nghiệp vững như thái sơn.”

Dương Hạo nói: “Người thức thời mới là kẻ hào kiệt, thiên hạ đại thế, phân lâu ắt hợp, từ khi triều Đường bị tiêu vong đến nay, ngọn lửa chiến tranh Trung Nguyên nổi lên không lúc nào dừng, rung chuyển ầm ầm, lòng người ai cũng mong đến ngày thái bình, Tống quốc nhân thế đó ra đời, Triệu gia thế lực hùng hậu, Tây Bắc vốn căn bản không có đất mà đối đầu. Cũng như thế, tại sao lại không sớm dự định? Đúng là phải dệt gấm thêu hoa cũng không bằng có than sưởi ngày đông, chước xuất binh quyền, chủ động quy phục hoặc là bị đánh dập, kết cục không giống nhau chút nào”.

Hai má Chiết Tử Du đỏ ửng: “Ngươi dựa vào cái gì mà nói chắc chắn như thế? Chiết gia ta không có lực lượng để chống lại nhà Tống, cũng chưa từng nghĩ đến việc làm cho nhà Tống diệtvong, nhưng muốn tự bảo vệ mình thì cũng không phải là không thể thử”.

“Chính là do không thể nên ta mới khuyên nàng.”

Dương Hạo trầm giọng: “Tử Du, ta không muốn làm hại nàng, càng không thể hứa bừa với nàng, nói thực lòng, người giành được Trung Nguyên ắt sẽ là Đại Tống, Phủ châu sớm muộn cũng sẽ phải hạ cờ đầu hàng Tống mà thôi, đây sẽ là kết cục của trận chiến thế giới kéo dài, sau ba trăm năm nữa, thiên hạ sẽ được hưởng những tháng ngày thái bình, sau đó một trang sử mới sẽ được bắt đầu, Tây Bắc sẽ đi đâu về đâu đây? Nàng tuy là nữ nhi nhưng phải mang theo rất nhiều trọng trách của Chiết gia, cũng là người có ảnh hưởng rất lớn đến Lệnh Huynh, tại sao nàng không khuyên hắn ta thuận theo ý trời?”

“Ngươi nói gì?”

Chiết Tử Du tức giận đứng lên, sau đó ngay lập tức nhận ra mình đang thất thế nên lại từ từ ngồi xuống ghế, mặt trắng bệch nhìn Dương Hạo, hồi lâu sau mới nói: “Ngươi.. ngươi dựa vào gì mà dám khẳng định? Nếu như ngươi nhìn vào thực lực của nước Tống mà đoán Đại Tống sẽ thống nhất được Trung Nguyên thì cũng không có gì lạ, nhưng ngươi nói… ngươi nói được vận mệnh của nước Tống trong ba trăm năm nữa, lời này là từ đâu ra, sao ngươi biết đích xác như thế?”

Dương Hạo trầm ngâm hồi lâu mới nói: “Nguyên nhân từ bên trong, ta không thể nào giải thích rõ ràng cho nàng hiểu, nhưng ta sẽ không nói nọ nói kia để làm nàng mơ hồ, càng không thể nói dối nàng, Tử Du, những lời ta nói đều là sự thực, nàng ở nước Đường sẽ không ổn đâu, hãy quay về Phủ Châu đi, đi khuyên Lệnh Huynh đi, đứng lấy trứng chọi với đá nữa”.

Chiết Tử Du kinh ngạc không hiểu, trong lòng chợt nghĩ, Dương Hạo là tông đồ của Lữ Tổ, Lữ Tổ được nhân gian cho là người nửa người nửa tiên, dù đã hơn trăm tuổi nhưng dung mạo chỉ mới như một người ngoài ba mươi, có lẽ ông ta có phép thần thông thật? Ông ta là người tinh thông bói toán, hơn nữa lại có những dự đoán chuẩn xác hơn cả Trần Đoàn, Trần Đoàn chỉ có thể phán được con cháu đời sau của Triệu Khuông sẽ có cơ làm đế vương, còn Lữ Tổ thì lại có thể đoán ra những chuyện ba trăm năm sau ư?

Chiết Tử Du mặt biến sắc, nàng vốn là người cơ trí nhưng lúc này đây cũng thiếu kiên nhẫn, trong lòng nghĩ ngợi một hồi, đột nhiên nghĩ tới Trần Đoàn vẫn ôm mối tâm bệnh trong lòng, không nén nổi mà nói: “Vậy thì… ngươi có biết vận mệnh của ta như thế nào không?”

Dương Hạo trầm mặc không nói, mãi sau mới lắc đầu nói: “Ta không biết…”

Chiết Tử Du cúi đầu, hồi lâu mới ngẩng đầu lên, ánh mắt hướng về phía Dương Hạo: “Nếu như những lời ngươi nói không… nước Đường… nhất định sẽ bị tiêu diệt dưới tay Đại Tống?”

Dương Hạo nghiêm nghị nói: “Đúng vậy, hơn nữa đó sẽ là chuyện xảy ra trong vòng ba trăm năm nữa”.

Chiết Tử Du nheo đôi mắt xinh đẹp của mình lại, chậm rãi hỏi: “Vậy thì, ai là người tiêu diệt nước Đường?”

Dương Hạo cố lục soát lại trí nhớ của mình, chăm chú suy nghĩ hồi lâu mới nói: “Phan Mỹ, Tào Bân!”

Chiết Tử Du nghe nói những lời khẳng định như vậy, mặt biến sắc… Nếu như những sự thực đó sớm đã được khẳng định thì còn đi tranh đấu làm gì? Nghĩ đến đó trong lòng đột nhiên rối bời.

Dương Hạo thấy thế liền khuyên: “Ta khuyên nàng một lần nữa, không phải là do ta là trung thần của Triệu Khuông, mà là ta lo lắng cho nàng, không muốn nàng đi bước đi sai lầm”.

Tần Hán Tùy Đường, mỗi nước đều có vận mệnh riêng, bất kể là nó huy hoàng hay là sẽ đi đến chỗ diệt vong, thì nhà Chiết đã thống trị Phủ Châu hơn hai trăm năm, dù chưa xưng vương xưng tướng hay chứng tỏ được thế lực với các nước khác, nhưng hơn hai trăm năm nay đã không thua kém gì với Đại Đường rực rỡ, nay lại bắt ra hàng, không chỉ không phải với Lệnh Huynh, mà cũng sẽ khiến cho liệt tổ liệt tông phải thất vọng.

Chiết Tử Du hít một hơi thật sâu, ngẩng đầu nói: “Được. Vậy ta sẽ ngồi đây xem, nếu như nước Tống chinh phạt nước Đường, đích xác như lời ngươi nói, Triệu Khuông ra chiếu đã thống binh đại tướng là Phan Mỹ, Tào Bân, ta sẽ không nói hai lời, ngay lập tức quay về Tây Bắc, khuyên gia huynh bỏ cuộc, bảo toàn phú quý. Còn nếu như những lời của ngươi không phải là sự thực…”

Dương Hạo mừng rỡ, nhướng mày nói: “Vậy từ nay về sau ta sẽ không khuyên nàng nữa, càng không phá rối nàng nữa”.

************************************************** ******

“Được rồi, tiễn ta đến đây thôi”. Chiết Tử Du dừng bước, nhìn lên chỗ lồng đèn đỏ treo cửa nhà họ Lâm, quay người nhìn Dương Hạo, lòng nặng nề nói: “Ta… phải về đây, ta hứa với chàng, sẽ ghi nhớ chuyện này. Chàng đi về nhớ cẩn thận nhé, lần sau… tuyệt đối không được ra ngoài một mình đâu đấy!”

Dương Hạo nghe thấy những lời nói của Tử Du cuối cùng cũng có phần nhẹ nhõm, liền không để ý đến mấy chuyện vụn vặt nữa, chỉ nghe thấy trong lời nói có phần quan tâm, không nén được niềm vui sướng mà nói: “Cứ như vậy mà về sao?”

“Hả?” Chiết Tử Du khẽ nhíu mày, kinh ngạc nói: “Còn có chuyện gì sao?”

Dương Hạo làm mặt nghiêm trang nói: “Cái này… không có hôn chúc ngủ ngon sao?”

Chiết Tử Du khẽ đỏ mặt, xấu hổ cúi mặt xuống đất nói: “Đừng có mà mặt dày nữa được không? Ta van ngươi đấy Dương trái sứ, hai chúng ta hiện nay không có chút quan hệ nào đâu.”

Dương Hạo bị lời nói đó thức tỉnh, nghĩ tới những dự định của mình, hắn không khỏi buồn bã. Chiết Tử Du thấy vậy không đành lòng, bèn hạ giọng nói: “Trời đã khuya rồi, chàng về phủ phải cẩn thận, nhớ kỹ, lần sau không được một mình ra ngoài nữa. Ta… ta phải về đây…”

“Tử Du!” Dương Hạo đột nhiên ôm chặt lấy Tử Du, ngắm nhìn thật lâu vào gương mặt xinh đẹp của nàng, nhẹ nhàng nói: “Chỉ một cái thôi, một lần này thôi, một đời này thôi, lần cuối cùng…”

Hắn muốn nói thật lòng mình với Tử Du, có lẽ không cần đợi đến lúc triều Tống đánh Đường, hắn cũng sẽ biến mất khỏi tầm nhìn của nàng, vĩnh viễn. Và cơ hội này có lẽ là cơ hội duy nhất sẽ không bao giờ có được nữa, thế nhưng những lời định nói cứ như vướng lại trong cổ họng, không thể nào cất lên lời.

Chiết Tử Du mơ hồ nhận thấy vẻ khác thường nơi Dương Hạo, không khỏi ngạc nhiên mà ngẩng đầu lên, muốn nhìn xem hắn có gì khác thường không, chợt đụng luôn phải gương mặt đang cúi xuống của Dương Hạo, đôi môi đầy quyến rũ đang ở ngay trước mặt, chỉ cần cúi đầu là có thể cảm nhận được vị ngọt ngào và dịu dàng.

“Đêm nay không phạm tội, ta cũng có lỗi với tửu”, Dương Hạo thì thào nói, nhẹ nhàng nâng cằm Tử Du lên, từ từ áp lại gần.

Khi chỉ còn cách đôi môi Tử Du một khoảng cách ngắn, Dương Hạo cảm thấy trong hơi thở mình như nóng rực lên, gấp gáp, một cái gì đó lạnh lẽo đột nhiên chạy từ trán tới cổ, ngăn động tác của hắn lại. Dương Hạo hơi khựng lại, chậm rãi đứng thẳng người, nhìn thấy Tử Du vẫn đứng đó, tay rút ra một con dao ngắn, mũi dao chĩa thẳng vào cổ họng hắn.

“Cho ngươi ba phút, mau rời khỏi đây, đừng giở trò điên dồ nữa, mau cút về phủ đi… Nhớ bảo vệ kĩ cái mạng chó của nhà ngươi, đừng có mà sập bẫy của quân Khiết Đan, nếu không đây sẽ là lần cuối chúng ngươi còn được mở mồm nói chuyện”.

Tử Du vừa dứt lời, giơ cao tay cầm dao, sẵng giọng: “Còn không mau cút đi!” nói xong nàng quay người chạy vào phủ.

Dương Hạo sờ sờ mũi, nhìn bóng nàng chạy khuất trước mắt, lẩm bẩm: “ Coi như là nàng đang liếc mắt đưa tình…”

“Đại nhân, cuối cùng ngài cũng đã về rồi, làm thần lo muốn chết”. Dương Hạo vừa trở về, Tiêu Hải Đào đã vui mừng nói, vội vã đón hắn về.

Dương Hạo cười cười nói: “Ta sẽ cẩn thận, bên Khiết Đan thế nào rồi, có động tĩnh gì không?”

Tiêu Hải Đào cùng hắn trở về phủ, nói: “Bọn binh sĩ canh phòng rất nghiêm ngặt, quân Đường như một bức tường kiên cố, bên kia vẫn không có chút động tĩnh gì, vua Giang Nam vừa cho người qua, mời đại nhân vào cung dự yến tiệc, xem ra muốn điều hòa vụ việc. Người Khiết Đan chỉ phái vài tay cao thủ qua thăm dò, lặng lẽ vào trong dịch quán của chúng ta, muốn thăm dò động tĩnh, bị sa lưới của chúng ta, nhưng hỏi gì chúng cũng không nói, cũng không dám nhận là người Khiết Đan, đến nay vẫn đang chờ đại nhân về giải quyết.”

Đang nói, Chương Đồng Nhân người mặc áo giáp bước vào, chào “Đại nhân”, đằng sau hắn là hai đoàn binh sĩ, trong đó có hai võ sĩ mặc y phục đen, miệng bị bịt kín, hai mắt dữ dằn như hai con rắn độc, nhìn chằm chặp như muốn ăn tươi nuốt sống Dương Hạo, trên mặt hiện lên nét u ám hiểm độc.

Dương Hạo cười nói: “Chương chỉ huy, ngươi làm tốt lắm, hai con tép này chẳng có gì cần phải hỏi cả, cũng chẳng cần đến chúng”. Hắn liếc một cái rồi cười nói: “Ai có thể chứng minh hắn là quân địch lẻn vào dịch quán của ta? Đây có thể là một tai họa, đem giết hắn đi rồi vứt vào sân Khiết Đan, nếu không, ngày mai sẽ có người bị cắn ngược lại đấy, lại nói chúng ta đi bắt người của kẻ khác…”

Hai tên võ sĩ Khiết Đan nghe thấy vậy thất kinh, chúng không ngờ tên sứ giả người Tống này lại tàn nhẫn như vậy, liền giãy giụa đứng lên, nhưng không làm gì được dưới sức khống chế của lính nhà Tống.

Dương Hạo vội vã hướng về phía sảnh, dặn dò: “Hôm nay tâm trạng của bản quan rất tốt, không muốn nhìn thấy máu, các ngươi lập tức đi xử lý cái bọn ghê tởm này đi, nhớ là trên mặt phải không có máu, trên người nhìn không ra vết thương”.

“Hả?” Chương Đồng Nhân kinh ngạc mở to mắt: “Vậy thì làm sao giết được?”

“Chỉ huy sứ đại nhân, thuộc hạ có cách” một tên thân binh đứng cạnh nói nhỏ, cười trộm.

********************

Dương Hạo và Gia Luật Văn cùng bước lên kim điện, mới hôm qua hai người còn là đối thủ của nhau, hôm nay đã cùng nhau đứng trên triều đình nhà Đường. Mặc dù y phục rất trang trọng, dáng vẻ trang nghiêm, nhưng không khí đối địch giữa hai người hiện lên rất rõ rệt. Hai người vừa bước lên cung điện, Gia Luật Văn đứng trước mặt Lý Dục khiển trách thuộc hạ của Tống sứ do tranh cãi với quân của hắn nên dẫn đến việc người của hắn phải động thủ trả thù, sáng sớm hôm nay bên nhà Tống còn giết chết một thuộc hạ của hắn để hả giận, yêu cầu vua Đường phải nghiêm khắc trừng trị hung thủ, đòi lại công bằng cho Khiết Đan.

Dương Hạo thầm nghĩ: “Bọn người này nhìn trông lỗ mãng hiểm độc, ta đã nói mà, hai bên khi đã dụng binh thì nói cho cùng, đánh nhau bất quá thì mỗi bên chiếm một khoảng sân, tại sao còn phái người đến thăm dò bên ta, hắn rất có thể đã thăm dò ra được tình hình của bên ta. May là ta đã có dự liệu từ trước, quả là không sai”.

Dương Hạo không chút hoang mang, không cần chờ Lý Dục hỏi đã ung dung mà rằng: “Quốc vương, sứ giả Khiết Đan chủ động khiêu khích, mới hôm qua người Khiết Đan còn chủ động khiêu chiến, có ý đồ muốn chiếm dịch quán của chúng tôi, hơn nữa còn đánh bị thương vài người. Dương Hạo ta đây chẳng qua chỉ là ngăn chặn hành vi bạo lực dã man của người Khiết Đan mà thôi, đó chỉ được gọi là chống đỡ. Bên chúng tôi quản giáo binh lính rất nghiêm khắc, không thể có chuyện ám sát sứ giả người Khiết Đan được đâu. Về chuyện này, Hoàng Phủ Kế Huân đại nhân đêm qua đã phái binh lính canh gác tại hai dịch quán, đại nhân có thể là người làm chứng”.

Hoàng Phủ Kế Huân nghĩ thầm “Người Bắc ngoan cường, không thể là kẻ địch của người Nam chúng ta được.. chủ trương này không thể thay đổi, nếu như hôm nay người Tống là người Bắc, người Khiết Đan cũng là người Bắc, đều không thể làm hại đến bên nào. Nhưng so sánh ra thì nhà Tống là hàng xóm láng giềng, thế lực uy hiếp cũng to hơn, có lẽ nên nghiêng về nhà Tống một chút, hơn nữa lời của Dương Hạo cũng không phải hoàn toàn là sai, người Khiết Đan ắt sẽ không thể giận ta được”.

Nghĩ vậy, Hoàng Phủ Kế Huân liền vội vã đứng lên bẩm báo: “Quốc vương, thần phụng mệnh sai lính đi canh gác phủ của hai bên, đêm qua bình yên, hai bên quả thực không xảy ra bất cứ xích mích nào”.

Gia Luật Văn giận dữ nói: “Quốc vương, đúng là bọn họ muốn giết người cho hả giận, tất nhiên sẽ không đường hoàng mà đến. Ở nước Đường này, ngoài vị sứ giả nhà Tống kia thì ta chẳng còn có thù oán với ai nữa. Mới sáng hôm qua hai bên còn nảy sinh mâu thuẫn, đến đêm người của ta đã bị giết rồi, không phải là bọn họ làm thì còn ai vào đây? Người Khiết Đan chúng tôi nhận lời mời của vua Đường đến đây vì mối hòa hảo hai nước, nay người của ta bị đối đãi như thế, Quốc vương nên tính xem xử lý thế nào.”

Hắn cao giọng nói, tiếng như xé gió rít gào khiến Lý Dục mặt trắng bệch, vội vã đứng lên trấn an: “Gia Luật Văn đại nhân chớ phẫn nộ, về việc này ta nhất định sẽ đi…”

Dương Hạo đột nhiên mở miệng nói: “Gia Luật Văn đại nhân, xin hỏi vị thuộc hạ kia của ngài bị thương ở đâu?”

Gia Luật Văn lạnh người, quay sang nhìn hắn nói: “ Sáng sớm hôm nay ta đã phát hiện ra di thể bị vứt sau vườn hoa của chúng ta. Trên người không có vết thương nào, nhưng tên thị vệ đó không thể tự dưng mà chết. Nhất định là đã có người ám sát, chuyện này… xin Quốc vương minh xét kỹ càng, nhất định phải điều tra ra chân tướng, nếu không bản quan sẽ không bỏ qua chuyện này”.

Chương 356: Lễ Phật

Dương Hạo “hừ” một tiếng rồi nói: “ Sứ giả của quý quốc có người chết… điều này thì có liên quan gì đến người Tống chúng tôi? Tự dưng quay ra cắn càn, bản quan đây cũng đang định nhờ vua Đường điều tra cho rõ ràng chuyện đó. Thi thể của tên thị vệ đó ở đâu? Mau cho mang lên đây, bản quan sẽ kiểm chứng, ta tuyệt đối không làm chuyện gì xấu xa, không sợ ai kiểm tra”.

Gia Luật Văn khẽ nhíu mày, hô to: “Tốt! Thi thể vẫn đang được chờ ở ngoài điện, mời Quốc vương sai người đem vào trong”.

Hai tên lính buông vũ khí, chạy xuống điện khiêng di thể đó lên, Gia Luật Văn chỉ vào thi thể đó mà nói lớn: “Quốc vương, đây chính là thị vệ cường tráng của tôi, người này bị chết ắt hẳn là do bị ám sát, mà hung thủ thì nhất định là bọn người Tống”.

Dương Hạo vòng quanh di thể vài vòng, thi thể đó đã được thay một bộ quần áo bình thường chứ không phải là bộ quần áo tối hôm qua, quần áo xộc xệch, tóc tai rối bời. Gia Luật Văn ắt sẽ không thay quần áo cho tên thị vệ, điều đó chỉ gây cho hắn thêm phiền phức. Dù sao hắn cũng muốn sinh sự, huống hồ thực sự đã có một người chết.

Dương Hạo ngồi xổm xuống bên cạnh xác chết, nói: “Quốc vương, trên người nạn nhân bốc lên toàn mùi rượu, có lẽ là chết do uống quá nhiều rượu”.

Gia Luật Văn thoáng giật mình, hắn chỉ nghe nói người mà hắn phái đi đã bị biến thành một xác chết vứt sau vườn, liền ra lệnh đi kiểm tra, toàn thân nạn nhân không có vết thương, hắn thiết nghĩ dù không dò la ra được chút thông tin có ích nào từ dịch quán của nhà Tống nhưng ít nhiều cũng có cái xác chết này làm công cụ để chiếm ưu thế, do vậy hắn mới đem theo cái xác đến đây. Người Khiết Đan rất có tôn ti trật tự, thân là hoàng tộc, hắn không thể tự mình đi kiểm tra một cái xác chết được.

Vừa nghe thấy Dương Hạo nói trên thi thể có mùi rượu, Gia Luật Văn không khỏi tức giận trong lòng: “Cái tên hỗn tướng này, hôm qua ta phái hắn đi làm việc cho ta, thế mà hắn còn dám đi uống rượu. Tiêu rồi, ta bảo hắn cố ý để bị giam trong ngục của nhà Tống để làm bằng chứng quân Tống bắt giam người vô cớ, khiến bọn chúng hết đường chối tội. Thế mà tự dưng lại không cẩn thận thế này”.

Gia Luật Văn ngoan cố: “Người Khiết Đan chúng tôi rất giỏi uống rượu, một ngày ba bữa, không bữa nào là không uống rượu, có mùi rượu thì có gì là kỳ lạ?”

Dương Hạo cười cười, hắn ngẩng đầu quay sang Hoàng Phủ Kế Huân vẫy tay, Hoàng Phủ Kế Huân thấy Lý Dục không tỏ ý từ chối bèn vội vã chạy lại hỏi: “Dương trái sứ, có chuyện gì thế ạ?”

Dương Hạo thò tay lấy tấm vải che người nạn nhân ra một bên, trên mặt nạn nhân dính đầy bùn, cỏ dại đã bị dẫm nát và vài cánh hoa, nói với Hoàng Phủ Kế Huân: “Đại nhân thử ngửi kỹ xem, xem có mùi gì?”

Hoàng Phủ Kế Huân ngửi ngửi rồi nói: “A… là mùi rượu”

Dương Hạo nói: “Thi thể đã cứng ngắc, chết từ lúc nửa đêm mà bây giờ vẫn còn mùi rượu thì ắt là đã uống không ít phải không”

Kỳ thực mùi rượu cũng không nồng, nếu không ngửi kĩ thì cũng khó phát hiện, nhưng Hoàng Phủ Kế Huân cũng không biết người chết đã chết từ bao giờ, nếu như trước khi chết mà uống nhiều thì trên người đương nhiên là sẽ có mùi rượu, cho nên hắn gật đầu lia lịa mà nói : “Dương trái sứ nói có lý, người này ắt hẳn là đã uống không ít”.

Gia Luật Văn cả giận: “Rút cuộc các ngươi muốn làm gì?”

Dương Hạo không thèm để ý đến hắn, nói với Hoàng Phủ Kế Huân: “Ngài thử ngửi kĩ xem, còn có mùi gì khác không?”

Hoàng Phủ Kế Huân lại ngửi ngửi, không có mùi gì khác cả. Hắn lại tiến lại gần sát để ngửi, mũi gần như đã dí sát vào mặt người chết, ngửi kĩ, mặt của Hoàng Phủ Kế Huân lộ ra một nét mặt kỳ quái.

“Thế nào? Hoàng Phủ đại nhân có cảm nhận được là mùi gì không?”

“Cái này… không tiện nói. Dường như là… rất giống… mùi nước tiểu”

“Bộp bộp” Dương Hạo vỗ mạnh vào vai hắn khen: “Oa, đúng là anh hùng như nhau, ta cũng ngửi thấy mùi nước tiểu”.

“Hức hức”, Hoàng Phủ Kế Huân nghĩ lại lúc nãy mặt mình vừa dí sát vào mặt người chết mà ngửi liên tục, không khỏi cảm thấy kinh.

Dương Hạo quay người sang nói với Lý Dục: “Quốc vương, võ sĩ Khiết Đan vóc người cao to lực lưỡng, nếu như có người thử tấn công thì trên người ắt hẳn phải có vết thương, do vậy, không có khả năng hắn bị ám sát”

Gia Luật Văn nghiến răng cười nói: “Không phải là ngươi giết thì lẽ nào hắn tự sát?”

Dương Hạo giống như một thầy sư đi đến trước mặt thi thể, chậm rãi mà nói: “Người này uống rượu… lại chết trong vườn hoa lúc nửa đêm, trên mặt còn có bùn và cánh hoa, Hoàng Phủ Kế Huân đại nhân cũng đã cẩn thận kiểm tra, trên cổ hắn ta còn có mùi nước tiểu, như vậy, bản quan có thể đưa ra kết luận, người này không phải là bị giết, cũng không phải do ngộ sát, mà là một chuyện xảy ra ngoài ý muốn”.

Lý Dục nghe thấy vậy liền vội hỏi: “Ngoài ý muốn? Mời Dương trái sứ nói rõ ràng hơn xem, rốt cuộc là chuyện ngoài ý muốn như thế nào?”

Dương Hạo nghiêm trang chắp tay nói: “Qua việc khám nghiệm của bản quan và Hoàng Phủ đại nhân, mùi rượu trên người nạn nhân không nồng, hơn nữa trên mặt còn có mùi nước tiểu. Căn cứ vào dấu vết, bản quan thiết đoán… người này ắt hẳn uống nhiều nên say, nửa đêm tỉnh giấc, muốn ra ngoài tiểu tiện, do uống quá nhiều mà bị ngã và hôn mê bất tỉnh. Do mũi và miệng bị ngập trong đống nước tiểu của mình mà bị tắc thở. Đây là giải thích hợp lý, cũng là gần với sự thực nhất”.

Lời Dương Hạo vừa dứt, cả triều đình liền xôn xao. Gia Luật Văn tức giận như nhất Phật xuất thế, nhị Phật thăng thiên, lớn tiếng gào lên: “Người không thể vô sỉ đến mức này, quá mức vô sỉ… Vô sỉ quá! Đổi trắng thay đen, chỉ hươu nói ngựa, ngôn từ bừa bãi, quá ư là vô liêm sỉ… tất cả những lời này lại có thể xuất phát từ miệng của sứ giả nhà Tống”.

Lối dùng từ của Gia Luật Văn thật cũng không đơn giản, một câu chửi mà đến Lão Tử và Tôn Tử đều có mặt, Dương Hạo ung dung cười: “Đừng có nghe theo cái nhân nghĩa đạo đức của Lão Tử, đạo đức kinh đều là do Lão Tử viết ra thôi”.

Gia Luật Văn nổi trận lôi đình, đoạt lấy binh khí từ tay một tên lính, đứng ở tư thế như đang dùng hoành thương nhảy ngựa. Dương Hạo trông thấy liền vội vàng rút thanh bảo kiếm ra, tay trái nắm chặt kiếm quyết, hét lớn: “Nghèo lý lẽ nên phải động thủ sao?”

Lý Dục thấy hai bên đang chuẩn bị đánh nhau, không khỏi mừng thầm trong lòng, trên mặt thì giả bộ cuống quýt, đứng lên hô lớn: “Mau mau kéo hai vị sứ giả ra, có gì từ từ nói, đừng có để mất hòa khí đôi bên”.

Khi hai bên chuẩn bị lao vào nhau, Lý Dục cho người kéo họ ra, dùng lời nói để điều đình, sau đó bày tiệc rượu mời hai vị sứ giả mỗi người ngồi một bên cùng uống rượu, vừa lấy thân phận Quốc vương ra trợ cấp cho nạn nhân kia, đồng thời ẻm chuyện này đi.

Đợi tiệc rượu tàn, Lý Dục mới nói: “Hai vị sứ giả từ xa tới Đường Quốc, đều là khách quý của ta, ta không hy vọng chúng ta vì những hiểu lầm nhỏ nhặt mà làm hỏng quan hệ hòa hảo của Khiết Đan và nước Tống. Hai vị sứ giả đều là những bậc thâm minh đại nghĩa, hy vọng có thể lấy việc nước làm trọng, hóa giải mọi hiểu lầm. Sáng mai ta sẽ đi Kê Minh Tự, lễ phật dâng hương, mời hai vị cùng đi, hy vọng dưới đất Phật từ bi thanh tịnh, với trái tim từ bi của Đức Phật chúng ta sẽ hóa giải được mọi tức giận trong lòng hai vị.”

Dương Hạo và Gia Luật Văn liếc nhau, đồng thanh “hừ” một tiếng, sau đó nhất tề chắp tay nói: “Quốc vương đã mời, ngoại thần cáo từ”. Nói rồi hai người cùng nhau quay lưng bỏ đi.

Lý Dục nhìn bóng hai người đi khuất, mép nở ra một nụ cười hoan hỉ, ngoắc tay gọi một tên thị vệ dặn dò: “Đi, mời Gia Luật Văn đến Thanh Lương điện cùng ta”

Lúc này, Trần Kiều đang lẳng lặng đợi tại Thanh Lương điện…

*************************************************

Gia Luật Văn vừa quay trở lại dịch quán, Đinh Thừa Nghiệp đã lập tức chạy lại nghênh đón: “Đại nhân, ở Thượng Kinh có tin rồi”.

“Hả?” Gia Luật Văn vội vàng hỏi: “Là thư của phụ vương? Nói gì?”

“Tiểu nhân không dám bóc thư của Lão Vương gia, thư vẫn còn đây, mời đại nhân xem”.

Gia Luật Văn vội vã nhận lấy lá thư, trở lại phòng, bóc phong bì lấy ra một lá thư mỏng, xem cẩn thận. Sau một hồi mới đứng dậy, đi lại trong phòng.

Đinh Thừa Nghiệp không đợi được nữa, tiến đến hỏi: “Đại nhân, Lão vương gia nói thế nào?”

Gia Luật Văn cười lạnh nói: “Không như ta dự liệu. Trước khi ta rời kinh Tiêu Xước hoàng hậu đã bắt đầu khai trừ tay chân vệ quân trong cung của ta rồi.”

Đinh Thừa Nghiệp thất kinh: “Bà ta đã ra tay trước rồi? Vậy ta nên làm thế nào đây?”

Gia Luật Văn nói: “Không sao, Tiêu Xước chỉ dám trực tiếp khống chế tay chân của ta trong cung, còn quân bộ tộc… bà ta vẫn không dám ra tay. Trong thư Phụ vương ta cũng đã nói, bà ta đã dẹp hết những thân tín trong cung của ta, sợ rằng chúng sẽ tạo phản, do đó lúc này không thích hợp để thực hiện kế hoạch xóa sổ bọn thủ lĩnh, hãy chiếm lấy Thượng Kinh trước đã”.

“Ý của Phụ vương là tạm thời cứ để bà ta tung hoành, loại bỏ hết thân tín trong cung của ta, để cho bà ta lơ là… Sau đó, đợi thời cơ thích hợp các đại thần của bộ tộc sẽ tiến đến Thượng Kinh, đợi đến Phóng Thâu nhật, khi Hoàng đế xuất cung vi hành sẽ tiến hành tập kích, tiêu diệt hết đám Gia Luật Hiền, Hàn Đức Nhượng, Gia Luật Thể, Tiêu Thác Trí… rồi điều quân binh vây Thượng Kinh. Sau đó đích thân ta sẽ ở nơi này phát động, kích động quân Tống Bắc phạt, nội ngoại bức bách, buộc Tiêu hoàng hậu phải bỏ ngai vàng, tôn ta làm vua, sau đó ta sẽ lấy bà ta làm hậu”.

Đinh Thừa Nghiệp thất vọng hỏi: “Phóng thâu nhật? Tức là vào ba ngày 13, 14, 15? Vậy là chỉ còn nửa tháng nữa…”

Gia Luật Văn mỉm cười nói: “Không sai, chỉ còn nửa tháng nữa thôi. Ngươi còn vội hơn cả ta cơ à, được làm Hoàng đế là điều không đơn giản, nửa tháng nữa mà còn chê dài sao?”

Đinh Thừa Nghiệp nói: “À… thần không có ý như thế, chỉ là những tên sứ thần nhà Tống kia dám làm nhục đại nhân, tiểu nhân thật bất bình, chỉ muốn ngay lập tức chém cho hắn trăm nhát… để trút giận cho đại nhân”.

Gia Luật Văn nhận được tin của Thượng Kinh, trong lòng đang vui sướng, nghe thấy vậy liền cười hi hi mà nói: “Ngươi thật tận tâm với ta. Hừ, cái bọn đó dám làm nhục ta, ta sẽ không để cho bọn chúng sống. Đợi thời cơ đến, ngày đó, ta sẽ nhẫn nại đợi, nửa tháng nữa… rất nhanh thôi, sẽ đến rất nhanh thôi…”

Hôm sau, sứ giả nước Tống cùng sứ giả Khiết Đan cùng đi với Lý Dục đến Kê Minh Tự lễ phật.

Trong vườn trồng rau, từng bó rau tươi non được đặt trên xe, Đức Hạnh đại sư phẩy tay nói: “Được rồi, các ngươi đem quần áo đã được giặt sạch lại đây, một lát nữa phải đưa đến Tĩnh Tâm Am…”

“Rõ ạ, tiểu sư thúc”, vài tên tiểu hòa thượng chắp tay rời đi, Bích Túc quay đầu lại đã thấy bọn chúng đi xa, liền vội vàng lôi kéo Tĩnh Thủy Nguyệt đến dưới một gốc cây to, lôi từ trong áo ra một quả lê vàng mọng, đưa cho nàng ta mà rằng: “Này, rất tươi ngon đấy nhé, ta đã rửa rồi, nàng ăn đi.”

Tĩnh Thủy Nguyệt mỉm cười, nhẹ nhàng lắc đầu, nhưng Bích Túc đã cố dúi vào tay nàng, kéo nàng ngồi xuống phiến đá gần đó mà nói: “Đây là chút lòng tốt của ta, nàng thử xem đi mà, ngọt lắm ấy, ăn đi, thử một miếng thôi cũng được.”

Tĩnh Thủy Nguyệt chần chừ đôi chút rồi cũng đón lấy quả lê, cắn một miếng nho nhỏ.

“Có ngon không?”

Tĩnh Thủy Nguyệt nhai khẽ, gật gật đầu. Bích Túc như cởi tấm lòng, nắm chặt tay nàng nói: “Nếu như nàng thấy ngon thì lần sau ta sẽ mang cho nàng ăn, để cho nàng mỗi ngày đều được ăn”.

Tĩnh Thủy Nguyệt bị kéo tay, mặt đỏ lên vì xấu hổ, nàng vội vã rút tay lại, chỉ chỉ vào chuỗi tràng hạt đeo trước ngực, rồi lại chỉ ra phía vườn sau, trừng mắt nhìn hắn.

Bích Túc cười hì hì nói: “Ta xuất gia cũng là vì nàng, Phật tổ cũng biết là ta thích nàng, Phật sẽ không trách tội chúng ta đâu”.

Tĩnh Thủy Nguyệt luống cuống, vội vã thả quả lê ra, chắp tay, miệng lắp bắp dường như đang ăn năn hối cải trước Phật tổ.

“Thủy Nguyệt, trước kia ta là một kẻ vô sỉ, cũng là kẻ lãng tử thâu hương thiết ngọc, cho dù nhà ta là đại gia cũng không hề có ý hướng thiện. Cho đến khi ta gặp nàng, Thủy Nguyệt, nàng là Bồ Tát sống của ta, ta càng ở gần nàng thì Phật càng ở gần ta. Phật không phải là người phổ độ chúng sinh hay sao, nàng từ bi như vậy, hãy chiếu độ cho ta đi, chỉ cần nàng lấy ta nàng đã biến một người xấu thành người tốt, tích được biết bao công đức, còn nhiều hơn nàng ngồi niệm kinh cả đời”.

Lời nói ngọt ngào của Bích Túc khiến Tĩnh Thủy Nguyệt động lòng, từ bé đến lớn chẳng có ai nói với nàng như thế, nàng muốn nghe, nhưng lại sợ, muốn chạy trốn, nhưng lại không nỡ để hắn bị tổn thương, thế là chỉ còn biết lấy tay bịt kín hai tai, nhắm chặt mắt, dáng điệu đáng yêu vô cùng.

“Ta đã nói rồi, ta nói rất nhiều mà, dẫu cho nàng không nói được, chúng ta thành thân trong nhà cũng không sợ bị tĩnh mịch”. Bích Túc kéo tay nàng: “Thủy Nguyệt tốt, tiểu sư thái, nghe niệm kinh cũng là niệm kinh, chỉ cần nàng thích, sau này nhà chúng ta sẽ bố trí giống phật đường, mỗi ngày nàng đều có thể niệm kinh, Kim Cương Kinh, Pháp Hoa Kinh, Lăng Nghiêm kinh… nàng muốn nghe bao lâu ta cũng đều có thể niệm cho nàng nghe, nhà chúng ta sẽ treo một cái chuông thật to, mỗi ngày ta sẽ là quan nhân của nàng, giúp nàng đánh chuông, đợi chúng ta có con ta cũng sẽ cạo đầu cho chúng thành tiểu sa di, ta sẽ là phương trượng, nàng là chủ trì…”

Tĩnh Thủy Nguyệt nghe đến mức hai mắt mở to ra, lắc đầu quầy quậy, Bích Túc liền cười nói: “Sao hả? Nàng không muốn con cái chúng ta mới ra đời đã làm tiểu hòa thượng sao? À… nói cũng đúng thôi, chúng là cục cưng của chúng ta, nhất định sẽ khôi ngô tuấn tú, làm sao nỡ mà gọt đầu chúng”.

Tĩnh Thủy Nguyệt xấu hổ, mặt đỏ rần, Bích Túc nhẹ nhàng nói: “Thủy Nguyệt, nàng có biết không, nàng là người phụ nữ đẹp nhất hạ giới, đợi tóc nàng mọc dài ra, nhất định sẽ càng đẹp hơn…”

Tĩnh Thủy Nguyệt không thể ngồi được nữa, nhét trả Bích Túc quả lê, nhảy dựng lên chạy mất.

“Này!” Bích Túc gọi với theo, nhìn theo bóng nàng khuất dần, mỉm cười nói: “Tiểu sư thái của ta khi cười giống như Bồ Tát vậy, thật mê hồn”. Hắn nắm chặt quả lê, cắn một miếng thật to ở chỗ Thủy Nguyệt vừa ăn, chạy theo hướng Thủy Nguyệt vừa đi”.

************************************************** ****

Kê Minh Tự, trong Phật đường, đại sư Bảo Kính mặc áo cà sa đỏ cùng với một vài đại sư khác đang ngồi bên Lý Dục. Lý Dục vừa dâng hương và tiền dầu cho chùa, đang ngồi cùng các vị hòa thượng, đích thân dùng dao cắt “xí giản” cho các hòa thượng. “Xí giản” chính là giấy vệ sinh dùng khi vào nhà tiêu, lúc đó giấy vệ sinh tương đối hiếm nên các hòa thượng phải làm sạch bằng những mảnh trúc nhỏ, nên giấy vệ sinh có nhu cầu rất lớn.

Bảo Kính đại sư nhìn thấy trong tự có chuyện chướng mắt, lại nằm ngay trong tầm mắt của nhà vua, liền không chịu được mà quát lên: “Đức Hạnh, ngươi đang làm gì vậy?”

Bích Túc đuổi theo Thủy Nguyệt, đang ngọt ngào dưới bóng cây, nói đến đoạn cao trào nên không phát hiện ra có người đang đến gần, nghe thấy phương trượng quát, hắn mới giật mình nhảy dựng lên, muốn tìm một lý do để lấp liếm đi nhưng chợt nhìn thấy Dương Hạo đang đứng đó nên bất giác ngẩn ra, quên cả trả lời.

Lý Dục vốn là một tín đồ của Phật tử, đồng thời cũng là một tài tử đa tình, hắn nhìn lén sang vị ni cô đang đứng đó, thấy cô là một người khá xinh đẹp. Với hắn, dù cô ta đã xuất gia với hắn cũng không có ý nghĩa gì mấy, bởi đã từng có chuyện hòa thượng lén cưỡng hiếp ni cô, sau khi sự việc xảy ra đã bị trừng trị nặng. Lý Dục thấy vậy mới nói vài câu giải vây cho đôi uyên ương: “Nơi này không phân định rõ quy định giữa hòa thượng với ni cô, Phật tâm không kiên định, bọn họ tư thông tâm tình, các ngươi nếu như muốn trừng trị họ thật nghiêm, sau đó đuổi họ ra khỏi tự thì chẳng phải đã cho họ đạt được tâm nguyện đó sao? Theo ý Trẫm, đối với những tăng nhân không tịnh như vậy thì hãy phạt họ đi bái Bồ Tát ba trăm lần là được”.

Hoàng đế nói như vậy, các nhà sư trong tự cũng không dám không nghe, do đó, trước mặt tăng nhân Giang Nam và rất nhiều người ở đó, chuyện quyến rũ con gái nhà lành cũng không được coi là chuyện lạ nữa, như sách nói: “Gian lạm công hành, vô sở cấm chỉ” (Làm việc sai trái ngay giữa ban ngày ban mặt mà không bị cấm).

Nhưng Kê Minh Tự là đệ nhất phật tự, đứng đầu nước Đường, Bảo Kính đại sư có yêu cầu vô cùng nghiêm ngặt, hơn nữa quan trọng nhất là hôm nay đệ tử của ông đã làm sai quy định, lại còn ngay trước mặt bao huynh đệ, trước mặt ông ta, hơn nữa còn ngay trước mắt vua Đường, tất nhiên không giận sao được.

Bích Túc lúng ta lúng túng không nói nên lời, Dương Hạo nhìn thấy hắn cũng không ngạc nhiên, cho tên tiểu tử này an phận trong thành Kim Lăng để chờ nghe ngóng tin tức, thế mà hắn lại khoác áo cà sa trốn trong chùa. Tên này đúng là hết thuốc chữa, Dương Hạo cũng nhất thời không biết nên giải vây cho hắn thế nào.

Lý Dục có chút bực mình, nhìn cẩn thận tên tiểu sa di và vị ni cô kia, nam thanh nữ tú, thật đúng là một cặp trời sinh. Lý Dục hiểu rõ nhất cách thưởng thức người đẹp, trong lòng cũng có phần thích thú, nhưng mặt không dám biểu lộ, liền cuời nói với Bảo Kính đại sư: “Tự chủ cần chi phải phẫn nộ, tôi thấy đôi này dung mạo thanh tú, làm sao lại có thể làm những chuyện nhơ bẩn được, để ta đi hỏi bọn chúng xem sao”.

Lý Dục tiến lên hai bước, Bảo Kính đại sư đi theo sau, cẩn thận dò xét hai người. Tĩnh Thủy Nguyệt đã quá sợ hãi mà đứng nép vào một bên, mặt trắng bệch, Lý Dục thấy có chút đáng thương liền làm mặt ôn hòa mà hỏi: “Sư phụ này ở đây cùng vị nữ nhi này làm gì?”

Dương Hạo vội ho một tiếng, nhắc nhở: “Tiểu hòa thượng, vị này là vua Giang Nam, làm sao mà ngươi lại không biết lễ nghĩa, mau hành lễ đi”

Bích Túc vốn không sợ hãi, nếu như Bảo Kính đại sư thực muốn đuổi hắn ra khỏi tự cũng chẳng sao, mục đích của hắn chủ yếu là tiếp cận Thủy Nguyệt mà thôi… Thủy Nguyệt tuy không từng bày tỏ thái độ với hắn, nhưng rõ ràng thái độ đối với hắn cũng khác, khi nghe hắn nói còn đỏ mặt mỉm cười, dù có chút cáu giận nhưng cũng chứng minh rõ là nàng cũng thích hắn, không sợ không có cơ hội đi tìm nàng nói chuyện. Nhưng khi nghe nói người đứng trước mặt mình chính là vua Đường, hắn mới bắt đầu thấy bối rối.

Dương Hạo cũng sốt ruột thay hắn, thấy Bích Túc cứ lắp bắp không thể mở miệng ra nói được, mặt Lý Dục cũng đã bắt đầu lộ vẻ khó chịu, Bích Túc lúc này đây chợt nghĩ đến khi giả mạo làm cao tăng Tây Tạng ở Khai Phong Dương Hạo đã từng nói: “Cao tăng mà, đều thích những lời nói sắc bén. Người khác nói những gì, chỉ cần ngươi cảm thấy không cần trả lời thì cứ trả lời nước đôi như không biết gì, ngươi yên tâm, càng nói chuyện không đâu thì càng giống Thiên Cơ, người ta càng cảm thấy nhà ngươi Phật học uyên bác. Người ta không hiểu thì đến hỏi cũng không dám hỏi ngươi, càng nói nữa, ngươi vốn là hòa thượng giả trang, có những điều ngươi nói không giống người xuất gia, nhưng cũng cứ kệ đi”.

Nghĩ tới đây, Bích Túc đột nhiên ưỡn ngực nói: “Người xuất gia nhảy ra khỏi Tam giới, không ở trong Ngũ hành, không bái Phật không bái tục, trước mặt Quốc vương, tiểu tăng cũng không cần phải bái. Mà thật ra Quốc vương mới là người cần bái tiểu tăng đây”.

Bảo Kính đại sư nghe thấy vậy đột nhiên giận dữ, Tĩnh Thủy Nguyệt thấy hắn nói vậy với Quốc vương cũng sợ hãi run rẩy, Lý Dục thì lại cười hỏi: “Tiểu sư phụ học những lời này ở đâu?”

Bích Túc cuống lên nói bừa: “Cái này… Kính tăng tức là kính phật, kính phật tức là kính pháp, tức là cung dưỡng tam bảo, mới được hưởng phúc. Tiểu tăng tuy chỉ là một vị tăng nhân bình thường nhưng lại là tín đồ của Phật, Quốc vương nếu như muốn ta hành lễ thì chẳng khác chi bắt Phật hành lễ, vậy là Quốc vương đã tạo tội rồi”.

Chương 357: Mây mưa sắp đến

Dương Hạo nghe thấy vậy không nhịn nổi cười, cái tên Bích Túc này quả là gan không nhỏ, chẳng phải là cao tăng gì, những lời nói của hắn đều bị Phương trượng nắm thóp, đang đứng ở kia tức khí bừng bừng mà hắn còn nói ra được. Còn vị tiểu ni cô kia cũng thật xinh đẹp, tên tiểu tử Bích Túc này cũng có mắt nhìn đấy chứ.

Lý Dục ngẫm nghĩ lời nói của Bích Túc, đột nhiên như tỉnh ra điều gì bèn quay sang nói với tiểu hòa thượng: “Tiểu sư phụ lễ Phật không lễ tục, nói cũng có lý, có thể thấy với trái tim kiên định hướng Phật như vậy tiểu sư phụ sắp đạt đến bậc cao tăng rồi. Nhưng không rõ tiểu sư phụ ở đây làm gì?”

Bích Túc đảo mắt một vòng rồi nói: “Thế Quốc vương ở đây làm gì? Tiểu tăng ở đây làm gì?”

Lý Dục cười nói: “Quả nhân hôm nay đến vốn là để lễ Phật”

Bích Túc nói: “Bần tăng ở đây cũng là để lễ Phật”

“Tiểu hòa thượng bái như vậy chẳng lẽ là thích Phật?” Lý Dục liếc vị ni cô kia một cái, câu hỏi này cơ hồ như cố ý thoát ra, nhưng thấy thân là Quốc vương, hình như không nên nói những lời này nên hắn lại ra vẻ trịnh trọng: “Quả nhân dâng hương lễ Phật, Phật trong Đại Hùng bảo điện, không biết vị sư phụ này lễ Phật ở đâu?”

Bích Túc càng bịa càng thấy vào, vung tay mà nói: “Nơi này một cành cây một cọng cỏ, điện các diêm ngói, ngài tôi cô ấy, đều có tính Phật, đều là Phật ta”.

Gia Luật Văn càng nghe càng mù mờ, không nhịn được mà cười khẩy nói: “Tiểu hòa thượng, ngươi ở đây với vị tiểu ni cô kia lôi lôi kéo kéo, đã là phạm vào sắc giới rồi, lại còn bốc phét, rõ ràng là người không tịnh, ắt hẳn là hòa thượng giả danh, ăn thịt uống rượu, muốn nói gì thì nói cũng đã là phạm tội rồi, còn đứng đó tự biên tự diễn”.

Bích Túc trợn mắt nói: “Rượu thịt đi qua dạ dày, Phật Tổ nằm lại trong tâm, cầm giới chưa chắc trong tâm đã có Phật, có Phật trong tâm chưa chắc đã phải cầm giới, đức Phật từ bi cũng không nổi trận lôi đình. Ngài ắt hẳn biết Phật tổ vốn là một vị hoàng tử, lấy vợ sinh con, ăn thịt uống rượu, thế mà vẫn tu hành ư?”

Bảo Kính đại sư quát to: “Đức Hạnh, ngươi thật to gan, thật hết cách để nói chuyện với ngươi. Đó là những chuyện Phật tổ làm trước khi thành Phật, còn sau đó đã giác ngộ bên dưới gốc bồ đề”.

Lý Dục nghĩ ngợi rồi nói: “Rượu thịt đi qua dạ dày, chỉ có Phật ở lại trong tâm. Hay! Nói hay lắm, Phật gia kiêng rượu thịt, đó là quy định có từ thời Lương Võ Đế… Khi niệm Phật thác bác hóa duyên, thi xá cái gì thì ăn cái đó, nhưng chính xác không phải là rượu thịt. Tiểu sư phụ có tính Phật, lại tuệ căn, có thể nói ra những điều ấy, rượu thịt đi qua dạ dày, chỉ có Phật ở lại trong tâm, câu này có thể nói ra quả là bậc đại thánh”.

Bảo Kính nghe thấy vua nói vậy bèn chỉ biết cung kính mà rằng: “Quốc vương Phật pháp cao thâm, có cách khiến giải khác đi, lão nạp không sao sánh bằng”.

Bích Túc thấy vua nói một câu, Bảo Kính liền nghe một câu, trong lòng thầm nghĩ: “Sư phụ của ta là đệ nhất đại sư của nhà Đường, các hòa thượng khác đều phải nghe lời ông ta, nhưng Lý Dục nói gì ông ta cũng không dám cãi lời, nếu như ta có thể leo lên cái cây này, ông ta dặn dò Thủy Nguyệt lấy ta thì ắt Tĩnh Tâm am cũng phải nghe theo”.

Nghĩ tới đây, hắn liền nảy ra ý định phàn giao với Lý Dục, bèn nói: “Quốc vương đã đến đây lễ Phật, nhìn thấy tiểu tăng rồi sao còn không bái?”

Bảo Kính kinh sợ, đang muốn trách mắng thì Lý Dục lại quay về phía hắn hành lễ nói: “Bậc sư phụ giáo dục đúng là… tín đồ Lý Dục xin được hành lễ”.

Bích Túc nhận lễ, cũng không thi lễ lại, Lý Dục thấy vậy cũng có cảm giác khó lường, chỉ cảm thấy tên hòa thượng này nói năng sắc bén… dung mạo thì khôi ngô khác thường, nói không chừng có thể là tiên đồng hạ phàm của Bồ Tát hóa thành hắn. Nghĩ vậy nên Lý Dục nhìn hắn với thái độ có đôi chút hoảng sợ.

Hai người lại nói chuyện với nhau, cũng nhân đó mà hỏi chuyện riêng của Bích Túc với vị ni cô kia. Bích Túc đã qua cơn sợ hãi, lại đang hứng khởi nói chuyện mây núi trời đất, rõ là không biết sợ ai, người bình thường ai cũng nghe ra là hắn đang nói phét, nhưng Lý Dục – kẻ thông thuộc Phật pháp thì lại cứ bị những lời nói của Bích Túc rót vào tai, thấy lời nào cũng có lý, thậm chí còn nảy sinh lòng tin phục với Bích Túc.

Hai người nói chuyện một lúc lâu, Lý Dục vẫn chưa nói hết ý nhưng do đã đến lúc phải về nên hắn lấy giấy bút chỗ Bảo Kính đại sư, viết lên một vài chữ to rồi nói: “Hôm nay được đối đáp với tiểu sư phụ, quả nhân được mở rộng tầm mắt, chữ này là quả nhân tặng cho sư phụ làm quà. Hôm sau quả nhân muốn mời sư phụ vào cung nói chuyện Phật pháp, xin tiểu sư phụ chớ từ chối”.

Dương Hạo xem ý nghĩa của chữ kia, không khỏi không thấy buồn cười. Bích Túc thì gãi gãi cái đầu trọc, nói nhỏ: “Chữ quốc vương viết ra đáng giá nghìn vàng, thật đáng tiếc… Quốc vương viết trên bức tường này thì ai cũng có thể gỡ tường ra đi bán”

Lý Dục nghe xong cười lớn, chỉ cảm thấy từng câu từng chữ của tiểu sư phụ này quả thực không tầm thường, giống như nhặt được bảo bối, hắn xem Bích Túc như bậc thần thánh.

Sau khi cung kính tiễn Lý Dục đi khỏi, Bảo Kính mới quay lại điện, nhìn thấy những chữ trên tường mà phát rầu. Thủ Tọa đại sư nghe nói Quốc vương viết lên tường, cũng hoan hỉ dẫn theo vài hòa thượng đến xem. Trên tường treo chữ, bên dưới còn có một cái lồng để bảo vệ cho ngự bút mới dán. Vừa nhìn thấy Bảo Kính đại sư đang đứng trước tường tức khí, Thủ Tọa đại sư không nén được mà nói: “Phương trượng, Quốc vương ta lấy đệ tử của Phương trượng – Đức Hạnh làm đề tài viết chữ, cái này là phúc của chùa ta, cớ sao ngài lại nhìn như thế là ra đạo lý gì?”

Bảo Kính chỉ chữ treo trên tường, mặt sầu não mà nói: “Sư huynh, huynh đến xem kĩ đi, xem xem Quốc vương nói đến điều gì?”

Thủ Tọa đại sư nhìn lên tường, chỉ thấy trên tường là những chữ rồng bay phượng múa, trên đó viết “Thiển châm đê xướng ôi hồng ỷ sắc đại sư, uyên ương tự chủ, trụ trì phong lưu giáo pháp”. Thủ Tọa đọc đi đọc lại hai lần vẫn không hiểu ý nói gì, quay sang nhìn Bảo Kính như muốn nhờ ông ta giải đáp dùm, bất giác ông “a” lên một tiếng, bối rối nói: “Cái này… cái này phải làm sao cho phải?”

“Thiển châm đê xướng ôi hồng ỷ sắc đại sư, uyên ương tự chủ, trụ trì phong lưu giáo pháp”, câu này rõ ràng là có ý nói Bích Túc muốn lấy vợ sinh con, theo đuổi ni cô, đó là điều có thể. Lý Dục hiện giờ tuy là đã mất đi đế hiệu, nhưng vẫn là Hoàng đế của Giang Nam, lời của Hoàng đế viết xuống như thánh chỉ, nào ai dám không tuân theo?

Nhất là khi trong câu này còn nói đến chủ trì, làm sao có thể vờ như không thấy. Nhưng muốn tuân theo thì chẳng lẽ phải trao chức Phương trượng cho tên Bích Túc kia? Nếu như Bích Túc làm Phương trượng thì Kê Minh Tự sẽ đi về đâu? Bảo Kính và Thủ Tọa đối mặt với nhau, cảm giác không tưởng tượng nổi Kê Minh Tự sẽ như thế nào.

Lúc này đây Bích Túc mắt la mày lém bước vào, đứng sau hai vị, cười hì hì rồi chắp tay thi lễ nói: “Sư phụ, Thủ Tọa đại sư đã mời, Kê Minh Tự vãn là đệ nhất của nước Đường. Trong tự có khoảng 3.000 tăng nhân, đệ tử có thể làm Phương trượng của chùa này không? Quốc vương đã phong cho đệ tử chức Phong lưu giáo pháp, đó cũng là Phật hiệu, trụ trì của chùa vẫn cần nhờ vào phó Phương trượng này, đệ tử…”

Hắn thấy trên đầu hắn như có bao ngôi sao sáng lấp lánh, mặt mày hớn hở mà nghĩ: “Hahaha… phen này xem nàng còn dám kháng chỉ của ta không?”

************************************************** ****

Lý Dục khởi giá, đại đội ngựa người chậm rãi hồi cung. Trên đường, bách tính bị quân lính dẹp gọn vào hai bên đường, trong đám người chen chúc đó có một khuôn mặt vàng vọt, quần áo rách rưới… chỉ có đôi mắt là trong veo như suối chảy, dáng người gày gò đi theo đoàn người cả một đoạn đường dài.

Ánh mắt của hắn nhìn chằm chằm vào sứ giả Khiết Đan như tìm tòi điều gì, dường như không tìm thấy người hắn cần tìm, hắn khẽ nhíu mày nói: “Rõ ràng là hắn có đến Giang Nam, nghe nói đó là tâm phúc của Gia Luật Văn, lẽ nào Gia Luật Văn không đem theo hắn? Chẳng lẽ hắn lại có tư cách làm bạn của Gia Luật Văn, lúc nào cũng ở bên cạnh Lý Dục?”

Hắn rảo nhanh bước đi, chạy theo một đoàn người đi phía trước, vừa tìm tòi trong đoàn nghi thức, vừa tìm kiếm dọc hai bên mà vẫn không thấy bóng dáng ấy, lại nhìn lên phía trên thì chỉ thấy đám Lý Dục và Gia Luật Văn. Ánh mắt hắn lại nhìn sang người đang cưỡi ngựa trắng bên cạnh Lý Dục, thân thể cao to cường tráng, đang mỉm cười nhìn về phía bách tính hai bên đường, chậm rãi đi qua họ.

Tên mặt vàng đó khẽ dụi mắt, đi nhanh vài bước, suýt nữa hắn đụng phải quang gánh của những bà bán hàng rong, vội vàng hắn chạy tới đầu cầu, nơi binh lính đứng nghiêm kín mít không dễ gì chen qua nổi, mắt lại hướng về phía người cưỡi ngựa trắng đang đi tới, đôi mắt sáng ngời càng lúc càng mở to, khẽ kêu lên như một kẻ đang mộng du: “Nhị ca, đúng là nhị ca…”

Chỉ trông thấy Lý Dục vịn tay vào thành xe ngựa, đằng sau một quãng ngắn là những chiến mã cao to, bên phải là sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn, còn bên trái kia…, mặc dù khí chất không giống với những gì hắn nhớ trong quá khứ, nhưng dung mạo kia thì hắn không thể nhìn lầm, đúng là nhị ca…

Hắn, chính là Ngọc Lạc, là nữ giả trang thành nam, cô độc đến Bắc quốc, vượt hàng ngàn dặm để tìm dấu tích Đinh Thừa Nghiệp. Đoạn đường khó khăn vất vả, không biết phải chịu khổ thế nào mới có thể lần ra tin tức Đinh Thừa Nghiệp đang ở Thượng Kinh, dưới trướng của chỉ huy sứ bộ tộc – Gia Luật Văn. Nàng lặn lội đến Thượng Kinh, đã từng thấy Đinh Thừa Nghiệp theo bên cạnh Gia Luật Văn, nhưng cái tên Gia Luật Văn ấy bên cạnh luôn có hàng đống người bảo vệ, canh phòng kín mít, khiến nàng không có cơ hội tiếp cận.

Nàng không biết rằng, sở dĩ Gia Luật Văn cho người canh phòng như vậy là bởi hắn vẫn đang cảnh giới với Hoàng đế và Tiêu hoàng hậu. Do không thể tìm cách tiếp cận với Đinh Thừa Nghiệp, nàng hết sức buồn rầu, may thay nghe ngóng được tin Gia Luật Văn sẽ đi sứ, nàng cũng tìm cách theo đuôi đến. Tại đây, đúng là sự cảnh giới của Gia Luật Văn không kinh khủng như ở Thượng Kinh, nhưng rất lạ là từ khi đến nước Đường này, Đinh Thừa Nghiệp không mấy khi ra ngoài cùng hắn.

Mãi đến giờ Đinh Ngọc Lạc mới biết nguyên nhân, thì ra Dương Hạo cũng ở đây.

Nhìn Dương Hạo, Đinh Ngọc Lạc bất giác rơi lệ. Nàng vốn là một tiểu thư vô lo vô nghĩ, nhưng đột nhiên gặp biến cố, cha già chết thảm, đại ca tàn phế, may mắn thay nàng thoát được. Tiểu đệ mà nàng hết mực yêu thương lại trở thành kẻ thù giết cha, còn người anh cùng cha khác mẹ của nàng lại do điều tiếng thiên hạ mà coi nàng như người qua đường.

Nàng có thể chịu đựng những áp lực hành hạ, vượt ngàn dặm đến Thượng Kinh, rồi lại đến Kim Lăng, đi qua ba nước, tâm lực đã tàn. Khi nhà Đinh gặp phải đại nạn, khi đói khổ, khi không còn nơi nào để nương tựa, đều là Dương Hạo đã giúp nàng.

Nàng sớm đã coi Dương Hạo như một người anh để nàng có thể dựa dẫm, nhưng hôm nay… Chàng đang đứng trước mặt mà Ngọc Lạc lại không còn mặt mũi nào đi gặp chàng.

Đại ca đã nói, Đinh Thừa Nghiệp chính là hung thủ giết cha, hắn không những là nguyên nhân gián tiếp khiến mẫu thân Dương Hạo qua đời mà còn là kẻ thù không đội trời chung, cũng là nguyên nhân trực tiếp khiến anh em bất hòa. Trước khi giết chết được hắn ta thì nàng không còn mặt mũi nào đến tạ tội với nhị ca, nàng chỉ có thể khẽ cắn chặt răng, mở to mắt nhìn Dương Hạo tiến tới gần, cách nàng vừa gần mà lại vừa xa… Tất cả những đau khổ và mệt mỏi, nàng chỉ có thể tự mình gánh chịu.

Khi đoàn nghi thức của Lý Dục rời đi, dân chúng mới bắt đầu tản đi, Đinh Ngọc Lạc đứng đơn độc trên đầu cầu, lặng lẽ cúi đầu, hai hàng lệ rơi xuống, hòa vào dòng nước sông…

************************************************** *****

Lý Dục hồi cung, đang hưng phấn về hậu cung để kể chuyện hôm nay nói chuyện với tiểu sư phụ Đức Hạnh cho Hoàng hậu nghe, thì một viên cung nhân vội vàng đuổi theo nói: “Quốc vương, hiệu thư lang Uông Hoán xin cầu kiến”.

Hiệu thư lang là người cốt cán của trường, là viên quan hiệu đính những lỗi sai, cũng không phải là chức quan gì to tát, nhưng Lý Dục thích nhất là thu thập những cuốn sách lẻ cổ đã bị thất lạc, rất xem trọng những điển tích văn chương, do vậy khi nghe Uông Hoán xin cầu kiến thì hắn cho rằng Uông Hoán lại phát hiện ra cái gì đó hay ho chăng, nên vội vàng nói: “Cho hắn vào”.

Uông Hoán vào cung, nhìn thấy Lý Dục liền nổi giận đùng đùng nói: “Thần nghe nói hôm nay đến Kê Minh tự lễ phật người đã quyên vạn tiền?”

Lý Dục vừa nghe đã biết hắn đến đây là vì cái gì, mặt liền trầm xuống, bực mình nói: “Không sai, có sao nào?”

Uông Hoán lại nói: “Thần còn nghe nói, Quốc vương thấy một hòa thượng không thanh thủ quy giới, không những không trừng phạt nặng mà còn nói chuyện trên trời dưới bể cùng hắn, còn đề chữ tặng hắn?”

Lý Dục bực mình cười: “Quả nhân ở đây hay là ở ngoài cung quả thật chuyện gì cũng không qua nổi mắt khanh. Việc lớn việc nhỏ trong cung trong chốc lát đã truyền ra bên ngoài, bên ngoài có động tĩnh gì cũng lập tức bay vào cung. Hiệu thư lang, khanh còn không quay về Tàng Thư các để chỉnh lý sách đi, còn cố ý chạy tới đây cầu kiến ta là vì chuyện này sao? Việc của ta liên quan gì đến khanh?”

Nói rồi hắn phất áo bỏ đi. Uông Hoán thấy vậy đành thất lễ, chạy theo kéo lấy áo Lý Dục mà nói: “Quốc vương dừng bước, thường nhân nịnh phật, tất nhiên là không can dự tới thần. Nhưng xã tắc Giang Nam ở trong tay người, thiên hạ đang dõi theo người, mà Quốc vương lại không chú ý câu nói, hoang đãi chính sự. Đến nạn đói năm nay dân chết đầy đường, quân thù thì dòm ngó nơi biên giới, thế mà Quốc vương lại hậu tăng bạc dân, xin hỏi người phục vụ Hoàng thất là Tăng hay là dân?”

Lý Dục biết hắn tuy là con mọt sách nhưng tấm lòng cũng trung thành và tận tâm, dù những lời hắn nói không dễ nghe nhưng cũng chỉ là nghĩ cho dân cho nước. Thấy vậy, hắn bèn an ủi nói: “Khanh vẫn còn dũng khí nói với trẫm những điều này, quả là đất nước ta còn phúc. Quả nhân tín phật cũng là để cảm hóa dân chúng hướng thiện. Khi ta xuất cung, nào ta có nhìn thấy cảnh dân chúng chết đói ngoài đường đâu, khanh nói những lời đó ngây thơ quá, tuy nhiên là do tính tình ngươi thuần phác, trẫm không trách ngươi đâu.”

Vừa nói xong hắn lại quay lưng rảo bước, Uông Hoán tiến tới trước mặt Lý Dục, đau khổ nói: “Quốc vương, ngày xưa Lương Võ Đế tín Phật, lấy máu viết Phật thư, xả thân làm nô lệ nhà Phật, cắt tóc đi tu, cuối cùng cũng chết đói trên bàn thành. Nay Quốc vương tiêu pha xa xỉ, lại thích Bồ tát, không quản chuyện chính sự lại đi mê tín vào chuyện Phật, không nghe những lời nói từ đáy lòng, thần e rằng Quốc vương sẽ rơi vào kết cục còn không bằng được Lương Võ Đế.”

Lý Dục nghe thấy Uông Hoán đem hắn so sánh cùng tên hôn quân Lương Võ Đế, trong lòng hết sức phẫn nộ, cười lạnh mà rằng: “Quả nhân đâu có dùng máu viết Phật thư, cũng không xả thân vì Phật. Liên Hành Nhân nói, vô vi mà trị, không lạm thi cực hình lệ pháp, làm sao rơi vào kết cục như Lương Võ Đế được? Thậm chí khanh nói bừa như thế, chẳng lẽ muốn giống Phan Hữu, Lý Bình hay sao?”

Phan Hữu vốn là Trung thư xá của nước Đường, Lý Bình là đại phu của nước Đường, hai người đã từng nói những điều giống như Uông Hoán hôm nay, khiến Lý Dục phẫn nộ, bị tống vào nhà giam, hai người cuối cùng phải tự vẫn trong ngục.

Uông Hoán ưỡn ngực nói: “Thần hôm nay đến, đúng là muốn giống như Phan Hữu, Lý Bình. Nếu như Quốc vương muốn giết Uông Hoán, Uông Hoán cũng nguyện xuống suối vàng kết bạn cùng Phan Hữu, Lý Bình.”

Lý Dục nghe xong cười lạnh một tiếng, ung dung nói: “Hư ngôn võng sự, mua danh chuộc tiếng”.

Uông Hoán nghe thấy vậy giận tím mặt, hắn vốn là một thư sinh bần kinh, thường không vận động mấy, nay bị Lý Dục kích động chỉ biết tức giận đến mức hoa mày chóng mặt, chân tay lạnh buốt, mắt hoa lên, cơ hồ như muốn ngất đi.

Lý Dục thấy vậy liền quay sang hai bên dặn dò: “Người đâu, mau dìu hắn đi”. Vừa nói hắn vừa đùng đùng bỏ đi. Lý Dục bị những lời nói của Phan Hữu làm hỏng tâm trạng vui vẻ của hắn, buồn bã tới hậu cung, cũng không cho người truyền báo mà lẳng lặng tiến vào, liền nghe thấy bên trong vọng ra tiếng nói của hai người đang rì rầm to nhỏ, Lý Dục liền khựng lại, dỏng tai lắng nghe…

Trong phòng có tiếng con gái: “Quốc vương đi đến Kê Minh tự dâng hương rồi? Trái tim Quốc vương thật nhân hậu, sùng tín Phật pháp, vốn bản tính của Quốc vương đã là Phật tâm rồi, không thể nào bỏ qua, nhưng nay cường địch ở bên, giang sơn nước Đường có nguy cơ bị mất, đến nước này Quốc vương nên dốc tâm xây dựng thủy quân lớn mạnh, tu sửa lại thuyền chiến, chiêu mộ anh tài, đẩy mạnh thế lực để tránh người Tống sang xâm lược từ phía Nam. Phân tâm vào quá nhiều việc thực chẳng ra sao cả. Nương nương, hiện trong dân gian có người nói nước Tống có dã tâm, không chịu để yên cho nước Đường đâu. Có rất nhiều nười nói, nước Tống đã mở rộng thành trì bên ngoài Khai Phong, đang luyện thủy quân, rõ ràng không chút che dấu, thử hỏi đại chiến hạm, luyện thủy quân như thế, nếu như không có ý với nước Đường thì là vì sao?”

Lý Dục nghe tiếng đoán người nói chính là Mạc cô nương, lần trước trái tim đa tình của hắn đã từng rung động trước Mạc cô nương, muốn nhờ cô nương viết thủ từ, ai ngờ cô ta lại không đồng ý, làm cho Lý Dục bị tổn thương. Bây giờ Mạc cô nương lại đang nói đến những chuyện của bản thân mình, Lý Dục cảm thấy hiếu kỳ, bèn muốn đứng nghe thêm xem cô ta nghĩ thế nào về mình, nên không nói lời nào, im lặng đứng phía sau bức bình phong nghe ngóng.

Chỉ nghe thấy tiếng Tiểu Chu nói tiếp: “Thực ra Quốc vương biết thừa dã tâm của nước Tống chứ, nhưng thực lực không đủ, không phải Quốc vương không thể dốc hết sức cứu vãn, nhưng nếu như huy động lực lượng lớn đi luyện binh thì e rằng sẽ là cái cớ để nước Tống lập tức xuất binh sang Đường. Đến nay Quốc vương vẫn im hơi lặng tiếng, muốn chủ động xưng thần với nước Tống là chẳng qua muốn lùi một bước, khiến bọn Tống không tìm ra cớ mà đánh nước Đường ta mà thôi.

Nước Đường ta có hơn 10 vạn binh lính tinh nhuệ, người Tống vừa không có lý do danh chính ngôn thuận, lại luyện binh trong hồ, nếu thật sự muốn đánh e rằng họ cũng không có cơ hội tốt, Triệu Khuông đâu có ngu mà không biết đánh giá điều đó? Còn về việc quân Tống cho đóng thuyền thì cũng chỉ là muốn dọa chúng ta thôi, chứ chưa chắc đã cố tình thảo phạt Đường Quốc. Hôm nay nước tống có được giang sơn nước Hán cũng cần có quân binh và chiến hạm canh giữ lãnh thổ chứ.

Chương 357: Mây mưa sắp đến

Dương Hạo nghe thấy vậy không nhịn nổi cười, cái tên Bích Túc này quả là gan không nhỏ, chẳng phải là cao tăng gì, những lời nói của hắn đều bị Phương trượng nắm thóp, đang đứng ở kia tức khí bừng bừng mà hắn còn nói ra được. Còn vị tiểu ni cô kia cũng thật xinh đẹp, tên tiểu tử Bích Túc này cũng có mắt nhìn đấy chứ.

Lý Dục ngẫm nghĩ lời nói của Bích Túc, đột nhiên như tỉnh ra điều gì bèn quay sang nói với tiểu hòa thượng: “Tiểu sư phụ lễ Phật không lễ tục, nói cũng có lý, có thể thấy với trái tim kiên định hướng Phật như vậy tiểu sư phụ sắp đạt đến bậc cao tăng rồi. Nhưng không rõ tiểu sư phụ ở đây làm gì?”

Bích Túc đảo mắt một vòng rồi nói: “Thế Quốc vương ở đây làm gì? Tiểu tăng ở đây làm gì?”

Lý Dục cười nói: “Quả nhân hôm nay đến vốn là để lễ Phật”

Bích Túc nói: “Bần tăng ở đây cũng là để lễ Phật”

“Tiểu hòa thượng bái như vậy chẳng lẽ là thích Phật?” Lý Dục liếc vị ni cô kia một cái, câu hỏi này cơ hồ như cố ý thoát ra, nhưng thấy thân là Quốc vương, hình như không nên nói những lời này nên hắn lại ra vẻ trịnh trọng: “Quả nhân dâng hương lễ Phật, Phật trong Đại Hùng bảo điện, không biết vị sư phụ này lễ Phật ở đâu?”

Bích Túc càng bịa càng thấy vào, vung tay mà nói: “Nơi này một cành cây một cọng cỏ, điện các diêm ngói, ngài tôi cô ấy, đều có tính Phật, đều là Phật ta”.

Gia Luật Văn càng nghe càng mù mờ, không nhịn được mà cười khẩy nói: “Tiểu hòa thượng, ngươi ở đây với vị tiểu ni cô kia lôi lôi kéo kéo, đã là phạm vào sắc giới rồi, lại còn bốc phét, rõ ràng là người không tịnh, ắt hẳn là hòa thượng giả danh, ăn thịt uống rượu, muốn nói gì thì nói cũng đã là phạm tội rồi, còn đứng đó tự biên tự diễn”.

Bích Túc trợn mắt nói: “Rượu thịt đi qua dạ dày, Phật Tổ nằm lại trong tâm, cầm giới chưa chắc trong tâm đã có Phật, có Phật trong tâm chưa chắc đã phải cầm giới, đức Phật từ bi cũng không nổi trận lôi đình. Ngài ắt hẳn biết Phật tổ vốn là một vị hoàng tử, lấy vợ sinh con, ăn thịt uống rượu, thế mà vẫn tu hành ư?”

Bảo Kính đại sư quát to: “Đức Hạnh, ngươi thật to gan, thật hết cách để nói chuyện với ngươi. Đó là những chuyện Phật tổ làm trước khi thành Phật, còn sau đó đã giác ngộ bên dưới gốc bồ đề”.

Lý Dục nghĩ ngợi rồi nói: “Rượu thịt đi qua dạ dày, chỉ có Phật ở lại trong tâm. Hay! Nói hay lắm, Phật gia kiêng rượu thịt, đó là quy định có từ thời Lương Võ Đế… Khi niệm Phật thác bác hóa duyên, thi xá cái gì thì ăn cái đó, nhưng chính xác không phải là rượu thịt. Tiểu sư phụ có tính Phật, lại tuệ căn, có thể nói ra những điều ấy, rượu thịt đi qua dạ dày, chỉ có Phật ở lại trong tâm, câu này có thể nói ra quả là bậc đại thánh”.

Bảo Kính nghe thấy vua nói vậy bèn chỉ biết cung kính mà rằng: “Quốc vương Phật pháp cao thâm, có cách khiến giải khác đi, lão nạp không sao sánh bằng”.

Bích Túc thấy vua nói một câu, Bảo Kính liền nghe một câu, trong lòng thầm nghĩ: “Sư phụ của ta là đệ nhất đại sư của nhà Đường, các hòa thượng khác đều phải nghe lời ông ta, nhưng Lý Dục nói gì ông ta cũng không dám cãi lời, nếu như ta có thể leo lên cái cây này, ông ta dặn dò Thủy Nguyệt lấy ta thì ắt Tĩnh Tâm am cũng phải nghe theo”.

Nghĩ tới đây, hắn liền nảy ra ý định phàn giao với Lý Dục, bèn nói: “Quốc vương đã đến đây lễ Phật, nhìn thấy tiểu tăng rồi sao còn không bái?”

Bảo Kính kinh sợ, đang muốn trách mắng thì Lý Dục lại quay về phía hắn hành lễ nói: “Bậc sư phụ giáo dục đúng là… tín đồ Lý Dục xin được hành lễ”.

Bích Túc nhận lễ, cũng không thi lễ lại, Lý Dục thấy vậy cũng có cảm giác khó lường, chỉ cảm thấy tên hòa thượng này nói năng sắc bén… dung mạo thì khôi ngô khác thường, nói không chừng có thể là tiên đồng hạ phàm của Bồ Tát hóa thành hắn. Nghĩ vậy nên Lý Dục nhìn hắn với thái độ có đôi chút hoảng sợ.

Hai người lại nói chuyện với nhau, cũng nhân đó mà hỏi chuyện riêng của Bích Túc với vị ni cô kia. Bích Túc đã qua cơn sợ hãi, lại đang hứng khởi nói chuyện mây núi trời đất, rõ là không biết sợ ai, người bình thường ai cũng nghe ra là hắn đang nói phét, nhưng Lý Dục – kẻ thông thuộc Phật pháp thì lại cứ bị những lời nói của Bích Túc rót vào tai, thấy lời nào cũng có lý, thậm chí còn nảy sinh lòng tin phục với Bích Túc.

Hai người nói chuyện một lúc lâu, Lý Dục vẫn chưa nói hết ý nhưng do đã đến lúc phải về nên hắn lấy giấy bút chỗ Bảo Kính đại sư, viết lên một vài chữ to rồi nói: “Hôm nay được đối đáp với tiểu sư phụ, quả nhân được mở rộng tầm mắt, chữ này là quả nhân tặng cho sư phụ làm quà. Hôm sau quả nhân muốn mời sư phụ vào cung nói chuyện Phật pháp, xin tiểu sư phụ chớ từ chối”.

Dương Hạo xem ý nghĩa của chữ kia, không khỏi không thấy buồn cười. Bích Túc thì gãi gãi cái đầu trọc, nói nhỏ: “Chữ quốc vương viết ra đáng giá nghìn vàng, thật đáng tiếc… Quốc vương viết trên bức tường này thì ai cũng có thể gỡ tường ra đi bán”

Lý Dục nghe xong cười lớn, chỉ cảm thấy từng câu từng chữ của tiểu sư phụ này quả thực không tầm thường, giống như nhặt được bảo bối, hắn xem Bích Túc như bậc thần thánh.

Sau khi cung kính tiễn Lý Dục đi khỏi, Bảo Kính mới quay lại điện, nhìn thấy những chữ trên tường mà phát rầu. Thủ Tọa đại sư nghe nói Quốc vương viết lên tường, cũng hoan hỉ dẫn theo vài hòa thượng đến xem. Trên tường treo chữ, bên dưới còn có một cái lồng để bảo vệ cho ngự bút mới dán. Vừa nhìn thấy Bảo Kính đại sư đang đứng trước tường tức khí, Thủ Tọa đại sư không nén được mà nói: “Phương trượng, Quốc vương ta lấy đệ tử của Phương trượng – Đức Hạnh làm đề tài viết chữ, cái này là phúc của chùa ta, cớ sao ngài lại nhìn như thế là ra đạo lý gì?”

Bảo Kính chỉ chữ treo trên tường, mặt sầu não mà nói: “Sư huynh, huynh đến xem kĩ đi, xem xem Quốc vương nói đến điều gì?”

Thủ Tọa đại sư nhìn lên tường, chỉ thấy trên tường là những chữ rồng bay phượng múa, trên đó viết “Thiển châm đê xướng ôi hồng ỷ sắc đại sư, uyên ương tự chủ, trụ trì phong lưu giáo pháp”. Thủ Tọa đọc đi đọc lại hai lần vẫn không hiểu ý nói gì, quay sang nhìn Bảo Kính như muốn nhờ ông ta giải đáp dùm, bất giác ông “a” lên một tiếng, bối rối nói: “Cái này… cái này phải làm sao cho phải?”

“Thiển châm đê xướng ôi hồng ỷ sắc đại sư, uyên ương tự chủ, trụ trì phong lưu giáo pháp”, câu này rõ ràng là có ý nói Bích Túc muốn lấy vợ sinh con, theo đuổi ni cô, đó là điều có thể. Lý Dục hiện giờ tuy là đã mất đi đế hiệu, nhưng vẫn là Hoàng đế của Giang Nam, lời của Hoàng đế viết xuống như thánh chỉ, nào ai dám không tuân theo?

Nhất là khi trong câu này còn nói đến chủ trì, làm sao có thể vờ như không thấy. Nhưng muốn tuân theo thì chẳng lẽ phải trao chức Phương trượng cho tên Bích Túc kia? Nếu như Bích Túc làm Phương trượng thì Kê Minh Tự sẽ đi về đâu? Bảo Kính và Thủ Tọa đối mặt với nhau, cảm giác không tưởng tượng nổi Kê Minh Tự sẽ như thế nào.

Lúc này đây Bích Túc mắt la mày lém bước vào, đứng sau hai vị, cười hì hì rồi chắp tay thi lễ nói: “Sư phụ, Thủ Tọa đại sư đã mời, Kê Minh Tự vãn là đệ nhất của nước Đường. Trong tự có khoảng 3.000 tăng nhân, đệ tử có thể làm Phương trượng của chùa này không? Quốc vương đã phong cho đệ tử chức Phong lưu giáo pháp, đó cũng là Phật hiệu, trụ trì của chùa vẫn cần nhờ vào phó Phương trượng này, đệ tử…”

Hắn thấy trên đầu hắn như có bao ngôi sao sáng lấp lánh, mặt mày hớn hở mà nghĩ: “Hahaha… phen này xem nàng còn dám kháng chỉ của ta không?”

************************************************** ****

Lý Dục khởi giá, đại đội ngựa người chậm rãi hồi cung. Trên đường, bách tính bị quân lính dẹp gọn vào hai bên đường, trong đám người chen chúc đó có một khuôn mặt vàng vọt, quần áo rách rưới… chỉ có đôi mắt là trong veo như suối chảy, dáng người gày gò đi theo đoàn người cả một đoạn đường dài.

Ánh mắt của hắn nhìn chằm chằm vào sứ giả Khiết Đan như tìm tòi điều gì, dường như không tìm thấy người hắn cần tìm, hắn khẽ nhíu mày nói: “Rõ ràng là hắn có đến Giang Nam, nghe nói đó là tâm phúc của Gia Luật Văn, lẽ nào Gia Luật Văn không đem theo hắn? Chẳng lẽ hắn lại có tư cách làm bạn của Gia Luật Văn, lúc nào cũng ở bên cạnh Lý Dục?”

Hắn rảo nhanh bước đi, chạy theo một đoàn người đi phía trước, vừa tìm tòi trong đoàn nghi thức, vừa tìm kiếm dọc hai bên mà vẫn không thấy bóng dáng ấy, lại nhìn lên phía trên thì chỉ thấy đám Lý Dục và Gia Luật Văn. Ánh mắt hắn lại nhìn sang người đang cưỡi ngựa trắng bên cạnh Lý Dục, thân thể cao to cường tráng, đang mỉm cười nhìn về phía bách tính hai bên đường, chậm rãi đi qua họ.

Tên mặt vàng đó khẽ dụi mắt, đi nhanh vài bước, suýt nữa hắn đụng phải quang gánh của những bà bán hàng rong, vội vàng hắn chạy tới đầu cầu, nơi binh lính đứng nghiêm kín mít không dễ gì chen qua nổi, mắt lại hướng về phía người cưỡi ngựa trắng đang đi tới, đôi mắt sáng ngời càng lúc càng mở to, khẽ kêu lên như một kẻ đang mộng du: “Nhị ca, đúng là nhị ca…”

Chỉ trông thấy Lý Dục vịn tay vào thành xe ngựa, đằng sau một quãng ngắn là những chiến mã cao to, bên phải là sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn, còn bên trái kia…, mặc dù khí chất không giống với những gì hắn nhớ trong quá khứ, nhưng dung mạo kia thì hắn không thể nhìn lầm, đúng là nhị ca…

Hắn, chính là Ngọc Lạc, là nữ giả trang thành nam, cô độc đến Bắc quốc, vượt hàng ngàn dặm để tìm dấu tích Đinh Thừa Nghiệp. Đoạn đường khó khăn vất vả, không biết phải chịu khổ thế nào mới có thể lần ra tin tức Đinh Thừa Nghiệp đang ở Thượng Kinh, dưới trướng của chỉ huy sứ bộ tộc – Gia Luật Văn. Nàng lặn lội đến Thượng Kinh, đã từng thấy Đinh Thừa Nghiệp theo bên cạnh Gia Luật Văn, nhưng cái tên Gia Luật Văn ấy bên cạnh luôn có hàng đống người bảo vệ, canh phòng kín mít, khiến nàng không có cơ hội tiếp cận.

Nàng không biết rằng, sở dĩ Gia Luật Văn cho người canh phòng như vậy là bởi hắn vẫn đang cảnh giới với Hoàng đế và Tiêu hoàng hậu. Do không thể tìm cách tiếp cận với Đinh Thừa Nghiệp, nàng hết sức buồn rầu, may thay nghe ngóng được tin Gia Luật Văn sẽ đi sứ, nàng cũng tìm cách theo đuôi đến. Tại đây, đúng là sự cảnh giới của Gia Luật Văn không kinh khủng như ở Thượng Kinh, nhưng rất lạ là từ khi đến nước Đường này, Đinh Thừa Nghiệp không mấy khi ra ngoài cùng hắn.

Mãi đến giờ Đinh Ngọc Lạc mới biết nguyên nhân, thì ra Dương Hạo cũng ở đây.

Nhìn Dương Hạo, Đinh Ngọc Lạc bất giác rơi lệ. Nàng vốn là một tiểu thư vô lo vô nghĩ, nhưng đột nhiên gặp biến cố, cha già chết thảm, đại ca tàn phế, may mắn thay nàng thoát được. Tiểu đệ mà nàng hết mực yêu thương lại trở thành kẻ thù giết cha, còn người anh cùng cha khác mẹ của nàng lại do điều tiếng thiên hạ mà coi nàng như người qua đường.

Nàng có thể chịu đựng những áp lực hành hạ, vượt ngàn dặm đến Thượng Kinh, rồi lại đến Kim Lăng, đi qua ba nước, tâm lực đã tàn. Khi nhà Đinh gặp phải đại nạn, khi đói khổ, khi không còn nơi nào để nương tựa, đều là Dương Hạo đã giúp nàng.

Nàng sớm đã coi Dương Hạo như một người anh để nàng có thể dựa dẫm, nhưng hôm nay… Chàng đang đứng trước mặt mà Ngọc Lạc lại không còn mặt mũi nào đi gặp chàng.

Đại ca đã nói, Đinh Thừa Nghiệp chính là hung thủ giết cha, hắn không những là nguyên nhân gián tiếp khiến mẫu thân Dương Hạo qua đời mà còn là kẻ thù không đội trời chung, cũng là nguyên nhân trực tiếp khiến anh em bất hòa. Trước khi giết chết được hắn ta thì nàng không còn mặt mũi nào đến tạ tội với nhị ca, nàng chỉ có thể khẽ cắn chặt răng, mở to mắt nhìn Dương Hạo tiến tới gần, cách nàng vừa gần mà lại vừa xa… Tất cả những đau khổ và mệt mỏi, nàng chỉ có thể tự mình gánh chịu.

Khi đoàn nghi thức của Lý Dục rời đi, dân chúng mới bắt đầu tản đi, Đinh Ngọc Lạc đứng đơn độc trên đầu cầu, lặng lẽ cúi đầu, hai hàng lệ rơi xuống, hòa vào dòng nước sông…

************************************************** *****

Lý Dục hồi cung, đang hưng phấn về hậu cung để kể chuyện hôm nay nói chuyện với tiểu sư phụ Đức Hạnh cho Hoàng hậu nghe, thì một viên cung nhân vội vàng đuổi theo nói: “Quốc vương, hiệu thư lang Uông Hoán xin cầu kiến”.

Hiệu thư lang là người cốt cán của trường, là viên quan hiệu đính những lỗi sai, cũng không phải là chức quan gì to tát, nhưng Lý Dục thích nhất là thu thập những cuốn sách lẻ cổ đã bị thất lạc, rất xem trọng những điển tích văn chương, do vậy khi nghe Uông Hoán xin cầu kiến thì hắn cho rằng Uông Hoán lại phát hiện ra cái gì đó hay ho chăng, nên vội vàng nói: “Cho hắn vào”.

Uông Hoán vào cung, nhìn thấy Lý Dục liền nổi giận đùng đùng nói: “Thần nghe nói hôm nay đến Kê Minh tự lễ phật người đã quyên vạn tiền?”

Lý Dục vừa nghe đã biết hắn đến đây là vì cái gì, mặt liền trầm xuống, bực mình nói: “Không sai, có sao nào?”

Uông Hoán lại nói: “Thần còn nghe nói, Quốc vương thấy một hòa thượng không thanh thủ quy giới, không những không trừng phạt nặng mà còn nói chuyện trên trời dưới bể cùng hắn, còn đề chữ tặng hắn?”

Lý Dục bực mình cười: “Quả nhân ở đây hay là ở ngoài cung quả thật chuyện gì cũng không qua nổi mắt khanh. Việc lớn việc nhỏ trong cung trong chốc lát đã truyền ra bên ngoài, bên ngoài có động tĩnh gì cũng lập tức bay vào cung. Hiệu thư lang, khanh còn không quay về Tàng Thư các để chỉnh lý sách đi, còn cố ý chạy tới đây cầu kiến ta là vì chuyện này sao? Việc của ta liên quan gì đến khanh?”

Nói rồi hắn phất áo bỏ đi. Uông Hoán thấy vậy đành thất lễ, chạy theo kéo lấy áo Lý Dục mà nói: “Quốc vương dừng bước, thường nhân nịnh phật, tất nhiên là không can dự tới thần. Nhưng xã tắc Giang Nam ở trong tay người, thiên hạ đang dõi theo người, mà Quốc vương lại không chú ý câu nói, hoang đãi chính sự. Đến nạn đói năm nay dân chết đầy đường, quân thù thì dòm ngó nơi biên giới, thế mà Quốc vương lại hậu tăng bạc dân, xin hỏi người phục vụ Hoàng thất là Tăng hay là dân?”

Lý Dục biết hắn tuy là con mọt sách nhưng tấm lòng cũng trung thành và tận tâm, dù những lời hắn nói không dễ nghe nhưng cũng chỉ là nghĩ cho dân cho nước. Thấy vậy, hắn bèn an ủi nói: “Khanh vẫn còn dũng khí nói với trẫm những điều này, quả là đất nước ta còn phúc. Quả nhân tín phật cũng là để cảm hóa dân chúng hướng thiện. Khi ta xuất cung, nào ta có nhìn thấy cảnh dân chúng chết đói ngoài đường đâu, khanh nói những lời đó ngây thơ quá, tuy nhiên là do tính tình ngươi thuần phác, trẫm không trách ngươi đâu.”

Vừa nói xong hắn lại quay lưng rảo bước, Uông Hoán tiến tới trước mặt Lý Dục, đau khổ nói: “Quốc vương, ngày xưa Lương Võ Đế tín Phật, lấy máu viết Phật thư, xả thân làm nô lệ nhà Phật, cắt tóc đi tu, cuối cùng cũng chết đói trên bàn thành. Nay Quốc vương tiêu pha xa xỉ, lại thích Bồ tát, không quản chuyện chính sự lại đi mê tín vào chuyện Phật, không nghe những lời nói từ đáy lòng, thần e rằng Quốc vương sẽ rơi vào kết cục còn không bằng được Lương Võ Đế.”

Lý Dục nghe thấy Uông Hoán đem hắn so sánh cùng tên hôn quân Lương Võ Đế, trong lòng hết sức phẫn nộ, cười lạnh mà rằng: “Quả nhân đâu có dùng máu viết Phật thư, cũng không xả thân vì Phật. Liên Hành Nhân nói, vô vi mà trị, không lạm thi cực hình lệ pháp, làm sao rơi vào kết cục như Lương Võ Đế được? Thậm chí khanh nói bừa như thế, chẳng lẽ muốn giống Phan Hữu, Lý Bình hay sao?”

Phan Hữu vốn là Trung thư xá của nước Đường, Lý Bình là đại phu của nước Đường, hai người đã từng nói những điều giống như Uông Hoán hôm nay, khiến Lý Dục phẫn nộ, bị tống vào nhà giam, hai người cuối cùng phải tự vẫn trong ngục.

Uông Hoán ưỡn ngực nói: “Thần hôm nay đến, đúng là muốn giống như Phan Hữu, Lý Bình. Nếu như Quốc vương muốn giết Uông Hoán, Uông Hoán cũng nguyện xuống suối vàng kết bạn cùng Phan Hữu, Lý Bình.”

Lý Dục nghe xong cười lạnh một tiếng, ung dung nói: “Hư ngôn võng sự, mua danh chuộc tiếng”.

Uông Hoán nghe thấy vậy giận tím mặt, hắn vốn là một thư sinh bần kinh, thường không vận động mấy, nay bị Lý Dục kích động chỉ biết tức giận đến mức hoa mày chóng mặt, chân tay lạnh buốt, mắt hoa lên, cơ hồ như muốn ngất đi.

Lý Dục thấy vậy liền quay sang hai bên dặn dò: “Người đâu, mau dìu hắn đi”. Vừa nói hắn vừa đùng đùng bỏ đi. Lý Dục bị những lời nói của Phan Hữu làm hỏng tâm trạng vui vẻ của hắn, buồn bã tới hậu cung, cũng không cho người truyền báo mà lẳng lặng tiến vào, liền nghe thấy bên trong vọng ra tiếng nói của hai người đang rì rầm to nhỏ, Lý Dục liền khựng lại, dỏng tai lắng nghe…

Trong phòng có tiếng con gái: “Quốc vương đi đến Kê Minh tự dâng hương rồi? Trái tim Quốc vương thật nhân hậu, sùng tín Phật pháp, vốn bản tính của Quốc vương đã là Phật tâm rồi, không thể nào bỏ qua, nhưng nay cường địch ở bên, giang sơn nước Đường có nguy cơ bị mất, đến nước này Quốc vương nên dốc tâm xây dựng thủy quân lớn mạnh, tu sửa lại thuyền chiến, chiêu mộ anh tài, đẩy mạnh thế lực để tránh người Tống sang xâm lược từ phía Nam. Phân tâm vào quá nhiều việc thực chẳng ra sao cả. Nương nương, hiện trong dân gian có người nói nước Tống có dã tâm, không chịu để yên cho nước Đường đâu. Có rất nhiều nười nói, nước Tống đã mở rộng thành trì bên ngoài Khai Phong, đang luyện thủy quân, rõ ràng không chút che dấu, thử hỏi đại chiến hạm, luyện thủy quân như thế, nếu như không có ý với nước Đường thì là vì sao?”

Lý Dục nghe tiếng đoán người nói chính là Mạc cô nương, lần trước trái tim đa tình của hắn đã từng rung động trước Mạc cô nương, muốn nhờ cô nương viết thủ từ, ai ngờ cô ta lại không đồng ý, làm cho Lý Dục bị tổn thương. Bây giờ Mạc cô nương lại đang nói đến những chuyện của bản thân mình, Lý Dục cảm thấy hiếu kỳ, bèn muốn đứng nghe thêm xem cô ta nghĩ thế nào về mình, nên không nói lời nào, im lặng đứng phía sau bức bình phong nghe ngóng.

Chỉ nghe thấy tiếng Tiểu Chu nói tiếp: “Thực ra Quốc vương biết thừa dã tâm của nước Tống chứ, nhưng thực lực không đủ, không phải Quốc vương không thể dốc hết sức cứu vãn, nhưng nếu như huy động lực lượng lớn đi luyện binh thì e rằng sẽ là cái cớ để nước Tống lập tức xuất binh sang Đường. Đến nay Quốc vương vẫn im hơi lặng tiếng, muốn chủ động xưng thần với nước Tống là chẳng qua muốn lùi một bước, khiến bọn Tống không tìm ra cớ mà đánh nước Đường ta mà thôi.

Nước Đường ta có hơn 10 vạn binh lính tinh nhuệ, người Tống vừa không có lý do danh chính ngôn thuận, lại luyện binh trong hồ, nếu thật sự muốn đánh e rằng họ cũng không có cơ hội tốt, Triệu Khuông đâu có ngu mà không biết đánh giá điều đó? Còn về việc quân Tống cho đóng thuyền thì cũng chỉ là muốn dọa chúng ta thôi, chứ chưa chắc đã cố tình thảo phạt Đường Quốc. Hôm nay nước tống có được giang sơn nước Hán cũng cần có quân binh và chiến hạm canh giữ lãnh thổ chứ.

Chương 358: Phong Mãn Lâu

Mạc Thu Nương thở dài nói: “Dã tâm hại người có thể có…nhưng phòng ngừa tâm địa con người thì không thể không có. Đúng là nhà Đường có 10 vạn binh tinh nhuệ, hơn nữa còn địa lợi, giỏi thủy chiến, không khó đánh một trận thực lực cho nhà Tống yếu thế. Hàng năm chúng ta xưng thần cống nạp, số tiền đã lên đến hơn 10 vạn lượng, bên kia có thêm được một phần thì chúng ta giảm đi một phần. Cứ như thế này thì thực lực hai bên ngày càng cách biệt, điều này chẳng phải là cổ vũ uy phong người Tống mà làm mất nhuệ khí quân ta đó sao?”

“Ôi! Không xưng thần cống nạp, Quốc vương làm sao có thể mù mịt được như thế. Muội cuối cùng cũng chỉ là nữ nhi, đừng có thiển cận…” Tiểu Châu thở dài một tiếng, rồi lại nói: “Có điều muội tuy là nữ nhi, không giỏi thi từ ca phú, son nữ hồng, mà lại thích bàn chuyện đại sự quốc gia, thật đúng là khác người”.

“À… Thu Nương sinh sống trong cửa nhà thế gia, thường xuyên thấy cậu và bố luyện binh, bàn chuyện quốc gia nên mới thấy hứng thú với những chuyện thế này”.

Tiểu Chu nghe xong cười hì hì mà nói: “Dù nói như vậy, nhưng muội cũng chỉ là nữ nhi. Bận tâm lắm làm gì, chúng ta làm sao có thể giúp gì cho việc đại sự? Muội quan tâm đến nhà Đường và Quốc vương như vậy, là do khai trí, hay là… muội có ý gì với Quốc vương?”

Lý Dục chợt giật nảy mình, không kìm được mà tiến lên hai bước, nghe Mạc cô nương nói: “Nương nương lại trêu ghẹo Thu Nương rồi, Thu Nương thân là người nước Đường tất nhiên phải lo cho nước Đường. Tôn trọng Quốc vương, đấy cũng là một bổn phận của người dân bình thường, Thu Nương sao dám có tơ tưởng gì với Quốc vương.”

Lý Dục thấy trong lòng trống rỗng… Tiểu Chu nghe xong cười mà rằng: “Muội không cần phải che giấu, mỗi lần ngồi cùng bản cung nói chuyện phiếm, người đều không nói gì khác ngoài chuyện Quốc vương. Chẳng lẽ ngươi tưởng ta không đoán ra tâm tình của ngươi sao? Ta không phải là người hay ghen tị, trong số các cung tần mỹ nữ, người xem ta có bao giờ bực mình với họ đâu, huống chi ta và ngươi như chị em tâm đầu ý hợp như thế”.

Chiết Tử Du không biết nên khóc hay nên cười, bất đắc dĩ nói: “Nương nương… đúng thật là hiểu lầm Thu Nương rồi. Quốc vương có trong tay cả giang sơn Giang Nam, biết bao người dân, nhất cử nhất động của Quốc vương đều đại diện cho nhất cử nhất động của nước Đường, nói về chuyện quốc sự của Giang Nam chẳng lẽ lại không nhắc đến Quốc vương? Thực không phải… thực không phải nhi nữ có tư tình…”

“Hihi, xem bộ dạng xấu hổ của Thu Nương thật đáng yêu quá. Đến bản cung còn động lòng huống hồ là Quốc vương, ngài còn viết cho ngươi một phú từ để bày tỏ…”

“Nương nương!”

“Được rồi được rồi, ta không lôi chuyện này ra trêu ngươi nữa. Thu Nương, ngươi có thích vua Đường hay không, chuyện này không đề cập tới, nhưng không biết trong mắt ngươi vua Đường là người thế nào?”

“Cái này…”

“Chúng ta là tỷ muội có gì chẳng nói với nhau, muội cứ nói đi, không cần phải ấp úng”

“Vâng… Trong mắt Thu Nương thì Quốc vương dáng vóc không tầm thường, tài hoa hơn người, văn võ song toàn, thông âm luật, bản tính tốt, trước sau chẳng có ai bằng…”

Tiểu Chu cười nói: “Muội khen Quốc vương như thế thật ngoài dự liệu của ta đấy”

Đằng sau tấm bình phong, Lý Dục nghe thấy à như mở cờ trong bụng. Nếu không sợ làm kinh động đến mỹ nhân thì hắn chẳng đã nhẩy cẫng lên rồi.

Tử Du nghe thấy vậy liền nói: “Là người chẳng có ai hoàn hảo. Vua Đường cái gì cũng tốt, có điều nói về chuyện đại sự thì thiếu khí phách, hiểu cầm kỳ thi họa cũng vẫn không đủ để đem đến bình an cho nước Đường, quân sự và chính trị mới là phương pháp để đánh thắng. Nếu như Quốc vương không là vua thì ắt sẽ là đệ nhất tài tử Giang Nam, nhưng Quốc vương là người đứng đầu một nước mà chú tâm vào thi ca đền đạo, lơ là việc quốc sự, đó không phải là hạnh phúc của Quốc vương, lại càng không phải là hạnh phúc của Giang Nam.”

Lý Dục nghe thấy liền tự nhủ: “Chẳng trách ngày ấy ta bảo viết tặng nàng một bài thơ nàng không thèm, hóa ra là vì nàng sinh ra trong cửa thế gia, nên nàng thích mẫu đàn ông dọc ngang trên lưng ngựa, đi chinh phục thiên hạ. Nếu nói như vậy thì Triệu Khuông ắt hẳn sẽ là người anh hùng trong mắt nàng, sợ rằng nếu bây giờ ta mới bắt đầu học võ công thì xương cốt đã cứng mất rồi. Xoa xoa cái bụng mình, Lý Dục khẽ thở dài.

Tiểu Chu khẽ nói: “Muội muội, muội đừng trách Quốc vương, cần phải biết Quốc vương vốn là vị vua vô vi chi tâm, năm vị huynh trưởng đều sớm qua đời, ngôi vị hoàng đế này mới không thể không rơi vào đầu Quốc vương. Quốc vương cũng là do bất đắc dĩ, muội nghĩ rằng làm vua đất Giang Nam này là sung sướng lắm sao?”

Chiết Tử Du nói: “Là do thần nghe người ta nói, Quốc vương thưở nhỏ đã thích thơ từ ca phú, chán ghét chuyện kinh đạo, mới đầu cũng được phong làm thái tử. Lễ bộ thị lang Trung Mô Trác đã nói, Tòng Gia Đức chí yếu, lại khốc tín thị dân, không thể làm chủ. Còn Tòng Thiện quả dám ngưng trọng thì là có ích cho con cháu. Thế nhưng Quốc vương không cho câu nói này là đúng, ngược lại còn đày Trung Mô Trác đi ải, nương nương, có chuyện này sao?”

“Đúng vậy, nhưng chuyện này là bí mật”. Tiểu Chu nghe xong liền thở dài đáp: “Tòng Thiện, Tòng Thiện… Ôi, Quốc vương lệnh cho Tòng Thiện đi sứ nước Tống vốn là bày tỏ cho nước Tống thấy lòng kính trọng của ta, ai ngờ Triệu Khuông lại vô lễ, đem Tòng Thiện giam lỏng không thả ra, Quốc vương nghĩ đến tình huynh đệ mà luôn thấy phiền muộn. Vợ Tòng Thiện cơ thể ốm yếu suy nhược, phu quân thì lại bị tống vào tù nhà Tống khiến nàng ta ưu tư phiền muộn, thường tìm đến chỗ Quốc vương khóc lóc, khiến Quốc vương cũng khó xử. Nghe nói nàng ta hôm qua lại tiến cung, tức giận buông ra những lời bất tuân, nhục mạ Quốc vương”.

“Lại có việc này sao? Phu nhân của Quốc công lại dám to gan như vậy?”

“Làm sao lại không thể? Nội thị trong cung đều tận mắt nhìn thấy, lẽ nào còn là giả? Quốc vương nhân hậu, dù bị bà ta mắng chửi tức khí đến ộc máu cũng không hề trách bà ta, còn triệu thái y vào cung bốc thuốc chữa trị cho bà ta, đợi bà ta ổn định rồi mới đưa bà ta về phủ. Không giấu gì ngươi, Quốc vương đã sáu lần viết thư sang nước Tống để đòi lại Tống Thiện, nhưng triều đình nhà Tống nhất quyết không thả người thì biết làm sao?”

Chiết Tử Du trầm xuống, khẽ thở dài: “Người Tống giam giữ Trịnh Vương là có ý đồ gì? Lẽ nào Quốc vương không nhìn ra ý đồ của người Tống hay sao? Theo thần nghĩ, Quốc vương là một tài tử thì không ai bằng, nhưng làm một đức vua thì e rằng sẽ có ngày sai lầm. Không kể Quốc vương có muốn làm vua Giang Nam hay không, nhưng đã là vua rồi thì nên quan tâm đến việc chính trị đi chứ”.

Lý Dục nghe đến đây tức giận đùng đùng, lao vào phòng nói: “Ta xưng thần với nước Tống thực ra là vì thực lực của ta không bằng Tống, là do ta suy nghĩ cho bách tính. Ta không ngại cúi đầu liếm cánh, cốt sao để tránh thương vong. Mạc cô nương, ngươi sợ điều gì?”

“Mạc nhi khấu kiến Quốc vương”. Vừa nhìn thấy Lý Dục bước vào, Chiết Tử Du vội vã đứng dậy, đứng theo sau Tiểu Châu thi lễ, “Không biết Quốc vương giá đáo, thần không kịp tiếp đón từ xa,xin người thứ tội. Thần… thần không có ý bất kính với Quốc vương”.

Trong triều văn võ bá quan khuyên gián, Lý Dục có thể không cần để tâm, nhưng để một cô nương liễu yếu đào tơ xem thường mình, lại là người mà hắn thích thì làm sao mà chịu được, bèn làm mặt lạnh nói: “Nay ta nhẫn nại, do lực ta không bằng Tống, chứ không phải khiếp sợ bọn chúng. Quả nhân dù là văn nhân nhưng cũng có một trái tim của một viên võ tướng, sẽ có ngày nếu nước Tống có dũng khí xâm lược Đường quốc ta, quả nhân nhất định sẽ thân chinh ra trận, mặc áo giáp, tử chiến đến cùng để giữ gìn giang sơn xã tắc. Nếu như không bảo toàn được non sông ta cũng sẽ tự thiêu, quyết không làm ma xứ người.”

Những lời nói này thể hiện rõ niềm phẫn nộ, Tiểu Chu đứng sau lộ ra vẻ vui mừng rõ rệt, nói: “Quốc vương đúng là người dũng cảm, bản cung vốn biết Quốc vương có tư thế anh hùng”.

Chiết Tử Du nhìn thật sâu vào mắt Lý Dục, cúi đầu tạ tội nói: “Mạc nhi không biết được chiến lược của Quốc vương, nói năng hồ đồ, mạo phạm đến Quốc vương, xin được thứ tội”.

Lý Dục nhìn thấy ánh mắt Mạc Thu Nương có nét vừa như ngưỡng mộ vừa như hâm mộ, dường như nàng còn vui sướng hơn rất nhiều khi được Lý Dục tặng thơ lần đầu, ánh mắt đó khiến Lý Dục như trẻ ra đến mười tuổi, không nén được tiếng cười vang: “Đứng lên đi, Lâm tướng quân trung thành tận tâm bảo vệ Tổ quốc và thần dân, ngươi là cháu gái của tướng quân quả cũng không thiếu hào khí, quả nhân rất vui khi nghe được những lời nói từ đáy lòng như vậy. Nghe đương nhiên là không vui, nhưng Thái tông Hoàng đế cũng chính là tấm gương, ta tất nhiên không bằng Thái tông, nhưng lẽ nào không nghe được những lời của ngươi không phải là phản nghịch mà là tận trung hay sao?”

Chiết Tử Du thản nhiên cười, nàng và Tiểu Chu đều là những người phụ nữ khiến Lý Dục rung động, hắn muốn đỡ nàng, nhưng Chiết Tử Du đã đứng dậy, lại hành lễ nói: “Đa tạ lòng khoan dung của Quốc vương, Quốc vương hồi cung đúng lúc thần và nương nương đang nói chuyện, Mạc nhi xin cáo lui. Quốc vương, nương nương, thần…”

“À, không cần..” Lý Dục vội nói, vừa nãy hắn còn tỏ ra là mình để ý đến chuyện quốc sự trước mặt nàng, nay chẳng lẽ lại chuồn vào hậu cung nói chuyện phiếm, đứng giữa hai mỹ nhân, hắn đành nói: “Ta có việc phải đi, ta đã ra lệnh cho Trần Kiều vào cung, cùng bàn chuyện quốc gia đại sự, bây giờ phải quay về điện ngay, ngươi cứ ở lại trò chuyện cùng nương nương…”

Nói rồi hắn quay sang liếc Tiểu Chu một cái, quay người đi mất, bỏ lại Tiểu Chu và Chiết Tử Du thi lễ đằng sau: “Cung tiễn Quốc vương”.

Lý Dục vô cùng hả hê vì đã khiến được hai người đẹp phải động lòng, chỉ cần nói vài câu quốc gia đại sự đã khiến ánh mắt nàng ngưỡng mộ đến nhường ấy, thật điều đó đã khiến Lý Dục tự cao đến cực độ, hắn nhanh chân rời khỏi hậu cung, sai người gọi Trần Kiều đến Thanh Lương điện.

Chịu ảnh hưởng của Chiết Tử Du, gần đây Tiểu Chu Hoàng hậu cũng bắt đầu hứng thú với chuyện nước, lời người khác Lý Dục nghe không lọt tai, nhưng lời của Tiểu Chu Hoàng hậu thì hắn luôn để trong lòng. Sau vài lần nghe, hắn cũng ý thức được nguy cơ của nước Đường, lúc nào cũng phải suy nghĩ đến tình cảnh của nước Đường và lối đi trong tương lai.

Nếu như muốn chủ động tấn công Tống, hắn tuyệt nhiên không dám, nhưng nếu như gia tăng lực lượng phòng bị thì hắn lại không có ý kiến. Trước nay nếu như có bất kỳ hành động nào hắn cũng đều sợ sẽ làm nước Tống bất mãn, nay sứ giả Khiết Đan lại đang muốn liên minh với nhà Đường, xa hô tương ứng, một Nam một Bắc hiệp lực khống chế quân Tống, như thế thì quân Đường sẽ chẳng còn sợ gì nữa. Thật tâm mà nói, hắn cũng không muốn chịu lép vế trước nhà Tống, nếu như có được cách khác thì hắn sẽ quyết định nhanh, như là…thương lượng nhanh về vấn đề này, đường đường là người đứng đầu một nước, há để cho nữ nhi khinh bỉ?

************************************************** *********

Biện Kinh, Hoàng Nghi điện.

Tuyết vừa rơi một trận lớn, màu trắng bạc phủ khắp nơi, cả thành phủ một màu trắng, tiết trời như vào xuân. Triệu Khuông đang ngồi cùng đám đại thần bên bếp lò, vừa ăn lẩu vừa nói chuyện quốc sự.

Người đang nói chậm rãi kia chính là Lư Đa Tốn, từ sau khi Triệu Phổ rời kinh, Lư Đa Tốn đã được lên chức Trung thư thị lang học vị hàn lâm, đứng hàng Tể tướng, hắn là người hiểu rõ tâm tính của Triệu Khuông nhất, mỗi lời hắn nói đều đánh vào đúng chỗ ngứa của Triệu Khuông. Nay đã chính thức thay thế vị trí của Triệu Phổ, trở thành người phát ngôn tận tâm nhất của Triệu Khuông.

Hắn nói quên trời đất, trán đẫm mồ hôi, phải cởi bỏ áo khoác ngoài. Vương Kế Ân lập tức tiến đến trước, Lư Đa Tốn mỉm cười, quay lại tiếp tục nói: “Nay ở đất Thục có người dấy binh làm loạn, ở nơi đó địa hình hiểm rở, rừng rậm um tùm, vừa là chỗ tạp cư hỗn tạp, nếu muốn đến đó bình định thì phải mất nửa ngày mới xong. Mân Nam vừa mới quy về, muốn được lòng của dân cư nơi đó thì phải bình định được đất, khiến cho lòng dân quy thuận về Tống, cũng có lẽ cần một khoảng thời gian.

Trong tình hình này, nếu như chúng ta cần phải tu chỉnh lý để lấy lòng dân chúng, gia tăng sức mạnh quân đội, hòa hảo với dân tộc Khương ở phía Tây, phía Bắc chống quân Khiết Đan, đợi khi tất cả đã sẵn sàng, chúng ta sẽ đánh nước Đường, quy hết về một mối, nếu như đợi được đến ngày này thì nhanh cũng phải mất khoảng 3, 4 năm. Sau đó…”

“Sau đó chúng ta không đợi nữa, Trẫm, không cách nào đợi được đến lúc đó”.

Triệu Khuông tiếp lời, lá thư cầm trong tay run lên, trầm giọng nói: “Trẫm vừa nhận được tin, người Khiết Đan đã đem thủ lĩnh bộ tộc Gia Luật Văn đi sứ sang nước Đường, mà Tiêu hoàng hậu lại đang xóa sổ vây cánh của hắn ở trong cung, gài thân tín của bà ta vào, Trẫm cũng đang khá lo lắng”.

Hắn nhấp một ngụm rượu, vuốt râu, đảo mắt một lượt khắp các trọng thần đang ngồi xung quanh, chỉ tay nói: “Thứ nhất, Gia Luật Văn đi sứ sang nước Đường, quả nhiên là Tiêu Xước đang dùng kế điệu hổ ly sơn, cũng không biết có khả năng người Khiết Đan coi trọng nước Đường hay không, lẽ nào chúng muốn liên minh với Đường?

Thứ hai, nước Tống ta Nam phạt, là nỗi uy hiếp lớn nhất của phương Bắc, khi chúng ta đánh nước Hán, dù Trẫm đã đạt được mục đích nhưng cho đến nay nước Hán đã danh tồn thực vong, sắp tàn lụy rồi, nhưng do sự can thiệp của người Khiết Đan mà rốt cuộc cũng không sụp đổ. Vài năm gần đây trong nội bộ phương Bắc rối loạn không ngừng, gây cho Trẫm rất nhiều bất lợi. Đến nay Tiêu Xước đã bắt đầu động thủ, rõ ràng là bà ta đã nắm chắc thực lực trong tay, ít nhất thì cũng đã có thể thống trị bộ tộc của hoàng đế.

Nếu như bà ta thành công thì chúng ta không thể coi thường dân Khiết Đan được đau, lúc đó Trẫm lại tiến hành Nam phạt thì đại bộ phận quân đội ta đến từ phương Bắc sẽ bị uy hiếp. Phải biết rằng quân đội nhà Đường có 10 vạn, lại thiện chiến đường thủy, nếu như dùng binh mã ít thì nước Tống ta rất khó giành thắng lợi. Đặc biệt là trong chiến tranh, một khi chiến sự trì hoãn lâu thì e rằng sẽ có nhiều biến đổi, dân nước ta sẽ rơi vào bể lầm than, nếu như lặp đi lặp lại thì sẽ không tránh khỏi dẫm phải vết xe đổ của Tùy Diễm khi phạt Cao Ly”.

Nói rồi hắn thắt chặt lại thắt lưng, trầm giọng nói: “Là do trẫm đang cân nhắc nên tấn công sớm hay muộn, hay là cứ sớm chinh phạt được nước Đường cho thỏa đáng? Trẫm đã quyết rồi, tháng 3 sang năm, chúng ta sẽ nổi binh đánh Đường, các khanh có ý kiến gì không?”

Đã trở về từ Mân Nam, kế tiếp lại Lý Sùng Củ, Tào Bân – người tiếp quản nhiều sứ mệnh nói: “Quan gia, nước Tống ta khi chinh phạt nước Hán, quân Khiết Đan đã từng xuất binh cản trở. Khi tấn công Nam Hán cũng do quân Khiết Đan không vãng lai cùng Nam Hán mà nội bộ phân tranh nên không xuấ binh, nhưng nước Đường và Khiết Đan có quan hệ mật thiết với nhau, thông thương trên biển, hơn nữa nước Đường cũng là trở ngại cuối cùng của mục đích chinh phục Trung Nguyên. Nếu như nội bộ Khiết Đan không phân tranh thì Tiêu Hoàng hậu có thể kịp thời nắm binh quyền trong tay, xuất binh tiến đánh chúng ta, hoặc làm hỏng kế hoạch đánh chiếm nước Đường của ta. Do đó, thần nghĩ rằng, với người Khiết Đan tuyệt đối không thể không phòng, tránh lơ là, phái quân thiện chiến đến đóng giữ đất Bắc, sẵn sàng đương đầu với quân địch, đồng thời với trận chiến với Đường cũng cần phải tốc chiến tốc thắng, như vậy mới có thể cắt đứt những ảo tưởng của nước Đường”.

Triệu Khuông cười nói: “Khanh nói được câu ấy hợp ý Trẫm lắm. Dù phương Bắc có nội loạn nhưng cũng không thể không ngại”.

Tiết Cư Chính nói: “Bệ hạ, Hồng lư thiếu khanh đi sang sứ nước Đường cũng đã lâu mà vẫn khong thấy báo cáo gì về thủy đồ, binh lực… của Giang Nam, nếu như muốn đánh Đường thì không thế thiếu những tin tình báo quan trọng đó, nếu không e rằng sẽ phải cố hơn gấp 10 lần. Liệu có cần bảo hắn tập trung thu thập thông tin hay không?”

Triệu Khuông đáp: “Trẫm đã đọc được tin báo của Tiêu Hải Đào, Dương Hạo ở nước Đường cố ý kiêu ngạo khiêu khích, Lý Dục một mặt cố nhẫn nhịn, vẫn một lòng xưng thần, còn về mặt cách gian quân thần và phương diện nhuệ khí thì Dương Hạo cũng thu được thành công. Dương Hạo và các thần vệ quân đô chỉ huy sứ nước Đường Hoàng Phủ Kế Huân có mối giao hảo rất tốt, hy vọng hắn sẽ moi được tình hình quân sự của nhà Đường. Do nhà Đường bảo mật thông tin rất kĩ về binh lực cũng như địa thế hiểm trở của Trường Giang mà nhiều gián điệp được cử đi đều không thu về được mấy kết quả.

Trẫm đã hạ lệnh cho hắn nghĩ cách, bằng mọi giá phải thu thập được thông tin, nhưng dù có thành hay không thì sang năm chúng ta vẫn giữ nguyên kế hoạch đánh Đường, Trẫm đã quyết và sẽ không thay đổi đâu”.

Lữ Từ Khánh trầm ngâm nói: “Bệ hạ, muốn đánh nước Đường còn cần một lý do danh chính ngôn thuận nữa, nếu như nhà Đường vẫn cứ một mực xưng thần với nước ta, đồng thời cống nạp lễ vật đều đặn thì làm sao chúng ta xuất binh được? E rằng thần dân nước ta không phục, càng kích động lòng báo thù của dân Đường”.

Triệu Khuông ngửa mặt lên trời cười to: “Haha, Lý Dục chỉ tính đến cái lợi cho hắn thôi. Hắn xưng thần và cống nạp cho Trẫm cũng chỉ là muốn Trẫm không tìm ra lý do nào để đánh Đường, Trẫm nào có thể cho hắn toại nguyện. Ngươi bảo tại sao ta lại cứ phải giam lỏng Lý Tòng Thiện? Ban thưởng cho hắn, phong hắn làm quan, cho hắn ăn ngon mặc đẹp và đối xử tốt với hắn để làm gì? Chính là để cho Lý Dục nhìn thấy”.

Trong ánh mắt Triệu Khuông ánh lên vẻ giảo hoạt: “Dù hắn có xưng thần với Trẫm, trẫm cũng triệu hắn đến kinh để nói chuyện. Nếu hắn dám từ chối là hắn kháng chỉ, Trẫm có cơ hội để đánh hắn không đây?”

Lữ Từ Khánh như chợt tỉnh ngộ, hứng khởi nói: “Kế này quả là diệu kế, như vậy thì trên danh nghĩa chúng ta có thể ra tay được rồi”.

Triệu Khuông mỉm cười, vuốt vuốt chòm râu của hắn mà nói: “Trẫm đã ra lệnh cho Lý Dục đến Biện Kinh, cùng Trẫm ngắm đèn. Nếu như hắn không tới thì ta sẽ xuống chiếu năm lần bảy lượt, phải làm tốt cả nhân và nghĩa, vậy mới là tốt”. Nói rồi hắn lại ngửa mặt lên trời cười lớn.

Hắn cười đắc ý, ánh mắt chợt lóe lên, liếc nhìn thấy Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa đang khẽ nhíu hàng lông mày, cúi đầu không nói, hắn không nén được cười hỏi: “Tấn Vương đang suy nghĩ chuyện gì thế?”

Triệu Quang Nghĩa ánh mắt lóe lên như nhập thần, không nghe thấy Triệu Khuông đang gọi hắn. Tào Bân đứng bên cạnh phải nhẹ nhàng kéo hắn một cái, hắn mới như sực tỉnh, vội vàng ngẩng đầu lên.

Triệu Khuông lại cười nói: “Tấn Vương đang suy nghĩ chuyện gì mà nhập tâm thế?”

“Hả?”

Triệu Quang Nghĩa làm quan trong phủ Khai Phong đã bao năm, thành tích lẫy lừng, chỉ duy nhất là người hay lo nghĩ, không có quân lực. Cấm quân trước sau tự thành một hệ thống, không cách nào cho hắn vào. Nay nghe nói muốn dụng binh đánh Đường, có lẽ sẽ là trận đánh cuối cùng để thống nhất Trung Nguyên. Triệu Quang Nghĩa lúc này đây càng phải suy nghĩ nhiều bộn phần, nhưng những gì hắn nghĩ làm sao có thể nói rõ ràng với Triệu Khuông được đây? Sau một hồi do dự, hắn mới tìm bừa một lý do nào đó, từ từ nói: “Bệ hạ, thần chỉ đang nghĩ trong giới quan võ Nam Đường thì chỉ có mình Lâm Hổ Tử là khó trị. Hắn rất thiện chiến, có tài binh lược, không cái gì không biết, nếu đánh với hắn thì mình hắn mạnh bằng bốn người, có dũng khí nghênh tiếp hàng vạn địch, chặn bước đường của đại quân Thế Tống Đại, thực lực rất lớn. Hôm nay hắn tiết độ trấn hải, trong tay lại nắm 10 vạn binh thì nước Tống chúng ta muốn thâu tóm Giang Nam cũng phải qua được hắn. Nếu chúng ta trị được hắn thì chẳng khác nào xoay chuyển được thế lực của mười vạn quân địch”.

Triệu Khuông nhíu mày nói: “Trước hết phải loại trừ Lâm Hổ Tử? Hừ, cách nghĩ này thật viển vông quá. Trong tay nắm nhiều trọng binh, hà tất phải nói giết là giết? Hắn giỏi võ, lại là cư binh trong doanh trại, dù có đi đâu ắt cũng có người đi theo hắn, làm sao chúng ta ra tay được?”

Triệu Quang Nghĩa cố tìm được từ để nói, lúc này đây không thể không nói tiếp, bèn chỉ biết cứng đầu nói: “Muốn nghĩ ra cách để diệt trừ hắn ắt không dễ, nhưng cũng không khó bằng việc đấu với 10 vạn tướng thủy binh của hắn chứ? Thần thiết nghĩ, chính là muốn giết hắn như thế nào thì thần cũng có cách, nhưng không biết có được hay không”.

Triệu Khuông nhìn thật sâu vào mắt hắn, cười nói: “Tốt lắm. Vậy Tấn Vương có thể nghĩ ra được nhiều thứ ở nhiều phương diện, nếu chúng ta hành động giết chết đại tướng số một của triều Đường thì coi như đã thành công một nửa rồi. Tấn Vương, mau lập tức đến bình định Giang Nam”.

“Thần xin lĩnh chỉ”. Triệu Quang Nghĩa cung kính đáp trả, trong lòng không khỏi kêu khổ thầm.

Chương 359: Mỹ nhân đã đến

Tiêu Hải Đào vội vã đi vào chỗ ở của Dương Hạo, kích động nói: “Đại nhân, triều đình có tin tức”.

Dương Hạo hỏi: “Triều đình nói sao?”

Tiêu Hải Đào nói: “Phong thư này là của vua đích thân viết cho Quốc vương Giang Nam, còn yêu cầu đại nhân đọc cho Quốc vương Giang Nam nghe, đại ý là muốn mời mua Giang Nam đến Biện Kinh cùng đón lễ Thượng Nguyên với Hoàng đế”.

Lễ Thượng Nguyên cũng là tết Nguyên Tiêu, vốn có từ Tam nguyên nhật của đạo giáo. Do người xưa thường dĩ dạ vi tiêu nên nhân gian gọi đó là tết Nguyên Tiêu, mà phương Bắc người Khiết Đan gọi là “phóng thâu nhật”. Dương Hạo nghe nói xong lắc đầu cười nói: “Lý Dục sẽ không đi đâu, hành động này của bệ hạ là muốn đem quân đánh, để tránh Lý Dục lúc này lúc khác lại viết mục thư đòi thả Lý Tòng Thiện”.

Tiêu Hải Đào cười nói: “Đại nhân nói phải. Còn một phong thư khác là thư mật bệ hạ giao cho đại nhân và hạ quan, trong phong thư này có nhắc đến chuyện đi sứ hết sức kỳ quái, hạ quan xem đi xem lại mà vẫn không hiểu, mời đại nhân xem thử xem”.

Dương Hạo đón lấy bức thư, xem kĩ càng từ đầu chí cuối một lượt, rồi sau đó giơ lên ngọn đèn đốt cháy lá thư đó thành những mảng tro đen bay phất phơ như những con bướm đen mà trầm mặc không nói câu gì.

Tiêu Hải Đào không kiềm chế được mà hỏi: “Đại nhân, bệ hạ nếu như muốn có ảnh chân dung của Tiểu Chu Hoàng hậu thì còn có thể hiểu được, chứ Lâm Nhân Triệu nào có phải là tuyệt thế giai nhân gì, bệ hạ muốn có chân dung ông ấy làm gì kia chứ? Đại nhân thử nghĩ xem điều đó có ý nghĩa gì?”

Dương Hạo ánh mắt như có lửa, nói: “Ý của bệ hạ bản quan có đoán cũng không nổi. Bệ hạ đã ra lệnh như thế thì chúng ta cứ thế mà làm. Chuyện bức họa chân dung Lâm Nhân Triệu giao cả cho khanh, xem xem có thể lấy được ở nhà họ Lâm hay không. Nếu như không thể thì thuê họa sĩ, kiếm cớ đi Trấn Hải để xem dung mạo Lâm Nhân Triệu thế nào, xem cho kĩ rồi về Khai Phong vẽ lại. Còn về việc tìm kiếm thủy đồ địa lý và lực lượng quân phòng thì cứ để ta nghĩ cách”.

“Thần rõ ạ”, Tiêu Hải Đào cung kính đáp và lui ra ngoài.

Những ý nghĩ trong đầu Dương Hạo cháy rực như ánh nến, bay phất phơ theo bóng Tiêu Hải Đào, rồi lại bay thẳng lên trên. Hắn hít vào một hơi thật sâu, tự nói với chính mình: “Triều đình muốn lấy mạng Lâm Nhân Triệu! Tất cả quả nhiên là không thay đổi, người phải chết sẽ bị chết, người cần đến sẽ đến, cuộc chiến với nước Đường sắp bắt đầu rồi, Tử Du có lẽ cũng sắp phải quay về Phủ Châu đi thôi. Diễm Diễm, Oa Oa, các nàng bao giờ mới đến?”

************

Sau khi Dương Hạo đọc chiếu thư cho Quốc vương Giang Nam nghe, hắn cười hì hì mà rằng: “Quốc vương, bệ hạ nước tôi thực lòng hy vọng sẽ được đón tết Nguyên Tiêu cùng ngài, không rõ Quốc vương bao lâu nữa khởi hành?”

Lý Dục nghe nói Triệu Khuông muốn mời mình đến Biện Lương đón Tết Nguyên Tiêu xem hội đèn thì mặt biến sắc. Tửu vô hảo yến, ly rượu này của Triệu Khuông uống sao nổi đây? Lý Tòng Thiện đến giờ vẫn còn bị giam lỏng không về được, ngày ngày lấy nước mắt rửa mặt, hại hắn bây giờ đến mặt vợ của huynh đệ cũng không dám nhìn mặt, làm sao hắn còn dám tự chui đầu vào lưới.

Lý Dục từ chối ngay: “Xin nhờ Dương trái sứ về nói với bệ hạ hoàng đế, Lý Dục gần đây bị mắc bệnh nhẹ, sức khỏe không được tốt lắm, lại thêm khí hậu phương Bắc lạnh lẽo, e rằng không chịu được quãng đường xa xôi. Ý tốt của bệ hạ Lý Dục xin khắc cốt ghi tâm, về sau nếu còn cơ hội thì hạ thần sẽ đích thân đến. Tết Nguyên Tiêu này mong bệ hạ cho phép Lý Tòng Thiện thay mặt Lý Dục thi lễ”.

Mặt Lý Dục lúc này đã nửa xanh nửa trắng, nhìn giống như người đang lâm trọng bệnh. Dương Hạo mỉm cười, cuộn chiếu thư lại giao cho nội thị, cũng không thúc giục mà còn lấy trong túi áo ra một phong thư khác đọc: “Quốc vương, trong này còn có một lá thư khác, là do Trung thư thị lang của nước Tống chúng tôi, Lư Đa Tốn đại nhân đích thân viết, xin dâng Quốc vương xem”.

Lư Đa Tốn và Tiết Cư Chính, Lữ Từ Khánh đều là tể tướng trong triều. Triệu Khuông nghe theo lời của Triệu Phổ, đem chức tể tướng chia làm ba, hình thành nên ba cỗ xe ngựa nha môn tể tướng, có điều trong ba người thì rõ ràng Lư Đa Tốn được sủng ái nhất. Nghe đến tên hắn, Lý Dục cũng không dám khinh thường, sai người đón lấy lá thư, chưa chờ mở ra đã hỏi thăm dò: “Không biết tướng công định nói chuyện gì? Trái sứ có biết đôi chút chứ?”

Dương Hạo ung dung cười nói: “Cái này, ngoại thần có biết một, hai, nay nước Đường đã quy thuận Tống Quốc, Trung nguyên đã thống nhất, triều đình muốn vẽ lại bản đồ nước Tống. Lư tướng công được giao nhiệm vụ vẽ bản đồ các đường kinh hồ, đất đai từ đây nối đến Biện Lương. Lư Tướng công hy vọng rằng Quốc vương có thể cung cấp rõ ràng số dân Giang Nam, thuế phú, thành trì… càng nhanh đưa về Biện Lương càng tốt, để tránh trì hoãn công việc của đại Tống.

Lý Dục thở phào nhẹ nhõm, không nghĩ gì mà rằng: “Chuyện này đơn giản thôi, quả nhân nhất định sẽ đưa thông tin tỉ mỉ chính xác về địa lý Giang Nam cho trái sứ”.

Hắn thấy Dương Hạo vừa nói chuyện vừa như vẫn đang nắm giữ vật gì đó trong tay, bèn không khỏi hãi hùng, chỉ sợ hắn lại lôi ra một chiếu thư khác yêu cầu gì đó, vội hỏi: “Trái sứ đang cầm gì trong tay thế, có phải là một chiếu thư khác không?”

Dương Hạo ngây người, nhấc tay áo lên cười to nói: “Quốc vương hiểu lầm rồi, thần đang học theo cách tín Phật của Quốc vương, cũng bắt đầu có hứng thú với đạo Phật rồi. Trong ta áo thần chẳng qua là một chuỗi hạt thôi”.

Lý Dục nhìn kỹ, thấy vật trong tay Dương Hạo quả nhiên là một chuỗi tràng hạt, vừa nói hắn vừa lần tràng hạt không ngớt, Lý Dục mới thở phào nhẹ nhõm. Hắn tín Phật, chỉ hận nỗi giá mà mọi người trong thiên hạ đều tín Phật thì tốt. Vừa nhìn thấy Dương Hạo theo Phật, trong lòng Lý Dục đã thấy thích thú, cơ hồ như đã xích lại gần hắn thêm một chút. Thấy Dương Hạo vừa lầm rầm niệm châu, hắn cười tươi nói: “Chuỗi tràng hạt đó không phải là vật quý báu gì, e có phần mộc mạc quá. Ở đây quả nhân có chuỗi tràng hạt của Phật gia Thất Bảo Kim, Ngân, Lưu Ly, Sa Bà Trí Già, Mỹ Ngọc, Xích Châu, Hổ phách… tạo thành. Là bảo vật của Phật giới tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, có thể che chở cho con người. Ta tặng nó cho trái sứ”.

Nội thị dùng hai tay đỡ lấy, đưa đến trước mặt Dương Hạo. Dương Hạo từ chối hai ba lần rồi mới nhận, ngắm nghía chuỗi tràng hạt được kết thành từ bảy món đồ cực quý. Quả nhiên là một báu vật, hắn vừa cuống quýt cảm ơn, mặt cũng hòa hoãn được đôi chút. Quay sang nhìn Lý Dục, cười hì hì mà rằng: “Quốc vương bị nhiễm bệnh nhẹ, sức khỏe không tốt, lại thêm khí hậu có lẽ không hợp, quả không phải hư ngôn. Thần sẽ giải thích rõ ràng với Quốc vương. Chỉ có điều, Lư tướng quân vừa mới được trọng dụng, hy vọng có thể sang sứ một chuyến, đây cũng là việc thường tình mà Giang Nam nên làm, nếu không ngộ nhỡ việc vẽ bản đồ có gì sai sót thì sẽ để thiên hạ cười cho, Lư tướng quân ắt sẽ tức giận, thần… cũng không dám nói hộ bệ hạ”.

“Điều đó là tự nhiên, là tự nhiên, Dương trái sứ yên tâm, quả nhân sẽ thu xếp xử lý việc này”.

Dương Hạo mỉm cười, chắp tay thi lễ đáp: “Vậy thần xin cáo lui”.

Dương Hạo vừa đi khỏi, Lý Dục ngay lập tức đập bàn đứng dậy, những đường gân xanh trên trán hằn lên. Bản đồ giống như địa giới của một nước, đại diện cho sự tôn nghiêm của lãnh thổ quốc gia, dâng bản đồ cũng giống như dâng nước, năm đó Kinh Kha đâm Tần vương có đem theo hai lễ vật, trong đó có một tấm bản đồ nước Yên, hàm ý nước Yên đã hoàn toàn bị quy phục.

Nước Tống đang muốn có bản đồ, điều đó mang hàm ý lăng nhục. Lý Dục kiến thức uyên thâm, làm sao lại không hiểu điều đó. Thế nhưng, hắn làm sao từ chối được? Nếu như nhà Tống trực tiếp đưa ra yêu cầu vẽ bản đồ thì hắn còn có thể làm qua loa tắc trách một chút. Nhưng việc ra chiếu thư yêu cầu hắn đi Tống hắn đã từ chối rồi thì làm sao lại tiếp tục từ chối việc vẽ bản đồ Giang Nam cho được, làm vậy chẳng khác gì chọc giận Triệu Khuông.

Nghĩ đến lần hội ý cùng Từ Phong, Trần Kiều, hắn hít một hơi dài rồi thầm nghĩ: “Không nhịn nổi việc nhỏ thì sao mưu được việc lớn, đến nay quân Khiết Đan vẫn chưa có hứa hẹn che chở gì, do vậy không thế vội trở mặt với nhà Tống. Cho nên hôm nay đành phải nhịn mối nhục này, đem bản đồ Giang Nam giao cho chúng vậy”.

Ngẩng đầu lên, hắn cao giọng nói: “Người đâu!”

Một tên cung nhan vội vã đi vào, Lý Dục dặn dò hắn: “Ngay lập tức gọi nội sử thị lang đến vẽ bản đồ địa lý 19 châu của Giang Nam, sông ngòi ao hồ, hộ khẩu thuế phú… tất cả cho thật chuẩn xác, duy có chỗ đóng quân và tình hình binh lực là không có ghi chú, phải nhanh chóng hoàn thành trước tết Nguyên Tiêu để mang đến Biện Lương. Đi đi!”

Chỉ một lát sau, nội sứ thị lang Vương Hiền Văn tóc bạc phơ vội vã đi vào: “Quốc vương, thần nghe nói người định vẽ bản đồ địa lý 19 châu Giang Nam dâng tặng cho vua Tống?”

Lý Dục tức giận nói: “Quả nhân cũng không phải là đã sai người nói rõ cho ngươi rồi sao? Còn đến hỏi quả nhân làm gì? Mau đi hoàn thành đi, đừng trì hoãn thời gian nữa”.

Nội sử thị lang Vương Hiền Văn chau đôi mày trắng muốt, trầm giọng nói: “Bản đồ địa lý đại diện cho lãnh thổ và dân chúng của một nước, nước Đường ta tuy xưng thần với nước Tống, nhưng chỉ là lệ thuộc vào Tống thôi chứ đâu có dễ để mất lãnh thổ và cư dân như thế? Tấm bản đồ này mà dâng tặng thì coi như ta đã dâng nước Đường cho đại Tống, xin Quốc vương hãy suy nghĩ lại”.

Lý Dục tức giận nói: “Quả nhân sớm đã nghĩ đến rồi, ngươi cứ nghe lệnh là được, đâu đến lượt ngươi lắm chuyện”.

Vương Hiền Văn hiên ngang lớn tiếng: “Quốc vương nguyện đầu hàng, nhưng Hiền Văn lại không thể hàng như thế, mệnh lệnh này của Quốc vương thần không dám tuân theo”.

Lý Dục vỗ bàn đứng dậy, định ngay lập tức hạ lệnh lôi hắn ra ngoài trị tội, nhưng nhìn mái đầu bạc phơ vẫn đang hiên ngang sẵn sàng đón nhận cái chết, không kìm được mà thở dài, vung tay nói: “Quả nhân thương hại ngươi tuổi già yếu không trừng trị, đi đi, ta cách chức quan của ngươi, từ nay trở đi về nhà dưỡng già”.

Vương Văn Hiền già nua không nghĩ rằng mình lại bị Lý Dục cách chức, hắn thoáng giật mình, chắp tay hành lễ rồi không nói gì mà lặng lẽ bỏ đi. Lý Dục tức khí nói với một người nội các trong cung: “Đi đi. Dặn người trong thị lang bộ vẽ bản đồ, làm ngay đi, chớ có trì hoãn”.

Người nội các đó vội vàng đi đến nội sử quán truyền thánh chỉ, chỉ trong chốc lát lại có một người khoảng 30 tuổi chạy tới, thi lễ rồi nói với Lý Dục: “Nội sứ Vương Hạo xin bái kiến Quốc vương”.

Lý Dục vẫn chưa nguôi cơn giận, trừng mắt nói: “Ngươi còn không mau đi vẽ bản đồ, lại đến đây bẩm tấu chuyện gì?”

Vương Hạo cất cao giọng nói: “Bản đồ địa hình mười chín châu của Giang Nam, địa lý Giang Nam và dân số đều là bí mật của nhà nước, tại sao lại dễ dàng dâng lên nhà Tống?”

Lý Dục cười khổ não nói: “Những điều ái khanh nói Trẫm không biết hay sao? Nhưng thế lực nhà Tống như thế, ta nào dám không nghe? Ta làm việc đó cũng là có nỗi khổ tâm, khanh có biết hay không?”

Vương Hạo nói: “Quốc vương xin hãy xem xét kĩ, thần chỉ e rằng nếu chúng ta càng nhân nhượng thì dã tâm của quân Tống sẽ càng kinh khủng. Trịnh vương Tòng Thiện đã dâng cho triều Tống, nay chúng lại bắt chúng ta giao ra bản đồ địa lý Giang Nam, Quốc vương mà vâng mệnh chúng ắt sẽ bức bách chúng ta, chẳng lẽ triều đình chúng ta chịu nhân nhượng hay sao? Hôm nay có thể chúng chỉ đòi bản đồ, chúng ta đồng ý dâng cho chúng, nhưng ngày mai liệu chúng đòi cả xã tắc Giang Nam này thì cúng ta cũng phải tặng cho chúng hay sao?”

Lý Dục khẽ nhướng mày, bực mình đáp: “Khanh nói như vậy là quá lời rồi. Quả nhân chỉ muốn tỏ lòng kính trọng với nhà Tống, xưng thần cống nạp, chưa từng trì hoãn, nước Tống tuy mạnh nhưng làm sao có thể vô cớ xuất binh? Ta đã xưng thần với Tống, cống nạp cho chúng bản đồ địa lý nước ta, như vậy mới nắm được điểm yếu của nhà Tống. Ngươi chỉ là con mọt sách, biết làm sao được chuyện đại sự, ngươi mau mau đi vẽ bản đồ đi, đó cũng là trách nhiệm của người đó, đừng nhiều lời nữa”.

Vương Hạo nhẫn nại nói: “Dã tâm của nước Tống ai ai cũng biết, Quốc vương còn đang tự lừa dối mình hay sao? Gia phụ đã nguyện bị bãi quan giáng chức, chứ không thể dùng hai tay dâng giang sơn xã tắc Giang Nam cho chúng được, thần Vương Hạo đây cũng không thể phụng theo ý chỉ này”.

“Gia phụ đó là ai?”

“Gia phụ đó là nội sử thị lang vương công Hiền Văn”.

Lý Dục tức khí mà cười: “Tốt, tốt, cha con các ngươi đều là trung thần, chỉ có quả nhân là bậc hôn quân phải không? Được rồi, được rồi, các ngươi không muốn làm quan trong triều nữa thì hãy đi về đi, không có cha con các ngươi thì triều đình này không có ai vẽ nổi bản đồ chắc? Cút, cút hết cho ta!”

Lý Dục càng nói càng tức khí, cuối cùng không nén nổi, thuận tay ném một quyển đồ thư đi, mắt nhìn theo bóng Vương Hạo đang đi khuất, Lý Dục kinh ngạc hồi lâu rồi mới chán nản quay về ghế.

******************************************

Trên xe, hai sứ giả nước Tống đang ngồi cạnh nhau. Tiêu Hải Đào vừa vuốt râu vừa nói: “Đại nhân, ngài muốn Lư tướng công đến Giang Nam là có dụng ý gì? Đợi nước Tống chiếm được Giang Nam thì địa lý, sông ngòi, thuế má, dân cư của Giang Nam thì vật đó mới hữu dụng. Còn nay cái chúng ta muốn chính là tin tình báo về mặt sông nước, nơi trú binh…”

Dương Hạo cười nói: “Nói thì dễ, chứ những thứ đó chúng ta đã có trong tay đâu? Tình hình nước sông Trường Giang phải mất hai đến ba năm đo đạc thăm dò cẩn thận, e rằng chúng ta không thể nắm chính xác được sự thay đổi thủy lưu theo mùa nông cạn trong một năm được. Nước ta muốn đánh nước Đường thì trên Trường Giang chỉ có một đường tiến công, đó cũng là khi không còn cách nào khác. Chúng ta hiện chỉ có thể nắm giữ được chút ít tư liệu về việc đóng trú quân.

Ta muốn có bản đồ Giang Nam, Lý Dục lại dễ dàng đồng ý trao cho chúng ta như vậy. Cũng tốt, khi đọc bức chiếu thư này của nhà vua, bản quan đã sớm dự liệu hắn sẽ từ chối, sau đó tái trình lên Lư tướng công, Lý Dục chẳng thể nào từ chối nổi. Tất nhiên, Lý Dục không thể nào nói cho chúng ta chi tiết nơi trú quân, binh lực… nhưng các thành trì lớn nhỏ cư dân nhiều ít thế nào, số lượng lương thực ra sao, địa hình địa lý như thế nào thì đã ghi rõ ràng trong bản đồ, chúng ta có thể tìm ra nơi trú quân của bọn chúng và phái người đi thăm dò”.

Tiêu Hải Đào đang chuẩn bị nói thì Dương Hạo lại cắt lời hắn: “Ta biết, chúng ta rất khó để thăm dò, nhưng căn bản phái người đi là để thăm dò nơi đóng quân. Nhưng nếu một khi chúng đã có thể dễ dàng tiến công vào thì nhất định không phải là nơi trọng yếu, còn nếu nơi nào chúng canh phòng cẩn mật không cho ai lọt vào thì đó có thể là nơi đóng quân của nhà Đường”.

Tiêu Hải Đào vừa gật gật đầu rồi lại lắc đầu: “Thế nhưng, ngay cả khỉ biết nơi nào là nơi trú quân thì chúng ta cũng không thể xác định được binh lực của chúng như thế nào. Nếu nói như vậy thì một nơi trú quân nhỏ vài trăm người cũng có khả năng bị chúng ta hiểu nhầm thành một nơi đóng quân to hàng vạn người, không những không giúp ích gì được cho Quốc vương mà sợ rằng còn đem lại cho Quốc vương cảm giác chẳng biết thế nào mà lần”.

Dương Hạo nói: “Nếu không, lúc đó tấm bản đồ sẽ được phát huy tác dụng thứ ba của nó. Sau khi tìm ra những nơi có trú quân, chúng ta có thể dựa vào đặc điểm ao ngòi sông hồ vùng đó cũng như dân cư ít nhiều thế nào, lương thực số lượng ra sao để phán đoán. Dân số và lương thực có liên quan đến nhau, nước Đường và nước Tống ta không giống nhau, chúng ta đóng quân không giống chúng. Lương thảo cần thiết cho nơi đóng quân là do địa phương trực tiếp trích cấp. Chúng ta chỉ cần so sánh số dân và số lượng thuế thực tế ở thành Kim Lăng là sẽ có thể đoán ra binh lực của nơi trú quân là bao nhiêu.”

Nói đến đây, hắn mỉm cười quay sang hỏi Tiêu Hải Đào: “Ngươi rõ rồi chứ?”

Tiêu Hải Đào nghe đến đây hai mắt đăm đăm, hồi lâu mới dùng ánh mắt kỳ lạ nhìn vào Dương Hạo khen: “Thảo nào đại nhân vẫn còn trẻ mà có thể leo lên được vị trí cao như vậy, đại nhân quả là đã khiến hạ quan tâm phục khẩu phục rồi”.

Dương Hạo cười nói: “Lý Dục có thi từ ca phú phải nói là nhất tuyệt, nhưng những vấn đề thế này hắn lại không thông. Những con mọt sách của nội sử quán cũng không chú ý đến mức độ tôn nghiêm và danh dự mà tấm bản đồ này mang lại, có bảo vật trong tay mà chúng không biết. Có thế thì kế hoạch này của ta mới dùng được, chứ nếu đổi một cơ mưu khác thì e rằng chúng sẽ đoán ra ta định làm gì”.

Tiêu Hải Đào vừa nghe vừa lo lắng nói: “Vậy… việc này không bị bọn chúng thần của nước Đường biết được chứ? Trong đó ắt cũng phải có vài tên thông minh…”

Dương Hạo cười nhạt nói: “Lẽ nào Lý Dục thích công khai chuyện này sao?”

Dương Hạo vừa nói vừa lần tràng hạt trên tay nghe lách tách, Tiêu Hải Đào ngạc nhiên hỏi: “ Đại nhân giấu gì trong tay áo vậy? Có tiếng vang vang kỳ lạ”.

Dương Hạo cười nói: “Đây là chuỗi tràng hạt quý báu đấy, ngươi xem, đích thân vua Giang Nam tặng cho ta, đích thực là một món quà giá trị”. Hắn vừa hào hứng nói vừa đưa cho Tiêu Hải Đào xem: “Ta có chuỗi tràng hạt này rồi thì chuỗi hạt bằng gỗ kia không dùng đến nữa, tặng lại cho ngươi. Dù nói rằng chuỗi tràng hạt này không sánh được với chuỗi của ta, nhưng nó cũng là do đích thân đại sư Bảo Kính trong Kê Minh Tự khai quang, ắt cũng có công dụng xua đuổi tà ma “.

Tiêu Hải Đào cười khổ nhận lấy nói: “Đại nhân bắt đầu tín Phật từ bao giờ thế?”

Không thấy Dương Hạo trả lời, Tiêu Hải Đào cảm thấy hơi kỳ lạ, ngẩng đầu lên xem thì thấy Dương Hạo đang nhìn ra xa thẫn thờ, Tiêu Hải Đào thuận mắt trông theo thì thấy một cô nương đang đi trên đường, mặc một bộ quần áo màu huyền, eo nhỏ nhắn, da trắng như tuyết, đẹp mê hồn.

Dương Hạo vội vã cất chuỗi hạt trong tay đi, kích động nói: “Tiêu Hải Đào ngươi cứ quay về dịch quán trước đi, bản quan gặp người quen, lát nữa sẽ tự về sau”.

Tiêu Hải Đào vội vã khuyên: “Đại nhân, người Khiết Đan có mối thù sâu sắc với chúng ta, để đại nhân tự về e rằng…”

Dương Hạo không thèm để ý mà nói: “Bản quan là tống sứ nhà Tống, người Khiết Đan có thâm thù gì thì cũng không thể hành động giữa ban ngày ban mặt. Mấy ngày nay không phải bọn chúng rất yên ổn đó sao, không cần lo lắng, ta tự lo được”. Nói rồi hắn không chờ xe dừng, vội phi như bay xuống dưới đất.

Tiêu Hải Đào lẩm bẩm: “Người Giang Nam tín Phật cũng háo sắc như vậy sao?”

Cúi đầu nhìn xuống chuỗi vòng đang cầm trên tay, Tiêu Hải Đào vội vàng lẩm nhẩm tạ tội: “Tiêu mỗ nói bừa, biết tội, biết tội, nam mô a di đà phật…”

************************************************

Chiết Tử Du đang đi bộ, đột nhiên thấy ven đường có một người nhảy xuống liền vội vàng lui lại hai bước, thủ thế. Nhìn rõ ra là Dương Hạo, nàng ta mới tức giận trừng mắt lên, quay đầu đi về.

Dương Hạo không thèm để ý, cười ha ha và đuổi theo nàng, nói: “Mạc cô nương ăn mặc phong phanh quá. Mặc dù mùa đông ở Giang Nam không lạnh, thời tiết cũng ẩm ướt, nhưng Mạc cô nương vẫn phải chú ý bảo vệ ngọc thể nhé”.

“Hôm nay ngươi rảnh như thế sao?”

“Thật đúng câu ta đang muốn hỏi Mạc cô nương đó”.

Chiết Tử Du bĩu môi nói: “Những ngày này không thấy bọn Khiết Đan có động tĩnh gì, ngươi lại bắt đầu khinh thường rồi phải không?”

“Ha ha, hóa ra cô nương đang lo lắng cho sự an nguy của ta. Vậy là Dương mỗ có thể lọt vào mắt xanh của tiểu mỹ nhân được, thật sợ quá”.

Chiết Tử Du trợn mắt nói: “Xem ra hôm nay ngươi hứng chí ghê nhỉ, lại ăn nói luyên thuyên”.

“Chỉ cần vừa nhìn thấy cô nương trái tim đã sai nhịp rồi, nàng nói xem có kỳ lạ không?”

“Đừng nói luyên thuyên với ta nữa đi!” Chiết Tử Du không chịu được nữa, chóng mặt quát gay gắt: “Nếu như mới đầu lúc quen ngươi ngươi dám nói với ta những lời như thế thì ta đã đánh gãy chân ngươi rồi, cho ngươi bò về Phách Châu. Hôm nay sao ngươi lại ở Kim Lăng?”

“Ngày đó nếu như ta nói ngon nói ngọt mà cô nương muốn chặt đứt chân thì hôm nay những lời ngọt ngào này lại làm nàng xấu hổ… như vậy là vì sao?”

Chiết Tử Du hoắc mắt dừng lại, bẻ cong giày rồi đá vào mặt Dương Hạo. Dương Hạo sớm đã có chuẩn bị nên tóm gọn được đôi chân vừa định giơ lên, không nén được cười ha hả.

Chiết Tử Du buồn cười nói: “Ngươi thật là vô lại, dường như ngươi chẳng để tâm gì đến việc đi sứ lần này cả. Sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn cùng vua Giang Nam mới đây qua lại hết sức thân mật, dường như ngươi cũng chẳng buồn quan tâm?”

Dương Hạo vò vò đầu, có chút hoang mang nói: “Nói thật, ta mang trọng trách là hồng lư tự khanh, cũng là do ngoài ý muốn. Có thể đi sứ sang nước Đường, có rất nhiều điều không thể thành hiện thực đã thành sự thực. Ta vẫn cứ không rõ tại sao nhưng gần đây ta mới tỉnh ngộ”.

Chiết Tử Du tức giận mà hỏi: “Thế ngươi tỉnh ngộ cái gì?”

Dương Hạo làm mặt nghiêm trang nói: “Vốn ông trời an bài, đều là để ta ở đây gặp gỡ nàng. Nàng nói xem đó có phải là duyên phận không?”

Chiết Tử Du thở dài nói: “Xem ra ta cần đi đến miếu để bái rồi, nếu không sẽ cứ bị đen đủi mãi. Từ khi ngươi đến nước Đường, lại đổi thân phận, ta không cách nào tránh khỏi oan gia này. Ngươi đúng là âm hồn không tan”.

Dương Hạo tủm tỉm cười: “Oán chuyện gì? Oan gia?”

Chiết Tử Du xấu hổ, quay người bỏ đi, ném chiếc giày lên cao: “Đi đi đi… mặc kệ tên mặt dày”.

Dương Hạo cười ha hả, đuổi theo thấp giọng nói: “Tử Du, chớ quên là chúng ta đã từng có giao kèo. Nếu như những lời ta nói là thật thì nàng phải lập tức quay về Phủ Châu, không được nhiễu sự nữa. Chỉ cần nàng thuận theo mọi việc thì chưa chắc đã không thể bảo toàn được phú quý nhà họ Chiết”.

Trong đôi mắt mơ hồ của Chiết Tử Du chợt lóe lên, bỗng nhiên khựng lại nói: “Nước Tống… đã muốn đánh nước Đường rồi sao?”

Dương Hạo chợt thấy giật mình, tự mình đã dặn mình phải cẩn thận, thế mà hơi một tí đã nhắc đến chuyện này, còn khiến nàng cảnh giác. Dương Hạo không biết làm gì, bèn nói: “Vẫn còn chưa có kế hoạch, không… phải tùy theo thiên cơ, nhưng chỉ trong vòng hai ba năm nữa thôi. Nếu như tất cả đúng như những gì ta nói, hy vọng nàng có thể giữ lời hứa, hành sự tại thiên để tránh gây nên nhiều sát nghiệt”.

Chiết Tử Du nghe hắn nói như vậy, trong lòng không khỏi hoang mang, quay lưng bỏ đi, thấy trước mặt là một sạp hàng bày bán đủ mọi loại trang sức, liền tiện tay đứng xem.

Dương Hạo nhìn theo bóng Tử Du, trong mắt hiện lên nét khó hiểu. Gần đây khi nhìn thấy Tử Du, hắn thường ăn nói lung tung, vừa quấn quýt si mê nàng, muốn phá mưu đồ bí mật của nàng ở Giang Nam, nhưng mặt khác lại không nỡ xa rời nàng, không muốn nàng bỏ đi, sợ rằng đời này kiếp này không còn cơ hội tương ngộ nữa. Hắn không cách nào xác định, chỉ biết rằng ngày đó càng ngày càng gần.

Nếu như nàng biết được rằng ta chính là ‘sứ giả thần chết’ mang đền nhiều đau thương bấy lâu?”

Dương Hạo nhìn theo bóng nàng, trong lòng dấy lên một cảm giác thương cảm khó hiểu.

Chiết Tử Du đến bên sạp bán đồ trang sức, nhưng vẫn cảm giác có ánh mắt vẫn đang dõi theo đằng sau. Nàng cảm thấy không tự nhiên nên đứng dậy, quay mặt liếc nhìn một cái, đụng ngay cái nhìn của Dương Hạo, nên vội vàng quay đầu lại “Chàng… quả nhiên đang nhìn ta, tại sao cứ phiền như thế, có thể lẽ nào…? Cứ cho là ta không thèm để ý đến chuyện chàng đã có vợ, thì sao đây? Với thân phận hiện giờ của cả hai thì chúng ta không thể bên nhau được”.

Chiết Tử Du lặng lẽ nắm chặt đôi khuyên bằng đá trong tay, cảm giác buồn bã trong lòng.

Người chủ sạp hàng nhìn thấy chuẩn bị bán được hàng liền khấp khởi, luôn miệng quảng cáo: “Cô nương quả đúng là có mắt nhìn, đôi khuyên tai này là được làm từ kim cương đen, cô xem, trông nó giống như là đôi mắt vậy, gọi là ‘luật nhãn ban phúc’, có thể tránh được tà ma, làm tiêu bệnh, khí độc, điều không may… Cô nương xinh đẹp như thế, da lại trắng như tuyết, nếu như cô đeo đôi khuyên này thì nhất định sẽ càng thêm xinh đẹp”.

“Đôi bông tai này bao nhiêu tiền, ta mua nó!” Dương Hạo bước tới nói.

Người chủ hàng có chút đạo đức nghề nghiệp, đôi khuyên vẫn đang nằm trên tay Tử Du, hắn không dám ngay lập tức lấy lại bán cho Dương Hạo, liền quay sang ngó Tử Du. Dương Hạo mỉm cười nói: “Đôi khuyên này là ta mua tặng cho cô nương đây, bao nhiêu tiền?”

“Ai cần ngươi tặng?” Chiết Tử Du nhìn sang Dương Hạo, bỏ lại đôi khuyên bỏ đi. Dương Hạo cười cười, hỏi giá cả rồi mua đôi khuyên đó, đuổi theo Chiết Tử Du.

Chạy đến bên bờ sông thì Dương Hạo đuổi kịp Tử Du, cười nhẹ nhàng: “Chỉ là chút quà nhỏ thôi, cô nương sao không nhận lấy?”

Chiết Tử Du khẽ hừ một tiếng: “Không thích”.

“Nếu như không thích thì cũng không vấn đề gì, Tết Nguyên tiêu sắp đến rồi, rồi đến Phóng Thâu Nhật, mọi người đều trộm đồ của nhau, nàng cứ giữ nó đi rồi để người ta trộm mất cũng được”.

“Cảm ơn. Đến lúc đó tự ta sẽ chuẩn bị đồ cho người khác trộm, không cần món quà này của ngươi, xin nhận ý tốt.”

“Haha, sợ rằng sau này sẽ không có cơ hội nữa đâu, đây có lẽ là lần cuối cùng ta tặng quà cho nàng, nàng nhận đi, được không?”

Chiết Tử Du nghe nói đến ba chữ “lần cuối cùng” liền không kìm được thắc mắc. Lần trước khi chàng muốn hôn ta, chàng cũng nói “lần cuối cùng”, hôm nay tặng quà cũng nói như vậy. Được rồi, ta vốn cũng không nghĩ sẽ dây dưa gì với chàng nữa, thì giờ việc chi cứ phải suy nghĩ mông lung?

Dương Hạo đem đôi khuyên đặt vào tay Tử Du, tay nàng hơi run lên, rồi vứt nó ra xa. Nụ cười trên mặt Dương Hạo chợt cứng lại, hai người cứ thế nhìn nhau hồi lâu, sau đó, Chiết Tử Du không nói gì bèn quay người bỏ đi, mặt hướng ra phía bờ sông mà rằng: “Đại nhân bận rộn, không cần thiết phải tiễn ta nữa. Hôm nay ta cũng có chút chuyện bực mình, ra ngoài đi dạo một chút, không có chuyện gì đâu. Tên đại nghịch bất đạo trong mắt đại nhân đến rồi kìa!”

Dương Hạo cười khổ não, đang muốn nói gì thì bên cạnh nghe thấy tiếng niệm “A di đà phật! Này vị thí chủ…”

“A..a.. ”Bích Túc đang muốn làm bộ không quen biết Dương Hạo, đột nhiên nhìn thấy Chiết Tử Du, không nén nổi mà há mồm cứng lưỡi, cứ chỉ chỉ vào nàng mà không nói được lời nào.

Chiết Tử Du quay đầu nhìn hắn, mặt cũng nén nổi sự kinh ngạc, Dương Hạo liền níu lấy Bích Túc hỏi: “Ngươi đến đây làm gì?”

Bích Túc lấy lại bình tĩnh, vội vàng hạ giọng nói: “Đại nhân, hai vị phu nhân đã tới rồi, hiện đang ngồi ven hồ Huyền Vũ, hiện đang ở nhà trọ Thê Hà…” Nói rồi, hắn còn cảnh giác ngó Tử Du.

“Bọn họ đã đến rồi?” Dương Hạo vừa mừng vừa sợ: “Tốt lắm, chúng ta mất dấu nhau, e rằng Lễ Tân viện đang loạn cả lên rồi, ta sẽ ngay lập tức sắp xếp về dịch quán, sau đó đến bên hồ Huyền Vũ gặp họ”.

“Mạc cô nương, Dương mỗ cáo từ.”

Chiết Tử Du cũng không thèm quay đầu lại, thản nhiên nói: “Xin đại nhân cứ tự nhiên”.

Dương Hạo thở dài, quay người lại đi mất, nhưng đột nhiên như nhớ ra chuyện gì, bèn quay đầu lại ngó Bích Túc đang mặc áo cà sa, dở khóc dở cười nói: “Ngươi thật muốn đến Kê Minh Tự làm Phương trượng ư?”

Bích Túc xoa xoa cái đầu bóng lưỡng, cười hì hì nói: “Chỉ là vì tiểu sư thái Thủy Nguyệt thôi”.

Dương Hạo gật gật đầu, thở dài nói: “Hiếm khi ngươi rung động thật sự, hãy trân trọng đi, nếu như để lỡ mất thì sau này ngươi có hối cũng không kịp đâu”.

Chiết Tử Du nghe thấy, đột nhiên cắn chặt môi dưới.

Dương Hạo lại thở dài, thi lễ với nàng rồi quay lưng bước đi, Bích Túc nhìn Chiết Tử Du, ngượng ngùng nói: “Chiết… Chiết cô nương sao lại ở đây? Chẳng lẽ cô nương với đại nhân của ta…”

Chiết Tử Du quắc mắt xoay người lại, nói: “Bản cô nương đang không vui, ngươi cút ngay đi cho ta càng xa càng tốt, ta đếm tới ba, nếu như ngươi không cút…” Nàng ta nắm chặt cây kiếm bên hông, đếm lớn: “Một…”

Chẳng cần để nói đến hai lời liền bỏ chạy. Chiết Tử Du không khỏi phì cười, nhìn theo bóng Dương Hạo đi khuất dần. Nụ cười dần tắt, trên mặt chỉ còn phảng phất nỗi mơ hồ, dường như nhớ ra điều gì, nàng quay người đi vội vàng, chạy đến bên vạt cỏ gần đó tìm kiếm khắp nơi, nhưng có một người đã nhanh chân hơn nhặt chiếc hộp lên, mở ra rồi reo mừng: “Haha, hôm nay số hên quá, lại nhặt được báu vật”.

“Chậm đã!” Chiết Tử Du vội nói, đoạt lại chiếc hộp rồi nói: “Chiếc hộp này là của ta”.

Người thuyền phu đó mở to mắt ra nhìn Tử Du, nói: “Nhìn vị cô nương ăn vận xinh đẹp, thế mà lại đi cướp đồ của ta ư?”

“Ngươi!” Chiết Tử Du chau mày, nắm chặt lấy chuôi kiếm, vị thuyền phu kia lui lại hai bước, hét lớn: “Ái chà, còn muốn gây sự nữa đúng không? Anh em đâu mau lại đây, có người muốn cướp đồ của ta này”.

Trên bờ đê, bảy tám người cao to lực lượng lập tức xuất hiện, nói lớn: “Ai dám to gan, giữa ban ngày ban mặt mà dám giở trò?”

Chiết Tử Du hung hăng trừng mắt nhìn vị thuyền phu kia một hồi lâu, hít một hơi thật sâu nói: “Ngươi trả giá đi, ta sẽ mua nó. Nếu như vậy còn không được thì bản cô nương sẽ phải giở trò cường đạo rồi, đừng hòng làm khó dễ ta!”

***************************************

Dương Hạo vội vã quay trở về dịch quán tìm Tiêu Hải Đào, Tiêu Hải Đào vừa nhìn thấy hắn liền cười nói: “Đại nhân về nhanh thật đấy, cứ tưởng giữa đường gặp vị cô nương đó thì … hahaha”

Dương Hạo tươi cười nói: “Tiêu tự thừa, Dương mỗ quay về vốn là để dặn ngươi một tiếng, đêm nay ta ra ngoài, nếu như không quay trở về dịch quán thì ngươi không cần phải lo, sáng sớm mai ta sẽ quay về”.

“Hả?” Tiêu Hải Đào ngẩn người, lắp bắp nói: “Đại nhân… đại nhân có bản lãnh vậy sao? Chỉ mới có hai ba câu mà đã có thể…?”

Dương Hạo ngẩn ngơ một lúc rồi lập tức cười ha hả mà rằng: “Không sai, không sai, bản quan đêm nay cần phải đi hóng gió một chút, haha, do vậy không cần lo lắng cho bản quan. Ta phải đi rồi, cô nương nhà người ta còn đang đợi ta”.

“Khoan đã, khoan đã!” Tiêu thừa tự níu người hắn lại, nghi ngờ nói: “Đại nhân, vị cô nương đó làm sao mới chỉ có hai ba câu… đã có thể cam tâm trao thân gửi phận? E rằng có vấn đề”.

“Hừ, điểm này bản quan chẳng lẽ còn không nghĩ tới ư? Ta tất nhiên là phải làm rõ ngọn nguồn rồi mới có dũng khí chứ, được rồi, không để mỹ nhân đợi lâu nữa, bản quan đi đây.”

“Đại nhân, ngài…” Tiêu Hải Đào muốn cản cũng không cản kịp nữa, Dương Hạo dường như đã hóa thành bươm bướm bay đi mất.

Tiêu Hải Đào đứng dưới trời chiều, ngẩn ngơ hồi lâu rồi mới lẩm bẩm: “Dương tả sứ quả nhiên là không ai bằng, một cô nương diễm lệ như thế... làm sao đại nhân có thể may mắn thế nhỉ?”

Hắn quay đầu nhìn chuỗi tràng hạt đang đặt trên bàn, vội cầm lấy đeo vào cổ tay như sợ có ai cướp mất báu vật.

Chương 360: Phóng Thâu Nhật

Bên bờ hồ Huyền Vũ, trên chiếc cầu cong cong như lưỡi liềm, tòa lầu Tiêu Tiêu đứng cô độc, cảnh mùa đông ở Giang Nam vẫn ngời ngời sức sống, chỉ đến đêm mới cảm thấy đôi chút cái hiu quạnh. Lúc này trăng nhô cao, khắp hồ nước nổi lên những đợt sóng nhấp nhô có màu như ngọc, tràn đầy ý thơ.

Trên lầu, ánh đèn sáng mờ ảo.

Trên một chiếc giường vừa rộng vừa to, vừa sạch sẽ lại mềm mại, màn che phấp phới, chỉ nhìn thấy ánh sáng từ cây nến sáng chập chờn tỏa ra mang ý vị thật phong tình. Ba người cùng nằm trên giường, Dương Hạo nằm giữa, Oa Oa và Diễm Diễm nằm hai bên, như hai chú chim nhỏ nép vào người hắn.

“Bọn thiếp chọn ở nơi gần núi Thiếu Hoa, nơi đó thanh sơn thủy tú, nhất định chàng sẽ thích. Bọn thiếp sẽ dựng một tòa nhà lớn ở đó, chỉ cần đợi chúng ta đến đó là sẽ xây nhà mới cho chúng ta”.

Oa Oa vừa nói vừa bám vào cánh tay Dương Hạo, ngọt ngào: “Quan nhân, chúng ta khi nào sẽ rời khỏi đây về nhà hưởng cuộc sống vui vẻ đây?”

“Ta cứ chờ các nàng đến cũng là để tạo cơ hội, việc này còn phải chờ vào ý trời mới có thể thành được.

Dương Hạo trầm ngâm nói : “ Bây giờ đã có kẻ thù muốn giết ta, hắn chính là sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn. Sau này, ta sẽ thường xuyên đi du ngoạn sơn thủy cùng với các nàng, cho đến khi tin tức “ bất kinh ý gian” bị lộ ra ngoài, khiến cho bọn chúng biết được rằng phu nhân của ta đã đến Kim Lăng rồi.

Sau đó, chúng ta tìm một thời cơ thích hợp, khi chúng không đề phòng, sẽ cho 8 gã giả mạo người Khiết Đan đến hành thích chúng ta, thi thể để cho bọn Mục Vũ làm, lấy mấy cái thi thể của bọn tử tù, hoặc làm mấy cái thi thể đã thối rữa cũng được, cuối cùng làm một mồi lửa là không hể sơ hở rồi.

Tám gã hộ vệ kia nên tìm bọn du mục trên thảo nguyên giống người Khiết Đan, bọn chúng vừa hiểu tiếng người Khương, vừa hiểu ngôn ngữ Nôn Phiên, cũng hiểu được tiếng người Khiết Đan, để bọn họ giả mạo làm người Khiết Đan “giết người phóng hỏa”, khiến cho bọn chúng mang tội, lại thêm mối thù sẵn có giữa Gia Luật Văn với chúng ta, thế là chết chắc. Thời gian đó cũng chính là Tết Nguyên tiêu, rồi vài ngày Phóng thâu nhật trên đường sẽ toàn người là người, rất nhộn nhịp, người đông hỗn tạp, đúng là thời cơ phóng hỏa giết người thích hợp.”

“Việc này để quan nhân quyết định là được rồi, cái gì mà xác chết, cái gì mà phóng hỏa giết người, ở chỗ nhà trọ hẻo lánh này quan nhân nói như thế khiến người ta nghe phát hoảng, chẳng dám đi ngủ một mình” Oa Oa vừa nói vừa dụi dụi đầu vào ngực Dương Hạo.

Đường Diễm Diễm cũng hưởng ứng: “Đúng rồi đó, quan nhân không cần nói rõ ràng như thế chứ, bọn thần thiếp vừa mới gặp ngài, nói những cái đó nghe mất hết cả tình”.

Đúng lúc đó, ngọn nến bị gió thổi vào khẽ lay động, đột nhiên động đậy một chút, khiến hai nàng sợ hãi kêu thất thanh, dụi đầu vào ngực Dương Hạo, Dương Hạo cười nói: “Có lý, vậy ta sẽ không nói chuyện chết chóc gì nữa, chỉ nói chuyện sinh thôi. Hai nương tử của ta, chúng ta vui vẻ với nhau cũng không phải một lần, tướng công của các nàng cũng mất đi không ít sinh lực, vậy mà bụng các nàng vẫn cứ phẳng lì như vậy nhỉ? Hay là chúng ta cùng cố gắng hơn nhé?”

Tay hắn xoa xoa hai cái bụng phẳng mà mềm mại của hai nương tử, hai mỹ nhân cùng đồng thanh “xì” một tiếng, rồi lắc mình né tránh, nhưng Dương Hạo động tác quá nhanh, đã giữ chặt được cái eo nhỏ nhắn của bọn họ, giữ chặt bọn họ dưới người mình rồi cúi người hôn lên môi Diễm Diễm.

Diễm Diễm mặt ửng đỏ, nói nhỏ: “Không được… không được ở đây, đi… đi vào phòng của thiếp…”

Đôi môi của Dương Hạo đã đặt lên cặp môi đỏ như quả anh đào chín của nàng, Diễm Diễm thả lỏng thân, đón nhận cái đi vào mềm mại nhẹ nhàng của hắn, cửa mình xinh đẹp mềm mại và ướt át như một cánh hoa mềm mại khép chặt, mặc hắn muốn làm gì thì làm.

“A…a…” Diễm Diễm nhẹ nhàng rên rỉ, đôi môi được Dương Hạo hôn tới tấp, đôi bàn tay hắn thì đang sờ nắn bộ ngực sữa mềm mại cho đến khi nó dựng đứng lên, vòng eo nhỏ nhắn của nàng không tự chủ được mà cứ nhấc lên cao mãi, để bộ ngực trần dâng cho người đàn ông của nàng. Bàn tay to của Dương Hạo nắm chặt lấy eo Oa Oa không biết đã rời ra khi nào để chuyển đến sau mông Diễm Diễm, dù Oa Oa xấu hổ vô cùng nhưng cũng chẳng có chỗ nào mà đào tẩu, chiếc giường này là giường của nàng, nàng thoát đi đâu cho được?

Nhìn Dương Hạo sau một hồi vuốt ve rồi “chà đạp” giờ trở nên xụi lơ như bùn, nằm thở phì phò, mặt đầy hứng khởi, bên cạnh Diễm Diễm sau một hồi hết mình, mắt Oa Oa bỗng ươn ướt tưởng như có thể khóc ngay được, nàng bỗng “Ưm” một tiếng rồi ôm lấy tấm lưng rộng mà rắn chắc của Dương Hạo từ phía sau, cọ cọ hai đầu vú đang dương cao vào người chàng.

Không biết ai buông tấm màn đỏ phất phơ, không biết ai cởi mà quần áo họ rất nhanh đã bị kéo tuột xuống, để lộ tấm thân đẹp đẽ của hai người. Không thể chịu nổi nữa, Dương Hạo nắm lấy đôi ngực trắng mà mẩy như bạch ngọc, hai chân nàng như hai cây mây cuốn lấy cây đại thụ vạm vỡ ở giữa, phát ra những tiếng thở hổn hển của hai người.

Trên án thư ánh nến đã tắt, Đường Diễm Diễm như hoa nở rồi tàn, tàn rồi lại nở, cũng không biết đã nếm trải qua bao cuộc vui, lúc này đây đến tay cũng không buồn cử động, cả người đầy mồ hôi nằm nghiêng trên giường, mắt khép hờ nhìn hai người kia mây mưa, ánh đèn đỏ chiếu đỏ cả tấm rèm, chiếu ngay chỗ Oa Oa đang vươn cao đôi vú tròn, nàng ta đang nằm trên người Dương Hạo, người như từng đợt sóng cứ phập phồng phập phồng, nhộn nhạo không bờ bến.

Chỉ nghe thấy tiếng hai người rên rỉ, cảm nhận được cái phất phơ của tấm rèm, Diễm Diễm cảm thấy mình như đang nằm trên một con thuyền, trôi dạt theo con sóng tình về nơi phương xa…

“Phóng Thâu nhật? Ngày đó đến rất nhanh thôi, qua ngày đó sẽ không cần phải lén lén lút lút nữa, đến ngày đó trong thiên hạ cũng đều đi ăn trộm, ta…ta và quan nhân cũng đi trộm một phen, trộm cái tiêu diêu tự tại, trộm cái thân tự do, từ nay về sau sẽ không còn ai tranh đấu với chúng ta trong thiên hạ nữa”.

***********************************************

Phóng thâu nhật, Khiết Đan, Thượng Kinh

Trên đường phố, muôn hình vạn trạng đèn đóm được treo hai bên đường, khiến cả con phố dài sáng bừng lên như ban ngày. Bên đường còn có tượng điêu khắc các loại động vật, các loài hoa với kích cỡ lớn, bên trong là đèn đủ màu sắc, nhưng vẫn chưa được thắp.

Trong cung không khí vui vẻ nhộn nhịp, rất nhiều quan nhân, nội thị đang bận rộn, La Đông Nhi vội vàng đi đến cung hoàng hậu, đột nhiên có một bóng người từ sau tự điện trụ gọi với theo: “La thượng quan”.

“A, hóa ra là Nhã công chúa!” Đông Nhi vội dừng bước, thi lễ rồi mỉm cười: “Đông Nhi bái kiến công chúa, công chúa có gì dặn dò chăng? Giờ Đông Nhi đang đi đến chỗ nương nương”.

“Không có, không có. La thượng quan là người tâm phúc bên cạnh nương nương, ta nào dám dặn dò gì”.

Gia Luật Nhã cười hi hi khoát tay, nàng xem xét qua rồi đột nhiên có chút xấu hổ mà bám ống tay áo: “Ta… ta chỉ là có chút chuyện nhỏ muốn nhờ La thượng quan giúp đỡ, không biết La thượng quan có đồng ý không?”

Đông Nhi thấy công chúa vốn hoạt bát nhanh nhẹn giờ lại có vẻ ra dáng tiểu nhi nữ, bèn không nhịn được cười nói: “Điện hạ có chuyện gì, chỉ cần Đông Nhi giúp được Đông Nhi sẽ cố gắng hết mình”.

Gia Luật Nhã cười nói: “Hay quá, hay quá, ta biết La tướng quân là tốt nhất mà, hihi, ta muốn đi Ngũ Phong lầu ngắm đèn, nhưng những người ở phủ ta toàn lũ ngu dốt, nhìn là đã thấy ghét, một mình trong cung chẳng có ai nói chuyện buồn chết. Tứ ca là người ăn nói có duyên, ta muốn chàng đưa ta đi ngắm đèn, La thượng quân có đồng ý không?”

“Cái này… Được rồi, Đông Nhi sẽ cho người đi gọi hắn…”

Gia Luật Nhã cười nói: “Vậy ta chờ chàng ở tượng Thạch Sư chỗ Ngũ Phong lâu”.

Đông Nhi mỉm cười đáp: “Được, ta sẽ cho bảo tứ ca đi đến tìm công chúa”.

Gia Luật Nhã mừng rỡ, cười nói: “Vậy trăm sự nhờ La thượng quân, ta đến Ngũ Phong lâu đây”, nói rồi nàng liền nhảy nhót bước đi.

Tết Nguyên tiêu, Phóng Thâu nhật.

Trộm tiền, trộm nhà, tại Khiết Đan và ở một vài bộ tộc thì quả còn có thể trộm người. Đương nhiên, người Khiết Đan có dễ dãi đến đâu cũng không thể để bị mọc sùng trong ngày tết Nguyên tiêu, nên cái trộm người này sớm đã mang ý nghĩa chỉ dành cho những đôi nam nữ chưa kết hôn. Còn những người vẫn thầm thích mà chưa có đối tượng cụ thể sẽ có thể kiếm được người yêu nhờ dịp này, tự đính ước với nhau hoặc trộm đồ vật nào đó của đối phương để làm tín vật.

Đông Nhi biết Nhã công chúa đã có tình cảm sâu đậm với tứ ca, nhưng tứ ca lại không hề có tình cảm. Vị công chúa điện hạ này chỉ có thể ở vào hàng cao quý, hai người bọn họ làm sao có thể có kết quả? Nhưng thấy nàng ta cầu khẩn tha thiết như vậy, làm sao nỡ lòng từ chối?

Đông Nhi khẽ thở dài, cất bước tiến vào tẩm cung…

Ngũ Phong lâu thắp đèn trên đỉnh, phía dưới là một con đường dài, trên đường người đi lại đông đúc, còn ở đây vắng vẻ lạnh lùng, do cấm dân chúng tiến vào, đoàn người chỉ có thể ngắm Ngũ Phong lâu từ một khoảng cách xa xa.

“Bản vương vừa mới hay tin, Hoàng thượng và nương nương đã chuẩn bị xuất phát đến Ngũ Phong lâu, tiếp đón các văn võ bá quan, sau khi làm lễ trong triều thì Hoàng thượng và nương nương sẽ xuống lầu, thắp đèn nơi điêu khắc băng đăng nhiều màu để cho dân chúng vui vẻ. Lúc này đây cũng là lúc đội quân phòng vệ canh phòng nghiêm ngặt nhất, không ai có thể tiếp cận…”

Lão vương gia Gia Luật đạp trên mặt tuyết dày mà đi trên đường, ngựa đạp trên mặt tuyết đọng phát ra những tiếng kẽo kẹt. Hắn mặc một bộ quần áo Khiết Đan truyền thống, đội mũ da cừu, hai bên sườn là những chuỗi hạt dài, bên hông đeo một thanh bảo đao, dù tuổi cũng đã đến năm mươi nhưng dáng người vẫn cao to, mặt to, lông mày rậm, râu đã ngả màu tiêu giống như nhiễm sương hoa.

“Theo sau đó, Hoàng hậu và nương nương sẽ quay trở lại lầu, hai bên tấu nhạc, tất cả những băng đăng đều được thắp đèn, sau đó các chư hầu hoàng tộc và quý tộc đều có thể vào phố, cầm đèn đi dạo, bắt đầu đêm trắng phóng thâu, cả thành vui chơi hết mình. Hoàng hậu và nương nương đều chơi trong thành đến nửa đêm, lúc này cũng là lúc lính canh lơ là cảnh giác, cũng là lúc tranh thủ được lúc hỗn loạn…”

Lão vương gia nói một cách hùng hồn, vài tên thị vệ tâm phúc đi bên cạnh cũng xích lại sát bên cạnh hắn.

“Đến lúc đó, bọn Hàn Đức Nhượng, Tiêu Thác Trí đều ở trên lầu cùng với Hoàng thượng và nương nương.

Bản vương sẽ dùng hết thủ đoạn, trà trộn vào đám người thắp đèn băng đăng, sau đó sắp xếp năm tên sát thủ lấy mạng hoàng thượng và đám người xung quanh hắn. Bọn chúng nắm trong tay cấm vệ quân, nếu như chúng không chết thì hoàng thượng chết, bọn chúng cũng khó mà khống chế được Thượng Kinh. Hừ, đều là lũ người của tên phế nhân Gia Luật Hiền, tự nhiên phong bà ta làm hoàng hậu, còn được gọi là nhị thánh, bà ta muốn làm Võ Tắc Thiên áp đảo gia tộc Gia Luật hay sao?”

Lão vương gia vừa đi vừa nói, tiếng bước chân vẫn vậy, giọng nói vẫn trầm như vậy, mỗi một bước hắn lại thở ra từng đám khói trắng như một con tuấn mã đang tức khí, hắn thở sâu mà nói: “Còn về hoàng thượng, bản vương sẽ để người của mình ra tay, trên lầu có thân tín của lão vương, chỉ cần chém một nhát là đi đời hắn, bản vương sẽ lập tức uy hiếp hoàng hậu.

Bất kể là sự việc thành hay bại, cũng đều có người có người đến lầu ứng cứu, chúng ta phải lập tức rời khỏi đây, điều binh vây thành, đợi chúng ta phát động chiến tranh ở Giang Nam sẽ khiến bọn Tống phải phát binh, đến lúc đó Tiêu Xước nếu như Tiêu Xước không muốn họ Tiêu và Gia Luật chúng ta bị tàn đời thì chỉ còn cách chấp nhận điều kiện của bản vương, phải cầu hòa với ta”.

Gia Luật Cách dẫn binh thị uy thần phục dân tộc Nữ Chân, đến lúc đó sẽ phải ngày đêm thần tốc để kịp về Thượng Kinh, có kịp chạy về được hay không thì cũng chưa ai biết, đấy là một biến số. Có điều, bản vương là thiện xạ, sẽ an bài cho hắn một cái ngã không phải lo lắng. Còn một biến số khác, đó chính là cung nỏ đã được gói giấy dầu chốn kín dưới đất từ nửa tháng trước, dù cung nỏ được chế tạo hoàn mỹ nhưng cũng khó mà không bị ẩm ướt. Nếu như cung nỏ không có tác dụng thì không thẻ nhất cử giết được bọn đầu não, nhất định sẽ gặp phản kháng, các ngươi phải tùy cơ ứng biến, hết sức đề phòng.”

Phía trước mặt đã là Ngũ Phong lâu, lão vương gia đứng dưới đất ngó lên trên thành, nói lạnh lùng: “Bản vương có thể vào Ngũ Phong lâu, nhưng tám người các ngươi lại không có tư cách lên lầu ngắm đèn, chỉ có thể đứng dưới lầu để bảo vệ. Nếu như bản quan không thể giết chết tên hoàng thượng ngay tại chỗ thì thị vệ ắt sẽ đưa hắn hồi cung. Trong cung không có người của ta, nếu như hắn được đưa vào cung thì tình thế sẽ rất xấu, do đó nhiệm vụ của các ngươi là canh chừng ở cửa cung, chỉ cần hoàng thượng muốn vào cung các ngươi lập tức cản lại, lấy mạng hắn cho ta”.

Hắn hít một hơi thật dài rồi nói: “Thị vệ trên dưới thành bản quan sớm đã dự tính rõ ràng rồi, mọi hy vọng thành công đều đặt trên vai các ngươi, nhưng mưu sự tại nhân, rất nhiều biến số không thể phòng tránh được. Sự việc mà thành thì các ngươi cứ ngồi chờ phong hầu; còn thất bại, thì sẽ như ánh đèn trên lầu, chỉ có thể sáng trong tối hôm nay mà thôi, các ngươi rõ chưa?”

“Tuân lệnh!” Tám tên thị vệ đồng thanh hô, lão vương gia lại thở dài một hơi, gương mặt hắn như mờ ảo và chìm vào làn khói trắng. Khi làn khói tan đi đôi mắt có thần mới lộ ra, để lộ cái u uất thâm độc phảng phất đâu đó, hắn từ từ đi vào trong cửa thành…”

**************************************

“Năm nay trộm được đèn của nhà họ Lưu, nhất định năm nay là năm sinh. Có con gái đặt tên là Đăng Ca, có con trai đặt tên là Đăng Thành. Trộm được đèn nhà họ Đới, không mang theo cũng trúng…”

Bài ca dao truyền miệng được hát vang khắp ngõ phố nhỏ, nhà nhà ai cũng treo cao đèn, ánh đèn sáng rực cả mặt sông như dòng ngân hà vậy.

Trước cửa mỗi nhà đều đặt một ít bột nặn được làm từ đậu, dùng nước củ cải nặn thành hình một cái đèn nhỏ, bên trên viết tên họ của nhà đó. Rất nhiều thiếu phụ, bất kể mình đã là phu nhân của một gia đình lớn nào đó, hay chỉ là con dâu trong một gia đình bình thường cũng đều lượn như đèn cù quanh các đường ngang ngõ dọc, thỉnh thoảng lại ăn trộm một cây đèn của nhà nào đó.

Những người thiếu phụ này đều là những người đã kết hôn ba năm mà chưa có con, tết Nguyên tiêu đi trộm đèn, nghe nói là sẽ sớm sinh quý tử.

Đèn mà các nàng thích trộm nhất là đèn của nhà họ Lưu hoặc họ Đới. Chữ “Lưu” là đồng âm của chữ “lưu lại hài tử”, còn chữ Đới là đồng âm của chữ “mang” (mang thai).

Những người thiếu phụ này đều là những người thành thân khi mới 15, 16 tuổi, ba năm chưa phát dục, đến bây giờ cũng chỉ mới 18,19, vẫn chưa nếm trải hết vị đau khổ của cuộc đời, vẫn còn là những viên ngọc phong tình, nên ngày Phóng thâu nhật cũng là ngày các nàng ta vui sướng nhất trần đời.

Chỉ có điều là trời rét quá. Những cô nương lớn có bé có đều đặc những chiếc áo dày, bọn họ chen chúc nhau trên đường nhưng cũng không lợi dụng được ai mấy. Gọi nhau rồi cười mắng ầm ĩ cũng có đôi chút thú vị, còn có người tự nhận mình là thần tiên, chứng minh tư sắc không hề tầm thường, rồi cười đùa đắc ý.

Triệu Khuông và hoàng hậu Tống rồi đến Tấn Vương, Ngụy Vương, nhị hoàng tử Đức Phương, tiểu công chúa Vĩnh Khánh đều rời hoàng cung, đổ ra đường chung vui cùng bách tính, còn đi chùa Đại Tướng Quốc nghe cao tăng Hoằng Pháp xướng kinh, rồi đốt pháo, sau cùng mới về cung, mở cửa cung, mời các tướng thần trong triều đình rồi thiết đãi các quan đại thần một bữa tiệc rượu linh đình.

Hoàng đế ba nước Kinh Hồ và Nam Nguyên cũng đã có mặt, quốc chủ nước Đường còn chưa đến, do Lý Tòng Thiện còn đang phải tiếp rượu hoàng đế. Võ Ninh tiết độ sứ bên trái có các tướng bảo vệ, bên phải có đại tướng Lưu Kế Hưng, ba vị này đã từng là quốc chủ, hoặc có suy nghĩ một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, hoặc là trong lòng bọn họ Lý Tòng Thiện sớm muộn cũng sẽ theo gót họ, nên họ đối với Lý Tòng Thiện cũng như người nhà.

Lý Tòng Thiện vốn không biết uống rượu, nhưng đứng trước lời mời thiết tha của các vị quốc chủ, khó từ chối nên đành uống hết ly này đến ly khác, rất nhanh mà say đứ đừ, chân bước loạng choạng. Trước mắt cũng không phải là quý tộc nhà hoàng đế, cũng chẳng phải là trọng thần trong triều đình nên Lý Tòng Thiện e rằng mình uống say sẽ thất lễ, vội vã đi ra ngoài điện.

Hôm nay trong cung cấm, khắp nơi đều là gia quyến của quan viên, Lý Tòng Thiện vừa xuống lầu, Mộ Dung Cầu Túy – người hay đi ngao du sơn thủy cùng hắn những ngày này, cũng vội vã bỏ chén rượu, ra ngoài cùng hắn.

Mộ Dung Cầu Túy cũng không theo Triệu Phổ xuất thành mà chuyển tới Tấn vương Triệu Quang Môn Hạ, người này thực lòng hay là do Triệu Phổ có ý lưu lại trụ cột này mà thật khó đoán chừng. Những người như Trình Vũ, Trình Đức Vũ cũng vài lần khuyên giải Tấn vương không nên thu nạp hắn.

Nhưng trong triều vốn chia bè chia phái, Triệu Phổ dù ngã nhưng những thế lực mạnh mẽ của hắn thì không dễ bị gục ngã hoàn toàn. Tấn Vương đang muốn thể hiện ý chí uy gia, mời bọn họ đến Môn Hạ của mình, nếu như đến một thực khách mà môn hạ của Triệu Phổ cũng không dung nạp được thì làm sao mời nổi các quan nhân?

Lý Hoàn có thể thu nạp những kẻ đã từng âm mưu giết chết mình, Lý Thế Dân có thể dung nạp thực khách quý phủ Ngụy Chinh. Từ trước đến nay Triệu Quang Nghĩa luôn tự coi mình là người lòng dạ hẹp hòi, do cự tuyệt Mộ Dung Cầu Túy nên Mộ Dung đã thay đổi, trở thành người của Tấn Vương.

Từ khi đến với Tấn vương, Mộ Dung Cầu Túy từ đầu chí cuối đều là một thanh nhàn cửa khách, không từng được giao bất cứ sứ mệnh gì nặng nề, lệnh cho hắn bám theo nhất cử nhất động của Lý Tòng Thiện cũng khiến Triệu Quang Nghĩa hắn thấy đó là một sứ mạng xui xẻo. Mộ Dung Cầu Túy tự biết rằng nhất thời không nên tín nhiệm Triệu Quang Nghĩa, do vậy cũng không hề do dự mà nhân cơ hội này mượn đao giết người. Nếu như thành công thì hắn có thể tin vào Triệu Quang Nghĩa, bởi biết đâu sau này hắn sẽ trở thành Ngụy Chinh thứ hai?

Nghĩ tới đây, trong lòng Mộ Dung Cầu Túy chợt nóng ran, rất nhanh bước lên phía trước, đỡ Lý Tòng Thiện rồi nói: “Sở quốc công, chậm một chút, haha, tửu lượng của quốc công kém quá, mới có mấy ly mà đã say rồi?”

“Mộ Dung tiên sinh, Tòng Thiện thực không biết uống rượu, nhưng các chư vị đại nhân lại nhiệt tình quá nên…” Hắn lắc lắc đầu rồi nói: “Nếu cứ tiếp tục Tòng Thiện e rằng mình sẽ thất lễ nên đành phải ra ngoài đi lại, e đã làm mất hứng rượu của Mộ Dung tiên sinh rồi”.

Mộ Dung Cầu Túy cười dài nói: “Không sao, không sao, ta cũng nhân tiện đi dạo cùng quốc công luôn cho tỉnh rượu, sau đó chúng ta quay về cung. Nào, bên này có vẻ thanh tĩnh, chúng ta đi thôi”.

Mộ Dung Cầu Túy vừa đi vừa nói, chân nọ đá chân kia mà đi không có mục đích, đến gần Ngưng Huy điện, Mộ Dung Cầu Túy xoa xoa bụng rồi nói: “Ôi chao, lão phu không nhịn được nữa rồi. A, quốc công vào trong Ngưng Huy điện đợi ta một chốc, ta đi vệ sinh xong sẽ quay lại ngay”.

Mộ Dung Cầu Túy xin lỗi xong rồi ngó ra xung quanh một lượt, vội vàng chạy đi. Lý Tòng Thiện lạ nước lạ cái nên cẩn thận quan sát khắp nơi, không dám tùy tiện một mình vào điện. Hắn vốn là người phương Nam, không chịu được cái lạnh ở phương Bắc, hôm nay đi yết kiến vua nhưng cũng không mặc trọng cửu, do vậy, đứng một lúc thấy gió lùa vào rét thấu xương, hắn không chịu được đành thất lễ tiến về phía điện. Cửa điện mở toang, huống chi điện này vốn không phải là nơi quan trọng để họp bàn gì, nên hắn yên tâm bước vào.

Trong điện có hai người phụ trách dọn dẹp, nhìn thấy hắn cũng không biết hắn là ai, chỉ hành lễ rồi chào. Lý Tòng Thiện đứng trong điện, đợi một hồi lâu vẫn không thấy Mộ Dung Cầu Túy quay lại nên đi lòng vòng khắp nơi trong điện. Trên góc tường của điện có treo một bức tự họa, Lý Tòng Thiện không phải là một người am hiểu về thơ nên nhất thời cao hứng, đi đến bên bức tranh ngắm nhìn tỉ mỉ.

Lý Tòng Thiện lại gần thưởng thức, nhìn những nét thư pháp đẹp tuyệt diệu, bất giác đưa tay lên làm động tác bắt chước theo. Khi sắp đọc gần hết bức thư vẽ thì hắn đột nhiên phát hiện ở góc bức họa có chân dung một người. Với nét vẽ thế này thì không giống một danh họa nổi tiếng, có thể là một bức chân dung ai đó thôi.

Lý Tòng Thiện ngẩn người ra ngắm nhìn hồi lâu, càng nhìn càng thấy giống một người. Trong lòng không khỏi nghi ngờ, đột nhiên thấy một người nội thị cầm phất trần chạy qua, Lý Tòng Thiện vội hỏi: “Này vị trung quan, tha thứ cho bản quan tò mò, nhưng không rõ bức tranh treo trên tường này là của ai vẽ vậy?”

Tên nội thị đó liếc mắt lên bức tranh trên tường một cái rồi cười nói: “Bức tranh này không phải là bức tranh của danh họa gì, người trong tranh là bức chân dung tự họa của tiết độ sứ nhà Đường Lâm Nhân Triệu, Lâm tướng quân nhìn ra thiên mệnh sở quy, có ý muốn lấy lòng nhà Tống ta nên cẩn thận viết bức thư pháp này rồi tự mình vẽ chân dung ở phía dưới để làm tín vật tặng quan gia.”

Lý Tòng Thiện mặt bỗng biến sắc: “Người này… người này chính là Lâm Hổ Tử của Giang Nam?”

Tên nội thị đó đắc ý nói: “Đúng vậy, Lâm tướng quân nói, ông ấy đã dùng trăm phương ngàn kế để lấy lòng vua Giang Nam, để vua cho ông ấy khởi binh phạt Tống. Nhưng lập tức sửa cờ xí, dẫn hơn mười vạn đại quân đến hàng. Quan gia nói, Lâm tướng quân nếu như thành công thì nước Tống sẽ lấy được Đường không mất tí sức nào, đến khi đó Lâm tướng quân sẽ là đệ nhất đại công thần có công thống nhất Trung Nguyên, quan gia bảo treo bức chân dung này lên có… cái gì mà yên cái gì các…”

“Lăng Yên các?”

“Đúng vậy!” Tên nội thị vỗ tay cười nói: “ Đúng đúng đúng, đúng là Lăng Yên các. Đại nhân cũng nghe nói rồi sao? Lăng này ở đâu vậy, có nổi tiếng không?”

“Cái này… cái này… đúng vậy, đã từng… rất nổi tiếng…” Trời lạnh, nhưng Lý Tòng Thiện cảm thấy toàn thân mình như đang toát mồ hôi, rượu cũng tỉnh được bảy, tám phần, hắn không dám ở trong cung điện quá lâu mà vội chạy ra ngoài. Ở ngoài hành lang, Mộ Dung Cầu Túy vội chạy lại, vừa nhìn thấy hắn đã cười nói: “Ta rốt cuộc đã cao tuổi mất rồi, uống có tí mà đã bị đau bụng, để quốc công chờ lâu thật thất lễ quá, thất lễ quá!”

“Không sao, không sao! Tòng Thiện ở đây cũng có thể giải rượu được đôi chút. À, Mộ Dung tiên sinh, chúng ta sớm về cung thôi, ngộ nhỡ quan gia mời rượu Tòng Thiện lại không có mặt thì thật thất lễ quá, đi thôi, mời…”

Lý Tòng Thiện cố gắng trấn tĩnh lại, hai tay nắm chặt lại, móng tay cắm vào lòng bàn tay đau mà hắn cũng không thấy gì nữa, trong lòng nghĩ: “Lâm Hổ Tử lại là tên phản nghịch! Trời ơi! Ta nhất định sẽ tìm cách quay về thành Kim Lăng sớm, thông báo tin này cho Lục Ca!”

*******************************************

“Pháp luân bầu trời chuyển, phạm thanh thiên thượng lai; đăng thôn thiên quang chiếu, hoa diễm thất chi khai. Nguyệt ảnh nghi lưu thủy, xuân phong hàm dạ mai; Bà động hoàng kim địa, chung phát lưu ly bàn”. Bài thơ này của Tùy Diễm đế thể hiện được sự vui sướng hồ hởi của Giang Nam trong đêm Nguyên Tiêu, cảnh tượng long lanh chiếu sáng bừng cả trời đất. Ăn canh viên, ngằm hoa đăng, đố đèn, trộm cắp không ngừng, trời đất và con người như cùng chung cái vui mừng, tức cảnh sinh tình, đẹp không sao tả xiết.

Cánh buồm đỏ giương rộng, trên lầu các cảnh đẹp mê hồn. Lý Dục vốn là người ưa lãng mạn đã cho bố trí cung điện giống như thiên đường. Đêm nay, hắn ngồi trên thuyền rồng, cùng với hoàng hậu và tất cả các quan văn võ trong triều du ngoạn sông Tần. Hai bên bờ đèn sáng ngập bởi hoa đăng, cả đất trời cùng đón tết Nguyên Tiêu.

Trên đường, tiếng pháo nổ râm ran, tiếng chúc tụng đầy đường, sân nhà sứ giả Khiết Đan lại nhuốm màu đìu hiu.

Đinh Thừa Nghiệp đem khoảng hơn chục võ sĩ, mặc trang phục người Hán, găm dao vào người rồi đứng thẳng trong điện.

Gia Luật Văn mặc đầy quần áo, đứng ngạo nghễ nói: “Đêm nay, phụ vương ta sẽ phát binh ở Thượng Kinh, giết chết hoàng thượng. Vì tái lập tân chủ ở Khiết Đan, các ngươi nghe rõ đây, đêm nay đến sông Tần ngắm đèn, các ngươi sẽ nghe lệnh Đinh Thừa Nghiệp, trà trộn vào đám dân rồi nhân thời cơ giết chết tên sứ giả nước Tống Dương Hạo cho ta. Nhớ là phải giết chết ngay tại chỗ, không được lộ thân phận chúng ta.

Dương Hạo cầm lễ tiền của nước Tống, nếu như hắn chết, nhà Tống ắt sẽ động binh, đồng thời buộc Lý Dục phải chọn giữa theo Tống hoặc theo Khiết Đan. Mượn uy nhà Tống, chúng ta sẽ ép triều đình ký hòa ước, Gia Luật Văn ta nhất định sẽ ngồi lên ngai vàng, đến lúc đó, các ngươi cứ đợi mà lĩnh công, tiền đồ vô đối!”

“Thuộc hạ tuân mệnh!” Bọn võ sĩ ầm ầm tuyên thề, Đinh Thừa Nghiệp đã tiến lên trước một bước hô lớn: “Thần, Đinh Thừa Nghiệp, khấu kiến hoàng thượng!”

“Chúng thần khấu kiến hoàng thượng”.

Gia Luật Văn hơi sửng sốt, rồi chợt phá ra cười thật lớn.

Cánh cửa vừa mở rộng ra, sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn liền nhắm hướng sông Tần mà đi. Hắn không biết rằng đằng sau hắn có hai con mắt sáng ngời lẫn trong đám đông đang nhìn chằm chằm vào hắn. Khi người ngựa đi đến hết đường, cặp mắt đó lộ ra chút hoang mang, hai đôi lông mày khẽ nhướn lên.

“Sao lại có thể như thế? Đinh Thừa Nghiệp rõ ràng là theo hắn đến nước Đường, tại sao đến hôm nay vẫn không lộ diện?”

Người đó tự lẩm bẩm, rồi khi thấy cánh cửa ở mé góc tường vừa mở ra, một thanh niên ăn mặc kiểu người Hán bước ra, nhanh chóng lẩn vào dòng người đi trên phố.

Đinh Ngọc Lạc sáng ngời hai mắt, liếc nhìn gã Đinh Thừa Nghiệp mà tự nhủ: “Cuối cùng thì ngươi cũng chịu xuất hiện”. Đinh Ngọc Lạc cắn chặt răng, nắm chặt thanh toản đao, nhanh chóng đuổi theo.

Bên bờ Huyền Vũ, trên lầu Tiêu Tiêu, sáu gã hộ vệ đang cẩn thận kiểm tra lưỡi móc, đao, cung tên cùng hỏa vật, tất cả đều được thu gọn lại. Mục Vũ khuôn mặt còn búng ra sữa ngó chằm chằm nói: “Tất cả xác chết, đại nhân và phu nhân đã được thay quần áo, hai người anh em đã lên thuyền trước rồi. Người phụ trách hành thích sẽ là bảy người chúng ta, các ngươi nhớ rõ, hôm nay dù là giả hành thích nhưng còn khó hơn đi hành thích thật, các ngươi mà hành động không nhanh thì hỗn loạn sẽ càng kinh khủng. Đợi đến khi đại nhân và phu nhân ra ngoài rồi chúng ta sẽ lập tức phóng hỏa con thuyền, mỗi người đều phải nói tiếng Khiết Đan, tuyệt đối nhớ kĩ những điều ta đã dặn dò, tất cả chuẩn bị xong chưa?”

“Chuẩn bị xong hết rồi!”

Mục Vũ uy phong lẫm liệt nói: “Xuất phát!” tiếng bước chân vang lên, đoàn người nhanh chóng lẩn vào trong đám đông.

Trên sông Tần, từng con thuyền ngược xuôi, tiếng nhạc xé gió vang lên không dứt bên tai. Ngươi đi lại hai bên bờ đông như mắc cửi, trong tay ai cũng cầm đèn đủ màu sắc và kiểu dáng. Thuyền của Lý Dục ở phía trước, hai bên là thuyền của vệ binh và các quan trong triều. Dọc bờ sông Tần đèn sáng loáng phản chiếu trên mặt hồ, con thuyền như đang trôi giữa sông ngân hà, hoàng hậu Tiểu Chu vui mừng khôn xiết, kéo Lý Dục đứng trên mũi thuyền, ngắm cảnh tượng đẹp đẽ một năm mới có một lần này.

Phía sau vốn là thuyền của đoàn sứ giả Khiết Đan và nhà Tống, cùng thuyền của các quan văn võ trong triều. Thuyền nào cũng treo đầy đèn lồng, Gia Luật Văn đứng trước mũi thuyền, hai mắt nhìn chòng chọc như đang thưởng ngoạn cảnh đôi bờ, nhưng tay lại nắm chặt, cả người hồi hộp đến toát mồ hôi: “Thượng Kinh liệu có thành công không? Kế hoạch này chỉ có sáu phần chắc, nhưng dù là chỉ có một phần thành công thì cũng đủ để ta mạo hiểm rồi. Nhưng tại sao đến bây giờ rồi ta vẫn cứ hồi hộp căng thẳng như thế?”

Trên thuyền đoàn nhà Tống, Tiêu Hải Đào đứng trên mũi thuyền, nghiêng mắt nhìn về phía một chiếc thuyền khác, nhẹ lắc đầu rồi thở dài: “Dương trái sứ này quả là phong lưu quá, đêm nay đi ngắm đèn trái sứ còn không ở trên thuyền, lại đi với hai nương tử, quả đúng là buồn cười. Có điều… hai vị phu nhân của trái sứ quả đúng là nhan sắc hơn người, đến lão phu nhìn mà còn thấy động lòng, chỉ cần lão phu có được hai người vợ đẹp như thế thì lão phu sớm đã không đứng ở đây đón gió rồi…”

Chiết Tử Du đứng trên bờ, đang giải một câu đố đèn. Vị chủ quán kia cao giọng chúc mừng, đưa chiếc đèn cá chép đủ màu treo trên cao cho nàng. Chiết Tử Du thản nhiên nói cười, vừa cầm chiếc đèn lồng thì bị ai đó va vào. Chiết Tử Du hơi nhăn mặt, quay đầu lại nhìn thì trước mắt nàng là một người đàn ông có dáng nhỏ, chiếc mũ nỉ đội trên đầu che kín gần hết mặt, hắn đang nhìn về hướng bờ sông như không chú ý thấy mình đã va vào ai.

Chiết Tử Du nhìn cách hắn ăn vận thì không giống dáng một người đàng hoàng, bèn tức giận nhìn hắn từ đầu tới chân, khẽ “hừ” trong họng một tiếng. Chiếc thuyền rồng chói lọi đang dần đi tới, vua Giang Nam Lý Dục tới rồi.

Chương 361: Loạn chiến (1)

La tứ ca, chàng… chàng có thể bảo bọn họ đi ra chỗ khác được không, ở đây chỉ cần chàng là đủ rồi”. Gia Luật Nhã nhìn Thiết Đầu và Loan Đao Tiểu Lục đang đứng bên cạnh La Khắc Địch như người thân, tỏ vẻ không vui.

La Khắc Địch không để ý đến ánh mắt oán trách của nàng ta, mặt giả lơ nói: “Điện hạ, chúng thần là anh em tốt của nhau, tam huynh đệ này luôn dính nhau như hình với bóng, không thể tách rời”.

“Không phải chứ…” Gia Luật Nhã trừng mắt nhìn hai người đứng bên cạnh nói:

“Hai tên tiểu tử này cứ bám dính lấy chàng từng bước thật đáng ghét quá”.

Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu cũng tỏ vẻ bất đắc dĩ. Đêm nay trên đường đâu đâu cũng là ánh đèn sáng, chiếu rọi như ban ngày, nhưng ngọn đèn sáng nhất và to nhất đêm nay không cần phải nghi ngờ chính là hai người bọn hắn.

Bọn hắn cũng không muốn đâu, nhưng La Khắc Địch là anh em tốt của bọn hắn, khi anh em mở lời cầu khẩn thì đến núi đao biển lửa cũng phải lao vào chứ huống hồ là việc đi gặp mặt cô công chúa này?

Hai người dường như không nghe thấy gì, cứ ở bên cạnh không rời La Khắc Địch nửa bước. Công chúa Gia Luật Nhã đứng một hồi lâu nhưng vẫn không làm gì được, cái hăng hái ban đầu cũng bị giảm đi vài phần, nhanh chóng quay lại dưới Ngũ Phong Lâu.

Nàng ta không thể chịu nổi nữa, không thèm chấp hai tên Thiết Đầu và Tiểu Lục, nói với la Khắc Địch: “La tứ ca, hôm nay là Phóng Thâu nhật, chàng… chàng không trộm đồ gì của ta ư?”

“À…” La Khắc Địch nhìn Gia Luật Nhã từ đầu tới chân, công chúa Gia Luật Nhã hôm nay mặc một bộ y phục Hán, dù dân tộc Khiết Đan không thích Hán, nhưng trong ngày lễ như thế này thì cũng không cần quá câu nệ về trang phục truyền thống. Nhưng với công chúa Gia Luật Nhã thì không biết tại sao mà La Khắc Địch cứ mỗi khi nhìn thấy công chúa thì cứ y như rằng nàng ta đang mặc trang phục Hán, và đêm nay quả cũng không phải ngoại lệ.

La Khắc Địch nhìn từ chiếc trâm từ trên tóc Gia Luật Nhã đến chiếc túi giắt trên thắt lưng, ngượng ngùng nói: “Ta… ta trộm cái gì mới được đây?”

Gia Luật Nhã ngượng ngịu nói: “Chỉ cần là đồ trên người ta, thì trộm gì cũng được hết. Lấy vui là chính mà, nếu như không có ai trộm đồ của ta thì rõ ràng là người đó không thích ta, rất mất mặt. Đợi một lúc nữa hồi cung thì các tỷ muội sẽ cười chết ta mất”.

La Khắc Địch ngượng ngùng nói: “Làm sao lại có ai không thích điện hạ được? Vừa mới khi nãy còn có ít nhất bảy quý tộc đến trộm đồ của công chúa, nhưng công chúa…”

Ánh mắt hắn nhìn vào cây roi trong tay Gia Luật Nhã, Gia Luật Nhã mặt ửng đỏ, vội vàng giấu cây roi ra sau lưng rồi gắt giọng: “Những tên đó thật là đáng ghét mà. Chàng xem, cái tên Tiêu Triển Chí khi nãy đó, mặt râu quai nón, che hết cả mũi cả mồm, nhìn xa thì tưởng con tinh tinh, thật khiến người ta ghét”.

Tinh tinh vốn là ngôn ngữ của Hung Nô, người Hán trực tiếp dịch nghĩa, nên trở thành từ của người Hán. Dân tộc Khiết Đan cũng kế thừa từ này của người Hung Nô, gọi tắt là tinh tinh. Trong triều đình các quan chăm sóc loài động vật này và coi đó như một loài vật quý hiếm. Tiêu Triển Chí có hình dáng như vậy thật cũng không khác loài tinh tinh là mấy, La Khắc Địch nghe thấy vậy cũng không khỏi không thầy buồn cười. Hắn không nói gì cả, chỉ vênh mặt lên cho Gia Luật Nhã nhìn thấy bộ râu vẫn chưa từng được cắt tỉa của hắn.

Gia Luật Nhã cười thản nhiên nói: “Tuy râu La tứ ca cũng dài, nhưng trông rất uy phong lẫm liệt, có thể nói là một bộ râu đẹp, Tiêu Triển Chí còn phải thua xa”.

Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu khẽ ho một tiếng, không hẹn mà cùng nhau quay mặt ra chỗ khác, cằm cúi xuống, hai con mắt nhìn chằm chằm xuống đất, mặt đỏ gay lên như hai con tinh tinh.

“Đến đây, cứ tùy chọn cái gì cũng được, chỉ cần chàng thích thì ta sẽ không trách chàng đâu”.

Gia Luật Nhã cười ngọt ngào, đôi mắt đa tình như có lửa đốt khẽ liếc La Khắc Địch, đầy chờ đợi, tưởng chừng như nếu La Khắc Địch có khiêng nàng ta về phòng riêng làm vợ bé thì nàng ta cũng không có chút gì do dự.

La Khắc Địch nhìn xuống, thản nhiên nói: “Điện hạ, La mỗ chỉ là một nô bộc nhỏ bé, không dám mạo phạm đến công chúa”.

“Ngươi thật là chẳng thú vị chút nào, người ta đã nói sẽ không trách ngươi mà”. Gia Luật Nhã mở mồm nói, rồi suy nghĩ một chút, lấy chiếc trâm trên đầu mình ấn vào tay La Khắc Địch, đầy hàm ý mà nói: “Đây, cho chàng”.

“La mỗ chỉ là một nô bộc, không dám nhận đồ vật của điện hạ, xin điện hạ nhận lại”.

“Ta đã nói rồi, coi như là chàng trộm nó… Được rồi được rồi, coi như là ta tặng cho chàng được chưa?”

“Vậy La mỗ càng không dám nhận, xin công chúa nhận lại”.

Hai bên cứ đùn đẩy một hồi, chiếc trâm sau một hồi bị bẻ cong lên, mũi trâm đâm vào lòng bàn tay Gia Luật Nhã chảy máu.

“Ngươi… ngươi…” Gia Luật Nhã bị đâm đau, nhưng trong lòng còn đau hơn. Nước mắt nàng tuôn ra ướt đẫm khuôn mặt, nàng cắn chặt môi, đột nhiên vứt chiếc trâm thật mạnh xuống đất, quay người lại chạy về hướng Ngũ Phong lâu, vừa chạy vừa lấy ống tay áo lau nước mắt.

“Này tứ ca, huynh quả là lòng dạ sắt đá”. Thiết Đầu không nhìn theo nữa mà quay người lại nói.

“ Nói nhảm! Công chúa Khiết Đan làm sao có thể dễ bị chọc tức như thế?” La Khắc Địch vểnh râu, quá đáng nói.

“Còn nói nữa!” Loan Đao Tiểu Lục nhấc chân đá cho hắn một nhát, nhặt chiếc trâm rơi xuống đất lên rồi nhét vào tay hắn: “Huynh còn không mau đi dỗ cho cô ta vui lên, thêm một người giúp đỡ chúng ta thì chúng ta mới có cơ hội tẩu thoát. Nếu như huynh đắc tội với cô ả thì hoàng đế nhất định sẽ tức giận mà đầy chúng ta đi nô dịch, như vậy thì hỏng bét”.

“Vậy phải làm sao bây giờ?”

“Làm sao bây giờ? Đi dỗ cô ta đi”.

“Dỗ thế nào?”

“Làm sao đệ biết phải dỗ như thế nào? Việc này ắt hẳn Dương Hạo đại ca có cách, La đại tẩu tính tình khó chiều như vậy cũng được huynh ấy dỗ cho tới bến, nếu như có huynh ấy ở đây thì tốt quá. Ôi, huynh còn ngẩn ra đấy làm gì? Mau đuổi theo đi, không phải cứ nhận lấy cây trâm này là xong hay sao?”

“Ơ..” La Khắc Địch ngẩn người đón lấy cây trâm, quay người đuổi theo, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu nhìn theo bóng hắn đi khuất khỏi tầm mắt mới thở phào nhẹ nhõm.

“Điện hạ, điện hạ, xin chờ chút”

La Khắc Địch đuổi kịp đến nơi, Gia Luật Nhã vội dừng bước, nức nở nói: “Chàng còn đuổi theo ta làm gì?”

La Khắc Địch thở dài, vẻ vô tội nói: “Không phải chỉ là một cây trâm thôi sao, sao điện hạ lại nổi nóng như thế? Thần nhận là được chứ gì?”

Bọn thị vệ đứng gác thành tò mò đứng nhìn về phía bọn họ, Gia Luật Nhã đỏ mặt, giận đến run người, đột nhiên xoay người, vung cây roi trong tay lên quất xuống đất, hung hãn nói: “Nghe cái giọng của ngươi và cái thái độ miễn cưỡng nhận cây trâm của ta, hừ, ngươi cút đi, cút, cái loại nô lệ ti tiện, một gã nô tài, ai dám…”

La Khắc Địch đứng đó không dám nhúc nhích, bị quất mười mấy roi, các tế bào đều như nứt hết ra, trong đó có một roi quất trật, một roi quất trúng mặt, trán thì chảy máu.

Gia Luật Nhã đột nhiên thấy mềm tay, nhưng xấu hổ nên nước mắt lưng tròng đứng nhìn La Khắc Địch, ngọn roi vút trong không trung nhưng không ra quất vào đâu cả, hồi lâu sau nàng mới vứt roi, ôm mặt khóc nức nở: “Ngươi không để ý đến ta tốt với ngươi thế nào, ngươi chỉ biết bắt nạt ta, ta sẽ nói với hoàng huynh trị tội ngươi…”

Trên thành lầu, Gia Luật Cách vừa mới dẫn binh từ Nữ Chân về vào yết kiến hoàng thượng, nương nương trong tiếng hoan hô của bách tính trăm họ, lập tức lặng lẽ đi đến bên nữ quan Đông Nhi.

“Đông Nhi” Gia Luật Cách mỉm cười đứng trước mặt nàng.

“A, Gia Luật đại ca” Đông Nhi mỉm cười thi lễ.

“Không cần đa lễ. Ta mới từ Nữ Chân trở về”.

Ánh mắt như bốc lửa của Gia Luật Cách nhìn vào khuôn mặt Đông Nhi, tay lấy ra một chiếc túi, bên trong túi là năm viên Bắc Châu, là những hạt ngọc trai cực đại quý báu, màu vàng, đẹp tuyệt vời, nhìn là đã thấy bắt mắt, dưới ánh đèn còn tỏa ra những ánh sáng rực rỡ nhiều màu, mê hoặc lòng người.

Gia Luật Cách cười nói: “Đây là người Nữ Chân tặng ta để tỏ lòng hiếu kính, ta tặng nàng”.

Đông Nhi cuống quít nói: “Đây là món quà quý giá, Đông Nhi không dám nhận đâu”.

Gia Luật Cách cười một tiếng: “Có gì đâu mà quan trọng, hạt ngọc này tuy đẹp, nhưng lại không bằng dung nhan của nàng, đem nó làm vật trang sức cho nàng thì sẽ khiến nàng càng thêm xinh đẹp, người Nữ Chân tặng ta món quà này mới không phí của. Haha, người Nữ Chân còn tặng ta hai con Hải Đông Thanh, vốn con chim ưng của ta bị mất tích nên ta lấy một con ra dùng, con còn lại tặng nàng, cầm lấy đi”.

Đông Nhi lùi lại mấy bước, nói: “Món quà này quý giá quá Đông Nhi không dám nhận”.

Gia Luật Cách bất đắc dĩ, đột nhiên phát hiện ra nàng dùng kim thoa cài tóc, hai mắt chợt sáng lên, cười hihi nói: “Được rồi, vậy…ta sẽ dùng năm viên ngọc này đổi lấy cây trâm trên đầu nàng, như vậy là công bằng nhé, có được không?”

Gia Luật Cách cười nhẹ nhàng rồi định giơ tay lấy tay trâm cài tóc trên đầu Đông Nhi, sắc mặt nàng khẽ thay đổi, lùi lại mấy bước mà rằng: “Tuyệt đối không thể được, Gia Luật đại ca, cây trâm này không được”.

Gia Luật Cách chợt ngẩn người ra bởi thấy nàng chưa từng lộ vẻ kiên quyết đến thế, bèn nghi ngờ hỏi: “Cây trâm này có gì mà quý giá đến thế?” hắn chợt thấy lòng đố kị như một nỗi hận trào lên trong lòng.

Đúng lúc đó, một cung nhân đột nhiên chạy tới bên Đông Nhi ghé tai nói nhỏ điều gì đó La Đông Nhi chợt nhíu mày, kinh ngạc hỏi: “Nhã công chúa? Công chúa nổi nóng với tứ ca?”

Đông Nhi vội áy náy cười với Gia Luật Cách, nói: “Gia Luật đại ca, Đông Nhi có chút chuyện phải đi một chút”.

“Đứng lại!” Gia Luật Cách tiến đến phía trước một bước, nắm chặt vai nàng, tức giận nói: “Cây trâm này là của ai tặng nàng?”

Năm ngón tay của hắn như những mũi tên muốn lấy đi linh hồn của người chết trong cõi u linh, Gia Luật Cách vừa bước tới vừa nắm chặt vai Đông Nhi, khiến nàng đau đớn kêu lên, tay buông thõng xuống.

Bất chợt nàng hô to lên một tiếng, hai tay bất giác đưa lên che miệng. Lúc

này đây âm thanh kinh ngạc nổi lên bốn phía, hai người đồng thời quay mặt lại thì chỉ thấy Tiêu hoàng hậu đang vội đỡ hoàng thượng, một mũi tên đã găm ngay trên ngực hoàng thượng, sống chết không biết thế nào.

Người ngồi bên cạnh là đại tướng Tiêu Thác Trí cũng bị trúng tên ở ngực, Hán Đức Nhượng thì như đang nói chuyện với ai thì bị một mũi tên đâm xuyên qua cổ họng, hắn tức giận trợn mắt lên như muốn nói gì mà không thể mở mồm, đầu nặng nề chúc xuống đất.

Trên lầu là một cảnh hỗn loạn, Tiêu hoàng hậu và các trọng thần bên cạnh đều vội vàng đưa hoàng thượng về phía sau, thị vệ bốn phía quanh thành vội vàng rút gươm đao ra yểm trợ, rất nhiều người vừa mới đứng đây chỉ trỏ đèn này đèn kia, nói nói cười cười, giờ cũng rút hết đao ra, hướng về phía thị vệ trong cung.

La Đông Nhi hoảng sợ lùi về phía sau, Gia Luật Cách nắm chặt chuôi đao, nhưng bất giác thấy cánh tay bủn rủn, chỗ trúng tên không đau, hắn bất giác rùng mình: “Trong mũi tên có độc”.

Dưới thành, chợt nghe ngoài thành có một tiếng động lớn ầm ầm, Gia Luật Nhã mắt đẫm lệ nhìn lên, chỉ thấy mọi người kinh hoàng chạy qua chạy lại, tiếng kêu khóc, rồi tiếng dẫm đạp lên nhau vọng lại không dừng, không khỏi ngạc nhiên thốt lên: “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”

*******************************

Thuyền rồng đã cập bến Giang Nam thư viện, trên bờ cao đèn sáng trưng, rất nhiều sĩ tử văn nhân đang đứng trên bờ, thi lễ trước thuyền rồng trong tiếng gió rít lên không ngớt.

Tiểu Chu Hoàng hậu sau khi lên bờ quay lại nói: “Quốc vương, các sĩ tử phía trước đang nghênh đón Quốc vương kìa”

Lý Dục vuốt râu cười: “Các phu tử và học sĩ của thư viện Giang Nam đã tự mình viết tặng quả nhân bộ vạn phúc tự địa đồ, hôm nay muốn trình cho quả nhân xem đây mà. Nào, chúng ta cùng lên bờ, tiếp nhận vạn phúc”.

Thuyền rồng vừa cập bến, vệ sĩ đã nhanh chóng đứng thành hai hàng, Lý Dục và Tiểu Chu hoàng hậu cùng xuống thuyền, những sĩ tử trong Giang Nam thư viện đã đang tấn kiến, đằng sau là những văn võ bá quan cũng đang lục tục xuống thuyền. Đinh Thừa Nghiệp nhìn chằm chặp vào chữ “Tống” thêu trên cờ của đoàn sứ giả nhà Tống, hạ giọng dặn dò: “Tiếp cận gần vào, khi thuyền vừa cập bến thì lập tức giết ngay, nhớ tìm đúng Dương Hạo, hành động nhanh không để lại dấu vết”.

Đoàn người lẩn vào rừng như rắn, từ từ tiến đến chỗ thuyền của các quan, chung quanh đèn màu đẹp rực rỡ, tiếng cười nói râm ran không dứt, người qua kẻ lại, rộn ràng nhốn nháo, từ xa xa còn nghe vọng đến tiếng nhạc xé gió vang lên, vẫn là một cảnh thanh bình như trước.

Đinh Thừa Nghiệp nắm chặt con dao giấu bên hông, tiến đến gần con thuyền chở các quan, mắt nhìn chằm chặp vào đoàn người đang lên bờ, đột nhiên cảm giác được dường như trong đoàn người có ai đó đang nhìn mình chòng chọc. Đinh Thừa Nghiệp chợt cảnh giác, quay đầu lại nhìn thì thấy một ánh mắt đang dõi theo hắn giữa đoàn người nói cười nhộn nhịp, đôi mắt đó như có lửa giận nhìn xoáy sâu vào hắn, đôi mắt đó thật lạnh lùng, có chút lạ lẫm mà lại có chút quen thuộc.

Tiếng động ầm ĩ ở bốn phía trở nên xa xôi mơ hồ, tất cả những ý thức còn lại của Đinh Thừa Nghiệp đều tập trung vào đôi mắt như có lửa này. Đoàn người cứ thế qua lại, nhưng vẫn không sao che nổi đôi mắt đầy hận thù. Đêm nay Đinh Thừa Nghiệp hóa trang thành một con bọ ngựa, ai dè lại gặp ngay một con hoàng tước bên cạnh. Hắn lùi lại một bước, nhưng người đó đã lạnh lùng nói một tiếng: “Giết!”

Ở khoảng cách hơn một trượng, ở giữa hai người là đoàn người đi đi lại lại, lộ ra một khe hở, lưỡi kiếm sắc bén trong tay người kia như một đường sáng ngọt sắc giơ ra, Đinh Thừa Nghiệp cũng nhanh chóng lôi lưỡi đao của hắn ra ứng chiến.

Hoa lửa tung khắp nơi, sáng rực trời như pháo hoa, cũng là lúc nhát kiếm thứ hai của người đó lao tới.

Sau khi thử giao đấu, Đinh Thừa Nghiệp đã chợt nhận ra kiếm pháp của người đó, kiếm pháp cũng chẳng hơn mình được bao nhiêu phần, liền trầm giọng nói: “Lên thuyền, hạ tay” Hắn vừa nói vừa chỉ huy bọn kiếm khách, bách tính bốn phía thấy có tiếng động binh khí va vào nhau liền lập tức kêu cha gọi mẹ, té ngã, cả một bến tàu trở nên hỗn loạn.

Con thuyền của Dương Hạo đi sát vào thuyền của sứ giả nhà Tống. Một mặt hắn nể lời thỉnh cầu của Tiêu Hải Đào, sợ rằng vua Giang Nam cao hứng muốn mời sứ giả nhà Tống lên thuyền mà lại không thấy đâu thì vô cùng thất lễ.

Mặt khác, hắn muốn mình sẽ “chết” ngày trước mắt Tiêu Hải Đào, như vậy thì mới có sức thuyết phục.

Hai chiếc thuyền cùng đồng thời cập bến, Mục Vũ nhanh chân tiến đến sát thuyền Dương Hạo, những thích khách giả mạo sứ giả Khiết Đan cũng nhanh chân đi theo. Trong khi mọi người còn đang hoang mang nhốn nháo bốn bề, thì hai đội ngũ nghênh đón hết sức ngay ngắn trật tự đã lập tức khiến mọi người chú ý. Ánh mắt của các thích khách Khiết Đan nhìn vào đoàn người, chỉ thấy những nắm đấm được giấu kín trong tay áo, bên hông thì căng phồng, ánh mắt như có lửa, hắn cũng không biết mình đang hoang mang điều gì, chỉ nghe thấy một tiếng thét lớn: “Giết!”

Mục Vũ không hiểu mô tê gì: “Đại nhân còn sắp xếp cả người ngựa ư?” Đột nhiên thấy những ánh dao sáng choang giơ lên, sát khí ầm ầm hướng đến phía họ thì hắn đã không còn thời gian để suy nghĩ nhiều nữa, vội rút dao ra, miệng hét lớn: “Giết!” Hai đội ngũ lập tức như một cơn đại hồng thủy lao vào nhau.

Đứng trên đầu thuyền, Dương Hạo đang đứng nghển cổ ra nhìn chợt thấy hai bên bờ không rõ đã xảy ra chuyện gì mà đoàn người ngựa lại đột nhiên đánh nhau, không nén nổi kinh ngạc. Vừa mới nãy thôi hắn còn đang định vào khoang thuyền thay đổi y phục thành một nam thường dân, đi theo hai võ sĩ nhân cơ hội hỗn loạn lên bờ mà giờ… Oa Oa và Diễm Diễm cũng nhìn thấy cảnh hỗn loạn mà kinh hãi, nói nhỏ với hắn: “Quan nhân, tại sao lại như thế? Chúng ta không cần thay y phục nữa hay sao?”

Dương Hạo hít sâu vào một hơi, không quay đầu lại mà nói: “Không cần. Các nàng hãy nhân cơ hội hỗn loạn này mà chạy trốn đi. Mẹ kiếp, đã xảy ra chuyện gì? Muốn chết cũng khó thế đấy, không vấn đề, ta tự đi chuốc lấy tai họa vậy”.

Một trận đại loạn, trên bến tàu các văn sĩ tú tài vừa mới nhốn nháo ở đây thoắt cái đã không còn thấy nữa, Hoàng Phủ Kế Huân phụ trách hộ giá, bên trái là Lý Dục, bên phải là Tiểu Chu hoàng hậu, vừa hô hào gọi thị vệ đến hộ giá, vừa tìm cách trốn vào sân viện Giang Nam, nhanh chóng đóng cửa lại.

Trên thuyền nhà Tống, cấm vệ quân đang khẩn cấp ứng biến, Tiêu Hải Đào ở giữa, bọn vệ binh còn không biết đường mời đại nhân của chúng rời thuyền mà chỉ biết đứng như trời trồng. Tiêu Hải Đào bị bọn cấm vệ quên bao vây xung quanh nên chẳng trông thấy gì, vội vàng nhảy lên hét lớn: “Đại nhân, bảo vệ đại nhân, trái sứ ở trên thuyền kia, mau đi bảo vệ Dương trái sứ”.

Dương Hạo rút nhanh thanh kiếm, vọt người đứng trên mạn thuyền hét lớn: “Mau bảo vệ Tiêu tự thừa lui ra giữa sông, chớ có để thích khách lên thuyền, nhanh lên!” Nói rồi phóng qua mặt nước rộng mà lên bờ.

“Dương Hạo!”

Chiết Tử Du kinh ngạc đứng nhìn cảnh tượng hỗn loạn xảy ra trước mắt thì chợt thấy Dương Hạo nhảy lên bờ, không nén được kinh ngạc mà hét lớn, lập tức rút kiếm chạy tới. Tiếng kêu của nàng lập tức làm ngừng lại cơn loạn chiến, tên mặt vàng và Đinh Thừa Nghiệp cùng đồng thời trông lên hướng bờ, đám võ sĩ Khiết Đan dỏm và bọn Khiết Đan thật cũng ngừng chiến trông ra phía Dương Hạo.

Dương Hạo không biết tại sao cục diện lại thay đổi như vậy, sau khi cầm kiếm chạy lên bờ, nhìn đám thích khách đang ngơ ngác không hiểu mô tê gì, không biết nên làm gì thì chợt trông thấy Chiết Tử Du cũng có mặt ở đó, hắn không nén nổi choáng váng, chỉ vào nàng nói: “Tử…Tử…”

Hắn chợt nhớ ra lúc đó không thể gọi tên thật của Tử Du ra được, bèn chuyển cách xưng hô: “Tử…Tử… từ đâu đến?”

Tiêu Hải Đào mặt đầy mồ hôi nghe thấy thế liền không thèm khách khí gì nữa: “Ôi chao, đến ranh giới của Giang Nam thư viện rồi mà đại nhân còn ngần ngừ cái gì? Đây là lúc nào rồi? Đại nhân nói đại nhân là quan văn làm sao tỏ được mặt anh hùng, đi theo lão gia đi công sai không có ngày nào là không lo sợ…”

“Giết!” Đinh Thừa Nghiệp đột nhiên hô lớn, mũi đao hướng thẳng về phía người kia, bình tĩnh chỉ huy những tên võ sĩ ở đằng xa.

Chiết Tử Du vội chạy đến bên Dương Hạo, đằng sau là những võ sĩ Khiết Đan đang giơ mũi kiếm vào nàng, Dương Hạo thấy vậy bèn kinh hãi hét lớn: “Cẩn thận, to gan!”

Hắn chạy nhanh về phía trước vài bước, vọt lên ôm gọn một đứa trẻ đang ngồi khóc dưới đất vào lòng, hóa kiếm vi đao, chiêu “lực bổ hoa sơn” của hắn nhắm thẳng vào tên võ sĩ Khiết Đan đang đứng sau lưng Chiết Tử Du.

Chương 361: Loạn chiến (2)

“Phực!” chiếc đèn lồng to đang treo trên cao bị Dương Hạo dùng kiếm cắt phựt, chiếc đèn nổ vỡ, giấy đèn bay te tua trong gió, giống như một bông hoa đang rơi. Dương Hạo bay xuống đất, tên kia vừa mới chạy ra phía sau Chiết Tử Du giờ xuất hiện trước mặt hắn như chim bất đầu, một mũi kiếm sắc nhọn bổ vào mặt hắn, máu chảy đầm đìa, hắn ngả ngửa xuống đất chết.

“Ngươi là ai, tại sao lại ám sát ta?” Đinh Thừa Nghiệp liều mạng đâm tới, tức khí hét lên.

Đinh Ngọc Lạc cắn chặt răng nói: “Ngươi đi hỏi phụ thân đã qua đời đi!”

Nhạn Cửu cho đến chết cũng không hề nói ra thân phận của Đinh Thừa Nghiệp, Đinh Ngọc Lạc cứ cho rằng hắn chính là em trai mình nên không nói gì. Câu nói này của Đinh Ngọc Lạc khiến Đinh Thừa Nghiệp như nhận ra thân phận của mình, không khỏi vừa sợ vừa xấu hổ.

Hắn cũng không biết mình có phải là cốt nhục của nhà họ Đinh hay không, chuyện giết cha hại sư huynh là chuyện hắn cảm thấy sợ hãi và áy náy, đặc biệt là mình đường đường là nam tử hán, giờ lại trở thành thiếp hầu hạ Gia Luật Văn, vừa nhìn thấy người thân hắn không tránh khỏi cảm giác tự ti xấu hổ, đột nhiên thấy thối ý.

Hắn cắn chặt răng rồi bổ vài đao, sau đó đột nhiên rút đao bỏ chạy, mấy tên thuộc hạ kinh hãi trốn vào đám người, Đinh Ngọc Lạc quay lại nhìn Dương Hạo, nhưng hắn ta không chú ý tới nàng. Đinh Ngọc Lạc cắn chặt răng, đuổi theo Đinh Thừa Nghiệp.

Dương Hạo chém hết tên Khiết Đan này đến tên khác, những võ sĩ Khiết Đan khác cũng nhanh chóng xông đến, người mà bọn chúng muốn giết chính là Dương Hạo, nay hắn đã tự chui đầu vào lưới, làm sao có thể buông tha. Bọn võ sĩ Khiết Đan thì đông đảo, ngoài Mục Vũ và sáu, bảy tên Khiết Đan khác là theo phe hắn thì những kẻ còn lại đang vây quanh Dương Hạo và Chiết Tử Du, đao rút ra nhanh như gió, bao người phải bỏ mạng.

Dương Hạo một mặt rút gươm ra đánh trả, mặt khác quát: “Nàng đến đây làm gì?”

Chiết Tử Du cũng vừa bổ kiếm vào một tên, đáp trả: “Chàng tới được chẳng lẽ ta không tới được?”

Dương Hạo liếc mắt về phía bên kia bờ, thấy Oa Oa và Diễm Diễm đang đứng đó cùng hai gã thị vệ, đang ngóng nhìn về phía bên này, Dương Hạo lập tức cười ha hả và cao giọng nói: “Các ngươi ỷ thế đông sao, kiếm pháp của bản quan như thần, mười mấy người các ngươi đã làm gì nổi ta?”

“Ngông cuồng!” Chiết Tử Du không biết những lời đó là Dương Hạo dành để trấn an Diễm Diễm và Oa Oa để hai nàng tránh ra khỏi đây. Nàng vừa chặn đứng một đòn công kích của tên võ sĩ Khiết Đan vừa châm chích lời nói của hắn.

Dương Hạo vội ra hiệu cho Diễm Diễm, nàng ta trông thấy giữa vòng vây kẻ địch mà chàng vẫn có thể ra hiệu như đang đùa giỡn như thế thì mới yên tâm kéo Oa Oa cùng hai tên hộ vệ lẩn vào trong bóng đêm.

Dương Hạo trong lòng khoan khoái, cười ha hả nói: “Dương mỗ luôn hành thiện vì người khác, cũng không biết ở đâu ra lắm kẻ thù thế này, không có ta an ủi thì lấy đâu ra chí khí mà chiến đấu. Không nói bản thân được rồi, lẽ nào chúng ta buộc phải chết ở đây, làm một cặp uyên ương mới hợp ý nàng sao?”

Chiết Tử Du và hắn quay lưng lại với nhau, bất chợt cùng đánh, cùng che chở và phối hợp chuẩn vô cùng, nghe hắn nói thế Tử Du không khỏi tức giận mà mắng: “Câm miệng ngươi lại đi, muốn chết thì ngươi đi mà chết, bản cô nương sống vẫn chưa đủ đâu”.

Dương Hạo run rẩy đâm trúng tay một kẻ, khiến người đó rơi đao xuống đất, rú lên một tiếng quái dị rồi rút đi rất nhanh. Dương Hạo chợt nghĩ tới cái chết giả hôm nay, mãi mãi cách xa Chiết Tử Du. Như hôm nay hắn gặp nạn, nàng cũng đã lập tức cầm đao xông tới tương trợ, trong lòng ắt hẳn còn có tình cảm, nên trong lòng hắn không khỏi có chút kích động. Thừa dịp hai người đang đứng dựa lưng vào nhau, hắn hạ giọng hỏi: “Nàng rút đao ra vì ta, ta rất vui. Tử Du, ta đã từng không đúng, chỉ là… tình yêu ta dành cho nàng trước nay vẫn không hề thay đổi, thật đó”.

Chiết Tử Du thấy trong lòng chua xót, tưởng chừng như có thể rơi lệ ngay được. Nàng đột nhiên hét lớn một tiếng, tiến lên đánh lại tên võ sĩ Khiết Đan đang tiến tới, miệng quát lớn: “Đừng nói những điều nhảm nhí với bản cô nương nữa, lề mà lề mề, không mau đánh bọn chúng lui đi”.

Dương Hạo lập tức ra hiệu cho Mục Vũ, hắn hiểu ý, vội vàng lui khỏi chiến trận, chạy ra hướng thuyền.

Dương Hạo cười ha hả, buồn bã nói: “Đúng vậy, ta từng là kẻ lỡ lời, làm sao nàng có thể tin tưởng vào lời thề non hẹn biển này của ta?”

“Ta tin vào lời thề non hẹn biển, chỉ là ta không tin ngươi mà thôi”.

Hai người di chuyển dựa lưng vào nhau, chạy theo hình hoàn tẩu tìm kiếm khe hở của bọn võ sĩ. Chiết Tử Du cùng hắn đấu võ mồm không ngớt.

Thuyền phu trên con thuyền của Dương Hạo đang lo sợ, vừa nhận được hiệu lệnh của Dương Hạo liền lập tức cho thuyền chạy về phía giữa hồ, Mục Vũ trên thuyền hô to, chỉ huy thuyền đuổi theo, dọa cho bọn thuyền phu khác sợ hãi nhảy cả xuống nước. Thuyền tiếp tục chạy về phía giữa sông, Mục Vũ tiến vào khoang thuyền hô to như đang đánh nhau, rồi châm mồi lửa.

Dương Hạo vừa nhìn thấy mặt biến sắc, kinh hãi kêu lên: “Diễm Diễm và Oa Oa còn ở lại trên thuyền!” hắn vừa nói vừa liều mạng tiến về phía trước, dùng đao bổ mạnh xuống vài cái kêu “leng keng leng keng”. Dù Chiết Tử Du đã từng tặng hắn Thanh Sương kiếm vô cùng tốt, nhưng kiếm vốn là một thứ vũ khí nhẹ nên sau một vài nhát cắt nó kêu leng keng thêm vài tiếng rồi đứt làm đôi.

Nhưng đây là hồi công kích bão táp, hắn mở ra được lỗ hổng, Dương Hạo thả người chạy như điên, Chiết Tử Du cũng thay hắn chém về phía trước vài đao. Dương Hạo nhân cơ hội đó chạy tới bên bờ, nhảy lên trên thuyền.

Thuyền đã cách bờ hai trượng, Dương Hạo dùng hết sức nhảy lên đó, hai tay bám vào mạn thuyền, rồi dùng sức cố gắng trèo lên thuyền. Chiết Tử Du trông thấy thế không khỏi lo lắng, nhưng nàng đang mải đánh nhau với bọn võ sĩ Khiết Đan nên không thể thoát thân được.

Đầu thuyền khói lửa cuồn cuộn, Dương Hạo và đám người của Mục Vũ đã ở cùng với nhau, những võ sĩ Khiết Đan đó trông thấy tình hình như vậy vô cùng nháo nhác. Không biết đoàn người ngựa đó ở đâu ra. Vốn ban đầu định lấy Dương Hạo làm cột mốc, hai bên không phải đối đầu mà trái lại là đồng minh mới đúng, bọn thích khách đó vội hô lớn: “Lùi lại ra sau, lùi ra sau, chúng ta không phải là quân địch!”

Mấy tên võ sĩ Khiết Đan đứng đó cũng cao giọng la hét, nhân cơ hội cũng bứt ra. Bọn thích khách đó nói tiếng Hán, lại còn có thể nói tiếng Khiết Đan, như vậy mấy tên thích khách kia càng thêm tin tưởng đối phương là cùng một hội mà thực chất không rõ đối phương là từ đâu đến và lai lịch thế nào.

Dương Hạo mất đi vũ khí, hắn tức giận lấy dầu đổ lên mạn thuyền phía bên phải. Tình hình hết sức không ổn, bởi thuyền sứ giả nhà Tống đã sớm được lên kế hoạc sẽ cập sát thuyền của hắn, nhưng trận loạn lạc này đã khiến ai nấy chạy tứ tán, trên sông không có con thuyền nào qua lại, thuyền của nhà Tống lại to, muốn áp sát thuyền của hắn e cũng không dễ dàng, tình thế vô cùng gấp gáp.

“Tình hình có biến. Bọn sứ giả đó không biết từ đâu ra, nhưng chín mười phần là do Gia Luật Văn phái đến”. Dương Hạo cùng Mục Vũ đang vừa giả vờ động thủ, vừa hạ giọng nói: “Đại nhân giả vờ giết ta rồi lập tức tháo chạy, đợi ta ở địa điểm đã định trước, ta sẽ một mình đến đó sau”.

“Được rồi, đại nhân thận trọng nhé!” Mục Vũ nhìn thấy từ đằng xa đang có ánh đuốc sáng bừng lên, đang có đại đội quan binh đi tới. Thuyền của Tiêu Hải Đào cũng đang áp sát, không muốn làm lỡ thời gian nữa, hắn vung tay vờ chém Dương Hạo, rồi giả vờ đâm tới tấp xuống người Dương Hạo, Dương Hạo lập tức lấy tay kẹp lấy.

Chiêu này là chiêu thường hay dùng trong phim ảnh, mượn góc nhìn khác để từ xa nhìn vào sẽ không thấy sơ hở. Lúc này là đêm tối, bọn họ lợi dụng khói lửa đang bốc lên từng đợt đẻ những người đằng xa không nhìn thấy rõ, Tiêu Hải Đào từ đằng xa lập tức kêu lên thất thanh, nếu như không có đám lính hộ vệ ngăn lại thì có lẽ hắn đã nhảy xuống nước rồi.

Chiết Tử Du cũng nhìn thấy, kinh hãi kêu lên một tiếng, bị đâm trúng một đao. Trong mắt nàng khi ấy chỉ nhìn thấy Dương Hạo đang nhảy ra khỏi thuyền hết sức nhanh, tay với lên và nắm vào một cái cây to mọc ven hồ, rồi leo lên bờ bên kia. Ngực Chiết Tử Du như muốn nhảy ra, hai chân mềm nhũn.

Một đội binh sĩ nhà Đường đang nhanh chóng đến bến tàu, hai đội thích khách nhìn nhau rồi không hẹn mà cùng tháo chạy, lửa bốc ngày càng cao, Chiết Tử Du dường như đang nhìn thấy Dương Hạo nhìn nàng, đột nhiên trong lòng quặn đau. Nàng đem theo hai đoạn kiếm của Dương Hạo, lảo đỏa chạy ra hướng khoang thuyền.

“Không cần!” Chiết Tử Du hét lên một tiếng như xé vỡ lồng ngực, chạy đến bên bờ sông, đầu thuyền lửa cháy bừng bừng, lửa đã thiêu gần hết con thuyền. Chiết Tử Du như người mất hồn cứ đứng đó, mắt nhìn theo đám lửa bốc lên ngày càng lớn, dường như linh hồn nàng đang bay ra khỏi thể xác.

Gia Luật Cách tóm chặt mũi tên rồi kéo, máu tuôn ra xối xả, hắn cũng không thèm để ý. Gia Luật Cách vừa rút mũi tên ra vừa nói với Đông Nhi: “ Mau lui ra phía sau!” Nói rồi vội bước tới bên hoàng đế, cánh tay hắn chảy máu không ngừng, lúc đầu còn là màu xanh tím, sau mới dần chuyển sang màu đỏ. Hắn bắt đầu thấy đau đớn, tay dường như không còn chút sức lực.

Lão vương gia nhìn thấy hoàng thượng đã bị trúng tên, trong lòng vui sướng hoan hỉ. Hắn rút đao chém ngã hai tên đại thần đang run sợ không rõ quân ta hay địch ở bên cạnh, cầm lưỡi dao vấy máu tiến về phía Gia Luật Hiền.

Lúc này đây là cảnh hỗn loạn, Gia Luật Cách cũng không rõ người vừa bị giết là địch hay ta, bèn lớn tiếng nói: “Khánh vương chớ lo lắng, đã có ta bảo vệ bệ hạ”.

Lão vương gia lớn tiếng cười: “Để bản vương chặt đứt đầu lão ta đã thì mới yên tâm được”.

Gia Luật Cách nghe mà thất kinh, mắt nhìn lão vương gia rút đao ra, chạy lại chỗ hoàng thượng. Chỉ một đao của hắn là đủ để chém hoàng thượng đứt làm hai mảnh. Tiêu hoàng hậu vội chạy tới trước mặt hắn, hai mắt mở to, lớn tiếng quát: “Đông Nhi, bảo vệ hoàng thượng hồi cung”.

Khánh vương ngẩn ra, cắn chặt răng rồi giơ đao lên, nhưng Gia Luật Cách đã nhanh chóng bước tới, lấy đao đỡ lấy đao của hắn, trên vai Gia Luật Cách bị thương, không đủ lực để chặn lại Lão vương gia. Hai ngọn đao cứ chạm vào nhau tóe ra những tia như hoa lửa, chạm đến gáy Tiêu hoàng hậu thì ngừng lại. Tay Gia Luật Cách trở nên mềm nhũn, ngọn đao trên tay rời khỏi tay rơi xuống đất.

“Khánh Vương, ngươi dám hành tích vua!” Gia Luật Cách nhanh như gió đã chạy tới trước mặt Tiêu hoàng hậu, vội nói: “Nương nương, mời nương nương về cung, ở đây đã có thần”.

Tiêu Xước vừa bị một đòn thoát chết, không nói nhiều lời với hắn nữa mà vội vàng cùng Đông Nhi đỡ hoàng thượng Gia Luật Hiền, cùng với vài tên thị vệ dìu hoàng thượng về cung. Gia Luật Cách cầm đao đứng chặn phía trước, lớn tiếng quát: “Bọn chuột nhắt, không sợ bị tru di cửu tộc sao?”

Gia Luật Cách thân hình cao lớn khôi ngô, thân vốn là một dũng sĩ phương Bắc trên thảo nguyên, là một trong số những dũng sĩ Khiết Đan nổi tiếng, đồng thời cũng là người phụ trách đi giải quyết những tranh chấp, cãi cọ theo luật pháp. Đến cả hoàng tộc đối với hắn cũng còn có phần sợ hãi, giờ phút này tuy những tên kia đều đã làm phản nhưng trước tiếng quát thị uy của hắn cũng khiến nhiều gã phải mất tự chủ mà chùn bước.

“Các vị, các vị không phải là đang muốn chiếm phương Bắc đó chứ?”

Lão vương Gia Luật lại không hề sợ hắn, hai hàng lông mày dựng thẳng lên, cây đao trong tay vẽ thành một vòng tròn trong không trung. Những tên mưu phản đứng xung quanh hơi do dự một chút, rồi cũng lần lượt chạy tới, đứng cùng Gia Luật Cách. Đến lúc này mới phân rõ thành hai chiến tuyến, hai bên ở vào thế mặt đối mặt.

Bên ngoài thành vang lên tiếng kêu kinh ngạc, vài tên lính của lão vương gia ở ngoài thành đang uống rượu tán phét cũng phải lập tức đứng dậy, rút dao ra giết lũ lính gác cổng. Xảy ra biến cố, những tên lính gác cổng mới chỉ ít phút trước thôi còn gọi bọn chúng là huynh đệ, nay đã bị hạ sát không thương tiếc, chỉ một nhát đao đã chặt đứt người bọn lính, máu chảy đầy mặt đất.

Những tên mưu phản khác đều rút ra một chiếc khăn tay trắng buộc vào cánh tay, rút đao ra, những ai mà không có ám hiệu trên tay thì đều bị chúng rút đao chém, lính không tạo phản tuy đông nhưng cũng không phải là đối thủ của bọn chúng, một đám ô hợp nhốn nháo nào có ai là đối thủ, chỉ trong chớp mắt tất cả đã bị thảm bại.

Tám tên lính hộ vệ của lão Vương gia lại không hề xuống tay giết người mà cầm những thanh huyết đao tiến thẳng về phía hoàng cung. Lúc này đây Tiêu Xước và Đông Nhi tay đỡ hoàng thượng đang hấp hối, mặt tím tái dưới bậc thềm, Tiêu Xước vội hét lớn: “ Bảo vệ hoàng thượng!”

Trong tình cảnh đó, Tiêu Xước không khỏi ngẩn ra, lập tức có vài tên lính tay thắt khăn trắng tiến đến phía nàng. Tiêu Xước cắn chặt răng, bỏ Gia Luật Hiền ra đưa cho Đông Nhi đỡ, miệng hét lớn: “ Phải mở một con đường máu, Đông Nhi, mau dìu hoàng thượng hồi cung”.

Tiêu Xước đứng tiến lên phía trước nghênh đón, có vài tên mưu phản chém chết ngay vài gã nội thị đang xông tới, một cành đại tùng hướng thẳng ngực đâm tới, Tiêu Xước quay hông né tránh, nhảy sang một bên mà thoát thân. Nhưng rồi một mũi đao khác lại lao đến, đâm xẹt qua cổ nàng, một dòng máu tươi từ từ chảy ra.

Cả thân nàng mềm oặt như người không xương, dường như có thể vì bất cứ cái gì mà uốn éo vẹo vọ đi, ở bất cứ góc độ nào cũng có thể công kích, như một con cá bị kích động, năm sáu tên mưu phản cậy có sức lao đến bị nàng lao vào giết phải lùi bước, mấy tên võ sĩ hầu cận trong cung trông thấy thế cũng tiến lên trợ giúp.

Đông Nhi mặc dù đêm ngày ngóng trông ngày trở về trung thổ, nhưng Tiêu hoàng hậu đối xử với nàng quả không tệ, lại thêm hai người luôn sớm tối có nhau nên tình thân như tỷ muội. Đông Nhi thấy Tiêu hậu bị dồn như một con hổ bị rơi vào bẫy, nàng cũng thục mạng chạy lên cứu cánh, đưa hoàng thượng cho vài tên nội thị đứng đó, còn bản thân nàng cũng cầm đao tiến tới.

Nhã công chúa kinh hãi ngây người, vừa nhìn thấy biến cố, La Khắc Địch vội vàng kéo nàng đến bên góc tường, còn mình với Thiết Đầu và Loan Đao Tiểu Lục đứng hình tam giác, Nhã công chúa đứng giữa, bình tĩnh quan sát những biến động xung quanh. Những tên võ sĩ đó chỉ đi tìm những người có mang vũ khí để tàn sát, nhìn thấy họ đang đứng ngoan ngoãn ở góc tường, phục trang không giống những người có vũ khí nên cũng không ai để ý đến bọn họ.

La Khắc Địch cảnh giác nhìn ra bốn phía xung quanh, mặc kệ bọn chúng muốn giết ai thì chết, còn hắn thì đứng ở cửa rơi lệ, bất động. Nhưng đứng đó trông hoàng thượng hấp hối, Đông Nhi phận nữ cầm đao giết địch mà run lẩy bẩy, dáng vẻ liễu yếu đào tơ mảnh mai của nàng đứng một mình trong vòng vây của bè lũ mưu phản khiến người ta quả thực không yên lòng, La Khắc Địch quát to một tiếng, chạy về phía Đông Nhi.

Hắn vừa đi thì ba người trong vòng vây tam giác càng có cơ hội nhìn rõ tình hình bên ngoài. Gia Luật Nhã thấy hoàng huynh, hoàng tẩu và bọn phản tặc đang vây quanh huynh tẩu của nàng, Gia Luật Nhã hét lên một tiếng rồi chạy vội ra chỗ bọn họ. Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu thấy vậy chỉ biết nhìn nhau cười khổ não, lật đật chạy theo Nhã công chúa.

La Đông Nhi là người thiên tư thông dĩnh, có học thức, dưới sự chỉ giáo của Tiêu hậu, Gia Luật Cách và đại nội thị vệ, nàng đã bắn được những phát súng rất cao. Nhưng khổ nỗi bản lĩnh cũng không cao, đặc biệt là do nàng là nữ nhi, thể lực kém hơn nam giới, lại thêm xạ thủ Tiêu xước cứ như con chạch linh hoạt kỳ lạ, loan đao trong tay nàng cũng không quan trường nên sau khi vào trận chỉ chốc lát, nàng chỉ chống đỡ được mấy chiêu thì ngọn đao trong tay nàng đã bị đoạt mất.

Tên võ sĩ đó cười lớn một tiếng, sau đó đâm một nhát nhằm thẳng ngực Đông Nhi, không hề có ý thương hoa tiếc ngọc.

“Bọn chuột nhắt các ngươi dám?” La Khắc Địch hét lớn, chân đá một cước như một cây đại tùng mọc lên từ mặt đất, hùng dũng như một con rồng, miệng hét lên một tiếng, tên võ sĩ nọ bị một cú đá ngay ngực.

Tên nọ hung hăng trợn mắt, hầm hừ vài tiếng trong cổ họng, thanh sắt trong tay rơi xuống đất, mặt ngã úp xuống đất.

La Khắc Địch chạy tới trước mặt Đông Nhi, nắm chặt cành tùng đập chí mạng, tên kia nước mắt nước mũi và máu phun trào ra, bắn ướt cả người La Khắc Địch. La Khắc Địch run rẩy hét lớn: “Đông Nhi, mau lùi ra xa!”

Gia Luật Nhã và Loan Đao Tiểu Lục, Thiết Đầu vội vàng mỗi người nhặt một binh khí rồi chạy tới, Đông Nhi thì vẫn ngoan cố không chịu lùi ra sau, vội vàng nhặt một món binh khí rồi nói: “Tứ ca đến đúng lúc lắm, mau cứu hoàng hậu”.

Vốn dĩ nếu chỉ có mình Tiêu Xước thì cũng khó bảo đảm an toàn cho hoàng thượng, bên cạnh hoàng thượng lúc bấy giờ chỉ còn có một, hai tên nội thị đang dìu hoàng thượng chạy trốn, nếu để bị bắt gặp ắt sẽ bị giết ngay tại trận. La Khắc Địch võ công không tầm thường, một mình hắn cũng có thể đấu lại với bảy, tám gã khác. Bên cạnh đó còn có Thiết Đầu và Tiểu Lục là những người sở trường đánh nhau, nên mấy người hợp lực lại cũng đủ khiến cân bằng lực lượng đôi bên, bọn phản loạn của lão vương gia nhất thời không làm gì nổi họ.

Lúc này những người trong hoàng tộc do bị thương khá nhiều, tuy chưa chết nhưng thân mang trọng thương, không thể ngăn cản đoàn người ngựa như hổ báo đang lao đến, hai bên chiến đấu với nhau đã đổ máu không ít, Khánh vương giơ mũi đao đầy máu lên trời quát lớn: “Hoàng thượng đã chết, chúng ta phải tốc chiến tốc thắng!”

Bốn tên thuộc hạ lập tức hô lớn, Gia Luật Hiền lúc này mặt đã biến sắc nhưng vẫn chưa hoàn toàn bị gục ngã, hắn biết rằng Khánh vương cố ý nói vậy để làm loạn lòng quân nên cố hết sức đứng dậy trấn an binh sĩ. Nhưng cơ thể suy nhược, lại thêm vừa mới bị trúng tên nên dù mặc giáp nhưng đầu mũi tên vẫn cắm sâu vào trong lớp giáp, tuy không cắm sâu vào thịt nhưng đầu mũi tên có tẩm độc. Hắn chưa từng nhờ Gia Luật Cách tẩy độc nên đầu hơi choáng váng, đứng cũng không vững, làm thế nào mà mở miệng phản bác cho được.

Những người ở gần nhìn thấy hắn thì biết được hoàng đế vẫn còn sống, nhưng những kẻ ở xa lại không biết điều đó, trong lòng loạn trướng cả lên. Gia Luật Cách toàn thân đầy máu, đập lưỡi đao xuống bậc thềm lớn giọng quát: “Hoàng thượng vẫn sống, đừng có nghe lời bọn phản nghịch. Nghịch thần mưu phản, binh lính hãy cầm vũ khí đến đây, trừng trị bọn phản nghịch, hộ giá hoàng thượng”.

Hai bên đánh một trận lớn, thủ hạ cũng không dám lơ là, nhưng Khánh vương thì sốt ruột, hắn đã tính cả nghìn lần vạn lần rồi, đến cả số lượng vệ binh của Ngũ Phong lâu cũng tính toán hết sức chính xác, duy chỉ có La Khắc Địch, Thiết Đầu và Tiểu Lục là ba biến số mà hắn không tính đến, mà đó cũng chính là những biến số khiến thay đổi hết cục diện.

Chương 361: Loạn chiến (3)

Nếu như hắn không thể nhanh chóng lấy được đầu của hoàng thượng thì không cách nào làm lung lay được bọn cấm vệ quân, như vậy thì chỉ có thể chấp hành phương án hai, nhanh chóng rời khỏi đây, chạy khỏi Thượng Kinh, chờ xem tên Gia Luật Hiền sống chết thế nào rồi quyết định sau.

Do vậy lòng hắn đang rối như lửa đốt, hắn xông pha vào những cuộc ẩu đả. Tiêu Xước nhờ có bọn La Khắc Địch tương trợ mà nhân cơ hội đưa được hoàng thượng hồi cung. La Khắc Địch vốn không định dính dáng gì tới trận chiến này, chỉ là hắn ra tay vì Đông Nhi mà thôi, nên khi thấy Đông Nhi ra về hắn cũng đi theo.

Có vài người bọn hắn bảo hộ, quân của lão vương gia tuy đã kiệt lực tử chiến mà vẫn không làm gì được, mở mắt mà nhìn bọn họ đi đến cửa cung. Trời đã về chiều, Tiêu Xước một tay đỡ Gia Luật Hiền, một tay đập cửa cung, hét lớn: “Mau mở cửa! Mau mở cửa!”

Khánh vương ức phát điên, hét lớn: “Tuyệt đối không được cho bọn chúng vào được bên trong!” Nói rồi liều mạng xông lên.

Nơi cửa cung, hai tên nội thị, Đông Nhi, Gia Luật Nhã đang đứng cách đó không xa, chỉ nghe thấy tiếng Tiêu hoàng hậu đang dặn dò những tên lính gác mau mau khép chặt cửa lại, Đông Nhi và Gia Luật Nhã vội hét lớn: “Tứ ca, mau vào đi !”

La Khắc Địch khi đó đang bị Khánh vương bám theo không rời, chỉ cần tay chân lơ là một chút là sẽ bị ngọn đao của hắn bổ đôi, đến nửa bước cũng không thể lui về sau, Đông Nhi sốt ruột, cắn răng lao ra ngoài cửa cung, nhưng đã bị Nhã công chúa ôm cứng lại, đồng thời Tiêu hoàng hậu cũng nói lớn: “Khép cửa!”

“Ầm ầm” một tiếng, cửa cung nặng nề khép lại. Trong phút cuối khi cánh cửa khép lại, Đông Nhi và Gia Luật Nhã còn kịp nhìn thấy La Khắc Địch tay cầm thanh tùng dài giết quân địch bao vây bốn bề.

Khi hai cánh cửa đã nặng nề khép chặt lại, Tiêu Xước mới vội vàng truyền lệnh: “Mau đỡ hoàng thượng!”

Nàng vội xé áo khoác ngoài của hoàng thượng, chỉ nhìn thấy bên trong lớp áo là đầu mũi tên bị găm vào người. Nàng sợ hãi đến mềm cả người, nàng không cần nghĩ đến lớp sương mù đọng lạnh giá trong thời tiết này, lập tức cởi bỏ hết cả lớp áo ngoài cùng áo giáp của hoàng thượng. Vết thương bên vai phải của Gia Luật Hiền đã sẫm màu lại, ở giữa chỗ bị thương là đầu mũi tên, nhưng không có máu chảy ra.

Tiêu Xước hít một hơi thật sâu, không rõ chất độc đã bắt đầu lan đi hay chưa, nàng lập tức rút con dao giắt ở hông ra rồi rạch một đường nơi miệng vết thương, dùng miệng hút chất độc ra…

Cửa cung đã khép lại, Khánh vương biết cơ hội của hắn cũng đã hết, vội nói: “Rút! Chờ cơ hội phản kháng!”

Bọn chúng nhanh chóng rút đi như nước rút, để lại trên mặt đất những vũng máu và băng đọng trơn trên mặt đất. Khánh vương không thèm để ý nên bị trượt chân, thanh đao trong tay hắn mất đà rơi xuống, La Khắc Địch thừa cơ cầm thanh tùng hướng thẳng vào ngực hắn.

Bọn thân tín của hắn sợ hãi, liều mạng chạy đến bên hắn, đồng thanh hét lớn: “Lão vương gia cẩn thận”.

“Vương gia?”

La Khắc Địch chợt giật mình, trong mắt hiện lên một thần sắc rất lạ lùng, tư thế chuẩn bị phóng tới của hắn cũng không còn. Hắn miễn cưỡng đứng vững, chỉ nghe thấy “hự” một tiếng, thanh tùng sắc bén cắm thẳng vào đầu vai của Khánh vương.

Khánh vương hét lớn một tiếng, lùi lại vài bước, vài tên tâm phúc vội chạy lại đỡ, gây nên một cảnh hỗn loạn bên ngoài Ngũ Phong lâu. Những quý tộc và thân tộc hoàng gia đi ngắm đèn chạy tán loạn, mỗi người một nơi, đám quân phòng thủ như rắn mất đầu. Trước cửa Ngũ Phong lâu đầy những người chạy qua kẻ chạy lại, phía trước lại có binh lính chặn đường, đâm đầu vào là bị dính ngay một đao.

Đám người của Khánh vương vội vã chạy tới, lục tục xoay người lên ngựa, bỏ lại sau lưng những binh sĩ đã quyết tử, chúng thúc ngựa, tiếng vó ngựa như sấm, vang động cả trời đất…

*********************************

“Kéo thuyền lại đây, mau lại đây!”

Tiêu Hải Đào đứng trên bờ hét lên, Hoàng Phủ Kế Huân, Gia Luật Văn cũng đứng một bên, mỗi người có một ánh mắt khác nhau. Quân của Lý Dục đang đứng bảo hộ trước cửa Giang Nam thư viện, hắn sốt ruột như ngồi trên đống lửa, đi đi lại lại chờ tin cấp báo, còn Chiết Tử Du thì hồn xiêu phách lạc đứng bên bờ sông, nhưng không ai chú ý đến nàng cả.

Con thuyền của Dương Hạo được kéo vào bờ, vài tên binh sĩ vội lên thuyền kiểm tra. Con thuyền giờ chỉ là những đầu gỗ bị cháy đen, vẫn còn khói và nóng. Trong tình hình này nếu như có người còn sống thì cũng hóa thành quỷ rồi.

Tiêu Hải Đào thì vẫn chưa từ bỏ ý định, dưới sự chỉ đạo thúc giục của hắn, những binh sĩ ra sức tìm kiếm cả ngày trời và phát hiện được 5 cái xác bị cháy đen thui trôi dạt vào gần bờ, những cái xác đó bị đốt đen như cột gỗ, già trẻ gái trai chẳng ai có thể trông rõ và phân biệt ai với ai.

Chiết Tử Du đứng cách đó không xa, nàng biết rõ trong 5 cái xác đó có xác của Dương Hạo, nhưng nàng không thèm tiến lại gần, vẫn cứ đứng đó. Thuở nhỏ sinh ra trong nhà thế gia, lại thêm mấy năm liên tục chứng kiến những cuộc chiến chinh phục liên tục ở Tây Bắc, cái chết với nàng đã trở nên quen thuộc. Trước mắt kể cả là thây phơi ngàn dặm thì đối với nàng cũng không là gì cả. Nhưng hắn thì khác, trên thế gian này chỉ có duy nhất một người là Dương Hạo, Chiết Tử Du không cách nào chấp nhận được một con người hoàn hảo như hắn, mới đây thôi còn nói nói cười cười, một người sống sờ sờ ngay trước mắt, trong chớp mắt đã biến thành một cái xác đen ngòm. Nước mắt nàng rơi xuống tựa những hạt châu, từng hạt từng hạt lăn dài, rơi vào trong dòng nước sông Tần.

“Đây là đại nhân, đây là miệng của đại nhân…”

Trong ánh đèn chiếu rọi, ánh mắt Tiêu Hải Đào lướt qua cái xác, kêu gào thảm thiết, tiếng kêu như lạc điệu, trong cái tĩnh mịch của bến tàu, tiếng kêu đó sao thê lương dị thường.

Hoàng Phủ Kế Huân chùng xuống, nói: “Đây có phải là Dương trái sứ hay không là một việc rất quan trọng, tiêu đại nhân phải xem cho kỹ lưỡng đó nhé!”

Tiêu Hải Đào kích động nói: “Không thể nhầm được, đây là Dương trái sứ, còn cái vòng Phật châu này của Dương đại nhân tận mắt ta đã xem qua, được kết thành từ bảy báu vật: kim, bạc, lưu ly, sa bà trí già, mỹ ngọc, xích châu, hổ phách, thượng tuyên phật giới tam bảo Phật. Ngài xem, trên mảnh bạc này còn chưa bị thiêu, vẫn còn có hình Phật…”

Hoàng Phủ Kế Huân chăm chú nhìn lại, thấy chiếc vòng vẫn chưa bị thiêu hết, sáng ngời, bên trên còn khắc hình tượng Phật rõ rệt.

Hoàng Phủ Kế Huân khẽ chau mày, từ từ đứng thẳng người lên, hít một hơi thật sâu rồi quay người đi về phía sân Giang Nam thư viện.

Khóe môi Gia Luật Văn khẽ nhếch lên, lộ ra một nụ cười đắc ý.

“Phong tỏa toàn thành, phong tỏa toàn thành… Không, không phải… Mọi ngõ ngách của 19 châu ở Giang Nam đều phải phong tỏa, nhất định phải bắt hung thủ về quy án, huy động hết toàn bộ binh lính trong cung, nhất định phải bắt được hung thủ!”

Lý Dục tức khí gào thét: “ Sứ giả nước Tống chết ngay trước mắt thì làm sao mà qua lại được với Triệu Khuông được nữa? Ngu xuẩn, còn đứng ở đó làm gì, còn không mau đi!”

“Vâng vâng vâng!” Hoàng Phủ Kế Huân vội vã vâng lời, vội lùi ra, cùng với đó là tiếng còi hiệu xé gió vang lên, một đội quân bắt đầu tản đi ra tứ phía.

Lý Dục trấn tĩnh lại, bất lực nói: “Người đâu, màu tìm vài cỗ quan tài tốt nhất đến cho Dương trái sứ và thân tín, bó xác lại, đem về cung, tốc chiếu cho Từ Huyễn, Trần Kiều mau vào cung”.

Xác chết được gói lại đem đi, trên bến tàu đèn hai bên bờ vẫn sáng rực như thế, nhưng đã không còn du khách nữa. Dần dần, những ánh nến cũng dần tàn, cảnh vật trở lại điêu tàn. Chiết Tử Du đứng bên thềm đá ven sông, mặt đối diện với bờ sông Tần, cả người nàng và màn đêm như hòa với nhau làm một.

Nàng nhẹ nhàng cầm lấy đôi khuyên đen trong tay, đôi khuyên vẫn không hề bị sứt sẹo tí gì, chỉ có viên đá là sáng lên một màu thần bí mê hoặc, nàng âm thầm khóc: “Chàng đúng là một oan gia, không một lần nào làm ta vui vẻ. Tự dưng xuất hiện trước mặt ta, rồi lại mơ hồ rời xa ta, chàng chỉ đem lại cho ta nỗi thương lòng, Chiết Tử Du ta không biết kiếp trước đã nợ nần gì chàng…”

“Nàng không phải tính toán làm gì, mọi việc đều do trời tính, đến cả bậc đế vương tướng quân cũng không nắm bắt được vận mệnh của mình, thì làm sao nàng có thể tính toán được vận mệnh bản thân? Nàng cho rằng tính sẽ ra thiên cơ, chứ không phải tất cả đều là do vận mệnh”.

Chiết Tử Du cười buồn nói: “Ta không tính toán, ta chỉ muốn làm, chàng không tính được, ta làm được, chàng để mọi sự tuân theo thiên mệnh, kết quả lại chôn vùi chính tính mạng của bản thân mình, ta chỉ làm mà không nói, vậy có thể sửa đổi được thiên mệnh hay không? Chàng trả lời cho ta, được hay không? Chàng nói nhiều như thế, tại sao giờ đây đến một câu cũng không nói?”

Nước mắt cùng những tiếc nức nở như nghẹn lại, nước mắt rơi xuống sông, hòa vào dòng nước chảy. Nàng bất giác nhảy lên, hướng về phía dòng sông mà khản giọng kêu lớn: “Ta phải đi giết người, ta muốn tìm ra hung thủ, thiêu đốt hết cả nhà hắn, bây giờ chàng sẽ không cản ta được đâu, làm sao chàng cản ta được nữa?”

Đêm, khung cảnh yên ắng. Không một ai trả lời nàng, chỉ có tiếng nước chảy xé tiếng gió, âm âm u u như tiếng khóc than…

Sáng sớm hôm sau, bầu trời âm u, mưa phùn rơi liên tục không dứt.

Những ngày này ở Giang Nam rất sợ mưa, do sau tết Nguyên tiêu mà mưa thì sẽ mang theo cảm giác âm u ướt át, từng giọt mưa như khiến lòng người thêm ảo não, cho đến đêm mưa mới dứt, dưới mặt đất là lớp băng trơn tuột.

Mới sáng sớm mọi người đều cắm cúi bước đi, cẩn thận vì sợ trượt, hơn nữa cái lạnh khiến người ta cũng phiền muộn bất an.

Nhưng cái lạnh này lại không hề ảnh hưởng đến tâm trạng của Gia Luật Văn.

Hắn rất vui vẻ, cảm thấy thời tiết dạo này quả không tồi, tên sứ thần Đại Tống Dương Hạo đã chết, Đinh thừa Nghiệp cũng an toàn chạy trốn về dịch quán, tuy chân bị thương nhưng cũng còn tốt, không bị thương ở phần mông, không ảnh hưởng đến quan cảm của Gia Luật Văn khi hắn sủng ái “mỹ nhân” của hắn.

Gia Luật Văn tự tay bó thuốc cho Đinh Thừa Nghiệp, ngon ngọt trấn an hắn, rồi còn tự tay dùng mỡ ngựa để chăm sóc mông hằng ngày, sắm sửa xiêm y đẹp và mỉm cười vào cung.

Trận loạn lạc đêm qua hắn cũng không rõ rút cuộc đã xảy ra chuyện gì, ngoài đoàn người ngựa của hắn còn có một đoàn khác là thuộc hạ của Dương Hạo, hơn nữa đoàn người đó còn là người Khiết Đan. Không, chính xác hơn mà nói thì không phải là có hai đoàn, phải là ba mới đúng. Sát thủ muốn giết Đinh Thừa Nghiệp chỉ có một người, khi hỏi rõ Đinh Thừa Nghiệp thì hắn cũng không rõ chính xác thân phận tên sát thủ là ai, có điều tiểu tiết này cũng chẳng cần để ý, Dương Hạo đã chết, như vậy là hắn mãn nguyện rồi, vậy là thành công rồi.

Bánh xe lăn lộc cộc, nghiến những hòn sỏi trên đường tạo nên một thứ âm thanh như có nhạc.

Mở rèm cửa ra nhìn, một màn mưa trắng hiện ra trước mắt, ngoài đường người đi lại rất ít, phong cảnh quả là như họa như thơ.

Gia Luật Văn tâm trạng rất tốt, cục diện hiện rất mỹ mãn.

Muộn nhất là đến ngày kia, hắn sẽ có tin tức từ Thượng Kinh.

Trong lòng Gia Luật Văn không khỏi không cảm thấy sốt ruột, nhưng sau khi sự việc phát sinh, rất cả những lo sợ căng thẳng đã biến mất rồi. Hiện tại có lo lắng cũng không có tác dụng, hắn chỉ cần thản nhiên đối mặt là được rồi.

Hơn nữa, kế hoạch của phụ vương cũng đã nắm rất chắc, kể cả không thể ngay lập tức lấy mạng hoàng đế và hoàng hậu được, chỉ cần chạy khỏi được Thượng Kinh thì cũng có thể xây dựng căn cứ và dấy binh, hắn ở đây đã thuận lợi giết chết được tên Tống sứ, chỉ cần quân Tống kích động Bắc phạt thì… Gia Luật Văn thở một hơi thật sâu, chậm rãi ưỡn ngực…

“Quốc vương, có sứ giả Khiết Đan cầu kiến!”

“Gia Luật Văn? Hắn đến làm gì? Cho hắn vào đi”. Lý Dục mắt đỏ ngầu ngước đầu lên, sau một đêm hội họp với các quan đại thần, đến tận sáng nay các quan mới rời cung, Lý Dục không có một phút nào được nghỉ ngơi. Chính vì đau đầu suy nghĩ xem làm thế nào để xử lý vụ việc của sứ giả nhà Tống. Không ngờ rằng tên sứ giả Khiết Đan lại đến làm phiền, hắn lại không thể đắc tội.

Gia Luật Văn ngẩng đầu ưỡn ngực đi vào điện, nhìn thấy bộ dạng của Lý Dục không nhịn nổi cười, chắp tay thi lễ: “Quốc vương vẫn còn đang đau đầu vì chuyện của Tống sứ ư?”

Lý Dục than thở: “Tống sứ cuối cùng có phải là bị người hành thích hay không? Hung thủ đã chạy đi đâu rồi? Làm sao quả nhân có thể tạ lỗi với nhà Tống, làm sao không lo cho được?”

Gia Luật Văn cười to: “Quốc vương hà tất phải ưu phiền, muốn tìm ra hung thủ có gì khó?”

Lý Dục vui vẻ, đứng bật dậy, nhoài người ra phía trước hỏi: “Sứ giả Gia Luật Văn biết tung tích của hung thủ? Bọn chúng đang ở đâu? Xin sứ giả Gia Luật hãy cho quả nhân biết, quả nhân lập tức phái người đi bắt chúng”.

Gia Luật Văn mỉm cười nói: “Hung thủ à, xa tận chân trời, gần ngay trước mắt”.

Lý Dục sững người, mặt biến sắc hỏi: “Sứ giả Gia Luật hà cớ gì cứ phải trêu quả nhân”.

“Ngoại thần không dám, thích khách giết chết Tống sứ chỉ có thể ở đây. Nếu như không phải là người ở đây thì ai có gan như thế?”

Lý Dục ngơ ngác đứng sững hồi lâu, kinh ngạc nói: “Ngươi… ngươi… ám chỉ ngươi chính là kẻ ám sát Tống sứ? Như vậy làm thế nào cho phải? Ta phải làm thế nào cho phải?”

Gia Luật Văn cười lạnh lùng: “Thần muốn mách cho quốc vương một cách, không biết quốc vương có hứng nghe hay không?”

Lý Dục chần chừ nói: “Xin Gia Luật sứ cứ nói thẳng”.

Gia Luật Văn nói: “Thần có một cách, nếu như Quốc vương muốn nghe thì thần cũng xin nói. Tội mưu sát Tống sứ thần xinh nhận, để giải mối nguy trước mắt của bệ hạ. Đồng thời, Giang Nam vẫn hay bị nhà Tống ức hiếp, sớm muộn gì nước Đường cũng sẽ đi vào vết xe đổ của Kinh Hồ, Tây Thục, Nam Hán… mà thần thì.. lại có thể giải trừ nỗi lo trong lòng bệ hạ, để cho nước Đường được khuếch trương không ngừng, không biết ý Quốc vương thế nào?”

Lý Dục trợn mắt há mồm, cơ hồ như không dám tin vào những điều tai mình vừa nghe nữa, lắp bắp nói: “Ngươi… ngươi nói cái gì? Làm sao có thể…”

Gia Luật Văn cười nói: “Như thế nào là không thể?”

Hắn đem tờ kế hoạch mưu phản Thượng Kinh và liên thủ đánh Tống ra nói: “Ngài xem, chúng ta có thể ký hiệp định liên minh ngầm mà không tuyên bố ra, nhất định thần sẽ tự nhận mình là hung thủ. Thần vẫn là sứ giả của nước khác, được nước Đường mời tới, giết một sứ thần của nước khác thì mặc dù nước Đường có phiên tiết cũng sẽ không tránh khỏi trách nhiệm với nước Tống. Theo lễ thì ngài không thể bắt giam ngoại thần, nước Tống có cách gì trị ngài? Đến khi Quốc vương viết thư kể rõ căn nguyên đầu đuôi câu chuyện cho nước Tống thì đó sẽ là chuyện giữa Khiết Đan và Tống rồi”.

Lý Dục ấp úng nói: “Nước Tống… nước Tống sẽ từ bỏ ý đồ như vậy sao?”

Gia Luật Văn cười lạnh nói: “Cứ cho là chúng không từ bỏ ý đồ thì lúc đó cũng là trận chiến với quân Khiết Đan ta rồi. Kẻ giết người là sứ giả Khiết Đan, lẽ nào vua nước Tống chịu cho qua mà cứ dẫn binh sang gây chiến với nước Đường? Chúng chỉ ỷ mạnh hiếp yếu, quân vương thiên hạ xưa nay chẳng có ai thế.

Quốc vương, với dã tâm của nước Tống thì chúng muốn làm bá chủ Trung Nguyên, nếu như có tranh chấp với quân Khiết Đan thì thiên hạ đều phải mở to mắt ra mà trông. Nếu như quân Tống lại không có hứng động binh thì ắt chẳng còn mặt mũi nào. Do vậy, chỉ cần chúng chỉ huy quân Bắc phạt thì người Khiết Đan sẽ dơ đao ứng tiếp, đợi thần thuận buồm xuôi gió lên ngôi hoàng đế thì thần sẽ tự mình đánh cho quân Tống phải lùi bước, đem đất đai của chúng quy y về một mối.

Đến lúc đó, liên minh của chúng ta mới có hiệu lực, Quốc vương có thể nhân đó mà phục hận nước Tống, chúng ta kẻ Nam người Bắc tấn công thẳng vào Tống, tiêu diệt đại Tống, khi đó sẽ lấy sông Trường Giang làm biên giới, phần phía Nam là của Quốc vương, thuộc về đất nhà Đường, phần phía Bắc sẽ là của thần, hai nước chúng ta cùng chia nhau cai trị, mãi mãi kết huynh đệ, như vậy là tuyệt sách. Ý quốc vương thế nào?”

Lý Dục ngồi quay trở lại ghế, mặt xám xịt, hồi lâu cũng không nói được lời nào.

Gia Luật Văn mỉm cười, chậm rãi tới gần rồi hạ giọng nói: “Giang Nam có thể cứ ngồi im mà quan sát thay đổi, cho đến khi đại cục đã phân chia rõ ràng mới thực hiện liên minh. Nếu như Bắc quốc không thể tiêu diệt nước Tống thì nước Đường cứ im lặng làm ngơ về vụ việc Tống sứ bị chết, nước Tống ắt sẽ không gây chiến với hai nước một lúc đâu.

Nếu như ta chinh phạt Bắc quốc thành công thì sẽ dập tắt nhuệ khí của quân Tống, Quốc vương mà thừa cơ phát binh thì Nam Bắc cùng đánh, thì nước Đường không cần phải hướng Tống cầu an, lại có thể mở rộng biên giới, ngồi một chỗ mà nắm cả giang sơn. Cách này có thể gọi là có công mà không thủ, cần gì phải băn khoăn?

Quốc vương, hai đời vua trước đều là những anh hùng làm rung chuyển đất trời, hôm nay quốc vương ngồi canh giữ Giang Nam, dưới trướng có hơn mười vạn người, lẽ nào không muốn giống như những bậc tiền bối, kiến bắc lập nghiệp, khai cương lãnh thổ, thành một anh hùng để đời sao?”

Lý Dục chậm rãi ngẩng đầu lên, mặt không còn ý phẫn nộ nữa mà là một bộ mặt không có lực để thoát khỏi sự nguy nan, lớn tiếng nói: “Ngươi… ngươi muốn quả nhân thế nào?”

Gia Luật Văn cười tựa như một tên ác ôn, lôi từ trong áo ra một hiệp ước đã được viết sẵn, từ từ đặt lên án, mở ra trước mặt Lý Dục, nhẹ nhàng nói:

“Quốc vương xem thử xem, nếu như không có ý kiến gì thì xin mời ấn dấu…”

***********************

Trên mặt bàn đặt một thanh đoản kiếm, trên lưỡi kiếm có vài lỗ thủng, những đoạn đứt được dính với nhau làm một nhưng vẫn lộ rõ vết nứt không lành lặn. Đặt trên bàn, nó vẫn là một thanh kiếm hoàn hảo, nhưng không thể nào cầm lại Thanh Sương kiếm đã gãy. Dương Hạo đã mất, lúc này đây Thanh Sương kiếm cũng giống như trái tim của chủ nhân nó, đã vỡ, dù làm thế nào cũng sẽ vẫn còn vết thương.

Chiết Tử Du ngồi bên bàn, mặc một bộ y phục màu đen, eo thắt đai trắng, lẳng lặng lắng nghe tiếng gió rít ngoài cửa sổ, hồi lâu không nói gì. Đột nhiên, cửa sổ có tiếng mở khe khẽ, Chiết Tử Du ngẩng đầu, chỉ trông thấy Chương

Thập Tam đang đứng ở bậc thềm, trong màn mưa.

“Tiểu thư, sứ giả Khiết Đan vừa vào cung tự nhận mình là hung thủ giết Dương trái sứ”.

Chiết Tử Du không động đậy, nét mặt cũng không có chút biểu hiện kinh hoàng, chỉ có mí mặt khẽ cụp xuống, dường như đang trôi vào trong một dòng suy nghĩ nào đó.

Chương Thập Tam nói: “ Sứ giả nhà Tống Tiêu tự thừa rất phẫn nộ, đang vào cung gặp hoàng thượng, bị Hoàng Phủ Kế Huân chặn lại, sợ sứ giả hai bên sẽ động thủ. Hoàng Phủ Kế Huân đã điều động binh lính bao vây dịch quán của sứ giả nhà Tống. Vua nước Đường Lý Dục đã lên tiếng đuổi sứ giả Khiết Đan về nước, lệnh cho Gia Luật Văn trong vài ngày phải rời khỏi đây, viết thư tạ tội với triều Tống”.

Khóe môi Chiết Tử Du lộ ra một nụ cười chế giễu: “Người Tống không giết nổi Gia Luật Văn, Lý Dục không dám giết Gia Luật Văn, chúng ta đi”.

Chương Thập Tam giật mình nhìn nàng: “Tiểu thư…, chúng ta chỉ có hai người…”

Chiết Tử Du thản nhiên nói: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, chỉ cần lợi dụng đủ ba yếu tố thì một người có thể giết hàng vạn người”.

Chương Thập Tam bất an nói: “Thiên kim tiểu thư, đừng dễ dàng mạo hiểm, thuộc hạ không dám tuân lệnh. Sứ giả Khiết Đan sẽ rời khỏi đây trong vài ngày nữa, thuộc hạ sẽ tập trung bố trí bẫy ở khắp nơi, tuy người không đủ nhưng ít nhất còn ăn chắc hơn”.

Chiết Tử Du đứng thẳng lên, ánh mắt lướt qua Chương Thập Tam rồi nhìn vào màn mưa trước mặt, nhìn ra phía bầu trời âm u, hồi lâu mới nói: “Chàng đang ở trên trời dõi theo ta…”

Chương 361: Loạn chiến (4)

Cảnh đêm tuyệt đẹp. Cơn mưa phiền lòng người mưa ròng suốt cả ngày trời và dường như vẫn chưa tạnh.

Gia Luật Văn uống rượu say sưa rồi mới rời khỏi hoàng cung, leo lên xe của mình với sự bảo vệ của ba mươi sáu quân hộ vệ.

Gần đây hắn quả là may mắn, sự việc của vua Giang Nam đã giải quyết thuận buồm xuôi gió, trong lòng đã có liên minh ngầm, Gia Luật Văn đắc ý cười lớn, bây giờ hắn chỉ còn đợi tin tức từ Thượng Kinh nữa thôi. Hai ngày này nên làm gì nhỉ, mỗi lần giết người, dục vọng của hắn đều rất lớn, nghĩ đến cảnh đám người của Dương Hạo đã từng cười nhạo hắn cũng bị một mồi lửa cho cháy đen thui như thế lòng hắn lại càng hưng phấn.

Nhưng vết thương ở chân Đinh Thừa Nghiệp không phải là nhẹ, làm thế nào có thể chữa khỏi trong vài ngày được… À, ta có thể tìm vài mỹ nhân Giang Nam, thưởng thức cái tư vị của con gái ở đây xem thế nào.

Gia Luật Văn cười ha hả vén rèm ra ngó, bên ngoài trời vẫn mưa, trời ẩm ướt đến ngán ngẩm. Đây là con đường quay về dịch quán, hai bên đường là những tảng đá lớn, bên thấp bên cao, mưa dọc theo tảng đá đổ nước xuống ầm ầm, ướt đến mức mặt đá như sáng cả lên.

Hai bên đường là những tường viện cao cao, mái ngói bằng gạch xanh, trong sân là những mái hiên cổ kính thanh tao uốn cong cong, hầu hết đều là nhà khá giả. Hoàng hôn đã thẫm màu, lại là một ngày trời mưa không ngớt, trên đường không có ai qua lại, ánh sáng từ những chiếc lồng đèn treo cửa của các nhà hai bên đường khiến không gian càng thêm tĩnh mịch, những chiếc lồng đèn khẽ đung đưa trong cơn mưa chiều.

Gia Luật Văn gọi một tên tâm phúc đến, dặn dò hắn đi đến vài lầu xanh nổi tiếng của Giang Nam tìm một vài mỹ nhân về dịch quán cho hắn say sưa một chầu, còn chưa dặn dò hết thì ngựa đột nhiên dừng lại, Gia Luật Văn khẽ chau mày, hỏi: “Có chuyện gì thế?”

Xa phu phía trước trầm giọng nói: “Đại nhân, phía trước có người chặn đường”.

“Hả?” Gia Luật Văn nheo mày, nắm chặt chuôi đao, đi ra khỏi xe, ngồi bên cạnh phu xe và mở dù.

Gia Luật Văn nhìn về phía trước, trước mặt đã là gần cuối đường, nơi đó có một người đang đứng, vóc dáng yểu điệu, bộ y phục màu đen trên người cô gái không làm sao che nổi dáng vóc và đường cong uyển chuyển.

Gia Luật Văn cười, hôm nay hắn quả là may, vừa mới nghĩ đến phụ nữ thì phụ nữ đến, mà lại là một cô gái trẻ trung xinh đẹp, vóc dáng động lòng người nữa chứ.

Hắn không biết người con gái này khi đến đây có ý đồ gì, nhưng giữa nơi mà hai bên đều là nhà cao, không có gì che chắn, đằng trước không có gì, hơn nữa đó chỉ là một cô gái mà thôi, một cô gái thì có thể làm được gì? Giết chết hắn trên giường ư?

Hắn không ngại bị phụ nữ giết chết trên giường, giết được hắn dục tiên dục tử.

Ba mươi sáu tên lính hộ vệ đã tới sát xe ngựa của hắn, bọn chúng ai cũng nắm chặt đao, chỉ chờ nghe lệnh Gia Luật Văn.

“Ta muốn cô ta sống, không được làm bị thương một sợi tóc của cô ta!” Gia Luật Văn hạ lệnh một tiếng rồi quay vào ngồi bên trong xe. Tất nhiên rèm cửa vẫn còn được buộc lên cao, hắn muộn nhìn xem bọn thuộc hạ xử lý cô gái như thế nào. Cô nàng mặc một bộ đồ bó sát, Gia Luật Văn chỉ hy vọng cô gái này không nên quá yếu đuối, như vậy thì trò chơi mới thú vị.

Còn về thân phận cũng như ý đồ khi đến đây của cô gái, có thể hỏi trên giường – sau một trận mây mưa đã đời, sau đó sẽ cho cô nàng vừa mây mưa vừa khai báo. Gia Luật Văn nghĩ thầm rồi cười một cách tà ác.

Đột nhiên hắn phát hiện cô gái đó đang cười, khi bốn tên thị vệ chĩa đao về phía cô gái, giống như bốn con sói đang vây lấy con cừu non, nàng cũng vẫn chỉ cười. Mỹ nhân khi cười như mây tan nguyệt tỏa, hai mắt Gia Luật Văn sáng lên, không kìm nén được mà cúi người về phía trước, muốn ngắm rõ hơn nét cười mê lòng người ấy.

Sau đó, hắn đánh hơi thấy không khí có chút gì lạ lạ, nhưng vẫn chưa thể ngửi ra được cái lạ đó là gì. Hắn nhìn thấy cô gái mặc bộ đồ ôm sát màu đen, thắt đai lưng màu trắng, vóc người xinh đẹp, ném ngọn đuốc đang cầm trên tay về phía trước, động tác rất nhẹ nhàng sau đó vang lên một tiếng “phừng”, trước mặt Gia Luật Văn đã biến thành một biển lửa.

“A! A! A!...” Tất cả đám thị vệ đều bị biển lửa bao vây, phía trước mặt là lửa, cả con đường cũng là lửa, ngọn lửa cao như một đóa hồng liên, hơi bốc lên ngùn ngụt, tất cả những người trong đám lửa cũng như biến thành người lửa.

“Tại sao có thể thế này, sao lại thế?” Gia Luật Văn kinh ngạc chưa hiểu gì, phu xe hoảng loạn run rẩy thúc ngựa, muốn dùng vó ngựa nhảy ra khỏi vòng lửa, nhưng một tiếng kêu xé gió đã vang đến. Phu xe cũng là một cao thủ bắn cung, hắn rất rõ tiếng động đó tuyệt đối không phải là tiếng cung tên bắn tới mà là nỏ, là liên nỏ, một thiết nỏ có mười mũi tên.

Phu xe cúi người xuống, hắn phát hiện người bắn thiết nỏ đó không phải là người, mà là ngựa. Ngựa hý một tiếng dài, rên rỉ, tên phu xe và một tên hộ vệ trên xe ngã xuống đất, lập tức bị nuốt vào vòng lửa.

Tiếng kêu thê lương như tiếng quỷ vọng lên bốn phía, Gia Luật Văn ngồi trong xe, tạm thời tránh khỏi bị lửa thiêu, nhưng bốn phía đều là biển lửa, màn cửa đã bị cháy rồi, hắn không thể tiếp tục ngồi trên xe được nữa. Gia Luật Văn gầm lên một tiếng, xé đôi tấm đệm ngồi dùng che mặt, rồi hắn thả người nhảy xuống đất.

Hắn đã không thể quay đầu nữa rồi, lửa đã bốc lên rất mạnh, cả mặt đất đều là biển lửa, hắn cũng không thể chạy đến hết đường được, như vậy chỉ có cách chôn thân trong biển lửa. Hắn biết rằng phía trước có cô gái mặc áo đen đang đứng, và ít nhất một nỏ thủ đang núp trong bóng tối, nhưng hắn không còn sự lựa chọn nào khác.

Gia Luật Văn bước nhanh về phía trước, đụng ngay phải một tên thị vệ người đầy lửa, chạy đến đâu cũng đụng phải thị vệ, Gia Luật Văn chạy nhanh về phía trước. Cả râu và tóc của hắn đều bị lửa đốt, hai chân đã bị lửa liếm vào mà hắn hoàn toàn không để ý. Hắn không thể chết ở đây, không thể chết dễ dàng trong tay một người con gái. Hắn phải lên làm vua, hắn phải trở thành một vị hoàng đế vĩ đại nhất của Khiết Đan. Hắn phải đánh cả Trung Nguyên, thống nhất thiên hạ, đó là sự sắp đặt của thiên mệnh rồi. Hắn làm sao có thể chết được? Làm sao có thể chết thế được?

Cơ thể hắn bắt đầu đau, hai mắt cũng không mở được ra nữa. Gia Luật Văn cuối cùng cũng chạy ra khỏi được vòng lửa, cảm giác thấy được sự mát mẻ trước mặt. Hắn biết rằng mình đã thoát khỏi biển lửa, hai mắt hắn mở to và trông thấy một cô gái tóc đen dài tung bay trong gió, trong tay cầm một sợi dây mảnh. Sợi dây đó chắc là được làm từ kim loại, vì bị lửa liếm qua mà nó cũng không hề bị đứt.

Nàng đang đứng nhìn Gia Luật Văn chạy khỏi vòng lửa như hỏa nhân mà cười. Nụ cười vẫn đẹp như thế nhưng Gia Luật Văn nhìn thấy tựa như thấy ma quỷ, chỉ thấy tay nàng nhấc lên, dùng lực kéo, sợi dây trong tay nàng giống như một tấm lưới mảnh. Gia Luật Văn ngó theo, chỉ thấy bên ngoài vòng lửa là những sợi dây mảnh được kéo từ bên nọ sang bên kia, lúc này đây hắn mới phát hiện trên đầu tường có vài cái hũ. Như vậy là bóng đêm đã che mắt khiến hắn không nhìn rõ, bây giờ nhờ có ánh lửa hắn mới trông được tường tận.

Sợi dây kéo một cái, chiếc hũ rơi xuống đất vỡ tan tành, dầu từ trong hũ tràn ra khiến ngọn lửa càng thêm cháy mạnh. Lửa bốc lên cao càng khiến Gia Luật Văn tức giận, hai cây nỏ dài tám tấc cắm trúng vào ngực hắn. Nỏ cực cứng, xuyên vào trong người hắn, đem theo Gia Luật Văn ngã ngược trở vào đống lửa đó.

Hắn không cam lòng mà trừng mắt nhìn cô gái mặc y phục đen, da đầu hắn bị cháy trụi, mặt đầy bọt máu, trông hắn giống như một con quỷ, cố nắm lấy cây đao chống giữ mà hít mạnh, kêu gào thảm thiết. “Phực, phực” lại thêm hai cây nỏ sắt cắm thẳng vào người hắn, Gia Luật Văn lộ ra một nụ cười còn khổ sở hơn khóc, khắp mặt đầy những bọt máu, dữ tợn vô cùng.

Gia Luật Văn từ từ ngã xuống, lửa tràn ra, đôi chân hắn đã bị lửa nuốt hết, thiêu dần cơ thể hắn từng tí từng tí một. Hắn đã không còn lực để di chuyển nữa, mắt hắn dần ảm đạm rồi trắng bệch. Bốn cây nỏ sắt xuyên thủng người hắn, giờ thì đến thánh cũng không thể cứu nổi mạng hắn nữa rồi. Mà cô gái kia, từ đầu chí cuối vẫn còn chưa động thủ với hắn.

Một người từ phía trước thôn chạy lên, đem đống nỏ sắt trên tay thả vào biển lửa, cô gái nọ quay người đi, thản nhiên dặn dò: “Đem hắn vứt lại vào lửa để thiêu thành tro luôn”.

Người đàn ông nọ chạy về phía trước. Gia Luật Văn đến chết vẫn nhìn trân trân vào nàng, nhưng nàng đã quay người bước đi. Gia Luật Văn từ đầu chí cuối vãn chưa được nhìn rõ dung mạo của nàng, thân hình uyển chuyển, đúng là “sơn cao nguyệt tiểu, thủy lạc thạch xuất”, so với nhiều mỹ nữ Trung Nguyên thì các đường nét của nàng đều rõ ràng, nhưng Gia Luật Văn chỉ có thể nhìn được dáng đằng sau của nàng mà thôi.

Đôi bông tai bằng ngọc đen khéo léo tinh xảo rủ xuống trên đôi tai nàng. Trên đôi bông tai có một đường vân kỳ dị như hai mắt rắn, đôi khuyên đó như sáng lên nhờ đống lửa đang cháy ngùn ngụt. Cổ nàng xinh đẹp như thiên nga, làn da trắng nõn nà như được làm bằng ngọc, đôi khuyên tai mắt rắn đen càng làm cho nàng thêm đẹp, vẻ đẹp khiến người ta phải kinh sợ…

Một đôi chân che lấp tầm nhìn của hắn, đôi chân đó không quan tâm đến địa vị quý tộc cao quý của hắn mà cho hắn ngay một cước vào mặt. Có tiếng mũi bị gãy, cả phần người còn lại của Gia Luật Văn bị đá vào trong biển lửa.

Bốn bề đều là lửa cháy rừng rực, sáng vô cùng, hắn đã vĩnh viễn chìm vào trong bóng tối rồi… không còn hơi thở nữa, ngọn lửa đã nuốt gọn cả người hắn, nuốt luôn cả bản liên minh hắn ôm trong lòng…

“Quốc vương, quốc vương…”

Dạ Vũ thở hổn hển chạy vào Thanh Lương điện, Lý Dục tâm trạng không thoải mái một chút nào. Hắn tuy đã ký hiệp ước với Gia Luật Văn, cố lấy dũng khí mà sống, vì bá nghiệp chiến tranh với Tống, nhưng trong lòng vẫn thắc thỏm không yên, đến thơ ca là thứ hắn vốn yêu thích mà giờ cũng cảm thấy không còn hứng nữa.

Lý Dục đang suy nghĩ mông lung, muốn viết thư mời tiểu sư phụ trong Kê Minh Tự vào cung bốc quẻ xem cát hung tiền đồ thế nào thì thấy Dạ Vũ hớt hải chạy tới. Lý Dục thấy chắc hẳn đã xảy ra chuyện gì nên vội hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?”

Dạ Vũ thở hổn hển, chỉ ra phía bên ngoài nói: “Gia… Gia…Gia Luật sứ trên đường hồi cung đã bị giết, Trường Hạng hóa thành biển lửa, ba mươi sáu người hộ vệ, một người phu xe, hai con ngựa, toàn bộ đều bị chôn vùi trong biển lửa. Ai cũng bị cháy thành tro, thật là thảm quá, không chừa lại một cái gì…”

“Bịch!” Lý Dục như cái bao bị cắt đứt dây, rên lên một tiếng rồi ngồi phịch xuống ghế, sau đó mới nhảy lên như một quả bóng da, nói: “Hoàng Phủ Kế Huân tên khốn ấy đang làm gì? Quả nhân đã gọi hắn đi trông coi nhà Tống sứ mà hắn lại để xảy ra việc báo thù này, làm sao… làm sao có chuyện này được chứ. Quả nhân phải trị tội hắn, quả nhân muốn diệt cả nhà hắn!”

Lý Dục tức khí nói, Dạ Vũ mặt mày đầy mồ hôi, run rẩy nói: “Quốc vương, nay làm thế nào bây giờ? Sứ giả nước Tống và sứ giả Khiết Đan đều bị chết trên đất nhà Đường, chúng ta… chúng ta phải làm sao cho phải?”

“Có liên quan gì đến quả nhân?”

Lý Dục vung tay, nói năng loạn xạ: “Sứ giả Khiết Đan giết sứ giả nhà Tống… sứ giả nhà Tống báo thù sứ giả Khiết Đan, quả nhân đối đãi với bọn họ như thượng khách, bọn họ làm sao lại giết tới giết lui… chẳng có liên quan gì tới quả nhân”

Hắn đi đi lại lại trong điện hai vòng, cũng biết rằng những lời nói đó không thể nào ứng phó được với Khiết Đan và quân Tống, hắn tức giận đạp một cái xuống đất rồi quát: “Mau triệu Từ Toàn và Trần Kiều đến!”

“Rõ!” Dạ Vũ lật đật định chạy đi thì đã bị Lý Dục quát gọi lại: “Truyền chỉ, dặn Hoàng Phủ Kế Huân đối với đoàn nhà Tống ôn hòa một chút… chớ có quá đáng làm bọn chúng tức giận”.

Hôm nay hắn vốn đã ký hiệp ước với Gia Luật Văn, trong lòng vốn đã định theo Khiết Đan, nhưng nay Gia Luật Văn đã chết, Lý Dục thấy nhà Tống báo thù kinh hãi như vậy trong lòng lại dần ngả về phía Tống. Dũng khí vừa mới được nhem nhóm lên lại bị dập tắt, hắn lại trở nên sợ làm người Tống tức giận.

*****************************

Dương Hạo bị hành thích rồi chết cháy trên thuyền, ngay sau đó thái độ của nhà Đường có thay đổi, Tiêu Hải Đào vừa tức vừa bực, đi tìm Hoàng Phủ Kế Huân kháng nghị. Nhưng Hoàng Phủ Kế Huân chỉ cười cười, mắng cũng không sợ, đánh cũng không giận, còn ra lệnh đoàn nhà Tống không được rời khỏi dịch quán, binh sĩ nhà Đường bao vây hết đoàn nhà Tống lại chẳng khác nào giam lỏng họ.

Tiêu Hải Đào không làm gì được, chỉ có thể quay về dịch quán, tỉ mỉ xem xét thái độ của nhà Đường, cảm thấy ắt phải có nguyên nhân gì đó. Hắn bèn tìm Chương Đồng Châu thảo luận đối sách, hai người nói với nhau hồi lâu mà vẫn không đưa ra được ý gì.

Chương Đồng Châu thân là quan võ nhưng lại để đại sứ nhà mình mất mạng, tự cảm thấy tội mình rất nặng, không biết làm gì hơn ngoài than ngắn thở dài: “Dương trái sứ chết thảm quá, ta lại không làm gì được, mất hết thể diện nhà Tống. Lần này quay về nhất định sẽ chịu tội với triều đình, làm thế nào đây?”

Tiêu Hải Đào cũng lộ vẻ lo lắng: “Ta đợi trừng trị thì cũng phải rồi, hôm nay thấy nhà Đường trở mặt quá, ta e rằng Lý Dục đã sợ hãi bọn Khiết Đan kiêu ngạo rồi”.

Người Khiết Đan hào khí hừng hực như thế, e rằng không có lợi cho ta. Chỉ sợ rằng… việc đi sứ lần này của chúng ta chẳng thành được việc nào, lần này về cung ắt tội cũng không nhẹ đâu…”

Chương Đồng Châu than thở nói: “Mất chức quan thì mất vậy, hiện giờ người Đường sợ chúng ta sẽ đi báo thù người Khiết Đan nên canh chúng ta như phạm nhân. Bản quan cũng thôi, đại nhân ngài có biết không, bản quan ở dưới trướng những lão gia đó, ở Khai Phong vốn là tiền thị vệ, coi trời bằng vung, kiêu ngạo nhận chiếu đến nước Đường, có trái sứ là chỗ dựa. Vốn thường diễu võ dương oai không ai bì được, nay lại bị coi như tù nhân thế này, bảy người không phục tám người không cam lòng, đến cái tên coi chúng ta mắt không ra mắt mũi không ra mũi. Ôi, bản quan là một nam tử hán mà để ta phải chịu nhục như thế thật mất mặt quá!”

Tiêu Hải Đào càng nghe càng thấy phiền muộn, hắn đứng dậy đi vài bước, nhận thấy tình cảnh trước mắt đang vô cùng khó khăn. Đột nhiên cảm giác được bên ngoài có động, hắn nhòm ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy bọn lính gác đã rời khỏi sân, không nén được kinh ngạc mà thốt lên: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”

Chương Đồng Châu nhảy ra sân xem, nói: “Để ta đi dò xét xem sao”.

Chương Đồng Châu đi chưa đầy một tuần nhang đã vui vẻ trở về, kích động nói: “Tiêu thừa đại nhân, Gia Luật Văn chết rồi, ha ha ha, Gia Luật Văn chết rồi”.

Tiêu tự thừa không dám tin vào tai mình, kinh ngạc hỏi: “Gia Luật Văn chết rồi? Làm sao lại thế được?”

Chương Đồng Châu cười nói: “Ai dám đem chuyện này ra đùa chứ, là do chính miệng Hoàng Phủ Kế Huân nói đó. Ha ha, người như hắn đúng là loài rắn độc, vừa nhìn thấy bản quan đã vội xun xoe nịnh nọt. Hắn tuy không dám nói hẳn ra là chúng ta đã phái người đi giết Gia Luật Văn nhưng ta nhận thấy bọn chúng nghĩ rằng Gia Luật Văn bị chết bởi tay chúng ta. Xem thái độ cung kính sợ sệt của hắn thật bản quan chỉ muốn cười to lên thôi”.

Tiêu Hải Đào vội la lớn: “Chương đại nhân, Gia Luật Văn cuối cùng bị chết như thế nào? Ngài mau nói cho ta nghe rõ”.

Chương Đồng Châu kể lại câu chuyện mà hắn nghe được từ Hoàng Phủ Kế Huân thuật lại cho Tiêu Hải Đào, Tiêu Hải Đào nghe xong mới tin, cũng kinh ngạc không kém mà rằng: “Là ai đã giết Gia Luật Văn? Cuối cùng mục đích của bọn chúng là gì?”

Chương Đồng Châu cười nói: “Chẳng cần biết là ai đã giết, nhưng hắn đã chết, đó là chuyện đáng mừng”.

Lúc này trong sân đoàn sứ giả nhà Tống ai nấy đều đã biết tin, tiếng hoan hô dội lên như sấm, Tiêu Hải Đào đứng ở cửa sổ, sung sướng nhìn bọn lính reo hò. Còn bên sân dịch quán của sứ giả Khiết Đan chỉ thấy rất nhiều binh sĩ nhà Đường tiến đến như muốn đàn áp hỗn loạn.

Tiêu Hải Đào quan sát một lúc lâu, ánh mắt lấp lánh, càng ngày càng trầm xuống. Hắn quay người lại, nói với Chương Đồng Châu đang vui mừng hớn hở: “Gia Luật Văn chết như thế tất nhiên là chuyện đáng vui mừng, nhưng… có giúp ích được gì cho tướng quân và ta?”

Chương Đồng Châu kinh ngạc hỏi: “Đại nhân nói vậy là có ý gì?”

Tiêu Hải Đào trầm giọng nói: “Dương trái sứ đã mất.. chúng ta vẫn không thoát khỏi bị triều đình trừng trị. Cái chết của Gia Luật Văn tuy không phải chúng ta làm nhưng ắt cũng khó mà chối cãi, chúng ta làm sao có thể giấu được mọi người, sao giấu được hàng trăm binh lính?”

Chương Đồng Châu ánh mắt sáng lên, rồi nói: “ Đại nhân nhất định là có kế rồi, hạ quan đang lắng nghe đây”.

Tiêu Hải Đào cười trầm, từ từ nói: “Đại nhân có biết câu chuyện của Ban Siêu không?”

Chương Đồng Châu đảo mắt hỏi: “Ban Siêu là ai?”

Tiêu tự thừa nói: “Ban Siêu là một vị sứ giả triều Hán, có một lần hắn dẫn ba mươi sáu binh lính đi sang sứ Trịnh Thiện, Trịnh Vương mới đầu đối xử với hắn rất hòa nhã, lễ phép, sau đột nhiên đổi thái độ, trở nên lạnh nhạt. Ban Siêu phát hiện ra sự khác thường, biết được sứ giả Hung Nô cũng đã tới, Hung Nô là quân địch của nhà Hán, nhưng Thiện vương lại hướng theo Hung Nô, trở nên lạnh nhạt với nhà Hán, thậm chí còn có dã tâm giết chết. Ban Siêu sai người phóng hỏa, vài người tấn công kẻ địch, đem quân mai phục hai bên sườn quân địch, lợi dụng đêm tối để tấn công, giết sạch bọn sứ giả Hung Nô, Trịnh Thiện thất kinh không dám lung lay ý định nữa, chỉ có thể một lòng một dạ quy thuận nhà Hán.”

Chương Đồng Châu chợt hiểu, không nén được mà kêu lên: “Tiêu đại nhân nói đến chuyện Ban Siêu là muốn ám chỉ muốn tập kích sứ giả Khiết Đan?”

Tiêu Hải Đào cười cười không đáp, Chương Đồng Châu nghĩ một lát rồi do dự nói: “Tiêu đại nhân, tình thế khó khăn của chúng ta hôm nay so với câu chuyện ngày trước của Ban Siêu không giống nhau, bắt chước giống như thế e rằng sẽ làm mọi chuyện nhốn nháo lên không cách nào cứu vãn”.

Tiêu Hải Đào ung dung cười: “Đến hôm nay đã không thể cứu vãn lại rồi, Gia Luật Văn đã chết, mặc cho ngài cho giải thích thế nào thì người Khiết Đan và triều Đường cũng nhất định quy trách nhiệm lên đầu ngài. Hôm nay ngài cũng đã nhìn rõ rồi đấy, Gia Luật Văn vừa mới chết, Lý Dục đã thay đổi hắn thái độ với chúng ta, sứ giả Khiết Đan đã chết rồi thì giết thêm vài tên lính tôm tép có là gì? Còn về phía quan gia thì cũng chỉ có một cái đầu, thò ra cho quan gia chặt một nhát là xong, chúng ta cũng chỉ có con đường đó mà thôi”.

Chương Đồng Châu trầm ngâm một lúc, cắn răng một cái rồi cương quyết:

“Cứ làm thế đi!”

Gia Luật Văn đã chết!

Nghe được tin này, Đinh Thừa Nghiệp dường như không thể tin nổi vào tai mình được nữa. Gia Luật Văn chết rồi, làm sao có thể như thế được? Cứ cho tin đó là do bên kia truyền đến thì nếu lão vương gia thành công trong việc soán ngôi vị thì tính sao đây? Bọn đó sẽ sống sờ sờ ra vui vẻ, chỉ còn Gia Luật Văn là yểu mệnh nơi đất Đường, nếu như quay về Khiết Đan, bọn hắn ắt sẽ chẳng thể được hưởng vinh hoa phú quý mà đón tiếp bọn hắn sẽ chỉ là lưỡi dao sắc bén.

Đinh Thừa Nghiệp khập khiễng đứng lên, thu dọn ít ngọc ngà châu báu mà vua Đường đã tặng cho Gia Luật Văn, giắt vào người rồi tính đường chạy khỏi đây. Hắn không dám quay lại Khiết Đan, Nhạn Cửu trước khi chết đã giao cho đi tìm người họ Lư kia mà hắn vẫn chưa gặp, trong lòng từ lâu cũng đã thôi nuôi hy vọng. Những hồi ức về một thưở anh hùng đầy tráng khí đã không còn, hắn không cầu được là một nhị gia họ Đinh oai hùng như xưa nữa mà chỉ hy vọng có cơm ăn áo mặc sống qua ngày bình dị là được.

Bọn lính trong dịch quán nghe tin Gia Luật Văn đã chết thảm, ai nấy cũng đều tức giận muốn đi tính sổ với bọn nhà Tống, nhưng đã bị Hoàng Phủ Kế Huân chặn lại. Bọn lính này như rắn mất đầu, sau khi trở về thì cũng chỉ biết uống rượu mà thôi. Rượu chất đầy sân, chúng uống say rồi lại quay ra đánh mắng nhau, biến cả cái sân mỹ lệ thanh tú trở thành một nơi không ra gì.

Đinh Thừa Nghiệp lạnh lùng quan sát, mặc dù không ra mặt ngăn cản nhưng cũng không có cơ hội để đào tẩu. Hắn giờ không thể thoát được… vết thương ở chân vẫn chưa khỏi, tỷ tỷ còn đang rình mò đuổi theo hắn, hắn mà chạy thì tỷ tỷ ắt sẽ tìm ra hắn, lúc này xuất thành còn có thể đi đâu được nữa?

Trằn trọc cả đêm, Đinh Thừa Nghiệp nhớ lại từ đầu, dường như tất cả đều bắt đầu từ việc Nhạn Cửu tranh đoạt địa vị của nhà họ Đinh. Hắn không thể nào nhấc nổi cái chân bị thương lên, cắn răn chịu đau. Nếu như hiện tại Nhạn Cửu còn sống trước mặt hắn thì Đinh Thừa Nghiệp nhất định sẽ không do dự mà bóp chết hắn để làm tan mối hận trong lòng.

Nửa đêm, khi Đinh Thừa Nghiệp đang dần chìm vào giấc ngủ thì đột nhiên nghe thấy tiếng động xôn xao. Hắn giật mình cảnh giác, lập tức đứng thẳng dậy, bò ra ngoài cửa sổ để nhìn ra ngoài thì chỉ thấy tại dịch quán của bọn Tống, lửa đốt cháy sáng một góc, quân trị an nhà Đường đều đã có mặt.

Đinh Thừa Nghiệp chẳng hiểu gì cả, lẽ nào trong dịch quán của người Khiết Đan lại có người lợi dụng bóng tối đi sang đánh lén người Tống? Đinh Thừa Nghiệp mới nghĩ đến đây thì nhận ra trong đội quân điều động của nhà Đường để ra một chỗ trống cho hắn nhìn rõ trong sân nhà Tống đang tiêu diệt một trạm gác ngựa. Mỗi người tay cầm đuốc, tay cầm đao, vọt nhanh như bay về hướng sân bên này.

Đinh Thừa Nghiệp há mồm cứng lưỡi, phải một lúc sau hắn mới tỉnh, lập tức mặc quần áo rồi đến nửa đêm mới ngủ, quần áo chỉnh tề. Hắn mặc áo khoác, chân đi giày, khập khiễng chạy đến cửa phòng, bốn bề sân là tiếng hô đòi giết của cấm vệ quân nhà Tống. Dưới sự chỉ huy của Tiêu tự thừa và Chương tướng quân, bọn chúng tiến vào sân Khiết Đan, gặp ai là giết.

Người Khiết Đan uống rượu tốt, bình thường có Gia Luật Văn ở cạnh không ai dám uống quá nhiều. Nhưng đêm nay chúng đang mượn rượu giải sầu, lại không có ai ngăn cản nên rất nhiều người uống say quên trời đất. Bọn chúng chỉ muốn xông vào sân nhà Tống để giết người chứ ai dè đâu quân nhà Tống lại tàn nhẫn như thế. Gia Luật tướng quân và ba mươi sáu lính hộ vệ đã bị thiêu chết hết bọn chúng không thôi thì chớ lại nhân cơ hội đêm tối mà cử một phái đoàn hung ác tới tiêu diệt hết bọn người ở đây.

Trở tay không kịp, rất nhiều lính Khiết Đan đang say giấc bị chặt đầu. Có người còn kịp nhổm dậy, quần áo xộc xệch, vũ khí không có cũng bị thảm bại dưới tay nhà Tống. Mấy hôm trước, chỉ huy dưới của nhà Tống còn bị người Khiết Đan làm nhục, nếu như không có Dương Hạo ra tay giúp bọn chúng thì thật là mất mặt quá. Đêm nay tuy là báo thù cho Dương Hạo nhưng cũng là trút giận cho bản thân nên bọn lính ra sức chặt chém như đang giết dê giết cừu không bằng.

Hoàng Phủ Kế Huân không ngờ lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn như thế, vừa nhìn thấy trong dịch quán của nhà Tống có lửa hắn đã sợ muốn thót tim, vội sai quân đến dập lửa. Khi chạy đến sân nhà Tống thì đã thấy trong sân chất hàng đống củi khô, lửa cháy rừng rực, nhưng tiếng kêu lại xuất phát từ phía sân của nhà Khiết Đan. Hoàng Phủ Kế Huân biết đã bị mắc lừa bèn dẫn quân về ngay lập tức.

Hắn vừa mới đứng trước dịch quán của người Khiết Đan đã thấy Tiêu Hải Đào cả thân mặc quan bào, đầu đội mũ quan, thắt đai lưng màu bạc, tay cầm cây chổi lông gà, tay kia đang kéo rìu sáng loáng, hình thù kỳ dị như một cao tăng Đại Đường, mới biết cái hắn đang cầm chính là khâm sai lễ tiền.

Hoàng Phủ Kế Huân còn chưa nói gì thì Tiêu Hải Đào đã nói lớn: “Người Khiết Đan giết khâm sai của chúng ta, bản quan hôm nay đến làm rõ sự việc. Trong tay ta là lễ tiền của nước Tống, nếu như nước Đường vẫn là nước chư hầu của nhà Tống thì hãy ngoan ngoãn lui ra một phía. Còn nếu như Hoàng Phủ tướng quân muốn giúp cho người Khiết Đan ra khỏi đây thì hãy bước qua xác ta đã”.

Hoàng Phủ Kế Huân vừa nghe thấy thế lập tức vội tỏ thái độ trung lập.

Đinh Thừa Nghiệp thấy vậy liền chạy ra khỏi phòng ngủ tìm chỗ trốn, hắn nép mình vào trong phòng, chỉ hé ra một chút nhìn lính nhà Tống đang dùng đao lùng sục khắp nơi tìm kiếm, không bỏ sót một chỗ nào. Trong tình hình cấp bách đó, hắn chợt thấy một bộ váy hoa treo đằng sau cánh cửa liền vội vàng lấy mặc vào người, đánh rối tóc lên, bôi một chút bụi tro lên mặt và chạy lại góc tường.

Đến khi lính nhà Tống chạy đến lùng sục, Đinh Thừa Nghiệp mới bắt đầu lên giọng run rẩy cầu xin: “Xin các quan lớn tha mạng, tiểu nhân chỉ là người lo việc nấu nướng củi lửa ở đây không biết gì hết, tiểu nhân là người Hán, không phải là bọn cẩu Khiết Đan đâu ạ”.

“Hả?” Bọn lính tròn mắt soi đuốc lại gần để nhìn rõ mặt Đinh Thừa Nghiệp.

Đinh Thừa Nghiệp từ khi đến cung nhà Đường vốn ít khi xuất đầu lộ diện nên bọn lính không có ấn tượng gì với hắn, lại thêm diện mạo của bọn chúng lại không giống người Khiết Đan, nói tiếng Hán rõ ràng nên bèn nói: “Bọn cẩu Khiết Đan đều phải giết sạch, thôi tha cho cái mạng mi, mau cút đi”.

Đinh Thừa Nghiệp thở dài nói: “Bên ngoài đang chém giết động trời, tiểu nhân sợ nhũn cả chân ra, quả thực không dám nhúc nhích”.

Bọn lính thấy vậy cười ha hả, đá cho hắn một cái mà rằng: “Đúng là chẳng được cái tích sự gì, vậy thì ngươi ngồi ở góc tường ấy, đợi đại nhân đây giết sạch bọn Khiết Đan rồi thì ngươi đi cũng không muộn, haha…”

*******************************

Lý Dục cho gọi Trần Kiều và Tử Đích đến nói chuyện đến khuya, tất cả bọn chúng đều bị nhà Tống dọa cho sợ chết khiếp, ý chí bắt đầu dao động. Trần Kiều khuyên giải hắn: “Quốc vương chớ quá lo nghĩ, theo ý của thần thì Gia Luật Văn đã chết, việc này đối với chúng ta càng có lợi. Bản hiệp ước trong tay Gia Luật Văn đã bị tiêu hủy, còn bản trong tay chúng ta vẫn còn nguyên vẹn. Chúng ta sẽ viết một bản hiệp ước khác có lợi cho đôi bên mà không bị hủy do người đã chết. Người bị chết là Gia Luật Văn, triều đình Khiết Đan ắt sẽ phải chọn người khác lên làm vua. Chúng ta có thể ngồi im quan sát động tĩnh mà tùy cơ ứng phó. Nếu như chúng ta không thành công, quân Tống đem quân Bắc phạt thì chúng ta cũng không ngại mà hợp tác với bọn Khiết Đan. Người Khiết Đan tuy cũng có âm mưu làm bá chủ Trung Nguyên nhưng theo thần thấy thì quân Tống rất tinh nhuệ, dễ gì đối phó? Người Khiết Đan cũng muốn làm chủ Trung Nguyên, hai bên tranh chấp với nhau sẽ là cơ hội cho nước Đường dấy binh quật khởi, không thể bỏ qua. Nếu như bọn chúng không thể thắng được nước Tống thì cũng làm gì có ai biết được chúng ta đã từng ký hiệp ước với Khiết Đan cơ chứ?”

Lý Dục nghe mà gật đầu lia lịa, cảm thấy đắc ý. Hắn cảm thấy mưu kế này rất lợi hại. Chợt một tên nội thị chạy vội vàng vào, vừa thở hổn hển vừa bẩm báo: “Quốc vương, quốc vương, sứ giả nhà Tống Tiêu Hải Đào xin cầu kiến”.

“Ta không gặp!” Lý Dục vênh mặt nói: “Đêm hôm khuya khoắt, quả nhân còn tiếp hắn làm gì? Đây là nơi nào? Hoàng Phủ Kế Huân đúng là hỗn tướng, hắn đã phái binh đến mà vẫn để cho lính Khiết Đan và lính nhà Tống làm loạn, chẳng làm được việc gì nên hồn. Đây là lúc nên cho hắn giải thể, nếu như tên sứ thần nhà Tống này lại bị bọn Khiết Đan giết chết, hết tên này đến tên khác thì ta còn mặt mũi nào nữa mà sống?”

Tên nội thị liền chạy đến nói nhỏ vào tai Lý Dục điều gì đó, Lý Dục nghe mà đờ đẫn cả người, mặt đỏ gay lên, hét lên một tiếng tức giận, đập mạnh tay xuống bàn khiến mặt bàn bàn bằng ngọc vỡ tung tóe. Lý Dục giận đến run người, quát lớn: “Cường đạo, một lũ cường đạo. Hắn dám gây chiến ở ngay trên đất Đường, đánh đánh giết giết, trong mắt chúng còn có vua Đường hay không? Còn có vị vua của Giang Nam này nữa hay không?”

Tử Đích, Trần Kiều nhìn nhau, tên nội thị thấy Lý Dục đang nổi cơn lôi đình bèn sợ hãi nói: “Đúng đúng đúng ạ, nô tài sẽ đi mời hắn quay về, ngày mai hẵng quay lại”.

“Chậm đã!” Lý Dục ngực phập phồng, cố nén cơn giận, hồi lâu sau mới khoát tay nói: “Mời.. Tống sứ lên điện gặp trẫm”.

“Tiểu sư phụ, quả nhân có việc lớn khó giải quyết. Nay người Bắc kéo đến, ai là bạn ai là thù, hai bên đều có dã tâm như hổ như báo, quả nhân không thể quyết định được. Tiểu sư phụ phật pháp uyên thâm, nghe được ý trời, có thể giúp quả nhân thoát khỏi bên mê không?”

Mới sáng sớm đã xong buổi triều. Lý Dục vội vàng đến Kê Minh tự, tìm cơ hội gặp Bảo Kính đại sư, một vài cao tăng và Bích Túc đến hỏi chuyện.

Bích Túc vừa nghe vừa nghĩ, điều này sao giống hắn thế, nói chuyện hai lời, mơ hồ không rõ ràng. Hắn làm hoàng đế không sướng lại cứ thích giả trang làm hòa thượng.

Bích Túc vội quay trở lại những điều đang suy nghĩ trong đầu, đột nhiên cười rồi ra vẻ cao thâm nói: “Quốc vương chớ có lấy nước xa mà cứu lửa gần, bà con xa không bằng láng giềng gần”.

“Nước xa khó cứu được lửa gần. Bà con xa không bằng láng giềng gần?”

Lý Dục lẩm nhẩm lại hai lần, rồi chần chừ nói: “Cái này… quả nhân hiểu ý của cao tăng rồi, chỉ là vị láng giềng gần này cũng không phải là tốt, theo ý quả nhân thì cái bà con xa cũng rất khó chơi, quả nhân có ý với tới bà con xa, không biết có được không?”

Bích Túc thầm chửi trong bụng: “Mẹ kiếp, đã có ý định thế rồi còn hỏi ta làm gì, định trêu tức ông nội ngươi à?”

Nhưng ngoài mặt hắn vẫn vờ không lộ cảm xúc, từ tốn nói: “Con hổ ở núi xa dù dữ nhưng còn dễ chơi hơn con sói ở gần, nó có thể nuốt tươi quốc vương bất cứ lúc nào. Chớ có để họa xảy ra ngay bên cạnh rồi mới lo. Tiểu tăng là người xuất gia không biết ăn nói, Quốc vương có thể suy nghĩ xem, trong vòng mười ngày là phải dứt khoát”.

Lý Dục nghe hắn nói như vậy thì không khỏi dao động: “Trong vòng mười ngày là phải dứt khoát ư?”

Bích Túc mắt nhòm mũi, mũi nhòm tâm, không nói thêm một lời nào nữa”.

Lý Dục đành phải chắp tay nói: “Đa tạ chỉ giáo của tiểu sư phụ, quả nhân trong vòng mười ngày tới xem động tĩnh thế nào rồi sẽ nói tiếp”.

Bích Túc cười thầm trong bụng: “Cứ đi mà xem tình hình đi. Hiện giờ tình thế đang nguy cấp, đại nhân cũng đang biệt tích ẩn thân, qua vài ngày nữa ta sẽ dỗ tiểu sư thái đi theo ta lên Thiếu Hoa Sơn hưởng phúc, đại sư cho phép hay không cũng kệ, ta chẳng có liên quan gì nữa”.

Cung tiễn Lý Dục xong, Bích Túc quay người tiến vào điện Công Đức, vừa vào đến điện đã thấy hương bay nghi ngút, một tên hòa thượng đang níu níu kéo kéo một nhi nữ. Bích Túc vừa thấy đã nổi giận, bước nhanh lại nói:

“Thành Không to gan, ngươi dám ở đây níu níu kéo kéo vị cô nương này, còn ra thể thống gì”.

Tên hòa thượng nọ thấy Bích Túc liền vội vàng chắp tay nói: “Thành Không không dám phạm giới. Vị cô nương này đang ở trong điện Công Đức lập bài vị thắp hương, nhưng theo quy định của Kê Minh tự thì muốn lập bài vị thắp hương phải nộp một nghìn quan tiền. Cô nương này không đủ tiền, tiểu tăng không đồng ý nên mới có tranh chấp đấy ạ”.

Bích Túc quay ra nhìn cô gái, đó là một người dáng cao, lông mày lá liễu, mũi thon, có dáng dấp mềm mại mà cương quyết. Nàng mặc một bộ quần áo trắng như tuyết, tuy không phải là áo tang nhưng trông giống một người đang có tang.

Trước nay một người con gái dẫu chỉ có năm phần tư sắc thì cũng đã hết sức xinh đẹp rồi, huống hồ cô gái này thân hình đẹp đẽ, đường nét xinh đẹp, Bích Túc vừa gặp đã ngay lập tức phải hòa nhã, chắp tay thi lễ rồi nói với cô gái: “Không biết vì sao nữ thí chủ muốn lập bài vị ở điện Công Đức này?”

Trông thấy vị hòa thượng trẻ tuổi mà đã là phương trượng này, cô nương nọ cũng hơi kinh ngạc, đợi đến khi Bích Túc hỏi xong thì nàng thấy cũng không cần thiết phải nói lại nỗi đau của nhà mình ra. Mắt đỏ hoe, nàng nhẹ nhàng đáp: “Phương trượng đại sư, tín nữ muốn thay gia huynh lập bài vị ở đây. Gia huynh tôi gặp tai nạn chết thảm. Khi sinh thời huynh ấy luôn hướng thiện, nhưng không rõ sao lại gặp phải tai họa như vậy. Tín nữ tôi rất đau lòng, nghe nói Kê Minh tự là ngôi chùa lớn nhất Giang Nam, hương khói nghi ngút, tín nữ muốn lập bài vị gia huynh tại đây để nhà chùa cầu phúc siêu độ cho huynh ấy sớm về miền cực lạc. Chỉ là trong túi tôi chỉ còn có tám trăm quan, mong Phương trượng đại sư từ bi đại đức cho phép gia huynh tôi được lập bài vị ở đây, tín nữ nhất định sẽ dâng hương dầu cho nhà chùa”.

Bích Túc nghe xong liền nhìn xuống tay cô gái, thấy trong tay nàng đang cầm một chuỗi vòng ngọc cùng vài vật linh tinh khác, hiển nhiên là đã rút sạch những gì đáng giá trong người ra, trong lòng không khỏi mắng thầm: “Đúng là đen đủi, chỉ là một tấm bài vị nhỏ bé trong điện thôi mà, thế mà muốn lấy của người ta những một nghìn lượng bạc, các người đúng là còn cướp được cái gì nữa?”

Bích Túc lấy từ trong tay cô gái một viên ngọc lẫn trong đám đồ mà cô cầm, rồi nói: “A di đà phật, sinh tử vô thường, nữ thí chủ có đau thương rồi cũng qua đi. Bần tăng nhận của thí chủ một tấm lòng thành, chỉ lấy viên ngọc này của cô thôi, cho phép thí chủ lập bài vị gia huynh ở đây”.

Thành Không hòa thượng đứng bên cạnh vội kêu lên: “Phương trượng…”

“Câm miệng! Còn không mau đi viết bài vị cho cô gái, còn muốn thế nào nữa?”

Thành Không hòa thượng hậm hực trong cổ họng rồi dẫn cô gái áo trắng đi.

Bài vị đã viết xong, được đặt trên điện Công Đức và cắm ba nén nhang. Cô gái áo trắng quỳ trước bài vị, vái ba vái rồi không nén được mà nước mắt tuôn rơi: “Nhị ca, gia môn rách nát, muội vốn trông đợi đến một ngày huynh muội ta sẽ xây dựng lại được gia viên, không ngờ…”

Nàng nghẹn ngào nói: “Nhị ca, hắn lại thoát rồi, nhị ca ở trên trời có thiêng xin hãy phù hộ cho muội tìm được tên hung thủ giết huynh, thanh lý môn hộ. Đợi khi mọi việc xong xuôi, muội sẽ đón nhị ca về nhà, nhị ca…”

Nàng khóc nấc lên thành tiếng, rồi lại bái tế ở đó một lúc lâu rồi mới rưng rưng đi khuất.

Bích Túc ở ngoài đi lại một vòng, khi không trông thấy bóng dáng cô gái nữa mới gọi Thành Không lại mắng: “Ngươi thật là to gan, ta đã nhận hạt châu của cô gái rồi, còn đồng ý giúp cô ấy lập bài vị, sao ngươi dám đuổi cô ấy đi?”

Thành Không nghe nói liền kêu oan: “Oan quá phương trượng sư thúc, vị cô nương đó ngồi khấn vái một hồi lâu rồi khóc lóc bỏ đi, phương trượng đã đồng ý thì làm sao tôi dám đuổi cô ấy đi? Phương trượng nhìn xem, vị cô nương đó đặt bài vị ở đây này, vết mực còn chưa khô”.

Bích Túc nói: “Vị cô nương đó thật đáng thương”. Ánh mắt hắn lướt qua tấm bài vị, toàn thân như bị điện giật, hắn chăm chú nhìn lại một lần nữa, tiến lên phía trước cầm tấm bài vị lên xem.

“Linh vị vong huynh Dương Hạo, muội, Tử Thị Ngọc Lạc lập”.

Đinh Ngọc Lạc và Bích Túc năm đó đã từng gặp nhau, nhưng hai người chưa từng nói chuyện với nhau. Giờ cả hai đều đã lớn, gặp mặt không nhận ra nhau. Bích Túc nhìn tấm bài vị, thở dài, nắm chặt tấm bài vị chạy ra ngoài, Thành Không hòa thượng ngơ ngác hỏi với theo: “Phương trượng sư thúc, ngài cầm tấm bài vị đi đâu thế?”

Bích Túc thầm nghĩ: “Đại nhân đang sống tốt, lập tấm bài vị ở đây chẳng khiến người sống khóc chết”.

Hắn không quay đầu lại, nghe thấy tiếng nói với theo sau lưng: “Sư thúc nghĩ kĩ xem, tiền hương dầu quyên ít, điện của chúng ta bao nhiêu người cần ăn cơm, sư thúc chạy theo cô ấy đòi thêm một ít…”

Bích Túc không dừng chân, đã chạy ra ngoài điện Công Đức, Thành Không bĩu môi, khinh thường nói: “Phong cái kẻ nông cạn rỗi hơi như ngươi làm đại sư… trụ trì đại sư từ bi nhân đức quá đi… ta nhổ vào!”

Bích Túc chạy ra khỏi điện, chạy ra khỏi Kê Minh tự, ngó nghiêng bốn phía, người đến dâng hương qua lại không ngớt… nhưng không thể tìm được bóng dáng thiếu nữ áo trắng nữa…

***********************************

Trong điện nhà Đường lại trở về yên ổn, Hoàng Phủ Kế Huân bị kẹp giữa hai gọng kìm cũng như trút được gánh nặng mà dẫn người đi. Sứ giả Khiết Đan bị giết đến thất kinh bát lạc, nay đã gần như không còn khả năng đứng dậy nữa, thử hỏi còn trú quân ở đây làm gì nữa?

Lý Dục là kẻ cố tình khơi mào chiến tranh giữa hai nước, nhưng hắn không hy vọng nhân vật quan trọng của bất kỳ bên nào bị mất mạng. Sự việc xảy ra nằm ngoài tầm kiểm soát của hắn, khi hắn đang ngồi ở thế tọa sơn quan hổ đấu thì cuối cùng cũng bị quấn vào vòng chiến. Hiện phải theo phe nào, quân Tống hay Khiết Đan? Điều này khiến hắn phải đau đầu suy nghĩ.

Lúc này, đoàn sứ giả nhà Tống đã yên tĩnh, Tiêu Hải Đào đã khiêu khích bọn sứ giả Khiết Đan dám giết chết Dương Hạo, bản thân mình cùng Chương Đồng Châu khi bị khiêu chiến cũng đã học tập Ban Siêu, sau đó báo cáo tin tức về Biện Lương, ngồi đợi tin tức của vua Tống như chờ ngày bị phán lên đoạn đầu đài.

Di thể của Dương Hạo được đặt vào quan tài tại một góc ở dịch quán, có hai người ngày đêm túc trực ở đó.

Đêm đã khuya, Ôn Hám và Chương Đắc Thắng cầm đèn đi tuần một vòng xung quanh rồi ngáp dài đi về chỗ ở.

Ôn Hám than thở nói: “Ôi, bất kể khi sống tiếng tăm hiển hách thế nào, quyền uy có cao cỡ nào thì khi chết cũng chui vào quan tài mà thôi, có gì ghê gớm chứ. Cứ nhìn mấy người bọn họ, chết thật là thảm quá, hà tất phải khổ như thế? Cứ như chúng ta đây, hưởng thái bình, mặc kệ đời mà sống qua ngày chẳng tốt hơn ư?”

“Hừ, con người phải có chí chứ. Người chết tất nhiên là chui vào quan tài rồi, nhưng khi sống có giống nhau không? Ta nghe nói Dương trái sứ có hai nương tử xinh đẹp vô cùng, nếu Dương trái sứ đi sứ sang Giang Nam thì hai người ấy sẽ ra sao? Đi cũng không xong, kết quả… ôi!”

Hai người rì rầm với nhau một phen, Chương Đắc Thắng giơ cao đèn, đi trước: “Lão Ôn à, cứ giống như chúng ta đây làm gì có cơ hội thăng quan. Còn nhớ mấy năm trước triều Chu xuất sứ sang Giang Nam, Hán tướng công đã phái Tần cô nương đến đó sao? Đấy gọi là một người xinh đẹp thì không tránh khỏi lọt vào mắt của người khác, chúng ta đều đã cao tuổi rồi, thấy vị cô nương xinh đẹp còn động lòng, huống hồ các vị ấy như thế thì chẳng dễ bị mắc lừa? Lão Ôn à, ông đi đâu đấy?”

Chương Đắc Thắng quay đầu lại phát hiện ra đã không thấy bóng dáng lão Ôn đâu, không khỏi kinh ngạc đứng lại, ngó xung quanh vẫn không thấy bóng dáng hắn đâu bèn gọi lớn. Đột nhiên có người vỗ vào vai hắn một cái, Chương Đắc Thắng hết hồn, cười mắng: “Đã già nửa đời người rồi còn đùa trò này? Làm lão Chương ta sợ muốn chết!”

Hắn quay đầu lại, kinh ngạc khi trước mắt hắn không phải là lão Ôn mà là một khuôn mặt xa lạ, không khỏi ngẩn người ra. Người xa lạ đó đứng trước mặt hắn, ẩn mình trong bóng đêm, Đắc Thắng cũng chưa nhìn rõ hết toàn bộ khuôn mặt hắn, hắn vừa quay đầu lại đã bị đôi mắt của người xa lạ gây chú ý. Người đó có đôi mắt thật đen và sáng, thâm u như hai con suối đang chảy, khiến hắn không thể không chú ý.

“Ngươi tên là gì?”

Giọng nói đó hết sức nhẹ nhàng, nhưng lại khiến kẻ khác lạnh sống lưng không thể không trả lời. Chương Đắc Thắng đáp trong tiềm thức: “Lão là Chương Đắc Thắng, là lão lại trong dịch quán”.

“Tốt lắm! Đưa ta đến chỗ đặt quan tài Dương Hạo”.

Chương Đắc Thắng giống như người bị trúng tà, hai mắt cứ nhìn đăm đăm, ngơ ngác đáp: “Được!” Hắn quay người, ngoan ngoãn dẫn người lạ mắt đó đi.

Đằng sau cánh cửa đóng chặt, vài cây đuốc đang cháy trong phòng, ngoài vài kẻ đang đứng ngây ra như phỗng cầm đuốc trong tay như Chương Đắc Thắng, Ôn Hàm thì còn có bốn người khác, bốn người này đều che mặt, một người cao mà gầy, đôi mắt sáng lạ thường; một người dáng béo mà thô lỗ, đứng vững chãi ở một góc, hiển nhiên là người đứng đầu trong số bốn người.

Ngoài ra còn có hai người dáng vừa vừa, không gầy cũng chẳng béo, nhưng lại không có điều gì đặc biệt. Bốn người này là những kỵ sĩ che mặt mới xuất hiện khi nãy.

Chương Đắc Thắng chỉ cỗ quan tài của Dương Hạo, người béo kia khoát tay một cái, hai người vừa vừa kia nhanh chóng bước tới, dùng sức khiêng chiếc quan tài lên. Trong quan tài phát ra tiếng vang, ở đây đầy quan tài, ánh sáng chập chờn của những ngọn đuốc mang lại vẻ dị thường đáng sợ, nhưng ngoài hai tên lão lại đang sợ vãi linh hồn thì bốn kẻ kia không hề tỏ ra sợ hãi.

Quan tài vừa được mở ra, hai người nọ không chút hoang mang, khom lưng kiểm tra thi thể rồi báo cáo tình hình kiểm tra thực tế, sau đó nói: “Người này tuy bị thiêu cháy hết cả tứ chi, huyết nhục bị thương tổn nhưng theo tính toán thực tế về độ cao thấp, béo gầy thì có sai khác so với công tử”.

Một tên trong số đó thò tay vào trong áo lấy ra một đoạn dây, đo đạc cái xác, sau đó dùng sợi dây kéo cái xác đứng lên.

Một tên khác nhanh nhẹn lấy ra một cây kim bạc thử châm vào não và cổ họng rồi nói: “Người chết bị trúng độc”.

Bọn chúng kiểm tra thi thể cẩn thận, từ ngũ quan đến lưỡi, bụng… một cách hết sức lão luyện. Cả cơ thể dường như bị thiêu cháy thành than nhưng bọn chúng vẫn soi đuốc vào nhìn kỹ lưỡng cứ như thể trên cái xác có khắc chữ vậy.

“Miệng và mũi của cái xác đã bị thiêu cháy, khủy tay trái cũng bị thiêu, hai chân bị thiêu, bên vai phải vẫn còn nguyên, đã bị chết trước khi bị thiêu”.

Một tên sau khi xem xét tỉ mỉ lạnh lùng đưa ra những lời phân tích đó, giọng nói lạnh lùng vang lên trong không gian như mơ hồ mang theo âm khí.

Một tên khác sau khi xem xét vùng bụng của cái xác đã vừa tháo găng tay ra vừa nói: “Vùng bụng có vết chém nhưng miệng vết thương có hai chỗ sai khác. Một là từ miệng vết thương có thể thấy lực chém và rút kiếm ra không đều, công tử đã từng nói ngày đó người này bị trúng kiếm ở mũi thuyền, đối thủ làm sao có thể rút kiếm ra nhẹ nhàng như thế? Lực chém nhẹ nhàng như thế này giống như bị chém trên mặt đất bằng phẳng. Hai là vết sẹo ở đây cho thấy đều là do bị lửa thiêu. Miệng vết thương trên thực tế trơn nhẵn, không có vết nhăn, người sống thì mạch máu vẫn đang chuyển động, cơ thể sau khi bị thương thì vết thương sẽ sùi ra ngoài, còn vết thương này cho thấy khi người này bị chém thì người đó đã chết”.

Tên béo kia thở một hơi thật dài rồi vén tấm khăn che mặt nạn nhân lên. Hắn giơ tay lên, như nghĩ ra cái gì rồi chợt vén ống tay áo lên, lộ ra một cánh tay có hình xăm. Hình xăm đó là hình sơn thủy đồ, bên cạnh còn có năm chữ nhỏ, liệt nhạc ngũ điểm thanh…”

Hằn thì thào: “Đúng là thú vị, ta chỉ rời đi có một lúc mà hắn đã kịp bỏ một món tiền lớn ra để làm kinh doanh, nhưng bạn làm ăn của hắn lại ở Biện Lương. Tất cả đều không nằm ngoài ý của Chương La, đến nay hắn lại chết một cách cổ quái thế na ỳ, cuối cùng là muốn làm gì?”

Trầm tư trong chốc lát, hắn cười một cách kỳ quái rồi nói: “Đem quan tài ra đậy lại như ban đầu”.

“Rõ!”

Mấy tên đó đậy nắp quan tài lại như ban đầu. Tên dáng người cao ánh mắt lướt qua Chương Đắc Thắng và Ôn Hám, tay nắm lại thành nắm đấm rồi nói như đang mê sảng: “Các ngươi đã đi tuần sân viện rồi, không có chuyện gì xảy ra hết, quay về chỗ ở và yên tâm ngủ đi…”

Tên béo xoay người, hất tay chỉ ra phía bên ngoài, thản nhiên dặn dò: “Huy động hết lực lượng của chúng ta ở nước Đường, kể cả có phải lật từng tấc đất lên thì cũng phải đào cho ra tên Dương Hạo”.

Chương 362: Giết Hổ. (1)

Trong cung Lý Dục gần đây thường có khách khứa tới thăm nửa đêm. Thực giống với câu nói: “Cú mèo vào nhà, vô sự bất lai”, những tin mang đến chẳng tốt lành gì, gây sức ép khiếm tâm lực Lý Dục tiều tụy, buổi tối có chút gió thổi cỏ lay cũng bị giật mình, một khi đã bị giật mình thì rất khó chìm được vào giấc ngủ, khiến cho người trong cung lo lắng vạn phần. Đợi Lý Dục chìm vào giấc ngủ, đến con muỗi kêu vo ve thấy động tĩnh vậy cũng không dám thò đầu ra ngoài.

Mùi hương an thần mang theo tiếng ngáy say giấc vọng từ phòng ngủ ra, nội thị đô tri thở phào một hơi dài, mấy nội thị của cung nhẹ nhàng vươn vai, rồi rón rén cùng nhau đi ra ngoài điện, tời khỏi điện ngủ thật xa, nội thị đô tri mới nhỏ giọng thì thào bàn tán với nhau: “Ối, những ngày này, thực là làm khổ người ta, thật khó được cái cảm giác yên ổn ngủ say. Cấm không được có động tĩnh gì, nếu ai quấy nhiễu đại gia, ta sẽ đánh hắn chết thì thôi.”

Từ ngũ đại tới nạy, vua của một nước đều được người thân cận gọi là quan gia, nhưng Giang Nam thì không như vậy. Trung chúa Lý Cảnh cũng chính là cha của Lý Dục, năm đó từng xưng thần với Hậu Chủ Sài Vinh, tự hạ nhất cách, đổi hoàng đế là quốc chủ, trong cung Đường quốc không gọi quan gia với quốc chủ mà gọi là đại gia, sau đó lại phục hồi cách gọi hoàng đế, cách xưng hô này mãi mãi không thay đổi, giờ Lý Dục lại thành quốc chủ, đó cũng chỉ là đổi cách xưng hô mà thôi.

Các nội thị trong cung bên cạnh liên tục nhận lời, nội thị đô tri ngáp một cái nói: “Ôi chao, mấy ngày nay áp lức chết đi, cánh tay này, chân già này cũng không thể trụ nổi nữa. Ta phải quay về nghỉ đây, các người chăm nom đại gia cẩn thận nhé, sơ sểnh một chút là không được, cho dù chỉ là con chim sẻ cũng không được gần hoàng thượng, nghe thấy chưa?”

Mọi người vội gật đầu tuân lệnh, lão đô tri run rẩy cất bước đi về chỗ nghỉ ngơi của mình, vừa mới bước được vài bước, phía trước có một bóng đen lướt nhanh như chớp chạy tới, không kịp dừng lại, đâm luôn vào vai lão đô tri. Lão đô tri té ngã kêu một tiếng, tức giận mắng: “Tiểu…”

Hắn vội vàng tỉnh ngộ, sợ đánh thức Lý Dục, vội nhẹ giọng nói: “Thằng nhóc kia, không có mắt à? Cũng dám chạy trong cung cơ đấy, Tạp gia không cho người một trận, thì ngươi không biết quy củ gì hết.”

Mấy nội thị ba chân bốn cẳng chạy tới đỡ hắn dậy, tên tiểu hoàng môn lảo đảo đứng dậy nhìn thấy rõ là lão đô tri, vội vàng sợ hãi nói: “Đô tri thứ tội, tiểu nhân vì có việc gấp phải bẩm báo quốc chủ, chạy hơi vội, xin đô tri thứ tội.”

Lão đô tri nghe nói là bẩm báo sự tình với quốc chủ, càng giận dữ, quát lớn: “Hỗn xược, đại gia vất vả lắm mới chợp mắt được, ngươi còn muốn đánh thức đại gia? Nói cho ngươi biết, hôm nay dù trời có sập, cũng phải đợi cho tới sáng sớm ngày mai muốn bẩm gì thì bẩm.” 

Tiểu hoàng môn đó lắp ba lắp bắp nói: “Nhưng… nhưng người này là mật thám của Sở Quốc Công Tòng Thiện đại nhân từ Khai Phong trở về, nói là có đại sự vô cùng nguy cấp cần phải bẩm báo với quốc chủ ạ.”

“Đặng vương… à không, Sở Quốc Công đại nhân phái về sao? Sở Quốc Công có tin gì?”

Lão đô tri vừa mừng vừa lo, hắn biết Lý Dục và mấy huynh đệ tình thâm nghĩa trọng, từ khi Lý Tòng Thiện bị quản thúc tại Khai Phong, quốc chủ thường buồn bực không vui. Chuyện bên lề đều có thể đợi, nhưng chuyện này dù thế nào cũng không thể trì hoãn được.

Lão đô tri biết tình thế khó xử, do dự một lát, rồi dậm chân nói: “Thôi, nếu người của Sở Quốc Công khiển đến, thì không thể trì hoãn được. Ngươi đi theo ta.”

Nói xong, lão đô tri chân chấm chân xóa đi vào tẩm cung của Lý Dục…

Chẳng được bao lâu, ngọn đèn dầu trong tẩm cung được thắp sáng, lập tức có hai ngọn đèn cung đình dẫn Lý Dục thân áo bào tím mặt tươi cười đi tới Thanh Lương điện.

Trăng sáng treo lơ lửng trên không, trong Thanh Lương điện lặng ngắt như tờ, Lý Dục ngồi sau bàn, mặt tái nhợt, trông thực đáng sợ. Tin được Lý Tòng Thiện đưa đến cũng không phải là tin tốt lành, không, nên là tin tốt, vạn hạnh.

Lý Dục thầm nhủ may mắn, nghiến răng nghiến lợi nguyền rủa: “Lâm Hổ Tử, Lâm Hổ Tử, cô… cô đối đãi với ngươi không tệ, ngươi lại lòng muông dạ thú thế này đây.” (cô là tiếng tự xưng của vương hầu thời phong kiến)

Từ Đường mạt, các đại tướng đối mưu làm phản không mệt nhọc đều là cùng một bí kíp. Bước một, tìm một cớ xuất binh thảo phạt kẻ thù bên ngoài; bước hai, chiếm đủ lương thảo quân lương, dẫn đội quân tinh nhuệ dời đi; bước ba, nửa đường dừng lại, rõ ràng trong quân đội và hắn không phải là tướng lĩnh một lòng, sau đó sửa cờ, hoặc là trở giáo một kích.

Giờ tin Lâm Nhân Triệu hàng Tống là Lý Tòng Thiện phái người đưa tới, Lý Dục sao có thể không tin đây? Đến Lâm Nhân Triệu đã từng hiến kế: “Quốc chủ có thể giả là không biết thần xuất binh tấn công Tống. Sự thành, quốc chủ hãy phái đại quân đi tiếp ứng, sự bại, quốc chủ có thể nói thần giả mạo chỉ dụ vua xuất binh, giết cả nhà thần, tạ tội với Tống quốc.” Những kế đó đều bị Lý Dục coi là kế hiểm ác.

Lý Dục vừa lo vừa sợ, mắng cho một hồi, đột nhiên nhớ tới lời nói của tiểu sư Kê Minh tự: “Trong vòng mười ngày, phải có kết quả.” 

Lý Dục đột nhiên giật mình, thở dài: “Tiểu sư phó thực thần nhân vậy, quả nhiên là một lời thành thực. Nếu cô tùy tiện liên minh với người Khiết Đan, đến lúc đó ngự giá thân chinh, Lâm Nhân Triệu đi phạt Tống, thực là hồ đồ làm theo quỷ kế của hắn.”

Lý Dục càng nghĩ càng sợ hãi, liền cắn răng, cúi đầu quát: “Người đâu, tốc chiếu Hoàng Phủ Kế Huân vào cung.”

Hoàng Phủ Kế Huân mấy ngày nay bị Tống quốc và Khiết Đan huyên náo tới mức ngủ cũng không yên, giờ về phủ, vừa tắm gội thay quần áo, thư thái bò lên giường, hai mĩ thiếp dịu dàng ôn nhu vuốt ve, những cặp đùi trắng muốt mềm mịn, tướng quân Hoàng Phủ vừa lim dim, ôm mĩ nhân trên giường thì nghe có cấp chiếu của Lý Dục gọi vào cung.

Vừa nghe Lâm Nhân Triệu dục phát, quốc chủ bảo hắn dẫn binh đi trấn hải đòi lại, Hoàng Phủ Kế Huân giật nảy người, sợ hãi. Đừng thấy hắn bình thường đấu lợi hại với Lâm Nhân Triệu, có thể khi đó là cùng điện xưng thần thôi, có Lý Dục làm chỗ dựa cho hắn, hắn còn sợ Lâm Hổ Tử ăn hắn sao?

Nhưng vị tướng quân Hoàng Phủ là nội đấu nội hàng, ngoại đấu ngoại hàng, giờ phải bỏ qua thể diện so sánh công phu, Hoàng Phủ Kế Huân tự biết mình. Lâm Nhân Triệu là người nào? Đó là một mãnh tướng đệ nhất Đường quốc, dũng khí nổi tiếng thiên hạ, đánh đâu thắng đó, không thứ gì có thể cản nổi, thiết kỵ Khiết Đan đều bị hắn đánh cho tan tác. Là một mãnh tướng, Lâm Hổ Tử dám chỉ dẫn bốn người ngược gió đi hướng vạn tiễn trận, hỏa thiêu cầu gỗ, chặn đại quân Sài Vinh nam hạ, đó là uy phong gì? Thực phải lật mặt, để hắn dẫn quân đi thảo phạt Lâm Nhân Triệu, đây không phải là bánh bao đánh chó sao?

Lý Dục thấy Hoàng Phủ Kế Huân hơi chần chừ, mặt không khỏi biến sắc, tức giận nói: “Lệnh tôn nãi Đường quốc hổ tướng ta, trung thành tận tâm, vì nước hy sinh quên mình, Hoàng Phủ tướng quân hổ phụ hổ tử, cô có ý giúp đỡ, giờ lại sợ hãi như vậy sao?”

Hoàng Phủ Kế Huân mắt hơi chuyển, vội nói: “Quốc chủ nghĩ sai về thần rồi, thần đang nghĩ, nếu chúng ta huy binh đi trước, tất nhiên sẽ đánh rắn động cỏ, một khi đại chiến nổ ra, ngay cả giết Lâm Nhân Triệu, Đường quốc ta cũng bị tổn thất nặng nề. Sở quốc công bí mật phái người đưa tin về, Lâm Nhân Triệu lúc này còn không biết quỷ kế của hắn đã bại lộ hay chưa, chúng ta sao không giết quách hắn đi, như vậy, mười vạn thủy quân trấn hải sẽ không bị tổn hao gì mà thu về.”

Lý Dục vừa nãy còn nổi nóng, thầm nghĩ tiêu diệt phản thần, lúc này lại nghe Hoàng Phủ Kế Huân nói vậy, không khỏi giật mình tỉnh ngộ. Hắn cúi đầu trầm ngâm giây lát, mặt lộ nụ cười ảm đạm: “Người đâu, nhận chỉ, gọi trấn hải tiết độ sứ Lâm Nhân Triệu lập tức vào kinh, cấm chậm trễ!”

******

“Cho dù Tống quốc không đi tìm Khiết Đan gây chuyện, giờ sứ giả Khiết Đan bị giết, toàn bộ dịch quán Khiết Đan đều bị phá hủy, dựa vào sự kiêu ngạo của người Khiết Đan, tất nhiên sẽ không chịu từ bỏ ý đồ. Nhưng nội quốc Khiết Đan có nội ưu, dự đoán được ý đồ của bọn họ, song phương cũng sẽ không vội vàng bỏ trọng binh, cuộc chiến như vậy chẳng có cách đả thương. Tác dụng của Giang Nam quốc chủ lúc này hết sức quan trọng, hắn giờ cấp chiếu Lâm Hổ Tử tướng quân về, chẳng phải chính là đã ra quuyết định rồi sao?”

Chiết Tử Du vừa đi vừa suy tư: “Lâm Hổ Tử là hổ tướng có chủ trương quyết chiến với Tống quốc, Lý Dục gọi hắn về, có thể là liên hợp với Khiết Đan tác chiến với Tống. Nếu có Đường quốc tương trợ, hoàng đế Khiết Đan vị tất sẽ không buông tay đánh một trận. Như vậy tam quốc tất có tổn thất, nếu chiến trận xảy ra, ít nhất trong mười năm triều đình với tây bắc ta cũng không thể dùng binh, chỉ có thể áp dụng kế sách trấn an, sẽ là vậy sao?”

Nàng đột nhiên nhớ tới câu nói Dương Hạo đã từng nói với nàng, lòng bỗng chua xót: “Ta còn nói chàng theo danh sư học thuật gì là bói toán, trên đời ngay cả thiên cơ có thực, lại dễ dàng bị phá, nói gì Tống quốc trong hai ba năm dụng binh với Đường quốc, Đường quốc tất sẽ bị diệt, bảo ta không cần nghịch thiên tòng sự. Giờ có hy vọng, nếu chàng có trước mặt ta, ta chẳng lẽ lại không nói vậy sao?”

Chương 363: Giết Hổ. (2) 

Nàng vừa nghĩ đến đây, đột nhiên có một đội quan binh chạy nhanh tới, độ quan binh có đến hai nghìn người, chậm rãi bảo dân chúng trên đường trốn, gà bay chó sủa. Chiết Tử Du vội trốn vào thềm đá khách **** bên đường nhìn, thấy một viên chỉ huy quân ngồi trên ngựa, tay cầm trường thương, quát lớn: 

“Mau mau, nếu chạy mất một người Lâm gia, Hoàng Phủ tướng quân tất bị trách phạt, ta cũng không ngoại lệ”.

“Hoàng Phủ Kế Huân lại đem tai họa gì đến nhà người ta rồi? Ôi! Lý Dục không có chí sách, rơi vào mỹ sắc, triều chính thối nát vô cùng, lại mù quáng tin Hoàng Phủ Kế Huân này, trọng trách đều ủy thác cho hắn, cũng may có bậc sĩ phụ tá trung thành như Lâm Hổ Tử, nếu không giờ hắn không chống đỡ nổi, người này đành làm cái ngân gió ngợi trăng, phong lưu tài tử, làm vua một nước, đúng là hại người hại mình”.

Chiết Tử Du đang thầm oán trách Lý Dục, một cảm giác đột nhiên lóe lên trong đầu: “Không đúng, Hoàng Phủ Kế Huân là thần vệ quân chỉ huy sứ, phụ trách sự an nguy Kim Lăng, có gì to lớn chứ, dùng được nhân mã của hắn sao? Muốn bắt nhân vật nào đó, mới được dùng quân đội. Lâm gia, Lâm gia nào? Là…”

Chiết Tử Du càng nghĩ càng lo sợ, cầm lấy váy chạy trên đường, váy hồng chạy quẹo vào ngõ nhỏ phía trước, vừa vào cửa ngõ, Chiết Tử Du liền dừng lại, chỉ thấy trước cửa Lâm phủ có binh lính đứng trang nghiêm, Lâm phủ đã bị bao vây, đại môn rộng mở, rất nhiều binh sĩ mang đao đi vào.

Chiết Tử Du lập tức trốn vào một tửu quán bên đường, chăm chú nhìn đám người đó. Tửu khách bên cạnh đều đang bàn tán, cũng giống như cô không hiểu gì cả. Lâm gia phủ đệ thế lực không nhỏ, sĩ binh xông vào nhà như thế, không lâu sau trong phủ đệ có tiếng kêu thảm.

Vào lúc này, chỉ thấy một người tôi tớ mặc áo đuôi ngắn chạy như điên lại, Chiết Tử Du nhận ra đó là người hầu bên cạnh của Lâm Hổ Tử, mình vào ra trấn hải mấy lần, đều gặp hắn hầu hạ bên cạnh Lâm Hổ Tử, lập tức bước ra khỏi tửu quán.

Người nọ đang vội vã chạy về Lâm phủ, bên cạnh bỗng nhiên xuất hiện một người, vừa nắm lấy cổ tay hắn, người họ liền đưa quyền đánh, thấy Chiết Tử Du không khỏi ngẩn người. Chiết Tử Du nắm lấy cổ tay hắn, cũng không quay đầu lại, cúi đầu quát: “Đi theo ta!”

Người đó quay đầu lại nhìn cửa Lâm phủ, biết đại thế đã đến, không giằng co nữa, ngoan ngoãn theo Chiết Tử Du vào ngõ nhỏ bên cạnh, Chiết Tử Du vội hỏi: “Lâm tướng quân xảy ra chuyện gì vậy? Tại sao lại làm ầm ĩ ở nhà hắn?”

Chiết Tử Du vừa hỏi, mắt tên hầu kia rưng rưng khóc nói: “Cô nương, tướng quân nhà ta…tướng quân nhà ta đã đi rồi…”

Chiết Tử Du thất thanh nói: “Sao lại thế? Lâm tướng quân giờ vừa bị gọi về Kim Lăng, sao lại chết được?”

Tên hầu nước mắt ngắn dài nói: “Tiểu nhân theo xe ngựa ở ngoài cung đợi tướng quân, tướng quân vào cung kiến giá, khi tướng quân ra, tiểu nhân lên trước đón, tướng quân mặt mày vui mừng, còn rất vui vẻ nói với tiểu nhân Quốc Chúa giờ cuối cùng đã tỉnh lại, dục tu binh giáp, để ý tới quốc chính, vi bảo Giang Đông mười chín châu lãnh thổ, trăm vạn con dân, đánh với Tống đến cùng, Quốc Chúa còn mời rượu ông ấy, tướng quân cần luyện tinh binh, giờ cuối cùng cũng có thể trổ tài công dụng của mình. Tiểu nhân nghe xong cũng rất vui mừng, vội để ghế nhỏ xuống, định đưa tướng quân lên xe, tướng quân bỗng đứng lại, nói rằng bị đau bụng. Tiểu nhân lo sợ cuống cuồng, dìu tướng quân lên xe, rồi đi tìm y sĩ tới chữa bệnh, miệng tướng quân phun máu tươi đen ra”.

Chiết Tử Du lo lắng: “Lâm tướng quân trúng độc sao?”

Tên hầu kia lắp bắp không ra tiếng: “Đúng vậy, trong cung môn có Hoàng Phủ Kế Huân và các quần thần võ sĩ, họ đều sợ sự dũng mãnh phi thường của tướng quân, không dám lộ diện, cho đến khi tướng quân nhà phun máu, hắn mới dẫn theo người chạy ra như ong vỡ tổ, truyền khẩu dụ của Quốc Chúa, nói tướng quân nhà ta có ý đồ tạo phản, theo tội là phải chết”.

Chiết Tử Du run run hỏi: “Sao lại như vậy? Lâm tướng quân làm sao nữa?”

Tên hầu nói: “Tướng quân bi phẫn không hiểu, vung tay tiểu nhân ra, hai mắt trợn lên, đi về phía Hoàng Phủ Kế Huân. Hoàng Phủ Kế Huân đứng sau hàng thị vệ, tướng quân đi từng bước, vừa đi vừa phun máu, khi đi tới cửa cung, bên trong có vô số binh giáp chặn cửa cung, tướng quân vái ba vái cung khuyết, đứng dậy ngửa mặt hô to: ‘Lâm Hổ Tử xưa nay bị bọn đạo chích rèm pha, hận không thể sa trường, vì nước hy sinh quên mình’”.

Tướng quân hô to ba tiếng, dừng hơi thở, nhưng vẫn đứng vững không đổ. Hoàng Phủ Kế Huân phái người bao vây ông ấy, nhưng không ai dám gần, tiểu nhân bỗng tỉnh ngộ, vội trở về báo tin, nhân lúc họ không để ý tới tiểu nhân, tiểu nhân chạy băng trên đường, lẫn vào đám người trên đường để về, nhưng…nhưng quý phủ…”

Chiết Tử Du im lặng một lúc lâu, nước mắt rưng rưng nói: “Ngươi không cần phải về nữa, giờ…đã không kịp nữa rồi”.

Tên hầu vừa nghe, khóc càng to hơn nói: “Hoàng Phủ Kế Huân là gian tặc, tiểu nhân cược cái mạng này đi báo thù cho tướng quân”.

Chiết Tử Du ngăn hắn lại, nhìn xung quanh, rút ra mười mấy tấm vàng lá nhét vào tay hắn nói: “Hoàng Phủ Kế Huân có tật giật mình, há có thể để ngươi lại gần? Đừng khóc nữa, Lâm tướng quân cầu nhân đắc nhân, trung nghĩa chi danh sẽ không màng tới hôn quân gièm pha. Đây là chút tiền, ngươi cầm lấy, Hoàng Phủ Kế Huân tuy hung tàn, cũng không dám sát hại phụ nữ và trẻ nhỏ, đợi sau khi mọi việc yên tĩnh trở lại, ngươi đi đón phụ nữ và trẻ nhỏ ở phủ Lâm, chăm sóc cho họ”.

Người đó nghe vậy nín không khóc nữa, Chiết Tử Du khuyên can một hồi, người đó mới nhận lấy số vàng, bái ba bái về phía Chiết Tử Du, theo lời nàng dặn dò, tạm thời ẩn thân, chờ triều đình xử lý xong, đón phụ nữ và trẻ nhỏ phủ Lâm về chăm sóc.

Lúc này xung quanh phủ Lâm có rất nhiều binh lính, chỉ trong chốc lát bắt đầu lục lọi xung quanh, trong đó có người còn giữ bức họa của Chiết Tử Du, giờ không giống ngày xưa, Lâm Nhân Triệu đã chết, Hoàng Phủ Kế Huân có ý thích “Ngoại sinh nữ”, Chiết Tử Du không dám ở lâu, lập tức rời đi.

Chiết Tử Du đứng lặng yên bên hồ dưới tán cây, nhìn mặt nước hồ mà lo sợ: Lâm Hổ Tử đã chết rồi, đệ nhất mãnh tướng của Đường Quốc thiện chiến dũng mãnh chưa từng chết trước hai quân trận, mà bỏ mạng trong rượu độc của Lý Dục. Thực nực cười, Lý Dục luôn mồm nói hắn dục mưu tạo phản, nhưng gọi về Kim Lăng, cũng không dám giao hắn cho quan lại, xử theo luật ở mức cao nhất, mà ngay cả một ly rượu độc, cũng phải lén lút bảo hắn uống, tên này, còn xứng đáng làm vua một nước không?

Chiết Tử Du buồn bã, lòng mờ mịt vô cùng. Vốn cho rằng có hy vọng, nhưng lại không ngờ Hoàng Phủ Kế Huân tuy là đạo chích lại là chuột nhắt, chỉ có Lý Dục mới coi hắn là vai hài. Hắn tuy ghen ghét Lâm Nhân Triệu, cũng không dùng tôi danh phản loạn mà giết hắn, Lâm Nhân Triệu là đệ nhất hổ tướng của Đường Quốc, vội vàng để hắn chết, chỉ có Tống Quốc. Nếu Tống Quốc giết Lâm Nhân Triệu, chẳng phải là…dụng binh với Đường Quốc rồi, cho nên mới gạt bỏ trở ngại lớn nhất này đi sao?

Lý Dục lấy độc giết Lâm Nhân Triệu, thế hắn có giao chiến với Tống nữa không đây? Lâm Nhân Triệu chết đi, Đường Quốc còn có ai có thể gánh vác trọng trách này?

Một cơn gió thổi, mặt nước khẽ động, tiêu điều. Chiết Tử Du đứng ở bên hồ, tay để lên tim buồn bã: “Ta khó khăn, đau khổ lo lắng, kết quả lại bị rơi vào kết cục như vậy, Hạo ca ca, lẽ nào như lời chàng nói, thiên mệnh khó sửa?

Nàng nắm chặt hai đấm, nghiến răng, lòng thầm nghĩ: “Không, ta phải chờ, chờ Tống quân phạt Đường có phải là Phan Mỹ, Tào Bân hay không. Chưa đến thời khắc cuối cùng, ta quyết không bỏ cuộc, không bỏ cuộc”.

******

Nước chảy bên hồ là sông Tần Hoài. Trong sông Tần Hoài là rất nhiều tảng đá, hầu như đâu cũng có, hai bờ sông Tần Hoài có rất nhiều thuyền dân, dịch phu, nhà cửa thấp bé, đường đi lối lại quanh co, tam giáo cửu lưu, ném chuột thì sợ vỡ đồ, thậm chí gái giang hồ, bọn lưu manh, dân nghèo khổ đều có ở đây.

Trong thành Kim Lăng có một ngõ Ô Y, đó là nơi quan to quý nhân ở, còn có một ngõ gọi là ngõ Ô Nê, tuy chỉ có một chữ khác biệt, môi trường lại khác biệt rất lớn, rác rưởi phế thải, khắp nơi đều có, một khi mưa to thì trôi nổi trên mặt nước, dạt đi xung quanh, nơi như vậy, đám người có tiền cũng không vào cái chỗ này, mà đám người Dương Hạo, giờ này lại đang ở trong xóm nghèo đói đó.

Kế hoạch của hắn là, một khi chết, Đường Quốc tất sẽ toàn lực tập trung hung thủ, cho nên cần phải ẩn thân một thời gian, đợi khi gió êm bể lặng mới lặng lẽ đi về phía tây, nhưng sự tình lại ngoài dự đoán của hắn, hắn “Chết” rồi, hung thủ lập tức không chần chừ mà tự phơi thân phận, sau đó thì hung thủ cũng sẽ chết, và chuyện phong tỏa quanh thành và truy nã hung thủ cũng còn chưa nói đến.

Dương Hạo ẩn mình mấy ngày, thấy quả nhiên gió êm bể lặng, liền cải trang lên phố xem tình hình ra sao, chuẩn bị cho sớm ngày kế tiếp tây hành, không ngờ vừa đi trên đường thì nhìn thấy một đội quan binh đấu đá lung tung, Dương Hạo vội né tránh, nghe ngóng sự tình từ người qua đường, mới hiểu được là trấn hải tiết độ sứ Lâm Nhân Triệu có ý đồ mưu phản, đã bị Lý Dục gọi đến và giết bỏ, Hoàng Phủ Kế Huân phụng chỉ làm ầm Lâm phủ, giờ đang phong tỏa toàn thành, truy nã cá lọt lưới.

Dương Hạo giật mình, hắn không ngờ Lâm Nhân Triệu lại có ý đồ đó, Tống Quốc bên đó ra tay nhanh chóng như vậy, mà Lý Dục cũng nhanh chóng phối hợp với Tống Quốc trừ đi nhân tài rường cột của chính mình. Nam Đường tiên chúa, trung chúa, cũng được coi là một thế hệ kiêu hùng, nhưng dù giỏi đến mấy, không gặp phải người đỡ dậy, vận số đó cũng chấm dứt. Nhưng Lý Dục tự mình hủy đi trụ cột, đó là gieo gió ắt gặp bão, Chiết Tử Du đang ở Lâm gia làm sao bây giờ?

Chương 364: Đánh hôn mê. 

Dương Hạo không thể yên tâm được, mạo hiểm đi tới gần Lâm phủ nghe ngóng tin tức của nàng. Ở Lâm phủ lớn nhỏ phần lớn bị bắt, chỉ chạy thoát được một đứa trẻ, một tiểu thiếp và Chiết Tử Du. Tiểu thiếp đó mang theo đứa con đi vào miếu dâng hương, trên đường về nghe thấy tiếng ầm ĩ của Lâm phủ, lập tức chạy trốn. Chạy thoát một tiểu thiếp, một đứa trẻ, Hoàng Phủ Kế Huân không để bụng, nhưng không bắt được Mạc Dĩ Minh làm hắn không cam lòng, giờ Lâm gia đã thành tù nhân, ngày xưa cao to là thế, có qua lại thân mật với Hoàng hậu nương nương, đến hắn cũng không dám đắc tội với cô nương họ Mạc, lúc này lại có thể khiến hắn ta thích thì cứ làm, nhưng cô tay chạy rồi.

Hoàng Phủ Kế Huân tức giận, phong tỏa toàn thành, nhất định phải tìm cho được cô ấy, Dương Hạo tới gần Lâm phủ, gặp mấy Đường binh, mấy người đó còn ngăn hắn lại, còn chỉ trỏ vào bức vẽ Chiết Tử Du hỏi hắn xem có gặp người này không. Dương Hạo lúc này mới biết được Chiết Tử Du đã chạy thoát, thở phào nhẹ nhõm. Theo sự cảnh giác và võ công của Chiết Tử Du, chỉ cần không bị sa lưới, thì Hoàng Phủ Kế Huân có đào ba tấc đất lên cũng không thể tìm được cô gái xảo quyệt hồ ly này. Giờ thực là tình cảnh có thể dự đoán được, tuy nói bọn họ ẩn nấp bí mật, nhưng dù sao thì người cũng quá đông, để đề phòng những người vô tội gặp tai họa, Dương Hạo sau khi lắc đầu lấy lệ với mấy tên Đường binh đó, thì lập tức trở về ngõ Ô Nê bên bờ sông Tần Hoài.

Dương Hạo cúi người, bước thong thả vào ngõ Ô Nê, nhìn xung quanh, cảnh giác chú ý quan sát người đi lại xung quanh, bỗng ánh mắt bất chợt nhìn thấy hai cái bóng đang đứng ở cửa ngõ, chỉ thấy dáng người phía sau của hai người, Dương Hạo bỗng giật mình.

Một tên lưu manh trong đó, quần áo có lẽ là người trong ngõ, còn một tên khác, tuy chỉ nhìn thấy dáng phía sau, nhưng dáng đó quen vô cùng, người đó tuy mặc quần áo giả trai, nhưng phía sau nhìn lại thấy giống hệt Đinh Ngọc Lạc trong trí nhớ của hắn. Trong khi hắn đi tới Quảng Nguyên vận chuyển lương thực, Đinh Ngọc Lạc từng giả làm nam nhi, bóng sau của người này rất giống với muội ấy.

Tên lưu manh đó chỉ vào trong ngõ nói mấy câu gì đó, và cái người giống Đinh Ngọc Lạc thì gật đầu, theo hắn vào trong ngõ. Dương Hạo lắc đầu cười: “Nhất định là nhìn nhầm, cô ấy sao có thể đến Nam Đường, lại còn đến cái nơi này làm gì nữa không biết?”

Hai ngày hôm nay Dương Hạo chưa liên lạc với Bích Túc, nhưng không biết Đinh Ngọc Lạc thực sự đã đến thành Kim Lăng hay chưa, hắn khẽ khom lưng, lại bước về phía trước, song vẫn do dự: “Ta trong cung Lý Dục đoán tuyệt không thấy Tử Du xuất hiện ở đó, lẽ nào không thể gặp Ngọc Lạc ở đây sao? Tên lưu manh ở đây hại mệnh phụ nữ, lừa bán phụ nữ chỗ nào chả có, nếu như hắn…thực sự là cô ấy, nếu như họ có …”

Dương Hạo càng nghĩ càng lo, không biết thân thế người nọ là ai, hắn không thể nào yên tâm được, thế là quay thân, đi về phía đầu ngõ nơi họ đang đi.

“Chính là ở đây?” Đinh Ngọc Lạc giật mình nhìn khung cảnh trước mắt.

Một căn phòng cỏ gianh lụp sụp. Tường dùng những viên đá vỡ xây thành. Ngoài tường là một cái rãnh thối. Trong rãnh là những thứ rác rưởi, những con mèo con chó chết, càng cỏ lá cỏ thối, cùng những vật màu vàng màu trắng nổi lềnh phềnh trên mặt nước, từ xa nhìn lại thấy nó khẽ dao động. Dù ở đây là nơi những dân nghèo ở, nhưng cái sông bên cạnh quả thực là rất thối, cho nên những căn phòng bên cạnh đã sớm lụp sụp, rách nát, chẳng có ma nào ở.

“Đúng vậy”. Tên lưu manh đó cười nói: “Mới đây đến thuê ở, trên đùi có thương tích, tuổi tác và tướng mạo cũng kha khá, hắn ở ngõ Ô Nê này. Tôi chỉ biết thế, cái khác thì không dám nói, tìm người loại này, 100 sai dịch cũng không thể so sánh với ta, dù chỉ là cái hẻm chuột, tôi cũng có thể đào nó lên, còn về có phải là người mà công tử cần tìm hay không, thì tại hạ không dám bảo đảm”.

Đinh Ngọc Lạc rút từ trong tay áo ra một chuỗi nặng trịch để vào lòng bàn tay tên lưu manh đó, gã nọ đếm đếm, mặt tươi như hoa nói: “Nếu tại hạ đoán không lầm, phải chăng là công tử muốn đi báo thù hắn? Tôi thấy người đó giống như luyện gia tử, cần giúp đỡ, tại hạ sẽ ngáng chân đánh hôn mê sau lưng, tạ hạ lành nghề chuyện này lắm, công tử chỉ cần thêm chút tiền nữa, tại hạ…”

Đinh Ngọc Lạc lạnh lùng xua tay, người đó liền im bặt miệng, cười nhe nhởn với nàng rồi chắp tay chạy mất dạng.

Đinh Ngọc Lạc đứng lặng người nhìn một lát, rồi cất bước vào trong viện, vừa mới vào viện, cửa phòng đã có một tiếng mở ra, một người thọt mặc quần áo rách nát dính dầu mỡ đi ra, hai người chạm mặt nhau.

Bỗng nhiên, người đó vội xoay người, lết chân vào phòng. Đinh Ngọc Lạc lạnh lùng nói: “Ngươi còn định trốn đi đâu nữa?”

Tên thọt đó đứng lại, người run lên, từ từ xoay người lại, Đinh Ngọc Lạc bước lại gần, cầm chặt chuôi kiếm cười nhạt nói: “Quả nhiên là ngươi, vừa nãy ta còn không dám tin, ngươi lại ẩn thân ở một nơi thế này, giờ, ngươi còn chạy đi đâu nữa đây?”

Đinh Thừa Nghiệp run rẩy, cười buồn bã, đứng thẳng người nói: “Tỷ, cũng thật là làm khó cho tỷ, từ Phách Châu đuổi theo đến Khiết Đan, rồi lại từ Khiết Đan đuổi đến Đường Quốc, rong ruổi mấy ngàn dặm, giờ ta trốn ở một nơi thế này, mà cũng tìm ra được. Được lắm, ta không trốn nữa, không muốn trốn tiếp nữa, muốn giết thì giết đi, sống như giờ thực không bằng chết, chết rồi…cũng tốt…”

Đinh Ngọc Lạc hơi rút dao ra khỏi vỏ, lạnh lùng nói: “Ngươi giết cha hại huynh, mưu đoạt gia chủ, làm cho Đinh gia đang êm đẹp bị hủy hoại, cũng chính là hủy hoại ngươi. Đây chính là gieo gió gặp bão, làm chuyện bậy bạ sao có thể sống. Đinh Thừa Nghiệp, Đinh gia sao lại có một tên nghiệt tử giết cha hại huynh táng tận lương tâm như vậy chứ?”

Mũi kiếm chĩa trước ngực Đinh Thừa Nghiệp. Cười thảm nói: “Ta đáng chết lắm, ta không nghĩ tới sẽ có ngày rơi vào bước đường này, thực là…thực ta không có dã tâm chiếm đoạt gia sản. Việc sai lầm duy nhất ta đã phạm phải là có tư tình với đại tẩu, tất cả những cái khác, còn không phải bị người ép sao?”

Đinh Ngọc Lạc tức giận quát: “Sự đến nước này ngươi còn dối trá, giết cha hại huynh, ai ép bức ngươi cơ chứ?” Nàng cầm thanh kiếm trong tay càng chặt hơn, cắm vào ba phần, máu tươi từ từ chảy ra.

Đinh Thừa Nghiệp khàn giọng nói: “Ta vốn cam tâm làm một nhị thiếu gia vô ưu vô lo, chưa bao giờ nghĩ đến việc cướp quyền của Đinh gia, nhưng…sau này đại ca xảy ra chuyện, Đinh gia ngoài ta còn thừa lại ai chứ? Ta không muốn làm cũng phải làm, nhưng…

Hắn cười nhạt: “Đại ca xem thường ta, cha cũng coi thường ta, họ thà phí tâm tư, dìu một tên gia nô lên, ai không cười ta sau lưng chứ? Những người bạn của ta, thậm chí đến người nhà trong phủ, thậm chí đại tẩu, ai không coi ta hèn mọn?”

Hắn bỗng lạc hẳn giọng đi nói: “Ta không muốn làm cái công việc gia chủ hao tâm tổn sức kia, nhưng nó tự nhiên lại rơi xuống đầu ta, dựa vào cái gì ta phải nhường cho ai đó? Tại sao ta lại phải giao cái thuộc về ta cho một tên không đâu. Đại ca giúp một tên trời ơi đất hỡi áp đến trên đầu huynh đệ thân thuộc, hắn bất nhân, thì ta bất nghĩa”.

“Súc sinh! Giao Đinh gia cho ngươi? Không cần nói làm cho nó vinh danh, để giữ vững sự nghiệp, ngươi làm được sao? Vì điều này, ngươi có lý do để hại đại ca? Đại ca chưa từng nghĩ đến việc giao gia nghiệp cho nhị ca trước, lẽ nào ngươi xứng đáng với hắn sao? Cho tới nước này, ngươi còn nói sằng nói bậy, cái gì cũng là lỗi sai của người khác, ngươi mãi mãi cũng là vô tội, ngươi hại chết phụ thân cũng là bất đắc dĩ sao?”

Đinh Thừa Nghiệp mặt ỉu xìu, buồn bã nói: “Người, tại sao lại phải lớn? Lớn rồi, thì lại có quá nhiều dục vọng, mỹ sắc, tiền bạc, quyền lực, tham ô, ghen tị, hận thù. Lớn rồi, những thứ mà hồi nhỏ cho rằng nó quan trọng nhất sẽ coi nó không đáng một xu, nhân vật đã từng hèn mọn, mình cũng sẽ biến thành hắn, sẽ đi hại người, nếu như mãi mãi không lớn…có lẽ sẽ tốt hơn…”

Đinh Ngọc Lạc lạnh lùng nói: “Ngươi nói hết chưa? Nói hết rồi thì ngươi có thể chết, giờ dù ngươi có nói gì đi chăng nữa, cũng đừng có mơ ta tha cho ngươi, hôm nay, ngươi phải chết”.

Đinh Thừa Nghiệp mơ hồ nhìn lưỡi kiếm, rồi nhìn lên khuôn mặt của Đinh Ngọc Lạc, kinh ngạc nói: “Ta hỏi ngươi sao lại tìm được ta, ngươi được ai giúp đỡ?”

“Hứ?” Đinh Ngọc Lạc nghiêng đầu sang một bên, nghĩ ngợi. Đinh Thừa Nghiệp bỗng nghiêng người, đánh một quyền về phía bả vai Đinh Ngọc Lạc. Quyền đánh của hắn tương đối mạnh, Đinh Ngọc Lạc khó mà tránh khỏi, Đinh Ngọc Lạc bị hắn đánh đúng xương vai, kêu lên một tiếng, đoản kiếm rơi xuống đất.

Đinh Thừa Nghiệp đoạt lấy thanh kiếm, mặt hiểm ác nói: “Muốn giết thì cứ giết đi, còn muốn ta liệt kê tội ác ra không?”

Đinh Ngọc Lạc giật bắn người ra, mắt sáng quắc, tìm kiếm thứ gì đó trong viện, lạnh lùng nói: “Ngươi đoạt lấy kiếm, có thể thoát mạng sao?”

Đinh Thừa Nghiệp nhe răng cười nói: “Tuy ta bị thương ở chân, ngươi lại tay không bắt giặc. Ta ngươi võ công về cơ bản cũng không kém mấy, ngươi giờ có thể giết ta được sao? Đệ ngươi âm hiểm giả dối, vô liêm sỉ, tội ác chồng chất, ngươi nhìn lạ lắm nhỉ? Không chịu được thì ở suối vàng với lão già kia đi”.

Đinh Thừa Nghiệp cố nén đau đớn ở đùi, buông người về phía trước đâm về phía Đinh Ngọc Lạc, kiếm trong tay chợt động, thì nghe thấy một tiếng rít “Ô” một tiếng. Đinh Thừa Nghiệp kêu thảm một tiếng, kiếm trong tay leng keng rơi xuống đất.

Hai người cùng nhìn về phía cửa viện, thì thấy một ông già lưng còng bước chậm rãi đến, trầm giọng nói: “Mặc dù nói người sẽ phải chết, về thiện mà nói, hắn cũng được coi là một người sao? Muốn giết thì giết, ngươi còn mong là hắn sắp chết thì có thể tỉnh ngộ sao, há chẳng phải đàn gảy tai trâu?”

Đinh Ngọc Lạc giật mình nhìn hắn, lúng túng nói: “Đa tạ tiền bối đã chỉ bảo, không biết đại danh của tiền bối là…?”

Đinh Thừa Nghiệp vội cầm lấy gậy chống, cầm lấy đoản kiếm, gắng sức đứng thẳng dậy, cười nhạt nói: “Các người quét rác ở cửa, không nên quan tâm đến chuyện người khác, lão già này, ngươi đã gần đất xa trời, chẳng lẽ còn oán mạng sống quá dài của mình sao?”

Dương Hạo cười nhạt, đi tiến thêm vài bước về phía hắn, đi qua người Đinh Ngọc Lạc, đột nhiên sờ vào bên hông nàng.

Đinh Ngọc Lạc dù chưa coi hắn là kẻ địch, nhưng bản năng luyện võ cảnh giác khiến nàng thuận thế vung tay và lui về phía sau, một chưởng vung ra bắn vào cổ tay lão già. Không ngờ lão già này thân thủ cực kỳ nhanh, Đinh Ngọc Lạc chỉ cảm thấy đai lưng mình nhẹ như không, nhìn chăm chú, thấy bao kiếm cắm ở đai lưng bỗng rơi vào tay người già đó.

Lão già nắm lấy chuôi kiếm múa vài cái, đột nhiên đâm về phía cổ họng Đinh Thừa Nghiệp, cú xuất chiêu dù không có nghệ thuật gì, nhưng vẫn nhanh như điện. Đinh Thừa Nghiệp lắp bắp kinh hãi, vội vàng giơ tay đón đường kiếm, hai người đấu với nhau bảy tám hiệp, chỉ nghe thấy tiếng “Keng”, kiếm của Đinh Thừa Nghiệp chui tọt vào vỏ kiếm của lão già.

Đinh Thừa Nghiệp ngẩn người, chưa kịp rút kiếm ra, lão già đã giữ chặt nó trong vỏ, một đòn mạnh truyền tới, Đinh Thừa Nghiệp không cầm được chuôi kiếm, đoản kiếm lại bị đoạt mất, lão già còn cho nó vào vỏ nữa, ngón tay cầm chuôi kiếm mềm nhũn, chuyển động hai vòng, đoản kiếm liền rời khỏi tay bay đi, xoẹt một tiếng, bay trở về bên hông Đinh Ngọc Lạc.

Chiêu thức kiếm thuật ấy chính xác vô cùng, Đinh Thừa Nghiệp biết kiếm thuật của mình còn kém xa, mặt biến sắc, vội giơ tay trái về phía đó, lão già làm bộ đợi hắn tới gần, rồi lấy quải trượng đoạt lại, “Bịch bịch bịch”. Hai vai, hai sường, hai chân, bị đánh mạnh, đánh đến mức Đinh Thừa Nghiệp chỉ kêu thảm thiết liên hồi, rồi ngã phịch xuống đất, ôm đầu mình kêu: “Ta…ta không thù không oán gì với ngươi, sao…sao ngươi lại hại ta?”

“Chúng ta không thù không oán sao?” Dương Hạo cười lạnh, bỏ đi chòm râu, nói lại giọng.

Đinh Thừa Nghiệp thấy rõ bộ dáng của hắn, cả kinh trợn mắt há mồm, run run nói: “Ngươi…ngươi…ngươi là người hay là ma…?”

Đinh Ngọc Lạc thấy bộ dáng Dương Hạo, vừa mừng vừa sợ nói: “Nhị ca, ca…ca vẫn còn sống sao?” Nói rồi nước mắt ngắn dài lăn xuống. Dương Hạo nhìn chằm chằm Đinh Thừa Nghiệp, không quay đầu lại nhìn nàng, Đinh Ngọc Lạc rưng rưng nước mắt buồn bã.

“Ngươi…ngươi chưa chết?” Đinh Thừa Nghiệp lúc này cũng đã hiểu ra, mắt thấy hắn đằng đằng sát khí, không khỏi hoảng hốt, lăn vài vòng trên đất, reo lên: “Ngươi, ngươi muốn thế nào? Ngươi giờ thanh vân trực thượng, làm quan lớn Tống Quốc rồi, ngay cả Giang Nam Quốc Chúa cũng nể ngươi, còn ta thì rơi vào bước đường này, còn chưa đủ thảm sao? Tại sao ngươi không bỏ qua cho ta?”

Dương Hạo cười nhạt nói: “Ngươi hãm hại ta, ta có thể bỏ qua cho ngươi, nhưng mối thù của nương ta, không thể không trả. Thù của Đông Nhi, ta đường đường là đấng nam nhi, không thể không báo”.

Đinh Thừa Nghiệp kêu rít lên: “Ta chỉ muốn hãm hại ngươi mà thôi, nào có ý nghĩ làm hại người khác? Mẫu thân ngươi mắc bệnh hiểm nghèo, giận dữ nên bệnh thêm nặng, thế nên mới mất, bà ấy không phải do ta giết, bà ấy không phải do ta giết”.

Dương Hạo trầm giọng nói: “Đúng vậy, Đinh nhị thiếu gia ngươi giết người, còn muốn dùng nước mà rửa tay đã nhuốm máu tươi sao? Dựa theo đạo lý của ngươi, Đông Nhi đương nhiên không phải do ngươi giết rồi”.

Đinh Thừa Nghiệp tức giận kêu lên: “Đông Nhi, ta càng không muốn giết, rõ ràng là Liễu Thập Nhất và Đổng Lý Thị sợ lộ chuyện gièm pha, nên mới giết người diệt…”

Nói đến đây, mắt hắn đột nhiên lóe lên nói: “Đông Nhi…Đông Nhi?” Nét cười quỷ dị xuất hiện trên mặt hắn, hắn chậm rãi ngồi thẳng người, bình tĩnh nói: “Đinh Hạo, ngươi không thể giết ta”.

“Cái gì?” Gậy từ từ đưa lên, Dương Hạo ung dung cười nhạt: “Hôm nay không có ai đi cứu ngươi hết…”

“Ai bảo không ai có thể cứu ta?” Đinh Thừa Nghiệp cười lớn nói: “Có một người có thể cứu ta, cô ấy nhất định có thể cứu ta, cô ấy chính là La Đông Nhi”.

Dương Hạo lắc đầu nói: “Phí lời, Đông Nhi lương thiện, nếu như nàng chưa chết…”

Lời Dương Hạo còn chưa dứt, gậy thảo mộc trong tay đã vun vút tiếng gió giáng xuống trán Đinh Thừa Nghiệp, Đinh Thừa Nghiệp giương mắt kêu lớn: “La Đông Nhi vẫn chưa chết”.

“Hic”. Chiếc gậy còn cách trán hắn ba tấc bỗng có một lực ngăn nó lại, mồ hôi lăn trên mặt Đinh Thừa Nghiệp, Dương Hạo điềm nhiên nói: “Ngươi nói gì?”

Đinh Thừa Nghiệp nuốt nước bọt, vội vàng nói: “Ta nói là…La Đông Nhi…chưa…chết”.

Dương Hạo trừng mắt một lúc lâu, người đờ ra, căng thẳng nói: “Ta không phải nhị tỷ của ngươi, ngươi có nói thế nào cũng không có tác dụng. Ngươi nghĩ rằng ta sẽ tin ngươi sao?”

Đinh Thừa Nghiệp vội nói: “Còn có Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu, bọn họ đều ở cùng nhau”.

“Cái gì?” Dương Hạo mặt biến sắc, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu có mối tương giao với mình, Đinh Thừa Nghiệp ở quê sao biết, đến La Đông Nhi cũng chưa gặp ba huynh đệ kết bái, Đinh Thừa Nghiệp nếu như cuống lên muốn lừa mình thì cũng không thể trong thời gian ngắn nhắc đến Loan Đao Tiểu Lục và Đông Nhi, như vậy thì sức tưởng tượng quá phong phú mới có thể nghĩ đến ba người họ?”

Tim Dương Hạo đập thình thịch, chăm chú nhìn Đinh Thừa Nghiệp một lúc lâu mới từ từ nói: “Ngươi muốn lừa ta?”

Đinh Thừa Nghiệp thấy sắc mặt hắn như vậy, thấy tính mạng mình tạm thời có thể được giữ lại, mặt hắn dương dương tự đắc ung dung nói: “Ta nói đến tăm tích của cô ấy, ngươi bỏ qua cho ta, thế nào?”

Dương Hạo nhìn hắn không nói gì, Đinh Thừa Nghiệp nhếch miệng cười nói: “Chẳng qua Đinh Thừa Nghiệp ta là một tiểu nhân vô liêm sỉ, La Đông Nhi là nương tử của ngươi, Loan Đao Tiểu Lục bọn họ là huynh đệ kết nghĩa của ngươi, nếu như ngươi không muốn biết sự sống chết của họ thì cứ giết ta đi”.

Mắt hắn giảo hoạt, nói: “Thực ra…trong lòng ngươi biết ta không nói sai đúng không?” Đinh Ngọc Lạc đứng một bên chỉ nhìn mà không nói gì. Dương Hạo trầm mặc một lúc sau chậm rãi nói: “Được, ngươi nói tung tích của nàng đi, ta sẽ không giết ngươi”.

Đinh Thừa Nghiệp nhìn Đinh Ngọc Lạc nói: “Cô thì sao?”

“Cô ấy nếu giết ngươi, ta sẽ cản”.

Đinh Thừa Nghiệp cười khanh khách nói: “Được, ta là tiểu nhân, nhưng ta biết ngươi là quân tử. Tiểu nhân…cũng thích làm bạn với quân tử lắm chứ, ta tin lời hứa của ngươi”.

Đinh Ngọc Lạc muốn giết hắn báo thù cho cha, nhưng lại nghĩ tới lời của Dương Hạo, nghĩ tới những lúc Dương Hạo phải chịu khổ. Đinh gia có lỗi với Dương Hạo quá nhiều rồi, người chết không sống lại được, giờ người sống thì sao đây? Cô chỉ có thể tạm thời gác lại chuyện báo thù cho cha, mong có thể có được tin gì đó của La Đông Nhi.

Dương Hạo trầm giọng nói: “Bớt những lời thừa thãi đi, ngươi nói Đông Nhi còn sống, vậy nàng ở đâu?”

Đinh Thừa Nghiệp không chút giấu diếm, ngồi dậy từ từ nói: “Vốn dĩ ta cũng cho rằng cô ấy đã chết, nhưng khi ta ở Khiết Đan thì đã tận mắt nhìn thấy cô ấy”.

Dương Hạo giật mình: “Khiết Đan, sao nàng lại ở Khiết Đan?”

Đinh Thừa Nghiệp nói: “Ta là người bên cạnh Da Luật Văn đại nhân, từng theo gặp Da Luật đại nhân đăng Thượng Kinh ngũ phượng lầu, lúc đó cô ấy đứng ở bên cạnh Hoàng hậu nương nương, ta còn cho rằng mình nhìn nhầm người, thế là nghe ngóng tin tức thông qua mọi người ở đó. Hóa ra, ngày hôm đó là người Lý gia trang dìm Đông Nhi xuống nước, mấy huynh đệ kết nghĩa với ngươi đến thôn trang tìm ngươi, trên đường qua Lý gia trang, biết được cô ấy là nương tử của ngươi, liền xuống nước, cái lồng lợn được họ mang đi, cứu cô ấy ra. Họ tìm ngươi mấy ngày liền, nhưng không thấy tung tích ngươi, đoán là ngươi đã bỏ chạy tới Quảng Nguyên, nhưng lúc đó khắp nơi đều là quan binh đi tuần, lại có người của Liễu gia và Lý gia lùng sục tìm tung tích ngươi, họ đành theo cổ hà cựu đạo tìm ngươi”.

Dương Hạo trầm ngâm, lời hắn nói tin được khoảng tám phần, giờ nhớ đến đám người Loan Đao Tiểu Lục gặp được Đông Nhi, là có khả năng, đặc biệt là ba người Loan Đao Tiểu Lục đã rời khỏi quê hương, sau 3 ngày mình đến Quảng Nguyên, thời gian này khớp với nhau. Đinh Thừa Nghiệp nếu như muốn nói năng bậy bạ thì không thể bịa ra câu chuyện trùng khớp như vậy được.

Hắn vội vàng bước về phía trước hai bước, run rẩy nói: “Về sau…về sau thì sao, họ sao lại đi Khiết Đan?”

Đinh Thừa Nghiệp nói: “Họ đi cổ hà cựu đạo, đó là một con đường rất khó đi, thường có tù trốn trại và bọn buôn lậu, không có quan phủ kiểm tra tuần tra, vốn dĩ cũng rất ổn thỏa, ai biết, họ khi đi ở cổ hà đạo, con đường ít người qua lại này lại có đại đội nhân mã Khiết Đan, cuối cùng họ bị bắt đi Khiết Đan”.

Dương Hạo nghe vậy người đờ ra, hóa ra khi mình đi trước, Đông Nhi đuổi theo sau, không thể tưởng tượng được thần xui quỷ khiến thế nào, mình vội vàng thoát khỏi truy binh của Khiết Đan thì nàng lại bị người bắt đi.

Đinh Thừa Nghiệp lại nói tiếp: “Ta ở Ngũ Phượng lầu khi gặp nàng, người mặc bộ quần áo Khiết Đan, đứng bên cạnh Hoàng đế, như là phi tử của Hoàng đế Khiết Đan, ta sợ cô ấy thấy ta nhận ra ta, vội trốn vào chỗ đông người, vì vậy cô ấy không phát hiện ra ta”.

Mặt Dương Hạo trắng bệch, thất thanh nói: “Ngươi nói gì, nàng…nàng bị làm Hoàng phi của Hoàng đế Khiết Đan?”

Đinh Thừa Nghiệp thấy bộ dáng của hắn thành như vậy, sợ hắn đổi ý đập chiếc gậy vào đầu mình, vốn là còn muốn có vài lời ác độc dày vò hắn, lúc này không dám thừa nước đục thả câu nữa, vội nói: “Lúc đó ta cũng nghĩ như vậy, sau đó nghe ngóng được mới biết, sau khi cô ấy bị đưa đến Khiết Đan, được Tiêu Hậu khen ngợi nên trở thành một người tin cậy nhất của Tiêu Hậu, ở trong cung nữ vui vẻ, quan cư thượng quan, không phải là phi tử của Hoàng thượng. Đám người Loan Đao Tiểu Lục và cô ấy ở cùng nhau, ta…ta cũng chỉ nghe ngóng lai lịch của cô ấy mới biết”.

“Đông Nhi…Đông Nhi…” Dương Hạo đờ đẫn, không kìm nổi xúc động, hắn hàng nghìn hàng vạn lần không thể ngờ rằng Đông Nhi vẫn còn sống, câu chuyện ly kì như vậy không thể bịa ra được, hắn thấy lời của Đinh Thừa Nghiệp nói vậy là thực, sau khi ngẫm nghĩ lai lịch của Tiêu Hậu, tình nhân tìm được là một người Hán, con rể cũng thích tìm người Hán, tuy nói trong số đó không thiếu nói thành phần, chính là vị Tiêu Xước nương nương hơi người Hán tình tiết có vẻ không thể sai được, Đông Nhi tri thư đạt lễ, nhu thuận thông minh, được bà trọng dụng cũng là hợp tình hợp lý.

Đông Nhi còn sống, nghĩ tới điểm này, Dương Hạo vui mừng khôn xiết, Đông Nhi chắc là sẽ không phụ hắn, hắn không chút nghi ngờ tình cảm của Đông Nhi đối với hắn. Đáng tiếc mình sớm cho rằng cô ấy chết rồi, mà nàng vẫn ở Khiết Đan, không biết có đang nhớ nhung mình không. Ở đó tách biệt, Đông Nhi muốn thoát thân cũng rất khó.

Hai tay Dương Hạo khẽ run lên, rưng rưng: “Ta…ta nhất định phải cứu nàng trở về! Cứu nàng và đám người Loan Đao Tiểu Lục về”.

Đinh Thừa Nghiệp thấy hắn như vậy, cẩn thận hỏi: “Ta…ta có thể đi được chưa?’

Dương Hạo xua tay, Đinh Thừa Nghiệp mừng rỡ đứng dậy, khập khiễng đi vài bước, rụt rè nhìn Đinh Ngọc Lạc, Dương Hạo thản nhiên nói: “Ta đang nhìn cô ấy đấy”.

Đinh Thừa Nghiệp cuối cùng cũng yên tâm, kéo cái chân bị thương khập khiễng bỏ đi. Đinh Ngọc Lạc nghe giọng nói lạnh lùng của hắn, nước mắt không khỏi tuôn rơi, nấc nghẹn ngào kêu: “Nhị ca, ca…ca cuối cùng cũng không chịu tha thứ cho muội muội sao?”

Dương Hạo không trả lời, từ từ bước về phía trước, duỗi tay ra, Đinh Ngọc Lạc ngây ngô nhận lấy tảo mộc quải trượng, nhưng không biết làm gì. Dương Hạo nhìn chằm chằm theo bóng dáng Đinh Thừa Nghiệp, lẩm bẩm: “Ta đồng ý không giết ngươi, cũng đồng ý ngăn muội ngốc này giết ngươi, nhưng nếu như cô ấy đánh ta hôn mê ngất xỉu, thì ta sẽ không vi phạm lời hứa”.

Đinh Ngọc Lạc nghe hắn nói mình là muội muội ngốc, vui mừng khôn xiết, lại nghe hắn nói “Đánh hôn mê”, không khỏi ngẩn người, Dương Hạo thở dài nói: “Tên súc sinh đó xem ra bỏ chạy không thành rồi”.

“Vâng, được”. Đinh Ngọc Lạc đồng ý một tiếng, rồi cầm chiếc gậy bổ một nhát về đầu Dương Hạo…

Chương 365: Bắc thượng nam chinh(1) 

Đinh Ngọc Lạc ngẩn người đứng bên cạnh cái cống thối đầy rác rưởi, nhìn tử thi vục mặt vào mặt nước đục ngầu đầy rác rưởi, uế thải mang theo mùi tanh tưởi, mang theo bọt vàng nhạt nổi lềnh phềnh, nếu không nhìn kỹ thì khó mà phát hiện ra đó là một thi thể. Đinh Thừa Nghiệp chạy đến bên mương, giãy dụa và bị trúng một kiếm, ngã ngay xuống cái cống hôi thối nhơ nháp không tưởng được, lẫn vào màu rác rưởi.

Sau một lúc, Đinh Ngọc Lạc mới lau đi nước mắt, quay người lại đến tiểu viện lạc, vừa vào trong viện thì thấy trong viện trống trơn, Dương Hạo không biết đã mất tích đi đâu rồi. Đinh Ngọc Lạc giật mình hoảng hốt, tìm trong tìm ngoài, không những không nhìn thấy Dương Hạo đâu, mà cái gậy quải trượng cũng không thấy đâu nữa. Đinh Ngọc Lạc nước mắt như mưa nói: “Ca… ca bảo ta đánh ca một cái, hóa ra chỉ là để thoát khỏi ta…”

Đầu gối nàng khuỵu xuống đất, thút thít: “Nhị ca, ca bảo ta phải làm thế nào thì mới tha thứ cho ta đây? Cha mất rồi, đại ca cũng thân tàn, tiểu đệ thì táng tận lương tâm, nhị ca, ca nhẫn tâm như vậy mà bỏ đi, để ta và đại ca cả đời này phải bứt rứt sao? Nhị ca, Đinh Ngọc Lạc này hai năm nay đi hết bắc rồi xuống nam, bôn ba ngàn dặm, màn trời chiếu đất, chịu bao nhiêu đắng cay cũng không buồn lòng, nhưng ca đi như vậy thực sự làm tổn thương trái tim của muội. Cái chết của Dương đại nương, trên dưới Đinh gia người nào cũng có tội, muội cũng muốn chuộc tội cho Đinh gia. Ngọc Lạc có bản lĩnh thiên đại, dù có gì xảy ra thì cũng không nề hà. Nhị ca, có phải là muốn muội chết thì ca mới tha thứ cho muội đúng không?”

Đinh Ngọc Lạc thút thít đem tất cả những chuyện trong hai năm ra kể lể, nói hết những bứt rứt trong lòng ra, rồi nàng khóc rống lên, phía sau đột nhiên truyền lại một tiếng thở dài: “Haiz, trên đời này có một dạng vũ khí, có lẽ mãi mãi ta không ngăn cản được, đó chính là nước mắt đàn bà…”

Đinh Ngọc Lạc vừa mừng vừa sợ, thấy Dương Hạo dính lại hàng râu và lông mi, người hơi cúi đứng ở cửa viện. Đinh Ngọc Lạc gọi một tiếng: “Nhị ca…” rồi chạy lại ôm chầm lấy hắn, ôm chặt như thể sợ hắn biến mất.

Dương Hạo nhẹ nhàng vuốt mái tóc của nàng, cười khổ nói: “Mới vừa rồi cho ta một gậy, làm thực là có hiệu quả.”

Đinh Ngọc Lạc xấu hổ, ngẩng đầu lên nói: “Nhị ca, ca… ca còn đau không?”

Dương Hạo thấy bộ dáng khóc sướt mướt của nàng, nhẹ nhàng lắc đầu nói: “Cũng thật là làm khó cho muội, từ Phách Châu mà tìm tới Khiết Đan, rồi lại từ Khiết Đan đến Đường quốc. Nhị ca bận bịu, tuy có tâm báo thù cho mẫu thân, nhưng so với muội thì lại vô cùng xấu hổ. Hôm nay tên súc sinh kia đền tội trước mặt ta, đều là công lao của muội, thì sao ta lại có tâm sinh oán với muội chứ, chỉ là… haiz… hiện giờ, muội có dự đình gì, khi nào về Phách Châu vậy?”

Đinh Ngọc Lạc hơi do dự nói: “Tên súc sinh giết cha đó đã chết, ta… ta sẽ mau chóng về thôi. Nhị ca à, muội nghe nói ca bị người Khiết Đan ám sát, chết cháy ở trên thuyền, sao… sao ca lại…?

Dương Hạo méo xệch cười nói: “Ta xuất thân bất chính, ở triều đình Tống quốc cũng chỉ là ngoại tộc, quan gia đã trọng dụng ta song lại phòng ta, dù có ý thiêu sát ta, vẫn có ý ràng buộc theo dõi, giờ ở tình cảnh xẩu hổ, hà tất nhớ nhung không đi? Lần này, ta chẳng qua chỉ là tương kế tựu kế, nhân cơ hội mà thoát thân thôi. Ẩn cư không bị ràng buộc gì, há chẳng sướng hơn là làm con chuột trong cái bễ, bị khinh bỉ sao?”

Đinh Ngọc Lạc rời khỏi ngực hắn, lau nước mắt, hít một hơi nói: “Thế… nhị ca định đi đâu để ẩn cư, sao không quay về Lô Châu?”

“Về Lô Châu?” Dương Hạo ngạc nhiên hỏi: “Muội sao lại nghĩ đến Lô Châu?”

Đinh Ngọc Lạc chần chừ, không muốn giấu diếm gì hắn bèn nói: “Cơ nghiệp Đinh gia ở Phách Châu, sớm đã bị lụi bại rồi, đại ca nản lòng thoái chí, không muốn ở Phách Châu nữa. Sau hôm nhị ca bỏ đi, ca ấy đã rời toàn bộ gia sản tới Lô Châu, ý đại ca là… sớm muộn gia nghiệp này vẫn giao cho nhị ca.”

Dương Hạo im lặng một lát, lắc đầu nói: “Đi thôi, đến chỗ ở của ta trước, hai ngày sau thì vè Lô Châu. Ca ấy… hai chân bị gãy, một mình lo gia nghiệp ấy e không tiện. Muội tuy là con gái, nhưng tài nghệ và khí phách cũng không kém gì nam nhi. Có muội giúp ca ấy, gánh vác gia nghiệp là chuyện không khó khăn gì. Còn về phần ta…”

Hắn thờ dài một hơi nói: “Ta vốn từ Lô Châu tới đây, ở đó người biết ta vô cùng nhiều, nếu ta về đó, tung tích khó mà tránh khỏi bị lộ, một khi triều đình biết được thì lại không hay. Muội nhận nhị ca này, ta cũng nhận muội ngươi, nhưng chưa chắc có thể sống cùng nhau. Muội cứ để nhị ca theo con đường mà ta muốn đi đi.”

Đinh Ngọc Lạc nghe hắn nói vậy, biết hắn buồn vô cùng, giờ dù nhận mình lại vẫn khúc mắc với Đinh gia, tạm thời không tiện khuyên nữa, chỉ yên lặng gật đầu, đi bên cạnh hắn.

Chỗ ở của Dương Hạo nằm trong một xóm nghèo, nơi này thường xuyên có bọn lưu manh phạm án trốn hoặc ẩn nấp, căn phòng mà họ thuê buôn bán đồ ăn, che chở lưu phạm, mật báo, đúng là khời nguồn nơi sinh kế vô bần của dân nghèo hạng nhất sinh sống, cho nên đám người Dương Hạo ở khu vực hỗn loạn này vô cùng dễ dàng.

Mấy thuộc hạ ở phòng bên cạnh, bao quanh lấy phòng của Dương Hạo và hai vị phu nhân, cho nên ngõ Ô Nê này tuy là nơi vô cùng hỗn loạn, nhưng gần chỗ ở của hắn cực kỳ yên tĩnh, đám lưu manh vô lại, lũ tạp vụ càng không thể tới gần chỗ hắn.

Chỗ ở của Dương Hạo chỉ là một nơi giống với mấy căn nhà bậc trung, sân viện tương đối chật, tường viện thì thấp bé, phòng lụp xụp, nhưng chỗ ở lại tương đối sạch sẽ, song vô cùng đơn sơ. Nơi như vậy, gia phó của Dương Hạo có thể ung dung, còn hai người Đường Diễm Diễm và Ngô Oa Nhi thân phận là thiên kim, hai mĩ nữ cũng chịu khổ được, như vậy mới đáng quý.

Thấy Dương Hạo mang theo một người Hán về, Đường Diễm Diễm và Ngô Oa Nhi vô cùng ngạc nhiên, nghe Dương Hạo giới thiệu về cô ấy, biết được cô này là muội muội cùng cha khác mẹ của Dương Hạo, hai người phụ nữ lúc này mới hiểu ra vấn đề. Đợi cô đi rửa mặt thay quần áo, hồi phục lại vẻ đẹp, là một cô gái hiền lành, thông minh lanh lợi vô cùng, hai cô gái có cảm tình vô cùng. Chuyện cũ của Dương Hạo hai cô đều biết tường tận, cũng biết vị tiểu muội này ban đầu rất tốt với Dương Hạo, rồi các cô quen biết nhau, Đường Diễm Diễm tính tình vô cùng thẳng thắn, Ngô Oa Nhi thì nhu thuận vô cùng, ba cô gái rất nhanh đã quen thân nhau.

Đêm hôm đó, trăng sáng ít sao, Đường Diễm Diễm và Ngô Oa Nhi sau một hồi tâm sự với Đinh Ngọc Lạc, thì cáo từ đi ra, vừa vào trong viện thì gặp Dương Hạo đang đứng ngẩng đầu nhìn mặt trăng, hai người liền đi tới.

Khi mũi ngửi thấy mùi thơm, hai thân kiều diễm đã nhẹ nhàng ôm lấy hắn, ánh đèn trong phòng Đinh Ngọc Lạc đã tắt.

“Quan nhân…” Oa Nhi khẽ nói.

“Các nàng… đều nghe Đinh Ngọc Lạc nói rồi sao?”

“Vâng.”

Dương Hạo bùi ngùi thở dài, cầm lấy tay hai nàng, nhẹ nhàng nói: “Hai nàng lại đây.”

Trong viện có một cái ghế băng, Dương Hạo kéo hai nàng tới ghế băng ngồi, kể lại chuyện của La Đông Nhi và mình lại một lượt, sau đó nói: “Lúc đó ta cho rằng cô ấy đã bị người ta hại chết rồi, nhưng mãi đến bây giờ ta mới biết, cô ấy… vẫn còn sống.”

Hai người con gái nắm chặt tay hắn. Dương Hạo lại nói: “Nếu như không phải Ngọc Lạc từ Phách Châu đến Thượng Kinh, từ Thượng Kinh đến Kim Lăng, bám riết truy đuổi không tha tên súc sinh kia, để ta hôm nay có thể có được tung tích của cô ấy, thì ta vẫn sẽ chẳng hay biết gì. Nếu ta không có tin tức gì, thì có một ngày Đông Nhi chạy về Trung Nguyên, cô ấy… cô ấy cũng nhất định sẽ cho rằng ta thực sự đã chết rồi, từ nay về sau không còn cơ hội gặp nhau nữa. Vừa nghĩ tới tình hình thê thảm ấy, thì ta cũng không rét mà run lên.

Ta và ân oán Đinh gia dây dưa không rõ ràng, giờ người ta hận đã chết rồi, Định đại thiếu gia và Ngọc Lạc dù cho có cái gì không phải, dựa vào cái này, ta cũng không có gì ân oán với họ nữ. Nhưng… Đinh Thừa Tông là con trưởng Đinh gia, từ nhỏ quen mắt, lòng chỉ có một sứ mệnh: chính là làm vinh dự Đinh gia, mà ta thì lại không phải người có thể kế nghiệp gia sản, hơn nữa cũng không có hứng thú lớn vậy. Ung dung tự tại một đời, làm những chuyện vui vẻ với người mình yêu thương, lẽ nào không hơn bôn ba cả đời, chỉ vì cái gia sản truyền lại sao? Huống hồ, ta không muốn sửa thành họ Đinh, cũng không muốn kế thừa gia sản họ Đinh…”

Đường Diễm Diễm khẽ thờ dài nói: “Làm chuyện vui vẻ với người yêu thương. Hạo ca ca, Đông Nhi tỷ tỷ là người tình nhân mà cả đời chàng mãi mãi không buông ra được, giờ tỷ ấy còn sống, chàng nhất định sẽ đi Khiết Đan đón cô ấy về, đúng không?”

Dương Hạo nhìn nàng, bỗng bật cười: “Từ đây đi Khiết Đan, nhất định vô cùng gian khổ, vô cùng nguy hiểm, đại nhân không phải rơi vào nhà bình thường, cô ấy giờ là người trong hoàng cung đại nội. Ở trong đó ai cũng có thể gặp tùy tiện được sao? Huống hồ… nơi đó ta chưa bao giờ đi, đời người chỉ có một lần, nếu muốn đưa nàng trở về, khó khăn như lấy trộm tiên nữ từ trên trời xuống hạ giới.”

Dương Hạo khẽ cầm lấy tay nàng, nhỏ nhẹ nói: “Nàng… không muốn ta đi?”

Đường Diễm Diễm cúi đầu, thầm thì: “Thiếp không muốn để quan nhân của chúng ta đi tới nơi cửu tử nhất sinh, vì canh cánh trong lòng, mất ăn mất ngủ, thiếp không muốn có một người phụ nữ quan trọng vô cùng với chàng trở về tranh giành tình cảm với ta. Nhưng… thiếp biết nhất định chàng sẽ đi. Đông Nhi tỷ tỷ tình thâm nghĩ nặng với chàng, hy sinh vì chàng quá nhiều, nếu chàng bỏ qua, thì chàng không xứng là người đàn ông của thiếp.”

Nàng ngẩng mặt lên, trăng sáng, mắt nàng long lanh, bầu trời thật đẹp

Chương 365: Bắc thượng nam chinh(2) 

“Diễm Diễm…” Dương Hạo cảm động cầm lấy tay nàng, nhất thời không biết nói gì.

Oa Nhi khẽ nhắc nhở: “Quan nhân, người này chàng nhất định phải cứu, nhưng quan nhân đi là đi cứu người, mà không phải đi vào chỗ chết, vì điều này nên chuyến đi này vô cùng nguy hiểm, cho nên quan nhân không nên quá nôn nóng, càng nóng lòng cứu cô ấy trở về, thì càng phải có kế hoạch hoàn hảo.

“Ta biết”.

Dương Hạo ôm lấy người hai nàng, cảm động nói: “Dương Hạo có thể có những người bạn tri kỷ như các nàng thực không biết phúc mấy đời của ta. Ta biết, lần này đi gian nan khổ cực vô cùng, giờ ta không thể quang minh chính đại mà đi, không có Tống Quốc cho ta chỗ dựa, không có mấy trăm dũng sĩ hộ vệ cho ta, không ai nghênh đón ta. Ở một nơi hoàn toàn xa lạ này, một khi đến Thượng Kinh, ta muốn gặp cô ấy trong Hoàng cung thông báo một tin cô ấy biết ta đến là việc gian nan vô cùng, chứ đừng nói đưa cô ấy về, cho nên ta hận một nỗi không thể mọc thêm cánh mà bay đến Thượng Kinh, nhưng ta tuyệt đối không làm việc lỗ mãng”.

Hắn dừng một lát, lại nói: “Mấy ngày nay ta sẽ nghĩ cho kỹ, tính toán một chút, nghĩ một kế sách vẹn toàn, đợi đến khi Kim Lăng gió êm bể lặng, chúng ta sẽ khởi hành đi, ta và các nàng đi Thiếu Hoa sơn trước”.

Đường Diễm Diễm hừ nhẹ một tiếng nói: “Chúng ta có thể tự tìm đến, chẳng lẽ có thể tự về, còn cần đưa chúng ta về Thiếu Hoa sơn? Chàng ý à…trái tim của chàng giờ đã mọc đầy cỏ rồi, còn có ý vậy sao?”

Dương Hạo dịu dàng nói: “Mỹ nhân ân trọng, há dám không đáp? Hai nàng vứt bỏ phú quý theo ta, Dương Hạo lòng cảm kích vô cùng, hơn nữa, cứu Đông Nhi về như nào, ta giờ vẫn chưa có chút chủ ý nào, vẫn là nên lên đường, từ từ nghĩ cách vậy. Đợi có kế hoạch, ta sẽ mang mấy hộ vệ biết nói tiếng Khiết Đan đi đồng quan bắc thượng hà đông lộ, tự đại châu xuất nhạn môn quan, từ đó đi đến Khiết Đan, con đường này cũng tương đối tiện.

Oa Nhi hỏi: “Thế…Ngọc Lạc thế nào đây?”

Dương Hạo trầm lặng nghĩ ngợi, nói: “Cô ấy một mình, tuy nói vào nam ra bắc, sóng gió đều đã từng trải qua, nhưng nghĩ đến chuyện một mình cô ấy ở một mình thực là không thể yên tâm, để ta phái hai người hộ tống cô ấy đi Lô Châu vậy”.

Dương Hạo vừa dứt lời, bên cạnh có một giọng nói vọng lại, quay đầu lại nhìn, Dương Hạo ngạc nhiên vô cùng: “Diễm Diễm, nàng khóc gì vậy?”

Đường Diễm Diễm bỗng sà vào ngực hắn, thút thít nói: “Chàng làm gì, thiếp cũng ủng hộ, nhưng chàng phải đồng ý với thiếp, dù thế nào đi nữa, chàng cũng phải sống trở về, nhất định phải sống trở về”.

“Ngốc nghếch, ta còn chưa đi mà, sao lại nói lời không may đó chứ?”

Dương Hạo tức cười, nhưng thấy Đường Diễm Diễm ôm chặt lấy eo hắn, khóc lớn nhào vào ngực hắn, nụ cười trên mặt hắn dần tắt, liền đưa tay nâng nàng đậy, vuốt ve mái tóc của Diễm Diễm, hắn không nói gì, cảm động vô cùng…

Ba người đi sát nhau trở về phòng, tường thấp có một bóng người đứng lặng nhìn theo, nhìn ánh đèn sáng ở phòng bọn họ, nhìn thật lâu…

Trời đã sáng, tuy tài liệu có hạn nhưng Oa Oa vẫn xem, vẫn là lo liệu mấy món ăn khai vị ngon miệng, nấu một nồi cháo thơm, Dương Hạo vốn muốn đợi Ngọc Lạc dậy rồi cùng dùng bữa, nhưng đợi hồi lâu vẫn không thấy cô ấy dậy, Oa Oa bèn đến phòng cô gọi một tiếng, sau một lúc gọi, Oa Oa giật mình trở về nói: “Quan nhân, Ngọc Lạc đi rồi”.

“Gì cơ?” Dương Hạo kinh ngạc, vội chạy đến phòng Ngọc Lạc, Oa Oa chạy theo nói: “Quan nhân, Ngọc Lạc đi rồi, đây là thư cô ấy để lại”.

Vì đuổi theo giết tên súc sinh kia, muội muội đã ở Thượng Kinh nhiều ngày, rất thuộc đường nơi đó, con đường quay về cũng biết, hơn nữa muội là thân nữ nhi, lần này lên kinh, một khi nghe ngóng được tin của nhị tẩu, cũng tiện đi tiếp cận tẩu ấy. Một đi Thượng Kinh trước, rồi hỏi dò đường, đợi đến thành công được vài phần, nếu như Ngọc Lạc có thể gặp nhị tẩu trước thì sẽ chuẩn bị trước.

Nhị ca hộ tống gia quyến rời Kim Lăng, đi them về phía Thượng Kinh rồi gặp muội ở đó. Muội lên Thượng Kinh trước, ở Thượng Kinh muội ở Phúc tự nhà trọ nghỉ chân, đợi khi Nhị ca đến chúng ta sẽ gặp nhau. Ngọc Lạc, khấu đầu tái kiến.

*******

Biện Lương, Hoàng cung, điện Tập Anh.

Các quan văn quan võ tập trung trong điện, bàn tán xôn xao.

Hôm nay quan văn quan võ trọng thần tập trung lại với nhau, nội dung tranh luận là đại sự quan trọng: Đánh ai.

Tiếng đao va chạm soàn soạt làm tăng tinh thần, mở rộng ranh giới, chính là hướng nam và hướng bắc, và nó thành vấn đề mà các quan trong triều tranh giành không ngớt.

Lúc này Dương Hạo mặc bộ sứ giả Khiết Đan, tin sứ giả Khiết Đan đột tử cũng đã truyền tới, theo đó mà còn có nội sứ quán Đường Quốc hao tâm biên soạn ra bản đồ địa lý Giang Nam, theo lời tường thuật của Dương Hạo về bản đồ, căn cứ vào điều này có thể phân tích phán đoán vị trí đóng quân nhiều ít binh lực.

Cùng lúc đó, mật thám bên Khiết Đan cũng truyền tin, Khánh Vương mưu phản, binh vây Thượng Kinh, tiêu thác trí, hàn đức bảo hơn mười tướng lĩnh và văn thần quên thân bỏ mình ở binh biến, Da Luật Hưu Ca mang theobinh mã tuần thành, Hoàng đế Khiết Đan sáng sớm hôm sau đăng thành ổn định lòng dân, về sau không thấy hắn lộ diện, phố phường trong ngoài loan tin Hoàng đế đã băng hà, nhưng hắn ốm yếu, triều chính xưa nay đều là Hoàng hậu lo liệu, cho nên triều chính không thấy bị xao lãng.

Tiêu hoàng hậu đã mật chiếu hơn mười đạo, cử người phá vây đi viện quân, các nơi, các tộc các bộ lạc giờ liên kết với nhau, cần vương binh mã nườm nượp, còn vị thủ lĩnh cầm đầu hơn mười đại bộ lạc đang có bài hịch Khánh Vương thề sống chết, khởi binh chạy tới Thượng Kinh, quân chúng ào ào, tình hình đại chiến vô cùng căng thẳng.

Được tin này, Triệu Khuông Dận mừng rỡ như điên, đám võ tướng trong triều, Da Luật Hiền, đám người Hô Diên Tán cho rằng đây là thời cơ trời cho, dựa vào nội loạn của Khiết Đan, nên khởi binh bắc phạt, lấy tội danh tự tiện giết Tống sứ thảo phạt Khiết Đan, đoạt về 16 châu U Vân, điều này có chiến lược dễ thủ mà khó công. Còn về Đường Quốc, thực sự không phải sợ, tùy thời cơ có thể phát binh tiêu diệt.

Dựa vào đám người Lô Đa Tốn, Tiết Cư Chính, Lữ Dư Khánh cầm đầu văn thần nhất trí cho rằng, tiên nam hậu bắc bình định thiên hạ là quốc sách định hạ của Đại Tống, nhiều năm qua, triều đình có nhiều sự sắp xếp, binh mã bộ thư, binh sĩ diễn luyện, cung cấp lương thảo…tất cả đều đã được chuẩn bị kỹ càng, không thể vội vàng sửa đổi quy chế.

Hai phái tranh chấp, Da Luật Hiền ưỡn bụng, rít gào nói: “Các ngươi là lũ nhà nho nghèo kiết xác, hiểu được chuyện đánh giặc sao, Đường Quốc nếu như lấy được, tùy lúc có thể ra tay, bắc phạt Khiết Đan cũng không phải chuyện dễ dàng, dựa vào quốc binh, chiến lực của nước ta, có cơ hội tốt thế này sao không dùng, nhân lúc hắn bệnh thì lấy mạng hắn mới là đạo lý”.

Lô Đa Tốn nói: “Da Luật Hiền nói lời này sai rồi, không nói đến Khiết Đan nam viện đại vương Da Luật Tà Chẩn giờ có mắt không tròng với tình hình loạn lạc của Thượng Kinh, bày thế trận chờ đón quân Tống ta, hơn nữa giờ chính là tiết trời giá rét, quần áo mùa đông, lương thảo, xe ngựa vận chuyển phải giải quyết như thế nào? Đảng tướng quân vội vàng nghĩ tới Bắc phạt, người Khiết Đan là dễ dàng tấn công đánh bại họ như vậy sao? Một khi chiến sự giằng co, binh mã của ta khốn đốn ở đất bắc, khi đó muốn quay đầu lại cũng khó, còn nếu Đường Quốc nhân cơ hội tác loạn, thì sẽ như thế nào đây?”

Da Luật Hiền trừng mắt, giơ hai tay ra nói: “Trước sợ sói, sau sợ hổ, thì chẳng cần làm gì nữa cả”.

Hô Diên Tán vội nói: “Các vị đại nhân, Khánh Vương có thể lợi dụng thế nào? Nếu chúng ta phái người tới bàn bạc với hắn, dựa vào điều kiện trên đây, hắn sẽ hợp tác với Tống Quốc ta. Giờ Tiêu hoàng hậu tọa trấn Thượng Kinh, Thượng Kinh bất loạn, cần vương chi sư ùn ùn, ta thấy Khánh Vương rất khó đắc thủ. Nếu chúng ta có thể thuyết phục hắn điều động binh mã chuyển công 16 châu U Vân, và trợ giúp hắn một tay, hợp lực cướp lấy U Vân đối kháng lại Thượng Kinh, Da Luật Tà Chẩn cũng không nghĩ tới.. Nếu Khánh Vương theo U Vân mà kháng Thượng Kinh, hắc hắc…”

Tiết Cư Chính phản bác nói: “Khánh Vương dễ dàng làm vậy sao? Hơn nữa nói đi cũng phải nói lại, đợi cho nghị binh đã định, thế cần đến khi nào rồi, sợ thời cơ đã sớm bỏ qua mất. Đảng Tiến ta một trận chiến mà san bằng Đường Quốc, sớm đã chuẩn bị, Nam chinh các cửa ải hiểm yếu có dự trữ lương thảo, giờ lại có bản đồ địa lý giang nam sơn hà, các nơi trú binh rõ như lòng bàn tay, chính khả lần này nam chinh, thống nhất Trung Nguyên, trừ bỏ mọi ưu phiền, khi đó mới chuẩn bị kỹ càng bắc phạt, mới là kế ổn thỏa, nếu không một khi Đường Quốc tham chiến, hai mặt khai chiến, Tống Quốc ta tất sẽ bị đại thương nguyên khí”.

Triệu Khuông Dận nghe hai phái nhân mã tranh chấp, thấy Tấn Vương đứng ở bên cạnh không nói nửa lời, bèn nói: “Tấn Vương nghĩ thế nào?”

Triệu Quang Nghĩa đi lững thững vài bước rồi đứng lại, chắp tay nói: “Bệ hạ, thần cho rằng, nếu lần này quyết phạt, thật là đầu cơ, chưa chuẩn bị đủ, lúc này là mùa gió lạnh rồi, miền bắc trời đông tuyết phủ, quân nhu khó mà có thể tiếp nhận được, một khi quân ta bị chặt đứt đường lui, hậu quả tất khó lường. Da Luật Tà Chẩn nhất đại danh tướng, hắn tọa trấn Nam viện, chiếm cứ thiên thời địa lợi nhân hòa, nếu như không có sự chuẩn bị đầy đủ, cuộc chiến này quá nguy hiểm, huống hồ đất Thục giờ có người tác loạn, Mân Nam tân phụ, Đường Quốc khó mà không có phản loạn, đây là những điều thần nghĩ, nghi nam…bất nghi bắc”.

Triệu Khuông Dận mỉm cười: “Khánh Vương nếu điều quân trở về phạt U vân, sẽ không suy nghĩ tới Tiêu hoàng hậu sau lưng hắn sao? Nam có Da Luật Tà Chẩn, bắc có Tiêu hoàng hậu, Khánh Vương kẹp ở giữa có thể làm được chuyện gì? Sự lựa chọn duy nhất của hắn chỉ có thể nhanh chóng tấn công Thượng Kinh, nắm được Tiêu Hậu trong tay, định lại thế cục, còn có một điểm nữa, các khanh chưa nghĩ tới, Trẫm nếu như bắc phạt, có khả năng phản mà thúc đẩy người bắc hòa giải nhất trí đối ngoại không?”

Hắn nhìn quần thần một lượt, thấy quần thần im lặng, có người vẻ mặt đã chợt hiểu, lại nói: “Khiết Đan Hoàng đế lâu không lộ diện, sống chết không hay. Nếu hắn đã chết, Tiêu hậu bí mật không phát tang thì sao? Tiêu Xước vô song, nếu Hoàng đế đã chết, Trẫm lại phát binh bắc phạt, loạn trong giặc ngoài, bà ta sẽ giảng hòa với Khánh Vương không đây? Còn về liên lạc với Khánh Vương, Trẫm…”

Triệu Khuông Dận mỉm cười, khinh khỉnh nói: “Trẫm há có thể bừa bãi qua lại với tên loạn thần”.

Triệu Quang Nghĩa bước lên một bước nói: “Bệ hạ anh minh”.

Đám người Lô Đa Tốn lần lượt khen ngợi Triệu Khuông Dận, Triệu Khuông Dận cười nhìn Da Luật Hiền, Tào Bân, nói: “Các khanh dốc hết chủ trương bắc phạt, không phải vì U Vân, hoàn toàn là vì người bắc và không dễ, các người kiêng kị cho nên vừa thấy cơ hội mới không muốn bỏ qua. Nguyên nhân chính là như vậy, Trẫm càng không thể vội vã làm bừa”.

Hắn cười lạnh lùng, ngạo nghễ nói: “Bắc quốc sao, đợi thống nhất Trung Nguyên, Trẫm sẽ ngự giá thân chinh, người bắc tuy rằng rất cao, Trẫm là Trẫm ngồi không cũng khó chịu”.

Hắn hơi ngả người về phía trước, trầm giọng nói: “Ý Trẫm, trước tiên nên lấy Đường Quốc, thống nhất Trung Nguyên. Các khanh, ai có thể thống binh nam chinh?”

Triệu Khuông Dận sẽ chọn ai gánh vác trọng trách này? Ai tự ứng cử mình đây? Mời các bạn cùng dự đoán và đón đọc chương tiếp theo.^^

Chương 366: Chủ động xin đi đánh giặc. (1) 

Triệu Khuông Dận vui vẻ vì Khiết Đan nội loạn, 16 châu U Vân rất hấp dẫn hắn, quyết định quốc sách trước nam sau bắc, đồng thời nắm bắt được cô hội này phát binh. Tống chinh phạt Đường quốc, trận chiến cuối cùng thống nhất Trung Nguyên, thời gian trong lịch sử đã bắt đầu trước một năm.

Nhưng ai phải gánh vác trọng trách này đây?

Tào Bân ắt không thể thiếu được, hắn giờ không những là khu mật thừa chỉ, mà còn là một đại tướng của Tống quốc, lão luyện, hữu dũng hữu mưu, có tài thống soái. Một người khác cũng thích hợp chính là Phan Mỹ. Phan Mỹ là chiếc đao nhọn sắc bén nhất trong những chiến tướng Tống quốc. Tào Bân giỏi thủ, Phan Mỹ giỏi công, hai người cùng phối hợp ăn ý với nhau, bọn họ liên thủ với nhau tất đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi.

Nhưng Phan Mỹ giờ vẫn ở Mân Nam chưa về, nguyên Thục quốc cảnh nội đang có một đạo nhân mã tạo phản, giờ phản tặc đã vượt quá vạn người, hơn nữa thanh thế càng ngày càng lớn mạnh. Thời điểm này Mân Nam vừa mới quy phục không được tái loạn, nếu không hai nơi khói lửa cùng dấy lên, xa cùng hô ứng, còn nói gì tới chuyện thảo phạt Đường quốc. Phan Mỹ giờ chỉ có thể tọa trấn Mân Nam.

Trận chiến cuối cùng thống nhất Trung Nguyên, đây là cơ hội khó có được, càng là một cơ hội quan trọng lưu danh sử sách, ai không biết cơ chứ? Da Luật Hiền, Hô Diên Tán hai viên hổ tướng này đều tranh giành đứng ra, Triệu Khuông Dận không khỏi lắc đầu, bọn họ là cấm quân tướng lĩnh, phụ trách an toàn kinh đô và hoàng thành, trừ khi ngự giá thân chinh, nếu không thì sao có thể dễ dàng mà phái họ điều binh được. Huống hồ hai vị tướng này dũng mãnh, nhưng bọn họ quen lục chiến, mã chiến bộ chiến là anh hùng nhất phương, nhưng thủy chiến thì… hai vị thống lĩnh mã quân bộ quân này không giỏi.

Lúc này, lại một vị quan không kiềm chế được đi ra, khiến người ta ngạc nhiên, hắn chính là một văn thần, quần áo hoa văn thiếp vàng long bào, đội mũ cánh chuồn, dáng người cao to, bước đi thong dong, chính là đương kim Tấn vương kiêm phủ doãn phủ Khai Phong Triệu Quang Nghĩa.

“Bệ hạ, thần đệ thỉnh lĩnh đại quân, xin phụng chỉ, xin thề san bằng Đường quốc.”

Triệu Khuông Dận kinh ngạc, ngẩn người ra, dở khóc dở cười nói: “Hoàng đệ, đệ… đệ sao có thể xông vào chiến trận hỗn loạn đó được, đệ với thân phận Khai Phong phủ doãn, dẫn binh nam hạ, chẳng phải là để cho thiên hạ cười triều ta không có người sao?”

Triệu Quang Nghĩa khom người nói: “Bệ hạ, là thần tự nguyên, sau trận chiến này, Trung Nguyên không còn chiến sự nữa, và thần đệ nguyện sẽ từ bỏ chức Khai Phong phủ doãn, thống binh nam hạ, tái lập công cho bệ hạ.”

Triệu Khuông Dận nhíu mày nói: “Hoàng đệ, Trung Nguyên các nước bên tỏng, dựa vào thực lực Đường quốc mạnh nhất. Lý Dục tuy ngu ngốc, nhưng Đường quốc không phải không có võ tướng dũng mãnh. Lần này nam chinh mười mấy vạn đại quân xuôi nam, lương thực hao tổn vô số, sự nếu bất thành, hậu quả mang đến vô cùng nghiêm trọng. Hoàng đệ thân là Khai Phong phủ doãn, lo liệu chính vụ đương nhiên là thuận buồm xuôi gió, nhưng…”

Triệu Quang Nghĩa chắp tay vái dài nói: “Bệ hạ, thần ngày xưa cũng đã từng đi theo bệ hạ. Thần đệ thuở nhò theo bệ hạ, bước theo binh nghiệp, thấy bệ hạ rong ruổi nơi sa trường, bắc chiến nam chinh, thần đệ có một ước mơ, muốn được như bệ hạ, thần đệ giải giáp cứ ngồi ở Khai Phong, giờ đã hơn mười năm rồi. Khi Cừ Châu Lý Tiên kéo cờ tạo phản, thần đệ muốn từ chức Khai Phong phủ doãn, thay bệ hạ tiêu diệt chúng, tích bị hàn lâm học sĩ, Bổng Châu tri phủ Chu Ngang đại nhân nhanh chân đến trước. Giờ Chu đại nhân thống ngự Quảng An quân liên tiếp chiến thắng, thần đệ há lại cam lòng. Thần đệ xuất thân võ tướng, nhiều năm nay lại chưa từng lập chiến công gì cho bệ hạ, nghĩ vậy, nay chinh phạt Giang Nam, thần đệ khẩn cầu bệ hạ, mong bệ hạ ân chuẩn.”

Lời cầu khẩn của Triệu Quang Nghĩa, Triệu Khuông Dận không khỏi nghẹn lời. Chu Ngang là văn nhân rõ ràng, dựa vào hàn lâm học sĩ, thân phận Bổng Châu tri phủ có thể kiêm ngự Quảng An quân phó tứ xuyên bình định, mà nhị đệ vốn là một võ tướng, sao có thể so với hắn là tri phủ?

Đang lúc băn khoăn, khu mật thừa chỉ Tư Mã Thiên Khuê liền tán thành: “Thần nghĩ rằng nguyên nhân Đường quốc không thể so với Thục Hán, càng cần một người uy vọng đức long, thống ngự chư quân, như thế mới có thể bảo đảm chỉ huy được các lộ đại quân. Lần trước Ngụy vương điện hạ tuần thú Giang Hoài, mượn long uy của bệ hạ, giải nguy cạn lương thực cho Khai Phong. Giở Tấn vương là thân cận của bệ hạ, thay bệ hạ chinh phạt Đường quốc, cũng tất sẽ tạo khí thế cho tam quân. Huống hồ Tấn vương đã theo bệ hạ nhiều năm, sỡ trường quân trung, tinh thông võ lược, lần này nếu là chủ soái thảo phạt Đường quốc, chắc chắn sẽ được tam quân kính phục.”

Triệu Khuông Dận chớp chớp mắt, trầm ngâm không nói gì, Da Luật Hiền bước lên phía trước giải vây cho hoàng đế nói: “Bệ hạ, thần tuy không giỏi thủy chiến, nhưng lần nam hạ này, cũng không phải chỉ có thủy quân có thể tham chiến, bệ hạ phái thần đi đi.” 

“Đảng Tiến tuy là một con vịt cạn, Trường Giang, Tần Hoài, trong mắt lão Đảng chỉ là một cái vũng bùn mà thôi, bước qua nó thực không thành vấn đề.”

Triệu Quang Nghĩa liếc mắt sang nhìn Đảng Tiến, mỉm cười nói: “Đảng tướng quân dũng mãnh thiện chiến, trong triều ai mà không biết, nhưng cuộc chiến phạt Đường, nên nhanh chóng không nên hoãn. Không biết Đảng tướng quân nếu cầm binh phạt Đường, bao lâu có thể tóm gọn Kim Lăng, đưa Lý Dục tới trước mặt bệ hạ thỉnh tội?”

Đảng Tiến không khỏi ngẩn người. Việc này ai dám cam đoan, lúc đó nếu như gặp phải một tòa kiên thành, rồi lại gặp tướng lĩnh giỏi thủ thành, chỉ cần trong thành lương thực dồi dào, đánh một năm hai năm cũng là chuyện bình thường. Lần này nam chinh, một đại tướng đem hết khả năng của mình ra là điều đương nhiên, nhưng hắn cần vỗ ngực cam đoan trong bao lâu có thể nắm gọn Đường quốc, thì hắn không thể nói rõ.

Đảng Tiến suy nghĩ một lát, do dự nói : “Mạt tướng… mạt tướng sẽ dốc hết sức mình, anh dũng giết giặc. Còn nắm được thành Kim Lăng trong bao lâu… cái này… chuyện binh gia thay đổi khó lường, giờ không thể nói chuẩn xác được. Nếu mạt tướng dẫn quân phạt Đường quốc, ta nghĩ… ta nghĩ, nếu như chiến sự thuận lợi, năm sau có thể chiếm được Kim Lăng.”

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười, quay đầu lại phía Triệu Khuông Dận, thản nhiên cao giọng nói: “Bệ hạ, nếu vi thần thống binh nam hạ, thần bảo đảm nội ba tháng sẽ san bằng Đường quốc, để bản đồ của nó thuộc về Đại Tống.”

“Ba tháng… Tấn vương nói lời giữ lời đó chứ?”

“Thần đệ xin bảo đảm!”

“Tấn vương thực không hổ thẹn là bào đệ của bệ hạ, long huynh hổ đệ, khí khái bất phàm. Tấn vương điện hạ giỏi văn giỏi võ, dũng mãnh thiện chiến, là cũng được ảnh hưởng từ bệ hạ, đây là cái phúc của triều đình ta, là cái phúc của Đại Tống ta. Tấn vương có ý này, bệ hạ ngại gì mà chần chừ nữa. Thần tán thành Tấn vương thống binh.”

Tả gián nghị đại phu Đỗ Tuy vui mừng đứng dậy, chắp tay nói tỏ ý tán thành. Quần thần ai nấy cũng lần lượt tán thành, sau một lúc, văn võ đại thần trung thư xá nhân Trần Bình Chương, hữu phó Xạ Dương Tuần, phán bộ binh sự Tử Nguyên Mậu, thị ngự sử tri tạp sự Lý Huyền Triết, thiết kỵ tả hữu sương đô sứ Lý Hoài Trung lần lượt hưởng ứng.

Sắc mặt Triệu Khuông Dận hơi đổi, mắt hắn nhìn đám văn võ đại thần, mỗi người hắn đều nhìn qua, ánh mắt thâm thúy, nhưng hắn ngồi ở chỗ cao, không ai dám nhìn thẳng mặt hoàng đế, không ai có thể nhìn được ánh mắt của hắn.

Triệu Khuông Dận hít nhẹ một hơi, quay đầu nhìn về phía văn ban chi thủ, ở đó còn có ba vị tể tướng Lô Đa Tốn, Tiết Cư Chính, Hô Diên Tán. Triệu Khuông Dận mỉm cười nói: “Tấn vương chủ động xin đi giết giặc, chuyện phạt Đường quốc, không biết ý ba vị tể tướng ra sao?”

Ba người nhìn nhau, do dự bước lên phía trước nói: “Chúng thần… không có ý kiến gì.” 

Sắc mặt Triệu Khuông Dận vẫn không đổi, lại quay sang phía La Công Minh vừa mới hồi kinh, quan thăng một cấp, trở thành Đại Tống triều tài thần gia, hỏi: “La khanh nghĩ sao?”

La Công Minh chớp chớp mắt, chắp tay nói: “Thần nghĩ rằng, dù vị đại tướng nào thống binh nam chinh, được bệ hạ bày mưu lập kế, thì lo ngại gì không chiến thắng đây?”

Triệu Khuông Dận trầm mặc một lúc, cười to nói: “Được, Tấn vương đã được mọi người ủng hộ, chức quan Giang Nam hành dinh mã bộ quân chiến trẫm sẽ giao cho ngươi, cho ngươi thống ngự tam quân thảo phạt Đường quốc. Còn về từ chức Khai Phong phủ doãn, tạm thời chưa tìm được người thích hợp, Tấn vương xử lý thuận buồm xuôi gió, trẫm không thể không nghĩ cho kỹ. Thế này đi, trong thời gian Tấn vương rời kinh, Triệu Quang Mỹ có quyền tri Khai Phong phủ doãn, phủ nha phó quan phụ tá, đợi khi Tấn vương công thành trở về, thì lại tính tiếp. Nhưng… Tấn vương chớ quên mình phải lập được nhiều công trạng nhé!”

“Thần đệ tuân chỉ.” Triệu Quang Nghĩa vui mừng cầm một góc áo bào quỳ xuống, thi lễ.

Sau khi bãi triều, Triệu Quang Nghĩa trở về phủ Khai Phong, vừa mới ngồi xuống chỗ của mình ở Thanh Tâm lầu, đám người Tống Kỳ, Trình Vũ, Trình Đức Huyền vội vàng chạy đến, vừa gặp Triệu Quang Nghĩa đã vội nói: “Thiên tuế, ngài từ chức Khai Phong phủ doãn rồi sao?”

Triệu Quang Nghĩa uống một hớp trà, cười ảm đạm nói: “Lo lắng chuyện gì, bổn vương ở phủ Khai Phong hơn mười năm rồi, có thể đổi ai đến có thể ngay lập tức khống chế nơi đây?”

Tống Kỳ vội vàng nói: “Nhưng… một khi không thể không thay một đời không thể, thiên tuế tuy có cơ hội, có ý đồ lập chiến công, bệ hạ chưa chắc sẽ không này sinh cảnh giác. Bệ hạ xuân thu chính thịnh, nếu có ý đổi phủ doãn, tân nhiệm Khai Phong doãn sẽ làm hơn mười năm cũng không phải là không thể. Bệ hạ lệnh thiên tuế quyền thống lãnh đại quân, chức Giang Nam hành dinh đô bộ có thể là tạm thời, chiến sự xong đương nhiên sẽ xóa bỏ, các bộ binh mã vẫn về các nơi, đến lúc đó chẳng phải là mất cả hai sao?

Chương 366: Chủ động xin đi đánh giặc. (2) 

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười, thản nhiên nói: “Ta biết bệ hạ nghĩ sâu sa, bệ hạ cho binh hướng nam, một khi có được Giang Nam thì sẽ có ý đồ tranh giành quyền lợi U Vân, thiên hạ một khi chưa định, bệ hạ sẽ không bỏ qua bổn vương”.

Mộ Dung Cầu Túy đứng phía sau Triệu Quang Nghĩa cũng cười nói: “Các vị lo lắng sợ hãi gì chứ, Khai Phong doãn này tuy là chức cao thật đấy, nhưng cũng không phải không có hạn chế, Thiên tuế khổ tâm gây dựng mười năm, tầm nhìn không phải chỉ có trong phủ Khai Phong sao? Phủ Khai Phong không quan trọng, cái quan trọng là căn cơ từ thân phận này có thể mở ra, kết giao với khắp các đại thần.

Mười năm gây dựng, những người có thể kết giao thì cũng đã kết giao rồi, mà kết giao không được nữa thì ngồi cũng chỉ uổng công. Giờ Quan Gia bắt đầu trọng dụng Lô Đa Tốn, dùng không được bao lâu lại là Triệu Phổ, không chắc quy phụ Thiên tuế, hay là muốn quy tụ môn hạ của hắn cùng võ đài với Thiên tuế, một khi như vậy, sao không thừa dịp trong triều hiện giờ vẫn là Thiên tuế nhà ta lớn nhất, nhanh chóng nắm giữ một chức vụ mới, để con chim có một thân hình đầy đặn? Nếu không có chiến công gì, thì so với tướng có bách chiến bách thắng, ai có thể thần phục đây?”

Trình Vũ tức giận nói: “Nói như vậy, là Mộ Dung tiên sinh hiến kế cho Thiên tuế rồi? Nếu đã như vậy, ngươi sao có thể mê hoặc Thiên tuế lập hạ quân lệnh trạng, gánh vác trọng trách nặng nề, binh gia chuyện thường, ai có thể bảo đảm Thiên tuế lần này đi có thể cắm được cờ thắng trận, nội ba tháng, bình định giang Nam đây?”

Triệu Quang Nghĩa tiếp lời nói: “Thực ra cũng không thể trách Mộ Dung tiên sinh, lập quân lệnh trạng chỉ là câu mà bổn vương tức thời nghĩ ra, không liên quan gì đến Mộ Dung tiên sinh”.

Trình Vũ tức giận: “Thiên tuế…”

Triệu Quang Nghĩa vội ngăn hắn lại, khẽ mỉm cười nói: “Cho dù lập được quân lệnh trạng, đại ca hắn…lại có thể coi ta là gì đây?”

Triệu Quang Nghĩa hiểu Triệu Khuông Dận hơn cả Triệu Khuông Dận hiểu hắn, vị đại ca này hùng tài đại lược, chỉ điểm thiên hạ, cử trọng nhược khinh, nhưng bỏ long bào ra, cũng không bằng một huynh trưởng nhân hậu từ ái thậm chí hơi thích nịnh mà thôi. Những gì mình biểu hiện ra, chẳng qua chỉ là lập chiến công mà thôi, hắn ngay cả có cảnh giác, thì huynh đệ trong nhà cũng không đến mức có chuyện quá đáng.

Hắn thở dài, chậm rãi đứng dậy, nắm chặt hai đấm, mắt hưng phấn, trầm giọng nói: “Nhưng…dù không lập được quân lệnh trạng, bổn vương cũng nhất định phải lập được đại công, lập được công đầu. Việc này, chỉ có thể là thắng, không thể bại, không tiếc bất cứ thứ gì”.

Triệu Khuông Dận rời khỏi điện, Vương Kế Ân bước tới vào trong đại nội, lúc đi tới cửa, bỗng nhìn thấy Vương Kế Ân , Vương Kế Ân bị hắn nhìn chằm chằm, sợ hãi nói: “Quan Gia…có gì dặn dò ạ?”

Triệu Khuông Dận suy nghĩ một chút rồi nói: “Nghĩa phụ của ngươi từng nhậm giám quân nhiều năm, có nhiều chiến công, ngươi vẫn…đi bên cạnh hắn chứ?’

“Vâng”.

“Ồ…ngươi đi theo nghĩa phụ nhiều năm, thông võ lược, mấy năm này, ngươi hầu hạ Trẫm tận tâm tận lực, Trẫm phong cho ngươi võ đức sứ, theo Tấn Vương đi nam hạ, lập chiến công trở về, để công danh sáng lạn Vương thị, ngươi thấy sao?”

Vương Kế Ân ngẩn người, rồi lập tức nói: “Nô tỳ tuy có kiến thức trong quân điều binh khiển tướng, nhưng nào dám so với tướng quân lãnh binh đánh giặc, song vẫn nghe lệnh hành sự, xông pha chiến đấu, làm nhất mã tiền tốt, nô tì theo Tấn Vương, nô tỳ sẽ cố gắng hết sức, sẽ không để Quan Gia phải xấu hổ”.

“Ồ…” Triệu Khuông Dận gật đầu hài lòng nói: “Được, đợi chiếu lệnh, ngươi theo Tấn Vương đi Giang Nam. Đúng rồi, ngươi đi truyền lệnh, lệnh Triệu Quang Mỹ lập tức vào cung, vào đại nội gặp Trẫm, còn nữa, dặn dò lễ bộ, dự tính ca ngợi Dương Hạo, Tiêu Hải Đào, Trương Đồng Châu”.

“Tuân chỉ!” Vương Kế Ân vội thi lễ đi ra.

Triệu Khuông Dận đi vào đại nội, vào trong hoa viện, bỗng thấy Vĩnh Khánh hai tay chống nạnh, đứng ở trong viện hét: “Thực là đồ bỏ đi, một cái cây mà cũng không trèo được à? Nhanh đi mang cái thang đến đây, à không, không, cầm cái cưa đến…”

Giọng the thé ở trên cao nói đi nói lại: “Thực là đồ bỏ đi, là đồ bỏ đi, đến cái cây cũng không leo lên được…”

Triệu Khuông Dận vừa nghe thấy hiểu được mọi chuyện, là con vẹt nói, dở khóc dở cười, bước lại hỏi: “Vĩnh Khánh con lại ở đây nghịch gì vậy hả?”

“Phụ thân!” Vĩnh Khánh quay đầu lại thấy hắn, vội chạy đến bên cạnh, hậm hực nói: “Không phải là Vĩnh Khánh làm loạn gì cả, cái thoa châu ngọc bị con chim tha đi, để nó trên cây không chịu trả lại cho con, cầm hạt dưa đến cho nó ăn nó cũng không xuống…”

Con vẹt đậu trên cao lại kêu: “Không phải Vĩnh Khánh làm loạn, không phải Vĩnh Khánh làm loạn…”

Triệu Khuông Dận ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy cây bạch quả cao cao, thân cây xù xì, tán cây cao mấy trượng, thân cây thẳng tắp, bảo tiểu hoàng môn trèo lên cũng thực là làm khó bọn họ.

Triệu Khuông Dận bật cười nói: “Con vẹt này chỉ biết nói vẹt theo, không hiểu tiếng người, con tức giận mắng, chẳng hóa đàn gảy tai trâu?”

Con vẹt trên cây lại kêu, Triệu Khuông Dận không mắng nó, hai hàng lông mày hắn nhướn lên, quát: “Các người tối thui”.

Triệu Khuông Dận đứng dưới gốc cây bạch quả, bỗng hét lớn một tiếng, con vẹt bay đi, tuyết đọng trên cây rơi lả tả xuống, chỉ thấy tán cây lắc lư, rồi tiếng “Rắc” kêu lên, Triệu Khuông Dận đánh gãy thân cây to bằng miệng bát.

“Ô, cha thật giỏi”. Công chúa Vĩnh Khánh nhảy nhót đến bên thân cây đổ trên mặt đất, cầm lấy chiếc thoa của nàng, vui sướng chạy lại, Triệu Khuông Dận nhướn mũi, nói: “Được rồi, mau về điện đi, giờ thời tiết lạnh rồi, con cẩn thận không cảm lạnh đấy”.

Rồi hắn nhìn về phía cây khô bị gãy, không khỏi nao lòng nói: “Cây hạnh này đã chết rồi, thân cây khô khốc sao lại đứng trong ngự viện chứ?”

Một tiểu hoàng môn bên cạnh nói: “Quan Gia, đây là cây mùa xuân mới cấy trồng, đương nhiên không hiểu được nó có sống được hay không, cho nên chưa vội bỏ nó đi. Đợi đến khi khai xuân, sẽ đào cái cây này đi ạ”.

“Ồ…” Triệu Khuông Dận cất bước đi, chưa đi được máy bước bỗng dừng lại, quay đầu nhìn cái cây bị gãy đó, mấy tiểu thái giám kéo cây đổ ra ngoài, Triệu Khuông Dận đăm chiêu suy nghĩ, một lúc sau thì tự lẩm bẩm: “Cây đã chết, cây đã chết, người thì sao?”

Công chúa Vĩnh Khánh hít hít cái mũi, tiếp lời: “Người sống, câu này cũ rồi, phụ thân chưa nghe bao giờ sao?”

Triệu Khuông Dận cười kỳ dị, thấy cái cây đổ chỉ còn lại cái gốc, khẽ nói: “Thật sao, người ơi, nhất định sống sao?”

******

Mới qua vài ngày, Diệu Diệu như một người khác, dung nhan tiều tụy.

Từ khi Dương Hạo rời khỏi Biện Lương, cô luôn mong chờ một ngày hắn trở về, mỗi ngày chờ đợi, mỗi ngày đều hi vọng, Thiên Kim Nhất Tiếu lầu không biết bao nhiêu tỷ muội hâm mộ cô may mắn, kỹ nữ lầu xanh gặp biết bao quan lại cũng không phải không có, nhưng quan phần lớn là những ông trung lão niên, người trẻ giống như Dương Hạo, quan cư ngũ phẩm, tiền đồ rộng lớn có mấy người? Huống chi quan đó cũng có quan giàu quan nghèo, con đường kinh doanh của Dương Hạo, trong tay có Thiên Kim Nhất Tiếu lầu buôn bán sinh lời, lại còn là một nam nhi tốt, nếu như làm phu nhân của hắn là mơ ước của bao người.

Nhưng trong một đêm tất cả đều biến mất, tin dữ truyền đến như tiếng sét giữa trời quang, nó vùi dập hy vọng, hạnh phúc của Diệu Diệu, trong Thiên Kim Nhất Tiếu lầu khắp nơi đều là ánh mắt mỉa mai, còn có tin đồn nàng dùng gia sản bạc triệu, rồi đủ mọi ý nghĩ về nàng, khiến nàng mất hết dũng khí.

Nàng đến phủ đệ của Dương Hạo, tâm trí hoang mang rối loạn khiến cô bị người hầu của Dương phủ đuổi ra, Dương Hạo ngồi trong phòng ngơ ngác mấy ngày, ai cũng khó vào gặp đến Liễu Đóa Nhi phái người đi hỏi thăm cũng bị cô từ chối.

Ngày hôm nay, một người già chạy tới cửa nói: “Phu nhân, Biện Hà bang tiết lương đại gia thỉnh kiến phu nhân”.

Diệu diệu nhìn linh vị dâng hương ngẩn đầu lên, một lúc sau mới kịp phản ứng, nàng đứng dậy, đưa tay nói: “Mời Tiết đại gia vào”.

Người thân cô có thể không gặp, Tiết nương lại là một huynh đệ kết nghĩa của quan nhân, cô sao có thể không gặp?

Tao Trư Nhi cùng đi với Tụ Nhi lén lút đi đến, giờ Biện Lương chỉ có hắn biết kế hoạch giả chết của Dương Hạo, lòng mang kế hoạch nham hiểm, thấy vị này tiều tụy như người sắp chết, hắn khó mà không chột dạ, nhưng Dương Hạo đã dặn hắn không thể không làm, Tao Trư Nhi bước vào phòng.

“Diệu Diệu bái kiến đại bá”. Diệu Diệu vừa gặp Tao Trư Nhi, không khỏi nhớ tới Dương Hạo, nước mắt ngắn dài lăn trên má.

“Ôi Diệu Diệu cô nương, hiền muội…hiên đệ muội, không…không được khóc nhé”. Tao Trư Nhi luống cuống, đưa tay không tiện, lập tức rút ra một chiếc khăn tay, rồi đánh mắt sang Tụ Nhi cầu cứu.

Tụ Nhi vội đỡ Diệu Diệu, dịu dàng nói: “Người chết không thể sống lại, phu nhân chớ đau lòng quá”.

Tụ Nhi an ủi, Diệu Diệu lúc này mới không khóc nữa, mời bọn họ ngồi. Tao Trư Nhi giả bộ thắp cho người huynh đệ kết nghĩa nén hương, hắn hắt xì vài cái rồi xoa mũi ngồi xuống nghiêm chỉnh, không biết bắt đầu nói những lời Dương Hạo dặn dò từ đâu.

Tụ Nhi an ủi Diệu Diệu, Diệu Diệu lúc này cũng đã đỡ buồn, giờ cũng là cơ hội thổ lộ, nói rồi ôm lấy vai cô mà khóc. Tao Trư Nhi đảo mắt, chỉ nghĩ tới chuyện làm sao có thể nói với cô ấy chuyện tái giá.

Thực ra Dương Hạo dặn hắn cũng chỉ là dựa vào thân phận đại bá mà lo lắng với Diệu Diệu, sau một lúc trấn tĩnh lại, thấy thích hợp có thể khuyên nhủ cô nên tìm một đức lang quân và lấy, để tránh sau khi qua tuổi thanh xuân này, nhưng Tao Trư Nhi là người thông thuộc, hắn nào hiểu được khi nào mới là gió êm bể lặng? Nước sông Biện Lương chẳng có ngày nào lặng cả, dù sao thì Dương Hạo cũng “Chết” rồi, mình giờ có khuyên bảo, chắc là cũng hợp lý.

Chương 367: Ván bài lật ngửa. (1) 

Tao Trư Nhi tính toán hồi lâu, ho nhẹ một tiếng, nói ra lời mà hắn cho là thỏa đáng nhất nói: “Diệu Diệu này, người thì cũng đã chết rồi, đau thương cũng không có tác dụng gì, cô cần phải sống tốt lên, điều này...người sống không thể khiến…cô thấy cô còn trẻ vậy, dung mạo xinh đẹp, nếu như cả ngày chỉ buồn thương, Hạo Tử ở dưới suối vàng cũng không an lòng”.

“Hứ?” Diệu Diệu ngẩng đầu, không hiểu vị lão bá này nói hồ đồ cái gì.

Tụ Nhi trừng mắt nhìn hắn, sợ tên ngu ngốc này nói ra những điều không nên nói.

Tao Trư Nhi căng thẳng toát cả mồ hôi hột, viên viên góc áo nói: “Điều may mắn là Hạo Tử để lại cho cô một gia nghiệp lớn, cơm áo không phải lo nữa, đó là tâm huyết của hắn có được, cô cũng nên lấy lại tinh thần mà lo liệu, coi như là…ồ…coi như là niệm tưởng. Ồ…đây là…cô xem cô còn trẻ như vậy, ai mà ức hiếp cô, thì cô cứ nói với ta, ta và Hạo Tử không phải huynh đệ thân, còn hơn cả huynh đệ thân thiết”.

Diệu Diệu hơi cúi đầu nói: “Đa tạ đại bá an ủi, Diệu Diệu biết rồi”.

Tao Trư Nhi vội xua tay nói: “Không phải cảm ơn, người một nhà nói gì câu khách khí ấy, hic, cô đang lúc thanh xuân, hơn nữa tuy có danh phận với Hạo Tử, dù sao thì cũng chưa chính thức bước qua cửa, cũng không cần thủ lễ gì cả, sau này ấy, nếu như cô thấy người đàn ông nào thật thà, nếu như có ý với hắn thì không có gì phải kiêng kị cả…”

Diệu Diệu mặt từ tái nhợt chuyển sang đỏ ửng, cô nhướn mày, thở dài, lấy lại tinh thần, từ từ cúi đầu, khẽ nói: “Đại bá, ngươi…ngươi thực là huynh đệ tốt nhất của quan nhân nhà ta…”

Tao Trư Nhi nghe vậy vui mừng, mặt mày hớn hở nói: “Ồ, ta từ nhỏ đã thân với Hạo Tử, mặc chung chiếc quần đến khi lớn, chưa bao giờ tranh giành nhau, ta và hắn tuy hai mà một, chuyện của hắn cũng chính là chuyện của ta, hắn không còn nữa, ta nhất định sẽ quan tâm đến cô, nếu không thì ta cũng không xứng là huynh đệ tốt nữa, ha ha ha…”

Diệu Diệu đứng dậy, nói: “Ngươi…ngươi giờ đã không phụ lòng quan nhân nhà ta rồi”.

Tao Trư Nhi vội nhấc mông: “Hẳn vậy, hẳn vậy, nếu cô có chuyện gì thì cứ nhanh chóng nói với ta, ta không giúp cô thì ai giúp cô, về sau ta có thời gian sẽ đến, nếu cô…”

“Không cần đâu”. Diệu Diệu lạnh lùng phất tay áo: “Diệu Diệu cảm thấy rất mệ, có gì xin thứ lỗi”.

“Hả?” Tao Trư Nhi thầm nghĩ: “Ta còn chưa nói hết, chưa gì đã tiễn khách sao?”

Tụ Nhi xấu hổ, đứng dậy nói với Diệu Diệu: “Phu nhân xin bảo trọng, xin vào nghỉ ngơi, chúng ta đi đây”. Nói rồi kéo Tao Trư Nhi bước đi.

Tao Trư Nhi không hiểu gì cả, vừa ra khỏi đại môn Dương gia, Tụ Nhi liền véo tai hắn, nghiến răng nghiến lợi nói: “Tên ngốc này, ngươi là bề trên sao lắm lời thế? Ngươi muốn bảo người ta mang theo gia sản kếch xù đó gả cho ngươi phải không?”

Tao Trư Nhi vội bào chữa: “Ta nào có nói thế? Ta là loại người gì nàng còn không biết sao? Có ý với vợ của huynh đệ mình? Trư Nhi ta là loại người vậy sao?”

Tụ Nhi tức giận nói: “Chàng không phải người như vậy, nhưng những lời nói ra thật vô vị, may mà người ta còn để lại chút thể diện cho chàng, chàng không nghe người ta nói chàng là huynh đệ tốt nhất của quan nhân người ta, có nghĩa là đã nhắc nhở cho chàng rồi sao, chàng còn nói năng hàm hồ như vậy?”

Tao Trư Nhi ngẩn người nói: “Ta nói hàm hồ cái gì nhỉ? Ta có nói hàm hồ cái gì đâu?”

Tụ Nhi điên lên hét lớn: “Người ta còn nghĩ chàng ham muốn vẻ đẹp và tiền của nhà người ta, muốn người ta dâng cho chàng đấy. Chàng không hiểu hay giả vờ không hiểu đấy hả?” Nói rồi phất tay áo bỏ đi.

Tao Trư Nhi ngẩn tò te, dậm chân kêu oan: “Những lời ấy ta nào có nói, ta có thể là loại vô liêm sỉ như vậy sao? Đây…đây…ngầm ý gì hả? Người ta có lòng tốt thì lại coi là loại không ra gì, đánh chết ta ta cũng không đến nữa. Cái tên Hạo Tử đáng chết mà không chết, lại còn hãm hại người nữa.

Trư Nhi nói rồi đuổi theo Tụ Nhi.

Trong phòng Dương Hạo, Diệu Diệu ngồi trên giường khóc rống lên, chị em trong Nhất Tiếu lầu ác độc khỏi phải nói, cô có thể chịu được sao, không thể tưởng tượng được huynh đệ kết giao duy nhất với quan nhân cũng đục nước thả câu, thi thể quan nhân còn chưa lạnh, hắn đã vô liêm sỉ đến thúc giục mình tái giá. Người này còn có thể tin cậy sao? Nhất Tiếu lầu có toàn rắn độc, đến đây lại có người như hắn mưu chiếm tài sản, thế giới này còn có nơi nào cho mình sống đây?

Tấm ván gỗ, đinh, búa được đưa đến giữa phòng, đám sai vặt bị nàng đuổi đi hết, Diệu Diệu đóng chặt đinh vào tấm ván, đám sai vặt nghe thấy có tiếng động chạy lại, giật mình hoảng hốt: “Phu nhân, phu nhân làm gì vậy?”

Diệu Diệu trong phòng lạnh lùng nói: “Tự kỷ ôm oán hận trong lòng, bất kỳ người nào cũng không được vào…”

Lão người hầu ngạc nhiên nói: “Phu nhân, bà nói gì vậy?”

Trong phòng vắng vẻ, một lúc sau vọng ra tiếng Diệu Diệu: “Các người thu dọn đồ đạc trong phủ, đi hết đi. Diệu Diệu phu quân đã chết, sinh không luyến tiếc, tự kỷ trong phòng dâng hương cho phu quân, từ nay về sau tuyệt thực…lấy cái chết trọn tiết”.

Binh quý thần tốc. Triệu Khuông Dận quyết định xuất binh, lập tức ra tay quyết không chậm trễ. Ngày này, Hồng lư tự tín sứ/người mang tin tức vội vàng chạy tới Giang Nam, ngày thứ ba Tào Bân mang kỵ binh lên đường, cùng với thị vệ mã quân đô ngu hầu Lý Hán Quỳnh, phân bốn phương quán sự điền khâm tộ tới kinh nam.

Theo sự sắp xếp của Triệu Khuông Dận, lần này diệt Đường cần xuất bốn lộ đại quân, tổng cộng ước tính hơn mười vạn người, Tào Bân dẫn quân Kinh Nam trước, điều Kinh Hồ thủy quân đánh Trì Châu, lấy bờ nam đông Trường Giang cửa ải hiểm yếu của quân Đường, Triệu Quang Nghĩa thì dẫn bộ kỵ binh ngày đêm đuổi tới Hòa châu, ở Thái Thạch Cơ gặp Tào Bân, đội quân hùng hậu xông tới Kim Lăng. Kinh sư thủy quân từ biện thủy mà phá băng vào Dương Châu, từ Dương Châu tấn công sang Nhuận Châu.

Sau khi mất rất nhiều sức lực phá băng, mặt sông một đêm lại kết băng như cũ, nhưng may mà đội thuyền dài mười mấy dặm, sau khi một con thuyền đi qua, nước sông kết băng cũng không sao cả, hơn nữa càng đi về phía nam, mặt băng càng mỏng, chiến thuyền lại nhẹ, cho nên càng đi tốc độ càng nhanh.

Chi đội thứ tư là quân Ngô Việt. Triệu Khuông Dận truyền lệnh, mệnh thiên hạ binh mã đại nguyên soái, Ngô Việt Vương dẫn mấy vạn quân Ngô Việt từ Hàng Châu bắc thượng tấn công thường Châu, phối hợp với thủy quân Tống Quốc chiếm lấy Nhuận Châu, sẽ tấn công Kim Lăng, và phái Tống Quốc đại tướng Đinh Đức Dụ là tiên phong cho Ngô Việt quân, kỳ thực là giám quân, đồng thời lại lệnh hoàng châu thích sứ Vương Minh dẫn quân tấn công Vũ Xương, khống chế quân Đường tuyến tây, phòng ngừa bên đông viện trợ.

Tiêu Hải Đào được thánh chỉ lập tức vào cung gặp Lý Dục, Lý Dục nổi giận đùng đùng khiển trách là người không mắt, phụng chiếu mà không hướng, sứ giả thượng quốc bị ám sát, Đường Quốc bảo hộ bất lợi; Bản đồ địa lý sơn hà không đủ tường tận, qua loa cho xong thì phải chịu tội, và tuyên bố Đường Quốc vô lực che chở sứ giả thượng quốc, Tống Quốc lập tức triệu về sứ đoàn. Xong xuôi, Tiêu Hải Đào phủi tay áo đi, lập tức dẫn đầu sứ về nước, đi nhanh như bay, không dừng lại nghỉ.

Lý Dục thấy hành văn của Triệu Khuông Dận tuy nghiêm khắc, nhưng không nghiêm phạt có tính thực chất, không khỏi thầm nghĩ may mắn, vội viết lại một bức thư thỉnh tội, hết sức lo sợ thỉnh tội với Triệu Khuông Dận, lệnh người chuẩn bị đại lượng ngân bạc tiền tài, ca kỹ vũ nữ, chuẩn bị một phần hậu lễ xoa dịu cơn giận của Tống Quốc.

Qua vài ngày, mã bộ quân Biện Lương, thủy quân đồng thời lên đường, đại quân dũng mãnh vô cùng, thống binh chủ soái chính là Khai Phong phủ doãn, quyền tri Giang Nam hành doanh mã bộ quân chiến trạo đô bộ thự Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa. Mã quân, bộ quân, thủy quân được tin xuất động, gây náo động toàn phủ Khai Phong, trên đường người tấp nập đều đến xem đại quân đang trên phố tuyên thệ xuất quân rồi nam hạ.

Tao Trư Nhi và Tụ Nhi chen chúc trong đám người bên sông Biện Hà xem thủy quân triều đình uy vũ hùng tráng, ai nấy đều khen ngợi. Thủy vận tứ bang lần này cũng xuất quân, rất nhiều người cũng ra tay giúp đỡ, nhưng chiến hạm lại đều sử dụng chiến hạm kiểu mới mà triều đình bí mật tạo ra, do người bắc không tiện dùng thuyền, cho nên hệ thống động lực chiến hạm của triều đình áp dụng mái chèo gỗ, có to có nhỏ, có bốn mái, tám mái, mười hai mái, thậm chí có chiến hạm ba mươi hai mái chèo, binh sĩ chỉ cần hai chân choãi ra đạp về phía trước, sẽ đạt được tốc độ cực nhanh, như treo buồm lớn.

“Ôi, quả nhiên là uy vũ hùng tráng, đại quân xuất binh, đứng ở đây xem mà cũng thấy khí thế, thấy nhiệt huyết sục sôi, nếu mình mà ở trong đó, thì không biết cảm giác thế nào nhỉ. Chẳng trách Hạo Tử nói với ta, người bình thường trông thì nhã nhặn nhưng cũng rất uy hùng, đến khi đao thật thương thật hai quân chạm nhau cũng sẽ thay đổi thành thù hận hết, sau vài chiêu, người chết chỉ trong chớp mắt. Nếu ta cũng làm binh, nàng nói xem có thể được chức tướng quân trở về í nhỉ?”

Tụ Nhi cười nhạt: “Tỉnh dậy đi chàng ơi, nói còn chẳng nên lời, việc còn không làm được, có mỗi lòng tốt đến an ủi người ta, kết quả bị người ta coi là đồ dã tâm, chàng còn muốn làm quan? Chàng mà ở chiến trận, không làm thịt lợn cho người ta xơi mới là lạ”.

Trư Nhi xấu hổ, ngượng ngùng nói: “Ta…ta chưa bao giờ khuyên con gái, làm sao mà biết nói cái gì mới không làm đau lòng cô ấy? Thôi, không nhắc đến cô ấy nữa, người con gái này có điểm tốt xấu gì mặc kệ, Trư Nhi ta quang minh đường đường thế này, bị cô ta coi thành loại nào thì loại, chẳng có gì đáng bàn nữa”.

Tụ Nhi không nhịn được bật cười: “Thế có trách được người ta không? Lời chàng nói, đến ta còn hiểu lầm”.

Hai người đang đi trở về, thì nghe thấy phía trước có người nói: “Mấy ngày nay có rất nhiều tin nóng hổi, mấy ngày trước có người con gái muốn chết vì người mình yêu, đã đóng đinh chặt cửa, tự tuyệt thực mà chết trong phòng, hôm nay triều đình phát đại binh chinh phạt Đường Quốc, ồ ha ha, không biết hai ba hôm nữa sẽ có tin gì đây”.

“Tuyệt thực? Chết theo chồng? Ghê gớm nhỉ, triều đình biết chắc chắn sẽ treo biển tán thưởng”.

“Người đã chết rồi, hư danh còn tác dụng gì nữa? Nghe nói cô ấy là một mỹ nhân xinh đẹp như hoa như ngọc vậy, năm ngoái có cuộc thi hoa khôi, là trạng nguyên Diệp bảng đấy. Trong tay còn có Nữ Nhi Quốc của Thiên Kim Nhất Tiếu lầu nữa, tiền tài thiếu gì, xem xem sao cô ấy lại nghĩ quẩn vậy chứ? Cô ấy nếu như mời ta ở rể có phải tốt không, không hiểu ma xui quỷ khiến gì khiến cô ấy như vậy…”

“Cái gì?” Tao Trư Nhi nghe vậy giật mình, nhảy cẫng lên, kéo lấy tay áo người nọ quát: “Huynh đài xin dừng bước”.

Người đó giật nảy mình, xòe hai tay ra, mặt tím tái: “Làm sao, muốn đánh nhau à?”

Tao Trư Nhi vội buông tay ra: “Huynh đài hiểu lầm rồi, ta muốn hỏi, người con gái mà vừa nãy huynh nói đến là ai vậy?”

Người đó trừng mắt nói: “Nghe nói là người chủ của Nữ nhi quốc, là trạng nguyên Diệp bảng cuộc thi hoa khôi năm ngoái.

Tao Trư Nhi đừ người ra, vội hỏi: “Đã chết rồi sao?”

Người đó trừng mắt nói: “Ta không biết. Bốn năm ngày hôm nay rồi, không chết thì cũng sắp chết rồi, huynh đài muốn đi xem sao?”

Tao Trư Nhi không nói không rằng quay đầu bỏ chạy, Tụ Nhi nghe rõ ràng như vậy cũng không khỏi ngạc nhiên, vội đuổi theo sau hắn.

Tao Trư Nhi chạy đến Dương phủ thở hồng hộc, giờ Dương phủ trống trơn, hắn đi đến hậu viện, chỉ thấy Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi ngồi ở cửa, phía trước là chiếc bàn, bên trên bày thịt dê la liệt, mỗi người một chiếc bát đang uống rượu ăn thịt, miệng nhồm nhoàm.

Nhìn thấy hắn đến, hai người nhận ra hắn, vội nhảy dựng lên: “Tiết đại gia, ngươi đến vừa đúng lúc, Diệu Diệu cô nương cố tình tìm đến cái chết, ngươi xem làm gì mới được đây?”

Tao Trư Nhi tức giận nói: “Hai ngươi là đàn ông, mà không ngăn nổi cô ấy sao?’

Hai người bất đắc dĩ nói: “Ngăn lại kiểu gì, Diệu Diệu cô nương đã đóng đinh vào cửa, huynh đệ ta biết làm sao khi cô ấy nói chúng ta mà lại gần, cô ấy sẽ dùng kéo tự vẫn, ngươi nói chúng ta phải làm sao đây?”

Tao Trư Nhi nổi trận lôi đình quát: “Thế mà các ngươi vẫn tiệc rượu ở đây được? Chờ nhặt xác người sao?”

Chương 367: Ván bài lật ngửa. (2) 

Trương Ngưu Nhi ngượng ngùng nói: “Tiết đại gia nói vậy, huynh đệ chúng ta tuy là lưu manh nhưng cũng hiểu được chuyện giang hồ, chữ nghĩa phải đặt lên hàng đầu. Dương đại nhân đi rồi, chúng ta cũng phải làm chút cơm cho Dương đại nhân chứ, chúng ta uống rượu ăn thịt là muốn làm Diệu Diệu cô nương đói ngửi thấy mùi đồ ăn không chịu được mà ra đấy…”

Tụ Nhi hỏi: “Thế Diệu Diệu cô nương đã ra chưa?”

Lão Hắc cười nói: “Chưa, hai hôm trước còn nói, hai hôm nay không nói gì nữa cả.”

Tao Trư Nhi tức không nói gì, chỉ tay vào bàn, rồi lại chỉ sang bên cạnh, trừng mắt nhìn hai người. Hai người ngẩn người, lúc này mới hiểu ra, vội bê chiếc bàn sang một bên. Tao Trư Nhi vận đủ đan điền khí, đạp vào cửa một cái, rồi đạp vào ván gỗ, cú đá này cửa vẫn chưa văng ra. Tao Trư Nhi quay đầu bỏ chạy, thấy Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi không hiểu gì, thấy Tao Trư Nhi chạy đến cửa viện rồi xoay người, hét lớn một tiếng, chạy lấy đà, bay toàn bộ thân mình lên, bả vai huých mạnh vào đại môn. Chỉ nghe thấy “bùm” một tiếng, cánh cửa chưa mở, trục cửa bị đứt, cánh cửa bay luôn vào phòng, Tao Trư Nhi cầm chặt lấy cánh cửa lao vào.

Trương Ngưu Nhi và Lão Hắc cũng không nói nửa lời, đi cùng vào trong, không nhìn thấy người trong phòng, chỉ thấy màn buông xuống che giường. Tao Trư Nhi tiến đến kéo tấm màn lên, chỉ thấy Diệu Diệu mặc bộ đồ trắng nằm thẳng trên giường, mặt xám xịt không động đậy, phòng không có chậu than đốt, lạnh như hầm băng, hơn nữa mấy ngày không có nước uống, thấy cô chỉ còn lại hơi thở yếu ớt, không có không khí vào, Tao Trư Nhi mặt trắng bệch. 

“Mau mau mau, cầm đồ ăn đến đây.” Tao Trư Nhi vội nghĩ, Hạo Tử dặn hắn làm chuyện này, nếu như cô nương người ta sống mà chết đói, thì hắn cả đời này cũng không còn mặt mũi nào mà gặp huynh đệ nữa.

Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi vội chạy ra ngoài, rồi nhanh chóng chạy vào, tay cầm bầu rượu và cái đùi béo. Tao Trư Nhi tức giận mắng: “Hai người còn ngu xuẩn hơn cả cái đầu lợn, cô ấy giờ còn có thể nhai được, còn có thể cứu được sao?”

Tụ Nhi đẩy hắn ra nói: “Chàng thì cũng đâu có giúp được gì, đi ra chỗ khác đi.” Cô cúi xuống nghe ngóng hơi thở của Diệu Diệu, rồi đắp chăn bông lên người, quay đầu dặn dò: “Các người mau đi lấy chậu than đến, ta đi xuống bếp đặt nồi cháo.”

Cháo nấu xong, Tụ Nhi ngồi bên giường, đưa từng thìa cháo lên thổi nhẹ rồi đưa vào miệng cho Diệu Diệu, mấy thìa cháo được đút xong, Tụ Nhi vui mừng nói: “Cô ấy tỉnh rồi, cứu được rồi.” 

Không ngờ Diệu Diệu ý thức được mình tỉnh liền ngậm chặt miệng lại, không chịu để cho Tụ Nhi đút cháo. Tụ Nhi khó khăn một hồi lâu, Diệu Diệu mới thều thào nói: “Tụ Nhi… cô nương, nếu có… ý tốt, xin cô… cô cho Diệu Diệu toại nguyện, để cho Diệu Diệu đi cùng với phu quân… cho… toàn tiết đi.”

Tụ Nhi nghe vậy, sống mũi chợt cay sè, nước mắt ngắn dài nhìn về phía Tao Trư Nhi. Tao Trư Nhi như kiến bò trên chảo nóng, đi đi lại lại trong phòng, lúc thì lẩm bẩm, lúc thì nghiến răng nghiến lợi, không biết xả giận cho ai, Tụ Nhi không nhịn được nói: “Sư ca, mau mau nghĩ cách đi, như này… thực khiến cô ấy sống sờ sờ mà chết vì đói mất thôi. Đàn ông các người dã tâm thật…”

Tao Trư Nhi bỗng nhảy cẫng lên: “Kệ đi, kệ đi, việc này hết cách rồi.”

Tụ Nhi tức giận hét: “Chàng dám mặc kệ.”

Tao Trư Nhi cầm lấy tay Tụ Nhi nói: “Các người ra ngoài, ra ngoài hết đi, ta có cách khuyên Diệu Diệu hồi tâm chuyển ý rồi.”

Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi thấy hắn như vậy, ngượng ngùng nói: “Tiết đại gia muốn cứng rắn sao? Có cần trợ giúp gì không vậy?”

Tao Trư Nhi trừng mắt quát: “Giúp gì mà giúp, ra ngoài, trốn ở một nơi xa xa. Tụ Nhi, nàng cũng ra ngoài, ta có lời muốn nói với Diệu Diệu.”

Tụ Nhi cũng nghe lời, nhưng hắn còn đuổi mình đi, nói lời gì với cái cô nương kia, liền nhướn mắt lên: “Ta không nghe được sao?”

Tao Trư Nhi nói: “Cái này… nàng… nàng cứ ra ngoài đi.”

Tụ Nhi bực bội nói: “Chàng nói xem, có chuyện gì mà ta không hiểu chàng chứ, chàng nói gì, làm gì, chẳng lẽ dấu được ta? Được lắm, Tiết Lương họ Trư chàng, chàng không muốn ta nghe, bổn cô nương cũng không thèm nghe. Hôm nay đi ra khỏi cửa này, từ nay về sau, ngươi có gì thì cũng không cần nói với ta nữa, bổn cô nương đi đây.”

Tụ Nhi nói rồi bước đi, Tao Trư Nhi vội kéo lấy nàng, mặt méo xệch nói: “Thế… nàng ở lại cũng được, nhưng… nhưng nàng phải đồng ý với ta, không được nói với ai cả.”

Tụ Nhi nở nụ cười mừng rỡ, Tao Trư Nhi có chuyện gì nàng đã muốn biết thì có giấu cũng chẳng được, giờ hắn chịu nhượng bộ như vậy, có nghĩa là với hắn nàng đã chiếm được một vị trí vô cùng quan trọng. Tụ Nhi vui vè đáp: “Được.”

“Không được nói với cha nàng.”

“Không nói.”

“Không được nói với mẹ nàng.”

“Không nói.”

Tao Trư Nhi quay đầu nhìn Trương Ngưu Nhi và Lão Hắc, hai người cùng nói: “Chúng tôi cũng không nói.” 

Tao Trư Nhi không để cho họ chút thể diện, không khách khí nói: “Không nói cũng phải ra ngoài.”

Đuổi Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi, Tao Trư Nhi đóng chặt cửa phòng, rồi trở lại giường, ngồi xuống, nhìn Diệu Diệu mặt trắng bợt, lúng túng nói: “Diệu Diệu, Hạo Tử trước khi đi đã phó thác cho ta, nếu cô có chuyện không hay xảy ra, ta làm sao mà xứng đáng với huynh đệ của mình được chứ. Cô ăn một miếng đi.”

Diệu Diệu nhắm chặt mắt không nói gì, Tao Trư Nhi nghiến chặt răng, nhìn ra phía ngoài cửa, nhỏ giọng nói: “Diệu Diệu, Hạo Tử hắn… hắn thực ra là chưa chết, cô đừng có nghĩ không thông như vậy nữa.”

Diệu Diệu bỗng mở to hai mắt, nhìn chằm chằm vào mắt hắn, môi mấp máy, nhưng nói không ra lời.

Tao Trư Nhi vỗ đùi, nói ra kế hoạch giả chết thoát thân của hắn rõ ràng cho cô nghe, Tụ Nhi đứng một bên cũng ngẩn người ra. Diệu Diệu ở trên giường ban đầu thì còn tỏ vè ngạc nhiên, người hơi động đậy, như muốn ngồi dậy, nhưng ánh mắt thì lại tỏ ra buồn bã, sắc mặt vô cùng khó coi.

Tao Trư Nhi đã nói ra chuyện này, rồi bê bát cháo đến bên vui vẻ nói: “Nào, ta giờ đã nói hết cho cô nghe rồi, cô có thể yên tâm được rồi chứ?”

Thìa cháo đưa đến miệng Diệu Diệu, cô quay đầu, tránh nó, nói nhỏ: “Tiết đại ca, ngươi nói là… đại nhân… chỉ là lợi dụng Diệu Diệu, đại nhân… đại nhân vốn không thích Diệu Diệu, đúng không?”

Tao Trư Nhi ngẩn người, cứng lưỡi không nói được gì. Diệu Diệu nhắm tịt mắt lại, nước mắt dàn dụa chảy xuống.

Tao Trư Nhi khó xử nói: “Diệu Diệu cô nương.”

Diệu Diệu mặt mày ảm đạm nói: “Tiết đại ca, ngươi không cần nói nữa, Diệu Diệu ngu xuẩn, có sống… thì cũng là trò cười cho thiên hạ…”

Tao Trư Nhi đảo mắt nhìn quanh, Tụ Nhi đứng bên cạnh nói: “Đúng vậy, Dương Hạo kia chính là con lợn đã lợi dụng cô, cho nên coi cô chẳng ra gì, giờ gia sản kếch sù đã rơi vào tay cô, thành Biện Lương không biết có bao nhiêu người con gái muốn hắn lợi dụng như vậy, hắn nhất định là coi cô ngốc nhất, cho nên mới chọn cô. Hắn nhất định là coi thường cô, cho nên tuy cô xuất giá, nhưng lại chưa động phòng cùng cô, để cho cô một thân trinh tiết để cô tái giá. Hắn nếu như không phải vô tình vô nghĩa với cô, sao lại bảo sư ca ta – một tên ngốc nghếch tới chăm sóc cô…”

Diệu Diệu nghe xong, mắt lại sáng lên.

Tao Trư Nhi vừa nghe thấy không ra sao cả, dần dần mới hiểu ra, mặt không khỏi vui vẻ, phục Tụ Nhi, rồi quay sang nói với Diệu Diệu: “Diệu Diệu cô nương, Trư Nhi thật không ngờ tới là Hạo Tử lại tình thâm ý nặng như vậy. Người tốt như cô, nếu hắn cũng nhẫn tâm phụ lòng cô, thì đến Tiết Lương ta cũng không bỏ qua cho hắn.

Hạo Tử thực sự là rất thích cô, nếu không hắn chết thì chết đi, hà tất nhất định phải sắp xếp cho cô một con đường đi? Con người hắn là thuộc loại con lừa, dắt cũng không đi, đánh cũng không lui, làm việc luôn như vậy, ta cũng quen rồi. Khụ khụ… nhưng cô cứ yên tâm, lòng người cũng đều là thịt, giờ tình hình này, ta cho dù thế nào cũng phải giúp cô. Ta là huynh đệ hắn, lời ta nói hắn không thể không nghe. Cô gọi một tiếng đại bá, ta tuyệt đối sẽ không để cho cô gọi một cách vô ích…”

Diệu Diệu hơi mở mắt, khẽ lắc đầu nói: “Không, đại nhân… có cái khổ của đại nhân, đại ca ngài đừng làm khó chàng. Diệu Diệu… Diệu Diệu biết đại nhân không sao… cũng an tâm rồi. Diệu Diệu… là thân nô tỳ, vốn không xứng với đại nhân, từ nay… sẽ không ấu trĩ hoang tưởng nữa. Nữ Nhi quốc là của đại nhân, Diệu Diệu sẽ lo liệu cho tốt, lo cho nó cả đời.. cả đời… sớm muộn cũng cho nó hoàn hảo hoàn bích quy Dương…”

Tao Trư Nhi động lòng nói: “Diệu Diệu cô nương, cô… cô…”

Diệu Diệu quay người sang Tụ Nhi, mỉm cười nói: “Tụ Nhi tỷ tỷ, ta… ta đói quá, muốn ăn gì đó.”

Trương Ngưu Nhi đưa vài cô nương từ Nữ Nhi quốc đến lo liệu cho Diệu Diệu, Tao Trư Nhi thấy tất cả đã sắp xếp ổn thỏa, lúc này mới cùng Tụ Nhi cáo biệt đi về, trên đường còn lẩm bẩm tán dương không ngớt: “Cô nương này giỏi thật, tuổi còn nhỏ, băng thanh ngọc khiết. Hạo Tử không biết mấy đời cao số mới có được cô nương này. Cô nương người ta hiểu chuyện, nàng xem xem, không oán hận hắn chút nào, không quấn quýt lấy hắn, cũng không chiếm tài sản của hắn. Ôi thực phúc hậu, Hạo Tử thực là nghiệp chướng… híc.”

Tụ Nhi lấy tay che miệng cười, Tao Trư Nhi trừng mắt nhìn cô: “Nàng cười cái gì, ta nói có gì không đúng sao?”

Tụ Nhi cười khanh khách nói: “Chàng nói đúng, cái gì gọi là tình thâm, là băng thanh ngọc khiết vậy? … Nhưng mà, nói cô ấy thật thà, ta thấy chưa chắc.”

Tao Trư Nhi không phục nói: “Diệu Diệu cô nương làm sao mà không nhu thuận chứ?”

Tụ Nhi bĩu môi nói: “Diệu Diệu cô nương nói sẽ không tính toán nhân duyên này, chàng nghĩ sao?”

Tao Trư Nhi trừng mắt: “Thế thì sao được? Một cô gái tốt như vậy, thắp đèn lồng đi tìm còn khó. Hạo Tử làm việc không đến nơi đến chốn, ta nếu không nhúng tay vào, trời sẽ giáng sấm sét xuống. Mấy ngày nữa ta sẽ đi tìm hắn, việc này ta không kệ được. Hắn nếu còn nhận ta làm huynh đệ, thì hắn phải đưa Diệu Diệu cô nương bước qua cửa cưới về. Nếu không thì, ta tuyệt đối sẽ không để yên cho hắn.”

Tụ Nhi vẫn cười khanh khách nói: “Oa, có vị đại bá ở trên trời rơi xuống giúp cô ấy hành sự, Diệu Diệu cô nương đương nhiên có thể ngoan ngoãn hiền lành rồi. Nếu không thì chàng muốn cô ấy làm sao đây? Một người con gái nhà người ta, lẽ nào cô ấy đi cầu khẩn Dương Hạo cưới cô ấy về sao? Dương Hạo vốn có ý với cô ấy, nếu không thì cũng không cần nhọc lòng sắp xếp đường đi cho cô ấy, giờ cô ấy bỏ tình nghĩa ra nhiều như vậy cho Dương Hạo, lại được chỗ dựa là chàng nữa, Dương Hạo cũng biết còn có sự lựa chọn thứ hai sao?

Ôi nhìn xem cái miệng ngọt ngào làm sao, dễ nghe làm sao ‘Nữ Nhi quốc là của đại nhân, Diệu Diệu sẽ lo liệu cho tốt, lo cho nó cả đời.. cả đời… sớm muộn cũng cho nó hoàn hảo hoàn bích quy Dương…’ Chậc chậc chậc, người ta nói như vậy, họ Dương hắn biết xấu hổ không lộ diện? Nữ Nhi quốc là cái thứ đã chết, mình thì cả đời ở đó mà sống được chắc, huynh đệ nhà chàng còn mặt mũi thì đi mà giả câm giả điếc. Hoàn bích quy Dương… hi hi, cũng không biết hoàn bích quy Dương ấy là nói Nữ Nhi quốc, hay là nói cô ấy…”

Tao Trư Nhi trừng mắt, một lúc sau mới giật mình thở dài: “Ta đói bụng đến muốn chết, còn có chỗ để tâm địa gian xảo sao? Nội tâm này… huynh đệ ta thực thảm hại, trong nhà đến ngọn đèn thắp cũng không có. Tụ Nhi, nàng… nàng về sau đừng có học theo con gái nhà người ta nhé. Ta tâm nhãn thực, nếu nàng chơi đùa bỡn cợt với ta, ta sẽ làm lợn để nàng bán đi, ngốc nghếch giúp nàng kiếm tiền…”

Tụ Nhi khinh khỉnh nói: “Ừm, bản thân ta cũng muốn bán quách chàng đi cho rồi, nhưng ai muốn nhỉ? Như chàng ấy, có cáp thêm tiền cũng…”

Tụ Nhi bỗng mắt sáng lên, kéo lấy tay áo hắn nói: “Vừa này chàng nói gì? Chàng nói… chàng nói muốn ta đừng có học theo con gái nhà huynh đệ chàng phải không? Có phải không?”

Tao Trư Nhi biết mình nói lỡ lời, xấu hổ vô cùng, hắn liền bỏ chạy mất dạng. Tụ Nhi vừa cười vừa nói: “Chàng chính miệng mình đồng ý nhé, tuyệt đối không được đổi ý. Nếu không… nếu không thì ta cũng tuyệt thực cho chàng xem, này, chàng không phải trốn.”

Tụ Nhi vui vẻ ra mặt đuổi theo Tao Trư Nhi: “Bổn cô nương là con gái, làm sao cũng chỉ rụt rè thôi, giờ chính là chàng mở miệng nói, hừ hừ, cả đời này, còn muốn chạy khỏi tay ngũ nương này sao…”

Chương 368:Tình cờ. (1) 

Sau khi Dương Hạo rời thuyền đi, chưa tới một canh giờ, thành Kim Lăng đã bắt đầu hạn chế ra vào.

Dương Hạo theo sự phân tích lộ tuyến tấn công của quân Tống do Bích Túc thuật lại, quân Tống giờ từ ba hướng bắc, đông tây theo đường thủy cùng tấn công, cuối cùng vây mục tiêu chính là thành Kim Lăng. Hắn muốn đưa toàn gia đình an toàn ra khỏi Giang Nam, nhất thiết phải ở trước khi ba lộ đại quân tụ hợp vượt qua đại giang, cho nên mau chóng lên đường, vừa ra khỏi thành thì vào đường bộ, lấy xe ngựa đi thẳng đến Thái Thạch cơ. Nơi này hắn từng du lãm cùng Hoàng Phủ Kế Huân, bến sông địa phương vẫn đóng quân, còn đi lại thông thương thân thiết với Kính Hồ, chỉ cần hắn đi trước khi Đường quốc phong tỏa đường thủy thì coi như an toàn rời đi.

Thiên hạ đã bắt đầu có sự thay đổi. Tống quốc vẫn phát động chiến tranh với Đường quốc, đây là lẽ tất nhiên, nhưng chủ soái lại đổi người. Thời thế có thể tạo ra anh hùng, anh hùng cũng có thể tạo ra thời thế, hai cái này vốn có tác dụng tương hỗ nhau, Triệu Quang Nghĩa thống quân rốt cuộc có ý gì, thời thế của tương lại sẽ bị thay đổi ra sao đây?

Dương Hạo không thể hiểu nổi. Càng gần Thái Thạch cơ, đại quân binh mã đi đến càng đông, nạn dân cũng không ít, đoàn người Dương Hạo cứ thế đi, đi hướng ngược lại với nạn dân chạy về phía Kim Lăng nên có chút trờ ngại, cho nên hắn chỉ có thể chọn một vài con đường nhỏ đại quân sẽ không chọn mà đi, như vậy vòng qua vòng lại có thể trì hoãn được thời gian. Đợi hắn đến Thái Thạch cơ, cờ chiến, binh giáp Thái Thạch cơ nhiều vô kể, đã không còn đường đi nữa.

Sự tấn công của Tào Bân thực sự nhanh chóng, hắn đột phá Hồ Khẩu, phá hết các trại, đại quân thủy quân hùng mạnh vô cùng. Đồng Lăng thủ tướng Đường quốc Hồ Chính được tin không sợ sệt, sức chiến đấu của Tào Bân dẫn Kính Hồ thủy quân không thể so sánh với quân tinh nhuệ Đường quốc. Nếu không phải Hồ Khẩu thủ tướng hồ đồ, đại quân của hắn đừng mơ tưởng mà đi qua được an toàn. Trong tay Hồ Chính tuy chỉ có ba vạn nhân mã, nhưng tự tin về địa lợi, thừa sức ngăn cản được mười vạn thủy binh hướng đông của Tào Bân.

Hắn tập trung ba vạn nhân mã lên trên hơn một trăm chiến hạm, phong tỏa toàn sông, thuyền dày đặc, trước sau tầng tầng lớp lớp, như một bức tường đồng vách sắt. Đại quân Tào Bân đến, thấy Hồ Chính sớm đã có sự chuẩn bị, thấy không thể địch lại được, vì thế lệnh đại tướng Tào Hàn lên bờ trước, nhân lúc Hồ Chính triển khai quân ra sông, đánh chiếm thành Đồng Lăng, phóng lửa trong thành.

Quân thủ Đồng Lăng phần nhiều là dân bản địa, vừa thấy thành bị đốt, liền mang bố mẹ vợ con lần lượt hướng Hồ Chính thỉnh cầu lên bờ cứu thành. Lúc này thế trận đã triển khai, đại quân Tào Bân khí thế hừng hực xông đến, Hồ Chính sao có thể để như vậy được? Quân Đường thấy chủ soái không đồng ý, thẳng thắn chống lại quân lệnh, trực tiếp đưa thuyền vào bờ. Tục ngữ nói quân lệnh như núi, giờ quân lệnh này lại không địch lại cốt nhục thân tình, Hồ Chính lệnh thân binh chém giết nhiều danh sĩ dẫn đầu cũng không ngăn lại được.

Lúc đó thủy quân Tống chưa tiếp chiến, thủy quân Đường trận thế đại loạn, thuyền cái ngang cái dọc, cài vào nhau, tạo ra sự bế tắc về giao thông trên mặt nước. Tào Hàn nhận nghiêm lệnh của Tào Bân không được tự ý giết dân, lửa được phóng ra chẳng qua chỉ là củi ở phố xá trong thành bị cháy mà thôi. Hắn liền ra khỏi thành mai phục, đợi quân Đường lên bở mới phát hiện mình đã quá thận trọng. Quân Đường lên bờ khóc lóc thảm thiết chạy thẳng đến thành trì, chẳng một đội hình, không đâu vào đâu, đúng là một bọn tạp nham.

Tào Hàn lập tức thổi tù và nổi trống tấn công, chỉ huy quân đánh lén. Quân Đường kháng lệnh lên bờ bị bắt giết, quân Đường trên mặt sông thì càng khỏi phải nói, đội quân Tào Bân ngông nghênh tới gần, trực tiếp lên thuyền tác chiến. Song phương hỗn chiến, Tào Hàn giết sạch đám binh Đường kháng lệnh lên bờ, cướp thuyền rồi cũng hướng thủy quân Đường bức tới.

Hồ Chính thấy đại thế như vậy, bị bại một cách bất lực, khóc rống lên, được mấy thân binh yểm trợ chạy trốn tới chiến hạm ở hậu phương tẩu thoát chạy đi báo tin.

Tin truyền tới, ven sông, quân Đường kinh hồn bạt vía, chỉ có thể xây tường cản, bắn hỏa tiễn ngăn thủy quân Tống tấn công. Tào Bân không lui, chạy tới bụi cỏ, chuẩn bị kế tiếp chuyển hướng tấn công. Lúc này, trận chiến Thái Thạch cơ đã thành công.

Triệu Quang Nghĩa vốn là một viên võ tướng, thường theo đại ca chinh nam phạt bắc, tuy chưa độc lập dẫn quân, lại cũng không am hiểu quân sự, bàn đến binh pháp càng không phải nói, còn về có phải là lý luận suông không, hôm nay sẽ chứng minh.

Hắn chỉ huy quân nam hạ, một đường ngựa không dừng vó, ngày đêm chạy, khi đến Thái Thạch cơ và nơi Tào Bân đóng quân, thủy quân Tào Bân vẫn còn chưa tới. Theo sự dặn dò của Triệu Khuông Dận, mã bộ binh của hắn cần cùng qua sông hỗ trợ tác chiến với Tào Bân, nhưng Triệu Quang Nghĩa không chờ được. Nghe nói Tào Bân chưa đến, Triệu Quang Nghĩa vui mừng khôn xiết, lập tức hạ lệnh thu thập thuyền đánh cá ven sông qua sông.

Mục đích của hắn chỉ là: tranh công.

Chiến công của Tào Bân hiển hách, được liệt vào đệ nhất võ tướng Tống quốc lúc bấy giờ. Nếu Triệu Quang Nghĩa có thể tranh công của Tào Bân trước, cơ bản không cần thủy quân hắn giúp thì công phá Đường quốc cần nút Thái Thạch cơ, đó có thể bỗng nhiên nổi tiếng, trở thành đệ nhất đại tướng thiện chiến nhất Tống quốc. Tuy nói Mân Nam còn có Phan Mỹ cũng giỏi, nhưng luận về chức quan, về danh vọng, Phan Mỹ còn kém cả Tào Bân, cũng chẳng thể so sánh với hắn. Hắn lo liệu Khai Phong mười năm, những công lao có được ai ai cũng biết đến, đến khi võ công hắn cũng giỏi nữa, tất sẽ nổi danh thiên hạ.

Nhưng nơi hiểm yếu không thể dễ tấn công, dựa vào mấy cái thuyền đánh cá lớn nhỏ mà hắn thu thập được muốn công phá cứ điểm quan trọng đâu phải dễ. Thái Thạch cơ quân Đường thủ quân tướng là mã bộ quân phụ đô bộ thự Dương Thu, binh mã đô giám Tôn Chấn, trong tay bọn họ có hai vạn binh tinh nhuệ, trận chiến Thái Thạch cơ, quân Tống bị đánh tơi bời, máu nhuộm đại giang, trận đầu đã bại. 

Triệu Quang Nghĩa tự biết dựa vào thực lực của Đường quốc sớm muộn cũng vẫn có thể đánh được, đại quân của hắn chỉ cần đánh nghi binh dẫn Thái Thạch cơ thủ quân, khiến họ không được phân binh, chỉ cần yểm trợ thủy quân Tào Bân đến rồi sẽ đánh một trận. Nhưng hắn lại định ra là trong ba tháng bình định được Giang Nam, quân lệnh trạng ấy là kết quả để bỗng nhiên nổi tiếng, nếu đánh trên nửa năm hay một năm, thì có khác gì với Da Luật Hiền đâu?

Vì cái lời thề chắc như đinh đóng cột ấy, nên Triệu Quang Nghĩa dùng cảm tử quân ngày đêm không ngừng tăng cường tấn công cứ điểm quan trọng, và mệnh lệnh hạ sát hàng loạt quân trong thành để khích lệ tam quân, nhận lời chỉ cần đánh hạ Thái Thạch cơ, cho phép binh lính cướp phá tô thành, dùng tiền tài nữ tử. Chiêu này quả nhiên dùng được, triều Thanh, Sát Cáp Nhĩ phản loạn, đại quân mắt thấy giết đến dưới thành Bắc Kinh, trong thành không có binh, hoàng đế bó tay không có kế sách. Trong thời khắc quan trọng Hiếu Trang thái hậu dùng các người hầu hạ vương tộc hoàng thân ở kinh thành lập một đội quân mấy nghìn người giao cho Chu Bồi Công đi đánh giặc. Chu Bồi Công là một thư sinh dẫn theo một đám người hầu, như vậy là một đội quân ô hợp, Chu Bồi Công dùng hai thủ đoạn biến họ thành đội quân hổ lang, giết cho Sát Cáp Nhĩ sợ hãi. Mánh khóe chỉ có hai: một là sau khi đoạt được thành trì, cho phép cướp bóc tiền tài nữ tử, hai là người tự tiện lui một bước thì giết không tha.

Triệu Quang Nghĩa dùng cũng là chiêu này, điều này so với nhân tính, có thể có tốc độ nhanh chóng kích thích người ta có dũng khí lớn nhất. Bị mê hoặc bằng mỹ sắc và tiền bạc, mã bộ binh quân Tống giống như đánh máu gà, quyết tử lập công, dùng vô số thi thể để lấp sông, tấn công lên bờ đông Trường Giang.

Nhưng kế tiếp sau đó bộ đội vận chuyển mệt mỏi, quân Tống đổ bộ không ai giúp, bị Dương Thu, Tôn Chấn đích thân dẫn binh phản công giết ở bờ đông Trường Giang. Triệu Quang Nghĩa điên tiết, cởi bỏ chiến giáp, điều khiển thuyền nhỏ nam hạ tấn công, nhưng khi hắn đến quá nửa sông, quân Tống trên bờ đã bị người Đường tiêu diệt, vạn tiễn được bắn ra, Triệu Quang Nghĩa chỉ có thể quay về Giang Tây, thu gom gỗ lớn chế tạo thành bè, tập hợp những con thuyền hai bên bờ, chuẩn bị tái chiến.

Dương Hạo lúc này chạy đến Thái Thạch cơ. Mục Vũ mang người đi thăm dò phía trước, vội vàng chạy lại thông báo tình hình phòng sông. Dương Hạo không khỏi ngạc nhiên, hắn không ngờ quân Tống đến nhanh như vậy, giờ lại phải đi về hướng nào, sợ rằng đã không còn đường ra nữa rồi. Dương Hạo đưa gia quyến tạm thời dàn xếp qua, chỉ mang theo một mình Bích Túc vẫn mặc tăng y, cùng lên Thái Thạch cơ quan sát tình hình, xem xem có hay không khả năng dùng thuyền nhỏ giữa đêm vượt sông.

Đại quân tập trung trên bờ sông, trên Thái Thạch cơ du khách thưa thớt, nhưng vẫn có ba năm khách hành hương lên núi lễ phật, phập phồng lo sợ khấn phật phù hộ.

Trước Thái Bạch lầu yên tĩnh, câu đối: “Tiến phần dương tái tạo Đường gia, bính vô thước đất thù công, chỉ lạc vào Thái Thạch cơ, cung ngày đó thần tiên mỉm cười; Hi phi tử có thể gièm pha sĩ tử, không phải thất ngôn cảm oán, chợt cởi bỏ danh lợi trói buộc, để tiên sinh nên thơ rượu ung dung.” Một công tử huyền sam ngọc diện, mày ngài hơi nhíu, khoanh tay đứng nhìn.

Sau khi Dương Hạo rời thuyền đi, chưa tới một canh giờ, thành Kim Lăng đã bắt đầu hạn chế ra vào.

Dương Hạo theo sự phân tích lộ tuyến tấn công của quân Tống do Bích Túc thuật lại, quân Tống giờ từ ba hướng bắc, đông tây theo đường thủy cùng tấn công, cuối cùng vây mục tiêu chính là thành Kim Lăng. Hắn muốn đưa toàn gia đình an toàn ra khỏi Giang Nam, nhất thiết phải ở trước khi ba lộ đại quân tụ hợp vượt qua đại giang, cho nên mau chóng lên đường, vừa ra khỏi thành thì vào đường bộ, lấy xe ngựa đi thẳng đến Thái Thạch cơ. Nơi này hắn từng du lãm cùng Hoàng Phủ Kế Huân, bến sông địa phương vẫn đóng quân, còn đi lại thông thương thân thiết với Kính Hồ, chỉ cần hắn đi trước khi Đường quốc phong tỏa đường thủy thì coi như an toàn rời đi.

Thiên hạ đã bắt đầu có sự thay đổi. Tống quốc vẫn phát động chiến tranh với Đường quốc, đây là lẽ tất nhiên, nhưng chủ soái lại đổi người. Thời thế có thể tạo ra anh hùng, anh hùng cũng có thể tạo ra thời thế, hai cái này vốn có tác dụng tương hỗ nhau, Triệu Quang Nghĩa thống quân rốt cuộc có ý gì, thời thế của tương lại sẽ bị thay đổi ra sao đây?

Dương Hạo không thể hiểu nổi. Càng gần Thái Thạch cơ, đại quân binh mã đi đến càng đông, nạn dân cũng không ít, đoàn người Dương Hạo cứ thế đi, đi hướng ngược lại với nạn dân chạy về phía Kim Lăng nên có chút trờ ngại, cho nên hắn chỉ có thể chọn một vài con đường nhỏ đại quân sẽ không chọn mà đi, như vậy vòng qua vòng lại có thể trì hoãn được thời gian. Đợi hắn đến Thái Thạch cơ, cờ chiến, binh giáp Thái Thạch cơ nhiều vô kể, đã không còn đường đi nữa.

Sự tấn công của Tào Bân thực sự nhanh chóng, hắn đột phá Hồ Khẩu, phá hết các trại, đại quân thủy quân hùng mạnh vô cùng. Đồng Lăng thủ tướng Đường quốc Hồ Chính được tin không sợ sệt, sức chiến đấu của Tào Bân dẫn Kính Hồ thủy quân không thể so sánh với quân tinh nhuệ Đường quốc. Nếu không phải Hồ Khẩu thủ tướng hồ đồ, đại quân của hắn đừng mơ tưởng mà đi qua được an toàn. Trong tay Hồ Chính tuy chỉ có ba vạn nhân mã, nhưng tự tin về địa lợi, thừa sức ngăn cản được mười vạn thủy binh hướng đông của Tào Bân.

Hắn tập trung ba vạn nhân mã lên trên hơn một trăm chiến hạm, phong tỏa toàn sông, thuyền dày đặc, trước sau tầng tầng lớp lớp, như một bức tường đồng vách sắt. Đại quân Tào Bân đến, thấy Hồ Chính sớm đã có sự chuẩn bị, thấy không thể địch lại được, vì thế lệnh đại tướng Tào Hàn lên bờ trước, nhân lúc Hồ Chính triển khai quân ra sông, đánh chiếm thành Đồng Lăng, phóng lửa trong thành.

Quân thủ Đồng Lăng phần nhiều là dân bản địa, vừa thấy thành bị đốt, liền mang bố mẹ vợ con lần lượt hướng Hồ Chính thỉnh cầu lên bờ cứu thành. Lúc này thế trận đã triển khai, đại quân Tào Bân khí thế hừng hực xông đến, Hồ Chính sao có thể để như vậy được? Quân Đường thấy chủ soái không đồng ý, thẳng thắn chống lại quân lệnh, trực tiếp đưa thuyền vào bờ. Tục ngữ nói quân lệnh như núi, giờ quân lệnh này lại không địch lại cốt nhục thân tình, Hồ Chính lệnh thân binh chém giết nhiều danh sĩ dẫn đầu cũng không ngăn lại được.

Lúc đó thủy quân Tống chưa tiếp chiến, thủy quân Đường trận thế đại loạn, thuyền cái ngang cái dọc, cài vào nhau, tạo ra sự bế tắc về giao thông trên mặt nước. Tào Hàn nhận nghiêm lệnh của Tào Bân không được tự ý giết dân, lửa được phóng ra chẳng qua chỉ là củi ở phố xá trong thành bị cháy mà thôi. Hắn liền ra khỏi thành mai phục, đợi quân Đường lên bở mới phát hiện mình đã quá thận trọng. Quân Đường lên bờ khóc lóc thảm thiết chạy thẳng đến thành trì, chẳng một đội hình, không đâu vào đâu, đúng là một bọn tạp nham.

Tào Hàn lập tức thổi tù và nổi trống tấn công, chỉ huy quân đánh lén. Quân Đường kháng lệnh lên bờ bị bắt giết, quân Đường trên mặt sông thì càng khỏi phải nói, đội quân Tào Bân ngông nghênh tới gần, trực tiếp lên thuyền tác chiến. Song phương hỗn chiến, Tào Hàn giết sạch đám binh Đường kháng lệnh lên bờ, cướp thuyền rồi cũng hướng thủy quân Đường bức tới.

Hồ Chính thấy đại thế như vậy, bị bại một cách bất lực, khóc rống lên, được mấy thân binh yểm trợ chạy trốn tới chiến hạm ở hậu phương tẩu thoát chạy đi báo tin.

Tin truyền tới, ven sông, quân Đường kinh hồn bạt vía, chỉ có thể xây tường cản, bắn hỏa tiễn ngăn thủy quân Tống tấn công. Tào Bân không lui, chạy tới bụi cỏ, chuẩn bị kế tiếp chuyển hướng tấn công. Lúc này, trận chiến Thái Thạch cơ đã thành công.

Triệu Quang Nghĩa vốn là một viên võ tướng, thường theo đại ca chinh nam phạt bắc, tuy chưa độc lập dẫn quân, lại cũng không am hiểu quân sự, bàn đến binh pháp càng không phải nói, còn về có phải là lý luận suông không, hôm nay sẽ chứng minh.

Hắn chỉ huy quân nam hạ, một đường ngựa không dừng vó, ngày đêm chạy, khi đến Thái Thạch cơ và nơi Tào Bân đóng quân, thủy quân Tào Bân vẫn còn chưa tới. Theo sự dặn dò của Triệu Khuông Dận, mã bộ binh của hắn cần cùng qua sông hỗ trợ tác chiến với Tào Bân, nhưng Triệu Quang Nghĩa không chờ được. Nghe nói Tào Bân chưa đến, Triệu Quang Nghĩa vui mừng khôn xiết, lập tức hạ lệnh thu thập thuyền đánh cá ven sông qua sông.

Mục đích của hắn chỉ là: tranh công.

Chiến công của Tào Bân hiển hách, được liệt vào đệ nhất võ tướng Tống quốc lúc bấy giờ. Nếu Triệu Quang Nghĩa có thể tranh công của Tào Bân trước, cơ bản không cần thủy quân hắn giúp thì công phá Đường quốc cần nút Thái Thạch cơ, đó có thể bỗng nhiên nổi tiếng, trở thành đệ nhất đại tướng thiện chiến nhất Tống quốc. Tuy nói Mân Nam còn có Phan Mỹ cũng giỏi, nhưng luận về chức quan, về danh vọng, Phan Mỹ còn kém cả Tào Bân, cũng chẳng thể so sánh với hắn. Hắn lo liệu Khai Phong mười năm, những công lao có được ai ai cũng biết đến, đến khi võ công hắn cũng giỏi nữa, tất sẽ nổi danh thiên hạ.

Nhưng nơi hiểm yếu không thể dễ tấn công, dựa vào mấy cái thuyền đánh cá lớn nhỏ mà hắn thu thập được muốn công phá cứ điểm quan trọng đâu phải dễ. Thái Thạch cơ quân Đường thủ quân tướng là mã bộ quân phụ đô bộ thự Dương Thu, binh mã đô giám Tôn Chấn, trong tay bọn họ có hai vạn binh tinh nhuệ, trận chiến Thái Thạch cơ, quân Tống bị đánh tơi bời, máu nhuộm đại giang, trận đầu đã bại. 

Triệu Quang Nghĩa tự biết dựa vào thực lực của Đường quốc sớm muộn cũng vẫn có thể đánh được, đại quân của hắn chỉ cần đánh nghi binh dẫn Thái Thạch cơ thủ quân, khiến họ không được phân binh, chỉ cần yểm trợ thủy quân Tào Bân đến rồi sẽ đánh một trận. Nhưng hắn lại định ra là trong ba tháng bình định được Giang Nam, quân lệnh trạng ấy là kết quả để bỗng nhiên nổi tiếng, nếu đánh trên nửa năm hay một năm, thì có khác gì với Da Luật Hiền đâu?

Vì cái lời thề chắc như đinh đóng cột ấy, nên Triệu Quang Nghĩa dùng cảm tử quân ngày đêm không ngừng tăng cường tấn công cứ điểm quan trọng, và mệnh lệnh hạ sát hàng loạt quân trong thành để khích lệ tam quân, nhận lời chỉ cần đánh hạ Thái Thạch cơ, cho phép binh lính cướp phá tô thành, dùng tiền tài nữ tử. Chiêu này quả nhiên dùng được, triều Thanh, Sát Cáp Nhĩ phản loạn, đại quân mắt thấy giết đến dưới thành Bắc Kinh, trong thành không có binh, hoàng đế bó tay không có kế sách. Trong thời khắc quan trọng Hiếu Trang thái hậu dùng các người hầu hạ vương tộc hoàng thân ở kinh thành lập một đội quân mấy nghìn người giao cho Chu Bồi Công đi đánh giặc. Chu Bồi Công là một thư sinh dẫn theo một đám người hầu, như vậy là một đội quân ô hợp, Chu Bồi Công dùng hai thủ đoạn biến họ thành đội quân hổ lang, giết cho Sát Cáp Nhĩ sợ hãi. Mánh khóe chỉ có hai: một là sau khi đoạt được thành trì, cho phép cướp bóc tiền tài nữ tử, hai là người tự tiện lui một bước thì giết không tha.

Triệu Quang Nghĩa dùng cũng là chiêu này, điều này so với nhân tính, có thể có tốc độ nhanh chóng kích thích người ta có dũng khí lớn nhất. Bị mê hoặc bằng mỹ sắc và tiền bạc, mã bộ binh quân Tống giống như đánh máu gà, quyết tử lập công, dùng vô số thi thể để lấp sông, tấn công lên bờ đông Trường Giang.

Nhưng kế tiếp sau đó bộ đội vận chuyển mệt mỏi, quân Tống đổ bộ không ai giúp, bị Dương Thu, Tôn Chấn đích thân dẫn binh phản công giết ở bờ đông Trường Giang. Triệu Quang Nghĩa điên tiết, cởi bỏ chiến giáp, điều khiển thuyền nhỏ nam hạ tấn công, nhưng khi hắn đến quá nửa sông, quân Tống trên bờ đã bị người Đường tiêu diệt, vạn tiễn được bắn ra, Triệu Quang Nghĩa chỉ có thể quay về Giang Tây, thu gom gỗ lớn chế tạo thành bè, tập hợp những con thuyền hai bên bờ, chuẩn bị tái chiến.

Dương Hạo lúc này chạy đến Thái Thạch cơ. Mục Vũ mang người đi thăm dò phía trước, vội vàng chạy lại thông báo tình hình phòng sông. Dương Hạo không khỏi ngạc nhiên, hắn không ngờ quân Tống đến nhanh như vậy, giờ lại phải đi về hướng nào, sợ rằng đã không còn đường ra nữa rồi. Dương Hạo đưa gia quyến tạm thời dàn xếp qua, chỉ mang theo một mình Bích Túc vẫn mặc tăng y, cùng lên Thái Thạch cơ quan sát tình hình, xem xem có hay không khả năng dùng thuyền nhỏ giữa đêm vượt sông.

Đại quân tập trung trên bờ sông, trên Thái Thạch cơ du khách thưa thớt, nhưng vẫn có ba năm khách hành hương lên núi lễ phật, phập phồng lo sợ khấn phật phù hộ.

Trước Thái Bạch lầu yên tĩnh, câu đối: “Tiến phần dương tái tạo Đường gia, bính vô thước đất thù công, chỉ lạc vào Thái Thạch cơ, cung ngày đó thần tiên mỉm cười; Hi phi tử có thể gièm pha sĩ tử, không phải thất ngôn cảm oán, chợt cởi bỏ danh lợi trói buộc, để tiên sinh nên thơ rượu ung dung.” Một công tử huyền sam ngọc diện, mày ngài hơi nhíu, khoanh tay đứng nhìn.

Người này chính là Chiết Tử Du, qua mấy ngày, cô dường như đã gầy đi rất nhiều, vốn xinh đẹp hồng nhan, hai má giờ hơi hóp lại, hia mắt dường như to hơn, bộ dáng thiếu nữ khó mà che lấp, nhưng cùng với chiến loạn, rất nhiều thiếu nữ đều cải trang thành nam nhi, và cách ăn mặc ấy cũng không khiến người ta nghi ngờ.

Trước mặt cô là Trương Thập Nhất và một quân quan thấp, chỉ nghe Chiết Tử Du nói: “Kim Lăng bên đó thế nào rồi?”

Quan quân nói: “Tiểu tướng nghe Tôn đô giam nói các văn võ bá quan trong triều bàn bạc, quân Tống phái chiến binh viễn chinh, vô cùng nhuệ khí, chiến tranh tất sẽ kéo dài, làm vườn không nhà trống, dựa vào thế Trường Giang hiểm yếu và và khi quân Tống bị hao tổn nhiều, mỏi mệt sẽ tự nhiên thối lui”.

Chiết Tử Du nhướn mày, nói: “Thực là ngu xuẩn, trong triều không có một người nào biết nhìn xa trông rộng sao? Nơi hiểm yếu mặc dù nguy hiểm đấy, còn cần do người đến thủ. Nhuệ khí quân Tống hừng hực, sĩ khí quân Đường để lâu sẽ bị chùn đi, đến lúc đó nơi hiểm yếu cũng chẳng có gì hiểm yếu nữa cả. Hồ Khẩu có hùng binh mười vạn, tuyến Thái Thạch có quân thủ tuyến đó cũng bị chặt đứt, nếu như quân thủ Hồ Khẩu phối hợp với quân thủ Thái Thạch nam bắc cùng tấn công, nhân lúc quân Tống chưa ổn định mà chủ động tấn công, đánh tan quân Tống thì mới có khả năng tự bảo vệ mình, há lại ngồi đó mà chờ quân Tống tự rút lui?”

Quan quân đó cười mếu máo nói: “Nhưng…đây là mệnh lệnh của triều đình, Tôn tướng quân không có tiếng nói thì có thể làm gì đây? Nghe nói Hoàng thượng gọi ở Kê Minh tự một bị bị Hoàng thượng gọi là cao thăng tiểu sư phụ vào cung tụng kinh cầu phúc, nhưng rồi bóng dáng vị tiểu sư phụ đó đã mất tăm, mà Hoàng Thượng vẫn không chịu tỉnh lại, lại mời rất nhiều người xuất gia đắc đạo ở trong cung lập đàn tụng kinh cầu phúc cho Đường Quốc, tiểu tướng còn nghe nói Hoàng thượng giờ đang nghiên cứu “Dị Kinh”, muốn từ trong đó tìm ra cách có thể chiến thắng được quân địch”.

Chiết Tử Du buồn bã thở dài, lẩm bẩm: “Vị Hoàng đến này…thực không còn thuốc chữa nữa…”

Quan quân đó cũng im lặng và thở dài, lúc sau chắp tay nói: “Mạc cô nương, quốc quân đại sự, tiểu tướng không tiện nói. Tiểu tướng là nhất giới võ nhân, ngoại địch xâm chiếm, tiểu tướng có chết cũng không hàng, vì nước mà hi sinh thân mình, không hổ thẹn với ơn đề bạt và tri ngộ của Lâm tướng quân, cũng coi là hết bổn phận của mình. Lâm gia trung liệt, Lâm tướng quân chịu lời gièm pha mà chết, oan ức vô cùng, giờ việc triều chính lại bị gian thần thao túng, chúng ta bất lực xoay chuyển. Cô nương, Thái Thạch cơ này cũng không biết có thể giữ được đến bao giờ nữa, cô nương là phận nữ nhi, không cần dính vào chuyện binh đao, tốt hơn hết là sớm rời khỏi đây đi, đại sự quân quốc không cần phải để ý tới nữa”.

Chiết Tử Du im lặng một lúc lâu, chắp tay hướng về phía hắn, viên tiểu tướng đó cũng chắp tay thi lễ lại, rồi đi xuống chân núi.

Trương Thập Tam đứng cạnh đó tiến lại, nói nhỏ: “Tiểu thư, chuyện Giang Nam đã không thể cứu vãn, chúng ta…nên về tây bắc thôi”.

Chiết Tử Du phất tay áo, Trương Thập Tam câm miệng, nhìn Chiết Tử Du, hắn lẩm bẩm câu gì đó trong miệng rồi lui ra chỗ khác.

“Hạo ca ca, chàng nói trong hai ba năm, quân Tống tất diệt Đường, thống binh đại tướng là Tào Bân, Phan Mỹ, giờ quân Tống quả nhiên đến rồi, tướng thống binh lại không phải là người mà chàng đã nói, đúng cũng là do chàng, mà sai cũng là do chàng, ta có nên tin chàng hay không đây? Có nên tin lời chàng không, trở về tây bắc, khuyên huynh trưởng quy Tống sao?”

Nghĩ đến đây, cô chợt rùng mình, nghĩ đến lời mà Dương Hạo đã từng nói với cô.

“Tử Du, chỉ hôn cái thôi, lần này, đời này, lần cuối…”

“Ha ha, về sau sợ không có bao nhiêu cơ hội nữa, cái này coi là…lần cuối tặng quà nhé, hãy nhận đi”.

“Lúc ấy chỉ cảm thấy lời của hắn nói, người nghe cảm thấy không thoải mái chút nào, nhưng lẽ nào…lẽ nào càng sớm biết ta gặp đại nạn có chết vô sinh, cho nên mới…? Nếu chàng có sự dự liệu như vậy, thế chàng tuyệt đối sẽ không lừa mình, Phan Mỹ không đến hoặc là một sai số, nếu sinh tử của mình cũng có thể đoán trước, ít nhất đại thế là không thể sai được, Hạo ca ca, chàng muốn ta chủ động quy Tống, bảo vệ gia đình phú quý sao? Giờ đã thế này, ta thực sự quá mệt mỏi rồi, ta có nên nghe theo lời chàng không đây?”

Nghĩ đến lời Dương Hạo từng nói, nước mắt Chiết Tử Du lăn dài trên má, bao nhiêu oán, bao nhiêu hận, lúc này đều bị cô dứt bỏ hết, nếu có thể quay lại thời gian, cô nhất định sẽ đồng ý Hạo ca ca. Cho dù hắn đã có nương tử cũng không quan tâm nữa, cô tình nguyện kết duyên phu thê với hắn, để lại cốt nhục cho hắn…”

“Hạo ca ca…” nước mắt nhạt nhòa, Chiết Tử Du khóc và gọi tên hắn, mắt đẫm lệ, hình ảnh mờ mờ của Dương Hạo bỗng đứng trước mặt cô.

“Sao lại…? Rõ như ban ngày, ma quỷ có thể hiện thân sao?” Chiết Tử Du thầm nghĩ nhưng không hề sợ, cô thấy vui vô cùng, vội lau nước mắt, lấy lại bình tĩnh nhìn kỹ lại, Dương Hạo quả nhiên đứng trước mặt cô, mặc một bộ quần áo sĩ nhân bình thường, bên cạnh còn có một hòa thượng.

Quần áo…khuôn mặt…chàng…

Dương Hạo ngây ra, hắn không ngờ vừa đến Thái Bạch lầu thì đã gặp Chiết Tử Du. Hai người mặt đối mặt, Dương Hạo khẽ nói: “Tử Du…”

“Chàng chưa chết?” Chiết Tử Du bỗng hiểu ra mọi chuyện.

Dương Hạo thấy biểu hiện của cô như vậy, không khỏi rùng mình, mặt cô tái xanh, hàng mày thẳng ra, mắt to, tay cô… đang cầm chắc vào chuôi kiếm, mũi kiếm ma sát vào vỏ kiếm, phát ra những tiếng sàn sạt.

“Tử Du, nàng…nàng nghe ta giải thích đã, ta…ta…” Dương Hạo chột dạ bước lui về phía sau.

“Chàng…chưa…chết?”

“Ừ, ta chưa chết, chỉ là…”

“Không liên quan, chàng sắp phải chết rồi”.

“Hả?”

Bích Túc sờ vào cái đầu trọc, nhìn trái nhìn phải, nhìn vào đôi oan gia đang vui mừng này, lúc đó bỗng thấy kiếm quang lóe lên, làm Bích Túc giật nảy người: “Ôi! Chiết cô nương ra kiếm nhanh quá”.

Sau đó thấy Dương Hạo như con thỏ, nhảy, nhảy, nhảy, chui tọt bụi cỏ: “Tử Du, nghe ta giải thích đã”.

“Oa, Dương đại nhân thân pháp nhanh quá”.

Chỉ thấy kiếm quang Chiết Tử Du đổi chiều, hét lên một tiếng tiến về phía hắn: “Cấu kết với nhau làm việc xấu, đáng chết”.

“Oa! Cái gì vậy?” Bích Túc kêu lên một tiếng quái dị, chạy thục mạng chui tọt vào bụi cỏ như Dương Hạo. Chiết Tử Du thực đang rất tức giận liền đuổi theo.

Dương Hạo vừa trốn vừa giải thích: “Tử Du, ta cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi, ta không phải muốn như vậy…”

“Hừ! một tiếng, Bích Túc vung tay áo qua Dương Hạo: “Thoát thân trước đại nhân, sư tử mẹ đuổi đến nơi rồi”.

Dương Hạo quay đầu lại, chỉ thấy một kiếm quang lao tới, Chiết Tử Du hét lớn: “Chàng đi chết đi, chết luôn đi!”

“A!” Dương Hạo bị kiếm bổ trúng mông, hêu lên thê thảm, chạy thục mạng vượt qua cả Bích Túc, Bích Túc thấy vậy hét: “Đại nhân ngươi thực không nghĩa khí”.

Dương Hạo không quay đầu lại nữa, chỉ hét: “Nhanh lên”.

“Bên đó, rừng cây”. Bích Túc chợt thấy một mảnh rừng, lập tức hét lớn, Dương Hạo nghe thấy vội phóng qua. Cành lá lòa xòa rất khó đi, Chiết Tử Du dù sao cũng là nữ nhi, chạy nhanh cũng không được lâu, bước chân đã chậm đi rất nhiều, cô đuổi theo tới gần vách đá, trên vách đá có một con đường nhỏ uốn lượn cao thấp, cũng không biết Dương Hạo chạy lên hay chạy xuống.

Chiết Tử Du dậm chân mắng chửi: “Dương Hạo, chàng là loại đáng chết hàng nghìn hàng vạn lần, chàng lừa ta đau lòng như thế, chàng lừa ta, để chàng đi giết Da Luật Văn. Chàng…chàng…chàng chẳng có lời thật nào với ta cả, chưa bao giờ có lời nào thật cả, cái gì là Tống quân diệt Đường, thiên mệnh sở quy, hóa ra đều là giả dối cả, chàng là quan Tống Quốc, đương nhiên biết quân Tống phạt Đường, chỉ là chàng không ngờ tới là Phan Mỹ không quay về kịp, triều định lại phái võ tướng khác, đúng không? Họ Dương kia, ngươi là con rùa vương bát đản, từ nay về sau, bản cô nương thấy ngươi một lần, giết một lần, để cho ngươi mãi mãi trốn tránh không dám lộ mặt ra nữa”.

Chiết Tử Du tức giận rơi cả nước mắt, mắng một lúc mới khóc.

Trong bụi cỏ, Dương Hạo ngồi chồm hỗm nói ngốc nghếch: “Nàng…nàng đau lòng vì ta? Là nàng giết Da Luật Văn?”

Bích Túc bên cạnh ngắt một cây cỏ cho vào miệng nhấm, nhìn Dương Hạo, nói: “Đại nhân, lần này ngươi đắc tội Chiết cô nương rồi”.

Dương Hạo tự an ủi mình nói: “Không phải đâu, Tử Du nếu như không quan tâm tới ai thì mới không tức giận như vậy, chẳng qua…làm thế nào để cho cô ấy nguôi giận mới quan trọng, có lẽ là không khó”.

Bích Túc liếc nhìn hắn nói: “Đại nhân dù sao cũng phải ẩn cư, còn có cơ hội gặp lại cô ấy sao?”

Dương Hạo thở dài, lẩm bẩm: “Ta không biết, nói thực, trước đây là ta nắm chắc mọi chuyện/có tài, giờ ta giống cô ấy, ngày mai xảy ra chuyện gì, ta không hề biết được”.

“Haiz!” phía sau có một tiếng ho khan, Dương Hạo và Bích Túc như con thỏ bị kinh động, cùng nhảy lên.

Dương Hạo cho rằng Chiết Tử Du đến phía sau mình, quay ngoắt lại, nhìn rõ người đó, Dương Hạo không khỏi ngạc nhiên, trước mắt là một tăng nhân, khoảng ba lăm ba sáu tuổi, mặt gầy đen, mắt sáng ngời, Dương Hạo cảm thấy vô cùng quen, lập tức nhớ lại, nhớ ra tăng nhân Nhã Băng này ẩn cư ở trên núi.

Hòa thượng Nhã Băng lúc này cũng ngạc nhiên không kém, cũng nhận ra thân thế hắn, Dương Hạo không khỏi thầm kêu khổ: “Sao mà xui xẻo thế, không chừng…ta phải giết người diệt khẩu sao?”

“Ha ha, bần tăng nghe nói Dương tả sứ vì/để kẻ gian sở hại, đã từ thế, trong lòng vô cùng buồn thương, còn cho rằng niệm hướng sinh nguyền rủa siêu độ cho đại nhân, giờ xem ra, cũng chỉ là tin đồn à”.

Nhã Băng hòa thượng mỉm cười nói, Dương Hạo nghe xong thầm than một tiếng, Bích Túc đã trôi giạt tới gần, mắt lộ sát khí đằng đằng. 

Chương 369:Thiên hạ ai hiểu quân. (1+2)

“Từ đã!” Hòa thượng Nhã Băng mắt sáng lên, ung dung cười nói: “Dương tả sứ giả chết thoát thân, chạy tới thận đây, làm có mưu đồ, bần tăng ở đây kính đón, chính là duyên phận của ta và ngươi, bần tăng tuy thấy rõ thân phận đại nhân, lại không có hại gì cho đại nhân, ngược lại, còn có một công lớn muốn nói với đại nhân”.

Dương Hạo không chớp mắt, trầm giọng hỏi: “Công lớn?”

Hòa thượng Nhã Băng mỉm cười nói: “Không sai, bần tăng nghe nói Dương tả sứ bị người Khiết Đan giết, làm sao ngờ đại nhân không những chưa chết, mà còn xuất hiện ở đây. Hai nước Đường Tống triển khai quân sát khí hừng hực, im bặt ra không Thái Thạch cơ, không biết đại nhân muốn sao?”

Sắc mặt Dương Hạo chợt biến, còn chưa trả lời, hòa thượng Nhã Băng bật cười nói: “Không hỏi cũng biết, đại nhân lần này đến, chính là chuyện đại quân Tống qua sông ra sao, có phải không?”

Dương Hạo trở lại bình thường, mỉm cười nói: “Thế thì tính sao?”

Hòa thượng Nhã Băng nghiêm nghị thi lễ nói: “Mời đại nhân theo bần tăng lại đây, bần tăng có cái này muốn tặng cho đại nhân, đại nhân tự khắc biết”.

Dương Hạo cảm thấy có điều gì đó và ngăn Bích Túc lại, theo sau Hòa thượng Nhã Băng vào trong rừng, đến trước một cái nhà gianh, hòa thượng Nhã Băng nhìn quanh tứ phía, nhanh chóng chui vào trong phòng, Dương Hạo và Bích Túc sợ hắn tẩu thoát, lập tức vào cùng, chỉ thấy mọi thứ trong nhà hòa thượng Nhã Băng vô cùng đơn sơ, chỉ có một cái giường, một cái bàn, một bếp, trên bàn là ngọn đèn, đầu giường có một hộp sách. Nhã Băng mở hộp sách ra, vén tấm vải, ở dưới giường lôi ra một bức lụa, vô cùng thành kính đưa cho Dương Hạo.

Dương Hạo không hiểu gì nhận lấy và xem, chỉ thấy bên trên có rất nhiều nét vẽ, bên trên còn có vài con số đánh dấu, lại có chữ xuân hạ thu đông, xem một hồi không hiểu là nghĩa gì, không khỏi ngạc nhiên nói: “Nhã Băng đại sư, đây là vật gì?”

Hòa thượng Nhã Băng trịnh trọng nói: “Dương đại nhân, thực ra không dám giấu gì đại nhân, tại hạ là một hòa thượng tự do, thực ra là giả làm hòa thượng. Tại hạ vốn họ Phàn, là một tú tài Đường Quốc, vì nhiều lần thi không đỗ, không thể vào học và trở thành quan, nên có ý đồ cạo đầu giả làm tăng, dựng nhà cư trú trên Thái Thạch cơ, quên đi tất cả, hai bờ vách đá này khắc Phật kim thân, mượn cớ thường dùng thuyền nhỏ đi trên sông, ngầm đo lường tình hình nước sông Trường Giang, xuân hạ thu đông, một năm bốn mùa, dòng nước chảy, đều có trên bản đồ.

Theo bản đồ nước của ta, dòng trường Giang có thể dựng một cái cầu nổi/cầu phao, để đại quân tới lui như dẫm trên đất bằng. Tại hạ nghe nói Tấn Vương đích thân dẫn binh tấn công Thái Thạch cơ, thương vong cực kì thảm trọng, giờ đã bại quay về, chuẩn bị tái tấn công, không biết còn cần bao nhiêu binh sĩ thương vong, nhưng nếu có bản đồ trong tay, đại quân tiến lùi tự biết, nơi hiểm yếu Trường Giang không công mà phá, có thể giảm vô số người chết”.

Dương Hạo nghe rồi vô cùng ngạc nhiên, hắn tự nhiên hiểu rằng điểm quý giá của bản đồ thủy này, nó sẽ có tác dụng không thể ngờ được đối với mấy vạn đại quân, nhưng với thân phận của mình hiện giờ, có thể đưa tấm bản đồ này đến tay Triệu Quang Nghĩa không? Nhưng không thể để thân phận mình bị bại lộ.

Giết người diệt khẩu thì sao? Vừa nãy để bảo vệ gia quyến còn không nỡ ra tay, giờ thì nghìn lần không thể.

Nếu biết có tấm bản đồ này có thể thay đổi cục diện chiến tranh, Triệu Quang Nghĩa dựa vào chút ít bè gỗ, thuyền đánh cá thì có thể tấn công Thái Thạch cơ ư? Song vì những tính mạng binh lính về sau, cộng thêm bị người Đường đoạt lại được trận địa, nhưng nghĩa khí người Đường vô cùng thấp, cái nơi gọi là hiểm yếu khó bảo vệ đã phần nào có thể tự hiểu nó, đợi thủy quân Tào Bân đến, thì có chiến hạm thực sự, lúc đó phối hợp với binh Triệu Quang Nghĩa, Thái Thạch cơ chẳng lẽ lại không bị phá? Nhưng như vậy đánh mạnh công mạnh, thương sát chắc chắn sẽ gấp chục lần so với hiện tại. Nếu mình giết chết Phàn Nhã Băng đi, giấu kín tấm bản đồ này, vậy thì cái chết không chỉ của một mình Phàn Nhã Băng hắn, tấn công mạnh đại giang sẽ làm cho vô số người bị thương vong, vô số tính mạng của quân sẽ oán cái đầu của hắn.

Dương Hạo loạn hết cả đầu, đang do dự chưa quyết định được, Phàn Nhã Băng lại nói: “Đại nhân chớ nghĩ nhiều, tấm bản đồ này thực sự này không giả. Đại nhân có thể mang tại hạ đi bờ tây gặp Tấn Vương, tại hạ gặp trực tiếp và nói về tấm bản đồ, nếu có tội vạ gì, đại nhân có thể lấy cái đầu của ta”.

Bích Túc tuy là người Tống, nhưng thấy hắn chỉ vì ở Đường Quốc, hơn nữa lại không thể làm quan, tính toán mọi cách, không tiếc chạy đến bên Trường Giang làm hòa thượng giả, tỉ mỉ kiên trì làm bản đồ đo mực nước sông để hiến kế cho Tống Quốc, chỉ vì mong muốn có một chức quan để làm, trong lòng không khỏi xem nhẹ, lạnh lùng nói: “Phàn tú tài nghĩ trăm phương nghìn cách, có tấm bản đồ này trong tay, chuyến này có thể có kỳ công rồi, nhất định làm quan rồi”.

Phàn Nhã Băng xấu hổ mặt đỏ ửng lên, quen thói a di đà Phật liền chắp tay, nói: “A di đà Phật, chim khôn chọn cây mà đậu, trung thần chọn chủ mà thờ, Đường chúa hôn quy, mải vui chơi, không lo việc nước, triều chính phủi bại, dân chúng khốn khó, triệu Tống được thiên hạ, quy thiên hạ về một mối. Phàn mỗ chẳng lẽ lại không biết theo bên đó sao?

Mấy ngày trước truyền đến tin rằng, Lâm hổ tử Lâm đại ướng quân là một trung thần có tiếng trong triều đã bị lời nói gièm pha mà chết, hơn nữa nguyên nhân cái chết vô cùng ngu xuẩn. Đế vương chỉ dám lén lút lấy rượu độc hại đại thần, quốc chúa tự chặt mất cánh tay của mình, tự hủy hoại tương lai, trên dưới Đường Quốc ai có trái tim băng giá? Đây là ý trời phải diệt Đường mà, mỗ là người bình thường, chẳng lẽ lại không thuận lòng trời?”

Dương Hạo hít một hơi dài, nói: “Tấm bản đồ này thực sự quý giá vạn lần, nhưng…làm sao đưa qua sông đây?”

Phàn Nhã Băng hai mắt sáng lên, nói: “Tại hại có con thuyền nhỏ, xưa nay không đưa lên bờ, nó ẩn trong bụi cỏ um tùm, chỉ cần giờ trên sông tuần phòng nối liền, mỗ là một thư sinh, muốn dùng cái thuyền nhỏ trốn qua sông không có khả năng, không biết đại nhân có thể có cách gì…?”

Dương Hạo lắc đầu nói: “Ta sống khốn khổ bên bờ sông, cũng chẳng có kế gì khả thi, tấm bản đồ này quý lắm, hơn nữa không thể thiếu ngươi là người giải thích, ngươi và tấm bản đồ này không thể mất, cho nên không được liều lĩnh, thế này nhé, ngươi…ngươi theo ta xuống núi, chúng ta bàn bạc kỹ lưỡng hơn”.

Chiết Tử Du thấy hắn vẫn còn sống, cũng không đường hoàng đi ra, Dương Hạo có niềm tin, nhưng Phàn Nhã Băng có khát vọng làm quan này rất khó nói, lòng Dương Hạo lo lắng không thôi, thực không nghĩ ra cách nào để giải quyết thích đáng người này, đành đi một bước nghĩ một bước, đưa hắn theo bên cạnh, mong là an toàn.

Tống Quốc dã tâm với Đường, Phàn Nhã Băng này sớm đã biết rõ, cho nên mới ẩn cư ở nơi bên bờ sông này, tuy kham khổ, nhưng mười năm gian khổ học tập đều đã nhẫn nhịn được, hắn chịu khổ để đến hôm nay tiếp tục theo đuổi con đường làm quan, cũng là kham khổ. Nhưng chưa đợi hắn hiến bản đồ cho Tống Quốc, Tống Quốc đã xuất binh, giờ triển khai quân bờ bên kia, hắn muốn đưa tấm bản đồ cho họ là không thể nữa rồi, nó khiến Phàn Nhã Băng lòng như lửa đốt.

Nếu đợi đến khi quân Tống tấn công mạnh qua sông, và có chỗ đứng vững, thì bản đồ này của hắn chẳng còn tác dụng gì nữa, giờ như lâu hạn gặp mưa rào, thế nhưng gặp được một người vốn là sứ giả đã chết của Tống Quốc, Phàn Nhã Băng vui mừng khôn xiết, chỉ cho rằng mình cuối cùng cũng đã có thể làm quan. Tất nhiên là vui vẻ đồng ý, lập tức ra đi cùng với Dương Hạo, trong căn nhà cỏ gianh chẳng có đồ gì đáng giá cả, có thể bỏ qua không cần đến nó.

Trước hắn nghĩ đến Thái Thạch cơ này sẽ không có người quen hắn, cho nên lên đường không chút che dấu, nào có ngờ gặp hai kẻ địch, lần này không dám lơ là nữa, hắn sửa sang lại chút dung mạo, lấy râu giả dính lên, lúc này mới theo hai người họ xuống núi.

Từ con đường này xuống núi, đến dưới núi, chỉ thấy trên đất bị đào lên mười mấy cái hố lớn, trên trong là những thi thể ngang dọc, dưới thi thể đó chặt cây cối cỏ, bên trên là bảy tám tầng thi thể, nào thì trúng tên, đao đâm, thương đâm…máu me be bét, không còn ra hình người, thực là sợ phát hoảng, nhìn trang phục, chắc chắn là quân Tống.

Nhìn thấy hai hòa thượng cùng đi với một người phàm tục xuống núi, một vài binh lính Đường Quốc đang khuân vác thi thể cũng không để ý tới, từ trên chiếc xe nhỏ lại bê mấy chục thi thể vứt vào cái hố, sau đó cho dầu hỏa vào, rồi châm lửa, lửa hừng hực cháy, nuốt hết tất cả vô số những thi thể đó.

Phàn Nhã Băng chắp tay mô Phật, hỏi: “A di đà Phật, thiện tai, thiện tai. Nhiều thi thể quá, có chuyện gì xảy ra vậy?”

Đại nhân Đường quốc phần lớn đều tín Phật, Phàn Nhã Băng ở nơi này, bình thường tự mình trôi nổi trên mặt sông, nói là yêu thích vàng, vùng ven sông phần lớn đều khắc tượng Phật, trong quân ngũ có rất nhiều người đều quen vị tăng khổ hạnh này, và cũng vô cùng kính trọng hắn, liền có một tiểu giáo đáp: “Đại sư, đây là thi thể quân Tống tiến công vào Thái Thạch cơ ta, tướng quân lệnh ta đợi ở đây thiêu, tránh sinh dịch bệnh”.

“A di đà Phật”. Phàn Nhã Băng không khỏi thốt lên tiếng Phật hiệu.

Lửa cháy hừng hực đốt cháy thi thể này cháy xèo xèo, thi thể bị hỏa thiêu co rút các gân, có thi thê bỗng dưng ngồi bật dậy rồi lại rơi bịch xuống, da thịt bị thiêu hết, từng mảng thịt cháy lộ ra xương xẩu, Dương Hạo tuy cũng nhập ngũ, từng tham chiến, nhưng lại làm thân binh của Trình Thế Hùng, vả lại chưa từng gặp quá nhiều thi thể thế này, thấy vậy mà hồn bay phách tán, không đành lòng nhìn nữa.

Phàn Nhã Băng bước đến, chỉ thấy khắp nơi là cái hố lửa, thi thể nhiều không kể xiết, không chịu nổi miệng tụng: “Nam mô ai di đà Phật, bản sư thích ca mâu ni, thế tôn có nói: Đất giấu, ta giờ niềm nở, dựa thiên nhân chúng, dặn dò vu nhữ. Thế tương lai, nếu có thiên nhân, thiện nam tử thiện nam nhi, trong Phật pháp, loại thiếu thiện căn, nhất mao nhất trần, anh có đạo lực, ủng hộ là người, chớ để mất đi.

Giấu nhiều lần đất, trong tương lai, có trời có người, tùy nghiệp báo ứng, dừng ở ác hứng, trước khi rụng rơi, hoặc tới môn đạo, là chư chúng sinh, nếu có thể niệm đắc Phật danh, có Bồ Tát bảo vệ. Là chư chúng sinh, anh có thần lực, tiện cứu hết đi, thế là người ở, thân ở lại, vỡ rơi vào địa ngục, bỏ lệnh sinh thiên, hưởng khúc ca lạc…”

Bích Túc thấy tình hình thê thảm như vậy, không khỏi chủ động chắp tay, miệng lẩm bẩm: “Nam mô Bồ tát đại từ bi, Bạch Phật nói: “Thế Tôn, mong muốn thế tôn không cho nghĩ. Tương lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ tử, trong Phật pháp, nhất niệm cung kính, ta cũng hàng trăm thuận lợi, độ cởi là người, sinh tử giải thoát. Huống hồ chỉ nghe thấy việc thiện, niệm tu hành, tự nhiên đạo mãi mãi không thể chuyển…”

Hai giả hòa thượng cầu cho trốn hồng trần, thấy vô số xác tử thi, lòng có thiện tâm, kinh văn này tụng vô cùng thành kính, khiến cho khung cảnh vô cùng nghiêm túc, rất nhiều binh sĩ nghe hai vị tăng nhân này đọc kinh, cũng dừng lại, chắp tay, tuy là kẻ địch, nhưng vẫn xót xa cho sinh mệnh.

“Ta nên làm thế nào đây? Bản đồ này hoặc có thể giảm đi vô số những thương vong không cần thiết, ta bỏ qua hàng nghìn mạng sinh tử này, thì lương tâm sẽ bất an, nhưng giờ tình hình này, ta nên làm thế nào đây?”

Dương Hạo theo hai vị tăng, không biết làm sao, tự giằng co trong lòng.

*******

Trong Đương đồ thành đã lộn xộn hết cả, rất nhiều người dìu già dắt trẻ chạy nạn, không người thân thích có thể nương tựa, hoặc là không muốn rời gia viên, ôm một ước vọng, mong Tống quân không qua được Trường Giang, hoặc là qua sông theo con đường nhỏ, dân đóng chặt cửa, trong thành tiêu điều vô cùng.

Ba người về đến nơi ở của Dương Hạo, Dương Hạo lúc này mới nhớ ra hai vị phu nhân của mình nhất thiết không được lọt vào mắt của Phàn Nhã Băng, Phàn Nhã Băng cho rằng mình là mình người hành thích, gia quyến đều chết thảm, cho nên ôm hận giấu danh, ẩn nấp ở đây tìm hiểu tình hình quân sự, nhưng nếu để hắn nhìn thấy hai vị phu nhân đoan chính ở đây, không tránh được sinh nghi, hắn vội nháy mắt với Bích Túc, Bích Túc hiểu ý vội vào trong viện kéo Phàn Nhã Băng lại nói: “Phàn tú tài, xin mời qua bên này ngồi, đợi lát nữa đại nhân có vài lời muốn nói”.

Dương Hạo một mình đi vào hậu viện, trong viện không có một ai, thấy hoa đình cũng không có ai, không chỉ không nhìn thấy Diễm Diễm và Oa Oa, ngay cả tiểu ni cô câm cũng không thấy đâu, đến đám người Trình Vũ và tám gã thị vệ bảo vệ các nàng ấy cũng không thấy đâu, Dương Hạo sửng sốt không hiểu gì, cao giọng gọi: “Diễm Diễm? Oa Oa?” Vừa gọi vừa đi về hướng phòng ngủ.

Đến phòng ngủ cũng vẫn không có người, Dương Hạo lo lắng, lập tức rút kiếm trở về phòng khách, vừa vào phòng, thì trong phòng khách lúc nãy không có một ai thì đang có một người ngồi, đang vắt chân thưởng thức trà. Dương Hạo nhìn rõ bộ dáng người đó, không khỏi đứng sờ sờ ở đó, chòm râu hơi bay, nhìn vẻ mặt phát phì cười.

“Ha ha ha, Dương đại nhân, Biện Lương từ biệt, không nghĩ ta và ngươi lại có ngày gặp mặt, đó chẳng phải duyên phận sao…?”

Một gã béo ngồi trong phòng nhìn Dương Hạo như người thân của mình, cười hề hề, cứ như thiên quan chúc phúc. Dương Hạo thở dài, lẩm bẩm nói: “Thiên hạ này…không có nơi nào là chốn bồng lai của Dương Hạo sao?”

Gã béo đặt chén trà xuống, mặt mày hớn hở đứng dậy nói: “Ôi, thế là sao vậy, bạn cũ đến, xem ngươi kìa, thái độ gì vậy? Dương đại nhân muốn bỏ trốn, nói dễ hơn làm, giờ ở thiên hạ này, không nhận ra Dương đại nhân ngươi còn có mấy người nữa?”

“Ngàn dặm mây bay nắng ban ngày, gió bắc thổi nhạn tuyết. Chớ lo con đường phía trước không biết, thiên hạ có ai không biết quân chủ?”

Gã béo họ Thôi vỗ tay đạp ca (một hình thức nghệ thuật vừa múa vừa hát) hay, Thôi Đại Lang vốn cao to, nhưng tán thưởng đạp ca, từ từ đứng dậy, đi lại nhẹ nhàng, tay múa, chân nhảy, tư thế tuyệt đẹp, bộ dạng khiến người ta thích thú, đến hắn cũng xem nhẹ cơ thể vốn béo tốt của mình. Thiên lý hoàng vân bạch nhật huân, bắc phong xuy…

Dương Hạo cũng lĩnh hội chút phong tình của đạp ca cổ, nhưng hắn giờ chẳng có tâm trạng nào, mặt méo xệch nói: “Đây cũng là thơ của Bạch Lạc Thiên sao?”

Thôi Đại Lang nhướn mày nói: “Thơ của người bên cạnh, Dương mỗ cũng nhớ vài bài. Ha ha, Dương huynh cứ bình tĩnh, không muốn hỏi hai vị hiền phu nhân và đám thuộc hạ giờ đang ở đâu vậy?”

Dương Hạo thở dài nói: “Tin Thôi huynh ở chỗ này chờ ta, người trong nhà và thuộc hạ nhất định sắp xếp thỏa đángGiờ đến xem, Thôi huynh có Tề Châu Thôi Thị, không biết đến tìm tại hạ rốt cuộc có ý gì?”

Thôi Đại Lang mỉm cười nói: “Dương huynh đoán sai rồi, Thôi mỗ đang là Sơn Đông Thôi Thị, thế cư Tề Châu”.

“Nhưng ngươi tuyệt đối không phải là một thương nhân”.

Thôi Đại Lang cười tít mắt: “Dương huynh đoán sai rồi, Thôi mỗ là một thương nhân, một thương nhân chính cống, chẳng qua…quy mô to hơn bình thường mà thôi…”

“To thế nào?”

“To…có thể ví với một nước nào đó”.

*******

Trong phòng có hai người ngồi, ở giữa đặt một ấm trà.

Một người, nắm tài phú ẩn hình khổng lồ nhất thiên hạ.

Một người, nắm võ trang tiềm lực phát triển lớn nhất.

Quân Tống và quân Đường triển khai quân hai bờ Trường Giang, tiến hành triển khai thế trận quyết chiến đến cùng, hai người cách chủ chiến trường không quá mấy bước bàn bạc Đương Đồ nguy thành, và chẳng có liên quan gì tới trận chiến cả.

“Nói ra, Dương huynh có kế giả chết thoát thân tuy khéo léo đấy, nhưng không phải là không có sơ hở. Ta có thể sinh lòng nghi ngờ, người khác cũng vậy, chỉ cần nghi ngờ và có vấn đề rồi, hiện nay bận chuyện khác, lúc nào đó ngươi thử nghĩ xem, khó tránh khỏi có chỗ sơ hở. Nước cờ ngươi đi thế này, là chặt đứt tất cả đường lui của mình, một khi bị phát hiện, ngược lại lợn lành thành lợn què, đến lúc đó, Quan Gia chỉ cần biết thời biết thế, cho ngươi từ chết giả thành chết thật luôn…”

Dương Hạo phản bác lại nói: “Thế, nếu như gặp Thôi huynh, ta tìm thời cơ trở về Lô Châu, nguy hiểm vô sinh mệnh sao?”

“Ở đâu không có nguy hiểm chứ?”

Thôi Đại Lang bùi ngùi thở dài: “Lần này đi Thanh Châu, Thôi mỗ tham gia lễ tang của một trưởng bối. Chỗ Thừa Tự thất tông ngũ tính, có một tiềm lực khổng lồ trong thiên hạ, Thôi mỗ khoe khoang một câu, nói là địa hạ đế vương cũng không thể sánh. Vị Lão thái gia này là nhân vật quan trọng Thừa Tự đường, phú giáp thiên hạ, môn hạ buôn bán nhiều vô kể, buôn bán hải thương, và buôn bán ở Xuân Trường bắc quốc, cấu thành tam đại trụ. Đừng thấy hắn trong đám lộn xộn vô danh, người biết hắn không nhiều, nhưng ở Đông Doanh, Cao Ly, Lữ Tống, hắn nói một câu, quốc vương nơi đó phải nghe theo một câu, nhân vật lớn như vậy, nói chết thì phải chết, chắc ngươi biết hắn sao mà chết chứ?”

“Chết thế nào?”

Thôi Đại Lang thản nhiên nói: “Sáng sớm thức dậy, uống một cốc sữa dê. Trong sữa dê có sợi lông dê nhỏ tí, mắc ở cổ họng, thế là…hắn chết”.

Dương Hạo không nói gì.

Thôi Đại Lang lại nói: “Nam nhi ở cuộc đời này, tự có trách nhiệm. Trách nhiệm này, gánh vác này không chỉ là con cái, còn là huynh đệ, còn là gia tộc, là bộ hạ, vô cùng khó khăn, xuất hiện sự thoái chí, há còn là nam nhi?”

Nếu đổi mấy ngày trước, Dương Hạo có thể có thể dùng đại thế đã định, thiên mệnh sở quy đến phản bác Thôi Đại Lang, nhưng lịch sử giờ đã không dựa theo hướng đi của hắn nữa, cho nên nghe những lời này hắn chỉ có thể im lặng.

Thôi Đại Lang thở dài một tiếng: “Trên đời này thực sự có chỗ cực lạc sao? không nói đến sinh lão bệnh tử, bi hoan li hợp, nhân sinh mà, chính là gần ít xa nhiều, khổ nhiều hơn vui. Lý Dục là quân vương của một nước, có nguy hiểm quốc gia không? Da Luật Hiền là đế vương bắc quốc, cũng có khi gặp chuyện. Thế tiểu dân vô danh thái bình vô ưu hay không đây? Nỗi khổ của họ chỉ có càng nhiều, ngươi nghiêng tai nghe xem…”

Gào khóc trên đường chạy trốn, tiếng kêu thảm thiết của một người con gái vọng vào tai, Thôi Đại Lang trầm giọng nói: “Người ở Lô Châu tin theo ngươi, ngươi thực sự có thể thản nhiên mà bỏ qua sao? Ngươi ở ẩn, thực sự có thể từ nay về sau ung dung tự tại? Không sai, nếu ngươi về đến tây bắc, triều đình đầu tiên sẽ nghĩ cách đối phó với ngươi, nhưng, ngươi có thể vắt óc nghĩ ra cách giả chết trốn nguy hiểm, không thể nghĩ một triều đình thừa nhận cách của ngươi để mưu cầu an toàn càng lớn hơn sao?”

Dương Hạo nhìn chằm chằm Thôi Đại Lang, lạnh lùng nói: “Ta trở về Lô Châu, chính là kháng mệnh. Triều đình sẽ không muốn tây bắc lại thêm một thế lực nữa, ta lập tức sẽ trở thành mục tiêu mà quân đội triều đình hướng tới, đó chẳng phải kéo chiến hỏa tới tây bắc sao? Vẫn còn mong được thái bình?’

Thôi Đại Lang vui mừng cười: “Dương huynh, thực ra ngươi có thể nghĩ ra cách, song ngươi luôn không chịu đi nghĩ”. 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: