Theseus 2
Anh ấy cho chúng tôi bốn giờ để quay lại. Phải mất hơn ba giờ mới đưa tôi ra khỏi hầm mộ. Lúc đó, não tôi gần như đã hoạt động bình thường, mặc dù cơ thể tôi vẫn tiếp tục đau nhức với mỗi cử động. Tôi thay các túi điện giải đã cạn và đi về phía đuôi tàu.
Mất mười lăm phút để chuẩn bị. Năm mươi phút nữa là đến cuộc họp hậu hồi sinh. Chỉ đủ thời gian cho những người thích ngủ trong môi trường trọng lực kéo đồ đạc cá nhân vào khoang và chiếm trọn 4,4 mét vuông sàn mà họ được phân.
Trọng lực – hay bất kỳ hình thức mô phỏng trọng lực nào – không phải là thứ tôi quan tâm. Tôi dựng lều của riêng mình ở chế độ không trọng lực, càng xa đuôi tàu càng tốt, áp sát vào thành trước của ống con thoi bên phải. Lều tôi phồng lên như quả cầu khí quyển nhỏ dưới lớp vỏ tàu. Đồ đạc của tôi rất đơn giản; chỉ mất ba mươi giây để dán lều vào tường, và thêm ba mươi giây nữa để lập trình điều kiện môi trường cho lều.
Sau đó, tôi đi dạo. Sau năm năm, tôi cần phải vận động.
Đuôi tàu là nơi gần nhất, vì vậy tôi bắt đầu từ đó: tại lớp bảo vệ ngăn cách tải trọng và động cơ. Một cửa hầm kín duy nhất nhô lên ở trung tâm tường đuôi tàu. Phía sau nó, là một đường hầm dịch vụ ngoằn ngoèo xuyên qua các máy móc tốt nhất là không nên để tay người chạm vào. Các vòng siêu dẫn dày của ramscoop; quạt ăng-ten phía sau nó, giờ đã bung ra thành một bong bóng xà phòng không thể phá hủy đủ lớn để bao phủ cả một thành phố, mặt của nó hướng về phía mặt trời để bắt được tia sáng yếu ớt từ dòng vật chất phản hạt Icarus. Thêm lớp chắn phía sau đó; sau đó là lò phản ứng telematter, nơi hydro thô và thông tin tinh chế tạo ra ngọn lửa nóng gấp ba trăm lần mặt trời.Tất nhiên là tôi biết những câu thần chú đó—phá vỡ và giải cấu trúc phản vật chất, dịch chuyển tức thời các số sê-ri lượng tử—nhưng với tôi, đó vẫn là phép thuật, cách chúng ta tiến xa và nhanh đến vậy. Nó sẽ là phép thuật đối với bất kỳ ai.
Có lẽ ngoại trừ Sarasti.
Xung quanh tôi, phép thuật tương tự cũng hoạt động ở nhiệt độ mát hơn và với những kết quả ít biến động hơn: một đám ống dẫn và bộ phân phối chen chúc trên bề mặt mọi phía. Một vài trong số những lỗ hổng đó có thể bị tay tôi làm tắc nghẽn, trong khi một hoặc hai cái khác có thể nuốt chửng cả người tôi. Nhà máy chế tạo của Theseus có thể chế tạo mọi thứ từ dao kéo đến buồng lái. Chỉ cần cung cấp một kho dự trữ vật liệu đủ lớn, nó thậm chí có thể chế tạo một chiếc Theseus khác, mặc dù chỉ là nhiều bộ phận nhỏ và mất một khoảng thời gian rất dài. Một số người tự hỏi liệu nó có thể chế tạo một phi hành đoàn khác hay không, dù tất cả chúng tôi đều được đảm bảo rằng điều đó là không thể. Ngay cả những cỗ máy này cũng không đủ tinh vi để tái tạo lại hàng nghìn tỷ khớp thần kinh nằm gọn trong không gian của một hộp sọ con người. Ít nhất là, hiện tại chưa làm được.
Tôi đã tin vào điều đó. Họ sẽ không bao giờ chuyển chúng tôi ra ngoài khi đã lắp ráp hoàn chỉnh nếu có một giải pháp thay thế rẻ hơn.
Tôi hướng về phía trước. Dựa đầu vào cánh cửa kín sau lưng, tôi có thể nhìn gần như đến tận mũi tàu Theseus, một đường nhìn thẳng tắp kéo dài đến một điểm đen nhỏ ở phía trước ba mươi mét. Trông giống như đang nhìn vào một mục tiêu khổng lồ được tạo hình bằng những vòng tròn đồng tâm, với các sắc độ trắng và xám: những cánh cửa tròn, nằm chính giữa các vách ngăn nối tiếp nhau, được xếp thẳng hàng hoàn hảo. Tất cả đều mở toang, như một sự thách thức bất cần với các quy tắc an toàn của thế hệ trước.
Chúng tôi có thể đóng chúng lại nếu muốn, nếu điều đó khiến chúng tôi cảm thấy an tâm hơn. Nhưng đó chỉ là cảm giác; trên thực tế, nó chẳng cải thiện chút nào khả năng sống sót của chúng tôi. Trong trường hợp xảy ra sự cố, những cánh cửa đó sẽ đóng sầm lại trong vòng vài mili-giây, nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ mà giác quan con người kịp hiểu ra rằng có báo động. Chúng thậm chí không cần điều khiển bằng máy tính. Các bộ phận của Theseus có phản xạ riêng của chúng.
Tôi đẩy mình ra xa khỏi tấm ốp đuôi tàu ( trong môi trường không trọng lực, đây là hành động đẩy vào bề mặt nào đó như đuôi tàu để tự di chuyển về hướng ngược lại) —nhăn mặt vì lực kéo và sự căng giãn của những sợi gân không sử dụng—và lướt về phía trước, bỏ lại Fab phía sau. Các cửa ngăn dẫn đến tàu con Scylla và Charybdis tạm thời thu hẹp không gian xung quanh tôi. Đi qua chúng, trục chính của mở rộng thành một ống hình trụ có thể co giãn, rộng khoảng hai mét và—vào thời điểm này—dài chừng mười lăm mét.
Hai chiếc thang dọc theo chiều dài của ống tàu; các cửa sổ tròn to như nắp cống được gắn trên các vách tàu hai bên. Phần lớn cửa sổ này chỉ nhìn vào khoang chứa hàng. Một vài cửa đóng vai trò là khoang khí đa năng, phòng trường hợp có ai đó muốn đi dạo bên dưới lớp vỏ tàu. Một cửa vào lều của tôi. Một cửa khác, cách đó bốn mét về phía trước, dẫn vào khu vực của Bates.
Từ cửa thứ ba, ngay trước vách ngăn phía trước, Jukka Sarasti xuất hiện, leo lên như một con nhện trắng dài ngoẵng.
Nếu anh ta là người, tôi sẽ nhận ra ngay sự lạnh lẽo trong ánh mắt, sẽ ngửi thấy mùi sát nhân trong từng cử động của anh ta. Tôi cũng sẽ không thể ước lượng nổi số người anh ta đã giết, vì trên gương mặt anh ta chẳng có lấy một chút hối hận. Việc giết một trăm người đối với Sarasti không khác gì việc đập chết một con côn trùng. Cảm giác tội lỗi, nếu có, chỉ như giọt nước lăn trên lớp sáp, chẳng lưu lại chút dấu vết nào.
Nhưng Sarasti không phải là con người. Sarasti là một sinh vật hoàn toàn khác, và những phản xạ sát nhân ấy đối với anh ta chẳng có gì hơn ngoài bản năng của một kẻ săn mồi. Anh ta có xu hướng đó, được sinh ra với nó; liệu anh ta có bao giờ hành động theo bản năng đó hay không thì chỉ có anh ta và Bộ Chỉ Huy của Nhiệm Vụ biết.
Có lẽ họ sẽ khoan dung với anh, tôi không nói với anh ta. Có lẽ đó chỉ là cái giá phải trả khi làm công việc này. Dù sao, anh cũng là người quan trọng cho nhiệm vụ, phải không? Tôi không biết có thể anh đã ký một thỏa thuận. Anh rất thông minh, anh biết chúng tôi sẽ không mang anh trở lại nếu chúng tôi không cần anh. Từ ngày họ giải phóng anh, anh biết mình có giá trị.
Vậy nó hoạt động như thế nào, Jukka? Anh cứu thế giới, và những người kiểm soát anh đồng ý quay đi không nhìn?
Khi còn nhỏ, tôi đã đọc những câu chuyện về những kẻ săn mồi trong rừng nhiệt đới có thể làm con mồi bị thôi miên bằng cái nhìn. Chỉ đến khi gặp Jukka Sarasti tôi mới hiểu cảm giác đó. Nhưng anh ta không nhìn tôi lúc này. Anh ta đang tập trung lắp đặt chiếc lều của mình, và dù anh có nhìn tôi đi nữa, tôi cũng chỉ thấy chiếc kính bảo vệ tối màu mà anh ta mang để tỏ sự tôn trọng đối với sự nhạy cảm của loài người. Anh ta phớt lờ tôi khi tôi túm lấy một thanh ngang gần đó và lách qua.
Tôi có thể thề rằng tôi ngửi thấy mùi thịt sống trên hơi thở của anh ta.
Vào bên trong khoang quay (đúng hơn là các khoang quay, vòng BioMed ở phía sau quay trên các ổ trục của riêng nó nó). Tôi bay qua trung tâm của một hình trụ rộng mười sáu mét. Các dây thần kinh sống của Theseus chạy dọc theo trục, các bộ phận plexii và ống dẫn được bó lại quanh những chiếc thang ở hai bên. Qua đó, các lều mới dựng của Szpindel và James nổi lên từ ngóc ngách ở hai bên phía đối diện của "thế giới". Szpindel tự do bay bên vai tôi, vẫn không mảnh vải che thân ngoại trừ đôi găng tay, và tôi có thể nhận thấy từ cách anh ta di chuyển ngón tay rằng màu sắc yêu thích của anh ta là màu xanh lá. Anh ta bám vào một trong ba cầu thang được bố trí xung quanh khoang quay: những chiếc thang hẹp và dốc cao năm mét thẳng đứng từ sàn nhà lên không trung.
Cửa khoang tiếp theo mở ra ngay giữa bức tường phía trước của khoang tàu; các ống và dây dẫn chui sâu vào vách ngăn ở hai bên. Tôi túm lấy một thanh rào thuận tiện để giảm tốc độ—cắn răng chịu cơn đau một lần nữa—và bay qua.
Một ngã ba. Hành lang chính kéo dài về phía trước, trong khi một nhánh nhỏ rẽ vào buồng EVA và cửa khoang phía trước. Tôi giữ nguyên hướng đi và thấy mình trở lại trong hầm mộ, sáng bóng như gương và sâu chưa đến hai mét. Bên trái là các buồng ngủ mở; còn bên phải là các buồng ngủ đóng kín. Chúng tôi quan trọng đến mức chúng tôi có cả các bản sao cho mình. Những bản sao ấy vẫn đang ngủ say, không biết gì. Tôi đã gặp ba trong số chúng khi tập huấn. Hy vọng là chẳng ai trong số chúng tôi sẽ phải gặp lại nhau sớm.
Bên phải chỉ có bốn buồng ngủ-không có bản sao cho Sarasti.
Một cửa khoang khác. Lần này nhỏ hơn. Tôi lách qua và bước vào buồng lái. Ánh sáng ở đây mờ ảo, những biểu tượng và chữ số nhấp nháy như một bức tranh tĩnh chuyển động trên các mặt kính tối màu. Không phải là buồng lái hoành tráng thường thấy trên các con tàu khác, mà chỉ là một buồng lái chật hẹp.
Tôi đứng giữa hai chiếc ghế an toàn, mỗi chiếc được bao quanh bởi một dãy điều khiển và màn hình hiển thị. Không ai mong đợi sẽ phải sử dụng khu vực này. Theseus hoàn toàn có thể tự vận hành một cách hoàn hảo, và nếu không, chúng tôi có thể điều khiển nó từ hệ thống của mình, và nếu cả hai giải pháp đều bất khả thi, thì có lẽ chúng tôi đã toi đời. Dù sao, trong trường hợp không tưởng đó, đây là nơi một vài người sống sót dũng cảm có thể lái con tàu trở về sau khi tất cả mọi thứ đều thất bại.
Ở giữa khu vực này, một khoang cửa cuối cùng xuất hiện, dẫn tới một hành lang nhỏ phía trước: lối vào đài quan sát ở đầu mũi tàu Theseus. Tôi lách người qua cửa, các khớp kêu răng rắc.
Trong bóng tối. mái vòm phía trước bị lớp bảo vệ che kín, giống như một đôi mí mắt đang nhắm chặt. Bên cạnh tôi, một bảng điều khiển nhỏ lóe sáng yếu ớt; ánh sáng mờ nhạt từ hành lang phản chiếu lên bề mặt vòm kính.
Tôi với tay chạm vào lớp kính- lớp trong cùng của hai lớp, không khí ấm được dẫn qua khe giữa để giảm đi cái lạnh. Dù vậy, cái lạnh vẫn thấm vào ngón tay ngay tức khắc.
Vũ trụ ở ngoài kia.
Có lẽ, trên hành trình ban đầu, Theseus đã thấy điều gì đó đáng sợ đến mức phải bỏ chạy khỏi hệ mặt trời. Hoặc có lẽ cô ấy không chạy trốn, mà là đang lao tới một thứ gì đó khác, thứ gì đó chưa được biết đến cho tới khi chúng tôi chầu trời và rời khỏi Thiên Đàng. Trong trường hợp đó...
Tôi đưa tay ra và chạm vào bảng điều khiển. Tôi gần như mong đợi chẳng có gì xảy ra; cửa sổ của Theseus có thể đã bị khóa như các nhật ký liên lạc của nó. Nhưng ngay lập tức, vòm kính trước mặt tôi nứt ra, đầu tiên là một vết nứt, rồi dần lan rộng ra thành hình lưỡi liềm, biến thành một cái nhìn trừng trừng của vũ trụ khi lớp chắn từ từ trượt về phía bên trong thân tàu. Ngón tay tôi co lại theo phản xạ, nắm chặt lấy dây đai an toàn. Khoảng không đột ngột rộng lớn và vô cùng lạnh lẽo, chẳng có gì để bám víu ngoài một đĩa kim loại rộng chưa đầy bốn mét.
Và ngoài đó, là các vì sao.
Sao, khắp mọi nơi. Chúng dày đặt đến mức khó hiểu, nhưng bầu trời vẫn đen kịt. Những ngôi sao, và—
—không có gì khác.
Bạn mong đợi gì? Tôi tự nhủ. Một con tàu mẹ ngoài hành tinh treo ngay cạnh tàu à?
Chà, tại sao không? Dù sao thì chúng tôi cũng đang ở đây để tìm kiếm điều đó mà.
Ít nhất những người khác vẫn đang tìm kiếm. Họ sẽ luôn đóng vai trò quan trọng, dù chúng tôi đi đến bất cứ đâu. Nhưng tôi chợt nhận ra, tình cảnh của mình lại có một chút khác biệt. Giá trị của mình ngày càng lu mờ khi tôi rời xa họ.
Và chúng tôi đang cách Trái Đất hơn nửa năm ánh sáng.
Khi bóng tối đủ dày, bạn sẽ thấy các ngôi sao.
— Emerson
Tôi đang ở đâu khi ánh sáng tắt?
Tôi bước ra từ cổng Thiên Đường, đang than khóc cho một người cha mà— ít nhất là trong tâm trí ông—vẫn còn sống.
Đã hai tháng trôi qua kể từ khi mẹ tôi, Helen, "biến mất" dưới chiếc mũ trùm. Từ góc nhìn của chúng tôi, chỉ là hai tháng. Nhưng với bà, đó có thể là một ngày, hoặc cả thập kỷ; những người được gọi là “Gần như Toàn Năng” có thể tùy chỉnh thời gian chủ quan theo ý mình.
Bà sẽ không quay lại nữa. Helen chỉ chịu gặp cha tôi trong những điều kiện mà người ngoài nhìn vào cũng thấy như một sự sỉ nhục. Nhưng ông không phàn nàn. Ông đến thăm bà mỗi khi bà cho phép: lúc đầu là hai lần một tuần, rồi một lần, rồi mỗi hai tuần một lần. Cuộc hôn nhân của họ đang dần tan rã , giống như quá trình phân rã của một nguyên tố phóng xạ, nhưng cha tôi vẫn tìm đến bà, vẫn chấp nhận mọi điều của bà.
Vào ngày ánh sáng mờ dần, tôi đã cùng ông đến bên mẹ tôi. Đó là một dịp đặc biệt– lần cuối cùng chúng tôi có thể gặp bà bằng da bằng thịt. Trong suốt hai tháng, cơ thể mẹ tôi nằm lặng lẽ cùng với 500 người “thăng hoa” khác trên một khu chăm sóc, mở cửa cho người thân đến thăm. Dĩ nhiên, diện mạo với bà không “thực” hơn bao giờ hết; bởi cơ thể bà không thể nói chuyện. Nhưng ít ra nó vẫn còn đó – da thịt vẫn ấm, ga giường sạch sẽ và thẳng thớm. Phần dưới khuôn mặt của Helen vẫn lộ ra dưới chiếc mũ trùm, mặc dù mắt và tai đã được che kín. Chúng tôi có thể chạm vào bà. Cha tôi thường làm vậy. Có lẽ một phần nào đó của bà vẫn cảm nhận được điều đó.
Nhưng rồi, cũng đến lúc phải đóng nắp quan tài và xử lý “di thể.” Phải nhường chỗ cho những người mới. Và thế là, chúng tôi có mặt vào ngày cuối cùng bên mẹ tôi. Cha tôi nắm lấy tay bà lần cuối. Helen vẫn sẽ còn đó, trong thế giới số hóa của bà, theo cách mà bà lựa chọn. Nhưng sau hôm nay, cơ thể bà sẽ được đưa vào các cơ sở lưu trữ, nơi chật chội và được thiết kế chỉ để lưu giữ cơ thể, không phù hợp để người thân đến thăm trực tiếp. Họ cam đoan với chúng tôi rằng cơ thể sẽ được giữ nguyên – cơ bắp sẽ được kích thích bằng điện, cơ thể được chăm sóc và nuôi dưỡng, để luôn sẵn sàng trở lại nếu “Thiên Đàng” gặp sự cố nghiêm trọng nào đó. Mọi thứ đều có thể đảo ngược, chúng tôi được bảo vậy. Nhưng – có quá nhiều người đã “thăng hoa”, và chẳng có cái hầm nào sâu vô tận được. Có tin đồn rằng một số bộ phận cơ thể sẽ bị cắt bỏ theo thời gian để tối ưu hóa không gian lưu trữ. Có lẽ năm sau, Helen chỉ còn là một phần thân. Năm tiếp theo, chỉ còn một cái đầu. Hoặc cuối cùng, cơ thể bà sẽ bị lược bỏ toàn bộ, chỉ giữ lại bộ não để chờ đợi một bước đột phá công nghệ vĩ đại nào đó.
Đó chỉ là những tin đồn. Cá nhân tôi chưa biết ai đã trở lại sau khi “thăng hoa,” nhưng ngay cả nếu có, tại sao họ lại muốn làm vậy? Đến Lucifer còn không rời Thiên Đàng nếu không bị ép buộc.
Có lẽ cha tôi biết rõ hơn – ông luôn biết những điều mà người khác không được phép biết. Nhưng dù ông biết gì, ông cũng không bao giờ kể lại. Dù sao đi nữa, ông nghĩ rằng việc nói ra cũng chẳng thay đổi được quyết định của Helen. Với ông, thế là đủ.
Chúng tôi đội những chiếc mũ đặc biệt để được vào thế giới của mẹ tôi – một căn phòng gặp mặt đơn sơ mà bà tự tạo ra. Không có cửa sổ, không có dấu hiệu gì về thế giới lý tưởng mà bà đã xây dựng cho riêng mình. Ngay cả những môi trường ảo được thiết kế sẵn để tạo sự thoải mái cho người đến thăm, bà cũng không chọn. Thay vào đó, chúng tôi đứng trong một quả cầu trống trải, rộng năm mét, không có gì bên trong ngoài chính bà.
Có lẽ, đây chính là “thiên đường” của bà, tôi nghĩ thầm.
Cha tôi mỉm cười. “Helen.”
“Jim.” Bà trẻ hơn ít nhất hai mươi tuổi so với cơ thể nằm trên giường, nhưng sự hiện diện của bà vẫn làm tôi rợn người. “Siri! Con đến rồi!”
Bà luôn gọi tôi bằng tên. Tôi không nghĩ bà từng gọi tôi là “con trai.”
"Em vẫn hạnh phúc ở đây chứ?" cha tôi hỏi.
"Tuyệt vời. Em chỉ ước gì anh có thể cùng tham gia với em."
Cha tôi mỉm cười. “Phải có người giữ cho thế giới này vận hành.”
"Giờ thì anh biết đây không phải là lời tạm biệt," bà nói. "Anh có thể đến thăm bất cứ lúc nào."
"Chỉ khi em thay đổi cảnh vật một chút." Không chỉ là một câu đùa, mà là một lời nói dối; Jim sẽ đến nếu bà gọi, dù có phải bước qua mảnh kính vỡ.
"Và cả Chelsea nữa," Helen nói tiếp. "Thật tuyệt nếu cuối cùng em được gặp cô ấy sau ngần ấy thời gian."
"Chelsea không còn nữa, Helen," tôi nói.
"Ồ, đúng rồi, nhưng biết con vẫn giữ liên lạc với cô ấy. Con vẫn nhớ cô ấy, và chỉ vì hai người không còn bên nhau không có nghĩa là cô ấy không thể—"
"Mẹ biết cô ấy—"
Một suy nghĩ bất ngờ khiến tôi dừng lại giữa câu: có lẽ tôi chưa từng nói với họ.
"Con trai," ba tôi khẽ nói. "Có lẽ con có thể cho ba và mẹ chút thời gian riêng tư."
Tôi sẵn sàng cho họ cả một đời. Tôi ngắt kết nối và quay về phòng chăm sóc , nhìn từ cái xác trên giường đến ba tôi—đang bất động trên chiếc ghế dài, thì thầm những lời ngọt ngào vào luồng dữ liệu. Hãy để họ diễn cho nhau xem. Hãy để họ hoàn thành cái mối quan hệ mà họ muốn theo cách của mình. Có lẽ một lần, họ có thể thật lòng với nhau, ở cái thế giới nơi mọi thứ khác đều là giả dối. Có lẽ.
Tôi không muốn chứng kiến gì cả.
Nhưng tất nhiên, tôi vẫn phải quay lại, đóng một vai trò trong màn kịch gia đình lần cuối cùng, tham gia vào những lời nói dối quen thuộc. Tất cả chúng tôi đều ngầm đồng ý rằng chuyện này sẽ không thay đổi gì, và không ai chệch ra khỏi hướng đi của kịch bản đủ để gọi ai khác là kẻ nói dối. Cuối cùng—cẩn thận nói "hẹn gặp lại" thay vì "tạm biệt"—chúng tôi rời đi.
Tôi thậm chí cố nén cảm giác buồn nôn đủ lâu để ôm bà một cái.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top