Chương 1 • Cô Mặc Mô Lan thị
Bgm: 《Cửu Vạn Tự》
Phía Bắc Thiên Sơn có một thị tộc tên là Mô Lan.
Tương truyền, Mô Lan là bộ lạc thượng cổ —— dòng dõi còn sót lại của Đông Phương thị. Từ ngàn năm trước, Mô Lan thị vì để tránh binh họa, toàn tộc dời tới Tây Vực, ẩn cư nơi biên viễn, không tham dự bất kỳ cuộc chiến nào bên ngoài tộc.
Sau này, các thị tộc của Tây Vực lần lượt dựng nước, tranh quyền xưng vương xưng bá.
Tộc trưởng đời thứ mười của Mô Lan —— Mô Lan Kiên cho rằng chiến hỏa đã nổi, chẳng ai có thể đứng ngoài cuộc, lúc này nếu như Mô Lan còn không ứng chiến, tương lai e rằng có muốn chiến cũng chẳng được. Bởi vậy, Mô Lan thị dựng quốc hiệu Cô Mặc, Mô Lan Kiên xưng vương, lấy Mặc Thành làm kinh đô, chính thức bước vào vòng xoáy binh đao nơi Tây Vực.
Nước Cô Mặc ngày càng cường thịnh, mười năm sau, Khâu Tư —— cường quốc Tây Vực không ngừng xung đột với Cô Mặc đã đồng ý cho Đại Sở lập phủ Tây Vực, nhờ đó mà có thêm binh lực trợ giúp.
Khâu Tư thế như chẻ tre, Cô Mặc không chống cự nổi, các thành trì lần lượt thất thủ, chỉ trong hai tháng ngắn ngủi, đại quân Khâu Tư đã đánh được tới dưới chân Mặc Thành.
Ngày Khâu Tư công thành, Mô Lan Kiên lên lầu thành dưới bóng hoàng hôn, ông lệnh cho toàn bộ đại quân Cô Mặc lui vào trong thành rồi lấy Quý Tỷ từ trong hộp ra. Chỉ thấy ánh xanh huyền ảo bùng lên nơi cổng thành, trời đất nổi cuồng phong, đại quân Khâu Tư bị bao vây trong bão cát. Nhưng sau thời gian một tuần trà, gió ngừng lại, cát sỏi rơi đầy xuống đất.
Mười vạn đại quân mặc giáp trụ tinh xảo xuất hiện dưới Mặc Thành, tựa như từ hư không mà đến.
Đại quân Khâu Tư vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, chỉ thấy cửa thành xuất hiện u quang, sau đó mười vạn đại quân bắt đầu chuyển động —— bọn chúng giơ cao kiếm giáo, xông thẳng vào màn vũ tiễn do Khâu Tư bắn ra, tựa như chẳng sợ đau thương.
Đêm phủ mênh mông, trăng sáng nhuốm máu, ánh nguyệt soi xuống dưới chân Mặc Thành —— xác người chất đống, tàn cờ của Khâu Tư phiêu đãng trong gió đêm, chẳng ai còn đủ sức mà nâng lên.
Khâu Tư đại bại, trong vòng một đêm hao tổn không biết bao nhiêu quốc lực, hai nước lân bang thừa cơ tiến đánh, thành trì liên tục thất thủ. Nửa năm sau, vương thất Khâu Tư xin được kết thông gia với Đại Sở đồng thời đưa ra thư quy hàng, trở thành nước chư hầu của Đại Sở.
Cùng lúc đó, Mô Lan Kiên mắc trọng bệnh không qua khỏi.
Ba tháng sau, trưởng tử của Mô Lan Kiên lập tức kế vị.
Mô Lan Kiên được an táng tại biển Mô Lan, truy hào Cao Tổ, được an nghỉ cùng tiên linh tổ tông của Mô Lan thị. Theo tục lệ của tộc, trên đất chôn phải xây một tòa tháp An Hồn.
Thời gian thấm thoắt đã lại qua thêm trăm năm nữa, vương triều Đại Sở khí số đã tận, quần hùng cắt cứ, thiên hạ chia làm tư —— Đông Lệ phía đông, Tây Thần phía tây, Nam Lâm phía nam, Bắc Chiêu phía bắc. Bốn nước thế như chân vạc, mạnh ai nấy làm, suốt nhiều năm giằng co nhưng kỳ lạ là vẫn duy trì được vị thế cân bằng.
Mùa thu Cô Mặc đời thứ tư năm thứ mười ba, Đông Lệ và Nam Lâm tra ra được trong hương Bách Uẩn mà hai nước Ôn Túc và Cô Mặc tiến cống có chứa kịch độc. Đông Lệ cùng Nam Lâm liền mượn cớ ấy mà liên thủ dẫn mười vạn đại quân tấn công hai nước Tây Vực.
Kèn lệnh cổng thành vừa thổi, sự yên bình trong Mặc Thành đã không còn nữa.
Tiếng binh khí va chạm vang vọng đại mạc, khói lửa ngoài thành đỏ rực cả hoang mạc, giống như mặt trời mọc giữa trời đêm.
Tam vương tử Cô Mặc —— Mô Lan Huỳnh Hoặc được đưa vào hậu cung của Thần Vương để trốn. Huynh tỷ đều ra trận, chỉ có mình y còn nhỏ yếu, là người duy nhất được bảo vệ trong tộc.
Tiếng binh khí bên ngoài vang lên khiến y giật nảy mình, Thần Vương hậu ôm chặt y nói: "Trĩ Nô đừng sợ, mẫu hậu ở đây."
Trĩ Nô ngẩng đầu, thấy đôi mắt ầng ậng nước của Thần Vương hậu đã đỏ hoe.
"Mẫu hậu." Y nói: "Không phải Trĩ Nô sợ..."
Cửa phòng bỗng nhiên bị đẩy ra, Phong Di —— trưởng lão của Mô Lan bước nhanh vào điện. Bím tóc bện bằng dây màu của ông đã rối tung, nửa khuôn mặt vương đầy máu, nốt lệ chí đỏ tươi dưới mắt như gió thu xơ xác ngoài thành.
Phong Di dâng thư bằng hai tay, nói: "Là thư tay của Vân Vương, xin Vương hậu hãy xem."
Bàn tay của Thần Vương hậu run rẩy đón lấy, bà nhanh chóng mở thư ra, hàng chữ quen thuộc đập vào mắt, bà lập tức vỡ òa khóc nấc.
"Mẫu hậu, có chuyện gì vậy?" Trĩ Nô đưa tay muốn cầm thư nhưng Thần Vương hậu lại giấu đi, bà ôm Trĩ Nô vào lòng, nghẹn ngào nói: "Trĩ Nô, con nhất định phải sống."
"Con phải nhớ, con là Mô Lan Huỳnh Hoặc, là vương tử của Mô Lan!" Bà nhìn Trĩ Nô thật kỹ sau đó buông tay ra, nhẹ giọng nói: "Đi đi Trĩ Nô, đi theo Di lão đi."
Trĩ Nô chỉ hận mình quá thông minh, không cần nghĩ cũng biết đây là lời từ biệt của mẫu hậu, y không sao chấp nhận nổi, ôm chặt Vương hậu nói: "Mẫu hậu, Trĩ Nô không đi! Phụ vương đã dạy Trĩ Nô, con dân Mô Lan sinh ra ở đại mạc, gió thổi không tắt, cát chẳng thể vùi —— thà chết đứng chứ không sống quỳ!"
"Vào thời khắc tồn vong của Mô Lan, phụ mẫu huynh tỷ đều ra chiến trường——" Giọng nói non nớt của Trĩ Nô bỗng khàn đi: "Mẫu hậu, người muốn Trĩ Nô bỏ mặc đất nước mà làm kẻ đào binh sao?"
"Trĩ Nô không phải đào binh." Thần Vương hậu đưa hai tay ôm lấy khuôn mặt nhỏ nhắn của Trĩ Nô, ngắm nhìn thật kỹ từng đường nét trên khuôn mặt y, đầu ngón tay dịu dàng lau nước mắt cho y. Bà rưng rưng cười nói: "Trĩ Nô, lần này con đi không phải là bỏ mặc đất nước, mà là gánh vác nước nhà. Từ nay về sau, con chính là Mô Lan, chỉ khi con còn sống, con mới là người dũng cảm nhất."
Có lẽ Trĩ Nô đã hiểu, cũng có lẽ là không, y đã mất đi năng lực suy tính, trước mắt chỉ còn là ly biệt. Y cố chấp nhìn chằm chằm Thần Vương hậu, nhưng bà đã buông tay y rồi ra hiệu cho Phong Di đưa Trĩ Nô đi.
Phong Di cố nén nước mắt, tiến lên phía trước nói: "Trĩ Nô, chúng ta phải đi."
"Con không đi!" Trĩ Nô kích động vùng vẫy, y chạy lại ôm chặt Thần Vương hậu: "Mô Lan ở đây, phụ mẫu huynh tỷ đều ở đây —— Hoàng tuyền hay cửu u cũng được, là người một nhà thì phải đi cùng nhau! Mẫu hậu, Trĩ Nô không đi, người muốn Trĩ Nô đi đâu đây!"
Thần Vương hậu ngẩng cao đầu nhắm mắt lại, một hàng lệ từ từ len vào mái tóc của bà. Bà đưa tay lau nước mắt đi rồi nhìn sang Phong Di, Phong Di hiểu ý, ông gật đầu rồi đưa tay đánh lên gáy Trĩ Nô.
Tiếng khóc của Trĩ Nô lập tức im bặt, trước khi hôn mê, ký ức cuối cùng của Trĩ Nô là đôi mắt ngấn lệ đầy bi thương và không đành lòng của mẫu hậu. Phong Di bế Trĩ Nô lên, khom người hành lễ với Thần Vương hậu, ông vừa quay người định rời đi thì lại bị gọi lại.
Thần Vương hậu đứng dậy, ngắm Trĩ Nô đang hôn mê trong tay Phong Di. Bà tháo chuỗi hạt trên tay xuống rồi quấn thành từng vòng lên tay Trĩ Nô, sau đó bà nhẹ nhàng buông tay ra, hít sâu một hơi, quỳ xuống hành lễ.
Phong Di cả kinh nói: "Vương hậu, người đừng làm vậy!"
"Di lão." Thần Vương hậu ngắt lời Phong Di, nói: "Trĩ Nô, đành giao lại cho ngươi. Ta biết cả đời này của hài nhi sẽ phải sống trong đau khổ dằn vặt rồi, ta không cầu ngươi phải cho nó một cuộc sống bình an vui vẻ, nhưng xin Di lão hãy dạy nó thành tài —— dạy nó phải đứng thẳng trước phong ba, tìm cho mình một con đường sống!"
"Nhưng nếu sống không bằng chết..." Thần Vương hậu nức nở nói: "Di lão, ngươi giúp ta nói với nó, nó không sai, ta không trách nó, phụ vương và huynh tỷ đều không trách nó."
"Vâng." Phong Di rưng rưng đáp lời: "Thần xin ghi nhớ lời dặn của Vương hậu."
Lúc Trĩ Nô tỉnh lại không biết bản thân đang ở đâu, trước mắt là bậc thang xoắn ốc cao vô tận, ánh nến lay lắt soi tỏ tượng Phật, thật lâu sau y mới chậm rãi lấy lại được ý thức.
"Tỉnh rồi à?" Phong Di ngồi xếp bằng trên một tấm bồ đoàn.
Ký ức trước khi hôn mê dần dần quay về, Trĩ Nô chậm rãi ngồi dậy hỏi: "Đây là nơi nào?"
"Tháp An Hồn của Thái Tổ." Phong Di thẳng thắn trả lời: "Trong đài Quan Tinh có mật đạo nối thẳng tới biển Mô Lan, chỉ có tộc trưởng và các trưởng lão khác biết điều này."
Trĩ Nô không đáp lời, cũng không biết ký ức đã quay về đến đoạn nào, y chưa kịp mở miệng hỏi mà nước mắt đã rơi lã chã. Y không muốn khóc, chỉ là càng cố gắng nhịn thì cả người càng đau, đau đến nỗi mỗi nhịp thở đều như bị kim châm.
Trĩ Nô nắm chặt vạt áo trước của mình, lại thấy chuỗi hạt trên cổ tay —— đây là chuỗi trầm hương kỳ nam mà mẫu hậu thích nhất. Bà từng nói trầm hương kỳ nam quý báu, nhưng bà lại chẳng vì vậy mà cất nó đi, ngày nào cũng đeo trên tay, bởi vì đây là quà mà Mô Lan Vân tặng bà trong lễ cập kê.
Trĩ Nô nhớ lại khoảnh khắc trước khi ngất đi, mẫu hậu rưng rưng mỉm cười vĩnh biệt y. Y gục mặt xuống tấm bồ đoàn, khóc đến lạc cả giọng, cả người muốn tan chảy như những giọt nến, linh hồn bị ánh lửa thiêu rụi.
Phong Di ngẩng nhìn pho tượng Phật, ông không nói lời nào, đôi mắt mệt mỏi lại kiên định.
Không biết qua bao lâu Trĩ Nô mới lại khẽ hỏi: "Họ... đều không còn nữa sao?"
Phong Di thở dài đáp: "Ta cũng không biết."
Trĩ Nô ngừng lại một nhịp, tựa như bắt được một cọng cỏ cứu mạng, lập tức hỏi: "Chúng ta đã ở đây bao lâu rồi?"
Phong Di đáp: "Hiện giờ là sáng sớm ngày hôm sau rồi."
"Vậy chúng ta quay lại xem thử đi." Trĩ Nô nói: "Di lão, chúng ta trở về đó xem thử, có lẽ mọi chuyện không tệ như chúng ta nghĩ đâu!"
"Không được." Phong Di nói: "Bây giờ quay về là tự tìm đường chết."
"Vì sao chứ?" Trĩ Nô khó hiểu hỏi: "Vì sao có mật đạo——"
"Mật đạo cũng không tuyệt đối an toàn —— Ta đã nói rồi, ngoài Vân Vương ra, các trưởng lão cũng biết đến sự tồn tại của nó. Trĩ Nô, ta chỉ có thể hết sức cẩn thận, tuyệt đối không thể để con gặp bất kỳ sơ xuất nào." Phong Di dứt lời liền nhìn về phía Trĩ Nô, ông đứng dậy thở dài, đưa tay nói: "Đi thôi, ta đưa con đi xem cái này, xem xong con sẽ hiểu."
Trĩ Nô nắm chặt tay Phong Di, không biết ông đang định đưa mình đi xem cái gì, y chỉ bước theo ông lên những bậc thang quanh co để lên tầng cao nhất của tòa tháp. Phong Di đi tới đẩy mở ô cửa ngầm trên tường ra, lại bế Trĩ Nô lên ra hiệu cho y nhìn qua ô cửa.
Trĩ Nô có thể thấy khói đen phủ kín đại mạc Mặc Thành qua ô cửa hẹp. Khoảng cách này quá xa, y chỉ nhìn thấy được cổng thành đổ nát và doanh trại đóng quân ngoài thành. Y còn chưa kịp hiểu chuyện gì thì Phong Di đã nói: "Đại quân vẫn còn ở ngoài thành nhưng không công thành nữa, con nghĩ là vì sao?"
Trĩ Nô khẽ rùng mình, Phong Di thả y xuống rồi đóng cửa lại.
"Di lão, con..." Trĩ Nô nắm lấy tay Phong Di, trong khoảnh khắc mọi thứ dường như đã sụp đổ, còn y thì chỉ như một hạt cát nằm giữa sa mạc hoang vu.
Phong Di dắt tay y xuống tháp, vừa đi vừa nói: "Trĩ Nô, chỉ cần con còn sống, tức là Mô Lan chưa bị diệt vong. Con đường chúng ta phải đi còn rất dài, điều cần thiết nhất bây giờ là phải ẩn mình, chờ đến khi hai nước Đông Nam rút quân, khi mọi chuyện đã lắng xuống rồi chúng ta mới thật sự được tính còn sống."
Hai người lại ngồi xuống trước tượng Phật. Hình ảnh Mặc Thành chìm trong biển khói vẫn quẩn quanh trong đầu Trĩ Nô, bóng dáng của phụ mẫu huynh tỷ đều lần lượt hiện rõ, y càng nén lòng để ép mình tỉnh táo thì những hình ảnh ấy lại càng hiện lên rõ ràng.
Y không biết mình phải làm sao, chỉ biết một lát sau mình đã được Phong Di kéo vào lòng. Trĩ Nô nhìn lên ngọn nến trước mặt, y bỗng phát hiện mái đầu của Phong Di đã bạc trắng, chẳng còn tìm được một sợi tóc đen nào —— Mới hôm qua thôi trên đầu ông chỉ có vài sợi tóc trắng.
"Khóc đi, Trĩ Nô." Phong Di khẽ nói: "Muốn khóc thì hãy khóc đi, tranh thủ lúc này còn có thể khóc, sau này con chỉ có thể giấu cảm xúc ấy dưới đáy lòng thôi."
Trĩ Nô mở to mắt, thần trí mông lung, ký ức chợt trôi ngược về quá khứ.
Tín ngưỡng của Mô Lan thị thờ sói —— Bởi vì sói là con vật trung thành, có thể vì yêu mà vạn chết không từ.
Người Mô Lan cho dù xuất thân từ cung đình nhưng đều là những đứa trẻ được lớn lên trong tình yêu.
Trĩ Nô nghĩ, nếu như mười năm qua y sống khổ một chút, nếu như phụ mẫu huynh tỷ lạnh nhạt với y một chút thì tốt, chưa từng được yêu thương thì sẽ không biết hận, càng sẽ chẳng thể hiểu nỗi đau thấu tim gan là như thế nào.
Rất lâu sau nước mắt y mới trào ra, có lẽ cơ thể đã kịp thích ứng, từ nay về sau khóc cũng là một chuyện xa xỉ, chỉ cần nghĩ cách sống xót thôi đã tiêu hết khí lực rồi.
Đêm đó Phong Di khởi động cơ quan trong tháp An Hồn của Thái Tổ, dẫn Trĩ Nô xuống địa cung dưới biển Mô Lan.
Địa cung dưới biển Mô Lan được xây vào năm trăm năm trước, kể từ đó tộc trưởng trăm năm sau của Mô Lan thị sau khi chết đều sẽ được an táng tại nơi đây. Địa cung rộng lớn, bốn bề nối nhau, lăng tẩm của các tộc trưởng dù tách biệt nhưng vẫn liên thông. Thái Tổ đã hạ lệnh đào hai đường mật đạo, một đường thông tới đài Quan Tinh, đường còn lại thông với tháp An Hồn.
Trước đây Trĩ Nô chỉ biết đây là lăng chôn cất tộc trưởng các đời trước, chẳng biết thêm gì khác.
Sau khi địa cung dưới biển Mô Lan xây xong đều không được ghi chép vào sử sách, cách thức ra vào đều được trưởng lão mỗi đời truyền cho nhau, lễ nhập quan cũng là do đích thân các trưởng lão thực hiện. Trĩ Nô nghe Phong Di kể mới hiểu, Thái Tổ cho đào hai đường mật đạo này là để con cháu Mô Lan sau này có nơi cố thủ khi thiên hạ đảo điên, cũng là con đường sinh tồn cuối cùng.
Trĩ Nô đi theo Phong Di vào địa cung, vượt qua tầng tầng cơ quan, đi mãi đến cuối hành lang u ám mới thấy được chút ánh sáng mờ ảo.
Trĩ Nô đứng ở mép vách đá, phía đối diện cũng có một vách đá tương tự, trên đó khắc mãng xà uốn lượn, giữa hẻm núi có dòng nước ngầm cuồn cuộn chảy phía dưới. Trĩ Nô hơi tiến lên, y đứng ở vách đá ngẩng đầu nhìn lại, phát hiện trên vách đá mình đang đứng cũng khắc mãng xà.
Phong Di dẫn y đi xa như vậy chính là để tìm dòng nước này.
Ông đưa Trĩ Nô quay lại một gian tẩm thất gần dòng nước ngầm nhất rồi nói đây là nơi cư trú tạm thời, cứ yên lặng theo dõi tình thế trước đã.
Phong Di đặt túi hành lý xuống, nói: "Ta đi múc nước, con ở đây chờ ta về, có thể đi loanh quanh nhưng tuyệt đối không được chạm linh tinh vào vật gì, càng không thể ra khỏi cánh cửa đá này. Trong địa cung mỗi bước đều là một cơ quan, nói không chừng còn có sát chiêu trong địa đạo này, ta không cứu nổi con đâu."
Trĩ Nô vốn chưa từng học thuật phong thủy, nhưng những gì Phong Di từng dạy đều có chút liên quan đến vấn đề này cho nên y cũng hiểu được đôi phần.
"Được." Trĩ Nô đáp, nhưng khi Phong Di vừa xoay người định đi thì y lại gọi với theo, mắt dõi theo chiếc quan tài đặt chính giữa tẩm thất. Dẫu sao y vẫn chỉ là một thiếu niên, ở một mình trong mộ thất thế này, cho dù là mộ của tổ tông mình nhưng cũng không tránh được có chút rợn người.
"Di lão." Trĩ Nô do dự một lát, khẽ nói: "Con đi múc nước chung với người được không?"
Phong Di hiểu y đang sợ cái gì, ông suy nghĩ một lát rồi cũng gật đầu, Trĩ Nô thở dài một hơi, nhanh chóng theo sau lưng ông.
Đi ra cửa đá, Phong Di dắt tay Trĩ Nô, nói: "Mộ thất này an táng thân quyến của các tộc trưởng, không phải phòng bồi táng. Đỉnh Bát Bảo, tường tứ phía đều khắc thần phật, có minh văn, quan tài làm bằng gỗ trinh nam tơ vàng, vật trấn là tượng Địa Tạng bằng hoàng ngọc —— Tụ khí hóa sinh, là điềm đại cát."
Phong Di muốn làm dịu bớt không khí nặng nề, nửa đùa nửa thật nói: "Trĩ Nô đừng sợ, lão tổ tông sẽ không bật dậy đâu."
Trĩ Nô không ngờ tâm tư của mình lại bị đoán trúng, nhưng y chẳng kịp xấu hổ đã vội hỏi: "Ý của Di lão là... những mộ thất khác trong địa cung... ví dụ như phòng bồi táng, thì các lão tổ có thể bật dậy sao?"
"Đương nhiên." Phong Di thản nhiên đáp: "Gian này cũng thế."
"Cái gì!" Trĩ Nô kinh hãi.
"Nếu con chạm vào tượng Địa Tạng hoàng ngọc kia, sinh khí sẽ hóa thành sát khí, đại cát hóa đại hung, thi thể ắt sẽ quật khởi." Phong Di vừa đi vừa nói: "Có điều nếu quan tài chưa được mở ra, quá trình khởi thi sẽ rất chậm, sinh sát hoán đổi ít nhất cũng mất bảy ngày. Cho dù con không nghe lời mà lỡ chạm linh tinh vào đâu đó thì cũng không sao, ta chỉ cần đặt lại tượng Địa Tạng về đúng vị trí trấn giữ là ổn thôi."
"Thì ra là vậy." Trĩ Nô gật đầu nói: "Nói cách khác, 'Khí' có thể chuyển hóa, cát hung cũng vậy, việc khởi thi cũng không phải không thể nghịch, chỉ cần thay đổi 'Khí' là có thể hóa giải được các hiện tượng này?"
"Không sai." Phong Di cười nói: "Trĩ Nô quả nhiên rất thông minh, trong Thập lục tự Huyền Hoàng bí thuật có một chữ 'Hóa', chính là nói về việc cải phong hoán vũ này. Nhưng vạn vật đều có cực hạn, cải phong hoán vũ chỉ hữu hiệu trong phạm vi nhất định. Lấy ví dụ như việc khởi thi, khi 'Khí' đại hung vẫn chưa thành thì con còn có thể đổi thế 'Hóa' cát, nhưng khi thi thể đã dậy, con làm gì cũng vô ích thôi."
Trĩ Nô lại gật đầu, suy tư không nói gì.
Phong Di luôn muốn Trĩ Nô có thể tự chủ trong suy nghĩ, khi dạy học cũng vậy, ông thường đưa ra vấn đề để Trĩ Nô tự suy nghĩ, nghĩ lâu cũng không sao, trước khi Trĩ Nô đưa ra được câu trả lời của riêng y, ông sẽ không chủ động giải đáp.
Trĩ Nô đã khắc đến chữ "正" thứ hai lên tường, y buông ám tiễn mà mình nhặt được lúc kích hoạt cơ quan xuống —— họ đã ẩn mình trong địa cung được mười ngày rồi.
Trĩ Nô đã hoàn toàn thích ứng được với việc mở mắt ra là thấy quan tài, ngay cả khi tắt nến đi, bốn về vắng lặng tối om y cũng không còn sợ nữa, thậm chí còn vui vẻ tiếp thu đề nghị của Phong Di —— vì mặt đất âm hàn nên dời lên nắp quan tài mà ngủ.
Phong Di dù ở dưới địa cung những vẫn có thể tính rõ được thời gian, cứ cách một ngày là ông lại lên tháp An Hồn để quan sát tình hình Mặc Thành, thường là vào lúc canh năm gà gáy.
Hai nước Đông Nam cũng thật kỳ lạ, lần trước Phong Di tới tháp An Hồn xem xét là ngày thứ chín Cô Mặc bại trận. Nhưng đại quân hai nước Đông Nam vẫn đóng quân ngoài thành, không hề rút binh, tựa như không có ý khải hoàn hồi triều.
Ban đầu Trĩ Nô cho rằng hai nước Đông Nam muốn diệt cỏ tận gốc, muốn giết sạch hoàng thất Cô Mặc mới chịu rời đi, chúng chưa rút quân là vì đang muốn tìm y.
Nhưng Phong Di bác bỏ ý kiến này.
Ông nói hai nước Đông Nam đương nhiên là muốn diệt cỏ tận gốc, vì việc bỏ mặc hậu duệ vương thất đào vong tức là đang thả hổ về rừng, nhưng Vân Vương sớm đã chuẩn bị từ trước. Trong thành đã có người dịch dung thành Mô Lan Huỳnh Hoặc và Phong Di rồi tự sát chết thay hai người. Mà chuyện hai người bỏ trốn cũng chỉ có Mô Lan Vân và Thần Vương hậu biết, họ không thể là người tiết lộ chuyện này được. Trừ khi hai người giả mạo kia bị phát hiện là đã dùng thuật dịch dung, nhưng mặt nạ da người mà Mô Lan thị chế tác nhìn tự nhiên như thật, chạm vào chẳng khác gì da thịt, chỉ khi dùng nước thuốc chuyên dụng mới có thể gỡ ra, gần như không thể bị phát hiện.
Trĩ Nô bị thuyết phục, lại cảm giác dường như Phong Di cũng đã mơ hồ đoán ra được nguyên nhân mà hai nước Đông Nam vẫn chưa rời đi.
Sau hai canh giờ, cửa đá vang động, Trĩ Nô đang nằm trên quan tài quay lưng với cửa địa cung mở to mắt. Trong một góc tăm tối, y nín thở nghe ngóng thử nhưng không nghe thấy tiếng bước chân, lại nghe được giọng của Phong Di: "Cuối cùng Trĩ Nô cũng có lòng cảnh giác rồi, biết tắt đèn trường minh, còn biết nín thở nữa."
Trĩ Nô lập tức thở phào nói: "Di lão, chỗ này chỉ có người và con là hai người còn sống thôi đấy, người đừng dùng khinh công có được không? Bước chân mà không có tiếng động gì đáng sợ quá."
"Trĩ Nô à, từ nhỏ vi sư đã học khinh công, thực sự không bước đi như người thường được." Phong Di đưa tay không thấy được năm ngón nhưng vẫn có thể thắp đèn trường minh một cách chuẩn xác.
Ánh nến lay động, mộ thất được chiếu sáng, Trĩ Nô nằm trên quan tài quơ chân hỏi: "Tài nghệ nhìn trong bóng tối cũng là luyện được từ nhỏ sao?"
"Không tính là vậy." Phong Di đi đến bên tường rồi ngồi xuống, nói: "Con cứ ở trong địa cung này một thời gian, thị giác tự khắc cũng sẽ thích ứng được với bóng tối thôi."
"Thật không dám giấu." Trĩ Nô giơ tay lên nói: "Di lão, hiện giờ tắt đèn đi con cũng có thể nhìn thấy tay mình đấy."
Di lão cười nói: "Không hổ là Trĩ Nô, năng lực thích ứng rất tốt."
Trĩ Nô là một đứa trẻ hướng ngoại lại kiêu ngạo, từ nhỏ đã nói rất nhiều, tính khí cũng không phải dạng ngoan hiền, nghịch ngợm phá đám là sở trường của y. Lúc trước được nghe người khác khích lệ, y luôn luôn bày ra vẻ mặt đắc ý, bắt đầu ba hoa nói không ngừng, nhưng hiện giờ lại vô cùng an tĩnh.
Phong Di thấy Trĩ Nô chẳng có phản ứng gì, cuối cùng ông chỉ thở dài một hơi.
"Di lão, đại quân vẫn còn đóng quân ngoài thành sao?"
Phong Di lấy lại tinh thần, đáp: "Không có chút biến động nào."
"Rốt cuộc bọn họ muốn làm gì đây?" Trĩ Nô xoay người ngồi dậy, thực sự không nghĩ ra, "Lương thảo mà đại quân cần dùng cũng không hề ít, cho dù Trung Nguyên bọn họ giàu có đến mức nào cũng không có lý do gì lại làm chuyện vô ích như thế này."
Phong Di cân nhắc một chốc rồi nói rõ sự thật: "Nếu ta và Vân Vương —— đoán không lầm, có lẽ bọn chúng đang tìm vật gì đó."
"Cái gì mà hương Bách Uẩn có độc, Cô Mặc chưa từng tiến cống hương độc." Phong Di nói: "Tội của Cô Mặc chính là hoài bích kỳ tội(*)."
(*): giấu báu vật trong mình nên bị coi là mang tội.
"Hoài bích kỳ tội?" Trĩ Nô nhíu mày, rất nhanh đã phản ứng kịp, y cười khổ: "Chẳng lẽ là... Quý Tỷ?"
Trong tộc phổ của Mô Lan có ghi chép, tổ tiên họ là hậu duệ của Thần tộc Đông Phương thị, nắm giữ Thập lục tự Huyền Hoàng bí thuật, có thể thấu triệt thiên địa, lại nhờ có Quý Tỷ mà thông linh với quỷ thần.
Thập lục tự Huyền Hoàng bí thuật đã thất truyền, nhưng truyền thuyết về Nhân Tổ Phong Phục Hy diễn quẻ thì thế nhân ai ai cũng biết. Đông Phương thị cho rằng bí thuật này huyền diệu vượt xa Văn Vương Bát Quái, có lẽ chính là Thiên Tiên Bát Quái trong truyền thuyết. Có điều chuyện xưa khó kiểm chứng, thời gian thấm thoắt thoi đưa, người Mô Lan ngày nay càng chẳng thể chứng thực, chỉ biết đời đời vẫn kế thừa tu luyện theo Thập lục tự Huyền Hoàng bí thuật.
Về phần Quý Tỷ, đây là vật mà tiên tổ Mô Lan lấy được trong bụng Xà Mẫu.
Khi ấy trong Thập Vạn Đại Sơn, bầy rắn ngàn con ngủ vùi trong sườn núi Nha Nhai. Vào đêm trăng tròn, quỷ hỏa hiện hình, Xà Mẫu thức giấc. Trong bụng Xà Mẫu giấu Quý Tỷ, bởi vậy mà thân nó dài trăm trượng, to như ngọn núi, nhưng cơ thể của nó co cứng khó cử động, người đời nhân đó mà mổ được bụng Xà Mẫu để lấy Quý Tỷ, có được sức mạnh của quỷ thần.
—— Tộc phổ đã ghi chép như vậy.
Tộc Mô Lan đời đời truyền thừa đều tinh thông thuật Huyền Hoàng, gồm các học phái về Sơn, Y, Tướng, Mệnh, Bốc(*), lại có thêm Quý Tỷ truyền thế, họ có thể thấu triệt thiên địa, thông linh quỷ thần.
(*): địa lý, y học, tướng pháp, mệnh lý, chiêm bói.
Trĩ Nô hỏi: "Cho nên trong trận chiến giữa Cô Mặc và Khâu Tư —— Cao Tổ đã tế Quý Tỷ, triệu mấy vạn âm binh tới diệt sạch đại quân Khâu Tư trong vòng một đêm —— chuyện này không phải nói ngoa sao?"
"Phải." Phong Di gật đầu, "Tất cả ghi chép liên quan đến Quý Tỷ trong tộc phổ Mô Lan không có chữ nào là nói ngoa. Quý Tỷ không phải vật tầm thường, nó là báu vật trong bụng Xà Mẫu, thông linh quỷ thần, có thể triệu hồi âm binh."
Trĩ Nô trợn tròn hai mắt, ngẫm lại một hồi vẫn có chút hoài nghi, "Vậy hiện giờ Quý Tỷ ở đâu? Nếu nó vẫn còn trong tay chúng ta, vì sao phụ vương lại không dùng?"
"Quý Tỷ đang ở ngay đây." Lời này của Phong Di vừa dứt, Trĩ Nô lập tức trợn mắt hoảng sợ nói: "Ở đây?"
Phong Di nghiêm mặt nói: "Không sai, là nơi này. Cao Tổ Mô Lan Kiên sau khi chết đã được an táng cùng Quý Tỷ, nằm ở nơi sâu nhất dưới địa cung biển Mô Lan. Uy lực của Quý Tỷ quá đáng sợ, tiên tổ lo rằng khi Quý Tỷ tái xuất nhân gian sẽ khiến sinh linh đồ thán, những gì tộc phổ ghi lại chỉ như hạt cát trong sa mạc, còn chân tướng thật sự thì mỗi đời tộc trưởng đều chỉ truyền miệng cho người kế nhiệm."
"Trĩ Nô, Vân Vương đã đem bí mật ấy truyền cho ta, muốn ta kể lại tường tận cho con khi con trưởng thành." Phong Di khẽ cười rồi lại lắc đầu nói: "Hiện giờ vẫn còn quá sớm, vi sư chỉ có thể trả lời câu hỏi của con. Vân Vương không sử dụng Quý Tỷ là bởi vì Quý Tỷ cũng có giới hạn triệu âm binh, trận chiến đối phó với Khâu Tư không khó, nhưng đối mặt với hai nước Đông Nam thì phần thắng quá thấp. Mà việc sử dụng Quý Tỷ mang lại hậu họa khôn lường, cho nên sau khi Cao Tổ dùng nó, Thái Tổ đã quyết định mai táng Quý Tỷ cùng với Cao Tổ, con cháu đời sau không được phép sử dụng Quý Tỷ nữa."
Trĩ Nô khi ấy không hiểu được uy lực đáng sợ mà Quý Tỷ mang lại như thế nào, nhưng ba ngày sau, y đã tận mắt chứng kiến.
Hôm đó y đang đi theo Phong Di xuống mộ đạo để thực hành thuật phong thủy đoán mạch đất. Bước chân của Phong Di bỗng ngừng lại, sau đó ông quỳ xuống đất khiến y cũng giật mình, còn tưởng rằng đã lỡ khởi động cơ quan nào đó rồi.
Phong Di đưa tay ra hiệu cho y im lặng, Trĩ Nô nâng nến lên mới nhìn rõ được ông đang cúi xuống nghe động tĩnh dưới mặt đất. Qua vài hơi thở, Phong Di đứng dậy nói: "Có người tiến vào địa cung rồi, không dưới mấy chục tên."
"Sao có thể..." Trĩ Nô có chút mơ hồ, "Người của hai nước Đông Nam sao có thể biết cách vào địa cung dưới biển Mô Lan được? Ngay cả con còn không biết mà."
"Ta đã nói với con rồi, mật đạo không phải nơi an toàn tuyệt đối." Phong Di nói: "Trong mười lăm vị tộc trưởng Mô Lan, chỉ cần một người không chịu nổi tra tấn là bí mật đã có thể bị tiết lộ rồi."
Trĩ Nô nhất thời im lặng, trong nhận thức của y, đài Quan Tinh chính là nơi thiêng liêng và trang nghiêm nhất trong tộc, và các trưởng lão là người đáng tin cậy nhất.
Phong Di dập tắt ngọn bến, hai tay nhấc bổng Trĩ Nô lên, nói: "Đừng lên tiếng, cũng đừng cử động."
Trĩ Nô hiểu tình thế hiện giờ đang nguy cấp, hai nước Đông Nam xuống địa cung là vì Quý Tỷ, chúng không biết Trĩ Nô và Phong Di đang ở dưới này, nhưng nếu để bọn chúng phát hiện thì sẽ khó mà thoát thân. Có trưởng lão trong tộc chỉ đường, người hai nước Đông Nam sẽ rất dễ ra vào địa cung, bên ngoài lại có thiên quân vạn mã, y và Phong Di cho dù mọc cánh cũng khó mà thoát.
Hai người vội trở về mộ thất trước, nhanh chóng thu dọn đồ đạc, Phong Di đến bên tường xoay nhẹ đế đèn, cửa đá của gian phụ lập tức mở ra. Trong đó chứa đầy khí vật tùy táng, ông giấu bọc đồ dưới đống khí vật, lại quay trở về mộ thất xoay đế đèn, cửa đá một lần nữa được đóng lại.
Phong Di lại bế Trĩ Nô lên, Trĩ Nô cố gắng co tay chân lại hết cỡ để không làm ảnh hưởng đến hành động của ông. Phong Di không biết đã xuống địa cung này bao nhiêu lần mà lại thuần thục như hậu viện nhà mình như vậy, ông có thể chạy như bóng quỷ trong không gian tối tăm không một ánh nến.
Chỉ chốc lát sau trước mắt đã có ánh sáng, bọn họ đã đi tới sườn núi, trước mặt là sông ngầm dưới lòng đất. Phong Di ngồi tựa vào cửa mộ đạo, Trĩ Nô nhìn dáng vẻ suy tư của ông, thấp giọng hỏi: "Di lão, có cần đi xem xét tình hình không?"
Phong Di gật đầu, Trĩ Nô lại hỏi tiếp: "Nơi an nghỉ của Cao tổ có chỗ ẩn thân không?"
"Có." Phong Di nói: "Nhưng muốn tuyệt đối an toàn thì phải né con đường mà bọn chúng định đi, xâm nhập địa cung vào lúc này tất nhiên là nguy hiểm."
Phong Di lại suy nghĩ một lát, nói: "Trĩ Nô, nếu như ta đưa con——"
"Không được." Trĩ Nô chưa cần nghe xong đã phản bác, "Di lão, không có chỗ nào là tuyệt đối an toàn cả. Con chưa học thuộc được cấu tạo cơ quan trong địa cung, càng không có năng lực nhìn trong bóng tối, lỡ như bị phát hiện thì chỉ có con đường chết. Huống hồ người đi hay con đi cũng chẳng có gì khác biệt, hiện giờ nếu như người bỏ mình, con làm sao có thể tiếp tục sống đây? Con chưa có năng lực tự mình gánh vác, đây là sự thật."
Phong Di không thể không thừa nhận một điều là Trĩ Nô rất tỉnh táo, ông thở dài một hơi nói: "Trĩ Nô nói rất đúng, vi sư xin thụ giáo. Như vậy thì con nhất định phải nghe lời, mọi chuyện đều phải làm dựa theo quyết sách của ta."
Trĩ Nô nghiêm mặt gật đầu, "Trĩ Nô hiểu rồi."
Trĩ Nô lại một lần được Phong Di bế lên, chỉ thấy cả người Phong Di nhẹ như chim yến, ông vọt lên vách đá, đưa tay ném Phi Hổ trảo găm thẳng vào tảng đá bên kia sườn núi, dây thừng được quấn ba vòng trên cánh tay. Ông đạp mạnh chân để lấy lực, thông thuận bước qua được lòng sông rồi đáp xuống bờ bên kia.
Các lão tộc trưởng của Mô Lan đều có tuyệt kỹ, luận về thân thủ thì Phong Di giỏi nhất, đơn đả độc đấu, không người Tây Vực nào có thể địch lại ông, trong võ lâm Trung Nguyên cũng khó tìm được địch thủ. Đáng tiếc Trĩ Nô trời sinh căn cốt không đủ, không thể tập võ được, các trưởng lão đều đã từng thử nhiều biện pháp để cải thiên căn cơ cho y nhưng cũng vô dụng. Phong Di chỉ không thể dạy y võ nghệ, cho nên một thân công pháp này của ông coi như không có người nối nghiệp rồi.
Người của hai nước Đông Nam đi thẳng xuống mộ đạo dưới địa cung, còn Phong Di và Trĩ Nô lại đi cơ quan đạo liên thông giữa mộ thất để xuống tới gian phòng bồi táng cuối cùng. Hình thức an táng của Mô Lan Kiên không giống với những người khác, không có mộ thất, quan tài đặt ở giữa nơi sâu nhất lòng sông, bên trái là lòng đất dưới sông ngầm, ba mặt còn lại đều là vách đá tự nhiên, ngay bên trên chính là vị trí phòng bồi táng mà Phong Di và Trĩ Nô đang đứng.
Mô Lan Kiên làm mộ thất dưới lòng sông, khó tạo thế uy, nghi thức an táng bày theo ba tầng Thiên – Địa – Nhân. Tầng cao nhất chôn tế sư, tượng trưng cho thần thánh; tầng giữa chôn dân thường, tượng trưng cho phàm nhân; tầng dưới cùng là nơi chôn Mô Lan Kiên, chính là ác quỷ.
Hai gian bồi táng đầy sinh khí, vật trấn đều là tượng thần phật, ý muốn trấn áp —— từng lớp phong ấn sát khí tỏa ra, trấn trụ ác quỷ dưới lòng đất.
Sau khi Trĩ Nô nghe xong chỉ thấy kinh ngạc khó tưởng, y hỏi: "Ý của Di lão là Thiên và Nhân bồi táng trấn quỷ là để trấn Cao Tổ? Sao Cao Tổ lại là ác quỷ được?"
"Con cứ xem đi là hiểu." Phong Di nói xong liền động thủ khai quan
"Người đang làm gì vậy?" Trĩ Nô vừa quay đầu lại đã thấy Phong Di bẩy nắp quan tài lên.
"Quan tài này nằm ngay trên quan tài của Mô Lan Kiên, quan tài gỗ lót đá, tụ sinh đoạt sát, đáy hòm có thể mở để chuyển hóa sinh sát." Phong Di đáp, hai chân kẹp hai bên quan tài, ông cúi người quấn lấy cái xác trong quan tài rồi bế ra.
Xác được đặt xuống đất, chẳng biết vì sao đã qua trăm năm nhưng vân da vẫn chưa hoàn toàn mục nát, vẫn có thể nhìn ra tướng mạo. Nhưng khai quan không sợ xương trắng, chỉ sợ không nhìn thấy xương trắng, nếu xác người vẫn sinh động như thật, sinh khí bị phá vỡ thì tử thi sẽ quật khởi.
Trĩ Nô nhìn cái xác biến đổi, khuôn mặt mục rữa mọc ra lông trắng, y sợ hãi tột độ, không nhịn được mà nói lắp: "Di lão, tên... tên kia biến đổi rồi!"
"Không sao, đại cát hóa đại hung, nhưng chỉ khi hoàn toàn quật khởi mới hóa hung." Phong Di nhanh chóng tháo hết các khớp tay chân của tử thi, cuối cùng hai tay xoắn một cái, bẻ gãy xương sống.
Trĩ Nô thấy lông trắng đã ngừng mọc, lúc này mới phát giác sau lưng mình đã đẫm mồ hôi. Phong Di bế y đến gần quan tài, hai người cùng ghé vào nhìn xuống khe hở dưới đáy quan tài.
Có thể nhìn thấy mấy chục binh sĩ ở dưới đó. Có hai tên binh sĩ đang áp giải trưởng lão Thanh Đại của Mô Lan, một người mặc tướng phục đang đề ra nghi vấn.
Vì khoảng cách quá xa, Trĩ Nô chỉ có thể nghe thấy đôi ba câu mà bọn chúng nói, y cẩn thận ngắm nhìn kỹ tướng phục của chúng, phát hiện những tên này đều là tướng lĩnh của Nam Lâm, không thấy người của Đông Lệ.
Người Nam Lâm quả nhiên là vì Quý Tỷ mà đến —— Trĩ Nô nghe thấy tướng lĩnh Nam Lâm nhắc đến Quý Tỷ hai lần liên tiếp.
Áng chừng khoảng một khắc sau, người Nam Lâm đã cởi dây trói cho Thanh Đại, Thanh Đại và hai tên binh sĩ cùng tiến đến mở nắp quan tài.
Trĩ Nô tập trung quan sát, lúc này mới nhận ra quan tài của Mô Lan Kiên được đúc sắt nguyên khối.
Vì là quan tài đúc sắt nguyên khối cho nên trên nắp hòm chỉ có một lỗ đủ cho tay luồn vào để lấy vật bên trong ra. Quan tài này dùng để trấn áp vật cực hung cực sát, ngăn vật bên trong chạy ra, thông thường hung thi sẽ không vô duyên vô cớ quật khởi nên mới không dùng tới thủ đoạn này.
Tất cả hình thức an táng khác thường đều chỉ ra tà khí ngút trời của Cao Tổ, nhưng tại sao? Trĩ Nô thật sự không nghĩ ra.
Thanh Đại bấm cơ quan, nắp quan tài lập tức xuất hiện một lỗ hổng, tiếng rít từ trong quan tài vang vọng. Thanh âm kia tựa như dã thú phẫn nộ gào thét, lại trầm khàn như âm quỷ, rất giống với thanh âm của ác quỷ trong truyền thuyết, khiến cho người ta không rét mà run.
Trĩ Nô nắm chặt hai tay, mồ hôi lạnh bên trán chảy xuống.
Thanh Đại đứng bên cạnh quan tài, đưa tay vào trong lỗ hổng. Không gian tĩnh lặng chỉ duy trì được một lúc, sau đó tiếng rít lại vang lên, tiếp đó là tiếng thét tê tâm phế liệt——
Thanh Đại lùi lại ngã xuống đất, ống tay áo nhuốm đầy máu, cánh tay không biết đã đứt lìa từ khi nào.
Trĩ Nô trợn tròn hai mắt, thậm chí còn nghe được cả tiếng gặm nhấm, hiển nhiên là vật trong quan tài đang nhai tay của Thanh Đại.
Người Nam Lâm đỡ Thanh Đại lên, bắt ông đưa tay trái ra để tiếp tục lấy vật. Thanh Đại không thể không làm, cuối cùng tay trái cũng bị vật trong đó nuốt mất, sau đó từng binh sĩ của Nam Lâm đều phải bước lên——
Tiếng kêu rên vang khắp lòng sông càng thêm thê lương, mùi máu tanh tràn ngập. Trĩ Nô lần đầu chứng kiến cảnh tượng máu me khủng khiếp như vậy, y thở gấp, tim đập dồn dập, y đưa tay bịt miệng lại, nhắm mắt cố giữ bình tĩnh.
Sau hơn mười người bị mất cánh tay, không biết có phải vật trong quan tài đã ăn no rồi hay không, tiếng rít cũng hạ thấp xuống, rốt cuộc cũng có một binh lính có thể rút tay ra từ trong quan tài. Hắn nắm chặt một chiếc hộp vuông bằng bàn tay rồi giao cho tướng lĩnh Nam Lâm.
Trĩ Nô nghe thấy một tiếng thở dài, y quay đầu nhìn Phong Di, Phong Di chỉ khẽ gật đầu.
Tướng lĩnh Nam Lâm mở hộp ra, vừa thấy Quý Tỷ đã lập tức mừng rỡ.
Tiếng rít gào lại đột nhiên nổi lên vang vọng khắp lòng sông, vật trong quan tài chuyển động kịch liệt, quan tài bằng sắt cũng bắt đầu rung lắc.
Tướng lĩnh Nam Lâm thấy thế bèn vội vàng cất Quý Tỷ đi, chúng sai một tên binh lính lấp lỗ hổng lại rồi hô rút lui. Đám người đỡ thương binh dậy rồi áp giải Thanh Đại đang thoi thóp dưới đất, quay về đường cũ để rời khỏi đây.
Khi người của Nam Lâm đã rút hết, tiếng rít vang cũng dần lắng lại.
Phong Di đứng thẳng dậy, Trĩ Nô cũng đứng lên theo, hỏi: "Di lão, ông ấy sẽ không chạy ra đấy chứ?"
"Quý Tỷ đã mất rồi, sát khí giảm mạnh, việc trấn áp lại càng dễ dàng hơn." Phong Di bình thản nói sau đó bế Trĩ Nô xuống, xếp lại cái xác rồi đóng nắp quan tài.
"Rốt cuộc Cao Tổ đã biến thành thứ gì rồi?" Trĩ Nô hồi tưởng lại, trong lòng vẫn còn sợ hãi.
"Thái Tổ gọi đó là 'Vạn Nô Vương'." Phong Di nói: "Đây cũng là hậu quả sau khi sử dụng Quý Tỷ. Hậu duệ trực hệ Mô Lan nếu như tế Quý Tỷ, triệu âm binh thì sẽ bị biến thành ác quỷ không sống không chết, mất hết tư duy, chỉ biết giết chóc thôn phệ."
Trĩ Nô lùi lại nửa bước, sau lưng chạm vào quan tài, y lẩm bẩm nói: "Cho nên sau trận chiến ấy, Cao Tổ không phải vì lâm trọng bệnh nên mới chết, mà là vì biến thành Vạn Nô Vương, Thái Tổ và các trưởng lão chỉ có thể phong ấn ông ấy?"
Phong Di gật đầu, "Đúng là như vậy."
"Vậy nên Thái Tổ mới chôn Quý Tỷ để con cháu đời sau không được sử dụng uy lực của Quý Tỷ nữa." Trĩ Nô lại nói tiếp: "Trận chiến giữa Cô Mặc và Khâu Tư đã để lộ ra sức mạnh của Quý Tỷ, tất sẽ khiến nước khác dòm ngó. Thái Tổ biết vật này trong tương lai rất có thể sẽ mang tới tai họa cho Cô Mặc, cũng vì để dễ trấn áp Cao Tổ và Quý Tỷ cho nên mới hạ lệnh xây đài Quan Tinh và các mật đạo trong tháp An Hồn."
Phong Di lại gật đầu một lần nữa, Trĩ Nô lúc này mới đột nhiên nhớ tới điều gì đó, gấp gáp nói: "Vậy Quý Tỷ —— cứ để người Nam Lâm lấy Quý Tỷ đi như vậy sao?"
"Không sao, Nam Lâm có cướp Quý Tỷ đi cũng không dùng được đâu." Phong Di chẳng hề gấp gáp, nói: "Bí mật của Quý Tỷ không chỉ có nhiêu đó, Vân Vương sớm đã chuẩn bị rồi, Nam Lâm rồi sẽ nhận ra một chân tướng khác thôi." Ông dắt Trĩ Nô quay về, "Người Nam Lâm vì việc này mà tốn công vô ích, chúng ta vẫn còn thời gian chuẩn bị kỹ càng để tiếp tục đi con đường của mình."
Trĩ Nô bước trong bóng tối vô biên, mộ đạo thật sâu, tiếng bước chân vang vọng cô tịch.
//
Fic này trông cũng khó nhằn á :)) tại nó liên quan đến huyền học, phong thuỷ rồi các chòm sao bla bla 😇
Chương 1 và chương 2 chủ yếu là giới thiệu sơ qua bối cảnh của Tạ Doãn và Tàng Hải nha, chương 2 là hai người gặp nhau rùi, mai tui sẽ up nha 💛
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top